Suy Niệm Tin Mừng Chúa nhật MV 4-A Bài 101-150: Chúa Giêsu sinh ra bởi Ðức Maria. --------------------------------- Phúc Âm: Mt 1, 18-24 "Chúa Giêsu sinh ra bởi Ðức Maria, đính hôn với Thánh Giuse con vua Ðavít".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, bạn của bà, là người công chính, không muốn tố cáo bà, định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo.
Nhưng đang khi định tâm như vậy thì thiên thần Chúa hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse, con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần: bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội".
Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng Tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta".
Học cùng buổi, là anh lớn, tôi được cha mẹ giao cho trách nhiệm quản lý chiếc xe và đưa rước em út MV4-A101
Học cùng buổi, là anh lớn, tôi được cha mẹ giao cho trách nhiệm quản lý chiếc xe và đưa rước em út học ở trường mầm non gần trường tôi. Tôi chẳng thích tí nào, vì như thế tôi chẳng bao giờ được đi chơi cùng đám bạn mỗi khi tan học. Nhưng tôi chẳng còn cách nào khác vì cha mẹ phải đi làm, em út thì chưa thể tự đi được.
Lần nọ, cô giáo bị bệnh đột ngột. Chúng tôi được nghỉ tiết cuối. Tôi theo đám bạn ra sân vận động chơi đá banh. Mãi chơi quên cả giờ giấc phải đón em. Chờ mãi không thấy tôi đến rước, cô giáo nhà trẻ đưa luôn em tôi về nhà cô và điện qua nhà tôi bảo mẹ tôi qua rước em. Còn tôi, khi chơi chán thì đã trễ giờ, đến trường của em thì được biết em đã được cô đưa về. Tôi đành lững thững về nhà chịu tội. Về đến nhà, đứa em út nhìn tôi khóc tức tưởi: "Anh hai đi đâu không đón em!".
Phúc Âm ngày hôm nay giới thiệu cho chúng ta một khuôn mặt - một người thầm lặng, thầm lặng nhưng rất vâng phục; ít nói nhưng đầy trách nhiệm. Thánh sử gọi ngài là người công chính. Đó là thánh Giuse.
Trình thuật bài Phúc Âm cho biết Giuse đã đính hôn với Maria, nhưng trước khi về chung sống thì Maria đã mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse thì lòng bối rối như tơ vò, "bỏ thì thương vương thì tội". Tố cáo thì Maria sẽ chết, bởi luật lệ Do thái thời ấy rất khắt khe với những phụ nữ chửa hoang. Rước nàng về chung sống thì sao quá bất công cho mình. Cuối cùng Giuse đã chọn giải pháp âm thầm ra đi. Đành chấp nhận dang dở một cuộc tình đẹp... Nhưng có phải vì sự âm thầm đó mà Giuse được gọi là người công chính? Hay là vì lòng nghĩa hiệp không muốn phanh phui ra ánh sáng một bào thai đang lớn lên từng ngày trong bụng Maria?
Nếu chỉ đơn giản như thế thì cần gì phải nêu ra cho mọi người học hỏi làm gì! Vì thực tế mẫu anh hùng như thế không phải làm hiếm.
Mặc dù Phúc Âm không nói gì về cuộc đời thánh Giuse, nhưng chắc rằng ngài là một người tốt lành, có đạo đức, có học thức. Sự công chính của Giuse được các nhà chú giải cho rằng: Giuse đã biết được thai nhi trong bụng Maria là ai, ngài cũng hiểu được rằng Thiên Chúa đã chọn Maria cho công trình cứu rỗi của Người. Giuse tự thấy mình không có quyền giành Maria với Thiên Chúa, càng không xứng đáng tham dự vào công trình quá cao vời của Thiên Chúa. Giuse chấp nhận hy sinh tình yêu của mình để ý định của Thiên Chúa được thành sự. Giuse công chính là vì ngài đã nhận ra được điều Chúa muốn ngài phải hy sinh và vâng theo điều đó với cả ý thức và trách nhiệm.
Cho tới khi suy nghĩ của Giuse được xác nhận bởi lời của sứ thần, thì sự vâng phục của Gisue được chuyển sang hướng khác và nâng lên cao hơn. Giuse không là kẻ đứng ngoài công trình cứu rỗi. Rối rắm trong lòng Giuse được hoá giải. Trách nhiệm của Giuse giờ đây là công nhận người con Giêsu trong tư cách pháp lý cũng như cho Giêsu được đứng vào hàng con cháu Đavit. Giuse không hề đắn đo hối tiếc trong vai trò cha nuôi của mình. Ngược lại, ngài còn vui mừng vì đã được cộng tác, vì đã được mời gọi. Việc nầy xem ra quan trọng hơn so với việc chấp nhận người khác đứng vào dòng tộc mình. Giuse đã hoàn toàn để ý Chúa "được như lời sứ thần truyền".
Là người Công giáo, chắc hẳn phải hơn một lần bạn nghe nói về sự vâng phục của thánh Giuse, hay của Đức Maria, hay của một vị thánh nào đó. Thế bạn nghĩ gì về điều nầy? Các ngài không phải vâng phục lề thói xã hội không đâu, mà là vâng phục ý Chúa. Và khi đã chấp nhận xin vâng như vậy, các ngài cũng phải đảm đương một trách nhiệm đi cùng.
Như câu chuyện tôi đã kể ở phần đầu, tôi đã miễn cưỡng vâng phục. Tôi không phản ứng nhưng tôi không làm tròn trách nhiệm. May là hôm ấy em tôi không xảy ra sự cố gì rắc rối. Nếu không chắc tôi phải ân hận suốt đời.
Cuộc sống đòi buộc bạn phải dấn thân, đòi buộc bạn phải đáp trả lời mời gọi cộng tác. Bạn không thể ăn bám gia đình mãi. Bạn không thể ngồi đó oán trách số phận đen đũi. Bạn càng không thể trốn chạy trước tương lai của chính đời bạn. Khi bạn chưa bắt tay vào làm bất cứ điều tốt nào thì bạn không được quyền nói bạn không có khả năng. Bạn đã thấy thánh Giuse cũng nghĩ rằng ngài không thể, nhưng với lòng tin vào Chúa và vào chính mình, ngài đã làm được.
Hãy đến chiêm ngắm sự vâng phục của Giêsu - Maria - Giuse nơi hang đá trong đêm Giáng Sinh và nguyện cầu để được các Ngài hướng dẫn cuộc đời bạn. Chúc bạn Giáng Sinh an lành.
Mt 1:18-24: 18 Ðức Yêsu Kitô sinh ra thế này: Maria, mẹ Ngài đã đính hôn với Yuse; trước khi ông bà phối hợp cùng nhau, thì xảy ra là bà đã có thai do tự Thánh Thần. 19 Yuse, chồng bà, vì là người công chính và không muốn tố giác bà, thì định âm thầm ly dị. 20 Sau khi ông đã quyết tâm như vậy, thì này: Thiên Thần Chúa hiện ra cho ông trong mộng bảo rằng: "Yuse, con của Ðavít, chớ sợ lấy Maria vợ ông: thai sinh nơi bà là do tự Thánh Thần; 21 bà sẽ sinh con, và ông sẽ đặt tên cho người con là Yêsu, vì chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi". 22 Sự đã xảy ra tất cả là để được nên trọn điều Chúa đã phán nhờ vị tiên tri nói rằng: 23 Này, nữ trinh sẽ thụ thai và sinh con và người ta sẽ gọi tên Ngài là Emmanuel, dịch được là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi. 24 Tỉnh giấc, Yuse đã làm như Thiên Thần Chúa truyền cho ông, và ông đã rước vợ về nhà; 25 và giữa ông và bà không có việc giao tri vợ chồng, cả đến lúc bà sinh con, và ông đã đặt tên cho là Yêsu.
Gia phả của Chúa Giêsu khởi từ thời Abraham, đến Đavít và cao điểm là việc Người sinh ra (1:1-17). MV4-A102
Gia phả của Chúa Giêsu khởi từ thời Abraham, đến Đavít và cao điểm là việc Người sinh ra (1:1-17). Sau đó Matthêô trình bày việc Chúa Giêsu giáng sinh để hoàn tất lời hứa cứu chuộc của Thiên Chúa đối với dân Người (2:1-12). Trình thuật về Giuse (1:18-25) là đoạn chuyển tiếp giữa hai đoạn về gia phả và giáng sinh. Chủ đề chính của đoạn là Chúa Giêsu Kitô từ Thiên Chúa mà đến và sứ mạng cứu chuộc của Người. Phần Giuse, ông được tham dự vào sứ mạng cứu độ của Người bằng việc đem mẹ Maria về nhà, đặt tên cho Chúa Giêsu, và qua ông Chúa Giêsu được kể là thuộc dòng tộc Đavít. Những từ liên kết đoạn nầy với hai đoạn trước và sau là: “sự sinh ra” genesis (1:1.18), “sinh ra”, gennaō (1:2; 2:1); Iēsous (1:1.18.25; 2:1). Câu 1:17 như là bảng tổng kết của gia phả, trong khi những gì được trình bày trong câu 1:16 sẽ được giải thích chi tiết trong đoạn về câu chuyện Giuse (1:18-25).
Bố cục của đoạn nầy: - Dẫn nhập: lập lại bối cảnh của việc Chúa Giêsu giáng sinh (1:18); - Giuse và sứ mạng của ông đối với việc giáng sinh của Chúa Giêsu (1:19-25). Iēsous (1:18.21.25) và Iōsēph (1:18.19.20.24) là từ xuất hiện nhiều nhất trong đoạn nầy, qua đó Giuse được bàn đến trong tương qua chặt chẽ với Chúa Giêsu.
Được cưu mang bởi Chúa Thánh Thần (1:18)
Câu 1:16 chỉ ghi nhận sự kiện cách khách quan là sự sinh ra của Chúa Giêsu, trong khi câu 1:18b tập trung vào trường hợp nào Người được cưu mang. Tên “Giêsu Kitô” trở thành tên kép của Đấng được sinh bởi mẹ Maria ở đây. “Giêsu Kitô” nầy là “con của Đavít, con của Abraham” (1:1). Có một phân biệt tinh tế ở đây là Giuse được giao nhiệm vụ đặt tên cho Đấng sẽ được sinh ra nầy là “Giêsu” (1:21.25), trong khi tước hiệu “Kitô” thì do Thiên Chúa. Cụm từ “được gọi là Đấng Kitô” trở thành yếu tố cần thiết để xác định căn tính của “Giêsu” (x. 1:16; 27:17.22). Trong khi tên “Kitô” thường được gắn liền với “Con Thiên Chúa” (16:16; 26:63), tên “Giêsu” gắn liền với Giuse (13:55), chỉ nguồn gốc nhân loại và thuộc dòng tộc Đavít của Người (9:27; 12:23; 20:30.31; 21:9.15). Rất có thể Matthêô đưa tên kép “Giêsu Kitô” vào ngay trong câu dẫn nhập nầy để khẳng định nguồn gốc thiên tính của Chúa Giêsu khi bàn về mẹ Maria mang thai “bởi Chúa Thánh Thần”. Điều nầy được thiên sứ xác định lại với Giuse trong giấc mộng (1:20).
Những chi tiết về Maria được đưa ra khá đầy đủ trong câu nầy: “đã đính hôn”, “mẹ của Người”, “trước khi về chung sống”, và đáng chú ý hơn cả là Maria “được thấy mang thai (dịch theo từ ngữ là “có trong bụng”) bởi Chúa Thánh Thần”. Trước hết cách dùng động từ “heuriskō”, “được tìm thấy” ở thể thụ động chỉ một tình trạng hay sự kiện được Thiên Chúa hoặc con người khám phá ra. Khó có thể cho rằng Maria là chủ từ của động từ nầy (x. Lc 1:28-38), càng không thể là dân chúng, dựa trên những điều Giuse suy nghĩ có thể sẽ làm (1:19). Chỉ có thể là Giuse, từ đó mới dẫn ông đến những quyết định. Rồi theo cách trình bày của Matthêô, chỉ người cha mới “sinh con”, gennaō; trong khi người mẹ tham gia vào việc nầy. Giới từ “ek”, “bởi” với sở hữu cách (genitive) của người mẹ chỉ nguồn gốc của người được sinh ra: bởi Tamar (1:3), Rahab, Ruth (1:5), vợ của Uria (1:6), Maria (1:16), Thánh Thần (1:18.20). Rất hiếm khi nói là người mẹ sinh con; chỉ thấy trong Luca 1:13.57; 23:29; và Gioan 16:21.
Với Chúa Giêsu, Matthêô dùng động từ gennaō nầy luôn luôn ở thể thụ động “được sinh ra” (1:16.18.20; 2:1.4) để chỉ Thiên Chúa Cha sinh ra Người. Hơn nữa trong câu 1:20 có một chút dị biệt so với 1:18 là “Người được sinh ra, gennaō, trong vợ ông (Maria) bởi Chúa Thánh Thần”. Matthêô nhất quán với mình là ngay cả mẹ Maria cũng không sinh ra Chúa Giêsu, nhưng Người được Chúa Cha sinh ra trong mẹ Maria bởi Chúa Thánh Thần. “Bởi Chúa Thánh Thần” có thể dẫn đến kết luận là Thánh Thần đóng vai trò như người mẹ trong việc sinh ra Chúa Giêsu Kitô. Sau cùng, không nên tách rời “được thấy mang thai” khỏi “bởi Chúa Thánh Thần”. Việc biết nầy phải là “mang thai bởi Thánh Thần”, chứ không phải chỉ là “mang thai”, bằng không sẽ dẫn đến chuyện hiểu sai những quyết định của Giuse. Và hai yếu tố “đã đính hôn” và “trước khi về chung sống” ra hiệu cho biết mẹ Maria mang thai không bởi Giuse. Trong câu kết luận 1:25 Matthêô còn nhắc lại lần nữa là “Ông không biết bà cho đến lúc bà sinh con”. Điều nầy chỉ muốn nói là Giuse không tham dự chút nào vào việc hình thành thai nhi trong lòng mẹ, và mẹ Maria là trinh nữ khi mang thai Chúa Giêsu Kitô và cho đến lúc sinh hạ Người. Điều nầy sẽ được khẳng định lại trong lời của thiên sứ khi nhắc lại Is 7:14 “Này, nữ trinh sẽ thụ thai và sinh con”. Vậy, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã được hình thành trong lòng mẹ Maria bởi Chúa Thánh Thần và Giuse không dự phần vào việc nầy.
Con người và quyết định của Giuse (1:19)
Giuse được khẳng định là “chồng”, anēr, của mẹ (1:16.19) và mẹ Maria được gọi là “vợ”, gynē, của ông (1:20.24) hay là “mẹ của Người/con trẻ” (1:18; 2:13). Khó khăn trong chú giải là làm sao giải thích được tương quan của hai mệnh đề phân từ trong câu nầy: “Giuse là người công chính” và “và ông không muốn tố giác bà, quyết định lìa bỏ bà cách kín đáo”. Những câu hỏi được đặt ra là hiểu thế nào là “công chính”? Nếu đi tố giác mẹ Maria, Giuse vẫn là người công chính? Giuse không muốn tố giác mẹ, nhưng bỏ mẹ mà đi cách kín đáo; đó không phải là một cách tố giác gián tiếp sao? Nếu không đi tố giác và âm thầm bỏ đi vì là người công chính, việc Giuse nghe lời thiên sứ đón nhận Maria về nhà sẽ làm cho ông hết là người công chính? Nếu Giuse biết mẹ Maria mang thai bởi Chúa Thánh Thần, sao lại đi tố giác? Bất cứ một cố gắng giải thích tiêu cực nào về quyết định và hành động của Giuse đều gặp phải khó khăn.
Để giải quyết, trước tiên cần tìm hiểu từ “công chính” áp dụng cho Giuse. Dikaios, “công chính”, 17 lần, và dikaiosynē 7 lần được dùng trong Matthêô theo nhiều nghĩa khác nhau. Trước tiên, “công chính” dùng để phân biệt cách chung với những người không công chính, cũng như người tốt lành đối nghịch với người xấu (5:45; 13:49); rồi chỉ những người sống theo luật Chúa trong Cựu ước (13:17; 23:29.35[2x]); chỉ những người tự cho mình là công chính (x. 9:13; 28:38); sau cùng là những người sống theo đòi hỏi và tinh thần của Chúa Giêsu (5:45; 10:41; 25:37.46). Giuse là người công chính không chỉ vì ngài tuân giữ luật Chúa như những người do thái tốt lành thời ấy, mà còn hơn thế nữa. Sự công chính của ngài chắc chắn vượt hơn hẳn sự công chính của các thầy thông luật và những người nhóm Pharisêô (5:20). Bởi đó, ngài không thể là công chính theo nghĩa vì tuân theo lề luật mà đem mẹ Maria ra bêu xấu trước mặt công chúng (Đnl 22:20-21.23-24). Ngài không thể làm như các thầy thông luật và Pharisêô đã làm khi đem người phụ nữ ngoại tình ra trước mặt Chúa Giêsu và mọi người để xét xử theo luật (Gio 8:3-11). Chính Chúa Giêsu không làm theo ý họ, mà còn bênh vực cho người phụ nữ nầy. Cũng không thể hiểu theo nghĩa là vì người công chính có lòng thương xót vị hôn thê, nên Giuse không đi tố giác. Việc âm thầm bỏ đi đã là một tố giác trực tiếp rồi. Nếu thật sự có lòng thương xót, Giuse phải ở lại với mẹ Maria.
Động từ “deigmatizō” là một từ hiếm (hapax legomenon) trong tin mừng nhất lãm. Chỉ xuất hiện duy nhất ở đây, và trong thư gởi cho các tín hữu Côlôsêô 2:15. Ý nghĩa căn bản của động từ nầy là “trưng bày”, “đưa ra cho công chúng thấy”; “deigma” có nghĩa là “mẫu” “sự hiển nhiên”. Bởi đó, động từ có nghĩa trung tính là trình bày cho mọi người đều thấy sự hiển nhiên, chứ không có nghĩa là “tố giác” hay “làm cho ai xấu hổ trước mặt công chúng” (x. Côl 2:15). Nếu động từ nầy có “para-” đi trước thì có thể hiểu theo nghĩa trên là “tố giác” (x. Do thái 6:6; Ds 25:4; Giêr 13:22; Êzêk 28:17). Giuse không muốn cho mọi người biết sự kiện Đấng Kitô đang được cưu mang trong lòng mẹ Maria bởi Thánh Thần. Ông không nói ra vì phải tôn trọng công việc của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã cấm các môn đệ không được nói cho mọi người biết Người là Đấng Kitô sau lời tuyên xưng của Phêrô (x. 16:20). Giuse quyết định li dị mẹ Maria vì ông biết mẹ Maria cưu mang Đấng Kitô bởi Thánh Thần (xem trên). Ông li dị vì ông sợ nhận Maria vợ ông. Cụm từ “nhận Maria về nhà” (1:20.24) đóng khung sứ điệp của thiên sứ (1:20-23), trong đó thiên sứ nói đến con người và sứ mạng của Chúa Giêsu, và cả bổn phận đặt tên của ông cho con trẻ. Giuse sợ và không muốn nhận Maria làm vợ mình nữa, vì Maria đã trở thành mẹ của Đấng Kitô. Ông thấy mình bất xứng với người ông đã đính hôn, nên phải rút lui. Đây là thái độ đúng của người công chính. Mẹ Maria cũng sợ khi thiên sứ truyền tin (x. Lc 1:30), dân chúng sợ khi thấy điều kỳ diệu Chúa Giêsu làm cho người bại liệt (9:8). Như thế, chính quyết định của Giuse cho thấy cách hiển nhiên ông là người công chính trước khi ông được củng cố lòng tin và mời gọi tham dự vào công việc cứu chuộc của Thiên Chúa.
Hai cuộc truyền tin của Giuse và mẹ Maria tương tự nhau. Cả hai đều sợ trước lời mời gọi cộng tác trực biết vào việc nhập thể của Con Thiên Chúa. Tuy không nói, Giuse đã làm như mẹ Maria là thi hành ý muốn của Thiên Chúa là “đem mẹ về nhà mình”. Đứng trước Thiên Chúa ai mà không run sợ và thấy mình bất xứng?
Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến -------------------------------------
Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta quả là một niềm mơ ước bất tận của con người có niềm tin vào MV4-A103
Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta quả là một niềm mơ ước bất tận của con người có niềm tin vào Thiên Chúa. Trong cuộc sống, nhất là trong cử hành Phụng Vụ Thánh Thể, không biết bao lần ta chúc nhau đuợc Thiên Chúa ở cùng: "Chúa ở cùng anh chị em - Và ở cùng cha". Xin được chia sẻ đôi nét về sự biểu hiện của tình trạng được có Thiên Chúa ở cùng và một vài điều kiện để được Thiên Chúa ở cùng. I. Sự biểu hiện của tình trạng có Chúa ở cùng: "Kính chào bà đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng bà" (Lc 1,28).
Dựa trên lời chào chúc của sứ thần Gabriel với mẹ Maria ta có thể chắc chắn rằng Mẹ chính là người được Chúa ở cùng. Tình trạng được Chúa ở cùng này được trình bày như là tình trạng "đầy ân sủng". Một tâm hồn đầy ân sủng Chúa là tâm hồn được "rợp bóng" Thánh Thần, là Tình Yêu bản vị giữa Chúa Cha và Chúa Con, một Tình yêu hoàn toàn "hướng tha". Chính vì thế người đầy ân sủng luôn lấy lợi ích của tha nhân làm mục đích của lẽ sống, của mọi hành vi của mình.
Tương tự một số nam nhân thời bấy giờ, chẳng hạn nhóm "tu trì" ở Qumrân, khi tự nguyện sống đời trinh khiết, Mẹ Maria đã tự nguyện hiến dâng đời mình, tự nguyện hy sinh hạnh phúc cá nhân để góp phần cầu mong Đấng Thiên Sai mau đến. Sự cao cả của tấm lòng vị tha của Mẹ hiện rõ qua việc Mẹ tự nguyện chọn lấy tình cảnh như bị Thiên Chúa chúc dữ trước mặt người đời. Người Do Thái xưa và thời bấy giờ vẫn xem những phụ nữ không sinh con là đồ bị chúc dữ. Đã đính hôn với thánh Giuse, nghĩa là vẫn lập gia đình, thế mà Mẹ tự nguyện sẽ không có con thì quả là một quyết định anh dũng trong tình yêu vị tha. Không sinh con trong đời độc thân tự hiến đã là một hành vi cao cả, còn lập gia đình mà quyết định sẽ không có con thì có thể nói rằng đó là trường hợp ngoại thường. Căn cứ vào quy định của Giáo Luật về hôn nhân Công giáo thì đây là trường hợp kết hôn không thành sự vì loại bỏ một trong hai mục đích của hôn nhân.
Khi Sứ Thần truyền tin cho Mẹ rằng Mẹ sẽ thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần và sinh một con trai thì tiếng thưa "xin vâng" của Mẹ bày tỏ rõ nét tâm hồn tràn đầy tình yêu vị tha cách hoàn hảo. Các nhà chú giải Thánh kinh cho ta hay nội hàm của hai từ xin vâng không phải là thái độ thụ động mà ngược lại đó chính là tâm tình tích cực trong hân hoan. Vì tha nhân, vì hạnh phúc của nhân loại, Mẹ Maria đã chọn con đường Thiên Chúa vạch ra. Rất có thể bị Giuse hiểu lầm, rất có thể chuốc lấy nhuốc nhơ cho danh giá giá của mình và số phận Mẹ có thể bị kết liễu dưới những viên đá vô tâm vô tình theo luật pháp thời bấy giờ. Mẹ hân hoan đón nhận tất cả chỉ vì hạnh phúc của đồng loại. Đúng là một trái tim tràn đầy ân sủng Chúa.
II. Một vài điều kiện để có Chúa ở cùng:
1. "Đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình... người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel (Mt 1,20-23).
Đón nhận nhau là một trong những nghĩa cử yêu thương. Đã yêu thì không chỉ đón nhận những gì dễ yêu, những gì đáng thương hay thích hợp với mình mà còn đón nhận cả những gì khó yêu, những điều mình chẳng muốn. "Thương cả đuờng đi" thì mới là thương yêu thật sự. Đón nhận cả những gì mà lòng mình không mong và nhiều khi chưa hiểu rõ thì mới là tình yêu không tính toán, không tham vọng cách ích kỷ.
Dù chỉ được Sứ Thần tỏ bày qua một giấc mơ thế mà Giuse đã mau mắn "tiếp nhận bạn mình". Động thái tiếp nhận nhau như là bạn hữu đòi hỏi ta từ bỏ mình và tự hủy mình một cách nào đó. Khi đón nhận các môn đồ thành bạn hữu của mình Đức Kitô đã từ bỏ tước vị là Thầy, đã tự hủy thân phận là Chúa của mình (x.Ga 13). Khi đón nhận Maria và Con trẻ trong dạ về nhà, Giuse đã tự nguyện từ bỏ vị thế làm cha của Ngài. Nét cao cả của Giuse còn thể hiện qua việc Ngài đón nhận cả sự hiểu lầm của họ hàng, dòng tộc, xóm giềng khi họ nghĩ rằng Ngài chính cha ruột của con trẻ.
Việc thánh Giuse đón nhận Maria về nhà làm bạn cũng chính là việc Ngài đón nhận chương trình của Thiên Chúa. Dĩ nhiên đây là chương trình ngoài dự kiến, ngoài ý định của Ngài. Tin mừng tường thuật "khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Sứ Thần truyền" (Mt 1,24). Sự mau mắn, không đắn đo này nói lên thái độ tin tưởng trong an bình của chính Ngài. Đón nhận tha nhân với toàn bộ hiện trạng tha nhân đang có, đang là trong sự tin tưởng và an bình đó là một trong những điều kiện tuyệt hảo để được Thiên Chúa ở cùng.
2. "Bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu"(Mt 1,21).
Theo Thánh kinh, việc đặt tên có ý nghĩa rất quan trọng. Tên là người và tên cũng là sứ mạng. Vì thế người đặt tên là người có trách vụ hướng dẫn, đào tạo. Khi dẫn các con vật đến với Ađam để Ađam đặt tên cho chúng, Thiên Chúa đã trao phó trách nhiệm cai quản, huớng dẫn muôn loài cho con người (x.St 2,19). Khi đặt tên cho Abram thành Abraham, Thiên Chúa đã huấn luyện một người bán du mục cao niên, son sẻ đang chăn nuôi súc vật trong tư thế tìm sự bảo đảm, an toàn thành một người cha của đoàn lũ con cái đông đúc trong niềm tin phó thác (x.St 17,5). Khi đặt tên cho Giacop thành Israel, Thiên Chúa cũng đã huấn luyện một người láu cá "hất cẳng anh" thành một người đã "gặp gỡ, chiến đấu với Thiên Chúa" và dĩ nhiên sau đó tuân phục Thiên Chúa (x.St 32,23-30)
Thánh Giuse đã dùng gương sáng, lời nói, hành vi của mình để dạy dỗ, hướng dẫn con trẻ thành một Giêsu, Đấng cứu nhân độ thế. Quả thật các áng văn Tin Mừng minh chứng cho ta thấy nhân cách và lối hành xử của Chúa Giêsu mang đượm dấu ấn của thánh Giuse. "Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng vậy" (x.Ga 5,17). "Lương thực của Ta là làm theo thánh ý Cha Ta trên trời" (x.Ga 4,34). "Ta không làm điều gì mà không nhìn việc Cha Ta làm" (x.Ga 5,19). Các thái độ, hành vi, cung cách ứng xử của Đấng Cứu Thế chắc hẳn có sự góp phần không nhỏ của thánh Giuse, đặc biệt trong thời thơ ấu và ẩn dật của Người.
Có Emmanuel, có Thiên Chúa ở cùng chúng ta chính là hạnh phúc đích thật. Dù rằng ở trần gian này hạnh phúc ấy chưa vĩnh viễn nhưng nó có thể là hoàn toàn một đôi lúc nào đó. Và những thời điểm có được hạnh phúc này chính là bảo chứng cho hạnh phúc đích thực cách hoàn hảo vĩnh viễn mai sau. Hạnh phúc ấy chính là tình trạng khi ta hết lòng vì lợi ích của tha nhân trong sự quên mình. Để có được điều này tiên vàn hãy biết tiếp nhận nhau với toàn vẹn con người của nhau, cả nhưng ưu điểm lẫn những hạn chế, cả những sự tốt lành lẫn những điều tồi tệ. Và đồng thời cần nỗ lực giáo dục dệt xây cho đời những Giêsu. Trước tòa án phong thánh cho Cha Gioan Maria Vianey, một cụ già đã thề trên Thánh Kinh rằng: "Con đã nhìn thấy Thiên Chúa nơi một con người". Mong sao không phải đợi đến những dịp phong thánh mà ngay trong cuộc sống thường nhật người ta, bà con tín hữu lẫn anh em lương dân hay khác đạo có thể thốt lên rằng: "Thiên Chúa đang ở cùng chúng ta".
Người ta thường nói "nhập gia tuỳ tục", nghĩa là khi một vị khách vào nhà của ai đó thì người khách MV4-A104
Người ta thường nói "nhập gia tuỳ tục", nghĩa là khi một vị khách vào nhà của ai đó thì người khách đó phải làm theo những lề thói mà gia chủ đang có, chứ không khi nào đòi hỏi người chủ phải làm theo ý mình. Điều đó nói lên thái độ lịch sự và tôn trọng của người khách đối với chủ nhà. Đó cũng là điều thường tình mà con người vẫn đã và đang làm trong cuộc sống.
Có một người bước vào căn nhà cuộc đời của Đức Maria,Thánh Giuse và tất cả chúng ta nhưng lại không làm theo những gì chúng ta đã sắp xếp, mà lại làm "xáo trộn" mọi sự của chúng ta. Người đó chính là Thiên Chúa.
Thiên Chúa bước vào cuộc đời của ai thì Ngài không để yên những gì con người đã định liệu sẵn. Ngài không muốn để cho con người "bình yên", một thứ bình yên của xác chết, của nghĩa trang lạnh lùng và đầy dẫy xác chết. Ngài đổi mới mọi sự. Vì thế, có rất nhiều người sợ Thiên Chúa bước vào cuộc đời của mình lắm. Nói điều này xem ra có vẻ nghịch lý, nhưng thực tế là như thế đó. Chúng ta còn nhớ câu chuyện Chúa Giêsu chữa một người bị quỷ ám, sống ở mồ mả và rất hung hung dữ. Kết quả là Ngài để cho "bầy quỷ" xuất khỏi người ấy và cho phép chúng nhập vào một đàn heo khoảng 2000 con, lao xuống biển chết hết. Dân chúng trong làng run sợ và thán phục trước phép lạ lớn lao ấy, nhưng họ lại nài xin Ngài rời khỏi họ. Nhự vậy là rõ ràng họ sợ Chúa đến với họ rồi. Họ chỉ thấy sự hiện diện của Chúa là quấy rối cuộc sống bình thường của họ, làm họ thua thiệt. Hay chúng ta còn nhớ câu chuyện các tông đồ chèo thuyền đi trên biển, gặp sóng to bão lớn. Vậy mà họ không sợ. Nhưng khi Chúa hiện ra, đi trên mặt biển mà đến với họ thì họ hoảng sợ. Hay câu chuyện Chúa Giêsu vào Đền Thờ Giêrusalem, Ngài đánh đuổi các người buôn bán ra khỏi đền thờ, lật tung bàn ghế của những người đổi tiền . . . Cho nên, chúng ta thường là sợ Chúa đến với mình lắm, nếu chúng ta không chuẩn bị một tâm thế đón nhận và có một đức tin vững vàng vào tình thương của Thiên Chúa.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ ý tưởng mà chúng ta vừa nói ở trên. Chúa bước vào cuộc đời của Đức Maria và thánh Giuse và Ngài làm thay đổi hết những dự tính của các ngài. Chúa dắt các ngài bước đi theo một con đường hoàn toàn mới mẻ và xa lạ, nằm ngoài những dự tính ban đầu của các ngài. Có thể nói, Chúa đã làm xáo trộn kế hoạch vốn cũng rất tốt đẹp và thánh thiện nơi cuộc đời của Đức Maria và thánh Giuse.
Đọc Tin mừng, chúng ta thấy rõ là Đức Maria đã đính hôn với Giuse. Một kế hoạch xem ra rất bình an và hạnh phúc đối với những con người bình thường sống trong xã hội rồi. Nhưng rồi Thiên Chúa "không để yên" cho các ngài. Chúa giao cho các ngài một sứ mạng xem ra kỳ cục và nghịch lý lắm; xem ra Chúa muốn phá vỡ hạnh phúc của các ngài. Nhưng đó là cách thức Chúa hành động trên những kẻ Ngài yêu thương cách riêng.
Dù Chúa làm chủ cuộc đời của chúng ta, có có quyền bước vào căn nhà cuộc đời của chúng ta và hành động cách "nhập gia không tuỳ tục", nhưng Chúa vẫn chờ đợi thái độ đáp trả của con người vốn chỉ là những người quản lý cuộc đời của mình trong tự do và trách nhiệm mà Thiên Chúa ban cho mà thôi. Một tiếng "xin vâng" tự nguyện của Đức Maria, một thái độ sẵn sàng của thánh Giuse đã làm cho chương trình của Thiên Chúa được thực hiện cách trọn vẹn và tốt đẹp. Có được thái độ đó là nhờ các ngài hết lòng tin tưởng và phó thác nơi Thiên Chúa của mình, không chút nghi ngờ hay tính toán hơn thua. Các ngài đã để cho Thiên Chúa tự do hành động trên cuộc đời của mình, dù có những lúc các ngài cảm thấy mình đang bước đi trên những nẻo đường không chút hy vọng và khó hiểu nhìn theo phương diện con người. Dù các ngài là những con người được Chúa chọn cách riêng để làm theo chương trình của Chúa, nhưng các ngài đã chấp nhận biết bao khổ cực và cay đắng, chịu đựng biết bao những hy sinh và mất mát. Và nhờ thái độ tin tưởng và phó thác đến cùng đã làm cho các ngài trở thành những con người được "muôn đời ca tụng".
Thiên Chúa không thể chịu thua con người về sự quảng đại và lòng thương xót. Những ai không hoài nghi vào tình thương của Ngài thì chắc chắn sẽ đạt được hạnh phúc viên mãn và tròn đầy cách tuyệt đối.
Chúa đã đến và đang đến với mỗi người chúng ta. Chúa đang bước vào cuộc đời của mỗi người chúng ta, nhưng chúng ta có đón tiếp Chúa không hay chúng ta muốn tự mình lãnh đạo cuộc đời của mình vì sợ Chúa đến "quấy rối" chương trình của mình, hoặc chúng ta nghi ngờ lòng thương xót của Chúa, sợ Chúa dẫn mình đi trên con đường xem ra không giống ai. Chúa nói: "Ta đứng ngoài của và gõ, ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy và dùng bữa với người ấy" (Kh 3, 12).
Chúng ta nên biết là, nếu chúng ta tự định liệu số phận cho mình thì cuộc đời của chúng ta sẽ là những con người đáng thương nhất trên hành tinh này. Bởi lẽ, chúng ta có khó nhọc, có tất bật chạy ngược, chạy xuôi thì cũng hoài công vô ích mà thôi, vì chúng ta đang xây dựng đời mình trên cát và thiếu viên đá gốc tường. Lời của Thánh Vịnh đã nói: "Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công". Hãy để Chúa giúp ta xây dựng cuộc đời của chúng ta, và chúng ta hãy tích cực cộng tác với Chúa và ngoan ngoãn bước theo Chúa, làm theo những gì Chúa đang thiết kế cho đời ta. Đó là thái độ của những con người khôn ngoan và đó cũng chính là thái độ của Đức Maria và Thánh Giuse ngày xưa, nhờ thái độ đó mà Thiên Chúa đã làm cho các ngài thành những con người diễm phúc muôn đời trên thiên quốc.
Phần Mở của Tin Mừng Mt đi từ 1,1–4,16. Về nội dung, trong bốn chương mở đầu này trước khi Đức Giêsu MV4-A105
Phần Mở của Tin Mừng Mt đi từ 1,1–4,16. Về nội dung, trong bốn chương mở đầu này trước khi Đức Giêsu xuất hiện công khai, có hai người khám phá ra Đức Giêsu là ai, theo hai đường song song và riêng tư: Giuse (ch. 1–2) và Gioan Tẩy Giả (ch. 3–4). Giuse thì được thiên thần Chúa báo tin trong giấc mơ rằng Đức Giêsu là con (cháu) vua Đavít, còn Gioan thì được một tiếng từ trời cho biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Cả hai vị đều muốn tránh né ơn gọi đặc biệt các vị được mời đảm nhận trong liên hệ với Đức Giêsu, vị đầu sẽ đưa Đức Giêsu vào trong dòng dõi vua Đavít, vị sau sẽ trở thành khí cụ để tấn phong làm Đấng Mêsia trong phép rửa. Trong cả hai trường hợp, cảm thức về sự bất xứng của hai vị đã là động lực khiến các vị có thái độ như thế (chính theo nghĩa này mà ta phải hiểu sự “bối rối” của Giuse). Nhưng sự băn khoăn bối rối của các vị đã được thiên thần hoặc chính Đức Giêsu đánh tan. Cuối cùng, cũng như Giuse, khi chấp nhận đưa Đức Giêsu vào trong dòng dõi vua Đavít, đã kéo theo cuộc bách hại của vua Hêrôđê, Gioan Tẩy Giả, khi chấp nhận ban phép rửa cho Đức Giêsu và tạo cho Người cơ hội được tấn phong làm Đấng Mêsia, đã kéo theo những đợt tấn công của Satan.
Bản văn đọc trong Phụng vụ hôm nay là phân đoạn thứ hai thuộc nửa đầu của Phần Mở.
Bảng gia phả đã nói rằng Đức Giêsu xuất thân từ nhà Đavít và Abraham cũng như Người bén rễ sâu vào trong lịch sử Israel. Đồng thời bảng gia phả cũng khẳng định hoàn cảnh huyền bí của cuộc chào đời của Người (1,16). Với cách bố trí cũng như những con số, bảng gia phả cho thấy rằng Đức Giêsu là cùng đích và sự hoàn tất của lịch sử này. Nhưng bảng gia phả lại không nói cho biết sự hoàn tất này hệ tại điều gì. Điều này bây giờ được nói rõ qua sứ điệp Thiên Chúa ban cho Giuse và được xác nhận qua cách xử sự của Giuse.
Trong c. 16 của ch. 1, tác giả bảo chúng ta rằng Giuse là chồng của Maria và Maria là mẹ của Đức Giêsu, nhưng Giêsu lại không phải là con của Giuse. Trong đoạn văn đọc hôm nay (1,18.20), tác giả liên tiếp nhắc lại rằng Chúa Thánh Thần ở tại nguồn của cuộc đời Đức Giêsu đến cuối đoạn văn, tác giả nhắc lại lần thứ ba rằng Giuse không can dự gì vào cuộc chào đời của con trẻ này (1,25). Nếu ở 1,25, tác giả viết: “Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu”, ông muốn nói rằng cho đến khi Đức Giêsu chào đời, Giuse không hề có mộtquan hệ phu phụ nào với Maria, nhưng cũng không khẳng định rằng sau đó Giuse đã bắt đầu có quan hệ này.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia làm năm phần:
1) Đầu đề của đoạn (1,18a); 2) Hoàn cảnh của Giuse và Maria (1,18b-19); 3) Thiên Chúa can thiệp (1,20-21); 4) Lời bình của tác giả (1,22-23); 5) Giuse thi hành lệnh Thiên Chúa (1,24-25).
3.- Chú giải
- chung sống (18): Synelthein, “đến với, tham gia với”, có thể có nghĩa là quan hệ vợ chồng hoặc sống với nhau. Văn cảnh trực tiếp dường như hợp với nghĩa thứ nhất hơn. Người thiếu nữ Do Thái được đính hôn vào khoảng năm 12 tuổi, từ giã cha mẹ để về sống dưới sự bảo trợ của chồng vào khoảng năm 13-14 tuổi. Sự chuyển đi này mở đầu cho cuộc sống chung và cũng là việc kết hôn.
- người công chính (19): Giuse không công chính theo nghĩa vâng phục lề luật, bởi vì không có khoản luật nào buộc phải bỏ vị hôn thê bị coi là ngoại tình (Đnl 22,13-21.23-27 liên hệ đến hôn nhân hoàn hợp; x. Đnl 24,1). Vả lại, khi bỏ Maria một cách kín đáo (lathra), ngài cũng chẳng vâng phục lề luật, bởi vì hành vi rẫy vợ chỉ có giá trị pháp lý nếu làm công khai (x. Đnl 22,15: tại cửa thành). Một đàng, nếu hiểu đây là “sự công chính theo luật pháp”, chúng ta đứng trước một thế lưỡng nan. Quả vậy, nếu dưới mắt Giuse, Maria đã ngoại tình, ngài bỏ bà là chuyện dễ hiểu, nhưng ta không hiểu vì sao ngài lại tính bỏ bà “cách kín đáo”, bởi vì khi đó việc này sẽ không có hiệu quả pháp lý và thật ra bí mật cũng chẳng giữ được lâu. Còn nếu Giuse cho rằng Maria vô tội, ta không hiểu được là vì sao ngài lại nghĩ đến việc bỏ bà, vì luật không buộc như thế; đã thế, trong tư cách là hôn phu, ngài còn có nghĩa vụ bảo vệ hôn thê vô tội chống lại những ngờ vực vô căn cứ của kẻ khác. Vậy không thể hiểu sự công chính của ngài theo nghĩa pháp lý.
Đây là sự công chính tôn giáo. Chính sự công chính này buộc Giuse phải tôn trọng việc Thiên Chúa làm nơi Maria và ngăn cản ngài nhận lấy những công trạng từ một hành động của Thiên Chúa: tự mình, ngài nghĩ ngài không được phép đưa về nhà một người đã được Thiên Chúa dành riêng cho Ngài. Nếu làm như thế, ngài có vẻ chiếm đoạt mộtvai trò mà Thiên Chúa không trao cho ngài. Đứng trước mầu nhiệm này, ngài muốn rút lui, và vì tế nhị do đức công chính đối với Thiên Chúa, ngài đã để ý không “phổ biến” mầu nhiệm Thiên Chúa đang bao trùm Maria. Vấn đề nằm ở động từ deigmatisai: theo Origiênê và Êusêbiô, động từ này không hề hàm chứa một ý niệm ô nhục nào; cha Joušon dịch là “vén mở, tiết lộ”. Động từ paradeigmatisai mới là “trừng phạt để nêu gương; làm cho ô nhục, mất danh giá”. Giuse đã phản ứng như tất cả mọi người công chính trong Kinh Thánh khi nhận ra Thiên Chúa đang can thiệp vào trong lịch sử của họ: như Môsê cởi dép khi đứng trước bụi gai cháy, như ngôn sứ Isaia kinh hoàng khi thấy vị Thiên Chúa ba lần thánh xuất hiện, như bà Êlisabét tự hỏi vì sao mẹ Đức Chúa của bà lại đến thăm bà, như viên đại đội trưởng trên đồi Sọ, như Phêrô khi chứng kiến mẻ cá lạ lùng. Như “Aben người công chính” (23,36: người “công chính” duy nhất được Mt nêu tên trong Tin Mừng. Chắc chắn Aben “công chính” không do lề luật, bởi vì lề luật chỉ được ban bố với Môsê!), Giuse cũng tỏ ra là người trung thành thờ phượng Thiên Chúa.
Cách giải thích này được hỗ trợ bởi ngữ cảnh tổng quát của toàn ch. 1 của Mt. Trong bài đầu tiên (1,1-17), Mt đã trình bày gia phả của Đức Giêsu khởi đi từ tổ phụ Abraham và từ vua Đavít ngang qua Giuse. Nhưng bảng gia phả này lại gặp ngay nơi Giuse một vấn đề hóc búa. Đó là vì Đức Giêsu không phải là con Giuse theo xác thịt. Vậy mục tiêu của đoạn văn này là để giải thích làm thế nào Đức Giêsu có thể thuộc về dòng dõi vua Đavít, nếu Người không phải là con của Giuse. Lời giải thích nằm ở việc Giuse nhìn nhận Đức Giêsu làm con về pháp lý. Mục tiêu của bản văn Tin Mừng này, thay vì bảo vệ việc thụ thai đồng trinh, thì tìm các xác định do đâu Đức Giêsu có thể trở thành hậu duệ vua Đavít và Đấng Mêsia thuộc dòng tộc vua Đavít cho dù có việc trinh thai. Vậy hai phần của ch. 1 của Mt làm thành hai cánh của cùng một việc chứng minh.
Một hỗ trợ khác nữa đến từ chính những lời của thiên thần (cc. 20-21): “Này ông Giuse là con cháu vua Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì quả thật (HL. gar: car certes; for, indeed, certainly) điều được sinh thành (to gennêthen = đứa con) nơi bà là việc của Thánh Thần, nhưng (HL. de) bà sẽ sinh một con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu; vì (gar) chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”. Dịch gar là “quả thật” (chắc chắn) là chuyện thông thường vào thời ấy (x. 1 Cr 9,10; 2 Tx 2,20; Mt 18,7; 22,14; 24,6…). Vậy khi nói như thế, thiên thần giả thiết Giuse đã biết chuyện thụ thai đồng trinh và chính chuyện này đã thúc đẩy ngài rút lui, vì thấy Thiên Chúa can thiệp vào cuộc đời Maria. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã truyền cho ngài “dù sao” (“nhưng”) cũng cứ chấp nhận và đặt tên cho con, và khi đó, ngài đưa con tháp nhập vào trong dòng dõi vua Đavít.
- thiên thần Chúa (20): Như trong Cựu Ước, thuật ngữ này được dùng để nói tới sự can thiệp của Thiên Chúa (x. St 16,7.13; Xh 3,2), chứ không có nghĩa là một trong các “thiên thần".
- Giêsu (21): Trong Kinh Thánh, tên người còn chỉ chức năng Thiên Chúa quy định cho một người trong Lịch sử cứu độ. Iêsous là dạng Hy Lạp của tên Híp-ri Yehôshua (x. Xh 24,13) hoặc Yeshua (Nkm 7,7), có nghĩa là “Yhwh là sự cứu độ”, “Yhwh ban ơn cứu độ”, “Yhwh cứu độ”, “Ơn cứu độ của Yhwh”.
- Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai (23): Tác giả trích Is 7,14 theo Bản LXX, bởi vì trong bản này có từ parthenos, “trinh nữ”, chứ trong bản Híp-ri, ta đọc là almah, “thiếu nữ”, có thể là một thiếu nữ hoặc một người vợ trẻ. Cũng vì dựa trên Is 7,14, Do Thái giáo Paléttina không chờ đợi Đấng Mêsia được sinh ra bởi một trinh nữ, nhưng chờ đợi Người là một con đầu lòng (x. Lc 2,7).
- Emmanuel (Hp. Immanuel): Tác giả không nêu ra một tên mới của Đấng Mêsia, mà nêu lên ý nghĩa của bản thân và công trình của Người. Is 7,14 và 8,8 cũng không nhấn mạnh đến sự hiện diện của Thiên Chúa, vì điều này được giả thiết có trong Kinh Thánh, nhưng nhấn mạnh đến sự diện diện năng động của Ngài để cứu giúp. Như thế, nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài để trợ giúp và cứu độ họ. Lời hứa long trọng của Đức Kitô vinh hiển (“Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”, 28,20) cho thấy lời loan báo ấy đã được thực hiện hoàn hảo. TM Mt mở ra và kết thúc với ý tưởng này: nơi bản thân Đức Giêsu, Thiên Chúa sẵn sàng đến hiện diện năng động, tích cực, với loài người.
- ông không … cho đến khi… (25): Câu này hoàn toàn đúng với c. 23 cho thấy rằng Maria là trinh nữ khi sinh con. Câu “ông không biết (= ăn ở với) bà, cho đến khi bà sinh một con trai” không chống lại việc sau đó Maria vẫn đồng trinh, cũng không ám chỉ điều này, mà cũng không cho phép kết luận rằng sau đó bà đã có những quan hệ vợ chồng với Giuse. Đàng khác, chúng ta ghi nhớ rằng mẫu tính đồng trinh của Đức Maria không có nghĩa sinh học, mà diễn tả niềm tin của Giáo Hội vào thần tính và nhân tính của Đức Giêsu.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đầu đề của đoạn (18a)
Với đầu đề (18a), tác giả Mt ngỏ lời với độc giả để xác định hoặc điều chỉnh cách thức họ hình dung cuộc chào đời của Đức Giêsu.
Đức Giêsu không phải là con của Giuse, nhưng là tạo thành của Chúa Thánh Thần. Nơi Người, lịch sử Israel đi đến chỗ hoàn tất, nhưng Người không phải là hoa trái tự nhiên hoặc kết quả thiết yếu của lịch sử này. Người không lệ thuộc vào và không chỉ xuất thân từ mộtchuỗi các thế hệ và những cuộc sinh hạ con người. Người là sự hoàn tất, nhưng là như mộtkhởi đầu hoàn toàn mới. Khởi đầu cuộc sống của Người là do Chúa Thánh Thần, khởi đầu này trực tiếp gắn với hoạt động của quyền lực sáng tạo của Thiên Chúa. Thiên Chúa gồm tóm nơi Người toàn thể lịch sử Israel, đồng thời thiết lập mộtkhởi đầu mới mang tính sáng tạo. Không phải là loài người đã ban tặng Đức Giêsu cho nhau; Người là khởi đầu và là quà tặng hoàn toàn đến từ Thiên Chúa. Đó là nguồn gốc của Đức Giêsu (1,18), và nguồn gốc này cho thấy bản tính và ý nghĩa của đời Người.
* Hoàn cảnh của Giuse và Maria (18b-19)
Tuy thuộc nguồn gốc thần linh, Đức Giêsu lại được liên kết với lịch sử Israel. Mẹ Người là Maria đã đính hôn với Giuse, nhưng chưa về sống trong nhà Giuse. Theo luật lệ Do Thái, với lễ đính hôn, hai người nam nữ đã được coi là vợ chồng rồi. Vì thế, Giuse được gọi là chồng của Maria (1,16.19), còn Maria thì được gọi là vợ của Giuse (1,20.24). Chỉ mộtnăm hay mộtnăm rưỡi sau lễ đính hôn, vị hôn thê mới được đưa về nhà vị hôn phu và bắt đầu cuộc sống vợ chồng. Ở đây, tác giả Mt cũng không cung cấp một thông tin nào đặc biệt về Giuse và Maria, ngài nói về hai đấng như những nhân vật rất quen thuộc với độc giả. Vậy mục tiêu của ngài không phải là cung cấp tài liệu, mà là huấn giáo. Trong thời gian giữa lễ đính hôn và cuộc chuyển về nhà chồng, Giuse nhận ra rằng Maria đã có thai. Đọc c. 18b cách bình thản, ta thấy dường như tác giả gợi ý rằng Giuse có biết việc Maria mang thai là do sự can thiệp của Chúa Thánh Thần. Giuse quyết định bỏ Maria kín đáo vì tế nhị đối với sự can thiệp của Thiên Chúa nơi Maria.
* Thiên Chúa can thiệp (20-21)
Giuse đang toan tính như thế trong lòng, thì được Thiên Chúa can thiệp qua việc mộtthiên sứ đến báo mộng để khẳng định với ngài là quả thật con trẻ sắp chào đời thuộc nguồn gốc thần linh; nhưng ngài có nhiệm vụ đón Maria về và đặt tên cho con trẻ. Ngài phải duy trì dây liên hệ với Maria và như thế, nhìn nhận trước luật pháp rằng con trẻ ấy là con của ngài. Do nhiệm vụ Thiên Chúa giao, Giuse trở thành cha của hài nhi về mặt luật pháp và cũng trước luật pháp, Giêsu trở thành con và đương nhiên là người thừa kế của ngài. Hệ quả là Đức Giêsu được tháp nhập hợp pháp vào gia phả của Giuse. Như thế, Đức Giêsu đi vào trong dòng dõi xuất thân từ các vị tiền nhân ấy và trở thành đích điểm và sự hoàn tất của dòng dõi ấy. Như vậy, tác giả Mt không nhắm thỏa mãn óc tò mò của chúng ta. Tất cả những gì ngài muốn chúng ta hiểu là: con của bà Maria là người được Thiên Chúa hứa cho thừa kế ngai vàng vua Đavít, như các ngôn sứ đã từng loan báo.
Còn Đức Giêsu thực hiện vị trí và nhiệm vụ ấy như thế nào, thì chính tên của Người cho thấy, tên mà Thiên Chúa đã chọn cho Người và Giuse phải đặt cho Người. Thiên Chúa đã đổi tên cho người trước đây được gọi là Abram và ban cho ông tên mới là Abraham, “vì Ta đặt ngươi làm cha của vô số dân tộc” (x. St 17,5). Sự tuyển chọn của Thiên Chúa được diễn tả ra và xác nhận bằng việc đổi tên. Vì trao mộtnhiệm vụ mới và với nhiệm vụ này là mộtđời sống mới, Ngài ban cho mộttên mới. Điều đó càng đúng hơn nữa với Đức Giêsu, con cháu tổ phụ Abraham. Cùng với cuộc đời, Người đã được Thiên Chúa ban cho ngay từ đầu tên và nhiệm vụ. Tên của Người là Yeshua hay là Yehoshua, có nghĩa là “Thiên Chúa là sự cứu độ”; Người giải thoát khỏi tội lỗi (1,21; x. Tv 130,8). Với nhiệm vụ này, Đức Giêsu có quyền năng Thiên Chúa và ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho ta nhờ trung gian Người. TM Mt sẽ cho thấy Đức Giêsu là Đấng Mêsia, là Đức Vua và Vị Mục tử, Người săn sóc dân Người và đưa họ đến sự sống viên mãn.
* Lời bình của tác giả (22-23)
Đến đây tác giả viết lời bình. Với biến cố này, đã thực hiện điều mà Thiên Chúa đã loan báo qua miệng các ngôn sứ. Trong dự phóng của Ngài, chính Thiên Chúa muốn có cuộc chào đời và hài nhi này. Khi khẳng định rằng lời Thiên Chúa được ứng nghiệm, mộtlần nữa tác giả muốn nói rằng đàng sau biến cố này, có Thiên Chúa như là Đấng quy định và hướng dẫn mọi sự. Khi cho biết Đức Giêsu cũng chính là “Emmanuel”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, tác giả cho biết đặc tính của biến cố Người đến, cũng như đặc điểm của sự hiện diện và công trình của Người: nơi Người, Thiên Chúa ở cùng chúng ta; Đức Giêsu là sự hiện diện năng động của Thiên Chúa gần kề chúng ta; nơi Người, vị Thiên Chúa từ bi thương xót tỏ mình ra, vị Thiên Chúa trợ giúp và cứu độ, cũng như tỏ hiện dự phóng của Ngài đối với loài người. Nơi Người, Thiên Chúa ở cùng chúng ta và chúng ta đến được với Thiên Chúa (x. 28,20).
* Giuse thi hành lệnh Thiên Chúa (24-25)
Khi đã biết rõ ý Thiên Chúa, Giuse thi hành ngay: ngài “đón vợ về nhà”. Câu văn tiếp theo cho biết là ngài không có quan hệ phu thê với Maria, và như thế hài nhi Giêsu không phải là con của ngài. Nhưng câu văn này cũng không hề ám chỉ là sau đó Giuse có quan hệ vợ chồng với Maria. Với lại tác giả không quan tâm đến vấn đề này. Ông còn đang cho thấy là Giuse thi hành chính xác lệnh Thiên Chúa truyền: “ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu”.
+ Kết luận
Tại hai cực của lịch sử Lời Hứa, có hai ơn gọi hướng về nhau và hoàn tất lẫn nhau: ơn gọi của Abraham, tổ phụ đón nhận Lời Hứa, và ơn gọi của Giuse, người đã vâng lệnh Chúa truyền nên đã tạo điều kiện cho Lời Hứa được thực hiện, đó là biến cố Đấng Emmanuel ngự đến. Kể từ nay, nhờ đã được Giuse đưa tháp nhập vào trong dòng dõi vua Đavít, Đức Kitô có quan hệ trực tiếp với mỗi người con người cháu của tổ phụ Abraham, dù họ có đông như sao trên trời không thể đếm nổi (x. St 15,5). Công trình của Người không liên hệ đến mộtlãnh vực nào của cuộc sống loài người, nhưng đi đến tận gốc rễ và thay đổi tương quan với Thiên Chúa. Người sẽ chiến thắng sự bất phục tùng và thái độ nổi loạn, sẽ tha thứ tội lỗi và tái lập sự hiệp thông vào đời sống với Thiên Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu là cùng đích và sự hoàn tất của lịch sử Israel, là như mộtkhởi đầu mới phát xuất từ Thiên Chúa. Như thế, Thiên Chúa không bỏ mặc dân Ngài xoay xở bằng sức lực riêng, phó mặc con người cho sức mạnh của lịch sử. Đức Giêsu là quà tặng chân thật Thiên Chúa ban cho dân Ngài. Nơi Người, công trình cứu độ của Thiên Chúa được hoàn tất và sự hiệp thông mật thiết nhất giữa Thiên Chúa và loài người được thiết lập: Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
2. Đức Giêsu là con cháu vua Đavít, nhưng không theo nghĩa là Người có mộtquyền lực chính trị hoặc quân sự, hoặc Người là một nhà giải phóng chính trị theo nghĩa trần thế. Người sẽ giải thoát loài người khỏi tội lỗi, sẽ đưa con người thoát khỏi tình trạng xa cách với Thiên Chúa và đưa họ về hiệp thông trọn vẹn với Ngài.
3. Bởi vì biết là Thiên Chúa đang can thiệp vào cuộc đời Maria cách đặc biệt mà lại không thấy Ngài giao phó cho mình sứ mạng gì đặc biệt, Giuse tìm cách âm thầm rút lui. Ngài chứng tỏ ngài có mộtcảm thức sắc bén về Thiên Chúa, mộtlòng tôn trọng thẳm sâu đối với mầu nhiệm của Thiên Chúa và mầu nhiệm thánh ý Ngài. Người Kitô hữu được mời gọi học nơi Giuse bài học này: tôn trọng đối với các dự phóng của Thiên Chúa nơi mình và nơi kẻ khác, nhạy bén đối với sự cao cả thẳm sâu và sự hiện diện gần gũi của Ngài trong những biến cố lớn nhỏ thuộc cuộc sống hằng ngày.
4. Đức Giêsu chính là Emmanuel, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Chúng ta sẽ hiểu rõ hơn khi đọc TM Mt cho đến hết (Mt 28,20). Hôm nay Người là Emmanuel để tiếp tục hỗ trợ chúng ta trong hành trình trần thế, trong nỗ lực loan báo Tin Mừng “cho muôn dân” và cứu độ chúng ta bằng quyền năng của Đấng “đã được ban cho toàn quyền trên trời dưới đất”.
Ngày lễ Giáng sinh đã gần kề, phụng vụ cũng nhắc nhở chúng ta thái độ quan trọng để Chúa có thể đến MV4-A106
Ngày lễ Giáng sinh đã gần kề, phụng vụ cũng nhắc nhở chúng ta thái độ quan trọng để Chúa có thể đến trong cuộc đời mình: tuân theo Thánh Ý Chúa.
Trong bài đọc 1, sách Isaia kể cho chúng ta việc vua xứ Giuđa là Achaz đang phải đối diện với các cuộc xâm lăng của các nước phương Bắc. Ông không trông cậy vào Chúa mà chỉ nghĩ đến việc cầu cạnh các nước khác. Ông lập đền thờ quấy và còn thiêu sinh cả con mình làm lễ tế. Ngôn sứ Isaia được Chúa sai đến nói với Achaz hãy tin tưởng vào Chúa và cho ông xin một dấu chỉ, dù trên trời hay dưới đất. Achaz không dám xin vì sợ nếu có dấu chỉ của Chúa thì sẽ phải bỏ hết những mưu tính của mình; nên giở giọng đạo đức để nói: “Tôi đâu dám thử Chúa.”
Dù vậy, Chúa cũng ban cho Achaz một dấu chỉ: “một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ con trai”.
Ngược lại, Tin mừng Matthêu thuật lại cuộc “truyền tin” cho Giuse. Giuse cũng có chương trình và cách thức giải quyết cuộc đời của mình. Nhưng trước lời Thiên thần, Giuse đã sẵn sàng từ bỏ chương trình của mình để thực thi chương trình của Chúa; “Giuse làm như Thiên thần Chúa dạy”.
Chúa đến, Ngài làm đảo lộn cuộc sống và trở nên cớ vấp phạm cho những người không dám tin vào Ngài. Thánh ý của Chúa khác với chương trình của con người, nhưng cứu độ con người. Những ai tin tưởng, trông cậy và yêu mến Ngài thì mới có thể nhận ra “dấu chỉ” của Ngài, dấu chỉ của tình thương giáng thế: “Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội”.
Chúa đã đến thật gần trong cuộc đời chúng ta. Ngài cũng đang tỏ bày những dấu chỉ nói lên Thánh Ý của Ngài qua những sự việc xung quanh ta. Ngài ước mong chúng ta nhận ra tình thương đang giáng thế và tin tưởng vào ơn cứu độ của Ngài. Chúng ta có dám tin vào chương trình của Chúa trong cuộc đời ta không?
Lạy Chúa Giêsu ! Chúa đã không quản ngại quãng đường “xa xôi” từ trời đến trần gian. Chúa đã không chịu thua sự cứng lòng của con người muốn loại Chúa khỏi cuộc sống. Chúa đã hạ mình lãnh nhận những hậu quả của tội lỗi con người đổ xuống trên đầu. Chúa đã không chê chối trần gian tầm thường tệ bạc.
Lạy Chúa Giêsu là Chúa của con ! Ngài đến với con trong tình yêu thương bao la, ẩn giấu trong tấm bánh nhỏ bé này.
Lạy Chúa Giêsu, Con cũng tin rằng Chúa không ngại ngùng trước cuộc đời của con. Con cũng tin rằng Chúa không chịu thua sự cứng lòng của con. Con cũng tin rằng Chúa không chê chối tâm hồn tầm thường của con. Xin Chúa đến và đến hàng ngày trong tâm hồn con.
"Tỉnh giấc, Giuse đã làm như thiên thần Chúa truyền cho ông, và ông đã rước vợ về nhà."
Hôm nay là Chúa Nhật cuối cùng trong mùa Vọng trước khi chúng ta long trọng đón mừng lễ Chúa MV4-A107
Hôm nay là Chúa Nhật cuối cùng trong mùa Vọng trước khi chúng ta long trọng đón mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Lần lượt trong ba tuần vừa qua, Giáo hội mời gọi chúng ta phải tỉnh thức sẵn sàng, phải ăn năn hối cải và phải nhìn nhận Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai, Đấng duy nhất đem lại ơn cứu độ mà nhân loại hằng mong đợi. Trong Tin mừng hôm nay, Giáo hội đặt trước mắt chúng ta gương mẫu tuyệt vời của một con người đã biết sẵn sàng đón nhận Chúa Cứu thế vào cuộc đời mình. Đó là thánh Giuse - cha nuôi Chúa Giêsu và phu quân Đức Maria.
Chúng ta biết thánh Giuse không phải là người đầu tiên nhận biết việc nhập thể của Chúa Giêsu và đón tiếp Người vào đời. Người đầu tiên được diễm phúc độc nhất vô nhị ấy chính là Mẹ Maria, khi Mẹ nói tiếng "Xin vâng" để đáp lời truyền tin của Tổng lãnh Thiên thần Gabriel và trở nên Mẹ, Chúa Cứu Thế, như đã được thánh Luca thuật lại (Lc 1:26-38). Việc Mẹ Maria thụ thai Chúa Giêsu cách nhiệm lạ cũng đã được ngôn sứ Isaia báo trước, như chúng ta được nghe trong bài đọc Cựu Ước và bài Phúc âm của phụng vụ hôm nay. "Này, nữ trinh sẽ thụ thai và sinh con và người ta sẽ gọi tên ngài là Emmanuel, dịch được là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi" (Is 7:14 & Mt 1:23)
Là người đầu tiên đón nhận Tin mừng Chúa nhập thể và cũng là người cưu mang Chúa Cứu Thế, Đức Mẹ đồng thời đã trở thành người chứa đựng chính nguồn ơn cứu độ, nguồn hy vọng cho toàn thể nhân loại qua mọi thời đại. Chúa Giêsu còn được gọi là Emmanuel - Thiên Chúa ở cùng chúng tôi. Và người được Thiên Chúa ở cùng trước tiên và trên hết chính là Mẹ Maria. Chỉ qua Mẹ Maria và nhờ Mẹ Maria, nhân loại mới được đón nhận Chúa Cứu Thế.
Đây chính là thánh ý Chúa để thực hiện chương trình cứu độ Người dành cho nhân loại từ đời đời.
Và thánh Giuse đã là người được Thiên Chúa ưu ái tuyển chọn làm bạn trăm năm của Đức Maria và được Chúa mạc khải cho biết thánh ý nhiệm lạ này, như Chúa đã chọn Đức Maria để mạc khải cho biết việc nhập thể của Chúa Giêsu. Thánh Giuse đã chú tâm lắng nghe và mau mắn thực hiện thánh ý Chúa qua lời thiên sứ nói ngài với một lòng tin yêu vâng phục tuyệt vời đối với Thiên Chúa, cũng hệt như thái độ "Xin vâng" của Mẹ Maria trong biến cố truyền tin.
Sự việc này đã được thánh Matthêô thuật lại trong Tin mừng hôm nay: "Tỉnh giấc, Giuse đã làm như thiên thần Chúa truyền cho ông, và ông đã rước vợ về nhà." (Mt 1:24)
Những lời này cho thấy là liền sau Mẹ Maria, thánh Giuse đã xứng đáng được gọi là người môn đệ tuyệt hảo nhất của Chúa Giêsu. Vì cũng như Mẹ Maria, ngài là người đã mau mắn lắng nghe và thực thi Lời Chúa trong mọi việc. Đồng thời, cũng như người môn đệ Chúa yêu sau này sẽ vui nhận Đức Maria làm Mẹ và hân hoan đưa Mẹ về nhà mình sau khi nghe lời trối của Chúa Giêsu lúc Người hấp hối trên thánh giá (Ga 19:27), Thánh Giuse ở đây - ngay khi Chúa Giêsu còn ngự ttong lòng đồng trinh của Mẹ Maria - đã vui nhận Đức Maria làm Bạn Trăm Năm và đưa Người về nhà sau khi được thiên thần phán bảo trong giấc mơ (Mt 1:24).
Như thế, nơi thánh Giuse cũng như nơi người môn đệ Chúa yêu - biểu tượng của tất cả những môn đệ đích thực của Chúa Kitô qua mọi thời đại - việc nhìn nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế bao gồm việc đón nhận và tích cực thực thi thánh ý và chương trình yêu thương của Thiên Chúa được bày tỏ cho mình. Thánh ý ấy bao gồm việc bước vào liên hệ yêu thương thân mật với Đức Maria-Mẹ Chúa Giêsu-và đưa Người về nhà mình, nghĩa là đưa Mẹ Maria vào trong mọi chiều kích của cuộc sống của mình.
Vì Mẹ Maria là Người đẹp lòng Chúa hơn tất cả mọi tạo vật và đã được diễm phúc cưu mang và sinh hạ chính Ngôi Lời của Chúa, Mẹ sẽ giúp tất cả chúng ta biết cách sống đẹp lòng Chúa, biết cách đón nhận Chúa vào tâm hồn mình, nhất là biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa, nếu chúng ta biết noi gương thánh Giuse trong Tin Mừng hôm nay tiếp nhận Mẹ về nhà mình.
Thánh Louis Maria Montfort và nhiều vị đại thánh khác trong Giáo hội cho rằng sở dĩ ngày nay nhiều người chưa nhận biết và yêu mến Chúa cách xứng hợp là vì họ chưa nhận biết và yêu mến Mẹ Maria đúng như ý Chúa muốn. Như Chúa đã dùng Mẹ Maria để đến với chúng ta, Người cũng muốn chúng ta nhờ Mẹ Maria để đến với Người.
Vì vậy, để dọn mình cách tốt đẹp nhất mừng đại lễ Chúa Giáng Sinh cũng như để sống trọn vẹn ơn gọi Kitô hữu của mình, chúng ta hãy noi gương thánh Giuse mau mắn từ bỏ mọi bối rối nghi nan về sự cần thiết phải đón nhận Mẹ Maria vào cuộc sống tâm linh của mình. Rồi cùng với thánh Giuse, chúng ta hãy nỗ lực tích cực thực hiện thánh ý và chương trình tình yêu Chúa dành cho chúng ta từ đời đời bằng cách bước vào liên hệ yêu thương mật thiết với Mẹ Maria để nhờ Mẹ, với Mẹ, trong Mẹ và vì Mẹ, chúng ta sẽ đón nhận và yêu mến Chúa Giêsu. Lạy Mẹ Maria, nay đã gần đến đại lễ Chúa Giáng Sinh. Chúng con khao khát được Chúa Giêsu ngự vào tâm hồn chúng con như xưa Chúa đã ngự vào lòng Mẹ và ngự nơi máng cỏ Bêlem. Nhưng như Mẹ biết đó, tâm hồn chúng con thật nhơ nhớp vì biết bao tội lỗi và chật hẹp vì còn chứa đựng bao sự phù vân. Chúng con không thể tự mình dọn cho Chúa một chỗ xứng đáng trong tâm hồn chúng con. Vì vậy, chúng con xin noi gương thánh Giuse rước Mẹ vào nhà linh hồn chúng con, để chính Mẹ sẽ giúp biến đổi tâm hồn chúng con nên giống tâm hồn Mẹ. Nhờ vậy, Chúa Giêsu sẽ sung sướng ngự vào lòng chúng con như Người đã sung sướng ngự vào lòng Mẹ năm xưa. Vậy giờ đây, xin Mẹ hãy đến và ở cùng chúng con trong mọi nơi mọi lúc của cuộc đời chúng con. Amen.
Mùa vọng là thời gian để chúng ta chuẩn bị tâm hồn đón mừng mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa MV4-A108
Mùa vọng là thời gian để chúng ta chuẩn bị tâm hồn đón mừng mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Trong thời gian này, Giáo Hội đã cho chúng ta chiêm ngưỡng những mẫu gương sống động của các nhân vật trong Kinh thánh như: Tiên tri Isaia, Gioan tẩy giả, cũng như qua cách sống và những tâm tình của các ngài trao gởi lại, thì đó cũng là những bài học rất quý giá để chúng ta sống tốt đẹp hơn trong thời gian mùa vọng.
Thật thiếu sót, nếu chúng ta không kể đến Mẹ Maria trong thời gian mong đợi Con Chúa giáng trần. Bởi vì Mẹ Maria cũng đã từng sống tâm tình mùa vọng như bao người khác. Thế nhưng, hơn ai hết, kinh nghiệm sống tâm tình mùa vọng nơi Mẹ Maria vẫn luôn là tiếng gọi thúc giục lòng ta hãy thành tâm chiêm ngưỡng cách sống mùa vọng nơi Mẹ. Nhờ vậy chúng ta sẽ có những tâm tình xứng hợp trong khi chúng ta hướng về ngày Chúa đến trong trần gian.
1/ Mẹ Maria sống tâm tình mùa vọng bằng đời sống thánh thiện:
Vì ý thức Đấng Thiên Sai muôn dân mong đợi là Đấng thánh, nên thời gian sống tâm tình mong đợi con Thiên Chúa nơi Mẹ Maria, đã được dệt bằng những chuỗi ngày vô tận của sự thánh thiện
Mẹ sống thánh thiện, vì Mẹ xác tín những tâm hồn thánh thiện là những tâm hồn sẽ được đón nhận niềm vui ơn cứu độ cách tròn đầy.
Mẹ sống thánh thiện, vì Mẹ xác tín những tâm hồn thánh thiện là những tâm hồn luôn làm đẹp lòng Chúa là Đấng Thánh. Và Ngài rất vui khi được hiện diện với những tâm hồn như thế.
Về điểm này, chúng ta hãy suy nghĩ lại những hành động của Chúa Giêsu khi Ngài tiến về Giêrusalem để thực hiện cuộc thanh tẩy Đền thờ. Vì phía sau hành động thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem, Chúa Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta phải tự thanh tẩy đền thờ tâm hồn chính mình, nhờ vậy Thiên Chúa là Đấng thánh mới vui thích ngự trong những tâm hồn trong sạch như Ngài.
Hơn ai hết, cách sống tâm tình mùa vọng của Mẹ Maria đã để lại dấu ấn không thể ngờ và không thể phai mờ.
Không thể ngờ vì qua sự chuẩn bi tích cực để mong đợi Đấng Cứu Độ nơi Đức Maria, Thiên Chúa đã đoái nhìn đến cách sống thành tâm tuyệt vời ấy. Vì thế, một điều bất ngờ xảy ra nơi Mẹ là Thiên Chúa đã tuyển chọn Mẹ, Người Nữ Thánh Thiện được làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa đã chọn cung lòng thanh khiết của Mẹ để trao gởi Người Con Yêu Dấu của Ngài là Đấng Thánh, và qua trung gian Mẹ Maria Thiên Chúa đã trao ban Đấng Cứu Độ cho loài người. Đó là một điều bất ngờ đối với Mẹ Maria. Thế nhưng, qua sự bất ngờ này thì Mẹ Maria đã thể hiện một dấu ấn không thể phai mờ. Vì từ giây phút bất ngờ khi được Con Thiên Chúa nhập thể trong cung lòng mình, cũng từ giây phút ấy, Mẹ Maria đã khiêm tốn chỉ cho chúng ta con đường để chúng ta gặp Chúa, để Chúa đến với chúng ta. Con đường Mẹ chỉ dạy chúng ta đó là hãy trở lại kinh nghiệm của chuỗi ngày vô tận sống thánh thiện nơi Mẹ. Vì chuỗi ngày thời gian sống thánh thiện của Mẹ, đã hình thành nên bài thánh ca muôn thuở để mời gọi mọi người hãy can đảm sống tâm tình mùa vọng bằng đời sống thánh thiện như Mẹ Maria, Trinh Nữ Thánh Thiện
2/ Mẹ Maria sống tâm tình mùa vọng bằng đời sống khiêm nhường:
Khiêm nhường là cách sống Mẹ rất ưa thích. Mẹ thích sống khiêm nhường, bởi vì nhờ những tâm tình ấy mà Mẹ thật sự trở nên một người con bé nhỏ của Thiên Chúa, luôn phó thác cuộc đời mình cho Thiên Chúa, luôn sống theo những gì Chúa đã dạy.
Vì Mẹ thích sống khiệm nhường, nên Mẹ sẵn sàng thưa hai tiếng xin vâng ý Chúa trong ngày truyền tin, để từ giây phút ấy mẹ đã trở nên Thánh mẫu của Đấng Tối Cao.
Vì Mẹ thích sống khiệm nhường, nên Mẹ sẵn sàng thi hành lời Chúa dạy trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống: Lúc vui, lúc buồn, lúc bối rối, lúc lo sợ, lúc an bình...... Nhờ việc hạ mình sống theo Lời Chúa mà Mẹ Maria được gọi là người có phúc. Mẹ có phúc vì Mẹ là người luôn "lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa" ( Lc11,28).
Vì Mẹ thích sống khiêm nhường, nên Thiên Chúa đã chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã khiêm nhường tự hạ mang lấy thân phận con người, và trong thân phận con người Ngài đã mang lấy thân phận nô lệ để phục vụ sự sống cho muôn người.
Vì Mẹ thích sống khiêm nhường, nên qua đời sống gương mẫu tuyệt vời ấy, Mẹ muốn nhắc nhở chúng ta: Thiên Chúa là Đấng khiêm nhường, Ngài rất thích những ai sống khiêm nhường. Chỉ có những tâm hồn sống khiêm nhường như Chúa mới có thể gặp được Chúa và được Chúa đến viếng thăm cư ngụ trong tâm hồn người ấy. Vì Thiên Chúa bản chất là khiêm nhường, nên Ngài không bao giờ đến với những ai kiêu căng, cậy dựa chức quyền, cậy dựa vào sức mạnh của trần thế để bôi nhọ hình ảnh tốt đẹp của Thiên Chúa là Đấng hiền lành và khiêm nhường. Về điềm này chính Mẹ Maria đã nhắc nhở cũng như đã cảnh cáo những ai sống ngược lại với cách sống khiêm nhường của Chúa, khi Mẹ nói: "Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường" (Lc1, 51-52).
Hôm nay chúng ta bước vào Chúa nhật cuối cùng của mùa vọng. Thiết nghĩ, muốn thay đổi cách sống để cùng với Mẹ Maria sống những tâm tình mùa vọng còn lại cũng chưa phải là muộn. Vì đối với Chúa, những cố gắng quyết tâm chân thành sống phút giây hiện tại, cũng có thể biến chuyển đời sống chúng ta trong tương lai.
Hơn nữa, sống tâm tình mùa vọng không chỉ dừng lại bời thời gian được ấn định trong năm phụng vu. Nhưng tâm tình hướng về Con Thiên Chúa đến trần gian, đến trong cõi lòng chúng ta phải được thực hiện trong từng phút giây của nhịp sống.
Như vậy, khi khám phá hình ảnh sống mùa vọng nơi Đức Maria qua đời sống thánh thiện và khiêm tốn, thì đó cũng là lúc Mẹ chỉ cho chúng ta con đường hoàn hảo nhất, đẹp lòng Chúa nhất để Chúa đến với chúng ta.
Nếu chúng ta thật lòng sống thánh thiện như Mẹ mà không bị giằng co bởi những thú vui giả tạo mau qua của thế gian, chắc chắn đó là con đường hoàn hảo nhất để Chúa là Đấng Thánh giáng sinh trong cõi lòng chúng ta.
Nếu như chúng ta thật lòng sống khiêm nhường như Mẹ trong mọi hoàn cảnh, mà không lo sợ phải thiệt thòi bởi những thứ ham muốn của sức mạnh trần thế, chắc chắn đó là con đường đẹp lòng Chúa nhất để Chúa giáng sinh trong cõi lòng chúng ta.
Lạy Mẹ Maria! Ước gì những tâm tình sống mùa vọng nơi Mẹ sẽ là hành trang luôn đồng hành trong cách sống đức tin chúng con. Nhờ đó chúng con cũng được đón nhận nguồn ơn cứu độ như Mẹ. Lạy Mẹ Maria, xin cho niềm vui giáng sinh sắp đến được khơi dậy bằng ước muốn sống thánh thiện và khiêm nhường trong từng phút giây hiện tại của đời sống chúng con.
Để chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân có một vấn đề mà chính Lời Chúa trong Thánh Lễ này MV4-A109: Đalat
Để chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân có một vấn đề mà chính Lời Chúa trong Thánh Lễ này muốn đặt ra cho các bạn suy nghĩ đó là vấn đề Tình Yêu nam nữ qua mối tình giữa Thánh Giuse và Đức Maria.
Như chúng ta biết qua các các sách Tin Mừng, Giuse và Maria đã đính hôn tuy chưa về chung sống nhưng theo luật Do Thái thì các Ngài đã là vợ chồng, và có mọi nghĩa vụ đối với nhau như vợ chồng. Cách cụ thể, chiếu theo luật, nếu người phụ nữ ăn ở với người đàn ông khác thì phạm tội ngoại tình, chị sẽ bị dân chúng lôi đến trước nhà cha mẹ và ném đá cho đến chết. Khi Giuse biết sự việc Maria mang thai đã khiến ông băn khoăn. Và ông “định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo” vì ông “là người công chính”.
Câu chuyện trên cho các bạn trẻ một vài yếu tố làm nên một tình yêu chân thật:
1. Trước hết bạn phải “là người công chính”. Điều đó theo nghĩa Kinh Thánh qua các câu chuyện về các tổ phụ Noe, Abraham là người công chính có nghĩa là người có Đức Tin mạnh mẽ nơi Thiên Chúa. Nơi Giuse đức tin ấy được cụ thể ngay trong việc đính hôn với Maria: cho dù 2 Ngài đều hoàn toàn chọn duy một mình Thiên Chúa là Gia Nghiệp khi chỉ muốn sống đời khiết tịnh để trọn vẹn con người của các Ngài không thuộc một ai mà chỉ thuộc duy một mình Thiên Chúa, nhưng chấp nhận đính hôn với nhau chỉ vì theo truyền thống đó là cách nói lên niềm tin vào Giao Ước mà Thiên Chúa đã dùng Isaia loan báo “này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. Giao ước Thiên Chúa đã ký kết với nhà Đavid là nền tảng cho đức tin và niềm hy vọng của Israel. Ngày nay ít bạn trẻ nào chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân bằng nỗ lực trở nên “là người công chính”, vì thế tình yêu nơi họ không có nền tảng vững chắc và hay thay đổi.
2. Thứ đến tình yêu bao hàm sự kính trọng người bạn tình. Cho dù trước mắt nơi người bạn đường có những hiện tượng không thể chấp nhận, nhưng “là người công chính” Giuse hiểu như Phaolô đã hiểu mình là người “được Thiên Chúa yêu mến và kêu gọi nên thánh, được ân sủng và bình an của Thiên Chúa” và Thiên Chúa muốn điều ấy cho mọi người, cho dù đó là một mầu nhiệm không dẽ gì nhận biết trừ khi được chính Thiên Chúa dạy bảo. Sự kính trọng ở đây cũng có nghĩa như Isaia nói không “làm phiền lòng người ta” và cũng không thể “làm phiền lòng Thiên Chúa”, do đó nó đòi hỏi một sự kiên nhẫn và chờ đợi hành động của Thiên Chúa nơi người bạn của mình và nhất là phải trở nên người bảo vệ mầu nhiệm ấy. Đó là lý do khiến Giuse “định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo”. Ngày nay ít bạn trẻ có sự kiên nhẫn, chờ đợi và bảo vệ mầu nhiệm nơi bạn mình mà dường như chỉ muốn áp đặt trên họ những suy nghĩ của mình. Đó cũng là thái độ ứng xử của con người ngay từ thời nguyên tổ như sách Sáng Thế đã viết “Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi”.
Các bạn trẻ thân mến, những suy nghĩ trên đây dựa vào Lời Chúa cho thấy tầm quan trọng của thời gian chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân, và sự cần thiết phải có ơn Chúa qua sự cầu nguyện để có thể có một Tình Yêu xứng với phẩm giá hôn nhân.
Vì yêu thương nhân loại, nên Thiên Chúa đã trao tặng cho chúng ta chính người Con Yêu Quý duy MV4-A110
Vì yêu thương nhân loại, nên Thiên Chúa đã trao tặng cho chúng ta chính người Con Yêu Quý duy nhất của mình, để cho những ai tin thì được sống đời đời. Người con ấy có tên là Giêsu. Khi mặc lấy xác phàm, Đức Giêsu đã trở thành Emmanuen, nghĩa là: Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Tuy nhiên, khi thực hiện hành động yêu thương đó, Thiên Chúa đã nhờ vào sự công chính của thánh Giuse và lòng trong sạch trọn đời đồng trinh của Mẹ Maira. Nói cách khác, thánh Giuse và Mẹ Maria đã sẵn sàng xin vâng trong sự khiêm tốn để thuộc trọn về Chúa và để Người sử dụng mình như người tôi trung và nữ tỳ, ngõ hầu kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa được hiện thực.
1. Thánh Giuse và Mẹ Maria, mẫu gương về sự khiêm tốn
Tuy bài Tin Mừng hôm nay chỉ nói đến việc truyền tin cho thánh Giuse, nhưng nếu đọc lại hai cuộc truyền tin cho thánh Giuse và Mẹ Maria cách song song, chúng ta thấy toát lên vẻ đẹp tâm hồn của hai đấng. Vẻ đẹp tuyệt mỹ đến ngưỡng mộ, đó là lòng khiêm nhường.
Nơi thánh Giuse, ngài là một con người âm thầm tuyệt đối. Toàn bộ Kinh Thánh không viết lại một lời nói nào của thánh Giuse. Tuy nhiên, nơi thánh Giuse, ngài luôn là người tuân hành thánh ý Thiên Chúa cách trung thành và trọn vẹn. Vì thế, khi được báo mộng cho biết thai nhi trong lòng Mẹ Maria là do quyền năng Chúa Thánh Thần, thánh Giuse đã hoàn toàn vui vẻ đón nhận Đức Maria về nhà mình để chăm lo.
Nếu không khiêm nhường, thánh Giuse không thể chấp nhận chuyện tầy trời này trong sự yêu mến được.
Còn nơi Mẹ Maria, chúng ta đọc thấy sự phó thác tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Mẹ luôn ý thức mình chỉ là nữ tỳ của Đấng Tối Cao. Thế nên, thay vì hãnh diện, kiêu căng vì giữa muôn ngàn phụ nữ, Thiên Chúa đã tuyển chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế, thì ngược lại, trước hồng ân lớn lao đó, Mẹ đã khiêm nhường để cất lên bài ca Magnificat: "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới” (Lc 1, 47-48).
Như vậy, nhờ sự khiêm nhường tuyệt vời của thánh Giuse và Mẹ Maria, mà Thiên Chúa đã đoái thương và tuyển chọn các ngài như những người cộng tác trực tiếp vào công trình cứu chuộc của Mình, để ngang qua đời sống gia đình, Con Thiên Chúa đến giữa trần gian, trở thành Đấng Emmanuen.
Tuy nhniên, muốn có được đức tính khiêm nhường, nơi Mẹ Maria và thánh Giuse không ngừng lắng nghe và mau mắn thi hành Thánh ý Thiên Chúa trong cuộc đời.
2. Thánh Giuse và Mẹ Maria đã hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa
Nếu nơi Đức Mẹ và thánh Giuse chưa hề có chương trình, kế hoạch cho cuộc đời mình, thì việc các ngài hướng chiều về một hướng đi mới hay kế hoạch mới là chuyện bình thường, không có gì đáng nói. Nhưng đây, nơi các ngài, cả hai đều có kế hoạch riêng liên quan đến cả cuộc đời của mình. Mẹ Maria thì đã khấn giữ mình đồng trinh trọn đời, còn thánh Giuse thì quyết sống âm thầm để phụng sự Thiên Chúa.
Tuy nhiên, cuộc đời và lựa chọn thủa ban đầu của các ngài đã sang trang khi Thiên Chúa muốn các ngài đi theo một hướng khác. Hướng đi của kế hoạch cứu chuộc mà Thiên Chúa đang muốn các ngài là những cộng sự viên tích cực. Khi biết được thánh ý Thiên Chúa, các ngài đã mau mắn đón nhận, sẵn sàng trung thành với ý định của Thiên Chúa.
Vì thế, nơi thánh Giuse, ngài đã vâng lời sứ thần truyền tin, dù trong giấc mơ: “Hỡi Giuse con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về làm vợ mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20) ; “Khi thức dậy, Giuse đã thực hiện điều Thiên Chúa truyền” (Mt1,25), nên đã đón Mẹ Maria về nhà. Sự vâng phục Thiên Chúa còn được thánh Giuse biểu lộ cách trung thành khi đặt tên cho con trẻ là Giêsu và dẫn Đức Mẹ và Hài Nhi trốn sang Ai cập cũng như từ Ai Cập trở về Nazareth.
Nơi Mẹ Maria cũng vậy. Sau khi được giải thích qua sự thắc mắc của Mẹ về việc mang thai, Mẹ không một chút do dự, phản kháng hay phàn nàn, Mẹ đã hoàn toàn buông theo thánh ý Chúa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng nhưu lời sứ thần truyền”.
Như vậy, nhờ tiếng xin vâng của Mẹ Maria, Con Thiên Chúa đã trở nên xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta để trở thành Đấng Emmanuen, thì cũng nhờ sự mau mắn, nhạy bén của thánh Giuse, Con Thiên Chúa từ đây được tháp nhập vào dòng dõi vua Đavít để cứu chuộc những ai sống dưới chế độ lề luật.
3. Hãy để cho Thiên Chúa hiện diện trong cuộc đời của ta
Hôm nay, chúng ta đã bước sang những ngày cận kề của việc mừng Đại lễ Giáng Sinh, chắc hẳn mỗi người chúng ta cũng đều đặt ra cho mình câu hỏi như: chuẩn bị đến lễ Giáng Sinh, mình phải đón Chúa với tâm tình nào?
Có lẽ không có tâm tình nào tốt đẹp và ý nghĩa cũng như giá trị cho bằng tâm tình của Mẹ Maria và thánh Giuse, đó là thái độ vâng phục và khiêm nhường.
Tuy nhiên, hai đức tính này đang là một thách đố lớn lao cho hết mọi người. Bởi vì trong cuộc sống hiện nay, có nhiều điều làm cho chúng ta khó lòng vâng phục. Có biết bao thứ làm cho chúng ta khả nghi huyền nhiệm, tức là giảm thiêng.
Thật vậy, sự hiểu biết và văn minh của con người càng phát triển thì sự vâng phục đức tin lại càng trở thành thách đố, bởi lẽ chúng ta ít tin vào những chuyện thiêng thánh, vì thế, sự dửng dưng là điều mà nhiều người trong chúng ta đang mắc phải.
Lời Chúa đối với chúng ta có lẽ không còn chỗ đứng quan trọng nhất trong cuộc đời. cũng vậy, Lời Chúa không còn trở thành kim chỉ nam cho cuộc sống. Vì thế, việc yêu mến, nhạy bén và thực thi Lời Chúa có lẽ đã trở nên nguội lạnh đến khô cứng trong tâm hồn nhiều người. Mặt khác, cũng không ít người luôn luôn sợ phải thực thi Lời Chúa, vì nếu thi hành Lời Chúa dạy, thì chính Lời Chúa lại là rào cản cho những kế hoạch bất chính của chúng ta. Với những lý do trên, nên nhiều khi chúng ta mừng lễ Giáng Sinh với những gì là lễ hội thuần túy chứ không phải là chiêm ngưỡng, cảm nghiệm và sống sự điệp yêu thương của Mầu nhiệm Giáng Sinh.
Nguyên nhân sâu xa đó là thiếu sự khiêm nhường thực sự. Nếu Đức Mẹ Maria và thánh Giuse đã không khiêm nhường, mà ngược lại, các ngài kiêu ngạo, thì chắc chắn Thiên Chúa phải tìm con đường khác để đến với nhân loại. Nhưng các ngài đã khiêm nhường thẳm sâu, sự khiêm nhường của các ngài đã làm cho chương trình cả Thiên Chúa được hiện thực cách tuyệt vời nhất.
Sư điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống sự vâng lời và khiêm nhường, để chúng ta thuộc về Chúa, và để Chúa hiện diện cũng như lớn lên trong tâm hồn chúng ta. Chỉ khi nào mỗi người biết vâng nghe Lời Chúa và sống trong sự khiêm nhường, lúc ấy, chúng ta mới hưởng được trọn vẹn niềm vui Giáng Sinh. Nếu không, lễ Giáng Sinh đến rồi lại đi như một lễ hội, còn tâm hồn chúng ta vẫn trống rỗng, hoang tàn như bãi cát sa mạc hay như những thửa đất khô cằn sỏi đá.
Lạy Đấng Emmanuen, xin ban cho mỗi người chúng con trở nên thửa đất tốt nhờ việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa trong sự khiêm tốn. Xin Chúa tha thứ lỗi lầm, thiếu xót và thương ngự xuống trong tâm hồn chúng con như xưa Chúa đã đến và hiện diện trong cuộc đời của Mẹ Maria và thánh Giuse cũng như nơi thế giới con người. Amen.
Chúa nhật IV Mùa Vọng có thể nói dành riêng cho hai nhân vật rất quan trọng trong lịch sử cứu độ MV4-A111
Chúa nhật IV Mùa Vọng có thể nói dành riêng cho hai nhân vật rất quan trọng trong lịch sử cứu độ đến nỗi người ta có thể nói rằng không có Đức Mẹ, không có thánh cả Giuse, lịch sử cứu rỗi đã diễn ra khác…Nói thế, để chúng ta thấy được vai trò của Mẹ Maria và thánh cả Giuse có một chỗ đứng cao vời như thế trong chương trình của Thiên Chúa.Bởi vì, ngay ca nhập lễ Giáo Hội đã cất vang:” Trời cao hỡi, nào hãy gieo sương, mây hãy đổ mưa, mưa Đấng Công Chính, đất rộng mở, cho xuất hiện Vị Cứu Tinh “ ( Is 45, 8).
Ca hiệp lễ hôm nay viết:” Này đây Trinh Nữ sẽ thụ thai, và sinh hạ con trai.Người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en “ ( Is 7, 14 ). Như thế, chúng ta hiểu được rằng ngay từ ngàn xưa ngôn sứ Isaia đã loan báo cho nhân loại về Đấng Cứu Thế, và Đấng Cứu Tinh này sẽ được cưu mang trong cung lòng Trinh Nữ Maria. Con trẻ được sinh ra sẽ là Em-ma-nu-en nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Tin Mừng thánh Matthêu hôm nay viết rất rõ:” Đức Giêsu Kitô sinh ra thế này: Maria, mẹ Ngài đã đính hôn với Giuse; trước khi ông bà phối hợp cùng nhau, thì xảy ra là ông bà đã có thai do tự Thánh Thần .Giuse, chồng bà, vì là người công chính và không muốn tố giác bà, thì định âm thầm ly dị. Sau khi ông đã quyết tâm như vậy, thì này: Thiên thần Chúa hiện ra cho ông trong mộng bảo rằng:” Giuse, con của Đavít, chớ sợ lấy maria vợ ông ; thai sinh nơi bà là do tự Thánh Thần; bà sẽ sinh con, và ông sẽ đặt tên cho người con là Giêsu, vì chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi “ ( Mt 1, 18-21 ).
Thực tế, Giuse đã có tâm hồn thánh thiện, đạo đức tuyệt vời vì khi nghe lời giải thích của Thiên thần, Giuse đã âm thầm nói lời xin vâng theo ý của Thiên Chúa.Còn Maria theo thánh Luca, Mẹ đã nói lời xin vâng và tạ ơn. Lời xin vâng và tạ ơn chỉ vang lên một lần nhưng mãi mãi vọng vang trong đời Mẹ. Cả thánh Giuse và Mẹ Maria đã được hiến thánh cho Thiên Chúa và được Thiên Chúa cứu chuộc. Cuộc đời của Mẹ Maria và của thánh Giuse đã được Thiên Chúa bao bọc, đỡ nâng, phù trì. Do đó, chính cuộc đời của hai Đấng đã nói lên niềm vui, sự hạnh phúc vì Thiên Chúa đã cứu chuộc hai Đấng, thánh hiến hai Đấng để các Ngài trở nên cánh tay không thể thiếu trong kế hoạch cứu độ của thiên Chúa. Chính vì thế, lời nguyện nhập lễ Chúa nhật IV Mùa Vọng đã viết:” Lạy Chúa, Chúa đã dùng lời thiên sứ truyền tin mà cho chúng con biết thật Đức kitô, Con Chúa, đã xuống thế làm người. Xin đổ ơn thánh đầy lòng chúng con, để nhờ công ơn con Chúa chịu khổ hình thập giá. Chúa cũng cho chúng con được sống lại hiển vinh “. Thánh Giuse trong biến cố truyền tin của Đức Mẹ cũng được Thiên Chúa mời gọi sống mầu nhiệm, sống những điều hết sức bất ngờ, nên thánh nhân cảm thấy bối rối vì Ngài cảm thấy điều ấy vượt quả sức của Ngài. Tuy nhiên, chính Thiên Chúa đã can thiệp, cho Ngài một dấu chỉ và thánh nhân đã nhận ra dấu chỉ ấy của Thiên Chúa, Ngài là con người có lòng tin. Do đó, Ngài đã chấp nhận sự kiện này và chỉ biết vâng phục, tin tưởng nơi thánh ý Thiên Chúa. Thật lạ lùng và kỳ diệu. Thiên Chúa đã đưa mẹ Maria và thánh Giuse đi vào mầu nhiệm cứu chuộc của Ngài, làm cho hai Đấng tin nhận, tín thác và hoàn toàn vâng phục ý Thiên Chúa.
Càng gần lễ Giáng Sinh, chúng ta càng nhận ra ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Trong ý định phổ độ của Thiên Chúa, chính Ngài đã chọn hai Đấng tuyệt thánh, dành riêng cho hai Đấng những ân huệ cao vời mà không một ai trong nhân loại có thể nhận lãnh. Chính vì thế, hai Đấng đã làm cho lời Xin vâng của mình trở nên hiến lễ nhiệm mầu dâng lên Thiên Chúa. Ý định nhiệm mầu ấy là chọn Mẹ Maria và thánh Giuse cộng tác chặt chẽ vào kế hoạch cứu rỗi nhân loại của Thiên Chúa đến nỗi chúng ta không thể sai lầm khi nói:” Nếu không có Mẹ Maria và thánh Giuse “ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa sẽ diễn ra khác với bây giờ, dù rằng ý định cứu rỗi nhạn loại vẫn không ngừng được thiên Chúa thi hành.
Hôm nay, mừng lễ Chúa nhật IV Mùa vọng, chúng ta cảm tạ tri ân thiên Chúa vì Thiên Chúa đã không bỏ rơi con người khi con người phản nghịch lại tình thương của Thiên Chúa, nhưng qua Mẹ Maria và thánh Giuse, Ngài đã thực hiện ý định phổ độ của ngài qua Người Con Một Yêu Dấu là Đức Giêsu Kitô với sự cộng tác nhiệm mầu của hai Đấng.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con càng ngày càng yêu mến Mẹ Maria và thánh cả Giuse. Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Chúa nhật IV Mùa Vọng nói lên gì ? 2.Vai trò của Mẹ Maria và thánh Giuse trong kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa ? 3.Lời xin vâng của Mẹ nói lên điều gì ? 4.Ai đã thay đổi ý định của thánh Giuse lìa bỏ Mẹ Maria cách âm thầm ?
(18) Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a Mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. (19) Ông Giu-se chồng bà là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. (20) Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giu-se là con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. (21) Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ. (22) Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: (23) “Này đây, trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. (24) Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. (25) Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay đề cao đức công chính của thánh Giu-se thể hiện qua cách ứng xử trước MV4-A112
Bài Tin Mừng hôm nay đề cao đức công chính của thánh Giu-se thể hiện qua cách ứng xử trước việc thụ thai lạ lùng của Đức Ma-ri-a. Tin Mừng cũng cho biết thái độ của Đức Ma-ri-a là toàn tâm toàn ý cộng tác vào chương trinh cứu độ của Thiên Chúa.
3. CHÚ THÍCH:
- C 18-19:
+ Bà Ma-ri-a Mẹ Người: Ma-ri-a là tên của Đức Ma-ri-a, là Mẹ sinh ra Đức Giê-su.
+ Đã thành hôn với ông Giu-se: Theo phong tục Do thái lễ cưới gồm hai giai đoạn là lễ đính hôn và lễ cưới rước dâu. Lễ đính hôn chính là thành hôn về mặt pháp lý và được cử hành trước lễ cưới cả năm trời. Thường thì hai người nam nữ sau khi đính hôn vẫn chưa ăn ở với nhau. Nhưng nếu lỡ có con trong thời gian này thì đứa con vẫn được công nhận là con chính thức của hai vợ chồng. Câu này cho thấy Giu-se và Ma-ri-a đã là vợ chồng hợp pháp sau lễ đính hôn.
+ Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần: Việc thụ thai của Đức Ma-ri-a không phải do Giu-se. Tuy nhiên về mặt xã hội, trẻ Giê-su vẫn được thiên hạ coi là con của bác thợ mộc Giu-se (x. Mt 13,55), dù thực sự Giu-se chỉ là cha nuôi (x Lc 3,23).
+ Giu-se là người công chính: Công chính là sự tuân giữ Lề Luật Chúa cách trọn hảo, và đối xử công minh ngay chính với tha nhân. Sự công chính của Giu-se ở đây không phải là công chính theo Luật, vì Giu-se đã không làm theo Luật dạy là phải làm tờ chứng thư ly dị và trao cho vợ (x. Đnl 24,1-4). Do đó sự công chính của Giu-se hệ tại ba điểm này: Một là Giu-se đã tôn trọng việc Thiên Chúa thực hiện nơi Ma-ri-a. Hai là Giu-se không dám cưới một người đã được Thiên Chúa chọn để dành riêng làm việc của Ngài. Ba là Giu-se không dám nhận làm cha một hài nhi Thần Linh khi chưa nhận được chỉ thị từ nơi Thiên Chúa.
+ Không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo: Giu-se bị lâm vào một hoàn cảnh nan giải: Một đàng không thể nghi ngờ người bạn mà ông biết là rất trong sạch. Đàng khác vì là người công chính, Giu-se không dám dành cho mình người phụ nữ mà Thiên Chúa đã chọn. Ông phải làm thế nào để vừa bảo toàn được danh dự cho Ma-ri-a, lại vừa giữ được sự công minh chính trực ? Cuối cùng ông quyết định âm thầm bỏ Ma-ri-a để con trẻ sinh ra vẫn có cha, mà ông cũng giữ được sự công minh chính trực trước mặt Thiên Chúa.
- C 20-21:
+ Ông đang toan tính như vậy: Giu-se chưa kịp thi hành ý định thì Thiên Chúa đã sai thiên thần đến trấn an và trao sứ mạng cho ông.
+ Này ông Giu-se là con cháu Đa-vít: Giu-se được trao sứ mạng làm cha để trẻ Giê-su thuộc về dòng dõi Đa-vít theo pháp luật, hầu ứng nghiệm lời sứ thần: “Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít tổ tiên Người” (x. Lc 1,32), và lời tuyên sấm của các ngôn sứ về dòng dõi Đấng Thiên Sai (x. Is 9,6; 2 Sm 12,16). + Đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần: Sứ thần đánh tan sự e ngại của Giu-se bằng cách ra lệnh cho ông mau tổ chức lễ cưới đón Ma-ri-a về làm vợ mình vì việc thụ thai là do quyền năng của Thiên Chúa.
+ Ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su: Đặt tên cho con trẻ là thừa nhận mình là cha của đứa trẻ về pháp luật. Tên Giê-su hay Giô-suê, Giê-su-a có nghĩa là “Gia-vê Đấng cứu độ”. Đây cũng là tên riêng của nhiều người khác trước đó (x. Xh 24,13; Nkm 7,7).
+ Vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ: Sứ mạng của con trẻ là cứu dân khỏi quyền lực của ma quỷ, tội lỗi và sự chết (x. Tv 130,8), khác với quan niệm cứu thế trần tục mà dân Do thái đang mong đợi.
- C 22-23:
+ Này đây, trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai: Đây là lời tuyên sấm của I-sai-a (x. Is 7,14) nói lên tính siêu phàm của Đấng Thiên Sai. Người do một bà mẹ đồng trinh sinh ra. Thực ra mẫu tính đồng trinh của Đức Ma-ri-a nói đây không nhấn mạnh về thể xác cho bằng để chứng minh thần tính và nhân tính của Đức Giê-su
+ Em-ma-nu-en: nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Tên gọi này bao hàm sứ mạng của Đấng Thiên Sai: Nhờ Đức Giê-su mà Thiên Chúa sẽ hiện diện giữa dân Ngài để cứu độ họ. Tin mừng Mát-thêu cũng kết thúc bằng lời hứa của Đức Giê-su: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
- C 24-25:
Sau khi được sứ thần báo mộng, Giu-se không còn ngần ngại. Ông lập tức tổ chức lễ cưới rước dâu để đón Ma-ri-a về nhà làm vợ mình như lệnh sứ thần truyền.
+ Ông không ăn ở với bà: Sở dĩ ông Giu-se đón Ma-ri-a về nhà làm vợ mà không ăn ở với bà như vợ chồng, vì ông tôn trọng lời khấn trọn đời đồng trinh của Ma-ri-a khi thưa “Xin Vâng” với sứ thần để trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế (x. Lc 1,31.38).
+ Cho đến khi bà sinh một con trai và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su: Giu-se đã vâng lời sứ thần khi đặt tên cho con trẻ là Giê-su.
4. CÂU HỎI:
Một số người Tin Lành đã dựa vào chữ “cho đến khi” trong câu này để khẳng định: Ma-ri-a chỉ đồng trinh trước khi sinh hài nhi Giê-su như lời ngôn sứ I-sai-a. rồi sau khi sinh, bà lại sống đời làm vợ của ông Giu-se theo đúng nghĩa vợ chồng, nghĩa là có ăn ở với nhau và đã sinh thêm nhiều con trai con gái khác như Tin Mừng Mát-thêu ghi lại (x. Mt 13,55). Ngoài ra, Tin Mừng Lu-ca cũng có câu: “Ma-ri-a sinh con trai đầu lòng” (x. Lc 2,7).
*GIẢI ĐÁP:
- Chữ “Cho đến khi” ở đây không có nghĩa là Giu-se đã không ăn ở với Ma-ri-a cho đến khi bà sinh con, rồi sau đó ăn ở như vợ chồng như các đôi vợ chồng khác. Khi viết câu này, tác giả Mát-thêu chỉ muốn nhấn mạnh tới sự kiện Giu-se đã không can thiệp gì vào việc Ma-ri-a sinh con, đúng như lời sấm của ngôn sứ I-sai-a về một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con trai (x. Is 7,14). Mát-thêu không lưu tâm tới việc hai ông bà có ăn ở với nhau như vợ chồng hay không sau khi bà sinh con, vì câu Tin Mừng chỉ viết: “Ông không ăn ở với bà, cho đến khi sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su” (c. 25).
- Về chữ “con trai đầu lòng” (Lc 2,7), Lu-ca chỉ nhắc lại khoản luật trong Xuất hành về việc thánh hiến con trai đầu lòng cho Đức Chúa của người và thú vật (x. Xh 13,2.12.15) sắp được áp dụng cho trẻ Giê-su (x. Lc 2,23). Do đó “con trai đầu lòng” ở đây chỉ có ý nói là “đứa con thứ nhất, đứa con sinh ra đầu tiên” (primo genitus) chứ không ám chỉ còn có các con khác sẽ sinh ra sau đó.
- Tin Mừng Mát-thêu cũng trưng dẫn lời một người nọ nói với Đức Giê-su rằng: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, tìm cách nói chuyện với Thầy” (Mt 12,47). Câu này tương tự câu nhận định của dân làng Na-da-rét về Đức Giê-su: “Anh em của ông không là các ông Gia-cô-bê, Giô-xép, Si-mon và Giu-đa sao ? Và chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao ?” (Mt 13,55-56; Mc 6,3). Đây là những người anh em bà con nói chung chứ không hàm ý rõ ràng đó có phải là anh chị em ruột hay không. Cuối cùng sách Công Vụ Tông Đồ cũng viết: “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với các anh em của Đức Giê-su” (Cv 1,14). Anh em nói đây chỉ là bà con họ nội của Đức Giê-su về phía cha nuôi là thánh Giu-se.
- Bằng chứng rõ nhất chứng minh Đức Giê-su là con trai duy nhất của Đức Ma-ri-a là trước khi chết, Đức Giê-su đã trối Mẹ Ma-ri-a làm mẹ của môn đồ Gio-an và trối Gio-an làm con của Mẹ Người. Và “Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình” (Ga 19,27). Nếu ngoài Đức Giê-su còn có nhiều anh chị em khác nữa thì Đức Giê-su chắc chắn đã không trối trăn như vậy và môn đệ Gio-an cũng không thể rước Đức Ma-ri-a về nhà mình phụng dưỡng thay cho Thầy Giê-su được.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Ông Giu-se chồng bà là người công chính (Mt 1,19). Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy (Mt 1,24).
Khi vụ OÁT-TƠ GHẾT (Water Gate) xảy ra, thì Tổng Thống NÍCH-SƠN (Nixon) vốn được dân chúng Hoa Kỳ tín nhiệm và đánh giá cao, đang ở trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Cũng vì muốn thắng cử mà Ních-sơn tuy đã biết nhưng vẫn làm ngơ cho thuộc hạ tổ chức nghe lén điện thoại của đảng đối lập. Bây giờ bị họ phát hiện và ghép vào tội nghe lén, một hành động vi phạm pháp luật Hoa Kỳ. Ông mất ăn mất ngủ trong nhiều ngày để tìm lối thoát trong danh dự. Thế rồi một ngày nọ, sau khi làm việc ở văn phòng tại Tòa Bạch Ốc về nhà, Ních-sơn ngồi một mình khá lâu trong phòng riêng. Bỗng ông nhìn thấy cuốn Thánh Kinh đang nằm trên bàn làm việc. Ông đã cầm lấy mở ra và đọc được câu Lời Chúa sau: “Sự thật sẽ giải thoát các ngươi”. Về sau ông cho biết: Chính câu Lời Chúa đó đã nhắc nhở ông phải trung thực trong hành động. Thế là ông mau chóng quyết định dứt khoát. Mấy ngày sau đó, người ta thấy ông xuất hiện trên truyền hình phát đi toàn nước Mỹ lời nhận lỗi và xin tha thứ. Ông cũng chính thức xin từ chức Tổng Thống, một chức vụ đầy quyền lực và vinh quang mà nhiều chính khách luôn mơ ước. Đây là một hành động được đánh giá là can đảm và có một không hai trong lịch sử Hoa Kỳ. Chính nhờ sự can đảm trung thực và khiêm tốn nhận lỗi đó mà dân chúng đã thông cảm và kính phục ông như trước.
3. SUY NIỆM:
Tin mừng Chúa Nhật IV Mùa Vọng hôm nay mời gọi các tín hữu chúng ta dọn tâm hồn đón nhận ơn cứu độ của Đức Giê-su bằng việc noi gương thánh cả Giu-se và Trinh Nữ Ma-ri-a như sau:
1) Noi gương công chính của thánh Giu-se: Sự công chính của Giu-se được Tin Mừng diễn tả như sau: “Ông Giu-se chồng bà là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo”. Vậy tại sao Giu-se được khen là người công chính? Trong những ngày chuẩn bị đón mừng lễ Giáng Sinh, chúng ta phải sống thế nào để noi gương công chính của thánh Giu-se?
a) Công chính là ứng xử công bình ngay chính: Trước sự kiện Ma-ri-a tuy đã thành hôn nhưng chưa về chung sông mà đã có thai nên chắc không phải con của mình, Giu-se đã suy đi nghĩ lại trong lòng và đã bình tĩnh chọn lối ứng xử công bình ngay chính như sau: Ông “không tố cáo bà” tội ngoại tình vì không dám xét đoán ý trái cho Ma-ri-a, một người mà ông biết rõ rất mực thánh thiện. Nhưng đàng khác, ông cũng không thể tổ chức lễ rước dâu để đón Ma-ri-a về nhà làm vợ và nhắm mắt thừa nhận bào thai Ma-ri-a đang cưu mang là con mình vì không đúng sự thật và cũng vì chưa nhận được chỉ thị nào từ nơi Thiên Chúa. Cuối cùng Giu-se đã chọn giải pháp “âm thầm lìa bỏ” bà để vừa tôn trọng sự thật lại vừa bào toàn danh dự cho Ma-ri-a, tránh cho bà khỏi bị kết tội cách oan ức trước mặt người đời.
b) Công chính cũng là vâng theo thánh ý Thiên Chúa: Giu-se còn thể hiền đức công chính qua thái độ luôn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Khi được sứ thần hiện ra báo mộng và cho biết ý Chúa muốn, Giu-se đã thức dậy và làm theo ý Chúa như sau: Một là tổ chức lễ rước dâu để “đón vợ về nhà”: Để làm được điều này, ông phải làm chủ tính tự ái và can đảm bỏ ngoài tai các dư luận bất lợi chung quanh. Hai là “Ông không ăn ở với bà”: Điều này cho thấy bản lãnh và sức mạnh tinh thần cao cả của ông, để có thể tôn trọng lời khấn hứa trọn đời đồng trinh của Đức Ma-ri-a. Ba là “Cho đến khi bà sinh một con trai, ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su”: Đặt tên là xác nhận tư cách làm cha của Hài nhi Cứu Thế về mặt luật pháp.
c) Học tập gương công chính của thánh Giu-se: Như vậy, cách ứng xử của thánh Giu-se nói trên cho thấy ngài là một người công chính vì đã dành cho Đức Ma-ria một tình yêu chân thành, có lòng khoan dung nhân hậu, tự chủ mực thước, bản lĩnh và có lập trường vững chắc… Qua đó cho thấy Giu-se là một người công chính, xứng đáng là cha nuôi của Hài nhi Cứu Thế Giê-su và là bạn trăm năm của Ðức Ma-ri-a, đồng thời nêu gương thánh thiện cho các tín hữu chúng ta hôm nay. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cần tránh thái độ hồ đồ, hay xét đoán ý trái cho tha nhân theo thiên kiến chủ quan “suy bụng ta ra bụng người”. Chúng ta cũng cần ứng xử bình tĩnh tự chủ trước mọi tinh huống bất ngờ, luôn phản ứng theo cách khôn ngoan vị tha và trung thực, luôn tìm kiêm thánh ý Thiên Chúa bằng cách tự hỏi: “Nếu Chúa Giê-su ở trong hoàn cảnh của tôi bây giờ thì Người sẽ làm gì?” rồi làm theo lời Chúa dạy để ngày một trở nên công chính thánh thiện noi gương thánh Giu-se.
2) Noi gương đức đồng trinh về tâm hồn như Trinh nữ Ma-ri-a: Tin Mừng hôm nay không những đề cao sự công chính của thánh Giu-se mà còn đề cập đến việc thụ thai kỳ diệu của Trinh Nữ Ma-ri-a do quyền năng Thánh Thần. Thông thường, nói tới sự đồng trinh của Ðức Ma-ri-a, người ta thường chỉ nghĩ tới đồng trinh về thể xác, mà ít nghĩ tới đức đồng trinh về tâm hồn của ngài. Thực ra cả hai mặt của đức đồng trinh ấy đều quan trọng và cần thiết. Nếu chỉ đồng trinh về thể xác mà thiếu đồng trinh tâm hồn thì sự đồng trinh ấy cũng không có giá trị bao nhiêu! Chính sự đồng trinh tâm hồn nơi Ðức Ma-ri-a mới quan trọng và nêu gương cho chúng ta hôm nay.
Đức Ma-ri-a đồng trinh trong tâm hồn biểu lộ qua việc Mẹ luôn quy hướng về Thiên Chúa và toàn tâm toàn ý phụng sự Chúa. Khi thưa Xin Vâng với sứ thần, Trinh nữ Ma-ri-a đã như một nữ tu khấn trọn: tuyên khấn thuộc trọn về Chúa. Qua lời khấn đó Mẹ đã tự hủy để toàn tâm toàn ý thuộc về Thiên Chúa và sống chết cho Ngài như Đức Giê-su nói: “Tôi tự trời mà xuống không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi” (Ga 6,38), hoặc như thánh Phao-lô: “Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20). Khi thưa với sứ thần: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38), Đức Ma-ri-a đã chứng tỏ đức đông trinh tâm hồn và trở thành gương mẫu cho các tín hữu hôm nay. Mọi tín hữu kể cả những người sống bậc hôn nhân gia đình đều có thể và được mời gọi sống đức đồng trinh trong tâm hồn, nghĩa là trọn vẹn phụng sự Thiên Chúa noi gương Mẹ Ma-ri-a.
3) “Em-ma-nu-en”- “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”: Tin Mừng Chúa Nhật IV Mùa Vọng hôm nay cũng đề cập đến danh hiệu của Đức Giê-su đã được ngôn sứ I-sai-a tuyên sấm trước đó bảy trăm năm: “Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta." (Mt 18,23). Em-ma-nu-en là danh hiệu cho thấy ý Thiên Chúa muốn ở với loài người mọi nơi mọi lúc như Đức Giê-su đã xác nhận trước khi lên trời: “Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Ngày nay Chúa Giê-su vẫn tiếp tục ở cùng chúng ta bằng nhiều cách như sau:
1- Khi Hội Thánh công bố Lời Chúa trong phụng vụ: Bấy giờ chính Đức Giê-su hiện diện để nói với chúng ta qua các vị chủ chăn: “Ai nghe anh em là nghe Thầy” (Lc 10,16).
2- Khi cộng đoàn hội họp nhau nhân danh Đức Giê-su trong các buổi học sống Lời Chúa hằng tuần hằng tháng thì có Người hiện diện để dạy dỗ: “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20).
3- Khi chúng ta yêu mến Chúa Giê-su và biểu lộ bằng việc lằng nghe và vâng giữ lời Người thì Ba Ngôi Thiên Chúa sẽ đến ngự trong chúng ta: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23).
4- Khi chúng ta cử hành thánh lễ và rước lễ sốt sắng là chúng ta được kết hiệp mật thiết với Chúa như Người dạy: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6,56). “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
5- Khi chúng ta phục vụ những người nghèo đói bệnh tật và bị bỏ rơi là chúng ta đã phục vụ chính Chúa Giê-su đang hiện thân nơi họ như Người đã nói: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
Tóm lại: Thiên Chúa muốn ở cùng con cái loài người chúng ta mọi ngày cho đến tận thế qua Đấng Em-ma-nu-en là Chúa Giê-su. Tuy nhiên hiện nay nhiều người vẫn đang từ chối đón nhận Người như Tin Mừng Gio-an đã viết: “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,10-11). Vậy trong những ngày này chúng ta sẽ làm gi để gặp gỡ tâm sự với Chúa, lắng nghe Lời Chúa và phục vụ Người nơi những người nghèo khổ bệnh tật và bị bỏ rơi? 4. THẢO LUẬN: 1) Trong những ngày Mùa Vọng này, bạn quyết tâm làm gì để trở thành một người công bình ngay chính noi gương thánh cả Giu-se ? 2) Bạn sẽ làm gì cụ thể để noi gương Trinh Nữ Ma-ri-a toàn tâm toàn ý phụng sự Tin Mừng Nước Thiên Chúa ?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng con biết hy sinh quên mình để lo công việc của Chúa như thánh Giu-se hôm nay. Xin cho chúng con luôn sẵn sàng làm theo ý Chúa như ngài. Ước gì mỗi ngày con tập bỏ đi một sở thích không cần thiết, bỏ qua một lời nói đụng chạm đến tha nhân. Ước gì chúng con nhìn thấy Chúa đang ở trong những người đau khổ nghèo hèn chung quanh để ân cần an ủi phục vụ họ, hầu sau này chúng con đáng được Chúa đón về quê trời hưởng hạnh phúc muôn đời như thánh Giu-se khi xưa.
- LẠY CHÚA. Xin cho chúng con luôn sẵn sàng tận hiến cuộc đời để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân noi gương đức đồng trinh trong tâm hồn của Trinh Nữ Ma-ri-a. Trong những giờ phút đen tối của cuộc đời, khi bị người thân hiểu lầm, bị người chung quanh nói xấu và xa lánh mà không thể tự giải oan, xin giúp chúng con biết bình tĩnh cậy trông và phó thác mọi sự trong tay Chúa quan phòng noi gương Mẹ khi xưa. Chúng con tin rằng Chúa sẽ kịp thời giải oan và còn “biến sự dữ ra sự lành” để giúp chúng con được hưởng ơn cứu độ của Chúa.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mát-thêu 1:18-24)
Một trong những điều quan trọng trong cuộc đời chúng ta là biết rõ nguồn gốc của mình. Trước MV4-A113
Một trong những điều quan trọng trong cuộc đời chúng ta là biết rõ nguồn gốc của mình. Trước khi kể lại biến cố Giáng Sinh, thánh Mát-thêu không ngần ngại nói cho chúng ta biết về “gốc tích” của Chúa Giê-su Ki-tô. Thánh sử nói về người mẹ trần gian của Chúa và về vai trò của Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên ngài cũng khẳng định rõ ràng chỗ đứng của thánh Giu-se đối với nguồn gốc của Chúa Giê-su. Và sau cùng là đôi dòng về sứ mệnh của Hài Nhi dựa trên nguồn gốc ấy.
Chim có tổ, người có tông. Vậy theo cách diễn tả của thánh Mát-thêu, tổ tông của Chúa Giê-su là ai? Rõ ràng thánh sử phân biệt hai nguồn gốc của Chúa Giê-su: nguồn gốc trên trần gian là Mẹ Ma-ri-a và nguồn gốc trên trời là Chúa Thánh Thần. Khi viết “Bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se”, Mát-thêu muốn nhấn mạnh đến nguồn gốc trần gian của Chúa Giê-su, vì một bà mẹ trần gian sinh ra hài nhi Giê-su thì dĩ nhiên phải là bà mẹ của hài nhi ấy rồi. Tiếp theo, đoạn Tin Mừng nói ngay đến nguồn gốc trên trời của Chúa Giê-su khi khẳng định sự hiện hữu của hài nhi là “do quyền năng Chúa Thánh Thần”.
Vậy thì vai trò của thánh Giu-se là gì? Để trả lời câu hỏi này, Mát-thêu trình bày con người của thánh Giu-se vốn “là người công chính”. Vì là người công chính, nên cách cư xử của thánh Giu-se là “không muốn tố giác” Mẹ Ma-ri-a trong tình huống khó khăn này và chỉ muốn giải quyết bằng cách “định tâm bỏ bà cách kín đáo” mà thôi. Chẳng những lối hành xử của thánh Giu-se là kết quả của đức công chính, mà tâm ý của Ngài còn đầy lòng quảng đại và bác ái nữa. Tuy thánh Giu-se không phải là nguồn gốc huyết thống của Chúa Giê-su, nhưng vai trò của Ngài lại được sứ thần Chúa giải thích tường tận. Trước hết Ngài cứ đón Mẹ Ma-ri-a về nhà và đừng thắc mắc gì về việc Mẹ cưu mang Chúa Giê-su. Tiếp đến, bổn phận của thánh Giu-se là “phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su”. Theo luật lệ Do-thái, người cha của đứa trẻ sơ sinh mới có quyền đặt tên cho con mình. Thánh Giu-se không phải là cha theo huyết thống mà được trao quyền đặt tên cho con trẻ thì đương nhiên trên luật pháp đã là người cha của con trẻ ấy, cho dù trong trường hợp này thánh Giu-se chỉ là cha theo luật, hoặc là “cha nuôi” như chúng ta vẫn gọi Ngài.
Tuy nhiên thánh Mát-thêu không dừng lại ở đây khi đề cập đến nguồn gốc trên trời và nguồn gốc trần gian của Chúa Giê-su. Ngài còn đưa chúng ta đến một chân lý vô cùng sâu xa và là ý nghĩa nền tảng của biến cố Giáng Sinh: sự kết hợp mầu nhiệm giữa quyền năng Chúa Thánh Thần và Trinh Nữ Ma-ri-a đã sinh ra Giê-su, “con lòng bà được chúc phúc” và sẽ được nhân loại gọi tên là “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. Tại sao Hài Nhi lại được gọi là Em-ma-nu-en? Dĩ nhiên là để thực hiện kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa muốn ở giữa nhân loại và đưa họ về với Người. Qua Ngôi Lời, Thiên Chúa đến với loài người để nhắc nhớ họ về nguồn gốc trên trời của họ. Rồi qua sự hiện diện của Lời Nhập Thể sống giữa nhân loại, Thiên Chúa thực hiện công cuộc cứu độ. Nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa đem sự sống mới đến cho nhân loại, để nhờ sự sống mới trong Chúa Thánh Thần, nhân loại sẽ đồng hành với Chúa Giê-su tiến về nguồn gốc trên trời của mình.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúng ta thường nói hoặc hãnh diện và gốc tích trần gian của chúng ta, nhưng có lẽ ít khi chúng ta nghĩ đến và hãnh diện về gốc tích trên trời của chúng ta. Khi lãnh nhận bí tích Rửa tội để làm con cái Chúa, chúng ta đã nhận lại gốc tích trên trời của chúng ta rồi. Khi thánh Mát-thêu nhắc đến gốc tích của Chúa Giê-su, có lẽ ngài không nhấn mạnh đến một sự kiện lịch sử, nhưng muốn nói lên ý nghĩa thần học của chân lý Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Đúng vậy, Chúa Giê-su đang ở giữa chúng ta, trong lịch sử và nhất là Người hiện diện đích thực trong Bí tích Thánh Thể. Tin Mừng Mát-thêu đã mở đầu khi giới thiệu với chúng ta Thiên Chúa là Em-ma-nu-en (1:23) và sẽ kết thúc với cùng một ý nghĩa “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (28:20). Nào, chúng ta đi đón mừng Đấng Em-ma-nu-en đang đến!
Tin Mừng theo Luca nói đến việc truyền tin cho Đức Mẹ. Tin Mừng theo Matthêu kể câu chuyện MV4-A114 Ephata
Tin Mừng theo Luca nói đến việc truyền tin cho Đức Mẹ. Tin Mừng theo Matthêu kể câu chuyện truyền tin cho Giuse.
“Bà Maria, mẹ của Đức Giêsu, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giuse, là con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”... Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.” ( Mt 1, 18 – 21.24 ).
Sứ thần Chúa đến báo tin cho Giuse biết, thai nhi nơi người vợ chưa cùng ông chung sống là do quyền năng Thánh Thần. Sứ thần mời gọi ông cứ đón nhận Maria làm vợ, và chấp nhận thai nhi như con mình.Giuse đã nói tiếng Xin Vâng. Ông đón lấy những mầu nhiệm mà ông không hiểu hết.
Tin mừng giới thiệu về những đóng góp của Thánh Giuse vào công trình Nhập Thể. Với sự quảng đại, Thánh Giuse đã bỏ dự định của mình để thi hành chương trình của Thiên Chúa. Đó là cho Chúa Giêsu một tư cách pháp lý là con cháu Vua Đavit. Đúng như lời Thiên Chúa đã hứa từ thời Cựu Ước. Giuse đặt tên cho Chúa Giêsu, nhận Ngài là con mình theo pháp lý. Từ nay Giuse bao bọc Đức Maria và Chúa Giêsu. Isaia loan báo: “Này đây Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta" ( Is 7, 14 ). Lời ngôn sứ có một tầm quan trọng trong nhiệm cục cứu rỗi. Lời đó khẳng định "chính Thiên Chúa" sẽ ban cho Đavid một người thuộc dòng dõi, như là "dấu chứng" lòng trung tín của Người. Lời hứa này đã thực hiện với sự sinh ra Chúa Giêsu bởi Đức Trinh nữ Maria. Giuse đựơc vinh dự tham gia vào nhiệm cục cứu rỗi đó.
Đức Giêsu Kitô là Emmanuel “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Người là Đấng Cứu Độ, Đấng đến giải thoát và ban bình an cho dân Chúa. Nhưng qua câu chuyện Tin Mừng hôm nay, Thiên Chúa đã gây một cú sốc quá lớn cho Thánh Giuse. Khi biết Maria bỗng dưng có thai, Giuse đau khổ, âm thầm mang lấy nổi đau riêng mình. Là người công chính nên Giuse luôn lắng nghe và mau mắn thi hành thánh ý Chúa. Vì thế mà ngài trở nên Thánh Cả và là mẫu gương cho mọi tín hữu.
1. Mẫu gương đức tin, công chính và cầu nguyện
Thánh Giuse, con người đức tin, công chính và cầu nguyện. Đức tin liên kết với sự công chính và sự cầu nguyện, đó là thái độ xứng hợp để gặp “Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta".
Tự thâm sâu, tình yêu của Giuse vẫn trổi vượt. Giuse không hề quay lại bản thân mình để cảm thấy bị lừa dối xúc phạm, nhưng chỉ hướng về cô Maria để tiếp tục tin rằng vị hôn thê của mình vẫn thật sự trong sạch vẹn tuyền. Không hề tra hỏi Maria một lời nào, Giuse chỉ im lặng ôm lấy phiền muộn, một cõi riêng tư.
Vì yêu Maria nên Giuse không muốn làm hại bạn mình. Ngài đã chọn con đường rút lui trong âm thầm, một giải pháp thua thiệt cho bản thân vì sẽ mang tiếng là “sở khanh”. Một quyết định can đảm nói lên tình yêu và tấm lòng quảng đại của Ngài. Giuse đúng thật là người công chính. Nơi Thánh Giuse, "sự công chính nội tâm" trùng với "tình yêu". Tình yêu dâng hiến luôn hướng về người khác, sẵn sàng hy sinh để làm người mình yêu có giá trị hơn và đựơc hạnh phúc hơn. Chấp nhận chịu thiệt thòi để người yêu được thuận lợi, chấp nhận đau khổ để người mình yêu hạnh phúc. Sẵn sàng thông cảm và tha thứ cho người mình yêu khi có lầm lỗi. Giuse đã yêu Maria bằng tình yêu dâng hiến như thế.
Giuse là một người mở lòng đón nghe Lời Chúa trong cầu nguyện. Thiên thần giải thích cho Giuse biết "người sinh bởi Đức Maria là do Chúa Thánh Thần", theo lời ngôn sứ phán xưa: "Này đây: Trinh nữ sẽ thụ thai", và Giuse sẵn sàng tiếp nhận những ý định của Chúa, những ý định vượt quá những giới hạn của loài người.
Giuse như là một con người đích thực sống đức tin. Đức tin liên kết với sự công chính và cầu nguyện, đó là thái độ phù hợp để gặp Đấng Emmanuel. Tin có nghĩa là sống trong lịch sử mở lòng đón nhận sáng kiến của Thiên Chúa, đón nhận sức mạnh sáng tạo của lời Người.
2. Mẫu gương luôn vâng theo thánh ý Chúa
Thánh Giuse là người công chính như Kinh Thánh đã khen tặng. Trong suốt cuộc đời Giuse hằng luôn vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa ( x. Mt 1, 18-25; 2, 13-23; Lc 2, 1-7.22 ).
Thánh ý Chúa, được sứ thần truyền đạt đến cho ông Giuse, vừa xoá tan mọi nghi ngờ đang dằn vặt ngài vừa mạc khải cho ngài về lai lịch và sứ mạng của thai nhi đang được cưu mang. Đó là Đấng Thánh vì được thụ thai do quyền năng của Thiên Chúa. Đó cũng là Đấng sẽ giải phóng dân tộc của ngài khỏi ách đô hộ của ngoại bang. Sứ thần xác nhận Maria mang thai do Chúa Thánh Thần và bảo ông đừng rút lui mà hãy đưa Maria về với mình, bởi Chúa đã giao cho ông một sứ mạng. Giuse sẵn sàng làm bất cứ điều gì Chúa muốn để hoàn tất chương trình của Người. Dự tính muốn ra đi âm thầm không phải chỉ do sự tôn trọng luật pháp hay tôn trọng danh dự Maria thúc đẩy, nhưng còn có cái gì sâu xa hơn nữa. Có thể ví với thái độ của những người đối diện với một mầu nhiệm cao cả: họ thụt lại vì kinh kính sợ, tựa như ông Môsê đã cởi dép khi tiến gần bụi gai đang cháy rực ( St 3, 5 ), tựa như Isaia thất kinh khi diện kiến Thiên Chúa cực thánh ( Is 6, 5 ), tựa như ông Simon sau khi chứng kiến mẻ cá lạ lùng ( Lc 5, 8 ).
Giuse được biết là cô Maria “có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần”, vì thế ông không dám chiếm hữu người con không phải là của mình. Vì thế ông toan tính rút lui. Để cũng cố thêm cho sự giải thích vừa rồi, cha Ignace de La Potterie nhận xét rằng, cần phải xét lại các bản dịch cổ truyền. Thay vì “ông Giuse là người công chính không muốn tố giác bà”, cần phải dịch là “ông Giuse là người công chính không muốn tiết lộ mầu nhiệm, quyết định rời bỏ bà cách kín đáo.
Động từ deigmatisai ( ít được sử dụng trong tiếng Hy lạp ) tự nó chỉ có nghĩa là thông báo, nói cho biết, đưa ra ánh sáng ), và tuỳ theo mạch văn mà thay đổi ý nghĩa: có thể là “tố cáo, tố giác” ( điều xấu ), “bày tỏ, tiết lộ” ( điều tốt ). Ông Giuse đựơc bà Maria tâm sự về sự cưu mang do quyền năng Thánh Thần, và ông không dám tiết lộ mầu nhiệm này. ( x. Lm. Phan tấn Thành, Thánh Giuse trong cuộc đời Chúa Kitô và Hội thánh ).
Như một khí cụ ngoan ngoãn trong tay người sử dụng, Thánh Giuse đã được Thiên Chúa chọn làm người bảo trợ Đấng Thiên Sai, và Ngài đã cùng bạn mình là Đức Maria, thực hiện mọi quyết định của Thiên Chúa, dầu có phải trải qua biết bao thử thách gian nan, cả về vật chất lẫn tinh thần.
Người Công Chính Giuse suốt cuộc đời luôn luôn thức tỉnh trước thánh ý Thiên Chúa, tỉnh thức ngay cả trong giấc ngủ.
Ở Bêlem: “Sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi !” Ông Giuse liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập.” ( Mt 2, 13 – 14 ).
Ở Ai Cập: “Sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giuse bên Ai Cập, báo mộng cho ông rằng: “Này ông, hãy dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi. Ông liền trỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về lại đất Ítraen.” ( Mt 2, 19 – 21 ).
Ở Giuđê: “Vì nghe biết Áckhêlao đã kế vị vua cha là Hêrôđê, cai trị miền Giuđê, nên ông Giuse sợ, không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Galilê, và đến ở tại một thành kia gọi là Nadarét.” ( Mt 2, 22 – 23 ).
Giuse luôn thao thức lắng nghe tiếng Thiên Chúa, và khi nghe được rồi thì đáp lại không chần chừ, dù cho phải trả giá. Một câu ngạn ngữ của người Nigêria nói rằng: Hãy lắng nghe và bạn sẽ nghe đựoc những bước chân của các con kiến. Chúng ta được mời gọi để lắng nghe những bước chân âm thầm của Thiên Chúa trong cuộc đời.
Hãy “học trường” Giuse, bài học lắng nghe và thi hành Lời Chúa, trong tinh thần khiêm tốn, vâng phục, tin tưởng và phó thác.
Ngôi Nhà Thờ đương đầu rất giỏi và gió chỉ làm bung một mảng tường nhỏ mới vá sau bàn thờ MV4-A115
Ngôi Nhà Thờ đương đầu rất giỏi và gió chỉ làm bung một mảng tường nhỏ mới vá sau bàn thờ chính. Bất tiện quá ! Lễ Giáng Sinh gần kề làm sao bít kịp cái lỗ hổng đó ? Không khéo nó lại lôi cuốn sự chú ý của người dự lễ hơn là cái hang đá. Cha xứ nảy ra sáng kiến đi ra cửa hàng tạp hóa của một hội đoàn giới trẻ. Người bán hàng đưa ra một bức thảm dệt tay kim tuyến, lấp lánh chen với ngà, chung quanh viền ren Bỉ. Chiếc thảm này trước kia được phủ trên một cái bàn trong cung điện cao sang, nhưng ở cái xó vùng sâu xa này, có ai thưởng thức được cái nghệ thuật quý giá đó ? Vì thế giá rẻ mạt. Ừ, sao lại không mua bức thảm này che vào cái lổ hổng đó ? Ngài mua liền.
Ý kiến thế mà hay: Bức thảm làm nhà thờ nổi bật lên ! Sáng sớm ngày áp lễ, cha xứ đến nhà thờ, ở chỗ chờ xe bus, ngài gặp một bà đang đứng đợi xe trong gió lạnh, ngài bảo:
- Bà vào Nhà Thờ ngồi cho đỡ lạnh, còn 45 phút nữa xe mới qua đây.
Bà ta vào nhà thờ quỳ gối đọc kinh, mắt bà bỗng mở to ra, bà chạy lên gần ngắm nhìn, sờ sờ tấm thảm và thốt lên:
- Thưa cha, bức thảm này đúng là của chúng con. Chồng con mua nó ở thủ đô nước Bỉ. Cha coi, đây chính là ký hiệu của chúng con.
Bà kể cho cha nghe tấm thảm kịch của gia đình. Vợ chồng bà sống tại nước Áo, khi quốc xã Đức tràn tới, họ bỏ chạy. Họ định trốn sang Thụy Sỹ, là phụ nữ, bà quá cảnh dễ dàng, còn chồng bà bị bắt lại, bà cho rằng ông đã chết trong trại tập trung rồi. Cha xứ ngỏ ý muốn trao lại tấm thảm nhưng bà từ chối:
- Thưa cha bức thảm để ở đây tốt hơn trong túp lều của con. Con vui lòng chịu đựng cảnh khốn quẫn. Con đi xin việc coi sóc nhà cửa, nhưng người ta từ chối vì lý do con đã già !
Thánh lễ đêm Giáng Sinh, mọi người dự lễ đều ngắm nhìn gian cung thánh được trang trí lộng lẫy, những ánh nến càng tôn vẻ lấp lánh của bức thảm. Lễ xong một ông đến xin gặp cha xứ, ông là chủ một hiệu kim hoàn. Ông nói:
- Thưa cha, thực là lạ quá ! Bức thảm này đúng là của chúng con trước kia. Khi chúng con sống ở Viên, thủ đô Áo Quốc, cứ mỗi lần mời Đức Cha đến dùng bữa, nhà con lại đem tấm thảm này ra trải bàn. Cha xứ kể lại cho ông sự việc xảy ra sáng nay. Ông hồi hộp xin cha:
- Cha có thể tả cho con vóc dáng của bà ấy được không ? Có lẽ nào lại chính là nàng ? Không lẽ nàng còn sống ?
Ông xin cha hướng dẫn để theo dõi vết tích người đàn bà nghèo khổ đó. Quả đúng là bà vợ của ông ta. Chiều ngày lễ Giáng Sinh hai vợ chồng được đoàn tụ sau bao năm dài xa cách. Một phép lạ của Tình Yêu Con Thiên Chúa. ( Internet ).
Đấng Thiên Chúa Ở Cùng đem đến nhân loại tình yêu, giao hoà và bình an sáng ngời trong đêm đen chia rẽ, hãi hùng, hận thù. Tin Mừng Chúa Nhật 4 Mùa Vọng hôm nay trình thuật sứ thần truyền tin cho Giuse rằng, Mẹ Maria đã thụ thai bởi Đức Chúa Thánh Thần, như Ngôn Sứ Isaia đã tiên báo từ 8 thế kỷ: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta." ( Is 7, 14 ).
Tình yêu
“Thiên Chúa là Tình Yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy.” ( 1Ga 4, 16 ). Thánh Giuse từng phân vân, lúng túng, nghĩ ngợi, trước sự kiện Mẹ Maria mang thai, đã kiên quyết vượt lên chính mình, khi nghe sứ thần báo mộng. Một cách diễn tả sự bén nhạy thấu hiểu Thánh Ý Chúa qua các dấu chỉ. Đấng Emmanuel đã ban tràn đầy cho Giuse tình yêu dâng hiến, lòng khoan dung và hy sinh, để ngài sẵn sàng chấp nhận sứ vụ cao cả, làm cha nuôi nhiều chông gai, đau khổ.
Chỉ có Tình Yêu thật sự mới có thể mạnh mẽ hậu thuẫn cho Giuse quyết định, dấn thân phục vụ công trình cứu độ của Thiên Chúa. Chỉ có Tình Yêu mới có thể hoá giải Luật lệ, cũng như xung đột ý riêng với Thánh Ý, để Giuse hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa và kiên trì hoàn hành. Chỉ có Tình Yêu mới giúp Giuse thấu hiểu kỳ công của Thiên Chúa, cũng như dẫn dắt đến niềm tin vững mạnh.
Giao hòa
“Hỡi Giuse, con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần.” Qua lời sứ thần truyền tin, Đấng Emmanuel đến xua tan nghi ngờ, xoá sạch ngộ nhận, kết hiệp thánh cả Giuse với Mẹ Maria, trở thành Thánh Gia Thất ấm áp, yên vui, hạnh phúc, gương mẫu, ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia. “Từ gốc tổ Gie-sê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non.” ( Is 11, 1 ).
Trời đất giao hoà. Đấng Emmanuel nhập thể, bày tỏ Tình Yêu vĩ đại, gánh lấy tội lỗi nhân loại, san phẳng, lấp hố sâu tội lỗi ngăn cách, hầu giao hoà Thiên Chúa với con người và giữa con người với nhau, vốn thường mâu thuẫn, mê muội, đắm chìm trong bùn nhơ dục vọng. Người tìm kiếm từng con chiên lạc trở về với đàn.
Bình an
“Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền: ông tiếp nhận bạn mình.” Đấng Emmanuel an ủi, khích lệ Giuse an tâm, vâng theo Thánh Ý, tích cực dấn thân, cộng tác và phục vụ công trình cứu độ, cũng như làm rạng danh Thiên Chúa Tình Yêu.
Liên tiếp bốn lần, sứ thần đều trấn an mọi người “đừng sợ.” Với Thầy Tư Tế: “Giacaria, đừng sợ ! Vì Thiên Chúa đã nhậm lời ông cầu xin.” ( Lc 1, 13 ). Với Mẹ: “Maria, đừng sợ ! Vì bà đẹp lòng Thiên Chúa” ( Lc 1, 30 ). Với mục đồng: “Đừng sợ ! Ta báo cho các ngươi một tin mừng trọng đại.” ( Lc 2, 10 ) Và hôm nay với Giuse: "Hỡi Giuse, con vua Đavít, đừng sợ nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần” ( Mt 1, 20 ).
Đấng Thiên-Chúa-Ở-Cùng đã giao hoà trời đất, và con người, đem bình an đến nhân loại, như thiên thần hân hoan đàn hát vang lừng bên hang đá Bêlem: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” ( Lc 2, 14 ). Còn niềm vui nào cao sang, tuyệt vời, vĩ đại, hơn mầu nhiệm Đấng Chúa Ở Cùng giáng trần.
“Chúa hiện diện không phải là lý thuyết. Chúa là Cha, ở bên con, với tất cả quyền năng và tình yêu. Cha năn nỉ, Cha khuyên bảo, mời gọi, trách móc, tha thứ và luôn luôn yêu thương.” ( Đường Hy Vọng, số 234 ).
Lạy Chúa Giêsu, Đấng Chúa Ở Cùng, xin giải thoát chúng con khỏi chốn ngục tù tăm tối tội lỗi, khỏi cám dỗ thế gian phù vân, để chúng con được sống trong Tình Yêu viên mãn, hiệp nhất và bình an.
Kính xin Mẹ dẫn dắt chúng con theo Mẹ, cầu bầu chúng con năng ăn năn, sám hối, đổi mới, trở về Gia Đình Thánh, tràn đầy hạnh phúc cùng Chúa, với Chúa và trong Chúa. Amen.
Thánh Giuse cho người trẻ khả năng biết mơ, biết mạo hiểm, và nhận những nhiệm vụ khó khăn MV4-A116
Thánh Giuse cho người trẻ khả năng biết mơ, biết mạo hiểm, và nhận những nhiệm vụ khó khăn mà họ đã thấy trong giấc mơ. Đây là thông điệp của Đức Giáo hoàng Phanxicô trong bài giảng thánh lễ ban sáng ngày thứ hai 20-03 tại Nguyện đường Nhà trọ Thánh Marta.
“Tin mừng hôm nay kể lại chuyện thánh Giuse, vâng lời thiên thần trong giấc mộng, mà đưa Đức Mẹ về nhà làm vợ mình. Thánh Giuse, trầm lặng và vâng phục, là một người mang trên mình những lời hứa của tổ tiên và kế thừa, của tình phụ tử, của sự bền vững.
Và con người này, một con người của những giấc mơ, có thể nhận lấy trách nhiệm, trọng trách lớn lao của mình. Ngài có quá nhiều điều để chúng ta học hỏi trong một thời đại mà rất nhiều người cảm thấy mình như mồ côi. Và con người này nhận lấy lời hứa của Thiên Chúa và thực hiện trong thinh lặng mà mạnh mẽ.
Thánh Giuse là người có thể cho chúng ta hiểu được nhiều điều dù ngài không nói gì. Ngài là con người ẩn mình, con người trầm lặng, một người có uy quyền rất lớn nhưng không để người ta thấy. Điều Thiên Chúa giãi bày với thánh Giuse là một chuyện có vẻ yếu ớt. Một lời hứa, chỉ một lời hứa mà thôi. Và rồi khi Hài Nhi ra đời, phải chạy trốn qua Ai Cập, thế cũng là yếu đuối. Thánh Giuse ghi khắc trong lòng và đưa những sự yếu đuối đó tiến tới bằng sự ân cần của một người đang bồng ẵm con trẻ trong tay.
Ngài không nói, mà chỉ vâng lời, ngài là người ân cần trìu mến, có thể đưa những lời hứa thành cụ thể, người bảo đảm sự bền vững của Nước Trời, tình người cha của Thiên Chúa, tình người con của một con cái Thiên Chúa. Cha thích nghĩ về thánh Giuse như người bảo vệ cho kẻ yếu đuối, là sự yếu đuối của chúng ta nữa. Ngài có thể cho nảy sinh nhiều sự tốt đẹp từ chính những yếu đuối và tội lỗi của chúng ta.
Thánh Giuse là người bảo vệ cho kẻ yếu đuối để họ được vững vàng trong đ tin. Nhưng ngài nhận trọng trách này trong một giấc mơ. Ngài là người có thể mơ. Và ngài cũng là người bảo vệ giấc mơ của Chúa. Thiên Chúa mơ cứu rỗi tất cả chúng ta, và đã giao phó giấc mơ đó trong tay thánh Giuse. Thật đúng là một thợ mộc vĩ đại. Ngài thinh lặng nhưng làm việc.
Hôm nay cha muốn xin cho tất cả chúng ta biết mơ, và khi chúng ta mơ những điều tốt đẹp, chúng ta sẽ được đến gần giấc mơ của Thiên Chúa. Cha xin thánh Giuse cho những người trẻ biết mơ, biết mạo hiểm, biết nhận lấy những nhiệm vụ khó khăn mình đã thấy trong mơ. Và cha xin thánh Giuse cho tất cả chúng ta ngày càng thêm trung thành với sự công chính, một sự trung thành lớn lên trong thinh lặng làm việc, một sự trung thành nhờ ân cần trìu mến trước sự yếu đuối của mình và của người khác.”
Trước ngày lễ Giáng Sinh, ta được nghe ba cuộc truyền tin: một cho thánh Giuse, một cho ông MV4-A117
Trước ngày lễ Giáng Sinh, ta được nghe ba cuộc truyền tin: một cho thánh Giuse, một cho ông Dacaria và một cho Đức Maria. Thánh Giuse, người công chính, đã nhanh chóng “đọc” được ý nghĩa chương trình cứu độ của Chúa và cũng mau mắn vâng lời. Đặt tên cho em bé là nói lên quyền làm cha của em. Con Trẻ tên là Giêsu, nghĩa là Thiên Chúa cứu độ; và Ngài còn được gọi là Emmanuen, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Để cứu chuộc con người, Con Thiên Chúa đã đến trần gian, mặc lấy thân xác và sống giữa, sống với con người. Thiên Chúa đã đích thân đến với con người bằng một cung cách thật gần gũi và bình thường.
Chúa Giêsu Ngôi Lời Thiên Chúa đã đến trần gian do quyền năng Chúa Thánh Thần. Cha mẹ của Người: Đức Maria một cô thôn nữ đơn sơ, nhỏ bé, bình dị đã thành hôn với ông Giuse thuộc dòng tộc Đavít (18.20b). Ông là người công chính, luôn mau mắn vâng nghe và thi hành thánh ý của Thiên Chúa (c. 19.24).
Sứ vụ của Ngôi Lời nhập thể là để “cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (c. 21b). Con Thiên Chúa làm người, đi vào lịch sử loài người, Ngài không chọn một gia đình cao sang quyền quí làm nơi xuất thân nhưng là một mái ấm gia đình đơn nghèo đạm bạc để làm nên trang sử gia đình thánh và viết lên trang sử đời Người. Ngài là Đấng Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Với sứ mạng Thiên sai, Ngài đến để rao giảng Tin mừng tình thương cứu độ. Ngài gần gũi, quan tâm, săn sóc những người nghèo khổ, lầm than vất vưởng, bệnh hoạn tật nguyền, những kẻ bị gạt ra bên lề xã hội. Và điều quan trọng là Người đến để cứu vớt, giải phóng con người khỏi nô lệ, xích xiềng tội lỗi, cho họ được tự do và làm con Thiên Chúa, được chung hưởng hạnh phúc nước trời.
Xét về nguồn gốc, thánh Giuse đích thực thuộc dòng dõi Đavid, hậu duệ của vua Đavid. Ðấng Cứu Thế sẽ sinh ra trong dòng dõi này để ứng nghiệm lời các tiên tri đã báo trước: "Này đây đã tới ngày Ta gây cho Đavid một mầm giống công chính, mầm giống này sẽ làm Vua thống trị, sẽ là người khôn ngoan thực hiện công lý và công bình trên đất nước". Hoặc ở một chỗ khác: "Chúa sẽ tạo lập cho David một nhà. Nhà của Người và triều đại của Người sẽ vững chắc đến muôn đời. Ngôi báu của Người sẽ vững bền mãi mãi".
Trước sự kiện Maria tuy đã thành hôn nhưng chưa về chung sông mà đã có thai nên chắc không phải con của mình, Giuse đã suy đi nghĩ lại trong lòng và đã bình tĩnh chọn lối ứng xử công bình ngay chính như sau: Ông “không tố cáo bà” tội ngoại tình vì không dám xét đoán ý trái cho Maria, một người mà ông biết rõ rất mực thánh thiện. Nhưng đàng khác, ông cũng không thể tổ chức lễ rước dâu để đón Maria về nhà làm vợ và nhắm mắt thừa nhận bào thai Maria đang cưu mang là con mình vì không đúng sự thật và cũng vì chưa nhận được chỉ thị nào từ nơi Thiên Chúa. Cuối cùng Giuse đã chọn giải pháp “âm thầm lìa bỏ” bà để vừa tôn trọng sự thật lại vừa bào toàn danh dự cho Maria, tránh cho bà khỏi bị kết tội cách oan ức trước mặt người đời.
Giuse còn thể hiền đức công chính qua thái độ luôn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Khi được sứ thần hiện ra báo mộng và cho biết ý Chúa muốn, Giuse đã thức dậy và làm theo ý Chúa như sau: Một là tổ chức lễ rước dâu để “đón vợ về nhà”: Để làm được điều này, ông phải làm chủ tính tự ái và can đảm bỏ ngoài tai các dư luận bất lợi chung quanh. Hai là “Ông không ăn ở với bà”: Điều này cho thấy bản lãnh và sức mạnh tinh thần cao cả của ông, để có thể tôn trọng lời khấn hứa trọn đời đồng trinh của Đức Maria. Ba là “Cho đến khi bà sinh một con trai, ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu”: Đặt tên là xác nhận tư cách làm cha của Hài nhi Cứu Thế về mặt luật pháp.
Tuy nhiên, hậu duệ của Đavid không phải chỉ có một mình Giuse nhưng đã có hàng trăm hàng ngàn hậu duệ ấy Giuse đã được chọn làm dưỡng tử của Con Thiên Chúa, vì Ngài quảng đại và bao dung.
Một gia đình sống đời vợ chồng ai lại chẳng mơ ước đến chuyện chung chăn gối, thế mà Giuse lại ký kết hôn ước với một người đã thề hứa suốt đời không biết đến người Nam. Và rồi người Nữ mà Ngài hết lòng yêu mến và quí trọng ấy bỗng dưng lại mang thai. Nàng là người đức hạnh đoan trang sao lại bụng mang dạ chửa cách lén lút?
Theo luật Do Thái, Giuse có thể tố cáo người Nữ ấy trước Hội Trường Do Thái để nàng bị ném đá vì tội ngoại tình. Nhưng do tấm lòng bao dung ngài đã không làm thế. Ngài chỉ muốn âm thầm rút lui, không cãi vã to tiếng. Ngài tôn trọng nàng, ngài muốn để mặc cho nàng tự phân xử.
Cách ứng xử của thánh Giuse nói trên cho thấy ngài là một người công chính vì đã dành cho Đức Maria một tình yêu chân thành, có lòng khoan dung nhân hậu, tự chủ mực thước, bản lĩnh và có lập trường vững chắc… Qua đó cho thấy Giuse là một người công chính, xứng đáng là cha nuôi của Hài nhi Cứu Thế Giêsu và là bạn trăm năm của Ðức Maria, đồng thời nêu gương thánh thiện cho các tín hữu chúng ta hôm nay.
Ðang khi định tâm như vậy thì Thiên Chúa đã ra tay can thiệp, vì ngần ấy diễn tiến cũng đủ để cho Giuse làm dưỡng tử của Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Lời của sứ thần đã soi sáng giải đáp thắc mắc bấy lâu đang dày vò tâm hồn Giuse. Hơn thế nữa, sứ thần đã trao cho Giuse nhiệm vụ đặt tên cho con trẻ mới sinh. Với người Do Thái chỉ có người cha là người có quyền tối hậu trong việc đặt tên cho đứa trẻ, dù cho bà con thân thuộc có muốn gì đi nữa khi chưa có ý kiến của người cha thì việc đặt tên cũng không mang lại giá trị gì.
Giuse được Thiên Chúa ra tay can thiệp để lòng yêu thương nơi Ngài không bị rạn nứt, sứt mẻ, mà từ đây lòng yêu thương đã có dịp bộc lộ trọn vẹn. Giuse đã đón nhận người bạn đời về nhà mình và hết lòng yêu thương chăm sóc cho nàng cũng như cho người Con nàng đang cưu mang.
Cuộc đời của mỗi người cũng có lúc căng thẳng, phân vân, đau khổ vì phải chọn lựa quyết định, nhưng Thiên Chúa Ngài đã thông suốt tất cả những giai cấp này, thế nhưng Ngài vẫn im lặng chờ đợi. Ngài chờ phản ứng nơi mỗi người chúng ta do yêu thương hay giận ghét, nếu chúng ta xử sự với tấm lòng yêu thương quảng đại thì chắc chắn Ngài sẽ kịp thời trợ giúp và chẳng bao giờ Ngài để cho lòng yêu thương bị rạn nứt sứt mẻ. Trong mùa đón chờ vị Vua tình yêu giáng thế, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ luôn dùng thái độ bao dung quảng đại làm kim chỉ nam hướng dẫn các suy tưởng và hành động của mỗi người chúng ta.
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cần tránh thái độ hồ đồ, hay xét đoán ý trái cho tha nhân theo thiên kiến chủ quan “suy bụng ta ra bụng người”. Chúng ta cũng cần ứng xử bình tĩnh tự chủ trước mọi tinh huống bất ngờ, luôn phản ứng theo cách khôn ngoan vị tha và trung thực, luôn tìm kiêm thánh ý Thiên Chúa bằng cách tự hỏi: “Nếu Chúa Giêsu ở trong hoàn cảnh của tôi bây giờ thì Người sẽ làm gì?” rồi làm theo lời Chúa dạy để ngày một trở nên công chính thánh thiện noi gương thánh Giuse.
Mạc khải ơn cứu độ là công việc của Thiên Chúa, nhưng để thực hiện ơn cứu độ ấy thì cần đến sự cộng tác của con người. Chỉ khi ta sẵn sàng dẹp bỏ chương trình, sở thích cá nhân, để mở lòng ra lắng nghe Lời Chúa, ta mới có thể cộng tác với chương trình của Ngài. Như Đức Maria khiêm tốn đón nhận lời truyền tin hay tựa như thánh Giuse lập tức thi hành điều được báo mộng, ta cũng hãy tìm mọi cách giúp cho Chúa Giêsu nhập thể và sống giữa môi trường của ta.
Tám ngày trước Đại Lễ Giáng Sinh, Giáo Hội cho chúng ta chiêm ngắm chân dung của Thánh Giuse MV4-A118
Tám ngày trước Đại Lễ Giáng Sinh, Giáo Hội cho chúng ta chiêm ngắm chân dung của Thánh Giuse và Mẹ Maria. Trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, vai trò của Thánh Giuse và Mẹ Maria rất quan trọng. Chính nhờ lòng vâng phục của Thánh Giuse và Mẹ, mà Đấng Emmanuel đã nhập thể, nhập thế và hiện hữu trong một dòng tộc giữa trần thế để thực hiện lời hứa của Thiên Chúa trong sứ mạng cứu độ nhân loại.
Vai trò của Mẹ Maria thật lớn lao. Mẹ luôn hiện diện trong những tường thuật của Tin Mừng mà chúng ta sẽ đọc cho tới ngày Noel "Đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô: bà Maria, mẹ Người..." Những lời kể về Mẹ thật giản dị nhưng lại mang nặng chiều sâu nhân loại và mầu nhiệm. Chúng ta chiêm nghiệm hình ảnh của Mẹ Maria, một thôn nữ đang ở độ tuổi mười lăm đôi mươi.
Mẹ Maria theo tập tục của Phương Đông thời ấy, đính hôn và thành hôn với một người nam "Maria, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giuse." Với kinh nghiệm của nhiều người, chắc hẳn chúng ta biết trong thời gian sau khi đính hôn, người ta rất hạnh phúc để chờ đợi ngày được ở bên nhau. Thế nhưng, với Mẹ Maria, một biến cố mầu nhiệm khác đã diễn ra trong cuộc hôn nhân của Mẹ "Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần." Người con Mẹ đang cưu mang là do quyền năng Thiên Chúa thực hiện sau lời xin vâng và niềm xác tín của Mẹ vào chương trình của Ngài. Con trẻ này không là một trẻ thơ như bao đứa trẻ khác. Người là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta." Người sẽ được gọi là "con người và Thiên Chúa". Nhưng làm sao Giuse, hôn phu của Mẹ hiểu được và đón nhận?
Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể. Thiên Chúa đã quan phòng chuẩn bị cho Ngôi Hai một người cha trần thế. Người cha ấy chắc chắn cũng được đầy tràn ân sủng "Ông Giuse, chồng bà là người công chính." Vì công chính nên khi gặp điều trái ý, đối diện với những biến cố khó khăn hay sai phạm của người, Giuse chỉ âm thầm suy nghĩ và tìm cách cư xử tốt nhất cho người khác, nhất là người mà mình yêu thương "không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo." Làm sao có thể hiểu được ý Chúa nhiệm mầu? Làm thế nào để thực hiện được chương trình của Thiên Chúa, nếu không lắng nghe và mở lòng vâng phục tín thác?
Có thể nói giấc mộng và lời báo mộng của Thiên Thần Chúa cho Thánh Giuse được gọi là một biến cố "Truyền Tin", một loan báo về cuộc sinh hạ của Chúa Giêsu Kitô- Đấng Cứu Độ "Này ông Giuse, là con cháu Đavít, đừng ngại ...Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ." Lời sứ thần mà Giuse lắng nghe đã thay đổi mọi suy nghĩ và quyết định của ngài. Giờ đây thực thi ý Chúa và cộng tác với chương trình cứu độ của Chúa là chọn lựa hàng đầu của thánh Giuse. Từ đây, ngài đã đón nhận Đấng Cứu Thế và Mẹ Người bằng hành động cụ thể và cuộc sống hy sinh tận tụy trong suốt cuộc đời.
Tạ ơn Thiên Chúa về lời hứa kỳ diệu Ngài đã thực hiện "Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là ‘Thiên Chúa ở cùng chúng ta.’” Một Đấng Cứu Độ mặc lấy xác phàm để thực hiện lời hứa của Thiên Chúa. Một Giao Ước mới với nhân loại được thực thi "Emmanuel-Thiên Chúa ở cùng chúng ta". Thật hạnh phúc cho chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương khi sai Ngôi Hai Thiên Chúa đến ở cùng và cứu độ chúng ta. Vậy chúng ta có ước muốn Thiên Chúa ở cùng và sẵn lòng đón Người không? Mẹ Maria và Thánh Giuse đã là mẫu gương cho chúng ta về việc rộng mở tâm lòng và cuộc đời để Chúa đến, ở cùng và cứu độ.
Ta hãy chiêm ngắm sự dâng hiến trọn vẹn cuộc đời và chương trình riêng của Mẹ Maria để xin vâng và cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Cung lòng Mẹ đã trở nên đền thờ cho Chúa ngự. Mẹ đã cưu mang, dưỡng nuôi Con Thiên Chúa trong chính lòng dạ mình và Mẹ được gọi là "Thân Mẫu Chúa Giêsu". Chúng ta cũng hãy học nơi Thánh Giuse sự khéo léo tế nhị khi đối xử với anh chị em và lòng vâng phục tín thác vào thánh ý Thiên Chúa qua mọi biến cố, qua tiếng nói lương tâm chân chính và trong sáng. Sự công chính đã giúp ngài có khả năng tham dự vào mầu nhiệm của Thiên Chúa và sẵn sàng dấn thân cộng tác thực thi chương trình của Chúa dẫu cho khó khăn vất vả.
Thiên Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài. Chúng ta, từng Kitô hữu hay những đôi bạn trẻ sắp, đang và đã bước vào đời hôn nhân. Hôm nay, mỗi chúng ta cũng có một trách nhiệm: lắng nghe, thực thi thánh ý Chúa, làm cho Chúa sinh ra trong tâm lòng mình, trong anh chị em và nhất là để Chúa ở cùng, lớn lên và cứu độ chúng ta. Ước gì trong thời gian cuối của Mùa Vọng này, chúng ta biết noi gương Mẹ Maria và Thánh Giuse, biết hăng hái thưa xin vâng và sẵn sàng chọn lựa theo ý Chúa để dâng trọn cuộc đời thực hiện những phương cách cứu độ trong thế giới hôm nay qua đời sống yêu thương, công bằng, bác ái, sẻ chia cụ thể. Có như thế, cuộc đời chúng ta mới thực sự có Thiên Chúa ở cùng và chính chúng ta là cánh tay nối dài của Chúa vươn đến anh chị em.
Lạy Đấng Emmanuel, xin đến và ở cùng chúng con. Xin dạy chúng con biết mở rộng tấm lòng chờ đón Chúa và dấn thân thực thi thánh ý Chúa. Amen.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Vua Akhab, người làm chủ một đất nước, không tin Chúa nên đã đưa cả dân tộc đến chỗ diệt MV4-A119
Vua Akhab, người làm chủ một đất nước, không tin Chúa nên đã đưa cả dân tộc đến chỗ diệt vong. Một gia trưởng, hết lòng tin vào Chúa, đã đưa muôn dân đến ơn cứu độ. Gia trưởng đó là ai? Thưa là Giuse, một người chồng lý tưởng trầm tĩnh sáng suốt, luôn luôn biết cầu nguyện bàn hỏi Chúa về mọi vấn đề, để hành động hợp với đức mến Chúa yêu người và luật lệ xã hội. Trước vấn đề gay cấn nhất của bậc vợ chồng là Maria đã mang thai ngoài ý của mình, Giuse đã cư xử thế nào?
1- Giuse đã rất tế nhị hiền lành: theo luật, Giuse được tố cáo Maria để ném đá. Nhưng Giuse đã không nói một lời nào làm phiền Maria, không một cử chỉ nhỏ nào làm Maria phải ngượng ngùng, e ngại, không một cái nhìn nhỏ nào làm cho Maria phải khó chịu. Giuse đã tỏ lòng trọng kính chân thành hết sức mình đối với Maria. Nếu chỉ tỏ một tí nghi ngờ, mặt nặng mặt nhẹ thôi, đủ gây đau khổ dai dẳng ngậm ngùi cho giới liễu yếu đào tơ đến chừng nào! Gia đình sẽ bị đổ vỡ lập tức.
2- Giuse đã cư xử rất thánh thiện và công chính: cứ theo nhận xét bề ngoài thì không thể biết được ơn phúc mang thai của Maria, nên Giuse không thể tự cho phép mình chung sống bất chính với Maria. Ông đã quyết định xa bà cách âm thầm. Quyết định đó rất công chính vì hôn phối của Giue và Maria chưa thành sự, mới đính hôn, chưa về chung sống với nhau, bỏ là rất hợp pháp và hợp lý cho đời sống trong sạch thanh tịnh của ông. Quyết định đó chứng tỏ Giuse rất nhân từ và thánh thiện. Thánh thiện vì Giuse thấy cái gì có dáng vẻ tội lỗi thì ông cương quyết tránh xa. Nhân từ vì ông đã hành động thật êm ái, kín đáo, không để lộ việc gì làm bà sợ hãi trong lúc mang thai. Ông còn hết sức giữ gìn danh thơm tiếng tốt của bà. Sự công chính của Chúa là biểu lộ lòng thương xót của Ngài đối với tội nhân. Giuse đã biểu lộ được lòng thương xót của Chúa, nên Kinh thánh đã đặc biệt gọi thánh Giuse là Đấng công chính. Nhờ đó, Chúa giải quyết những vấn đề gây cấn nhất cho gia đình nhân loại để nhân loại được tràn đầy vinh phúc lãnh nhận ơn cứu độ.
“Hãy đến cùng Giuse” - Xin cho hết mọi gia trưởng biết đến cùng Giuse thấm nhuần được lòng từ bi nhân hậu, thực thi đức mến Chúa yêu người như Thánh Cả để làm cho gia đình được sống trong tình thương hạnh phúc và chúc lành muôn thuở của Chúa Giáng Sinh.
Chúng ta sắp cử hành một mầu nhiệm lớn lao, mầu nhiệm Thiên Chúa đến làm người trong trần MV4-A120
Chúng ta sắp cử hành một mầu nhiệm lớn lao, mầu nhiệm Thiên Chúa đến làm người trong trần gian, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Đấng là Chủ lịch sử đã đi vào lịch cử con người, và để thực hiện điều đó, Thiên Chúa đã tạo nên cho Người một gia đình thuộc dòng tộc Đa-vít.
Thiên Chúa không làm gì mà không có một chương trình hẳn hoi.
Trước khi tạo nên con người, Ngài quyết định rõ ràng: “Ta sẽ tạo nên con người giống hình ảnh Ta.”
Trước khi thực hiện ý định cứu chuộc con người, Ngài đã chuẩn bị suốt gần 2.000 năm, một dân tộc – dân tộc của lời hứa – là dân Do Thái, để đón tiếp Ngôi Hai ra đời.
Trước khi cho Ngôi Hai ra đời, để hoàn tất chương trình cứu chuộc đó, Ngài đã chọn một trinh nữ và trinh nữ nầy đã được đính hôn với một thanh niên tên là Giu-se. Nhờ đó, Đấng sẽ sinh ra “không do ý muốn loài người, cũng không do ýmuốn của nam nhân” sẽ có cha có mẹ hợp pháp trong xã hội loài người. “Kỳ diệu thay ý định của Chúa!” Và Giu-se, người đã được chọn cũng sẵn sàng đón nhận Con Thiên Chúa làm con mình: “Ông sẽ đặt tên con trẻ là Giêsu”, nghĩa là chính thức làm cha của Chúa Cứu Thế.
“Không có gì mà Thiên Chúa không làm được.”
Thiên Chúa, Đấng điều khiển lịch sử loài người đã xuất hiện trong trần gian đúng theo quy luật mà Ngài đã ấn định. Thánh Phao-lô thốt lên lời ca tụng: “Sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào!” (Rm 11,33).
Còn về Maria thì thánh sử nói: “Ngài thụ thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.
Mầu nhiệm chúng ta cử hành hôm nay là mầu nhiệm của Chúa Thánh Thần. Ngài là nguồn suối mọi sự từ đầu khi vũ trụ chưa thành hình…
Ngài vẫn tiếp tục hoạt động trong chương trình cứu độ suốt bao nhiêu thế kỷ…
Ngài sẽ tiếp tục hoạt động cho đến cuối cùng…
Maria đã thay mặt cho nhân loại đón nhận hồng ân của Thánh Thần và cộng tác vào chương trình của Chúa: “Nầy con là tôi tớ của Chúa, xin cứ thực hiện nơi con những gì Chúa muốn.”
Thánh Mat-thêu nhắc lại lời tiên tri I-sa-i-a: “Người ta sẽ gọi tên con trẻ là EMMANUEN” nghĩa là “Thiên Chúa ở với loài người .” Mat-thêu muốn chứng minh rằng mọi sự đều nằm trong chương trình kỳ diệu của Chúa.
“Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”, phải chăng đây là hồng ân tuyệt hảo Chúa trao ban cho chúng ta? Đáng lý chúng ta phải “nhảy mừng” và tạ ơn với tất cả tâm hồn chúng ta. Đây không chỉ là một ân huệ trong muôn vàn ân huệ mà là nguồn suối mọi hồng ân, vì nơi Ngôi Hai chúng ta được “ơn nầy đến ơnkhác”.Thánh Phao-lô nói: “Một khi (Thiên Chúa ) đã ban Người Con đó, lẽnào Thiên Chúa không ban tất cả cho chúng ta?” (Rm 8, 32).
Maria là dụng cụ tuyệt hảo, là người cộng tác khiêm nhu và đắc lực của Thiên Chúa. Giuse cũng là người tôi trung âm thầm nhưng rất hữu hiệu trong chương trình yêu thương của Chúa.
Để thực hiện chương trình nầy, Maria và Giuse phải đi ngang qua một thử thách hết sức lớn lao.
“Maria đã mang thai trước khi về chung sống với Giuse.” Đây có thể nói là một thảm kịch xét theo thường tình.
Chắc chắn, Giuse đã yêu Maria (các thánh sử không nói rõ, nhưng chúng ta có thể hiểu như thế), và Maria lại là một cô thiếu nữ đoan trang đạo đức (“đầy ơn phước”). Thế nhưng sau ba tháng đi thăm người chị họ về, đã mang thai.
Giuse đã đến thăm sau bao tháng ngày chờ đợi và khám phá ra thực trạng.
Giuse nghĩ gì ? Chúng ta không thể biết.
Thánh Mat-thêu chỉ nói ngắn gọn: “Giuse là người công chính không nỡ lòng tố cáo Maria (theo luật thời bấy giờ). Nhưng chắc chắn Giuse đã đau khổ đến tột cùng và có lẽ thất vọng não nề. Là người công chính, tức là một người đạo đức giữ luật Chúa nghiêm chỉnh, không bị trách cứ điều gì, con người ngay thẳng hiền lành. Ông đã chọn một giải pháp êm đẹp nhất là bỏ xứ.
Chính lúc đó, vào giờ phút chót, Chúa can thiệp.
Chúng ta nhớ câu chuyện của Ap-ra-ham và Sara. Vào phút chót Chúa đã can thiệp để cứu hai người khỏi bàn tay vua Ai Cập.
Sau khi biết rõ ý Chúa Giuse đã thi hành như lời đã truyền cho ông…
Chúa không bao giờ bỏ rơi những ai thành tâm theo Chúa, và những ai thành tâm cũng không bao giờ thất vọng. Mỗi người chúng ta, trong thân phận nhỏ hèn của mình, cũng có thể là những cộng tác viên của Thiên Chúa. Chúa không chê bỏ một người nào, dù nhỏ hèn đến đâu, cũng có thể cộng tác vào chương trình của Chúa.
Dù “không có gì mà Thiên Chúa không làm được”, dù “Chúa có thể làm cho những hòn đá trở nên con cháu Ap-ra-ham”, Ngài cũng không tự mình làm mọi sự, Ngài muốn chúng ta cộng tác với Ngài.
Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới đang gãy đổ vì tội ác và hận thù bất công… cần có những bàn tay xây dựng… Hãy rót vào trần gian ô nhiễm vì tội lỗi của chúng ta một giọt yêu thương.
Chúa đến trong trần gian, trong thân phận một người nghèo hèn, bị bỏ rơi bị hất hủi, phải nương thân nơi một hang đá. Hãy như Maria, đón nhận Ngài với tất cả tình yêu… Hãy như Giuse, dẫn dắc Maria về hang đá, nghèo nàn nhưng đầy yêu thương .
Chúa cần những người cộng tác đơn thật, không giả dối, những người dám buông bỏ tất cả để trở nên những bàn tay xây dựng tương lai huy hoàng cho thế giới hôm nay: tương lai của tình yêu.
Maria và Giuse nghèo nàn, nhỏ bé, đã mang lại cho thế gian một kho tàng là EMMANUEN.
Chúng ta cũng có thể làm như thế khi chúng ta “ăn lấy tấmbánh tình yêu”, tấm bánh nơi bàn thờ hiến tế và biến tấm bánh ấy thành những tâm tình yêu thương chân thật, qua trái tim nhỏ bé của chúng ta. -------------------------------------
Theo nguồn tin của Tổ Chức Khí Tượng Thế Giới (WMO: World Meteorological Organization) nói MV4-A121
Theo nguồn tin của Tổ Chức Khí Tượng Thế Giới (WMO: World Meteorological Organization) nói hôm Thứ Năm (27/01/2011). Trái đất này đang nóng dần lên, các lớp băng ở Bắc Cực tan thêm và bởi thời tiết cực đoan. Có một số khác lại cho rằng trái đất đang lạnh đi, ngày 06/01/2014 cơn bão Hercules đi qua khu vực phía bắc Mỹ khiến nhiệt độ nơi này xuống thấp kỷ lục trong vòng 20 năm -31 độ C ở Chicago, thậm chí đến -60 độ C tại một số thành phố làm 13 người chết, gần 3.000 chuyến bay bị hủy. Ngày 7/1, 50 bang nước Mỹ đều có nhiệt độ dưới 0 độ C vào một thời điểm. Ngay tại Sapa, Việt Nam có tuyết phủ mấy ngày.
Số khác trung dung hơn, cho rằng nhiệt độ Trái đất đang thay đổi nóng lạnh bất thường và thay đổi đột ngột một cách bất thường, từ mức lạnh gần như thấp nhất chuyển sang mức nóng đỉnh điểm trong chưa đầy 100 năm, khoảng thời gian ngắn nhất trong lịch sử.
Hôm 2/5, các nhà khoa học sử dụng kính thiên văn TRAPPIST tại Chile để theo dõi và phát hiện ra ba hành tinh có kích thước giống Trái Đất quay quanh một ngôi sao lùn ở khoảng cách thích hợp, tạo điều kiện cho sự sống phát triển với hy vọng con người có thể sống được ở đó.
Tóm lại, sự sống trên mặt đất của con người và mọi sinh vật đang bị đe dọa, và người ta đi tìm một hành tinh xanh khác dễ sống hơn.
Về phương diện con người, nạn phá thai đã lến tới mức báo động chưa từng thấy trong lịch sử loài người. Mỗi năm chỉ riêng Việt Nam đã có gần 3 triệu ca phá thai. Có nghĩa là mỗi ngày có khoảng 8 ngàn ca phá thai. Thứ nhất là Sài Gòn, kế đến là Hà Nội, Huế, Cần Thơ... Duy trì sự sống là một yếu tố căn bản cho sự tồn tại của một dân tộc, ấy vậy mà họ đang tiêu hủy sự sống con người.
Con người đã dùng vũ khí sinh học giết người hàng loạt để hủy diệt nhau. Có những chuyện chưa từng nghe thì nay đã thấy, như "Bất hiếu với cha mẹ nơi cửa tử bệnh viện" gây nỗi xót xa, tức giận trong cộng đồng, nghĩa là mẹ ốm có thể chữa được, 4 người con của bà có mặt tại viện (trong số tất cả 8 người con) tranh cãi nhau rồi quyết định mang mẹ về chờ chết (Vnexpress,Thứ ba, 27/8/2013). Hay cả năm người con đồng ý với án tử hình bố. Một vài dẫn chứng cụ thể trên cho thấy Trái đất này, con người ngay nay khó sống và khó yêu quá.
Trái đất và con người đang như thế, nhưng Đức Giêsu con Thiên Chúa đã đến sống cùng chúng ta, như Isaia loan báo: "Này đây, Chúa toàn năng đến: Người sẽ được gọi là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng tôi". Những lời trên đây được lặp lại trong các ngày này, đặc biệt Chúa nhật thứ IV, để khẳng định rằng Trái đất vẫn rất đáng yêu và con người vẫn còn đáng mến. Thiên Chúa đến vì mến địa cầu, Thiên Chúa thương vì tình thương vấn vương khi tạo dựng.
Toàn bộ phụng vụ xoay quanh lời ngôn sứ: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta". (Is 7,14; Mt 1,23). Nếu bài đọc I, ngôn sứ tuyên sấm lời Thiên Chúa hứa: "Sẽ cho các ngươi một dấu: này đây một trinh nữ sẽ thụ thai…" ((Is 7,14), thì lời hứa ấy được thực hiện trong Bài Tin Mừng: Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng Tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai …" Mt 1,23). Câu này tiếp tục lặp lại trong phần alleluia và cả phần Ca hiệp lễ nữa.
Thiên Chúa đến ở cùng chúng ta, vì Ngài vẫn còn tin tưởng chúng ta!... Ngài đến để sống với con người, Ngài chọn cư ngụ trên trái đất để ở lại với con người, để sống tại nơi con người vẫn sống trong niềm vui hay nỗi buồn. Vì thế, Trái đất không còn là ‘thung lũng đầy nước mắt’ nữa mà là nơi Thiên Chúa đến cắm lều, gặp gỡ con người, là nơi Thiên Chúa liên đới với con người.
Thiên Chúa xuống thế làm người vì chúng ta, tất cả chúng ta đều cảm thấy mình được yêu thương và được đón nhận; chúng ta khám phá mình có phẩm vị quý giá và duy nhất trước nhan Ðấng Tạo Hoá.
Ðấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Khi sinh ra trong cảnh khó nghèo tại Bêlem, Chúa Giêsu đã muốn trở thành bạn đồng hành với mỗi người chúng ta. Trên mặt đất này, kể từ khi Người muốn "dựng lều" để cư ngụ, thì không còn ai là kẻ xa lạ nữa. Thật vậy, tất cả chúng ta là những khách lữ hành sống tạm qua trên trần gian này, chính Chúa Giêsu là Ðấng làm cho chúng ta có cảm nghiệm dường như mình đang sống tại nhà mình, trên mặt đất này, nơi được thánh hoá do bởi sự hiện diện của Chúa. Và Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy biến trái đất này trở thành căn nhà đón tiếp tất cả mọi người.
"Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta". (Is 7,14; Mt 1,23). Các Giáo Phụ đã giải thích. Con Thiên Chúa đã trở nên nhỏ bé, đến độ vào được trong máng cỏ. Ngài trở nên trẻ thơ để dạy chúng ta yêu thương những trẻ thơ và những kẻ yếu đuối. Bằng cách thế như vậy, Ngài dạy chúng ta tôn trọng trẻ thơ, những em đang đau khổ và bị lạm dụng trên thế giới, những em đã được sinh ra cũng như những trẻ không được sinh ra. Ngài dạy chúng ta nhìn đến những trẻ bị đưa vào trong thế giới của bạo lực, như làm lính, phải đi ăn xin, phải khổ vì nghèo vì đói, những trẻ em không được hưởng chút tình thương. Chính Thiên Chúa, Ðấng đã trở nên trẻ thơ, mời gọi chúng ta dấn thân, ngõ hầu sức mạnh của tình yêu Chúa chăm sóc cho tất cả các trẻ em này; để phẩm giá của các em được tôn trọng.
Nhưng khi Thiên Chúa chia sẻ thân phận con người của chúng ta, Ngài không hiện diện giữa nhân loại ở một nơi an nhàn lý tưởng, nhưng ở trong thế giới thực này, với bao điều tốt đẹp và xấu xa, với những chia rẽ, sự dữ, nghèo đói, lạm dụng quyền lực và chiến tranh. Ngài chọn tham gia vào lịch sử của chúng ta như lịch sử ấy vốn thế, với tất cả gánh nặng của những giới hạn và bi kịch của nó.... Ngài là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta... trong mọi nỗi khổ đau của lịch sử. Chúa Giêsu được sinh ra là minh chứng cho thấy Thiên Chúa đứng về phía con người, một lần và mãi mãi, để cứu chúng ta và nâng chúng ta lên khỏi bụi bặm của khổ đau, của khó khăn và tội lỗi chúng ta”.
Còn hạnh phúc nào hơn khi có Thiên Chúa ở cùng, ấy là sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta không bị gục ngã dưới sức nặng của khổ nhọc, của tuyệt vọng và buồn phiền... Chúa Giêsu được sinh ra mang đến cho chúng ta tin vui rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng và yêu thương mọi người và từng người trong chúng ta. Amen.
Cuộc sống chung cần niềm tin nơi nhau. Niềm tin sẽ cho nhau hạnh phúc, và sự bình an. Niềm MV4-A122
Cuộc sống chung cần niềm tin nơi nhau. Niềm tin sẽ cho nhau hạnh phúc, và sự bình an. Niềm tin sẽ khích lệ nhau vượt qua khó khăn, vì ở giữa những phong ba bão táp vẫn có người tin tưởng ở bên chúng ta. Nhất là trong đời sống vợ chồng càng cần niềm tin nơi nhau hơn. Vợ chồng không tin nhau sẽ đầy đọa nhau suốt đời. Lấy phải một người đa nghi thì suốt ngày được nghe những bản án vô cớ nơi người bạn của mình.
Có một bà vợ hay ghen một cách vô cớ. Mỗi lần ông chồng đi đâu về là bà đều khám xét kỹ lưỡng trên áo xem có gì lạ không. Ngày thứ nhất bà thấy có 1 sợi tóc quăn trên áo, bà liền phán: hôm nay lại ôm cái con tóc quăn phải không? Ông chồng ậm ừ cho qua. Ngày thứ hai bà khám xét lại thấy một sợi tóc bạc. Ông chồng liền phán đừng nói tôi ôm bà lão nhé, nhưng bà vợ liền phán: Hôm nay tôi đoán chắc ông ôm con tóc bạch kim phải không?. Ông chồng đành chịu thua. Lần thứ ba, bà khám kỹ lưỡng nhưng không có sợi tóc nào dính trên áo ông. Tưởng cho qua, ai dè bà phán một câu xanh rờn: Hôm nay, lại ôm cái con trọc đầu rồi!
Ghen tương là biểu lộ tình yêu, nhưng ghen tương vô cớ sẽ đánh mất tình yêu, đánh mất tự do của người mình yêu. Hai người cần phải biết tin tưởng lẫn nhau, biết cảm thông cho nhau, nhất là biết tôn trọng nhau mới có thể cùng nhau đi qua kiếp người với lòng trung thủy khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan. Nếu không tin nơi nhau sẽ đầy đọa và làm khổ nhau suốt đời.
Thiên Chúa luôn yêu thương con người. Tình yêu của Ngài đôi lúc cũng có những ghen tương. Ngài đòi con người chỉ được yêu một mình Ngài và không có được thờ một thần linh nào khác. Nhưng tình yêu của Ngài không ghen tương mù quáng. Người luôn tin tưởng con người. Ngài luôn tôn trọng con người. Điều Ngài có thể làm để níu kéo con người về với Ngài chính là tình yêu. Ngài đã dùng tình yêu hy sinh, tận hiến cho người mình yêu được sống và sống hạnh phúc. Tình yêu của Ngài luôn bao dung có thể phủ lấp muôn vàn tội lỗi con người, tha thứ và nhẫn nại chờ đợi con người.
Phúc âm hôm nay cho ta thấy tình yêu đầy tin tưởng nơi thánh Giuse. Ngài từng khó hiểu tại sao người bạn đính hôn của mình lại mang thai. Ngài cũng có những giao động đến nỗi định tâm bỏ đi cách kín đáo. Nhưng niềm tin vào Mẹ Maria đã giữ ngài ở lại. Ngài tin Mẹ Maria là người đoan trang thanh khiết. Ngài tin rằng với tính cách của Mẹ Maria sẽ không làm gì trái với lương tâm hay trái với luân thường đạo lý. Trên hết mọi sự chính là niềm tin nơi Thiên Chúa. Thánh Giuse đã tin vào quyền năng của Thiên Chúa. Ngài để cho Thiên Chúa thực hiện ý định của Ngài. Ngài tin vào đường lối của Thiên Chúa luôn tốt nhất cho từng người. Ngài đã để thánh ý Chúa thực hiện theo như chương trình đã định.
Chính niềm tin vào Thiên Chúa và sự tin tưởng nơi người bạn đính hôn, thánh Giuse đã đón nhận Mẹ về nhà mình. Không có niềm tin tuyệt đối thì làm sao có một mái ấm gia đình Nagiaret? Không có niềm tin nơi nhau làm sao thánh Giuse có thể có thể nhận làm cha nuôi của Chúa Giêsu?
Cuộc sống sẽ tốt hơn nếu con người dám tin nơi nhau. Niềm tin sẽ giúp nhau bỏ qua những nghi kỵ, hiểu lầm, những toan tính để sống chia sẻ với nhau. Niềm tin cũng có nghĩa là phó thác trọn vẹn. Khi vợ chồng tin cậy nhau sẽ phó thác cả cuộc đời mình cho nhau. Vui buồn, sướng khổ cùng chia sẻ ngọt bùi với nhau. Lòng tin cũng được bày tỏ bằng sự cảm thông và chấp nhận nhau. Cuộc sống nếu tin nhau sẽ không còn phê phán hay lên án nhau. Cuộc sống nếu tin nhau sẽ giúp gia đình hòa hợp, yên vui và hạnh phúc bên nhau.
Ước gì các đôi hôn phối biết tìm được niềm vui hạnh phúc bên nhau khi biết tin tưởng nơi nhau, khi biết sống bao dung đón nhận nhau hầu xâu dựng một mái nhà rộn ràng niềm vui và hạnh phúc. Amen.
Dường như theo cách nghĩ thông thường của con người thì ai càng yếu đuối thì càng cần nhiều MV4-A123
Dường như theo cách nghĩ thông thường của con người thì ai càng yếu đuối thì càng cần nhiều đến sự giúp đỡ của người khác. Thiên Chúa chúng ta là Đấng Toàn Năng quyền phép vô cùng nhưng Người vẫn cần nhờ đến sự cộng tác của con người là thụ tạo của mình. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho thấy Thiên Chúa mời gọi hai con người cộng tác đặc biệt vào chương trình cứu độ loài người.
"Này đây một thiếu nữ sẽ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en" (Is 7, 14) Đây là lời loan báo của tiên tri Isaia ở cuối Bài đọc I cho biết Thiên Chúa đã có dự định từ lâu về chương trình cứu độ loài người. Đến giờ đã định Người đã sai thiên sứ Gapriel đến mời gọi Đức Maria cộng tác bằng cách cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Đấng Cứu Thế Giêsu.
Cũng vậy, trong đoạn Tin mừng hôm nay Thiên Chúa tiếp tục cho thiên sứ đến mời gọi Giuse: "Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần". (Mt 1, 20b). Thiên Chúa mời gọi Giuse làm cha Đấng Cứu Thế Giêsu cho hợp với luật pháp dân sự.
Với lời thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền" (Lc 1, 38) Đức Maria đã thật sự đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa. Còn Giuse thì: "Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà." (Mt 1, 24). Cả hai Đấng đã đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa một cách vui vẻ. Với sự đón nhận ấy trước mắt họ chẳng có ích lợi gì cho bản thân mình. Một trinh nữ mà phải mang thai khi chưa hề biết đến chuyện vợ chồng. Một thanh niên phải đón nhận Maria về để chăm sóc và phụ với nàng nuôi dưỡng đứa con không phải của mình.
Dầu vậy, nhờ đó Đấng Cứu Thế được sinh ra đến trong thế gian này . Người được sinh ra và lớn lên trong một gia đình có đầy đủ cha mẹ như bao trẻ thơ khác.
Thánh Augustinô đã có lần nói: "Để sinh ra con Nguời không hỏi ý kiến con nhưng để cứu chuộc con Nguời phải hỏi ý kiến con". Như vậy, Thiên Chúa đã hoàn tất chương trình cứu độ của Người nơi Đấng Cứu Thế Giêsu. Tuy nhiên Thiên Chúa vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta tùy theo cương vị và bậc sống cộng tác với Người trong việc cứu độ chính mình và anh chị em. Chúng ta hãy noi gương Đức Maria và Thánh Giuse đón nhận Chúa Giêsu vào cuộc đời mình. Khi có Chúa Giêsu ở cùng thì dù có khó khăn mấy chúng ta vẫn có thể cộng tác tốt với Chúa.
Lễ Giáng sinh đã gần đến, hẳn là chúng ta đã bắt đầu những trang trí bên ngoài như làm hang đá MV4-A124
Lễ Giáng sinh đã gần đến, hẳn là chúng ta đã bắt đầu những trang trí bên ngoài như làm hang đá, làm máng cò, làm đèn ngôi sao. Thế nhưng chúng ta đã thực sự chuẩn bị tâm hồn hay chưa? Chúng ta đã lo liệu để lễ Giáng sinh không còn là một lễ trần tục, nhưng là một dịp để chúng ta và những người thân yêu tìm gặp Chúa, lớn lên về phương diện đạo đức để nhờ đó phục vụ Chúa một cách quảng đại hơn, như chính Chúa đã trở nên một hài nhi bé nhỏ để cứu độ chúng ta và lôi kéo chúng ta đến với Ngài. Thiên Chúa bước xuống phận con người, để con người tiến lên ngôi Thiên Chúa.
Chúa Giêsu luôn muốn chúng ta được hưởng một niềm hạnh phúc chân thật ngay từ cuộc sống trần gian này. Niềm hạnh phúc ấy lệ thuộc nơi mỗi người chúng ta. Do đó, chúng ta cần phải sống trong tình thương của Chúa. Bởi vì chính Chúa Giêsu đã nói: “Ai yêu Ta thì giữ lời ta. Cha ta sẽ yêu thương nó và Chúng Ta sẽ đến và ở trong nó. Hai chữ “Chúng Ta” ở đây có ý muốn nói đến Ba Ngôi Thiên Chúa sẽ biến tâm hồn những người sống trong tình thương và ơn sủng của Chúa trở nên như một đền thờ sống động.
Dostoievsky, một văn hào người Nga, đã viết: Cuộc sống là một thiên đàng, bởi vì tôi có thiên đàng ngay trong chính tâm hồn tôi. Cùng một chiều hướng ấy, thánh nữ Elisabeth đã quả quyết: Tôi tìm thấy nước trời ngay trên mặt đất này. Bởi vì nước trời là gì nếu không phải là chính Thiên Chúa. Nơi nào có Thiên Chúa, nơi đó có nước trời . Mà Thiên Chúa thì đang ngự trong tâm hồn tôi, cho nên chính tâm hồn tôi cũng là thiên đàng, cũng là nước trời. Ý tưởng Thiên Chúa ngự trong tâm hồn chúng ta là một ý tưởng vừa đơn sơ, nhưng lại vừa thâm sâu mà đôi khi cả những người ngoại đạo cũng cảm nghiệm được. Tôi xin đưa ra trường hợp của Gandhi, một vị thánh sống, một đấng anh hùng của dân tộc Ấn độ. Ông nói: Một người chỉ là người, không phải vì đã có hai tay và hai chânm nhưng vì đã trở nên một nhà tạm cho Thiên Chúa.
Thế nhưng Chúa Giêsu, con Thiên Chúa đã xuống thế làm người để đem lại cho chúng ta sự vui mừng và bình an nếu như chúng ta là những người thiện chí. Hàng trăm năm về trước, các tiên tri đã loan báo điều đó. Isaia đã long trọng công bố cho vua Achaz để củng cố niềm tin vào Chúa nơi ông như sau: Này đây, một trinh nữ sẹ thụ thai, sinh hạmột con trai và tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Trong cơn bối rối, Thánh Giuse có ý định lìa bỏ Mẹ Maria một cách kín đáo, nhưng thiên thần đã hiện ra cùng ông trong giấc mơ và bảo: Maria mang thai là bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, bà sẽ sinh hạ một contrai và ông sẽ đặt tên cho là Giêsu, vì chính Ngài sẽ cứu dân mình khỏi tội. Rồi thánh Matthêu đã kết luận: Tất cả những sự kiện này được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng tiên tri mà phán, như chúng ta đã thấy ở trên.
Thánh Gioan cũng xác quyết: Không phải chúng ta đã yêu thương Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta và đã phái Con Một Ngài đến với chúng ta. Màu nhiệm tình yêu này có thể chúng ta đã được nghe nói đến qúa nhiều, nên chúng ta tỏ ra thờ ơ lạnh nhạt.
Bởi đó, chúng ta hãyxin Chúa hâm nóng lại tình yêu của chúng ta, để chúng ta không còn là những kẻ vô ơn tệ bạc. Tình yêu của Thiên Chúa đòi chúng ta phải đáp trả băng chính tình yêu. Một tình yêu chân thanh và mạnh mẽ. Một tình yêu biết khử trừ tội lỗi, để biến tâm hồn minh trở thành một hang đá máng cỏ sống động cho Chúa ngự trị.
Vậy chúng ta đã lam được những gì để đón mừng Chúa đến? Chúng ta đã làm được những gì để thực sự trở nên những Kitô hữu, nghĩa là những người thực sự có Đức Kitô trong tâm hồn và mang Đức Kitô đến cho những người chung quanh.
Lạy Chúa, lễ Giáng sinh một lần nữa sắp trở lai, xin cho mỗi người chúng con biết khử trừ tội lỗi để biến tâm hồn trở thành một máng cỏ cho Chúa, cũng như biết chấp nhận những vất vả, khổ đau, buồn phiền vì lòng yêu mến Chúa vì mỗi hy sinh sẽ là một cọng cỏ khô để sưởi ấm cho Chúa.
“Lạy Chúa, con đã để cho mình bị lừa dối; bằng ngàn cách con đã chạy trốn tình yêu Chúa, ..."
Lạy Chúa, con đã để cho mình bị lừa dối; bằng ngàn cách con đã chạy trốn tình yêu Chúa, nhưng MV4-A125
“Lạy Chúa, con đã để cho mình bị lừa dối; bằng ngàn cách con đã chạy trốn tình yêu Chúa, nhưng con đang ở đây một lần nữa để lập lại giao ước của con với Chúa. Con cần Chúa.
Xin Chúa chuộc con lại một lần nữa.
Lạy Chúa, xin một lần nữa đón nhận con trong vòng tay cứu độ của Chúa”
(Trích từ Niềm vui Tin Mừng số 03).
BẢY BƯỚC CẦU NGUYỆN
(15 phút mỗi buổi sáng, và 15 phút trước khi nghỉ đêm).
Buổi sáng
1. Mở đầu với Kinh Sáng Soi: Cúi xin Chúa sáng soi cho chúng con được biết việc phải làm, cùng khi làm xin Chúa giúp đỡ cho mỗi kinh mỗi việc chúng con, từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen.
2. Thinh lặng cầu xin ơn Chúa Thánh Thần.
3. Đọc chậm rãi lời của Đức Thánh Cha và lời gợi ý.
4. Thinh lặng suy niệm và rút ra một lời một ý tưởng để sống trong ngày. Tâm sự với Chúa để kết thúc phần suy niệm buổi sáng.
Buổi tối.
1. Cuối ngày trước khi đi ngủ dành 10 phút để nhìn lại: Bài cầu nguyện hôm nay đã đi với tôi và đã giúp tôi như thế nào? Tôi có khó khăn gì trong cầu nguyện? Có thể tôi chưa thấy bài cầu nguyện giúp tôi trong ngày sống. Nếu vậy thì tại sao? Tôi có chú tâm và ý thức đủ để “dành một chỗ” cho bài cầu nguyện ở trong lòng tôi và trong ngày sống của tôi chưa?
2. Viết lại một vài hàng (tối đa nửa trang A4) về hoa quả mà tôi nhận được trong ngày sống cầu nguyện hôm nay.
3. Cám Ơn Chúa về những hồng ân trong ngày, và xin Chúa thứ lỗi về những yếu đuối. Xin Chúa ban thêm sức mạnh và bình an để nghỉ đêm và bắt đầu ngày sống mới.
Chúa nhật thứ III Mùa Vọng năm A
Lời của Đức Thánh Cha Phanxico:
Lúc khởi đầu Mẹ Maria chưa biết con đường của Mẹ sẽ dẫn tới đâu, và Mẹ sẽ phải chịu những đau khổ nào, cũng như những nguy hiểm gì mà Mẹ sẽ đối diện. Nhưng Mẹ luôn ý thức rằng, chính Thiên Chúa là người nhìn đến Mẹ, và Mẹ thật sự tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa. Mẹ hiện diện hoàn toàn trong tình yêu của Thiên Chúa.
Mẹ Maria thực sự có một niềm tin mạnh mẽ. Mẹ dạy dỗ chúng ta biết nhận ra khoảnh khắc mà Chúa Giêsu đến trong lòng của chúng ta và Ngài xin chúng ta một câu trả lời thành tâm và quảng đại.
Lời gợi ý:
- Theo tâm tình của Đức Thánh Cha, Mẹ Maria bước đi trên con đường theo Chúa với niềm tin tưởng mạnh mẽ vào Thiên Chúa. Nhìn lại bản thân, bạn thấy niềm tin của bạn mạnh mẽ như thế nào? Trong những sự kiện hay biến cố tế nhị trong cuộc đời, bạn đã tin tưởng và phó thác cho Chúa ra sao?
- “Mẹ dạy dỗ chúng ta biết nhận ra khoảnh khắc mà Chúa Giêsu đến trong lòng của chúng ta và Ngài xin chúng ta một câu trả lời thành tâm và quảng đại”. Đọc đi đọc lại lời này, suy xét xem bạn nên trả lời Chúa Giêsu như thế nào, khi Ngài nhẹ nhàng đi vào cuộc đời và tâm hồn bạn?
- “Alleluia, alleluia! – Này đây trinh nữ sẽ mang thai, hạ sinh một con trai, và người ta sẽ gọi tên Người là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng ta. – Alleluia”. Bạn hãy để lời ca ngợi – Alleluia này đi với bạn trong ngày sống. Lâu lâu bạn dừng bước và nhủ thầm với chính bạn rằng: “Thiên Chúa ở cùng tôi – Emmanuel”.
Bài tập trong tuần (05 phút): ĐỂ TÂM LẮNG NGHE.
Ngồi lại trong thinh lặng. Chú ý đến hơi thở của bạn cách đều đặn. Từ từ bạn hãy chú ý lắng nghe. Trước hết bạn hãy để những âm thanh gần nhất đến với bạn. Hãy nghe những âm thanh đó, đừng vội xác định chúng là âm thành gì. Sau đó, lắng nghe các âm thanh xa hơn. Cuối cùng bạn để tất cả mọi âm thanh xung quạnh bạn được phép “nhảy múa” cách sống động trong đôi tai và trái tim của bạn. Mỗi ngày bạn có thể đổi một nơi chốn khác để tập bài này. (dongten.net)
Tiên tri Isaia, thánh Gioan tẩy giả, Mẹ Maria và thánh Giuse là những người có một vai trò quan MV4-A126
Tiên tri Isaia, thánh Gioan tẩy giả, Mẹ Maria và thánh Giuse là những người có một vai trò quan trọng trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Nhưng nếu ông Isaia là vị tiên tri hùng hồn nhất của mùa vọng, nếu ông Gioan là vị tiền hô anh dũng nhất của mùa vọng, nếu Đức Maria là một thiếu nữ có lòng tin vững chắc và mạo hiểm nhất của mùa vọng thì thánh Giuse lại là một thanh niên thầm lặng nhất của mùa vọng. Người bạn gái của thánh Giuse đã quả cảm thưa lên lời Xin Vâng khi nhận ra thánh ý của Thiên Chúa. Thánh Giuse, dù không thưa lời nào, nhưng đã thi hành triệt để và tức khắc những điều Chúa truyền, dù những lệnh truyền ấy chỉ được ban trong giấc mơ, dù những lệnh truyền ấy trái ngược với những tính toán của người. Người đã cúi đầu vâng phục, không một lời căn vặn, không thắc mắc, không đặt điều kiện. Người hoàn toàn chấp nhận ý Chúa, chấp nhận cả những hệ lụy đắng cay mà ý Chúa đem lại.
. Người chấp nhận đón cô bạn Maria về nhà làm bạn mình, dù người đang định tâm lìa bỏ cô bạn ấy một cách kín đáo.
. Người đã chấp nhận rời bỏ quê hương ra đi lánh nạn để bảo vệ Hài nhi con của cô bạn Maria.
. Rồi cũng vì Hài nhi ấy, người lại lặn lội đường xa vạn dặm để đưa cô bạn và Hài nhi trở về quê hương…
Biết bao là nhọc nhằn. Biết bao nhiêu truân chuyên mà anh gia trưởng trẻ này phải chịu đựng để thánh ý Chúa được nên tròn và để kế hoạch của Thiên Chúa được thực hiện như lời Tin mừng đã viết:”Tất cả những sự việc này đã xảy ra là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa đã phán qua miệng ngôn sứ”.
Thiên Chúa vẫn luôn bày tỏ thánh ý Người qua những biến cố trong đời sống của chúng ta. Và thánh ý đó nhiều khi cũng phá vỡ những dự tính, những chương trình của chúng ta để đưa chúng ta vào kế hoạch của Người, kế hoạch mà chẳng ai hiểu được nó sẽ dẫn mình đi đến đâu. Muốn đón nhận thánh ý và kế hoạch của Thiên Chúa, đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ ý riêng mình, phải vượt qua những tính toán nhân loại của mình để bước vào một tương lai mà chúng ta chẳng biết sẽ ra sao. Cũng có những lúc chúng ta nghĩ rằng mình sẵn sàng đón nhận ý Chúa, nhưng khi Thiên Chúa ngỏ lời với chúng ta qua những biến cố mang hình thức của một tai ương thì chúng ta lại tìm cách né tránh.
Thánh Giuse không khi nào phản ứng như chúng ta. Người đã chấp nhận để cho Thiên Chúa đảo lộn kế hoạch của người và người sẵn sàng buông mình theo sự dẫn dắt của Thiên Chúa. Chính như thế đó mà người trở thành một gương sáng cho chúng ta. Thái độ tín thác và vâng phục của người cũng giúp chúng ta chuẩn bị mừng lễ Chúa Giáng sinh một cách có ý nghĩa hơn. Chúng ta không chỉ vui mừng vì con Thiên Chúa giáng sinh làm người và ở giữa chúng ta. Nhưng chúng ta cũng cần phải vui mừng vì chính con Thiên Chúa đã và đang can thiệp vào cuộc đời của từng người. Người ngỏ lời và mời gọi mỗi người qua từng biến cố của đời sống dù đó là biến cố vui mừng hay đó là một tai họa đè bẹp cuộc đời ta.
Quả thực, chúng ta rất dễ dàng thưa xin vâng trước thánh ý Thiên Chúa, nếu như thánh ý đó mang lại lợi lộc và niềm vui cho chúng ta. Trái lại, quả là điều khó khi phải chấp nhận thánh ý Thiên Chúa, nếu thánh ý đó gây ra những phiền lụy và thua thiệt cho cuộc đời. Nhưng nếu vâng phục ý Chúa mà đòi phải được vinh quang và lợi lộc thì đó không phải là sự vâng phục chân thành.
Cuộc sống luôn có những ngăn trở. Ngăn trở do chính mình gây nên cũng lắm mà do hoàn cảnh MV4-A127
Cuộc sống luôn có những ngăn trở. Ngăn trở do chính mình gây nên cũng lắm mà do hoàn cảnh dẫn đến cùng nhiều. Ngăn trở rõ ràng nhất là những giấc mơ trong đời. Người nào cũng có những giấc mơ ước mong hoàn thành và những giấc mơ cho tương lai dài. Có những giấc mơ đến rồi qua đi rồi lại thêu dệt giấc mơ khác rồi lại để chúng qua đi rồi lại thêu dệt giấc mơ mới đến nỗi thân hữu cho là người sống tron mơ. Lí do không thực hiện được giấc mơ vì họ không thực hành điều mơ ước. Lại cũng có người thực hiện giấc mơ nửa chừng rồi chán nản, thất vọng để giấc mơ tan vào dĩ vãng. Một ít thực hiện giấc mơ cách tốt đẹp và hưởng thành quả tốt đẹp của điều hằng mơ ước.
Lịch sử Ơn Cứu Độ cũng có một số ít nhân tuyển vui lòng chấp nhận thay đổi giấc mơ cá nhân mình để thực hiện ý định chung của Thiên Chúa. Họ chấp nhận từ bỏ giấc mơ cá nhân và thay vào đó là thực hiện sứ vụ thiên quốc với mục đích rõ ràng. Mục đích đó là cộng tác vào công trình cứu độ của Đấng Cứu Thế. Người đầu tiên chúng ta biết đến đó là Đức Trinh Nữ Maria, Đấng khấn sống trọn đời khiết trinh nhưng theo ý Chúa qua ngôn sứ Đức Trinh Nữ chấp nhận làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Sau khi thưa hai tiến xin vâng cuộc sống trinh nữ của Mẹ hoàn toàn thay đổi. Người khác nữa là hai mẹ con là thánh nữ Elizbeth và thánh Gioan Tẩy Giả. Như bao nhiêu người mẹ khác luôn có những ước mơ riêng cho con mình nhưng thánh nữ vui lòng chấp nhận để con mình trở thành người mở đường cho Chúa Cứu Thế, sống trong hoang địa, mặc áo da thú và ăn châu chấu trộn mật ong. Người nữa cũng hoàn toàn thay đổi giấc mơ riêng để làm theo lời sứ thần là thánh Giuse. Phúc âm không ghi lại thánh Giuse có giấc mơ riêng gì nhưng qua trao đổi giữa thánh nhân và sứ thần thánh Giuse đã chấp nhận cưới cô Maria làm người bạn đường. Dù chấp nhận làm công việc đó nhưng thánh nhân trong hoàn cảnh sống cũng cảm thấy khó có thể thực hiện điều đã hứa. Sau nhiềm đêm mất ngủ, suy nghĩ chín chắn thánh Giuse đã định li dị cô Maria một cách kín đáo. Ý riêng đã quyết nhưng thánh nhân cảm thấy tâm hồn mất bình an. Âm thầm liên tục cầu nguyện tìm rõ ý Chúa và sứ thần Chúa đến với thánh nhân qua những giấc mơ hướng dẫn đừng ngại tiếp tục lời đã hứa. Là người khôn ngoan tin vào lời cầu nguyện cộng thêm tính cẩn trọng không vội thi hành ý riêng, thánh nhân thực hành lời sứ thần hướng dẫn trong giấc mơ và tìm lại bình an nội tâm. Chính bình an nội tâm là dấu chỉ rõ ràng giúp thánh nhân giữ trọn điều thề hứa thi hành thánh ý Chúa đến cùng.
Nhiều người trong chúng ta cũng thi hành thánh ý Chúa trong cuộc sống. Thánh ý Chúa một cách chung cho tất cả mọi người là sống làm chứng nhân cho Chúa giũa đời và loan báo Tin Mừng cho toàn thể nhân loại. Ngoài thánh ý chung ra mỗi cá nhân thường gặp khó khăn khi phải tìm hiểu thánh ý riêng cho cá nhân mình. Điều rõ ràng là hầu như ai cũng có kinh nghiệm khi sống đời sống đạo chúng ta luôn có những lúc tự tin, cảm thấy con đường mình đang đi là con đường Chúa mời gọi chúng ta đi; khi khó khăn đến chúng ta lại cảm thấy con đường mình đang đi là con đường sai, con đường dẫn đến ngõ cụt. Đây chính là kinh nghiệm của Thánh Giuse khi chấp nhận là cha nuôi Đấng Cứu Thế. Khi gặp hoàn cảnh khó khăn, ơn gọi trong đời sống bị ngăn trở hãy học hỏi từ thánh Giuse, đừng vội vã, hấp tấp đi đến quyết định dứt khoát nhưng khôn ngoan, cẩn trọng và tin vào những kinh nguyện âm thầm trong đêm, tìm bình an cho tâm hồn nhất là bình an sau khi đã có giải đáp cho vấn đề. Lắng nghe tiếng nói nhẹ nhành trong đêm tối sẽ nhận ra ánh sáng của Lời Chúa.
Trong nhiều trường hợp bệnh tật và điều kiện xã hội ngăn cản ta thi hành ý Chúa trong đời. Nhiều người muốn theo đời sống ơn gọi tu trì nhưng nếu sống trong xã hội người lãnh đạo không có thiện cảm với Thiên Chúa giáo thì ơn gọi đó thường bị ngăn cản. Sức ép của bạn bè và thiếu khuyến khích từ gia đình cũng là những cản trở cho việc thực hiện ơn gọi tu trì. Điều quan trọng cần nhớ là một khi con đường ta đang đi gặp ngõ cụt đừng quá chán nản, đầu hàng bởi nếu con dường này cụt sẽ có một con đường gần đó là con đường dẫn đến nơi tốt lành, có thể là nơi ta không muốn đến nhưng ý Chúa nhiệm mầu, hiểu sao thấu. Tỉnh táo, cẩn trọng và kiên nhẫn tìm kiếm sẽ gặp được con đường mới dẫn đến đích Chúa mời gọi. Kẻ thất bại là kẻ đầu hàng. Học từ thánh Giuse, kiên tâm bền chí dẫn đến thành công.
Khi lớn lên nhận biết trước khi mình được sinh ra thì cha mẹ đã không muốn thấy mặt mình là MV4-A128
Khi lớn lên nhận biết trước khi mình được sinh ra thì cha mẹ đã không muốn thấy mặt mình là một nỗi sầu lớn trong đời. Cha mẹ có thể vì áp lực xã hội, phong tục địa phương không dám nhận em bé sinh ra ngoài hôn nhân. Dù lí luận thế nào đi nữa cũng không thể thay đổi được thực tế phũ phàng của việc từ bỏ đứa con chưa ra đời. Đứa nhỏ là một bào thai, vô tội, chưa từng gây điều trái trở thành nạn nhân của xã hội đương thời hoặc nạn nhân của ý riêng. Đức Kitô là đứa trẻ bị chối bỏ trước khi sinh ra nhưng Ngài lớn lên mà không hề mang mặc cảm, không hằn thù, tự ti, mặc cảm, cũng chẳn hề nửa lời trách cha mẹ mình.
Phúc Âm tường thuật trước khi về chung sống với nhau cậu Giuse biết cô Maria đã có thai nên cậu âm thầm định từ hôn một cách kín đáo. ý định từ hôn vì sợ tiếng đời và sợ liên luỵ đến an nguy của cô Maria và bào thai trong cô Mat 1,19.
Về phần cô Maria cũng không hơn gì. Sứ thần đến báo tin cho biết cô sẽ mang thai và sẽ sanh một bé trai. Để chuẩn bị đưa tin sứ thần đã chuẩn bị tâm tình cô thông báo
‘Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở củng bà’ Lc 1,28
Sau đó sứ thần loan tin. Bằng đó câu khuyến khích chúc mừng giúp cô Maria bớt lo lắng bồn chồn khi nhận tin cô sẽ thụ thai. Cô Maria bối rối, lo lắng nhưng vẫn muốn hỏi cho rõ: việc đó xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng Lc 1,34. Mặc dù không hề có chữ nào nói là cô Maria không muốn có con nhưng thái độ của cô Maria cho thấy cô không sẵn sàng đón nhận em bé đó.
Từ chối đón nhận tin vui Đấng Cứu Thế sinh ra cách đây hai ngàn năm dường như được lập đi, lập lại nhiều lần trong lịch sử cứu độ. Mỗi một thế hệ người sinh ra lại có người chấp nhận tin vui và cũng có người từ chối tin vui. Người ta mong đợi Đấng Cứu Thế đến nhưng khi Ngài đến người ta từ chối đón nhận. Người ta đi tìm ánh sáng chân lí nhưng khi ánh sáng đó lan tràn người ta lại chạy núp trong bóng tôi, ưa bóng tối hơn ánh sáng chân lí. Người ta khát khao tình yêu chân thật từ Thượng đế nhưng khi tình yêu đó đến người ta làm ngơ tình yêu từ thiên giới và chờn vờn với tình yêu tạo vật. Người ta đi tìm sự sống nhưng khi sự sống trường sinh đến người ta lại đóng đinh sự sống đó.
Thiên Chúa đến trong thế gian một cách bình thường đến độ con người làm ngơ, coi việc Ngài đến như là sự sống bình thường của một con người bình thường. Có lẽ còn đơn sơ, hèn mọn hơn cuộc sống của một con người bình thường. Sinh ra nơi đồng hoang, trong cảnh nghèo, giữa kẻ ăn không đủ no, mặc không đủ ấm. Ngài đến rao giảng tin vui nhưng kẻ đón nhận, người từ chối, chê bai. Ngài đến không kèn, trống. Có tiền hô, hộ ủng đấy. Tiền hô là một chàng trai trẻ, mặc áo lạc đà, ăn châu chấu, uống nước sông. Hậu ủng là nhóm mươi người lang thang, thất thế, không nhà cửa. Đường lối Thiên Chúa khác hẳn đường lối xã hội. Con đường Ngài đi là con đường tình yêu mà tình yêu chân chính gắn liền với khiêm nhu, đơn sơ và khó nghèo. Ba đặc điểm trên thể hiện ngày Sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Ba đặc điểm trên cũng thể hiện ngày Ngài tử nạn trên thập tự. Trên đồi Calvê có bạo động, có tiếng búa chói tai, có hò hét, la ó. Ai gây ra tiếng đó thưa là những nhà lãnh đạo trong dân. Thưa là đám lí hình hành hung người tù và cuối cùng là tiếng của đám đông chứng kiến. Đấng Cứu Thế im lìm đón nhận tất cả vì tình yêu Ngài dành cho nhân loại.
Cậu Giuse và cô Maria đón nhận Đấng Cứu Thế do sự can thiệp kì diệu của Thiên Chúa. Mùa Giáng Sinh chúng ta xin ơn bình an và ơn cam đảm đón Chúa tái sinh trong cõi lòng mỗi người.
Chẳng lẽ Thiên Chúa nhập thể là thực hiện một việc hoàn toàn sai lầm, bất khôn và thất sách, gây MV4-A129
Chẳng lẽ Thiên Chúa nhập thể là thực hiện một việc hoàn toàn sai lầm, bất khôn và thất sách, gây hại hơn là tác lợi hay sao?
Hôm nay, Chúa Nhật IV Mùa Vọng, Phụng Vụ Lời Chúa bao gồm 2 Bài Đọc 1 và 2 cùng với bài Đáp Ca và bài Phúc Âm như mọi Chúa Nhật khác trong phụng niên. Tuy nhiên, vì Chúa Nhật IV Mùa Vọng thường rơi vào một ngày trong Tuần Bát Nhật tiền Giáng Sinh, từ ngày 17 đến đêm vọng Giáng Sinh 24/12, nên Chúa Nhật IV Mùa Vọng năm 2016 là ngày 18/12, tức ngày thứ hai trong Tuần Bát Nhật tiền Giáng Sinh. Ngoài ra, chu kỳ phụng niên từ Mùa Vọng năm 2016 thuộc về chu kỳ phụng niên Năm A, năm theo Phúc Âm Thánh ký Mathêu, bởi thế, bài Phúc Âm theo Thánh mathêu cũng chính là bài Phúc Âm cho ngày 18/12, chỉ có Bài Đọc 1 và 2 cùng bài Đáp Ca là khác.
Đúng thế, bài Phúc Âm Chúa Nhật IV Mùa Vọng Năm A cũng chính là bài cho ngày 18/12 trong Tuần Bát Nhật tiền Giáng Sinh hôm nay tiếp ngay sau bài Phúc Âm cho ngày 17/12. Vì bài Phúc Âm 17/12 ghi lại gia phả của Đấng Thiên Sai Cứu Thế, từ tổ phụ Abraham tới dưỡng phụ Giuse của Người, và hôm nay về chính vị dưỡng phụ Giuse này.
"Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của Bà là người công chính, không muốn tố cáo Bà, định tâm lìa bỏ Bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thiên thần Chúa hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: 'Hỡi Giuse, con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần: Bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội'".
Theo gia phả của Đấng Thiên Sai, như chúng ta đã thấy, trong 5 người phụ nữ được liệt kê, có đến 3 người không trong sạch liên quan đến chuyện xác thịt: 1 con điếm dân ngoại và 2 người vợ ngoại tình, còn 1 người nữa là dân ngoại cũng kể như không trong sạch trước mắt dân Do Thái. Trường hợp của người đàn bà thứ năm là Maria, theo con mắt tự nhiên nói chung, nhất là trước con mắt của người chồng đã đính hôn của nàng là Giuse vốn là một "con người công chính" thì kể như nàng thậm chí còn tệ hơn nữa, vì nàng là người vợ chưa cưới nhưng đã "chửa hoang"!
Chính trong trường hợp này, trường hợp thật sự là bất khả chấp trước con mắt thế gian nói chung và những ai "công chính" nói riêng, như người chồng chưa cưới Giuse của nàng Maria, một con người luôn hết mình coi trọng và hết sức tuân giữ lề luật của Chúa với lương tâm chân chính, thì nàng Maria, đáng lẽ theo luật, cần phải bị tố cáo và bị ném đá chết, như trường hợp của người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình ở Phúc Âm Thánh Gioan (xem 8:1-11).
Thế nhưng, Thiên Chúa là Đấng vô cùng khôn ngoan thượng trí đã cố ý muốn, (chứ không phải làm ngơ để xẩy ra như vậy), câu chuyện tình duyên của hai con người phải nói là thánh thiện nhất loài người được Ngài liên kết trong tình nghĩa vợ chồng đây xẩy ra một cách vô cùng oái oăm oan nghiệt như vậy. Để làm gì? Phải chăng chỉ để khách quan cho thấy rằng: Đấy nhé, Đấng Thiên Sai là Con của Ngài được Ngài sai xuống trần gian hoàn toàn được "thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần", chứ "không phải bởi huyết nhục, bởi ý muốn nhục dục, hay bởi ý muốn của nam nhân" (Gioan 1:13).
Ở đây, ngay trong trường hợp này, chúng ta đã thấy được bóng thánh giá của Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần, ở chỗ, vừa mới được thụ thai được ít lâu, khoảng hơn 3 tháng, tức sau biến cố thai mẫu của Người đi thăm viếng người chị họ Isave về (xem Luca 1:56), đã bị coi như là một đứa "con hoang" trước mắt trần gian, cùng với người mẹ đồng công của Người, cũng bị coi như là một người vợ chưa cưới "chửa hoang" theo cảm nghĩ của người đời.
Thế nhưng, chính vì là việc của Thiên Chúa, mà cho dù nàng Maria có linh cảm được cái nguy hiểm gây ra bởi những bất hạnh theo luật có thể xẩy ra cho nàng, vì trong thời gian đính hôn, có những lúc nàng không thể nào tránh né được chuyện gặp mặt vị hôn phu chưa cưới của nàng, nàng vẫn nhất định không hề đính chính hay tự vệ tí nào, trái lại vẫn tiếp tục hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, như nàng đã tin tưởng đến độ vô cùng liều lĩnh khi đáp lời truyền tin của thiên sứ Gabiên trong việc chấp nhận thụ thai "Con Đấng Tối Cao... Con Thiên Chúa" (Luca 1:32,35).
Quả thật, vì là việc của Thiên Chúa, nên chính Ngài đã ra tay can thiệp cho Con của Ngài cũng là cho người nữ đã được Ngài tuyển chọn từ đời đời làm người mẹ trinh nguyên thụ thai, cưu mang và hạ sinh Con của Ngài trên trần gian, như được bài Phúc Âm hôm nay thuật lại.
Việc Thiên Chúa can thiệp đây đồng thời cũng là việc Thiên Chúa muốn cứu cả vị hôn phu chưa cưới của người mẹ đồng công và là vị dưỡng phụ tương lai của người con cứu chuộc này, một con người công chính đã có một quyết định, theo chủ quan, thật là bác ái yêu thương, mặc dù, theo khách quan, vẫn có thể nguy hại cho người vợ chưa cưới của ngài, ở chỗ, khi nàng sinh con mà lại không thấy chồng nàng đâu, nàng cũng bị ném đá chết thôi.
Và như thế, tất cả những gì được tiên báo về hai mẹ con được Thiên Chúa ngay từ ban đầu đã tiền định cùng nhau mang lại Ơn Cứu Độ cho trần gian (xem Khởi Nguyên 3:15) hoàn toàn được ứng nghiệm, chẳng những nhờ lòng tin của người mẹ mà còn nhờ đức công chính theo tinh thần bác ái yêu thương hơn là duy luật của vị dưỡng phụ nữa, một cặp vợ chồng thật lý tưởng của Con Thiên Chúa làm người, như được Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại:
"Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng: 'Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta'. Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền: Ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu".
Biến cố và sự kiện Đấng Thiên Sai Cứu Thế xuất hiện trên trần gian này không thể nào không xẩy ra, đúng như lời Thiên Chúa đã hứa với hai nguyên tổ ngay sau nguyên tội (xem Khởi Nguyên 3:15). Bởi thế, không có gì có thể gây trở ngại hay làm hỏng chuyện này, như trường hợp được Phúc Âm hôm nay ghi lại ở phần đầu.
"Lời tiên tri phán xưa", được Thánh ký Mathêu là tác giả Phúc Âm thứ nhất viết cho dân Do Thái nên bao giờ ngài cũng dẫn chứng Cựu Ước để cho dân Do Thái thấy rằng Nhân Vật Lịch Sử Giêsu Nazarét quả thực là Đức Kitô Thiên Sai của họ, chính là lời tiên tri Isaia trong Bài Đọc 1 hôm nay:
"Ngày ấy, Chúa phán bảo vua Achaz rằng: 'Hãy xin Thiên Chúa, Chúa ngươi, một dấu ở dưới lòng đất hay ở trên trời cao!' Nhưng vua Achaz thưa: 'Tôi sẽ không xin, vì tôi không dám thử thách Chúa'. Và Isaia nói: 'Vậy hãy nghe đây, hỡi nhà Ðavít, làm phiền lòng người ta chưa đủ ư, mà còn muốn làm phiền lòng Thiên Chúa nữa? Vì thế, chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu: này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta'".
Trong Bài Đọc 2 chính vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô cũng xác tín và loan báo cho Kitô hữu Roma về xuất xứ của một Đức Kitô Thiên Sai Cứu Thế là Đấng đã được tiên báo trước trong Cựu Ước qua "các vị tiên tri", vì Người được hạ sinh theo huyết nhục Do Thái "bởi dòng dõi Đavít", đúng như gia phả của Người được Phúc Âm Thánh ký Mathêu ghi lại trong bài Phúc Âm hôm nay, Đấng "chính là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, nhờ Người, chúng tôi đã nhận ân sủng và chức vụ tông đồ, để nhân danh Người, chúng tôi quy phục mọi dân tộc về Ðức Tin, trong đó có cả anh em là những người mà Chúa Giêsu đã kêu gọi".
Vì "Thiên Chúa là thần linh" (Gioan 4:24) nên con người không thể nào biết Ngài nếu chính Ngài không tỏ mình ra cho họ. Mầu nhiệm Nhập Thể là tác động thần linh tỏ mình ra của Thiên Chúa "vào lúc thời gian viên mãn" (Galata 4:4), "vào thời sau hết" (Do Thái 1:2), sau khi "chính Ngài là Hoàng Ðế hiển vinh... ngự qua", như câu thưa của Bài Đáp Ca hôm nay, "ngự qua" bằng những cách thức khác nhau cho các vị cha ông trong Cựu Ước (xem Do Thái 1:1). Nếu Ngài không nhập thể thì loài người thấp hèn hữu hình hữu hạn tự mình không thể nào biết được Ngài là ai và như thế nào.
Tuy nhiên, cho dù Thiên Chúa có "hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14) chăng nữa, nơi Đức Giêsu Kitô Con của Ngài, chung loài người và riêng dân Do Thái của Ngài, có thể nói, lại càng khó có thể nhận biết Ngài, nhận ra Ngài nơi một con người thấp hèn như họ: "Ngài đã ở trong thế gian và nhờ Ngài mà thế gian đã đưọc tạo thành nhưng thế gian lại không nhận biết Ngài là ai. Ngài đã đến với dân riêng của Ngài nhưng dân riêng của Ngài không chấp nhận Ngài" (Gioan 1:10-11).
Vậy thì chẳng lẽ Thiên Chúa nhập thể là thực hiện một việc hoàn toàn sai lầm, bất khôn và thất sách, gây hại hơn là tác lợi hay sao? Câu trả lời cho vấn nạn nạn giải này có thể tìm thấy ngay trong Bài Đáp Ca hôm nay, trong đó, Thánh Vịnh gia trước hết đã xác tín và tuyên ngôn về đức khôn ngoan và quyền toàn năng của Vị Thiên Chúa Hóa Công tối cao rằng: "Chúa là chủ trái đất và mọi vật làm sung mãn nó, chủ địa cầu và muôn loài cư trú ở trong. Vì chính Ngài xây dựng nó trên biển cả (ám chỉ quyền năng), và Ngài giữ vững nó trên chỗ nước nguồn (ám chỉ khôn ngoan)" (câu 1).
Vì Nhập Thể cho dù bề ngoài có là một biến cố lịch sử có thật, với những nhân vật lịch sử, như được liệt kê trong gia phả của Chúa Giêsu Kitô trong bài Phúc Âm hôm qua 17/12 chăng nữa, nhất là đối với riêng cha mẹ trần gian của Người, nhưng tự bản chất là một mầu nhiệm, được Bài Đáp Ca ám chỉ như là một "cao sơn của Chúa", là "nơi thánh của Ngài" (câu 2), chỉ có thể nhận biết bằng "đức tin tuân phục" (Roma 1:5) mà thôi: "Ai chấp nhận Ngài thì Ngài ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12).
Chính vì Nhập Thể là một mầu nhiệm vô cùng cao siêu, vượt tầm mức kiến thức hạn hẹp của con người vốn hướng hạ và gian ác mà, theo Thánh Vịnh gia của Bài Đáp Ca hôm nay, muốn cảm nhận và chấp nhận mầu nhiệm nhập thể này, tức là muốn "trèo lên cao sơn của Chúa" và muốn "đứng trong nơi thánh của Ngài", hay nói đúng hơn, muốn "tìm long nhan Thiên Chúa nhà Giacóp" (câu 3), họ cần phải là những con "người có bàn tay (ám chỉ việc làm) vô tội và tấm lòng (ám chỉ ý hướng) thanh khiết, người không để lòng xu hướng bả phù hoa", những con người được tiêu biểu nhất trong thành phần này đó là Mẹ Maria trinh nguyên và Bõ Giuse công chính, cha mẹ trần gian của Con Trẻ Giêsu.
Càng gần ngày mừng kỷ niệm Con Thiên Chúa giáng trần, các công ty chuyên sản xuất hàng những MV4-A130
Càng gần ngày mừng kỷ niệm Con Thiên Chúa giáng trần, các công ty chuyên sản xuất hàng những quà mừng đón Noel càng tung ra nhiều mẫu hàng trang trí bắt mắt: từ những cây thông xanh mướt bằng nhựa tới những rừng thông bạc lớn nhỏ nối đuôi nhau xuất hiện ở các gian hàng treo dọc theo dài theo phố chợ. Từ những bộ sinh nhật cổ điển tới những bộ Thánh gia được cách tân. Từ những đèn sao nhấp nháy tới những ông già Noel, thiên thần bằng vải, bằng thạch cao, bằng giấy, bằng mốp, bằng những bóng điện kết nối tạo nên những hình ảnh thật sinh động không chê được! Cả một bầu khí rộn ràng bên ngoài đang chuẩn bị đón Chúa Giáng Sinh…
Gió đông vẫn đang se lạnh! Nhưng vạn ngọn thông vẫn cứ mướt xanh! Chỉ có Hương tình yêu: lúc thật đậm đà! Lúc như pha loãng!!! Bởi đường vào tình yêu, đặc biệt khi muốn cùng nhau đi suốt đường đời bằng sợi tơ hồng se kết hôn nhân, có mấy đời không trải qua thử thách vối đủ vị chát chua cay đắng ngọt bùi?
Tâm trạng đớn đau của chàng thanh niên Giuse khi chứng kiến người yêu thay hình đổi dạng: từ một thiếu nữ duyên dáng xinh tươi đạo hạnh vẹn toàn, bỗng chốc trở thành người đàn bà bụng mang dạ chửa mà bào thai không biết tác giả là ai? Làm sao không buồn? Làm sao không giận? Làm sao không hận? Làm sao không thù? Đọc đoạn Tin Mừng của Thành sử Matthêu ghi lại hoàn cảnh bi thương này để mọi người ngẫm suy trong tuần mùa vọng cuối cùng của phụng vụ năm A (Mt 1, 18-28), thật khó có chàng thanh niên nào đứng vững trước thử thách oái oăm này! Một giấc chiêm bao mộng mị! Làm sao giải tỏa hết nỗi ưu tư? Một cảnh phủ phàng đang xảy ra hiển nhiên trước mắt! cách nào nối lại nghĩa cũ tình xưa? Khó! Quá khó! Nên nỗi đau của Thánh Giuse đã thể hiện trọn vẹn tâm trạng kiếp người!
Trong dằn xé nội tâm: “ bỏ thì thương- vương thì tội” ấy! Chắc chẳng mấy chàng thanh niên ngày nay chấp nhận cách xử lý của chàng thanh niên Giuse năm xưa. “ Không ăn thì đạp đổ” là chuyện thường tinh để hả hê trong niềm đau uất hận chắc chắn sẽ là cách lựa chọn của nhiều người. Bởi sự phản bội nào cũng phải bị trả giá, chẳng qua là sớm hay muộn thôi! Quả là một thử thách đớn đau, cay đắng…
Tôi chỉ muốn dừng lại ở nỗi đau đó đề thấy lo, thấy sợ, thấy hoảng cho những chàng thanh niên hôm nay chỉ thích sống “ Tiền dâm hậu thú”! Chỉ thích hủy hoại đời người khác bởi mình không đủ trái tim cao thượng để cảm thông, để vươn lên, để thoát vòng kềm chế của thú tình lúc nào cũng đang tìm đủ mọi cách đang siết chặt đời mình vào vòng quay, vòng xoáy cùa chúng. Đáng sợ vô cùng!
Sự trầm tĩnh nơi chàng thanh niên Giuse của làng Nazareth năm xưa đã giúp tôi hiểu ra nhiều điều: tình yêu- đặc biệt tình yêu Hôn Nhân, và nhất là hôn nhân ngày nay- không bao giờ xuôi chèo mát mái! Không bao giờ biển lặng sóng êm! Không bao giờ như ý mình muốn! Không có nền tảng đạo đức: tình yêu có nguy cơ bị hủy diệt lúc nào không hay! Không có tấm lòng quãng đại: tình yêu có nguy cơ tan tành vụn vỡ lúc nào không biết! Không có tấm lòng nhẫn nại: tình yêu có nguy cơ tan đàn xẻ nghé bất cứ lúc nào! Không có tấm lòng tin tưởng: tình yêu có nguy cơ là chiếc bong bóng vuột khỏi tầm tay bất cứ lúc nào! Bởi:
Có nền tảng đạo đức: sự trầm tĩnh giúp tôi suy xét ngọn nguồn! Có tấm lòng quảng đại: sự yêu thương giúp tôi vượt qua nỗi khổ! Có tấm lòng tin tưởng: sự lắng nghe giúp tôi tìm lại chính mình
Trước mọi cú sốc, mọi thử thách, mọi trắc trở trên đường đời, sự trầm tĩnh sẽ giúp ta không bị dồn vào ngõ cụt, để rồi không lường được đủ thứ hậu quả kinh khủng sẽ xảy ra do hành động không tự chủ của mình! Mẹ Maria đã được đỡ nâng rất nhiều từ sự trầm tĩnh ấy! Chúa chỉ đến với những tâm hồn lắng động! Trầm tư! Hướng nội! Bản tính tự nhiên luôn cần được cắt- tỉa- gọt để Hương tình yêu không chỉ lan tỏa trong giới tính, mà còn đượm hương nghĩa xóm tình làng! Thánh Giuse đâu để cá tính tự do phát triển, mà Ngài đã uốn nắn nó trên một nền tảng đạo đức thẳm sâu. Ơn Chúa luôn có cho ta, nhưng với điều kiện ta phải cộng tác với ơn ấy! Thánh Giuse và Mẹ Maria đã làm được điều đó. Chính vì vậy, mà hương tình yêu ban đầu tưởng mãi mãi lạt phai, nhạt nhòa nhưng qua những gian nan trắc trở, hương tình yêu ấy đã ngày một đượm nồng hơn, thắm thiết hơn, ấm áp hơn…
Mùa Giáng Sinh, mùa Noel, mùa tình yêu đang đến cho mọi người. Món quà cao quý nhất mà Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại chính là tình yêu. Nhưng giữ nó được hay không, hãy chiêm ngắm hang đá của gia đình chàng thợ mộc trầm tĩnh và nàng nội trợ dịu hiền đang trú ngụ, ta sẽ biết phải làm gì để hương tình yêu luôn đậm đà nơi mái ấm của ta.
Giu-se và Ma-ri-a đã đính hôn với nhau, dự tính sẽ tiến tới một cuộc hôn nhân để có thể sống MV4-A131
Giu-se và Ma-ri-a đã đính hôn với nhau, dự tính sẽ tiến tới một cuộc hôn nhân để có thể sống bên nhau trọn đời. Chắc chắn hai người rất thương yêu nhau. Mọi sự đang diễn biến tốt đẹp thì Giu-se bỗng thấy Ma-ri-a có thai mà không phải do mình. Ta thử đặt mình trong hoàn cảnh của Giu-se để cảm thông nỗi thắc mắc và buồn khổ vô hạn của Giu-se. Trước tình huống này, là con người, chắc chắn Giu-se phải có lúc nghĩ rằng mình đã bị người yêu phản bội. Càng yêu Ma-ri-a, ông càng cảm thấy bị xúc phạm, ghen tức và đau khổ. Những chàng trai khác mà gặp hoàn cảnh này có thể sẽ phản ứng bằng cách trả thù và rửa nhục. Cách trả thù hợp pháp nhất là đi tố cáo, vì sách Đệ nhị luật đã qui định: “Khi một cô gái còn trinh đã đính hôn với một người đàn ông, mà một người đàn ông khác gặp cô và nằm với cô, thì cả hai phải bị lôi ra cửa thành để chịu ném đá, và chúng sẽ phải chết” (Đnl 22,23-24).
Nhưng cách hành xử của Giu-se là “định tâm bỏ bà cách kín đáo”. Chàng không muốn để người yêu của mình phải đau khổ và chết trong nhục nhã. Cho dù không được sống gần người mình yêu, cho dù nàng có phản bội mình và thuộc về người khác, Giu-se vẫn luôn mong cho người mình yêu được hạnh phúc. Đó mới là tình yêu đích thực. Vì thật ra, có hai thứ tình yêu:
• Tình yêu vị kỷ: tức yêu người khác vì hạnh phúc của chính mình. Do đó, luôn luôn coi hạnh phúc của mình quan trọng hơn hạnh phúc của người mình yêu. Đây chỉ là một tình yêu giả hiệu, vì xét cho cùng thì hóa ra mình đã yêu chính mình qua người kia, chứ không phải là yêu người ấy thật sự. Người kia chỉ là một phương tiện đem hạnh phúc đến cho mình. Giu-se đã không yêu Ma-ri-a bằng thứ tình yêu này. Người Ki-tô hữu cũng không nên yêu bằng thứ tình yêu vị kỷ này.
• Tình yêu vị tha hay tình yêu dâng hiến: yêu người khác vì chính người mình yêu, coi hạnh phúc của người yêu quan trọng hơn hạnh phúc của mình, nên sẵn sàng chấp nhận đau khổ hoặc hy sinh hạnh phúc của mình cho người mình yêu. Đây mới là tình yêu đích thực mà Giu-se đã dành cho Ma-ri-a. Đúng ra, mọi cặp vợ chồng Ki-tô hữu đều phải yêu thương nhau bằng thứ tình yêu này thì họ mới đúng là Ki-tô hữu đích thực, nhờ đó gia đình họ sẽ luôn luôn hạnh phúc.
Thế rồi Giu-se nằm mơ thấy sứ thần cho biết sự thật về Ma-ri-a, và sứ thần khuyên ông: “đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về”. Chỉ có lòng khoan dung và tình yêu mạnh mẽ chân thật đối với Ma-ri-a, cộng với tinh thần nhạy cảm với thánh ý Thiên Chúa, Giu-se mới có thể làm theo lời sứ thần bảo trong giấc mơ. Vì bình thường những người có đầu óc thực tế mấy ai lại tin vào giấc mơ. Do đó, ta thấy có một sự dằng co mãnh liệt trong tâm hồn Giu-se. Và để đưa Ma-ri-a về nhà mình, ông đã phải thắng được tính tự ái cá nhân, đã can đảm bất chấp dư luận bất lợi của những người ngoài cuộc, và chấp nhận sự nhục nhã có thể xảy ra (khi nhận ra giấc mơ chỉ là ảo ảnh). Tin Mừng còn cho biết: sau đó, “ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai”; điều đó nói lên khả năng tự chủ, bản lĩnh và sức mạnh tinh thần cao độ của Giu-se.
Như vậy, cách hành xử của Giu-se trong bài Tin Mừng cho thấy ông là người có tình yêu chân thực, khoan dung, nhân hậu, kín đáo, tự chủ, có bản lĩnh, có lập trường vững chắc, nhẫn nhục và rất nhạy cảm với thánh ý Thiên Chúa. Những đức tính ấy chứng tỏ ông đúng là một người công chính, xứng đáng là cha nuôi Đức Giêsu, là bạn trăm năm của Đức Maria, và là mẫu gương thánh thiện rất thực tế cho chúng ta.
2. Đức Giêsu sinh ra bởi mẹ đồng trinh
Chủ ý của bài Tin Mừng hôm nay không nhắm vào sự công chính của Giu-se cho bằng sự thụ thai kỳ diệu của Đức Giêsu nơi cung lòng đồng trinh của Ma-ri-a do quyền năng Thánh Thần. Thông thường, nói tới sự đồng trinh của Đức Ma-ri-a, người ta thường nghĩ tới sự đồng trinh thể chất, ít ai nghĩ tới sự đồng trinh về mặt tinh thần của Ngài. Cả hai mặt của sự đồng trinh ấy đều quan trọng và cần thiết. Nhưng nếu chỉ đồng trinh về mặt thể chất mà không có mặt tinh thần thì đồng trinh ấy chẳng còn ý nghĩa! Sự đồng trinh về tinh thần nơi Đức Ma-ri-a quan trọng hơn rất nhiều.
Trước mặt Thiên Chúa, đồng trinh về mặt tinh thần có nghĩa là có tâm hồn trọn vẹn hướng về Ngài, hoàn toàn dâng hiến bản thân cho Ngài để hoàn toàn thuộc về Ngài, không còn thuộc về chính mình nữa. Trong chiều hướng đó, Đức Ma-ri-a đã sống tinh thần “tự hủy”, để hoàn toàn sống cho Thiên Chúa và tha nhân. Biểu hiện quan trọng và rõ rệt nhất là không còn coi ý riêng của mình là quan trọng, thậm chí không còn ý riêng nữa, để chỉ biết có thánh ý Thiên Chúa mà thôi. Vì thế, Đức Ma-ri-a cũng có thể nói như Đức Giêsu: “Tôi không tìm cách làm theo ý riêng tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi” (Ga 5,30; x. 6,38), hay như thánh Phao-lô: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là Thiên Chúa sống trong tôi” (Gl 2,20). Trọn cuộc đời của Ngài đã chứng tỏ sự đồng trinh tinh thần ấy, được biểu hiện qua mọi hành vi của Ngài, cụ thể nhất qua hai chữ “Xin vâng” khi sứ thần truyền tin cho Ngài.
Mọi người Ki-tô hữu, kể cả người sống bậc vợ chồng, nhất là những kẻ quyết tâm theo Chúa, quyết tâm nên thánh, đều có thể và cần phải sống “đồng trinh” hiểu theo nghĩa tinh thần, nghĩa là sống trọn vẹn cho Thiên Chúa và thuộc về Thiên Chúa. Trước mặt Thiên Chúa, một người đồng trinh về mặt thể chất, nhưng lại không đồng trinh về mặt tinh thần, chắc chắn không có giá trị bằng những người tuy không đồng trinh về mặt thể chất, nhưng lại đồng trinh về mặt tinh thần. Vì đồng trinh thể chất chỉ là phương tiện đồng thời là một dấu chỉ hay hình thức cụ thể nhất của sự đồng trinh tinh thần vốn phải là bản chất và nội dung của đồng trinh thể chất. Quá nhấn mạnh và đề cao sự đồng trinh thể chất mà quên lãng hay không đề cao sự đồng trinh tinh thần là một thứ tu đức què quặt và bị lạc hướng. Sự đồng trinh tinh thần bao giờ cũng có giá trị hơn rất nhiều, cho dù đồng trinh thể chất vẫn có giá trị riêng của nó.
3. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, cũng làm người giống y như ta
Qua bài Tin Mừng, ta thấy: để là một con người, Đức Giêsu đã sống trong một gia đình, có cha có mẹ, trong một xã hội có vua có quan, có phép có tắc, trong một tôn giáo có phẩm có trật, là luật có lệ, y trang như mọi người. Ngài đã hoàn toàn “trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,7), cũng “sinh làm con của một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật” (Gl 4,4) như chúng ta, cũng “phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5,8-9). Vì thế, Ngài “không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4,15-16). Chắc chắn Ngài có thể nói như một triết gia nào đó: “Không có gì thuộc về con người mà xa lạ đối với tôi”.
Ngài cũng từng kinh nghiệm những yếu đuối của con người khi bị ma quỉ cám dỗ (x. Mt 4,1-11). Vì thế, khi tôi yếu đuối, sa ngã, tội lỗi, tôi cảm thấy Ngài có thể thông cảm với tôi một cách sâu xa, và tôi biết Ngài sẵn sàng tha thứ chính vì Ngài đã từng cảm nhận được sự yếu đuối của con người như tôi.
Những điều của con người mà Ngài cảm nghiệm được nhiều nhất chính là đau khổ và sự chết. Dường như mọi hình thức quan trọng của đau khổ Ngài đều đã cảm nghiệm: phản bội, oan ức, bị đàn áp, bóc lột, mất mát, roi vọt, nhục nhã... Điều này làm tôi cảm thấy rất được an ủi khi gặp đau khổ. Tôi nhận ra Ngài đã dùng đau khổ của chính mình để xoa dịu những đau khổ của tôi. Ngài đã dùng thương tích của chính Ngài để chữa lành những vết thương của tôi (x. l Pr 2,24b). Nghĩ như thế, tôi không cảm thấy cô đơn trong đau khổ, vì tôi cảm thấy như Ngài đang cùng đau khổ với tôi, để biến những đau khổ của tôi thành một giá trị cao cả.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con học được tình yêu chân thật, vị tha nơi Đức Giêsu, Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se. Cho con biết yêu Cha vì Cha, yêu mọi người vì mọi người. Như vậy để yêu chân thực, con phải có tinh thần tự hủy, quên mình. Xin cho con thực hiện được thứ tình yêu chân thực ấy trong đời sống thường ngày của con. Amen.
Chỉ còn đúng ba ngày nữa là chúng ta mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Ngay từ Chúa nhật đầu tiên MV4-A132
Chỉ còn đúng ba ngày nữa là chúng ta mừng lễ Chúa Giáng Sinh.
Ngay từ Chúa nhật đầu tiên của Mùa Vọng, cha đã luôn nói với chúng con về việc làm thế nào để có thể gặp được Chúa khi Người đến.1. Thế cha hỏi chúng con, Chúa đã đến với chúng ta bằng cách nào ?
Bài Tin Mừng hôm nay trả lời cho chúng ta phần nào câu hỏi đó.
Chúa đã không đến như một nhân vật kỳ lạ trong những truyện cổ tích. Chúa cũng không đến như một nhân vật huyền thoại trong các truyện thần tiên. Vậy thì Chúa đến bằng cách nào chúng con ?
Chúa đến như một con người, một con người được sinh ra bởi một con người và sau đó Chúa sống một cuộc sống cũng như một con người. Chỉ có một điều, cách Chúa đến với con người chúng ta không giống với cách của con người chúng ta. Không giống ở chỗ nào thì chúng con nghe sứ thần của Thiên Chúa cắt nghĩa cho thánh Giuse. Đây là lời của sứ thần: “Này ông Giuse, con cháu Ðavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”.(Mt 1,20-21) Và Thánh Matthêu còn cho biết thêm: “Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. (Mt 1,22-23).
Đó chúng con có thấy không. Khác nhau là ở chỗ đó.
Sau này khi đã được cùng sống với Chúa Giêsu, thánh Gioan trong Tin Mừng của ngài, ngài còn cho chúng ta biết về Chúa Giêsu hay hơn nữa. Ngài nói như sau: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa”.(Ga 1,1) “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta (Ga 1,29).
Chưa hết, nếu chúng ta đọc trong Tin Mừng của thánh Gioan, chúng ta còn được thấy nhiều điều lạ lùng hơn nữa trong đó, chính Chúa Giêsu còn cho chúng ta biết những điều quan trọng hơn. Ngài bảo: Tôi và Chúa Cha là một”.(Ga 10,30)”.Phần tôi, tôi biết Người, và chính Người đã sai tôi”.(Ga 7,29) Và Chúa còn quả quyết: “Các ông bởi hạ giới; còn tôi, tôi bởi thượng giới. Các ông thuộc về thế gian này; còn tôi, tôi không thuộc về thế gian này.(Ga 8,23)
Nói tới đây cha tưởng cũng đã đủ để chúng ta thấy được Chúa Giêsu mà sứ thần Chúa loan báo là ai và Ngài đến với loài người chúng ta như thế nào để qua đó chúng ta phải có một cái nhìn đúng về Ngài cũng như phải có một niềm tin vào Ngài như thế nào.
2. Bây giờ đến lượt chúng ta. Chúng ta tự hỏi đâu là thái độ chúng ta phải có khi chúng ta đứng trước máng cỏ Belem của Chúa Giêsu ?
Nhìn vào Chúa Giêsu chúng ta phải có thái độ nào ? Nếu chúng ta chỉ nhìn Chúa Giêsu như đa số những người Do thái thuở xưa thì chúng ta sẽ chỉ thấy Chúa Giêsu là một con người. Chúa Giêsu chỉ là một con người, một con người như tất cả mọi người không hơn không kém. Một con người với tất cả phẩm chất của một sinh vật trên đất. Và nếu chúng ta chỉ nhìn Chúa Giêsu như thế thì chắc là chúng ta sẽ khó vượt qua được thái độ coi thường hay có khi còn là kẻ thù của Chúa Giêsu như những người D thái thuở xưa: “Chúng tôi ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng: ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa”.(Ga 10,33)
Nhìn lại những hình ảnh cuối cùng của Chúa Giêsu dưới cây Thánh Giá chúng ta thấy rất rõ điều đó.
Ngược lại nếu chúng ta có một cái nhìn đúng và đủ về Chúa Giêsu thì chắc chắn thái độ của chúng ta và mọi người sẽ khác. Chúa Giêsu mà thiên sứ loan báo là một Emmanuel. Emmanuel có nghĩa là Thiên-Chúa-ở-giữa-chúng-ta. Như vậy đứng trước Chúa Giêsu cho dù ngài chỉ là một Hài Nhi nằm trong máng cỏ nghèo khó hay một Chúa Giêsu quyền năng dẹp yên được cả sóng gió bão táp, chúng ta cũng phải nhìn Chúa bằng một danh hiệu mà thiên sứ đã loan báo: EMMANUEN.
THIÊN-CHÚA-Ở-GIỮA- CHÚNG-TA. MỘT-THIÊN-CHÚA-Ở-GIỮA-CHÚNG-TA NHƯ MỘT CON NGƯỜI.
Chúng ta không được nhìn Chúa Giêsu chỉ như một con người. Cái nhìn như thế sẽ dễ dẫn chúng ta đến thái độ sai lầm như những người Do thái thuở xưa. Cũng không được nhìn Chúa Giêsu như là một Ông Thần. Nhìn như thế sẽ dễ làm cho chúng ta sai lầm như một số các lạc thuyết thời Trung cố. Tóm lại Chúa Giêsu là một Thiên Chúa làm người. Đó là cái nhìn đầy đủ và đúng nhất về Chúa Giêsu. Nói tới đây cha nhớ đến một câu chuyện mà người Pháp hay kể cho nhau nghe mỗi dịp lễ Giáng Sinh về: Câu chuyện có tên là thăm Hang Đá. Câu chuyện xảy ra ở nhà thờ Đức Bà tại thủ đô Paris của nước Pháp.
Chuyện thế này: Vào một dịp lễ Giáng Sinh năm ấy, người ta thấy có một đoàn người đến viếng thăm Hang đá được làm trong nhà thờ Đức bà Paris. Đây là một ngôi Nhà thờ cổ kính và rất nổi tiếng tọa lạc ngay giữa thủ đô. Hoà trong đoàn người kính viếng hang đá năm ấy, người ta thấy có nhiều người tài giỏi cũng cùng viếng hang đá.
Đầu tiên người ta thấy một ông hoạ sĩ. Ông là người chuyên về màu sắc. Đứng trước máng cỏ của Chúa Giêsu, người ta thấy ông lắc đầu. Xem chừng như những màu sắc trang hoàng hang đá không được đúng theo cái nhìn của ông. Nhìn một chút rồi ông đi ra. Tiếp đến là một ông kiến trúc sư: Chúng con biết ông kiến trúc sư là người làm nghề gì rồi. Ông làm nghề kết cấu trong việc xây dựng. Người ta thấy ông cũng nhìn và cũng ngắm và rồi người ta cũng lại thấy ông lắc đầu. Có lẽ hang đá không được làm đúng với quy luật kiến trúc. Sau đó ông cũng lặng lẽ đi ra.
Tiếp theo đó là điêu khắc. Chúng con có biết nhà đều khắc làm gì không ? Nhà điêu khắc là người làm nghề tạc tượng hay đắp tượng. Tượng Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse trong hang là do những người làm nghề điêu khắc làm. Nhà điêu khắc này đứng ngắm hang đá lâu hơn hai người trước. Hình như ông thấy các bức tượng nơi hang đá có vấn đề. Sao nó không đúng với thực tế mấy. Chúa thì to mà con bò con chiên thì lại quá nhỏ, thiếu sự cân đối vv và vv Rồi người ta cũng lại thấy ông lắc đầu đi về.
Sau cùng người ta thấy một bà cụ già dắt theo một em bé. Em bé mặc một bộ đầm trắng toát như tuyết. Vai em còn mang thêm một chiếc khăn quàng cũng màu trắng. Hai bà cháu đứng ngắm nhìn hang đá một hồi lâu. Bỗng người ta thấy em bé mon men tìm đường leo lên hang đá đến tận chỗ người đặt tượng Chúa Giêsu Hài đồng.
Em bé ngắm nhìn Chúa Giêsu. Lòng em cảm thấy xúc động. Giữa cảnh đêm đông giá lạnh như thế này mà mà Chúa không có mền để đắp...Rồi người ta thấy em cởi chiếc áo len trắng em đang mặc đắp cho Chúa Giêsu Hài đồng.
Sau đó họ cũng ra về nhưng lòng họ cảm thấy tràn ngập niềm vui vì Chúa thật gần. Họ cảm thấy hạnh phúc vì thấy mình được Chúa yêu thương nhiều quá. Chúa sắp Giáng sinh rồi.
Cha chúc chúng con cũng tìm được niềm vui và hạnh phúc như thế. Amen.
Emmanuel- Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta
John P., một linh mục Ái nhĩ lan, sau nhiều năm tận tâm thuyết phục một thanh niên bỏ đạo trở về với Giáo hội, đã phải hoài công vô vọng. Bao lời khuyên răn cứ như “nước đổ lá môn”.
Một lần kia, Mẹ Têrêsa Calcutta được mời đến thăm Ái nhĩ lan. Ban tổ chức có thu xếp một buổi nói chuyện thân mật giữa Mẹ với các bạn trẻ. Mẹ chỉ nói giản dị về tình yêu Thiên Chúa: Chúa yêu thương các bạn; Ngài luôn đồng hành với các bạn. Sau đó Mẹ rời thành phố. Ai về nhà nấy.
Trời mỗi lúc mỗi khuya! Khi mọi vật đang chìm vào tĩnh mịch, chợt một hồi chuông điện thoại reo vang phá tan giấc ngủ của cha John. Ngài nhấc vội chiếc điện thoại, và đầu dây bên kia là giọng nói của chàng thanh niên năm nào:- “Alô, con muốn xưng tội với cha. Con muốn trở về cùng Giáo hội”.- “Chuyện gì xảy ra cho anh vậy ?” Vị linh mục hỏi lại. Ngài tưởng chừng chàng thanh niên đang bị tai nạn hiểm nghèo nào đó nên vội dọn mình ra đi.Nhưng anh ta trả lời:
- “Thưa cha, vì chiều nay Mẹ Têrêsa đã nói với con một lời đánh động lòng con rất nhiều”.
Vị linh mục ngạc nhiên:
- “Mẹ nói lời gì, và nếu tôi không lầm thì nhà thờ chật ních. Mẹ lại đâu có cơ hội để gặp riêng anh ?”
- “Vâng thưa cha, Mẹ không gặp riêng con, nhưng Mẹ đã nói với mọi người, trong đó có con. Mẹ nói rằng: “Chúa ở với các con”.
Nghe thế, vị linh mục càng ngạc nhiên hơn nữa:
- “Ủa, đã nhiều lần tôi cũng nói với anh như thế, nhưng sao hôm nay anh lại bị thuyết phục bởi lời nói ấy của Mẹ Têrêsa ?”
Anh thanh niên chậm rãi giải thích:
- “Thưa cha, vì Mẹ đã nói câu đó từ thẳm sâu của tâm hồn. Mẹ đã nói với con bằng tất cả con tim của mình”.
Một câu nói không phát ra từ một công thức có sẵn hay do một thói tục xã giao thông thường thúc đẩy, nhưng khởi đi từ chốn thâm sâu của một tâm hồn yêu thương mới có khả năng thuyết phục, hoán cải, và truyền đạt được ý nghĩa chân thực nhất của danh hiệu Emmanuel-Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Trong một Thánh lễ, biết bao lần vị linh mục đọc lên cầu chúc: “Chúa ở cùng anh chị em,” nhưng thử hỏi có mấy lần lòng tôi bồi hồi xúc cảm vì sung sướng trước sự kiện này ? Rất nhiều lần tôi nghe, đáp, hát, đọc những lời kinh nguyện có cùng một nội dung như thế, nhưng có mấy lần tôi cảm nhận được Thiên Chúa hiện hữu thật sự trong cuộc đời của mình ? Tôi không có, phải chăng vì đã chưa đọc và nghe với tất cả tâm hồn ?
Nếu thấu hiểu được thế nào là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta,” chắc chắn sẽ không có một tác nhân gì có thể làm cho con người phải run sợ bất an hay ưu sầu lo lắng.
Ngày xưa, khi Môisen đang chạy trốn người Ai Cập, tránh né bàn tay ác độc của Pharaô, Giavê đã hiện ra và bảo ông trở về đất Ai để giải thoát dân Israel. Trước một trách nhiệm lớn lao cùng bao hiểm nguy cho tính mạng như thế, Moisen can đảm lên đường, vì Thiên Chúa đã nói với ông: “Ta sẽ ở với ngươi” (Xh 3:12).
Rồi khi Giêrêmia được Giavê kêu gọi ra đi làm tiên tri cho các dân tộc, ông đã tìm cách thoái thác: “Tôi đâu có biết nói năng gì. Tôi chỉ ú ớ như một đứa trẻ con”. Nhưng Chúa nói: “Ðừng sợ, vì Ta ở cùng ngươi” (Gr 1:8). Với lời hứa ấy của Giavê, Giêrêmia lên đường.
Trong Tân ước, khi Chúa Giêsu sai các môn đệ đi vào thế gian rao giảng Tin mừng. Sứ mạng chất đầy gian nan, không khác chi như chiên con đi giữa sói rừng. Ấy thế mà sự bảo đảm lại chỉ là một lời hứa: “Ta sẽ ở cùng các ngươi mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Vậy rồi các ông ra đi.
Sẽ không lời hứa nào bày tỏ trọn vẹn nỗi lòng yêu thương của một con người cho bằng lời hứa “ở cùng người yêu,” và sẽ không có nỗi lòng khát khao nào mãnh liệt cho bằng được “sống chung với người yêu”. Một chàng thanh niên có thể hứa với người con gái: “Anh sẽ mua cho em một chiếc nhẫn kim cương làm quà Giáng sinh; anh sẽ cố học thành tài để em không phải lam lũ sau này...,” nhưng nếu không có lời hứa “ở cùng em” thì vô ích hết. Cao điểm hạnh phúc trong ngày thành hôn của hai người nam nữ không phải nơi chiếc áo cưới soirée lộng lẫy, cũng chẳng phải nơi chiếc nhẫn cưới hay lời chúc tụng của thân hữu đôi bên, nhưng là nơi giao ước tình yêu đã được thiết lập. Trong giao ước đó họ hứa “ở cùng nhau suốt đời”.
Một linh mục đã nhận xét: “ở cùng” chính là ngôn ngữ của tình yêu, vì chỉ có yêu ai người ta mới nghĩ đến “ở cùng”. Vì yêu nên mới có việc Thiên Chúa đến “ở cùng” con người, mới có danh hiệu Emmanuel, mới có cảnh Giavê mang kiếp lầm than để thông chia nỗi đau của con người, và chưa hết, mới có danh hiệu Giêsu, nghĩa là Giavê cứu thoát.
Vì yêu thương con người nên Thiên Chúa muốn cứu thoát. Ðể cứu thoát, Ngài đã đến ở cùng. Có lẽ không nỗi đợi chờ hay một thỏa mãn nào đáng giá hơn hình ảnh của Chúa Hài đồng nằm trong máng cỏ, hiện thân của tình yêu ở cùng.
Danh hiệu Emmanuel không chỉ gợi lên trong tôi ý thức về ân phúc tình yêu Thiên Chúa dành cho con người, về những lời cầu chúc được lập đi lập lại trong các Thánh lễ đang cần được nói và nghe với tất cả tâm hồn, nhưng còn là lời mời gọi bạn và tôi hãy ở cùng tha nhân, hãy xích lại gần nhau và sống thân ái hơn trong tình người. Như Thiên Chúa đã phá đổ bức tường ngăn cách, dù đó là sự ngăn cách vô biên--giữa Tạo hoá và loài thụ tạo, giữa trời cao với đất thấp, giữa vô hình và hữu hình--chúng ta cũng được mời gọi hãy phá đổ những ngăn cách giữa con người với con người, để việc tôi “ở cùng” tha nhân trong an hoà sẽ là một phản chiếu rõ nét khuôn mặt của Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Tin Mừng Luca nói đến việc truyền tin cho Đức Mẹ. Tin mừng Matthêu kể câu chuyện truyền tin MV4-A133
Tin Mừng Luca nói đến việc truyền tin cho Đức Mẹ. Tin mừng Matthêu kể câu chuyện truyền tin cho Giuse.
“Bà Maria, mẹ của Đức Giêsu, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giuse, là con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”... Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.” (Mt 1,18 – 21.24). Sứ thần Chúa đến báo tin cho Giuse biết, thai nhi nơi người vợ chưa cùng ông chung sống là do quyền năng Thánh Thần. Sứ thần mời gọi ông cứ đón nhận Maria làm vợ, và chấp nhận thai nhi như con mình.Giuse đã nói tiếng Xin Vâng. Ông đón lấy những mầu nhiệm mà ông không hiểu hết.
Tin mừng giới thiệu về những đóng góp của Thánh Giuse vào công trình Nhập Thể. Với sự quảng đại, Thánh Giuse đã bỏ dự định của mình để thi hành chương trình của Thiên Chúa. Đó là cho Chúa Giêsu một tư cách pháp lý là con cháu Vua Đavit. Đúng như lời Thiên Chúa đã hứa từ thời Cựu Ước. Giuse đặt tên cho Chúa Giêsu, nhận Ngài là con mình theo pháp lý. Từ nay Giuse bao bọc Đức Maria và Chúa Giêsu. Isaia loan báo: “Này đây Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (Is 7,14). Lời ngôn sứ có một tầm quan trọng trong nhiệm cục cứu rỗi. Lời đó khẳng định "chính Thiên Chúa" sẽ ban cho Đavid một người thuộc dòng dõi, như là "dấu chứng" lòng trung tín của Người. Lời hứa này đã thực hiện với sự sinh ra Chúa Giêsu bởi Đức Trinh nữ Maria. Giuse đựơc vinh dự tham gia vào nhiệm cục cứu rỗi đó.
Đức Giêsu Kitô là Emmanuel “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Người là Đấng Cứu Độ, Đấng đến giải thoát và ban bình an cho dân Chúa. Nhưng qua câu chuyện Tin Mừng hôm nay, Thiên Chúa đã gây một cú sốc quá lớn cho Thánh Giuse. Khi biết Maria bỗng dưng có thai, Giuse đau khổ, âm thầm mang lấy nổi đau riêng mình. Là người công chính nên Giuse luôn lắng nghe và mau mắn thi hành thánh ý Chúa. Vì thế mà ngài trở nên Thánh Cả và là mẫu gương cho mọi tín hữu.
1. Mẫu gương đức tin, công chính và cầu nguyện.
Thánh Giuse, con người đức tin, công chính và cầu nguyện. Đức tin liên kết với sự công chính và sự cầu nguyện, đó là thái độ xứng hợp để gặp “Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta".
Tự thâm sâu, tình yêu của Giuse vẫn trổi vượt. Giuse không hề quay lại bản thân mình để cảm thấy bị lừa dối xúc phạm, nhưng chỉ hướng về Maria để tiếp tục tin rằng vị hôn thê của mình vẫn thật sự trong sạch vẹn tuyền. Không hề tra hỏi Maria một lời nào, Giuse chỉ im lặng ôm lấy phiền muộn, một cõi riêng tư.
Vì yêu Maria nên Giuse không muốn làm hại bạn mình. Ngài đã chọn con đường rút lui trong âm thầm, một giải pháp thua thiệt cho bản thân vì sẽ mang tiếng là “sở khanh”. Một quyết định can đảm nói lên tình yêu và tấm lòng quảng đại của Ngài. Giuse đúng thật là người công chính. Nơi Thánh Giuse, "sự công chính nội tâm" trùng với "tình yêu". Tình yêu dâng hiến luôn hướng về người khác, sẵn sàng hy sinh để làm người mình yêu có giá trị hơn và đựơc hạnh phúc hơn. Chấp nhận chịu thiệt thòi để người yêu được thuận lợi, chấp nhận đau khổ để người mình yêu hạnh phúc. Sẵn sàng thông cảm và tha thứ cho người mình yêu khi có lầm lỗi. Giuse đã yêu Maria bằng tình yêu dâng hiến như thế.
Giuse là một người mở lòng đón nghe Lời Chúa trong cầu nguyện. Thiên thần giải thích cho Giuse biết "người sinh bởi Đức Maria là do Chúa Thánh Thần", theo lời ngôn sứ phán xưa: "Này đây: Trinh nữ sẽ thụ thai", và Giuse sẵn sàng tiếp nhận những ý định của Chúa, những ý định vượt quá những giới hạn của loài người.
Giuse như là một con người đích thực sống đức tin. Đức tin liên kết với sự công chính và cầu nguyện, đó là thái độ phù hợp để gặp Đấng Emmanuel. Tin có nghĩa là sống trong lịch sử mở lòng đón nhận sáng kiến của Thiên Chúa, đón nhận sức mạnh sáng tạo của lời Người.
2. Mẫu gương luôn vâng theo thánh ý Chúa.
Thánh Giuse là người công chính như Kinh Thánh đã khen tặng. Trong suốt cuộc đời Giuse hằng luôn vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa (x. Mt 1,18-25; 2,13-23; Lc 2,1-7.22).
Thánh ý Chúa, được sứ thần truyền đạt đến cho thánh Giuse, vừa xoá tan mọi nghi ngờ đang dằn vặt ngài vừa mạc khải cho ngài về lai lịch và sứ mạng của thai nhi đang được cưu mang. Đó là Đấng Thánh vì được thụ thai do quyền năng của Thiên Chúa. Đó cũng là Đấng sẽ giải phóng dân tộc của ngài khỏi ách đô hộ của ngoại bang. Sứ thần xác nhận Maria mang thai do Chúa Thánh Thần và bảo ông đừng rút lui mà hãy đưa Maria về với mình, bởi Chúa đã giao cho ông một sứ mạng. Giuse sẵn sàng làm bất cứ điều gì Chúa muốn để hoàn tất chương trình của Người. Dự tính muốn ra đi âm thầm không phải chỉ do sự tôn trọng luật pháp hay tôn trọng danh dự Maria thúc đẩy, nhưng còn có cái gì sâu xa hơn nữa.
Có thể ví với thái độ của những người đối diện với một mầu nhiệm cao cả: họ thụt lại vì kinh kính sợ, tựa như ông Môsê đã cởi dép khi tiến gần bụi gai đang cháy rực (St 3,5), tựa như Isaia thất kinh khi diện kiến Thiên Chúa cực thánh (Is 6,5), tựa như ông Simon sau khi chứng kiến mẻ cá lạ lùng (Lc 5,8). Giuse được biết là Maria “có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần”, vì thế ông không dám chiếm hữu người con không phải là của mình. Vì thế ông toan tính rút lui. Để cũng cố thêm cho sự giải thích vừa rồi, cha Ignace de La Potterie nhận xét rằng, cần phải xét lại các bản dịch cổ truyền. Thay vì “ông Giuse là người công chính không muốn tố giác bà”, cần phải dịch là “ông Giuse là người công chính không muốn tiết lộ {mầu nhiệm}, quyết định rời bỏ bà cách kín đáo. Động từ deigmatisai (ít được sử dụng trong tiếng Hy lạp) tự nó chỉ có nghĩa là thông báo, nói cho biết, đưa ra ánh sáng), và tuỳ theo mạch văn mà thay đổi ý nghĩa: có thể là “tố cáo, tố giác” (điều xấu), “bày tỏ, tiết lộ” (điều tốt). Ông Giuse đựơc bà Maria tâm sự về sự cưu mang do quyền năng Thánh Thần, và ông không dám tiết lộ mầu nhiệm này. (x.Lm Phan tấn Thành, Thánh Giuse trong cuộc đời Chúa Kitô và Hội thánh).
Như một khí cụ ngoan ngoãn trong tay người sử dụng, thánh Giuse đã được Thiên Chúa chọn làm người bảo trợ Đấng Thiên Sai, và Ngài đã cùng bạn mình là Đức Maria, thực hiện mọi quyết định của Thiên Chúa, dầu có phải trải qua biết bao thử thách gian nan, cả về vật chất lẫn tinh thần.
Người Công Chính Giuse suốt cuộc đời luôn luôn thức tỉnh trước thánh ý Thiên Chúa, thức tỉnh ngay cả trong giấc ngủ.
Ở Bêlem: “Sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi !” Ông Giuse liền chỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập.” (Mt 2, 13 – 14) .
Ở Aicập: “Sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giuse bên Aicập, báo mộng cho ông rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi. ”Ông liền chỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen.” (Mt 2, 19 – 21)
Ở Giuđê: “Vì nghe biết Áckhêlao đã kế vị vua cha là Hêrôđê, cai trị miền Giuđê, nên ông Giuse sợ, không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Galilê, và đến ở tại một thành kia gọi là Nadarét.” (Mt 2, 22 – 23).
Giuse luôn thao thức lắng nghe tiếng Thiên Chúa, và khi nghe được rồi thì đáp lại không chần chừ, dù cho phải trả giá.
Một câu ngạn ngữ của người Nigêria nói rằng: Hãy lắng nghe và bạn sẽ nghe đựoc những bước chân của các con kiến. Chúng ta được mời gọi để lắng nghe những bước chân âm thầm của Thiên Chúa trong cuộc đời.
Hãy “học trường” Giuse, bài học lắng nghe và thi hành Lời Chúa, trong tinh thần khiêm tốn, vâng phục, tin tưởng và phó thác.
Tin Mừng Chúa Giê-su Kitô theo Thánh Mat-thêu (Mt 1: 18-24)
18 Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần.19 Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo.20 Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: "Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần.21 Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ."22 Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ:23 Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta."24 Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.25 Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su.
SUY NIỆM
Thiên Chúa có thể tạo điều kiện để cho Đức Maria làm mẹ đơn thân mà không cần có sự cộng MV4-A134
Thiên Chúa có thể tạo điều kiện để cho Đức Maria làm mẹ đơn thân mà không cần có sự cộng tác của Giuse trong việc dưỡng dục Chúa Giêsu, bởi không có gì mà Chúa không là được. Nhưng đó không là điều thích hợp với bản tính của Thiên Chúa, vì Ngài là tình yêu. Ngài đã không tạo dựng con người hiện hữu đơn độc, nhưng hiện hữu trong một định chế, được gọi là định chế hôn nhân gia đình, nơi đó có vợ có chồng, có cha có mẹ, có con cái. Đó là một định chế của một cộng đoàn yêu thương phản ảnh cộng đoàn tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Bởi vậy việc chọn Giuse làm dưỡng phụ cho Hài Nhi Giêsu, một lần nữa Chúa muốn khẳng định: ơn cứu độ phát xuất từ gia đình, một cộng đoàn yêu thương, và điều đó cũng minh định rằng, ơn cứu độ không gì hơn chính là hành động yêu thương phát xuất từ tình yêu từ việc đi ra khỏi chính mình để đến và phục vụ cho người mình yêu thương hầu đạt tới thiện ích, một sự phục vụ trong tinh thần đồng trách nhiệm giữa các thành viên trong gia đình làm nên một cộng đoàn yêu thương đích thật. Và đó chính là tế bào làm nên một cộng đoàn xã hội an bình và hạnh phúc.
Đây cũng chính là lời nhắc nhở cho những ai đang chủ trương làm mẹ đơn thân. Quả thật, một chủ trương như thế là hiểu sai lầm về đời sống gia đình. Bởi khi một người con chào đời nó có quyền được tận hưởng tình yêu giữa người cha và người me, bởi từ chính tình yêu này nó học được bài học đầu đời về chính vẻ đẹp của mối tương quan giữa người với người, nói như Đức Thánh cha Phanxicô trong Tông huấn Niềm vui Tin Mừng đã minh định: “Mỗi đứa con đều có quyền nhận được lòng yêu thương của một người mẹ và một người cha; cả hai người đều cần thiết đối với sự phát triển toàn diện và hoà hợp của đứa con. Mỗi người phối ngẫu ‘góp phần một cách khác biệt vào việc dưỡng dục đứa con. Tôn trọng phẩm giá đứa con có nghĩa phải xác nhận nhu cầu của nó và quyền tự nhiên của nó được có một người mẹ và một người cha’” (Số 172). Đức Thánh cha còn nhấn mạnh thêm: “Trẻ em không có cha, cũng có nghĩa là chúng bị tước mất tuổi thơ trước thời gian và vì thế đó là một điều không tốt’’ (số 177).
Lạy Chúa, Chúa đã nhập thể trong một gia đình có cha có mẹ, xin cho các em thiếu nhi luôn được hưởng trọn niềm vui đến từ cha từ mẹ. Xin cho các bậc phụ huynh luôn ý thức tầm quan trọng sự hiện diện của mình trong gia đình để con cái được hưởng một nền giáo dục đúng đắn nhờ đó các em được phát triẻn nhân cách toàn diện. Amen.
Chúng ta đang tiến gần đến lễ Noel. Noel, một từ cổ của tiếng Pháp có nguồn gốc Latin (natalis) có MV4-A135
Chúng ta đang tiến gần đến lễ Noel. Noel, một từ cổ của tiếng Pháp có nguồn gốc Latin (natalis) có nghĩa là 'sinh ra', nói đến chính ngày sinh của Chúa Giêsu Kitô: Đây là biến cố trung tâm của lịch sử Cứu độ và của toàn bộ lịch sử nhân loại. Ngày sinh của Chúa Giêsu mang một ý nghĩa rất quan trọng, đó chính là ngày Thiên Chúa thực hiện lời hứa như Tiên tri Isaia đã loan báo: Này đây một Trinh Nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Thiên Chúa trong con người của Con Một Ngài là Chúa Giêsu Kitô đã làm người để chia sẻ thân phận con người phải chết với nhân loại, để nhân loại được chia sẻ bản tính Thần linh với Thiên Chúa.
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1. Bài đọc I: Is 7,10-16
Dấu chỉ Emmanuel
Để thúc đẩy vua Achaz đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa hơn là dựa vào sức mạnh của liên minh quân sự, Tiên tri Isaia đã cho ông một dấu chỉ nói lên ý muốn của Thiên Chúa sẽ yêu thương hiện diện với dân và cứu thoát dân tộc.
a. Bị tranh chấp trong nội bộ vương quốc, bị đe dọa bởi các dân láng giềng, Vua Achaz nghĩ đến việc nhờ người Assyriens giúp đỡ. Tiên tri Isaia đã khuyên can ông không nên làm thế.
b. Vì không nghe theo lời khuyên khôn ngoan của tiên tri, vua Achaz sẽ bị trừng phạt và vương quốc của ông bị tàn phá. Nhưng vì lòng thương xót, Thiên Chúa sẽ ban cho ông một người con trai từ dòng dõi ông, chính người con này sẽ là người giải phóng dân tộc.
c. Người con này là Ezéchiaz, một vị vua tuyệt vời. Ông là hình ảnh của Đấng Messia và mẹ ông là hình ảnh của Đức Trinh Nữ Maria. Đây là những dấu chỉ để hướng tới việc chuẩn bị chờ đón Đấng Cứu Thế là Chúa Giêsu Kitô là Đấng Emmanuel đích thực.
2. Bài đọc II: Rm 1,1-7
Lời loan báo về ơn Cứu độ nơi Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, Con Vua Đavít.
Bản văn được trích đọc này khởi đầu lá thư dài của Thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma. Văn phong của bản văn như là một cách chào hỏi của tác giả. Thánh nhân nhấn mạnh đến sứ điệp Tin mừng mà Ngài đã lãnh nhận, sứ điệp này mạc khải về Đức Giêsu Kitô con vua Đavít, Người chính là Đấng Messia.
a. Thánh Phaolô được vinh quang và danh dự không phải do công trạng gì cả mà chỉ do được chọn gọi để công bố sứ điệp Tin mừng. Đó chính là điều làm nên phẩm giá của người môn đệ và trách vụ của người Tông đồ.
b. Sứ điệp Tin mừng này cho thấy phẩm giá cao quí của Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Người đã làm người thuộc dòng dõi vua Đavít theo xác thịt, là con người thật ; là Con Thiên Chúa theo Thánh Thần.
c. Trong thời gian mùa Vọng này, chúng ta hãy cảm nghiệm hơn nữa ân sủng cao quý vô song mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta qua Mầu nhiệm Nhập thể: Con Một của Ngài đã làm người ở giữa chúng ta đã mang lại thân phận con người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi.
3. Tin mừng: Mt 1,18-24
Vai trò cao trọng của Thánh Giuse
Tin mừng hôm nay cho thấy vai trò cao trọng của Thánh Giuse được chọn làm cha của Chúa Giêsu theo luật pháp, Con Một Thiên Chúa, đã nhập thể trong cung lòng Trinh Nữ Maria nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần. Với vai trò này, Thánh Giuse đã cộng tác cách đặc biệt với Thiên Chúa trong công trình cứu độ của Ngài.
a. Giuse, người công chính: Sự công chính của Thánh Giuse không thể hiểu đơn giản là sự công chính theo lề luật mà là sự công chính tôn giáo. Ngài là người công chính vì tôn trọng công trình của Thiên Chúa nơi Đức Maria, Ngài thấy mình không có quyền dành lấy người mà Thiên Chúa đã dành riêng. Và cũng vì tế nhị nên cẩn thận không tiết lộ mầu nhiệm thần linh nơi Đức Maria. Thánh Giuse phản ứng như bao người công chính khác trong Thánh kinh trước Thiên Chúa: Môisen cởi giày trước bụi gai bốc cháy, Phêrô sợ hãi trước mẻ cá lạ phải thốt lên: "Lạy Chúa, xin hãy trách xa con vì con là người tội lỗi".
b. Sau khi được thiên sứ báo mộng, Thánh Giuse không còn thụ động nữa, Ngài đã trỗi dậy thực hiện lệnh truyền của Thiên Chúa. Chính hành động này làm cho Ngài trở nên một thành viên tích cực trong công trình cứu độ của Thiên Chúa, nên người công chính.
c. Emmanuel: Matthêu đã nhắc lại lời tiên báo của Isaia 7,14 để minh chứng rằng Chúa Giêsu chính là Đấng đã được các tiên tri loan báo. Lời Thiên Chúa hứa thuở xưa nay đã được thực hiện. Chúa Giêsu Con Một Thiên Chúa đã đến làm người ở giữa nhân loại để ban ơn Cứu độ.
II. GỢI Ý BÀI GIẢNG
1. Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta, nơi Chúa Giêsu lời hứa đã thành hiện thực:
Thiên Chúa ở cùng chúng ta là để yêu thương và ban ơn cứu độ. Điều này đã được Chúa Giêsu thực hiện cách trọn vẹn. Mátthêu trong trình thuật hôm nay đã trích dẫn lời Tiên tri Isaia ngày trước để minh chứng Chúa Giêsu đã nhập thể trong cung lòng Trinh Nữ Maria chính là để thực hiện lời hứa mà Thiên Chúa đã hứa qua miệng Tiên tri Isaia. Ở phần cuối Tin mừng thứ nhất này, Mátthêu cũng ghi lại lời hứa của Chúa Giêsu với các môn đệ: Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế (Mt 28,20). Như thế, Tin mừng theo Thánh Mátthêu đã khởi đầu và kết thúc với tư tưởng xuyên suốt: Thiên Chúa đã ở cùng nhân loại nơi con người Chúa Giêsu Kitô.
Ngày nay chúng ta sống là sống trong Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta có Người đồng hành, có Người hướng dẫn, có Người sẻ chia cuộc sống. Thế thì tất cả cuộc sống của chúng ta có sống và làm nhờ Người, với Người và trong Người không ?
2. Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta, cần phải biết đón nhận Ngài:
Thánh Giuse là người công chính vì đã âm thầm từ chối coi mình là cha đứa trẻ mà Ngài biết là Con Thiên Chúa, Ngài sợ mang tiếng là người chiếm đoạt vai trò mà Chúa không ủy thác. Thế nhưng, một khi đã biết ý định của Thiên Chúa mời gọi tham dự vào chương trình của Thiên Chúa, Ngài không từ chối. Như vậy sự công chính của Thánh Giuse chính là biết tôn trọng và nghe theo Chúa. Giuse đã đón nhận Chúa Giêsu. Đến lượt mỗi người chúng ta cũng phải biết nghe và đón nhận Chúa đến trong cuộc đời, trong gia đình mình. Chúa đang hiện diện với chúng ta, điều quan trọng là mỗi người có biết đón Chúa hay không.
Ngày nay, tin vào sự hiện diện của Chúa trong Kinh thánh, trong Bí tích Thánh thể xem ra dễ dàng hơn việc Thánh Giuse tin rằng con trẻ mà hôn thê của mình đang mang là Con Thiên Chúa. Chúa đã đến với nhân loại, Ngài đang hiện diện sống động nơi Giáo hội, nơi Lời của Ngài, nơi anh chị em nghèo khổ … Kitô hữu hôm nay có biết đón tiếp Ngài không ?
3. Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta, nguồn hạnh phúc cho con người:
Thiên Chúa đến ở với nhân loại chính vì yêu thương và ban tặng hạnh phúc cho nhân loại. Ngay từ khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã tạo dựng vì yêu và vì muốn ở với con người. Trước khi sa ngã, Thiên Chúa vẫn luôn đến với con người. Chỉ vì sa ngã phạm tội mà con người đã từ chối Thiên Chúa mà thôi. Với sự hiện diện của Chúa Giêsu giữa lòng nhân thế để ban ơn Cứu độ, Thiên Chúa muốn tái lập lại tình trạng hạnh phúc cho con người. Ở đâu có Thiên Chúa, ở đó có bình an, hoan lạc và tình yêu.
Thực ra cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa mang lại niềm vui và hạnh phúc không phải là điều dễ dàng. Cần phải tin, cần phải chuyên cần cầu nguyện và cần phải gắn bó với Chúa luôn trong Mầu nhiệm Thánh thể mới có khả năng cảm nghiệm được hạnh phúc có Chúa trong cuộc đời. "Có Chúa trong cuộc đời nỗi sướng vui tuyệt vời" là lời hát phải bật lên từ toàn bộ tâm khảm, toàn bộ con người trung thành với niềm tin.
Dẫn vào Phụng vụ Thánh thể:
Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Chúa Giêsu đã đến để thực hiện lời hứa này của Thiên Chúa Cha. Nơi Bí tích Thánh thể, Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện sống động với nhân loại hôm nay. Chúng ta cùng tiến đến Bàn tiệc Thánh thể để đón tiếp Người vào trong cuộc đời, trong gia đình chúng ta.
III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU:
Mở đầu: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa đã yêu thương đến ở với chúng ta để mang lại hạnh phúc cho nhân loại. Chúng ta cùng hân hoan chạy đến cầu xin với Ngài.
1. Giáo hội, Nhiệm thể của Chúa Giêsu chính là nơi con người và thế giới gặp gỡ với Thiên Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Giáo hội luôn biết đồng hành với nhân loại để thực sự chia sẻ mọi nỗi vui mừng và âu lo để làm cho thế giới hôm nay ngày càng có hòa bình, công lý và hạnh phúc hơn.
2. Ngày nay có nhiều người, nhiều nơi chưa nhận biết Chúa mặc dù Ngài vẫn hiện diện. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người nhất là những người nghèo khổ bất hạnh, những bệnh nhân luôn nhận ra sự hiện diện đầy tình yêu của Thiên Chúa qua lòng bác ái quảng đại của mọi anh chị em Kitô hữu.
3. Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người, mọi gia đình trong cộng đoàn chúng ta biết mở lòng đón Chúa bằng thái độ chân thành sống và thực thi Lời Chúa ; bằng lòng yêu mến Thánh thể nhiệt tâm.
Lời kết: Lạy Thiên Chúa là tình yêu, chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương ban Chúa Giêsu, Con Một của Chúa đến làm người ở giữa chúng con. Xin ban ơn giúp chúng con biết mở lòng đón nhận Người qua việc yêu mến Lời Người và chuẩn bị tâm hồn xứng đáng đón nhận Mình Máu Thánh Người. Người là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
Trong ít ngày nữa, chúng ta sẽ mừng Sinh Nhật của Chúa Giê-su. Nhưng chúng ta không thể mừng MV4-A136
Trong ít ngày nữa, chúng ta sẽ mừng Sinh Nhật của Chúa Giê-su. Nhưng chúng ta không thể mừng sinh nhật của một người mà không biết rõ thân thế của người ấy. Vậy thân thế của Chúa Giê-su như thế nào? Các bài đọc của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đồng loạt trình bày Chúa Giê-su xuất thân từ đâu: ngôn sứ I-sai-a nhận được mặc khải của Thiên Chúa là “Này đây người trinh nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en”; thánh Phao-lô thì nhìn thân thế của Chúa Giê-su theo hai chiều kích: là người phàm, Chúa Giê-su thuộc dòng dõi vua Đa-vít, là Đấng Cứu Độ, Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa; còn thánh sử Mát-thêu, ngài đã tổng hợp những điều kể trên để trình bày và giải thích về “gốc tích” Chúa Giê-su cặn kẽ hơn.
Sau khi vua Sa-lô-môn băng hà, nước Ít-ra-en chia làm hai: vương quốc miền bắc vẫn giữ tên là nước Ít-ra-en và vương quốc miền nam là Giu-đa. Thời vua A-khát trị vì nước Giu-đa, vương quốc miền bắc đã liên kết với vua A-ram để xuống đánh miền nam và thành thánh Giê-ru-sa-lem. Thiên Chúa sai ngôn sứ I-sai-a đến gặp vua A-khát để báo cho vua biết Thiên Chúa hứa không để nước Giu-đa bị tiêu diệt, vì Người sẽ luôn ở với Giu-đa. Chúa còn bảo vua A-khát cứ xin một dấu chỉ để cho thấy lời hứa ấy là chắc chắn. Vua không dám xin thì Chúa đã cho biết dấu chỉ ấy: “Này đây người trinh nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en”. Dấu chỉ này nói lên thân thế vị cứu tinh của nước Giu-đa thời ấy. Tuy nhiên đây cũng là lời hứa ám chỉ Chúa Giê-su, Đấng Cứu Độ sẽ xuống thế làm người. Chúa Giê-su là con trai của một trinh nữ tức là Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, cho nên bên cạnh nguồn gốc Thiên Chúa vì là Con Một, Người còn thực sự có nguồn gốc nhân loại nữa, tức là con Đức Ma-ri-a. Ngoài ra, Người cũng mang một cái tên của nhân loại: Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-tôi. Tên nói lên sứ mệnh của một người. Với danh hiệu Em-ma-nu-en, Chúa Giê-su thực là Thiên Chúa ở với chúng ta, như thánh sử Gio-an diễn tả: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14).
Ngôn sứ I-sai-a đã nói tiên tri về việc Chúa Giê-su sinh bởi Trinh Nữ Ma-ri-a và sứ mệnh của Người là ở với nhân loại để cứu độ họ. Còn thánh Phao-lô thì diễn tả gốc tích Chúa Giê-su theo quan điểm thần học qua cách phân biệt Chúa Giê-su vừa là một “người phàm”, con của Đức Ma-ri-a, vừa là Con Thiên Chúa, “Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần”. Là người phàm, Chúa Giê-su “xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít” và đang khi sống tại trần gian, Người đã thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng, rồi kết thúc sứ mệnh ấy với cuộc Thương khó và sự Phục Sinh. Tuy nhiên cũng Chúa Giê-su ấy, sau khi từ cõi chết sống lại thì Người “đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng”. Hoặc nói cách khác theo lời lẽ của kinh Tin kính, Chúa Giê-su vừa là người thật vừa là Thiên Chúa thật. Chính nhờ gốc tích Thiên Chúa và nhân loại này mà Chúa Giê-su có thể chia sẻ cùng một lúc với chúng ta cả bản tính nhân loại lẫn bản tính Thiên Chúa của Người.
May mắn là bên cạnh suy tư thần học cao siêu của thánh Phao-lô về gốc tích Chúa Giê-su, chúng ta lại có đoạn Tin Mừng Mát-thêu thuật lại việc Chúa Giê-su xuất thân như thế nào. Trước hết thánh sử Mát-thêu muốn giải thích sự kiện Chúa Giê-su thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Mặc dù Chúa Giê-su là con của Đức Ma-ri-a do quyền năng Chúa Thánh Thần, nhưng theo pháp lý Người vẫn là con cháu vua Đa-vít, vì thánh Giu-se thuộc dòng dõi vua Đa-vít đã thành hôn với Mẹ Ma-ri-a. Đúng vậy, Chúa Giê-su ra đời trong tình trạng hôn nhân hợp pháp giữa thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a, do đó trên phương diện luật lệ Chúa Giê-su cũng được gọi là con của thánh Giu-se thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Thánh Mát-thêu kể lại “gốc tích” Chúa Giê-su theo phương diện luật pháp, nhưng sứ thần lại cho thánh Giu-se biết tất cả về sứ mệnh của Chúa Giê-su. Trước hết sứ thần nói đến việc thánh Giu-se “phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”. Thật là sự trùng hợp kỳ diệu: trong Cựu Ước, ngôn sứ I-sai-a nói tiên tri việc đặt tên con trẻ là Em-ma-nu-en thì nay trong Tân Ước, thánh Giu-se phải đặt tên con trẻ là Giê-su, nghĩa là Thiên Chúa cứu. Tuy hai cái tên khác nhau, nhưng cả hai cùng mang một ý nghĩa: Thiên Chúa ở với dân Người để cứu họ khỏi tội lỗi của họ.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Em-ma-nu-en và Giê-su là những danh hiệu chúng ta cần suy gẫm suốt đời. Danh hiệu nào cũng biểu lộ một chân lý cao cả, đó là Thiên Chúa đã yêu trần gian đến nỗi ban Con Một, để tất cả những ai tin vào người Con ấy thì sẽ được sống đời đời. Thánh Phao-lô còn gọi chân lý này là Tin Mừng và ngài vô cùng hãnh diện vì nhờ Chúa Giê-su Ki-tô, ngài “đã nhận được đặc ân và chức vụ Tông Đồ” để rao giảng Tin Mừng ấy. Chúng ta đang chuẩn bị tâm hồn mừng lễ Giáng Sinh, nhưng Chúa Giê-su là Đấng Em-ma-nu-en đang ở giữa chúng ta rồi! Quan trọng là ta có dọn tâm hồn thành máng cỏ xứng đáng để Chúa sinh ra, ở lại với ta và trở nên lương thực thiêng liêng cho ta, như cỏ chứa trong máng cho chiên bò được sống không? Thêm nữa, chúng ta được tham gia vào chức vụ tông đồ, vậy ta có rao giảng Chúa cho người khác không?
Đã có sự kết hợp giữa Thiên Chúa và nhân loại ngay từ thuở đầu tạo dựng. Nhưng con người lại MV4-A137
Đã có sự kết hợp giữa Thiên Chúa và nhân loại ngay từ thuở đầu tạo dựng. Nhưng con người lại không vâng phục Chúa, để cho tội lỗi phân cách họ với Chúa. Tuy nhiên Chúa không để mối tương quan này bị dứt bỏ, nên Người cố gắng hàn gắn bằng nhiều cách. Nào là Người ban hành Lề Luật để giúp con người sống trung thành với Người. Nào là Người tiếp tục dạy dỗ họ, sai các ngôn sứ đến để sửa dạy hoặc kêu gọi họ trở về đường công chính. Mặc dù những cách ấy đã biểu lộ tình yêu quan tâm của Thiên Chúa, nhưng xem ra vẫn chưa đủ hữu hiệu để giữ cho mối tương quan được thắm thiết lâu bền. Đến mức độ này thì tình yêu của Thiên Chúa đã can thiệp. Tình yêu đã chọn lựa một phương thức táo bạo nhất: Thiên Chúa đích thân đến và cư ngụ giữa loài người. Đó là chủ đề của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay.
Thực ra thì kế hoạch Thiên Chúa đến cư ngụ giữa loài người đã được phác họa tự đời đời. Tin Mừng nguyên thủy này đã được Thiên Chúa loan báo cho A-đam và E-va, khi Người phán bảo con rắn: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3:15). Với quyền năng của Người, Thiên Chúa có thể từ trời cao hủy diệt con rắn tức là tội lỗi. Nhưng Thiên Chúa không làm như vậy, mà lại chọn phương thức “gậy ông đập lưng ông”, để đối phó với tội lỗi và để củng cố mối tương quan giữa Chúa với loài người. Đúng vậy, ma quỷ đã đánh bại loài người, thì bây giờ chính loài người phải đánh bại nó. Ma quỷ đã quật ngã được A-đam cũ thì bây giờ A-đam Mới là Chúa Giê-su sẽ quật ngược lại ma quỷ. Lý luận xem ra giản dị như vậy, nhưng thực hiện kế hoạch lại là chuyện khác! Tình yêu thắng vượt mọi khó khăn, cho nên Thiên Chúa đã chọn phương thức liều lĩnh của tình yêu để phá bỏ ngăn cách,bởi Thiên Chúa là vô hạn trong khi con người là hữu hạn. Thiên Chúa đã hạ mình chấp nhận sự hữu hạn của loài người, để đích thân đến ở giữa loài người và để giải thoát họ khỏi ma quỷ cùng tội lỗi. Thế là con đường cứu độ được vạch sẵn: Ngôi Lời của Thiên Chúa sẽ giáng trần, đi vào lịch sử nhân loại, hầu dẫn họ về nhà Cha trên trời của họ. Thiên Chúa sai ngôn sứ I-sai-a phát thanh cho nhân loại biết dấu chỉ về kế hoạch này như sau: “Chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người trinh nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en” (Bài đọc 1).
Khi thời điểm thực hiện kế hoạch đã tới, Thiên Chúa chính thức mời gọi một con người chấp nhận vai trò làm “gốc tích” nhân loại cho Người, đó là thánh Giu-se. Thiên Chúa không muốn hiện ra uy nghi như xưa trên núi Si-nai, nhưng muốn âm thầm “cư ngụ” giữa loài người. Qua thánh Giuse, Thiên Chúa thực sự mang căn tính nhân loại, có gốc gác đàng hoàng, chứ không phải bỗng dưng từ trời rơi xuống! Chúng con vô vàn cảm tạ thánh cả Giu-se! Nhờ ngài và Mẹ Ma-ri-a mà chúng con có Đấng được đặt tên là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Bài Tin Mừng)! Cũng nhờ vậy, Chúa Giê-su mới có “gia phả”. Ghi lại gia phả này, thánh sử Mát-thêu theo thứ tự gia phả đi từ ông Áp-ra-ham xuống đến thánh Giu-se, còn thánh Lu-ca lại đi ngược lên các thế hệ cho tới A-đam tiên khởi. Tất cả chỉ nhằm nói lên gốc tích Thiên Chúa (Ngôi Lời) và gốc tích nhân loại (con bà Ma-ri-a) của Chúa Giê-su. Qua hai “gốc tích” này, Chúa Giê-su giáng sinh đã “cư ngụ giữa chúng ta”, để thực hiện mối tương quan mới giữa Thiên Chúa và nhân loại vậy!
Sống sứ điệp Lời Chúa
Mục đích của kế hoạch “Em-ma-nu-en” của Thiên Chúa là gì nếu không phải là để dạy dỗ, biến đổi chúng ta trở nên giống với Con Một Người và đưa chúng ta về kết hợp với Người muôn đời? Như lời thánh Phao-lô nói trong thư Rô-ma, Chúa Giê-su đã được sai đến trần gian là để kêu gọi chúng ta hãy kết hợp với Người, vì kết hợp với Chúa Giê-su là chúng ta kết hợp với chính Thiên Chúa. Đó chính là tham dự vào kế hoạch kết hợp Thiên Chúa và chúng ta với nhau, một thể hiện sống động thực tại Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Vậy ta hãy kết hợp với Đấng Em-ma-nu-en, để ta sẽ được gọi là Chúng-con-ở-cùng-Thiên-Chúa!
Mùa vọng là mùa chờ đợi, mong mỏi Đấng Cứu Thế. Nhân loại đã phản bội Chúa, dân Do Thái MV4-A138
Mùa vọng là mùa chờ đợi, mong mỏi Đấng Cứu Thế. Nhân loại đã phản bội Chúa, dân Do Thái, dân riêng của Chúa đã nhiều lần phản nghịch lại chính Thiên Chúa. Tuy nhiên, Ngài không bỏ rơi nhân loại, bỏ rơi con người, Ngài luôn trung thành dù con người lỗi nghịch. Chính vì thế, Thiên Chúa đã chọn biết bao ngôn sứ đi trước để dọn đường cho Con của Chúa đến. Nhiều vị tiên tri lớn nổi tiếng như Êlia, Giêrêmia, Isaia …và rồi Chúa nhật trước Giáo Hội giới thiệu một gương mặt chói ngời là Gioan Tẩy Giả. Ông đã được Thiên Chúa sai đến để dọn lòng cho dân đón Chúa đến. Hôm nay, Giáo Hội lại cho chúng ta thấy hai vai trò quan trọng và cùng cộng tác với Chúa trong lịch sử cứu rỗi: Đức Trinh Nữ Maria và thánh Giuse. Mẹ Maria sau khi đã thưa xin vâng với thiên thần Gabrien:” Xin hãy làm cho tôi theo như lời sứ thần truyền “ ( Lc 1, 38 ).Maria đã nong nả đi thăm bà chị họ là bà Êlisabeth cũng đã thụ thai trong lúc tuổi già. Mẹ Maria đi thăm để chung chia niềm vui với bà chị họ và ở lại giúp đỡ bà chị họ vì gia đình ông Giacaria và Isave neo đơn, tuổi tác…Maria đã ở lại với gia đình bà chị họ 6 tháng, rồi trở về nhà. Gặp lại Maria, thánh Giuse rất vui mừng, nhưng cũng lại thật phân vân, bối rối, lúng túng vì sự kiện:” Hai Ông Bà chưa ở cùng nhau, thì bà Maria đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần “ (Mt 1, 18 ).Thánh Giuse rất phân vân nhưng Ngài luôn tin và hiểu biết Mẹ Maria là một người hết mực nhân đức, đã khấn giữ mình vẹn tuyền để tận hiến mình cho Thiên Chúa, tuy nhiên, những việc xẩy ra ngoài óc suy nghĩ của con người khiến thánh Giuse không thể nào giải đáp nổi. Về phần Maria, Mẹ giữ im lặng để điều Thiên Chúa thực hiện sẽ được tỏ lộ ra cho bạn trăm năm của mình là thánh Giuse. Tin Mừng viết:” Giuse bạn Maria là người công chính và không muốn làm hại, làm ố danh Maria, nên đã định tâm bỏ Maria cách kín đáo “ ( Mt 4, 19 ). Thực tế, thánh Giuse đã rất yêu thương Đức Mẹ, Ngài không muốn làm ố danh Mẹ, không muốn làm Mẹ phải đau, nên, thánh Giuse đã chỉ có một ý định là bỏ đi cách kín đáo để bảo tồn danh dự cho Mẹ Maria, đồng thời không làm đau khổ. Kinh Thánh đã dùng chữ “ công chính” để diễn tả tâm hồn đạo đức, thánh thiện của Giuse.
Ngài là một vị thánh, một người được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn, một người được dành riêng hoàn toàn cho Thiên Chúa. Giuse chắc chắn đã được Mẹ Maria thổ lộ sự thật, sự bí mật Thiên Chúa đã lựa chọn Người, đã cất nhắc Người. Do đó, Giuse cảm thấy mình thật bé nhỏ, thật bất xứng với người Bạn đời vô cùng thánh thiện, đã được đắc sủng với Thiên Chúa. Như Môsê thấy Chúa trong bụi gai, Ông thấy mình quá bất xứng trước mặt Đấng vô cùng tối cao, vô cùng chí thánh. Giuse cũng cảm thấy như vậy, nên Ngài đã có ý định trốn đi vì không xứng được ở bên Maria là Người đã được Thiên Chúa chọn dành riêng cho mình. Thiên Chúa đã có con đường của Ngài bởi vì như thánh Phaolô viết:” Những ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang “ ( Rm 8, 30 ). Thánh Bênađô đã giải thích ý định ra đi của thánh Giuse theo lối đó:” Thánh Giuse chỉ còn một lối thoát là âm thầm rút lui “.
Tuy nhiên, Thiên Chúa có lối của Ngài vì thế trong một giấc mơ, chính Thiên Thần đã hiện ra và bảo cho Giuse biết:”…cái thai mà Maria đang mang là do phép Chúa Thánh Thần. Đứa Con mà Maria sẽ sinh ra, Ông sẽ đặt tên là Giêsu, vì chính Giêsu sẽ cứu dân của Ngài khỏi tội…Giuse, Con vua Đavít đừng ngại đón Maria về “. Tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Chúa truyền. Thật sự đây là việc lạ lùng của Chúa. Giuse đã vui vẻ đón Maria về, bảo vệ, chở che, nâng đỡ Mẹ Maria. Kinh Thánh cho hay:” Hai Ông Bà sống với nhau hoàn toàn như đời thánh hiến, hai Ông Bà không biết việc vợ chồng…” ( Mt 1, 24-25 ).
Thánh Giuse là Đấng công chính, hoàn toàn tuân theo ý Chúa. Ngài là Bạn trăm năm của Đức Mẹ nhưng sống hoàn toàn cho Chúa, tận hiến cho Ngài. Thánh Giuse là dưỡng phụ của Chúa Giêsu. Cha Joseph-Marie đã viết một đoạn rất hay:” Tôi bảo thật các ông, không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình “ ( Lc 4, 24 ).Ta cảm nhận được trong mấy lời ngắn ngủi này tất cả nỗi khổ tâm của Đức Giêsu bị xua đuổi bởi những người mà Ngài đã chung sống suốt 30 năm.Nhưng còn hơn thế nữa, câu này cũng diễn tả nỗi khổ tâm của Đấng Mêsia, nay bị con cháu các vị ngôn sứ chối từ nhận biết, trong khi đáng ra họ là những người có sứ mạng đón tiếp và giới thiệu Ngài cho thế gian. Hôm nay cũng như hôm qua, và có lẽ cho đến ngày tận thế, mầu nhiệm nhập thể vẫn là một cớ vấp phạm. Làm sao mà Đấng Vô Cùng lại có thể thu mình vào một thân xác hữu hạn, một thân xác phải lớn lên rồi phải chết ? Làm sao mà Đấng Vĩnh Cửu lại có thể đi vào trong thời gian ?...Chúng ta cần phải đồng ý trút bỏ hoàn toàn, và chấp nhận để mình được chỉ bảo trong thinh lặng nội tâm, bởi Đấng từ Thiên Chúa mà đến để dạy dỗ chúng ta trong trường học tình yêu của Thiên Chúa “. Thánh Giuse lại khác, Ngài đã đón nhận Mẹ Maria và dưỡng nuôi Chúa Giêsu trong gia đình Nagiarét suốt 30 năm trước khi Ngài khai mạc sứ vụ rao giảng công khai.
Maranatha! Lạy Chúa Giêsu xin hãy đến.
Như vậy, vai trò của thánh Giuse và Mẹ Maria có một chỗ đứng rất quan trọng trong lịch sử cứu rỗi. Thánh Giuse đã im lặng để chiêm ngưỡng mầu nhiệm cao cả: Con Thiên Chúa Nhập Thể làm người và âm thầm trầm lắng để bảo vệ Mẹ Maria trước mặt luật pháp, và dưỡng nuôi Chúa Giêsu với tất cả tình thương của Người.
Lạy thánh cả Giuse, xin thương nâng đỡ chúng con và giúp chúng con có lòng tin sâu xa như Ngài.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ được Thiên Chúa tuyển chọn dành riêng cho Ngài và chỉ Mẹ mới có diễm phúc được là Mẹ Thiên Chúa. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Chúa nhật thứ tư Mùa Vọng thường được dành riêng để nói về ai ? 2.Tại sao thánh Giuse lại định lìa bỏ Mẹ Maria cách kín đáo ? 3.Công chính theo Kinh Thánh là gì ? 4.Tại sao thánh Giuse lại được gọi là công chính ?
Không khí Giáng Sinh đã tràn ngập khắp mọi nơi. Những con đường đêm với những dàn đèn MV4-A139
Không khí Giáng Sinh đã tràn ngập khắp mọi nơi. Những con đường đêm với những dàn đèn nhấp nháy giăng kín làm ta có cảm tưởng như đang đi dưới bầu trời sao rực rỡ. Những máng cỏ, hang đá, cây thông …cũng đã được dựng lên để chuẩn bị cho ngày lễ hội lớn trong năm đối với người Công giáo và cả người không theo đạo. Người ta chuẩn bị tất bật vì nay đã là những ngày cuối cùng của mùa Vọng và chỉ vài ngày nữa lễ Giáng Sinh lại về trên khắp thế giới.
Chủ đề Phụng vụ Chúa nhật cuối mùa Vọng mời gọi chúng ta đón nhận Đức Giêsu vào trong cuộc đời của mình để chúng ta được tham dự vào mầu nhiệm tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa theo kế hoạch yêu thương từ ngàn xưa qua Đức Giêsu Kitô: “Chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai và đặt tên là Emmanuel.” (Is 7,14) và “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta."” (Mt 1, 23).
Thiên Chúa đã ở cùng chúng ta lâu lắm rồi nhưng ta đã chuẩn bị như thế nào để được ở cùng Thiên Chúa? Suốt mùa Vọng ta đã được nghe những lời mời gọi sám hối, những buổi tĩnh tâm …mà hầu như giáo xứ nào, hội đoàn nào cũng tổ chức. Nhưng rồi những lo toan, tất bật của cuộc sống hàng ngày đã làm ta quên những tâm tình của mùa Vọng!
Xin cùng lắng đọng tâm hồn để mỗi người trong chúng ta không chỉ chuẩn bị đón Chúa Giáng Sinh bằng những dấu chỉ bên ngoài nhưng còn thật sự đón Chúa đến trong tâm hồn mỗi người qua Lời Chúa Chúa nhật thứ IV mùa Vọng.
Trước hết chúng ta cần mở lòng đón nhận ơn Chúa và cộng tác với Chúa Thánh Thần, tích cực đem Tin mừng cứu độ cho những người hôm nay chưa được nghe loan báo Tin mừng nước trời; chưa được nhận biết và khám phá nguồn hạnh phúc đích thực nơi Thiên Chúa như Thánh Phaolô khẳng định: “Tôi, Phaolô, tôi tớ của Đức Giêsu Kitô; tôi được gọi là Tông Đồ và dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa”. (Rm 1,1-3).
Đó là Tin Mừng về Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Người là Đấng mà Thiên Chúa đã hứa ban qua miệng các ngôn sứ. Người mang lấy và chia sẻ thân phận con người. Người là sự hiện hữu cụ thể của Thiên Chúa giữa con người; Người quả thật là “Emmanuel”.
Tiếp đến chúng ta hãy tìm kiếm và thực thi ý Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Can đảm và mau mắn cộng tác vào kế hoạch của Thiên Chúa qua việc Ngài mời gọi chúng ta sống và thực thi sứ điệp của Ngài. Tận tâm chu toàn mọi bổn phận mà Chúa trao ban cho ta trong từng ngày và mau mắn đón nhận thánh ý Thiên Chúa như Thánh Giuse khi Thiên Chúa mặc khải kế hoạch cứu độ qua giấc mộng: "Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ." (Mt 1,20-21) để “Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà”. (Mt 1,25).
Lạy Chúa, chúng con đang bước vào những ngày cuối cùng của mùa Vọng với không khí se lạnh của những ngày cuối năm nhưng cũng rất ấm áp trong tình yêu thương qua kế hoạch cứu độ của Ngài. Xin cho chúng con nhận biết những ngày chúng con sống mãi mãi là mùa Vọng để chúng con luôn luôn chuẩn bị, trang hoàng tâm hồn chúng con bằng Lời Chúa. Để mỗi năm, khi chúng con cất tiếng hát “Trời cao hãy đổ sương xuống …”. Chúng con lại được cảm nghiệm hơn nữa tình yêu thương của Chúa qua con trẻ Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng con.
Ông đang toan tính như vậy, thì sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giuse, là con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”. (Mt. 1, 20-21)
Nhiều khi chúng ta làm hỏng kế hoạch của Thiên Chúa vì không biết được tính chất huyền nhiệm. Hôm MV4-A140
Nhiều khi chúng ta làm hỏng kế hoạch của Thiên Chúa vì không biết được tính chất huyền nhiệm. Hôm nay, Tin mừng cho chúng ta thấy Giuse như chống lại đường lối huyền nhiệm của Thiên Chúa.
Giuse bị đặt trước sự kiện một con trẻ được cưu mang bởi một nữ đồng trinh. Đức Maria, vị hôn thê của ông, được chọn làm Mẹ theo ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa. Mẹ được chọn đi vào đường lối khác thường. Thái độ của Mẹ thế nào? Thái độ của người công chính ra sao? Không phải thứ công chính giữ theo luật pháp, cũng không theo ý niệm loài người của Maria. Công chính đây theo nghĩa riêng của Kinh thánh là hợp với thánh ý Thiên Chúa. Giuse công chính vì ông kính trọng công trình của Thiên Chúa và thực thi vai trò Thiên Chúa xếp đặt cho ông. Trong khi thánh Giuse chuẩn bị cho Maria hoàn toàn tự do theo đường lối nhiệm mầu của Thiên Chúa đã se định, thì Thiên Chúa đã làm cho ông khám phá ra rằng ông cũng giữ một vai trò thiết yếu đối với xã hội là bảo lãnh cho Đức Giêsu thuộc gia hệ ông. Thực vậy, chính nhờ ông, Đức Giêsu thuộc dòng Đavít. Ông đã làm tròn vai trò đó khi nhận Maria làm vợ, đồng thời bảo đảm cho con trẻ sắp sinh ra có cha trước luật pháp. Nhờ thế Thiên Chúa đã thực hiện kế hoạch đã định cho Đấng Cứu thế thuộc con dòng Đavít.
Khi nhận ra thân phận loài người chúng ta, Đức Giêsu cho chúng ta thấy rõ rằng chính trong lịch sử đời mỗi người chúng ta, trong cuộc sống hàng ngày Chúa Cha cũng thực hiện kế hoạch cứu độ của Ngài. Chúng ta có thể noi theo thái độ của người công chính như thánh Giuse không? Với con mắt đức tin, chúng ta có sẵn sàng luôn luôn chú ý tuân theo ý Chúa đang thực hiện trong đời sống chúng ta không?
Những người yêu nhau, thường thích ở gần nhau. Thiên Chúa yêu chúng ta, Ngài muốn ở mãi MV4-A141
Những người yêu nhau, thường thích ở gần nhau. Thiên Chúa yêu chúng ta, Ngài muốn ở mãi cùng chúng ta. Hơn nữa, Ngài còn muốn chúng ta cảm nghiệm được sự hiện diện của Ngài trong đời sống mỗi người.
1. Qua tạo vật
Với một bông hồng nhung, hoặc hồng bạch, hoặc một đoá cúc trắng, người ta có thể trầm trồ khen “đẹp quá”. Khi đi xem vịnh Hạ Long, nhiều người buột miệng: “Thiên Chúa tài thế, Ngài tạo dựng cảnh đẹp tuyệt”. Tạo vật vô tri vô giác cũng là dấu chỉ Thiên Chúa đang hiện diện với con người. Qua nét đẹp của tạo vật, con người có thể nhận ra Thiên Chúa đẹp tuyệt vời.
Thiên Chúa hiện diện một cách đặc biệt qua con người. Nét đẹp tinh thần của con người, như lòng vị tha, lòng thương xót và bác ái được thể hiện qua việc làm, là những dấu chỉ giúp con người nhận ra “Thiên Chúa hiện hữu” và “Ngài đẹp tuyệt vời”.
“Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự nghiệp tay Người”. Những người bình thường, không bị bệnh về mắt “thiêng liêng”, có thể nhận ra Thiên Chúa hiện diện qua trung gian các tạo vật.
2. Qua lịch sử dân Do Thái
Với những thăng trầm trong dòng lịch sử, như biến cố thoát cảnh nô lệ Aicập qua Môsê, việc thoát cảnh đàn áp bóc lột của những dân tộc xung quanh qua các thẩm phán, việc dân lưu đày trở về quê hương qua Kyrô, người Do Thái nhận biết Thiên Chúa không chỉ hiện hữu, những còn là Thiên Chúa yêu thương và giải phóng. Qua lịch sử dân Do Thái, Thiên Chúa cũng tỏ lộ chính Ngài cho các dân tộc khác. Chẳng hạn qua việc giải phóng dân Do Thái khỏi Aicập, Thiên Chúa cũng tỏ lộ chính Ngài cho người Aicập nữa.
Tuy vậy, những can thiệp này cũng có giới hạn, vì làm người ta tưởng rằng Thiên Chúa chỉ yêu thương người Do Thái mà ghét bỏ các dân tộc khác, nhưng thật không phải vậy. Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi dân tộc chứ không riêng gì dân tộc Do Thái, nhưng để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với con người nói chung, theo sư phạm Ngài cần diễn tả tình yêu của Ngài đối với những con người và dân tộc cụ thể.
Thiên Chúa không chỉ mặc khải Ngài là Đấng can thiệp vào lịch sử dân Do Thái, nhưng còn cho thấy Ngài quan tâm đến tương lai của một gia đình, một dòng họ. Qua lời hứa với Ahaz trong bài đọc thứ nhất của sách tiên tri Isaya, Thiên Chúa là bảo đảm và niềm hy vọng của một gia đình, của một dòng tộc, và của cả một dân tộc.
3. Thiên Chúa hiện diện qua những con người
Con người là hình ảnh của Thiên Chúa: “Ta hãy tạo thành con người giống hình ảnh Ta” (St.1, 26). Qua lịch sử đời người, con người hiểu biết hơn về Thiên Chúa. Thánh Yuse là biểu hiện của tình yêu Thiên Chúa cho Đức Maria. Trong trình thuật biến cố Đức Maria có thai, thánh Yuse cho thấy Ngài là người tuyệt vời. Ngài không tố cáo Đức Maria, không làm gì gây xúc phạm đến thanh danh và mạng sống của Đức Maria, tuy dù nếu Ngài tố cáo thì Ngài cũng vẫn chỉ là nói lên một sự thật. Không chỉ vậy, thánh Yuse còn quảng đại bảo bọc Đức Maria trong những giây phút khó khăn thử thách của cuộc sống. Thiên Chúa yêu thương bảo vệ Đức Maria qua thánh Yuse.
Đức Maria cũng phản ánh tình yêu và sự hiện diện của Thiên Chúa cho con người hôm nay. Bao người cầu xin với Đức Mẹ, và họ nhận ra Thiên Chúa hiện diện và an ủi họ khi họ được nhận lời. Đức Maria cũng là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa hiện diện và yêu thương Yuse. Qua tiếng “xin vâng” của Đức Maria, Thiên Chúa yêu thương và hiện diện cách đặc biệt với con người qua Đức Yêsu.
Đức Yêsu, là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình (Col.1,15). Nơi Đức Yêsu, Thiên Chúa tỏ lộ chính Ngài một cách tuyệt vời nhất. Với cái chết và phục sinh, Đức Yêsu tỏ cho con người thấy Thiên Chúa là ai: Đấng trung thành, yêu thương, kiên nhẫn và tha thứ. Nơi Đức Yêsu, con người thấy rõ Thiên Chúa yêu thương và ở với con người. Thiên Chúa đã làm tất cả, đã có sáng kiến tuyệt vời để cứu độ con người. Ngài ở với con người.
4. Emmanuel
“Thiên Chúa ở với chúng ta”. Đây là câu nói tuyệt vời. Ngày xưa, Thiên Chúa đã nói lời này với Isaac (St.26, 3.24), với Yacob (St.31, 3), để đồng hành và bảo vệ những người được Ngài yêu thương. Thiên Chúa đã ở với Môsê (Xh.3, 12), để giải phóng dân Do Thái ra khỏi Aicập, Thiên Chúa đã ở với Yoshua (Gs.1, 5), để dẫn dân riêng của Ngài vào đất hứa. Thiên Chúa đã ở với Yêrêmia (Gr.1, 19), để giải phóng tiên tri khỏi bao người bách hại ngài. Thiên Chúa đã ở với các tiên tri (Is. 41,10; 43,12), để giúp các tiên tri thi hành sứ mạng được trao.
Thiên Chúa ở với ai, là để yêu thương và bảo vệ người đó. Nơi Đức Yêsu, Thiên Chúa ở với con người, để yêu thương và giải phóng con người khỏi tội, để chỉ con người con đường “yêu thương” cứu độ, để giúp con người kiên nhẫn vượt qua chính mình và đến với người khác.
“Chúa ở cùng anh chị em”. Đây vừa là lời chào trong thánh lễ, vừa là lời chúc, và lời khẳng định một thực tại sâu thẳm. Với Đức Yêsu, Thiên Chúa ở mãi với con người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Trong kinh nghiệm sống, bạn có gặp ai diễn tả tình yêu Thiên Chúa cho bạn một cách đặc biệt không? Xin bạn chia sẻ.
2. Bạn được mời gọi để giúp ai nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện và yêu thương họ? Bằng cách nào?
3. Bạn có kinh nghiệm Thiên Chúa đang ở với bạn không? Làm sao để có kinh nghiệm Thiên Chúa đang ở với mình?
Hôm nay, để dẫn chúng ta vào mầu nhiệm vĩ đại của ơn cứu độ, mầu nhiệm “Con Chúa Giáng Trần MV4-A142
Hôm nay, để dẫn chúng ta vào mầu nhiệm vĩ đại của ơn cứu độ, mầu nhiệm “Con Chúa Giáng Trần”, mầu nhiệm “Emmanuel”, Lời Chúa lại một lần nữa trình bày với chúng ta những con người giản đơn, nhỏ bé, khiêm hạ, thuộc “nhóm nhỏ còn lại của Gia-vê” (Anawim), được gọi mời để cọng tác với Thiên Chúa trong chương trình tình yêu vĩ đại của Ngài, chương trình cứu độ.
Nói cách khác: để có “Thiên chúa ở cùng chúng ta”, thì cần phải có những con người “ở cùng Thiên Chúa”, nghĩa là những con người sẵn sàng trải rộng cõi lòng để đón nhận ý định nhiệm mầu và yêu thương của Thiên Chúa.
- I-sa-ia, vị ngôn sứ xuất hiện khoảng 600 năm trước Chúa Kitô đã mạnh dạn loan báo “ngày xuất hiện của một Đấng Em-ma-nu-en và người cọng tác đó lại là một trinh nữ: “Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Nầy đây người trinh nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en”
- Trong khi đó, trích đoạn Tin mừng Matthêô tường thuật cho chúng ta “cuộc mặc khải cho Thánh Giuse để Ngài đón nhận Đức Đức Maria làm vợ”: Phải chăng Maria, Giuse, những người công chính, đó là những “đại diện cho giai đoạn của “thời gian viên mãn”, “thời của thực hiện dứt khoát, thời của Giao Uớc Mới, thời của Đấng Em-ma-nu-en: Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Như vậy chúng ta có thể nói được rằng: trọng tâm của sứ điệp phụng vụ hôm nay đó là nhắc lại cho chúng ta chân lý nền tảng nầy: Thiên Chúa đang hiện diện, đang hoạt động trong trần gian nầy, đang thực hiện “giao ước mà Ngài đã ký kết vì yêu thương” ; và Ngài thực hiện qua những biến cố, con người, dụng cụ bé nhỏ khiêm hạ. Và chúng ta chỉ có thể cảm nhận, đón lấy hoạt động đó, hồng ân đó, giao ước đó khi hoán cải trở nên bé nhỏ khiêm hạ, hoán cải nên giống Đức Maria, nên giống Thánh Giuse như những mô hình gương mẫu.
Nhưng, để đi sâu vào những giáo huấn nầy, chúng ta thử tìm hiểu các chỉ dẫn của Lời Chúa được công bố hôm nay.
Từ ngay những trang đầu của Thánh Kinh, mặc khải của Thiên Chúa đã chỉ cho thấy rằng: cái thảm trạng to lớn nhất, kinh khủng nhất của vũ trụ, của thế giới, của loài người là “vắng bóng Thiên Chúa”. Sách Sáng thế đã ngụ ngôn rằng: Sau khi Tổ Tông con người chối từ Thiên Chúa, thì từ độ ấy, không còn nữa những buổi chiều nắng nhạt, Chúa và Người thả bộ hàn huyên nhau trong thân mật ngọt ngào; cánh cửa địa đàng khép lại, con người lủi thủi cô độc dắt nhau “cày sâu cuốc bẫm” trên những luống đất góc gai. Rồi sau đó là anh Cain giết em ruột Abel, là sa đọa và lụt đại hồng thủy, là tháp Baben chia rẽ và kiêu ngạo…
Tiếp theo những trang Thánh Kinh “mang dáng đứng huyền thoại và cổ tích đó”, Cựu ước lại tiếp nối những trang dài kinh nghiệm lịch sử của dân được chọn, Ít-ra-en: khi nào dân chọn Chúa, tin Chúa, có Chúa ở giữa dân, thì lập tức còn an vui sung túc; trái lại khi dân khước từ, chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa để chạy theo những thần tượng ngoại lai ảo ảnh, thì rơi vào những nỗi khốn cùng: nô lệ, lưu đầy, tai ương, hoạn nạn. Nhưng điều mà Lời Chúa khẳng định cách rõ nét nhất đó là: mỗi khi con người sám hối ăn năn, quay đầu trở lại, tìm đến với Thiên Chúa…lập tức Chúa lại xuất hiện, lại trở về cư ngụ giữa dân để gia ân giáng phúc. Đúng như lời Chúa nói với Mai-sen trong hoang mạc Ma-di-an: “Ta đã thấy nỗi khổ của Dân Ta” (Xh 3,5). Kinh nghiệm của 40 năm hành trình về đất hứa là “kinh nghiệm xương máu” của chọn lựa nầy, của đức tin vào sự hiện diện nầy.
Quả thật, Thiên Chúa của Ít-ra-en là Thiên Chúa sẵn sàng đồng hành hôm sớm như áng mây, như cột lửa dẫn đường, là Thiên Chúa chịu thương chịu khó cư ngụ trong lều tạm, là Thiên Chúa hiện diện nơi “hòm bia giao ước” luôn đi sát và hiện diện cùng dân. Cũng chính với niềm tin vào sự hiện diện oai hùng và thân thương đó mà, khi Đa-Vít, Vị Vua anh minh của thời định cư Đất Hứa, sau khi an định cõi bờ, đã long trọng cung nghinh Hòm Bia Giao ước về đặt tai trung tâm thủ đô Giê-ru-sa-lem để dân sớm hôm phụng thờ và lễ bái.
Tuy nhiên, những gì đã được loan báo trong Cựu ước chỉ là bóng hình và chuẩn bị. Sự hiện diện đích thực của Thiên Chúa phải đợi cho đến biến cố mà chúng ta sắp sửa cử hành và hôm nay được nhắc tới: Biến cố Ngôi Lời Nhập Thể. Vâng, Thiên Chúa không còn hiện hữu một cách tượng trưng qua áng mây cột lửa, qua hai Bia đá ghi Mười điều Răn, hay là qua “ngọn gió hiu hiu trên đĩnh Ho-reb …Đã đến thời viên mãn. “Một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Đức Mẹ Maria chính là “Hòm Bia Giao ước mới” cưu mang Con Thiên Chúa làm người.
Quả thật, bài Tin mừng Matthêô hôm nay, mô tả “cuộc thị kiến của Giuse về sự mang thai lạ lùng của Đức Maria là một bản tuyên cáo hùng hồn của Thiên Chúa về lòng yêu thương miên viễn của Ngài ; đồng thời cũng nói lên thái độ ngoan ngùy của những tâm hồn công chính khát mong ơn cứu độ. Từ đây Giao ước đã trở thành hiện thực. Tất cả mọi sự đời nầy cho dù quan trọng đến mấy, cũng phải nhường bước cho ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa, cho Tin Mừng vĩ đại Con Chúa Giáng Trần. Giuse không còn phải trốn chạy, trăn trở trước một Maria đồng trinh mà bụng mang dạ chữa ; nhưng kể từ đây hân hoan đón nhận Tin Mừng để cùng nhau sát cánh cọng tác để Tin Mừng sớm được vang xa và trở thành hiện thực.
Quả thật Đấng Emmanuel trong cung lòng Trinh Nữ Maria đã làm cho tất cả những ước mơ, hy vọng của con người từ đây được đáp ứng: sự hiện diện của Ngôi Lời Thiên Chúa đã chuyển từ không tới có, từ mất lại được: có ơn cứu độ, có sự tha thứ, có hồng ân tái tạo, có ánh sáng và chân lý dẫn đưa ta vào hạnh phúc vĩnh hằng. Cố linh mục thi sĩ Nguyễn Xuân Văn đã diễn tả tư tưởng của Thánh Gioan về sự hiện diện của Ngôi Lời bằng những câu thơ đẹp:
Lời hằng sống từ muôn ngàn thế kỷ Đã vang lên khắp trời đất núi sông Không có Lời, muôn vật chỉ là không Không chi hết, toàn mênh mông trống rỗng… Lời ban xuống trần gian như ngọn lửa Quét sương mù cho rạng nước non xanh, Thiêu cây hoang cỏ dại cho đất lành Tỏa ánh sáng soi đường người muôn thuở…
Vâng, mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể chính là bài thuyết minh rõ nhất về sự hiện diện của Chúa Trời trên dương thế, một sự hiện diện cần thiết, thẳm sâu mà chính Chúa Trời đã khắc ghi trong sâu thẳm cõi lòng mỗi nhân loại, đến nỗi, trước những hoàn cảnh bi đát nhất, tối tăm nhất, thất vọng nhất, đau thương nhất, con người đều thốt lên “Trời ơi”, như một lời kêu cứu, một điểm tựa cuối cùng (như tiếng kêu não nùng của đôi vợ chồng Thức Lạc khi bị chìm ghe trong đêm vớt củi trên sông Hồng mùa nước lũ qua truyện ngắn “ANH PHẢI SỐNG” của Nhất Linh-Khái Hưng).
Đã biết bao nhiêu lần lịch sử của nhân loại đã rơi vào thảm kịch kinh hoàng khi cả gan chối từ Thiên Chúa, muốn gạt phét Ngài ra khỏi cuộc đời, khỏi thế giới. Thừa hưởng chủ trương “giết chết thượng đế” của Nietzsche (1844-1900), chủ nghĩa phát-xít Đức đã tiêu diệt bao nhiêu triệu con người trong thế chiến thứ II. Cũng thế, chính chủ nghĩa vô thần, phủ nhận Thượng Đế của Karl Marx-Engel và các “môn đồ kế tục” như Lênin, Stalin, Mao Trạch Đông, Pônpốt… đã xô đẩy bao nhiêu sinh linh vào nỗi oan khiên chết chóc !
Mùa Giáng Sinh Kitô giáo chính là một nhắc nhở sống động cho toàn nhân loại về sự hiện diện của Thiên Chúa; và đặc biệt nhắc cho mỗi người tìm lại sự hiện diện của Thiên Chúa cho chính cuộc đời mình, dành một góc cho Thiên Chúa đến viếng thăm mình.
Thế nhưng, chắc cũng không ít người đưa ra vấn nạn: Thiên Chúa hiện diện nơi đâu để tôi tìm thấy?
Tạm bỏ qua những lần “hiển linh” của Thiên Chúa trong thời Cựu ước, chúng ta thử tìm gặp những cách thế hiện diện của Thiên Chúa qua Con Một Ngài nơi Tin Mừng.
Vâng, qua các trình thuật Tin Mừng, chúng ta sẽ tìm gặp một sự hiện diện lạ lùng của Thiên Chúa mà ngay giây phút bước vào đời Ngôi Hai đã cương quyết chọn lựa: không phải hiện diện oai nghiêm rườm rà của nnững cuộc tế lễ toàn thiêu, tạ tội nơi cung thánh, mà là hiện diện bằng chính một cuộc đời, một thân xác như khẳng định của Thánh Phaolô trong thư gởi giáo đoàn Rôma: “Người đã sinh ra theo huyết nhục bởi dòng dõi Đa-vít, đã được tiền định là Con Thiên Chúa quyền năng theo Thánh Thần…” (Bđ 2). Thân xác đó, cuộc đời đó đã chấp nhận có mặt, hiện diện trong vũ trụ này, trên trái đất nầy; đó là sự hiện diện thật sự
- Của một bào thai trong cung lòng của một thôn nữ nơi ngôi làng bé nhỏ ở Bê-lem, - Của một em bé vô gia cư sinh ra trong hang súc vật giá lanh ban đêm, - Của một chàng thợ mộc nghèo lao công vất vả nơi xưởng thợ Na-da-rét, - Của một phó thường dân sắp hàng với những người tội lỗi để ông Gioan làm phép rửa. - Cả một người dạt dào nước mắt trước huyệt mộ của một người bạn mới qua đời, - Của một thánh nhân sẵn sàng nhận những nụ hôn sám hối của một gái làng chơi, - Của một khách mời tiệc cưới, hay sẵn sàng với nhóm phần thu chén thù chén tạc, - Của một tôn sư khố rách áo ôm ở Ga-li-lê, ngủ mê mệt trên chiếc thuyền giữa cơn bão táp, - Của một tên tội phạm trong nỗi khổ nhục ê chề trước tòa án Phi-la-tô, - Của một tử tội trần trụi, máu me chết nhục nhã giữa hai tên tội đồ…
Và ngày nay, Đấng là Emmanuel đó đang tiếp tục hiện diện trong tấm bánh đơn trên bàn thờ, trong nhà tạm, trong muôn cõi lòng khi chia sẻ chút máu thịt để làm của ăn cho dương thế…!
Bài học về những “hiện diện của Đấng là Đường, Sự Thật Sự Sống”, bài học của mái trường “Emmanuel” mãi mãi không bao giờ “quá đát” hay vô giá trị đối với những ai đã chọn bước theo Ngài. Và cách riêng, với chúng ta những người Kitô hữu, những người mang tước phẩm cao cả là “con cái Thiên Chúa”, thì liệu trong những ngày đặc biệt nầy, những ngày cuối cùng của Mùa Đợi chờ Chúa đến, Chúa có thật là một “Emmanuel” không, hay như những câu hỏi của một bài thơ mang tên “Có lẽ nào”, xin trích:
Có lẽ nào ta đang vắng Chúa? Nên thấy hồn hiu quạnh hoang liêu. Thấy chung quanh trống vắng tiêu điều, Và trong lòng “bỗng dưng muốn khóc”…! Chúa không về hay ta bội bạc? Khép kín lòng trong góc tối riêng. Ta xuyến xao trăn trở triền miên, Và buông mất bàn tay của Chúa…! Có lẽ nào lòng ta tắt lửa? Chút tro tàn lạnh ngắt tình thân. Còn đâu tình Chúa lẫn tha nhân, Hồn câm nín và trái tim cô độc…! Chúa không còn hay ta khô khốc? Mảnh đất hồn gai góc rong rêu. Sợi chỉ đời ngang dọc sân si, Che phủ hết mọi đường ánh sáng…!
Như thế, sống mầu nhiệm “Emmanuel” để chuẩn bị cho ngày Đại lễ sắp tới chính là sống “sự hiện diện đích thực của Thiên Chúa”, đón nhận sự hiện diện của Đấng Emmanuel vào tâm hồn và cuộc sống, và từ đó biểu lộ sự “có mặt của Thiên Chúa” nơi chính cuộc sống và cách ứng xử của đời mình:
- như người vợ sẽ nhìn thấy Đấng Emmanuel trong những vất vả, khổ cực của chồng để sắt son chung thủy, và chồng thấy Đấng Emmanuel trong bao nhiêu hy sinh, tần tảo sớm hôm của vợ để yêu thương chăm sóc, đỡ nâng.
- như con cái nhìn thấy Đấng Emmanuel trong cha mẹ để hiếu thảo kính yêu, vâng lời lễ độ.
- như bạn bè nhìn thấy Đấng Emmanuel trong cuộc đời của nhau để mà sống tử tế, phục vụ và chia sẻ...
- như mọi người nhìn thấy Đấng Emmanuel trong mỗi giờ kinh nguyện, trong Thánh lễ mỗi ngày, trong nhà tạm với chiếc đèn hiu hắt, trong tòa giải tội để đợi chờ thứ tha…hầu biến Lễ Giáng Sinh không trở thành một lễ hội ăn chơi đua đòi mà là một gặp gỡ đổi đời nên thánh…
Sông được như thế, phải chăng đó cũng chính là con đường đúng và ngắn nhất để “quy phục muôn dân tộc về đức tin”, như Thánh Phaolô đã đoan quyết với cộng đoàn Rôma từ 2000 năm trước (BBĐ 2).
Và để sống trọn vẹn mầu nhiệm Emmanuel trong cuộc đời hôm nay, có lẽ lời cầu nguyện sau đây của Mẹ thánh Têrêsa Calcutta là thích hợp nhất:
Lạy Chúa Giê-su của con, xin hãy giúp con biểu lộ được sự hiện diện của Chúa khắp nơi con đi qua… Xuyên qua con xin hãy làm cho Ánh sáng của Chúa được lan tỏa và hãy hết sức ở trong con đến nổi mọi người con gặp gỡ đều có thể cảm thấy sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn con. Họ cứ ngước mắt lên đi họ chẳng còn thấy con đâu, mà thấy Chúa, chính Chúa, Chúa Giê-su của con….
Lạy Chúa chỉ làm bung một mảng tường nhỏ mới vá sau bàn thờ chính. Bất tiện quá! Lễ Giáng MV4-A143
“Lạy Chúa chỉ làm bung một mảng tường nhỏ mới vá sau bàn thờ chính. Bất tiện quá! Lễ Giáng Sinh gần kề làm sao bít kịp cái lỗ hổng đó? Không khéo nó lại lôi cuốn sự chú ý của người dự lễ hơn là cái hang đá. Cha xứ nảy ra sáng kiến đi ra cửa hàng tạp hóa của một hội đoàn giới trẻ. Người bán hàng đưa ra một bức thảm dệt tay kim tuyến, lấp lánh chen với ngà, chung quanh viền ren Bỉ. Chiếc thảm này trước kia được phủ trên một cái bàn trong cung điện cao sang, nhưng ở cái xó vùng sâu xa này, có ai thưởng thức được cái nghệ thuật quí giá đó? Vì thế giá rẻ mạt. Ừ, sao lại không mua bức thảm này che vào cái lổ hổng đó? Ngài mua liền.
Ý kiến thế mà hay: Bức thảm làm nhà thờ nổi bật lên! Sáng sớm ngày áp lễ, cha xứ đến nhà thờ, ở chỗ chờ xe bus, ngài gặp một bà đang đứng đợi xe trong gió lạnh, ngài bảo:
- Bà vào nhà thờ ngồi cho đỡ lạnh, còn 45 phút nữa xe mới qua đây.
Bà ta vào nhà thờ quì gối đọc kinh, mắt bà bỗng mở to ra, bà chạy lên gần ngắm nhìn, sờ sờ tấm thảm và thốt lên:
- Thưa cha, bức thảm này đúng là của chúng con. Chồng con mua nó ở thủ đô nước Bỉ. Cha coi, đây chính là ký hiệu của chúng con.
Bà kể cho cha nghe tấm thảm kịch của gia đình. Vợ chồng bà sống tại nước Áo, khi quốc xã Đức tràn tới, họ bỏ chạy. Họ định trốn sang Thụy Sỹ, là phụ nữ, bà quá cảnh dễ dàng, còn chồng bà bị bắt lại, bà cho rằng ông đã chết trong trại tập trung rồi. Cha xứ ngỏ ý muốn trao lại tấm thảm nhưng bà từ chối:
- Thưa cha bức thảm để ở đây tốt hơn trong túp lều của con. Con vui lòng chịu đựng cảnh khốn quẫn. Con đi xin việc coi sóc nhà cửa, nhưng người ta từ chối vì lý do con đã già!
Thánh lễ đêm Giáng Sinh, mọi người dự lễ đều ngắm nhìn gian cung thánh được trang trí lộng lẫy, những ánh nến càng tôn vẻ lấp lánh của bức thảm. Lễ xong một ông đến xin gặp cha xứ, ông là chủ một hiệu kim hoàn. Ông nói:
- Thưa cha, thực là lạ quá! Bức thảm này đúng là của chúng con trước kia. Khi chúng con sống ở Viên, thủ đô Áo Quốc, cứ mỗi lần mời Đức Cha đến dùng bữa, nhà con lại đem tấm thảm này ra trải bàn. Cha xứ kể lại cho ông sự việc xảy ra sáng nay. Ông hồi hộp xin cha:
- Cha có thể tả cho con vóc dáng của bà ấy được không? Có lẽ nào lại chính là nàng? Không lẽ nàng còn sống?
Ông xin cha hướng dẫn để theo dõi vết tích người đàn bà nghèo khổ đó. Quả đúng là bà vợ của ông ta. Chiều ngày lễ Giáng Sinh hai vợ chồng được đoàn tụ sau bao năm dài xa cách. Một phép lạ của Tình Yêu Con Thiên Chúa. (Internet)
Đấng Thiên Chúa Ở Cùng đem đến nhân loại tình yêu, giao hoà và bình an sáng ngời trong đêm đen chia rẽ, hãi hùng, hận thù. Tin Mừng Chúa nhật 4 Mùa Vọng hôm nay trình thuật sứ thần truyền tin cho Giuse rằng, Mẹ Maria đã thụ thai bởi Đức Chúa Thánh Thần, như ngôn sứ Isaia đã tiên báo từ 8 thế kỷ:"Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta."(Is 7, 14)
Tình yêu
“Thiên Chúa là Tình Yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy.” (1Ga 4, 16) Thánh Giuse từng phân vân, lúng túng, nghĩ ngợi, trước sự kiện Mẹ Maria mang thai, đã kiên quyết vượt lên chính mình, khi nghe sứ thần báo mộng. Một cách diễn tả sự bén nhạy thấu hiểu Thánh Ý Chúa qua các dấu chỉ. Đấng Emmanuel đã ban tràn đầy cho Giuse tình yêu dâng hiến, lòng khoan dung và hy sinh, để ngài sẵn sàng chấp nhận sứ vụ cao cả, làm cha nuôi nhiều chông gai, đau khổ.
Chỉ có Tình Yêu thật sự mới có thể mạnh mẽ hậu thuẫn cho Giuse quyết định, dấn thân phục vụ công trình cứu độ của Thiên Chúa. Chỉ có Tình Yêu mới có thể hoá giải Luật lệ, cũng như xung đột ý riêng với Thánh Ý, để Giuse hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa và kiên trì hoàn hành. Chỉ có Tình Yêu mới giúp Giuse thấu hiểu kỳ công của Thiên Chúa, cũng như dẫn dắt đến niềm tin vững mạnh.
Giao hoà
“Hỡi Giuse, con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần.” Qua lời sứ thần truyền tin, Đấng Emmanuel đến xua tan nghi ngờ, xoá sạch ngộ nhận, kết hiệp thánh cả Giuse với Mẹ Maria, trở thành Thánh Gia Thất ấm áp, yên vui, hạnh phúc, gương mẫu, ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia. “Từ gốc tổ Gie-sê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non.” (Is 11, 1)
Trời đất giao hoà. Đấng Emmanuel nhập thể, bày tỏ Tình Yêu vĩ đại, gánh lấy tội lỗi nhân loại, san phẳng, lấp hố sâu tội lỗi ngăn cách, hầu giao hoà Thiên Chúa với con người và giữa con người với nhau, vốn thường mâu thuẫn, mê muội, đắm chìm trong bùn nhơ dục vọng. Người tìm kiếm từng con chiên lạc trở về với đàn.
Bình an
“Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền: ông tiếp nhận bạn mình.” Đấng Emmanuel an ủi, khích lệ Giuse an tâm, vâng theo Thánh Ý, tích cực dấn thân, cộng tác và phục vụ công trình cứu độ, cũng như làm rạng danh Thiên Chúa Tình Yêu.
Liên tiếp bốn lần, sứ thần đều trấn an mọi người “đừng sợ.” Với Thầy Tư Tế: “Giacaria, đừng sợ! Vì Thiên Chúa đã nhậm lời ông cầu xin.” (Lc 1, 13) Với Mẹ: “Maria, đừng sợ! Vì bà đẹp lòng Thiên Chúa.” (Lc 1, 30). Với mục đồng: “Đừng sợ! Ta báo cho các ngươi một tin mừng trọng đại.” (Lc 2, 10) Và hôm nay với Giuse: "Hỡi Giuse, con vua Đavít, đừng sợ nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần.” (Mt 1, 20)
Đấng Thiên Chúa Ở Cùng đã giao hoà trời đất, và con người, đem bình an đến nhân loại, như thiên thần hân hoan đàn hát vang lừng bên hang đá Bê lem: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.” (Lc 2, 14) Còn niềm vui nào cao sang, tuyệt vời, vĩ đại, hơn mầu nhiệm Đấng Chúa Ở Cùng giáng trần.
“Chúa hiện diện không phải là lý thuyết. Chúa là Cha, ở bên con, với tất cả quyền năng và tình yêu. Cha năn nỉ, Cha khuyên bảo, mời gọi, trách móc, tha thứ và luôn luôn yêu thương.” (Đường Hy Vọng, số 234)
Lạy Chúa Giêsu, Đấng Chúa Ở Cùng, xin giải thoát chúng con khỏi chốn ngục tù tăm tối tội lỗi, khỏi cám dỗ thế gian phù vân, để chúng con được sống trong Tình Yêu viên mãn, hiệp nhất và bình an.
Kính xin Mẹ dẫn dắt chúng con theo Mẹ, cầu bầu chúng con năng ăn năn, sám hối, đổi mới, trở về Gia Đình Thánh, tràn đầy hạnh phúc cùng Chúa, với Chúa và trong Chúa. Amen.
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Giáo hội mời chúng ta nhìn vai trò của Đức Mẹ và thánh Giuse trong MV4-A144
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Giáo hội mời chúng ta nhìn vai trò của Đức Mẹ và thánh Giuse trong giai đoạn đầu của việc Thiên Chúa đến trong trần gian. Chúng ta nhìn thấy những sự kiện sau đây:
Thứ nhất: Maria thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Thứ hai: Giuse không hiểu, định tâm bỏ Maria, không rước Maria về nhà. Thứ ba: sự can thiệp của thiên thần Chúa. Thứ bốn: Giuse vâng phục.
Thánh Giuse và Mẹ Maria đã gặp những hoàn cảnh như nhau: họ đã chạm trán với mầu nhiệm của Thiên Chúa, chạm trán với những biến cố bất ngờ mà không thể giải thích theo sự khôn ngoan của loài người.
Maria đã được thiên thần báo cho biết nàng sẽ thụ thai và sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Thoạt đầu Maria không hiểu và không biết phải làm thế nào, nhưng sau khi đã hiểu, nàng vâng phục. Mặc dù đã nói tiếng “xin vâng”, nhưng Maria không thể nào hiểu được tương lai sẽ như thế nào. Nàng chỉ tin vào Chúa và phó thác.
Giuse cũng thế. Chàng cưới Maria đúng theo thủ tục thời bấy giờ. Chàng yêu Maria thành thật. Nhưng đau khổ cho Giuse biết bao khi gần đến ngày cưới, chàng đã khám phá ra rằng người con gái chàng quí yêu và kính phục đã mang thai mà không do chàng. Đau khổ và tức tối. Làm gì bây giờ? Tố cáo nàng để nàng bị đem ra ném đá? Chàng không thể làm như thế. Thánh Matthêu ghi lại: “Giuse là người công chính, không muốn tố cáo bà, định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo”.
Người công chính theo nghĩa Do Thái là một người đạo đức chân chính. Chàng âm thầm đau khổ và âm thầm bỏ xứ. Nhưng trong một giấc mơ, thiên thần Chúa đã đến giải thích cho chàng biết, Maria thụ thai không do con người mà do quyền phép Chúa Thánh Thần. Thiên thần cũng giao sứ mệnh cho ông: “Hãy rước Maria về nhà và sau này đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì đó là Con Đấng Tối Cao”. Giuse vâng phục. Trong giây phút ấy, Maria đã trở thành thần tượng trước mắt chàng.
Cả hai đấng Maria và Giuse đã chạm trán với mầu nhiệm, với Đấng Quyền Năng. Họ phải vượt qua những khó khăn đau khổ, và sau cùng tìm thấy bình an trong vâng phục. Cả hai đấng đã trở nên dụng cụ tuyệt hảo của ơn cứu chuộc. Nhờ sự vâng phục tuyệt hảo và khiêm tốn của hai đấng, Chúa đã làm “những điều kỳ diệu” cho nhân loại.
Trong cuộc sống, bao nhiêu lần chúng ta cũng chạm trán với mầu nhiệm, mầu nhiệm đau khổ, mầu nhiệm của sự ác, những thất bại, những oan ức mà không thể hiểu, chúng ta như thế nào? Chúng ta lồng lộn, đổ lỗi cho Chúa và dẫy dụa trong những câu hỏi “tại sao”. Đôi khi lại thất vọng. Chúng ta quên rằng, chúng ta đã chạm vào bàn tay của Đấng Vô Hình. Ngài cho chúng ta đi ngang qua những thử thách cam go như thế để hướng chúng ta về những gì cao cả hơn là những chuyện vặt vãnh của cuộc sống này. Chúng ta đủ nhẫn nại và thành tâm tìm hiểu ý Chúa không? Nếu chúng ta không có câu trả lời, hãy đến với Chúa Giêsu. Một vài phút im lặng với Chúa sẽ giúp chúng ta bình yên. Đừng sợ, đừng nóng lòng. Chúa có thì giờ để giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn, Ngài đến để cứu vớt chứ không để sát phạt. Nhiều lúc Chúa để chúng ta chờ đợi lâu ngày mới cho chúng ta hiểu Chúa muốn gì. Chúng ta cần hiểu rằng mỗi biến cố xảy ra trong đời sống chúng ta là một tiếng nói của Chúa. Chúng ta hãy vững tin và phó thác như Mẹ Maria và thánh Giuse. Các ngài cũng như chúng ta thôi, nhưng các ngài đã vâng phục trọn hảo. Vâng phục và tin tưởng chính là lối đi chúng ta phải theo, và chính Chúa sẽ nâng đỡ.
Khi chúng ta không hiểu, hãy cứ tin vì chúng ta biết chắc rằng Chúa luôn có mặt trong cuộc sống và “một sợi tóc trên đầu chúng ta, Ngài đã đếm rồi”.
Chúa xem như vẫn cần đến chúng ta. Đó là điều mà chúng ta không thể hiểu hay không bao giờ nghĩ đến: “Chúa cần đến tôi sao? Chúa phép tắc vô cùng, Ngài cần gì đến tôi? Tôi chỉ là một người nhỏ bé hèn mọn…” Bao nhiêu lý do để từ chối, để thối thoát. Chúng ta cần biết rằng, Chúa cần đến mỗi người chúng ta như đã cần đến Maria và Giuse. Trước mặt Chúa, chúng ta, linh mục hay giáo dân, mọi người đều có giá trị. Đối với xã hội văn minh vật chất hôm nay, con người chỉ là con số, nhưng trước mặt Chúa, chúng ta là con với đầy đủ ý nghĩa của nó.
Chúng ta vẫn là những người nhỏ bé, tội lỗi, nhưng càng nhỏ bé, càng dốt nát, chúng ta càng hữu hiệu trong tay Chúa. Maria đã sống nhỏ hèn và khiêm tốn. Giuse đã im lặng trong sự hèn hạ của mình. Chúa đã dùng hai đấng mang ơn cứu chuộc cho con người.
Trong lịch sử dân Chúa, Chúa đã chọn những người hèn kém nhất. Môsê chỉ là một người chăn chiên và ngọng nghịu. Đavít là một chàng chăn chiên và quê mùa. Các tông đồ là những người chài lưới dốt nát… Với những người như thế, Chúa đã làm những công việc vĩ đại, vì chính Ngài dùng họ chứ không chỉ do tài sức của bọ đâu! Chính Ngài đã nói: “Lạy Cha, con chúc tụng Cha vì đã không mạc khải (Nước Trời) cho những người khôn ngoan, mà chỉ cho những người hèn mọn”.
Mỗi người chúng ta đều chịu trách nhiệm về Nước Trời trong trần gian này. Mỗi người chúng ta phải mang Chúa trong lòng như Đức Mẹ, nuôi dưỡng Ngài như thánh Giuse và nhờ đó Chúa Giêsu sẽ lớn lên trong thế giới và Nước Cha sẽ đến và ở giữa chúng ta như Chúa Giêsu là Emmanuen nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Chúng ta nại lý do hèn kém nhỏ nhoi để khoanh tay ngồi chờ, không làm gì cho Nước Chúa, như thế Nước Cha trị đến thế nào được?
Nếu mỗi người Công giáo đều trở nên một bàn tay xây dựng Nước Chúa thì thế gian đã không đến nỗi tệ như hôm nay. Chúng ta không có quyền ngồi yên nhìn các linh hồn hư mất, nhìn ma quỉ toàn thắng trong khắp các lãnh vực, nhìn Thiên Chúa bị loại trừ ra khỏi xã hội loài người… Phải làm gì?
Nếu chúng ta chú tâm và nhiệt thành, Chúa sẽ chỉ cho chúng ta biết phải làm gì.
Chúng ta hèn kém chăng? Hãy đến với Chúa Giêsu. Ngài sẽ đến nơi bàn thờ này như đã đến trong máng cỏ Bêlem xưa. Ngài đang kêu mời chúng ta vào cuộc hiến tế với Ngài, dâng hiến tất cả cuộc đời lao nhọc vui buồn của chúng ta cho Ngài, cùng với Ngài cứu vớt các linh hồn. Ngài muốn chúng ta ăn lấy Ngài là để sống với chúng ta, yêu thương chúng ta, và cùng với chúng ta cứu vớt anh em chúng ta. Hãy chấp nhận vâng phục như Mẹ Maria và thánh Giuse, cuộc sống chúng ta sẽ trở thành nguồn phúc cho chúng ta và mọi người. Chúng ta nhỏ bé thật nhưng không phải chúng ta làm được gì mà chính Chúa sẽ hoạt động qua sự nhỏ hèn của chúng ta. Chỉ cần thiện chí và tin cậy.
Con Thiên Chúa, quyền lực, cao sang quyền quý vô cùng, sao lại chọn một người cha mọn hèn MV4-A145
Con Thiên Chúa, quyền lực, cao sang quyền quý vô cùng, sao lại chọn một người cha mọn hèn dưới đất làm cha của mình? Đấng Cứu Thế sao lại thưa với bác thợ mộc rằng: “Thưa cha”, “Con xin phép cha”? Trong cả hằng trăm ngàn hậu duệ của Đavit sao không chọn người nào khác mà chọn Giuse, một người thợ mộc tầm thường.
Để có thể hiểu được phần nào, chúng ta hãy nhìn vào một số sự kiện liên quan đến Thánh cả Giuse, được Kinh Thánh thuật lại. Khi vị hôn thê yêu quý của mình có bầu, Thánh sử Mathêu ghi lại rằng: Giuse đã định tâm sẽ bỏ vị hôn thê của mình cách kín đáo.
Theo tâm lý người đời, thì chắc hẳn Giuse sẽ vô cùng tức giận, cho rằng vị hôn thê của mình đã phản bội, đã ngoại tình. Giuse sẽ tức tốc tố cáo Maria trước hội đường cho hả giận, và kẻ phản bội sẽ bị ném đá vì tội ngoại tình. Nhưng Giuse đã không làm như vậy. Giuse đã không tố cáo nàng, đã không cãi vã to tiếng, ngài chỉ âm thầm rút lui.
Khi định tâm với tấm lòng bao dung tha thứ như vậy, Thiên Chúa không để cho Giuse phải bối rối, liền sai Thiên thần ra tay can thiệp để soi sáng cho Giuse biết rằng, đây là chương trình của Thiên Chúa.
Chúng ta phải ghi nhận rằng, Thiên Chúa chủ động tất cả trong chương trình cứu thế của Ngài. Việc chọn Giuse làm dưỡng phụ của Đấng Cứu Thế, là tùy theo ý muốn của Thiên Chúa. Nhưng ở đây chúng ta cũng phải ghi nhận rằng sự quảng đại và bao dung của Thánh cả Giuse, đã góp phần rất lớn vào sự chọn lựa của Thiên Chúa
Giuse vâng theo ý Chúa, đón nhận Maria về nhà mình và hết lòng yêu thương chăm sóc cho nàng cũng như người con sắp sinh ra.
Cuộc đời mỗi người chúng ta cũng có lúc căng thẳng, phân vân, đau khổ vì phải chọn lựa, phải quyết định. Thiên Chúa biết rõ, thấu suốt những gì đang xảy ra trong tâm lòng chúng ta. Thế nhưng, nhiều khi Ngài vẫn im lặng chờ đợi. Ngài chờ phản ứng nơi mỗi người chúng ta. Đó là phản ứng của lòng yêu thương hay giận ghét, của lòng quảng đại hay hẹp hòi.
Có những người luôn phản ứng với sự chê bai ghen ghét, luôn chỉ trích phê phán, cho dù người khác có làm điều tốt đi chăng nữa. Ta thấy có những người thường tụ tập, la cà nơi này đến nơi khác, quán này đến quán khác, miệng mồm luôn tuôn ra những câu chưởi thề, dọa nạt người khác. Mà lại nói to, có ý nói cho cả người không muốn nghe. Họ muốn biểu lộ ra bên ngoài một tâm hồn chất chứa đầy những kiêu hãnh, những bất mãn, và muốn che dấu cái bất an, bực tức trong tâm hồn. Vì vậy, những cuộc chiến tranh nhỏ thường xảy ra trong xã hội.
Lại có những người vợ người chồng, không tha thứ cho nhau, cải vả nhau. Một cuộc chiến tranh nhỏ xảy ra trong gia đình, của những người đã thề nguyền yêu thương nhau suốt đời, và kết thúc ở tòa án, ly dị. Gia đình tan vỡ và họ gây đau khổ cho nhau, cho con cái; mà nhiều khi cũng chỉ vì tự ái, vì bất mãn, vì thiếu khoan dung, thiếu tâm lòng quảng đại.
Hơn bao giờ hết, con người chúng ta cần có sự bao dung, tha thứ.
Trong một cuốn sách nói về tu thiền tại Nhật, có thuật lại câu chuyện như sau:
Một sư phụ dạy thiền có rất nhiều đồ đệ. Một lần kia, trong một cuộc tụ tập để an cư nhập định, một anh đệ tử bị bắt quả tang về tội ăn cắp. Việc này được trình lên cho sư phụ với lời yêu cầu trục xuất tên tội phạm. Nhưng vị sư phụ lờ đi, làm như không có gì xảy ra. Mấy hôm sau, người đệ tử kia lại bị bắt tại trận đang khi giở trò chôm chỉa đồ vật của người khác. Vụ việc lại được trình lên, nhưng dường như sư phụ cũng chẳng bận tâm. Điều nầy làm cho các đệ tử nổi nóng. Họ họp nhau lại, cùng soạn ra một tờ kiến nghị, trình bày hành động xấu của tên ăn cắp, và tuyên bố rằng nếu sư phụ không xử tội hắn thì bọn họ sẽ bỏ, theo thầy khác hết.
Đọc qua tờ kiến nghị, vị sư phụ cho gọi tất cả mọi người đến và nói:
“Các anh là những người khôn ngoan. Các anh biết việc nào nên làm và việc nào không nên làm. Các anh có thể đi học với bất cứ vị thầy nào các anh muốn. Còn người anh em đáng thương này, anh ta u mê lầm lạc và thiếu can đảm để tránh xa điều xấu. Nếu tôi không dạy thì ai sẽ là người dạy anh ta đây? Nếu tôi từ chối thì ai sẽ là người đón nhận anh ấy? Thế cho nên, tôi sẽ giữ người anh em này lại cho dù tất cả các anh có bỏ đi hết.”
Một dòng nước mắt tuôn xuống trên khuôn mặt của người đệ tử ăn cắp. Tất cả lòng tham muốn của cải người ta tự dưng biết mất khỏi anh.
Nhờ cảm được tấm lòng xót thương mà dòng nước mắt thống hối đã tuôn trào. Như vậy, tiến trình hoán đổi con người không nhất thiết là cứ phải kết án, khước từ, hay trục xuất. Sức mạnh có khả năng tái sinh và thăng tiến tâm hồn nhất chính là sức mạnh của tình thương. Chỉ có tình thương, với lòng quảng đại bao dung, cùng sự cảm thông nhân ái mới làm tái sinh và phục hồi những nét đẹp cao quí của tâm hồn con người.
Sự kiện Con Thiên Chúa chọn Giuse làm nghĩa phụ của Đức Kitô làm nổi bật đức tính bao dung. Đó là một đức tính khởi đầu cho một gia đình thánh thiện, một gia đình an vui hạnh phúc. Khoan dung tha thứ quả là rất cần thiết để xây dựng một cộng đoàn dòng tu được bình an thánh thiện. Những bậc chính nhân quân tử, những bậc lãnh đạo đều cần trang bị cho mình sự bao dung. Chắc chắn mọi người sẽ mến phục người bao dung và được Thiên Chúa chúc phúc.
Sống bao dung cũng là một nét của sống yêu thương, quảng đại theo gương Đấng Cứu Thế mà chúng ta sắp mừng Đại lễ Giáng Sinh. Ngài đã khoan dung tha thứ, tha thứ cho kẻ bách hại mình và Ngài đã yêu thương đến cùng, cho đến chết và chết trên thập giá. Ngài đã nêu gương và luôn kêu gọi chúng ta noi gương Ngài.
Hôm nay, chuẩn bị tâm hồn để mừng lễ Giáng Sinh, ít nhất chúng ta cũng cần noi gương Thánh Giuse, không lên án, tố cáo người khác, ngay cả khi người khác ấy phản bội. Chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa của lễ của lòng yêu thương tha thứ. Một tâm hồn yêu thương quản đại chắc chắc sẽ được Thiên Chúa ban nhiều ân phước. Thiên Chúa không bao giờ thua lòng quảng đại của chúng ta.
Ông bà ta thường nói "nhập gia tuỳ tục, nhập giang tùy khúc", nghĩa đen: “Vào nhà tùy theo tục MV4-A146
Ông bà ta thường nói "nhập gia tuỳ tục, nhập giang tùy khúc", nghĩa đen: “Vào nhà tùy theo tục nhà, vào sông tùy theo khúc sông”, còn nghĩa bóng: “Đến nơi nào phải theo phong tục của nơi đấy”. Cụ thể, khi một vị khách vào nhà của ai, người khách đó phải làm theo những lề thói mà gia chủ đang có, điều đó nói lên thái độ lịch sự và tôn trọng của người khách đối với chủ nhà. Đó cũng là điều thường tình mà chúng ta vẫn đã và đang làm trong cuộc sống văn hóa Á đông của chúng ta.
Nhưng, qua Trang Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy có một người bước vào căn nhà cuộc đời của Đức Maria, Thánh Giuse và tất cả chúng ta nhưng lại không làm theo ý hay tục lệ chúng ta đã sắp xếp. Người đó chính là Thiên Chúa. Vâng, Thiên Chúa bước vào cuộc đời của Đức Maria và thánh Giuse và Ngài làm thay đổi hết những dự tính của các ngài. Chúa dắt các Ngài bước đi theo một con đường hoàn toàn mới mẻ và xa lạ, nằm ngoài những dự tính ban đầu của các Ngài. Có thể nói, Chúa đã làm xáo trộn kế hoạch rất tốt đẹp và thánh thiện nơi cuộc đời của Đức Maria và thánh Giuse. Ý định của Đức Mẹ ban đầu là dâng mình tận hiến cho Thiên Chúa, Thánh Giuse là người công chính định tâm bỏ Đức Mẹ cách kín đáo khi biết Đức Mẹ có thai mà chưa đính hôn với mình. Rõ ràng, trong Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy Thiên Chúa đã bước vào đời của các Đức Mẹ và Thánh Giuse và các Ngài cũng đã để Chúa bước vào cuộc đời của mình, vì thế, chúng ta thấy cuối đoạn Phúc âm, Thánh Mátthêu viết: “khi tỉnh giấc, Ông Giuse đón vợ về nhà”. Tới đây, tưởng chừng như bình an và hạnh phúc đến với gia đình trẻ này, nhưng rồi Thiên Chúa "không để yên" cho các Ngài. Thiên Chúa giao cho các Ngài một sứ mạng xem ra kỳ cục và nghịch lý lắm; xem ra Chúa muốn phá vỡ hạnh phúc của các Ngài, nhưng đó là cách thức Chúa hành động trên những người, Ngài yêu thương cách riêng.
Qủa thế, Mẹ Maria được Thiên tuyển chọn, Người Nữ Thánh Thiện được làm Mẹ Đấng Cứu Thế và qua trung gian Mẹ Maria, Thiên Chúa đã trao ban Đấng Cứu Độ cho loài người. Vì Mẹ Maria sống khiệm nhường nên Mẹ sẵn sàng thưa hai tiếng xin vâng làm theo ý Chúa trong ngày truyền tin cho đến tận đồi Can-vê. Vì Mẹ sống khiêm nhường nên Mẹ đã để Thiên Chúa bước vào đời Mẹ và Mẹ đã gặp được Thiên Chúa và được Chúa đến ngụ trong tâm hồn Mẹ. Vì thế, Mẹ đã luôn phó thác cuộc đời mình cho Thiên Chúa, luôn sống và làm theo những gì Thiên Chúa muốn nơi cuộc đời của Mẹ với niềm hy vọng và tin tưởng trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời: Lúc vui, lúc buồn, lúc bối rối, lúc lo sợ, lúc an bình...... Nhờ việc hạ mình sống theo ý và Lời Chúa mà Mẹ Maria được gọi là người có phúc hơn mọi người phụ nữ. Còn Thánh Giuse, chàng trai cưới vợ nhưng chưa chung sống thì vợ mình đã có thai, Giuse phải đau khổ lắm!
Thế nhưng, Thiên Thần đã hiện ra với Giuse trong giấc mộng giải thích cho Ngài biết “Người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20); rồi Thiên Thần khuyên Giuse “Chớ sợ rước Maria về nhà mình”(Mt 1,20). Nhận ra thánh ý Thiên Chúa “Giuse đã làm như lời Thiên Thần Chúa truyền và ông đã rước bà về”(Mt 1,24). Rồi, cuộc sống đang bình yên tại Bêlem thì chính lúc đó Chúa lại bảo ông chỗi dậy đi ngay giữa đêm khuya, không hành trang, không tiền bạc sang Aicập sống kiếp lưu đày. Trước mắt là gian truân vất vả, nhưng thánh Giuse luôn tín thác vâng phục “Chỗi dậy, ông đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Aicập ngay giữa đêm khuya” (Mt 2,14). Rồi khi đã ổn định cuộc sống nơi xứ lạ quê người với một cơ ngơi bé nhỏ mà Giuse đã gầy dựng từ hai bàn tay trắng, một lần nữa Chúa lại bảo ông phải bỏ lại tất cả để ra đi. Thật mau mắn trước Thiên ý “Giuse chỗi dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel” (Mt 2,21). Ấy vậy, bất cứ hoàn cảnh nào, dù gặp những thử thách gian truân, Thánh Giuse vẫn can đảm kiên cường vượt qua, một niềm tin tưởng, phó thác vào bàn tay dìu dắt của Chúa. Ngài luôn nhạy bén khi đã nghe tiếng gọi của Thiên Chúa thì mau mắn đáp lại không thắc mắc cho dù gặp nhiều sự dữ hơn sự lành và luôn kiên định xin vâng trước Thiên ý, luôn phó thác để Chúa thực hiện chương trình cứu rỗi của Người.
Hai tiếng "xin vâng" tự nguyện của Đức Maria, một thái độ sẵn sàng của thánh Giuse đã làm cho chương trình của Thiên Chúa được thực hiện cách trọn vẹn và tốt đẹp. Các ngài đã để cho Thiên Chúa tự do hành động trên cuộc đời của mình, dù có những lúc các Ngài cảm thấy mình đang bước đi trên những nẻo đường không chút hy vọng. Dù các ngài là những con người được Thiên Chúa chọn cách riêng để làm theo chương trình của Chúa, nhưng các ngài đã chấp nhận biết bao khổ cực và cay đắng, chịu đựng biết bao những hy sinh và mất mát. Và nhờ thái độ tin tưởng và phó thác đến cùng đã làm cho các Ngài trở thành những con người được "muôn đời ca tụng".
Dù Thiên Chúa làm chủ cuộc đời của chúng ta, có quyền bước vào căn nhà cuộc đời của chúng ta và hành động cách "nhập gia không tuỳ tục", nhưng Thiên Chúa vẫn chờ đợi thái độ đáp trả của chúng ta vốn chỉ là những người quản lý cuộc đời của mình trong tự do và trách nhiệm mà Thiên Chúa ban cho mà thôi. Thiên Chúa đang bước vào cuộc đời của mỗi người chúng ta, nhưng chúng ta có đón tiếp Chúa không hay chúng ta muốn tự mình lãnh đạo cuộc đời của mình vì sợ Chúa đến làm xáo trộn chương trình của mình, hoặc chúng ta nghi ngờ lòng thương xót của Chúa, sợ Chúa dẫn mình đi trên con đường xem ra không giống ai.
Chúng ta nên biết rằng nếu chúng ta tự định liệu số phận cho mình, cuộc đời của chúng ta sẽ là những con người đáng thương nhất bởi lẽ, chúng ta có khó nhọc, có tất bật chạy ngược, chạy xuôi thì cũng hoài công vô ích mà thôi, vì chúng ta đang xây dựng đời mình trên cát và thiếu viên đá gốc tường là Chúa Giêsu vì Lời Chúa nói: “Được lời cả thế gian mà mất linh hồn nào có ích gì”. Hãy để Thiên Chúa giúp ta xây dựng cuộc đời của chúng ta, và chúng ta hãy tích cực cộng tác với Chúa và ngoan ngoãn bước theo Chúa, làm theo những gì Chúa đang thiết kế cho đời ta. Đó là thái độ của những con người khôn ngoan và đó cũng chính là thái độ của Đức Maria và Thánh Giuse ngày xưa, nhờ thái độ đó mà Thiên Chúa đã làm cho các ngài và cả chúng ta thành những con người có phúc và bính an ngay hôm nay và mai sau. Amen.
Phụng vụ Lời Chúa trong Chúa Nhật hôm nay trình bày cho chúng ta mẫu gương Thánh Giuse, người MV4-A147
Phụng vụ Lời Chúa trong Chúa Nhật hôm nay trình bày cho chúng ta mẫu gương Thánh Giuse, người công chính đón Chúa đến trong cuộc đời. Theo tập tục Do Thái, mỗi cuộc hôn nhân thường trải qua ba giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất là đính hôn. Việc đính hôn này thường do cha mẹ hay người mai mối thực hiện, còn đôi bạn trẻ chẳng hề biết trước về cuộc đính hôn này. Giai đoạn thứ hai là hứa hôn. Giai đoạn này thường kéo dài một năm để đôi bạn có dịp quen biết nhau... Khi đã hứa hôn, thì mọi người đều xem đôi bạn như là vợ chồng, mặc dù họ chưa thực sự chung sống với nhau. Lễ hứa hôn này được tổ chức rất long trọng. Bài Tin Mừng hôm nay nói hôn nhân của Thánh Giuse và Đức Mẹ trong giai đoạn này. Còn Giai đoạn thứ ba là kết hôn theo đúng nghĩa, tức là đôi bạn chung sống thật sự với nhau.
Tin Mừng kể trước khi kết hôn, Thánh Giuse hay tin Mẹ Maria có thai. Và cũng theo Luật hôn nhân Do thái, trong thời gian hứa hôn, nếu người vợ hay người chồng ngoại tình và bị tố cáo, sẽ bị xử tội “ném đá”. Sự kiện Maria có thai làm cho thánh Giuse phải đau khổ, bối rối, nghi ngờ và khó xử nên định tâm bỏ Đức Mẹ thật kín đáo. Nhưng, Thánh Giuse là người công chính nên với tình yêu, sự khoan dung và lòng nhân từ Giuse “không muốn tố giác Đức Mẹ”. Đang khi định tâm như vậy, thì sứ thần Chúa đến báo trong giấc mơ rằng: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”. Khi tỉnh giấc, Thánh Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà và Thánh Giuse đã không ăn ở với Mẹ Maria.
Quả thật, Thánh Giuse là người công chính nên mới làm những việc trọng đại như thế. Nhưng, thế nào là công chính? Trước tiên sự công chính phải là một sự thành thực với chính mình, lắng nghe tiếng lương tâm và can đảm thi hành những gì lương tâm nói cũng là tiếng Chúa cho biết là đó là điều chính đáng, là Thánh ý Thiên Chúa. Hành động thánh Giuse không muốn tố giác...nên định tâm lìa bỏ cách kín đáo... cho thấy thánh Giuse không hành động theo thói quen, ứng ích kỷ của con người ngược lại, Thánh Giuse với sự suy nghĩ sâu xa và thành thực, Ngài đã tìm cách giải quyết đúng đắn nhất theo tiếng nói lương tâm. Thứ đến sự công chính đích thực là sự tôn trọng người khác. Thánh Giuse thực sự đã tôn trọng Đức Maria, chỉ nhờ sự tôn trọng đó mà Thánh Giuse mới có thể tin sự thụ thai của Đức Maria là huyền nhiệm nên Ngài đã không kết án Đức Maria cách võ đoán. Sau cùng chính nhờ thái độ thành thực với chính mình, tôn trọng Đức Maria như vậy, nên thánh Giuse mới nghe theo lời của Sứ thần và tin vào chương trình Thiên Chúa muốn thực hiện nơi người Bạn đời của mình và nơi cuộc đời mình.
Trong cuộc đời, mỗi người chúng ta ai cũng có những chương trình riêng: học hành, công ăn việc làm, chuyện lấy chồng lấy vợ, gia đình và con cái, tu trì, sức khỏe, của cải tương lai, chuyện Đạo hạnh bản thân và gia đình... những công việc ấy vẫn xảy ra từng giây phút trong đời của mỗi người chúng ta, làm cho chúng ta phải lựa chọn giữa chương trình của mình và kế hoạch của Thiên Chúa hay thánh ý của Chúa. Có những lúc thánh ý của Chúa làm đảo lộn dự tính tốt đẹp của chúng ta, buộc chúng phải suy nghĩ, phải lựa chọn. Có những lúc thánh ý của Chúa làm chúng ta phải bối rối vì không biết phải làm gì, vâng theo ý Chúa hay làm theo ý mình. Có những lúc thánh ý Chúa cần chúng ta phải có thái độ mở rộng trước những điều lạ lùng, những điều kỳ diệu của Thiên Chúa được thực hiện nơi chúng ta. Thánh ý Thiên Chúa không phải lúc nào cũng hợp với ý thích của chúng ta. Nhờ sự công chính, thánh Giuse đã hiểu được điều đó, Người luôn sẵn sàng, mau mắn thi hành ý Chúa. Noi gương Thánh Giuse, chúng ta hãy sẵn sàng lắng nghe ý Chúa, làm theo ý Chúa như thế chúng ta mới nên công chính và giúp ta khám phá ra những điều huyền nhiệm của cuộc đời con người. Hãy để Thiên Chúa dẫn dắt cuộc đời ta qua những nẻo đường bất ngờ, từ đó ta mới có thể cảm nhận được tình yêu bao la của Chúa dành cho ta. Cho nên, Khi gặp hạnh phúc hay sung sướng, chúng ta tạ ơn Chúa đồng thời phải gắn bó với Chúa hơn nữa. Khi thành công và giàu có, chúng ta tạ ơn Chúa đồng thời biết chia sẻ với tha nhân vì chưng Chúa Giêsu dạy “cho thì có phúc hơn là nhận" (Cv 20,35). Khi lâm cảnh túng thiếu nghèo khổ, đừng buồn bã, đừng oán trách trái lại, chúng ta cần phải cậy dựa và tìm đến Đấng phù trợ ta nhờ đó đức tin ta được mạnh mẽ và vững vàn hầu luôn được Chúa ủi an làm cho ta được bình an mà vui sống với Chúa, trong Chúa và bên Chúa. Khi gặp đau khổ tinh thân thần cũng như thân xác, đừng tuyệt vọng, đừng đánh mất đức tin! Nhưng, trước hết phải sống Lời Chúa hằng ngày, nghĩa là xin vâng và thi hành Lời Chúa ở bất cứ hoàn cảnh nào hay dù đau khổ mấy đi chăng nữa. Vì chính lúc ấy, Lời Chúa ban cho chúng ta sức mạnh để chịu đựng đau khổ đồng thời kiên trì giữ vững đức tin để rồi đến một lúc nào đó chắc chắn chúng ta sẽ nhìn thấy những điều kỳ diệu và những điều lớn lao mà chúng ta không tưởng tượng được! Đúng như Lời Chúa trong thư Do thái quả quyết: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11,1).
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết noi gương Thánh Giuse, bước đi theo đường lối của Chúa và thi hành Lời Chúa trong cuộc sống hầu để Chúa luôn giáng sinh trong cuộc đời chúng con. Amen.
Lần giở lại những trang Tin Mừng, bạn bỗng dưng xảy đến điều gì bất ngờ mang lại sự may lành MV4-A148
Lần giở lại những trang Tin Mừng, bạn bỗng dưng xảy đến điều gì bất ngờ mang lại sự may lành thích thú hơn điều mong đợi. Lúc đó lòng ta tràn đầy niềm vui hạnh phúc.
Nhưng trái lại, khi điều xảy đến bất ngờ, không những không như mong đợi mà còn đưa đến điều lo âu suy nghĩ. Lúc đó, ta mang tâm trạng buồn lo thất vọng. Thánh Giuse sau khi kết hôn với Đức Mẹ Maria, cũng đã trải qua điều xảy bất ngờ mang lại nhiều suy nghĩ bối rối.
Ông Giuse kết hôn với cô Maria, nhưng ông liền khám phá ra: Cô Maria đã có thai. Điều này xảy đến thật bất ngờ ngoài điều ông trông chờ... Bao nhiêu câu hỏi diễn ra trong tâm trí ông và ông không tìm ra câu giải đáp: Tại sao cô Maria lại mang thai trước khi cưới hỏi, với ai vậy? Phải chăng cô không trung tín với người chồng của cô, là ta đây? Bây giờ phải làm sao? Cô đã bất trung với ta, thì ta bỏ cô vậy, mặc cô muốn sống sao như ý cô?
Ông âm thầm suy nghĩ ngày đêm về chuyện này, thì lại một bất ngờ xảy đến nữa. Thiên thần Chúa hiện đến với ông trong một giấc mơ và báo cho ông biết: con trẻ trong bào thai cô Maria là Con Thiên Chúa. Cô Maria mang thai là do quyền năng Chúa Thánh Thần tác động. Con đừng sợ. Đó là chương trình của Thiên Chúa xuống trần gian làm người!
Ông Giuse tuy là người đạo đức, có lòng yêu mến kính sợ Thiên Chúa, nhưng làm sao ông có thể hiểu nổi điều xảy đến bất ngờ vượt quá sức tưởng tượng của một bác thợ mộc chất phác nơi miền thôn quê! Dẫu vậy, lần này thì ông không hồ nghi. Ông âm thầm chấp nhận cô Maria và những lời Thiên Thần nói cho ông về Con Thiên Chúa và để bụng suy nghĩ tiếp về chương trình dự định của Thiên Chúa. Ông tin vào sự quan phòng của Người.
Điều xảy đến bất ngờ lần này mang lại cho ông sự bình an trong tâm hồn.
Không chỉ Đức Mẹ Maria và ông thánh Giuse sống trải qua những điều bất ngờ về chương trình của Thiên Chúa, nhưng còn có những người khác nữa: các mục đồng. Họ là những người quê mùa thất học, suốt đời chỉ sống với súc vật ngoài cánh đồng cỏ. Bỗng dưng họ cũng nhận được điều xảy đết bất ngờ. Thiên thần Chúa hiện đến báo tin cho họ: “Các Bạn đừng sợ! Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa sinh hạ trong chuồng súc vật của các Bạn. Các Bạn hãy đến mà xem!”
Họ ngạc nhiên nhưng trong tâm trạng vui mừng. Vì điều bất ngờ xảy đến mang lại cho họ nhiều thích thú lạ lùng. Họ đâu có thể ngờ bỗng dưng có khách cao trọng từ trời cao đến thăm và sống trong nhà mình. Và từ đó làm biến đổi cuộc sống của họ: từ người chăm sóc thú vật thành người được nhìn thấy Thiên Thần của Chúa, được đến thăm viếng trò truyện với Con Trẻ Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa.
Không chỉ với biến cố Thiên Chúa xuống thế làm người mới có những điều xảy bất ngờ, nhưng điều xảy ra bất ngờ thường có ngay trong cuộc đời mỗi người. Điều đó có thể là điều may lành an vui, nhưng cũng có thể là điều gây ngạc nhiên bỡ ngỡ xa lạ đến độ lo âu suy nghĩ bối rối mất bình an.
Thông thường ai cũng mong điều xảy đến bất ngờ mang lại niềm vui hạnh phúc hơn điều mang đến sự bất an trong cuộc sống. Như cuộc đời thánh Giuse đã trải qua, đôi khi những điều xảy ra bất ngờ làm lo âu suy nghĩ bối rối, không mấy ai muốn chấp nhận, lại là tín hiệu quan trọng mang tin lành bình an cho con người.
Những đau khổ, bệnh tật, điều gây bối rối, điều trái ý gây khó chịu là những điều xảy đến bất ngờ và chẳng ai muốn có. Nhưng nếu như thánh Giuse với một tâm hồn tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa, mà vui lòng chấp nhận, điều đó có thể trở nên giá trị tốt đẹp cho đời sống chính mình và người khác nữa.
Đức Mẹ Maria cũng đã vui lòng chấp nhận sứ điệp Thiên Thần Chúa mang đến bất ngờ ngoài điều mong muốn cho đời mình, nên Chúa mới giáng sinh xuống trần gian. Ngài mang ánh sáng tình yêu từ trời cao xuống cho con người. Và qua biến cố đó, nhân loại mới có ngày lễ mừng trọng đại: Thiên Chúa làm người, để con người được làm con Thiên Chúa.
(Suy niệm Chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật 4 Mùa Vọng xoay quanh cùng một đề tài: “Đấng Mê-si-a, “con vua MV4-A149
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật 4 Mùa Vọng xoay quanh cùng một đề tài: “Đấng Mê-si-a, “con vua Đa-vít”.
Is 7: 10-16
Bài Đọc I trích dẫn là lời hứa long trọng mà ngôn sứ I-sai-a gởi đến cho vua A-khát, vua vương quốc Giu-đa, trong bối cảnh bi thảm: đất nước bị phân đôi và chịu áp lực tứ phía, vua không có con nối dòng. Thiên Chúa hứa ban cho nhà Đa-vít một dấu lạ: một Trinh Nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên cho con trẻ là “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Rm 1: 1-7
Trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô nhắc nhớ rằng xét như một phàm nhân, Đức Giê-su xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít; nhưng xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng.
Mt 1: 18-24
Tin Mừng tường thuật “Biến Cố Truyền Tin” cho thánh Giu-se. Sứ thần mặc khải cho thánh nhân nguồn gốc thần linh của người con mà Đức Trinh Nữ Ma-ri-a cưu mang, và xin thánh nhân nhận đứa con này làm nghĩa tử để tháp nhập con trẻ vào dòng dõi vua Đa-vít.
BÀI ĐỌC I (Is 7: 10-16)
Sấm ngôn I-sai-a này là một trong những sấm ngôn vĩ đại về Đấng Mê-si-a: nó vang lên cách long trọng: “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít!”. Vị ngôn sứ ngỏ lời với vua A-khát, vua vương quốc Giu-đa, vào năm 734 trước Công Nguyên, tại Giê-ru-sa-lem trong hoàn cảnh ngặt nghèo cùng cực.
1. Bối cảnh:
Vào lúc đó, đế quốc Át-sua (thủ đô là Ni-ni-vê) đang bành trướng thế lực: đế quốc này gây sức ép trên cả vương quốc phương Bắc (vương quốc Ít-ra-en, kinh đô là Sa-ma-ri) lẫn vương quốc phương Nam (vương quốc Giu-đa, kinh đô là Giê-ru-sa-lem). Trong vòng ba mươi lăm năm, các đạo quân Át-sua xâm chiếm miền Pa-lét-tin đến sáu lần, tàn phá xứ sở và buộc triều cống nặng nề.
Vua A-khát cai trị vương quốc Giu-đa. Vì sợ hãi, vua tìm cách hòa hoãn với vua Át-sua là Tích-lát Pi-le-xe. Trái lại, vua Xy-ri và vua Ít-ra-en liên minh với nhau để chống lại đế quốc Át-sua và muốn vua A-khát gia nhập liên minh vơi họ. Vua A-khát từ chối. Lúc đó, các lực lượng liên minh này mở chiến dịch gây sức ép với vua A-khát và đã tiến quân gần đến Giê-ru-sa-lem. Vua A-khát, bất trung với Thiên Chúa, đã tế lễ và đốt hương trên các nơi cao, trên các ngọn đồi và dưới mọi cây xanh (2V 16: 3-4).
Những lần can thiệp của ngôn sứ I-sai-a có thể đặt vào trong hoàn cảnh bi đát này. Vị ngôn sư chỉ đưa ra một huấn lệnh duy nhất: “Hãy đạt trọn niềm tin tưởng vào chỉ một mình Đức Chúa”.
Bản văn chúng ta đọc mô tả lần can thiệp lần thứ hai của ngôn sứ I-sai-a bên cạnh vua A-khát. Trong lần can thiệp lần thứ nhất, ngôn sứ I-sai-a cố gắng thức tỉnh đức tin đang chao đảo của vua. Chắc chắn vô ích; vị ngôn sứ thử thuyết phục vua cách khác.
2. Xin một dấu lạ:
Ngôn sứ I-sai-a nói với vua: “Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu lạ dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh”, nghĩa là một động đất, sao băng hay sấm chớp…
Vua A-khát trả lời: “Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa”. Nhà vua tìm cớ thoái thác bằng cách viện dẫn Kinh Thánh: “Anh em đừng thách thức Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em” (Đnl 6: 16). Lúc đó, ngôn sứ I-sai-a cất cao giọng: “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít!”. Và có lẽ trước toàn thể triều thần, vị ngôn sứ long trọng loan báo rằng thậm chí như vậy, Thiên Chúa vẫn cứ ban một dấu lạ và qua dấu lạ này Ngài sẽ cho biết rằng, bất chấp những tội bất trung của vua, Ngài sẽ không bỏ rơi dân Ngài khi ban cho vua một dấu chỉ: “Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en”.
Tên con trẻ này là “Em-ma-nu-en”, có nghĩa: “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, chắc chắn xuất xứ từ phụng vụ. Chúng ta gặp thấy tên này như một điệp khúc trong Tv 46. Tên này đối lập với thái độ cứng tin và ngần ngại của vua A-khát. Ngoài ra, nó cô động điều cốt yếu của những lời Thiên Chúa hứa trong Giao Ước.
3. Tính thời sự của sấm ngôn:
Sấm ngôn theo bản văn Hy-bá loan báo một thiếu nữ hay một người vợ trẻ chưa sinh con, tức là một trong các người vợ trẻ của vua sẽ sinh hạ một con trai cho vua. Sấm ngôn sẽ sớm được ứng nghiệm. Đối diện với hoàn cảnh bi thảm của Giê-ru-sa-lem, trước những đe dọa đè nặng trên vương quyền nhà Đa-vít: một mặt, thế lực liên minh muốn lật đổ vua; mặt khác, vua không có con thừa tự, vị ngôn sứ long trọng trấn an khi đảm bảo rằng Thiên Chúa vẫn phù trợ. Việc dòng dõi nhà Đa-vít vẫn không bị tuyệt tự là dấu chỉ cho thấy Đức Chúa vẫn bảo vệ che chỡ. Xem ra dấu lạ được loan báo ở đây là việc sinh hạ con của vua A-khát, tức vua Khít-ki-gia tương lai. Trên dòng dõi nhà Đa-vít, những niềm hy vọng về Đấng Mê-si-a được kết tinh.
“Con trẻ sẽ ăn sữa chua và mật ong”: Diễn ngữ “Sữa chua và mật ong” gợi nhớ những ngôn từ diễn tả những ân ban của Đất Hứa: “Xứ sở chảy sữa và mật ong”. Tuy nhiên, theo văn mạch trực tiếp, quang cảnh về xứ sở màu mở này nhuốm màu sắc bi quan. Phần tiếp theo của sấm ngôn I-sai-a loan báo lãnh thổ bị quân Át-sua xâm chiếm và trở thành hoang phế: nghề canh tác sẽ bị tàn phá; không còn dầu, rượu lẫn bánh, “toàn xứ sẽ chỉ có gai góc và bụi rậm”. Những ai vẫn còn ở lại trong xứ sẽ chỉ ăn “sữa chua và mật ong” (Is 7: 21-23). Sự thánh thiện của con trẻ sắp chào đời được miểu tả cách thanh đạm: “biết bỏ cái xấu mà chọn cái tốt”.
Cuối cùng, sứ điệp tối hậu của vị ngôn sứ đem lại niềm hy vọng cho triều thần và đặc biệt cho vua A-khát, đó là hai vị vua liên minh chống vương quốc Giu-đa rốt cuộc sẽ thất bại và bị quân Át-sua tiêu diệt trong tương lai không xa. Quả thật, vào năm 732, hai mươi năm sau sấm ngôn này, vương quốc Xy-ri và vương quốc Ít-ra-en bị triệt hạ hoàn toàn: những của cải của họ bị chuyển đến kinh đô Ni-ni-vê, và dân chúng của họ bị dẫn đi lưu đày. Và sau đó không bao lâu, vào năm 721, vương quốc Ít-ra-en bị họa diệt vong.
4. Chiều kích Mê-si-a của sấm ngôn:
Chiều kích Mê-si-a của sấm ngôn này được mặc khải thành hai thời kỳ. Vào thời kỳ thứ nhất, chính ngôn sứ I-sai-a sẽ triển khai sấm ngôn này. Ở chương 9, vị ngôn sứ công bố: “Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta”. Nhờ sự xuất hiện của con trẻ thuộc dòng dõi Đa-vít này, ánh sáng huy hoàng sẽ bừng lên chiếu rọi khắp miền Ga-li-lê. Ở chương 11, vị ngôn sứ hết lời ca ngợi những đức tính của con trẻ này, Đấng Mê-si-a vương đế sẽ mang đến cho thế giới sự công minh chính trực và nền hòa bình viên mãn.
Vào thời kỳ thứ hai, “dấu lạ” mà vị ngôn sứ được ơn linh hứng xác định rõ hơn. Vào thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên, bảy mươi nhà thông thái thành A-lê-xan-ri-a họp nhau và dịch bản văn Kinh Thánh bằng tiếng Hy-bá sang Hy-ngữ, vì thế được gọi bản Bảy Mươi. Họ dịch “một thiếu nữ” của bản văn Hy-bá sang “một trinh nữ” của bản văn Hy-ngữ: “Một Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai”. Theo họ, ngôn sứ I-sai-a đã ban một dấu lạ, ấy vậy nếu một thiếu nữ sinh hạ một con trai thì chẳng có gì là lạ lùng cả, vì thế phải là một trinh nữ thụ thai và sinh hạ một con trai, thì đó mới thật sự là dấu lạ cho thấy Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử của dân tộc mình và của nhân loại.
5. Dấu lạ
Thiên Chúa thực hiện dấu lạ khi mà những luật tự nhiên không đáp ứng hay không còn đáp ứng nữa, như khi Thiên Chúa cho bà Xa-ra, dù son sẻ và tuổi đã cao, sinh hạ I-xa-ác, hay cho bà Ê-li-sa-bét, chị họ của Đức Ma-ri-a, sinh hạ Gioan Tẩy Giả trong hoàn cảnh như bà Xa-ra. Thiên Chúa sẽ thực hiện dấu lạ còn lạ lùng hơn thế nữa khi cho Đức Ma-ri-a, một trinh nữ thụ thai và sinh hạ một con trai mà không cần đến sự kết hợp phái tính.
Nhưng việc sinh hạ Đấng Em-ma-nu-en có một tầm quan trọng khác nữa. Trong hoàn cảnh sấm ngôn được công bố, sứ điệp được gởi đến cho dân Ít-ra-en thật rõ ràng: bất chấp những bất tín của dân Ngài, Thiên Chúa vẫn ở với họ. Bất chấp tội lỗi của con người, bất chấp tội lỗi của chúng ta, “Thiên Chúa vẫn ở với chúng ta”.
BÀI ĐỌC II (Rm 1: 1-7)
Bài Đọc II trích dẫn phần mở đầu Thư gởi tín hữu Rô-ma. Phần mở đầu này tương ứng với với thể thức thư tính rất quen thuộc vào thời đại này: trước hết tên và thân thế của người gởi, tiếp đó tên và thân thế của người nhận, và cuối cùng lời chào và lời cầu chúc. Tuy nhiên, thánh Phao-lô mở rộng những dữ kiện và Ki-tô hóa chúng.
1. Tên và thân thế của người gởi:
Chúng ta lưu ý đến cách thức thánh Phao-lô tự giới thiệu thân thế của mình: trước hết, thánh nhân tự nhận mình chỉ là “tôi tớ của Đức Giê-su Ki-tô”; thứ nữa, thánh nhân nêu lên đặc tính ơn gọi Tông Đồ của mình: thánh nhân được Thiên Chúa gọi làm Tông Đồ và dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa, xa hơn một chút, thánh nhân còn nhấn mạnh: “Nhờ Người (Đức Giê-su Ki-tô) chúng tôi nhận được đặc ân và chức vụ Tông Đồ”. Qua cách thức giới thiệu này, thánh nhân nhất quyết xem mình ngang hàng với nhóm Mười Hai. Như họ, thánh nhân đã được Đức Giê-su chọn; như họ, thánh nhân đã được gặp gỡ Đức Ki-tô Phục Sinh và Ngài đã được trao phó sứ mạng loan báo Tin Mừng cho lương dân. Đây là lý do duy nhất mà thánh nhân có thể viện dẫn để đến Rô-ma, viếng thăm một Giáo Đoàn mà thánh nhân đã không sáng lập.
2. Tóm tắt đạo lý:
Trong lời mở đầu giới thiệu và chào hỏi này, thánh Phao-lô điểm qua những khái niệm Ki-tô giáo và thậm chí rút gọn đạo lý về thân thế của Đức Giê-su. Xét như một phàm nhân, Đức Giê-su xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít; xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Đức Giê-su đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng. Chúng ta lưu ý cách diễn đạt rất tinh tế của thánh Phao-lô ở đây. Thánh nhân không nói: “Con Thiên Chúa được sống lại từ cõi chết”, nhưng với tư cách là Con Thiên Chúa, Ngài đã từ cõi chết sống lại và lấy lại quyền năng ẩn dấu của Ngài ở nơi nhân tính.
3. Con vua Đa-vít:
Vài người hiểu kiểu nói của thánh Phao-lô: “Theo xác thịt, Ngài xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít” theo sát từ rằng Đức Ma-ri-a cũng thuộc dòng dõi vua Đa-vít như thánh Giu-se. Cách hiểu này quá thu hẹp ý nghĩa thông thường của từ “xác thịt” theo Kinh Thánh. Trong Cựu Ước, từ xác thịt thường nhất chỉ toàn thể con người, tức là một phàm nhân đối lập với thần linh. Bất chấp vài điểm tương đồng, quan niệm Do thái về sự duy nhất của con người khác với quan niệm nhị nguyên của dân Hy-lạp theo đó có một sự đối lập giữa thân xác hư nát và linh hồn bất tử. Thuyết nhị nguyên này thật ra xa lạ với tư tưởng Do thái.
Vì thế, phải hiểu câu nói này rằng về phương diện phàm nhân, Đức Giê-su thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Đây là chủ đề ngự trị cả ba bài đọc Chúa Nhật IV Mùa Vọng này. Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít được các ngôn sứ loan báo biết bao lần, chính xác là Đức Giê-su, ở nơi Ngài mọi lời hứa đều được thành tựu.
4. Con Thiên Chúa:
Thánh Phao-lô không bao giờ sử dụng kiểu nói “được thụ thai bởi Chúa Thánh Thần” để chỉ tước vị Con Thiên Chúa của Đức Ki-tô như các sách Tin Mừng Nhất Lãm. Quả thật, thánh Phao-lô không bao giờ ám chỉ đến cuộc thụ thai đồng trinh của Đức Giê-su, cũng như không bao giờ nói về Đức Trinh Nữ, ngoại trừ một lần mà không nêu tên: “Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà” (Gl 4: 4).
Sự thinh lặng này có thể có lý do. Vào thời kỳ thánh Phao-lô viết Thư này, Đức Ma-ri-a có thể vẫn còn sống, vì thế, để bày tỏ lòng tôn kính Mẹ của Chúa Giê-su, thánh nhân kín đáo không nói về Đức Ma-ri-a. Nhất là, thần học của thánh Phao-lô xoay chung quanh trục biến cố Phục Sinh (và nhất thiết là Thập Giá) chứ không là biến cố Nhập Thể. Chính biến cố Phục Sinh của Đức Ki-tô đã thiết lập một cuộc sáng tạo mới, một con người mới, một thời kỳ mới. Chính trong ánh sáng của viễn cảnh này mà lời công bố này mặc lấy tầm mức quan trọng của chúng: “Nhưng xét như Đấng từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng”.
5. Lời cầu chúc:
Sau cùng, thánh Phao-lô chào hỏi những người nhận thư. Thánh nhân ngỏ lời với hai nhóm người hình thành nên cộng đồng Ki-tô hữu Rô-ma: trước tiên, những người Ki-tô hữu gốc lương dân, nghĩa là “những người được kêu gọi để thuộc về Đức Giê-su Ki-tô”; tiếp đó, những người Ki-tô hữu gốc Do thái, nghĩa là “những người được Thiên Chúa yêu thương, được kêu gọi làm dân thánh”. Và thánh Phao-lô hiệp nhất hai nhóm làm một trong lời cầu chúc sau cùng: “Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an”. “Ân sủng” là lời chào của người Ki-tô hữu gốc lương dân, còn “bình an” là lời chào của người Ki-tô hữu gốc Do thái.
TIN MỪNG (Mt 1: 18-24)
Tin Mừng hôm nay kể cho chúng ta chuyện tích Truyền Tin cho thánh Giu-se về cuộc thụ thai của Đức Giê-su bởi người mẹ đồng trinh là Đức Ma-ri-a. Trong Cựu Ước, văn thể truyền tin tự nó nói lên rằng việc con trẻ được sinh ra không do ý muốn thường tình của cha mẹ, nhưng do sự can thiệp của Thiên Chúa, như chuyện tích truyền tin cho tổ phụ Áp-ra-ham về cuộc sinh hạ I-xa-ác (St 18: 1-15), và cho cha mẹ của ông Sam-son về cuộc sinh hạ ông, một anh hùng của dân tộc (Tl 13: 1-7).
Quả vậy, ngay từ đầu chuyện tích Truyền Tin này, thánh ký ghi nhận cuộc thụ thai lạ lùng của Đức Giê-su: “Bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã đính hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần”. Chuyện tích xoay quanh nhân vật chính: phản ứng của thánh Giu-se trước việc thụ thai của Đức Ma-ri-a mà tác nhân không phải là thánh nhân. Câu chuyện này thường nêu lên hai vấn đề: trước hết, Đức Công Chính của thánh Giu-se; thứ đến, Đức Đồng Trinh của Đức Ma-ri-a.
1. Đức Công Chính của thánh Giu-se:
Về Đức Công Chính của thánh Giu-se, cách giải thích truyền thống nhấn mạnh rằng thánh Giu-se không hề hay biết câu chuyện Truyền Tin cho Đức Ma-ri-a. Vì thế, thánh nhân nghi ngờ đức hạnh vị hôn thê của mình, nhưng vì lòng nhân hậu, thánh nhân không muốn tố giác bà cách công khai, nên định tâm lìa bỏ bà một cách kín đáo. Lối giải thích nầy bật sáng đức hạnh không chỉ của thánh Giu-se, nhưng còn của Đức Ma-ri-a nữa. Sự im lặng của Đức Ma-ri-a thật đáng thán phục. Đối mặt với một mầu nhiệm không thể nào giải thích theo phương diện con người, Đức Ma-ri-a hoàn toàn tín thác vào tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa. Nếu việc thụ thai mà vẫn còn đồng trinh là công việc của Thiên Chúa, thì chắc chắn Thiên Chúa có cách để giải quyết vấn đề. Chắc chắn Thiên Chúa đặt để hai vị thánh này vào một sự thử thách nghiêm trọng. Từ đó rút ra một bài học linh đạo tuyệt vời: chúng ta đừng ngạc nhiên nếu phải chịu trăm chiều thử thách trong cuộc đời. Noi gương thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a, chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng vào Chúa và triệt để trung thành với kế hoạch yêu thương của Người.
Tuy nhiên, cách giải thích truyền thống này gặp phải một vấn nạn nan giải: Đức Công Chính theo Lề Luật đòi buộc thánh Giu-se phải tố cáo vị hôn thê của mình, vì thế thánh Giê-rô-ni-mô đã nhận xét chí lý rằng: “Thánh Giu-se ém nhẹm trọng tội của vợ mình mà cho là công chính ư?”. Vì thế, theo cách giải thích hiện đại, làm thế nào Đức Ma-ri-a có thể giữ kín cho riêng mình mà không cho thánh Giu-se biết, người mà Mẹ tin tưởng gởi gắm cuộc đời cho thánh nhân như một người chồng? Vì thế, thánh Giu-se không một chút nghi ngờ về đức hạnh người bạn đời của mình. Điều làm cho thánh nhân trăn trở chính là trong hoàn cảnh này, phải biết xử sự như thế nào cho phải lẽ. Một đàng, trên bình diện công bình pháp lý, với tư cách là người chồng hợp pháp của Đức Ma-ri-a, thánh nhân có quyền nhận Đức Ma-ri-a là vợ của mình và đứa con mà nàng cưu mang là con của mình. Nhưng mặt khác, trên bình diện công bình tôn giáo, thánh nhân bị đòi buộc phải kính trọng công việc của Thiên Chúa ở nơi Đức Ma-ri-a mà cho đến lúc này thánh nhân không được Thiên Chúa mời gọi dự phần vào.
Lúc đó, thánh nhân quyết định âm thầm rút lui, nhường bước trước kế hoạch của Thiên Chúa, chấp nhận dâng hiến điều đắt giá nhất của cuộc đời mình: tình yêu đối với Đức Ma-ri-a. Chính trong tâm trạng tiến thối lưỡng nan này mà thánh nhân giữ kín ý định cho riêng mình vì không thể nào thổ lộ hay giải bày với người bạn đời của mình. Vì thế, động từ Hy ngữ được dùng trong bản văn này không có ngữ nghĩa tiêu cục “tố cáo” hay “tố giác” như cách giải thích truyền thống đã hiểu, nhưng mang ý nghĩa tích cực: “thổ lộ” hay “giải bày”: “Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính, vì thế không muốn ‘thổ lộ’ (giải bày) ý định của mình cho Đức Ma-ri-a”.
Quả thật, để xua tan những nghi ngại của thánh nhân, sứ thần tái khẳng định những gì mà thánh nhân đã biết, đó là thai nhi mà Đức Ma-ri-a cưu mang là công việc của Chúa Thánh Thần, đồng thời mời gọi thánh nhân tham dự vào công việc này trong vai trò là người chồng của Đức Ma-ri-a và là người cha hợp pháp của thai nhi qua việc thánh nhân đặt tên cho con trẻ, nhờ đó con trẻ được sáp nhập hợp pháp vào hoàng tộc Đa-vít, có như thế, sấm ngôn của ngôn sứ Na-than về Đấng Mê-si-a (2Sm 7: 12) được ứng nghiệm. Vì thế, bản văn đòi buộc phải đọc là “Này ông Giu-se, hậu duệ Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì quả thật (“gar”) thai nhi mà bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh thần. Vì thế bà sẽ sinh con trai, còn ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì quả thật (“gar”) chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi của họ” .
Như vậy, Đức Công Chính của thánh Giu-se không dính dáng gì đến việc tuân giữ Lề Luật, (phải nói là việc tuân giữ Lề Luật quá nghiêm nhặt sẽ dẫn đến việc giết chết Đức Ma-ri-a và thai nhi Giê-su), nhưng thành tâm thiện chí lắng nghe để khám phá ý muốn của Thiên Chúa trong mọi biến cố đời thường của mình và mau mắn tìm cách đáp trả một cách tích cực: “Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà mình”. J. Escriva ca ngợi Đức Công Chính của thánh Giu-se như sau: “Thánh Giu-se là một thường nhân mà Thiên Chúa tin tưởng để thực hiện những điều vĩ đại. Thánh nhân đã làm đúng như Đức Chúa muốn thánh nhân làm, trong từng mỗi một biến cố hình thành nên cuộc đời của thánh nhân. Đó là tại sao Kinh Thánh ca ngợi thánh Giu-se là ‘người công chính’” (Bl. J. Escriva, Christ is passing by, 40).
2. Đức Đồng Trinh của Đức Ma-ri-a:
Cả hai cách giải thích, truyền thống hay hiện đại, đều nêu bật chủ đích của thánh Mát-thêu: nguồn gốc thần linh của Đức Giê-su trong việc thụ thai đồng trinh. Điều này được khẳng định qua việc trích dẫn sấm ngôn I-sai-a: “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Nhưng Đức Đồng Trinh của Đức Ma-ri-a được đặt thành vấn đề ở câu cuối cùng: “Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai”. Anh em Tin Lành thường hiểu liên từ Hy-lạp “cho đến khi” theo nghĩa liên từ tiếng Anh: “until” hay tiếng Pháp “jusqu’a ce que”, theo cách hiểu này Đức Đồng Trinh của Đức Ma-ri-a chỉ giới hạn trước và trong khi sinh con. Tuy nhiên, liên từ Hy-lạp này không khẳng định cũng không bác bỏ việc đồng trinh vẫn tiếp tục sau khi sinh con.
Phải nói rằng qua việc sử dụng liên từ Hy-lạp này, thánh ký không quan tâm đến điều gì đã xảy ra sau đó, nhưng chỉ đơn giản lưu ý điều gì xảy ra cho đến lúc đó, tức là, việc Đức Ma-ri-a thụ thai Đức Giê-su không do bởi tác nhân nam giới, nhưng hoàn toàn do bởi sự can thiệp duy nhất của Thiên Chúa. Chúng ta gặp thấy cũng liên từ này ở Ga 9: 18, ở đó những người Pha-ri-sêu được nói cho biết họ đã không tin vào việc anh mù từ lúc mới sinh được chữa lành một cách diệu kỳ cho đến khi họ gọi cha mẹ của anh. Tuy nhiên, sau đó, họ cũng không tin. Sự bỏ ngỏ này được lấp đầy bởi truyền thống Giáo Phụ và Huấn Quyền như lời dạy của Công Đồng La-tê-ra-nô: “Nếu bất cứ ai không tuyên xưng theo các thánh Giáo Phụ rằng theo ý nghĩa đích thật Đức Thánh Nữ Ma-ri-a vô nhiễm nguyên tội và trọn đời đồng trinh là Mẹ Thiên Chúa, bởi vì vào thời sau cùng, không với yếu tố nam nhân nhưng bởi Chúa Thánh Thần, Mẹ đích thật cưu mang Ngôi Lời Thiên Chúa, Đấng đã sinh ra bởi Chúa Cha từ muôn thuở, và Mẹ sinh hạ Ngài mà không có bất kỳ tổn hại nào đối với Đức Đồng Trinh của Mẹ, vẫn không bị xâm phạm ngay cả sau khi sinh hạ Ngài; thì kẻ ấy sẽ bị vạ tuyệt thông” (can. 3).
3. Trọng tâm của câu chuyện Tin Mừng:
Trọng tâm của câu chuyện Tin Mừng này là nhằm mạc khải nguồn gốc đích thật của Đức Giê-su được gói trọn ở nơi danh xưng “Em-ma-nu-en”, Đức Giê-su không đơn giản là một con người được tuyển chọn, nhưng là Thiên Chúa làm người để ở cùng chúng ta và cứu độ chúng ta.
Hằng năm, theo tiến trình Phụng Vụ, trước ngày đại lễ Giáng Sinh, Giáo Hội cử hành một tuần lễ thường được gọi “Bát Nhật Giáng Sinh” kể từ ngày 17 đến ngày 24 để mời gọi các tín hữu suy gẫm các biến cố và các nhân vật có liên quan trực tiếp đến Mầu Nhiệm Giáng Sinh. Như mọi năm, vào ngày 17 và ngày 18, bắt đầu Bát Nhật Giáng Sinh, chúng ta được mời gọi suy gẫm nguồn gốc nhân loại của Đức Giê-su qua gia phả của Ngài và nguồn gốc thần linh của Ngài qua chuyện tích Truyền Tin cho thánh Giu-se, được đặt ngay từ đầu sách Tin Mừng Mát-thêu, ngỏ hầu khi chiêm ngắm con trẻ trong máng cỏ, chúng ta cũng có tâm tình như các mục đồng xưa: “Các mục đồng ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (Lc 2: 20).
Tin mừng Chúa nhật hôm nay đề cập đến tên gọi mà Thiên Chúa Cha đã chọn cho Ngôi Hai Thiên MV4-A150
Tin mừng Chúa nhật hôm nay đề cập đến tên gọi mà Thiên Chúa Cha đã chọn cho Ngôi Hai Thiên Chúa khi Ngài đầu thai trong lòng Mẹ Maria. Tên gọi nầy đã được ngôn sứ I-sai-a tiên báo từ hơn bảy trăm năm trước: “Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta" (Mt 18,23).
Tên gọi nầy nói lên ước vọng của Thiên Chúa muốn ở mãi với loài người suốt mọi ngày cho đến tận cùng thời gian.
Liên quan đến ý tưởng nầy, Đức cha Gaillot có nhận định rất chí lý. Ngài viết:
“Sống rộng lượng là tốt, nhưng sống-với thì tốt hơn; công việc từ thiện là cần thiết, nhưng hiện-diện-bên-cạnh thì cần thiết hơn.”
Đúng thế, dù chúng ta có rộng lượng với người nghèo khổ bao nhiêu cũng không bằng đến sống-với họ, chia sẻ buồn vui cay đắng với họ. Dù chúng ta có làm bao nhiêu việc từ thiện để giúp cho người đau khổ cũng không bằng đến hiện-diện-bên-cạnh họ trong những lúc đau thương.
Thiên Chúa mong muốn ở với loài người
Vì yêu thương loài người quá đỗi nên Thiên Chúa muốn sống-với con người, muốn hiện-diện-bên-cạnh con người mọi lúc mọi nơi. Danh hiệu Em-ma-mu-en gói trọn ước vọng này của Thiên Chúa.
Vì thế, Thiên Chúa Ngôi Hai đã hạ mình xuống thế mang kiếp người phàm, hiệp thông trọn vẹn với con người. Ngài vui với người vui, khóc với người khóc, sống khốn khổ với những người cùng khốn.
Vì khuôn khổ bài viết có hạn, chúng ta chỉ đề cập đến hai khía cạnh của sự hiệp thông này: Hiệp thông với người nghèo và hiệp thông với người tội lỗi.
1. Chúa Giê-su sống nghèo với người nghèo
Khi thiên thần báo tin cho các người chăn chiên biết có Đấng Cứu Thế giáng sinh tại Bê-lem, thoạt đầu các mục đồng nghĩ rằng đấng ấy chắc phải là đấng siêu phàm, uy phong lẫm liệt… Thế nhưng, thật hết sức bất ngờ, Ngài ấy lại là một trẻ sơ sinh bé bỏng, yếu đuối, được bọc trong tã và đặt nằm trong máng ăn của súc vật, nơi chuồng bò hẻo lánh!
Người nghèo túng lắm cũng được sinh ra trên giường, trên chiếu, dưới một mái nhà; đằng nầy, Chúa Giê-su chấp nhận sinh ra trong chuồng súc vật giữa đồng vắng, được đặt nằm trong máng rơm!
Rồi khi lớn lên, Chúa Giê-su không liệt mình vào thành phần giàu có hay thượng lưu trong xã hội. Ngài không thuộc giai cấp tư tế của Đền thờ cho người ta bái phục, cũng chẳng là kinh sư, luật sĩ cho người ta trọng vọng nể vì, cũng không thuộc hàng biệt phái có nhiều thế giá trong dân… Ngài thuộc tầng lớp dân đen, làm nghề thợ mộc, đổ mồ hôi đổi lấy áo cơm.
Khi đi rao giảng Tin mừng, Ngài chấp nhận sống nghèo thiếu, chẳng có của riêng nên phải nhờ vả người khác. (Một số phụ nữ đã lấy của cải giúp Ngài cũng như nhóm Mười hai môn đệ). “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Ngài không có chỗ dựa đầu.” (Mt 8,20).
2. Chúa Giê-su sát cánh với người tội lỗi
Với tư cách Em-ma-nu-en, là Thiên Chúa ở với loài người, Chúa Giê-su đặc biệt yêu thương, chăm sóc và sát cánh với người tội lỗi.
Ngài không ngại đến trọ nhà người tội lỗi như Da-kêu, chọn Lê-vi thu thuế làm môn đồ, sẵn lòng ngồi đồng bàn ăn uống với người tội lỗi, để cho người phụ nữ mang nhiều tai tiếng bày tỏ lòng yêu thương quý mến mình trong bữa ăn tại nhà người biệt phái…
Ngài thân thiện và hòa mình với thành phần tội lỗi đến nỗi người ta gọi Ngài là người “mê ăn uống, bạn bè với quân thu thuế và người tội lỗi” (Lc 7,34).
Cuối cùng, Ngài hiệp thông trọn vẹn với người tội lỗi khi chịu bắt đi giữa đêm đen như một tên đạo tặc, bị xét xử như một gã gian phi và chịu hành hình đau thương tủi nhục trên thập giá như một tên tử tội gian ác nhất đời.
Lạy Chúa Giê-su,
Nguyện vọng tha thiết của Chúa là ở với loài người mọi ngày cho đến tận thế. Và điều đau lòng nhất của Ngài là bị nhân loại từ khước như thánh Gioan nhận định trong Tin mừng thứ tư: “Ngài ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Ngài mà có, nhưng lại không nhận biết Ngài. Ngài đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Gioan 1, 10-11).
Xin cho chúng con vui lòng mở cửa tâm hồn đón nhận mọi người đang sống chung quanh chúng con, đặc biệt là những anh chị em nghèo túng, quẫn bách, những người lầm lạc, đau khổ… vì họ cũng là hiện thân của Chúa.