Suy Niệm Tin Mừng Chúa nhật MV 3-A Bài 151-193: Thầy có phải là Đấng chúng tôi mong đợi không? ----------------------------- Phúc Âm: Mt 11, 2-11 "Thầy có phải là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi một Ðấng nào khác?"
Gioan Tẩy Giả đang ở trong tù, sai các môn đệ của ông đến hỏi Chúa Giêsu: “Ngài có phải là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác nữa?”
Có lẽ Gioan thấy môn đệ ông đang thắc mắc về người đang giảng bên kia sông Gio-đan. Gioan đã MV 3-A151
Có lẽ Gioan thấy môn đệ ông đang thắc mắc về người đang giảng bên kia sông Gio-đan. Gioan đã sai họ đến để xác nhận rõ cho họ, Đấng họ mong đợi là ai. Đối với Gioan, vấn đề đã rõ từ lâu vì ông đã biết Chúa Giêsu là ai khi Ngài đến để xin chịu phép rửa nơi sông Gio-đan: “Chính Thầy phải rửa cho tôi mới phải.” Và nơi khác: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống vàngự trên Người”. (Ga 1,32). Hơn nữa: “Tôi đã không biết Người, nhưng chính Đấng đã sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong ThánhThần”. Tôi đã thấy và chứng thực rằng Người là Đấng ThiênChúa tuyển chọn.” (Ga 1,33-34).
Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp, nhưng Ngài chủ tâm chỉ cho họ những gì Người đang làm trước mắt họ:
Người mù xem thấy, Kẻ què bước đi, Người cùi được sạch Kẻ điếc được nghe Và người nghèo được nghe Tin Mừng…
Đây phải chăng là một trang sách tiên tri I-sa-i-a đang mở ra trước mắt họ và đang được thực hiện? Như thế chứng minh cho họ thời nầy là thời thiên sai và Đấng làm những việc ấy chính là Đấng người ta đang trông đợi?
Và lạ thay, Chúa Giêsu lại thêm một câu khó hiểu: “Và phúc cho ai không vấp ngã vì Ta!”
Không vấp ngã nghĩa là tin vào Ta, là nhìn nhận Ta là Đấng mọi người đang mong đợi.
Hôm nay, Giáo Hội nhờ Gioan Tẩy Giả xác định cho chúng ta biết thời cứu rỗi đã đến rồi, hãy đón nhận ơn cứu độ, hãy đón chào Đấng Cứu thế.
Vì thế, phụng vụ Chúa nhựt hôm nay mang một màu sắc khác hẳn: Giáo Hội bảo chúng ta vui lên.
Mùa Vọng là mùa ăn năn sám hối, nhưng hãy ăn năn sám hối trong niềm vui, vì ơn cứu rỗi là một điều chắc chắn không nghi ngờ gì nữa. “Người mù xem thấy… Người điếc được nghe”… Tâm hồn chúng ta mù lòa, nay được thấy, què trệt nay bước đi…
Niềm vui nầy như niềm vui nắng rộ sau bao ngày mưa ảm đạm. Niềm vui nầy đến như niềm vui của kẻ tù tội sắp được thấy vùng trời tự do. Niềm vui nầy của những người lạc trên đảo hoang và thấy bóng con tàu cứu vớt. Niềm vui của những người thợ mỏ bị nạn dưới hầm sâu đang nghe thấy tiếng người cứu nạn sắp đến… Thánh Phao-lô bảo chúng ta: “Hãy vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi, Chúa đã đến gần.” (Pl 4,4-5).
Chúng ta không còn đợi Đấng nào khác nữa. Chúa chúng ta sẽ đến mang ơn cứu độ cho chúng ta. Không có lý do gì phải buồn bực lo âu nữa, vì “dưới gầm trời nầy, không một Danh hiệu nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ Danh đó mà được cứu độ.” (Cv 4, 12).
Trong dịp nầy, Chúa Giêsu nói đến Gioan Tẩy Giả và khen ngợi vị Tiền Hô:
“Anh em xem gì nơi hoang địa? Một người sang trọng ư?
Một cây lau phất phơ trước gió ư? Không!
Một vị ngôn sứ ư?
Đúng! Một vị ngôn sứ, nhưng còn hơn thế nữa, sứ giả của Ta… đi trước dọn đường cho Ta. Chưa ai cao trọng hơn Gioan. Một lời chứng có giá trị. Chính Chúa Giêsu đề cao Gioan và đó là điều hợp lý, vì Gioan cả một đời chỉ sống cho Thiên Chúa, và sau cùng là sứ giả cho Người. Và cũng vì sứ mệnh cao cả ấy mà Gioan phải ngồi tù để rồi hiến dâng tất cả cho Đấng ông loan báo.
Chúng ta không phân bì với Gioan, trái lại, vui mừng cho ông và vui mừng cho cả chúng ta…vì “kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng ơn Gioan…”
Chúa nói về ai, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời, phải chăng là nói về chúng ta? Phép Thánh Tẩy đã cho chúng ta vinh dự làm công dân Nước Trời, và như thế, chúng ta cũng là sứ giả của Chúa, loan báo Tin Mừng của Chúa cho mọi người.
Chúng ta cao trọng hơn Gioan, chúng ta đã làm được gì để được vinh dự cao cả như thế?
Chúa bảo: “Hãy tường thuật lại cho mọi người những gì mắt thấy tai nghe… Hãy giảng dạy muôn dân…”
Chúng ta đã làm được gì? Tin Mừng của Chúa không biên giới, không lệ thuộc vào một quyền bính nào. Tin Mừng là của mọi người, cho mọi người, không phân biệt màu da chủng tộc, cũng không bị hạn chế trong một lãnh vực nào…
Nhờ Phép Thánh Tẩy, chúng ta đã trở nên sứ giả của Chúa… dọn đường cho Chúa đến… Sứ mệnh thật cao đẹp! Nhưng chúng ta đã làm được gì?
Chúng ta không thể chỉ là những con người chỉ lo cho bản thân. Chúng ta không thể là “những cây lau phất phơ trước gió” chẳng ích lợi gì cho ai.
Chúng ta phải là những tiên tri của Chúa, những con người dám dấn thân cho Nước Trời: “Nước Cha trị đến…”
Đây không phải là một việc thông thường như cô thầy giáo bước vào lớp học, hay người đi chợ về… Chúa đến là một biến cố lớn lao, là cả một vùng trời yêu thương đang rộng mở. Chúng ta biết Chúa yêu thương chúng ta như thế nào không?
Người công giáo là con người luôn ngỡ ngàng trước tình thương bao la của Chúa. Hãy nói lên cho mọi người biết Chúa thương mọi người. Từ ngôi vị Thiên Chúa, Ngài đã đến chia sẻ phận người của chúng ta, cứu thoát chúng ta khỏi sự hư hèn tro bụi của chúng ta. Điều nầy không đáng cho chúng ta lưu tâm và loan báo cho mọi người sao? Hãy vui lên vì Chúa yêu thương chúng ta! Hãy vui lên, vì Chúa đã đến với chúng ta, mang cho chúng ta những gì mà thế gian không thể mang lại cho chúng ta.
“Phúc cho những ai không vấp phạm vì Ta.” Nguồn phúc nầy sẽ dành cho chúng ta nếu chúng ta dám dấn thân thực sự cho Nước Chúa, như Gioan Tẩy Giả.
Hiến tế tạ ơn mà chúng ta đang cử hành là một mời gọi khẩn thiết. Hãy về kể lại cho mọi người biết những gì mắt thấy tai nghe tại đây, nơi bàn thờ nầy.
Nơi đây chúng ta chứng kiến một Thiên Chúa gần gũi, thân cận, một Thiên Chúa yêu thương quên mình, một Thiên Chúa trở nên lương thực, tan biến cho mọi người, một Thiên Chúa đến để chúng ta được sống và được sống dồi dào, sung mãn. Hãy nói lên cho mọi người biết đừng lặng thinh.
Chúa Giêsu đã đến, chúng ta đã và đang gặp gỡ, đón tiếp Người trong kinh nguyện, trong Thánh lễ và trong việc sống Lời Người. Tuy nhiên, Giáo hội muốn qua phụng vụ của Chúa nhật III mùa Vọng này, kêu gọi chúng ta lắng nghe sứ điệp hy vọng.
Chúa Giêsu đã đến, chúng ta đã và đang gặp gỡ, đón tiếp Người trong kinh nguyện, trong Thánh lễ và trong việc sống Lời Người. Tuy nhiên, Giáo hội muốn qua phụng vụ của Chúa nhật III mùa Vọng này, kêu gọi chúng ta lắng nghe sứ điệp hy vọng. Niềm hy vọng chính Thiên Chúa sẽ đến cứu độ chúng ta, niềm hy vọng mang lại niềm vui sống, một niềm vui có sức biến đổi con người và biến đổi bộ mặt trái đất trở nên tươi đẹp hơn. Chúng ta đang đón Chúa và hân hoan chờ đợi ngày Người lại đến trong vinh quang để đưa chúng ta vào trong tình yêu viên mãn của Thiên Chúa Ba Ngôi.
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1. Bài đọc I: Is 35,1-6.10
Những điều kỳ diệu do ơn Cứu độ mang lại
Bản văn được trích đọc từ sách Tiên tri Isaia hôm nay là lời khích lệ nảy sinh từ nỗi u buồn của đau khổ, khó khăn trong cuộc sống. Chính Thiên Chúa chắc chắn sẽ đến giải thoát con người khỏi mọi đau khổ.
a. Đây là thời kỳ năm thứ 40 dân Do Thái phải chịu đau khổ trong cuộc lưu đày. Tiên tri Isaia loan báo cho họ biết Thiên Chúa sẽ đến ngay để giải thoát họ, để đưa họ về.
b. Thiên Chúa sẽ thực thi tình yêu của Người. Người biến đổi đau khổ thành hạnh phúc. Người sẽ bày tỏ vinh quang của Người cho nhà Israel, nghĩa là sẽ giải phóng và cứu độ họ.
c. Đây là mọt sứ điệp của niềm hy vọng. Thiên Chúa luôn yêu thương và mang lại hạnh phúc cho con người. Vấn đề là con người có tin tưởng chờ mong Người hay không?
2. Bài đọc II: Gc 5,7-10
Kiên nhẫn chờ đợi Đấng Cứu Thế
a. So sánh với bài đọc I tràn trề niềm phấn khởi và giàu chất thi ca, đoạn trích thư của Thánh Giacôbê có vẻ bình dị hơn, kêu gọi mọi người phải kiên nhẫn chờ đợi Chúa đến, bền chí đón nhận đau khổ thử thách trong đức tin.
b. Thánh Giacôbê gửi thư cho những người anh em bé mọn đang chịu thử thách trong cuộc sống. Ngài động viên họ hãy kiên nhẫn, đừng nản lòng. Thiên Chúa sắp đến để giải thoát mọi người.
c. Sự kiên nhẫn theo Tin mừng không là sự cam chịu cách vô ích, nhưng là một sự hy vọng tích cực, năng động. Nhờ đó, con người đón chờ ngày Chúa đến trong tín thác, kinh nguyện và niềm vui.
3. Tin mừng: Mt 11,2-11
Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất
Từ trong ngục, Gioan sai các môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu: Ngài có phải là Đấng Messia mà dân đang chờ đợi không? Chúa Giêsu không có câu trả lời xác quyết trực tiếp, Người nêu lên những việc Người làm để ngầm xác nhận mình là Đấng Messia.
a. Câu hỏi mà Gioan đặt ra là một câu hỏi nghiêm túc. Ông ở trong tù nghe biết các việc Chúa Giêsu đã làm nhưng không tài nào giải thích nổi. Phải chăng ông chờ đợi những việc thuộc loại khác như một phong trào nổi dậy; một cuộc phán xét công bình trên các kẻ thù của Thiên Chúa?
b. Chúa Giêsu không khẳng định cách trực tiếp Người là Đấng Messia, nhưng kêu gọi hãy nhìn vào những công việc Người làm. Đối chiếu với Isaia 35,8-10, thì những việc Người làm minh chứng Người quả thật là Đấng Messia mà các tiên tri loan báo.
c. Tin mừng hôm nay cũng cho thấy mối tương quan giữa sứ vụ của Gioan Tẩy giả với Chúa Giêsu. Ông được chính Chúa Giêsu nhìn nhận là người cao trọng nhất trong số loài người. Ông là người được Thiên Chúa sai đi trước Đấng Messia để dọn đường cho Người.
II. GỢI Ý BÀI GIẢNG
1. "Thầy có phải là Đấng phải đến không?":
Gioan nghe biết những việc Chúa Giêsu đã làm nhưng vẫn chưa hiểu trọn vẹn về Người, mặc dầu ông đã giới thiệu công khai với mọi người về Chúa Giêsu, Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian. Ông đã cho môn đệ đến hỏi Chúa câu hỏi này. Điều này cho thấy, hiểu biết về Chúa Giêsu và sứ mạng của Người không phải là chuyện dễ dàng. Muốn biết về Chúa phải gặp gỡ Người thường xuyên, phải biết thực tâm đi tìm kiếm Người. Nếu chỉ dựa vào một vài bài giáo lý, một ít kiến thức Kinh thánh thì không thể nào biết Chúa là ai. Trả lời cho câu hỏi của Gioan, Chúa Giêsu không trả lời cách trực tiếp nhưng chỉ nói đến những việc người làm, và nếu đối chiếu với lời Tiên tri Isaia đã loan báo thì sẽ biết Người là ai. Như vậy, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy muốn đi tìm câu trả lời thì phải tìm hiểu Kinh thánh để rồi nhận ra Người nơi những gì Người mang lại cho người nghèo khổ, khốn cùng.
Tìm hiểu về Chúa không phải nhằm mục đích thoả mãn óc tò mò tri thức ham hiểu biết. Nhưng tìm hiểu để biết Chúa, để yêu mến Người và để đi theo Người mang tình yêu cứu độ, mang Tin mừng đến cho anh chị em bần cùng. Chính trong sự hy sinh vì yêu thương tha nhân, chúng ta càng khám phá khuôn mặt đích thực của Chúa Giêsu Kitô.
2. "Hãy đi thuật lại những gì tai nghe, mắt thấy":
Chúa Giêsu không phán trực tiếp với uy quyền: Chính Ta là Đấng Thiên Sai nhưng Người mời gọi hãy xem xét những gì Người nói và làm để biết Người là ai. Đây chính là con đường để đi tới đức tin. Những ai không tin chính là những người mù và điếc vì không nghe được Lời Chúa, không thấy được việc Người làm. Đó cũng là con đường mà mỗi người Kitô hữu cũng phải thực thi để loan báo Tin mừng cho người khác. Loan báo Tin mừng chính là nói cho người khác biết về Chúa Giêsu qua những gì Người đã làm cho mình, đã nói với mình.
Ngày nay Giáo hội tiếp tục làm chứng cho Chúa, mỗi Kitô hữu là những sứ giả mang Tin mừng cho con người và xã hội của mình. Tất cả đều có trách nhiệm nói cho người khác, cho thời đại biết những gì mắt đã thấy, tai đã nghe qua giáo lý, qua giáo huấn, qua việc thực thi bác ái…
3. "Các ngươi đi xem gì?":
Đến ba lần Chúa Giêsu hỏi thính giả của mình câu hỏi này. Tất nhiên đây không chỉ đơn giản là một cách sử dụng từ ngữ, tu từ học để gây sự chú ý nơi người nghe của những nhà hùng biện. Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến sự cao trọng của Gioan, nhưng đồng thời cũng muốn lôi kéo mọi người đến việc chân nhận Người là ai, để rồi đi theo Người. Chúa Giêsu khẳng định Gioan cao trọng hơn các tiên tri, nhưng người nhỏ nhất Nước Trời còn cao trọng hơn ông nữa. Như vậy, phải đi tìm và vào cho bằng được Nước Trời. Nước Trời là một thực tại các tiên tri loan báo, Gioan chuẩn bị lòng người đón nhận, chính Chúa Giêsu là Đấng đến thiết lập và ban cho nhân loại. Sự so sánh không nhằm hạ thấp Gioan, hay cho rằng Gioan không bằng những kẻ bé mọn nhất trong số các môn đệ của Chúa, nhưng nhằm mục đích nói so sánh hai chức vụ, hai thời kỳ: thời kỳ trước, thời kỳ các tiên tri và Gioan là thời gian để chuẩn bị thôi, thời kỳ sau thời kỳ của Chúa Giêsu mới thực sự là thời gian cứu rỗi.
Một trong những cám dỗ của con người thời đại đó là thích những chuyện ly kỳ, phép lạ nên người ta cũng thích đổ xô đến những nơi cho là có sự kiện lạ để thõa mãn óc hiếu kỳ. Ngay trong đời sống đức tin cũng không hiếm những hiện tượng này. Tất cả mọi nỗ lực trong cuộc đời của mỗi người là phải đi tìm kiếm Nước Trời và vào cho bằng được.
4. Dẫn vào Phụng vụ Thánh thể:
Nơi Bí tích Thánh thể chúng ta nhận ra được tình yêu của Chúa Giêsu, nhận ra Người chính là Đấng Thiên Sai phải đến, Đấng đã hy sinh đến độ chết cho người mình yêu, Đấng đã hiến chính mình làm thần lương mang lại sự sống mới cho nhân loại.
III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU
Mở đầu: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa đã sai Chúa Giêsu đến để giải thoát con người khỏi mọi khổ ải của kiếp người nô lệ cho tội lỗi và sự chết. Trong niềm tri ân cảm tạ, chúng ta cùng dâng lên Chúa những tâm tình cầu nguyện:
1. Giáo hội có sứ mạng công bố Lời Chúa cho muôn dân để tất cả nhận biết và tin theo Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Giáo hội thực sự đưa được Chúa đến cho con người và xã hội hôm nay bằng chính những nỗ lực sống Tin mừng, thực thi lòng bác ái của mọi thành phần trong Giáo hội.
2. Ngày nay những tệ nạn xã hội, sự bất công, chiến tranh và bạo lực đã làm cho bao người phải rơi vào nỗi khốn cùng. Chúng ta cùng cầu nguyện cho những anh chị em này đón nhận được tình thương của Chúa qua sự chia sẻ của mọi người thiện tâm.
3. "Hãy đi thuật lại những gì tai nghe mắt thấy". Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn nghiệm thấy tình yêu của Chúa dành cho bản thân, để tất cả có thể chu toàn sứ mạng loan báo Tin mừng.
Lời kết: Lạy Cha là Đấng giàu lòng nhân ái, chúng con cảm tạ Cha đã trao ban tình yêu cứu độ của Cha cho nhân loại chúng con nơi Chúa Giêsu Kitô. Xin Cha ban Thánh Thần đến hướng dẫn chúng con luôn biết nghe và theo Chúa Giêsu, Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
-----------------------------
MV 3-A153: Đấng Cứu Thế không như loài người nghĩ tưởng
(Suy niệm của Lm. JB. Lê Ngọc Dũng)
Ông Gioan ngồi trong tù, nghe biết những việc Đức Giêsu làm, liền sai hai môn đệ đến hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy có phải là Đấng phải đến không, hay chúng tôi phải đợi ai khác?” (Mt 11,2-3).
Thánh Gioan là vị tiền hô, báo trước, dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Chắc chúng ta cảm MV 3-A153
Thánh Gioan là vị tiền hô, báo trước, dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Chắc chúng ta cảm thấy lạ lùng và thắc mắc, tại sao Gioan lại phải hỏi Đức Giêsu có phải là Đấng Cứu Thế hay không.
Quả là có nhiều sai lệch với những lời mà Gioan đã công bố trước dân chúng, rằng: Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế và đã làm chứng cho Ngài: “Tôi đã thấy Thánh Linh như thể bồ câu bởi trời mà xuống và đậu trên Người.” (Ga 1,33). Gioan cũng đã giới thiệu Chúa Giêsu là “Chiên Thiên Chúa” cho hai môn đệ.
Vậy thì lý do gì mà Gioan nay đang ở trong tù lại hỏi Đức Giêsu có phải là Đấng phải đến hay không?
Tôi đọc một số chú giải thần học Kinh Thánh, thì một số tác giả nói là: Gioan chỉ giả vờ hỏi mà thôi, chứ ngài biết rõ Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Ngài chỉ giả vờ và sai các môn đệ đi hỏi để cho các môn đệ được gặp gỡ trực tiếp, tai nghe mắt thấy việc Chúa Giêsu làm mà tin vào Ngài; đồng thời Gioan cũng làm cho các môn đệ của mình không còn đem lòng ghen tỵ với các môn đệ của Chúa Giêsu. Giải đáp thứ nhất này cho rằng Gioan Tẩy giả chỉ giả vờ cho đi hỏi chứ Gioan biết rõ Đức Giêsu là Đấng cứu thế. Giải thích này không làm cho những lời chứng của Gioan về Chúa Giêsu không bị trái ngược.
Tuy nhiên, với sự khảo sát Kinh Thánh chặc chẻ sâu xa hơn, các nhà thần học thấy rằng giải thích trên không thực tế, có vẻ khôn ngoan hay thần thánh hóa một vị tiên tri như Gioan. Trở về với bối cảnh lịch sử thời đó thì thấy câu hỏi của Gioan là một câu hỏi thành thật, chứ không giả vờ. Câu hỏi của Gioan phản ảnh đúng tâm trạng băn khoăn lo lắng của một sứ giả của Thiên Chúa.
Trong tù khi “nghe biết những chuyện Đức Giêsu làm” thì Gioan bỡ ngỡ. “Bỡ ngỡ” vì những chuyện Đức Giêsu làm không đúng như điều Gioan đã biết, đã nghĩ tưởng. Hình ảnh một Đấng cứu thế trong tâm trí của Gioan thật khác hẳn. Theo những lời tiên tri mà Gioan căn cứ vào thì Đấng Cứu Thế sẽ chiến thắng vinh quang, sẽ trừng phạt, tiêu diệt kẻ hung ác, tiêu diệt sự bất công, mở ra một Nước Thiên Chúa, nước thái bình thịnh vượng và công bằng trên quả đất này.
Chính Gioan đã mạnh mẽ rao giảng rằng Nước Thiên Chúa đã gần bên, phải ăn năn sám hối ngay tức khắc mới được ở trong Nước Chúa, còn nếu không sẽ bị tiêu diệt. “Cái rìu đã đặt sát gốc cây; thóc tốt sẽ thu vào lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lữa không hề tắt” (x. Mt3,10-12). Lời cảnh báo của Gioan rất mạnh mẽ và dân đã tin vào Gioan. Dân Do Thái tuôn đến nghe Gioan rao giảng và xin chịu phép rửa ở sông Gio-đan, kể cả các quân lính và các luật sĩ, biệt phái.
Hình ảnh Đấng Cứu Thế nơi Gioan cũng giống như ở những người Do Thái khác. Đó là một Đấng đến trong mạnh mẽ oai hùng đầy quyền lực. Vì thế Gioan đâm ra nghi ngờ thắc mắc khi nghe biết về những việc Chúa Giêsu đang làm. Ngài đã không làm những điều mà Gioan nghĩ đến và mong đợi. Cụ thể như Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế thì hẳn Ngài đã giải thoát Gioan ra khỏi ngục tù và giết vua Hêrôđê, đầy tội ác kia đi chứ. Cái rìu đã đặt sát gốc cây, sao Đấng cứu thế không chặt, nếu Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Sao Đấng Cứu thế không trừ gian diệt bạo, không trừng phạt ai. Ngược lại, Ngài còn ngồi cùng bàn ăn uống với kẻ tội lỗi. Gioan rất băn khoăn thắc mắc, và tự hỏi: Phải chăng mình đã sai lầm lớn, và đã gây một sai lầm lớn cho dân. Gioan không chịu đựng được sự dày vò trong tâm trí mình nữa nên sai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu “Ngài có phải là Đấng phải đến không, hay còn chờ một Đấng nào khác”.
Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp câu hỏi của Gioan là “phải”hay là “không phải”. Ngài nói: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe” Câu trả lời của Chúa Giêsu gợi ý cho Gioan thấy Ngài chính là Đấng dân Do Thái mong đợi nhưng đồng thời cũng cho thấy Ngài là “một Đấng khác”, rất khác với hình ảnh Đấng Cứu Thế mà họ mong chờ.
Câu trả lời của Chúa Giêsu mời gọi Gioan suy nghĩ đến lời ngôn sứ Isaia tiên báo về Đấng Cứu Thế: “Kẻ mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”. Nếu như Gioan đã căn cứ vào một số lời tiên tri mong đợi một Đấng Cứu Thế trừng phạt, quyền năng vinh quang, thì Chúa Giêsu cũng chỉ cho Gioan thấy, căn cứ trên những lời tiên tri Isaia, thì Đấng Cứu Thế cũng là Đấng Đầy tình thương và tha thứ. Cuối cùng Chúa Giêsu cũng gợi ý cho Gioan thấy rằng một Đấng Cứu Thế khiêm tốn như thế có thể gây vấp phạm: “Phúc cho ai không vấp ngã vì Ta”.
Chúa Giêsu quả là một Đấng Cứu Thế kỳ lạ. Ngài không giống như là một Đấng Cứu Thế mà người ta mong đợi: Đấng Cứu Thế trừng phạt kẻ gian ác, lật đổ áp bức bất công, đem lại những giải pháp kinh tế tuyệt hảo để mau giàu có; Đấng Cứu Thế có chiến lược an ninh tốt nhất để bảo đảm hòa bình hạnh phúc... Câu hỏi của Gioan và các môn đệ cũng là câu hỏi của nhiều thế hệ trong lịch sử nhân loại mong đợi Đấng Cứu Thế, dù đó có thể là Đấng Cứu thế của triết học, của chính trị hay xã hội. Câu hỏi của Gioan cũng là câu hỏi của những người đang yếu đức tin, hay của những người mong đợi một câu trả lời cho những băn khoăn thắc mắc của mình về sự cứu độ trong những tôn giáo khác. Câu trả lời duy nhất về Đấng Cứu Thế chỉ có thể có trong chương trình tình thương của Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Đấng đã đến gặp gỡ tiếp xúc và liên đới với những người nghèo đói, người đau khổ, kẻ tội lỗi... để mang lại cho họ niềm vui của Tin Mừng Cứu Độ.
----------------------------
MV 3-A154: Để có một "Chúa Nhật hồng" trong cuộc sống
(Suy niệm của Trương Đình Hiền)
Kính thưa Cộng đoàn,
Chúng ta đang họp nhau cử hành phụng vụ Chúa Nhật thứ III Mùa Vọng (chu kỳ năm A), cũng MV 3-A154
Chúng ta đang họp nhau cử hành phụng vụ Chúa Nhật thứ III Mùa Vọng (chu kỳ năm A), cũng thường được gọi là “Chúa Nhật màu hồng” hay “Chúa Nhật của niềm vui”. Sở dĩ được gọi bằng danh xưng đặc biệt nầy, vì thay vì lễ phục tím, Chúa Nhật hôm nay chủ tế mặc áo hồng, và ca nhập lễ chính là lời hiệu triệu của Thánh Phaolô dành cho giáo đoàn Philipphê: “Anh em hãy vui luôn trong Chúa”.
Nhưng “lễ phục hồng” hay “lời hiệu triệu hãy vui lên của Thánh Phaolô” cũng chỉ là những “dấu chỉ”, những “gợi ý bên ngoài” để chuyển tải một sứ điệp quan trọng của mùa Vọng cũng là của chính đời sống đức tin Kitô giáo, mà nếu có thể được tóm gọn bằng một từ thôi, thì đó chính là: VUI.
Thật vậy, Phụng vụ tuần 3 Mùa Vọng muốn khơi lên trong lòng mọi tín hữu, và qua tín hữu, trong tâm hồn mọi người, niềm vui ơn cứu độ của Đức Kitô và trong Đức Ki-Tô; đó là niềm vui khi nhận ra “sự hạ cố viếng thăm của Thiên Chúa qua chính Con Một, với một tình thương có sức mạnh tái tạo mọi sự trong một trật tự hoàn hảo, tốt lành và tràn đầy hy vọng.
Phải chăng, đây cũng chính là điều mà ngôn sứ Isaia, qua ơn linh hứng của Thánh Linh, đã dự cảm hơn sáu thế kỷ trước Chúa Kitô, ngay trong bối cảnh một đất nước Ít-ra-en hoang tàn của kiếp đời nô lệ lưu đầy:
“Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông, hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ, và hân hoan múa nhảy reo hò…”.
Trong cái viễn tượng huy hoàng của “Ngày Thiên Chúa viếng thăm và cứu độ”, vị sứ ngôn thi sĩ nầy đã đưa dân Ít-ra-en đi xa hơn nữa, tới một chân trời lý tưởng, bao la tuyệt vời:
“…Chính Người sẽ đến cứu anh em. Bấy giờ mắt người mù sẽ mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng người câm sẽ reo hò…”
Và viễn cảnh đó đã hiện thực, đã được minh chứng cụ thể như lời của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ của Thánh Gioan Tiền Hô khi ông sai họ đến chất vấn: “Thầy có thật là Đấng phải đến hay không..”. Chúa Giêsu đã nói cùng họ: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những gì mắt thấy tai nghe: người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch…”
Và quả thật, tất cả những gì “mắt thấy tai nghe” trong những tháng ngày đó đều vang rộn tin vui, tin mừng.
Thật vậy,
- Làm sao không vui mừng nhảy cững lên được, khi những con người mang thương tật điếc, câm, què, mù...chỉ một cái nhìn trìu mến, một cử chỉ quyền năng đã phục hồi nguyên vẹn không chỉ thể lý mà là toàn vẹn nhân cách con người.
- Làm sao không vui mừng lên được, khi cuộc đời mang thấn phận cùi hủi vốn đã thân tàn ma dại bị ném vào hoang mạc để chết dần chết mòn theo năm tháng trong nỗi tuyệt vọng thảm thương, lại đột nhiên được chữa lành để ngẩng cao đầu mà hội nhập vào cuộc sống bình thường!
- Làm sao không vui mừng được khi những “sa mạc cuộc đời” hoang vu, rỗng tuếch vì vật chất bon chen, vì rẻ khinh loại trừ của những kẻ như Lêvi, Giakêu thu thuế lại được Thầy Giêsu ghé mắt viếng thăm và quyết chọn làm môn đệ.
- Làm sao không vui đến độ tràn trào nước mắt khi tấm thân nhơ nhớp của kiếp phận “gái làng chơi, bán trôn nuôi miệng” của cô Maria lại có ngày được chạm đến bàn chân của chính Vị Tôn Sư thánh thiện để vững tâm làm lại cuộc đời; hay trái tim tan nát, thất vọng của người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đang bị bao vây bởi những con mắt rẽ khinh và những lời kết án cay nghiệt, lại được chính Thầy Giêsu phán những lời đầy khoan dung nhân ái: “Phần ta, ta không kết án chị đâu”.
- Làm sao người mẹ già thành Na-im không vui được khi đi bên quan tài đưa xác con lain gặp được một Đấng quyền uy phục sinh con mình từ trong cõi chết.
- Làm sao không vui được như tên trộm kia khi trước ngưỡng cửa của cái chết được nghe vang lên lời hy vọng ngút ngàn: “hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên dàng với ta”….
Còn nhiều lắm những niềm vui như thế, đến độ, những gì 4 vị thánh sử Matthêô, Mát-cô, Luca và Gioan thuật lại đều mang chung một “câu chuyện của niềm vui” mà thế giới hôm nay gọi là “TIN MƯNG”. Và rồi, từ “xuất phát điểm” của Tin Mừng, hay đúng hơn, từ Đấng là chính Tin Mừng đích thực và mang đến tin vui cho nhân loại, đã có một đoàn dân vĩ đại, “lữ hành” qua dọc dài năm tháng và xuyên qua muôn vạn nẻo đường của thế giới, vượt qua bao khổ ải đau thương, loại trừ, bách hại…sống và làm chứng cho một niềm vui trọn hảo, niềm vui ơn cứu độ, niềm vui được thuộc về Thiên Chúa và trở thành huynh đệ trong Đức Kitô. Vâng, một đoàn dân lạ lùng đến độ, Đức cố Hồng y F.X. Nguyễn Văn Thuận đã để lại một nhận xét tuyệt vời: “Trong tự điển của người Kitô hữu không có từ “buồn”.
Vâng, với những ai đã một lần gặp được Đức Kitô đều có thể sở hữu được một niềm vui ngút ngàn hay sâu lắng, niềm vui không phải hời hợt, chóng qua như kết quả vô địch của một trận bóng đá, của một vài tờ vé số độc đắc hay của một thành công trên thương trường hoặc chính trường. Đó là niềm vui cao khiết, thánh thiêng mà rất nhiều khi lại phải trả bằng máu và nước mắt, như niềm vui của Á Thánh Anrê Phú Yên khi hiên ngang ra pháp trường Thành Chiêm để chịu chết, hoặc như bao vị anh hùng tử đạo trên hý trường Coloseum, cho dù đang đối diện với mãnh thú chực chờ xé xác vẫn mĩm cười trong phó thác tin yêu, đến độ làm sững sờ con tim và trí óc của bạo chúa Nêrô và cư dân La Mã: “Tại sao họ lại hát?”…
Mà đâu chỉ các thánh nhân mới có được niềm vui thánh thiện. Thật ra, ở giữa đời thường cuộc sống, cũng đang có bao nhiêu “chứng nhân của niềm vui” mà đôi khi chúng ta chưa kịp tỉnh táo để nhận ra hay chưa đủ khiêm nhường để học hỏi. Vâng đó là niềm vui của những người mà ai đó đã từng thấy và đã chỉ cho chúng ta qua những vần thơ:
Thấy chiếc áo vàng ai vừa qua phố nhỏ, Chiếc bát trên tay và nụ cười trên môi. Người ni cô thấy hạnh phúc tràn trào, Khi mỗi bước chân là xa vòng sinh diệt. Thấy ông thầy già cười thao thao bất tuyệt, Giảng truyện Kiều mà hồn để nơi nao! Một chút thanh liêm, một chút tự hào, Nghèo danh vọng nhưng luôn giàu nhân cách…! Tu viện âm vang khúc thánh ca trong vắt, Người nữ tu về với Chúa chiều nay. Cả một đời quên mình phục vụ hăng say, Ra đi mà sao nhẹ như mây trời xanh ngát! Vâng, ta đã thấy nụ cười trong nước mắt, Thấy niềm vui giữa muôn vạn đắng cay. Thấy bao mảnh đời vạ gió tai bay, Nhưng thập giá đã phục sinh niềm hy vọng!
Như vậy, để có được một “Chúa Nhật hồng” trong cuộc đời hiện tại hôm nay với niềm vui thanh khiết, và nhất là, để có được một “Giáng Sinh vui vẻ (Merry Christmas) và an bình” trong những ngày sắp tới, hay xa hơn chút nữa, để có được một cuộc đời luôn tràn ngập tiếng cười của yên vui và hạnh phúc, thiết tưởng ngay từ hôm nay, nơi Bàn Tiệc Thánh Thể nầy, chúng ta phải cùng nhau gặp gỡ Đức Kitô và hãy để cho Tin Mừng của Ngài đi vào mọi ngỏ ngách của cuộc sống, để cho sự hiện diện của Ngài phảng phất thường xuyên trong mối quan hệ ứng xử và hành động của chúng ta.
Thật vậy, một chút sẻ chia cho người đang đói, một bờ vai sát cánh để gánh bớt nỗi nhọc nhằn, một bàn tay nắm chặt để dìu ai đang kiệt sức, một ánh mắt thứ tha, một nụ cười thông cảm, một lời động viên chân tình...tất cả đều có thể mang lại những niềm vui sâu lắng và đầy ý nghĩa cho nhiều thân phận con người và cho chính chúng ta trong những ngày Mùa Vọng còn lại trên tuyến đường hướng về máng cỏ Bê Lem trong Đêm Thánh.
Và phải chăng, đó chính là cách cụ thể nhất biến những lời hiệu triệu của Thánh Phaolô dành cho giáo đoàn Philipphê, mà Phụng vụ hôm nay một lần nữa nhắc lại, trở thành hiện thực giữa đời thường: “Anh em hãy vui luôn trong Chúa. Tôi nhắc lại lần nữa, anh em hãy vui luôn trong Chúa”. Amen.
Tin mừng Mt 11:2-11 “Anh em hãy vui lên trong Chúa! tôi nhắc lại: anh em hãy vui lên! vì Chúa đã gần kề”, đó là bài ca nhập lễ mở đầu cho Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Vọng hôm nay.
Anh em hãy vui lên trong Chúa! tôi nhắc lại: anh em hãy vui lên! vì Chúa đã gần kề”, đó là bài MV 3-A155
“Anh em hãy vui lên trong Chúa! tôi nhắc lại: anh em hãy vui lên! vì Chúa đã gần kề”, đó là bài ca nhập lễ mở đầu cho Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Vọng hôm nay.
“Vui” là một trạng thái tình cảm mà trong đó con người đạt được sự hài lòng, mãn nguyện. Niềm vui làm cho cuộc sống ta phấn khởi, gia tăng nghị lực và thêm sức sáng tạo, khiến ta mở rộng trái tim để yêu thương, đón nhận và chia sẻ. Ngày nay có ít niềm vui là vì những tâm hồn nhút nhát không dám can đảm quên mình để hy sinh vì người khác. Chính vì niềm tin vào Thiên Chúa và ơn cứu độ đã bị xóa nhòa khỏi cuộc sống, cho nên niềm vui bị tan biến và người ta trở lại nỗi tuyệt vọng của dân ngoại. Chính vì vậy, thánh Phaolô nhắn nhủ: “hãy vui luôn trong Chúa, tôi nhắc lại: hãy vui luôn.” Đây chính là niềm vui đích thực của một Kitô hữu.
Trong tiếng Việt, chữ “niềm” trong cụm từ “niềm vui” được dùng để nhấn mạnh trạng thái tình cảm này là một trạng thái của nội tâm hơn là trạng thái của ngoại cảnh. Trên thực tế, không bao giờ tồn tại những cảnh vật vui tươi đối với một người đang buồn, mà cũng không có chuyện gì thật sự đáng buồn đối với một người đang vui: “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Quả thật, niềm vui đến từ bên trong. Niềm vui là trạng thái tinh thần của hạnh phúc, trong niềm vui con người bắt đầu hiểu được giá trị bên trong của mình và đặt mình vào trong vạn vật, trong mọi tương quan và liên đới với mọi người. Nhìn vào thực tế cuộc sống, ta có thể phân biệt: niềm vui nhất thời, niềm vui bền vững và niềm vui siêu việt, đó là niềm vui đời Kitô hữu.
Con người khác với thú vật đó là tri thức (khả năng tìm kiếm chân lý) và ý chí (khát khao sự thiện hảo). Nhưng chúng ta biết rằng chân lý hoàn hảo và sự thiện tối cao chỉ có nơi Thiên Chúa và chúng ta chỉ đạt được sự viên mãn trong Ngài mà thôi. Một khi coi Thiên Chúa là mục đích thì hạnh phúc đạt được không chỉ giới hạn trong cõi đời chóng qua này, mà còn cho linh hồn của chúng ta nữa. Người nhận Thiên Chúa làm mục đích cuộc đời sẽ có được bình an mà thế gian này không thể ban cho, cũng như không thể hủy diệt được.
Một khi đã chọn Thiên Chúa làm giá trị chủ đạo, chúng ta cần có một khuôn mẫu để đo lường các hành động, để đánh giá tốt xấu. Người làm lành là người hướng về Thiên Chúa, còn làm dữ khi quay lưng lại với Thiên Chúa. Cuộc sống hiện tại là sự chuẩn bị để được sống hạnh phúc với Thiên Chúa trong vĩnh cửu. Đó là mục đích thực sự cho con người. Khi nào chúng ta dấn bước về phía Thiên Chúa, bấy giờ chúng ta tốt lành, nghĩa là chúng ta đang thực thi mục đích của mình. Con người thiện hảo khi chu toàn tốt đẹp mục đích này: hiểu biết, yêu mến và phụng sự Thiên Chúa. Chỉ khi nào cuộc sống của chúng ta qui chiếu về Thiên Chúa, chúng ta mới đánh giá đúng mức được giá trị của hành động của mình. Điều quan trọng là duy trì và phát triến mối liên hệ yêu thương với Thiên Chúa và gia đình, bạn bè, và mọi người. Khi chúng ta loại bỏ tính ích kỷ thì mỗi người, mỗi sự việc và mỗi thụ tạo đều giúp chúng ta tiến về với Thiên Chúa là cùng đích của cuộc đời chúng ta.
Niềm vui Kitô hữu
Niềm vui Kitô hữu trước tiên là một ân ban được làm con cái Thiên Chúa. Đó là niềm vui khai mở mọi niềm vui. Biết rằng, bước theo Chúa là từ bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà đi theo, nhưng đó lại là sự “hãnh diện” của đời Kitô hữu (x. Gl 6, 14), và là con đường đi lên làm triển nở nhân cách vẹn toàn.
Niềm vui được làm con Thiên Chúa. Niềm vui đời Kitô hữu trước tiên là hoa trái của Chúa Thánh Thần, Đấng làm cho chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa, cảm nghiệm và hưởng nếm được sự tốt lành của Người, và gọi Người là “Abba”, Cha ơi (x. Rm 8,15).
Niềm vui được cứu độ
Niềm vui đời Kitô hữu cũng là niềm vui của con cái Thiên Chúa, được xác lập bởi mối liên hệ sung mãn với Đức Kitô, là đời sống trong Đức Kitô. Niềm vui lớn nhất vượt trên mọi niềm vui, chính là niềm vui ơn cứu độ mà Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta, qua cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Lạc quan, tin tưởng gắn liền với tinh thần phó thác. Đó là đỉnh cao của niềm vui. Phó thác theo ý Chúa muốn chứ không theo ý mình muốn. Vì chỉ có Chúa mới thấy những gì tốt đẹp nhất cho cuộc đời mình. Luôn nhớ rằng, mọi công việc ta làm là của Chúa, thành công hay thất bại của ta cũng chính là thành công hay thất bại của Chúa. Chúa chỉ cần ta cố gắng hết mình. Phần còn lại, chính Chúa sẽ hành động, cứ phó thác hết cho Ngài.
Ngày kia, hai người bạn nói với nhau:
- Làm sao bạn có thể luôn luồn vui vẻ, hình như bạn không bao giờ buồn chán phải không?
Người bạn kia với đôi mắt long lanh cười mỉm trả lời:
- Mình có một bí mật!
- Bí mật nào?
- Mình sẽ nói cho bạn biết, nhưng bạn phải hứa là phải chia sẻ bí mật đó cho những người chunh quanh. Bí mật của mình như thế này: mình đã học được bài học là không thể làm cho mình thật sự được hạnh phúc. Mình phải hoàn toàn tùy thuộc vào Chúa để Ngài có thể làm thỏa mãn nhu cầu của mình. Trong cuộc sống, khi mình có nhu cầu nào đó, mình tin rằng Thiên Chúa trong sự giàu có của Ngài, sẽ thỏa mãn nhu cầu đó. Mình cũng học được bài học thứ hai là nhiều lúc mình không cần những gì mà mình nghĩ mình cần. Chúa không bao giờ làm mình thất vọng cả, vì thế khi mình khám phá bí mật đó, mình rất hạnh phúc.
Cô bạn lắng nghe xong cảm thấy thắc mắc và tư tưởng chợt đến với cô: “không đơn giản như vậy đâu!” Nhưng rồi cô lại suy nghĩ, và nhớ về thời xa xưa cô tưởng rằng có nhà cao cửa rộng là hạnh phúc, có tiền bạc dư giả là hạnh phúc nhưng có bao giờ cô cảm thấy mình thực sự được hạnh phúc đâu?
Những lúc cô thật sự hạnh phúc và niềm vui dâng trào đó là lúc cô ngồi trên sàn nhà chơi với mấy đứa nhỏ, chơi trò chơi của chúng và cùng cười, cùng vui với chúng. Có lúc đọc truyện vui, bâng khuâng cảm hứng trong chiều êm dịu. Đó là những món quà đơn sơ, giản dị mà Thiên Chúa trao ban từng ngày. Bây giờ mình cũng nhận ra điều đó. Thật ra mình không thể nào tùy thuộc vào bất cứ ai làm cho mình được hạnh phúc. Chỉ trông cậy vào Tình Yêu và Sức Mạnh của Chúa cho mình thôi. Bây giờ mình sẽ phải học bài ca tin tưởng và rồi nói cho mọi người biết bí mật đó. Chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới tìm ra hạnh phúc, trọn hưởng niềm vui. Amen.
Tin Mừng hôm nay kể thánh Gioan tẩy giả bị ngồi tù bởi vì ông đã thẳng thắng can thiệp với vua MV 3-A156
Tin Mừng hôm nay kể thánh Gioan tẩy giả bị ngồi tù bởi vì ông đã thẳng thắng can thiệp với vua Hêrôdê về việc nhà vua lấy vợ của anh mình. Ngồi trong tù, thánh Gioan Tẩy giả sai môn đệ của Ngài đến để hỏi Chúa Giêsu: “Thầy có phải là Đấng phải đến không hay chúng tôi phải chờ một Đấng khác?” Câu hỏi này vừa hàm ý cay đắng vừa nghi ngờ. Cay đắng ở chỗ là Thánh nhân đã biết Chúa Giêsu khi còn trong bụng, nhảy mừng trong bụng khi Đức Mẹ đến viếng thăm mẹ của ông, một người làm phép rửa cho Chúa Giêsu, còn nói không không đáng cởi giây giày cho Người, rồi hô hãy dọn đường cho Chúa đến, thánh Gio-an đã đem cả cuộc đời mình vì Chúa Giêsu, ấy thế hôm nay trong ngục tù đau khổ, ông đã nghi ngờ Thầy Giêsu. Hóa ra từ nào tới giờ Ông loan báo những điều ông nghi ngờ sao, ông rao giảng hãy dọn đường cho Chúa đến, vậy Chúa của ông nói có phải Chúa hay không? Nhưng từ chỗ nghi ngờ đã toát lên một hy vọng và tin tưởng vào Chúa, tin tưởng ở chỗ Thánh Gioan nhớ đến Chúa cần đến Chúa trong lúc nguy hiểm về tính mạng cũng như đức tin của mình.
Đức Giêsu không trả lời trực tiếp cho vấn nạn của thánh Gioan tẩy giả. Ngài bảo các môn đệ của Gioan về thuật lại cho Thầy của họ tất cả những điều họ thấy Chúa đã làm. Chúa đã làm gì? Lời Chúa trong Bài đọc 1 nói: “Thiên Chúa của anh em đây rồi, chính Người sẽ đến cứu anh em. Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò. Những người được ĐỨC CHÚA giải thoát sẽ trở về tiến đến Xi-on giữa tiếng hò reo, mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu. Họ sẽ được hớn hở tươi cười, đau khổ và khóc than sẽ biến mất”. Qủa thế, ngôn sứ Isaia mô tả Đấng Messia, Ngài không phải là một Đấng Messia thẩm phán, mà là một Đấng Messia Tôi Tớ đến để cứu và giải thoát. Như thế, một cách gián tiếp, Đức Giêsu đã trả lời cho ông Gioan biết rằng Ngài chính là Đấng Messia đồng thời Ngài đến không phải để trừng trị mà để cứu và giải thoát.
Nhưng thử hỏi Chúa Giêsu cứu và giải thoát cái gì, đang khi đó, Chúa Giêsu không giải thoát được ông Gioan ra khỏi tù? Rồi vào thời Chúa Giêsu, bao nhiêu bệnh nhân mắc đủ thứ mọi bệnh hoạn tật nguyền, được Chúa Giêsu chữa lành? Tin Mừng kể chỉ một vài người thôi. Điều đáng nói ở đây là những việc Ngài làm là dấu chỉ, qua đó con người nhìn nhận Chúa Giêsu là ánh sáng, bình an và sự sống. Ngài cứu là cứu lấy sự sống chúng ta, còn giải thoát là giải thóat từ chỗ tối tăm đến nơi ánh sáng, nghĩa là từ chỗ tội lỗi đến chỗ trong sạch, thánh thiện, từ chổ đau khổ tột cùng nhưng vẫn có bình an của Chúa làm chúng ta không bao giờ tuyệt vọng.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại mình và cuộc đời của mình. Chúng ta cũng giống như thánh Gioan tẩy giả. Bao nhiêu năm theo Chúa, tin Chúa, thờ Chúa và nhất là thông truyền Đức Tin Chúa qua việc chúng ta dạy con dạy cháu, dạy cho nhiều người khác về Chúa, giáo lý và Đạo Chúa... nhưng cũng có những lúc chúng ta cũng nghi ngờ Chúa có thật không? Chúa có linh không? Cho nên bao nhiêu lần lãnh nhận Bí tích hòa giải rồi mà tội nào vẫn phạn tội nấy? Rồi khi gặp khó khăn, gian nan đau khổ, chúng ta nghi ngờ Lời Chúa của Chúa Giêsu có thật sự mang lại hiệu quả và bình an cho chúng ta không? Nếu có sao khi gặp khó khăn, mình xin hoài không được trong khi Chúa nói: "Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho” (Mt 7,7-8). Chính vì những mối nghi ngờ này nên chúng ta dễ thờ ơ, lãnh đạm với Chúa, không muốn sống Lời Chúa, thi hành Lời Chúa và vì thế chúng ta dễ phạm tội và tuyệt vọng, đánh mất chính mình.
Qủa thế, tội lỗi làm cho con người hôm nay coi nhau như con vật, nhiều khi kém hơn con vật. Cụ thể, trên mạng Internet mới đây đưa tin chị Hoài Nam (32 tuổi) đang ở trong nhà tắm tại căn hộ thì bất ngờ bị người chồng cầm dao chém tới tấp vào người. Một nhát dao đã cứa rách bụng chị Nam, làm đứa con trai hơn 37 tuần tuổi lọt ra ngoài. Quá hoảng loạn, chị Nam ôm đứa con rồi chốt cửa nhà tắm, hét lên kêu cứu. Còn người chồng cầm dao tự đâm lên người để tự sát ngay sau đó. Rồi cũng mới đây một vụ án xảy ra ở Đà Nẵng: một kẻ trộm lấy dao cắt cổ người em của cô chủ nhà, rồi hiếp dâm cô và sau đó hắn cướp tài sản bỏ đi. Chưa hết, cũng mới đây, một anh thanh niên khoảng 30 tuổi leo lên sân thượng của dãy nhà 3 tầng nằm trong khuôn viên nhà thờ Chánh Toà Phú Cường - Thủ Dầu Một, Bình Dương rung chuông rồi nhảy xuống đất tự tử và anh đã tử vong sau đó.
Rõ ràng Chúa thấy tội lỗi làm cho con người và nó khiến con người ra như thế. Cho nên, Chúa đến cứu và giải thóat chúng ta khỏi ách nô lệ cho tội lỗi đồng thời làm cho chúng ta được giao hòa với Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót và giao hòa với tha nhân với nhau, yêu thương nhau như anh chị em nhờ đó cuộc sống chúng ta đầy tràn tình thương, bình an và hạnh phúc nhờ cái chết của Chúa Giêsu, vì chưng Thánh Phaolô nói: “Nếu tội lỗi đã thống trị bằng cách làm cho người ta phải chết, thì ân sủng cũng thống trị bằng cách làm cho người ta nên công chính để được sống đời đời, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta” (Rm 5,21). Cho nên, trong Tông thư hậu năm Thánh lòng Thương xót, Đức thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Ước muốn gần gũi Chúa Kitô đòi chúng ta phải trở nên gần gũi với các anh chị em, vì không có gì làm đẹp lòng Chúa Cha cho bằng một cử chỉ cụ thể từ bi thương xót. Tự bản chất, lòng thương xót được biểu lộ hữu hình qua một hành động cụ thể và năng động. Một khi ta đã cảm nghiệm lòng thương xót trong sự thật, thì không thể thối lui: nó liên tục gia tăng và biến đổi cuộc sống” (số 16).
Nếu chúng ta có được ý hướng đó thì có thể thay đổi toàn bộ trong cuộc sống. Chúng ta hãy quyết tâm, cố gắng và hoàn toàn tin vào Chúa, tín thác vào Chúa thì Chúa sẽ biến đổi đời ta vì ơn Chúa luôn đủ cho chúng ta và hãy can đảm lên! Đừng sợ. Nick Vujicic – người đàn ông không chân không tay nhưng có một nghị lực sống phi thường, người đàn ông được cả thế giới biết đến với cụm từ “không bao giờ bỏ cuộc”. Cho nên anh nói rằng Chúa có thể sử dụng bất kì tấm lòng nào sẵn sàng làm công việc của Ngài và rằng Chúa là Đấng đắc thắng mọi sự khuyết tật.
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin Chúa cứu giúp và giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi để tiếp tục đi trên hành trình sống niềm vui Phúc Âm ngõ hầu chúng ta thật sống lành thánh và hết lòng thương xót nhau giữa đời hôm nay để Thiên Chúa luôn ở giữa chúng ta. Amen.
Tin mừng Mt 11: 2-11 Với trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với dân chúng: “Gioan là kẻ mà Thánh Kinh đã nói: “Ta sẽ sai sứ giả Ta đi trước con để mở đường cho con”.
Chúa Nhật thứ III Mùa Vọng, thường được gọi là Chúa Nhật Vui Mừng. Dù Lời Tin Mừng (Mt 11 MV 3-A157
Chúa Nhật thứ III Mùa Vọng, thường được gọi là Chúa Nhật Vui Mừng. Dù Lời Tin Mừng (Mt 11, 2- 11) không mang ”Lời lẽ” gì vui. Tại sao vậy, thưa quý vị? Thưa vì, căn cứ vào Bài đọc I (Is 35, 1- 10) hôm nay, Ngôn Sứ Isaia cho chúng ta một “tia” hy vọng thật “triết lý”, điều mà thế gian không thể làm được, nhưng, Thiên Chúa làm được, vì vậy, một niềm hy vọng, một tia hy vọng thật sự sẽ mở ra cho những ai đang kiếm tìm. Theo đó, Chúa Nhật thứ III Mùa Vọng dẫn đưa chúng ta đến một niềm hy vọng thật sự, niềm vui thật sự đó là: Thiên Chúa gần đến rồi, Đấng giải thoát sắp đến rồi, Alleluia!
Thánh Gioan Tiền Hô đã loan báo một Đấng Cứu Thế uy nghiêm, đến để trừng phạt nhân loại. Trang Tin Mửng tuần trước, thánh nhân đã răn đe người Do Thái: Búa rìu đã để sẵn ở gốc cây, cây nào không sinh trái sẽ bị đốn cho vào lò lửa. Thiên Chúa đến cầm sàng mà rê thóc. Thóc sẽ được cho vào kho, còn rơm, trấu sẽ bị cho vào lò lửa đốt đi. Sứ điệp quả thật là dữ dội, bởi loan báo ấy đã gây xôn xao sợ hãi.
Thế mà khi Chúa Giêsu đến, Người đã hành động khác hẳn. Không oai phong, quyền lực, Chúa Giêsu tỏ ra là Đấng Cứu Thế tràn đầy lòng nhân từ: “Người không bẻ gẫy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn khói”. Gioan Tiền Hô loan báo sự trừng phạt. Nhưng Chúa Giêsu lại đến để cứu chữa, tha thứ. Chúa Giêsu nói: “Con người đến không phải để lên án, nhưng để cứu chữa”. “Chỉ những người bệnh mới cần đến thầy thuốc”. Thật là trái ngược. Trách nào Gioan chẳng hoang mang.
Với trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với dân chúng: “Gioan là kẻ mà Thánh Kinh đã nói: “Ta sẽ sai sứ giả Ta đi trước con để mở đường cho con”. Chúa Giêsu cũng trả lời câu hỏi khác mà đám môn đệ của Gioan Tẩy Giả đặt ra cho Ngài: “Có phải Ngài là Ðấng mà Gioan bảo sẽ phải đến, hay chúng tôi còn phải mong chờ Ðấng khác?” Ðể trả lời câu hỏi này, Chúa Giêsu liền trưng ra những lời của tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất hôm nay. Khi nói về Ðấng Mesia, Isaia bảo rằng những dấu hiệu sau đây sẽ là bằng cứ xác nhận lai lịch vị ấy: “Người mù sẽ thấy được và người điếc sẽ nghe được. Kẻ què sẽ nhảy múa và người câm sẽ reo vui”.
Chủ ý của Giêsu thực là rõ ràng. Ngài trình bày ra những phép lạ Ngài đã làm – cho người mù thấy, kẻ điếc nghe, người què bước, kẻ câm nói được. Ðây là những dấu hịêu mà các lời tiên tri báo trước rằng sẽ phải ứng nghiệm khi Ðấng Mesia đến.
Thiên Chúa vô hình hiện diện mọi nơi và trong mọi lúc. Thiên Chúa luôn đồng hành với dân Ngài đã chọn để chuẩn bị đón nhận ơn cứu độ. Mầu nhiệm về Thiên Chúa Ngôi Hai được hé mở từng bước. Trải qua lịch sử cứu độ, dân chúng luôn khao khát mong chờ một chung cục được tự do giải thoát. Qua từng giai đọan, Thiên Chúa đã sai các tiên tri đến kêu gọi lòng trung tín, sự phấn chấn và khuyến khích hướng dẫn dân chúng. Ngôn sứ Isaia đã khơi dậy niềm hy vọng: "Nơi hoang địa cằn cỗi sẽ vui mừng, cõi tịch liêu sẽ hân hoan." (Is 35,1).
Hình ảnh cảnh hoang địa trơ trọi, khô cằn và cạn nguồn mong đợi suối nguồn sự sống. Isaia khơi lên tia hy vọng của sự vui mừng và hân hoan. Dân Chúa phải trải nghiệm nhiều thăng trầm khổ ải qua các thế hệ để mong chờ Đấng Cứu Thế đến. Isaia loan báo: "Hãy can đảm lên, đừng sợ hãi! Kìa Thiên Chúa các ngươi sẽ đem lại điều báo ứng; chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ các ngươi." (Is 35,4).
Chúa Giêsu đã cho ta một hình ảnh trung thực về dung mạo Đấng Cứu Thế. Qua câu trả lời đó, Chúa Giêsu cũng muốn nói với tôi rằng: Nếu con muốn Giáo Hội là hình ảnh đích thực nguyên tuyền của Thày, con hãy xây dựng một Giáo Hội không quyền lực, không tiền bạc, không phô trương. Hãy làm cho Giáo Hội mang dung mạo của Thày: một dung mạo khiêm tốn, nghèo hèn, bình dị, thân ái và nhân từ. Nếu con muốn tiếp tục sứ mạng của Thày, hãy chạy trốn quyền lực, hãy sợ hãi tiền bạc, hãy tránh thói phô trương. Hãy yêu thích những việc âm thầm bé nhỏ. Trước hết hãy đến với những người nghèo hèn. Hãy bắt đầu bằng tình thương. Vì chỉ có tình thương mới cứu được thế giới.
Như vậy, trang Tin Mừng hôm nay muốn nói gì cho anh chị em cũng như cho tôi? Xin thưa đó là sứ điệp sau: Chúa Giêsu là Ðấng Mesia đã được các vị ngôn sứ tiên báo và Ngài đã thiết lập vương quốc Thiên Chúa trên trần gian đúng như các tiên tri báo trước. Tuy nhiên Chúa Giêsu uỷ thác cho chúng ta nhiệm vụ hoàn tất vương quốc ấy. Ngài giao phó cho chúng ta việc xây dựng nước Chúa trên trần gian này. Vào lúc thế mạt, Chúa Giêsu sẽ trở lại để phán xét chúng ta về công việc này.
Người Roma xưa có thời một vị thần tên là Janus. Từ đó chúng ta có danh từ January (tháng giêng). Vị thần này được các hoạ sĩ mô tả bằng hình đầu người có hai mặt: một mặt nhìn về đằng sau, mặt kia nhìn về đằng trước. Mùa vọng cũng tương tự như thế. Nó nhìn về hai phía: một đàng nhìn lại lần giáng sinh đầu tiên của Chúa Giêsu trong lịch sử, đằng khác là hướng đến cuộc tái giáng của Ngài vào cuối lịch sử.
Người Do Thái luôn trông chờ một Đấng Cứu thế. Còn chúng ta thì khác, chúng ta đã tin tưởng chắc chắn Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu thế được loan báo từ muôn ngàn thuở trước và chúng ta là những người đã Ngài được cứu chuộc. Ngài là Đấng chúng ta đặt trọn vẹn niềm cậy trông. Hãy kiên nhẫn trông đợi ngày Ngài trở lại. Không vội vàng, không hấp tấp. Hãy tin tưởng vào thời gian và sự quan phòng đầy yêu thương của Chúa trên những nẻo đường chúng ta đi.
Ta phải làm chứng về Chúa bằng lời nói và nhất là bằng đời sống đạo đức và thánh thiện, bái ái và yêu thương của chúng ta. Tất cả những người đã lãnh nhận bí tích rửa tội đều được mời gọi để chuẩn bị con đường cho chúa đến trong tâm hồn mình và trong tâm hồn người khác, tùy theo cách thức và hoàn cảnh riêng của mỗi người.
Ta đang chờ đón Chúa đến. Hãy cảnh giác. Chúa không đến trong một biến cố kinh thiên động địa. Chúa không có những pha biểu diễn ngoạn mục. Chúa không đến trong những thành công rực rỡ. Chúa không đến trong uy tín hay quyền lực. Chúa sẽ chỉ đến rất âm thầm, bé nhỏ nhưng đầm ấm tình người. Chúa sẽ đến trong một bàn tay kín đáo nâng đỡ. Chúa sẽ đến trong một nụ cười khích lệ. Chúa sẽ đến trong một cái bắt tay thân ái. Chúa đến chỉ thoáng qua. Nơi nào có dấu hiệu của tình thương, nơi đó đang vẽ nên dung mạo của Chúa.
Tất cả những ai sử dụng zalo, viber, để liên lạc, đều có khái niệm “chuông ảo” là gì; cũng không ít MV 3-A158
Tất cả những ai sử dụng zalo, viber, để liên lạc, đều có khái niệm “chuông ảo” là gì; cũng không ít người đã từng nghe câu thành ngữ: nửa ổ bánh mì, vẫn là bánh mì, nhưng nửa sự thật vẫn chỉ là nửa sự thật ! Giả như thật, thật như giả, ôi vui sao nước mắt lại trào, đối diện với những phức tạp, lại càng thấy rõ sự giới hạn của kiếp người. Dù giầu hay nghèo, bần cùng hay quý phái, ai cũng cần được tôn trọng, mà danh dự, uy tín, luôn được sánh ví như tờ giấy, khi đã nhàu nát, trong thời gian một vài phút, liệu ai đủ khả năng để vuốt cho nó thẳng lại ! Ngày hôm nay, không phải chỉ trong binh pháp mà ngay cả lãnh vực kinh tế, người ta vẫn đang áp dụng “khổ nhục kế” để đạt lấy mục đích.
Có phải cẩn thận, chắc chắn, là điều cần thiết để xa tránh sai lạc, để gặp niềm vui thật từ gia đình, xã hội hay không, mà tiền nhân ta lại nhắc nhớ con cháu: ở chọn nơi, chơi chọn bạn ? Sống thật lòng, cư xử với nhau bằng một tình yêu thật, nhất định không phải là khẩu hiệu do các đấng bậc nghĩ ra, nhưng sự thật luôn được minh chứng bằng đời sống kỷ luật, bằng hành động cụ thể, có mực thước. Niềm vui thật không hệ tại vì được tiền, được vàng, sống thật với lòng mình, cư xử có tình có nghĩa với tha nhân, không phải vì dị đoan mê tín hoặc mơ hồ từ một khái niệm: tiền là tiên là phật. Chúa nhật mầu hồng, chúa nhật mừng vui lên vì Đấng cứu độ đang tới, sẽ là chúa nhật của bình an thật, soi mở cho triều đại mới trong vương quốc của sự thật, khi mọi người có đức yêu thương nơi tâm hồn.
Các bậc tiền bối của chúng ta cho rằng: ngồi trên đống cát nhìn ai cũng đáng được gọi là quân tử ; ngồi trên đống vàng, mọi người mới rõ hơn ai thật sự là hiền nhân quân tử. Tiếng hô ở hoang địa quả đã thu hút được số đông mọi thành phần đến sông Gio-đan xin chịu phép rửa thống hối, từ nơi ngục tù, tiếng hô vẫn mãi lan truyền đi thông điệp hãy dọn đường, chuẩn bị tâm hồn đón Đấng cứu thế, cùng với một sứ mạng: để Chúa đến. Đức Giêsu tiếp tục ban phát niềm vui cho muôn thế hệ: “các ngươi cứ về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe, người mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại và người nghèo được nghe Tin-mừng”. Xưa kia và hôm nay, “Tiếng và Lời” vẫn đang hoà quyện vang lên điệp khúc yêu thương, niềm vui, và sự thật của bình an, dù tâm trí và cõi lòng mỗi người còn nhiều vướng bận khác nhau.
Tiếng hô nơi hoang địa càng lúc càng rõ ràng, thôi thúc hơn, các học trò của Gioan rất vui và hạnh phúc, vì tai được nghe, mắt họ được thấy, tâm trí được xác thực hồng ân cứu độ không còn là lời hứa. Bị giam cầm, tù tội, Gioan vẫn đủ tình yêu, sự khôn ngoan cần thiết để chỉ dẫn: Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần đã hiện diện. Đấng sẽ mở trí lòng giúp Gioan và các thế hệ hiểu: khổ đau, ngục tù, sự chết, đã thực sự gia tăng tình yêu và lòng mến, mang lại niềm vui thật cho người tông đồ. Quan niệm về hạnh phúc và niềm vui thật của mỗi chúng ta hôm nay là gì ? Chắc chắn sẽ có sự khác nhau về chiều dài của tuổi tác, hoặc tính sâu rộng của tri thức và kinh nghiệm, tuy nhiên, niềm vui thật phải là niềm vui có Chúa, vì thế mà lời kêu gọi tỉnh thức, dọn đường, dọn lòng, đón Chúa không bao giờ thừa dư.
Tại cuộc sống trần thế này, ai cũng có hy vọng và không thiếu những nguy cơ khiến mình có thể vấp ngã, hoặc có thể tìm thấy niềm vui, khi ta giúp đỡ anh chị em mình bằng cả tấm lòng. Lúc Gioan ở ngục tù, ông vẫn cảm thấy vui vì ông đã sống tin yêu, đã có dịp hướng dẫn các học trò hãy đi hỏi: “ông có phải là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải chờ …?” Gioan đã thật vui khi nghe Đấng phải đến nói qua trung gian các học trò: “các anh cứ về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe”. Chúa Giêsu hôm nay cũng sẽ còn tiếp tục nói với từng người chúng ta về niềm vui và hạnh phúc thật: không yêu mến tha nhân, việc đi lễ đi thờ, việc ăn chay hãm mình, cũng chỉ là yêu giả !
Chúa Giêsu sẽ vui biết bao khi mỗi người chúng ta có niềm vui thật trong lòng, đó là chúng ta đã hiểu, đã đủ ý thức về giá trị của bình an hạnh phúc mà mỗi người đang có cơ hội lãnh nhận: không ai thực sự vui vẻ khi chưa sống yêu thương. Gioan vui thật vui, không phải vui vì ông đã làm xong nhiệm vụ ở sa mạc cõi lòng và đang ở tù, Gioan thật là vui, vì ông tin Đấng ông loan báo đã tới, và đang thực hành công lý yêu thương. Cộng đồng xã hội và từng người chúng ta hôm nay có vui thật hay không là tuỳ thuộc vào tình Chúa chúng ta nhận và tình người chúng ta chia sẻ như thế nào ? Thông điệp Chúa Giêsu gởi đến cho Gioan, cho toàn thế giới là tình bác ái được thông chia, người người có bổn phận với sứ mạng riêng của mình: tỉnh thức, nguyện cầu, và hiệp nhất nên một trong tình yêu với Đấng đã đến, đang đến và sẽ đến. Amen.
Cuộc đời luôn có những thăng trầm thử thách. Chính những thử thách sẽ làm cho cuộc đời ta MV 3-A159
Cuộc đời luôn có những thăng trầm thử thách. Chính những thử thách sẽ làm cho cuộc đời ta thêm ý nghĩa, qua thử thách ta được trưởng thành hơn. Cũng giống như bao vị ngôn sứ khác, ông Gioan Tẩy Giả cũng gặp thử thách khi bị bách hại. Sau một thời gian miệt mài rao giảng kêu gọi người ta sám hối để đón chờ Đấng Mêsia, ông bị tống ngục vì đã dám lên tiếng phản đối trước hành động sai trái của vua Hêrôđê. Ngồi trong ngục thất, ông Gioan chờ đợi câu trả lời của Đức Kitô.
Thánh Mátthêu thuật lại: “Đang ngồi tù, ông Gioan nghe biết những việc Đức Kitô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người: “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” Cảnh tù đày đã khiến cho ông thực sự gặp thử thách, ông rơi vào hoang mang. Đức Kitô là Đấng mà ông đã từng làm chứng: “Tôi đã thấy, nên xin chứng thật rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1,34), chính ông cũng đã giới thiệu về Đức Giêsu: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian” (Ga 1, 29). Phải chăng, Đức Kitô thật sự đã quên vị Tiền hô của mình?
Khi gặp thử thách, vị ngôn sứ của Chúa vẫn luôn lắng tai nghe thánh ý Thiên Chúa dành cho mình. Ông Gioan đã dành cả cuộc đời để vâng theo thánh ý của Thiên Chúa và ông đã đón nhận cái chết trong cảnh tù đày. Sứ mạng của ông đã hoàn tất. Chúa Giêsu đã hết lời khen ngợi vị ngôn sứ của mình và làm chứng cho ông: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả” (Mt 11,11). Theo Chúa, ta cũng sẽ gặp những thử thách vì chính Chúa Giêsu đã hứa: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau” ( Mc 10,29-30).Ta có tin rằng chính Chúa sẽ lên tiếng bênh vực ta trong lúc ta bị bách hại không? Hãy cảm nếm sự hiện diện của Chúa trong từng chi tiết nhỏ của cuộc sống và để Ngài lấp đầy tâm hồn ta. Chúa vẫn lên tiếng trả lời ta, điều quan trọng là ta phải biết lắng nghe và khao khát nghe Lời Chúa.
Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã lên tiếng bênh vực con trong những lúc con gặp bước ngặt nghèo. Lời Chúa vẫn làm vang vọng lên trong tâm hồn con niềm tin và hy vọng, chiếu sáng cho con nhìn thấy con đường phải bước tới. Xin Chúa biến đổi tâm hồn con và nâng đỡ con những khi con vì Chúa và vì Tin Mừng mà gặp thử thách. Lạy Chúa Giêsu xin ngự đến! Amen.
Niềm vui và sự bình an là đặc điểm biểu lộ sự hiện diện của Thiên Chúa trong một cộng đoàn và MV 3-A160
Niềm vui và sự bình an là đặc điểm biểu lộ sự hiện diện của Thiên Chúa trong một cộng đoàn và nơi một người môn đệ của Đức Giêsu.
Sau những ngày rao giảng, kêu gọi người ta sám hối, ông Gioan Tẩy Giả đã hoàn thành sứ mạng và kết thúc cuộc đời trong nhà tù. Thân xác ông ở trong nhà tù nhưng tâm hồn ông hướng về Đấng mà ông đã rao giảng. Ông sai môn đệ của mình đến hỏi Đức Giêsu rằng: “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” Đức Giêsu trả lời: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11,2-5). Câu trả lời của Đức Giêsu đã củng cố niềm tin cho ông Gioan khi ông đang gặp thử thách và mang lại cho ông niềm vui thuở ban đầu khi ông tuyên xưng niềm tin: “Tôi đã thấy, nên xin chứng thật rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1,34).
“Thầy nói cho anh em biết: phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Con Người cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa” (Lc 12,8). Giờ đây, Đức Giêsu công nhận ông Gioan trước mặt anh em: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả” (Mt 11,11a). Là người Kitô hữu, là môn đệ Đức Giêsu, sao chúng ta không thể vui lên với những điều Chúa đã, đang và sẽ làm cho chúng ta. Nhà nhà vang lên tiếng hát mừng Chúa đến, khắp phố phường xuất hiện những hang đá nhỏ với ánh đèn nhấp nháy và người người cùng háo hức rộn ràng đón Chúa Giáng Sinh. Đó là niềm vui chung, niềm vui ở bên ngoài. Còn niềm vui bên trong tâm hồn của mỗi người thì sao? Chúng ta đã chuẩn bị tâm hồn mình thế nào? Tôi có thật vui với niềm vui của tôi không? Thánh Phaolô đã nói: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi, Chúa đã gần bên” (Pl 4,4). Niềm vui sâu xa nhất của người Kitô hữu không phải vì lợi lộc hay vì được chiếm hữu của cải vật chất mà niềm vui vì được Thiên Chúa đến hiện diện với con người. Vậy chúng ta hãy mở tâm hồn ra để Chúa ngự đến, để niềm vui và bình an chiếm trọn con người chúng ta trong từng ngày sống.
Lạy Chúa, Ngài là Đấng luôn đem lại niềm vui và bình an cho chúng con. Xin cho chúng con biết cảm nghiệm được hồng ân Chúa ban mà tiếp tục quay trở về trong tình yêu Chúa. Amen.
Chắc chúng ta còn nhớ cách đây không lâu một nhóm hướng đạo sinh bị kẹt trong một khu hầm MV 3-A161
Chắc chúng ta còn nhớ cách đây không lâu một nhóm hướng đạo sinh bị kẹt trong một khu hầm mỏ tại Thái-lan, sau nhiều ngày, các em đã được cứu thoát. Ai cũng cảm thấy vui, chuyên viên thợ lặn phải chui qua đoạn đường hầm ngoắt ngoéo bị ngập nước để đem từng em ra ngoài và gia đình các em cùng dân chúng chờ đợi bên ngoài. Mỗi lần đưa được một em ra ngoài, mọi người hoan hô biểu lộ niềm vui. Cứu thoát và niềm vui gắn liền với nhau. Cũng vậy, Thiên Chúa, Đấng phác họa kế hoạch cứu độ chúng ta, kêu gọi ta hãy vui lên vì Người sẽ cứu ta thoát khỏi tội lỗi và sự chết. Đây cũng là lý do tại sao chúng ta có một Chúa Nhật dành riêng để suy niệm về niềm vui trong mùa Vọng. Bài trích sách I-sai-a trình bày lý do tại sao ta phải vui lên; thánh Gia-cô-bê thì kêu gọi chúng ta hãy kiên nhẫn cho tới ngày Chúa đến; riêng thánh Gio-an lại muốn tìm hiểu xem có phải đích thực Chúa Giê-su là Đấng đem lại niềm vui cứu độ cho mọi người hay không.
Trước hết ta hãy nghe ngôn sứ I-sai-a loan báo những điều Thiên Chúa sẽ làm cho đất nước Ít-ra-en khi Người đến. Đất nước ngôn sứ nói đến ở đây như thế nào? Đó là sa mạc, đồng khô cỏ cháy và đất hoang. Tóm lại đất nước này không có sự sống. Vậy mà khi Thiên Chúa đến, Người sẽ biến đổi mọi sự, từ khô cằn trở thành phì nhiêu, đồng khô cỏ cháy thành vùng đất trổ bông, sa mạc cát đá được đầy tràn “ánh huy hoàng của núi Li-băng, vẻ rực rỡ của núi Các-men và đồng bằng Sa-ron”. Đấy là sự thay đổi cảnh quan. Tiếp đến là sự biến đổi thân phận con người. Khi Chúa đến, Người làm cho “những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ, những đầu gối bủn rủn được vững vàng” và “những kẻ nhát gan” được can đảm. Tuy nhiên những hình ảnh này vẫn chưa nói hết được niềm vui khi Thiên Chúa đến cứu độ. Ngôn sứ I-sai-a còn cho thấy những hình ảnh sống động hơn thế nữa để diễn tả niềm vui cứu độ, như “mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được, kẻ què nhảy nhót như nai, lưỡi người câm sẽ reo hò”. Chúng ta thử tưởng tượng quang cảnh vừa kể mà xem: những kẻ khuyết tật này sẽ vui sướng biết chừng nào khi họ được chữa lành! Tất cả những điều ngôn sứ kể trên chỉ là để so sánh với niềm vui tột đỉnh của dân Chúa được cứu thoát khỏi cuộc lưu đày. Ngôn sứ muốn ám chỉ niềm vui của dân Ít-ra-en là niềm vui của những người bị lưu đày làm nô lệ cho tội lỗi đã được Đấng Cứu Độ đến giải phóng cho họ. Quả thực ngôn sứ I-sai-a tiên báo Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa, sắp giáng trần để chuộc tội nhân loại, đem niềm vui đến và đưa họ về với Thiên Chúa.
Tuy nhiên khi Chúa Giê-su đến để đem niềm vui cứu độ cho trần gian thì chẳng mấy ai quan tâm, mặc dù Người đã bắt đầu thi hành sứ mệnh và thực hiện những điều ngôn sứ I-sai-a báo trước. Đặc biệt có một người rất quan tâm, đó là ông Gio-an. Tuy Gio-an “đang ngồi tù” nhưng nghe nói những việc Chúa Giê-su làm, ông đã nhận biết Người là ai. Ông không muốn giữ cái biết một mình, nên mới sai môn đệ đến để họ được mắt thấy tai nghe về con người và sứ mệnh của Chúa. Chắc chắn sau khi thuật lại cho thầy mình “những điều mắt thấy tai nghe” về Chúa Giê-su, các môn đệ ông Gio-an được ông nói cho biết Chúa Giê-su chính là “Con Chiên Thiên Chúa, Đấng cứu độ trần gian”. Đúng vậy, ông Gio-an đã thi hành nhiệm vụ làm sứ giả cho Đấng Cứu Độ. Khi còn được tự do, bên bờ sông Gio-đan ông rao giảng kêu gọi người ta sám hối, thay đổi lối sống; ông làm phép rửa cho họ như dấu chỉ họ cam kết sẽ thực hành những điều ông giảng dạy. Nhưng ngay khi ông đang bị cầm tù, ông vẫn tiếp tục làm sứ giả cho Chúa, vì ông đã giúp cho các môn đệ ông nhận ra Chúa Giê-su là Đấng Cứu Độ. Như thế, khi ông làm sứ giả cho Chúa Giê-su, Đấng thiết lập Nước Trời, thì ông đã là người đầu tiên thuộc về Nước ấy rồi! Chúa Giê-su khéo léo khen ngợi sự cao trọng của ông Gio-an. Người bảo: Ông Gio-an cao trọng như vậy, “tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông”. Đây là cách nói khéo của Chúa Giê-su đấy! Chúa nói vậy mà không phải vậy đâu, vì chính ông Gio-an là người đầu tiên trong Nước Trời, tức là người “lớn nhất”, thì ai ai cũng phải là người “nhỏ nhất” so với ông trong Nước Trời!
Sống sứ điệp Lời Chúa
Niềm vui của dân Ít-ra-en khi được giải phóng khỏi kiếp lưu đày và niềm vui của những người được Chúa Ki-tô cứu độ đã được trình bày qua bài đọc 1 và bài Tin Mừng. Nhưng để đợi chờ niềm vui ấy, chúng ta phải làm gì? Có câu trả lời đây! Thánh Gia-cô-bê Tông đồ dạy rằng: “Thưa anh em, xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm”. Để giúp ta hiểu phải kiên nhẫn như thế nào, thánh tông đồ đã dùng hình ảnh thực tế bác nông phu “phải đợi cả mưa đầu mùa lẫn cuối mùa” để giúp cho đất “trổ sinh hoa màu quý giá”. Dĩ nhiên mưa là yếu tố quan trọng, nhưng cần có sự canh tác của bác nông phu nữa chứ! Bác làm công việc của bác, còn trời thì cho mưa xuống. Bác làm trong khi vẫn mong đợi trời mưa. Chắc chắn bác sẽ vui trong niềm mong đợi và vui khi gặt hái hoa màu. Chúng ta cũng vậy. Mong đợi Chúa đem niềm vui sự sống vĩnh cửu đến cho chúng ta, nhưng ta vẫn phải làm tròn những trách nhiệm và bổn phận của mình đối với Chúa, với gia đình, xã hội, cộng đoàn… hằng ngày và hết mọi ngày trong cuộc sống.
Vụ khủng bố đẫm máu nhất lịch sử nước Mỹ tại toà tháp đôi Trung Tâm thương mại Thế giới MV 3-A162
Vụ khủng bố đẫm máu nhất lịch sử nước Mỹ tại toà tháp đôi Trung Tâm thương mại Thế giới New York ngày 11/09/2001 đã làm 2.996 người bị chết, hơn 6.000 người khác bị thương, ngoài ra còn gây thiệt hại về tài sản và cơ sở hạ tầng ít nhất 10 tỉ đôla và gây tổn thất tổng cộng 3 nghìn tỷ đôla.
Sau biến cố 11 tháng 9 năm 2001 tại Mỹ, con gái của một vị Mục sư giảng thuyết nổi tiếng được mời trả lời phỏng vấn trên truyền hình và người hướng dẫn chương trình đã hỏi cô ta như sau: “Tại sao Thiên Chúa lại có thể để xảy ra một thảm họa khủng khiếp như vậy?” Cô gái đã trả lời: “Tôi nghĩ là Thiên Chúa rất buồn vì điều đó, ít nhất là Ngài cũng buồn bằng chúng ta. Từ bao năm nay, chúng ta đã yêu cầu Ngài ra khỏi trường học, khỏi chính phủ và khỏi đời sống của chúng ta. Ngài là người ‘quân tử’ nên đã lẳng lặng rút lui.”
Làm sao chúng ta có thể mong Chúa ban ơn lành và che chở chúng ta khi chúng ta đã khẩn thiết xin Ngài để mặc chúng ta một mình? Về những biến cố xảy ra như tấn công khủng bố, bắn giết trong trường học, chiến tranh…, tôi nghĩ rằng mọi sự đã bắt đầu với quyết định của chúng ta đã không còn đọc kinh trong gia đình nữa. Một người khác lại có ý kiến là chúng ta không nên đọc Kinh Thánh nơi trường học, trong khi đó Kinh Thánh dạy chúng ta: ‘Chớ giết người, chớ trộm cắp, yêu thương tha nhân như chính bản thân mình, v.v…’, và chúng ta cũng đã đồng ý loại bỏ Kinh Thánh!
Điều Kì Lạ… là con người có thể vứt bỏ Thiên Chúa một cách dễ dàng, rồi sau đó lại tự hỏi Thiên Chúa ở đâu khi chúng ta đau khổ?
Thưa quý OBACE, những khi gặp khó khăn hay đau khổ, chúng ta thường đặt câu hỏi oán trách: Thiên Chúa ở đâu trong lúc tôi đau khổ, mà quên rằng chính chúng ta đã yêu cầu Chúa rời khỏi tâm hồn và cuộc sống của ta. Ngày xưa dân Do thái cũng vậy, họ dễ dàng từ bỏ Thiên Chúa và lề luật của Ngài để chạy theo lối sống của dân ngoại, bỏ rơi Thiên Chúa và quay lưng lại với Ngài. Thiên Chúa cũng đã tôn trọng tự do của họ. Nhưng lịch sử cho thấy, mỗi khi dân Do Thái loại trừ Thiên Chúa ra khỏi đời sống, thì cũng là lúc họ rơi vào tối tăm cùng cực. Bài đọc một hôm nay kể về một giai đoan lịch sử tăm tối của dân Israel: Lúc đó thay vì cậy dựa vào Thiên Chúa, thì Israel đã liên minh quân sự với các nước lân bang, nhưng họ cũng không tồn tại trước sự tấn công của người Babylon. Cả một dân tộc bị bắt đi lưu đày, làm thân trâu ngựa cho người Babylon hơn năm mươi năm.
Khi bị hành hạ, sống nhục nhã như vậy họ tự đặt câu hỏi: Thiên Chúa của Israel ở đâu? Tại sao Ngài lại để cho một dân tộc Ngài đã chọn làm dân riêng phải cực khổ thế này? Thiên Chúa có còn thương Israel như thủa xưa nữa không? Trước sự đau khổ, những dằn vặt và thất vọng chán chường như thế, Thiên Chúa đã dùng tiên tri Isaia để khôi phục lại niềm tin, niềm hy vọng cho Israel. Thiên Chúa muốn cho họ hiểu rằng Ngài vẫn ở bên họ để an ủi, bảo vệ và để giải thoát họ, chỉ có điều là họ có đồng ý mời Chúa trở lại hay không. Bằng những lời lẽ vui tươi và tràn đầy hy vọng, tiên tri Isaia đã nói với họ rằng: “Vui lên đi hỡi sa mạc và đồng cỏ khô cháy vì Thiên Chúa sẽ làm cho ngươi trổ hoa như bông huệ; Thiên Chúa sẽ tặng ban cho ngươi ánh sáng huy hoàng của núi Libăng, muôn dân sẽ nhìn thấy ánh sáng huy hoàng của Thiên Chúa… Thiên Chúa sẽ làm cho thân xác và tâm hồn các ngươi trở nên mạnh mẽ không còn sợ hãi. Hãy nói với những kẻ nhát gan sợ hãi: can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi…Chính Người sẽ đến cứu thoát anh em.” Những lời hứa hân hoan phấn khởi như thế, đã tạo nên một sức mạnh mới, một hy vọng mới cho Israel trong lúc tối tăm cùng cực, giúp Israel tin rằng, cho dù họ có lìa bỏ Thiên Chúa thì Thiên Chúa vẫn không từ bỏ họ, Ngài vẫn ở bên họ.
Không chỉ dân Do Thái mà như Gioan Tiền Hô trong lúc đau khổ tù đầy, cũng cảm thấy dường như Thiên Chúa vẫn ẩn mặt xa mình. Câu chuyện Tin Mừng thuật lại: “Lúc đó Gioan đang ngồi tù, ông sai các môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: Thầy có phải là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải đợi một đấng nào khác?” Sự kiện này cho thấy Gioan, cả một cuộc đời loan báo về đấng cứu thế, từng trình bày cho mọi người về một đấng cứu thế như một vị quan toà nghiêm khắc, thẳng tay trừng trị mọi kẻ sai lỗi: “cái rìu đã kề sẵn gốc cây, cây nào không sinh trái sẽ bị Ngài chặt đi hoặc các ngươi đừng hòng trốn chạy cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.” Nhưng thực tế Đấng Cứu Thế mà ông giới thiệu: “Đây chính là Chiên Thiên Chúa” lại không hành động như ông loan báo. Ngài nhân từ với kẻ có tội, Ngài tha thứ cho kẻ biết sám hối ăn năn, Ngài kiên nhẫn đợi chờ con người sinh hoa kết trái, Ngài không chặt không chém.
Gioan đã bị dằn vặn bởi điều này và sai các môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: “Ngài có phải là Đấng phải đến không hay chúng tôi còn phải đợi một đấng nào khác?” Chúa Giêsu đã dùng những lời tiên báo của Isaia để trả lời cho các môn đệ Gioan: “Các anh về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi được khỏi, người chết sống lại và người nghèo được nghe Tin Mừng và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.” Khi trả lời như thế, Chúa Giêsu đã gián tiếp xác nhận với Gioan rằng Ngài chính là Đấng Cứu Thế mà các tiên tri đã loan báo. Ngài đến không phải để phá hủy, nhưng để xây dựng; không phải để phân tán, nhưng để quy tụ; không phải để trừng phạt, nhưng tha thứ và đổi mới; Ngài không ở xa hay ở bên ngoài, nhưng ở ngay bên để yêu thương và chữa lành các tâm hồn. Đức Giêsu cũng muốn Gioan thay đổi cách nhìn về Ngài, Ngài không phải một vị thần hung dữ nóng nảy, nhưng là một Thiên Chúa nhẫn nại và yêu thương, nên Ngài đã nói: “phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.”
Thưa quý OBACE, nhiều Kitô hữu ngày nay vẫn mang cái nhìn như người Do Thái cho rằng: Thiên Chúa đã vắng mặt khi con người đau khổ, hoặc như Gioan Tiền Hô nhìn Thiên Chúa như một thẩm phán nghiêm khắc. Có những người nóng vội, muốn Thiên Chúa phải ra tay ngay lập tức trừng phạt kẻ ác và đáp ứng ngay mỗi khi con người cầu xin. Họ muốn Thiên Chúa phải chấp nhận giải pháp của mình thay vì ép mình phải đón nhận giải pháp của Thiên Chúa.
Mỗi khi có các biến cố hoặc gặp đau khổ, nhiều người đã không còn nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong các biến cố xảy ra vì họ đã mời Thiên Chúa ra khỏi nhà mình để đón thần tài, ông địa và tà ma vào gia đình. Họ muốn tự giải quyết tất cả hoặc dùng tiền bạc, công việc của mình để thay thế Thiên Chúa. Nhiều cha mẹ đã để gia đình mình trở nên trống rỗng hoặc đầy ắp các công việc và lo toan khác, mà không còn chỗ, không còn giờ cho Thiên Chúa trong đời sống gia đình. Cũng vậy, nhiều bạn trẻ nghĩ rằng khoa học và công nghệ sẽ thay thế Thiên Chúa, vì vậy họ tôn thờ khoa học và mời Chúa ra khỏi cuộc đời mình. Họ để cho sự cao ngạo, lười biếng và những thú vui làm chủ cuộc đời mình thay chỗ của Thiên Chúa.
Lời Chúa hôm nay là một lời nhắc cho chúng ta nhớ rằng: Thiên Chúa vẫn hiện diện bên cạnh chúng ta, trong từng biến cố vui buồn xảy ra của cá nhân và gia đình, xã hội. Ngài chờ chúng ta ngỏ lời với Ngài, xin Ngài trợ giúp, can thiệp và chừa cho Ngài một chỗ trong tâm hồn và gia đình, để Ngài có thể hiện diện, trợ giúp và bênh đỡ chúng ta. Thánh Giacôbê trong bài đọc hai còn khuyên chúng ta đừng để mình mất kiên nhẫn hoặc rơi vào chán nản thất vọng, đừng phàn nàn kêu trách, vì Thiên Chúa là Vị Thẩm Phán khoan dung nhân từ đang đứng ngoài cửa, đang chờ chúng ta mở cửa cho Ngài.
Xin cho niềm vui chờ đón ngày đại lễ Chúa Giáng Sinh không dừng lại ở việc trang trí bên ngoài, nhưng là niềm vui sâu thẳm trong tâm hồn vì mỗi người nhận ra sự hiện diện của Chúa, nghe được tiếng Chúa và mở cửa cho Chúa, mời Chúa bước vào tâm hồn cũng như gia đình mình. Chúa sẽ là thượng khách đem lại bình an và niềm vui cho tâm hồn. Amen.
Thánh Gioan Tiền Hô đi trước Đấng Cứu Thế, rao giảng chuẩn bị tâm trí mọi người đón nhận Đấng MV 3-A163
Thánh Gioan Tiền Hô đi trước Đấng Cứu Thế, rao giảng chuẩn bị tâm trí mọi người đón nhận Đấng Cứu Thế khi Ngài đến. Gioan rao giảng
‘Hãy thống hối, vì nước trời đã đến gần’ Mat 3,1.
Gioan kêu gọi mọi người thống hối, nhận phép rửa từ ông như là dấu chỉ của thống hối, ăn năn, trở về con đường công chính. Gioan tin tưởng Đấng Cứu Thế sắp đến và khi Ngài đến, Ngài sẽ đến với oai phong, dũng mạnh và quyền lực. Nhắc lại bài đọc tuần trước, Gioan rao giảng
‘Cái rìu đã đặt sát gốc cây, cây nào không sanh quả tốt đều bị chặt, quăng vào lửa… tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa… thóc lép bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt. Mat 3,11.
Vua Hêrôđê bắt giam Gioan vào ngục tối vì ông can đảm ngăn cản vua cưới chị dâu, bà Herodias là vợ của anh trai. Mat 14,1-12. Lí do khác có lẽ do tiếng vang của Gioan. Hêrôđê sống trong lo sợ, ngày nào đó ngai vàng của ông sụp đổ vì theo ông, đám đông tin theo, đặt kì vọng vào Gioan, và họ sẵn sàng làm bất cứ điều gì Gioan kêu gọi, ngay cả việc nổi loạn chống lại nhà vua. Hêrôđê sợ đám đông và cũng sợ mất ngai vàng.
Gioan tin là khi Đấng Cứu Thế đến Ngài sẽ sửa phạt những tâm hồn cứng đầu, bởi lòng dạ họ ra chai đá, không chịu thống hối, đón nhận tin mừng. Trong ngục thất, Gioan nghe tiếng đồn thổi về Đức Jesu. Ngài đến không mang sửa phạt, mang lửa thiêu đốt, trái lại Ngài đến để tha thứ, chữa lành và chung bàn ăn với phường gian ác, kẻ tội lỗi. Điều này nằm ngoài mong đợi của Gioan, vì thế ông thắc mắc và sai môn đệ của mình đến gặp Đức Kitô hỏi cho rõ lẽ xem, Ngài là Đấng Cứu thế hay ông còn phải đợi Đấng khác. Trả lời môn đệ Gioan, Đức Kitô không xác nhận, cũng không từ chối. Ngài nói với họ, về thuật lại cho Gioan biết những gì các ông nghe và thấy:
Người mù xem thấy, kẻ què đi được, phong hủi được sạch, kẻ điếc được nghe, kẻ chết sống lại, kẻ nghèo được Tin Mừng Lc 11,5.
Đức Kitô đến rao giảng tình yêu vô biên của Thiên Chúa, lòng Chúa xót thương vô bờ. Đấng rộng lượng, từ bi . Ơn gọi của Đức Kitô là tái tạo trật tự vũ trụ do tội lỗi gây ra, và lấy lại sự sống trường sinh cho nhân loại. Lí do khác khiến Gioan bất an bởi ông bị cầm tù, lo lắng không làm tròn nhiệm vụ rao giảng mở đường cho Đấng Cứu Thế. Đại đa số trong chúng ta, cuộc sống khổ sở ngục tù, thiếu ăn, thiếu ngủ, bệnh tật hành hạ, ghẻ lở, đe doạ, đánh đập, ảnh hưởng đến tâm trí họ, phán đoán bị lung lạc. Gioan có lẽ không qua tâm nhiều đến an toàn bản thân. Ngài không sợ chết rũ tù, nhưng sợ không hoàn thành trách nhiệm rao giảng và đó là mối quan tâm hàng đầu của ông. Sai môn đệ đến gặp Đức Kitô với hy vọng làm sáng tỏ vấn đề ông đang quan tâm. Một khi Gioan chắc chắn, Đấng Cứu Thế đã đến, ông cũng biết và an tâm mình đã hoàn thành sứ mạng và ngày ra đi gần kề. Sau khi môn đệ Gioan đi khỏi, Đức Kitô ca ngợi Gioan trước đám đông. Gioan, một thân, một mình, không quân đội, không giữ chức vụ nào trong chính quyền, thế mà nhà vua lo lắng, sợ sệt. Một người có đám đông ủng hộ, tiếng tăm vang lừng, dẫu thế Đức Kitô nói với mọi người, người nhỏ nhất trong nước trời còn cao trọng hơn những gì Gioan nhận được từ trần thế. Những ai chân thành đón nhận Đấng Cứu Thế vào trong cõi lòng sẽ nhận được vinh quang nước trời. Đó là phần thưởng dành cho những tâm hồn tín trung.
Dữ kiện “đêm tối đức tin” có lẽ là chuyện thường tình trong cuộc đời của nhiều vị thánh như thánh MV 3-A164
Dữ kiện “đêm tối đức tin” có lẽ là chuyện thường tình trong cuộc đời của nhiều vị thánh như thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, Têrêxa Avila hay thánh Gioan Thánh Giá và gần đây thông tin cho hay rằng nó hiện diện cả trong cuộc đời của mẹ Têrêxa Calcutta. Và dù rằng được chúc phúc vì đã tin nhưng ngay cả Mẹ Maria cũng không tránh được những thời điểm hay giai đoạn phải lần bước trong đêm tối.
Bài trích Tin Mừng theo thánh Matthêu của Chúa Nhật III mùa Vọng năm A mà Hội Thánh giới thiệu cho chúng ta một cách nào đó nói đến đêm tối đức tin của thánh Gioan Tẩy giả. Ý thức mình được kêu gọi làm tiếng hô trong sa mạc để dọn đường cho Đấng Cứu Thế, Gioan Tẩy Giả nhiệt thành, hăng say mời gọi mọi người, mọi thành phần dân Chúa xưa sám hối ăn năn. Dân chúng tuôn đến với Ngài trên bờ sông Giođan nhiều khôn xiết. Dân nghèo hay người thất học có đó. Kẻ giàu sang hay người quyền quý cũng không thiếu. Người thu thuế hay binh lính vẫn có mặt. Thậm chí đến các vị đang được xem là đạo đức như người biệt phái hay các vị tinh thông lời Chúa như các luật sĩ vẫn hiện diện. Tất cả dường như nghe theo lời khuyên bảo của Gioan, cho dù Ngài thỉnh thoảng nói với họ những lời chói tai, khó nghe.
Mình chỉ là người dọn đường, người tiền hô cho Đấng Cứu Thế. Và kìa, Đấng Cứu Thế, Con Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian đã đến. Đã như xong phận vụ, giờ thì cần Người phải lớn lên còn mình thì phải nhỏ lại (x.Ga 3,30). Người mà lớn lên thì triều đại nước Thiên Chúa sẽ hiển trị. Và chắc chắn nhiều sự sẽ có đổi thay, dĩ nhiên là theo hướng tốt đẹp, đặc biệt những gì Ngôn Sứ Isaia loan bào sẽ trở thành hiện thực. Mình đã thấy Thần Khí Thiên Chúa ngự xuống trên Người. Chắc chắn Người sẽ “loan báo tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, giập nát, giải thoát những kẻ bị giam cầm…” (x.Is 61,1-2). Thế mà cớ sao mình vẫn mãi chịu cảnh chôn chân trong bốn bức tường ngục tù? Không lẽ Đấng Cứu Thế lại thua một bạo vương Hêrôđê? Ngài có phải là Đấng phải đến chăng, hay mình còn phải đợi Đấng nào khác? Không được gặp trực tiếp với Người thì mình đành nhờ các môn đệ gửi lời nhắn hỏi.
Tuy nhiên, theo nhiều nhà chú giải Thánh Kinh hiện nay, chính Gioan cũng đã phải trải qua sa mạc đức tin. Quả vậy, nhiều khi vì quá lo bảo vệ sự tinh tuyền của đức tin của Gioan Tẩy giả nên nhiều nhà tu đức đã từng cắt nghĩa rằng thánh nhân tận dụng dịp thuận tiện để củng cố đức tin cho các môn đồ. Không thể tiên thiên loại trừ giả thiết này. Tuy nhiên nhiều khi vì qua lo chuyện bao đồng mà ta vô tình hay hữu ý lãng quên một hiện thực của kiếp người. Đang còn lữ thứ trần gian thì chúng ta mãi vẫn còn thấy cách “lờ mờ” về các thực tại. Và đêm tối đức tin là một sự thật luôn tồn tại với kiếp người trần gian lữ thứ.
Vào trần gian, mang lấy kiếp người Đức Kitô cũng không là ngoại lệ cho dù Người là Con Chiên tinh tuyền, vẹn sạch. Cơn xao xuyến bồi hồi của Chúa Giêsu là rất thật. Máu của Người đã rỉ ra theo các tuyến mồ hôi không phải là kiểu nói phóng đại. “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”(Mc 15,34). Những lời than thở của Người trên cây thập giá, phút giây hấp hối minh chứng cho ta sự thật này: Dù là Con Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô vẫn phải trải qua nhiều thử thách. Dù luôn tín thác vào Cha nhưng Người cũng đã trải qua những đau khổ, một cách nào đó giống như những cuộc thử thách đức tin mà chúng ta phải chịu.
Trong số các Tông đồ thì dường như thánh tông đồ dân ngoại là người chịu thử thách lớn lao hơn cả. Hăng say, nhiệt tình loan báo tin mừng thế mà số phận của Ngài thật lắm truân chuyên: “năm lần bị người Do thái đánh bốn mươi roi bớt một; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị đắm tàu; một đêm một ngày lênh đênh trên biển khơi.” (2Cr 11,24-25). Ngục tù là nơi thường đón đợi thánh nhân. Những khó khăn bên ngoài do hoàn cảnh, do tha nhân mà Ngài phải chịu thì đã đành, thế mà ngay cả cái dằm trong thân xác của Ngài cũng chẳng để Ngài yên. Thánh Phaolô cảm nghiệm rằng Chúa không để ta chịu thử thách quá sức đâu. Ơn Người luôn đủ cho ta. Và ai bền đổ đến cùng, người ấy sẽ được cứu độ.
Hãy bền chí trong gian truân và kiên nhẫn trong đêm tối, rồi Chúa sẽ đến cứu thoát chúng ta. Đây là những lời động viên của thánh Giacôbê tông đồ, qua bài đọc thứ hai (x.Gc 5,7-10), đã nói với đoàn tín hữu thời sơ khai cũng như với chúng ta mọi thời.
Tuy nhiên, Thiên Chúa lại muốn bày tỏ sự hiện diện của Người qua con người, qua chính chúng ta. “Hãy làm cho mạnh mẽ những bàn tay rời rã, và hãy làm tăng sức những đầu gối mõi mòn. Phải nói cho những người nhát đảm rằng: Hãy can đảm lên, đừng sợ hãi” (Is 35, 3-4). Làm sao để nâng đỡ tinh thần những người đang chao đảo? Làm sao giúp họ thêm vững tin vào Chúa Kitô là Đấng Thiên sai mà Thánh Kinh đã loan báo? Tiên tri Isaia đã phác họa những việc làm cụ thể của đấng Thiên sai bằng những hình ảnh: “người mù sẽ thấy; người điếc sẽ được nghe và người què sẽ nhảy như nai” (Is 35,5-6).
Trước sự chao đảo của Gioan Tiền Hô, Chúa Kitô cũng đã nhắn gửi các môn đệ ông rằng: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó” (Mt 11,5).
Đức Kitô đã thắng thế gian, nhưng cuộc chiến vẫn đang tiếp diễn, nghĩa là chưa chấm dứt nơi con cái loài người. Thần dữ và những kẻ đồng minh với nó vẫn đang ra sức hoạt động, hòng làm lung lay niềm tin chúng ta. Với sự công phá của thế lực đen tối, không ít Kitô hữu hôm nay như mất phương hướng. Thậm chí có người dám tuyên bố là đã đến thời kỳ hậu Kitô giáo. Thiết nghĩ không gì hơn là kiên trì thực thi những dấu chỉ của Nước Trời: Loan báo tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, làm cho người câm nói được, người què lại nhảy như nai… Chính khi ta góp phần với Chúa một tay dù là bé nhỏ để làm cho mạnh mẽ những bàn tay rời rã, làm tăng sức cho những đầu gối mõi mòn thì chúng ta lại được vững vàng và mạnh mẽ trong đức tin. Trong tình yêu, có nhiều điều như nghịch lý mà rất hiện thực, như lời thánh Phanxicô Axidi trong lời “Kinh hoà bình”. Quả thật, chính khi trao ban là lúc lãnh nhận và chắc chắn sẽ lãnh nhận gấp muôn ngàn lần.
Hôm nay là Chúa Nhật của sự vui mừng và niềm hy vọng. Niềm vui của Giáo Hội đã trải dài MV 3-A165
Hôm nay là Chúa Nhật của sự vui mừng và niềm hy vọng. Niềm vui của Giáo Hội đã trải dài qua lịch sử ơn cứu độ. Giáo hội không ngừng mời gọi con cái mình hãy vui lên, vì ơn cứu độ đã gần kề. Lịch sử cứu độ nối tiếp lịch sử của dân tộc Do-Thái. Họ đã sống qua ngàn năm đợi chờ. Nay Đấng Cứu Thế xuất hiện giải thoát dân khỏi vòng tăm tối và nô lệ của tội lỗi. Tiên tri Isaia đã loan báo rằng hoang địa khô cằn sẽ vui mừng và cõi tịch liêu sẽ hân hoan.
Thánh Gioan Tẩy Giả được vinh dự làm kẻ tiền hô. Ông đã đi trước dọn đường cho Chúa. Mời gọi mọi người hãy ăn năn sám hối. Ông là nhân chứng cho sự thật. Cũng chính vì nói lên sự thật, ông đã bị tống giam trong ngục. Trong ngục tù, ông đã có linh cảm giờ chết sắp đến. Gioan ghi nhận còn có nhiều người, ngay cả các môn đệ dấu yêu, chưa tin vào Chúa Giêsu. Nhiều người còn đang hoang mang nghi ngờ. Chính Gioan đang trong tù ngục đã muốn xác minh con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu cho các môn đệ của mình.
Chúng ta cũng như thánh Gioan, trong hành trình đức tin, cũng có lúc chúng ta nghi ngờ, đôi khi cảm thấy sợ hãi, thất vọng vì hoàn cảnh trái ngang xảy đến trong cuộc đời. Thánh Gioan không ngại sai các môn đồ đi hỏi Chúa. Chúa Giêsu rất hài lòng về sự chân thành và khiêm nhường của Gioan. Chúa đã khen Gioan là vị tiền hô khiêm tốn, liêm chính và anh dũng. Thánh Gioan biết sự thật về Đấng Cứu Thế qua các việc Ngài đã thực hiện. Ông đã vui mừng vì đã chu toàn sứ mệnh được trao phó. Mỗi người chúng ta được trao ban sứ mệnh làm chứng cho Chúa qua cuộc sống mình. Qua từng lời ăn tiếng nói, từng cử chỉ thái độ và từng cách sống, chúng ta đang làm chứng cho Chúa. Nếu chúng ta muốn vui tươi phấn khởi trong cuộc sống, chúng ta phải vui với chính mình trước, như khi chúng ta soi gương, nếu chúng ta cười, nó sẽ cười lại.
Chúa đến với nhân loại, đó không chỉ là niềm vui riêng cho dân tộc Do-Thái mà cho mọi người. Mỗi người chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn đón Chúa và hãy vui mừng vì ơn cứu độ đã gần đến.
Chúng Nhân Khốn Khổ Cầu Xin Đức Chúa. Thiên Tử Nhân Lành Cứu Độ Sinh Linh. Trong khoảng MV 3-A166
Chúng Nhân Khốn Khổ Cầu Xin Đức Chúa Thiên Tử Nhân Lành Cứu Độ Sinh Linh
Trong khoảng mong chờ luôn có niềm hy vọng, bởi vì có hy vọng mới mong chờ – chờ đợi, đợi trông, trông mong, mong ngóng. Niềm hy vọng đó được chứng tỏ cả nội tại và ngoại tại, cũng ảnh hưởng tới các giác quan, đặc biệt là thính thị.
Thính giác liên quan tai, thị giác liên quan mắt. Nghe và nhìn thường hoạt động cùng nhau – vừa nghe vừa nhìn. Hai hoạt động đó liên quan hoạt động của não: nhận biết. Nhờ nghe và nhìn mà người ta khả dĩ phân biệt đúng – sai. Phải có cách nhìn đúng mới có thể nhận thức chính xác để có thể phân định mà hành động đúng đắn.
Mùa Vọng mang sắc tím, nỗi mong chờ luôn có “chất” buồn hoặc bâng khuâng. Màu tím nhạt dần khi hy vọng tăng lên, màu tím nhạt hóa thành màu hồng, niềm hy vọng càng sắc nét thì niềm vui nỗi mừng càng rõ ràng. Khoảng-mong-chờ-tâm-linh cũng có những dấu hiệu khả dĩ giúp nhận biết mình có thánh thiện hơn chút nào hay không, con-đường-lòng-mình đã được uốn thẳng và thung-lũng-tâm-hồn đã được san lấp hay chưa.
Thời gian mong chờ cũng có giới hạn, Chúa Giêsu càng lúc càng đến gần. Đất hạn hán sẽ thỏa khát khao khi trời đổ mưa. Ngôn sứ Isaia mời gọi: “Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông, hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ, và hân hoan múa nhảy reo hò. Sa mạc được tặng ban ánh huy hoàng của núi Li-băng, vẻ rực rỡ của núi Các-men và đồng bằng Sa-ron. Thiên hạ sẽ nhìn thấy ánh huy hoàng của Đức Chúa, và vẻ rực rỡ của Thiên Chúa chúng ta.” (Is 35:1-2) Chắc chắn chỉ có Mưa Giêsu mới làm cho chúng ta thỏa cơn khát vọng công chính.
Ai đã từng thất vọng mới thấy điều kỳ diệu của sự mãn nguyện, ai đã từng bị tù đày mới biết thế nào là tự do, ai đã từng đau khổ mới thấy quý hạnh phúc. Có một sức mạnh lạ lùng, người đang yếu bỗng thành khỏe – cả thể lý và tinh thần. Ngôn sứ Isaia động viên chúng ta “hãy làm cho những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ, cho những đầu gối bủn rủn được vững vàng”, đồng thời cũng khuyến khích những kẻ nhát gan: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em.” (Is 35:4) Thiên Chúa là Đấng Công Bình, là Vua Bình An, là Thần Chân Lý, và là Nguồn Cứu Độ duy nhất.
Chắc chắn sẽ có những dấu lạ khi Vương Quốc Ngài hiển trị, như ngôn sứ Isaia cho biết: “Mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được, kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò, nước vọt lên trong sa mạc, khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu.” (Is 35:5-6) Tất cả đều biến đổi, từ cây cỏ tới con người. Không có gì tuyệt vời như vậy, vì đó là thời đại của công bình và an lành.
Khi đoàn người nô lệ được giải thoát bước đi ồ ạt như thác đổ, ca khúc khải hoàn sẽ trổi lên vang dội, khuôn mặt nào cũng rạng rỡ: “Những người được Đức Chúa giải thoát sẽ trở về, tiến đến Sion giữa tiếng hò reo, mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu. Họ sẽ được hớn hở tươi cười, đau khổ và khóc than sẽ biến mất.” (Is 35:10) Niềm vui vỡ òa, hạnh phúc quá lớn, không khác gì được cải tử hoàn sinh vậy. Phàm ngôn không đủ từ ngữ để diễn tả sự sung sướng đó.
Đấng giải thoát cứu nguy chính là Thiên Chúa, là Đấng Vô Thủy Vô Chung, mọi người sẽ vui mừng vì thỏa nỗi mong chờ: “Người là Đấng tạo thành trời đất với biển khơi cùng muôn loài trong đó. Người là Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời, xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn. Chúa giải phóng những ai tù tội, Chúa mở mắt cho kẻ mù loà. Chúa cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, Chúa yêu chuộng những người công chính.” (Tv 146:6-8) Khi tận mắt thấy những việc tốt đẹp và kỳ diệu như vậy, người ta dễ dàng nhận ra Ngài, chắc chắn chứ không thể sai lầm.
Thế nhưng Ngài là ai? Ngài chính là Thiên Chúa giàu Lòng Thương Xót, chan chứa Suối Yêu Thương, bao la Nguồn Hồng Ân, Ngài cũng là Đấng công minh chính trực, không vị nể bất cứ ai, nhưng luôn xót thương người đau khổ: “Chúa phù trợ những khách ngoại kiều, Người nâng đỡ cô nhi quả phụ, nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân. Chúa nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở, Sion hỡi, Chúa Trời ngươi hiển trị ngàn đời.” (Tv 146:9-10)
Là con người, ai cũng kinh nghiệm rằng cuộc đời là chuỗi ngày mong tháng chờ, là Mùa Vọng triền miên. Thật vậy, Thánh Giacôbê nhắn nhủ và so sánh rất cụ thể: “Thưa anh em, xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá: họ phải đợi cả mưa đầu mùa lẫn mưa cuối mùa. Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới.” (Gc 5:7-8) Chắc chắn Ngài sẽ đến, nhưng không ai biết chính xác vào thời điểm nào, đừng suy diễn vớ vẩn, và cũng đừng để kẻ xấu lừa bịp.
Trong khi mong chờ, có điều cần lưu ý là người ta dễ ảo tưởng và xao lãng, cũng như lái xe mà không tập trung lái, cứ ngó bên này rồi nhìn bên kia, không là “ngáo đá” mà là “ngáo đời”, thế thì rất nguy hiểm! Do đó, sự kiên trì rất cần thiết, bởi vì lỡ sảy chân thì không kịp hối hận. Rất rõ ràng với lời của Thánh Giacôbê: “Thưa anh em, anh em ĐỪNG phàn nàn kêu trách lẫn nhau, để khỏi bị xét xử. Kìa Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa. Thưa anh em, về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh em hãy NOI GƯƠNG các ngôn sứ là những vị đã nói nhân danh Chúa.” (Gc 5:9-10) Không phiền vì ai là biết buông bỏ, cố gắng tu thân để nên hoàn thiện.
Khoảng mong càng dài, khoảng chờ càng rộng, thời gian càng lâu thì chúng ta càng cần phải “định vị” khéo léo, biết cách NHÌN và cách NGHE để có thể NHẬN THỨC đúng về một sự kiện nào đó, để hữu ích cho cuộc đời trong khi sống “mùa vọng lữ hành” đằng đẵng, suốt ngày thâu đêm, quanh năm suốt tháng.
Ngày ấy, ông Gioan đang ngồi tù khi Chúa Giêsu xuất hiện công khai. Ông nghe biết những việc Đức Kitô làm, nhưng ông chưa dám xác định, thế nên ông liền sai môn đệ đến gặp Ngài và hỏi trực tiếp: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Mt 11:3) Đức Giêsu chẳng bảo là đúng hay sai, mà chỉ điềm nhiên nói: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.” (Mt 11:4-6) Ba mặt, một lời. Thế là rõ ràng rồi.
Chúa Giêsu có phong cách đặc biệt như thế, nghe ngang mà không ngược, nghe nghịch mà vẫn xuôi, nghe như chọc tức mà không thách thức, có vẻ như “bông đùa” thế đấy, kiểu như Ngài vẫn thường nói: “Ai có tai thì nghe.” (Mt 11:15; Mt 13:9; Mt 13:43; Mc 4:9; Mc 4:23; Mc 7:16; Lc 8:8; Lc 14:35) Và ở đây cũng thế thôi: “Ai có mắt thì nhìn, ai có óc thì nghĩ.” Người hiểu thì không cần nói, người không hiểu thì nói cũng bằng thừa. Đúng là độc đáo quá chừng!
Chắc là họ lùng bùng lỗ tai, nhức cái óc, nên họ bỏ đi. Và rồi Đức Giêsu bắt đầu nói một lèo với đám đông về ông-bụi-đời Gioan: “Anh em ra xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? Thế thì anh em ra xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua. Thế thì anh em ra xem gì? Một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế đó; mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa. Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến.” (Mt 11:7-10) Ngài vừa hỏi vừa trả lời, vì Ngài biết chẳng có ai trả lời được.
Sau đó, Chúa Giêsu kết luận: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.” (Mt 11:11) Ngài đề cao ông Gioan nhưng cũng đề cao những kẻ hèn mọn vì Nước Trời. Ông Gioan đã là lớn rồi, nhưng kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn lớn hơn ông Gioan. Một nghịch-lý-thuận vô cùng độc đáo và tuyệt vời. Đức khiêm nhường luôn được Ngài nhấn mạnh, bởi vì đức khiêm nhường là “nền tảng” của mọi nhân đức, là “viên đá góc tường” của tòa-nhà-nhân-đức, là “biệt dược” khả trị bách bệnh. Chắc hẳn những ai không có đức tin thì không thể nào hiểu được dạng nghịch-lý-thuận như thế.
Thật thú vị và thâm thúy với lời ca dao Việt Nam: “Thế gian lắm kẻ mơ màng, thấy người toét mắt tưởng vàng ăn ra.” Cách mỉa mai nhẹ nhàng mà nhói đau đối với những người bị “đau mắt” và “nhức tai” – mặc dù bề ngoài có vẻ vẫn bình thường. Con mắt bị mờ hoặc đổ ghèn thì làm sao thấy và hiểu được ẩn ý của Đức Kitô? Tai điếc thì làm sao nghe lời giáo huấn của Ngài? Đáng sợ nhất là những người cố ý không thấy, hoặc có thấy mà lại cố ý không chịu hiểu, có nghe thì vào tai này rồi ra tai kia. Con-mắt-đức-tin bị mù lòa và đôi-tai-đức-tin bị điếc như vậy thì thật là nguy hiểm, kể cả bộ-óc-tâm-linh cũng như mất trí hoặc điên loạn mất rồi!
Lạy Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi sự, xin ban thêm trí thông minh để chúng con biết nghe điều nên nghe, biết nhìn cái phải nhìn, để có thể phân định và nhận ra Thánh Ý Ngài mà tuân theo. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Gioan Tẩy Giả sai môn đệ đến hỏi Ðức Giêsu một câu hỏi gây MV 3-A167
Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Gioan Tẩy Giả sai môn đệ đến hỏi Ðức Giêsu một câu hỏi gây ngỡ ngàng mọi người: “Ngài có phải là Ðấng phải đến, hay chúng tôi còn phải chờ đợi một Ðấng khác?”
Câu hỏi đó cho thấy thánh nhân đang ở trong một tâm trạng hoang mang như thế nào.
Chúng ta tự hỏi sự hoang mang đó đến từ những nguyên nhân nào? Có nhiều nguyên nhân nhưng có hai nguyên nhân sau rõ nét nhất:
Nguyên nhân thứ nhất: Ðức Giêsu có những việc làm khác với những lời Gioan loan báo. Thánh Gioan Tiền hô đã loan báo một Ðấng Cứu Thế uy nghiêm, đến để trừng phạt nhân loại. Trong Tin Mừng tuần trước, thánh nhân đã răn đe người Do thái: Búa rìu đã để sẵn ở gốc cây, cây nào không sinh trái sẽ bị đốn cho vào lò lửa. Thiên Chúa đến cầm sàng mà rê thóc. Thóc mẩy sẽ được cho vào kho, còn rơm, trấu sẽ bị cho vào lò lửa đốt đi. Sứ điệp quả thật là dữ dội và Lời loan báo đó đã gây xôn xao và sợ hãi. Vậy mà khi Ðức Giêsu đến, Người đã hành động khác hẳn. Không oai phong, không quyền lực, lại còn tỏ ra là một Ðấng Cứu Thế tràn đầy lòng nhân từ: “Người không bẻ gẫy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn khói”.
Gioan Tẩy Giả đã loan báo sự trừng phạt. Nhưng Ðức Giêsu lại đến để cứu chữa, tha thứ. Ðức Giêsu nói: “Con người đến không phải để lên án, nhưng để cứu chữa”. “Chỉ những người bệnh mới cần đến thầy thuốc”. Thật là trái ngược. Trách nào mà Gioan chẳng hoang mang.
Nguyên nhân thứ hai: Gioan bị giam trong tù. Gioan cảm thấy mình bị ngược đãi. Hơn nữa ông còn cảm thấy như mình đã thất bại.
Ði rao giảng sự công chính nhưng chỉ gặp bất công.
Ði rao giảng ơn giải thoát nhưng lại bị giam cầm.
Còn đâu những sứ điệp rực lửa.
Còn đâu thời hy vọng tràn đầy.
Thê thảm hơn nữa, ông tự hỏi: Sao Ðấng Cứu Thế không đến giải thoát mình? Sao Người để cho sứ giả của Người mòn mỏi trong tù? Sao Người để cho bạn hữu bị khinh miệt cười chê? Và Gioan nghi ngờ: hay Người không phải là Ðấng Cứu Thế. Bị giam cầm, bị ngược đãi, Gioan còn có thể chịu được. Nhưng mối nghi ngờ gặm nhấm, thiêu đốt tâm hồn ông. Ông e sợ mình đã lầm đường, lầm người. Không nén lòng được, ông đã sai môn đệ đến hỏi thẳng Ðức Giêsu: “Ngài có phải là Ðấng Cứu thế, hay chúng tôi phải chờ đợi một Ðấng khác?” Câu hỏi táo bạo nhưng quan trọng, vì nó quyết định cả ý nghĩa cuộc đời Gioan.
Trước câu hỏi ấy, Ðức Giêsu không trả lời trực tiếp. Nhưng chỉ yêu cầu các sứ giả về thuật lại cho Gioan những việc Người làm: “Cho kẻ mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi lành lặn, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”.
Với câu trả lời ấy, Ðức Giêsu nhắc Gioan nhớ lại lời sấm của I-sa-i-a về Ðấng Cứu Thế. Ðồng thời cũng thanh luyện cái nhìn của ông về dung mạo Ðấng Cứu Thế.
Ðấng Cứu Thế không phải là vị vua oai phong từ trời ngự xuống trên đám mây. Nhưng chỉ là một hài nhi bé nhỏ xuất hiện giữa loài người như một mầm cây bé bỏng.
Ðấng Cứu Thế không phải là vị vua sang trọng ngự trong cung điện nguy nga. Nhưng chỉ là anh thợ mộc nghèo khó sống trong một làng quê hẻo lánh.
Ðấng Cứu Thế không phải là vị quan toà oai nghiêm thở ra khói, hét ra lửa. Nhưng chỉ là một lương y hiền từ đến chữa lành những vết thương, an ủi những ai ưu sầu, nâng đỡ người yếu đuối, tha thứ kẻ tội lỗi.
Ðấng Cứu Thế không đến trong vinh quang huy hoàng, trong chiến thắng rực rỡ. Nhưng chỉ âm thầm và tình nghĩa như một người bạn thân thiết.
Ðấng Cứu Thế không đến trong hàng ngũ những người quý phái có địa vị cao trọng trong xã hội. Nhưng lui tới với những người bé nhỏ nghèo hèn, những thành phần bị gạt ra bên lề xã hội.
Anh chị em thân mến.
Vâng! Chính Gioan Tẩy Giả mà còn nuôi trong đầu hình ảnh về một Đấng Messia đầy uy quyền sẵn sàng xét xử và trừng trị kẻ gian ác, huống chi chúng ta. Xét cho kỹ thì có lẽ chúng ta cũng thích hình ảnh về một Thiên Chúa uy quyền, một Giáo Hội hiển hách hơn là một Thiên Chúa cúi xuống mà phục vụ cũng như một Giáo Hội nhiều khi bị lép vế. Chính vì thế mà chúng ta thích khoe với người khác về cách tổ chức, về những hoạt động, những thành tích v.v. của đạo. Chúng ta tưởng rằng, làm như thế thì người ta sẽ mến yêu và kính trọng Thiên Chúa và Giáo Hội của chúng ta hơn.
Nhưng Đức Giêsu thì lại không muốn thế: Thiên Chúa mà Ngài trình bày cho mọi người là một Thiên Chúa nhân từ, yêu thương, tha thứ. Ngài muốn cho người ta thấy Ngài là Đấng cứu nhân độ thế giàu lòng yêu thương. Mà quả thật, những hình ảnh loại này mới có sức cảm hóa và thuyết phục người ta.
Nói một cách cụ thể hơn, thay vì phô trương cho người ta thấy những nét huy hoàng của đạo, thay vì cãi nhau với người ta để tôn Giáo Hội lên, chúng ta hãy cho người ta thấy rằng, chúng ta và Giáo Hội chúng ta đang tha thiết muốn làm cho kẻ điếc được nghe, kẻ mù được thấy, kẻ què được đi, người bệnh được khoẻ, kẻ nghèo được ấm no, người khổ được an ủi v.v. Chúng ta có thể làm những việc đó qua đời sống của chúng ta.
Một nhà truyền giáo, lần đầu tiên đến Trung Hoa, giảng về Chúa Giêsu cho một nhóm dân bản địa. Khi ngài kết thúc, một người nói:
– Phải, chúng tôi đã biết ngài. Ngài đã sống ở đây.
Nghe thế, nhà truyền giáo liền nói:
– Không, Đức Giêsu sống ở nước khác, cách đây gần 2000 năm rồi.
Nhưng những người đó vẫn khăng khăng bảo:
– Chúng tôi đã thấy Chúa. Chúa đã sống trong làng này. Chúng tôi biết Ngài.
Rồi ông dẫn nhà truyền giáo đến nghĩa trang và chỉ cho nhà truyền giáo thấy ngôi mộ của một nhà truyền giáo khác, đã từng sống với họ, phục vụ họ và cuối cùng, an giấc nơi cộng đoàn của họ.
Mẹ Têrêsa đã có lần nói: “Hãy mở lòng, để Thiên Chúa làm thấm nhuần tấm lòng bạn bằng tình yêu thương. Chúa yêu thương bạn với tình yêu dịu hiền. Những gì Chúa ban tặng không phải để bạn giữ lấy và khoá kỹ, nhưng để bạn cho đi.”
Chính mẹ là người đã cho thế giới thấy rõ hình ảnh về Đấng Messia luôn quan tâm đến việc cứu giúp những kẻ khốn khổ. Tiếc thay là mẹ Têrêsa không còn nữa! Thế giới thì vẫn luôn cần có những người như mẹ. Ước gì Chúa ban cho Giáo Hội những Têrêsa Calcutta khác. Và ước gì mỗi người chúng ta cũng là một Têrêsa Calcutta cho thế giới hôm nay.
“Hay là chúng tôi phải đợi một Đấng Messia khác?”(Lc 7,20)
Ngày xưa, Gioan đã sai môn đệ ông hỏi Chúa như thế. Ngày hôm nay có lẽ cũng có nhiều người muốn hỏi Giáo Hội như vậy? Hay là chúng tôi còn phải đợi một Giáo Hội khác?
Vâng nếu Giáo Hội hôm nay không là một Giáo Hội cứu nhân độ thế, thì người ta sẽ đi tìm Đấng cứu nhân độ thế ở chỗ khác. Nếu cộng đoàn của tôi không phải là một nơi cứu nhân độ thế, thì người ta sẽ tìm đến những chỗ khác. Nếu tôi không phải là một người cứu nhân độ thế, thì dù tôi là Linh mục, tu sĩ hay Kitô hữu, tôi cũng chẳng có giá trị gì cho người mong đợi ở tôi và người ta sẽ đi tìm một người khác.
Trong quyển tự thuật Mahatma Gandhi, cha đẻ của chủ trương tranh đấu bất bạo động và là người đã giải phóng Ấn Độ khỏi ách thống trị của người Anh, người ta được biết: Trong những ngày còn là sinh viên, ông đã đi lại khá nhiều tại Nam Phi. Ông đã say mê đọc Kinh Thánh và vô cùng cảm kích về bài giảng trên núi của Chúa Giêsu. Chính Tám Mối Phúc Thật đã gợi hứng cho chủ trương tranh đấu bất bạo động của ông.
Mahatma Gandhi xác tín rằng, Kitô giáo là giải pháp cho mối ung nhọt phân chia giai cấp đang đục khoét xã hội Ấn từ bao thế kỷ qua. Ông đã nghĩ đến chuyện gia nhập vào Giáo Hội. Thế nhưng, ngày nọ, khi đến nhà thờ để dự lễ và để đón nhận vài lời chỉ dẫn, ông đã phải thất vọng. Ông vừa vào đến cửa nhà thờ thì những người da trắng đã chặn ông lại và nói với ông rằng, nếu ông muốn tham dự thánh lễ thì hãy tìm đến một nhà thờ dành riêng cho người da màu mà dự.
Mahatma Gandhi đã ra khỏi nhà thờ và từ đó trở đi ông đã không bao giờ trở lại bất cứ nhà thờ nào nữa.
Thế là Chúa mất đi một tín đồ nhiệt thành. Người ta nói rằng, nếu hôm đó ông được đối xử một cách nhân từ và rộng lượng thì ngày nay cả nước Ấn Độ có lẽ đã được biết Chúa.
Nhưng tiếc thay! Đã quá muộn.
Chúng ta xin cho chúng ta biết sống một cuộc sống như Chúa để thành chứng nhân cho Chúa trong thế giới hôm nay.
Lạy Chúa xin cho chúng con trở thành những cánh tay nối dài của Chúa. Amen.
Chúa nhật III mùa vọng được gọi là Chúa nhật hồng. Đây là Chúa nhật của niềm vui vì giờ MV 3-A168
Chúa nhật III mùa vọng được gọi là Chúa nhật hồng. Đây là Chúa nhật của niềm vui vì giờ cứu độ đã gần kề. Giờ của hân hoan, của hy vọng vì đã tới ngày Thiên Chúa viếng thăm và cứu chuộc dân Người.
Khởi đầu lời nguyện nhập lễ, mẹ Giáo hội dẫn chúng ta vào chính niềm vui thánh thiện ấy: “Lạy Chúa, xin đoái xem, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả, để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề.
Xưa kia, dân tộc Do thái sống trong cảnh lưu đầy cơ cực, đêm ngày họ khao khát mong chờ Đấng cứu Độ đến giải thoát, thì Thiên Chúa dùng miệng Tiên tri Isaia loan báo cho họ thấy, ngày Thiên Chúa đến, Ngài sẽ giải thoát chúng ta khỏi sự khô cằn chết chóc, như hoang địa đón được mùa mưa, như cây cối mong chờ mùa xuân ấm áp, trổ sinh hoa lá mới và đem lại hương sắc và hồi sinh cho trái đất. Thì ngày Thiên Chúa đến, Ngài cũng sẽ biến những tâm hồn khô cằn thành mảnh đất màu mỡ, biến cuộc đời héo tàn trổ sinh hoa lá mới.
Vị Tiên tri còn cho thấy niềm vui sâu xa mà Thiên Chúa mang đến. Ngài đến không phải để kết án. Ngài không bẻ gãy cây lau bị dập. Ngài là Thiên Chúa của yêu thương, khi Người đến, mắt người mù sẽ nhìn thấy, tai người điếc được nghe, người câm nói được và người què nhảy nhót như nai. Ngài là hoàng tử của bình an và hoan lạc. Ngài đến để giải thoát con người khỏi những ràng buộc của tội lỗi. Ngài giúp con người khống chế những thói hư tật xấu để sống tràn đầy niềm vui và bình an.
Thánh Phaolô cũng ngõ lời với các tín hữu thời sơ khai: “Anh em hãy vui lên, hãy vui lên trong niềm vui ơn cứu độ, vì Chúa sắp đến rồi” (Pl 4,4).
Và đỉnh cao của niềm vui này, chính là trong đêm Chúa giáng sinh, đạo binh các thiên thần từ trời xuống hát mừng và loan tin vui cho các chú Mục đồng: “Đây ta báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân, đêm nay Đấng cứu độ đã giáng sinh cho chúng ta” (Lc 2, 10).
Như vậy, Đức Giêsu chính là niềm vui mà Thiên Chúa Cha đã ban cho nhân loại. Niềm vui của một vị Thiên Chúa vì xót thương nhân loại, nên đã hạ cố xuống trong lòng nhân thế, tên Ngài là Emmanuel.
Trong niềm vui này, Mẹ Maria là người diễm phúc đón nhận đầu tiên, khi tổng sứ thần Gabriel loan báo trong buổi truyền tin: “Mừng vui lên! Hỡi Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Bà” (Lc 1, 28). Khi đón lấy niềm vui Giêsu trong lòng, Mẹ Maria liền cất lên lời ca tụng” Tâm hồn tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa là Đấng cứu độ tôi” (Lc 1, 46).
Rồi ngay từ trong lòng thân mẫu, Gioan tẩy giả cũng vui mừng trước Đấng cứu độ. Ông vui vì được làm tiền hô cho Đấng Cứu thế. Ông vui được làm người đi trước dọn đường để Đức Giêsu mang ơn cứu độ đến.
Thế nhưng, niềm vui không được tròn đầy, chỉ vì dám nói thẳng nói thật vạch tội loạn luân của vua Hêrôđê, mà Gioan bị bắt giam trong ngục. Ngồi trong tù, nghe các môn đệ của mình đến thắc mắc về những việc lạ lùng Đức Giêsu đang thực hiện, thì Gioan đã cử hai người đến gặp Đức Giêsu và hỏi xem Ngài có phải là Đấng Thiên Sai không?.
Các nhà chú giải Kinh thánh giải thích rằng: Gioan tẩy giả sai các môn đệ đến hỏi Đức Giêsu là vì ngài muốn chứng minh cho các môn đệ của mình hiểu rõ hơn về sứ mạng của Đức Giêsu, để rồi họ dám tạm biệt Ông mà đi theo Đức Giêsu.
Anh chị em thân mến,
Khi được cưu mang niềm vui Giêsu trong lòng, Mẹ Maria không giữ riêng cho mình, nhưng vội vả lên đường mang niềm vui đó đến chia sẻ cho người khác.
Gioan tẩy giả cảm nghiệm được niềm vui Giêsu, ông không giữ riêng cho mình, nhưng ra đi loan tin vui rao giảng sự sám hối, chuẩn bị cho dân chúng đón nhận niềm vui là chính Đức Giêsu.
Các Mục đồng khi đến máng cỏ Bêlem gặp thấy Hài Nhi Giêsu, họ trở về tung hô ca ngợi Chúa, về tất cả những gì họ đã nghe và xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.
Chúng ta cũng vậy, mỗi khi rước lấy Chúa Giêsu Thánh Thể trong lòng, noi gương Mẹ Maria; bắt chước Gioan Tẩy giả và các chú Mục đồng, là hãy mang niềm vui Giêsu, đi chia sẻ cho những người chúng ta gặp gỡ.
Tiếp tục sống tinh thần sám hối của Mùa Vọng, mỗi người chúng ta hãy dọn cho Chúa Hài đồng một máng cỏ tâm hồn, được đan kết bằng những cọng rơm của lòng sám hối cải thiện đời sống. Cùng đắp cho Chúa Hài Đồng tấm khăn được dệt bằng những việc làm bác ái, hi sinh…
Chúng ta cầu nguyện cho nhau, xin Chúa ban cho chúng ta cảm nghiệm được niềm vui có Chúa ở cùng ở với chúng ta, để rồi chúng ta cũng biết chia sẻ niềm vui ấy cho những người khác ngay trong môi trường sống của mình. Amen.
Càng lúc Giáo hội càng tiến gần tới ngày lễ Giáng sinh, lời Chúa càng thôi thúc và vang lên những MV 3-A169
Càng lúc Giáo hội càng tiến gần tới ngày lễ Giáng sinh, lời Chúa càng thôi thúc và vang lên những lời mời gọi vui mừng vì Chúa sắp đến để ban tặng cho con người vinh quang Thiên Chúa, sự hiện diện gần gủi của Thiên Chúa. Sứ điệp cứu độ đầy tràn vui mừng hân hoan vang lên thôi thúc nhắc nhớ lại những lời hứa năm xưa cho đoàn dân đang sợ hãi vì quân thù đe doạ, họ không phải sợ hãi gì bởi vì Thiên Chúa sẽ đến với họ để bảo vệ, gìn giữ họ, ngay cả bênh vực họ chống với quân thù : “Hãy can đảm lên, đừng sợ hãi! Kìa Thiên Chúa các ngươi sẽ đem lại điều báo ứng; chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ các ngươi.”
Tâm tình của Chúa nhật tuần này gợi lại tâm tình của thánh Gioan tẩy giả, người tiền hô nhiệt thành của Đấng cứu thế. Hơn ai hết, Gioan là người chờ đợi Đấng cứu thế mà ông đã mô tả đầy quyền năng và sẽ hành động mạnh mẽ quyết định. Nhưng hiện nay, cung cách hành động của Đấng cứu thế làm ông kinh ngạc và hoang mang. Đấng cứu thế hiền lành làm bạn với những người tội lỗi, thăm viếng an ủi chữa lành những người bệnh tật. Từ trong tù, ông sai các môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu: “Thầy có phải là Đấng phải đến hay chúng tôi còn đợi Đấng nào khác?”. Chúa Giêsu đã trả lời cho các sứ giả của Gioan bằng cách nhắc lại lời tiên tri xưa: người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại và Tin mừng được rao giảng cho người nghèo. Chúa Giêsu đã thực hiện một đường lối cứu thế mới mẻ và phù hợp với những lời loan báo của các tiên tri. Đấng cứu thế không đánh đuổi quân thù, không trừng phạt những người tội lỗi mà lại chữa lành những bệnh tật, thương tích của con người để làm cho họ được tự do và hạnh phúc thực sự, được cảm nếm ơn chữa lành, giải thoát và cứu độ của Thiên Chúa. Gioan không phải là người đặt kỳ vọng nơi những thành quả vang dội của Đấng cứu thế, nhưng ông cũng là một con người với tầm nhìn giới hạn đứng trước điều mới mẻ đầy tràn sức mạnh Thánh Thần của Đấng cứu thế, và ông đã ra đi như một con người đã làm chứng với cái chết trung tín của một con người mạnh mẽ và khiêm tốn cho Đấng cứu thế. Điều mới mẻ của Đấng cứu thế sẽ định hướng cho niềm vui và chờ đợi của chúng ta. Người không đến để hoàn toàn ủng hộ cho những dự định trần thế của chúng ta, nhưng người lại đến với những lời nói và những việc làm hoàn toàn mới mẻ bất ngờ để soi sáng cho con đường mà chúng ta đang đi, để định hướng cho những chọn lựa và thái độ sống của chúng ta. Cũng như Gioan tẩy giả, chúng ta được mời gọi tin tưởng, nhìn những gì người đã làm và lắng nghe những gì người dạy bảo. Đấng cứu thế hoàn toàn vượt quá những gì chúng ta có thể hình dung theo cái nhìn hạn hẹp của mình. Chúng ta chỉ có thể thực sự hiểu người với lòng tin tưởng tuyệt đối, dù cho cung cách hành động của người khác với cách hành động của chúng ta. Lời người rao giảng khác với những gì chúng ta chờ đợi, không đặt chúng ta trong vị trí của những người đang vui mừng vì thành công hay đang có sức mạnh chiến thắng, đang được hạnh phúc sung sướng vì có của cải vật chất đầy đủ nhưng lại thúc đẩy chúng ta biết sống khiêm nhường và phục vụ, biết hy sinh chính mạng sống của mình, biết tha thứ hoàn toàn cho kẻ thù, dám chấp nhận mất mát ngay chính sự sống của mình.
Bi kịch của Gioan cũng chính là bi kịch của chúng ta ngày nay, của niềm hy vọng đặt vào Đấng cứu thế của chúng ta. Chúng ta chờ đợi một Đấng cứu thế làm phép lạ để chữa lành những bệnh tật, giải thoát chúng ta khỏi những đau khổ đang đè nặng đời sống vì nợ nần, mất mát của cải tài sản, vì bao nỗi buồn ám ảnh thân phận của mình vì bị phản bội trong tình yêu, để ban cho chúng ta mọi của cải giàu có hạnh phúc của một đời sống vật chất đầy đủ. Thế nhưng, mùa vọng với biết bao lời hứa vang dội tốt đẹp lại làm chúng ta chờ đợi mòn mõi hoang mang không nhìn thấy hòa bình hạnh phúc rõ rệt. Chúa Giêsu vẫn trả lời như đã trả lời cho Gioan tẩy giả đang ở trong tù, mời gọi ông nhìn vào những gì Người đang làm. Sức mạnh chữa lành và thay đổi thân phận con người của Đấng cứu thế vẫn đang thực hiện cách âm thầm nhưng mạnh mẽ trong thế giới. Câu trả lời của Chúa Giêsu cho Gioan tẩy giả thúc đẩy chúng ta có một khám phá mới về Đấng cứu thế, người không đến để chúc lành cho những sáng kiến của chúng ta, người không nhất thiết đã nói thuận lợi cho những xác tín của chúng ta. Người đến với những lời rao giảng hoàn toàn mới mẻ để soi sáng cho hành trình mà chúng ta đang đi, để định hướng và ban tặng cách quyết định cho hành trình này đạt đến cùng đích của nó. Chúng ta được mời gọi cùng với Gioan tẩy giả có hiểu biết mới mẻ về Đấng cứu thế tràn đầy Thánh Thần và tràn đầy sức mạnh và khôn ngoan này của Thiên Chúa mà chúng ta chỉ có thể hiểu biết dựa trên lòng tin vào Lời của người.
Mùa Vọng mời gọi chúng ta định hướng cuộc đời theo Đấng cứu thế dù khi cung cách hành động, lời người rao giảng khiến chúng ta phải ngạc nhiên ngỡ ngàng. Người không đến để mang lại cho chúng ta mọi điều mình ao ước hay chờ đợi nhưng người thực sự mang lại những điều lớn hơn cả những gì chúng ta đang chờ đợi. Niềm hy vọng và niềm vui của mùa Vọng là như thế, đây là sức mạnh cứu độ của Thiên Chúa đang triển khai, vượt mọi tầm nhìn hay hiểu biết giới hạn của con người, xuyên qua con đường của sự khó nghèo, hiền lành, tha thứ, phục vụ và dám chấp nhận mọi mất mát đau khổ trong cuộc đời hiện tại. Mùa Vọng thúc đẩy chúng ta sống giây phút hiện tại cách trọn vẹn, không phải là để chúng ta biết được ngày hay giờ của Con người, giờ Chúa đến viếng thăm nhưng thúc đẩy chúng ta sống giây phút hiện tại với một trái tim khai mở cho điều mới mẻ của Thiên Chúa, cho sức mạnh cứu độ của Thiên Chúa. Mùa Vọng làm cho chúng ta biết hy vọng và tin tưởng giữa bao nghịch cảnh và đau khổ. Hoa trái của lòng tin tưởng Mùa Vọng này vào Thiên Chúa là Đấng cao cả lớn lao hơn những dự tính nhân loại của chúng ta. Ngay cả đón nhận sự giáng sinh khó nghèo của hài nhi trong máng cỏ như là sức mạnh của Thiên Chúa, đón nhận sự thiếu thốn mọi phương tiện vật chất như là sự giàu có của Thiên Chúa, đón nhận sự bỏ rơi khinh bị của mọi người như là dấu chỉ của Nước Thiên Chúa đang đến, giải thoát con người khỏi mọi thái độ chiếm hữu của cải. Cuối câu trả lời của Chúa Giêsu có một câu nói đáng làm cho chúng ta ngạc nhiên. Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng Gioan quả thực là một người tiền hô của Đấng cứu thế vì Gioan đã sống một đời sống khắc khổ xứng đáng, Gioan đã chu toàn sứ vụ của mình cách hoàn hảo. Nhưng Chúa Giêsu cũng nói thêm: “Trong con cái người nữ sinh ra, chưa từng có ai cao trọng hơn Gioan tẩy giả, nhưng người nhỏ nhất trong Nước trời còn cao trọng hơn ông”. Đây sẽ là một tiêu chuẩn đánh giá mới mẻ và đảo lộn khi Chúa Giêsu đưa ra một cái nhìn mới. Đối với cái nhìn thông thường, Gioan là người cao trọng bởi vì ông đã chu toàn trọng trách của người rao giảng sự sám hối để đón nhận Đấng cứu thế. Nhưng từ nay, với sự xuất hiện của Đấng cứu thế, sẽ xuất hiện thế hệ những con người mới cao trọng vượt mọi đánh giá của chúng ta. Đó là những con người mới mà đôi khi chúng ta coi thường nhưng lại được Chúa Giêsu yêu mến, đó là những người nghèo, những người hiền lành, những người đói khát, những người trong sạch, những người bị bắt bớ, họ quả thực là những người lớn lao trong nước Trời, bởi vì họ là những người đã đáp ứng những tiêu chuẩn mới mẻ của Nước Thiên Chúa mà Đức Giêsu tôn vinh.
Chúa nhật III Mùa Vọng được gọi là Chúa nhật mầu hồng nhắc nhở chúng ta hướng về ngày Chúa MV 3-A170
Chúa nhật III Mùa Vọng được gọi là Chúa nhật mầu hồng nhắc nhở chúng ta hướng về ngày Chúa Quang lâm :”Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa Quang lâm đã gần tới”(Gc 5,8). Chúa đã đến và Ngài sẽ lại đến. Việc Ngài đến làm cho chúng ta phải ngóng đợi. Chúng ta không biết khi nào Ngài đến, nên chúng ta phải kiên tâm chờ đợi. Giáo hội là Mẹ chúng ta, muốn dùng Phụng vụ Chúa nhật III Mùa Vọng để giúp chúng ta nghe lại sứ điệp hy vọng.
Đời là một cuộc chiến đấu không ngừng. Con người phải gặp biết bao gian lao thử thách trên đường đời, những đau khổ hằng ngày có thể làm cho chúng ta nản lòng bỏ cuộc. Vì thế, thánh Giacôbê, trong bài đọc 2, đã khuyên các tín hữu hãy kiên tâm bền chí chờ ngày Chúa Quang lâm giải thóat. Hãy học đòi những người nhà nông chờ đợi cho đất trổ sinh hoa mầu, nghĩa là phải kiên tâm chịu đựng mọi gian khổ, đừng nóng lòng vội vã mà nản lòng vì “dục tốc bất đạt”.
Vậy chúng ta hãy hướng tâm hồn tới niềm vui, và niềm vui này sẽ biến đổi những thực tại trần gian. Cuộc đời còn lắm chông gai nhưng chúng không biến thành trở ngại khiến chúng ta chùn bước khi đã có một niềm tin vững mạnh và niềm vui tràn đầy. Chúng ta hãy tiến bước trong hân hoan với tư cách là con cái Chúa, Đấng là nguồn vui và hy vọng của chúng ta. Tuy vậy, niềm vui đó hiện nay vẫn còn là niềm vui chờ đợi.
B.TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
Bài đọc 1 : Is 35,1-10.
Dân Do thái sống trong đau khổ, bị áp bức đủ bề. Dân mong đợi được giải thóat, nhưng hy vọng bị coi như ảo tưởng vì tương lai mù mịt, không có một chút ánh sáng nào cuối đường hầm. Dân chúng chán nản thất vọng. Lúc đó, tiên tri Isaia xuất hiện, khuyên dân chúng hãy vui lên , hãy can đảm lên vì “Thiên Chúa anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em”
Tiên tri cho biết :”Những người được Đức Chúa giải thóat sẽ trở về, tiến đến Sion giữa tiếng hò reo, mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu. Họ sẽ được hớn hở tươi cười, đau khổ và khóc than sẽ biến mất”. Lời loan báo này giúp cho dân chúng lấy lại được hy vọng, hãy kiên nhẫn chờ đợi và hãy vui lên.
Bài đọc 2: Gc 5,7-10.
Trong bài đọc 1, tiên tri Isaia nói lên những điều hứng khởi và thi vị, còn trong bài 2, thánh Giacôbê xem ra nói những lời bình dân hơn. Ngài khuyên tín hữu hãy noi gương các người nhà nông cứ giao việc lo toan mùa lúa chín vàng cho thời gian, để khuyên chúng ta sống kiên nhẫn chờ đợi.
Thánh nhân nói với những người dân thường, với những người đang bị cuộc đời thử thách, Ngài khích lệ họ kiên nhẫn chịu đựng những âu lo và khó nhọc hiện tại. Kiên nhẫn theo Tin mừng không phải là nhẫn nhục cằn cỗi, nhưng nó là hy vọng tích cực và sinh động, luôn tìm cách làm cho ngày của Chúa chóng đến. Trong khi chờ đợi Chúa đến, anh em cố sống thuận hòa với nhau.
Bài Tin mừng : Mt 11,2-11.
Bẵng đi một thời gian khá dài, khỏang 800 năm, bỗng một tiên tri siêu đẳng xuất hiện, ăn châu chấu, uống mật ong rừng, mình mặc áo da thú, rao giảng đanh thép, thúc giục mọi người hóan cải tâm hồn. Thiên hạ nô nức tuốn đến nghe Gioan giảng, chịu phép rửa và có nhiều người coi ông là Đấng Cứu Thế.
Gioan đã biết ai là Đấng Cứu Thế rồi, nhưng môn đệ ông cứ tin tưởng ông là Đấng Cứu Thế. Nên ông kín đáo sai họ đến với Đức Giêsu để cho họ mở mắt ra và tin theo Chúa Cứu Thế. Ông sai họ đến và hỏi Đức Giêsu:”Thầy có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác”? Đức Giêsu không trả lời trực tiếp Ngài là ai mà chỉ bảo họ về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe, những phép lạ Chúa làm như người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ chết chỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin mừng, đúng như lời tiên tri Isaia đã báo trước về Đấng Cúu Thế.
Ông Gioan đã khôn khéo giới thiệu Đức Giêsu cho môn đệ ông biết Ngài là Đấng Cứu Thế muôn dân trông đợi và đã chuyển tòan bộ môn đệ mình sang cho Đức Giêsu. Ông sai họ đến với Ngài, giới thiệu Ngài cho họ, trước khi đầu ông bị bỏ vào đĩa.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
I. NHỮNG THẮC MẮC VÀ GIẢI ĐÁP.
Gioan, vị Tiền hô xuất hiện.
Gioan là con thượng tế Zacharias thời ấy đứng vào hàng quí phái, là con một được sinh ra trong tuổi già của cha mẹ, nên được cưng chiều hết cỡ. Nhưng khi đến tuổi trưởng thành. Gioan đã tự ý từ giã cha mẹ đi vào sa mạc dọn lòng thi hành sứ mạng Tiền hô. Phần lớn đời sống Ngài ẩn dật trong sa mạc. Sống trong sa mạc đồng nghĩa với khổ hạnh. Ngòai sự khắc nghiệt của thời tiết, sự hoang vu cô tịch, sự đe dọa của thú dữ, Gioan còn tự nguyện sống khó nghèo, đơn sơ, đạm bạc. Y phục của Ngài chỉ là mảnh da thú quấn quanh thân thể. Thức ăn của Ngài là châu chấu và mật ong rừng, và bạn hữu của Ngài chỉ là muông chim cầm thú. Thiên hạ tìm đến cùng Ngài, kẻ xin làm môn đệ, người xin làm phép rửa để tỏ lòng ăn năn thống hối (Lc 3,7-8).
Trên dòng sông Giorđan có một khúc cạn nước, cách Biển Chết không xa. Như người ta còn ghi nhớ, đây là chỗ băng qua sông thuận tiện cho các đòan tuần hành có xe ngựa kéo, các thương buôn và các du khách từ khắp nơi trên thế giới. Đây cũng là chỗ đại chúng thường gặp gỡ nhau để trao đổi đủ thứ tin tức từ khắp mọi nơi. Chính tại chỗ này, Gioan Tẩy giả đã rao giảng và rửa tội cho dân chúng. Ông cũng bận áo da thú như các tiên tri thuở xưa. Và đám dân bắt đầu thắc mắc :”Ông này là ai vậy ? Ông ta có phải là Đấng Messia được Thiên Chúa hứa không ? Hay ông là vị sứ giả dọn đường cho Đấng Messia” ?
Đang lúc Gioan được danh giá và hoan nghênh tột bậc thì Đức Giêsu xuất hiện. Và bài Tin mừng hôm nay sẽ soi sáng cho chúng ta để hiểu được những thắc mắc ấy.
Gioan thắc mắc.
Như chúng ta thấy trong Chúa nhật vừa qua, Gioan Tiền hô không ngừng loan báo Đấng Cứu Thế sẽ đến, “sức mạnh của Ngài giáng xuống” như sấm sét. Nhưng thái độ của Đức Giêsu rất không phù hợp với những lời khuyên bảo nghiêm khắc của ông. Không hề có ý định tiêu diệt những người tội lỗi, Ngài đi từ làng này sang làng khác, mở rộng đôi tay đón nhận tất cả những cảnh khốn khổ cùng quẫn của con người, chữa lành bệnh nhân, tha thứ tội lỗi, kêu gọi một người thu thuế bước theo Ngài, đồng bàn với những người tội lỗi. Khác xa với vị quan tòa đáng sợ mà Gioan đã loan báo, Đức Giêsu xuất hiện như người tôi tớ kín đáo, người ta không nghe tiếng Ngài trong quảng trường, Ngài không bẻ gẫy cây sậy bị giập nát và không làm tắt tim đèn còn bốc khói.
Ở đây Gioan đối đầu với cớ vấp phạm nghĩa là đối đầøu với một chướng ngại có nguy cơ làm ông sụp ngã. Một Đấng Cứu Thế Tôi Tớ, khiêm nhường và đau khổ, khác xa vớùi Đấng mà ông đã loan báo. Đó là thử thách đức tin của ông, đang chờ đợi một sự biểu lộ công bình, thì ông lại gặp lòng thương xót của Thiên Chúa.
Vì thế, từ trong tù ngục Machéronte, từ đáy suy tư mà hòan cảnh đã nhận chìm ông vào, Gioan, vị tiên tri bị hoang mang, đã sai các môn đệ đến đặt cho Đức Giêsu câu hỏi từ lâu thiêu đốt tâm hồn và môi miệng ông :”Thầy có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi con phải chờ đợi Đáng nào khác”.
Tuy nhiên, một số người cho rằng câu hỏi đó không phải cho Gioan mà cho các môn đệ của ông. Có thể Gioan đàm đạo với các môn đệ của ông ở trong tù, họ hỏi ông là Đức Giêsu có thật là Đấng phải đến không ? Gioan bảo họ : Nếu các ngươi nghi ngờ Đức Giêsu là ai thì hãy đi xem Ngài đang làm gì, và có thể làm được những gì, lúc đó các ngươi sẽ hết nghi ngờ ngay. Ý kiến này được xác nhận khi Gioan chỉ vào Đức Giêsu mà nói với các môn đệ của ông :”Chính Ngài là Đấng ta đã nói : Đấng đến sau tôi đã vượt trước tôi, vì Ngài đã có trước tôi (Ga 1,15). Tôi chưa hề biết Ngài, nhưng Đấng đã sai tôi đến thanh tẩy bằng nước, chính Ngài đã nói với tôi : ngươi thấy Thánh Thần đáp xuống và lưu lại trên ai thì chính Ngài là Đấng thanh tẩy trong Thánh Thần. Và tôi đã được xem thấy, và xin đoan chứng : chính Ngài là Đấng Thiên Chúa chọn”(Ga 133-34).
Đức Giêsu giải đáp.
Đức Giêsu không trực tiếp trả lời cho phái đòan Gioan về thắc mắc trên nghĩa là Ngài không khẳng định cũng không phủ định Ngài là Đấng Cứu Thế muôn dân trông đợi mà cứ xem việc Ngài làm mà kết luận :”Các ngươi cứ về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe : người mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin mừng”(Mt 11,4-5).
Đếán đây, chúng ta nhớ lại lời loan báo của tiên tri Isaia khi ông loan báo về ngày của Thiên Chúa trong bài đọc 1 hôm nay. Trong ngày Thiên Chúa đến ban ơn cứu độ thì “Bấy giờ mắt người mù sẽ mở ra, và tai người điếc sẽ được nghe. Bấy giờ người què sẽ nhảy lên như nai, và lưỡi người câm sẽ reo lên vui mừng ! bởi vì, nước sẽ chảy vọt ra trong hoang địa và thác sẽ trào dâng trong thảo nguyên”(Is 35,5-6). Và giờ đây, những điều đó đang được ứng nghiệm nơi Đức Giêsu, thì điều đó là một minh chứng tỏ tường : Đức Giêsu chính là Đức Messia mà Thiên Chúa đã hứa. Ngài chính là vị Thiên Chúa ở giữa nhân lọai, ở giữa chúng ta.
Và sau cùng là lời cảnh cáo :”Phúc cho kẻ nào không vấp phạm vì Ta”(Mt 11,6). Phải chăng Đức Giêsu nói điều này với Gioan vì Gioan chỉ nắm có phân nửa chân lý. Gioan rao giảng Tin mừng về sự thánh thiện với sự hủy diệt từ trời, còn Đức Giêsu rao giảng Tin mừng về sự thánh thiện với sự yêu thương từ trời. Vì vậy Đức Giêsu nói với Gioan rằng “có thể Ta không làm điều ngươi trông đợi nơi Ta, nhưng những quyền năng đang bị đánh bại không phải bởi sức mạnh vô địch mà bởi tình yêu vô hạn”.
“Phúc cho kẻ nào không vấp ngã vì Ta” hay “Phúc cho những kẻ nào không đánh mất niềm tin vào Ta”, qua câu này Đức Giêsu có ý khuyên những người nghe Ngài giảng đừng bất bình với lối cư xử của Ngài. Ở đây Ngài có ý nhắc đến sự chậm tin của các môn đệ Gioan và của mọi người khác. Ngài thật là Đấng Thiên Sai, vậy đừng vì những vẻ bề ngòai : con bác thợ mộc, sống nghèo khó, đón tiếp kẻ tội lỗi, chết đau thương trên thập giá… mà vấp phạm, không tin vào vai trò cứu thế của Ngài.
II. CHỜ ĐỢI TRONG KIÊN NHẪN.
Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay đều có những lời đầy an ủi. Trong bài đọc 1, tiên tri Isaia nói “Hãy can đảm lên, đừng sợ”. Trong bài đọc 2, thánh Giacôbê nói “Hãy kiên nhẫn, đừng nản lòng”. Trong bài Tin mừng Đức Giêsu nói với Gioan Tẩy giả “Phúc cho những người nào không đánh mất niềm tin vào Ta”.
Dân Do thái bị lưu đầy bên Babylon suốt 70 năm, thời gian trở nên dài lê thê đối với họ vì “nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngọai”, dân chúng đã thấy chán nản và tuyệt vọng vì không còn lối thóat, chân trời tương lai còn mịt mờ. Nhưng tiên tri Isaia xuất hiện đem chút ánh sáng đến cho đêm tối. Dân Chúa được ví như hoang địa cằn cỗi, sẽ bừng lên niềm hy vọng tựa hồ dân trước viễn ảnh một cuộc xuất hành mới. Isaia thấy được sự huy hòang ấy và lên tiếng kêu gọi dân Chúa.
Chính chúng sẽ nhìn thấy vinh quang của Chúa và huy hòang của Thiên Chúa chúng ta. Chúa đến giữa dân Ngài, dẫn đầu một cuộc xuất hành và những bàn tay rời rã nên mạnh mẽ, đầu gối mỏi mòn được tăng sức, người sợ hãi thêm can đảm. Sự thay đổi lớn lao này có thể hiểu được khi Thiên Chúa ra tay cứu độ.
Việc dân Do thái được giải phóng khỏi ách nô lệ bên Babylon là hình ảnh Chúa sẽ đến giải thóat dân Ngài lần cuối cùng để đem lại niềm hoan lạc tuyệt đối cho con người. Nhưng thời đó chưa đến và cũng không biết bao giờ mới đến. Trong khi chờ đợi, chúng ta phải trải qua biết bao đau khổ, thử thách gian nan khốn khổ. Phật giáo gọi “đời là bể khổ”, theo kinh Lạy Nữ Vương thì chúng ta gọi “đời là thung lũng nước mắt”. Nhưng thánh Giacôbê khuyên :”Hãy kiên nhẫn, đừng nản lòng.
Thánh Gioan Tẩy giả là con người thánh thiện, kính sợ Thiên Chúa, tuy nhiên cuối cùng, ngài cũng bị cầm tù với bản án tử hình. Chúng ta có thể làm hết sức mình, nhưng những sự việc vẫn có thể diễn tiến không tốt. Chúng ta cảm thấy bị Thiên Chúa bỏ rơi. Chúng ta nghi ngờ tình yêu của Ngài đối với chúng ta, và có lẽ nghi ngờ cả sự hiện diện của Ngài nữa. Trong những lúc như vậy, chúng ta hãy lắng nghe những lời của Đức Giêsu :”Phúc cho những ai không đánh mất niềm tin vào Ta”.
Cái chết tạo ra một thử thách nghiêm khắc nhất đối với lòng tin của chúng ta. Chúng ta sống cuộc sống của mình dưới bóng tối của sự chết. Tất cả chúng ta, đặc biệt là đối với những người mới mất người thân yêu, và những người đang ở trong cảnh tối tăm, và sống trong bóng tối của sự chết, hãy nhớ lại tiên tri Isaia nói với dân Do thái :”Hãy can đảm lên, đừng sợ”.
Trong bài đọc 2, thánh Giacôbê khuyên tín hữu hãy kiên tâm chờ đợi ngày Chúa Quang lâm. Trong khi chờ đợi chúng ta phải kiên nhẫn và chịu đựng trong gian khổ. Trước mọi vấn đề quan trọng cần giải quyết, người ta chia thành hai hạng người khác nhau :
– Những người nóng vội : muốn giải quyết ngay tức khắc, bằng cách nào cũng được, kết quả thế nào cũng không quan trọng.
– Những người kiên nhẫn : tìm hiểu kỹ vấn đề, suy nghĩ cách giải quyết thỏa đáng nhất, chờ có đủ điều kiện thuận lợi nhất.
Phần Thiên Chúa, Ngài không nóng vội nhưng rất kiên nhẫn, bởi vì Ngài muốn cứu chữa tận căn, muốn cải tạo con người, muốn canh tân thế giới.
Truyện : Thần Shiva của Ấn độ.
Chuyện thần thọai Aán độ kể rằng : Shiva là vị thần tạo dựng muôn lòai. Ngài sung sướng trong công việc tạo dựng với đôi bàn tay của Ngài, nhưng dẫu là thần Ngài không tránh khỏi sự nhàm chán. Shiva chán ngán những gì Ngài tạo dựng. Phải làm gì ? Dễ dàng, Shiva phá hủy những gì đã tạo dựng và làm nên cái mới. Cái mới cũng lại dần trở nên quen thuộc và Ngài lại phá hủy rồi bắt đầu lại. Tiến trình tạo dựng, tiêu hủy, tạo dựng, tiêu hủy vẫn tiếp diễn liên tục. Shiva là vị thần không kiên nhẫn.
So sánh thần Shiva với Thiên Chúa, chúng ta thấy có sự tương phản rõ rệt. Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa kiên nhẫn. Dù con người sa ngã phạm tội, Ngài không bất nhẫn hủy diệt. Ngài không chỉ tạo dựng nhưng còn hứa cứu chuộc. Thánh Phêrô đã nói trong thư của Ngài:”Chúa không chậm trễ thực hiện Lời hứa, như có kẻ cho là Ngài chậm trễ. Kỳ thực, Ngài kiên nhẫn đối với anh em, vì Ngài không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi đến chỗ ăn năn hối cải”(2Pr 3,8b-9).
Chúng ta sống trong một xã hội đòi hỏi giải pháp nhanh chóng ngay lập tức cho mọi vấn đề. Nhanh hơn thì tốt hơn, người ta bảo chúng ta vậy. Và điều đòi hỏi nhanh chóng ngay lập tức còn đi sâu vào cả lãnh vực tâm linh nữa. Chúng ta muốn Đức Giêsu đến và đến nhanh. Chúng ta muốn được ơn cứu độ ngay mà không muốn đón nhận đau khổ do sự từ bỏ mình hay phải chờ đợi. Nếu Thiên Chúa không hòa hợp với chương trình thời gian tính của chúng ta, chúng ta cảm thấy mình bị lường gạt hay tệ hơn nữa, Thiên Chúa đã quên chúng ta rồi (Cf Minh Nhiên).
III. CHỜ ĐỢI TRONG VUI TƯƠI.
Niềm vui thời Thiên Sai.
Ngay những lời đầu tiên trong sách Isaia có đầy những từ ngữ : hoan lạc, hân hoan, trổ hoa, nhiệt liệt, reo hò. Diễn tả hết ý của tiên tri thật là khó. Niềm vui trong lòng ông rất to lớn, nhưng đó chỉ là niềm vui trong tương lai mà khi trình bầy, tác giả chưa được nếm. Ông nói về niềm vui sau lưu đầy khi dân Chúa hồi hương. Đất nước tuy tan hoang nhưng hứa hẹn sẽ nở hoa. Isaia muốn diễn tả niềm vui đó, niềm vui được nhìn thấy quê hương sau những năm đô hộ, nô lệ và lưu đầy.
Giáo hội mượn lại lời ông để nói lên niềm vui khi Chúa đến. Và thật ra những lời tiên tri kia cũng chỉ thực hiện đầy đủ khi Chúa đến và cứu chuộc chúng ta. Thế nên, đó là niềm vui của thời Thiên Sai, của ngày Chúa trở lại. Tất cả mọi khổ sở, đau phiền, bệnh tật, chết chóc bấy giờ mới chấm dứt; và người ta mới có thể nói như Isaia : vĩnh biệt phiền sầu than vãn.
Nhưng mọi sự xẩy ra trong ngày Chúa đến đều đã khởi sự từ ngày Chúa Giáng sinh. Những điều đó Chúa đã làm từ ngày Ngài xuất hiện. Đó là dấu chỉ thời Thiên Sai đã tới. Phải vui mừng ! Nhưng chưa phải là ngày Chúa đến lần sau hết. Niềm vui hiện nay còn là niềm vui đợi chờ.
Niềm vui của ngày hôm nay. a) Cuộc đời vui hay buồn ?
Tùy theo quan niệm của từng người, tùy theo tâm trạng của từng người mà cuộc đời trở nên vui hay buồn. Đời chỉ là một nhưng được nhìn dưới những khía cạnh khác nhau, có khi trái ngược nhau.
. Phải nhận định rằng, đời có rất nhiều lúc buồn với sinh, lão, bệnh, tử, không mấy khi được vừa ý.
. Nhưng cũng phải công nhận rằng : đời cũng có nhiều lúc vui. Phải chăng cái cười của chúng ta chẳng là biểu hiệu của niềm vui ?
. Cho nên phải kết luận rằng : vui buồn ở tại lòng ta. Ta vui thì đời là vui mà ta buồn là đời buồn. Chính mình phóng chiếu tâm hồn mình trên cảnh vật, tâm hồn mình vui hay buồn thì cũng theo đó cảnh vật trở nên vui hay buồn. Thi sĩ Nguyễn Du đã mô tả tình trạng tâm lý ấy rất đúng :
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu, Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Truyện : Dễ tính và khó tính.
Buổi sáng tại trạm xăng ở San Francisco, một người ngồi xe hơi đến :
– Xin cho hỏi thăm ông chủ một chuyện. Hai tuần lễ vừa qua, tôi nghỉ mát ở Santa Cruz. Thật hứng thú. Phong cảnh ở đó đẹp. Dân ở đó dễ thương. Còn về Redwood-Highway, ông chủ có ý kiến gì không ?
Ông chủ cây xăng hớn hở trả lời :
– Ở Redwood-Highway dân cũng dễ mến lắm.
Chưa đầy một tiếng đồng hồ, một người khác cũng muốn biết nơi nghỉ mát này, chàng ta nhăn nhó :
– Vừa rồi, tôi đã uổng mất hai tuần lễ nghỉ mát. Chỉ thấy bực mình. Phòng ngủ thì thiếu tiện nghi. Dân ở đó dễ ghét. Còn về chỗ nghỉ mát ở Redwood-Highway, ông chủ nghĩ thế nào ?
Ông chủ rầu rầu đáp :
– Miền Redwood-Highway cũng chẳng hơn gì.
Khách đi rồi, người ta mới hỏi ông:
– Tại sao thay đổi ý kiến chóng vậy ?
Ông nói :
– Đâu có. Tôi chỉ nhận xét rằng hai ông khách kia mỗi người theo đuổi một cảm nghĩ, không ai muốn thay đổi.Ông thứ nhất yêu người đã gặp, và thích phong cảnh đã được xem. Vậy chắc là đi tới nơi nào ông cũng thích, cũng yêu nơi đó. Còn người thứ nhì thì khó tính, hay càu nhàu. Vậy tôi nghĩ rằng đi tới đâu ông ta cũng bất mãn với nơi đó.
(Vũ minh Nghiễm, Sống sống, 1971, tr 210-212).
b) Đời phải là vui tươi.
* Chúa là nguồn vui tươi.
Thiên Chúa là sự thánh thiện, sáng láng, đẹp đẽ vô cùng, nơi Ngài không có gì đen tối, buồn thảm. Nơi Ngài chỉ thấy có sự vui tươi và yên ủi. Chúa như thế chẳng lẽ dựng nên toàn tiếng khóc, toàn đau khổ mà không dựng nên được những tiếng cười, những niềm vui tươi phấn khởi sao ? Chẳng thế mà thánh vịnh 42 đã quả quyết :”Introibo ad altare Dei, ad Deum qui laetificat juventutem meam”. Chúa là nguồn sự hoan lạc, những ai đến cùng suối hoan lạc ấy cũng sẽ được vui tươi.
* Mọi sự đều vui tươi.
Nhìn vào cảnh vật, có người cho là vui, có người cho là buồn. Nhưng thực sự, mọi cảnh vật đều là vui tươi phấn khởi vì nó là công trình sáng tạo của Thiên Chúa, Đấng là chính nguồn vui của muôn vật, và Ngài thông ban nguồn vui ấy ra nơi vạn vật. Ai chỉ coi khía cạnh tiêu cực của vạn vật, công trình sáng tạo của Chúa thì kẻ ấy chỉ làm nhục cho Chúa, là kẻ vô ơn thôi.
* Thế nào là vui ?
Vui không phải là cái gì vật chất, không có hình dáng, không có trọng lượng hay mầu sắc vì niềm vui chỉ là trạng thái trong tâm hồn. Chúng ta chưa tìm được một câu định nghĩa đầy đủ khả dĩ thoả mãn được sự hiểu biết của chúng ta. Tuy nhiên, ai trong chúng ta cũng đã có lần cảm thấy vui mà không tả ra được. Chúng ta chỉ cảm thấy niềm vui đang man mác trong lòng. Chỉ có thể cảm nghiệm được niềm vui chứ không thể định nghĩa hay mô tả đầy đủ được. Chúng ta sẽ cảm thấy có niềm vui khi lương tâm chúng ta không hối hận về một việc gì mình đã làm, song còn được vui sướng hoặc hãnh diện về công việc đó.
* Vui khi có tâm hồn trong sạch.
Những người tội lỗi không bao giờ được vui vẻ như :
. Cain sau khi giết em đâu tìm được giây phút bình yên vui vẻ vì con mắt lương tâm tức con mắt Chúa luôn theo dõi ông khắp nơi, khiến tinh thần ông bị rối loạn.
. Philatô sau khi đã tuyên án bất công cho Chúa, cũng cảm thấy lương tâm cắt rứt và muốn đi tự tử cho xong đời.
Truyện : Núi Philatô.
Theo truyền khẩu, sau khi Chúa Giêsu chết, Philatô không được bình yên nữa. Ban đêm hắn bỗng giật mình dậy. Chúa Cứu thế đẫm máu hiện ra trước mặt hắn và bảo :”Philatô, tại sao ngươi để ta bị xử oan vô tội” ? Thế rồi không thể chịu nổi sự hiển hiện khủng khiếp, cái con người có trái tim hèn nhát kia bèn trốn nhà đi. Hắn đi ra ngoại quốc, nhưng khắp nơi hắn đến, nơi nào Chúa Cứu thế đẫm máu cũng đứng trước mặt hắn.
Sau cùng, muốn trút hết những điều hối hận, bứt rứt, hắn nhảy xuống hồ BỐN TỔNG. Nhưng cái hồ cũng không nhận hắn bình yên. Một ngọn núi bỗng nổi lên trên xác hắn, thành một cái mồ khủng khiếp.
Niềm vui trong hy sinh và chấp nhận. Bao lâu người ta chưa biết hy sinh, chưa biết chấp nhận cuộc sống hiện tại, bấy lâu chưa có niềm vui trong lòng. Trái lại, chính sự hy sinh xả kỷ đã đem lại cho con người một niềm vui tươi man mác mà không một ai, hay của cải vật chất có thể đem lại được. Ông Nguyễn đình Tân đã nhận thấy như vậy và ông đã diễn tả tư tưởng ấy trong cuốn Thời bút như sau :
Xuân chỉ đến với những tâm hồn chu toàn bổn phận, với những tâm hồn biết chia vui sẻ buồn với tất cả mọi người.
Ai biết được cái vui xuân của người lính gác trong đêm giao thừa ở nơi biên giới vắng vẻ ? Chỉ họ mới biết. Vì họ biết họ thức cho bao nhiêu người ngủ, họ canh gác cho bao nhiêu đồng bào bình yên, họ lẻ loi để bao nhiêu người xum họp.
Ai biết được cái vui xuân của một bà Phước trong ngày mồng một Tết vẫn cắm cúi lau chùi những vết thương đau của người khốn khổ ? Ít ai biết được. Chỉ có bà ta biết được lòng mình, vì bà biết sự hy sinh của bà đã yên ủi đôi ba tâm hồn chơ vơ trong cảnh vui chung.
Ai biết được cái vui xuân của một tu sĩ một mình lặng lẽ cầu nguyện trong bóng tối của tu viện. Ít người biết được. Chỉ có người đó biết lòng mình thôi, vì họ biết họ cầu nguyện cho người giầu sang thiếu sự an ủi, cho người cao qúi thiếu sự bình an, cho người nghèo khó no đầy ơn phúc.
(Phạm đình Tân, Thời bút 1967, tr 157)
Ta mỉm cười trong đau khổ không phải luôn là hình phạt, nhưng có khi là nguyên do của một vui mừng. Chúa Giêsu đã phán :”Hạt giống gieo xuống đất phải mục nát ra, mới sinh ra trăm ngàn hạt khác’. Người mẹ lúc sinh con phải buồn phiền, nhưng sẽ khoan khoái khi biết mình đã thêm cho đời một mụn con.
Ta sẽ mỉm cười trong khi làm ăn thất bại hay phải thất nghiệp, vì có khi ta thất bại vì ta chán nản. Ta sẽ tìm giải quyết mọi sự trong vui tươi như thi sĩ Alfred de Musset đã để lại cho chúng ta mấy vần thơ sau đây :
Tôi di qua cánh đồng vắng,
Một con chim hát trên tổ Dưới chân nó, bầy chim con chết lăn lóc, Thế mà chim mẹ vẫn hát trước cảnh bình minh. Hỡi hồn ta, mày đừng khóc nữa, Vì cho đi mày mất hết mọi sự Thiên Chúa, Đấng ngự trên trời thanh thẳm Vẫn là nguồn hy vọng ở trần gian cho mày. (Alfred de Musset)
Trong khi chờ đợi Chúa Quang lâm, chúng ta vẫn còn phải ở trong thế gian này, phải vật lộn với bao sóng gió cuộc đời, chúng ta hãy an tâm, đừng sợ, kiên nhẫn chờ đợi trong vui tươi, Chúa sẽ đến giải thóat chúng ta và lúc đó niềm hoan lạc chúng ta sẽ được tràn đầy. Hãy tin tưởng, hãy cầu nguyện vì biết rằng “bên trên thế giới của trăng sao, có một người Cha yêu thương đang âu yếm nhìn ta”(Trích Bài ngợi ca Niềm vui trong Bản giao hưởng số 9 của Beethoven).
Nếu trái tim là cơ quan quyết định cuối cùng chuyện sống, chết của thân xác, thì trái tim cũng MV 3-A171
Nếu trái tim là cơ quan quyết định cuối cùng chuyện sống, chết của thân xác, thì trái tim cũng được coi là trung tâm điều khiển toàn bộ sinh hoạt tình cảm, tinh thần, nên khi trái tim cứng cỏi, chai đá, khô cằn thì con người trở nên vô cảm, lạnh lùng, hay khi rực lửa ganh ghét, hận thù thì con người tàn ác, nhẫn tâm, và ngược lại, một trái tim tràn đầy hy vọng sẽ đem lại chất ngất niềm vui, chứa chan hạnh phúc, dạt dào an bình, yêu thương.
Kinh Thánh nói nhiều đến trái tim : có những trái tim chai đá như trái tim của Pharaô “đã không thả cho con cái Ítraen đi” (Xh 10,20), những trái tim giả dối của những người tôn kính Thiên Chúa “bằng môi bằng miệng, còn lòng thì lại rất xa (x. Mt 15,8), những trái tim làm con người ra ô uế, vì phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống” (Mt 15,19), những trái tim hèn nhát như trái tim của Philatô vừa giao nộp người vô tội cho các thượng tế và kỳ mục đem đi đóng đinh, vừa lấy nước rửa tay trước mặt đám đông mà nói : “Ta vô can trong vụ đổ máu người này” (Mt 27,24), những trái tim tuyệt vọng như trái tim của Giuđa mặc dù đã thú nhận : “Tôi đã phạm tội nộp người vô tội, khiến Người phải chết oan” (Mt 27,4), nhưng đã không đủ niềm hy vọng để trở về với Thầy mình, Đấng giầu lòng thương xót, chẳng chấp cứ tội ai.
Trước những trái tim không như Thiên Chúa mong đợi, các ngôn sứ đã cảnh báo hình phạt cho những người “để lòng chai cứng như kim cương để khỏi vâng giữ Lề Luật và lời dậy bảo của Đức Chúa” ( Dcr 7,12), “những người ngoan cố, lì lợm, chúng tự tách rời Thiên Chúa và bỏ đi luôn” (Gr 5,23). Trong Tân Ước, trước trái tim chai đá của người Do Thái, thánh Gioan đã mượn lời ngôn sứ Isaia để trách móc, than thở : “Thiên Chúa đã làm mắt chúng ra đui mù và lòng chúng ra chai đá, kẻo mắt chúng thấy và lòng chúng hiểu được mà hoán cải, rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành !” (Ga 12,40). Riêng tông đồ dân ngoại thì qủa quyết : những ai lòng dạ chai đá không chịu hối cải thì “càng làm cho cơn thịnh nộ của Thiên Chúa chồng chất trên đầu” (Rm 2,5).
Mùa Vọng về, không chỉ cho chúng ta niềm hy vọng có Đất của Thiên Chúa làm gia nghiệp, có Thiên Chúa đồng hành trên đường sự thật, sự sống, mà còn mời gọi chúng ta xin Chúa đổi mới trái tim và cho chúng ta trái tim như Thiên Chúa muốn : “Ta sẽ ban tặng các ngươi một qủa tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi qủa tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một qủa tim bằng thịt. Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành” (Ed 36,26-27). “Lúc ấy, chúng sẽ là dân của Ta và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng” (Ed 11,20). “Ta sẽ ban cho chúng một trái tim và một con đường hành động ; để chúng kính sợ Ta mãi mãi, nhờ đó chúng và con cháu sau này được hạnh phúc. Ta sẽ lập với chúng một giao ước muôn đời : Ta sẽ không bỏ chúng nữa, sẽ tiếp tục theo dõi và không ngừng thi ân cho chúng, cũng như ban cho chúng lòng kính sợ Ta để chúng không xa rời Ta nữa” (Gr 32,39-40).
Như thế trái tim mới, bằng thịt được Thiên Chúa ban tặng trở thành điều kiện không thể thiếu để chúng ta nhận được Thần Khí, và nhờ Thần Khí chúng ta mới biết kính sợ và tuân giữ phán quyết của Thiên Chúa, hầu có hạnh phúc được Ngài hứa ban. Tin Mừng Gioan đã khẳng định điều này khi Đức Giêsu trả lời ông Nicôđêmô : “Thật tôi bảo thật ông : không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên”, tức Thần Khí (Ga 3,3), bởi chỉ Thần Khí “mới làm cho anh em nên nghiã tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên : Ápba ! Cha ơi !” (Rm 8,15). Và trái tim mới đó, chính là trái tim mang niềm hy vọng được Thiên Chúa yêu thương, cứu độ.
Với trái tim hy vọng ở Đức Giêsu, Đấng nhân danh Thiên Chúa đến trong thế gian, chúng ta mới tin những điều người khác “đã mắt thấy tai nghe” ở Ngài : họ đã thấy “người mù được xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại , người nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11,5-6). Với trái tim hy vọng ở Đức Giêsu, Đấng Thiên Sai, chúng ta mới tin Thiên Chúa yêu thương những con người bé mọn và gọi họ là những người cao trọng nhất trong Nước Trời (Mt 11,11. 25-26). Với trái tim hy vọng ở Đức Giêsu, chúng ta mới tin Thiên Chúa bênh đỡ, an ủi những thân phận khốn khổ, truân chuyên vì gánh nặng cuộc đời khi kêu gọi : “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28). Với trái tim hy vọng ở Đức Giêsu, Con Thiên Chúa ở giữa con người, chúng ta mới tin Ngài là “tôi trung của Thiên Chúa, hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29), vì “Người sẽ không cãi vả, không kêu to, chẳng ai nghe thấy Người lên tiếng giữa phố phường. Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, Người chẳng nỡ tắt đi, cho đến khi Người đưa công lý đến toàn thắng, và muôn dân đặt niềm hy vọng nơi danh Người” (Mt 12,19-21). Với trái tim hy vọng ở Đức Giêsu, Chiên Thiên Chúa (Ga 1, 29), chúng ta mới tin Ngài là “Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11), “để chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Với trái tim hy vọng ở Đức Giêsu, là “Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng tôi”, chúng ta mới tin Ngài kính trọng, thương yêu, thân thiện giao lưu, và tình nghiã đồng bàn với hết mọi người, kể cả những người bị xã hội tẩy chay, nguyền rủa, coi là tội lỗi (x. Lc 15,1-3), vì sứ mệnh của Ngài trong thế gian là “đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất” (Lc 15,5) bởi Chúa Cha “sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3,17). Và với trái tim hy vọng ở Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ, chúng ta mới tin Ngài sẽ cho chúng ta được sống lại với Ngài, vì Ngài “là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,25).
Cũng vậy, với trái tim hy vọng vừa được Thiên Chúa ban tặng, chúng ta mới có thể tin mọi người là anh em của mình, và không ghét bỏ, lên án ai, vì “Cha trên trời cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,45). Với trái tim hy vọng ở Đức Giêsu, nguồn mạch yêu thương, chúng ta mới có thể yêu người khác, dù họ không luôn dễ thương với ta, bởi yêu ai là mong ước và đi tìm hạnh phúc cho họ, nên thiếu hy vọng, chúng ta không thể kiên trì và miệt mài đi tìm hạnh phúc. Với trái tim hy vọng ở Đức Giêsu, nguồn ơn sủng, chúng ta mới có thể hết mình tận tụy xây dựng lại tương lai của những con người bị coi là hư hỏng, bỏ đi. Với trái tim hy vọng ở Đức Giêsu nhân hậu, chúng ta mới nhận ra Thiên Chúa nơi những con người đói khát, đau yếu, rách rưới, tù đầy, tị nạn, thất học, bị đời nguyền rủa, bỏ rơi (x. Mt 25,31-46) và hết tình yêu thương, bảo vệ, giúp đỡ họ. Với trái tim hy vọng ở Đức Giêsu giầu lòng thương xót, chúng ta mới nhìn thấy tương lai của người tội lỗi ; mới cảm nhận hạnh phúc của tội nhân được thứ tha ; mới biết chung vui với thần thánh trên trời “vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc 15,7).
Mùa Vọng về, chúng ta xin Chúa thay qủa tim chai đá vì kiêu căng, ngạo mạn, cửa quyền, hống hách ; thay qủa tim cằn cỗi vì gian tham, bóc lột, hối lộ, mánh mung ; thay qủa tim cứng cỏi vì ích kỷ, đố kị, ghen tuông, thù hận ; thay qủa tim khô héo vì lửa nóng bạo lực phi nhân ; thay qủa tim ô uế, thối rữa vì dục vọng bất chính, để với trái tim mới bằng thịt tràn đầy hy vọng trong Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người, chúng ta được hưởng niềm vui thiên đàng ngay tại thế, và được sống “sự sống Thiên Chúa” ngay trong xác phàm yếu đuối, tội lụy này, vì “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14), để chúng ta “không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, người thừa kế”, và anh em của Ngài (x. Gl 4,7).
“Suốt đêm trường, hồn con khao khát Chúa, trong thâm tâm, những kiếm tìm khắc khoải” (Is 26, 9).
Đây có lẽ cũng là tâm tình của Gioan Tẩy giả trong đoạn Tin mừng hôm nay. Là một vị ngôn MV 3-A172
Đây có lẽ cũng là tâm tình của Gioan Tẩy giả trong đoạn Tin mừng hôm nay. Là một vị ngôn sứ nổi bật vào cuối thời Cựu Ước cũng như Tân Ước, như Đức Giêsu đã giới thiệu về Ngài cho chúng ta biết “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả” (Mt 11, 11), nhưng Ngài vẫn mong mỏi trông đợi ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa.
Cho dù là vị ngôn sứ vĩ đại, cao trọng đến dường nào thì Gioan cũng là con người như bao người vẫn đang kiếm tìm và đợi trông ơn cứu độ của Thiên Chúa. Gioan là bằng chứng sống động của sự chờ đợi được thể hiện cách cụ thể nơi mỗi người chúng ta, những Kitô hữu ngày đêm luôn khao khát Chúa, cách đặc biệt trong Mùa vọng này. Chúng ta thể hiện lòng khao khát Chúa bằng nhiều cách, nơi nhà thờ, trong thánh lễ, đón nhận các Bí tích. Ta khao khát Chúa mọi nơi mọi lúc. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải cẩn thận khi thể hiện lòng khao khát của mình. Bởi nhiều khi chúng ta lầm lạc trong việc kiếm tìm Thiên Chúa. Giống như khi nghe ở đâu có phép lạ xảy ra, người này người kia chữa lành bệnh khi được đặt tay cầu nguyện, cha này cha kia giảng hay thì ta lại hăng hái lên đường ngay tức khắc, như sợ rằng chỉ có Chúa ở nơi đó. Dường như chúng ta thích nghe thấy những điều lạ lẫm, vĩ đại, còn những điều bình dị trong cuộc sống ta lại không để ý đến. Giêsu đến với ta chỉ là tấm bánh nhỏ bé nơi nhà tạm, hằng ngày ta rước Ngài, nhưng có lẽ ta chưa đón nhận Ngài. Chúa hiện diện nơi những người nghèo khổ, ốm đau, thấp hèn, nơi những người sống chung quanh ta, có khi lại là những người họ hàng bà con thân thuộc của ta thì ta lại không nhận ra. Phải chăng ta cũng đang trông đợi một Thiên Chúa cao sang quyền quý. Như thế, chúng ta đóng khung Chúa trong suy nghĩ và ước muốn của ta dẫn đến đức tin của chúng ta dễ dàng thay đổi theo từng sự kiện hoặc biến cố mà chúng ta đối diện hay gặp phải. Nếu những gì xảy ra hợp ý ta, thì đó là Chúa đang quan tâm đến ta, còn nếu không thì có lẽ Chúa không yêu chúng ta. Chúa hiện diện ngay giữa chúng ta nhưng nhiều lần chúng ta đã không gặp Ngài. Và do đó, khi đến trần gian, Chúa đã chọn lối sống bình thường, nhưng chẳng ai nhận ra Ngài. Cách Chúa chọn để sống chẳng ai muốn bắt chước theo. Việc Chúa hi sinh mạng sống trên thập giá thì cũng chẳng ai muốn chịu nhục nhã như vậy. Vì lẽ đó, chúng ta cần suy nghĩ lại cách mà chúng ta chờ đợi Chúa. Chúng ta đã thật sự mở rộng lòng mình để đón chờ ngày Chúa đến chưa? Và nếu đã mở lòng thì chúng ta đã chuẩn bị như thế nào để Chúa có thể ngự vào?
Lạy Chúa, chúng con thật sự đang mong ngóng ngày Chúa đến nhưng có khi cách thức chúng con chào đón Chúa lại không phù hợp với ý Chúa. Xin Chúa soi lòng mở trí hướng dẫn chúng con biết đi trong nẻo chính đường ngay để cùng với Chúa hân hoan chung hưởng hạnh phúc Chúa hứa ban. Amen.
Mục đích của Mùa Vọng không chỉ là thời gian chuẩn bị cử hành lễ Giáng sinh, nhưng còn là MV 3-A173
Mục đích của Mùa Vọng không chỉ là thời gian chuẩn bị cử hành lễ Giáng sinh, nhưng còn là lúc chúng ta được mời gọi nhận ra những dấu chỉ của thời Thiên sai trong cuộc sống. Quả vậy, Đức tin nói với chúng ta, những gì đang xảy ra xung quanh, dù vui hay buồn, bao giờ cũng mang một thông điệp của Chúa, qua đó, chúng ta được mời gọi nhận ra và thực hiện thánh ý của Ngài. Thánh Mátthêu kể lại, lúc ông Gioan Tẩy giả đang bị giam trong tù, với tâm trạng hoang mang. Ông không biết vị ngôn sứ quê ở Nagiarét có phải là Đấng muôn dân mong đợi hay không. Không lẽ ông chịu ngồi tù một cách vô ích? Vì vậy, ông đã sai môn đệ của mình đến gặp Chúa Giêsu và thẳng thắn đặt câu hỏi: “Thầy có thật là Đấng phải đến hay không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?”. Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp câu hỏi này, nhưng Người bảo họ hãy về kể lại với ông Gioan những gì họ thấy. Chúa muốn gửi cho ông Gioan một thông điệp: Phúc cho người nào không vấp ngã vì tôi. Ông Gioan Tẩy giả là một người am hiểu Cựu ước và giáo huấn của các ngôn sứ, nên chắc chắn khi nghe thuật lại, ông dễ dàng nhận ra những phép lạ Chúa Giêsu làm là những dấu chỉ của thời Thiên sai. Tác giả Tân ước không cho chúng ta biết ông Gioan phản ứng thế nào khi nghe những lời nhắn nhủ của Chúa. Tuy vậy, những gì xảy ra sau đó đối với ông, đã đủ để chứng minh rằng ông tin Đức Giêsu là Đấng phải đến. Gioan Tẩy giả đã chấp nhận cảnh tù đày và ông đã chết để làm chứng cho chân lý. Sự hy sinh và can đảm của ông Gioan được chính Đức Giêsu khen ngợi. Nhiều lần, trong Tin Mừng, Đức Giêsu khen ngợi lòng tin vững vàng của một số người. Nhờ lòng tin này, Chúa đã chấp nhận làm những phép lạ như họ mong ước. Ta có thể dẫn chứng trường họp vị sĩ quan, hoặc người đàn bà xứ Ca-na-an. Đối với ông Gioan Tẩy giả, Chúa tuyên bố, ông còn hơn một vị ngôn sứ, và là người cao trọng nhất trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ. Nhờ bí tích Thanh tẩy, mỗi người tín hữu được Chúa trao cho ba chức vụ: Ngôn sứ, Tư tế và Quản trị. Nhờ thi hành ba chức năng này, họ cộng tác vào sứ vụ loan báo Tin Mừng, thánh hóa bản thân và thánh hóa thế gian, tham gia điều hành cộng đoàn Giáo Hội địa phương. Dù sống bậc giáo dân hay dù nghèo nàn ít học, người tín hữu đều có quyền và có bổn phận thực thi ba chức năng này trong cuộc sống. Noi gương ông Gioan Tẩy giả, chúng ta hãy góp phần loan báo Chúa Giêsu cho con người của thời đại hôm nay. Hãy trở nên những “dấu chỉ của Nước Trời”, qua đời sống ngay thẳng chân thành và thánh thiện của chúng ta. Hãy phản ánh lòng nhân hậu của Thiên Chúa qua những hành vi cử chỉ của mình trong cuộc sống đời thường. Đó cũng là những “dấu chỉ của thời Thiên sai”, vì chúng góp phần làm cho người khác nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện giữa lòng nhân loại. Hai mươi thế kỷ sau khi Chúa Giêsu xuống thế làm người, có thể con người thời nay đặt ra những vấn nạn: tại sao chúng tôi không còn thấy những phép lạ làm cho người mù sáng mắt, người què đi được, người điếc nghe được? Tại sao chúng tôi vẫn còn thấy chiến tranh, bạo lực và giết chóc tàn sát lẫn nhau? Tại sao người tốt phải đau khổ, trong khi người gian ác lại sung sướng giàu có? Thánh Phaolô trả lời: “Anh em hãy kiên nhẫn, giống như nhà nông kiên nhẫn chờ đợi đất trổ sinh hoa màu. Họ phải đợi cả mưa đầu mùa lẫn cuối mùa” (Bài đọc II). Vị Tông đồ dân ngoại vừa khuyên chúng ta hãy tin vào Thiên Chúa là Thẩm phán chí công, vừa mong muốn chúng ta hãy cố gắng làm việc thiện, để rồi qua những việc tốt lành ấy, Chúa sẽ thưởng công cho chúng ta. Một trong những sứ điệp quan trọng mà người ngôn sứ được mời gọi loan báo trong xã hội hôm nay, đó là niềm vui. Nội dung của “Tin Mừng” chính là niềm vui. Chúng ta vui mừng hạnh phúc vì được Chúa yêu thương và chúc lành. Chúa yêu chúng ta đến nỗi ban Con Một của mình để dạy dỗ và chúc lành cho chúng ta. Chúng ta vui mừng vì Chúa hiện diện để nâng đỡ và “làm cho những bàn tay rã rời trở nên mạnh mẽ” (Bài đọc I). Niềm vui chỉ có thể được loan báo nếu chính bản thân chúng ta cảm nghiệm được trong đời sống cá nhân của mỗi người. Ngôn sứ Isaia đã diễn tả niềm vui của thời Thiên sai, khi Chúa xuất hiện. Những điều ông tiên báo như: người mù sáng mắt, người què đi được, người điếc nghe được… cũng chính là điều Đức Giêsu đã nói với những môn đệ của ông Gioan hãy về thuật lại cho thày mình. Hãy vui lên, đó là lời ngôn sứ Isaia kêu mời chúng ta. Đó cũng là lời mời gọi của Giáo Hội trong những ngày chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh. Hãy làm cho niềm vui lan tỏa trong cuộc sống. Không chỉ là niềm vui lý thuyết, nhưng được thể hiện qua tâm hồn cao thượng, tấm lòng nhân ái, lương tâm ngay thẳng và trái tim chân thành. Đó chính là dấu chỉ của thời Thiên sai.
Trong Hiến chế Gaudium et Spes, công đồng Vaticanô 2 đã mở đầu với đường hướng mục vụ MV 3-A174
Trong Hiến chế Gaudium et Spes, công đồng Vaticanô 2 đã mở đầu với đường hướng mục vụ như sau: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày hôm nay cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Đức Kitô, và không có gì là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ”. Những môn đệ của Chúa Giêsu phải sao chép lại cuộc sống của Thầy mình. Ngài đã đến trần gian chung hòa kiếp sống với chúng ta và đi sâu vào phận người. Ngài vui với người vui, khóc với người khóc và tiến nhận cái chết trên Thập giá để khai mở cho nhân loại chân trời ơn cứu độ. Cái chết và sự Phục sinh của Đức Giêsu chính là căn nguyên của niềm vui, biến ưu sầu thành hoan lạc, biến khổ đau thành hạnh phúc cho con người.
Nói tóm lại, đạo Công giáo không phải là một tôn giáo nhuốm vẻ bi thương và sầu khổ, cho dù khi nhìn lên Thánh giá, chúng ta dễ rơi vào tình cảm đạo đức mang dáng dấp khổ đau. Đạo hay con đường mà Chúa Giêsu mở toang ra cho nhân loại chính là con đường của niềm vui và hy vọng.
Đây cũng chính là chủ đề của phụng vụ Chúa nhật hôm nay, Chúa nhật Gaudete. Các bài đọc đều vang vọng lời hiệu triệu: “ Hãy vui lên vì Chúa đã gần đến, Đấng thánh Israel đang ở giữa ngươi”. Chúa Nhật hôm nay còn được gọi là ‘Chúa Nhật hồng giữa mùa tím’ với tâm tình hoan vui này.
Vui mừng và hy vọng
Các bài đọc Lời Chúa Giáo hội đọc lên trong phụng vụ hôm nay đều mang âm hưởng của một niềm vui sâu xa. Trong bài đọc thứ nhất, ngôn sứ Isaia tiên báo về kỷ nguyên thiên sai, thời kỳ ngập tràn niềm vui và an bình. Hình ảnh ‘Sa mạc, đồng khô cỏ cháy trổ bông như khóm huệ, nước vọt lên giữa sa mạc, mọi người hân hoan nhảy múa, mắt người mù được mở ra, tai người điếc nghe được, kẻ quẻ nhảy nhót như nai..’ là những hình tượng biểu trưng một nền hòa bình thịnh vượng vào kỷ nguyên Thiên sai. Đức Giêsu -Đấng Messia- chính là căn nguyên của niềm vui, là điểm tựa cho những người khổ đau, và cũng là Đấng chúng ta đang ngong ngóng đợi chờ trong hy vọng và vui mừng. Trong bài đọc 2, Thánh Gia cô bê cũng mời gọi chúng ta hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí chờ đợi Chúa quang lâm. Ngài là ‘Đấng từ bi nhân hậu’ sẽ mang đến cho chúng ta niềm vui tròn đầy. Đó là những lý do căn bản để Giáo hội khơi dậy niềm vui qua phụng vụ hôm nay.
Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 cũng đã khởi đầu triều đại Giáo hoàng của mình với thông điệp ‘Đừng sợ’. Đây không phải là lời trấn an mang tính tâm lý nhưng là lời mời gọi chúng ta hãy đi sâu vào cảm thức đức tin để luôn bám chặt vào Thiên Chúa, Đấng mang lại niềm vui và sự an bình. Vì thế bắt đầu mùa vọng để khai mở năm thánh 2000, Ngài đã gửi đi bức thông điệp để nhắn nhủ mọi người, đặc biệt các bạn trẻ: “ Đừng sợ, hãy mở cửa đón Đức Kitô” (Don’t be afraid, open the door to Christ).
Kinh thánh Cựu ước kể lại câu chuyện về bà Sara vợ ông Abraham. Bà Sara đã già nua, đến tuổi gần đất xa trời, nhưng Đức Chúa lại nói cho bà biết bà sẽ sinh con trai. Có lẽ bà nghĩ Thiên Chúa cũng có đầu óc khôi hài, nên bà đã phì cười. Thần sứ hỏi tại sao bà cười, hay bà nghi ngờ và không tin lời Chúa nói. Bà chối phắt vì sợ (St 18, 16). Sự sợ hãi đã làm lịm tắt nụ cười trên đôi môi của bà. Nhưng khi bà sinh con, niềm vui đã trở lại, vì bà đã hoàn toàn tin tưởng nơi Chúa. Abraham được mệnh danh là cha của những kẻ tin. Còn bà Sara, (theo nguyên ngữ tiếng Aram, có nghĩa là ‘người đàn bà cười’), đã tìm lại niềm vui và thoát khỏi sợ hãi, vì cuối cùng bà cũng tin vào lời của Đức Chúa.
Vì vậy, để có được niềm vui, chúng ta phải quy hướng trọn vẹn về Chúa. Niềm vui và sự bình an chân thật không đến từ những ồn ào náo nhiệt bên ngoài của ngày lễ Giáng sinh, nhưng niềm vui phát xuất từ sâu tận bên trong tâm hồn. Chúng ta nhìn vào mẫu gương Mẹ Maria. Sau khi thưa lời xin vâng và đón nhận Đức Giêsu đến ẩn cư trong cung lòng mình, Mẹ liền vội vã lên đường với niềm vui tròn đầy. Vừa đến nhà bà chị họ Isave, Đức Maria đã thốt lên: “ Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Chúa Đấng cứu chuộc tôi” (Lc 1, 39). Đó là niềm vui sâu xa trong tâm hồn của những ai luôn sống kết hợp với Chúa là Chúa của niềm vui.
Thưa ông chúng tôi phải làm gì?
Để có được niềm vui thực sự, chúng ta cũng phải đặt ra câu hỏi giống dân Do thái ngày xưa khi nghe Gioan rao giảng: “ Thưa ông, chúng tôi phải làm gì?” Điều mà Thánh Gioan tiền hô khuyên nhủ dân chúng là hãy thành tâm chỉnh sửa lối sống, thực thi công bằng và sống bác ái đối với nhau. Con đường đến với Chúa và con đường đến với tha nhân cũng chỉ là một, bởi vì tha nhân chính là bí tích hiển thị dung mạo của Đức Kitô, như Ngài đã nói: “Vì xưa Ta đói các ngươi đã cho ăn, Ta khát các ngươi đã cho uống, Ta trần trụi các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu hay ở tù các ngươi đã thăm nom” (Mt 25, 40).
Triết gia Nietzche đã có lần tuyên bố: “ Tha nhân là hỏa ngục”. Ông là một người vô thần, không tin Thiên Chúa nên không thể nào khám phá ra hình ảnh Thiên Chúa nơi những con người mà ông gặp gỡ hằng ngày. Ngược lại, Thánh Giacôbê đã viết: “ Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà giận ghét anh em, đó là kẻ nói dối”. Thánh Gioan tiền hô là người dọn đường để chúng ta đến với Chúa, và con đường để đến được với Chúa phải đi ngang qua tha nhân.
Trước lễ Giáng sinh, chúng ta vẫn thường gửi những cánh thiệp để chúc nhau một lễ Noel vui tươi và an bình. Niềm vui và sự bình an đó chỉ có thể đạt được khi chúng ta biết giao hòa thực sự với Chúa và với nhau, gạt bỏ hết những thù hận và chia cách.
Có một vị linh mục đã có sáng kiến trang trí cho ngày lễ Giáng sinh bằng cách dựng một máng cỏ với cây Thánh giá bên cạnh thay cho cây Noel. Sáng kiến này khá độc đáo, bởi vì theo Ngài, Chúa Giêsu đến trần gian để bắt đầu cuộc hành trình yêu thương nơi chuồng bò Belem và kết thúc cuộc hành trình ấy nơi đỉnh cao Calvê. Máng cỏ Belem và Thập giá núi Sọ là hai thông số của một thực tại duy nhất, đó là tình yêu Thiên Chúa dành trao cho con người. Vì thế muốn hưởng nhận niềm vui Giáng sinh cách thật sự, chúng ta cũng phải cảm thấu và hiển thị tình yêu một cách rõ nét, không phải chỉ qua những buổi tham dự phụng vụ để đến với Chúa, mà còn trong trọn cuộc sống để đến với nhau, nhất là phải cải thiện mối tương quan với mọi người như lời nhắn nhủ của thánh Gioan tiền hô ngày hôm nay.
Kết luận
Chúa Nhật hôm nay còn được gọi là Chúa Nhật Gaudete, Chúa Nhật của niềm vui và cũng là Chúa Nhật hồng giữa mùa tím. Đạo Công giáo là đạo của niềm vui, đạo của mầu hồng tươi sáng. Chúa đến trần gian không phải để thiết lập một tôn giáo như người ta vẫn hay nghĩ tưởng. Hai ngàn năm trước, Ngài đi sâu vào phận người để công bố cho chúng ta một tin vui, đó là tin Thiên Chúa yêu thương con người. Tin vui hay Tin mừng này khởi đầu từ máng cỏ Belem và đạt đến đỉnh điểm khi Ngài bị treo thân trên Thập giá. Chúa Giêsu đến trần gian và mời gọi chúng ta nên thánh, nhưng như DonBosco đã nói cho các học sinh: “Bí quyết nên thánh là luôn sống vui tươi và chu toàn bổn phận của mình”. Cũng tương tự, Thánh Phanxicô Salê cũng dí dỏm nói rằng: “Một vị thánh buồn là một vị thánh thật đáng buồn”. Chớ gì chúng ta cảm nhận được niềm vui thánh thiện trong dịp lễ Giáng sinh sắp tới cũng như trong suốt cả ‘mùa vọng lớn’ là chính cuộc lữ hành đức tin của chúng ta ngày hôm nay.
Trong hoàn cảnh thật trớ trêu, ở chốn lao tù đầy khổ hạnh. Thánh Gioan Tẩy Giả luôn canh cánh trong lòng, niềm khao khát mong đợi Đấng Cứu Thế, đến để giải thoát dân tộc Do thái, khỏi mọi xiềng xích nô lệ, tinh thần cũng như thân xác. Giờ đã đến, lúc Đấng Cứu Thế sẽ đến, và những dấu chỉ để nhận ra Ngài như I-sai-a đã loan tin: “Bấy giờ mắt người mù sẽ nhìn thấy, và tai những người điếc sẽ được nghe. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, những người được Chúa cứu chuộc, sẽ trở về, và đến Sion với lời khen ngợi; và trên đầu họ mang hoan hỉ triền miên, họ sẽ được vui mừng khoái trá, họ sẽ không còn đau buồn; rên siết sẽ trốn xa” (Is 35, 1-6)
Chúa Giê-su, không trực tiếp trả lời những chất vấn của Thánh Gioan, qua trung gian, những môn đệ mà Gioan sai đến, Ngài đã chỉ cho họ Đấng Cứu tinh đã đến và đang tới. Triều đại của Ngài được loan báo với những tín hiệu vui mừng, hân hoan và tràn đầy niềm vui vĩnh cửu. Giấc mơ một xứ sở, chảy sữa và mật ong không còn xa nữa. Thời gian như được rút ngắn lại. Thiên Chúa đã tỏ vinh quang của Ngài cho con người. Vinh quang mà những ai khiêm nhu, nghèo khó, và siêu thoát thì mới có thể nhận ra Ngài. Thánh Gioan loan báo và chỉ cho mọi người biết để đón nhận Đấng Cứu Thế. Về phần mình, Chúa Giê-su bày tỏ cảm xúc đặc biệt với vị Tiền hô, đã vì chân lý Tin mừng mà phải chịu cảnh tù đày trước bạo chúa Hê-rô-đê An-ti-pa: “ Ta bảo thật các ngươi, trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông”(Mt 11,11). Gioan đã thi hành phận vụ là kẻ dọn đường cho Chúa Giê-su một cách hết sức cao cả, và ông đã kết thúc cuộc đời trong triều thiên, của một chứng nhân, cho Đấng Cứu Độ, mà muôn dân hằng đợi trông. Máu của Gioan một cách nào đó, như là những giọt máu, mồ hôi, nước mắt của cuộc đời Chúa Giê-su sau này. Sự khiêm hạ của ông đã làm Chúa Giê-su khen ngợi, và chỉ cho đám đông thấy chân dung của một vị ngôn sứ là: “ Anh em ra xem gì trong hoang địa, một cây sậy phất phơ trước gió” (Mt 11,7). Vâng đúng như cuộc đời thoát tục và trầm mình trong khổ chế của Gioan. Chúa Giê-su đến để mang lại hòa bình cho chúng ta. Ngài chính là Sứ Giả mà Chúa Cha đã gởi đến cho nhân loại. Mặc dù sinh ra và lớn lên trong cảnh cơ hàn, cuộc sống của Ngài là một hành trình xuất thế và nhập thể, dẫu rằng con người không tin nhận, nhưng mãi mãi Ngài vẫn là Đấng mà Thánh Gioan đã loan báo, và chỉ cho dân chúng thấy khi Ngài xuất hiện. Hãy kiên nhẫn chờ đợi, vì Thiên Chúa chúng ta đã gần đến: “ Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới”(Gc 5,7-10).
Mừng vui lên vì Chúa sắp ngự đến, nơi hoang địa khô cằn sẽ vui mừng và cõi tịch liêu sẽ hân hoan, đón mừng ngày Chúa sinh ra. Maranatha! Lạy Chúa Giê-su xin hãy đến với chúng con, trong gia đình, cuộc sống, và từng phút giây trong cuộc đời. Amen.
Ngày 5/12/2013, cựu tổng thống Nam Phi-Nelson Mandela qua đời ở tuổi 95. Ông là người lãnh MV 3-A176
Ngày 5/12/2013, cựu tổng thống Nam Phi-Nelson Mandela qua đời ở tuổi 95. Ông là người lãnh đạo phong trào xóa bỏ chế độ phân biệt chủng tộc Apartheid ở Nam Phi, giúp cho người da đen được hưởng các quyền bình đẳng như thiểu số da trắng.
Bước ra ánh sáng sau 27 năm bị giam cầm vào năm 1990, việc đầu tiên Mandela làm là tìm cách hòa giải một dân tộc bị chia rẽ bởi thù hận và định kiến trong hàng thế kỷ qua.Ông hiểu rằng hòa giải không thể thiếu sự thật: nếu tội ác của chế độ Apartheid không được làm sáng tỏ và công lý không được thực thi thì người dân Nam Phi sẽ sống trong một nền hòa bình rất mong manh, chỉ cần một biến cố nhỏ là bạo lực sẽ lại bùng phát.
Ông biết rằng, nếu đi tìm công lý bằng một cuộc tắm máu khác, chắc chắn đất nước sẽ bị đẩy vào vòng nội chiến.Ông đã dùng tài ngoại giao, trí thông minh, và cả trái tim bao dung của mình để “đi trên dây” giữa hai làn ranh giới.Một mặt ông đi gặp những nhà lãnh đạo của người Afrikaner, chủng tộc da trắng nắm quyền trong chế độ apartheid để đàm phán về tương lai đất nước. Mặt khác, ông tích cực thuyết phục quần chúng giận dữ phải giữ bình tĩnh vì lợi ích chung.
Ông nói với những thành phần cực đoan muốn trả nợ máu với người da trắng ở Johannesburg vào năm 1993: “Tôi là lãnh đạo của các bạn. Nếu các bạn không cần tôi nữa, thì tôi sẽ lui về nghỉ. Nhưng chừng nào tôi còn làm lãnh đạo, tôi phải lên tiếng rằng: điều chúng ta đang làm là rất sai”. Đám đông này sau đó tự động giải tán.
Để xử lý vấn đề tội ác của chế độ Apartheid, Mandela đã lựa chọn một giải pháp mà chưa từng một lãnh đạo nào trong hoàn cảnh của ông thực hiện.Thay vì tạo ra một phiên toàn xét xử tội ác của chế độ như thông thường, ông cho thành lập “Ủy ban Sự thật và Hòa giải” với mục đích đúng như tên gọi của nó: làm lành đi những vết thương quá khứ. Nạn nhân kể về những tội ác mà họ đã chứng kiến hoặc trải qua dưới chế độ apartheid, và những kẻ cầm quyền cũ sẽ được khoan hồng nếu thừa nhận những tội ác mà họ gây ra.
Với tài năng của một chính trị gia, và hơn tất cả là một trái tim biết khoan dung, Nelson Mandela đã tạo ra sự khởi đầu cho điều kỳ diệu ở Nam Phi: từ một quốc gia bị chia rẽ sâu sắc bởi chủng tộc, Nam Phi trở thành một “đất nước cầu vồng,” nơi tất cả màu da đều được tôn trọng và đối xử bình đẳng. Nam Phi vươn lên thành quốc gia giàu nhất ở lục địa Đen, có mặt trong nhóm các quốc gia “quyền lực mới” BRICS, và xây dựng lên một xã hội tự do và hiện đại (x.Khắc Giang, tuanvietnam.net).
Ông Mandela đã trải qua gần 30 năm ngục tù vì cuộc đấu tranh đòi quyền bình đẳng cho người da màu. Vị Tổng thống này đã được trao giải Nobel Hòa bình vào năm 1993.
Lên tiếng cho Sự thật và lương tri, Thánh Gioan Tiền Hô, vị Ngôn sứ công lý bị nhốt vào tù ngục. Xã hội Do Thái thời Gioan có rất nhiều tệ đoan. Quốc gia bị chính quyền La Mã đô hộ. Trong nội bộ lại có sự chia rẽ trầm trọng giữa các đảng phái chính trị và tôn giáo. Bất công, tham nhũng và vô luân lan tràn từ trên xuống dưới, nơi những nhà lãnh đạo dân sự cũng như tôn giáo.Vua Hêrôđê có đời sống loạn luân, cướp vợ của em trai mình. Người ta cảm thấy rất khó chịu khi có ai dám sửa sai, dám nói thẳng về những lỗi lầm của mình. Người cầm quyền càng khó chịu hơn và thường dùng quyền lực để đàn áp. Vì thế quyền lực thường tạo nên sợ hãi và im lặng. Gioan rất nhạy bén trước tội lỗi nên đã can đảm tố cáo tội của tiểu vương Hêrôđê, bất chấp hậu quả tù đày. Hêrôđê người đàn ông quyền lực và ham mê sắc dục, gian díu với Hêrôđiađê, người đàn bà đẹp nhưng ham mê quyền bính. Hai con người đó làm nên bi kịch của lịch sử. Ai cũng sợ hãi, không dám nói. Chỉ có Thánh Gioan Tiền Hô lên tiếng phản đối nên đã bị tống giam. Bênh vực công lý, nói lên sự thật đã đưa Gioan tới cái chết. Chết là cái giá rất đắt cho chứng nhân bảo vệ công lý, bảo vệ thuần phong mỹ tục, bảo vệ cho các giá trị đạo đức truyền thống.
Theo truyền thống Do thái, đa số ngôn sứ đều là những người bị ngược đãi, bị bách hại và bị giết chết. Truyền thống nói rằng ngôn sứ Isaia bị xử tử, ngôn sứ Mikha bị lăng nhục, ngôn sứ Giêrêmia bị đánh đòn và bị tống giam vào tù, chưa nói đến biết bao ngôn sứ bị giết chết dưới triều đại vua Akháp và vua Giôakim, và cũng có thể dưới triều đại vua Manasê vô đạo. Ngôn sứ Gioan thật cương nghị với lối sống không hề cúi gập người lại trước những bậc quyền quý (x.Mt 14,3-12). Thực thi công lý nên Gioan là một ngôn sứ nói nhân danh Thiên Chúa và đáng tin (x.Mt 21,26.32).
Thánh Gioan đã từng trải qua những giờ phút vinh quang khi dân chúng kéo đến với ông trong sa mạc, bên bờ sông Giođan xin ông làm phép rửa. Giờ đây, thời vàng son đã khép lại. Chỉ còn các môn đệ liều mình vào tù thăm nuôi rồi kể chuyện bên ngoài cho Gioan nghe.
Thánh Gioan băn khoăn lo lắng khi nghe tường thuật về Chúa Giêsu thường giao du với những kẻ tội lỗi, vào trong nhà người tội lỗi, đồng bàn với họ và tha thứ tội lỗi cho họ. Ngôn Sứ Tiền Hô đang ở trong tù mà không được Đấng Cứu Thế đến giải thoát.Nổi khắc khoải cào cứa trong lòng.Vì thế, Gioan đã sai các môn đệ đến hỏi thẳng Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn đợi ai khác?”.
Trước đây, Gioan đã từng giới thiệu về Chúa Giêsu cho dân chúng: “Tôi lấy nước mà rửa anh em, song có Đấng đến sau tôi, tôi không xứng đáng cởi giây giày cho Người” (Mt 3,11); “Chính Đấng ấy sẽ rửa anh em bằng nước và Thánh Thần”. Gioan cũng đã giới thiệu với các môn đệ về Chúa Giêsu: “Đây chính là chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29).
Gioan không ngừng loan báo cho dân chúng uy thế của Đấng sẽ đến. Theo cách diễn tả cùng với những hình ảnh kèm theo, dường như chính ông cũng đang mong chờ Đấng ấy như một vị thẩm phán nghiêm minh. Đấng ấy sẽ không nương tay, Nguời sẽ thực thi công bình và sẽ tiêu diệt, sẽ “rê sạch thóc”, sẽ đem số “thóc lép”, tức là những kẻ làm điều gian ác, ném vào lửa đời đời. Đối với Gioan, Đấng Cứu Thế đến giải phóng Ítraen cả trong phạm vi trần thế nữa, về chính trị và kinh tế như kiểu một vị vua Do Thái bách chiến bách thắng để đem vinh quang nước Ítraen lên tột đỉnh. Gioan nóng lòng vì chưa thấy Chúa Giêsu thực thi sứ vụ theo sứ điệp “dữ dội” mà ông rao giảng, nên Gioan muốn hỏi rằng: có phải Thầy là vị cứu tinh phải đến để bài trừ những tệ đoan, bất công và tham nhũng trong xã hội không?
Những lời nói và việc làm của Chúa Giêsu lại không phù hợp với những gì ông đã rao giảng. Chúa Giêsu xuất hiện như một vì tôi tớ hơn là một Đấng quân vương. Người cũng không giống như quan toà nghiêm minh thẳng tay trừng phạt kẻ tội lỗi. Trái lại, Người luôn luôn yêu thương, kêu gọi họ trở về, đồng bàn với họ. Đối với người nghèo khổ, bệnh hoạn tật nguyền, Người hết mực yêu thương, bao bọc chở che chăm sóc chữa lành chứ không xa lánh khinh khi vì sợ lỗi luật như các Rabbi. Chính vì thế, khủng hoảng niềm tin của Gioan Tẩy Giả cũng là điều dễ hiểu. Trong hoàn cảnh ngục tù, Gioan đã biết tìm đến Chúa Giêsu để tìm sự giải đáp cho những thao thức canh cánh trong lòng. Và Gioan đã tìm thấy.
Chúa Giêsu không bị giới hạn trong cái nhìn chật hẹp của Gioan. Người muốn Gioan mở rộng tầm mắt với một lối nhìn mới mẻ, phong phú hơn: ″Các anh cứ về tường thuật cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch,người chết sống lại, và Tin mừng được loan báo cho người nghèo khó” (Mt 11,4-5).
Như vậy, Chúa Giêsu đã trả lời bằng cách trích dẫn ba đoạn văn Isaia đều có hậu cảnh Mêsia: Is 29,17-18: người điếc được nghe, người mù được thấy; Is 26, 19: người chết sống lại; Is 61,1: loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Chúa bảo họ hãy về thuật lại những việc Chúa đã làm và những lời Chúa đã nói, những điều đó đủ minh chứng Người là ai. Những điều đó đã được các ngôn sứ loan báo từ dọc dài lịch sử rồi. Trả lời như vậy là Chúa Giêsu gián tiếp bảo cho họ biết: Người không phải là một vị cứu tinh đầy uy quyền, đến giải phóng dân tộc Do Thái như họ mong đợi. Đồng thời Chúa trực tiếp xác nhận sứ mạng và quyền năng của Người: là con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai đem ơn cứu độ cho mọi người.
Chúa Giêsu còn biểu dương, ca ngợi Gioan Tẩy Giả trước mặt dân chúng, trước sự chứng kiến của các môn đệ. Người tôn vinh ông, bởi lẽ ông là một Ngôn sứ vĩ đại nhất trong số các Ngôn sứ. Người tôn vinh ông, bởi ông là con người của khổ hạnh nơi hoang địa, là vị Ngôn sứ được mong đợi, là vị Tiền hô đến trước để dọn đường cho Đấng Thiên sai như Ngôn sứ Malakhi đã loan báo : “Này ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến”. Khi nghe môn đệ thuật lại những điều này, Gioan Tẩy Giả hẳn phải vui mừng, bởi Chúa Giêsu không chỉ củng cố, không chỉ giải đáp những hoang mang lo lắng của ông, Người còn khích lệ, tán dương ông, giúp ông vượt qua những thử thách ngục tù để có thể chấp nhận cái chết tử đạo mà ông sẽ lãnh nhận không lâu sau đó. Trong tù, Gioan đã có thời gian để chiêm niệm.Cần phải thay đổi nhận thức và quan điểm của mình về Thiên Chúa. Quyền năng Thiên Chúa là quyền năng của tình thương. Đấng Cứu Thế đi đến đỉnh cao quyền năng là đồi Canvê và thập giá. Từ nay, Gioan hiểu hơn về Đấng mà mình loan báo. Giờ đây Gioan hiểu rằng, Đấng Mêsia mà ông loan báo không phải đến trần gian theo những quan niệm thuần tuý về chính trị, Người đến để rao giảng nước Thiên Chúa và cứu độ nhân loại. Thánh Gioan hạnh phúc an bình ra đi sau khi hoàn tất sứ vụ của mình.
Thánh Gioan Tẩy Gỉa đã trải qua những thách đố trong sứ vụ. Chính Ngài đã giới thiệu Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế nhưng khi lâm cảnh đau khổ ngục tù không thấy ai giải thoát nên đâm ra nghi ngờ. Nhưng cuối cùng, Gioan đã chứng minh một niềm hy vọng kiên cường. Ngài không phải là cây sậy yếu mềm chao nghiêng trước gió mà chính là một tượng đài bất khuất của lẻ cậy trông. Hạng người khom lòng cúi gập mình chẳng bao giờ có thể trở thành người tử đạo. Gioan không phải là một người bình thường cũng không phải là người hèn yếu như cây sậy bị xiêu đổ dưới cơn gió. Niềm hy vọng chính là sức mạnh giúp Gioan và tất cả những ai đang gặp thách đố biết kiên vững kinh qua tất cả.
Khi chúng ta gặp đau khổ thử thách, đức tin, lòng cậy trông, niềm hy vọng bị lung lay chao đảo. Hãy nhớ Thánh Gioan đã chịu như thế và các tiên tri trong lịch sử cũng mang tâm trạng như vậy. Thánh Gioan không chết trong thất vọng mà chết trong đức tin, chết trong niềm hy vọng, đã đi cho đến cùng sứ mạng làm chứng cho Tin mừng.
Franklin Patrick Herbert (1920-1986, văn sĩ, ký giả, nhiếp ảnh gia, nhà phê bình và giảng viên người MV 3-A177
Franklin Patrick Herbert (1920-1986, văn sĩ, ký giả, nhiếp ảnh gia, nhà phê bình và giảng viên người Mỹ) phân tích: “Người sáng suốt, khi không hiểu thì họ nói: ‘Tôi không hiểu’. Còn kẻ khờ không biết xấu hổ về sự ngu dốt của mình”. Người sáng suốt là người khôn ngoan, họ biết giới hạn của mình nên không dám khoác lác, cái gì biết thì nói, cái gì không biết thì nói không biết. Ngược lại, kẻ khờ dại lại cứ tưởng mình khôn, luôn ra vẻ “ta đây”, luôn tự ái vì sợ người ta thấy cái dốt của mình.
Biết thắc mắc là cửa ngõ dẫn vào cõi khôn ngoan, tới vùng hiểu biết. Tuy nhiên, muốn thắc mắc cũng phải biết cách thắc mắc, nếu không sẽ hóa ngớ ngẩn hoặc dớ dẩn (từ này có nghĩa “nặng nề” hơn vớ vẩn). Thật vậy, Thomas Fuller (1608-1661, giáo sĩ Anh giáo và sử gia người Anh) nói: “Không phải câu hỏi nào cũng xứng đáng có câu trả lời”. Cũng có những câu hỏi Chúa Giêsu đã không trả lời.
Hôm nay, Tin Mừng cho biết rằng ông Gioan Tẩy Giả đã thắc mắc về Đấng Cứu Thế nên ông sai đệ tử đến hỏi Chúa Giêsu, nhưng Chúa Giêsu không nói đúng hay sai. Ông Gioan là anh em họ với Đức Giêsu mà vẫn thắc mắc, có lẽ không phải là ông chưa tin người anh em họ với mình là Đấng Cứu Thế, mà ông muốn cho đám đệ tử biết về Đức Giêsu là Đấng Kitô. Nhưng phong cách của Chúa Giêsu luôn khác người, giống như kiểu nói của người Việt: “Người khôn ăn nói nửa chừng, để cho kẻ dại nửa mừng nửa lo”.
Chúa Nhật III Mùa Vọng là Chúa Nhật Hồng, mệnh danh là Chúa Nhật Vui (Gaudete) – Chúa Nhật IV Mùa Chay cũng là Chúa Nhật Hồng, nhưng mệnh danh là Chúa Nhật Mừng (Lætare). Hơn nữa, trình thuật Kinh Thánh hôm nay – sách Isaia (Is 35:1-6a. 10) – mời gọi mọi người hân hoan: “Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông, hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ, và hân hoan múa nhảy reo hò”.
Có nhiều lý do để người ta vui sướng, đặc biệt là trong thời gian gần dịp Lễ Giáng Sinh, nhưng lý do mà ngôn sứ Isaia đưa ra cụ thể và rất đời thường: “Sa mạc được tặng ban ánh huy hoàng của núi Li-băng, vẻ rực rỡ của núi Các-men và đồng bằng Sa-ron. Thiên hạ sẽ nhìn thấy ánh huy hoàng của Đức Chúa, và vẻ rực rỡ của Thiên Chúa chúng ta. Hãy làm cho những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ, cho những đầu gối bủn rủn được vững vàng”.
Lý do cụ thể hơn là về tinh thần, ngôn sứ Isaia khuyên chúng ta hãy mạnh dạn nói với những kẻ nhát gan điều này: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em. Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò”. Nghe thì nghe vậy, rất “đã” cái lỗ tai, nhưng quả thật lại rất khó. Cuộc sống cho chúng ta thấy rõ: có nhiều người “mạnh miệng”, nói đâu ra đó, nhưng rồi rất có thể họ lại là những kẻ co cẳng chạy trước người khác, khi phải đối diện với sự thật – nhất là liên quan vấn đề công lý.
Kẻ nhút nhát thì thường mạnh miệng, khoác lác, muốn chứng tỏ mình là “anh hùng”. Nhưng rồi cũng chỉ là “anh hùng rơm”. Thuyết giảng hoặc viết lách thì chưa đến nỗi khó, nhưng hành động thì khó lắm. Nói và viết mà không làm thì nên im lặng thì tốt hơn, kẻo “họa vô đơn chí”, vì Thiên Chúa không nói đùa mà rất nghiêm túc, thẳng thắn. Nói hay, viết giỏi để làm gì? Nếu không sống theo đó thì chỉ khốn nạn thêm chứ chẳng lợi ích gì!
Chúa Giêsu đến thế gian là để làm chứng cho sự thật (Ga 18:37), ai dám bảo vệ sự thật thì sẽ được Thiên Chúa xót thương và cứu độ. Đó là niềm vui quá lớn: “Những người được Đức Chúa giải thoát sẽ trở về, tiến đến Sion giữa tiếng hò reo, mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu. Họ sẽ được hớn hở tươi cười, đau khổ và khóc than sẽ biến mất”. Cười và khóc cũng có cái giá nhất định, như một hệ lụy tất yếu vậy!
Quả thật, Thiên Chúa thẳng thắn hơn chúng ta tưởng, vì Ngài là ĐẤNG CÔNG MINH CHÍNH TRỰC (Tv 7:18; Tv 9:9; Tv 11:7; Tv 25:8; Tv 67:5), và Ngài KHÔNG THIÊN VỊ bất cứ ai (Lc 20:21; Cv 10:34; Rm 2:11; Gl 2:6; Ep 6:9). Cách làm việc của Thiên Chúa được tác giả Thánh Vịnh xác nhận: “Thiên Chúa xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn. Chúa giải phóng những ai tù tội, Chúa mở mắt cho kẻ mù loà. Chúa cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, Chúa yêu chuộng những người công chính. Chúa phù trợ những khách ngoại kiều, Người nâng đỡ cô nhi quả phụ, nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân” (Tv 146:7-9).
Người ta thường ví von: “Lưới trời lồng lộng”. Phàm nhân mà còn nói được như vậy thì chắc chắn không ai thoát khỏi Thiên Chúa. Ngài thấu suốt mọi sự (Sbn 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6) và nắm giữ mọi quyền hành: “Chúa nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở, Sion hỡi, Chúa Trời ngươi hiển trị ngàn đời” (Tv 146:10).
Thiên Chúa Ngôi Hai là TRUNG GIAN giao ước mới (Dt 12:24). Ngài đến thế gian để bênh vực những kẻ thấp cổ, bé miệng. Họ kêu mà không ai thèm nghe. Thiên Chúa rất coi trọng họ, vì người nghèo là tài sản của Giáo Hội. Ngôn sứ Isaia cho biết: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó” (Is 61:1; x. Lc 4:12). Đó là hình ảnh về Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế.
Mùa Vọng nhắc nhở chúng ta về ngày Chúa quang lâm, tức là ngày tận thế. Đây cũng là vấn đề khiến người ta thắc mắc nhiều nhất từ xưa tới nay. Nhưng hãy nhớ rằng không ai có thể biết trước “ngày ấy”, kể cả Chúa Giêsu, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi (Mt 24:36; Mc 13:32). Không thể biết thì đừng thắc mắc làm chi!
Thánh Giacôbê nhắn nhủ chúng ta về việc mong chờ: “Thưa anh em, xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá: họ phải đợi cả mưa đầu mùa lẫn mưa cuối mùa. Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới” (Gc 5:7-8). Ai cũng có cách mong chờ đặc trưng theo công việc của mình, mỗi lĩnh vực trong cuộc sống đều có kiểu mong chờ riêng.
Khi mong chờ, người ta nôn nóng nên dễ nổi nóng. Về tâm linh cũng tương tự. Thánh Giacôbê khuyên: “Thưa anh em, anh em đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, để khỏi bị xét xử. Kìa Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa. Thưa anh em, về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh em hãy noi gương các ngôn sứ là những vị đã nói nhân danh Chúa” (Gc 5:9-10). Trách cứ lẫn nhau xem chừng là chuyện nhỏ nhặt, nhưng Thánh Giacôbê cho biết rằng không phải như chúng ta nghĩ, nghĩa là có ảnh hưởng xấu tới nhiều thứ khác.
Thật đúng như vậy, bởi vì tiền nhân cũng đã xác định: “Tâm phẫn xí tắc bất đắc kỳ chính”. Thánh Phêrô cũng phân tích tỉ mỉ về cách mong chờ: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều trải qua cùng một loại thống khổ như thế” (1 Pr 5:8-9).
Tin Mừng của Chúa Nhật Vui, theo chu kỳ Phụng Vụ năm A, là trình thuật Mt 11:2-11. Trình thuật này đề cập thắc mắc của ông Gioan Tẩy Giả về Đấng Cứu Thế.
Dù đang ở trong chốn lao tù, ông Gioan cũng vẫn nghe biết những việc Đức Kitô làm, ông sai môn đệ đến hỏi xem Ngài có thật là Đấng phải đến hay còn phải đợi Đấng nào khác. Đức Giêsu không trả lời bằng cách nói xác định, mà Ngài nói họ cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng. Đặc biệt Ngài cho biết một mối phúc khác: “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi”.
Sau khi các đệ tử của ông Gioan đi rồi, Đức Giêsu bắt đầu đặt vấn đề với đám đông về ông Gioan: “Anh em ra xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? Thế thì anh em ra xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua. Thế thì anh em ra xem gì? Một vị ngôn sứ chăng?”. Một loạt câu hỏi được Chúa Giêsu đặt ra, cách nói cũng rất lạ.
Chắc chắn chẳng ai có thể trả lời, Ngài biết rõ như vậy, và Ngài cũng biết người ta đang thắc mắc về ông Gioan vì ông là một người khác thường, đến nỗi người ta đã tưởng ông là Đấng Cứu Thế mà Kinh Thánh đã đề cập. Chúa Giêsu nói cho họ biết luôn về “dị nhân” Gioan: “Đúng thế đó. Mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa. Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến. Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông”.
Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời mà lại còn lớn hơn ông Gioan. Lạ thật đấy. Nhưng đó là sự thật. Người ta thích làm lớn mà lại không muốn làm nhỏ. Cũng lạ thật đấy. Cái tôi của con người nhiêu khê quá!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết hóa mình ra không giữa cuộc đời này, không thắc mắc hoặc đòi hỏi gì về số phận của con hôm nay, nhưng con muốn mãi mãi có Ngài là gia nghiệp. Chỉ thế thôi, lạy Thiên Chúa! Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Kinh nghiệm từ hoang địa đến bị giam tù của Gioan Tẩy Giả gợi lên những bài học quan trọng, cần MV 3-A178
Kinh nghiệm từ hoang địa đến bị giam tù của Gioan Tẩy Giả gợi lên những bài học quan trọng, cần thiết cho cuộc sống.
Thông thường đặt ra câu hỏi của Gioan về Chúa Giêsu thì thiếu minh bạch. Câu hỏi này đến từ các môn đệ của Gioan, họ thấy một người thầy khác đang thu hút nhiều người theo, lắng nghe hơn Gioan thầy mình nên sinh lòng ghen ghét. Dù họ là những người tự do bên ngoài khung sắt, nhưng ý nghĩ và điều suy tưởng của họ lại đang ở tù vì những đố kỵ, hiềm thù, ghen ghét, ích kỷ…
Câu trả lời của Chúa Giêsu cho thấy chính Người đang ứng nghiệm lời loan báo của Isaia: “Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.” (Is 35, 5 – 6) và cả thánh vịnh cũng nhắc đến thời Đấng Messia: “ Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng, muôn dân nước thảy đều phụng sự. Người giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ, giải thoát cho khỏi áp bức bạo tàn, từng giọt máu họ, Người đều coi là quý.” (Tv 72, 11 – 14). Đối với môn đệ của Gioan vẫn kỳ vọng về Đấng Mesia theo nghĩa chính trị, quyền bính trong tay để lập vương quốc, chứ không phải một vị Mesia của dân nghèo nàn. Tư tưởng liên minh phe nhóm để tìm lợi ích luôn luôn có, trục lợi cho mình khi có thân thế. Chúa Giêsu căn dặn: “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (Mt 11, 6).
Giới thiệu về Gioan Tẩy Giả
Người từ trong hoang địa:
Gioan đã ở hoang địa suốt nhiều năm từ khi trưởng thành đến khi Chúa Giêsu ra rao giảng công khai. Kinh nghiệm hoang địa dầy dặn làm cho ngài kinh nghiệm hơn ở tù giam. Chính mình tự giam mình trong khuôn khổ, trong những điều khắc nghiệt thì khó hơn việc người khác giam mình.
Để thành công, thành người, bài học cần thiết luôn là “nghiêm khắc với bản thân và bao dung với người khác”. Nếu không nghiêm khắc với bản thân, Stephen R. Covey từng nói: “Những người không có kỷ luật là nô lệ cho cảm xúc, dục vọng, và đam mê.”.
Trong giáo dục thì có châm ngôn: “Con giữ kỷ luật thì kỷ luật giữ con”. Kỷ luật đem lại tự do, giống như sợi dây diều, giữ con diều tự do bay lượn trên không, nếu bứt dây diều, là sợi dây ràng buộc, diều sẽ rơi xuống đất.
Kỷ luật làm nên sức mạnh. Thánh Gioan bị giam cầm về thân xác nhưng không thể giam cầm một con người tâm hồn luôn tự do hướng về Thiên Chúa.
Người dọn đường:
Tiếng hô của Gioan tẩy Giả dường như đang lạc vào trong những tiếng nhạc Giáng Sinh thế tục, những quảng cáo lễ hội, party, lạc vào trong những đèn led trang trí, hươu, nai, ông già Noel. Tiếng hô bị đẩy ra ngoài nơi hoang vắng, để người ta vui chơi kỳ nghỉ Giáng sinh với những ngày mua sắm, với những ngày nghỉ dài bên các bãi biển tràn ngập nắng, những chè chén say sưa.
Chúa không còn thấy trong hang đá, những ý nghĩa sâu xa về Thiên Chúa làm người bị bỏ qua, thay vào đó những hang đá phô diễn trang hoàng rực rỡ, đủ các loại sao chớp, thiên thần bay lên, bay xuống, Đức Mẹ, Thánh Giuse đưa tay qua lại ru võng, xem Ipad, cầm Iphone… Thế tục hoá như Đức Thánh Cha Bênêdictô đã nhận định: “biến Giáng sinh thành câu chuyện huyền thoại” (Xem Thiên Chúa và trần thế, ĐGH Benedicto XVI, Phạm Hồng Lam dịch, NXB Tôn giáo 2011).
Trong một thế giới đang đầy hiểm hoạ chiến tranh, khủng bố, tội ác, giết người, lạm dụng tính dục, thờ ơ… Cần có thêm rất nhiều người như Gioan tẩy Giả, những con người dấn thân cho Tin Mừng, dọn tâm hồn với ý nghĩa sâu xa của ngày Con Chúa ra đời, “làm người ở giữa chúng ta” (Ga 1, 14). Là tiếng hô không mệt mỏi: “lúc thuận lợi cũng như khi không thuận lợi” (2Tm 4, 2), sửa lối cho Chúa đến.
Gioan Tẩy Giả hơn cả ngôn sứ (Mt 11, 9). Đó là lời giới thiệu của Chúa Giêsu về Gioan. Khi mỗi người tiếp tục sống theo gương thánh Gioan, “nghiêm khắc với chính mình” để dọn đường cho Chúa đến với chính mình và với người khác, chúng ta tiếp tục sống sứ vụ đã lãnh nhận trong Bí Tích Rửa Tội.
Câu hỏi của Gioan “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không,hay là chúng tôi còn phải MV 3-A179
Câu hỏi của Gioan “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không,hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác”.Câu hỏi không chỉ là để thỏa tính tò mò, nhưng hơn thế,Gioan muốn cho các môn đệ tự mình nhìn thấy bằng mắt những phép lạ Chúa đã làm cho những người đau bệnh.Chúa không thích tự quảng cáo về mình, nhưng thích người ta nhận ra con người thật bằng những việc làm cụ thể.
· Chúa đến để cho kẻ nghèo nghe được Tin Mừng,người chết sống lại Những phép lạ phi thường đó, tự nó chứng minh về quyền năng của Chúa,và cũng rao giảng về Nước Trời,nơi mà bệnh tật,cùi hủi,mù lòa và kẻ chết sẽ được chữa lành và sống lại.Nước trời chính là sứ điệp mà Chúa đem đến cho con người niềm hy vọng và sự tín thác tuyệt đối,để những ai tin vào Chúa rồi sẽ được cứu thoát.
· Gioan đã được sai đến,và với sứ mạng tiền hô,ông sẽ giới thiệu về Chúa cho mọi người như là “con chiên gánh tội trần gian”.Bằng lời rao giảng thống hối,Gioan đã đưa mọi người đến phép rửa thống hối tin vào Chúa và tín thác vào một mình Ngài.Ông chính là “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến”.
· Biết chuẩn bị và sẵn sàng mở rộng lòng để đón Chúa,đó vẫn là thái độ khôn ngoan nhất,mà Giáo Hội đang mời gọi tất cả chúng ta trong những ngày này.Có thống hối,có ăn năn,có chuẩn bị tâm hồn cách tích cực,thì ngày giờ Chúa đến viếng thăm,chúng ta sẽ vui mừng và hạnh phúc tràn đầy.
Niềm vui Gíang sinh sẽ ngập tràn trong tâm hồn mỗi người,khi nó đi sâu vào trong lòng người, khi chúng ta sẵn sàng mở lòng ra để đón nhận Chúa và chia sẻ với anh em.Năm thánh lòng thương xót vừa kết thúc,nhưng điều cần hơn cả là chúng ta biết sống chia sẻ và quảng đại, cho đi.Chúa sẽ viếng thăm và ở lại với chúng ta,khi chính chúng ta cần đến Ngài và mau mắn cộng tác với Ngài để đến với anh em.
Lạy Chúa,chúng con thật vui mừng khi biết rằng Chúa chính là Đấng phải đến,đã đến,để cứu thoát chúng con.Nhờ ơn nhập thể và cái chết trên thập giá,Chúa đã cứu chuộc và giải thoát con người chúng con khỏi cảnh nô lệ tội lỗi và cái chết. Xin giúp chúng con luôn tín thác nơi Chúa và sẵn sàng, để ngày giờ Chúa đến viếng thăm,chúng con sẽ không bao giờ là những kẻ lỡ hẹn.Amen.
Niềm vui chung của người nghèo là được no cơm ấm áo, công ăn việc làm sớm ổn định. Hạnh phúc MV 3-A180
Niềm vui chung của người nghèo là được no cơm ấm áo, công ăn việc làm sớm ổn định. Hạnh phúc thật của người giầu, thường mông lung khó tìm thấy điểm chung, tuy nhiên ở thời nào, giai cấp tri thức hay bình dân, đều chi phối bởi niềm vui tinh thần và vật chất. Thực trạng con người hôm nay, cũng là thao thức chung của từng gia đình hôm xưa, đó là chúng ta cần làm gì để được an vui hạnh phúc ? Hẳn chúng ta đã hiểu, nếu là quan chức, hãy sống công bình, nếu là cha mẹ, hãy thủy chung yêu thương, nếu là con, hãy sống đức thảo hiếu, vì niềm vui hạnh phúc chỉ thực sự có khi ta ý thức sống đạo làm người.
Niềm vui bao giờ cũng gắn liền với hạnh phúc, an vui nâng tâm hồn ta phấn chấn, tươi trẻ ; cuộc sống có vui khỏe như ý là cuộc sống thắm đượm tình người được cảm thông chia sẻ. Năm xưa ông Gioan ở trong ngục tù, tâm hồn ông cũng rạo rực chung với ơn cứu độ đang tới. Dù phải chịu khổ đau, bắt bớ, mất mạng…, chẳng ai có thể ngăn cản tâm tư vui mừng của ông đang “rung nhịp” đón ơn Thiên Chúa cứu độ. Bị giam cầm, Gioan vẫn chỉ dẫn các môn đệ ông cách tiếp tận với Đấng phải đến, để rồi ông cũng chung niềm vui vì sứ mạng tiền hô của ông đã hoàn thành. Đối với Gioan, hạnh phúc không phải là không có rắc rối, nhưng là ông có đủ khả năng để đối phó với những phức tạp đang cản trở.
Năm xưa, dân tộc Do-thái vui, tự hào, vì họ là dân riêng được tuyển chọn, nhưng lịch sử cho thấy niềm vui của họ không đi đến đâu cả, hoặc vì thiếu sự chuẩn bị, hoặc vì không nghe được sứ điệp của Gioan ? Niềm vui và hạnh phúc của thế hệ chúng ta cũng vậy, nghe, hiểu và biết sống tỉnh thức, đó mới là tinh thần chuẩn bị mà Gioan từng sống và hô hoán dọn lòng đón Chúa. Hôm nay, Chúa Giêsu vui vì có nhiều sứ giả đã cùng một tâm tình loan báo mầu nhiệm Đấng cứu độ, vui bởi thành quả các ngôn sứ đã mở đường, dọn lòng, để tình người và tình Chúa được giao hòa. Chúa Giêsu vui vì thời gian sống ơn gọi làm con ở Nagiarét đã hoàn tất, nay mở ra sứ mạng làm Đấng cứu thế cách hiển nhiên theo thánh ý Chúa Cha.
Hôm nay, phụng vụ mời gọi chúng ta xác tín hơn về mầu hồng tình yêu sẽ thay cho mầu tím hy vọng, niềm vui chung được mở rộng khỏi ranh giới địa lý, nhưng tỏa chiếu trên hết mọi tâm hồn khao khát chờ đợi. Ơn cứu độ sẽ đến thay cho lời hứa, tình yêu sẽ phủ lấp các tương quan, biến đổi trái tim chai đá nên mềm mại, chung một niềm vui trong Thiên Chúa cứu độ. Ông Gioan cùng các đệ tử của ông, và khắp mọi dân tộc trên khắp thế giới sẽ còn được biết đến. “Người mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, phúc cho những ai không vấp ngã vì tôi”.
Tục ngữ có câu: nước lên bèo cũng lên, Chúa Giêsu vui, Thầy Gioan vui, các học trò và muôn thế hệ cũng sẽ tràn trề niềm vui. Đám đông dân chúng đến samạc hôm xưa, từ nay họ sẽ thấy rõ hình ảnh của Gioan sống mãi trong sứ mạng Đấng phải đến, cái biết về Đấng cứu độ trở nên xác thực với mọi tâm hồn. Lời mạnh mẽ của Gioan sẽ còn vang lên trong ơn gọi người môn đệ: “cây nào không sinh trái tốt sẽ phải chặt đi”. Đúng như câu thành ngữ: chuông không đánh không kêu, đèn không khêu không tỏ. Niềm vui của Chúa Giêsu sẽ trở nên bất tử, khi mà tất cả những ai đã và đang sống tỉnh thức đợi chờ ngày Chúa đến.
Mỗi ngày là một cơ hội thay đổi, làm mới cuộc đời mình, mỗi biến cố vui buồn làm sáng tỏ hơn về giá trị tình yêu của cuộc sống. “Khi các môn đệ của Gioan đi rồi, Đức Giêsu bắt đầu nói với đám đông : anh em xem gì trong hoang địa ? một cây gậy phất phơ trước gió chăng” ? Hẳn Chúa Giêsu không chỉ gởi lên vài câu hỏi đánh động lòng trí một số đang “lơ mơ” về lời giảng dạy của Đấng Gioan giới thiệu. Niềm vui và hạnh phúc trần gian không bao giờ có ở hoang địa, tình yêu và ơn cứu độ sẽ không giới hạn ở một số đối tượng, Thiên Chúa làm được mọi sự, nhưng Ngài cần sự tự do đáp trả của mỗi người.
Chúa Giêsu còn mở lời khen ngợi Gioan như một xác thực, không thể so sánh hạnh phúc trần thế với hạnh phúc Nước Trời. Thành công, thất bại ở đời này, chính là những nỗ lực mà người ta đầu tư công sức đúng và đủ, hợp lý hợp tình ra sao. Có được niềm vui như Gioan, nhất định không phải do ông ăn châu chấu uống mật ong rừng. Nhưng là do ông biết chuẩn bị tâm hồn, biết lắng nghe và biết thực thi sứ mạng chung như các sứ giả của Thiên Chúa : hãy ăn năn sám hối vì Nước Trời đã gần đến. Xin tình yêu Chúa thấu hiểu sự giới hạn của mọi tâm hồn nhân thế, xin tha thứ, chúc lành, để Chúa nhật mầu hồng, sẽ mãi là tình yêu và hạnh phúc cho thế hệ hôm nay và mai sau. Amen.
Trào lưu đổ xô đi mua sổ xố tự chọn của Vietlott đã trở thành làn sóng, thậm chí trở thành một vấn MV 3-A181
Trào lưu đổ xô đi mua sổ xố tự chọn của Vietlott đã trở thành làn sóng, thậm chí trở thành một vấn đề của tâm lý xã hội…. Bổng chốc có người sở hữu trong tay hàng mấy chục tỉ đồng làm cho nhiều người ôm trong lòng giấc mộng “bổng nhiên thành tỉ phú”; mặc dù cũng có những vấn đề khó hiểu của hình thức xổ số theo kiểu Mỹ này. Có những người khốn đốn vì chuyện “bổng nhiên sở hữu khối tài sản khủng”. Ví dụ nhiều người đến làm phiền, lo lắng không biết làm gì với số tiền này, lo sợ bị cướp… Thế cho nên niềm vui này không trọn vẹn.
Phụng vụ lời Chúa trong Chúa Nhật 3 Mùa Vọng luôn luôn là một niềm vui cho những ai đang trông chờ ơn cứu độ. Xin được nói đến một niềm vui như thế.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Bài Đọc I: Is 35, 1-6a.10
Chương 35 của sách Isaia nói về cảnh Giêrusalem toàn thắng. Cảnh này hoàn toàn tương phản với cảnh Ê đôm sẽ vĩnh viễn thành nơi hoang phế, còn Giêrusalem được tiên báo như sa mạc sẽ trổ hoa để đón dân thánh trở về từ Sion. Isaia nói cho dân biết: “Chính Thiên Chúa sẽ đến cứu anh em”. Dấu chỉ sự cứu độ đó là: “Mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò”. Ơn cứu độ đó làm cho: “Họ sẽ được hớn hở tươi cười, đau khổ và khóc than sẽ biến mất”.
Tin Mừng: Mt 11, 2-11
Khi nghe biết những việc Đức Giêsu làm, Gioan rất đỗi vui mừng vì thấy điều mình đang mong đợi đã thành hiện thực. Tuy nhiên các môn đệ Gioan vẫn còn hoang mang vì người công chính bị bách hại, vẫn còn chưa hiểu rõ về ơn cứu độ, nên ông sai họ đích thân đến gặp Đức Giêsu để Ngài giúp họ hiểu rõ vấn đề hơn. Khi họ đến nơi, họ chứng kiến những việc Đức Giêsu làm: “Người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được”… những việc đó hoàn toàn ứng nghiệm lời tiên tri Isaia loan báo về Đấng Messia nên họ tin Ngài là đấng ấy. Tuy nhiên, Đức Giêsu cảnh báo cho họ không tìm kiếm một Đấng Messia vinh quang theo kiểu trần gian. Nếu họ kiếm tìm điều đó họ sẽ hoàn toàn thất vọng: “Phúc cho những ai không vấp ngã vì tôi”.
Bài Đọc II: Gc 5, 7-10
Cùng chung tâm trạng với môn đệ của Gioan Tẩy giả, giáo đoàn Giacôbê nôn nóng mong đợi ngày Chúa đến, vì vậy thánh nhân đã khuyên họ: “Xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm… vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới”. Trong khi chờ đợi như vậy, thánh nhân khuyên họ hãy sống tốt tương quan với mọi người: “Anh em đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau”.
Như vậy lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy một niềm vui lớn lao vô cùng, niềm vui do một thời đại mới, thời đại mà tất cả những gì bị hư hại, cằn cỗi, không có sự sống sẽ được biến đổi hoàn toàn. Đó là niềm vui ơn cứu độ. Nhưng để được sống trong thời đại đó phải kiên trì, phấn đấu. Thế cho nên niềm vui này là một cái gì lạ lẫm lắm, quý giá lắm, chứ không phải như những niềm vui chóng qua nhưng cũng chóng tàn mà con người vẫn đang tìm kiếm.
II. CÓ MỘT NIỀM VUI NHƯ THẾ
Chia sẻ trong Thánh lễ thứ Ba tuần II mùa Vọng tại nhà nguyện thánh Marta tuần qua, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: “Chúa Giêsu không chỉ làm thay đổi từ xấu thành đẹp, từ ác thành thiện, mà Người làm nên một sự biến đổi. Không phải là biến đổi theo kiểu làm đẹp, kiểu trang điểm, mà là biến đổi tận căn từ nội tâm. Sự biến đổi sâu xa ấy là cuộc sáng tạo mới. Thiên Chúa đã sáng tạo thế giới, con người sa ngã trong tội lỗi, và Chúa Giêsu thực hiện cuộc tái tạo, cuộc sáng tạo mới”.
Vì vậy trông chờ Chúa đến chính là trông chờ công cuộc sáng tạo mới của Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa đã sáng tạo “mọi sự đều tốt đẹp”, nhưng ma quỷ đã làm cho công trình đó trở nên xấu. Đó là hình ảnh sa mạc nắng cháy khô cằn, đất đai cằn cỗi, những con người què quặt, đui mù, câm điếc… được Isaia nói đến trong bài đọc thứ nhất.
Nhưng chính Đức Giêsu đã giải phóng tất cả những điều đó: “Người mù được xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”. Ngài là Đấng tái tạo mọi sự. Niềm vui sâu thẳm chính là niềm vui tái tạo, niềm vui được biến đổi.
Vì lẽ đó mà Đức Thánh Cha mời gọi mỗi người chúng ta: “Hãy mở rộng tâm hồn cho Chúa” và “Hãy dâng lên Chúa những tội lỗi của ta”.
Hãy mở rộng tâm hồn cho Chúa
Ân sủng của Chúa có khả năng biến đổi tất cả, nhưng điều quan trọng là chúng ta có mở rộng tâm hồn cho Chúa biến đổi hay không mà thôi.
Tại sao nhiều người trong Họ đạo chúng ta vẫn còn khô khan nguội lạnh? Có phải là do Chúa không có khả năng? Hay do Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp không chịu làm dấu lạ? Thưa không phải, nhưng chỉ vì những người đó chưa chịu mở tâm hồn ra cho Chúa biến đổi. Họ vẫn đổ thừa lý do này, lý do nọ. Họ vẫn nghe các Linh mục, nghe những người đạo đức cũng như những người thân khuyên lơn, mời gọi, nhưng họ vẫn khép kín linh hồn mình lại.
Quý Cha trong Họ đạo vừa có thư ngỏ gởi các gia đình trong Họ đạo để nhắc nhở mọi người việc hoán cải, trở về với Chúa, đồng thời thực hiện việc đọc kinh hôm chung trong gia đình. Nếu mọi người biết mở rộng tâm hồn, thì chắc chắn sẽ có một sự tái tạo trong Họ đạo chúng ta. Nhưng chắc chắn sẽ có một số người không mở lòng, không thực hiện. Chúng ta vẫn cầu nguyện cho những người đó. Có một số người cũng áy náy lương tâm, cũng muốn thực hiện, nhưng vì cái tôi quá lớn, nên có ý định không thực hiện “tâm thư” của quý cha. Hãy mạnh dạn mở rộng tâm hồn để cho Chúa được một lần có cơ hội làm cuộc biến đổi tâm hồn chúng ta, thì chắc chắn chúng ta sẽ có niềm vui sâu thẳm.
Hãy dâng lên Ngài những tội lỗi của ta
Có nhiều người không dám xưng thú những tội lỗi của mình, hoặc họ e ngại xưng tội rồi vẫn “ngựa quen đường cũ” nên có yêu mến Chúa, có thờ phượng Chúa, có đi lễ… nhưng vẫn còn những tội lỗi thâm căn cú đế trong mình.
Có một vị thánh cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa con dâng lên Chúa điều này… Ngài có vui không?” Chúa đáp: “Không!”. Vị thánh đó hỏi: “Tại sao vậy?” “Vì vẫn còn thiếu”, Chúa đáp như thế. “Nhưng con đã dâng lên Chúa tất cả rồi mà”! “Vẫn còn thiếu đấy con ạ!”. Thánh nhân hỏi tiếp: “Thưa Chúa, con đã quên điều gì?” Chúa nhẹ nhàng trả lời: “Đó là tội của con!”
Đó là điều Chúa đang muốn nói với chúng ta: “Hãy dâng cho Ta tội lỗi của con!” Lúc đó chúng ta sẽ được tái tạo để trở thành con người mới, chúng ta sẽ có một niềm vui sâu thẳm. Hãy thử mà xem!
Niềm vui mà Đức Giêsu Kitô đem đến cho chúng ta trong tuần III mùa Vọng hôm nay chính là niềm vui được tái tạo cho những ai biết mở rộng tâm hồn và dâng cho Chúa những tội lỗi của mình. Nhiều người trong gia đình, nhiều gia đình trong họ đạo chúng ta bấy lâu nay vẫn sống trong tình trạng sa mạc của tâm hồn, vẫn què quặt, đui mù, câm điếc trong đời sống đức tin. Mùa Vọng trong năm mục vụ Gia Đình này là cơ hội để những anh chị em đó, những gia đình đó có được niềm vui thực sự mà Đức Giêsu đem đến. Bấy lâu nay họ đang sống trong bóng tối. Những điều họ đang có được chỉ là những thứ giả tạo, chóng qua. Đây là cơ hội để họ được tái tạo, trở nên con người mới. Và đó là giá trị vĩnh cửu, vượt lên trên mọi giả trị khác, vì cùng đích cuộc đời chúng ta là được cứu độ.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho chính mình cũng như những người trong gia đình chúng ta có được niềm vui như thế!
Ngay cả vị Tiền Hô cũng còn cần học biết Đức Giê-su là ai. “Thưa thầy, thầy có thật là đấng MV 3-A182
Ngay cả vị Tiền Hô cũng còn cần học biết Đức Giê-su là ai.
“Thưa thầy, thầy có thật là đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” câu hỏi bộc lộ tất cả nỗi khắc khoải của Gio-an, vị tiền hô có sứ mạng loan báo đấng Thiên Sai sẽ đến! Mà ông không ray rứt sao được, khi mà Thầy Giê-su xem ra không đáp ứng được các kỳ vọng của ông, cũng như cái sứ điệp ông dày công và mạnh bạo rao giảng!
Bằng cả cuộc sống, Gio-an biết mình có sứ mạng duy nhất là rao truyền cho mọi người biết về việc đấng Mê-si-a sắp đến, một triều đại mới sẽ xuất hiện. Như mọi vị tiền hôi, có lẽ ông tưởng rằng: mình phải hơn ai hết biết rõ về đấng sẽ đến, và triều đại của ngài sẽ là như thế nào. Các tiên tri thời Cựu Ước đã chẳng phác họa lên, bằng nhiều nét rất chi tiết, dung mạo của đấng Thiên Sai sẽ tới, và vương quốc của Ngài là gì? Vì là một đan sĩ khắc khổ thuộc cộng đoàn Ê-sê-ni tại Kum-ram, Gio-an đã in sâu trong tâm trí hình ảnh của một Đấng Mê-si-a đầy nét khải huyền: ngài sẽ là một con người nghiêm nghị, quyền uy, trừng trị và thanh lọc. Nhờ một mạc khải của Thần Khí, Gio-an được biết Giê-su Na-da-rét chính là vị phải đến đó (xem Ga 1:31-34); ông thậm chí còn giới thiệu Người cho vài môn đệ của mình. Kể từ đó Gio-an không ngừng nghe ngóng mọi tin tức về Thầy Giê-su. Thế nhưng, trớ trêu thay, những gì ông nghe được lại hoàn toàn trái ngược hẳn với quan niệm mà ông đã từng có về đấng Mẽ-si-a.Theo ông, nếu Giê-su là đấng thiên sai mà dân Do Thái hằng mong đợi, thì Người phải tỏ hiện trong lời nói và hành động “cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống” (xem Mt 3:7-12). Vì lẽ đó, dầu bị giam hãm trong ngục thất, ông buộc phải sai sứ giả tới hỏi thẳng Người: “Thầy có phải là đấng phải đến không?”Đức Giê-su đã trả lời bằng cách: chỉ cho sứ giả thấy một số công việc mình đang thực hiện, và xin họ về báo lại cho Gio-an. Các việc này ăn khớp hoàn toàn với những nét tiên tri I-sai-a đã sử dụng để mô tả về đấng Thiên Sai, nhưng lại là điều bị Gio-an quên lãng: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: ‘người mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Is 35:5; 61:1). Như vậy, qua lời giải đáp cụ thể đó Thầy Giê-su muốn khảng định cho vị tiền hô của mình biết: đấng Mê-si-a tiên quyết phải là con người từ nhân và cứu độ chứ không thể là con người luận phạt. Hơn thế nữa, Người không quên nhắn gởi tới ông lời mời gọi: chính ông cũng phải chấp nhận thay đổi từ bên trong để có thể tiếp thu được điều này. Lời mời gọi chắc chắn sẽ gây cho ông đau nhức không nhỏ, nhưng là cần thiết để chính ông cũng phải chấp nhận Tin Mừng: “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi”.
Vị Tiền Hô lại được nhắc nhở cần phải chỉnh sửa chính quan niệm mình có về Đấng mà mình có bổn phận phải loan báo, đó quả là một đòi hỏi phũ phàng, thế nhưng trường hợp của Gio-an lại là như thế đó! Trong một mức độ nào đó, đòi hỏi này cũng đang được gởi tới tất cả mọi Ki-tô hữu chúng ta, nhất là những ai có nhiệm vụ (= chuyên nghiệp) rao giảng hay loan báo Đức Giê-su cho kẻ khác, tức các linh mục tu sĩ, cách riêng các nhà truyền giáo chẳng hạn: phải chỉnh sửa không ngừng hình ảnh hay quan niệm họ vốn có về Đức Giê-su Ki-tô, sao cho ngày càng phù hợp với Tin Mừng cứu độ hơn nữa!
Tôi đã từng có một chút kinh nghiệm về điều này:
Trong tư cách một nhà truyền giáo, tất nhiên tôi mong muốn rao giảng Đức Ki-tô cho nhóm sinh viên Mongolia xin tôi dạy giáo lý; trong khi ra sức giải thích sự khác biệt giữa đạo Shaman truyền thống của dân du mục Bắc Á, một tín ngưỡng hoàn toàn dựa trên nỗi sợ hãi các thần linh bí hiểm, với Tin Mừng cứu độ của Ki-tô giáo hoàn toàn đặt nền móng trên tình yêu của Thiên Chúa, tôi mới phát hiện ra rằng: sự hiểu biết của mình về Thiên Chúa và về Đức Ki-tô – bất chấp các môn thần học và giáo lý mình đã từng học chuyên sâu – cũng cần phải được chỉnh sửa lại: tôi nhất thiết phải chuyển dịch trọng tâm niềm tin của mình, từ tin vào một Thiên Chúa luận phạt nghiêm minh qua một Thiên Chúa nhân hậu, giầu lòng từ bi và hay thương xót. Lời giảng dạy của tôi từ nay, thay vì nhấn trên tội – phúc, thưởng – phạt, sẽ cần phải đề cập nhiều hơn tới ơn cứu độ và sự tha thứ của Thiên Chúa; thay vì kéo sự chú tâm tới các mặt luân lý để phân biệt tốt / xấu, làm lành / lánh dữ… thì hãy hướng cặp mắt đổ dần về Thập Giá cứu độ; thay vì chi ly với sự công thẳng đòi phải thanh luyện khắt khe, hãy để cho lòng từ ái Chúa bao bọc và dấn mình sâu hơn nữa vào vòng tay hiền mẫu…
Tiếp đó tôi khám phá ra rằng chính Phao-lô cũng đã từng trải qua một cuộc biến đổi tận căn như thế, nhất là phát xuất từ các quan niệm Cựu Ước mà một Biệt Phái như ông từng theo đuổi trong nhiều năm tháng. Kể từ ngày gặp được Giê-su trên đường Đa-mát, ông đã hoàn toàn thay đổi: từ nay đối với ông chỉ một mình Đức Ki-tô Thập Giá mới là quan trọng hơn cả. Ông nhận ra sự công chính do ơn cứu độ Đức Ki-tô mang lại còn lớn hơn cả ngàn vạn lần sự công chính của tất cả các luật pháp trần gian gộp lại (xem 1 Cr 2:2 và Gl 6:14). Gần đây hơn nữa, tôi cũng đã nhận ra tư tưởng này nổi bật nơi thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su, nơi Mẹ Tê-rê-xa Kơn-ka-ta, nơi Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II, và đặc biệt nơi Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đang hiển trị.
Thế thì mùa vọng này đúng là thời gian cần thiết để tôi, một linh mục giảng dạy cho kẻ khác chuẩn bị đón Chúa, phải chính mình làm một cuộc hoán cải tận căn, một cuộc chỉnh sửa cần thiết để khám phá sâu rộng hơn nữa một Thiên Chúa giầu lòng xót thương và cứu độ.
Thánh Gio-an Tiền Hô ơi, theo tiếng ngài mời gọi, con đang chuẩn bị tâm hồn đón Chúa đến! Qua bài Tin Mừng hôm nay, ngài cũng đang thôi thúc con tìm gặp một đấng Mê-si-a Cứu Độ thay vì một đấng Thiên Sai luận phạt công thẳng, điều mà chính ngài khi xưa đã từng được Thầy Giê-su mời gọi làm. Xin hãy giúp con và mọi Ki-tô hữu ngày càng nhận ra rõ hơn, Đức Giê-su Cứu Thế mới chính là hình ảnh trung thực nhất về một Thiên Chúa từ nhân; để rồi qua cuộc sống và lời rao giảng, chúng con cũng có thể giới thiệu và trình bày Người cách chính xác cho nhiều anh chị em khác nữa. A-men.
Ngay cả Gioan Tẩy Gỉa còn bán tín, bán nghi về Đấng Cứu Thế, vì ngay câu đầu tiên của Đoạn MV 3-A183
Ngay cả Gioan Tẩy Gỉa còn bán tín, bán nghi về Đấng Cứu Thế, vì ngay câu đầu tiên của Đoạn Tin Mừng hôm nay ( Mt 11, 2 – 3 ) cho thấy điều ấy. Và mặc nhiên, Chúa Giêsu đã trả lời cho môn đệ của Gioan là người đã “muốn biết” rõ về Chúa Gie6su . Chúa Giêsu đã thẳng thắn trích dẫn Kinh Thánh về Người (Is 35, 4), vì, không ai có thể làm được những điều kỳ diệu là : “ Người mù được xem thấy, kẻ què được đi, kẻ điếc được nghe, người câm nói được, người cùi được sạch, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”, (Mt 11, 5)
Vâng, và câu quan trọng nhất là : “ phúc thay những ai không vấp ngã vì Tôi “ ( c 6)
Rõ ràng, Gioan Tiền Hô là sứ giả mở đường cho Đấng Cứu Thế cũng phải có tâm trạng bán tín , bán nghi, phương chi là dân chúng. Vâng, quả thật, nếu một Vị Cứu Thế đến trong thế gian mà theo “thiển ý” của thế gian, mà Người làm được những việc phi thương như vậy, ắt là “tiền muôn, bạc thước” chứ chẳng chơi. Nhưng, đằng nầy, nếu danh tiếng Ngài lẫy lừng, thì tại sao, Người không thể hiện quyền uy ấy mà “ tiêu diệt” bọn “ khốn nạn”, lại để chúng muốn làm gì thì làm. Vâng, như chúng ta biết, sứ mạng Tiền Hô, là sứ mạng ngôn sứ, mà sứ mạng ngôn sứ là “ tiếng nói ” của sự thật, của lương tri. Nhưng, thật ra, theo đó thì “sứ mạng Messia” của Chúa Giêsu không phải đến thế gian để tạo lập vương quyền và gia sản như phàm nhân. Vâng, điều nầy là mấu chốt của vấn đề về sứ mạng của Người.
Khởi đi từ bài đọc I hôm nay ( Is 35, 1 -10), cho chúng ta thấy một viễn cảnh thái bình, tức Nước Trời, nơi có Thiên Chúa ngự trị. Đất khô cằn biến thành phì nhiêu, những tật bệnh, khiếm khuyết của con người được chữa lành, không còn những đau khổ bệnh tật. Mảnh đất phì nhiêu ấy, tượng trưng mảnh đất tâm hồn con người, nhờ Đấng Cứu Thế, chúng ta sẽ có được một mảnh đất tâm hồn “ phì nhiêu “ màu mỡ. theo đó, Nước Trời mà Chúa Giêsu thiết lập chính lá mảnh đất “tâm hồn “ nhân thế, nơi đó chính là “Nước Trời” khi và chỉ khi nó đón nhận Lời Chúa và sinh hoa trái.
Như vậy, khi Chúa Giêsu đến và trả lời cho môn đệ của Gioan Tiền Hô, thì chính Người cũng dùng chính lời Thánh Kinh ( Is 35, 5-6) để ứng dụng.
Ý muốn của Gioan Tiền Hô và những người đương thời lúc bấy giờ là, Đấng Cứu Thế phải là bậc Quân Vương theo kiểu trần gian. Có nghĩa là, phải dù lọng, võng xe, tiền bạc đầy nhà. Nhưng, Người không thiết lập vương quốc trần gian, chứng minh rằng, sự Tiền Hô của Gioan Tẩy giả, là tiếng kêu trong hoang địa: “Hãy dọn đường cho Đức Chúa, sửa lối ngay thẳng để Người đi …” (Mt 3, 3) cũng chính là lời tiên tri Isaia đã loan báo.
Như vậy, “Nhiệm Cục Nước Trời” chính Chúa Giêsu thiết lập không phải là một vương quốc taị thế bởi quyền lực và thống trị bằng vương quyền và tài sản. mà là bằng hy sinh và tự hiến.
Chúa Giêsu không thống trị bằng quyền lực, nhưng bởi tình yêu, Người không thống trị bằng tiêu diệt, mà bằng kêu gọi sám hối. Sám hối là sự kêu gọi bằng “ lòng thương xót”, tha thứ.
Chúng ta thấy, sự trả lời cho “nghi vấn” của Gioan Tiền Hô, cùng tương tự như sự trả lời cho những môn đệ đầu tiên muốn đi theo Người : “Hãy đến mà xem… Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chổ tựa đầu” (Mt 8, 20)( Lc 9, 58)
Cũng vậy, phần hai : Phần Chúa Giêsu nói về Gioan Tiền Hô.
Gioan Tiền Hô, nhân vật số 01, là vị ngôn sứ đầu tiên của Tân Ứơc. Có thể nói, Gioan Tiền Hô là người Kitô hữu đích thực và là mẫu gương Kitô hữu, bởi vì ngài chu toàn ba chức năng cách xuất sắc đó là : Tư Tế – Ngôn Sứ và Vương Đế.
– Ngôn sứ : Thánh Gioan Tiền Hô là : Tiếng kêu trong hoang địa của Thiên Chúa: “ Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến” ( Mt 11, 10).
Và như vậy, chính Chúa Giêsu xác nhận ngài là “Ngôn sứ” của Thiên Chúa.
– Tư Tế : Chính hôm nay, ngài đang sắp sửa là tư tế, vì sau đó, ngài sẽ là chứng nhân cho Đấng Cứu Thế. Ngài sẽ trở nên vị tư tế dâng chính mình ngài làm lễ vật, ngài sẽ bị chặt đầu, vì để bảo vệ chân lý.
Đứng ra ngăn cản vua Herodia, lấy em dâu của mình. Nên bị chặt đầu.
– Vương Đế : Cao trọng hơn mọi phàm nhân, căn cứ vào Lời Chúa Giêsu : “ Tôi nói thật cho anh em biết : trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Gỉa.” ( c 11 a ).
Nhưng, cũng chính câu nầy, Chúa Giêsu đã mặc khải Nước Trời “ Tuy nhiên , kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.” ( c 11 b)
Vâng , thưa quý vị, nhân dịp nầy, Chúa Giêsu đã tiết lộ chân lý Nước Trời. Như vậy, Nước Trời thật cao trọng, đối với phàm nhân, thì những gì là hạ giới thì không thể so với Nước Trời. Từ đó, chúng ta thấy, chính Chúa đã hạ mình xuống thế làm Người , để trở nên phàm nhân, hầu “đổi “ chổ cho phàm nhân vào được Nước Trời. Theo đó, chúng ta thấy mầu nhiệm Nước Trời, thật là cao cả, với những gì thuộc hạ giới không thể so sánh được, dù là Gioan Tiền Hô.
Nên chi, mầu nhiệm Giáng Sinh cho chúng ta một sự mặc khải về tình yêu cao cả của Thiên Chúa qua Đức Giêsu – Kitô, sự “ trao đổi kỳ diệu”. Rõ ràng, nếu Chúa Giêsu không từ Trời xuống thế, thì không ai từ dưới đất mà lên trời được.
Bài đọc II hôm nay thánh Giacobe ( Gc 5 , 7 -10 ) cho chúng biết được sự đợi chờ, tính kiên nhẫn chờ đợi ngày “Chúa Quang Lâm “.
Lạy Chúa Giêsu , xin cho chúng con biết tín thác vào Chúa mọi giây, mọi lúc trong cuộc đời trần thế, hầu luôn tỉnh thức mong chờ ngày giờ Chúa đến. Chúa là Đấng hằng sống, hằng trị muôn đời./. Amen
Qua lời rao giảng của mình, ông Gio-an đã từng loan báo về Đấng Cứu Thế sẽ đến như là vị MV 3-A184
Qua lời rao giảng của mình, ông Gio-an đã từng loan báo về Đấng Cứu Thế sẽ đến như là vị thẩm phán uy nghi đáng sợ; Ngài đến để xét xử và trừng trị nghiêm khắc những lỗi phạm của con người. Ông gióng lên những lời răn đe nẩy lửa: “Chiếc rìu đã kề sẵn gốc cây, cây nào không sinh trái sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa… Ngài cầm nia trong tay mà sẩy sân lúa của Ngài, lúa tốt thì cho vào kho, còn lúa lép thì đốt đi trong lửa không hề tắt.” (Mt 3, 10. 12)
Vậy mà từ bấy lâu nay, Gio-an chưa từng thấy Chúa Giê-su trừng phạt bất cứ tội nhân nào; chưa thấy Ngài kê “rìu” để đốn hạ những “cây không sinh trái”; chưa từng thấy Ngài loại trừ phường gian ác như những thứ “lúa lép” và “thiêu đốt họ trong lửa không hề tắt”…
Ngoài ra, theo như mong đợi của dân Do-thái, khi Đấng Cứu Thế đến, Ngài sẽ tiêu diệt quân thù, giải thoát những ai bị giam cầm tù tội… Vậy mà Chúa Giê-su đâu có đánh đuổi quân xâm lược Rô-ma, chưa thấy Ngài giải thoát kẻ bị xiềng xích tù đày…
Thế nên Gioan phái các môn đệ đến gặp và hỏi thẳng Chúa Giê-su: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?”
Trước câu hỏi của Gioan, Chúa Giê-su không dùng lời nói nhưng dùng chính việc làm để minh chứng về mình, như có lần Ngài đã nói: “Công việc tôi làm nhân danh Cha tôi làm chứng về tôi (Gio-an 5, 36).
Vì thế, Chúa Giê-su chỉ cho các môn đệ của Gio-an thấy những việc Ngài đang làm và bảo họ: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin mừng…”
Từ ngàn xưa, Ngôn Sứ I-sa-i-a đã tiên báo rằng khi Đấng Thiên Sai đến, Ngài sẽ cho “người mù được thấy, người điếc được nghe, người què sẽ nhảy như nai…” (Is 35,10…)
Gio-an là người am hiểu lời các lời ngôn sứ tiên báo về Đấng Thiên sai và thấy rằng Chúa Giê-su đã thực hiện đúng như lời ngôn sứ I-sa-i-a đã tiên báo như trích dẫn trên đây, tất nhiên Gio-an biết rằng Đức Giê-su chính là Đấng Thiên Sai mà ngôn sứ I-sa-i-a đã loan báo.
Như vậy, chính việc làm của Chúa Giê-su minh chứng cho biết Ngài là Đấng cứu thế.
Hôm nay, người đời cũng thường chất vấn chúng ta như xưa kia, môn đệ của Gio-an đã từng chất vấn Chúa Giê-su. Họ hỏi chúng ta: “Bạn có phải là môn đệ của Chúa Giê-su không?”
Trước câu hỏi nầy, chúng ta không thể đáp gọn: “Phải, tôi chính là môn đệ của Thầy Giê-su”, vì một câu trả lời suông mà chẳng dựa trên cơ sở nào cả thì chẳng thuyết phục được ai.
Người khôn ngoan và thận trọng không dễ tin vào lời tự khẳng định của người khác nhưng căn cứ vào việc làm. Chính việc làm của từng người sẽ chứng tỏ cho người khác biết bản chất của người đó.
Thế thì, trước câu hỏi: “Bạn có phải là môn đệ của Chúa Giê-su không”, chúng ta cần dựa vào câu đáp của Chúa Giê-su trước thắc mắc của các môn đệ Gioan, (Ngài nói: “Hãy về thuật lại cho ông Gio-an những gì tôi đã làm…”) để đáp lại như sau: “Các bạn hãy xem công việc tôi làm… Các bạn cứ nhìn vào lối sống của tôi thì biết…
Đúng vậy, chỉ có nếp sống yêu thương, phục vụ, hy sinh của các Ki-tô hữu mới chứng tỏ cho mọi người thấy họ thực sự là môn đệ của Chúa Giê-su, như Lời Ngài dạy: “Người ta cứ dấu nầy mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau.” (Gio-an 13, 35)
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho chúng con biết sống thế nào để cho việc làm của chúng con không tố cáo chúng con là người môn đệ giả, nhưng luôn minh chứng cách thuyết phục rằng chúng con đích thực là môn đệ chân chính của Chúa. Amen.
Mùa Vọng, mùa trông đợi đã trở về với nhân lọai chúng con. Tuần này đã là tuần thứ ba của MV 3-A185
Mùa Vọng, mùa trông đợi đã trở về với nhân lọai chúng con. Tuần này đã là tuần thứ ba của mùa Vọng. Đó đây trong khuôn viên các nhà thờ đã có đèn sao nhấp nháy trên những cây thông xinh xắn. Những hang đá máng cỏ đang được dựng lên chuẩn bị cho ngày đại lễ. Trên những xóm ngõ của các xứ đạo, người người chăng đèn kết sao. Những hàng chữ MERRY CHRISTMAS bên những Ông già Noel vai đeo túi quà tươi cười vẫy chào. Không khí ngày lễ đang tràn về trên phố phường khiến mọi người có thêm niềm vui.
Lạy Chúa,
Con cũng đang chuẩn bị cho ngày đại lễ, con dọn lại nhà cửa, sắp xếp cho Chúa một chỗ nhỏ trong căn phòng khách. Nơi đó sẽ có một cây thông nhỏ, có bộ tượng be bé xinh xinh, có những dây đèn điện, những quả cầu trang trí, những dây kim tuyến đủ màu. Nhìn vào là thấy một bầu khí ấm cúng của đêm Chúa ra đời, thay cho một đêm đông giá rét ngòai đồng vắng không người qua lại, chỉ có những chú mục đồng nghèo nàn trong các căn chòi tá túc hơn 2000 năm trước đây. Con dọn chỗ đón Chúa bằng những hình thức quả có trang trọng, đẹp đẽ trong nhà của con với những thứ bên ngòai, như mọi người trên thế giới này. Như thế có đầy đủ ?
Bài tin mừng hôm nay Thánh Matthêu thuật lại chuyện về thời gian Thánh Gioan Tẩy giả bị ngồi tù, khi nghe biết Đức Kitô xuất hiện, ông cho môn đệ đến hỏi về Người: “ Thầy có thật là Đấng phải đến không ? hay chúng tôi còn phải đợi ai khác ! “. Đức Kitô đã khẳng định về chính mình :” Các anh cứ về thuật cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết trỗi dậy, người nghèo được nghe tin mừng và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi “.
Lời Chúa không chỉ là câu trả lời cho Gioan mà còn là cho con người ngày hôm nay. Rất nhiều người đã tin Chúa và đông đảo người chưa tin, từ cả ngàn năm nay vẫn đặt câu hỏi : Đức Kitô là ai ?. Ngay các tông đồ, những người cận kề bên Chúa, được nghe lời Người dạy, chứng kiến việc Người làm, mà Thầy Giêsu cũng từng đặt câu hỏi :”Người ta bảo Thầy là ai ?” rồi “ Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ? “. Chúa không trả lời trực tiếp câu hỏi của môn đệ Gioan, Người chỉ yêu cầu những người đến hỏi về thuật lại cho Gioan biết về những việc Người đã thực hiện.
Ngày hôm nay, được sự soi sáng của Thánh Thần Chúa và những giáo huấn của Hội Thánh, con tin vào Chúa là đấng phải đến để cứu độ nhân loại. Con tin vào lời xác tín của Thánh Phêrô Tông đồ :”Thầy là Đức Kitô con Thiên Chúa hằng sống “ thế nhưng để thể hiện niềm tin ấy trong cuộc sống, để có thể giới thiệu niềm vui Chúa đến cứu độ cho những người sống bên con, con phải nhận ra được những việc Chúa đã làm, thực hiện điều Chúa truyền dạy tức là tiếp tục trở nên những người thân cận với những người anh em đang sống cùng, sống với con mỗi ngày.
Chúa đến trần gian này để con người được chia sẻ hạnh phúc là con Thiên Chúa. Được hưởng niềm vui Chúa trao, đó là sự bình an. Con người không còn sống trong tội lỗi, không còn tranh chấp, khinh chê lẫn nhau, áp bức nhau. Sẵn sàng coi nhau là anh em con một Cha, sẵn sàng đến với nhau, giúp nhau cùng thăng tiến. Và để có được những điều ấy con phải mở lòng đón tiếp Chúa, dọn cho Chúa một con đường đi vào nhà Linh hồn con. Con đường ấy không thể lồi lên những thói xấu, những ích kỷ. Không lõm xuống nhửng đam mê dục vọng.
Những núi đồi kiêu căng, tự mãn, coi rẻ người khác nơi con phải được bạt đi cho phẳng. Những khúc quanh dối trá, lươn lẹo của con phải được uốn nắn lại theo sự công chính và ngay thẳng . Con có dám làm những điều ấy ? Con có xứng đáng là người loan báo Chúa cho những anh chị em con chưa nhận biết Người ? Con có nói về Chúa, sống làm gương ngay trong gia đình, để giới thiệu Chúa cho con cái, người thân của con ? Lời Chúa vẫn đang tra vấn con.. .
Lạy Chúa,
Xin cho con nhân những ngày này biết dọn lòng đón Chúa vào gia đình, vào linh hồn con, biết thay đổi cách sống của mình. Bây giờ con còn tội lỗi, vấp phạm thì nhờ ơn Chúa, con sẽ đứng lên và đến với Chúa xin ơn tha thứ.
CN 3 MV giới thiệu hai khuôn mặt có quan hệ mật thiết với nhau. Mối quan hệ mật thiết này vì MV 3-A186
CN 3 MV giới thiệu hai khuôn mặt có quan hệ mật thiết với nhau. Mối quan hệ mật thiết này vì sứ mệnh liên đới nhau. Mỗi vị có sứ mệnh được trao khác nhau. Mỗi sứ mệnh quan trọng khác nhau. Sứ mệnh của người này liên kết với người kia. Sự gắn kết mật thiết đến nỗi có thể nói không có vị này sẽ không có vị kia. Hai tương quan với nhau như bóng với hình, chính là Gioan tẩy giả và Đức Giêsu. Đức Giêsu sinh bởi gia tộc Gioakim và Anna, mẹ là Maria và Giuse. Còn Gioan tẩy giả sinh bởi Êlisabết và Zacaria. Cả hai sinh ra ‘cùng năm’ nhưng không cùng ngày cùng tháng, cả hai khi cưu mang và sinh hạ đều có những dấu lạ kèm theo. Vị này sinh ra cách vị kia 6 tháng tuổi.
Gioan được gọi là Gioan tẩy giả vì ông làm phép rửa trên dân chúng bên bờ sông Gio-đan. Phép rửa của ông mang ý nghĩa chỉ dấu chuẫn bị lòng mọi người đón nhận điều gì đó sắp đến thật cao cả và trọng đại. Ông là một tiên tri giao thời giữa quá khứ và hiện tại. Là một tiên tri lớn, ông sống nhiệm nhặt trong hoang địa, và từ đây khởi đi rao giảng, kêu gọi sám hối và làm phép rửa. Một khi ai đến với ông là đã đón nhận lời ông rao giảng, lãnh nhận phép rửa ông làm, mang ý: đón nhận dấu chỉ của lòng thống hối, hoán cãi
Gương mặt thứ hai, ĐGS Người thành Nagiaret. Một bộ mặt mà Gioan phải nói đến khi rao giảng cùng với lời kêu gọi mọi người thống hối dọn mình để tiếp đón Người. Khi này, Người cũng đã bắt đầu việc rao giảng, xuất phát từ Galilée, ngay lúc, theo lệnh vua Hêrôdê bắt Gioan cầm tù (x. Mt.4,12tt). Lời đầu tiên mà Người rao giảng, cũng là lời khai mạc công cuộc rao giảng của Người: “Hãy thống hối và tin vào Tin Mừng”. Tâm tình và thái độ phải như vậy vì: “Nước Trời đã đến gần”. Sự hòa hợp giữa những lời rao giảng ngay từ khởi đầu của hai khuôn mặt rất khớp nhau. Tất cả nằm trong khâu: thống hối để đón nhận Nước Trời đến gần.
Gioan tẩy giả sống khắc khổ để thanh khiết hóa chính mình, rất am tường và xác tín sứ mệnh mình cũng như những gì mình rao giảng! Tuy nhiên chỉ vì đấu tranh cho sự công chính mà phải bị cầm tù, Gioan tin rằng mình sẽ được giải thoát. Tuy nhiên niềm tin này ngày càng xa vời và sự tín thác vào Đấng cứu độ, mà các tiên tri trước kia đã rao giảng cũng như chính mình rao giảng cho dân chúng để có hành vi chịu phép rửa thống hối đón nhận Đấng ấy, điều này ngày một lu mờ, nét đậm của niềm tin dần mờ phai. Ông đâm ra hoài nghi Đấng mà ông đang quảng bá cho dân chúng: Người có thực là Đấng Cứu Thế?
Vì rằng điều ông suy nghĩ là Đấng cứu thế có vai trò trừ diệt bất công, như ‘thiên lôi’ được sai phá vỡ tù ngục, cứu nguy người bị lao lý. Gioan đang nghĩ vậy, khao khát vậy. Mà cụ thể, ông đang bị giam cầm, hi vọng đó chưa thấy. Nhưng cũng thật rất đáng khâm phục và đáng để nên gương học hỏi, Gioan đầy ơn khôn ngoan sớm lấy lại tâm lý bình ổn về thực chất ý tưởng nơi ông nghĩ, chưa phải vội vã, chưa dám khẳng định gì, còn phải tra cứu cặn kẻ mới rõ thực hư về điều mà ông đã ngờ vực. Nghĩ vậy, ông sai môn đệ của ông đi gặp và thỉnh vấn ĐGS: “Người có thực là Đấng cứu thế”! Để trả lời Gioan tiền hô đáng thương của mình, ĐGS chỉ đưa ra những bằng chứng thực tế mà Người đã thực hiện suốt thời qua đi giảng: ‘hãy về thuật lại tất cả những gì đã nghe và đã thấy’ : các dấu lạ đã làm cho mọi người, đặc biệt quyền trên các thần ô uế, quyển trên các bệnh lý đã ảnh hưởng nặng nề nơi các bệnh nhân, hơn tất cả là ‘kẻ nghèo được nghe tin mừng’! Trả lời như vậy, ĐGS không trực diện nói dứt khoát cho Gioan về điều ông nghi vấn, mà chỉ lưu ý ‘tư tưởng và hình ảnh về Đấng cứu thế’nơi ông đang tự vẽ ra trong mong ước bị méo mó lệch lạc! Cần sửa sai.
Rồi để xoa dịu, Người nói về Gioan tẩy giả cho các môn sinh của ông. Người nói với tất cả tâm tình ca ngợi, lòng trân trọng về phong thái sống, về tư cách một vị vừa là kẻ chờ đợi Đấng cứu thế vừa là tiên tri tiền hô được cắt cử, sau cùng là lời động viên, khuyến khích họ đón nghe và làm theo những gì mà Gioan đã giảng và đã dạy.
Trước hai diện mạo như vậy của CN 3 mùa vọng này, GH muốn nói gì với con cái mình? Có phải GH cố ý nêu hình ảnh Gioan như là gương mẫu của kẻ chờ đợi đầy nhân đức xán lạn và là vị tiên tri tiền hô hoàn hảo của Đấng cứu thế, tuy nhiên dù đã là tấm gương mẫu mực cũng còn sơ xuất để lộ lầm lỗi, vết đen, bóng mờ che phủ. Gioan là kẻ chờ mong và kẻ dọn đường cho Đấng cứu thế, nhưng tư tưởng vẫn chưa đủ sáng suốt, suy nghĩ có lầm lỗi, nên cũng còn phải canh chừng và sám hối? Đó là sự hoài nghi về hình ảnh và về vai trò của Đấng cứu thế, cụ thể là nơi tấm lòng biển cả của Người, biểu lộ qua việc làm và hành động không đáp ứng điều ông mong ước? Dẫu biết Gioan chưa dám quả quyết là đúng không sai điều ông đã nghĩ về Đấng cứu thế, tuy nhiên chính đây để lộ nhược điểm phát sinh ý nghĩ lầm lạc do từ bản chất suy tư giới hạn, lại ưa thích bày vẽ phóng đại nơi con người. Điều hay nơi ông là có biết hồi tâm trở về, còn sáng suốt tận dụng tra cứu sửa sai, lắng nghe để thấu đáo, liền đó thành tâm đón nhận!
Lạy ĐGS Đấng quang minh khôn sánh, xin ban cho con ơn hiểu biết và óc phán đoán chính xác vì đó là nguồn sáng dẫn con đến hoàn hảo, dắt dìu con về Nước Trời?
Gioan Tiền hô là một nhân vật quan trọng của Mùa Vọng. Trong Tin mừng Chúa nhật trước, chúng MV 3-A187
Gioan Tiền hô là một nhân vật quan trọng của Mùa Vọng. Trong Tin mừng Chúa nhật trước, chúng ta nghe Gioan Tiền hô loan báo Đấng Cứu Thế sẽ đến là một Thẩm Phán thường phạt công minh. Ngày Đấng Cứu Thế đến sẽ là một ngày kinh hoàng đối với những người gian ác, tội lỗi, không chịu hối cải. Chúng ta biết, mặc dù là bà con với Chúa Giêsu, nhưng sau khi Chúa Giê-su sinh ra thì gia đình Gioan đã mất liên lạc với gia đình Thánh gia vì Thánh Giuse và Mẹ Maria đưa Chúa Giê-su hài nhi trốn sang Ai Cập. Rồi khi trở về, gia đình Thánh gia lại lập nghiệp ở Na-da-rét, miền Bắc Do Thái. Còn gia đình ông Gioan tẩy giả sống ở miền Nam cách nhau cả bảy, tám chục dậm. Chúng ta biết vào thời đó phương tiện đi lại còn thô sơ, khó khăn và hiểm trở, nên có lẽ Chúa Giêsu và thánh Gioan không có dịp gặp nhau.
Như mọi người vào thời gian đó, Gioan Tẩy Giả cũng mang một tâm trạng mong chờ Ðấng Cứu Thế của Thiên Chúa đến. Khi Chúa Giê-su đến, có lẽ ông tin Người là Đấng Thiên Sai, nhưng ông chẳng thấy có gì là kinh hoàng, hay có những hành động sửa phạt và trừng trị những người gian ác, tội lỗi, không chịu ăn năn sám hối thay đổi đời sống. Vì thế, khi thấy Chúa Giêsu chưa ra tay hành động, thậm chí ngay lúc đó chính Gioan cũng là nạn nhân đang bị kẻ ác giam giữ trong tù mà Chúa cũng chưa ra tay, hay giải thoát ông, cho nên Gioan đâm ra hoang mang, ngờ vực. Cho nên, ông đã sai môn đệ đến hỏi Chúa Giê-su cho biết đen trắng, tỏ tường. Một sự kiện hơi lạ là trước đó khi làm phép rửa cho dân chúng tại sông Gio-đan, Gioan Tiền hô đã nói cho các môn đệ của ông về Chúa Giêsu: “Tôi lấy nước mà rửa anh em, song có Ðấng đến sau tôi, tôi không xứng đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa.” Và khi thấy Chúa Giêsu, Gioan tiền hô đã giới thiệu với các môn đệ của ông: “Ðây chính là chiên Thiên Chúa, Ðấng xoá tội trần gian.” Vậy mà hôm nay Gioan Tiền hô còn sai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu, xem Người có phải là Ðấng Cứu thế phải đến không! Như vậy có lẽ Gioan quá nóng lòng, không còn đủ kiên nhẫn chờ đợi hành động Chúa ra tay sát phạt, gieo rắc cơn thịnh nộ của Thiên Chúa! Nếu ẩn ý của Gioan là như vậy, thì chúng ta có thể nhận ra chủ ý của ông có ý thúc giục Chúa phải ra tay hành động ngay sát phạt những người tội lỗi, không nghe lời ăn năn trở lại.
Bài Tin mừng cho chúng ta biết, Chúa Giêsu đã không trả lời trực tiếp. Ngài bảo các môn đệ của Gioan về thuật lại cho Gioan biết tất cả những điều họ thấy Ngài đang làm: những kẻ bệnh hoạn tật nguyền được cứu chữa, và Tin Mừng được loan báo cho người nghèo. Ðó là những công việc mà ngôn sứ Isaia trong bài đọc một cho biết khi Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ đến sẽ thực hiện. Ngài sẽ chữa lành những ai đang đau khổ, ban sức mạnh cho những người yếu đuối, sẽ giải phóng dân Ngài đang sống trong cảnh tù đày, khổ cực, và đất đai sẽ tươi tốt và sinh nhiều hoa trái. Như thế, một cách gián tiếp, Chúa Giêsu đã trả lời và khẳng định cho Gioan biết Ngài chính là Ðấng Cứu Thế, đồng thời Ngài cũng muốn điều chỉnh lại quan niệm Đấng Cứu Thế của Gioan, Ðấng Cứu Thế đến không phải để trừng trị mà để cứu giúp. Quan niệm này quả là quá xa lạ với suy nghĩ của Gioan. Vì thế, Chúa Giêsu nhắn với ông, “Phúc cho ai không vấp ngã vì Ta.”
Sau đó Chúa Giê-su đề cao và cho chúng ta biết Gioan Tẩy giả là người cao trọng nhất, Chúa nói, “Ta bảo thật các ngươi, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả.” Chúng ta hỏi, “Lý do gì làm cho Gioan trở thành người cao trọng nhất?” Xin thưa, thứ nhất vì Gioan là người thánh thiện, không phải vì sống trong sa mạc ăn châu chấu và uống mật ông, nhưng tất cả cuộc đời của Gioan là sự hy sinh và xả thân cho Chúa và tha nhân. Ông còn can đảm làm chứng cho sự thật và luân lý trước mặt vua Hê-rô-đê, hy sinh chịu tù đày và chết. Lý do thứ hai là Gioan được Thiên Chúa chọn trở thành người tiền hô đi trước sửa soạn cho ngày Chúa, Đấng Cứu Thế xuất hiện.
Sau khi tuyên bố Gioan là người cao trọng nhất, Chúa Giê-su đã làm cho chúng ta phải ngạc nhiên khi Người tuyên bố: “Nhưng người nhỏ nhất trong nước trời còn cao trọng hơn ông.” Chúng ta hãy nghe cho thật rõ về lời Chúa phán. Chúa nói tất cả chúng ta hiện diện trong thánh đường hôm nay còn cao trọng hơn Gioan. Người thấp hèn nhất, ít quan trọng nhất trong Nước Trời còn quan trọng hơn người cao trọng nhất “trong các con cái người nữ sinh ra.”
Ông bà anh chị em thân mến. Lý do gì làm cho chúng ta trở nên cao trọng và quan trọng hơn người từng được người nữ sinh ra là Gioan? Thưa vì chúng ta tiếp nhận, có lòng xác tín và yêu mến Chúa, vì vậy` chúng ta được kết hợp mật thiết với Chúa, chúng ta trở thành một với Người, chúng ta trở thành chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Chúa Ki-tô, là Giáo hội, là Nước Chúa ở trần gian. Và như vậy, tất cả chúng ta liên kết với nhau một cách mật thiết với Chúa Giê-su, trong Ba Ngôi Thiên Chúa, và thật sự được gọi Thiên Chúa là “Cha chúng ta.” Khi chúng ta được kết hợp mật thiết với Chúa Giê-su Ki-tô chúng ta trở nên cao trọng hơn Gioan, quan trọng hơn bất cứ người nào được sinh ra nơi trần gian. Và như vậy, chúng ta được tràn đầy ơn sủng Chúa và có một sứ vụ cao trọng hơn Gioan, đó là sứ vụ của Chúa Ki-tô “Làm người mù được sáng, người què đi được, người phong cùi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và Tin mừng được loan báo cho người nghèo khó.” Ðó chính là sứ vụ và cũng là tin vui mừng của việc Chúa đến.
Ngày nay, chúng ta xác tín Đấng Cứu Độ trần gian đã đến, và tiếp tục đến với chúng ta và qua chúng ta. Trong mùa vọng này, chúng ta hãy tự hỏi “Chúng ta sống và xử dụng ơn lành của Chúa như thế nào để trở nên thánh thiện hơn Gioan Tiền hô?” “Chúng ta làm cho tình yêu, Nước Chúa và ơn cứu độ của Người tỏ hiện hơn nơi trần gian bằng cách nào?” Chúa Giê-su, Đấng Cứu Thế, ngày hôm nay vẫn còn thực hiện những phép lạ, làm cho người mù được sáng, người què đi được và người nghèo khó được nghe báo Tin mừng, qua lòng xác tín và bác ái nơi những người tin theo Ngài. Chúng ta biết Giáo Hội đang có những việc đem Tin mừng và từ thiện bác ái giúp đỡ nhưng người nghèo khổ rên toàn thế giới. Không phải để khoe khoang, nhưng để nhận thức rằng lòng bác ái là dấu chỉ của người môn đệ Chúa. Đồng thời chúng ta cũng nên nhớ rằng đó chỉ là những việc bác ái công khai của Giáo Hội, và chỉ có Chúa mới biết được tất cả những gì mỗi cá nhân người Công giáo chúng ta đang làm để mang tin vui mừng, và xoa dịu sự nghèo khổ. Còn chúng ta, chúng ta đã làm được những gì để góp phần vào công việc bác ái của Giáo Hội?
Bước vào Chúa Nhật thứ III Mùa Vọng, Chúa Nhật của niềm vui. “Gaudete” là chủ đề của Chúa MV 3-A188
Bước vào Chúa Nhật thứ III Mùa Vọng, Chúa Nhật của niềm vui. “Gaudete” là chủ đề của Chúa nhật này. “Anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên!” (Ph 4,4-5). Với những lời trên của Thánh Phaolô Tông Đồ làm tâm hồn chúng ta rạo rực hẳn lên. Lời nguyện nhập lễ hôm nay đưa chúng ta vào chính niềm vui thiêng thánh ấy : “Lạy Chúa, xin đoái xem, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới mà họp mừng ngày cứu độ đã gần”. Niềm vui này nảy sinh từ cuộc gặp gỡ với con người sinh động là Chúa Giêsu.
Ngay những lời đầu tiên trong sách Isaia đã đầy những từ ngữ : hoan lạc, hân hoan, trổ hoa, nở hoa, nhiệt liệt, reo hò. Ông nói về niềm vui sau Lưu đày khi Dân Chúa được hồi hương. Quả thật, ai sung sướng bằng Dân được độc lập, giải phóng! Ngày đó người què cũng muốn nhảy, người điếc cũng muốn nghe, người câm chỉ muốn nói. Và đất nước tuy tan hoang nhưng hứa hẹn sẽ nở hoa. Isaia muốn diễn tả niềm vui đó, niềm vui được nhìn thấy quê hương sau những năm đô hộ, nô lệ và lưu đày. “Các tầng trời, hãy trổ hoa công chính, và ngàn mây hãy mưa ơn cứu độ! Hỡi ngươi là kẻ đưa tin mừng cho Sion, hãy trèo lên núi cao! Hỡi ngươi là kẻ đưa tin mừng cho Giêrusalem, hãy mạnh dạn cất tiếng! Hãy cất tiếng cao đừng sợ, hãy nói cho các dân thành thuộc chi họ Giuđa rằng: Đây Thiên Chúa các ngươi, đây Chúa là Thiên Chúa các ngươi sẽ đến trong quyền lực” (Is 40, 9).
Chúng ta mặc lấy tâm tình của Dân Cựu Ước để nói đến niềm vui khi Chúa đến. Đó là niềm vui của thời Thiên sai, của ngày Chúa trở lại. Chỉ khi ấy mọi người què muốn đi mới đi được, mọi người câm muốn nói mới nói được, và mọi người điếc muốn nghe mới nghe được. Tất cả mọi khổ sở, đau phiền, bệnh tật, chết chóc bấy giờ mới chấm dứt; và người ta mới có thể nói như Isaia: vĩnh biệt phiền sầu than vãn.
Làm sao không thể không vui khi nghe những lời loan báo đầy niềm vui của Isaia: “Hãy nói với những kẻ nhát gan: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em.” (Is 35, 4) Và làm sao không thể không mừng khi “nơi hoang địa cằn cỗi sẽ vui mừng, cõi tịch liêu sẽ hân hoan và nở bông dường như khóm huệ, sẽ nẩy chồi non và hoan hỉ vui mừng” (Is 35, 1). Lại nữa : “Bấy giờ mắt người mù sẽ nhìn thấy, và tai những người điếc sẽ được nghe. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, những người được Chúa cứu chuộc, sẽ trở về, và đến Sion với lời khen ngợi; và trên đầu họ mang hoan hỉ triền miên, họ sẽ được vui mừng khoái trá, họ sẽ không còn đau buồn; rên siết sẽ trốn xa” (Is 35, 6).
Chúng ta đang vui sẵn, nay có Gioan Tiền Hô xuất hiện trong tư cách là vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước, là hy vọng cuối cùng của một dân tuyệt vọng. Ngài được các tiên tri báo trước : “Này Ta sai sứ thần Ta đi trước mặt con, người sẽ dọn đường cho con đi ” (Mt 11, 10). Sự hiện diện của ngài làm cho chúng ta vui thêm, vì lời hứa đã trở thành hiện thực. Việc ngài sai các môn đệ đến hỏi Đức Giêsu có phải là Đấng phải đến không cho chúng ta câu trả lời đầy niềm vui vì Chúa đã đến thật rồi.
Gioan đã từng loan báo, Đấng Thiên Sai đến sẽ phân xử công minh cho người hèn yếu và bênh vực kẻ khó nghèo hèn. Nay ông vì chính Đạo mà bị cầm tù mà sao Đấng Thiên Sai không thấy, cũng chẳng bênh vực. Chúa Giê su chính là Đấng phải đến. Nhưng Người không phân xử theo mắt thấy hay đoán phỏng chừng tai nghe. Chúa Giêsu muốn nói với Gioan và chúng ta rằng: Người chính là Chúa, nhưng Người không hoàn toàn như ta nghĩ đâu! Ta phải tin Người chứ không được xét đoán Ngài. Nếu Người phải y như ta nghĩ, thì Người không còn là Chúa của ta nữa. Gioan đã sung sướng khi nhận được câu trả lời của Chúa và biết rằng Chúa thấu hiểu tâm can của mình. Ông tin ở Chúa và đã sống phó thác hoàn toàn.
“Gaudete” Hãy vui lên, chúng ta lặp lại lời thánh Phaolô lần nữa: “Anh em hãy vui lên!” (Ph 4,4). Niềm vui chân thực không phải là kết quả sự vui chơi giải trí, nhưng gắn liền với một cái gì sâu xa hơn, đó là quan hệ với Thiên Chúa. Ai đã gặp được Chúa Kitô trong cuộc đời, người ấy sẽ cảm nghiệm sự thanh thản và niềm vui trong tâm hồn mà không một ai hoặc hoàn cảnh nào có thể tước mất. Thánh Augustinô đã hiểu điều đó rất rõ. Trong cuộc tìm kiếm của ngài đối với chân lý, an bình và mừng vui, sau khi đã kiếm tìm trong nhiều sự mà không có kết quả, thánh nhân đã kết luận với câu thời danh rằng : “Tâm hồn bất an của con người chỉ tìm được thanh thản và an bình cho đến khi được an nghỉ trong Chúa” ( Le Confessioni, I,1,1). Niềm vui đích thực không phải chỉ là một tâm trạng chóng qua, cũng chẳng phải là điều ta đạt tới bằng sức riêng của mình, nhưng là một hồng ân, nảy sinh từ sự kiện ta dành chỗ cho Chúa trong chúng ta, Trong mùa vọng này, chúng ta hãy củng cố xác tín Chúa đã đến giữa chúng ta và tiếp tục đổi mới sự hiện diện an ủi, yêu thương và vui mừng của Ngài. Chúng ta hãy tín thác nơi Chúa; như thánh Augustinô cũng đã quả quyết, do kinh nghiệm của ngài : “Chúa gần chúng ta hơn chúng ta gần chính mình” (Le Confessioni, III, 6,11).
Chúng ta hãy phó thác hành trình của chúng ta cho Ðức Maria, thần trí của Mẹ đã vui mừng trong Chúa là Ðấng Cứu Thế. Xin Mẹ hướng dẫn tâm hồn chúng ta trong sự vui mừng chờ đợi Chúa Giêsu đến, một sự chờ đợi đầy kinh nguyện và việc lành. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
------------------------------
MV 3-A189: NGƯỜI QUÈ ĐI ĐƯỢC, NGƯỜI ĐIẾC NGHE THẤY, NGƯỜI MÙ NHÌN ĐƯỢC....
Hãy thinh lặng và đứng yên cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến…” Cầu Nguyện: “Những kẻ MV 3-A189
Hãy thinh lặng và đứng yên cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến…”
Cầu Nguyện: “Những kẻ được Thiên Chúa giải cứu sẽ hồi hương. Họ sẽ tiến về Zion trong tiếng reo hò vui mừng sung sướng, buồn phiền than khóc sẽ qua đi” (Is 35:10).
Hãy chăm chú nghe Tin Mừng Mátthêu 11:2-11
Gioan Tẩy Giả lúc đó đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Kitô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: Thưa Thầy, Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác? Đức Giêsu trả lời: “Các anh cứ về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe: ‘Người mù trông thấy đượ, kẻ què đi được, người cùi hủi được lành sạch, kẻ điếc nghe được, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay kẻ nào không bị vấp ngã vì Ta’” (Mt 11:2-5).
Bạn có nhận ra những dấu chỉ này chưa?
Hãy bỏ ra ít phút để tưởng tượng bạn đang bị cầm tù như ông Gioan thì bạn nghĩ sao? Bị nhốt trong ngục tối không tương lai, chỉ toàn là tuyệt vọng. Bạn sẽ ra sao nếu cuộc đời bạn trở thành uổng phí? Bạn sẽ ra sao nếu Đức Giêsu mà bạn tin tưởng không phải là “Người Này”? Trong giây phút nghi hoặc đó, nếu Đức Giêsu không biểu các môn đệ của Gioan trở lại nói với Gioan thì tình trạng và tâm thần Gioan Tẩy Giả sẽ thế nào. Và chúng ta sẽ có cảm nghĩ gì? Nhưng Đức Giêsu đã sai các môn đệ của Gioan trở lại nói với ông những lời xác quyết về những chuyện mắt thấy tai nghe đầy hy vọng đang xẩy ra trước mắt ở bất cứ nơi nào mà Chúa Giêsu đi qua. Kẻ mù nhìn thấy, người què đi được, người điếc nghe được, và còn nhiều thứ đặc biệt và lạ lùng nữa…Tất cả những dấu chỉ về Nước Trời mà các tiên tri trước đây đã nói thì giờ này đang thể hiện trong cuộc sống hằng ngày ngay trước mặt.
Hôm nay Giáo Hội trang trí thánh đường toàn màu hồng là màu của hy vọng giữa bóng tối dày đặc của thất vọng. Biết rằng có được Ánh Sáng quả là rất khó, và chờ đợi Ánh Sáng cũng không phải là dễ dàng. Nhưng chúng ta đừng quá thất vọng. Hãy mở rộng tầm nhìn và giữ chặt những dấu chỉ đang hiện diện trên mặt đất và chung quanh chúng ta để nhận biết Thiên Chúa đang hoạt động. Dù cho chúng ta chưa nhìn thầy Nước Trời / Vương quốc Thiên Chúa một cách trọn vẹn, nhưng có những dấu hiệu cho thấy tương lai đang hiện diện giữa thời đại chúng ta và cả hiện tại ngay bây giờ: Tự do đang chiếu sáng. Chữa lành rõ ràng và đầy ý nghĩa. Niềm Tin của chúng ta không chỉ dựa vào lời hứa chưa được thực hiện, nhưng vào những lời hứa đang xẩy ra và được hoàn thành chính ngày hôm nay.
Hành động
Vào bữa cơm tối hôm nay mọi người hãy cùng nhau bàn luận về những điều mình thấy hiện đang xảy ra trên thế giới chung quanh chúng ta khiến bạn hy vọng.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin hãy mở mắt và tâm trí chúng con để chúng con nhìn biết những mầu nhiệm của Nước Trời đang hiện diện chung quanh chúng con.
Chúa Cứu Thế, Chúa Hài Đồng giáng trần đang đến để cứu chuộc chúng con.
Gio-an Tẩy Giả đã cả gan phê bình Hê-rô-đê Antipas cướp vợ của ông anh ruột (x. Mt 14,3-4). Để MV 3-A190
Gio-an Tẩy Giả đã cả gan phê bình Hê-rô-đê Antipas cướp vợ của ông anh ruột (x. Mt 14,3-4). Để bịt miệng tay khó chơi này, quận vương đã giam ông vào pháo lũy Machéronte (bên bờ Biển chết) nhưng vẫn cho ông được môn đồ viếng thăm. Ông háo hức chất vấn và những điều ông biết quả đã làm ông thất vọng. Là tiếng kêu mạnh mẽ từng la lớn và ngăm đe, ông đã phán : “Đấng đang đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi” (Mt 3,11), đã loan báo một vị thẩm phán sẽ ném vào lửa tất cả những gì xấu xa và cằn cỗi (xin xem lại bài Tin Mừng Chúa nhật tuần trước), thế mà thiên hạ nói với ông về một đấng hiền khô, một kẻ làm phúc, một thầy chữa bệnh ! Không thể chịu đựng được nữa, ông gởi một sứ điệp cho Người : “Thầy có thật là Đấng phải đến không ?” (một cách chỉ định Đấng Mê-si-a cảm hứng từ Tv 118,2)
1- Học cách nhìn Chúa Giê-su hoạt động.
Ai đã không tự đặt cho mình nhiều câu hỏi kiểu ấy ? Lạy Chúa Giê-su, phải chăng Ngài là tất cả những gì thiên hạ đã nói với con về Ngài ? Câu Ngài trả lời cho Gio-an không làm chúng con thỏa mãn : “Người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”. Đúng đó là những gì người ta từng chờ đợi nơi Đấng Thiên Sai (Mê-si-a), đúng đó là những gì Chúa đã làm xưa kia tại xứ Do-thái. Nhưng bây giờ thì sao ? Từ hơn 2000 năm nay, thế giới nên như thế nào ? Nói sao đây với những người hỏi chúng con : “Chúa Ki-tô của bạn mang lại những gì ? Người có thay đổi được gì chăng ?”
Chính chúng ta cũng đôi khi chất vấn Chúa Giê-su từ ngục thất của mình như thế. Ngục thất đó là những chân trời rất hạn chế của ta, là sự bất am tường lịch sử Giáo hội, là việc thiếu cái nhìn sắc bén để hiểu rằng Chúa Ki-tô đang hoạt động: “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (không mất niềm tin vào tôi).
Hãy học cách nhìn Nước Trời đang đến ! Trong thế giới đề cao ngôi sao của chúng ta (ngôi sao thể thao, chính trị hay nghệ thuật), đúng là chỉ có một vài tên tuổi trong đạo trở đi trở lại : Mẹ Têrêxa, Đức Cha Camara, Đức Cha Romero, Cha Pierre, Cha Piô, Thầy Roger của cộng đoàn Taizé, Đức Gioan-Phaolô II, Đức Bênêđíctô XVI… Nhưng có biết bao tâm hồn tận hiến và bàn tay hoạt động khác nữa trong hơn 100.000 tổ chức bác ái của Giáo hội và trong vô số cộng đoàn dòng tu. Có muôn vạn người “mù” cuối cùng nhận ra lỗi lầm của bản thân và tình yêu của Thiên Chúa. Có hàng triệu kẻ nghèo được vô số linh mục, tu sĩ, giáo dân cũng nghèo như họ loan báo Tin Mừng cho và đã đem Tin Mừng ra thực hiện. Có biết bao nhiêu mảnh đời đã được cứu vớt qua hơn hai ngàn năm cuộc sống Dân Chúa, có biết bao nền văn minh đã được Giáo hội thanh tẩy, bao nhiêu giá trị văn hóa đã được Giáo hội bảo tồn (muốn biết điều này, bạn cần đọc lịch sử Giáo hội và theo dõi sinh hoạt Giáo hội hiện nay trên các phương tiện truyền thông).
Chính qua các tín hữu mà Chúa Ki-tô tác động đến thế giới. Như với những kẻ Gio-an sai đến, Người cũng nói với chúng ta: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều tai nghe mắt thấy”. Nhưng “những công việc của Chúa Ki-tô” (cứu giúp thể xác, cứu giúp tinh thần) thường ít ồn ào hơn chiến tranh, quyền lực và tiền bạc. Phải có con mắt chú ý mới thấy được tất cả tình yêu tự hiến “nhân danh Chúa Giê-su”. Đó cũng là nói rằng chúng ta luôn đứng trước một Chúa Ki-tô vô danh bí ẩn mà chúng ta sẽ chỉ biết rõ vào thời tận thế, khi chúng ta hiểu được rằng Người đã không ngừng hoạt động.
Riêng đối với Gio-an Tẩy giả trong trường hợp này, Chúa Giê-su sẽ cho ông thấy cách thức hoạt động tối cao và tối hậu của Người là hy sinh mạng sống vì tình yêu, bằng việc “bỏ mặc” ông anh họ trong lao tù để rồi phải chết dưới lưỡi đao oan nghiệt, ngõ hầu ông hiểu ra lẫn đi vào con đường của Người và tránh được lời cảnh báo của cậu em họ: “Chớ vấp ngã vì tôi”.
2- Biết cách làm cho Chúa Giê-su hoạt động.
Chúa Ki-tô vô danh bí ẩn ư ? Đúng, nếu chúng ta dừng lại nơi những tư tưởng và câu hỏi tự đặt ra về Người. Nhưng ngay khi khởi sự làm việc với Người, chúng ta sẽ thấy ngay kẻ què thế nào và kẻ chết sống lại ra sao. Phép lạ thời Chúa Giê-su cũng sẽ tái thực hiện nếu chúng ta quyết cùng nhau sống thực Tin Mừng. Một tín hữu anh hùng ở nơi bắt bớ hay một Ki-tô hữu dấn thân cho công bình xã hội chắc sẽ chẳng tự hỏi Chúa Giê-su có phải là Đấng thiên hạ đợi chờ không. Khi sống cho tình yêu, bạn chắc chắn sẽ gặp Thiên Chúa và làm cho Người thôi vô danh bí ẩn, vì Người là Tình Yêu, Tình Yêu tuyệt diệu.
Có thể đôi khi chúng ta cũng tự đặt một câu hỏi khác : “Giáo hội phải chăng là dấu chỉ cho thấy Chúa Giê-su đã đến ?” Đây là một câu hỏi tốt, nếu nó không phải là cách thức che đậy cho những thiếu sót của bản thân chúng ta. Chính tôi là Giáo hội loan báo Tin Mừng nơi tôi ở. Chính tôi là Giáo hội không loan báo Tin Mừng nơi mà vì lỗi tôi, người khác chẳng nhìn thấy công việc của Thiên Chúa. Lý do: chính tôi là tay chân của Chúa Ki-tô, là chi thể của Giáo hội. Người khác không nhìn thấy công việc của Thiên Chúa vì bác ái là dấu chỉ của Chúa Ki-tô, dấu chỉ của Giáo hội và dấu chỉ của Ki-tô hữu. Y như câu chuyện ngụ ngôn vắn sau đây: Một tín đồ tình cờ bắt gặp trên đường một kẻ vừa tàn tật vừa đói khổ. Động tình xót thương và đầy lòng đạo đức, tín đồ kêu lên cùng Chúa: “Lạy Chúa ! Sao Chúa dựng nên kẻ xấu số này rồi bỏ mặc anh ta sống thân tàn mà dại mà không cứu giúp?” Tín đồ vừa dứt lời thì nghe một tiếng nói tự trời cao: “Ta dựng nên con lành lặn và sung túc là để giúp anh ta đó mà! Ta là Đầu, con là tay chân của Ta. Chẳng lẽ tay chân không biết hành động cho đầu và theo ý đầu sao?”
Riêng đối với Gioan Tẩy Giả, ông đã biết giúp Chúa Giê-su hoạt động bằng cách làm Tiền hô cho Người, sâu xa hơn là làm Ngôn sứ của Người, một ngôn sứ ngoại hạng theo chính lời khen của Chúa: “Ông còn hơn cả ngôn sứ”. Hơn cả ngôn sứ vì áp dụng vào ông sấm ngôn về vị “sứ giả” tối hậu (Ml 3,1), một sấm ngôn phối hợp với lời sấm về vị thiên sứ mở đường đi vào Đất Hứa (Xh 23,20). Ngoài ra, đoạn cuối cùng của Các sách Ngôn sứ (và cũng của Cựu Ước), Ml 3,23-24, đồng hóa vị sứ giả ấy với Ê-li-a sẽ đến lại (x. Mt 17,10-13). Nhưng dù lớn lao nhất theo lịch sử nhân loại, Gio-an vẫn bị Ki-tô hữu nhỏ nhất vượt hơn về mặt phẩm giá, vì là thành viên của một Vương Quốc vốn lật nhào những tiêu chuẩn loài người và ưu đãi những kẻ bé mọn (x. Mt 18,3).
Dân Tha Thiết Mong Đợi Vua Cứu Thế. Chúa Xót Thương Tặng Ban Đấng Ngôi Lời. Thắc mắc MV 3-A191
Dân Tha Thiết Mong Đợi Vua Cứu Thế Chúa Xót Thương Tặng Ban Đấng Ngôi Lời.
Thắc mắc của ông Gioan Tẩy Giả về Đấng Cứu Thế được đề cập trong trình thuật Mt 11:2-11. Vì thắc mắc mà phải tìm hiểu cho rõ ràng. Đó là vấn đề đương nhiên đối với những ai thật lòng muốn tìm hiểu – về điều gì hoặc người nào đó.
Mặc dù đang bị ở tù, ông Gioan vẫn biết những việc Chúa Giêsu đã làm. Vì cần xác định, ông sai môn đệ đến hỏi xem Chúa Giêsu có đúng là Đấng phải đến hay còn phải đợi Đấng nào khác. Chúa Giêsu không nói đúng hay không, mà Ngài nói họ cứ về thuật lại cho ông Gioan biết những điều họ đã thấy tỏ tường: Người mù nhìn thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng. Rồi Ngài nói: “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.”
Các môn đệ của ông Gioan đi về, Chúa Giêsu nói với đám đông: “Anh em ra xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? Thế thì anh em ra xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua. Thế thì anh em ra xem gì? Một vị ngôn sứ chăng?” Một loạt câu hỏi được Chúa Giêsu đặt ra, cũng rất lạ đối với cách nói của Ngài.
Ngài biết không ai có thể trả lời, và Ngài cũng biết người ta thắc mắc về ông Gioan vì ông là con người khác thường, đến nỗi người ta tưởng ông là Đấng Cứu Thế mà Kinh Thánh đã đề cập. Chúa Giêsu nói cho họ biết luôn về ông Gioan: “Đúng thế đó. Mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa. Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến. Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.” Người nhỏ nhất trong Nước Trời mà còn lớn hơn ông Gioan. Một sự thật kỳ lạ. Thông thường, người ta thích làm lớn chứ không muốn làm nhỏ, chỉ vì “cái tôi” của người ta phức tạp, nhỏ bé mà rất cồng kềnh, gây vướng víu và rắc rối lắm.
Người sáng suốt là người khôn ngoan, họ biết giới hạn của mình nên không dám khoác lác, cái gì biết thì nói, cái gì không biết thì nói không biết. Ngược lại, kẻ khờ dại lại cứ tưởng mình khôn, luôn ra vẻ “ta đây,” luôn tự ái vì sợ người ta thấy cái dốt của mình. Văn sĩ và ký giả Franklin Patrick Herbert (1920-1986, Mỹ) nói: “Người sáng suốt, khi không hiểu thì họ nói: ‘Tôi không hiểu.’ Còn kẻ khờ không biết xấu hổ về sự ngu dốt của mình.” Tại Việt Nam ngày nay, người ta thấy kinh tởm với cách suy luận của các giáo sư và tiến sĩ. Thật kinh dị!
Biết thắc mắc là cửa ngõ dẫn vào cõi khôn ngoan, tới vùng hiểu biết. Tuy nhiên, muốn thắc mắc cũng phải biết cách thắc mắc, nếu không sẽ hóa ngớ ngẩn hoặc dớ dẩn. Sử gia Thomas Fuller (1608-1661, Anh) nói: “Không phải câu hỏi nào cũng xứng đáng có câu trả lời.” Thật vậy, cũng có những câu hỏi Chúa Giêsu không cần trả lời.
Ông Gioan Tẩy Giả không xa lạ với Chúa Giêsu, vậy mà ông vẫn thấy thắc mắc về Đấng Cứu Thế. Ông sai đệ tử đến hỏi Chúa Giêsu, nhưng Ngài không xác định đúng hay sai. Có lẽ không phải là ông Gioan chưa tin Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, mà ông muốn cho đệ tử biết Chúa Giêsu là Đấng Kitô. Phong cách của Chúa Giêsu luôn khác người, giống như kiểu nói của người Việt: “Người khôn ăn nói nửa chừng, để cho kẻ dại nửa mừng nửa lo.”
Cuộc sống có nhiều lý do để người ta vui, đặc biệt thời gian gần Lễ Giáng Sinh. Lý do ngôn sứ Isaia đưa ra rất cụ thể: “Sa mạc được tặng ban ánh huy hoàng của núi Libăng, vẻ rực rỡ của núi Cácmen và đồng bằng Saron. Thiên hạ sẽ nhìn thấy ánh huy hoàng của Đức Chúa, và vẻ rực rỡ của Thiên Chúa chúng ta. Hãy làm cho những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ, cho những đầu gối bủn rủn được vững vàng.” (Is 35:2-3) Về tinh thần, ông khuyên mạnh dạn động viên những kẻ nhát gan: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em. Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.” (Is 35:4-6a) Nghe thì nghe, nhưng không dễ dàng chút nào!
Cuộc sống cho chúng ta thấy có nhiều người nói đâu ra đó, nhưng khi phải đối diện với sự thật – nhất là liên quan vấn đề công lý, rất có thể họ là những kẻ chuồn trước, tìm cách “bỏ của chạy lấy người.” Những kẻ “yếu bóng vía” thường như vậy, khoác lác đủ thứ, hợm mình đủ kiểu, nhưng chẳng tích sự gì.
Tương tự, thuyết giảng hoặc viết lách thì chưa khó lắm, nhưng hành động thì khó vô cùng. Nói và viết mà không làm thì nên im lặng còn hơn, vì Thiên Chúa không ưa những người có máu Biệt Phái. Ngôn hành phải đi đôi. Chúa Giêsu đến thế gian để làm chứng cho sự thật, (Ga 18:37) ai bảo vệ sự thật thì được Thiên Chúa giải thoát, và được hưởng niềm vui: “Những người được Đức Chúa giải thoát sẽ trở về, tiến đến Sion giữa tiếng hò reo, mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu. Họ sẽ được hớn hở tươi cười, đau khổ và khóc than sẽ biến mất.” (Is 35:10)
Thánh Vịnh gia xác nhận: “Thiên Chúa xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn. Chúa giải phóng những ai tù tội, Chúa mở mắt cho kẻ mù loà. Chúa cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, Chúa yêu chuộng những người công chính. Chúa phù trợ những khách ngoại kiều, Người nâng đỡ cô nhi quả phụ, nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân.” (Tv 146:7-9) Lưới trời lồng lộng, chắc chắn không ai thoát khỏi. Thiên Chúa thấu suốt mọi sự và nắm giữ mọi điều: “Chúa nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở, Sion hỡi, Chúa Trời ngươi hiển trị ngàn đời.” (Tv 146:10)
Mùa Vọng là dịp thuận tiện để suy tư về ngày Chúa quang lâm. Tận thế là vấn đề khiến người ta luôn thắc mắc xưa nay. Tuy nhiên, chắc chắn không ai biết lúc nào, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi. (Mt 24:36; Mc 13:32) Không thể biết thì đừng tò mò hoặc suy đoán theo óc thiển cận của mình. Thánh Giacôbê nhắn nhủ: “Xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá: họ phải đợi cả mưa đầu mùa lẫn mưa cuối mùa. Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới.” (Gc 5:7-8)
Ai cũng có cách mong chờ theo công việc của mình, mỗi lĩnh vực đều có kiểu mong chờ đặc trưng. Khi mong chờ, người ta nôn nóng nên dễ nổi nóng. Về tâm linh cũng tương tự. Thánh Giacôbê khuyên: “Anh em đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, để khỏi bị xét xử. Kìa Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa. Thưa anh em, về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh em hãy noi gương các ngôn sứ là những vị đã nói nhân danh Chúa.” (Gc 5:9-10) Xem chừng việc trách cứ lẫn nhau chỉ là chuyện nhỏ nhặt, nhưng không như chúng ta tưởng, vì có ảnh hưởng xấu tới nhiều thứ và người khác. Người hay cằn nhằn không chỉ “làm phiền” người khác mà còn tự chuốc khổ. Đó là ích kỷ, thiếu yêu thương. Tiền nhân đã xác định: “Tâm phẫn xí tắc bất đắc kỳ chính.”
Về cách mong chờ, Thánh Phêrô cho biết: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều trải qua cùng một loại thống khổ như thế.” (1 Pr 5:8-9) Kiên trì chịu đựng là điều cần thiết để sống Mùa Vọng. Thánh Rosa Lima nói: “Thiếu gánh nặng đau khổ thì không thể đạt đến đỉnh cao ơn thánh. Những tặng phẩm ơn thánh gia tăng khi các cuộc giao chiến gia tăng.”
Lạy Thiên Chúa, xin cho chúng con được trí thông minh để vâng theo luật Ngài và hết lòng tuân giữ, (Tv 119:34) xin dạy chúng con biết những gì cần thiết, không tò mò những gì không cần thiết, biết tập trung vào điều Ngài muốn, xin cho chúng con được sống vui thánh đức. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Truyện kể rằng, vào một Chúa nhật cuối năm phụng vụ, linh mục quản xứ long trọng nói cho MV 3-A192
Truyện kể rằng, vào một Chúa nhật cuối năm phụng vụ, linh mục quản xứ long trọng nói cho bà con trong xứ đạo biết về các thành quả mà Giáo Xứ đã đạt được. Ngài rất hài lòng vì số người tham dự các sinh hoạt phụng vụ như tham dự các Thánh Lễ, chia sẻ lời Chúa, tham gia các đoàn thể, phong trào và các sinh hoạt giới trẻ, chầu Thánh Thể tăng nhanh. Ngoài ra, bà con còn hết lòng tham gia các công tác từ thiện như giúp đỡ người nghèo, thăm người đau yếu trong các bịnh viện, nhà dưỡng lão… Nói chung, qua việc làm của anh chị em trong giáo xứ thì vinh quang của Thiên Chúa được tỏ hiện cho mọi người nhận biết chúng ta quả thật xứng đáng là đoàn chiên của Người.
Trong lúc cha xứ đang hân hoan chia sẻ với các tín hữu, bỗng nhiên có một giọng nói rất chậm rãi của một cụ già phát lên từ hàng ghế phía sau của hội trường nhà xứ như sau: “Tạ ơn Chúa, vì các thành quả của chúng ta đã làm để tôn vinh Chúa, thế mà sao chẳng có ma nào trở lại để gia nhập vào Đạo Chúa và học theo lối sống của chúng ta thế này!”
Lời than van của cụ già trong giáo xứ phản ảnh lời chất vấn của các môn đệ mà Gio-an Tẩy Giả đã phái đến để hỏi về thân thế của Đức Giê-su trong bài Tin Mừng hôm nay. Câu hỏi “Thầy có phải là đấng mà chúng tôi mong đợi?” có thể được đổi thành chúng ta có phải là hiện thân của Đấng Cứu Thế mà thế giới đang mong đợi hay không?
Thưa anh chị em,
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Mát-thêu đã trình bầy cho chúng ta thấy con người thật của Gio-an Tẩy Giả. Lúc này ông đang bị ngồi tù vì dám khiển trách nhà vua đã cả gan cướp vợ của người anh trai lấy làm vợ của mình. Gioan đã cả gan động tới long nhan và đời sống của thiên tử. Nhưng, đứng trước và nhất là khi cần binh vực cho sự thật và công chính, Gio-an đã không một chút kiêng dè và sợ hãi một uy quyền nào hết.
Dù đang bị giam trong tù, nhưng Gio-an vẫn được nghe nói về các việc mà Đức Giê-su đã làm. Ông cảm thấy hoang mang và tự hỏi mình rằng những gì ông loan báo về Đức Giê-su có ứng nghiệm bởi các việc làm của Chúa hay chăng. Bởi vì, mới tuần trước chúng ta nghe Gio-an giảng khi Đức Giê-su đến, Người sẽ cầm nia trong tay để sàng lọc thóc, thóc tốt thì thu vào kho, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi. Hình ảnh sàng lọc mà Gio-an nói ở đây ám chỉ đến ngày phán xét. Thế mà những gì Gio-an được nghe về Chúa thì dường như chẳng thấy có sự phán xét hay thẩm tội ai từ Chúa cả; cũng chẳng thấy chỗ nào người ta nói đến việc Đức Giê-su ném những người có tội vào lửa cả. Thay vào đó, về mặt giảng dậy thì Đức Giê-su nhấn mạnh đến thời đại hồng ân của Thiên Chúa, còn lối sống của Người thì chẳng ra thể thống hay có lớp lang gì, lang thang ăn uống, binh vực và làm bạn với người tội lỗi. Lời giảng dậy và công việc của Đức Giê-su như thế làm cho Gio-an bị ngộ nhận. Để làm cho sự thật được sáng tỏ, Gio-an đã không ngần ngại sai các môn đệ đến hỏi Chúa Đức Giê-su rằng: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?“
Đức Giê-su nhẹ nhàng nói cho các môn đệ của Gio-an về các điều mà Người đã làm và họ đã chứng kiến, đó chính là người mù được sáng mắt, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết được sống lại và những người nghèo được nghe Tin Mừng, như đã được loan báo bởi ngôn sứ I-sa-i-a mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc một. Sau đó, Đức Giê-su còn nhắc khéo cho Gio-an biết rằng ông thật là có phúc, nếu không bị vấp ngã vì các công việc mà Đức Giê-su đã làm. Ở đây, Đức Giê-su muốn nói với Gio-an rằng: qua lời tường trình về các công việc Đức Giê-su đã làm thì ông có tin Người là Đấng Thiên Sai hay không?
Anh chị em thân mến,
Chúng ta không hề hay biết Gio-an có đón nhận lời chúc phúc của Đức Giê-su danh cho ông hay không mà chỉ biết rằng sau đó Đức Giê-su ca ngợi lối sống chứng nhân của Gio-an. Qua cách nói gián tiếp này chúng ta thấy được vị trí của Gioan trong con mắt của Đức Chúa. Ông đuợc ví như cây sậy phất phơ trước gió, nhưng đã không ngã gục trước quyền lực của những người đến hỏi tội ông. Gio-an cũng không đánh lừa dân chúng. Ngài can đảm làm chứng về sự thật. Và vì sự thật mà Ngài đã bị xử tử, bị giết chết. Đó chính là con đường mà ngôn sứ phải đi: chỉ biết nói sự thật cho dù phải chết.
Gio-an không phải là ánh sáng mà chỉ là nhân chứng của ánh sáng. Ánh sáng đích thật là Chúa Giêsu. Vì thế khi Đức Kitô bắt đầu sứ vụ công khai thì vai trò của Gio-an phải lu mờ. Cũng như Gio-an, chúng ta phải biết chấp nhận sự thật về mình, sự giới hạn của mình, không giả tạo, không qui công về mình cái mà mình không có, điều mà mình không làm. Bằng không, chúng ta có thể trở thành những con người bất mãn và chỉ biết đòi hỏi.
Đây là sự cao trọng trong sứ mạng của Gio-an. Chính vì biết mình là ai, và cần phải làm gì trong chuơng trình của Thiên Chúa, nên Gio-an đã trở thành con người vĩ đại như lời ca tụng của Đức Giêsu: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn Gioan tẩy giả. Tuy nhiên kẻ nhỏ nhất trong Nước trời còn cao trọng hơn ông.” Bởi vì, vai trò của Gio-an dù có cao trọng đến đâu thì ông vẫn chỉ là người dọn đường; còn chính Chúa Giê-su và những kẻ thuộc về Người mới thuộc về Nước Trời.
Đó là giáo lý mới, tin vui mà Chúa Giê-su đã đem lại. Chính Gio-an cũng phải thay đổi lối nhìn và cách sống sao cho phù hợp với những yêu sách của Tin Mừng về Nước Trời. Với Đức Giêsu, trong triều đại của Người, chúng ta hãy cứ để cho ‘cỏ lùng và lúa tốt” cùng mọc lên, cho ‘chiên và dê’ cùng sống chung. Việc phân xử là của Chúa. Thời gian phân xử cũng thuộc về Ngài. Còn bây giờ, chúng ta hãy noi gương Chúa Cứu Thế, đi trên con đuờng mà Người đã đi, chiếu hy vọng đến những nơi tăm tối, đem tin vui đến tận hang cùng ngõ hẻm của thế giới; loan báo năm hồng ân, rao giảng và làm nhân chứng cho Đức Giê-su, Đấng có quyền làm cho kẻ què được đi (trên con đường của Chúa), người điếc được nghe (tin vui từ Chúa), người mù được nhìn thấy (ánh sáng của Chúa) và kẻ chết được sống lại từ cõi chết.
Tóm lại, vai trò của Gio-an là giới thiệu và dọn đường cho Đấng Cứu Thế; còn Chúa Giêsu và chúng ta là niềm hy vọng, nguồn sống sung mãn của Thiên Chúa cho người khác. Có như thế, viêc chúng ta mừng lễ Giáng Sinh không phải là việc tưởng niệm biến cố đã xẩy ra trong quá khứ; nhưng là tiếp tục công việc của Thiên Chúa qua Mầu Nhiệm Nhập Thể của Đức Giê-su, Đấng đã đến trong kiếp người để chia sẻ cuộc sống với những người nghèo khổ, bất hạnh mang đầy thương tích, những nạn nhân của bất công, những con người đang khao khát công lý và an bình. Nguyện xin ân huệ của Ngôi Hai Thiên Chúa luôn biến đổi cuộc đời của chúng ta thành những con đường đem Chúa đến cho người khác. Amen!
Chúa Nhật III Mùa Vọng năm nay, khi dừng lại để đọc Lời Chúa, thực hành cầu nguyện và suy MV 3-A193
Chúa Nhật III Mùa Vọng năm nay, khi dừng lại để đọc Lời Chúa, thực hành cầu nguyện và suy ngẫm, người tín hữu sẽ tìm thấy được rất nhiều niềm an ủi vui mừng. Chúng ta có thể đọc Lới Chúa hôm nay như một lời nhắc nhở về cách Thiên Chúa giữ lòng thành tín với chúng ta qua việc Ngài làm cho lời tiên tri ứng nghiệm - và chúng ta tìm thấy hy vọng nơi những lời hứa của Thiên Chúa.
Theo truyền thống, Chúa Nhật III Mùa Vọng được gọi là Chúa Nhật Gaudete. Gaudete là từ ngữ tiếng Latinh có nghĩa là “vui mừng”. Chúa nhật này được đặt tên như vậy vì “Hãy vui mừng” là từ đầu tiên trong bài ca nhập lễ cho Thánh lễ hôm nay trích từ Philíp 4:4 - 5: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi, Chúa đã gần đến!” Hôm nay chúng ta được mời gọi suy niệm về niềm vui mà chúng ta có được nhờ niềm tin vào Chúa Giêsu. Một trong những đặc điểm nổi bật của những người theo Chúa Kitô là thái độ vui tươi của họ. Chúng ta đừng để những khó khăn trong đời cướp đi niềm vui lớn lao mà chúng ta có được nhờ Chúa Giêsu. Người tín hữu diễn tả niềm vui của Chúa Nhật này trên vòng hoa Mùa Vọng của họ bằng một cây nến màu hồng thay vì một cây nến màu tím. Các linh mục cử hành thánh lễ Chúa nhật III Mùa Vọng hôm nay có thể mặc áo lễ màu hồng, mầu của niềm vui. Chúa nhật này là một lời nhắc nhở vui mừng rằng sự cứu độ của chúng ta đã gần kề.
Trong bài đọc đầu tiên, tiên tri Isaia kêu gọi dân Chúa “vui lên nào” khi cho họ thấy trước một “vùng đất hoang đồng khô cỏ cháy nay lại tưng bừng trổ bông” nơi Thiên Chúa của chúng ta cai trị trong “ánh huy hoàng và vẻ rực rỡ”:
“Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông, hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ, và hân hoan múa nhảy reo hò. Sa mạc được tặng ban ánh huy hoàng của núi Libăng, vẻ rực rỡ của núi Cácmen và đồng bằng Saron. Thiên hạ sẽ nhìn thấy ánh huy hoàng của Chúa, và vẻ rực rỡ của Thiên Chúa chúng ta” (Isaia 35:1-2). Tâm tình mong chờ Chúa đến phải được biểu lộ ra trong niềm tín thác, trông cậy vào Thiên Chúa trong mọi sự, như lời cầu nguyện với Thiên Chúa trong Thánh vịnh 146:
“Ngài là Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời, xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn. Chúa giải phóng những ai tù tội, Chúa mở mắt cho kẻ mù loà. Chúa cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, Chúa yêu chuộng những người công chính. Chúa phù trợ những khách ngoại kiều, Ngài nâng đỡ cô nhi quả phụ, nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân. Chúa nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở, Xion hỡi, Chúa Trời ngươi hiển trị ngàn đời” (Tv 146:6-10). Trong khi mong chờ ngày “Chúa Trời hiển trị ngàn đời”, Dân Chúa được kêu mời chờ đợi, và sự chờ đợi đòi hỏi sự kiên nhẫn. Bài đọc thứ hai từ Giacôbê khuyến khích chúng ta kiên nhẫn. Vì vậy, trong thời gian bận rộn trước lễ Giáng Sinh, thỉnh thoảng chúng ta nên hồi tâm và dành thời gian suy nghĩ về những gì chúng ta đang kiên nhẫn chờ đợi: “Thưa anh em, xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá: họ phải đợi cả mưa đầu mùa lẫn mưa cuối mùa. Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới. Thưa anh em, anh em đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, để khỏi bị xét xử. Kìa Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa. Thưa anh em, về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh em hãy noi gương các ngôn sứ là những vị đã nói nhân danh Chúa. Kìa xem: chúng ta tuyên bố: phúc thay những kẻ đã có lòng kiên trì! Anh em đã nghe nói đến lòng kiên trì của ông Gióp và đã thấy mục đích Chúa nhắm, vì Chúa là Đấng từ bi nhân hậu” (Gc 5: 7-11).
Gioan Tiển Hô đã chờ đợi Đấng Mêsia, vì vậy khi ở trong tù, ông đã sai sứ giả đến gặp Chúa Giêsu để hỏi “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Mt 11: 3). Chúa Giêsu trả lời rằng họ nên nhìn vào các dấu hiệu: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11: 4-5). Chúa Giêsu mang lại sự chữa lành về thể chất và tinh thần cho thế giới đúng như Isaia đã tiên báo rằng những việc này sẽ xẩy ra khi Đấng Mêsia đến:
“Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò. Vì có nước vọt lên trong sa mạc, khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu. Miền nóng bỏng biến thành ao hồ, đất khô cằn có mạch nước trào ra. Trong hang chó rừng ở sậy, cói sẽ mọc lên” (Isaia 35:5-7). Vì vậy, Chúa Giêsu là sự ứng nghiệm lời tiên báo đầy hy vọng của Isaia. Đây là thời gian vui mừng của sự cứu rỗi.
Chúa Giêsu muốn nói với Gioan Tẩy giả, qua các môn đệ của ông, và với chúng ta ngày nay rằng chúng ta phải nhìn vào những gì chúng ta thấy nơi Ngài, lời nói và việc làm của Ngài, để đưa ra quyết định của riêng mình: tin nơi Ngài.
Đó là một lời nhắc nhở rằng sự khởi đầu của sự cứu độ đã hiện diện một cách nhiệm mầu với chúng ta, nhưng chưa hoàn thành. Ơn cứu độ đã ở giữa chúng ta như được biểu lộ qua những việc làm kỳ diệu của Chúa Giêsu và trong Giáo hội. Nhưng sự cứu độ cũng phải được hoàn thành trong triều đại sắp tới của Thiên Chúa. Ngay cả khi chúng ta quan sát thế giới ngày nay, chúng ta có thể thoáng thấy những công việc của Thiên Chúa giữa chúng ta. Hơn nữa, chúng ta cần phải bắt tay vào việc dọn đường cho vương quốc của Thiên Chúa bằng lời nói và việc làm của mình. Thông điệp này thực sự là một lý do để vui mừng.
Chúng ta có thể tìm thấy hy vọng nơi sự chữa lành mà Chúa Giêsu mang đến cho chúng ta và cho thế giới của chúng ta. Hy vọng không phải là sự lạc quan kiểu thế gian này. Thực ra, xét từ góc độ hoàn toàn tự nhiên, chúng ta khó mà lạc quan về kiếp người sinh lão bệnh tử! Thánh Vịnh 90 nói đến cái mau qua của thời gian:
“Ngàn năm Chúa kể là gì, tựa hôm qua đã qua đi mất rồi, khác nào một trống canh thôi! Ngài cuốn đi, chúng chỉ là giấc mộng, như cỏ đồng trổi mọc ban mai, nở hoa vươn mạnh sớm ngày, chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn” (Tv 90:4-6). Quả thật, cuộc sống trôi qua để lại làn da với nhiều lớp nhăn, đuôi mắt đầy chân chim, tuổi tác già nua, thân xác bệnh tật … là “dấu tàn phá của thời gian”. Nhìn thực tế chóng qua của dòng thời gian, người ta chỉ còn biết kêu lên:
“Tính tuổi thọ, trong ngoài bảy chục, mạnh giỏi chăng là được tám mươi, mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ, cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi” (Tv 90:10). Thật đáng tuyệt vọng nếu con người không biết hướng về Thiên Chúa là chủ của thời gian để cầu xin với một niềm tin tưởng lạc quan:
“Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan” (Tv 90:12). và mỗi sớm mai thức dậy biết dâng lời nguyện xin:
“Từ buổi mai, xin cho đoàn con được no say tình Chúa, để ngày ngày được hớn hở vui ca” (Tv 90:14). Hy vọng là nhân đức siêu nhiên điều khiển ước muốn của chúng ta hướng về những điều thuộc về Thiên Đàng. Điều mà ngôn sứ Isaia nói đến trong bài đọc thứ nhất không phải là một kỳ vọng sẽ được thực hiện ở dưới trần thế này, nhưng chỉ trong một thế giới được biến đổi ở trên cao. Chủ đề của các bài đọc này là niềm hy vọng hân hoan: Thiên Chúa cứu dân Ngài. Chúng ta có thể tin chắc rằng Ngài không bao giờ quên chúng ta. Trong suốt các thời đại có những rắc rối, nhưng Chúa mang đến cho chúng ta sự bình an và sự sống. Ngài giải thoát chúng ta không phải khỏi những cuộc chiến đấu, nhưng khỏi tội lỗi của chúng ta. Chúng ta kiên nhẫn chờ đợi chiến thắng cuối cùng của Chúa Giêsu Kitô, nhưng giờ đây chúng ta sống cuộc đời mình trong hy vọng, và làm chứng cho niềm hy vọng đó như Gioan Tẩy giả.
Công việc của Gioan Tẩy giả luôn luôn là giới thiệu Chúa Giêsu. Đó cũng phải là công việc của chúng ta. Nếu chúng ta chỉ nhìn vào Gioan Tiển Hô, chúng ta đang bỏ lỡ vấn đề: nhìn chăm chú vào Chúa Giêsu, là Đấng Cứu Độ. Trong Tin Mừng của chúng ta hôm nay, Gioan Tiển Hô giới thiệu Chúa một cách đặc biệt nhất. Hầu hết chúng ta sẽ có xu hướng trả lời câu hỏi “Bạn là ai?” với một câu trả lời mô tả chúng ta là ai. Chẳng mấy ai trả lời câu hỏi đó bằng cách mô tả mình không phải là ai.
Khi Gioan Tiển Hô được hỏi ông là ai, câu trả lời đầu tiên của ông là “Tôi không phải là Đấng Mêsia” (Ga 1:20). Ông ý thức rằng danh tính của ông không phải là cái để mang lại danh dự và vinh quang cho chính mình. Danh tính đó là để phục vụ cho một sứ mạng: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Chúa đi, như ngôn sứ Isaia đã nói… Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Ngài sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài” (Ga 1:23,26). Ông thấy mình chỉ là người giới thiệu Chúa Giêsu, vì Ngài mới Đấng mà muôn dân đang mong đợi: “Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Ngài là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1: 34).
Trong Mùa Vọng này, chúng ta cầu nguyện để niềm vui của Chúa thể hiện rõ ràng trong trái tim và ngôi nhà của chúng ta. Xin Thần Khí của Thiên Chúa biến đổi những ngày trước Lễ Giáng Sinh thành thời gian chờ đợi thánh thiện; chuẩn bị tâm hồn, vui mừng chờ đợi và chào mừng sự xuất hiện của Vua chúng ta.
Tôi có thực sự tin vào Chúa Giêsu Kitô là vị cứu tinh của tôi không? Tôi có thể kiên nhẫn và thể hiện sự kiên nhẫn đó không? Làm thế nào tôi có thể đem sự chữa lành của Chúa Giêsu vào trần thế?