“Giữa các ngươi có một Ðấng mà các ngươi không biết”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Có người đã được Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến như chứng nhân để làm chứng về sự sáng, hầu mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là sự sáng, nhưng ông chỉ làm chứng về sự sáng. Và đây là chứng của Gioan, khi những người Do-thái từ Giêrusalem sai các vị tư tế và các thầy Lêvi đến hỏi ông: “Ông là ai?” Ông liền tuyên xưng, ông không chối, ông tuyên xưng rằng: “Tôi không phải là Ðấng Kitô”. Họ liền hỏi: “Thế là gì? Ông có phải là Elia chăng?” Gioan trả lời: “Tôi không phải là Elia”. – “Hay ông là một đấng tiên tri?” Gioan đáp: “Không phải”. Họ liền bảo: “Vậy ông là ai, để chúng tôi trả lời cho những người sai chúng tôi. Ông tự xưng là ai?” Gioan đáp: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi, như tiên tri Isaia đã loan báo”. Và có những người thuộc nhóm biệt phái cũng được sai đến. Họ hỏi Gioan rằng: “Nếu ông không phải là Ðức Kitô, cũng không phải là Elia hay một tiên tri, vậy tại sao ông làm phép rửa?” Gioan trả lời: “Tôi làm phép rửa trong nước; nhưng giữa các ngươi, có Ðấng mà các ngươi không biết. Ðấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Ðấng ấy đã có trước tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người”. Việc này xảy ra tại Bêtania, bên kia sống Giođan, nơi Gioan làm phép rửa. - Ðó là lời Chúa.
Với Chúa Nhật III Mùa Vọng, chúng ta đang tiến gần tới đại lễ Giáng Sinh. Khắp nơi đã bừng MV 3-B151
Với Chúa Nhật III Mùa Vọng, chúng ta đang tiến gần tới đại lễ Giáng Sinh. Khắp nơi đã bừng lên bầu khí Giáng Sinh với việc trang hoàng hang đá, cây thông, đèn điện nơi thành phố cũng như thôn quê. Tất cả đều diễn tả niềm vui Giáng Sinh.
Cùng với bầu khí đó, theo truyền thống, Chúa Nhật III này được gọi là Chúa Nhật của niềm vui: “Gaudate in Domino Semper – Hãy vui luôn trong Chúa.” Lời Chúa mời gọi chúng ta suy tư về chủ đề xuyên suốt các bài đọc: “Chứng nhân cho niềm vui.”
1- Tiên báo và chứng nhân niềm vui
Trong bài đọc I, trích sách tiên tri Isaia, Đấng Mêsia được miêu tả như là người được xức dầu bởi Thần Khí và được sai đi để làm chứng nhân cho niềm vui cứu độ. Nhờ việc xức dầu và sai đi này, Đấng Mêsia đến để “loan báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Đức Chúa” (Is 61,1-2). Như thế, theo lời ngôn sứ,
Đấng Mêsia là người mang niềm vui của Thiên Chúa cho nhân loại. Tin Mừng giới thiệu Gioan Tẩy Giả là chứng nhân cho ánh sáng và niềm vui. Ánh sáng và niềm vui đó chính là Chúa Giêsu. Ông xuất hiện như một dấu hỏi lớn cho dân chúng. Người ta cứ tưởng ông là Đấng Kitô. Nhưng ông thẳng thắn trả lời: Tôi không phải là Đấng Kitô. Tôi chỉ là người dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Người đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người (x. Ga 1,19-28).
2- Chúa Giêsu, niềm vui đích thực
Như thế, những lời tiên báo của Isaia nay đã được ứng nghiệm. Đấng Mêsia mà dân Chúa đang mong đợi chính là Đức Giêsu, Người mang niềm vui và chính là niềm vui của Thiên Chúa. Thật vậy, Con Thiên Chúa làm người là Tin Mừng lớn nhất cho nhân loại. Người đến để giải thoát con người khỏi cảnh nô lệ của tội lỗi và mang lại ơn cứu độ cho mọi người. Đó là niềm vui lớn lao nhất! Bởi thế, giáo phụ Origene quả quyết: Chúa Giêsu vừa là Tin Mừng, vừa là nội dung Tin Mừng.
Chúng ta cần suy tư xa hơn: ơn cứu độ mà chúng ta có được không phải nhờ những thành tựu khoa học, kỹ thuật, cũng không phải do của cải vật chất, hay ý thức hệ mang lại, nhưng một cách chính yếu, là do ân sủng của Thiên Chúa ban tặng qua Đức Kitô. Thế nên, Kitô giáo căn bản là “tin mừng” hay “tin vui,” dẫu một số người như Nietzche cho rằng Kitô giáo là sự cản trở niềm vui, bởi vì họ thấy trong đó một loạt những điều cấm chế và luật lệ. Trong thực tế, Kitô giáo là lời loan báo về chiến thắng của ân sủng trên tội lỗi, về sự sống trên sự chết. Và nếu Kitô giáo đòi hỏi sự hy sinh và kỷ luật của lý trí, con tim và cách hành xử, điều đó là chính đáng, bởi vì trong con người luôn có những gốc rễ ích kỷ và độc tố tội lỗi vốn làm cho chúng ta phải buồn phiền vì đánh mất niềm vui đích thực.
Như thế, Chúa Giêsu là niềm vui của nhân loại, là niềm vui của Hội Thánh và của mỗi người chúng ta. Niềm vui đó phát xuất từ trong sâu thẳm nhất của con người, mà không có gì và không ai có thể lấy đi được. Chúng ta được mời gọi chia sẻ niềm vui này với mọi người.
3- Làm sao để làm chứng cho niềm vui
Tuy nhiên, làm sao chúng ta có thể làm chứng cho Chúa chính là niềm vui? Trong bài đọc II, qua lời nhắn nhủ các tín hữu Thêxalônica (1 Tx 5,16-24), thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta rằng trong khi đón chờ Chúa đến, chúng ta phải làm chứng cho Chúa bằng sống một cuộc đời thánh thiện và xa lánh những gì xấu xa. Thánh Tông Đồ đưa ra ba việc quan trọng cần làm: Trước hết, anh em hãy vui luôn trong Chúa, nghĩa là hãy trải nghiệm niềm vui, rồi mới có thể chia sẻ niềm vui; Thứ đến, hãy cầu nguyện không ngừng: nghĩa là để có niềm vui thực sự, phải luôn kết hợp và sống thân tình với Chúa qua đời sống cầu nguyện; Thứ ba, hãy luôn có tâm tình tạ ơn trong mọi hoàn cảnh và đừng dập tắt Thần Khí. Tức là hãy để cho Thánh Thần hướng dẫn.
Ở bài Tin Mừng, Gioan Tẩy Giả được giới thiệu như là kiểu mẫu của một chứng nhân niềm vui. Chúng ta cần học nơi ông về đời sống đơn giản, khó nghèo và khổ chế, để dám lội ngược dòng của cuộc sống đang chạy theo sự xa hoa và hưởng lạc trần thế. Gioan Tẩy Giả còn thể hiện những phẩm tính của một chứng nhân đích thực: đó là tính chân thật, khiêm tốn và can đảm khi làm chứng rằng chỉ Chúa mới mang lại cho con người niềm vui đích thực.
Vì thế, trong Mùa Vọng này, chúng ta được mời gọi hãy đến, kết hợp với Chúa để đón nhận niềm vui và mang niềm vui đó cho tha nhân, nhất là cho những ai nghèo khổ, bằng những việc làm cụ thể, như thăm viếng người bệnh tật, an ủi kẻ cô đơn không nơi nương tựa, giúp đỡ những ai đói rách, và chào hỏi những ai chúng ta gặp gỡ hằng ngày với nét mặt vui tươi trong Chúa. Đó là cách thế tốt nhất để chúng ta mừng đại lễ và chia sẻ niềm vui Con Chúa Giáng Sinh. Amen.
Trong tâm tình chờ đón Chúa Giê-su giáng sinh, Mẹ giáo hội mời gọi mỗi người chúng ta trút MV 3-B152
Trong tâm tình chờ đón Chúa Giê-su giáng sinh, Mẹ giáo hội mời gọi mỗi người chúng ta trút bỏ nỗi phiền muộn, vẻ mặt u ám, tâm trạng buồn tủi, và mặc lấy tâm hồn tín thác, con tim hoan hỷ, vui mừng với lòng cảm mến vô biên mà chúng ta cùng nhau dâng lên Chúa qua lời nguyện Nhập lễ “Anh chị em hãy vui luôn trong Chúa…” (Gaudete in Domino semper). Vì vậy, Chúa Nhật thứ 3 Mùa Vọng còn được gọi là Chúa Nhật Hân Hoan (Gaudete Sunday), và chủ tế mặc áo lễ màu hồng để diễn tả niềm vui chờ đón Chúa Cứu thế.
Qua các bài đọc hôm nay, chúng ta có thể thấy một điểm chung, đó là: niềm hân hoan, lòng vui sướng vì Chúa đã gần đến. Niềm hoan hỷ, vui mừng này không phải cảm xúc hay tâm trạng nhất thời, chóng qua, nhưng tiên vàn là lòng hoan lạc xuất phát từ tâm hồn bình an, tín thác, chia san mà Thiên Chúa ân ban cho chúng ta. Như lời tiên tri Xê-phô-ni-a loan báo cùng dân Is-ra-en trong bài đọc I: “Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là Vị cứu tinh, là Đấng anh hùng. Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội” (Xp 3, 17-18). Tuy nhiên, trong tâm tình chờ đón, mong đợi Đấng Cứu thế, chúng ta nên hung đúc ngọn lửa của lòng hoan lạc và niềm hân hoan như thế nào?
Câu trả lời không đâu xa, mà rất gần gũi với chúng ta, đó là lời Thánh Phao-lô khuyến khích các tín hữu giáo đoàn Phi-líp-phê trong bài đọc II “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!…anh em đừng lo lắng gì cả, nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa là bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su” (Pl 4,4-7) Ông bà ta có câu: “vui không quên nhiệm vụ”. Thật chí lý, khi chúng ta vui mừng quá đỗi, chúng ta thường quên đi những gì nên làm và công việc phải làm. Do đó, để sống niềm hân hoan chờ đón Chúa giáng sinh, chúng ta nên khắc ghi trong tâm khảm của mỗi người chúng ta: lòng tín thác. Khi chúng ta đặt niềm tin vào Thiên Chúa thì chúng ta phó dâng tất cả cho Ngài trong mọi hoàn cảnh, mọi thời khắc của cuộc đời. Chẳng những cuộc sống hiện tại, mà mọi sự phía trước, những kế hoạch, dự định của chúng ta. Hơn nữa, niềm tín thác này dẫn chúng ta đến tâm tư luôn mong mỏi được kết hợp mật thiết với Chúa qua đời sống cầu nguyện. Nơi đó, ta gặp gỡ, chuyện trò, kết tình thân với Ngài. Nơi đó, ta đặt hết niềm tín thác nơi Ngài và Ngài cũng hết lòng tin tưởng chúng ta. Nơi đó, ta mong mỏi chờ đợi Ngài, và cũng chính nơi đó Ngài đang mong đợi ta vứt bỏ con người tội lỗi, những tính hư nết xấu mà quay trở về với Ngài.
Với lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa, chúng ta sẽ không còn ưu tư, sầu não, lo lắng không đâu nữa, và như vậy, chúng ta sẽ trung thành với đời sống cầu nguyện. Vì khi cầu nguyện chúng ta sẽ không còn bồn chồn, lo âu; ngược lại, khi chúng ta âu lo, não nề với vô vàn sự việc thế gian thì chúng ta sẽ không thể cầu nguyện được, tâm hồn sẽ chẳng được bình an và vui mừng! Hơn nữa, ngọn lửa của niềm hân hoan mong đợi Đấng Cứu Thế cần phải được hung đúc, cháy lên với lòng ước ao chia san với hết mọi người. Chẳng ai trong chúng ta có thể vui một mình được, mà nếu có đi chăng nữa, thì niềm vui ấy không được trọn vẹn! Những người đến gặp Gio-an Tẩy Giả ước ao được hưởng trọn niềm hân hoan mà Đấng Cứu Thế hứa ban qua lời tiên tri của ông, nên hỏi ông rằng: “Còn chúng tôi, chúng tôi phải làm gì đây?” (Lc 3, 10). Và con thiết nghĩ, ai ai trong chúng ta cũng muốn đặt câu hỏi này với Gio-an Tiền Hô! Trong trình thuật Phúc m mà chúng ta đọc hôm nay, Gio-an Tẩy Giả trả lời rất cụ thể cho từng thành phần trong xã hội thời bấy giờ, nhưng chung quy lại là: để hưởng được niềm vui trọn vẹn, chúng ta hãy biết chia san, chu toàn bổn phận của mình với lòng mến, và lấy lòng nhân ái đối xử, giúp đỡ nhau. Sau cùng, biết khiêm hạ nhận mình là ‘người đến sau’, là ‘người dọn đàng’ như Gio-an Tiền Hô mà thôi “…tôi không xứng đáng cởi quai dép cho Người. Chính Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa” (Lc 3, 16) Lòng khiêm tốn, khiêm nhu giúp chúng ta biết chính bản thân; giúp chúng ta sống hòa nhã, nhẫn nại, đơn sơ, chân thành, chia sẽ niềm vui với hết mọi người, đặc biệt trong gia đình, cộng đoàn, giáo xứ, nơi công sở và xã hội. Lòng khiêm nhu chân thành dẫn đưa chúng ta đến một tâm hồn biết ơn, cảm tạ. Trong tinh thần ấy, niềm hân hoan, vui mừng sẽ được hung đúc, chia san, và trở nên trọn vẹn khi ta chờ đón Chúa Giáng Sinh.
Ma-na-ra-tha! Lạy Chúa Giê-su xin hãy đến đổi mới tâm trí, cõi lòng chúng con để chúng con xứng đáng lãnh nhận niềm hoan hỷ đích thật, lòng vui mừng khôn tả mà Ngài ban xuống cho thế trần. Ước gì niềm vui sướng, hoan lạc ấy cháy lên trong con qua lòng tín thác vào Chúa, tâm hồn khiêm nhu, tấm lòng biết mở ra chia san với hết mọi người. Amen!
Một chiếc ly đã đầy tràn thì không thể rót gì thêm vào ly đó được và chẳng ai dại dột rót rượu MV 3-B153
Một chiếc ly đã đầy tràn thì không thể rót gì thêm vào ly đó được và chẳng ai dại dột rót rượu ngon vào đó.
Một cái thùng đầy cát thì không thể đổ thêm gạo, bắp hay bất cứ thứ gì. Cũng thế, một tâm hồn đầy kiêu căng, tự mãn, tham lam… thì không còn chỗ trống cho Thiên Chúa rót thêm ân sủng vào.
Tin mừng hôm nay mời chúng ta chiêm ngắm một nhân vật quan trọng của mùa Vọng là Gioan Tẩy giả, một con người sẵn sàng trút bỏ mọi tham vọng và hư danh, trở thành như một chiếc ly rỗng không; nhờ đó, ngài đã được Thiên Chúa rót đầy ân phúc.
Người đời bị cuốn hút bởi lợi danh và cố làm gia tăng giá trị mình bằng những lớp vỏ, lớp sơn bên ngoài.
Người đời nay tìm cách làm gia tăng giá trị của mình bằng những đồ trang sức đắt giá, bằng xe hơi sang trọng, bằng dinh thự nguy nga…
Trong khi đó, Gioan chê bỏ những “lớp vỏ” hào nhoáng của người đời. Ngài chỉ cần cào cào châu chấu trong hoang mạc làm thức ăn; chỉ cần tấm da thú thô sơ làm áo mặc.
Người đời khát khao danh vọng, muốn khoác cho mình nhiều danh hiệu cao sang; còn Gioan thì trái lại, ngài rủ bỏ hết mọi danh hiệu cao quý mà người đời gán cho ngài.
Thời bấy giờ Gioan là người tiếng tăm lỗi lạc. Có luồng dư luận cho rằng ông là Đức Ki-tô, một tước hiệu cao cả đầy vinh dự. Gioan trả lời với các tư tế và các thầy Lê-vi từ Giê-ru-sa-lem rằng ông chẳng phải là Đấng Kitô. Ngài đã không nhận vơ cho mình một danh hiệu rất cao quý.
Thế rồi có dư luận cho rằng Gioan là ngôn sứ Ê-li-a vĩ đại giáng lâm, vì theo kinh thánh thì vị ngôn sứ nầy phải đến trước để dọn đường cho Đấng Cứu Thế; Gioan cũng từ chối tước hiệu nầy. Thế là ngài lại trút bỏ thêm một vinh dự thứ hai.
Có một số khác nghĩ rằng nếu Gioan không là Đấng Kitô, không là ngôn sứ Ê-li-a, ít nữa thì ông cũng là một vị ngôn sứ cao cả nào đó. Gioan cũng từ khước luôn cả danh hiệu nầy.
Và đang khi nhiều người coi trọng phép rửa của Gioan, đã tuôn đến với ngài đông đảo, xin ngài làm phép rửa cho mình, thì Gioan khiêm tốn nói rằng phép rửa của ngài chỉ là phần chuẩn bị cho một phép rửa khác quan trọng hơn, do một Đấng rất cao cả cử hành mà ngài chẳng đáng cởi quai dép cho Đấng ấy.
Và đang khi danh tiếng của Gioan vang dội, còn Chúa Giê-su chưa được nhiều người biết đến, thì Gioan đã tự xoá mình đi, để cho Chúa Giê-su được tỏa sáng. Gioan nói: “Đức Giê-su phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi.”
Thế là Gioan đã trút bỏ hết mọi vinh dự người ta gán cho mình, chỉ nhận mình là tiếng kêu trong sa mạc hoang vu.
Gioan đã hạ mình xuống, nên đã được Thiên Chúa nâng lên. Gioan đã trút bỏ mọi thứ vinh quang và của cải, trở thành trần trụi rỗng không, như một chiếc bình trống rỗng, nên Thiên Chúa đã đổ đầy ân sủng cho ngài. Nhờ đó, Gioan trở nên vị ngôn sứ rất cao cả. Chính Chúa Giê-su đã xác nhận sự cao cả của Gioan. “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy giả (Mt 11, 11)
Gioan đã tự xoá mình đi nhưng ngài đã sáng bừng lên như một ngôi sao trên bầu trời Hội thánh. Gioan luôn hạ mình xuống nhưng Giáo hội vẫn hằng ngưỡng mộ ngài suốt dòng thời gian. Cuộc đời khiêm hạ của thánh nhân mãi mãi là tấm gương sáng ngời cho bao thế hệ nối tiếp.
Lạy Chúa Giê-su,
Khi tâm hồn chất chứa đầy tự mãn, kiêu căng, tham lam, ích kỷ… thì không thể đón nhận nhiều hồng ân của Chúa.
Xin thương giúp chúng con có đủ nghị lực và quyết tâm trút bỏ những thứ cặn bã đáng ghét này đi cho tâm hồn được trong sáng và rỗng không.
Nhờ đó, chúng con mới trở thành ống sáo rỗng để Chúa tấu lên những khúc hoan ca.
Nhờ đó, chúng con mới trở nên một chiếc ly, chiếc bình trống không để cho Chúa rót đầy tình yêu và ân sủng.
Làm chứng là một khái niệm và một chức năng quan trọng bậc nhất trong sách Tin mừng thứ tư MV 3-B154
Làm chứng là một khái niệm và một chức năng quan trọng bậc nhất trong sách Tin mừng thứ tư, vì Tin mừng này muốn đưa chúng ta theo Chúa Giêsu Kitô vào trong lòng Thiên Chúa Cha, nơi Người vẫn ở tự đời đời, từ trước khi có trời đất, và Người đến làm người, cư ngụ giữa chúng ta trên mặt đất này, trong một giai đoạn lịch sử nhất định, để khi “bỏ thế gian mà về cùng Cha” thì đưa chúng ta vào trong lòng Chúa Cha cùng với Người…
Có một người Thiên Chúa sai đến làm chứng về Chúa Giêsu để mọi người nhờ ông mà tin rằng Chúa Giêsu quả là Đấng Thiên Chúa sai đến, đó là ông Gioan Tẩy Giả. Ông đã làm chứng bằng chính mạng sống của mình…Thượng hội đồng Do thái nghe biết có ông Gioan Tẩy Giả rao giảng và làm phép rửa ven sông Giođan nên họ đã cử phái đoàn đi điều tra về ông và công việc ông làm. Đoàn đại biểu đến gặp ông với những câu hỏi đặt sẵn giống như các mẫu giấy tờ khai báo lý lịch hiện nay… Ông trả lời rằng, ông “không phải là Đức Kitô”, ông chỉ là “tiếng người hô trong hoang địa”, sứ vụ của Gioan là “đến để làm chứng về ánh sáng để mọi người nhờ ông mà tin”. (x. Tĩnh tâm với Tin mừng Gioan. Lm Giuse Nguyễn Công Đoan SJ).
Chứng nhân trung thực Khởi đầu Phúc Âm, Thánh Gioan viết: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin.” (Ga 1,6-7).Thánh Gioan là chứng nhân của Đức Kitô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Kitô bằng chính cuộc đời trong sáng của mình. Ngài là chứng nhân ánh sáng rất trung thực. Gioan cho biết mình chỉ là người hô dọn đường, làm phép rửa gằng nước, còn Đấng đến sau ông lại quyền thế hơn ông, ông không đáng làm tôi tớ để xách dép cho Người.
Chúa Giêsu nói về Gioan: “Ðây còn hơn cả ngôn sứ nữa” (Mt 11, 9). Và Chúa còn nói thêm : “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả” (Mt 11,11). Nhưng so với Chúa Giêsu, Gioan nhận ra mình thật nhỏ bé. Thấp kém đến nỗi “không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người”. Gioan trung thực nói lên một sự thật. Đó là mình kém xa vì Gioan chỉ là một thụ tạo yếu đuối mỏng dòn.Trong khi đó, Đức Kitô là Thiên Chúa, là Chúa của Gioan và là chủ tể của mọi loài. So sánh với Chúa Giêsu, Gioan chỉ là một giọt nước giữa lòng biển cả mênh mông, chỉ là một cây nhỏ trong đại ngàn trùng điệp, chỉ là một hạt cát giữa sa mạc bao la.
Khi thấy Gioan xuất hiện, rao giảng phép rửa thống hối, dân chúng tự hỏi xem có phải ông là Ðấng Cứu Thế không? Gioan phủ nhận địa vị mà họ gán cho ông (Ga 1,20; Cv 13,25). Gioan tự xóa mình trước Đức Kitô. Ông chẳng sợ mất uy tín trước bao nhiêu người ngưỡng mộ. Ông nhìn nhận phép rửa của ông chỉ nhằm chuẩn bị cho một phép rửa lớn hơn trong Thánh Thần.Gioan trung thực trong những lời nói về chính mình. Ngài không dám nhận những vinh quang người đời tưởng lầm ngài có. Gioan chỉ nhận những sự thực rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình mà thôi.
Trung thực với lòng mình, nên Gioan sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối. Trung thực trong sứ vụ nên Gioan chẳng nể vì kiêng cữ ai. Những luật sĩ thông thái phái Pharisiêu, những bậc vị vọng có nhiều ảnh hưởng lớn trong xã hội thuộc phái Sađucêô, những thầy cả tư tế đạo cao chức trọng, tất cả đều bị Gioan cảnh cáo nặng lời. Gioan gọi họ là loài “rắn độc” (Mt 3,7). Ngay cả vua Hêrôđê, Gioan cũng thẳng thắn cảnh cáo vì vua muốn chiếm vợ của anh mình (Mt 14, 3-12). Vua Hêrôđê vẫn nể sợ Gioan vì biết ông là người công chính, thánh thiện (Mc 6,20). Chính vì trung thực trong sứ mạng ngôn sứ mà Gioan phải trả giá bằng ngục tù và bị chém đầu. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân. Ánh sáng trung thực khiến cho lời chứng của Gioan càng có sức thuyết phục.
Thánh Gioan đã làm chứng nhân ánh sáng thật trung thực nên ngài đã sống một cuộc đời thật đẹp và đã chết hào hùng.
Thánh Gioan sống rất đẹp Gioan sống đẹp vì dám từ bỏ đời sống dễ dãi tiện nghi của gia đình và xã hội, rút vào trong sa mạc hoang vắng để sống gắn bó với Thiên Chúa, lắng nghe và thực hiện ý Ngài.
Gioan sống đẹp khi có được một số môn đệ theo mình, nhưng ngài cũng không ngần ngại giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa cho họ (Ga 1,36) để họ trở thành môn đệ Chúa Giêsu, một bậc Thầy cao cả hơn.
Gioan sống đẹp khi ngài thu phục được đám đông, được dân chúng ngưỡng mộ, họ xem ngài như một tiên tri cao cả, nhưng Gioan lại chỉ cho họ biết có Đấng cao cả hơn đang đến, Đấng mà ngài không đáng cởi quai dép cho Người (Ga 1,27) để cho dân chúng thôi ngưỡng mộ mình mà quay sang ngưỡng mộ Chúa Giêsu.
Gioan sống đẹp khi chủ trương rằng: “Chúa Giêsu phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi”(Ga 3,30)
Thánh Gioan chết hào hùng. Là một ngôn sứ trong một đất nước đang thời nhiễu nhương,bị đế quốc Roma cai trị hà khắc, nhiều phe nhóm trong dân nổi loạn, dân chúng lầm than. Gioan mang nặng những ưu tư, những trăn trở yêu nước thương dân.
Vua Hêrôđê, một hôn quân bạo chúa, sống loạn luân. Lương tâm ngôn sứ thúc đẩy, Gioan lên tiếng can ngăn và tố cáo những hành vi sai trái của nhà vua, kêu gọi vua trở về nẻo chính đường ngay.Vì thế, Gioan đã bị vua chém đầu. Cái đầu vị ngôn sứ đổi bằng bữa tiệc và điệu múa vũ nữ. Hêrôđê tàn bạo, Hêrôđiađê lăng loàn và thủ đoạn. Cái chết của Gioan cao đẹp và hào hùng vô cùng.
Trước mặt người đời, Gioan là kẻ thất bại. Sứ mạng của ngài không hoàn thành,bị những kẻ gian ác ghen ghét hãm hại, cuối cùng chịu chết chém trong tù. Ngôn sứ, chứng nhân của sự thật thời nào cũng phải trả giá. Điều quan trọng trước mặt Thiên Chúa chẳng phải là danh giá hay thành tích mà là thái độ sống.Thái độ sống của Gioan là bất khuất trước bạo lực, dám nói sự thật bảo vệ công lý, cho dù sự thật đó dẫn đến tù đày và cái chết.
Người theo Ðạo Hồi giáo Islam sùng kính Thánh Gioan Tiền Hô ở giáo đường bên Syria. Theo sự tin tưởng và tương truyền, trong ngôi đền thờ Hồi giáo Omajjden bên Syria có nấm mộ chôn đầu bị chém của Thánh Gioan Tiền Hô. Người Hồi giáo Syria gọi thánh nhân bằng tên Yaya Ben Zakariyah. Năm 2001, Thánh Gioan Phaolô II đã đến hành hương kính viếng cầu nguyện trước ngôi mộ Thánh nhân tại ngôi đền thờ này với mọi người Hồi giáo tại đó. Một vị Thánh sống tôn trọng và rao giảng sự trung thực, sự ăn năn sám hối. Từ đó cho tới nay, người Hồi giáo vẫn luôn luôn sùng kính mộ mến thủ cấp của vị ngôn sứ chứng nhân sự thật.
Theo gương Thánh Gioan, sống chứng nhân trung thực Nói sự thật có thể bất lợi cho mình hoặc cho người khác. Gioan đã dám nói sự thật, dù phải chết. Gioan không sợ quyền lực, không hùa theo kẻ có quyền lực. Trước điều sai trái, ngài không im lặng để được an toàn bản thân, để được xã hội ưu đãi. Gioan lên tiếng làm chứng cho lẽ phải, ngài không thể nói ngược lại lương tâm mình. Không thể nói điều sai trái là đúng, hay nói điều đúng là sai trái.
Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa Trung Tín (1 Tx 5,24). Ngài là “đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Ngài đã tin tưởng và gọi chúng ta là môn đệ của Ngài (Mt 25,22), và trao cho chúng ta những trách nhiệm lớn (Mt 25,21; Mt 28,19). Vì thế, chúng ta phải là chứng nhân trung thực của sự thật và trung tín giữa một xã hội cón nhiều gian dối.
Thiết nghĩ, bài học về lòng trung thực phải là bài học đầu đời cho các bộ óc trẻ trung đang còn trong trắng tuổi học sinh.
Người làm chứng là người sống đúng như chứng từ của mình. Gioan “đến để làm chứng về ánh sáng”. Trung thực với chứng từ này, một mặt ông cố gắng chỉ cho người ta thấy Ánh Sáng là ai, mặt khác khi có người tưởng ông là Ánh Sáng ấy thì ông thẳng thắn phủ nhận. Rồi khi Ánh Sáng xuất hiện, ông âm thầm rút lui : “Ngài phải sáng lên, còn tôi phải mờ đi”.
Theo gương Thánh Gioan chứng nhân ánh sáng trung thực, với tư cách ngôn sứ, chúng ta cần sống chứng nhân cho chân lý và tình yêu. Sống chân chính ngay thẳng theo lương tâm Kitô giáo, chúng ta góp phần mở đường dọn lối cho Chúa đến.
Ước gì khi nhìn vào đời sống chúng ta, mọi người cũng có thể nói như đã nói về Thánh Gioan Vianey “Tôi đã thấy Thiên Chúa trong một con người”.
Tiếng Vang Từ Hoang Địa Mời Sám Hối. Lời Vọng Của Chứng Nhân Tạo An Bình. Ngày xưa MV 3-B155
Tiếng Vang Từ Hoang Địa Mời Sám Hối Lời Vọng Của Chứng Nhân Tạo An Bình
Ngày xưa Thánh Gioan Tẩy Giả ví mình là “Tiếng Kêu Trong Sa Mạc.” Nghe buồn bã, lạc lõng. Tuy nhiên, nỗi buồn của ngôn sứ này không ảo não như tiếng kêu đời thường. Có lẽ vì vậy mà Chúa Nhật III Mùa Vọng có màu Tím nhưng mang sắc Hồng, bâng khuâng mong chờ nhưng vẫn hân hoan hy vọng, với biểu tượng là cây nến màu hồng.
TIẾNG VỌNG
Tiếng kêu trong sa mạc của Thánh Gioan Tẩy Giả gợi nhớ tới loài Vạc, cũng gọi là Hạc. Đó là động vật có cánh, một loài chim thuộc họ Diệc, kiếm ăn ban đêm và có tiếng kêu buồn thảm. Tiếng Vạc kêu sương nghe buồn thảm vì là tiếng lòng của kẻ lẻ bạn, đơn độc, một mình bay đi kiếm ăn ban đêm nhưng lòng vẫn thương nhớ khôn nguôi về người bạn tình phương xa. Tương tư khổ sở lắm, tiếng Vạc kêu trong đêm vắng nghe não nề lắm.
Cuộc sống có những nỗi buồn, nhưng chính nỗi buồn lại làm cho người ta khôn ngoan hơn và biết thương nhau hơn. Có truyện ngụ ngôn về bốn ngọn nến – tượng trưng cho [1] Hòa Bình, [2] Niềm Tin, [3] Tình Yêu, và [4] Hy Vọng. Thế giới hiếm khi không có chiến tranh, giữa người với người cũng vẫn thiếu sự hòa thuận, dù là những người trong cùng một gia đình. Ngọn nến Hòa Bình cứ mờ dần, chỉ còn leo lét, rồi… tắt. Cũng vậy, thế giới ngày nay đang mất dần niềm tin, cứ ngờ vựa nhau, coi tôn giáo là xa xỉ phẩm, thậm chí còn bách hại. Ngọn nến Niềm Tin cứ tắt dần, tỏa ra làn khói trắng luyến tiếc. Tương tự, người ta cũng không còn tha thiết với ngọn nến Tình Yêu nên không muốn thắp lửa yêu thương. Những người thân ruột thịt với nhau mà còn thổi tắt ngọn nến này thì gia đình không thể sáng sủa. Cả ba ngọn nến đã tắt, chỉ còn ngọn nến Hy Vọng, ánh sáng le lói, nhưng vẫn có lửa cháy. Đó là điều quan yếu.
Dù có thế nào thì cuộc sống này vẫn rất cần ngọn nến Hy Vọng. Ngọn nến này cần thiết vì chính lửa Hy Vọng (đức Cậy) sẽ đủ sức thắp sáng ba ngọn nến kia. Đó là triết lý sống của Mùa Vọng, mùa đợi trông Đấng Cứu Thế. Cần ghi nhớ và thực hành theo lời khuyên của Thánh LM Don Bosco: “Càng khốn khó thì càng phải tin cậy vào Thiên Chúa.” Trong tình trạng dịch bệnh vẫn có nhiều nguy cơ hiện nay giúp chúng ta cảm nghiệm sự cần thiết của niềm hy vọng.
Ngược lại, thất vọng dẫn tới tuyệt vọng. Tuyệt vọng là chấm hết, là cái chết ngay khi còn hít thở, là cái chết yểu trước khi chết thật.
Thiên Chúa sẽ xót thương và cứu vớt những ai biết tin cậy vào Ngài, biết khiêm tốn nhận ra mình hèn mọn. Ngôn sứ Isaia cho biết: “Thần khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Đức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta.” (Is 61:1-2) Công lý phải được tôn trọng, vì có công lý thì mới có hòa bình đích thực. Thế giới sẽ hoàn toàn đổi mới nếu người ta tôn trọng công lý, nghĩa là không còn ai bị áp bức.
Khi có Thiên Chúa, cuộc sống vui mừng gia tăng bất ngờ. Ngôn sứ Isaia cho biết: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao! Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ, choàng cho tôi đức chính trực công minh, như chú rể chỉnh tề khăn áo, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang. Như đất đai làm đâm chồi nẩy lộc, như vườn tược cho nở hạt sinh mầm, Đức Chúa là Chúa Thượng cũng sẽ làm trổ hoa công chính, làm trổi vang lời ca ngợi trước mặt muôn dân.” (Is 61:10-11) Không có loại trang phục nào quý giá bằng “chiếc áo” Hồng Ân Cứu Độ và “áo choàng” Chính Trực Công Minh. Đó là trang phục đặc biệt của tín nhân.
Thục nữ Maria là một thụ tạo đơn nghèo và giản dị, một nữ tỳ khiêm hạ, nhưng lại trở nên một nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại. Nghe lời chúc mừng của Bà Chị Êlidabét về việc làm Mẹ Thiên Chúa, Cô Em Maria không thể trì hoãn niềm hạnh phúc thánh đức nên đã thốt lên tuyệt tác Magnificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.” (Lc 1:46-50)
Công lý luôn được Thiên Chúa bảo vệ, Ngài cũng luôn có cách hành động khác biệt đối với phàm nhân: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.” (Lc 1:52-53) Rất khác thường nhưng rất tuyệt vời. Thật vậy, Thánh Phaolô xác định: “Thiên Chúa không để cho người ta nhạo báng đâu! Thật vậy, ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy.” (Gl 6:7)
Đối với chúng ta, cuộc đời này là Mùa Vọng kéo dài, và không ai có thể biết chắc mình đang ở “tuần” thứ mấy của Mùa-Vọng-Cuộc-Đời, nhưng có lúc chúng ta cảm thấy vui như tâm tình của Chúa Nhật III Mùa Vọng này, vui vì sắp đến đích. Nhưng Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu. Anh em ĐỪNG dập tắt Thần Khí. CHỚ khinh thường ơn nói tiên tri. HÃY cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ, còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa.” (1 Tx 5:16-22) Bộ ba Đừng-Chớ-Hãy là các mệnh lệnh cần thiết.
Nếu thực sự chúng ta có thể làm như vậy thì chắc chắn được Thiên Chúa chúc lành, như mong ước của Thánh Phaolô: “Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm. Đấng kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó.” (1 Tx 5:23-24) Ước gì mỗi tín nhân chúng ta xứng đáng lãnh nhận ơn phúc trọn vẹn như ước nguyện đó.
LỜI CHỨNG
Một nhân vật quan trọng nào đó sắp đến một nơi nào đó, người ta có phái đoàn đi do thám trước để chuẩn bị những gì cần thiết, đặc biệt là vấn đề an ninh. Chẳng hạn tổng thống Mỹ đi đến quốc gia hoặc lãnh thổ nào cũng có những người đi trước để bảo đảm an ninh tuyệt đối.
Càng đặc biệt đối với cuộc viếng thăm của Chúa Giêsu, được chuẩn bị hàng ngàn năm trước chứ không chỉ vài năm. Trước khi Ngài xuất hiện, một người được Thiên Chúa sai đi tiên phong là Gioan. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến làm chứng về ánh sáng để mọi người nhờ ông mà tin.
Lời chứng của đại nhân Gioan Tẩy Giả được ghi lại trong Ga 1:6-8,19-28 (≈ Mt 3:1-12; Mc 1:1-8; Lc 3:1-18). Khi người Do-thái từ Giêrusalem cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi xem ông là ai. Chính ông thẳng thắn tuyên bố: “Tôi không phải là Đấng Kitô.” Thế nhưng họ không tin, có lẽ họ thấy ông thực sự kỳ lạ, một dị nhân rất đặc biệt. Và rồi họ lại hỏi ông như thế là thế nào, có phải ông là ngôn sứ Êlia hay không. Thật phi lý, vì Gioan là Gioan, không thể là Êlia hoặc bất cứ ai khác. Ông Gioan vẫn xác nhận là không. Họ lại hỏi ông có phải là vị ngôn sứ hay không, ông dứt khoát là không.
Tại sao họ cứ lải nhải hỏi dai như đỉa vậy? Vì họ có nhiệm vụ đi dò la tin tức, kiểu tay sai, như lũ “bưng bô” ngày nay vậy, để về báo cáo với thượng cấp. Động thái của những người có ác ý đó nhắc nhở chúng ta về động thái cố chấp, rõ ràng nhãn tiền mà vẫn không chịu tin. Khốn thay, vì kẻ không tin thì nhẹ tội hơn kẻ không thèm tin.
Đám do thám cứ nài ép ông Gioan nói về chính mình, ông nói thẳng: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaia đã nói.” Trong số họ có một số thuộc nhóm Biệt Phái, những kẻ chuyên thọc gậy bánh xe. Họ đặt vấn đề với ông Gioan rằng nếu ông không phải là Đấng Kitô, không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ thì tại sao lại làm phép rửa. Ông Gioan lắc đầu chán ngán cái đầu bã đậu của tụi này, ông giải thích: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.”
Đối với những kẻ hợm mình như nhóm Biệt Phái thì thật thấm thía với nhận định của Alfred Einstein: “Cái gì cũng có điểm dừng, chỉ có cái ngu là không có điểm dừng.” Và cũng rất chí lý với cách phân tích của D. Granin: “Người ta thường không mắc sai lầm vì dốt mà vì tưởng mình giỏi.” Chung quy cũng chỉ tại “cái tôi” mà ra!
Ông Gioan là V.I.P., một ngôn sứ quan trọng vì là nhịp cầu nối Cựu Ước với Tân Ước, nhưng ông lại rất khiêm nhường. Điều này gợi nhớ câu nói khác của ông nói về Chúa Giêsu và chính ông: “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi.” (Ga 3:30) Quả thật, đức khiêm nhường là nền tảng của tòa nhà nhân đức.
Theo Kinh Thánh, sự kiện này đã xảy ra tại Bêtania, bên kia sông Giođan, nơi ông Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu. Thảo nào nhóm Pharisêu và Sađốc quỷ quyệt tìm cách “gài bẫy” người khác ngay tại nơi xảy ra sự kiện quan trọng. Tâm tà là tâm xà, tâm địa quỷ ma. Trong cuộc sống, có lẽ chúng ta cũng hơn một lần muốn “hạ gục” người khác bằng chiêu thức nào đó. Thế nhưng sự thật mãi mãi là sự thật, mọi chứng gian đều không thể bóp méo hoặc biến đổi sự thật, như tục ngữ nói: “Cây ngay không sợ chết đứng.”
Bất cứ ai chân chính, dù là tín nhân hay vô tín ngưỡng, thì không thể dính líu tới loại máu của loài quỷ đỏ hoặc Joe Biden. Quả thật, người Công giáo thực sự xấu hổ về ông Joe Biden, một con người không chỉ gian dối và mưu mô mà còn ủng hộ phá thai, hoàn toàn trái ngược với giáo lý Công giáo.
Lạy Thánh Phụ nhân lành, xin ban Đấng Thiên Sai để giúp chúng con biết cúi xuống trước người khác, sẵn sàng trở nên tiếng vọng giữa sa mạc cuộc đời vì Thánh Danh Đức Giêsu Kitô, sống vì sự thiện, thực thi công lý, bảo vệ chân lý và công ích. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật III Mùa Vọng ngân vang lời mời gọi các tín hữu: “Hãy vui lên MV 3-B156
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật III Mùa Vọng ngân vang lời mời gọi các tín hữu: “Hãy vui lên, Chúa sắp đến gần rồi”.
Is 61: 1-2a, 10-11
Bài Đọc I loan báo tin mừng cho những ai nghèo hèn, bất hạnh, bị giam cầm… biết rằng năm hồng ân của Chúa sắp đến rồi.
1Tx 5: 16-24
Thánh Phao-lô nhắc nhở các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca hãy vui luôn mãi và không ngừng tạ ơn Chúa vì những thiên ân mà họ đã lãnh nhận được.
Ga 1: 6-8, 19-28
Tin Mừng tường thuật chứng từ của Gioan Tiền Hô, thánh nhân khẳng định rằng Đấng muôn dân mong đợi hiện đang ở giữa anh em.
BÀI ĐỌC I (Is 61: 1-2a, 10-11)
Vào Chúa Nhật II Mùa Vọng trước đó, chúng ta đã đọc lời khẩn nguyện của vị ngôn sứ thời lưu đày. Vào Chúa Nhật III Mùa Vọng hôm nay, chúng ta đọc bài thánh thi của vị ngôn sứ thời hậu lưu đày. Đây là bài Thánh Thi Chúc Tụng được cộng đoàn xướng đáp.
Bài thánh thi này được đặt vào bối cảnh vài năm sau năm 538 trước Công Nguyên, năm những đoàn người lưu đày ở Ba-by-lon lần đầu tiên được hồi hương trở về quê cha đất tổ. Tác giả của bài thánh thi này là một vị ngôn sứ nặc danh sống ở giữa những người hồi hương tại Giê-ru-sa-lem. Ông thường được gọi với biệt danh là I-sai-a đệ tam thời hậu lưu đày (Is 56-66) để phân biệt với hai vị tiền nhiệm của ông là vị ngôn sứ nặc danh khác thời lưu đày được gọi với biệt danh là I-sai-a đệ nhị (Is 40-55) và ngôn sứ I-sai-a đệ nhất thời tiền lưu đày (Is 1-39).
Bài Đọc I của Chúa Nhật III Mùa Vọng trích dẫn hai phần khác nhau của bài thánh thi này (Is 61: 1-11): đoạn trích thứ nhất (61: 1-2a) là phần mở, và đoạn trích thứ hai (61: 10-11) là phần kết.
Đoạn trích thứ nhất (61: 1-2a) Trong đoạn trích thứ nhất, tác giả biện minh cho sứ vụ ngôn sứ của mình:
“Thần Khí của Đức Chúa, là Chúa Thượng ngự trên tôi,
vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi” (61: 1).
Ông đã được Thần Khí Chúa xức dầu tấn phong. Đây là cuộc xức dầu tấn phong thiêng liêng bởi vì không có nghi thức xức dầu tấn phong cho các ngôn sứ. Chính Thiên Chúa đã chọn các ngôn sứ của Ngài và ủy quyền cho họ nói thay cho Ngài.
Ông có sứ mạng là “loan báo tin mừng cho những người nghèo hèn” (tác giả lấy lại diễn ngữ “tin mừng” của vị tiền nhiệm của mình là I-sai-a đệ nhị được trích trong Bài Đọc I của Chúa Nhật II Mùa Vọng trước đó). Tin Mừng này có thể được tóm lược như sau: “Phúc thay những người nghèo khổ!”, âm vang một trong những mối phúc thật của Đức Giê-su.
Những người hồi hương thật sự vỡ mộng trước thực trạng muôn vàn khó khăn trong công cuộc tái thiết quê hương. Họ là những người nghèo hèn với tấm lòng tan nát. Vị ngôn sứ gọi họ là “kẻ bị giam giữ” cho dù hiện nay họ đã được phóng thích. Qua những từ ngữ đó, ông muốn nhấn mạnh nỗi cùng cực khốn khổ của họ mà hình ảnh sau đó được giải thích rõ hơn: “công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa”, nghĩa là năm mà những người nô lệ được phóng thích, mọi nợ nần được tha bổng, đất đai được phân phối lại. “Năm hồng ân” được cử hành cứ năm mươi năm một lần. Năm Hồng Ân này thật ra khai triển “năm sa-bát”, năm được cử hành cứ bảy năm một lần (Năm Hồng Ân là năm thứ 50 của 7 x 7 = 49). Năm hồng ân biểu tượng một lý tưởng về sự công bình xã hội.
Đây là những “người nghèo của Đức Chúa”, những người mà Kinh Thánh gọi là “anawim”. Danh xưng “anawim” bao hàm những người nghèo khổ vật chất, nhưng khiêm hạ và tín thác vào Thiên Chúa. Đặc ngữ này mang một nét nghĩa căn bản là “còng lưng xuống”, còng lưng xuống dưới gánh nặng của sự nghèo khó, của sự nhục nhã, nhưng cũng “sấp mình xuống” vì thái độ tôn giáo của họ, tin tưởng phó thác hoàn toàn vào lượng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Đây là một khái niệm căn bản của Cựu Ước cũng như Tân Ước. Chính những kẻ hèn mọn này mà Đức Giê-su dành trọn niềm ưu ái cho họ. Một trăm năm sau đó, một vị ngôn sứ khác, Xô-phô-ni-a, đã tiên báo cuộc thăng tiến của những người nghèo này:
“Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ; chúng sẽ tìm nương ẩn nơi danh Đức Chúa. Số dân Ít-ra-en còn sót lại sẽ không làm chuyện tàn ác bất công, cũng không ăn gian nói dối và miệng lưỡi chúng sẽ không còn phỉnh gạt. Nhưng chúng sẽ được chăn dắt và nghỉ ngơi mà không còn bị ai làm cho khiếp sợ nữa” (Xp 3: 12-13).
Đoạn trích thứ hai (61: 10-11)
Trong đoạn trích thứ hai, cộng đoàn xướng lên những lời hân hoan chúc tụng:
“Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Thiên Chúa, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao!” (61: 10a).
Lý do của những lời hoan ca này được diễn tả qua hai hình ảnh. Hình ảnh thứ nhất là “trang phục”: Giê-ru-sa-lem được mặc hồng ân cứu độ, được khoắc áo choàng công chính như chàng rể chỉnh tề khăn đóng, tựa cô dâu điểm trang lộng lẫy. Hình ảnh thứ hai là “khu vườn”: Giê-ru-sa-lem được sánh ví với khu vườn được Thiên Chúa chăm sóc tận tình để “trở hoa công chính, làm trổi vang lời ca ngợi trước mặt muôn dân”.
Ý nghĩa của việc nối kết hai đoạn trích này
Khi đặt hai đoạn trích đầu và cuối bài thánh thi này bên cạnh nhau, Phụng Vụ mời gọi chúng ta gẫm suy về mối liên hệ sâu xa giữa “ơn cứu độ” mà Đấng Mê-si-a hứa ban và “vẻ đẹp lộng lẫy” của Giê-ru-sa-lem được nhân cách hóa nơi dân Thiên Chúa. Sách Khải Huyền lấy lại hình ảnh Giê-ru-sa-lem thiên quốc như Tân Nương được điểm trang lộng lẫy nhờ máu Con Chiên.
Cách thức tiếp cận lịch sử như vậy có thể hiểu được nhờ những đau khổ của nhóm nhỏ trung thành còn sót lại, những “người nghèo hèn” này mà nỗi khốn khổ của họ lôi kéo lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Và chính qua họ mà lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa trải dài cho đến tận cùng thế giới.
BÀI ĐỌC II (1Tx 5: 16-24)
Thư thứ nhất của thánh Phao-lô gửi tín hữu Thê-xa lô-ni-ca là văn phẩm sớm nhất trong các văn phẩm Tân Ước. Bức thư này được viết vào mùa đông năm 50-51. Thánh Phao-lô thiết lập giáo đoàn Thê-xa-lô-ni-ca vào mùa hè năm 50, nhưng ngài đã phải vội vã trốn chạy khỏi thành phố khỏi cơn thịnh nộ của người Do thái tìm cách giết ngài, vì lời rao giảng của thánh nhân khiến nhiều người Ít-ra-en lẫn lương dân ăn năn trở lại.
Vì thế, thánh nhân thật sự bận lòng đến cộng đoàn non trẻ bị hăm dọa này. Sau này, cộng tác viên của ngài là ông Ti-mô-thê quay trở lại Thê-xa-lô-ni-ca và thuật lại cho thánh nhân những tin tốt lành: dù bị người Do thái đe dọa và quấy nhiễu, cộng đoàn Thê-xa-lô-ni-ca non trẻ này vẫn kiên vững trong niềm tin của mình. Thế nên, thánh Phao-lô viết bức thư này gửi đến họ với cung giọng nồng nàn chan chứa niềm hân hoan và cảm tạ. Đoạn trích thư hôm nay được định vị vào cuối thư bao gồm những lời khuyên bảo và khích lệ.
Vui mừng, cầu nguyện và tạ ơn Trong lời khuyên thứ nhất, Thánh nhân kêu mời ba điều quan trọng: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”.
Trước hết, “Anh em hãy vui mừng luôn mãi”. Thánh Phao-lô thường nhấn mạnh niềm vui Ki-tô giáo. Niềm vui là hoa quả của Thần Khí, Đấng hằng ở với người Ki-tô hữu ngay cả trong gian nan thử thách. Chính thánh nhân luôn “chứa chan niềm an ủi và tràn ngập nỗi vui mừng trong mọi cơn gian nan khốn khó” (2Cr 7: 4). Niềm vui này phát xuất từ niềm xác tín là được dự phần vào vương quốc Thiên Chúa ngay từ cõi thế này.
Tiếp đó, “Hãy cầu nguyện không ngừng”. Thánh nhân hầu như luôn luôn khuyên cầu nguyện “không ngừng”, “mọi lúc”, “đêm cũng như ngày”. Chung chung, thánh nhân cầu nguyện với Chúa Cha, qua Chúa Ki-tô, nhờ Chúa Thánh Thần. Hiếm khi thánh nhân cầu nguyện trực tiếp với Chúa Ki-tô. Thánh nhân nói, chính nhờ Thần Khí mà chúng ta mới có thể thân thưa với Thiên Chúa là “Cha”.
Sau cùng, “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”. Tạ ơn là một cấu tố của lời cầu nguyện, xoay quanh lời chúc tụng. Truyền thống Do thái dành một chỗ đặc biệt cho tâm tình cảm tạ tri ân, chẳng hạn như bài ca “Chúc Tụng” (Benedictus) của cụ già Si-mê-ôn là bài ca cảm tạ tri ân (Lc 1: 68-79). Thánh Phao-lô hầu như luôn luôn bắt đầu bức thư của mình với lời chúc tụng Thiên Chúa.
Ân ban Thần Khí
Trong lời khuyên thứ hai, thánh Phao-lô kêu mời các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca: “Anh em chớ dập tắt Thần Khí”. Cứ để mỗi người nói lên những ân ban mà mình nhận được, ngay cả ơn ngôn sứ. Điều quan trọng là phải biết “cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ lấy; còn tất cả những gì xấu thì lánh cho xa”.
Ơn thánh hóa
Trong lời khuyên thứ ba, thánh Phao-lô nói lên đề tài tâm đắc của mình: ơn thánh hóa, mà sau này, thánh nhân sẽ khai triển sâu xa hơn: chúng ta được thánh hóa nhờ tác động của Thiên Chúa chứ không do nỗ lực cá nhân của mình.
Việc phân chia con người thành ba phần: thần trí, tâm hồn và thân xác, không gặp thấy bất cứ nơi nào khác trong các thư của thánh Phao-lô. Người Hy lạp cũng như người Do thái đều không quan niệm con người theo cách phân chia như thế. Ở đây, thánh Phao-lô chỉ muốn nói đến toàn diện con người. Theo thói quen của mình, thánh nhân khai triển chữ “toàn diện” đi trước và tô đậm chữ “thần trí” theo sau. Chữ “thần trí” này mang lấy ý nghĩa Ki-tô giáo: chính nhờ thần trí, con người rộng mở trước tác động của Thần Khí.
TIN MỪNG (Ga 1: 6-8, 19-28)
Tin Mừng hôm nay được trích từ hai đoạn văn khác nhau của Tin Mừng thư tư: một từ Tựa Ngôn (1: 1-18) giới thiệu “chức năng chứng nhân” của Gioan Tiền Hô (1: 6-8) và một khác từ Tuần Lễ khai mạc sứ vụ công khai của Đức Giê-su (1: 19-2: 12) trình bày “lời chứng” của Gioan Tiền Hô (1: 19-28).
Chức năng chứng nhân của Gioan Tiền Hô (1: 6-8) Tựa Ngôn là một bài thánh thi ca ngợi “Ngôi Lời” bị ngắt nhịp hai lần để giới thiệu Gioan Tiền Hô là chứng nhân của Đức Ki-tô (1: 6-8 và 15). Lần ngắt nhịp thứ nhất được trích dẫn ở đây như phần mở đầu của đoạn Tin Mừng hôm nay.
Trong phần mở đầu này, tác giả Tin Mừng thứ tư không đề cập đến sứ điệp của Gioan Tiền Hô cũng như ý nghĩa phép rửa của thánh nhân, nhưng tô đậm “chức năng chứng nhân” của thánh nhân:
“Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng” (1: 6-8). Đối với Tin Mừng thứ tư, “chứng nhân” là chức năng quan trọng bậc nhất, như tác giả nhấn mạnh trong thư thứ nhất của mình: “Điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống… Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa…” (1Ga 1: 1-4).
Lời chứng của Gioan Tiền Hô (1: 19-28)
Sau khi giới thiệu chức năng chứng nhân của Gioan Tiền Hô, tác giả Tin Mừng thứ tư trình bày lời chứng của thánh nhân.
Thánh nhân phủ nhận tất cả những gì người ta nghĩ tưởng về ông để chỉ tập trung lời chứng của mình vào sự hiện diện của Đấng đến sau ông và hiện có mặt ở đây rồi. Ông không phải là Đấng Mê-si-a mà dân chúng đang mong đợi. Ông cũng không phải là Ê-li-a mà truyền thống truyền tụng theo đó vị ngôn sứ này được rước lên trời và sẽ trở lại trần thế để chuẩn bị cho Đấng Mê-si-a. Ông cũng không phải là ngôn sứ vĩ đại mà Đức Chúa hứa với ông Mô-sê trong sách Đệ Nhị Luật: “Từ giữa anh em, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng…” (Đnl 18: 18).
Sau khi đã phủ nhận tất cả những nhân vật nổi tiếng mà người ta nghĩ tưởng về mình, thánh nhân công bố sứ điệp: “Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết”. Đối với thánh nhân, Chúa Giê-su phải được đón nhận như một ân huệ mầu nhiệm của Thiên Chúa mà không ai biết thân thế của Ngài. Ở đây, có thể ám chỉ đến niềm tin dân gian vào một Đấng Mê-si-a ẩn mình cho đến khi ngôn sứ Ê-li-a tái xuất hiện và chỉ cho người ta nhận ra Ngài. Thật vậy, sách Tin Mừng thứ tư nhấn mạnh hơn các sách Tin Mừng khác lời loan báo về Đấng Mê-si-a hiện ở giữa họ rồi mà họ không nhận ra.
Cuối cùng, thánh nhân làm chứng về sự cao cả của Đấng đến sau ông, nhưng trổi vượt hơn ông đến mức chính ông cũng “không đáng cởi quai dép cho Ngài” (1: 27), một công việc thấp hèn dành cho người nô lệ đối với chủ của mình. Về phương diện lịch sử, Đấng ấy sinh ra sau ông và thi hành sứ vụ sau ông, nhưng về phương diện thần linh, Đấng ấy hiện hữu trước ông.
Tại sao lời chứng của Gioan Tiền Hô về Đức Ki-tô mặc lấy một tầm mức quan trọng đến như thế? Để có thể lĩnh hội được Tin Mừng thứ tư, chúng ta cần phải giải mã những ẩn ý này. Tin Mừng thứ tư vốn giàu biểu tượng nên luôn luôn hàm chứa hai nghĩa: nghĩa trực tiếp và nghĩa ẩn dụ.
Nghĩa trực tiếp
Theo nghĩa trực tiếp, chúng ta có thể gặp thấy chìa khóa ở nơi “Tuần Lễ khai mạc sứ vụ công khai của Đức Giê-su” đối xứng với “Tuần Lễ bế mạc sứ vụ công khai của Ngài” tại thành thánh Giê-ru-sa-lem. Tuần Lễ Khai Mạc được trình bày thành bảy ngày và được phân định cách mặc nhiên hay minh nhiên qua biểu thức “Hôm sau”:
– Ngày thứ nhất: Gioan Tiền Hô làm chứng về chính mình và về Đức Ki-tô trước những chất vấn của các tư tế và các thầy Lê-vi được phái đến từ Giê-ru-sa-lem (1: 19-28).
– Ngày thứ hai: Gioan Tiền Hô làm chứng trước dân chúng về Đức Giê-su là “Chiên Thiên Chúa” và là Đấng mà Thần Khí ngự xuống vào lúc Ngài chịu phép rửa (1: 29-34).
– Ngày thứ ba: Gioan Tiền Hô làm chứng về Đức Giê-su cho hai môn đệ của mình là ông An-rê và người môn đệ khác. Hai môn đệ này liền rời bỏ thầy mình mà đi theo Đức Giê-su.
– Ngày thứ tư: Ông An-rê rủ em mình là ông Phê-rô cùng gia nhập với mình (1: 35-42).
– Ngày thứ năm: Ông Phi-líp-phê và ông Na-tha-na-en nhập đoàn với các môn đệ tiên khởi (1: 43-51).
Việc tác giả không kể ra ngày thứ sáu là có chủ ý, nhờ đó tác giả mới có thể bắt đầu dấu lạ Ca-na vào ngày thứ bảy như sau: “Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê”, trong đó các môn đệ tiên khởi đã “chứng kiến vinh quang của Ngài” và đã “tin vào Ngài”. Với diễn ngữ thời gian: “ngày thứ ba”, người Ki-tô hữu nghĩ ngay đến cuộc Phục Sinh của Đức Giê-su, biến cố bày tỏ tuyệt mức vinh quang của Ngài.
Khi trình bày một tuần lễ khai mạc sứ vụ công khai của Đức Giê-su như thế, tác giả Tin Mừng thứ tư thiết lập sự đối xứng với một tuần lễ sáng tạo thế giới, qua đó thánh ký muốn nói rằng Đức Ki-tô giáng trần để thực hiện một cuộc tạo dựng mới, hay đúng hơn, một cuộc tái tạo.
Nghĩa ẩn dụ
Lời chứng của Gioan Tiền Hô được trích dẫn trong Tin Mừng hôm nay định vị vào ngày thứ nhất trong Tuần Lễ Khai Mạc. Trong tuần lễ sáng tạo thế giới, ngày thứ nhất được đánh dấu bởi việc phân tách Ánh Sáng ra khỏi bóng tối (St 1: 3-5).
Do đó, tất cả ý nghĩa sâu xa của đoạn Tin Mừng hôm nay chính là Gioan Tiền Hô đến để làm chứng về ánh sáng. Trái lại, các tư tế và các thầy Lê-vi được cử đến và trở về Giê-ru-sa-lem mà không đón nhận phép rửa tỏ bày lòng sám hối, vì thế, không rộng mở lòng mình ra để đón nhận ánh sáng. Tuy nhiên, họ đã được loan báo cho biết: “Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết” (động từ “biết” theo văn hóa Do thái không chỉ nói lên một sự hiểu biết thuần trí tuệ nhưng đặc biệt trọn cả con tim nữa). Như vậy, giáo quyền Do thái, ngay từ đầu, vẫn đắm mình trong bóng tối. Sự kiện này sẽ chi phối cách hành xử sau cùng của họ đối với Đức Ki-tô.
Cặp tương phản giữa ánh sáng và bóng tối này hình thành nên một trong những đề tài chủ đạo của Tin Mừng thứ tư. Việc đối lập này đã được minh chứng rồi ngay trong Tựa Ngôn.
Bên bờ sông Giođan, ông Gioan đang làm phép rửa. Người ta kéo đến với ông và thú nhận hết MV 3-B157
Bên bờ sông Giođan, ông Gioan đang làm phép rửa. Người ta kéo đến với ông và thú nhận hết mọi lỗi lầm. Từng đoàn người xếp hàng chờ đợi không chút mỏi mệt, họ kiên nhẫn để được thanh tẩy. Một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi ông Gioan về thân thế của ông. Ông cho họ biết rằng ông không phải là Đấng Kitô, không phải là Isaia và cũng không phải là ngôn sứ. Ông khẳng định: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaia đã nói” (Ga 1,23). Ông tự nhận mình chỉ là một tiếng hô trong hoang địa, một tiếng hô vang lên để lôi kéo người ta trở về cùng Thiên Chúa, thúc giục họ dọn đường đón Chúa đến.
Quanh ta đầy giẫy những đam mê và nó lôi cuốn ta, kéo ta lạc xa đường lối của Thiên Chúa. Đã bao lần, ta đã “để vụt mất Chúa” giữa dòng đời. Người đã đến bên ta nhưng ta không nhận ra Người, Người lên tiếng gọi mời nhưng dường như trái tim ta không còn chỗ để Lời của Người ngự trị. Ta đã hờ hững với Lời, phớt lờ tiếng kêu van của Lời hằng ngày vẫn dội vào tâm trí ta. Đó là khi ta từ chối yêu thương một người nghèo khổ tìm đến với ta. Thay vì vui vẻ chia sẻ những gì ta có, ta lại cảm thấy bực bội vì sự quấy rầy của họ. Nhìn thấy dáng vẻ đáng thương của họ, sao ta không động lòng thương? Những thông tin về các vụ lửa đảo làm cho ta luôn đề phòng để không bị lừa. Ta thu hẹp trái tim của mình chỉ vì lo sợ cho mình. Cũng có lúc, ta kỳ kèo một hai đồng khi mua mớ rau cho bà cụ nghèo nhưng lại rất rộng rãi khi đi ăn cùng bạn bè. Ta thích tỏ ra là người hào phóng trước bạn bè. Ta chỉ mải mê tô điểm lớp son bên ngoài cho thật đẹp đẽ nhưng lại để cho mối mọt của ích kỷ tàn phá trái tim mình. Còn đâu một chỗ cho Lời vang lên trong trái tim ta? Làm sao để ta lưu tâm đến Lời?
Cuộc sống hôm nay vẫn còn đó những “tiếng người hô trong hoang địa”, kêu mời ta hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi. Đó là những chứng nhân của tình yêu Thiên Chúa đang hiện diện giữa thế giới và hối thúc mỗi người hãy đón nhận Ánh Sáng. Thiên Chúa vẫn nói với ta bằng chính Lời của Người. “Lời Thiên Chúa là Lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ; Lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người” (Dt 4,12). Người cũng nói với ta qua những gương sáng đang sống bên cạnh ta. Điều quan trọng là ta có đủ khiêm tốn để nhìn nhận con người thật của mình, can đảm để cho ánh sáng của Chúa chiếu rọi vào tâm hồn; không che đậy nhưng thật lòng xưng thú hết mọi lỗi lầm với Thiên Chúa. Bước vào đời, đã bao lần ta cũng được Chúa mời gọi để trở thành một tiếng hô thôi thúc anh chị em trở về với Chúa. Đằng sau lớp son tô điểm của vẻ bề ngoài, tận sâu trong trái tim ta vẫn còn một khoảng trống rất rộng mà ta chưa bước vào. Nơi ấy, Lời đang cư ngụ và mời gọi ta lắng nghe tiếng vọng của Lời. Ta có dám bước vào lòng mình để có thể gặp gỡ Chúa, và gặp lại chính mình. Người sẽ giúp ta nhận biết chính mình. Để nhờ đó, ta cũng biết ra khỏi mình để gặp gỡ Thiên Chúa và tha nhân.
Lạy Chúa! “Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con”. Xin Chúa ban cho con niềm hy vọng được đổi mới nhờ đón nhận Ánh Sáng Tình yêu của Chúa. Để nhờ ơn Chúa giúp sức, con can đảm và khiêm tốn xưng thú hết mọi lỗi lầm. Lạy Chúa! Nếu con chưa thể trở nên một “tiếng hô” của Chúa giữa lòng đời thì xin giúp con luôn biết dâng lên Chúa giọt nước mắt của lòng thống hối ăn năn. Amen.
Vào thế kỷ trước, trong những năm đầu của thập niên 70 (Khoảng năm 1971-1972), khi cuộc chiến MV 3-B158
Vào thế kỷ trước, trong những năm đầu của thập niên 70 (Khoảng năm 1971-1972), khi cuộc chiến tranh “Quốc-Cọng” đã leo thang tàn khốc, thì cũng là thời điểm gia tăng con số những người góa phụ, những người vợ không còn được gặp lại chồng, những chiến sĩ vĩnh viễn nằm lại trên các chiến trường đẫm máu; hoặc nếu có trở về, thì “trở về trong chiếc áo quan hoang lạnh”, như cảm nhận đau điếng một thời trong bài thơ “Kỷ vật cho em” của thi sĩ Linh Phương được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc:
… Anh trở về chiều hoang trốn nắng Poncho buồn liệm kín hồn anh Anh trở về bờ tóc em xanh Chít khăn sô lên đầu vội vã.. Em ơi!
Và cũng bối cảnh xót xa cùng cực đó, những người góa phụ đi “đón gặp chồng”, chỉ còn một tâm trạng tan nát cõi lòng, buồn lên lai láng, như tâm sự của thi sĩ Lê Thị Ý gởi gắm nơi bài thơ “NGÀY MAI ĐI NHẬN XÁC CHỐNG”:
“Ngày mai đi nhận xác chồng Say đi để thấy mình không là mình Say đi cho rõ người tình Cuồng si độ ấy hiển linh bây giờ Cao nguyên hoang lạnh ơ hờ Như môi thiếu phụ nhạt mờ dấu son…”
Chờ ai để gặp mà chỉ gặp một “người đã ra đi không bao giờ trở lại”; đón đợi “người về” mà chỉ là một “người về trong chiếc áo quan” thì còn gì để mà vui, để mà hy vọng, để mà tin yêu vui sống ! Vâng tất cả đã “nhạt mờ dấu son” và chỉ còn lại chiếc “khăn sô trên đầu vội vã” !
Có lẽ đó cũng là tâm trạng chung của dân tộc Israel khi rơi vào hoàn cảnh mất nước, lưu đày; tâm trạng của những “người tình của giao ước” bỗng dung bị “Phu quân Thiên Chúa” quay lưng chối từ, Thiên Chúa mãi đi xa để không bao giờ trở lại ! và nếu đi xa hơn nữa, trở lại “những trang đầu của sách Sáng Thế ký”, khi cửa địa đàng đóng lại, Adam-Eva buồn tủi dắt díu nhau, một mình lang thang trên con đường “gai chông sỏi đá” để không bao giờ còn gặp Thiên Chúa “chiều chiều hạ cố đến đồng hành, tâm sự, sẻ chia…”.
Vâng, một “Israel buồn là một Israel bị Thiên Chúa quay lưng chối từ” và “một nhân loại buồn” là một “nhân lọai vắng bóng Thiên Chúa”.
Sứ điệp (Lời Chúa) của Chúa Nhật 3 Mùa Vọng trong Phụng vụ Công Giáo mang đến một ý nghĩa hoàn toàn đối lập với tâm trạng trên, thái độ trên: NIỀM VUI; VUI VÌ “CHÚA ĐANG TRỞ VỀ”; VUI VÌ CHÚA ĐÃ XÓT THƯƠNG VÀ THA THỨ.
Trước hết, đó là niềm vui mà ngôn sứ Isaia muốn dành riêng cho dân tộc Israel, để hết thảy cùng “ngẩng đầu lên”, chuẩn bị một cuộc “xuất hành mới”, bước qua những “hoang tàn đổ nát, những thất vọng buồn tênh…, để bắt đầu lại trong một cuộc hành trình mới của những người được yêu, được xót thương, được tha thứ và chữa lành bởi “Đấng được xức dầu đang đến”: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: vì Chúa đã xức dầu cho tôi; Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày…”. Nhà ngôn sứ đặc biệt nầy không muốn dân tộc ông đắm chìm trong “nỗi buồn muôn thuở”, trong tư thế của những “thiếu phụ chít khan tang chờ chồng là những thây ma”, mà phải là những “cô dâu hạnh phúc” đón gặp Đấng “tình quân” đang trở về trong uy nghi rạng rỡ: “Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, và lòng tôi hoan hỉ trong Chúa tôi, vì Người đã mặc cho tôi áo phần rỗi, và choàng áo công chính cho tôi, như tân lang đầu đội triều thiên, như tân nương trang sức bằng ngọc bảo. Như đất đâm chồi, như vườn nảy lộc…”.
Và tất cả những gì ngôn sứ Isaia loan báo, gọi mời về một “niềm vui đang đến cùng với Đấng được xức dầu”, thì gần như đã được đáp ứng hoàn toàn trong thái độ, trong tâm hồn của người thôn nữ Maria mà bài ca trước cửa nhà cô Êlizabeth đã nói lên tất cả: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi, vì Người đã nhìn đến phận hèn tớ nữ Người; thực từ đây, thiên hạ muôn đời sẽ khen tôi có phước…” (Đáp vịnh ca).
Quả thật, Mẹ Maria đã sống trọn vẹn “những nỗi khát khao mong đợi” da diết của dân tộc mình; và đã cảm nhận trọn vẹn nỗi vui ngút ngàn cái ngày “được Chúa viếng thăm”, được “Người nhìn đến” ngay trong chính bản thân mình, cuộc đời mình khi thiên sứ Gabriel truyền tin “Ngôi Lời nhập thể”: “Mừng vui lên Đấng đầy ơn phúc. Thiên Chúa ở cùng Bà”. Vâng, đây chính “điểm tựa”, là “trọng tâm” của niềm vui nơi Mẹ, cũng là của niềm vui toàn thể nhân loại: Thiên Chúa trở về, Thiên Chúa hiện diện, Thiên Chúa có mặt trong Đấng Kitô mà ngôn sứ Gioan Tẩy Giả đã không ngần ngại xác nhận: “Tôi không phải là Đấng Kitô…. giữa các ngươi, có Đấng mà các ngươi không biết. Đấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Đấng ấy đã có trước tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người”.
Sai lầm của nhiều người trong nhân loại, trong đó có chúng ta, những người Kitô hữu, là đã chọn sai “niềm vui đích thực”. Sau “niềm vui vỡ òa của một trận cầu chiến thắng tại Việt Nam” là những con đường đầy rác rưởi tanh hôi; sau “niềm vui đến chảy nước mắt được chiêm ngưỡng một thần tượng âm nhạc Hàn quốc” là một sự rỗng tuếch của kiến thức và trưởng thành nhân cách”; sau niềm vui tưng bừng ồn ào của những cuộc “say men” vì “chiến tích địa ốc ở Đồng Tâm”, “thương vụ thành công ở Formosa Hà Tĩnh”, “hạnh thông chức quyền ở các cơ quan”… là những tiếng than ai oán của những gia đình bị bóc lột, những nạn nhân của bất công, những phận đời bị dập vùi tăm tối….
Chính vì thế, sứ điệp “NIỀM VUI” của Mùa Vọng hôm nay, hay của cả một đời Kitô hữu, đó chính là “Niềm vui được trả giá” bằng một sự “dọn đường” nơi tiếng “hô trong hoang địa” của nhà ngôn sứ Gioan Tẩy Giả từ hai ngàn năm trước: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi, như tiên tri Isaia đã loan báo”. Đó chính là sự hoán cải nội tâm, là một “bắt đầu mới” đắp xây con đường của thiện lương, công chính, yêu thương. Đó là niềm vui của cô Maria khi tuôn đổ những giọt nước mắt trên chân Chúa để trở về làm lại cuộc đời. Đó là niềm vui của các Thánh Tông Đồ từ tòa án công nghị của quan chức Do Thái bước ra: “Các ông vui mừng vì được chịu đau khổ để làm chứng cho Đức Kitô”. Đó là cái vui của Mẹ Thánh Têrêxa Calcutta, khi được cận kề săn sóc những kẻ yếu đau liệt lào. Đó là niềm vui của Thánh Maximilien Kolbe khi được chết thay cho một người tù sắp bị xử tử, là niềm vui của Á Thánh Anrê Phú Yên trên đường đi đến pháp trường để “lấy tình yêu đáp trả tình yêu”…Suốt 2000 năm nay, trên mọi miền thế giới, đã có bao nhiêu con người đã hưởng ứng, đã sống niềm vui mà hôm nay chúng ta được gọi mời tiếp nối.
Ngày xưa, Gioan Tẩy Giả đã khước từ hết mọi danh hiệu: không là Kitô, không là Êlia, không là ngôn sứ; và chỉ nhận mỗi một danh xưng “tiếng người hô trong hoang địa”. Phải chăng, sứ điệp Lời Chúa Chúa Nhật 3 Mùa Vọng muốn nói với hết mọi Kitô hữu chúng ta rằng: cần gì phải là giáo hoàng, phải là giám mục, linh mục, phải là ông kia bà nọ, phải có địa vị chức quyền mới có thể loan báo tin mừng, mới có thể làm người “dọn đường cho Chúa” để nhân loại có được niềm vui.
Nó cách khác, trong “hoang địa cuộc đời hôm nay” đang rất cần “những tiếng hô của niềm tin và đức ái, của hy vọng và công chính, của tha thứ và khoan dung, của công bằng và hòa bình, của sẻ chia và phục vụ…” để niềm vui chan hòa, để chân lý ngự trị, để thế giới thắm tình huynh đệ khi nhận ra nhau là anh em của một Cha trên trời. Để có được “niềm vui thường xuyên” như thế”, Thánh Phaolô đã từng đề nghị với giáo đoàn Thêxalônica: “Hãy cầu nguyện không ngừng. Trong mọi việc, hãy cảm tạ Chúa. Vì đó là thánh ý Thiên Chúa về tất cả anh em trong Chúa Giêsu Kitô. Đừng dập tắt Thánh Thần; đừng khinh khi các lời tiên tri, nhưng hãy nghiệm xét mọi sự, điều gì tốt hãy giữ lại. Hãy tránh xa sự dữ dưới mọi hình thức”.
Và như thế, mỗi người chúng ta hôm nay, ngay trước thềm của đại lễ Giáng Sinh, hãy là một “tiếng hô” như thế, tiếng hô chuyên chở một niềm vui đích thực “Chúa đã đến gần”. Amen.
Nếu thường dùng internet, chúng ta thấy những năm gần đây xuất hiện nhiều đoạn phim ngắn, nội MV 3-B159
Nếu thường dùng internet, chúng ta thấy những năm gần đây xuất hiện nhiều đoạn phim ngắn, nội dung rất thực, gần với cuộc sống đời thường, vì thế người xem rất dễ cảm động và thích lấy làm thích thú. Tuy nhiên, khi người xem đang chú tâm với những tình tiết đầy cảm xúc của câu chuyện, thì đoạn phim bất ngờ kết thúc với thông tin quảng cáo, thường là cho một thương hiệu hoặc một sản phẩm gì đó.
Cũng vậy, vài năm gần đây, trong lĩnh vực giải trí của người Việt, chúng ta cũng thấy thể loại phim ngắn này cũng đã xuất hiện nhiều trên facebook, youtube và các giao diện khác. Các đoạn phim ngắn thường khai thác các tình huống rất gần gũi với cuộc sống xung quanh ta. Ví dụ khi một ai đối xử tệ với người quét rác, với người bán hàng rong, với phụ nữ, với trẻ em hay với người già…, thì đột nhiên có một “anh hùng” nào đó xuất hiện, người này lên tiếng bênh vực cho người được coi là “thấp cổ bé miệng” và tìm cách lấy lại danh dự cho họ.
Thường các tình tiết trở nên căng thẳng qua cuộc đối thoại giữa người gây ra bất công và người được coi là “anh hùng”. Người trong cuộc hỏi: “anh, hoặc cô là ai mà dám xen vào chuyện của người khá?” Kẻ anh hùng sẽ trả lời “tôi là T.K” hay “tôi là M.L.” Các bạn trẻ gọi phong cách của các đoạn phim ngắn này là những “cái kết bất ngờ”. Mục đích của phim là nhằm quảng bá tên tuổi của một ai đó và để muốn người khác theo dõi kênh cá nhân của mình chứ không chỉ đơn giản là để quảng bá về giá trị đạo đức mà họ thực hiện khi giúp đỡ người khác.
Đây là trào lưu chung mà con người thời nay đang sử dụng để giới thiệu về danh tính hay sản phẩm của chính mình. Còn chúng ta thì sao, mục đích đời sống chúng ta là gì? Những công việc của chúng ta làm hằng ngày có phải là để tìm cơ hội tôn vinh chính mình không, hay ta sống vì một mục đích cao cả nào khác? Chúng ta cùng nhau suy gẫm câu chuyện về ông Gioan Tẩy Giả, để thấy được cách xử sự của ông thật rất đặc biệt, khác hoàn toàn với những gì chúng ta đang chứng kiến trong xã hội.
Tin Mừng của Thánh Gioan Tông Đồ kể rằng, khi dân chúng thấy ông Gioan Tẩy Giả rao giảng về phép rửa sám hối thì họ rất kính phục. Sứ điệp ông rao giảng có sức hấp dẫn và lôi cuốn một cách mãnh liệt. Vì thế, các thượng tế và thầy Lêvi sai người đến hỏi xem ông là ai. Ông Gioan trả lời: “Tôi không phải là Đấng Kitô.” (Ga 1:20) Người ta hỏi ông hay ông là Êlia chăng, thì ông trả lời: “Tôi không phải là Êlia.” (Ga 1:21) Vậy ông có phải là một vị ngôn sứ không, thì ông khẳng định: “Tôi không phải.” (Ga 1:21) Rồi ông tiết lộ: “Tôi là tiếng hô trong hoang địa: Hãy sửa đường ngay thẳng cho Đấng cứu thế đến như ngôn sứ Êlia đã loan báo.” (Ga 1:23).
Đoạn hội thoại giữa ông Gioan Tẩy Giả và những người Lêvi cho chúng ta thấy ông Gioan Tẩy Giả là người rất khiêm tốn, không quy công cho chính mình và luôn tìm cách giới thiệu hình ảnh Đức Kitô cho dân chúng.
Sự khiêm nhường: Khi dân chúng thấy những lời rao giảng của ông đầy hấp dẫn, họ theo ông vào hoang địa để nghe ông giảng. Thấy vậy, ông không muốn được ca tụng vì những thành tựu của mình mà khiêm tốn nhận mình chỉ là tiếng hô trong hoang địa. Ông chỉ muốn nhận vai trò của ông là dọn đường cho thẳng để chuẩn bị đón Đấng Kitô sắp đến.
Không phô trương: Từ cổ tới kim, chúng ta đều thấy con người thích phô trương, luôn tìm cách đánh bóng tên tuổi của mình. Nhất là trong thời kỳ của ông Gioan tại thế, người ta chán ngấy tình trạng xã hội suy đồi ở vùng Palestine. Không chỉ có dân chúng mà các nhà lãnh đạo đất nước cũng như tôn giáo, đời sống của họ hết sức suy đồi. Vì thế, dân chúng đang chờ đợi một Đấng Messia đến để giải thoát họ khỏi ách nô lệ, giúp cho đất nước giàu mạnh và dân tộc được vững bền. Trong tình huống đó sứ điệp sám hối của ông Gioan đã làm dấy lên niềm hy vọng trong dân. Tuy nhiên, ông Gioan đã rất khiêm tốn, chấp nhận vị thế của mình trong vai trò làm chứng cho Đức Kitô, chứ không lạm dụng hay quy công cho chính mình, tránh xa những danh vọng mà mọi người đang muốn tôn vinh ông.
Làm chứng cho Đức Kitô: Mục đích việc ông Gioan chân nhận đúng giá trị của mình, không muốn để cho người khác chú ý đến mình là để giới thiệu về con người Đức Kitô, Ngài là Đấng cứu thế, Đấng tối cao, đấng mà muôn dân hằng mong đợi. Ông Gioan chủ trương rằng Đấng Kitô phải được lớn lên, còn ông phải bị lu mờ đi, (xem Ga 3:30) nghĩa là Đấng Kitô phải được tôn vinh, còn ông phải lùi vào bóng tối.
Thật vậy, chúng ta đang sống trong một xã hội có xu hướng tham vọng tôn thờ giá trị cá nhân. Chúng ta thấy rất rõ, ngày nay các tổ chức, các đoàn thể và đến các cá nhân, ai cũng muốn tìm cách xây dựng một lâu đài cá nhân càng kiên cố chừng nào càng tốt. Cái tôi hay giá trị cá nhân là cái mà chúng ta gọi là cái quyền mà không ai được xâm phạm. Sống trong bối cảnh môi trường xã hội đó, ít nhiều chúng ta cũng bị ảnh hưởng trong cách suy nghĩ và hành vi của mình. Vậy, câu chuyện của thánh Gioan ngày hôm nay, có giúp chúng ta phản tỉnh và học được bài học gì quý báu không?
Đối với các giáo xứ và cộng đoàn, chúng ta đang hân hoan chuẩn bị đón lễ Chúa giáng trần bằng các công trình làm hang đá đồ sộ để thu hút người về tham dự thánh lễ, thậm chí để hấp dẫn những người lương dân về tham quan và chụp hình. Tuy nhiên, đây là hình thức mang tính bề ngoài, nó sẽ qua đi một cách mau chóng. Vì thế, ngoài việc làm hang đá, giăng điện khắp đường làng khu phố, trang trí nhà thờ, chúng ta cũng nên dành nhiều sự quan tâm đến người nghèo, thăm viếng người già, những ai bệnh tật…. Hoặc khi các bạn lương dân tới viếng hoang đá, tham dự lễ, chúng ta cũng tìm cách đón tiếp và giới thiệu Chúa cho họ, để họ cũng mầu nhiệm Chúa Giêsu Giáng Sinh.
Với các vị mục tử, khi chuẩn bị cho lễ Giáng Sinh, chúng ta thường bận rộn với nhiều chương trình sinh hoạt trong giáo xứ mà quên dành thời gian để cầu nguyện, giúp giáo dân chuẩn bị tâm hồn để đón nhận Chúa vào trong đời sống của họ. Ước chi các mục tử chúng ta đừng quá bận rộn với những công việc chỉ mang lại tiếng thơm cho chính cá nhân chúng ta, mà cũng cần biết “lánh xa một bên, tìm nơi thanh vắng”, mà cầu nguyện, chuẩn bị bài giảng chu đáo, những nội dung có giá trị để giúp nhiều người hiểu được ý nghĩa đích thực của lễ Giáng Sinh.
Và đối với các giáo dân, mặc dầu đang trong Mùa Vọng, nhưng chúng ta đã bắt đầu lo toan việc tặng quà và dự tính tổ chức tiệc tùng cho ngày lễ Giáng Sinh. Ước mong mọi người chúng ta ý thức được rằng những việc làm này tuy cần thiết nhưng cũng không giá trị cho bằng việc dành nhiều thời gian tham dự thánh lễ, tham dự các buổi tĩnh tâm, xưng tội và cầu nguyện, để có một tâm hồn thật đơn sơ và trong sạch, để Ngôi Hai Thiên Chúa được ngự vào trong tâm hồn chúng ta.
Trong cách suy nghĩ của nhiều người, kể cả người Công giáo, Mùa Vọng chỉ được hiểu là thời MV 3-B160
Trong cách suy nghĩ của nhiều người, kể cả người Công giáo, Mùa Vọng chỉ được hiểu là thời gian chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh. Vì vậy, họ chú trọng nhiều đến việc làm hang đá, trang trí hoa đèn rực rỡ mà quên mất một điều căn bản, đó là Thiên Chúa đang hiện diện giữa cuộc đời. Ngài hiện diện giữa chúng ta và mỗi người tín hữu được trao phó trách nhiệm loan truyền sự hiện diện linh thiêng kỳ diệu ấy. Lời Chúa chúa nhật 3 Mùa Vọng nhằm nhắc nhở chúng ta điều quan trọng này. Các Bài đọc trong Phụng vụ hôm nay đều diễn tả niềm vui. Tại sao chúng ta vui mừng? vì có Chúa hiện diện. Ngài xức dầu cho chúng ta và sai chúng ta vào lòng cuộc đời. Trong truyền thống Thánh Kinh, dầu thơm chỉ niềm vui, sự hoan lạc và ân sủng của Thiên Chúa. Nhờ được xức dầu trong bí tích Thanh tẩy, mỗi người tín hữu được sai lên đường để loan báo niềm vui. “Thần khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi”. Họ không lên đường đơn lẻ một mình, nhưng có Chúa Thánh Thần là sức mạnh của Thiên Chúa đi cùng. Ngôn sứ Isaia đã diễn tả niềm vui: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao” (Bài đọc I). Những lời này diễn tả một tâm hồn an vui, hạnh phúc và tràn đầy nghị lực. Có bao giờ chúng ta, với tư cách là Kitô hữu, cảm nhận được niềm vui này? Đó không phải là niềm vui trần thế, nhưng là niềm vui toát lên từ hạnh phúc nội tâm, trong sáng, tinh tuyền thánh thiện. Lễ Giáng Sinh đem lại cho chúng ta niềm vui, vì xác tín vào sự hiện diện của Chúa giữa đời. Niềm vui này phải được loan báo cho mọi người, vì đó là niềm vui cho cả toàn dân. Chân lý cứu độ phải được trình bày cho thế giới, vì Thiên Chúa muốn cứu vớt muôn loài. Chúng ta không chỉ giữ niềm vui Giáng Sinh cho riêng mình, nhưng mỗi tín hữu phải là người tiếp nối sứ mạng đem tin vui ấy cho những người xung quanh. Lễ Giáng Sinh chỉ có ý nghĩa và mang lại hiệu quả thiêng liêng, nếu mỗi chúng ta biết sống và loan báo sứ điệp hân hoan vui mừng ấy. Chúng ta được xức dầu và sai lên đường để rao giảng tình yêu của Chúa và sự hiện diện của Ngài. Mọi cố gắng nỗ lực của đời sống tín hữu nhằm cho hình ảnh của Chúa được tỏa sáng, chứ không phải hình ảnh của chúng ta. Khi nghe thánh Gioan Tẩy giả rao giảng và kêu gọi sám hối, những người đương thời cũng tưởng rằng ông là Đấng Thiên Sai. Gioan Tẩy giả đã cương quyết khẳng định: “Tôi không phải là Đấng Kitô”. Ông nhận rõ sứ mạng của mình rất khiêm tốn, đó là làm cho hình ảnh của Đấng Thiên Sai nổi bật. Ông cũng sẵn sàng chấp nhận bị lu mờ trước Đấng Cứu thế: “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại… Tôi không đáng cởi quai dép cho Người”. Đây đó tại các cộng đoàn giáo xứ, vẫn tồn tại những sinh hoạt sầm uất sôi nổi chỉ mang tính trần tục hoặc bề ngoài, mà không chú ý đến việc giới thiệu hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng đang hiện diện giữa chúng ta. Gioan Tẩy giả làm phép rửa, nhưng phép rửa của ông chỉ là nghi thức sám hối và giúp cho các hối nhân nhận ra Đấng Cứu thế sẽ đến. Ông là người dọn đường cho Đấng Thiên Sai. Mặc dù có rất đông dân chúng đến với mình, ông luôn tránh những ngộ nhận của họ, nên khẳng khái nhận mình chỉ là tiếng kêu trong sa mạc. Giới thiệu và chứng minh Chúa đang hiện diện trong cuộc đời này, cần phải có sự khiêm tốn, đi liền với một đời sống thánh thiện tốt lành. Đây là điều kiện căn bản để lời chứng của chúng ta có sức thuyết phục. Niềm vui có Chúa hiện diện phải tác động mọi khía cạnh của đời sống chúng ta. Thánh Phaolô đã nhắn nhủ cộng đoàn Thêxalônica: “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh“. Theo lời thánh Phaolô, kể cả lúc chúng ta gặp chuyện chẳng lành, đó cũng là cơ hội để tạ ơn Chúa. Bởi lẽ trong những hoàn cảnh ấy, chúng ta được mời gọi kiên vững và chứng minh lòng trung thành của mình vào Chúa. Thực ra, người tín cần xác tín một điều: Thiên Chúa không để cho ai chịu thử thách quá sức chịu đựng. Ơn Chúa luôn đủ cho những ai thành tâm yêu mến Ngài. Ý thức sự hiện diện của Chúa sẽ giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn, đồng thời chuyên tâm làm việc thiện, xa lánh những điều xấu, bất cứ dưới hình thức nào, nhất là đừng dập tắt thần khí của Chúa nơi tâm hồn chúng ta (Bài đọc II). Cảm nhận sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời sẽ giúp chúng ta đón nhận những gì xảy đến với lăng kính đức tin. Bởi lẽ Chúa là Cha chúng ta. Ngài luôn yêu thương và chẳng bao giờ bỏ rơi những con cái của Ngài. Nhờ sự hiện diện hồng phúc của Chúa, hoa sẽ nở trong sa mạc, niềm vui sẽ tràn ngập cuộc đời, tình thương sẽ ngự trị, công chính sẽ lên ngôi.
Trên hành trình rao giảng, ông Gioan đã thu hút mọi người từ khắp nơi đến chịu phép rửa. Điều MV 3-B161
Trên hành trình rao giảng, ông Gioan đã thu hút mọi người từ khắp nơi đến chịu phép rửa. Điều đó khiến cho mấy thầy tư tế, thầy Lêvi cùng những người Pharisêu không khỏi tò mò. Họ muốn tìm cách tiếp cận ông. Họ cất công đi từ Giêrusalem đến gặp ông. Ông Gioan đang làm phép rửa ở sông Giođan. Họ tiến đến và hỏi “Ông là ai?” (Ga,1,19). Một câu hỏi đi thẳng vào vấn đề. Ông trả lời thẳng thắn cho họ: “Tôi không phải là Đấng Kitô” (Ga 1, 20). Không thỏa mãn trước câu trả lời ấy, họ đưa ra những câu hỏi khác. Ông điềm tĩnh trả lời cho họ từng câu một. Một bên đang nóng lòng biết được thông tin theo ý mình còn người trả lời thì thẳng thắn và không hề giấu diếm. Những người tư tế và các thầy Lêvi không mấy tin tưởng nên khó chịu nhưng vẫn nài nỉ với ông để hy vọng một câu trả lời khác để về trả lời cho những người đã cử mình đến. Ông Gioan nói về mình “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi” (Ga 1, 23). Dù đã trả lời như thế nhưng họ vẫn không bằng lòng liền lấy ngay việc làm của ông mà thách thức và chất vấn ông. “Vậy tại sao ông làm phép rửa nếu ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ?” (Ga 1, 25).
Quả là một câu hỏi hay để cho ông nói rõ về sứ mạng của mình, bắt đầu giới thiệu Chúa Giêsu cho họ biết. Ông đã tự hạ mình xuống và nâng Đấng sẽ đến sau ông. Ông chỉ là người được sai đến để làm chứng cho mọi người tin chứ ông không phải là ánh sáng. Ông đã khiến cho mọi người khâm phục bởi chính sự khiêm tốn, không một chút kiêu ngạo hay tự phụ nhưng luôn che khuất bản thân mình. Vậy ngày hôm nay, còn có chút hình bóng của ông Gioan nơi chính chúng ta không? Chắc chắn là có nhưng chính hoàn cảnh cuộc sống có quá nhiều sự dữ khiến chúng ta dần đánh mất đi hình ảnh là người đượcThiên Chúa sai phái. Chúng ta lâm vào con đường nâng mình lên trên và trước Thiên Chúa qua những câu chuyện nhỏ hàng ngày. Đôi khi, chúng ta nghĩ mình sống vì Chúa nhưng không phải. Chính những khi chúng ta ích kỷ đó là khi chúng ta làm trái ý Chúa. Chúa đã bị lu mờ đi (Ngài vốn dĩ không bị lu mờ bởi bất cứ một điều gì). Chính khi chúng ta đánh mất nét đẹp của Chúa nơi mình, chúng ta đánh mất hạnh phúc. Cơ hội vẫn còn. Chúng ta hãy bắt đầu lại, sám hối và hy sinh bằng những việc nhỏ hằng ngày.
Trong giờ chơi góc, có tiếng hét vang lên. Cô giáo vội vàng đi tới thì thấy cậu bé đang đứng vòng tay xin lỗi cô bé ngồi bên cạnh. Cô giáo không nỡ lòng nào phạt cậu bé nữa.
Lạy Chúa! Mỗi người chúng con được Chúa sai đi rao giảng. Ngài đã đặt tình yêu và niềm hy vọng nơi chúng con. Nhưng rồi chúng con đã làm gì? Vâng, Chúa biết rõ mỗi người chúng con hơn chúng con biết nhau. Nguyện xin Chúa dùng ánh sáng Ngài soi vào cõi lòng, tâm trí và trái tim chúng con. Nguyện xin Chúa giúp chúng con được thấy và sống trong ánh sáng của Ngài. Amen.
Quân đang mải mê chơi bắn bi ở sân nhà thì có một người lạ đến nhà. Hôm nay, bố mẹ Quân đi MV 3-B162
Quân đang mải mê chơi bắn bi ở sân nhà thì có một người lạ đến nhà. Hôm nay, bố mẹ Quân đi làm ở đồng xa, chỉ có cậu ở nhà một mình. Người lạ lên tiếng hỏi:
– Bố mẹ cháu đi đâu cả rồi?
– Cháu chào ông? Bố mẹ cháu đi làm đồng rồi ạ. Nhưng ông là ai? Ông hỏi bố mẹ cháu có việc gì cơ?
– Ông là bạn của bố cháu. Cháu đi gọi bố cháu về đây được không? Ông có việc gấp cần gặp bố cháu.
– Dạ, khoảng 10 giờ thì bố mẹ cháu đi làm về đó ạ.
– Vậy thì cháu cứ chơi tiếp đi vì bây giờ đã 10 giờ kém rồi.
Khi gặp một người lạ đến nhà mình, ta thường hỏi họ là ai, đến đây để làm gì. Hôm nay, Tin Mừng theo thánh sử Gioan đã thuật lại lời chứng của ông Gioan khi các tư tế và mấy thầy Lêvi được những người Do thái từ Giêrusalem cử đến hỏi ông. Họ đã chất vấn ông rất nhiều điều. Ông Gioan tuyên bố thẳng thắn rằng mình không phải là Đấng Kitô mà muôn dân đang mong đợi. Ông cũng không phải là ông Êlia hay là vị ngôn sứ nào cả (x. Ga 1, 19-21). “Ông nói gì về chính ông?” (Ga 1, 22b). Các tư tế và mấy thầy Lê vi đang nóng lòng biết về chính ông. “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi.” (Ga 1, 23). Đúng như lời chứng của ngôn sứ Isaia đã nói. “Ông nói gì về chính ông?”, đó cũng là câu hỏi dành cho chính ta. Ta tự hỏi lòng mình “Tôi nói gì về chính tôi?”. Ông Gioan đã nói cho các tư tế và mấy thầy Lêvi biết về sứ mạng “Tiền hô” của mình. Còn ta, ta thường nói về điều gì? Chẳng phải không ít lần, ta đã tự hào giới thiệu cho mọi người biết về tài năng ta có, thành tích ta đạt được đó sao? Nhưng những điều đó không nói gì về chính ta. Ông Gioan làm những việc làm mà bao người cảm phục ông. Ông rất nổi tiếng nhưng khi nói về chính mình, ông khiêm tốn nhận mình chỉ là một tiếng hô trong hoang địa. Một tiếng hô vang lên và người ta kéo đến với ông để ông thức tỉnh họ. Ông chỉ là người dọn đường. Ông được Thiên Chúa sai đến để làm chứng về ánh sáng. Ông ý thức rằng Người phải lớn lên còn tôi phải nhỏ đi. Ông đã ẩn mình suốt ba mươi năm, sống trong hoang địa để nhận biết tiếng nói của Thiên Chúa. Ông đã giấu mình đi trong âm thầm như thế. Ông không phải là Đấng mà muôn dân mong đợi. Có một Đấng đến sau ông, sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần.
Nhìn về chính mình, ta ý thức mình là một người Kitô hữu. À phải rồi. Nói về Chúa trong ta, đó mới thật là nói về những gì thuộc về chính mình. Nhưng nói về Chúa bằng cách nào? Ta được tạo dựng nên giống hình ảnh Chúa. Ta phải là chứng nhân cho tình yêu Chúa hiện hữu nơi mình. Ta là người được Thiên Chúa sai đi để làm chứng cho Chúa.
Có một câu chuyện như sau: Một giáo lý viên đang say sưa dạy cho các học trò về đề tài “Thiên Chúa là tình yêu”. Thằng Tèo tinh nghịch chọc thằng Thắng ngồi bên cạnh. Cả hai cười rúc rích mà quên mất rằng mình đang ở trong lớp học. Giáo lý viên tức giận bước xuống cho mỗi đứa một cái tát rõ đau. “Thằng Tèo nói cho chị biết, lớp đang học bài gì? Thằng Tèo đang ú ớ chưa có câu trả lời thì chị nhìn sang Thắng, nó cũng tiu nghỉu cúi mặt xuống đất. Chị hỏi cả lớp “Cả lớp đang học bài gì?”. “Dạ, bài Thiên Chúa là tình yêu ạ.”
Nói về tình yêu Thiên Chúa hay giảng về tình yêu Thiên Chúa không phải là điều khó. Thế nhưng, thực tế để sống chứng tá cho điều ấy thật không mấy dễ dàng. Ta cũng dễ nóng nảy, thiếu kiên nhẫn với ai đó khi họ không làm ta hài lòng, khiến ta bực bội khó chịu. Chính những lúc ấy là lúc đo lường lòng mến Chúa thật sự nơi ta. Ông Gioan đã không hề tỏ ra khó chịu trước những câu hỏi mang tính cách chất vấn của những Tư tế và các thầy Lêvi. Ông kiên nhẫn trả lời cho họ từng câu. Ta đã làm gì để làm chứng cho Chúa với chức năng “ngôn sứ” ta đã lãnh nhận?
Lạy Chúa! Xin đong đầy tình yêu trong con để mỗi ngày con kiên nhẫn và hăng say làm chứng cho Chúa giữa đời. Xin dạy con biết yêu thương hết mọi người, bắt đầu từ những hành động nhỏ bé nhất. Làm chứng cho Chúa đòi hỏi con phải nỗ lực hoàn thiện bản thân, sống trong tâm tình sám hối và khiêm tốn. Xin Chúa luôn đồng hành cùng con và cho con cảm nếm niềm vui “Chúa phải lớn lên còn con phải nhỏ đi.” Amen.
Chứng nhân sự sáng được sai, Tiền hô mở lối, đóng vai mọn hèn. Tiếng kêu hoang địa chong đèn MV 3-B163
Chứng nhân sự sáng được sai, Tiền hô mở lối, đóng vai mọn hèn. Tiếng kêu hoang địa chong đèn, Mở đường chiếu giãi, đêm đen vào đời. Tiên tri cao trọng rạng ngời, Ẩn thân khiêm nhượng, gọi mời dấn thân. Vui mừng sứ vụ bình dân, Dọn đường sửa lối, canh tân lòng người. Không màng danh lợi ở đời, Xả thân phục vụ, Chúa Trời Ngôi Hai, Ngài là ánh sáng thiên thai, Giê-su Chí Thánh, thiên sai từ trời. Mở lòng đón nhận Vua Trời, Thành tâm tôn kính, sống đời khiêm nhu. Thực hành sống đạo luyện tu, Nêu gương nhân đức, thiên thu sáng ngời.
Thánh Gioan Tẩy Giả là một nhân chứng khiêm nhường và can đảm. Ngài là vị tiền hô. Ngài xuất hiện để loan báo và dọn đường cho Chúa. Ngài không phải là sự sáng nhưng làm chứng cho sự sáng. Ngài nhận mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa. Ngài đã hoàn tất sứ mệnh của người làm chứng cho Chân Lý qua cái chết của ngài.
Sống một đời ngắn ngủi nhưng từng bước chân đã ghi dấu niềm xác tín nơi Con Chúa. Qua cuộc sống khắc khổ nơi hoang địa, ngài chuẩn bị cho chính mình một tấm lòng đơn sơ và khiêm nhường. Ngài khơi dậy sự mong chờ và lòng khao khát ơn Cứu Độ. Ngài đã chuẩn bị lòng con người, kêu gọi sửa cho ngay đường Chúa đi. Ngài đã giới thiệu Chúa cho mọi người. Đã hiến mình làm chứng cho Sự Thật.
Chấp nhận thân phận người tiền hô, ngài không tìm vinh quang cho chính mình. Giống như Gioan, chúng ta được mời gọi chia xẻ sứ mệnh rao truyền chân lý của Chúa. Hãy học nơi thánh Gioan, tìm làm vinh danh Chúa. Dẫn dắt nhiều người về với Chúa. Trong sứ mệnh rao truyền Tin Mừng hôm nay, đôi khi vì sự háo thắng, chúng ta lại muốn rao truyền và tìm vinh danh cho chính mình. Muốn người ta biết về mình nhiều hơn. Thay vì giới thiệu Chúa cho người khác, chúng ta tìm giới thiệu chính mình và sự khôn ngoan thông thái của mình. Tìm giải thích Lời Chúa theo ý của mình và uốn nắn theo những sở thích của riêng mình.
Gioan đến làm chứng cho sự sáng. Chúa chính là ánh sáng soi dọi vào đêm tối. Chúng ta hãy truyền đạt ánh sáng mà chúng ta đã lãnh nhận khi chịu phép Rửa Tội. Hãy để ánh sáng của Chúa chiếu tỏ qua cuộc sống của chúng ta. Cầu nguyện để mỗi người là chứng nhân trung thành. Chúng ta đã theo đạo, cần giữ đạo, sống đạo và thực hành đạo để xứng danh Kitô hữu.
Chúa Giêsu đã phán rằng: ‘Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống’. Bước theo Chúa, chúng ta sẽ không lạc lối vì có Chúa là Đường. Mọi sự đều quy về Lời Chúa. Chính Chúa Giêsu là tâm điểm để mọi người xoay quanh. Càng đến gần tâm điểm là Chúa Giêsu, chúng ta càng được sưởi ấm trong tình yêu của Ngài.
Cách đây ít tuần, có một phụ nữ tâm sự: Thưa cha, cuộc sống gia đình con không hạnh phúc, con MV 3-B164
Cách đây ít tuần, có một phụ nữ tâm sự: Thưa cha, cuộc sống gia đình con không hạnh phúc, con đã phải chịu đựng ông chồng vừa lười, vừa có tính gia trưởng và bạo hành. Con đã không thể chịu đựng được nữa nên đã đem con cái về nhà mẹ ruột ở. Vậy mà ông ấy vẫn đến quậy phá con, ông ấy còn tuyên bố: Mày có đi đến đâu thì cũng vẫn là vợ của tao. Con thấy cuộc sống của mình bất ổn quá, con nói ổng ly dị để cuộc sống bằng an và yên ổn làm ăn. Ông ấy nhất định không viết đơn nên con tự đưa đơn ra tòa. Tòa đã chấp nhận và xử cho hai người ly hôn, đến hay đã được hơn ba tháng. Thế nhưng, sự việc đã không như con nghĩ, ông ấy vẫn đến quậy con và tuyên bố: Tòa có xử ly hôn thì mày vẫn là vợ tao. Thế nhưng, thưa thật với cha, từ khi tòa xử đến nay, con không thấy vui, cũng không thấy tâm hồn bằng an, trái lại lương tâm áy náy, ruột gan rối bời, đầu óc hoảng loạn, có những lúc như không thở được.
Thưa quý OBACE, niềm vui đích thực phải là niềm vui phát xuất từ Thiên Chúa, nơi một tâm hồn bình an, thanh thản trước mặt Chúa và trước mặt mọi người. Bước vào tuần thứ ba mùa Vọng, màu sắc của phụng vụ và Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy vui lên vì Chúa đã đến gần. Chúng ta có thể vui được không? Điều gì đang làm tâm hồn ta trĩu nặng khiến ta không thể vui? Ai có thể đem đến niềm vui cho chúng ta?
Tiên tri Isaia cho biết, để có niềm vui thì cần phải có Chúa trong tâm hồn. Ông đã diễn tả niềm vui bằng những lời rất đẹp: Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa. Ông xác tín rằng, Chúa đã bước vào tâm hồn ông, biến đổi ông, hơn nữa, Chúa đã tín nhiệm, đã chọn và sai ông thi hành sứ mạng loan báo niềm vui cho người khác. Ông đã sẵn sàng để cho Thiên Chúa sử dụng mình: Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, Đức Chúa đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi loan báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tâm hồn tan nát, công bố lệnh ân xá, phóng thích cho tù nhân. Vị tiên tri cũng chỉ cho thấy, để có được niềm vui đích thực cần phải để cho Thiên Chúa biến đổi: Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa, vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ, choàng cho tôi đức chính trực công minh. Ngài làm cho tâm hồn tôi trổ sinh những hoa trái tốt lành như đất đai làm đâm chồi nảy lộc, cây cối nảy mầm kết trái. Cách diễn tả giàu hình ảnh của Isaia nói lên việc Thiên Chúa đã biến đổi hoàn toàn con người ông và chính Chúa đem lại cho ông niềm vui.
Bài Tin Mừng giới thiệu cho chúng ta Gioan Tẩy Giả như một mẫu gương sống và cảm nhận được niềm vui phục vụ. Gioan là một ngôn sứ được sai đến với sứ mạng dọn đường cho Đấng Cứu Thế, ông đã vui với sứ mạng của mình và chu toàn một cách tốt đẹp vai trò là một người dọn đường. Tin Mừng hôm nay giới thiệu sứ mạng của Gioan là để làm chứng về ánh sáng, chính ông không phải là ánh sáng. Với lời giảng thật mạnh mẽ, dứt khoát của Gioan, ông đã quy tụ được rất nhiều người đến nghe ông và xin chịu phép rửa tỏ lòng sám hối. Nhiều người thấy lối sống đơn sơ khắc khổ của ông, cùng với những lời kêu gọi sám hối: Hãy dọn đường Chúa cho ngay thẳng, núi cao- bạt xuống, thung lũng- lấp cho đầy, đường quanh co- uốn lại cho ngay thẳng.., họ nghĩ rằng ông chính là Đấng Cứu thế. Gioan khiêm tốn nhận rằng: Tôi chỉ là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi. Gioan đã không ảo tưởng về sự thành công của mình, không để mình rơi vào cám dỗ trở thành người nổi tiếng và cũng không tìm cơ hội đánh bóng bản thân. Trái lại, Gioan đã trả lời cho những người thắc mắc về sứ mạng của ông, khi hỏi ông: Ông có phải là Đấng Kitô không, tại sao ông làm phép rửa? Gioan đã mượn lúc này để giải thích về Đấng Mesia, Đấng ấy sẽ làm phép rửa bằng Thánh Thần cho tất cả những ai tin Ngài. Còn Gioan đã nhận mình không đáng cúi xuống để cởi quai dép cho Người. Chính vì biết khiêm tốn đặt mình trước mặt Chúa, chu toàn tốt nhiệm vụ Chúa trao, Gioan đã trở thành con người ngập tràn niềm vui đơn sơ, thiêng liêng và thánh thiện.
Thánh Phaolô đã đúc kết lại và chỉ cho ta biết phải làm thế nào để có được niềm vui đích thực: Anh em hãy vui mừng luôn mãi, hãy cầu nguyện không ngừng và hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh. Anh em đừng dập tắt Thần Khí, chớ khinh thường những lời tiên tri. Điều gì tốt hãy giữ lấy, còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì cũng tránh cho xa. Khi thực hiện như thế, Chúa sẽ là nguồn mạch bình an trong tâm hồn, Ngài sẽ thánh hóa toàn diện con người chúng ta, để thần trí, tâm hồn và thể xác chúng ta được gìn giữ không có gì đáng trách trước mặt Chúa.
Cuộc sống chung quanh đang tạo ra rất nhiều thú vui, xã hội tạo ra nhiều tụ điểm vui chơi, nhưng con người dường như vẫn cảm thầy buồn chán. Có nhiều người phải che dấu sự bất an và đau khổ trong tâm hồn bằng sự ồn ào và nụ cười ngượng. Nhiều người gặp nhau chỉ khoe răng, hé môi, nhưng trong ánh mắt, trên nét mặt vẫn hằn sâu một nỗi buồn. Nhiều người, trong đó có những người trẻ, đang sống trong chán nản, buồn bã, vì cuộc sống đơn điệu, nhàm chán, họ cảm thấy mình cô đơn ngay trong gia đình và thấy lạc lõng ngay trong đám đông. Để tìm được niềm vui đích thức làm động lực cho cuộc sống, mỗi người cần phải mạnh dạn gỡ bỏ nguyên nhân chính gây buồn chán, đó là tình trạng lười biếng, tội lỗi. Hãy mạnh dạn làm hòa với Thiên Chúa và làm hòa lại với anh em, gỡ bỏ những gì đang cản bước chúng ta không đến được với Chúa và Chúa không đến được với ta, cũng như gỡ bỏ những vật cản, vướng mắc khiến ta không thể đến được với anh em.
Ma quỷ không thề làm điều tốt, nó chỉ có thể cám dỗ ta phạm tội và hứa sẽ đem lại niềm vui khi phạm tội. Nhưng khi đã nghe lời cám dỗ, nó chỉ có thể đem đến sự buồn chán và thất vọng. Chỉ có Chúa mới là nguồn vui và hạnh phúc đích thực. Khi có Chúa, tâm hồn ta sẽ có bình an thẳm sâu và niềm vui thánh thiện của Chúa. Khi cảm nhận được sự hiện diện yêu thương của Chúa, dù hoàn cảnh bên ngoài có thất bại hay sóng gió có thử thách vùi dập, ta vẫn cảm nhận được niềm vui và sự bình an của Chúa từ tận sâu trong tâm hồn.
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Nguyễn Du), chúng ta chỉ có thể trở thành người đem niềm vui và bình an đến cho người khác khi trong lòng chúng ta thực sự ngập tràn niềm vui. Trái lại, khi tâm hồn chứa đầy u sầu buồn bã, chúng ta chỉ có thể đem đến cho người khác sự căng thẳng, nóng nảy, cãi vã. Vì vậy, để gia đình có được niềm vui và bình an, thì các thành viên, đặc biệt là cha mẹ, cần phải có niềm vui trong tâm hồn và trong cuộc sống. Niềm vui không đến từ các bữa nhậu, cũng không phải từ những cuộc túm tụm bạn bè bài bạc, nhưng phải là niềm vui của tâm hồn thanh thản, bình an vì sạch tội. Các cha mẹ cần tìm kiếm niềm vui vui đích thực qua việc hòa giải, gặp gỡ Chúa mỗi ngày nơi Thánh lễ, qua bí tích Thánh Thể và những giờ kinh cầu nguyện. Chúa sẽ ban cho ta một tâm hồn bình an thanh thản và niềm vui nhẹ nhàng lan tỏa trong cả ngày sống và trong gia đình.
Xã hội ngày nay đang tạo ra rất nhiều thú vui, nhiều bạn trẻ lao vào các cuộc vui như con thiêu thân lao vào ngọn đèn, đến độ thiêu rụi cả tương lai cuộc đời mình. Nhiều bạn trẻ khác để mình chìm ngập trong dòng chảy của thế giới ảo, lối sống ảo, sống vội, sống cuồng đến độ đánh mất thực tại cuộc đời. Càng lao vào những chỗ ồn ào, những thú vui và các cám dỗ của xã hội như thế, các bạn càng cảm thấy trống rỗng và buồn chán, mất ý nghĩa và mục đích sống. Mùa Vọng là dịp để mỗi bạn tìm lại ý nghĩa, mục đích và niềm vui đích thực cho cuộc sống của mình, bằng việc lấy Tin Mừng làm thước ngắm để uốn nắn lại hành động, lấy Chúa và sự phục vụ anh em làm niềm vui cho tâm hồn và dùng các việc đạo đức để cân bằng lại đời sống.
Xin Chúa cho mỗi chúng ta biết để cho Lời Chúa điều chỉnh cuộc sống của mình để mùa Vọng và Giáng Sinh này thực sự là mùa chúng ta cảm nhận được niềm vui của Chúa lan tỏa trong tâm hồn và lan tỏa đến từng lời nói và hành động của chúng ta. Amen.
Bốn sách Tin Mừng, Tin Mừng Nhất Lãm và Tin Mừng theo thánh Gioan đều có chung “ nhất lãm MV 3-B165
Bốn sách Tin Mừng, Tin Mừng Nhất Lãm và Tin Mừng theo thánh Gioan đều có chung “ nhất lãm” về “nhân vật “ Tiền Hô” cho Đấng Cứu Thế.
Hôm nay , Chúa Nhật III Mùa Vọng cho chúng ta về một “ chứng nhân” cho Đấng Cứu Thế. Sự xuất hiện của Chúa Giêsu không phải là một sự xuất hiện “đơn điệu”, dù rằng là một sự “ tự hạ” hết sức. Nhưng, lời tiên tri loan báo từ ngàn xưa và đến thời giờ đã định, Thiên Chúa cho xuất hiện nhân vật “ làm chứng” là Gioan Tiền Hô. Một gương sống khiêm nhường, đến độ người ta tưởng lầm là Đấng Cứu Thế , tức Kitô.
Nhưng thánh Gioan Tiền Hô không “ mạo nhận “ lợi dụng cơ hội nầy để “lừa gạt”, mà ngài nói “ Tôi không phải là Đấng Kitô”. “ Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi” ( c 23)
Cuộc sống khắc khổ của ngài, lời ngài rao giảng sám hối, làm phép rửa thể hiện một ngôn sứ, một ngôn sứ của thời đại mới. Tiếng tăm của ngài vang xa, đến độ các thầy Lêvi cho người đến dò hỏi trực tiếp : “ Ông là ai ?”. Có phải là Êlia, hay Đấng Kitô, ông đều trả lời : “Không”, ông rất thẳng thắn, không mạo nhận mình là “ ngôn sứ”. Nhưng, người ta hỏi : “Tại sao ông làm phép rửa”, ông trả lời: “ Tôi làm phép rửa trong nước, nhưng Đấng đến sau tôi, đang ngự giữa các ông mà các ông không biết”.
Tuy , Đấng Cứu Thế được loan báo từ ngàn xưa, nhưng đến thời gian Người xuất hiện thật âm thầm, đến độ “tầm thường”, nhưng, “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng”. ( c 6-8)
Như vậy, vời ba câu mở đầu nói về Gioan Tiền Hô, với cách nói của thánh Gioan tông đồ, chúng ta thấy cách viết của thánh Gioan rất độc đáo, chỉ ba câu, nhưng nói lên được tính cánh của một con người Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế, đồng thời nói lên “đặc tính” của Đấng Cứu Thế là ” ÁNH SÁNG”. Không gì “thật” bằng ánh sáng, không gì “sáng” bằng ánh sáng, không gì “ mạnh” bằng ánh sáng, không gì “ nhanh” bằng ánh sáng và không gì “ sáng” bằng ánh sáng.
Theo đó, người làm chứng về ánh sáng, thật là một người “sáng”, và người ấy phải từ Thiên Chúa mà đến. Như vậy, sau Đấng Cứu Thế, thánh Gioan Tiền Hô cũng là một “ánh sáng”,nhưng, không phải là “ánh sáng” Cứu Thế, bởi vì, như Lời Chúa Giêsu nói: “ Không có phàm nhân nào do bởi lòng mẹ sinh ra mà cao trọng hơn Gioan Tẩy giả”, nhưng “ kẻ nhỏ nhất trong Nước trời còn cao trọng hơn ông”. Theo đó, chúng ta suy ra được Đấng Cứu Thế Giêsu- Kitô thật cao trọng dường nào.
Như vậy, vai trò Tiền Hô của Gioan Tẩy Giả, dù ngài không nhận mình là ngôn sứ, nhưng, ngài đảm nhận sứ mạng như Isaia, có thể nói Gioan Tẩy Gỉa chính là “Isaia thứ hai” cho Đấng Cứu Thế. Vì : “ Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Ngài sai tôi đến với người nghèo khó…” nói lên sứ mạng của Đấng Cứu Thế, mà Tiên Tri Isaia đã nói từ ngàn xưa.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trần gian để cứu độ chúng con, và đã chọn một nhân vật “làm chứng”, để minh chứng Chúa chính là “ÁNH SÁNG” cứu độ. Xin thương ban cho những ai mong chờ ngày Chúa đến được xứng đáng gặp Người, dù là ngày tưởng nhờ Người đến lần thứ Nhất, và lần sau cùng. Amen.
Tin mừng Chúa nhật III Mùa Vọng qua cuộc gặp gỡ giữa Gioan Baotixita với các thầy tư tế MV 3-B166
Tin mừng Chúa nhật III Mùa Vọng qua cuộc gặp gỡ giữa Gioan Baotixita với các thầy tư tế và các thầy Lêvi trình bày cho chúng ta một tin vui: Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu độ nhân loại và yêu thương đang hiện diện giữa chúng ta. Ngài đến để chiếu sáng thế gian: “Nhưng giữa các ngươi, có Đấng mà các ngươi không biết. Đấng ấy đến sau tôi, nhưng có trước tôi. Tôi không xứng đáng cởi dây giầy cho Người”.
Gioan Tẩy Giả là người làm chứng cho Đấng Cứu Thế “Ông đến để làm chứng cho ánh sáng”. Ánh sáng đích thực là chúa Kitô. Lúc bấy giờ dân chúng mến mộ Gioan Tẩy Giả. Họ tưởng ông là Đấng Messia là ánh sáng, là một vị tiên tri. Ông đã ba lần phủ nhận: “Tôi không phải là Đấng Messia, không phải là ánh sáng”.
Sứ mạng của Gioan Tẩy Giả là chứng nhân cho sự sáng thật là Đức Giêsu Kitô.
– Qua lối sống khổ hạnh, hy sinh hãm mình, lời rao giảng sám hối và qua lời chứng: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: hãy sửa cho ngay đường Chúa đi” (Ga 1, 23). Đã xác minh Gioan Tẩy Giả là Vị tiền hô của Đấng Cứu Thế, là chứng nhân của Thiên Chúa. Gioan Tẩy Giả chỉ đứng ra làm chứng, giới thiệu Đấng Cứu Thế: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”. Khi Đấng Messia xuất hiện, thì ngài rút lui vào bóng tối: “Người phải lớn lên, tôi phải nhỏ đi”.
– Có thể nói, Gioan Tẩy Giả là người tôi tớ, còn Đức Giêsu là ông chủ. Gioan là ngọn đèn soi. Đức Giêsu là ánh sáng. Gioan là tiếng kêu và Đức Giêsu là lời hằng sống của Thiên Chúa.
– Như Gioan Tẩy Giả, Kitô hữu phải là chứng nhân cho Đức Kitô trong cuộc sống hôm nay.
– Gioan Tẩy Giả khiêm tốn tự nhận mình là tiếng hô trong sa mạc để dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Khi thi hành bổn phận với những thành công, chúng ta phải biết quy hướng tất cả về Thiên Chúa “Tất cả vì vinh danh Thiên Chúa và cứu rỗi các linh hồn”.
– Sống chứng nhân cho Chúa bằng cuộc sống gương mẫu đạo đức: hiền lành, yêu thương, tha thứ, khiêm hạ…
– Thánh Gioan Tiền hô đã anh dũng làm chứng nhân cho ánh sáng, cho chân lý mà ngài đã phải trả giá rất mắc là chấp nhận tù đầy và bị chặt đầu. Trong xã hội hôm nay, người ta đánh mất đi ý thức về công bằng, về chân lý, Kitô hữu cũng phải can đảm dám nói lên sự thật, thà chết không thỏa hiệp với ma quỷ, với tội lỗi, với thế gian.
Mùa Vọng nhắc chúng ta dọn lại con đường tâm hồn cho Chúa đến, dọn lòng mình, dọn lòng anh em, để Chúa đến với mọi người. Một lời nói thân thiện, một việc làm bác ái, một sự hy sinh phục vụ anh em, một nụ cười thông cảm… do đức tin soi dẫn, sẽ mang lại sức sống, niềm tin cho mọi người. Đó là cách dọn lòng mình và tha nhân, đón Chúa đến một cách thiết thực và chân thành nhất.
Mùa Vọng, mùa trông đợi đã trở về với nhân lọai chúng con. Tuần này đã là tuần thứ ba của MV 3-B167
Mùa Vọng, mùa trông đợi đã trở về với nhân lọai chúng con. Tuần này đã là tuần thứ ba của mùa Vọng. Đó đây trong khuôn viên các nhà thờ đã có đèn sao nhấp nháy trên những cây thông xinh xắn. Những hang đá máng cỏ đang được dựng lên chuẩn bị cho ngày đại lễ. Trên những xóm ngõ của các xứ đạo, người người chăng đèn kết sao. Những hàng chữ MERRY CHRISTMAS bên những Ông già Noel vai đeo túi quà tươi cười vẫy chào. Không khí ngày lễ đang tràn về trên phố phường khiến mọi người có thêm niềm vui.
Lạy Chúa,
Con cũng đang chuẩn bị cho ngày đại lễ, con dọn lại nhà cửa, sắp xếp cho Chúa một chỗ nhỏ trong căn phòng khách. Nơi đó sẽ có một cây thông nhỏ, có bộ tượng be bé xinh xinh, có những dây đèn điện, những quả cầu trang trí, những dây kim tuyến đủ màu. Nhìn vào là thấy một bầu khí ấm cúng của đêm Chúa ra đời, thay cho một đêm đông giá rét ngòai đồng vắng không người qua lại, chỉ có những chú mục đồng nghèo nàn trong các căn chòi tá túc hơn 2000 năm trước đây. Con dọn chỗ đón Chúa bằng những hình thức quả có trang trọng, đẹp đẽ trong nhà của con với những thứ bên ngòai, như mọi người trên thế giới này. Như thế có đầy đủ?
Bài tin mừng hôm nay giới thiệu: “Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan, ông đến để làm chứng“. Ông xác định mình: “Tôi không phải là Đức Kytô“, cũng không nhận mình là Ông Êlia hay một vị Ngôn sứ. “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như Ngôn sứ Isaia đã nói“. Lời Chúa cho con nhận ra rằng chuẩn bị cho ngày lễ bằng những hình thức bên ngòai không có gì sai, nhưng quả thật là chưa đủ. Con còn phải sửa con đường tâm linh cho thẳng để Chúa đi và để con đón Chúa đến. Ông Gioan, một vị sứ giả của Thiên Chúa, ông cũng rao giảng, nhưng không phải nói về ông, đề cao mình là một Rabbi trong dân Israel, mặc dầu có rất nhiều người ngưỡng mộ. Thậm chí có nhiều người đến xin làm môn đệ. Ông chỉ nhận mình là người giới thiệu: ”Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết“.
Chúa đến trần gian này để con người được chia sẻ hạnh phúc là con Thiên Chúa. Được hưởng niềm vui Chúa trao, đó là sự bình an. Con người không còn sống trong tội lỗi, không còn tranh chấp, khinh chê lẫn nhau, áp bức nhau. Sẵn sàng coi nhau là anh em con một Cha, sẵn sàng đến với nhau, giúp nhau cùng thăng tiến. Và để có được những điều ấy con phải mở lòng đón tiếp Chúa, dọn cho Chúa một con đường đi vào nhà Linh hồn con. Con đường ấy không thể lồi lên những thói xấu, những ích kỷ. Không lõm xuống nhửng đam mê dục vọng.
Những núi đồi kiêu căng, tự mãn, coi rẻ người khác nơi con phải được bạt đi cho phẳng. Những khúc quanh dối trá, lươn lẹo của con phải được uốn nắn lại theo sự công chính và ngay thẳng. Con có dám làm những điều ấy? Con có xứng đáng là người loan báo Chúa cho những anh chị em con chưa nhận biết Người? Con có nói về Chúa, sống làm gương ngay trong gia đình, để giới thiệu Chúa cho con cái, người thân của con? Lời Chúa vẫn đang tra vấn con…
Nếu con vẫn sống như con đang sống hôm nay, và mỗi năm, mùa Vọng về, vẫn dọn nhà cửa, trang trí trong ngòai căn nhà vật chất này thôi, thì nhà con, tâm hồn con đâu có chỗ cho Người ngự vào.
Xin cho con nhân những ngày này biết dọn lòng đón Chúa vào gia đình, vào linh hồn con, biết thay đổi cách sống của mình. Bây giờ con còn tội lỗi, vấp phạm thì nhờ ơn Chúa, con sẽ đứng lên và đến với Chúa xin ơn tha thứ. Xin Chúa giúp con. Chúa ơi!
Có một người đến gặp Đức Phật. Hai tay cầm hai bó hoa. Đức Phật nhìn anh và nói: “ Quăng nó đi MV 3-B168
Có một người đến gặp Đức Phật. Hai tay cầm hai bó hoa. Đức Phật nhìn anh và nói: “ Quăng nó đi!” Anh ta sửng sốt, không hiểu vì sao Đức Phật lại bảo mình quăng những bó hoa ấy đi. Anh ta đoán có lẽ Đức Phật yêu cầu mình quăng bó hoa trong tay trái, vì đưa cho ai một cái gì đó bằng tay trái là điều được xem như không lịch sự. Thế là anh vứt bó hoa trên tay trái mình xuống đất. Nhưng Đức Phật vẫn nói: “ Quăng nó đi!” Lần này anh ném bó hoa còn lại và đứng trước mặt Đức Phật với hai bàn tay trơ trọi. Một lần nữa, Đức Phật mỉm cười và nói : “ Quăng nó đi!” Hết sức lúng túng, anh ta hỏi: “ Thưa ngài! Con còn phải quăng cái gì nữa?” Đức Phật trả lời: “ Không phải hoa, con ạ; nhưng là chính người cầm hoa.”
Thánh Gioan Tẩy Giả, ngôn sứ của Đấng Thiên Sai, đã vứt bỏ cái tôi của mình, đã vứt đi những ý riêng, những tự mãn kiêu căng, những đam mê của xác thịt. Ngài sống trong hoang địa, “ mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng day da, ăn chấu chấu và uống mật ong.” Ngài nhận mình chỉ là tiếng kêu giữa sa mạc hoang vắng vì lòng nhân loại đối với Đấng Mêsia. Tiếng kêu vang lên rồi biến mất trong không gian, chẳng còn để lại dấu tích gì. Nó chỉ có tác dụng cho ai đó còn giữ lại được nó trong trí óc, con tim của mình.
Được hàng ngàn người đi theo nghe giảng và nhận phép rửa, nhưng thánh Gioan không từ đó mà sinh tự phụ đưa mình lên. Khi được hỏi đi hỏi lại nhiều lần: “ Ông là ai?” ngài đã công khai tuyên bố với dân chúng ngài không phải Đấng Kitô, cũng không phải là những bậc ngôn sứ nổi tiếng như Êlia, Giêrêmia hay là một ngôn sứ nào khác, ngài chỉ nhận mình là” tiếng người hô trong hoang địa.” Ngài khiêm tốn trung thực xác nhận với dân chúng: “ Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” Nhiệm vụ của ngài là “đến để làm chứng và làm chứng về ánh sáng để mọi người nhờ ông mà tin Ông không phải là ánh sáng nhưng đến để làm chứng cho ánh sáng.” ( Ga 1:7-8). Ánh Sáng ấy là Ngôi Lời, là Đấng Mêsia, là Con Thiên Chúa. Nếu đặt mình vào trường hợp của thánh Gioan, có lẽ nhiều người trong chúng ta sẽ từ đó coi mình là một nhân vật quan trọng để rồi làm lu mờ đi hình ảnh của người mình muốn làm chứng và giới thiệu.
Sau khi chết và sống lại, Đức Kitô phục sinh đã trăn trối cho các môn đệ lần cuối cùng trước khi về trời: “ Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” ( Mt 28:19-20). Các môn đệ của Đức Kitô cũng đã lần lượt ra đi. Vậy thì nhiệm vụ tiếp nối công việc làm chứng cho Chúa sẽ trao cho ai đây? Mỗi người Kitô hữu đều lãnh trách nhiệm trở nên môn đệ của Chúa Phục sinh để làm chứng cho Ánh Sáng. Chúng ta là chứng nhân Kitô hữu.
Đấng mà chúng ta phải làm chứng là Đấng đang ở giữa chúng ta mà chúng ta không biết, không thấy: “Người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” ( Ga 1:10-11) Đó là lý do Chúa cần chúng ta ra đi trở thành chứng nhân để tiếp nối công việc của các tông đồ xưa kia.
Bước vào Mùa Vọng, không những chúng ta được nhắc nhớ nhiệm vụ mở đường nơi lòng mình mà còn giới thiệu, mở đường cho người khác để Chúa đến. Thiếu việc làm chứng, thì gương mặt của Đức Kitô vẫn còn bị lu mờ trong thế giới hôm nay. Con đường làm chứng hữu hiệu nhất cho Ánh Sáng là theo gương thánh Gioan sống khiêm nhường, khổ hạnh, trung thực, quên mình
Trong vai trò chứng nhân của người Kitô hữu hôm nay, chúng ta sẽ trả lời thế nào khi có người hỏi chúng ta: “ Vậy ông bà là ai?
Bài Tin Mừng hôm nay (CN III/MV-B – Ga 1, 6-8.19-28) trình thuật: “Có một người được Thiên MV 3-B169
Bài Tin Mừng hôm nay (CN III/MV-B – Ga 1, 6-8.19-28) trình thuật: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.” (Ga 1, 6-8). Mới thoạt nghe Tin Mừng, tự nhiên nảy sinh thắc mắc: Bình thường khi một người làm chứng thì chỉ có thể làm chứng về một sự việc có thật xảy ra (trong đó người hay vật chứng phải là người thật, vật thật). Ánh sáng không phải là một vật thể, lại càng không phải là một người thật, mà chỉ là sự phát sáng từ một vật thể khác, vậy thì làm sao để có thể “làm chứng về ánh sáng”? Vấn đề cần phải được hiểu như thế nào?
Bách khoa toàn thư mở (Wikipedia) đã giải thích về ánh sáng: “Ánh sáng là từ phổ thông dùng để chỉ các bức xạ điện từ có bước sóng nằm trong vùng quang phổ nhìn thấy được bằng mắt thường (tức là từ khoảng 400 nm đến 700 nm). Giống như mọi bức xạ điện từ, ánh sáng có thể được mô tả như những đợt sóng hạt chuyển động gọi là photon. Ánh sáng do Mặt Trời tạo ra còn được gọi là ánh nắng (hay còn gọi là ánh sáng trắng bao gồm nhiều ánh sáng đơn sắc biến thiên liên tục từ đỏ đến tím). Ánh sáng Mặt Trăng mà chúng ta thấy được gọi là ánh trăng thực tế là ánh sáng do mặt trời chiếu tới mặt trăng phản xạ đi tới mắt người. Ánh sáng do đèn tạo ra còn được gọi là ánh đèn; do các loài vật phát ra gọi là ánh sáng sinh học.”
Để hiểu được thế nào là “làm chứng về ành sáng”, cần phải hiểu Lời Chúa được các thánh sử trình thuật đều nằm trong giới hạn của “nghĩa chiểu tự và nghĩa thiêng liêng” (nghĩa đen và nghĩa bóng), mà Tông huấn Lời Chúa “Verbum Domini” (số 27) đã giải thích: “Về phương diện này, người ta có thể nhắc tới 2 câu thơ trung cổ diễn tả mối tương quan giữa các nghĩa khác nhau của Sách Thánh: “Littera gesta docet, quid credas allegoria, Moralis quid agas, quo tendas anagogia” (Chữ đen nói tới việc làm; ẩn dụ nói về đức tin; Luân lý nói tới hành động; loại suy nói về số phận ta).” Như vậy là thánh sử Gio-an đã dùng từ “ánh sáng” theo nghĩa “ẩn dụ” – nghĩa thiêng liêng – để chỉ về Đức Giê-su Ngôi Lời nhập thể. Ngay từ Lời mở đầu trong sách Tin Mừng, thánh nhân đã viết: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng.” (Ga 1, 1-5). Đó là chưa kể chính Đức Giê-su cũng tự nhận Người chính là ánh sáng: “Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối.” (Ga 12, 46).
Rõ ràng thánh sử Gio-an đã giới thiệu thánh Gio-an Tẩy Giả là người “làm chứng về ánh sáng” với ngụ ý là một “chứng nhân của chân lý Cứu Độ”. Mà chân lý Cứu Độ là “điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống.” (1Ga 1, 1). Lời Sự Sống ấy chính là Đức Giê-su Ki-tô mà ở phần kết luận sách Tin Mừng, thánh sử đã xác quyết: “Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực. Còn có nhiều điều khác Đức Giê-su đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra.” (Ga 21, 24-25). Cuối cùng, khi viết “Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực” thì thánh sử Gio-an lại là một nhân chứng của “người làm chứng về ánh sáng” (thánh Gio-an Tẩy Giả).
Không những thế, Người được làm chứng (là Đức Giê-su Ki-tô) cũng làm chứng về nhân chứng độc đáo (thánh Gio-an Tẩy Giả) ấy: “tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa. Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến. Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả.” (Mt 11, 9-11); “Phần tôi, tôi không cần lời chứng của một phàm nhân, nhưng tôi nói ra những điều này để các ông được cứu độ. Ông Gio-an là ngọn đèn cháy sáng, và các ông đã muốn vui hưởng ánh sáng của ông trong một thời gian.” (Ga 5, 34-35). Quả thực, không còn một lời chứng nào sáng tỏ và thuyết phục hơn về “Chứng nhân của ánh sáng” Gio-an Bao-ti-xi-ta.
Người làm chứng phải là người có kinh nghiệm thật sự về điều mình làm chứng: hoặc thấy tận mắt sự việc, hoặc cảm nghiệm được sự việc cách thấu đáo. Người làm chứng (chủ thể) chỉ có thể làm chứng về một người khác (khách thể), chớ không ai lại làm chứng về bản thân mình. Chính Đức Giê-su đã giải thích rõ ràng: “Nếu tôi làm chứng về chính mình, thì lời chứng của tôi không thật. Có Đấng khác làm chứng về tôi, và tôi biết: lời người làm chứng về tôi là lời chứng thật. Chính các ông đã cử người đến gặp ông Gio-an, và ông ấy đã làm chứng cho sự thật.” (Ga 5, 31-33). Tuy được chính Đấng Ki-tô làm chứng về mình, nhưng khi bị một số Tư-tế và thầy Lê-vi vặn hỏi, thánh Gio-an Tẩy Giả vẫn một mực khẳng định ngài “không phải là Đấng Ki-tô, không phải là Ê-li-a, không phải là ngôn sứ”, mà chỉ khiêm nhường tự nhận “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói.” (Ga 1, 23).
Không những tự nhận mình chỉ là “tiếng người hô trong hoang địa”, Thánh Gio-an Tẩy Giả còn xác quyết về Đức Ki-tô: “Người đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người” (Ga 1, 27). Đức tính tuyệt đối khiêm nhường cộng với những hành vi công minh chính trực đã khiến thánh Gio-an Tiền Hô từ một người “làm chứng về ánh sáng” lại trở nên “ngọn đèn cháy sáng” (Ga 5, 35) đã toả ra các làn ánh sáng sau đây:
1- Ánh sáng của sự tự nguyện sống khổ hạnh, hãm mình ép xác: Thánh Kinh đã ghi nhận: “Cậu bé Gio-an càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân It-ra-en.” (Lc 1, 80). Hoang địa là sa mạc hoang vu, cô tịch, đầy thú dữ, thời tiết lại khắc nghiệt (ngày thì nắng cháy da, đêm thì lạnh cóng ruột). Ngay từ nhỏ, Thánh nhân đã chấp nhận sống trong hoang địa với cách ăn mặc đơn sơ, đạm bạc (“Ông mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng” – Mc 1, 4-6), chứng tỏ ngài đã chấp nhận sống khổ hạnh để theo đuổi lý tưởng “làm chứng cho chân lý”. Vì thế, tự nơi ngài đã tỏa sáng tinh thần “làm tôi Thiên Chúa hơn là làm tôi của cải vật chất”.
2- Ánh sáng của sự công minh chính trực, sẵn sàng hy sinh “cái tôi” cho chân lý: Đức tính cương trực của thánh Gio-an Tẩy Giả đã bộc lộ ngay khi ngài bắt đầu rao giảng Tin Mừng, làm Phép Rửa cho dân chúng tại sông Gio-đan: “Thấy nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?” (Mt 3, 7). Phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc là những phe phái quyền lực trong Do Thái giáo thời đó, vậy mà Thánh nhân cũng không chút e ngại khi nói họ là “nòi rắn độc”. Đến như vua Do Thái là Hê-rô-đê đã lấy bà Hê-rô-đi-a, vợ của người anh là Phi-líp-phê, thánh nhân cũng nói thẳng: “Ngài không được phép lấy vợ của anh ngài!” (Mt 14, 3-12), và vì thế mới bị Hê-rô-đê trảm quyết.
3- Nhưng bao trùm lên tất cả là: Ánh sáng của sự khiêm nhu tự hạ, quên mình trong phục vụ chân lý: Thánh Gio-an Tẩy Giả đã không dám nhận mình là Đấng Ki-tô, là ngôn sứ, mà khẳng định: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói.” (Ga 1, 23). Không những thế, ngài còn nói về Đấng mà ngài làm chứng: “Người đến sau tôi, nhưng tôi không đáng cởi quai dép cho Người” (Ga 1, 27); “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi.” (Ga 3, 30). Chính đức tính khiêm nhường, quên mình đi để thi hành sứ vụ “rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” đã khiến cho “Mọi người từ khắp miền Giu-đê và thành Giê-ru-sa-lem kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan.” (Mc 1, 4-5).
Tất cả những ưu điểm nổi bật nêu trên phải chăng là ân sủng của Thiên Chúa đã ban cho thánh Gio-an Tẩy Giả? Đúng là như vậy, bởi vì ngay từ khi được hình thành trong cung lòng bà Ê-li-da-bet, thiên sứ đã truyền cho ông Da-ca-ri-a đặt tên cho thánh nhân là Gio-an (Gioan hay Giokhanan tiếng Do Thái có nghĩa là “Thiên Chúa thương xót”). Quả thực thánh Gio-an Bao-ti-xi-ta đã được Thiên Chúa đoái thương, tiền định từ trước, nên ngài là một chứng nhân tuyệt hảo. Thánh nhân đã tự hạ mình xuống để Chúa được nổi bật lên; đã ẩn mình trong bóng tối để Chúa được xuất hiện trong ánh sáng; đã tự huỷ mình đi để Chúa được nhận biết. Ngài đúng là người đi dọn đường, sửa lối tâm linh con người để mừng đón Ánh Sáng Chúa Ki-tô. Ngài thực là chứng nhân của ánh sáng.
Chúa nhật III/MV Giáo hội cho phép các chủ tế trong Thánh lễ được dùng lễ phục màu hồng và kêu gọi tín hữu “hãy vui lên” vì ngày Chúa quang lâm đã cận kề. Ấy cũng bởi vì chính “người làm chứng về ánh sáng” đã khẳng định: “Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn. Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi.” (Ga 3, 30). Người Ki-tô hữu ngày hôm nay hãy vui mừng, vì không chỉ có “người làm chứng về ánh sáng” là “ngọn đèn cháy sáng”, mà chính mình cũng được Ngôi Lời phán dạy “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5, 14). Hãy học theo thánh Gio-an Tiền Hô chiếu tỏa ánh sáng “khổ hạnh, trung thực, quên mình và nhất là khiêm nhường chịu lụy” của bản thân ra môi trường xung quanh (từ gia đình lan tỏa ra cộng đoàn xã hội), ngõ hầu dọn đường đón Chúa quang lâm. Ước được như vậy.
Ôi! “Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Ðấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới, mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN III/MV).
“ Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết”
I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (1,6-8.19-28):
(6) Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gio-an (7) Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. (8) Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.
(19) Và đây là lời chứng của ông Gio-an, khi người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem cử một số tư tế và mấy Thầy Lê-vi đến hỏi ông: “Ông là ai?” (20) Ông tuyên bố thẳng thắn: “Tôi không phải là Đấng Ki-tô.” (21) Họ lại hỏi ông: “Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Ê-li-a không?” Ông nói: “Không phải.” – “Ông có phải là một vị ngôn sứ chăng?” Ông đáp: “Không.” (22) Họ liền nói với ông: “Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?” (23) Ông nói: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói.” (24) Trong nhóm được cử đi có mấy người thuộc phái Pha-ri-sêu. (25) Họ hỏi ông: “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Ki-tô, cũng không phải là ông Ê-li-a hay vị ngôn sứ?” (26) Ông Gio-an trả lời: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết (27) Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” (28) Các việc đó đã xẩy ra tại Bê-ta-ni-a, bên kia sống Gio-đan, nơi ông Gio-an làm phép rửa.
II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (1,6-8.19-28):
2.1 Gio-an Tiền Hô đã làm tròn trách nhiệm của mình giữa cộng đồng Do-thái thời Đức Giêsu Na-da-rét xuất hiện:
Không có vị ngôn sứ nào có trọng trách lớn lao hơn Gio-an Tiền Hô. Trọng trách đó là dọn MV 3-B170
Không có vị ngôn sứ nào có trọng trách lớn lao hơn Gio-an Tiền Hô. Trọng trách đó là dọn đường cho Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a của Thiên Chúa đến với dân, là giúp người ta nhận ra Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a đã đến và đang ở giữa dân mà dân không biết, không nhận ra.
Công việc của Gio-an không hề dễ dàng: ngài phải cải chính hết điều này đến điều kia; ngài phải giải thích cặn kẽ và chỉ bảo tận tình. Thậm chí ngài phải chấp nhận cả cảnh ngục tù và cuối cùng bị chém đầu bởi nhà vua hung tàn.
2.2 Hội Thánh và mỗi Ki-tô hữu phải thi hành nhiệm vụ đuợc giao là tìm ra Đấng Mê-si-a cho mình và cho người khác giữa dòng đời.
a) Hội Thánh Công Giáo được tiếp nối công việc của Gio-an Tiền Hô nên Hội Thánh có trách nhiệm tìm ra Đấng Thiên Sai là Đức Giê-su Ki-tô và chỉ cho người ta biết Đức Giê-su Ki-tô là ai? tìm ra Người ở đâu và bằng cách nào? Nhiệm vụ nặng nề ấy được đặt trên vai Hội Thánh, mà cụ thể là trên vai các Hồng y, Giám mục, Linh mục và Tu sĩ nam nữ và Giáo Dân nam nữ.
b) Vì thế mà mọi Ki-tô hữu đều có trách nhiệm chỉ đường cho người chung quanh tìm ra Chúa Cứu Thế, đến với Người và sống với Người. Muốn làm được công việc ấy mọi Ki-tô hữu phải có mối quen biết thân tình gần gũi với Chúa Ki-tô [nemo dat quod non habet = không ai cho cái mình không có]. Đôi khi phải hy sinh, chịu thiệt thòi và từ bỏ nhiều thứ kể cả mạng sống mình như Gio-an Tiền Hô.
III. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (1,6-8.19-28):
3.1 Tôi đã tìm ra Chúa hay đúng hơn là tôi đã đón nhận Chúa trong Hội Thánh. Cả cuộc đời tôi hơn 70 năm tôi không ngừng đi tìm Chúa. Tôi tìm ra Chúa trong các giờ cầu nguyện và các giờ đọc, tỉm hiểu, giảng giải Thánh Kinh. Tôi cũng tìm ra Chúa khi gặp gỡ, tiếp xúc, trao đổi với những người khát khao tìm kiếm Chúa và sống Phúc Âm. Tôi còn tìm ra Chúa trong đời sống gia đình, hiệp hội và giáo xứ.
3.2 Tôi đã và đang giúp một số người tìm ra Chúa khi tôi chia sẻ những tìm kiếm, suy niệm và thực hành Lời Chúa qua các bài Sống Lời Chúa hôm nay và các bài Suy Niệm Phúc Âm Chúa Nhật hàng tuần mà tôi gửi cho rất nhiều người. Tôi đã và đang giúp một số người tìm ra Chúa trong các buổi học Thánh Kinh Một Trăm Tuần và Tìm Hiểu Công Đồng Va-ti-can II. Thật ra những việc ấy không đáng là gì, nhưng có, dù ít, vẫn còn hơn không, đúng không nào?
IV. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (1,6-8.19-28):
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng đã, đang và sẽ đến với con. Con mong đợi Chúa. Nói là con đi tìm Chúa thì chỉ đúng một phần vì thật ra là Chúa đi tìm con nhiều hơn, liên lỷ hơn, vô vị lợi hơn.
Con hết sức ước ao được tìm thấy Chúa, được gặp gỡ Chúa, được sống với Chúa. Con cũng hết sức khát khao giúp được nhiều người tìm thấy Chúa, gặp được Chúa và sống với Chúa. Được như thế là con hạnh phúc lắm rồi! Con ngợi khen cảm tạ Chúa Hài Nhi.
Con người thời đại no cũng bị chi phối bởi niềm vui vật chất và tinh thần, cho dù điều kiện, cơ MV 3-B171
Con người thời đại no cũng bị chi phối bởi niềm vui vật chất và tinh thần, cho dù điều kiện, cơ hội, đến với mỗi người rất khác nhau, người ta vẫn muốn tìm kiếm và sở hữu chúng. Chẳng phải tự nhiên mà người xưa viết nên câu thành ngữ: vui một đêm thành tiên, phiền một đêm thành cú. Thành tiên, thành cú, thành người hữu ích, có danh có phận, đều là một quá trình biến đổi. Với cái nhìn bi quan, người ta chỉ thấy một thế giới có quá nhiều bất ổn: kinh tế chính trị, mâu thuẫn chiến tranh, thiên tai bão lũ, bạo lực gia đình, xã hội bế tắc ! Lạc quan một chút, thì bất đồng quan điểm, khổ đau, túng thiếu, là quá trình phát triển, niềm thao thức sâu thẳm nơi mỗi người, đang tác động hoà hợp với thế giới tự nhiên làm nên sự bình an niềm vui.
Hậu thế sẽ nghĩ gì khi mà chúng ta biết đâu là niềm vui mà chúng ta không nói, không chia sẻ, hiểu bình an hạnh phúc chỉ đến sau quá trình được biến đổi, mà chúng ta không sống, không hợp tác ? Phụng vụ tuần 2 mùa vọng mời gọi “hãy vui lên”, vui lên vì tình yêu, vì Đấng Em-ma-nu-el đang đến, mỗi người hãy lắng nghe để hiểu, để biết thực hành, hầu xác tín hơn thế nào là “niềm vui ơn cứu độ”. Bóng dáng cuộc đời mỗi người sẽ tỏ hiện rõ ràng như đứng trước tấm gương: mỉm cười, tấm gương sẽ tương phản một niềm vui xuất hiện, nhăn nhó bất an, sẽ cho lại sự giận giữ, bực tức mà thôi.
Vì sao có một số đông từ Giê-ru-sa-lem tìm đến Gioan, cả một số người thuộc nhóm biệt phái cũng được sai đến hoang địa, và họ chỉ muốn biết ông Gioan có phải là Đấng Kitô không ? Sau khi được nhìn xem, chăm chú nghe, Vị Tiền hô giảng giải phải chuẩn bị tâm hồn, chịu phép rửa sám hối, ít ra đám đông hôm đó cũng được Gioan giải toả thắc mắc: Đấng cứu thế đang ở giữa các ngươi. Gioan rất vui vì ông ý thức mình được là tiếng kêu trong sa mạc, là người dọn đường, là người chuẩn bị tâm hồn cho những ai khao khát niềm vui cứu độ. Niềm vui mà Gioan đã loan báo là niềm vui tinh thần, niềm vui từ nay thế giới sẽ được Đấng tẩy rửa bằng Thánh Thần, Đấng giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết.
Có ba điều khi mà chúng đi qua, người ta không thể lấy lại được, đó là lời nói, thời giờ và cơ hội. Kitô giáo thì lưu ý sống và thực hành: đức tin, đức cậy và đức ái là dấu chỉ người thuộc về Đức Kitô, Ngài sẽ liên kết chúng ta nên một trong tình yêu bền vững đến muôn đời. Lời hô hoán của Gioan, thời giờ để chuẩn bị tâm hồn, hoặc cơ hội để sám hối đón nhận niềm vui cứu độ, chính là quá trình sống tự do chọn lựa. Ngày hôm nay, người ta tìm gặp quân sư để giải gỡ những khó khăn phức tạp, người ta có thể tìm thấy người tài đức như Gioan, nhưng để nhận ra niềm vui cứu độ, ai cũng phải bày tỏ lòng sám hối và gặp gỡ Đấng Kitô.
Niềm vui của Gioan là xác tín Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần đã đến, niềm vui của đám đông năm xưa là nghe, hiểu và sám hối để lãnh nhận ơn cứu độ, và niềm vui của mỗi chúng ta hôm nay là hãy tin Chúa đang hiện diện nơi anh chị em mình. Niềm vui của Gioan, niềm vui của đám đông, hay niềm vui của chúng ta, tuy có khác nhau về hoàn cảnh địa lý, nhưng tất cả đều phải có Đức Kitô làm trung tâm thì niềm vui mới trọn vẹn. Gioan không nhận mình là tiên tri, là nhà đạo đức, ông quả quyết ông chỉ là tiếng hô, là người dọn đường cho Đấng cứu thế, đó phải là niềm vui của cộng đồng nhân loại, vì Đấng Kitô cao cả Thiên Chúa ban đã đến là sự thật.
Cha ông chúng ta cho rằng, có ba thứ quý nhất trên đời, đó là sự tự tin, tình bạn và tình yêu, vì cuộc sống thiếu quảng đại tha thứ, là cuộc sống ích kỷ, tù túng, vô nghĩa. Vì vậy, nếu thiếu niềm tin, thiếu tình yêu, Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần, sẽ mãi mãi là một bí ẩn, dù Vị Tiền hô có tài giỏi, có khả năng thu hút, niềm vui ơn cứu độ cũng chỉ nằm trên lý thuyết mà thôi. Ngày hôm nay, bằng mắt thường ai cũng nhìn thấy đèn nhấp nháy ở hang đá Mừng Chúa Giáng Sinh. Bằng đầu óc thông thái, người ta có khả năng thu được nhiều lợi nhuận vật chất. Nếu khiêm tốn, biết lắng nghe, người ta sẽ hiểu niềm vui cứu độ là có Chúa ngự thật nơi anh chị em của mình.
Cha ông chúng ta có câu: ăn lúc đói, nói lúc say, Gioan thì không say bao giờ, nhưng ông có khả năng nói, và thu hút dân chúng tự nguyện đến xin thống hối xin ông làm phép rửa. Chúng ta ngày nay có thể nói rất hay về tình yêu, chưng chắc gì đã hiểu thế nào là hạnh phúc. Mọi người có thể nói mặt trời mọc ở hướng đông, nhưng đâu dễ dàng hiểu vạn vật vũ trụ này đều có liên hệ và phát xuất tình yêu của Thiên Chúa. Hy vọng mỗi chúng ta dù là linh mục tu sĩ, là ông trùm, là công nhân, là người quét lá, lau chùi nhà thờ, chúng ta vẫn vui vẻ chu toàn phận vụ vì tình yêu, vì có Chúa hiện diện, là vì ơn gọi thật cao quý của mình. Amen.
Có câu chuyện kể rằng, một nhóm tông đồ trẻ thuộc nhiều quốc tịch đang bàn nhau làm thế nào MV 3-B172
Có câu chuyện kể rằng, một nhóm tông đồ trẻ thuộc nhiều quốc tịch đang bàn nhau làm thế nào để phổ biến Tin Mừng cách rộng rãi, hiệu quả nhất. Có người bảo dùng đài phát thanh, truyền hình và internet, có người bảo dùng báo chí. v.v. Một cô gái Châu Phi lên tiếng: “Ở xứ chúng tôi, khi muốn loan báo Tin Mừng tới một nơi nào thì chúng tôi gởi đến đấy một gia đình Kitô hữu tốt để gia đình này sống giữa những người khác”.
Thưa anh chị em, câu chuyện trên đây cũng diễn tả cho chúng ta thấy được mẫu gương sáng chói của các ngôn sứ đã được Chúa sai đến qua các trình thuật hôm nay. Trước hết, khuôn mặt sáng chói của Isaia. Sau khi thay mặt toàn dân kêu van Thiên Chúa dủ lòng thương đến cứu giúp dân Chúa, trong giờ phút khó khăn hiện tại bị lưu đày ở Babylon suốt 70 năm, Isaia đã xuất hiện rao truyền sứ điệp cứu rỗi: “Hỡi dân ta, hãy an tâm, thời nô lệ đã chấm dứt, tội lỗi đã được ân xá”. Ông còn xác tín rằng: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: vì Chúa đã xức dầu cho tôi; Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày, phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa”. Thời nô lệ của Israel đã chấm dứt và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa, nghĩa là trong năm toàn xá này, mọi nô lệ được phóng thích, mọi của cải ruộng đất bị cầm cố hoặc bán đi sẽ được trả lại, mọi người được hoàn toàn nghỉ ngơi trong năm đó. Isaia được Thiên Chúa tuyển chọn, xức dầu và sai đi công bố hồng ân cứu độ của Thiên Chúa cho muôn dân. Công bố hồng ân này quả là một tin vui, tin mừng cứu độ mà Isaia phải thốt lên: “Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa”.
Tuy nhiên, tin vui, tin mừng này mới chỉ là hình ảnh, công bố một tin vui trọn vẹn và lớn lao đã được tiếp nối nơi khuôn mặt sáng chói của Gioan Tẩy Giả, và được thực hiện nơi Chúa Kitô. Gioan Tẩy Giả đã xác tín vào ơn giải thoát từ Chúa Kitô nên ông đã vui mừng làm chứng về Người: “Tôi không phải là Đấng Kitô, không phải là Elia, cũng không là một đấng tiên tri”. Ông dõng dạc tuyên bố: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi, như tiên tri Isaia đã loan báo”. Ông còn nhấn mạnh thêm: “Giữa giữa các ngươi, có Đấng mà các ngươi không biết. Đấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Đấng ấy đã có trước tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người”. Gioan Tẩy Giả quả thật đã làm chứng cho Chúa Kitô; ‘ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng cho ánh sáng’. Cụm từ “làm chứng” được dùng đến bốn lần cho thấy lẽ sống của Gioan là làm chứng. Gioan không làm chứng cho mình hay về mình, bởi lẽ ông ý thức mình không phải là ánh sáng mà chỉ là ngọn đèn giúp mọi người tin vào ánh sáng thật là Chúa Kitô.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Gioan Tẩy Giả là một mẫu gương của Mùa Vọng đã được Chúa sai đến cho chúng ta, vì ông đã dọn đường cho Chúa đến bằng lời rao giảng, và bằng đời sống khổ hạnh. Chúng ta hãy chiêm ngắm và học hỏi đời sống dấn thân phục vụ của Gioan cho chương trình của Thiên Chúa. Chúng ta cũng được mời gọi làm chứng cho Chúa không chỉ bằng lời nói, mà còn làm bằng chứng cả cuộc sống của mình. Biết vận dụng mọi tài năng, hoàn cảnh để loan truyền niềm vui của tin mừng cứu độ như lời khuyên của Thánh Phaolô: “anh em hãy vui mừng luôn. Hãy cầu nguyện không ngừng. Trong mọi việc, hãy cảm tạ Chúa. Vì đó là thánh ý Thiên Chúa về tất cả anh em trong Chúa Giêsu Kitô”. Gioan Tẩy Giả đã sống một cuộc đời có ý nghĩa, hoàn thành sứ mạng của mình trong ánh sáng chân lý.
Nguyện xin ánh sáng tình yêu của Chúa Kitô chiếu giải vào tâm hồn chúng ta, để tâm hồn chúng ta tràn ngập niềm vui cứu độ và trở nên chứng nhân của ánh sáng. Amen.
Để làm chứng cho sự thất người đó cần phải thành tâm nếu không thì khó mà biết lờikhai đó MV 3-B173
Để làm chứng cho sự thất người đó cần phải thành tâm nếu không thì khó mà biết lờikhai đó là sự thật hay do tưởng tượng mà ra. Sự thật rất cần thiết cho người chánh án bởi người chánh án cần đến sự thật đ63 đưa ra bản án chính xác. Thiếu chất chính xác này sẽ gây thiệt hại cho người khác. Để bảo toàn lời khai là sự thật quan toà thường bắt các nhân chứng thề trước toà là họ nói sự thật, hoàn toàn thật, và đó là điều quan toà có thể đòi hỏi nơi các nhân chứng.
Thánh Gioan Tẩy Giả đến trong thế gian với sứ mạng làm chứng cho sự thật. Thánh nhân tuyên bố công khai, rõ ràng Ngài đến thế gian để làm chứng về sự thật. Làm chứng cho sự thật là bước đầu trong việc rao giảng Tin Mừng của Thánh Gioan. Nhiệm vụ kế tiếp quan trọng hơn nhiều và đó là nhiệm vụ chính yếu của Ngài đó rao giảng và làm chứng về Ánh Sáng. Như thế nhiệm vụ của Thánh Gioan là rao giảng về Ánh Sáng và làm chứng về Ánh Sáng. Khi không có đủ bằng chứng toà án thường cho mời nhân chứng đến với hy vọng có thêm bằng chứng chính xác giúp cho việc kết án công bằng hơn. Nhân chứng chỉ có thể nói những điều họ nghe biết hoặc nhìn thấy và đó là điều họ có thể làm. Thánh Gioan tuyên bố Ngài có hai nhiệm vụ, một là nói sự thật về Ánh Sáng và hai là làm chứng về Ánh Sáng. Ánh sáng dù nhỏ mấy chăng nữa cũng có khả năng soi sáng màn đêm u tối. Khi toả sáng ánh sáng còn tạo nhiệt sưởi ấm chung quanh ánh sáng và làm cho ánh sáng lan toả rộng hơn. Người ta có thể che dấu sự thật hay chỉ nói về một phần sự thật. Rất khó để che dấu một phần ánh sáng bởi che sáng đã vậy còn phải che cả sức nóng nhiệt toả ra. Ánh sáng mang lại niềm vui cho mắt nhìn và làm cho con tim rạo rực niềm vui vì thế khi cắm trại người ta thích ngồi quanh lửa trại tạm quyên cảnh tịch mịch của màn đêm và hướng tâm trí vào lửa trại. Lửa thường không xâm chiếm lửa khác nhưng lửa thiêu rụi, làm sạch dơ bẩn, những gì trên đường lửa đi.
Thánh Gioan dùng hình ảnh ánh lửa để nói về Ánh Sáng thật là chính Đức Kitô, Người là sự thật và là ÁnhSáng thật. Khi Ánh Sáng thật và sự thật đi chung sẽ không có gì ngăn cản, che dấu được bởi chính Ánh Sáng làm sáng tỏ sự thật. Vì thế nơi đâu có Ánh Sáng thật thì sự thật được tỏ lộ. Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng thánh Gioan kêu gọi sửa đường lối cho Đức Kitô và Chúa Nhật này thánh Gioan tuyên bố Ngài nói về sự thật và làm chứng về Ánh Sáng. Những ai thành tâm đón nhận Ánh Sáng Sự Thật s4 nhìn thấy chân trời mới, sức sống mới bùng lên trong tâm hồn họ và dẫn họ tiến thêm bước nữa để nhận ra Đức Kitô là Ánh Sáng Sụ Thật, Đấng Cứu Độ và soi sáng trần gian. Những ai từ chối tin vào lời rao giảng của Gioan họ đi ngược lại lịch sử tìm về tiên đoán nơi các tiên tri. Nhóm lãnh đạo Đền Thờ sai các Tư Tế và các thầy Lê Vi đến chất vấn Gioan xem Ngài là ai bởi có người cho rằng ông là tiên tri Elijah tái sinh. Kẻ khác lại nói ông là Đức Kitô hay một trong các tiên tri tái sinh. Gioan không nhận bất cứ danh xưng nào ngoài việc tái xác định ông là
Tiếng kêu trong hoang địa, dọn đường cho Đấng Cứu Thế Jn 1,23
Không đáp ứng điều họ mong muốn họ lại chất vấn Gioan tại sao ông lại làm phép rửa và Gioan cho họ biết
Phép rửa do Ngài ban trong nước nhưng có Đấng ở giữa các ông mà các ông không nhận ra, không biết, tôi không xứng cởi giây dầy cho Ngài Jn 1,26-27
Học từ thánh Gioan làm chứng và rao giảng về Ánh Sáng Sự Thật là Đức Kitô. Để làm được việc đó có hiệu quả cần làm trong tinh thần cầu nguyện, mừng vui và lắng nghe hướng dẫn của Thán Thàn Chúa luôn cùng đồng hành với ta.
“Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh. Anh em làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô Giê-su” (1Thes 5,16-18).
Hôm nay là Chúa Nhật thứ III Mùa Vọng, còn gọi là Chúa Nhật Hồng, vì hôm nay Chủ Tế có MV 3-B174
Hôm nay là Chúa Nhật thứ III Mùa Vọng, còn gọi là Chúa Nhật Hồng, vì hôm nay Chủ Tế có thể mặc áo lễ màu hồng. Màu hồng là màu của vui mừng, màu của hạnh phúc. Có vui mừng thì mới có hạnh phúc và có hạnh phúc thì mới vui mừng. Vui mừng và hạnh phúc thì ai mà chẳng mơ, ai mà chẳng muốn. Người ta mơ, người ta muốn vui mừng mãi, hạnh phúc mãi mãi mà. Làm sao ta có được điều này ? Muốn có được điều này ta phải “Cầu nguyện không ngừng”. Cầu nguyện không ngừng là sao ?
Chẳng lẽ suốt ngày ta ngồi ở nhà hay phải đến nhà thờ đọc kinh sao ? Chắc là không rồi. Cầu nguyện có nghĩa là ta hướng lòng lên Chúa màca ngợi, thờ lạy, cảm tạ và xin ơn. Cầu nguyện Ki-tô giáo có 4 việc là Ca ngợi, Thờ lạy, Cảm tạ và Xin ơn.
Mỗi khi ta ca ngợi Chúa là ta đang cầu nguyện. Mỗi khi ta thờ lạy Chúa là ta đang cầu nguyện. Mỗi khi ta cảm tạ Chúa là ta đang cầu nguyện. Mỗi khi ta xin ơn là ta đang cầu nguyện. Thường thì ta làm việc thừ 4 này nhiều hơn. Nghĩa là ta xin ơn rất nhiều; ta xin hết ơn này đến ơn khác, mà đôi khi lãng quên 3 việc kia.
Nhiều khi ta xin được ơn thì ta vui mừng lắm, đến tạ ơn rối rít, nhưng khi không được gì thì ta buồn và chẳng có ca ngợi hay thờ lạy Chúa nữa. Vì Chúa không linh, Chúa không thương. Quả thật đó là tâm lý bình thường của con người. Thế nhưng là người con của Chúa, là người tín hữu Ki-tô, ta phải vượt xa tâm lý bình thường đó. Vì Chúa là Đấng luôn yêu thương và biết rõ những gì ta cần. Và nhất là Chúa luôn muốn ta vui mừng và hạnh phúc.
Thế nhưng ta không nên mang lấy tâm lý bình thường của con người, coi Chúa như “Ông Thần” phải làm theo ý ta, phải chiều theo ý ta; xin gì là Chúa phải ban, phải cho. Làm như thế có khác chi ta là CHÚA của Chúa chứ không phải Chúa là CHÚA của ta. Ta mà làm như thế thì ta vừa hỗn lại vừa láo với Chúa.
Hỗn vì là con mà ta muốn làm CHÚA của Chúa; láo vì ta bắt Chúa phải theo ý của ta. Cho nên khi cầu nguyện, ta phải để ý và chú ý đến cách cầu nguyện của ta, để ta nên người con hiếu thảo của Chúa. Chúa không dựng ta là kẻ “ăn xin”; cũng không muốn ta là kẻ bất hiếu. Chúa chỉ muốn ta vui mừng luôn và hạnh phúc mãi thôi.
Người tin Chúa là người luôn thốt ra những lời cầu nguyện. Đó gọi là cầu nguyện bằng miệng.Ta dùng miệng để đọc kinh, để hát khi tham dự Thánh Lễ hay lần hạt.
Người mến Chúa là người mãi có tâm tình cầu nguyện. Đó gọi là cầu nguyện bằng tâm. Khi ta suy Lời Chúa và gẫm sự đời.
Người cậy Chúa là người luôn có những hành động cầu nguyện. Đó là cầu nguyện bằng hành động.
Có thể nói người tín hữu Ki-tô là con người của cầu nguyện. Nói mạnh hơn nữa, ơn gọi của người tín hữu Ki-tô là cầu nguyện. “Thần Khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự xuống trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, phóng thích cho những tù nhân, công bố Năm hồng ân của Đức Chúa”(x.Is 61,1). Do đó, cầu nguyện phải là việc chuyên biệt của ta. Mọi lời nói, việc làm và suy nghĩ của ta phải mang tính cầu nguyện. Nghĩa là phải mang tính ca ngợi, thờ lạy, tạ ơn và xin ơn.
Ngoài việc ta đọc kinh, ca hát để ca ngợi và thờ lạy Chúa trong Phụng vụ ra, ta có thể ca ngợi Chúa những khi ta nhìn thấy được vẻ đẹp của một bông hoa; những cử đẹp; những việc làm đẹp; những con người đẹp, những người thuộc “phái đẹp” mà thưa với Chúa rằng: Lạy Chúa, đẹp quá !!!
Ta cũng có thể thờ lạy Chúa những khi nhìn thấy những cảnh hùng vĩ của thiên nhiên, nơi đó bàn tay con người không thể làm được, và thưa với Chúa rằng: Lạy Chúa, tuyệt quá !!! Không có Chúa thì làm gì có những cảnh hùng vĩ đó. Con xin hết lòng thán phục và thờ lạy Chúa.
Ta cũng có thể tạ ơn Chúa những khi suy Lời Chúa và gẫm sự đời. Vì khi suy niệm Lời Chúa ta nhận được sự khôn ngoan, ta nhận được ánh sáng, nhận được sức mạnh từ Chúa. Khi ta gẫm sự đời thì thật đúng y chang như lời Chúa nói, để rồi từ đó ta nhận ra chân lý đích thực, để ta có thể sống trong vui mừng và hạnh phúc.
Ta cũng có thể dùng chính những hành động mà cầu nguyện nữa. Nào là ăn, uống; nào là ngủ, nghỉ; nào là làm việc, đi chơi. Ta ăn cảm thấy ngon; uống cảm thấy đã; ta nghỉ cảm thấy thư thái; ngủ cảm thấy thèm; ta làm việc cảm thấy khoan khoái; đi chơi ta cảm thấy sảng khoái, vv…… Tất cả những việc đó không là động lực để ta cầu nguyện; không là động lực ta ca ngợi, ta thờ lạy, ta tạ ơn Chúa sao ?
Người có lòng tin, lòng cậy và lòng mến thì chính những việc đó cũng đã là những lời cầu nguyện rồi. Tức là ăn là cầu nguyện; uống là cầu nguyện, chứ không phải “phàm ăn, tục uống”; nghỉ là cầu nguyện; ngủ là cầu nguyện; làm việc là cầu nguyện, đi chơi là cầu nguyện.
Rồi trong những hoàn cảnh của cuộc sống, ta cũng có thể cầu nguyện. Những khi ta gặp được những điều tốt lành, được thành công hay có được được những kết quả tốt hoặc ta khỏe mạnh ta dâng lời cảm tạ Chúa. Những khi gặp phải điều xui, thất bại hay hoạn nạn hoặc bệnh tật, ta hãy kêu xin Chúa cứu giúp.
Ta cũng không chỉ cầu nguyện cho bản thân mà còn cầu nguyện cho thế giới, cho xã hội, cho Giáo Hội. Ta cầu cho ông bà, cha mẹ hay bạn bè. Ta cầu cho người nghèo, người bệnh, người khốn khổ. Ta cầu cho người sống cũng như người chết,
……..
Lúc nào ta cũng cầu nguyện được, lúc vui lúc buồn; lúc thành công; lúc thất bại và ở đâu ta cũng cầu nguyện được, dù là ở nhà thờ hay tư gia; ở nơi làm việc cũng như trên xe; trong phòng riêng cũng như đi ra ngoài, vì Chúa ở khắp mọi nơi.
Nhờ có tâm tình cầu nguyện như thế mà ta luôn có niềm vui và hạnh phúc. Niềm vui và hạnh phúc đó đến từ Chúa: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa, nhờ Thiên Chúa tôi thờ tôi hớn hở biết bao” (x. Is 61,10). Tôi mà không ca ngợi, không thờ lạy Chúa thì tôi sẽ không có niềm vui. Tôi mà không có tạ ơn và cầu xin thì tôi sẽ không có hạnh phúc.
Vậy ta hãy có tâm tình cầu nguyện, để ta có thể cầu nguyện không ngừng. Ta cầu nguyện bằng miệng, bằng tâm và bằng hành động. Ta luôn ca ngợi, thờ lạy, cảm tạ và xin ơn trong mọi hoàn cảnh, ta sẽ trở thành con người của cầu nguyện, sẽ con hiếu thảo của Chúa và chắc chắn ta sẽ luôn vui mừng, bình an và hạnh phúc mãi. Ta sẽ vui luôn và mừng mãi !
Hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta đã đi được ¾ chặng đường của Mùa Vọng. Nếu xét về MV 3-B175
Hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta đã đi được ¾ chặng đường của Mùa Vọng. Nếu xét về mặt thời gian, đây là thời điểm gần kề đại lễ Giáng Sinh. Vì thế, giống như người nông phu, gần đến mùa thu hoạch, ông ta vui mừng thế nào, thì với tinh thần phụng vụ, Chúa Nhật này, Giáo Hội cũng mời gọi chúng ta hãy vui lên, vì Chúa sắp đến rồi.
Tuy nhiên, niềm vui của chúng ta hoàn toàn khác với niềm vui mà con người và xã hội thời nay mừng lễ Giáng Sinh. Vậy đâu là điểm khác biệt giữa các niềm vui này? Và đâu là niềm vui đích thực của người Kitô hữu mỗi khi đại lễ Giáng Sinh về?
Niềm vui của con người và xã hội Trong những ngày này, cứ đi ra các thành phố lớn, chúng ta sẽ thấy tràn ngập không khí mừng lễ Giáng Sinh. Những điểm vui chơi với nhiều loại hình mọc lên như nấm, từ ăn uống đến ca nhạc, múa nhảy. Những đèn sao lấp lánh rực sáng cả vùng trời. Ngay cả những quán Karaoke, quán bar hay café đèn mờ đông khách đến lạ thường….
Ở những nơi thôn quê nghèo, góc này, chỗ kia cũng có những cuộc nhậu đơn sơ giản dị với vài ba ly rượu nhắm với con cá, con gà hay mấy thứ trái cây quen thuộc….
Đấy là biểu hiện niềm vui của những người hưởng thụ. Bên cạnh đó, niềm vui còn đến từ một thành phần không nhỏ, đó là giới kinh doanh. Họ coi đây là thời điểm thuận lợi cho việc buôn bán kiếm lời. Vì thế, họ không ngừng đầu tư cho mùa vụ làm ăn “hot” này.
Còn nơi các xứ đạo, điện đèn và các công tác trang trí cũng đang đần đi vào giai đoạn hoàn thiện.
Trước những thực trạng trên, chúng ta thấy đây đó cũng có những niềm vui thánh thiện được biểu lộ cách thiết thực ra bên ngoài. Tuy nhiên, những người như vậy có lẽ đếm trên đầu ngón tay! Còn lại, đa số là niềm vui nhất thời, tạm bợ khi coi lễ Giáng Sinh như là một lễ hội thuần túy để biểu dương sự giàu có chốn ăn chơi trác táng, hay nhân cơ hội này để moi tiền cách bất chính nơi những “con thiêu thân” ham muốn của lạ?
Chính vì thế, chúng ta không lạ gì khi thấy sau những cuộc vui chơi, ăn uống, nhậu nhẹt, biết bao người đã không khỏi vươn vai thở dài ngao ngán vì mệt nhọc và trống rỗng, bởi vì: “uống chén tiêu sầu càng sầu thêm!”.
Tại sao vậy? Thưa bởi vì chỉ có Chúa mới là nguồn cội và cùng đích của con người. Gặp được, sống với và ở trong Thiên Chúa thì con người mới được an vui hạnh phúc. Nếu không, con người sẽ mãi mãi cô đơn ngay giữa lòng thành phố hay chốn đông người!
Niềm vui của người có Chúa Phụng vụ Lời Chúa và tinh thần của Chúa Nhật 3 Mùa Vọng hôm nay mời gọi chúng ta hãy cảm nghiệm và sống niềm vui thực sự trong Thiên Chúa. Một niềm vui phát xuất từ nơi tâm hồn chứ không chỉ bề ngoài. Một niềm vui mang tính chủ đạo của cuộc đời chứ không chỉ là thứ niềm vui ký sinh, tạm bợ, phù phiếm….
Khởi đi từ bài đọc 1, tiên tri Isaia đã làm toát lên hình ảnh một vị Thiên Chúa đến để giải thoát con người cách toàn diện từ thể xác lẫn tinh thần.
Thể xác thì được chữa lành bênh tật. Tinh thần thì được giải thoát khỏi nô lệ của tội lỗi.
Còn gì vui mừng, sung sướng và hạnh phúc cho bằng khi con người được Thiên Chúa ghé thăm phận nghèo hèn, băng bó những tâm hồn đau thương dập nát, giải phóng cho kẻ bị giam cầm, tuyên bố năm hồng ân của Thiên Chúa.
Đây phải là niềm vui vượt lên trên mọi niềm vui khác, bởi vì niềm vui này là của chính Chúa trao tặng và mang tính cứu chuộc.
Sang bài đọc 2, thánh Phaolô nhắc nhở các tín hữu là những người con tinh thần của chính ngài sinh ra rằng: “Hãy cầu nguyện không ngừng”; “Ðừng dập tắt Thánh Thần”; “Để thần trí, linh hồn và thể xác anh em được gìn giữ toàn vẹn trong ngày Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng ta ngự đến” (x. 1 Tx 5, 16-24). Như vậy, thánh nhân muốn khẳng định rằng: con người chỉ đạt được niềm vui thực sự khi tâm hồn của chính mỗi người có Chúa. Nói cách khác, chỉ có khi nào ngụp lặn trong Chúa, lúc đó niềm vui đích thực mới hiện hữu ở trong cuộc đời.
Nếu không có đời sống cầu nguyện thâm sâu thực sự, con người sẽ bị chạy đua với những niềm vui hời hợt, bên ngoài, vì: không có chiều sâu, không mục đích, không lý tưởng.
Sang bài Tin Mừng, tác giả làm toát lên sứ vụ của Gioan qua câu hỏi của các Tư tế và Lêvi. Họ hỏi ông: “Ông có phải là Êlia hay tiên tri nào đó?”; “Ông có phải là Đấng Kitô?”. Gioan đã không chắp cánh cho sự ngộ nhận này của dân chúng. Ngược lại, ông đã giúp cho dân chúng sờ chạm được cội nguồn của niềm vui khi đích thân giới thiệu về Đức Giêsu chính là người sẽ mang lại cho nhân loại niềm vui cứu độ mà bấy lâu nay họ chưa biết. Vì thế, Ngài nói: “Giữa các ngươi, có Ðấng mà các ngươi không biết. Ðấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Ðấng ấy đã có trước tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người” (x. Ga 1, 26-27)
Khi mạc khải như thế, Gioan đã hoàn toàn hướng sự kính trọng và yêu mến của mọi người dành cho mình về Đức Giêsu. Vì thế, nơi Gioan, niềm vui của ông là chu toàn sứ vụ trong vai trò là người dọn đường. Niềm vui ấy, ông muốn truyền lan sang cho những ai đang nghe ông cũng đạt được, đó là niềm vui khi nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế.
Với Gioan thì để có được niềm vui thực sự trong tâm hồn, người tín hữu phải là người đón nhận được tình thương và nhận ra tình thương của Thiên Chúa trên cuộc đời của mình.
Một trong những chìa khóa để được hưởng và nhận ra tình thương của Thiên Chúa, đó là đời sống kết hiệp với Thiên Chúa trong cầu nguyện.
Sống sứ điệp Lời Chúa Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta trong khi chuẩn bị đón mừng Chúa Giáng Sinh bằng những việc bề ngoài như trang trí đèn sao, hang đá, chuẩn bị những bài thánh ca…, mỗi người cũng cần nhìn lại công việc cấp thiết của đời sống nội tâm nơi sâu thẳm tâm hồn mình.
Chúng ta không thể đón mừng đại lễ Giáng Sinh với một tâm hồn trống rỗng, hay như những người chỉ biết làm theo hiệu ứng đám đông! Vì thế, bao lâu, chúng ta lầm tưởng và chạy đua với nó, thì bấy lâu chúng ta sẽ giống như những con ve sầu của thời vụ, tức là chỉ biết kêu la có mùa, hết mùa là nó chết và đi vào hư vô.
Mang trong mình đặc tính là người Kitô hữu, người có đức tin, chúng ta phải mừng lễ Giáng Sinh một cách khác.
Cái khác của người tín hữu, đó là tinh thần mừng lễ.
Vì thế, một trong những cách thiết thực nhất mà các bài đọc chúng ta vừa nghe đã vạch ra, để giúp mỗi người đạt được niềm vui đích thực và trọn vẹn, đó là:
Trước tiên, cần xác định thật rõ rằng: chỉ có Chúa là mục đích, lý tưởng, lẽ sống của mình. Chỉ có Chúa mới làm cho con người được thỏa mãn. Chỉ có Chúa mới lấp đầy lỗ hổng trong tâm hồn của chúng ta. Ngoài Chúa ra, không có ai có thể mang lại cho chúng ta niềm vui cứu độ.
Thứ đến, cần có một đời sống nội tâm sâu xa qua việc cầu nguyện, để cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa qua biến cố Giáng Sinh, đồng thời cũng biết cảm nghiệm bàn tay nhân từ, xót thương của Thiên Chúa trên và trong chính cuộc đời của mình.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con đang chuẩn bị đón mừng kỷ niệm ngày Chúa Giáng Sinh làm người. Xin Chúa ban cho chúng con biết chuẩn bị tâm hồn xứng đáng để đón Chúa ngự đến với chúng con, ngõ hầu chúng con được an vui và hạnh phúc đích thực. Amen.
(c 6) Có một người được Chúa sai đến, tên là Gio-an. (c 7-8) Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng. (c 19) Và đây là lời chứng của ông Gio-an: Khi người Do Thái từ Giê-ru-sa-lem cử một số tư tế và mấy thầy Lê-vi đến hỏi ông: “Ông là ai?”. (c 20) Ông tuyên bố thẳng thắn. Ông tuyên bố rằng: “Tôi không phải là Đấng Ki-tô”. (c 21) Họ lại bảo ông: “Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Ê-li-a không?” Ông nói: “Không phải”. -“Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?” Ông đáp: “Không”. (c 22) Họ liền nói với ông: “Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?”. (c 23) Ông nói: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói. (c 24) Trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái Pha-ri-sêu. (c 25) Họ hỏi ông: “Vậy tại sao ông làm phép Rửa, nếu ông không phải là Đấng Ki-tô, cũng không phải là ông Ê-li-a hay vị ngôn sứ?”. (c 26) Ông Gio-an trả lời: “Tôi đây làm phép Rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. (c 27) Người sẽ đến sau tôi, và tôi không xứng đáng cởi quai dép cho Người”. (c 28) Các việc đó đã xảy ra tại Bê-ta-ni-a, bên kia sông Gio-đan, nơi ông Gio-an làm phép Rửa.
Ý CHÍNH:
Gio-an Tẩy Giả có sứ mạng đến trước dọn đường cho Đấng Ki-tô Cứu Thế. Ông đã thi hành sứ MV 3-B176
Gio-an Tẩy Giả có sứ mạng đến trước dọn đường cho Đấng Ki-tô Cứu Thế. Ông đã thi hành sứ mạng bằng việc làm chứng cho Đấng Ki-tô là ánh sáng như sau: Ông không phải là Đấng Ki-tô mà chỉ là “Tiếng kêu trong sa mạc: Hãy dọn đường đón Đức Chúa sắp đến” như I-sai-a đã tuyên sấm. Gio-an dọn đường cho Đấng Thiên Sai bằng lời nói và việc làm: Ông kêu gọi mọi người hãy ăn năn sám hối để dọn lòng đón Đấng Thiên Sai. Sám hối bằng việc ăn năn thú tội và chịu phép rửa dìm mình trong nước sông Gio-đan. Gio-an làm chứng về Đấng Thiên Sai là Đấng đã đến và đang ở giữa mọi người và ông không đáng làm đầy tớ cởi quai dép cho Người.
CHÚ THÍCH:
– C 6: + Gio-an: Là con trai của hai ông bà Da-ca-ri-a và Ê-li-sa-bét. Bà Ê-li-sa-bét đã thụ thai cách lạ lùng nhờ quyền năng Thiên Chúa (x. Lc 1,59-60). Tên Gio-an có nghĩa là “Chúa ban ơn”. Tên này do sứ thần Chúa đã truyền lệnh cho ông Da-ca-ri-a trong đền thờ (x. Lc 1,13). Ngoài tên gọi Gio-an, ông còn có hai biệt danh là Tiền Hô và Tẩy Giả. Tiền hô là người “đi trước dọn đường cho Đấng Ki-tô” (x. Lc 1,17); Tẩy Giả là người “làm phép Rửa cho những người đang mong chờ ơn cứu chuộc Ít-ra-en” (x. Lc 3,3).
– C 20-23): + Ê-li-a: Theo sách Ma-la-ki-a (3,1-2) và Gíao Sĩ (48,10-11) thì Ê-li-a sẽ trở lại trước khi Đấng Thiên Sai xuất hiện. Gio-an Tẩy Giả không nhận mình là Ê-li-a theo nghĩa đen này. Điều này không trái ngược với lời Đức Giê-su khẳng định: “Gio-an chính là Ê-li-a, đấng phải đến trước” (x. Mt 11,14). Gio-an xuất hiện trong tinh thần của Ê-li-a, chứ không phải là chính con người Ê-li-a bằng xương bằng thịt. + Ngôn sứ: Thực ra, Gio-an cũng là một ngôn sứ của Thiên Chúa (x. Đnl 18,15). Nhưng ông không phải là ngôn sứ như Mô-sê mà sách Đệ Nhị Luật đã nói đến. + “Thế ông là ai…?”: Gio-an Tẩy Giả đã trả lời ông chỉ là người Tiền Hô, đi trước dọn đường cho Đấng Thiên Sai.
– C 24-27: + “Vậy tại sao ông làm phép rửa…?”: Gio-an trả lời rằng: Ông chỉ làm phép rửa để thanh tẩy người ta bằng nước, chuẩn bị chờ đón Đấng Ki-tô sắp đến. Còn Đức Ki-tô mới làm phép rửa thanh tẩy cho người ta trong Thánh Thần. Người là Đấng quyền năng mà Gio-an không xứng đáng làm tôi tớ hầu hạ cởi quai dép cho Người.
CÂU HỎI:
1) Gio-an trong Tin mừng hôm nay là ai? Tên Gio-an nghĩa là gì và ai đã đặt tên này cho ông?
2) Đức Giê-su đã khẳng định “Gio-an chính là Ê-li-a, đấng phải đến trước” (x Mt 11,14). Vậy tại sao chính Gio-an lại nói mình không phải là Ê-li-a hay ngôn sứ?
3) Gio-an tự xưng là gì và lý do ông làm phép rửa cho dân chúng?
II. SỐNG LỜI CHÚA
LỜI CHÚA: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an. Ông đến để làm chứng và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin”(Ga 1,6).
CÂU CHUYỆN:
1) CON NGƯỜI CHỈ VUI THỰC SỰ KHI CÓ THIÊN CHÚA TÌNH YÊU TRONG TÂM HỒN:
Tại một thành phố kia có một nghệ sĩ hài nổi tiếng. Người nào dù đang buồn đến đâu, khó tính đến mấy nếu được xem nghệ sĩ biểu diễn thì thế nào cũng phải bật cười.
Cũng trong thành phố ấy có một bác sĩ tâm lý nổi tiếng chữa được mọi thứ tâm bệnh. Ngày nọ có một người đàn ông lớn tuổi, vẻ mặt buồn rầu đến xin bác sĩ tâm lý tư vấn. Ông ta nói: “Thưa bác sĩ, tôi là một con người bất hạnh. Cuộc đời tôi đầy những sự chán chường. Bác sĩ có cách nào làm cho tôi vui lên được không?”
Bác sĩ tâm lý liền hỏi: “Thế ông có bị túng thiếu về tiền bạc không?”
Ông ta đáp: “Thú thật, tôi là người thành đạt và khá giầu có”.
Nhà tâm lý lại hỏi tiếp: “Thế còn gia đình vợ con thì sao?”
Ông ta gật đầu thừa nhận: “Tôi có một người vợ vừa đẹp người lại vừa đẹp nết và có mấy đứa con ngoan ngoãn dễ thương”.
Sau khi hỏi để biết thêm một số điều khác, viên bác sĩ tâm lý đã đề nghị cho ông ta một giải pháp: Tôi nghĩ ông nên đến xem các buổi biểu diễn của một nghệ sĩ hài danh tiếng ngay trong thành phố. Chắc chắn ông sẽ cảm thấy cười vui thỏa thích và sẽ không còn buồn nữa.
Nhưng viên bác sĩ lại rất ngạc nhiên khi nghe thân chủ của mình nói: “Thưa bác sĩ, xin cám ơn bác sĩ. Nhưng… tôi chính là nghệ sĩ hài nổi tiếng trong thành phố mà bác sĩ vừa nói đó!”
Câu chuyện nghe có vẻ nghịch lý, nhưng thực tế đúng như vậy. Một người có biệt tài chọc cười người khác lại là nạn nhân của sự buồn chán. Mặc dù ông ta sở hữu mọi thứ ưu điểm mà mọi người đều mong ước, nhưng do trong lòng không có nguồn vui thì làm sao có thể cảm thấy vui thực sự được ? Niềm vui đích thực chỉ đến từ nơi « Thiên Chúa là Tình yêu. Ai yêu thương thực sự thì ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong người ấy ». Chỉ những ai trong lòng chứa đầy tình yêu vị tha nhân ái mới cảm thấy bình an và vui tươi thực sự.
2) GƯƠNG SÁNG CAN ĐẢM TRUNG THỰC CỦA THÁNH GIO-AN PHAO-LÔ II:
-Trong thời gian chuẩn bị mở Đại Năm Thánh 2000, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi mọi thành phần trong Hội thánh phải thành tâm sám hối. Vào tháng 05 năm 1995, tại nước cộng hòa Xéc (Tchèque), ngài đã nêu gương can đảm và trung thực khi công khai đại diện Hội thánh Công Giáo nhận lỗi như sau: “Hôm nay tôi, Giáo Hoàng của Giáo Hội Rôma, nhân danh tất cả những người Công giáo, tôi xin lỗi về những lầm lỗi đã gây ra cho người không Công giáo trong lịch sử sóng gió của các dân tộc ấy”.
– Thực vậy, trong lịch sử gần 2000 năm, do lỗi của một số các chủ chăn, Hội thánh ít nhiều đã phạm phải một số lỗi lầm cần phải trung thực nhìn nhận và quyết tâm sám hối như sau:
+ Hội thánh cũng có một phần trách nhiệm trong sự phân rẽ nội bộ thành bốn tôn giáo Ki-tô như: Công giáo, Chính thống, Tin lành và Anh giáo.
+ Thời kỳ trung cổ Hội thánh đã có lần buộc phải phát động thánh chiến để giải phóng Đất Thánh đã bị người Hồi giáo xâm chiếm trước đó. Do cuộc thánh chiến này mà đã có rất nhiều người của hai bên bị thương vong.
+ Thời kỳ Trung cổ, Hội thánh có toà án “Qui Tà” để xét xử và ra những bản án nặng nề như kết án hỏa thiêu một số người hành nghề phù thủy và những người dị giáo chống lại Hội thánh.
+ Về phạm vi khoa học, Hội thánh có lần đã lập tòa án tôn giáo kết án oan sai cho một nhà khoa học vô tội là Ga-li-lê-ô…
Qua việc công khai thừa nhận những sai sót của Hội Thánh trong quá khứ, Đức Thánh Cha muốn cho thấy quyết tâm canh tân Hội thánh công giáo để giúp Hội Thánh bước vào thiên niên kỷ thứ ba với một tinh thần mới theo sát Tin Mừng của Chúa Giê-su hơn và phù hợp với giai đoạn mới của lịch sử nhân loại hơn.
– Trong những ngày Mùa Vọng này, noi gương Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, mỗi tín hữu chúng ta cần làm gì cụ thể để chuẩn bị tâm hồn đón mừng đại lễ Giáng Sinh, chờ đón Chúa Cứu Thế đến trong giờ chết mỗi người cũng như đến chung trong ngày cùng tận của thế giới?
3) HÃY THẮP LÊN ÁNH SÁNG TIN YÊU CHO THA NHÂN:
Một ngày kia mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta đã đi thăm một ông lão nghèo không ai biết đến. Ông sống trong một căn phòng tồi tệ, đồ đạc ngổn ngang bụi bặm. Căn phòng không cửa sổ và tối tăm vì không một bóng đèn. Mẹ Tê-rê-sa liền bắt tay vào việc thu dọn đồ đạc. Ông lão kia nói to: “Xin cứ để yên cho tôi”. Nhưng mẹ vẫn tiếp tục làm công việc quét dọn. Sau khi mọi thứ đã ngăn nắp sạch sẽ, mẹ Tê-rê-sa đã tìm thấy một chiếc đèn dầu nằm trong một góc phòng. Chiếc đèn bám đầy bụi bặm, chứng tỏ đã lâu ngày không có ai đụng đến. Mẹ liền lau chùi chiếc đen sạch sẽ rồi hỏi: “Lâu nay ông đã không thắp đèn phải không ?”. Ông ta đáp: “Thắp đèn làm chi ? Nào có ai thèm đến thăm tôi đâu ? và tôi cũng chswngr cần phải tiếp xúc nói chuyện với ai”. Mẹ lại hỏi: “Thế ông có hứa sẽ thắp đèn lên nếu có các nữ tu của tôi đến thăm ông không?”. Ông đáp: “Vâng, nếu tôi nghe có tiếng người đến thì tôi sẽ thắp đèn lên”.
Từ đó, mỗi ngày, hai nữ tu của mẹ Tê-rê-sa được cử đến thăm ông lão và thu dọn giúp đỡ cho ông. Một hôm ông nói với một trong hai nữ tu ấy như sau: “Bây giờ tự tôi đã biết thu dọn phòng của tôi rồi. Nhưng xin chị làm ơn về nói với bà bề trên rằng: Ngọn đèn mà bà đã thắp lên trong ngày đầu đến thăm tôi, đến nay vẫn không ngừng cháy sáng”.
Hãy thắp lên Ánh sáng Tình Yêu Thiên Chúa – Ánh sáng Chúa Kitô – Ánh sáng Lời Chúa – Ánh sáng của Giới luật yêu thương.
4) GƯƠNG SÁNG BÁC ÁI TỪ NHỮNG VIỆC NHỎ:
Linh mục Anthony de Mello có kể một câu chuyện sau đây:
Có gia đình kia đi nghỉ hè một thời gian dài tại bờ biển. Ngày nọ, mấy đứa con đang nô đùa, xây những lâu đài bằng cát trên bãi biển, thì có một bà lão xuất hiện. Tóc bà rối bời trong gió, áo quần nhàu nát rách rưới. Bà vừa lẩm bẩm, vừa cúi nhặt những vật gì đó trên mặt cát bỏ vào trong giỏ.
Cha mẹ lũ nhỏ liền gọi chúng lại dặn hãy tránh xa mụ đàn bà đó. Khi đi ngang qua, bà lão nghèo khổ đã mỉm cười với họ, nhưng mọi người làm như không xem thấy bà.
Nhiều tuần lễ sau, cả gia đình mới được người biết chuyện kể: Đã từ lâu, bà lão này đã tự nguyện đi làm công việc lượm các mảnh thủy tinh và rác rến rơi trên bãi biển, để bọn trẻ khỏi bị đứt chân.
Bà lão chính là hiện thân của Đức Giê-su Cứu Thế mà người ta không nhận biết, như ông Gio-an Tẩy Giả đã nói với các đầu mục Do thái từ Giê-ru-sa-lem tới như sau: “Giữa các ngươi có một Đấng mà các ngươi không biết” (Ga 1,26). Đây cũng là lời mời gọi chúng ta noi gương bà lão này.
5) HÀNH ĐỘNG TỐT CÓ SỨC THUYẾT PHỤC HƠN LỜI NÓI HAY:
Một vị linh mục đã thuật lại về chuyến đi du lịch của ông tại Trung quốc cách đây ít năm. Trong thời gian đi du lịch đó đây, ông đã gặp và trao đổi với đôi vợ chồng già đều là bác sĩ. Họ đã học chung với nhau ở Đại học Y khoa, quen nhau, rồi yêu nhau và quyết định cưới nhau. Bà vợ là người công giáo, còn ông chồng không theo đạo nào. Đã nhiều lần bà vợ cố thuyết phục chồng theo đạo Công giáo, nhưng ông không quan tâm. Có lẽ vì chưa thấy đạo công giáo có gì tốt hơn các đạo khác.
Rồi đến thời kỳ tại Trung Quốc diễn ra những biến cố chính trị lớn lao, cùng với một số nhà trí thức khác, người chồng bác sĩ đã bị gọi động viên nhập ngũ phục vụ trong quân đội. Sự xa cách đã gây ra nhiều khó khăn cho người vợ ở nhà. Hằng ngày chị vừa phải phục vụ khám chữa bệnh tại bệnh viện, rồi đêm về lại phải chăm sóc cho đứa con trai nhỏ dại nhờ ông bà trông coi ban ngày. Ngoài nỗi cô đơn, chị vợ còn bị các đoàn thể trong cơ quan hối thúc li dị chồng và bỏ đạo công giáo, để có điều kiện thăng quan tiến chức. Nhưng chị chỉ giữ thái độ im lặng. Mỗi ngày, sau khi từ bệnh viện về nhà, hai mẹ con đều đọc kinh tối chung trước khi nghỉ đêm, để xin Chúa giúp sớm đoàn tụ với chồng.
Vào cuối thập niên 1970, ông chồng mãn hạn phục vụ quân đội được trở về nhà. Nhận được tin nhắn, hai mẹ con từ sáng sớm đã ra sân ga đón đoàn tàu trở về. Nhưng hai mẹ con lại là gia đình duy nhất ra đón người thân, vì hầu hết các phụ nữ khác do không chịu đựng được cảnh chia ly lâu ngày nên đã li dị và tái hôn. Trước tấm lòng yêu thương chung thủy của vợ, ông chồng rất cảm động và sau đó đã tình nguyện học giáo lý để chịu phép rửa tội trong đạo công giáo. Ông đã cảm nghiệm được giá trị của đức tin qua hành động chung thủy của bà vợ thân yêu. Đó chính là bằng chứng hùng hồn cho thấy giá trị của đức tin công giáo trước mặt anh em lương dân.
THẢO LUẬN:
Mỗi người chúng ta sẽ làm gì cụ thể để chiếu sáng tin yêu mừng Chúa Giáng Sinh cho người nghèo khổ cô đơn gần nhà, để làm chứng cho ánh sáng Tình Yêu của Thiên Chúa cho những người bất hạnh trong Mùa Giáng Sinh năm nay?
SUY NIỆM:
1) MÙA VỌNG LÀ THỜI GIAN CHUẨN BỊ TÂM HỒN ĐÓN MỪNG CHÚA ĐẾN:
Trong phụng vụ Chúa nhật thứ nhất Mủa Vọng, Tin mừng Mat-thêu đã ghi lại Lời Chúa mời gọi mọi người tỉnh thức và cầu nguyện: “Anh em hãy canh thức vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến” (Mt 24, 42). Sang đến Chúa nhật thứ II, tiếng hô của ngôn sứ I-sai-a trong hoang địa ngày xưa đã được Gio-an Tẩy Giả thực hiện qua lời rao giảng: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa. Sửa lối cho thẳng để Người đi” (Mt 3,3). Hôm nay trong phụng vụ Chúa Nhật thứ III chuyển sang màu hồng, thánh Phao-lô đã khuyên các tín hữu chúng ta “Hãy vui lên, vì Chúa đã gần đến” (1 Tx 5,16). Tin Mừng Gio-an cũng giới thiệu cho chúng ta một mẫu gương chứng nhân của ánh sáng là Gio-an Tẩy Giả: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên ông là Gioan, ông đã đến để làm chứng, để chứng thực về sự sáng, ngõ hầu mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là sự sáng, nhưng là người làm chứng cho sự sáng”. Gio-an đã dùng lời nói, việc làm và cả cái chết của mình để làm chứng cho ánh sáng Sự Thật là Đấng Ki-tô.
2) PHẢI CHUẨN BỊ ĐÓN CHÚA ĐẾN BẰNG CÁCH NÀO ?
– Phải đón chờ Chúa đến trong niềm vui: Thánh Phao-lô đã khuyên các tín hữu Thes-sa-lo-ni-ca như sau: ”Anh em hãy vui mừng luôn mãi” (1 Tx 5,16). Khi Đấng Cứu thế đến, Người không chỉ chữa lành những đau đớn bệnh tật thể xác, mà còn chữa lành những căn bệnh tâm hồn và lấp đầy những khát vọng buồn chán trong lòng mỗi chúng ta như lời tuyên sấm của I-sai-a: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19).
Trong những ngày này, mỗi người chúng ta cần thể hiện niềm vui chờ đón Chúa đến bằng việc năng đến nhà thờ dự lễ và tham dự các sinh hoạt đạo đức như tĩnh tâm Mùa Vọng để ca tụng tình thương cứu độ của Thiên Chúa.
– Hãy vui luôn trong Chúa: Thánh Phao-lô cũng khuyên các tín hữu như sau: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: Vui lên anh em ! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi, Chúa đã gần đến” (Pl 4,4-5).
Trong những ngày này, mỗi người chúng ta cũng phải năng dâng lời ca tụng tình thương cứu độ của Chúa khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại… vì “Tất cả đều là hồng ân”. Khi gặp phải những tai nạn trái ý, chúng ta hãy luôn ý thức rằng: “Sau cơn mưa trời sẽ lại sáng” và “qua cơn bĩ cực tới hồi thái lai”, vì « Thiên Chúa có thể rút từ sự dữ ra sự lành ». Do đó chúng ta đừng bao giờ thất vọng dù gặp phải bất cứ hoàn cảnh nào, vì luôn tin có Chúa cùng đồng hành và sẽ ban ơn nâng đỡ chúng ta vượt mọi khó khăn.
– Hãy gặp gỡ Chúa là niềm vui: Thai nhi Gio-an mới được sáu tháng tuổi trong dạ mẹ cũng đã nhảy mừng khi gặp được thai nhi Cứu Thế Giê-su như bà Ê-li-sa-bét đã nói với Đức Ma-ri-a: « Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng » (Lc 1,44). Đức Giê-su chính là niềm vui của Thiên Chúa. Từ cung lòng Chúa Cha, Người đến trần gian đem tin vui cho nhân loại, giải thoát họ khỏi mọi nỗi đau khổ do tội lỗi và sự chết gây ra. Khi Chúa giáng sinh trong hang đá Bê-lem, các thiên thần đã hân hoan ca hát rằng : « Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương » (Lc 2,14).
Nếu chúng ta có gặp thất bại cũng đừng vội chán nản, nhưng hãy chạy đến với Chúa là niềm vui. Hãy cầu nguyện để chia sẻ mọi nỗi lo toan cho Chúa. Người sẽ lắng nghe và ban ơn giúp chúng ta tìm thấy niềm vui trong tâm hồn. Người sẽ biến đổi cuộc đời của chúng ta nên tốt và nhờ đó chúng ta sẽ tìm thấy bình an trong tâm hồn.
– Hãy chia sẻ niềm vui cho tha nhân cách cụ thể : Trong những ngày Mùa Vọng này, chúng ta hãy đón nhận Chúa Giê-su là nguồn vui bất tận, và đem chia sẻ niềm vui của Chúa đến cho tha nhân như lời bài hát của nhạc sĩ Se-bas-ti-an Bach: “Lạy Chúa Giê-su. Xin cho niềm vui trong con luôn tồn tại, để con có thể đem niềm vui ấy cho tha nhân”.
Vậy mỗi người chúng ta sẽ làm gì để chia sẻ niềm vui Giáng Sinh cho những người thân trong gia đình, những người nghèo khổ bệnh tật và cô đơn gần bên? Để thắp lên ánh sáng tin yêu của Thiên Chúa cho những ai đang bị bất hạnh để họ có được niềm vui trong Mùa Giáng Sinh sắp tới ? J. Bas-quin cũng nói: “Sống chứng nhân không phải là chạy đuổi theo các tâm hồn, mà là sống thế nào để các tâm hồn phải yêu mến chạy theo chúng ta”.
LỜI CẦU:
– Lạy Chúa GiÊ-su. Chúng con đang sống trong những ngày Mùa Vọng, là thời gian chờ đón Chúa tái lâm kiến tạo một “Trời Mới Đất Mới”. Trong những ngày này, xin cho chúng con biết noi gương Gio-an Tẩy Giả: chuẩn bị đón Chúa đến bằng các việc hy sinh hãm mình biểu lộ tâm tình sám hối của chúng con, bằng những lời động viên giúp vợ chồng, con cái, bạn bè… sống tốt lành đạo đức hơn. Nhất là xin cho chúng con trở thành ánh sáng chiếu soi, khí cụ bình an của Chúa, luôn sống tin yêu phó thác vào Chúa quan phòng và sẵn sàng khiêm nhường phục vụ tha nhân, để nên dấu chỉ giúp người đời nhận biết tin theo Chúa.
– LạY CHÚA. Khi xưa Mẹ Ma-ri-a đã sống bác ái, trong tinh thần xin vâng và phục vụ. Mẹ đã mở cửa lòng đón nhận Ngôi Lời Nhập Thể qua lời thưa “Xin Vâng” với sứ thần. Mẹ đã đem Chúa đến thăm viếng gia đình Gia-ca-ri-a để chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho các thành viên trong gia đình này. Xin Chúa giúp chúng con chuẩn bị tâm hồn xứng đáng đón Chúa đến với chúng con trong Đêm Giáng Sinh. Xin giúp chúng con chu toàn sứ mạng làm chứng cho Chúa bằng một lối sống đạo đức thực sự, thể hiện qua thái độ vị tha, quảng đại chia sẻ và khiêm nhường phục vụ tha nhân. Nhờ đó, người đời sẽ nhận biết tin theo Chúa để cũng được chia sẻ niềm vui ơn cứu độ với chúng con.
Một trong những nhân vật được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong phụng vụ Mùa vọng, đó là MV 3-B177
Một trong những nhân vật được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong phụng vụ Mùa vọng, đó là Thánh Gioan Tẩy Giả. Sở dĩ Ngài được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong phụng vụ Mùa vọng như vậy, bởi vì Ngài có sứ mạng Tiền hô, là người đi trước để làm chứng và dọn đường cho Chúa Cứu Thế ngự đến.
Tin mừng Chúa nhật tuần trước nhắc lại lời kêu gọi của Ngài về việc hô hào dân chúng dọn đường cho Chúa ngự đến. Lời mời gọi của Ngài đã thu hút sự đáp trả của rất nhiều thành phần trong xã hội Do thái thời bấy giờ. Tin mừng cho biết, người ta tuôn đến với Ngài rất đông. Họ thán phục về đời sống khắc khổ của Ngài. Họ chấp nhận giáo huấn của Ngài. Rồi họ thắc mắc về bản thân Ngài?Vì thế, Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết:Các vị tư tế, các thầy Lêvi và các Biệt phái lần lượt đặt ra những câu hỏivà mong muốn Ngài trả lời: Ông là ai? Ông có phải là Êlia không? Ông có phải là tiên tri không? Nếu ông không phải là Ðức Kitô, cũng không phải là Êlia hay một tiên tri, vậy tại sao ông làm phép rửa? (x. Ga 1, 19-25).
Thánh Gioan Tẩy Giả không úp mở, Ngài đã trả lời một cách thẳng thắn và rõ ràng các câu hỏi mà họ đặt ra:
Với câu hỏi của các vị Tư tế và các thầy Lêvi, Ngài trả lời rằng:Tôi không phải là Đấng Kitô.Tôi không phải là Êlia.Tôi cũng không phải là một tiên tri nào khác.Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi, như tiên tri Isaia đã loan báo(x. Ga 1, 19-25).
Với câu hỏi của các Biệt phái,Ngài trả lời rằng :“Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết.27 Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.”(Ga 1,26-27).
Các câu trả lời của Thánh Gioan Tẩy Giả cũng rất ăn hợp với lời mở đầu trong bài Tin mừng hôm nay của Thánh sử Gioan: “Có một người được Thiên Chúa sai đến,tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng,để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.”(Ga 1,6-8).
Như vậy, qua lời chứng của Thánh Gioan Tông đồ và của chính bản thân Thánh Gioan Tẩy Giả cho chúng ta biết, Ngài không phải là tiên tri Êlia hay một tiên tri nào khác. Ngài càng không phải là Đấng Kitô mà chỉ là người làm chứng về ánh sáng và là người dọn đường cho Đức Giêsu Kitô ngự đến.
Thánh Gioan Tẩy Giả là người làm chứng cho Đức Giêsu Đức Giêsulà Ngôi Lời :“Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.”(Ga1,9). Đức Giêsu cũng chính là ánh sáng của trần gian, chính Ngài đã tuyên bố : “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.”(Ga 8,12). Vì thế, Thánh Gioan làm chứng về ánh sáng, tức là làm chứng về Đức Giêsu. Ngài làm chứng về Đức Giêsu như thế nào ? Khi thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, Thánh Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu cho dân chúng rằng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian. Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.” (x. Ga 1,29-30).Ngài còn cho biết : “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần. Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn.”(Ga 1,32).Khi được Gioan giới thiệu, dân chúng đến với Chúa Giêsu thay vì đến với Gioan (Ga 3,26). Gioancòn giới thiệu Chúa Giêsu cho hai môn đệ của mình, và họ đã trở thành môn đệ của Chúa Giêsu (Ga 1,35-42).
Thánh Gioan Tẩy Giả còn làm chứng cho sự thật. Vì sự thật, Ngài đã tố cáo tội loạn luân của vua Hêrôđê nên bị Hêrôđê ra lệnh chặt đầu Ngài (x. Mc 6,21-29).Đức Giêsu là sự thật. Ngài đã từng khẳng định rằng : “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống.”(Ga 14,6). Như vậy, Thánh Gioan Tẩy Giả làm chứng cho sự thật thì cũng làm chứng cho Đức Giêsu.
Tóm lại, Thánh Gioan Tẩy Giả là người làm chứng cho ánh sáng, cho sự thật tức là làm chứng cho Đức Giêsu.
Người Kitô hữu có sứ mạng làm chứng cho Đức Giêsu Qua bí tích Rửa tội, chúng ta được mời gọi làm chứng cho Đức Giêsu. Cũng như Gioan Tẩy Giả, chúng ta có thểlàm chứng cho Đức Giêsu bằnglời nói và bằng chứng tá đời sống: Kêu gọi mọi thành phần trong xã hội thực hành việc sám hối; bênh vực cho công lý và sự thật; sống công bằng bác ái yêu thương,…Để làm chứng cho sự sáng, chúng ta phải sống trong sự sáng. Nhờ đó, chúng ta có thể giới thiệu Chúa cho anh chị em mình.
Để sứ mạng làm chứng của chúng ta đem lại hiệu quả tốt, cần sự soi sáng hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Bài đọc I, tiên tri Isaia đã tiên báo về vai trò quan trọng của Chúa Thánh Thần trong sứ mạng của Đức Giêsu : “Thần khí của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì ĐỨC CHÚA đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của ĐỨC CHÚA, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta; Người sai tôi đi yên ủi mọi kẻ khóc than.” (Is 61, 1-2). Chúa Thánh Thần cũng đóng vai trò quan trong trong sứ mạng của các tín hữu qua mọi thời đại. Vì thế, trong bài đọc II hôm nay, thánh Phaolô lưu ý các tín hữu Thessalonica và cũng là lưu ý chúng ta rằng :“đừng dập tắt Thần Khí”.“Dập tắt Thần Khí”có thể được hiểu là không nghe theo sự hướng dẫn của Thánh Thần. Đó là nhiều khiThánh Thần thúc giục, nhắc nhở nhưng bị sự ươn lười hay khô khan nơi con người dập tắt đi. Chúng ta không được “Dập tắt Thần Khí”, nhất là trong việc làm chứng cho Chúa.Đức Giêsu đã từng nói : “Khi người ta điệu anh em đi nộp, thì anh em đừng lo trước phải nói gì, nhưng trong giờ đó, Thiên Chúa cho anh em biết điều gì, thì hãy nói điều ấy: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thánh Thần nói.”(Mc 13,11).Khi rao giảng Tin mừng và xây dựng Hội thánh, các Tông Đồ cũng luôn khẳng định rằng: “Thánh Thần và chúng tôi làm chứng” (Cv 5, 32). Cho nên, hãy để Thánh Thần hoạt động trong chúng ta, hãy lắng nghe tiếng thục giục của Ngài, nhất là những khi chúng ta làm chứng cho Đức Kitô. Nhờ đó, mọi hoạt động làm chứng của chúng ta sẽ đem lại nhiều hiệu quả tốt đẹp.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết chu toàn bổn phận làm chứng cho Chúa như Thánh Gioan Tẩy Giả. Xin cho chúng con đừng dập tắt Thánh Thần; đừng khinh khi các lời tiên tri, nhưng hãy nghiệm xét mọi sự, điều gì tốt hãy giữ lại. Hãy tránh xa sự dữ dưới mọi hình thức.Xin chính Thiên Chúa bình an thánh hoá chúng con toàn diện, để thần trí, linh hồn và thể xác chúng con được gìn giữ toàn vẹn trong ngày Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng ta ngự đến (x. 1 Tx 5, 19-23).Amen.
“Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin.” (Ga 1,6)
Phái đoàn đến phóng vấn Gioan Tẩy Giả hôm nay gồm hai nhóm. Nhóm thứ nhất có các MV 3-B178
Phái đoàn đến phóng vấn Gioan Tẩy Giả hôm nay gồm hai nhóm.
Nhóm thứ nhất có các thầy tư tế và người Lêvi. Họ chú ý đến Gioan Tẩy Giả là điều tự nhiên, vì ông là con của Giacaria, mà Giacaria là thầy tư tế (Lv l,5).
Trong Do Thái giáo, chức vụ tư tế là do cha truyền con nối. Người nào không phải là hậu duệ của Aaron, thì không có gì làm cho người ấy trở thành thầy tư tế được.
Còn nếu người ấy là con cháu của Aaron thì đương nhiên sẽ trở thành tư tế. Do đó dưới con mắt của các nhà cầm quyền, Gioan Tẩy Giả quả là một thầy tư tế, và tự nhiên các thầy tư tế phải tìm hiểu xem tại sao lại có một thầy tư tế hành động bất thường như vậy.
* Nhóm thứ hai gồm những người đại diện cho giới Biệt phái. Rất có thể là sau lưng họ còn có Toà án Tối Cao.
Một trong những nhiệm vụ của Tòa án Tối Cao là phải đối phó với những ai bị nghi ngờ là tiên tri giả. Gioan Tẩy Giả là một nhà truyền đạo được dân chúng mến chuộng và theo rất đông. Có lẽ Tòa án Tối cao thấy họ có trách nhiệm phải tra xét xem ông có phải là tiên tri giả hay không. Gioan Tẩy Giả đã không theo đúng cung cách bình thường của một thầy tư tế và ông cũng không theo đúng phong thái của một nhà giảng đạo. Chính vì thế mà các nhà chức trách tôn giáo thời đó bó buộc phải nhìn ông với cặp mắt nghi kỵ. Đó cũng là một điều hết sức tự nhiên.
1. Họ hỏi ông có phải là Đấng Messia không? Tại sao họ lại hỏi ông như thế?
Thưa vì dân Do Thái đã trông chờ Đấng Messia từ rất lâu. Thậm chí cho đến lúc đó người ta cũng vẫn còn đang trông chờ. Bất cứ một dân tộc nào đang bị đô hộ cũng trông mong được giải phóng như thế. Dân Do Thái tin rằng họ là tuyển dân của Chúa Giavê nên họ không nghi ngờ gì về việc chẳng chóng thì chày Thiên Chúa sẽ can thiệp để cứu dân Ngài. Họ trông chờ một Đấng Messia sẽ đem hòa bình đến cho cả thế giới. Cho nên khi họ hỏi Gioan Tẩy Giả xem ông có phải là một Đấng Messia hay không thì đó là một điều rất hợp lý.
Gioan bác bỏ hoàn toàn việc tung hô đó: “Tôi không phải là Đấng Messia.”
Họ hỏi ông có phải là Êlia không? Dân Do Thái tin rằng trước khi Đấng Messia giáng lâm, Êlia sẽ trở lại để loan báo trước và chuẩn bị cho thế gian tiếp rước Ngài. Đặc biệt Êlia sẽ đến để dàn xếp mọi bất hoà. Ngài sẽ phân định những gì và những ai là thanh sạch hay không thanh sạch. Ngài sẽ phân chia đâu là người Do Thái, đâu là người ngoại bang. Ngài sẽ đem lại đoàn kết, hoà thuận cho các gia đình từng xa lạ với nhau.
Họ tin tưởng điều đó mạnh đến nỗi luật xưa của người Do thái nói rằng nếu có gì về tiền bạc hay của cải còn đang tranh chấp, hoặc bất cứ tài sản nào còn bị xem là vô chủ thì đều phải đợi “cho tới khi nào Êlia đến”. Niềm tin rằng Êlia phải đến trước Đấng Messia bắt nguồn từ Malakia 4,5. Người ta còn tin rằng chính Êlia sẽ xức dầu cho Đấng Messia làm vua cũng như tất cá các vua đã được xức dầu.
Gioan Tẩy Giả cũng phủ nhận tất cả những vinh dự đó.
Họ hỏi ông có phải là nhà tiên tri được hứa ban và mọi người trông đợi không? Căn cứ vào lời bảo đảm của lãnh tụ Môisê với dân trong sách Thứ Luật 18,15: “Từ giữa anh em, trong số các anh em của anh (em), Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh (em); anh em hãy nghe vị ấy”.
Đó là lời hứa mà dân Do Thái sẽ không bao giờ quên. Họ chờ đợi sự xuất hiện của một nhân vật sẽ là tiên tri vĩ đại nhất và trông mong nhân vật ấy như là nhà “tiên tri lý tưởng”. Có nhiều người còn nghĩ rằng cả Isaia và nhất là Giêrêmia cũng sẽ trở lại lúc Đấng Messìa đến.
Nhưng lại một lần nữa Gioan Tẩy Giả không thừa nhận vinh quang là của mình.
Vậy họ hỏi ông là ai?
Ông nói mình chỉ là tiếng nói khuyến giục mọi người dọn đường cho Nhà Vua. Ý ông muốn nhắc lại một lời trong Isaia 40,3 mà tất cả các Tin Mừng đều trích dẫn câu này để ám chỉ Gioan Tẩy Giả. Ý niệm ẩn tàng trong câu ấy là: “Đường đi bên Đông phương, mặt đường gồ ghề và thường chỉ là những lối mòn. Khi một vị vua sắp đến thăm một tỉnh, hoặc khi nhà chinh phục sắp kéo quân đi qua lãnh thổ của mình thì đường xá phải được san bằng, dọn thẳng và thu xếp lại cho có trật tự.” Điều mà Gioan Tẩy Giả muốn nói với mọi người là: “Ta chẳng là ai cả, ta chỉ là tiếng kêu, kêu gọi các người hãy chuẩn bị sẵn sàng đợi nhà vua đến”. Ông muốn nhắc lại rằng: “Hãy tự sửa soạn đi! Nhà vua đã lên đường rồi đó”. Ông muốn mọi người hãy quên ông đi để chỉ thấy Nhà Vua mà thôi.
Tới đây chúng ta có thể dừng lại. Thử hỏi chúng ta có thể tìm được bài học nào cho chúng ta trong hoàn cảnh hôm nay hay không? Có rất nhiều bài học nhưng tôi xin được nói tới sự trung thực nơi con người của Gioan.
Trước hết là sự trung thực trong lời nói: Rất trung thực khi nói về chính mình, không dám nhận những vinh quang mà người đời gán cho.
Thứ đến là trung thực với lòng mình. Chính vì muốn trung thực với lòng mình nên ngài đã vui lòng chấp nhận một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối.
Và cuối cùng là trung thực trong những phán đoán về người khác. Ngài đã không sợ khi phải thẳng thắn khuyên vua Hêrôđê không đựơc phép lấy vợ của anh mình. Vì sự sự trung thực này mà Ngài đã phải trả giá bằng cái chết chẳng toàn thây. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân của mình.
Đức Cha Tiamer Toth trong một cuốn sách viết cho giới trẻ có tựa đề là “Chí khí người thanh niên” có nói đến một tấm gương mà ngài ước mong các bạn trẻ hãy nhìn vào đó mà bắt chước. Truyện như thế này: Regulus là một tướng của Lamã bị quân Carthage bắt làm tù binh. Sau một thời gian mệt mỏi vì chiến tranh, người Carthage muốn cầu hòa với người Lamã. Người mà thành Carthage chọn để dứng đầu phái đoàn lại chính tướng Regulus. Trước khi lên đường dân Carthage bắt Regulus phải thề: nếu sứ mạng cầu hòa của họ bị thất bại thì Regulus phải trở về nhà tù trở lại. Regulus đã thề.
Chúng ta có thể tưởng tượng được sự xúc động của tướng Regulus khi về tới La Mã, thành phố quê hương yêu quý của ông như thế nào không! Rất vui mừng nhưng cũng đầy khó khăn. Regulus sẽ phải hành động làm sao đây?
Với tất cả tài lợi khẩu, ông yêu cầu thượng nghị viện cứ tiếp tục chiến tranh; nghị viện yêu cầu ông ở lại La Mã, viện cớ rằng: lời thề vì cưỡng bách không có giá trị. Nhưng ông trả lời:
“Các ngài có muốn để tôi mất danh dự không? Tôi thừa biết rằng những khổ hình và giờ chết đang đợi tôi khi tôi trở lại. Nhưng những cái ấy không thấm thía vào đâu khi so sánh với sự ô nhục của một hành động bất lương với sự tổn thương của tâm hồn do một lời nói dối. Đành rằng tôi sẽ lại là tù binh của dân Cathage nhưng ít ra tôi vẫn giữ được chí khí của tôi mà dân La Mã sẵn có với sự trong sạch của nó. Tôi đã thề hứa sẽ trở về với họ thì tôi giữ lời hứa cho đến cùng. Vì thế các ngài hãy phó mặc mạng sống tôi cho các Thần Thánh”.
Và Regulus đã trở về Cathage, ở đấy tướng công đã chết giữa những cực hình khủng khiếp.
Đó là chí khí và lòng quả cảm của một người công dân Lamã!
Gioan cũng đã sống như vậy và Chúa Giêsu Chúa của chúng ta chắc cũng muốn cho chúng ta sống như thế. Amen.
Mùa Vọng là mùa tìm đọc và suy gẫm Thánh Kinh và lời các tiên tri trước khi Chúa Giáng Sinh MV 3-B179
Mùa Vọng là mùa tìm đọc và suy gẫm Thánh Kinh và lời các tiên tri trước khi Chúa Giáng Sinh giúp chúng ta chú tâm nhìn vào một viễn tượng và đào sâu lòng ước mong của chúng ta về đấng Thiên Sai.
GIOAN TIỀN HÔ LÀ AI?
Trong bài Tin Mừng Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy hình ảnh Gioan Tiền Hô lại một lần nữa xuất hiện trên diễn đàn lịch sử ơn cứu độ. Toàn thể sứ mệnh của Gioan là chuẩn bị cho đấng Thiên Sai đến. Khi thời điểm đến, Gioan dẫn các đệ tử của ngài đi gặp đức Giesu và cho họ biết Người là đấng Thiên Sai, Ánh Sáng Thật và là Chiên Thiên Chúa, đấng tha thứ tội trần gian. Chính Gioan thì không phải là ánh sáng. Ông đến để chứng minh cho Ánh Sáng. Ông không coi trọng hình ảnh của ông. Ông đến để cho Ánh Sáng chiếu tỏa trên ông.
Gioan coi mình không bằng tên nô lệ của chúa Giesu. “Giữa các ông có một người mà các ông không biết. Người đó đến sau tôi, nhưng tôi không đáng cởi giây giày cho Người” (Ga 1:26-27). Khi các đệ tử của Gioan đến gặp đức Giesu thì quá ngỡ ngàng về ý nghĩa phép rửa của Người ở sông Jordan. Thấy vậy Gioan nói cho các ông ấy thật rõ ràng: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban”. Gioan lại nói thêm “Tôi chỉ là bạn của chú rể, tôi phải lu mờ đi để cho Chủ nổi bật lên trên (Ga 3:27-30). Người làm phép thanh tẩy đã xác định nhân tính của mình với tất cả những giới hạn của nó.
CẢNH BẤT NGỜ
Một trong những cảnh nhức nhối nhất của Tin Mừng Luca là Gioan Tiền Hô bị tiểu vương Herod bắt bỏ tù vì đã khiển trách vua phạm tội loạn luân, lấy em dâu là Herodias làm vợ (Mt 4:12; Mc 1:14; Lc 3:19). Cảm thấy cô đơn, và quá chán nản lại gần đến cuối đời, Gioan Tiền Hô lớn tiếng kêu lên như một vị tiên tri vĩ đại nhất:“Thầy có thực sự là đấng phải đến không?”(Lc 7:19). Có lẽ Gioan chờ mong một vị cách mạng xã hội đến để đem lại một vương quốc huy hoàng đầy thế giá, không phải đến với những kẻ nghèo khó, què quặt, mù lòa, cô đơn và tội lỗi. Nhưng Chúa Kito thì đến một cách đặc biệt và bất ngờ chẳng giống ai ở giữa những kẻ bần cùng khốn khổ.
Đức Giesu yêu cầu Gioan nhìn kỹ mọi sinh hoạt chung quanh, để ý đến những việc đã xẩy ra trong dân chúng. Người mù nhìn thấy, người què đi được….Yếu đau bệnh tật được chữa lành, kẻ điếc nghe được. Tin Mừng bây giờ được loan truyền cho người nghèo khó. Đó là những điều rất kỳ lạ, một an ủi đáng kể cho tất cả chúng ta. Chúng ta sẽ chẳng ngạc nhiên nếu tự hỏi: “Người Kito hữu có thực sự xứng đáng như vậy không?” “Đức Giesu có thực sự là đáp số cho tất cả mọi thói hư tật xấu, nỗi buồn phiền của nhân loại và của chính chúng ta không?”
Đám đông đến với Gioan và hỏi ngài “Chúng tôi phải làm gì đây?” Gioan chẳng khuyên ai từ bỏ thế gian nơi họ đang sống, nhưng ngài biểu họ, “Nếu ai có hai áo thì hãy cho kẻ không có gì cả một cái. Những ai dư giả đồ ăn thức uống thì hãy chia bớt cho những kẻ đói khát. Người thu thuế thì đừng thu thêm quá số chỉ định. Lính tráng thì đừng dùng bạo lực hoặc cáo gian để cướp bóc bất cứ ai. Hãy bằng lòng với đồng lương của mình. Vậy mọi người phải làm gì để sửa soạn đón đấng Thiên Sai? Hãy quảng đại, công bằng, lương thiện, tri ân và đầy lòng trắc ẩn yêu thương (Lc 3:10-14).
ĐÔI LỜI KẾT: CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ?
Cuộc sống và sứ mệnh của Gioan Tiền Hô là cho chúng ta biết chúng ta cần phải có đấng cứu thế đến cứu chuộc chúng ta. Để được như vậy, chúng ta cần phải làm và sống tất cả những gì mà thánh nhân kêu gọi chúng ta phải thi hành trong Ánh Sáng. Chúng ta là những Kito hữu can đảm, sống lời ngôn sứ và làm chứng nhân thế nào cho Anh Sáng, đấng đã đến thế gian? Phải chăng chúng ta đã thường không nhận ra được một người ở giữa chúng ta là Ánh Sáng Thực sự sao?
Chớ gì Thánh Gioan Tiền Hô ban cho chúng ta sức mạnh và can đảm để chúng ta có thể đem Ánh Sáng đến cho tha nhân, lòng quảng đại và tài trí để vui mừng và chời đợi như thánh Phao lo viết trong thư gửi tin hữu Thessalonico: “Hãy luôn luôn vui mừng và cầu nguyện liên lỷ”(1Tx 5:16-17). Chúng ta có thể đảo ngược lời khuyên đó thành: “Hãy cầu nguyện liên lỷ để chúng ta có thể luôn luôn vui mừng.”
Trong lúc nguyện cầu, chúng ta sẽ cảm nghiệm thấy tất cả những ưu tư và hy vọng của chúng ta tụ đọng lại nơi Thiên Chúa thành chính tình yêu và sự khôn ngoan của người, cách xếp đặt của người dưới chân chúng ta và ban cho chúng ta đầy đủ mọi sự tràn đầy sức sống và ánh sáng.
Chủ đề Chúa Nhật III mùa Vọng là niềm vui. Niềm vui từ bên ngoài khi chủ tế mặc lễ phục màu MV 3-B180
Chủ đề Chúa Nhật III mùa Vọng là niềm vui. Niềm vui từ bên ngoài khi chủ tế mặc lễ phục màu hồng, ca đoàn được sử dụng phong cầm và các nhạc cụ khác; cửa hàng, siêu thị và những khu vui chơi đã hoàn tất phần trang trí: hang đá, cây thông, đèn màu…; nhà thờ nhộn nhịp để tập dợt các tiết mục văn nghệ… Niềm vui bên trong khi đã có một số người thống hối ăn năn, dọn tâm hồn, đi xưng tội để mừng lễ Giáng sinh; các em thiếu nhi ở một vài nơi tích cực dự lễ để thực hiện chương trình “cọng rơm dâng Chúa Hài Đồng”; một số cá nhân và đoàn thể quan tâm vận động quyên góp để chia sẻ với người nghèo, thăm viếng bệnh nhân, giúp đỡ người khó khăn… Thế cho nên mầu nhiệm Giáng sinh đã thực sự đem đến niềm vui cho nhân loại. Niềm vui đó chính là nhịp cầu của yêu thương.
Nhịp cầu này được khởi sự từ ý định của Thiên Chúa qua miệng ngôn sứ Isaia:“Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi loan báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Đức Chúa” (Is 61, 1). Hơn 700 năm sau, chính Đức Giêsu tại Nazaret trong Lc 4, 18-19 đã mượn lời này để nói về sứ mạng của Ngài. Sau khi đọc đoạn sách tiên tri Isaia này, Ngài đã nói: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời tiên tri tai các ngươi vừa nghe”. Vì vậy, Đức Giêsu là nhịp cầu yêu thương của Thiên Chúa Cha.
Cùng thời với Đức Giêsu, cũng có một nhân vật được nhiều người biết đến và lầm tưởng ông là Êlia, hay một vị ngôn sứ nào đó, thậm chí là Đấng Kitô nữa… Nhưng ông biết rõ và chấp nhận sự thật nơi bản thân của mình. Ông biết mình là ai và làm gì: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa” (Ga 1, 23) ; “Ông đến để làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin” (Ga 1, 7). Như vậy Gioan ý thức rất rõ mình chỉ là nhịp cầu chứ không phải bến đậu; mình chỉ là người chỉ đường chứ không phải điểm đến. Biết rõ sự thật nơi bản thân của ông, biết rõ sứ mạng của ông và hoàn thành sứ mạng đó đã đem đến cho Gioan một niềm vui trọn vẹn. Qua phụng vụ lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy được niềm vui từ những nhịp cầu nối yêu thương.
Cuộc đời của mỗi người chỉ tìm được ý nghĩa thực sự khi về tới bến yêu thương và dẫn người khác cùng về. Thiên Chúa là tình yêu. Ngài là cội nguồn của yêu đương. Ngôi Lời Nhập Thể chính là tình yêu giáng sinh để trở thành “đường, sự thật, và sự sống”, để những ai bước đi theo Ngài là sống trong tình yêu và cũng là đang tìm về với nguồn của yêu thương.
Trong sứ điệp ngày thế giới người nghèo được cử hành vào Chúa Nhật 33 thường niên, Đức Thánh Cha cho biết ngài thiết lập Ngày Thế giới người nghèo khi bế mạc Năm Thánh Đặc biệt về Lòng Thương Xót, để “trong toàn thế giới, các cộng đoàn Kitô ngày càng trở nên dấu chỉ cụ thể và rõ ràng về tình yêu thương của Chúa Kitô đối với những người rốt cùng và túng thiếu nhất”.
Thế cho nên khi chúng ta biết quan tâm đến người nghèo là chúng ta đang có một tình yêu. Chính tình yêu đó trở thành nhịp cầu để nối con người với Thiên Chúa giống như Đức Giêsu Kitô.
Giáo phận Cần Thơ sống mùa vọng 2017 trong tinh thần tiếp tục quan tâm đến những người nghèo, vì hình ảnh Hài Nhi Giêsu là đại diện cho những người nghèo nhất. Do đó, Đức Giám mục Giáo phận muốn mỗi Kitô hữu chúng ta trở thành một nhịp cầu cho những người nghèo tìm được chút hơi ấm của tình yêu.
Nếu Gioan Tẩy Giả tìm kiếm vinh quang cho mình thì chắc chắn người thời đó không biết Đấng Cứu Thế là ai. Thì cũng vậy, nếu con người cứ bo bo giữ của, cứ gom góp, cứ tích trữ, cứ quy về mình thì tình yêu sẽ không thực sự được tỏ hiện nơi cuộc đời của họ. Giá trị của con người là ở chỗ biết cho đi. Chính vì muốn gom góp, muốn tích trữ nên dẫn đến hậu quả là người ta không lo thờ phượng Chúa và sẵn sàng làm những việc sai trái. Khi người ta còn nghĩ đến tình yêu, còn nghĩ đến người nghèo, thì cuộc sống sẽ rất dễ chịu và cuộc đời rất tốt đẹp.
Có nhiều cách để trở thành nhịp cầu yêu thương. Xung quanh chúng ta còn rất nhiều những người nghèo, những người bệnh tật, chỉ cần một lần viếng thăm, một lời thăm hỏi là họ rất vui. Có những gia đình chỉ còn những người già yếu bệnh tật không làm gì được, nếu chúng ta dành chút thời giờ, lâu lâu đến “tổng vệ sinh”, sắp xếp nhà cửa lại cho ngăn nắp; hoặc cho họ chút thức ăn, chút quà bánh. Quỹ bác ái cho người nghèo là cách đóng góp tốt nhất, vì nhiều khi có năm ba ngàn không biết làm gì, bỏ vào quỹ đó để góp gió thành bão. Quỹ bác ái cho người nghèo cũng là cách để nhắc nhở chúng ta trở thành nhịp cầu yêu thương. Vì vậy những ai có trách nhiệm đi quyên góp cứ mạnh dạn lên đường, vì chúng ta làm một việc rất cao cả. Những ai thấy người khác đi xin tiền cho người nghèo, nếu có thì cho, không có thì thôi chứ đừng có thái độ và những lời nói khó chịu, vì họ làm một việc cao cả hơn chúng ta.
Mùa Vọng không phải là thời gian chờ đợi cách thụ động, nhưng là thời gian rất tốt để chúng ta trở thành nhịp cầu của yêu thương. Hãy tận dụng tuần lễ cuối cùng của mùa Vọng để tìm niềm vui sâu thẳm cho chính mình và đem đến niềm vui cho người khác bằng cách quan tâm và giúp đỡ những người nghèo.
Lạy Chúa, xin cho con trở thành nhịp cầu yêu thương để đem Chúa đến cho người khác, và đem người khác về với Chúa.
Chúa nhật thứ 3 mùa Vọng hôm nay được gọi là Chúa nhật vui mừng vì các bài Kinh thánh cũng MV 3-B181
Chúa nhật thứ 3 mùa Vọng hôm nay được gọi là Chúa nhật vui mừng vì các bài Kinh thánh cũng như đáp ca hôm nay đều diễn tả niềm vui và muốn chúng ta cảm nghiệm được sự vui mừng này. Nhưng thế nào là vui? Vui là gì và tại sao chúng ta vui mừng?
Theo kinh nghiệm thông thường trong cuộc sống, vui là khi một ước vọng được toại nguyện như đi phỏng vấn đậu, hay đi khám bệnh bác sĩ cho biết không có bệnh gì. Vui là khi thành công trong một nỗ lực hoặc một dự tính như thi bằng lái đậu; hay khi quyền lợi bị tước đoạt mà nay được phục hồi như khi được chính phủ chấp nhận trợ cấp bảo hiểm y tế; và vui nhất là khi ta được gặp lại những người thân yêu sau một thời gian xa vắng.
Nhưng để thánh hóa niềm vui hay có “niềm vui thánh” thì chúng ta phải đi vào như những bài Kinh thánh để có thể hiểu rõ hơn và cảm nghiệm được. Chúng ta thấy trong bài đọc một, ngôn sứ I-sa-i-a tuyên bố với những người Do thái đang bị lưu đày nô lệ khổ cực ở Ba-bi-lon biết thời gian lưu đày đã sắp chấm dứt. Đây là tin vui mừng to lớn. Tất cả mọi người đều mong ước được giải thoát khỏi cảnh lầm than được tự do, nhưng đây không phải là thời điểm thuận tiện, vì họ đã quen thuộc với cuộc sống 50 năm lưu đầy và nô lệ. Họ đã có công việc làm và nhà cửa. Tất cả những gì của họ ở quê hương xưa như nhà cửa thậm chí đền thờ đã bị người Ba-bi-lon phá thành bình địa, còn gì nữa đâu vì vậy trở về làm gì nữa! Thật vậy, ngôn sứ đứng trước một sự thách thức lớn lao trong sứ vụ mang Chúa đến và kêu gọi họ trở về quê hương. Ngôn sứ phải giúp họ có một niềm xác tín vào Chúa, Người sẽ thực hiện những điều tốt đẹp hơn cho họ thì họ mới cảm nghiệm được niềm hy vọng và vui mừng trở về quê hương. “Niềm vui thánh” là niềm vui trở thành sứ giả mang hy vọng và ơn sủng của Chúa đến cho người khác, và là niềm vui xác tín vào thánh ý Chúa.
Chúng ta thấy Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, có nhiều lý do để lo lắng và buồn khổ. Chỉ trong một giây phút trở thành người mẹ. Người chồng tương lai sắp sửa từ bỏ cuộc hứa hôn và chỉ trong vòng mấy tháng nữa cha mẹ, thân nhân, bà con họ hàng sẽ biết rõ có con mà không có chồng hay ngoại hôn. Vào xã hội thời đó người đàn bà mang thai, có con mà không có chồng thì làm sao có thể tự sống được, nhưng như chúng ta biết sau khi được truyền tin, Đức Maria liền đi viếng bà Elizabet và đã thốt lên những lời vui mừng như thế nào: “Linh hồn tôi nhảy mừng trong Chúa.” Chúng ta vừa nghe câu đó trong đáp ca. Đức Maria tin những điều Chúa hứa sẽ được thực hiện, nên Mẹ đã vui mừng xin
vâng theo thánh ý Chúa, và nhất là từ giây phút ân sủng đó Mẹ có Chúa ở cùng. “Niềm vui thánh” là niềm vui tin vào lời Chúa hứa sẽ được thực hiện trong đời sống chúng ta nếu chúng ta biết xin vâng sống thánh ý Chúa, và là niềm vui có sự hiện diện của Chúa trong đời sống. Trong mùa Vọng này, chúng ta hãy noi gương bắt chước Mẹ, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, nếu chúng ta luôn xác tín vào lời Chúa thì Chúa sẽ thực hiện những việc lạ lùng và trọng đại trong cuộc sống.
Như chúng ta biết, thánh Phao-lô có một sứ vụ rao giảng Tin mừng thật khó khăn nhiều chông gai và sóng gió, bị chống đối và thù hằn. Trong thư gởi người Corinthian, ngài cho chúng ta biết ngài bị đánh đập, bị bắt và bị giam cầm, không ăn không ngủ, bị đắm tàu lạnh và đói khát, bị đe dọa và hành hung, nhưng ngài viết trong cùng một lá thư rằng: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi, và hãy cầu nguyện luôn. Hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh.” Chúng ta có thể hỏi tại sao ngài vui mừng trong những hoàn cảnh đó? Thưa vì “Đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô.” “Niềm vui thánh” là niềm vui tín thác vào thánh ý Chúa. Hay nói cách khác, nếu thánh ý Chúa muốn thì Người sẽ ban ơn và giúp chúng ta thực hiện thánh ý Chúa. Nếu chúng ta tin Thiên Chúa đã thực hiện những điều lạ lùng, và vì yêu thương Người sẽ thực hiện những điều đó cho chúng ta thì chúng ta phải vui mừng và luôn hy vọng.
Ông bà anh chị em thân mến. Những bài Kinh thánh hôm nay cho chúng ta biết về “niềm vui thánh”, đó là nhận ra được thánh ý Chúa, cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa trong đời sống và trở thành sứ giả niềm vui của Chúa. Ngôn sứ I-sa-i-a, Đức Maria, Thánh Phao-lô và Gio-an Tẩy giả đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa trong đời sống và đã can đảm ra đi chia sẻ niềm vui của mình với người khác, giúp người khác cũng nhận ra sự hiện diện của Chúa. Còn về phần chúng ta thì sao? Tất cả chúng ta đã nhận lãnh Chúa Thánh Thần và cũng được Chúa trao ban cho sứ mệnh mang niềm vui Tin mừng và tình yêu của Chúa đến cho mọi người. Những công việc mà Gioan tiền hô đã làm thì đó cũng là sứ mệnh của chúng ta. Chúng ta đã được xức dầu để mang tình yêu, niềm vui hy vọng và ánh sáng của Chúa đến những ai đang sống trong nguội lạnh và lầm lạc, đem niềm an ủi đến những người sầu khổ, đến những tâm hồn đau thương và lưu đày. Nhưng chúng ta cũng phải ý thức mọi cố gắng và hy sinh của chúng ta là nhằm cho hình ảnh của Chúa được tỏa sáng, chứ không phải hình ảnh của chúng ta. Khi nghe Gio-an Tẩy giả rao giảng và kêu gọi sám hối, những người đương thời cũng tưởng rằng ông là Đấng Thiên Sai. Gioan Tẩy giả đã cương quyết khẳng định: “Tôi không phải là Đấng Kitô.” Ông nhận rõ sứ mạng của mình rất khiêm tốn, đó là làm cho hình ảnh của Đấng Thiên Sai nổi bật.
Vậy, chúng ta phải sống như thế nào, để thứ nhất, người khác nhận ra sự hiện diện của Chúa trong đời sống chúng ta? Và thứ hai, chúng ta phải làm sao để đưa niềm vui đến cho người khác? Xin Thiên Chúa giúp chúng ta cảm nghiệm được niềm “vui mừng thánh”, nhận ra được sự hiện diện và tình yêu của Chúa trong đời sống, trở nên ánh sáng và sứ giả của Tin mừng, can đảm trở thành những chứng nhân và nhiệt thành đem tình yêu, hy vọng, vui mừng và bình an của Chúa đến những người chung quanh, cũng như hướng dẫn họ đến với Chúa Kitô. Xin Chúa ban nhiều ơn lành xuống cho mỗi người chúng ta.
Ý tưởng “Được sai đi” rất rõ nét trong các Bài đọc Lời Chúa của Chúa nhật 3 Mùa Vọng. Trước hết MV 3-B182
Ý tưởng “Được sai đi” rất rõ nét trong các Bài đọc Lời Chúa của Chúa nhật 3 Mùa Vọng. Trước hết, Chúa Giê-su được Chúa Thánh Thần xức dầu, và được Chúa Cha sai đến trần gian để loan báo Tin Mừng cho mọi tạo vật; sau đó là thánh Gio-an Tẩy giả được sai đi để dọn đường cho Chúa Cứu thế đến thi hành sứ vụ; và cuối cùng là chính chúng ta đang được Chúa sai vào lòng cuộc đời.
Thánh Lu-ca kể với chúng ta, một ngày nọ, Chúa Giê-su về thăm quê hương là thị trấn Na-da-rét. Người vào Hội đường và đọc Lời Chúa trong sách ngôn sứ I-sai-a, đoạn Kinh Thánh mà chúng ta nghe trong Bài đọc I hôm nay. Thật lạ lùng! Những gì được đọc hôm đó hoàn toàn ứng nghiệm nơi cuộc đời và sứ mạng của Chúa. Trước sự ngỡ ngàng khôn xiết của những người đồng hương, Chúa Giê-su tuyên bố: “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà tai quý vị vừa nghe!”. Chắc hẳn những người Do thái có mặt hôm đó là những người thông thạo Kinh Thánh và họ hiểu Chúa có ý nói gì, nên họ phản ứng rất gay gắt, đến nỗi phần cuối của trình thuật, những người đồng hương tức giận kéo Chúa lên đỉnh núi với ý đồ xô Người xuống. Tuy vậy, họ không thực hiện được ý đồ xấu xa đó. Thánh Lu-ca diễn tả việc Chúa “băng qua giữa họ mà đi”, như một hành động thể hiện quyền năng thiên linh của Người (x. Lc 4,16-30).
Đấng Ki-tô hay là Đấng Thiên sai, là người được Chúa Cha gửi đến trần gian, mang theo sứ vụ thực hành ý định yêu thương của Chúa Cha, đó là quy tụ muôn dân nên một. Thời Thiên sai cũng đã được loan báo trong Cựu ước, nhất là trong ngôn sứ I-sai-a. Vào thời đó, không còn mâu thuẫn giữa các dân tộc; chiến tranh chấm dứt; mọi người nắm tay nhau xây dựng hòa bình; những loài động vật vốn căm thù nhau cũng sẽ sống chung trong hòa bình. Các tác giả Phúc âm đã ghi lại lời giảng dạy của Chúa, cũng như những hành động của Người. Giáo huấn và phép lạ Chúa làm, chứng tỏ Người là Đấng Thiên sai.
Trước khi Đấng Thiên sai khởi đầu sứ vụ, một vị sứ giả được Thiên Chúa sai đến. Ông là Gio-an. Ông được trình bày như một người sống gần gũi với thiên nhiên. Sứ mạng của ông là kêu gọi mọi người chuẩn bị tâm hồn đón Chúa. Ông cũng là nhân chứng của Ánh Sáng đích thực là Đức Ki-tô. Ông không tự mình làm việc này, nhưng Thiên Chúa trao nhiệm vụ cho ông, và ông luôn trung thành với nhiệm vụ được trao phó. Ông có nhiều cơ hội để tự nhận những danh xưng vinh quang về mình, nhưng ông không làm thế. Ông khiêm tốn nhận mình chỉ là tiếng kêu trong sa mạc, và không xứng đáng cúi xuống cởi quai dép cho Đấng Thiên sai khi Người đến.
Trước sự kiện đoàn người đông đảo đến với ông Gio-an để xin ông làm phép thanh tẩy, một số tư tế từ Giê-ru-sa-lem sai người đến để điều tra. Những vị này có ý hạch sách và đe dọa ông. Tuy vậy, họ ngỡ ngàng trước phong thái vừa can đảm vừa khiêm nhường của ông. Ông không nhận mình là bất cứ vị ngôn sứ nào trong Cựu ước. Rất khiêm tốn nhưng sâu sắc, ông đã nói đến Đấng đang hiện diện mà mọi người không nhận ra. Đấng ấy là Đức Ki-tô.
“Như Cha đã sai thầy, thầy cũng sai anh em”, Đức Giê-su đã nói với các môn đệ như thế. Lời ngôn sứ I-sai-a thường được đọc trong Hội đường Do Thái năm xưa, đã được thực hiện nơi Chúa Giê-su, và cũng đang được thực hiện đối với Ki-tô hữu hôm nay. Bởi lẽ, chúng ta cũng được xức dầu (nhờ đó mà được gọi là Ki-tô hữu), chúng ta cũng được Thần Khí Chúa ngự trong tâm hồn, chúng ta cũng được Chúa sai vào giữa lòng cuộc đời để, như ông Gio-an Tẩy giả, làm chứng cho Đức Giê-su Ki-tô, Ánh Sáng trần gian.
Vì Thần Khí Chúa ngự trong chúng ta, nên thánh Phao-lô dạy: “Anh em đừng dập tắt Thần Khí” (Bài đọc II). Chúa Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa, được so sánh như ngọn lửa, trong tâm hồn chúng ta. Tội lỗi, ích kỷ, đam mê… là những nguyên nhân có thể làm dập tắt Thần Khí trong tâm hồn. Một tâm hồn chai đá, không phục thiện, là khước từ hoạt động của Thần Khí nơi bản thân mình. Hiểu như thế, người tín hữu sẽ cố gắng chu toàn bổn phận của mình, dù ở bậc sống nào, hoặc dù ở điều kiện kinh tế nào. Chúa vẫn luôn mời gọi và sai chúng ta đi vào trần gian để nói với mọi người rằng: “Có một Vị đang ở giữa anh chị em mà anh chị em không biết. Vị ấy là Đức Giê-su, Đấng Em-ma-nu-en, Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Thánh Gioan Tẩy Giả cho biết rõ sứ vụ của bản thân là dọn đường cho Chúa Cứu Thế: "Tôi là MV 3-B183
Thánh Gioan Tẩy Giả cho biết rõ sứ vụ của bản thân là dọn đường cho Chúa Cứu Thế: "Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Chúa đi" (Ga 1, 23).
Ngài thi hành sứ vụ dọn đường bằng cách giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người: "Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Ngài sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài" (Ga 1, 27).
Sau đó thánh nhân còn trực tiếp chỉ thẳng vào Chúa Giêsu để giới thiệu trực tiếp: "Ông Gioan thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình, liền nói: Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian. Chính Ngài là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi" (Ga 1, 29-30).
Từ những chứng minh thực tế về những nguy hiểm liên tục xảy đến, gây nên nhiều cái chết về đời sống vật chất và tinh thần, đòi chúng ta càng phải tỉnh thức hơn bao giờ hết. Đó chính là sự khôn ngoan của ta. Đó chính là sứ điệp khẩn cấp trong mùa Vọng buộc ta phải nắm lấy.
Thánh Gioan giới thiệu Chúa cho mọi người. Từng người chúng ta cũng phải làm việc này của thánh Gioan. Chúng ta cũng phải nói cho mọi người về Chúa. Chúng ta cũng phải mời gọi mọi người dọn đường cho Chúa.
Giới thiệu Chúa cho anh chị em trong tất cả các môi trường sống, qua mọi tương quan của đời sống là bổn phận của mọi Kitô hữu. Anh chị em tin hay không, đón nhận Chúa hay không, đón nhận đến mức nào là quyền của họ. Nhưng bổn phận của chúng ta là phải giới thiệu Chúa, phải nói về Chúa, phải làm chứng cho Chúa, phải sống chứng tá cho tình yêu của Chúa.
Nhưng từng người Kitô hữu phải nhớ, để lời giới thiệu có sức thuyết phục, cần chính đời sống chứng tá của chính họ. Nếu rao giảng về Chúa, về tình yêu cứu độ của Chúa mà không tỏa lan được ít nhất một đời sống chứng tá tương ứng, chắc chắn không thể nào có thể lôi kéo người khác tin và theo Chúa.
Vì sao sau khi thánh Gioan giới thiệu Chúa, người ta có nghe và đi theo Chúa? Không phải vì thánh Gioan xuất hiện trước Chúa, cũng không phải vì mọi người đã biết thánh Gioan, nhưng chính đời sống chứng tá của thánh Gioan mà mọi người tin và bước theo Chúa như lời thánh Gioan giới thiệu.
Qua những câu hỏi của đám đông: "Ông có phải là Đấng Kitô? Có phải là Elia? Có phải là vị tiên tri?", cho thấy họ đánh giá rất cao thánh Gioan. Họ nhìn thánh Gioan như hình ảnh Đấng Cứu Thế, thủ lãnh Môsê hoặc tiên tri Elia. Nhưng thánh Gioan chỉ khiêm tốn nhận mình là tiếng hô trong hoang địa, là kẻ dọn đường, hơn thế nữa, còn không đáng cởi quai dép cho Chúa Giêsu.
Có thể nói, thánh Gioan đã không quy về mình, không tìm vinh quang cho mình, không khẳng định mình. Thánh nhân khéo léo từ chối mọi vinh quang, danh dự trần thế mà người ta lầm tưởng hay gán cho, để chỉ hướng về Chúa Giêsu và cầu xin mọi người hướng theo và bướic theo Chúa Giêsu.
Một chứng tá khiêm nhường như thánh Gioan, cuối cùng đã thành công, đã có thể dẫn mọi người về cùng Chúa.
Cũng vậy, để có thể giới thiệu Chúa cho anh chị em nhằm giúp anh chị em dọn tâm hồn họ, cũng là cách chúng ta dọn con đường tâm hồn chính mình cho Chúa đến với mình trước, ta cần thực hiện những việc làm cấp bách sau đây:
– Thành tâm nhìn nhận mình thật mong manh, yếu đuối, cuộc sống này chỉ tạm bợ, đầy giới hạn. Từ đó khiêm tốn hơn, sống có nhân, có nghĩa hơn.
– Luôn tạ ơn Chúa vì Chúa luôn tìm mọi cách, mọi biến cố, mọi hoàn cảnh, mọi anh em xung quanh… để thức tỉnh và đưa ta về sống gắn bó với Chúa.
– Tin vào tình yêu của Chúa, thực tâm nhìn nhận tội lỗi của mình, xin Chúa tha thứ. Đồng thời đừng để lương tâm rơi vào sự chai cứng, tàn nhẫn, gây đau khổ cho anh chị em xung quanh.
– Một ý thức cần phải có luôn luôn, đó là ý thức ta có thể chết bất cứ lúc nào. Những nguy hiểm giết hại ta có thể xảy đến bất cứ lúc nào. Ý thức như thế, không phải để hoang mang, nhưng giúp ta bình tỉnh đón nhận thánh ý Chúa, đón nhận những hoàn cảnh lắm khi bất trắc, mà Chúa muốn ta phải đương đầu.
– Biết rằng, mọi nguy hiểm có thể đổ ập trên mình, ta sẽ bền vững trong cầu nguyện để được ở với Chúa, để có Chúa đồng hành trong cuộc đời với ta.
– Không quên bổn phận san sẻ những mất mát, những khổ đau của anh chị em, và tận lực tận tình giúp đỡ họ, khi họ bị những hiểm nguy đe dọa, hay đã xảy đến gây đau thương mất mát.
Một vài gợi ý nhỏ nhặt bên trên giúp chúng ta sống mùa Vọng, vừa dọn tâm hồn chính mình, vừa giúp anh chị em xung quanh dọn chính cõi lòng của họ cho Chúa đến.
Ước gì hình ảnh và lời giới thiệu Chúa Cứu Thế của thánh Gioan Tẩy Giả trở thành lời nhắc nhở trách nhiệm dọn đường cho Chúa đến trong chính cõi lòng mỗi Kitô hữu. Qua đó cũng trở thành phương thế hiệu quả góp phần vào sứ vụ của Hội Thánh là loan báo Tin Mừng cứu độ của Chúa cho mọi người.
Bài Tin Mừng hôm nay không nói về Chúa Giêsu nhưng nói về Gioan Tẩy Giả: “Có một người MV 3-B184
Bài Tin Mừng hôm nay không nói về Chúa Giêsu nhưng nói về Gioan Tẩy Giả: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan” (Ga 1: 6). Thánh Gioan, tác giả sách Tin mừng thứ tư, nói Gioan Tẩy Giả làm chứng về ánh sáng: “Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng” (Ga 1: 7-8). Gioan Tẩy Giả không phải là ánh sáng. Vai trò của ông là chuẩn bị cho dân chúng đón Chúa Giêsu đến, để khi Ngài đến, họ sẽ nhận ra Ngài là ánh sáng thật và tin vào Ngài: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1: 9).
Trong câu chuyện, Thánh sử Gioan đề cập đến “một số tư tế và mấy thầy Lêvi” (Ga 1:19). Thực ra họ là một phái đoàn được giới lãnh đạo Do Thái, chủ yếu ở Giêrusalem, chính thức gửi đến gặp Chúa Giêsu. Các tư tế và nhất là các thầy Lêvi có nhiều trách nhiệm liên quan đến đền thờ Giêrusalem, bao gồm cả vai trò giữ gìn lề luật và trật tự. Giới lãnh đạo Do Thái rõ ràng lo ngại về lời chứng và hoạt động của Gioan Tẩy Giả, đặc biệt khi các việc đó diễn ra ngoài sự kiểm soát của họ. Họ tự coi mình là những người kiểm soát việc thực thi lề luật ở Israel và không bằng lòng với hoạt động của Gioan Tẩy Giả. Câu hỏi của họ: Ông là ai? nghĩa là: Ông có quyền gì mà làm như vậy?
Họ liên tục đặt ra cho Gioan Tẩy Giả rất nhiều câu hỏi. Họ đặt ra trước hết ba câu hỏi: “Ông là ai?” (Ga 1: 19). “Ông có phải là ông Êlia không? ...Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?” (Ga 1: 21). Gioan Tẩy Giả trả lời cho ba câu hỏi đầu tiên này một cách dứt khoát: “Không phải” (Ga 1: 20-21). Họ liền tiếp tục hỏi ông hai câu nữa: “Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?” (Ga 1:22). Gioan Tẩy Giả trả lời bằng cách trích dẫn một câu của tiên tri Isaia: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Chúa đi, như ngôn sứ Isaia đã nói” (Ga 1:23). Ông nói rằng ông chỉ là “tiếng người hô” báo trước sự xuất hiện của Chúa.
Nhưng những người Do Thái không để Gioan Tẩy Giả yên. Họ tiếp tục tấn công ông bằng câu hỏi thứ sáu: “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ?” (Ga 1:25). Cuối cùng, Gioan Tẩy Giả nói rõ ràng và đơn giản với mọi người rằng vai trò của ông là dọn đường cho Chúa Giêsu: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết” (Ga 1: 26). Thậm chí ông còn khẳng định với họ rằng: “Ngài sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài” (Ga 1:27).
Những người đặt câu hỏi với Gioan Tẩy Giả đều muốn biết về Đấng Mêsia. Họ muốn những câu hỏi của mình được Gioan Tẩy Giả giải đáp. Họ muốn biết điều gì sẽ đến. Ai sẽ đến. Dân Do Thái đã chờ đợi Đấng Mêsia trong nhiều thế kỷ! Không còn một vị ngôn sứ nào xuất hiện hơn 400 năm nay, kể từ ngôn sứ cuối cùng là Malakia, người đã loan báo: “Này Ta sai ngôn sứ Êlia đến với các ngươi, trước khi Ngày của Chúa đến, ngày trọng đại và kinh hoàng. Nó sẽ đưa tâm hồn cha ông trở lại với con cháu và đưa tâm hồn con cháu trở lại với cha ông, kẻo khi Ta đến, Ta sẽ đánh phạt xứ sở đã bị án tru diệt” (Malakia 3: 23-24). Những câu hỏi của giới lãnh đạo Do Thái ẩn chứa một số kỳ vọng đang lan truyền trong bầu không khí đầy biến động vào thời điểm đó. Những câu hỏi ấy cho thấy một bầu không khí trông đợi đầy bồn chồn, nhạy cảm, thậm chí có thể kích hoạt một cuộc trấn áp do đội quân Rôma triển khai. Giới lãnh đạo Do Thái không muốn rơi vào bất cứ tình thế bất ngờ nào do sự xuất hiện một Đấng Mêsia mà dân chúng vẫn mong đợi sẽ phất cờ chống lại ách cai trị của quân Rôma. Chính trong trong bầu không khí đó Gioan Tẩy Giả xuất hiện. Vì thế, người Do Thái bắt đầu tự hỏi phải chăng Đấng Mêsia sắp đến rồi! Họ nhìn vào Gioan Tẩy Giả như muốn ông xác định chính ông là ngôn sứ Êlia mà Malakia đã loan báo sẽ đến, và nhờ đó khẳng định niềm hy vọng của họ rằng Đấng Cứu Thế sắp đến. Thậm chí những người Do thái hình như ít nhiều cho rằng Gioan Tẩy Giả có vẻ như là Đấng Mêsia. Chính vì thế mà ông “tuyên bố thẳng thắn” ngay trong câu trả lời đầu tiên của ông rằng: “Tôi không phải là Đấng Kitô” (Ga 1:20).
Những câu hỏi chúng ta dành cho Chúa Giêsu là gì? Chúng ta có nóng lòng chờ đợi Chúa Giêsu đến không? Chúng ta có tự hỏi đâu là mục đích Ngài đến trong thế giới này: chính trị, quân sự, kinh tế…? Chúng ta có nhận ra những phương cách Ngài đến với chúng ta mỗi ngày không? Chúa Kitô có thể xuất hiện bằng những phương cách đáng ngạc nhiên! Chúng ta có mở mắt và mở lòng mình ra để thấy Chúa Giêsu xuất hiện hôm nay trong cuộc đời mình không?
Vai trò của Gioan Tẩy Giả.
Sách Tin mừng thứ tư nói rất ít về hoạt động rửa tội của Gioan Tẩy Giả, thậm chí không nói rõ liệu ông có làm phép rửa cho Chúa Giêsu hay không, mặc dù có nói về việc Gioan Tẩy Giả chứng kiến Thần Khí Thiên Chúa ngự xuống trên Chúa Giêsu (Ga 1:32-33). Sách Tin mừng thứ tư không xác định Gioan Tẩy Giả là “người làm phép rửa”, cũng không đề cập đến việc Gioan Tẩy Giả kêu gọi ăn năn hoặc thú tội, như trong các câu chuyện của Mátthêu, Máccô và Luca. Tuy nhiên, vì ảnh hưởng rộng lớn của ông, hẳn nhiên người ta đặt câu hỏi: Gioan Tẩy Giả là ai? Ông có mối tương quan gì với Đấng Mêsia - Đấng Kitô?
Câu chuyện Tin Mừng gợi ý rằng chính Chúa Giêsu, chứ không phải Gioan Tẩy Giả, là người sẽ hoàn thành vai trò giải cứu dân tộc, nhưng không giống như Môsê: “Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết” (Ga 1: 26-27), vì chỉ: “Hôm sau, ông Gioan thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình, liền nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian. Chính Ngài là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi” (Ga 1:29-30).
Do đó,trình thuật cho thấy một Gioan không hề kiêu ngạo, dù chỉ một chút tự hào chính đáng, về sứ mạng Tiền Hô của mình. Trái lại, ông tìm cách nhấn mạnh sự tầm thường của mình trong mối tương quan với Chúa Giêsu. Ông tự nhận mình chỉ là một tiếng người hô trong hoang địa, một người giới thiệu: “Ngài sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài” (Ga 1: 36). Đây là lời chứng công khai đầu tiên của Gioan Tẩy Giả về Chúa Giêsu. Chỉ hai ngày sau, chính ông lên tiếng chỉ cho các môn đệ của ông biết Chúa Giêsu là ai, và để cho họ đi theo Chúa Giêsu: “Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Chúa Giêsu” (Ga 1: 37). Đây là sứ mạng của riêng ông: “làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin” (Ga 1:7). Ông tập trung thi hành sứ mạng của mình, không quan tâm đến việc gì khác, ngay cả bản thân mình; đối với ông, Đấng đến sau ông mà ông không đáng cởi quai dép cho Ngài mới thực sự quan trọng, vì Ngài là: “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn, Chiên Thiên Chúa” (Ga 1: 34,36).
Sứ mạng của Gioan Tẩy Giả không phải là trở nên vĩ đại mà là nhường chỗ cho một Đấng vĩ đại hơn rồi từ chức. Có lẽ nhiều người trong chúng ta không đánh giá cao sự khiêm tốn cần phải có để sống một cuộc sống hết lòng vì Chúa Kitô như vậy. Có bao nhiêu người trong chúng ta sẵn sàng làm điều đó? Chắc chắn là chúng ta không nhiệt tình lắm. Chúng ta có xu hướng mong muốn bản thân mình thành người vĩ đại, vinh quang. Nhưng nếu muốn thành công trong vai trò môn đệ của Chúa Kitô, chúng ta phải học cách đặt người khác, đặc biệt là Thiên Chúa, lên trên chính mình. Có thể không phải lúc nào cũng dễ dàng nhưng nếu nhìn vào câu chuyện của Thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta có thể học được cách khiêm nhường phục vụ vinh quang Thiên Chúa.
Tập trung vào Chúa Kitô
Như Gioan Tẩy Giả, Giáo Hội muốn chúng ta tập trung sự chú ý vào Chúa Giêsu trong Chúa nhật thứ ba Mùa Vọng này. Chúa Giêsu là Ánh sáng thế gian đã hiện diện giữa chúng ta. Ánh sáng của Chúa Kitô có thể hướng dẫn chúng ta khi chúng ta đối mặt với những lựa chọn khó khăn. Chúng ta vui mừng vì sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Ngài đem muôn vàn hồng ân đến cho chúng ta, như ngôn sứ Isaia, trong bài đọc thứ nhất, công bố một năm hồng ân của Chúa và sứ điệp chữa lành cho dân Israel: “Thần khí của Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta; Ngài sai tôi đi yên ủi mọi kẻ khóc than” (Is 61: 1-2). Isaia vui mừng trước hồng ân cứu độ mà ông nhìn thấy đang đâm chồi nẩy lộc, sinh mầm, mang lại niềm hy vọng cho tất cả những ai đang chờ đợi đức công chính ngự trị: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Chúa, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao!...Như đất đai làm đâm chồi nẩy lộc, như vườn tược cho nở hạt sinh mầm, Chúa là Chúa Thượng cũng sẽ làm trổ hoa công chính, làm trổi vang lời ca ngợi trước mặt muôn dân” (Is 61: 10-11).
Giáo Hội, như ngôn sứ Isaia, mời gọi chúng ta vui lên vì chúng ta có được đức tin vào Chúa Giêsu. Đức tin ấy giải thoát chúng ta khỏi những khắc khoải về kiếp người mù mịt phương hướng, một tương lai mơ hồ bất định không biết đi về đâu, mà kết cục chỉ là tiêu vong, hư không, phi lý, không còn biết mục đích của cuộc sống hối hả điên cuồng của mình là gì. Sự giải thoát ấy đem lại cho chúng ta niềm vui, sự bình an trong Chúa Giêsu, ngay cả khi mọi thứ trở nên hỗn loạn, như Thánh Phaolô khuyên bảo trong bài đọc thứ hai: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Chúa Kitô Giêsu” (1 Tx 5: 6-18).
Trong Mùa Vọng này, chúng ta có cầu nguyện để niềm vui của Chúa được thể hiện rõ ràng trong trái tim và ngôi nhà của chúng ta không? Xin Thánh Thần biến đổi Mùa Vọng này của chúng ta thành thời gian thánh thiện và vui mừng chờ đón sự xuất hiện của vị vua của chúng ta, “Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội trần gian” (Ga 1:29). mục lục
Bước vào Chúa nhật III mùa Vọng, từ các bài đọc, thánh ca, đến màu sắc phụng vụ kèm theo cảnh MV 3-B185
Bước vào Chúa nhật III mùa Vọng, từ các bài đọc, thánh ca, đến màu sắc phụng vụ kèm theo cảnh trang trí hang đá, cây thông, ánh đèn, ngọn nến… khiến cả tâm hồn và thể xác chúng ta rạo rực niềm vui.
Gaudete – Hãy vui lên, Thánh Phaolô khích lệ chúng ta: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa” (Pl 4,4). Tại sao chúng ta vui? Câu trả lời là vì Chúa sắp ngự đến rồi (x. Pl 4, 5).
Hôm nay Phụng vụ Giáo hội đang màu tím chuyển sang hồng thể hiện rõ nét của niềm vui, vui vì những gì đã đạt được trong chặng đường thứ nhất của mùa Vọng, nay nghỉ một chút để nhìn lại chặng đường đã qua với niềm vui, và lấy thêm đà mới chuẩn bị mừng (Chúa Giáng Sinh), nên Giáo hội mời gọi con cái mình “Gaudete – Hãy vui lên”.
Lời của thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Thessalonika ngày xưa được phổ nhạc với điệu ca du dương, nay được Giáo hội công bố với niềm vui. Vui như Isaia nói :“Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, và lòng tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa tôi” (Is 61,10).
Lời nguyện nhập lễ đưa chúng ta vào chính niềm vui thiêng thánh ấy: “Lạy Chúa, xin đoái xem, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề” (Lời nguyện nhập lễ Chúa nhật III Mùa Vọng). Những lời trên làm tâm hồn chúng ta sáng hẳn lên, dẫn chúng ta bước vào mầu nhiệm của niềm vui ơn cứu độ.
Theo kinh nghiệm thông thường, ta vui khi ta ước một điều gì đó mà nay được toại nguyện; hay khi ta thành công trong một nỗ lực hoặc một dự tính; khi quyền lợi của ta bị tước đoạt mà nay được phục hồi; và vui nhất là khi ta được gặp lại những người thân yêu sau một thời gian xa vắng. Tắt một lời, ta vui khi lòng ta đang trống mà được lấp đầy.
Làm sao không thể không vui khi nghe những lời loan báo đầy niềm vui của Isaia: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: vì Chúa đã xức dầu cho tôi; Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày, phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa” (Is 61,1-2). Ðó là những quyền căn bản của con người: quyền được sống xứng đáng với nhân phẩm của mình và được tôn trọng, quyền được hưởng niềm vui làm người tự do và bình đẳng. Và làm sao không thể không mừng “vì Người đã mặc cho tôi áo phần rỗi, và choàng áo công chính cho tôi, như tân lang đầu đội triều thiên, như tân nương trang sức bằng ngọc bảo. Như đất đâm chồi, như vườn nảy lộc, Chúa cũng làm phát sinh công chính và lời ca tụng trước mặt muôn dân” (Is 61,10-11).
Nhưng điều quan trọng và niềm vui cả thể vẫn là Thiên Chúa muốn sống giữa loài người. Niềm vui Chúa Giêsu Kitô mang đến cho chúng ta, chính là niềm vui của người tự do được làm con Thiên Chúa.
Niềm vui là một đặc tính thiết yếu của đức tin. Cảm thấy được Thiên Chúa yêu thương, viếng thăm và cứu độ là động lực làm cho chúng ta vui mừng; chúng ta biết Chúa Giêsu Kitô đã xuống thế, tự hiến thân mình vì chúng ta là lý do chính để người tín hữu mừng vui. Người Kitô hữu buồn, bởi họ không nhìn thấy những điều Thiên Chúa đã làm cho họ, và vì thế, sẽ không có sự hiệp thông. Niềm vui của người Kitô hữu phát xuất từ tâm tình tạ ơn, nhất là vì tình yêu thương của Thiên Chúa thể hiện nơi chúng ta.
Trong mùa Vọng này, chúng ta hãy củng cố xác tín Chúa đã đến giữa chúng ta và chúng ta hãy tín thác nơi Chúa; như thánh Augustinô với kinh nghiệm của ngài đã quả quyết: “Chúa gần chúng ta hơn chúng ta gần chính mình” (Le Confessioni, III, 6,11).
Trong lúc chờ đợi Chúa Kitô đến, chúng ta phải tỉnh thức, phải lắng nghe tiếng Chúa kêu gọi. Chính tiếng Người đem lại niềm vui cho ta, như Gioan Tẩy giả chứng nhân của niềm vui. Ông nói : "Niềm vui của tôi là được nghe tiếng Ngài. Niềm vui của tôi đã sung mãn. Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ dần đi" (x. Ga 3,29-30).
Khi kêu gọi ta vui lên, thánh Phaolô cũng nói thêm: "Anh em hãy cầu nguyện không ngừng" (1 Tx 5,16). Ðó là điều kiện cần thiết mang lại niềm vui sâu xa cho tâm hồn con người tràn đầy Thánh Linh Thiên Chúa. Và ai có những lần đã thực sự cầu nguyện, thì cũng đã cảm nghiệm được niềm vui thiêng liêng, niềm vui của người Kitô hữu.
Chúng ta hãy phó thác hành trình của chúng ta cho Ðức Maria, thần trí của Mẹ đã vui mừng trong Chúa là Ðấng Cứu Thế. Xin Mẹ hướng dẫn tâm hồn chúng ta trong sự vui mừng chờ đợi Chúa Giêsu đến, một sự chờ đợi đầy kinh nguyện và việc lành. Amen.
Đấng Ngôi Lời Sáng Ánh Sự Thật, Nguồn Ánh Sáng Soi Người Trần Gian. Kỳ nhân là người MV 3-B186
Đấng Ngôi Lời Sáng Ánh Sự Thật Nguồn Ánh Sáng Soi Người Trần Gian.
Kỳ nhân là người có phong cách “khác người” nhưng không kỳ cục, hoặc kỳ quặc. Một trong những người “không giống ai” là bác học Albert Einstein. Ông nói: “Be a loner. That gives you time to wonder, to search for the truth. Have holy curiosity. Make your life worth living.” (Cứ thui thủi một mình. Điều đó cho bạn thời gian để suy tư, tìm kiếm chân lý. Hãy hiếu kỳ linh thiêng. Hãy làm cho cuộc đời đáng sống.)
Tư tưởng đó cần thiết cho Mùa Vọng – mùa mong chờ Con Thiên Chúa, cần tĩnh lặng để suy niệm, hoán cải và hoàn thiện. Khi chờ mong, không thể thụ động mà phải tích cực hành động, nghĩa là chúng ta phải “lên đường” hoặc “ra khơi” – vào đời để đồng hành với những con người hèn mọn… Đó là “kỳ tích” noi gương Chúa Giêsu và ngôn sứ Gioan Tẩy Giả.
SỐNG CHỨNG NHÂN
Ngôn sứ Gioan Tẩy Giả được Thiên Chúa sai đến trước để mở lối dọn đường. Ông được gọi là tiền hô, ông không là ánh sáng nhưng ông đến để “làm chứng về ánh sáng để mọi người nhờ ông mà tin.” (Ga 1:7) Nhiều người Do Thái từ Giêrusalem cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi ông Gioan: “Ông là ai?” Ông thẳng thắn nói: “Tôi không phải là Đấng Kitô.” Họ lại hỏi ông: “Vậy ông có phải là ông Êlia hay là vị ngôn sứ chăng?” Ông vẫn nói “không.” Họ hỏi mãi nên ông nói thật: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaia đã nói.” (Ga 1:23) Ông thật khiêm nhu khi tự nhận là “tiếng hô trong hoang địa.”
Khi nghe ông nói vậy, mấy người Biệt Phái nhíu mày: “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ?” Ông trả nói rõ: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” (Ga 1:27) Ông Gioan lại khiêm nhu khi nói mình “không đáng cởi quai dép” cho Đấng đến sau ông.
Đức khiêm nhu là nền tảng mọi nhân đức, nhưng rất khó thực hiện. Ai cũng muốn được khen theo bản năng phàm nhân. Không ai muốn bị chê, nhất là những người “tai mắt” trong thiên hạ,… Tự ái là yêu mình, yêu mình là điều cần, nhưng đừng yêu mình quá. Đôi khi người ta coi trọng “chiếc ghế quyền lực” hơn danh dự. Thực tế xã hội cho thấy như vậy. Đó là một “hội chứng” đáng quan ngại, ngày nay người ta thường gọi là chủ nghĩa: Chủ nghĩa quyền lực và chủ nghĩa hưởng thụ, nhất là trong xã hội coi chữ Tiền hơn chữ Tiền ngày nay.
Có câu nói thực tế của người Việt: “Văn mình, vợ người.” Thật vậy, văn mình lúc nào cũng hay, vợ người bao giờ cũng đẹp. Người ta luôn muốn chứng tỏ mình đúng và “bản lĩnh” của mình hơn hẳn người khác. Ai “chạm” vào quyền lợi của mình thì “có chuyện,” dù chỉ là chuyện không đáng gì. Chỉ vì thấy “ngứa mắt” mà người ta cũng sẵn sàng “xử” nhau theo “luật rừng” ngay: Đánh cho bõ ghét, giết cho biết tay. “Cái tôi” và “máu tự ái” luôn sẵn sàng dâng cao như sóng thần.
Thật khó khi phải sống khiêm nhu! Vĩ nhân Mohandas Karamchand Gandhi (1869-1948) được dân Ấn Độ tôn là thánh nhân và gọi ông là Mahatma (Tâm Hồn Vĩ Đại). Ông nói một câu nói khiến chúng ta phải suy nghĩ nhiều: “Nếu người Kitô giáo sống đúng như Chúa Giêsu, tôi theo đạo ngay.” Thật xấu hổ cho chúng ta – các Kitô hữu!
DẤN THÂN VÀO ĐỜI
Loan báo Tin Mừng là trách nhiệm của mọi tín nhân. Mỗi Kitô hữu đều được Thiên Chúa sai đi vào đời để làm chứng về Đức Kitô, như ngôn sứ Isaia đã nói: “Thần khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Đức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta; Người sai tôi đi yên ủi mọi kẻ khóc than.” (Is 61:1-2)
Đó là trọng trách của mọi người tín vọng Ngài. Nhưng Thiên Chúa không sai ai đến với người giàu sang, người quyền cao chức trọng, người ăn trên ngồi trước,… Ngài sai chúng ta đến với kẻ nghèo hèn, người đau khổ, tù nhân, người bị bỏ rơi, kẻ bị khinh miệt, kẻ cùng đinh,… Nhưng thực tế xã hội thường đi ngược lại, nghe “lời sai đi” kia cho xong lần rồi thôi, sau đó có thể lại tự ý làm theo ý mình. Có lẽ vậy mà người nghèo khổ và kẻ thấp cổ bé miệng vẫn không thể ngóc đầu lên được, nhân vị của họ vẫn bị chà đạp, nhân phẩm của họ vẫn bị bôi nhọ, và nhân quyền của họ vẫn bị tước đoạt! Chính ĐGH Leo XIII đã xác định: “Sự nghèo khổ không là điều hổ thẹn.” (Tông thư Rerum Novarum – Tân Sự, a. 37, ban hành ngày 15-5-1891)
Để có thể VÀO ĐỜI thì phải RA ĐI, và HÀNH ĐỘNG theo hướng dẫn của Thiên Chúa thì chúng ta sẽ “như đất đai làm đâm chồi nẩy lộc, như vườn tược cho nở hạt sinh mầm, Đức Chúa là Chúa Thượng cũng sẽ làm trổ hoa công chính, làm trổi vang lời ca ngợi trước mặt muôn dân.” (Is 61:11)
Đức Mẹ là tấm gương sống động về việc làm chứng và khiêm nhu. Lời Kinh Magnificat (Lc 1:46-50, 53-54) chứa đầy nét hân hoan: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.” Tuy là người cao trọng và có cuộc sống hoàn hảo, nhưng Đức Mẹ vẫn nhận mình là “phận nữ tỳ hèn mọn.” Thiên Chúa Toàn Năng không chỉ làm cho Đức Mẹ biết bao điều cao cả, mà hằng ngày chúng ta cũng được Thiên Chúa ban cho bao điều kỳ diệu trong đời sống. Đơn giản nhất mà cũng quan yếu nhất là không khí, nếu thiếu không khí trong vài giây thì không gì sống nổi.
Không khí là hồng ân kỳ diệu hiển nhiên vẫn xảy ra từng giây từng phút. Đó là nhờ lòng thương xót, vì “Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Ngài.” (Lc 1:50) Thiên Chúa là Đấng Thánh cao cả, yêu chuộng sự công bình và đức khiêm nhu: “Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.” (Lc 1:53-54)
Không thể xao lãng việc cầu nguyện trong khi hành động. Thánh Phaolô căn dặn: “Anh chị em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng.” (1 Tx 5:16-17) Không chỉ tạ ơn khi thuận ý mình mà phải “tạ ơn trong mọi hoàn cảnh” (1 Tx 5:18) vì “đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu.” Thánh Phaolô nhắc nhở: “Anh em đừng dập tắt Thần Khí. Chớ khinh thường ơn nói tiên tri. Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ, còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa.” (1 Tx 5:21-22)
Tỉnh thức, hành động và cầu nguyện để “thần trí, tâm hồn và thân xác được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm.” (1 Tx 5:23) Chính nhân sẽ được Chúa Giêsu dẫn đi gặp Chúa Cha. Thánh Phaolô xác định: “Đấng kêu gọi anh chị em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó.” (1 Tx 5:24) Vì chính Chúa Giêsu đã cầu xin Chúa Cha: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành.” (Ga 17:24) Cái gì cũng cần điều kiện, không vì lợi ích cho Chúa mà vì lợi ích cho chính chúng ta.
Lạy Thiên Chúa, vì yêu thương mà Ngài đã tạo nên chúng con, sai chúng con vào đời để làm chứng về Lòng Thương Xót của Ngài, xin ban Thần Khí để chúng con can đảm, nhiệt thành, dấn thân và hành động với tinh thần khiêm nhu, nhận biết mình yếu kém để nỗ lực hoàn thiện theo ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Đấng Thiên Sai Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen. mục lục
Có một điều từng được Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II quan tâm đặc biệt trong dịp mừng Đại MV 3-B187
Có một điều từng được Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II quan tâm đặc biệt trong dịp mừng Đại Năm thánh 2000 mà khác với những Năm thánh trước. Đó là việc tưởng niệm các vị tử đạo mới (thế kỷ 20). Và ngài khuyến khích các Giáo hội địa phương cẩn thận thiết lập danh sách, thu thập hồ sơ, chứng từ về các vị tử đạo này, để ký ức quý giá về chứng tá của các ngài khỏi bị mai một với thời gian. Đức Cha Chủ tịch “Ủy ban về các vị Tử đạo mới” cho biết: tính đến đầu tháng 10-1999, hơn 10.000 tên tuổi đã được thiết lập.
Nhưng thực ra đó mới chỉ là một giọt nước rơi vào chậu thôi. Danh sách này do các Hội đồng Giám mục và các Dòng tu gửi về Ủy ban Trung ương Năm thánh 2000. Hàng trăm ngàn tín hữu Ki-tô đã chết trong các tù ngục của chính thể độc tài, các trại tập trung của Đức Quốc xã, các trại lao động cải tạo của chế độ Xô viết; hàng trăm ngàn tín hữu khác đã chết trong các làn sóng bách hại tôn giáo tại Đông Âu, Trung Quốc, Bắc Hàn..., trong các cuộc nội chiến tại Mỹ châu La-tinh và Phi châu. Đức cha Chủ tịch nói: “Điểm nổi bật của thế kỷ này là con số lớn lao các vị tử đạo tại mỗi đại lục. Hàng trăm ngàn tín hữu Ki-tô bị giết chỉ vì họ là tin vào Chúa Ki-tô. Và cuộc tử đạo của các Ki-tô hữu trong thế kỷ này vẫn chưa chấm dứt”. Họ đã được tưởng nhớ ngày 7-5-2000 trong một buổi cử hành đại kết, quy tụ tại Đấu trường Rô-ma (Colosseum) đủ đại diện của các Giáo hội và Cộng đồng Giáo hội từ khắp nơi trên thế giới, để gợi lên, cùng với Giám mục Rô-ma, sự phong phú của điều gọi là “công cuộc đại kết bằng giá máu”.
Trước thềm Năm Thánh 2025, cụ thể là hôm 5-7-2023, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã thành lập một Ủy ban mang cùng tên, sẽ công nhận các vị Tử đạo Công giáo và các vị thuộc các hệ phái Kitô khác nữa. Mục tiêu của Ủy ban này là lập một danh mục tất cả những ai đã đổ máu kể từ năm 2000 để tuyên xưng Chúa Kitô và làm chứng cho Tin Mừng. Đức Thánh Cha giải thích tầm quan trọng việc này như sau: “Các vị tử đạo trong Giáo hội là những chứng nhân của đức cậy được bắt nguồn từ đức tin vào Đức Kitô và khơi dậy đức ái đích thực. Niềm hy vọng duy trì xác tín sâu xa rằng điều thiện mạnh hơn sự ác, bởi vì Thiên Chúa trong Đức Kitô đã chiến thắng tội lỗi và sự chết… Ủy ban sẽ tiếp tục việc nghiên cứu, vốn đã khởi sự dịp Đại Năm Thánh 2000, để xác định những Chứng nhân Đức tin trong một phần tư đầu tiên của thế kỷ này, và sẽ tiếp tục trong tương lai.” Ngài còn cho biết thêm: “Trong Năm Thánh sắp tới [2025], chúng ta cũng sẽ hiệp nhất với nhau trong cùng một cuộc cử hành đại kết như vậy”.
1. Trở thành chứng nhân là điều khẩn thiết
Các vị tử đạo chính là các chứng nhân của Đức Ki-tô, y như Gio-an Tẩy giả đã là “chứng nhân” của Người. Ý tưởng này có đánh động chúng ta không? Cuối Tin Mừng của mình, Gio-an sẽ nói ông đã là một chứng nhân, và lúc Tin Mừng Luca kết thúc, Đức Giê-su cũng bảo: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy”. Phải tin rằng đó là điều quan trọng.
Chứng nhân mạc khải một cái gì đó, ông biết, ông bày tỏ sự hiện hữu và tầm quan trọng của một ai đó. Đấy là điều Gio-an Tẩy giả đã làm đối với Đức Ki-tô. Ông đã khiến người ta ngạc nhiên, ông đã kích thích cơn sốt đợi chờ của họ, nỗi đợi chờ cảm thấy ngay từ câu hỏi đầu tiên của người Do-thái : “Ông có phải là Đấng Ki-tô không? Nói đi nào! Nói đi nào!” Gio-an Tẩy giả biết rõ họ đang nghĩ đến cái gì và bấy giờ chứng từ của ông vang dội: “Không phải! Nhưng có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết”. Đất đã chuẩn bị. Khi ngày hôm sau, ông chỉ một người mà nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa”, thì các môn đệ tiên khởi đã lập tức đi theo con người này, và đến lượt mình, họ cũng đã trở thành các chứng nhân: “Đức Ki-tô đã tới!”
“Đức Ki-tô đã tới” nhưng nhiều người có biết đâu. Một số đợi Người cách mơ hồ, họ cảm thấy có quá nhiều chuyện gây thất vọng và khắc khoải trong đời mình, trong thế giới. Chính nỗi mong đợi ngấm ngầm ấy được phụng vụ Mùa Vọng nhắc lại và nhấn mạnh; nhưng cả năm, mọi ngày, nhiều con người chờ đợi một sự cứu rỗi, một Đấng cứu thế. Phúc cho họ nếu gặp được nhiều chứng nhân. Phải chăng tôi là một chứng nhân như vậy?
Chúng ta chắc đã cảm thấy tiếng gọi đó, ít nhất một lần trong đời: làm tông đồ, làm chứng nhân cho Đức Ki-tô. Nếu nhiệt thành này thiu ngủ, thì trang Tin Mừng hôm nay có thể đánh thức dậy. Chúng ta có trước mắt chứng nhân đầu tiên, chứng nhân mẫu mực: Gio-an Tẩy giả.
Ông đã gây kinh ngạc. Phải chăng có một cái gì đó trong tôi khiến những người thân cận kinh ngạc? Phải chăng tôi biểu lộ đức tin đủ để thiên hạ cảm thấy bị thúc đẩy hỏi tôi: “Bạn là ai? Bạn có ai trong đời mình?” Điều đó sẽ chứng minh rằng tôi là một bảng quảng cáo tốt cho Đức Ki-tô, là lời loan báo về một cái gì đó, về một người nào đó: “Ở giữa anh em có một đấng. Người đang có mặt trong các cuộc đấu tranh, trong các niềm hy vọng, trong các cách yêu thương của anh em” - “Ai thế?” - “ Đức Giê-su Ki-tô!” - “Hãy nói cho chúng tôi biết Người”.
2. Biết nêu chứng từ là điều quan trọng
Lúc ấy bắt đầu giây phút khó khăn của chứng từ trực tiếp : biết nói về Đức Giê-su Ki-tô. Thiệt hại biết bao nếu chúng ta không đủ lời. Để làm chứng nhân, cần phải biết và các phương tiện được cung cấp rộng rãi cho chúng ta: sách báo, học khóa, giáo lý thính thị. Bảo “mình không biết” mà rồi chẳng cố gắng gì cả thì đúng là muốn làm một chứng nhân tồi. Nhiều Ki-tô hữu rất có học thức và đầy niềm tin nhưng dốt giáo lý đến độ luôn tỏ ra lúng túng khi được một người ngoại giáo hay một tín hữu bình dân hỏi. Họ đã chẳng đọc sách nào về đức tin, cuốn Kinh thánh tuyệt đẹp của họ không bao giờ được mở, các lập trường luân lý hiện nay của Giáo Hội hay sự tiến triển của phụng vụ làm họ bối rối nhưng họ chẳng cố gắng thu thập tài liệu cho mình như vẫn làm trong bất cứ lãnh vực nào khác. Cá tính cũng như văn hóa của họ gây ấn tượng đến độ chúng ta có khi phải tự nhủ: họ đã có thể làm chứng cho Đức Ki-tô mạnh mẽ đến chừng nào. Tiếc thay!
Tuy nhiên, đừng đấm ngực hay chỉ tiếc thay cho người khác. Vấn đề là chính bản thân chúng ta. Ta có chắc mình biết Đức Giê-su không? Các phản ứng gây nên bởi nhiều cuốn sách mới trong các thập niên gần đây, như cuốn “Jésus” của Jacques Duquesne hoặc bộ “Jesus of Nazareth” của Joseph Ratzinger (ĐGH Biển Đức XVI) chẳng hạn, đã cho thấy rằng chúng ta hết thảy phải nỗ lực để hiểu biết Người hơn nữa.
Vì sao? Vì việc nghiên cứu về Người thường xuyên tiến triển theo văn hóa thời đại. Chúng ta sẽ khám phá ra những khía cạnh của bản thân và hoạt động Người hợp với não trạng chúng ta hơn, đối với một số, hay trái lại gây hoang mang hơn, đối với số khác. Chẳng hạn các phép lạ, các khác biệt giữa bốn Tin Mừng, hay cuộc tranh luận thường xuyên giữa Đức Giê-su của lịch sử và Đức Giê-su của niềm tin.
Đứng bên ngoài các cuộc tranh luận ấy chứng tỏ mình không say mê Đức Giê-su Ki-tô cho đủ. Ai yêu mến Người thì sẽ muốn biết tất cả về những kiến thức hôm qua và những khám phá hôm nay về Người. Một nữ tín hữu trẻ đã trả lời trong một cuộc phỏng vấn: “Tôi sẽ lê gót bất cứ nơi nào có thể học thêm một cái gì đó về Đức Giê-su”.
Dĩ nhiên, chúng ta không muốn khẳng định rằng người ta tự động trở nên một chứng nhân tốt nhờ mải miết trau dồi kiến thức đạo. Nếu duy trì đức tin chúng ta ngang mức độ kiến thức đời của ta là chuyện tuyệt đối cần thiết, thì dẫu sao đó chỉ là một khía cạnh của chứng từ chúng ta. Chứng nhân của Đức Giê-su Ki-tô đặc biệt là một con người sống nhờ Đức Giê-su Ki-tô. Và điều này phải thấy cho được!
Bạn muốn bày tỏ Đức Giê-su là niềm hy vọng của loài người? Bạn sống niềm hy vọng ấy ra sao? có chấp nhận mọi gian khổ để bảo vệ những giá trị vĩnh cửu của Nước Trời, hay chỉ biết luồn cúi, quỵ lụy để “được việc”, để thành công trong chuyện tổ chức và xây cất hiện tại, thay vì “đúng việc” xứng tư cách mục tử? Bạn muốn minh chứng Đức Giê-su Ki-tô mang đến tình yêu? Bạn tỏ ra huynh đệ như thế nào ? có liều mình gánh chịu muôn vàn khó khăn, khó dễ để bênh vực cho các nạn nhân của bất công, ngược đãi? để công khai và tập thể lên tiếng chống lại nạn phá thai, án tử hình, tệ tham nhũng…? Bạn muốn công bố Đức Giê-su Ki-tô là sự thật ? Bạn có can đảm cất tiếng chống lại những sai lầm, gian dối trong thế gian, nơi các chủ nghĩa trá ngụy, và tìm mọi cách (kể cả đấu tranh, đấu tranh ôn hòa) để có thể phổ biến rộng rãi Tin Mừng, học thuyết Giáo Hội, có thể giáo dục được mọi tầng lớp thanh thiếu niên? Bạn muốn giới thiệu Đức Giê-su Ki-tô như Nhà giải phóng ? Bạn tỏ ra tự do trước cường quyền như thế nào, trước “mưu đồ thao túng Ki-tô hữu bằng ân huệ hay bằng dọa nạt” ra sao? có dám mạnh mẽ phản đối những trói buộc bất công, những hạn chế quá đáng, những quy định ngặt nghèo, những luật lệ nhằm biến tôn giáo thành một công cụ ngoan ngoãn?
Mùa Vọng là mùa tìm hiểu lời các tiên tri và suy gẫm Thánh Kinh. Nó giúp chúng ta nhận ra MV 3-B188
Mùa Vọng là mùa tìm hiểu lời các tiên tri và suy gẫm Thánh Kinh. Nó giúp chúng ta nhận ra viễn ảnh về một đấng thiên sai mà mọi người đang chờ mong.
GIOAN TIỀN HÔ LÀ AI?
Trong bài Tin Mừng Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy hình ảnh Gioan Tiền Hô lại một lần nữa xuất hiện trên diễn đàn lịch sử ơn cứu độ. Sứ mệnh của Gioan là chuẩn bị cho đấng Thiên Sai đến. Khi thời điểm đến, Gioan dẫn các đệ tử của ông đi gặp đức Giesu và cho họ biết Người là đấng Thiên Sai, là Ánh Sáng Thật và là Chiên Thiên Chúa, Đấng tha thứ tội trần gian. Còn ông thì không phải là Ánh Sáng. Ông đến để chứng minh cho Ánh Sáng. Ông chẳng là gì cả. Ông đến để cho Ánh Sáng chiếu tỏa trên ông.
Gioan tự cho mình không bằng đầy tớ của Chúa Giêsu. “Giữa các ông có một người mà các ông không biết. Người đó đến sau tôi, nhưng tôi không đáng cởi giây giày cho Người” (Ga 1:26-27). Khi gặp Đức Giêsu thì các đệ tử của Gioan quá ngỡ ngàng về việc Chúa chịu phép rửa ở sông Jordan. Thấy vậy Gioan bèn nói cho các ông biết: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban”. Gioan lại nói thêm “Tôi chỉ là bạn của chú rể, tôi phải lu mờ đi để cho Chủ tôi nổi bật hẳn lên (Ga 3:27-30). Gioan, người làm phép rửa cho Chúa đã nói lên nhân tính của mình với tất cả những giới hạn của nó.
CẢNH BẤT NGỜ
Một trong những cảnh nhức nhối nhất của Tin Mừng Luca là Gioan Tiền Hô bị tiểu vương Hêrôđê bắt bỏ tù vì ông khiển trách vua phạm tội loạn luân, lấy em dâu là Hêrôđia làm vợ (Mt 4:12; Mc 1:14; Lc 3:19). Cảm thấy cô đơn và quá chán nản lại gần đến cuối đời, Gioan kêu lên như một tiên tri vĩ đại nhất: “Thầy có thực sự là đấng phải đến không?” (Lc 7:19).
Có lẽ Gioan mong chờ một nhà cách mạng xã hội đến để đem lại một vương quốc huy hoàng đầy quyền uy, không phải cho những kẻ nghèo khó, què quặt, mù lòa, cô đơn và tội lỗi. Nhưng Chúa Kitô đến một cách khác, một cách đặc biệt và bất ngờ chẳng giống ai ở giữa những kẻ bần cùng khốn khổ.
Đức Giêsu nói Gioan hãy nhìn kỹ mọi sinh hoạt trong xã hội. những việc đã xẩy ra. Người mù nhìn thấy, người què đi được, kẻ yếu đau bệnh tật được chữa lành, kẻ điếc nghe được. Tin Mừng bây giờ được loan truyền cho người nghèo khó. Đó là điều rất kỳ lạ, một an ủi đáng kể cho tất cả chúng ta. Vậy thì chúng ta có nên tự hỏi: “Người Kitô hữu có thực sự xứng đáng được như vậy không?” “Đức Giêsu có thực sự là đáp số cho tất cả mọi thói hư tật xấu, nỗi buồn phiền của nhân loại và của chính chúng ta không?”
Đám đông đến với Gioan và hỏi ngài “Chúng tôi phải làm gì đây?” Gioan đã chẳng khuyên ai từ bỏ thế gian nơi họ đang sống, nhưng ngài biểu họ, “Nếu ai có hai áo thì hãy cho kẻ không có áo một cái. Những ai dư giả đồ ăn thức uống thì hãy chia bớt cho những kẻ đói khát. Người thu thuế thì đừng thu thêm quá số chỉ định. Lính tráng thì đừng dùng bạo lực hoặc cáo gian để cướp bóc bất cứ ai. Hãy bằng lòng với đồng lương của mình” Vậy mọi người phải làm gì để sửa soạn đón đấng Thiên Sai? Hãy quảng đại, công bằng, lương thiện, tri ân và đầy lòng trắc ẩn yêu thương (Lc 3:10-14).
CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ?
Cuộc sống và bổn phận của Gioan Tiền Hô là chỉ cho chúng ta biết chúng ta cần phải có đấng cứu thế đến cứu chuộc chúng ta. Để được như vậy, chúng ta cần phải sống và làm tất cả những gì mà ngài kêu gọi chúng ta phải làm. Chúng ta có là những Kitô hữu can đảm, sống lời ngôn sứ và là chứng nhân cho Ánh Sáng, Đấng đã đến thế gian không? Hay chúng ta đã không nhận ra được một người ở giữa chúng ta là Ánh Sáng Thực sự?
Chớ gì Thánh Gioan Tiền Hô ban cho chúng ta can đảm và sức mạnh để đem Ánh Sáng đến cho tha nhân, lòng quảng đại và nhiệt tình chờ đợi như thánh Phaolô viết trong thư gửi tin hữu Thêsalônica: “Hãy luôn luôn vui mừng và cầu nguyện liên lỷ” (1 Tx 5:16-17). Chúng ta có thể đảo ngược lời khuyên đó thành: “Hãy cầu nguyện liên lỷ để chúng ta có thể luôn luôn vui mừng.”
Trong lúc cầu nguyện, chúng ta sẽ cảm nghiệm thấy tất cả những ưu tư và hy vọng của chúng ta tụ đọng nơi Thiên Chúa thành chính tình yêu và sự khôn ngoan của Người, rồi Chúa sẽ xếp đặt tất cả những điều đó dưới chân chúng ta và ban cho chúng ta đầy đủ sự sống và ánh sáng.
Từ khi đại dịch Covid cho đến nay, thì thế giới này vốn đã buồn, nay lại càng chất chứa thêm nhiều MV 3-B189
Từ khi đại dịch Covid cho đến nay, thì thế giới này vốn đã buồn, nay lại càng chất chứa thêm nhiều nỗi buồn khác.
• Buồn vì chiến tranh bùng phát giữa Nga và Ukraine, rồi mới đây lại bùng nổ giữa Do Thái và Palestine.
• Buồn vì nạn trộm cắp, nạn cướp bóc càng ngày càng nhiều, khiến 2,847 cửa hàng lớn như Wal-Mart, Target, Bed Bath & Beyond, CVS, Walgreen... ở các tiểu bang phải đóng cửa, bỏ của chạy lấy người.
• Buồn vì những thế lực của sự ác càng ngày càng lấn át sự thiện, chính quyền các cấp đã làm ngơ, thậm chí đã dung túng và cứ để cho những sự ác, và kẻ gian ác càng ngày càng lộng hành và láo lếu hơn, nạn ăn cướp ăn trộm công khai giữa ban ngày ban mặt, càng ngày càng nhiều, chẳng ai dám đụng vào bọn chúng.
• Buồn rầu vì vật giá leo thang, xăng dầu, mắm muối, gạo đường... cứ tăng hoài, tăng mãi, tăng đến chóng cả mặt.
Còn cả hàng trăm, hàng ngàn và hàng vạn những nỗi buồn lớn nhỏ khác nữa; chúng đã và đang gặm nhấm cuộc đời của tôi, của bạn và của hàng tỉ người trên hành tinh này. Đứng trước những nỗi buồn lớn nhỏ như vậy, bạn nghĩ thử xem, chúng mình cần phải làm gì để cho lòng bớt buồn sầu đây?
• Chúng mình có nên ngồi một chỗ để than trời, trách đất, oán ông địa, mắng thiên lôi và chửi... tục không? Hay là suốt ngày ngồi ôm cái microphone để rên rỉ bài không tên số 4: "Khóc cho vơi đi những nhục hình, nói cho quên đi những tội tình...?" Vô ích, chả thay đổi được gì đâu, chỉ buồn hơn và buồn thêm mà thôi!
• Chúng mình có nên mượn rượu để giải sầu, lắc xí ngầu để cho vui, hay lui cui mò mẫm suốt ngày trên internet quên cả chết? Tin tôi đi, càng uống rượu uống bia, càng siêng đi casino, và càng tốn nhiều giờ trên internet bao nhiêu, thì những nỗi buồn trong cuộc đời này của bạn và của tôi càng tăng theo cấp số nhân, chỉ thêm buồn thôi chứ chẳng vui đâu! Vừa tai hại, vừa tốn kém lại vừa hại sức khỏe, nên chớ có dại!
Trước những nỗi buồn lớn nhỏ như vậy, tôi nghĩ, bạn và tôi nên quan tâm đến 3 việc sau đây:
- Thứ nhất, bạn và tôi cần phải sống lạc quan, tin rằng mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời, tất cả những chuyện vui hay buồn rồi sẽ qua đi.
- Thứ hai, chúng mình phải tin rằng, sống hay chết là quyền năng của Chúa, chứ không phải là quyền của con người ta! Như thánh Phaolô nói trong thư gửi tín hữu Rô-ma: "Không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa" (14:7-8).
- Và thứ ba, hãy ráng nhìn vào những mặt tích cực, nếu không muốn nói là những điều tốt lành, đến từ những sự ác đang hoành hành trên hành tinh này nói chung và trên đất Hoa Kỳ nói riêng. Ví dụ:
• Sau đại dịch Covid, nhiều gia đình sống hạnh phúc hơn, vợ chồng có thời giờ gần gũi và chăm sóc cho nhau, cha mẹ dành nhiều giờ cho con cái và nhiều gia đình có được những bữa ăn chung với nhau...
• Có những người đã tỉnh ngộ, đã nhận ra rằng đời người thật là ngắn ngủi, là vô thường, chẳng có gì là lâu bền và bảo đảm cả. Và nhờ sự tỉnh ngộ đó, họ đã sống khiêm nhường hơn, không chỉ lo xây dựng thiên đàng trần thế, nhưng lo chú tâm hơn đến đời sống thiêng liêng, đi xưng tội, quý trọng thánh lễ và bí tích Thánh Thể, biết lo đầu tư cho đời sống vĩnh cửu của họ và của con cái.
Bạn thân mến, khi chúng mình sống lạc quan, khi bạn và tôi ý thức rằng, sự sống, sự chết là ở trong tay Chúa, và khi nhìn ra những sự tốt lành nảy sinh từ những sự dữ, nhận ra được những phúc lành của Thiên Chúa ban cho bạn và tôi qua những biến cố đau thương và những bất hạnh trong cuộc đời này... thì lúc đó, chúng mình mới có thể vui mừng [và mới có thể dâng lên Chúa lời] tạ ơn trong mọi hoàn cảnh [được]" (1 Tx 5:16-17).
Xin hãy vững tin rằng, Thiên Chúa là Cha rất nhân từ, Ngài là Đấng quyền năng vô cùng; Ngài làm chủ trái đất, điều khiển tất cả mọi biến cố trong vũ trụ và có quyền trên mọi sự dữ. Ngài sẽ giải thoát chúng ta khỏi mọi sự dữ, đó là điều chắc chắn.
Xin hãy kiên nhẫn và vững tin vào Chúa. Xin Thiên Chúa là Cha nhân lành, qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria, chúc lành, gìn giữ và ban cho bạn cùng những người thân yêu của bạn sức khỏe, niềm vui và sự bình an. Nhờ vậy, bạn và gia đình sẽ cảm nhận được niềm vui thực sự của mùa Giáng Sinh, và sẽ thoát khỏi những sự sợ hãi do những thế lực của sự ác gây ra.
Người ta nói ‘con đuờng dài nhất là con đuờng từ đầu đến bàn tay’. Câu nói này thường được dùng MV 3-B190
Người ta nói ‘con đuờng dài nhất là con đuờng từ đầu đến bàn tay’. Câu nói này thường được dùng để ám chỉ đến những người nói nhiều, làm ít hay không làm gì cả. Nói thì ai nói mà không đuợc, nhưng biến lời nói thành việc làm là điều thật khó khăn. Thế giới ngày nay cần có nhiều chứng nhân hơn là các chứng từ. Chứng nhân cần sống đúng với chứng từ của mình, điều đó có nghĩa là chứng nhân không có lối sống chạy theo đám đông, hay làm để chiều theo thị hiếu của quần chúng; nhưng là sống thế nào để họ noi guơng rồi đi theo và làm theo.
Tôi còn nhớ những nỗi niềm, các trăn trở và thao thức mà các bậc phụ huynh đã từng chia sẻ, như sau: Làm thế nào để khuyến khích, cổ võ, thúc giục và động viên con cái của họ tình nguyện, vui vẻ tham dự Thánh Lễ, ít nhất vào dịp cuối tuần hay là một ngày trong tuần? Quí phụ huynh cảm thấy như có một gánh nặng đè trên hai vai về lối giữ đạo của con cái họ. Nhà thờ và các nghi lễ phụng vụ không còn hấp dẫn các cháu nữa.
Đây không chỉ là vấn đề làm cho quí vị nhức đầu; nhưng đó là thách đố chung của Hội Thánh và cho những ai còn môt chút quan tâm đến cuộc sống của giới trẻ hôm nay. Tôi không tìm thấy câu trả lởi. Nhưng điều khiến tôi cảm động khi nghe quí vị chia sẻ rất chân thành rằng chính quí vị đã dành quá nhiều thời gian và sức lực để ổn định cuộc sống tại đây cho nên đã sao lãng trong bổn phận của người tín hữu nhất là chưa sống trọn vẹn vai trò của một chứng nhân, chưa làm gương sáng. Và đó có thể là một trong nhiều nguyên nhân khiến các cháu có lối sống như thế.
Qua lời than van này, quí vị đã giúp tôi nhớ lại rằng, điều kiện tiên quyết của người làm chứng là sống đúng như chứng từ của mình. Và, Gioan Tẩy giả trong bài Tin Mừng hôm nay là guơng mẫu trong sứ mạng làm chứng như thế. Xin mời anh chị em cùng với Thánh Gioan Tẩy giả ôn lại công trình tay Chúa đã thực hiện nơi cuộc sống của Thánh nhân cho dân của Người.
Thưa anh chị em,
Đời sống và các sinh hoạt tôn giáo của dân Do Thái được nuôi dưỡng bởi các ngôn sứ. Họ đã đóng một vai trò thật quan trọng trong việc nuôi duỡng niềm tin của dân chúng huớng về ngày cứu độ. Tiên tri Malachi là vị ngôn sứ đã xuất hiện khoảng 450 năm trước khi Gioan đến. Khoảng thời gian 450 năm không là một giai đoạn ngắn, ít nhất cũng trải qua 4, 5 thế hệ. Vì không đuợc huớng dẫn bởi các ngôn sứ, cho nên thời gian này có thể đuợc ví như khoảng thời gian dân Do Thái mò mẫm trong đêm tối. Và như vậỵ, họ không chỉ mong chờ mà còn rất cần được Ánh sáng dẫn đuờng chỉ lối!
Với một bối cảnh như thế, và lòng dân chúng đang mong chờ vị Cứu Tinh, Đấng Cứu Thế sẽ đến để giải thóat họ khỏi ách nô lệ, cứu thoát họ khỏi cảnh lầm than. Vì thế, khi nghe tin Gioan xuất hiện, họ từ Giê-ru-sa-lem, khắp miền Giu-đê và vùng lân cận sông Gio-đan hân hoan kéo đến nghe ông giảng. Trái lại, thái độ của các vị lãnh đạo đền thờ lại khác. Họ sai các tư tế và mấy thầy Lêvi đến chất vấn ông. Nhân dịp này, Gio-an đã làm chứng cho họ biết Người không phải là Đức Ki-tô, cũng chẳng phải là Ê-li-a hoặc là ngôn sứ gì cả.
Người chỉ là tiếng hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đấng Cứu Thế đến như ngôn sứ Isaia đã nói.” (Ga 1: 20-23) Rồi mấy người trong nhóm Pha-ri-sêu lại hỏi tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đức Kitô. Gio-an trả lời: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi, và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” (Ga 1: 26-27)
Giả như Đức Giê-su không xuất hiện và Gio-an không nói sự thật về vai trò của ông thì khách quan mà nói trong bối cảnh xã hội và tôn giáo như thế; Thánh Gio-an Tẩy giả, với lối sống khổ hạnh và lời rao giảng có sức lôi cuốn mãnh liệt, có thể bị ngộ nhận là Đấng Cứu Thế mà tòan dân đang mong chờ. Gioan đã không chỉ làm chứng bằng lời nói; nhưng gương can đảm, sống theo sự thật làm cho chúng ta phải cảm phục. Gioan đuợc ví như cây sậy phất phơ trước gió, nhưng Người đã không ngã gục trước quyền lực của những người đến hỏi tội ông. Gio-an cũng không đánh lừa dân chúng. Người can đảm nói lên vai trò của nhân chứng về sự thật. Và vì sự thật mà Người đã bị xử tử, bị giết chết. Đó chính là con đường mà ngôn sứ phải đi: chỉ biết nói sự thật cho dù phải chết.
Tuy là như thế, nhưng Gioan không phải là ánh sáng mà chỉ là nhân chứng của ánh sáng. Ánh sáng đích thật là Chúa Giêsu. Vì thế khi Đức Kitô bắt đầu sứ vụ công khai thì vai trò của Gio-an phải lu mờ. Cũng như Gio-an, chúng ta phải biết chấp nhận sự thật về mình, sự giới hạn của mình, không giả tạo, không qui công về mình cái mà mình không có, điều mà mình không làm. Bằng không, chúng ta có thể trở thành những con người bất mãn và chỉ biết đòi hỏi.
Đây là sự cao trọng trong sứ mạng của Gio-an. Chính vì biết mình là ai, và cần phải làm gì trong chuơng trình của Thiên Chúa, nên Gio-an đã trở thành con người vĩ đại như lời ca tụng của Đức Giêsu: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn Gioan tẩy giả. Tuy nhiên kẻ nhỏ nhất trong Nước trời còn cao trọng hơn ông.” Bởi vì, vai trò của Gio-an dù có cao trọng đến đâu thì ông vẫn chỉ là người dọn đường; còn chính Chúa Giê-su và những kẻ thuộc về Người mới thuộc về Nước Trời. Đó là giáo lý mới, tin vui mà Chúa Giê-su đã đem lại.
Chính Gio-an cũng phải thay đổi lối nhìn và cách sống sao cho phù hợp với những yêu sách của Tin Mừng về Nước Trời. Với Đức Giêsu, trong Vương Quốc của Người, chúng ta hãy cứ để cho ‘cỏ lùng và lúa tốt” cùng mọc lên, cho ‘chiên và dê’ cùng sống chung. Việc phân xử là của Chúa. Thời gian phân xử cũng thuộc về Người. Còn bây giờ, chúng ta hãy noi gương Chúa Cứu Thế, đi trên con đuờng mà Người đã đi, chiếu hy vọng đến những nơi tăm tối, đem tin vui tận hang cùng ngõ hẻm của thế giới; rao giảng Đấng có quyền làm cho “kẻ què được đi (trên con đường của Chúa), người điếc được nghe (tin vui), người mù được nhìn thấy (ánh sáng) và kẻ chết được sống lại từ cõi chết”.
Tóm lại, vai trò của Gio-an là giới thiệu và dọn đường cho Đấng Cứu Thế; còn Chúa Giêsu và chúng ta là niềm hy vọng, nguồn sống sung mãn của Thiên Chúa cho người khác. Có như thế, viêc chúng ta mừng lễ Giáng Sinh không phải là việc tưởng niệm biến cố đã xẩy ra trong quá khứ; nhưng là tiếp tục công việc mà Chúa Giêsu đã làm cho những hạng người nói trên.
Ước mong ân huệ của đêm Giáng Sinh sẽ biến cuộc đời của chúng ta trở thành nhân chứng của niềm vui; niềm vui này giống như niềm vui mà sứ thần đã loan báo: “Hôm nay Đấng cứu Thế đã sinh ra” không phải tại Bê-lem nhưng bởi lối sống của chúng tôi, là những người có nhiệm vụ cao trọng hơn Gio-an Tẩy giả. Amen! mục lục