Suy Niệm Tin Mừng Chúa nhật MV 4-A Bài 51-100: Chúa Giêsu sinh ra bởi Ðức Maria. --------------------------------- Phúc Âm: Mt 1, 18-24 "Chúa Giêsu sinh ra bởi Ðức Maria, đính hôn với Thánh Giuse con vua Ðavít".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, bạn của bà, là người công chính, không muốn tố cáo bà, định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo.
Nhưng đang khi định tâm như vậy thì thiên thần Chúa hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse, con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần: bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội".
Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng Tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta".
Chuyện kể rằng: có một cô gái hàng ngày cầu nguyện đã nhiều năm qua, xin thánh Giuse tìm cho được tấm chồng tốt, nhưng chẳng kết quả gì. Cô bắt đầu cảm thấy thất vọng.
Một sáng Chúa nhật, sau khi đi lễ về, cô quì trước tượng thánh Giuse nài xin ngài ban cho điều cô khấn nguyện. Nhưng mười phút sau cô bỗng phát cáu vì thánh nhân không chịu đáp lời. Cô liền cầm tượng thánh Giuse ném ra ngoài cửa sổ. Tượng rơi trúng đầu anh thanh niên vừa đi ngang qua đó làm cho anh bị thương. Anh vội chạy đến gõ cửa xin cô giúp đỡ.
Cô gái rất ân hận thành thật xin lỗi anh và ao ước được chăm sóc vết thương cho anh. Họ trở nên đôi bạn thân thiết và sáu tháng sau đám cưới được tổ chức rất trọng thể.
Qua câu chuyện vui hi hữu trên đây, thánh Giuse đã giải quyết khá là ngoạn mục cho đôi tân hôn tưởng như không may lại hóa ra may mắn. Còn hôm nay, chuyện trăm năm của Ngài với Đức Mẹ phải tính sao đây? Thánh Kinh viết: “Trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,18). Đính hôn là thời kỳ hạnh phúc nhất, là lúc đôi bạn yêu nhau dệt nên bao giấc mộng vàng. Thế mà, giờ đây giấc mơ ấy, bỗng tan thành mây khói. Maria thục nữ 15 tuổi, đạo hạnh, kiều diễm lại có thai trước khi về nhà chồng. Thật là bối rối, khó xử.
Để rồi cuối cùng, Giuse cũng phải đi tới một quyết định “Đào vi thượng sách”: “Ong Giuse, chồng bà là người công chính và không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19). Bỏ mặc cho số phận một người vợ đang mang thai mà Thánh Kinh gọi là “người công chính” được sao? Có lẽ Đức Maria, hay nói đúng hơn là bà thánh Anna mẹ của Đức Maria đã tiết lộ nguồn gốc của thai nhi, chính là bởi tác động của Chúa Thánh Thần. Biết được ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa nơi Đức Maria nên Giuse rất mực tôn trọng chương trình của Người. Vì thế, ông đã quyết định âm thầm rút lui, không dám nhận “quyền làm cha” đứa trẻ. Giuse quả thật là “người công chính”.
Nhưng chính lúc Giuse khước từ “Đứa con theo xác thịt” thì ông lại nhận được “đứa con của lời hứa”. Cũng như tổ phụ Abraham hy sinh Isaac con trai mình, thì ông xem đứa con ấy như “của lễ” dâng cho Thiên Chúa. Chính vì dòng dõi vua Đavid mà Thiên Chúa đã muốn Giuse đổi ý để “đón Maria vợ ông về”, và “đặt tên cho con trẻ là Giêsu”. Theo ngôn ngữ Sêmit trong Kinh Thánh, việc đặt tên có nghĩa là “nhận lấy quyền làm cha pháp lý” cho đứa trẻ. Chính qua dòng họ Giuse mà Đức Giêsu mới trở nên “con vua Đavid, để hoàn tất mọi lời hứa của Thiên Chúa”. Kết thúc Tin Mừng hôm nay, Matthêu viết: “Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà” (Mt 1,24). Khép lại những giấc mơ của Giuse, là mở ra một thế giới tình yêu mới. Dù biết tình yêu rồi cũng không thoát khỏi những gian nan vất vả.
Như Maria, Giuse cũng phải mò mẫn trong đêm tối của đức tin, đến miền ánh sáng của thiên ý. Và khi nhận ra chương trình nhiệm mầu của Thiên Chúa, mặc dù chưa hiểu hết sự việc, các ngài vẫn mau mắn đáp lời xin vâng, với trọn niềm kính tin và phó thác. Các ngài nhìn tất cả chỗ nào cũng là hồng ân.
Thật đáng mừng là trong thế giới thực dụng và hưởng thụ của chúng ta ngày nay, vẫn còn hàng trăm ngàn các bạn trẻ nam nữ, tuổi 16 – 30 từ Mỹ và Pháp tình nguyện gia nhập hội Ava với bản hợp đồng “không sinh hoạt tình dục trước ngày cưới”. Đó là một lối sống mới tích cực trong hiểm họa AIDS hiện nay.
Sau khi “cam kết”, các thành viên Ava sẽ đến các trường học, các nơi công cộng… để nói với các thanh niên khác về hậu quả tai hại từ việc quan hệ tình dục bừa bãi, tuyên truyền chống lại loại phim ảnh khiêu dâm, bạo lực và cả những nhóm nhạc có phong cách quá khích.
Chẳng có gì làm chúng ta bối rối cho bằng khi chúng ta phải đương đầu với những nghịch cảnh của cuộc đời hay chính chúng ta đang phải đối diện với một điều thật khó giải quyết. Thánh Giuse hôm nay cũng nằm trong trường hợp ấy. Tin Mừng viết:” Trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần “ ( Mt 1, 18 ). Thánh Giuse đang ở trong một hoàn cảnh nan giải theo suy nghĩ của loài người. Vậy, Giuse, người công chính sẽ giải quyết vấn đề này ra sao ?
THÁNH GIUSE QUẢ THỰC LÀ NGƯỜI CÔNG CHÍNH:
Giuse và Maria đã đính hôn với nhau. Đây là lúc hạnh phúc của Giuse và Maria. Thời kỳ đính hôn là thời kỳ đẹp và dệt biết bao giấc mộng vàng. Tuy nhiên, bao nhiêu mơ ước, bao nhiêu dự tính, thánh Giuse cảm thấy như đang tan theo mây khói. Maria, một cô gái đạo đức, thánh thiện lại đã có thai trước khi về chung sống với chồng. Đây là điều lạ lùng và khó xử đối với Giuse. Do đó, trong thâm tâm của thánh Giuse dứt khoát rời bỏ Maria cách âm thầm, kín đáo vì thánh nhân không muốn tố cáo Maria bởi vì tội mang thai ngoài hôn nhân thời đó sẽ bị ném đá cho tới chết. Đó là luật lệ và đó cũng là sự công bằng của xã hội thời đó.” Ông Giuse, chồng bà là người công chính và không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo “ ( Mt 1, 19 ). Thánh Giuse có đành tâm bỏ rơi người vợ đang mang thai mà Thánh Kinh gọi là người công chính hay không ? Được Thánh Thần tác động do bà ngoại Anna hoặc chính Maria tiết lộ bí mật của thai nhi, thánh Giuse đã hoàn toàn tôn trọng chương trình của Thiên Chúa. Ngài đã quyết định âm thầm rút lui, không dám nhận quyền làm cha đứa trẻ.Giuse chính là người tuyệt đối công chính.
Là người công chính, Thiên Chúa quả thực yêu thương Giuse, nên Thiên Chúa muốn Giuse đổi ý định:” đón Maria vợ ông về” và “đặt tên cho con trẻ là Giêsu “.Theo ngôn ngữ Sémít trong Kinh Thánh và luật pháp lúc đó, việc đặt tên có nghĩa là “ nhận lấy quyền làm cha pháp lý “ cho đứa trẻ.Chính qua dòng họ Giuse mà Chúa Giêsu mới trở nên “ con vua Đavít, để hoàn tất mọi lời hứa của Thiên Chúa “ ( Mt 1, 1-17 ). Thánh Matthêu viết tiếp:” Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà” ( Mt 1, 24 ).
CẢ GIUSE, CẢ MARIA ĐỀU TÌM RA Ý CHÚA QUA SỰ MÒ MẪM TRONG ĐÊM TỐI CỦA ĐỨC TIN:
Thánh Giuse đã phải vất vả vượt thắng ý định rời bỏ Maria nếu không được Thánh Thần tác động. Nhờ Thánh Thần, Giuse đã khép lại các giấc mơ, để mở ra một thế giới tình yêu, một chân trời mới. Mẹ Maria cũng đã phải lần mò trong đêm tối của đức tin để ánh sáng của Thiên Chúa được bừng sáng. Cả thánh Giuse, cả mẹ Maria khi nhận ra chương trình của Thiên Chúa, mặc dầu chưa được hiểu rõ, chưa biết rành mạnh ý nhiệm mầu, nhưng các Ngài đã mau mắn đáp trả tình yêu của Thiên Chúa. Các Ngài đã mau mắn nói lời xin vâng ý định của Thiên Chúa với niềm tin yêu, cậy trông và phó thác. Các Ngài xem tất cả như là ân huệ của Thiên Chúa như thánh Phaolô đã nói:” Tất cả đều là hồng ân “.
Mùa vọng, đặc biệt chúa nhật 4, năm A mời gọi mọi người, mời gọi từng người noi gương bắt chước thánh Giuse và mẹ Maria mau mắn đáp trả tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, đồng thời làm gương cho các bạn trẻ nam nữ hiểu rõ đức khiết tịnh và sự trong sạch của đời hôn nhân: trước khi chung sống và đang lúc chung sống. Mùa vọng giúp con người đổi mới để dọn tâm hồn trong sạch để Chúa Hài Đồng ngự trị.
Lạy thánh Giuse và Mẹ Maria xin cầu thay nguyện giúp cho chúng con để chúng con biết sống trong sạch trong tư tưởng, lời nói và hành động. Amen.
Tin mừng Matthêu kể câu chuyện truyền tin cho Giuse: “Bà Maria, mẹ của Đức Giêsu, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giuse, là con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”... Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.” ( Mt 1, 18 – 21. 24 )
Tin mừng giới thiệu về những đóng góp của Thánh Giuse vào công trình Nhập Thể. Với sự quãng đại, Thánh Giuse đã bỏ dự định của mình để thi hành chương trình của Chúa. Đó là cho Chúa Giêsu một tư cách pháp lý là con cháu Vua Đavit. Đúng như lời Thiên Chúa đã hứa từ thời Cựu Ước. Giuse đặt tên cho Chúa Giêsu, nhận Chúa Giêsu là con mình theo pháp lý. Từ nay Giuse bao bọc Đức Maria và Chúa Giêsu. Isaia loan báo: “Này đây Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai, n gười ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (Is 7,14). Lời ngôn sứ có một tầm quan trọng trong nhiệm cục cứu rỗi. Lời đó khẳng định "chính Thiên Chúa" sẽ ban cho Đavid một người thuộc dòng dõi, như là "dấu chứng" lòng trung tín của Người. Lời hứa này đã thực hiện với sự sinh ra Chúa Giêsu bởi Đức Trinh nữ Maria. Giuse đựơc vinh dự tham gia vào nhiệm cục cứu rỗi đó.
Đức Giêsu Kitô là Emmanuel “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Người là Đấng Cứu Độ, Đấng đến giải thoát và ban bình an cho dân Chúa. Nhưng qua câu chuyện Tin Mừng hôm nay, Chúa đã gây một cú sốc quá lớn cho Thánh Giuse. Khi biết Maria bỗng dưng có thai, Giuse đau khổ, âm thầm mang lấy nổi đau riêng mình. Là người công chính nên Giuse luôn lắng nghe và mau mắn thi hành thánh ý Chúa. Vì thế mà ngài trở nên Thánh Cả và là mẫu gương cho mọi tín hữu.
1. Mẫu gương đức tin, công chính và cầu nguyện.
Thánh Giuse, con người đức tin, công chính và cầu nguyện. Đức tin liên kết với sự công chính và sự cầu nguyện, đó là thái độ xứng hợp để gặp “Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta".
Tự thâm sâu, tình yêu của Giuse vẫn trổi vượt. Giuse không hề quay lại bản thân mình để cảm thấy bị lừa dối xúc phạm, nhưng chỉ hướng về Maria để tiếp tục tin rằng vị hôn thê của mình vẫn thật sự trong sạch vẹn tuyền. Không hề tra hỏi Maria một lời nào, Giuse chỉ im lặng ôm lấy phiền muộn, một cõi riêng tư.
Vì yêu Maria nên Giuse không muốn làm hại bạn mình. Ngài đã chọn con đường rút lui trong âm thầm, một giải pháp thua thiệt cho bản thân vì sẽ mang tiếng là “sở khanh”. Một quyết định can đảm nói lên tình yêu và tấm lòng quảng đại của Ngài. Giuse đúng thật là người công chính. Nơi Thánh Giuse, "sự công chính nội tâm" trùng với "tình yêu". Tình yêu dâng hiến luôn hướng về người khác, sẵn sàng hy sinh để làm người mình yêu có giá trị hơn và đựơc hạnh phúc hơn. Chấp nhận chịu thiệt thòi để người yêu đựơc lợi, chấp nhận đau khổ để người mình yêu hạnh phúc. Sẵn sàng thông cảm và tha thứ cho người mình yêu khi có lầm lỗi. Giuse đã yêu Maria bằng tình yêu dâng hiến như thế.
Giuse là một người mở lòng đón nghe Lời Chúa trong cầu nguyện. Thiên thần giải thích cho Giuse biết "người sinh bởi Đức Maria là do Chúa Thánh Thần", theo lời ngôn sứ phán xưa: "Này đây: Trinh nữ sẽ thụ thai", và Giuse sẵn sàng tiếp nhận những ý định của Chúa, những ý định vượt quá những giới hạn của loài người.
Giuse như là một con người đích thực sống đức tin. Đức tin liên kết với sự công chính và cầu nguyện, đó là thái độ phù hợp để gặp Đấng Emmanuel. Tin có nghĩa là sống trong lịch sử mở lòng đón nhận sáng kiến của Thiên Chúa, đón nhận sức mạnh sáng tạo của lời Người.
2. Mẫu gương luôn vâng theo thánh ý Chúa.
Thánh Giuse là người công chính như Kinh Thánh đã khen tặng. Trong suốt cuộc đời Giuse hằng luôn vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa (x. Mt 1,18-25; 2,13-23; Lc 2,1-7.22).
Thánh ý Chúa, được sứ thần truyền đạt đến cho thánh Giuse, vừa xoá tan mọi nghi ngờ đang dằn vặt ngài vừa mạc khải cho ngài về lai lịch và sứ mạng của thai nhi đang được cưu mang. Đó là Đấng Thánh vì được thụ thai do quyền năng của Thiên Chúa. Đó cũng là Đấng sẽ giải phóng dân tộc của ngài khỏi ách đô hộ của ngoại bang. Sứ thần xác nhận Maria mang thai do Chúa Thánh Thần và bảo ông đừng rút lui mà hãy đưa Maria về với mình, bởi Chúa đã giao cho ông một sứ mạng. Giuse sẵn sàng làm bất cứ điều gì Chúa muốn để hoàn tất chương trình của Người. Dự tính muốn ra đi âm thầm không phải chỉ do sự tôn trọng luật pháp hay tôn trọng danh dự Maria thúc đẩy, nhưng còn có cái gì sâu xa hơn nữa. Có thể ví với thái độ của những người đối diện với một mầu nhiệm cao cả: họ thụt lại vì kinh kính sợ, tựa như ông Môsê đã cởi dép khi tiến gần bụi gai đang cháy rực (St 3,5), tựa như Isaia thất kinh khi diện kiến Thiên Chúa cực thánh(Is 6,5), tựa như ông Simon sau khi chứng kiến mẻ cá lạ lùng (Lc 5,8). Giuse đựoc biết là Maria “có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần”, vì thế ông không dám chiếm hữu người con không phải là của mình. Vì thế ông toan tính rút lui. Để cũng cố thêm cho sự giải thích vừa rồi, cha Ignace de La Potterie nhận xét rằng cần phải xét lại các bản dịch cổ truyền. Thay vì “ông Giuse là người công chính không muốn tố giác bà”, cần phải dịch là “ông Giuse là người công chính không muốn tiết lộ {mầu nhiệm}, quyết định rời bỏ bà cách kín đáo. Động từ deigmatisai (ít được sử dụng trong tiếng Hy lạp) tự nó chỉ có nghĩa là thông báo, nói cho biết, đưa ra ánh sáng), và tuỳ theo mạch văn mà thay đổi ý nghĩa: có thể là “tố cáo, tố giác” (điều xấu), “bày tỏ, tiết lộ” (điều tốt). Ông Giuse đựơc bà Maria tâm sự về sự cưu mang do quyền năng Thánh Thần, và ông không dám tiết lộ mầu nhiệm này. (x.Lm Phan tấn Thành, Thánh Giuse trong cuộc đời Chúa Kitô và Hội thánh)
Như một khí cụ ngoan ngoãn trong tay người sử dụng, thánh Giuse đã được Thiên Chúa chọn làm người bảo trợ Đấng Thiên Sai, và Ngài đã cùng bạn mình là Đức Maria, thực hiện mọi quyết định của Thiên Chúa, dầu có phải trải qua biết bao thử thách gian nan, cả về vật chất lẫn tinh thần.
Người Công Chính Giuse suốt cuộc đời luôn luôn thức tỉnh trước thánh ý Thiên Chúa, thức tỉnh ngay cả trong giấc ngủ.
Ở Bêlem: “Sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi !” Ông Giuse liền chỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập.” ( Mt 2, 13 – 14 ).
Ở Aicập: “Sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giuse bên Aicập, báo mộng cho ông rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi. ”Ông liền chỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen.” ( Mt 2, 19 – 21 )
Ở Giuđê: “Vì nghe biết Áckhêlao đã kế vị vua cha là Hêrôđê, cai trị miền Giuđê, nên ông Giuse sợ, không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Galilê, và đến ở tại một thành kia gọi là Nadarét.” ( Mt 2, 22 – 23 ).
Giuse luôn thao thức lắng nghe tiếng Thiên Chúa, và khi nghe được rồi thì đáp lại không chần chừ, dù cho phải trả giá.
Một câu ngạn ngữ của người Nigêria nói rằng: Hãy lắng nghe và bạn sẽ nghe đựoc những bước chân của các con kiến. Chúng ta được mời gọi để lắng nghe những bước chân âm thầm của Thiên Chúa trong cuộc đời.
Hãy “học trường” Giuse, bài học lắng nghe và thi hành Lời Chúa, trong tinh thần khiêm tốn, vâng phục, tin tưởng và phó thác.
Người ta gọi hai chương đầu nầy của Phúc Âm Thánh Matthêu: phúc âm Thánh Giuse, vì chính Ngài đóng vai trò chính trước những can thiệp của Thiên Chúa. Đây là một trình thuật mang nặng hương vị Kinh Thánh:”Giuse, vị hôn phu của Bà,là một người công chính..”. Ngài tuân giữ nghiêm nhặt luật lệ, nhưng vẫn luôn cho thấy lòng nhân ái.
Cuộc mạo hiểm thiêng liêng của Ngài, thoạt mới nhìn, là cuộc mạo hiểm của một người hôn phu bị lừa dối. Nhìn thấy Đức Maria mang thai và không biết những gì mà tất cả chúng ta đều biết - rằng Trẻ nầy là Con Thiên Chúa – có thể Ngài đã ngờ vực Mẹ Maria. Người ta thấy rõ là lời giải thích nầy rất kém thích hợp với Phúc Âm Thánh Luca. Đúng hơn chúng ta phải tự hỏi: Tại sao Giuse đã muốn rút lui trước việc Thiên Chúa nhập cuộc?
Thánh Matthêu nói với chúng ta: Thánh nhân đã chọn từ bỏ Đức Maria cách kín đáo, vì Ngài “không muốn tố giác Mẹ cách công khai”. Ở đây cũng vậy, phúc âm không đưa ra lời giải thích. Có phải Đức Maria đã giải thích với Thánh Giuse về tình trạng của Mẹ? Chúng ta có thể trả lời không nghi ngờ gì là đúng như vậy: tất cả - trong phúc âm Thánh Luca – cho chúng ta tin rằng Đức Maria là người thông minh và tốt lành, rằng Mẹ biết sự thật và không gì gợi ý cho thấy Mẹ bỏ mặc vị hôn phu của Mẹ trong ngờ vực.
Chìa khoá của điều bí ẩn nầy là trong những gì Thánh Mathhêu viết trong một môi trường Do Thài giáo và Kitô giáo mang tính gia gia trưởng. Như vậy chính với Giuse, chủ gia đình, mà nguồn gốc Hài nhi được mạc khải. Trình thuật của Thánh Luca, được viết trong môi trường Hy Lạp, không tìm cách làm sáng tỏ trỉnh thuật của mình.
Ngày Truyền Tin, chính Đức Maria đã do dự trước sứ giả của Thiên Chúa. Mẹ đã sợ và cứ theo lời Thánh Luca, thì Mẹ “hoàn toàn bị choáng váng”bởi lời chào của thiên thần, vốn trấn an Mẹ khi nói:”Xin Maria đừng sợ…”. Mẹ cũng đã có một động tác lùi lại trước sự cao cả của Thiên Chúa, như những nhân vật lớn nhất trong Kinh Thánh đã làm trước Mẹ. Mẹ ý thức sự nghèo nàn và các giới hạn của Mẹ.
Điều nầy thường gặp trong Kinh Thánh. Một người nữ tín hữu,một người nam tín hữu trình diện trước Yahvê với lòng kính úy. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể nâng đỡ chúng ta, cho chúng ta đứng vững trước Nhan Thánh Người. Thiên Thần nói với Giuse:” Đừng sợ”, và Maria đã cảm thấy cùng một tâm tình ấy trước mầu nhiệm của Chúa.
Hôm nay, Giuse bị nghi ngờ dao động trước Con Thiên Chúa sắp đi vào cuộc đời của Ngài và trong mái nhà riêng của Ngài. Vì, với vị hôn thê của mình, Ngài sẽ trở thành nơi tiếp đón, điểm tiếp xúc giữa Thiên Chúa và nhân loại. Đó chắc chắn là thời khắc đẹp nhất trong cuộc đời của Ngài. Đó cũng là đỉnh cao của lịch sử thế giới: Thiên Chúa vô cùng vĩ đại chuẩn bị đi vào trong sự khiêm nhường của cuộc đời chúng ta, để biến cải chúng ta và để làm cho chúng ta nên những hữu thể mới mẻ, con cái trai gái của Thiên Chúa,nhờ sự tiếp đón ý thức của hai hôn phu hôn thê trẻ.
Tại Việt Nam và nhất là tại Trung Hoa, người ta có tục tảo hôn, cha mẹ định liệu việc vợ chồng: MV4-A55
Tại Việt Nam và nhất là tại Trung Hoa, người ta có tục tảo hôn, cha mẹ định liệu việc vợ chồng cho con cái từ khi chúng còn nhỏ. Trong tác phẩm “Vượt khỏi Đông và Tây”, tác giả John Wu đã mô tả như sau: “Trước đám cưới, vợ tôi và tôi chả bao giờ thấy mặt nhau. Cả hai chúng tôi đều được giáo dục theo đường lối cổ xưa của người Trung Hoa. Bố mẹ đã đính hôn chúng tôi với nhau khi chúng tôi mới lên sáu. Đến năm mười mấy tuổi tôi mới biết được nhà nàng ở đâu. Tôi khao khát được thoáng nhìn nàng thử xem, nên thỉnh thoảng lúc tan học về, tôi cố tình đi ngang qua nhà nàng, thế nhưng chả bao giờ tôi được may mắn nhìn thấy nàng”.
Từ đoạn văn trên chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được mối liên hệ giữa thánh Giuse và Mẹ Maria trước lúc Chúa chào đời. Theo tập tục Do Thái, mỗi cuộc hôn nhân thường trải qua ba giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất là đính hôn. Việc này thường do cha mẹ hay người mai mối thực hiện, còn đôi bạn trẻ thường chẳng hề biết trước về cuộc đính hôn này.
Giai đoạn thứ hai là hứa hôn. Giai đoạn này thường kéo dài một năm để đôi bạn có dịp quen biết nhau... Khi đã hứa hôn, thì mọi người đều xem đôi bạn như là vợ chồng, mặc dù họ chưa thực sự chung sống với nhau. Lễ hứa hôn này được tổ chức rất long trọng, nên chỉ có sự ly dị mới xoá bỏ được nó.
Giai đoạn thứ ba là kết hôn theo đúng nghĩa. Thánh Giuse hay tin Mẹ Maria có thai khi hai người ở trong giai đoạn thứ hai, tức là đã hứa hôn với nhau.
Tuy nhiên tôi muốn chia sẻ về một điểm khác quan trọng hơn, đó là việc Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thánh Matthêu đã khởi đầu Phúc Âm bằng việc trích dẫn lời tiên tri Isaia: Một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên Con Trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Đồng thời thánh Matthêu cũng đã kết thúc Phúc Âm bằng lời hứa của Chúa Giêsu: Này đây Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Vậy thì Thiên Chúa, Ngài đã ở cùng chúng ta như thế nào?
Trước hết, Ngài hiện diện giữa chúng ta qua việc sáng tạo, và đặc biệt qua quyền năng nâng đỡ của Ngài, bởi vì Ngài không phải chỉ tạo dựng mà còn gìn giữ nó được tồn tại trong một trật tự lạ lùng cho đến ngày hôm nay.
Tiếp đến, Ngài còn hiện diện giữa chúng ta qua lời Ngài trong Kinh Thánh. Chúng ta có thể sánh ví Kinh Thánh như là một bức thư của người cha gởi cho con cái mình. Người cha biểu lộ ý nghĩ của mình cho con cái trong bức thư như thế nào thì Thiên Chúa cũng mạc khải ý nghĩ của Ngài cho chúng ta trong Kinh Thánh như vậy.
Cuối cùng Ngài hiện diện giữa chúng ta một cách đặc biệt qua Đức Kitô, Con Một của Ngài. Cùng với việc giáng sinh của Đức Kitô, Thiên Chúa đã bước thêm một bước khổng lồ để đến và cư ngụ giữa chúng ta. Đồng thời nhờ đó chúng ta có thể nhìn ngắm, lắng nghe chính Thiên Chúa. Hay nói một cách khác với mầu nhiệm Giáng Sinh, Thiên Chúa hiện diện giữa chúng ta qua một cách cụ thể và sống động qua một con người bằng máu thịt của Đức Kitô.
Ngày xưa, có một chú bé Phi Châu tên là Emmanuel. Chú ta luôn tò mò thắc mắc. Ngày nọ, chú hỏi thầy giáo: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?”. Thầy giáo chỉ biết gãi đầu và nói: “Nói thực là thầy không biết”. Sau đó Emmanuel đi hỏi các nhà trí thức trong làng cũng như các vùng lân cận: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?”. Nhưng họ cũng chỉ biết lắc đầu mà thôi.
Tuy nhiên, Emmanuel vẫn tin chắc có người biết được điều ấy. Vì thế chú lên đường đến các quốc gia và cả những lục địa khác để tìm hỏi, nhưng ở đâu chú cũng chẳng nhận được câu trả lời. Một đêm nọ sau khi bị kiệt sức vì đi quá nhiều nơi. Chú cố tìm một chỗ nghỉ đêm trong các nhà trọ, nhưng tất cả các nơi đều không còn chỗ. Vì thế chú quyết định tìm một cái hang ngoài trời để trú đêm. Cuối cùng quá nửa đêm chú mới tìm được một cái hang. Nhưng khi bước vào hang, chú nhận ra đã có một đôi vợ chồng và một hài nhi đang trú ngụ. Nhìn thấy chú, bà mẹ trẻ liền nói: “Hân hạnh đón chào Emmanuel, chúng tôi đang mong chờ con”.
Chú bé quá sửng sốt: Làm sao bà này biết tên mình? Và chú càng ngạc nhiên hơn khi nghe bà ấy nói: “Đã từ lâu, con đi tìm kiếm khắp thế giới để hỏi xem Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào. Giờ đây cuộc hành trình của con kể như đã đến đích. Đêm nay chính mắt con đã thấy được Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào. Ngài nói bằng “ngôn ngữ của tình yêu” – “Thiên Chúa đã quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban cho thế gian chính Con Một của Ngài” (Ga 3,16).
Trái tim Emmanuel trào dâng niềm xúc động, chú vội quỳ gối xuống trước Hài nhi và mừng rỡ khóc lên. Giờ đây chú đã biết rằng Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của tình yêu, thứ tiếng mà mọi người thuộc bất cứ dân tộc hay thời đại nào cũng đều có thể hiểu được. Và thế là Emmanuel ở lại đó vài ngày để giúp đỡ Đức Maria và Thánh Giuse. Sau đó đến lúc chú phải chia tay để đi loan báo cho mọi người Tin Mừng về ngôn ngữ Chúa dùng: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của tình yêu”.
Lủi thủi một mình, Emmanuel vừa rảo bước vừa suy nghĩ: “Nếu tôi muốn kẻ cho mọi người biết Thiên Chúa dùng thứ tiếng nào để nói, thì chính tôi cũng phải nói bằng thứ tiếng Chúa nói, tức là ngôn ngữ của tình yêu. Bởi vì đó chính là thứ tiếng nói duy nhất mà mọi người trên thế giới đều hiểu được”.
Thưa anh chị em,
“Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8). Khi trao ban cho thế gian Con Một của Ngài, Thiên Chúa đã muốn dạy cho mọi người nói chung một thứ ngôn ngữ tức là ngôn ngữ của tình yêu. Chính vì thế mà Ngài đã mang tên gọi là EMMNUEL, nghĩa là “Thiên -Chúa - ở –cùng – chúng - ta”, tên gọi được báo trước qua lời Ngôn sứ Isaia cũng như qua lời Thiên Sứ báo tin cho ông Giuse: “Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên- Chúa – ở – cùng – chúng - ta”. Ngài đến ở cùng chúng ta để làm gì, nếu không phải là để nói cho chúng ta về tình yêu vô biên của Thiên Chúa bằng cả cuộc sống yêu thương đến tột cùng của Ngài, từ lúc sinh ra trong hang đá Bêlem đến cái chết treo trên thập giá. Đó là tất cả tiếng nói của tình yêu Thiên Chúa.
Thiên Chúa yêu thương chúng ta, nên đã làm người như chúng ta. Ngài đã đến tận nơi chúng ta sinh sống, trong nhà, trong làng mạc, trong xứ sở, trên trái đất của chúng ta, để chung sống, đồng hành, chia sẻ cuộc đời với chúng ta. Ngài là Thiên Chúa, nhưng đã trở thành anh em với nhân loại. Ngài đã nhập cuộc liên đới với toàn thể nhân loại để đưa cả loài người chúng ta lên với Thiên Chúa.
Hơn nữa, Ngài còn muốn làm người nghèo giữa những người nghèo khổ, bị áp bức và bỏ rơi. Ngài muốn cho ngày Giáng Sinh trở thành ngày trời đất giao hoà, để cho Thiên Chúa và loài người gặp gỡ yêu thương, cho hoà bình chớm nở trên trái đất. Ngài muốn cho ngày Giáng Sinh trở thành ngày Đấng Tối Cao xa lạ trở thành thân quen, thành bạn hữu của loài người, để kêu gọi loài người hãy nhận nhau là anh em, là bạn hữu. Ngài muốn cho ngày Giáng Sinh trở thành ngày Đấng giàu sang khôn sánh trở thành người nghèo khó, để cho người nghèo khó nhất cũng được trở nên ngang hàng với Con Thiên Chúa. Và như vậy để loài người biết yêu thương và tôn trọng người nghèo, như yêu thương và kính trọng chính Thiên Chúa.
Vì vậy, thưa anh chị em, vấn đề quan trọng không phải là ăn lễ Giáng Sinh hay là mừng lễ Giáng Sinh, cho dù là sốt sắng đến đâu đi nữa, mà là hiểu sống và thực hiện bài học Giáng Sinh: đó là cùng với Chúa nhập cuộc liên đới với những anh em nghèo hèn trong nhân loại. Và một khi chúng ta biết mở rộng tâm hồn đón tiếp và yêu thương những ai bé nhỏ, khó hèn, coi họ ngang hàng với Con Một Thiên Chúa, thì khi ấy, chính tâm hồn chúng ta sẽ trở thành hang đá Bêlem, và ánh sao Noel sẽ bừng lên trong ánh mắt chúng ta.
Anh chị em thân mến, EMMNUEL, Thiên Chúa đã làm người và ở cùng chúng ta. Ngài đã nói với loài người chúng ta bằng ngôn ngữ của tình yêu và Ngài muốn dạy cho mọi người nói chung một ngôn ngữ của tình yêu này. Ngài còn biết rằng một khi người ta bắt đầu nói bằng ngôn ngữ của tình yêu thì những điều kỳ diệu sẽ lập tức xuất hiện khắp nơi: các quốc gia sẽ chia sẻ nguồn lợi và tài nguyên cho nhau, mọi chủng tộc sẽ tôn trọng nhau, mọi gia đình sẽ hoà thuận thương yêu nhau, khắp nơi mọi người sẽ xiết chặt tay nhau trong tình thân hữu. Và như thế, “vinh quang Thiên Chúa trên trời, hoà bình dưới thế cho loài người Chúa yêu”.
Đối với cách suy nghĩ của người Tây phương, những mối liên hệ trong đoạn Kinh Thánh này thật rắc rối. Trước hết, Giuse được nói là hứa hôn với Maria, sau đó lại nói là Giuse định âm thầm ly dị nàng, và kế đó Maria lại được gọi là vợ Giuse. Những mối liên hệ này tiêu biểu cho thể thức hôn nhân thông thường của người Do Thái. Trong hôn nhân Do Thái có ba bước:
(i) Hứa hẹn. Khi đôi bạn còn nhỏ, chưa biết nhau, sự hứa hẹn thường do cha mẹ hoặc do người chuyên làm mai mối. Hôn nhân được xem là một bước vô cùng quan trọng nên không thể tuỳ thuộc đam mê và tình cảm con người được.
(ii) Đính hôn. Đính hôn tức là xác nhận sự hứa hẹn khi trước. Vào lúc này, sự hứa hẹn do cha mẹ đôi bên chủ xướng hoặc người mai mối thức hiện có thể bị xoá bỏ, nếu người nữ không bằng lòng. Nhưng một khi đã đính hôn thì đôi bên bị ràng buộc với nhau cách tuyệt đối. Thời gian đính hôn kéo dài chừng một năm. Trong năm đó, đôi bạn được kể là vợ chồng dù họ không có những quyền của chồng và vợ. Nếu muốn chấm dứt thì chỉ có cách duy nhất là ly dị. Trong luật Do Thái chúng ta thường thấy câu nói hơi lạ này: người con gái có vị hôn phu chết trong năm này thì được gọi là “trinh nữ goá”. Maria và Giuse đang ở giai đoạn này, họ đã đính hôn. Nếu Giuse muốn chấm dứt thì không thể làm gì khác hơn là ly dị và theo luật thì trong năm đó Maria được kể là vợ của Giuse.
(iii) Giai đoạn thứ ba là hôn nhân chính thức được cử hành vào cuối năm đính hôn. Nếu chúng ta nhớ những phong tục cưới gả thông thường của người Do Thái thì mối quan hệ trong đoạn sách này hoàn toàn là bình thường và rõ ràng.
Chính trong giai đoạn này, Giuse được báo tin là Maria đã mang thai và do bởi Thánh Thần, và ông phải đặt tên con trai đó là Giêsu. Tiếng Hy Lạp Giêsu tương đương với tên Do Thái là Joshua (Giôsuê). Giôsuê có nghĩa là “Đức Chúa là sự cứu rỗi”. Nhiều năm trước đó, tác giả Thánh Vịnh đã nghe Chúa phán “Chính Người sẽ cứu chuộc Israel khỏi các sự gian ác” (Tv 130,8) và Giuse được báo con trẻ sinh ra, lớn lên sẽ làm Chúa Cứu Thế, Đấng sẽ cứu dân Chúa khỏi tội. Chúa Giêsu được sinh ra để làm Đấng Cứu Thế hơn là để làm Vua, Ngài đã bước vào thế gian không vì Ngài nhưng vì loài người và để cứu chuộc chúng ta.
SINH BỞI THÁNH THẦN (1,18-25)
Đoạn sách này cho chúng ta biết Chúa Giêsu đã sinh ra do tác động của Chúa Thánh Thần, và cho chúng ta biết về sự “sinh đồng trinh”. Đây là một điểm giáo lý. Điều chúng ta quan tâm ở đây là tìm hiểu “sinh đồng trinh” có nghĩa gì đối với chúng ta. Lần đầu tiên đọc đoạn sách này, chúng ta sẽ thấy thật ra nó không nhấn mạnh ở điểm Chúa Giêsu do một trinh nữ sinh ra cho bằng sự Giáng Sinh của Ngài là do công việc của Chúa Thánh Thần: “Maria, Mẹ Ngài đã đính hôn với Giuse, song trước khi chung sống, thì nàng đã thụ thai bởi Thánh Thần”. Những câu này được gạch dưới và in bằng chữ lớn. Đó là điều Matthêu muốn nói với chúng ta. Vậy trong sự Giáng Sinh của Chúa Giêsu, tác động đặc biệt của Thánh Thần có nghĩa gì? Chúng ta hãy gạt bỏ mọi hồ nghi, mọi biện luận mà chỉ tập trung vào chân lý lớn đó như Matthêu muốn. Theo quan niệm của người Do Thái, Thánh Thần có những chức năng nhất định. Chúng ta không thể đem vào đoạn sách này ý niệm đầy đủ của chúng ta về Thánh Thần, vì đó là những điều Giuse không hề biết. Chúng ta phải giải thích dưới ánh sáng của ý niệm Do Thái về Thánh Thần, vì đó là ý niệm mà Giuse buộc phải đem vào sứ điệp này và là tất cả điều ông biết.
1. Theo ý niệm Do Thái, Thánh Thần là ngôi vị đem chân lý đến cho loài người: Chính Thánh Thần dạy các ngôn sứ điều phải nói, chính Thánh Thần của Thiên Chúa dạy cho con người điều phải làm, chính Thánh Thần trải qua các thời đại và và thế hệ đã đem chân lý của Thiên Chúa đến với loài người. Cũng vậy, Chúa Giêsu là Đấng đem chân lý của Thiên Chúa đến với loài người. Nói cách khác, Chúa Giêsu có thể cho ta biết Thiên Chúa như thế nào? Ngài muốn chúng ta ra sao? Chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta thấy Thiên Chúa như thế nào. Trước khi Chúa Giêsu đến, người đời chỉ có ý niệm mơ hồ và thường sai lạc về Thiên Chúa, cùng lắm họ chỉ có thể đoán chừng và dò dẫm. Nhưng Chúa Giêsu đã phán: “Ai thấy Ta tức là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Trong Chúa Giêsu chúng ta thấy tình yêu, sự thương xót, tấm lòng tìm kiếm, sự thánh thiện của Thiên Chúa như chưa từng thấy ở nơi nào trong thế gian. Khi Chúa Giêsu đến thì giai đoạn đoán mò đã qua và giai đoạn biết chắc đã đến. Trước khi Chúa Giêsu đến, con người không biết sự thiện chân chính là gì, chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới thấy được thế nào là con người chân chính, sự thiện chân chính và sự vâng phục chân chính ý Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã đến để chúng ta biết sự thật về Thiên Chúa và về loài người.
2. Người Do Thái tin rằng Thánh Thần không những đem chân lý của Thiên Chúa đến cho loài người mà cũng làm cho loài người có thể nhận ra chân lý đó.
Cũng vậy, Chúa Giêsu mở mắt cho con người thấy chân lý. Con người bị mù bởi chính sự ngu dốt của mình và họ bị thành kiến dẫn đi sai lạc. Tội lỗi và đam mê làm nhãn quan và tâm trí họ tăm tối. Chúa Giêsu có thể mở mắt cho chúng ta thấy được chân lý. Trong một tiểu thuyết của William J.Locke có kể một người đàn bà giàu có, suốt nửa đời nàng dành cho các chuyến du lịch thăm các thắng cảnh và các phòng triển lãm tranh ở khắp thế giới, nàng mệt mỏi, buồn chán, nhưng rồi nàng gặp một người Pháp tuy không giàu nhưng có một kiến thức uyên bác và lòng yêu cái đẹp tha thiết. Người ấy đến với nàng và tình bạn này đã làm mọi sự hoàn toàn đổi khác. Nàng nói với chàng “Tôi chưa bao giờ biết vạn vật như thế nào cho đến lúc anh dạy tôi cách nhìn chúng”. Đời sống cũng hoàn toàn khác hẳn khi Chúa Giêsu dạy chúng ta cách nhìn đời. Khi Chúa Giêsu ngự vào lòng, mắt chúng ta sẽ thấy sự việc hoàn toàn đổi khác, vì Ngài mở mắt để chúng ta có thể thấy chúng cách xác thực.
SÁNG TẠO VÀ TÁI TẠO (1,18-25)
3. Người Do Thái đặc biệt liên kết Thánh Thần của Thiên Chúa với công cuộc tạo dựng: Chính do Thánh Thần mà Thiên Chúa hoàn thành công cuộc sáng tạo. Ban đầu Thánh Thần của Thiên Chúa vận hành trên mặt nước và trên cảnh hỗn mang để tạo thành thế giới (St 1,2). Tác giả Thánh Vịnh nói “Các từng trời được làm nên bởi lời Đức Chúa, cả cơ bình Ngài bởi hơi thở của miệng Ngài mà có” (Tv 33,6). Cả tiếng Do Thái Ruah, lẫn tiếng Hy Lạp, pneuma đều dùng vừa chỉ “hơi thở” vừa chỉ “thần linh”. “Chúa sai thần Chúa ra, là chúng được dựng nên” (Tv 104,30), Gióp nói “Thần của Đức Chúa đã sáng tạo tôi. Hơi thở của Đấng Toàn Năng đã ban cho tôi sự sống” (G 33,4). Thánh Thần là Đấng tạo dựng thế gian và là Đấng ban sự sống.
Cũng vậy, trong Chúa Giêsu có quyền năng sáng tạo và quyền năng ban sự sống của Chúa cho thế gian. Trong Chúa Giêsu chính quyền năng đó đã khiến cảnh hỗn mang trong thuở ban sơ trở nên trật tự, và chính quyền năng đó đem lại trật tự cho cuộc sống rối loạn của chúng ta. Chính quyền năng đó hà sinh khí vào trong vật không có sự sống, cũng đến để hà sinh khí vào trong sự yếu đuối và hư hỏng của ta. Có thể nói rằng chúng ta không sống cho đến chừng nào Chúa Giêsu ngự vào đời sống ta.
4. Người Do Thái đặc biệt liên kết Thánh Thần không những với công cuộc tạo thành nhưng còn với công việc tái tạo nữa. Êdêkien vẽ bức tranh ảm đạm của trũng hài cốt khô. Ông tiếp tục mô tả hài cốt khô đã sống lại như thế nào. Kế đó ông nghe Chúa dạy “Ta sẽ đặt Thần Ta trong các ngươi, và các ngươi sẽ sống” (Ed 37,14). Các Rápbi Do Thái có một câu nói: “Chúa dạy cùng Israel: Trong thế gian này Thần Ta đã đặt sự khôn ngoan trong các ngươi, nhưng trong tương lai Thần Ta sẽ khiến các ngươi lại sống”. Khi con người chết trong tội lỗi, trong sự mê muội thì Thần Khí Chúa có thể khiến khiến họ lại sống. Cũng vậy, trong Chúa Giêsu có quyền năng thay đổi và tái tạo sự sống. Ngài có thể khiến linh hồn chết trong tội được sống lại. Ngài có thể phục hưng những lý tưởng đã chết, Ngài có thể khiến ý hướng thiện và đã hư mất được mạnh mẽ trở lại, Ngài có thể đổi mới và tái tạo cuộc sống khi nó đã mất tất cả ý nghĩa.
Ngoài sự kiện Chúa Giêsu Kitô do một trinh nữ sinh ra, trong đoạn này còn nhiều điều khác nữa. Trọng tâm của tường thuật Matthêu là sự Giáng Sinh của Chúa Giêsu. Thánh Thần Thiên Chúa hoạt động đặc biệt chưa từng có trong thế gian này. Thánh Thần đã đem chân lý Chúa đến cho nhân loại. Chính Thánh Thần đã giúp con người đón nhận chân lý khi được nghe và chính Thánh Thần là Đấng duy nhất có thể tái tạo linh hồn con người khi đã mất sự sống. Chúa Giêsu cho chúng ta biết Thiên Chúa như thế nào và con người sẽ ra sao. Chúa Giêsu mở mắt tâm linh làm cho chúng ta có thể thấy chân lý của Chúa. Chúa Giêsu là quyền năng sáng tạo đến giữa loài người, Chúa Giêsu là quyền năng tái tạo có thể giải phóng linh hồn khỏi sự chết là hậu quả của tội lỗi.
Chúa nhật thứ IV này, bài đọc năm A tích trong đoạn mở đầu Phúc âm thánh Matthêu (1,1-4,16). Claude Tassin giải thích: Một đoạn mở đầu như một cái sàng, cho phép đi từ Cựu ước đến Tân ước. Bởi vì, đối với Matthêu, Đức Giêsu không đến cắt đứt những quỹ đạo lịch sử Kinh Thánh thời trước, nhưng nối kết chúng lại trong một chiều hướng bất ngờ (“L'evangile de Matthieu”, Centurion, 1991, trang 19). Đó rõ ràng là điều nỗi bật của đoạn văn dùng cho ngày 24 tháng 12 này.
Khác với thánh Luca đã gom lại các mẩu chuyện về thời ấu của Đức Giêsu, nhưng tập trung vào Đức Maria, thánh sử Matthêu đưa Giuse ra trước; như thế, ngài cống hiến cho các độc giả của ngài một con đường đi đến mầu nhiệm Đức Giêsu. Gia phả của ông: “Đây là gốc gác Đức Giêsu Kitô...” (1, 1-17) trước hết muốn tỏ cho biết Đức Giêsu Kitô là Ai: “Đức Kitô, con vua David, con của Abraham”. Tuy nhiên, việc giới thiệu ấy bất ngờ chuyển hướng; một khâu cuối cùng bị trục trặc, sự liên tục của các thế hệ bị đứt đoạn, bởi vì, ông nói rõ ràng là, Giuse không phải là cha ruột của Đức Giêsu: “Giacob sinh Giuse, chồng của Maria, từ nơi bà Đức Giêsu sinh ra, cũng gọi là Đức Kitô” (câu 16). Mặc dầu vậy, Matthêu sẽ chỉ cho biết, làm thế nào Đức Giêsu là con của David được các tiên tri báo trước, và làm thế nào, Giuse, không hề cắt đứt sự liên tục, lại là người nối kết lại. Ông nhấn mạnh ở câu 18: “Đây là gốc tích (nguồn gốc) của Đức Giêsu.
“Maria, mẹ của Đức Giêsu, đã đính hôn với Giuse...”. Vào thời đó, đôi vợ chồng đính hôn khi còn là thanh niên, sau một thời gian mới đi đến hôn nhân và vợ về nhà chồng. Chính trong khoảng thời gian này, “trước khi hai ông bà về chung sống với nhau Maria có thai do tác động của Chúa Thánh Thần”, Matthêu thêm vào ngay lập tức nhìn nhận đây là sự khởi đầu thánh thiêng, thay thế một hành động tạo dựng, cho tiến trình sinh vật học.
“Giuse, người công chính...”. Chúng ta đừng tìm cách đi vào tâm lý của Giuse, đang phải đương đầu với một hoàn cảnh tế nhị. Tuyệt nhiên, bản văn không nói với chúng ta điều gì cả. Chúng ta chỉ có thể đọc được ở đây quan điểm của thánh sử. C.Tassin chú giải: “đối với ông Giuse là người công chính, bởi vì ngài đã từ chối đảm nhận tư cách làm cha không phải là của ngài, và bởi vì ngài đã vâng lời Thiên Chúa mà chịu nhận vai trò làm cha này” (O.C. trang 26).
“Thiên thần Chúa hiện ra với ông trong giấc mơ...”. Rõ ràng là chúng ta đang gặp thể loại văn chương chuyên loan báo việc hạ sinh trong Kinh Thánh mà Matthêu đi theo sơ đồ truyền thống: 1- một hoàn cảnh bế tắc. 2- Thiên thần hiện ra và uỷ thác sứ mạng. 3- Việc thực hiện sứ mạng này. Giữa hoàn cảnh bế tắc, Giuse được uỷ nhiệm một sứ mạng: với tư cách là “Con vua David”, ngài được giao phó sứ mạng “đặt tên cho con trẻ”, dành riêng cho ngài. Mà, theo H.Vulliez giải thích: “Theo luật Do Thái lúc bấy giờ, đứa bé hiện hữu hợp pháp bằng tên mà người ta gọi nó, và nó thuộc dòng dõi người cha, dù đó là người cha. (sinh vật học) ruột thịt hay không” (“Dieu si proche”, Desclée de Brouwer, trang 16). Như vậy, tư cách con vua Daviđ thực sự của hài nhi và sự thực hiện trọn vẹn các lời tiên tri cứu thế tuỳ thuộc ở sự vâng lời của Giuse. Chẳng những ngài không phải mờ nhạt đi, mà Thiên Chúa muốn cần đến ngài để thực hiện ý định cứu độ của Thiên Chúa.
“Khi thức dậy, Giuse đã thực hiện điều Thiên Chúa truyền...” Với sự mau mắn của người công chính, hoàn toàn sẵn sàng trước sự mới lạ của Thiên Chúa, Giuse đón nhận về nhà mình mầu nhiệm của Giao ước mới: ông rước vợ về nhà mình, như thế, cho phép các lời tiên tri được thực hiện trọn vẹn: Này đây, một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ đặt tên là Emmanuel, có nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng tôi” (xem Is. 7). Nhờ Giuse, Đấng Cứu Thế, thụ thai trong lòng Đức Maria, bởi Thánh Thần của sự sáng tạo mới, được đưa nhập vào dòng dõi David. Với đoạn các Nhà Đạo kế tiếp Ngài sẽ tỏ mình ra cho Israel và dân ngoại.
2. Một tên gọi khai mào và kết thúc Phúc Âm:
Thế nhưng, hơn cả vai trò của Giuse trong ý định cứu độ chính sứ mạng của Đức Giêsu mới làm cho Matthêu quan tâm. Một sứ mạng mà hai tên gọi loan báo được trao phó cho Ngài: Tên mà Giuse được uỷ thác trao phó cho Ngài: “Giêsu”, và có nghĩa là: “Thiên Chúa cứu chuộc”, bởi vì, chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi. - Tên gọi mà sau này sẽ dùng để chỉ định Ngài, khi mà, trong ánh sáng phục sinh, các môn đệ sẽ hiểu là đã thực hiện lời sấm của Isaia: Người ta gọi tên Ngài là Emmanuel, nghĩa là: “Thiên Chúa ờ cùng chúng tôi”. Thực ra, vào cuối Phúc âm, khi gặp nhau tại điểm hẹn, đấng Phục Sinh sẽ sai họ ra di với sứ mạng không biên giới, Ngài tuyên bố với họ: Và Ta, Ta ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế, thì họ sẽ hiểu rõ tầm mức quan trọng cuối cùng của lời tiên tri về Emmanuel, “lời loan báo cho Giuse đã vẽ lên quĩ đạo sứ mạng của Đức Kitô” (C.Tassin, O.C. trang 28).
BÀI ĐỌC THÊM
1. “Nguồn gốc khác”
“Đây là gốc tích của Đức Giêsu...”. Sau quyển sách gốc tích của Đức Giêsu Kitô, thì đây là một nguồn gốc khác được trình bày cho chúng ta. Đức Giêsu, bám rễ sâu vào một lịch sử, trong một dân tộc, cũng là Đấng đến từ nơi khác. Giacob sinh Giuse, chồng của Maria, từ nơi bà, Đức Giêsu sinh ra... Giuse đã đưa đứa trẻ sắp sinh nhập vào trong dòng dõi tổ tiên mình một cách hợp pháp; nhưng hài nhi này lại đến từ một Đấng khác: đứa con bà sinh ra là bởi Chúa Thánh Thần. Giuse, người công chính, sẽ đặt tên cho hài nhi: bà sẽ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu. Tên gọi có ý nghĩa, cho biết hài nhi không phải là hậu duệ như những người khác, đóng kín trong những giới hạn của khả năng loài người: Bởi chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi. Ai có thể giải thoát khỏi tội lỗi, nếu không phải là Thiên Chúa? Lời tiên tri nhận lấy đầy đủ tất cả ý nghĩa: người ta sẽ gọi tên Ngài là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi. Đức Giêsu ghi tên vào một gia phả, nhưng Ngài làm nổ tung gia phả đó. Chính Thiên Chúa bước vào trong thế giới loài người chúng ta.
Tuy nhiên, vai trò của Giuse không phải là tầm thường. Khoa tâm lý hiện đại đã tỏ cho chúng ta biết tầm quan trọng của hình ảnh người cha đối với việc tạo thành nhân cách của hài nhi. Chính nhờ gần gũi với Giuse mà Đức Giêsu sẽ học biết người cha là gì. Chính nơi ông, mà Ngài sẽ nhìn thấy phản ánh nhân loại tình phụ tử của Thiên Chúa. Biết nói với chúng ta rõ ràng về Cha của Ngài, phải chăng khi đã nhìn thấy Giuse mà Ngài đã có kinh nghiệm về sự âu yếm của cha: “Ai trong các anh, nếu đứa con xin bánh mà lại cho một hòn đá ư? Hay, nếu nó xin một con cá, mà lại cho nó một con rắn (7,9- 10). Ngài đã học biết rằng, các người cha dưới đất biết cho con cái mình những sự tốt lành. Ngài đã học biết điều đó nơi thánh Giuse. chúng ta đừng quên rằng, những đoạn văn đến “sau”; sau một sự khám phá lâu dài về con người Gìêsu, con của bác thợ mộc, sau những lời nói và những dấu chỉ đã làm nảy sinh đức tin trong tâm hồn các môn đệ, sau những hồ nghi và sau cùng, sau một sự chắc chắn về sự phục sinh: phải nhìn nhân rằng, Đức Giêsu đã là một Đấng khác, để chúng ta có thể hiểu rằng ngài đã từ nơi khác mà đến:
Trong lịch sử nhân loại, nguồn gốc thần thiêng của Đức Giêsu là một sự kiện không ai để ý đến, không ngừng được tranh cãi và chối bỏ: Đó không phải là con bác thợ mộc sao? Nhờ Thánh Thần Thiên Chúa dẫn nhập cái mới vào trong thế giới chúng ta. Ngài đã trở thành Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-tôi. Cả nguyên việc đón nhận cái mới là chính Đức Giêsu, cái mới mà Ngài đem đến cho cuộc đời chúng ta, có thể dẫn ta đến chấp nhận điều bất ngờ trong việc Ngài sinh ra. Chính kết quả của việc khám phá này mà Matthêu muốn gởi gấm cho chúng ta. Chúng ta không thể chấp nhận nguồn gốc của Đức Giêsu bởi tác động của Chúa Thánh Thần mà không nhìn nhận là Ngài đến từ Thiên Chúa. Chính khi đã nhìn biết Ngài, chính khi đã hiểu rằng, Ngài là Đấng khác, thì chúng ta mới có thể đón nhận mầu nhiệm giáng sinh của Ngài”.
2. Tính cách làm cha của Giuse đối với Đức Giêsu chắc chắn quan trọng hơn như người ta vẫn thường nghĩ”.
“Tính cách làm cha của Giuse đón với Đức Giêsu quan trọng hơn ta vẫn thường nghĩ. Để gọi tên Đấng mà tất cả mọi người xưng là Thiên Chúa, để chỉ định sự hiện diện rất gần gũi mà từ đó Ngài lãnh nhận tất cả mọi sự, hữu thể mà Ngài luôn luôn ý thức chỉ là một với Ngài, Đức Giêsu tự động dùng lại danh xưng mà ngài âu yếm gọi Giuse; ‘Cha, Ba, Bố’. Và khi phải giải thích sự thật gây kinh ngạc này với Thiên Chúa của Israel, Thiên Chúa mà Ngài đòi tiếp tục công trình sáng tạo, Đức Giêsu lại dùng những từ ngữ đơn giản nhất khi còn tập tành ở Nagiarét, trong xưởng của bác thợ mộc Giuse: “Cho đến bấy giờ vẫn làm việc, và Ta cũng vậy, Ta cũng làm việc. Điều mà Cha làm, thì Con cũng làm giống như vậy. Chính Cha yêu mến Con, và Cha cho Con tất cả những gì Ngài làm” (Jn 5,17-20). Chính nơi những từ ngữ thường ngày, những từ ngữ mà Ngài dùng để diễn tả cuộc đời Ngài, những mối liên hệ của Ngài, những tình cảm của Ngài, mà Đức Giêsu muốn nói đối với Ngài, Thiên Chúa là ai. Làm sao không tình thấy trong tình cảm của cha mẹ Ngài những từ ngữ đúng đắn nhất để nói cho chúng ta biết mối liên hệ tuyệt đối duy nhất vốn vẫn hiện diện trong con tim Ngài: “Cha và Ta, Chúng Ta là một” (Jn 10,30).
"Này ông Giuse, con cháu vua Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi mọi tội lỗi." (Mt.1:20-21)
Trên đây là lời nói của sứ thần Thiên Chúa báo tin cho thánh Giuse trong giấc mộng. Lời nói trên đây cũng được gọi là việc “Truyền Tin” cho Giuse mà thánh sử Matthêu đã thuật lại trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay .
Qua lời loan báo của sứ thần, Thiên Chúa muốn giải tỏa nỗi lúng túng và bối rối của Giuse, khi loan báo cho ông biết về thai nhi nơi người vợ chưa cùng ông chung sống là do quyền năng Thánh Thần Thiên Chúa. Sứ thần mời gọi ông hãy đón nhận Maria làm vợ, và chấp nhận thai nhi như con của mình. Giuse đã nói hai tiếng “xin vâng” trong thinh lặng.
Giuse đã đón nhận những mầu nhiệm mà ông không thể hiểu hết. Maria là một mầu nhiệm. Người con sắp sinh ra bởi Thánh Thần cũng là mầu nhiệm. Giuse đã để cho các mầu nhiệm vây bọc lấy mình. Cả cuộc đời Giuse là sự chiêm ngắm các mầu nhiệm xảy ra chung quanh ông. Và chính cuộc đời của Giuse cũng là một mầu nhiệm.
Giuse chấp nhận Thánh Ý Thiên Chúa, cho dù điều đó phá vỡ ước mơ mà ông hằng ấp ủ. Ông muốn làm chồng cô Maria, người mà ông luôn yêu mến. Nhưng Thiên Chúa lại muốn ông làm bạn của cô thôi. Ông muốn là cha của một đàn con đông đúc, nhưng Thiên Chúa chỉ muốn ông làm cha nuôi của một mình Đức Giêsu thôi. Vâng phục một cách đơn sơ; không nói nhưng làm: Đó là thái độ, con người và cuộc sống của Giuse.
Giuse đã sống âm thầm một mình mầu nhiệm đời ông trước Thiên Chúa. Ông đã mau mắn nói tiếng “xin vâng” qua hành động. Ông luôn bị đánh thức vào lúc đang ngủ. Sứ thần Chúa bảo ông chỗi dậy để làm điều gì đó. Ông bỏ dở giấc ngủ và lên đường giữa đêm khuya. Từ Nadarét ông đi lên Bêlem. Từ Bêlem ông chạy trốn qua Ai cập để bảo vệ cho con trẻ Giêsu khỏi sự sát hại của bạo chúa Hêrôđê. Rồi từ Ai Cập trở về Nadarét khi bạo chúa Hêrôđê đã qua đời. Giuse chịu trách nhiệm bảo vệ những “kho báu” Chúa giao cho ông. Kho báu đó chính là Đức Giêsu và Mẹ Maria
Để Con Thiên Chúa xuống thế làm người, cần tiếng “xin vâng” của Maria, nhưng cũng cần tiếng “xin vâng” khiêm tốn và âm thầm của Giuse. Nhận Maria đang mang thai về nhà mình, và đặt tên cho Hài Nhi trong tư cách một người cha: những hành động ấy đã cho Giuse một chỗ đứng đặc biệt trong Lịch sử Cứu độ.
Trong cuộc sống hôm nay, có thể Chúa không nói với ta qua giấc mơ như Giuse xưa kia. Nhưng Ngài vẫn nói với ta qua nhiều cách khác nhau, rất riêng tư và thắm thiết, mà chỉ có mình ta mới cảm nhận được mà thôi. Ta phải làm gì để xác tín đó là lời mời gọi của Ngài? Ta sẽ đáp trả lời mời gọi của Ngài ra sao ?
***
Lạy Chúa! Noi gương Giuse, xin cho con biết cố gắng nỗ lực sống đời công chính.
Bắt chước Giuse, xin cho con biết nói hai tiếng “xin vâng” trước lời mời gọi của Chúa.
Cùng với Giuse, xin được ôm trọn hài nhi Giêsu vào lòng, để yêu thương và được Chúa thương yêu, để cùng ở với Chúa và được “Chúa ở cùng” .
Cùng với Giuse, xin cất tiếng gọi tên Ngài là Emmanuel, là “Thiên Chúa ở với chúng ta”. Amen
Tổng hợp từ R. Veritas (BĐ1: Isaiah 7:10-14 - BĐ2: Romans 1:1-7 – PÂ: Mátthêu 1:18-24)
Chúng ta đang chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh. Giáng sinh là sự kiện trung tâm của lịch sử ơn cứu độ và của lịch sử nhân lọai. Giáng sinh là một mầu nhiệm. Muốn hiểu được phần nào mầu nhiệm Giáng sinh, chúng ta cần phải biết Đức Giêsu Kitô là ai ? Thiết tưởng không có định nghĩa nào hòan hảo hơn là định nghĩa mà tiên tri Isaia đã xác quyết trong bài đọc 1 hôm nay: Ngài là Đấng Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Thánh Matthêu cho chúng ta thấy rằng lời loan báo của tiên tri Isaia đã được thực hiện nơi Đức Giêsu, mà theo một cách vĩ đại hơn rất nhiều, và có thể chính vị tiên tri này đã không thể tưởng tượng nổi. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa được thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần trong lòng trinh nữ Maria và được sinh ra. Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là người thật. Với tư cách là con người thì Ngài thuộc dòng tộc vua Đavít vì có thánh Giuse là cha nuôi. Ngài đến để chia sẻ thân phận con người của chúng ta và làm cho chúng ta vốn là người phàm, được thông phần thần tính của Người.
Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài đã đến ở với lòai người qua việc tạo dựng, qua lời Ngài trong Kinh Thánh và trong con người của Đức Giêsu ở giữa chúng ta. Chúng ta hãy mừng lễ Giáng sinh trong tinh thần yêu thương và phục vụ, biết đem Chúa đến cho mọi người để mọi người biết thương yêu nhau và coi tha nhân như hiện thân của Đức Kitô ở giữa lòng đời.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
1. Bài đọc 1: Is 7,10-16.
Đây là một trong những đọan văn quan trọng nhất nói về niềm hy vọng Đấng Messia của Israel. Truyền thống Do thái không ngớt đọc đi đọc lại đọan văn này và khóac thêm cho nó những sắc thái mới. Sách Tin mừng thứ nhất sẽ đọc thấy trong đọan văn này sự hòan tất nơi việc Đức Maria sinh hạ Đức Giêsu (Mt 1,22-23).
Vua Achaz bị chống đối ngay trong nước, bị đe dọa bởi ngọai bang, vua nghĩ đến việc cầu cứu những người Assyri. Tiên tri Isaia đã ngăn cản ông và khuyến khích ông hãy đặt niềm tin vào Thiên Chúa hơn là vào liên minh quân sự. Nhà tiên tri đã cho ông một dấu hiệu từ trời cao: đó là cuộc sinh hạ của một người con trai, Đấng giải thóat dân mang tên là Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Không nghe lời khuyên nhủ khôn ngoan đó, Achaz sẽ bị phạt và vương quốc bị phá hủy. Dầu vậy, Thiên Chúa cũng còn thương mà ban cho vua một người con yêu quí là Ezechias, một ông vua hòan hảo. Ông không phải là Đấng Messia, nhưng chỉ là hình bóng Đấng Cứu Thế và mẹ ông là hình bóng của Đức Trinh nữ Maria.
2. Bài đọc 2: Rm 1,1-7.
Trong thư gửi tín hữu Rôma, thánh Phaolô tỏ ra được vinh dự vì được kêu gọi vào hàng môn đệ của Đức Kitô, với trách vụ tông đồ rao giảng Tin mừng cho dân ngọai. Trọng tâm Tin mừng ngài rao giảng là Đức Kitô. Theo đó, Đức Kitô là Con Thiên Chúa theo bản tính từ đời đời và đã trở thành con vua Đavít theo xác thể và là người thật.
Từ ý thức đó, thánh Phaolô khuyên các tín hữu hãy sung sướng vì được thuộc về một Đấng cao sang như thế:”Đó chính là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”; đồng thời cũng hãy sung sướng với ơn gọi của mình:”Anh em là những người mà Đức Kitô đã kêu gọi”.
3. Bài Tin mừng: Mt 1,18-24.
Việc sinh hạ Đức Giêsu Ngôi Hai Thiên Chúa được diễn ra một cách đặc biệt. Ngài có cha có mẹ đàng hòang: Mẹ Ngài là một trinh nữ có tên là Maria và cha Ngài là bác thợ mộc tên là Giuse.
Cuộc kết hôn giữa thánh Giuse và Đức Maria đã được Thiên Chúa sắp đặt, nhằm những mục đích thích hợp với chương trình cứu độ: Đức Giêsu đã được thụ thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Ngài đến trần gian là “để cứu dân mình khỏi tội”.
Thánh Matthêu hiểu rằng việc này làm ứng nghiệm lời tiên tri của Isaia từ trước:”Đức Giêsu chính là Emmanuel”, có nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
I. LỜI HỨA BAN ĐẤNG EMMANUEL.
Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài sẽ thực hiện những điều đã hứa khi thời gian tới hồi viên mãn. Lời hứa đó đã được thực hiện cách đấy 2000 năm. Đức Giêsu Kitô đã đến không phải chỉ một lần trong lịch sử, nhưng Ngài vẫn đang đến, đang hiện diện với chúng ta hôm nay, và nhất là Ngài sẽ lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Ngược dòng lịch sử nhân lọai, sau khi Nguyên tổ sa ngã, quay lưng lại với Thiên Chúa đi vào chỗ diệt vong, Thiên Chúa đã hứa ban một Đấng Cứu Thế để nhờ Ngài mà con người chuộc lại được sự sống đã mất (x. St 3,15). Thế rồi qua dòng lịch sử, mặc cho sự phản bội liên tục của con người, Thiên Chúa vẫn trung thành mãi và Tình yêu của Ngài vẫn tiếp tục đeo đuổi lấy con người (x. 2Tm 2,13). Từng bước một, Thiên Chúa đã chọn Abraham làm tổ phụ một dân riêng, để từ dân đó, Con Ngài được sinh ra. . Và trong dân đó, Đấng Messia của Thiên Chúa đã được báo trước sẽ thuộc dòng tộc vua Đavít (x. 2Sm 7,12-16).
Thế nhưng, mặc dù đã nhận được lời hứa, con cháu của vua Đavít vẫn không giữ được lòng trung thành. Khi đó vào khỏang thế kỷ thứ 8 trước CN, các vua phương bắc đang đem quân tiến đánh thành Giêrusalem. Vua Giuđa lúc bấy giờ là Achaz thay vì hóan cải đời sống và tin tưởng vào Thiên Chúa, ông lại đi cầu viện đế quốc Assyri. Và để làm đẹp lòng vua của Assyri, ông đã dẹp bỏ bàn thờ của Giavê Thiên Chúa, và thay vào đó là tế đàn của các thần dân ngọai. Thậm chí, ông còn theo thói tục của dân ngọai, thiêu sinh cả con ông làm của lễ tòan thiêu. Trong hòan cảnh đó, Thiên Chúa đã cho tiên tri Isaia đến để kêu gọi nhà vua quay trở lại với Thiên Chúa, và đặt trọn niềm tin nơi Ngài. Chính Ngài sẽ giải thóat dân Ngài khỏi mọi sự dữ. Và như để bảo đảm cho lời của mình, vị tiên tri bảo nhà vua “hãy xin Thiên Chúa, Chúa ngươi một dấu ở dưới lòng đất hay ở trời cao”.
Nhưng nhà vua vẫn không chịu xin, vì sợ rằng khi nhận được dấu chỉ, điều đó sẽ chứng tỏ sự sai trái của nhà vua. Ông vẫn cố chấp và tiếp tục sống trong tội lỗi của mình. Nhưng cho dù vua không xin, thì đây, Thiên Chúa vẫn cho ông một dấu chỉ để chứng tỏ lòng trung thành của Ngài:”Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Chính Thiên Chúa sẽ đến ở với dân Ngài và giải thóat họ khỏi mọi đe dọa của quân thù.
Dấu chỉ mà tiên tri Isaia loan báo đã được thực hiện. Ezechiel đã được sinh ra, và các vua phương Bắc đã lui quân. Vị vua này mặc dù rất trung thành với Giavê Thiên Chúa, nhưng vẫn chưa phải là Đấng Messia. Cuối cùng, vào năm 587, Giuđa cũng đã mất vào tay đế quốc Babylon. Như thế, lời tiên báo của tiên tri Isaia không dừng lại ở vua Ezechiel, nhưng còn đi xa hơn, hướng đến Đấng Cứu Thế (Trần thanh Sơn).
II. THỰC HIỆN LỜI HỨA BAN ĐẤNG EMMANUEL.
1. Nguồn gốc của Đức Giêsu.
Theo KinhThánh, chúng ta phải xác nhận là Đức Giêsu được sinh ra bởi Đức Maria:”Đức Kitô giáng sinh trong hòan cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đã đính hôn với Giuse”(Mt 1,18). Đức Giêsu đã có người Mẹ còn cha Ngài là ai ? Ngài thuộc dòng tộc nào ? Mẹ Ngài ra sao ?
Chúng ta phải tìm hiểu phong tục cưới hỏi của người Do thái. Luật Do thái phân biệt rõ ràng trong hôn nhân: việc đính hôn và cưới xin. Tuy cũng có lễ hỏi và lễ cưới nhưng giá trị và ý nghĩa khác với Việt nam chúng ta.
* Lễ đính hôn (cũng gọi là lễ hỏi): Thời gian đính hôn kéo dài trong một năm. Trong năm đó đôi bạn được kể như vợ chồng dù họ không có những quyền của vợ và chồng. Lễ hỏi Việt nam chưa làm vợ chồng, còn lễ hỏi Do thái coi như thành vợ chồng. Chứng cớ là theo luật:
. Vị hôn thê bất trung sẽ bị ném đá như vợ chính thức. . Vị hôn phu có chết thì vị hôn thê trở thành quả phụ. . Vị hôn thê cũng giống như người vợ chính thức chỉ có thể bỏ nhau bằng tờ ly dị.
. Đứa con cưu mang trong thời gian đính hôn được coi là con chính thức.
Như thế luật cho hai người quyền ăn ở với nhau trong thời gian này.
Giuse và Maria đang ở trong giai đọan này.
* Lễ thành hôn: Hôn nhân chính thức được cử hành vào cuối năm hứa hôn. Nếu chúng ta hiểu biết phong tục cưới gả thông thường của người Do thái thì mối quan hệ trong khúc sách này hòan tòan là bình thường và rõ ràng.
2. Giuse là người công chính.
Kinh Thánh gọi Giuse là người công chính:”Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo”(Mt 1,19). Chữ “công chính” đã được hiểu khác nhau và vì hiểu khác nhau nên cũng cắt nghĩa khác nhau về thái độ của thánh Giuse.
Chúng ta biết, nơi người Do thái, không phân biệt rõ thời kỳ đính hôn và cưới hỏi. Mặc dù chưa cưới, hai người đã đính hôn cũng có thể ăn ở như vợ chồng mà không có lỗi gì đối với luật lệ. Do đó, khi người ta thấy vị hôn thê có thai, thì chỉ một mình vị hôn phu có thể phán đóan trong việc đó là có tội hay không. Như vậy, thánh Giuse có thể hành động theo hai cách: Hoặc là tuyên bố theo sự hiểu biết tự nhiên của mình là Maria đã phạm tội ngọai tình, và như thế Maria bị mất thể diện hòan tòan; hoặc là để mặc cho người ta tin rằng ngài là cha của đứa bé sắp sinh. Giuse đã chọn giải pháp nào ?
Thật khó nghĩ ! Một đàng ngài không muốn công khai bộc lộ ý tưởng của mình là Maria đã phạm tội, vì ngài không muốn gây tổn thương cho Maria, một thiếu nữ ngài rất yêu mến và không muốn cho cô phải đau khổ. Nhưng đàng khác, giả sử Maria đã phạm tội thật mà nhận cô làm vợ thì không được. Bởi đó buộc phải thực hành luật Maisen chăng ? Cho phép bỏ vợ khi có lý do chính đáng quan trọng.
Đang phân ân lo nghĩ không biết xử trí ra sao thì Thiên Chúa báo mộng cho ông:”Hỡi Giuse con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về làm vợ mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20). Ông Giuse được báo mộng. Việc này thường xẩy ra trong Cựu ước khi Thiên Chúa muốn truyền cho ai một điều gì. Vậy hôm nay, việc báo mộng cho Giuse là cách thức Thiên Chúa dùng để tỏ ra thánh ý của Ngài về việc thụ thai đồng trinh của Đức Maria.
Sau khi được Thiên Chúa báo mộng, Giuse không còn thụ động nữa, ông tỉnh giấc và tuân hành lời thiên thần truyền. Giuse mau mắn thi hành mọi mệnh lệnh của Thiên Chúa liên quan đến Con Thiên Chúa xuống thế làm người, qua việc ngài làm bạn với Đức Maria và cha nuôi Chúa Giêsu, không ăn ở với nhau cho đến khi sinh con. 3. Giuse, cha nuôi Đức Giêsu.
* Đưa nhập vào dòng dõi Đavít.
“Khi thức dậy, Giuse đã thực hiện điều Thiên Chúa truyền”(Mt1,25). Với sự mau mắn của người công chính, hòan tòan sẵn sàng trước sự mới lạ của Thiên Chúa, Giuse đón nhận về nhà mình mầu nhiệm của Giao ước mới:”Ông rước vợ về nhà mình”, như thế, cho phép các lời tiên tri được thực hiện trọn vẹn:”Này đây, một trinh nữ sẽ thụ thai sinh hạ một con trai, người sẽ đặt tên là Emmanuel, có nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi”. Nhờ Giuse, Đấng Cứu Thế, thụ thai trong lòng Đức Maria, bởi Thánh Thần của sự sáng tạo mới, được đưa nhập vào dòng dõi Đavít.
Từ đây với người cha là thánh Giuse, Đức Giêsu thực sự thuộc hòang tộc Đavít, đúng như lời Thiên Chúa đã hứa từ muôn thuở. Đây đúng là một tin vui, một tin mừng vĩ đại không chỉ cho dân Chúa mà là cho tòan thể nhân lọai. Cảm nghiệm điều đó, ngay trong những lời mở đầu thư gửi cho tín hữu Rôma, thánh Phaolô đã tuyên bố:”Tôi đã được kêu gọi làm tông đồ và đã được tuyển chọn để rao giảng Tin mừng Thiên Chúa. Tin mừng ấy Thiên Chúa đã hứa trước bằng lời các tiên tri trong Kinh thánh về Con của Người; Người đã sinh ra theo huyết nhục bởi dòng dõi Đavít, đã được tiền định là Con Thiên Chúa quyền năng theo Thánh Thần… Đó là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.
* Việc đặt tên.
Khi sai sứ thần đến trấn an và báo tin vui cho thánh Giuse, Thiên Chúa còn muốn cho chúng ta biết sứ mạng của Đức Giêsu. Thực vậy, lời sứ thần giải thích tên gọi của Đức Giêsu chính là lời công bố sứ mạng của Ngài. Trong Sách Thánh, những tên gọi đều có ý nghĩa riêng như chúng ta thường nói: tên là người. Vậy tên Giêsu, do từ Do thái Yehoshua có nghĩa là “Chúa Cứu Độ”, “Chính Ngài sẽ cứu dân mình khỏi tội”.
Giuse được ủy nhiệm một sứ mạng “đặt tên cho con trẻ” dành riêng cho ngài. Mà, theo H. Vulliez giải thích:”Theo luật Do thái lúc bấy giờ, đứa bé hiện hữu hợp pháp bằng tên mà người ta gọi nó, và nó thuộc dòng dõi người cha, dù đó là người cha (sinh vật học) ruột thịt hay không”.
Theo ngôn ngữ Sêmít trong Thánh Kinh, việc đặt tên có nghĩa là “nhận lấy quyền làm cha pháp lý” của đứa trẻ. Chính qua dòng họ Giuse mà Đức Giêsu mới trở nên “con vua Đavít, để hòan tất mọi lời hứa của Thiên Chúa”(x. Mt 1,1-17). Như vậy, tư cách con vua Đavít thực sự của hài nhi và sự thực hiện trọn vẹn các lời tiên tri cứu thế tùy thuộc ở sự vâng lời của thánh Giuse.
* Vai trò của thánh Giuse đối với Đức Giêsu.
Vai trò của thánh Giuse không phải là tầm thường. Khoa tâm lý hiện đại đã tỏ cho chúng ta biết tầm quan trọng của hình ảnh người cha đối với việc tạo thành nhân cách của hài nhi. Chính nhờ gần gũi với Giuse mà Đức Giêsu sẽ học biết người cha là gi. Chính nơi ông, mà Ngài sẽ nhìn thấy phản ánh nhân lọai tình phụ tử của Thiên Chúa. Biết nói với chúng ta rõ ràng về Cha của Ngài, phải chăng khi đã nhìn thấy Giuse mà Ngài đã có kinh nghiệm về sự âu yếm của người cha:”Ai trong các anh, nếu đứa con xin bánh mà lại cho một hòn đá ư ? Hay, nếu nó xin một con cá, mà lại cho nó một con rắn” (Mt 7,9-10). Ngài đã học biết rằng, các người cha dưới đất biết cho con cái mình những sự tốt lành. Ngài đã học biết điều đó nơi thánh Giuse.
Tính cách làm cha của Giuse đối với Đức Giêsu quan trọng hơn ta vẫn thường nghĩ. Để gọi tên Đấng mà tất cả mọi người xưng là Thiên Chúa, để chỉ sự hiện diện rất gần gũi mà từ đó Ngài lãnh nhận tất cả mọi sự, hữu thể mà Ngài luôn luôn ý thức chỉ là một với Ngài. Đức Giêsu tự động dùng lại danh xưng mà Ngài âu yếm gọi Giuse:”Cha, Ba, Bố”. Và khi phải giải thích sự thật gây kinh ngạc này với Thiên Chúa của Israel, Thiên Chúa mà Ngài đòi tiếp tục công trình sáng tạo, Đức Giêsu lại dùng những từ ngữ đơn giản nhất khi còn tập tành ở Nazareth, trong xưởng của bác thợ mộc Giuse:”Cho đến bây giờ vẫn làm việc, và Ta cũng vậy, Ta cũng làm việc… Điều mà Cha làm, thì Con cũng làm giống như vậy. Chính Cha yêu mến Con, và chỉ cho Con tất cả những gì Ngài làm”(Ga 5,17-20).
Chính nơi những từ ngữ thường ngày, những từ ngữ mà Ngài dùng để diễn tả cuộc đời Ngài, những mối liên hệ của Ngài, những tình cảm của Ngài, mà Đức Giêsu muốn nói đối với Ngài, Thiên Chúa là ai. Làm sao không tìm thấy trong tình cảm của cha mẹ Ngài những từ ngữ đúng đắn nhất để nói cho chúng ta biết mối liên hệ tuyệt đối duy nhất vốn vẫn hiện diện trong con tim Ngài:”Cha và Ta, Chúng Ta là một”(Ga 10,30) (Trích Fiches dominicales A, tr 28.29).
III. ĐỨC GIÊSU KITÔ LÀ EMMANUEL.
1. Đức Giêsu sinh ra bởi Đức Mẹ đồng trinh.
Chủ ý của bài Tin mừng hôm nay không nhằm vào sự công chính của Giuse cho bằng sự thụ thai kỳ diệu của Đức Giêsu trong cung lòng đồng trinh của Maria do quyền năng Chúa Thánh Thần. Thông thường, nói tới sự đồng trinh của Đức Maria, người ta nghĩ tới sự đồng trinh thể chất, ít ai để ý đến sự đồng trinh về mặt tinh thần của Ngài. Cả hai mặt của sự đồng trinh ấy đều quan trọng và cần thiết. Nhưng nếu chỉ đồng trinh về mặt thể chất mà không có mặt tinh thần thì đồng trinh ấy chẳng còn ý nghĩa. Sự đồng trinh về tinh thần nơi Đức Maria quan trọng hơn rất nhiều.
Trước mặt Thiên Chúa, đồng trinh về mặt tinh thần có nghĩa là có tâm hồn trọn vẹn hướng về Ngài, hòan tòan dâng hiến bản thân cho Ngài để hòan tòan thuộc về Ngài, không còn thuộc về chính mình nữa. Trong chiều hướng đó, Đức Maria đã sống tinh thần “tự hủy”, để hòan tòan sống cho Thiên Chúa và tha nhân. Biểu hiện quan trọng và rõ rệt nhất là không còn coi ý riêng mình là quan trọng, thậm chí không còn ý riêng nữa, để chỉ biết có thánh ý Thiên Chúa mà thôi. Vì thế, Đức Maria cũng có thể nói như Đức Giêsu:”Tôi không tìm cách làm theo ý riêng tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi”(Ga 5,30)., hay như thánh Phaolô:”Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi”(Gl 2,20). Trọn cuộc đời của Ngài đã chứng tỏ sự đồng trinh tinh thần ấy, được biểu hiện qua mọi hành vi của Ngài, cụ thể nhất qua hai chữ “Xin vâng” khi sứ thần truyền tin cho Ngài (JKN).
2. Đức Giêsu là Chúa và là người thật.
Trong bài tụng ca, thánh Phaolô đã viết:”Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ nhất quyết phải duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hòan trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế”(Pl 2,6-7). Ngài là Thiên Chúa mặc lấy xác phàm hèn, trở nên con người như chúng ta. Ngài cũng sống trong gia đình, có cha có mẹ, có anh em, trong xã hội có vua quan, có phép tắc, luật lệ, y trang như mọi người chúng ta. Ngài đã hòan tòan “trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế”(Pl 2,7), cũng “sinh làm con của một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật”(Gl 4,4) như chúng ta, cũng “phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục”(Dt 5,8-9). Vì thế, Ngài “không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội”(Dt 4,15-16). Chắc chắn Ngài có thể nói như một triết gia nào đó:”Không có gì thuộc về con người mà xa lạ đối với tôi”.
Những điều của con người mà Ngài cảm nghiệm được nhiều nhất chính là đau khổ và sự chết. Dường như mọi hình thức của đau khổ Ngài đều đã cảm nghiệm: phản bội, oan ức, bị đàn áp, bóc lột, mất mát, roi vọt, nhục nhã.., Điều này làm cho chúng ta rất đuợc an ủi khi gặp đau khổ. Chúng ta nhận ra Ngài đã dùng đau khổ của chính mình để xoa dịu những đau khổ của chúng ta. Ngài đã dùng thương tích của chính Ngài để chữa lành những vết thương của chúng ta (x. 1Pr 2,2b). Nghĩ như thế, chúng ta không cảm thấy cô đơn trong đau khổ, vì chúng ta cảm thấy như Ngài đang đau khổ với chúng ta, để biến những đau khổ của chúng ta thành một giá trị cao cả.
Truyện: Đức Giêsu là người thật.
Tiến sĩ John Coleman là Hiệu trưởng trường Đại học Haverford ở bang Pensylvania. Ông cũng là thành viên của Ban Giám đốc ngân hàng liên bang. Mới đây, ông đã dần dần từ bỏ những địa vị đặc biệt này. Vì muốn có kinh nghiệm về sự làm việc tay chân, ông đã cố gắng đào những đường mương, làm việc trên cánh đồng, thu quét rác rưởi, rửa chén đĩa. Ông đã học những gì phải làm với mồ hôi trán hơn là trí óc. Ông đã làm những công việc khó khăn và mệt nhọc, nhưng vì không có khả năng chuyên môn, lại làm việc giữa những người xa lạ, nên ông bị thải hồi làm người rửa chén đĩa. Ông đã bị thất nghiệp một thời gian, nhưng nhờ những kinh nghiệm hiện thực đó, ông đã khám phá ra những gì mà nhiều người đang trải qua.
Có một Vị vô cùng nổi tiếng và có ảnh hưởng hơn tiến sĩ Coleman. Tên Ngài là Giêsu Kitô, Ngài là Thiên Chúa thượng trí và tòan năng, nhưng đã chấp nhận thân phận làm người, sinh ra dưới hình hài con trẻ cách đây đã 2000 năm, mà chỉ ít ngày nữa, chúng ta sẽ hân hoan cử hành Sinh nhật của Đấng Thiên Chúa làm người đó. Để chuẩn bị biến cố vui mừng này, chúng ta cần suy nghĩ về Đấng là Thiên Chúa thật đã trở nên con người thật.
(GM Arthur Tonne, Bài giảng TMCN năm A, tr 14)
3. Muốn được Thiên Chúa ở cùng.
Qua cách khởi đầu và kết thúc Tin mừng mình với chủ đề:”Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, thánh Matthêu, muốn nêu bật một chủ điểm quan trọng đó là: qua việc Đức Giêsu Giáng sinh, Thiên Chúa trở nên hiện diện với dân Người một cách mới mẻ đặc biệt. Để đánh giá được tính cách hiện diện mới mẻ này, chúng ta cần nhắc lại ba cách Chúa dùng để hiện diện với chúng ta.
a) Trước hết, Chúa hiện diện với chúng ta qua việc sáng tạo, đặc biệt qua quyền năng nâng đỡ của Ngài. Chúa không chỉ tạo dựng mọi sự mà còn gìn giữ cho nó được hiện hữu nữa. Sự hiện diện của Ngài trong việc tạo dựng có thể ví như một máy chiếu xinê phóng ảnh lên trên màn hình. Máy chiếu này làm hình ảnh hiện ra trên bức màn, và hình ảnh sẽ tồn tại bao lâu máy chiếu vẫn còn lưu giữ hình ảnh đó. Trong trường hợp của Chúa cũng vậy, Ngài làm cho tạo vật được hiện hữu và tạo vật sẽ tồn tại bao lâu Chúa còn bảo tồn nó.
b) Thứ đến, Chúa hiện diện qua lời Ngài trong Kinh Thánh. Có người mô tả Kinh Thánh như là thư tình ông bố gử đến các con mình. Giống như một người bố trần gian biểu lộ ý nghĩ, tư tưởng mình cho con cái trong một lá thư thế nào thì Chúa cũng mạc khải tư tưởng Ngài cho chúng ta trong Kinh Thánh như vậy. Vì thế, nói thật chính xác, Kinh Thánh làm cho tâm trí Thiên Chúa trở thành hiện diện cụ thể rõ ràng, sống động đối với chúng ta.
c) Cuối cùng, Chúa hiện diện với chúng ta qua Đức Giêsu, Con Ngài. Cùng với việc chào đời của Đức Giêsu, Thiên Chúa đã bước thêm một bước khổng lồ để tiến đến cư ngụ giữa chúng ta. Như thế, Chúa đã hiện diện với chúng ta không chỉ qua việc tạo dựng, qua lời Ngài mà còn bằng đích thân Ngài nữa (Trích M. Link, Giảng lễ Chúa nhật A, tr 29-30).
Chúng ta đang ở vào những ngày chót của Mùa Vọng để đón chờ lễ Giáng Sinh. Chúng ta hãy bắt chuớc thánh Giuse mà cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa. Thánh Giuse đã đón nhận mầu nhiệm này với lòng tin. Thiên Chúa cần đến Ngài để Ngài đứng ra chấp nhận làm cha Chúa Giêsu trước pháp luật. Ngài đã thuận theo thánh ý Chúa để mọi công cuộc của Chúa được diễn tiến theo đúng chương trình Ngài đã ấn định.
Chúng ta cũng phải cộng tác với Chúa để mọi công việc của Chúa được diễn tiến trong trần gian và trong từng người chúng ta theo đúng kế họach của Ngài. Chúng ta hãy làm cho mọi người cảm nhận được rằng Đấng Emmanuel đang hiện diện giữa lòai người. Ngài hiện diện nơi từng người, trong những người hèn mọn nhất trong chúng ta, để rồi chúng ta phải xác nhận rằng “Tha nhân chính là Chúa”.
Truyện: Chúa đến nơi tha nhân.
Một tác giả kể câu chuyện ngụ ngôn sau đây: Vào buổi sáng nọ, người thợ giầy thức dậy rất sớm. Anh quyết định chuẩn bị chiếc xưởng nhỏ của anh cho tươm tất rồi vào phòng khách chờ đợi cho bằng được người khách quí. Và người khách đó không ai khác hơn là chính Chúa, bởi vì tối qua trong giấc mơ, Ngài đã hiện ra và báo cho anh biết Ngài sẽ đến thăm anh trong ngày hôm sau.
Người thợ giầy ngồi chờ đợi, tâm hồn tràn ngập hân hoan. Khi những tia nắng sớm vừa rọi qua khung cửa, anh đã nghe được tiếng gõ cửa. Lòng anh hồi hộp, sung sướng, hẳn là Chúa đến. Anh ra mở cửa. Thế nhưng kẻ đang đứng trước mặt anh không phải là Chúa, mà là người phát thư.
Sáng hôm đó là một ngày cuối đông, cái lạnh đã khiến mặt mũi , tay chân người phát thư đỏ như gấc. Người thợ giầy không nỡ để nhân viên bưu điện phải run lẩy bẩy ngòai cửa. Anh mời ông ta vào nhà và pha trà mời khách. Sau khi đã được sưởi ấm, người phát thư đứng dậy cám ơn và tiếp tục công việc.
Người thợ giầy lại vào phòng khách chờ Chúa. Nhìn qua cửa sổ, anh thấy một em bé đang khóc sướt mướt trước cửa nhà. Anh gọi nó lại, hỏi cớ sự. Nó mếu máo cho biết đã lạc mất mẹ và không biết đường về nhà. Người thợ giầy lấy bút viết vài chữ để lại trên bàn báo cho người khách quí biết mình phải đi ra ngòai.
Nhưng tìm đường dẫn đứa bé về nhà đâu phải là chuyện đơn giản và nhanh chóng. Mãi chiều tối anh mới tìm ra nhà đứa bé, và khi anh về lại nhà thì phố xá đã lên đèn.
Vừa bước vào nhà, anh đã thấy có người đang đợi anh, nhưng đó không phải là Chúa, mà là một người đàn bà với dáng vẻ tiều tụy. Bà cho biết đứa con của bà đang ốm nặng và bà đã không thể chợp mắt suốt đêm qua. Nghe thế, người thợ giầy lại hối hả đến săn sóc đứa bé. Nửa đêm anh mới về đến nhà, anh để nguyên quần áo và lên giường ngủ.
Thế là một ngày đã qua mà Chúa chưa đến thăm anh. Nhưng đột nhiên trong giấc ngủ, người thợ giầy nghe thấy tiếng Chúa nói với anh:”Cảm ơn con đã dọn trà nóng cho Ta uống. Cám ơn con đã dẫn đường cho Ta về nhà. Cám ơn con đã săn sóc ủi an Ta. Cám ơn con đã tiếp đón Ta ngày hôm nay”.
Thật đẹp đẽ và chí tình khi Giáo Hội trình bầy gương mặt của Đức Trinh Nữ Maria. Nói tới mùa vọng không thể nào giới thiệu Chúa Giêsu Nhập Thể, được sinh ra mà lại quên đi vai trò của Đức Mẹ. Do đó, Chúa nhật IV mùa vọng, có thể nói được rằng đây là Chúa nhật của Đức Mẹ. Chương trình cứu độ của Thiên Chúa được hoàn thành nhờ sự trung gian qua lời xin vâng của Đức Mẹ.
Lịch sử cứu độ là một lịch sử được nối dài từ thời Cựu Ước tới thời Tân Ước. Thiên Chúa đã dùng một thời gian rất lâu dài để Con Một của Người là Đức Giêsu Kitô được sinh ra nơi trần thế với hình hài là một người thật và để thực hiện chương trình đó, Thiên Chúa đã tuyển chọn một người nữ Do Thái để cưu mang bởi phép Chúa Thánh Thần và đản sinh Chúa cứu thế: “ Đức Giêsu Kitô “. Chúa Giêsu là con người thật vì Người có gia phả, có ông bà tiên tổ, xuất thân từ dòng dõi vua Đavít, có cha mẹ thật tên là Maria và Giuse ( bài đọc 2 ). Chính vì thế, Chúa Giêsu đã đi vào lịch sử loài người, đã đi vào lịch sử cùa dân tộc Do Thái, có tên, có hộ tịch, hộ khẩu hoàn toàn và làm người như mọi người chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Thiên Chúa đã có một kế hoạch cứu độ và kế hoạch này được chuẩn bị từ lâu đời, được thực hiện qua nhiều giai đoạn, với những biến cố, những dấu chỉ, những con người được Thiên Chúa sắp đặt cho đến khi ý định của chương trình cứu rỗi của Ngài được hoàn tất.
Thiên Chúa đã ban cho nhân loại, cho chúng ta và mỗi người chúng ta một cơ hội như Công Đồng Vaticanô II cho chúng ta hiểu về ý nghĩa của việc Chúa Giêsu ngự đến:” Bởi vì, chính Con Thiên Chúa khi Nhập Thể, môt cách nào đó đã kết hợp với tất cả mọi người, Người đã làm việc với bàn tay con người, đã suy nghĩ bằng trí óc con người, đã hành động với ý chí con người, đã yêu mến bằng quả tim con người. Sinh bởi Trinh Nữ Maria. Người đã thực sự trở nên một người giữa chúng ta, giống chúng ta mọi sự ngoại trừ tội lỗi…Người còn mở ra con đường mới để nếu chúng ta theo thì sự sống và cái chết sẽ được thánh hóa và có một ý nghĩa mới “ ( số 22, Hiến Chế Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay ). Như thế, chúng ta hiểu vai trò lớn lao như thế nào của Đức Mẹ và hiểu thế nào về thánh Giuse, Thiên Chúa đã dùng Ngài để làm nổi bật sứ mạng của Mẹ Maria. Thiên Thần Chúa hiện đến báo mộng cho Giuse khi Ông đang có ý định lìa bỏ Mẹ Maria cách âm thầm, kín đáo:” Người Con, bà Maria đang cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và Ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân khỏi ách thống trị của tội “.
Đọc kinh Tiền Tụng thứ ba của Lễ Giáng Sinh chúng ta thấy:” Bằng việc mặc lấy thân phận yếu đuối của con người chúng ta, Người đã ban cho bản tính hay chết của con người chúng ta một giá trị bất tử “. Thực tế, Thiên Chúa luôn yêu thương trần gian và ngay những lúc con người sa ngã, phản nghịch cùng Thiên Chúa. Chương trình yêu thương của Thiên Chúa vẫn luôn được nối tiếp. Thánh Matthêu viết:” Khi tỉnh giấc, Ông Giuse làm như sứ thần chúa dạy và đón vợ về nhà “ ( Mt 1, 24 ). Ông Giuse đã vâng theo lời Chúa và mở ra một thế giới tình yêu mới. Một thế giới, trong đó lòng thương xót và yêu thương của Con-Thiên-Chúa-Làm-Người sẽ thay cho hận thù và chia rẽ. Mẹ Maria, thánh Giuse đã nhận ra thiên ý của Chúa và dù chưa hiểu rõ ràng thế nào là chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa. Mẹ Maria đã nói lời xin vâng làm theo ý Chúa và thánh Giuse sau khi được báo mộng đã mau mắn vâng lời Thiên Chúa đưa Maria về nhà mình để thực hiện ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Đó là mầu nhiệm. Một mầu nhiệm cao vời vì”đối với Chúa không có gì mà không thể được “.
Lạy Chúa Giêsu, Mẹ Maria đã nói lời xin vâng làm theo ý Chúa, thánh Giuse đã vâng lời làm theo thiên ý. Xin cho chúng con biết noi gương, bắt chước và chiêm ngắm sự thánh thiện cao sang mà Mẹ Maria và thánh Giuse đã nêu gương cho nhân loại, cho mọi người. Amen.
Bài Tin Mừng Chúa Nhật cuối cùng mùa Vọng giới thiệu với chúng ta về “gốc tích Đức Giê-su Ki-tô”. Nói đến gốc tích là nói đến những đấng sinh thành. Gốc tích của mỗi người chúng ta thường là đơn giản, đôi khi có chút rắc rối bí ẩn. Nhưng gốc tích của Chúa Giê-su, Thiên Chúa làm người, vừa gần gũi với chúng ta, nhưng cũng hết sức mầu nhiệm vì là sự kết hợp giữa trời với đất.
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay của thánh Mát-thêu, có ba nhân vật liên hệ đến gốc tích của Chúa Giê-su: bà Ma-ri-a, ông Giu-se và Chúa Thánh Thần. Mẹ Ma-ri-a có sứ mệnh cưu mang Con Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần thì dùng quyền năng để cho Ngôi Lời “trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Gio-an 1:14). Còn sứ mệnh của thánh Giu-se tuy âm thầm, nhưng lại hết sức quan trọng, vì Ngài chính là đấng giúp Thiên Chúa “hợp thức hóa” việc Nhập Thể của Ngôi Lời. Thực vậy, trên phương diện pháp lý của nhân loại, thánh Giu-se là “con cháu Đa-vít” để cho Chúa Giê-su được làm “Con vua Đa-vít”. Thánh Giu-se là “người công chính” để Đấng Công Chính được cư ngụ giữa chúng ta. Đức Mẹ sinh con trai, nhưng thánh Giu-se mới là người “phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su”, nghĩa là Ngài là người cộng tác với Thiên Chúa để định hướng sứ mệnh của Chúa Giê-su, là “cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”.
Sứ mệnh của thánh Giu-se quả là cao cả, nhưng cũng hoàn toàn tùy thuộc vào sự ưng thuận của Ngài. Người ta hay đặt câu hỏi: giả như Đức Mẹ không ưng thuận lời báo tin của sứ thần Gáp-riên thì sao? Nhưng ít khi nào người ta đặt câu hỏi ấy cho thánh Giu-se! Nhận một người đàn bà đã có thai về làm vợ là một việc không thể đối với “người công chính” như thánh Giu-se. Nhưng vì sứ mệnh Thiên Chúa trao ban, thánh Giu-se đã dẹp bỏ mọi “toan tính” và “ngại ngùng” để khiêm nhường làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. Xét theo một ý nghĩa nào đó, lòng khiêm nhượng và sự ưng thuận của hai vị, Mẹ Ma-ri-a và thánh Giu-se, là thực tại đối nghịch với sự kiêu căng và chống đối của ông A-đam và bà E-và. Kết quả là một bên gieo tội, một bên sinh phúc, một bên đánh mất, một bên cứu độ.
Thánh Mát-thêu khéo léo đề cao vai trò và nhân đức của thánh Giu-se. Cũng như Mẹ Ma-ri-a đã quảng đại và khiêm nhượng cộng tác với Thiên Chúa thế nào, thì thánh Giu-se cũng làm y như vậy. Gốc tích của Chúa Giê-su không phải là ông vua này hay bà hoàng hậu kia, nhưng là gốc tích từ tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa Cha và quyền năng Chúa Thánh Thần, cộng với lòng khiêm nhượng cũng như quảng đại của thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a. Nhờ đó, Ngôi Lời “đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúng ta có nhiều điều để suy niệm và sống qua bài Tin Mừng hôm nay. Cảm tạ vì tình yêu của Thiên Chúa và quyền năng Chúa Thánh Thần. Vui mừng và hy vọng vì Hài Nhi chính là Đấng Em-ma-nu-en, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, và là Đấng “sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi”. Học với Mẹ Ma-ri-a để biết sống “xin vâng”. Học với thánh Giu-se để biết dẹp bỏ mọi “toan tính” loài người, hầu quảng đại cộng tác với kế hoạch của Thiên Chúa.
Gốc tích của Chúa Giê-su là từ tình yêu của Thiên Chúa mà đến. Nhưng Chúa có thực sự đến được với nhân loại hay không, thì Người vẫn tôn trọng tự do của con người và chờ đợi sự ưng thuận của con người. Thái độ thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a đáp trả tình yêu vô bờ của Thiên Chúa như thế nào, đó chính là bài học Tin Mừng dành cho chúng ta hôm nay. Tình yêu Thiên Chúa đến với chúng ta mỗi ngày qua những tình huống của cuộc sống. Nhưng quan trọng nhất đối với chúng ta vẫn là sẵn sàng mở lòng để đón tiếp Người.
Nhiều người sống như không cần đến Thiên Chúa. Thực tế, thế giới không thể tồn tại nếu không có Thiên Chúa. Riêng đối với các tín hữu, Thiên Chúa không những hiện hữu nhưng còn hiện diện và đồng hành với chúng ta trong cuộc sống hằng ngày.
THIÊN CHÚA LÀM NGƯỜI.
Tin Mừng Mathêu hôm nay cho thấy sự hiện diện kỳ diệu ấy trong mầu nhiệm Thiên Chúa làm người. Làm người để chia sẻ thân phận hữu hạn giữa bao thử thách đau thương. Chính vì thế, ngay từ đầu Người đã xác định vị thế trung gian nối kết giữa trời đất. Người là “Emmanuen, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.” (Mt 1:23) Thiên Chúa không còn xa lạ với con người nữa. Người là “Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng” (Rm 1:4) có thể phá hủy hàng rào tội lỗi ngăn cách nhân loại với Thiên Chúa.
Người đến để “hoàn thành lời sấm về Đấng Emmanuen.” (The New Jerome Biblical Commentary 1990:635) Từ lòng Mẹ, Người đã sinh ra để trở nên đồng hình đồng dạng với anh em nhân loại. Đó là sự thật được sứ thần minh xác với ông Giuse: “Bà sẽ sinh con trai.” (Mt 1:21) Nhưng đồng thời Người cũng đem một nhân tố khác biệt có tính cách quyết định số phận trần gian. Nhân tố đó chính là bản tính Thiên Chúa sẽ đưa cả nhân loại tiến lên.
Nhưng như thế cũng chưa đủ để Đức Giêsu có thể đi vào cơ cấu xã hội. Quả thực, Người phải thuộc về một dòng họ để thỏa mãn những đòi hỏi pháp lý cho cuộc hòa nhập vào Dân Chúa. Chính thiên thần đã cho ông Giuse thấy vinh dự lớn lao đang chờ đón ông: “Này ông Giuse, con cháu Đavít, ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu.” (Mt 1:20.21) Như thế, Người thuộc về dòng họ Đavít, một dòng họ đã được thừa hưởng lời hứa. Chính trong dòng họ này, Người có thể thực hiện tất cả những chương trình cứu độ. Nếu thuộc về một dòng họ khác, chắc chắn Người đã không thể mang vào mình lời hứa vô cùng quan trọng đó. Lời hứa đã thấm nhập vào tận huyết mạch dòng họ Đavít. Lời hứa đã thành hiện thực nơi con người Đức Giêsu Kitô.
Không chỉ hiện diện với nhân loại, Thiên Chúa còn “cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” (Mt 1: 21) Đó là lý do tại sao Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Nếu có một đức tin sâu xa, sẽ thấy nơi Người cả một mầu nhiệm vĩ đại. Mầu nhiệm ngay từ khi được dựng thai trong lòng Mẹ. Quả thế, “người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần.” (Mt 1:20) Trong cơn hoang mang tột độ, phải có niềm tin lớn lao như ông Giuse mới có thể chấp nhận một sự thật chướng kỳ như thế. Kinh thánh đã chứng minh ông “là người công chính,” (Mt 1:19) nghĩa là, người hết lòng tin tưởng và sống theo lề luật. Lòng ông bị xé rách giữa đòi hỏi của lề luật và danh tiếng của Maria. Giữa lúc ông đang muốn cao chạy xa bay, sứ thần đã đến kềm chân ông lại. Được sứ thần trấn an, ông hết sức vui mừng. Niềm vui thứ nhất vì được “đón bà Maria vợ ông về.” (Mt 1:20) Thứ hai vì ông được quyền “đặt tên cho con trẻ là Giêsu.” (Mt 1:21) Còn người cha nào được vinh dự lớn hơn nữa không ! Danh Giêsu gói trọn cả sứ mạng cứu thế, vì Giêsu có nghĩa là “Giavê cứu độ.” Thế là nhờ Thánh Linh, ông Giuse thấy tất cả công trình Thiên Chúa sẽ thực hiện nơi Người Con yêu dấu này. Oâng thật diễm phúc vì đã sống vào một thời điểm lịch sử vô cùng quan trọng, thời điểm cánh chung tràn ngập Thánh Linh.
Từ nay nhân loại bước vào một thời đại mới, thời đại đồng hành với Thiên Chúa. Đúng hơn, “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta,” để ban muôn “ân sủng và bình an” (Rm 1:7) cho nhân loại. Nếu Con Chúa không nhập thể, làm sao chúng ta được thánh hóa để trở thành “những người được Thiên Chúa yêu thương, được kêu gọi làm dân thánh” (Rm 1:7) ? Từ ơn gọi vô cùng cao quí đó, chúng ta có thể đem “Tin Mừng về Con của Người là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 1:3) mà giải thoát muôn dân. Sứ mệnh đó chỉ được hoàn thành trong quyền lực Thánh Linh. Tất cả sẽ trở thành sự thật, nếu chúng ta ý thức mình “là những người đã được kêu gọi để thuộc về Đức Giêsu Kitô” (Rm 1:6) và biết “vâng phục Tin Mừng hầu danh Người được rạng rỡ.” (Rm 1:5) Nghĩa là, sẵn sàng hiến toàn thân phục vụ Đức Kitô “để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa,” (Rm 1:1) một Tin Mừng luôn mang tính hiện đại.
TIN MỪNG HÔM NAY.
Tin mừng đó luôn mang dáng dấp của Thiên Chúa làm người. Nếu Thiên Chúa đã nhập cuộc, người tín hữu không thể lạnh lùng trước những đòi hỏi Tin Mừng cứu độ. Muốn cứu độ chính mình và tha nhân, phải lợi dụng mọi cơ hội để loan báo Nước Thiên Chúa (x.Mt 4:17) hay phải chết như Đức Giêsu (x.Mt 26:28). Giáo hội đang theo sát vết chân Thày Chí Thánh đem Tin Mừng hòa bình cho nhân loại hôm nay.
Chỉ có Tin Mừng mới có thể đáp ứng khát vọng thâm sâu và lớn lao nhất của nhân loại. Tất cả nhân loại đang ngưỡng vọng hòa bình. “Hòa bình thực sự là hoa trái của công lý. Nhưng vì công lý của nhân loại luôn mỏng dòn và không hoàn thiện, bị giới hạn vì tính ích kỷ của cá nhân và phe nhóm, công lý cần phải được bao gồm và hoàn thiện bởi sự tha thứ có giá trị chữa lành và tái lập lại từ căn bản các mối quan hệ bị gẫy đổ giữa con người với nhau.” (ĐGH Gioan Phaolô II, VietCatholic 12/12/2001) Nếu khăng khăng đòi hỏi thi hành công lý, chắc chắn luật pháp phải được thi hành trọn vẹn, nghĩa là không thể không trả thù. Nếu thánh Giuse cũng tố cáo Đức Maria theo đúng luật pháp, chắc chắn Mẹ đã bị vùi dập dưới cơn mưa đá của quần chúng. Không phải bất thứ công lý nào cũng sinh ra hòa bình. Thực vậy, “hòa bình là con đẻ của công lý và sự tha thứ.” (ĐGH Gioan Phaolô II, CWNews 11/12/2001) Công lý mà không tha thứ sẽ dẫn đến bất công, nguyên nhân sinh ra chiến tranh bất tận. Bởi thế, ĐGH Gioan Phaolô II đã đánh tan huyền thoại cho rằng công lý chỉ đạt được nhờ bạo động. Người gọi khủng bố là “một tội ác thực sự chống lại nhân loại”, vì nó “dựa trên óc khinh dể mạng sống con người.” (ĐGH Gioan Phaolô II, CWNews 11/12/2001)
Bọn khủng bố đã “phàm tục hóa tôn giáo khi tuyên bố mình khủng bố nhân danh Thiên Chúa, bạo hành tha nhân nhân danh Thượng Đế.” (ĐGH Gioan Phaolô II, CWNews 11/12/2001) Thượng đế của họ hoàn toàn lạnh lùng, chỉ biết một thứ công lý trên mây xanh, chứ không biết thực tế con người. “Rõ ràng ĐGH đã ám chỉ đến bọn Hồi giáo quá khích của Bin Laden, những người Do thái giáo quá khích chỉ nhắm tiêu diệt dân Palestine và những nhóm Kitô giáo quá khích vui mừng vì cuộc phá hủy ở Afghanistan, mở đường cho những nỗ lực ‘phúc âm hóa’ của họ.” (FIDES/CWNews 11/12/2001) Con người đã phạm những tội ác tầy trời khi ra tay loại trừ tội ác. Đúng như Đức Phật đã nói: “Lấy oán báo oán, oán oán chập chùng.”
Nói khác, trong hoàn cảnh nhân loại, công lý chỉ có thể vãn hồi khi có sự tha thứ. Công lý mà không kèm theo sự tha thứ là một thứ công lý cơ giới. Thứ công lý đó không thể sinh ra hòa bình. Nhưng làm sao có thể tha thứ, nếu không khám phá tất cả chiều kích tình yêu lớn lao nơi mầu nhiệm “Ngôi Lời đã trở nên xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta” ? (Ga 1:14) Có cảm nghiệm và sống tình yêu sâu nhiệm đó, mới thấy được tất cả lý do tại sao Đức Giêsu dạy: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.” (Mt 5:44) Tình yêu kẻ thù xây dựng trên sự tha thứ, chứ không dựa trên công lý. “Chính vì thế ĐGH cho thấy có một con đường tha thứ. Đây là con đường của những ‘người theo Đức Kitô’, một con đường ‘bắt nguồn từ Thiên Chúa và lấy Thiên Chúa làm tiêu chuẩn’, nhưng cũng có thể đạt đến ‘trong ánh sáng của lý trí nhân loại.’” (FIDES/CWNews 11/12/2001) Chỉ khi nào tha thứ, con người mới bắt đầu khám phá mầu nhiệm Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta và mới tìm được con đường dẫn tới hòa bình.
Nói với sứ giả do ông Gio-an sai đến, Chúa Giê-su tuyên bố: “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (Mt 11:6). Biết bao người đã vấp ngã vì Chúa Giê-su, bởi nhiều lý do. Một trong những lý do đáng kể nhất, đó là vì xuất xứ tầm thường của Người. Trước hết là dân thành Na-da-rét, quê hương của Người. Họ xì xầm: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Gio-xê, Giu-đa và Si-mon sao?” (Mc 6:3). Trước khi được gọi làm môn đệ, ông Na-tha-na-en đã chẳng có ấn tượng gì đối với xuất xứ của Chúa Giê-su. “Từ Na-da-rét, làm sao có cái gì hay được?” (Ga 1:46). Nhưng có lẽ tranh luận sôi nổi nhất về xuất xứ của Chúa Giê-su vẫn là tranh luận giữa Người với nhóm Pha-ri-sêu, đặc biệt trong Tin Mừng Gio-an. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay giúp ta hiểu Đấng Cứu Thế, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, xuất thân từ đâu.
1. “Xét như một người phàm, Đức Giê-su Ki-tô xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít” (bài đọc Tân Ước – Rm 1:1-7)
Thần học gia Phao-lô Tông đồ cho ta một cái nhìn tổng quát về thân thế của Chúa Giê-su Ki-tô. Ngài cho ta thấy hai hình ảnh liên hệ với sứ vụ cứu thế của Chúa: con vua Đa-vít và Con Thiên Chúa, hoặc Chúa Giê-su vừa là người vừa là Thiên Chúa, tức Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Sự kiện Con Thiên Chúa làm người đến với nhân loại được gọi là “Tin Mừng của Thiên Chúa”. Tin Mừng này đã được chính Thiên Chúa loan báo lần đầu tiên tại vườn Địa đàng và Người “đã dùng các ngôn sứ của Người mà hứa trước trong Kinh Thánh”. Thiên Chúa đã chuẩn bị cho việc Người đến. Nhìn lại lịch sử cứu độ, Đấng làm chủ thời gian và không gian đã không phá bỏ luật tự nhiên, nhưng Người đã khép mình vào giới hạn không gian và thời gian, làm người và chọn một dân tộc với quê hương để đi vào lịch sử nhân loại. Từ khi gọi ông Áp-ram rời bỏ quê cha đất tổ để đến nơi xa lạ, Thiên Chúa muốn thiết lập một dân biết hoàn toàn đặt niềm tin và hy vọng vào Người. Chỉ có niềm tin tuyệt đối mới giúp ta được cứu rỗi. Rồi từ khi dân riêng ấy thành hình, điều Thiên Chúa đòi hỏi vẫn luôn là lòng tin, lòng tin được rèn luyện qua những gian nan thử thách, tại quê nhà cũng như tại xứ Ai-cập. Song song với cuộc đào tạo lòng tin ấy, Thiên Chúa dùng các vị ngôn sứ để nhắc nhở, loan báo và mặc khải kế hoạch cứu độ của Người. Lời hứa tại vườn Địa đàng được lập lại nhiều lần và dân Chúa phải luôn đặt hy vọng vào lời hứa ấy. Cùng với lịch sử Ít-ra-en, kế hoạch của Thiên Chúa mỗi ngày một rõ hơn. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a cho thấy Đấng cứu tinh xuất thân từ dòng dõi Đa-vít (Gr 23:1-8; 33:14-16).
Con vua Đa-vít là danh hiệu diễn tả xuất xứ trần thế của Chúa Giê-su, là “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14). Chúa Giê-su “đã cùng mang lấy huyết nhục” của ta, để “nhờ cái chết của Người, Người đã tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ, và đã giải thoát những ai vì sợ chết mà suốt đời sống trong tình trạng nô lệ” (Dt 2:14-15). Khi đã toàn thắng sự chết và tội lỗi, Chúa Giê-su đã được Thiên Chúa Cha “đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng”. Như thế, thánh Phao-lô muốn trình bày xuất thân của Chúa Giê-su là từ Thiên Chúa đến với ta qua dòng dõi vua Đa-vít, để sau khi hoàn tất kế hoạch cứu độ, với tính cách là Con Thiên Chúa, Người sẽ đưa mọi kẻ “thuộc về Người” về lại với Thiên Chúa Cha.
2. Cha mẹ của Chúa Giê-su (bài Tin Mừng – Mt 1:18-24 và bài đọc Cựu Ước – Is 7:10-14)
Trong dòng dõi vua Đa-vít, có một người “công chính” đã được Thiên Chúa chọn làm cha nuôi của Con Một Người, để khi sinh ra, Con Một Người được trở thành một phần tử đích thực của nhà Đa-vít. Người ấy là thánh Giu-se, hậu duệ của vua Đa-vít. Danh nghĩa vợ chồng giữa thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a chỉ có tính cách pháp lý, mục đích duy nhất là để thực hiện lời hứa của Thiên Chúa: “Từ gốc tổ Gie-sê sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy sẽ mọc lên một mầm non. Thần khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này…” (Is 11:1-2). Gie-sê là cha của vua Đa-vít.
Thánh Mát-thêu rất cẩn thận khi nhắc đến cha mẹ Chúa Giê-su. Trước hết, khi nói về Đức Mẹ, ngài viết: “Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần”. Ngay sau tên Ma-ri-a, thánh sử thêm cụm từ “mẹ Người” là có ý cho ta hiểu rằng chỉ có một mình Đức Ma-ri-a là mẹ Chúa Giê-su theo ý nghĩa trọn vẹn của một bà mẹ như bao bà mẹ khác, đồng thời cũng là cụm từ sẽ được giải thích ngay sau đó, là “bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần”.
Còn khi nói về thánh Giu-se, thánh sử muốn nhấn mạnh đến nguồn sốc “con cháu Đa-vít” và đề cao sự công chính của ngài. Sứ thần Chúa hiện ra với thánh Giu-se để bênh vực cho sự công chính của Người. Vì Người công chính không muốn làm hại thanh danh của Mẹ Ma-ri-a nên định âm thầm bỏ đi. Còn sứ thần Chúa lại bảo đảm cho sự công chính của Người nên bảo Người đừng ngại đón Mẹ Ma-ri-a về nhà. Rồi để chứng tỏ đức công chính của thánh Giu-se, sứ thần Chúa còn trao cho Người nhiệm vụ “phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”. Việc đặt tên mang ý nghĩa một người có quyền trên người họ đặt tên, giống như ông A-đam được Chúa ban quyền đặt tên cho muôn vật, tức là A-đam có quyền trên những vật ấy (St 2:19-20). Ở đây thánh Giu-se đặt tên cho con trẻ là Giê-su, nghĩa là “Thiên Chúa cứu độ”. Nếu vậy thì vai trò của thánh Giu-se đối với kế hoạch cứu độ đâu phải tầm thường. Quả thực là tuyệt vời: từ sự công chính của thánh Giu-se đã nảy sinh “Đấng công chính của Thiên Chúa” để đem sự công chính là ơn cứu độ đến cho mọi người! Thêm vào lời biện minh của sứ thần Chúa, thánh sử Mát-thêu cũng dẫn chứng lời ngôn sứ I-sai-a (7:14) để gián tiếp tán dương sự công chính của thánh Giu-se: Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. Nếu để ý, ta nhận thấy ở đây nhắc đến hai danh hiệu của Hài Nhi: Giê-su, tên do thánh Giu-se đặt, và Em-ma-nu-en, tên do người ta gọi con trẻ của Trinh Nữ. Phải chăng ý nghĩa của hai danh hiệu ấy cũng nói lên nhiệm vụ của cha mẹ Chúa Giê-su? Thánh Giu-se thì chủ động việc giới thiệu Đấng cứu độ cho nhân loại, còn Mẹ Ma-ri-a thì đem Thiên Chúa đến ở lại với loài người.
3. “Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an” (Rm 1:7)
Nếu hiểu rõ Chúa Giê-su Ki-tô xuất thân từ Thiên Chúa xuống làm người trong lòng Mẹ Ma-ri-a và thi hành sứ vụ cứu độ như ý nghĩa tên Giê-su do thánh Giu-se đặt cho Người, ta sẽ biết tại sao thánh Phao-lô đã chào thăm tín hữu Rô-ma với những lời như trên. Ân sủng và bình an. Đó là món quà vô cùng quý giá Thiên Chúa ban cho nhân loại và nhân loại cũng chẳng cần gì hơn ngoài ân sủng và bình an.
Ân sủng trọn vẹn là chính Chúa Ki-tô, “Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1:14), để “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1:16). Còn bình an thì chỉ có vị “Thủ Lãnh hòa bình” (Is 9:5) mới có thể ban cho ta sự bình an của Người, “sự bình an không như thế gian ban tặng” (Ga 15:27), nói khác đi, đó là ơn giải thoát hoặc ơn cứu độ chỉ một mình Chúa mới có thể ban cho ta.
Không một lời chúc nào đẹp, ý nghĩa và thích hợp trong mùa Giáng Sinh cho bằng lời chúc của thánh Phao-lô Tông đồ gửi đến tín hữu Rô-ma. Tuy nhiên lời chúc đó cũng là một đề tài phong phú giúp ta hiểu rõ hơn ý nghĩa đích thực của việc Thiên Chúa đến ở cùng ta và cứu độ ta. Điều cần thiết là ta phải biết tiếp nhận Ân Sủng (Đức Ki-tô) và Bình An (ơn cứu độ). Mở rộng tâm hồn để Ân Sủng đến với ta, sống trong ta, biến đổi ta, khi ấy ta mới cảm nghiệm được Bình An, cảm nghiệm được mình đang thuộc về Đức Giê-su Ki-tô. Tuy nhiên, uống nước thì phải nhớ nguồn. Ta nhận được Ân Sủng và Bình An cũng là nhờ Mẹ Ma-ri-a và Thánh Giu-se, những vị đã làm gương mở lòng cho Thiên Chúa để đón nhận Ân Sủng và Bình An và trao lại cho toàn thể nhân loại.
4. Sống Lời Chúa
Các bài đọc đưa ta trở lại với những lời hứa ban Đấng Cứu Thế của Thiên Chúa, đồng thời cũng cho ta cơ hội suy ngắm việc Thiên Chúa thực hiện lời hứa ấy như thế nào. Người đã tuyển chọn dân riêng, đặc biệt là dòng dõi vua Đa-vít để ban cho ta Đấng Cứu độ. Tuy nhiên ta không thể không nhớ đến vai trò của những vị được Thiên Chúa cho trực tiếp cộng tác vào việc thực hiện lời hứa của Người, đó là Đức Trinh Nữ Ma-ri-a và Thánh Cả Giu-se, nhờ các ngài mà ta được đón nhận Ân Sủng và Bình An của Thiên Chúa.
Suy nghĩ: Thánh Phao-lô Tông đồ nói về sứ vụ của ngài: “Tôi là Phao-lô, tôi tớ của Đức Ki-tô Giê-su; tôi được gọi làm Tông Đồ, và dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa” (Rm 1:1). Còn tôi, tôi phải định nghĩa sứ vụ của tôi như thế nào? Và tôi có thi hành sứ vụ như Chúa đã gọi tôi hay không? Tôi cần phải học hỏi nơi thánh Phao-lô điều gì để có thể chu toàn sứ vụ?
Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con sắp mừng lễ Giáng Sinh của Con Chúa. Người là Ngôi Lời đã không quản mặc lấy xác phàm trong lòng Trinh Nữ Ma-ri-a và ở giữa chúng con, thì xin Người cũng tỏ cho chúng con là tôi tớ thấp hèn thấy lòng Chúa từ bi nhân hậu. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, đến muôn thuở muôn đời. A-men. (Lời nguyện nhập lễ ngày 23-12).
Nhiều gia đình đã phải trả một giá rất đắt để cho con cái đi ra nước ngoài. Thậm chí cho đến nay, nhiều cha mẹ sẵn sàng gả con cho Việt kiều, một người mà lai lịch ra sao cũng không biết rõ! Lý do nào thúc đẩy họ làm như vậy?
Khi tạo cơ hội cho con cái đi ngoại quốc, chắc chắn ai cũng đặt kỳ vọng nơi con mình, ai cũng mong chúng nên giống nên má, có một tương lai sáng lạng hơn; bên cạnh đó cũng hy vọng rằng, sinh hoạt kinh tế trong gia đình có phần tốt đẹp hơn. Đó là một chuyện thường tình, bởi vì có ai dại gì bỏ vốn để đầu tư vào một việc không đâu, không mong có ngày sinh lợi! Nhưng #mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên#. Tính toán kỹ càng như thế, nhưng sự thể nhiều khi xảy ra không giống như dự tính. Nếu như sau một thời gian bặt vô âm tín, không có tin tức gì, thư từ không thấy, quà cáp cũng không. Thử hỏi có cha mẹ nào không phập phồng lo lắng! Quả thật đôi khi đúng như câu: trèo cao thì té đau! Hy vọng càng nhiều thì thất vọng càng sâu! …
Đọc Tin mừng ngày hôm nay chúng ta sẽ thấy, hoàn cảnh của thánh Gioan Tẩy giả cũng tương tự như thế: Khi còn trong bụng mẹ, ai ai cũng thắc mắc, không biết rồi đấy tương lai con trẻ sẽ ra sao! Bởi vì ai cũng cảm thấy, số phận của ông có bàn tay của Thiên Chúa can thiệp vào. Khi đến tuổi trưởng thành, ông sống trong hoang địa để cảm nhận sự hiện hiện gần kề của Thiên Chúa. Ông đã đón nhận sứ mạng dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Ông đã trút hết tâm lực để chu toàn. Ông không ngừng rao giảng, mời gọi mọi người thống hối ăn năn, lãnh nhận phép Rửa. Ông hoàn toàn thâm tín rằng, Đức Giêsu chính là Đấng được sai đến.
Giờ đây ông đang phải sống trong tù đầy, chỉ còn cách duy nhất là đợi chờ! Nhưng tất cả đều im hơi lặng tiếng! Thời gian lặng lẽ trôi qua, dường như chẳng có gì đặc biệt xảy ra. Cũng chẳng thấy ai đến cứu mình! Nước Thiên Chúa vẫn mãi chưa rõ hình dạng. Trong tù ông có nhiều thời giờ để nghiền ngẫm, đặt vấn đề, rốt cuộc đâm ra hoài nghi về sứ mạng của mình. Ai mà chẳng thông cảm cho sự nghi ngờ của ông: Lời rao giảng của tôi có ý nghĩa gì không? Tại sao Thiên Chúa không đến cứu tôi là một kẻ hoàn toàn đặt tin tưởng nơi Người? Tại sao Người không xuất hiện tiêu diệt những kẻ cản trở sự phát triển của Nước Chúa? Và còn muôn vàn câu hỏi khác, chẳng hạn như: Tại sao con người cứ đứng lỳ trên nẻo đường bất hảo, không chịu hoán cải khi nghe giảng Lời Chúa? Tại sao con người luôn phải bắt đầu với sự hoán cải, với niềm hy vợng và với lòng tin của mình?
Gioan đã tin vào một cuộc cách mạng vĩ đại của Thiên Chúa, tin vào sự thay đổi toàn diện bộ mặt của thế giới khi Đấng Cứu Thế xuất hiện. Nhưng sự thật trước mắt thì ông đang ngồi tù, giống như kẻ đi tới đường cùng. Không những quyền tự do đi lại bị hạn chế, mà bản thân còn giống như bị ai đó tát vào má! Suốt ngày phải đối diện với chính mình. Trước đây ông tin tưởng bao nhiêu thì giờ đây lòng tin của ông bị lay động bấy nhiêu. Tôi đã suốt đời chiến đấu tận trung, chẳng lẽ tôi đã làm gì sai trái nên bị rơi vào hoàn cảnh như thế này hay sao?
Trong cuộc sống làm người, chắc chắn chúng ta đã từng quen biết không ít những hoàn cảnh tương tự như thánh Gioan Tẩy giả. Chúng ta nhẹ dạ, đặt quá nhiều tin tưởng vào ai đó. Kết quả thì tình vỡ mộng tan. Chúng ta cảm thấy mình lầm lẫn, bị lật lọng! Chúng ta cảm thấy thất vọng về người bạn đường, về con cái, về bạn bè cũng như xóm giềng, … Lẽ dĩ nhiên không ai có thể sống nếu như không mang trong lòng một chút hy vọng. Là con người không ai lại không có hoài bão, mộng đẹp! Gioan không nhận được một câu trả lời thoả đáng từ nơi Đức Giêsu, bởi vì Người mời gọi ông bước ra khỏi vỏ ốc của mình, mời gọi ông mở rộng tầm con mắt, biết nhìn xa thấy rộng: Ông không phải là thước đo mọi chuyện. Chỉ duy một mình Thiên Chúa mới có khả năng làm nguôi ngoai những khát vọng thầm kín của con người. Thánh Augustinô đã khám phá ra chân lý này khi nói: #Trái tim con mãi băn khoăn cho đến khi nào được nghỉ yên trong Chúa.
Cây có cội, nước có nguồn. Phụng vụ Lời Chúa trong ba Chúa Nhật trước đã giới thiệu cho ta về Chúa Giê-su Cứu Thế sẽ đến và kêu gọi ta chuẩn bị đón Người. Chúa Nhật thứ tư mùa Vọng đặc biệt mời gọi ta trở về nguồn gốc của Đấng Cứu Thế để nhận ra công việc Thiên Chúa thực hiện. Nguồn gốc của Người là Thiên Chúa, Đấng đã sai Người đến với nhân loại, vì Người là Con Một Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa không độc quyền cứu chuộc nhân loại, cho nên Người dành chỗ cho nhân loại cộng tác với Người và Người đã chọn Ma-ri-a cùng với Giu-se để gửi gấm Con Một Người. Qua gia đình thuộc dòng dõi Đa-vít này, Con Thiên Chúa đã mang lấy nguồn gốc nhân loại. Thánh sử Mát-thêu đã mở đầu câu truyện truyền tin cho ông Giu-se như sau: “Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô.” Đó cũng là đề tài suy niệm khi ta chuẩn bị đón Chúa đến. a) “Bà Ma-ri-a, Mẹ Người”
Ta đã có câu truyện Truyền tin cho Đức Mẹ trong Tin Mừng Lu-ca. Nhưng ở đây trong câu truyện truyền tin cho ông Giu-se, thánh Mát-thêu cũng nhắc tới “bà Ma-ri-a Mẹ Người... đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần.” Nhắc tới như thế, ngài muốn nhấn mạnh đến nguồn gốc Thiên Chúa của Đấng Cứu Thế. Quyền năng Chúa Thánh Thần đã thực hiện mầu nhiệm Nhập Thể, tức mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người, chứ không phải sự cộng tác thể xác của người đàn ông đã tạo nên sự sống của Người. Đến với ta, Thiên Chúa không chỉ làm một con người đứng ngoài xã hội, tách biệt với nhân loại, nhưng Người muốn đi vào lịch sử nhân loại, trở nên một phần tử của một dòng tộc. Vì thế Thiên Chúa không tuyển chọn một cô gái đơn độc, nhưng một cô gái “đã đính hôn với ông Giu-se.” Nghĩa là qua cuộc hôn nhân này, Thiên Chúa mang lấy căn cước nhân loại, để Người thực sự “cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14). Trước mặt pháp luật, bà Ma-ri-a đã là vợ ông Giu-se mặc dù hai người chưa chung sống với nhau. Họ đã làm thành một gia đình với đầy đủ tính cách pháp lý xã hội. Chính nơi gia đình này, Thiên Chúa đã làm người qua Mẹ Ma-ri-a và đã cư ngụ giữa nhân loại qua nguồn gốc của miêu duệ Đa-vít.
Nơi Mẹ Ma-ri-a, quyền năng Thiên Chúa và căn tính nhân loại (qua cuộc đính hôn giữa Mẹ với thánh Giu-se) cộng tác với nhau để thực hiện kế hoạch “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta.” Ta không thể tưởng tượng được sự khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa khi Người liên kết trời với đất, Thiên Chúa với loài người bằng cách tuyển chọn một trinh nữ để cộng tác với Người trong một kế hoạch quá lớn lao như vậy. Chính Mẹ Ma-ri-a đã nhận thức được sự khôn ngoan ấy khi Mẹ cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới... Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, Danh Người thật chí thánh chí tôn!” (Lc 1:48,49). b) “Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính”
Trong khi Lu-ca nhấn mạnh đến vai trò của Đức Mẹ, thì Mát-thêu lại làm nổi bật vai trò của thánh Giu-se. Mục đích của thánh sử là minh chứng Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế thể hiện những điều đã được Cựu Ước nói đến, nói khác đi, đó là “Đức Giê-su Ki-tô, con cháu vua Đa-vít, con cháu tổ phụ Áp-ra-ham” (Mt 1:1). Kể lại gia phả của Chúa Giê-su, ngược dòng trở lại nguồn gốc là vua Đa-vít và tổ phụ Áp-ra-ham, thánh Mát-thêu cố ý sắp đặt thành ba thời điểm với ba chuỗi 14 đời. Các học giả Kinh Thánh giải thích rằng ngài chọn con số 14 để ám chỉ vua Đa-vít. Tiếng Do-thái không có nguyên âm, nên tên David được viết là DVD. Mỗi phụ âm lại có một giá trị số học, mà giá trị số học của D là 4 và V là 6. Như thế, DVD cũng được viết là 4+6+4, tức tổng số là 14. Do đó, sắp đặt gia phả Chúa Giê-su cách ấy, thánh Mát-thêu muốn trình bày một điểm thần học: Chúa Giê-su là con cháu vua Đa-vít.
Thánh Mát-thêu còn tế nhị khi kể đến tên ông Giu-se (đời 13) trong gia phả. Thay vì tiếp tục công thức “ông Giu-se sinh Đức Giê-su” thì ngài lại viết: “Ông Gia-cóp (không phải tổ phụ Gia-cóp!) sinh ông Giu-se, chồng của bà Ma-ri-a, bà là mẹ Đức Giê-su cũng gọi là Đấng Ki-tô.” Rõ ràng thánh Mát-thêu chỉ muốn nhấn mạnh đến tính cách pháp lý thánh Giu-se là cha Đức Giê-su, chứ không phải là cha theo huyết nhục. Trong cuộc truyền tin, sứ thần Chúa cũng nói rõ hơn về tính cách pháp lý này: “Bà sẽ sinh con trai, và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” Nếu không phải là cha của Chúa Giê-su theo pháp lý, thánh Giu-se không có quyền “đặt tên cho con trẻ” được!
Nói về con người thánh Giu-se, thánh sử chỉ dùng một hình ảnh đơn giản, nhưng đã nói lên được tất cả những đặc tính của Ngài: Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính. Ta có thể lập lại ở đây hình ảnh người công chính đã được nói đến trong Thánh Vịnh 15 để biết thánh Giu-se là ai.
“Lạy Chúa, ai được vào cư ngụ trong nhà Chúa,
được ở trên núi thánh của Ngài?
Là kẻ sống vẹn toàn, luôn làm điều ngay thẳng,
bụng nghĩ sao nói vậy,
miệng lưỡi chẳng vu oan, không làm hại người nào,
chẳng làm ai nhục nhã.” (TV 15:1-3)
Cách sắp đặt gia phả còn nói cho ta một đặc nét khác của con người Giu-se. Đầu gia phả là ông Áp-ra-ham và cuối gia phả là thánh Giu-se. Áp-ra-ham là mẫu người đầy đức tin, là cha của dân Chúa tuyển chọn. Giờ đây ta có thể hiểu thánh Giu-se cũng là con người của đức tin. Nhờ lấy đức tin để chấp nhận một hoàn cảnh vô lý là đón nhận Mẹ Ma-ri-a, thánh Giu-se trở thành cha của một Ít-ra-en Mới.
Giáo Hội muốn ta tìm về gốc tích của Chúa Giê-su Cứu Thế, để ta nhận ra được phần nào những chuẩn bị kỹ càng của Thiên Chúa khi Người ban cho ta Đấng Ki-tô. Nhưng điểm cốt yếu là qua những chuẩn bị ấy của Thiên Chúa, ta hiểu được tình yêu Người dành cho ta bao la đến chừng nào, đồng thời cũng nhắc nhở ta phải chuẩn bị xứng đáng để đón nhận Con Một Người, món quà yêu thương Người ban cho ta. c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Tôi có khi nào nghĩ đến gốc tích của mình để cảm tạ Chúa không? Có gì để tôi cảm tạ Người?
Mẹ Ma-ri-a thưa “xin vâng” theo lời sứ thần truyền. Thánh Giu-se thì “làm như sứ thần Chúa dạy”. Đâu là kế hoạch Thiên Chúa muốn tôi cộng tác với Người? Tôi có mau mắn theo gương Đức Mẹ và thánh Giu-se không? Điều gì làm tôi ngại ngùng?
Tôi đã ở cuối mùa Vọng. Còn phương diện nào tôi cần phải chuẩn bị để đón mừng Chúa đến trong tâm hồn tôi không?
Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con sắp mừng lễ Giáng Sinh của Con Chúa. Người là Ngôi Lời đã không quản mặc lấy xác phàm trong lòng Trinh Nữ Ma-ri-a và ở giữa chúng con. Xin Người cũng tỏ cho chúng con là tôi tớ thấp hèn thấy lòng Chúa từ bi nhân hậu. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. A-men. (Lời nguyện nhập lễ, ngày 23-12)
Mở đầu thư viết cho các tín hữu gốc Do-thái lẫn Dân ngoại thuộc giáo đoàn Rô-ma, thánh Phao-lô đề cập tới ơn gọi làm Tông đồ của ngài và sứ vụ ngài lãnh nhận để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa. Khi trích dẫn đoạn thư Rô-ma, chắc chắn Phụng vụ Lời Chúa muốn hướng chúng ta về chủ đề chính là Mầu nhiệm Nhập Thể, chứ không phải về sứ vụ của người rao giảng Mầu nhiệm ấy. Do đó, chúng ta sẽ chú tâm đến những điểm liên hệ tới Tin Mừng của Thiên Chúa được diễn tả trong lời chào thăm của thánh Phao-lô mà thôi.
Vậy "Tin Mừng của Thiên Chúa" đây là gì? Trước hết đó là tin mừng nguyên thủy đã manh nha từ Cựu Ước. Thiên Chúa hứa ban Đấng Cứu Thế khi Người phán với con rắn trong vườn địa đàng: "Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó" (St 3:15). Lời hứa này đã được truyền lại nhờ các ngôn sứ trong Cựu Ước. Nhắc đến chi tiết này, thánh Phao-lô muốn đề cao sự hòa hợp và liên tục giữa Cựu Ước với Tân Ước và khẳng định tin mừng này không chỉ dành riêng cho dân Do-thái mà thôi, nhưng là cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc màu da.
Tin Mừng ấy giờ đây được thánh Phao-lô lập lại theo lối tuyên xưng đức tin, với những từ ngữ rất đặc biệt trong câu 2 và 3. Từng lời từng chữ được chọn lựa kỹ lưỡng, mang nét thần học, cố ý để định tín Mầu nhiệm Đức Ki-tô. Cái nhìn của Phao-lô về Đức Giê-su Ki-tô luôn luôn theo hai khía cạnh:
- "xét như một người phàm" (xem Ga 1:14; Gl 4:14), và
- "xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại" (xem Ep 11:9-10; Cl 1:15-16,19-20).
Đó là hai yếu tố chính của Ki-tô học, hoặc của Tin Mừng về Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa. Như thế, khi suy niệm đoạn thư này trong bối cảnh Phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật IV mùa Vọng, chúng ta hãy hướng về Mầu nhiệm Đức Ki-tô trong hai chiều kích Nhập Thể và Phục Sinh. Không thể tách rời hai yếu tố ấy nơi Đức Ki-tô. Nhập Thể là khởi điểm để Thiên Chúa đến với con người trong lịch sử, trong không gian và thời gian, tức là Chúa Giê-su, Thiên Chúa làm người, "xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít". Còn Phục Sinh là khởi điểm để con người trở về với Thiên Chúa trong vĩnh cửu và bất hoại, nghĩa là được chia sẻ vinh hiển cùng Đức Ki-tô, Đấng "đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng". Nơi Đức Ki-tô, con người bắt đầu cuộc hành trình trở về nhà Cha.
Khi suy niệm về Mầu nhiệm Đức Ki-tô, thánh Phao-lô thường rút ra bài học thực hành cho chính ngài và cho các tín hữu đọc thư ngài. Đối với cá nhân ngài, được thấy Chúa Ki-tô Phục Sinh trên đường đi Đa-mát và được gọi làm Tông đồ của Chúa, đó là một ân sủng cao quý (Rm 12:3; 15:15; 1 Cr 3:10; 15:10; Gl 2:9). Sứ vụ đặc biệt của Phao-lô là đem Tin Mừng đến cho anh em Dân ngoại, nên ngài cố gắng làm mọi sự để thi hành sứ vụ ấy cách tốt đẹp, dù có phải hy sinh mạng sống, miễn là danh Đức Ki-tô được rạng rỡ. Thánh Phao-lô đã lấy mạng sống mình để đáp lại hồng ân Chúa.
Còn chúng ta, tuy không được đặc ân được gọi làm Tông đồ như thánh Phao-lô, nhưng chúng ta "đã được kêu gọi để thuộc về Đức Giê-su Ki-tô." Được Thiên Chúa kêu gọi đã là một đặc ân rồi. Chính vì yêu thương chúng ta, Thiên Chúa đã kêu gọi chúng ta và cho chúng ta được "thuộc về Đức Ki-tô." Nhận thức lời kêu gọi này của Thiên Chúa, thánh Phao-lô không ngần ngại gọi tín hữu Rô-ma và dĩ nhiên cả chúng ta ngày nay nữa là "những người được Thiên Chúa yêu thương", hoặc mạnh nghĩa hơn, là "các thánh". Gọi chúng ta là "thánh", Phao-lô không có ý nhấn mạnh đến tình trạng luân lý của chúng ta, nhưng ngài muốn đề cao hồng ân được Thiên Chúa gọi của chúng ta. Tuy nhiên, nếu Thiên Chúa đã thương gọi chúng ta, thì Người cũng mong mỏi chúng ta đáp lại ân sủng ấy.
Câu hỏi gợi ý chia se
Tôi đã nhìn Đức Ki-tô như một Mầu Nhiệm của Thiên Chúa như thế nào? Nếu tôi hiểu Chúa Ki-tô đã sinh ra, chết và sống lại cho tôi, thì Mầu Nhiệm ấy có ý nghĩa nào đối với tôi? Tôi đã sống Mầu Nhiệm ấy thế nào?
Khi nói về sứ vụ Tông đồ, thánh Phao-lô coi đó là hồng ân Thiên Chúa "dành riêng" cho ngài để loan báo Tin Mừng. Đâu là hồng ân Thiên Chúa "dành riêng" cho tôi? Tôi có thể chia sẻ với nhóm điều gì về việc "dành riêng" này?
Mỗi lần kiểm điểm lại đời sống, tôi có lấy việc "được kêu gọi để thuộc về Đức Giê-su Ki-tô" như là tiêu chuẩn để thẩm định mức độ sống Tin Mừng không? Nói khác đi, tôi thấy mình là "Ki-tô hữu" như thế nào?
Tôi đã cảm nghiệm được "ân sủng và bình an" qua Mầu Nhiệm Đức Ki-tô như thế nào?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát một bài về mùa Vọng, hoặc đọc lời nguyện sau đây: Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã yêu trái đất này, và đã sống trọn phận người ở đó.
Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc, sự bi đát và cao cả của phận người.
Xin dạy chúng con biết đường lên trời, nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh chị em.
Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu, chúng con thấy mình được thêm sức mạnh để xây dựng trái đất này, và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.
Lạy Chúa Giê-su đang ngự bên hữu Thiên Chúa, xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời không làm chúng con quên trời cao; và những vẻ đẹp của trần gian không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa.
Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con, mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.
(10) Một lần nữa ĐỨC CHÚA phán với vua A-khát rằng: (11) "Ngươi cứ xin ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh." (12) Vua A-khát trả lời: "Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách ĐỨC CHÚA." (13) Ông I-sai-a bèn nói: "Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít! Các ngươi làm phiền thiên hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa? (14) Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho ngươi một dấu: Ngày đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai và đặt tên là Em-ma-nu-en.
(3) Xét như một người phàm, Đức Giê-su Ki-tô xuất thân từ dòng dõi Đa-vít. (4) Nhưng xét như Đấng từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng.
* Bài Tin Mừng: Mt 1, 18-24: Truyền tin cho ông Giu-se
(18) Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng của Chúa Thánh Thần. (19) Ông Giu-se chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên định tâm bỏ bà cách kín đáo. (20) Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: "Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. (21) Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ." (22) Tất cả sự việc này đã xẩy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: (23) Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta."
1. Thiên Chúa đã đáp ứng nguyện vọng của vua A-khát và dân Ít-ra-en như thế nào?
2. Danh hiệu "Thiên Chúa ở cùng chúng ta" có ý nghĩa gì ?
* Suy tư gợi ý:
1.Thiên Chúa đã đáp ứng nguyện vọng của vua A-khát và dân Ít-ra-en:
a) Chương 7 của I-sai-a đệ nhất (chương 1-39) kể lại hai lần can thiệp và một lần cảnh báo của I-sai-a. Can thiệp lần đầu tiên là ngôn sứ chấn an vua A-khát đang sợ các vua khác đem quân đánh chiếm Giê-ru-sa-lem (1-9). Can thiệp lần thứ hai là lời loan báo một dấu phi thường mà Thiên Chúa sẽ ban cho nhà Đa-vít để bảo đảm với họ là Thiên Chúa luôn yêu thương che chở họ khỏi kẻ thù (10-17). Còn lần cảnh báo của I-sai-a là ngôn sứ báo trước cuộc xâm lặng của các thế lực thù địch với nước Giu-đa (18-25).
b) I-sai-a 7,10-14 gồm những ý chính sau đây (1) Để vua A-khát vững tin vào lời loan báo của ngôn sứ I-sai-a, Thiên Chúa thúc giục vua này cứ mạnh dạn xin Người một dấu. (2) Vua A-khát, dù trong lòng rất ước mong nhận được một dấu làm bảo chứng, nhưng lại không dám lên tiếng xin mà lại thưa với Chúa một cách hết sức khiêm tốn "Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách ĐỨC CHÚA." (3) Chính vì thế mà I-sai-a trách nhà vua (và dân chúng): "Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít! Các ngươi làm phiền thiên hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa?" và (3) nói trước cho họ biết kế hoạch kỳ diệu của Thiên Chúa: " Chính Chúa Thượng sẽ ban cho ngươi một dấu: Ngày đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai và đặt tên là Em-ma-nu-en." Thiên Chúa chẳng những đã đi bước trước - vì vua A-khát không xin mà Chúa vẫn cho - mà Người còn đi một bước rất dài, vượt xa mọi khả năng suy nghĩ và tưởng tượng táo bạo nhất của con người, vì dấu Người ban cho là Con Thiên Chúa sinh ra làm người và làm con một trinh nữ.
c) Dấu kỳ diệu được I-sai-a loan báo ở đây chỉ được thực hiện 8-9 thế kỷ sau, khi sứ thần đến với trinh nữ Ma-ri-a ở Na-gia-rét để trao đổi về kế hoạch sinh con do quyền năng Thánh Thần (đọc Lc 1, 26-38). Với tiếng "xin vâng" của Đức Ma-ri-a, Thiên Chúa đã thực hiện kế hoạch từ đời đời. Nhưng ngoài Đức Ma-ri-a, Thiên Chúa còn cần đến sự hợp tác của ngài Giu-se, người chồng chưa cưới của Đức Ma-ri-a. Chính vì thế mà ngài Giu-se được sứ thần tỏ cho biết hài nhi trong bụng Đức Ma-ri-a là ai và do đâu? Ngài Giu-se đã làm tròn trách nhiệm một cách xuất sắc nhưng âm thầm.
2. Ý nghĩa của danh hiệu "Thiên Chúa ở cùng chúng ta":
a) Do Thái giáo khác biệt với các tôn giáo khác ở chỗ Thiên Chúa Gia-vê là Đấng Thiên Chúa đã đi vào lịch sử của dân: hướng dẫn, dạy bảo, bênh vực, che chở dân. Kinh nghiệm lớn nhất của người tín hữu Do Thái giáo là kinh nghiệm xuất hành: Tiếng kêu than của dân đã thấu tới tai Thiên Chúa khiến Người ra tay giải thoát họ ra khỏi ách nô lệ và đưa họ vào Đất hứa.
b) Ki-tô giáo khác biệt với các tôn giáo khác ở chỗ Lời Thiên Chúa đã sinh ra làm người, sống kiếp sống con người, ở cùng con người. Vì thế mà danh xưng xứng hợp nhất của Thiên Chúa Ki-tô giáo là "Em-ma-nu-en = Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ở cùng loài người." Từ Do Thái giáo sang Ki-tô giáo có một bước nhẩy vọt ngoài sức tưởng tượng của trí tuệ loài người. "Ngôi Lời đã thành xác phàm và ở giữa chúng ta" Trong Thánh Kinh, xác phàm không phải là cái xác mà là cả con người thực thụ. Ngôi Lời đã thành người, một con người thật và một Thiên Chúa thật! Khi từ gĩa cõi đời này, Đức Giê-su không còn hiện diện hữu hình nhưng Người vẫn luôn hiện diện, cách vô hình nhưng có thật của Đấng Phục Sinh. Người còn hiện diện trong Thánh Thể và trong mỗi một con người và cộng đoàn: "Thày ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20).
c) Là người công giáo ai nấy chúng ta đều tin Thiên Chúa hằng ở bên chúng ta, quan tâm đến hạnh phúc của chúng ta. Nhưng nhiều khi chúng ta chỉ tin trong đầu, trong trí chứ chưa tin trong tâm tình và trong cách sống. Hơn nữa niềm tin của chúng ta còn gặp một khó khăn to lớn khác là rất nhiều khi chúng ta không thấy Thiên Chúa trong cuộc sống riêng của mình cũng như trong lịch sử các dân tộc. Giữa bao cảnh chiến tranh, đàn áp, bất công, bóc lột, kỳ thị con người cũng như giữa bao tai ương, bệnh tật (như HIV-AIDS) mà con người và nhất là người vô tội phải gánh chịu, Thiên Chúa dường như vắng mặt hoặc im lặng. Niềm tin của chúng ta chỉ vững vàng nếu chúng ta cậy dựa vào Lời của Thiên Chúa mà thôi. Và nếu chúng ta thật sự tin vào "Thiên Chúa ở cùng chúng ta" thì mọi việc sẽ thay đổi không thể lường hết được. Trong một số Giáo hội trên thế giới hiện nay, rộ lên một phong trào đổi mới và tăng cường niềm tin vào sự hiện diện có thật nhưng vô hình của Đức Giê-su. Những người theo phong trào này chẳng những tin tưởng mãnh liệt vào sự hiện diện của Chúa Giê-su trong lịch sử và xã hội ngày nay mà còn tin rằng Người sẵn sàng "thi ân giáng phúc" cho những ai tiếp xúc, gặp gỡ cầu khẩn Người, giống như Người đã đối xử với người Do Thái đương thời xưa. Vì thế mà họ đã được tận mắt chứng kiến không biết bao nhiêu phép lạ kỳ diệu của Chúa Giê-su.
NGUYỆN
Lạy Cha, chúng con cảm tạ Cha vì Cha đã ban Đức Giê-su Con Cha cho chúng con, cho nhân loại. Người là "Thiên Chúa ở cùng chúng con", "Thiên Chúa ở cùng loài người". Người còn đồng hóa với con người, với những người bé mọn nhất trong loài người. Để chúng con dễ dàng gặp gỡ Người, nói chuyện với Người, phục vụ Người.
Lạy Chúa Giê-su, chúng con cảm tạ Chúa vì nhờ có Chúa mà chúng con được làm con của Cha. Xin Chúa giúp chúng con sống phù hợp với danh hiệu cao quí ấy, vì Chúa là Con Một yêu dấu của Cha, là Anh Cả của các em.
Lạy Chúa Thánh Thần, chúng con xin Chúa ban thêm lòng tin cậy mến cho chúng con, để chúng con thật sự tin vào sự hiện diện và vào tác động mãnh liệt của Chúa Giê-su Ki-tô trên các tâm hồn và dòng lịch sử loài người ngày nay.
Thánh sử Luca khi biên tập về thời thơ ấu của Chúa Giêsu ông đã rất lưu tâm đến thực tế lịch sử, xã hội,tôn giáo lúc bấy giờ chính là vì ông muốn loan báo Đức Giêsu là Emmanuel "Thiên-Chúa- ở-cùng-chúng-ta" đúng theo ý định của Thiên Chúa.
Nếu như vấn đề một người nữ mang thai là cái quyền tự do chọn lựa của họ theo quan điểm phương tây như chúng ta vẫn thấy trong cách suy nghĩ và nếp sống hiện nay, thì vấn đề không như thế đối với các dân tộc Á Đông. Người phụ nữ Á Đông không có cái tự do lựa chọn ấy bởi vì họ phải "Gánh vác giang sơn nhà chồng". Nhìn ở một góc độ người ta dễ kết án cho rằng thân phận người phụ nữ Á Đông bị bóc lột, bị khinh miệt. Thánh Luca cũng đã biết tới những án phạt mà luật Môsê dành cho những người nữ ngọai tình hay chửa hoang. Và đó là vấn đề đặt ra cho Thánh Giuse khi hay biết Đức Maria mang thai trước khi về chung sống. Thế nhưng nếu người ta hiểu "nhà chồng" đây không chỉ là một cõi riêng tư những quyền lợi cá nhân, nhưng là một cơ chế căn bản hướng về "giang sơn" rộng lớn của quốc gia, của dân tộc, như trong quan niệm "Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ" của mọi dân tộc Á Châu, thì vai trò "gánh vác giang sơn nhà chồng" là một cái nhìn tin tưởng và hy vọng rất lớn lao nơi người phụ nữ.
Thánh Giuse đã sống cái thực tại đạo đức của người Á Châu: tôn trọng người nữ trong cái trọng trách của họ phải đảm nhận đối với gia đình, xã hội và quốc gia. Ông đã có ý định rời bỏ Đức Maria cách kín đáo. Ông hòan tòan tin tưởng nơi người bạn trăm năm, nên ông đã làm như thế để bảo vệ cái quyền và cái trách nhiệm ấy của Maria, cho dù ông không hay biết điều gì đã xảy ra. Người Á Đông vẫn suy nghĩ và chân nhận "Cha sinh không bằng mẹ dưỡng", điều đó đủ để thấy cái địa vị thiết yếu quan trọng của người nữ trên bình diện gia đình và xã hội. Làm như thế thánh Giuse cũng không có ý trốn tránh trách nhiệm của người chồng. Nhưng vì là người "công chính", ông đón nhận mầu nhiệm của thực tại "giang sơn" nhà ông là mầu nhiệm của Thiên Chúa ngay từ lúc ban đầu . Thiên Chúa đã chọn tổ tiên Đavid, chính Ngài mới là Đấng làm nên nhà Đavid và chính Ngài mới là Đấng duy trì ngai báu nhà Đavid. Và lịch sử vẫn còn đó để cho thấy Thiên Chúa có tự do tuyệt đối khi chọn lựa người nữ để thực hiện ý định của Người. Nếu Thiên Chúa đã chọn những người như Barsabê, hay như bà Ruth, thì không thể không tin rằng Đức Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn. Ông tin tưởng Thiên Chúa có ý định riêng của Người, và ông đón nhận với tất cả sự khiêm cung của người gia nhân trong Nhà Thiên Chúa. Chính vì thế, khi được mộng báo ông phải đảm nhận vai trò của mình trong kế hoạch của Thiên Chúa, lập tức ông đã mau mắn thi hành. Ông xứng đáng được Thánh Kinh tôn vinh là "người công chính".
Qua những suy nghĩ trên , chúng ta thấy được những giá trị về đạo làm người của các dân tộc Á Châu trở thành một lời diễn đạt trong sáng mầu nhiệm Thiên Chúa khi Thiên Chúa khấng nhận nhập thể và sống thực tại trần gian trong khung cảnh văn hóa này. Trong bối cảnh ấy tình Phụ Tử vốn là quy chiếu cho mọi thể hiện phẩm giá và địa vị mỗi con người, nhưng chính tình mẫu tử mới lại mang trách nhiệm cơ bản để bảo tồn và phát huy "giang sơn" dòng tộc. Giáo Hội thừa kế kho tàng mầu nhiệm ấy, Giáo Hội luôn phải nỗ lực trở nên "Mẹ và Thầy" theo kiểu nói của Thánh Giáo Hòang Gioan XXIII.
Mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể phải và chỉ có thể được đón nhận trong một nhận thức sâu sắc thực tại đạo làm người trong quy chiếu về quan niệm "Mẹ và Thầy" trên lục địa Á Châu vậy.
Bước vào tuần thứ tư Mùa Vọng, chúng ta thường mang cảm giác như niềm vui mừng Chúa giáng sinh đang ở trước ngưỡng cửa tâm hồn mỗi người. Những món quà tình thương, những cây thông được trang hoàng, tất cả đã sẵn sàng mời Hài Nhi đến viếng thăm. Tin Vui Cứu Độ này được khởi đầu qua cuộc thanh luyện đức tin của hai nhân vật tiên khởi trong Tân Ước, đó là Mẹ Maria và Thánh Giuse mà thánh Mátthêu đã thuật lại trong bài Tin Mừng hôm nay.
Mẹ Maria trân trọng và giữ kín mầu nhiệm nhập thể khỏi mọi cặp mắt nghi hoặc. Mẹ âm thầm nhẫn nại chờ đợi sự can thiệp khôn ngoan và kịp thời của Thiên Chúa. Không chia sẻ biến cố Truyền Tin với người Bạn đời không có nghĩa là Mẹ chối từ tín nhiệm vào Thánh Giuse. Thật ra, đàng sau lối ứng xử của Mẹ là một thách đố cam go để sống đúng vai trò người Nữ Tỳ tín trung của Giavê. Giữa chuỗi ngày sống trong đêm trường đức tin, Mẹ Maria không đặt câu hỏi lúc nào Chúa sẽ ra tay. Nhưng nơi Mẹ, niềm tín thác và cậy tin trở thành sức mạnh giúp Mẹ can trường suốt thời gian mong đợi vị Cứu Tinh chào đời. Chúng con xin cám ơn Mẹ đã để lại gương sống Mùa Vọng sao cho trọn vẹn chữ hướng vọng về nguồn chân lý bằng con tim khiêm tốn và nhẫn nại, để giữa bao ngang trái cuộc đời chúng con bén rễ sâu vào Lời Chúa và làn theo bước chân Người bằng sự tín thác tuyệt đối. Nhờ đó tâm hồn chúng con sẽ nên hiền hoà, tế nhị trước những thử thách nơi gia đình, cộng đoàn, bạn bè, và nơi công sở. Đặc biệt biết dõi theo gương vâng phục của Thánh Giuse trước thánh ý nhiệm mầu của Chúa.
Thánh Giuse, một con người trầm lặng nhưng tiềm ẩn một niềm tin thật sống động, bất hủ. Thánh Giuse đã không tra vấn Mẹ Maria. Ngài tôn trọng những riêng tư của Mẹ. Thế giới thinh lặng của thánh nhân đã đưa đức tin của Ngài đến mức độ bén nhạy. Ngài đã hiểu thấu tường tận chiều kích kỳ diệu của chương trình nhập thể của Ngôi Hai trong sứ mạng làm cha nuôi của Đấng Emanuel. Một tặng vật vô giá xứng với sự công chính của thánh Giuse. Thật món quà nào cũng có giá phải trả. Đức tin và niềm vui sống trong đức tin cũng vậy, Mẹ Maira và Thánh Giuse chính là những người đầu tiên đã cảm nhận cách sâu xa giá trị linh thiêng của đêm Con Thiên Chúa giáng trần. Từng ngày trôi qua, Thiên Chúa hằng thiết tha mời gọi chúng ta sẵn sàng để tay Thiên Chúa thanh luyện qua những gian truân, hầu dám chọn Ngài làm cùng đích đời người, dám mở lòng lắng nghe tiếng Người, và mau mắn thi hành thánh ý Người bằng đời sống đức tin thiết thực.
Lạy Thiên Chúa chí ái, Mùa Vọng qua đi, niềm vui Giáng Sinh sẽ đến và rồi lại lìa xa chúng con. Chúng con không thể giữ mãi niềm vui Giáng Sinh nơi những cảm giác chóng qua. Nhưng những cảm nghiệm tình yêu Giáng Sinh chỉ tồn đọng trong chúng con khi tâm hồn chúng con biết chuẩn bị đón Chúa bằng một cuộc sống đức tin cụ thể. Nhất là những lúc cõi lòng chúng con tan nát đối diện sự chia lià của người thân hữu, lúc mang trong mình cơn bệnh hiểm nghèo hay những dày vò tâm linh, chúng con vẫn tin tưởng vào bàn tay kỳ diệu của Chúa Tình Yêu và can đảm thưa xin vâng với trọn tình mến...
Có ba thanh niên leo núi Manhull bên Hoa Kỳ. Bỗng một cơn bão tuyết đổ xuống vùng ba người đang ở. Họ bắt buộc phải ẩn trú trong một hang đá!
Cơn bão kéo dài đến ngày thứ 11. lương khô đã cạn,mỗi người chỉ còn được một muỗm mạch nha mỗi ngày. Trong cơn nguy ngập như thế, họ chỉ còn một nguồn hy vọng là cuốn Thánh Kinh của một người trong nhóm mang theo. Mỗi người đọc Kinh Thánh 8 tiếng đồng hồ rồi trao cho người khác. Cứ như thế họ đọc lời Chúa suốt đêm ngày. Bên ngoài là tiếng gió rít của bão tố, bên trong hang họ nhờ Kinh Thánh mà duy trì niềm tin cho đến ngày thứ 16, bão tuyết chấm dứt và có nhóm người tiếp cứu tìm gặp họ …
Cuộc đời chúng ta cũng tràn đầy những cơn phong ba bão táp, bao trùm khắp cả địa cầu. Đối với thời tiết cơn bão cũng chỉ có từng lúc rồi lại tan biến nhường chỗ cho thời tiết điều hoà, riêng mùa xuân cảnh vật trời đất còn được vui tươi, thanh bình, ấm áp, cùng với muôn chim ca hót trong những vườn hoa nở rộ, những bông hoa thật xinh tươi thơm tho …. Nhưng cơn bão tâm hồn nó hoành hành con người triền miên, lúc nào cũng phải đề cao cảnh giác. Cơn bão nội tâm đầu tiên mà ma quỷ tạo ra ngay từ lúc nguyên tổ còn ở trong vườn địa đàng, con người đã bị ngã gục trước cơn bão khổng lồ của Satan. Cũng như mưa sa bão táp ở thiên nhiên, cơn bão tâm hồn cũng xô đẩy con người dưới nhiều hình thức và cường độ mạnh yếu khác nhau mà chúng ta quen gọi là 7 quỷ hay 7 mối tội đầu. Một cơn bão cụ thể hiển nhiên và nổi bật trong các thời đại hiện tại là cơn “bão sex”, nó bao vây thế giới trẻ hiện nay và đã có rất nhiều thanh niên thanh nữ, kể cả những anh chị mới lớn cũng bị gục ngã trước cảnh bầy hầy trong sinh hoạt hằng ngày.
Dưới sức tấn công của tà thần trong muôn mặt của cuộc đời, chúng ta cũng có quyển Kinh Thánh ở ngay trong tâm hồn người Kitô hữu. Quyển Kinh Thánh này ghi khắc vào linh hồn ta khi rửa tội, bắt đầu gia nhập hàng ngũ Hội Thánh và được chính thức làm nghĩa tử của Thiên Chúa. Quyển Kinh Thánh đó, với ơn thánh trợ giúp, chúng ta đọc thấy những trang sách ở mọi nơi: Ở trong giòng suối nước róc rách chảy ngang qua các cánh đồng cỏ xanh tươi, ở trên những dãy núi hùng vĩ trùng trùng điệp điệp, ở tận bầu trời cao thẳm hay ở dưới đại dương mênh mông … vì Thiên Chúa ở khắp mọi nơi và lời Chúa sống động nhất trong lúc ban bố ở Thánh Lễ Misa hằng ngày. Lời Chúa chính là của ăn bổ dưỡng cho tâm hồn để chúng ta chiếm hữu được Đấng EMMANUEL nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta cũng như lời thánh Phaolô nói: “cho đến khi Chúa Kitô thành hình trong anh em”.
Ngày Chúa Nhật hôm nay, Phúc Âm cũng thuật lại câu chuyện của gia đình Thánh Gia vào thời kỳ đính hôn. Hồi ấy giữa lúc mối tình đẹp đẽ đang dâng cao để tiến lễ thành hôn, thì cơn bão thánh thiện ập đến túp lều lý tưởng đề hứa hẹn. Suy đi nghĩ lại nhiều ngày trời về sự kiện Mẹ Maria, thánh Giuse rất áy náy ưu tư khi thấy bạn đồng trinh của mình ngày càng khác lạ rõ ràng. Còn đối với người ngoài cuộc, bà con trong họ hay hàng xóm láng giềng, lại không có vấn đề gì phải thắc mắc. Vì theo phong tục người Do Thái, việc thụ thai trong thời kỳ đính hôn được coi như con chính thức. Riêng thánh Giuse lại không hiểu đơn giản như thế, Ngài thấy đây là công trình tác tạo của Thiên Chúa, thánh Giuse ái ngại như thánh Phêrô khi thấy quyền năng của Thiên Chúa liền cúi mình thưa với Chúa Giêsu rằng: “Lạy Chúa, xin hãy xa con, vì con là kẻ có tội” (Lc.5,8). Lại nữa, thánh Giuse là người công chính, Ngài không muốn đảm nhận tư cách làm cha mà không phải là tác phẩm của Ngài. Để tôn trọng chương trình của Thiên Chúa đã được thực hiện nơi Mẹ Maria, thánh Giuse đã muốn âm thầm rút lui ….
“Nhưng đang khi định tâm như vậy …” thì Thiên Chúa đã sai sứ thần đến để trấn an, báo tin và trao ban sứ mệnh cho Ngài. Như vậy thánh Giuse là nhân chứng sống động cho việc Mẹ Maria sinh hạ Chúa Giêsu mà vẫn còn trinh khiết. Việc thánh Giuse đặt tên Con Trẻ là Giêsu nói lên vai trò làm Cha trước pháp luật. Vì theo phong tục bấy giờ, chỉ có cha mẹ mới có quyền đặt tên cho con mình. Và vì thánh Giuse là con vua Davit, nên Con Trẻ Giêsu cũng thuộc dòng tộc Davit, đúng như lời Kinh thánh đã báo trước qua các ngôn sứ. Đó là một chiến thắng rất vĩ đại của Cha thánh Giuse, Ngài đã vượt qua mọi giông tố để chiếm được Đấng EMMANUEL cho nhân loại.
Như vậy bài suy niệm hôm nay mời gọi chúng ta chiêm ngắm hoàn cảnh gia đình thánh Nazaret, để chuẩn bị mừng lễ Chúa Giáng Sinh, để nhận ra công trình phi thường của Thiên Chúa, và để chúng ta noi gương các Đấng đã rất mềm mỏng tinh tế với ý muốn của trời cao.
Gương sáng chói của Chúa Giêsu, Ngài là Đấng rất cao cả vô cùng, Ngài có thể cứu chuộc thế gian bằng nhiều cách, nhưng Chúa đã trở nên con của Mẹ và con của thánh Giuse là Cha Đồng Trinh Ngôi Lời Nhập thể và nhờ Giáo hội cộng tác vào chương trình cứu thế của Ngài. Được Thiên Chúa xử dụng trong việc tông đồ, được Ngài kêu gọi chúng ta vào hàng ngũ tuyển chọn trong đời dâng hiến … Chúng ta hãy thưa lời xin vâng như thánh Giuse khi được báo tin trong giấc mơ, như lời Fiat của Đức Mẹ trong ngày truyền tin, như thánh Phêrô thưa cùng Chúa rằng: “Vâng lời Thầy con xin thả lưới…”.
Tuy nhiên cuộc đời không thuần đơn giản như thế, thánh ý Chúa dễ bị những mây mù bão tuyết của trần gian che khuất. Che khuất bởi quỉ thần Satan, bởi dục vọng nặng nề của lòng người , bởi hào nhoáng của thế gian, đấy là chưa kể ý chí bị ru ngủ, không muốn vươn cao lên khỏi tầng mây mù để bay về trước Thánh Nhan Chúa, tìm gặp Đấng EMMANUEL. Ước gì gia đình Thánh Nazret là mẫu gương sáng chói cho chúng ta noi theo sống đời theo chân Chúa.
Vài tuần trước đây, tạp chí "This week" có thuật lại câu chuyện cảm động về một cậu bé người Hòa Lan, đã từng trốn khỏi trại tập trung của Đức Quốc Xã, nhưng đã bị bắt lại và đã bị kết án tử hình. Ngày trước khi bị hành hình, cậu đã gửi cho cha ruột cậu lá thư sau đây. "Cha thân yêu, thật khó khăn lắm con mới viết được cho cha lá thư này, nhưng con vẫn phải cho cha hay rằng con đã bị tòa án quân sự kết án tử hình. Xin cha đọc lá thư này một mình và khéo léo báo cho mẹ biết giùm con. Chẳng bao lâu nữa, lúc đúng 5 giờ sáng, chỉ một lát nữa thôi, thế là con sẽ về cùng Chúa. Nói cho cùng, đấy có phải là sự chuyển tiếp đáng kinh hãi không? Không, con cảm thấy rõ ràng rằng mình đang ở gần bên Chúa, con đã chuẩn bị sẵng sàng chờ đón giờ Chúa gọi con. Con nghĩ rằng con còn đỡ đau khổ hơn cha nhiều, vì con biết rằng mình đã xưng tội, đã sống công chính và hiện tâm hồn con hoàn toàn bình an thanh than. Ký tên "John Kless". Phúc cho ai vào giờ Chúa gọi có thể nói được như cậu ta.
Chúng ta có thể nói được rằng, Mùa Vọng là thời gian chuẩn bị tâm hồn, sẵn sàng chờ đón Chúa đến. Giáo Hội khuyên chúng ta nên chuẩn bị tâm trí, chuẩn bị tâm hồn, chuẩn bị thể xác, để đón tiếp Chúa Kitô. Đây phải chăng chỉ là sự đón tiếp liên quan đến cuộc giáng thế có tính cách lịch sử của Ngài, thường được chúng ta tưởng niệm vào dịp Giáng Sinh, cũng không phải chỉ liên quan đến cuộc ẩn thân mầu nhiệm của Ngài nơi bí tích Thánh Thể, mà đặc biệt là việc Chúa đến với mỗi người chúng ta trong giờ chết.
Để đón tiếp Chúa Giêsu đến, chúng ta đã chuẩn bị thế nào? Chúng ta nên vâng theo lời thánh Gioan tầy giả khi ông chuẩn bị cho dân Do Thái thời ông đón chờ Đức Giêsu đến với thế gian lần đầu tiên. Ông dạy bảo họ ăn năn thống hối từ bỏ tội lỗi, tin vào Phúc Âm. “Hãy sinh hoa trái tốt lành để chứng tỏ lòng ăn năn thống hối của các ngươi” (Lc.3:8). Đây là điều Giáo Hội mời gọi thực hiện trong ngày đón chờ Chúa đến. Chúng ta hãy từ bỏ tội lỗi, từ bỏ những tính mê nết xấu, những gian tham, những hờn oán và bắt đầu sống đúng như lời Chúa Giêsu từng khuyên dạy chúng ta. Hãy tập tành các nhân đức. Hãy dục lòng yêu mến Chúa gấp trăm lần bù lại những giây phút quên lãng. Hãy hy sinh, hãm mình và làm việc lành phúc đức nhiều hơn mọi khi. Hãy để giờ làm việc thiêng liêng, đọc kinh nguyện ngắm, để tâm thần thêm sốt sáng. Hãy nghiêm chỉnh tự vấn xem "liệu chúng ta có thể trình diện trước mặt Chúa ngay lúc này không?
Mùa Vọng là thời gian tốt nhất để chúng ta hồi tỉnh tâm trí và chuẩn bị tinh thần. Đây là thời gian tự vấn chính mình xem chúng ta đã sẵn sàng đón tiếp Chúa chưa? Chúng ta có nói được như cậu bé John Kless trước giờ hành quyết: "Con cảm thấy rõ ràng con đang ở gần Chúa. Con chuẩn bị sẵn sàng chờ đón cái chết... Con đã xưng tội và tâm hồn con hoàn toàn thanh thản, bình an và hạnh phúc".
Chúng ta hãy qùi xuống trước tôn nhan Chúa, hãy dùng giây phút này để thầm lặng, gẫm suy đến việc chuẩn bị tâm hồn đón chờ Chúa đến.
Lạy Chúa, xin giúp con sẵn sàng đón Chúa đến trong mọi lúc. Xin canh tân trí lòng chúng con, đổi mới ý chí. Xin giúp chúng con quyết tâm trong lời nói, trong việc làm, trong hành động, để sống đạo đức thánh thiện hơn trong những ngày đón chờ Chúa đến. Lạy Chúa, con đây xin sẵn sàng thực thi ý Chúa. Amen. (19.12.2004).
Trích đoạn Tin Mừng Chúa Nhật IV Mùa Vọng theo chu kỳ Phụng Vụ năm A, đã miêu tả cách đầy:đủ về Đấng Thiên Sai, Ngôi Lời Nhập Thể, và cũng là Đấng muôn dân mong đợi. Tuy đơn giản, nhưng Thánh Ký đã ghi lại hết những nét chính về con người, xuất xứ, và hoàn cảnh lịch sử của biến cố Nhập Thể và Giáng Trần của Ngài, điều mà các tác giả của Cựu Ước cũng như Tân Ước sau này đã nói về Ngài.
Về thân thế, Ngài có tên gọi là Giêsu. Con của Giuse và Maria quê quán ở Nazarét. Cha mẹ Ngài thuộc dòng tộc Đavít, nhưng đến đời các ngài, thân thế đã giảm sút, và vì vậy, cả hai đều sống trong cảnh thanh bần. Giuse làm nghề thợ mộc, còn Maria theo phong tục thời đó, lo việc nội trợ và nhà cửa.
Về biến cố Nhập Thể và Giáng Sinh của Ngài, các tiên tri và các Thánh Ký đã ghi nhận là Ngài sinh tại Bêlem trong đời hoàng đế Augustô. Philatô làm tống trấn, Ana và Caipha là Thượng Tế. Ngài sinh ra vào một đêm đông giá lạnh tại một chuồng nuôi súc vật - chuồng bò. Các Thánh Sử còn ghi nhận thêm rằng, cha mẹ Ngài phải tạm trú nơi chuồng nuôi súc vật, và mẹ Ngài đã hạ sinh Ngài ở nơi đó, vì gia đình nghèo nên không đủ tiền thuê nhà trọ trong lúc Giêrusalem đang nhộn nhịp vì đông đảo người ta tuốn về để khai sổ kiểm tra dân số.
Đức Kitô giáng trần trong một gia đình nghèo, trong một hoàn cảnh nghèo. Ngài nhập thế để chia sẻ tận cùng với kiếp nghèo của con người mà phần đông nhân loại đang sống. Ngài sống và đồng hành với con người như mọi người, và theo Thánh Tông Đồ Phaolô, thì chỉ trừ “tội lỗi”. Nhờ vào chính hoàn cảnh éo le mà các Thánh Ký đã thuật lại, chúng ta mới có dịp nhận ra vai trò và thân thế cũng như cuộc nhập thế của Ngài. Nhờ Thánh Kinh ghi nhận, chúng ta biết rõ ràng rằng Ngài không phải là con người phàm trần, nhưng là Ngôi Hai Thiên Chúa. Chúng ta biết được điều này qua biến cố truyền tin. Mẹ Ngài mang thai Ngài bởi phép Chúa Thánh Thần: “Mẹ Ngài là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần” (Mt 1:18). Chính thiên thần Chúa trong mộng báo cũng đã xác định điều này với Giuse, vì thực ra, Ông đang có ý định sẽ âm thầm ra đi, vì không giải thích được lý do về thai nhi: “Hỡi Giuse, con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình: Vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội” (Mt 1: 20-21). Những điều này đã được tiên báo từ trước: “Một trinh nữ sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1: 23).
Thiên Chúa nhập thể, nhưng đã vào đời bằng cảnh nghèo nàn, và đó là lý do tại sao nhân loại đã được dịp nhìn Ngài qua thân phận con người nghèo khó. Nhưng có lẽ chính vì thế mà chúng ta đã được Ngài đón nhận và đón nhận được Ngài vào cuộc đời của mỗi người. Các thiên thần đã nói với mục đồng rằng: “Ta báo cho anh em một tin vui – và đó cũng là Tin Vui của toàn dân, hôm nay trong thành Đavít, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho các ngươi, người là Đức Kitô” (Lc 2: 10). Hình ảnh Đấng Cứu Thế, Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể cũng chính là hình ảnh một “hài nhi mới sinh bọc trong khăn đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2: 12). Và đây cũng chính là hình ảnh mà mọi Kitô hữu cần phải suy nghĩ, cầu nguyện trong khi đang sửa soạn đón mừng biến cố hạ sinh của Ngài.
Thật ra, Ngài đã giáng trần, đã vào đời ở với nhân loại trên 2000 năm theo thời gian và lịch sử. Biến cố giáng trần của Ngài không còn là một biến cố mang tính cách huyền thoại hoặc dã sử. Nó đã được lịch sử ghi nhận: Giuse, Maria, Isave, Gioan Tiền Hô, các Tông Đồ và môn đệ, hoàng đế Hêrôđê, tổng trấn Philatô, thượng tế Ana và Caipha, tiên tri Simêon và Ana, Ba Vua, các mục đồng.... là những nhân chứng lịch sử của biến cố này. Do đó, việc chuẩn bị, đón mừng hôm nay chỉ là chuẩn bị, đón mừng một kỷ niệm, một biến cố đã xẩy ra trong quá khứ mang ý nghĩa và mục đích cứu độ.
Dù chỉ là đón mừng ngày kỷ niệm, nhưng liệu khi ngày đó đến, Kitô hữu chúng ta có thật sự cảm được và nhận thức được sự hiện diện của Ngôi Hai Thiên Chúa trong cuộc đời mình, trong dòng sinh hoạt của nhân loại? Hay lại cũng chỉ là một kỷ niệm được dành cho một người, một nhân vật lịch sử như những nhân vật lịch sử khác. Hoặc là một cơ hội để con người vui chơi, tiệc tùng, quà cáp?!!! Bao nhiêu người, và ngay cả chính chúng ta có nhận ra Ngài, có đón nhận Ngài vào cuộc đời mình theo với ý nghĩa giáng trần của Ngài hay không. Điều này đòi hỏi mỗi người phải có cặp mắt tinh thần, và bằng với cái nhìn tâm linh vào biến cố này. Khám phá ra Ngài trong quan phòng và trong mọi biến cố đời mình khó hơn khám phá ra Ngài qua thân phận một hài nhi nghèo, một thanh niên tầm thường ẩn dật tại làng quê Nazarét, một tội nhân đầu đội mão gai, vai vác thập giá và bị đóng đinh chết treo trên thập giá. Nhưng đây là một chuẩn bị và khám phá cần thiết cho đời sống đạo đức, cho phần rỗi của mỗi người chúng ta. Chúng ta chỉ có thể đạt được ý nghĩa của việc mừng ngày Ngài giáng trần bằng những chuẩn bị tinh thần như Maria, Giuse, thì trong ngày mừ#ng Ngài giáng sinh, chúng ta mới có thể cung kính bái quì bên máng cỏ với niềm vui, và tinh thần của Giuse, Maria, các mục đồng, và Ba Vua. Vì chính Ngài đã sinh ra cho chúng ta, Ngài là Emmanuel.
Những lời cầu chúc cho nhau được may mắn hạnh phúc là câu điệp khúc luôn được lặp đi lặp lại trên môi miệng mỗi người chúng ta trong mọi dịp thuận tiện của cuộc sống: Các đại lễ tôn giáo, dịp đầu năm, dịp cưới hỏi, dịp sinh nhật mỗi người, dịp thi cử, tốt nghiệp, hành nghề, mở công ty, khai trương tiệm buôn bán, v.v…! Trong dịp đại lễ Giáng Sinh, từ các đường phố cho đến các ngõ hẻm, người ta dù vội vã đến đâu đi nữa cũng vẫn chúc mừng nhau mỗi khi gặp mặt: «chúc mừng lễ Giáng Sinh vui vẻ!»
Vâng, ai nấy đều chúc cho nhau hạnh phúc! Và những lời cầu chúc may mắn hạnh phúc thường trở thành một thứ ngôn ngữ không thể thiếu trong các dịch vụ thương mại, buôn bán hay giao lưu nghề nghiệp. Nhưng trong những dịp như thế, lời cầu chúc may mắn hạnh phúc thường chỉ là những lời nói xã giao đầu môi chóp lưỡi, chứ ít khi có chủ ý hay thành tâm thực sự. Vì thế, chúng không đưa lại niềm vui dài lâu bền vững. Trong khi đó, tất cả mọi người chúng ta - từ cụ già đến em bé, từ đàn ông đến đàn bà - ai nấy đều mong muốn được hạnh phúc, được sống một cuộc sống thực sự có hạnh phúc. Nhưng nhiều người đã ngã lòng buông xuôi, không dám nghĩ tới hay đeo đuổi chạy theo ước muốn được hạnh phúc nữa, hoặc cho mình hoặc cho người khác. Sau bao nhiêu chán nản và thất vọng ê chề, mọi ước muốn và mọi tìm kiếm hạnh phúc đã biến thành những tang tóc, những khổ đau đầy cay đắng!
Thật ra, những thất vọng hay những mơ ước hạnh phúc bất thành, chắc chắn mỗi người trong chúng ta ít hay nhiều đều đã hơn một lần trải qua. Nhưng bất hạnh nhất là những người bất đắc dĩ phải đối mặt với cái số phận quá nghiệt ngã cay đắng, phải gánh chịu những thách đố hầu như quá sức. Ở đây, tôi nghĩ tới những gia đình mà vì một chút sơ suất của một ai đó, đã để xảy ra tai nạn và cướp đi cuộc sống đang bất đầu chớm nở của những đứa con thân yêu. Tôi cũng nghĩ tới người bạn trẻ, sau một cuộc tình đầu đời sâu đậm bị tan vỡ, và nay một mình phải vật lộn với nỗi cô đơn trống trải trong một cuộc sống đầy hoang vắng. Tôi nghĩ tới đôi vợ chồng trẻ đã từng lạc quan và tin tưởng nhìn về tương lai, nên đã đi vay nợ ngân hàng và bạn bè thân quen để hiện thực những hoài vọng và dự định về kế hoạch kinh tế của mình. Nhưng bỗng nhiên người chồng bị trọng bệnh. Ðời sống gia đình rơi vào cảnh chật vật, thêm vào đó nợ nần chồng chất, bất khả thanh toán. Hay tôi nghĩ tới những người giáo dân, vì nỗi trăn trở lo lắng cho miếng cơm manh áo hằng ngày, đã bỏ quên kinh nguyện sớm tối và cả đến thánh lễ ngày Chúa Nhật. Sau cùng, tôi nghĩ tới hàng triệu đứa trẻ khắp nơi trên thế giới, chỉ một vài ngày sau khi được mở mắt chào đời, đã bị chết đói, hay nghĩ tới hàng triệu đứa bé khác đang khi còn êm đềm nằm trong dạ mẹ đã bị giết chết một cách đầy dã man: Chúng bị những chiếc kềm sắt cắt ra từng mảnh trước khi bị lôi ra khỏi bụng mẹ chúng.
Vâng, có biết bao nhiêu người thật quá bất hạnh, cả đời không hề biết hạnh phúc là gì, dù một chút bé tẻo teo và chỉ trong giây lát cũng không! Thực tại đau buồn và phũ phàng đó chụp xuống trên đời con người trong suốt năm, ngay cả trong mùa Giáng Sinh, một thực tại đã làm cho nhiều người luôn cảm thấy mình hoàn toàn vô phúc và chỉ muốn tìm kiếm một sự kết liễu!
Chính số phận chàng thanh niên Giuse thành Na-da-rét, một người thợ mộc trẻ, cũng không may mắn hơn. Chàng không có may mắn và hạnh phúc như bao người khác. Chưa lâu, chàng đã đính hôn với Maria, một người con gái cùng xóm, nết na, trẻ trung và xinh đẹp. Cả hai cùng mơ ước một tương lai hạnh phúc. Nhưng bỗng chốc, giấc mơ đó đã như chiếc bong bóng nổ tan tành trước mắt Giuse khi chàng phải đối mặt với một sự thật quá phũ phàng: Maria, người hôn thê yêu dấu của chàng đã mang thai trước khi hai người cùng chung chăn gối! Trong thất vọng và đau khổ tột độ, chàng tự mỉa mai chính mình: Người con gái mà mầy yêu thương đã ăn nằm và mang thai với người đàn ông khác!
Thật vậy, khi một người đã một lần thực sự yêu, yêu thật lòng, sẽ hiểu rõ được nỗi lòng của Giuse tan nát như thế nào! Sự thách đố đối với chàng to lớn và nặng nề biết bao! Hơn nữa, chàng cũng chỉ là một con người và là một con người thanh niên, mới lớn lên! Thêm vào đó còn một nỗi đau khổ phụ khác là Giuse chỉ muốn âm thầm ôm bụng chịu đựng một mình, chứ chàng không muốn «hở môi răng lạnh», không muốn cho bất cứ ai biết nỗi lòng của chàng để được chia sẻ và ủi an, vì lòng chàng vẫn luôn yêu quí và kính trọng Maria trước sau như một. Nhưng cũng chỉ vì không muốn bộc lộ câu chuyện ra cho ai khác biết, một chỉ suy đi nghĩ lại trong lòng một mình và không được ai góp ý kiến cả, nên chàng càng cảm thấy mình bị chạm tự ái, bị hạ nhục và trở thành trò cười cho thiên hạ. Giuse hoàn toàn mất hết can đảm để bắt đầu lại từ đầu. Do đó, chàng đã quyết định âm thầm chia tay Maria. Chàng không muốn mình hoặc Maria phải mang lấy tiếng xấu suốt đời, bị miệng đời xì xèo dèm pha. Cuộc tình duyên hạnh phúc giữa chàng và Maria kể là chấp dứt. Theo ngôn ngữ ngày nay, người ta có thể nói rằng Giuse là người thanh niên đáng nể, chàng đã dàn xếp sự việc thật khôn ngoan khéo léo. Mặc dù cảm thấy bị người hôn thê phản bội, chàng vẫn bình tĩnh, sáng suốt và cân nhắc kỹ lưỡng trước khi quyết định một cách hợp lý. Dĩ nhiên sự quyết định đó không hề làm chàng hạnh phúc. Toàn bộ sự cố còn tiếp tục dằn vặt trái tim chàng.
Thật ra, qua Phúc Âm chúng ta đã không hề biết được Giuse trong thực tế đã xử trí ra sao. Phúc Âm cũng không kể lại là đã xảy ra những cuộc cãi cọ hay đã nói những lời phàn nàn, như thường tình vẫn xảy ra trong các cuộc tình đổ vỡ khác! Cũng vậy, chúng ta cũng biết được rất ít về những giọt nước mắt và nỗi đau buồn của Giuse. Thánh sử chỉ tường thuật lại giấc mộng của Giuse mà thôi. Vâng, thánh Giuse luôn là con người khiêm tốn âm thầm, âm thầm như những giọt nước mắt và nỗi khổ đau của mình, và âm thầm như sứ mệnh làm người đứng sau hậu trường của «màn kịch cứu độ» mà Thiên Chúa đã giao phó cho ngài.
Còn nói về các giấc mộng hay chiêm bao. Tại sao thánh sử lại tường thuật giấc chiêm bao của Giuse?
Trong thời đại khoa học tân tiến ngày nay, những giấc mộng không còn mang mấy giá trị nữa. Và những người mộng mị chiêm bao thường bị thiên hạ mỉa mai trêu chọc! Có nhiều câu phương ngôn đã nói lến thái độ coi khinh những người hay mơ mộng, như: «Mơ màng chỉ đàng chết đói» hay: «ngồi mơ mộng khi bụng rỗng mới hay», ý muốn nói những người thích mơ mộng là những người thiếu thực tế, xa lạ với cuộc sống cụ thể; «Cứ ngồi đó mà mơ mộng», ý muốn nói đến những người mà người ta cho là loại người khờ, dại dột!
Giáo sư Carl Gustav Jung (1875-1961), một nhà tâm lý học người Thụy Sỹ nổi danh trên khắp thế giới, đã khám phá được ý nghĩa của thế giới chiêm bao. Ông gọi giấc mơ là ngôn ngữ của vô thức. Ngày nay các nhà chuyên môn về phân tâm học đều đồng ý cho rằng các giấc mơ rất cần thiết cho cuộc sống con người. Ai không mơ, ít là thỉnh thoảng, người đó sẽ chết, không thể sống được. Nếu một người luôn luôn bị quấy phá giấc mơ trong khi đang ngủ, người đó từ từ sẽ sinh bệnh và chết. Giấc mơ rất quan trọng cho cuộc sống.
Chính giấc mơ của Giuse đã cứu được cuộc đời anh. Giấc mơ đã mang lại cho anh niềm vui và sự hạnh phúc. Vâng, nhờ giấc mơ anh đã giải quyết được cơn khủng hoảng tình cảm và gia đình của mình. Nhờ giấc mơ anh đã tìm lại được nghị lực và sự can đảm cần thiết để vượt qua được cơn thử thách đầy nguy hiểm của đời mình. Nhờ giấc mơ anh đã được giải thoát khỏi mọi nỗi lo sợ hằng dằn vặt tâm hồn anh từ bao tháng ngày qua: lo sợ mình bị cắm sừng, bị cười chê, lo sợ Maria không còn yêu mình nữa, lo sợ thiếu vắng ơn Chúa trong cuộc sống. Thật vậy, giấc mơ đã chữa lành tâm hồn Giuse, đã hàn gắn và nối kết chàng lại với Maria trong tình yêu thương thủa đầu. Nhờ giấc mơ hạnh phúc của Giuse đã được cứu vãn. Trong cơn cùng khổ của tâm hồn Giuse, «Thiên-Chúa-ở-với-chúng-tôi» đã trở nên sống động và lớn mạnh trong cung lòng Maria. Và trong chính «Thiên-Chúa-ở-với-chúng-tôi» chứa ẩn trọn hạnh phúc của Giuse.
Ai không hề mơ, người đó sẽ chết! Ai được hạnh phúc trào dâng, người đó chẳng cần đến những lời cầu chúc may mắn hạnh phúc nữa. «Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-tôi» sẽ trở nên sống động cho những ai đói khát hạnh phúc. Ai hằng mơ ước một thế giới tươi đẹp hơn, thì người đó sẽ tìm gặp nơi «Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-tôi » như là Ðấng Cứu Giúp quyền năng. Nhưng không một ai có thể chứng minh và hiểu thấu được Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-tôi. Người hiện diện cụ thể và gần gũi trong những ai đang phải trải qua cảnh khốn cùng và sự đau khổ cùng quẫn mà vẫn có thể mơ ước. Người ở với những ai còn luôn biết hy vọng và chờ đợi một điều gì đó. Giuse đã tìm lại được hạnh phúc hằng mơ ước của mình. Tôi xin cầu chúc cho tất cả các bạn những giấc mơ có khả năng cứu vớt, thăng tiến và làm tốt được cuộc đời, tình yêu và sinh kế làm ăn của các bạn. Tôi cầu chúc cho tất cả chúng ta sự hạnh phúc chân thật của «Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-tôi.»
Qua những ngày lễ cũng như qua phụng vụ trong Mùa Vọng, Giáo Hội đã lần lượt giới thiệu những vị thánh, những vị tiên tri, để giúp chúng ta có những tâm tình chuẩn bị đón chờ Chúa đến. Hôm nay qua bài Tin Mừng phụng vụ giới thiệu với chúng ta một nhân vật rất quan trọng trong việc Chúa Giêsu Nhập Thể đó là Thánh Giuse.
Giáo Hội càng ngày càng nhận thấy Thánh Giuse thật quan trọng trong việc chuẩn bị đón mừng Chúa Giáng Sinh. Ngài đã hiện diện trong lễ Giáng Sinh đầu tiên, và Ngài đã và đang được Chúa dùng để giúp chúng ta chuẩn bị đón mừng các lễ Giáng Sinh sau này.
Qua bài Tin Mừng hôm nay Thánh Giuse phải đương đầu với một vấn đề rất là nhức đầu nhức óc. Ngài đã đính hôn với Đức Maria, trên nguyên tắc hai người coi như là vợ chồng, nhưng chưa làm đám cưới. Thời gian đính hôn là một năm, và trong thời gian này không được ăn ở với nhau. Nhưng tự nhiên Đức Mẹ mang thai và thai đó lại không phải của Ngài. Do đó Thánh Giuse rất buồn rầu và đặt nhiều vấn đề. Và để giải quyết vấn đề cho êm xuôi tốt đẹp, Ngài định tâm lìa bỏ Đức Mẹ cách kín đáo. Trong vấn đề này chúng ta thấy Thánh Giuse đã quên mình để nghĩ cho Đức Mẹ. Ngài không tố cáo Đức Mẹ, không làm lớn chuyện.
Rồi khi được thiên thần báo mộng là thai Đức Mẹ mang là bởi Chúa Thánh Thần, thì Thánh Giuse cũng không nghĩ cho mình nhưng nghĩ cho Đức Mẹ và Chúa Giêsu, nên Ngài đã nghe lời sứ thần chấp nhận Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Mặc dầu ở với Mẹ sẽ bị mang tiếng, bị xấu hổ vì dân làng sẽ thắc mắc kết tội là hai người chưa hết thời gian đính hôn, chưa cưới mà sao đã mang thai.
Anh chị em thân mến,
Tình yêu của Thánh Giuse đối với Thiên Chúa đối với Đức Mẹ là tình yêu can đảm hy sinh quên mình chấp nhận những khó khăn, mặc dù không hiểu những việc Chúa làm. Và đây chính là những đức tính chúng ta cần học hỏi nơi Thánh Giuse.
Có một câu chuyện tôi thấy cũng hay, đó là có một anh chàng tên Paul được ông anh tốt tặng cho một chiếc xe hơi mới toanh làm quà Giáng Sinh. Vào đêm áp lễ Giáng Sinh, Paul từ văn phòng đi ra thì gặp một bé trai nghèo quần áo rách rưới đi vòng qua vòng lại chiếc xe mới vừa sờ vừa chép miệng khen đẹp.
Thấy Paul đi ra, bé trai nhìn lên hỏi: Đây là xe của ông à? Paul trả lời: Đúng, anh tôi tặng tôi làm quà Giáng Sinh. Bé trai ngạc nhiên nói: Ông có ý nói là anh ông tặng cho ông không phải trả đồng nào sao? Paul gật đầu. Và bé trai nói: Lạ quá, ước gì.... Nói tới đó Paul liền nghĩ trong đầu là chắc đứa bé ước được có một ông anh như mình. Nhưng đứa bé đã làm Paul ngạc nhiên khi nó nói tiếp. Em ước ao được giống như anh của ông. Paul nhìn đứa bé rất thán phục rồi hỏi: Em muốn lên chiếc xe mới của tôi đi một vòng không?
Em bé reo lên: được, em rất thích như vậy. Sau khi đi được một lát, bé trai quay sang Paul và hỏi: Ông ơi, ông có thể lái vòng qua nhà tôi được không? Paul cười và nghĩ trong đầu rằng: Chắc thằng bé muốn đi qua nhà mình để khoe với hàng xóm láng giềng rằng mình cũng oai lắm, được ngồi trên xe to và đẹp này.
Khi tới nhà, bé trai xin Paul dừng xe trước cầu thang rồi chạy vào trong nhà. Sau một lát, Paul thấy nó trở lại bồng đứa em trai nhỏ bị tàn tật ra, đặt ngồi dưới chân bậc thang rồi chỉ vào chiếc xe mà nói với em rằng: Mày thấy chưa, y như là tao đã nói với mày ở trong nhà, không đẹp không ăn tiền. Đó anh của ông đó tặng ông ấy chiếc xe này làm quà giáng sinh và ông ta không phải trả đồng nào hết. Mày biết không. Một ngày nào đó Tao cũng sẽ cho mày một cái y như vậy. Rồi mày có thể đi xem tất cả những cái đẹp mà tao thường nói với mày.
Nghe thế, Paul ra khỏi xe và tiến lại gần hai bé trai và hỏi: Hai em có muốn lên xe đi vòng vòng xem những cái đó ngay bây giờ không? Cả hai sáng mắt lên gật đầu ngay. Paul cúi xuống bồng em què lên ghế trên. Rồi thằng anh trèo lên ngồi bên nó. Cả ba người bắt đầu một chuyến đi mừng lễ thật đáng ghi nhớ.
Anh chị em thân mến,
Câu chuyện này nói lên tình yêu biết nghĩ đến người khác là kho tàng đáng quí hơn những sự giầu sang phú quí ở trần gian.
Nếu Thánh Giuse không hy sinh quên mình mà ly dị Đức Mẹ thì Ngài cũng ly dị Chúa luôn. Nếu Ngài không chấp nhận Chúa Giêsu và Đức Mẹ khi gặp hoàn cảnh khó khăn, thì Ngài cũng không gặp được Chúa.
Chúa Giêsu chính là món quà được gói dưới nhiều hình thức để tặng cho chúng ta trong mùa Giáng Sinh. Ngài được gói trong cung lòng đồng trinh của Đức Mẹ khi đến với loài người trong lễ Giáng Sinh đầu tiên. Trong dịp Giáng Sinh năm này có thể Ngài sẽ được gói trong những con người nghèo khó, trong những anh chị em đang sống gần chúng ta, và có thể Ngài sẽ được bọc trong những hộp giấy không hấp dẫn cho lắm, do đó chúng ta dễ bị cám dỗ cho vào thùng rác, nghĩ rằng không có giá trị gì bên trong. Làm như vậy là vô tình chúng ta ly dị Chúa Giêsu và làm mất ý nghĩa Giáng Sinh.
Trong những ngày mùa vọng còn lại, xin Thánh Giuse và Mẹ Maria giúp chúng ta chuẩn bị tâm hồn gặp gỡ Chúa Giêsu hài đồng bằng việc chấp nhận những người chúng ta không hiểu, chấp nhận những người không chấp nhận chúng ta, những người đang làm đau lòng chúng ta. Chúng ta hãy tha thứ cho họ, và sữa chữa cho họ trong tình bác ái yêu thương, nhất là hãy chấp nhận họ theo khả năng và con người hiện tại của họ và tìm cách dẫn đưa họ tiến tới con người Chúa muốn họ trở thành.
Anh chị em thân mến
Tiến sĩ A. Dudley Dennison, Jr viết rằng: “Tôi rất tin tưởng vào chương trình đại sự của Chúa đối với những mối liên hệ trong cuộc sống. Ngài đưa người này người kia ra vào cuộc đời của chúng ta, và mỗi người đi ra đi vào đều để lại một dấu tích của mình cho người khác. Do đó chúng ta sẽ khám phá ra rằng chúng ta được hình thành bởi những miếng, những mảnh vụn của tất cả những người đã đi vào cuộc đời chúng ta - chúng ta được khá hơn là bởi họ, và chúng ta sẽ kém hơn nếu họ không đi vào cuộc đời chúng ta."
Một trong nhiều khuôn mặt đáng yêu của mùa Vọng như Đức Mẹ, thánh Gioan Tẩy giả, tiên tri Isaia…, chúng ta lại nhìn thấy hình ảnh thánh Giuse thật tuyệt vời. Hôm nay, Chúa nhật IV mùa Vọng, Hội Thánh cho chúng ta suy niệm về việc Thiên Chúa sai thiên thần truyền tin cho thánh Giuse. Nội dung cuộc truyền tin là thông báo cho thánh Giuse biết bào thai mà Đức Mẹ đang cưu mang không phải là một con người bình thường, nhưng là chính Con Thiên Chúa làm người. Từ câu chuyện truyền tin nhiệm lạ này, ta suy nghĩ về cuộc đời thánh Giuse qua tước hiệu Ngài là Đấng Công Chính. Để rồi sau đó, ta rút ra cho mình bài học công chính của thánh Giuse mà sống một đời công chính như thánh Giuse đã sống.
I. THÁNH GIUSE, ĐẤNG CÔNG CHÍNH.
Thánh Giuse là Đấng Công chính ngay trong chính ơn gọi mà Thiên Chúa đã chọn gọi Ngài: Ngài công chính bởi Ngài được chọn làm cha của Con Thiên Chúa. Con người của sự công chính ấy đã hoàn toàn để cho mình thuộc về Thiên Chúa. Ngài là Đấng Công chính, bởi trên chính dòng thời gian mà Ngài đã sống, không còn phải là thời gian sống của riêng bản thân Ngài, nhưng Ngài đã để Chúa dẫn dắt, Chúa lôi cuốn, Chúa định đoạt hoàn toàn. Có thể nói, thời gian cuộc đời của thánh Giuse là một chương trình được hình thành bởi hai sự chung góp rõ nét: Thiên Chúa và thánh Giuse cùng chủ động! Thiên Chúa làm cho cá nhân thánh Giuse trở thành khuôn mặt được tô điểm đậm nét về sự thánh thiện, về nhân đức của chung cả dòng lịch sử. Còn thánh Giuse đã chủ động cộng tác để cho bàn tay của ơn thánh Chúa khắc sâu một khuôn mẫu tuyệt vời cho muôn đời sau. Khuôn mẫu đó mang tên “Giuse” mà thánh Giuse đã đảm nhận và được sai để đảm nhận.
Nói tóm lại: Chính Chúa đã chiếm hữu Ngài, và Ngài đã để mình hoàn toàn thuận theo đường lối Chúa ấn định. Do sự vâng phục của bản thân trong Chúa, Ngài càng biểu lộ đường lối công chính của mình. Ngài đã biến mình trở thành dụng cụ trong tay Chúa, tùy Chúa tự do thể hiện thánh ý của Chúa.
Về phía Thiên Chúa, không “chịu thua” sự công chính hoàn hảo của thánh Giuse, Thiên Chúa đã làm cho thánh Giuse từ con người phàm trần đến chức vụ làm Cha của Chúa Cứu thế, từ sứ mạng làm người đến ơn gọi cộng tác vào chương trình cứu độ, từ lòng thần phục Thiên Chúa đến tác động quyền năng của Thiên Chúa biến thánh Giuse nên địa vị cao cả, độc nhất vô nhị trên dòng lịch sử cứu độ. Bởi thế, ta thấy nơi thánh Giuse và cuộc đời của Ngài là một chuỗi ơn nhiệm lạ mà Thiên Chúa dành cho Ngài. Chẳng hạn:
- Tuy thánh Giuse chỉ ẩn khuất và chìm lắng trong dòng lịch sử cứu độ, nhưng vị trí của ngài thật cao quý: Ngài là Đấng nuôi dưỡng và gìn giữ Đấng Cứu Chuộc trần gian.
- Ngài chưa từng được thiên thần Chúa ngỏ lời trực tiếp như đã ngỏ lời với Đức Mẹ để mạc khải thánh ý Chúa, nhưng chỉ nhận được mạc khải trong giấc mơ. Nhưng cũng chính vì thế, thánh Giuse càng vỹ đại hơn, bởi điều đó cho thấy đức tin của ngài là một đức tin bất khuất, một đức tin kiên vững. Thiên Chúa đã làm cho đức tin của thánh Giuse chiếu sáng không phải một thời, một giai doạn, nhưng là mãi đến muôn đời sau.
- Thánh Giuse cũng chưa từng được Chúa Giêsu khen ngợi như khen ngợi thánh Gioan Tẩy giả: “Trong số các phàm nhân được sinh ra từ lòng mẹ, không ai cao trọng hơn Gioan Tẩy giả”, nhưng ngài lại rất hãnh diện và hạnh phúc vì Đấng Cứu Chuộc mặc nhiên nhìn nhận ngài là Cha của mình. Con Thiên Chúa chưa bao giờ phản đối khi người Dothái gọi mình là con của Bác Thợ mộc Giuse.
- Cũng không như thiên tri Isaia, có những lời tuyên bố hùng hồn về thân phận Đấng Cứu Chuộc trần thế, nào là Đấng Mêsia, nào là Đấng Emanuel, Hoàng Tử Hòa Bình, Ông Vua Thái Bình… Thánh Giuse chỉ âm thầm hoàn thành trách nhiệm của mình, nhưng Ngài chính là bằng chứng của tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu không ai ngờ, đã cứu chuộc Ngài, đã đưa Ngài đến địa vị cao sang đến nỗi Con Thiên Chúa làm người đã khiêm tốn gọi Ngài là “Cha”.
Thánh Giuse, Đấng Công chính đã đón nhận ơn Chúa thật đơn sơ, nhưng cũng thật mãnh liệt. Suốt đời chỉ tắm mình trong ơn Chúa, thánh Giuse trở nên con người của lòng bác ái, và độ lượng vô song. Ngài đã không hề trách móc, phiền hà, hay rắp tâm nghĩ đến việc tố cáo Đức Mẹ như lề luật quy định, khi biết Đức Mẹ đã mang thai.
Bởi thế, với tất cả những gì mà sự công chính nơi thánh Giuse thể hiện, đã khiến Thánh Kinh không tiếc lời, không ngần ngại gọi thánh Giuse là “Người Công Chính”. Còn chúng ta, là đàn con của thánh Giuse, chúng ta tôn xưng Ngài là Đấng Công chính. Nhưng chỉ dừng lại ở việc tôn xưng thôi, chưa đủ. Điều quan trọng cấp thiết mà chúng ta phải làm cho bằng được, đó là sống công chính như thánh Giuse đã sống.
II. NOI GƯƠNG THÁNH GIUSE.
Là con cái của thánh Giuse, đồng nhận lấy ơn cứu độ từ Chúa Kitô, chúng ta cũng hãy để cho mình mỗi ngày một xứng đáng với tước vị làm con Thiên Chúa bằng một đời sống công chính, thánh thiện, yêu mến Chúa như thánh Giuse. Noi gương thánh Giuse, chúng ta nhận ra:
- Về phương diện đức tin. Từ khi được chọn làm cha nuôi Đấng Cứu thế, cuộc đời Thánh Giuse là một hành trình mịt mù của đức tin. Một hài nhi nhỏ bé mỏng manh chạy trốn vua Hêrôđê lại chính là Thiên Chúa tối cao. Một thôn nữ đơn sơ nghèo hèn, không một chút nổi nang, hay sang trọng về địa vị lại là Mẹ của Đấng Cứu Thế. Riêng bản thân thánh Giuse, dù thuộc dòng tộc vua Đavit, nhưng dòng tộc này đã thoái vị từ lâu, thánh Giuse trở thành con người của sự quên lãng, lại được tuyển chọn để trở nên người phục vụ ơn cứu độ đời đời của Thiên Chúa… Chúa làm người trọn vẹn quá đến nỗi thánh Giuse không thể hiểu hết, không kịp để nhận ra điều gì đang diễn ra. Nhưng thay vì thắc mắc, nghi ngờ, hoang mang, thánh Giuse chọn thái độ hoàn toàn thinh lặng chiêm ngắm mầu nhiệm của Thiên Chúa. Thánh Giuse tiếp tục “xin vâng,” mặc dù thánh ý Chúa không luôn luôn rõ ràng mà nhiều khi chỉ là những tiếng vọng mơ hồ giữa giấc chiêm bao.
Là Kitô hữu, hành trình cuộc đời của mỗi chúng ta, dù mọi lúc đều muốn trung thành bước theo Chúa Kitô, nhưng không ít lần, chúng ta cũng đi trong tăm tối mịt mù như những gì Thánh Giuse đã trải nghiệm. Trong gia đình và ngoài xã hội, chúng ta cố gắng sống tốt và thực hành điều tốt nhưng lại phải đối diện với những ganh tỵ, hiểu lầm, gièm pha, vu khống, chống đối... Nhiều khi chúng ta bước đi trong bóng đêm của đức tin với nhiều suy nghĩ hoang mang: Đâu là sự thật, đâu là chân lý và công bằng, Thiên Chúa ở đâu? Noi gương thánh Giuse, chúng ta hãy ngã nhào vào vòng tay của Chúa. Hãy tín thác. Hãy để mặc Chúa dìu đưa và định đoạt cho ta theo thánh ý Chúa.
- Về phương diện đức mến. Tôi thấy ở phương diện này, thánh Giuse dạy tôi nhìn về tương lai nhiều hơn. Bởi chính trong đức mến, và chỉ có đức mến mới làm cho thánh Giuse can đảm bước đi theo tiếng Chúa, mà suốt đời, vẫn không rõ Chúa dắt mình đến đâu. Chỉ có ánh mắt của niềm tin chiếu rọi vào tương lai để thánh Giuse đi theo Chúa, Đấng mà Ngài tin rằng, sẽ “cứu dân mình khỏi tội”.
Trong đức mến, thánh Giuse âm thầm đón nhận thánh ý Chúa. Nếu lúc đó hỏi Ngài rằng, Ngài có thấy kết quả nào nở ra cho cuộc đời Ngài tươi sáng hơn, sau khi đã đặt lòng tin vào Chúa không? Chắc chắn thánh Giuse sẽ cho chúng ta biết rằng, không những Ngài chẳng thấy gì mà còn dấn mình vào trong u tối của sự chờ đợi, của niềm hy vọng xem ra rất xa xôi. Chỉ có tương lai của Hội Thánh, tương về một Quê Hương không biên cương nhưng vĩnh cửu, tương lai của sự cứu độ thành toàn mới cho ta thấy rằng, đức tin của thánh Giuse là đúng. Nhờ đức tin và lòng mến ấy, nhờ ánh mắt biết nhìn vào tương lai của ơn cứu độ mà thánh Giuse được đức tin mách bảo ấy, thánh Giuse đã để lại cho ta cả một chiều sâu nội tâm chứa đầy lòng mến, cả một bề dày kinh nghiệm chứa đầy nỗi trăn trở dằn vặt.
Lòng mến của thánh Giuse dạy ta nhảy vào tương lai đời mình, tương lai của Nước Chúa đang hình thành nơi chính tâm hồn ta bằng những cú nhảy từ cuộc sống hôm nay. Giống như thánh Giuse, ta đi trong hiện tại, nhưng hiện tại của ơn Chúa dường như vẫn chưa bao giờ mở cửa tương lai để ta khám phá, để chiêm ngưỡng. Tương lai vẫn vô định. Tuy nhiên, nếu thánh Giuse đã sống, đã tin, đã yêu mến, chúng ta vẫn sống, vẫn tin, vẫn yêu mến như Ngài. Chính trong tất cả những thăng trầm thời cuộc, ta vẫn cứ hoàn thành ơn gọi của mình, hoàn thành giây phút hiện tại Chúa ban như Chúa muốn, lúc đó, ta phóng mình vào tương lai, có sự nâng đỡ vô cùng của ơn Chúa. Bởi tương lai đời ta không thuộc về đất thấp, nhưng thuộc về trời cao, thì ta càng phải thánh hóa hết chuỗi ngày trên đất thấp này, mới mong tương lai trời cao sẽ thuộc trọn về ta.
Chưa nhìn thấy tương lai, ta cũng không thể nắm chắc một cách hiển nhiên giây phút hiện tại của đời mình. Thôi thì, chỉ xin noi gương thánh Giuse mà ngã vào vòng tay tình yêu của Chúa, để Chúa tiếp tục dìu đưa, để Chúa tự do hoàn thành thánh ý của Chúa trên cuộc đời ta.
Bởi nếu thời gian sống của thánh Giuse là chương trình được hình thành bởi sự chủ động của hai tác nhân: Thiên Chúa và chính bản thân thánh Giuse, thì hôm nay, nếu chúng ta chọn đường lối công chính của thánh Giuse mà sống, ta cũng sẽ tin chắc rằng cuộc đời ta cũng sẽ được vẽ bằng hai nét bút tuyện vời: Sự tác động của ơn thánh Chúa và sự chủ động hội nhập vào ơn Chúa của bản thân ta.
Nhân suy niệm Tin Mừng Chúa nhật IV mùa Vọng, giúp ta lắng nghe câu chuyện truyền tin cho thánh Giuse, để thêm một lần ta khám phá tấm gương thánh thiện, công chính của thánh Giuse mà học đòi bắt chước. Thánh Giuse dạy ta nhiều bài học quý giá. Ngài dạy ta sống trọn niềm tin tưởng và phó thác cho Chúa bằng một tình yêu toàn vẹn, không hề gợn chút nghi nan nào. Thánh Giuse dạy ta biết khiêm nhường, biết yêu đời sống thanh vắng để tìm khám phá thánh ý Chúa. Thánh Giuse dạy ta tìm sống thinh lặng, sống ẩn mình, sống thanh bần trong niềm bình an nhằm đón nhận tất cả mọi biến cố, mọi cảnh huống rơi vào giữa đời mình, gia đình mình. Thánh Giuse còn dạy ta yêu mến Chúa bằng hiến dâng trái tim yêu mến Chúa từng phút giây, trọn cuộc đời của mình… Thánh Giuse còn dạy ta rất nhiều bài học. Mỗi một người, khi chân thành chiêm ngắm thánh Giuse, đều có thể rút ra cho mình một bài học kinh nghiệm sống với Chúa và với con người.
Đối với người Do Thái, thì có con là một sự chúc lành của Thiên Chúa, còn son sẻ là dấu của kẻ bị Thiên Chúa bỏ rơi. Hơn thế nữa, son sẻ còn là một tình trạng tương đương với sự chết chóc. Thực vậy, chết là hết sống. Son sẻ là hết dòng sự sống. Tên tuổi sẽ bị dứt khỏi trần gian.
Quan niệm về đời sau của người Do Thái lúc bấy giờ còn rất mù mờ. Mọi hy vọng của họ là cuộc sống trần gian. Phần thưởng chính là dòng dõi nối tiếp mãi trên mặt đất này. Bởi đó việc tiếp tục có dòng dõi sau tai ương khốn quẫn đã được diễn tả bằng sức sống lại.
Thế nhưng, như lời Kinh Thánh đã xác quyết về Thiên Chúa: Tư tưởng của Ta không giống với tư tưởng của các ngươi và đường nẻo của Ta cũng không giống với đường nẻo của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng và đường nẻo của ta cũng cao hơn tư tưởng và đường nẻo các ngươi bấy nhiêu.
Chính vì thế, Thiên Chúa thường ghé mắt nhìn đến sự yếu hèn và bất lực, bởi đó mới nảy sinh những điều đáng ngạc nhiên trong hành động của Thiên Chúa. Ngài đã tỏ lộ quyền năng của Ngài trong sự bất lực. Đúng thế, sự đồng trinh của Đức Mẹ cũng là một cái chết, nhưng cái chết đó đã được Thánh Thần Chúa đem lại một sự sống mới. Đó cũng là điều diễn ra nơi thập giá với cái chết của Chúa Giêsu. Bởi vì sự phục sinh và sự sống mới, một sự sống dồi dào đã nẩy sinh từ cái chết đau thương của Ngài trên thập giá.
Đã từ lâu, Thánh Thần vẫn được giới thiệu như là nguyên nhân của sự sống. Khởi đầu, khi Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, thì thần khí đã bay lượn trên nước và làm cho mọi sự được thành hình. Adong được nặn từ bùn đất, nhưng nhờ Thần Khí của Thiên Chúa mà có sự sống. Thần Khí cũng trở thành sự sống của Adong mới. Một trinh nữ thụ thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần đã nói lên sự can thiệp của Thiên Chúa.
Phụng vụ ngày Chúa nhật hôm nay cho chúng ta cải cảm tưởng rằng Chúa Giêsu đang đi vào lịch sử nhân loại. Ngài chính là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài ở giữa chúng ta để cứu chuộc, để giải phóng, để dẫn chúng ta ra khỏi ách nô lệ tội lỗi.
Giáo Hội hôm nay chính là sự nối tiếp sự hiện diện hữu hình của Chúa giữa con người trong thế giới, một sự hiện diện cứu chuộc và giải thoát không phải chỉ về mặt thiêng liêng bằng cách trao ban các bí tích, mà hơn nữa một sự giải thoát toàn diện, khỏi tất cả những gì cản trở sự phát triển của con người và xã hội bằng sự dấn thân và liên đới với mọi nỗ lực xây dựng tình thương và công lý.
Ông đang toan tính như vậy, thì sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giuse, là con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”. (Mt. 1, 20-21)
Nhiều khi chúng ta làm hỏng kế hoạch của Thiên Chúa vì không biết được tính chất huyền nhiệm. Hôm nay, Tin mừng cho chúng ta thấy Giuse như chống lại đường lối huyền nhiệm của Thiên Chúa.
Giuse bị đặt trước sự kiện một con trẻ được cưu mang bởi một nữ đồng trinh. Đức Maria, vị hôn thê của ông, được chọn làm Mẹ theo ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa. Mẹ được chọn đi vào đường lối khác thường. Thái độ của Mẹ thế nào? Thái độ của người công chính ra sao? Không phải thứ công chính giữ theo luật pháp, cũng không theo ý niệm loài người của Maria. Công chính đây theo nghĩa riêng của Kinh thánh là hợp với thánh ý Thiên Chúa. Giuse công chính vì ông kính trọng công trình của Thiên Chúa và thực thi vai trò Thiên Chúa xếp đặt cho ông. Trong khi thánh Giuse chuẩn bị cho Maria hoàn toàn tự do theo đường lối nhiệm mầu của Thiên Chúa đã se định, thì Thiên Chúa đã làm cho ông khám phá ra rằng ông cũng giữ một vai trò thiết yếu đối với xã hội là bảo lãnh cho Đức Giêsu thuộc gia hệ ông. Thực vậy, chính nhờ ông, Đức Giêsu thuộc dòng Đavít. Ông đã làm tròn vai trò đó khi nhận Maria làm vợ, đồng thời bảo đảm cho con trẻ sắp sinh ra có cha trước luật pháp. Nhờ thế Thiên Chúa đã thực hiện kế hoạch đã định cho Đấng Cứu thế thuộc con dòng Đavít.
Khi nhận ra thân phận loài người chúng ta, Đức Giêsu cho chúng ta thấy rõ rằng chính trong lịch sử đời mỗi người chúng ta, trong cuộc sống hàng ngày Chúa Cha cũng thực hiện kế hoạch cứu độ của Ngài. Chúng ta có thể noi theo thái độ của người công chính như thánh Giuse không? Với con mắt đức tin, chúng ta có sẵn sàng luôn luôn chú ý tuân theo ý Chúa đang thực hiện trong đời sống chúng ta không?
Giữa lúc dân Israel đang bị lưu đầy ở Babylon, Thiên Chúa đã sai Yêrêmia loan báo một Tin mừng là Ngài sẽ ban cho họ một vị vua sẽ đưa dân lưu đầy trở lại quê hương và thiết lập một dân Israel mới. Vị vua ấy được thánh Matthêu giới thiệu là Đấng Emmanuel- Thiên Chúa ở cùng chúng tôi.
Ngay từ đầu, Thiên Chúa đã ở giữa dân Ngài. Ngài đã ở với họ trong áng mây, cột lửa, Ngài đã ở nơi họ trong Hòm Bia giao ước và nơi các nhân vật đặc tuyển. Nhưng vì muốn ở với họ một cách sâu xa hơn. Ngài đã trở nên Đấng Emmanuel- Thiên Chúa ở cùng chúng tôi.
Tuy nhiên, để có thể ở giữa loài người, Ngài đã muốn có sự cộng tác của con người. Đức Maria là người đầu tiên và gương mẫu của việc thực hiện kế hoạch Emmanuel. Đứng trước kế hoạch hoàn toàn trái ngược với hoài bão và mơ ước của mình, Người đã tự xoá bỏ mình và cúi đầu vâng phục. Thánh Giuse cũng vậy, sau khi đã được giải thích cho biết về kế hoạch thần linh, Người cũng đã sẵn lòng quên mình để cho ý định của Thiên Chúa được hoàn tất. Chính việc tự xoá mình và hoàn toàn giao phó đời mình cho Thiên Chúa đã làm cho tình yêu của các ngài sung mãn và đạt đến mức thiên giới mà không cần quan hệ giới tình.
Đấng Emmanuel- Thiên Chúa ở cùng chúng tôi vẫn đang làm cho nhân loại xoá bỏ những chia rẽ, đố kỵ, ngăn cách để được hợp nhất với nhau trong tình yêu, bởi vì, Ngài là Tình yêu, Ngài sẽ không thể tìm được nơi ở, bao lâu nhân loại còn đầy những ích kỷ, oán hận, tranh chấp.
Nhưng trên tất cả, Ngài muốn có một chỗ trong tâm hồn chúng ta. Ước gì chúng ta biết mở rộng lòng đón lấy Ngài, nên một với Ngài, nhờ đó Ngài có thể mãi mãi là Đấng Emmanuel cho ta và cho nhân loại hôm nay.
Con người, dù quyền cao chức trọng đến mức nào đi chăng nữa vẫn mang trong mình những giới hạn của phận người. Cảm thức trước giới hạn đó con người thường tìm đến vị thần linh, vị cứu tinh của đời mình để kêu cứu.
Thiên Chúa là Chúa, là vị cứu tinh của dân tộc Do Thái để rồi Ngài luôn dõi mắt theo nhìn hành trình đời người của đám dân Ngài chọn. Lúc ẩn, lúc hiện, lúc đồng hành, lúc khuất bóng nhưng mà hình như lúc nào Thiên Chúa cũng ở bên cạnh dân riêng của mình. Thiên Chúa luôn can thiệp trong hành trình cứu độ, hành trình đi trong sa mạc của dân Do Thái để cứu họ thoát khỏi sự dữ, sự chết.
Hôm nay, chúng ta được nghe Isaia thuật lại câu chuyện hết sức hấp dẫn. Thời ấy, người ta báo cho nhà Đavít rằng quân Aram đã đóng quân ở Épraim. Với cái tin rùng rợn ấy, Akhát rúng động như cây rừng rung rinh trước gió như sách ngôn sứ Isaia diễn tả. Akhát rúng động và không hề biết rằng Thiên Chúa sẽ ra tay cứu ông cũng như cứu dân. Qua Isaia, Thiên Chúa hứa rằng sẽ làm cho dân Giuđa phải khiếp sợ. Khi nghe Isaia nói như vậy, nhà vua cảm thấy bình an vì có Thiên Chúa ở bên ông, ở bên dân của ông.
Thiên Chúa thương dân Do Thái, Thiên Chúa thương Akhát đến độ còn hỏi vua: "Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh." Đứng trước tình yêu bao la, sự chở che, sự quan phòng của Thiên Chúa Vua Akhát trả lời: "Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa."
Nếu tiếp tục theo dõi những trang sách Isaia tiếp theo, chúng ta sẽ thấy một cách hết sức thiết thực về tình yêu mà Thiên Chúa dành cho vua Akhát cũng như cho dân. Thiên Chúa đã cho dân chiến thắng và qua miệng của Isaia còn hứa ban Đấng Cứu Độ như chúng ta vừa nghe: Chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuen.
Tâm tình của vua Akhát quả là một tâm tình dễ thương. Được Thiên Chúa yêu thương, được Thiên Chúa cho đòi hỏi nhưng ông lặng lẽ trước ân huệ, trước ơn cứu độ mà Thiên Chúa hứa ban cho dân Người. Giữa dòng người ồn ào và náo nhiệt, rúng động trước những biến cố của cuộc đời thì lại có những người bình tâm để nghe tiếng Chúa nói, nghe lời Chúa hứa trên cuộc đời của mình.
Giữa mùa Vọng này, hình ảnh hết sức đẹp của một người trông chờ Chúa đã hiện lên một cách hết sức dễ thương. Hình ảnh ấy đó chính là hình ảnh của Thánh Cả Giuse. Nhà nhà náo động, người người náo động thì Giuse hoàn toàn lặng lẽ. Thái độ lặng lẽ trước ơn cứu độ của Thiên Chúa của Thánh Cả Giuse chúng ta vừa nghe Thánh Matthêu thuật lại. Thánh Matthêu thuật lại cho chúng ta “gốc tích” của Đấng Cứu Độ trần gian.
“Đây là gốc tích của Đức Giêsu...”. Sau quyển sách gốc tích của Đức Giêsu Kitô, thì đây là một nguồn gốc khác được trình bày cho chúng ta. Chúa Giêsu, bám rễ sâu vào một lịch sử, trong một dân tộc, cũng là Đấng đến từ nơi khác. Giacob sinh Giuse, chồng của Maria, từ nơi bà, Chúa Giêsu sinh ra... Giuse đã đưa đứa trẻ sắp sinh nhập vào trong dòng dõi tổ tiên mình một cách hợp pháp một cách xác tín, một cách âm thầm và lặng lẽ. Từ ngày báo mộng, Thánh Giuse bước vào, nhập cuộc vào chương trình cứu độ mà Thiên Chúa mời gọi Ngài.
Để Con Thiên Chúa làm người, cần tiếng Xin Vâng của Maria, nhưng cũng cần tiếng Xin Vâng khiêm tốn của Giuse. Nhận Maria đang mang thai về nhà mình, và đặt tên cho Hài Nhi trong tư cách một người cha: những hành động ấy đã cho Giuse một chỗ đứng đặc biệt trong lịch sử cứu độ. Chúng ta không thể đoán được điều gì sẽ xảy ra, nếu như Giuse cứ cương quyết bỏ Đức Maria.
Nhờ Giuse, Chúa Giêsu đã là người thuộc nhà Đavít. Những lời hứa của Thiên Chúa đã ứng nghiệm (x. 2Sm 7,13).
Thánh Giuse có thể tố cáo Maria dựa trên luật Israel lúc đó, nhưng Ngài không làm như vậy. Giuse muốn trốn đi vì việc này có thể được mọi người xung quanh hiểu như là một hành động bỏ trốn trách nhiệm làm cha và trên bình diện siêu nhiên thì có thể được hiểu như là việc chối từ cộng tác với chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa đã muốn cho Giuse một cơ hội, nên đã sai sứ thần đến xác nhận cho Giuse biết là: “Đừng ngại nhận Maria về làm Bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần”, và thiên thần mạc khải thêm về thân thế của Đấng Cứu Thế đang được cưu mang trong cung lòng Mẹ Maria và mời gọi Giuse cộng tác và Ngài sẽ đặt tên cho Con Trẻ là Giêsu. Việc đặt tên cho con là quyền của người cha, như vậy khi mời gọi Giuse đặt tên cho Con Trẻ không do chính máu huyết của mình, có nghĩa là mời gọi Giuse chấp nhận quyền hay đúng hơn sứ mạng làm cha của Con Trẻ trên bình diện pháp lý.
Thánh Giuse có thể từ chối, nhưng Ngài đã không từ chối mà vâng phục lời thiên thần truyền, Ngài chu toàn vai trò Thiên Chúa muốn trong việc cứu rỗi. Khi Mẹ Maria sinh Con Trẻ thì Giuse đặt tên Con Trẻ là Giêsu. Ngoài mẫu gương hành động của Giuse, Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nơi bài đọc II nhắc chúng ta nhớ đến một mẫu gương hành động trước mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, đó là mẫu gương của thánh Phaolô tông đồ, một khi chấp nhận mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, thì con người không thể nào có thái độ dửng dưng được nữa, nhưng phải để cho Con Thiên Chúa Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô chiếm lấy, biến mình trở thành môn đệ, thành người cộng tác với Chúa để mang ơn cứu độ đến cho mọi người, mọi dân tộc.
Thực tế, Hài Nhi Giêsu đến từ một Đấng khác: đứa con bà sinh ra là bởi Chúa Thánh Thần. Vai trò là cha nuôi của Chúa Giêsu với Thánh Cả Giuse không phải là chuyện đơn giản. Phải hết sức trầm lắng mới có thể hiểu được ý muốn của Thiên Chúa trên cuộc đời của Ngài. Giuse, người công chính, sẽ đặt tên cho Hài Nhi: bà sẽ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu. Tên gọi có ý nghĩa, cho biết Hài Nhi không phải là hậu duệ như những người khác, đóng kín trong những giới hạn của khả năng loài người: bởi chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi. Ai có thể giải thoát khỏi tội lỗi, nếu không phải là Thiên Chúa? Lời ngôn sứ nhận lấy đầy đủ tất cả ý nghĩa: người ta sẽ gọi tên Ngài là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi. Chúa Giêsu ghi tên vào một gia phả, nhưng Ngài làm nổ tung gia phả đó. Chính Thiên Chúa bước vào trong thế giới loài người chúng ta.
Khi đón nhận Đấng Cứu Độ trần gian rồi, Giuse vẫn giữ một thái độ sống hết sức mẫu mực và lặng lẽ để làm gương sáng cho đứa con yêu của Ngài bởi lẽ Ngài hiểu được tầm quan trọng của hình ảnh người cha đối với việc tạo thành nhân cách của Hài Nhi. Chính nhờ gần gũi với Giuse mà Chúa Giêsu sẽ học biết người cha là gì. Chính nơi Giuse, Chúa Giêsu nhìn thấy phản ánh nhân loại tình phụ tử của Thiên Chúa. Biết nói với chúng ta rõ ràng về Cha của Ngài, phải chăng khi đã nhìn thấy Giuse mà Ngài đã có kinh nghiệm về sự âu yếm của cha: “Ai trong các anh, nếu đứa con xin bánh mà lại cho một hòn đá ư? Hay, nếu nó xin một con cá, mà lại cho nó một con rắn?” (7,9-10). Ngài đã học biết rằng, các người cha dưới đất biết cho con cái mình những sự tốt lành. Ngài đã học biết điều đó nơi thánh Giuse. Qua bài học lặng thầm của Thánh Giuse để lại, Chúa Chúa Giêsu như được củng cố thêm tình thương của Cha để Ngài bước vào cuộc khổ hình thập giá một cách hiên ngang hơn, một cách quyết liệt hơn.
Đối diện với những thử thách cam go của cuộc đời, thánh Giuse vẫn luôn giữ thái độ im lặng. Một thái độ thầm lặng để vâng theo ý Chúa. Người không lên tiếng, ăn to nói lớn, Người không bào chữa cho những hành động của Người, nhưng tất cả đều theo ý Thiên Chúa. Thánh Giuse đã im lặng, chấp nhận dù rằng người cũng rất trăn trở, băn khoăn, bồn chồn, lo lắng. Mọi biến cố xẩy đến trong cuộc đời của thánh Giuse đều được Người chấp nhận với lòng tin thâm sâu: Người hy sinh lợi ích riêng cho kế hoạch, cho chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Sự thinh lặng thánh, sự ngụp lặn âm thầm theo Thánh ý Chúa của thánh Giuse gợi lên cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta bài học hết sức ý nghĩa. Vì chỉ có sự phó thác thẩm sâu nơi bàn tay nhân từ của Thiên Chúa với tất cả đức tin sâu xa, con người mới nhận ra đôi mắt nhân hiền, trái tim quảng đại và tình thương vô biên của Thiên Chúa đối với từng người. Thánh Giuse đã có mặt trong mọi lúc nguy biến mà Chúa Giêsu và Đức Mẹ cần đến, nhưng tới thời Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai thì cuộc đời của thánh Giuse cũng bắt đầu chấm dứt nơi trần gian này. Sự thinh lặng kéo dài suốt cuộc đời của thánh Giuse từ lúc Người được sinh ra cho đến ngày Người nhắm mắt xuôi tay. Sự thinh lặng thánh của thánh Giuse diễn tả cuộc đời của một con người hoàn toàn thuộc về Chúa, cho Chúa và vì Chúa và như thế, thánh Giuse là mẫu gương tuyệt vời cho mọi người noi theo.
Những ngày chờ đón Đấng Cứu Độ đến trần gian ắt hẳn mở ra nhiều tâm tình, nhiều thái độ, nhiều tình cảm nhưng chắc có lẽ tâm tình âm thầm và trầm lắng của Thánh Giuse là tâm tình, là thái độ hết sức dễ thương mà Thiên Chúa muốn nơi chúng ta. Chỉ trong âm thầm, chỉ trong chịu đựng những đau khổ chúng ta mới có thể hiểu được Thánh ý tuyệt vời mà Thiên Chúa tô vẽ trên cuộc đời mỗi người chúng ta.
Bắt đầu bài trích Phúc Âm hôm nay, Thánh Mátthêu đã giới thiệu: “Sau đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô...”. (Đức Giêsu Kitô sinh ra thế này - Et voici comment Jésus Christ fut engendré...bản dịch của Cha Thuấn, La Bible de Jérusalem) (Mt 1,18).
Khi thánh sử Mátthêu mở đầu Phúc Âm của ngài, ngài đã trang trọng viết: “Đây là gia phả Đức Giêsu Kitô, con cháu vua Đa-vít, con cháu ông Áp-ra-ham”. (Gia phả Đức Giêsu Kitô, con Đa-vít, con Abraham. – Généalogie de Jésus Christ, fils de David, fils d’Abraham. Bản dịch của Cha Thuấn, La Bible de Jérusalem). (Mt.1,1-17).
Người xưa có câu: “vô tri bất mộ”. Không biết không yêu.Trong cuộc sống, cũng không ai đặt niềm tin vào người mà mình không hề biết “gốc tích” người đó. Làm sao ta có thể an lòng đặt niềm Tin Yêu vào một người mà ta không biết gì về “lý lịch” ?
Nên, không phải vô tình mà thánh Mátthêu mở đầu sách Tin Mừng, ngài đề cập đến hai lần “gốc tích” của Chúa Giêsu Kitô. Bởi vì, để dọn đường cho Đức Tin độc giả, thánh Mátthêu muốn độc giả hiểu rõ về Chúa Giêsu. - Đức Giêsu, Ngài từ đâu đến? Đức Giêsu: nhân vật lịch sử.
Không một sử gia nào ngày hôm nay còn nghi ngờ tính chất lịch sử của Chúa Giêsu, khái niệm Ngài không phải là một nhân vật đã sống thực sự trong lịch sử không còn giá trị gì trên phương diện sử học.
Ngay cả những tranh luận thời xưa, Celse ở thế kỷ thứ hai, Porphyre ở thế kỷ thứ ba đã qui tụ nhiều lập luận chống lại Kitô giáo, dựa trên sự nghiên cứu sâu rộng về kinh Thánh, về truyền thống truyền miệng; nhưng các ông không hề nghi ngờ gì về thực tại của những lời chứng do các môn đệ đã biết Chúa Giêsu tuyên xưng, hay những lời của Phao-lô, chứng nhân và văn sĩ Kitô hữu đầu tiên. Sự sống lịch sử của Chúa Giêsu cũng không bị đặt nghi vấn bởi truyền thống Do Thái, và ngay cả kinh Coran cũng coi Ngài như một vị tiên tri loan báo đấng Mahomet của Hồi Giáo.
Trong những văn kiện ngoài Kitô giáo, chiến tranh Do Thái (la guerre Juive) và những Cổ truyền Do Thái (les antiquités Judaiques), được soạn thảo bởi sử gia Do Thái Flavius Josèphe, có nói hai lần đến sự hiện hữu của Chúa Giêsu.
Trong những cổ truyền Do Thái (XX & 200), Flavius nhắc đến cuộc tử đạo của Jacques năm 62: Vị giáo quyền Anan triệu họp đại hội những thẩm phán để xử án jacques, anh em của Giêsu còn gọi là Kitô, và một phạm nhân khác. Họ bị kết tội đã vi phạm Luật Thánh và bị kết án tử hình bằng ném đá. Bản văn này cần hai chú thích sau: thứ nhất là chữ dịch anh em phải được hiểu theo nghĩa của ngôn ngữ nguyên văn (acception sémitique), nó được dùng để chỉ những người cùng gia đình, họ hàng, bạn bè; thứ hai là chữ Kitô, dưới ngòi bút của tác giả ngoại giáo và thân Roma này, được dùng theo nghĩa xấu để chỉ những người hay gây rối loạn ở vùng Judée thời đấy.
Trong chiến tranh Do thái (Flavius Josèphe XVIII, &63-64), ông có viết: Trong thời đó có Giêsu, một người khôn ngoan, nhưng có nên gọi như thế hay không, bởi vì đó là một người làm nhiều điều phi thường, một bậc thầy đối với nhiều người muốn tìm chân lý. Nhiều người Do Thái và Hy lạp theo ông. Đó là Đức Kitô. Khi ông bị tố cáo và bị Philatô kết án đóng đinh trên thập giá, những người theo ông vẫn không từ bỏ. Bởi vì ông sống lại trong ngày thứ ba; nhiều vị tiên tri thần linh đã nói về những điều này và muôn vàn những điều kỳ diệu khác về ông. Cho tới bây giờ, nhóm người Kitô vẫn còn tồn tại. (Theo Le Figaro Magazine, 01.10.1999, Nguyễn Văn Thành chuyển ngữ).
Còn rất nhiều bằng chứng, để có thể tin chắc một người mang tên Giêsu như Tân Ước ghi lại, đã từng có mặt trong lịch sử nhân loại. Đó không phải là một nhân vật huyền thoại, được tưởng tượng ra để phục vụ cho những lý do trần tục của nhân loại.
Vì Giêsu, Ngài là một nhân vật từng có mặt trong lịch sử nhân loại, nên Ngài phải có “gia phả”, có “gốc tích” rõ ràng, Ngài là con ai, cha mẹ là ai, sinh ra ở đâu, quê hương, cuộc đời và sự nghiệp Ngài như thế nào. Đó là “nhân tính” của Đức Giêsu.
Nhưng, Chúa Giêsu không chỉ là một nhân vật lịch sử bình thường. Ngài không phải chỉ là một vĩ nhân. Ngài còn là: Thiên-Chúa-làm-người.
Đức Giêsu: “Thiên-Chúa-làm-người”.
“Sau đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô: bà Maria, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần.” (Mt.1,18).
Lý lịch của Chúa Giêsu rất hợp lệ theo thủ tục của con người, nhưng không tự nhiên theo kiểu con người, vì Ngài là Thiên Chúa. Ngôi Hai xuống thế làm người, Ngài là Thần Linh Sự Sống, là nguồn sống, Ngài là Đấng ban phát sự sống, Ngài đến để tái tạo sự sống cho con người, Ngài không thể được hình thành từ máu huyết phàm nhân.
Thánh Giuse là “người công chính”, chắc chắn đã được Thiên Chúa mạc khải chương trình huyền nhiệm về Chúa Cứu Thế Giáng Sinh mà ngài có bổn phận nuôi dưỡng, nhưng, trong sự hiểu biết hạn hẹp của một phàm nhân, hẳn ngài luôn cần Thiên Chúa soi sáng hướng dẫn thêm, qua việc Thiên Thần đến với ngài trong giấc mơ, để ngài an tâm thực thi sứ mạng cao cả của ngài, là cha nuôi của Đấng Cứu Thế.
“Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuen, nghĩa là "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta." Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.” (Mt.1,23-24).
Emmanuen, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, đây mới đích thực là “gốc tích” của Giêsu. Giêsu, không phải chỉ là một “vĩ-nhân-ở-cùng-chúng-ta”, nhưng là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. Và nhân loại phải nhận ra “gốc tích” đích thực này của một con người lịch sử mang tên Giêsu.
Con người mang tên Giêsu ấy, có “gia phả” từ ngọn nguồn của mọi sự sống. Con người ấy là Thiên Chúa đã lặng lẽ đến với nhân loại để “ở với nhân loại”, “đồng hành với nhân loại”, mà nhân loại đã không nhận ra “gốc tích” thật sự của Ngài. Đó là “Thiên Tính” của Đức Giêsu.
“Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền làm con Thiên Chúa” (Ga.1,12).
“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga.1,14).
Đón tiếp Thiên Chúa Giáng Sinh.
Lễ Giáng Sinh ngày nay tưng bừng đèn hoa ngày hội và gần như cả cộng đồng nhân loại biết đến. Nhưng phần lớn nhân loại mừng Sinh Nhật Chúa Giêsu khi chỉ được biết Chúa Giêsu như một nhân vật lịch sử và dừng lại ở sự kính trọng Ngài như một vĩ nhân. Nhưng, ngày lễ Giáng Sinh chỉ thật sự đúng ý nghĩa khi con người chào đón Ngài là “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Niềm Tin ấy chỉ có được khi con người nhận ra “gốc tích Đức Giêsu là Thiên Chúa”.
Và, như thế, đón mừng Giáng Sinh, là đón mừng Tình Yêu Thiên Chúa dành trọn vẹn cho con người với Mầu Nhiệm Nhập Thể.
“Emmanuen, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Mt.1,23); hay “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga.1,14), đó là hồng ân lớn lao vô bờ bến mà không một ai trong kiếp nhân sinh đầy khổ ải này lại không mong mỏi đợi chờ.
Yêu nhau trăm sự chẳng nề. Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng. Cao vời nào cao vời như Thiên Chúa, thấp hèn nào như thấp hèn kiếp bụi tro, nhưng “một trăm chỗ lệch” ấy đã được “kê bằng” để Thiên Chúa đến với con người, ở giữa con người, sống như con người, chỉ trừ tội lỗi. Chỉ có Đức Giêsu Kitô với hai bản tính Thiên Chúa và con người, Ngài mới thật sự là nhịp cầu nối trời và đất. Thiên Chúa cúi xuống với con người để con người được vươn lên tới Thiên Chúa.
Không có Tình Yêu nào không đòi hỏi sự đồng hành, và sự đồng hành của Thiên Chúa dành cho con người gần gũi và chia sẻ đến mức không thể hơn thế được.
Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. (Pl.2,6-7).
Quả thực, chỉ có Tình Yêu ngự trị vũ hoàn này, sức sống mới thật sự hồi sinh, và hạnh phúc mới tìm lại được trong mọi con tim nhân thế.
Vì Chúa đến, không phải đem lại cho con người những cuộc vui chóng tàn hay những lợi lộc chóng qua, nhưng Ngài đến để đem lại cho con người những giá trị vĩnh cửu mà nếu không có Ngài, tất cả chỉ là khát vọng.
Lòng chúng ta sẽ trống rỗng nếu chúng ta không tiếp đón Ngài là Thiên Chúa Nhập Thể trong chính tâm hồn chúng ta. Ngài đến để đi vào mọi ngõ ngách tâm hồn chúng ta, nơi mà chúng ta chưa bao giờ dám chia sẻ cùng ai, đồng hành cùng ai. Và điều kỳ diệu sẽ đến với chúng ta khi mỗi bước đi của chúng ta là mỗi bước an bình và đầy hoan lạc trong ánh sáng Tình Yêu của Ngài. Vì như thế mới đúng với danh xưng của Ngài: Em-ma-nu-el: Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Hiểu được Đức Giêsu Kitô là ai, Ngài từ đâu đến, con người mới biết cách tiếp đón Ngài và đón tiếp Ngài với trọn vẹn niềm Tin Yêu và hạnh phúc.
Lạy Chúa, Này đây Máng Cỏ lòng con, xin Ngài ngự đến. Nghèo hèn và bé nhỏ, không xứng với Vua Trời Đất, nhưng con tin rất vừa với Chúa Tình Thương. Amen.
Việc Chúa Ngôi Hai đến trong thế gian là một khởi đầu cho một kỷ nguyên mới. Tuy nhiên cái mới nối tiếp cái cũ chứ không hủy bỏ. Vì Cựu Ước đã chuẩn bị cho Tân Ước. Sự hiện diện của Giuse là bản lề cho sự nối kết này. Nhờ Giuse mà Chúa Giêsu được thuộc dòng dõi Đavít: “Đây là gốc tích của Chúa Giêsu... Đức Kitô con vua Đa-vít, con của Abraham... Giacob sinh Giuse, chồng Maria, từ nơi bà sinh ra Đức Giêsu, cũng gọi là Đức Kitô...”
Để cắt nghĩa vai trò tế nhị của Giuse: Sở dĩ thánh Giuse nhận là chồng của bà Maria và cha của Chúa Giêsu cách hợp pháp mà không phải là bất đắc dĩ là vì ông là người công chính. Công chính là người sống theo thánh ý Thiên Chúa. Giai đoạn này được coi như một màn kịch: một hoàn cảnh bế tắc: sinh ra mà không có cha (người mẹ sẽ bị ném đá chết, chương trình Thiên Chúa sẽ bị bế tắc hay sao ?). Việc Giuse nhận làm cha nuôi theo lời Thiên Thần truyền tin cho ông , đã gỡ rối cho sự bế tắc nầy (thế là Chúa Giêsu ra đời một cách hợp pháp). Bây giờ chỉ còn việc thực hiện sứ mạng nữa thôi: Khi thức dậy, Giuse đã thực hiện điều Thiên Chúa truyền: ông rước vợ về nhà mình. Vì thế, trong chương trình của Thiên Chúa, Giuse có một chỗ đứng rất quan trọng: vừa làm vai trò bản lề giữa Cựu và Tân Ước, vừa là công tác viên tích cực không thể thiếu được trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa.
Nhưng trọng tâm bài Tin Mừng hôm nay không phải là ông Giuse mà chính Chúa Giêsu gọi là Emmanuel (Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-tôi). Ngài có hai nguồn gốc: nhờ Giuse và Maria mà Ngài là con Đa-vít cách hợp pháp, nhưng đồng thời Ngài cũng ra đời bởi phép Chúa Thánh Thần. Qua câu: Đây là nguồn gốc... Thánh sử Mátthêu muốn cho thấy nơi Đức Giêsu có hai bản tính rõ ràng. Trong Ngài đất trời đã được nối lại với nhau; Thiên Chúa và con người lại được giao hòa. Vì thế Chúa Giêsu gọi ông Giuse là cha đồng thời Ngài cũng là con Đấng tối cao.
Giuse là cha nuôi của Chúa Giêsu, điều đó nói gì với chúng ta hôm nay? nếu Giuse đã săn sóc giữ gìn Chúa Giêsu, thì ngày nay ngài cũng đóng vai trò trước mặt Thiên Chúa cho chúng ta, vì chúng ta là Kitô hữu, thuộc Nhiệm Thể Chúa Kitô. Ngài tiếp tục là cộng tác viên của Thiên Chúa trong việc cứu rỗi chúng ta. Biết bao nhiêu lần trong lịch sử Giáo Hội, thánh Giuse đã tỏ ra thật sự là cha tinh thần của rất nhiều con cái, khi họ kêu cầu người.
Thánh Giuse đưa người lầm lạc trở về.
Một cha xứ ở Pháp kể rằng: Từ 17 năm rồi, có một người lạc đạo đến cư ngụ trong giáo xứ của ngài, và ngài đã lui tới khuyên nhủ, nhưng vô hiệu.
Sau đó một thời gian anh ấy lâm trọng bệnh. Nghe tin, cha lại đến khuyên bảo, nhưng cũng vô hiệu. Đến giờ dâng lễ, cha phải trở về. Trước khi mặc áo lễ, cha ra quỳ trước bàn thờ thánh Giuse, cầu nguyện cho kẻ lầm lạc. Lễ xong, cha lại trở lại thăm anh ta. Và kỳ lạ thay, lần này, anh ta đã thay đổi rõ ràng. Cha vừa lên tiếng chào thì anh đã vui vẻ đáp lại và tỏ dấu sám hối ăn năn thật lòng. Anh đã xin chịu các bí tích cần thiết và sau nửa ngày thì anh ta qua đời cách bình an.
Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta, Chúa đã nhập thể làm người để con người làm con Thiên Chúa. Ðây là một ân huệ cao qúy mà Chúa đã dành cho loài thụ tạo chúng ta. Ngài chính là Emanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài còn tự đồng hoá mình trong những mảnh đời bất hạnh mà chúng ta gặp gỡ bên đường.
Người ta kể rằng: có một người đạo đức thánh thiện kia, đêm ngày hằng ao ước được tiếp đón Chúa một lần trong đời. Với ước nguyện chân thành, Thiên Chúa đã nói với ông qua giấc ngủ: "ngày mai Ta sẽ đến viếng thăm ông". Thế là ông đã bắt đầu một ngày mới tràn đầy niềm vui vì nỗi niềm khát khao của mình sắp được toại nguyện. Ông chuẩn bị phòng ốc sạch sẽ, chuẩn bị tiệc tùng thiết đãi Chúa và ra tận ngoài cổng để đón tiếp Chúa. Thế rồi khi ánh bình minh xuất hiện ông thấy một lão ăn xin, rách rưới tả tơi đến xin ông chút cơm bánh lót dạ, ông đã vô tình xua đuổi vì ông đang nóng lòng chờ đợi vị thượng khách. Rồi tiếp sau là một người lữ hành, nỡ đường nỡ bước đang cần sự nâng đỡ của ông, nhưng ông vẫn từ chối. Và khi bóng chiều đã ngả sau lưng đồi ông lại thấy một phụ nữ ốm yếu, bệnh tật đến nương nhờ ông đã làm ngơ trước lời van xin. Cuối cùng, đêm về ông trách Chúa, tại sao không đến thăm ông như đúng lời đã hứa. Chúa đã nói với ông: "Hôm nay, Ta đã đến với ngươi ba lần nhưng đều bị ngươi khước từ".
Vâng, Chúa đã đến và ở giữa nhân loại đã được các tiên tri loan báo qua mọi thời đại, đến nỗi một nhà thơ đã từng thốt lên: "Giêsu - Giêsu không bỗng dưng mà có - Cả pho Cựu ước còn đó - Trăn trở bao đời mới sinh hạ Giêsu". Và khi thời gian đến hồi viên mãn, ngài đã hạ sinh làm người và ở giữa chúng ta. Ngài không tự nhốt mình trong một cung điện nguy nga, tráng lệ, nhưng sinh ra giữa đám dân nghèo cùng cực, Ngài ở giữa chúng ta để chia sẻ cảnh đời tha hương khốn cùng nhất của nhân loại là "sinh vô gia cư - chết vô địa táng". Ngài ở giữa nhân trần để chia sẻ cảnh đời vốn dĩ vô thường và lắm nổi trôi, con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng chính Ngài lại không có nơi gối đầu". Ngài ở giữa chúng ta để trao ban tình yêu của mình cho những người bất hạnh vì ốm đau, bệnh tật, bị ngược đãi, bị bỏ rơi. Ngài còn dành một tình yêu đặc biệt cho những người tội lỗi là những người thu thuế và gái điếm, vì sứ mệnh của Ngài đến trần gian là để cứu vớt những gì đã mất.
Kính thưa qúy ông bà và anh chị em,
Lời báo mộng của thiên sứ với thánh Giuse dường như vẫn vang vọng nơi tâm hồn chúng ta, Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta, ngài đang hiện diện nơi những người nghèo đói, tật nguyện, nơi những người bất hạnh, bị ngược đãi, bị bỏ rơi, Ngài đang cần chúng ta gạt ra ngoài những toan tính trần thế, những nghi nan, khó khăn để mạnh dạn và quảng đại đón nhận những anh em hèn yếu, đói khổ đang cần sự trợ giúp của chúng ta. Vâng chính Ngài đã đồng hoá mình với tất cả những người khốn khó đó, vì chính Ngài đã nói: "Hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc hãy vào hưởng Nước Trời là gia nghiệp đã dành sẵn cho các người, vì khi xưa Ta đói, Ta khát, Ta trần truồng, bị bỏ rơi, tù đầy, ngược đãi các ngươi đã cho ăn cho uống và tiếp rước.
Song le, Chúa Giêsu cũng đang cần chúng ta trở nên dấu chỉ cho sự hiện diện của Chúa giữa thế giới hôm nay. Nếu ngày xưa, Chúa Giêsu đã cần sự cộng tác của thánh Giuse để ngài có một vị trí trong xã hội, được sinh ra trong một gia đình, một dòng tộc vua Davít, thì ngày nay, Ngài cũng cần sự cộng tác của chúng ta để Ngài lại tiếp tục sinh ra giữa dòng đời hôm nay. Nơi nào có sự hiện diện của Chúa nơi đó có yêu thương, nơi nào có sự hiện diện của Chúa nơi đó có an bình hạnh phúc. Thực vậy, con người ngày nay đang cố gắng bon chen để dành cho mình có lắm của nhiều tiền, có một địa vị cao trong xã hội đến nỗi sẵn sàng chà đạp lên anh em mình, bất chấp lề luật của Chúa nên chính họ luôn mất bình an và làm cho cuộc sống chung quanh trở nên nặng nề vì nghi kỵ, ghen tương và hận thù.
Hôm nay, Chúa vẫn tha thiết mời gọi chúng ta hãy để cho Chúa được tiếp tục hiện diện trong cuộc đời chúng ta, và trong môi trường sống quanh ta. Hãy để cho Chúa làm chủ cuộc sống của mình bằng việc tuân hành thánh ý Chúa, đừng sợ những nghi nan, những khó khăn khi phải tuân theo thánh ý Chúa, vì chính Chúa sẽ tháo gỡ những nghi nan và ban ơn bình an cho những ai thành tâm thiện chí sống theo lời Ngài. Noi gương thánh Giuse, mỗi người chúng ta hãy biết đón nhận Chúa vào trong cuộc đời mình và qua đời sống tuân hành thánh ý Chúa, chúng ta gieo vãi niềm vui và sự an bình của Chúa cho anh chị em chung quanh. Ước gì trong mùa giáng sinh năm nay, lời cầu chúc Emmanuel không chỉ là Thiên Chúa ở cùng chúng ta mà ở cùng anh chị em chung quanh chúng ta. Xin Chúa Giêsu là Ðấng Emmanul luôn hiện diện sống động trong cuộc đời của từng người chúng ta, xin Ngài ban tràn đầy niềm vui ân thánh trong ngày mừng Chúa giáng sinh. Amen.
Việc đặt tên cho con là việc quan trọng đối với các đôi vợ chồng. Khi có con sắp chào đời, hai vợ chồng bàn bạc với nhau để chọn cho con mình một cái tên thật ý nghĩa, thật đẹp, thật hay.
Qua việc đặt tên, cha mẹ gửi gắm ước vọng của mình vào đó. Tỷ như khi đặt tên cho con là Phúc, Đức, Tài, Lộc… cha mẹ cầu mong cho con mình sau nầy đạt được những điều tốt đẹp y như tên gọi của các em.
Trích đoạn Tin Mừng theo thánh Matthêu trong Chúa Nhật thứ tư mùa Vọng nầy đề cập đến tên gọi mà Thiên Chúa Cha đã chọn cho Ngôi Lời nhập thể trước khi Người đầu thai trong lòng Mẹ Maria. Tên gọi nầy đã được ngôn sứ I-sai-a tiên báo từ hơn bảy trăm năm trước: “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta." (Mt 18,23)
Đây là một tên gọi thật ý nghĩa; tên gọi nầy nói lên ước vọng của Thiên Chúa là muốn ở mãi với loài người khắp mọi nơi, suốt mọi thời cho đến tận cùng thời gian.
Đức cha Gaillot có nhận định rất hay: “Sống rộng lượng là tốt, nhưng sống-với tốt hơn; công việc từ thiện là cần thiết, nhưng hiện-diện-bên-cạnh cần thiết hơn.”
Đúng thế, dù chúng ta có rộng lượng với người nghèo khổ bao nhiêu cũng không bằng đến sống-với họ, chia sẻ buồn vui cay đắng với họ. Dù chúng ta có làm bao nhiêu việc từ thiện để giúp cho người đau khổ cũng không bằng đến hiện-diện-bên-cạnh họ trong những lúc đau thương.
Vì yêu thương loài người quá đỗi nên Thiên Chúa muốn sống-với con người, muốn hiện-diện-bên-cạnh con người mọi lúc mọi nơi. Danh hiệu Em-ma-mu-en gói trọn ước vọng của Thiên Chúa muốn ở mãi với loài người.
Ước vọng nầy cũng được Chúa Giêsu khẳng định lại khi Người sắp từ giã các môn đệ: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28,20)
Để thực hiện ước muốn ở với loài người, Ngôi Hai Thiên Chúa đã vượt qua khoảng cách gần như vô tận giữa trời và đất để ở cùng chúng ta, đã mang thiên tính cao cả của Thiên Chúa hòa chung với nhân tính hèn yếu của con người, để chia sẻ thân phận đau thương của kiếp người.
Ngay cả khi Chúa Giêsu được Chúa Cha vinh thăng trên các tầng trời, chấm dứt sự hiện diện hữu hình bị giới hạn bởi không gian và thời gian ở trên mặt đất, thì Người vẫn tiếp tục hiện diện cách thiêng liêng trong tâm hồn của các tín hữu và trong Hội Thánh.
- Chúa Giêsu tiếp tục ở với chúng ta qua Lời của Người: chính Thiên Chúa ngỏ lời với ta khi Giáo Hội công bố Lời Chúa.
- Chúa Giêsu tiếp tục ở với chúng ta khi chúng ta họp nhau nhân danh Người: “Khi có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, Thầy sẽ ở giữa những người đó.”
Chúa Giêsu cùng với Chúa Cha và Thánh Thần thường xuyên cư ngụ trong lòng những kẻ yêu mến và tuân giữ Lời Người: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.” (Ga 14,23)
Thế nhưng bấy nhiêu cũng chưa thoả lòng yêu thương nên Chúa Giêsu còn lập nên bí tích Thánh Thể, hiện diện thực sự dưới hình bánh rượu để cho chúng ta được rước Chúa vào lòng, để chúng ta được trở nên đồng huyết nhục với Chúa, được sống trong Chúa và Chúa sống trong chúng ta.
Nguyện vọng tha thiết nhất của Thiên Chúa là ở với loài người mọi ngày cho đến tận thế. Và điều đau lòng nhất của Thiên Chúa là bị nhân loại từ khước như thánh Gioan nhận định trong Tin Mừng thứ tư. “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.” (Ga 1, 10-11)
Mỗi ngày, chúng ta đang giáp mặt với nhiều hạng người, kẻ xa, người gần, đang đến với chúng ta. Họ là hiện thân của Đức Em-ma-nu-en. Ước gì chúng ta biết mở rộng trái tim để đón tiếp Người và dành cho Người một chỗ đứng quan trọng trong lòng chúng ta.
Chúng ta đã bước vào Chúa nhật cuối cùng của Mùa Vọng. Ở Chúa nhật này, Giáo hội mong muốn chúng ta thực sự chuẩn bị tâm hồn xứng đáng cho Đại Lễ Giáng Sinh sắp tới. Bởi thế, Giáo hội đưa ra tấm gương rất tiêu biểu như là khuôn mẫu cho một tâm hồn được chuẩn bị sẵn cho Con Thiên Chúa giáng trần. Khác Chúa nhật năm B và C, Giáo hội đưa ra khuôn mẫu là Mẹ Maria. Chúa nhật IV Mùa Vọng năm A này, Giáo hội muốn chúng ta hướng lòng về một khuôn mặt đặc biệt khác, đó là Thánh Giuse với biến cố được gọi là “Truyền tin cho ông Giuse”.
Vẻn vẹn chỉ 8 câu Phúc Âm ngắn gọn mà đã toát lên gần như trọn vẹn khuôn mặt mẫu mực và rất đáng yêu của Thánh Giuse. Chuyện bắt đầu từ việc Mẹ Maria mang thai mà Thánh Giuse không hay biết gì về nguồn gốc. Thánh Giuse thấy thế thế định bỏ Mẹ Maria, nhưng Ngài được giải thích qua giấc mộng. Thế là Thánh Giuse không bỏ Đức Mẹ nữa mà đón Mẹ về nhà mình. Chuyện chỉ có thế thôi nhưng qua sự kiện này, nhân đức của Thánh Giuse được dịp tỏa sáng. Tỏa sáng như thế nào? Thánh sử Matthêu đã trả lời cho chúng ta khi ngài nói về Thánh Giuse một cách rất ngắn gọn: “Ông Giuse, chồng bà, là người công chính”. Nếu không phải là một người công chính, thì sự việc đã xảy ra khác nhiều. Nếu không phải là người công chính thì không ai có thể biết số phận con trẻ trong lòng Mẹ Maria sẽ ra sao? nếu không phải là người công chính thì chương trình cứu độ của Thiên Chúa làm sao có thể tiếp tục một cách tốt đẹp?
Thánh Giuse là người công chính, nên đã định tâm bỏ Đức Mẹ. Ông định bỏ Đức Mẹ ít là vì hai lý do này: trước hết vì là người chồng, nên ngài hiểu vợ mình: “Ông Giuse, chồng bà”. Thánh Giuse hiểu Đức Maria hơn ai hết, nên ngài tin Đức Mẹ. Ngài biết thai nhi trong lòng mẹ do một quyền năng siêu nhiên nào đấy can thiệp và dường như càng lúc ngài càng cảm thấy Quyền năng ấy choáng ngập vợ mình, dành riêng vợ mình cho một sứ mạng lớn lao khác. Là một người đạo đức, công chính, ông lặng lẽ rút lui.
Lý do thứ hai: chính vì là một người công chính, Thánh Giuse sớm nhận ra đâu là dấu vết của Thiên Chúa và đâu là dấu vết của tà thần. Đó là tâm trạng chung của những tâm hồn đạo đức thánh thiện. Càng đạo đức bao nhiêu thì càng dễ phân biệt đâu là thánh đâu là tà, càng công chính bao nhiêu thì càng bén nhậy trước thánh ý Thiên Chúa bấy nhiêu. Vì thế, Thánh Giuse sớm nhận ra bàn tay vô hình của Thiên Chúa đang can thiệp vợ mình. Phản ứng của ông cũng giống tâm trạng của những người công chính trong Cựu Ước, đó là rút lui. Ông sợ không dám tiết lộ với ai, cũng không dám nhận một người như thế làm vợ, ông âm thầm bỏ đi.
Chính lúc đó, Thiên Chúa can thiệp. Ngài cho Thánh Giuse hiểu rằng Ngài muốn dùng cả bản thân Thánh Giuse cho chương trình vĩ đại của Ngài.
Thánh Giuse quả là một con người vĩ đại. Ngài sớm nhận ra ngay chương trình của Chúa, ông “làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà mình”.
Thiên Chúa luôn có sẵn chương trình của Ngài và chương trình nào cũng vì yêu và làm đẹp cho con người. Đáng tiếc ngày nay người công chính ít quá, nên công trình của Chúa bị hỏng nhiều.
Lạy Chúa, xin soi cho con biết ý Chúa trong cuộc đời con và xin cho con đủ sức để mau mắn thi hành.
Cô đơn là đe dọa lớn nhất đối với hạnh phúc. Người cô đơn không tìm thấy lời đáp cho các vấn nạn của đời mình. Họ trở thành người bất hạnh, tuyệt vọng, vì luôn phải đối diện với cái phi lý. Emmanuel, Đấng ở cùng chúng ta sẽ cứu chúng ta khỏi nỗi niềm cô đơn tuyệt vọng ấy, vì Chúa đến trần gian này để chia sẻ với chúng ta thân phận làm người. Chính niềm tin ở Chúa, Đấng đến với chúng ta qua Đức Giêsu Kitô, sẽ cứu chúng ta khỏi cuộc sống vô nghĩa. Thiên Chúa sẵn sàng can thiệp khi chúng ta hoang mang trong tăm tối nếu chúng ta có lòng trông cậy vào Người.
Thời vua Akhaz trị vì Giu-đa cũng vậy, bị tranh chấp trong nội bộ vương quốc, bị đe dọa bởi các nước láng giềng. Vua Akhaz nghĩ đến việc nhờ ngoại binh giúp đỡ. Tiên tri Isaia khuyên ông không nên làm thế. Ông tin vào hòa ước với người Assyri hơn là tin vào Thiên Chúa. Đống thời ông tiếp tục đường lối tội lỗi, lập nhiều đền thờ tà thần. Nhưng Chúa vẫn đến như lời tiên tri Isaia đã loan báo. Để bảo đảm lời khuyên của mình, cũng như để củng cố niềm tin cho nhà vua và dân chúng, một lần nữa nhà tiên tri thúc giục vua Akhaz đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa hơn là dựa vào sức mạnh liên minh quân sự. Đức tin mà ngôn sứ Isaia đòi hỏi, bao hàm một sự tín nhiệm tuyệt đối vào Thiên Chúa. Nhưng ông vẫn không nghe và sai sứ ra ngoại quốc xin viện binh. Vì không nghe theo lời khuyên khôn ngoan của nhà tiên tri, vua Akhaz sẽ bị trừng phạt và vương quốc của ông bị tàn phá. Nhưng vì lòng thương xót, qua Tiên tri Isaia Thiên Chúa đã cho ông một dấu chỉ nói lên ý muốn của Người sẽ hiện diện giữa dân và cứu thoát họ. Đức Chúa ban cho vua Akhaz một dấu hiệu: từ dòng dõi ông, một người con sẽ chào đời, chính người con này sẽ giúp giải thoát dân. Sự long trọng của lời sấm cũng như cái tên biểu tượng Emmanuel (Thiên Chúa ở cùng chúng ta) đặt cho con trẻ, làm cho người ta thấy trong cuộc sinh hạ này một điều gì khác hơn nữa. Đó là sự can thiệp của Thiên Chúa để thiết lập hẳn một triều đại Messia. Người con này là Ezêkia, một vị vua tuyệt vời. Ông là hình ảnh của Đấng Messia và mẹ ông là hình ảnh của Đức Trinh Nữ Maria. Đây là những dấu chỉ để hướng tới việc chuẩn bị chờ đón Chúa Cứu Thế là Đức Giêsu Kitô - Đấng Emmanuel đích thực.
Trong trình thuật của bài Tin Mừng Mt 1, 18-24, Matthêu trích dẫn lời Tiên tri Isaia ngày trước nhằm minh chứng Chúa Giêsu đã nhập thể trong cung lòng Trinh Nữ Maria để thực hiện lời hứa mà Thiên Chúa đã hứa qua miệng Tiên tri Isaia với vua Akhaz. Đoạn Tin Mừng cho thấy vai trò cao trọng của Thánh Giuse được chọn làm cha Chúa Giêsu theo luật pháp. Đồng thời cho chúng ta biết, Con Một Thiên Chúa đã nhập thể trong cung lòng Trinh Nữ Maria nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần.
Sự công chính của thánh Giuse trong bài Tin Mừng không thể hiểu đơn giản là sự công chính theo lề luật, mà là sự công chính mang ý nghĩa tôn giáo, đó là vì Ngài biết tôn trọng công trình của Thiên Chúa nơi Đức Maria và vâng nghe thánh ý Người. Mặc dù đã âm thầm từ chối coi mình là cha đứa trẻ mà Chúa không ủy thác. Nhưng sau khi được Thiên sứ báo mộng, biết ý định của Thiên Chúa mời gọi tham dự vào chương trình của Ngài. Thánh Giuse không từ chối, mà trỗi đậy thực hiện lệnh truyền của Thiên Chúa. Chính hành động này làm cho thánh Giuse trở thành người cộng tác tích cực trong công trình cứu độ của Thiên Chúa, và nên người công chính. Giuse đã đón nhận Chúa Giêsu. Đến lượt mỗi người chúng ta cũng phải biết lắng nghe và đón Chúa đến trong cuộc đời, trong gia đình mình.
Thiên Chúa đến ở với chúng ta chính vì yêu thương và ban tặng hạnh phúc cho nhân loại. Ở đâu có Thiên Chúa, ở đó có bình an, hoan lạc và tình yêu. Nhưng để cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa mang lại niềm vui và hạnh phúc không phải là điều dễ dàng. Cần phải có niềm tin, phải chuyên cần cầu nguyện và nhất là cần phải gắn bó với Chúa luôn trong Bí tích Thánh Thể.
Tin Mừng theo Thánh Luca kể chuyện truyền tin cho Đức Mẹ. Tin Mừng theo Thánh Mátthêu tường thuật câu chuyện truyền tin cho Thánh Giuse. Thánh nhân được mạc khải cho biết mầu nhiệm Con Thiên Chúa Nhập Thể trong cung lòng Đồng Trinh của Mẹ Maria, do quyền phép của Chúa Thánh Thần. Ngài được mời gọi tích cực tham dự vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Giuse đã sống lời “Xin Vâng” trọn cuộc đời.
Ngày Sứ Thần Gabrien truyền tin, sau khi Đức Maria nói lời “Xin Vâng”, Con Thiên Chúa đã làm người trong cung lòng của Mẹ. Biết tin chị họ Êlisabet có thai, Mẹ đã mau mắn lên đường đến viếng thăm và giúp đỡ suốt 3 tháng.
Trong thời gian này, Giuse ở nhà lo lắng chuẩn bị cho ngày thành hôn sắp tới. Thật bất ngờ, khi trở về Maria có dấu hiệu mang thai. Tâm hồn Giuse hoang mang bối rối khi bà con lối xóm xầm xì to nhỏ: Maria có thai. Làm sao tin nổi đó là sự thật ? Maria một thiếu nữ nết na đức hạnh kia mà ! Dù cố biện minh cho Maria, nhưng Giuse không khỏi xao xuyến. Làm sao đây, khi mà Maria cũng không thể tự biện hộ cho mình là bào thai này do quyền phép của Thiên Chúa chứ không phải người phàm ! Giuse có thể tin được không ? Phần Maria vẫn thinh lặng suy niệm trong lòng.
Về phần Giuse, chiếu theo luật có thể truy tố Maria trước pháp luật. Là người công chính, dù ghi nhận ít nhiều dấu hiệu chuyển biến nơi Đức Maria, Giuse cũng chẳng dám nghi ngờ mà chỉ một thoáng băn khoăn, để rồi định chọn cho mình giải pháp âm thầm rút lui. “Đào vi thượng sách” là giải pháp an toàn nhất. "Trong lúc định tâm như thế, thì Thiên Thần hiện đến với ông trong giấc mơ" và nói rõ về ý định của Thiên Chúa chọn Maria làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Thiên Thần trấn an Giuse: "Chớ ngại nhận Maria làm bạn, vì Con bà đang cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông sẽ gọi tên con trẻ là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội" ( Mt 1, 20 – 21 ).
Sứ Thần nhắc cho Giuse lời Ngôn Sứ Isaia ( bài đọc 1 ). Là người Công Chính, Giuse đã đọc Kinh Thánh Cựu Ước và biết về sấm ngôn này. Lời Thiên Thần khai mở đã trút được gánh nặng đang đè trên tâm hồn Giuse bấy lâu. Chính lúc này, được tỏ nguồn cơn, Giuse đã tiếp nhận ý Chúa và tiếp đón Đức Maria về nhà mình bằng một tình yêu trong sáng, mà người trần mắt thịt dẫu có bản lĩnh cách mấy cũng khó mà dám xâm mình mạo hiểm ( Mt 1, 24 ).
Thánh Giuse luôn lắng nghe và mau mắn thi hành thánh ý Chúa. Ngài trở nên Thánh Cả và là mẫu gương cho mọi tín hữu.
Mẫu gương công chính
Tổ phụ Abraham nài xin với Thiên Chúa: “Thưa Chúa, nếu tìm thấy trong thành có 50 người công chính thì với 50 người chính chính ấy Chúa có tha cho cả thành không ?” Giavê Thiên Chúa đã chấp thuận điều kiện Abraham đặt ra. Abraham đã kỳ kèo bớt dần bớt dần xuống con số 10 người công chính, Giavê cũng chấp nhận ( x.St 18, 16 – 33 ).
Chờ đợi đến giai đoạn sau này, Abraham mới vui mừng vì hiểu được rằng chỉ với một người công chính duy nhất chính hiệu thì Thiên Chúa cũng ban ơn tha thứ cho cả nhân loại ( x. Ga 8, 56 ). Người công chính là người lôi kéo ân lộc trời cao cho nhân trần, là người trung gian hòa giải đất với trời, là người thể hiện tình yêu nhưng không của Thiên Chúa và là người nối kết mối dây giao hòa giữa nhân loại với Đấng tác thành mọi sự mọi loài.
“Giuse là người công chính”. Nơi Thánh Giuse, "sự công chính nội tâm" trùng với "tình yêu". Tình yêu dâng hiến luôn hướng về người khác, sẵn sàng hy sinh để làm người mình yêu có giá trị hơn và được hạnh phúc hơn. Chấp nhận chịu thiệt thòi để người yêu được hưởng lợi, chấp nhận đau khổ để người mình yêu hạnh phúc. Sẵn sàng thông cảm và tha thứ cho người mình yêu khi có lầm lỗi. Giuse đã yêu Maria bằng tình yêu dâng hiến như thế.
Giuse luôn mở lòng lắng nghe Lời Chúa trong cầu nguyện. Thiên thần giải thích cho Giuse biết: "Người sinh bởi Đức Maria là do Chúa Thánh Thần", theo lời ngôn sứ phán xưa: "Này đây: Trinh nữ sẽ thụ thai", và Giuse sẵn sàng tiếp nhận những ý định của Chúa, những ý định vượt quá những giới hạn của loài người.
Giuse như là một con người đích thực sống Đức Tin. Đức Tin liên kết với sự công chính và cầu nguyện, đó là thái độ phù hợp để gặp Đấng Emmanuen. Tin có nghĩa là sống trong lịch sử mở lòng đón nhận sáng kiến của Thiên Chúa, đón nhận sức mạnh sáng tạo của lời Người.
Mẫu gương luôn vâng theo thánh ý Chúa
Thánh Giuse là người công chính như Kinh Thánh đã khen tặng. Trong suốt cuộc đời, Giuse hằng luôn vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa ( x. Mt 1, 18 – 25; 2, 13 – 23; Lc 2, 1 – 7.22 ).
Thánh ý Chúa được Sứ thần truyền đạt đến cho Thánh Giuse, vừa xoá tan mọi nghi ngờ đang dằn vặt ngài, vừa mạc khải cho ngài về lai lịch và sứ mạng của thai nhi đang được cưu mang. Đó là Đấng Thánh vì được thụ thai do quyền năng của Thiên Chúa. Đó cũng là Đấng sẽ giải phóng dân tộc của ngài khỏi ách đô hộ của ngoại bang.
Sứ thần xác nhận: “Maria mang thai do Chúa Thánh Thần” và bảo ông đừng rút lui mà hãy đưa Maria về với mình, bởi Chúa đã giao cho ông một sứ mạng. Giuse sẵn sàng làm bất cứ điều gì Chúa muốn để hoàn tất chương trình của Người.
Dự tính muốn ra đi âm thầm không phải chỉ do sự tôn trọng luật pháp hay tôn trọng danh dự Maria thúc đẩy, nhưng còn có cái gì sâu xa hơn nữa. Có thể ví với thái độ của những người đối diện với một mầu nhiệm cao cả: họ thụt lại vì kính sợ, tựa như ông Môsê đã cởi dép khi tiến gần bụi gai đang cháy rực ( St 3, 5 ), tựa như Isaia thất kinh khi diện kiến Thiên Chúa cực thánh ( Is 6, 5 ), tựa như Simon sau khi chứng kiến mẻ cá lạ lùng ( Lc 5, 8 ). Giuse được biết là Maria “có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần”, vì thế ông không dám chiếm hữu người con không phải là của mình. Vì thế ông toan tính rút lui.
Để cũng cố thêm cho sự giải thích vừa rồi, cha Ignace de La Potterie nhận xét rằng cần phải xét lại các bản dịch cổ truyền. Thay vì “ông Giuse là người công chính không muốn tố giác bà”, cần phải dịch là “ông Giuse là người công chính không muốn tiết lộ ‘mầu nhiệm’, quyết định rời bỏ bà cách kín đáo”. Động từ deigmatisai ( ít được sử dụng trong tiếng Hy Lạp ) tự nó chỉ có nghĩa là thông báo, nói cho biết, đưa ra ánh sáng ), và tuỳ theo mạch văn mà thay đổi ý nghĩa: có thể là “tố cáo, tố giác” ( điều xấu ), “bày tỏ, tiết lộ” ( điều tốt ). Ông Giuse được bà Maria tâm sự về sự cưu mang do quyền năng Thánh Thần, và ông không dám tiết lộ mầu nhiệm này. ( x. Lm. Phan Tấn Thành, Thánh Giuse trong cuộc đời Chúa Kitô và Hội Thánh ).
Như một khí cụ ngoan ngoãn trong tay người sử dụng, Thánh Giuse đã được Thiên Chúa “chọn mặt gởi vàng”, chọn làm người bảo trợ Đấng Thiên Sai. Ngài cùng với Đức Maria thực hiện mọi quyết định của Thiên Chúa, dầu có phải trải qua biết bao thử thách gian nan cả vật chất lẫn tinh thần.
Người Công Chính Giuse suốt cuộc đời luôn luôn thức tỉnh trước thánh ý Thiên Chúa, thức tỉnh ngay cả trong giấc ngủ.
Ở Bêlem: “Sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi !’ Ông Giuse liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập” ( Mt 2, 13 – 14 ) .
Ở Ai Cập: “Sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giuse bên Aicập, báo mộng cho ông rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi. ”Ông liền chỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen” ( Mt 2, 19 – 21 ).
Ở Giuđê: “Vì nghe biết Áckhêlao đã kế vị vua cha là Hêrôđê, cai trị miền Giuđê, nên ông Giuse sợ, không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Galilê, và đến ở tại một thành kia gọi là Nadarét” ( Mt 2, 22 – 23 ) .
Giuse luôn thao thức lắng nghe tiếng Thiên Chúa, và khi nghe được rồi thì đáp lại không chần chừ, dù cho phải trả giá.
Một câu ngạn ngữ của người Nigêria nói rằng: Hãy lắng nghe và bạn sẽ nghe đựoc những bước chân của các con kiến. Chúng ta được mời gọi để lắng nghe những bước chân âm thầm của Thiên Chúa trong cuộc đời mình.
Thánh Giuse là mẫu gương sống tâm tình đạo đức Mùa Vọng. Học với Thánh Giuse, bài học lắng nghe và thi hành Lời Chúa, trong tinh thần khiêm tốn, vâng phục, tin tưởng và phó thác, chúng ta sẽ trở nên người công chính Tân Ước như Thánh nhân.
Câu chuyện kỳ lạ của sĩ quan Onoda tại các rừng rậm Philippines bắt đầu ngày 17.12.1944, khi mà chỉ huy của anh ta là thiếu tá Taniguchi, hạ lệnh cho người thuộc cấp 22 tuổi Onoda, cùng một số chiến binh khác, tiến hành chiến tranh du kích chống lại quân Mỹ tại Lubang. Taniguchi nói: “Chúng ta chỉ tạm thời rút lui. Các anh hãy vào rừng, làm lều, chuẩn bị kho vũ khí… Tôi cấm các anh tự tử hoặc đầu hàng. Có thể phải ẩn náu 3 năm, 4 năm hay 5 năm, nhưng tôi sẽ quay lại với các anh. Lệnh này chỉ có tôi mới được quyền thay đổi”.
Năm này nối tiếp năm khác. Onoda chiến đấu trong rừng rậm. Onoda lấy nước suối đun sôi để dùng, ăn hoa qủa và trong suốt ngần ấy năm trời chiến binh “Samurai cuối cùng” chỉ một lần duy nhất bị viêm họng. Ngay cả sau này, có những lúc Onoda hoang mang khi nghĩ rằng quân đội Nhật đã bỏ rơi họ, thì anh ta cũng không có ý định đầu hàng. Có một lần Onoda định tự tử, nhưng ngay lập tức từ bỏ ý nghĩ này vì thiếu tá Taniguchi đã ra lệnh không được làm như thế.
Vào tháng 10.1972, Onoda và người đồng đội đặt trái mìn cuối cùng trên đường gần làng Imora để phục kích quân Philippines. Trái mìn không nổ, nên họ giao tranh với quân Philippines. Người bạn bị bắn chết, còn Onoda thì bỏ chạy vào rừng sâu. Cái chết của một lính Nhật sau 27 năm khi nước này đầu hàng, đã gây chấn động cả xứ sở Phù Tang. Gần 30 năm các đội biệt động thiện chiến không phát hiện ra Hiro Onoda. Thế nhưng cuối cùng một khách du lịch Nhật tên là Suzuki, khi đi sưu tập bướm trong rừng, đã tình cờ “đụng” Onoda. Người này khẳng định với “samurai cuối cùng” là nước Nhật đã đầu hàng, chiến tranh đã kết thúc từ lâu. Onoda ngẫm nghĩ, trả lời: “Tôi không tin. Thiếu tá Taniguchi chưa thay đổi mệnh lệnh thì tôi vẫn tiếp tục chiến đấu”.
Quay trở về Nhật Bản, Suzuki tìm mọi cách để tìm thiếu tá Taniguchi, và rất khó khăn mới tìm được ông ta. Người lãnh đạo của “Samurai cuối cùng” thay tên đổi họ và trở thành nhà kinh doanh điện ảnh. Họ cùng nhau đến khu rừng Lubang, tìm đến nơi Onoda ẩn náu. Khi ấy Taniguchi mặc quân phục và ra mệnh lệnh Onoda phải ra đầu hàng. “Samurai cuối cùng” vác súng trường trên vai và đến đồn cảnh sát đầu hàng vào buổi sáng ngày 10.3.1974.
Tương tự như chuyện Onanda, Samurai cuối cùng, trung kiên, một lòng một dạ, chấp hành duy nhất mệnh lệnh của thiếu tá Taniguchi mà thôi, trích thuật Tin Mừng hôm nay giới thiệu Thánh Giuse, vị cha nuôi đáng kính của Đức Giêsu. Ngài đã toàn tâm vâng phục Thánh Ý Chúa chấp nhận vai trò nghĩa phụ của Chúa Cứu Thế, vâng theo Tiếng Gọi Tình Yêu.
Tiếng gọi
Thánh Giuse thật thầm lặng trong Tin Mừng, cũng như sống trong đời thực. Ngài thật hào hiệp, khoan dung quảng đại, và vô cùng khiêm nhường. Hơn nữa, Thánh Mátthêu còn vinh danh ngài “là người công chính.” Ngài đã thực sự tỏ ra bối rối trước việc Đức Mẹ thụ thai. Nhưng vì chân thật tin yêu Mẹ Maria, rất đoan trang và đạo hạnh, ngài không mảy may nghi ngờ, chẳng phản ứng bộp chộp, nông cạn, cũng không một lời than thở, trách móc. Ngài chọn phương án thầm kín bỏ đi, để êm thắm cho cả hai.
Nhưng sứ thần Thiên Chúa đã đến báo cho ngài trong giấc ngủ: “Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria, vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” ( Mt 1, 20 – 21 ).
Thánh nhân dạt dào lòng tin, cậy, mến, đã nhận được Thánh Ý Chúa tỏ tường, chính xác, minh bạch. Bây giờ, tôi cũng mong được sứ thần trực tiếp loan báo sứ vụ, nhưng tôi lại chểnh mảng, thiếu trách nhiệm với bản thân, gia đình và tha nhân, lại kiêu căng, tự cao tự đại, nhất là non kém, thờ ơ, thiếu sót các nhân đức. Thì làm sao tôi lắng nghe được tiếng Chúa, hiểu được Thánh ý Chúa ? May mắn thay, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận đã khẳng định: “Bổn phận là ý Chúa trong giây phút hiện tại” ( Đường Hy Vọng, số 17 ).
Xin Vâng
“Khi tỉnh giấc, ông Giuse đã làm như sứ thần Chúa dạy, và đón vợ về nhà” ( Mt 1, 24 ). Lắng nghe được Lời Chúa phán bảo, Thánh Giuse liền vui vẻ “Xin Vâng”, quyết tâm thực hành Thánh Ý, tương tự như Mẹ Maria, ngay sau khi được sứ thần truyền tin. Không chần chừ, chậm trễ, suy tính, cân nhắc hơn thiệt, ngài dấn thân ngay vào sứ vụ nghĩa phụ của Đấng Cứu Thế.
Chẳng ngần ngại vất vả, gian khó, ngài hồi hương cùng Mẹ Maria từ Nadarét về Bêlem, sinh hạ Hài Nhi Giêsu trong cảnh bần cùng. Cấp tốc đem Hài Nhi và Mẹ Maria chạy trốn, lánh nạn sang Ai Cập, khỏi bàn tay khát máu của Hêrôđê. Rồi lại khăn gói quả mướp tái định cư về Nadarét, khi nhà vua đã băng hà. Ngài luôn lắng nghe và vâng theo hướng dẫn của sứ thần đường đi nẻo bước, để tận tụy, nâng niu chăm sóc và bảo vệ Thánh Gia.
Ngoài bổn phận hằng ngày, tôi còn nhận được bao dấu chỉ Thánh Ý Chúa qua sự kiện, tin tức, xã hội, nhất là qua Lời Chúa. Nhưng tôi lại hay bịt tai, nhắm mắt, đóng kín cả tâm hồn, hoặc u mê, mải miết bươn chải mưu sinh, hay hưởng lạc bê tha, làm sao tôi nghe thấy, nhìn thấy, tìm và hiểu được Thánh Ý Chúa trong cuộc sống ?
Hơn nữa, tôi có can đảm “Xin Vâng, “ hay lặng lẽ, âm thầm từ chối sứ vụ khó khăn, vất vả, cay cực, đau khổ như Thánh Gia đã trung kiên đón nhận.
“Vâng lời trọng hơn của lễ”, vì của lễ là hoa quả, hương trầm, súc vật, tiền bạc, … Khi vâng lời, con lấy chính mình con làm của lễ, giết chết ý riêng con, tự ái của con làm của lễ toàn thiêu. ( Đường Hy Vọng, số 406 ).
Lạy Chúa, xin Chúa ban cho chúng con Niềm Tin vững vàng, dạy chúng con cầu nguyện sốt sắng, luôn sống mật thiết với Chúa, để có thể lắng nghe tiếng gọi tình yêu của Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin luôn giúp đỡ, nhắc nhủ, khuyến khích chúng con thưa lời “Xin Vâng” trước tất cả biến cố Chúa gửi đến trong đời, để lãnh nhận hồng phước ngay đời này lẫn đời sau. Amen.
Thiên Chúa ở cùng chúng ta: Ước muốn ấy đã có tự thuở Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ và con người. Ước muốn tốt lành, thánh thiện. Ước muốn vui sống bình an với loài thụ tạo. Ước muốn ấy mang vẻ toàn bích của quyền năng Thiên Chúa, mang nét độc đáo thánh thiện của lòng Thiên Chúa yêu thương vô biên. Ước muốn ấy đã thành hiện thực ngay trong ngày Thiên Chúa sáng tạo: Đấng Tạo Hóa đùa vui với loài thụ tạo vì loài thụ tạo nào cũng mang căn tính tốt lành của Thiên Chúa.
Đến nay, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” là một nền hòa bình chí thánh mà chúng ta không thể hình dung theo trí tưởng tượng của con người, nhưng phải cảm nếm được bằng Đức Tin soi dẫn dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần. Bởi lẽ, lòng con người đã trở nên mê muội từ khi con người quay lưng lại với Thiên Chúa, không chấp nhận ở cùng Thiên Chúa nữa. Toàn cảnh Hòa Bình đã sụp đổ. Thiên Chúa ở cùng chúng ta mà chúng ta không chấp nhận ở cùng Thiên Chúa.
“Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuel” ( Is 7, 14 ).
Ngôn Sứ Isaia đã loan báo về việc một Đấng Emmanuel mặc lấy xác phàm, được sinh ra bởi một nữ trinh nữ trong số những nữ lưu trần thế. Đấng Emmanuel thực hiện ước muốn của Thiên Chúa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thánh Phaolô gọi Đấng Emmanuel là “Tin Mừng, là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta" ( Rm 1, 3 ).
Một bước xuống thật dài, thật xa từ trời xuống đất, để đất trời không còn cách xa, một bên Trời là niềm thương, một bên Đất là nỗi mong đợi. Đấng Emmanuel đã đến. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể thực hiện việc tốt lành ấy, còn con người thì bó tay, vì đang sống trong tình trạng tội lỗi vô phương cứu chữa. Nhưng để được thực hiện, Thiên Chúa muốn con người cộng tác vào chương trình của Người để chứng tỏ cho con người biết rằng, Người luôn tôn trọng quyền tự do của con người, và để con người dùng tự do ấy mà định liệu cho ơn cứu rỗi của mình: chấp nhận cho “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” để “chúng ta được ở cùng Thiên Chúa”.
Thiên Chúa đã hỏi ý kiến Mẹ Maria về việc này. Mẹ đã xin vâng và xin hãy thành sự trong Mẹ những điều Người ước muốn. Thiên Chúa cũng bàn bạc với Giuse về việc có chấp nhận chung sống với Mẹ Maria, đồng nghĩa với việc phải chấp nhận cả thai nhi trong lòng Mẹ. "Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” ( Mt 18, 20 – 21 ). Giuse đã hiểu được ý muốn của Thiên Chúa và cũng đã chấp nhận để Thiên Chúa ở cùng và ở cùng Thiên Chúa. “Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu” ( Mt 18, 24 – 25 ).
Lời Chúa hôm nay cũng đang hỏi ý kiến mỗi chúng ta có chấp nhận cho “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” không.
Chấp nhận Thiên Chúa ở cùng chúng ta…
là chấp nhận để Thiên Chúa Giáng Sinh trong lòng mình, ở cùng cuộc đời mình.
là chấp nhận cho Thiên Chúa làm mới lại trong chúng ta những gì đã tang thương đổ nát do tội nguyên tổ, do tội lỗi chúng ta
là chấp nhận để Thiên Chúa tác động trong hành trình cuộc đời của mình, hành trình tiến về Địa Đàng Mới là cuộc chung sống hòa bình viên mãn trong Nước của Thiên Chúa.
là chấp nhận một cuộc sống mới: sống theo tinh thần của Chúa Giêsu Kitô, sống chung và sẻ chia với người nghèo khổ, không tẩy chay người tội lỗi nhưng mời gọi họ trở về, can đảm làm chứng cho sự thật, cho công lý…
là chấp nhận để Thiên Chúa ban hồng ân cao trọng: Hồng Ân Cứu Rỗi.
là vui mừng vì ơn cao trọng “Chúng ta ở cùng Thiên Chúa”
Nếu ngày ấy Thiên Chúa hỏi ý kiến Mẹ Maria qua các sứ thần, bàn bạc với Giuse trong giấc mộng, thì ngày hôm nay, Thiên Chúa lại hỏi ý kiến và bàn bạc với mỗi chúng ta qua chính Tin Mừng của Chúa Giêsu. Hơn hai ngàn năm rồi, Lời Chúa vẫn mời gọi chúng ta “ở cùng Thiên Chúa”, để được cứu rỗi, vẫn mời gọi chúng ta sống theo tinh thần của Tin Mừng để được ở cùng Thiên Chúa.
Là những tín hữu Công Giáo của Thiên Chúa, chúng ta không thể sống như những người “không chấp nhận Thiên Chúa ở cùng”. Họ không chấp nhận để Thiên Chúa tác động trong lịch sử đ ời mình, và chính vì vậy. họ cũng không muốn để Thiên Chúa tác động trong lịch sử đời ai, trong lịch sử đất nước nào.
Ngược lại, mỗi tín hữu phải là một nhân chứng anh dũng cho Tin Mừng Giáng Sinh, Tin Mừng Cứu Rỗi. Vậy trước tiên tín hữu phải là một nơi xứng đáng để Thiên Chúa Giáng Sinh, để Thiên Chúa Ngự Trị – mỗi tín hữu phải ở cùng Thiên Chúa một cách sinh động nhất, cụ thể nhất: Sống Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô.
Thiết tưởng, “Sống Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô” không còn là một lý thuyết suông của những tín hữu trong một xã hội vô thần, thực dụng, duy vật đầy thách đố này, nhưng phải là kim chỉ nam cho mọi thành phần Dân Chúa để có một Giáo Hội sống động qua chứng tá vui mừng, hy vọng, tràn đầy sức sống, không khiếp sợ nhưng anh dũng vì “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” và “chúng ta ở cùng Thiên Chúa”.
Lạy Chúa Giêsu Giáng Sinh, xin hãy Giáng Sinh trong lòng con, trong nhà con, trong Giáo Xứ, Giáo Phận con, trong đất nước con, để tất cả chúng con được ở cùng Thiên Chúa. Amen.
Cứ mỗi dịp Giáng Sinh về, người ta thường tặng cho nhau những cánh thiệp, trao cho nhau những món quà và viết những lời cầu chúc thật ý nghĩa kèm theo những cánh thiệp và những món quà đó, tất cả chỉ mong sao người nhận quà gặp được nhiều niềm vui, bình an, hạnh phúc và thành đạt.
Đêm nay, chúng ta tụ họp nơi đây để mừng Đêm Thánh, Đêm kỷ niệm Con Thiên Chúa Giáng Sinh và cư ngụ giữa chúng ta trong thân phận của một con người bình thường ( x. Ga 1, 14; Dt 4, 15 ). Đây là món quà cao quý mà Thiên Chúa Cha đã trao tặng cho nhân loại. Thật vậy, Chúa Giêsu Giáng Sinh đã trở thành niềm vui cho toàn thể thế giới, là nguồn bình an mà muôn dân mong ngóng đợi trông, là Đấng đem lại cho con người hạnh phúc thật.
Lời Chúa trong bài đọc 1 gợi lại cho chúng ta thấy bối cảnh lịch sử của dân tộc Israel thời bấy giờ. Lúc ấy, họ bị lưu đầy vì quân đội Assyria xâm chiếm và bắt họ phải đi biệt xứ. Khi sống trong cảnh lưu vong như thế, họ nghĩ đến thân phận của họ như là "dân tộc bước đi trong u tối", chốn lưu đày đối với họ chính là "miền thâm u của sự chết", những khổ nhục họ phải chịu là "cái ách nặng nề đè trên người, cái gông nằm trên vai và roi vọt của kẻ áp bức"…
Tuy nhiên, cái đêm âm u, miền thâm u sự chết, những cái ách nặng nề đang đè lên trên họ đã được Ngôn Sứ Isaia tiên báo về một trời mới đất mới, họ sẽ được giải thoát: "Dân tộc bước đi trong u tối sẽ nhìn thấy sự sáng chứa chan", miền thâm u sự chết đó sẽ khơi nguồn sự sống, những gông, ách và roi vọt bị bẻ gãy… và được thay vào đó là cái ách của tình thương, lòng bao dung... Bởi vì “Một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng ta, một Người Con đã được ban cho chúng ta, Hài Nhi sẽ tiếp nhận quyền bính trên vai và thiên hạ sẽ gọi tên Người là Cố Vấn kỳ diệu” ( Is 9, 6 ).
Ngôn Sứ Isaia nhấn mạnh hơn khi nói: “Đây là lời Đức Chúa loan truyền cho khắp cùng cõi đất: Hãy nói với thiếu nữ Sion: Kìa ơn cứu độ ngươi đang tới. Kìa phần thưởng của Người theo sát một bên, và thành tích đi ngay trước mặt” ( Is 62, 11 ). Cũng vậy, Ngôn Sứ Mikêa, sống đồng thời với Isaia, đã thốt lên những lời đầy an ủi: “Hỡi Bêlem, nhỏ bé trong đất Giuđa, song từ nơi ngươi sẽ xuất hiện Đấng cai trị Israel, nguồn gốc Ngài có từ xa xưa, từ trước muôn đời, Ngài sẽ cai trị với sức mạnh của Chúa Giavê… Chính Ngài sẽ đem lại cảnh thái bình” ( Mk 5, 1 – 4 ).
Tuy nhiên, để hiểu sâu xa lời tiên báo của Ngôn Sứ Isaia và Mikêa cho dân Israen, chúng ta hãy đặt mình vào trong bối cảnh lịch sử của dân Israel đang bị cảnh lưu đầy tha phương, nỗi khổ tột cùng của thân phận nô lệ..., thì mới hiểu được thế nào là sự chờ mong da diết, khôn nguôi Đấng sẽ đến giải thoát mình ! Trong khi chờ đợi như thế, những thử thách, tủi nhục, đắng cay đã làm cho họ chịu không nổi, nên đã thốt lên:
“Bên bờ sông Babylon,
ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Xion;
trên những cành dương liễu,
ta tạm gác cây đàn”.
Bởi vì:
“Bọn lính canh đòi ta hát xướng,
lũ cướp này mời gượng vui lên:
Hát đi, hát thử đi xem
Xion nhạc thánh điệu quen một bài !" ( x. Tv 137 ( 136 ), 1 – 3a. 4 ).
Và nỗi đau khổ của họ đã thấu tới Trời Cao, đã đụng chạm đến lòng trắc ẩn của Thiên Chúa, vì thế Người đã trao ban Con Một của mình xuống để cứu độ nhân loại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” ( Ga 3, 16 ). Qua mầu nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh, Thiên Chúa đã xuống thế và trở nên con người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi.
Từ nay, Ngài là Đấng Emmanuen mà bao đời và muôn dân mong đợi. Đêm nay, đêm Trời Đất giao duyên. Đêm Thiên Chúa và con người gặp nhau, đêm Thiên Chúa trở thành người, để con người được phục hồi nhân vị trong tư cách là con và được gọi Người bằng Abba – Cha ơi, vì thế, "... anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế” ( Gl 4, 4 – 7 ). Thật vậy, Hài Nhi Giê su đã trở thành "Ngôi Lời Nhập thể, và cư ngụ giữa chúng ta" ( Ga 1, 14 ). Ngài đã trở thành "Một Hài Nhi... một Người Con đã được ban tặng cho chúng ta" ( Is.9, 5 ).
Vì vậy, Đêm nay là Đêm Hồng Ân, Đêm chan hòa Ánh Sáng, Đêm Giao Hòa giữa trời và đất, Đêm Tình Thương cứu thế, Đêm khơi nguồn Bình An. Ôi niềm vui tràn ngập thế giới ! Vì thế, chúng ta không thể không cất cao bài ca: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu ! Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh ! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người” ( Tv 96, 1 – 3 ).
Thật vậy, việc Ngôi Hai Giáng Sinh là một quà tặng, là niềm vui, bình an, không chỉ riêng cho một thành phần nào trong xã hội loài người, mà là cho toàn thể nhân loại. Lời của Thiên Sứ báo tin cho các mục đồng chứng tỏ điều đó: “Này, tôi mang đến cho anh em một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho toàn dân: hôm nay, Chúa Kitô, đã Giáng Sinh cho anh em”.
Như thế, chính "Đức Giêsu là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người" ( x. Ga 3, 16 ). Tuy nhiên, đứng trước hồng ân lớn lao đó, chúng ta không chỉ trầm trồ khen ngợi, hay tạ ơn, mà còn là mở rộng tâm hồn để đón Chúa Giáng Sinh trong lòng chúng ta, trong trái tim, trong lương tâm của chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta nhận ra giá trị thánh thiêng của mầu nhiệm này thì khi đó chúng ta mới an vui và hạnh phúc thật sự. Và, giá trị đích thực là gì, nếu không phải là để cho Hài Nhi Giêsu lớn lên trong cung lòng của mỗi chúng ta.
Nếu "Đức Giêsu là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người" ( x. Ga 3, 16 ). Thì đến lượt mình, chúng ta cũng hãy trao tặng cho anh em chính Hài Nhi Giêsu, và bản thân của mỗi chúng ta. Mẹ Têrêxa Calcutta đã nói: "Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình". Nếu không hướng tha, tâm hồn chúng ta chẳng khác gì cây không sinh trái, như nước trong ao tù, như một cánh rừng cớm hoặc hoang sơ mà thôi.
Đức Giêsu, trong đêm Giáng Sinh, Ngài đã hòan tất một chặng đường dài qua việc nhập thể và đi vào thế giới con người để tìm gặp con người. Ngài đã trở thành Emmanuen để cư ngụ giữa chúng ta, Ngài đã đồng hành với nhân loại, Ngài đã trở thành người cha, người thầy, người bạn và người anh để cùng sống, cùng ăn, cùng đi với con người trong hành trình lữ thứ trần gian. Ngài vẫn còn tiếp tục như thế cho đến ngày tận cùng của nhân loại qua Bí Tích Thánh Thể. Nơi Bí Tích cực thánh này, Ngài đã trở thành “Bánh bởi trời”, “Bánh hằng sống”, “Lương thực thần linh” để nuôi dưỡng nhân loại và để cho họ được sống và sống dồi dào ( x. Ga 10, 10 ).
Noi gương Chúa, và để cho Chúa sống cũng như lớn lên trong tâm hồn chúng ta, chúng ta hãy trở nên quà tặng cho mọi người qua một cử chỉ chân thành, một hành động ý nghĩa phát xuất từ niềm tin, một nụ cười thân thiện, một nghĩa cử cảm thông, và đây có lẽ là món quà quý giá nhất mà Hài Nhi Giêsu vui mừng đón nhận, bởi lẽ: “Xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm" vì “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" ( x. Mt 25, 35 – 45 ). Và, như bánh Thánh Thể, được bẻ ra, trao ban cho nhân loại thế nào, thì chúng ta cũng hãy mở rộng bàn tay và tấm lòng sẵn sàng chia sẻ cho những ai cần chúng ta giúp đỡ như vậy.
Ước gì, tất cả những ai tiếp xúc với chúng ta, họ đều nhận ra một vị Thiên Chúa – người, luôn gần gũi, yêu thương và hy sinh cho người khác qua khuôn mặt dễ thương của mỗi chúng ta.
Như vậy, chúng ta đón nhận được món quà vô giá từ nơi Thiên Chúa qua hiện thân của Đức Giêsu, thì đến lượt chúng ta, mỗi người cũng hãy chia sẻ ân huệ đó cho người khác, nhờ đó, tất cả chúng ta sẽ được hưởng niềm vui trọn vẹn của Đại lễ Giáng Sinh đêm nay. Amen.
Phụng Vụ Mùa Vọng trình bày cho chúng ta ba nhân vật nổi bật: Ngôn Sứ Isaia, Thánh Gioan Tiền Hô, và trên hết là Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ diễm phúc. Và còn có một nhân vật khác, rất âm thầm, nhưng cộng tác đắc lực vào trong sứ mạng của Đấng Cứu Thế. Người không nói, nhưng ánh nhìn thì chan chứa yêu thương. Người không ra lệnh cho ai, mà chỉ lặng lẽ vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa. Đó chính là Thánh Cả Giuse, Cha nuôi Đấng Cứu Thế.
Thiên Chúa là Đấng Thượng Trí đã chọn cho Con Một của Ngài một người Cha nuôi hoàn hảo. Thánh Giuse được trao sứ mạng nuôi nấng và dạy dỗ Con Thiên Chúa làm người trong suốt thời ẩn dật. Nhưng khi suy nghĩ về cuộc đời và sứ mạng của Thánh Giuse, chúng ta thấy dường như Thiên Chúa muốn Người thực thi trọn các sứ mạng của Ngôn Sứ Isaia, Thánh Gioan Tiền Hô và của Đức Maria là Bạn tinh tuyền của Người.
Ngôn Sứ Isaia là vị ngôn sứ mạnh mẽ, can trường. Ông thuật lại: “Bấy giờ tôi nghe tiếng Chúa Thượng phán: "Ta sẽ sai ai đây ? Ai sẽ đi cho chúng ta ?" Tôi thưa: "Dạ, con đây, xin sai con đi" ( Is 6, 8 ). Và ông ra đi rao giảng trong một xã hội đầy những “vết bầm, vết thương, hoang tàn”. Và “các thủ lãnh của ngươi là những kẻ phản nghịch, đồng loã cùng trộm cướp. Tất cả bọn chúng đều thích ăn hối lộ, và chạy theo quà cáp. Chúng không phân xử công minh cho cô nhi, cũng chẳng quan tâm đến quyền lợi quả phụ” ( Is 1, 23 ). Và sứ mạng của Ngôn Sứ Isaia chính là loan báo Tin Mừng về ngày của Đấng Thiên Sai.
Thánh Giuse cũng sống trong xã hội mà lòng người đang thiết tha mong chờ Đấng Thiên Sai. Và chắc chắn trong bối cảnh xã hội thời của Người, lời ca “Trời cao hãy đổ sương mai…” vẫn hằng vang lên dịu dàng tha thiết.
Thánh Giuse không “lợi khẩu” như Isaia, nhưng Người có một lợi thế khác: sức mạnh nội tâm. Truyền thuyết về cây gậy nở hoa huệ có một ý nghĩa hết sức sâu xa và phong phú. Chỉ cành huệ ấy thôi đã là lời tiên báo và lời loan tin hữu hiệu về một “trời mới đất mới” nơi đức Công Chính toả hương ngát thơm. Do đó, chúng ta có thể nhìn Thánh Cả Giuse dưới khía cạnh ngôn sứ cho Đấng Cứu Thế là Con nuôi yêu dấu của Người. Và Thánh Giuse có hồng phúc chứng kiến thời kỳ mà Isaia loan báo: “Ngày đó, chồi non ĐỨC CHÚA cho mọc lên, sẽ là vinh quang và danh dự, và hoa màu từ ruộng đất trổ sinh sẽ là niềm hãnh diện và tự hào cho những người Israel thoát nạn” ( Is 4, 2 ).
Còn Thánh Gioan Tiền Hô ( loan báo dọn đường ) hay Tẩy Giả ( người làm phép rửa ) thì loan báo về Cứu Chúa Thiên Sai một cách trực tiếp và gần gũi. “Tiếng kêu trong hoang địa” gióng lên một cách khẩn khoản và mạnh mẽ: “Hãy dọn đường cho Đức Chúa, hãy sửa lối cho thẳng để Người đi” ( Mt 3, 3 ).
Lời Ngôn Sứ Isaia tiên báo về thời công bình của Đấng Thiên Sai và lời Thánh Gioan Tiền Hô mời gọi con người san bằng đường nẻo, uốn lối đi cho ngay, chắc hẳn làm chúng ta nghĩ đến sự công chính của Cha Nuôi Đấng Cứu Thế. Nơi Thánh Giuse, tất cả là công minh, chính trực. Do đó, Người là hiện thân của thời Thiên Sai, là lời mời gọi rõ ràng nhất cho một đời sống phù hợp với thời đại của Thiên Chúa.
Nếu Thánh Giuse bằng đời sống của mình thực thi sứ mạng giống như Isaia và giống vị Ngôn Sứ cuối cùng của Cựu Ước, mở đầu cho Tân Ước là Thánh Gioan Tiền Hô, thì Người cũng thực thi vai trò giống như Đức Maria trong cuộc đời trần gian của Chúa Cứu Thế. Đức Maria sinh ra Con Thiên Chúa Nhập Thể, Thánh Giuse nuôi dưỡng và dạy dỗ Chúa Giêsu ấu thơ như Đức Maria và cùng với Đức Maria. Thánh Giuse cũng vui những nỗi vui, lo những nỗi lo và lặng lẽ theo dõi Con mình lớn lên như Đức Maria.
Tin Mừng không thuật lại Thánh Giuse từ giã cuộc đời trần thế vào lúc nào, nhưng có điều chắc chắn là Người không còn ở bên Thánh Gia khi Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai loan báo Tin Mừng.
Về điểm này, Thánh Giuse hoàn toàn giống như Đức Maria. Thánh Giuse chỉ xuất hiện bên Con mình vào những giờ phút đau khổ, lo lắng nhất. Đó là lúc chạy trốn Hêrôđê, lúc bôn ba xứ người, lúc quay về ẩn dật, lúc lạc mất Con và lúc phải làm lụng mưu sinh vất vả bằng nghề thợ mộc… Cũng như Đức Maria, Thánh Giuse không có mặt bên Con những lúc Người vinh quang, lúc biến hình trên núi Tabo, lúc Người được dân chúng tôn vinh, hay trong giờ Người phục sinh vinh thắng.
Sự âm thầm khiêm hạ của Thánh Giuse là một lời tiên báo về sứ mạng Đấng Cứu Thế, sứ mạng mà Isaia đã loan báo từ hơn 700 năm trước đó. Isaia tiên báo về một Thiên Chúa duy nhất, sự công bằng xã hội, sự thánh thiện trong tâm hồn, về số ít người trung tín còn lại, về tính cách phổ quát của Ơn Cứu Độ, về vương quyền và vai trò vinh hiển của vị cứu thế thuộc dòng dõi Đavít.
Để thiết lập vương quốc ấy, Đấng Thiên Sai trở nên như “một con chiên hiền lành bị đưa đi đến chỗ xén lông” ( x. Is 53 ). Sự khiêm hạ, hiền lành, chấp nhận đau khổ và hy sinh trọn vẹn cho nhân loại là sứ mạng và là đặc tính của Đấng mang lấy tội đời. Thánh Giuse cũng mang những đặc tính ấy, và như vậy Người chính là lời loan báo về chính Con Nuôi của Người.
Mừng Lễ Giáng Sinh, mừng Con Thiên Chúa làm người chính là mừng cho thân phận con người được nâng lên hàng con cái Thiên Chúa. Và như thế, mừng Lễ Giáng Sinh cũng chính là dịp để tạ ơn Chúa vì ơn huệ quá lớn lao. Ơn huệ này được chuẩn bị từ ngàn xưa qua nhiều nhân vật Thiên Chúa tuyển chọn và qua nhiều biến cố Thiên Chúa để xảy ra trong nhân loại này.
Trong những con người Thiên Chúa chọn lựa ấy, Cha nuôi Đấng Cứu Thế là hình ảnh chúng ta chiêm ngắm trong Mùa Giáng Sinh này cùng với Mẹ của Chúa, đồng thời là Đấng chúng ta cần chạy đến trong cuộc hành trình Đức Tin của mình.
Xin hãy cùng dừng lại, thưa với Thánh Giuse như lời kinh khấn Người: "Lạy Cha Thánh Giuse, (...) khi ở thế gian này, Cha đã từng là Cha Nuôi và là vị Bảo Trợ trung thành của Chúa Con chí thánh."
Xin cho chúng con noi gương Cha sống thân tình với Chúa Giêsu, là Thầy và là Chúa chúng con. Xin cho cuộc sống chúng con ngày càng trở nên dấu hiệu dọn đường cho Chúa Giêsu yêu thương là Đấng chúng con tôn thờ và rao giảng.
Maria biết rằng mình đang mang thai khi chưa về chung sống với chồng sẽ đem lại nhiều hậu quả không hay: Cha mẹ sẽ buồn, người chồng sẽ nghi ngờ, thiên hạ sẽ dị nghị, bản thân sẽ bị chê cười, nhưng Maria luôn tin vào Chúa và mọi sự đều do sự an bài của Ngài, vì thế Maria luôn bình tĩnh, âm thầm để mặc cho Chúa tự do hành động.
Còn Giuse cũng vậy, thấy người bạn của mình như thế, Giuse không vội vã tức giận, hành động mù quáng và buộc tội gắt gao. Vì không được Maria giải thích, Giuse không hiểu ra làm sao, mặc dù thế Giuse vẫn trao phó mọi sự trong tay Chúa, còn mình thì sẽ trở lại cuộc sống độc thân cao đẹp thuở trước. Nhưng Chúa đã can thiệp, khiến cho Giuse và Maria đều hài lòng, trở lại đời sống vợ chồng và không còn thắc mắc chi nữa.
Nhìn vào lịch sử Giáo Hội chúng ta thấy, nhiều khi Giáo Hội cũng lâm vào những hoàn cảnh đen tối, những trường hợp khó khăn, nhưng rồi bàn tay Chúa cũng đã can thiệp, để Giáo Hội thoát khỏi những hiểm nguy mà phát triển, mà vươn lên. Tôi xin đưa ra những thí dụ điển hình.
Giáo Hội thuở ban đầu rất cần người lãnh đạo và Phêrô đã là người lãnh đạo, đã là vị Giáo hoàng đầu tiên, thế nhưng ngay từ khi bắt tay vào sứ mạng, Phêrô đã bị gông cùm, xiềng xích và tù đày. Ai cũng nghĩ rằng, làm sao Phêrô có thể thoát nổi. Nhưng rồi Chúa đã can thiệp, sai thiên thần xuống tháo rời xiềng xích, dẫn qua đám lính canh và Phêrô được giải thoát.
Tiếp đến là những thế kỷ đầu, Giáo Hội đã phải trải qua những cơn bách hại khủng khiếp dưới thời những bạo vương Lamã. Ai cũng tưởng con thuyền Giáo Hội sẽ bị vùi dập dưới những trận cuồng phong dữ dội nhất của lịch sử. Nhưng rồi kết cuộc ra sao? Hoàng đế Constantinople đã hoán cải, bóng cờ thánh giá đã tung bay và Giáo Hội bước vào một thời đại hoàng kim. Còn những bạo vương Lamã đã phải rơi vào một số kiếp bẽ bàng: Valerio thì thua trận, bị bắt làm tù binh và bị nhục nhã cho đến chết. Diocletiano thì bị bắt giam và bị nhịn đói cho chết. Maxilino thì thắt cổ tự tử, còn Galerio thì bị chứng lở lói đau đớn, không một vị lang y nào chữa nổi.
Qua những chứng tích kể trên, chúng ta hãy thêm tin tưởng vào quyền năng của Chúa, như tục ngữ ca dao vốn diễn tả: Thiên bất dung gian, ác giả ác báo, Trời xanh con mắt là gương, người ghét ít ngó người thương ngó hoài.
Hãy tin tưởng và phó thác cho Chúa vì mọi sự đều do sự an bài đầy quyền năng và tình thương của Chúa.
Đốt lên cây nến thứ tư của Vòng Hoa, chúng ta sắp kết thúc 4 tuần Mùa Vọng. Theo truyền thống lâu đời từ Bắc Âu, trong khí lạnh của mùa Đông, người ta đã đốt lên những cây nến trên những cành cây xanh uốn vòng. Khung vòng tròn và cành cây xanh là biểu tượng của sự sống tiếp diễn. Người ta đã đốt nến trong những đêm tối nhất trong năm, khi mọi người trông chờ những ngày dài hơn của mùa Xuân sẽ xuất hiện. Theo truyền thống, trên Vòng Hoa Mùa Vọng bao gồm có 4 cây nến. Ba cây nến mầu tím và một cây màu hồng. Bốn cây nến của Vòng Hoa biểu tượng ánh sáng dần dần được dọi chiếu vào thế gian. Ba cây nến mầu tím là biểu tượng của hy vọng, bình an và tình yêu. Ba cây nến tím này được đốt vào các Chúa Nhật thứ nhất, thứ nhì và thứ bốn của Mùa Vọng. Cây nến mầu hồng biểu trưng sự vui mừng được đốt vào Chúa Nhật thứ ba. Đôi khi có cây nến thứ năm mầu trắng được đặt ở giữa Vòng Hoa. Cây nến trắng này được đốt lên vào Lễ Giáng Sinh. Mầu trắng biểu trưng sự tinh trắng như các thiên thần và ngày sinh nhật của Chúa Giêsu. Giáo Hội Công Giáo thường dùng các mầu đặc biệt theo từng mùa, như Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh, Mùa Quanh Năm, Mùa Chay và Mùa Phục Sinh để tôn vinh danh Chúa Giêsu.
Tiên tri Isaia đã xuất hiện rao giảng tại Giêrusalem khoảng năm 742-701 trước Công Nguyên. Trong sự mong đời mịt mù giữa bao thử thách, Isaia đã loan báo một tin vui cho dòng dõi Dân Do-thái: Vì thế, chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu: Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta" (Is 7, 14). Đọc lịch sử ơn Cứu Độ, chúng ta nhận biết Thiên Chúa đã thực hiện công trình cứu chuộc qua cả ngàn năm. Một diễn tiến rất chậm rãi qua biết bao nhiêu thế hệ và trải qua nhiều biến cố. Thiên Chúa đã sai tiên tri loan tin mừng cứu độ qua một nhóm nhỏ trung tín còn sót lại. Biết rằng xưa kia, người ta không có in ấn sách vở, truyền thanh, truyền hình hay một phương tiện kỹ thuật văn minh nào để phổ biến. Các sứ điệp chỉ được truyền miệng và ghi chép vào các cuốn sách (papyrus) lưu giữ qua nhiều đời.
Dấu chỉ: Một trinh nữ sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai là một sứ điệp cao trọng. Sứ điệp này đã từ từ khai mở về ý nghĩa mầu nhiệm Con Chúa giáng trần. Thiên Chúa sẽ thực hiện lời hứa với tổ tiên loài người sau khi đã phạm lỗi. Thiên Chúa phán với con rắn là ma quỉ: Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng dõi mi và dòng dõi người ấy, dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi và mi sẽ cắn gót nó (Stk 3, 15). Chúng ta là hậu sinh được học biết nhiều về qúa trình lịch sử bốn, năm ngàn năm. Đã có biết bao dòng dõi và thế hệ con người liên đới trong công cuộc cứu rỗi này, đặc biệt là Dân Do-thái, dân được tuyển chọn. Dân sống giữa một thế giới đa dân tộc từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam, từ khắp các vùng văn hóa. Đọc lịch sử tôn giáo, chúng ta nhận biết có rất nhiều các tôn giáo cổ đã xuất hiện từ rất sớm trong thời kỳ này như các đạo Hindu, Balamôn, Do-thái Giáo, Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo và vô số đạo thờ các Thần ngoại. Hiện nay, trên thế giới có khoảng 4, 200 tôn giáo lớn nhỏ khác nhau.
Trong cuộc lữ hành của người Do-thái, họ đã va chạm với rất nhiều nhóm người với truyền thống tôn giáo và văn hóa khác nhau. Sứ điệp loan báo về Đấng Cứu Thế cũng dễ bị lu mờ qua thời gian năm tháng. Chỉ có một dòng dõi rất nhỏ đã cưu mang sứ mệnh đón chờ con Chúa giáng trần. Thánh Matthêô đã ghi lại gia phả Đức Kitô, con cháu của Đavít và con cháu tổ phụ Abraham. Matthêo tóm gọn lich sử: từ tổ phụ Abraham đến vua Đavít là mười bốn đời; từ vua Đavít dến thời lưu đầy ở Babylon là mười bốn đời và từ thời lưu đầy ở Babylon đến Đức Kitô cũng là mười bốn đời (Mt 1, 17). Chúng ta suy tư về sứ điệp tin mừng đã được thực hiện nơi dòng dõi Dân tộc đã được Thiên Chúa tuyển chọn.
Trong thơ gởi cho tín hữu thành Rôma, thánh Phaolô đã viết: Tin mừng ấy Thiên Chúa đã hứa trước bằng lời các tiên tri trong Kinh Thánh về Con của Người (Rm 1, 2). Khi thời gian đã mãn, Thiên Chúa thực hiện ý định nhiệm mầu của Người để cứu độ trần gian. Đây là biến cố nhiệm mầu duy nhất xảy ra trong thời gian và không gian. Sự linh thiêng kết hợp giữa thần thánh và con người. Ngôi Lời Nhập Thể trong cung lòng của Đức Trinh Nữ: Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần (Mt 1, 18). Sự kiện cao siêu nhiệm mầu vượt trên mọi trí hiểu của loài người. Cho dù đã được các tiên tri loan báo, được các thế hệ truyền rao chuẩn bị cả ngàn năm nhưng cho tới ngày hôm nay, nhiều người vẫn chưa thể chấp nhận sự kiện lạ lùng này. Họ không thể tin và chấp nhận Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần làm người như chúng ta.
Nhiều người không tin vào Đấng Cứu Thế giáng trần nhưng họ vui mừng vì dịp Giáng Sinh sắp đến. Cứ mùa Giáng Sinh về, chúng ta thấy phố xá rộn rã, thiệp chúc mừng trao đổi, chuẩn bị qùa cáp, ánh sáng nhấp nháy mọi nơi và chăng hoa kết đèn mọi góc phố. Cho dù con người có niềm tin hay không, đều mừng vui và hớn hở. Ít ra đây cũng là một tin vui cho mọi người trần thế. Một cơ hội tốt để mọi người giao lưu trao đổi tâm tình. Chúa Giêsu vẫn âm thầm đi vào lòng người qua nhiều cách thế. Có biết bao nhiêu nhà hảo tâm chia sẻ món qùa nho nhỏ cho những người kém may mắn. Ánh sáng của niềm hy vọng chiếu tỏa cùng khắp khiến lòng người nao nức mừng vui. Một điều rất lạ là ai cũng muốn sự bình an, giải thoát và được hưởng nhờ ơn cứu độ nhưng lại không muốn chấp nhận Đấng ban ơn cứu độ.
Chúa Giáng Sinh mang lại niềm vui lớn cho nhân loại vì Thiên Chúa sẽ ở cùng chúng ta. Thánh Matthêo diễn tả: Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng Tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta" (Mt 1, 22-23). Chúa sẽ đến với từng tâm hồn. Chúng ta có can đảm mở rộng tâm hồn đón Chúa hay không? Chúa có thể sẽ đến với chúng ta qua hình dáng của một trẻ thơ bọc trong khăn hay một trẻ mồ côi đầu đường xó chợ và không nơi nương tựa. Chúa sẽ đến như một người vô gia cư không có nơi gối đầu hoặc một người bị đánh dầm bập tả tơi ngoài phố chợ. Vì khi đón nhận một người cùng khổ là chúng ta đang đón nhận chính Chúa trong đời sống của chúng ta.
Suy tới đây, dừng lại đôi phút để suy nghĩ và cầu nguyện xem chúng ta đang chọn thái độ nào. Đôi khi chúng ta chỉ mong muốn có một lễ Giáng Sinh hoành tráng bên ngoài, một hang đá tuyệt đẹp và một món qùa đáng giá. Chúng ta tìm mua tượng Chúa Hài Nhi thật dễ thương đặt nằm trong máng cỏ với các mục đồng và súc vật bao quanh. Nếu chúng ta chỉ chú ý chuẩn bị những hình thức tổ chức trang trí bên ngoài mà không dọn tâm hồn thật sự để đón Chúa, thì chúng ta cũng đâu khác gì những người ngoại không tin vào Chúa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết mở rộng trái tim yêu thương để đón Chúa. Xin Chúa ở lại với chúng con và ban ơn cứu độ. Xin tẩy sạch tâm hồn chúng con khỏi những sự hoen ố, ích kỷ, tham lam và thơ ơ nguội lạnh. Xin Chúa sưởi ấm tâm hồn với ngọn lửa yêu thương để chúng con biết chia sẻ cuộc sống với tha nhân.
Thời gian gần đây có một bộ phim đã đi vào trong lòng người, đó là phim Hoàng Châu Công Chúa. Khi xem qua bộ phim, mọi người đều có cảm tình với nhân vật chính, một người có lòng nhân ái, nhưng vì thẳng thắng nên thường gặp những đều trắc trở. Mọi người càng thỏa mản hơn khi những trở ngại đó dần dần cũng bị phá vở và an bình lại đến. Đó là vì cô công chúa nhờ có bùa hộ mệnh. Vị thần hộ mệnh rất đắc lực, ngài là một vị vua công minh, một người cha nhân hậu. Khi nào có Ngài ở bên cạnh thì vị công chúa và những người thân không còn phải lo sợ gì hết. Chỉ khi vắng bóng ngài, mọi thế lực thù nghịch mới tìm cách hảm hại. Nhưng tất cả đều được hóa giải khi có ngài ở cùng, khi đó những nguy hiểm, những khổ đau không còn tồn tại được nữa.
Giuse lo sợ vì chưa hiểu được Thánh Ý Chúa. Ông đã có những toan tính riêng tư của mình, những toan tính của sự sợ hãi, những toan tính của con người không có Thiên Chúa Ở Cùng. Ông lo âu bối rối không biết giải quyết như thế nào. Nhưng khi ông tỉnh dậy, ông hành động không do dự nữa, hành động cách can đảm, hành động trong sự bình an và vui mừng. Vì ông đã được biết Thánh Ý Chúa, ông biết có Thiên Chúa Ở Cùng ông, ông biết ông không còn hoạt động cách cô đơn nữa. Khi đó mọi thắc mắc đã được tháo cởi, mọi lo âu đã được cất đi, mọi nguy hiểm mà ông nghĩ tới không còn tồn tại nữa. Ông chỉ còn biết vâng phục trong vui mừng, trong hân hoan, vì Có Thiên Chúa Ở Cùng.
Trong cuộc sống đời người không thiếu những lo âu sợ hãi. Có những điều do hoàn cảnh khách quan đưa đến, cũng có những cái do chủ quan từ bên trong con người. Nếu xét từ nguyên nhân, thì tất cả mọi lo âu sợ hãi trong đời sống đều phát xuất từ cảm giác cô đơn, từ lòng ích kỷ, từ những việc chỉ nghĩ đến bản thân mà quên đi người khác. Quan trọng hơn, đó là vì không thấy Chúa hiện diện ở trong con người của mình, cùng hành động với mình, mà chỉ hành động cách đơn lẻ.
Mỗi người trong chúng ta cũng đã từng trải qua cảm giác cô đơn sợ hãi. Chúng ta cũng đã từng giải quyết nhiều vấn để khúc mắc. Nhưng đã giải quyết như thế nào? Chúng ta đã vượt qua cách khổ sở như lần từng bước đi trong đêm tối, để rồi niếm mùi chua cay thất bại và trải qua nỗi thất vọng ê chề. Chúng ta đã trải qua với sự lo âu thắp thỏm, cùng với những toan tính hại người, nên sợ sẽ bị trả thù. Hay chúng ta đã vượt qua với những bực tức và khó chịu vì không được như ý muốn. Đó là vì chúng ta đã hành động cách cô đơn, hành động mà không Có Chúa Ở Cùng, hành động trong cơn mê, hành động trong đêm tối.
Nếu khi nào chúng cảm thấy bình an thư thái, cho dù bao tai vạ ập đến, những khổ đau cứ dồn vào, những bất hạnh cứ tiếp diễn, mà chúng ta vượt qua cách an toàn, không để lại chút vương vấn trong lòng. Đó là vì chúng ta đang Có Chúa Ở Cùng. Đó là vì chúng ta đã được bừng tỉnh dậy. Nếu chúng ta nhìn thấy được ích lợi chung, nhìn thấy được nhu cầu của bao nhiêu người chung quanh, để sẵn sàng hành động theo tiếng gọi của con tim chân chính, hành động không còn ỷ lại vào con người riêng tư của mình nữa, mà hành động với Chúa Ở Cùng. Nếu được như thế, chúng ta mang được tâm trạng của Hoàng Châu Công Chúa khi có Vua Cha ở Cùng. Quang trọng hơn nữa chúng đang đi trên con đường mà Thánh Giuse đã đi vì vâng nghe Lời Chúa, bởi Ngài đã nhận ra được Có Thiên Chúa Ở Cùng.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban ơn cho mỗi người được sáng suốt, để nhận ra Chúa Ở Cùng Chúng Ta trong hoàn cảnh sống, trong những người chúng ta gặp hằng ngày, trong những công việc chúng ta đã và đang làm, để biết sống và hành động theo Thánh Ý Chúa.
Mở đầu sách Tin Mừng bằng bản gia phả (Mt 1,1-17), thánh sử Mátthêu muốn giới thiệu nguồn gốc lai lịch của Chúa Giêsu: Người là người con của nhân loại, thuộc dòng tộc vua Đavít, được sinh ra bởi Đức Maria. Nhưng do đâu mà Chúa Giêsu thuộc dòng tộc Đavít, vì theo phong tục Do Thái, người ta không kể phụ nữ để xác định gia phả. Vậy Maria thụ thai bởi đâu và đâu là vai trò của Giuse. Trình thuật truyền tin cho Giuse nhằm minh tỏ Đức Maria thụ thai do quyền năng Chúa Thánh Thần và Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, con vua Đavít, ứng nghiệm sấm ngôn Isaia (Is 7,14). Giuse có nhiệm vụ nhận Đức Giêsu vào tông tộc của mình, nhờ đó Chúa Giêsu thuộc dòng vua Đavít. Qua trình thuật này, Mt cũng giới thiệu cho ta một mẫu gương sống tinh thần vâng phục trong đức tin: Giuse, người công chính.
1. Giuse, người công chính
Giuse đính hôn với Maria như các thanh nam nữ từ thời bấy giờ. Theo phong tục Do Thái, khi hai người nam nữ đính hôn, thì đã thành vợ chồng trước luật pháp, nhưng chưa sống chung; một năm sau đính hôn, chồng rước vợ về chung sống. Thời gian đính hôn, muốn bỏ nhau phải ra toà xin ly dị. Nếu vợ ngoại tình, phải bị xử ném đá theo luật.
Sự kiện xảy ra là trước khi về sống chung, Maria đã có thai. Giuse thật khó xử. Tin Mừng viết: “Giuse, chồng bà là người công chính và không muốn tố giác bà, nên định tâm bỏ bà cách kín đáo”. Giuse được Tin Mừng gọi là “người công chính” theo nghĩa nào ? Trước hết, công chính có nghĩa là vâng phục lề luật (Rm 4,2; Gl 3,6). Công chính còn được hiểu là lòng xót thương nhân hậu (St 12,19; Tv 37,21; Tv 112,4). Theo luật, Giuse phải tố cáo Maria. Nhưng Giuse lại là người nhân hậu, có lòng thương xót, không muốn làm nhục người phụ nữ mà ông rất tin tưởng, mến yêu và kính trọng; ông không muốn Maria bị xử phạt theo luật, nên quyết định âm thầm ra đi.
Thứ đến, công chính là hành động phù hợp với ý Thiên Chúa. Giuse không hề hồ nghi Maria, nhưng không thể nhận bào thai. Một mặt, giả như ông chưa biết là Maria thụ thai do quyền năng Thánh Thần, thì cũng nghĩ rằng đây là một mầu nhiệm. Do đó lời sứ thần nhằm thông tin sự thật về bào thai và trao phó cho ông trách nhiệm đặt tên và làm cha đứa trẻ trước pháp luật. Mặt khác, giả như ông đã biết là Maria thụ thai do Thánh Thần, ông cảm thấy mình bất xứng để đón nhận hài nhi, nên muốn âm thầm rút lui. Và như thế, lời sứ thần nhằm xác nhận là thật điều ông đã biết (dĩ nhiên qua tâm sự của Maria) và trao cho ông trách nhiệm đón nhận hài nhi vào dòng tộc của mình.
Dù giải thích cách nào thì lời truyền tin của sứ thần cũng nhắm mục đích giải thích cho biết Chúa Giêsu được thụ thai do quyền năng Chúa Thánh Thần; Giuse được trao sứ mệnh đón nhận Người vào dòng tộc vua Đavít; và Người là Đấng Thiên Sai con vua Đavít, ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia đã từng loan báo: “ Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Mt 1,23).
Trước lời truyền của sứ thần, Giuse chỉ biết vâng phục. Ông không nói lời nào mà chỉ tuân theo cách triệt để. Tin là vâng phục và dấn thân hành động. Giuse, cũng như Maria với lời xin vâng, đã hành động theo mẫu gương của tổ phụ Abraham: vâng phục trong đức tin.
2. Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai cứu độ
Sứ thần trao cho Giuse quyền đặt tên cho hài nhi là Giêsu. Quyền đặt tên đồng nghĩa với việc đón nhận Giêsu vào dòng tộc của mình và trở nên cha của đứa trẻ trước pháp luật. Giuse trở nên bạn trăm năm của Maria và dưỡng phụ của Chúa Giêsu.
Tên “Giêsu” có nghĩa là Thiên Chúa cứu độ. Danh xưng này bao hàm căn tính và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Người được Chúa Cha sai đến trong thế gian như là Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, để thi hành chương trình cứu độ nhân loại. Đây chính là sợi chỉ đỏ chạy dài suốt Tin Mừng Mátthêu. Cuối cùng, Mt tuyên xưng Người đã chết và sống lại để chu toàn sứ mệnh cứu thế, và Người hằng hiện diện mỗi ngày với Giáo Hội cho đến tận thế (Mt 28,20).
Các nhà chú giải Kinh Thánh còn nhận thấy một tương đồng trong cấu trúc giữa trình thuật về nguồn gốc lai lịch Chúa Giêsu với hai chương đầu Sáng thế (St 1,1-2,4a // Mt 1,1-17; St 2,4b-25 // Mt 1,18-24). Sự tương đồng ấy nhằm cho thấy việc xuất hiện của Chúa Giêsu như một Ađam mới, khởi đầu một sáng tạo mới.
Kết luận
Hãy đến với thánh Giuse với tất cả niềm tôn kính mến yêu và học tập dưới mái trường của ngài tinh thần vâng phục ý Chúa, lòng khiêm tốn, tính tự chủ và tâm hồn nhiệt thành quảng đại phục vụ.
Tin Mừng nói rất ít về Giuse. Tuy nhiên, qua ít đoạn vắn vỏi ấy, ta cũng cảm nhận được một tương đồng giữa Giuse và Đức Maria. Nếu Thiên Chúa đã chọn Đức Maria làm mẹ Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể, Ngai cũng đã tuyển chọn Giuse làm dưỡng phụ để chăm nom săn sóc. Trước đề nghị của Thiên Chúa, Giuse và Maria đã sẵn sàng vâng phục ý Chúa. Cũng như Maria, Giuse sống thánh thiện, khiêm tốn, yêu thương và hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Chúa nhật hôm nay, trước lễ Giáng Sinh, Giáo hội đề nghị chúng ta nghe "loan báo việc sinh Đức Giêsu cho Giuse".
Mátthêu viết: "Mẹ Người là bà Maria đã đính hôn với Giuse" Đính hôn hay thành hôn có nghĩa là "đến với, phối hợp với một người nào đó," chỉ việc chung sống vợ chồng. Cô thiếu nữ Dothái được đính hôn vào khoảng tuổi 12, thoát khỏi quyền giám hộ của người cha để ở dưới quyền giám hộ của người chồng vào lúc 13-14 tuổi. Theo phong tục và hôn nhân của người Dothái, đính hôn đã là thành vợ chồng trước pháp luật, nhưng việc rước dâu thường cách xa lễ đính hôn, có khi cả năm trời. Thường thì hai người không chung sống trước khi rước dâu, nhưng giả thiết có con với nhau trong giai đoạn này, đứa con vẫn là con hợp pháp.
Maria đã đính hôn với Giuse, nghĩa là cả hai như các cặp hôn nhân khác, có dự tính thành vợ chồng. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Người ta đặt câu hỏi: Ông Giuse có biết việc Đức Maria thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần, trước khi Thiên thần báo tin không? Sự công chính của Giuse ở chỗ nào?
Theo nhiều nhà chú giải, Giuse công chính không theo nghĩa vâng lời lề luật. Vì chẳng có luật nào buộc phải ly dị người mới đính hôn (Đnl 22,13-21; 23-27), luật chỉ dạy ly dị khi hôn nhân đã hoàn hợp (Đnl 24,1). Đàng khác âm thầm ly dị, Giuse lại càng bất tuân lề luật. Vì chứng thư ly dị chỉ có giá trị pháp lý, khi mang tính cách chính thức công khai. Vả lại, ly dị âm thầm như thế không thể giữ bí mật được lâu, trong một ngôi làng nhỏ bé như Nadarét. Đàng khác, nếu Giuse coi Maria vô tội, ta không thể hiểu được tại sao ông lại nghĩ đến chuyện ly dị bà, vì pháp luật đâu cho phép. Xét như là hôn phu, ông có bổn phận bảo vệ hôn thê vô tội, chống lại mọi nghi ngờ vô bằng cứ của kẻ khác.
Hơn nữa, trong Tin mừng của Mátthêu, chỉ duy nhất Giuse được gọi là công chính, tựa như Abel người công chính. Abel công chính không phải theo luật, vì lề luật chỉ được công bố với Maisen, nhưng vì kính sợ Thiên Chúa. Vì thế, không thể cắt nghĩa đức công chính của Giuse " theo luật" được, nhưng công chính vì kính sợ Thiên Chúa.
Nhiều nhà chú giải cho rằng: Trước khi Thiên sứ loan báo, Giuse đã biết Maria có thai bởi quyền năng Thánh Thần, có thể do chính Maria tiết lộ, tâm sự với người mình đính hôn, hay đúng hơn mẹ của Maria, theo tập quán Đông phương. Vì thế, điều làm cho Giuse băn khoăn, không phải vì tiết hạnh của Maria, song là sự thụ thai huyền nhiệm của nàng. Trước mầu nhiệm ấy, Giuse nghĩ: Ông không có quyền đem về nhà một kẻ, Đức Giavê đã dành riêng cho Người, ông không có quyền làm cha đứa con không phải là của ông. Ông nhận ra quyền làm Cha của Trẻ này là chính Thiên Chúa, còn ông, không được coi như cha của đứa con đó.
Thật thiêng thánh! Trước mầu nhiệm ấy, Giuse muốn rút lui và cẩn thận không muốn tiết lộ mầu nhiệm thiên linh ấy nơi Maria (Theo Origène và Eusèbe, từ "deigmatisai" = tiết lộ, không bao hàm ý nghĩa xấu: tố giác, bêu nhục như từ Paradeigmatisai; Touon cũng dịch là tiết lộ, bầy tỏ). Giuse phản ứng như hết thảy mọi kẻ công chính trong Kinh thánh, trước việc Thiên Chúa can thiệp vào đời họ: như Maisen cởi giầy trước bụi gai rực cháy, như Isaia khiếp đảm trước việc xuất hiện của vị Thiên Chúa ba lần thánh (Is 6,3-4), như Êlisabét hỏi tại sao mình được Mẹ Thiên Chúa đến thăm (Lc 1,39-45), như Phêrô cúi mình thưa: "Lạy Chúa, xin hãy xa con vì con là kẻ tội lỗi." Tuy nhiên, "đang khi Giuse toan tính lìa bỏ Maria, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: "Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về." Giuse kính sợ Thiên Chúa, không phải vì lề luật.
Lộ trình phụng vụ mùa Vọng đã mời gọi chúng ta chuẩn bị tâm hồn để sẵn sàng tiếp đón, đồng thời tỉnh thức để nhận ra và chiêm ngưỡng biến cố Chúa Cứu Thế bước vào trần gian. Nên thời gian trước lễ Giáng sinh mang tính đặc thù của nó là chờ đợi với niềm vui, mong muốn gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên chúa làm người sống giữa chúng ta. Chúng ta thấy ông Dacaria và bà Êlisabét, đặc biệt là Mẹ Maria và thánh Giuse, là những người đầu tiên đã cảm thấy vui mừng khi đối với mầu nhiệm Giáng sinh. Toàn bộ lời hứa trong Cựu Ước được thực hiện với biến cố Con Thiên Chúa, Vị Cứu Tinh giáng trần. Như thế bên cạnh sự chờ mong của các nhân vật trong Thánh Kinh cũng có sự chờ mong của chúng ta nữa...
Isaia loan báo: "Này đây, Chúa toàn năng đến: Người sẽ được gọi là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng tôi". Đó là các lời chúng ta thường lặp lại trong các ngày này, đặc biệt Chúa nhật thứ IV và cũng là Chúa nhật cuối cùng của Mùa Vọng hôm nay.
Toàn bộ phụng vụ xoay quanh lời ngôn sứ: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta". (Is 7,14; Mt 1,23). Nếu bài đọc I, ngôn sứ tuyên sấm lời Thiên Chúa hứa "sẽ cho các ngươi một dấu: này đây một trinh nữ sẽ thụ thai..." ((Is 7,14), thì lời hứa ấy được thực hiện trong Bài Tin Mừng: Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng Tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai ..." Mt 1,23). Câu này tiếp tục lặp lại trong phần alleluia và cả phần Ca hiệp lễ nữa.
Chân trời ơn cứu độ phổ quát hôm nay nhằm vào đối tượng cụ thể trong lịch sử và thời gian là: Gia Đình Thánh Gia Nazarét, trong đó Đức Maria là đối tượng của lời ngôn sứ, thánh Giuse, người công chính được sứ thần hiện đến trong giấc mơ, và Đức Giêsu Đấng phải đến đã nhận được hai tên: Giêsu, nghĩa là "Thiên Chúa cứu độ"; và "Em-ma-nu-el", theo Thánh Kinh nghĩa là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta".
Bước vào Chúa nhật thứ IV Mùa Vọng, người ta có cảm thấy bầu khí nhẹ nhàng và thân thiện của Giáng sinh; máng cỏ được trưng ra với bò, lừa, tất cả sẽ được trang trí ở đó, đưa chúng ta đến gần với máng cỏ đã dọn sẵn.
Bằng cách giới thiệu bản văn Tân Ước, Isaia (7,14) chứng tỏ lời hứa đã được thực hiện, hoàn tất lời Thiên Chúa phán qua miệng các tiên tri: 'Này đây Trinh Nữ sẽ thụ thai' (Mt 1,22-23). Vì niềm tin của dân Israel mà lời Thiên Chúa hứa được thi hành. Đó là ý nghĩa đích thực của sự mong chờ trong Mùa Vọng. Thiên Chúa không từ trời xuống, như một giải pháp kỳ bí cho sự tuyệt vọng của con người, Ngài đến để lấp đầy khát vọng từ con tim của Abraham, Isaac, Giacob, và của toàn dân Israel, vì ước muốn này "tin vui mà Thiên Chúa đã hứa qua các ngôn sứ trong Thánh Kinh" (Rm 1,2). Cần phải đón nhận Thiên Chúa đến trong "Thần Khí", nghĩa là như một hồn ân nhưng không của Thiên Chúa ban cho con người, chứ không phải "theo xác thịt" (Rm 1,3-4).
Kết quả là những lời hứa cứu độ phổ quát dành cho dân Do thái do miệng các ngôn sứ loan báo nay hoàn tất trong biết cố Giáng sinh. Không có gì là chiến thắng hết: còn qui chiếu nào đơn giản hơn là một người nam và một thiếu nữ đang sẵn sàng sinh em bé không? Nhưng con trẻ là đối tượng của lời hứa: Thiên Chúa cứu độ nay đến ở cùng chúng ta.
"Emmanuel" nghĩa là, "Thiên Chúa ở cùng chúng ta." Vâng, Người là Thiên Chúa ở trên chúng ta, nhưng hôm nay Người đến ở cùng chúng ta! Người là Thiên Chúa ở với chúng ta trong nhân tính và trong ân sủng của Người, Người ở với chúng ta trong sự yếu hèn của chúng ta và tốt lành của Người, Ngài ở với chúng ta trong đau khổ của chúng ta với tình thương của Người để đưa chúng ta vào trong tình yêu dịu dàng và từ bi của Người đối với chúng ta.
Thiên Chúa ở với chúng ta! Tác giả thư Do thái viết: Anh em là con cái Adam đã không thể lên trời ở với Thiên Chúa "Mệnh lệnh đó không ở trên trời, khiến anh (em) phải nói: "Ai sẽ lên trời lấy xuống cho chúng tôi và nói cho chúng tôi nghe, để chúng tôi đem ra thực hành?" (x. Dt 30,12) Thiên Chúa từ trời xuống là "Emmanuel", Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Người đến nhà chúng ta, chúng ta đến với Chúa để được ở với Người ! "Phàm nhân hỡi, cho đến bao giờ lòng vẫn còn chai đá ưa thích chuyện hư không, chạy theo điều giả dối? "(Tv 4:3) Ở đây có sự thật: "Sao lại yêu mến sự hư vô? " Và đây lời chân thật và bền vững: "Tại sao tìm kiếm sự dối trá?"
Đây là Thiên Chúa ở với chúng ta. Nhỏ bé như ta, yếu đuối như ta, trần truồng như ta, nghèo khó như ta, trong mọi sự, Người đã trở nên giống tôi, mặc lấy tôi và hiến mình cho tôi. Tôi nằm chết, không có tiếng nói, không có ý nghĩa, thậm trí ánh sáng cũng không còn trong mắt tôi. Hôm nay Thiên Chúa đã hạ mình xuống làm người như ta vậy. Ôi ! còn sung sướng và hạnh phúc nào hơn nữa. Thiên Chúa đến cứu thoát chúng ta khỏi tội lỗi và cái chết, sau khi Adam và Eva phạm tội, Người đã tái ôm hôn chúng ta và mở toang cửa dẫn chúng ta tới sự sống đời đời.
Thánh Ireneo giải thích rằng "Chính Con Thiên Chúa đã xuống trong một xác phàm giống xác phàm của tội lỗi" (Rm 8,3) để lên án tội lỗi và sau khi đã lên án nó, Ngài hoàn toàn loại trừ nó khỏi loài người. Ngài kêu gọi con người giống chính mình, Ngài làm cho nó bắt chước Thiên Chúa, và dẫn nó đi trên con đường Thiên Chúa Cha đã chỉ, để nó có thể trông thấy Thiên Chúa và ban tặng chính Thiên Chúa Cha cho nó" III, 20,2-3). Ireneo khẳng định rằng: với Chúa Giêsu Hài Nhi, Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở nên giống Người. Chúng ta thấy Thiên Chúa như Người là. Và như thế Người nhắc nhở cho chúng ta biết chúng ta phải giống Thiên Chúa, và phải bắt chước Người. Thiên Chúa đã tự hiến cho chúng ta, trong tay chúng ta.
Thánh Ireneo còn khẳng định như sau: "Ngôi Lời của Thiên Chúa đến ở giữa loài người và làm Con của loài người, để tập cho con người nhận biết Thiên Chúa và làm cho Thiên Chúa quen sống trong con người theo ý Thiên Chúa Cha. Vì thế, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta như "dấu chỉ" ơn cứu rỗi của chúng ta, Đấng được sinh ra từ Đức Trinh Nữ, là Emmanuel". Xin Đức Trinh Nữ Maria và thánh Giuse giúp chúng ta sống Mầu Nhiệm Giáng Sinh với lòng biết ơn được canh tân. Amen.
Có một em bé về kể với mẹ: Mẹ ơi, hôm nay khi một chiếc xe chở bia bị lật, con thấy nhiều người ra hôi bia về uống.
Mẹ nói: Vì họ là người tham lam. Họ phạm tội ăn cắp một cách công khai đáng bị lên án. Đứa bé: Nhưng con thấy có cả chú tư, cô ba gần nhà mình cũng vui vẻ bưng một thùng bia về nhà. Mẹ: Vì chú tư, cô bà đã bán sĩ diện mình bằng vài lon bia.
Đứa bé: Con thấy không một ai nhặt giúp bia cho người bị nạn mà ai cũng tranh thủ chộp một vài lon hay vài thùng rồi lên xe chạy hết.
Mẹ: Vì họ sống theo bản năng đói thì ăn, khát thì uống mà không còn xét về luân lý được ăn hay không?
Đứa bé: Vậy nếu xã hội mà con người chỉ biết sống theo bản năng thì xã hội sẽ ra sao?
Mẹ: Thì xã hội sẽ chẳng còn luật lệ, người ta sẽ mạnh ai người ấy sống, hay “cá lớn nuốt cá bé”. Xã hội sẽ loạn lạc, chẳng còn ai tin vào ai.
Đứa bé: Vậy sống trong một xã hội mà con người không còn thân thiện, giúp đỡ nhau thì mình phải làm sao?
Mẹ: Mình phải là một ánh sáng cho thế gian bớt u tối bằng việc làm tốt, không hùa theo đám đông làm chuyện xấu. Dù chỉ là ánh sáng lẻ loi nhưng vẫn phá tan những đêm tối của lòng người. Nhất là mình là người Công giáo phải sống chứng nhân cho Chúa qua dấu chỉ yêu thương để người ta nhận biết chúng ta là môn đệ của Chúa, và đừng bao giờ vì một vài lon bia mà làm ô danh đạo thánh của chúng ta.
Cách đây hơn hai ngàn năm giữa một khung trời đầy những bóng tối của tội lỗi, của sự ích kỷ lòng người Ngôi Hai Thiên Chúa đã ngự xuống trần gian. Ngài là Emanuel ở cùng chúng ta. Ngài đến để thắp sáng trên trần gian ánh sáng của tình bác ái, của sự hiệp thông. Ngài là ánh sáng cho trần gian. Ngài soi chiếu ánh sáng chân lý để đầy lùi bóng tối gian tà. Ngài thắp sáng ánh sáng tình yêu để xua tan bóng đêm của ích kỷ, lạnh lùng. Ngài đi vào trần đời để ném ngọn lửa yêu thương, lửa bác ái, lửa tin yêu cho trần gian.
Thế nhưng, vẫn có những con người khước từ ánh sáng. Họ thích sống trong tăm tối. Họ thích sống theo bản năng, nuông chiều tính xác thịt. Họ ngồi trong u tối nhưng không muốn ra ánh sáng. Vì theo ánh sáng phải bỏ bóng tối. Bóng tối của ích kỷ, của dửng dưng, của gian tà. Nhưng tiếc thay, con người lại thích sống theo bản năng nên họ khước từ ánh sáng.
Ngày nay cũng có nhiều người không muốn theo một đạo nào. Không phải là họ không tin mà điều quan yếu là họ sợ phải sống đạo, phải giữ đạo. Họ thà không theo đạo để sống theo bản năng của mình. Thế nhưng, bản năng thường ích kỷ, thường lầm lỗi và hẹp hòi nên vẫn còn đó những việc làm thiếu tình liên đới, hiệp thông yêu thương trong tình người.
Ngày nay Thiên Chúa vẫn đang cần chúng ta hãy trở thành ánh sáng cho trần gian. Hãy chiếu sáng cho thế gian ánh sáng của yêu thương, của tình liên đới và hiệp thông. Hãy dẫn dắt con người đến cùng ánh sáng đích thực là chính Chúa Giê-su là nguồn mạch ánh sáng.
Thánh Giu-se và Đức Maria năm xưa đã cộng tác với Chúa để mang ánh sáng vào trần gian. Mẹ đã cộng tác bằng hai tiếng xin vâng để đón nhận hài nhi ngự trong cung lòng Mẹ. Thánh Giuse đã cộng tác bằng hai tiếng xin vâng để trở thành cha nuôi của Chúa Giê-su. Cả hai cùng thưa xin vâng như lời dâng hiến cuộc đời để trở thành khí cụ của Chúa mang ánh sáng vào trần gian. Ngôi Hai Thiên Chúa đã có thể cư ngụ giữa chúng ta là nhờ tấm lòng hy sinh của hai thánh nhân. Chính các ngài đã từ bỏ ý riêng, từ bỏ nếp sống của mình để hành xử theo ý Thiên Chúa.
Nếu cuộc đời mà ai cũng biết từ bỏ ý riêng của mình để làm theo ý Chúa thì cuộc đời tốt đẹp biết bao. Nếu dòng đời ai cũng biết chế ngự bản thân để sống cho tha nhân thì dòng đời sẽ không còn vẫn đục bởi hôi của, bởi dưng dưng trước khốn khó của đồng loại mà ai cũng sẵn sàng giúp đỡ nhau.
Mùa Noel nữa lại đến như mời gọi chúng ta hãy là ánh sáng cho trần gian. Xin đừng vì những quyến luyến trần tục, những tham lam bất chính mà bản rẻ lương tâm, nhân phẩm của mình. Nhưng mỗi người hãy là những vì sao sáng trên bầu trời loan báo tin vui Chúa giáng sinh cho nhân trần. Xin Đấng Emaul mãi ở lại trong tâm hồn chúng ta ban niềm vui và hạnh phúc để chúng ta cũng ra đi xây dựng tình yêu và hạnh phúc cho nhân trần. Amen.
Tin Mừng Luca kể chuyện truyền tin cho Đức Mẹ.Tin Mừng Matthêu tường thuật câu chuyện truyền tin cho Thánh Giuse. Thánh nhân được mạc khải cho biết mầu nhiệm Con Thiên Chúa Nhập Thể trong cung lòng Đồng Trinh của Mẹ Maria, do quyền phép của Chúa Thánh Thần. Ngài được mời gọi tích cực tham dự vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Giuse đã sống lời "Xin Vâng" trọn cuộc đời.
Ngày Sứ thần Gabriel truyền tin, sau khi Đức Maria nói lời "Xin Vâng", Con Thiên Chúa đã làm người trong cung lòng của Mẹ. Biết tin chị họ Êlisabeth có thai, Mẹ đã mau mắn lên đường đến viếng thăm và giúp đỡ suốt 3 tháng.
Trong thời gian này, Giuse ở nhà lo lắng chuẩn bị cho ngày thành hôn sắp tới. Thật bất ngờ, khi trở về Maria có dấu hiệu mang thai. Tâm hồn Giuse hoang mang bối rối khi bà con lối xóm xầm xì to nhỏ: Maria có thai. Làm sao tin nổi đó là sự thật? Maria một thiếu nữ nết na đức hạnh kia mà! Dù cố biện minh cho Maria, nhưng Giuse không khỏi xao xuyến. Làm sao đây, khi mà Maria cũng không thể tự biện hộ cho mình là bào thai này do quyền phép của Thiên Chúa chứ không phải người phàm! Giuse có thể tin được không? Phần Maria vẫn thinh lặng suy niệm trong lòng. Về phần Giuse, chiếu theo luật có thể truy tố Maria trước pháp luật.Là người công chính, dù ghi nhận ít nhiều dấu hiệu chuyển biến nơi Đức Maria, Giuse cũng chẳng dám nghi ngờ mà chỉ một thoáng băn khoăn, để rồi định chọn cho mình giải pháp âm thầm rút lui. "Đào vi thượng sách" là giải pháp an toàn nhất. "Trong lúc định tâm như thế, thì Thiên Thần hiện đến với ông trong giấc mơ" và nói rõ về ý định của Thiên Chúa chọn Maria làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Thiên Thần trấn an Giuse: " Chớ ngại nhận Maria làm bạn, vì Con bà đang cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông sẽ gọi tên con trẻ là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội" (Mt 1,20-21). Sứ thần nhắc cho Giuse lời tiên tri Isaia (bài đọc 1). Là người Công Chính, Giuse đã đọc Kinh Thánh Cựu Ước và biết về sấm ngôn này. Lời Thiên Thần khai mở đã trút được gánh nặng đang đè trên tâm hồn Giuse bấy lâu. Chính lúc này, được tỏ nguồn cơn, Giuse đã tiếp nhận ý Chúa và tiếp đón Đức Maria về nhà mình bằng một tình yêu trong sáng, mà người trần mắt thịt dẫu có bản lĩnh cách mấy cũng khó mà dám xâm mình mạo hiểm (Mt 1,24). Thánh Giuse luôn lắng nghe và mau mắn thi hành thánh ý Chúa. Ngài trở nên Thánh Cả và là mẫu gương cho mọi tín hữu.
1. Mẫu gương công chính
Tổ phụ Abraham nài xin với Thiên Chúa: "Thưa Chúa, nếu tìm thấy trong thành có 50 người công chính thì với 50 người chính chính ấy Chúa có tha cho cả thành không ?". Giavê Thiên Chúa đã chấp thuận điều kiện Abraham đặt ra. Abraham đã kỳ kèo bớt dần bớt dần xuống con số 10 người công chính, Giavê cũng chấp nhận (x.St 18,16-33). Chờ đợi đến giai đoạn sau này, Abraham mới vui mừng vì hiểu được rằng chỉ với một người công chính duy nhất chính hiệu thì Thiên Chúa cũng ban ơn tha thứ cho cả nhân loại (x.Ga 8,56). Người công chính là người lôi kéo ân lộc trời cao cho nhân trần, là người trung gian hòa giải đất với trời, là người thể hiện tình yêu nhưng không của Thiên Chúa và là người nối kết mối dây giao hòa giữa nhân loại với Đấng tác thành mọi sự mọi loài.
"Giuse là người công chính". Nơi Thánh Giuse, "sự công chính nội tâm" trùng với "tình yêu". Tình yêu dâng hiến luôn hướng về người khác, sẵn sàng hy sinh để làm người mình yêu có giá trị hơn và được hạnh phúc hơn. Chấp nhận chịu thiệt thòi để người yêu được hưởng lợi, chấp nhận đau khổ để người mình yêu hạnh phúc. Sẵn sàng thông cảm và tha thứ cho người mình yêu khi có lầm lỗi. Giuse đã yêu Maria bằng tình yêu dâng hiến như thế.
Giuse luôn mở lòng lắng nghe Lời Chúa trong cầu nguyện. Thiên thần giải thích cho Giuse biết: "Người sinh bởi Đức Maria là do Chúa Thánh Thần", theo lời ngôn sứ phán xưa: "Này đây: Trinh nữ sẽ thụ thai", và Giuse sẵn sàng tiếp nhận những ý định của Chúa, những ý định vượt quá những giới hạn của loài người.
Giuse như là một con người đích thực sống đức tin. Đức tin liên kết với sự công chính và cầu nguyện, đó là thái độ phù hợp để gặp Đấng Emmanuel. Tin có nghĩa là sống trong lịch sử mở lòng đón nhận sáng kiến của Thiên Chúa, đón nhận sức mạnh sáng tạo của lời Người.
2. Mẫu gương luôn vâng theo thánh ý Chúa.
Thánh Giuse là người công chính như Kinh Thánh đã khen tặng. Trong suốt cuộc đời, Giuse hằng luôn vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa (x. Mt 1,18-25; 2,13-23; Lc 2,1-7.22).
Thánh ý Chúa được Sứ thần truyền đạt đến cho thánh Giuse, vừa xoá tan mọi nghi ngờ đang dằn vặt ngài vừa mạc khải cho ngài về lai lịch và sứ mạng của thai nhi đang được cưu mang. Đó là Đấng Thánh vì được thụ thai do quyền năng của Thiên Chúa. Đó cũng là Đấng sẽ giải phóng dân tộc của ngài khỏi ách đô hộ của ngoại bang. Sứ thần xác nhận "Maria mang thai do Chúa Thánh Thần" và bảo ông đừng rút lui mà hãy đưa Maria về với mình, bởi Chúa đã giao cho ông một sứ mạng. Giuse sẵn sàng làm bất cứ điều gì Chúa muốn để hoàn tất chương trình của Người. Dự tính muốn ra đi âm thầm không phải chỉ do sự tôn trọng luật pháp hay tôn trọng danh dự Maria thúc đẩy, nhưng còn có cái gì sâu xa hơn nữa.
Có thể ví với thái độ của những người đối diện với một mầu nhiệm cao cả: họ thụt lại vì kính sợ, tựa như ông Môsê đã cởi dép khi tiến gần bụi gai đang cháy rực (St 3,5), tựa như Isaia thất kinh khi diện kiến Thiên Chúa cực thánh(Is 6,5), tựa như Simon sau khi chứng kiến mẻ cá lạ lùng (Lc 5,8). Giuse đựoc biết là Maria "có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần", vì thế ông không dám chiếm hữu người con không phải là của mình. Vì thế ông toan tính rút lui. Để cũng cố thêm cho sự giải thích vừa rồi, cha Ignace de La Potterie nhận xét rằng cần phải xét lại các bản dịch cổ truyền. Thay vì "ông Giuse là người công chính không muốn tố giác bà", cần phải dịch là "ông Giuse là người công chính không muốn tiết lộ 'mầu nhiệm', quyết định rời bỏ bà cách kín đáo". Động từ deigmatisai (ít được sử dụng trong tiếng Hy lạp) tự nó chỉ có nghĩa là thông báo, nói cho biết, đưa ra ánh sáng), và tuỳ theo mạch văn mà thay đổi ý nghĩa: có thể là "tố cáo, tố giác" (điều xấu), "bày tỏ, tiết lộ" (điều tốt). Ông Giuse đựơc bà Maria tâm sự về sự cưu mang do quyền năng Thánh Thần, và ông không dám tiết lộ mầu nhiệm này. (x. Lm Phan tấn Thành, Thánh Giuse trong cuộc đời Chúa Kitô và Hội thánh).
Như một khí cụ ngoan ngoãn trong tay người sử dụng, thánh Giuse đã được Thiên Chúa "chọn mặt gởi vàng", chọn làm người bảo trợ Đấng Thiên Sai. Ngài cùng với Đức Maria thực hiện mọi quyết định của Thiên Chúa, dầu có phải trải qua biết bao thử thách gian nan cả vật chất lẫn tinh thần.
Người Công Chính Giuse suốt cuộc đời luôn luôn thức tỉnh trước thánh ý Thiên Chúa, thức tỉnh ngay cả trong giấc ngủ.
- Ở Bêlem: "Sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: "Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi!' Ông Giuse liền chỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập." (Mt 2,13-14) .
- Ở Aicập: "Sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giuse bên Aicập, báo mộng cho ông rằng: "Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi. "Ông liền chỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen" (Mt 2,19-21).
- Ở Giuđê: "Vì nghe biết Áckhêlao đã kế vị vua cha là Hêrôđê, cai trị miền Giuđê, nên ông Giuse sợ, không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Galilê, và đến ở tại một thành kia gọi là Nadarét" (Mt 2, 22-23) .
Giuse luôn thao thức lắng nghe tiếng Thiên Chúa, và khi nghe được rồi thì đáp lại không chần chừ, dù cho phải trả giá.
Một câu ngạn ngữ của người Nigêria nói rằng: Hãy lắng nghe và bạn sẽ nghe đựoc những bước chân của các con kiến. Chúng ta được mời gọi để lắng nghe những bước chân âm thầm của Thiên Chúa trong cuộc đời mình.
Thánh Giuse là mẫu gương sống tâm tình đạo đức Mùa Vọng. Học với Thánh Giuse, bài học lắng nghe và thi hành Lời Chúa, trong tinh thần khiêm tốn, vâng phục, tin tưởng và phó thác, chúng ta sẽ trở nên người công chính Tân Ước như thánh nhân.
Chuyện xưa kể lại rằng: Đức Khổng Tử thấy người giăng lưới chim sẻ, chỉ đánh được các chim sẻ con, còn non, vàng mép. Ngài liền hỏi rằng: "Không đánh được chim sẻ già là làm sao?". Chim sẻ già bíết sợ nên khó được, sẻ non ham ăn cho nên dễ bắt. nếu sẽ non mà theo sẻ già thì bắt sẻ non cũng khó. Nhưng nếu sẽ già mà theo sẽ non thì bắt sẽ già cũng dễ. Đức Khổng Tử nghe vậy hỏi học trò rằng biết sợ để tránh tai hại tham ăn mà quên nguy vong . Điều đó là tính tự nhiên vậy.
Qua câu chuyện trên ta thấy những con chim sẻ già biết sợ nên sống, đó là một cái sợ khôn ngoan, cái sợ của một con chim có nhiều năm kinh nghiệm, nên nó biết chọn chỗ nào nguy hiểm chỗ nào không nguy hiểm, có thể nói con chim sẽ già biết sợ để được sống chứ không phải là bị sợ vì nó hoàn toàn chủ động chứ không phải vào thế bị động.
Trong tâm lý học cho thấy, có rất nhiều cái làm cho người ta sợ. Sợ có thể là do bị mặc cảm tự ti, sợ không bằng người khác, sợ không thể làm được trước một công việc mà họ cho là quá lớn lao. Cái sợ thứ hai gần giống như sự xao xuyếnbăn khoăn thổn thức, nội tâm cảm thấy bất an sâu xa mà không có nguyên do khách quan nào. Họ sợ bị bất hạnh ập đến, một tai nạn gần kề trí tưởng tượng sẽ xảy ra cho họ rằng có những biến động bất ngờ đôi khi rất kinh sợ mà họ không tài nào xua đuổi được. Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy một cái sợ mới, rất độc đáo. Nó không giống cái sợ từng trải của con chim sẻ già, cũng không giống một cái sợ mặc cảm tự ti, cũng không xao xuyến bất an, một cái sợ thật dễ thương biết mình là thụ tạo được tuyển chọn, biết mình để mà sợ sống phó thác, sống vâng lời. Đó chính là cái sợ của Đức mẹ Maria cô trinh nữ làng Nazareth và anh chàng thợ mộc Giuse nghèo nàn, ít nói và luôn sống âm thầm.
Không phải tự nhiên ta có thể khẳng định Đức Meria sợ hãi. Điều đó đã được chứng minh qua việc khi sứ thần truyền tin. "Maria đừng sợ, Bà đã được Thiên Chúa sủng ái" Chắc Maria lại càng sợ hơn khi nghe nói mình sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu . Không phải chỉ có Đức Mẹ khi nghe lời đó sợ hãi mà hầu hết tất cả các thiếu nữ Do Thái khi nghe đều sợ. Vì theo lật Do Thái người phụ nữ nào có chồng mà có con trong khi Đức Mẹ lại là người phụ nữ đẹp nết đẹp người, Hơn nữa Đức Maria lại là con ông Gioan Kim và Anna sống tốt lành thánh thiện thì lại càng sợ hơn nữa. Nhưng cái sợ của Đức Maria khi nghe truyền tin không giống như cái sợ của những người phụ nữ Do thái khác. Sợ vì có một chút bất ngờ một chút bỡ ngỡ, vì không ngờ một thụ tạo hèn kém như mình lại được Chúa chọn, được Chúa ban cho hồng ân to lớn đến thế. Có thể nói cái sợ của Mẹ Maria như lời tạ ơn đơn sơ đẹp lòng Chúa nó cũng chứng tỏ nơi Mẹ một tâm hồn phó thác vì biết sợ trong Chúa vì biết tin tưởng nới Thiên Chúa mà Mẹ đã biến nỗi sợ hãi bằng lời thưa trong sự can đảm và vâng phục thánh ý Thiên Chúa
Khi nói đến Thánh Giuse, người ta nghĩ ngay đến một người công chính, ngay thẳng sống âm thầm, ít nói. Suốt cuộc đời trong Kinh Thánh không ghi lại một lời nào của ông nhưng ta biết được ông cảm thấy e ngại khi biết Đức Maria có thai, ông không hề nói cho ai biết điều làm ông e ngại đó, nhưng Thiên Chúa đã thấy và biết được sự lo lắng trong lòng ông. Do đó Thiên Thần đã đến với ông trong giấc mơ và nói với ông hỡi Giuse đừng sợ đón nhận Maria về nhà làm vợ vì nàng đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. sau khi tỉnh giấc Giuse đã tin tưởng vào Thiên Chúa và đường lối hành động của người. Do đó ông cũng vượt qua được nỗi sợ hãi và làm theo ý Chúa. Tất cả chúng ta đều đã đụng chạm đến nỗi sợ hãi và chắc chắc cũng còn gặp nhiều nỗi sợ hãi nhưng đường để nỗi sợ hãi đó làm ta không thể đến được với Chúa nhưng hãy biết chuyển đổi nỗi sợ hãi để thành niềm tin.
Trong mùa giáng sinh này hãy biến nỗi sợ hãi thành lòng khao khát đợi Chúa đến, và chỉ có Chúa ta mới nhận được niềm vui lớn lao như Đức Mẹ và thánh Cả Giuse đã nhận hơn 2000 năm trước.