Suy Niệm Tin Mừng Lễ Giáng Sinh 25/12 ABC Bài 301-350 Đấng Cứu thế đã sinh ra cho chúng ta -------------------------- Lễ Vọng 24/12 Phúc Âm: Mt 1,1-25 (bài dài) "Dòng dõi Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Sách gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít, con của Abraham. Abraham sinh Isaac; Isaac sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuđa; Phares sinh (bởi bà Thamar) và các anh em người. Giuđa sinh Phares và Zara Esrom; Esrom sinh Aram; Aram sinh Aminadab; Aminadab sinh Naasson; Naasson sinh Salmon; Salmon sinh Booz do bà Rahab; Booz sinh Giobed do bà Rút. Giobed sinh Giêsê; Giêsê sinh vua Ðavít. Ðavít sinh Salomon do bà vợ của Uria; Salomon sinh Robo-am; Roboam sinh Abia; Abia sinh Asa; Asa sinh Giosaphát; Giosaphát sinh Gioram; Gioram sinh Ozia; Ozia sinh Gioatham; Gioatham sinh Achaz; Achaz sinh Ezekia; Ezekia sinh Manas-se; Manasse sinh Amos; Amos sinh Giosia; Giosia sinh Giêconia và các em trong thời lưu đày ở Babylon. Sau thời lưu đày ở Babylon, Giêconia sinh Salathiel; Salathiel sinh Zorababel; Zorababel sinh Abiud; Abiud sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Sađoc; Sađoc sinh Akim; Akim sinh Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Mathan; Mathan sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuse, là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô. Vậy, từ Abraham đến Ðavít có tất cả mười bốn đời, từ Ðavít đến cuộc lưu đày ở Babylon có mười bốn đời, và từ cuộc lưu đày ở Babylon cho đến Chúa Kitô có mười bốn đời. Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, bà đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội". Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta". Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền. Ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau, cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu. - Ðó là Lời Chúa.
Lễ Nửa Ðêm
Phúc Âm: Lc 2,1-14 "Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. Ðây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria. Mọi người đều lên đường trở về quê quán mình. Giuse cũng rời thị trấn Nadarét, trong xứ Galilêa, trở về quê quán của Ðavít, gọi là Bêlem, vì Giuse thuộc hoàng gia và là tôn thất dòng Ðavít, để khai kiểm tra cùng với Maria, bạn người, đang có thai. Sự việc xảy ra trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong hàng quán. Bấy giờ trong miền đó có những mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ, khiến họ hết sức kinh sợ. Nhưng thiên thần Chúa đã bảo họ rằng: "Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Ðavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ". Và bỗng chốc, cùng với các thiên thần, có một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm". - Ðó là Lời Chúa.
Lễ Rạng Ðông Phúc Âm: Lc 2,15-20 "Các mục tử đã gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi các thiên thần biến đi, thì các mục tử nói với nhau rằng: "Chúng ta sang Bêlem và coi xem sự việc đã xảy ra mà Chúa đã cho chúng ta được biết". Rồi họ hối hả tới nơi và gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ đã hiểu ngay lời đã báo về Hài Nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ. Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những sự việc đó, và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ. - Ðó là Lời Chúa.
Lễ Ban Ngày (Bài dài) Phúc Âm: Ga 1,1-18 {hoặc 1-5.9-14} "Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta".
Bắt đầu Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy. Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng. Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đã đến nhằm việc chứng minh, để ông chứng minh về sự sáng, hầu cho mọi người nhờ ông mà tin. Chính ông không phải là sự sáng, nhưng đến để chứng minh về sự sáng. Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo, và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra. Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý. Gioan làm chứng về Người khi tuyên xưng rằng: "Ðây là Ðấng tôi tiên báo. Người đến sau tôi, nhưng xuất hiện trước tôi, vì Người có trước tôi". Chính do sự sung mãn Người mà chúng ta hết thảy tiếp nhận ơn này tới ơn khác. Bởi vì Chúa ban Lề luật qua Môsê, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Ðức Giêsu Kitô. Không ai nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng chính Con Một Chúa, Ðấng ngự trong Chúa Cha, sẽ mạc khải cho chúng ta. - Ðó là Lời Chúa.
của Đức Cha Antôn Vũ Huy Chương ti Nhà thờ Chính tòa Đà Lạt Anh chị em thân mến,
Hôm nay là Sinh Nhật lần thứ 2011 của Đức Giêsu, Đấng Cứu thế, với tên gọi là EMMANUEL: GS-301
Hôm nay là Sinh Nhật lần thứ 2011 của Đức Giêsu, Đấng Cứu thế, với tên gọi là EMMANUEL, gồm 3 từ Do Thái: EMMI (ở cùng), NU (chúng ta) và EL (Thiên Chúa): Thiên Chúa ở cùng chúng ta, quen gọi là NOEL. “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1, 14). Đây là một chân lý mạc khải, tức là một sự thật được Thiên Chúa bày tỏ cho biết qua Kinh Thánh. Sự thật ấy mang nhiều ý nghĩa, nhưng có một ý nghĩa không thể không quan tâm đến, đó là Con Đường Làm Người của Thiên Chúa nhằm mục đích đem lại hạnh phúc cho con người.
Đức Giêsu đã khẳng định: “Tôi là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6). Đức Giêsu là Đường, là Đạo: Đức Giêsu là Thiên Chúa làm Người để mở đường chỉ đạo cho con người đạt tới hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu. Vì thế, con đường Thiên Chúa đi là con đường “làm người”, cũng có thể gọi là “con đường nhân bản” (“nhân” là “người”, “bản” là “gốc”), tức là lấy con người làm gốc; tuy nhiên vì Đức Giêsu là Thiên Chúa làm Người, nên con đường mà Người đi còn là “con đường thiên bản”, tức là còn lấy Thiên Chúa làm gốc; Thiên Chúa và Con Người trở nên một nơi Đức Giêsu, vì thế con đường dẫn đến hạnh phúc là “con đường thiên-nhân”, tức là con đường dẫn đến Thiên Chúa là Cha đồng thời dẫn đến mọi người là anh em, và cũng có thể nói rằng Con Người là con đường dẫn đến Thiên Chúa theo lời Thánh Gioan: “Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa… Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống... Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1 Ga 4, 7.9.11). Do đó, yêu người là con đường dẫn đến Thiên Chúa, vì yêu người là đi vào quỹ đạo của Thiên Chúa Tình Yêu, Đấng đã làm Người để nên một với mỗi người chúng ta.
Như thế, qua Kinh Thánh, Thiên Chúa không phải là một hình ảnh do lý trí con người tạo ra, không chỉ là một nhận thức qua qui luật thiên nhiên tuần hoàn trong vũ trụ hay sự biến hóa của vạn vật, cũng không chỉ là sự cảm nhận của một trực giác siêu linh của các nhà thần bí, cũng không chỉ là một Thiên Chúa hiện diện và hành động qua lề luật, qua các biến cố hay qua các ngôn sứ, mà còn là một Thiên Chúa cụ thể, sinh động, một Thiên Chúa Làm Người và ở giữa mọi người, tức là chính Đức Giêsu mà chúng ta mừng lễ Sinh Nhật hôm nay.
Đó là một Thiên Chúa hữu hình hiện diện trong lịch sử của con người, Đấng đã thực sự trở nên một con người giữa mọi người, giống chúng ta mọi đàng trừ tội lỗi. Người đã liên kết với nhân loại đau khổ, và đã sống tận cùng kiếp người, để trở nên mẫu của đời sống làm người.
Tình yêu Thiên Chúa đã đạt đến mức tuyệt đỉnh, khi Đức Giêsu tự hiến chính mình trên thập giá để nâng con người lên và cứu độ họ, nghĩa là đã chết thay cho mọi người tội lỗi hầu cứu sống mọi người. Chính vì vậy mà thánh Gioan đã định nghĩa “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4, 8). Cũng từ đó, cách thức Thiên Chúa yêu thương con người trở thành tiêu chuẩn cho tình yêu giữa con người với nhau.
Hơn nữa, Đức Giêsu Kitô là hình ảnh tròn đầy, toàn vẹn, sung mãn của Thiên Chúa, và là mẫu mực mà mọi người phải trở nên. Thực vậy, “mầu nhiệm về con người chỉ thực sự được sáng tỏ trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể” (Công đồng Vatican II, Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng, số 22). Chính Đức Giêsu Kitô là “hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” (Cl 1, 15), là con người hoàn hảo đã trả lại cho con cháu Ađam hình ảnh của Thiên Chúa đã bị tội nguyên tổ làm sai lệch. Đức Giêsu Kitô là mẫu mực mà Thiên Chúa đang chờ đợi nơi tất cả mọi người. Người là điểm quy chiếu của vũ trụ và nhân loại, là sự hiệp nhất giữa thực tại Thiên Chúa với thực tại nhân loại và vũ trụ.
Người Kitô hữu khi trở nên giống Con Thiên Chúa là Trưởng Tử, họ nhận được những hoa trái đầu mùa của Thánh Thần. Nhờ Thánh Thần, toàn thể con người được canh tân theo đúng hình ảnh Đấng sáng tạo nên mình. Được dự phần vào mầu nhiệm Phục sinh, được đồng hóa với cái Chết của Đức Giêsu Kitô, con người đón nhận ngày được sống lại trong vinh quang. Chính nhờ Đức Kitô và trong Đức Kitô, mà bí ẩn về đau khổ và sự chết được sáng tỏ (xem Công đồng Vatican II, GS, số 22). Đó là tính chất cao cả của mầu nhiệm con người.
Những điều nói trên không phải chỉ có giá trị cho các tín hữu, nhưng cho tất cả những người thiện tâm, được ơn thánh hoạt động một cách vô hình trong tâm hồn, vì Chúa Kitô đã chết cho mọi người, và vì ý định của Thiên Chúa muốn cứu độ tất cả. Thật vậy, trong đêm Giáng Sinh, các thiên thần đã ca hát: “Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
Người thiện tâm là người ý thức rằng mình được làm người đồng thời được làm con Thiên Chúa, là người biết sống kết hiệp với Thiên Chúa, nhất là bằng cách noi gương Đức Giêsu Kitô sống yêu thương, để mỗi ngày một nên Người hơn (Người viết hoa là chính Thiên Chúa Làm Người).
Tóm lại, căn tính của con người chúng ta bắt nguồn từ Thiên Chúa, nghĩa là lấy Thiên Chúa làm gốc (thiên bản), đồng thời cũng bắt nguồn từ Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa Làm Người, tức là lấy con người làm gốc (nhân bản). Cố tình không ý thức và không sống căn tính đó là mất gốc, là vong bản, dẫn đến vong thân, tức là đánh mất chính mình, đánh mất cuộc sống hạnh phúc hiện tại và vĩnh cửu mà Thiên Chúa đã mở đường chỉ đạo cho mình. Đức Giêsu là Đường, là Sự Thật, dẫn đến Sự Sống Hạnh Phúc mà con người hằng mong ước. Con đường đó là con đường Tình Yêu: “Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4, 22).
Đêm Noel là đêm đầy ánh sáng. Ước gì Lửa Tình Yêu của Thiên Chúa thắp sáng tâm hồn chúng ta, để trong Năm Mới sắp đến chúng ta làm được nhiều việc yêu thương tha nhân hơn, trở thành những ngôi sao sáng chiếu soi cho nhiều khác nhận biết Thiên Chúa là Tình Yêu Nhập Thể nơi Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa đã tỏ bày, còn con người đón nhận hay không là quyền tự do của mỗi người, đồng thời cũng là ân ban của Thiên Chúa.
Xin mến chúc quý ông bà anh chị em một Mùa Giáng Sinh và Năm Mới chan hòa tình yêu !
Je voudrais vous souhaiter un Joyeux Noel et une Bonne Année ! I would like to wish you a Merry Christmas and a Happy New Year !
Vào dịp lễ Giáng Sinh, người ta thường tặng cho nhau những món quà, vì đây là dịp để thể hiện: GS-302
Vào dịp lễ Giáng Sinh, người ta thường tặng cho nhau những món quà, vì đây là dịp để thể hiện tình yêu thương và quan tâm đến nhau. Quà Giáng Sinh không chỉ mang giá trị tinh thần của người Kitô giáo mà cả những người không cùng tôn giáo. Vào những ngày này, chúng ta thấy quà Giáng sinh được bán khắp nơi, trông rất đẹp, phong phú và đa dạng. Mỗi người đều có những món quà từ những người thân tặng, nó có thể là một cánh thiệp với những lời chúc mừng, hay một món quà nào đó của người yêu tặng.v.v..Tất cả đều được gói ghém trong tình thương và chia sẻ với nhau trong niềm vui ngày lễ Giáng Sinh. Người tặng quà thì luôn tìm kiếm và lựa chọn những món quà yêu thích để làm vui và làm hài lòng người nhận, dù nó chỉ là món quà nhỏ bé, đơn sơ hay món quà giá trị đắc tiền. Tuy nhiên, không phải ai cũng thích và đón nhận quà tặng từ người khác khi lòng không muốn, thì họ có thể khước từ và trả lại. Nhận và cho luôn là cách giao tiếp của con người trong xã hội thời nay.
Từ ý nghĩa của việc tặng quà trong dịp Giáng Sinh, chúng ta có thể hình dung ra một món quà vô giá mà Thiên Chúa ban tặng cho con người, đó chính là Con Thiên Chúa xuống thế làm Người. Ngài đang ở với và ở cùng chúng ta. Món quà từ Trời Cao ban cho nhân loại. Trong Tin mừng hôm nay thuật lại qua lời loan báo của sứ thần cho những cậu bé chăn chiên ngoài đồng.Họ vội vã lên đường đến gặp thánh Giuse và Mẹ Maria và Hài Nhi Giêsu tại làng Bêlem. Ngài sinh ra trong đêm đông lạnh giá, nơi cái chuồng bò hôi tanh, nghèo hèn. Các mục đồng trở về trong vui mừng, ca tụng và tôn vinh Thiên Chúa về những gì họ đã được mắt thấy tai nghe và đi loan báo tin vui về Thiên Chúa Giáng sinh. Tin vui đó không chỉ cho các mục đồng năm xưa, nhưng là tin vui cho toàn thế giới hôm nay đang đón nhận và tận hưởng. Tiếng khóc chào đời của Hài Nhi Giêsu đã mang lại niềm vui, bình an và hạnh phúc cho con người. Như lời các thiên thần ca hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
Nếu Giáng sinh là dịp để tặng quà, để gặp gỡ vui chơi và tìm niềm vui qua những bữa tiệc, qua những giây phút ngọt ngào bên người thân gia đình, thì đó chỉ là niềm vui và hạnh phúc tạm thời trong mùa Giáng Sinh này. Là người Kitô hữu, chúng ta cần thoát ra khỏi thế giới chật hẹp, để nhận ra những điều kỳ diệu về mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa Nhập Thế. Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta có ngày vui trọng đại này. Ngài đã chấp nhận mang lấy kiếp con người, và là “Emmanuel”. Nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Ngài yêu thương và gánh lấy tội lỗi của chúng ta. Tình yêu Thiên Chúa là tình yêu san sẻ, cho đi và tự hủy. Niềm vui và hạnh phúc thật sự trong lễ Giáng Sinh là biết cho đi.Thiên Chúa đã ban tặng cho nhân loại qua Người Con yêu quý của Ngài, là Chúa Giêsu.Thế nhưng, có nhiều người nghĩ rằng,Giáng Sinh là dịp để tận hưởng vui chơi qua các sự kiện bên ngoài mà quên đi ý nghĩa đích thức bên trong về mầu nhiệm tình yêu Giáng Sinh. Người ta vẫn vô tình hay chối bỏ Quà Tặng của Thiên Chúa, là chính Chúa Giêsu.
Nếu chúng ta biết xấu hỗ và cảm thấy đau buồn khi một người thân trả lại quà tặng trong dịp Giáng Sinh này, thì chắc hẳn Thiên Chúa cũng rất đau buồn khi chúng ta đón mừng lễ Giáng Sinh mà không có Chúa Giêsu tham dự, trong lòng cảm thấy cô đơn trống vắng, sau những cuộc vui. Mùa Giáng Sinh không chỉ là dịp cho chúng ta tận hưởng ơn lành, bình an và hạnh phúc trong đêm thánh, mà còn là dịp cho ta chiêm ngắm mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa ban tặng cho con người. Sứ thần loan báo: “Hôm nay Đấng Cứu Thế được sinh ra cho chúng ta, Ngài là Con Thiên Chúa”.
Để đáp lại tình yêu Thiên Chúa, xin Chúa cho chúng ta biết đón nhận Quà Tặng của Thiên Chúa là chính nơi Đức Giêsu. Nhờ Ngài chúng con biết chia sẻ, cảm thông, nâng đỡ, an ủi với người đói ăn, người cô đơn, người bệnh tật, già nua, tù đày…Xin Chúa cho chúng con biết mang lại hòa bình, hiệp nhất và yêu thương nhau.
Rev.John Nguyen St.John's Church 240 Bleecker St Utica, NY 13501 Tel: 817-247-1223; 845-701-6345 wedsite:www.congdoanutica.org
Chúng ta mừng lễ Chúa Giáng Sinh không chỉ để tưởng niệm một biến cố đã qua hơn 2000 năm nay GS-303
Chúng ta mừng lễ Chúa Giáng Sinh không chỉ để tưởng niệm một biến cố đã qua hơn 2000 năm nay, hoặc để kỷ niệm ngày sinh của một con người siêu vượt, nhưng là một thực tại phát sinh ơn cứu độ cho tất cả nhân loại chúng ta, đúng như Lời Kinh Thánh:
Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta. Những ai tin nhận và yêu mến Ngài thì tràn đầy hy vọng đạt tới chính Thiên Chúa, là niềm vui sự sống muôn đời.
Ai cũng có một khát vọng sâu xa là muốn được tồn tại và hạnh phúc mãi mãi. Người ta đua nhau đi tìm kiếm điều đó nơi các thần tượng, các triết thuyết, các chế độ, các tổ chức xã hội... Nhưng chẳng có thần minh nào, triết thuyết nào, cũng chẳng có tổ chức xã hội hay hệ thống kinh tế nào, hay bất cứ ai có thể ban cho chúng ta điều đó, vì tất cả chỉ là tạm bợ, là hư vô, là những kẻ phải chết.
Chỉ có Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô mới làm cho chúng ta được toại nguyện khát vọng vĩnh cửu đó thôi. Vì thế, những ai chỉ lo đi tìm thỏa mãn vật chất, danh vọng, tiền tài trong cuộc đời này mà quên mất lẽ sống chân thật của mình là chính Thiên Chúa, thì đều là những kẻ chạy theo ảo vọng.
Gốc gác của mỗi người chúng ta là thần linh. Dù tin hay không tin, dù nhận biết hay không nhận biết, thì đó vẫn là sự thật, bởi vì chúng ta được sinh ra từ chính sự sống và tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Và chỉ có Thiên Chúa mới đưa chúng ta trở về cội nguồn là chính Ngài. Chỉ có Ngài mới ban cho chúng ta khả năng hoàn thành một cuộc đời tốt đẹp nhất, và cho chúng ta đạt tới cuộc sống sung mãn nhất. Chính vì vậy mà Thiên Chúa đã làm người, đã sống trọn kiếp người, và trở nên mô mẫu của việc làm người cho mỗi người chúng ta.
Khi chiêm ngắm Mầu Nhiệm Giáng Sinh, ta mới thấy Thiên Chúa yêu thương nhân loại chúng ta sâu thẳm dường nào, và từ đó ta cũng nhận ra thân phận cao cả của mình là con cái Thiên Chúa. Vì yêu thương vô biên, nên Chúa đã chọn bước xuống làm người bé mọn, chọn cha mẹ quê mùa, chọn gia đình vô danh, chọn nơi chốn sinh ra tồi tàn, chọn cuộc sống nghèo hèn, chọn hoàn cảnh bấp bênh, chọn một dân tộc cứng đầu cứng cổ, chọn những môn đệ yếu kém, chọn con đường thập giá, chọn chén đắng ô nhục, và cuối cùng, chọn cái chết bi thảm (x.Pl 2, 6-8).
Có ai được tự do hoàn toàn và quyền năng vô cùng, mà lại lựa chọn cuộc sống như thế không? Chẳng ai làm thế ngoài một mình Thiên Chúa. Thiên Chúa đã chọn làm người như thế, để không ai còn có thể than trách về số phận hay tình cảnh của mình, mà phải nhận ra thân phận Chúa trong chính thân phận mình. Dù cuộc đời mình có gian nan khốn khó nào đi nữa thì cũng là cuộc đời của chính Thiên Chúa đã làm người.
Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người cho ta tuyệt đối xác tín rằng: Chúa đã một lần giáng sinh trong cuộc đời ta, Ngài đã bước xuống lòng ta. Từ đó Ngài ở trong ta và âm thầm sống cho ta. Ngài thật sự đảm nhận trọn vẹn cuộc đời ta qua mọi tình trạng và hoàn cảnh. Ngài đã đón nhận và cùng đau cái nỗi đau của ta qua những vấp váp, yếu đuối, trì trệ và thất bại; Ngài đang đón đợi và hoàn thiện hoá từng nổ lực kiên trì vươn lên của bản thân ta trong mọi lúc. Quả thật, chính Chúa đang sống trong ta, và cho ta kinh nghiệm sống trong Chúa.
Lễ Giáng Sinh nhắc nhở, mời gọi và thúc đẩy ta biết chọn Chúa một cách quyết liệt hơn để hoàn thành sự sống cao cả của mình. Hãy để cho Chúa Giêsu bước vào cuộc đời mình, được cư ngụ trong tâm hồn mình. Hãy để Ngài được sinh ra và lớn lên trong cuộc sống của mỗi người chúng ta, để chúng ta được trở nên khuôn mặt và tấm lòng của Ngài ở giữa mọi người. Để từ đó ta có thể trao ban Chúa Giêsu cho người khác bằng chính sự hiện diện của mình: một sự hiện diện khiêm hạ và đầy nhân ái yêu thương; một sự hiện diện đem lại bình an, vui mừng và tràn đầy hy vọng cho mọi người chung quanh.
Tiên tri Isaia đã loan báo về ngày Con Thiên Chúa Giáng Sinh: “Dân tộc bước đi trong u tối: GS-304
- Tiên tri Isaia đã loan báo về ngày Con Thiên Chúa Giáng Sinh:
“Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết” (Is 9, 2)
Sự sáng chứa chan ấy không là ánh sáng của những ngôi sao hay tinh tú, không là ánh sáng của mặt trời hay mặt trăng, càng không là ánh sáng của điện đèn, nhưng là Ánh sáng của Con Thiên Chúa làm người. Làm người như một hài nhi nhưng là "Cố Vấn Kỳ Diệu, Thiên Chúa Huy Hoàng, Người Cha Muôn Thuở, Ông Vua Thái Bình". Làm người trong nghèo hèn nhưng là “sẽ mở rộng vương quyền, và cảnh thái bình sẽ vô tận; Người sẽ ngự trên ngai vàng của Đavít, và trong vương quốc Người, để củng cố và tăng cường, trong sự công minh chính trực, ngay tự bây giờ và cho đến muôn đời”. (Is 9, 6-7)
- Còn đây là giáo huấn của Thánh Phaolô cho ngày mừng Con Thiên Chúa Giáng Sinh: “Ân sủng của Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ chúng ta, đã xuất hiện cho mọi người, dạy chúng ta từ bỏ gian tà và những dục vọng trần tục, để sống tiết độ, công minh và đạo đức ở đời này, khi trông đợi niềm hy vọng hạnh phúc và cuộc xuất hiện sự vinh quang của Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa cao cả và là Đấng Cứu Độ chúng ta.
Người đã hiến thân cho chúng ta để cứu chuộc chúng ta khỏi mọi điều gian ác, luyện sạch chúng ta thành một dân tộc xứng đáng của Người, một dân tộc nhiệt tâm làm việc thiện. ( Tt 2, 11-14)
- Hai ý tưởng trên rất trùng khớp với Tin Mừng theo Thánh Luca:
“Hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta. Người là Đức Kitô, Chúa chúng ta. (Lc 2,11)
“Vinh Danh Thiên Chúa Trên Trời Bình An Dưới Thế Cho Người Lòng Ngay” (Lc 2, 14)
Như vậy, khi liên kết cả ba bài đọc, có thể kết luận: sứ điệp Giáng Sinh qua lời Chúa gửi đến chúng ta hôm nay là: bước đi trong ánh sáng, để nhận được ân sủng và bình an, nhờ lòng thiện tâm, nhờ ý ngay lành.
Không ít người đã từng đặt vấn đề rằng tại sao Chúa Giêsu đã giáng sinh, Đấng Cứu Thế đã ra đời, Vua Hòa Bình đã xuất hiện, Ánh sáng Thiên Chúa đã chiếu soi cả hơn hai ngàn năm nay mà trần gian vẫn còn u tối trong chiến tranh đày đọa, khổ đau chất chồng, bất công tràn lút, tham nhũng đàn áp nhiễu loạn khắp nơi nơi! Vẫn còn chiến tranh giữa các dân nước, chiến tranh giữa các ý thức hệ, chiến tranh ngoài xã hội, trong gia đình, chiến tranh giữa những người tự cho mình là trí thức và xem thương người khác hiểu biết kém cỏi, chiến tranh trong tâm hồn. Vẫn còn những bất công: nơi này ăn cướp đất, nơi kia bán đất công ăn chia. Vẫn còn những hư đốn: chỗ này hút chích chơi bời dâm đãng, chỗ kia ngoi ngóp vật vờ chờ chết, người đốt chồng, kẻ đâm vợ, người tạt a-xít tình địch, kẻ phá thai. Nơi đâu cũng gieo vãi những bất an, xáo trộn làm thành một thế giới luôn trong tình trạng hỗn mang!
Đáng tiếc hơn nữa, tình trạng hỗn mang, không chỉ là chuyện bên ngoài thế giới trần tục hoặc vô thần hoặc hiện sinh, mà còn là chuyện trong lòng những người mang danh là Kitô hữu - hơn thế nữa, đôi khi Kitô hữu ấy còn là trí thức công giáo, là cây đa cây đề của nền thần học công giáo, là những tiến sĩ, bác sĩ, nhà thơ, nhà văn, nhà kinh tế công giáo, là những bậc chức sắc cao niên vị vọng công giáo đáng kính. Vâng, nhưng vẫn còn những chuyện hỗn mang, những bất an do lòng cao ngạo thách thức hơn thua đủ vì chưa thoát ra khỏi cái “tôi” pháo đài chủ quan. Những Kitô hữu vẫn chưa có bình an bởi chưa có lòng ngay, chưa có thiện tâm, chưa có ý ngay lành, nhưng luôn còn đầy ác ý.
Trong đêm Con Chúa Giáng Sinh, lời chúc lành của ca đoàn các Thiên Thần: “Bình an dưới thế cho người lòng ngay” vẫn còn âm vang cho đến tận thế, vẫn còn hát trên môi miệng của bao người, và có thể nói, vẫn còn là khát vọng vô biên của tất cả những người thành tâm đi tìm bình an, hạnh phúc.
Thánh Phaolô nhắc nhở: “Người dạy chúng ta từ bỏ gian tà và những dục vọng trần tục, để sống tiết độ, công minh và đạo đức ở đời này”.
Hãy nhìn vào lòng mình trong đêm rất thánh. Hãy đặt mình trước ánh sáng chí thánh chí thiện của Thiên Chúa để nhờ ánh sáng Chúa soi cho thấy lòng mình còn đầy những ác ý, còn ngổn ngang những gian tà trong tư tưởng, lời nói, trong việc làm; còn hỗn độn những dục vọng cao ngạo hơn người chỉ lo bới lông tìm vết, hoặc đưa tay, đưa bút móc cái rác trong mắt anh em, còn cái xà trong mắt mình lại không thấy. Người không tin có Thiên Chúa cũng làm như vậy. Người chống lại Thiên Chúa cũng làm như vậy. Đến chúng ta, những người mang danh là Kitô hữu cũng làm như vậy được sao? Đến bao giờ sự Bình An của Chúa Giáng Sinh mới thực sự ngự trị trong tâm hồn?
Lắng tâm tư trong niềm yêu mến Chúa Giáng sinh, chắc chắn bạn và tôi sẽ nghe rõ khao khát của Chúa Giêsu Hài Nhi khiêm nhượng: Hãy tránh xa cái trí thức của ma quỷ dẫn tới sự bất an cho mình và cho người. Hãy từ bỏ cái vốn học của những người thờ Chúa ngoài môi miệng khởi đầu cho những hỗn độn trong nhà, ngoài cửa. Hãy học bài học hiền lành và khiêm nhượng trong lòng của Đấng Cứu Thế.
Trong những ngày này, mọi người đang Mừng Chúa Giáng Sinh, bên ngoài trang trí hoa đèn lộng lẫy, bên trong chuẩn bị cho một lòng thiện tâm, một ý ngay lành để đón nhận bình an của Chúa. Nhưng, không thiếu những vô tình hoặc cố ý lầm lẫn cái chính cái phụ, hoặc chỉ lo bên ngoài mà thiếu tấm lòng ngay lành. Chẳng hạn, thay vì “MỪNG CHÚA GIÁNG SINH”, tôi thấy có nơi đặt trước nhà thờ một tấm bảng to đùng với hàng chữ được trang trí khá tốn kém “MỪNG LỄ GIÁNG SINH”, như người trần gian vẫn đang mừng một lễ hội. Chuyện chữ nghĩa đôi khi chúng ta không ý tứ, nhưng đối với những người “không có lòng ngay” thì họ luôn có chủ tâm. Chuyện “Tốt Đời Đẹp Đạo” chẳng hạn. Sao không là “Tốt Đạo Đẹp Đời”?.
Cũng vậy, lại thấy có nơi câu tung hô của các Thiên Thần bị cắt xén, nhưng cũng hoành tráng to tát và cả điện đèn trưng bày thật sáng trưng, nổi bật giữa phố đông người: “VINH DANH THIÊN CHÚA TRÊN TRỜI - BÌNH AN CHO NGƯỜI DƯỚI THẾ”. Sao không là “bình an người lành dưới thế”? Người không ngay lành cũng được bình an sao? Họa chăng khi họ có lòng sám hối nhìn ra ánh sáng của Chúa Cứu Thế mà đổi từ gian ác ra ngay lành! Trong một đất nước có thể nói là kém tự do tôn giáo nhất, thì việc “Mừng Lễ Giáng Sinh” của những người không tin, hoặc chống lại Thiên Chúa với ý đồ hoành tráng như vậy ắt phải là để quảng bá cho thế giới biết rằng đất nước ấy có tự do. Có gì cho Vinh Danh Chúa?
Hồng ân của Chúa Giáng Sinh là “bình an cho người có lòng ngay”, có thành tâm thiện chí, không chỉ là lòng thành tâm với ơn cứu độ cho chính mình mà còn cho những con người cần được Chúa cứu độ. Bình an của người này ắt có ảnh hưởng lớn lao với người kia. Cũng thế, có ác ý hay bất an của người kia hẳn có một hệ lụy không kém nguy hiểm với người này. Thế giới này chỉ thực sự có bình an khi mỗi người, mỗi nhà tìm được nguồn bình an đích thực của Chúa ban thưởng cho khi có ý ngay lành. Vì vậy, mỗi người cũng nhận lấy cho mình trách nhiệm liên đới về việc xây dựng mối tương quan bình an trong nhà, ngoài phố và nhất là trong Giáo Hội thánh thiện của Chúa.
Nguyện xin Chúa Giêsu Giáng Sinh cất khỏi lòng trí chúng con những ý tưởng ám muội, những dục vọng cao ngạo nhưng thấp hèn, và xin lấp đầy lòng trí chúng con đức khiêm nhượng, ý ngay lành, để chúng con xứng đáng đón nhận ơn Bình An Giáng Sinh của Chúa. Amen.
“Khi hai người đang ở đó thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đạt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ”.
Sự kiện chỉ đơn giản có thế mà tác giả Lu-ca lại cất công ghi chép rất chi tiết niên đại như : GS-305
Sự kiện chỉ đơn giản có thế mà tác giả Lu-ca lại cất công ghi chép rất chi tiết niên đại như một biến cố có một không hai trong lịch sử nhân loại. Cộng đoàn Ki-tô hữu thời sơ khai đã sớm nhận ra điều này: hài nhi mới sinh ra tại Bê-lem trong đơn nghèo lại đang làm đảo lộn cả một lịch sử bi tráng của nhân loại. Sự đảo lộn này không phải là một chiến thắng, một cuộc cách mạng mà nhiều khi chỉ mang lại lo âu và sợ hãi, cũng không phải là hoàn tất một công trình hoành tráng vĩ đại đòi nhiều khó nhọc lao công… mà chỉ đơn thuần là một ‘tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân’. ‘Trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ’ tỏ lộ ‘vinh quang Thiên Chúa trên trời’, đồng thời cũng mang lại ‘bình an cho loài người Chúa thương dưới thế’. Có thể thế được chăng? Tin Mừng vĩ đại lại có thể đơn sơ đến như thế sao?
Thế đấy, cái đêm lễ hội phức tạp và công phu nhất trong năm (chỉ cần nhìn vào cách người ta trang hoàng đường phố cửa tiệm, dọn dẹp nhà cửa, trang trí nhà thờ, mua sắm quà cáp, nấu dọn yến tiệc cho ngày đại lễ) lại có một ý nghĩa, một nội dung quá ư giản dị và thuần khiết! Và để có thể khám phá ra sự đơn thuần này cần phải có được một đêm tĩnh mịch, đêm thầm lặng, đêm sâu lắng của cõi lòng (Silent Night). Vinh quang Thiên Chúa (Gloria Dei) không tỏ hiện trong hào quang sáng chói, không hô hoán qua tiếng nhạc tiếng sấm vang rền, không biểu dương rầm rộ nhờ binh hùng tướng mạnh. Vinh quang đó âm thầm xuất hiện giữa đêm đông tĩnh mịch, trong hình hài một trẻ thơ yếu ớt sinh ra trong chuồng chiên bò hôi hám… Điều đó là hoàn toàn hợp lý khi nào người ta nếm cảm được cái thứ vinh quang của tình yêu thương, của lòng nhân ái; âm thầm và thinh lặng như người cha ngồi bên giường bệnh của đứa con thoi thóp trong bệnh viện vắng lạnh, hoặc bà vợ đứng sau chiếc xe lăn của người chồng tật nguyền trong xó nhà quạnh hưu… Lúc đó sự thinh lặng, nghèo nàn, tăm tối…, và chỉ có nó, mới nói lên được tất cả, nói cách hùng hồn và diễn đạt đầy đủ nội dung sâu sắc nhất của tình yêu thương vĩ đại.
Và một khi loài người dưới thế, trong thinh lặng và sâu lắng. nhận ra rằng mình được Thiên Chúa yêu mến xót thương, được ‘đầy ân sủng và Đức Chúa ở cùng’ (Lc 1,28), họ sẽ biết đón nhận biến cố này với tâm hồn an bình, với tâm tình mừng vui diễn tả qua lời ca ngợi tri ân. Đặc biệt Ki-tô hữu, duy nhất giữa muôn người nhận biết mình là phần tử của ‘loài người Chúa thương’, một loài người không chỉ gồm toàn những kẻ lương thiện tốt lành, mà bao gồm cả các phạm nhân bất hảo. Qua kinh nghiệm bản thân họ hiểu rõ mình thuộc về thứ loài người này trong cả diện tích cực lẫn tiêu cực của nó. Và khi cử hành sự kiện Hài Nhi giáng sinh tại Bê-lem, họ nhận mình chính là người đầu tiên tiếp lấy lòng xót thương thần linh. Tâm hồn họ lúc đó được tràn ngập thứ bình an độc nhất vô nhị, như chính đức Giê-su sẽ khảng định sau này: “Thầy ban bình an của Thầy cho anh em… thứ bình an mà thế gian không thể ban tặng” (Ga 14,27)… Đúng là “bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
Ma-ri-a là người nữ đã chào đón ‘hài nhi sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ’ trong thinh lặng và sâu lắng như thế. Sinh nở luôn kéo theo không biết bao nhiêu vấn đề thể lý, tinh thần, vật chất, giao tế… dễ làm xáo trộn bất cứ một ai, nhất là các sản phụ; đặc biệt trong hoàn cảnh xa nhà, giữa muôn vàn thiếu thốn và bị xua đuổi… Tác giả Lu-ca đề cao thái độ lạ lùng của người mẹ đặc biệt này, ‘Còn Ma-ri-a thì hằng ghi nhờ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng’. Ma-ri-a đúng là Ki-tô hữu tiên khởi, tuyệt vời nhất ngay từ giờ phút đầu tiên khi ‘vinh quang Thiên Chúa’ xuất hiện trên dương thế.
Là một Ki-tô hữu linh mục và tu sĩ, tôi không thể cử hành biến cố Hài Nhi giáng trần cách khác. Dầu có bận rộn tới đâu (chưa bằng Ma-ri-a đâu!), tôi vẫn phải tự nhủ: để khám phá ra và ca tụng ‘Vinh quang Chúa’, và nhận biết mình là ‘loài người Chúa thương’, tôi cần giữ tâm hồn thinh lặng và sâu lắng.
Lạy Hài Nhi sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ, con muốn cùng Mẹ Maria thinh lặng chiêm ngắm tình yêu vĩ đại của Thiên Chúa giáng trần. Xin cho con nhận ra tăm tối, giá lạnh và nghèo nàn… tại Bê-lem hôm đó lại chính là tiếng ca ngợi vinh quang tình yêu Thiên Chúa cách vang dội nhất. Đặc biệt xin cho con nghe được thấu lời tuyên bố long trọng của Hài Nhi giáng thế:“Thiên Chúa yêu thương loài người”, trong đó có chính con, và mọi người tội lỗi thấp hèn…, để con và ‘loài người Chúa thương’ được hưởng bình an trọn vẹn và cất lời ca ngợi Chúa không ngừng. Amen
Lời tựa sách Tin Mừng thứ tư cho chúng ta một khảng định quan trọng: “Thiên Chúa, chưa: GS-306
Lời tựa sách Tin Mừng thứ tư cho chúng ta một khảng định quan trọng: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả”. Như vậy mọi hiểu biết về Thiên Chúa trước khi đức Giê-su xuất hiện (Cựu Ước, mọi tôn giáo khác và suy luận triết học) đều chỉ là phỏng định; hay nói cách khác là nhân cách hóa, có nghĩa là người ta dựa phần lớn vào tư duy con người, cho dầu có siêu việt như các triết thuyết. Nắm bắt và thấu triệt Thiên Chúa cách chính xác chỉ có thể có được qua sự xuất hiện của Lời (Verbum) trên trần gian. Vấn đề chính ở đây là xác định được Lời đó có nội dung gì?
Một số khảng định liên quan tới Lời (Verbum) được nêu lên: ‘Lời đã có từ lúc khởi đầu… Lời vẫn hướng về Thiên Chúa… Lời là Thiên Chúa… Lời tạo thành vạn vật… Lời là sự sống, là ánh sáng… Lời hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha’. Tất cả các điều này chỉ qui vào một điểm duy nhất: ‘Lời phản ánh, là hình ảnh trung thực nhất của Chúa Cha’ (xem Dt 1,3; Cl 1,15). Chính đức Giê-su sau này cũng đã không ngừng lặp đi lặp lại ý tưởng này cho các môn đệ ngài, “Không phải là đã có ai thấy được Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha” (Ga 6,46), “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha, sao anh lại nói: xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha?” (Ga 14.9)
Lời (Verbum) đó ‘đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta’. Như vậy là từ nay loài người có thể đọc được trực tiếp Lời. Để làm được điều này, cách duy nhất (và tuyệt đối không có bất cứ cách nào khác) là chịu khó đọc Lời, là chiêm ngắm đức Giêsu từ lúc còn mang hình hài một ‘trẻ sơ sinh, bọc tã, nằm trong máng cỏ’ (Lc 2,12) tới giờ phút cuối cùng của thập giá khi ‘một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người, tức thì máu cùng nước chảy ra’ (Ga 19,34). Ma-ri-a là người duy nhất đã có mặt ở cả hai biến cố đó, và đã đọc Lời – Giêsu trong tư thế chiêm niệm thâm sâu nhất, và Mẹ đã hiểu rõ: ‘Thiên Chúa là Đấng cứu độ… hằng thương xót…nâng cao kẻ khiêm nhường… ban cho kẻ khó nghèo đầy dư…’ (Lc 1, 47-55). Người môn đệ Gioan cũng đã theo sát, gần gũi với Thầy Giê-su nên đã có thể đọc được: ‘Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe… đã thấy tận mắt… đã chiêm ngưỡng… tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống.’ (1Ga 1,1) và làm chứng: ‘Thiên Chúa là tình yêu’ (1Ga 4,8) ‘Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…’ (Ga, 3,16); đồng thời quả quyết: “Lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật…” (Ga 19,35).
Chỉ những ai chân thành đọc Lời, chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu với tâm hồn sâu lắng nhất mới có cơ hội nhận biết Thiên Chúa cách đích thực; bằng không ý niệm của họ về Ngài sẽ mãi mãi mơ hồ và méo mó. Thực tế cho thấy rất nhiều người vẫn tự cho là mình biết rõ, biết sâu về Thiên Chúa (các tư tế, Biệt Phái và luật sĩ thời đức Giê-su là điển hình), thậm chí còn mở miệng giảng dạy người khác về Thiên Chúa thế này thế nọ, nhưng lại không cất công đọc Lời - Giêsu, không dành thời giờ chiêm ngắm, gần gũi và kết hiệp với Lời, thì làm sao họ biết rõ về Thiên Chúa được? Phải chăng chính họ là các tiên tri giả mà đức Giê-su đề cập tới (xem Mt 7, 15-20). Chẳng trách, Thiên Chúa tình yêu tạo thành thế gian, nhưng khi Lời tình yêu đền ‘thế gian lại không nhận biết Người’; Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh tình yêu Người, nhưng khi Lời tình yêu ‘đến nhà mình, thì người nhà lại chẳng chịu đón nhận’.
Tôi vẫn được nhắc nhở phải chiêm ngắm mầu nhiệm Giáng Sinh. Thế nhưng tôi trộm nghĩ, còn hơn cả mầu nhiệm Giáng Sinh như một biến cố, tôi cần chiêm ngưỡng Giê-su như một ‘người phàm và đang cư ngụ giữa chúng ta’ với mục đích để biết rõ hơn về Thiên Chúa tình yêu. Giáng Sinh chỉ là khởi điểm để tôi chuyển từ một hiểu biết Thiên Chúa của suy luận triết thần, qua Thiên Chúa của đức Giê-su Ki-tô. Giáng Sinh phải bắt đầu nơi tôi một thứ linh đạo chiêm ngắm, đào sâu và kết hiệp với Giê-su để, như Ma-ri-a, tôi đặt niềm tin tuyệt đối nơi Thiên Chúa, Đấng cứu độ và giầu lòng xót thương.
Lạy Mẹ Ma-ri-a, xin dạy con biết thinh lặng quì bên máng cỏ và chiêm ngắm Hài Nhi giáng trần; cũng xin giúp con biết ngước nhìn lên Giê-su chết trên thập giá để nhận ra một Thiên Chúa cứu độ đầy từ tâm. Qua việc lần hạt con muốn được cùng Mẹ ghi nhớ mọi điều trong cuộc đời Giê-su và suy niệm trong lòng, hầu biến trọn niềm tin Ki-tô hữu con thành một khám phá và minh chứng cho mọi người về ‘Thiên Chúa, Đấng cứu độ… hằng xót thương’. Kể từ lễ Giáng Sinh này, xin Mẹ đưa tay dắt con bước vào con đường chiêm niệm và sâu lắng mà Mẹ đã từng sống. Amen
Có một bà mẹ kể rằng: Một cơn bão vừa tàn phá thị trấn nhỏ gần thành phố của chúng tôi : GS-307
Có một bà mẹ kể rằng: Một cơn bão vừa tàn phá thị trấn nhỏ gần thành phố của chúng tôi làm nhiều gia đình phải sống trong cảnh khốn khó. Tất cả các tờ báo địa phương đều đăng hình ảnh và những câu chuyện thương tâm về một số gia đình mất mát nhiều nhất. Có một bức ảnh làm tôi xúc động. Một phụ nữ trẻ đứng trước ngôi nhà đổ nát của mình, gương mặt hằn sâu nỗi đau đớn. Đứng cạnh bà là một cậu bé chừng 7 hay 8 tuổi, mắt nhìn xuống. Đứa con gái nhỏ bám chặt quần mẹ, nhìn chằm chặp vào máy ảnh, mắt mở to vẻ bối rối và sợ hãi. Bài báo đi kèm cùng kêu gọi mọi người giúp đỡ những người trong gia đình đó. Tôi nhận thấy đây sẽ là một cơ hội tốt để dạy các con mình giúp đỡ những người kém may mắn hơn.
Tôi đưa tấm ảnh gia đình đó cho các con tôi xem, giải thích nỗi khổ của họ cho hai đứa con trai sinh đôi 7 tuổi và đứa con gái 3 tuổi. Tôi bảo chúng: “Chúng ta có quá nhiều trong khi những người này bây giờ không còn gì cả. Chúng ta hãy chia sẻ với họ những gì mình có”. Tôi và hai con trai chất vào thùng cứu trợ nào đồ hộp và xà bông, mì gói . . . Tôi cũng khuyến khích chúng chọn ra một số đồ chơi mà chúng không chơi nữa. Đứng nhìn hai anh sắp xếp mọi thứ, con gái tôi có vẻ nghĩ ngợi. Tôi nói với con: “Mẹ sẽ giúp con tìm một thứ gì đó cho em bé trong ảnh”.
Trong lúc hai anh mình đặt những món đồ chơi cũ chúng đã chọn vào thùng, con gái tôi đi vào, tay ôm chặt con búp bê cũ kỹ nhạt màu, tóc rối bù, nhưng là món đồ chơi nó yêu thích nhất. Nó ôm hôn con búp bê lần chót trước khi bỏ vào thùng. Tôi nói: “Con không cần phải cho nó, con thương nó lắm mà”.
Con gái tôi gật đầu nghiêm trang: “Nó đem lại niềm vui cho con mẹ ạ, có lẽ nó cũng sẽ đem lại niềm vui cho bạn kia”.
Khi bạn tặng hoa, bạn sẽ chọn một hông hoa đẹp nhất để tặng. Khi bạn chọn một tặng vật, bạn cũng gởi gắm một sứ điệp nào đó qua món quà. Người ta nói: “Vượt lên trên món quà là cả một tấm lòng”. Quà tặng không dựa trên giá trị vật chất nhưng quan trọng ở tấm lòng người tặng. Thế nhưng, con người chúng ta thường dễ dàng đem cho những thứ mình bỏ đi, ít ai dám đem tặng những cái mình yêu thích nhất. Điều đó chưa hẳn phát xuất từ tấm lòng nhạy cảm trước nhu cầu tha nhân, mà thường là việc làm chiếu lệ cho qua. Lòng nhân ái thực sự là đem cho những gì mình yêu quý nhất. Sự chia sẻ chân thành là lòng mong muốn người khác cũng được vui tươi, được hạnh phúc như chính mình. Đó mới thực sự là nghĩa cử cao đẹp của người có tấm lòng quảng đại, vị tha.
Thiên Chúa cũng dành một món quà vô cùng quý giá cho con người, chính là cho Con Một Ngài giáng trần. Ngài là Emmanuel ở giữa nhân loại. Ngài là niềm vui cho những mảnh đời bất hạnh lầm than. Qua Ngôi Lời giáng thế, Thiên Chúa đã đi sâu vào kiếp người chúng ta. Thiên Chúa có thể chia sẻ buồn vui trong kiếp người chúng ta. Thiên Chúa có thể lau khô những giọt nước mắt lầm than cho những người nghèo khổ, cho những kẻ tật nguyền. Vâng, Chúa đã làm người nên Ngài có thể hiểu được nhu cầu của con người. Ngài có thể thông chia những vui buồn cùng con người. Chính Ngài đã đi cùng con người qua những thăng trầm của đời người. Chính Ngài cũng muốn nếm cảm sự mỏng dòn của kiếp người vô thường: sinh – bệnh – lão – tử. Chính Ngài đã đi đến tột cùng của hiến dâng là dám chết cho người mình yêu.
Như vậy, sứ điệp của giáng sinh là trao ban, là chia sẻ, là bác ái cảm thông. Chúa giáng sinh là món quà quý báu mà Thiên Chúa Cha đã tặng ban cho trần gian. Đồng thời, khi chiêm ngắm Ngôi Hai Thiên Chúa trong hình hài một hài nhi yếu đuối, Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy dành cho Ngài một chút chia sẻ tình thương. Ngài cũng cần chúng ta thi thố tình thương cho Ngài. Ngài đã sinh ra trong cảnh cơ hàn. Ngài đã và đang thiếu thốn tư bề. Ngài đang cần chúng ta làm điều gì đó cho Ngài. Như các mục đồng năm xưa đã dâng cho Hài Nhi Giê-su những con lừa, con bò, những cọng rơm để sưởi ấm cho Chúa. Hôm nay, Chúa cũng đang đồng hoá mình trong thân phận những con người lầm than, cơ hàn. Ngài đang cần chúng ta chia sẻ một chút tình người, một chút lòng bác ái, một chút tinh thần dấn thân phục vụ để xoa dịu nỗi đau thể xác và tinh thần trên những con người bất hạnh mà chúng ta gặp trên mọi nẻo đường. Có thể chúng ta đang mang trong mình những dự tính thật lớn lao để phục vụ anh em, nhưng thực ra, Thiên Chúa đang cần chúng ta phục vụ Ngài từ những việc rất bình thường trong đời sống hằng ngày. Vâng, một cái nhìn cảm thông và một nụ cười khích lệ tưởng như nhỏ nhoi, chẳng đáng kể, nhưng điều đó lại có thể xua tan những mây mù giữa trần đời và kiến tạo mùa xuân yêu thương cho trần gian. Một đồng tiền lẻ, một chén gạo tình thương xem ra thật nhỏ bé nhưng có thể làm ấm lòng bao người đang đói rách tư bề.
Vâng, Chúa giáng sinh đang tiếp tục giáng sinh trong trần thế qua những thân phận bất hạnh, yếu đuối, bị bỏ rơi. Ngài đang cần chúng ta đến với Ngài trong yêu mến và phục vụ chân thành như các mục đồng năm xưa. Đây chính là lời mời gọi thiết thực nhất từ hang đá Belem. Chúa Giáng sinh đang cần bạn và tôi không chỉ đến thờ lạy Ngài mà còn dâng tặng cho Ngài một chút tình thương để sưởi ấm Ngài trong đêm thâu giá lạnh.
Ước gì mỗi người chúng ta khi mừng Chúa Giáng sinh chúng ta cũng biết nghĩ đến những người nghèo chung quanh chúng ta. Xin đừng lạnh lùng, vô cảm trước những bất hạnh của tha nhân. Ước gì tình người chúng ta được liên đới với nhau bằng sợi dây yêu thương sẽ làm cho việc kỷ niệm Con Chúa Giáng sinh thêm nồng ấm tình thương. Amen
Trong ánh sáng tưng bừng mừng mùa Giáng Sinh, trong những làn điệu thánh ca rộn rã hân hoan: GS-308
Trong ánh sáng tưng bừng mừng mùa Giáng Sinh, trong những làn điệu thánh ca rộn rã hân hoan, trong những hang đá huy hoàng, nhấp nháy ánh điện, các thiên thần, các mục đồng, cùng bày đàn bò lừa vây quanh Đức Mẹ và Thánh Giuse, cùng Chúa Hài Đồng nằm gọn trên máng cỏ. Tất cả những điều đó đang nhắc nhở chúng ta rằng Ngôi Lời đã và đang đến trần gian.
Ngôi Lời là ánh sáng thật.
Những ánh đèn màu trang trí, những ánh đèn pha chiếu sáng ngôi thánh đường, chỉ tượng trưng phần nào cho nguồn sáng thật, xua tan bóng đêm âm u ma quái.
Chúa Giêsu mới đích thị là nguồn sáng chói chan thật sự, không giả tạo phù du như những bóng đèn điện màu mè, mỏng manh. Nguồn sáng cực mạnh giải thoát con người khỏi bóng đêm hãi hùng, nguồn sáng Cứu Độ thế giới thoát khỏi ách thống trị của Satan với những cạm bẫy và cám dỗ u ám, đen tối.
Ngài ở giữa thế gian
Hơn nữa, nguồn sáng đem lại niềm vui, hạnh phúc và hy vọng cho nhân trần. Không có lời nào khả dĩ diễn tả và ca tụng nổi Tình Yêu Thiên Chúa ban cho con người, khi cho đích thân Con Ngài là Đức Chúa Giêsu xuống trần, ở giữa chúng ta. Gần gũi đến thế, mà chúng ta nào nhận biết Ngài.
Ngài đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta
Nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Có lẽ vì trông Ngài xoàng xĩnh, tầm thường quá, chẳng giàu sang quyền quý, nên đâu ai quan tâm nhận ra chăng? Ngài nghèo đói, rách rưới quá, chẳng ai thèm nhận ra chăng? Ngài vô gia cư, thất nghiệp, bệnh hoạn, hay bị tù đầy, giam cầm, nên cũng chẳng ai chịu ghé đến thăm chăng?
Ngài là nguồn ơn sung mãn.
Nhưng nếu biết đón nhận Ngài, là lãnh nhận được hết ơn này đến ơn khác từ nguồn sung mãn của Ngài. Bởi vì Ngài là sự sống, tràn đày ân sủng, sự thật, ánh sáng, và là nguồn Ơn Cứu Độ.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng xin ban cho chúng con tỉnh thức và nhạy bén như các mục đồng đơn sơ, nhân hậu, để mau mắn đến thờ lạy Chúa. Lạy Mẹ Maria, xin dạy chúng con khiêm nhượng, luôn tin cậy vào Quyền Năng Chúa, để xứng đáng tiếp đón Chúa ngụ vào tận cõi lòng chúng con. Amen.
Ông John Howard Jeffin, một người Mỹ da trắng rất cảm thông với nạn kỳ thị màu da, nhất: GS-309
Ông John Howard Jeffin, một người Mỹ da trắng rất cảm thông với nạn kỳ thị màu da, nhất là người da đen, vì ông nhận thấy có nhiều bất công xã hội. Do đó, ông muốn làm một việc gì để bênh chữa họ, giải phóng họ khỏi nạn kỳ thị bất công và lay động lương tri con người thời đại, trở về với lẽ phải của luật công bình xã hội, của tình bác ái huynh đệ tương thân tương ái.
Nhưng giúp họ thế nào được, nếu không đồng hóa với họ, để cùng cảm thông được nỗi bất công họ phải chịu. Vì vậy, ông quyết định phải trở nên một người da đen như họ, sống giữa họ, sinh họat như họ, giữ các phong tục nếp sống như họ. Trước tiên, ông dùng các thứ thuốc để biến đổi màu da và ngày ngày phơi nắng, làm sao trở thành như một người da đen chính cống.
Thế là năm 1959, ông đã từ Hiệp Chủng Quốc đi qua Nam Mỹ, đến sống giữa những người da đen. Đi tới đâu ông cũng bị người da trắng khinh bỉ; ông đến xin việc làm tại các công sở hay các xí nghiệp đều bị người ta từ khước; tàn tệ hơn nữa, người ta còn đuổi không cho ông sử dụng các nhà vệ sinh công cộng... Nhờ cuộc sống này, ông đã thấm thía cảm thông chia sẻ những nỗi khó khăn người da đen phải chịu trước những bất công xã hội. Sau cùng, ông đã viết một tác phẩm rất giá trị, phanh phôi nạn bất công đó và kêu gọi mọi người, nhất là chính quyền quốc gia: Hãy sống công bình trong tình bác ái huynh đệ, hãy nâng đỡ những phần tử bị khinh miệt, hãy thương giúp các dân tộc thiểu số, những người yếu kém, những người mang số phận hẩm hiu, những người nghèo nàn, túng thiếu, đau yếu, tàn tật.
I. THIÊN CHÚA MẶC XÁC THỂ PHÀM NHÂN
Câu truyện ông John Howard Jeffin đã làm cho nhiều người phải khen ngợi khâm phục, nhưng lịch sử nhân loại còn phải ghi nhận một tấm lòng yêu thương cao cả và bao la hơn bội phần, đáng cho nhân loại muôn đời ghi nhớ, tán dương với hết lòng khâm phục và noi theo bắt chước. Chính vì để kỷ niệm một biến cố trọng đại, một mẫu gương cao cả, một tấm lòng yêu thương bao la vô cùng độc nhất vô nhị trong lịch sử nhân loại đó, mà toàn thể nhân loại nói chung và Kitô Giáo nói riêng, hằng năm cứ đến ngày này, long trọng mừng đại lễ mang danh hiệu là Đại Lễ Chúa Giáng Sinh.
Đây một mầu nhiệm vô cùng siêu việt của tình yêu thương: Ngôi Hai Thiên Chúa, Đấng là Thượng Đế cao cả, là Tạo Hóa muôn loài, cầm quyền sinh tử vạn vật, Đấng mọi loài trên trời dưới thế và trong hỏa ngục đều phải tôn thờ phụng sự kính yêu, Ngài đã vì yêu thương chúng ta, hóa thân làm người dưới hình một con trẻ sơ sinh non nớt, yếu đuối, bất lực, được sinh ra nơi hang lừa máng cỏ nghèo nàn hôi tanh, giữa đêm đông giá lạnh.
Chúa đã từ trời xuống thế, đã trở nên giống hệt như chúng ta, sống kiếp sống con người như chúng ta, để cảm thông chia sẻ với mọi niềm vui nỗi khổ của chúng ta. Người đã chịu dựng thai trong cung lòng một Trinh Nữ, được sinh thành, dưỡng dục bởi Mẹ Ngài, lụy phục Mẹ Ngài và Thánh Giuse Cha nuôi Ngài như một người con thực thụ. Ngài đã sống cuộc đời mai danh ẩn tích dưới mái nhà Nazareth, với nghề thợ mộc nghèo nàn trong suốt 30 năm trường. Từ khi vừa được sinh ra cho tới hết cuộc đời, Ngài đã phải chịu bao nỗi bất công, áp bức, xua đuổi, tầm nã, bắt bớ, vu oan, cáo vạ do lòng độc ác của con người.
II. TÌNH YÊU ĐIÊN DẠI CỦA THIÊN CHÚA
Để thi hành Sứ Mạng Cứu Thế Chúa Cha ủy thác, sau cuộc đời ẩn dật, Chúa đã xuất thân công khai rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, giải phóng nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi và quyền lực hỏa ngục, tỏ cho nhân loại biết thánh ý Thiên Chúa, dẫn đưa nhân loại trên con đường trở về với Thiên Chúa, như một Đấng Trung Gian giao hòa nhân loại với Thiên Chúa. Với tư cách Đấng Thiên Sai, Vị Cứu Tinh các dân tộc mà nhân loại bao ngàn đời khát mong trông đợi, Ngài đã đến trần gian cách đây hơn hai ngàn năm, để cải tạo và canh tân thế giới khỏi những đồi phong bại tục, mê tín, dị đoan, vô tín ngưỡng, tin vơ thờ quấy, dẫn đưa nhân loại trên Đường Cứu Độ trở về với Thiên Chúa, để đáng được diễm phúc làm con cái Thiên Chúa và thừa hưởng gia nghiệp vĩnh cửu Chúa đã sắm sẵn cho con cái ngoan thảo trung thành phụng sự và yêu mến Ngài.
Trong khi giáo huấn nhân loại những giáo lý cao siêu bởi trời, Chúa Cứu Thế đã rộng tay thi ân giáng phúc cho nhân loại, bằng cách dùng uy quyền toàn năng của Ngài làm bao nhiêu phép lạ, cho kẻ què được đi, người điếc được nghe, kẻ phong cùi được sạch, kẻ chết được sống lại, người sầu khổ được niềm an ủi, kẻ yếu đuối được nâng đỡ, người bị áp bức được bênh vực, kẻ sa ngã được chỗi dậy, kẻ lầm đường lạc lối được trở về chính lộ, người tội lỗi được hoán cải trở về với Thiên Chúa...
Sau cùng, chính Người đã tự đặt mình làm mẫu gương cho chúng ta noi theo bắt chước trong việc chu toàn thánh ý Chúa Cha, như lời Người đã thưa với Chúa Cha ngay từ khi vừa nhập thể làm người: "Lạy Cha, này Con xin đến để chu toàn thánh ý Cha" (Heb 10:7). Thánh Phaolô cũng đã quả quyết với chúng ta: "Người đã vâng phục cho đến chết và chết trên Thập Giá" (Phil 2:8) để cứu chuộc chúng ta. Thực vậy, để hoàn tất Sứ Mạng Cứu Thế, Chúa Kitô đã tự nộp mình để lãnh nhận mọi thứ cực hình, do lòng man rợ của con người đã bày tạo ra trong cuộc khổ nạn Ngài phải chịu, cho tới lúc Ngài đã hy hiến chính bản thân chịu chết trên Thập Giá làm lễ hy sinh, đền tạ phép công bình Thiên Chúa, cứu chuộc chúng ta khỏi chết muôn đời, để đáng hưởng gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Quốc xứng với ơn gọi cao cả làm con cái Thiên Chúa.
III. ĐỂ ĐÁP LẠI TÌNH CHÚA YÊU THƯƠNG
Để đáp lại lòng Chúa yêu thương, chúng ta hãy hết lòng tuân theo các giáo huấn Chúa dạy, tận tình phụng sự tôn thờ kính mến Chúa, xứng với địa vị cao cả là tôi trung con thảo của Chúa; nhất là hãy cố gắng họa theo mẫu gương đời sống thánh thiện đầy bác ái yêu thương của Chúa Cứu Thế, nơi bản thân và cuộc sống mỗi người chúng ta, tùy theo địa vị, chức vụ và môi trường xã hội chúng ta đang sống; ngõ hầu chúng ta thật trở nên những tông đồ, những cộng tác viên với Chúa trong việc cải tạo và canh tân thế giới đầy bất công, tham lam, tội lỗi này trở nên một Vương Quốc của Tình Thương Thiên Chúa, xứng đáng được Chúa yêu thương hiển trị như Thiên Đàng hạnh phúc vĩnh cửu của Người ngay trên trần gian này.
Kết Luận
Đạt được ước nguyện đó, là chúng ta đã chu toàn được sứ mạng Chúa trao cho chúng ta là con cái Chúa. Con cái được Chúa sai đi như những sứ giả hoà bình, đem Tin Mừng Cứu Độ đến cho mọi dân tộc, các cộng đồng, các gia đình và mọi tâm hồn, để thế giới này tốt đẹp hơn, các tâm hồn được hưởng niềm an vui hạnh phúc chân thật, mà Chúa đã hứa ban cho những người thành tâm thiện chí, như lời muôn cơ binh Thiên Quốc đã tấu lên khúc hoan ca trong đêm Chúa Cứu Thế Giáng Sinh năm xưa:
"Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, Bình an dưới thế cho người thiện tâm!"
Bước vào không gian và thời gian quanh ngày Chúa đến. Nhạc Giáng Sinh dìu tâm trí chúng: GS-310
Bước vào không gian và thời gian quanh ngày Chúa đến. Nhạc Giáng Sinh dìu tâm trí chúng ta sống ngược dòng Lịch Sử hơn 2.000 năm để những nhân vật xa xưa đồng sống lại với chúng ta qua hình ảnh: Maria đang thờ lạy Con Chúa; Giuse sau phút lo lắng tìm chỗ trọ bị khước từ cũng đang bái gối bên nôi Con nhỏ; Hình ảnh Thiên Thần tung tăng ca hát ngợi khen; Hình ảnh các mục đồng hối hả tìm về hang lạnh; Hình ảnh Ba Vua lần theo vì sao lạ tìm Cứu Chúa; Hình ảnh máng cỏ thô hèn với Hài Nhi Thánh...
Chúa Cứu Thế sinh ra là một biến cố phi thường, khiến cả vũ trụ vật chất và cả Thiên Đàng hân hoan. Đại diện cho nhân thế đến tiếp nhận sứ điệp Giáng Sinh lại là những kẻ mục đồng. Tại sao thiên thần không báo tin cho người xứng đáng có danh phận, cho kẻ sống ngay lành thời đó? Những kẻ chăn chiên xứ Giuđêa không giống kẻ chăn trâu mang thân phận tôi đòi được gọi là "Thằng cu trâu". Kẻ chăn chiên xứ Giudêa cũng không giống cao bồi Texas nổi tiếng cỡi ngựa, quăng dây, đấm đá, bắn súng cừ. Kẻ chăn chiên Giuđêa phải hội đủ điều kiện căn bản này:
- Có lòng yêu thương con chiên bơ vơ. - Dám bỏ mạng sống mình vì đoàn chiên (Jn 10:11). - Phải có tinh thần trách nhiệm, không để mất con chiên nào (Lc15:4). - Thuộc tên từng con. - Phải khôn ngoan, thông cảm, hiểu chiên và lo cho chiên chu đáo (Jn 10:14). - Có sức lực và dũng cảm để bảo vệ chiên khỏi sói rừng (1 Sam17:34).
Chúa Giêsu đã ví mình với kẻ chăn chiên: "Ngài chăm bày chiên mình, thu các chiên con lại dưới cánh tay mình và ãm vào lòng, dắt chúng đi ăn, chủ đi trước và chúng theo sau. Chúng nghe theo tiếng chủ chăn".
Thành Giêrusalem gần cánh đồng Giuđêa, nơi các du khách hằng năm đến đền thờ Thiên Chúa dâng lễ vật. Bởi đó kẻ chăn chiên phải lo lắng, săn sóc chiên cho béo tốt, khỏe mạnh và đúng tiêu chuẩn luật dạy về một con chiên được dâng sát tế tôn thờ (Jn1:29). Họ cũng là hình bóng Chúa Cứu Thế đón nhận để săn sóc kẻ tội lỗi. Kẻ chăn chiên đầy đủ tiêu chuẩn này thực xứng đáng đón nhận ơn đại diện loài người. Không lạ gì khi nghe báo tin, họ sẵn sàng bỏ chiên đó đi ngay cho được tôn thờ Chúa Cứu Thế (Jn 1:29; Lc 2:12). Khi trở về họ làm sáng danh và ngợi khen Chúa như đã nghe và đã thấy (Lc.2:20).
Chúng ta là kẻ chăn chiên được Chúa soi dẫn đến thờ lạy Thiên Chúa làm người trong máng cỏ thô hèn. Hãy ráng sống xứng đáng với ơn Chúa kêu gọi. Hãy dõi theo đức tính của kẻ chăn chiên với bày chiên là con cái, các em, chiên chòm xóm, chiên họ hàng... Chiên giòng máu đỏ da vàng. Hãy học đức tính của kẻ chăn chiên: có lòng yêu thương các con; săn sóc các con, người bạn đời, họ hàng bằng gương sáng; khôn ngoan và hiểu ý chiên con để lo chu đáo; can đảm, dũng cảm để bảo vệ con cái, bài trừ bệnh hoạn thời đại nơi gia đình.
Với cung cách của kẻ chăn chiên, với niềm tin của kẻ chăn chiên, họ xứng đáng đại diện cho nhân loại tiếp nhận sứ điệp Tin Mừng (Lc 2:10). Lạy Chúa là chủ chiên, xin soi dẫn chúng con sống xứng đáng địa vị chủ chiên của chúng con, để cũng được xứng đáng đón nhận sứ điệp nước trời mai sau.
Lời Phúc Âm hôm nay nói về: * Hãy lo sinh hoa kết trái chân thành và đừng tự phụ. Ta bảo: GS-311
Lời Phúc Âm hôm nay nói về:
* Hãy lo sinh hoa kết trái chân thành và đừng tự phụ. Ta bảo cho các ngươi hay Thiên Chúa khiến những hòn đá nên con cái Israel cũng được (Mt 3:8-9).
* Thầy bảo các con: Hễ không nên chính trực hơn các thầy thông giáo và Pharisiêu thì sẽ chẳng được vào nước trời đâu (Mt. 5:20).
Suy về con người liên quan đến ơn cứu chuộc, Thánh Augustino xác định: "Khi dựng nên ta, Chúa không cần ta ưng thuận, nhưng khi cứu chuộc ta, Người cần ta cộng tác".
Thực vậy, tôi không phải là khởi điểm, là gốc nguồn của đời tôi. Không phải tôi tự chọn mình vào đời. Tôi không chọn chốn ăn ngủ, ngày giờ và hoàn cảnh của cuộc sống tôi. 50, 70 năm trước đây, tất cả mọi sự chung quanh tôi đều đã có rồi. Các hành tinh, mây trời, tinh tú soi sáng đã từ ngàn ngàn đời khơi dựng dưới sự tạo dựng của Chúa. Còn tôi lúc đó chưa thành hình, mọi sự tiến hành không cần tôi, cũng chẳng ai nghĩ đến tôi.
Nhưng không phải tình cờ tôi có trong thế gian này. Tôi cũng có lý do hiện hữu, đó là ý Chúa, từ hư vô Chúa đặt tôi trong lòng mẹ một mầm sống và thuận thời thuận cảnh tôi được Chúa tác thành, được mẹ nuôi dưỡng không cần tôi cộng tác, suốt 9 tháng cưu mang, suốt cuộc đời niên thiếu, tôi đương nhiên được góp mặt trong trái đất với thánh ý Chúa muốn tôi là người trong thế giới bao la của Chúa, mà nào có mấy lúc tôi nghĩ tôi là con Chúa?
Có câu chuyện kể rằng: Bà Susan mang một cái bầu lớn có hai đứa (sinh dôi). Một đứa tên là Jhony, một đứa tên là Mallky. Trong 9 tháng 19 ngày trước khi sinh ra, hai đứa đang trong bụng mẹ nói chuyện với nhau rằng: "Tao sinh ra, thì tao sẽ làm bá chủ mọi sự. Mọi sự sẽ dưới quyền tao. Tao sẽ không sợ ai hết, cả mày nữa".
Mallky thì nới rằng: "Mày cũng sinh ra như tao thôi, tao không biết mình sẽ ra sao? con trai hay con gái, xinh đẹp hay khuyết tật. Là người bình thường hay là người khổng lồ? Nhưng tao biết tao sẽ không xa mẹ được vì tao nối liền với mẹ bằng một cái nhau. Trước đây tao chưa có, bây giờ tao bằng củ khoai, không hiểu được ai làm nên tao nữa? Tại sao tao lại hiện diện trong đời? To hay nhỏ? Bằng nào ai mà biết huống chi mày đòi làm bá chủ mọi người? Tao không tin được điều đó. Đến khi sinh ra. Jhony lại là người nhỏ nhất và Mallky lại là chị của Jhony. Mọi sự đều đảo lộn hết.
Vì tham vọng nhỏ bé trong đầu óc và đam mê của muôn người, tôi đã muốn vượt ý muốn của cha tôi, muốn sống mãi trên đời, muốn làm bá chú và muốn gạt ý muốn Cha tôi ra ngoài. Giữa lúc con tầu đường đời tôi không khác một chiếc lá trôi nơi biển cả.
Dù đời tôi quá vắn vỏi, thân phận tôi nhỏ nhoi nhưng Chúa đã ban cho tôi ý muốn, tình cảm và tự do và giúp tôi cơ hội để tôi cộng tác với Ngài như người con lớn cộng tác với Cha mẹ, tôi không được từ chối sự cộng tác ấy.
Chúa biết rõ sự yếu đuối của tôi, nên từ đời đời Ngài đã yêu thương, săn sóc như một người con đáng thương trong gia đình. Ngài đến trần gian, sống giữa chúng tôi với thân phận con người, nhưng khác con người để dạy tôi sống cao lên, cộng tác với Ngài trong sự vươn mình lên vì đời người không phải chỉ sống trong thể xác, sống bằng thể xác nhưng bằng tinh thần. Ngài cộng tác với tôi, giúp tôi được cứu rỗi, được vươn lên. Nhưng Ngài không thể nếu tôi không muốn, nếu tôi không cộng tác. (25.12.2005)
• Is 9, 1-3. 5-6: (3) Cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, ngọn roi hà hiếp họ, Ngài đều bẻ gãy. (4) Vì mọi giầy lính nện xuống rần rần và mọi áo choàng đẫm máu sẽ bị Ngài đem thiêu, làm mồi cho lửa.
• Tt 2, 11-14: (14) Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện.
• TIN MỪNG: Lc 2, 1-14 Đức Giêsu ra đời. Những người chăn chiên đến viếng thăm
(1) Thời ấy, hoàng đế Augúttô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. (2) Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Quiriniô làm tổng trấn xứ Xyri. (3) Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. (4) Bởi thế, ông Giuse từ thành Nadarét, miền Galilê lên thành vua Đavít tức là Bêlem, miền Giuđê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đavít. (5) Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Maria, lúc ấy đang có thai. (6) Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. (7) Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.
(8) Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. (9) Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. (10) Nhưng sứ thần bảo họ: «Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: (11) Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa. (12) Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ». (13) Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: (14) «Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương».
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Tại sao Thiên Chúa lại để hoàn cảnh lịch sử gây khó khăn đau khổ cho Giuse và Maria, là: GS-312
1. Tại sao Thiên Chúa lại để hoàn cảnh lịch sử gây khó khăn đau khổ cho Giuse và Maria, là những người đang cộng tác vào công việc quan trọng của Ngài? Ngài có thật sự thương các vị ấy không? Sao Ngài lại làm như vậy?
2. Tại sao Con Thiên Chúa vô cùng giàu sang lại sinh ra trong cảnh cơ cực, nghèo nàn và nhục nhã đến như vậy? Muốn người mình yêu thương được hạnh phúc nhưng ta không chấp nhận đau khổ cho họ thì có được không?
3. Tại sao thiên sứ lại báo tin cho các mục đồng mà chẳng hề báo tin cho các vị lãnh đạo tôn giáo Do Thái? Thiên Chúa hành động ngược đời quá chăng?
4. Đối tượng cần được quan tâm phục vụ nhất của những người theo Chúa, những người loan báo Tin Mừng là hạng người nào? Thực tế thế nào? Suy tư gợi ý:
1. Sự việc xảy ra trong lịch sử không vượt ra ngoài sự an bài của Thiên Chúa
Việc Đức Giêsu sinh ra ứng nghiệm những lời tiên báo trước đó về Đấng Cứu Thế: Ngài là con người chứ không phải thiên thần (x. St 3,15; Dt 2,16), là người Do Thái, con cháu Abraham, chứ không phải dân tộc khác (St 12,1-3; Ds 24,17), thuộc dòng tộc Giuđa (St 49,10), là con cháu Đavít (2Sm 7,1-17), sinh tại Bêlem (Mk 5,2) bởi một người nữ đồng trinh (Is 7,14). Sự việc hoàng đế Augúttô ra lệnh kiểm tra dân số khiến Giuse và Maria phải rời Nadarét ở miền Bắc để vào Bêlem, quê hương của Giuse ở miền Nam, để khai tên tuổi xem ra là ý muốn của vị hoàng đế này. Điều này khiến gia đình vừa thành lập của Giuse và Maria phải điêu đứng khổ sở, và Đức Giêsu cũng phải chịu cực theo từ khi còn nằm trong bụng mẹ. Nhưng sự việc này không nằm ngoài sự xếp đặt của Thiên Chúa. Ngài là chủ tể của lịch sử, là Đấng điều khiển lịch sử. Nhờ đó, lời tiên tri nói Ngài sẽ sinh ra tại Bêlem mới ứng nghiệm. Ta nên nhận ra thánh ý và cách thế hành động của Ngài qua những biến cố lịch sử.
Qua sự việc trên, ta nhận ra rằng có những sự việc đời ta và trong lịch sử có vẻ hết sức phi lý dưới con mắt loài người, nhưng chúng không bao giờ vượt khỏi quyền năng và sự an bài khôn ngoan kỳ diệu của Thiên Chúa. Cũng qua sự việc này, ta thấy cách Thiên Chúa huấn luyện những người mà Ngài đặc biệt yêu thương như thế nào. Gia đình Ngài yêu thương nhất mà còn phải trải qua biết bao thử thách, đau khổ và nhục nhã như thế để được thánh hóa, để góp phần vào công việc cứu chuộc của Thiên Chúa, lẽ nào chúng ta muốn nên hoàn thiện, muốn góp phần vào việc của Ngài lại không phải trải qua đau khổ?
2. Tại sao Đức Giêsu sinh ra nghèo hèn, nhục nhã như thế?
Điều đáng chúng ta suy nghĩ là Ngôi Hai Thiên Chúa giàu sang vinh hiển vô cùng lại hạ sinh làm người trong một hoàn cảnh nghèo khổ, cơ cực nhất trần gian. Ngài đã giáng sinh trong một chuồng súc vật hôi hám, lấy máng ăn dơ bẩn của chúng làm nôi để nằm. Tự đặt mình trong hoàn cảnh của Ngài, chắc chắn chúng ta sẽ cảm thấy nhục nhã lắm! Ngài chấp nhận như thế chỉ vì yêu thương con người, vì muốn nâng con người lên và muốn họ được hạnh phúc. Thánh Phaolô viết: «Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có» (2Cr 8,9). Thật vậy, muốn tha nhân hạnh phúc mà mình lại không muốn hy sinh, không chấp nhận ít nhiều đau khổ vì họ, thì đó là một ước muốn không tưởng! Muốn nâng người khác lên mà lại cứ muốn trèo lên đầu lên cổ họ là một ước muốn phi lý! Người thật sự theo Chúa không thể hành động ngược lại với phương cách mà Ngài đã dùng. Nếu không theo cách của Ngài, ta chỉ là một kẻ theo Chúa giả hiệu mà thôi.
3. Tại sao các mục đồng lại được loan báo đầu tiên?
Tại sao tin mừng về việc Đức Giêsu sinh ra lại được loan báo trước tiên cho các mục đồng chứ không phải là các thượng tế, giới chức sắc và kinh sư trong tôn giáo? Đúng ra giới lãnh đạo Do Thái giáo phải được loan báo tin này trước nhất mới phải chứ? Thiên Chúa không hành động như thế. Các mục đồng tượng trưng cho giai cấp thấp hèn nhất, bị bỏ rơi nhất trong xã hội và tôn giáo. Điều này cho thấy trước rằng sứ mạng của Đức Giêsu là đến vì những người nghèo khổ, bị áp bức, những kẻ thấp cổ bé miệng nhất trong xã hội… Tin Mừng Ngài đem đến là thứ tin mừng giải phóng, chỉ những ai đang bị áp bức, bị giam hãm trong đau khổ, tội lỗi, mới cần được giải phóng. Vì thế, nó phải được loan báo đặc biệt ưu tiên và trước tiên cho những hạng người này. Cũng như Đức Giêsu, các ngôn sứ đích thực đều ưu tiên phục vụ, tranh đấu, lên tiếng bênh vực những người nghèo hèn, bé mọn hoặc tội lỗi. Hành động như thế thường gây bất lợi cho giới cầm quyền trong xã hội cũng như tôn giáo, vì thế các ngôn sứ thường bị họ căm ghét, mạ lị và bách hại (x. Lc 6,23).
Chỉ có các ngôn sứ giả mới ưu tiên phục vụ những kẻ giàu sang, quyền thế, nhờ vậy mà họ được giới này ca tụng và ưu đãi (x. Lc 6,26). Họ chỉ muốn phục vụ cho cơ cấu hay tập thể đang đem lại địa vị, sự ưu đãi và quyền lợi cho họ. Phục vụ Thiên Chúa hay phục vụ tha nhân nhiều khi chỉ là chiêu bài họ dùng để được quần chúng ủng hộ mà thôi. Họ chỉ quan tâm phục vụ và củng cố những cơ cấu đem lại lợi ích trần tục cho họ, chứ không thật sự quan tâm phục vụ Thiên Chúa hay những người cùng khổ. Ngôn sứ thật và ngôn sứ giả khác nhau ở điểm này, mặc dù bên ngoài họ không mấy khác nhau. Tuy nhiên phân biệt ngôn sứ thật và ngôn sứ giả rất dễ, chỉ cần nhìn vào việc làm hay cách hành xử của họ là nhận ra ngay. Đức Giêsu nói: «Hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu. Cây tốt không thể sinh quả xấu, cũng như cây xấu không thể sinh quả tốt» (Mt 7,17-18). Những ai chỉ ưu đãi hoặc coi trọng những người giàu sang quyền thế, đồng thời coi thường hay bạc đãi những người nghèo hèn khốn khổ, chắc chắn không thể là một ngôn sứ đích thực.
Ngôn sứ thật thì hành động như Đức Giêsu: luôn luôn dành thì giờ và năng lực của mình ưu tiên cho những người bé mọn, hèn kém, đau khổ. Tâm tư Ngài lúc nào cũng hướng đến hạng người này, luôn tìm cách nâng đỡ, bênh vực họ. Dấu hiệu để nhận ra Ngài có phải là Đấng Cứu Thế hay không, được chính Ngài xác nhận: «Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng» (Mt 11,5-6).
Ngài thường tự đồng hóa mình với người nghèo hèn đau khổ, đến nỗi ai làm gì cho những người này là làm cho chính Ngài (x. Mt 25,40.45). Ngài đòi hỏi những ai muốn theo Ngài phải yêu thương người nghèo như một điều kiện tiên quyết phải có để theo Ngài và để có sự sống đời đời: «Hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi» (Mt 19,16.21; x. Mc 10,17.21). Các ngôn sứ đích thực xưa nay đều có tinh thần ấy. Trong thời đại chúng ta, vẫn luôn có những con người như Martin Luther King (Mỹ da đen), ĐGM Oscar Romero (Salvador), LM Jer zy Popieluszko (Ba Lan)… Các vị này đã coi việc bênh vực người nghèo, người bị áp bức quan trọng hơn cả sự an toàn bản thân, thậm chí hơn cả mạng sống mình. Họ chính là gương mẫu của những người theo Chúa đích thực.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Đức Giêsu đã sinh ra nghèo hèn, đã sống như người nghèo, đã chịu biết bao đau khổ, đã bị bách hại áp bức. Ngài đã yêu thương người nghèo khổ, tội lỗi, đã ưu tiên dành thì giờ và sức lực để phục vụ họ. Con là một Kitô hữu, một người muốn theo Ngài. Xin giúp con nhận thức được rằng, theo Đức Giêsu không phải chỉ là lãnh nhận bí tích rửa tội, thêm sức hay bất kỳ bí tích nào khác. Không phải chỉ là vào một hội đoàn, một dòng tu hay chủng viện. Cũng không phải chỉ là làm một giáo dân, linh mục hay tu sĩ, v.v… Mà là sống theo tinh thần của Ngài, tức tinh thần từ bỏ mình, quên mình, để xả thân cho anh chị em mình, nhất là những người đau khổ, nghèo hèn, thấp cổ bé miệng. Chính Đức Giêsu là gương mẫu cho con về tinh thần này, suốt từ khi sinh ra nghèo hèn đến khi chết thê thảm trên thập giá. Xin giúp con bắt chước Ngài, sống đúng tinh thần của Ngài. (JK)
4 tuần lễ tượng trưng cho 4000 năm mong đợi Đấng Cứu Thề của thời Cựu Ước và tượng trưng: GS-313
4 tuần lễ tượng trưng cho 4000 năm mong đợi Đấng Cứu Thề của thời Cựu Ước và tượng trưng cho 40 năm dân Do Thái đi trong hoang địa để vào đất hứa đã qua. Và hôm nay ngày mong đợi đã đến. Ngày mà muôn dân mong đợi Đấng Cứu Thế đã đến. Muôn dân sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa Nhập Thể qua hình hài một con trẻ sơ sinh, bọc trong khăn và nằm trong máng cỏ.
Nhưng để kết thúc một Mầu Nhiệm vỹ đại, một Mầu Nhiệm mà muôn dân mong đợi chỉ có thế thôi sao?! Không hơn việc đón tiếp một Giáo Hoàng, Hồng Y hay Giám Mục thế thôi sao? Không hơn việc đón tiếp một Tổng Thống, một Quốc Trưởng, một hoàng đế thế thôi sao? Và không hơn việc đón tiếp một người bạn vong niên lâu ngày gặp mặt thế thôi sao? Không lẽ việc đón tiếp Con Thiên Chúa, Đấng đến để mang ơn Cứu Độ, mang sự giải thoát cho con người, và chỉ đường cho con người về quê hương vĩnh cửu chỉ dừng lại ở mấy tấm thiệp, mấy gói quà, và bữa tiệc đêm Giáng Sinh thôi sao? Nếu vậy, thì việc Ngài sinh ra và vào đời cách đây hơn 2000 năm, và ngay ngày hôm nay quả thật không đem lại cho tôi ích lợi gì, và quá thừa thãi, vô ích.
Thật vậy, chính cá nhân tôi, và nhìn chung quanh mình, biết bao điều không may, bất hạnh, và bất công vẫn thường xảy tới. Những giọt nước mắt vẫn xem lẫn nụ cười. Và những ngày thanh bình vẫn phập phồng lo sợ cho những rủi ru đang rình rập tới hệt như cái ách khổ lụy đè nặng trên vai, và tâm hồn các bậc Tổ Phụ suốt 4000 năm mong mỏi ngày Đấng Cứu Thế đến thể hiện lời hứa của Gia Vê là cứu chuộc và hồi sinh nhân loại. Hệt như lời hứa vượt Biển Đỏ và Sông Gioadan của dân Do Thái để vào được đất hứa mà Thiên Chúa Gia Vê đã hứa ban cho các Tổ Phụ họ. Hình ảnh mang tính cách tượng trưng cho sự giải phóng, cho việc cất đi cái ách tội lỗi đè nặng trên tâm hồn và cuộc sống của mỗi người chúng ta.
Lời hứa mà các thiên sứ đã hát mừng Ngài trong đêm Ngài hạ sinh tại đồng quê Belem, cũng là lời cầu chúc, món quà Giáng Sinh mà Thiên Chúa ban cho con người qua hơn 2000 năm vẫn là một cái gì mà nhân loại đang khát khao tìm kiếm: “Bình an dưới thế” (Luc 2:13) vẫn không thấy bóng dáng, khiến nhiều người vẫn còn tự hỏi như chính dân Do Thái thời Chúa Giêsu đã Ngài: “Như vậy chúng tôi còn phải trông đợi đấng nào khác nữa không”. Câu hỏi ấy, nhân loại ngày nay cũng đang mong hỏi nhau và hỏi cả Thiên Chúa: “Như vậy, chúng tôi có cần phải tìm một hình thức bình an nào khác nữa hay không?” Tại sao thế gian này không có bình an? Tại sao Giáo Hội và trong lòng Giáo Hội nhiều nơi vẫn không thấy không khí bình an? Tại sao cuộc đời tôi và cuộc sống nhiều người vẫn không thấy hoặc rất ít khi thấy bóng dáng bình an? Như vậy bình an có nghĩa là gì? Có phải là quyền lực, địa vị, tiền bạc, và những thỏa mãn đam mê dục vọng không? Bình an có phải là học thức, bằng cấp, danh giá không? Bình an có phải là sắc đẹp, là sức khỏe, là được sống những ngày không đau yếu bệnh tật không? Bình an có phải là lật đổ mọi bạo quyền trên trái đất, thiết lập một nền hòa bình chân chính, công bằng, và nhân ái không? Đối với tôi bình an có nghĩa là gì?
Đúng vậy, chỉ khi nào con người hiểu được Mầu Nhiệm Nhập Thể, Mầu Nhiệp Giáng Trần của Ngôi Hai Thiên Chúa lúc đó con người mới hiểu được ý nghĩa của hai chữ “bình an” của Đêm Thánh Vô Cùng mà các thiên thần đã hát mừng Ngôi Hai Thiên Chúa trong lần Ngài đến với nhân loại. Và đó cũng là lời chúc mà Con Thiên Chúa đã mang từ trời cao – món quà Thiên Quốc – cho con người. Tất cả ý nghĩa cuộc đời, ý nghĩa của hạnh phúc và đau khổ của cuộc đời mỗi người, và cũng là ý nghĩa cuối cùng của cuộc sống con người đều nằm trong hai chữ “bình an” ấy. Nhưng làm sao để có được nó. Sau đây là một câu truyện mà ý nghĩa của nó sẽ là câu trả lời cho những băn khoăn của kiếp người, liên quan đến ý nghĩa của Đêm Thánh Vô Cùng, của hai chữ “bình an”. Truyện kể hay đến nỗi đã được trích dịch ra nhiều ngôn ngữ, và tác giả của câu truyện như lu mờ trước giá trị của chính câu truyện:
Trong đêm Giáng Sinh đầu tiên ở Belem, đất Do Thái. Khi các mục đồng đến chúc mừng và thờ lậy Hài Nhi đã ra về, thì Hài Nhi thiếp ngủ trong nôi. Thánh Giuse mệt nhọc ngả lưng trên đống rơm trong hang bò lừa để nghỉ. Mẹ Maria cũng đang thu xếp mấy nắm rơm rạ cho gọn ghẽ, và cất mấy cái tã lót trước khi nghỉ đêm.
Bỗng một bà lão từ trong bóng đêm lầm lũi đi vào hang đá. Nét mặt bà xấu xí vì bà đã quá già, nhưng đôi mắt bà lại hiền hòa giống như đôi mắt Hài Nhi Giêsu. Mái tóc của bà trắng phau như tuyết. Da bà nhăn nheo, đến nỗi nhìn miệng bà, người ta tưởng là một vết nhăn. Lưng bà còng sát đất y như bà đã sống qua bao thế kỷ. Bà tiến lại gần máng cỏ nơi Hài Nhi Giêsu đang nằm ngủ. Mấy con bò lừa thấy bà chúng vẫn tỉnh bơ như đã quen biết bà từ lâu nên chẳng muốn nhúc nhích. Ngược lại, Mẹ Maria thì lo sợ. Mẹ nghĩ đến những truyện trong dân gian kể về những bà lão độc ác như những mụ phù thủy chuyên lo tìm kiếm và sát hại trẻ sơ sinh trong đêm tối. Và Mẹ đã theo dõi kỹ từng cử chỉ của bà. Tuy rất bình tĩnh, khiêm tốn và tế nhị, nhưng Mẹ không khỏi hồi hộp khi bà đến sát bên máng cỏ, quì xuống bên Hài Nhi. Nhưng đúng hơn, không phải bà quì nữa, vì lưng bà đã còng gần sát mặt đất do sức nặng của bao nhiêu tháng năm đã đè nặng trên bà. Bà cố gắng lục lọi, tìm kiếm một vật gì trong cái túi hành lý cũ kỹ của bà. Ngay việc bà cố gắng tìm vật đó cũng đã lâu hàng thế kỷ. Hành động này của bà càng khiến Mẹ Maria thêm lo sợ.
Những kìa, bà đã tìm được vật bà mong tìm. Bà rút ra từ cái bọc cũ kỹ ấy một vật gì tròn tròn, rồi run run, chậm rãi đặt nó vào tay Hài Nhi Giêsu. Bỗng nhiên bà đứng thẳng lên được. Nét mặt bà trở nên xinh đẹp lộng lẫy. Bà trẻ lại như một thiếu nữ tuổi đôi mươi. Trong khi Mẹ Maria chưa kịp hỏi bà một câu, và chưa hết sửng sốt trước việc làm và sự thay đổi kỳ bí ấy, thì bà bỗng biến đi trong đêm tối như từ nơi bà đã đến. Mẹ Maria đi từ lo lắng đến bàng hoàng sửng sốt. Mẹ tiến lại gần hơn với Hài Nhi và nhìn kỹ vào vật mà bà lão lúc nãy đã đặt nơi tay Hài Nhi. Đó là một trái táo.
Nhìn trái táo, Mẹ Maria đã hiểu, đó là trái táo Vườn Địa Đàng, và người đã trao trái táo ấy cho Hài Nhi Giêsu chính là Evà. Hài Nhi Giêsu đã trả lại cho bà vẻ đẹp trinh nguyên ban đầu mà bà đã đánh mất từ lâu trong vườn Địa Đàng. Hài Nhi Giêsu đã tha tội cho bà nhưng lại nhận lấy cho mình trái táo cấm kỵ và tội lỗi ấy. Mẹ Maria xót xa nhìn Hài Nhi Giêsu Con Mẹ đang say sưa trong giấc ngủ thiên thần. Mẹ hiểu tại sao Ngài Nhập Thể và Giáng Trần.
Đọc tường thuật của thánh sử Lu-ca về việc Chúa Giê-su giáng sinh, chúng ta có cảm tưởng ngài chú: GS-314
Đọc tường thuật của thánh sử Lu-ca về việc Chúa Giê-su giáng sinh, chúng ta có cảm tưởng ngài chú trọng đến hoàn cảnh Chúa sinh ra hơn là đến chính sự kiện. Chỉ có một câu Kinh Thánh kể lại biến cố trọng đại này: “Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ”. Tuy nhiên chính cách thức Lu-ca sắp đặt những hoàn cảnh chung quanh việc giáng sinh lại càng làm tăng thêm tầm quan trọng của Hài Nhi Giê-su.
Trước hết thánh Lu-ca muốn xác định với chúng ta rằng Ngôi Lời xuống thế làm người trong một bối cảnh lịch sử đích thực của nhân loại. Khi trở nên người phàm như chúng ta, Chúa Giê-su có một quê hương trần thế, một dân tộc là Ít-ra-en và một thị trấn là Bê-lem. Rõ ràng hơn nữa, Người còn thuộc về dòng dõi vua Đa-vít, một vị vua có chỗ đứng cao hơn các vua chúa trần gian. Trong bối cảnh lịch sử trần thế này, bên cạnh những nhân vật như hoàng đế Au-gút-tô hay tổng trấn Qui-ri-ni-ô, chúng ta thấy có sự hiện diện của “ông Giu-se và bà Ma-ri-a”, những người sẽ hiến tặng cho thế giới một món quà vô cùng giá trị, đó là Hài Nhi Giê-su, “Bình An dưới thế”. Những món quà Giáng Sinh của chúng ta ngày nay thường được gói trong những giấy mầu trang trọng và đặt ở những nơi xứng đáng trong nhà. Còn món quà Thiên Chúa ban tặng chúng ta chỉ là “một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ”. Thực là một quà tặng khác thường và dường như không có gì là quí giá! Tuy nhiên giá trị quà tặng Hài Nhi này lại được Thiên Chúa xác nhận khi Người sai sứ thần đến báo tin cho những người chăn chiên: “Anh em đừng sợ. Này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa”. Đó không phải là một hài nhi tầm thường, nhưng là chính “Đấng Cứu Độ, Đấng Ki-tô và Đức Chúa”! Còn giá trị nào hơn được những danh hiệu này của Hài Nhi Giê-su? Tiếp lời sứ thần giới thiệu quà tặng của Thiên Chúa ban cho nhân loại là điệp khúc của đạo binh thiên quốc đông đảo: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
Chúa Giê-su giáng sinh chính là Bình An dưới thế. Là Bình An cho nhân loại được Chúa thương. Đúng vậy, nhân loại đã được Chúa thương đến nỗi Người đã sai Con Một đến để cứu độ họ (Gio-an 3:16). Là Bình An dưới thế, vì Hài Nhi này hòa giải nhân loại với Thiên Chúa, để những ai tin vào danh Người là Đấng Cứu Độ, Đấng Ki-tô và Đức Chúa, thì “Người ban cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Gio-an 1:12). Do tội tổ tông, loài người đã trở thành thù địch với Thiên Chúa, giờ đây nhờ “Bình An dưới thế”, con người được làm hòa và biến đổi căn tính trở thành con Thiên Chúa. Đúng là sự Bình An không ai hoặc quyền lực nào dưới trần gian này có thể ban tặng cho chúng ta.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Đêm nay nhiều người sẽ mở những món quà Giáng Sinh của họ, nhưng có lẽ họ không mấy để ý tới món quà Giáng Sinh mà Thiên Chúa ban cho họ! Liệu chúng ta có ý thức mình là một thành phần thuộc “loài người Chúa thương” hay không? Liệu chúng ta có tin rằng vì yêu thương chúng ta nên Chúa đã gửi cho chúng ta món quà “Bình An dưới thế” hay không?
Năm Đức tin kêu gọi chúng ta hãy đổi mới và làm phát triển niềm tin vào Chúa Giê-su là trung tâm của đức tin Ki-tô giáo. Con người và sứ mệnh của Chúa Giê-su tại trần gian được khai mở từ mầu nhiệm Giáng Sinh và kết thúc ở biến cố lên trời. Tuy nhiên “Bình An dưới thế” vẫn là đặc điểm rõ ràng nhất nói lên sứ mệnh cao cả ấy và mời gọi chúng ta hãy đón nhận món quà của Thiên Chúa, món quà mà thánh Phao-lô gọi là “ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ… và dạy chúng ta sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” (Ti-tô 2:12). Do đó, đón nhận “Bình An dưới thế” cũng có nghĩa là làm sống dậy đức tin của chúng ta vào Chúa Giê-su bằng cách ăn ở xứng đáng là Ki-tô hữu vậy!
Phải chẳng Thiên Chúa đã chẳng sai Con Một của Người là Đức Giêsu Kitô đến trần gian để cứu: GS-315
Phải chẳng Thiên Chúa đã chẳng sai Con Một của Người là Đức Giêsu Kitô đến trần gian để cứu độ nhân loại, cứu chuộc mọi người ? Thế mà đã hơn hai ngàn năm qua, từ cuộc đản sinh nơi hang đá Bêlem nghèo nàn, Chúa Giêsu, Đấng Emmanuen : Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, rất nhiều người chưa nhận ra Người, chưa đón nhận Người đúng như lời thánh Gioan thánh sử đã viết :” Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng nhận biết Người “ ( Ga 1, 11 ).Tuy nhiên, nhiều người đã biết và đón nhận Con Thiên Chúa làm người. Đây là một mầu nhiệm, nhưng cũng là một món quà lạ lùng, vô giá Thiên Chúa tặng ban cho con người.
Hài Đồng Giêsu đến trần gian, đã đem lại cho nhân loại, cho thế giới, cho mọi người một Tin Mừng. Và Tin Mừng ấy là Cha chúng ta, còn chúng ta là anh chị em với nhau. Chúa Giêsu đã nhập thể, nhập thế cũng giống như mọi người chúng ta : trần truồng, yếu đuối, dễ bệnh hoạn, dễ chết vv…Là con người giống như chúng ta chỉ trừ tội lỗi, Ngài cũng phải nhờ đến nhiều người săn sóc, giúp đỡ. Chúa Giêsu cũng biết đói, biết khát, lạnh lẽo, đổ mồ hôi, biết khổ, biết đau. Ngài đã bị xỉ nhục, nhạo cười, đánh đập, bị hất hủi, bị cô đơn, và cuối cùng bị người đời kết án bất công, bị treo ô nhục trên thập giá.
Hài Đồng Giêsu đến trần gian trong hoàn cảnh khó nghèo. Đó là sự chọn lựa của Ngài. Do đó, Ngài đến trong âm thầm, không sinh ra nơi cung điện nguy nga, có lầu son gác tía. Ngài không có một chỗ nơi những nhà trọ, mà được Mẹ Maria sinh ra trong hang đá nghèo nàn Bêlem. Ngài không được các nhà lãnh đạo cao cấp thế giới đón chào, nhưng Ngài đã để cho những mục đồng là những người bị xã hội coi là thấp hèn nhất đến cung bái, chiêm ngưỡng đón chào. Chúa Giêsu đến thế giới tự đồng hóa mình với những kẻ nghèo, những kẻ thấp hèn, những kẻ rách rưới, đói khát. Nhưng thực tế, đó là ý của Thiên Chúa Cha và cũng là của chính bản thân Ngài.
Chúa Giêsu đến để trao tặng cho thế giới sứ điệp này : Thiên Chúa sai con của Ngài là Chúa Giêsu đến thế giới để yêu thương chúng ta, yêu từng từng người, không loại trừ bất cứ ai, không đòi hỏi bất cứ gì và rồi Ngài cho chúng ta được rõ Ngài là Cha chúng ta, và tất cả chúng ta đều là anh chị em của nhau.
Tin Mừng là chính Chúa Giêsu. Ngài đến giữa trần gian để cho chúng ta được sống và sống dồi dào ( Ga 10, 10 ). Ngài đến đem bình an cho nhân loại, cho chúng ta và cho từng người như lời các thiên thần đã hát vang trên không trung đêm giáng sinh của Chúa Giêsu :” Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người lòng ngay “ ( Lc 2, 14 ) hoặc như thánh Gioan đã viết :” Ngôi Lời đã trở nên người phàm
Và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật “ ( Ga 1, 14 ). Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI trong một bài giảng về lễ Giáng Sinh đã nói :” …trong đêm nay, chúng ta đến gần Con Trẻ Bêlem, đến gần vì Thiên Chúa này, vì Thiên Chúa mà vì chúng ta, đã muốn trở nên con trẻ. Trên mỗi con trẻ, đều có sự phản chiếu Con Trẻ thành Bêlem. Mỗi em bé đều đòi hỏi chúng ta phải yêu thương. Như thế, trong đêm nay, chúng ta hãy đặc biệt nghĩ đến những em bé không được cha mẹ yêu thương. Nghĩ đến những trẻ em đường phố không có lấy một mái nhà…Chỉ khi nào con người thay đổi, thì thế giới này mới đổi thay và để thay đổi, thì con người phải cần đến ánh sáng đến từ Thiên Chúa, cần đến ánh sáng này, một luồng sáng mà ta không hề ngờ đã đi vào trong màn đêm của chúng ta “. Thánh lễ đêm nay mời gọi nhân loại, mời gọi con người mở rộng đôi tay để đón nhận món quà vô giá này : đón nhận con Thiên Chúa làm người. Món quà vô cùng cao qui: Emmanuen nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Lạy Chúa, xin làm cho chúng con thấy được một ít vẻ huy hoàng của vinh quang Chúa. Và xin ban bình an cho địa cầu. Xin làm cho chúng con trở thành những con người mang lại hòa bình, mang lại hòa bình của Chúa. Amen. ( Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI ).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Chúa Giêsu đếnmang lại gì cho nhận loại ? 2.Chúa Giêsu sinh ra tại đâu ? 3.Tại sao Chúa là Vua vũ trụ trời đất mà lại sinh ra trong khó nghèo ? 4.Tại sao các quán trọ không cho Thánh Giuse và Mẹ Maria ngủ đêm tại quán ? 5.Ngày nay Noen đã trở nên thế nào đối với con người ?
Trong Những Quy luật tổng quát về Năm Phụng vụ và Niên lịch “Normæ de Anno liturgico et GS-316
Trong Những Quy luật tổng quát về Năm Phụng vụ và Niên lịch “Normæ de Anno liturgico et Calendario” có viết: “Sau việc cử hành hàng năm mầu nhiệm Vượt Qua, Hội Thánh không có việc cử hành nào cổ xưa bằng việc kính nhớ Chúa Giáng Sinh và kính nhớ những lần tỏ mình đầu tiên của Người: đó là Mùa Giáng Sinh.” (AC, 32). Đó cũng là lý do khi chia sẻ về mầu nhiệm Giáng Sinh rất dễ mà cũng rất khó. Dễ vì về mặt tài liệu tham khảo, dẫn chứng thì có vô vàn vô số, không thể thống kê nổi (từ những văn kiện truyền thống của Giáo hội, đến những bài viết của hàng Giáo phẩm và của Ki-tô hữu giáo dân). Cũng rất dễ vì Lễ Giáng Sinh đã trở thành một lễ chung của thế giới (không phân biệt tôn giáo) diễn ra hàng năm trên khắp mặt địa cầu (từ phố thị đến thôn quê, từ những đại lộ thênh thang đến những hang cùng ngõ hẻm, từ những ngôi nhà nguy nga tráng lệ đến những mái là nghèo nàn đơn sơ…). Bài viết sẽ trở nên rất phong phú vì những tài liệu, những thực cảnh dẫn chứng vô cùng đa dạng và sinh động.
Tuy nhiên, lại cũng rất khó vì tính cách “không có việc cử hành nào cổ xưa bằng việc kính nhớ Chúa Giáng Sinh” (ibid). Gặp phải đối tượng là những khán thính giả khó tính, chỉ thích những gì “mới thật mới”, chắc chắn không khỏi nghe tiếng chẹp miệng phản hồi: “Ôi dào! Chuyện xưa như trái đất, có chi mà cứ lải nhải hoài”. Kẻ viết bài này không bi thảm hoá vấn đề đâu, vì đã có một số cây viết trên những trang web Công Giáo nói rằng những bài Thánh ca Giáng Sinh sáo mòn cũ rích năm nào cũng lặp đi lặp lại, ra rả bên tai một cách nhàm chán vô vị. Thế đấy! Mà thôi, mỗi người có cách nhìn (quan điểm) riêng và có thế mới gọi là “C’est la vie” (Đời mà! – “Đời là thế, thế thời phải thế!”). Chỉ xin cố gắng dàn trải những cảm nghiệm, suy nghĩ về một sự kiện rất cũ (cổ) và rất mới (kim) nhưng lại rất vĩ đại và có sức thu hút rất mãnh liệt này. Đó chính là một “Đệ nhất cổ kim kỳ sự” (sự kiện lạ lùng số một xưa nay): Con Thiên Chúa giáng trần.
Vâng, lễ Giáng Sinh lần thứ 2017 lại tới. Cũng vẫn như mọi năm, sự náo nức chuẩn bị mừng đón Đấng Cứu Tinh, những cây thông, những hang đá, những tượng ảnh tràn lan khắp nơi, trong một bầu khí nồng ấm nhộn nhịp vui tươi, với những bản thánh ca không bao giờ cũ (vì đã vượt cả thời gian và không gian). Cách đây 2017 năm, loài người cũng trông đợi Vua Tình Yêu đem an bình xuống cho nhân loại như vậy. Người đã đến và đêm Hoà Giải đã xảy ra, nhưng con người đã đón vị cứu tinh ấy bằng một Vua-sát-thủ Hê-rô-đê quyền lực “sai quân tru diệt hết các trẻ con tại Be-lem và toàn vùng phụ cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo thời gian ông đã hỏi kỹ nơi các đạo sĩ.” (Mt 2, 16).
Cách đây 20 thế kỷ, loài người đã đón tiếp vị Sứ giả Hoà Bình, đã đón nhận sự hoà giải như vậy đó. Cứ tưởng ở thời đại thượng cổ mới xảy ra như vậy, còn ngày nay trong một xã hội văn minh tiến bộ, thì làm gì có những chuyện đó. Vậy mà trải qua 2017 lần kỷ niệm ngày Hoà Giải, ngày nay cũng vẫn còn hàng loạt sinh mạng chết từ trong trứng nước (nạo phá thai, huỷ diệt trứng, tinh trùng), rồi cũng hàng loạt sinh mạng trưởng thành thuộc đủ mọi giai cấp, nhưng đa số vẫn là thường dân thuộc giai cấp thấp cổ bé miệng, chết vì chiến tranh, vì khủng bố. Loài người được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Người, vậy thì những sinh mạng mang hình ảnh Thiên Chúa ấy bị giết hại thì phải chăng loài người cũng chẳng kém gì Hê-rô-đê thủa xưa lùng giết Đức Giê-su Thiên Chúa vậy.
Với quyền năng của Thiên Chúa thì sá gì một Hê-rô-đê, mà dù cho có đến cả triệu triệu Hê-rô-đê đi chăng nữa cũng chỉ là số không. Nhưng với thân phận con người mà Ngôi Hai Thiên Chúa đã mặc lấy, thi chỉ cần một Hê-rô-đê thôi cũng đã khiến hàng loạt hài nhi bị giết, và Hài Nhi Giê-su phải trốn sang Ai Cập. Cứ nghĩ đến cuộc đối thoại giữa đám đông người Do Thái với Thánh Gio-an Tiền Hô (“Đám đông hỏi ông rằng: “Chúng tôi phải làm gì đây ?” Ông trả lời : “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy.” Cũng có những người thu thuế đến chịu phép rửa. Họ hỏi ông : “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì? ” Ông bảo họ: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh.” Binh lính cũng hỏi ông : “Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì? ” Ông bảo họ “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình.” – Lc 3, 10-14); rồi nhìn kỹ lại bản thân, nhiều khi kẻ viết bài này giật mình, sợ đến toát mồ hôi, vì thấy mình cũng – một cách nào đó – giống như Hê-rô-đê.
Thật thế, đã chẳng hơn một lần trong vai trò người thu thuế tôi đã gian lận, đã đòi hỏi quá mức ấn định cho mình, để rồi dùng số thặng dư đó vào những canh bạc đỏ đen; cũng đã hơn một lần trong vai trò thủ quỹ, tôi đã thụt két, đã biển thủ để có dịp lao vào đề đóm, cá độ bóng đá; cũng đã hơn một lần trong vai trò người lính, tôi đã mượn những chiêu bài bảo vệ an ninh, giữ gìn trật tự, để khảo của, tống tiền, hà hiếp người khác… Rồi biết bao nhiêu lần tôi không chỉ có 2 áo, mà là đùm đề áo đơn áo kép, mô đen nọ, kiểu dáng kía, nhưng tôi đã ngoảnh mặt đi khi thấy những người anh em co ro da bọc xương chìa tay xin. Cũng không biết bao nhiêu lần tôi đã làm ngơ trước những người anh em bệnh hoạn, tật nguyền, tù tội, hoặc cùng lắm là kiếm vài hộp sữa, vài gói mì tôm… rình rang ném cho họ với một thái độ dửng dưng chai đá đến lạ lùng. Chưa hết đâu, cũng không biết bao nhiêu lần tôi cố tình đào sâu những tị hiềm ghen ghét để đi đến chỗ “giết người không đao”; không những thế, khi thấy anh em bất hoà, kiện tụng nhau, tôi chẳng những đã không hoà giải, mà còn “xui nguyên giục bị” khiến họ càng chồng chất oán thù. Nhiều, nhiều lắm, nhiều quá lắm! Và như vậy thì tôi đâu thua kém gì Hê-rô-đê!
Cứ tưởng chuyện Hê-rô-đê-sát-thủ “xưa như trái đất”; thật không thể ngờ thời đại hoàng kim này vẫn còn nhan nhản những Hê-rô-đê-thời-đại. Chính vì thế, Lễ mừng Con Thiên Chúa Giáng Sinh rất cũ mà cũng rất mới. Cũ vì nó đã xảy ra trên 2.000 năm, nhưng rất mới vì ngày giờ nào Đấng Cứu Tinh cũng luôn luôn sẵn sàng Giáng Sinh không phải nơi hang bò lừa, mà là trong cung lòng mỗi người, mọi người (“Khi chiêm ngưỡng nơi Mẹ Thiên Chúa một cuộc đời hoàn toàn do Lời lên khuôn, ta hiểu được rằng cả ta nữa cũng được mời gọi bước vào mầu nhiệm đức tin, nhờ đó, Chúa Ki-tô tới cư ngụ trong đời ta. Thánh Am-brô-si-ô nhắc nhở ta rằng xét theo một phương diện nào đó, mọi tín hữu Ki-tô đều tượng thai và sinh hạ Lời Thiên Chúa; mặc dù chỉ có Mẹ Thiên Chúa là tượng thai bằng xương bằng thịt, còn chúng ta, Chúa Ki-tô là con cái mọi người chúng ta trong đức tin.” – Tông huấn Lời Chúa “Verbum Domini”, số 20). Duy chỉ có điều con người có sẵn sàng “lấp cho đầy mọi thung lũng tị hiềm thù hận, bạt cho thấp mọi núi đồi ngạo mạn kiêu căng, uốn cho ngay mọi khúc quanh co gian hiểm, san cho phẳng mọi đường lồi lõm ghét ghen” để đón tiếp Người, hay lại tiếp đón Người như một Hê-rô-đê-thời-đại, mà thôi.
Tóm lại, xin hãy lắng nghe lời dạy của ĐGH Phan-xi-cô: “Cả chúng ta nữa, hãy để cho Chúa Giê-su chất vấn và triệu mời chúng ta đến đêm nay, hãy đến với Chúa với lòng tin tưởng, bắt đầu từ nơi mà chúng ta cảm thấy bị thiệt thòi, từ những giới hạn của chúng ta. Hãy để cho mình đụng chạm đến được tình hiền dịu cứu chuộc. Hãy để cho mình xích lại gần Thiên Chúa, Đấng đã trở nên gần gũi; hãy dừng lại để ngắm nhìn hang đá, hình tưởng lại cuộc giáng thế của Chúa Giêsu: ánh sáng và bình an, nghèo hèn và bị chối từ. Chúng ta hãy bước vào Lễ Giáng Sinh thực sự với các mục đồng, chúng ta mang đến cho Chúa Giê-su những gì chúng ta đang có, là sự bỏ rơi, những vết thương không được chữa lành của chúng ta. Và như thế, trong Chúa Giê-su chúng ta sẽ cảm nếm được tinh thần thực sự của Lễ Giáng Sinh: vẻ đẹp của người được Thiên Chúa yêu thương. Cùng với Đức Maria và Thánh cả Giu-se chúng ta đang đứng trước máng cỏ, trước Chúa Giê-su giáng thế như bánh mì (1) cho cuộc đời chúng ta. Khi chiêm ngưỡng tình yêu khiêm hạ và vô biên, chúng ta hãy nói với Chúa lời tạ ơn: Tạ ơn Chúa vì Ngài đã thực hiện tất cả những điều đó cho con.” (xc. Bài giảng lễ Đêm Giáng Sinh 2016 của ĐGH Phan-xi-cô – nguồn: Vatican.net))
Ôi! Lạy Chúa! Con biết cung lòng con vô cùng nhơ nhuốc, mà Chúa vẫn sẵn sàng đến ngự, rồi còn mời gọi con “hãy dâng tất cả sự yếu đuối và tội lỗi của con cho Ta”. Vâng, con nguyện dâng Chúa tất cả cuộc đời của con, cúi xin Chúa chuẩn nhận và tha thứ hết mọi lỗi lầm, để cung lòng con được “tinh tuyền, không chi đáng trách và sống bình an” (2Pr 3, 14) như máng cỏ Bê-lem thủa xưa được vinh dự mừng đón Chúa giáng trần. Xin cho con được cùng với các mục đồng dưới thế hoà ca cùng thần thánh trên cõi trời cao, mà tung hô rằng:
Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho người thiện tâm. ———————— Chú thích: (1) ĐGH đã dùng nghĩa đen của chữ Bê-lem (Bethlehem) theo tiếng Do Thái có nghĩa là “nhà bánh mì” (xc. Bách khoa toàn thư mở “Wikipedia”).
(c 1) Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. (c 2) Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri-a. (c 3) Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. (c 4) Bởi thế, ông Giu-se từ thành Na-da-rét miền Ga-li-lê, lên thành Bê-lem miền Giu-đê, là thành vua Đa-vít, vì ông thuộc về nhà và gia tộc vua Đa-vít. (c 5) Ông lên đó khai tên cùng với người đã đính hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai. (c 6) Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã đến ngày mãn nguyệt khai hoa. (c 7) Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ. (c 8) Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đoàn vật. (c 9) Và kìa sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. (c 10) Nhưng sứ thần bảo họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là Tin Mừng cho toàn dân: (c 11) Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa. (c 12) Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ”.(c 13) Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: (c 14) “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
2. Ý CHÍNH:
Tin Mừng Lu-ca mô tả hoàn cảnh và thời gian của Con Thiên Chúa giáng trần: Tuy được sinh : GS-317
Tin Mừng Lu-ca mô tả hoàn cảnh và thời gian của Con Thiên Chúa giáng trần: Tuy được sinh ra trong cảnh nghèo hèn... nhưng Người lại là Thiên Chúa quyền năng. Người đời đã hất hủi Đấng Cứu Thế đang khi thiên quốc vui mừng hát ca. Chúa đã đến ở giữa những kẻ nghèo hèn để chia sẻ tình thương và ban niềm vui ơn cứu độ cho những ai có tinh thần nghèo khó.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1 : + Hoàng đế Au-gút-tô: Hoàng đế Rô-ma cai trị từ năm 29 trước Công nguyên (CN), đến năm 14 sau CN).
- C 2 : + “thành vua Đa-vít”: Khi gán tước hiệu “thành Vua Đa-vít” cho Bê-lem (x. Mt 2,6), Tin Mừng dựa vào lời sấm của ngôn sứ Mi-kha về quê hương của Đấng Cứu Thế (x. Mk 5,1).
- C 5 : + “Người đã đính hôn với ông Giu-se là bà Ma-ri-a đang có thai”: Câu này nhắc lại việc sứ thần Gáp-ri-en đến truyền tin cho Trinh Nữ Ma-ri-a (x. Lc 1,27).
- C 7 : + Bà sinh con trai đầu lòng: Sinh “Con đầu lòng” chỉ có nghĩa là sinh “đứa con đầu tiên hay con thứ nhất”, không nhất thiết sẽ phải sinh thêm con kế tiếp. Sở dĩ Lu-ca đề cập đến “con trai đầu lòng” ở đây là muốn nhắc đến điều luật Mô-sê qui định phải dâng “các con đầu lòng cho Chúa”(x. Xh 13,2), và cách cha mẹ phải làm để chuộc lại con, sắp được hai ông bà Giu-se Ma-ri-a thực hiện cho Hài Nhi Giê-su (x. Lc 2,23). + Không tìm được chỗ trong nhà trọ: Các chủ quán từ chối không cho ở trọ phần vì dáng vẻ quê mùa nghèo khó của hai ông bà Giu-se Ma-ri-a, phần vì họ sợ đón phụ nữ mang bầu vào nhà sẽ mang lại xui xẻo cho việc kinh doanh của họ!
- C 14 : + Bình an dưới thế”: Lời của các sứ thần ca ngợi chúc tụng Thiên Chúa cho thấy sứ mệnh của Hài Nhi Cứu Thế là làm vinh danh cho Thiên Chúa và thiết lập một nền hòa bình vĩnh cửu (x. Is 9,5-6 ; Mk 5,4).\
4. HỎI ĐÁP:
HỎI: Phải chăng bà Ma-ri-a chỉ đồng trinh trước khi thụ thai Đấng Cứu Thế (x. Is 7,14), rồi sau khi đã sinh “con trai đầu lòng” (x. Lc 2,6) thì sống đời vợ chồng bình thường với ông Giu-se, và từ đó đã sinh thêm nhiều con trai con gái khác (x. Mt 13,55-56)?
ĐÁP: Thực ra không phải như vậy. Vấn đề ở đây là ý nghĩa thực sự của từ “cho đến khi” va “anh em và chị em của Đức Giê-su” như thế nào? :
+ “Cho đến khi”: Câu Mt 1,24-25 nên được diễn giải như sau: Khi tỉnh giấc, ông Giu-se đã thi hành 3 lệnh truyền của sứ thần trong giấc mộng: Một là ông “tổ chức lễ cưới chính thức để rước cô dâu Ma-ri-a” về nhà mình; Hai là ông “không ăn ở với Ma-ri-a như vợ chồng” vì Ma-ri-a đã được thánh hiến dâng mình phục vụ Thiên Chúa như một nữ tu khấn trọn; Ba là “cho đến khi” Ma-ri-a sinh con thì ông “đặt tên cho con trẻ là Giê-su” như lời sứ thần truyền để nhìn nhận trẻ Giê-su là con chính thức của mình về luật pháp (x. Lc 3,23). Tin Mừng không viết: hai ông bà đã không ăn ở cho đến khi Ma-ri-a sinh con thì lại ăn ở với nhau, như có người lầm tưởng!
+“anh em và chị em của Chúa Giê-su”: Trong Tin Mừng Mát-thêu, các từ “anh em ông”, “chị em ông” (x. Mt 13,55-56) hay “mẹ và anh em của Người” (x. Mt 12,46-47) chỉ là các anh chị em bà con mà thôi. Vì Chúa Giê-su là “con trai đầu lòng”, là người con thứ nhất, nên nếu Đức Ma-ri-a có thêm các người con khác thì họ phải được gọi là “các em trai” và “các em gái” thay vì được gọi chung chung là “anh em” và “chị em” như ở đây. Hơn nữa, bằng chứng quan trọng nhất cho thấy Đức Ma-ri-a chỉ có một con trai duy nhất là: Chúa Giê-su đã trối Mẹ Người làm mẹ của môn đệ Gio-an và “Kể từ giờ đó, người môn đệ đã rước bà về nhà mình” (Ga 19,26-27). Điều này sẽ không xảy ra nếu Đức Ma-ri-a còn có thêm nhiều người con khác ngoài Chúa Giê-su.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa (Lc 2,11).
2. CÂU CHUYỆN: MÓN QUÀ GIÁNG SINH QUÍ NHẤT
Người ta tìm thấy trên bàn làm việc của một ông giám đốc xí nghiệp vừa từ trần một bức thư với nội dung như sau: “Thưa ông giám đốc, chiều nay tôi và cả gia đình tôi mới nhận được một tin vui là ông giám đốc đã nhận tôi vào làm công nhân trong nhà máy của ông. Tôi coi tin này là một món quà to lớn trong mùa Giáng Sinh năm nay. Vì từ hôm nay, vợ con tôi lại có cơm ăn áo mặc hàng ngày và có tiền để trang trải các khoản chi phí mà chúng tôi đang thiếu hụt. Tôi xin chân thành cám ơn ông giám đốc”. Bên dưới bức thư này có mấy dòng chữ của ông giám đốc mới qua đời phê vào bức thư như sau: “Bức thư này quả là một món quà tinh thần quí giá nhất mà tôi đã nhận được trong lễ Giáng Sinh năm nay. Tôi chắc sẽ không bao giờ quên được niềm vui lớn lao mà món quà này đã mang lại cho tôi”.
3. SUY NIỆM:
1) Giáng Sinh là lễ của tình thương: Thiên Chúa là Tình yêu đã sai Con Một xuống thế cứu chuộc làm người là Đức Giê-su. Người là Lời sáng tạo quyền năng nhưng đã hóa nên một trẻ thơ yếu đuối, sinh bởi một trinh nữ, nên giống như chúng ta mọi đàng ngọai trừ không có tội. Khi giáng sinh, Người đã hóa nên một trẻ thơ để mời gọi mọi người yêu thương trẻ nhỏ, nâng đỡ người nghèo hèn. Đến ngày tận thế, Đức Vua Thẩm Phán Giê-su sẽ tái lâm để phán xét chung mọi người: “Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước. Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc. Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm… Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,34-40).
2) Giáng Sinh là Tin Mừng trọng đại cho tòan dân: Trong bài Tin Mừng hôm nay sứ thần đã báo tin vui cho các mục đồng ở ngọai ô Bê-lem : "Anh em đừng sợ. Này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành Đa-vít. Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người.: Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” ( Lc 2, 10-12). Trong Mùa Giáng Sinh này mỗi người chúng ta sẽ làm gì để chia sẻ tin mừng cho tha nhân bên cạnh ?
3) Giáng Sinh với việc thực hiện bài ca thiên thần: Lời ca khen hát mừng của các sứ thần trong đêm Chúa Giê-su giáng sinh “Vinh danh Thiên Chúa trên trời Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” vẫn luôn vang lên trong dịp Giáng Sinh và cần phải được tiếp tục vang lên trong tâm hồn của các tín hữu, biến thành lời ca chúc bình an với ước mong cho mọi người đều làm sáng danh Thiên Chúa và đều đem bình an hạnh phúc cho tha nhân. Chúng ta hãy noi gương các mục đồng ở Bê-lem cùng nhau đến thăm viếng giúp đỡ những trẻ Giêsu khó nghèo tại các trại mồ côi, an ủi những ai đang bị giam cầm và những tâm hồn đau khổ bị đối xử bất công giữa lòng xã hội. Đêm nay, dưới gầm cầu, bên hàng hiên của những ngôi nhà cũng vẫn còn đó những trẻ Giê-su đang nằm co ro vì lạnh, vì đói và vì không có nhà để trở về...
4) Giáng Sinh cũng là lễ của chia sẻ niềm vui: Vào dịp lễ Giáng Sinh, người ta thường thể hiện tình cảm quí mến đối với bạn bè và những người thân quen, bằng việc gửi đi những cánh thiệp chúc mừng Giáng Sinh. Theo phong tục của những nước phương tây, buổi sáng ngày lễ Giáng Sinh, cha mẹ thường thay ông già No-en tặng quà cho con cái của mình, người lãnh đạo tặng quà cho các nhân viên thuộc cấp, chủ nhà tặng quà cho các người giúp việc... còn chúng ta thì sao? Trong mùa Giáng Sinh này, mỗi người chúng ta sẽ tặng gì cho những người thân quen, những người đã giúp đỡ suốt năm qua, nhất là những người đáng thương như các cụ già neo đơn, các bệnh nhân liệt giường không tiền thuốc thang, các người mù lòa khuyết tật và những người đang lang thang nơi đầu đường xó chợ...?
4. THẢO LUẬN: Đấng Cứu Thế đến thiết lập một Nườc Trời bình an, hy vọng, vui tươi và hạnh phúc. Trong Mùa Giáng Sinh này, mỗi người chúng ta cần làm gì cụ thể để tích cực cộng tác cho Nước Trời ấy mau đến ngay trong gia đình, khu xóm và nơi làm việc của mình?
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Chúa Giêsu. Trong đêm Giáng Sinh, Hai ông bà Giu-se Ma-ri-a đã lâm vào hoàn cảnh cùng cực tại thành Be-lem, khi Đức Ma-ri-a phải sinh con trong một chuồng chiên nghèo hèn, giữa cánh trời đồng lạnh giá. Tin Mừng đã ghi lại như sau: “Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2,7). Ôi! Thật trớ trêu: “Ngôi Lời Thiên Chúa ở giữa thế gian và thế gian nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,5.10-11).
- LẠY CHÚA. Hôm nay Giáng Sinh lại về. Trần gian rực sáng, cờ xí giăng đầy, người người quên ngủ, vui vẻ liên hoan... Kìa, hai người lữ hành Be-lem đã từng lỡ bước đêm xưa vẫn đang còn lỡ bước đêm nay, vì các chủ quán trọ năm xưa vẫn đang còn đó! Giàu: chủ đón rước vào nghỉ trong khách sạn. Nghèo: hãy theo gót Giu-se Ma-ri-a ra vỉa hè công viên hoặc tại những nơi đầu đường xó chợ! Xin Chúa giúp chúng con biết nhìn thấy hài nhi Cứu Thế đang hiện thân nơi những kẻ nghèo hèn, những bệnh nhân liệt giường không tiền thuốc thang chữa trị, những trẻ em đang sống lang thang hè phố, những cụ già cô độc không con cái chăm sóc... để chúng con biết thể hiện tình thương đối với họ bằng những việc làm cụ thể như: thăm viếng và chia sẻ tình người, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu và khiêm nhường phục vụ họ như phục vụ chính Chúa. Nhờ đó, chúng con xứng đáng trở thành những môn đệ đích thực của Chúa.
Mười tám câu đầu tiên của Tin Mừng IV được nhiều học giả coi như là một Lời Tựa long trọng của: GS-318
Mười tám câu đầu tiên của Tin Mừng IV được nhiều học giả coi như là một Lời Tựa long trọng của tác phẩm: giọng văn của phân đoạn này cũng như các đề tài chính của Tin Mừng được hàm chứa trong đó biện minh cho nhận định này. Đoi với những tác giả khác, Lời Tựa là như phần Mở của Tin Mừng, theo nghĩa là một vở nhạc kịch có một phần mở: các đề tài chính sẽ được nhắc lại trong phần thân của Tin Mừng (sự sống, ánh sáng, sự thật, vinh quang, Con, tin, làm con Thiên Chúa, thế gian, bóng tối, v.v.). Lại có những tác giả khác cho rằng Lời Tựa là một bản văn theo đúng quy luật viết văn thời Thượng Cổ Hy-lạp và La-tinh nhằm giúp độc giả hiểu các mục tiêu của bài tường thuật đến sau, nghĩa là cung cấp cho độc giả các phương tiện giúp họ biết được đối tượng và diễn tiến của bài tường thuật (Zumstein). Cuối cùng, có một số tác giả cho rằng cc. 1-18 còn hơn là một lời tựa hay một phần mở nữa; các câu ấy chính là Tin Mừng trong một cái nhìn tổng hợp và sâu sắc, tất cả phần còn lại chỉ lấy lại sứ điệp mà diễn tả chi tiết bằng những câu truyện, qua đó ta thấy Ngôi Lời đã đến trong thế gian này và chia loài người thành hai khối trước mặt Người cách nhiệm mầu.
Tuy nhiên, cũng có những khác biệt quan trọng giữa Lời Tựa và Tin Mừng. Thể thơ trong cc. 1-5.9-12.14-18 chỉ có ở trong Lời Tựa. Dung mạo trung tâm của Lời Tựa là “Lời” (logos) sẽ không bao giờ được nhắc đến nữa trong phần còn lại của TM. Một số từ ngữ quan trọng tập trung trong cc. 14-18, chẳng hạn “ân sủng” (charis), “sung mãn” (plêrôma) và “ở trong lều (= cư ngụ)” (skênoun) không thấy xuất hiện ở chỗ nào khác ngoài Lời Tựa…
Những điểm tương đồng và dị biệt giữa Lời Tựa và TM đã khiến các nhà chú giải đi đến ba kiểu nhận định về cách soạn thảo Lời Tựa:
- Bởi vì có nhiều điểm tương đồng, một số vị cho rằng cùng một tác giả đã soạn Lời Tựa và Tin Mừng.
- Do có những khác biệt, những vị khác nghĩ rằng Lời Tựa không phải là công trình nguyên thủy của tác giả, nhưng là một bài thơ hay là một bài thánh ca có sẵn đã được cải biên để mở đầu TM. Tuy nhiên, lập trường này không thể giải thích được vì sao trong bài thơ gốc ấy lại có quá nhiều từ ngữ chuyên biệt của TM IV như vậy (ví dụ: sự sống, ánh sáng, bóng tối, làm chứng, thế gian, vinh quang…).
- Một số vị cho rằng Lời Tựa là một thánh ca Kitô học truyền thống, có lẽ đã được sáng tác ra trong cộng đoàn Gioan, và đã được tác giả TM đặc biệt cải biên thành một phần mở của TM. Ý kiến này được hỗ trợ bởi các điểm tương đồng về từ vựng và đề tài giữa Lời Tựa và phần còn lại của TM cũng như bởi các thánh ca Kitô học trong một số thư Phaolô (x. Pl 2,6-11; Cl 1,15-20; 1 Tm 3,16).
Dù thế nào đi nữa, hiện nay Lời Tựa có đó như một dẫn nhập tuyệt vời vào TM IV. Hầu như chắc chắn là Lời Tựa, cũng như phần Kết của TM, đã được thêm vào sau khi quyển TM đã được viết xong. Như thế, Lời Tựa có thể được coi như một suy tư vừa để nghiền ngẫm vừa để đánh giá TM, do tác giả và cộng đoàn ngài đã ghi lại trong quyển TM vừa mới hoàn tất, đặc biệt về lời công bố của quyển TM là bản thân Đức Giêsu là Đấng Mêsia và Con Thiên Chúa. Lời Tựa có thể được coi như “lời chú giải có uy tín và chính lục” cổ nhất về quyển TM IV. Nó cũng cung cấp chìa khóa để chú giải TM IV (Collins). Và như vậy, Lời Tựa chỉ “hoàn toàn hiểu được” đối với người nào “biết trọn quyển Tin Mừng” (Bultmann). Chúng ta có thể tóm tất cả các quan điểm trên đây bằng nhận định của Zumstein: “Lời tựa xác định quy chế thần học của truyện Đức Giêsu trần thế. Truyện này phải được hiểu như là truyện về cuộc nhập thể của Lời Thiên Chúa, như hành vi yêu thương của Thiên Chúa, cho Logos của Ngài nhập thể để cống hiến cho loài người sự sống viên mãn. Truyện Đức Giêsu trần thế phải được hiểu như là cử chỉ mạc khải tuyệt hảo”.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Ngôi Lời Thiên Chúa là Sự Sống và Ánh sáng (1,1-13):
a) Lời ban sự sống (1,1-5), b) Gioan là chứng nhân (1,6-8 [15]), c) Ngôi Lời là ánh sáng thật (1,9-13);
2) Ngôi Lời Thiên Chúa là ân sủng và sự thật (1,14.16-18).
3.- Vài điểm chú giải
- Lúc khởi đầu (1): Đây là những từ đầu tiên của sách Sáng thế, nhắm tới không phải là khởi đầu thời gian của thế giới, nhưng là khởi đầu tuyệt đối (x. St 1,1). Dĩ nhiên, tác giả không thể biết được điều gì ở “lúc khởi đầu”, vì chưa có gì cả, kể cả loài người. Thật ra Lời Tựa là một lời tuyên xưng niềm tin, được gửi đến các độc giả để mong chia sẻ.
- có (1): Động từ ên (was, était) ở thì vị-hoàn (imperfect) diễn tả sự kéo dài: Lời luôn hiện hữu cách siêu vời và vĩnh cửu.
- Lời (1): Đối với người Sê-mít, “lời” không phải chỉ là một âm thanh của tiếng nói, sẽ tan biến đi theo nhịp độ ta phát ra. Theo họ, một khi lời con người đã được nói ra, thì tồn tại như một sức mạnh huyền nhiệm, luôn luôn làm việc để tạo ra cái mà lời ấy diễn tả, về mặt tốt hay xấu. Trong Tân Ước, Đức Giêsu không bao giờ tự xưng là “Lời” và cũng chưa bao giờ được gọi như thế ngoài những bản văn Gioan. Nhưng trong các bản văn Cựu Ước và Tân Ước, có những chuẩn bị cho giáo lý của TM IV về Ngôi Lời. Chẳng hạn, có ba trào lưu tư tưởng nhắm nhân cách hóa Đức Khôn Ngoan, Lề Luật và Lời Thiên Chúa (Cn 8,22t; Hc 24,22t; Is 55,10t; Kn 18,14t), cũng như có khuynh hướng đồng hóa sự Khôn Ngoan với Lời Thiên Chúa, thậm chí đồng hóa Lề Luật với Lời (Hc 24,1.3.22t). Đàng khác, trong các bản văn đầu tiên của Tân Ước, Lời có nghĩa là sứ điệp cứu độ nơi Đức Giêsu Kitô, và thánh Phaolô đã trình bày Đức Kitô như là Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa và gán cho Lời những phẩm tính tương tự các phẩm tính của Đức Giêsu Kitô (Cv 8,4; 19,20; 1 Cr 1,24; Pl 2,16).
- Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa (2): Giới từ pros cho thấy một sự hướng chiều về một người nào. Tách khỏi Cha được gọi là Thiên Chúa, Ngôi Lời cũng ở trong một sự hiệp thông hoàn hảo với Chúa Cha.
- Nhờ Người, vạn vật được tạo thành (3): Dịch sát là “nhờ Người, mọi sự đã trở thành (egeneto)”: Đọng từ egeneto cũng được bản LXX sử dụng trong St 1,3, diễn tả rất rõ việc tạo thành mọi sự “từ không có gì” (a nihilo) (x. 17,24). Thiên Chúa nhờ trung gian của Ngôi Lời mà tạo thành vạn vật. Cựu Ước đã gán công cuộc tạo dựng thế giới cho Lời Thiên Chúa (Tv 33,6.9; 147,15-18; Is 40,26; 48,3; Kn 9,1; x. St 1,3) hoặc cho Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa (Cn 8,27-30; Kn 7,12; 8,4; 9,9). - không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành lại đã được tạo thành (3): Chỗ cắt giữa c. 3 và c. 4 là một vấn đề được tranh luận rất nhiều. Bởi vì cả truyền thống thủ bản lẫn ngữ pháp không cho phép vĩnh viễn giải quyết cuộc tranh luận, thì phải giải quyết bằng chú giải. Nếu ghép c. 3c với c. 4a, có thể đọc c. 3 theo nhiều cách:
- những gì đã được tạo thành thì là sự sống nơi Người; - những gì đã được tạo thành, trong những cái đó (tức trong thế gian) có sự sống; - những gì đã được tạo thành, trong những cái đó, Logos là sự sống; - những gì đã được tạo thành nơi Người, đó là sự sống.
Tất cả các cách dịch và giải thích đó, vì gán cho từ ngữ “sự sống” ý nghĩa là sự sống tự nhiên, chung cho mọi sinh vật, đều vấp phải một vấn nạn căn bản như nhau, đó là chưa nói đến những khó khăn riêng của mỗi kiểu dịch. Quả thế, cho dù không có kèm theo tính từ “đời đời/vĩnh cửu”, “sự sống” thường được nói đến trong TM IV luôn luôn là sự sống đời đời mà Đức Kitô mang đến cho loài người: loài người nhận được sự sống đó chính là được cứu độ. Đàng khác, ngữ cảnh gần lại cho thấy: mệnh đề kết hợp (coordinate) tiếp đó lấy lại từ “sự sống” với quán từ[1][1]: Tin Mừng bảo chúng ta rằng sự sống vừa nói đó là “ánh sáng cho nhân loại”. Do đó, chắc chắn sự sống đó phải là sự sống thần linh, lúc đầu có từ muôn đời trong Ngôi Lời, rồi được Người thông ban cho loài người.
- Câu 3 là câu thơ ở thể biền ngẫu đối nghĩa, nhằm nêu bật rằng Ngôi Lời đóng vai trò trung gian tuyệt đối trong công trình tạo dựng.
- Ngôi Lời là ánh sáng thật (9): Đây là một biểu tượng quan trọng của TM IV để nói về vai trò của Ngôi Lời. Tác giả sẽ dùng công thức “ánh sáng cho trần gian” như một dấu hiệu ở ngay đầu sách, để giúp độc giả nhạy cảm với cặp biểu tượng ánh sáng/bóng tối mỗi khi nó xuất hiện: khi nghe Đức Giêsu tuyên bố Người là “ánh sáng cho trần gian” (8,12), độc giả sẽ hiểu chiều kích biểu tượng của việc chữa cho người mù bẩm sinh thấy, là tin vào Đức Kitô (x. ch. 9). Rồi độc giả cũng sẽ hiểu tại sao Giuđa bỏ Đức Giêsu ban đêm (13,30), tại sao Maria Mácđala đến mộ khi trời còn tối (20,1), hoặc tại sao các môn đệ ở ch. 21 đã đánh cá suốt đêm mà không bắt được gì cho tới khi gặp Đấng Phục Sinh vào buổi sáng.
- những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người (12): Tin vào ai có nghĩa là hoàn toàn gắn bó với người ấy, đặt mọi sự dựa vào người ấy, tin tưởng hoàn toàn vào người ấy. Đây là thái độ căn bản của con người đối với Đức Giêsu. Có 33 lần, tác giả nói đến “tin vào Đức Giêsu”, chỉ 1 lần “tin vào Thiên Chúa” (14,1). “Tin vào danh” là một công thức hiếm hơn (1,12; 2,23; 3,18; 1 Ga 5,13) và luôn luôn quy về Đức Giêsu; công thức này có nghĩa là đặt tất cả sự tin tưởng vào tư cách của con người được nêu tên.
- Ngôi Lời đã trở nên người phàm (14): Dịch sát là “đã trở thành xác thịt/xác phàm”. Từ ngữ “xác thịt” (sarx) trong Kinh Thánh không nhắm đến một phần của con người, hoặc thậm chí thân xác của người ấy, mà là con người toàn vẹn, nhưng yếu đuối và mỏng giòn mong manh, một hữu thể phải chịu đau đớn và phải chết.
- Chúng tôi (14.16; x. 21,24): “Chúng tôi” đây là ai? Vấn đề trở nên phức tạp hơn khi “chúng tôi” ở bên cạnh các đại từ chỉ ngôi khác, chẳng hạn 1 Ga 1,1-4 (1 Ga 4,2 đưa đến Ga 1,14). Đàng khác, “chúng tôi” được dùng với sắc thái làm chứng: Ga 21,24 đưa về 19,35 và đưa đến cả 3 Ga 12. Phải chăng đại từ “anh em” (you) của Ga 15,26-27 là nguồn của từ “chúng tôi” kia? Dường như tất cả những ai đã nhận được lệnh làm chứng về Chúa Kitô trong Ga 15,26-27 không phải là những người xuất hiện trong TM IV và trong các Thư với đại từ “chúng tôi”. Cuối cùng, sau khi đã khảo sát, chúng ta nhận ra ba khả thể: (1) “Chúng tôi” đây là loài người nói chung; (2) là các tín hữu hay các thành viên của cộng đoàn; 3) các chứng nhân đứng đầu cộng đoàn, chịu trách nhiệm ít nhiều về việc soạn thảo TM và các Thư. Thật ra trong mỗi “chúng tôi”, đều có một cái “tôi” nổi bật, được một nhóm người đi theo. “Chúng tôi” không phải là “tôi” được nhân lên, nhưng là “tôi” như phát ngôn nhân của nhóm (pluralis modestiae). “Chúng tôi” bao gồm (inclusive) thì tương đương với “tôi” + “anh em” = dịch là “chúng ta”. “Chúng tôi” loại trừ (exclusive) thì tương đương với “tôi” + “họ” = “chúng tôi”. Trong hy ngữ Tân Ước, và nói chung, hy ngữ Kinh Thánh, không có “chúng tôi cung kính” (pluralis maiestatis). Rất có thể “chúng tôi” đây là những vị hữu trách của cộng đoàn.
- Chúa Cha (14.18): TM IV dùng từ “Cha” để gọi Thiên Chúa 122 lần trong quan hệ với Đức Giêsu; chỉ có 3 lần là “Cha của loài người” (8,41-42 [2x]; 20,17 [1x]). Cũng trong TM này, chỉ Đức Giêsu được gọi là “Con Thiên Chúa” theo nghĩa riêng, trên một bình diện bình đẳng và đồng phân với Thiên Chúa; loài người không được gọi là “con”, mà là “tạo thành” của Thiên Chúa.
- ân sủng và sự thật (17): Luật thế đôi (hendiadys) để nói là “ân sủng sự thật” hoặc “sự thật là ân sủng”. Sự song đối giữa c. 17a và 17b không phải là một sự đối lập, nhưng là một đỉnh điểm (climax). Hai về này có mục đích giải thích cụm từ “hết ơn này đến ơn khác” (charin anti charitos) của c. 16. Cả Luật Môsê lẫn mạc khải của Đức Giêsu đều là quà tặng do lòng quảng đại của Thiên Chúa. Cả hai hình thái mạc khải này đều phát xuất từ một nguồn mạch duy nhất: Logos Thiên Chúa, Đấng đã soi sáng cho Môsê.
4.- Ý nghĩa của bản văn Mỗi tác giả Tin Mừng bắt đầu theo cách của mình. Mt liên kết với lịch sử cứu độ: ngài tức khắc giới thiệu Đức Giêsu Kitô như là con cháu vua Đavít và con cháu tổ phụ Abraham (Mt 1,1-17). Mc quy chiếu về công việc rao giảng Tin Mừng hiện tại: Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa (Mc 1,1-15). Lc bắt đầu tác phẩm theo cách các sử gia cổ thời, với một lời tựa, cho biết ngài tiến hành có lớp lang (Lc 1,3): ở 1,31, ngài giới thiệu tên Đức Giêsu lần đầu và ở 2,11, ngài cho biết địa vị của Đức Giêsu. Còn tác giả Gioan, trước khi gọi tên Đức Giêsu Kitô ở 1,17, thì ở 1,1-13, đã nêu lên những đặc điểm của Đức Giêsu và ở 1,14-18, mô tả hình thức, các nội dung và những điểm liên can đến biến cố Đức Giêsu đến trần gian.
* Ngôi Lời Thiên Chúa là Sự Sống và Ánh sáng (1-13)
Đối với tác giả TM IV, Đức Giêsu Kitô là Ngôi Lời. Bằng danh xưng này, ngài muốn diễn tả ra thực tại thâm sâu nhất của Đức Giêsu, sự kiện Người nhiệm xuất từ Thiên Chúa và tầm quan trọng của Người đối với loài người chúng ta. Dân Israel nhận biết vị Thiên Chúa của riêng mình như là Đấng nói với họ: không phải như vị Thiên Chúa khép kín mình lại và giam mình trong cõi thinh lặng, vị Thiên Chúa vô danh, xa cách và gây ra sợ hãi, nhưng như vị Thiên Chúa ngỏ lời với họ và cho họ biết các ý định và ý muốn của Ngài. Ngài đã nói với Abraham, đã gọi ông và đã ban cho ông lời hứa là muôn dân được chúc phúc (x. St 12,1-3). Qua trung gian Môsê, Ngài đã giải phóng dân Ngài khỏi kiếp nô lệ và đã cho biết ý muốn của Ngài đặc biệt trong “Mười điều răn”. Nhờ các ngôn sứ, Ngài đã can thiệp vào trong các tình cảnh khác nhau của lịch sử dân Ngài. Ngài đã ngỏ lời với họ, để cho họ truyền đạt như là lời khuyên nhủ, lời khuyến cáo, lời hứa và lời động viên. Lời Thiên Chúa ở tại khởi đầu của toàn thể lịch sử. Bằng Lời tạo dựng quyền năng, Thiên Chúa đã gọi mọi sự ra hiện hữu. Nhờ Lời này, Thiên Chúa giao tiếp với các tạo thành của Ngài, tự mạc khải ra cho họ, cho họ được thông dự vào tất cả dự phóng và ý muốn của Ngài về họ. Lời Thiên Chúa đã ban sự hiện hữu và sự sống. Lời này ngỏ với chúng ta, và kêu gọi chúng ta dấn thân. Lời này vừa là yêu cầu vừa là lời hứa. Lời này đến từ Thiên Chúa, làm nền tảng và xác định tương quan giữa Thiên Chúa và loài người.
Đức Giêsu Kitô không chỉ truyền đạt Lời Chúa như một ngôn sứ, nhưng Người chính là Lời này, Lời đầu tiên và Lời cuối cùng của Thiên Chúa. Nơi Người, Thiên Chúa tự mạc khải ra vĩnh viễn và chan hòa, Thiên Chúa nói với chúng ta và cho ta được biết Người. Khi Người ngỏ lời với chúng ta, thì cũng luôn luôn có một yêu cầu, một đòi hỏi phải trả lẽ. Các đặc điểm của Lời Thiên Chúa này là thế nào, Người đến từ những chiều sâu nào, Người có tương quan thế nào với toàn thể tạo thành, tương quan với Người thì đưa lại điều gì cho loài người chúng ta, tất cả những điểm này đều được tác giả Ga mô tả trong 1,1-13.
Lời đang ở nơi Đức Giêsu Kitô đã được chuyển đến cho loài người chúng ta không phải để vang lên rồi tắt mất, nhưng Lời ấy vĩnh cửu và trường tồn như Thiên Chúa: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa” (Ga 1,1-2). Tương quan của Ngôi Lời Thiên Chúa với chính Thiên Chúa được xác định ở đây với ba ý: Ngôi Lời thì vĩnh cửu và vô tạo như Thiên Chúa; Người sống trong sự hợp nhất trường tồn với Thiên Chúa; Người là Thiên Chúa theo cùng một cách như Thiên Chúa là Thiên Chúa. Ba điểm này được tóm trong c. 2, được nhắc lại và khẳng định như là bất biến. Chúng nêu lên bản chất sâu xa nhất, đặc tính chính yếu và tư cách của Đấng là Ngôi Lời Thiên Chúa: TM IV nói với chúng ta về hành trình, các lời nói và các hành động của Người trên mặt đất. Trong tất cả những gì Đức Giêsu làm, ta thấy được điều này: Người không phải là người mang các lời của Thiên Chúa, mà là chính Lời Thiên Chúa, Lời vững chắc và đáng tin như chính Thiên Chúa trong thần tính sâu xa và cao cả của Ngài.
Kinh Thánh mở ra với khẳng định: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất” (St 1,1). Ngược lại, TM IV không mở đầu bằng lời khẳng định: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo Lời”, nhưng bằng lời khẳng định: “Lúc khởi đầu đã có [Ngôi] Lời”. Giống như Thiên Chúa, Ngôi Lời không được tạo thành, nhưng hiện hữu từ muôn đời, sống trước cuộc tạo dựng, không có khởi đầu và không có kết thúc, vĩnh cửu và không ai trổi vượt hơn. Ngôi Lời vĩnh cửu này ở bên Thiên Chúa từ muôn đời. Người là một đối tác hằng sống của Thiên Chúa và liên kết với Thiên Chúa bằng một sự hợp nhất vĩnh cửu và không có trung gian. Sự hợp nhất này xảy ra ngay trên bình diện Thiên Chúa; các đối tác bình đẳng với nhau. Ở đây không phải là tương quan giữa Đấng Tạo Hóa và tạo thành. Ngôi Lời có bản tính Thiên Chúa, phẩm cách Thiên Chúa, Người có cùng bình diện hiện sinh của Thiên Chúa, Người là Thiên Chúa, Thiên Chúa thế nào thì Người cũng là như thế. Chỉ khởi đi từ tương quan của Người với Thiên Chúa, ta mới có thể hiểu được tầm quan trọng và giá trị, quyền năng và sự viên mãn của Ngôi Lời.
Từ muôn thuở muôn đời và vô biên trước tương quan Tạo Hóa–tạo thành, có tương quan Thiên Chúa–Lời Thiên Chúa. Bây giờ tương quan của Ngôi Lời với tạo thành mới được nói đến: “Nhờ [Ngôi] Lời, vạn vật được tạo thành”. Khẳng định này lại được nhắc lại và nhấn mạnh: “Và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành” (1,3). Toàn thể tạo thành nhờ Lời Thiên Chúa mà có (x. 1 Cr 8,6; Cl 1,16; Dt 1,2), lệ thuộc vào Người mà hiện hữu. Ngôi Lời sống trong sự hợp nhất vĩnh cửu với Thiên Chúa. Người gắn bó với tạo thành ngay từ thuở ban đầu, nhưng trong bản tính, Người là Lời Thiên Chúa. Do đó, khi đến trần gian, Người không thiết lập một tương quan mới với tạo thành, Người không đi vào một xứ sở xa lạ, nhưng Người đến nhà của Người, đến với sản nghiệp của Người (Ga 1,9-11). Khởi đi từ những tương quan căn bản của Người, Người nhắm tới việc thông truyền và liên kết, Người là Lời Thiên Chúa quay hướng về tạo thành của Người.
Tương quan đặc biệt của Ngôi Lời với loài người được diễn tả bằng sự sống và ánh sáng. Trong Cựu Ước, có lời khẳng định: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119,105) và: “Lạy Chúa, thân con bị muôn phần khổ nhục, theo lời Ngài, xin cho con được sống” (Tv 119,107). Đặc tính căn bản của Ngôi Lời chắc chắn là sự sống vô cùng viên mãn, tức không có chút gì là bóng tối sự chết và giới hạn nơi Người. Như thế, Ngôi Lời có đặc điểm như Thiên Chúa, với lại Người là Thiên Chúa hằng sống (x. Ga 5,26). Nhờ sự sống viên mãn không hề cạn kiệt của Người, Ngôi Lời trở thành ánh sáng cho loài người đang sống trong bóng tối và tiến về sự chết. Ngôi Lời là ánh sáng chiếu soi, ánh sáng làm cho mọi sự nên rõ ràng và làm cho ta có thể sống và định hướng đời mình.
Nhưng đến đây, lần đầu tiên, tác giả cho thấy công trình của Ngôi Lời gặp một sức mạnh đối nghịch. Bóng tối ngăn cản loài người nhận được ảnh hưởng của ánh sáng. Toàn thể TM IV nói đến cuộc xung đột giữa ánh sáng và bóng tối. Nhưng ánh sáng vẫn tỏa rạng và thắng vượt. Cuối cùng, có lời loan báo chiến thắng, tiên báo kết quả của trận đấu: “Bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (1,5). Ánh sáng mạnh mẽ và mang sự sống tiếp tục chiếu soi loài người.
Sau khi nhìn lần đầu tiên đến chứng nhân Gioan, tác giả giải thích lần cuối cùng biến cố Ngôi Lời đến trong thế gian (1,9-13). Người đến như là ánh sáng thật soi chiếu mọi người. Tuy nhiên, cách thức đón tiếp khác nhau. Hai lần tác giả nói rằng Ngôi Lời bị xua trừ. Người đã ở trong thế gian, nhưng thế gian, tuy vẫn nhờ Người mà hiện hữu, lại không nhận biết Người; tạo thành bị mù lòa và cứ muốn ở trong tình trạng mù lòa khi ở trước Đấng Tạo nên mình. Từ ngữ “người nhà” một lần nữa cho thấy thế giới con người là sở hữu của Đấng tạo thành nó, hoặc Israel là dân của Thiên Chúa (x. Tv 135,4). Người nhà của Người đã muốn đẩy Người ra cửa, chứ không muốn có Người ở với họ. Thế mà không những Người đã tạo thành họ, Người còn xuống để đi tìm họ trong thế giới của họ.
Nhưng Ngôi Lời Thiên Chúa cũng có được tiếp đón. Người ta tiếp đón Người bằng đức tin, nhờ đó họ trở thành con Thiên Chúa. Tin là một quyết định cá nhân, một thái độ của ý chí con người. Đối với TM IV, “tin vào/tin vào danh” là thái độ căn bản mà con người phải có đối với Đức Giêsu. Theo Ga 3,18 (x. 1 Ga 5,13), danh của Ngôi Lời là “Con Một Thiên Chúa” (x. Ga 1,14.18). Như thế, chúng ta đón tiếp Ngôi Lời khi nhận biết Người là Con Một của Thiên Chúa và hoàn toàn tín thác vào Người.
Tất cả những ai tin vào Ngôi Lời Thiên Chúa thì được ban cho quyền trở nên con Thiên Chúa. Tương quan của một người cha với các con có đặc điểm là người cha truyền thông sự sống cho các con và họ sống một dây liên kết riêng tư thân tình. Các con của Thiên Chúa là những người có sự sống phát xuất từ Thiên Chúa và có thể sống hợp nhất với Ngài. Sự sống này hoàn toàn khác với sự sống trần gian: trong sự sống này, loại trừ một loạt những nhân tố cho thấy nguồn gốc của sự sống trần gian tự nhiên (Ga 1,13). Được sinh ra lần nữa bởi Thiên Chúa (x. 3,3), chúng ta trở thành con của Ngài, chúng ta có sự sống đời đời, được thông dự vào chính sự sống của Ngài. Sự tái sinh này tùy thuộc niềm tin đặt nơi Con Một Thiên Chúa.
* Ngôi Lời Thiên Chúa là ân sủng và sự thật (14.16-18)
Ngoại trừ tên của chứng nhân Gioan (1,6), trong phần thứ nhất của Lời Tựa, chúng ta không gặp bất cứ tên người nào. Sau khi tác giả đã nói nhiều điều về Ngôi Lời Thiên Chúa, phát sinh các câu hỏi: Người ở trong thế gian như thế nào? Ta tìm ra Người ở đâu? Ai đã gặp Người? Người có gì mà thông ban cho chúng ta?
Trong phần thứ hai (1,14-18), các tên người được gom lại với nhau: một nhóm đi vào sân khấu, với tên gọi “chúng ta/chúng tôi” (1,14.16). Các khẳng định đan quyện vào nhau. Trước khi khẳng định rằng Ngôi Lời đã làm người (= đã thành xác phàm) có đầy ân sủng chân lý (1,14), tác giả nói rằng: “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người” (1,14). Và trước khi nói rằng: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác”, ngài nêu bật chứng tá của Gioan [Tẩy Giả] (1,15). Chứng tá có tầm quan trọng đặc biệt cho khả năng thấy của nhóm “chúng ta/chúng tôi” (x. 1,29.30.36). Tác giả TM hẳn là đang nhắm đến một kinh nghiệm phi thường khiến ngài như nghẹt thở, và dường như ngài diễn tả điều này khi nêu lên chuỗi các khẳng định đan quyện nhau. Kinh nghiệm lớn lao duy nhất, cuộc gặp gỡ với Ngôi Lời làm người, hẳn là tác giả muốn diễn tả tất cả ngay trong một lần, trong khi kinh nghiệm ấy chỉ có thể thông tri dần dà, từng phần một.
Ngôi Lời như là ánh sáng thế gian đã đến (1,9), điều này được thể hiện trong việc Người “thành xác phàm”, trong việc Người “làm người”. “Trở thành xác phàm” có nghĩa là Ngôi Lời Thiên Chúa đã trở thành một con người thật sự, mỏng giòn và phải chết, và bằng cách đó Người đã đến hiện diện trong thế gian như là ánh sáng cho loài người. Ngôi Lời vô tạo, luôn ở trong một tương quan vĩnh cửu và sống động với Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa, nay vẫn không thôi là Lời Thiên Chúa ấy, lại đồng thời trở thành một con người tất tử.
Trước khi nêu tên của con người ấy, cũng là Lời Thiên Chúa, là người thật và là Thiên Chúa thật, tác giả TM IV phác ra các đặc điểm của sự hiện diện thường trực của Người với loài người. Ngôi Lời không chỉ đến phớt qua rồi biến mất ngay, nhưng đã sống lâu dài trong và với cộng đồng loài người: Người đã cư ngụ giữa họ. Tác giả cũng mô tả cuộc gặp gỡ lạ lùng ngài đã có với Đấng ấy: “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người” (Ga 1,14). Không phải là một con người đơn lẻ, nhưng là một nhóm đã được gặp Ngôi Lời đã trở thành xác phàm. Bởi vì ngài nói đến “chúng ta/chúng tôi”, tác giả TM coi mình thuộc về nhóm này. Đây là nhóm các môn đệ; họ đã được sống hiệp thông trực tiếp với Đức Giêsu và hiểu thực tại đích thật của Người (x. 2,11; 20,30). Họ đã được thấy “vinh quang của Con Một Chúa Cha” (1,14). Cựu Ước đã nói đến “vinh quang của Thiên Chúa” vào dịp các cuộc tỏ mình của Thiên Chúa (x. Xh 24,16-17; Ed 1,28). “Vinh quang” này không phải là bất cứ thứ huy hoàng lộng lẫy nào, nhưng là nguồn sáng chói lọi trong đó ta trải nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa. Ngôi Lời Thiên Chúa, nay hiện diện như là con người phải chết và ẩn giấu, trở thành thấy được cho các môn đệ trong thực tại đích thực của Người. Các môn đệ đã được sống cuộc tỏ mình cho thấy bản thân thâm sâu của Ngôi Lời, khiến họ nhạn được ánh sáng (Ga 1,4.9) và hết sức vui mừng (x. 1 Ga 1,4).
Đến đây đã rõ là Ngôi Lời chính là Con duy nhất và vô song của Thiên Chúa, mà Chúa Cha đã cử đến trần gian. Tác giả diễn tả tương quan có một không hai này nhiều cách: Thiên Chúa hầu như chỉ là “Cha” của Đức Giêsu, và chỉ Đức Giêsu mới là “Con” của Thiên Chúa.
Ngôi Lời làm người, Chúa Con được Chúa Cha sai phái đến thế gian, là Đấng “đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1,14). Công thức này cho biết điều gì đã được ban cho loài người nhờ sự hiện diện của Ngôi Lời, điều gì các môn đệ đã nhận được khi hiểu rõ ràng bản thân Ngôi Lời (1,16). Nhờ Đức Giêsu, là chính Sự Thật của/về Thiên Chúa, đã được ban xuống cho chúng ta như “quà tặng” (= ân sủng), ân sủng sự thật đã có đó (1,17; x. 14,6). “Ân sủng sự thật” chính là mạc khải về một thực tại cho đến nay vẫn còn ẩn giấu, nay được ban như một quà tặng, được ban nhưng-không. Vì Người là “sự thật”, Người cho chúng ta được biết một phương diện hoàn toàn mới của Thiên Chúa: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (14,9). Trong thân phận là Con, Người mạc khải về Thiên Chúa như là Cha: ta không thể biết Đức Giêsu như Con Thiên Chúa mà không đồng thời biết Thiên Chúa như là Cha của Đức Giêsu. Được biết rõ như thế về Thiên Chúa là một ân sủng, là một sự chiếu cố nhân ái của Thiên Chúa đối với loài người.
Để cho thấy đây là một điều mới mẻ, tác giả so sánh với Cựu Ước. Nhờ trung gian Môsê, Lề Luật đã được ban cho dân Chúa. Lề Luật này là lời Thiên Chúa, dấu chỉ lòng ân cần của Thiên Chúa, cũng mạc khải ý muốn của Thiên Chúa, xuyên qua các điều răn và các lời hứa của Thiên Chúa; Lề Luật loan báo điều mà chính Thiên Chúa muốn làm, điều Ngài sẽ ban cho dân Ngài (x. Ga 1,45; 5,46), đồng thời cho biết điều mà dân Chúa phải làm, để sống phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Ngay các điều răn của Thiên Chúa cũng được nhận biết như là những dấu chỉ về ân sủng của Ngài: xuyên qua các điều răn này, Israel có thể biết điều gì Thiên Chúa muốn (x. Tv 19; 119).
Nhưng điều Thiên Chúa chuyển đến cho loài người nhờ trung gian Đức Giêsu còn vượt quá ân ban trên. Đức Giêsu Kitô không phải là một trung gian theo kiểu Môsê, là người chỉ truyền đạt điều đã nhận. Nhờ Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã đến trong thế gian, ân ban là sự thật, là mạc khải về điều cho đến nay còn bị giấu kín, đã được ban cho ta: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả” (Ga 1,18). Không một ai, kể cả Môsê, đã được cho gặp trực tiếp và biết đầy đủ về Thiên Chúa. Nay “Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (1,18). Nhiệm vụ chính của Đức Giêsu là loan báo cho chúng ta sự hiểu biết này. Chính ba tư cách được nêu vừa rồi cho phép Đức Giêsu làm công việc mạc khải về Chúa Cha.
Trong ba tư cách này, tác giả nhắc lại những gì Lời Tựa đã nói về ngôi Lời: Đức Giêsu là Con Một (x. Ga 1,14), Người có một tương quan hoàn toàn đặc biệt với Thiên Chúa, Người là Thiên Chúa (x. 1,1c). Đây là tương quan giữa những nhân vật ngang hàng nhau, có cùng một bản tính và đặc điểm như nhau. Tương quan này được sống trong sự hợp nhất thân tình, tin tưởng (x. 13,23). Cựu Ước đã biết đến vị Thiên Chúa Tạo Hóa, hoàn toàn cách biệt với các thọ tạo; khi đó, người ta nhận biết Thiên Chúa chỉ có một, “nhất khối”. Nhờ Đức Giêsu, ngay tại bình diện Thiên Chúa, có sự hiệp thông, có tương quan tình yêu âu yếm và tin tưởng giữa Chúa Cha và Chúa Con. Đức Giêsu mang đến một sứ điệp về Thiên Chúa, mà thật ra Người chính là sứ điệp đó. Người mang đến sứ điệp này, để những ai tin vào Người như là Con thì được thông dự vào tương quan của Người với Thiên Chúa, và trở thành con Thiên Chúa (1,12). Đây là điều mới mẻ tuyệt đối mà Đức Giêsu cho chúng ta biết. Cho đến nay thì đúng là “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả” (1,18); nhưng bây giờ, “ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (14,9).
Lời Tựa có ghi ba tên: Gioan, Môsê và Giêsu. Như thế, các lời khẳng định của Lời Tựa được liên kết với ba nhân vật lịch sử. Gioan đã đến như chứng nhân của ánh sáng (Ga 1,7). Nhờ trung gian Môsê, Lề Luật đã được ban cho dân (1,17). Với Đức Giêsu, ân ban sự thật đã đến trong thế gian. Đây là con người lịch sử mang tên là Giêsu Nadarét. Khi tác giả nói tên Người ra (1,17), thì ngài đã nói tất cả những gì làm cho rõ về bản thân Đức Giêsu và ý nghĩa của tên này. Nhưng tất cả những gì ngài trình bày không phải là hoa trái của suy diễn, nhưng rút ra từ việc chiêm ngắm và gặp gỡ con người lịch sử này ngày càng sâu sắc hơn. Lời Tựa tóm tắt những gì đã được ban cho các môn đệ khi họ được nhìn xem vinh quang của con người ấy.
Chỉ Đức Giêsu mới có một danh hiệu: Người được gọi là “Kitô”. Như thế, Người được tuyên xưng như là vị vua cuối cùng đã được Thiên Chúa ban cho dân Israel, Người là “ân sủng sự thạt”. Đến cuối TM, chính Đức Giêsu sẽ tóm tắt địa vị và nhiệm vụ của Người trước mặt Philatô: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18,37). Nhiệm vụ thiên sai và vương giả của Đức Giêsu là mang sự thật đến, là mạc khải vị Thiên Chúa ẩn mình ra trong thực tại của Ngài là Cha.
+ Kết luận
Ngôi Lời có tương quan mật thiết với Chúa Cha, nhưng cũng rất gắn bó với loài người, được sai phái đến trần gian là để làm cho chúng ta có thể thông dự vào sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa, nhờ chúng ta tin. Đây là chân trời từ đó bung mở tất cả truyện Giêsu.
Tác giả TM IV đã chiêm ngắm công trình và tầm quan trọng của Đức Giêsu theo cách quy thần. Ngôi Lời mang đến sứ điệp về Thiên Chúa, một sứ điệp cũng chính là bản thân Người. Tất cả những gì tác giả khẳng định về Ngôi Lời Thiên Chúa đã thành xác phàm, với các từ “ánh sáng, sự sống, vinh quang, ân sủng, sự thật”, đều trở nên rõ nghĩa trong sứ điệp về Thiên Chúa. Chúa Con, Đấng mạc khải Thiên Chúa như là Cha và sự hiệp thông trong Thiên Chúa, vẫn đang soi sáng thế gian, Người xán lạn vinh quang, Người chính là mạc khải về Thiên Chúa và sự quan tâm đầy tràn ân sủng của Thiên Chúa và Người ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Người.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Thiên Chúa nói với chúng ta về tình yêu của Người bằng cách gửi Lời Ngài đến với chúng ta. Lời Thiên Chúa đã trở thành người phàm giống như chúng ta; Người đã nói một ngôn ngữ nhân loại, và đã kể cho chúng ta về Cha của Người, nói về cách Người nghĩ về chúng ta, và các chương trình Người lập ra cho chúng ta. Để biết Chúa Cha, tất cả những gì chúng ta phải làm là nhìn Chúa Kitô, xem những gì Người làm, lắng nghe những gì Người nói và dạy, nhìn xem những con người mà Người quan hệ với, nơi và những người mà Người đến chia sẻ bữa cơm với, những người mà Người chọn để cộng tác với Người.
2. Khi chiêm ngắm Lời Thiên Chúa, Đấng diễn tả trọn vẹn ý muốn của Thiên Chúa và mạc khải chính Thiên Chúa ra cho loài người, để họ tin và được cứu độ, chúng ta cũng được mời gọi nhìn lại và lượng định kinh nghiệm của chúng ta về khả năng “nói” của loài người (như là thông giao, diễn tả sự tin tưởng, khuyến khích, trân trọng v.v.) và về “sự thinh lặng” (do cần thiết, do bị câm, do thiếu quan tâm, do hiềm khích v.v.).
3. Các Kitô hữu cũng được thúc bách nhìn lại: chúng ta có chăng khả năng nhận ra được là nhiều lần chúng ta bị bóng tối vây hãm. Chúng ta phải tự hỏi: Điều gì ngăn cách giữa tôi và Đấng tạo thành tôi, điều gì đang che phủ Ngài, khiến tôi không nhận ra Ngài và ngăn cản tôi đi vào thông hiệp sống động với Ngài? Dường như chúng ta còn đang bị cám dỗ thấy có nhiều điều đáng quan tâm hơn, quan trọng hơn, thuyết phục hơn và hứa hẹn hơn là việc đón tiếp Thiên Chúa, Đấng tự hiến ban chính mình! Đàng khác, nếu Chúa Cha yêu thương chúng ta đến như thế, tại sao chúng ta lại không yêu thương nhau?
4. Ở 1 Ga 2,23, chúng ta đọc: “Ai chối Chúa Con thì cũng không có Chúa Cha; kẻ tuyên xưng Chúa Con thì cũng có Chúa Cha”. Chúng ta phải hiểu tương quan của Đức Giêsu với Chúa Cha có ý nghĩa gì cho chúng ta? Dường như cho đến hôm nay, sự hiểu biết của chúng ta về Thiên Chúa vẫn ở tầm mức Cựu Ước hơn là Tân Ước?
5. Làm thế nào liên kết những gì tác giả TM IV đã nói về Lời Thiên Chúa với Đức Giêsu Nadarét lịch sử? Hoặc là chúng ta nghĩ đến Lời Thiên Chúa như một nhân vật siêu vời hoàn toàn không dính dáng gì đến thế giới chúng ta, hoặc chúng ta nghĩ đến Đức Giêsu như một con người chìm trong những thực tại trần thế đến mức không còn gì là siêu phàm nữa. Dường như hiện nay đang có một xu hướng kéo Đức Giêsu “là người thật” xuống trần gian đến mức không còn là “Thiên Chúa thật” nữa!
Có gì không ổn, có gì bất thường? Việc Thiên Chúa xuống thế làm người, sao lại lặng lẽ và quá đỗi: GS-319
Có gì không ổn, có gì bất thường? Việc Thiên Chúa xuống thế làm người, sao lại lặng lẽ và quá đỗi nghèo hèn như thế? Sự giàu sang và quyền năng vô cùng của Thiên Chúa phải được biểu tỏ một cách cực kỳ hoành tráng, khi Ngôi Hai giáng trần, mới là điều hợp lý. Thế nhưng, không! Đàng này, Ngài lại chọn cho mình một địa điểm và một cách thức ra đời vô cùng nghèo khổ và chua chát. Sinh ra trong một chuồng bò hôi thối, tanh tưởi. Chẳng một nụ cười chào đón, chẳng một tiếng vỗ tay hoan hỉ của trần đời có cả hàng tỷ người. Ngài đã đến trong cuộc đời lặng lẽ, và nghèo khó thế đấy. Ngài sinh ra đời trong âm thầm của cái tối đen đậm màu của không gian sắc lạnh và cái tối đen dầy đặc của cõi lòng con người. Không một ai biết Ngài sinh ra. Chính vì thế, Thiên Thần đã phải hiện ra với các mục đồng mà loan báo: “Này tôi báo cho anh em một tin mừng, Đấng Cứu Độ đã sinh ra”. Nhưng làm sao biết được Ngài chính là Ngôi Hai Cứu Thế? “Và đây là dấu hiệu để nhận ra Người: anh em sẽ thấy một trẻ sơ sinh bọc trong tã, nằm trong máng cỏ”.
1- Một trẻ sơ sinh.
Dấu hiệu thứ nhất và căn bản để nhận ra Ngôi Hai Thiên Chúa: Đó là một trẻ sơ sinh, một con người, chứ không phải là một đứa bé con nhà giàu hay nhà nghèo. Nghèo giàu là cái vỏ con người khoác lên đời mình, chứ không phải là bản chất của mình. Chúa xuống thế làm người, là một con người thật, như mọi người. Chúa sinh ra, là một đứa bé nhà nghèo, để bảo cho mọi người biết: Chúa đứng về những người bị bỏ rơi, bị nghèo đói. Giá trị căn bản, là một con người chứ không phải là nghèo hay giàu.
2- Bọc trong tã.
Con người luôn luôn cần hơi ấm. Giữa đêm đông lạnh lẽo đến cắt da, thế mà Ngài cũng chỉ có cho mình một cái tã mỏng manh. Con người ích kỷ và bóc lột nhau nhiều quá. Trong khi có những người chăn nệm cao dầy ấm êm, thế mà còn có vô vàn những người, nằm co ro đói rách, không một mảnh vải che thân. Có ai tội nghiệp cho Ngài không nhỉ?
3- Nằm trong máng cỏ.
Con Thiên Chúa nằm đấy, Hài Nhi Giêsu nằm đấy, trong một máng đựng cỏ khô, nằm chơ vơ đơn lạnh, đang cần lắm một vòng tay ấm, như muốn nói với mọi người: Người ta lạnh lùng và thù hận với nhau nhiều quá; Người ta phũ phàng và bạc bẽo với nhau nhiều quá. Hãy đưa ra một vòng tay, để ôm lấy những mảnh đời cô đơn lạc lõng. Hãy đưa ra một vòng tay để làm ấm lại, bao cõi lòng đang đẩy mình vào thất vọng, chán chường. Những dấu hiệu để nhận ra Ngôi Hai Thiên Chúa đơn giản và gần gũi quá, không có gì là xa lạ. Những dấu hiệu ấy, ta có thể gặp thấy trên mọi lối đi của đời ta.
Gợi ý suy niệm:
1- Bạn có nghĩ, tâm hồn bạn, là hang đá, để đêm nay Chúa giáng sinh không? Hang đá xưa còn tanh hôi hơn tâm hồn bạn nhiều? 2- Mùa giáng sinh, qua dấu hiệu Sứ Thần loan báo, bạn có gặp được Chúa Giêsu trên lối đường bạn đi hay không?
"Dân bước đi trong tăm tối đã thấy ánh sáng rạng ngời; những ai ở miền đấy đen tối đã được ánh sáng chiếu soi" (Isaia 9:1).
"Một thiên thần Chúa đã hiện ra với các mục tử và vinh hiển của Chúa đã tỏa chiếu họ" (Luca 2:9).
Đó là những gì phụng vụ của đêm Giáng Sinh thánh này trình bày cho chúng ta thấy về việc hạ: GS-320
Đó là những gì phụng vụ của đêm Giáng Sinh thánh này trình bày cho chúng ta thấy về việc hạ sinh của Đấng Cứu Thế: như ánh sáng thấu qua và đánh tan bóng tối đen nhất. Sự hiện diện của Chúa giữa dân Ngài làm tan biến đi nỗi sầu thương của cuộc thua bại và cảnh khốn cùng của tình trạng nô lệ, mà mang lại niềm vui và hạnh phúc.
Cả chúng ta nữa, trong đêm hồng phúc này, đã đến với nhà của Thiên Chúa. Chúng ta đã băng qua bóng tối tăm đang bao trùm trái đất, được dẫn đường bởi ngọn lửa đức tin đang soi chiếu bước chân của chúng ta đi, và được phấn khởi bởi niềm hy vọng tìm thấy "ánh sáng rạng ngời" này. Bằng việc mở lòng của chúng ta ra, chúng ta cũng có thể chiếm ngưỡng thấy phép lạ của con trẻ thái dương là Đấng mọc lên từ trên cao đang chiếu rọi chân trời.
Nguồn gốc của bóng tối đang bao phủ thế giới đang biến mất trong một đêm của mọi thời đại. Chúng ta hãy nghĩ về giây phút tối tăm khi xẩy ra tội ác đầu tiên của nhân loại, khi bàn tay của Cain, bì mù quáng bởi ghen hờn, đã giết chết Abel em của mình (xem Khởi Nguyên 4:8).
Bởi thế, việc diễn tiến của các thế kỷ đã bị đánh dấu bằng bạo lực, chiến tranh, ghen ghét và đàn áp.
Thế nhưng Thiên Chúa, Đấng đã đặt để một cảm quan mong đợi nơi con người được dựng nên theo hình ảnh của Ngài và tương tự như Ngài, vẫn đang chờ đợi. Ngài đã đợi chờ rất lâu đến độ có lúc dường như Ngài đã phải buông xuôi. Tuy nhiên, Ngài không thể bỏ cuộc vì Ngài không thể chối bỏ chính mình Ngài (xem 2Timothêu 2:13).
Thế nên Ngài đã tiếp tục nhẫn nại đợi chờ trước tình trạng băng hoại của con người và của các dân tộc.
Qua dòng lịch sử, ánh sáng đánh tan bóng tối tỏ ra cho chúng ta thấy rằng
Thiên Chúa là Cha và lòng trung thành nhẫn nại của Ngài còn mãnh hơn cả tối tăm và băng hoại. Đó là sứ điệp của đêm Giáng Sinh. Thiên Chúa không tỏ ra bừng giận và bất nhẫn; Ngài bao giờ cũng có đó, như người cha trong dụ ngôn dứa con hoang đàng, đợi chờ trông ngóng từ xa bóng dáng người con lạc loại trở về.
Lời tiên báo của Tiên Tri Isaia loan tin về việc hiện lên một ánh sáng rạng ngời qua màn đêm đen. Ánh sáng này được sinh hạ ở Bêlem và được đón nhận bởi vòng tay yêu thương của Mẹ Maria, bởi tình yêu của Thánh Giuse, bởi nỗi ngỡ ngàng của các mục đồng. Khi các thiên thần loan báo việc hạ sinh của Đấng Cứu Chuộc cho các mục đồng thì các vị làm như thế bằng những lời lẽ như sau:
"Đây sẽ là dấu hiệu cho các người, đó là một thơ nhi được bọc trong khăn và nằm trong máng cỏ" (Luca 2:12).
"Dấu hiệu" này là sự khiêm hạ quá sức của Thiên Chúa; chính tình yêu khiến cho Ngài vào đêm ấy đã mặc lấy tình trạng yếu hèn của chúng ta, nỗi đau khổ của chúng ta, những lo âu của chúng ta, các ước vọng của chúng ta và những hạn hữu của chúng ta. Sứ điệp mà mọi người đang trông mong, mà mọi người đang tìm kiếm nơi thẳm cung của linh hồn mình, không là gì khác ngoài niềm êm ái dịu dàng của Thiên Chúa: Vị Thiên Chúa nhìn xuống chúng ta bằng ánh mắt đầy yêu thương, Đấng chấp nhận cảnh bần cùng nghèo khổ của chúng ta, Vị Thiên Chúa phải lòng với cái bé mọn của chúng ta.
Vào đêm thánh này, trong khi chúng ta chiêm ngưỡng Con Trẻ Giêsu vừa được hạ sinh và đặt nằm trong máng cỏ, chúng ta được mời gọi hãy phản tỉnh.
Chúng ta đã đón nhận niềm êm ái dịu dàng này của Thiên Chúa ra sao?
Chúng ta có để mình được Thiên Chúa chiếm đoạt hay chăng, để cho Ngài ôm ấp hay chăng, hay tôi tránh né việc Ngài đến gần tôi? Chúng ta có thể đáp lại rằng
"Thế nhưng chúng tôi đang tìm kiếm Chúa mà".
Tuy nhiên, điều quan trọng nhất không phải là việc đi tìm kiếm Ngài,
mà là để cho Ngài tìm gặp chúng ta và âu yếm chăm sóc chúng ta.
Vấn đề được đặt ra cho chúng ta trước sự hiện diện của Con Trẻ này chỉ vỏn vẹn là: tôi có để cho Thiên Chúa yêu thương tôi hay chăng?
Hơn thế nữa, chúng ta có can đảm đón nhận một cách dịu dàng những khó khăn và trục trặc của những ai gần gũi chúng ta hay chăng, hay chúng ta thích những giải quyết theo kiểu bất liên cá thể, có thể là hiệu nghiệm đấy nhưng chẳng có gì là nồng nàn của Phúc Âm hết? Ngày nay thế giới cần đến niềm êm ái dịu dàng này biết bao!
Việc đáp ứng của Kitô hữu không thể nào khác với việc Thiên Chúa đáp ứng trước cái bé mọn của chúng ta. Đời sống cần phải được đáp ứng bằng những gì là thiện hảo, hiền lành.
Khi chúng ta nhận thức rằng Thiên Chúa phải lòng với cái bé mọn của chúng ta, ý thức rằng Ngài đã biến mình thành nhỏ bé để dễ gặp gỡ chúng ta, thì chúng ta không thể nào không mở lòng mình ra cho Ngài, và khẩn nài Ngài rằng:
"Lạy Chúa, xin giúp cho con trở nên giống như Chúa, xin hãy ban cho con ơn biết dịu dàng trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, xin hãy ban cho con ơn biết gần gũi với hết mọi nhu cầu, ơn biết hiền lành trong mọi xung khắc".
Anh chị em thân mến, vào đêm thánh này, chúng ta hãy chiêm ngưỡng cảnh Giáng Sinh: ở đó "dân đã bước đi trong tăm tối đã được thấy ánh sáng rạng ngời" (Isaia 9:1). Dân mà không ngờ, mở lòng đón nhận tặng ân của Thiên Chúa, lại là những người đã thấy được ánh sáng này.
Tuy nhiên, ánh sáng này không thấy được bởi thành phần cao ngạo, kiêu hãnh, bởi những ai đã biến luật lệ theo những lượng định riêng của họ, những ai khép mình trước người khác.
Chúng ta hãy nhìn vào máng cỏ và cầu nguyện, kêu xin Người Mẹ Phúc Đức rằng: "Ôi Maria, xin tỏ Chúa Giêsu cho chúng con!"
Phụng vụ Thánh Lễ Vọng Giáng Sinh dìu chúng ta về với gia phả của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên: GS-321
Phụng vụ Thánh Lễ Vọng Giáng Sinh dìu chúng ta về với gia phả của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người, và gẫm suy sự giáng sinh của Con Một Chúa.
Gia phả của Đức Giêsu Kitô
Đã làm người là có cố có ông, có cha có mẹ có ông có bà, tức là có một gia phả. Đức Giêsu dù là Thiên Chúa, nhưng làm người, nên cũng không nằm ngoài qui luật tự nhiên ấy. Gia phả của Đức Giêsu Kitô được Thánh sử Matthêu viết thật là dài cả thảy 42 đời, không phải một cách hết sức chính xác và đầy đủ theo nghĩa lịch sử, nhưng mang nặng ý nghĩa thần học. Gia phả này nhắc nhớ chúng ta rằng, sau khi tổ tông loài người phạm tội trong vườn địa đàng, Thiên Chúa đã đi tìm Ađam và Evà và đồng hành với con người. Thiên Chúa đã gọi Abraham người đầu tiên trong gia phả, thứ đến là các tổ phụ khác. Thiên Chúa đã muốn làm lịch sử với chúng ta, một lịch sử đi từ thánh thiện đến tội lỗi, như trong gia phả chúng ta thấy có những thánh nhân vĩ đại nhưng cũng có những tội nhân cao độ. Đó chính là sự kiên nhẫn, khiêm tốn của Thiên Chúa và tình thương của Ngài đối với chúng ta.
Theo thánh Mátthêu, Đức Giêsu xuất thân từ dòng dõi Abraham, và cuộc đời Người gắn kết với dân tộc Israen, một dân được tuyển chọn trong tình thương. Đức Giêsu cũng là Con của vua Đavít, nên Người có cơ sở để là Đấng Kitô như lời hứa.
Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa làm người, sinh ra trong một gia đình, sống trong xã hội, nên Ngài chịu chi phối bởi xã hội trong dòng lịch sử một dân tộc với tất cả những thăng trầm và biến động của nó. Là người cuối của gia phả, nhưng lại là nhân vật trung tâm (x. Mt 1,16-17). Tất cả lịch sử của dân tộc Israen cũng là lịch sử cứu độ. Dòng lịch sử cứu độ này đã lên đến tuyệt đỉnh nơi Đức Giêsu Kitô. Nơi Người, Thiên Chúa đã đưa lịch sử nhân loại đến chỗ thành tựu.
Như chúng ta đã nói ở trên, Con Thiên Chúa đi vào một lịch sử đi từ thánh thiện đến tội lỗi, một gia phả khác thường đối với Do thái giáo. Bởi lẽ, trong gia phả Đức Giêsu có tên một số phụ nữ, đó là chuyện lạ, vì người Do Thái thường chỉ để tên người cha. Trừ Đức Maria ra, còn bốn phụ nữ kia đều có gốc dân ngoại. Tama và Rakháp gốc Canaan, Rút gốc Môáp, vợ Urigia người Híttít. Mỗi bà lại có hoàn cảnh khác thường không ai giống ai. Tama giả làm điếm để ngủ với cha chồng là Giuđa, hầu sinh con cho nhà chồng (St 38). Rakháp là một cô điếm ở Giêricô, đã giúp Giosuê chiếm Canaan (Gs 2). Bétsabê, vợ của Urigia, đã ngoại tình và lấy vua Đavít (x. 2Sm 11-12). Rút đã lấy ông Bôát là người bà con gần, để nối dõi cho chồng (x. R 1-4). Đức Giêsu đã là con cháu của các phụ nữ khác thường này, nên cũng mang trong mình chút dòng máu của dân ngoại nếu tính theo gia phả, dẫn đến cuộc sinh hạ của Đức Kitô cũng khác thường.
Sự giáng sinh của Con Một Chúa
Thiên Chúa muốn cứu độ con người bằng cách sai Con Một Chúa xuống thế gian, nhập thể làm người. Cách làm người của Con Thiên Chúa vừa bình thường lại vừa tuyệt đối khác thường. Bình thường vì Người được sinh ra bởi một người nữ (x. Gl 4, 4). Khác thường vì Người không được sinh ra bởi người nam (cha ruột), nhưng do quyền năng Chúa Thánh Thần (x. Mt 1, 18. 20). Mátthêu diễn tả một cách tinh tế như sau: “Giacóp sinh Giuse, chồng của bà Maria, từ bà Đức Giêsu được sinh ra, cũng gọi là Đức Kitô” (c. 16). Có thể nói, Đức Giêsu có dược “nhập khẩu” vào dòng dõi vua Đavít hay không đều tùy thuộc vào lời đáp trả của thánh nhân. Nên Thánh Mátthêu đã làm nổi bật dung mạo vị cha nuôi của Chúa Giêsu, vừa nhấn mạnh rằng, nhờ qua thánh nhân, Con Trẻ được đưa vào trong dòng dõi vua Ðavít một cách hợp pháp, và như thế thực hiện những Lời Kinh Thánh, trong đó Ðấng Thiên Sai được các tiên tri loan báo như là “Con của Vua Ðavid ”. Như thế Con Thiên Chúa đã có một người mẹ để trọn vẹn là người. Ngài có cha nuôi là thánh Giuse để được thuộc về dòng Đavít với một gia phả. Có một gia đình cần thiết để sống và lớn lên.
Trong giờ vọng lễ Mừng Chúa giáng sinh đêm nay, chúng ta hướng nhìn về Thánh Giuse, vị hôn phu của Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria, cha nuôi Đức Giêsu, mẫu gương của người “công chính” (Mt 1,19). Vai trò của Thánh Giuse với nhân đức trổi vượt không thể nào bị rút gọn về khía cạnh luật pháp mà thôi. Ngài được Thiên Chúa tín nhiệm trao ban quyền làm “Người gìn giữ Ðấng cứu thế”, trong gia đoạn đầu của công trình cứu chuộc, khi hoà hợp hoàn toàn với vị hôn thê của mình, tiếp rước Con Thiên Chúa làm người và canh chừng cho sự tăng trưởng nhân bản của Con Thiên Chúa. Vì thế, thật xứng hợp biết bao hướng về ngài, cầu xin ngài trợ giúp chúng ta sống trọn vẹn mầu nhiệm Ðức Tin cao cả này.
Noi gương ngài, chúng ta mở rộng lòng mình ra, chuẩn bị nội tâm để đón nhận và gìn giữ Chúa Giêsu trong đời sống chúng ta. Uớc chi Chúa có thể gặp thấy trong chúng ta lòng quảng đại sẵn sàng đón Chúa đến, như đã xảy ra như vậy tại Belem trong Ðêm Cực Thánh Chúa Sinh Ra. Amen.
Từ 21 thế kỷ qua, lời rao giảng vui mừng trên vang lên từ con tim Giáo Hội. Trong đêm thánh này: GS-322
Từ 21 thế kỷ qua, lời rao giảng vui mừng trên vang lên từ con tim Giáo Hội. Trong đêm thánh này, Thiên Thần Chúa lặp lại với mỗi người chúng ta những lời như sau: "Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Vua Ðavít" (Lc 2,10-11).
Trong bầu khí linh thiêng của đêm Noel năm nay, khi chiêm ngắm Con Chúa ra đời, chúng ta xin Chúa điều gì? Chắc chắn mỗi người mỗi tâm tình, mỗi ý nguyện, phần lớn những người hiện diện nơi đây đều có những lời cầu xin của riêng mình. Tôi đề nghị một lời cầu xin tha thiết nhất, một nỗi khát vọng mãnh liệt và triền miên của toàn thể nhân loại chúng ta hôm nay đó là xin ơn "Đức tin và Bình an".
Đề nghị thứ nhất: xin ơn Đức tin
Đấng cứu độ chúng ta đã ra đời, Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa Thật bởi Thiên Chúa thật. Những điều chúng ta vẫn tuyên xưng trong Kinh Tin Kính.
Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa.
Giáng Sinh là dịp thuận lợi để chúng ta suy niệm về mầu nhiệm Chúa Kitô, và khẳng định lại những điều chúng ta đã tuyên xưng trong Kinh Tinh Kính của Công Đồng Nicê năm 325 và Công Đồng Constantinôple năm 381. Những điều ấy dẫn chúng ta vào mầu nhiệm của Chúa Kitô.
"Một Hài Nhi, được sinh ra bởi Thiên Chúa Cha từ trước muôn đời", đây là cách diễn đạt nghịch lý của Giáo phụ Romanos de Mélode. Có lúc, Thiên Chúa gần gũi đến lạ thường, và cũng thật siêu việt, vượt quá sự hiểu biết của chúng ta, Một Hài Nhi là Con Thiên Chúa Cha từ trước muôn đời. Để hiểu được cách diễn đạt "sinh bởi Đức Chúa Cha ", chúng ta cần phải đọc lại chương mở đầu của Tin Mừng theo Thánh Gioan : "Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa " (Ga 1,1).
Chúng ta không nghĩ đến sự sinh bởi Thiên Chúa, vì chúng ta có những ý niệm về không gian và thời gian… Nhưng ở nơi Thiên Chúa, thì không có khởi đầu và kết thúc. Chúa Cha sinh ra Chúa Con tự đời đời. Vì thế Chúa Cha là Cha tự đời đời, và Chúa Con là Con tự đời đời.
Đặc điểm của Chúa Cha là trao ban hoàn toàn cho Con mình. Và đặc điểm của Chúa Con là lãnh nhận hoàn toàn từ nơi Cha và vâng phục trong tình yêu đối với Chúa Cha. Chúa Kitô là Con Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa ; điều này thường thấy trong Tin Mừng, khi mà Chúa Kitô dùng từ " TA LÀ " (Ga 9, 58).
Quả thật, trong trình thuật cuộc thương khó Chúa Giêsu theo Thánh Gioan, lúc ở trong vườn Giệtsimani, Đức Giêsu hỏi những người đến tìm bắt Ngài rằng : "Các ngươi tìm ai ? " Họ trả lời : "Giêsu Nagiarét". Đức Giêsu nói : Này ta, " Khi Đức Giêsu nói với họ này ta, họ liền lùi lại và ngã ra đất hết " (Ga 18,6). Họ ngã, không phải là vì họ trượt chân, nhưng là vì họ ở trong tư thế tôn thờ, vì lời Đức Giêsu nói với họ : chính Ta hay là Ta có nghĩa là thần thánh.
Thập giá đối với người Do Thái là sự sỉ nhục, đối với người dân ngoại là sự điên dồ, nhưng đây là sự mạc khải của Thiên Chúa: " Khi nào tôi được treo lên khỏi đất, tôi sẽ kéo mọi người lên cùng tôi, lúc đó các người sẽ biết ta là ai". Nhưng Giáng sinh có ý nghĩa, vì Giáng sinh là Thánh Giá có một cái bóng được gọi là Phục Sinh.
"Ánh Sáng bởi Ánh Sáng"
"Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sáng của nhân loại ; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng" (Ga 1, 4-5).
Như vậy, với tác giả Tin Mừng, ánh sáng đồng nghĩa với sự sống thần linh ; Nhập thể của Người là ánh sáng, là một trận chiến chống lại bóng tối. Ánh sáng đã đến trong thế gian, nhưng cuộc chiến vẫn tiếp tục cho đến khi Chúa Kitô trở lại trong vinh quang.
Vậy, đâu là bóng tối? Chắc chắn là thế gian rồi, nhưng trước hết vẫn là trong lòng người ta. Chúng ta có vùng tối mà chúng ta không muốn thấy, ánh sáng không phải là bạo lực, do đó ánh sáng tràn ngập, tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Ánh sáng này sau đó sẽ xuất hiện trên khuôn mặt của nhân loại: thần linh hóa mọi tạo vật, chiếu dọi vào tâm hồn, phản ánh vinh quang rực rỡ của Chúa Cha.
Thế giới của chúng ta đang cần những chứng nhân cho ánh sáng. Ở những thế kỷ đầu của Giáo hội, những người chịu phép Rửa tội được gọi là " ánh sáng" chiếu tỏa ánh sáng Thần Linh.
Việc tái truyền giảng Tin Mừng, là làm thế nào để người môn đệ biến đổi. Thánh Gioan Phaolô II, Giáo hoàng đã nói với các linh mục rằng : "Người ta muốn thấy Chúa Giêsu qua anh em". Nơi mỗi người đã chịu phép Rửa tội, bởi vì họ là nhà của "ánh sáng từ ánh sáng" phải được chiếu soi rạng ngời.
Nguồn gốc của ánh sáng là Tình Yêu. Vì vậy, đừng quên rằng nếu như tội lỗi, nghĩa là bóng tối tách ra, Tình Yêu biến thành ánh sáng thần linh. Trong máng cỏ, Hài Nhi Giêsu chiếu tỏa ánh huy hoàng của Người trên khuôn mặt rạng ngời có Thánh Giuse.
"Thiên Chúa thật và là Người thật"
Công đồng Chacédoan năm 451 đã tuyên xưng: "Đức Giêsu là Thiên Chúa thật và người thật".
Tuyên xưng Chúa Kitô là Thiên Chúa thật, không phải vì một người là Thiên Chúa, những là bởi Thiên Chúa đến vì các tội nhân, Ngài đến để cứu từng người trong chúng ta !
Làm thế nào để Thiên Chúa toàn năng, Thánh, chí Thánh, ngàn trùng chí Thánh, ba lần thánh này, có thể đồng bàn với phường tội lỗi? Làm thế nào để Thiên Chúa đến thi thố tình yêu cho chúng ta?
Hài Nhi nằm trong máng cỏ đến thanh tẩy tội lỗi chúng ta và đem dâng lên trước tòa Chúa. Không, Thiên Chúa không phải là một người cha ngáo ọp, hay một thẩm phán, cũng không phải một kẻ giáo điều. Hài Nhi, Thiên Chúa thật nhỏ bé đến mạc khải cho chúng ta Một Thiên Chúa thật.
Đó là lý do tại sao Chúa Con được sai đến trong thế gian. Không chỉ mạc khải về Chúa Cha, nhưng để nối kết chúng ta với Thiên Chúa. Làm cho chúng ta nhận ra khuôn mặt thật của Thiên Chúa là Cha, Đấng giầu lòng thương xót.
Khi tuyên xưng Hài Nhi năm trong máng cỏ là Thiên Chúa thật, là loại bỏ các lạc thuyết, Ảo thân thuyết, dưỡng tử thuyết. Chúng ta tin rằng Chúa Kitô vừa là Thiên Chúa thật và là người thật. Người là Đấng cứu chuộc chúng ta.
Nếu Đức Kitô chỉ là Thiên Chúa, thì Người không thể cứu độ tất cả chúng ta! Người là Thiên Chúa và là người, giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi. Tuy nhiên, "Tất cả những gì được Người đảm nhận đều được cứu." (St. Athanasius)
Con Thiên Chúa đã đảm nhận một thân xác, và vì thế từ nay, Người trở nên người nhờ Chúa Thánh Thần, đó là lý do tại sao thân xác của chúng ta trở thành đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Chúng ta đã được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Bởi tội nguyên tổ, chúng ta đã đánh mất sự sống, nhờ Hài Nhi nằm trong máng cỏ, chúng ta tìm lại được. Vì thế, chúng ta càng theo Chúa Kitô, chúng ta sẽ càng trở nên giống Người hơn. Chúng ta được trao ban cho Chúa Kitô, chúng ta được thần linh hóa.
Khi chiêm ngắm mầu nhiệm Giáng sinh, chúng ta hãy xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta, để chúng ta tin vào Đức Giêsu Con Thiên Chúa.
Đề nghị thứ hai là : xin ơn bình an.
Chúng ta cầu xin Chúa "ơn bình an" như chính lời Kinh Thánh gợi ý: "Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương! " (Lc 2,14). Đây là điều rất cần thiết và thực tế. Theo Kinh Thánh, sự bình an đi đôi với hạnh phúc mà Chúa ban cho loài người. Ai trong chúng ta mà không khao khát hạnh phúc cho mình và tha nhân? Ai trong chúng ta mà không ước muốn được bình an? Thiếu sự bình an, thì không thể có hạnh phúc. Hạnh phúc trước hết và trên hết là niềm vui "được yêu", được Thiên Chúa yêu thương, được loài người yêu thương.
Sự bình an là một ân sủng, là "quà tặng Giáng Sinh" của Thiên Chúa cho chúng ta. Để có được quà tặng ấy, chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này (x. Tt 2,12).
Nguyện xin ân sủng và bình an của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta và tình yêu của Chúa Cha ở cùng tất cả chúng ta. Amen.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng Thánh lễ ban ngày (Gio-an 1:1-18)
Bình minh luôn là một cảnh tượng tuyệt vời. Nếu tới Grand Canyon, bạn nhớ dậy trước khi mặt: GS-323
Bình minh luôn là một cảnh tượng tuyệt vời. Nếu tới Grand Canyon, bạn nhớ dậy trước khi mặt trời mọc, ra đứng bên bờ vực để chờ mặt trời lên. Hoặc nếu có dịp, bạn đi bộ từ một giờ sáng, leo lên đỉnh ngọn Sinai để đợi mặt trời mọc và đọc Kinh sáng. Hoặc dễ hơn cả, bạn ra ngồi ở bãi biển ngắm mặt trời ló rạng từ dưới mặt nước. Cảnh tượng nào cũng đẹp và giúp bạn cảm nghiệm những lời của bài Tin Mừng hôm nay: “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng”. Sự kiện Chúa Giê-su, Đấng Cứu Độ, đến trần gian cũng giống như thế đấy!
Mở đầu sách Tin Mừng, thánh Gio-an không thuật lại cuộc đời thơ ấu của Chúa Giê-su, nhưng giới thiệu ngay với chúng ta về Ngôi Lời xuống thế làm người, giống như ánh sáng đến chiếu soi đêm tối. Bị cúp điện và chờ có điện lại, dù chỉ là năm mười phút mà chúng ta cũng thấy thật lâu. Vậy trần gian đã chờ đợi ánh sáng cứu độ từ bao thế kỷ, thì mong mỏi ấy hẳn còn đằng đẵng hơn thế nào nữa? Nhưng Ánh Sáng đích thực chúng ta mong đợi là gì và từ đâu? Tin Mừng Gio-an khẳng định rằng Ánh Sáng ấy là Ngôi Lời từ Thiên Chúa mà đến và hai công việc chính của Ngôi Lời là tạo dựng và cứu độ. Lúc khởi đầu, nghĩa là khi Thiên Chúa tạo dựng muôn loài, công việc của Ngôi Lời là làm cho vũ trụ và con người được hiện hữu. “Không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành”. Như sách Sáng Thế cho thấy, mỗi khi dựng nên vật gì, “Thiên Chúa phán: hãy có…” Nói khác đi, Thiên Chúa tạo dựng bằng cách phán Lời của Người. Trong mọi sự được Lời tạo dựng, quan trọng nhất vẫn là sự sống: “Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại” (c. 3).
Công việc thứ hai của Ngôi Lời là cứu độ. Mặc dù Ánh Sáng đem lại sự sống cho nhân loại, nhưng tội lỗi đã cướp đi sự sống đời đời ấy do lỗi phạm của nguyên tổ A-đam. Cho nên, vì yêu thương con người và để cứu độ nhân loại đang sống trong bóng tối tội lỗi, Thiên Chúa Ngôi Hai đã giáng trần: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (c. 9). Đến thế gian và chiếu soi mọi người là cách nói để mô tả công việc cứu độ của Ngôi Lời.
Tuy nhiên, Tin Mừng Gio-an cũng không thể bỏ qua một sự kiện phũ phàng, là “Ngôi Lời đến thế gian… Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận”. Sự kiện “chẳng chịu đón nhận” này vẫn tồn tại, mặc dù rất nhiều lần Chúa Giê-su đã cố gắng thuyết phục người ta, nhất là giới lãnh đạo Ít-ra-en, chấp nhận vai trò tạo dựng và cứu độ của Ngôi Lời, nhưng họ vẫn từ chối và còn đóng đinh Người vào thập giá nữa! Người ta muốn diệt ánh sáng, nhưng không thể. Ánh sáng Phục Sinh vẫn tiếp tục chiếu soi trong bóng tối, Đấng Cứu Độ vẫn tiếp tục giang rộng tay đón nhận tất cả những ai tin vào Người. Nói khác đi, Ánh Sáng luôn cư ngụ trong đêm tối, vì Chúa Giê-su luôn là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Sống sứ điệp Tin Mừng
“Những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa”. Bạn hãy nghiền ngẫm lời hứa tuyệt vời này trong mùa Giáng Sinh và mọi ngày trong cuộc đời. Chẳng phải chúng ta đã là những người tin vào danh Chúa Giê-su, vào sứ mệnh cứu độ của Người và trở nên con Thiên Chúa rồi hay sao? Ánh sáng đang chiếu soi giữa đêm tối cuộc đời chúng ta, để chúng ta nhận ra tội lỗi mình, nhưng nhất là nhận biết tình yêu của Thiên Chúa. Thánh sử Gio-an chia sẻ kinh nghiệm của ngài với chúng ta: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Tác giả thư Do-thái cũng giới thiệu với chúng ta Chúa Giê-su “là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa”. Tình yêu cứu độ của Thiên Chúa không phải là ý tưởng mơ hồ, nhưng được nhập thể qua Chúa Giê-su.
Vậy bạn và tôi, chúng ta đều có thể cảm nghiệm được tình yêu cứu độ này theo cách riêng của mình. Xác tín căn tính của chúng ta là Ki-tô hữu, là con Chúa, chúng ta hãy giúp cho ánh sáng của Người chiếu soi giữa bóng tối thế giới quanh ta, để mọi người nhận biết Chúa Giê-su là “Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật”.
"Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta".
Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. Ðây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria. Mọi người đều lên đường trở về quê quán mình. Giuse cũng rời thị trấn Nadarét, trong xứ Galilêa, trở về quê quán của Ðavít, gọi là Bêlem, vì Giuse thuộc hoàng gia và là tôn thất dòng Ðavít, để khai kiểm tra cùng với Maria, bạn người, đang có thai.
Sự việc xảy ra trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong hàng quán.
Bấy giờ trong miền đó có những mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ, khiến họ hết sức kinh sợ. Nhưng thiên thần Chúa đã bảo họ rằng: "Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Ðavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ".
Và bỗng chốc, cùng với các thiên thần, có một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm". Giới Thiệu Mùa Giáng Sinh
Mùa Vọng đưa ta sang Mùa Giáng sinh. Chúng ta đã nỗ lực trong Mùa Vọng, thì lại càng phải biết sống: GS-324
Mùa Vọng đưa ta sang Mùa Giáng sinh. Chúng ta đã nỗ lực trong Mùa Vọng, thì lại càng phải biết sống Mùa Giáng sinh. Vì Mùa Vọng chỉ là đường dẫn tới đích điểm là Mùa Giáng sinh; và người ta đi đường là cốt để đi tới nơi định đến. Nếu đến nơi mà không thấy gì, được gì thì công lao đi đường thật là uổng phí. Do đó chúng ta phải tìm cho được nhiều ơn trong Mùa Giáng sinh này để bõ công nỗ lực trong Mùa Vọng.
Thế mà có người tưởng chỉ cần dự lễ Giáng sinh là xong, dường như thể cả Mùa Vọng chỉ để chuẩn bị cho Thánh lễ Giáng sinh. Dự lễ Ðêm hay lễ Ngày xong là hết, là nghỉ. Phụng vụ Mùa Giáng sinh không còn lôi cuốn họ nữa, đang khi rõ ràng Giáo hội lại muốn cống hiến cho con cái mình quá nhiều mầu nhiệm phong phú trong một thời gian tương đối ít ngày.
Nhưng trong số ít ngày này, Phụng vụ vẫn muốn trải ra trước mắt ta mọi khía cạnh của mầu nhiệm Chúa sinh ra làm người để làm giàu cho đời sống chúng ta. Phúc cho ai để tâm chiêm ngưỡng, suy nghĩ Phụng vụ Mùa Giáng sinh này hầu đón nhận được mọi Ơn Chúa đem tới.
Ðó là những ơn nào?
Chắc chắn không phải là những ơn mà đa số Israel ngày xưa trông chờ nơi ÐấngThiên Sai. Họ tưởng Người đến để phân xử công minh, tiêu diệt hết bọn bất nhân và đưa mọi người công chính vào một xã hội hạnh phúc trần gian lý tưởng. Thế nên họ đã không đón nhận Ðức Yêsu và muốn chờ đợi một Ðấng Cứu Thế khác. Thái độ của họ không đúng vì cuối cùng họ muốn Thiên Chúa phải làm theo ý họ. Còn chúng ta, chúng ta hằng ngày cầu xin để Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời, vì chúng ta ý thức Thiên Chúa siêu việt hơn chúng ta về mọi mặt và ý của Ngài tốt lành hơn ý của chúng ta bội phần. Nên chúng ta muốn đón nhận Ngài như Ngài muốn đến với chúng ta và chúng ta sung sướng nhận lấy Ơn mà Ngài mang đến.
Sau này, khi lớn lên và nhất là khi đi giảng đạo, chịu chết để cứu chuộc chúng ta, Ðức Kitô sẽ cho chúng ta thấy rõ Ngài đem đến cho chúng ta những ơn gì. Nhưng trong mầu nhiệm Giáng sinh, Ngài chỉ là một Hài Nhi. Và như mọi sơ sinh, Ngài mang đến một sự hiện diện phong phú, một vẻ trong trắng dễ thương, một bầu khí ấm áp tình người. Ðó không phải là những ơn nhỏ bé đâu! Ta hãy nghĩ tới những ơn lành mà một hài nhi chào đời có thể mang lại cho gia đình em nói riêng và cho nhân loại nói chung. Một em bé sinh ra không những đóng góp thêm một sự hiện diện cho gia đình nhân loại, nhất là khi em đó lại là đứa con đầu lòng và là đứa con duy nhất của gia đình. Cha mẹ em vui mừng dĩ nhiên. Ðấy là kết quả của tình yêu! Hai người cảm thấy như được thăng tiến. Lần đầu tiên họ đóng góp cho đời một cái gì thật là bởi thịt máu mình. Họ nở mày nở mặt khi nhìn vào em bé. Chính vẻ vô tội, trong trắng hồn nhiên làm cho khuôn mặt của họ rạng ngời. Họ yêu đời hơn vì từ nay có một sự sống như đang mấp máy, giãy giụa trong cuộc đời họ. Ðó chỉ là những ơn lành tự nhiên mà một hài nhi mới đem lại cho gia đình, chưa kể tương lai của bất cứ em bé mới sinh nào cũng có thể rất vẻ vang.
Còn nói gì đến những ơn vô hình mà Hài Nhi thành Bêlem mang lại! Vì đây là Con Một Thiên Chúa sinh ra làm người, là hiện thân của Tình Yêu Chúa Cha đã yêu thương loài người đến nỗi ban cả Con Một Ngài cho ta, là đối tượng của Lời Hứa từ bao ngàn năm lịch sử và là Ân Ban bao gồm mọi ơn thiêng quá khứ, hiện tại và tương lai. Phụng vụ Mùa Giáng sinh mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng khám phá, đón nhận Hồng Ân cao cả này. Chúng ta chỉ nên sợ không có đủ giờ nhận thức được và lãnh hội được mọi khía cạnh phong phú, chứ không thể dại dột coi nhẹ việc suy niệm mầu nhiệm Mùa Giáng sinh.
Phụng vụ đề ra ba đề tài chủ yếu: Chúa Giáng sinh, Ðức Maria Mẹ Thiên Chúa và lễ Hiển Linh. Ðề tài I dĩ nhiên phong phú hơn cả. Nhưng chúng ta phải nhờ Ðức Mẹ Thiên Chúa để chiêm ngưỡng Chúa Hài Nhi. Và chúng ta phải hân hoan nhìn thấy: Kìa ơn cứu độ Chúa mang tới đang soi sáng các dân tộc. Mầu nhiệm Chúa Giáng sinh vì thế chỉ hoàn tất trong mầu nhiệm Chúa Hiển linh, không phải chỉ hiển linh theo kiểu ngày trước khi Ngài kêu gọi ba nhà đạo sĩ ở phương Ðông đến thờ lạy, nhưng Ngài sẽ chỉ hiển linh hoàn toàn khi trở lại sau này trong vinh quang để vĩnh viễn đưa tất cả chúng ta vào trong hạnh phúc bất diệt.
Mùa Giáng sinh vì thế vẫn chưa thực sự chấm dứt Mùa Vọng. Nó chỉ đem lại ơn Nghĩa tử để chúng ta có tâm tư hành động như Con Một Thiên Chúa Giáng sinh làm người, hầu hằng ngày lấy thánh Ý Chúa Cha làm lẽ sống, đi vào kế hoạch cứu thế của Thiên Chúa chúng ta. Lễ Chúa Giáng Sinh
Mọi sự đã sẵn sàng để chúng ta cử hành Lễ Chúa Giáng Sinh. Phụng vụ tỏ ra tưng bừng và phong phú. Ai cũng chú trọng đến Thánh Lễ Nửa Ðêm; nhưng lễ Rạng Ðông và Ban Ngày cũng đầy đủ ý nghĩa. Cớ sao lại muốn cử hành Thánh Lễ đúng Nửa Ðêm? Và tại sao lại còn thêm hai thánh lễ Rạng Ðông và Ban Ngày?
Chúng ta đã biết: chẳng ai có thể chắc chắn về ngày giờ Chúa sinh ra. Nhưng người ta đã chọn ngày Ðông Chí để khẳng định chính Ðức Kitô mới là Mặt Trời Công Chính đến đem ánh sáng và sự sống mới vào thế gian. Và như người ta quen tính ngày từ nửa đêm, Ðức Kitô cũng phải sinh ra vào lúc 0 giờ để thật sự được coi như là mặt trời bắt đầu mọc lên từ đúng nửa đêm. Ánh sáng mới, sự sống mới, cuộc đời mới, lịch sử mới bắt đầu từ lúc 0 giờ. Và giờ Chúa sinh ra phải được dùng để tính kỷ nguyên mới của ta hiện nay.
Nhưng khi chọn lúc Nửa Ðêm làm giờ Chúa sinh ra, Phụng vụ đã không nghĩ trước tiên đến khía cạnh mới mẻ của lúc 0 giờ. Khía cạnh đạo đức mới là yếu tố quyết định. Bầu khí tĩnh mịch của đêm khuya giúp con người dễ suy niệm, cầu nguyện và kết hợp với Thiên Chúa hơn lúc ban ngày... Khác với tập tục Do Thái giáo, ngay từ buổi ban đầu Giáo hội đã có thói quen "canh thức". Và như vậy để noi gương Ðức Kitô thường thích cầu nguyện trong đêm khuya và để theo lời Người dạy: hãy tỉnh thức và cầu nguyện vì Con Người sẽ đến như kẻ trộm. Giáo hội đã bắt đầu canh thức khi cử hành mầu nhiệm Phục sinh. Giáo hội thấy các biến cố trọng đại nhất trong lịch sử cứu chuộc đều xảy ra vào lúc đêm khuya: nào khi Chúa cứu dân ra khỏi Ai Cập, nào lúc Chúa lập Phép Thánh Thể và khi Ngài sống lại. Việc Chúa Giáng sinh nằm trong Lịch sử đó, và là biến cố then chốt. Sách Khôn ngoan đã có lời: "Trong khi màn thinh lặng êm ru gói cả vạn vật và đêm nhẹ bước chạy được nửa đường, lời toàn năng của Chúa đã rời ngai trời xuống thế" (18,14). Lời sách viết về thần sứ xuống giết con đầu lòng đất Aicập để giải phóng dân. Nhưng lời ấy sẽ chân thật biết bao nếu áp dụng vào việc Chúa giáng thế vì chính Người mới thật là Ðấng đến để cứu thế. Phụng vụ đã căn cứ vào lời trên và vào thói quen canh thức để ấn định Giờ Chúa sinh ra vào 0 giờ và cử hành Thánh Lễ Giáng Sinh vào Nửa Ðêm.
Ở Yêrusalem, Giáo hội dâng lễ Ðêm tại Bêlem. Sau lễ, tín hữu về tới Yêrusalem thì trời vừa bừng sáng. Ðền thờ Chúa sống lại thu hút mọi người vào đó để liên kết hai mầu nhiệm Giáng sinh và Phục sinh lại với nhau để thấy Lễ nào cũng chỉ đem lại tinh thần mới và đời sống mới. Thế là có Thánh lễ Rạng Ðông. Còn lễ Ban Ngày dần dần trở thành cần thiết để mọi người có thể mừng Ngày Chúa đản sinh trong bầu khí long trọng dễ tổ chức. Mọi nơi khác đã lần lượt bắt chước Giáo hội Yêrusalem.
Phụng vụ cử hành ba Thánh Lễ Ngày Chúa Giáng Sinh và gán cho mỗi Thánh Lễ một ý nghĩa riêng biệt. Thánh lễ Nửa Ðêm chú trọng đến Ánh Sáng từ trời cao đã xé màn đêm xuống soi sáng địa cầu, đưa ta đi vào suy niệm việc Giáng sinh của Ngôi Lời Thiên Chúa. Thánh lễ Rạng Ðông khuyên ta theo gót các mục đồng đi thờ lạy Hài Nhi mới sinh. Còn Thánh lễ Ban Ngày giới thiệu cho ta thấy "Một Con Trẻ đã sinh ra" để vĩnh viễn ở với chúng ta hàng ngày.
Chúng ta hãy đi vào từng Thánh Lễ. Suy Niệm:
(Ngày 24 Tháng 12 Lễ Chúa Giáng Sinh - Thánh Lễ Nửa Ðêm)
(Ys 9,2-4.6-7; Tt 2,11-14; Lc 2,1-14)
Bài Tin Mừng Luca hấp dẫn, đến nỗi chúng ta như quên hai bài đọc trước. Nhưng có lẽ chúng ta vẫn sẽ phải trở về để hiểu rõ bài Tin Mừng hơn và để nhận ra thái độ đạo đức phải có trước mầu nhiệm Chúa Giáng Sinh.
A. Việc Chúa Sinh Ra
Luca là tác giả duy nhất nói tỉ mỉ việc Chúa Giáng sinh. Ông viết quyển Tin Mừng của ông sau hai thánh Matthêô và Marcô. Và ông lại viết cho những người sống ở ngoài đất Israel, không biết gì về cuộc đời của Chúa và cũng không quen các tập tục Dothái. Ðộc giả của ông phần lớn là dân ngoại mới theo đạo. Họ sống trong nền văn hóa La-Hy. Luca tỏ ra là một học giả trong nền văn minh đó. Ông sưu tập tài liệu, viết truyện có đầu có đuôi. Ông không thể bắt đầu kể chuyện về Chúa từ khi Ngài ra đi giảng đạo. Lối viết tiểu sử của Hylạp đòi phải khởi sự từ việc Chúa Giáng sinh.
Không những thế, Luca còn bắt chước các văn sĩ cổ điển của La-Hy. Viết về một nhân vật xuất chúng không những phải kể lại đúng biến cố đã xảy ra nhưng còn phải cho độc giả thấy ngay vẻ xuất chúng qua nhân vật ấy. Luca sung sướng tiếp nhận lối hành văn của người đồng thời để giới thiệu hai mầu nhiệm của việc Chúa Giáng sinh, cũng là hai bản tính trong Hài Nhi vừa sinh ra ở Bêlem.
Bài Tin Mừng rõ ràng có hai phần. Phần trên kể lại sự kiện trên bình diện loài người; việc Chúa sinh ra rất chân thực, không có gì khác lạ. Nhưng trong phần sau, Luca đã lấy ánh sáng bởi trời, ánh sáng của đức tin siêu nhiên để bảo ta nhận biết Hài Nhi vừa sinh ra kia là Thiên Chúa. Cả hai khía cạnh tự nhiên và siêu nhiên được chú trọng như nhau để nói lên sự kiện Ðức Kitô là Con người - Thiên Chúa và ta phải nhìn nhận nơi Con Trẻ thành Bêlem cả nhân tính lẫn thiên tính.
Nói thế chứ cả khi kể lại việc Chúa sinh ra trên bình diện loài người, Luca cũng đã tỏ ra là một cây bút rất đạo đức. Ông xác định thời buổi Chúa sinh ra dưới thời César-Augustô và Quirinô bấy giờ là Tổng trấn Syri. Rõ rệt hơn nữa, sự việc đã xảy vào đúng lúc kiểm tra dân số. Và Chúa đã Giáng sinh tại một địa điểm rõ ràng: ở Bêlem xứ Yuđê, và trong một hoàn cảnh cụ thể: hai ông bà Yuse và Maria không tìm được nơi nào trong quán trọ, nên phải đặt Hài Nhi chỗ máng ăn của súc vật. Với những nét tả chính xác như vậy, Luca làm cho người ta thấy Ðức Kitô thật là một người, đã sinh ra trong thời gian và không gian nhất định và đã phải chấp nhận một hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Ai muốn kiểm chứng cũng có thể làm được. Nên không một ai có thể phủ nhận bản tính loài người nơi Ðức Kitô, và hết thảy chúng ta phải đón nhận Người như là một anh em trong số loài người chúng ta.
Nhưng đồng thời khi kể lại câu chuyện lịch sử ấy, Luca còn để ý đến khía cạnh Tin Mừng. Như Ðức Kitô sẽ cho ta thấy sau này, Tin Mừng của Người luôn luôn gắn bó với đức Khó nghèo và mầu nhiệm Tử nạn. Thiên Chúa luôn ban Tin Mừng cứu độ qua các phương tiện tầm thường và đòi cố gắng hy sinh. Việc Chúa Giáng sinh mang ơn cứu độ đến, đã xảy ra trong cảnh khó nghèo và như bị chèn ép, bỏ rơi, hất hủi. Luca cho ta thấy ngay bộ mặt đế quốc to lớn của César-Augustô thời bấy giờ với sức mạnh vô địch truyền kiểm tra khắp nơi. Còn Chúa mang ơn cứu độ đến thì sinh ra làm một Hài Nhi nằm trong máng ăn của súc vật. Người không tìm được chỗ đứng nào trong xã hội và bị hất hủi. Người sẽ xây dựng lại hạnh phúc cho loài người từ thân phận nghèo hèn, đói rét.
Và để làm nổi bật khía cạnh tin mừng cứu độ, Luca đã dùng lại phương pháp của Cựu Ước. Ông mô tả việc Chúa Giáng sinh theo kiểu so sánh, biền ngẫu. Ðoạn văn này mà được đọc với đoạn Tin Mừng kể chuyện Yoan Tẩy Giả sinh ra, sẽ cho ta thấy rõ thâm ý của tác giả muốn dùng lại kiểu viết văn so sánh của Cựu Ước. Và chúng ta có thể thấy ông dùng lại những từ của sách Khởi nguyên 25,24 để hàm ý Ðức Kitô vượt xa Yoan Tẩy Giả và Yacob (cũng gọi là Israel), nên Ngài thật là Israel mới, là Con Thiên Chúa, là Dân Mới của Thiên Chúa.
Xác quyết như vậy cũng chưa đủ, Luca trong phần còn lại của bài Tin Mừng còn giới thiệu với chúng ta chân tướng đích thực của Hài Nhi và những ơn Người mang lại cho ta. Người là Thiên Chúa vì ánh sáng của Thiên Chúa phủ trên Người và bao nhiêu thần đang thờ lạy xướng ca. Người đến không mang theo sự sợ hãi như trong thời Cựu Ước mỗi lần có việc Chúa hiển linh; trái lại, Người mang theo Tin Mừng to lớn cho toàn dân, vì Người là Cứu Chúa. Người ta chỉ đón nhận Ơn đó nếu chấp nhận "dấu chỉ" của Thiên Chúa, tức là chấp nhận tính cách khó nghèo và con đường thập giá của Phúc Âm. Lúc đó người ta sẽ thấy vinh quang của Chúa và vinh quang ấy đem lại an bình vì họ thấy rõ mình được Chúa thương.
Như vậy, bài Tin Mừng Luca quá súc tích. Nó cho ta không những đề tài phong phú để suy nghĩ mà còn gợi lên nhiều thái độ phải có đứng trước mầu nhiệm Chúa Giáng sinh. Ta hãy nhận thức nhờ sự hỗ trợ của hai bài đọc trước. B. Bài Học Giáng Sinh
Isaia từ ngàn xưa đã nhìn thấy việc Hài Nhi sinh ra cho ta đêm nay là như một luồng sáng mạnh đến mở măt cho ta đang lẩm cẩm đi trong bóng tối sự chết. Ðời sống con người từ trước tới nay như chỉ luẩn quẩn trong cảnh chém giết bóc lột lẫn nhau. Nay Ðấng kỳ diệu đến mang lại hòa bình và tình thương. Người bẻ gãy mọi ách nô lệ, không bằng sức mạnh nhưng bằng thiên tính mà Yoan đã định nghĩa là Tình Yêu, và Phaolô trong thư đọc hôm nay đã khẳng định yêu thương là hiện thân cứu chuộc. Thiên Chúa trong mầu nhiệm Giáng sinh hiện thân để cứu chuộc chúng ta. Vì loài người chúng ta mà Người đã xuống thế. Phụng vụ bảo ta hãy quỳ gối thờ lạy mầu nhiệm này. Nhưng rồi Phụng vụ lại bảo ta đứng lên đi theo con đường Người đã đi, là xả thân cứu đời.
Chúng ta chỉ mừng lễ Chúa Giáng sinh cách xứng đáng khi nghe lời Phaolô khuyên bảo Titô: hãy để cho Ơn Chúa Cứu Thế dạy dỗ mình từ bỏ mọi ham muốn thế tục và ích kỷ, tập sống công bình và đạo hạnh ở đời này, để đi đến niềm trông đợi hạnh phúc vinh quang. Mừng lễ Chúa Giáng sinh như vậy là suy nghĩ về nguyên nhân nào đã tạo nên cảnh bất hạnh trong đời sống con người trước đây, nhận thức giá trị đường lối đạo đức công bình của Tin Mừng khó nghèo và bác ái; để xây dựng hòa bình hạnh phúc cho mọi người. Dĩ nhiên Chúa sinh ra để cứu ta khỏi tội, nhưng tội lội cụ thể là tất cả những chướng tai gai mắt, bất công bóc lột giam giữ con người trong thế lực phi nhân phi nghĩa của đồng tiền và dục vọng.
Ơn Thánh Thể mà chúng ta lãnh nhận trong Thánh Lễ này chính là thiên tính và thần lực để giúp chúng ta bắt đầu nếp sống mới, bỏ mọi dục vọng vị kỷ hầu sống cho mọi người, như Ðức Kitô đã giáng sinh làm người chỉ vì hết thảy mọi người chúng ta.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Đêm nay, nhân loại trên khắp thế giới hướng về Bêlem như trung tâm của đức tin Kitô giáo, bởi vì: GS-325
Đêm nay, nhân loại trên khắp thế giới hướng về Bêlem như trung tâm của đức tin Kitô giáo, bởi vì con người trở về Bêlem không do óc tưởng tượng nhưng là một việc thực tế : một Hài Nhi đã giáng sinh cho con người, cho nhân loại. Bêlem nơi Chúa sinh ra là trung tâm đức tin của con người. Hang lừa máng cỏ là trung tâm của việc mừng lễ Giáng sinh của con người, của chúng ta. Tiếng hát của các thiên thần khi xưa:” Vinh danh Thiên Chúa trên Trời
Bình an dưới thế cho người thiện tâm “ ( Lc 2, 14 )
như vẫn vang vọng trong đêm Giáng Sinh và rồi các mục đồng bảo nhau :” Nào chúng ta sang Bêlem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết “ ( Lc 2, 15 )
Nhân loại đêm nay vẫn trở về Bêlem để như các mục đồng năm xưa đã thấy một thực tế, một sự lạ lùng vô kể. Đến nơi,họ gặp bà Maria, Ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ ( Lc 2,16 ). Đích thực, đây là Mầu nhiệm đức tin và là mầu nhiệm của tình thương. Những chú mục đồng không học thức, vô danh tiểu tốt khi thấy sự việc lạ lùng như thế, đã kể lại cho nhiều người điều họ đã được nói về hài nhi :” Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ “ ( Lc 2, 12 Máng cỏ có ý nghĩa vì đức tin. Chính thiên thần đã nói với các mục đồng :” Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa” ( Lc 2, 11 ). Trẻ sơ sinh được đặt trong máng cỏ chính là Cứu Chúa. Do đó, Giáng Sinh chính là trở về với Mầu nhiệm Nhập thể, trở về với đức tin để nhận ra trẻ thơ mới sinh được đặt trong máng cỏ nơi hang Bêlem là Hài Nhi Giêsu, Đấng Cứu Thế.
Đức tin cho chúng ta hiểu về Mẹ Maria, một cô thôn nữ nghèo nhưng được Thiên Chúa chọn lựa làm Mẹ của Chúa Giêsu và làm Mẹ của chúng ta. Đức tin giúp chúng ta nhận ra thánh Giuse, một Người công Chính đã được Thiên Chúa tuyển chọn để bênh vực Đức Mẹ và dưỡng nuôi Chúa Giêsu. Các mục đồng là những người đầu tiên đã gặp Chúa Cứu Thế và kể lại về những điều họ đã biết về Hài Nhi Giêsu cho những người khác. Nhờ đức tin, nhân loại và mọi người chúng ta sẽ nghiệm ra những điều kỳ diệu nơi hang đá Bêlem và những gì xẩy ra khi vua Hêrôđê tìm giết Hài Đồng Giêsu. Nhờ đức tin cả cuộc hành trình tiến về Quê trời luôn có ý nghĩa cao vời.
Ngôn sứ Isaia đã viết :” Mọi dân nước đã đi trong tối tăm sẽ nhìn thấy ánh sáng lớn lao “. Giáng sinh là lễ ánh sáng bởi vì chính Con Thiên Chúa đem ánh sáng đến cho nhân loại. Ánh sáng là đặc ân đức tin và đức tin đã biến đổi mọi sự.
Giáng sinh là quà tặng vô giá Thiên Chúa tặng ban cho con người, cho nhân loại chính Con Một Yêu Dấu của Ngài :” Đức Giêsu là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người “ ( Ga 3, 16 ) hoặc :” Tất cả chúng ta hãy vui mừng trong Chúa. Vì Đấng Cứu Độ chúng ta đã sinh xuống gian trần. Hôm nay từ cõi trời cao thẳm, Bình an đích thực đến giữa chúng ta “.Vâng, Đức Giêsu trong đêm Giáng sinh đã đem lại cho thế giới một Tin Mừng : Thiên Chúa chính là Cha của chúng ta, còn chúng ta là anh chị em với nhau.
Xin dùng bài thơ của một thi sĩ vô danh để nói về sự thách đố của Mầu Nhiệm Giáng Sinh :
“ Khi bài ca của các thiên thần ngừng bặt, khi ngôi sao trên bầu trời đã đi khỏi, khi các vua chúa và hoàng tử đã ở nhà, khi các mục đồng đã cùng đàn súc vật trở về, thì công việc Giáng Sinh mới bắt đầu :
để tìm lại những gì đã mất, để hàn gắn những gì đã gẫy, để người đói được ăn no, để tù nhân được giải phóng, để các nước xây dựng lại, để đem lại hòa bình đến với mọi người, để hòa nhạc bằng trái tim “.
Lạy Chúa, Chúa đã sai Con Một Chúa là nguồn ánh sáng thật đến soi chiếu trần gian làm cho đêm cực thánh này bừng lên rực rỡ. Xin cho chúng con ngày nay ở dưới thế được mầu nhiệm Giáng sinh soi dẫn mai sau cũng được cùng Con Một Chúa hưởng vinh phúc trên trời.Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh thần đến muôn thuở muôn đời “ ( Lời nguyện nhập lễ thánh lễ đêm Giáng Sinh ).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ : 1.Ông Bà Cô Bác Anh Chị Em cảm nghiệm thế nào về lễ Giáng Sinh ? 2.Ngôn sứ Isaia đã cho chúng ta thấy thế nào về Chúa Giêsu ? 3.Máng cỏ tượng trưng cho gì ? 4.Đức tin có cần cho việc nhận biết mầu nhiệm Giáng Sinh ?
Mừng lễ Giáng Sinh vào một ngày nhất định trong năm nhằm mục đích giúp chúng ta ý thức sống: GS-326
Mừng lễ Giáng Sinh vào một ngày nhất định trong năm nhằm mục đích giúp chúng ta ý thức sống những điều mầu nhiệm Nhập Thể muốn nói với chúng ta. Tuy nhiên tính cách tục hóa có thể biến lễ Giáng thành một lễ hội của người đời, một dịp để người ta tặng quà, ăn chơi… Lời báo tin của sứ thần Chúa nói với các mục đồng chắn chắn phải thức tỉnh chúng ta đừng đi vào vết xe lễ hội tưng bừng, nhưng với tất cả tấm lòng đơn sơ và khiêm nhường suy niệm về đặc tính vượt thời gian của mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người.
“Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa”. Cốt lõi sứ điệp của sứ thần là việc ra đời của Đấng Cứu Độ. Nhưng lời nào trong sứ điệp có thể giúp chúng ta nghĩ đến tính cách hiện thực của việc ra đời ấy? Đó là lời “HÔM NAY”. Trong sách Tin Mừng Lu-ca, từ “hôm nay” (2:11; 4:21; 19:9; 23:43) mang một ý nghĩa rất sống động. Nó không chỉ đơn thuần ấn định thời gian ấy là sau hôm qua và trước ngày mai. Nhưng nó muốn nói lên sự liên tục hay kéo dài của biến cố xảy ra, nhất là nó nhấn mạnh đến tầm quan trọng và ảnh hưởng mà biến cố ấy đem lại cho mọi người mọi thời. Thí dụ cụ thể, khi Chúa Giê-su nói trong hội đường Na-da-rét “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”, Người muốn ám chỉ Triều Đại Thiên Chúa đã bắt đầu và sẽ tiếp tục mở rộng cửa để đón nhận mọi người cho đến ngày tận thế. Hoặc lời Chúa nói với ông Da-kêu “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này”, hay với người trộm lành “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”, tất cả đều nhấn mạnh đến tính cách hiện thực của việc Chúa đến.
Vậy nếu đặt sự kiện Đấng Cứu Độ sinh ra trong bối cảnh “hôm nay” hiểu theo thánh sử Lu-ca, hoặc nói rõ hơn, nếu nhấn mạnh đến tính hiện thực của mầu nhiệm Chúa Giáng Sinh, thì chúng ta phải nghiêm túc xét lại “cách” mừng lễ của chúng ta. Chúng ta đã coi lễ Giáng Sinh như một việc kỷ niệm thuần túy đánh dấu mốc thời gian. Năm ngoái, khi gửi thiệp Giáng Sinh, chúng ta ghi: “Giáng Sinh 2010”. Rồi năm nay, chúng ta ghi: “Giáng Sinh 2011”. Cứ thế, cứ thế. Như vậy có lẽ chúng ta đã quên đi ý nghĩa “hôm nay” trong lời của sứ thần rồi!
Tính cách hiện thực của Giáng Sinh đòi chúng ta phải trở về với chính mầu nhiệm Đấng Cứu Độ đã sinh ra. Một điểm quan trọng sứ thần nói đến ở đây là Chúa Giê-su đã sinh ra “cho anh em”. “Anh em” không chỉ là những mục đồng Bê-lem, nhưng là tất cả nhân loại và đặc biệt là từng người chúng ta. Tiếp đến sứ thần nói tới sứ mệnh của Đấng Cứu Độ, đó là sứ mệnh của Đấng Ki-tô, của chính Thiên Chúa. Nếu Chúa Giê-su sinh ra là cho tôi, vì tôi, để giải thoát tôi khỏi tội lỗi và để đưa tôi về làm con Thiên Chúa, thì chắc chắn việc tôi mừng lễ Giáng Sinh không phải giống như mừng sinh nhật của một người. Khi chúng ta mừng sinh nhật của một người là chúng ta hát “Happy Birthday to you”, mọi sự cho người ấy. Nhưng khi chúng ta mừng sinh nhật Chúa Giê-su là chúng ta mừng cho chính mình, mừng vì Người đã sinh ra cho chúng ta và để cứu độ chúng ta.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Mỗi năm mừng lễ Giáng Sinh không chỉ là dịp để chúng ta chăng đèn kết hoa hay làm hang đá, nhưng chính là dịp để chúng ta xác tín thêm về lòng yêu thương Thiên Chúa dành cho chúng ta. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Gio-an 3:16). Đó là tất cả ý nghĩa của mầu nhiệm Giáng Sinh.
Đêm nay khi nghe bài Tin Mừng thánh Lu-ca, chúng ta hãy lắng nghe sứ điệp sứ thần nói với các mục đồng và với mỗi người chúng ta, như là nuốt từng lời ngọt ngào vào trong tâm hồn: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em… Ước gì ngày “Hôm nay” ấy sẽ sống động và kéo dài suốt cả đời tôi, để niềm vui ơn cứu độ sẽ là “ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ” giúp tôi luôn “hăng say làm việc thiện” (Ti-tô 2:11,14)!
Trong mùa Giáng Sinh, tặng quà là cách nói lên tình yêu thương mình muốn dành cho người nhận: GS-327
Trong mùa Giáng Sinh, tặng quà là cách nói lên tình yêu thương mình muốn dành cho người nhận quà. Không biết lai lịch việc tặng quà Giáng Sinh có từ bao giờ và tại sao người ta có phong tục đó. Nhưng chắc nó là hành vi bắt chước Thiên Chúa tặng Con Một Người cho nhân loại. Việc Thiên Chúa ban tặng Con Một cho thế gian đã được thánh sử Gio-an nói lên trong sách Tin Mừng của ngài và các bài đọc Thánh Lễ Nửa Đêm đã nói về điều này dưới những khía cạnh khác nhau.
“Một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta” (bài đọc Cựu Ước – Is 9:1-6)
Ngôn sứ I-sai-a đã hiểu được phần nào tấm lòng của Thiên Chúa đối với dân Người và toàn thể nhân loại. Ngài nhận ra ý nghĩa của việc ban tặng do chính quà tặng của Thiên Chúa. Không phải quà tặng bằng tiền bạc, giàu sang hay quyền lực trần gian, nhưng là quà tặng có thể diễn tả được trọn vẹn “yêu thương nồng nhiệt” (Is 9:6c) của Thiên Chúa: “Một người con đã đươc ban tặng cho ta”. Để biết tại sao Thiên Chúa ban tặng cho ta một món quà lạ lùng như thế, ta hãy đọc lại mấy dòng đầu của bài đọc hôm nay.
Theo ngôn sứ I-sai-a, nhân loại đang sống trong tình huống vô cùng tuyệt vọng. Họ lầm lũi “bước giữa tối tăm” và sống “trong vùng bóng tối”. Họ bị đè nặng dưới ách nô lệ tội lỗi, giống như dân Ít-ra-en đã sống kiếp lưu đày tại Ba-by-lon. Nào là “ách đè lên cổ, gậy đập xuống vai”. Nào là quằn quại, máu đổ thịt rơi dưới “ngọn roi của kẻ hà hiếp”. Trong tình huống như thế, người ta còn mong gì nữa ngoài ánh sáng, giải phóng và niềm hoan hỷ lẫn nỗi vui mừng? Những điều này đã bị tội lỗi lấy đi và nếu tìm lại được thì người ta sẵn sàng đánh đổi mọi sự. Đáp lại khát vọng này của nhân loại, Thiên Chúa đã ban tặng họ một quà tặng thực tế: Đấng Cứu độ là Chúa Giê-su Ki-tô, Con Một Người.
Đến với nhân loại, Con Một Chúa sẽ thi hành một sứ mệnh cao cả và đầy khó khăn với những chức năng là “Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hòa bình”. Là Cố Vấn, Chúa Ki-tô sẽ chỉ dạy cho nhân loại biết con đường Thiên Chúa muốn họ đi dưới ánh sáng Tin Mừng. Là Thần Linh dũng mãnh, Chúa Ki-tô khôi phục lại tinh thần của Thiên Chúa nơi con người nguyên thủy đã bị tội lỗi làm cho suy yếu, để nhân loại được tái sinh và sống đời sống mới trong Thánh Thần (Rm 8). Là người Cha muôn thuở, Chúa Giê-su đem lại cho con người một căn tính mới, vì trước đây tội nguyên tổ đã biến con người thành kẻ thù của Thiên Chúa, thì từ nay kết hiệp với Chúa Giê-su, họ sẽ được trở nên dưỡng tử của Thiên Chúa. Là Thủ Lãnh hòa bình, Chúa Giê-su giao hòa nhân loại với Thiên Chúa và duy trì mối quan hệ thân thiết giữa Thiên Chúa với nhân loại giống như mối quan hệ trong vườn địa đàng ngày trước.
Cuối cùng, ngôn sứ I-sai-a không thể bỏ qua động lực Thiên Chúa thực hiện việc ban tặng cho con người món quà tuyệt vời. “Vì yêu thương nồng nhiệt, Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó”. Những gì vị ngôn sứ tiên báo giờ đây đã được thực hiện trong Chúa Giê-su Ki-tô, Ân Sủng của Thiên Chúa ban cho nhân loại.
Khi nhận quà Giáng Sinh, nếu là món quà đúng theo ước muốn thì em nhỏ sẽ tỏ ra hết sức sung sướng. Em hét to lên, nhảy nhót và rối rít cám ơn người cho quà. Cử chỉ đơn sơ thành thật ấy dạy ta thái độ phải có đối với Thiên Chúa, Đấng ban tặng ta người Con Yêu Dấu. Quà tặng vô giá ấy biểu lộ tình Chúa yêu ta. Không lẽ ta cứ nhận quà tặng một cách dửng dưng hoặc vô ơn mãi hay sao? “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít” (bài Tin Mừng – Lc 2:1-14)
Lời Thiên Chúa hứa ban quà tặng cho nhân loại đã được ngôn sứ I-sai-a tiên báo nay đã được thực hiện. Giấc mơ được cứu thoát khỏi tối tăm và sầu thảm của nhân loại nay đã trở thành sự thật. Thánh sử Lu-ca ghi lại việc Thiên Chúa trao quà tặng qua trình thuật Giáng Sinh, đầy đủ với những chi tiết thời gian, không gian, hoàn cảnh chính trị và tôn giáo của thời điểm ấy. Những chi tiết này chứng tỏ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện giữa dòng lịch sử của nhân loại, chứ không phải một kế hoạch bỗng dưng tự trời rơi xuống mà không có sự đóng góp của con người.
Mặc dù thánh sử ghi lại mốc thời gian và không gian của biến cố Giáng Sinh, nhưng trong việc loan báo tin mừng Giáng Sinh, ngài lại nhấn mạnh đến tính chất hiện tại và sống động của biến cố qua từ “Hôm nay” trong lời sứ thần bảo những người chăn chiên. Thời điểm “Hôm nay” không hẳn có nghĩa là một ngày nhất định trong niên lịch, thí dụ ngày 25 tháng 12 năm 1 công nguyên, nhưng nhắm đến ý nghĩa biểu tượng của sự kiện Thiên Chúa thực sự yêu thương nhân loại và tính năng động của biến cố Giáng Sinh. Giáng Sinh không phải đơn thuần là một kỷ niệm, nhưng quan trọng hơn, biểu lộ tấm lòng của Thiên Chúa hằng yêu thương nhân loại đang diễn tiến trong nhân loại nói chung và trong tâm hồn những ai biết đón nhận tình yêu của Người. Lời sứ thần loan báo đã được chính Chúa Giê-su, Đấng Cứu Độ, lập lại khi Người đến và ở lại nhà ông Da-kêu.
“Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham” (Lc 19:9).
Nói khác đi, thời điểm “Hôm nay” trong lời của sứ thần phải là thời điểm “Hôm nay” trong cuộc đời của ta, những người mở lòng đón nhận quà tặng cứu độ của Thiên Chúa. Lời “cho anh em” mà sứ thần nói không chỉ là những lời dành riêng cho những kẻ nghèo hèn đầu tiên tại cánh đồng Bê-lem được thấy Đấng Cứu Độ, nhưng là những kẻ nghèo hèn của Thiên Chúa mọi thời mọi nơi. Tính cách hiện thực của Quà Tặng Thiên Chúa ban cho ta khác hẳn với những quà tặng ta cho nhau trong dịp mừng lễ Giáng Sinh, bởi vì Quà Tặng Giê-su luôn sống động nói lên mối quan tâm chăm sóc Thiên Chúa dành cho ta. Quà tặng của ta có những giới hạn của nó. Con búp bê biết nói hay chiếc xe hoạt động được là nhờ mấy cục pin. Pin hết điện thì quà tặng cũng thành vô dụng. Còn Quà Tặng Thiên Chúa ban cho ta thì đi vào cuộc đời ta, biến đổi ta, đồng hành với ta trên trần gian, chết và sống lại vì ta để đưa ta về với Chúa Cha là Đấng ban cho ta Quà Tặng. Chính vì thế, Quà Tặng ấy mang một danh hiệu tuyệt vời: “Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa”.
Sứ thần cho những người chăn chiên một dấu chỉ để nhận ra Đấng Cứu Độ: trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ. Dấu chỉ không có gì đặc biệt, nhưng rất gần gũi và quen thuộc với những người chăn chiên nghèo hèn. Con nhà nghèo mới bọc tã. Máng cỏ thì ngày nào họ chẳng nhìn thấy. Chúa ban cho ta những dấu chỉ tầm thường và gặp thấy ngay trong đời sống hằng ngày của ta để ta nhận biết Người. Điều quan trọng là ta có thiện tấm tìm gặp Chúa qua những dấu chỉ quen thuộc đó không. Xa hơn nữa, ta có quảng đại và không ngại gian khổ để đến với Người, như những người chăn chiên đi tìm Chúa giữa đêm khuya lạnh lẽo không. Chúa Giê-su, “Ân Sủng của Thiên Chúa”, dạy ta lối sống mới (bài đọc Tân Ước – Tt 2:11-14)
Nhận quà tặng mùa Giáng Sinh, nhiều khi ta cũng không mở ra, phần vì bận rộn công việc, phần vì thấy những thứ đó cũng chẳng cần thiết. Nhưng Chúa Giê-su, quà tặng Thiên Chúa ban cho ta, là Đấng ta hằng mong chờ thì ta cần phải đón nhận với tất cả lòng chân thành yêu mến. Thánh Phao-lô gọi việc Thiên Chúa ban Con Một Người cho ta là Ân Sủng. Vậy Ân Sủng ấy sẽ làm gì cho ta được cứu độ? Tất cả cuộc đời của Chúa Giê-su đã được dâng hiến cho nhân loại. Người nhập thể và sinh ra là để chia sẻ phận người với ta. Khi thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Người “dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” (Tt 2:12). Cuối cùng, Người đã chấp nhận chết do khổ hình thập giá để cứu ta thoát khỏi quyền lực của tội lỗi và giao hòa ta với Thiên Chúa. Từng giai đoạn trong cuộc đời, Chúa Giê-su đã chu toàn sứ mệnh cứu độ trần gian.
Tuy nhiên, thánh Phao-lô giúp ta nhận ra hai thời điểm quan trọng: thời điểm thứ nhất là khi “Ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ”, và thời điểm thứ hai là “ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Ki-tô Giê-su xuất hiện vinh quang”. Đó là thời gian của Chúa. Còn thời gian của ta là khoảng giữa hai thời điểm ấy. Vậy từ ngày Chúa Giê-su đến lần thứ nhất tới ngày Người trở lại phán xét, ta phải làm gì? Ta phải để cho việc Người cứu độ hoạt động hữu hiệu nơi tâm hồn ta. Nghĩa là ta hãy để Người giúp ta “thoát khỏi mọi điều bất chính”, để Người “thanh luyện” ta, và ta hãy sống đúng với danh nghĩa là “Dân riêng của Chúa, một dân hăng say làm việc thiện” (Tt 2:14). Ta phải tạo điều kiện để Người đến và hành động cứu độ ta, chứ đừng kháng cự Người. Sống Lời Chúa
Ngôi Hai Giáng Sinh là việc Thiên Chúa bắt đầu thực hiện kế hoạch yêu thương cứu độ nhân loại. Chúa Giê-su là Quà Tặng tình yêu của Thiên Chúa ban cho ta. Vì thế đón nhận Đấng Cứu Độ là đáp trả tình yêu Thiên Chúa. Việc đáp trả ấy đòi hỏi ta phải để cho Ân Sủng của Thiên Chúa là Đức Ki-tô dạy dỗ và dẫn dắt ta ra khỏi bóng tối trần gian và tội lỗi, bước đi trong ánh sáng Tin Mừng và niềm vui làm con Chúa.
Suy nghĩ: Thánh Phao-lô dạy rằng: Dân riêng của Chúa là dân hăng say làm việc thiện. Vậy là một phần tử của con cái Chúa là Giáo Hội, tôi có “hăng say làm việc thiện” không? Hay tôi chỉ hăng say làm những việc vô bổ, thậm chí làm những điều bất chính, vô luân và chạy theo những đam mê trần tục?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã sai Con Một Chúa là nguồn ánh sáng thật đến chiếu soi trần gian làm cho đêm cực thánh này bừng lên rực rỡ. Xin cho chúng con ngày nay ở dưới thế được mầu nhiệm Giáng Sinh soi dẫn, mai sau cũng được cùng Con Một Chúa hưởng vinh phúc trên trời. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Thánh Lễ Ban Đêm).
Đức Giêsu đã đến lần thứ nhất trong khiêm cung, nghèo hèn. Chính. Trong thân phận giới hạn đó: GS-328
Đức Giêsu đã đến lần thứ nhất trong khiêm cung, nghèo hèn. Chính. Trong thân phận giới hạn đó, Người lại muốn làm chứng cho mọi người thấy chiều kích vô biên của Thiên Chúa trong giới hạn tầm thường của một phàm nhân.
VÔ BIÊN TRONG HỮU HẠN
Thiên Chúa không biết đến bất cứ giới hạn nào. Người siêu việt trên tất cả. Bởi vậy thật là kỳ diệu, khó hiểu khi Người chấp nhận giới hạn như bất cứ thụ tạo nào. Khi xuống trần làm người, Thiên Chúa đã mặc lấy tất cả chiều kích thời gian và không gian. Chính thánh sử Luca đã cho thấy chiều kích thời gian :"Thời ấy, hoàng đế Augusto ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên được thực hiện thời ông Quirinô làm tổng trấn xứ Xyria" (Lc 2:1-2). Nghĩa là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, cũng bắt đầu hiện hữu nơi trần gian vào một thời gian nhất định. Thời gian sẽ đóng khung cuộc đời của Người như bất cứ ai. Đấng không hề có khởi điểm lại chấp nhận bị vây hãm trong vòng thời gian chật hẹp như chúng ta. Không một thứ triết học nào có thể hiểu nổi sự kết hiệp kỳ diệu ấy.
Chiều kích không gian cũng khắt khe không kém. Đức Giêsu đã được sinh ra trong "thành vua Đavít" (Lc 2:4). Hình ảnh huy hoàng này chỉ gợi nhớ lời hứa Chúa thực hiện cho nhà Đavít. Thực tế thật là bi thảm. Chúa đã sinh ra "trong máng cỏ" (c.7), giữa cảnh bơ vơ, hất hủi, "vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ" (c.7). Một Thiên Chúa làm bá chủ toàn thể vũ trụ, chỉ tìm được một nơi sinh ra kém một người bình thường ! Thật là bất lực, yếu đuối !
Từ Thiên triều tráng lệ, Chúa lao thẳng xuống cảnh nghèo hèn. Cảnh tượng thật trái ngược. Chúa đến qui tụ "những người chăn chiên sống ngoài đồng" (c.8), sống "bên lề xã hội" (Kinh thánh Tân Ước : 1995). Xuất hiện như thế, làm sao Đấng Messia có thể hấp dẫn nổi những tâm hồn vẫn ngưỡng vọng một anh hùng cái thế, giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ Rôma ? Nhưng chính trong khung cảnh trần trụi đó, Đức Giêsu đã mạc khải tất cả nguồn ơn cứu độ, vì "sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối" (2Cr 12:9).
Đời sống những người chăn chiên không còn êm ả bình thường nữa, vì "họ kinh khiếp hãi hùng" trước cảnh tượng "sứ thần đứng bên họ và vinh quang của Chúa chiếu tỏa chung quanh" (c.9). Họ không hiểu chuyện gì xảy ra. Tất cả đều ngoài sức tưởng tượng. Như thế là bàn tay Thiên Chúa đã can thiệp vào lịch sử nhân loại ư ? Làm sao họ có thể chuẩn bị sẵn sàng ? Giữa lúc họ kinh hoàng, lạc lõng như thế, sứ thần trấn an ngay : "Anh em đừng sơ"(c.10). Chính đời sống đơn sơ nghèo hèn đã chuẩn bị cho anh em xứng đáng đón nhận "tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân : Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa" (c.11). Thế mới hiểu được tại sao Chúa nói : "Phúc cho anh em là những kẻ khó nghèo, vì nước Thiên Chúa là của anh em" (Lc 6:20).
Sống ngoài luật Do thái, họ không hề biết đến giấc mơ huy hoàng của một Đấng Messia oai hùng. Từ cảnh tượng nghèo hèn, họ cũng chỉ tìm gặp được Chúa trong cảnh nghèo hèn. Sứ thần cho họ một dấu chỉ phi dấu chỉ : "Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người : anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng co" (c.12). Có một cái gì đó quá quen thuộc với cuộc sống hằng ngày của những người chăn chiên, làm sao tạo nổi dấu chỉ ? Nhưng chính sự nghèo khó mới là dấu chỉ lớn lao nhất cho sức mạnh cứu độ của Thiên Chúa. Nếu sống giữa cảnh xa hoa tráng lệ, chắc chắn những người chăn chiên đó không thể nghe muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng : "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương" (c.14).
Tâm hồn họ tràn ngập niềm vui, vì Đấng đã từng làm vinh danh Thiên Chúa, nay trở thành nguồn bình an cho toàn thể nhân loại, trong đó họ là những người đầu tiên đón nhận vinh dự đó. Nói khác, "cuộc giáng sinh của Đức Giêsu là bảo chứng của ơn bình an ấy." (Kinh thánh Tân Ước 1995) Người sẽ nối kết trời đất trong một hòa điệu tuyệt vời. Nguồn bình an ấy chỉ có thể kiếm thấy nơi một mình Đức Giêsu, vì "Người thật là Đấng cứu độ trần gian" (Ga 4:42). Như thế Đấng Messia Thiên Chúa sai đến còn oai hùng hơn anh hùng cái thế theo quan niệm trần tục của Do thái nhiều, vì Người đến giải phóng toàn thể nhân loại khỏi nô lệ tội lỗi.
TIN MỪNG HÔM NAY
Tiếp nối công cuộc cứu độ, Hội Thánh hôm nay cũng đang nhập thể vào cuộc sống nhân loại để "biến đổi lịch sử và thế giới" (Kilcourse:1993). Mặc dù sống theo tinh thần khó nghèo, Hội Thánh luôn phấn đấu chống lại nghèo khó. Tinh thần khó nghèo đã không trở thành một khẩu hiệu mị dân. Trái lại vì khó nghèo nên Kitô hữu mới được giải thoát để có thể dễ dàng dấn thân nhập thể như Chúa Kitô. Chẳng hạn biết bao tổ chức bác ái Công giáo đã giải thoát hàng triệu người khỏi cảnh cùng cực khổ đau. Trận lụt miền Trung vừa qua, đồng bào cũng đã đón nhận được những viện trợ tinh thần và vật chất từ những người sống mầu nhiệm Đức Kitô nhập thể. Kitô hữu không bao giờ là khách bàng quan trước những anh em đau khổ. Trái lại, "vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng ho" (GS 1).
Kitô hữu đã chia sẻ thực sự đến tận cùng tất cả nỗi khổ đau nhân loại. Đối với nhiều người, đau khổ có thể là "kỳ đã cản mũi". Nhưng đối với Kitô hữu, đau khổ lại là lời mời gọi tìm dung nhan Thiên Chúa. Sở dĩ vì "chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta"(2 Ep 2:10). Nghĩa là trước khi nhập thể cùng với Đức Kitô, "chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa" (c.10), được nhào luyện trong ngọn lửa tình yêu Thánh Linh.
Đó là lý do tại sao Hội Thánh không ngừng hoạt động cho hạnh phúc nhân loại trên mọi lãnh vực và cấp độ, dù phải đổ máu. Chẳng hạn, Giáo hội không ngừng tranh đấu cho quyền sống của những trẻ sơ sinh, người nghèo, người bị áp bức, cho hòa bình thế giới. Biết bao nhiêu Kitô hữu đang âm thầm hi sinh cho các người đau khổ trong các trại cùi, cô nhi viện, các xóm nghèo lao động v.v. Cùng nhập thể với Đức Giêsu, Kitô hữu sẽ làm cho cả nhân loại "thấy một ánh sáng huy hoàng" (Is 9:1) là Đức Kitô, để "đem ơn cứu độ đến cho mọi người." (Tt 2:11) "Vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta xuất hiện vinh quang."(c.13) Đúng ra, “những món quà đó phải nhắc nhớ đến Đức Giêsu, món quà Thiên Chúa gởi cho nhân loại.” (ĐGH Gioan Phaolô II:CWNews 23/12/2002)
Ngày nay hình ảnh Chúa Hài Nhi Giêsu không còn xuất hiện trên những tấm thiệp hay những món quà Giáng Sinh. Nhân vật chính đã biến khỏi sân khấu cuộc đời. Thiên hạ bận rộn và quay cuồng với việc sắm sửa cuối năm. Mấy ai dừng lại để tìm ra ý nghĩa truyền thống Giáng sinh tốt đẹp hôm nay ? Nhưng đây là thời gian “các Kitô hữu nên cầu nguyện gấp đôi, và chuẩn bị cử hành lễ Giáng Sinh với ‘sự thinh lặng nội tâm’, theo gương Đức Maria và thánh Giuse, và bắt chước các ngài ‘sẵn sàng đón nhận thánh ý Thiên Chúa” (ĐGH Gioan Phaolô II:CWNews 23/12/2002) như một luồng sáng chiếu soi cuộc đời đầy tăm tối hôm nay. Lm. Đỗ Vân Lực, OP
Thánh lễ Nửa đêm đã tường thuật biến cố Chúa Giê-su ra đời trong một khung cảnh nghèo nàn: GS-329
Thánh lễ Nửa đêm đã tường thuật biến cố Chúa Giê-su ra đời trong một khung cảnh nghèo nàn, khác hẳn với cảnh ấm cúng và giàu có của gia đình ông Gio-an Tẩy giả. Nhưng chính khung cảnh đơn sơ ấy lại làm nổi bật lên sứ điệp vô cùng quan trọng cho toàn thể nhân loại: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa” (Lc 2:11). Trước Tin Mừng vĩ đại ấy, nhóm người chăn chiên và Mẹ Ma-ri-a, những người đầu tiên đón nhận đã có những tâm tình nào? Thánh lễ Rạng đông và đặc biệt là bài Tin Mừng sẽ cho ta những câu trả lời. “Nào chúng ta sang Bê-lem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết” Đây là những lời phát tự đáy lòng nhóm người khao khát tìm gặp Đấng Cứu Độ. Ta thử đặt mình trong tâm trạng của những người chăn chiên để hiểu được quyết định đi Bê-lem của họ. Trước hết họ quyết định ra đi lập tức vào giữa đêm đông. Thực ra quãng đường không xa lắm, độ vài cây số thôi. Nhưng di chuyển ban đêm không phải là dễ dàng, nhất là trong vùng đồi núi và khí hậu lạnh buốt. Hơn nữa, nếu họ ra đi thì đoàn vật họ trông coi sẽ ra sao đây? Vậy động lực nào thúc đẩy họ ra đi? Chính họ đã nói lên động lực ấy: để xem sự việc đã xảy ra! Sự việc đã xảy ra là biến cố “Đấng Cứu Độ là Đấng Ki-tô Đức Chúa đã sinh ra trong thành vua Đa-vít”.
Chắc chắn, “xem” ở đây không chỉ mang ý nghĩa xem bằng mắt, nhưng là thấy và nhận ra ý nghĩa đích thực của biến cố đã xảy ra. Với con mắt thường, ta xem việc ra đời của một đứa bé không có gì là đặc biệt, cũng như hằng triệu đứa bé sinh ra mỗi ngày thôi. Trong khung cảnh gia đình, việc ra đời của một đứa trẻ có thể là một tin vui, một sự mong đợi từ lâu rồi. Nhưng để xem và hiểu được biến cố Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho chúng ta, thì ta phải xem bằng con mắt đức tin, nghĩa là bằng tất cả tấm lòng yêu mến và tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa. Tấm lòng ấy đã được các sứ thần ca lên để ngợi khen Thiên Chúa: Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Đúng vậy, tất cả lòng tin yêu của ta được gói ghém trong lời ca của các sứ thần. Với con mắt đức tin, ta nhận ra bức tranh Giáng Sinh gồm hai khung cảnh: trời và đất. Trên trời là vinh quang của Thiên Chúa và dưới đất là bình an của một nhân loại được Chúa yêu thương. Nhưng quan trọng nhất giữa hai khung cảnh ấy là Hài Nhi Giê-su. Nơi Người chiếu tỏa ra vinh quang của Thiên Chúa và bình an của nhân loại. Ta chỉ có thể nhận ra vinh quang của Thiên Chúa trong Chúa Giê-su (Ga 1:14) và ta cũng chỉ tìm thấy bình an đích thực trong Chúa Giê-su mà thôi (Ga 14:27). Vậy Giáng Sinh, hay “sự việc đã xảy ra như Chúa đã tỏ cho ta biết”, đó là chân lý Thiên Chúa luôn yêu thương nhân loại nên giờ đây Người ban bình an cho họ. Hoặc nói như thánh Gio-an: Thiên Chúa đã yêu nhân loại đến nỗi cho Con Một xuống để giao hòa nhân loại với Người.
Hành trình đức tin của những người chăn chiên bắt đầu bằng việc mau mắn làm theo lời báo tin của các sứ thần. Họ vội vã ra đi do lòng tin yêu nung đốt. Họ gặp và chiêm ngưỡng Thánh Gia tại Bê-lem. Thánh Lu-ca không thể diễn tả cuộc gặp gỡ ấy, vì nó đầy ắp tâm tình tin kính và yêu mến. Rồi khi họ nói cho những người khác biết về Hài Nhi, người ta chỉ có phản ứng “ngạc nhiên” mà thôi. Thiếu con mắt đức tin, người ta sẽ coi việc sinh ra của Hài Nhi đơn giản như một điều ngạc nhiên. Mà ngạc nhiên là phản ứng nhất thời do đầu óc chứ không phải do con tim và không phải là hành vi của đức tin. Sau khi thi hành sứ mệnh loan báo Tin Mừng, những người chăn chiên ra về, “vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa”. Nghĩa là đi tới đâu họ cũng ngợi khen Chúa, chứ không phải chỉ ca tụng Chúa trong Đền Thánh hay nhà thờ. Đức tin đã làm cho họ trở thành những kẻ rao giảng Tin Mừng trong bất cứ hoàn cảnh nào.
“Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”
Chỉ một câu Kinh Thánh cũng đủ để vẽ lên hình ảnh tuyệt vời Mẹ Ma-ri-a chiêm niệm biến cố Giáng Sinh. Câu Kinh Thánh mà Lu-ca viết ở đây về Đức Mẹ có thể áp dụng vào mọi lúc trong cuộc đời của Chúa Giê-su, vì tất cả những gì xảy ra trong đời của Chúa Giê-su từ giây phút Nhập thể cho tới lúc tắt thở trên thập giá đều là những kỷ niệm trân quý đối với Mẹ. Mỗi kỷ niệm, mỗi biến cố trong đời Chúa Giê-su đều có một ý nghĩa đặc biệt. Nhưng những ý nghĩa ấy chỉ được sáng tỏ sau khi Chúa sống lại từ kẻ chết. Do đó Mẹ mới “suy đi nghĩ lại trong lòng” để luôn luôn sẵn sàng chấp nhận thánh ý của Thiên Chúa.
Ta thường quá chú tâm đến việc hiểu ý nghĩa mà quên đi mục đích hiểu ý nghĩa để làm gì. Còn đối với Đức Mẹ, Người “suy đi nghĩ lại trong lòng” không chỉ để hiểu ý nghĩa, mà là để trân trọng yêu quý những kỷ niệm về Chúa Giê-su, rồi nhờ những kỷ niệm ấy mà yêu mến chính Chúa Giê-su.
Khi truyền tin cho Đức Mẹ, sứ thần Gáp-ri-en đã cho Mẹ biết về sứ mệnh của Chúa Giê-su. Mỗi danh hiệu như Giê-su, Con Đấng Tối Cao, Con Thiên Chúa, đều là những đề tài suy gẫm và cầu nguyện của Mẹ về sứ mệnh cứu thế của Chúa Giê-su. Càng cầu nguyện, Mẹ càng yêu mến Chúa Giê-su hơn và càng sẵn sàng cùng với Con mình dấn thân thi hành lời “xin vâng”. Việc “suy đi nghĩ lại trong lòng” đã sinh hoa trái cho chính Mẹ và cho Chúa Giê-su. Lời “xin vâng” của Đức Mẹ lúc Truyền tin chuẩn bị cho lời “xin vâng” của Chúa Giê-su trong Vườn Dầu. Suy nghĩ và cầu nguyện
Những người chăn chiên là những người thay mặt cho một nhân loại được Thiên Chúa yêu thương và cứu độ. Cũng như họ, tôi có xác tín rằng tôi là đối tượng của tình thương Thiên Chúa không? Và tôi biểu lộ xác tín ấy bằng cách nào?
Cách cầu nguyện của Mẹ Ma-ri-a là “suy đi nghĩ lại trong lòng” đòi tôi cần phải xét lại lối cầu nguyện tôi vẫn thường làm. Vậy tôi có “suy đi nghĩ lại” hay chỉ cầu nguyện loáng thoáng cho xong? Tôi cầu nguyện “trong lòng” hay chỉ “trong trí khôn”? Việc cầu nguyện có đưa tôi đến mục đích chính là yêu mến Chúa hay chỉ là xin điều này điều kia?
Nhìn vào hang đá để gặp Đức Mẹ, thánh Giu-se và Chúa Giê-su, tôi có được những kỷ niệm nào hoặc có được những “lời” nào các Ngài nói với tôi? Cuộc gặp gỡ này có biến đổi con người tôi như đã biến đổi tâm hồn những người chăn chiên không?
Cầu nguyện
“Giữa giá rét của mùa đông, xin cho con gặp Chúa. Giữa những long đong và bấp bênh của phận người, xin cho con gần Chúa. Giữa cảnh nghèo khó và trơ trụi, xin cho con thấy Chúa đi với con và hiểu con. Lạy Chúa Giê-su bé thơ nằm trong máng cỏ, xin cho con cảm được sự bình an của Chúa, ngay giữa những âu lo hằng ngày. Xin cho con đón lấy cuộc đời con với bao điều không như ý. Và cuối cùng, xin cho con dám sống như Chúa vì Chúa đã dám sống như con.” (Trích RABBOUNI, lời nguyện 59)
Ðêm nay, tiếng hát của muôn cơ binh thiên trời vẫn trổi vang:" Vinh danh Thiên Chúa trên trời: GS-330
Ðêm nay, tiếng hát của muôn cơ binh thiên trời vẫn trổi vang:" Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm ". Sự bình an con người khắp nơi đang rất cần thiết, nền hòa bình ấy hôm nay đã được thực hiện nơi Con-Một-Thiên-Chúa:"Con là Con Cha, hôm nay Ta sinh thành ra ngươi ". Thiên Thần đã ca khúc hân hoan thúc giục các mục đồng hãy mau đi về Bêlem để chiêm ngắm Vua Giêsu, Vua Hòa Bình.Và giờ đây, khắp nơi như ngừng đọng, tâm hồn như chỉ có một nhịp thở là chào đón Ðức Vua Hòa Bình.
NHÂN LOẠI NHƯ HỢP TIẾNG CA NGỢI VUA GIÊSU HÒA BÌNH
Muôn tinh tú bầu trời hình như lắng đọng để chào mừng Chúa Giêsu giáng thế. Ðâu đây, muôn tiếng hát của các thiên thần vẫn vang lên điệu ca nhịp nhàng ca ngợi Con Thiên Chúa đản sinh làm người. Bầu trời với muôn tinh tú như ngừng thở khi Con Chúa giáng sinh mặc xác phàm nhân. Câu chuyện của thánh Luca 2,1-14 rất thi vị và hấp dẫn. Thánh sử Luca tường thuật sự kiện rất ấn tượng và gây chú ý cho mọi người. Thánh Luca không có ý viết sử, nhưng qua câu chuyện này, đặc biệt qua cuộc kiểm tra dân số trong toàn cõi Israen, thánh sử muốn trình bầy ý nghĩa sâu sa của sử: lệnh kiểm tra hộ tịch, hộ khẩu của Hoàng đế Augustô là để không một công dân nào có thể sống ngoài vòng pháp luật và qua biến cố này, Chính quyền lúc đó phát hiện ra một công dân của nước trời.
Việc Chúa sinh ra nơi hang đá máng cỏ, khi mẹ của Ngài là Maria sắp tới ngày nở nhụy khai hoa và thánh Giuse tất bật, lo âu tìm một chỗ trọ trong quán mà không ai nhường chỗ cho, đã nói lên mầu nhiệm của Thiên Chúa và gợi lên tính cách khó nghèo của việc Con Chúa giáng sinh làm người. Chúa Cứu Thế giáng sinh: thiên thần hiện ra, ánh sáng Thiên Chúa chiếu tỏa, là những dấu hiệu thời cánh chung. Ðức Kitô là vua từ vương quyền vua Ðavít và từ Thiên Chúa, vượt quá sự trông mong của dân Do Thái. Chúa Giêsu Kitô giáng sinh mang hai bản tính: bản tính Thiên Chúa và bản tính loài người. Tin Mừng của thánh Luca quả thực đã làm nổi bật CON-NGƯỜI-CHÚA-CỦA-VUA-HÒA-BÌNH. Chúa Giêsu đến để mang an bình cho nhân loại, cho mọi người . HÒA BÌNH TRỞ NÊN NIỀM VUI, NIỀM HY VỌNG CỦA MỌI NGƯỜI
Trẻ thơ Giêsu nằm trong máng cỏ nghèo hèn với lũ bò lừa thở hơi ấm, với đám mục đồng vô danh tiểu tốt mau chân theo lời chỉ dẫn của các thiên thần đã tới Bêlem để tìm gặp Chúa, đã nói lên tình yêu hòa bình, tình yêu từ bỏ, hy sinh mà Chúa Giêsu sẽ mang lại. Qua máng cỏ, con người, nhân loại đã thấp thoáng thấy thập giá:" Khi nào Ta được treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lại với Ta". Bêlem như thế năm xưa vẫn luôn hiện thực. Mừng lễ giáng sinh, nhân loại sẽ không chỉ dọn dẹp bên ngoài lộng lẫy, trang hoàng sáng loáng với những kỹ thuật hiện đại. Nhưng giáng sinh là một con người, trước khi trở thành lễ hội. Vậy, trở về Bêlem với đức tin sâu thẳm để thấy Chúa Giêsu bằng xương bằng thịt đang nằm trong hang đá máng cỏ rất khó nghèo. Con người đó là Vua Hòa Bình., Vua muôn dân. Philatô sau này trong vụ án sẽ không hết tò mò muốn biết về tông tích của Vua Giêsu:" Ông có phải là vua không ?". Trước câu hỏi ấy và câu trả lời của Chúa Giêsu đã mang lại cái chết theo ý Chúa Cha. Một con người mang tên Giêsu trong một biến cố năm xưa, đã sinh ra dưới thời Hoàng đế Augustô, đã được đặt trong máng cỏ tại Bêlem, là Vua Hòa Bình. Nhân loại sẽ nhận ra niềm vui khi họ như các mục đồng nhận ra Hài Ðồng Giêsu nơi hang đá Bêlem và niềm vui sẽ trở nên niềm cậy trông cho muôn người.
Lạy Chúa Giêsu Hài Ðồng, xin ban sự an bình cho tất cả mọi người chúng con để chúng con nhận ra bộ mặt đầy yêu thương của Chúa cứu thế Giêsu. GỢI Ý CHIA SẺ 1.Chúa Giêsu là ai ? 2. Cảm nghiệm của anh chị về lễ giáng sinh.
Vào thời trung cổ, ở nước Nga thời trung cổ, có một hoàng tử tên là A-lếch-xích (Alexis) hoàng tử có một tình thương rất đặc biệt dành cho những người nghèo khổ. Hầu như ngày nào hoàng tử cũng dành ra buổi chiều để đi đến các xóm nghèo và ân cần thăm hỏi giúp đỡ những ai gặp cảnh khó khăn cơ cực. Tuy vậy, hoàng tử rất ngạc nhiên khi thấy dân chúng tỏ vẻ thờ ơ khi thấy chàng xuất hiện. Một hôm hoàng tử đến gặp một vị ẩn sĩ nổi tiếng khôn ngoan để xin chỉ giáo phương cách chinh phục tình cảm của dân chúng.
Một thời gian khá lâu sau đó người ta không thấy hoàng tử xuất hiện đi thăm người nghèo. Nhưng rồi một ngày kia, dân chúng lại thấy một người tuổi trung niên đến thăm khu xóm nghèo. Khác với hoàng tử trước kia ăn mặc sang trọng, còn người này mặc áo quần màu trắng đơn sơ giống như một thầy thuốc. Ông ta thuê một căn nhà bình thường để ở. Rồi hàng ngày từ sáng sớm đã ra khỏi nhà, tay xách một chiếc cặp đựng các dụng cụ y tế và thuốc men. Ông ta đến thăm các gia đình có người đau nặng để khám bệnh và phát thuốc miễn phí chữa bệnh. Ông thầy thuốc này có tài chữa bệnh, nên rất nhiều bệnh nhân bị những chứng nan y nhưng chỉ được ông chữa vài lần là khỏi hẳn. Không bao lâu, ông ta đã chinh phục được cảm tình quí mến của mọi người lớn trẻ nhỏ trong vùng. Đây là điều mà trước đó hoàng tử A-lếch-xít không sao đạt được. Ông thầy thuốc kia đã dần dần được nhiều người tín nhiệm. Mỗi khi thấy ông là mọi người bu lại chung quanh nhờ cậy. Hôm thì ông dàn hòa được hai người đang tranh cãi ẩu đả. Hôm khác ông lại hòa giải được đôi vợ chồng giận ghét muốn lìa bỏ nhau. Ông cũng hòa mình chơi chung và khuyên dạy các trẻ em ngỗ nghịch dần dần trở nên ngoan ngoãn dễ dạy và học hành tấn tới.
Thật ra người thầy thuốc đó không ai khác hơn là chính hoàng tử A-lếch-xít. Sau khi gặp vị ẩn sĩ, và nghe lời khuyên của vị này, hoàng tử dành thời giờ đi học nơi một thầy thuốc lành nghề khoảng mười năm. Sau khi thành tài, hoàng tử đã rời bỏ cung điện, đến sống hòa mình giữa xóm lao động nghèo khó, trở thành một người như họ và yêu thương phục vụ họ tận tình. Chính tình thương kèm theo sự khiêm hạ và hy sinh của hoàng tử, đã đem lại kết quả tốt đẹp: Hoàng tử đã chinh phục được tình cảm yêu mến kính trọng của thần dân, đặc biệt là những người nghèo khổ bất hạnh.
3) SUY NIỆM:
- Hoàng tử A-lếch-xít trong câu chuyện chính là hình ảnh của Đấng Cứu Thế là Chúa Giê-su. Người đã yêu thương nhân loại chúng ta và đã từ trời cao xuống thế làm một người phàm. Người được sinh ra trong thân phận nghèo khó, sống một cuộc đời lao động vất vả tại Na-da-rét như bao dân làng. Người đã trở thành EM-MA-NU-EN nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Quả thật: “Con Thiên Chúa đã trở nên loài người, để làm cho con loài người trở nên Con Thiên Chúa”.
- Trong Mùa Giáng Sinh này, chúng ta thường thấy nhiều hang đá tại nhà thờ hay tư gia. Trong hang có Hài Nhi Giê-su đang nằm trong máng cỏ, bên cạnh là Mẹ Ma-ri-a và thánh cả Giu-se quì thờ lạy. Cũng có mấy con bò và lừa đang quì gần bên thở hơi ấm cho Hài Nhi mới sinh. Việc dựng các hang đá như trên đã có từ thế kỷ thế 13. Vào năm 1223, thánh Phan-xi-cô khó khăn, lúc đó đang là bề trên một tu viện bên Ý. Ngài cho dọn một hang đá trong vườn cây ở gần Gờ-réc-xi-ô. Bên trong hang đá, ngài đặt tượng Hài Nhi Giê-su nằm trên máng cỏ, bên cạnh là một con bò và một con lừa. Vào đêm khuya hôm lễ Giáng Sinh, thánh Phan-xi-cô cùng các tu sĩ và dân chúng lân cận kéo nhau đến đứng chung quanh hang đá. Bên cạnh hang có đặt một bàn thờ, và thánh lễ đã được cử hành trang nghiêm. Từ đó, việc trưng bày hang đá tại nhà thờ và tư gia càng ngày càng phổ biến trở thành tập tục chung của cả thế giới.
- Mầu Nhiệm Giáng Sinh là cách Thiên Chúa diễn tả tình thương lớn lao nhất đối với nhân loại. Thiên Chúa đã sai Con Một xuống thế làm người, trở nên giống như chúng ta mọi đàng, ngoại trừ không có tội. Người đã yêu thương chúng ta đến cùng, và biểu lộ tình yêu bằng việc rao giảng Tin Mừng Nước Trời, làm nhiều phép lạ cứu nhân độ thế, lựa chọn và huấn luyện các tông đồ, lập các Bí Tích và cuối cùng sẵn lòng chịu chết nhục nhã trên cây thập giá để đền tội thay cho chúng ta, và sống lại để ban lại sự sống cho chúng ta. Người đã mở ra con đường lên trời cho chúng ta. Đó là con đường yêu thương, quên mình và phục vụ. Đó là chấp nhận “Qua đau khổ tử nạn vào vinh quang phục sinh”. Người mời gọi chúng ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hàng ngày mà đi theo. Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ được sống lại với Người, và sau này sẽ cùng được hưởng hạnh phúc vĩnh viễn trên thiên đàng với Người.
4) THẢO LUẬN: Sau khi được sứ thần loan báo tin vui, các mục đồng đã vội vã lên đường đi Bê-lem để tìm Hài Nhi Cứu Thế. Sau khi gặp Người, họ đã thuật lại những gì mắt thấy tai nghe. Còn chúng ta, trong những ngày này chúng ta sẽ làm gì để loan báo Tin Mừng Chúa Giáng Sinh cho các bạn bè và những người chưa nhận biết Chúa?
5) LỜI NGUYỆN
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúa mang ơn cứu độ xuống cho trần gian. Nhưng loài người chúng con chỉ đón nhận được ơn cứu độ của Chúa nếu chúng con biết đi tìm kiếm Chúa. Chúa luôn phát ra tín hiệu để mời gọi và không ngừng chờ mong chúng con đáp trả. Xin cho chúng con biết noi gương các mục đồng: hối hả rủ nhau đi sang Bê-lem để tìm Hài Nhi Cứu Thế mới sinh mà họ mới được sứ thần báo tin.
- LẠY CHÚA. xin cho chúng con trở thành những ông già No-en đầy lòng nhân ái, luôn sẵn sàng cho đi một nụ cười thân ái, một lời động viên an ủi, một món quà chứa đựng tình người. Xin cho chúng con biết đến vói những người bất bạnh để chia sẻ tình thương cho họ. Ước gì niềm vui trong ngày mừng Chúa Giáng Sinh không dừng lại ở những của cải vật chất hào nhoáng bên ngoài, nhưng ở tình người được nhân lên mãi, được nối kết thành vòng tay lớn, xây dựng một thế giới ngày một bình an thịnh vượng và đầy tràn hạnh phúc.
Trong Thánh Lễ Đêm Giáng Sinh chúng ta được nghe đọc : Khi Chúa Giêsu giáng sinh có Thiên: GS-332
Trong Thánh Lễ Đêm Giáng Sinh chúng ta được nghe đọc : Khi Chúa Giêsu giáng sinh có Thiên Thần báo tin cho các mục đồng : "Đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt… Hôm nay Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Vua Ðavít" (Lc 2,10-11).
Câu "Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi ", gợi lên cho chúng ta những câu hỏi: Con người là gì và làm sao mà phải cứu độ? Tại sao Thiên Chúa làm người? Tại sao Thiên Chúa làm điều đó? Tôi nhớ đến câu bổn, hỏi vì lẽ nào mà Ngôi Thứ Hai ra đời? (Sách bổn Địa Phận Hà Nội tr. 13)
Con người là gì?
Có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng : Con người là con vật thượng đẳng đã đạt tới chặng cuối cùng trong quá trình tiến hóa ( Đác- Uyn). Có ý kiến khác cho rằng: Con người là cây sậy biết suy tư. Trước sự bao la của vụ trụ, sức mạnh của thiên nhiên, thân phận con người chỉ như một cây sậy, nhưng là một cây sậy có lý trí. Thiên nhiên có thể đè bẹp con người, nhưng không biết mình thắng, ngược lại con người bị thiên nhiên quật ngã, nhưng con người ý thức được mình thua. Những ý kiến đó không nói lên đầy đủ về phẩm giá và định mệnh con người theo kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng sáng tạo con người giống hình ảnh Chúa (St 1, 26).
Vì không biết đầy đủ về giá trị con người nên nhiều kẻ sống không xứng đáng với phẩm giá của mình, và xúc phạm đến phẩm giá người khác một cách bất công và tàn bạo, quyền con người bị tước đoạt, kể cả quyền sống, người nô lệ trở thành con vật trong tay chủ nhân ông. Ngày nay chế độ nô lệ được bãi bỏ, nhưng cảnh người bóc lột người vẫn tiếp diễn dưới nhiều hình thức khác nhau, mà nạn nhân luôn là kẻ yếu người thua. Mãi đến năm 1948, Liên Hiệp Quốc mới công bố bản tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, trong đó nói : "Mọi người sinh ra đều bình đẳng có quyền bất khả xâm pham: như quyền sống, quyền cư trú, quyền làm việc, quyền đi lại, quyền tự do tôn giáo…" Tuyên ngôn thì như thế, nhưng trong thực tế thì nhân phẩm và nhân quyền luôn bị chà đạp ở nhiều nơi và dưới nhiều hình thức.
Con người cần được cứu độ
Để cứu con người ra khỏi tình trạng đó, Thiên Chúa đã thân hành xuống thế làm người nơi Đức Giêsu mà hôm nay cả thế giới kỷ niệm ngày sinh nhật của Người. Nhất là vì tôi lỗi loài người đã mất lòng Đức Chúa Trời, cho nên Ngôi thứ Hai đã ra đời mà lập công chuộc tội (Sách bổn Địa Phận Hà Nội tr. 13).
Trẻ Giêsu nằm trong máng cỏ chưa biết đi biết nói, nhưng đã mang cho loài người một bài học nhân sinh quan đầy đủ và sâu sắc nhất đúng theo kế hoạch của Thiên Chúa Tạo Hóa, kế hoạch mà tội lỗi con người đã làm sai lệch đi. Noel, Thiên Chúa làm người, đã đảm nhận lấy nơi mình thân phận con người với mọi chi tiết đặc thù của nó để bất kỳ ai dù ở địa vị nào, gặp hoàn cảnh nào cũng tìm được nơi Chúa một người bạn đồng hành và một tấm gương sống cho xứng đáng với phẩm giá con người.
Chúa đã giáng sinh làm con trẻ và sống đời thơ ấu để dạy cho ta biết con trẻ dù còn là thai nhi trong dạ mẹ, cũng có một nhân phẩm như người lớn cần được tôn trọng và kẻ nào làm hư hỏng một trẻ em đó thì đáng chúc dữ và buộc cối đá vào cổ mà quăng xuống biển còn hơn.
Noel, Thiên Chúa làm người, đồng hóa mình với tất cả mọi người, để cứu độ con người. Nhưng con người chỉ được cứu độ với điều kiện là có thiện tâm, như lời Thiên Thần hát mừng đêm Giáng Sinh: “Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2, 14). Thiện tâm là tin nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ và hăng say thực hiện những điều Chúa truyền dạy tóm lại: Kính mến Thiên Chúa như Cha, yêu thương nhau như là anh em. Ngày nào con người thực hiện được hai điểm đó, cảnh thái bình sẽ xuất hiện trên mặt đất như lời các thiên thần cầu chúc đêm Chúa Giáng Sinh.
Thiên Chúa đã làm người vì yêu
Để trả lời cho câu hỏi tiếp theo được đặt ra xuyên suốt hai ngàn năm lịch sử kitô giáo : Tại sao Thiên Chúa đã làm người? Tại sao Thiên Chúa đã làm như vậy?
Thưa vì yêu thương con người, tất cả vì yêu, tình yêu là lý do cuối cùng Thiên Chúa Nhập Thể. Về điểm này, H.U. von Balthasar đã sau: "Thiên Chúa, trước hết, không phải là một quyền lực tuyệt đối, nhưng là tình yêu tuyệt đối, mà chóp đỉnh của tình yêu đó không được thể hiện trong việc giữ lại cho mình những gì thuộc về mình, mà trong việc từ bỏ những điều đó" (Trích Mầu nhiệm Vượt Qua I,4). Thiên Chúa mà các mục đồng gặp thấy nằm trong máng cỏ, có Mẹ Maria và thánh Giuse ấy là Thiên Chúa Tình Yêu (x. Lc 2, 16). Vì yêu thương nhân loại : "Người đã đến nhà các gia nhân Người" (Ga 1,11).
Trong Mầu nhiệm Giáng Sinh, Thiên Chúa đã đến sống giữa chúng ta; Người đến và ở lại với chúng ta, vì yêu chúng ta như Kinh Tin Kính chúng ta vẫn đọc “vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta "; " Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta" (Ga 1,14) ban cho những ai tiếp nhận Người "quyền trở nên con cái Thiên Chúa"(Ga 1,12).
Hiện nay, con người đã lên tới Mặt Trăng và Sao Hoả, sẵn sàng chinh phục vũ trụ. Con người đang không ngừng khám phá những bí mật của thiên nhiên và giải mã thành công cả những điều kỳ diệu nơi tế bào "gen", đi vào trong đại dương ảo của internet, nhờ những kỹ thuật truyền thông tân tiến, biến trái đất, ngôi nhà chung to lớn thành một làng nhỏ toàn cầu, Thử hỏi Ðấng Cứu Thế có còn cần thiết cho con người nữa hay không?
Chúng ta phải khẳng định rằng: trong thời đại hiện hôm nay, thời hậu tân tiến, con người có lẽ cần đến Ðấng Cứu Thế hơn bao giờ hết, bởi vì xã hội trong đó con người sinh sống đã trở thành phức tạp hơn, và những hăm dọa xúc phạm đến sự toàn vẹn bản thân và luân lý. Ai có thể bênh vực con người, nếu không phải Ðấng yêu thương con người cho đến mức độ trao ban chính Con Một làm giá chuộc muôn người.
Thiên Chúa đã làm người trong Chúa Giêsu Kitô, sinh ra bởi Ðức Trinh Nữ Maria, mang đến cho chúng ta tình yêu, bình an và hạnh phúc của Chúa Cha trên trời gửi tặng nhân loại nhân ngày mừng Sinh nhật Con Chúa. Chính Người là Ðấng cứu độ chúng ta. Chúng ta hãy mở rộng con tim để Chúa ngự vào, và hãy đón tiếp Người, ngõ hầu Vương Quốc tình yêu và an bình của Người ngự trị trên toàn thế giới.
Nếu lễ Đêm Giáng Sinh, Phụng Vụ Giáo Hội tập trung để giới thiệu Đức Giêsu là Ánh Sáng của GS-333
Nếu lễ Đêm Giáng Sinh, Phụng Vụ Giáo Hội tập trung để giới thiệu Đức Giêsu là Ánh Sáng của Thiên Chúa. Ngài đến để chiếu soi nhân loại và giải thoát con người khỏi bóng đêm tội lỗi. Thánh lễ Rạng Đông thì nhấn mạnh đến tình yêu của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi các mục đồng là đại diện cho những người bé mọn, nghèo khổ và bị loại ra bên lề. Còn thánh lễ này, Phụng Vụ Lời Chúa muốn nhấn mạnh đến sự tự hạ của Đức Giêsu khi giới thiệu Ngài chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa, nhưng đã chấp nhận trở nên người phàm và cư ngụ giữa nhân loại để cứu chuộc con người.
Vì yêu, nên Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể
Khởi đầu Tin Mừng thánh Gioan đã viết: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm
và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1, 14). Đây là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm này vượt quá sự hiểu biết, suy tư của con người! Bởi vì theo lẽ thường thì hiểu sao được khi một vị Thiên Chúa toàn năng vô biên, trí tuệ khôn lường; Ngài là Đấng hằng hữu, trường cửu; Đấng tạo dựng đất trời và biển khơi; Đấng làm chủ không gian và thời gian; Đấng là nguồn mạch sự sống và mọi điều thiện hảo…. (x. Dt 1, 3; Cl 1,15). Thế mà hôm nay, Ngài lại trở nên một con người hữu hạn và chịu sự chi phối như một loài thụ tạo bình thường với những truyền thống và văn hóa của một dân tộc nhỏ bé.
Đây quả là điều rất khó hiểu đối với chúng ta!
Nhưng, theo thánh Gioan, chìa khóa để mở ra cho chúng ta hiểu được mầu nhiệm cao cả này, chính là hai chữ “tình yêu”.
Vì thế, ngài viết: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16 ). Lúc khác ngài khẳng định: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4, 16).
Chính vì yêu, Thiên Chúa Cha đã trao ban cho nhân loại món quà quý giá nhất là Con Một của Người. Cũng chính vì yêu, nên khi đến lượt mình, Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta (x. Ga 1, 14 ). Khi trở nên một Đức Giêsu – người, Ngài cũng trở thành Đấng Cứu Chuộc, Hoàng Tử Hòa Bình, Vua muôn thủa và Ánh Sáng chiếu soi mọi người để dẫn đưa nhân loại về với nguồn sự thật và sự sống để được hạnh phúc viên mãn.
Đây là điều mà chính Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta. “Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng Con Một là Thiên Chúa, và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” ( Ga 1, 18 ), Nhờ sự mạc khải đó mà: “Toàn cõi đất này được xem thấy: Ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta” (Tv 97, 3 ).
Tuy nhiên, hơn hai ngàn năm đã trôi qua kể từ khi Ngôi Lời đặt chân trên trái đất. Ngài đã thắp lên ánh sáng trong bóng đêm. Ngài chính là Ánh Sáng chiếu soi mọi người (x. Ga 1,9). Tiếc thay, nhiều người đã chọn bóng tối, vì bóng tối dễ chịu hơn, dễ đồng lõa hơn (x. Ga 3,19). Vì thế, chúng ta không lạ gì khi Ngôi Lời đã đến nhà của Ngài, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận (x. Ga 1,11). Đón nhận Ngôi Lời như thế nào?
Đây là một nỗi buồn cho nhân loại. Là tấm màn đen của thế giới con người. Là cảnh buồn và ảm đạm trong một thước phim vui. Vì thế, mỗi lần Giáng Sinh về, Giáo Hội không ngừng mời gọi con cái của mình không chỉ mừng lễ với những đèn sao nhấp nháy, tiệc tùng linh đình và những thứ bề ngoài khác. Ngược lại, Giáo Hội không ngớt lên tiếng thúc dục mọi thành phần hãy chuẩn bị tâm hồn cho thật xứng đáng, để đón nhận mầu nhiệm vĩ đại của Thiên Chúa ngang qua Đức Giêsu vào trong tâm hồn của mình.
Một trong những cách thiết thực nhất thể hiện việc sẵn sàng đón nhận Chúa đến với mình, đó là mặc lấy tâm tình của Đức Mẹ Maria để suy đi nghĩ lại trong lòng những gì mắt thấy, tai nghe, ngõ hầu mọi sự diễn ra trước mắt lại được ngấm thật sâu trong tâm hồn mỗi người và toát ra nơi cuộc sống. . Hãy làm cho Ngôi Lời của Thiên Chúa được hiện hữu nơi chúng ta
Như vậy, việc mừng Lễ Giáng Sinh đối với người Công Giáo chắc chắn không phải là mừng một biến cố hay kỷ niệm hoặc lễ hội thuần túy, nhưng ngang qua đó, làm toát lên một mầu nhiệm vĩ đại, mầu nhiệm cứu chuộc.
Chính vì vậy mà ơn cứu độ của Đức Giêsu đem đến không phải chỉ một lần vào đêm Ngài giáng trần, cũng không chỉ là lời hứa hẹn cho cuộc sống mai sau, mà ơn cứu độ, sức sống mới của Đức Giêsu đã được trao ban cho chúng ta ngay ngày hôm nay và lúc này.
Vì thế, nếu Con Thiên Chúa đã nhập thể, đã chấp nhận từ chỗ vị trí là Ngôi Lời, là Thiên Chúa đến chỗ Ngôi Lời hóa thành nhục để làm người và để cứu độ con người đang lầm than tội lỗi. Thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải làm cho Ngôi Lời trở nên sống động và thiết thực trong cung cách sống của mỗi người.
Nói cách khác, chúng ta cũng hãy noi gương Ngôi Lời là Đức Giêsu để làm một cuộc nhập thế ngay trong môi trường, khung cảnh sống của mỗi người.
Sự nhập thế ấy ta hiểu như một sự hóa thân để từ chỗ là một người giàu sang, quyền quý trở nên người cận thân cận lân của những người ốm đau, bệnh tật, cô thế, cô thân, nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột, bỏ rơi. Trở nên những người cha, người mẹ đầy yêu thương của các trẻ em mồ côi nơi góc chợ, vỉa hè, trên đường phố hay gầm cầu, công viên. Trở nên người thầy – cô giáo tận tâm, hướng dẫn, dạy dỗ để chắp cánh cho tương lai đầy xán lạn nơi các học sinh thân yêu. Trở thành người có trách nhiệm với người khác như: bảo vệ môi trường, bênh vực công lý, xây dựng công bình và loan báo sự thật trong tin yêu và hy vọng.
Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải làm một cuộc nhập thể khác nữa, cần thiết hơn và cấp bách hơn, đó là một cuộc nhập thể ngay trong gia đình của mình.
Nếu là người cha/ chồng nơi gia đình, thì sự nhập thể chính là trở nên người chồng, người cha mẫu mực, biết yêu thương, lo lắng, dạy dỗ con cái nên người; biết quan tâm và sống có trách nhiệm cũng như chung thủy với vợ….
Nếu là người vợ / mẹ, thì sự nhập thể chính là biết sống hiền lành, nhã nhặn, vui vẻ, vun quén cho gia đình; biết giữ hòa khí yêu thương và biết chu toàn trách nhiệm làm vợ và làm mẹ….
Nếu là người con, thì sự nhập thể chính là biết ngoan ngoãn, hiếu thảo với cha mẹ và thầy cô giáo; chú tâm đến việc học văn hóa, giáo lý nơi nhà trường và nhà thờ; chu toàn bổn phận hằng ngày trong gia đình….
Đây chính là kết quả của việc lắng nghe, suy đi nghĩ lại và tuân giữ Lời Chúa trong lòng như Mẹ Maria. Đây cũng chính là sống tinh thần Mầu Nhiệm Giáng Sinh của Đức Giêsu. Và, đây cũng chính là một hành trình nhập cuộc theo gương Ngôi Lời Thiên Chúa.
Giờ đây, chúng ta tiếp tục dâng thánh lễ để cùng nhau đi sâu hơn khi cảm nghiệm và sống mầu nhiệm tự hủy của Ngôi Lời Thiên Chúa ngay trong Bí tích Thánh Thể sắp tới.
Đây chính là quà tặng vô giá mà Đức Giêsu không ngừng ban tặng cho nhân loại, để ai tin và đón rước thì được bảo đảm cho hạnh phúc và sự sống đời đời mai sau.
Lạy Ngôi Lời của Thiên Chúa, Ngài là Đấng Emmanuel, xin cho chúng con biết cảm nghiệm sâu xa tình yêu tự hủy của Chúa, để đến lượt chúng con, mỗi người cũng biết sống mầu nhiệm ấy trong cuộc đời của mình, ngõ hầu mang lại cho nhân loại niềm hy vọng, bình an và ơn cứu độ qua mầu nhiệm nhập thể làm người của Chúa. Amen.
"Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta".
Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. Ðây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria. Mọi người đều lên đường trở về quê quán mình. Giuse cũng rời thị trấn Nadarét, trong xứ Galilêa, trở về quê quán của Ðavít, gọi là Bêlem, vì Giuse thuộc hoàng gia và là tôn thất dòng Ðavít, để khai kiểm tra cùng với Maria, bạn người, đang có thai.
Sự việc xảy ra trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong hàng quán.
Bấy giờ trong miền đó có những mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ, khiến họ hết sức kinh sợ. Nhưng thiên thần Chúa đã bảo họ rằng: "Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Ðavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ".
Và bỗng chốc, cùng với các thiên thần, có một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm". Suy Niệm Lễ Giáng Sinh:
Một Hài Nhi Ðã Sinh Ra Cho Ta
Suy niệm: Lễ Giáng Sinh
Một trẻ sơ sinh là một huyền nhiệm! Nó vừa là một cái gì mong manh, dòn mỏng; lại vừa là một: GS-334
Một trẻ sơ sinh là một huyền nhiệm! Nó vừa là một cái gì mong manh, dòn mỏng; lại vừa là một cái gì hấp dẫn phi thường đối với chúng ta. Khi nó vừa xuất hiện là mọi người trong nhà chăm chú dõi theo và đổ dồn vào nó tất cả lòng săn sóc yêu thương.
Hài nhi Yêsu mà Trinh nữ Maria sinh hạ cho ta hôm nay trong máng cỏ Bêlem quả là một trẻ thơ kỳ diệu, đã từng được loan báo từ ngàn xưa.
1. Bài sách tiên tri Isaia (Is 9,1-6) diễn lại trước mắt chúng ta bối cảnh lịch sử Dothái vào thế kỷ thứ 8 trước Công nguyên: giang sơn chia cắt, hiểm họa nội chiến, và một phần dân phải lưu đày sang xứ Assyria. Trong cảnh lầm than đen tối ấy, Thiên Chúa Yavê đã sai Isaia loan báo: Người sẽ cho dân tộc một vị anh hùng, xuất hiện như luồng sáng vĩ đại làm phấn khởi lòng mọi người. Ðó chính là một hài nhi lạ thường, mang những danh xưng độc đáo:
Những tước hiệu này gieo vào lòng người Dothái một âm hưởng sâu xa mãnh liệt. Chúng như làm sống lại những nét kiêu hùng của lịch sử dân tộc họ: nào là đức khôn ngoan của một Salômon; nào là chí dũng cảm của một Ðavít; nào là tài lãnh đạo của một Maisen; nào là lòng tín thành của các bậc tổ phụ. Tất cả đều kết tụ nơi hài nhi khác thường này như tinh hoa của lịch sử đất nước.
Sự xuất hiện của Hài nhi sẽ tạo nên cho toàn dân một niềm vui vĩ đại và một mối hy vọng lớn lao, vì đó là dấu hiệu chứng tỏ Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử, để cứu vớt Dân Ngài.
Nhưng phải chăng âm hưởng của lời Isaia chỉ ngừng lại nơi đây?
Không! Lời ông còn vọng xa hơn nữa, như tiếng kêu của toàn dân vươn lên Thượng đế, khấn xin Người dủ tình gửi Ðấng Thiên Sai đến thiết lập một nước công bình chính trực giữa loài người, đồng thời thiêu hủy chiếc áo choàng đẫm máu chiến tranh, để trải rộng hòa bình đến vô tận.
2. Thì đây tiếng kêu của toàn dân đã gặp được câu đáp trả. Thiên Chúa như xé mây trời ngự xuống (Is 63,19) để trở thành trẻ sơ sinh giữa loài người.
Thánh Luca kể lại:
Ngày ấy hoàng đế La Mã ra lệnh: "Toàn dân ai nấy phải về nguyên quán mình mà đăng ký". Yuse và Maria từ Nadarét - tận miền Bắc - đã trở về Bêlem - ở miền Nam - nơi quê cha đất tổ, được gọi là "Châu thành Ðavít", để làm sổ kiểm tra. Vừa tới nơi, thì Maria cũng đến ngày mãn nguyệt khai hoa và sinh hạ con trai đầu lòng. Bà lấy tã bọc cho trẻ thơ và đặt nằm trong máng cỏ, vì không tìm được chỗ trú chân nơi quán trọ (Lc 2,1-6).
"Hôm nay một Hài nhi đã sinh ra cho ta".
Hài nhi Yêsu do Maria sinh hạ chính là trẻ thơ kỳ diệu mà Isaia đã tiên báo (Is 7,14; 9,1-6), là miêu duệ Thiên Chúa đã hứa cho Ðavít (2Sam 7,12-14; Lc 1,32-33). Yêsu đến như một tặng phẩm Thiên Chúa ban cho loài người.
Sinh ra trong bóng đêm, Yêsu như một vì sao tỏa chiếu luồng sáng vĩ đại và khơi dậy niềm vui lớn lao. Niềm vui ấy đã được loan báo trước tiên cho đám mục đồng giữa chốn trời đất cô quạnh. Họ là những người nghèo, sống với bầy chiên ở ngoài thành phố và làng mạc, lang thang bên lề xã hội. Họ bị khinh dể, bị bỏ rơi. Nhưng Thiên Chúa đã nghĩ đến họ, cho họ nếm cảm niềm vui được thấy Ðấng Cứu Thế và biến họ trở thành sứ giả loan báo Tin Mừng cho những người kế cận.
Ðường lối Thiên Chúa thật kỳ lạ! Người như luôn hành động ngược đời! Vinh quang của Người xuất hiện trong sự nghèo hèn bé mọn. Người ưu ái đám dân nghèo khó và trao cho họ những sứ mệnh lớn lao. Dấu hiệu để nhận ra Người hiện diện là: một trẻ thơ mình quấn tã nằm trong máng cỏ. Nào ai có thể ngờ!
Lễ Giáng sinh là niềm vui của người nghèo, nhưng không chỉ hạn định ở đó, mà còn trải rộng ra khắp vũ hoàn. Ðất trời cũng vang dội tiếng ca:
"Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho người thiện tâm" (Lc 2,14)
Người thiện tâm là những kẻ được Thiên Chúa yêu thương. Qua đời sống chính trực của họ, trái đất này như nở hoa, đón nhận sương trời và ơn thiêng thánh hóa trần thế.
Trong lúc đất trời ngợp ánh hào quang và muôn vàn lời ca vang dội, thì nơi hang đá Bêlem, Yuse và Maria âm thầm chiêm ngưỡng Hài nhi Yêsu:
"Này Con - Maria như muốn nói - Mẹ phải làm gì cho con bây giờ đây? Mẹ phải cho con bú sữa Mẹ, hay Mẹ phải kính thờ Con là Con Thiên Chúa? Mẹ phải săn sóc Con như một bà mẹ, hay mẹ phải thờ lại Con như một nữ tỳ? Mẹ phải ôm Con vào lòng mà hôn như con nhỏ của Mẹ, hay Mẹ phải quỳ gối van lơn Con như Thiên Chúa của Mẹ đây? Mẹ phải cho Con sữa, hay đem hương dâng kính lên Con? (Trích bài giảng của Giáo phụ phương Ðông Romanos le Melode về "Mẹ Thiên Chúa")
Ðẹp thay tâm tình từ mẫu ấp ủ Hài nhi!
Sự bé bỏng, mỏng dòn của trẻ thơ như tỏa ra một uy quyền bất khả kháng: người ta phải yêu mến, phải che chở, phải làm vừa lòng trẻ thơ. Bà mẹ cũng mỏng dòn yếu ớt, nhưng trong thiên chức làm mẹ, người có một uy quyền linh thiêng, khiến người ta phải nể vì.
Maria, Bà Mẹ Ðồng Trinh Rất Thánh, ghi tạc tất cả vào lòng và âm thầm suy niệm... Trong Ðức Maria, có hình ảnh Giáo hội hôm nay đang chiêm ngắm Hài nhi Yêsu. Giáo hội cũng muốn ghi tạc tất cả vào lòng để âm thầm suy niệm như Ngài, và loan báo Yêsu cho mọi người như các mục đồng thuở trước.
Như vậy Hài nhi Yêsu chính là ân sủng Thiên Chúa ban cho nhân loại: đó là ân sủng cứu độ, vì Yêsu là Ðấng Cứu Thế. Vinh quang Người đã xuất hiện trong cảnh nghèo hèn khiêm hạ của máng cỏ Bêlem. Hôm nay chúng ta tri ân tuyên xưng ngày Giáng sinh hồng phúc của Người. Nhưng thánh Phaolô nhắc ta rằng phải hướng mắt nhìn về tương lai, đón chờ Người lại đến trong vinh quang (Tito 2,11-14). Và hôm nay vinh quang của Người đang xuất hiện trong đời sống hoán cải và thánh thiện của các tín hữu, trong các nỗ lực xây dựng hòa bình của những người thành tâm thiện chí, nhằm đem lại quyền sống tự do cho mọi người, vì tất cả đều được gọi làm con Thiên Chúa.
Vinh quang Thiên Chúa xuất hiện khắp vũ hoàn. Nhưng vinh quang của Người xuất hiện cách đặc biệt trên khuôn mặt con người: con người nghèo khổ, nhỏ bé, mỏng dòn, giới hạn, vì chính trong sự yếu hèn của con người mà quyền năng Thiên Chúa được biểu dương. Trên khuôn mặt của Hài nhi Yêsu, Thiên Chúa siêu việt đã tỏ bày cho ta thấy khuôn mặt dễ thương nhưng đầy yêu sách của Người.
Trời đất hãy vui lên! Mọi người hãy vui lên! Vì hôm nay một trẻ thơ đã ra đời! Vì hôm nay Chúa Cứu thế đang đến.
Bài Giảng Lễ Giáng Sinh:
Thánh Lễ Nửa Ðêm:
Trong giờ phút thiêng liêng thánh thiện này, chúng ta hãy trút bỏ mọi tâm tư trần tục, chú tâm vào mầu nhiệm vừa được mạc khải cho chúng ta qua lời thiên thần: "Hôm nay, Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi".
Ngài giáng sinh một cách lạ lùng ư?
- Không, Ngài sinh ra như mọi người. Ngài xuất hiện nhẹ nhàng trong đêm đông tịch mịch. Ngài không tìm được một chỗ trong hàng quán. Phúc Âm viết rõ như vậy. Thân mẫu Ngài đã hạ sinh Ngài nơi hang súc vật ngoài đồng vắng. Cần gì phải tự hỏi: một điềm báo trước gì đây? Sự thật là Ngài đã khởi sự cuộc đời trong tinh thần từ bỏ, khó nghèo và đơn sơ. Ngài sẽ lớn lên trong tinh thần ấy. Và tấm thân đã chịu đựng được thiếu thốn khổ sở khi mới sinh, sẽ chẳng bao giờ coi tiện nghi làm quan trọng. Thiên Chúa giáng sinh làm người, không xuống trần để tìm kiếm của cải thế gian. Ngài không màng đến vàng bạc và phô trương giàu có. Ngài kêu gọi trước hết đám mục đồng đang thức canh đàn vật trong đêm tối.
Ở đây chúng ta cũng đừng lầm tưởng, trong hang đá bấy giờ có nhiều thiên thần sáng láng đang ca hát líu lo. Không, thiên thần chỉ hiện ra tại chỗ các mục đồng đang ở và những người này chỉ nghe thấy tiếng hát trên không trung. Chứ khi vào hang đá, đúng như lời chỉ dẫn của thiên thần, họ chỉ thấy một Hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và nằm trong máng cỏ. Thiên Chúa giáng sinh vẫn giữ một cung cách khiêm tốn, thanh bần và bình dị.
Vì sao Ngài lại hữu ý như vậy? Phải chăng tâm tư của Ngài khác hẳn mọi cảm nghĩ của ta? Chúng ta chỉ biết hình dung sự cao cả và quyền năng trong khung cảnh vàng bạc và oai hùng. Sinh ra, chúng ta đã muốn làm lính, làm tướng và làm bà chúa trong khi chơi. Còn Thiên Chúa khi giáng sinh làm người, theo lời Isaia nói, lại muốn nghiền nát vương trượng của kẻ áp bức và đốt sạch mọi chiếc giày trận. Ngài có một quan niệm khác hẳn về cuộc đời. Và quan niệm ấy Ngài muốn chia sẻ với tất cả chúng ta trong ngày Ngài giáng sinh và trong chính việc đản sinh của Ngài.
Sau này Ngài sẽ nói: Ta sinh ra để làm Vua; chính để làm Vua mà Ta đã sinh ra. Nên chúng ta đừng tưởng Hài nhi nằm trong máng cỏ đã chối bỏ thiên chức làm người mà Tạo hóa đã trao phó cho nguyên tổ chúng ta: các ngươi hãy vươn lên thống trị mặt đất. Bài sách Isaia hôm nay cũng nói rõ: Một Hài nhi đã sinh ra cho ta Thiên hạ sẽ chúc tụng Ngài là Thiên-Chúa-Dũng-Mạnh, là Hoàng-Tử-Hòa-Bình. Quả thật, Hài nhi thành Bêlem không từ khước thiên chức làm người. Ngài sinh ra để thống trị địa cầu. Ngài sinh ra để làm cho mọi người thống trị với Ngài. Chỉ có điều, quan niệm của Ngài về thống trị thật là khác và đường lối Ngài theo thật là lạ lùng.
Ngài không hiểu thống trị là truyền khiến nhưng là phục vụ. Môn đệ của Ngài còn nhớ lời Ngài căn dặn: Vua chúa thế gian thống trị bằng quyền bính; nhưng trong chúng con ai đứng đầu hãy sống như người phục vụ. Ngài không bao giờ dùng danh từ bất bạo động, nhưng luôn luôn Ngài nhắc nhở phải yêu thương, Ngài muốn môn đệ phải tranh thủ mọi tạo vật, mọi dân tộc, cho đến tận cùng thế giới, nhưng khí giới chinh phục là Tin Mừng và Tình Thương. Nói đúng hơn, môn đệ cứ phải phục vụ, rồi coi mình là tôi tớ vô dụng. Chính Thiên Chúa sẽ làm cho cây mọc lên chứ không phải kẻ trồng hay người tưới!
Cuộc đời của Ngài cũng vậy. Con đường Ngài đi không thênh thang rộng rãi, nhưng chật hẹp đau thương. Nhưng lúc nào Thánh Linh cũng hướng dẫn Ngài, ở trong công việc Ngài làm và trong mọi lời Ngài nói, khiến sức mạnh của Thiên Chúa phát huy ngay trong sự yếu đuối của loài người, và vì thế cứu độ được tất cả những gì đã hư mất.
Chúng ta có thể hy vọng sống như Ngài đã sống không? Thật ta không hiểu gì về mầu nhiệm giáng sinh hôm nay khi đặt ra câu hỏi ấy. Thiên Chúa giáng sinh đâu phải chỉ để sống trong một thời và ở một nơi. Ngài chọn sinh ra và lớn lên ở một nơi và trong mọi thời và ở khắp mọi nơi. Thân xác Ngài mặc khi sinh ra trong hang đá máng cỏ là bản tính loài người. Ai có bản tính người mà muốn đón nhận tinh thần của Ngài, thì Ngài sẽ sống ở trong họ và sẽ sống để tiếp nối cuộc đời Ngài. Ngài sinh ra để làm công việc ấy. Thiên Chúa nhập thể giáng trần là để cho người trần có thể trở thành con Thiên Chúa và sống với Thiên Chúa.
Hôm nay và hằng ngày chúng ta được mời gọi đi vào mầu nhiệm chung sống với Thiên Chúa. Thiên Chúa còn dùng hình bánh hình rượu để ẩn thân hầu hằng ngày có thể đến với chúng ta và sống trong chúng ta. Thánh lễ đêm nay chỉ cử hành mầu nhiệm ấy một cách đặc biệt thôi. Chúng ta hãy có tâm hồn quyết liệt đi vào mầu nhiệm sắp cử hành, để hôm nay "Ðức Yêsu Cứu Thế sinh ra cho chúng ta", để sống trong chúng ta, thật sự sống với chúng ta, khiến chúng ta từ nay bước theo đường lối của Ngài: chinh phục tất cả hoàn vũ cho con người, nhưng bằng thánh thiện và tình thương.
Thánh Lễ Ban Ngày:
Trong thánh lễ nửa đêm, phụng vụ đã cho chúng ta được nghe tiếng êm ái tốt lành của Chúa Cha nói với chúng ta ở trong Ngài: "Hỡi con, hôm nay Ta đã sinh ra Con". Trong thánh lễ ban ngày bây giờ, phụng vụ lại muốn giúp chúng ta đi vào tinh thần của Ngôi Con mới sinh ra làm người để lên tới Ngôi Cha, đáp lại tâm tình thắm thiết của Người trong hành vi đã muốn sinh ra chúng ta làm con.
Thật vậy, ngay từ bài ca nhập lễ, chúng ta đã được mời gọi chiêm ngưỡng Hài nhi vừa sinh. Không tầm thường như ta thoạt nhìn đâu. Người Con Ðức Mẹ vừa sinh, bọc trong khăn, nằm trong máng cỏ có một định mệnh siêu việt. Vương quyền đã đặt trên vai Người và danh hiệu Người thật là Thiên Chúa. Như vậy, chính phụng vụ ngày lễ Giáng sinh mời ta phải biết vượt qua những cái bề ngoài của hang đá máng cỏ, không được nhìn Hài nhi bằng con mắt tầm thường, nhưng phải có con mắt của tiên tri Isaia, phải biết nhìn con trẻ vừa chào đời trong sứ mệnh cuối cùng sau này của Người. Người là Con Ðấng Tối Cao, Ngài sẽ ngự trị không những trên ngai hoàng Ðavít mà còn trên muôn dân muôn nước, hai vai Ngài đã mang nặng vương quyền thống trị hoàn vũ. Việc các nhà đạo sĩ đến thờ lạy chỉ là một dấu hiệu báo trước nhạt nhẽo thôi. Cái ngày mà chân tướng đích thật của Hài nhi sẽ lộ ra theo đúng như Isaia đã cảm thấy lờ mờ, chính là ngày mà con người sẽ ngự xuống trên mây trời, có hào quang chiếu tỏa; Ngài sẽ phân xử muôn dân và thiết lập Nước Người duy nhất trong hoàn vũ. Không sức đối nghịch nào sẽ còn có nữa và ngay đến bóng dáng tử thần cũng phải qua đi.
Phải, lời của tiên tri Isaia đưa ta đến tận cùng trái đất và lịch sử nhân loại, không phải để ta bỏ quên thân phận hiện nay của Hài nhi, nhưng để soi sáng cho chúng ta hiểu đúng những biểu lộ hiện thể của Người Con Thiên Chúa vừa giáng sinh làm người. Không có cái nhìn đi trước đó, thật khó có thể hiểu được giá trị đích thực trong thái độ của con trẻ thành Bêlem. Nhưng được ánh sáng tiên tri ấy soi chiếu, những thái độ hiện thể kia nổi lên sáng ngời.
Ta sẽ thấy rằng dù ngang bằng Thiên Chúa, Ðức Kitô vẫn không ngại hạ mình mặc lấy thân phận loài người, để thể hiện lòng hiếu thảo của mình trong đời sống nhân loại, để nhân loại chúng ta biết cư xử thế nào như người Con Thiên Chúa. Chúng ta cứ đọc Phúc Âm mà xem: Có lúc nào Ðức Kitô không tỏ ra mình là Người Con vừa ý Ðức Chúa Cha mọi đàng không? Ngài không giáng thế như một ngôi sao băng từ trên trời xuống: Người cũng không dùng đường lối khác thường để hiện ra như một người trưởng thành; Ngài đã muốn sinh ra trong thân phận một hài nhi để sống tất cả cuộc đời của người làm con. Sau này có lần Ngài sẽ bảo môn đệ, này hỡi đàn con nhỏ, các con đừng sợ vì chúng con có một Cha ở trên trời. Ngài không muốn cho chúng ta nhớ lại thời Ngài còn là một hài nhi bé nhỏ ư?
Tất cả, Ngài phó mặc cho chương trình củ Chúa Cha. Ngài đâu có sợ khi Hêrôđê bực tức giận dữ xua quân đến Bêlem. Ngài cứ nằm yêu trong cánh tay ấp ủ của thân mẫu và đúng hơn trong sự quan phòng của Chúa Cha. Thái độ tín nhiệm ấy không có tính cách bỏ mặc như ta có thể nghĩ. Trẻ Yêsu hồi lên 12 đã làm cho thân phụ thân mẫu tưng hửng khi cậu nói: Cha mẹ không biết tôi phải lo việc Cha tôi ư? Gớm thật cậu bé bề ngoài có vẻ sống bình thường đó, lại hằng nung nấu tâm hồn thực hiện kế hoạch của Ngôi Cha. Sau này có lần Ðức Kitô sẽ dẫn một trẻ em đến trước mặt các môn đệ để bảo các ông: nếu các ông không trở nên như con trẻ này, các ông không được vào Nước Trời. Có ông nào lúc đó nghĩ đến việc ngày trước chính Ngài đã sống như con trẻ không? Và câu kia Ngài nói cũng chỉ cốt để ta nghĩ lại việc đó, để ta đi vào mầu nhiệm niên thiếu của Ngài hầu biết sống tinh thần làm con.
Tinh thần ấy lớn lên Ngài vẫn tiếp tục... Cuộc đời truyền giáo của Ngài là một mạc khải vĩ đại về Ðức Chúa Cha. Không nói đến giáo lý của Ngài về Chúa Cha nữa, chúng ta không thể không cảm động khi thấy bất cứ lúc nào Ngài cũng biểu lộ một tình con sâu đậm. Lúc đi đường gặp một bông hoa đẹp, lòng Ngài dạt dào lòng biết ơn Chúa Cha đã dựng nên tạo vật tốt đẹp như thế, và khi thấy một người tàn tật lâu năm, Ngài không thể không động lòng trắc ẩn đối với một người con của Chúa Cha, nên đã chữa lành y để y ca tụng Thiên Chúa, mặc cho bọn Biệt phái ghi thêm một điểm nữa vào sổ đen để mai ngày đọc to trong tòa án. Ngài không bao giờ muốn tỏ mình nhưng chỉ muốn tỏ cho người ta thấy Chúa Cha, nên khi thấy mọi người chăm chú nhìn mình khi đứng trước mộ Lazarô, Ngài đã ngước mắt nhìn lên trời để như bảo mọi người nhìn lên Chúa Cha và coi mọi việc sắp làm đây là viêc của Chúa Cha làm qua bàn tay của Ngài... Chúng ta có thể kể mãi, vì như vậy phải nói lại tất cả Phúc Âm. Nhưng chúng ta không thể bỏ qua những giây phút cuối cùng trong đời Ngài, những phút mà tác giả Yoan đã gọi là Giờ của Ngài, giờ để Ngài làm những công việc ý nghĩa nhất. Ngài đã tâm sự với các môn đệ về Chúa Cha, Ngài đã cầu nguyện cùng Chúa Cha trong vườn Cây Dầu, Ngài đã bằng lòng chịu đau khổ vì thánh ý Chúa Cha... để cuối cùng ở trên Thánh giá Ngài trút hơi thở như một người con thiu ngủ trong vòng tay êm ái của người Cha.
Cuộc đời Chúa Cứu Thế quả thực đã là cuộc đời của người Con, người Con đẹp ý Cha mọi đàng, nên dĩ nhiên ai cũng muốn kết luận chúng ta muốn sống đúng phận sự làm con Thiên Chúa phải bắt chước tinh thần và thái độ của Ðức Kitô - kết luận thật đúng và thật dễ; nhưng làm thế nào để thể hiện được kết luận ấy mới là việc khó và cần được trả lời.
Ở trên đã nói, chân tướng đích thực của Chúa Con chỉ lộ ra thực sự trong ngày quang lâm tái giáng sau này. Nhưng chân tướng đó đã không kiện toàn trong ngày Phục sinh là gì? Trong ngày đó, Ðức Kitô đã toàn thắng sự chết là thù địch cuối cùng. Ngài thật đã là vua vinh hiển. Ngài đã là Con Ðức Chúa Cha trong tất cả những cái gì ở nơi Ngài. Trước đây từ ngày Giáng sinh cho đến khi chịu chết, vì chúng ta Ngài đã chấp nhận một lối sống mà bề ngoài còn có những cái chưa được thần linh hóa. Nhưng khi đi qua sự chết Ngài đã giũ bỏ lại mọi vẻ hư nát của người con. Và lúc Phục sinh, Ngài thật sự đã trở về cùng Chúa Cha, đã là người Con hoàn toàn của Chúa Cha. Ngài thật đã là Người Con - như lời kinh nhập lễ nói - Vai mang vương quyền và danh hiệu là Thiên Chúa.
Thế mà chính thân phận làm con này, Ngài lại muốn thông ban cho chúng ta. Nếu ta bằng lòng kết hợp với Ngài trong mầu nhiệm tử nạn, Ngài sẽ đưa ta vào mầu nhiệm phục sinh của Ngài. Ta sẽ là chi thể trong cơ thể phục sinh của Ngài; ta sẽ được Chúa Cha gọi làm con trong Người Con đã phục sinh từ cõi chết. Vai ta cũng được mang vương quyền, vì có gì là không ở dưới những người con của Thiên Chúa? Thành ra sống đời làm con của ta, không còn phải là trở lại cuộc đời làm con của Ðức Kitô trước ngày phục sinh, nhưng là phải sống đúng tâm trạng của Ðức Kitô phục sinh đang sống ở trên trời.
Chúng ta không thể và không phải bắt chước hài nhi ở Bêlem mà sống: thân phận chúng ta bây giờ đã khác với thân phận Ngài ngày trước. Nhưng bất kỳ ai, ở bất cứ thân phận nào, vẫn có thể và vẫn phải sống tinh thần làm con của Ðức Kitô phục sinh đang sống ở trong ta qua bí tích Thánh Thể. Tinh thần ấy là tinh thần đã từ bỏ những gì hư nát để sống hoàn toàn cho Thiên Chúa. Ðức Kitô đã đi qua và đã dùng sự chết để trở thành người con hoàn toàn của Chúa Cha, thì người tín hữu muốn sống đúng địa vị con Thiên Chúa cũng không được dừng lại thụ hưởng say mê hay tôn thờ những cái hư nát, một phải đi qua, phải dùng để đi về nhà Cha. Tiền tài, danh vọng, xác thịt, thế gian, tất cả đều là những cái hư nát: chúng ta không phủ nhận, nhưng chỉ dùng như không dùng để tâm hồn không bị cản trở bay về tình Cha.
Chính Ðức Kitô đã thể hiện sứ ngôn Isaia trong lúc từ bỏ đời này để về cùng Chúa Cha. Ngày Ngài giáng sinh, Isaia viết: một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng ta, vai mang vương quyền... Suốt cuộc đời trần gian Ngài đã từ chối danh dự làm vua, mãi đến lúc đứng trước tòa Philatô Ngài mới tuyên bố mình sinh ra để làm vua, và cũng chính hôm ấy, Ngài tuyên bố không úp mở Ngài quả thật là Con Thiên Chúa.
Như vậy, lời sứ ngôn Isaia chỉ thể hiện trong mầu nhiệm Tử nạn-Phục sinh. Lời ấy được nhắc lại hôm nay để mời ta đi vào mầu nhiệm Thánh lễ, là mầu nhiệm mời ta thể hiện ơn thiên triệu trở thành Con Thiên Chúa trong Ðức Kitô.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Thánh lễ Giáng Sinh ban ngày không còn cảnh đèn hoa giăng mắc, cảnh lung linh của những trái: GS-335
Thánh lễ Giáng Sinh ban ngày không còn cảnh đèn hoa giăng mắc, cảnh lung linh của những trái bong bóng đung đưa và muôn vàn bóng điện nhỏ óng ánh chiếu tỏa. Lễ Giáng Sinh ban ngày giới thiệu cho nhân loại, cho con người, cho mỗi người chúng ta về một Hài Nhi, nằm trong máng cỏ. Giêsu bé nhỏ im lặng nhưng Ngài lại là Đấng Cứu Độ. Một Hài Nhi đã giáng sinh cho nhân loại, cho chúng ta…
Thánh Gioan đã viết :” Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người “ ( Ga 1, 9 ) và rồi cũng chính thánh sử Gioan lại viết :” Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời “ ( Ga 3, 16 ). Hài Nhi Giêsu đã được Mẹ Maria đản sinh nơi hang đá máng cỏ năm xưa bởi phép Chúa Thánh Thần, mảnh khảnh, nhỏ bé, khó nghèo, nhưng Ngài là Đấng Cứu Tinh, là Vua Vũ Trụ. Nơi Người như ngôn sứ Isaia nói :” Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi “ ( Is 9, 1 ). Hài Nhi Giêsu là ánh sáng tình yêu, ánh sáng cứu độ đã thắp sáng màn đêm u tối của trần gian bằng chính tình yêu cứu thế. Thế gian dù không đón nhận Ngài, Giêsu Hài Nhi vẫn đến cư ngụ giữa con người. Ngài là ánh sáng chân lý chiếu soi tâm hồn mọi người, để con người một lúc nào đó cũng nhận ra Ngài, yêu mến và phụng thờ Ngài.Thánh Gioan quả quyết :” Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng Con Một là Thiên Chúa, và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết “ ( Ga 1, 18 ).
Nhìn vào hang đá, đức tin cho chúng ta hay Con Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta. Đức tin giúp soi sáng cuộc đời và tâm trí chúng ta để chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa đã sai Con của Ngài cư ngụ giữa loài người, giữa gian trần :” Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật “ ( Ga 1, 14 ). Chúa Giêsu là ánh sáng tuyệt hảo mang lại sự sống cho nhân loại :” Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng ban sự sống “ ( Ga 8, 12 ).
Thánh lễ Giáng Sinh hôm nay minh chứng Chúa Giêsu là bánh ban sự sống đời đời. Bởi vì nghĩa của chữ “ Betlehem “ là “ Nhà của bánh “ theo Do Thái. Nhà của bánh là nơi được nuôi dưỡng, an bình. Chúa là bánh hằng sống vì Ngài đến để thí mạng sống làm giá cứu chuộc cho mọi người. Hài Nhi Giêsu được vấn tã và đặt nằm trong máng cỏ, chính là Đấng ban sự sống đời đời. Ngài sẽ lớn lên và theo ý định của Thiên Chúa Cha, Ngài trở nên lương thực nuôi sống muôn dân, nuôi sống mọi người.
Chiêm ngắm Hài Đồng Giêsu, chúng ta nhận ra Đấng uy quyền nhưng lòng Ngài đầy nhân từ và lòng thương xót. Nơi Ngài, ơn cứu độ chan chứa và cũng chính nơi Ngài con người gặp được ơn tha thứ…
Một trẻ thơ chào đời để cứu ta, Một người con được ban cho nhân loại, Người mang quyền bính ở trên vai, Danh hiệu Người là Cố Vấn kỳ tài (Is 9, 6 ).
Hài Nhi Giêsu là Đấng Hòa Bình. Nơi Ngài chúng ta được an bình vì “ bình an dưới thế cho người Chúa thương “. Nơi Hài Nhi Giêsu :” Toàn cõi đất này được xem thấy: Ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta “ ( Tv 97, 3 ).
Lạy Chúa, Chúa đã sáng tạo con người cách kỳ diệu lại còn phục hồi phẩm giá con người cách kỳ diệu hơn nữa; xin ban cho chúng con được chia sẻ chức vị làm Con Chúa với Đức Kitô là Đấng đã chia sẻ kiếp người với chúng con.Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời ( Lời nguyện nhập lễ, lễ Giáng Sinh ban ngày ).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Tại sao lại gọi Chúa là Ánh sáng ? 2.Tại sao lại gọi Chúa là Vua Hòa Bình ? 3.Hài Nhi Giêsu là ai ? 4.Tại sao Hài Nhi Giêsu lại là Đấng cứu độ ?
Bóng tối không thể ở nơi nào có ánh sáng. Đêm đen phải lùi xa khi ánh bình minh sáng ngời. Bóng đen: GS-336
Bóng tối không thể ở nơi nào có ánh sáng. Đêm đen phải lùi xa khi ánh bình minh sáng ngời. Bóng đen tội lỗi phải biến mất khi Ánh Sáng Giáng Sinh xuất hiện. Vâng, thật hạnh phúc vì hôm nay sự sáng chiếu giãi trên chúng ta, và Chúa đã giáng sinh cho chúng ta.
Ngày xưa, giữa đêm đen thăm thẳm, trong hơi sương giá rét, Ánh Sao Lạ đã xuất hiện làm dấu chứng để các mục đồng nhận biết nơi sinh của Đấng Cứu Độ. Ngày nay, chúng ta cũng thực sự hạnh phúc vì có Ánh Sao Lạ dẫn đường: Ánh Sáng Đức Tin. Nhờ đó, chúng ta nhận biết Hài Nhi Giêsu là Con Thiên Chúa, Đấng hóa thành nhục thể để cứu độ chúng ta. Chính Ngài là Ánh Sáng Cứu Độ dẫn chúng ta về với Thiên Chúa Cha.
Hôm nay, niềm hạnh phúc đó đang tràn đầy thế giới, từ đất tới trời, và ngập cõi lòng những người thành tâm thiện chí. Niềm vui cứ ngồn ngộn !
Niềm vui sướng vỡ òa khắp nơi, như Ngôn Sứ Isaia đã nói: “Đây là lời Đức Chúa loan truyền cho khắp cùng cõi đất: Hãy nói với thiếu nữ Sion: Kìa ơn cứu độ ngươi đang tới. Kìa phần thưởng của Người theo sát một bên, và thành tích đi ngay trước mặt. Chúng sẽ được gọi là Dân-Thánh, là những-người-được-Đức-Chúa-cứu-chuộc. Còn ngươi sẽ được gọi là cô-gái-đắt-chồng, là thành-không-bị-bỏ” ( Is 62, 11-12 ). Những người hạnh phúc đó chẳng ai xa lạ, đó cũng là chính chúng ta ngày nay. Thế thì làm sao chúng ta lại không vui sướng cho được !
Hài Nhi Giêsu nơi hang đá Belem là Con Thiên Chúa, là Đấng Emmanuel, Đấng ở cùng chúng ta. Hãy chứng tỏ niềm vui đó và mời gọi muôn vật cùng đồng thanh tán dương: “Chúa là Vua hiển trị, hỡi địa cầu, hãy nhảy mừng lên, vui đi nào, ngàn muôn hải đảo !” ( Tv 97, 1 ). Chứng cớ không mơ hồ, vừa mặc nhên vừa minh nhiên: “Trời xanh tuyên bố Người là Đấng chính trực, hết mọi dân được thấy vinh quang Người” ( Tv 97, 6 ). Không nhận ra Thiên Chúa qua vạn vật chỉ vì người ta cố chấp hoặc cố ý nhắm mắt làm ngơ mà thôi.
Nièm vui tăng dần, hạnh phúc trào dâng như triều cường: “Ánh sáng bừng lên chiếu rọi người công chính, niềm vui làm rạng rỡ kẻ lòng ngay. Trước nhan thánh Chúa, người công chính hãy vui mừng tưởng nhớ Thánh Danh mà dâng lời cảm tạ” ( Tv 97, 11-12 ). Vui mừng rồi phải biết tạ ơn. Rõ ràng tâm tình tạ ơn rất quan trọng, nhưng chúng talại thường quên điều này. Niềm vui đó rõ nét cả ở những người không tin Hài Nhi Giêsu là Con Thiên Chúa. Điều này thấy rõ ngay ở đời thường này.
Nhờ Ánh Sáng Đức Tin sáng soi từ khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, chúng ta trở thành tín hữu – những người “có niềm tin”. Là tín hữu thì cũng có những bổn phận chung và riêng, đơn giản nhất là sống Đức Tin. Thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Người đối với nhân loại. Không phải vì tự sức mình chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Người thương xót, nên Người đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới. Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta” ( Tt 3, 4-6 ).
Dù trước mặt người đời, chúng ta có làm được những việc mà người ta cho là tài giỏi, nhưng cũng chẳng là gì đối với Thiên Chúa. Do đó, chúng ta không có lý do gì để mà vênh vang tự đắc hoặc kiêu ngạo. Nếu chúng ta có làm được điều gì hơn người khác thì cũng là nhờ ơn Chúa, có tài năng gì thì cũng là để phục vụ tha nhân, và luôn phải nhớ kỹ rằng “được nhiều thì bị đòi lại nhiều” ( x. Mt 25, 14-30; Lc 19, 12-27 ). Đừng tưởng được nhiều thì sướng đâu đấy ! Thánh Phaolô kết luận: “Như vậy, một khi nên công chính nhờ ân sủng của Đức Kitô, chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời, như chúng ta vẫn hy vọng” ( Tt 3, 7 ).
Trình thuật Lc 2, 15-20 là đoạn Kinh Thánh tiếp theo Tin Mừng lễ đêm Giáng Sinh. Trình thuật sáng nay đề cập các nhân chứng sống đầu tiên đối với việc Con Thiên Chúa giáng sinh làm người: Các mục đồng – những người nghèo khổ và hèn mọn trong xã hội.
Nửa đêm giá lạnh, chắc chắn con nhà nghèo thì quần áo không đủ ấm, thậm chí có thể cũng chẳng đủ no bụng chứ nói chi đồ ăn ngon, nhưng các mục đồng vẫn ngủ say sau một ngày chịu mệt mỏi vì phải chăn chiên, đường xa lại đồi núi hiểm trở, họ phải ngủ lại nơi hang động. Các mục đồng đang ngon giấc thì chợt tỉnh giấc vì đất trời khác thường, tiếng động và ánh sáng bao trùm, lại có các thiên thần xuất hiện, ngạc nhiên hơn là có tin lạ. Các mục đồng đơn sơ và thật thà nên dễ tin, nhưng không phải họ tin vô cớ.
Sau khi các thiên thần từ biệt họ để về trời, họ liền bảo nhau: “Nào chúng ta sang Belem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết” ( Lc 2, 15 ). Họ liền hối hả ra đi. Kinh Thánh dùng trạng từ “hối hả”, chứng tỏ họ đã tin nên mới đi ngay giữa đêm khuya, không so đo, không tính toán, không cần ngủ thêm nữa dù họ đang ngái ngủ vì dở giấc. Một bài học sống động về Đức Tin của các mục đồng khiến chúng ta phải tự xem lại Đức Tin của chính mình.
Khi đến nơi có Ánh Sao Lạ tỏa sáng trên cao, các mục đồng trực tiếp gặp Cô Maria, Chú Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Một gia đình quá nghèo, nói theo ngôn ngữ ngày nay là “nghèo rớt mồng tơi”. Te tua tơi tả thật ! Nhưng họ vẫn tin, tin ngay, không một chút do dự. Thế mới lạ ! Nếu là chúng ta, liệu chúng ta có đủ tin ? Chưa chắc. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta yêu tha nhân, yêu cả kẻ thù, và làm điều gì cũng là làm cho Chúa, thế nhưng mấy ai thực sự nhìn thấy Chúa nơi những người nghèo khổ và hèn mọn mà hằng ngày chúng ta gặp ? Đôi mắt Đức Tin của Chân Phúc Mẹ Teresa Calcutta thật “sáng” khi Mẹ dặn các nữ tu: “Hãy phục vụ những người nghèo như phục vụ Đức Giêsu Kitô”. Còn chúng ta ?
Các mục đồng không chỉ là chứng nhân về Con Thiên Chúa giáng sinh, là tấm gương sáng cho chúng ta noi theo, mà có thể nói rằng họ là những “thầy dạy” về Đức Tin đối với chúng ta. Họ nhãn tiền thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. Biết Chúa rồi, họ không giữ cho riêng mình, mà họ chia sẻ Chúa với người khác. Mà cũng thật lạ là khi nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên, nhưng họ tin. Những người này cũng có con mắt Đức Tin kỳ diệu, họ tin lời các mục đồng thuật lại chứ không cho rằng các mục đồng thế này hoặc thế nọ, họ không cần phải cân nhắc chi cả. Cả các mục đồng và những người nghe kể lại đều thấy lạ theo con mắt Đức Tin chứ không vì hiếu kỳ hoặc tò mò. Những bài học về Đức Tin thật đắt giá !
Thánh Luca cho biết thêm “sự lạ” khác: “Còn Cô Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Ghi nhớ và suy tư là hai động thái cần thiết, nhưng người ta lại thích hành động ngược lại. Im lặng và lắng nghe để Chúa Thánh Thần hành động, chứ không ba hoa chích chòe, nhiều chuyện như “bà Tám”.
Sự thật tỏ tường, các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ. Cuộc đời nghèo khổ của họ đã khiến Thiên Chúa động lòng trắc ẩn mà ban cho họ niềm hạnh phúc khôn tả, những người khác không thể có được. Nghèo khó là nhân đức, là con đường dẫn tới Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót. Ánh Sáng Giáng Sinh đang chiếu tỏa khắp thế gian. Noel – Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, xin giúp chúng con biết sống đúng tinh thần nghèo khó, xin giúp chúng con nhận ra Chúa nơi những người bé mọn trong cuộc sống đời thường, đồng thời xin giúp chúng con biết mở rộng con tim và đôi tay đối với họ. Người là Đấng hằng sinh và hiển trị cùng với Thiên Chúa Cha, hiệp nhất với Thiên Chúa Ngôi Ba, đến thiên thu vạn đại. Amen.
Có dịp giới thiệu với những bạn bè ngoài công giáo về hang đá Giáng Sinh, một câu hỏi thường GS-337
Có dịp giới thiệu với những bạn bè ngoài công giáo về hang đá Giáng Sinh, một câu hỏi thường được đặt ra về ý nghĩa câu Kinh Thánh được ghi phía trên hang đá: “Ngôi Lời đã làm người” nghĩa là gì?
Một câu hỏi không dễ trả lời, vì nó bao hàm cả một nội dung tín lý quan trọng mà giáo lý công giáo gọi là ‘mầu nhiệm”. Nhập Thể là một trong ba “mầu nhiệm cả”, cùng với mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi và mầu nhiệm Cứu chuộc. Những mầu nhiệm này là cốt lõi Đức tin của người công giáo.
Thiên Chúa đã làm người. Mầu nhiệm Nhập thể là đỉnh cao của tình yêu thương, là nghĩa cử hạ mình hy sinh trọn vẹn nhất mà Thiên Chúa đã thực hiện trong lịch sử. Đối với chúng ta, dù yêu ai đến đâu chăng nữa, chúng ta cũng không thể hoá thân nên giống người mình yêu được. Chúng ta chỉ có thể thể hiện tình yêu bằng những món quà, hay bằng những cử chỉ yêu thương chăm sóc tận tình, nhưng không thể nên một để mang lấy thân phận của người mình yêu thương.
Khi mang lấy thân phận loài người, Con Thiên Chúa đã tự huỷ mình ra không, theo cách nói của Thánh Phaolô (x. Pl 2,6-11). Người bỏ ngai vàng thiên quốc để xuống thế sống với con người. Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa không còn là vị thần nghiêm khắc ở trên cao xanh vời vợi, mà là một Thượng-đế-ở-cùng-chúng-ta, là Đấng Emmanuel. Người xuống trần vì lòng xót thương. Người muốn chia sẻ phận người với những ai đang sống trong cảnh lầm than khốn cùng của tội lỗi, nhằm cứu vớt họ và cho họ hưởng hạnh phúc. Truyền thống Giáo hội từ rất xa xưa thường cử hành lễ Giáng Sinh vào lúc nửa đêm, muốn diễn tả việc Đức Giêsu sinh hạ là khởi điểm cho một thời đại mới, đưa lịch sử sang trang. Đức Giêsu là Mặt Trời công chính, báo hiệu kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của ơn Cứu độ. Người là “Ánh sáng bởi Ánh sáng”, đã bừng lên giữa tối tăm tội lỗi để dẫn đưa con người đạt tới ánh sáng của sự thánh thiện. Từ thời xa xưa, khi ban Lề Luật, Thiên Chúa nói với con người qua ông Môisen, như tiếng sấm tiếng sét, khiến họ khiếp sợ hãi hùng. Nay, Con Thiên Chúa làm người để nói với con người bằng ngôn ngữ của họ, rất bình dân, gần gũi, thân thiện. Người khẳng định với họ rằng, giữa đau khổ của kiếp người, Thiên Chúa vẫn hiện diện để lau khô giọt lệ nơi khoé mắt họ. Không chỉ đồng hành và chia sẻ phận người, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa còn chịu đau khổ với con người và vì con người. Cái chết của Người trên thập giá đã chứng minh tình thương bao la hải hà của Thiên Chúa Cha đối với nhân loại. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
Mầu nhiệm Nhập thể còn là sự trao đổi kỳ diệu: Con Thiên Chúa làm người để cho con người được trở nên con Thiên Chúa. Ý tưởng này được nhắc lại nhiều lần trong những lời cầu nguyện của Phụng vụ trước lễ Giáng Sinh. Trong Chúa Giêsu, với Chúa Giêsu và nhờ Chúa Giêsu, con người hèn mọn được nâng cao, được thần hoá và trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa Tối Cao.
Mầu nhiệm Giáng sinh là một tin vui lớn lao cho cả nhân loại. Các sứ thần đã loan báo cho những mục đồng ở Belem như thế. Những người chăn chiên đơn sơ chất phác đã cảm nhận được ý nghĩa của biến cố Giáng Sinh, nên sau khi đến chiêm ngưỡng Hài nhi Giêsu, họ trở về trong hân hoan vui mừng, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa (x. Lc 2,8-20). Các mục đồng vui mừng hân hoan, vì họ thấy đã đến lúc Thiên Chúa thực hiện lời hứa từ ngàn xưa với tổ tiên họ. Hài nhi mới sinh là dấu chỉ và bằng chứng của lòng Chúa xót thương con người. Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết: “Lòng thương xót là một từ khoá chỉ ra hành động của Thiên Chúa đối với chúng ta. Ngài không hạn chế mình trong việc khẳng định tình yêu của Ngài, nhưng còn đi xa hơn là làm cho tình yêu này thành hữu hình và đụng chạm được” (Misericordiae Vultus, số 9). Nơi Hài nhi Giêsu, con người có thể chiêm ngưỡng và “đụng chạm” tới Thiên Chúa, Đấng tự bản chất là vô hình, nay đã trở nên hữu hình giữa chúng ta. Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa vô hình có một trái tim. Trái tim này đã rung cảm trước nỗi đau của nhân thế, rơi lệ trước cái chết của con người và chạnh lòng thương những ai cơ hàn cô thế, đem cho họ sự an ủi vỗ về và giúp họ tìm lại nghị lực vươn lên.
Giữa những ồn ào náo nhiệt tưng bừng của ngày lễ Giáng Sinh, người tín hữu phải cảm nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa khi đến với Hài nhi Giêsu. Đó cũng là tâm tình của Đức Trinh nữ Maria trong bài Kinh Ca ngợi (Magnificat), của ông Giacaria trong Kinh Chúc tụng Chúa (Benedictus), và cũng là của cụ già Simêon trong lời kinh An Bình (Nunc Dimittis). Tất cả đều cảm thấy được ngập tràn tình thương của Chúa và được “chạm tới” sự cao cả của Ngài.
Lễ Giáng Sinh mang sứ điệp của tình thương, sứ điệp của an bình. Người Kitô hữu chiêm ngưỡng Đức Giêsu Kitô, dung mạo lòng thương xót của Chúa Cha và cầu xin ơn an bình đến cho cuộc đời. Thiên Chúa yêu thương con người và mời gọi con người thực hành đức yêu thương, nhưng nhiều khi chúng ta vẫn chối từ lời mời gọi ấy, thậm chí đi ngược lại với những điều Ngài truyền dạy. Đó là nguyên nhân của biết bao đau khổ và xáo trộn trong cuộc sống hằng ngày. Đã trở thành thông lệ của nhiều cộng đoàn Đức tin, việc mừng lễ Giáng Sinh đi đôi với những nghĩa cử chia sẻ bác ái đối với anh chị em nghèo nàn, bất hạnh, giúp họ cảm thấy hơi ấm của tình Chúa, tình người, nhất là cảm nhận được lòng thương xót của Chúa lan toả đến những nẻo đường của cuộc sống.
Như các mục đồng tại Belem năm xưa, sau khi cảm nhận được niềm vui và ơn an bình mà Chúa Hài Đồng ban tặng, chúng ta hãy chúc tụng Chúa và hãy lên đường để nói với những người đang sống xung quanh chúng ta rằng: Thiên Chúa đã xuống trần vì lòng xót thương.
Hoà bình là ước vọng muôn thuở của con người.Ai cũng đau khổ vì chiến tranh /con mất cha GS-338
Hoà bình là ước vọng muôn thuở của con người.Ai cũng đau khổ vì chiến tranh /con mất cha/ vợ mất chồng./Chiến tranh đốt cháy quê hương/ con người không nhà không cửa. Mù loà tàn tật điêu linh.Chiến tranh là một thảm hoạ.Cho nên nhân loại luôn tôn vinh những người xây đắp hoà bình, nhân phẩm.Hàng năm thế giới có nhiều giải thưởng cho những ai đã góp phần cho hoà bình.Một giải thưởng cao quí là giải Nobel hoà bình.Năm ngoái đã trao cho một cô gái 16 tuổi là Malala Yusẵkzai trong sự nghiệp đấu tranh cho quyền đi học của nữ giới tại Pakistan.Trong thế kỷ 20 một số giải Nobel hoà bình đã được trao cho các nhà lãnh đạo công giáo là các đức giáo hoàng Phaolo VI và Gioan XXIII.
Tin Mừng theo thánh Luca cho biết trong đêm Chúa Gíang Sinh năm xưa các thiên thần đã hát vang
Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương
Bài ca Gíang Sinh đó vẫn được hát vang mọi nơi trên cùng cõi trái đất nhất là những khi mùa Gíang Sinh đến.
Trên trời và dưới thế.Hai ý niệm này bao gồm toàn thể vũ trụ, thế giới thần linh và thế giới con người.Vinh danh TC là TC được tôn thờ được nhận biết được yêu mến.Vinh danh TC còn là việc con người tôn vinh TC trong cuộc đời mình, trong Lịch Sử và trong thế giới
BÌnh An dưới thế cho loài người Chuá thương
a/Bình an do không chỉ do Chúa ban, trời cho, nhưng bình an cũng do con người góp phần và xây dựng .
b/ Chúa Giêsu đã chúc phúc: “Phúc cho ai xây dựng hoà bình” (Mt 5, ) Năm nay, giải Nobel hoà bình 2015 dành cho 4 tập thể,cho Bộ tứ đối thoại quốc gia Tunisia vì "những đóng góp mang tính quyết định cho việc xây dựng một nền đa nguyên dân chủ hòa bình cho một quốc gia".(USA today) Đó là lý do trao giải của Uỷ Ban Nobel Thuỵ Điển.
Sau khi lật đổ nhà độc tài, nước Tunisie rơi vào hỗn loạn bạo lực ám sát.," Hội đồng Nobel tuyên bố: " Nhóm này gây dựng nên một lộ trình chính trị hòa bình vào thời điểm đất nước cận kề bờ vực nội chiến. Đây là yếu tố đưa Tunisia đi tới việc thành lập một chính phủ lập hiến bảo đảm quyền lợi chính đáng của toàn thể người dân, không phân biệt giới tính, quan điểm chính trị và tín ngưỡng tôn giáo".
Hoà bình phải đi với công lý, tự do và nhân phẩm.Có những thứ hoà bình trong đó dân chúng sống trong một trại tù bao la không công lý tự do và nhân phẩm !
Một nhân vật khác có công với hoà bình nhân phẩm lòng thương xót tuy không đươc giải Nobel hoà bình nhưng đã được bình chọn Nhân vật số một của năm 2015 theo tạp chí Time, là thủ tướng Đức, Bà Angela Merkel một người Kitô giáo.
Với cương vị thủ tướng Đức, nước có vị trí quan trọng nhất của châu Âu, Merkel đã có những đóng góp hoà bình tích cực trong việc vãn hồi hoà bình trong khủng hoảng Ucraina, cho khủng hoảng nợ công Hi lạp và có thể dẫn đến khủng hoàng cả vùng EU.Hay Biển người tỵ nạn vào Âu châu. Từ cuộc chiến Syri hàng triệu nạn nhân đã bỏ chạy, hàng trăm ngàn người chết; Hàng triệu người tỵ nạn tràn ngập các quốc gia làm điêu đứng mọi tổ chức và cuộc sống. Xây bức thành Bá Linh mới hay sao ? Đức đã cho hàng triệu người nhập cư và động viên các quốc gia EU đón nhận nguời tỵ nạn.
“Phúc cho ai xây dựng hoà bình”.Ai xây dựng hoà bình được TC chúc phúc.Chính chúng ta góp phần cho hoà bình.Chính chúng ta là hiện thân hoà bình của TC. THánh Phaolo dạy : ”Anh em hãy làm hết sức để gìn giữ sự hoà thuận giữa anh em “ (Rm 12, )
Thế giới đánh giá cao những việc làm của bà Merkel đã thực hiện cho ngươi tị nạn. Họ là hình ảnh Thiên Chúa bị bỏ rơi.Bà Merkel còn là một người tín hữu Kitô thực hiện những giáo huấn của Đức Giêsu và hôm nay, ĐTC Phan xi cô, lòng thương xót thay vì trả thù, hiền lành khôn ngoan thay vì ích kỷ bạo lực.Trong bài phát biểu tại lễ tạ ơn nước Úc do cộng đoàn Công giáo Việt Nam tại Úc tổ chức, Cha Tổng đại diện Tổng Gíao Phận Melbourne đã cám ơn những người tị nạn VN” : Anh chị em ra đi trong đau thương trong tuyệt vọng…anh chị em đã đem niềm vui niềm hy vọng và thịnh vượng cho nước Úc…”..Nói theo cách của thánh Phan xi cô Assisi: “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”….,
Hội thánh Công giáo người xây dựng hoà bình và phát triển
Trung thành với cuộc đời và giáo huấn của CG, Hội Thánh Công Gíao luôn là tác nhân và sứ gỉa của Hoà BÌnh.Chính ĐGH Phan xi cô là nhân tố quan trọng nhất bình thường hoá quan hệ Mỹ và Cuba.
Trong một cuốn sách nhỏ tôi đã viết câu chuyện hoà bình lớn phải đươc xây dựng bằng nhiều hoà bình nhỏ.Kinh Năm thánh 1950 cách đây hơn nửa thế kỷ đã xin cho có hoà bình trong tâm hồn hoà bình trong gia đình và hoà bình giữa các dân tộc…
Năm 2015 cũng là năm của Đại Hội Gia đình thế giới công giáo.Chính trong đời sống gia đình của anh chị em là cho là nhận.Cho đi là con đuòng nên thánh của ace…”Không tình yêu nào cao quí bằng tình yêu hiến mình cho bạn hữu”…
Hoà bình khởi sự từ con tim.Con tim biết quên mình biết thương xót biết chăm sóc. Trồng thêm một cây xanh, thêm một luống rau sạch. Dọn vệ sinh một lối đi…..Cho đến chăm sóc ngôi nhà chung cả thế giới. Sống trong ô nhiễm làm sao có bình an khi ô nhiễm dẫn đến bệnh tật ung thư chết chóc.Ngoài ra ĐTC Phan xi cô trong SĐ Hoà bình thế giới 2016 đã viết:” . Sự dửng dưng lãnh đạm đối với những tai ương ngày nay là một trong những lý do chính làm cho thiếu hòa bình trên thế giới. Sự dửng dưng ngày nay thường gắn liền với nhiều hình thức cá nhân chủ nghĩa, tạo nên sự cô lập, u mê, ích kỷ, và do đó không dấn thân.” Do sự dửng dưng, ích kỷ lợi ích nhóm người ta tàn phá môi sinh khiến chính ngôi nhà chung nguy ngập có thể lôi kéo sự tận diệt của nhân loại. Ngay trong thị xã chúng ta chưa bao giờ sự tàn phá môi sinh khủng khiếp như hôm nay chúng ta trả lời với con cháu ra sao ?
Hoà bình lớn góp lại từ những hoà bình nhỏ.Trong mọi hoàn cảnh chúng ta có thể hành động cho hoà bình hạnh phúc bằng những việc làm cụ thể.Lời nói hoà bình, việc làm hoà bình.Hoà bình có tên là an toàn.An toàn thực phẩm,an toàn lưu thông, an toàn sản phẩm. Rau Tân lý chúng ta bán ra chợ không còn dư lượng thuốc trừ sâu hay thuốc kích thích sinh trửơng.Xịt thuốc kích thích sinh trưởng cho rau dài gấp đôi, lớn gáp ba rồi đem ra chợ bán là giết lần giết mòn người tiêu dùng. Xả rác vô tội vạ cũng là tội trọng vì ô nhiễm ngôi nhà chung sẽ giết hết mọi người…
Chúa Giê su Vua Hoà Bình,
Hôm qua tôi thấy trên một hang đá nhỏ ở họ Micae chi ba chữ VUA HOÀ BÌNH.Vâng CG là vua hoà bình là Vua Tình Yêu/”Vâng chúng ta tuyên xưng trong kinh tin kính “Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi Người đã từ trời xuống thế ….”
CG Sinh ra hoà bình CG sinh ra trong hang trú ẩn mùa đông của sức vật, theo lệnh kiểm tra dân số của hoàng đế La mã, âm thầm trong một đêm vắng.Thiên thần đã hát vang “bình an đưới thế cho người thiện tâm”.
CG Sống hoà bình Ba mươi năm sống âm thần hoà bình với xóm làng Nagiarét.Ba năm rao giảng và thực hiên hoà bình tinh yêu “ Lời ngôn sứ Isaia được hiện thực khởi đầu tại Nagiarét “Thánh thần chúa ngự trên tôi sai tôi đi rao giảng tin mưng cho người nghèo khó thuyên chữa những tâm hồn rách nát đau thương giải thoát kẻ bị giam cầm tuyên bố một năm hồng ân của TC..”(Lc 4 ) Đi nơi đâu cũng Ngài cũng thi ân giáng phúc.
CG Chết hoà bình
- Phi la tô ngạc nhiên vì những tố cáo vu khống của người Do thái. Ông hỏi Chúa Giêsu : “ông không biết rằng tôi có quyền bắt và tha ông sao ? Ông đã làm chi?
- Viên Đại đội trưởng Roma sau khi nhìn thấy người mình đóng đinh tắt thở trên thập giá ông ta mới ngộ ra “Người này là Con THiên CHúa”(Mc16)
Cuôc Giáng Sinh của Chúa Giêsu là để vinh danh TC. ”Này con đến để thực thi ý chúa”
Chúa Giêsu là Vinh danh thiên Chúa trên trời..Và Bình anh dưới thế cho người CHúa thương…
Hay nói theo ngôn ngữ của Tông huấn Lòng Chúa Thương Xót :”Đức Giêsu Kitô là khuôn mặt của lòng thương xót Chúa.”
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng,
Năm xưa đã nằm trong hang đá bé nhỏ nghèo hèn xin CHúa hiên diện đồng hành với chúng con hôm nay xin toả ánh vinh quang Chúa trên chúng con trên con người và quê hương tự hào về sự văn minh vật chất nhưng nghèo đói tâm linh và tình thương.
Xin thực thi công lý và sự thật như Chúa là sự thật trong thế giơi thù hận và dối trá.
Xin biến đổi lòng dạ chúng con để biết yêu thương và chia sẻ, biết cùng nhau chăm sóc ngôi nhà chung thế giới,biết xây dựng hoà bình và chăm sóc công trình tạo dựng là vinh quang Chúa và biết học theo lòng thương xót vô bờ của Chúa để đối xứ với nhau như huynh đệ trong mái nhà yêu thương .Amen
Một ngày cuối tháng 11 năm 1994, bà Allyson Moring bỗng ngã bệnh nặng và được đưa vào Bệnh GS-339
Một ngày cuối tháng 11 năm 1994, bà Allyson Moring bỗng ngã bệnh nặng và được đưa vào Bệnh Viện. Người ta khám phá bà bị bệnh nhiễm trùng huyết ở giai đoạn cuối cùng. Vị bác sĩ nói nhỏ với ông Danny Moring: “Ông nên báo cho thân nhân biết, vì có lẽ bà nhà sẽ không sống đến ngày mai.”
Khi chồng, bố mẹ và các em vợ có mặt đầy đủ trong phòng, Allyson hé mở đôi mắt và trông thấy Cha Sở. Allyson nhắm mắt lại. Nước mắt ràn rụa chảy ra. Cha Watters đọc lời nguyện và ban Bí Tích Xức Dầu Bệnh Nhân cho Allyson.
Allyson Moring điều khiển ca đoàn trường trung học Charleston, thuộc bang Nam Carolina, Hoa Kỳ. Ca đoàn gồm 50 ca viên, tuổi từ 14 đến 17. Ca đoàn đã ráo riết tập dượt để trình diễn Thánh Ca Giáng Sinh tại Nhà Thờ Giáo Xứ vào ngày 8.12.1994, lễ trọng kính Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Đặc biệt nữ ca trưởng Allyson mang tham vọng trình diễn bài cuối cùng Hallelujah trong bản trường ca bất hủ Đấng Messiah của nhạc sĩ nổi danh người Đức, Georg Friedrich Haendel ( 1685-1759 ). Bản Halleluyah là kiệc tác nhưng trình bày bản này quả là thách đố lớn đối với ca đoàn trẻ tuổi trường trung học Charleston. Dầu vậy nữ ca trưởng Allyson Moring cương quyết thực hiện cho bằng được giấc mộng! Tin nữ ca trưởng đã lãnh nhận Bí Tích Sau Cùng, được đồn nhanh tới tai các ca viên trẻ tuổi. Mọi người hốt hoảng lo lắng. Bằng mọi giá, phải cứu ca trưởng thoát chết và để buổi trình diễn Thánh Ca Giáng Sinh được thực hiện như chương trình dự định. Jessica đề nghị với các bạn đưa cuộn băng đã thu thử buổi trình diễn Thánh Ca Giáng Sinh, đến cho ca trưởng Allyson nghe.
Những bản Thánh Ca Giáng Sinh với tiếng hát trẻ trung đều nhịp vang lên trong phòng bệnh. Khi đến bài Halleluyah, bà Allyson gần như nhếch môi mỉm cười, khiến ông Danny tràn đầy hy vọng. Từ đó, khi ngồi bên giường vợ, ông Danny liên tục cho vợ nghe đi nghe lại băng Thánh Ca Giáng Sinh.
Trong khi ấy các ca viên đã đề cử Katherine, 17 tuổi, thay thế Allyson điều khiển buổi trình diễn Thánh Ca. Ban đầu Katherine quyết liệt từ chối. Rồi nghĩ lại cô tự nhủ: “Mình phải làm vì ca trưởng Allyson”. Sau cùng, 8.12.1994, ngày chờ mong và hồi hộp nhất đã đến. Nhà Thờ thành phố Charleston chật ních thính giả đến nghe trình diễn Thánh Ca. Mọi người biết rõ các ca viên đã cố gắng vượt mức để thực hiện giấc mộng của vị ca trưởng nhiệt huyết, Allyson Moring. Trong phòng mặc áo, ca đoàn dợt lại lần cuối cùng. Xong, Katherine cất tiếng nói: “Bây giờ, tôi xin đề nghị với các bạn cùng cầu nguyện cho bà Allyson Moring, ca trưởng của chúng ta. Sau đó, chúng ta cố gắng hết mình để bà được hãnh diện vì chúng ta”.
Các ca viên lần lượt tiến ra cung thánh, vừa đi vừa hát bài “Đêm Thánh Vô Cùng”. Khi tất cả cùng đứng nơi bục cao, đèn trong Nhà Thờ bật sáng. Trước khi bắt đầu, Katherine nói: “Chúng con xin dành riêng buổi trình diễn Thánh Ca Giáng Sinh hôm nay cho bà Moring và cầu chúc bà sớm bình phục.” Và buổi trình diễn đã thành công rực rỡ, ngoài mức tưởng tượng và chờ mong của mọi người.
Sau ngày 8 tháng 12, sức khoẻ bà Allyson Moring từ từ hồi phục. Ngày 25.12.1994, đúng 17 ngày sau buổi trình diễn Thánh Ca, bà xuất viện trở lại gia đình mừng Lễ Giáng Sinh với chồng và hai đứa con. Cuộc khỏi bệnh đúng là phép lạ. Khi các ca viên đến chúc mừng, bà nói với họ: “Cơn bệnh dạy tôi bài học quý giá về hiệu quả của âm nhạc và của lời cầu nguyện cũng như về lòng tin tưởng nơi tài năng diệu kỳ của giới trẻ...” ( Nữ Tu Minh Nguyệt, Món Quà Giáng Sinh, Reader’s Digest Sélection, Décember/1995 ).
Phép lạ bình phục của bà Allyson Moring minh chứng tỏ tường Lòng Chúa Thương Xót qua tâm tình cầu nguyện, niềm tin và hy vọng. Hôm nay, trình thuật Tin Mừng theo Thánh Luca diễn tả giây phút Ngôi Lời giáng sinh trong bối cảnh nghèo hèn, thiếu thốn đến tận cùng. Chỉ trong 14 câu, Thánh Luca còn khéo léo trình bày sự mâu thuẫn, tương phản, bất đồng giữa Trời và đất, giữa Thiên Quốc và thế gian, làm nổi bật lên Lòng Thương Xót vô cùng của Thiên Chúa đối với nhân loại.
Quyền lực và tùng phục
“Giuse cũng rời thị trấn Nadarét, trong xứ Galilê, trở về quê quán của Đavít, gọi là Bêlem, vì Giuse thuộc hoàng gia và là tôn thất dòng Đavít, để khai kiểm tra cùng với Maria, bạn người, đang có thai.” Đấng Emmanuel, Thiên-Chúa-Ở-Cùng đầy quyền năng, nhập thể dù đang còn ở trong cung lòng Mẹ Maria, hoàn toàn tùng phục vương quyền đế quốc Rôma. Mâu thuẫn bất khả tín này lại là một sự thật đáng kinh ngạc trong lịch sử nhân loại.
Như thế bài học đầu tiên của Hài Nhi Giêsu muốn gửi đến tín hữu Kitô chính là đức “vâng phục.” Người vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa Cha, xuống thế cứu độ nhân loại. Người cũng vâng phục uy quyền trần thế, chịu đoạ đầy kiếp người dân lầm than, kiếp nô lệ bị Rôma đô hộ.
Ngày hôm nay, phần lớn các dân tộc đã thoát ách nô lệ ngoại bang, nhưng cư dân khắp hành tinh đều đang chịu đô hộ bởi những tân đế quốc bóc lột tinh vi, độc địa và tàn ác hơn nhiều. Đó là tiền tài, vật chất, sa hoa, đó là danh lợi, chức tước, quyền lực, đó là nếp sống của văn hoá sự chết, ma tuý, nhục dục, phá thai, đồng tính, an tử,… Những tân đế quốc này không biên giới, không cát cứ, cố định, mà len lỏi vào hang cùng ngõ hẻm mọi nơi, mọi lúc, đến tận từng khu phố, làng xóm và xâm nhập vào tận từng gia đình, vào cả tâm hồn mỗi người.
Hài Nhi Giêsu hôm nay vâng phục giáng thế vào xã hội nhiễu nhương, xô bồ, điên rồ, chối bỏ Thiên Chúa, đua nhau tôn thờ, sùng kính bái vật. Người cũng vâng phục mà chịu đựng bất công, chịu khinh miệt, chịu phân biệt và chịu chối từ, mà không hề phản kháng, chống đối hay nổi loạn. Người cũng vâng phục uống chén đắng ngay từ trong lòng Mẹ Maria, bụng chửa vượt mặt, lê gót cùng ông Giuse, tìm kiếm chỗ trọ qua đêm đông rét mướt. Người muốn chia sẻ và đồng hành với tất cả những ai bất hạnh, đau khổ, để an ủi, giúp đỡ, vỗ về, đem ánh sáng tình yêu cứu độ đến giải thoát khỏi ngục tù sự dữ tối tăm. Để cho con người được tự do, thoát khỏi xiềng xích tội lỗi, để con người có thể lãnh nhận Lòng Thương Xót, Người đã vâng phục cho đến chết, để hoàn toàn hoá giải quyền lực sự dữ, cứu độ con người được sống mãi.
Với Lòng Thương Xót, Người đã nhẫn nhục chịu đựng sự bất công, phân biệt, xua đuổi, mà vui vẻ tha thứ cho những kẻ bất nhân. Sự tha thứ tột cùng không chỉ cho những kẻ dữ hành hạ, khổ nhục, tử hình Người, mà còn cho cả những người chủ mưu, đồng loã, vu oan cáo vạ, kết án tử cho Người, cũng như cho cả những ai tội lỗi vấp phạm đến Chúa và tha nhân. “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” ( Lc 23, 34 ).
Hôm nay, Người vẫn còn tiếp tục tha thứ cho bất cứ ai lấm lem, vấy bẩn tội lỗi, biết sám hối trở về với Người. “Sự tha thứ cho sự bất công đã mắc phải chính là một sự diễn tả rõ ràng nhất về Tình Yêu nhân hậu, và đối với các Kitô hữu chúng ta, nó trở thành một mệnh lệnh mà chúng ta không thể khước từ. Việc càng ngày càng phải tha thứ thật khó khăn biết chừng nào! Thế nhưng, sự tha thứ lại là một nhạc cụ được đặt vào trong đôi tay yếu đuối của chúng ta để chúng ta tìm thấy được sự bình an của tâm hồn.” ( Đức Phanxicô, Tông Sắc Năm Thánh Lòng Thương Xót, số 9 ).
Giàu sang và nghèo khó
Từ Thiên Quốc rạng ngời, cao sang, thánh thiện, ngập tràn niềm vui, Đức Giêsu vâng phục nhập thể, làm hài nhi sinh hạ trong gia cảnh nghèo nàn, khó khăn mọi bề. Người thế trần không thể nào hiểu nổi mầu nhiệm Chúa Giáng Sinh trong bối cảnh nhếch nhác, thiếu thốn, thấp hèn như vậy. Bởi vì Hài Nhi Giêsu muốn đem đến nhân loại món quà “nghèo khó.”
Người vốn là Đấng Tạo Dựng muôn loài, đầy đủ quyền năng, thế mà không đoái hoài đến giàu sang, sung túc, phú quý, tiền bạc, của cải, mà chọn lấy cái nghèo hèn vào đời. Người mong con người thoát ách vật chất, bụi trần, thoát khỏi vòng kiềm toả, nô lệ tiền tài, bái vật, trở về làm con ngoan của Chúa. Người muốn chỉ dạy cho con người đâu là cái giàu có đích thực. Đó chính là Lòng Thương Xót vô cùng của Thiên Chúa, để chia sẻ với tha nhân. “Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” ( 2Cr 8-9 ).
Khiêm hạ và vinh quang
“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” ( Pl 2, 6-7 ).
Vinh quang và khiêm hạ bỗng hoan hỷ kỳ duyên hoà hợp, khi Hài Nhi Giêsu giáng trần. Chẳng vua quan, thầy cả, tư tế hay chức sắc thế quyền, hay thần quyền nào được sứ thần mời gọi đến chiêm bái Hài Nhi. Chỉ có những mục đồng đơn sơ, mộc mạc, nghèo hèn, bị xã hội loại trừ, tẩy chay, nhưng lại thức tỉnh, sẵn sàng chỗi dậy giữa đêm đông mê muội, mộng mị, mới được vinh dự cao cả đến thờ lạy Con Chúa sơ sinh làm người. “Bấy giờ trong miền đó có những mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ, khiến họ hết sức kinh sợ.”
Nhờ Lòng Thương Xót, Thiên Chúa chiếu giãi ánh vinh quang tràn đầy viên mãn cho những ai khiêm nhường, vâng phục, khó khăn, thấp hèn. “Người đã ra oai sức mạnh cánh tay người, làm cho tan tác kẻ kiêu căng lòng trí. Hạ kẻ quyền năng khỏi ngôi báu và suy tôn những người khiêm nhượng,” ( Lc 1, 51-52 ) như Mẹ Maria đã hân hoan cảm tạ, ngợi khen Thiên Chúa qua kinh Magnificat.
“Con chỉ hiểu được đức khiêm nhượng, khi suy nghiệm cả cuộc đời Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, hạ mình chịu nọi sự ngớ ngẩn, dốt nát, hiểu lầm sâu độc, suốt 33 năm vì yêu chúng ta” ( Đường Hy Vọng, số 510 ).
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, với mầu nhiệm Giáng Sinh, xin luôn nhắc nhủ chúng con chỉ là tạo vật phàm hèn được Chúa xót thương. Xin dạy chúng con “Xin Vâng” trước tất cả biến cố cuộc đời, xin giúp chúng con luôn biết sống khó nghèo và khiêm nhượng, như Chúa đã làm gương, để được Lòng Thương Xót Chúa cứu thoát.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ luôn âm thầm lắng nghe Lời Chúa và thực hành Thánh Ý trong mọi hoàn cảnh. Xin Mẹ bầu cử cho chúng con luôn noi theo gương Mẹ, luôn sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa mời gọi, luôn tin cậy vào Lòng Chúa Thương Xót, hầu luôn mãi cố gắng sám hối, ăn năn trở về cùng Chúa. Amen.
Một bạn Giáo Lý Viên mới mua điện thoại iphone, đến khoe và hỏi tôi: tại sao quả táo trên iphone bị GS-340
Một bạn Giáo Lý Viên mới mua điện thoại iphone, đến khoe và hỏi tôi: tại sao quả táo trên iphone bị khuyết mất một góc ? Tôi lên google tìm câu trả lời và thú vị biết thêm mấy quả táo đặc biệt nữa.
Trong lịch sử nhân loại có ba quả táo nổi tiếng liên quan đến đời sống con người. Đó là quả táo của bà Evà trong trình thuật sách Sáng Thế, quả táo của Newton trong định luật vạn vật hấp dẫn và quả táo của hãng Apple qua ứng dụng ipad iphone không ngừng cải tiến.
1. Quả táo Newton
Isaac Newton ( 1642-1727 ) là nhà vật lý, toán học nước Anh, người được thế giới tôn là "người sáng lập ra vật lý học cổ điển". Ông đã khám phá ra "Nguyên lý vạn vật hấp dẫn". Đây là nguyên lý cơ sở cho những phát minh vật lý học, cơ học, thiên văn học trong nhiều thế kỷ.
Vào một ngày mùa thu, Newton ngồi trên chiếc ghế trong vườn hoa đọc sách, bỗng nhiên một quả táo từ cây rơi xuống "bịch" một tiếng trúng đầu Newton. Ông xoa đầu, nhìn quả táo chín lăn xuống vũng bùn. Quả táo đã cho ông một gợi ý làm ông nghĩ miên man. Quả táo chín rồi, tại sao lại rơi xuống đất ? Tại vì gió thổi chăng ? Không phải, khoảng không rộng mênh mông, tại sao lại phải rơi xuống mà không bay lên trời chứ ? Như vậy trái đất có cái gì hút nó sao ? Mọi vật trên trái đất đều có sức nặng, hòn đá đã ném đi rốt cuộc lại rơi xuống đất, trọng lượng của mọi vật có phải là kết quả của lực hút trái đất không ?
Sau này Newton nêu ra: mọi vật trên trái đất đều chịu sức hút của trái đất, mặt trăng cũng chịu sức hút của trái đất, đồng thời trái đất cũng chịu sức hút của mặt trăng; trái đất chịu sức hút của mặt trời, mặt trời đồng thời cũng chịu sức hút của trái đất. Nói một cách khác là vạn vật trong vũ trụ đều có lực hấp dẫn lẫn nhau. Vì có loại lực hấp dẫn này mà mặt trăng mới quay quanh trái đất, trái đất mới quay quanh mặt trời.
Chuyện quả táo rơi xuống đất chứng tỏ trái đất có lực hút quả táo, đương nhiên quả táo cũng có lực hút của trái đất, nhưng lực hút của trái đất đối với quả táo lớn nên quả táo rơi xuống đất. Nếu ta coi mặt trăng là một quả táo khổng lồ, như vậy trái đất cũng có lực hút nó, vậy tại sao nó không rơi xuống mặt đất ? Vì mặt trăng là một quả táo lớn, sức hút của trái đất đối với nó không đủ để làm nó rơi xuống đất, chỉ có thể làm nó quay quanh trái đất mà thôi. Đối với mặt trời thì trái đất cũng là một quả táo khổng lồ, nó quay quanh mặt trời.
Vào buổi tối khi nhìn lên bầu trời thấy vô vàn những vì sao đang nhấp nháy, giữa chúng đều có lực hút lẫn nhau. Đây chính là định luật "Vạn vật hấp dẫn" nổi tiếng của Newton.
2. Quả táo Steve Jobs
Apple Inc là tập đoàn công nghệ máy tính của Hoa Kỳ.Theo số liệu khảo sát đầu năm 2013 của IDC, Apple đã trở thành hãng điện thoại lớn thứ nhất thế giới, đứng trước Nokia và Samsung. Hàng của Apple nổi tiếng là đẹp, vừa toát lên vẻ hiện đại, kỹ nghệ cao, vừa tiện dụng.
Logo đầu tiên của hãng do Steve and Wayne thiết kế năm 1976 vẽ hình nhà vật lý Isaac Newton ngồi dưới gốc cây táo và có dòng chữ Apple Computer Co quấn quanh. Sau đó, logo đã được thay đổi bởi nhà thiết kế Rob Janoff với một quả táo màu cầu vồng ( vì nó có nhiều màu sắc ) và bị cắn một bên phải được cho là để kỷ niệm sự kiện khám phá lực hút trái đất và sự tán sắc ánh sáng của Isaac Newton.
Qua vài năm, logo Apple xuất hiện với nhiều màu sắc khác nhau và đến giờ thì chỉ sử dụng màu trắng hoặc màu crôm bạc. Theo quan niệm của người phương Tây thì táo tượng trưng cho sức mạnh, sự khám phá và cái đẹp cao quý. Còn về chi tiết quả táo bị cắn mất một miếng phía bên phải cũng có một cách lý giải khác là xuất phát từ một quả táo nguyên vẹn, nhưng Steve Jobs cho là Apple chưa thực sự hoàn hảo, và ông luôn muốn đi tìm kiếm sự hoàn hảo, coi như là một thông điệp để nhắc nhở các nhân viên phải luôn sáng tạo.
3. Quả táo Evà
Sách Sáng Thế kể về công trình sáng tạo tốt đẹp, vũ trụ chào đời, mùa xuân về theo gió, nắng phủ cho rừng lá xanh, muôn hoa xinh tươi vẫy gọi. Thiên Chúa chúc lành trao quyền làm chủ muôn loài cho Nguyên Tổ với một điều kiện duy nhất là phải tuân phục: “Mọi cây trong vườn ngươi đều được ăn. Nhưng cây ‘sự biết tốt xấu’ ngươi không được ăn, vì chưng ngày nào ngươi ăn nó, tất ngươi phải chết” ( St 2, 16-17 ).
Ađam, Evà phơi phới trong hạnh phúc mùa xuân địa đàng.Thế rồi một hôm, Evà đi dạo một mình trong vườn Eđen, ngang qua cây biết lành biết dữ. Không may gặp phải Satan quyến rũ. Lời Satan đường mật: Evà, Evà ơi, cô có muốn giữ mãi nhan sắc tuyệt vời này không ? hay cô có muốn bằng Đức Chúa Trời không ? Evà phản kháng: không dám đâu, không dám đâu, đừng dụ dỗ tôi, Thiên Chúa đã dặn kỹ lắm rồi. Sau một hồi đôi co lý sự, con rắn ngọt ngào: “Chẳng chết chóc gì đâu, Thiên Chúa biết ngày nào người hái quả táo ấy mà ăn mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu” ( St 3, 4-5 ). Người thiếu nữ thấy giấc mơ đẹp như màu hồng của quả táo “nhìn thì đã thấy sướng mắt” ( St 3, 6 ). Nàng đã hái. Nàng đã ăn. Nàng chia cho chồng với ước mơ hão huyền là chồng được thông minh như Thiên Chúa.
Còn Ađam thì sao ? Một cuộc đấu tranh quyết liệt giữa tiếng lương tâm và lời nài nỉ của người yêu: ăn đi anh, ăn đi, đây là cơ hội ngàn vàng, cơ hội chúng ta bằng Đức Chúa Trời đó anh; Ađam đừng ăn, nếu ăn sẽ vi phạm luật Chúa truyền, đừng, xin đừng… “Và ông đã ăn” ( St 3, 6 ). Lời Thánh Kinh ngắn gọn diễn tả sự yếu đuối, nhu nhược đến sa ngã của Ađam trước cám dỗ quá ư dịu ngọt. Thôi rồi, xong hết cả rồi, còn đâu địa đàng, còn đâu ân nghĩa Thiên Chúa dành cho ngươi, Ađam ơi !
Nguyên Tổ cắn vào quả táo, “Mắt họ liền mở ra và họ thấy mình trần truồng nên kết lá vả che thân” ( St 3, 7 ). Kể từ đó Địa Đàng đóng ngõ cài then. Xuân Địa Đàng đã thành mùa đông ảm đạm cho trần thế. Kinh Thánh viết về một nỗi đớn đau làm sao: “Những gai cùng góc nó sẽ mọc lên cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ lả ngoài đồng nội. Mồ hôi đẫm mặt, ngươi mới có bánh ăn cho đến lúc ngươi về lại với bụi đất” ( St 3, 18-19 ).
4. Giáng sinh đất trời giao duyên
Trong ba quả táo đó thì quả táo của bà Evà có tầm vóc và mức độ ảnh hưởng sâu rộng hơn cả, không chỉ ghi dấu trên một thế hệ mà còn “gây hậu quả nghiêm trọng” đến sự tồn vong của cả nhân loại gọi là “Tội Tổ Tông”.
Nhưng cũng từ ngày quả táo Eva nhiễm nọc độc Satan, nhân loại lại được nghe vang lên lời hứa của Thiên Chúa: một người thuộc dòng giống người nữ sẽ đến giải cứu: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó" ( St 3, 15 ). Một người trong dòng giống người nữ, đó là Đấng Cứu Thế ( Gl 4, 4 ). Người nữ ấy chính là Đức Maria ( Lc 1, 30-33 ). Thiên Chúa không bỏ rơi con người dưới quyền lực sự dữ. Người hứa sẽ thực hiện cứu độ con người và nhân loại. Niềm tin đó đi liền với niềm hy vọng. Nên từ đó, lời kinh cầu luôn vang vọng qua các thế hệ: “Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng Chuộc Tội. Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng cứu đời”.
Thiên Chúa đã nghe tiếng vọng cầu kinh. Ngài đã sai Con Một của Ngài xuống thế làm người để cứu rỗi nhân loại. Con Thiên Chúa vào đời nối lại tình người với tình thánh, làm nhịp cầu liên kết con người với Thiên Chúa và nối kết con người với nhau. Bởi vậy, Mầu Nhiệm Nhập Thể chính là Mầu nhiệm Tình Yêu. Thiên Chúa yêu thương nhân loại nên đã ban chính Con Một của mình đến trần gian làm người để cứu nhân loại khỏi tội lỗi, để đem ơn bình an cho con người.Thánh Luca ghi lại dấu chỉ để nhận ra Tình Yêu Thiên Chúa, đó là “một Hài Nhi bọc tã, nằm trong máng cỏ”.
Trong đêm Đấng Cứu Thế Giáng Sinh, Sứ thần loan báo cho các mục đồng: “Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa“ ( Lc 2, 11 ). Khung cảnh thật đơn sơ, thanh bạch, nghèo hèn: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” ( Lc 2, 12 ). Dấu chỉ quá bình thường, chẳng có gì đặc biệt.
Mẹ Maria và Thánh Giuse vất vả một hành trình xa xôi từ Nadarét về Bêlem để kê khai nhân hộ khẩu. Các quán trọ khinh người nghèo hất hủi. Hài Nhi Giêsu chào đời nơi đồng hoang giá lạnh. Chẳng có ai thân thích. Chỉ có các mục đồng và bò lừa sưởi ấm.
Chẳng có gì kỳ diệu, không có gì ngoại thường, không có gì huy hoàng được trưng dẫn như một dấu chỉ cho những mục đồng.Tất cả những gì họ thấy chỉ là một Hài Nhi bọc tã, một hài nhi như bao hài nhi khác, cần sự chăm sóc của người mẹ; một Hài Nhi sinh ra trong chuồng súc vật, và như thế, không nằm trong nôi nhưng là trong máng cỏ. Dấu chỉ của Thiên Chúa là một hài nhi cần sự trợ giúp và đang sống trong nghèo khó. Chỉ bằng con tim, những mục đồng mới có thể thấy nơi Hài Nhi này sự viên mãn lời hứa của Ngôn Sứ Isaia: “Một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai” ( Is 9, 5 ).
Dấu chỉ của Thiên Chúa thật là đơn sơ. Đó là một Hài Nhi mới sinh. Dấu chỉ của Thiên Chúa là Ngài trở nên bé nhỏ vì chúng ta. Ngài không đến với quyền lực và một bề ngoài xa hoa. Ngài đến như một hài nhi cần sự giúp đỡ của chúng ta. Ngài không muốn choáng ngợp chúng ta với sức mạnh của Ngài. Vì thế, Ngài đã hóa chính mình thành nhỏ bé. Ngài không muốn điều gì khác nơi chúng ta ngoại trừ tình yêu, qua đó chúng ta phải học biết cách tiếp cận với cảm giác, tư duy và ý chí của Ngài. Chúng ta học biết sống với Ngài và thực hành với Ngài sự khiêm hạ từ bỏ mình là điều tinh túy nhất của tình yêu. Ngài đã hóa thành nhỏ bé để chúng ta có thể hiểu Ngài, chào đón Ngài, và yêu thương Ngài.
Theo Thánh Kinh, biến cố lớn nhất đánh dấu lịch sử nhân loại là Thiên Chúa làm người vì tình yêu. Hài Nhi Giêsu ra đời trong cảnh nghèo hèn chính là một vị Thiên Sai. Ngài đã cắt đôi dòng lịch sử loài người thành hai phần: trước công nguyên và từ công nguyên trở đi. Em bé ấy không phải là một nhà bác học, không phải là một nhạc sĩ mà chính là Thiên Chúa, là Ngôi Lời vĩnh cửu của Chúa Cha, Đấng cao sang, quyền năng, Đấng sáng tạo vũ trụ, hôm nay đã làm người. Ngài giáng sinh làm người trong thân phận một em bé yếu ớt nằm trong máng cỏ hang lừa chứ không phải trong một cung điện sang trọng lầu son gác tía.
Thiên Chúa làm người trong thân phận một bé thơ yếu ớt nhưng chất chứa một tình yêu lớn lao. Một trẻ thơ sinh ra vào một đêm đông giá rét trong hang đá bò lừa ngoài đồng hoang nghèo hèn. Dưới con mắt người đương thời không những bình thường mà còn tầm thường hơn những trẻ thơ khác. Nhưng sự chào đời của Hài Nhi Giêsu là một niềm vui cao cả, trọng đại, đặc biệt. Một niềm vui khởi điểm cho mọi niềm vui và vượt lên trên mọi niềm vui.
Hài Nhi giáng sinh là một sự kiện đặc biệt của lịch sử nhân loại, là sự “hoàn tất” Lời Hứa của Thiên Chúa, là trung tâm của nhiệm cuộc cứu độ của Thiên Chúa, là đỉnh cao và là chủ đích của Thánh Kinh.
Chính nơi Ngôi Lời Nhập Thể, Thiên Chúa đã hoàn toàn tỏ mình và ban chính mình cho nhân loại. Ngôi Lời Nhập Thể là tuyệt đỉnh thời gian viên mãn đối với Ba Ngôi Thiên Chúa. Hài Nhi Giêsu đã trở nên một sự tái tạo mới. Tái tạo khởi đi từ tha thứ và yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Cứu Độ làm nên trọng tâm sứ điệp của Đức Tin Kitô giáo. Từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, Giáo Hội công bố niềm tin ấy dọc dài thời gian giữa những thách đố của thế giới. Giáo Hội uỷ thác cho con cái mình như kho tàng quí giá để gìn giữ và chia sẻ cho người khác. Nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng sinh ra tại Bêlem, Thiên Chúa nhận lấy thân phận con người để chúng ta có thể đến được với Thiên Chúa và để thiết lập giao ước với loài người và con người giao ước liên đới với nhau.
Giáng Sinh trở thành một đại lễ của nhân loại. Giáng Sinh là ngày hội lớn duy nhất trên trái đất được đón mừng bởi mọi quốc gia, mọi sắc tộc, mọi tầng lớp xã hội. Từ núi cao, trong rừng sâu, xuống đồng bằng, vào thị tứ giàu sang… Qua đủ mọi hình thức: nhóm vài cây củi trên rừng, thắp ngọn nến đơn sơ trong ngôi Nhà Thờ bé nhỏ nghèo nàn vùng quê hẻo lánh, hay trăm ngàn ánh đèn muôn màu rực rỡ chốn đô hội văn minh tráng lệ, khắp nơi đón mừng và cùng hát lên tâm tình: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” ( Lc 2, 14 ).
Giáng Sinh, đất trời giao duyên trong hôn phối nhiệm mầu của tình yêu cứu độ. Thiên Chúa làm người, nối nhịp cầu tương giao giữa Thiên Chúa và nhân loại, bắc nhịp cầu nối liền giữa con người với nhau.Thiên Chúa yêu thương con người và muốn mọi người đáp lại bằng lòng yêu mến Ngài và yêu thương nhau. Dấu chỉ của tình yêu nằm nơi sự đơn sơ của tấm khăn bọc Hài Nhi, đó là sự chân tình không lừa lọc giả dối. Dấu chỉ của tình yêu ở nơi sự nghèo hèn của máng cỏ, đó là sự phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa không cậy dựa vào vật chất thế gian.
Nguyện xin Chúa Giêsu Hài Đồng ban cho mỗi người chan chứa ân sủng và bình an của Tình Yêu Thiên Chúa.
Lễ Giáng Sinh tới rồi! Một mùa lễ với nhiều nội dung quá súc tích và phong phú: Hài nhi Giê-su GS-341
giáng sinh tại Bê-lem trong khung cảnh đơn sơ nghèo hèn, một Con Thiên Chúa mặc lấy xác phàm và đi vào kiếp sống của con người nhân loại, một Thiên Chúa khởi đầu việc thực hiện công trình cứu độ mà toàn nhân loại đã ấp ủ từ lâu… Lời Chúa của cả ba Thánh Lễ được cử hành trong ngày mừng Chúa Giáng Sinh chính là để trình bầy cho chúng ta ba mảng tư tưởng trên. Mỗi người chúng ta đều có thể chọn lấy cho mình một đề tài suy niệm riêng. Chính lúc này tôi lại muốn buông mình vào tâm tư của ngày lễ vọng (24/12) để tận hưởng cái tâm tình tuyệt vời của bài thánh ca “Chúc Tụng” (Benedictus), mà tôi vẫn thường đọc lên mỗi buổi kinh sáng. Bài ca này chứa đựng một tâm tưởng mà theo tôi nghĩ, phải là mục tiêu của suy niệm trong cả ba Thánh Lễ tiếp theo; đồng thời cũng phải trải dài suốt cả đời sống Ki-tô hữu: một tâm tình chúc tụng tạ ơn không ngơi nghỉ.
Da-ca-ri-a đã có cả một thời gian khá dài (09 tháng) để nghiền ngẫm về biến cố đang được khai mở, mà dầu trong tư cách là một tư tế, ông vẫn thấy mình chẳng hiểu tí gì. Điều quan trọng nhất ông làm trong suốt khoảng thời gian đó có lẽ không phải là suy tư, là học hỏi kinh thánh hoặc các lời tiên tri… mà chính là cảm nghiệm về thân phận của một người bị câm điếc, của một tư tế bị dị nghị và gạt bỏ. Chính trong cái tâm trạng bĩ cực đó, dưới ơn soi dẫn của Thánh Thần, ông đã nghiệm ra được điều vĩ đại và trọng tâm nhất đối với lịch sử cứu độ và đối với cuộc sống riêng mình: Thiên Chúa đầy trắc ẩn khởi công thực hiện công trình cứu chuộc của Người. Việc Gio-an con ông, vị tiền hô của Người, được sinh hạ chỉ là một dấu khởi đầu, như hừng đông báo trước. Chính vì thế mà, với việc Gio-an chào đời, vừa lúc miệng lưỡi ông mở ra và ông nói được, ông lập tức cất tiếng chúc tụng Thiên Chúa. Và lời chúc tụng (benedictus) thật kỳ diệu: nó khác xa Bài Ca Chiến Thắng mà Mô-sê cùng với con cái It-ra-en cất lên sau khi đã vượt qua biển đỏ và tận mắt chứng kiến việc Gia-vê hiển hách chiến thắng binh lực Pha-ra-ô hùng mạnh để giải phóng dân Ngài (xem Xh 15, 1-20). Ở đây, một hình ảnh Thiên Chúa trái ngược được phác họa: ‘đầy tình xót thương, đầy lòng trắc ẩn…’, thông qua nhiều đường nét là một chuỗi các hành động khác nhau: Viếng thăm cứu chuộc dân Người Cho xuất hiện vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta Cứu ta thoát khỏi địch thù Trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên Giải phóng ta khỏi tay địch thù Cho ta chẳng còn sợ hãi Cứu độ và tha thứ hết mọi tội khiên Viếng thăm ta Soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối Dẫn ta bước vào đường nẻo bình an
Đối với Da-ca-ri-a, một kỷ nguyên mới đang được khai mở, kỷ nguyên của Tân Ước trong đó xuất hiện một Thiên Chúa đầy từ tâm; kỷ nguyên trong đó chúc tụng sẽ là công việc chính yếu cần làm.
Lễ Giáng Sinh mà tôi mừng kính sẽ chẳng có giá trị gì nếu không kèm theo lời chúc tụng. Và lời chúc tụng chân thực nhất sẽ không chỉ là hòa mình với toàn thể nhân loại tham gia một lễ hội, mà là cùng với Hội Thánh các kẻ tin vang lên lời chúc tụng, xuất phát từ nhận thức sinh động thân phận thấp hèn của con người mình, đầy dẫy những khiếm khuyết, lầm lỗi, yếu đuối và đổ vỡ nhưng lại được chính Thiên Chúa viếng thăm. Chỉ có như thế Giáng Sinh mới trở thành một bài ca chúc tụng tạ ơn phát xuất từ đáy lòng, một bài ca diễn đạt không ngơi với niềm tin của tập thể các môn đệ là Hội Thánh.
Lạy Chúa Hài Nhi, quỳ bên máng cỏ Chúa, con muốn chiêm ngắm Chúa, đống thời chiêm ngắm chính con. Càng ngắm nhìn Chúa con lại thấy cần phải thẳng thắn nhìn sâu vào con người yếu hèn của mình. Con không thể hiểu hết được ý nghĩa việc Chúa giáng sinh, nếu con không nhận ra sự thấp kém của mình. Chúa làm người để con được làm người con của Chúa, dẫu trong tất cả yếu đuối và giới hạn. Chúa làm người để con không còn tự ti mạc cảm, nhưng luôn biết dâng lời ngợi khen và chúc tụng không ngơi. Amen
“Khi hai người đang ở đó thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ”.
Sự kiện đơn sơ như thế mà tác giả Lu-ca lại cất công ghi chép rất chi tiết niên đại như một biến cố GS-342
Sự kiện đơn sơ như thế mà tác giả Lu-ca lại cất công ghi chép rất chi tiết niên đại như một biến cố có một không hai trong lịch sử nhân loại. Cộng đoàn Ki-tô hữu thời sơ khai đã sớm nhận ra điều này: hài nhi mới sinh ra tại Bê-lem trong đơn nghèo lại đang làm đảo lộn cả một lịch sử bi tráng của toàn nhân loại. Sự kiện mang tính cách mạng này lại không phải là một chiến thắng vẻ vang, một cuộc lật đổ ngoạn mục, mà nhiều khi chỉ mang lại lo âu và sợ hãi, cũng không phải là hoàn tất một công trình hoành tráng vĩ đại đòi nhiều đóng góp khó nhọc và lao công. Một ‘Trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ’ lại là một ‘tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân’. Việc hạ sinh này tỏ lộ ‘vinh quang Thiên Chúa trên trời’, đồng thời cũng mang lại ‘bình an cho loài người Chúa thương dưới thế’. Có thể thế được chăng? Tin Mừng vĩ đại lại có thể đơn sơ đến như thế sao?
Thế đấy, cái đêm lễ hội phức tạp và công phu nhất trong năm (chỉ cần nhìn vào cách người ta trang hoàng đường phố cửa tiệm, dọn dẹp nhà cửa, trang trí nhà thờ, mua sắm quà cáp, nấu dọn yến tiệc cho ngày đại lễ) lại có một ý nghĩa, một nội dung quá ư giản dị và thuần khiết! Và để có thể khám phá ra sự đơn thuần này cần phải có được một đêm tĩnh mịch, đêm thầm lặng, đêm sâu lắng của cõi lòng (Silent Night). Vinh quang Thiên Chúa (Gloria Dei) không tỏ hiện trong hào quang sáng chói, không tiền hô hậu ủng trong tiếng nhạc tiếng sấm vang rền, không phô trương rầm rộ với binh hùng tướng mạnh. Vinh quang đó âm thầm xuất hiện giữa đêm đông tĩnh mịch, trong hình hài một trẻ thơ yếu ớt sinh ra trong chuồng chiên bò hôi hám… Điều đó sẽ là hoàn toàn hợp lý khi nào người ta nếm cảm được cái thứ vinh quang của tình yêu thương, của lòng nhân ái; âm thầm và thinh lặng như người cha ngồi bên giường bệnh của đứa con thoi thóp thở trong góc phòng của một bệnh viện vắng lạnh, hoặc bà vợ đứng sau chiếc xe lăn của người chồng tật nguyền trong xó nhà quạnh hiu… Lúc đó sự thinh lặng, nghèo nàn, tăm tối…, và chỉ có như thế, mới nói lên được tất cả, nói cách hùng hồn và diễn đạt đầy đủ nội dung sâu sắc nhất của tình yêu thương vĩ đại.
Và một khi loài người dưới thế, trong thinh lặng và sâu lắng. nhận ra rằng mình được Thiên Chúa yêu mến xót thương, được ‘đầy ân sủng và Đức Chúa ở cùng’ (Lc 1,28), họ sẽ biết đón nhận biến cố này với tâm hồn an bình, với tâm tình mừng vui diễn tả qua lời ca ngợi tri ân. Đặc biệt Ki-tô hữu chúng ta, duy nhất giữa muôn người được nhận biết mình là phần tử của ‘loài người Chúa thương’, một loài người không chỉ gồm toàn những kẻ lương thiện tốt lành, mà bao gồm cả các tội nhân bất hảo. Qua kinh nghiệm bản thân, các Ki-tô hữu hiểu rõ mình thuộc về thứ loài người này trong cả diện tích cực lẫn tiêu cực của nó. Và khi cử hành sự kiện Hài Nhi giáng sinh tại Bê-lem, họ nhận mình chính là người đầu tiên tiếp lấy lòng xót thương thần linh. Tâm hồn họ lúc đó được tràn ngập thứ bình an độc nhất vô nhị, như chính Đức Giê-su sẽ khảng định sau này: “Thầy ban bình an của Thầy cho anh em… thứ bình an mà thế gian không thể ban tặng” (Ga 14,27)… Đúng là “bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
Ma-ri-a là người nữ đã chào đón ‘hài nhi sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ’ trong thinh lặng và sâu lắng như thế. Sinh nở luôn kéo theo không biết bao nhiêu vấn đề thể lý, tinh thần, vật chất và giao tế… dễ làm xáo trộn bất cứ ai, nhất là các sản phụ đặc biệt trong hoàn cảnh xa nhà, giữa muôn vàn thiếu thốn và bị xua đuổi… Tác giả Lu-ca đã đề cao thái độ lạ lùng của người mẹ rất đặc biệt này: ‘Còn Ma-ri-a thì hằng ghi nhờ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng’. Ma-ri-a đúng là Ki-tô hữu tiên khởi, tuyệt vời nhất ngay từ giờ phút đầu tiên khi ‘vinh quang Thiên Chúa’ xuất hiện nơi dương thế.
Là một Ki-tô hữu, hơn nữa là linh mục - tu sĩ, tôi không thể cử hành biến cố Hài Nhi giáng trần cách nào khác. Dầu có bận rộn tới mấy đi nữa (chưa bằng một phần của Ma-ri-a đâu!), tôi vẫn phải tự nhủ: để khám phá ra và ca tụng ‘Vinh quang Chúa’, và nhận biết mình là ‘loài người Chúa thương’, tôi tuyêt đối cần phải giữ cho tâm hồn mình được thinh lặng và sâu lắng trong suốt thời gian cử hành lễ Giáng Sinh này.
Lạy Hài Nhi sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ, con muốn cùng Mẹ Ma-ri-a thinh lặng chiêm ngắm tình yêu vĩ đại của Thiên Chúa giáng trần. Xin cho con nhận ra tăm tối, giá lạnh và nghèo nàn… tại Bê-lem hôm đó lại chính là tiếng ca ngợi vinh quang tình yêu Thiên Chúa cách vang dội nhất. Đặc biệt xin cho con nghe được thấu lời tuyên bố long trọng của Hài Nhi giáng thế:“Thiên Chúa yêu thương loài người”, trong đó có chính con, và mọi người tội lỗi thấp hèn…, để con và ‘loài người Chúa thương’ được hưởng bình an trọn vẹn và cất lời ca ngợi Chúa không ngừng. Amen
Đêm qua tôi đã long trọng cử hành lễ Giáng Sinh, thế nhưng tôi biết gì về ngày lễ đó? - Biết nhiều GS-343
Đêm qua tôi đã long trọng cử hành lễ Giáng Sinh, thế nhưng tôi biết gì về ngày lễ đó? - Biết nhiều lắm chứ! Tác giả Lu-ca đã tường thuật khá rành rẽ; rồi hang đá các kiểu, hoạt cảnh hoành tráng bao lần tôi đã từng tổ chức hoặc dự khán… Chắc chắn là tôi biết gần như thuộc lòng sự kiện Chúa Giáng Sinh. Thế nhưng nếu phải kể cho một ai đó chưa biết gì về cái đêm ấy thì tôi sẽ nói gì đây? Cứ đặt mình vào trường hợp các mục đồng: ‘Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên’. Thế nhưng họ đâu chỉ kể về các điều họ đã được mục kích tại Bê-lem, vì tự nó chẳng có gì hấp dẫn cả: ‘họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ…’ Tuy nhiên ‘Ai nấy đều ngạc nhiên’ vì… ‘họ kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này’. Dầu rất đơn sơ chất phát, họ cũng đã biết vượt qua các sự kiện bên ngoài để nhận ra điều Chúa thật sự muốn cho họ biết. “Nào chúng ta sang Bê-lem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ ra cho ta biết”. Và điều tỏ ra đó quả thật là vô cùng trọng đại, vì nó liên quan tới hết thảy mọi người, tới toàn thể nhân loại: “Tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay một Đấng Cứu Độ đã sinh ra!” Và ‘các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa’ vì đã được diễm phúc nhận biết: “Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
Thế thì khi nói về Chúa Giáng Sinh tôi không thể không đề cập tới một Đấng Cứu Độ, một Thiên Chúa đầy lòng thương xót và từ nhân, một Thiên Chúa tha thứ và cứu vớt. Việc ‘một trẻ sơ sinh bọc trong tã, nằm trong máng cỏ’, cho dầu bên ngoài có vẻ tầm thường, nhưng lại là một dấu chỉ không thể sai lầm để nhận ra ‘cái thứ’ Thiên Chúa đó. Dấu đó quả thực là tài tình và hữu hiệu: thương xót từ nhân phải đi đôi với đơn sơ thấp hèn, tha thứ cứu vớt phải thật gần gũi và bình dị. Tự thâm tâm mình, đôi lúc tôi cũng có cảm giác khó chịu về cái thấp kém và nghèo nàn của hang Bê-lem. Chẳng vậy mà, ngay tại chính máng cỏ thấp hèn xưa nơi Hài Nhi đã từng nằm, khách hành hương vẫn muốn nhìn thấy một ngôi sao bạc lấp lánh trên nền cẩm thạch quí giá… để làm cho nó thêm tôn nghiêm trang trọng là gì! Nghèo hèn chỉ là gượng ép, hoặc cùng lắm là lãng mạn đối với một Đấng Thiên Chúa cao sang, nhưng lại thật tự nhiên và xứng hợp đối với Thiên Chúa đầy từ nhân và hay thương xót. Các mục đồng đơn sơ chất phác dễ dàng nhận ra điều này, trong khi các bậc quyền quí lại không. ‘Họ ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ’.
Tới trước hang Bê-lem ngay cả các tín hữu cũng được phân làm hai nhóm: nhóm một gồm những người chỉ muốn nhìn thấy một Thiên Chúa vinh quang, tạm ẩn dấu trong hình hài bé thơ, nhưng đòi phải được thờ lạy kính tôn cách trọng vọng, còn nhóm thứ hai sẽ gồm những ai nhìn vào ‘trẻ sơ sinh… nằm trong máng cỏ’ để nhận ra lòng từ nhân vô hạn của Thiên Chúa cứu độ, và do đó sẽ mừng vui hớn hở ca tụng Người trong chính sự thấp hèn nhỏ bé của Hài Nhi. Maria, Giuse và các mục đồng thuộc nhóm thứ hai này, như Luca đã muốn mô tả họ như thế. Như vậy điều mà Thánh Sử Gio-an đã từng khẳng định: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà không nhận biết Người” không chỉ mang ý nghĩa luân lý của hai hạng người tốt xấu, nhưng còn chứa đựng một nội dung Tin Mừng hơn nhiều: nhận biết hay không nhận biết lòng thương xót từ nhân của Thiên Chúa, được thể hiện nơi ‘Ngôi Lời mặc lấy xác phàm’. Nếu Người đến trong vinh quang huy hoàng của công lý và quyền uy có lẽ người ta sẽ dễ đón tiếp hơn trong suy tôn và kính sợ, đàng này người lại chọn đến trong nghèo hèn của nhân từ và tha thứ, và thế là người ta dễ coi thường, quên lãng. Sau này chính đức Giê-su đã phải thốt lên: “Con xin ngợi khen Cha, vì đã dấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn” (Lc 10,21). Phải đúng như thế, những người thông thái khôn ngoan ưa nhìn xem những gì là hợp lý, và nhận ra ngay Thiên Chúa trong sự vinh quang cao cả; còn kẻ bé mọn, nhất là tội lỗi thấp hèn, mới dễ cảm nhận lòng từ ái của Thiên Chúa cứu độ. Họ là những người gần gũi và thoải mái với ‘trẻ sơ sinh nằm trong máng cỏ’ hơn.
“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó!” (Mt 5,3). Vậy thì tôi thuộc nhóm nào?
Lạy Hài Nhi Giê-su nằm trong máng cỏ, mỗi khi con chiêm ngắm ‘Ngôi Lời đã trở nên người phàm’, xin cho con có khả năng được ‘nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha đã ban cho Người,’ thứ vinh quang mà chỉ những con người bé mọn mới được mạc khải cho biết. Xin cho con biết, như Mẹ Ma-ri-a tại Bê-lem, ‘suy đi nghĩ lại trong lòng’ về tình yêu thương xót và lòng nhân ái vô biên của Thiên Chúa qua hình ảnh ‘trẻ sơ sinh bọc trong tã, nằm trong máng cỏ’, để trong mừng vui và bình an, con cũng có thể chân thành cất lên bài ca ‘Ngợi khen – Magnificat’. Amen
Cuộc đời là một chuỗi những đợi chờ. Có đợi chờ đương nhiên sẽ đến. Có đợi chờ hoài cổ mà chẳng GS-344
Cuộc đời là một chuỗi những đợi chờ. Có đợi chờ đương nhiên sẽ đến. Có đợi chờ hoài cổ mà chẳng bao giờ thấy. Có đợi chờ mang lại niềm vui như chờ người yêu, chờ nhận quà nhưng cũng có đợi chờ chỉ mang lại thất vọng chán chường như chờ kết quả xét nghiệm sức khỏe …
Vì có đợi chờ nên cũng có chờ hụt. Có lẽ chúng ta đều đã từng biết sự kiện chờ bão hụt vừa qua khi đài khí tượng thông báo sẽ có bão số 13 đổ vào TP.HCM rất mạnh. Dân Sài-gòn sợ hãi kẻ thì bỏ chạy, người thì ràng buộc nhà cho vững nhưng chờ bão mãi chẳng thấy. Hóa ra dự đoán sai …
Rồi cũng có biết bao lần chúng ta chờ đợi trong hụt hẫng như những câu chuyện vui sau:
Mẹ ơi! Sáng nay có cô Mười ở bên Mỹ mới đến nhà chơi. Cô tặng cho nhà mình một món quà và nói rằng: “Món quà của cô tuy nhỏ nhưng cũng đủ cho gia đình cháu dùng trong một năm”
Nghe thế, mẹ cu Tý mừng quýnh, hỏi ngay: Món quà gì thế con?
Dạ, một quyển lịch dùng cả năm?
Hoặc câu chuyện khác:
- Chàng: Anh sẽ tặng em một món quà làm cho ngón tay em xinh thêm.
- Nàng: (tưởng là những chiếc nhẫn kim cường hay cũng ít là hột xoàn bèn nói) Anh đừng tặng những thứ mắc quá.
Chàng: Em vớ vẩn, cái dũa móng tay có cái nào mắc đâu.
Dân Do Thái ngày xưa cũng từng mừng hụt. Họ tưởng được đón tiếp một Minh Quân quyền uy đánh đông dẹp tây thống trị thiên hạ, thế nhưng, Ngài lại đến trong thân phận một hài nhi yếu đuối, nghèo hèn nằm trong máng cỏ. Họ tưởng Thiên Chúa sẽ đến trong mây trời gió lộng nhưng ngài lại đến âm thầm nơi đồng hoang mông quạnh. Thế nên, họ đã không chấp nhận sự thật ấy mặc dù đã được pho Kinh Thánh dẫn chứng và các mục đồng hoan hỉ loan tin. Họ vẫn khép cửa lòng trong sự cố chấp không tin. Họ đã để niềm vui trôi qua vì không nhận được hồng ân Con Chúa giáng trần
Nếu hôm nay Chúa giáng sinh lại một lần nữa, Ngài sẽ giáng sinh trong thân phận nào? Hay nói cách khác, chúng ta thích Chúa giáng sinh trong thân phận nào?
Có lẽ chúng ta đều mong muốn Chúa trở nên giống chúng ta. Chúng ta mong muốn Chúa cùng giai cấp, cùng hoàn cảnh của chúng ta để có thể hiểu và cảm thông nâng đỡ chúng ta. Chúng ta muốn Chúa giống chúng ta nhưng lại không muốn Chúa giống người bên cạnh chúng ta. Chúng ta đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội phục vụ Chúa qua tha nhân vì không nhận ra Chúa nơi họ. Thế nên, chúng ta cũng nhiều lần khước từ Ngài như dân Do Thái năm xưa.
Xem ra đường lối của Thiên Chúa luôn khác xa với suy nghĩ của con người. Con người thường nghĩ đến vật chất, đến danh vọng đời này. Thiên Chúa luôn mời gọi con người sống thanh thoát, sống vượt lên trên những ham muốn tầm thường mau qua để tìm kiếm Nước Trời làm gia nghiệp. Con người thường xây dựng một Thiên Chúa theo ý mình, nhưng Ngài lại đòi con người phải bỏ ý riêng để sống cho ý Chúa.
Hôm nay chúng ta mừng Đại Lễ Chúa giáng sinh làm người là một ngày hội, một ngày vui của chúng ta. Ngài đã trở nên con người để mang lại niềm vui chung cho cả nhân loại. Ngài đã gắn kết tình người để dù con người có khác niềm tin, khác quan điểm nhưng chung một sứ điệp bình an mang đến cho nhau trong ngày đại lễ hôm nay. Ngài là Emanuel sẽ ở cùng chúng ta luôn mãi. Ngài hằng mời gọi chúng ta đón nhận Ngài trong từng biến cố cuộc sống, và nhất là trong từng phận người. Ngài đã đồng hóa mình trong thân phận kẻ khó khăn, bất hạnh, cùng khổ. Ngài mời gọi chúng ta hãy đón nhận họ, hãy thi ân cho họ là thi ân cho chính Ngài.
- Thiên Chúa mãi ở cùng chúng ta nhưng liệu chúng ta có mừng hụt khi chúng ta không không nhận ra Ngài trong tha nhân, trong bạn bè, nhất là trong Mình Thánh Chúa để đón tiếp Ngài mỗi ngày.
- Xem ra chúng ta vẫn mừng hụt khi chúng ta không nhận ra Chúa trong anh em nên vẫn còn đó sự nghi kỵ, ghen tương, kết án anh em.
- Xem ra chúng ta vẫn mừng hụt khi chúng ta bỏ lỡ rất nhiều lần rước Chúa vào lòng vì lòng chúng ta còn mãi mê hưởng thụ, chìm đắm trong đam mê tội lỗi.
- Xem ra Chúa vẫn không đến theo ý chúng ta nên chúng ta vẫn sống theo ý riêng, theo bản năng của mình để rồi rời xa Chúa, rời xa chân thiện mỹ. Có lẽ, nếu Chúa giáng sinh hôm nay, Chúa vẫn cần chúng ta thay cho các mục đồng loan tin cho nhân thế. Chúa cần chúng ta không chỉ làm điều gì đó để chia sẻ với Chúa mà nhất là hân hoan ra đi loan tin cho trần thế về niềm vui Chúa giáng sinh làm người. Thánh Phaolo đã từng nói: làm sao có người nghe tin mừng nếu không có người rao giảng. Vậy làm sao nhân loại có thể nhận ra Chúa đang ở giữa chúng ta nếu không có người sẵn lòng ra đi giới thiệu Chúa cho họ.
Ước gì lòng chúng ta tràn ngập niềm vui khi nhận ra Chúa đang giáng sinh từng ngày trong đời chúng ta, thì cũng hãy mạnh dạn như các mục đồng hân hoan loan báo cho anh em. Ước gì niềm vui Chúa giáng sinh luôn rộn rã trong tâm hồn chúng ta sẽ là động lực giúp chúng ta trở thành sứ giả của niềm vui Con Chúa giáng sinh. Amen
Tin Mừng Thánh Lu-ca được trích đọc trong Thánh Lễ đêm nay thuật lại rằng: khi Chúa Giê-su sinh GS-345
Tin Mừng Thánh Lu-ca được trích đọc trong Thánh Lễ đêm nay thuật lại rằng: khi Chúa Giê-su sinh ra tại Bê-lem, các thiên thần cùng đạo binh thiên quốc đồng thanh tung hô: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời; bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.” (Luca 2, 14). Với những lời nầy, Hài Nhi Giê-su được tiên báo là Đấng đem lại hoà bình cho nhân loại.
Và bài đọc thứ nhất trong Thánh Lễ đêm nay cho ta biết, từ xa xưa, Ngôn Sứ I-sai-a loan báo có một Hài Nhi được Thiên Chúa ban tặng cho loài người; Hài Nhi đó là Chúa Giê-su; Ngài được gọi là Vua hoà bình.
Như vậy, theo lời Kinh Thánh, Chúa Giê-su là Vua đem lại hoà bình cho nhân loại. Điều quan trọng là hoà bình mà Ngài mang đến không phải là một tình trạng ngưng chiến tạm thời, nhưng là một nền hoà bình vĩnh cửu dựa trên tình yêu thương huynh đệ.
Giê-su làm cách nào để đem lại hoà bình vững bền cho thế giới? Câu chuyện sau đây minh hoạ cho ta thấy.
Vương quốc Fanxica là một đất nước thái bình, thịnh vượng. Nhà vua và hoàng hậu lại có diễm phúc sinh được hai hoàng tử khôi ngô, văn võ song toàn, khí phách anh hùng. Hai hoàng tử nầy luôn yêu thương gắn bó với nhau như hình với bóng.
Trong khi đó, vua nước láng giềng tên là Faroux, một người cực kỳ nham hiểm và ác độc, nuôi mối căm thù truyền kiếp với vua Fanxica. Lòng căm thù của ông lại càng dâng cao khi thấy vua Fanxica có hai hoàng tử thông minh đĩnh đạc, vũ dũng hơn người, trong khi mình thì không có lấy một mụn con. Vì thế, ông rắp tâm hạ sát hai vị hoàng tử kia cho bằng được.
Vua Faroux biết hai vị hoàng tử thường hay vào rừng săn bắn, nên vua cho người mai phục, giăng bẫy bắt được hoàng tử em.
Khi hay tin em mình mất tích trong rừng, hoàng tử anh một mình một ngựa xông xáo vào rừng tìm em. Không ngờ chính anh cũng bị vua Faroux giăng bẫy bắt được.
Tên vua độc ác giam hai anh em vào hai ngục tối biệt lập nên hai hoàng tử không hề hay biết gì về số phận của người kia.
Theo thông lệ hàng năm, vào dịp sinh nhật của vua, vua cho tổ chức những cuộc quyết đấu giữa những con ác thú, để chúng phanh thây xé xác nhau làm trò vui cho quan quân và dân chúng.
Năm nay, thay vì cho ác thú đấu nhau, ông vua ác độc bắt hai tù nhân vạm vỡ khoẻ mạnh, mỗi người đều mang bộ da sư tử, mặt nạ sư tử, và buộc họ phải quyết đấu cho đến khi một trong hai người phải chết. Ai sống sót sẽ được trả tự do.
Cả đấu trường hò la vang dậy khi quân lính dẫn hai đấu thủ mặc lốt sư tử bước ra. Với thanh mã tấu trên tay, hai con người lốt sư tử xông vào nhau chiến đấu vô cùng ác liệt như hai ác thú điên cuồng. Đám đông cổ võ hò la vang trời dậy đất.
Cuộc chiến kéo dài hơn cả tiếng đồng hồ mà vẫn bất phân thắng bại. Cả hai đấu thủ mệt nhoài, mình mẩy hai người đều đầy thương tích máu me, nhưng không ai chịu nhường ai. Mỗi người đều dốc hết toàn lực để hạ sát đối thủ, để dành sự sống cho mình, để được trả tự do. Một là chiến thắng, hai là chết!
Thế rồi đấu thủ cao người bất thần vung đao nhanh như chớp chém xoạc mặt đối phương, làm rơi mặt nạ sư tử của y, để lộ ra một khuôn mặt... rất thân quen!
Anh kinh hoàng tột độ! Thanh mã tấu trên tay rơi xuống. Anh giật bỏ mặt nạ của mình ra. Hai người ồ lên kinh ngạc. Họ bàng hoàng nhận ra nhau. Không ai xa lạ, họ chính là hai anh em ruột thịt, hai hoàng tử con vua Fanxica bị vua Faroux bắt cóc.
Họ lao vào nhau, ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Họ đâu ngờ rằng đối thủ mà họ quyết tâm tiêu diệt cho bằng được lại là người anh em rất thân yêu.
Nước mắt tuôn tràn hoà chung với máu. Hai con người bầm dập, mình mẩy đầy máu me ôm nhau khóc tức tưởi. Khóc vì đã coi nhau như kẻ thù, đã giao chiến với nhau như ác thú; khóc vì đã gây cho nhau bao vết thương đau. Họ vẫn đứng đó, ôm nhau khóc tức tưởi trước hàng ngàn cặp mắt bàng hoàng kinh ngạc của mọi người.
Hình ảnh hai anh em ruột thịt giao đấu một mất một còn trong câu chuyện trên đây là một minh hoạ cho tấn thảm kịch đau thương vẫn diễn ra hằng ngày giữa cộng đồng nhân loại. Ngay giờ nầy, nhiều nơi trên thế giới cũng đang xảy ra những cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt y như thế.
Chính ma quỷ, kẻ thù nghịch với Thiên Chúa, cũng giống như ông vua Faroux độc ác kia, đã trùm lên mỗi người một thứ “lốt sư tử, lốt chó sói” khiến người ta xem “người là lang sói của người – homo homini lupus” (ngạn ngữ La-tinh), hay lầm tưởng “tha nhân là hỏa ngục” (theo triết gia Jean Paul Sartre) hay chỉ là “người xa lạ” (theo Albert Camus) đối với mình. Vì thế, con người không còn nhận ra nhau là anh em một nhà; mà xem người khác như là kẻ thù cần tiêu diệt không thương tiếc.
Đứng trước thảm cảnh đó, mọi cố gắng xây dựng hoà bình của các tổ chức quốc tế đều bó tay! Khi hai bên đã say máu chiến tranh, nếu người ta tước súng đạn của họ đi, thì đôi bên sẽ chiến đấu với nhau bằng dao rựa, mã tấu... Nếu bị tịch thu dao rựa, mã tấu, thì đôi bên sẽ dùng gậy gộc gạch đá để huỷ diệt nhau; Có tịch thu hết gậy gộc, gạch đá thì đôi bên có thể tấn công nhau bằng nắm đấm hoặc dùng đôi hàm răng để cắn xé nhau…
Giải pháp nào để chấm dứt chiến tranh, vãn hồi hoà bình cho nhân loại?
Muốn cho đôi bên tự động ngưng chiến và sống chung hòa bình thì giải pháp tốt nhất không phải là tước bỏ khí giới mà là khai hoá cho họ biết rằng: đối thủ của họ không là ai khác mà chính là người anh em ruột thịt con cùng một Cha. Giáo huấn quan trọng nhất của Chúa Giê-su là bày tỏ cho mọi người biết rằng Thiên Chúa là Người Cha đầy lòng yêu thương đã sinh ra hết thảy chúng ta và tất cả mọi người đều là con cái của Ngài và là anh chị em với nhau.
Khi bày tỏ sự thật nầy, Chúa Giê-su muốn lột bỏ chiếc “mặt nạ sư tử”, “mặt nạ lang sói” mà ma quỷ trùm lên khuôn mặt mọi người, để họ không còn xem nhau là thù địch nữa, nhưng nhận ra mỗi người chung quanh đều là những người anh chị em rất thân thương.
Lạy Chúa Giê-su, Vua hoà bình,
Xin cho mọi người trên khắp thế giới biết mở tâm hồn đón nhận sự thật tuyệt vời do Ngài mang đến. Chỉ có sự thật nầy mới có thể giải thoát nhân loại khỏi hận thù chiến tranh, khỏi cảnh huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt. Chỉ có sự thật nầy mới là nền tảng đem lại hòa bình cho mọi dân tộc và hạnh phúc cho hết mọi người.
Theo thông báo của Điện Kensington, nữ Công tước Catherine xứ Cambridge, vợ Hoàng tử William, GS-346
Theo thông báo của Điện Kensington, nữ Công tước Catherine xứ Cambridge, vợ Hoàng tử William, sinh hạ một hoàng tử đầu lòng vào ngày 22/7/2013, lúc 16h24’ theo giờ địa phương tại bệnh viện St Mary’s ở phía Tây thủ đô London. Người dân Anh và nước ngoài tụ tập đông đúc bên ngoài điện Buckingham, chào đón em bé hoàng gia. Đám đông hoan hỉ mở champagne, reo hò và vui vẻ ngắm nhìn bảng thông báo
Ánh đèn flash của máy ảnh nhấp nháy suốt buổi tối bên ngoài nơi ở của Nữ hoàng Elizabeth, khi hàng trăm người chờ đợi thời khắc thông báo về sự ra đời của người thứ ba trong danh sách kế vị ngai vàng. Đám đông ép chặt cửa sát của Cung điện Buckingham và tràn vào nơi có bức tượng của Nữ hoàng Victoria và những vị vua khác trong quảng trường trước tòa nhà. Các bài hát yêu nước vang lên suốt đêm và nhiều người nước ngoài cũng hòa cùng đám đông chúc mừng nước Anh. "Tôi rất vui mừng cho nước Anh, họ đang sống trong thời khắc lịch sử", một cặp vợ chồng người Pháp cho hay.
Một khách du lịch đến từ bang Ohio, Mỹ lại có cảm giác phấn khích vì được hòa vào không khí vui mừng với Hoàng gia. "Chúng tôi nghĩ rằng thật vui vì người kế vị ngai vàng của Anh chào đời. Chúng tôi đến đây từ tuần trước và chờ đợi sự kiện này. Chúng tôi không có Hoàng gia nên tôi rất vui được ở đây vào thời điểm này".
Các danh thắng nổi tiếng ở London cũng hòa mình vào không khí vui mừng chào đón Hoàng tử bé. Bánh xe khổng lồ London Eye, nơi có thể ngắm nhìn được toàn cảnh London, được trang trí màu đỏ, trắng và xanh và tháp BT ở trung tâm thủ đô cũng chạy dòng chữ “Là bé trai” trên màn hình lớn ở đỉnh tháp.
Bên ngoài bệnh viện St Mary ở Paddington, nơi Hoàng tử chào đời, nhiều phóng viên nước ngoài đến đưa tin và nhiều người dân ăn mừng ở bên ngoài. Yang Shanshan, phóng viên của đài truyền hình quốc gia Trung Quốc CCTV có mặt tại đây nói: "Chúng tôi đã chờ đợi ở đây từ rất lâu. Tôi rất vui mừng và chúc mừng nước Anh". (theo BBC)
Trong khi đó, Đấng Thiên Tử Emmanuel chào đời tại hang bò lừa Bêlem hơn hai ngàn năm trước, thật âm thầm, rét mướt, khó nghèo. Chẳng mấy ai biết đến nghênh đón, chẳng có nguyên thủ nào chúc tụng, cũng chẳng champagne nổ dòn, đại bác bắn chào. Chỉ có những người chăn chiên, nhỏ bé, tầm thường, khó nghèo được sứ thần loan báo, đến thờ lạy.
Nhỏ bé
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người Chúa thương.” Lời hát mừng của muôn vàn thiên binh cùng với sứ thần dành cho những mục đồng xoàng xĩnh, bị bỏ rơi bên lề xã hội, nghèo tiền của, nghèo cả tinh thần, tri thức, lẫn thiếu tình thương. Những kẻ thượng lưu, giàu sang, thừa tiền lắm bạc, quyền cao chức trọng, những bậc trí giả uyên thâm, những kẻ trung lưu no cơm ấm cật, thường vẫn kiêu căng, tự tôn, mãn nguyện, cần gì đến Đấng Tối Cao, đến Thiên Chúa Giáng Sinh, xen vào cuộc đời nhung lụa êm ấm của họ làm chi?
Với thân phận hài nhi yếu ớt, nhỏ bé được cuốn tã bọc, nằm trong máng cỏ, Chúa Giêsu cao cả từ trời cao, tự hạ mình xuống hàng thứ dân hạ lưu, cùng đinh, khố rách áo ôm. Người thân thiết, gần gũi với người thấp cổ bé miệng, cơ hàn, khổ cực, bị đối xử phân biệt, bị khinh bỉ, bị áp bức, bị đầy ải, tù tội. Nếu muốn đón nhận Chúa Hài Đồng, thì tôi phải trở nên nhỏ bé như mục đồng, tự hạ, khiêm nhường, chân chất, đơn sơ như trẻ nhỏ, tôi mới có cơ may gặp đuợc Người.
“Đức Maria càng khiêm tốn, thì càng trong sáng, vì càng thấy rõ những điều kỳ diệu Chúa làm trong lòng Mẹ. Như ánh sáng qua một bóng đèn thủy tinh không vướng bụi.”(Đường Hy Vọng, số 512)
Nghèo khó
Thánh Phaolô đã xác quyết với tín hữu Corinhtô: “Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có.” (2Cr 8, 9) Bần hàn Chúa sinh ra ở Bêlem, bần hàn cảnh Thánh Gia, bần hàn những người chăn chiên, tất cả đều phản ảnh sứ điệp Giáng Sinh, mà Chúa Hài Đồng muốn nhắn gửi đến mọi người. “Ai không từ bỏ tất cả của cải mình có thì không thể làm môn đệ Ta.”(Lc 14, 33)
“Nghèo hèn, nghèo khó, nghèo khổ, nghèo cực. Nếu có tinh thần thanh bần hãy chấp nhận những hậu quả của nghèo nàn giữa xã hội.” (Đường Hy Vọng, số 413)
Phục vụ
Nhìn thấy thảm cảnh tha nhân đói nghèo, cơ cực, bất công mà vẫn bình chân như vại, thì cũng chẳng thể gặp được Chúa Hài Đồng. Cần noi gương Người để có thể gần gũi với Người. Đấng tự hạ mình xuống trên trái đất bé nhỏ và nghèo nàn này, thì điều này có nghĩa là để giống như Ngài, chúng ta không được ở bên trên các người khác, nhưng trái lại phải hạ mình xuống, để phục vụ, để trở nên bé nhỏ với những người bé nhỏ và nghèo với người nghèo. Thật là một điều xấu, khi thấy một Kitô hữu không muốn hạ mình xuống, không muốn phục vụ, một Kitô hữu vênh váo khắp nơi: thật là xấu có phải không? Người đó không phải là tín hữu Kitô, mà là một người ngoại giáo. Kitô hữu thì hạ mình và phục vụ. (Linh Tiến Khải, Đức Thánh Cha: Giáng Sinh là lễ của sự tin tưởng và niềm hy vọng)
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, Người đã nếm trải cảnh đói rét, bần hàn ngay từ khi mở mắt chào đời, xin dạy chúng con biết noi gương theo, trở nên bé nhỏ, khiêm nhường và sống thanh bần, luôn phục vụ mọi người, mọi nơi, để có thể nhận được ánh sáng và niềm vui Giáng Sinh.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là tấm gương chói sáng khiêm hạ, nghèo khó và phục vụ, xin giúp chúng con học theo Mẹ, sống theo Mẹ và tin cậy Mẹ, để chúng con luôn được Chúa Ở Cùng như Mẹ. Amen.
Kỷ niệm ngày sinh nhật thứ 77 một cách giản dị, Đức Thánh Cha Phanxicô đã mời ba người sống GS-347 FB
Kỷ niệm ngày sinh nhật thứ 77 một cách giản dị, Đức Thánh Cha Phanxicô đã mời ba người sống trên đường phố ăn sáng với Ngài. Trong số thực khách hiếm hoi này, còn có cả một con chó của một trong những người vô gia cư. Đức Thánh Cha bắt đầu một ngày mới một cách bình thường với thánh lễ tại nhà nguyện Domus Sanctae Marthae. Sau Thánh Lễ, tất cả những người có mặt đã hát "Happy Birthday."
Đức Giáo Hoàng sau đó đã gặp gỡ tất cả mọi người, kể cả ba người đàn ông vô gia cư đang đi theo Đức Tổng Giám Mục Konrad Krajewski, vị quan phát chẩn của Toà Thánh. Theo tờ báo L'Osservatore Romano của Vatican, thì Đức Tổng Krajewski đã đi ra ngoài đường từ sáng sớm và mời một nhóm vô gia cư đầu tiên mà Ngài gặp, đó là nhóm ba người đang nằm ngủ dưới hàng hiên ngay trước cửa văn phòng báo chí Vatican.
- "Quí ông có muốn ăn tiệc sinh nhật với Đức Thánh Cha Phanxicô không?" Ngài hỏi.
Họ là những người trạc tuổi bốn mươi, đến từ Slovakia, Ba Lan và Cộng hòa Séc. Họ đã chất đồ đạc lên xe của Đức Tổng Giám mục, và đặt 'chú chó' vào giữa. Cùng với Đức Tổng Giám Mục Krajewski, những người vô gia cư này đã trao cho Đức Giáo Hoàng một bó hoa hướng dương. Theo lời giải thích của đức Tổng thì hoa hướng dương luôn hướng về mặt trời, giống như Giáo Hội luôn hướng về Chúa Kitô.
Đức Thánh Cha đã cùng họ đi ăn sáng tại phòng ăn của nhà trọ, và cùng chia sẻ những câu chuyện vui đùa.
Một người đã nói với Đức Giáo Hoàng rằng: "Sống lang thang cũng đáng lắm chứ, vì bạn có thể gặp được Giáo Hoàng." (Trần Mạnh Trác, Vietcatholic, 12/17/2013)
*****
Khi mời đón những người vô gia cư vào Tòa Thánh, để chung vui ngày sinh nhật lần thứ 77 của mình, Đức Phanxicô muốn công khai trả lời với mọi người câu hỏi muôn thuở: “Ai là anh em tôi?”
Hôm nay, những dòng chữ đầu tiên của Tin Mừng Thánh Gioan giới thiệu Ngôi Lời, Đấng Emmanuel, “Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta”. “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.”(Ga 1, 11)
SỐNG CÙNG
Hài Nhi Giêsu bọc khăn vải nằm trong máng cỏ. Chẳng có tã giấy chuyên dùng cho trẻ sơ sinh, cũng chẳng được nằm êm ái trong cái nôi ru tự động. Chẳng được sinh trong bảo sanh viện cao cấp tiện nghi. Người lại chọn nơi chào đời tại chuồng bò lừa, thấp hèn nhất, xoàng xĩnh nhất, hôi hám nhất, tăm tối nhất, chẳng ai có thể nào ngờ. Chẳng ai có thể tủi thân, tủi phận hơn Người được. Bởi quá yêu thương, Người muốn hòa đồng, sống cùng những thân phận cơ hàn, khó nghèo, bần cùng, thiếu thốn vật chất lẫn tinh thần, thiếu tình thương và lòng thương xót.
“Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta” đồng cảm, đồng hành với người nghèo khó, người cơ nhỡ, người bị áp bức, thấp cổ bé miệng, người bị rẻ rúng, khinh thường. Trở nên nhỏ bé, đơn sơ và cơ cực, Người đến an ủi, xoa dịu, chăm sóc, bênh vực và giải thoát những ai đói khát tình yêu, công lý, sự thật khỏi bóng tối, đêm đen thế gian. Hầu cho bất cứ ai cũng đều có thể được hưởng Ơn Cứu Độ. Một tình yêu chí nhân, chí ái, dấn thân và khiêm nhường.
SỐNG VÌ
Hài Nhi Giêsu bọc khăn vải nằm trong máng cỏ. Người không chỉ đồng hành với kẻ bần hàn, đói khát, mà còn đến vì những con chiên đi lạc, vì đồng xu đánh mất, vì những đứa con hoang đàng, đang say đắm, u mê những ảo ảnh thiên đường tại thế, mù lòa theo đam mê xác thịt, đắm đuối chạy theo những giá trị hư ảo, phù vân chóng qua. “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.”(Mc 2, 17)
Người không theo thói đời, chạy theo đa số, chạy theo số lượng, mà bỏ rơi thiểu số, những con số lẻ, những thân phận bị bỏ rơi, bị trục xuất khỏi cộng đồng xã hội: Đui, què, mù lòa, câm điếc, bệnh hoạn, củi hủi, điên khùng, quỷ ám, quan thuế, đĩ điếm, trộm cắp. Bởi vì: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần.” (Mt 9, 12)
SỐNG CHO
Hài Nhi Giêsu bọc khăn vải nằm trong máng cỏ. Chúa Giêsu sinh hạ trong hang bò lừa rét mướt, trống trước hở sau, để nhường nhà cao cửa rộng cho người ta hưởng thụ, nhường phòng ấm nệm êm cho chính tôi ưa dưỡng thân, dượng xác. Bởi vì “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người." (Mc 10, 35-45)
Ngay từ khi mở mắt chào đời, cho đến khi nhắm mắt nhục nhã trên cây thập tự, Đức Giêsu đã dâng hiến trọn cuộc đời làm của lễ toàn thiêu, chữa đủ bệnh tật, rao giảng Nước Chúa, hoàn thành sứ vụ Cứu Độ qua cuộc tử nạn kinh hoàng, tận tụy phục vụ loài người được ơn tái sinh.“Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình.“(Ga 15, 13)
Thế mà tôi vẫn còn mãi lãnh đạm, dửng dưng, vô tình với Hài Nhi Giêsu. Tôi chỉ biết mừng đón Người với đèn sao lộng lẫy, với cây thông lấp lánh, với hang đá bò lừa ngộ nghĩnh, với quần áo xa hoa tiệc tùng say đắm. Làm sao tôi biết Chúa đến thế gian để làm gì? Làm sao tôi được Chúa thương ban bình an? Trong khi đó Đấng Emmanuel, Thiên Chúa vẫn đang ở cùng, sống cùng, sống vì và sống cho tôi.
“Chúa hiện diện không phải là lý thuyết. Chúa là Cha ở bên con, với tất cả quyền năng và tình yêu. Cha năn nỉ, Cha khuyên bảo, mời mọc, trách móc, tha thứ và luôn yêu thương.”(Đường Hy Vọng, số 234) Lạy Chúa Hài Đồng Giêsu, khiêm hạ, hy sinh và phục vụ xin giúp chúng con tái sinh thành trẻ thơ trong sáng, đơn sơ, biến chúng con thành người Kitô hữu chân chính, sống đúng theo Lời Chúa, hầu xứng đáng trở nên quà tặng cho mọi người.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã cưu mang và sinh hạ Hài Nhi Giêsu, xin luôn nhắc nhở, khuyên nhủ, chỉ dạy chúng con biết tha thiết đón mời Chúa đến thăm và ở lại mãi trong tâm hồn chúng con, để chúng con được bình an viên mãn. Amen.
Hôm 11/12/2013, Đức Giáo Hoàng Phanxicô được tạp chí Time uy tín của Mỹ bình chọn là «Nhân vật GS-348
Hôm 11/12/2013, Đức Giáo Hoàng Phanxicô được tạp chí Time uy tín của Mỹ bình chọn là «Nhân vật của năm 2013» vì đã thay đổi «giọng điệu, quan niệm và cách tiếp cận» của Giáo hội Công giáo. Tổng biên tập tạp chí đã tuyên bố trên kênh truyền hình NBC như trên. Bà Nancy Gibbs, tổng biên tập tờ Time cho biết: «Do đã đưa quyền lực Giáo Hoàng ra khỏi cung điện để đến với đường phố, thúc đẩy Giáo Hội lớn nhất thế giới đối diện với các nhu cầu sâu sắc hơn, do đã tạo ra sự thăng bằng chính đáng giữa phán xét và thương xót, Đức Giáo Hoàng Phanxicô là nhân vật năm 2013 của báo Time ».
Bà nhấn mạnh: «Hiếm khi có một nhân tố mới xuất hiện trên trường quốc tế lại thu hút bấy nhiêu sự chú ý nhanh đến như thế, như Đức Giáo Hoàng Phanxicô, dù đối với giới trẻ hay người lớn tuổi, giữa các tín hữu hay những người còn nghi ngại». Bà Gibbs nói thêm, vị Giáo Hoàng người Achentina được bầu lên hồi tháng Ba, «trong vòng chín tháng đã biết cách đặt vào trung tâm những tranh luận chính yếu của thời đại chúng ta. Đó là giàu và nghèo, chính trực và công lý, tính minh bạch, sự hiện đại, việc toàn cầu hóa, vai trò của phụ nữ, tính chất của hôn nhân, những cám dỗ của quyền lực».(Thụy My, RFI)
Báo Time vừa tôn vinh Đức Giáo Hoàng Phanxicô là Nhân vật của năm 2013 là. Hôm nay, muôn dân, muôn nước đều tưng bừng chào đón Sinh Nhật của Nhân Vật Muôn Đời, Hài Nhi Giêsu. Chẳng bao giờ cũ, chẳng bao giờ già nua, hay lỗi thời, mà vĩnh viễn hợp với mọi thời đại, mọi nơi, mọi lúc. Bởi vì Người là Ánh Sáng, Hồng Ân và Ơn Cứu độ.
Ánh Sáng
Ánh Sáng chiếu soi trong bóng tối. Và bóng tối đã không tiêu diệt được ánh sáng. (Ga 1, 5) Khi Hài Nhi Giê su Hạ sinh hạ tại Bê lem, thì vinh quang của Chúa chiếu tỏa chung quanh xua tan đi bóng đêm đang bao phủ thế gian. Những giá trị tưởng như bất biến với cõi trần bị thách thức đảo ngược. Từ vật chất, tinh thần đến luật lệ xử thế đều được đánh giá lại theo nhãn quan của Đấng Cứu Thế. Ngay từ niên thiếu, Người đã là Ánh Sáng mặt trời chiều soi những kẻ ngồi trong tối tăm. (Lc 1, 78 -79). Hơn nữa Người còn là “Ánh Sáng soi đường cho dân ngoại.” (Lc 2, 32)
Sau khi chữa cho anh mù được sáng, Đức Giêsu nhân trả lời thắc mắc của các môn đệ đã mặc khải: “Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là Ánh Sáng thế gian.”(Ga 9, 5) Người còn nhấn mạnh hơn nữa: “Tôi là Ánh Sáng thế gian. Ai theo Tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống sự sống.” (Ga 8, 12) Nhưng than ôi, thế gian lại chuộng tối tăm hơn ánh sáng, bởi thế gian lấm len, hoen ố tội lỗi, không muốn bẽ bàng lộ tẩy dưới ánh sáng công chính và sự thật.
Hồng Ân
Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác. (Ga 1, 16) Hài Nhi Giêsu hạ thế chính là hồng ân vô biên từ tình yêu Thiên Chúa ban tặng cho con người. Rồi Người chịu nộp mình, chịu chết để xóa tội cho con người. Còn hồng ân nào vĩ đại hơn?
Ngoài Lời Hằng Sống, Đức Giêsu còn tự hiến thành Lương Thực hàng ngày, dưỡng nuôi linh hồn lữ khách trên đường hy vọng.
“Con thiếu tất cả, con mất tất cả, nhưng con còn Thánh Thể là còn tất cả, vì con có Chúa Thiên Đàng dưới đất.” (Đường Hy Vọng, số 363)
Ơn Cứu Độ
Còn những ai đón nhận, tức là ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. (Ga 1, 12) Đức Giêsu nhập thế để thực hiện công cuộc cứu chuộc con người khỏi cái chết muôn đời. “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống, làm giá cứu chuộc muôn người.”(Mt 20, 28)
Cuộc hiến tế trên núi Calvariô là một lễ hy tế đích thân và tự nguyện của Đức Giêsu, hoàn tất thật chu đáo chương trình cứu độ của Thiên Chúa đối với con người.
Dưới thế này, chỉ duy nhất Đức Chúa Giêsu là Nhân Vật Muôn Đời. Không cần báo chí truyền thông phù phiếm xếp hạng, không cần ai bình bầu, bởi vì Người vượt lên trên tầm nhìn hạn hẹp, lệch lạc, phiến diện, thành kiến của thế gian.
Thế mà tôi vẫn thường mải mê chạy theo, hâm mộ các thần tượng thời thượng, các ngôi sao ca nhạc, các diễn viên điện ảnh, các lực sĩ thể thao,… Tôi đâu có hay một Siêu Sao Vượt Thời Gian đang âm thầm ở ngay bên.
“Chúa hiện diện bên con, không phải chỉ là một tâm tình, nhưng Chúa phải chiếm hữu cả con người con, hướng dẫn, yêu thương, an ủi con.” (Đường Hy Vọng, số 241)
Lạy Chúa Hài Đồng Giêsu, Người luôn thấy và thấu hiểu tâm trí chúng con, từ đam mê, sở thích đến tình cảm riêng tư kín đáo. Xin Người ghi lòng tạc dạ chúng con sự hiện diện gần gũi thân thương của Người, để chúng con dứt khoát từ bỏ những ngẫu tượng, tà thần đang ra sức quyến rũ chúng con.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm Giáng Sinh, và suy đi nghĩ lại trong lòng. Khấn xin Mẹ khắc ghi vào tâm hồn chúng con mầu nhiệm Giáng Sinh tuyệt vời, để chúng con theo Mẹ, luôn mãi âu yếm ấp ủ Chúa Hài Đồng trong lòng. Amen.
Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại. Tin mừng ấy là Đấng Cứu Thế đã ra đời. Nhưng GS-349 Lượng
Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại. Tin mừng ấy là Đấng Cứu Thế đã ra đời. Nhưng dấu chỉ để nhận diện Người lại thật là khiêm tốn: một trẻ sơ sinh bọc trong tã, nằm nơi máng cỏ. Vậy ai đã bọc tã cho trẻ nhỏ ấy nếu không phải là Mẹ Maria diu hiền bên cạnh Thánh Giuse cần mẫn.
Hoá ra tin mừng trọng đại này lại là tin mừng về một gia đình. Gia đình ấy nghèo đến độ chẳng có một mái nhà lúc sinh con. Cũng vì nghèo mà họ chẳng tìm được chỗ trong quán trọ. Họ chẳng cần có một mái nhà, nhưng lại có mái ấm tình thương. Một gia đình đúng nghĩa, chẳng bù cho những gia đình nhà cao cửa rộng, nhưng có mà như không có, khiến trẻ thơ mất hẳn mái ấm tinh thần.
Gia đình ấy phải sinh con giữa cảnh đồng không mông quạnh, nhưng phải chăng chính ở đó mà vẻ đẹp của gia đình được biểu lộ. Vẻ đẹp của một gia đình mở ra với cõi trời mênh mông, làm rung lên cả tiếng hát thiên thần: Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm. Vẻ đẹp của một gia đình mở ra với mọi người kể cả những kẻ nghèo hèn nhất là các mục đồng. Thật khác xa với đôi tình nhân hôm nào trong vườn địa đàng, khép kín với Thiên Chúa đến độ phải ẩn mình, khép kín với nhau vì những lời phiền hà trách móc và làm cho cả đất đai cũng trở nên gai góc. Vâng, gia đình ấy đã trở thành một tin mừng trọng đại, tất cả cũng chỉ vì Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thiên Chúa đang ở giữa họ.
Trong một vở kịch mang tựa đề là “Quỷ ở với người”, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã phác hoạ khuôn mặt một gia đình đang phá sản. Khi mà mối quan hệ gia đình được xây dựng trên đồng tiền, trên tình dục và quyền lực, chứ không phải trên đạo đức. Khuôn mặt gia đình ấy cũng có thể là dự báo về tình trạng nhiều gia đình đang và sẽ xuất hiện trong thời buổi hiện nay.
Nếu nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đặt tên cho gia đình đang phá sản ấy là Quỷ ở với người, thì tôi nghĩ, giải pháp để cứu vãn gia đình chính là Chúa ở với người. Giải pháp ấy khởi đi từ tin mừng về đôi vợ chồng trẻ, sinh con giữa cánh đồng Bêlem ngày xưa. Chúa ở với Người là để Đấng cứu độ đến với mỗi thành viên trong gia đình, mang lấy tâm tư và mặc lấy con người mới theo tinh thần của Người. Chúa ở với người là để cho Người hướng dẫn và chi phối cuộc sống gia đình của chúng ta. Chúa ở với người là để cho mầu nhiệm giáng sinh được trở nên hiện thực trong chính cuộc sống của cá nhân và gia đình. Có Chúa hiện diện trong gia đình và cùng đi với chúng ta trên vạn nẻo đường đời, thì bản thân chúng ta mới được bình an, và gia đình chúng ta mới trở thành một mái ấm ngập tràn yêu thương và hạnh phúc.
Một hài nhi không nhà không cửa. Hẳn rằng chúng ta còn nhớ, có lần Chúa Giêsu đã phán: Con cáo GS-350
Một hài nhi không nhà không cửa.
Hẳn rằng chúng ta còn nhớ, có lần Chúa Giêsu đã phán: Con cáo có hang, chim trời có tổ nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu. Lời nói này đã trở thành một sự thật ngay từ đêm hôm nay, khi Ngài mở mắt chào đời.
Thực vậy, Ngài đã sinh ra trong một hang đá ngoài đồng vắng, nơi nghỉ ngơi của chiên bò. Mẹ Ngài đã đặt Ngài nằm trong một chiếc máng có. Thế nhưng đó lại là một sự kiện kỳ diệu, làm chuyển biến cả số phận của nhân loại.
Theo lệnh của hoàng đế César, những người trở về Bêlem để đăng ký nhân hộ khẩu, đều tìm thấy một mái nhà để nghỉ qua đêm, hoặc là nơi hàng quán, hoặc là nơi bà con thân thích. Dường như chỉ có mình Ngài, một hài nhi không nhà không cửa, không cả chốn tựa đầu.
Theo lề thói thông thường, chúng ta có thể mường tượng Ngài sinh ra trong một toà lâu đài hay trong một cung điện kín cổng cao tường. Nhưng Ngài đã không làm thế, bởi vì Ngài là người của mọi người, Ngài đến để cứu chuộc cả nhân loại. Hang đá Bêlem không có cửa, và nếu có thì cánh cửa ấy vẫn luôn mở rộng, để tất cả chúng ta đến tìm gặp Ngài, mà không cần báo trước, không cần chờ đợi, không cần những thủ tục kính chuyển.
Hơn thế nữa, Ngài đã không sinh ra dưới một mái nhà kiên cố, điều ấy như muốn chứng tỏ rằng vương quốc của Ngài không thuộc trần gian này, cho nên Ngài không cần tới một tấc đất để làm sản nghiệp. Ngài không tranh giành ảnh hưởng, Ngài không gây chiến để mở mang bờ cõi. Nhưng Ngài đã để lại và trao ban cho chúng ta tất cả, cho đến giọt máu cuối cùng trên thập giá, để chứng tỏ một tình yêu thương dạt đào: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Hài nhi nơi máng cỏ Bêlem, phải chăng là một hình ảnh, một biểu tượng của vị vua hoà bình. Ngài chỉ muốn giải thoát chúng ta khỏi mọi ách nô lệ, nhất là ách nô lệ của tội lỗi. Ngài chỉ ước mong cho chúng ta được nếm thử niềm vui, niềm vui của một tâm hồn trong sạch, hầu chuẩn bị cho hạnh phúc Nước Trời. Ngài không cần chúng ta dành cho Ngài một mái nhà, nhưng chính Ngài sẽ dành cho chúng ta một chỗ cư ngụ vĩnh viễn trong nhà Cha trên trời.
Là một vị Vua không binh đội, không cung điện, không ngai vàng. Là một vị Vua của mọi tâm hồn, vì thế có lẽ điều Ngài mong đợi hơn cả nơi mỗi người chúng ta, đó là hãy dành cho Ngài một nơi cư ngụ trong chính thẳm sâu cõi lòng chúng ta. Tâm hồn chúng ta phải là một hang đá máng cỏ sống động cho Chúa và tình yêu của chúng ta sẽ là những tia nắng sưởi ấm cho Chúa. Thế nhưng chúng ta đã ý thức và thực hiện được điều đó hay chưa?