Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào trinh nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ". Nghe lời đó, trinh nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận". Nhưng Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?" Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Đấng trinh nữ sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được". Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và thiên thần cáo biệt trinh nữ. - Đó là lời Chúa
Sứ thần vào nhà Trinh Nữ và chào: "Mừng vui lên hỡi Đấng đầy ân sủng. Đức Chúa ở cùng MV 4-B151
+ Sứ thần vào nhà Trinh Nữ và chào: "Mừng vui lên hỡi Đấng đầy ân sủng. Đức Chúa ở cùng Bà. Nghe lời chào ấy, Bà rất bối rối và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì" (Lc 1,28-29). Đứng trước một biến cố lớn lao bất ngờ, Maria đã bối rối. Nhưng sự bối rối ấy không do hoang mang nghi ngờ như Da-ca-ri-a, mà do tâm hồn luôn khao khát đi tìm Thánh Ý Chúa.
+ Về phần chúng ta thì thế nào? Đối diện với những biến cố xảy ra trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta chỉ biết than van kêu trách Chúa đã không thương mình, mà không thử tìm xem Chúa múôn nói gì với chúng ta qua những biến cố ấy. Chúa Giêsu vẫn thường đi qua cuộc đời chúng ta, nhưng chúng ta đã không gặp được Ngài vì không muốn gặp. Nhiều lần Chúa đã đứng ngoài cửa tâm hồn của chúng ta và gõ, nhưng chúng ta đã không nghe thấy nên không mở ra đón rước Ngài.
2. XIN VÂNG Ý CHÚA:
+ Mẹ Maria luôn sống Xin Vâng trong cả cuộc đời. Khi sứ thần truyền tin, dù chưa hiểu rõ mọi điều, nhưng Mẹ đã xin vâng. Rồi trong các biến cố sau đó trong cuộc đời Chúa Giêsu, Mẹ luôn ghi nhớ mọi điều xảy ra và suy đi nghĩ lại trong lòng (x. Lc 2,19). Mẹ quyết tâm làm trọn sứ mệnh được Chúa trao cho. Lời thưa Xin Vâng quan trọng nhất là khi đứng kề bên cây thập giá trong cuộc khổ nạn của Con, Mẹ chứng kiến cảnh Chúa Giêsu bị quân lính cầm lưỡi đòng đâm thấu cạnh sườn (x. Ga 19,25-34), ứng nghiệm lời ông già Si-mê-on đã tiên báo: "Này đây một lưỡi gươm sắt sẽ đâm thâu tâm hồn Bà" (x Lc 2,35)
+ Lời thưa "Xin Vâng" cũng phải là lời của các tín hữu chúng ta trong mọi lúc mọi nơi: Khi gặp may lành ta xin vâng và cảm tạ hồng ân Chúa ban. Nhưng ngay cả những lúc gặp gian nan thử thách, chúng ta cũng vẫn phải cảm tạ Ngài và "Xin Vâng" như Mẹ Maria, vì biết rằng: mọi sự Chúa để xảy ra cho chúng ta đều tốt đẹp và hữu ích cho phần rỗi chúng ta: "Tất cả đều là hồng ân" (x. 1 C 15,10). Mỗi khi gặp điều gì trái ý, chúng ta hãy theo gương Chúa Giêsu để cầu nguyện như sau: "Cha ơi, nếu được, thì xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng đừng theo ý con, một xin vâng ý Cha" (Mt 26,39)
3. TIN VÀO THIÊN CHÚA QUYỀN NĂNG:
+ ĐỨC TIN CỦA FULTON OURSLER:
Vào một buổi chiều đông tiết trời lạnh giá, FULTON, một người đã mất Đức Tin và không đến nhà thờ nhiều năm, giờ đây đang trong tâm trạng tuyệt vọng vì gặp nhiều vấn đề khó khăn nan giải. Khi đi qua đại lộ có Nhà Thờ Chánh Tòa của Thành phố Nữu Ước. Tự nhiên ông thấy như có một sức mạnh vô hình cuốn hút ông đi vào trong Nhà Thờ và đến quì trước tương Đức mẹ Maria đặt tại gian nhà nguyện bên hông Nhà Thờ. Sau một hồi im lặng, tự nhiên Fulton mở miệng ra cầu nguyện như sau: " Lạy Mẹ Maria, có thể chỉ một giây lát nữa thôi là con lại thay đổi ý nghĩ bây giờ để tiếp tục bài bác chế diễu các việc con đang làm và quay trở lại con đường vô tín của con. Nhưng lúc này con cảm thấy tâm hồn con thật bình an, dù đang gặp nhiều khó khăn. Xin Mẹ giúp con thêm Đức Tin". Ngay lúc đó, Fulton cảm thấy có một điều gì đó thật kỳ diệu xảy ra nơi ông và biến đổi ông trở thành một người mới. Ông đã có lại Đức Tin và trở thành một chiến sĩ nhiệt thành truyền bá Đức Tin. Cũng từ ngày đó, ông luôn kết hiệp với Mẹ Maria để làm chứng cho Chúa Giêsu bằng một cuộc sống khiêm nhường cậy trông phó thác và đầy tinh thần vị tha bác ái.
+ Thực ra, việc biến đổi những người vô tín để họ nhận biết tôn thờ Thiên Chúa, cũng như việc đẩy lùi và xóa bỏ các tệ nạn xã hội như: Sì-ke ma-túy, cờ bạc đĩ điếm, lừa đảo cướp giựt... qủa thật là điều khó lòng thực hiện được chỉ với khả năng giới hạn của chúng ta, nhưng không phải là điều khó làm đối với Thiên Chúa, vì: "Không có gì mà Chúa không làm được" (Lc 1,37). Để việc tông đồ truyền giáo, là một việc vượt quá khả năng tự nhiên của chúng ta đạt kết quả, thì chúng ta cần phải liên kết với Chúa Giêsu và nhờ quyền năng của Ngài trợ giúp như Ngài đã nói: "Thầy là cây nho, các con là ngành. Ngành nào kết hiệp cùng cây sẽ trổ sinh hoa trái... Vì không có Thầy, các con chẳng làm được gì" (Ga 15,5).
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa,
chỉ còn ít ngày nữa là tới đại lễ mừng Chúa Giáng Sinh. Chung quanh chúng con, người người đang tấp nập mua sắm và trang hoàng nhà cửa để chuẩn bị mừng lễ. Nhưng có lẽ điều Chúa muốn chúng con phải làm lúc này là chuẩn bị tâm hồn bên trong, làm cho lòng trí chúng con trở thành một cái hang đá trong sạch và đầy tràn ánh sáng của Chúa, xứng đáng đón rước Chúa đến ngự trong Đêm Giáng Sinh.
Xin Chúa giúp chúng con thật lòng sám hối tội lỗi, quyết tâm làm những việc tốt là khiêm nhường phục vụ tha nhân. Nhất là cho chúng con biết lưu tâm chia sẻ tình thương cho những người nghèo khổ đáng thương như: các cụ già cô đơn không nơi nuơng tựa, các trẻ khiếm thị khuyết tật, các trẻ mồ côi phải lang thang kiếm sống nơi đầu đường xó chợ, và hết những bệnh nhân yếu đau liệt giường mà không có tiền để chữa trị... nhờ đó chúng con xứng đáng được đón rước Chúa đến và ban dồi dào hồng ân cho chúng con trong Mùa Giáng Sinh này.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria,
mỗi lần gặp phải sự khó khăn hoạn nạn, chúng con thường chỉ biết kêu trời trách đất, hoặc tệ hơn như người ta thường nói: "Hữu sự vái tứ phương", chúng con lại đi tìm sự trợ giúp nơi những con người hành nghề mê tín dị đoan như: thầy bói, cầu cơ, đồng cốt... đang khi lẽ ra chúng con phải một lòng cây trông vào quyền năng của Chúa, chạy đến ẩn mình dưới sự phù trì che chở của Chúa và xin ơn Chúa soi sáng để biết mình phải làm gì theo Thánh Ý Chúa? Đồng thời, phải biết nhờ Mẹ Maria và các thánh cầu bầu, noi gương Mẹ đã làm để giúp đôi tân hôn tại tiệc cưới Ca-na xưa.
Vậy xin Mẹ giúp chúng con biết lắng nghe lời Chúa phán, tìm biết Thánh Ý Chúa qua mỗi biến cố cuộc sống, và sẵn sàng mở lòng để thưa "xin vâng" như Mẹ đã làm xưa.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Cuộc sống luôn phản ánh một sự thật, biết bao người chẳng diện mạo vóc dáng, nhưng khi tiếp MV 4-B152
Cuộc sống luôn phản ánh một sự thật, biết bao người chẳng diện mạo vóc dáng, nhưng khi tiếp xúc thì hết ngạc nhiên này, đến điều thú vị khác, vì họ vừa có tâm vừa có đức. Cũng không ít kẻ đẹp như tiên, giầu sang quý phái, ấy vậy mà lại thiếu sức hút ! Tiền nhân chúng ta thật khéo, khi đặt giá trị đẹp theo tiêu chí: tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người. Xưa kia, mức độ lộng lẫy hút hồn được diễn tả là “đẹp tựa trong tranh”, hôm nay, nét chuẩn được nói đến là đẹp như người mẫu, đẹp như hàng mẫu. Thực tế cho thấy, không phải nhiều tài lắm sắc gọi là công chúa, là hoàng tử, đâu phải cứ nết na mực thước, là con vua, con tướng. Không biết vì khó tính hay khắt khe, xã hội vẫn cho rằng đẹp người phải đẹp nết, giỏi văn, phải giỏi võ, mới đáng gọi là hoàn hảo.
Hôm nay, trình thuật tin mừng có ly kỳ không: một trinh nữ sinh con, đặc biệt chứ ? Đúng, trinh nữ xinh đẹp thời nào cũng có, chuẩn không cần chỉnh thì ít hơn, nhưng trinh nữ mà sinh con, khó tìm đã vậy, cũng chẳng ai hiểu, nếu suy xét theo lẽ tự nhiên. Trong đối nhân xử thế, bậc làm cha mẹ cũng từng lưu ý con cháu: con đường tốt để đến trái tim một người, chính là hãy nói với họ những lời trân trọng nhất. Sứ thần Chúa mang tin vui đến cho Thiếu nữ, cho toàn dân thiên hạ: “kính chào Maria đầy ơn phúc, …”, trinh nữ sẽ hạ sinh con trai, đặt tên là Giêsu. Từ cuộc đối thoại giữa Sứ thần Chúa và trinh nữ, nhân loại không khó phát hiện ra sự nết na chuẩn mực nơi thiếu nữ mang tên Maria.
Một trinh nữ đẹp không theo quy luật trẻ mãi không già, không gấm vóc lụa là, nhưng phát xuất bởi tình yêu: “này tôi là tôi tớ Chúa, xin cứ thực hiện nơi tôi điều Chúa muốn”. Thực tế nơi cuộc sống, các chuyên gia họ cho thấy kinh nghiệm rất hay về người đẹp: nét đẹp bên ngoài khiến người ta sững sờ khi gặp mặt, nét đẹp bên trong khiến người ta ngơ ngác lúc chia tay. Vâng, một người đẹp, một trinh nữ đẹp, một gia đình đẹp, tất cả, có phải luôn phản ánh về một tình yêu đẹp mà Thiên Chúa ban tặng nhân loại không ? Sứ thần Chúa chào Trinh nữ, Đấng đầy ân sủng, khi giải thích những thắc mắc cho Maria, Sứ thần động viên: “Maria, xin đừng sợ, vì trinh nữ đẹp lòng Thiên Chúa”. Có tâm, có đức, biết yêu, và sống tín thác, nhất định đã làm nên một tình yêu đẹp, một trinh nữ đẹp trường tồn qua các thời đại, không nằm ngoài tiến trình đó.
Người đẹp, tâm tính tốt, chúng ta hôm nay quan niệm thế nào ? Chắc không phải là chuyện hên xui, biết được ý tốt của bậc sinh thành, hiểu được thánh ý Chúa, đâu phải là ngày một ngày hai. Để thành toàn, để được gọi là xinh đẹp, tập luyện, ơn Chúa luôn là điều không thể thiếu. Có phải nếu ta muốn trở thành người hữu ích: đẹp người, đẹp nết, ta phải có quyết tâm biến ước mơ thành hiện thực, và điều đầu tiên ta phải thức tỉnh, không sống trong mê muội, ảo tưởng ! Nếu không có tình yêu, con người sẽ mãi mãi là đứa trẻ ; nếu thiếu sự khiêm tốn, cùng lời thưa vâng trong tín thác, nhân loại sẽ chẳng ai biết Đức Maria, một trinh nữ đẹp. Đồng ý rằng, vinh hoa phú quý, tài giỏi đức độ, là lợi thế, nhưng chúng có thể trở thành nguy cơ khiến người ngã gục, bởi tính kiêu căng tự mãn, nhầm lẫn: đâu là ý Chúa đâu là ý tôi !
Người đẹp, tâm hồn đẹp, cách sống chuẩn, ắt hẳn phải mang đến cho gia đình một hạnh phúc, một xã hội, một đất nước phồn vinh thịnh vượng thật. Thiên Chúa là tình yêu, Ngài thông ban hạnh phúc, tin mừng thật, do đó tâm hồn đẹp và đúng, mới xứng hợp với gia nghiệp đời đời trong nước Chúa. Sứ thần Chúa sẽ còn đem tin vui tin mừng đến với Đấng “đầy ơn sủng”, chứ không phải “một chút ơn sủng”, không thể mang đến nửa mừng nửa lo cho Maria, cho thế giới. Đức Maira sẽ sống trọn vẹn lời thưa vâng, chứ không nửa lời thưa vâng. Xã hội loài người đã sớm biết định lượng “nét đẹp toàn diện”, chứ không phải đẹp tương đối, đẹp tượng trưng. Trước tình yêu đôi lứa, người ta còn biết chủ trương: người xinh đẹp ở bề ngoài chỉ khiến đàn số ông con trai họ dừng bước ngắm nhìn, người thông minh, có đẹp tâm hồn, chắc chắn sẽ thu hút được nam nhân quân tử kết thân làm bạn đời.
Một người đẹp, một nam thanh nữ tú thông thái, có tố chất anh hùng, một quốc gia đủ năng lượng, tài đức, mới đúng là một đất nước giầu mạnh. Người có ước muốn đạt tới đỉnh cao của hạnh phúc, cũng là người biết hòa hợp giữa “cái biết của mình và cái biết của người”, dù họ không được trang bị nhiều lợi thế, họ vẫn từng bước tới đích điểm hạnh phúc. Một trinh nữ đẹp, chắc sẽ không dừng lại nơi Đức Maria. Người đẹp, người tốt, cũng không nghĩ chỉ thuần túy là những ai sống đời dâng hiến, nhưng sẽ là tất cả những ai biết tín thác vào tình yêu Đức Kitô. Sứ thần Chúa sẽ còn muốn mong cả nhân loại cùng nghe, cùng hiểu: hỡi bạn, “bạn đừng sợ, vì không có việc gì mà Chúa không làm được”. Amen.
Trình thuật về buổi gặp gỡ giữa sứ thần Gabrien và trinh nữ Maria ở Nadarét mà thánh sử Luca MV 4-B153
Trình thuật về buổi gặp gỡ giữa sứ thần Gabrien và trinh nữ Maria ở Nadarét mà thánh sử Luca đã chi tiết kể lại xem ra đã không đặt trọng tâm vào người nhận sứ điệp “Truyền Tin” là Đức Maria, nhưng đặt trọng tâm vào “Ngôi Lời Thiên Chúa” sắp được thụ thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, và được sinh ra từ cung lòng Đức Trinh Nữ (x. Lc 1,26-38).
Thực vậy, ngay từ lời chào khởi đầu cuộc diện kiến, sứ thần đã giới thiệu Đức Chúa, và khẳng định : “Bà đầy ơn sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc 1,28). Tiếp liền sau đó, sứ thần cho Trinh Nữ biết Tên của Con Trẻ mà Trinh Nữ sẽ mang thai và hạ sinh, và Đấng có tên Giêsu ấy chính là Con của Thiên Chúa Tối Cao, Đấng “được Thiên Chúa xức dầu tấn phong và sai đến”, mà toàn dân hằng mong đợi, như Kinh Thánh đã nói về Ngài : “Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi, một người do chính ngươi sinh ra, và Ta sẽ làm cho vương quyền của người con ấy được bền vững… Đối với người ấy, Ta sẽ là Cha, và đối với Ta, người ấy sẽ là con” (2 S 7,12.14), “Phần ngươi, hỡi Bêlem Épratha, ngươi bé nhỏ nhất trong các thị tộc Giuđa, nhưng từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ítraen. Nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa” (Mk 5,1), và chính xác, rõ ràng hơn là “Đức Chúa sẽ ban cho các ngươi một dấu chỉ : Này đây một trinh nữ sẽ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuen” (Is 7,14).
Nhưng điểm quan trọng hơn mà thánh Luca muốn nhấn mạnh, đó là : qua Đức Giêsu, mầu nhiệm về Thiên Chúa vốn được giữ kín tự ngàn xưa, nay “được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin và vâng phục Thiên Chúa” ( Rm 16,26) hầu được cứu rỗi, bởi Đức Giêsu là Con Một Thiên Chúa và là Ngôi Lời của Thiên Chúa “đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14 ), và chỉ người Con Một này, “Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha” mới tỏ được cho chúng ta biết mầu nhiệm về Thiên Chúa, bởi ngoài Ngôi Lời, chưa bao giờ có ai thấy Thiên Chúa (x. Ga 1,18).
Đến lúc này thì sứ thần gặp phải vấn nạn của Trinh Nữ : “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng” (Lc 1,34).
Vấn nạn rất thông minh và nhân bản, vấn nạn rất chân thành và đơn sơ, vấn nạn rất lương thiện và công bằng, vì việc thụ thai mà không “ăn ở” với đàn ông là việc ngoài sức tưởng tượng, việc của thượng giới, việc của trời thần, chứ loài người làm sao thực hiện được. Cũng vì là việc không thể có, và vượt trí khôn nhân loại, mà những người chống lại Giáo Hội mãi mãi dùng sự kiện “Trinh Nữ thụ thai và sinh hạ con trai” làm tiền đề để bôi bác, chể diễu, phỉ báng Kitô giáo, và chụp cho người Kitô hữu cái mũ “mê tín nhảm nhí, phản khoa học, mê muội trước một đức tin huyền hoặc, phi lý, phản tự nhiên”.
Qủa thực, nếu Thiên Chúa không can thiệp thì việc ấy không thể thực hiện ; nếu Chúa Thánh Thần không tác động, thì bào thai không thể thành hình trong cung lòng của Trinh Nữ ; nếu quyền năng Đấng Tối Cao không rợp bóng trên con người, thì không bao giờ có chuyện trinh nữ mà thụ thai và sinh con, vì đi ngược luật tự nhiên của chính Đấng Tối Cao thiết lập trên thụ tạo của Ngài.
Nhưng chính vì luật tự nhiên, quy trình tự nhiên, đòi hỏi tự nhiên, điều kiện tự nhiên trong việc cưu mang và sinh sản con người nằm trong tay Thiên Chúa, do chính Thiên Chúa tạo dựng, nên đối với Thiên Chúa, việc thay đổi luật tự nhiên cũng không khác việc lập nên luật tự nhiên ấy. Nói cách khác, Ngài có toàn quyền làm điều Ngài muốn, toàn năng để thực hiện những việc mà loài người không thể tưởng tượng, chưa hề quan niệm, nhất là Ngài toàn thiện để mọi sự được trở nên tốt đẹp đối với những ai yêu mến Ngài.
Ở đây, dù là việc thụ thai khi chưa hề chung sống với chồng là việc bất khả thể đã gây bối rối cho Đức Maria, nhưng vì là người đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa toàn năng và yêu mến Thánh Ý Ngài, nên Đức Maria đã không nghi nan, lo sợ nữa, khi được sứ thần Gabrien trấn an : “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà”, và để lời mình có giá trị thuyết phục, sứ thần đã cho Đức Maria biết : “Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai : bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng”, và sứ thần kết luận : “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,35-37).
“Không có gì là không thể làm được”, khi Thiên Chúa đến với con người, “đến trong con người”, trở thành “người con” của con người, được sinh ra từ cung lòng của một con người.
“Không có gì là không thể làm được”, khi cho cung lòng con người được cưu mang Thiên Chúa, cho thân xác con người được trở thành nhà Thiên Chúa ở, Đền Thờ Thiên Chúa ngự, cho Máu Thịt Thiên Chúa trở nên của ăn, của uống nuôi sống con người.
“Không có gì là không thể làm được”, khi Thiên Chúa không “tàng hình” để cứu chuộc, không “vô hình” để cứu chữa, nhưng làm người hữu hình như mọi người, để chịu đau đớn trên thân xác, chịu đau khổ trong tâm hồn, bị đóng đinh chết và chôn trong mồ như mọi người, để mọi người được làm con Thiên Chúa, chia sẻ thiên tính của Ngài khi được “đồng hình đồng dạng” với Ngài.
“Không có gì là không thể làm được”, khi sống lại vinh quang từ cõi chết, và cho mọi người được “nhìn thấy Đấng Cứu Độ của mình” (x. Ga 20 ; Mt 5,8).
Vâng, vì tin chắc rằng : “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”, Trinh Nữ Maria đã đón nhận ơn gọi và sứ vụ “làm Mẹ Ngôi Hai Thiên Chúa” là mầu nhiệm vượt xa khả năng hiểu biết của loài người ; vì tin “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”, Đức Maria, người Kitô hữu tiên khởi đã sẵn sàng trở thành khí cụ trong tay Thiên Chúa để Lời Hứa của Thiên Chúa với Ítraen, dân Ngài trong Cựu Ước được hoàn thành mỹ mãn trong Tân Ước, với Giáo Hội của Đức Giêsu, một Giáo Hội mở ra cho hết mọi người của mọi thời và mọi nơi.
Cùng với Đức Maria, chúng ta ngợi khen Chúa, vì những việc kỳ diệu, mà loài người cho là “không thể làm được” Ngài đã thực hiện, vì xót thương ; tạ ơn Chúa vì biết bao “điềm thiêng, dấu lạ”, mà loài người “không thể tin là có được” đã được Chúa ban phát trong cuộc đời mỗi người, và với Đức Maria, người tín hữu gương mẫu, Kitô hữu tuyệt vời đã tín thác trả lời sứ thần : “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38), chúng ta hãy giúp nhau tín thác dấn thân phụng sự Chúa trong mọi người, bằng “loan truyền Chúa chịu chết, và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ, Chúa chúng ta lại đến”.
Thiên Chúa đã luôn ngỏ lời mời gọi con người cộng tác với Người trong rất nhiều công việc. Hôm MV 4-B154
Thiên Chúa đã luôn ngỏ lời mời gọi con người cộng tác với Người trong rất nhiều công việc. Hôm nay, lắng nghe trình thuật về việc sứ thần Gáprien được Thiên Chúa sai đến truyền tin cho Đức Maria, lòng ta được mở ra trước Lời Chúa. Ta được lắng nghe những lời mời gọi mà Chúa đã dành riêng cho ta, được nhận ra tình thương Chúa dành cho mình, hạnh phúc vì sự quý trọng mà Chúa dành cho ta khi mời gọi ta cộng tác với Người. Chiêm ngắm mẫu gương của Mẹ Maria, ta cảm phục trước thái độ vâng phục trong khiêm hạ của Mẹ, được cùng với Mẹ chia sẻ niềm vui có Chúa ở cùng. Lòng ta cũng âm vang một lời nguyện cầu tha thiết: Xin Chúa cứ làm cho con như điều Chúa muốn (x. Lc 1, 38).
Thánh sử Luca đã thuật lại rằng: “Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáprien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria. Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: ‘Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.’ ” (Lc 1, 26-28). Mẹ Maria được mời gọi hãy mừng vui lên, mừng vui lên vì Mẹ là Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Mẹ. Đó là một tin vui cho Mẹ. Lời xác nhận của sứ thần khiến cho Mẹ bối rối và tự hỏi: lời chào như vậy có nghĩa gì (x. Lc 1,29). Sứ thần Gáprien cho mẹ biết về công trình mà Thiên Chúa sẽ thực hiện nơi Mẹ. Khi lắng nghe lời mời gọi của Chúa, Mẹ đã đối thoại, bàn hỏi để hiểu rõ thánh ý mà Người muốn dành cho Mẹ, cách mà Người sẽ thực hiện trên Mẹ những gì Người muốn. Mẹ hoàn toàn tự do trong chọn lựa của mình, không hề bị thúc ép, lo lắng hay sợ hãi. Trái lại, lòng khiêm nhường nơi người nữ tì của Chúa luôn chân thành mở ra trước thánh ý Người. Mẹ sẵn sàng đối thoại để được Thiên Chúa ban ơn soi sáng.
Chiêm ngắm thái độ khiêm nhường thẳm sâu của Mẹ, ta tự thấy mình hổ thẹn. Mẹ đã không tự nhận mình là Đấng đầy ân sủng, danh hiệu ấy là do Thiên Chúa dành tặng cho Mẹ. Còn ta, trong cuộc sống thường ngày, ta có thường xuyên bàn hỏi với Chúa về những gì mình sẽ làm không? Ta có hỏi ý kiến của Người để biết đâu là thánh ý mà Người dành cho ta không? Đâu mới là điều đẹp lòng Người? Ta có nhận ra tất cả những gì tốt đẹp nơi ta đều do bởi Chúa hay ta quy về mình hết thảy? Đã có nhiều khi, ta tự quyết tất cả. Sau những chọn lựa sai lầm, ta đã hối hận. Thất bại đã làm ta ngã gục. Trong đau đớn, ta tìm đến với Chúa, có khi là trách móc Chúa hay tự dằn vặt chính mình. Thiên Chúa rất mực yêu thương ta. Người vẫn ngỏ lời mời ta cộng tác với Người trong công trình cứu độ mà Người dành cho chính ta. Dù ta lỗi lầm và bất xứng, Người vẫn dành cho ta một sự trân trọng đáng quý khi ta biết sám hối ăn năn. Đó là món quà luôn luôn mới mẻ và hấp dẫn mà ta cần đón nhận và khám phá.
Thử đặt mình trong vị trí của Mẹ Maria lúc bấy giờ, phần nào ta cũng cảm nhận được những thử thách mà Mẹ đã phải trải qua. Mặc dù lúc ấy, Mẹ Maria đã thành hôn nhưng chưa về chung sống với Thánh Giuse, việc Mẹ nói lời “xin vâng” đồng nghĩa với việc Mẹ sẽ mang thai mà không do người phàm. Theo luật Môsê, phụ nữ “không chồng mà mang thai” thì sẽ bị ném đá. Vị hôn phu của Mẹ sẽ làm gì khi biết Mẹ “phản bội” tình yêu của mình? Mẹ biết rõ những thử thách đang bày ra trước mắt mình nhưng Mẹ vẫn giữ vững một niềm tin và lòng tín thác vào Đấng mà Mẹ hết lòng mến yêu. Đúng như lời Mẹ đã thưa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1, 38). Tất cả cuộc đời của Mẹ đều được thực hiện trong tình yêu nhiệm mầu của Thiên Chúa. Noi gương Mẹ, ta hãy xin Chúa thực hiện cho ta những gì Người muốn.
Lạy Cha là Thiên Chúa cao cả tốt lành! Cảm tạ Chúa đã luôn yêu thương con và mời gọi con cộng tác vào công trình cứu độ mà Chúa đã dành cho con. Chiêm ngắm cuộc đời của Đức Maria- Mẹ Thiên Chúa, con thấy lòng mình ngập tràn hạnh phúc, hạnh phúc vì có Mẹ là mẫu gương cho con trên hành trình thực thi thánh ý Chúa. Xin Chúa dạy con biết sống khiêm nhường, cậy trông nơi Chúa và luôn biết thưa “Xin vâng” như Mẹ. Amen.
“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38).
Mẹ Maria được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Con Thiên Chúa ở trần gian. Sứ thần đã đến ngỏ MV 4-B155
Mẹ Maria được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Con Thiên Chúa ở trần gian. Sứ thần đã đến ngỏ lời với Mẹ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc 1,28). Nghe lời ấy, Mẹ Maria bối rối và tự hỏi lời chào như vậy có ý nghĩa gì? Sứ thần liền nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại Người vô cùng vô tận” (x. Lc 1,30-33). Quả thật, Mẹ Maria hoàn toàn chưa biết đến việc vợ chồng cũng chưa hay việc Mẹ sẽ thụ thai như thế nào nhưng Mẹ tin vào Thiên Chúa, tin Người sẽ thực hiện nơi Mẹ điều sứ thần đã nói: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ tỏa bóng trên bà” (Lc 1,35a). Từ niềm tin dẫn tới hành động, Mẹ đã đáp lời xin vâng: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Lời xin vâng của Mẹ phát xuất từ lòng yêu mến, sự tín thác và lòng tự do đáp trả lời Chúa qua sứ thần. Với lời xin vâng, Mẹ trở thành Mẹ của Con Thiên Chúa, và lời hứa ban ơn cứu độ của Thiên Chúa đã được thực hiện cho dân Người.
Thiên Chúa rất yêu thương con người. Ngài khao khát cho con cái của Ngài được hạnh phúc. Ngài hằng yêu và cần đến chúng ta. Vì vậy, dầu con người lỗi lầm thế nào thì Ngài vẫn tha thứ để con người được sống hạnh phúc với Ngài. Ngài đã nói với con cái rằng: “Chính Ta phù trợ ngươi- sấm ngôn của Đức Chúa. Đấng cứu chuộc ngươi là Đức Thánh của Ítraen” (Is 41,14b). Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có muốn Chúa đến ở lại trong tâm hồn mình và có muốn Ngài làm Đấng bảo trợ cho chúng ta không? Nếu có, bạn hãy đáp lại Ngài bằng lời xin vâng, bằng sự thống hối; hãy cộng tác với Ngài bằng cách chạy đến với Ngài trong Bí tích Thánh Thể và Bí tích Hòa giải. Đến với Ngài, mọi người sẽ được thỏa mãn mọi nhu cầu một cách tuyệt vời theo sự giàu sang của Ngài trong Đức Kitô Giêsu (x. Pl 4,29). Nếu bạn không muốn Chúa ngự trong tâm hồn thì Chúa cũng phải đứng ở ngoài vì Chúa tôn trọng sự tự do của bạn. Bạn sẽ được lãnh nhận phần thưởng xứng đáng với việc bạn đã chọn lựa.
Hôm qua, Thiên Chúa đã đến với con người bằng việc xuống thế làm người. Hôm nay, Ngài vẫn đến với con người qua các Bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể. Bạn có đang đáp lời xin vâng và chờ đợi Con Thiên Chúa đến với bạn không? Chúa vẫn đang gõ cửa tâm hồn bạn và chờ đợi bạn mở của lòng. Ngài biết bạn cần gì trong giây phút hiện tại. Bởi chính Ngài đã dựng nên bạn (x. Tv 119).
Lạy Chúa! Chúa biết con đang sống thế nào, dầu con có cố gắng thế nào cũng không thể đến với Ngài vì thân xác con nặng nề. Xin ban Thánh Thần dũng lực đến nâng đỡ và đưa con về với Chúa vì chính Ngài là sức mạnh của con. Amen.
Trong thời Cựu Ước, Hòm Bia Giao Ước chính là dấu chỉ cho sự hiện diện của Thiên Chúa giữa MV 4-B156
Trong thời Cựu Ước, Hòm Bia Giao Ước chính là dấu chỉ cho sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân. Khi được bốn bề yên ổn, ở trong nhà làm bằng gỗ bá hương, vua Đavid thao thức, băn khoăn khi Hòm Bia Thiên Chúa ở trong lều vải. Ông muốn xây cho Đức Chúa một ngôi nhà. Thiên Chúa thấu suốt tấm lòng của ông. Trong thời Tân Ước, Thiên Chúa chuẩn bị cho Con Một của mình một ngôi nhà, một Hòm Bia Giao Ước mới. Hòm Bia đó chính là Đức Trinh Nữ Maria.
Trong kinh Cầu Đức Bà, Đức Maria được ca ngợi là Hòm Bia Thiên Chúa. Quả thực, Mẹ được Thiên Chúa chọn làm mẹ Con Thiên Chúa. Cung lòng Mẹ trở nên mái nhà ấm áp, tinh tuyền cho Con Một ngự vào. Nhưng để trở nên Hòm Bia Thiên Chúa, Mẹ đã phải chấp nhận gạt qua dự định, kế hoạch của riêng mình để thưa vâng với kế hoạch của Thiên Chúa. Có lẽ, lúc đó Mẹ chưa hiểu được sứ mạng cao cả Thiên Chúa trao phó cho mình. Đơn giản, Mẹ thưa vâng vì Mẹ ý thức thân phận nữ tỳ của mình. Một nữ tỳ hèn mọn, được Thiên Chúa đoái thương. Mẹ đã bối rối trước lời chào Sứ thần dành cho mẹ. Điều đó thật dễ hiểu. Mẹ lắng nghe, và thưa vâng. Từ đó, lới hứa từ ngàn xưa được thực hiện. Cũng từ đó, “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Đó là tình yêu bao la Thiên Chúa dành cho nhân loại. Một tình yêu lớn lao đến nỗi ban tặng Con Một yêu dấu.
Kinh thánh kể lại, vua David đã từng nhảy mừng trước Hòm Bia Thiên Chúa. Nhà vua nhảy mừng như một đứa trẻ gặp lại mẹ của mình. Khi Đức Maria đến thăm bà Êlisabet, hài nhi Gioan cũng nhảy mừng trong bụng mẹ, và được tràn đầy Thánh Thần (x. Lc 1, 43). Bà Êlisabét cũng vui sướng: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng” (Lc 1, 43-44). Đức Maria thật sự là hòm Bia Giao Ước mới khi cưu mang Con Một Thiên Chúa. Theo một cách nào đó, chúng ta cũng là Hòm Bia Giao Ước. Thực vậy, nếu xét cho kỹ, ta sẽ thấy rõ hơn điều này. Hòm Bia Giao Ước chính là dấu chỉ về sự hiện của Thiên Chúa ở giữa dân. Đức Maria trở nên Hòm Bia Giao Ước khi Mẹ được chọn làm mẹ Con Thiên Chúa. Thiết nghĩ, mỗi khi chúng ta được rước Chúa Giêsu Thánh Thể vào lòng là mỗi lần chúng ta được trở nên Hòm Bia Giao Ước. Đó cũng là đền thờ cho Thiên Chúa ngự vào. Tự sức mình, chúng ta không thể trở nên Hòm Bia cho Chúa ngự vào. Phần chúng ta, để bớt bất xứng, một thái độ khiêm tốn, hoán cải, sửa đổi đời sống và nhất là noi gương Mẹ Maria sẵn sàng thưu vâng với thánh ý Thiên Chúa là điều rất cần thiết.
Trên bàn thờ, cây nến thứ tư được thắp lên, nhắc nhở mỗi người chúng ta rằng: “ngày ấy” đã rất gần. Chúng ta đã và đang chuẩn bị những gì để đón mừng ngày sinh nhật Chúa?. Ngay từ bây giờ, chúng ta cần nhận ra tình thương lớn lao Thiên Chúa dành cho mình để luôn biết cách chuẩn bị tâm hồn làm đền thờ, Hòm Bia cho Chúa ngự vào. Thiên Chúa yêu thích những tâm hồn đơn sơ, ngay thẳng và sẵn sàng thực thi thánh ý của Người. Chúng ta cần tiến thêm một bước nữa. Đó là nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi những người ta gặp gỡ để trong mọi hoàn cảnh, chúng ta luôn biết yêu thương, tôn trọng họ theo như lời Thiên Chúa mời gọi.
Mùa Vọng là mùa mong đợi, chờ đợi ở tương lai. Hy vọng hướng tới điều vui, tốt đẹp, tươi sáng MV 4-B157
Mùa Vọng là mùa mong đợi, chờ đợi ở tương lai. Hy vọng hướng tới điều vui, tốt đẹp, tươi sáng hơn hiện tại. Trong phụng vụ nhắc đến hai điều: chuẩn bị tâm hồn đón mừng Lễ Giáng Sinh và mong đợi Chúa sẽ đến vào ngày quang lâm.
Đức Maria Vô Nhiễm là ngôi sao chiếu sáng trên con đường Mùa Vọng. Mẹ là “dấu hiệu của niềm hy vọng chắc chắn, và là dấu hiệu của sự an ủi“ (LG, số 68). Để đến được với Đức Giêsu, là ánh sáng đích thật, là mặt trời phá tan mọi bóng tối của lịch sử, chúng ta phải cần đến những ánh sáng gần gũi chúng ta hơn, cần đến những con người phản chiếu ánh sáng của Đức Kitô, và như thế, soi chiếu con đường chúng ta đi. Và ai là người có thể chiếu sáng hơn Đức Maria? Ai là người có thể tốt lành hơn Mẹ, là bình minh báo hiệu ngày cứu rỗi, để có thể trở thành ngôi sao hy vọng cho chúng ta? (x. Thông điệp Spe Salvi, số 49).
Mùa Vọng, nhìn lên Đức Trinh Nữ Maria, người đã chia sẻ niềm hy vọng của dân Ítraen và đã góp phần vào việc thực hiện niềm hy vọng ấy.
Một Trinh Nữ thụ thai, sinh con, đồng trinh trọn đời, một giáo lý độc đáo nhất chỉ có trong Kitô giáo. Trang Tin Mừng hôm nay được đọc trong các Lễ Đức Maria, nói lên sự thánh hiến tuyển chọn của Thiên Chúa đối với một thụ tạo được đặc ân vĩ đại nhất. Tin Mừng này được công bố muốn hướng chúng ta đến Mầu Nhiệm Nhập Thể Làm Người của Con Thiên Chúa.
Để chuẩn bị cho Ngôi Hai xuống thế làm người, Thiên Chúa đã dọn sẵn cung lòng Đức Maria trinh khiết vẹn tuyền, xứng đáng cho Con Thiên Chúa ngự đến. Thiên Chúa đã sai Sứ thần Gabrien đến Nadarét để truyền tin cho Đức Mẹ.
Sứ thần cung kính thưa với Mẹ rằng: “Mừng vui lên, hỡi Ðấng đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng bà!” (Lc 1,28). “Ðấng đầy ơn phước” là tên gọi đẹp nhất của Mẹ Maria, tên gọi mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ, để chỉ cho biết rằng từ muôn thuở và cho đến muôn đời, Đức Mẹ là Ðấng được yêu thương, được Thiên Chúa tuyển chọn, được tiền định để đón nhận hồng ân quý giá nhất, là Chúa Giêsu “tình thương nhập thể của Thiên Chúa” (x.Thông điệp Thiên Chúa là tình yêu, số 12).
Tước hiệu “Bà đầy ơn phước” xác nhận lòng Đức Mẹ không có chỗ dành cho tội lỗi vì luôn được đầy tràn ơn phước của Thiên Chúa.
“Thiên Chúa ở cùng Bà”: Ở đâu có Thiên Chúa, ở đó bóng tối của tội lỗi không thể có mặt. Mẹ luôn sống trong ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa.
“Bà có phúc hơn mọi người phụ nữ” vì Mẹ là người duy nhất không vướng mắc tội tổ tông. Mẹ đẹp thánh thiện. Mẹ đẹp cao quý. Mẹ tuyệt mỹ vì niềm tin đơn sơ và cuộc sống khiêm nhường. Nét đẹp ấy thoang thoảng như như một hương thơm hảo hạng toả ra lôi cuốn. Nét đẹp ấy mặn mà như thứ muối thiêng liêng. Nét đẹp ấy lung linh như ánh sáng dịu mát. Nét đẹp ấy huyền diệu như âm nhạc dịu êm mời gọi con người nâng tâm hồn lên tới Chúa.
Sứ thần Gabrien cũng mời gọi Đức Maria hãy vui lên vì giờ cứu độ của Thiên Chúa đã đến. Sứ thần tiếp: “Này bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu. Đức Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng Đavít tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và vương quyền của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1,31-33). Là một tâm hồn luôn luôn nghiền ngẫm Kinh Thánh, chắc hẳn Đức Maria nhớ lại lời Chúa đã dùng ngôn sứ Nathan mà thề hứa với vua Đavít xưa. Nhưng điều Mẹ không hề bao giờ nghĩ tới là mình có thể có vai trò gì trong việc thực hiện lời tiên tri ấy. Chuyện “không thể được” đầu tiên là làm sao mình có thể sinh con được vì đã quyết “không biết đến chuyện vợ chồng” để sống trọn vẹn cho một mình Thiên Chúa mà thôi? Sau khi được sứ thần giải thích rằng “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”, Mẹ đã khiêm nhường thưa lại: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Và thế là Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người trong lòng Đức Trinh Nữ. Và thế là Đức Maria khiêm nhường đã trở thành thánh mẫu của Thiên Chúa. “Cuối cùng, sau những thế kỷ dài chờ đợi cho lời hứa được thực hiện, thì với Đức Maria người thiếu nữ Sion cao sang, thời gian đã nên trọn và nhiệm cuộc mới được thiết lập khi Con Thiên Chúa mặc lấy bản tính nhân loại nơi Người để giải thoát con người khỏi tội nhờ các mầu nhiệm của thân xác Con Chúa” (Hiến chế tín lý về Giáo Hội, số 55).
Bài Tin Mừng hôm nay thường gọi dưới tựa đề là ” Sứ Thần truyền tin cho Đức Mẹ”. Nhưng Sứ Thần và Đức Mẹ đều không phải là nhân vật chính. Nhân vật chính là Đức Giêsu. Trang Tin Mừng này giới thiệu căn tính của Đức Giêsu. Đó là nội dung chính của Truyền Tin. Qua lời của Sứ Thần mà chúng ta biết Giêsu là “Con Đấng Tối Cao”, là “Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa”.
Đức Maria sẽ nhận được một sự can thiệp diệu kỳ của Thiên Chúa. Mẹ sẽ đón lấy quyền năng sáng tạo của Thánh Thần “Thánh Thần sẽ ngự trên Bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà.”. Vì thế Đấng Mẹ sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Nếu việc thụ thai Gioan Tẩy Giả đòi hỏi một phép lạ, thì việc thụ thai Đức Giêsu đòi hỏi một phép lạ lớn hơn nhiều, đó là Ngài được thụ thai bởi một Trinh Nữ. Đức Giêsu không chỉ là Đấng Mêsia mà dân Do thái hằng mong đợi, Ngài còn là Đấng cao cả, thánh thiện hơn nhiều; Ngài là “Con Thiên Chúa” theo nghĩa viên mãn chưa từng có.
Sau tiếng Xin Vâng đầu tiên, Ngôi Hai Thiên Chúa đã làm người trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Mầu nhiệm nhập thể đã bắt đầu ngay từ giây phút này. Lời thưa “Xin vâng” của Mẹ đã thay đổi cả lịch sử nhân loại. Từ đó Mẹ hoàn toàn kết hiệp với công trình của Con Mẹ. Từ đó vai trò Trung Gian của Mẹ đã khởi đầu. Từ đó, Mẹ trở nên Mẹ của tất cả những ai hiệp nhất trong Đức Kitô (Gal 3,28).
Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ trọn đời đồng trinh bởi vì đã được Thánh Thần chiếm ngự cả hồn xác. Thánh Giuse nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi người vợ của mình, nên cũng hiến dâng chính mình để phục vụ công trình cứu độ của Thiên Chúa. Sống trinh khiết vì Nước Trời là ơn của Thánh Thần chứ không phải do gồng mình mà sống được, vì thế nó là dấu chỉ rằng Nước Trời đang hiện diện, quyền năng của Thiên Chúa đang hành động trong con người và giữa con người. Mầu nhiệm “Trinh nữ sinh con” do Ngôn sứ Isaia loan báo đã thành sự trọn vẹn nơi thân mẫu Chúa Giêsu, nên Giáo hội vẫn tuyên xưng Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ trọn đời đồng trinh.
Đức Mẹ xin vâng ý Chúa.Tuân phục là một nhân đức quan trọng, quý hơn cả lễ vật và có liên quan đức tin: có tin tưởng thì mới vâng lời. Đức Mẹ là người tuyệt đối tín thác vào Thiên Chúa nên cũng tuyệt đối tuân phục Ngài. Đức tuân phục là một trong ba lời khấn của các tu sĩ, nhân đức này phải được dựa trên nền tảng kiên cố là đức khiêm nhường.
Mẹ sống hoàn toàn cho tiếng xin vâng trong sự tín thác, đặt trọn cuộc đời mình dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Khởi đi từ làng quê Nadarét cho đến đỉnh đồi Gôngôtha, hiệp thông với Con yêu dấu từ thuở ấu thơ đến khi bị treo trên cây thập giá, Mẹ đã diễn tả lời xin vâng ấy theo dọc chiều dài cuộc đời của con mình. Mẹ vui lòng đón nhận mọi biến cố vui-buồn-sướng-khổ theo thánh ý Thiên Chúa. Mẹ trở nên mẫu gương cho tất cả chúng ta tiếp tục thưa xin vâng trong bí tích Thánh tẩy.
Cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta một người Mẹ cao cả, thánh thiện, đáng yêu, đáng mến. Mẹ cầu bàu cho chúng ta trước tôn nhan Chúa. Mẹ dẫn chúng ta đến với Chúa.
Xin Chúa cho chúng con được trở nên con ngoan thảo của Mẹ, để Mẹ dễ dàng tỏ cho chúng con thánh ý Chúa và hướng dẫn chúng con biết sống đẹp lòng Chúa hàng ngày.Amen.
Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến cùng Đức Trinh Nữ Maria mong thực hiện điều Thiên Chúa hứa MV 4-B158
Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến cùng Đức Trinh Nữ Maria mong thực hiện điều Thiên Chúa hứa xưa. Ngài hứa sẽ giải thoát dân Ngài khỏi ách thống trị của tội lỗi và sự chết. Đức Trinh Nữ đón nhận tin đó với tất cả kinh ngạc bởi điều đó nằm ngoài sức tưởng tượng của Đức Trinh Nữ. Vì thế Đức Maria nêu thắc mắc: ‘Việc đó xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng’ c.34′. Đây không phải lời từ chối, hay nghi nan trong việc đón nhận tin từ sứ thần, mà chính là nghi vấn mong sáng tỏ điều liên quan đến đức tin. Sứ thần xác quyết với Đức Mary ‘Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được c.37’. Thiên Chúa có khả năng tạo sự sống, ban sự sống, cầm giữ và bảo vệ sự sống. Đức Maria tiết lộ điều Đức Trinh Nữ giữ kín trong lòng là âm thầm chọn cuộc sống độc thân, nhưng sẽ vui lòng làm bất cứ điều gì đẹp lòng Thiên Chúa. Đức Trinh Nữ đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa, và sẵn sàng từ bỏ í riêng đón nhận í Thiên Chúa, và thành tâm thực hiện điều Thiên Chúa tin tưởng phó thác. Đức Maria tin tưởng Thiên Chúa làm những điều kì lạ vượt khỏi phán đoán, hiểu biết của trí óc con người. Ngoài Thiên Chúa ra, nhân loại không thể hiểu việc Chúa thực hiện. Dù không hiểu rõ nhưng Đức Maria chọn sống theo í Chúa. Sứ thần tiến thêm một bước thông báo cho Đức Maria biết, bà con là bà Elizabeth, người mà thiên hạ gọi là son sẻ trong tuổi cao niên, Thiên Chúa xoá tan u sầu đời bà bằng cách ban cho bà một người con.
Sứ thần cho biết Thiên Chúa chọn Đức Maria trở thành mẹ Đấng Cứu thế, nhưng điều quan trọng hơn cả chính là Đấng Cứu Thế được sinh ra. Ngài xuống trần gian, và nước của Ngài không bao giờ tận. Ngài coi sóc dân Ngài bằng tình thương và lòng thương xót. Đấng mà Thánh Gioan Tiền Hô có lần long trọng thông báo ‘ Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần Mk 1,8.
Đức Maria dù không hiểu trọn vẹn điều sứ thần loan báo. Với lòng tin và tâm tình phó thác Đức Maria thưa ‘Xin Vâng’ khi Đức Maria thưa: ‘Vâng, tôi đây là nữ tì của Thiên Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần phán’. c.38. Qua lời xác nhận trên, Đức Maria trở thành mẹ Ngôi Hai Thiên Chúa. Đức Maria trở thành mẫu mực của lòng tin cho các môn đệ Đức Kitô, và cho toàn thể Giáo Hội trần thế. Đức Maria đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa và qua đó cuộc đời Đức Maria từ đó thay đổi hoàn toàn, và thay đổi muôn đời.
Phong tục cưới hỏi thời đó bắt đầu bằng nghi thức hứa hôn. Trong nghi thức này có việc trao đổi nhẫn cưới và quà tặng, tương tự như phong tục hỏi ngày nay. Người con gái đó đã có chỗ và trong những tháng tiếp theo là việc chuẩn bị cho ngày hôn lễ. Trinh nữ Maria hứa tuân theo điều sứ thần phán mang lại niềm hy vọng lớn lao và tâm tư lo lắng. Niềm hy vọng lớn lao được Đức Trinh Nữ diễn tả qua bài ca Magnificat:
‘Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, thần trí tôi hớn vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tì hèn mọn, Ngài đoái thương nhìn tới’. Lk 1,47-48.
Lo lắng là một phần của cuộc sống. Người có trách nhiệm luôn lo lắng làm sao hoàn thành sứ mạng trao ban một cách tốt đẹp. Sứ thần biết Đức Trinh Nữ lo lắng về trách nhiệm được trao phó. Sứ thần yên ủi, cổ võ, đừng lo: ‘Mừng vui lên, Đấng đầy ân sủng Chúa, Đức Chúa ở cùng bà c.28’.
Đức Trinh Nữ lo lắng, bối rối bởi làm sao phàm nhân không lo lắng khi biết Đức Chúa cùng chung mái nhà. Với ơn Chúa, Đức Trinh Nữ chắc chắn sẽ hoàn thành trách nhiệm trao ban cách tốt đẹp vì có Chúa ở cùng.
Chính Thiên Chúa đã hiện ra xác định với ông Ápram (sau là Ápraham) và ông Giacóp: “Ta là MV 4-B159
Chính Thiên Chúa đã hiện ra xác định với ông Ápram (sau là Ápraham) và ông Giacóp: “Ta là Thiên Chúa toàn năng.” (St 17:1; St 35:11) Ngài là Thiên Chúa duy nhất, (Xh 20:3; Xh 34:14; Đnl 4:35; Đnl 4:39; Đnl 5:7; Đnl 6:4; Đnl 32:39; Kn 12:13; Is 43:10; Is 44:8; Is 45:5-6; Is 46:9; Đn 14:41; Hs 13:4; Mc 12:29; Ga 5:44; Ga 17:3; 1 Cr 8:4; 1 Tm 2:5; Gl 3:20) không có bất cứ thần nào khác, và chính Ngài là Đấng cầm quyền sinh tử. (Đnl 32:39; 1 Sm 2:6-7; Kn 16:13; Tb 13:2; x. Tv 30:4)
Thiên Chúa toàn năng nghĩa là Ngài làm được hết mọi sự, (Kn 11:23) không có gì là không thể làm được. (Lc 1:37) Ngài hiện hữu (Xh 3:14) và tạo dựng mọi sự – hữu hình và vô hình – từ hư vô. Ngài là Đấng Thánh, (Lv 11:44-45; Lv 19:2; Lv 20:26; Lv 21:8; Tv 89:36; Tv 99:5 & 9; Is 6:3; Br 4:22; Hs 11:9; Am 4:2; 1 Pr 1:16; Ga 6:69) và Ngài thấu suốt mọi sự. (1 Sb 28:9b; Gđt 8:14; Et 4:17d; Et 5:1a; 2 Mcb 6:30; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 10:12; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 2:10; 1 Cr 12:4-6; 1 Ga 3:20)
Tất nhiên Ngài cũng cấm chúng ta phủ phục trước bất cứ thần nào khác. (Xh 20:3; Xh 34:14; Đnl 5:7; Kn 12:13; Is) Chính Ngài nói rõ: “Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ.” (Xh 20:4; Đnl 5:8) Và Ngài xác định: “Ngoài Ta ra, chẳng có ai cứu độ.” (Is 43:11)
Quả thật, Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ duy nhất. Xác định như vậy chưa đủ, còn phải can đảm chứng minh điều đó, không chao đảo trước bất cứ tôn giáo nào khác, nghĩa là phải phân định rạch ròi bởi vì ngày nay nhiều người mạo nhận mình được mặc khải rồi lập giáo phái này, hệ phái nọ, theo kiểu dị giáo hoặc tà thuyết. Việt Nam cũng có, cụ thể như trường hợp chị Thương ở Bảo Lộc (Lâm Đồng, GP Đà Lạt), trong nhóm đó có Lm Truyền đã bị vạ huyền chức.
Lời Thánh Phêrô cảnh báo từ xưa vẫn mang tính thời sự: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé.” (1 Pr 5:8) Đó là khôn ngoan – khôn ngoan thực sự chứ không mơ hồ. Chúa Giêsu xác định: “Đức Khôn Ngoan được chứng minh bằng hành động.” (Mt 11:19b)
Sự sợ hãi là tình trạng có thể chi phối cuộc sống của chúng ta, cần có người động viên hoặc tự động viên. Người không sợ hãi là người can đảm, không lùi bước trước bất công. Trong cuộc sống, có nhiều khi chúng ta thấy không dễ thể hiện lòng can đảm. Với các sắc thái khác nhau, Kinh Thánh đề cập mệnh lệnh “đừng sợ” 365 lần – cụ thể như St 15:1; St 21:17; St 26:24; St 46:3; Xh 14:13; Đnl 31:6; Is 43:1; Gr 46:27-28; Gr 51:46; Is 41:13; Mt 10:26; Mt 10:28; Mt 10:31; Mt 14:27; Mt 17:7; Mt 28:5; Mt 28:10; Mc 5:36; Mc 6:50; Ga 14:27; Lc 1:13; Lc 1:30; Lc 2:10; Lc 5:10; Lc 12:4; Lc 12:7; Lc 12:32; Lc 21:9; Ga 6:20; Ga 14:27; Kh 1:17-18 Thánh GH Gioan Phaolô II đã sống đúng theo “châm ngôn” này dù những kẻ xấu đã từ muốn giết ngài.
Trong số những nhân vật nổi tiếng thế giới chống lại sự áp bức, bóc lột, chúng ta thấy họ có điểm chung là lòng can đảm: Bảo vệ chân lý, đấu tranh vì công lý và đòi nhân quyền. Cố NS Anh Bằng cũng đã viết ca khúc “Đừng Sợ Hãi” để động viên dân Việt, nhất là giới trẻ: “Đừng sợ hãi! Hãy vươn lên, tranh đấu cho quê hương Việt Nam, niềm tin bác ái! Đừng sợ hãi! Siết tay nhau, mang trái tim yêu thương Việt Nam vào đời!”
Sự giằng co giữa can đảm và sợ hãi là cuộc chiến nội tâm. Trong mỗi chúng ta cũng luôn có cuộc chiến tâm linh, có can đảm mới đủ sức chiến thắng. Cuộc chiến nào cũng cần sự can đảm. Người can đảm là người dám nói thẳng nói thật vì công ích, không xu nịnh, không bè phái, không luồn cúi,… Muốn can đảm thì không gì hơn là bám vào Thiên Chúa, vì Ngài là Sự Thật. (Ga 14:6) Bám vào Ngài bằng cách tín thác vào Ngài, mà tín thác thì phải tuân phục – vâng theo Thánh Ý Ngài.
Trình thuật 2 Sm 7:1-5, 8-12 cho biết: Khi vua được yên cửa yên nhà và Đức Chúa đã cho vua được thảnh thơi mọi bề, không còn thù địch nào nữa, vua nói với ngôn sứ Nathan: “Ông xem, tôi được ở nhà bằng gỗ bá hương, còn Hòm Bia Thiên Chúa thì ở trong lều vải.” Ông Nathan thưa với vua: “Tất cả những gì ngài ấp ủ trong lòng, xin ngài cứ đi mà thực hiện, vì Đức Chúa ở với ngài.” Nhưng ngay đêm ấy, có lời Đức Chúa phán với ông Nathan rằng: “Hãy đi nói với tôi tớ của Ta là Đavít: Đức Chúa phán thế này: Ngươi mà xây nhà cho Ta ở sao?”
Và rồi Thiên Chúa giao ước: “Bây giờ ngươi hãy nói với tôi tớ Ta là Đavít như sau: Đức Chúa các đạo binh phán thế này: Chính Ta đã cất nhắc ngươi, từ một kẻ lùa chiên ngoài đồng cỏ, lên làm người lãnh đạo dân Ta là Israel. Ngươi đi đâu, Ta cũng đã ở với ngươi; mọi thù địch ngươi, Ta đã diệt trừ cho khuất mắt ngươi. Ta sẽ làm cho tên tuổi ngươi lẫy lừng, như tên tuổi những bậc vĩ nhân trên mặt đất. Ta sẽ cho dân Ta là Israel một chỗ ở, Ta sẽ định cư chúng, và chúng sẽ ở luôn tại đó, chúng sẽ không còn run sợ, và quân gian ác cũng không còn tiếp tục áp bức chúng như thuở ban đầu, kể từ thời Ta đặt các thủ lãnh cai quản dân Ta là Israel. Ta sẽ cho ngươi được thảnh thơi, không còn thù địch nào nữa, Đức Chúa báo cho ngươi biết là Đức Chúa lập cho ngươi một nhà. Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi – một người do chính ngươi sinh ra, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền.” (2 Sm 7:8-12)
Tương tự, tất cả chúng ta cũng được Thiên Chúa thiết lập giao ước bất biến, trước sau như một. Vấn đề là chúng ta có can đảm tuân giữ huấn lệnh của Ngài hay không. Chính Chúa Giêsu đã khuyến cáo chúng ta về việc hoàn thiện, (Mt 5:48) nghĩa là chúng ta phải cố gắng nên thánh. Ngày xưa, chính Thiên Chúa đã nói dứt khoát: “Các ngươi PHẢI nên thánh và PHẢI thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh.” (Lv 11:44; Lv 20:7) Quá trình nên thánh cần phải rõ ràng, không thể nửa vời, vì Nước Trời không có loại công dân nhát đảm hoặc yếu bóng vía.
Như để củng cố chúng ta, Thiên Chúa tiếp tục giao ước: “Đối với nó, Ta sẽ là cha; đối với Ta, nó sẽ là con. Khi nó phạm lỗi, Ta sẽ sửa phạt nó bằng roi của người phàm, bằng đòn của con người. Tình thương của Ta sẽ không rời khỏi nó, như Ta đã cho rời khỏi Sa-un, kẻ Ta đã bắt rời khỏi mặt ngươi. Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi.” (2 Sm 7:14-16) Đó là giao ước yêu thương, giao ước của lòng thương xót vĩnh cửu: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” (1 Sb 16:34; Tv 106:1; Tv 107:1; Tv 118:1-4; Tv 118:29; Tv 136:1-3; Tv 136:26)
Thánh Vịnh gia vui sướng tuyên xưng vì nhận ra tình yêu Thiên Chúa: “Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng, qua muôn ngàn thế hệ miệng con rao giảng lòng thành tín của Ngài. Vâng con nói: Tình thương ấy được xây dựng tới thiên thu, lòng thành tín Chúa được thiết lập trên trời.” (Tv 89:2-3) Chính Chúa đã phán từ ngàn xưa: “Ta đã giao ước với người Ta tuyển chọn, đã thề cùng Đavít, nghĩa bộc Ta, rằng: dòng dõi ngươi, Ta thiết lập cho đến ngàn đời, ngai vàng ngươi, Ta xây dựng qua muôn thế hệ. là Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con được cứu độ!” (Tv 89:4-5) Không chỉ thiết lập giao ước mà Ngài còn thề hứa – nghĩa là chắc chắn ứng nghiệm.
Cũng như Đavít, bất cứ ai tín thác vào Chúa thì sẽ biết cách chứng tỏ đức tin: “Ngài chính là Thân Phụ, là Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con được cứu độ!” (Tv 89:27) Sống thật chứ không nói suông, không giả hình, không khoác “chiếc áo sặc sỡ” như nhóm Biệt Phái. Như vậy mới thực sự dũng cảm, và chắc chắn người này sẽ được Thiên Chúa hứa “yêu thương đến muôn thuở và thành tín giữ giao ước.” (Tv 89:29) Thật tuyệt vời!
Cuối Mùa Vọng, ngọn nến Hy Vọng – Đức Cậy – được thắp sáng. Nhờ ngọn nến này mà chúng ta có thể thắp sáng lại ba ngọn nến kia, có thể chúng đã tắt hoặc chỉ còn leo lét. Đó là ba ngọn nến Hòa Bình, Niềm Tin và Tình Yêu. Sự đợi chờ của chúng ta sắp được thỏa mãn, vì Đấng Emmanuel đang đến rất gần. Thánh Phaolô nói: “Vinh danh Thiên Chúa, Đấng có quyền năng làm cho anh em được vững mạnh theo Tin Mừng tôi loan báo, khi rao giảng Đức Giêsu Kitô. Tin Mừng đó mặc khải mầu nhiệm vốn được giữ kín tự ngàn xưa nhưng nay lại được biểu lộ như lời các ngôn sứ trong Sách Thánh. Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa.” (Rm 16:25-26) Theo lẽ thường, có biết thì mới tin, không biết thì khó tin hoặc không tin. Thánh Phaolô xác định: “Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí. Kính dâng Người mọi vinh quang đến muôn thuở muôn đời, nhờ Đức Giêsu Kitô. Amen.” (Rm 16:27)
Cuộc truyền tin được tường thuật trong Lc 1:26-38. Trinh Nữ Maria là người nhận tin, được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa. Tuổi U20, và chỉ là một thôn nữ bình thường nơi làng quê nhỏ bé, nhưng Đức Maria luôn nghiêm túc, thẳng thắn, can đảm, trọn niềm tín thác vào Chúa.
Khi người chị họ Êlisabét mang thai ngôn sứ Gioan Tẩy Giả được sáu tháng, Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến làng Nadarét, miền Galilê, gặp trinh nữ Maria đã đính hôn với chàng Giuse, thuộc hoàng tộc Đavít. Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” Nghe vậy, trinh nữ Maria rất bối rối vì không hiểu thế là thế nào. Sự khiêm nhu không cho phép thục nữ Maria dám nhận mình là thánh nhân, mà chỉ nhận mình là nữ tỳ của Thiên Chúa mà thôi. Nhưng sứ thần liền nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.”
Điều đó càng lạ lùng hơn đối với một người đã khấn đức khiết tịnh. Vì thế, trinh nữ Maria thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!” Sự thường là thế, nhưng với trinh nữ Maria lại là điều khác thường, là mầu nhiệm, là đặc ân. Trinh nữ Maria khiêm nhu, chẳng nghĩ mình cao trọng gì đâu. Sứ thần giải thích cặn kẽ và chứng minh: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: Bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”
Trinh nữ Maria luôn tin vào quyền năng của Thiên Chúa, không chút nghi ngờ, nay lại được giải thích như vậy thì chẳng còn gì phải âu lo hoặc đắn đo. Trinh nữ Maria OK ngay, và nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” Trong lời “xin vâng” của Đức Maria còn bao hàm các nhân đức khác – cả đối thần và đối nhân.
Chốc ấy Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người, và ở cùng chúng ta. Nhịp cầu của Ơn Cứu Độ khởi sự, Đức Maria trở nên Đấng hiệp thông trong công cuộc cứu độ của Thiên Chúa, trở thành Thân Mẫu của Đấng Cứu Thế. Chính bà Êlidabét là người đầu tiên tuyên bố Trinh Nữ Maria là Mẹ Thiên Chúa: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1:43)
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin giúp chúng con luôn đổi mới, trung thực và trọn niềm tín thác. Xin giúp chúng con luôn sẵn sàng và mau mắn đáp lại tiếng Ngài gọi mời cộng tác như Đức Mẹ đã hành động. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Mùa Vọng sắp kết thúc và tiếp theo là mùa Giáng Sinh. Lời Chúa hôm nay giới thiệu với chúng MV 4-B160
Mùa Vọng sắp kết thúc và tiếp theo là mùa Giáng Sinh. Lời Chúa hôm nay giới thiệu với chúng ta một nhân vật quan trọng mà Thiên Chúa đã mời gọi cộng tác để thực hiện mầu nhiệm Nhập Thể, đó là Đức Trinh nữ Maria, quê ở Nagiarét. Từ trời cao, Chúa sai Thiên Sứ của Ngài xuống gặp gỡ và ngỏ lời với một thôn nữ khiêm hạ. “Đức Chúa ở cùng Bà”, đây vừa là lời chào, vừa là lời khẳng định một chân lý sâu xa: Thiên Chúa hiện diện giữa những ai công chính và Ngài ban cho họ được đầy ân sủng. Thiên Chúa hiện diện giữa Dân Người. Đó là giáo huấn từ thời Cựu ước. Sự hiện diện của Chúa không lệ thuộc vào một không gian và thời gian. Vua Đavít đã suy luận theo kiểu con người, và vì lòng tôn kính dành cho Chúa, ông muốn xây cho Ngài một ngôi nhà. Ông nghĩ thật là bất kính nếu ông ở lầu son gác tía, trong khi Chúa lại ngự nơi lều tạm. Nếu xây lâu đài là ý định của các bậc quân vương, thì đối với Chúa lại khác. Qua ngôn sứ Nathan, Chúa đã mời gọi vua Đavít nhìn lại lịch sử đã qua, để thấy Chúa luôn hiện diện giữa thăng trầm của đời ông cũng như trong lịch sử dân tộc. Ngài luôn bênh vực và giúp ông chiến thắng trong các cuộc giao tranh, củng cố ngai vàng của ông và tạo cho ông nổi danh giữa thiên hạ. Chúa muốn ông nhận ra sự hiện diện của Ngài suốt bề dày lịch sử, từ thời xa xưa. Ngài không có nhu cầu, không cần một lầu son gác tía. Điều Ngài muốn, đó là hãy trung tín với Ngài mọi nơi mọi lúc. Nếu bền chí đi theo giáo huấn của Ngài, Đavít sẽ được Chúa chúc lành. Ngài sẽ cho ông dòng giống trường tồn. Ngôn sứ Nathan đã diễn tả ân sủng của Chúa qua hình thức “nhà” mà Ngài sẽ xây cho Đavít, để đối lại với “nhà” mà ông muốn xây cho Chúa. “Nhà” mà Chúa sẽ ban cho Đavít là vương quốc vững bền, khôn ngoan lỗi lạc và phú quý giàu sang. Những điều này là bằng chứng cho sự hiện diện và ơn chúc lành của Chúa. “Đức Chúa ở với ngài!”. Đó là lời khẳng định và là lời chúc phúc của ngôn sứ Nathan với vua Đavít. Đó cũng là lời Sứ thần Gabrien nói với Trinh nữ Maria. Tuy vậy, nếu sự hiện diện của Chúa giữa Dân Ngài từ trước tới nay chỉ thể hiện qua sự quan phòng che chở, thì nay Thiên Chúa lại hiện diện một cách thức hoàn toàn mới mẻ. Sứ thần Gabrien đã giải thích điều đó: “Này đây Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là Con Đấng Tối cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”. Vâng, từ nay Thiên Chúa không còn ở chốn cao xanh xa vời vợi, nhưng Ngài đã cúi xuống ghé thăm và ở lại với loài người. Ngôi Lời linh thiêng đã trở thành con người bằng xương bằng thịt để cư ngụ giữa chúng ta. Sau này, Chúa Giêsu tuyên bố: “Ai thấy Thày là thấy Chúa Cha“. Tác giả thư Do Thái cũng khẳng định: “Người là phản ánh vinh quang, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa” (Dt 1,3). Như thế, qua Chúa Giêsu, con người được gặp gỡ Thiên Chúa, tâm sự với Ngài. Những ai tin vào Chúa Giêsu sẽ cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa một cách mới mẻ, gần gũi. Chúa Giêsu đã đến trần gian. Thiên Chúa hiện diện giữa nhân loại. Đó là một trong những nội dung quan trọng của sứ điệp Giáng Sinh. Từ nay, chấm dứt những nghi lễ của Cựu ước, vì Chúa Giêsu là Thượng Tế vĩnh cửu. Người đã hiến dâng chính mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho con người. Thánh Phaolô diễn giải điều này, để khẳng định, những ai tin vào Chúa Giêsu, thì không phải tuân thủ những ràng buộc của luật tế tự Cựu ước (Bài đọc II). Nếu trong ngày truyền tin, Sứ thần đã chào kính Đức Maria: “Đức Chúa ở cùng Bà”, thì hôm nay, chúng ta cũng chào nhau trong phụng vụ: “Chúa ở cùng anh chị em”. Vâng, Chúa đang ở cùng chúng ta. Hãy xác tín vào sự hiện diện của Ngài. Hãy chạy đến với Chúa để xin Ngài ban ơn trợ lực cho chúng ta trên bước đường đời. Thế giới hôm nay đang vắng bóng tình thương. Thay vào đó là sự hận thù ghen ghét và bạo lực giết chóc. Cùng với Đức Trinh nữ Maria, chúng ta hãy khiêm tốn thưa với Chúa lời xin vâng, qua đó chúng ta đón nhận và cộng tác với Ngài, để “Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Amen.
Mẹ Maria là Mẹ diễm phúc. Người chị họ đã khen Mẹ là người thật có phúc hơn mọi người phụ MV 4-B161
Mẹ Maria là Mẹ diễm phúc. Người chị họ đã khen Mẹ là người thật có phúc hơn mọi người phụ nữ và Mẹ đã cất cao bài ca Manificat. Bởi Mẹ đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Con Thiên Chúa nhập thể. Việc ấy được ghi lại qua biến cố sứ thần Gabriel truyền tin.
Khi Sứ thần đến gặp và báo cho Mẹ, ngay lúc ấy sứ thần cũng chờ mong quyết định của Mẹ. Mẹ đã sợ hãi và bối rối trước sự xuất hiện đột ngột của sứ thần và cả những gì Mẹ được nghe sứ thần nói. Sứ thần đã trấn an Mẹ “Thưa bà Maria xin đừng sợ, vì bà được đẹp lòng Thiên Chúa. Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu” (Lc 1, 30-31). Có thể nói, tương lai cả nhân loại đang nằm trên đôi môi của Mẹ. Thiên Chúa cũng đang chờ đợi câu trả lời của Mẹ. Chính tình yêu Thiên Chúa và kinh nghiệm về Thiên Chúa nơi Mẹ thật thẳm sâu đã thúc đẩy Mẹ ưng thuận. Mẹ đã chọn thực thi thánh ý Thiên Chúa bởi Mẹ vẫn hằng đặt trọn niềm tin tưởng, phó thác nơi Thiên Chúa. Mẹ đáp: “Vâng, tôi đây là nữ tì của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1, 38). Mầu nhiệm Nhập thể đã được hoàn tất. Bấy giờ, Mẹ được tràn đầy ân sủng Thiên Chúa và hân hoan thực hiện điều Thiên Chúa muốn mỗi ngày.
Qua mầu nhiệm Nhập thể, ta học được điều gì nơi Mẹ? Bài học đầu tiên là Con Thiên Chúa nhập thể nơi một người phụ nữ miền Galilê. Chúng ta được chiêm ngắm quyền năng tuyệt đỉnh của Thiên Chúa cùng với đức tin mạnh mẽ của Đức Mẹ trước lời mời gọi cao cả. Nơi Mẹ, ta học được sự mau mắn xin vâng. Lời xin vâng của Mẹ làm đẹp lòng Thiên Chúa, ý định của Thiên Chúa được khởi đầu tốt đẹp. Nhờ lời “xin vâng” của Mẹ mà Mẹ trở nên Mẹ Thiên Chúa, Mẹ của nhân loại. Cũng nhờ lời ấy mà nhân loại được ơn cứu độ. Lời xin vâng ấy không dễ dàng để thực hiện bởi nó đòi hỏi ta phải từ bỏ ý riêng để thuận theo ý Thiên Chúa. Và chính Mẹ đã thực hiện trọn vẹn lời mời gọi ấy trong sự từ bỏ mình hằng ngày. Lời “xin vâng” của Mẹ không chỉ thưa lên một lần trong biến cố Truyền tin, nhưng được nối dài suốt cả cuộc đời Mẹ.
Nắng xế chiều. Những âm thanh rộn ràng cất lên khắp đường phố. Đó là những ca khúc giáng sinh vui tươi nhắc nhớ mỗi người: Giáng sinh đã về. Chỉ còn chút thời gian nữa thôi, hãy mở lòng cảm nhận lời mời gọi của Thiên Chúa và mau mắn nói lời xin vâng như Mẹ.
Lạy Chúa! Chúa không ngừng mời gọi chúng con mở lòng mình ra. Xin Chúa cho chúng con biết lắng nghe, nhận biết tiếng Chúa và mau mắn đáp trả lời Chúa mỗi ngày. Nhờ đó, chúng con được hưởng niềm vui trọn vẹn trong ngày Chúa giáng sinh gần kề. Amen.
Ðông qua mau trúc xinh nghiêng nghiêng đợi chờ. Xuân mới về hồn con say ngát ý thơ. Hoa xinh MV 4-B162
“Ðông qua mau trúc xinh nghiêng nghiêng đợi chờ. Xuân mới về hồn con say ngát ý thơ. Hoa xinh tươi thắm hương trong làn gió mới. Tiến dâng Mẹ Nữ Vương mùa xuân yêu thương.” (Nữ Vương mùa xuân- Lm. Vũ Mộng Thơ).
Lời ca thật hay! Ta thả hồn theo tiếng nhạc rộn ràng, trải lòng mình để trò chuyện với Mẹ Maria. Mẹ vẫn đứng đó, tay bồng Chúa Hài Nhi như cung kính nâng niu và gìn giữ một sự gì rất đỗi thánh thiêng. Mắt Mẹ mở to nhìn vào sâu thẳm tâm hồn mình. Tâm hồn Mẹ đã được cưu mang con Thiên Chúa và Mẹ đã sinh Người trong cảnh khốn cùng nhất của những người nghèo khó. Tâm hồn Mẹ chẳng vướng nhơ tội lỗi và Mẹ đã được Thiên Chúa gìn giữ cách đặc biệt. Mỗi lần ta bị cám dỗ mời mọc, ta đã thưa lên cùng Mẹ lời thân thưa của một đứa con nhỏ luôn mong được nép thân bên Mẹ hiền. “Mẹ ơi! Xin cho con được nép mình vào tấm áo đồng trinh của Mẹ.” Ta đã học được lời ấy từ chị thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu.
Ta đang đọc lại lời “Xin vâng” thật tuyệt vời của Mẹ trong biến cố Truyền tin. Trước lời chào rất đỗi lạ lùng của sứ thần Gabriel, trinh nữ Maria đã bối rối và sợ hãi. “Thưa bà Maria xin đừng sợ, vì bà được đẹp lòng Thiên Chúa. Này đây bà sẽ thụ thai sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu”. (Lc 1, 30-31). “Mẹ đẹp lòng Thiên Chúa” lời ấy cứ vang vọng trong tâm hồn ta và chất vấn ta: Có bao giờ tôi được đẹp lòng Thiên Chúa chưa? Mẹ đã rất khiêm tốn nhận mình chỉ là nữ tì hèn mọn được Chúa thương nhìn tới. Đức Chúa ở cùng Mẹ. Giờ đây, Mẹ sẽ quyết định thế nào trước một chương trình mà Thiên Chúa dành cho Mẹ quá cao cả và vĩ đại đây? Mẹ có quyền từ chối vì Thiên Chúa vẫn luôn tôn trọng tự do của con người. Mẹ đã để cho tình yêu Chúa chiếm hữu. Một khi Mẹ thưa tiếng “xin vâng” thì cũng có nghĩa là Mẹ đã dám từ bỏ chương trình riêng của bản thân để hiến thân cho Thiên Chúa trong công trình xiết bao kỳ diệu của Ngài. Quả thật, chính Mẹ đã từ bỏ bản thân cho Thiên Chúa. Mẹ sẵn sàng với tất cả những gì Thiên Chúa muốn nơi Mẹ. Từ nơi Mẹ, Ngôi Lời Thiên Chúa sẽ nhập thể làm người, sẽ cất tiếng nói giữa những con người của thời đại, dạy cho họ biết sống theo thánh ý Thiên Chúa để có được hạnh phúc Nước Trời.
Cuộc sống của ta không phải lúc nào cũng êm đềm trôi trong những giấc mơ đẹp. Giữa những thử thách, gian truân, đâu là lời xin vâng của ta thưa lên cùng Thiên Chúa, Đấng mà ta vẫn ngợi ca là Tình yêu? “Vâng, tôi đây là nữ tì của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói.” (Lc 1, 38). Ta nghe trong lòng lời xin vâng rất đẹp của Mẹ và tự hỏi lời thưa “xin vâng” ấy có còn được Mẹ thưa lên cùng Chúa nữa không?
Nhìn ngắm mẫu gương của Mẹ, ta có thể tìm thấy một sự cảm thấu và được an ủi. Suốt một đời, Mẹ đã trải qua những biến cố mà dường như đi ngược lại với những gì mà sứ thần Gabriel đã báo. Làm sao hiểu được một Đấng Cứu Thế phải hạ sinh trong một hang lừa hôi hám giữa trời đông giá lạnh nếu Mẹ là người không có một niềm tín thác tuyệt đối vào Thiên Chúa. Làm sao hiểu được sự gian truân vất vả mà Mẹ cùng Thánh Giuse đã trải qua, đang đêm ôm con trốn ngọn giáo của vua Hêrôđê? Ta cũng từng gặp những sự khó khăn và chúng chi phối cuộc sống của ta. Ta nghĩ mình thật đáng thương, thật khổ sở và ta đã than trách Chúa tại sao không thương ta. Còn Mẹ và Thánh Giuse có than trách Thiên Chúa hay không? Từng biến cố đến trong đời, Mẹ đã chìm đắm trong suy ngắm mầu nhiệu tình thương của Thiên Chúa. Mẹ đã trung kiên bước theo Chúa Giêsu đến cùng lên tận đỉnh đồi hiến tế. Mẹ đã không ngần ngại nhận mình là mẹ của tử tội Giêsu. Theo gương Mẹ, ta cũng hãy dâng ý riêng và chương trình của bản thân cho Thiên Chúa để sống cho chính Thiên Chúa. Từng ngày, hãy dâng những thăng trầm dâu bể, những thử thách đến trong đời ta cho Thiên Chúa. Giữa những thách đố của cuộc sống mà thực tế diễn ra nghiệt ngã, không như ta mong đợi, ta hãy nhìn về Mẹ và xin ơn trợ giúp. Mẹ đã được Thiên Chúa cho chiến thắng sự dữ, Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ sẽ phù trợ cho ta trước mặt Chúa. Nhờ Mẹ, ta hãy mau mắn đến với Giêsu con Mẹ để từng ngày học biết thánh ý Thiên Chúa, yêu mến Thiên Chúa và sẵn lòng thực thi thánh ý Thiên Chúa với một niền tín thác.
Lạy Chúa! Con đang mong ngóng cho đến ngày lễ Giáng Sinh để mừng Chúa ra đời, để chờ đón những cuộc găp gỡ với những người con thương mến. Xin Chúa dạy con biết bước theo Mẹ, thưa xin vâng như Mẹ dù cuộc đời không như ý muốn. Xin Chúa dạy con khiêm nhường nhìn nhận thân phận đầy tớ mọn hèn của mình và biết ca ngợi tình yêu Chúa suốt mọi ngày đời con. Amen.
Chúa Nhật IV Mùa Vọng luôn dành riêng để nói về Đức Mẹ. Thật vậy, thánh Bênađô đã diễn MV 4-B163
Chúa Nhật IV Mùa Vọng luôn dành riêng để nói về Đức Mẹ. Thật vậy, thánh Bênađô đã diễn tả một câu để đời :” Nói về Mẹ không bao giờ cho đủ “ ( De Maria numquam satis ! ). Mẹ Maria nắm một vai trò rất quan trọng trong lịch sử cứu rỗi. Bởi vì, Thiên Chúa không dùng một đường lối nào khác ngoài con đường bình thường mà nhân loại vẫn đi. Thiên Chúa đã chọn, đã tuyển lựa một người nữ Do Thái để người nữ tử Sion này trở nên Mẹ của Thiên Chúa, Mẹ của Ngôi Hai nhập thể làm người.Thiên Chúa đã tuyển chọn Mẹ, nên Ngài đã ban cho Mẹ những đặc ân cao cả mà không một ai có được những ân huệ ấy. Giáo Hội dành nói về Mẹ trong Chúa Nhật IV Mùa vọng là để trình bầy đường lối tuyệt vời của Thiên Chúa…
Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa đối với nhân loại quả thực cao sâu, huyền diệu.Thiên Chúa đã chọn một người nữ Do Thái tên là Maria. Ngài đã dọn cung lòng Đức Trinh Nữ Maria hoàn toàn trinh khiết, vẹn toàn để chuẩn bị cho Con Một của Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người. Thiên Chúa đã dùng sứ thần Gabrien để truyền tin cho Đức Mẹ :” Và này nơi lòng dạ, người sẽ thụ thai, và sinh con trai, và người sẽ gọi tên Ngài là Giêsu…” ( Lc 1, 31 ). Maria rất đỗi ngạc nhiên, nhưng sứ thần đã trấn tĩnh Mẹ bằng những lời đầy yêu thương và an ủi :” Maria, đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa “ ( Lc 1, 30 ). Bởi vì :” Mẹ đầy ơn phúc “ ( Lc 1, 28 ). Sứ thần đã nói lên sự can thiệp đặc biệt này :” Chúa Thánh Thần sẽ đến với Trinh nữ, và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm Trinh Nữ “ ( Lc 1, 35 ). Chính vì thế, việc sinh con này là do hoàn toàn Thiên Chúa, chứ loài người, xác thịt không tham dự vào.
Sứ thần của Thiên Chúa đã kết thúc việc truyền tin cho Đức Mẹ với một xác tín mạnh mẽ, đầy quyền năng:” Vì không việc gì mà Thiên Chúa không làm được “ ( Lc 1, 38 ). Maria dù chưa hiểu rõ ý định của Thiên Chúa, nhưng Mẹ đã hoàn toàn tin tưởng, cậy trông, phó thác, vâng phục Ngài, Mẹ Maria liền thưa :” Xin vâng, xin hãy thành sự như lời sứ thần nói “ ( Lc 1, 38 ). Mẹ Maria đã đem lại cho thế giới niềm hy vọng và bình an. Chính việc xin vâng của Mẹ đã khai mở kỷ nguyên cứu rỗi.
Vâng, với quyền năng của Đấng Tối Cao, thế giới đã sống trong hạnh phúc, niềm vui và hy vọng được ơn cứu rỗi.
Mẹ Maria đã thưa xin vâng với tất cả niềm tin, trách nhiệm, do đó, Mẹ đã cộng tác với Thiên Chúa để Con Một Thiên Chúa được làm người ở giữa muôn người. Qua lời thưa xin vâng, Mẹ là mẫu gương lý tưởng cho mọi người biết khiêm nhượng, phó thác, cậy trông vào quyền năng của Thiên Chúa.
Chúa đã nhập thể nơi cung lòng trinh khiết của Đức Maria ngay từ giây phút Mẹ thưa lời xin vâng, và Chúa vẫn còn tiếp tục đến với mỗi tín hữu qua thái độ sẵn sàng đón tiếp của mình.
Chúng ta đã sống Mùa vọng làm sao, chúng ta có sẵn sàng đón tiếp Chúa qua lời xin vâng thực thi ý Chúa của chúng ta không ?
Lạy Chúa Giêsu, Mẹ Maria đã nói lời “ xin vâng “ với tất cả trách nhiệm, với tất cả niềm tin của mình.Xin cho chúng con luôn sẵn sàng mở lòng tiếp đón Chúa qua lời xin vâng làm theo ý Chúa của chúng con. Amen.
Gợi ý để chia sẻ :
1. Ai đã truyền tin cho Đức Trinh Nữ Maria ? 2. Trước lời mời gọi của sứ thần Gabrien, Mẹ đã đáp trả thế nào ? 3. Sứ thần đã chào Mẹ làm sao ? 4. Mỗi Kitô hữu phải có thái độ nào để đón chờ Chúa đến ?
Một sự kiện có một không hai tại lễ trao giải điện ảnh Oscar năm 2012 diễn ra hôm 26 tháng 2 đó MV 4-B164
Một sự kiện có một không hai tại lễ trao giải điện ảnh Oscar năm 2012 diễn ra hôm 26 tháng 2 đó là sự có mặt của một minh tinh màn bạc rất đặc biệt, một nữ tu chiêm niệm 73 tuổi dòng kín Bénédictines, Mẹ Dolores. Hiện nay, Mẹ là bề trên của đan viện Regina Laudis ở Bethlehem, thuộc tiểu bang Connecticut.
Từng là ngôi sao trẻ mới nổi lên vào đầu thập niên 60, Mẹ Dolores được công chúng biết đến với cái tên diễn viên điện ảnh Dolores Hart. Nữ nghệ sĩ đầy tài năng này từng vào vai diễn của mình với nam tài tử nổi tiếng thời bấy giờ Elvis Presley trong các phim « Loving you» (1957), King Creole (1958). Ngoài ra, Dolores Hart còn đóng những vai chính trong nhiều phim với các nam diễn viên nổi tiếng khác như George Hamilton, Robert Wagner, Stephen Boyd, Montgomery Clift v.v…
Mẹ Dolores đến với làng điện ảnh Hollywood lần này để giới thiệu bộ phim tài liệu “Thiên Chúa quan trọng hơn là Elvis”, một bộ phim được ban tổ chức đề cử cho giải Oscar 2012. Phim tài liệu không chỉ đề cập đến sự nghiệp điện ảnh lừng danh của Mẹ, mà còn phục vụ cho việc Phúc Âm Hoá, giới thiệu linh đạo dòng Biển Đức cũng như đời sống thường nhật của các nữ tu chiêm niệm.
Sinh năm 1938 tại Chicago, thuộc tiểu bang Illinois với tên trong giấy khai sinh Dolores Hicks, Dolores Hart là con gái của diễn viên Bert Hicks (1920-1965), và là cháu gái của nghệ sĩ Mario Lanza (1921-1959). Cứ theo suy đoán logic bình thường, Dolores Hicks sẽ chọn trong tương lai cho mình nghề diễn viên để kế tục truyền thống của các bậc cha chú. «Khi lớn lên, tôi đã không có ý định trở thành nữ tu. Tôi muốn là một nghệ sĩ. Nếu như có ai nói với tôi rằng một ngày nào đó tôi sẽ là một tu sĩ, thì tôi hoàn toàn không tin vào điều này. May mắn ấy chỉ chiếm một trên phần một triệu mà thôi », Mẹ Dolores tâm sự.
Trở thành nữ tu chiêm niệm dòng Biển Đức vào năm 1963, là Bề Trên đan viện Regina Laudis kể từ tháng 11 năm 2004, Mẹ Dolores chia sẻ về ơn gọi của mình : « Tôi đã đấu tranh suốt cả cuộc đời để đáp trả tiếng gọi của Đức Kitô. Nhờ vậy, tôi có thể hiểu ra tại sao nhiều người lại có những hoài nghi, bởi vì ai mà có thể hiểu nổi Thiên Chúa ? Chẳng phải tôi ! Ở cấp độ này, các bạn bước vào mối liên hệ với mầu nhiệm »…. (trích bản tin của Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng).
Maria không xin khiêm tốn, nhưng Maria đáp trả lại với tâm tình khiêm tốn bằng Lời Xin Vâng với tất cả niềm tin tín thác, trước đề nghị của Sứ Thần mời Maria cộng tác vào chương trình của Thiên Chúa.
Trinh nữ Maria đã đính hôn cùng chàng trai Giuse và hai người cùng quyết tâm sống trinh khiết tận hiến cho Thiên Chúa, hòa chung với niềm mong đợi của toàn dân: khao khát và hằng trông đợi Đấng Cứu Thế. Trong niềm khát vọng đó, tại Nagiaret hẻo lánh, Maria đón một vị khách lạ, chính là Sứ thần Gabriel đến với lời chào: “Mừng vui lên!, hỡi Trinh nữ”. Lời chào như thể được liên kết với biến cố Đấng Cứu Thế ngự đến như lời các ngôn sứ đã vang lên : “ Thiếu nữ Sion hãy reo vui lên khi ngắm nhìn Đấng cứu độ mình đang tiến đến gần ” (x. Xp.3, 14; Ge 2,21; Dcr 2,14. 9,9 ; Is 54,1). Maria là người đầu tiên được loan báo niềm vui vĩ đại này cho nên được đầy ơn phúc. Sau đó niềm vui sẽ được loan báo cho toàn dân.
Lời chào và sự loan báo của Sứ thần làm Maria bối rối vì không hiểu hết sự việc hơn nữa mình là một thôn nữ thấp kém sao lại được hồng ân cao cả.
Sứ thần Gabriel nói tiếp : “ Thiên Chúa ở cùng Trinh nữ ”, lời tiên báo của Ngôn sứ về hồng ân vĩ đại cho con người: Thiên Chúa ở với dân Người như ngôn sứ Isaia nói về tên Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta -(x. Is 7,14), Thiên Chúa ở cùng nhân lọai nhưng trước hết với và qua Đức Maria: Đấng được Đức Chúa ở cùng, cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế.
Maria thắc mắc làm sao việc sinh con có thể thực hiện được, vì Trinh nữ đã khấn hứa trọn đời trinh khiết. Sứ Thần Giải thích: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên cô”. Sứ thần nhấn mạnh vai trò của Thánh Thần theo Kinh Thánh: Thánh Thần là quyền năng của Thiên Chúa ban sự sống vào lúc bắt đầu công trình Tạo Dựng: “Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1,2) ban sự sống cho vũ trụ lúc còn nguyên sơ. Giờ đây Thánh Thần – Hơi Thở sáng tạo – từ lúc khởi đầu vũ trụ, sẽ làm lại cuộc sáng tạo mới trong lòng Đức Maria: sự thụ thai và sinh con Thiên Chúa mà vẫn còn đồng trinh.
Vì thế, Sứ Thần quả quyết: “ quyền năng Đấng Tối Cao sẽ phủ bóng trên bà và vì thế người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa”, diễn ngữ “phủ bóng” dùng ở Kinh Thánh: trong hoang địa “đám mây phủ bóng trên Lều Hội Ngộ, và vinh quang Đức Chúa đầy tràn Nhà Tạm” (Xh 40,34) và lan đến với dân Chúa. Giờ đây phủ bóng trên Maria, Cô Trinh Nữ trở nên Nhà Tạm cho Đấng Cứu Thế. Thánh Luca sử dụng diễn ngữ “phủ bóng” để mô tả biến cố Biến Hình: “Bỗng có một đám mây phủ bóng…và từ đám mây có tiếng nói rằng: Đây là Con Ta…” (Lc 9,34). Chính vì quyền năng và hồng ân của Thiên Chúa, Maria được vinh quang rạng ngời của Thiên Chúa bao phủ, và Thánh Thần thổi hơi sự sống vào trong cung lòng Mẹ. Sự sống nầy là hoa trái của tình yêu Thiên Chúa, nên sứ thần khẳng định: “Vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa”.
Sứ Thần khẳng định : “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (St 18,14). Như xa xưa Thiên Chúa đã khẳng định với tổ phụ Ápraham, khi ông rất đỗi kinh ngạc vì vợ ông, bà lão Sara, có thể sinh cho ông một cậu con trai (St 11,30). Cũng một cách thức như vậy đối với bà cụ Rêbêca (St 25,21), bà Raken đã cao niên (St 29,31) và mẹ của ông Samson cũng đã già (Tl 13,2). Sứ Thần nói đến một dấu lạ mà chính Maria cũng được biết trong dòng tộc: “Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi mà cũng đã thụ thai: một người vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng”, điều mà về phương diện con người không thể được…
Dù bối rối, chưa hiểu và biết rõ hết sự việc Maria khiêm tốn đặt toàn bộ cuộc đời của mình trong Thánh Ý của Thiên Chúa qua việc đáp trả với Sứ Thần: « Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền »
Maria hoàn toàn sẵn sàng thi hành ý muốn của Chúa, như một tôi tớ khiêm cung, thưa vâng trong tin tưởng, yêu mến và phó thác. Trước công trình cứu độ của Thiên Chúa đang diễn ra, trong khung cảnh truyền tin, Giacaria được loan báo về cuộc chào đời và nhiệm vụ Tiền hô của con ông là Gioan, Giacaria đã ngờ vực, hoài nghi… Đức Maria khi được loan báo về cuộc chào đời và định mệnh của con ngài là Đấng Messia mang tên Giêsu, đã trả lời một cách xác tín.
Thánh Augustinô nói: “Thiên Chúa tạo dựng chúng ta, Ngài không cần ta. Nhưng Ngài không cứu độ ta, nếu ta không cộng tác”.
Trong công cuộc cứu độ trần gian, Maria đã cộng tác bằng cả cuộc đời khiêm cung tín thác vào thánh ý. Maria dù không biết rõ ý muốn Thiên Chúa sẽ xảy ra như thế nào, và cuộc đời của Maria cũng gặp những gian nan: lưu lạc sang Ai Cập, lạc con và chứng kiến con phải chết trên thập tự, Maria vẫn luôn “Xin Vâng” hoàn toàn tận hiến đời mình để thực hiện thánh ý Chúa. Chúng ta cũng được mời gọi vào chương trình cứu độ chung của nhân loại và cho chính chúng ta khi sẵn sàng phó thác cho đường lối Chúa Quan phòng. Khi đứng trước các ngõ ngách của cuộc đời, trước mọi thử thách và chúng ta không hiểu hết được tại sao ta phải đối diện, như Maria chúng ta khiêm tốn:
Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào, CHÚA ơi! Ðường cao vọng, chẳng đời nào bước, việc diệu kỳ vượt sức, chẳng cầu; hồn con, con vẫn trước sau giữ cho thinh lặng, giữ sao thanh bình. Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con, hồn lặng lẽ an vui. (Tv 131, 1 – 2)
Với sự tín thác khiêm cung, chúng ta được Thiên Chúa chiếm hữu hoàn toàn trong vĩnh cửu. Chúng ta phó thác toàn thân cho ý muốn của Thiên Chúa với thái độ sẵn sang:
Tin mừng Chúa nhật 4 mùa Vọng qua hoạt cảnh truyền tin cho Đức Maria mạc khải việc thụ thai MV 4-B165
Tin mừng Chúa nhật 4 mùa Vọng qua hoạt cảnh truyền tin cho Đức Maria mạc khải việc thụ thai lạ lùng của Hài Nhi Giêsu, Đấng Cứu Thế nói lên sứ mạng cao cả của Hài Nhi: Con Thiên Chúa làm người đến để thi hành Thánh ý Thiên Chúa: Cứu độ nhân loại.
Qua lời xin vâng của Đức Maria, lời hứa ban Đấng Cứu Thế được thực hiện. Chương trình cứu độ của Thiên Chúa được khởi sự trong lịch sử nhân loại: “Một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu”. Lời xin vâng với thái độ khiêm tốn và tin tưởng. Đức Maria đã đáp lại ơn gọi của Thiên Chúa kêu mời để cộng tác vào việc cứu nhân độ thế của Thiên Chúa.
Trong sứ điệp ngày Quốc tế giới trẻ thứ 18 năm 2012, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolo đã nói với giới trẻ rằng, trong biến cố truyền tin, Đức Maria trao ban bản tính nhân loại cho thiên Chúa trong cung lòng Mẹ với lời tự do chấp nhận: “Này tôi là tôi tớ Chúa”. Dưới chân thập giá, nơi thánh Gioan, Đức Maria đón nhận nhân loại vào tâm hồn mình: “Hỡi bà, này là con bà” (Ga 19, 26).
“Là Mẹ Thiên Chúa ngay từ lúc đầu tiên của biến cố Nhập Thể; Mẹ đã trở thành mẹ của loài người trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu, con Mẹ”.
Hài Nhi Giêsu mà Đức Maria đang cưu mang chính là Thiên Chúa và là người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Con Thiên Chúa làm người để con người được làm con Thiên Chúa. Các tiên tri đã loan báo từ ngàn xưa. Đức Giêsu thuộc dòng dõi David, chính là vị vua đa làm cho triều đại David vững bền mãi mãi. Thiên sứ Grrabiel đã nói cho Đức Maria biết về tương lai của Hài Nhi Giêsu:
“Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu Đavid tổ phụ Ngài, và triều đại Ngài sẽ vô tận”.
Qua bài Tin mừng về biến cố Truyền tin được đặt vào Chúa nhật 4 mùa Vọng, ngay sát với lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu, Giáo hội muốn dọnu lòng chúng ta hướng về Hài Nhi sắp sinh ra được kỷ niệm trong đêm Giáng Sinh là Chúa Cứu Thế, con Thiên Chúa mà nhân loại đang mong đợi.
Để dọn lòng đón Chúa Cứu Thế, Giáo hội kêu gọi chúng ta noi gương Đức maria luôn thưa với Chúa tiếng xin vâng. Chính khi Đức Mẹ nói lời “xin vâng” thì một sức sống đã bùng lên, một ánh sáng đã bùng soi nhân loại. Thiên Chúa đã bắt đầu để cứu con người. Lời xin vâng của Mẹ chính là cửa ngõ dẫn vào ơn cứu độ: Mẹ xin vâng là Mẹ đón nhận công việc mở cửa cho ơn cứu độ tuôn tràn trên nhân loại.
Có lẽ nhiều người dân Hoa Kỳ vẫn chưa quên hình ảnh Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ôm hôn anh Tony Belade sau khi anh vừa đánh guitar vừa hát cho ngài nghe nhân dịp viếng thăm thành phố Los Angeles năm 1987. Hình ảnh này được ghi nhớ không phải nó nhắc đến sự gặp gỡ giữa một vị Giáo hoàng với một ca sĩ tài ba, nhưng là vì nó đã phơi bày sâu sắc sức sống tràn đầy nơi con người Tony.
Tony Belade chào đời không có hai bàn tay. Anh đã tập dùng các ngón chân trong tất cả mọi công việc thường nhật, cho đến việc học đánh đàn guitar. Ngạc nhiên với khả năng lạ lùng này, nhiều người đã hỏi Tony:
– Bí quyết nào giúp anh chấp nhận sự bất hạnh để sống bình thường và còn sử dụng đàn guitar tuyệt diệu như thế?
– Tôi đã cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa xin nhận lấy con và dùng con theo thánh ý Chúa. Tôi tự hiến cho Chúa như một của lễ sống động và Ngài đã nhận lời tôi”.
Khi vui buồn, thành công hay thất bại, chúng ta luôn nói với Chúa: “Con xin vâng theo ý Chúa” như Đức Maria, như Tony.
“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.(Lc 1,38)
Bài Tin Mừng hôm nay là một trong những bài Tin mừng đẹp nhất trong toàn bộ Kinh Thánh. Thánh MV 4-B166
Bài Tin Mừng hôm nay là một trong những bài Tin mừng đẹp nhất trong toàn bộ Kinh Thánh. Thánh Luca đã tế nhị giới thiệu cho chúng ta một nhân vật hết sức quan trọng trong việc Chúa Cứu Thế sinh ra làm con người: Nhân vật ấy chính là Đức Maria, mẹ của chúng ta.
A. 1. Dưới con mắt của Luca thì Đức Maria là “Thiếu nữ Sion” (Câu “mừng vui lên” chính là âm hưởng lời nói với thiếu nữ Sion từ ngàn xưa)
Nào thiếu nữ Xion, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi : Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ. (Dcr 9,9)
Như vậy ngày xưa qua miệng ngôn sứ, Thiên Chúa hứa sẽ đến ở nhà “thiếu nữ Sion” (tức là dân Chúa) thì hôm nay Lời hứa này được thực hiện nơi Đức Mẹ.
Đức Mẹ đã đón nhận Lời hứa ấy như thế nào? Chúng ta hãy dừng lại một chút để so sánh việc Đức Maria và ông Dacaria khi đứng trước một một tin vui xem hai người đã phản ứng như thế nào.
* Khi được báo tin sẽ có con, cả Dacaria và Đức Maria đều thắc mắc hỏi lại. Nhưng câu hỏi của Dacaria biểu lộ sự hoài nghi. Việc hoài nghi không tin này này đã được chính thiên sứ xác nhận “Bởi vì ông không tin” (câu 20)
Còn câu hỏi của Đức Maria là câu hỏi để xin soi sáng thêm (“việc ấy xảy đến thế nào được bời vì tôi không biết đến người nam?”),
* Kết quả, ông Dacaria vì không tin nên bị phạt. Còn Đức Maria đã tin và mau mắn vâng lời cho nên kế hoạch của Thiên Chúa được thực hiện ngay.
3. Như vậy chúng ta có thể nói: Nếu Lịch sử cứu độ thời Cựu Ước đã được bắt đầu với hành vi đức tin của Abraham thì Lịch sử cứu độ thời Tân Ước cũng được bắt đầu với hành vi đức tin của Đức Mẹ. Nếu Abraham đã được gọi là “cha của những kẻ tin” thì Đức Maria cũng phải được gọi là “mẹ của những kẻ tin”. Và như thế chúng ta có thể suy ra: Lịch sử cứu độ của mỗi người cũng phải bắt đầu bằng hành vi đức tin của chính người đó.
“Sứ thần nói với cô Maria : Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu”. Cô Maria thưa với sứ thần : “Này tôi là nữ tì của Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền” (Lc 1,31.38). Một sự đáp trả quá đẹp. Đức Maria đã xin vâng và nhờ tiếng xin vâng đó mà Thiên Chúa đã thực hiện được kế hoạch Cứu độ của Người.
B. 1. Chúng ta tự hỏi tại sao Thiên Chúa lại phải hạ mình đến như vậy? Chẳng lẽ Người phải đợi sự ưng thuận của một tạo vật rồi mới thực hiện chương trình của mình?
Câu trả lời không khó lắm. Đọc lại toàn bộ Kinh thánh chúng ta thấy mặc dù “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”, nhưng thường Thiên Chúa không làm một mình, Ngài thích có sự cộng tác của con người. Để thành lập một dân, Chúa đã gọi Abraham để ông cộng tác với Người. Để cứu dân mình khỏi ách thống trị AiCập, Chúa đã gọi Moise và chúng ta thấy Moise đã làm cho Chúa những gì, và để Đấng Cứu Thế được nhập thể, Thiên Chúa đã nhờ Đức Maria cộng tác. Và Đức Maria đã cộng tác bằng cách ngoan ngoãn để cho Chúa hành động trong mình và qua mình.
“Xin cứ làm cho tôi…”. Phải nói đây là một sự thuận phục trọn vẹn.
Đức Maria đã trả lời bằng hai tiếng thật vắn gọn “xin vâng”: Trả lời như thế có nghĩa là: Chúa bảo gì tôi cũng làm theo cả. Chúng ta tự hỏi việc trả lời như thế có liều lĩnh lắm không. Ai trong chúng ta cũng biết việc tuân hành thánh ý Thiên Chúa không phải là việc dễ dàng. Hãy nhìn vào hoàn cảnh của Đức Maria chúng ta sẽ thấy điều đó.
Chúng ta xưng tụng Đức Maria là người có phúc. Điều đó đúng.
Đức Maria được báo cho biết rằng nàng sẽ sinh một con trai do hành động siêu phàm của Chúa Thánh Thần. Việc đó chỉ có một mình Maria biết. Bà con lối xóm, bạn bè quen thuộc chẳng ai biết được sự việc đó. Cắt nghĩa làm sao? Mà dù có cắt nghĩa đi nữa thì ai tin. Xưa nay đã có bao giờ có như vậy đâu? Maria cũng chỉ là một người bình thường như những người khác, thậm chí còn nghèo khổ hơn những người khác…đâu có đặc biệt gì mà Thiên Chúa lại quá ưu ái như vậy! Vâng làm sao cắt nghĩa được đây? Vì thế, đối với những người bà con quen biết chắc chắn họ sẽ cho rằng Maria đã phạm tội. Đó là một vết nhơ ô nhục trên suốt cuộc đời của một người con gái chưa về nhà chồng mà đã có con.
Rồi còn một khó khăn nữa cũng không kém phần nhức nhối đó là làm sao cắt nghĩa cho Giuse hiểu đây! Giuse, hôn phu của nàng, làm sao chịu đựng nổi sự hổ nhục này?
Giuse đã tính bó trốn. Đó là con đường dễ chịu nhất. Rất may là Thiên Chúa đã can thiệp.
Giả như Đức Maria là một thiếu nữ chỉ muốn an phận thì khi được sứ thần ngỏ ý có lẽ Mẹ đã thưa: “Tôi không muốn làm mẹ Đấng Cứu Thế, tôi chỉ muốn được sống cuộc đời bình thường với sự tôn trọng của người xung quanh và tình thương yêu mà người tôi định lấy. Tôi chỉ muốn sống như các phụ nữ khác. Xin Chúa hãy đem vinh hạnh ấy cho một thiếu nữ Ítraen khác.” Nhưng thay vì câu nói ấy, chúng ta lại được đọc thấy trong Tin mừng một lời hết sức cảm động đầy tinh thần vâng phục và hi sinh: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.”
Vâng đó là những gì đẹp nhất mà chúng ta được nghe.
Nói tới đây tôi chợt nhớ tới câu chuyện của Trương Lương trong Tam Quốc Chí. Ai cũng mến mộ Trương Lương, một trong những vị tướng tài ba của Lưu Bang. Làm sao mà Trương Lương được mến mộ như vậy. Thưa vì ngay từ thưở nhỏ Trương Lương đã có những đức tính rất dễ thương. Hôm đó, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ sông chợt thấy một ông lão ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu. Ông lão ngủ say quá nên làm rơi một chiếc dép xuống sông. Tỉnh dậy thấy cậu bé Trương Lương ở đó, ông sai bảo: “Thằng bé, nhặt chiếc dép cho ta”.
Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép rồi kính cẩn đưa lại cho cụ già. Cụ già cầm lấy, không một lời cám ơn. Rồi cụ loay hoay xỏ mãi mà không vào. Chiếc dép lại một lần nữa rớt xuống bờ sông. Cụ lại quát bảo Trương Lương: “Thằng bé, xuống nhặt dép cho ta”. Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba cũng thế. Thấy vậy, ông lão khen: “Thằng bé này dạy được đây”. Thì ra cụ là một cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận Trương Lương làm học trò, truyền dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.
Trương Lương gặp được thầy giỏi một phần nhờ cơ may. Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục vụ của ông. Hoàn cảnh thời Đức Mẹ sống cũng tương tự như thế. Thời đó, ai cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do ơn lành nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.
Kính thưa anh chị em. Chúng ta đang sống trong những ngày cuối cùng của Mùa Vọng.
Mùa Vọng là mùa chờ đón Chúa đến. Ta mong được đón rước Chúa vào tâm hồn. Ta mong được ân huệ dư đầy của Thiên Chúa. Làm sao ơn Chúa có thể đến với chúng ta. Ta hãy noi gương Đức Mẹ, biết khiêm nhường nhận mình tội lỗi yếu hèn, biết khiêm nhường từ bỏ ý riêng để thi hành ý Chúa, biết khiêm nhường vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, biết khiêm nhường phó thác vân mệnh trong tay Chúa dù không hiểu hết những ý định mầu nhiệm của Người. Chỉ khi khiêm nhường tan biến thành hư không, ta mới được Chúa thương đổ đầy tràn ân phúc vào tâm hồn.
Lạy Đức Mẹ Maria, xin dạy con biết sống khiêm nhường để con đi vào chương trình của Thiên Chúa.
Cái miệng liên quan cái lưỡi, nên thường nói là “miệng lưỡi”, và miệng lưỡi liên quan lời nói MV 4-B167
Cái miệng liên quan cái lưỡi, nên thường nói là “miệng lưỡi”, và miệng lưỡi liên quan lời nói. Xem chừng rất ư bình thường mà lại rất khác thường, vì lời nói có thể là Phúc hay Họa của chúng ta. Chúa Giêsu nói: “Nhờ LỜI NÓI của anh mà anh sẽ được trắng án; và cũng tại LỜI NÓI của anh mà anh sẽ bị kết án” (Mt 12:37). Thật đáng sợ, thế nên không thể khinh suất lời nói. Thảo nào tiền nhân đã căn dặn: “Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”.
Thế là “khoảng mong chờ” đã ở vào giai đoạn cuối, Mùa Vọng đang dần dần khép lại. Vậy là nỗi khao khát của chúng ta sắp được mãn nguyện, nhưng không vì thế mà lơ là bổn phận. Trong thời khắc cuối cùng của mùa Vọng, Giáo hội nhắc nhở chúng ta về “miệng lưỡi”, tức là về ngôn ngữ khi chúng ta sử dụng. Publius Syrus (thế kỷ I trước công nguyên) tâm sự: “Tôi thường hối tiếc vì những gì mình nói, chứ không bao giờ hối tiếc vì sự im lặng của mình”.
Có câu chuyện xưa kể rằng chủ nhân sai gia nhân ra chợ mua món gì ngon nhất, gia nhân đi và mua về “cái lưỡi”. Hôm sau ông lại sai gia nhân ra chợ mua món gì dở nhất, gia nhân đi và lại mua về “cái lưỡi”. Chủ nhân “mắt chữ O và miệng chữ A”, gia nhân điềm nhiên giải thích: “TỐT hay XẤU cũng do CÁI LƯỠI mà ra”. Quả thật, “lưỡi không xương nhiều điều lắt léo”, tiền nhân thật chí lý!
Có miệng phải có lưỡi mới nói được, lưỡi ngắn cũng khó nói – nói ngọng. Như vậy, người ta nói được nhờ cái lưỡi, nhưng nói gì mới là vấn đề. Có người dùng cái lưỡi để nói những “lời hay, ý đẹp”, khuyến khích, khuyên bảo, cầu nguyện, hòa giải,… Nhưng có người lại dùng cái lưỡi để chỉ trích, gây chia rẽ, phỉ báng, nguyền rủa, trách móc, chê bôi, chửi rủa,… Đúng lá tốt hay xấu cũng từ cái lưỡi, và chính cái lưỡi tạo nên nhiều rắc rối, do đó mà ca dao Việt Nam có câu nhắc nhở:
Lời nói chẳng mất tiền mua Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau
Kinh Thánh nhiều lần đề cập cái lưỡi. Sách Huấn ca khuyên: “Hãy nghe dạy bảo về lời ăn tiếng nói, vì ai tuân giữ, không bị bắt lỗi bao giờ. Chính do môi miệng mà tội nhân bị bắt bẻ, cũng do đó, đứa lăng mạ và kẻ tự cao phải vấp phạm” (Hc 23:7-8), và dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin đẩy dục vọng xa khỏi con, xin chớ để thói ăn chơi trụy lạc thống trị con, đừng để con đắm chìm trong những dục vọng trơ trẽn” (Hc 23:5-6).
Khôn hay dại cũng bởi cái lưỡi. Người khôn dùng cái lưỡi theo cách khác, người dại dùng cái lưỡi theo cách khác. Người khôn ít nói, vì sao? Ca dao cho biết:
Chim khôn chưa bắt đã bay Người khôn chưa nói đã cay lòng rồi
Cái lưỡi liên quan dư luận, do đó dư luận cũng có thể tốt hoặc xấu, thường thì xấu nhiều hơn, người ta có xu hướng “đổ dầu vào lửa”, cho nên đôi khi phải can đảm “đạp dư luận” mà sống. Cứ nghe và xét mình, đừng vội tin và đừng hoảng sợ. Miệng lưỡi thế gian thế đấy, gọi là “chuyện thế gian”. Ca dao nói:
Chỉ đâu mà buộc ngang trời Tay đâu mà bụm miệng người thế gian
Kinh Thánh khuyên chúng ta dùng miệng lưỡi vào việc tốt lành, và hứa điều này: “Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời”. Ca ngợi thì phải dùng miệng, nghĩa là cũng liên quan “cái lưỡi”. Chúng ta không chỉ dùng miệng lưỡi để ăn uống, giúp duy trì sự sống, và để đối thoại với nhau hàng ngày, chúng ta còn phải dùng miệng lưỡi để xưng tụng Thiên Chúa: “Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng, qua muôn ngàn thế hệ miệng con rao giảng lòng thành tín của Ngài” (Tv 88:2). Vâng, “tình thương ấy được xây dựng tới thiên thu, lòng thành tín Chúa được thiết lập trên trời” (Tv 88:3). Giao ước đó đã được thề hứa với thánh vương Đavít, và sẽ bền vững đến ngàn đời, qua muôn thế hệ” (x. Tv 88:4-5).
Nói điều tốt là điều cần thiết. Không chỉ vậy, chúng ta còn phải dùng cái lưỡi để nói về Chúa, rao truyền Ơn Cứu Độ, quảng bá Lời Chúa, làm vinh danh Thiên Chúa (x. Rm 16:25-27). Nhưng nói về Chúa và nói với Chúa là điều cần thiết hơn, rất quan trọng đối với Kitô hữu chúng ta. Trách nhiệm của chúng ta là phải khôn khéo dùng miệng lưỡi. Có những điều không nên nói hoặc không được nói, nhưng có những điều phải nói, không nói không được, không nói là có lỗi. Miệng lưỡi và lời nói thật quan trọng, cần phải khôn ngoan để có thể sử dụng đúng.
Quả thật, lời nói không hề đơn giản để có thể biết cách dùng miệng lưỡi, hãy học cách sử dụng lời nói với Đức Maria: “Xin vâng”. Trình thuật Lc 1:26-38 kể rằng khi sứ thần Gáprien tuân lệnh Thiên Chúa đến truyền tin: “Mừng vui lên, hỡi người đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Chị”. Nghe vậy, thôn nữ Maria đã bối rối và chẳng hiểu “ất giáp” gì ráo trọi. Sứ thần trấn an: “Thưa Chị Maria, xin đừng sợ, vì Chị đẹp lòng Thiên Chúa. Chị sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu”. Đức Maria càng rối hơn, vừa hoảng hốt vừa e thẹn nói: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”.
Nhưng khi nghe sứ thần giải thích đó là quyền năng Chúa Thánh Thần và chứng minh người chị họ Êlisabét, bị mang tiếng là hiếm hoi, già rồi mà cũng đang cưu mang một nam nhi được sáu tháng, đặc biệt hơn khi nghe sứ thần nói rằng đối với Thiên Chúa thì không có gì là không thể làm được, thôn nữ Maria vô cùng an tâm, lòng tràn đầy phấn khởi và tin tưởng nói ngay: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Và thế là “chốc ấy Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người, và ở cùng chúng ta – Emmanuel”.
Thật hạnh phúc khi chúng ta có Đức Mẹ là gương mẫu hoàn hảo. Đức Mẹ là thôn nữ nhưng kiều diễm, nét đẹp dịu dàng ấy hẳn khiến bao chàng trai “lé mắt”. Dù là mỹ nhân nhưng thùy mị, đoan trang, sống giản dị, luôn khiêm nhường, đặc biệt là tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa. Nhờ lời “xin vâng” của Đức Mẹ, nhẹ nhàng mà quyết liệt, chúng ta mới có niềm hy vọng nhận lãnh Ơn Cứu Độ được Thiên Chúa trao ban. Đức Mẹ đã sử dụng miệng lưỡi thật khôn khéo. Xin cảm ơn Đức Mẹ!
Trong cuộc sống đời thường, chúng ta thấy có những người trở thành vĩ nhân nhờ khéo léo sử dụng miệng lưỡi, họ đã khôn ngoan dùng miệng lưỡi để nói vì nền hòa bình thế giới. Họ là ai? Đó là một Mohandas Gandhi (Ấn giáo), một Martin Luther King (Tin Lành), một Mẹ Têrêsa Calcutta (Công giáo) và một Đức Đạt Lai Lạt Ma (Karmapa Lama, Phật giáo).
Hôm nay, trong thời khắc cuối cùng của Mùa Vọng, xin mượn lời của Homer W. Grimes để tâm sự với Chúa: “Làm sao con có thể cho Ngài ít hơn những gì con có khi Ngài đã cho con tất cả? Con có thể dâng tặng cho Ngài những gì, thưa Thầy, Đấng đã ban tất cả cho con, Đấng đã từ bỏ ngai vàng trên trời để chịu chết trên đồi Can-vê? Con có thể dâng tặng cho Ngài những gì, thưa Thầy, Đấng đã ban tất cả cho con, không chỉ một phần hay một nửa trái tim con? Con sẽ dâng tặng Ngài tất cả!”.
Lời nói là tấm gương phản chiếu tâm hồn, bên trong thế nào thì bộc lộ ra ngoài như vậy. Một người cằn nhằn đủ thứ, chắc chắn người đó bất an. Tại sao? Bởi vì họ không bằng lòng người khác, luôn dò xét, thế nên tỏ ra khó chịu với những gì người khác thể hiện. Một người cứ mở miệng ra là chửi thề, và họ viện cớ là “quen miệng”, nhưng không phải vậy, chắc chắn lòng họ ẩn chứa nhiều rác rưởi của cuộc đời. Một người luôn nói lời an ủi, giải hòa, xin lỗi, cảm ơn,… chắc chắn tâm hồn họ có sự bình an của Thiên Chúa.
Người ta nói: “Cái miệng hại cái thân”. Đúng như thế thật! Miệng lưỡi cũng liên quan “cái tôi” – thói kiêu căng, tự phụ. Thánh Giacôbê nói: “Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi, là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão” (Gc 1:26). Lưỡi là Lời, Lưỡi là Lửa. Ôi, lưỡi lạ lùng mà nguy hiểm quá!
Lạy Thiên Chúa quan phòng và tiền định, xin dạy con biết sử dụng miệng lưỡi theo Thánh Ý Ngài, xin dạy con cầu nguyện, biết cẩn thận từng lời ăn tiếng nói, khi nào nên nói và khi nào nên im lặng. Nhân loại luôn ngưỡng vọng Ngôi Hai giáng trần, khao khát Ơn Cứu Độ, xin tuôn tràn Mưa Giêsu gội mát mảnh đất tâm hồn khô cằn của nhân loại. Xin giúp mọi người can đảm bạt đồi, xẻ núi, lấp sông, để tạo nên con đường thẳng tắp và phẳng phiu cho Vương Nhi Giêsu ngự đến và ở với nhân loại. Xin ân thương tha thứ mọi tội lỗi, xin tha thứ cả những lúc con không tích cực làm điều tốt. Con cầu xin nhân danh Vương Nhi Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Khi viết bài suy niệm Tin Mừng tuần này tư nhiên tôi nghĩ tới phim The Sound of Music. Câu chuyện MV 4-B168
Khi viết bài suy niệm Tin Mừng tuần này tư nhiên tôi nghĩ tới phim The Sound of Music. Câu chuyện nói về chị Maria là một dự tu vì ham chơi ca hát nên quên cả việc kinh kệ. Vì mồ côi, mẹ bề trên không muốn cho về đời nên đã gửi gia dình một đại úy góa vợ, có nhiều con để nhờ coi sóc. Vì có tài ca hát, đám trẻ rất yêu mến Maria nên công việc thành công… Chuyện xẩy ra ở Salzburg thuộc nước Áo.
Sau này người ta đã lấy câu chuyện có thực này để làm thành phim kịch. Sản phẩm xuất hiên đầu tiên ở Anh Quốc do Andrew Lloyd Weber đạo diễn đã được thế giới hưởng ứng nồng nhiệt.
Mấy năm trước đây đoàn Ca kịch Rodgers và Hammerstein đã diễn lại kịch bản này tại hí trường Jacksonville, Florida. Cả thành phố như sống lại với The Sound of Music xa xưa. Ban kich đã trình diễn tuyệt vời những ca khúc vang bóng huy hoàng một thời ấy. Quí độc giả đọc đến đây chắc sẽ nhớ lại cuốn phim vui nhộn này. Người viết muốn dùng cách giải quyết của nhà dòng cho Maria don Strapp để suy niệm vấn đề của Mẹ Maria khi Mẹ thưa “Xin Vâng” với sứ thần Gabriel, dù Maria von Strapp không thể nào so sánh được với Maria thành Nazareth.
VẤN ĐỀ CỦA MARIA VON STRAPP
Một trong những ca khúc đáng nhớ nhất trong phim The Soud of Music là bản MARIA, còn gọi là ”Làm sao để giải quyết vấn đề Maria?” Bản nhạc được trình diễn bởi các sơ Berthe, Sophia, Margaretta và Mẹ bề trên của dòng Biển Đức Nonnberg ở Salzburg bên Áo. Các sơ đã có dịp vui chơi ca hát cùng Maria một cách hồn nhiên khiến cuộc sống tu viện đang yên tĩnh, âm thầm trở thành sống động, vui tươi, tràn ngập tiếng hát tiếng đàn. Người ta nói Oscar Hammerstein II viết lời ca cho bải hát này là do cảm hứng khi nhìn những ống cuốn tóc vẫn còn dính trên đầu Maria với chiếc khăn che phủ ở ngoài!
Những người cao niên Áo đã gọi Maria là Gottesmutter, nghìa là Mẹ Thiên Chúa! Dân Bắc Mỹ khi tới Salzburg thì lại nói Maria là Maria Augusta Kutschen , sau này đổi là Maria von Strapp, là một cô giáo trường dòng sau thế chiến I. Những dữ kiện có thực này đã được diễn lại trong phim The Sound of Music.
Vì Maria mà nhà dòng nổi danh khắp thế giới các sơ cũng không ngờ. Được hỏi về kết quả của phim The Sound of Music, Mẹ bề trên trả lời: Cả nhà dòng lẫn Maria von Strap chuyên trèo tường trốn ra ngoài vui chơi ca hát chẳng ai nhận được bằng khen. Một sơ già thì mỉm cười hóm hỉnh nói: “Das ist nur Hollywood” Đó là chuyện Hollywood!.
VẤN ĐỀ MARIA THÀNH NAZARETH
Trong bài phúc âm hôm nay Thiên Thần truyền tin cho Maria không phải là Maria von Strap mà là Maria thành Nazareth, sợi dây nối kết giữa nhân tính và Thiên Chúa, nhân vật chính trong câu chuyện Giáng Sinh. Maria là môn đệ tuyệt vời đã đưa chúng ta tới sự toàn thiện và nhân tính của Thiên Chúa. Maria đã chấp nhận và chào đón lời Chúa một cách trọn vẹn, đầy dủ ý nghĩa nhất, không cần biết kết quả câu chuyện sẽ thế nào. Maria đã chẳng hiểu gì về lời đáp “Xin Vâng” trong suốt cuộc đời của chúa Giesu, nhưng Maria tin tưởng, luôn luôn ghi nhớ câu trả lời của mình với sứ thần và “giữ chặt” từng chữ trong tâm khảm,“nghiền ngẫm”,“suy tư”trong lòng (Lc 2:19). Đến khi ở trên đồi Calvary, Maria mới cảm nghiệm được hoàn toàn trách nhiệm của mình về tiếng “Xin Vâng”. Qua kinh thánh, chúng ta biết mẹ là một người nữ có đức tin mạnh mẽ khủng khiếp lại đầy lòng trắc ẩn, luôn luôn để ý đến mọi nhu cầu của con người.
Maria von Trapp theo viên đại úy và gia đình nhỏ bé của ông vượt qua núi Alpes để thoát khỏi một chế độ ma quái ác độc đã chối bỏ Thiên Chúa và dân Chúa chọn. Họ đã đến được Hoa Kỳ bằng an và sống hạnh phúc ở Vermont. Tài âm nhạc của họ vẫn còn sống và đã từng làm hứng khởi dân Bắc Mỹ đặc biệt dân Jacksonvlle, Florida. Đường đi lên của họ vẫn còn sống động vì tài thiên phú ca hát và âm nhạc.
“Vấn đề” của Maria thành Nazareth đã khởi đầu khi Maria đón tiếp một người khách lạ từ trời đến tên là Gabriel. Người trinh nữ này đã bối rối khi nghe tin mình sẽ mang thai con trai là đáng Cứu Thế và là Con Đấng Tối Cao.
-“Việc ấy xẩy ra làm sao được –Maria hỏi thiên thần– vì tôi còn đồng trinh, không hề biết đến việc vợ chồng” (Lc 1:34).
-Thiên thần trả lời: “Thánh Thần sẽ ngự trên bà, và quyền năng của Đấng Tối Cao sẽ tràn ngập bà, do đó con trẻ sinh ra sẽ là Thánh và gọi là Con Thiên Chúa.”(Lc 1:35).
Thiên thần rời Maria và âm nhạc trổi lên; Magnificat anima mea Dominum. Bài hát lặp đi lặp lại nhiều lần tràn ngập không gian, vang vọng khắp thế giới qua mọi thời đại cho đến ngày nay.
Sứ điệp mà Maria nhận đã được loan đi vượt qua khỏi thị trấn Nazareth nhỏ bé âm thầm và giải đất chật hẹp Israel và Palestine ở Trung Đông. Tiếng “Xin Vâng” của Maria đã ảnh hưởng toàn thể thế giới và thay đổi cà lịch sử loài người.
VẤN ĐỀ ĐÃ ĐƯỢC GIẢI QUYẾT: XIN VÂNG
Maria thành Nazareth đã chấp nhận “vấn đề” của mình và giải quyết với sự vâng phục, trung thành, tin tưởng, hy vọng trong thầm lặng. Lúc đầu ở Nazareth, mẹ không thể tưởng tượng ra được cái thảm cảnh kinh hoàng của đứa con đang nằm trong bụng mình. Chỉ khi đi lên đồi cao Calvary những năm sau này, Maria mới cảm nghiệm thực sự và đầy đủ trách nhiệm của mình đối với hai tiếng “Xin Vâng” .
Maria von Trapp không có bảng vàng ghi tại nhà dòng định mệnh Nonnberg ở Salzburg, nhưng Maria có một bảng nhỏ ghi nhớ cuộc đời mẹ Maria thành Nazareth đã làm thay đổi các cuộc gặp gở ở tỉnh nhà của Maria. Tại trung tâm thị trấn Nazareth hiện nay ở Galilee có một vương cung thánh đường Truyền Tin, được xây trên nơi mà người ta tin là cái động là nơi mẹ Maria đã sống. Mấy hàng chữ nhỏ ghi trên bàn thờ ở trong động giống như một căn phòng ghi nhớ nơi mẹ Maria đã tiếp nhận sứ điệp do thiên thần Gabriel truyền “Mẹ sẽ sinh một con trai và đặt tên là Giesu” (Lc 1;3). Tiếng Latin ghi là Verbum caro hic factum est có nghĩa Đây là Lời trở thành máu thịt.
Những chữ khắc trong động / phòng truyền tin thì rất xâu, không thể phai mờ được. Những lời Latin Verbum caro hic factum est nay không thấy trên bảng nằm trong động Nativity ở Bethlehem, cũng không thấy khắc trên tường bên ngoài đền thờ đã bị phá hủy hay nơi các văn phòng du lịch của nhà nước ở Jerusalem. Nhưng đã được gắn sâu vào bàn thờ bên trong thánh đường Truyền Tin rất đồ sộ. “Đây là lời đã trở nên máu thịt” Đây là nơi mà lịch sử đã thay đổi vì câu nói “Xin Vâng” của Mẹ Maria.
ĐÔI LỜI SUY NIỆM
Những lời như vậy có thể áp dụng cho cuộc sống, gia đình, cộng đồng , giáo xứ, giáo hội của chúng ta không? Chúng ta có lắng nghe, suy ngẫm và sống Lời Chúa mỗi ngày không? Chúng ta có biến những Lời Chúa thành hành động không? Chúng ta có trung thành, hy vọng, thương yêu và sẵn sàng tha thứ không?
Câu nói: “Lời đã trở thành máu thịt” quả đã gây sức mạnh trên những người Kito hữu!
Giọng hát, lời ca của Maria thành Salzburg có tuyệt diệu đấy nhưng chóng qua, còn âm nhạc lời ca Mangificat của Maria thành Nazareth còn tuyệt vời hơn nhiều. Khác với ca hát của Maria von Strapp, bài ca MANGIFICAT/NGƠI KHEN CHÚA đã vượt quá tất cả mọi sự, vượt cả không gian lẫn thời gian, thay đổi cả lịch sử loài người, cuộc đời của mỗi người chúng ta, của cả nhân loại lúc đó, bây giờ và mãi mãi.
Cao siêu huyền nhiệm Nước Trời, Ngàn năm dọn lối, Ngôi Lời hạ thân. Ga-briel loan báo nhân MV 4-B169
Cao siêu huyền nhiệm Nước Trời, Ngàn năm dọn lối, Ngôi Lời hạ thân. Ga-briel loan báo nhân trần, Kính chào Trinh Nữ, tinh vân rạng ngời. Thánh Thần Thiên Chúa cao vời, Quyền năng phủ bóng, gọi mời hiến dâng. Ma-ry phủ phục xin vâng, Phận hèn tôi tớ, hồn nâng phụng thờ. Khiêm nhu cung kính vô bờ, Thành tâm dâng hiến, nương nhờ thánh ân. Giê-su thánh tử chí nhân, Thụ thai lòng mẹ, xác thân mọn hèn. Cung lòng trinh khiết ngợi khen, Con Vua Chí Ái, muối men giữa đời. Dọn đường đón Chúa xuống đời, Cải tâm tu thiện, nghe lời Phúc Âm.
Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể là mầu nhiệm Tình Yêu. Tình yêu giao kết giữa Thiên Chúa và loài người. Khi thời gian đã mãn, Thiên thần của Chúa được sai đến báo tin mừng về Đấng Cứu Thế. Thiên thần thân hành đến nhà Maria và chào rằng: Kính chào trinh nữ đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ. Trinh nữ có phúc hơn mọi người nữ. Hạnh phúc và cao qúy thay người phụ nữ được Thiên Chúa ghé mắt đoái nhìn.
Thoạt đầu, Maria rất sửng sốt khi nghe lời thiên thần chào bái và truyền tin. Maria vừa ngỡ ngàng vừa bối rối nhưng rất mau mắn thưa lời xin vâng. Lời xin vâng của Maria là một ân huệ cho loài người. Lời xin vâng khởi đầu một khúc quanh lịch sử của ơn cứu độ. Những lời loan báo cả ngàn năm về trước nay đã thành hiện thực. Một dân tộc được tuyển chọn, nay đã mở lòng đón nhận Đấng Cứu Thế. Chương trình cứu độ đã thực sự khởi đầu nơi cung lòng Đức trinh nữ Maria.
Trinh Nữ Maria đã cưu mang Con Thiên Chúa, Đấng là trung gian cả vạn vật. Ơn nghĩa của Thiên Chúa ở cùng Maria. Maria thật diễm phúc đã thốt lên rằng: ‘Này tôi là tôi tớ Chúa’. Được chọn làm mẹ của Con Thiên Chúa nhưng mẹ luôn nhận thân phận là tôi tớ. Maria đã sống những ngày tràn đầy ơn sủng.
Maria không quản ngại đường xá xa xôi vất vả và không ngại sự nghi kỵ của người thân. Maria đã sớm mang Chúa đến cho moi người trên đường đi thăm viếng và phục vụ. Maria lên đường trong niềm vui hoan lạc. Vì Maria có Chúa ở cùng. Từ lời Xin Vâng cao cả ấy, niềm vui và thánh giá của ơn cứu độ đã từng bước đi vào cuộc đời của Maria.
Đức Maria đã khiêm nhường chấp nhận thánh ý của Chúa. Mẹ sống niềm vui ơn cứu độ trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Maria đã trở nên nguồn ủi an và cậy trông cho những ai cần niềm hy vọng. Trong khi mong chờ Chúa đến, mỗi người hãy phó thác cuộc đời trong sự quan phòng của Chúa. Có Chúa chúng ta sẽ tìm thấy nguồn an vui và sự bình an trong cuộc đời.
Lạy Chúa, ngày mừng lễ Chúa Giáng Sinh sắp tới, xin cho chúng con biết dọn tâm hồn thanh sạch và ấm êm để xứng đáng đón Chúa viếng thăm. Xin tình yêu của Chúa sưởi ấm tâm hồn chúng con.
Mẹ Maria thì ngay từ nhỏ đã được dâng mình trong đền thờ để phục vụ Chúa. Rồi biến cố truyền tin xảy ra, Thiên Chúa muốn chọn Mẹ làm Mẹ Thiên Chúa. Chắc chắn Mẹ phải rất nhạy cảm với Thiên Chúa thì Mẹ mới có thể nhận ra tiếng Chúa trong biến cố này. Tất cả những cách sống đó, nói một cách ngắn gọn chính làđời sống cầu nguyện. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã biết sống đời cầu nguyện với Chúa trong mọi biến cố chưa? Đã sống gắn bó, thân tình với Ngài để Ngài có thể tự do bước vào cuộc đời chúng ta chưa?
Với những người xung quanh
Ngoài việc Thiên Chúa tạo nên tác phẩm là chính cuộc đời chúng ta, Ngài còn trao cho chúng ta bản quyền để tự do sáng tác, miễn sao đúng với ý Tác Giả là nhạc khúc yêu thương.
Để có thể dệt nên nhạc khúc yêu thương với những người xung quanh chúng ta cần có sự tôn trọng, tin tưởng lẫn nhau. Sự tôn trọng để chấp nhận những khác biệt nơi người khác; sự khác biệt nhiều khi khiến chúng ta không thể chấp nhận được. Sự tin tưởng để tạo điều kiện cho người khác cùng sống, cùng làm việc; sự tin tưởng này nhiều khi chấp nhận cả những điều sai trái nơi họ.
Thiên Chúa tôn trọng chúng ta qua việc dựng nên mỗi người khác nhau từ vóc dáng cho đến tính tình và tính cách. Ngài không dựng nên con người theo kiểu nhân bản ra để ai cũng giống nhau hoàn toàn nhằm tiện thể cho Ngài giáo dục, hướng dẫn… Thiên Chúa tin tưởng con người qua việc trao cho mỗi người sứ mạng, trong sứ mạng của mình, nhiều khi con người rất sai lầm, nhưng Ngài chấp nhận để sửa lại từ từ.
Những xung đột trong gia đình, trong tập thể là do người ta sống theo lối gia trưởng, theo lối quyền hành để bắt người khác theo khuôn mẫu của mình và không chấp nhận giới hạn của người khác; nghĩa là không tôn trọng và tin tưởng nhau.
Trong ngày cuối cùng của Mùa Vọng này, xin cho mỗi người chúng ta sống thân tình với Chúa qua việc cầu nguyện để Ngài có thể dệt nên nhạc khúc yêu thương với mỗi chúng ta. Xin cho chúng ta sống thân tình với anh chị em qua việc tôn trọng, tin tưởng nhau để có thể dệt nên nhạc khúc yêu thương dành cho nhau và cho cuộc đời.
Lạy Chúa xin cho mỗi người chúng con biết chiêm ngắm thánh vương Đavit để biết rằng con dù mình có tài giỏi đến mức nào thì vẫn có giới hạn để con có thể thông cảm cho anh chị em con. Xin cho chúng con biết chiêm ngắm Mẹ Maria để biết rằng Thiên Chúa luôn mời gọi con người cộng tác với Ngài, từ đó con biết tạo điều kiện cho người khác được cộng tác với chúng con. Nhưng trong tất cả, xin cho chúng con nhận ra nhạc khúc yêu thương mà Chúa đang dệt kết với chúng con, để xin thắp sáng lên trong con ngọn lửa yêu.
Đọc lại sách Sáng Thế, sau khi tổ tiên loài người nghe lời dụ ngọt của con rắn, đã ăn trái cấm MV 4-B171
Đọc lại sách Sáng Thế, sau khi tổ tiên loài người nghe lời dụ ngọt của con rắn, đã ăn trái cấm, đã mất nghĩa với Thiên Chúa. bị đuổi ra khỏi vườn đia đàng, Thiên Chúa đã lên án con rắn: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống nó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn gót nó.” ( St 3: 15) Tổng cọng từ tổ phụ Ápraham đến Đức Kitô là là bốn mươi hai đời.Người nữ nào sẽ đạp đầu con rắn đây?
Trong gia phả Đức Giêsu Kitô, thánh Matthêu có kể tên năm người phụ nữ: Bà Tama giả làm gái điếm, đã ăn ở với Giuđa và sinh được 2 người con; bà Rakháp, vợ ông Xanmon, từng là gái điếm ở Giêricô; bà Rút lấy ông Bôát, cuộc hôn nhân lúc đầu là một quan hệ bất hợp pháp; bà Bát Seva, vợ ông Urigia, ngoại tình với vua Đavít. Sau cùng là bà Maria, vợ ông Giuse là Mẹ Đức Giêsu cũng gọi là Đấng Ki tô.Phải chăng thánh Matthêu liệt kê 4 phụ nữ kia để làm nổi bật hình ảnh bà Maria mẹ Đức Giêsu! ! Bà Maria đã trở nên Mẹ Đức Giêsu như thế nào?
Không ai trong chúng ta có quyền hay có thể chọn cho mình một người mẹ. Nhưng đối với Thiên Chúa là Đấng quyền năng thì việc lại khác. Con Thiên Chúa được sinh ra bởi một người nữ được tuyển chọn. Thiên Chúa không chọn một người mẹ nào đó một cách độc đoán tùy ý Ngài, nhưng sự lựa còn ấy còn phụ thuộc vào phẩm chất đạo đức và tùy thuộc vào sự tự do ưng thuận hay không. Người phụ nữ được tuyển chọn ấy là Trinh Nữ Maria, một thiếu nữ vô danh tiểu tốt ở miền Galilê, gọi là Nadarét.
Thiên Chúa đã sai sứ thần Gáprien đến báo tin Trinh Nữ Maria. Vừa vào nhà, lời đầu tiên thiên sứ nói là lời chúc mừng và ngợi khen Trinh Nữ là Đấng đầy ơn sủng, được Đức Chúa ở cùng, đẹp lòng Thiên Chúa. Tin quan trọng mà thiên sứ báo tin cho Trinh Nữ là nàng sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu.Người sẽ nên cao cả , và sẽ được gọi là con Đấng Tối Cao…”
Nghe thế, Trinh Nữ đã thưa lại với thiên sứ: “ Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” Khác với thái độ của Giacaria là bán tín bán nghi vào quyền năng của Thiên Chúa, Trinh Nữ Maria đã tin lời thiên sứ, nhưng nàng chỉ muốn biết việc thụ thai và sinh con bằng cách nào.Sau khi nghe thiên sứ giải thích, Trinh Nữ đã mau mắn đáp lời : “ Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.”
Trinh Nữ Maria đã đi từ ngỡ ngàng , thắc mắc đến ưng thuận xin vâng theo thánh ý Thiên Chúa. Nàng đã tự nhận mình là nữ tỳ của Chúa. Điều đó chứng minh Trinh nữ là một người khiêm tốn, tuân phục thánh ý của Chúa, dấn thân vì ý muốn của Ngài. Tin chị họ, tuy già, nhưng đã có thai được sáu tháng, đã làm cho lòng tin của Trinh Nữ mạnh mẽ hơn.Bài ca Magnificat đã nói lên lòng tin tưởng và phó thác trong tay Thiên Chúa, chúc tụng ngợi khen, khiêm tốn tuân phục thánh ý của Ngài.
Khiêm nhường trong cuộc sống, vâng phục thánh ý Chúa, phó thác trong tay Chúa, dấn thân chấp nhận tất cả vì tin yêu Thiên Chúa. Đó là những phẩm chất đạo đức cần có;và như thế, Ngôi Hai Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế đã ra đời từ cung lòng Mẹ Maria hơn hai ngàn năm trước. Nếu không có sự ưng thuận vâng phục của Mẹ Maria, chúng ta sẽ không có Đấng Cứu Độ.
Hai nhân vật nổi bật trong Mùa Vọng, đó là thánh Gioan Tẩy giả và Trinh Nữ Maria. Thánh Gioan dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Trinh nữ Maria là người đón nhận Con Thiên Chúa trong cung lòng mình.Và còn một nhân vật nữa sống trong âm thầm, kín đáo, nhưng cũng không kém phần quan trọng để xác định Đấng Tối Cao thuộc dòng dõi vua Đavít trong gia đình Nadarét, đó là thánh Giuse.
Noi gương Mẹ Maria, chúng ta cũng phải biết sống khiêm nhưòng nhận mình là người yếu hèn tội lỗi trong tinh thần tin yêu phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa, gạt bỏ ý riêng để tuân theo thánh ý của Ngài.
Mầu nhiệm Giáng Sinh chính là mầu nhiệm Con-Thiên-Chúa-làm-người. Vì Ðức Giê-su là MV 4-B172
Mầu nhiệm Giáng Sinh chính là mầu nhiệm Con-Thiên-Chúa-làm-người. Vì Ðức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, nên việc thụ thai phải do quyền năng của Chúa Thánh Thần, nhưng Ðức Giê-su cũng là người nên cần phải được sinh ra bởi một con người bằng xương bằng thịt. Điều đó nói lên chân lý: “Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài.” (Thánh Au-gus-ti-nô). Ðức Maria đã đại diện loài người lãnh nhận vai trò cộng tác ấy. Tuy nhiên, quyền năng Chúa Thánh Thần tác động trên Ðức Maria chỉ diễn ra trong riêng tư, âm thầm. Mãi đến khi được báo mộng về mầu nhiệm Nhập Thể, thánh Giu-se mới chính thức đưa Ðức Giê-su ra công khai khi nhận Ngườii vào dòng tộc Ða-vít. Qua trung gian của Thánh Giu-se, Ðức Giê-su đã chính thức gia nhập gia đình nhân loại, trong một đất nước, trong một dân tộc, trong một dòng họ cụ thể. Tên tuổi của Ðức Giê-su được ghi trong lịch sử của dân tộc, của dòng họ, của gia đình ấy.
Nhờ đâu mà Thánh Giu-se và Ðức Maria được diễm phúc là những người đầu tiên, đại diện nhân loại tiếp đón Ðấng Cứu Thế? Về Đức Maria thì khỏi cần bàn cãi, vì Mẹ đã được Thiên Chúa tiền định từ trước vô cùng. Tuy nhiên, khi sứ thần truyền tin cho Đức Maria thì: “Nghe lời ấy, bà rất bối rối… Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần: Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!” Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.” Cuối cùng, vì lòng tín phục Thiên Chúa cách tuyệt đối, “bà Ma-ri-a nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” (Lc 1, 29-38). Và với hai tiếng “xin vâng”, Mẹ đã hoàn thành xuất sắc sứ vụ cao trọng vô song đó.
Riêng Thánh Giu-se, theo như bài Tin Mừng hôm nay (CN IV/MV-A – Mt 1, 18-24), thì: “Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo.” (Mt 1, 19). Tại sao vậy? Cũng đã có nhiều bài chia sẻ phân tích tâm trạng của Thánh Giu-se. Sở dĩ thánh nhân – nói theo kiểu ngôn ngữ thời đại – đành ôm hận âm thầm bỏ đi, một phần lỗi là tại Đức Maria. Đúng ra, Đức Mẹ khi được Thiên sứ báo tin thụ thai Con Đức Chúa Trời qua phép Thánh Linh, thì Mẹ phải tìm cách báo tin cho người bạn đời của mình mới phải lẽ. Cũng chỉ vì giữ kín như một sự lừa dối, nên mới khiến Giu-se ôm hận, và nếu như thói thường người đời, thì chắc chắn sẽ có phản ứng mạnh, ít ra là tố giác trước công luận. Còn phần Đức Mẹ, đặt giả thử bị Thánh Giu-se tố giác, thì – theo luật Do Thái thời đó – chắc chắn sẽ bị ném đá cho tới chết.
Phiền trách Đức Mẹ theo kiểu suy nghĩ của thời đại hiện nay như vậy thì kể ra cũng quá lạm, nếu không muốn nói là kiến thức hạn chế, là đem “tư tưởng của loài người” bất toàn ra suy luận việc làm của Thiên Chúa. Thánh Giu-se và Đức Mẹ mới chỉ đính hôn, là vợ chồng trên danh nghĩa nhưng chưa sống chung, như vậy thì việc gặp gỡ riêng khó thực hiện được, ngoại trừ những cuộc hội ngộ công cộng trong gia đình hay trong cộng đoàn. Không gặp riêng nhau thì làm sao báo tin? Vả lại, việc Đức Mẹ thụ thai hoàn toàn do thánh ý Thiên Chúa, Đức Mẹ chỉ vâng phục, như vậy thì Mẹ tin rằng Thiên Chúa cũng sẽ báo tin cho Thánh Giu-se biết như Người đã sai Thiên sứ báo tin cho Mẹ. Chắc chắn Đức Mẹ đã tin tưởng như vậy, bởi cũng nhờ niềm tin vững mạnh ấy nên Mẹ mới “xin vâng như lời sứ thần truyền”.
Còn Thánh Giu-se – vì là người công chính – nên chỉ chọn giải pháp âm thầm bỏ đi là thượng sách. Tuy nhiên, cuối cùng thì con người công chính ấy cũng không âm thầm bỏ đi, nhờ nỗi lòng thắp sáng một niềm tin và niềm tin ấy đã giải toả mọi thắc mắc, âu lo giày vò tâm trí thánh nhân. Đúng như suy nghĩ của Đức Mẹ, Thánh Giu-se đã được Thiên sứ báo mộng: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” (Mt 1, 20-21). Không những sứ thần chỉ báo cho Thánh Giu-se biết Đức Mẹ thụ thai bởi phép Thánh Linh, mà còn cho biết tường tận bào thai Đức Mẹ cưu mang là một “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”; Người Con mà Đức Mẹ cưu mang chính là Đức Giê-su Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, “vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1, 21).
Rõ ràng nỗi lòng của Thánh Giu-se cũng chẳng khác nỗi lòng của Đức Mẹ. Bối rối và lo âu cũng là lẽ thường tình, nhưng cuối cùng thì niềm tin vào Thiên Chúa đã trấn an tất cả, “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” (Lc 1, 37). Nỗi lòng của Đức Mẹ và Thánh Giu-se chính là “nỗi lòng không của riêng ai”. Đứng trước những hiện tượng siêu phàm thì tâm trạng chung của phàm nhân đương nhiên là hoài nghi, lo âu, sợ hãi. Duy chỉ có điều, anh có tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa hay không? Anh có tin Thiên Chúa là Đấng toàn năng hằng hữu hay không? Nếu anh tin, anh cứ việc hoài nghi, lo âu, sợ hãi, nhưng đừng quên cầu ngujyện, và Thiên Chúa sẽ cứu rỗi anh, sẽ giải thoát anh. Cũng bởi vì một “Em-ma-nu-en” tên là Giê-su đã đến, đang đến và sẽ đến cùng chúng ta. Vâng, “Trong đức tin, món quà của Thiên Chúa, một nhân đức siêu nhiên được Ngài truyền cho chúng ta, chúng ta nhận ra rằng một Tình Yêu cả thể đã được ban cho chúng ta, một Lời nhân lành đã được nói với chúng ta, và khi chúng ta chào đón Lời này, là Chúa Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời nhập thể, Chúa Thánh Thần biến đổi chúng ta, soi sáng con đường đi đến tương lai và làm lớn lên trong chúng ta đôi cánh hy vọng để nó đồng hành với chúng ta.” (Thông điệp “Ánh Sáng Đức Tin – Lumen Fidei”, số 7).
Giáo hội luôn mời gọi chúng ta tỉnh thức, dọn đường đón mừng mầu nhiệm Giáng Sinh. Đức Mẹ và Thánh Cả Giu-se đã làm như vậy bằng hai tiếng “xin vâng”. Còn chúng ta thì sao? Xin hãy khắc ghi lời dạy của Thánh Au-gus-ti-nô: “Thiên Chúa có thể dựng nên chúng ta mà không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng Người không thể cứu rỗi chúng ta nếu chúng ta không ưng thuận”. Hãy mở tâm hồn ra và giãi bày hết mọi nỗi lòng với Chúa bằng một đức tin vững mạnh, và dù cho có băn khoăn bối rối, lo lắng sợ hãi tới đâu chăng nữa, cũng xin hãy nhìn lên mẫu gương tuyệt hảo của Đức Mẹ và Thánh cả Giu-se, mà thưa với Chúa bằng hai tiếng “xin vâng”, cũng bởi vì “Nước Chúa đã đến gần” (Mt 3, 2).
Ôi! “Lạy Chúa, Chúa đã dùng lời thiên sứ truyền tin mà cho chúng con biết thật Ðức Ki-tô, Con Chúa, đã xuống thế làm người. Xin đổ ơn thánh đầy lòng chúng con, để nhờ công ơn Con Chúa chịu khổ hình thập giá, Chúa cũng cho chúng con được sống lại hiển vinh. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ Chúa nhật IV Mùa Vọng).
Lạy Chúa, Chúng con đang bước vào những ngày cuối của mùa Vọng, chỉ còn không đầy một MV 4-B173
Lạy Chúa, Chúng con đang bước vào những ngày cuối của mùa Vọng, chỉ còn không đầy một tuần nữa thôi cả thế giới này hân hoan mừng ngày Chúa Giáng trần. Mùa Vọng không chỉ là thời gian chờ đợi mừng ngày Sinh nhật Chúa mà chính là cơ hội cho con sống trong sự chờ đợi ngày Chúa lại đến.
Có nhiều cách mong đợi, như mong người thân từ phương xa lâu ngày không gặp, nay sắp trở về. Mong một món quà được thông báo đang được gửi tới.Mong như thế là mong cho thời gian qua mau, mong trong trạng thái vui mừng, bồn chồn, nôn nao. Nhưng cũng có mong đợi trong tâm trạng không hề muốn sự việc xảy ra như mong cho kết quả của một cuộc xét nghiệm đừng xảy ra như lo lắng trước đó. Mong cho thần chết đừng vội đến với người thân đang lâm bệnh . . .
Với mỗi người chúng con, sống trong mùa Vọng, cũng đang mong đợi, thái độ của con đang trong tình trạng nào. Vui mừng chờ đón hay lo lắng băn khoăn ? Chúa sẽ đến với nhân loại lần thứ hai để hoàn tất chương trình cứu độ, con tin như vậy. Còn lúc nào, giờ nào thì ngoài Thiên Chúa Cha, con người không ai biết. Cách riêng với từng người, Chúa sẽ đến. Không ai có thể phủ nhận điều ấy. Chính vì thế con cần phải có một cách sống thể hiện sự chờ đợi ngày Chúa sẽ đến với con.
Bài Tin mừng Chúa nhật thứ IV mùa vọng cho con thấy đức MARIA, một con người trần gian, khi được loan báo ý định Chúa sẽ đến trong cuộc đời. Mẹ Maria, một con người như mọi người chúng con, một mẫu gương sống mùa Vọng.Khi Thiên sứ truyền tin vui :”Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên con trẻ là Giêsu. Người sẽ nên cao cả và được gọi là con Đấng tối cao “. Mẹ đã thưa : “Xin Thiên Chúa thực hiện nơi tôi điều Ngài muốn”, cho thấy sự đáp trả lời mời gọi. Không những thế, sau khi được tràn đầy ân sủng, Mẹ đã lên đường đến miền núi viếng thăm, giúp đỡ người chị họ là Isave, có thai được 6 tháng, để loan báo Tin mừng mình vừa nhận được và thể hiện niềm vui “Có Chúa ở cùng “bằng hànhđộng cụ thể. Mẹ đã sống suốt thời gian chờ đợi “Việc đó xảy ra “ trong niềm vui và lòng mến. Mẹ đã chuẩn bị dọn lòng để cưu mang Đấng cứu thế và đem Chúa đến với người khác. Xin Mẹ cũng giúp con biết dọn lòng đón Chúa Giêsu đến trong cuộc sống mỗi ngày, biết sẵn sàng giới thiệu Chúa với đồng bào con, nhữngngười đang cùng sống với con trên đất nước này, bằng đời sống chứng tá của mình.
Lạy Chúa,
Rồi đến lúc nào đó Chúa sẽ đến gọi con, xin cho con luôn biết thưa lên: “Xin vâng, Lạy Chúa, này con đây “. Với hành trang là tấm lòng trung tín theo Chúa, bác ái với anh em, là những hy sinh bé nhỏ từng ngày gom lại như những lễvật dâng Chúa như: Vàng, nhũ hương và mộc dược. Sống cuộc sống trong tin yêu và hy vọng. Sống phó thác và xin vâng, đó chính là đích thực sống Mùa Vọng hôm nay. AMEN.
Nói lời phải giữ lấy lời, đừng như ong bướm đậu rồi lại bay, câu ca dao quen thuộc người đời thường MV 4-B174
Nói lời phải giữ lấy lời, đừng như ong bướm đậu rồi lại bay, câu ca dao quen thuộc người đời thường dùng để nhắc nhau về chữ tín, nhắc nhau về một cam kết hết sức thiêng liêng. Trong tương quan xã hội, người xưa rất nhạy cảm khi nói: ở chọn nơi, chơi chọn bạn, kinh nghiệm cuộc sống có thật giả, có tốt xấu, nên cần phải cân nhắc, chọn lựa, dù khát vọng thành người, thành danh, ai cũng có. Xét về mặt tự nhiên, cha mẹ cho con cháu tài sản vật chất, cho tình thương, là điều bình thường, nhưng con cháu có biết sử dụng số vốn quý ấy để có kiến thức, để nên người hữu ích, tuỳ thuộc trái tim và khối óc có hiểu, có sống ân tình đó không ?
Thiên Chúa yêu thương, ban điều kiện cho tiền nhân, Ngài còn ban ơn riêng cho từng cá nhân, hầu ai cũng thấy ơn gọi làm công dân nước trời là vô cùng cao quý, khi mỗi người sống thuận, sống hoà, sống ân phúc được trao ban. Trình thuật truyền tin hôm nay cho thấy Thiên Chúa thấu biết tâm hồn Trinh nữ Maria, vì tôn trọng sự tự do, Ngài sai Sứ thần tới ngỏ lời xem Trinh nữ có đồng ý làm Mẹ Đấng cứu thế không ? Đức Maria không gật đầu bừa bãi, không trả lời lấp lửng vô tội vạ. Trinh nữ hoảng hốt về lời chào “đầy ơn phúc”, từ thắc mắc không biết đến chuyện vợ chồng, rồi sau khi được soi sáng, được giải thích về kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa, Đức Maria đã mạnh dạn nói lời thưa vâng.
Người đời cho rằng: nửa sự thật vẫn chỉ là nửa sự thật, nói lời yêu thương, ai cũng nói được, nói lời thưa vâng, sống lời thưa vâng, sẽ là một bước dài trên hành trình tin yêu, và thực hành yêu thương. Lý lẽ mà con người rất thường hay đề cập đến khi thực thi “cái duyên phận” của mình là có thực mới vực được đạo, cân nhắc và chọn lựa phương thế hữu hiệu, người ta lại nghĩ rằng, chắc ăn không bằng ăn chắc. Sống đạo làm người, hay sống đức ái, không thể dừng lại trên phạm vi lý thuyết, sống lời thưa vâng, hay sống thánh ý Chúa, không thể lý sự bằng sức mạnh của vật chất, nhưng còn hệ tại bởi sức mạnh của tình yêu, của hy sinh tín thác. Vòng nguyệt quế không thể đến được với cuộc chinh phục đỉnh Olimpia, nếu như thí sinh chỉ đơn độc một mình, thiếu sự trợ giúp của các thầy cô. Hào quang không thể toả sáng dù người theo Chúa có tài giỏi đức độ, nếu đằng sau chưa thấm nhuần đau khổ thập giá của Đức Kitô.
Bài hát “Duyên phận” của nhạc sĩ Thái Thịnh rất được ưa thích trong mấy năm gần đây, dù tác phẩm được viết từ năm 2007. Duyên là do người định, phân là do trời tạo, người ta cho rằng có duyên với nhau, nhưng có sống bên nhau cả đời được hay không là do họ quyết định, chứ không hề do trời phật bắt phải như thế. Trinh nữ Maria được Sứ thần mang tin vui tới, đó mới là khởi đầu của cơ duyên của ơn gọi làm Mẹ Đấng cứu thế. Lời ngỏ của Sứ thần có được Đức Maria đón nhận, có được Đức Maria biến duyên thành phận hay biến phận thành duyên, theo thánh ý Chúa là tuỳ vào sự chọn lựa Đức Maria đã sống lời thưa vâng như thế nào. Vẫn biết rằng duyên phận hiểu theo nghĩa tự nhiên hay siêu nhiên, đều phải có “sắc mầu tình yêu” chất chứa trong đó.
Được sinh ra và lớn lên trong tiện nghi vật chất đầy đủ, được sống trong hoàn cảnh thuận lợi: tài sắc vẹn toàn, hẳn thời nào cũng có những người may mắn như vậy. Tuy nhiên những cá nhân xinh đẹp, tài đức, có mang lại hạnh phúc cho gia đình, xã hội hay không, đó là điều đáng nói hơn cả. Thiếu nữ hay trinh nữ xinh đẹp thời nào cũng tìm được, thiếu nữ vừa đẹp người vừa đẹp nết có thể ít hơn một chút, Trinh nữ mà Sứ thần hôm nay ngỏ lời “kính chào Maria đầy ơn phúc”, quả là quý hiếm. Nhưng trên hết, Thiên Chúa cần một Trinh nữ biết mạnh dạn nói lời thưa vâng và biết sống lời thưa vâng để thánh ý Chúa được nên trọn vẹn, đó là nét đẹp của tình yêu mà nhân loại được Chúa ban tặng.
Ngày hôm nay, Sứ thần Thiên Chúa còn mang tin vui đến cho gia đình nhân loại, gia đình xã hội, hay một số cá nhân đức độ nữa không ? Câu trả lời của mỗi người nhất định là có, nhưng dù là tin vui, là bình an hạnh phúc, hay chỉ là thao thức chút ít trong lòng, tất cả đều phải khởi đi từ việc sống đức yêu thương. Nếu mỗi người có nét duyên dáng khác nhau, có phận số chẳng giống nhau, thì tất cả đều có chung ước muốn thành người tốt, thành người cha tài đức, thành người mẹ xinh đẹp toàn diện, hoặc thành công dân của nước trời hôm nay và mai sau. Ngày hôm nay, ai cũng nghĩ là phải an cư mới lạc nghiệp, ai cũng tin rằng Thiên Chúa có thể làm được mọi sự, có thể Chúa không sai Sứ thần hỏi chúng ta có đồng ý làm Mẹ Đấng cứu thế, nhưng Ngài vẫn mời gọi chúng ta hãy tiếp tục sống lời thưa vâng như Đức Maria. Amen.
Có những con người xuất hiện trên cuộc đời đã để lại những dấu ấn trong sự tiến bộ của nhân loại MV 4-B175
Có những con người xuất hiện trên cuộc đời đã để lại những dấu ấn trong sự tiến bộ của nhân loại, cũng có những người gieo sự chết chóc cho nhân loại. Khi nhắc đến Hitler, hoặc thủ lĩnh Polpot, người ta nghĩ ngay đến những tên tội phạm chiến tranh gây ra sự hủy diệt cho hàng triệu người Do Thái và người Campuchia. Có những con người được nhắc đến với sự khinh miệt vì đường lối và cách cai trị của họ đã gây ra đau khổ chết chóc cho hàng triệu người trên thế giới. Trái lại, các nhà khoa học chân chính được nhắc đến với sự kính trọng, vì họ đã dành cả cuộc đời phục vụ và đánh dấu cho sự thăng tiến của nhân loại hoặc để cứu nhân loại khỏi những căn bệnh nguy hiểm như nhà khoa học Newton, Archimet, bác sĩ Paster, Hansen…Những con người này đuợc coi là những người đặt dấu nhấn trong sự phát triển chung của nhân loại.
Bước vào Chúa nhật IV mùa Vọng, Lời Chúa cho chúng ta thấy một sự kiện vô cùng lớn lao, đó là việc Thiên Chúa bước vào lịch sử của thế giới và đã làm biến đổi hoàn toàn thế giới, Ngài mang tên là Giêsu. Việc Thiên Chúa xuống thế làm người không đơn thuần chỉ là việc Thiên Chúa, Đấng vô hạn vô biên, bước vào thế giới hữu hạn, hữu hình; cũng không chỉ là việc năm sinh của Ngài được chọn làm cột mốc đầu tiên cho niên lịch của thế giới, nhưng Ngài đã thực sự đem đến mục đích và ý nghĩa mới cho cuộc sống con người và vũ trụ. Nếu như trước đây, nhân loại phải sống trong sự tối tăm, lạc đường, thì Chúa Giêsu là Ánh sáng, là người dẫn đường cho nhân loại đi đến cùng đích cuộc đời là hạnh phúc Nước Trời. Nếu như trước đây, con người như đoàn nô lệ chỉ biết cắm mặt xuống đất và làm lao dịch cho ma quỷ và tội lỗi, thì nhờ Chúa Giêsu, con người có quyền tự hào ngước mắt lên trời để gọi Thiên Chúa là cha và được giải thoát khỏi sự kìm kẹp của ma quỷ và sự chết.
Sách Samuel cho thấy, nếu như trước đây, Thiên Chúa như một vị thần ở xa con người chỉ để nhận mùi hương khói, thì giờ đây, Thiên Chúa bước đến với con người, ở giữa con người. Hơn thế nữa, Thiên Chúa còn hứa sẽ lập nên một triều đại mới, một dòng dõi mới, thay thế cho dòng dõi cũ đã buông mình theo sự xấu. Câu chuyên bài đọc một kể lại: Khi đó, vua Đavít đang được Chúa cho hưởng bình yên tứ bề, quốc gia thịnh vượng hùng mạnh, vua Đavít đã dự định sẽ xây cho Thiên Chúa một ngôi nhà xứng đáng bằng gỗ bá hương. Thiên Chúa đã không cần ngôi nhà bằng gỗ, đá quý, vì từ trước đến nay, Ngài vẫn đồng hành và bảo vệ dân bằng quyền năng và tình thương. Thiên Chúa đón nhận thiện chí và lòng tốt của Đavít, nhưng Ngài hứa sẽ xây cho Đavít một triều đại, một dòng dõi sẽ trường tồn mãi mãi. Quan trọng hơn, Thiên Chúa hứa sẽ đặt một người kế vị Đavít, Ngài sẽ làm cho vương quyền của người này được vững bền mãi mãi. Thiên Chúa còn quả quyết: Ta sẽ là cha và người kế vị sẽ là con.
Lời hứa năm xưa với vua Đavít đã được Thiên Chúa thực hiên khi cho sứ thần đến truyền tin cho trinh nữ Maria. Tác giả Tin Mừng rất cẩn thận để chỉ cho thấy: Sứ thần Gabriel được sai đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria. Một câu giới thiệu ngắn gọn, nhưng Tin Mừng đã muốn chuyển tải nhiều ý nghĩa.
Mặc dù sứ thần được sai đến với một trinh nữ đã đính hôn, nhưng Giuse lại là nhân vật được nhắc tên trước hết với một vai trò quan trọng là: Ông thuộc dòng dõi vua Đavít và đã đính hôn với Maria. Nhấn mạnh đến việc Giuse đã đính hôn với Maria để cho thấy cuộc hôn nhân này đã là hợp pháp và chính thức theo luật. Tác giả giới thiệu ông Giuse thuộc dòng dõi vua Đavit, vì đứa trẻ sinh ra chắc chắn sẽ phải mang họ của cha. Vì thế, cho dù cuộc đầu thai của Đấng Cứu thế trong lòng Đức Maria xảy ra trước khi hai ông bà về chung sống với nhau, thì người con sinh ra vẫn được coi như con chính thức và hợp pháp của Giuse. Giuse sẽ thực hiện quyền làm cha bằng việc đặt tên cho con trẻ và trao cho con trẻ thế giá dòng tộc Đavít của ông. Khi viết câu giới thiệu này, Tin Mừng muốn cho thấy lời Chúa hứa năm xưa với vua Đavít nay đã ứng nghiệm, con trẻ Giêsu sẽ thiết lấp nên một triều đại bền vững đến muôn đời.
Trong biến cố này, Đức Maria đã để cho Thiên Chúa bước vào cuộc đời của Mẹ, biến đổi hoàn toàn suy nghĩ, hành động và cả cuộc đời Mẹ. Qua lời Xin Vâng của Đức Maria, Thiên Chúa đã biến đổi hoàn toàn thế giới. Đức Maria, dù có một ý muốn rất tốt lành là sống cuộc đời trinh khiết, nhưng Thiên Chúa đã muốn mẹ đính hôn với Giuse, để qua cuộc đính hôn này, Thiên Chúa trao gửi Con của Ngài vào cung lòng của Mẹ. Đức Maria hết sức ngỡ ngàng trước lời chào cung kính long trọng của sứ thần: Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ơn phúc. Sứ thần đã giải thích: Này bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ phụ Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của người sẽ vô cùng vô tận.
Lời giải thích vắn gọn này đã khái quát cả một chương trình lớn lao của Thiên Chúa, đồng thời nói lên sứ mạng vô cùng quan trọng của Hài Nhi. Thiên Chúa đã chính thức bước vào lịch sử nhân loại, Ngài không vào thế gian bằng một con đường nào khác, nhưng bằng việc đầu thai trong lòng một trinh nữ, trở nên một con người như biết bao người. Chúa đến để sống và chia sẻ thân phận con người với nhân loại, chung chia nỗi vui buồn, đồng lao cộng khổ với nhân loại để cứu chộc nhân loại. Danh xưng Giêsu có nghĩa là Đấng Cứu Thế. Chúa Giêsu cứu nhân loại khỏi xiềng xích của ma quỷ tội lỗi và sự chết bằng chính cái chết của Ngài. Ngài đã sống lại để trao ban cho nhân loại sự sống mới của Thiên Chúa, gia tăng sức mạnh để con người chống trả lại ma quỷ và các cám dỗ. Kể từ đây, ma quỷ và sự chết không còn là kẻ thống trị nữa mà nó trở thành kẻ thất bại. Qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã dành lại quyền thủ lãnh và điều khiển vũ trụ vạn vật trở về với đúng quỹ đạo mà Thiên chúa muốn từ thuở ban đầu, để con người và vạn vật có thể đạt tới mục đích chung cuộc là hạnh phúc và sự tốt đẹp viên mãn.
Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài đang thực sự thấm sâu vào thế giới và tâm hồn con người, đang từng ngày biến đổi vũ trụ và con người. Cho đến nay, nhờ Chúa Giêsu, thế giới mang trên mình một bộ mặt mới, một nếp sống mới nhân bản hơn, tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, ma quỷ, kẻ bại trận năm xưa đã không muốn nhìn thấy con người hạnh phúc, vì thế, nó đang tìm mọi cách gieo sự bất hạnh cho con người, tìm cách tách con người và vũ trụ ra khỏi tầm ảnh hưởng của Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người. Ma quỷ còn tìm nhiều cách khác để làm lạc hướng con người, khiến cho nhiều người bị lỡ nhịp, trật bước và rơi vào con đường của nó. Nó xúi giục con người tìm cách chống lại nhau và chống lại Thiên Chúa, hòng tìm cách ngăn cản vương quyền tình yêu của Thiên Chúa lan tỏa trên con người và vũ trụ.
Ma quỷ cũng tìm cách tấn công các gia đình bằng cách gieo rắc sự bất tín bất trung, khơi lên sự nghi ngờ và thói ích kỷ. Ma quỷ tìm cách ru ngủ các gia đình trong sự lười biếng và công việc để họ dần dần xa lìa Thiên Chúa. Mỗi người, mỗi gia đình đều có kế hoạch riêng tốt đẹp, nhưng có thể đó chưa phải là ý muốn của Thiên Chúa, hãy noi gương Đức Maria, dám bỏ qua một bên kế hoạch cá nhân, để thuận theo kế hoạch của Thiên Chúa muốn cho gia đình mình. Hãy sẵn sàng để cho Thiên Chúa hướng dẫn và can thiệp vào cuộc sống của mình và hết lòng khiêm nhường thuận theo ý Chúa, Chúa sẽ làm cho mọi sự nên tốt đẹp. Dù lúc vui hoặc buồn, dù khi thành công hay thất bại, đau yếu hay mạnh khỏe, hãy noi gương Đức Maria thưa tiếng Xin Vâng trong mọi hoàn cảnh. Chắc chắn Chúa luôn muốn và làm điều tốt cho con người, cho dù Chúa không đáp ứng ngay ước mong của chúng ta để giải gỡ khó khăn, thì Chúa cũng ban sức mạnh để chúng ta có thể vượt qua các khó khăn trong cuộc sống và giúp ta lớn lên trong sự tín thác.
Thiên Chúa đã bước vào lịch sử và biến đổi thế giới, xin Chúa cũng bước vào cuộc đời ta mỗi ngày qua Bí tích Thánh Thể, qua Lời Chúa và biến đổi ta mỗi ngày nên thánh thiện và tốt đẹp hơn. Amen.
Duy nhất chỉ có Tin Mừng theo thánh Luca tường thuật câu chuyện Truyền tin cho Đức Mẹ. Với MV 4-B176
Duy nhất chỉ có Tin Mừng theo thánh Luca tường thuật câu chuyện Truyền tin cho Đức Mẹ. Với tường thuật duy nhất này của Kinh Thánh, Thiên Chúa chứng nhận Người tôn trọng con người, tôn trọng chính loài thụ tạo do tay Người dựng nên.
Cụ thể, sự tôn trọng mà Thiên Chúa thực hiện trong ngày truyền tin là sự tôn trọng đặc biệt mà Thiên Chúa dành cho Đức Maria, khi thiên thần Gabriel thông báo: “Này đây bà sẽ thụ thai sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao…”.
Để quyết định thời điểm cứu độ mà chính mình hoạch định, Thiên Chúa muốn Đức Mẹ tự nguyện “Xin Vâng”. Thiên Chúa làm được mọi sự, nhưng có một sự thật của ơn cứu độ mà Người không muốn áp đặt ý mình, một khi chưa dò hỏi ý kiến kẻ mà Người quyết định tuyển chọn để kẻ ấy trở thành “người trong cuộc” với mình.
I. Đức Mẹ XIN VÂNG THÁNH Ý.
Thật quý báu, Đức Maria đã thốt lên lời “Xin Vâng”. Trọn cả câu mà Đức Mẹ thưa với thiên thần là: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”.
Đức Maria, Đấng mà cả một đời luôn thực thi thánh ý Chúa, luôn muốn làm đẹp lòng Chúa, luôn trung thành với lẽ sống đức tin của mình, thì nay đã thốt lên lời “Xin Vâng”. Xin Vâng trọn vẹn, Xin Vâng nhanh chóng, Xin Vâng không miễn cưỡng.
Đúng hơn, cả một đời, Đức Mẹ đã hiến mình cho Chúa, thì nay, trong lời thưa “Xin Vâng”, không chỉ thực sự hiến dâng mình như đã từng hiến dâng, mà còn cho thấy thói quen thực hành thánh ý Thiên Chúa là một thói quen thường xuyên, như đã trở thành nếp sống, nếp nghĩ, trở thành thức ăn dinh dưỡng qua từng phút giây của đời sống mà Đức Mẹ được Chúa ban.
Còn Thiên Chúa, Đấng thấu suốt sự ngoan ngùy của tớ nữ mà mình yêu quý, đã đón nhận lễ phẩm không chỉ là lời mà còn là ĐỜI xin vâng của Đức Mẹ cách nhanh chóng, không cần đợi chờ gì thêm, không cần bất cứ một trình tự nào nữa.
Trong khi Đức Mẹ, với hai tiếng “xin Vâng” chỉ thốt lên một lần trong ngày nhận lãnh lời truyền tin, đã thúc đẩy Đức Mẹ trọn một đời hướng về Chúa Giêsu, con của lòng mình, không hề ngơi nghỉ, không một chút ngại ngần.
Đức Mẹ hướng về Chúa từ khi Chúa còn là bào thai cho đến khi Chúa được sinh hạ trong hang đá Bêlem nghèo hèn.
Đức Mẹ hướng về Chúa qua tất cả những sự lạ thường từ lời chào dịu kỳ của chị Isave, cuộc viếng thăm của các mục đồng, các đạo sĩ, cũng như lời tung hô ca hát của các thiên thần trong đêm Chúa Giêsu giáng sinh.
Đức Mẹ hướng về Chúa để suy gẫm mầu nhiệm của Chúa, dẫu chưa thể hiểu gì trong đêm ôm con bôn ba ra hải ngoại chạy trốn dã tâm của con người…
Mặc dù chỉ dừng lại ở mầu nhiệm Giáng Sinh để nhìn ngắm Đức Mẹ trong tương quan với thánh ý Thiên Chúa, chắc chắn, mọi người đều tin rằng, không phải chỉ trong mầu nhiệm Chúa Giáng Sinh, mà trong suốt hành trình dương thế của mình, Đức Mẹ luôn luôn đặt thánh ý Thiên Chúa làm trung tâm của mọi vấn đề, mọi ngỏ nghách, mọi hoàn cảnh, mọi tương quan sống…
Bởi đó, Đức Mẹ đã hiến dâng trọn đời để sống lời thưa “Xin Vâng”.
II. THÁNH Ý CHÚA VỚI ĐỜI NGƯỜI TÍN HỮU.
1. Gẫm suy lời Xin Vâng và chiêm ngắm đời Xin Vâng can trường của Đức Mẹ, với ý thức, tự do và trách nhiệm, mỗi chúng ta hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa đã không ngần ngại, nhưng luôn tin tưởng nơi con người. Qua Đức Mẹ, Thiên Chúa cho thấy, Người không chê chối con người, nhưng cần đến họ, Người cho họ hạnh phúc được làm thành phần của lịch sử cứu độ.
Biết mình được Thiên Chúa tin tưởng, chúng ta hãy phó mình cho Thiên Chúa, để Người tùy nghi sử dụng chúng ta. Như Đức Mẹ, chúng ta đáp lại bằng việc xin vâng mọi nơi, mọi lúc trong cuộc đời mình.
2. Đức Mẹ hạnh phúc để Chúa làm chủ và thực hiện thánh ý Người trên cuộc đời Đức Mẹ. Cũng vậy, ta hãy yên tâm sống trong sự quan phòng của Chúa. Hãy nương tựa vào tình yêu của Chúa, vì tình yêu ấy chưa từng để cho bất cứ ai phải trở thành kẻ ngoại cuộc.
Những khi gặp điều may đến với cá nhân, gia đình hay xã hội, như xác thân khỏe mạnh, công ăn việc làm ổn định, gia đình hạnh phúc, những ngày trôi qua bình an…, chúng ta biết trân quý ơn Chúa mà ra sức thực hành đời sống thánh đức, đáp lại ơn Chúa bằng nỗ lực phụng sự Chúa và phục vụ anh chị em bằng mọi cách thức tốt lành mà tình yêu đòi hỏi.
Những khi phải đối mặt cùng gian nan thử thách, như lâm cảnh bị phản bội, tai nạn, bệnh tật…, là khi phải kiên vững để xin vâng thánh ý Chúa bằng niềm trông cậy, bằng sự tín thác và ngã vào vòng tay của Chúa sâu hơn, mạnh hơn bất cứ lúc nào qua lời cầu nguyện, qua việc dâng lên Chúa mọi đau khổ mà mình đang gặp phải.
Trong sự vâng phục thánh ý Chúa theo gương Đức Maria, chúng ta còn được ủi an vô cùng nhờ kết nối với Đức Mẹ, nhờ Đức Mẹ mà hiệp thông cùng đau khổ xưa của Chúa Giêsu. Chắc chắn, Đức Mẹ sẽ dẫn ta đến gặp Chúa Giêsu, để cùng với Chúa, chúng ta mạnh mẽ, kiên vững mà trải qua và vượt thắng mọi chiều kích của thập giá.
3. Sau cùng, chúng ta hãy cám ơn Đức Mẹ, Đấng đã biến đời mình thành bài học Xin Vâng cho chúng ta học đòi bắt chước. Xin Đức Mẹ cho ta được nối bước của Đức Mẹ mà tiến về cùng Chúa, càng lúc càng dứt khoát hơn, cậy trông hơn.
Trên đường trọn lành của ta có Đức Mẹ cùng đồng hành, đó là điều quý giá vô cùng. Hãy để Đức Mẹ hướng dẫn ta đi tìm và thực hành thánh ý Chúa. Đức Mẹ là sự khôn ngoan mà ta cần chọn lựa. Đức Mẹ là sự trợ thủ đắc lực, Đức Mẹ là sự tín nhiệm không suy giảm mà ta được Chúa thương ban.
Chắc chắn rằng Đoan Lời Chúa hôm nay ( Lc 1, 26 -38) là một Đoạn Tin Mừng quá quen thuộc, nhưng MV 4-B177
Chắc chắn rằng Đoan Lời Chúa hôm nay ( Lc 1, 26 -38) là một Đoạn Tin Mừng quá quen thuộc, nhưng là Đoạn Tin Mừng “vang vọng” nhất, bởi vì, dù là không phải Đoạn khởi đầu, nhưng, nếu thiếu đi Đoan Tin Mừng nầy, thì dường như thiếu đi” hương vị” chính của “ món ăn”. Tại sao vậy, thưa quý vị? Thưa, vì “điểm “ mấu chốt của “công cuộc “ Cứu Chuộc nằm ở đây, nằm chính nơi “vị trí” vô tiền khoáng hậu.
Ai đọc Đoạn ( Lc 1, 26 -38), đều biết rằng đây là Đoạn Tin Mừng “ Truyền Tin”, “Thiên Chúa sai sứ thần truyền tin cho Đức Bà Maria, và Đức Bà chịu thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần.”
Vâng, không có Lời nào trong Thánh Kinh được luôn “ vang vọng” như Đoạn Tin Mừng hôm nay, nếu nói khác đi, Thánh Kinh là cuốn sách “ vang vọng” Lời của Thiên Chúa, thì Đoạn Tin Mừng hôm nay là Đoạn“ VANG VỌNG “ nhất. bởi vì, Có ba “lần “ vang vọng:
Thứ nhất : Lời Truyền Tin của Thiên Sứ Thứ hai : Lời truyền tin của Thiên sứ cho Đức Maria biết người chị họ Isave đã mang thai trong tuổi cao niên. Thứ ba : Lời thưa “ xin vâng” của Đức Maria. Một lời “ vang vọng” của nhân loại. Như vậy, khi nghe những Lời nầy, tâm trạng của người đón nhận như thế nào? Có phải chăng là “ vui mừng “ khôn xiết ? Bởi vì : “ Chúa đã làm cho tôi những điều cao cả, Danh Ngài thật chí thánh, chí tôn”. Vâng, Tâm tình của Đức Trinh Nữ Maria là như thế , bởi vì cùng lúc cả hai “Tin Vui” được Loan báo và Mẹ đã đón nhận, thì Lời ấy “vang vọng” như thế nào !
Vâng, Thiên Chúa đổ đầy hồng ân trên một người nữ tỳ hèn mọn, hồng ân ấy là hồng ân “ CỨU ĐỘ” , có nghĩa là hồng phúc cho cả vũ trụ nhân loại từ đời nầy qua đời khác. Có giá trị muôn nghìn lần “kho báu vật” trần thế. Bởi vì, từ đây “ƠN CỨU ĐỘ “ phát sinh và ban tràn ân phúc trên dương gian. Vâng, một ân phúc vô giá, một ân phúc mà từ Trời cao Thiên Chúa đã mở ra một “ LÒNG XÓT THƯƠNG “, một Lòng Xót Thương đích thực, đó là “ ƠN CỨU ĐỘ “.
Vâng, chúng ta biết được giá trị của Ơn Cứu Độ như thế nào , thì chúng ta mới biết được Lòng Xót Thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Bởi vì, Thiên Chúa không “ mắc nợ” ai cả, mà Thiên Chúa phải trao ban một “món quà” vô giá cho nhân loại , đó là : “ Con Một Tối Cao”, có nghĩa là Thiên Chúa “tự hạ” một Ngôi Vi Thiên Chúa, “ Từ trời xuống thế” là một mầu nhiệm cao cả không gì sánh bằng, mà chúng ta gọi là “khôn sánh”.
Vâng, Tin Tức Truyền Tin là một hồng ân Đức Tin và sự đáp trả của Đức Mẹ là sự thể hiện một “lòng tin “ tuyệt đối của thụ tạo đối với Đấng Toàn Năng. Từ đó, chúng ta thấy, không gì lớn hơn Thiên Chúa trao ban chính mình. Và , Lời Truyền Tin là Lời luôn “ vang vọng” xuyên suốt thời đại, không gian và vũ trụ con người. Lời mà, quỷ thần khiếp sợ, bởi vì, nhờ Lời nầy và tiếng thưa “ xin vâng” của Đức Maria mà “ƠN NHẬP THỂ” đã hình thành và trở nên Mầu Nhiệm Cứu Độ nhân thế.
Từ đó, chúng ta hiểu được mầu nhiệm “ Trọn Đời Đồng Trinh” nơi Đức Maria là như vậy. Bởi vì, những điều xảy ra với Mẹ là một Mầu Nhiệm. Rõ ràng , như Lời sứ thần nói : “ Không việc gì mà Thiên Chúa không làm được”.
Việc “ Truyền Tin “ cho Đức Maria là Mầu Nhiệm Truyền Tin, mở đầu mầu nhiệm cứu độ, đồng thời, Mẹ cũng “đảm nhận” việc biết được tin bà chi họ mình, đang trong nỗi cô đơn, son sẻ, buồn tủi, nhưng , được Thiên Chúa xót thương ban cho một “ Niềm Vui” trong đại là được “ làm mẹ”, được sinh con , mà là người con “dọn đường” cho Đấng Cứu Thế. Nếu chúng ta sống được trong tâm trạng của thời Cựu Ứơc, chúng ta mới hiểu được “nỗi vui mừng” trên của “ sự kiện Truyền Tin”, một nỗi vui mừng khôn tả của hai người mẹ được “ kêu mời” cộng tác vào ƠN CỨU ĐỘ, mà ngôn sứ Isaia đã loan báo từ hơn hai ngàn năm trước cho dân tộc mình và cho nhân loại sau nầy.
Như vậy, “ Tiếng thưa Fiat” của Đức Maria, không chỉ là tiếng thưa bình thường, mà là một Lời thưa “ VANG VỌNG” đất trời, và muôn thế hệ, bởi vì, “ Từ đây đến muôn đời sẽ khen tôi là người diễm phúc”.
Theo đó, đêm Giáng Sinh cực thánh, là Đêm mà mọi tạo vật sững sờ, im lặng lắng nghe Lời sứ thần loan báo : “ VINH DANH THIÊN CHÚA TRÊN CÁC TẦNG TRỜI , BÌNH AN DƯỚI THẾ CHO LOÀI NGƯỜI CHÚA THƯƠNG”.
Vâng, Lời vang vọng trên được liên kết, được bắt nguồn từ Lời Truyền Tin cho Đức Trinh Nữ Maria và Lời “đáp rả” hồng phúc của Mẹ vậy, là “Tiếng thưa xin vâng”.
Lạy Thiên Chúa là Cha Toàn Năng, Cha đã ưu ái ban cho nhân loại Ơn Cứu Độ, đến giờ đã định, Cha đã kêu mời một Trinh Nữ đón nhận “ Ơn Hồng Phúc “ trọng đại ấy, là làm Mẹ Đấng Cứu Thế,. Xin thương ban cho mọi loài thọ sinh biết đáp đền muôn một, hầu mở lòng đón nhận Hài Nhi Giêsu là món quà cao cả từ nơi Cha là Lòng Xót Thương và Ơn Cứu Độ./. Amen.
Chiều theo í mình là điều dễ, ai cũng muốn sống và làm việc chiều theo í riêng mình. Chiều theo MV 4-B178
Chiều theo í mình là điều dễ, ai cũng muốn sống và làm việc chiều theo í riêng mình. Chiều theo í người khác là chịu theo sự hướng dẫn của người khác để đi vào lãnh địa xa lạ, nơi đó khi nguy hiểm, rủi ro, bất trắc xảy đến, vượt quá tầm kiểm soát của ta. Thực tế trong cuộc sống dù chiều theo í ta hay í người khác đều có rủi ro, bất trắc và đều vượt quá tầm kiểm soát. Theo í riêng đôi khi ta có quyền quyết định tiến thêm hay rút lui vào lãnh địa an toàn. Thực ra không phải ai cũng đủ can đảm rút lui về lãnh địa an toàn, mà thường là cố gắng, vượt sức đến mức kiệt quệ cả tinh thần lẫn vật chất. Cứ xem gương những tay cờ bạc thì biết họ luôn thua trắng tay nhưng vẫn chưa chịu đầu hàng mà tìm cách gỡ gạc mặc dù gỡ gạc trong cầu may. Gỡ trong cầu may thì may ít, rủi nhiều.
Phụng vụ trong những ngày gần đây nhắc nhớ tới hai trường hợp xin vâng của hai mẹ con như một nhắc nhở cho chúng ta biết cuộc sống trần gian cần chọn lựa khôn ngoan, chọn sống theo í Chúa là lựa chọn khôn ngoan bởi khi gặp khó khăn có Chúa cùng đồng hành, ban ân sủng, sức mạnh giúp ta vượt qua khó khăn. Làm theo í riêng khi khó khăn không ai giúp đỡ, không nơi nương tựa.
Để sống theo í Chúa thì í cá nhân cần loại bỏ để cho í Chúa đuợc thể hiện trong cuộc sống và điều này có thể thực hiện được. Trường hợp thứ nhất là trường hợp Đức Trinh Nữ Maria đã từ bỏ í riêng để sống theo í Chúa khi thưa hai tiếng xin vâng Lk 1, 38 cùng sứ thần Chúa. Dù đã hỏi sứ thần nhưng bà vẫn không hiểu rõ những gì sẻ xảy đến trong đời. Trường hợp thứ hai là chính con bà là Đức Kitô suốt cuộc sống trần thế luôn tuyên bố là Ngài đến trần gian không phải để làm theo í riêng mà làm theo í của Chúa Cha, Đấng sai Ngài đến trần gian Jn 6,38. Dù thế trên thập giá Ngài đã lớn tiếng than: Lậy Cha, sao Cha bỏ con.Mt 27, 46
Câu ‘Lậy Cha, sao Cha bỏ Con’ không phải là Đức Kitô từ chối vâng phục Chúa Cha, hoặc chối bỏ Chúa Cha mà chính là xác tín có Thiên Chúa hằng sống. Vị đó là Cha của Ngài. Lậy Cha, sao Cha bỏ Con cho biết đau khổ phần xác đôi khi làm cho con người chỉ thấy đau khổ mà không thấy Thiên Chúa ở cùng. Thực ra Thiên Chúa luôn cùng đồng hành nhưng đau khổ đã làm cho tâm trí ta trở nên chú trọng nhiều đến đớn đau phần xác nhiều hơn là cảm nghiệm Thiên Chúa cùng đồng hành với ta trong an vui, cũng như trong đau khổ, phiền não.
Í Thiên Chúa được thể hiện rõ ràng qua con người và con người nhiều khi đối xử với nhau thiếu công bằng, thiếu thành thật và ngay cả ảnh huởng, lung lạc bởi phe nhóm vì thế có những quyết định vừa thiếu sáng suốt vừa chủ quan mang lại đau khổ, bất bình cho người thuộc quyền. Hành xử như thế là í tưởng làm theo í Chúa, thực hành í phe nhóm.
Sinh ra trong thế giới này là một đặc ân bởi thứ nhất đây là cơ hội cho chúng ta thực hiện í Chúa nơi trần gian và thứ đến là thưởng thức điều thiện hảo, tốt lành của vũ trụ do Chúa tạo dựng. Thực hiện í Chúa bằng cách sống công bằng, yêu thương, tha thứ và bác ái với tha nhân. Khi thực hành điều đó chắc chắn không phù hợp với í kiến cá nhân, phe nhóm chủ trương độc quyền lãnh đạo, lãnh đạo và mọi người phải phục tùng vì thế làm theo í Chúa luôngặp phải chống đối cách này, cách khác. Thực hiện í Chúa qua hành động bác ái, yêu thương, sống chung với đồng loại, khóc khi bạn gặp tang thương và nâng rượu mừng khi họ gặp may mắn.
Mùa Giáng Sinh, mùa Hồng Phúc, Thiên Chúa ở cùng nhân loại. Chúc quí vị và gia đình mùa Giáng Sinh tràn đầy hồng ân và nhiều ơn lành trong năm mới.
“Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, Mầu Nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, đêt họ tin mà vâng phục Thiên Chúa”(Rm 16,26).
Mầu nhiệm được thông báo đó là Mầu nhiệm gì ? Đó là mầu nhiệm TIN MỪNG. Theo thánh Phaolô MV 4-B180
Mầu nhiệm được thông báo đó là Mầu nhiệm gì ? Đó là mầu nhiệm TIN MỪNG. Theo thánh Phao-lô, “Tin Mừng đó mặc khải mầu nhiệm vốn được giữ kín từ ngàn xưa, nhưng nay được biểu lộ”(x.Rm16,25). Nói gần nói xa chẳng qua nói thật. Mầu nhiệm đó là mầu nhiệm “Thiên Chúa làm người”.
Khi A-đam và E-và phạm tội trái lệnh Chúa mà ăn trái cấm, Thiên Chúa đã hứa sẽ ban Đấng Cứu Độ khi nói: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà; giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy. Dòng giống đó sẽ đạp nát đầu mi và mi sẽ cắn vào gót nó”(x. St 3,15). Đó là kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
Kế hoạch này được giữ kín và được các Tổ Phụ âm thầm chờ đợi và các Ngôn Sứ loan báo cách bí nhiệm. Và đến thời Đức Ma-ri-a, kế hoạch đó đã bắt đầu được tỏ lộ, khi Sứ Thần Gabriel đến truyền tin cho Đức Ma-ri-a : “Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”(x.Lc 1,31-33). “Dòng giống” đó chính là Đức Giê-su và người “đàn bà” đó chính là Đức Ma-ri-a.
Thai Nhi Giê-su đó không do con người mà do Thánh Thần: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ tỏa bóng trên Bà. Vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”(x.Lc1,35). Con Người đó vừa là con người vừa là con Thiên Chúa. Là con người, vì được Đức Ma-ri-a cưu mang; là con Thiên Chúa, vì bởi Thánh Thần.
Thế nhưng việc đó có thể làm được chăng ? Chính Đức Ma-ri-a đã nói: “Việc đó xảy ra thế nào được, vì tôi không biết đến việc vợ chồng”(x.Lc1,34). Quả thực, đối với con người thì không thể được. Trên đời này, có ai một mình mà sinh được con bao giờ. Một mình người nữ, một mình người nam hay cặp đồng tính nam hoặc nữ đều không thể sinh con được. Phải có người nam kết hợp với người nữ mới có thể sinh con được. Dù có thụ tinh nhận tạo đi nữa thì cũng phải có tinh trùng của người nam kết hợp với trứng của người nữ.
Dù vậy, điều đó không thể không đối với Thiên Chúa, vì “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”(x.Lc1,37). Một ví dụ cụ thể nơi bà Ê-li-sa-bét, một người mang tiếng là son sẻ và hơn nữa đã cao niên, việc mang thai là không thể. Thế nhưng, bà cũng đã mang thai được sáu tháng rồi đó. Điều đó rành rành không thể chối cãi.
Thế đấy, cứ cho là điều ngoại lệ đi. Mà điều ngoại lệ này chỉ có Thiên Chúa làm được mà thôi. Nói cách khác, phải có bàn tay của Thiên Chúa, mới có những điều kỳ diệu xảy ra. Thế thì, một người Trinh Nữ thụ thai, chẳng có gì là khó đối với Thiên Chúa. Con người còn làm thụ tinh nhân tạo được, thì tại sao Thiên Chúa lại không thể thụ tinh Thiên Tạo được?
Việc thụ tinh nhân tạo là do con người. Con người lấy tinh trùng của người nam, cho kết hợp với trứng noãn của người nữ, tạo thành một mấm sống, một con người ngay từ lúc thụ thai. Điều đó đã là một sự kỳ diệu mà con người không thể hiểu được. Tại sao một cái trứng và một con tinh trùng kết hợp với nhau, lại tạo ra một mầm sống, để rồi phát triển thành một con người.
Việc thụ tinh nhân tạo thành công, có nghĩa là con người làm được việc đó và người ta cảm thấy con người sao giỏi quá, khoa học kỹ thuật phát triển cao quá, thật là khâm phục sự khôn ngoan và thông minh của con người. Thế nhưng đó chỉ là một việc rất ư là bình thường đối với Thiên Chúa. Việc sinh sản của động vật và thực vật tràn ngập khắp mặt đất. Loài nào theo giống đó, cứ đến ngày, đến tháng là sinh sôi nảy nở.
Nói riêng việc thụ tinh nhân tạo của con người, thì người ta cũng phải canh tới canh lui, làm bao nhiêu lần mới được. Rồi đâu phải làm được mà thành công 100% ngay đâu. Có ca làm mãi cũng đâu có thành công. Nói tóm là con người làm được việc thụ tinh nhân tạo nhưng không làm được nhiều, vì khá tốn kém; không thành công lắm, vì quá khó khăn. Còn trong tự nhiên việc thụ thai thì quá đơn giản và quá dễ dàng.
Có thể nói việc thụ thai của Đức Ma-ri-a là việc Thụ Thai Thiên Tạo, nghĩa là việc thụ thai đó do Thiên Chúa. Đối với Thiên Chúa thì chẳng có khó khăn gì, cũng đơn giản và dễ dàng như trong tự nhiên vậy. Một lời Chúa phán : “Này bà sẽ thụ thại” và một lời xin vâng của Đức Ma-ri-a: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như Lời Sứ Thần truyền”, thì Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể trong cung lòng của Đức Ma-ri-a và đã làm người.
Việc Truyền Tin đó khởi đầu cho kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Đó không phải là chuyện cổ tích, cũng không là câu chuyện hoang đường nào đó, khi người đàn bà dẫm chân lên một dấu chân lạ hay ăn thứ lá nào đó để rồi bà có thai. Có thể nói Đức Ma-ri-a là người đầu tiên nhận lãnh ơn cứu độ của Thiên Chúa qua việc chấp nhận và cưu mang Ngôi Lời của Thiên Chúa. Việc chấp nhận này không dễ, đầy thử thách và cam go.
Việc Đức Ma-ri-a mang thai trước khi về chung sống với Giu-se là một thử thách. Có thể Ma-ri-a sẽ bị Giu-se lìa bỏ cách kín đáo. Hoặc có thể bị ném đá theo luật Mô-sê. Thế nhưng một lần nữa Thiên Chúa lại can thiệp và Giu-se đã đón Ma-ri-a về nhà mình. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc Ma-ri-a khỏi bị ném đá.
Ai muốn được cứu độ thì cũng phải noi gương Đức Ma-ri-a mà vâng phục Thiên Chúa, nghe Lời Thiên Chúa và chấp nhận kế hoạch cứu độ của Ngài. Việc nghe và thực hành Lời Chúa cũng không dễ dàng chút nào, cũng khó khăn và cam go lắm. Thế nhưng Lời Chúa sẽ giải thoát chúng ta. Nhờ Lời Chúa mà ta có bình an giữa bao những sóng gió và khó khăn của cuộc đời. Dù ta nghèo hay bệnh tật, ta vẫn có sự bình an của Chúa. Không chỉ có thế mà theo lời Chúa hứa, Chúa còn xây cho ta một ngôi nhà ở trên thiên quốc nữa cơ.
Mỗi khi ta sống Lời Chúa là mỗi lần Thiên Chúa ra tay can thiệp trong cuộc sống của ta. Chúa sẽ cứu độ chúng ta không phải là cất hết mọi khó khăn, chữa lành hết các bệnh tật mà là ta có được sự bình an trong những hoàn cảnh đó, để rồi ta vượt qua tất cả. Đó mới là việt kỳ diệu chứ. Sống mà chẳng có khó khăn, chẳng có bệnh tật gì thì cũng bình thường thôi, đâu có ai nói tới. Gia đình giàu có cho con ăn học và đỗ đạt, chuyện đó quá ư bình thường. Còn gia đình nghèo mà lo được cho con cái ăn học và thành tài mới đáng ca ngợi.
Lại nữa, “nghèo mà hiếu học” mới được người ta thương và giúp đỡ, chứ đã nghèo mà lại lười thì đâu có ai thương đâu có ai giúp cho đâu. Cũng vậy, “nghèo mà sống Lời Chúa”, bệnh tật mà tin tưởng vào Chúa mới được Chúa thương và cứu độ. Nghèo mà nên thiện, bệnh tật mà nên thánh mới đáng được ca ngợi và phong thánh chứ.
Vậy ta hãy noi gương Đức Ma-ri-a mà tin tưởng và vâng phục Thiên Chúa qua việc đón nhận và thực hành Lời Chúa. Ta sẽ được cứu độ, được bình an vui sống ở đời này và ngày sau được vào NHÀ CHA trên trời. Đó gọi là việc Thụ Tinh Thiên Tạo, tức là việc Chúa làm và việc ta chấp nhận.
Chúa nhật thứ tư mùa Vọng, Giáo hội mời gọi chúng ta suy niệm vai trò quan trọng của Đức Maria MV 4-B181
Chúa nhật thứ tư mùa Vọng, Giáo hội mời gọi chúng ta suy niệm vai trò quan trọng của Đức Maria trong lịch sử ơn cứu độ, đặc biệt trong mầu nhiệm Giáng sinh, Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Câu chuyện được thánh Luca kể trong bài Tin Mừng hôm nay có phần giống như chuyện cổ tích về Cô Bé Lọ Lem. Cô Bé Lọ Lem Cinderella nghèo nàn xấu xí bỗng dưng trở thành nàng công chúa cực kỳ xinh đẹp chỉ bằng một cái phất nhẹ chiếc đũa thần của một Bà tiên. Chúng ta biết Maria là một thôn nữ rất đơn sơ, và nghèo khó, nhưng hiền lành và đạo đức, sinh sống ở làng Nadarét vô danh rất ít người biết đến. Lý lịch của Maria đơn giản chỉ có thế, không như Giuse dù sao cũng còn được ghi kèm là “thuộc dòng dõi Đavít.” Nhưng sau khi được báo tin và qua hai tiếng “Xin Vâng” cuộc đời của Maria thay đổi hẳn. Maria “sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận.” Thật vậy, cô thôn nữ đơn sơ, nghèo nàn Maria sẽ trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế, Mẹ Thiên Chúa. Bởi vì không có gì mà Thiên Chúa không làm được.
Có một câu chuyện dụ ngôn được kể như sau. Một nông dân trồng một bụi tre nơi góc vườn. Ông chịu khó chăm sóc vì vậy thân tre mỗi ngày mỗi cao lớn và thẳng tắp. Ngày kia, người nông dân đến nói với cây tre cao nhất: “Này bạn, ta cần bạn.” Cây tre nói: “Thưa ông, tôi sẵn sàng, ông cứ sử dụng tôi theo ý ông.” – Được, ta sẽ cắt và xẻ anh ra làm đôi. Nghe thế, cây tre phản đối: – Xẻ tôi? Tại Sao vậy? Trong vườn có cây nào thẳng, đẹp hơn tôi đâu? Xin ông đừng.. Ông dùng tôi thế nào cũng được, nhưng xin đừng xẻ tôi ra.” – Nếu không xẻ anh ra thì anh vô dụng, không được việc gì.” Một làn gió nhẹ thổi qua, cây tre cúi đầu thở dài: “Thưa ông, nếu chỉ còn cách đó, thì xin ông cứ làm theo ý ông.” Người nông dân nói tiếp: “Sau đó Ta sẽ tước bỏ hết các cành của ngươi.” – Ông tước cành tôi? Như vậy còn gì là vẻ đẹp của tôi? Lạy Chúa, xin ông thương đừng làm thế!” – Nếu không tước cành, anh chả được việc gì.” Gió thổi mạnh hơn. Cây tre quằn quại trong gió và nắng. Rồi nó mạnh dạn thưa: “Thưa ông, xin ông chặt tôi đi.” Ông chủ nói: “Bạn thân mến, thực ra thì ta buộc lòng phải làm bạn đau, phải tước cành, khoét đốt bạn, nếu không, ta không thể dùng bạn.” Cây tre cúi rạp xuống đất nói: “Thưa ông, xin ông cứ việc chặt và xử dụng tôi theo ý ông.” Người nông dân chặt tre, tước cành, xẻ đôi và làm thành cái máng chuyển nước từ dòng suối vào cánh đồng. Và sau đó, người nông dân có một vụ mùa bội thu.
Chúng ta thấy Đức Maria cũng đã trở thành cái máng chuyển tình yêu và ơn cứu độ cho nhân loại. Mẹ đã xác tín và phó thác cuộc sống vào tình yêu và Lời Chúa, vì vậy Đức Maria đã dám từ bỏ ý riêng mình, vui mừng xin vâng theo thánh ý Chúa, để Ngôi Hai Thiên Chúa được nhập thể, hiện diện và cứu độ nhân loại. Nếu mỗi người chúng ta cũng biết noi gương Mẹ xác tín vào Lời Chúa, từ bỏ ý riêng mình, để Chúa chặt đi những thói hư tật xấu, và sử dụng, thì Chúa sẽ hiện diện và, qua chúng ta, ơn Chúa sẽ được chuyển đến những người sống chung quanh chúng ta.
Chúng ta thấy khi Đức Maria thưa với sứ thần Chúa hai tiếng “Xin Vâng” Mẹ cũng chưa hiểu rõ con đường Chúa muốn, nhưng Mẹ đã đặt trọn niềm tin, để Chúa làm chủ và sử dụng cuộc đời Mẹ đem tình yêu, bình và ơn cứu độ đến cho nhân loại. Mẹ không buồn rầu, sầu khổ hay hối tiếc, nhưng vui mừng sống thánh ý Chúa suốt cuộc đời.
Nhìn vào gương Mẹ Maria, chúng ta có dám thưa hai tiếng xin vâng với Chúa ngay trong những lúc khó khăn nhất của cuộc đời không? Chúng ta hãy tự hỏi chúng ta có xác tín vào Lời Chúa sống bác ái, quảng đại và vui mừng để Chúa sử dụng những ơn lành Chúa ban cho chúng ta không? Chúng ta có khiêm nhường từ bỏ ý riêng và can đảm sống thánh ý Chúa để người khác nhận có thể nhận ra sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống chúng ta không?
Có câu chuyện về một nữ sinh viên mới ra trường đại học và tình nguyện giúp cho một trung tâm xã hội tại thành phố New York. Mục đích của trung tâm là cung cấp chỗ ở tạm thời cho những thanh thiếu niên nam nữ trốn gia đình làm nghề mãi dâm. Mỗi đêm vào lúc 10 giờ, cô sinh viên và một số người tình nguyện, lái chiếc xe van chở bánh mì và nước chốc-cô-lết nóng đến những con đường có những thanh thiếu niên đứng đón khách. Cô chỉ làm một công việc đơn giản này mà thôi. Nhưng qua công việc khiêm nhường này, cô hy vọng những thanh thiếu niên biết còn có những người lo lắng và cảm thông hoàn cảnh của họ. Sau một năm trong công việc tình nguyện, cô đã tâm sự rằng lúc đầu cô không hiểu lý do tại sao Thiên Chúa lại để cho những thanh thiếu niên nam nữ phải sa vào tình trạng đau khổ này. Thế nhưng sau đó, cô đã hiểu rõ ra được ý nghĩa vai trò của Đức Maria trong mầu nhiệm Giáng sinh mà chúng ta sắp cử hành. Đó là Thiên Chúa sẽ không xuống trần gian nữa để bày tỏ cho chúng ta biết tình yêu thương bao la và sự quan tâm đặc biệt của Ngài. Thiên Chúa làm việc qua chúng ta như Người đã sử dụng Đức Maria để đem Ngôi Hai Thiên Chúa đến trần gian. Vì vậy, chúng ta phải noi gương Đức Maria, trở thành khí cụ để cho Chúa xử dụng, trở thành cái máng để Chúa mang tình yêu và hy vọng đến cho người khác. Thiên Chúa đã xuống trần và làm công việc này hơn 2 ngàn 17 năm trước đây qua hai tiếng “Xin Vâng” của Đức Maria. Ngày nay, chúng ta cũng phải “Xin Vâng” để Thiên Chúa tác động và hiện diện trong thế giới, xã hội, trong cộng đoàn và trong gia đình chúng ta.
Mục đích và sứ vụ của người Kitô hữu chúng ta là, qua ơn Chúa, trở thành cái máng, cái cầu hay con đường chuyển vận ơn sủng tình yêu, bình an, tha thứ và hạnh phúc của Thiên Chúa đến cho người khác như Đức Maria đã làm. Và đây chính là công việc của cây tre, của cô sinh viên đã thực hiện. Cô là một con sông chuyển đưa hy vọng, tình yêu của Thiên Chúa đến những thanh thiếu niên nam nữ đang cần đến tình yêu, lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa. Cô đang làm công việc mà chính Đức Maria đã làm trong mầu nhiệm Truyền Tin mà chúng ta vừa nghe trong bài Tin mừng hôm nay.
Xin Chúa biến đổi tâm hồn và cuộc đời chúng ta, biết noi gương Đức Maria thưa với Chúa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền.”