“Các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào chủ nhà trở về”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì các con không biết lúc đó là lúc nào. Ví như người đi phương xa, để nhà cửa lại, trao quyền hành cho các đầy tớ, mỗi người một việc, và căn dặn người giữ cửa lo tỉnh thức. Vậy các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào chủ nhà trở về, hoặc là chiều tối, hoặc là nửa đêm, hoặc là lúc gà gáy, hay ban sáng, kẻo khi ông trở về thình lình, bắt gặp các con đang ngủ. Ðiều Ta bảo cho các con, thì Ta bảo cho tất cả mọi người là: Hãy tỉnh thức!” - Ðó là lời Chúa.
Trong Kinh Tin kính, có hai tín điều mà ta còn phải chờ. “Và Ngài sẽ lại đến trong vinh quang để MV 1-B151
Trong Kinh Tin kính, có hai tín điều mà ta còn phải chờ. “Và Ngài sẽ lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết.” “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại, và sự sống đời sau.” Cả hai điều trên đều chưa xảy ra, nhưng là nỗi chờ mong của các kitô hữu từ hai mươi thế kỷ. Người Do-thái chờ Đấng Mêsia đến trần gian, còn kitô hữu chờ ngày Con Thiên Chúa trở lại. Đôi khi chúng ta nghĩ Đức Giêsu đã phục sinh và lên trời, như thế là xong, Ngài chẳng còn phải làm gì nữa. Thật ra khi phục sinh, Đức Giêsu đã chiến thắng thần chết, nhưng Ngài chưa toàn thắng, và cuộc chiến vẫn còn kéo dài. Thiên Chúa chưa “bắt muôn loài quy phục dưới chân Ngài” và kẻ thù cuối cùng là sự chết vẫn chưa bị tiêu diệt (1 Cr 15,24-28). Hai tín điều trong Kinh Tin kính mà ta còn phải chờ lại là hai biến cố trùng nhau về thời gian. Ngày Chúa Giêsu trở lại như một thẩm phán đầy quyền năng cũng là ngày tận thế, ngày thân xác kẻ chết sống lại. Ngày đó thật là một ngày quan trọng cho cả vũ trụ loài người, và cũng là ngày vinh quang lớn lao cho chính Chúa Giêsu. Nhiều người đoán già đoán non về lúc nào ngày ấy đến. Đã có những lời đồn đoán về ngày tận thế, và tất cả đều sai. Có người đã bán cả nhà cửa ruộng vườn để ngồi chờ tận thế. Có người bỏ cả công ăn việc làm, nhưng chẳng thấy gì xảy ra. Họ quên rằng chính Đức Giêsu, Con Thiên Chúa mang phận người, cũng thú nhận chỉ mình Chúa Cha mới biết về Ngày ấy (Mc 13,32). Chúng ta tin Ngày ấy thế nào rồi cũng đến, nhưng chúng ta không biết rõ khi nào (Mc 13,33.35.36). Chính vì thế đời của kitô hữu tự bản chất là chờ đợi. Nếu Chúa Giêsu không quang lâm, công trình cứu độ vẫn chưa hoàn thành trọn vẹn, và Thiên Chúa chưa “là tất cả trong muôn loài” (1 Cr 15,28). Nhưng kitô hữu không khoanh tay chờ suông cách thụ động. Bài Tin Mừng hôm nay dạy ta cách chờ. Chúng ta là những đầy tớ được ông chủ đi xa tin cậy, giao nhà và giao cả quyền hành, phân công mỗi người mỗi việc. Chúng ta là anh giữ cửa, có nhiệm vụ mở cửa ngay khi chủ về. Thường thì ông chủ không về vào ban đêm, vì trời thì tối, đường không có đèn, ẩn chứa nhiều nguy hiểm. Nhưng biết đâu ông chủ lại bất thần trở về vào lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng. Đó là lúc mọi người dễ chìm trong giấc ngủ say. “Hãy tỉnh thức! Hãy canh thức!” Đức Giêsu nhắc lại nhiều lần, không phải chỉ cho bốn môn đệ thân tín (Mc 13,3), mà cho mọi người và từng người chúng ta (Mc 13,37). Không phải Ngài cấm chúng ta ngủ trưa hay ngủ tối. Nhưng Ngài dạy chúng ta đừng ngủ mê trong tội. Khi ngủ mê, người ta quên mình là đầy tớ, nhận quyền hành của chủ để chu toàn công việc được giao. Khi ngủ mê, người ta để chủ ban đêm đứng chờ ngoài cửa. Sống ở đời, ta dễ bị ru ngủ bởi nhiều thứ gây nghiện. Thế gian này quá hấp dẫn khiến ta nghĩ nó là vĩnh cửu. nghĩ chuyện Chúa quang lâm là chuyện không đáng tin (2 Pr 3,4). chẳng có thưởng phạt, cũng chẳng có phục sinh cho thân xác. Thái độ thức tỉnh đòi hỏi ta cảnh giác liên tục. Chính vì không biết lúc nào chủ về, lúc nào Chúa đến nên lúc nào ta cũng phải sẵn sàng, tích cực chờ đợi, để ra đón Chúa trong niềm vui bình an.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu trái đất này, và đã sống trọn phận người ở đó. Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc, sự bi đát và cao cả của phận người. Xin dạy chúng con biết đường lên trời, nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em. Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu, chúng con thấy mình được thêm sức mạnh để xây dựng trái đất này, và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa, xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời không làm chúng con quên trời cao, và những vẻ đẹp của trần gian không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa. Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con, mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.
Trong truyện Thần thoại Hy lạp có câu chuyện: “Con Ngựa Gỗ Thành Troia” kể về cuộc chiến tranh MV 1-B152
Trong truyện Thần thoại Hy lạp có câu chuyện: “Con Ngựa Gỗ Thành Troia” kể về cuộc chiến tranh thành Troia diễn ra ròng rã hơn 10 năm trời vẫn chưa kết thúc được vì quân đội của nhà vua Menelaus đã dùng rất nhiều cách nhưng vẫn không thể nào công phá được cổng thành Troia để vào tiêu diệt quân đối phương. Vì sao, quân đội không thể vào Thành Troia được dù quân đội rất hùng mạnh bởi vì quân địch bên trong thành canh giữ rất tỉ mĩ, nghiêm ngặt không để một sơ hở nào, hơn nữa bức tường thành rất cao to vững chắc và nguy hiểm không cách gì vượt qua được. Lúc này, quân đội nhà Vua đã nghĩ ra một cách đó là lấy gỗ ghép lại thành một con ngựa to lớn, mượn danh nghĩa đây là báu vật của thần linh ban tặng cho quân sĩ trong thành Troia để chống lại quân nhà vua bên ngoài thành. Thế là mọi người trong thành Troia tin và đã mở cửa rước ngựa gỗ vào thành. Thật không ngờ rằng trong bụng con ngựa gỗ kia chính là quân sĩ của nhà vua, thế là nhân lúc nửa đêm lính bên trong bụng con ngựa gỗ thoát ra ngoài, đánh giết quân địch, đốt phá thành, mở cửa cho quân mình vào thành và thành Troia bị thất bại mà không kịp trở tay. Vâng, chính vì sự sơ hở một tí này mà mọi sự bị phá hủy và tiêu diệt cho nên đừng coi thường mà hãy tỉnh thức luôn!
Hôm nay, Chúa Nhật I Mùa Vọng, bắt đầu năm Phụng vụ mới, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta: phải coi chừng thân xác và thức tỉnh tâm hồn để chúng ta trở nên phong phú về mọi phương diện, phong phú vì được nghe lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Người, khiến chúng ta không thiếu một ân huệ nào, trong lúc mong đợi ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, mặc khải vinh quang của Người (Lời Chúa trong bài đọc 2 Thánh Phaolô xác quyết như thế).
Trước hết, Chúa Giêsu dạy: “Anh em phải coi chừng thân xác”. Tại sao phải coi chừng thân xác bởi vì thân xác này, mạng sống này là do Chúa tạo ra như Lời Chúa trong bài đọc 1 khẳng định: “Chúng con là đất sét, còn thợ gốm là Chúa, chính tay Ngài đã làm ra tất cả cho chúng con” (Is 64,7). Hơn nữa, mỗi người là hình ảnh của Chúa và mỗi người đều được Máu Chúa Giêsu đổ ra để cho chúng ta được sống dồi dào ngay ở đời này và vĩnh hằng nữa.
Cho nên, các Đức Giám Mục Việt Nam đã đưa ra chủ đề mục vụ năm nay là: “Đồng hành với gia đình trẻ”. Trong thư mục vụ gửi cộng đồng Dân Chúa, Các Đức Giám mục nói rằng: “Mặc dù có nhiều thách đố và khó khăn trong đời sống gia đình, vẫn có những chứng từ tốt đẹp nơi nhiều cặp vợ chồng trẻ Công giáo. Họ chấp nhận những hy sinh lớn lao, vượt qua mọi khó khăn thử thách để sống trung thành với giao ước hôn nhân. Nhiều cặp vợ chồng đã can đảm giữ mầm sống trong mọi hoàn cảnh. Có những đôi bạn chấp nhận tình trạng son sẻ suốt đời, vượt qua cám dỗ muốn sử dụng những phương pháp trợ giúp Giáo Hội không cho phép, đồng thời đón nhận và thực thi tình phụ mẫu thiêng liêng qua việc đảm nhận những hoạt động tông đồ, bác ái xã hội với lòng nhiệt thành hân hoan. Nhiều bậc cha mẹ dù nghèo về kinh tế, vẫn cố gắng chu toàn bổn phận chăm lo cho con cái được giáo dục toàn diện về thể dục, trí dục, cũng như đức dục và tâm linh. Tuy vậy, phải nhìn nhận rằng do ảnh hưởng trào lưu hưởng thụ, sống ảo, sống gấp và quan niệm lệch lạc về hôn nhân, một số không nhỏ những tiêu cực vẫn tồn tại và có nguy cơ phát triển, ngay trong cộng đồng Công giáo như: phá thai, sống thử, kết hợp đồng tính, ly dị, lựa chọn giới tính. Những hiện tượng này đang làm mất đi những giá trị truyền thống của gia đình Việt Nam, đi ngược lại với ý muốn của Đấng Tạo hoá, để lại những hậu quả nghiêm trọng cho thế hệ mới” (số 2). Vì thế, Lời Chúa hôm nay như là sự cảnh tỉnh cho chúng ta về việc tôn trọng thân xác của nhau, nhất là tôn trọng sự sống, bởi: “Đối với Thiên Chúa, tất cả đều đang sống”. Vì thế, Chúa dạy phải coi chừng thân xác đừng vì tham lợi, háo danh hay dục vọng hay đau khổ mà hủy diệt thân xác người khác hay chính mình để rồi phải chết đời đời thì nào có lợi chi. Vì vậy, điều răn thứ 5 trong Mười Điều Răn, Chúa dạy rằng: Chớ giết người, vì Sách giáo lý Hội Thánh dạy rằng: “Mạng sống con người do Thiên Chúa ban thuộc quyền sở hữu của một mình Chúa: nó là thánh thiêng ngay từ lúc nó hiện hữu đầu tiên, và nó không chịu bất cứ con người nào kiểm soát. Cho nên, Lời Chúa nói “Trước khi ngươi được thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi, và trước khi ngươi được sinh ra, Ta đã thánh hiến ngươi (Jr 1,5). [Số 2270-2274, 2322]”. Cho nên, Chúa Giêsu dạy “Ai đã làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án” (Ga 5,29). Kết án đây chính là chết muôn đời, vì vậy, chúng ta phải coi chừng thân xác của chúng khỏi phải chết đời đời coi chừng ở đây nói như lời Thánh Phaolô trong Bài đọc 2 rằng vâng nghe lời chứng về Đức Ki-tô để Lời Chúa thật sự ăn sâu vững chắc vào lòng trí chúng ta, khiến chúng ta không thiếu một ân huệ nào, trong lúc mong đợi ngày Đức Giê-su Ki-tô đến mặc khải vinh quang của Người. Chính Người sẽ làm cho chúng ta nên vững chắc đến cùng, nhờ thế không ai có thể trách cứ được chúng ta trong Ngày của Chúa chúng ta là Đức Giêsu Ki-tô (1Cr 1,6-9).
Cuối cùng, Chúa Giêsu dạy phải canh thức tâm hồn bởi vì tâm hồn là nơi thánh và là nơi Chúa ngự vì vậy đừng tội lỗi, đừng vì nghen tương, tức giận, ganh ghét, tham lam… mà biến tâm hồn của chúng ta thành nơi ở của quỷ dữ đầy mưu mô xảo nguyệt gian tà và độc ác. Chẳng hạn, Sáng 20.11 vừa qua, bà Phạm Thị Lan (54 tuổi), sống tại khu tập thể giáo viên Trường THPT Đoàn Kết, Tỉnh Đồng Nai, bà thấy phía trước nhà có một gói quà, tưởng quà mừng ngày Nhà giáo Việt Nam, bà lan mở ra xem thì bất ngờ gói quà nổ khiến bà chết tại chỗ. Một ngày, thủ phạm ra đầu thú. Thủ phạm là Nguyễn Thanh Thanh, anh ta nói rằng anh tức bạn gái cũ của anh có quan hệ tình cảm với thầy Nam, con trai bà Lan, nên mua vật liệu về chế mìn để khử thầy Nam ai ngờ bà mẹ chết.
Mùa vọng đã bắt đầu. Đây là thời gian và mọi ngày trong đời sống chúng ta phải coi chừng và canh thức luôn vì như Lời Chúa trong bài đọc I quả quyết rằng: “Thiên Chúa sẽ ngự xuống với ai tin cậy nơi mình. Ngài đón gặp kẻ sống đời công chính mà lấy làm vui và nhớ đến Ngài khi theo đường lối Ngài chỉ dạy. Kìa, Ngài phẫn nộ vì tội lỗi chúng con, nhưng khi mải đi theo các đường lối của Ngài, chúng con sẽ được cứu thoát” (Is 64,2b-4). Hôm nay, bắt đầu năm Phụng vụ mới, năm nay Hội đồng Giám mục Việt Nam mời gọi các thành phần Dân Chúa hãy đồng hành và giúp đỡ các gia đình xây dựng hạnh phúc. Như vậy, bậc sống thánh hiến hay là bậc giáo dân đều phải coi chừng canh thức, có nghĩa rằng phải nhận ra Chúa luôn hiện diện trong ta đồng thời siêng năng lắng nghe và sống Lời Ngài dạy từng giây từng phút trong đời sống hầu tâm hồn và thân xác chúng ta trở nên thánh và thiện để Chúa Giêsu sẽ giáng sinh nơi chúng ta làm cho đời ta tươi sáng và rạng ngời hạnh phúc. Amen.
Lễ Giáng Sinh nhắc nhớ Kitô-hữu một biến cố rất đặc biệt: Thiên Chúa đã nhập thể làm người. Giáo MV 1-B153
Lễ Giáng Sinh nhắc nhớ Kitô-hữu một biến cố rất đặc biệt: Thiên Chúa đã nhập thể làm người. Giáo Hội không chỉ mừng lễ này như biến cố xảy ra trong quá khứ, mà còn nhắc nhở các tín hữu: Đức Yêsu sẽ lại đến trong vinh quang để đem những kẻ Ngài yêu được ở mãi với Ngài.
1. Ngôn ngữ giới hạn: Ngài không đi làm sao đến lại
Theo thánh Luca, Đức Yêsu Phục Sinh đã lên trời trước mặt các tông đồ (Lk.24, 51; Cv.1, 9). Ngài đã lên trời, và Ngài sẽ trở lại vào ngày cánh chung để phán xét kẻ dữ người lành. Giáo Hội đang chờ mong Chúa tới, và cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin Ngài hãy đến”.
Tuy nhiên, Tin Mừng theo thánh Matthêu cho thấy Đức Yêsu Phục Sinh không rời con người: “này đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt.28, 20). Trong kinh Lạy Cha các tín hữu đọc “Lạy Cha chúng con ở trên trời…”. Thật sự Thiên Chúa đâu có chỉ ở trên trời, Ngài còn ở trong lòng mỗi người: “Ai yêu mến Ta thì giữ lời Ta, Cha Ta sẽ yêu mến người đó, và chúng ta sẽ đến và ở với người đó” (Ga. 14, 23). Thánh Phaolô nói rằng: “bạn không biết rằng bạn là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự nơi bạn sao?” (1Cor.3, 16). Thiên Chúa luôn ở bên con người. Ngài ở trong chúng ta. Ngài ở gần mình hơn cả chính mình.
Tin Mừng theo thánh Maccô cho thấy Đức Yêsu “lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa”. Thật sự, Thiên Chúa là Đấng vô hình; Ngài làm gì có tay phải tay trái như chúng ta; như vậy “lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa” là cách nói diễn tả Đức Yêsu Phục Sinh được tôn vinh ngang bằng Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Đối, ngôn ngữ con người cũng tương đối như chính con người, nên không thể diễn tả trọn vẹn về Thiên Chúa được. Chúng ta phải cố gắng hiểu điều Thiên Chúa muốn dạy chúng ta qua Giáo Hội với ngôn ngữ con người. Chính vì vậy, tuy dù Đức Yêsu Kitô không rời con người, nhưng hiện tại con người cũng không được thấy Ngài bằng mắt trần, và Kitô-hữu tin rằng Ngài sẽ đến, con người sẽ được thấy Ngài đến trong vinh quang.
2. Hãy chuẩn bị đón Ngài đến
Chúa đã đến, và đã được sinh ra ở Bét-lem nhưng chẳng ai nhận ra để đón tiếp Ngài. Ngài cũng sẽ đến trong vinh quang, nhưng ngày đó chẳng ai biết trừ Thiên Chúa (Mc.13, 32). Thiên Chúa còn đến với mỗi người qua cái chết của mỗi người.
Không ai tránh khỏi cái chết, nhưng thường mỗi người không biết ngày giờ của mình. Đức Yêsu dạy các môn đệ: “Hãy tỉnh thức, vì không biết lúc nào giờ của mình đến”. Có người mong được chết, nhưng vẫn phải chấp nhận sống để kết hiệp với cuộc khổ nạn đau thương của Chúa. Có những người không muốn chết, nhưng Chúa mời gọi họ phải sẵn sàng chấp nhận cái chết như Đức Yêsu đã phải chấp nhận: “xin cho Con khỏi uống chén này, nhưng không phải ý Con mà là ý Cha”.
Mỗi người phải trả lời về cuộc sống của mình. Thiên Chúa đã trao cho mỗi người nén vàng nén bạc là chính tài năng của mình; và Ngài muốn mình sinh lợi ích. Chúng ta đã làm gì với nén vàng tài năng của mình đó. Chúng ta có trở thành chứng nhân tình yêu của Ngài cho những người cần đến chúng ta không? Nếu chúng ta là người cha người mẹ, chúng ta đã đối xử với con cái như thế nào với cương vị người đại diện Thiên Chúa? Nếu chúng ta là người con, chúng ta đã đối xử thế nào với cha mẹ như những người đại diện Thiên Chúa? Chúng ta có là tình yêu cho những người gặp gỡ chúng ta không? Chúng ta có làm cho những người sống với chúng ta được bình an không? Hay chúng ta hành khổ họ, bằng thái độ, bằng ánh mắt, bằng nụ cười, bằng lời nói, và đôi khi bằng cả hành động tàn bạo?
3. Thiên Chúa đang đến để giúp ta bắt đầu một đời sống mới tuyệt hơn
Thiên Chúa là Đấng tuyệt vời. Thiên Chúa là Đấng vượt trên mọi suy nghĩ của con người. Tư tưởng của Thiên Chúa không giống như tư tưởng của con người. “Như trời cao hơn đất, thì tư tưởng của Ta cũng vượt trên tư tưởng của các ngươi”. Thiên Chúa yêu thương, Ngài tha thứ cho con người mọi lỗi lầm, Ngài mời gọi con người hãy trở lại với Ngài, hãy bắt đầu một đời sống mới để bình an và hạnh phúc hơn.
Đời sống mới được bắt đầu nơi chính mình. Hãy chấp nhận chính mình, chấp nhận giới hạn và khả năng của mình, chấp nhận những gì đã và đang xảy đến, để mình được sống bình an và hạnh phúc. Hãy tha thứ cho chính mình, vì Thiên Chúa đã tha thứ cho mình. Hãy làm hòa với Thiên Chúa, và làm hòa với chính mình; để rồi có thể tha thứ và làm hòa với tha nhân. Thiên Chúa muốn tôi sống bình an hạnh phúc ngay trên đời này. Điều nào làm tôi bất an, phải được loại đi vì Thiên Chúa muốn tôi sống bình an.
Hãy tập nhận ra tình yêu của Thiên Chúa qua những gì xảy đến, và đặc biệt qua những người thân, những người chúng ta sống với. Nếu không có họ, cuộc sống của chúng ta có thể không có ý nghĩa lắm. Những người tuyệt vời như các vị thánh, không phải là những người làm những điều lớn lao, nhưng là những người làm những điều nhỏ bé một cách tuyệt vời. Ước gì mùa vọng này, mỗi người không chỉ chờ mà nhận ra Chúa đang đến với mình hằng ngày trong cầu nguyện, qua những người thân quen, qua những việc hy sinh và bỏ mình nho nhỏ, để làm cho cuộc đời của những người sống với chúng ta hạnh phúc hơn. Nếu chúng ta tập yêu, thiên đàng đang bắt đầu nơi chúng ta ở trần gian. Chúa không chỉ sẽ tới, nhưng Chúa đang tới với mình mỗi ngày, và trong từng giây phút sống.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Tại sao người ta “không dám” mong chờ Chúa đến? 2. Nếu Chúa tới với bạn qua những hành vi yêu thương, bạn có mong Chúa tới với bạn hằng ngày không? 3. Điều nào ngăn cản bạn sống bình an và hạnh phúc? Làm cách nào để loại trừ điều đó đi?
Đó là lời căn dặn khẩn thiết của Chúa Giêsu và Giáo hội nhắc lại cho chúng ta trong những tuần MV 1-B154
Đó là lời căn dặn khẩn thiết của Chúa Giêsu và Giáo hội nhắc lại cho chúng ta trong những tuần lễ này, thời gian chúng ta trông chờ Chúa đến.
Chúa như ông chủ đi xa và sẽ về mà không hẹn trước. Cựu Ước như một trông đợi kéo dài qua những biến cố đau thương của dân Israel. Tiên tri Isaia than vãn não nuột nhưng đầy hy vọng, vì Chúa vẫn là “Cha chúng con”.Chớ gì Chúa xé trời mà ngự xuống” vì chúng con đang khổ sầu vì tội lỗi chúng con. Nhưng Ngài vẫn là Cha chúng con; chúng con là đất sét, còn thợ gốm là Ngài, chính tay Ngài đã làm ra chúng con”. Chỉ có Ngài mới đem lại niềm vui và hạnh phúc. Chúng con hy vọng nơi Ngài.
Niềm hy vọng đó hôm nay cũng đang đốt cháy tâm hồn Giáo hội và con cái Giáo hội. Giáo hội thôi thúc con cái mình “canh thức” như Chúa đã dặn, vì Giáo hội không những chờ đợi Mầu nhiệm Chúa giáng sinh mà chờ Chúa đến ngày cuối cùng. Vì Chúa đã nói nhiều lần là Ngài sẽ trở lại. Và ngày trở lại đó là một ngày bất chợt, bất cứ lúc nào, bất luận đêm hay ngày: “Anh em phải coi chừng vì anh em không biết khi nào thời ấy đến”.
Thời ấy là thời nào?
Đoạn Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay chỉ là đoạn kết của diễn từ về ngày sau hết. Trở lại từ đầu chương này chúng ta mới biết Ngài muốn nói gì.
Dấu hiệu của ngày đó là: Giêrusalem sẽ bị tàn phá, “sẽ không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào”, Thời ấy là thời chiến tranh tàn khốc, sẽ có những biến chuyển trong trời đất, những cuộc động đất kinh hoàng. Thời ấy người ta sẽ nộp anh em cho quan quyền, anh em sẽ bị hành hạ…
Nhưng thời đó cũng chính là lúc “thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và ngự trên đám mây mà đến…”
Chúng ta thấy rằng bức tranh có vẻ như rất kinh hoàng, nhưng vẫn lóe lên tia hy vọng cuối cùng là Chúa chúng ta sẽ đến trong vinh quang và chúng ta, những kẻ tin vào Ngài sẽ “ngẩng đầu lên” và vui mừng. Niềm hy vọng vẫn luôn rõ nét qua những biến cố kinh hoàng kia. Muốn thế “phải canh thức”.
Lệnh truyền phải tỉnh thức được lặp đi lặp lại như một điệp khúc. Trong đoạn này được lặp lại ít là ba lần: “Hãy canh thức”.
Tại sao Chúa phải nhắc đi nhắc lại như thế? Vì biến cố sẽ đến là một biến cố quyết định cả tương lai của chúng ta.
Trong cuộc sống, có những biến cố sắp đến cũng làm cho chúng ta không thể ngủ được. Cô dâu, chú rể không thể ngủ được trước ngày hôn lễ, vì biến cố sắp đến làm cho họ rộn vui. Người thân ở xa về mà chúng ta chờ đợi… Biến cố chúng ta chờ đợi hôm nay là chính Chúa. Chúa đến để mang cho chúng ta hạnh phúc mà chúng ta đang trông chờ. Phải canh thức thôi! Nhưng có những người không mong Chúa đến vì họ đang ngủ yên trong những khoái lạc trần gian. Chúng ta không mong Chúa đến vì chúng ta còn thích trần gian hơn Chúa. Chúng ta đang ngủ yên trong sự ươn lười nguội lạnh của chúng ta. Chúng ta không mong Chúa đến vì Ngài sẽ phá đổ những ước muốn xấu xa của chúng ta. Chúng ta sợ mất sự an nhàn hưởng thụ của chúng ta.
Dù nhiều người không mong Chúa đến, Chúa vẫn đến. Không ai ngăn cản được ngày Chúa đến trong vinh quang phán xét kẻ sống và kẻ chết. Nước Chúa sẽ tỏ hiện. Ngày đó mọi người sẽ biết Chúa là ai, và số phận của họ. Nhưng chúng ta, những kẻ tin, chúng ta không sợ sệt, chúng ta vẫn tỉnh thức trông chờ, vì hạnh phúc của chúng ta không ở trần gian này, chúng ta là những lữ hành trên đường về với Chúa là hạnh phúc duy nhất của chúng ta. Chúng ta chỉ mong đến quê hương thật, quê hương vĩnh cửu. “Bộ mặt thế gian này sẽ qua đi”. Mọi công trình con người tạo nên sẽ bị quét sạch. Chúng ta vững tin, Chúa sẽ đến.
Tiếng nói cuối cùng là của Thiên Chúa. Con người chỉ là giai đoạn. Mọi người sẽ nằm xuống xuôi tay, Thiên Chúa vẫn còn đó. Ngài là chủ tể mọi loài và của lịch sử. Mầu nhiệm nhập thể và giáng sinh, mà chúng ta đang mong đợi là tiếng nói của Chúa cho chúng ta thấy rằng Chúa không vắng mặt mà luôn hiện diện để yêu thương và cứu vớt: “Thiên Chúa là Đấng trung thành, Người đã kêu gọi anh em đến hiệp thông với Con của Người là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”. Chúng ta đang chờ đợi giây phút huy hoàng đó. Niềm vui khởi đầu trong chờ đợi vì Chúa chúng ta là sự bình an mà thế gian không thể biết. Niềm vui hiệp thông với Con Thiên Chúa là niềm vui vượt mọi khó khăn đau khổ của trần gian.
Chúng ta chờ đợi không phải là ngồi khoanh tay thụ động mà là hoạt động: “Cũng như chủ nhà trẩy đi phương xa,… trao quyền lại cho các đầy tớ của mình, chỉ định cho mỗi người một việc và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức”.
Công việc chủ trao cho chúng ta là chuẩn bị cho Ngài một tâm hồn tươi sáng, không vẩn đục vì những thói hư tật xấu, không ham mê tiền bạc và đầy yêu thương. Công việc yêu thương không bao giờ thiếu, chỉ thiếu thiện chí và bền tâm. “Chúng ta hãy yêu thương nhau… Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta, như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phảithí mạng vì anh em. Nếu ai có của cải và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu của Thiên Chúa ở lại trong người ấy được?”
Công việc chủ trao là nhìn lại tâm hồn chúng ta xem có cái gì ngăn cản không cho chúng ta đón nhận Chúa khi Chúa đến. Chúng ta có thành thật muốn Chúa đến không, hay chúng ta khóa cửa để Ngài đứng ngoài. Chúng ta không muốn Chúa xen vào cuộc sống chúng ta, vì những hành động của chúng ta không trong sáng? “Ai tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa, thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy”, thánh Gioan đã nói thế.
“Hãy canh thức”. Đó là mệnh lệnh của Chúa. Vì Chúa sẽ đến không hẹn trước, bất cứ lúc nào. Chính chúng ta đã thấy những điều đó xảy ra trước mắt chúng ta. Những người thân chúng ta ra đi bất ngờ: chỉ cần một tai nạn, chỉ cần một cơn bệnh bất thần… Vào những lúc chúng ta không ngờ, Con Người sẽ đến: cô dâu đột quỵ ngay trong đám cưới, vừa lãnh xong bằng đại học, sinh viên bị xe đụng, và biết bao nhiêu chuyện bất ngờ như thế hằng ngày vẫn xảy ra trước mắt, nhưng hình như chúng ta cứ bám ghì vào sự sống, tưởng rằng chưa tới phiên tôi.
Canh thức là luôn sẵn sàng thi hành thánh ý Chúa, dù là vào thời điểm nào. Canh thức cũng là thái độ của người đang yêu, luôn tìm cách để làm vui lòng người mình yêu. Nếu chúng ta yêu mến Chúa, chúng ta sẵn sàng làm bất cứ điều gì Chúa muốn, và nếu chúng ta còn thiếu sót, Chúa vẫn luôn sẵn sàng tha thứ và giúp chúng ta can đảm để bước tới. Trước khi chịu khổ nạn, trong vườn Giếtsêmani, Chúa Giêsu cảnh báo các môn đệ: “Hãy tỉnh thức để khỏi sa chước cám dỗ”. Chúng ta có thấy được tầm quan trọng của lệnh truyền này không? Hay chúng ta cứ để mặc cho thời gian trôi đi, sống như không cần ngày mai, không cần hạnh phúc, như đốt tàn một điếu thuốc? Cuộc đời chúng ta không chỉ là những ngày sống vu vơ không mục đích mà là một giá trị cao quí. Cao quí vì nó sẽ mang đến hạnh phúc, không chỉ đời này mà mãi mãi, không tàn phai. Mặc cho ai chạy theo lạc thú thế gian, chúng ta chỉ mong ngày của Chúa đến, vì chỉ có Chúa là hạnh phúc tuyệt đối mà thôi.
“Phúc thay những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức!” Chúng ta thuộc về hạng đầy tớ nào?
Mùa Vọng là mùa hứa hẹn, mùa trông chờ biến cố lớn nhất đời ta. Chúa đến, mọi sự sẽ được tỏ lộ trong ánh sáng, nếu chúng ta là “con cái ánh sáng”. Chúng ta không đi trong bóng tối mà đi trong ánh sáng. Hãy vui mừng vì niềm hy vọng vẫn còn giữa những xáo trộn của cuộc sống, giữa những bão tố của chiến tranh, của tội ác. Hãy vui mừng vì Chúa đang đến, vì tình yêu Chúa vẫn không vơi cạn, lòng thương xót Chúa vẫn tràn đầy. Chúng ta có thể mất tất cả, chỉ còn một mình Chúa thôi, vì Chúa là Tình Yêu. Chúa đến với tất cả tình yêu của Ngài, làm sao chúng ta không canh thức đón chờ?
Chúa là tình Yêu và chúng ta hôm nay vẫn gặp Ngài nơi đây, nơi bàn thờ tế lễ này. Ngài vẫn gần gũi yêu thương, thương đến độ biến thành của ăn cho chúng ta. Ăn lấy Ngài, chúng ta sẽ có Ngài trong suốt cuộc lữ hành gian khổ của chúng ta. Đó là bước đầu của hạnh phúc mà chúng ta đang trông chờ. Lạy Chúa, xin hãy đến.
Lạ thật! Nhiều lần Chúa Giêsu căn dặn: “Hãy tỉnh thức và sẵn sàng”, tại sao thế? Chỉ vì chúng MV 1-B155
Lạ thật! Nhiều lần Chúa Giêsu căn dặn: “Hãy tỉnh thức và sẵn sàng”, tại sao thế? Chỉ vì chúng ta vô lo hay không chú ý. Chúng ta chỉ chú ý đến cuộc sống hôm nay, cuộc sống vật chất mà thôi, quên để ý đến “ngày cuối cùng”, ngày kết thúc mọi sự.
Chúng ta thử xét lại một ngày sống của chúng ta thôi, chúng ta nghĩ gì, làm gì, muốn gì? Mấy khi chúng ta nghĩ đến “lúc Chủ về?” Ngày Chúa gọi chúng ta về với Chúa.
Chúa nói: “không biết giờ nào, ngày nào”.
Có lẽ trong đời sống, nhiều lần chúng ta nhận được những tin làm chúng ta sửng sốt, bàng hoàng: “Anh A vừa mới đi làm, bị xe đụng chết tức khắc”. “Anh B, chị C quen thân, vừa mới gọi điện thoại cho chúng ta, đã sang thế giới bên kia, nhồi máu cơ tim….”
Lời cảnh báo của Chúa Giêsu đang xảy ra hôm nay, không phải một ngày nào xa vời. Chúng ta có nghĩ rằng, có thể ngày hôm nay Chúa sẽ gọi tôi không? Chúng ta ngạc nhiên khi thấy Chúa nhắc đi nhắc lại lời cảnh báo đó, đến nỗi chúng ta không còn để ý?
Hôm nay, bắt đầu Mùa Vọng, là Chúa Nhật đầu tiên của một Năm Phụng vụ mới, Giáo Hội bắt đầu bằng giai đoạn cuối, nhắc chúng ta đến một điều quan trọng nhất trong đời chúng ta: ngày chúng ta bước vào vĩnh cửu.
Sống hôm nay là một bước đi tới và có thể là bước cuối cùng.
Trong thế giới rộn ràng và gấp rút mà chúng ta đang sống, cái gì cũng nhanh, mọi biến cố đều tăng tốc đến chóng mặt. Chúng ta chỉ cần cầm máy điện thoại lên là có thể biết được những gì đang xảy ra ở một chân trời khác, cách hàng chục ngàn cây số. Thế giới càng thu hẹp lại, thời gian cũng thu hẹp lại. Con người phải chạy đua với kim đồng hồ.
Chúng ta đang đi đâu đây? Chúng ta phải làm gì?
Tăng tốc để chạy đua với kim đồng hồ, chúng ta cũng đang nhanh chóng bước tới ngưỡng cửa đời sau. Mấy ai đã nghĩ tới?
Những người không có niềm tin ngạc nhiên vì chúng ta đang mong một tương lai sau cuộc đời này. Họ tự mãn về những thành công vật chất của họ. Họ mong ước xây đắp một thế giới an toàn bảo đảm hạnh phúc cho con người. Họ cho chúng ta là những người mơ mộng, sống bằng ảo ảnh. Nhưng thực tế, chúng ta thấy gì? Một thế giới hỗn loạn, một thế giới dã man, thê thảm… Những gì họ cố công xây đắp chỉ là bọt bèo…
Họ có lý hay chúng ta có lý? Họ mơ mộng hay chúng ta?
Những sản phẩm do con người tạo ra, theo thời gian tan rã. Người ta tốn không biết bao nhiêu tiền bạc, công khó để bảo tồn những gì mà họ cho là di tích lịch sử, là những kỳ quan của con người…
Để làm gì? Để rồi cũng trở về tro bụi.
Đức tin đưa chúng ta vào một tương lai vĩnh cửu, một thực tế bền vững hơn những gì con người tạo nên. Kinh Thánh nói: “mọi nền văn minh đều phải chết…” Chỉ có niềm tin tồn tại, vì Thiên Chúa, Đấng Tạo Thành mọi sự vẫn tồn tại.
Chúng ta đang xây đắp tương lai của chúng ta không phải bằng ảo tưởng mà bằng chất liệu của thế giới hôm nay, nhưng chúng ta “ở trong thế gian mà không thuộc về thế gian”. Chúng ta cũng như mọi người, xây dựng cuộc sống bằng cát đá, gạch, bằng lúa thóc, cây cỏ, đồng thời xây dựng tương lai bằng công bằng, bác ái, và phục vụ…
Không ai có thể ngăn cản chúng ta xây dựng thế giới vật chất, đồng thời xây dựng thế giới thiêng liêng.
Chúa Giêsu nói rõ: “Chủ nhà đi xa, trao nhà cửa, quyền hành cho gia nhân, chỉ định cho mỗi người một việc, ra lệnh cho người giữ cửa…” Chúa trao cho chúng ta thế giới này, cuộc sống này, là gia sản của Ngài. Mỗi người mỗi việc, và người giữ cửa phải canh thức đợi chủ về. Chúng ta đang sử dụng tất cả những gì Chúa trao ban… mỗi người một việc… nhưng một ngày kia chủ sẽ về…
Chúng ta không thể ngồi mơ mộng một thế giới an toàn, đầy đủ tiện nghi. Chúng ta không thể hưởng thụ trên xương máu anh em chúng ta. Chúng ta có nhiệm vụ trông coi gia sản của chủ. Chúng ta phải vất vả lao động với anh em; nhưng một điều khác biệt với những người không có đức tin là: chúng ta lãnh nhận nhà cửa, gia sản của chủ chứ không phải của chúng ta tạo ra.
Hơn nữa, chúng ta không chỉ là tôi tớ mà là con. Tiên tri I-sa-i-a, đã gọi Chúa là Cha. Đồng thời Chúa Giêsu cũng nhắc nhở, chúng ta có Cha trên trời. Gia sản Ngài trao không phải để chúng ta hưởng thụ mà để “Danh Cha cả sáng…” Gia sản này không phải để chúng ta dành giật, tranh chấp với nhau để chiếm hữu, khiến nó trở thành một chiến trường đẫm máu và man rợ, mà là chia sẻ và phục vụ, để mọi người đều được hạnh phúc.
Chúng ta là con của Cha trên trời, và mọi người đều được yêu thương, tại sao chúng ta có thể biến quả đất này thành một bãi lầy hận thù và tranh chấp?
Mùa Vọng là thời gian quí báu, nhắc chúng ta chờ đợi “trời mới đất mới, nơi công lý sẽ ngự trị” (Thánh Phê-rô). Chúng ta hãy xây đắp mộng ước, nhưng ước mơ của chúng ta là thấy tình yêu lan rộng trong thế giới đang “đổ vỡ” của chúng ta.
Tỉnh thức là như thế. Hạnh phúc biết bao khi “chủ về”, và thấy chúng ta trở thành những con người xây dựng hòa bình, những con người hiền lành và đầy lòng xót thương, những con người có lòng trong sạch, không bị hoen ố vì tham lam, vì hận thù, và hơn nữa, chúng ta trở thành những con người có “cuộc đời cho không” như Chúa Giêsu, Con Cha. Vì đời chỉ đẹp khi đời được dâng hiến.
Hạnh phúc cho chúng ta biết bao, khi Đấng chúng ta tỉnh thức chờ đợi, vẫn đến với chúng ta trong tấm bánh thần linh: “Này là Mình Thầy… Hãy cầm lấy mà ăn”. Ngài từ trời xuống để trao ban chính mình cho chúng ta. Ai biết yêu thương thành thật sẽ hưởng được sự ngọt ngào êm đềm này. Thiên Chúa cao cả vô song đã trở thành Em-ma-nu-en (Chúa-ở-cùng-chúng-ta) ngay trong xương thịt chúng ta.
Hãy tỉnh thức chờ đợi ngày chúng ta được nên một với Ngài. Hôm nay trong tấm bánh, ngày mai trong vinh quang. Chờ đợi hôm nay là một chờ đợi yêu thương, chờ ngày “tỏ hiện vinh quang của con Thiên Chúa”. Đợi chờ trong yêu thương đã là một hạnh phúc lớn lao rồi. Chúng ta hãy nói như tân nương trong trang cuối của sách Khải Huyền nói với Tân Lang Thần Linh của chúng ta; “Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến”.
Chúng ta bắt đầu bước vào Năm Phụng Vụ mới, khởi đi từ Chúa Nhật I Mùa Vọng. Mùa Vọng có MV 1-B156
Chúng ta bắt đầu bước vào Năm Phụng Vụ mới, khởi đi từ Chúa Nhật I Mùa Vọng. Mùa Vọng có hai đặc tính: Đặc tính thứ nhất, kính nhớ việc Con Thiên Chúa đến lần thứ nhất với loài người; Đặc tính thứ hai, các tín hữu hướng lòng trông đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong ngày Tận thế (x. AC 39).
Thật vậy, Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã đến với loài người cách đây hơn hai ngàn năm. Ngài đến trong đêm Giáng Sinh, có các Thiên thần ca hát, có các mục đồng thờ lạy và loan tin (x. Lc 2,1-20). Đối với chúng ta, biến cố này chỉ mang tính kỷ niệm. Nhưng đây là một kỷ niệm hết sức quan trọng. Bởi vì, biến cố này đem ơn cứu độ đến cho loài người, làm thay đổi lịch sử cứu độ và lịch sử nhân loại. Vì vậy, chúng ta phải chuẩn bị chu đáo để mừng biến cố này một cách trang trọng và sốt sắng. Thiết nghĩ, cách chuẩn bị tốt nhất là chúng ta sống tinh thần chờ đợi của dân Do thái ngày xưa. Tinh thần đó được diễn tả qua phụng vụ của 4 Chúa Nhật Mùa Vọng. Đó là chúng ta sống đặc tính thứ nhất của Mùa Vọng.
Với đặc tính thứ hai của Mùa Vọng, chúng ta sống tinh thần chờ đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong ngày Tận Thế: Ngày Tận Thế là ngày tận cùng của Vũ trụ và con người. Ngày đó sẽ đến, nhưng đến lúc nào thì không ai biết trước được. Tin mừng hôm nay cho biết ngày đó đến một cách bất ngờ, như chủ nhà đi xa, không biết lúc nào trở về, hoặc là chiều tối, hoặc là nửa đêm, hoặc là lúc gà gáy, hay ban sáng... Vì tính chất bất ngờ như vậy, nên đòi hỏi các đầy tớ phải luôn sống trong tinh thần tỉnh thức để ông chủ khỏi bắt gặp các đầy tớ đang ngủ. Đó cũng là tinh thần mà Đức Giêsu muốn nhắn gửi tất cả mọi người chúng ta: Ðiều Ta bảo cho các con, thì Ta bảo cho tất cả mọi người là: Hãy tỉnh thức! (x. Mc 13,33-37).
Vậy, chúng ta phải tỉnh thức như thế nào? Xin được đề nghị tỉnh thức bằng một số thực hành sau đây:
Thứ nhất, tỉnh thức bằng cách thú nhận tội lỗi và xin Chúa thứ tha: Nếu những ai đang sống trong ân nghĩa với Chúa, hãy tạ ơn Chúa và cố gắng giữ mình sống trong tình trạng đó. Còn những ai đang sống trong tội, hãy sám hối và lãnh nhận Bí tích Giao hòa. Việc thực hành này mang tính cá vị. Nghĩa là giữa cá nhân mỗi người với Chúa qua trung gian linh mục. Nhưng trong thực tế, có những tội liên quan đến người khác. Chẳng hạn, tội của con cái liên quan đến trách nhiệm của cha mẹ; tội của vợ hoặc chồng liên quan đến nhau; tội của giáo dân liên quan đến trách nhiệm của cha xứ; tội của cộng đoàn liên quan đến bề trên…Vì vậy, cần phải có sự sám hối tập thể hoặc một người thay cho tất cả để xin ơn tha thứ thay cho tập thể: Cha xứ phải sám hối và xin ơn tha thứ thay cho giáo dân; cha mẹ sám hối và xin ơn tha thứ thay cho con cái; vợ chồng sám hối và xin ơn tha thứ thay cho nhau; bề trên sám hối và xin ơn tha thứ thay cho cộng đoàn…Đó là điều mà tiên tri Isaia đã làm trong bài đọc I hôm nay, ông đã thay mặt cho toàn dân thú nhận tội lỗi và xin Chúa thứ tha: Chúng tôi đã luôn ở trong tình trạng tội lỗi. Tất cả chúng tôi đều đầy vết nhơ. Xin Chúa hãy đến thứ tha tội lỗi cho chúng tôi (x. Is 63, 16b-17; 64, 1. 3b-8).
Thứ hai, tỉnh thức bằng cách sống xứng đáng với những ân huệ Chúa ban: Chúa ban cho chúng ta ơn làm người, ơn làm con Chúa, ơn được ở trong Giáo Hội, ơn có đủ điều kiện thuận lợi để lo phần rỗi linh hồn. Ngoài ra, Chúa còn ban cho chúng ta những khả năng khác nhau: người 5 nén, người 2 nén, người 1 nén… tùy hoàn cảnh và địa vị của từng người. Chúng ta hãy khiêm tốn dùng những khả năng đó để chu toàn bổn phận hằng ngày: phụng sự Chúa, phục vụ Giáo hội và giúp đỡ tha nhân. Khi chúng ta làm như vậy, chính là lúc chúng ta đang sống tỉnh thức để chờ đợi Chúa đến. Đó cũng là sứ điệp mà Thánh Phaolô nói tới trong Bài đọc II hôm nay (x. 1Cr 1,3-9). Ngài nhắc nhở cộng đoàn Corintô hãy nhớ đến bao ân sủng mà Thiên Chúa ban cho họ: “Vì chưng, trong Ngài, anh em được tràn đầy mọi ơn: ơn ngôn ngữ, ơn hiểu biết,…” Khi nhớ tới những ơn Chúa ban, thì hãy tỏ ra xứng đáng với ân huệ đó bằng cách hướng tới ngày Ngài đến trong “bền vững” và “không có gì đáng trách”.
Thứ ba, tỉnh thức bằng cách siêng năng cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích và thực thi bác ái.
Tỉnh thức trong cầu nguyện: Vì tỉnh thức đi liền với cầu nguyện. Trong Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu mời gọi: “Các con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì các con không biết lúc đó là lúc nào” (Mc 13,33). Mặt khác, khi cầu nguyện chúng ta sống với Chúa, hướng tâm trí về Ngài. Ngoài ra, cầu nguyện để xin ơn Chúa trợ giúp: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” (Mc 14,38). Như vậy, khi chúng ta siêng năng cầu nguyện là chúng ta đang sống tỉnh thức.
Tỉnh thức trong việc siêng năng lãnh nhận các Bí tích: Để lãnh nhận các Bí tích, chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng. Nếu muốn lãnh nhận các Bí tích kẻ chết (Bí tích Giao hòa và Bí tích Rửa tội), chúng ta phải có lòng sám hối ăn năn. Nếu muốn lãnh nhận các Bí tích kẻ sống (5 Bí tích còn lại), chúng ta phải sống trong ơn thánh hóa, nghĩa là phải sạch tội trọng. Như vậy, khi sẵn sàng để lãnh nhận các Bí tích là chúng ta đang sống trong tinh thần tỉnh thức.
Tỉnh thức trong việc thực thi bác ái yêu thương: Khi chúng ta thực thi bác ái là chúng ta đang chu toàn bổn phận Chúa trao phó, đang thực hành Kinh “thương người có mười bốn mối”. Nếu chúng ta giúp đỡ những kẻ hèn mọn là chúng ta đang giúp đỡ Chúa (x. Mt 25, 31-46). Cho nên, khi chúng ta thực thi bác ái yêu thương là chúng ta đang sống trong tinh thần tỉnh thức. Đúng như lời khẳng định của Thánh Phaolô: “yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13,10).
Lạy Chúa, chúng con bắt đầu bước vào Mùa Vọng, xin cho mỗi chúng con biết chuẩn bị tâm hồn xứng đáng để kỷ niệm ngày Chúa đến lần thứ nhất qua lễ Giáng sinh. Đồng thời, xin giúp chúng con luôn sống tinh thần tỉnh thức bằng việc siêng năng cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích và thực hành bác ái, để xứng đáng đón chờ Chúa đến trong ngày Tận thế và ngày Chúa đến gặp gỡ mỗi người chúng con. Amen.
Arthur Tonne nhắc lại một ghi chú lịch sử khá thú vị xảy ra vào thế kỷ 15, liên quan đến một nhóm MV 1-B157
Arthur Tonne nhắc lại một ghi chú lịch sử khá thú vị xảy ra vào thế kỷ 15, liên quan đến một nhóm đan sĩ thường được biết đến như “những người không ngủ”. Một người đạo đức nọ tên là Alexander tuyển 300 tu sĩ và chia họ thành 6 nhóm, thay phiên nhau tỉnh thức chờ đợi Chúa đến lần thứ hai. Cả ngày lẫn đêm luôn có một nhóm tỉnh thức cầu nguyện, sẵn sàng cho việc Chúa Giêsu đến lần thứ hai như Vị Lang Quân và Đấng phán xét cuối cùng.
Câu chuyện về “những người không ngủ” này mời gọi tôi tự hỏi: Nếu Chúa Giêsu đến trong vòng 10 phút nữa, tôi có sẵn sàng không? (Trích “Vision 2000”)
“Chúa Giêsu không cho biết ngày cuối cùng của ta, để ta luôn cảnh giác chờ đợi Người” (Thánh. Augutin).
2. Thành Venise bị chôn vùi đột ngột
Các nhà khảo cổ đã đào bới thành Venise bị núi lửa chôn vùi đột ngột và họ đã thấy nhiều cảnh tượng khác nhau: có những người chết trong khi ngồi nhậu, kẻ khác chết đang lúc đánh đấm tranh giành lợi lộc, người nọ chết đang nằm ngủ… Không thấy người nào chết trong lúc cầu nguyện!... Nhưng may thay, sau cùng người ta cũng nhìn thấy một người lính chết trong lúc nghiêm chỉnh đứng canh gác, vũ khí cầm trong tay…
Chúa cũng đến với tôi đột ngột như thế. Chẳng biết khi Người đến, Người thấy tôi đang làm gì?
3. Chờ đợi Chúa đến
Một bà đạo đức được Chúa hứa đến thăm vào ngày bà xin. Sáng sớm hôm đó, bà lo dọn dẹp nhà cửa, trang hoàng thật lộng lẫy, rồi ngồi chờ Chúa.
Nghe tiếng gõ cửa, bà tin là Chúa đến, vội chạy ra mở cửa… Nhưng đó là người ăn xin. Bà buồn bã đóng cửa lại.
Một lúc sau lại có tiếng gõ cửa. Bà vội mở cửa nhanh hơn vì chắc là Chúa đến… Nhưng đó là một người mù. Và cửa đóng lại.
Mấy phút trôi qua, lại có tiếng gõ cửa. Bà nghĩ nhứt hóa tam, chắc chắn Chúa đến nên chạy nhanh mở cửa. thì ra là một người ăn mặc rách rưới. bà vừa buồn vừa giận nói: Tôi bận đón Chúa, tôi không giúp anh được!...
Rồi màn đêm xuống cũng chưa thấy Chúa đến. bà buồn rầu than: chẳng biết Chúa bận việc gì mà quên lời hứa. Mòn mỏi quá, bà ngủ quên và thấy Chúa đến nói: Cha đã đến với con 3 lần, mà cả 3 lần đều bị con đuổi đi!... (Theo “Minh họa Lời Chúa”)
Qua câu truyện này, chắc chắn ai cũng hiểu: Trong lúc chờ đợi Chúa đến phải lo làm việc lành, nhứt là thương yêu giúp đỡ anh chị em khốn khỏ phần hồn phần xác.
4. Dọn sẵn hết
Một chủ nông trại lớn thiếu người chăm sóc đàn vật của mình. Sáng sớm ông ra đường phố tìm người. Ông nhất định tìm cho được một người cần mẫn, biết lo mọi việc sẵn sàng đâu vào đó…
Ông gặp một thanh niên trạc tuổi 20. Ông hỏi anh có quen việc đồng áng chăn nuôi không. Anh trả lời:
- Dạ con quen làm các việc đó lắm. Con có thể ngủ yên trong những đêm mưa to gió lớn nữa.
Ông chủ không hiểu anh nói gì nên bỏ đi. Nhưng đi mãi tời chiều không kiếm được ai, ông thất vọng trở về… và kìa, ông lại gặp câu thanh niên lúc sáng. Ông gọi anh theo làm cho ông. Anh ta mừng nói với ông như lúc sáng:
- Ông chủ an tâm. Con có thể ngủ yên trong những ngày đêm mưa to gió lớn.
Ngày qua ngày, anh thanh niên vẫn chăm sóc đàn vật chủ giao phó. Bỗng một đêm trời sấm chớp. gió bão ồn ào… Ông chủ đang ngủ giật mình chổi giậy, lo sợ cho đàn vật. Ông chạy nhanh ra chuồng, thấy anh thanh niên vẫn ngủ yên trên gác. Vừa tức giận vừa lo sợ, ông vội mở cửa bước vào, thấy mọi sự đâu vào đó, đàn vật vẫn yên ổn… Sỡ dĩ được như thế là vì người thanh niên mỗi ngày đều chuẩn bị sẵn sàng đối phó với những bão to có thể xảy đến bất cứ lúc nào. Vì thế khi có gió to bão lớn, anh không lo sợ mà vẫn ngủ yên, và đàn vật vẫn an toàn.
Mùa Vọng là mùa Chúa kêu gọi chúng ta tỉnh thức, chuẩn bị sẵn sàng đón tiếp Chúa đến cứu độ chúng ta. Tỉnh thức, chuẩn bị sẵn sàng là lo chu toàn bổn phận hằng ngày như người thanh niên trên đây.
Với Chúa Nhật I Mùa Vọng, chúng ta bước vào năm Phụng Vụ mới, năm B. Phụng Vụ Lời Chúa MV 1-B158
Với Chúa Nhật I Mùa Vọng, chúng ta bước vào năm Phụng Vụ mới, năm B. Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật I Mùa Vọng nầy hướng lòng chúng ta trông đợi ngày Chúa đến.
Is 63: 16b-17, 19b; 64: 2b-7
Bài Đọc I là lời khẩn nguyện. Sau cuộc lưu đày ở Ba-by-lon, dân Do thái hân hoan trở về quê cha đất tổ. Nhưng họ sớm ngã lòng trước thức tế muôn vàn khó khăn, vì thế ngôn sứ I-sai-a đệ tam, nhân danh dân Ít-ra-en, khẩn khoản nài xin Thiên Chúa xé trời mà ngự xuống, can thiệp vào lịch sử của dân Ngài. Trong suốt Mùa Vọng Giáo Hội hiểu rằng Thiên Chúa, trong Đức Giê-su Ki tô, đã thực sự ngự đến, xé tan mây trời để ban mưa hồng ân xuống trên cõi thế. Giáo Hội tin tưởng vững vàng Thiên Chúa đã can thiệp vào lịch sử nhân loại rồi.
1Cr 1: 3-9
Trong Bài Đọc II, thánh Phao-lô vui mừng tạ ơn Thiên Chúa vì qua Đức Giê-su Ki-tô Thiên Chúa đã ban cho các tín hữu Cô-rin-tô muôn vàn ơn phúc trong lúc chờ đợi Chúa lại đến.
Mc 13: 33-37
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su loan báo Ngài sẽ trở lại vào lúc bất ngờ không ai biết trước được và mời gọi hãy luôn luôn sống trong tư thế sẵn sàng đón tiếp Ngài.
BÀI ĐỌC I (Is 63: 16b-17, 19b; 64: 2b-7)
Bản văn nầy bao gồm hai đoạn trích dẫn từ lời khẩn nguyện mà vị ngôn sứ nhân danh toàn thể cộng đồng ngỏ lời với Thiên Chúa. Tách ra khỏi bối cảnh thực tế của nó, lời khẩn nguyện nầy nói lên nỗi xao xuyến muôn thuở của nhân loại trong cảnh khốn cùng trước sự im lặng của Thiên Chúa như thử Ngài chẳng hề quan tâm đến cuộc sống con người: “Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước Thánh nhan!”.
Cộng đồng đang phải chịu thử thách này là cộng đồng Giê-ru-sa-lem hồi hương trở về quê cha đất tổ sau thời kỳ lưu đày dài lâu ở Ba-by-lon. Vua Ba tư là Ky-rô, sau khi chiếm kinh thành Ba-by-lon vào năm 539 trước Công Nguyên, năm sau đó đã cho phép những người lưu đày hồi hương. Sau khi trở về, những người nầy phải đối mặt với biết bao khó khăn trong cuộc sống, nhất là đau lòng trước cảnh nước mất nhà tan, cảnh Đền Thờ hoang tàn đổ nát trơ gan cùng tế nguyệt gần một nữa thế kỷ qua. Họ toan tính bắt tay vào việc tái thiết Đền Thờ, nhưng lực bất tòng tâm. Thêm nữa, gặp phải sự chống đối của những người địa phương và nhất là sự ngăn cản có hệ thống của dân Sa-ma-ri buộc họ phải bỏ dỡ dự án. Ấy vậy, Đền Thờ chính là dấu chỉ việc Đức Chúa hiện diện ở giữa dân Ngài. Phải chăng Thiên Chúa đã thực sự bỏ rơi dân Ngài? Lòng nhiệt thành của những ngày đầu tiên nhường chỗ cho nỗi thất vọng ê chề đắng cay.
Ở giữa họ, một vị ngôn sứ vô danh, được gọi I-sai-a đệ tam, củng cố niềm tin của họ và hướng dẫn lời cầu nguyện của họ. Chính lúc đó, bằng ngòi bút của mình, ông đã viết nên lời khẩn nguyện nầy như phương thế cuối cùng:“Lạy Chúa, Ngài là Cha chúng con!”.
1. “Lạy Chúa, Ngài là Cha chúng con”.
Lời khẩn nguyện ngỏ lời với “Thiên Chúa là Cha chúng con” ở đây là độc nhất trong toàn bộ Cựu Ước. Chúng ta không gặp thấy như vậy trong các Thánh vịnh, Thánh Thi hay trong những lời cầu nguyện của Cựu Ước. Việc kêu cầu “Thiên Chúa là Cha chúng con” được lập đi lập lại đến ba lần trong lời khẩn nguyện nầy (hai lần trong đoạn trích hôm nay).
Thật ra, tình phụ tử của Thiên Chúa là một khái niệm thông thường và thường được nhắc đi nhắc lại: Thiên Chúa là Cha vì Ngài là Đấng Tạo Hóa; Thiên Chúa là Cha vì Ngài đã chọn dân Ít-ra-en làm “con của mình” (Đnl 32: 6). Nhưng danh xưng nầy chưa bao giờ được gặp thấy trong các lời cầu nguyện. Thật đáng lưu ý khi sự kiện nầy đột nhiên xảy đến sau cuộc lưu đày được xem như một thử thách thanh tẩy lớn lao. Vì thiếu nơi phụng tự và hy lễ, những người lưu đày đã nội tâm hóa tâm tình tôn giáo của mình. Mối quan hệ của họ với Thiên Chúa không còn hời hợt bên ngoài ở nơi các nghi thức phụng tự nhưng đã đạt đến chỗ tâm giao mật thiết hơn: “Thiên Chúa là Cha chúng con”.
2. “Đấng cứu chuộc chúng con”.
Danh xưng “Đấng cứu chuộc” được dịch từ nguyên ngữ Do thái: go’el, từ ngữ nầy có một ý nghĩa chính xác, nhưng khó lĩnh hội, vì không có từ ngữ tương đương trong các định chế của chúng ta. Từ Go’el chỉ một người bà con thân thuộc có phận sự bênh vực thân nhân của mình bị xúc phạm hay bị áp bức, chuộc lại người thân bị sa vào cảnh đời nô lệ (nhất là trong trường hợp nô lệ vì nợ nần), đồng thời đảm nhận trọng trách báo thù (đây là vai trò hàng đầu vào thời du mục). Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (vị ngôn sứ của thời lưu đày) đã thường nhắc nhở rằng Đức Chúa là go’el của dân Ngài, Ngài sẽ chuộc lại dân khỏi cảnh đời nô lệ Ba-by-lon. Sau khi trở về, danh xưng nầy được lập đi lập lại thông thường trên môi miệng của những người hồi hương.
3. “Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống…”
“Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước Thánh Nhan!”. Lời nguyện xin này ám chỉ rất rõ nét đến việc Thiên Chúa tỏ mình ra trên núi Xi-nai trong cảnh tượng hùng vĩ: núi non rung chuyển dữ dội và khói tỏa mây mù bao phủ đỉnh núi. Dân Ít-ra-en đã thường hoài niệm những giây phút đặc ân nầy. Phải chi Thiên Chúa lại ngự xuống để tái thiết Đền Thờ và Thành Thánh! 4. “Ngài đã ngự xuống…”
Bất ngờ, các động từ của đoạn văn đều được chuyển sang thì quá khứ: “Ngài đã ngự xuống, núi non đã rung chuyển trước Thánh Nhan. Từ cổ chí kim, thiên hạ chưa hề được ai nói cho biết, tai chưa hề được nghe, mắt chưa hề được thấy có vị thần nào, ngoài Chúa ra, đã hành động như vậy cho kẻ trông cậy ở nơi mình. Ngài đã đón gặp kẻ hoan hỹ ăn ngay ở lành và nhớ đến Ngài, khi theo các đường lối Ngài chỉ dạy”. Ở đây, bản văn được dịch theo bản dịch La-tin của thánh Giê-rô-ni-mô, được gọi “Bản Phổ Thông” (Vulgata). Theo thánh nhân, nguyên bản Do thái ở thể cầu chúc hay nguyện ước phải được hiểu như chuyện đã xảy ra, bởi vì ước nguyện của vị ngôn sứ đã xảy ra rồi. Trời đã bị xé ra. Thiên Chúa đã đáp ứng nỗi mong chờ của con người vượt quá mọi niềm hy vọng. Ngài đã trở thành một người ở giữa họ. Đối với chúng ta, như đối thánh Giê-rô-ni-mô, lời nguyện ước của vị ngôn sứ đã được ứng nghiệm ở nơi biến cố Nhập Thể của Đức Giê-su Ki-tô.
Sau khi đã sửa đổi bản văn cho thích hợp với hoàn cảnh niềm tin hiện nay của mình, bản dịch lại được tiếp tục theo nguyên bản. Lời khẩn nguyện lại tiếp tục bình thường: lời ca ngợi Thiên Chúa xen lẫn với lời trách cứ vì Thiên Chúa “bỏ rơi” dân Ngài, nhưng cũng khiêm tốn thú nhận lỗi lầm và bày tỏ niềm tin tưởng. Một lần nữa Thiên Chúa được ngỏ lời là “Cha chúng con”.
Bài Đọc I chấm dứt với hình ảnh Thiên Chúa là người thợ gốm, ám chỉ đến chuyện tích sáng tạo cổ kính ở chương 2 sách Sáng Thế. Hình ảnh Thiên Chúa như người thợ gốm nhào đất sét nắn nên con người trên chiếc bàn xoay thuộc về gia sản thần thoại của những nền văn hóa thời xưa. Hình ảnh nầy diễn tả việc Thiên Chúa gắn bó với công trình của Ngài. Có một sự đối nghịch giữa “quyền lực của Ác thần” nhằm tiêu diệt con người và quyền lực của Đấng Tạo Hóa, Đấng làm cho con người, vốn đất sét mõng dòn yếu đuối, trở thành kiên trung bền vững khi Ngài tha thứ tội lỗi cho họ.
BÀI ĐỌC II (1Cr 1: 3-6)
Bài Đọc II được trích từ thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô. Đoạn thư này được trích đọc vào Chúa Nhật I Mùa Vọng vì đề cập đến nỗi mong chờ của các Ki tô hữu vào “ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta”.
1. “Ngày Đức Ki-tô, Chúa chúng ta”:
Chúng ta lưu ý rằng thánh Phao-lô biến đổi diễn ngữ quen thuộc của các ngôn sứ: “Ngày Đức Chúa” thành “Ngày Đức Giê-su Ki-tô”. Dưới ngòi bút của thánh nhân, Đức Chúa chính là Đức Giê-su Ki-tô, và ngày Đức Chúa chính là ngày Đức Giê-su Ki-tô trở lại trong vinh quang. Trong vài dòng cuối cùng của đoạn trích ngắn nầy, thánh nhân lập lại đến ba lần: “Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta”. Những Ki-tô hữu tiên khởi, như sách Công Vụ Tông Đồ làm chứng, đã ban tước hiệu Đức Chúa nầy cho Đức Giê-su Ki-tô, như chính Ngài đã công bố rằng “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28: 18).
2. Ngày chứa chan hy vọng:
Theo cùng viễn cảnh của các ngôn sứ, “Ngày Đức Chúa” rõ ràng là ngày Chung Thẩm, thánh Phao-lô nhắc nhở các tín hữu Cô-rin-tô “nên vững chắc đến cùng, nhờ thế không ai có thể trách cứ được anh em trong Ngày của Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô”. Tuy nhiên, việc người Ki-tô hữu mong đợi Chúa đến khác với dân Cựu Ước, bởi vì ngay từ bây giờ, họ được hiệp thông với Đức Ki-tô rồi; họ sống trong Ngài rồi. Sự mong đợi của họ chứa chan niềm hy vọng, bởi vì trong niềm mong chờ của họ Ngài hiện diện ở giữa họ rồi.
TIN MỪNG (Mc 13: 33-37)
Đoạn Tin Mừng nầy được định vị ở cuối bài diễn từ dài về Cánh Chung mà Đức Giê-su ngỏ lời với các môn đệ Ngài vài ngày trước cuộc Tử Nạn của Ngài (13: 1-37). Các môn đệ theo Ngài lên núi Ô-liu và ở đó, họ chiêm ngưỡng Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và thán phục vẻ huy hoàng của Đền Thánh. Đức Giê-su loan báo cho họ biết Đền Thờ sẽ bị phá hủy thành bình địa, và từ gợi ý nầy đến gợi ý khác, Ngài nói với các ông những tai ương hoạn nạn sẽ đánh dấu thời tận thế, trước khi Ngài ngự đến.
1. Bố cục.
Trong đoạn trích Tin Mừng hôm nay, “Đức Giê-su nói với các môn đệ của Ngài về ngày quang lâm của Người”. Vì thế, Ngài bắt đầu khi khuyên các môn đệ Ngài: “Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến”, và kết thúc khi lập lại lời khuyên nầy nhưng mở rộng ra với hết thảy mọi người: “Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người: hãy canh thức!”. Ở giữa là một dụ ngôn minh họa cho lời khuyên chủ đạo nầy.
2. Dụ ngôn:
Để lời khuyên của mình dễ hiểu, cụ thể và gây ấn tượng trên người nghe, Chúa Giê-su tự ví mình với một ông chủ trẩy đi phương xa và sẽ trở về vào một thời điểm nào đó trong đêm mà không báo trước; còn các môn đệ của Ngài thì được sánh ví với người canh cửa, phải luôn luôn trong tư thế sẵn sàng mở mắt lắng tai để nhận ra tiếng bước chân của chủ trở về nhè nhẹ vang lên giữa đêm khuya thanh vắng. Trong cuộc sống thường ngày, ai trong chúng ta đều có kinh nghiệm: đợi một ai đó mà không báo trước vào ban ngày thì đã khó lại càng khó hơn vào ban đêm. Rõ ràng chính trong đêm mà Đức Giê-su căn dặn chúng ta phải canh thức chờ đón Ngài đến. Chắc chắn thời điểm “đêm” được nhấn rất mạnh ở đây: đêm là thời gian của bóng tối, nghĩa là môi trường của sự Ác. Người Ki tô hữu phải cảnh giác đừng để mình sa vào những việc làm ám muội gian ác.
Chủ nhà sẽ trở về vào lúc chập tối hay nữa đêm hoặc lúc gà gáy hay tảng sáng. Chúng ta nhận ra ở đây đêm được chia thành bốn canh theo tập quán của người Rô-ma chứ không là ba canh như tại người Do thái (Lc 12: 38), còn người Việt Nam chúng ta lại phân chia “đêm năm canh, ngày sáu khắc”. Chi tiết nầy là chữ ký của thánh Mác-cô, thánh ký hiện ở Rô-ma bên cạnh thánh Phê-rô mà ông là thư ký. Thánh ký viết Tin Mừng cho cộng đoàn Ki-tô hữu Rô-ma, và rộng lớn hơn, cho thế giới chịu ảnh hưởng văn hóa Rô-ma.
3. Biểu tượng của “Đêm”.
Thánh Má-cô kết thúc đoạn Tin Mừng nầy với lời căn dặn của Đức Giê-su:“Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức!”. Bối cảnh của toàn bộ bài diễn từ về Cánh Chung nầy là câu chuyện riêng tư của Đức Giê-su với các môn đệ Ngài (13: 3-4), nhưng ở đây lời kêu gọi khẩn cấp phải tỉnh thức được gởi đến cho “hết thảy mọi người”, bởi vì sứ điệp nầy liên quan đến nhiều thế hệ theo sau nữa. Phải canh thức, phải luôn luôn trong tư thế sẵn sàng đợi chủ trở về. Rõ ràng chính trong đêm mà người ta phải canh thức.
Các nhà chú giải nghĩ đến khoa thần bí Do thái về “Bốn Đêm” nhấn mạnh Lịch Sử thế giới. Bốn đêm được đánh dấu bởi bốn lần Thiên Chúa can thiệp dứt khoát: Đêm của công trình Sáng Tạo; đêm Thiên Chúa ký kết giao ước với ông Áp-ra-ham và hứa với ông việc sinh hạ I-xa-ác; đêm của cuộc Xuất Hành, dân Do thái vội vã rời đất Ai-cập và được cứu thoát; đêm của ơn cứu độ trong tương lai, vương quyền của Thiên Chúa ngự đến một cách mầu nhiệm. Thêm nữa, đêm Đức Giê-su cầu nguyện cũng trên chính núi Ô-liu nầy trước giờ khổ nạn của Ngài. Chính trong đêm ấy, sau khi cầu nguyện một mình, Ngài trở lại và gặp thấy các ông đang ngủ, Ngài nói với các ông: “Anh em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (14: 38).
4. Ý hướng của Giáo Hội:
Theo văn mạch của Tin Mừng Mác-cô, lời khuyên này là phần kết của bài diễn từ dài về ngày cánh chung, như vậy việc Chúa trở lại được chỉ ra ở đây là ngày Quang Lâm, ngày Chúa trở lại để phán xét thế gian, nhưng cũng được hiểu là ngày mỗi người từ giả cuộc đời này: quả thật, ai rồi cũng phải chết, nhưng không ai biết được mình sẽ chết vào lúc nào, vậy thái độ khôn ngoan nhất trong cuộc sống là phải luôn luôn trong tư thế sẵn sàng chờ đón Chúa đến.
Khi chọn đoạn Tin Mừng này vào đầu Mùa Vọng, mùa mọi tín hữu sống lại tâm tình mong đợi Con Thiên Chúa giáng trần, Giáo Hội có ý hướng khác, đây là mời gọi mỗi người hãy sống trong tư thế tỉnh thức để nhận ra sự hiện diện của Đấng đã đến và đang ở giữa chúng ta. Trong cuộc Giáng Trần, Ngài cũng đã âm thầm đến vào một đêm thanh vắng trong hình hài bé nhỏ của một hài nhi vừa mới chào đời nơi hang lừa máng cỏ Bê-lem trong vòng tay yêu thương của cha mẹ trần thế nghèo nàn của Ngài. Ngày nay cũng thế, Ngài cũng âm thầm hiện diện ở nơi những anh chị em chung quanh chúng ta, nhất là những người nghèo hèn khốn khổ, những kẻ bị bỏ rơi: “Khi Ta đói, ngươi đã cho ăn, khi Ta khát, ngươi đã cho uống, khi Ta khách lạ, ngươi đã tiếp rước, khi Ta trần truồng, ngươi đã cho mặc, khi Ta đau yếu, ngươi đã thăm viếng, Ta ngồi tù, ngươi đã đến hỏi han”.
Vì thế, trong lúc trong đợi Chúa lại đến vào thời cánh chung, gần hơn vào giờ phút từ giả cuộc đời này, và gần hơn nữa trong tâm tình chờ đón cuộc Giáng Trần của Con Thiên Chúa, mỗi người Ki-tô phải luôn trong tư thế sẵn sàng mở mắt lắng tai để nhận ra tiếng bước chân của Ngài, Đấng đã đến và thường hằng đang đến với chúng ta ở nơi hình hài khốn khổ của những anh chị em chung quanh mình. Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II đã nói “the future begins today not tomorrow” (tương lai bắt đầu hôm nay chứ không ngày mai). Quả thật, tương lai của chúng ta, hoặc được vui hưởng sự sống đời hay phải bị án phạt trầm luân, tùy thuộc vào cách thức chúng ta tiếp đón Ngài ở nơi chị em chung quanh chúng ta, nhất là những người khốn khổ, những kẻ bị bỏ rơi ngay từ hôm nay chứ không là ngày mai.
Vào Chúa Nhật XXXIII Thường Niên năm A vừa qua (ngày 19 tháng 11 năm 2017) khi bế mạc Năm Thánh về Lòng Thương Xót, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã thành lập “Ngày Thế Giới Người Nghèo” và ấn định cử hành hằng năm vào Chúa Nhật XXXIII Thường Niên. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nói: “Nơi người nghèo, Chúa Giêsu gõ cửa tâm hồn chúng ta, Người khao khát tình yêu của chúng ta... Khi chúng ta vượt lên thói vô cảm, và nhân danh Chúa Giêsu mà cho đi chính bản thân mình cho những người bé mọn nhất trong những anh chị em của Người, thì chúng ta là những người bạn tốt và trung thành của Chúa, là những người mà Chúa yêu thích ở lại với họ”.
Đức Thánh Cha nhắc cho các tín hữu nhớ rằng chính nơi người nghèo mà chúng ta thấy Chúa Giêsu hiện diện, Người là Đấng tuy giàu sang, nhưng lại trở nên nghèo khó (x. 2 Cr 8: 9), và vì thế ở nơi mỗi người nghèo và mọi người nghèo đều có một “sức mạnh cứu rỗi”. “Nếu trong mắt thế gian, giá trị của họ không đáng kể, thì họ lại là những người mở lối cho chúng ta vào Nước Trời”.
Đức Thánh Cha nói tiếp: “Đối với chúng ta, Tin Mừng đòi buộc chúng ta chăm sóc họ như tài sản thực sự của mình, và chúng ta làm điều này không chỉ bằng cách cho họ cơm bánh, mà còn phải cùng họ bẻ bánh Lời Chúa, Lời được nói với họ trước hết”.
Bài Tin mừng hôm nay rút từ phần cuối bắt đầu Mùa Vọng, khởi đầu năm phụng mới, thời gian MV 1-B159
Bài Tin mừng hôm nay rút từ phần cuối bắt đầu Mùa Vọng, khởi đầu năm phụng mới, thời gian của lời mời gọi tâm linh, của niềm vui, hy vọng và sự chờ đợi thiêng liêng.
Dân Chúa sống lại một hoạt động kép của tinh thần: một đàng, hướng cái nhìn về mục đích tối hậu của cuộc lữ hành đời mình trong lịch sử, đó là sự trở lại vinh hiển của Chúa Kitô; đàng khác, tưởng nhớ với những cảm xúc thánh thiêng sự sinh ra của Người tại Bethlem, nơi Con Thiên Chúa đã sinh hạ từ Đức Trinh Nữ Maria (x. Gal 4,4).
Trong viễn cảnh đó, Lời Chúa tới ‘sự tỉnh thức’ nhiều lần: “Anh em hãy tỉnh thức bởi vì anh em không biết giờ nào” (Mc 13,23).
Vậy thì Tỉnh thức có nghĩa là gì? Tỉnh thức để làm gì và Tỉnh thức cho ai?
Theo nghĩa đen, thì tỉnh thức có nghĩa là tĩnh táo, là không có ngủ. Theo nghĩa kinh thánh, thì từ tỉnh thức có một ý nghĩa rất sâu và mang tính biểu tượng (simbolico). Nó diễn tả một thái độ sống nền tảng, một cách sống của người Kitô hữu. Đó là thái độ nhạy bén, dễ bảo và sẵn sàng, như những tôi tớ trung thành luôn chờ đợi chủ trở về bất thình lình (cf. Mc 13,24). Đó là hướng tâm hồn mình về một điều gì, hơn thế nữa, với một Người: với Thiên Chúa và với anh em.
Trái với thái độ sống đó là sự ngu mê, nghĩa là, người tự cuốn mình trong cái tôi ích kỷ của mình, không còn cặp mắt để nhìn đời và đọc ra nhưng dấu chỉ của thời đại, của cuộc sống, không có khả năng đón nhận quà tặng của cuộc sống vốn là món quá qúi báu đến từ Thiên Chúa qua mỗi ngày sống của mình.
Người sống tỉnh thức là người nhạy bén (sensibile) với sự hiện diện của Thiên Chúa, với tiếng của Người và với các giá trị của Tin mừng. Người biết đọc cuộc sống, và nhận ra khôn mặt của Thiên Chúa với câu hỏi từ đáy lòng: Lạy Chúa, Ngài ở đâu? Con tìm Ngài. Đó là người có khă năng để học từ mọi nơi mọi lúc, từ bất cứ ai và hoàn cảnh nào, kể cả từ những khủng hoảng và thất bại của đời mình, để lớn lên, và trưởng thành không ngừng.
Người sống tỉnh thức là người rất “dễ bảo” (docile) và biết vâng lời Chúa Thánh Thần, Đấng ở trong chúng ta còn mật thiết hơn chúng ta và hướng dẫn chúng ta từ đáy con tim của lòng ta. Trong tiếng Latin gọi là “docibilitas”, nghĩa là người biết nghe và vâng phục Thánh Thần, người để cho Chúa Thánh Thần biến đổi mình, làm cho mình được giàu có khi trở nên giống Đức Kitô (bài đọc II), trở thành Con Thiên Chúa, khi mặc lấy những tâm tư và tình cảm của Đức Giêsu Kitô đối với Chúa Cha và đối với Anh Em. Đó là thái độ của Đức Maria, người nữ đầy Thánh Thần. Chúng ta hãy học từ Mẹ, để cho Đức Kitô được “nhập thể” trong lòng và trong cuộc đời chúng ta nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần. Chính vì thế, Mùa Vọng cũng được gọi là thời gian của Chúa Thánh Thần.
Cuối cùng, người sống tỉnh thức là người sẵn sàng (disponibile) với thánh ý Thiên Chúa và quảng đại giúp đỡ anh em mình trong mọi lúc và mọi hoàn cảnh mà không có đòi hỏi điều kiện. Người luôn biết sẵn sàng phục vụ người khác như người lính gác canh đêm (Mc 13,34), như những trinh nữ với đèn sáng trong tay, náo nức và hân hoan chờ chàng Rễ tới.
Nhưng tắt một lời, ai yêu thì cũng biết sống tỉnh thức, ngay cả lúc còn đang ngủ! Điều này được diễn tả rất hình ảnh trong sách Diệu Ca: “Trên giường ngủ, suốt đêm trường, tôi đã tìm chàng, hỡi người yêu dấu của lòng tôi, tôi đã tìm chàng, nhưng tôi không gặp chàng” (Ct 3,1-2); hay như Thánh Thi nói: “Dầu mắt ngủ nhưng lòng vẫn thức, vẫn tin yêu một mực chân tình”.
Như thế, Mùa vọng mà chúng ta bắt đầu hôm nay không chỉ là một thời gian của sự trở về cách thụ động, nhưng trở thành một thời gian quí báu mà trong đó, chúng ta khám phá lại vẽ đẹp làm người kitô hữu và tính xác thực của đức tin mình. Chúng ta hãy mỡ ra với sự mới mẽ và vẽ đẹp của Thiên Chúa trong Đức Kitô, Đấng vừa mạc khải Thiên Chúa nhưng cũng vừa con người là ai (LG 22) và chúng ta đến với Người, bởi vì lý do đó mà Ngài đã nhập thể vì chúng ta. Amen.
Hôm nay chúng ta cùng với Mẹ Giáo Hội bước vào Mùa Vọng, khởi đầu một năm phụng vụ mới MV 1-B160
Hôm nay chúng ta cùng với Mẹ Giáo Hội bước vào Mùa Vọng, khởi đầu một năm phụng vụ mới. Khi đến thời gian này, chúng ta thường được nghe qua Lời Chúa, qua các bài giảng huấn, cũng như trong những cuộc tĩnh tâm dọn lòng đón mừng lễ Chúa Giáng Sinh nơi cộng đoàn, giáo xứ, là: Hãy tỉnh thức và hãy sẵn sàng! Nhưng chúng ta hãy tự hỏi mình: Thế nào là tỉnh thức? Thức tỉnh để làm gì? Thế nào là sẵn sàng và sẵn sàng cho điều gì? Hai thái độ và hành vi ấy có liên quan gì đến đời sống đạo, đời sống đức tin và đời sống cộng đoàn của tôi?
Trước hết, chúng ta nên biết rằng tỉnh thức không có nghĩa là thức trắng đêm không ngủ, ngồi chờ bình minh để rồi ngày hôm sau ngủ bù! Cũng không có nghĩa là: chẳng làm gì mà cứ thức chờ ai hoặc điều gì đó! Và khi nói đến thái độ và hành vi tỉnh thức này, không ít người trong chúng ta mong muốn, vì chúng ta thích ở lại trong những cơn mê muội, chìm đắm trong thói đời, dục vọng của chính mình, ngày ngày đê mê trong cơn say cho quên đi bao nỗi oán than, cơ cực của cuộc đời này!
Đây không phải là hành vi thể lý thuần tuý, mà cho bằng là một thái độ đúng đắn của đời sống đức tin, một hành vi đạo đức của việc cải hối trường kỳ, tự suy xét mình trước Chúa và mọi người tất cả bản thân chúng ta, lời ăn tiếng nói, động thái, tư tưởng, hành động cũng như những điều nên làm mà chúng ta sao lãng, thiếu sót hoặc cố ý tránh né. Lời Chúa hôm nay đánh động, thúc giục mỗi một người chúng ta, dù sống ở địa vị, bậc sống nào, hay lứa tuổi nào, v.v… thì chúng ta cũng được mời gọi tỉnh thức luôn trước tất cả những gì đi ngược lại với Lời Hằng Sống, giáo huấn của Hội Thánh, đời sống đức tin, ‘anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến’ (Mc 13, 33). Không những chúng ta được kêu mời tỉnh thức trước giờ nhắm mắt xui tay, trước ngày Cánh chung, mà chúng ta cũng phải tỉnh thức trong giây phút hiện tại, tỉnh thức trong đời sống đạo đúng nghĩa, tỉnh thức trước những thái độ khiến chúng ta xa rời Chúa và anh chị em, tỉnh thức trước hành vi vô luân, dửng dưng, xem thường đạo lý, giới răn yêu thương. Hơn nữa, tỉnh thức trước thói quen không tốt như dèm pha, xét đoán, kết án, chia rẽ, ngồi lê đôi mách, làm chứng gian, hiềm tị, ghen ghét, tự kiêu, tự mãn, khinh thường anh chị em, v.v…Người tỉnh thức và sống tỉnh thức là những ai bước đi trong ánh sáng Chúa (x. Is 2, 5) và biết mặc lấy cung cách, thái độ, hành vi, con người của chính Chúa Giê-su Ki-tô (x. Rm 13, 14; 1Cr 1, 9). Cụ thể hơn, họ là những người sống chân thật, chân thành, yêu mến, đón nhận mọi người, khiêm nhu, hạ mình và cầu tiến, không vui thoả với lời khen tặng, tâng bốc và cũng chẳng buồn khi đối diện với con người yếu hèn của chính bản thân! Họ chẳng bao giờ vui thích trước những người trót lưỡi đầu môi, và cũng chẳng buồn phiền khi nghe lời nhận xét, đánh giá. Họ đặt Lời Chúa là nền tảng sống, soi chiếu vào những ngõ ngách tâm hồn họ, và để Chúa thánh hoá, biến đổi, cũng như nỗ lực sống nhân đức, sống theo đường lối của ánh sáng (x. 1Cr 1, 5-7).
Khi chia sẻ về thái độ tỉnh thức sống đạo với các anh chị em giáo dân ở những vùng thường xuyên hứng chịu cảnh thiên tai, nhân tai như các nước Châu Phi, Trung Đông và tại đất nước Nhật Bản đây, hầu hết họ không thể hiểu được, và thường có thái độ ‘sống tới đâu hay tới đó’, ‘chẳng cần biết ngày mai ra sao’ hay cứ sống cho thoả dục vọng, ước muốn của bản thân vì dường như lối suy nghĩ ‘có tỉnh thức cũng đâu tránh được thiên tai’! Một trong những xu hướng thế tục ngày nay là loại bỏ Thiên Chúa, và cung phụng chính cái tôi của mình, và với thái độ như vậy dễ đưa chúng ta rơi vào cám dỗ: chẳng còn ai mình ta, và ta cứ sống cho thoả thích. Điều này không chỉ xuất hiện ở thời đại này, mà đã nhen nhúm từ trước kia, đến nỗi Thánh Phao-lô đã khuyến cáo mạnh mẽ các tín hữu thuộc giáo đoàn Rô-ma “đêm sắp tàn, ngày gần đến…bỏ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng…đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ganh tị” (x. Rm 13, 12-13) và Ngài khuyên răn hãy tỉnh thức trước thói đời, lối suy nghĩ trần tục ấy; hãy trở về với ân sủng, đời sống làm con Thiên Chúa, con cái ánh sáng.
Sau cùng, thái độ sống sẵn sàng, luôn chuẩn bị mỗi giây phút trong ơn thánh Chúa mọi ngày, để rồi chúng ta có thể đứng vững trước mặt Con Người, “anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng…kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ” (Mc 13, 35-36). Chẳng phải khi ta không còn khoẻ nữa, ta mới lo về phần rỗi, đời sống thiêng liêng, mối tương quan với Chúa và với anh chị em! Không phải khi ta không thể nói được, không thể đi được, không thể kiểm soát được những hành động bình thường, thì ta mới tìm đến lòng vị tha, đến sự bao dung, tha thứ của Thiên Chúa, hoặc trở nên xót thương, thứ tha cho anh chị em, hay đi tìm dịp để nói lời xin lỗi, giải hoà v.v…! Chẳng phải khi ta ‘gần đất xa trời’, ta mới chạy đôn chạy đáo lo đời sống đức tin của mình! Và cũng không phải khi ta không còn thời gian nữa, thì lại hối hả, thúc bách, chạy đến cầu xin Chúa thương! Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy sống sẵn sàng trong mọi giây phút, dù vui hay buồn, dù thành công hay thất bại, dù được khen ngợi hay bị chê bai, dù thời tiết đẹp hay khắc nghiệt, dù được hậu thuẫn hay bị chống đối, dù khi hy vọng tràn trề hay rơi vào thất vọng ê chề, dù giàu có hay nghèo khó, dù vinh hoa hay tủi nhục, dù được yêu thương hay bị ghét bỏ, dù được để ý hay chẳng được đoái hoài, v.v…Trong mọi lúc, Thiên Chúa muốn chúng ta hãy tỉnh thức và sẵn sàng bước theo đường lối Ngài, thực thi Lời Ngài, mặc lấy con người Chúa Giê-su Ki-tô, đón nhận tất cả với trọn tâm hồn tín thác.
Giờ đây, chúng ta cùng nhau dành ít giây phút ngắn ngủi đặt mình trước nhan Thánh Chúa để nhìn lại cách sống, thái độ, hành vi của mỗi chúng ta hầu ta được tỉnh thức sau cơn mê dài xa rời ơn Chúa, và sẵn sàng sống đạo đức trong ân sủng Chúa giữa bao thăng trầm, trào lưu, triết thuyết hưởng thụ, những thói đời, tiêu chuẩn chóng qua của xã hội ngày nay.
Giữa thế sự trôi nhanh vội vã Dòng đời xô đẩy ngã xa Chúa ơi! “Hãy tỉnh thức và giữ Lời” Sẵn sàng nghênh đón gọi mời thiết tha. Bao lâu nay vẫn mải mê Thức mà không tỉnh, lê thê sầu buồn. Tỉnh nhưng chẳng thức buồn hơn Chạy theo phù phiếm, cô đơn một mình Giờ đây thức tỉnh hy sinh Kiên tâm tín thác, an bình yêu thương. Amen!
Mắt lợn luộc” là hình ảnh thân quen ở vùng quê xưa. Khi giết một con heo xong thì phải nấu MV 1-B161
“Mắt lợn luộc” là hình ảnh thân quen ở vùng quê xưa. Khi giết một con heo xong thì phải nấu nước sôi nhúng vào để làm lông. Mắt con heo lúc đó mở thao láo có vẻ vẫn "ngước mắt nhìn đời, nhìn đổi thay ta buông tiếng cười" mà thực ra nó chẳng còn thấy gì! Dân gian cũng dùng câu nói “mắt lợn luộc’ để ám chỉ những người đểnh đoản, hấp tấp chẳng ngó trước ngó sau nên hay vấp té vào người khác, có khi còn đổ bể đồ đạc.
Rất nhiều khi trong cuộc sống chúng ta cũng nhìn mà chẳng thấy, nghe mà không hiểu. Mắt vẫn mở nhưng chúng ta lại không thấy cái hay, cái tốt đang ở bên ta. Rất nhiều khi chúng ta đã không thấy cái đẹp nơi người thân để rồi khi xa nhau mới thấy tiếc nuối vì “đã không nhìn thấy núi Thái Sơn” ngay trước mặt của mình.
Có đôi vợ chồng kia lấy nhau được 10 năm. Họ sống thời gian đầu rất hạnh phúc, nhưng sau đó người chồng lao đầu vào công việc mà bỏ bê vợ con. Anh thường đi làm việc rất sớm và thường phải nán lại làm thêm mới hết việc. Về đến nhà thì thân xác và tâm hồn đều mệt mỏi chả còn hơi sức đâu mà để ý đến vợ con.
Thời gian trôi qua cho tới khi vợ bị bệnh anh mang đi nhà thương mới biết vợ không còn sống bao lâu vì căn bệnh ung thư ác tính. Anh muốn dành thời gian cho vợ, nhưng thời gian đã không còn, vợ anh đã bỏ ra đi sau những ngày cô đơn ngay chính mái ấm gia đình của mình.
Điều đáng tiếc là khi sống bên nhau, ta không chỉ bỏ rơi người bạn đời mà có khi còn làm đau lòng nhau vì những cãi vã, tranh chấp hơn thua. Có một ông lão tuy lớn tuổi, nhưng ông vẫn đi làm. Nhiều người hỏi tại sao không nghỉ ngơi để tĩnh dưỡng tuổi già, ông trả lời: Ở nhà thì vợ chồng suốt ngày chẳng còn chuyện gì nói, chỉ cãi nhau... nhiều khi đối đáp những lời thật chua cay...
Có lần hai vợ chồng cãi nhau, ông quay ra bảo: “Bà phải biết lấy được tôi là bở lắm đó!”... Bà trả lời ngay lập tức: “Bở chứ sao không bở... Bở như vôi vậy mà!...” Có lần bà lái xe, ông ngồi sau; thấy bà lái xe suýt gây tai nạn, ông liền nói gắt: “Lái xe gì mà ngu như vậy!...” Bà phản pháo ngay: “Ðúng rồi, ngu chứ sao... Có ngu thì mới lấy người chồng như ông!...” Có lần hai ông bà bàn chuyện lấy vợ cho con trai, bàn luận với nhau mãi, ông bực mình nói lớn: “Thôi, nó muốn lấy ai thì lấy, miễn là không lấy phải người như bà là được rồi!... Bà liền nổi nóng: “Ừ, thế mà ngày xưa cũng có kẻ cứ cố mà nhào vô đấy!...” Đêm khuya, ông cảm thấy mệt mỏi và đi vào phòng ngủ…bà vẫn chưa tha, chạy vào la: ông ra ngoài này để tôi nói, chứ bộ tôi nói cho cài cột nghe sao?...
Thế nhưng khi ông bệnh hoạn nằm một chỗ, thì bà lại tỏ ra thương hại và chăm lo thuốc men rất chu đáo cho đến khi ông qua đời. Lúc đó, dù bà không khóc, nhưng thật buồn!... Lo đám tang cho chồng xong, bà sống như đã chết đi với chồng... Lúc nào cũng khóc thương kể lể về những điều hay điều tốt về chồng cho con cháu nghe, và cuối tuần nào cũng bắt con cháu cùng ra thăm mộ chồng...
Mùa vọng mời gọi chúng ta: Hãy thức tỉnh. Hãy mở mắt để nhìn và nhận ra điều mà mọi khi vẫn nhìn mà chẳng thấy. Cũng có nghĩa là bỗng nhận ra mình đang bị mù một cách nào đó. Bao nhiêu điều lạ lùng trong cuộc sống mà mình nhìn nhưng không thấy. Nhất là sự hiện diện của Đấng Emanuel hằng ở cùng chúng ta, thế mà chúng ta đã không nhận ra Người nên cuộc đời ta vẫn buồn. Tâm hồn vẫn nặng trĩu lo âu.
Nếu con mắt đức tin giúp nhận ra Chúa đang ở cùng chúng ta thì cuộc đời sẽ vui hơn. Như hai môn đệ Emmau đã bừng lên niềm vui khi nhận ra khách bộ hành chính là Đức Giêsu đã phục sinh. Nếu người chồng biết nhận ra vợ chính là sự hiện diện của Chúa thì hẳn anh sẽ trân trọng từng giờ khi còn ở với nhau, chứ không chờ khi ốm đau mới hối tiếc. Nếu người vợ nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi chồng thì đã không có những khẩu chiến gây đau khổ cho nhau mà chỉ biết “chín bỏ làm mười” để mang lại hạnh phúc cho nhau.
Ước gì, chúng ta luôn biết nhận ra Chúa đang hiện diện nơi đây, lúc này, trong cuộc sống hằng ngày để chúng ta luôn vui tươi lạc quan dầu cuộc đời vẫn còn đó những khó khăn. Xin Chúa mở mắt để chúng ta có thể nhìn và tin nhận ra Chúa nơi tha nhân và bạn bè. Amen.
Mỗi khi chúng ta mong chờ một món quà có giá trị đang được gửi đến, hay là đang mong để đón MV 1-B162
Mỗi khi chúng ta mong chờ một món quà có giá trị đang được gửi đến, hay là đang mong để đón một vị khách quý đang tới, chắc hẵn ai trong chúng ta cũng có tâm trạng này là: đứng ngồi không yên, mong làm sao giờ đó mau đến; không những về mặt tâm-thể lý mà thôi, chúng ta cũng còn chuẩn bị rất nhiều thứ khác để làm sao khỏi lỡ mất cơ hội có một không hai đó. Anh chị em thân mến! Khởi đầu năm phụng vụ, Lời Chúa qua Tin mừng của thánh Marco mời gọi chúng ta: “Các con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức, cầu nguyện.” Tại sao chúng ta làm những việc như vậy trong Mùa Vọng này? Mục đích của những hành động và việc làm này có ích lợi gì cho chúng ta không? Vì thật ra, đã biết bao lần Mùa Vọng đã đi qua, chúng ta đã nghe nhiều lần lời dạy này của Chúa, cũng có thể chúng ta đã thực thi sứ điệp này, nhưng cũng có thể chúng ta chưa thấy và chưa cảm nghiệm được việc Chúa đến với chúng ta. Vậy thì, sứ điệp của Mùa Vọng năm nay có khẩn thiết và hữu ích với chúng ta hay không? Hãy để cho các bài đọc Lời Chúa soi sáng, hướng dẫn và khuyên dạy chúng ta về việc tỉnh thức và cầu nguyện, điều này không những rất cần thiết, hữu ích và còn rất thời sự cho mỗi người trong cuộc sống hôm nay.
Bài đọc 1 từ Tiên tri Isaia mời gọi chúng ta: hãy nhớ lại những ơn Thánh mà Chúa đã thương ban, tuyển chọn để cho chúng ta nhờ đó mà trở nên con cái của Ngài, được hưởng những phúc lộc Ngài ban cho làm gia nghiệp. Thế nhưng, con người chúng ta đã vì yếu đuối và tội lỗi đã làm hoen ố phẩm giá và ơn Thánh Chúa ban. Con người chúng ta ví tựa “hình ảnh chiếc áo mang đầy vết nhơ bẩn,” chính vì lẽ đó mà ơn Thánh Chúa không còn được nhìn thấy hay không thể hoạt động trong đời sống của chúng ta. Vậy thì, tỉnh thức, cầu nguyện là cách thức giúp chúng ta ý thức hơn về thân phận mỏng giòn, tội lỗi của kiếp người. Còn cao quý hơn gấp bội, khi tỉnh thức và cầu nguyện chúng ta nhận ra chính Thiên Chúa là Người Cha rất bao dung, nhân hậu, Ngài đang kiên nhẫn chờ đợi để tha thứ và ban ơn phúc cho chúng ta, hầu chúng ta có thể sống đúng với phẩm giá cao trọng khi chúng ta được tạo dựng là “hình ảnh của Thiên Chúa”.
Bài đọc 2 trong thư của Thánh Phaolo mời gọi chúng ta, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, hãy luôn sống trong tinh thần tỉnh thức và cầu nguyện; vì mỗi chúng ta biết mở lòng, tín nhiệm những ơn thánh của Chúa ban cho chúng ta qua Đức Giêsu Kitô thì thật là hạnh phúc cho chúng ta. Nếu không tỉnh thức và cầu nguyện thì chúng ta không thể nào có sức mạnh, khả năng hay cơ hội để đón nhận Đức Giêsu Kitô là quà tặng ân sủng hữu hình của Thiên Chúa. Thật vậy, hạnh phúc cho ai khi biết mở lòng để sẵn sàng đón nhận Đức Kitô trong cuộc đời của mình.
Tin mừng của Thánh Marco đã lặp đi lặp lại rất nhiều lần về việc phải tỉnh thức. Hình ảnh của người chủ từ phương xa trở về mời gọi chúng ta hãy chuẩn bị, tỉnh thức để được có cơ hội mà tiếp đón Ngài. Nhưng chuẩn bị thế nào đây? Phương cách tốt nhất đó là: hãy xem ngày hôm nay, giờ này là giây phút cuối cùng mà chúng ta đang có; hãy xem đây là cơ hội cuối cùng mà tôi có được, vậy nên, tôi phải làm gì? Đó chính là cách sống chu toàn bổn phận trong mỗi giây phút hiện tại, hay nói khác hơn, cố gắng sống nên thánh trong mỗi giây phút của cuộc đời. Đây là phương cách chuẩn bị, tỉnh thức đúng đắn, chắc chắn và bảo đảm nhất cho chúng ta sẽ có cơ hội tốt để được gặp gỡ, đón tiếp ông chủ và được chủ chúc phúc, ban thưởng khi trở về.
Gặp gỡ, tiếp đón Chúa Giêsu và đón nhận ơn Thánh của Ngài là quà tặng vô giá mà Thiên Chúa đang muốn trao ban cho chúng ta cách nhưng không; vậy chúng ta sẽ phải làm gì và chuẩn bị cách cụ thể ra làm sao để đón tiếp Ngài. Mong ước rằng Mùa Vọng năm nay, mỗi gia đình và mỗi người trong giáo xứ thân yêu chúng ta, hãy cố gắng tìm mọi cách thế hữu ích nhất để chuẩn bị đón Chúa Giêsu và đón nhận lấy quà tặng của Ngài ban. Cách chuẩn bị tốt và không thể thiếu là mỗi gia đình là cùng nhau kinh nguyện sáng tối, cùng nhau tham dự thánh lễ và bí tích Hòa giải. Hãy noi gương và làm theo cách của Mẹ Maria và Thánh Giuse; xin Chúa qua sự bầu cử của các Ngài, giúp sức, an ủi và nâng đỡ chúng ta trong suốt Mùa Vọng này, để chúng ta luôn luôn tỉnh thức, không bỏ lỡ cơ hội gặp Chúa là vị Thượng khách và những món quà ơn Thánh vô giá mà Chúa thương ban. Amen.
Tin mừng Mc 13: 33-37: Chúa nhật thứ I mùa Vọng năm B, Giáo hội mời gọi chúng ta suy gẫm cách nghiêm túc lời kêu gọi: "Hãy tỉnh thức!" của Chúa Giêsu.
Với Chúa nhật thứ nhất mùa Vọng này, Giáo hội lại bắt đầu một năm phụng vụ mới. Mùa Vọng MV 1-B163
Với Chúa nhật thứ nhất mùa Vọng này, Giáo hội lại bắt đầu một năm phụng vụ mới. Mùa Vọng nhắc nhớ chúng ta thời gian dài nhiều thế kỷ con người sống và chờ đợi Đấng Messia theo lời hứa của Thiên Chúa, đồng thời, thúc giục chúng ta, trong hiện tại này chia sẻ và sống mạnh mẽ niềm trông chờ Chúa Giêsu lại đến trong vinh quang.
Chúa nhật thứ I mùa Vọng năm B, Giáo hội mời gọi chúng ta suy gẫm cách nghiêm túc lời kêu gọi: "Hãy tỉnh thức!" của Chúa Giêsu.
I. KHÁM PHÁ SỨ ĐIỆP TIN MỪNG: Mc 13,33-37
Chủ đề chung của các bản văn Tin mừng được chọn đọc trong Chúa nhật thứ nhất mùa Vọng cả ba năm A, B, C là lời mời gọi tỉnh thức được trích từ các lời giảng về ngày cánh chung của Chúa Giêsu. Chủ đề này nói lên rõ ràng ý nghĩa của mùa Vọng là thời gian chờ đợi Chúa Giêsu đến lần thứ hai trong vinh quang, thông qua việc chuẩn bị mừng Lễ Noel, kỷ niệm ngày Chúa đến lần thứ nhất. Trong nhãn giới này, chúng ta sẽ hiểu rõ ràng và đầy đủ hơn ý nghĩa của việc tỉnh thức mà Chúa Giêsu mời gọi.
Marcô dành toàn bộ chương 13 để ghi lại Diễn từ Cánh chung của Chúa Giêsu. Diễn từ này được kết thúc bằng lời kêu gọi tỉnh thức và cầu nguyện. Lời kêu gọi này được dành cho tất cả mọi người. Tỉnh thức có vai trò rất quan trọng trong đời sống của Kitô hữu. Vì nhân loại đang tiến dần đến ngày cánh chung, ngày viên mãn, ngày mà chính Người sẽ đến gặp gỡ nhân loại lần nữa. Thời gian này là thời gian của lịch sử nhân loại, con người phải sống và làm chủ lấy vận mệnh cuộc đời mình.
1. Lý do phải tỉnh thức: Trong toàn bộ diễn từ cánh chung, Chúa Giêsu né tránh không trả lời trực tiếp vấn nạn: Ngày cánh chung xảy ra khi nào và như thế nào. Nhưng Người lại nhấn mạnh đến thái độ tỉnh thức vì không biết lúc nào ngày ấy xảy đến. Với dụ ngôn người gác cửa trong Tin mừng này, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến việc không biết trước ngày giờ ông chủ trở về. Người ta không biết lúc nào Chúa sẽ đến, chỉ biết phải chờ đợi Người sẽ đến cách bất ngờ. Đó là lý do duy nhất của việc tỉnh thức.
2. Phương thế để tỉnh thức: Điểm đặc thù trong dụ ngôn được trình bày đó là việc chờ đợi trong đêm tối, vào một lúc nào đó. Dụ ngôn chỉ nhắc đến ban đêm và các canh liên tục hoặc là chiều tối, hoặc là nửa đêm, hoặc là lúc gà gáy, hoặc là ban sáng (theo cách chia giờ của người Rôma thời bấy giờ). Việc liệt kê này rất có ý nghĩa: Nó nhắc nhở tới bốn giai đoạn của cuộc thương khó (Buổi chiều, giờ Chúa Giêsu đoán trước việc Giuđa phản bội và Phêrô chối Thầy ; Nửa đêm, giờ Người hấp hối trong vườn cây dầu ; Lúc gà gáy, Phêrô chối Chúa ; Sáng sớm, giờ các môn đệ bỏ trốn, Chúa Giêsu bị trao nộp cho Philatô). Nhưng chủ đích của việc liệt kê thời gian này ám chỉ đến thời gian hiện tại và bản chất tối tăm của nó. Theo quan niệm Do Thái giáo, thời gian hiện tại như một đêm tối với tình trạng đầy cám dỗ, thử thách, khổ đau. Trong Tân ước, thế giới này đang chịu sự chi phối của kẻ dữ, thủ lãnh của nó là kẻ thù của Thiên Chúa (1Ga 5,19 ; Ep 6,12). Cho dù đã được thanh tẩy, được rứt ra khỏi quyền lực của tối tăm, thành con của ánh sáng nhờ Đức Kitô nhưng Kitô hữu vẫn sống trong thời gian ban đêm nghĩa là vẫn sống trong tình trạng bị thử thách cám dỗ (Cl 1,13; 1Tx 5,5). Do đó, tỉnh thức ở đây chính là làm sao sống vững vàng, trung tín trong cuộc sống hiện tại, với niềm hy vọng hướng về tương lai cánh chung. Tỉnh thức chính là sống ngay từ bây giờ bằng tất cả trách nhiệm và lương tâm Kitô giáo không dửng dưng với thực tại trần thế, nhưng luôn làm cho nó thấm đượm những giá trị Tin mừng.
3. Tỉnh thức để chờ đợi Chúa: Trong dụ ngôn Chúa Giêsu nhấn mạnh đến việc tỉnh thức để chờ đợi chủ trở về. Đối tượng được chờ đợi không phải là một biến cố, một sự kiện mà chính là một con người. Chờ đợi và gặp gỡ chính Chúa Giêsu, đó là viẹc mà mọi người và toàn thể vũ trụ phải thực hiện. Ai đó có tham vọng muốn biết ngày giờ Chúa trở lại mà không quan tâm đến việc chờ đón Người thì không đi đúng hướng Tin mừng. Nếu biết thực sự quan tâm, tỉnh thức chờ đợi Chúa thì việc lúc nào, giờ nào sẽ không còn quan trọng nữa.
II. CHIÊM NGƯỠNG CHÚA GIÊSU:
Mùa Vọng mời gọi chúng ta hướng lòng trông chờ Chúa Giêsu đến lần thứ hai trong vinh quang vào ngày cánh chung. Dựa vào bản văn Tin mừng hôm nay chúng ta có nhận thức được rằng: Chúa Giêsu chính là Đấng chúng ta chờ mong hay không ? Chờ mong Người thì phải biết Người là ai ? Chúa Giêsu, Đấng kêu gọi mọi người tỉnh thức chờ đợi Người, Người chính là niềm hy vọng, là tương lai của cuộc đời mỗi Kitô hữu. Chiêm ngưỡng Chúa Giêsu là nguồn hy vọng mang lại cho mỗi người niềm vui, nghị lực trước khó khăn thử thách và cám dỗ của trần gian. Sống vui vẻ và chu toàn những công việc Chúa trao phó để khi Người đến chúng ta không có gì đáng trách. Giữa hai lần đến lần thứ nhất và thứ hai, Người vẫn đang đến với chúng ta qua thánh lễ, qua Lời của Người được công bố, qua Giáo hội và sự hiện diện của anh chị em chung quanh. Thái độ tỉnh thức tích cực chính là cùng với Giáo hội, cùng với mọi người nỗ lực xây dựng thế giới này theo ánh sáng của Tin mừng. Đó cũng là thái độ biết chuẩn bị sẵn sàng đón Chúa đến.
III. SỐNG VÀ CHIA SẺ TIN MỪNG
1. Tỉnh thức, một thái độ lạc quan sống Tin mừng:
Tỉnh thức chờ đợi Chúa đến theo như Chúa Giêsu dạy không phải là một lối sống căng thẳng trông chờ một biến cố khủng khiếp xảy đến với mình. Nhưng là một thái độ chuẩn bị chờ đón Chúa đến trong vinh quang để đưa chúng ta đi vào Nước Chúa vui hưởng tình yêu và sự sống viên mãn của Ngài. Cho nên, đó là cách sống lạc quan, hy vọng. Thời gian mỗi người được sống cho đến ngày Chúa gọi đến gặp Chúa là thời gian của ân sủng, là cơ hội để nắm bắt được ơn cứu độ. Cho dẫu thời gian này có phải đương đầu với biết bao nhiêu khó khăn thử thách và cám dỗ nhưng ai tin vào Chúa vẫn một lòng son sắt, vẫn kiên trung theo đường lối của Ngài thì tất cả sẽ trở nên nhẹ nhàng, tâm hồn luôn tràn ngập bình an, đúng như một người gác cổng cần mẫn, an bình thư thái chờ chủ về bất ngờ.
2. Tỉnh thức, một thái độ dấn thân vào đời:
Sự tỉnh thức không phải là một đòi hỏi người ta phải bỏ tất cả mọi việc để chỉ chuyên chăm vào chuyện đọc kinh, xem lễ, những việc thuần túy đạo đức. Dụ ngôn Tin mừng trình bày cho thấy những người đầy tớ, người gác cổng vẫn phải làm những việc được trao phó cho mình. Và tỉnh thức chính là làm tốt những công việc được trao phó. Như vậy, tỉnh thức không có nghĩa là trốn chạy thế gian và những vấn đề của nó để tìm một chỗ yên thân chờ Chúa đến nhưng chính là một thái độ dấn thân đi vào đời để chu toàn bổn phận trách nhiệm của một Kitô hữu. Trong ánh sáng đức tin, Kitô hữu sẽ nhạn ra sứ mạng của mình chính là những người gác cổng cho con người và thế giới hôm nay. Kitô hữu có trách nhiệm làm cho thế giới này tốt đẹp hơn lên nhờ nỗ lực sống Tin mừng của mình.
3. Tỉnh thức, một lối mở cửa tâm hồn để đón Chúa:
Ngừơi Do Thái ngày xưa có lẽ đã nóng lòng chờ Chúa đến, nhưng khi Người đến họ lại không nhận ra Người. Bởi vì Người đã tới không theo như cách họ nghĩ. Chính vì họ không có tỉnh thức theo nghĩa là hiểu và sống đúng lời Kinh thánh. Đôi mắt họ đã mờ tối, lý trí của họ đã ngủ mê bởi ảo tưởng và sự khôn ngoan của họ khiến cho họ không còn nhận ra Chúa nữa. Kinh nghiệm của anh em Do Thái xưa là bài học đức tin quí giá cho Kitô hữu hôm nay, tỉnh thức là một cánh cửa để chúng ta mở ra đón Chúa vào cuộc đời của mình. Cánh cửa này giúp cho mỗi người vươn tầm nhìn lên Thiên Chúa, vượt thoát khỏi não trạng trì trệ của những quan niệm giữ đạo theo khuôn mẫu của thế gian để thay đổi cách sống, cách nhìn theo Tin mừng. Mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, rập khuôn cuộc sống mình theo người nhờ đó đi vào được trong kế hoạch, trong trật tự Người đã khởi sự xây dựng và hoàn tất trong ngày Người lại đến.
IV. LỜI CẦU CHUNG:
Mở đầu: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta luôn tỉnh thức sẵn sàng chờ đợi ngày Người đến lần thứ hai trong vinh quang. Ý thức thân phận yếu đuối, mê ngủ của mình, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin Chúa giúp chúng ta.
1. Giáo hội có trách nhiệm tiếp nối Chúa Giêsu kêu gọi thế giới tỉnh thức. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Giáo hội luôn được Chúa Thánh Thần soi sáng, canh tân để biết chu toàn trách nhiệm của mình qua việc bênh vực công lý, bảo vệ sự sống và can đảm lên án, chống lại những sai lầm, những cái ác của con người và thế giới.
2. Ngày nay trên thế giới đã và đang diễn ra biết bao cuộc chiến tranh, biết bao nhiêu tệ nạn xã hội và những điều sai trái khác. Nguyên nhân là do con người ngủ quên trong đam mê dục vọng, trong tội lỗi và trong sự mê muội. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo các quốc gia, những tổ chức thiện nguyện và tôn giáo luôn được khôn ngoan và giàu lòng bác ái để chung tay xây dựng xã hội ngày càng phát triển nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống mang lại hòa bình, thịnh vượng cho nhân loại.
3. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện vì không biết lúc nào Con Người sẽ đến. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn biết thực thi lời kêu gọi tỉnh thức của Chúa bằng nỗ lực sống và chu toàn trách nhiệm của mình trong gia đình, trong xã hội cũng như Giáo hội với niềm tin yêu, lạc quan và hy vọng.
Lời kết: Lạy Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương ân ban cho chúng con thời gian được sống giữa thế gian này và muôn ơn huệ khác để chúng con đủ điều kiện sống tỉnh thức theo Tin mừng. Xin Chúa thương đón nhận những lời khẩn cầu của chúng con, giúp chúng con biết hoán cải canh tân cuộc sống để xứng đáng đón nhận hồng ân cứu độ của Chúa Giêsu Con Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
Mùa vọng là mùa của chờ đợi và hy vọng. Đây là thời gian chuẩn bị đón mừng lễ Giáng sinh, mừng MV 1-B164
Mùa vọng là mùa của chờ đợi và hy vọng. Đây là thời gian chuẩn bị đón mừng lễ Giáng sinh, mừng Con Thiên Chúa đến trong thế gian để mang lại sự hòa bình, thịnh vượng và hạnh phúc cho nhân loại. Trong mỗi chúng ta luôn khát khao được sống trong yêu thương, an lành và hạnh phúc, nhưng trong thực tế thì không phải ai cũng đạt được những điều mình mong ước trong cuộc sống.
Vào Mùa Vọng năm 2008, tôi có dịp đi vào những vùng sâu, và viếng thăm những người nghèo. Tôi đến thăm một bé trai 9 tuổi bị bệnh ung thư máu, em đã nằm trên giường bệnh nhiều năm, thân hình tàn tạ chỉ còn da bọc xương, em đang chờ đợi cái chết sẽ xẩy đến trong một thời gian ngắn. Lúc ấy, tôi thầm nghĩ trong lòng, tôi sẽ đưa em đi bệnh viện vì gia đình em quá nghèo. Họ không có tiền để mua thuốc hay một hộp sữa cho em uống. Tôi hỏi người mẹ có cho em ăn gì chưa? Chị ta trả lời: "Hôm nay, nhà con không còn tiền và cũng không còn thứ gì để ăn". Khi nghe lời chị ta nói, lòng tôi đau thắt lại. Ngôi nhà thì rách nát, tả tơi, ngay cả chỗ em nằm cũng bị ước vì trời mưa. Khi nhìn thấy hoàn cảnh nghèo đói của gia đình cậu bé, tôi thật sự không kèm chế được cảm xúc của mình với nỗi bất hạnh của cậu bé này. Tôi đến cầm lấy tay và đỡ em ngồi dậy. Đôi mắt của em nhìn thẳng vào tôi, hai dòng nước mắt chảy xuống gò má gầy gò, và ngay lúc đó tôi cũng không thể cầm được nước mắt của mình. Tôi không thể nói được điều gì với em, nhưng tôi tin chắc rằng, em sẽ hiểu được tình cảm của tôi. Trước khi từ giã em ra về, tôi hứa với em rằng, tôi sẽ trở lại để đưa em đi bệnh viện. Nhưng tôi chưa kịp quay trở lại, thì em đã vĩnh viễn ra đi.
Thật là đau lòng khi tử thần đã cướp đi mạng sống của em. Cậu bé luôn hy vọng và chờ đợi một tương lai tốt đẹp hơn. Chờ đợi một phép lạ xẩy ra cho em được sống, nhưng tất cả đều vô vọng. Và em đã vĩnh viễn ra đi, còn tôi luôn mang trong mình một nỗi khắc khoải và một ký ức đau buồn với một lời hứa chưa được thực hiện. Kinh nghiệm này giúp cho tôi một chút suy tư về cuộc đời, về những gì Chúa nói trong trang Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu nói rằng "Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến." Phải chăng đây là lời cảnh báo cho mọi người chúng ta! Ngài kêu gọi chúng ta phải tỉnh thức trước mọi biến cố xẩy ra trong cuộc sống, vì khi chúng ta tỉnh thức là lúc chúng ta biết nhìn lại chính mình và thoát ra khỏi tình trạng mê muội, sai lầm bởi bản ngã yếu đuối của con người.
Mùa vọng không chỉ là cơ hội tốt để cho chúng ta nhìn lại thời gian qua, sống đúng với giá trị hiện tại mà còn hướng tới tương lai vĩnh cửu. Lời Chúa nhắc bảo chúng ta là hãy sẵn sàng và tỉnh thức trong mỗi hoàn cảnh và thời khắc, vì chúng ta chẳng biết giờ Chúa đến với mỗi người chúng ta. "Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để các con có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!" Và ngày đó, Thiên Chúa sẽ phán xét chúng ta về lòng bác ái và yêu thương, vì chân lý cuối cùng của cuộc đời là tình yêu: Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người. Vì yêu thương con người, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm Người, sống kiếp con người và ở với chúng ta. Ngài đã chết và sống lại để mang lại hòa bình, thịnh vượng và hạnh phúc cho nhân loại.
Có những mảnh đời đi qua đời tôi, nhưng tôi vẫn vô tình, thờ ơ, lãnh đạm, vô cảm, vì cái tôi chật hẹp và ích kỷ. Hình ảnh cậu bé ngày xưa vẫn còn đọng lại trong tôi, như là một lời nhắc nhớ tôi rằng: chờ Chúa đến không phải chỉ là ước mong những điều tốt đẹp cho mình, nhưng là phải biết chia sẻ, cảm thông, yêu thương. Chờ Chúa đến không phải là lúc ta ngồi đó để than vãn, oán trách cho số phận mà là hãy sẵn sàng, tỉnh thức, cầu nguyện và thực thi bác ái trong Mùa Vọng này.
Vào thập niên 1960, một số nước thuộc Khối Ả-rập gồm Ai-cập, Gióc-da-ni, Sy-ri-a và I-rắc liên MV 1-B165
minh với nhau chống lại Ít-ra-en, một quốc gia mới được tái lập vào năm 1948, sau hai ngàn năm ly tán khắp nơi.
Trước nguy cơ đất nước mình sẽ bị khối Ả-rập đe dọa nghiêm trọng, sáng ngày 5 tháng 6 năm 1967, Ít-ra-en huy động hầu hết chiến đấu cơ của mình bất thần tung cánh tấn công phủ đầu các phi trường quân sự của Ai-cập và chỉ trong vòng một ngày, họ phá hủy hầu hết các chiến đấu cơ cũng như sân bay của Ai-cập khiến lực lượng không quân của nước này bị tê liệt hoàn toàn và bị tổn thất hết sức nặng nề. Sau đó, không quân Ít-ra-en tiếp tục tấn công vào chiến đấu cơ và các phi trường quân sự khác của các nước đồng minh của Ai-cập.
Một khi đã làm chủ bầu trời, không quân Do-thái tiếp tục bắn phá, hủy diệt các chiến xa và các mục tiêu dưới đất của phe Ai-cập và đồng minh.
Thế là chỉ sau 6 ngày chiến đấu, quân lực Ít-ra-en chiến thắng vẻ vang ngoài mong đợi, chiếm được nhiều lãnh thổ quan trọng của quân thù, còn liên quân Ả-rập đại bại và bị tổn thất hết sức nặng nề. [1]
Chính vì thiếu tỉnh thức trước đối thủ đáng sợ là Ít-ra-en, liên quân Ả-rập đã gánh lấy hậu quả vô cùng tai hại và đau thương!
Những địch thù đáng sợ chung quanh ta
Có rất nhiều kẻ thù vô hình đang vây bọc chung quanh ta, lăm le chiếm đoạt tâm hồn ta, hòng thống trị đời ta mà chúng ta không quan tâm, không nhận biết hoặc chủ quan khinh thường.
Đứng đầu những kẻ thù đáng sợ này là tham lam, là kiêu ngạo, là ghen ghét hoặc mê đắm dục tình…
Nói đến đây, có người nói rằng tham lam là thứ quái gì mà ta phải sợ! Địch thù lù lù trước mắt ta còn chưa sợ thì thá gì lòng tham là thứ vô hình.
Tuy nhiên, điều chúng ta thường thấy là chính lòng tham đã xui khiến rất nhiều người âm thầm giết hại đồng bào của mình bằng cách sản xuất đủ thứ thực phẩm độc hại để thu lợi cho mình; lòng tham đã xui khiến người ta tham ô không giới hạn, giết người không gớm tay và gây ra vô vàn tội ác… cũng chỉ vì để thu lợi cho mình.
Bên cạnh đó, những kẻ thù sừng sỏ khác như kiêu ngạo, ghen ghét, mê đắm dục tình… cũng đáng sợ không kém.
Cảnh giác với kẻ thù vô hình
Kẻ thù hữu hình thường mang theo súng đạn, mã tấu… rất dễ nhìn thấy nên ai cũng khiếp sợ và tỉnh thức canh phòng; còn kẻ thù vô hình như tham lam, kiêu ngạo, ghen ghét, tà dâm… như những viên thuốc độc bọc đường, xem ra thật hiền lành và hấp dẫn, nên mọi người đều mê đắm, mà quên đi chất độc tai hại bên trong. Chỉ có những người khôn ngoan hoặc được ơn Thánh thần soi sáng mới có thể nhận ra tác hại của chúng để đề phòng, cảnh giác.
Lạy Chúa Giê-su,
Dù chúng con có nhận biết những kẻ thù vô hình như tham lam, kiêu ngạo, ghen ghét, tà dâm… vô cùng độc hại, nguy hiểm khôn lường… nhưng xem ra chúng rất hấp dẫn và lôi cuốn nên chúng con không đủ bản lãnh để kháng cự mà chỉ muốn xuôi theo.
Xin ban cho chúng con có đủ nghị lực, có đủ sức mạnh tinh thần và sáng suốt tỉnh thức, không để chúng xâm chiếm tâm hồn và làm chủ ước muốn của chúng con. Nhờ đó, chúng con thoát khỏi ách thống trị của chúng và luôn trung thành với Chúa trọn đời. Amen. ----------------------------------- [1] Tham khảo: https://vi.wikipedia.org/wiki/ Chiến tranh sáu ngày
“Điều Thầy bảo các con, thì Thầy bảo cho tất cả mọi người là: Hãy tỉnh thức!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Thật lạ lùng, đang sống giữa ban ngày, đi giữa ban ngày, làm bao nhiêu việc giữa ban ngày, vậy MV 1-B166
Thật lạ lùng, đang sống giữa ban ngày, đi giữa ban ngày, làm bao nhiêu việc giữa ban ngày, vậy mà bước vào năm phụng vụ mới với Chúa Nhật I Mùa Vọng, Chúa Giêsu bảo chúng ta và bảo mọi người rằng, “Hãy tỉnh thức!”. Vậy phải chăng chúng ta đang mơ màng, ngái ngủ hay đang ngủ quên, một sự ‘ngủ quên tâm linh’ vốn rất bất lợi cho linh hồn.
Vậy thì tỉnh thức để làm gì? Tỉnh thức để thấy Chúa Giêsu, Đấng đã đến lần thứ nhất trong ngày giáng sinh, sẽ đến lần thứ hai trong ngày quang lâm và Ngài đang đến với mỗi chúng ta mỗi ngày ngay hôm nay. Chúng ta có chú ý đến Ngài không? Đây là một câu hỏi vô cùng quan trọng mà nhiều người đã không hiểu hết ý nghĩa của nó. Chúa Giêsu đã đến nhưng Ngài vẫn đang tiếp tục đến cũng như nhất định Ngài sẽ đến ít nữa trong giờ chết của mỗi người. Vì thế, không nhận thức được sự hiện diện của Ngài, có lẽ chúng ta đã ngủ quên, cách nào đó, một sự ‘ngủ quên tâm linh’.
Chúng ta ‘ngủ quên tâm linh’ mỗi khi chúng ta dán mắt nội tâm của mình vào những điều không quan trọng, những gì đã qua và thậm chí những điều lố lăng nhảm nhí của thế giới này. Chăm chú vào các điều ấy, chúng ta không có khả năng chăm chú đến Chúa Kitô. Buồn thay, điều này đang xảy ra hàng ngày khi thế giới đảo điên với bao sự ác vốn đang hành hạ và quấy nhiễu chúng ta mỗi ngày. Các phương tiện truyền thông đua nhau cung cấp thông tin; chúng giành dật nhau và tìm cách lấp đầy thời gian chú ý ngắn ngủi của chúng ta bằng những âm thanh, hình ảnh vốn chỉ thoả mãn trong chốc lát. Kết quả là, con mắt linh hồn và tầm nhìn bên trong của chúng ta về đức tin bị bỏ qua, bị lãng quên hoặc bị gạt bỏ. Vì thế, nhiều người dường như không còn khả năng vượt qua sự ồn ào hỗn loạn đang ngày càng gia tăng để có thể cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ thế giới; vậy mà Ngài đang đứng trước cửa lòng mỗi người, đang gõ rất khẽ vào cánh cửa trái tim và linh hồn; Ngài đang nói rất nhẹ nhàng, những tiếng nói thầm thì với những lời ân phúc, lời cứu độ rất sâu sắc với linh hồn mỗi người.
Thế nhưng, để có thể tỉnh thức mà trông đợi, để có thể khỏi ‘ngủ quên tâm linh’, chúng ta phải biết Đấng chúng ta trông đợi là ai. Ngài là Giêsu, Cứu Chúa của linh hồn, Ngài là Đấng thứ tha tội lỗi, Đấng giao hoà chúng ta với Thiên Chúa, Ngài đưa chúng ta vào đời sống ân sủng của con cái Thiên Chúa, Ngài chuẩn bị cho chúng ta dự tiệc Nước Trời và chỉ duy mình Ngài là Đấng ban ơn cứu độ, vì Ngài ban cho chúng ta sự sống đời đời. Biết Ngài, nhận ra Ngài là Đấng chúng ta phải khao khát, chắc chắn chúng ta sẽ được hưởng kiến thiên đàng ngay hôm nay và trong chốn đời đời. Thánh Phaolô nói với chúng ta trong bài đọc thứ hai, “Anh em không còn thiếu ơn nào nữa trong khi mong chờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta tỏ mình ra”. Phải, Thiên Chúa ban cho chúng ta đủ mọi ơn cần thiết để chúng ta đủ sức chu toàn phận vụ Người trao đang khi chúng ta mong chờ ngày Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang.
Một đệ tử tập tu đã lâu nhưng vẫn chỉ thấy lờ mờ trong đàng tâm linh, một hôm hỏi sư phụ, “Thưa Thầy, con thấy trong cuộc sống, có những người đầy hứng khởi năng động nhưng cũng có nhiều người mỏi mệt, thiếu sinh khí. Vậy đâu là khác biệt?”. Vị thầy đang trù trừ tìm cách giải thích cho đệ tử thì bỗng, trước mặt họ, một con thỏ rừng phóng qua; con chó của thầy trông thấy liền sủa mấy tiếng rồi lao mình đuổi theo. Nghe tiếng sủa và thấy con chó nhà chùa truy đuổi một vật gì đó, các con chó trong làng cũng ùa ra, sủa vang và đâm đầu chạy theo. Thấy thế, vị thầy bảo các đồ đệ theo dõi. Chỉ sau mấy phút, các con chó hàng xóm lủi thủi trở về, con nào con nấy bơ phờ, lưỡi thè dài, mắt mờ đi vì quá mệt; trừ con chó nhà chùa thì chưa thấy về, nó nhất quyết đuổi theo con thỏ. Nhà sư liền hỏi, “Điều gì đã làm nên sự khác biệt?”; người đệ tử hiểu ra và gật đầu, “Thưa Thầy, con đã hiểu; chỉ con chó nhà chùa trông thấy thỏ, những con chó khác thì không”.
Anh Chị em,
Câu truyện nói lên phần nào hiện trạng của nhiều người trong chúng ta, chúng ta đang mắt sáng lòng trong hay đang bơ phờ mệt mỏi; chúng ta có đang ‘ngủ quên tâm linh’ hay đang tỉnh thức đón chờ Chúa đến? Một lần nữa, bắt đầu Mùa Vọng, Chúa Giêsu đang nói với chúng ta từ nơi sâu thẳm nhất của tâm hồn; Ngài nhẹ nhàng nói, “Thức dậy đi”, “Đừng mê nữa!”. Ngài không la hét, nhưng thì thầm cho những ai dành trọn sự quan tâm cho Ngài. Ước gì chúng ta nghe được tiếng Ngài. Vậy mỗi người cũng hãy thưa lên với Ngài như tâm tình của Isaia trong bài đọc hôm nay, “Xin Chúa băng qua các tầng trời mà ngự xuống”; hoặc như tâm tình của Thánh Vịnh đáp ca, “Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, xin cho chúng con được phục hồi, xin tỏ thiên nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng con được ơn cứu sống”.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, con ước ao Mùa Vọng này là thời gian đổi mới sâu sắc cho cuộc đời con; để được vậy, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chúa và nghe cho được tiếng nói nhẹ nhàng của Chúa mỗi ngày; xin giúp con tránh xa ồn ào của thế giới, để con khỏi ‘ngủ quên tâm linh’ hầu sống với Chúa một cách sâu sắc hơn trong những ngày hồng phúc này”. Amen.
Tin mừng Mc 13:33-37: Chúa nói: các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào chủ sẽ về, hoặc là chiếu tối, hoặc là nửa đêm hoặc lúc gà gáy, hay ban sáng, kẻo khi ông chủ trở về thình thình, bắt gặp các con đang ngủ.
Powell, ông tổ của ngành hướng đạo, hồi còn là đại tá chỉ huy những cuộc chiến đấu tại Âu MV 1-B167
Powell, ông tổ của ngành hướng đạo, hồi còn là đại tá chỉ huy những cuộc chiến đấu tại Âu Châu, lần kia đoàn quân của ông có một ngàn mà phải đương đầu với địch quân những chín ngàn. Suốt trong 217 ngày đợi chờ được cứu viện, ông đã dùng chiến thuật nghi binh.
Ở mặt trận, ban ngày thỉnh thoảng ông cho nổ chỗ này chỗ khác mấy trái lựu đạn. Còn ban đêm trong một vùng rộng lớn, ông cho thắp đèn sáng tại nhiều nơi, mục đích là để đánh lừa đối phương, khiến chúng tin rằng ông có nhiều lính và hiện diện ở khắp nơi, chớ có liều lĩnh mà tấn công. Khi viện binh tới, ông mới tấn công đối phương và đã dành được thắng lợi.
Giữa lúc chính phủ nước Anh định nâng ông lên cấp bậc thống tướng thì ông lại rút lui, để rồi lập nên phong trào hướng đạo, huấn luyện các em thiếu nhi trở thành những người hữu ích cho bản thân, gia đình và xã hội.
Mục đích của hướng đạo là lúc nào cũng phải tỉnh thức và sẵn sàng để đương đầu với mọi hoàn cảnh.
Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa nói: các con hãy tỉnh thức và sẵn sàng. Những lời đó được minh hoạ tức bằng dụ ngôn: một người trẩy đi phương xa, chắc là xa lắm, và trao tất cả quyền hành cho các đầy tớ, sắp đặt mỗi người một việc, và dặn người gác cửa tỉnh thức. Chúa nhấn mạnh đến việc không biết trước ngày giờ sẽ đến, có mục đích duy nhất như một lệnh truyền là hãy tỉnh thức.
Chúa nói: các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào chủ sẽ về, hoặc là chiếu tối, hoặc là nửa đêm hoặc lúc gà gáy, hay ban sáng, kẻo khi ông chủ trở về thình thình, bắt gặp các con đang ngủ. Ngủ ở đây không chỉ là cái ngủ thể lý, nhưng còn là tình trạng quá mải mê việc trần thế, không quan tâm đến việc bổn phận của mình là những người con của Thiên Chúa.
1. Một cuộc sống với những việc đầy ứ phải làm
Một ngày làm việc của chúng tràn ngập không biết bao nhiêu chuyện phải làm, bao nhiêu người phải gặp, bao nhiêu dự án phải thực hiện, bao nhiêu thư phải viết, bao nhiêu cú điện thoại phải trao đổi và bao nhiêu cuộc hẹn phải tôn trọng.
2. Một cuộc sống với những công việc còn dang dở
Chúng ta luôn bị ám ảnh, bị quấy rầy bởi những việc chưa làm xong, những lời hứa chưa giữ, những đề nghị chưa thực hiện. Khi nào cũng có một cái gì đó phải nhớ, phải làm hay phải nói. Luôn luôn còn công việc bỏ dở chưa làm, còn những người chưa kịp nói, chưa kịp gặp và còn một bổn phận nào đó chưa hoàn thành.
3. Một cuộc sống dồn dập những tin tức
Qua các thông tin của báo chí, truyền thanh, truyền hình, họ làm chúng ta sống trong một không khí thường xuyên khẩn cấp. Giọng kích thích của ký giả, khuynh hướng thích đưa những tin giật gân, những tai nạn khủng khiếp, những tội ác tày trời, những cách ứng xử trước tội lỗi. Nói tóm lại, tất cả những khốn cùng của nhân loại được họ cung cấp từng giờ, từng phút, đã từ từ làm cho chúng ta rơi vào trạng thái nơm nớp lo sợ một tai họa như thể sắp xảy ra ngay sát chúng ta.
4. Một cuộc sống tràn ngập những quảng cáo
Tiếp theo làm một loạt những quảng cáo dồn dập được tung ra. Họ nhấn mạnh làm sao để chúng ta luôn nghĩ rằng chúng ta sẽ thiếu một điều quan trọng gì đó, nếu chúng ta không đọc quyển sách này, không mua sản phẩm kia. Các điều này lại càng làm cho chúng ta thêm bối rối, thêm lo lắng trước đủ mọi mặt phức tạp của đời sống cộng thêm những lo lắng đã có sẵn muôn đời còn nằm đó. Xã hội chúng ta bị lệ thuộc vào những lo lắng giả tạo này. Chúng ta luôn bị kẹt trong mạng nhện của những dự kiến giả tạo và những nhu cầu đặt định: những bận rộn và những lo lắng lấp đầy đời sống bên ngoài cũng như bên trong.
Một cuộc sống quá bận rộn với những công việc trần thế khiến chúng ta không còn thời giờ để nghĩ đến phần rỗi thiêng liêng của chúng ta, nhưng hậu quả như thế nảo?
Chúng ta hãy nghe câu chuyện trong Sách Sự Sống: tôi qùi cầu nguyện, nhưng chẳng lâu được; tôi có nhiều việc phải làm. Tôi phải cấp tốc đi làm vì hóa đơn đòi tiền chồng chất. Vì vậy, tôi qùi gối, đọc vội một kinh và nhảy đứng dậy. Thế là việc bổn phận Kitô hữu của tôi đã làm xong.Tâm hồn tôi thanh thản, bình an. Suốt ngày tôi không có thì giờ để buông một lời chào hỏi vui vẻ hoặc nói về Chúa Kitô cho bạn bè vì sợ họ cười nhạo tôi. Tôi luôn miệng la lớn: không có thì giờ, không có thì giờ, nhiều chuyện phải làm quá !
Không có thì giờ để lo cho phần rỗi linh hồn, nhưng cuối cùng giờ chết đã đến. Tôi trình diện trước mặt Đức Chúa, mặt cúi xuống, vì Đức Chúa đang cầm trong tay một quyển sách, sách sự sống. Đức Chúa nhìn vào trong sách và nói: ”Ta không tìm thấy tên con, vì có lần Cha dự tính viết tên con, nhưng Ta không có thì giờ”. Một ít phút để chúng ta suy nghĩ về chính ngày chúng ta phải ra đi. Một ngày mà không bao giờ chúng ta nghĩ tới. Amen.
(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
‘Tỉnh thức’ trong Mùa Vọng có nghĩa là gì?
Hôm nay là khởi đầu Mùa Vọng và một chu kỳ mới của các bài đọc phụng vụ. Trong Năm B MV 1-B168
Hôm nay là khởi đầu Mùa Vọng và một chu kỳ mới của các bài đọc phụng vụ. Trong Năm B, chúng ta sẽ nghe đọc nhiều bản văn Tin mừng theo thánh Máccô. Bài Tin mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta phải tỉnh thức luôn luôn cũng như trong Mùa Vọng.
Vào cuối năm phụng vụ A, chúng ta đã nghe một số đoạn Tin mừng theo thánh Matthêu kêu gọi canh thức và sẵn sàng cho cuộc tái lâm của Nước Chúa. Đây là mối quan tâm nổi bật trong Tin mừng Máccô và có lẽ đã ảnh hưởng trên bản văn của Matthêu. Máccô khiến độc giả của mình cảnh giác cao độ, khi mô tả Chúa Giêsu rao giảng về tầm quan trọng của việc canh thức.
Trong chương 13 của Tin mừng theo thánh Máccô, Chúa Giêsu đưa ra những lời tiên báo về việc đền thờ sẽ bị phá hủy, việc các môn đệ sẽ phải chịu đau khổ và bắt bớ, cho thấy bối cảnh mà tác giả Máccô viết Tin mừng là vào thời kỳ cuộc chiến đầu tiên giữa Do Thái và Rôma. Sống trong thời kỳ nổi dậy hỗn loạn, thánh Máccô và cộng đoàn của ngài nghĩ rằng thời khắc cuối cùng đã gần kề, vốn là mối quan tâm dễ nhận thấy trong Tin mừng của ngài.
Trong bài đọc hôm nay, thánh Máccô nhắc nhở cộng đoàn “Hãy coi chừng! Hãy tỉnh thức!” Để minh họa điều này, thánh Máccô mô tả Chúa Giêsu kể câu chuyện các đầy tớ và người giữ cửa có trách nhiệm trông coi ngôi nhà. Họ phải bảo vệ ngôi nhà và tỉnh thức chờ ngày chủ trở về: “Kẻo khi ông trở về thình lình, bắt gặp các con đang ngủ”. Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng các môn đệ phải cảnh giác, vì họ phải sẵn sàng trước những sự kiện nằm ngoài sự hiểu biết của họ.
Giống như độc giả vào thế kỷ thứ nhất của thánh sử Máccô, nhiều người ngày nay đang sống trong trạng thái bất an và lo âu. Đại dịch Covid-19 và các cuộc đấu tranh liên tục cho bình đẳng và công bằng chủng tộc đang chi phối tâm trí chúng ta. Theo lối diễn đạt của thế kỷ 21, thánh Máccô nhắc nhở tất cả chúng ta “hãy thức dậy!” Chúng ta phải lưu tâm đến những gì đang xảy ra với chúng ta và xung quanh chúng ta. Giống như những người được giao trách nhiệm với ngôi nhà của chủ, chúng ta phải có trách nhiệm với bản thân, với hành động và cộng đồng của mình, không ngừng nâng cao nhận thức, nhận ra và phê phán những điều xấu và theo đuổi lợi ích chung. ------------------------------- Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2020/10/16/what-does-it-mean-be-alert-during-advent
Hôm nay, chúng ta bước vào một chu kỳ phụng vụ mới và bắt đầu vào mùa vọng. Như chúng ta MV 1-B169
Hôm nay, chúng ta bước vào một chu kỳ phụng vụ mới và bắt đầu vào mùa vọng. Như chúng ta biết: Mùa Vọng là âm đầu tiên gọi tắt của tiếng "Adventus", một tiếng La Tinh, có nghĩa là đến hay sắp đến. Mùa Vọng bao hàm ý nghĩa rõ hơn là mùa hy vọng, mùa trông đợi, mùa chờ mong. Chờ mong vào Đấng Cứu Thế. Vì thế, Mùa Vọng đầu tiên có nghĩa là một thời gian chuẩn bị đạo đức để xứng đáng mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Nhưng đến thế kỷ thứ VII, Mùa Vọng còn mang một ý nghĩa khác là trông đợi, chờ mong Chúa quang lâm, Chúa tái giáng để phán xét nhân loại. Như vậy, Mùa Vọng là mùa nhắc lại thời gian nhân loại chờ đợi Đấng Cứu Thế đến cứu chuộc, và cũng nói lên nỗi chờ đợi của Giáo Hội hôm nay, chờ đợi Đức Kitô đến lần thứ hai khi lịch sử kết thúc để phán xét nhân loại. Ngoài ra, với mỗi người, Mùa Vọng cũng nhắc nhở chúng ta hãy chuẩn bị sẵn sàng chờ đón Chúa trong giây phút hiện tại mỗi ngày của đời sống và đặc biệt trong ngày chết khi Chúa đến gọi chúng ta về với Ngài.
Ai trong chúng ta cũng đã kinh nghiệm về sự chờ đợi. Chờ đợi mẹ đi chợ về, chờ đợi bữa ăn, chờ đợi đến cuối tháng lãnh lương, chờ ai đó,... Chờ đợi đòi buộc chúng ta phải tỉnh thức. Tỉnh thức đòi buộc chúng ta ở trong tư thế sẵn sàng.
Tỉnh thức không phải là không ngủ. Các cô trinh nữ khôn ngoan và khờ dại cũng ngủ giống nhau. Điểm khác biệt là các cô khôn ngoan ngủ nhưng có thái độ tỉnh thức, bằng chứng là các cô này đã mang đèn và dầu dự trữ, các cô sống trong sự chuẩn bị, sống trong tư thế sẵn sàng đón chàng rể đến bất cứ lúc nào. Ngược lại, các cô khờ dại thì mang đèn mà không mang theo dầu dự trữ, các cô này không có thái độ chuẩn bị sẵn sàng, không sống trong thái độ tỉnh thức. Vì thế, đến giờ chàng rể đến thì các cô sống trong sự chuẩn bị sẵn sàng sẽ đi theo chàng rể. Họ hưởng sự tốt lành trong vương quốc của chàng rể. Ngược lại ngững người sống mà không chuẩn bị thì sẽ gặp thiệt thòi nên sẽ phải hối hận, đến giờ chót thì không ai có thể giúp mình được. Do đó, cuộc đời của người Kitô hữu chúng ta phải sống trong sự tỉnh thức và cầu nguyện, sống trong tư thế chờ đón Chúa, nghe và thực hành Lời Chúa, làm theo ý Chúa. Chúng ta phải sẵn sàng chờ đón Chúa bất cứ lúc nào.
Khởi đầu của mùa vọng, Lời Chúa của Chúa nhật hôm nay mời gọi chúng ta hãy canh thức, hãy tỉnh thức để chờ đợi Chúa đến. Chúa Giêsu nói ngày của Chúa không ai biết trước được, và thái độ của chúng ta là luôn luôn tỉnh thức, lúc nào cũng ở trong tư thế sẵn sàng, để ngày ấy dù có bất ngờ tới đâu, cũng là ngày đem lại vinh quang và hạnh phúc vĩnh cửu cho ta. Như vậy, thái độ tỉnh thức là thái độ nào?
Người ta có thể tỉnh thức để tiếp tục làm cho xong một công việc hay bắt đầu từ một việc khác. Vì thế, có những người thức để làm việc, họ làm công việc bảo vệ an ninh, trực ở bưu điện, phòng cấp cứu, trạm cứu hoả, ga xe, tàu, máy bay,... những tài xế chạy xe, chạy tàu suốt chặng đường dài, những chuyến xe bay trong đêm,... và còn có những người khác cũng thức, thức để cầu nguyện. Trong các đan viện, các đan sĩ nam nữ mang một sứ mạng là cầu nguyện, họ ca tụng Chúa, họ tỉnh thức và cầu nguyện thay chúng ta, thay cho mọi người khắp nơi trên thế giới. Trong cuộc sống, có khi chúng ta chưa sẵn sàng, chưa tỉnh thức khi chúng ta bị thu hút bởi tiền bạc, bởi của cải, bởi danh vọng, bởi quyền lực... đến nỗi quên đi bổn phận mình là thờ phượng Chúa, là yêu mến và giúp đỡ đồng loại như giúp đỡ cho kẻ đói ăn, kẻ khát được uống, lên tiếng trước bất công... Ngược lại thậm chí chúng ta còn làm những điều trái với lương tâm, những điều bất lợi cho tha nhân như vu khống, bất công, thù oán, lăng nhục... Như vậy, một cách cụ thể, chúng ta đề ra những bổn phận như sau:
Tỉnh thức là tỉnh táo để nhận ra Chúa đến bất cứ lúc nào và tha thiết xin Chúa trợ giúp. Rất có thể Chúa đã đến đã đi qua trong cuộc đời chúng ta. Đọc lại Kinh Thánh chúng ta thấy Chúa đến bất ngờ, Chúa đến theo cách của Ngài. Không đủ tỉnh thức thì chúng ta không nhận ra ngài. Ngài đến bất ngờ nơi Belem dưới một trẻ thơ. Cuộc sống, cái chết và sự phục sinh cũng bất ngờ khiến cho các môn đệ ngạc nhiên. Chắc chắn ngài cũng đến bất ngờ như ông chủ trở về mà bài phúc âm nhắc tới. Chúa hiện diện nơi người nghèo đói, lầm than khổ sở, thiếu thốn, … (Mt 25, 31 - 46). Hơn nữa hằng ngày, Chúa Giêsu đến qua bí tích Thánh Thể mà chúng ta lãnh nhận, Chúa đang đến trong ân sủng và các biến cố mà chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Chúng ta đã gặp, đã thấy nhưng đôi khi chúng ta chưa dùng đức tin cho đủ, cho đúng mà đón nhận ra Ngài. Do đó, chúng ta phải luôn tỉnh thức, tỉnh táo để nhận ra Ngài. Đồng thời chúng ta xin Chúa giúp chúng ta tỉnh thức để nhận ra Chúa đến bất cứ lúc nào.
Tỉnh thức là chu toàn bổn phận và sinh lợi (Mt 25, 31-46). Chúa giao cho chúng ta như những người quản gia nhiệm vụ phân phát lương thực cho gia nhân (Mt 24, 45-51). Nếu chủ về mà gặp thấy chúng ta đang làm công việc được giao thì đúng là chúng ta đang sống trong thái độ tỉnh thức. Mê ngủ là bỏ bê trách nhiệm, lạm dụng quyền hành và say sưa chè chén (Mt 24, 19). Khả năng mỗi người như nén bạc mà chúa trao cho thì chúng ta phải biết chu toàn bổn phận và sinh lợi cho thật nhiều, hết công suất, mỗi người phải sinh lợi tuỳ theo vốn mà mình đã nhận. Nhìn lại bản thân, nhiều và rất nhiều lần chúng ta bỏ qua các bổn phận hoặc chưa chu toàn bổn phận của mình. Chúng ta hãy ý thức chu toàn bổn phận và luôn sống với Chúa từng phút giây.
Khởi đầu Mùa Vọng này, chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn, luôn luôn tỉnh thức để đón chờ ngày Chúa đến. Chúng ta cần phải ra sức chuẩn bị tâm hồn để khỏi hối hận về sự đã rồi. Hãy trở về với nẻo chính đường ngay, ngõ hầu lúc nào cũng sẵn sàng, sẵn sàng và sẵn sàng cho ngày đó hay không?.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến, đang đến và sẽ đến, xin cho chúng con luôn sống trong tâm tỉnh thức chờ đợi và chu toàn bổ phận mình theo ý Chúa muốn. Chúa đang đi qua trong thế giới này, qua các bí tích, hiện diện nơi tha nhân, đi qua những biến cố và đang đi qua trong cuộc đời chúng con. Xin cho chúng con tỉnh táo nhận ra Chúa đang đi qua các nơi đó. Đồng thời, xin cho chúng con vui vẻ làm tròn bổn phận của mình vì yêu mến Chúa Giêsu Kitô. Amen.
Phụng vụ Giáo hội đã bước vào năm mới với khởi đầu là Mùa Vọng. Từ Chúa Nhật I mùa vọng đến MV 1-B170
Phụng vụ Giáo hội đã bước vào năm mới với khởi đầu là Mùa Vọng.
Từ Chúa Nhật I mùa vọng đến ngày 16.12, Phụng vụ nói lên niềm mong đợi ngày Chúa đến khi kết thúc thời gian. Tám ngày cuối cùng, trực tiếp nói đến ngày Giáng Sinh.
Mùa Vọng âm vang những lời loan báo mời gọi tỉnh thức và hy vọng.
1. Mùa Vọng - Mùa loan báo.
Mùa vọng là mùa của những lời loan báo. Loan báo Chúa Giêsu sinh ra, loan báo thời gian cứu độ, loan báo ngày trở lại của Chúa Kitô. Những lời loan báo này được công bố rõ ràng trong các bài đọc Sách Thánh ngày Chúa Nhật.
Bài đọc 1, trích trong sách Isaia, đó là những lời tiên tri về Đấng Cứu Thế mà đỉnh cao là Chúa nhật IV, loan báo một trinh nữ sẽ sinh hạ tại Bêlem một Hài Nhi thuộc chi tộc Đavit và Ngài sẽ được gọi là Emmanuel.
Bài Phúc Âm: Chúa nhật I mùa vọng nói lên niềm mong đợi ngày Chúa Kitô trở lại với lời nhắn nhủ: Hãy tỉnh thức; Chúa nhật II, III dành cho Gioan tiền Hô với lời mời gọi: Dọn đường cho Chúa; Chúa nhật IV là Chúa nhật Truyền tin cho Đức Mẹ và Thánh Giuse.
Các bài đọc 2 là các bài Thánh thư Phaolô, Giacôbê, Phêrô, đặc biệt làm cho Mùa Vọng trở thành một mùa loan báo việc Chúa Kitô trở lại lần thứ hai.
2. Mùa Vọng - Mùa chờ đợi
Mùa Vọng là mùa mong đợi Chúa đến. Từ ngữ "Chúa đến" thường được hiểu bằng bốn cách:
- Chúa đến trong lịch sử nhân loại. - Chúa đến trong ngày phán xét chung. - Chúa đến trong giờ chết của mỗi người. - Chúa đến trong ơn thánh hằng ngày.
Chúa đến lần thứ nhất: Chúa đã làm người trong nghèo hèn và đau khổ. Chúa được sinh hạ tại hang đá Belem. Chúa đến thế gian để trao ban Ơn Cứu Độ cho nhân loại. Ngày nay nhân loại đợi chờ và hân hoan kỷ niệm ngày Chúa Giáng Sinh.
Chúa đến lần thứ hai: Chúa Giêsu sẽ đến thế gian lần thứ hai để hoàn tất công cuộc cứu độ, gọi là Tận Thế hoặc Cánh Chung. Lần này Chúa đến trong vinh quang với tư thế là Vua Thẩm phán để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Không ai biết được ngày đó sẽ xẩy ra khi nào. Chỉ biết chờ đợi trong hy vọng.
Chúa đến giữa hai lần: Chúa đến với từng người. Đó là giờ chết. Không ai biết được Chúa gọi mình lúc nào và ở đâu. Không ai có thể chọn cho mình ngày giờ ra đi. Lần giữa này là lần thật quan trọng với từng người.
Chúa đến trong ơn thánh: Hàng ngày Chúa đến với ta trong ơn thánh qua các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể.
Mùa Vọng chính là mùa sốt sắng và hân hoan mong đợi Chúa đến.
3. Mùa Vọng - Mùa tỉnh thức
Chúa Giêsu nói đến tư thế của người tỉnh thức là luôn: "đứng thẳng và ngẩng đầu lên". Chúa cũng nói đến thái độ sống của người tỉnh thức là không để " lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời", không quá mê mẩn những đam mê hưởng thụ, không quá mê say danh lợi thú.
- Đứng thẳng: đây là động thái hiên ngang dũng cảm vượt trên mọi đam mê tội lỗi. Đứng thẳng mới khỏi sa chước cám dỗ và những lôi cuốn mời mọc hấp dẫn trong cuộc đời.
- Ngẩng đầu lên: đây là động thái hướng thượng, vươn mình lên tới những giá trị cao cả.
Chúng ta sống cuộc đời hiện tại trong tinh thần tỉnh thức. Tại các ngã ba ngã tư của đường phố đều có đèn đỏ đèn xanh rõ ràng, nhắc hướng cần đi vào và cấm vượt ranh giới. Trong lương tâm, chúng ta không thấy rõ hệ thống đèn đỏ đèn xanh. Mình phải tự phán đoán, chọn lựa. Không tỉnh thức là đôi khi mình tự cho phép mình vượt đèn đỏ vô hình, và cũng không đi theo hướng đèn xanh chỉ dẫn. Vài lần thấy quen. Rồi thấy xung quanh vô số người cũng làm như vậy. Thế là thành thói quen phạm lỗi trên hành trình cuộc đời.
Không bao giờ được quên ngày Chúa đến trong thời gian kết thúc của thế giới và đến trong ngày cuối cùng của đời ta. Tích cực dùng thời gian hiện tại để chuẩn bị cho tương lai vĩnh cửu của mình.
Mùa Vọng là mùa mong đợi Chúa đến. Chúa đến rất bất ngờ và rất âm thầm. Muốn gặp được Chúa, chúng ta phải tỉnh thức.
Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn minh hoạ bài học tỉnh thức.
a. Dụ ngôn người đầy tớ đợi chủ về:
Tỉnh thức như người đầy tớ đợi chủ đi ăn cưới không biết về lúc nào. Thái độ tỉnh thức là "thắt lưng cho gọn" và "thắp đèn cho sẵn". Luôn sẵn sàng để khi chủ về thì mở cửa và ân cần phục vụ. Như thế, tỉnh thức đi kèm với sẵn sàng và nhanh nhẹn. Tỉnh thức để "đợi chủ về". Người Kitô hữu chờ đợi Chúa đến trong vinh quang ngày quang lâm, chờ đợi Chúa đến trong giờ sau hết đời mình. Vì thế, người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại một cách rất nghiêm chỉnh, họ cố gắng làm phận sự ở đời một cách hết sức tích cực vì biết rằng đó là Thánh ý của Chúa và vì biết rằng hạnh phúc đời đời của mình đang được chuẩn bị ngay bây giờ.
b. Dụ ngôn người quản gia trung thành.
Quản gia chỉ là quản lý mà " ông chủ đặt lên coi sóc gia nhân, cấp phát thóc gạo đúng giờ đúng lúc". Mỗi người chúng ta là người quản lý của Thiên Chúa. Cần phải trung thành trong nhiệm vụ được giao. Sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ, sắc đẹp...tất cả đều là do Chúa ban tặng. Những gì mà ta có đều là của Chúa. Người quản lý khôn ngoan phải biết nhìn xa, làm sao cho sự sống, trí tuệ, tài năng... giúp ta hướng tới những giá trị vĩnh cửu.
Tại Thụy sĩ, có một vườn hoa tuyệt đẹp, đủ loại hoa, đủ màu sắc. Nằm giữa vườn là một tòa nhà tráng lệ. Nhìn vườn hoa với cảnh phối trí, cắt tỉa, uốn nắn... ai cũng phải công nhận đã có một sự chăm sóc kỹ lưỡng, kèm theo một óc thẩm mỹ hiếm có của người chủ vườn. Một du khách đi qua đây, thoáng nhìn ông đã thấy như say mê. Giữa lúc đó, người làm vườn bước ra. Chủ khách chào hỏi lẫn nhau. Rồi từ chuyện hoa cỏ, cách chăm bón, trồng tỉa, sự phối hợp màu sắc... câu chuyện đi đến chỗ thân tình.
Du khách hỏi: "Xin lỗi cụ, cụ ở đây được bao lâu rồi?"- "Khoảng 40 năm rồi" – "Tôi đoán, có lẽ ông chủ của cụ rất sành về nghề cảnh, chắc giờ này ông có nhà?" – "Ông ta không ở đây, thỉnh thoảng mới ghé qua đây thôi" – "Ông có thư từ gì với cụ không?" – "Không, ông ta bận lắm" – "Ông không về cũng không thư từ, thì ai trả lương cho cụ?" – "Hàng tháng tôi chỉ nhận được ngân phiếu từ ông ta để chi phí mọi sự cho khu vườn này" – "Thế tội gì cụ phải chăm sóc kỹ lưỡng thế này, ông chủ có mấy khi đến thưởng ngoạn đâu?" – "Tôi thì lại không nghĩ thế, mình là một gia nhân được chủ tín nhiệm trao phó việc bảo quản khu vườn này, mình phải tận tụy chứ lúc nào ông về cũng được, ông sẽ hài lòng với công việc của tôi. Hơn nữa, khi làm đẹp khu vườn cho chủ, chính tôi cũng được thưởng ngoạn cảnh đẹp do chính tay mình làm nên".
Người gia nhân trên đây thật đáng ca tụng. Ông làm việc không vì sợ nhưng vì yêu, làm việc với một tinh thần trách nhiệm. Ông coi việc của chủ như việc của mình nên làm việc hết tấm lòng. Ông thực là một gia nhân tốt, một quản lý trung thành.
Tỉnh thức là thái độ của một gia nhân trung thành. Tỉnh thức và đợi chờ với niềm hy vọng là chủ sẽ trở về.
Tỉnh thức là tâm trạng của một con người luôn bình an, thư thái. Thái độ sống này giúp người Kitô hữu luôn làm cho mọi công việc hàng ngày trở thành lời nguyện tạ ơn chân thành.
Người tỉnh thức là người luôn cố gắng và nhiệt thành, biết thực thi những gì là chân thật, ngay chính và đáng quý chuộng.
Người tỉnh thức sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau. Thời gian hiện tại là thời gian quyết định đối với số phận đời đời của con người. Mỗi giây phút qua đi là không bao giờ trở lại. Thời giờ Chúa cho ta sống ở trần gian là vô cùng quý báu, đây là lúc gieo mầm cho đời vĩnh cữu.
Ngày Chúa đến sẽ khủng khiếp hoặc vui mừng là tùy cách sống hiện tại của mỗi người. Mọi hành động, mọi tư tưởng đều được phơi bày ra trước ánh sáng của công lý, không ai có thể che dấu một chi tiết nào.
Ngày Chúa đến trong vinh quang để xét xử muôn dân sẽ là ngày cứu độ cho những ai tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng, nhưng sẽ là ngày kinh hoàng cho những ai đang mê ngủ trong đam mê tội lỗi.
Xin Chúa cho chúng con như ngọn đèn chầu bên Nhà Tạm, thức luôn và sáng luôn trước nhan Chúa. Amen.
Tất cả đường lối Chúa đều là yêu thương và thành tín đối với những kẻ nào giữ giao ước và lề luật Chúa. ( Tv 25, 10)
Ai theo đạo Chúa lại không biết rằng sống theo ý Thiên Chúa là tuyệt hảo! Chính Thiên Chúa đã MV 1-B171
Ai theo đạo Chúa lại không biết rằng sống theo ý Thiên Chúa là tuyệt hảo! Chính Thiên Chúa đã đặt vào trong lòng mỗi người xu hướng tìm về chân lý, làm lành lánh dữ và ban ơn cho con người có khả năng giữ điều răn Chúa. Tuy nhiên, con người có thể luôn bị những kẻ thù lừa gạt, làm lệch hướng. Kẻ thù đó là ma quỉ, thế gian và xác thịt. Chúng hay xúi giục chúng ta tìm kiếm sự dễ dãi hơn mức phải làm hoặc cám dỗ chúng ta ngã lòng trước những thử thách của cuộc sống. Vì thế, Lời Chúa trong Mùa Vọng này nhắc chúng ta phải tỉnh trí lòng và cầu nguyện luôn để lòng không u mê chạy theo những sự giả trá thế gian, những cám dỗ do gương xấu hay sự chiều chuộng thân xác của mình.
Mỗi người chúng ta ví như những đầy tớ được chủ trao cho quyền tự do sử dụng một số phương tiện của cải. Khi đã nhận thì chúng ta phải có trách nhiệm bảo quản, giữ gìn, sinh lợi. Chủ đã tin tưởng chúng ta, trao cho chúng ta nhiều khả năng về sức khỏe, trí tuệ, hay những điều kiện phát triển bản thân và nhất là ban cho cả địa vị làm con nữa. Chúng ta không nên phụ lòng tin của Chủ mà làm những chuyện bất xứng với uy tín, phẩm giá của mình trước tình thương của Chủ. Điều chắc chắn là Chủ sẽ trở về. Đó là giờ chết của mỗi người. Lúc đó, chúng ta sẽ trả lời với Chúa ra sao về cuộc sống quá khứ, về thái độ sống đạo của chúng ta trong thời gian trước đó! Chúng ta không thể chắc chắn là mình còn sống đến ngày mai! Nhưng chúng ta ít khi dám nghĩ tới cái chết vốn chực sẵn trong mình.
Thiên Chúa luôn nhìn thấy chúng ta. Chúng ta có thể gọi đến danh Ngài bất cứ nơi đâu. Ngài đến thăm chúng ta từng ngày từng giờ và mong chúng ta luôn chọn làm điều lành, để khi Ngài gọi, chúng ta không phải hổ thẹn trốn lánh mặt Ngài. Chúng ta hãy luôn tự hỏi mình: lúc này, bây giờ, tôi đang làm gì cho Chúa, đang làm việc bổn phận Chúa trao hay đang lạm dụng ơn Chúa. Chúa luôn ban ơn cho chúng ta kéo dài sự sống nhưng chúng ta hay bỏ quên Chúa, đang chạy theo những thụ tạo và coi trọng nó hơn là tìm Chúa. Những thụ tạo đó có thể là của cải, tiền bạc, danh vọng hay một sở thích, đam mê nào đó. Những thứ đó có khi không xấu, nhưng có khi trở thành xấu khi chúng ta quá bám vào chúng, mất tự do và không thể hiện niềm tin mến Chúa. Nếu như Chúa hiện ra đúng lúc đó thì chúng ta sẽ trả lời sao với Ngài?
Để làm vui lòng Chúa, chúng ta cùng nhau sám hối về những thiếu sót, tội lỗi của mình trong thời gian qua. Những việc bác ái, việc đạo đức có thể góp phần đền bù lại phần nào những xúc phạm đến Chúa hoặc những thiệt hại mình đã gây ra cho tha nhân và bản thân để xứng đáng đón nhận mầu nhiệm Chúa Nhập Thể làm người cứu độ chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết mềm lòng ra trước lời Chúa và hiểu được tình Chúa dành cho loài người chúng con. Chúng con ở trong tay Chúa như "đất sét" trong tay người "thợ gốm". Xin Chúa cứ uốn nắn chúng con theo ý Chúa muốn để cuộc đời chúng con ghi nhận tràn đầy những dấu ấn tình yêu của Chúa và mai sau được một chỗ trên nước trời nhờ lòng từ bi Chúa.
Câu 34 cho biết gia chủ đi xa lâu ngày. Tại sao Mc không nói ông ta sẽ trở về một ngày nào đó MV 1-B172
1. Câu 34 cho biết gia chủ đi xa lâu ngày. Tại sao Mc không nói ông ta sẽ trở về một ngày nào đó mà lại bảo là sẽ trở về vào một trong các canh đêm? 2. Ta có thể cho rằng “ đêm tối” trong dụ ngôn đây là một nét ẩn dụ không? (x. Mc 4, 13-20 ; Mt 13, 36-43) 3. Trong Cựu ước, đêm tối có ý nghĩa biểu tượng nào? (x. TV 92, 2t ; Is 21, 11) 4. Trong Tân ước, đêm tối có ý nghĩa biểu tượng nào? (x. Rm 13,12 ; 1Tx 5, 4tt) 5. Trong các dụ ngôn Tin Mừng nói về “đêm tối”, thường có ý tưởng gì đặc biệt (x. Mt 24,42; 25.1-13; Lc 12, 35-40. Mc 13,33-37) 6. Tại sao thời gian hiện tại lại được Kinh Thánh quan niệm như đêm tối (Ep 6, 12; 1Ga 5, 19)? 7. Sự tỉnh thức của Kitô hữu, theo dụ ngôn nào có tính cách nào?
Diễn từ cánh chung của Mc 13 được kết thúc bằng một lời hối thúc tỉnh thức: lời khuyên này không chỉ nhắm đến những kẻ mà diễn từ của Chúa Giêsu ngỏ với lúc đầu (x. 13.3) nhưng đến mọi người hết thảy (13,37). Vì đối với tất cả mọi môn đồ Chúa Giêsu, “tỉnh thức” có một tầm quan trọng đặc biệt. Dầu sao ta vẫn có thể tự hỏi tiếng “tỉnh thức” có nghĩa gì trong văn mạch Mc 13? Ở c.36, nó đối nghịch lại với “ngủ”, nhưng ý nghĩa riêng biệt của nó cũng không vì thế mà được xác định.
Lời khuyên được làm nổì bật nơi Mc bằng dụ ngôn người gác cửa. Có lẽ một phân tích chặt chẽ hơn về dụ ngôn này sẽ làm sáng tỏ nội dung lời khuyên.
I. MỘT KHÓ KHĂN
Nếu chăm chỉ đọc dụ ngôn, ta thấy ngay nó đặt ra nhiều vấn đề. Người chủ nhà được coi như phải trở về vào một canh nào đó trong năm canh đêm, trong lúc dụ ngôn lại rõ ràng cho thấy là ông định đi xa lâu lắm. Trước lúc khởi hành, ông đã giao trách nhiệm coi nhà cho các tôi tớ, mỗi người một việc: chắc hẳn ông đã không xếp đặt như thế nếu chỉ vắng một thời gian. Nhưng nếu ông vắng mặt lâu ngày thì đáng lý nên nói: “Các người không biết ông sẽ trở về ngày nào”. Thế mà dụ ngôn lại bảo: “Các ngươi không biết lúc nào chủ sẽ đến, chiều tối, nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng” (c. 35). Chiều tối, nửa đêm, lúc gà gáy, tảng sáng là tên gọi 4 canh đêm theo cách chia của người Rôma. Người Israel xưa thường chia làm 3 canh: (x. Tl 7,19; Lc 12,38). Vậy tại sao khi nói về tính cách bấp bênh của việc chủ trở về, dụ ngôn lại chỉ chú trọng đến các canh đêm?
Một giả thuyết: sự trục trặc nội tại ấy của dụ ngôn có thể giải thích dựa vào cách thức du hành tại Đông phương thời cổ có lẽ là người ta có thông lệ trở về ban đêm sau một cuộc hành trình dài lâu. Trong trường hợp ấy, chi tiết chèn vào dụ ngôn một cách hợp lý. Nhưng điều chúng ta biết được về các hành trình thời đó. Đông phương không thể chống đỡ – dù có đoạn Lc 11 .5tt – cho một lối giải thích như vậy được. Vào thời đó, đường sá có đầy rủi ro và lắm nguy hiểm rình chờ lữ khách, khiến cho người Đông phương tránh đi ban đêm, nhất là trong những độ đường dài. Trong những điều kiện như thế mà trở về vào canh tư ban đêm sau một chuyến đi xa – như một trong các trường hợp dụ ngôn tiên đoán đây thì thật là hoàn toàn kỳ lạ (J. Jeremias, Dio Gloichnisse, 1956, tr.46).
Để giải thích sự trục trặc, người ta cũng đã đưa ra giả thuyết cho rằng Mc lệ thuộc vào các Tin Mừng Nhất lãm khác. Chẳng hạn như chi tiết chủ trở về. Vào ban đêm có thể xuất phát từ dụ ngôn các tôi tớ chờ đợi chủ trong Lc 12, 35 tt: việc nhấn mạnh bổn phận phải tỉnh thức ban đêm trong Lc đây có thể đã khiến Mc đưa chủ đề này vào trong dụ ngôn của mình. Hoặc ngược lại, có người đã nghĩ rằng đêm là yếu tố nguyên thủy của dụ ngôn người gác cửa, còn cuộc du hành của ông chủ giao phó việc nhà cho các tôi tớ là một yếu tố phụ thuộc. Trước những cố gắng để giải thích đó, ta tự hỏi chẳng biết người sau cùng nhuận sắc yếu tố này của truyền thống nơi Mc có cảm thấy cái mà chúng ta thấy là một sự thiếu hợp lý không? Hay là ông đã chẳng quan tâm đến? Trong thực tế, vấn đề khúc mắc vẫn còn. Nó đã chỉ được dời đi thôi.
Đối với vài tác giả khác, ý tưởng trở về lúc ban đêm có lẽ phát sinh từ lời khuyên hãy tỉnh thức. Lời khuyên này, theo người ta nghĩ, chỉ đầy đủ ý nghĩa nếu nó ngỏ cho những người đang ở trong tình trạng ngủ; mà “ai ngủ thì ngủ ban đêm” ( 1 Tx 5,7). Nếu, trong ngôn ngữ gợi hình của Mc, con người được mời gọi hãy tỉnh thức, thì điều này kéo theo chủ đề ban đêm như là một hậu cảnh. Phải chăng đó là lối giải thích đúng, và đầy đủ cho sự kiện người gác cửa trong dụ ngôn chờ đợi chủ về ban đêm vào một giờ nào đó?
II. PHẢI CHĂNG CÓ NHỮNG NÉT ẨN DỤ TRONG CÁC DỤ NGÔN?
Trước khi nghiên cứu điều này cách kỹ lưỡng hơn, cần phải nói qua một vấn đề nguyên tắc: đó là trong các dụ ngôn của Chúa Giêsu có thể có những nét ẩn dụ. Từ thời Hội thánh sơ khai, trải qua bao thời đại, cho đến đầu thế kỷ XX, lối giải thích các dụ ngôn đã bị một lối giải thích theo chiều hướng ẩn dụ chi phối. Người ta đã tìm ra trong một dụ ngôn riêng biệt nào đó những khía cạnh khác nhau của học thuyết Kitô giáo về ơn cứu độ, bằng cách giải thích các chi tiết phụ tùy theo một phương thức có vẻ cưỡng ép bản văn. Nhà chú giải Adolf Julicher, trong tác phẩm Die Cleichnisređen jesu (1886-99) đã mạnh mẽ chống đối lối giải thích theo chiều hướng ẩn dụ mà theo ông, mỗi dụ ngôn muốn trình bày một tư tưởng duy nhất mà toàn thể việc mô tả hay tường thuật đều hội tụ lại. Các chi tiết đều lệ thuộc vào tư tưởng chính, mà người ta không được gán cho chúng một ý nghĩa đăc thù nào. Các dụ ngôn của Chúa Giêsu đích thực là dụ ngôn, chứ không phải là ẩn dụ.
Công trình của Julicher đã thanh lọc việc giải thích các dụ ngôn và đã đóng một vai trò quyết định trong những thập niên kế tiếp. Tuy nhiên, hình như tác giả Julicher đã quá một chiều. Nói một cách chung chung, phải chăng không thể chấp nhận có những nét ẩn dụ trong các dụ ngôn? Để trả lời cho câu hỏi, ta phải làm sáng tỏ bản chất của ngôn ngữ bóng bảy trong môi trường Do thái cổ xưa. Một công trình khảo cứu như thế cho thấy rằng. Trong các văn tập Cựu ước và Do thái giáo Cổ, biên giới giữa hình ảnh, ẩn dụ và ngụ ngôn rất là mơ hồ. Trong văn chương Sêmita, đặc tính của một ngôn ngữ bóng bảy là diễn tả tư tưởng bằng cách nói phớt, bằng cách liên tưởng, ngụ ý bóng gió (x. M. Hermaniuk. La paratole évangélique, 1947, tr. 62-l89). Những lời giải thích dụ ngôn hiện nằm trong các Tin Mừng (Mc 4, 13-21); Mt 13,30-43) đã biểu lộ một khuynh hướng muốn ẩn dụ hóa các nét dụ ngôn. Đối với những ai muốn loại bỏ mọi nét ẩn dụ khỏi các dụ ngôn, ta có quyền hỏi họ: làm sao giải thích chuyện Chúa Giêsu đã không sử dụng – hoặc đã tránh dùng – mọi cách diễn tả bằng ẩn dụ, trong khi đó là thói quen của môi trường Do thái cổ thời cũng như của các môn đồ Người và của những kẻ nhuận sắc các Tin Mừng sau hết?
Thật khó tìm được những lý do vững chắc để quả quyết rằng các nét ẩn dụ trong các dụ ngôn của Chúa Giêsu không bắt nguồn từ chính Chúa Giêsu (x. W Kumnel, promlse and lulfilment (Studies in Biblical Theology 23), 1957, tr. 35). Về điểm này, ta có thể nhắc lại chỗ đứng của Cựu ước trong cuộc đời và lời rao giảng của Chúa Giêsu. Trong mọi hoạt động của Người, Chúa Giêsu tự giới thiệu như là sự hoàn thành Kinh Thánh; và cũng thế, các dụ ngôn của Người, trong mối liên hệ tự nhiên với các sự kiện của đời sống hàng ngày ở Palestine và trong cả việc chọn lựa các đề tài đều chứa nhiều ám chỉ về các bản văn hay ý niệm của Cựu ước (x. E.Hoskyns và N. Davey, The Riddle of the New Testament, 1936, tr. 157 (t) ; thế mà các bản văn và ý niệm Cựu ước này lại hàm chứa nhiều nét ẩn dụ. Thành thử hình như ta không được phép đề cập đến việc chú giải các dụ ngôn của Chúa Giêsu với thiên kiến rằng chúng không thể có một nét ẩn dụ rõ ràng nào cả. Sự kiện cần phải kiểm soát mỗi trường hợp một sự khách quan khoa học là một chuyện khác. Không thể có vấn đề áp dụng phương pháp ẩn dụ một cách tự do và đưa vào trong một dụ ngôn đặc thù bất cứ loại biểu tượng nào. Tuy nhiên, khi một chủ đề đã được văn chương Do Thái đương thời gán cho một giá trị ẩn dụ rồi, thì thật khó phủ nhận trên nguyên tắc chuyện Chúa Giêsu đã sử dụng chủ đề đó với cùng một cách thức như vậy.
Thế mà, trong dụ ngôn người gác cửa, người ta chỉ chờ gia chủ trở về ban đêm vào một lúc nào đó. Sự chú ý đều tập trung về việc chờ đợi ban đêm, và điều này càng rõ rệt hơn vì những lời nói về cuộc hồi gia ban đêm của người chủ lại nằm trong phần áp dụng dụ ngôn. Ở c.35, mặc dù vẫn giữ hình thức bóng bảy, câu chuyện đã bước qua phần ứng dụng: ở đây nó diễn tả ý tưởng rằng các thính giả không biết vào giờ nào ban đêm người chủ sẽ trở về. Đây là cuộc trở về cánh chung của người chủ, được ứng dụng trực tiếp cho các thính giả. Như thế, nếu khi nói tới lúc người chủ có thể trở về, người ta chỉ đề cập đến các canh đêm, thì câu hỏi có thể được đặt ra như sau: trong văn mạch tư tuởng Do thái thời đó, vào những trường hợp như vậy, đêm tối gợi lên những liên tưởng nào? Đó là điều ta sắp tìm hiểu.
III. Ý NGHĨA BIỂU TƯỢNG CỦA ĐÊM TỐI TRONG ISRAEL CỔ THỜI
Trong văn chương Do thái đương thời thường có phản ảnh cái ý thức về bóng tối ngự trị trong thế gian. Điều này đặc biệt đúug đối với các văn tập Qumrân. trong đó người ta gặp một trong các tư tưởng chính yếu là: cuộc sống hiện tại bị đặt dưới quyền lực của Bêlial, dưới quyền lực của bóng tối. Đối với các kẻ tin, điều đó bao gồm những cám dỗ, hiểm nguy, thử thách đủ loại. Nhưng tình trạng này sẽ không kéo dài mãi mãi. Theo các quan điểm phổ thông nơi người Do Thái lúc đó, thời gian của tăm tối một ngày kia sẽ chấm dứt đối với những kẻ được chọn. Vào lúc đảo lộn mọi sự thời cánh chung, bóng tôi sẽ biến thành ánh sáng cho họ. Cuộc sống tương lai, đối với các tín hữu của Thiên Chúa, là một cuộc sống ngập tràn ánh sáng vĩnh cửu. Đặc biệt trong văn chương giáo sĩ Do thái, ý tưởng ngườt ta có về đêm tối được liên kết với toàn bộ quan niệm trên. Theo quan điểm của dân Thiên Chúa, giai đoạn hiện tại thường được biểu trưng như là một đêm tối, tương lai như một ngày hay một buổi sáng. Những lời Cựu ước nói về đêm tối theo nghĩa đen thường được áp dụng cho đêm tối thế gian” này. Thí dụ câu nói của Booz với bà Ruth: “Hãy qua đêm ở đây” (R 3,13) được R.Meir (lối năm 150 sau công nguyên) dẫn trích và cho là nói về “cái thế giới hoàn toàn là đêm tối này”. Thánh vịnh 92,2t: “Phúc thay . . . được tuyên xưng tình thương của Ngài từ buổi sớm, và lòng thành tín của Ngài suốt canh khuya” nhiều lần được áp dụng để ám chỉ giai đoạn hiện tại. Thánh vịnh 104,20 cũng được sách Talmud chú giải như sau: Câu “Ngài dẫn lại tối tăm, thế là đêm đến” nhắm thế giới hiện thời, có thể sánh như là đêm”.
Một thí dụ khác. Trong Is 21,11tt, câu hỏi “Canh phu ơi, đêm còn mấy chốc, đêm còn mấy chốc?” đã được trả lời: “Sáng đã đến, và cả đêm nữa”. Bản văn này được dẫn chứng nhiều lần trong văn chương các giáo sĩ. Thí dụ ta đọc thấy trong Ab.d.R Nathan 1: “Câu “Đức tín trực của Ngài thâu đêm” (Tv 92,3) có liên hệ tới thế giới hiện tại là thế giới được sánh với canh đêm, như đã viết: “Tuyên sấm trên Duma. Có người từ Seir gọi tôi: Canh phu ơi đêm còn mấy chốc, đêm còn mấy chốc?” (Is 21, 11)”. Trong nhiều chỗ khác, đoạn Isaia này cũng được áp dụng cùng một cách thức như vậy cho những người đạo đức và cho Israel. Thật là đặc biệt việc câu này, câu diễn tả nỗi chờ đợi và lòng mong ước suốt đêm, được hiểu là ám chỉ tình trạng của dân Thiên Chúa trong giai đoạn hiện tại, ám chỉ ơn cứu độ của dân Chúa và sự tôn vinh có tính cách cánh chung mà dân đang hy vọng đợi chờ.
IV. Ý NGHĨA BIỂU TƯỢNG CỦA ĐÊM TỐI TRONG TÂN ƯỚC
Không phải các thư của Phaolô là ít đáng chú ý nhất về điểm này. Phaolô đã học trường các giáo sĩ. Đồng thời, với tư cách sứ đồ Kitô giáo, ông có một chỗ đứng đặc biệt trong truyền thống Kitô giáo sơ khai. Thế mà ta thấy ông, như các giáo sĩ, cũng sử dụng hình ảnh biểu tượng đêm tối để mô tả thời gian từ hiện tại cho đến ngày quang lâm. Rõ rệt nhất là trong Rm 13,12: “Đêm hầu tàn, ngày sắp đến”. Theo văn mạch thì “ngày” ở đây là ngày cánh chung, thời gian hoàn thành ơn cứu độ, và “đêm” là thời gian hiện tại. Dầu sao, nếu nghĩ tới dụ ngôn của Mc, ta sẽ thấy có vài thắc mắc. Nơi Phaolô, “đêm” hiểu theo nghĩa như vậy có tương quan với một lời mời gọi tỉnh thức không? Trên điểm ấy, ta có tìm được nơi ông những dấu vết cho thấy là bắt nguồn từ lời rao giảng của Chúa Giêsu không?
Câu hỏi thứ nhất được chính bản văn trả lời rằng có. Phaolô có khuyến khích tín hữu Rôma hãy tỉnh ngủ thức dậy” (13, 11), bởi vì ơn cứu độ đã gần họ hơn khi họ mới tin, ban đêm đã khuya và ngày sắp đến. Trong 1Tx 5,4tt cũng thế, cái ý tưởng “cộng đoàn Kitô giáo phải tỉnh thức” được liên kết với hình ảnh ban đêm. Thành thử đó là một tuơng quan được xác nhận rõ ràng: các Kitô hữu phải tỉnh thức trong đêm tối đang ngự trị quanh họ, và thái độ này nhắm đến việc Chúa Kitô trở về nhắm đến sự mặc khải ơn cứu độ sung mãn, tắt một lời là nhắm đến: Ngày.
Còn vấn đề mối liên hệ với lời rao giảng của Chúa Giêsu, thì 1Tx 5, 1 sẽ đặc biệt cho ta thấy ở c.2,1 Phaolô nhắc lại cho các độc giả thư ông thấy rằng “Ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm trong đêm tối”. Hình ảnh kẻ trộm đến ban đêm theo nghĩa trên đây không hề gặp chỗ nào trong văn chương Do thái, trong lúc lại có nhiều trong Tân ước (x. Mt 24,42-44; Lc 1 2,39t ; 2P 3,10 ; Kh 3,3; 16, 15) ; thành thử ta phải giả thiết rằng đây là một yếu tố hoàn toàn riêng biệt của truyền thống Kitô giáo bắt nguồn từ chính Chúa Giêsu (x. J.Jeremias, sđd, tr.42). Nơi Tin Mừng Nhất lãm, hình ảnh kẻ trộm này nhấn mạnh cho các môn đồ sự cần thiết phải tỉnh thức. Nếu sau khi đã nhắc lại những lời này của Chúa Giêsu cho các người Thêxalônica, Phaolô nhấn mạnh sự cần thiết phải tỉnh thức (5,6) trong thời gian hiện tại, thì ta phải thấy trong sự kiện đó một mối tương quan với những lời nói của chính Chúa Giêsu.
Thành thử rõ ràng tư tưởng Do thái đương thời đã liên kết hình ảnh đêm tối với liên tưởng rất đặc thù, trong những văn mạch tương tự văn mạch của dụ ngôn người gác cổng: “đêm” khiến nghĩ đến thời gian hiện tại và những gì xác định thời gian đó. Trong Tân ước, tư tưởng này rất rõ rệt nơi Phaolô. Hơn nữa, nơi Phaolô, sự cần thiết phải tỉnh thức trong cộng đoàn Kitô hữu được liên kết với “đêm” hiểu theo nghĩa trên. Và đoạn văn đầu tiên mà ông nói về điều này lại được nối kết rõ ràng với lời rao giảng của Chúa Giêsu (1Tx 5,1t). Vì thế không đủ lý do để nghi ngờ mà bảo rằng lời hối thúc tỉnh thức đang lúc chờ đợi chủ về vào một lúc nào đó ban đêm mà ta chẳng biết, không chắc được hiểu trong cùng ý nghĩa.
V. TÍNH CÁCH UYỂN CHUYỂN CỦA CÁC HÌNH ẢNH
Tuy vậy, ta đã nhận thấy có một sự trục trặc hiển nhiên ở ngay trong chính dụ ngôn. Việc trở về của ông chủ chỉ được chờ đợi vào các canh đêm, và điều này không ăn khớp mấy với chuyến đi xa và sự vắng mặt lâu ngày của ông. Về điểm này, tư tưởng Do thái đương thời có thể đem lại chút ánh sáng nào chăng? Có! Quả vậy, sự trục trặc này sẽ được giải quyết nếu dựa vào thói quen thời đó là người ta rất uyển chuyển trong các hình ảnh biểu tượng. Ta có một thí dụ trong dụ ngôn của các giáo sĩ về bà chủ nhà và cô tớ gái người Êthiôpia, một dụ ngôn khá tương tự với dụ ngôn của Mc 13, 4tt. Dụ ngôn kể rằng: Một bà chủ nhà có một đứa tớ gái người Ethiôpia. Chồng bà đi du lịch hải ngoại. Suốt đêm, đứa tớ gái nói với bà chủ: “Tôi đẹp hơn bà, nhà vua yêu tôi hơn bà” và bà chủ đáp: “Hãy chờ đến sáng mai chúng ta sẽ biết ai đẹp hơn ai, và nhà vua yêu ai hơn”. Cũng vậy, câu chuyện viết tiếp, các dân nước trần gian nói với Israel rằng: “Những hành động của chúng tôi đáng khen ngợi, và Đấng Thánh hài lòng về chúng tôi hơn”.
Rồi dụ ngôn dẫn chứng Is 21,12 và “buổi sáng” sắp đến được giải thích như là thời gian tương lai. Lúc thời gian ấy tới, sẽ mặc khải cho biết ai là Đấng Thánh hài lòng. Thành ra, cũng như Mc 13, dụ ngôn này trước hết trình bày một ông chủ đi xa lâu ngày, rồi bất ngờ nó hướng tất cả sự chú ý vào đêm tối: vào tình cảnh của người vợ (Israel) trong đêm và vào sự thay đổi lớn lao sẽ xẩy ra ban sáng, khi tình yêu của nhà vua đối với vợ được tỏ lộ Câu chuyện này ít ra cũng bị trục trặc như dụ ngôn của Mc 13. Sở dĩ đêm bỗng nhiên xuất hiện trong dụ ngôn Do thái, thì chắc là với danh nghĩa biểu tượng: nó nhắm thời gian hiện tại và những điều kiện khó khăn mà nó dành cho dân Thiên Chúa. Đoạn tiếp theo chứng minh rõ ràng điều này, và do đấy củng cố những gì ta đã nói về đêm tốỉ trong dụ ngôn người gác cổng, đồng thời chứng tỏ rằng mặc dù có những trục trặc nội tại, dụ ngôn này vẫn hoàn toàn ăn khớp với giáo huấn Do thái thời đó.
Dầu sao, ta phải nhấn mạnh một nét đặc thù của các dụ ngôn nói về đêm tối trong Tin Mừng Nhất lãm. Trong Mc 13,33-37 và trong những đoạn Nhất lãm song song, luôn luôn nói đến sự trở về của gia chủ (của hôn phu v.v. . .) vào một lúc nào đó ban đêm mà người ta không biết: Ngược lại, trong Do thái giáo, điều mà người ta chờ đợi, chính là sự xuất hiện của ban sáng và ban ngày: lúc sẽ biết Đấng Thánh hài lòng về ai. Lúc Israel và những người công chính sẽ được tôn vinh và sẽ vui mừng trong ánh sáng vĩnh cửu. Trong môi trường Do thái, cái tư tưởng cho rằng phải liên lỷ sẵn sàng chờ đón sự xuất hiện bất ngờ của thời gian cứu độ cánh chung hầu như không có dưới hình thức ấy. Trái lại, trong các Tin Mừng, người ta không ngừng nhấn mạnh là các môn đồ Chúa Giêsu và mọi Kitô hữu phải luôn luôn sẵn sàng, bởi vì Con Người sẽ đến vào một lúc bất ngờ, không ai hay biết. Yếu tố “không chắc chắn” có một vai trò quan trọng ở đây và nó nhắm vào cái giây phút bất ưng ban đêm, lúc mà người chủ trở về: Ta có thể kết luận rằng khi chỉ nhắc đến ban đêm và các canh liên tục trong phần ứng dụng dụ ngôn, Mc 13 muốn ám chỉ thời gian hiện tại và bản chất tối tăm của nó. Chính trên hậu cảnh ấy mà lời khuyên hãy tỉnh thức được nổi bật.
Dầu vậy, nội dung riêng biệt của lời khuyên này vẫn không nhờ đó mà được sáng tỏ. Để xác định hơn ý nghĩa của động từ “tỉnh thức”, ta phải tự hỏi tại sao thời gian lại được quan niệm như một đêm và mang dấu của đêm tối như vậy.
VI. CON CÁI CỦA ÁNH SÁNG VÀ CỦA BAN NGÀY Ở TRONG THỜI GIAN CỦA BÓNG TỐI
Trong môi trường Do thái thời bấy giờ, khi nói về bóng tối hay đêm tối trong một văn mạch thuộc loại này, người ta nhắm đến tình trạng đầy cám dỗ, thử thách, khổ đau mà Israel và người Israel đạo đức đang sống giữa thế giới. Thí dụ trong học thuyết các giáo sĩ, viễn tượng quốc gia chủ nghĩa chiếm một chỗ lớn. Israel, dân Thiên Chúa, bây giờ bị các nước thế gian chà đạp và áp bức, nhưng trong tương lai cánh chung, tình thế sẽ đảo ngược và Israel sẽ được đẫn đến chiến thắng, danh dự và vinh quang. Ngày sẽ phải đến cho dân Thiên Chúa.
Trong Tân ước, chẳng có màu sắc quốc gia chủ nghĩa này. Cuộc chiến đấu không xẩy ra với những đối thủ bằng xương bằng thịt, nhưng với những thiên phú, những bậc uy linh, những đổng lý, của vũ hoàn hắc ám (Ep 6, 12); thế giới này đều lụy quyền Kẻ Dữ ( 1Ga 5,19); thủ lãnh của nó là kẻ thù của Thiên Chúa. Thế giới đã quay lưng lại với Ngài là nguồn ánh sáng. Đó là lý do tại sao thời gian hiện tại được định nghĩa như một thời gian bóng tối và đêm đen.
Dù sao, trong cái “éon” đêm tối này, vẫn có ánh sáng. Việc Chúa Giêsu đã đến hoàn thành sấm ngôn: “Dân đang bước đi trong bóng tối đã thấy một ánh sáng lớn lao” (Is 9, 1; Mt 4, 16). Chúa Giêsu là ánh sáng trần gian (Lc 2,32; Ga 1,5; 8, 12; 12, 46). Người nào chẳng sống ở ngoài phạm vi thời gian hiện tại thì thuộc về ban đêm và tối tăm, những ai tin vào Đấng Messia thì không ở trong bóng tối tăm (Ga 12,46). Tân ước trình bày sự trở về với Chúa Kitô như là cuộc vượt qua từ tối tăm đến ánh sáng (Ga 3,19; Cv 26, 18; Cl 1,13; 1Pr 2,9 . . .). “Xưa kia anh em là tối tăm, nhưng nay trong Chúa anh em là sự sáng” (Ep 5,8).
Khi một người, nhờ việc trở về với Chúa Kitô và nhờ ơn cứu rỗi có trong Người, vượt qua từ bóng tối đến ánh sáng, thì không nhất thiết kẻ đó đã đi vào trong phạm vi của sự sống hoàn toàn phân biệt với bóng tối, rằng người đó chẳng còn tiếp xúc gì với bóng tối nữa. Mặc dù đã được rứt ra khỏi quyền lực của tối tăm (Cl 1, 13), đã trở thành một người con của ánh sáng và của ban ngày (1Tx 5,5), kẻ đó vẫn còn sống trong thời gian ban đêm, nghĩa là vẫn còn ở trong một tình trạng bị thử thách cám dỗ. Bất cứ thời nào, các môn đồ của Chúa Kitô đều chắc chắn bị đặt trong một tình thế có thể sa ngã, nhượng bộ các quyền lực tối tăm, bị sự ác của thế giới hiện tại chiếm đoạt lại. Đủ thứ nguyên nhân hành động trong chiều hướng này, từ những đau khổ và bách hại vì Lời đến sự lôi cuốn của tiền tài hay những mối bận tâm của thế gian (x. Mt 13, 20t). Để cho những gì thuộc về thế gian này chiến thắng hay quyến rũ, đó là mê ngủ theo như lối biểu tượng đây. Trong dụ ngôn, giấc ngủ tương ứng với đêm tối: nó thuộc về ban đêm, vì ban đêm thì người ta ngủ. Kẻ sống trong thời gian đêm tối cũng vậy: không cần một nguyên nhân nào đặc biệt cũng đủ rơi vào quyền lực đêm đen.
VII. SỰ TỈNH THỨC CỦA KITÔ HỮU
Tương phản với đêm tối và giấc ngủ là sự tỉnh thức. Trong dụ ngôn, sự tỉnh thức nổi bật một cách rõ ràng (Có thể lời khuyên tỉnh thức ngỏ cho người gác cửa đặc biệt nhắm đến các sứ đồ và các thừa tác viên trong Giáo Hội sơ khai. Xem E.p. Gould, A critical and exegetical commentary on the according to St Mark (ICC), 1907, tr.255; G.Wohlenberg, Das: Evangelium des Markus (Zahn Komm.) 1910, tr.339, A.Feuillet, Le Discours de Jésus sur la ruine du Temple, trong R.ev.Bib. 56 (1949), tr.89; E.Lohmeyer, Das Evangelium des Markus (Meyer Komm.); 1951, tr.285. Dầu sao, bổn phận tỉnh thức của họ không đối nghịch với bổn phận tỉnh thức của mọi Kitô hữu khác, như c.37 cho thấy: “Điều Ta nói với các ngươi, Ta cũng nói với hết mọi người: hãy tỉnh thức”). Trước hết tỉnh thức không phải là chú ý và mau mắn, mặc dù yếu tố này vẫn có cách mặc nhiên . . .
Sở dĩ các Kitô hữu được mời gọi tỉnh thức, chính là vì trong khi bước đi trong thế giới đêm tối, họ phải thể hiện ơn gọi và ân huệ đã lãnh nhận với tư cách là con cái ánh sáng, và hướng cái nhìn về đằng trước, tới cuộc trở về của chủ và tới ngày đang đến gần. Sự tỉnh thức rõ ràng mang một tính cách cánh chung, nó hoàn toàn hướng tới trước, hướng tới ngày Quang lâm của Chúa Kitô và sự hoàn thành cuối cùng của ơn cứu độ. Ở đây không hề có vấn đề suy luận hay tính toán thời giờ và giây phút (x. Mc 13,32), nhưng là một thái độ sống nhằm luôn luôn giữ hình ảnh cuộc trở về của Chúa Kitô ngay trước mắt thái độ sống ấy được dụ ngôn trình bày dưới khía cạnh một “sự phục vụ chủ”. Người gác cửa đã lãnh trách nhiệm tỉnh thức trong khi chờ đợi chủ về: bằng việc tỉnh thức, anh ta tỏ ra trung tín với chủ, và cuộc đời của anh được xác định trong tương quan với chủ. Trong dụ ngôn, tỉnh thức chính là có một đời sống mà ngay bây giờ đã được ghi dấu bởi cái đang đến, bởi người chủ, bởi ngày và bởi ánh sáng ban ngày. Đây là một cách diễn tả tình trạng cánh chung của các Kitô hữu đang sống trong thế giới: họ đã được giải phóng khỏi những gì làm nên ban đêm, họ hướng tới cuộc trở về của Con Người và tới thời gian hoàn tất ơn cứu độ.
Theo nghĩa đó, tỉnh thức chẳng phải là chuyện tự nhiên, dễ dàng. Với bản chất của thời gian hiện tại như vậy, không thể tỉnh thức mà không chiến đấu. Tư tưởng này được diễn tả trong nhiều đoạn văn Tân ước một cách rành rẽ. Ta đã trích dẫn Rm 13, 11 tt: song song với lời khuyên hãy rút ra khỏi giấc ngủ, ta tìm thấy trong đó lời mời gọi hãy cởi bỏ những công việc của tối tăm để mặc lấy không phải những công việc mà là những khí giới của ánh sáng. 1Tx 5,6-8; 1Cr 16, 13; Ep 6,10-20; 1Pr 5,8 cũng trình hày một tương quan tương tự giữa sự tỉnh thức với những khí giới. Tỉnh thức bao hàm một sự chiến đấu chống lại các quyền lực đang hoạt động trong cái “éon” (thần linh) đêm tối này (Ep 6,12.). Những khí giới ta sử dụng chẳng phải là những cái ngoại tại với đời sống Kitô giáo, mà chính là những thực tại căn bản của đời sống ấy: đức tin, đức ái đức cậy, chân lý, công bằng . . . (1 Tx 5,8 ; Ep 6, 13tt). Bám chặt vững chắc vào Chúa Kitô và ngày càng chiếm lấy hồng ân cứu rỗi với tất cả những gì nó chứa đựng, đó là cách tự vệ đích thực khỏi những cuộc tấn công của các quyền lực tối tăm, khỏi cơn cám dỗ bị thời gian hiện tại tái chiếm. Nếu những người đi theo Chúa Giêsu mặc lấy áo giáp của Thiên Chúa (Ep 6, 13tt) thì họ sẽ tỉnh thức và sẽ sẵn sàng để đón chờ Chúa trở về.
Ta có thể tự hỏi phải chăng một sự tỉnh thức như thế, trong nỗi chờ mong không ngừng ngày trở lại của Chúa Kitô, sẽ khiến ta vô tình trước cuộc sống hiện tại với những vấn đề của nó? Dĩ nhiên nguy cơ như vậy có thể gặp (x. 2Tx 3), nhưng đây là vì ta hiểu sai sứ điệp của Chúa Giêsu và các sứ đồ về điểm đó mà thôi. ‘Trong Tân ước, tỉnh thức chính là sống ngay từ bây giờ, như thể trước kỳ hạn, cái sự sống của ngày sắp đến (x Rm 13, 13), và đây là chuyện hoàn toàn khác với sự dửng dưng đối với những gì vây quanh ta. Thái độ cánh chung không bao giờ phát sinh sự chối bỏ thế giới, nhưng phát sinh một sự tự do lành mạnh đối với tất cả những gì cấu tạo nên cái “éon” hiện tại, đối với những nguyên tắc và cách lượng giá của thế giới, đối với sự sợ hãi của con người và sự khao khát thế lực, đối với mọi khắc khoải trước giao động, đau khổ, cái chết. Chính sự tự do này, trong niềm trung tín với Chúa đang đến, là cái mà Phaolô đã táo bạo quả quyết: “Phần tôi, tôi không mảy may bận tâm về việc anh em hay phiên tòa nhân loại nào xét xử . . . Đấng xét xử tôi chính là Chúa . . .” ( 1 Cr 4, 3tt).
Như vậy, tỉnh thức trong đêm tối của thời gian hiện tại để chờ đợi Chúa sắp trở về, đó là một sự giải phóng. Đó cũng là một niềm vui, một nỗi vui mừng không lệ thuộc và những đổi thay của cuộc đời, vì nó phát ra từ một nguồn vĩnh cửu. Đó cũng là một sự bình an dù sống giữa cuồng phong, sự bình an đã được Đấng phải đến bảo đảm: Ta để bình an lại cho các con, Ta ban bình an của Ta cho các con; không phải như thế gian ban cho thế nào thì Ta cũng ban cho đâu” (Ga 14,27). Cuối cùng đó cũng là một niềm hy vọng, dù đang sống trong thời đại nguyên tử, bởi vì ánh mắt ta vẫn đăm đăm nhìn về trước, tới thế giới đang đến, tới ngày đang lại gần.
Bản Pháp ngữ của Evald Lovestam
Assemblce du Scigneur số 5.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Ngày hôm nay ta phải sống một cách vui vẻ và chu toàn với niềm hy vọng những công việc Chủ đã trao phó lúc Nguời ra đi, để khi Người trở về, ta không có gì đáng trách cứ. Ta phải sống cái thời gian thì lúc Chúa Giêsu ra đi đến lúc trở lại như một ân huệ Thiên Chúa ban, như lời tác giả thư thứ hai Phêrô đã bảo: “Chúa không trì hoãn giữ điều đã hứa như có kẻ vẫn nghĩ, song Người kiên nhẫn đối với anh em, vì chăng muốn ai phải hư đi, nhưng là hết thảy có phương hối cải. Tuy nhiên ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm . . . Vì vậy anh em phải có đời sống thánh thiện biết bao . . .” (3,9-12).
2. Một Kitô giáo không còn biết nhạy cảm trước sự chờ đợi Chúa Kitô trở về, sẽ mất tất cả khí lực. Ví như sợi dây xâu chuỗi bỗng đứt ngang, khiến những hạt ngọc rơi vãi tung tóe, thì một khi mất niềm hy vọng căn bản này, lập tức những hành vi và giáo huấn của Chúa, những điều luật và đòi hỏi Người ra, việc tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Người và việc cử hành các nhiệm tích chỉ còn là một đống giáo lý, nghi thức không ai hiểu tính cách liên hệ nữa. Phải chăng đó là một trong những lý do chính của sự trì trệ nơi nhiều tín hữu hôm nay? Họ là những Kitô hữu vì một quá khứ nào đó hơn là Kitô hữu vì một tương lai đang đến.
3. Chờ đợi Chúa Kitô trở về, đó là việc mà cả vũ trụ, nhân loại, mọi xác thể đang làm dù có thể không ý thức! Bởi vì cả đoàn quân vĩ đại gồm các nguyên tử, tinh tú, sinh vật, nhân gian, tập thể đã được Thiên Chúa khơi dậy là để chỉ có một ý nghĩa và mọi phương hướng để chỉ tiến bước đến điểm hẹn với Chúa Kitô. Bởi vì mọi sự chỉ được hoàn thành trong Chúa Giêsu Kitô, chỉ làm nên một Thân thể với Nguời. Đáng lẽ từ lâu ta phải là bậc thầy về những điều đó (x. Dt 5,12) Ta đã biết đầy đủ và rõ ràng để xác tín chưa?
4. Người có tham vọng muốn biết ngày và giờ Chúa trở lại chứng tỏ mình có những ý hướng không phù hợp với Tin Mừng. Thí dụ ý hướng hiếu kỳ. Nhưng đối với biến cố Chúa trở về, không thể có sự hiếu kỳ, vì chẳng ai có thể làm khán giả đứng nhìn từ ngoài cuộc, dù chỉ là trong tưởng tượng; ngày giờ đó không chấp nhận những kẻ hiếu kỳ: tất cả đều ở trong cuộc, đều được xét xử trên chính thể cách mà họ tưởng tượng hay chú tâm về biến cố đó. Sự tìm biết ngày giờ biến cố còn nói lên ý hướng muốn dành riêng quãng thời gian còn lại trước ngày kinh khủng để làm công vtệc thống hối ăn năn; nhưng như thể là khinh dể Thiên Chúa và thú nhận mình có những quan niệm bi đát về vận mạng con người và về mối tương giao với Thiên Chúa hằng sống. Ta sẽ không gặp Thiên Chúa như trái đất có thể gặp sao chổi để rồi bị nổ tung ra, nhưng ta sẽ gặp Ngài như một Đấng mà ta sẽ không ngừng đối chất trong nơi sâu thẳm của lòng mình, đã không ngừng chọn lựa trong mỗi giây phút của cuộc sống.
5. Có kẻ trông chờ Chúa đến như người Do thái thời xưa Người Do thái đã nóng lòng trông chờ Đấng Cứu thế, vị cứu tinh tới, như mảnh đất khô cằn mong chờ mưa sương, như tôi tớ chờ đợi gia chủ. Tuy nhiên khi Đấng họ chờ đợi đến thì họ lại không nhận ra, bởi vì Người đã tới với một cung cách không như họ tưởng, đã làm những cái không như họ muốn.
Trong lúc họ chờ đợi một vị Cứu tinh tới với tất cả sự oai phong, lẫm liệt và đem đân Do thái lên đài vinh quang, bá chủ thiên hạ, thì Người lại đến trong cảnh nghèo nàn và mở rộng tay đón tiếp mọi người, không phân biệt chủng tộc, ngôn ngữ. Họ chờ đợi vị Cứu tinh tới để chuẩn y cho lòng dạo đức của họ, cho Đền thờ, thế mà Người lại tuyên bố những kẻ họ cho là tội lỗi là đáng loại đi sẽ vào Nước Trời trước họ . . . Do đó chờ đợi còn có nghĩa là thay đổi; thay đổi quan niệm, tâm não, lòng trí; thay đổi cái nhìn để mặc lấy cái nhìn của Chúa Kitô, hầu đi vào trong kế đồ, trong trật tự Nguời đã khởi sự xây dựng và sẽ hoàn tất trong ngày Người lại đến.
6. Thánh lễ là cao điểm của cuộc gặp gỡ giữa Chúa và ta, là lúc Chúa đến đứng giữa lòng và và gõ. Ta đã chuẩn bị sẵn sàng để gặp Chúa, để mời Người ngự vào lòng mình chưa?
TÂM TÌNH CỦA NGƯỜI KI-TÔ HỮU TRONG NHỮNG NGÀY CHUẨN BỊ MỪNG CHÚA GIÁNG SINH
1. Vui Mừng
Tâm tình của người Ki-tô hữu trong những ngày chuẩn bị lễ Giáng sinh phải là tâm tình mừng vui, như thánh Phao-lô khuyên nhủ trong thư gửi tín hữu Phi-líp: "Thưa anh em, anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi, Chúa đã sắp đến rồi. Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn mà giải bầy trước mặt Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa là bình an không ai hiểu thấu sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hiệp với Đức Giêsu Ki-tô." (Pl 4,1-7)
Ai chẳng muốn vui như thế. Nhưng xem ra khó, vì niềm vui bình thường phát xuất từ con người và sự vật bên ngoài, như vui vì được gặp lại người thân, được người ta hiểu biết thông cảm, được thành công may mắn, không phải lo ăn lo mặc, có công việc làm bảo đảm chắc chắn, có một địa vị nào đó trong xã hội v.v... Thành ra niềm vui phải dựa vào ngoại cảnh. Ngoại cảnh có thuận lợi thì lòng người mới dễ vui. Nếu vui chỉ hiểu theo nghĩa này thôi thì phạm vi khá nhỏ hẹp và cũng chẳng mấy khi chúng ta hoàn toàn được vui, vì có bao giờ chúng ta hội đủ được những điều kiện bên ngoài để vui đâu; mà dù cho có đi nữa thì niềm vui cũng không kéo dài được. Bởi vậy người ta mới phải mua vui, tìm vui. Nhưng rồi những niềm vui này cũng lại mau qua khiến người ta phải tìm những niềm vui khác. Và cứ thế, cái vui này tiếp nối cái vui kia cho đến khi chẳng cái vui nào thỏa mãn hoàn toàn được lòng người.
Nhưng tâm tình mừng vui của người tín hữu trong những ngày này vượt ra ngoài phạm vi của những niềm vui thông thường. Đó là niềm vui trong Chúa. Niềm vui trong Chúa phải chăng là quá lý tưởng không thực tế? Nghe nói thì cũng biết vậy thôi, chứ lý thú gì cho bằng những niềm vui thông thường ở đời! Quả thật, thoạt mới nghe vui trong Chúa có vẻ lý thuyết lắm, nhưng nghĩ kỹ mới thấy thấm thía và chỉ có niềm vui này mới thỏa mãn được khát vọng sâu xa của lòng người.
Vui trong Chúa là thế nào?
Vui trong Chúa là đặt niềm vui nơi Chúa, lấy Chúa làm niềm vui cho mình hay được Chúa đổ đầy Thánh Thần của Người trong chúng ta. Vui trong Chúa, bởi vì chính Chúa là nguồn hoan lạc của ta. Niềm vui này căn cứ trên ơn được Chúa ở cùng. Chúa ở trong linh hồn ta, khi ta sạch tội. Người ban cho ta được bình an trong tâm hồn, được thanh thoát nhẹ nhàng, được nếm tất cả sự ngọt ngào khi kết hợp với Người, qua những lần tiếp xúc với Người trong kinh nguyện ở nhà thờ hay ở những nơi thanh vắng yên lặng, lúc chúng ta cầu nguyện riêng một mình. Chúng ta còn vui khi được Chúa ban cho sức mạnh để đẩy lui các cơn cám dỗ, hoặc chịu đựng và thắng vượt các nghịch cảnh.
Hiệu quả của niềm vui này là chúng ta ăn ở hiền hòa, rộng rãi, tin tưởng phó thác mọi nỗi lo âu của chúng ta trong tay Chúa và thành thật giải bày với Người những điều chúng ta ước ao thỉnh nguyện.
Làm thế nào để có được niềm vui này?
Đây là niềm vui Chúa ban vào thời Đấng Mê-si-a ngự đến, nghĩa là thời Cứu thế, đặc biệt hằng năm vào dịp chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh, Người ban cho ai nấy được chan chứa niềm vui, vì được Người đến viếng thăm và ban ơn cứu độ. Điều kiện để được hưởng niềm vui này, trước hết là chúng ta phải có một tâm hồn đơn sơ nghèo khó, nghĩa là tùy thuộc và trông đợi ở Chúa. Sự nghèo khó ở đây hiểu về một trạng thái tinh thần hơn là một cảnh nghèo thực sự, vì ai cũng có thể tạo cho mình một tâm hồn đơn sơ nghèo khó qui hướng và tùy thuộc vào Chúa như những người con tùy thuộc cha mẹ.
Ngoài ra là khiêm nhường. Người nghèo bên trong cũng như bên ngoài thì dễ khiêm nhường, không tự phụ vì biết mình chẳng có gì đáng tự phụ. Mà Chúa lại đặc biệt ưa thích và ban ơn cho hạng người nghèo vì họ được Thiên Chúa ưu tiên viếng thăm (xem Lc 2,24), chúc lành (Lc 6,20; Mt 5,3). Cuối cùng là cầu nguyện. Nhưng không phải là cầu nguyện để xin những ơn vật chất mà thôi, nhưng cầu nguyện để kết hợp với Chúa, để tìm ra ý của Người và nhất là để khám phá ra tất cả ý nghĩa của cuộc đời người Ki-tô hữu.
2. Lắng Nghe Tỉnh Thức
Tỉnh thức và lắng nghe là hai thái độ cần thiết của những người sống trong tình trạng chờ đợi và canh chừng. Hiện nay, trong những ngày gần kề chuẩn bị lễ Giáng sinh, chúng ta là những người đang đợi chờ và canh chừng Chúa đến.
Lý do khiến chúng ta phải tỉnh thức, canh chừng, ngoài ý nghĩa tôn giáo sâu xa, là một lý do thuộc phạm vi giao tế do phép lịch sự xui khiến.
Quả vậy, theo phép lịch sự thông thường, khi đã hẹn đón ai thì lúc người ấy đến, ta phải tỏ ra sẵn sàng đón tiếp người ấy. Ta càng quý người mình đón tiếp bao nhiêu thì lại càng tỏ ra mình bằng lòng mất thời giờ vì người ấy, và nếu có bị xáo trộn một chút trong nếp sống hàng ngày thì cũng lấy làm vui.
Đối với Chúa Cứu thế cũng vậy. Sắp đến ngày trọng đại kỷ niệm lễ Giáng sinh của Người rồi; lẽ đương nhiên là chúng ta phải tỉnh thức chờ Người đến. Chúng ta đã biết ngày và giờ Người đến, nhưng ngày và giờ ấy mới chỉ có tính cách kỷ niệm, và nếu chỉ mừng ngày Chúa Giáng sinh như mừng một ngày kỷ niệm thì mọi sự cũng sẽ mau qua lắm. Cho nên hàng năm, chúng ta mừng lễ Giáng sinh như một kỷ niệm đã đành, vì đó là một ngày rất đáng kỷ niệm, một biến cố phân chia lịch sử loài người ra làm hai giai đoạn, mà hơn nữa còn phải mừng ngày ấy như một dịp nhắc nhở và hướng lòng chúng ta về thời viễn lai như chúng ta vẫn thường xưng tụng mỗi ngày trong Thánh lễ: " Lạy Chúa Ki-tô phục sinh, mỗi lần ăn bánh và uống chén này chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết và đợi chờ ngày Chúa quang lâm".
Bây giờ chúng ta chuẩn bị mừng ngày Giáng sinh nhưng chính ra là đợi chờ ngày Chúa quang lâm, nghĩa là ngày Chúa đến lần thứ hai, khi lịch sử loài người kết thúc. Lần thứ nhất, Chúa đến trong hang đá máng cỏ, trong cuộc đời hàng ngày của chúng ta và lần thứ hai Người đến với đầy vẻ oai phong rực rỡ để phán xét người sống cũng như kẻ chết, rồi đưa chúng ta vào vương quốc của Người.
Ban đầu Giáo hội không mừng lễ Giáng sinh mà chỉ mừng lễ Phục sinh. Mãi đến năm 353, ĐGH Li-bê-ri-ô mới ấn định ngày 25 tháng 12 làm ngày mừng Chúa giáng sinh, để thay cho ngày đông chí của người Rô-ma mừng Thần Mặt trời cũng vào những ngày đó. Còn hình thức mừng lễ Giáng sinh như ngày nay với cây thông đèn sao hang đá, máng cỏ mới có từ thế kỷ XIII (1223) vào thời thánh Phan-xi-cô khó khăn, hai năm trước khi thánh nhân qua đời. Sau đó, thánh Clara mới đem phổ biến trong Dòng Anh em hèn mọn, rồi cuối cùng lan rộng khắp thế giới.
Phải tỉnh thức thế nào?
Phải tỉnh thức như những người hoạt động chứ không phải như những kẻ ngồi chờ mà không làm gì cả. Trước hết là tỉnh thức để chỉnh đốn lại linh hồn. Thứ hai là tỉnh thức để nghĩ và hướng về ngày Chúa đến rực rỡ trong vinh quang, bằng những việc làm biểu lộ đức tin của mình. Thứ ba là tỉnh thức để tránh rơi vào cạm bẫy của những hành vi đam mê, dục vọng bất chính.
Có như thế thì việc chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh hằng năm mới có ý nghĩa sâu xa và nhắm tới ngày Chúa lại đến là ngày quyết định cho cuộc đời Ki-tô hữu chúng ta.
3. Lắng Nghe
Trong những ngày này, Thiên Chúa muốn nói với chúng ta và quả thực Người đã nói nhiều qua những bài sách Thánh chúng ta đã nghe từ đầu Mùa Vọng cho đến bây giờ và đặc biệt từ đầu tuần cho đến nay. Những lời đó là những lời loan báo Chúa Cứu thế đã gần đến và chúng ta phải sửa soạn ra nghênh đón Người. Thiên Chúa đã nói.
Người đã nói bằng nhiều kiểu nhiều cách với các bậc tổ tiên chúng ta như Áp-ra-ham, Gia-cóp, I-xa-ác và các ngôn sứ như Ê-li, Ê-li-sêu, I-sa-i-a và đến thời cuối cùng này qua chính con Một của Người là Đức Giêsu Ki-tô. Đức Giêsu Ki-tô là chính lời của Thiên Chúa. Thiên Chúa nói một cách đặc biệt qua chính Con Người, và cuộc đời của Đức Giêsu Ki-tô mà chúng ta đang chuẩn bị mừng kỷ niệm Giáng sinh.
Ngày nay Thiên Chúa vẫn còn nói:
Trong sách Thánh chúng ta đọc hay nghe hằng ngày, hoặc qua các biến cố xảy đến cho quê hương xứ sở, cho cá nhân, gia đình cũng như cho xã hội. Có thể coi đó là những thời điểm Thiên Chúa muốn dùng để nói với ta một cái gì. Bổn phận của chúng ta là phải tỉnh mắt, thính tai để nhìn thấy sự việc Thiên Chúa muốn chỉ bảo và lắng nghe điều Người muốn nói.
Thiên Chúa nói đặc biệt trong những Mùa Phụng vụ và những dịp lễ lớn.
Trong những Mùa và Lễ này có nhiều cái bên ngoài dễ đánh động chúng ta hơn, như những bài sách Thánh đặc biệt nói riêng về mầu nhiệm chúng ta sắp cử hành, những ngày tĩnh tâm dọn mừng lễ và chính những sự chuẩn bị ở bên ngoài để mừng lễ nữa. Tất cả những thứ đó đều có thể được coi như những cơ hội Thiên Chúa dùng để nói với chúng ta.
Vậy, thái độ chúng ta phải như thế nào?
Trước hết, phải như ngôn sứ Sa-mu-en, nghĩa là xin Chúa nói, vì chúng ta đang sẵn sàng đón nghe. Nghe rồi nhưng không bỏ ngoài tai, mà trái lại cố gắng noi gương Đức Mẹ giữ kỹ và suy đi nghĩ lại, để làm mẫu mực sống cho mình.
Ngoài ra là phải để cho lòng mình lắng xuống trong sự im lặng suy nghĩ, tạm bỏ qua một bên những bận tâm lo lắng của đời sống hàng ngày, vào những thời khắc thuận tiện mình dành cho Chúa, mỗi khi đọc kinh cầu nguyện hay đi lễ đi nhà thờ. Những thời khắc yên lặng đó dù chóng vánh cũng rất cần thiết, để cho Lời Chúa thấm vào lòng ta. Sau khi giảng, hay rước lễ, nếu có ngưng một vài phút cũng là vì vậy.
Bởi thế, lắng nghe là thái độ cần thiết và hợp lý để ý nghĩa của Mầu nhiệm Giáng sinh tràn ngập tâm hồn ta, hầu đem lại cho ta niềm vui và bình an thật sự như lời thần sứ loan báo: " Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương".
TÂM TÌNH CỦA NGƯỜI KI-TÔ HỮU TRONG NHỮNG NGÀY CHUẨN BỊ MỪNG CHÚA GIÁNG SINH
1. Vui Mừng
Tâm tình của người Ki-tô hữu trong những ngày chuẩn bị lễ Giáng sinh phải là tâm tình mừng vui MV 1-B174
Tâm tình của người Ki-tô hữu trong những ngày chuẩn bị lễ Giáng sinh phải là tâm tình mừng vui, như thánh Phao-lô khuyên nhủ trong thư gửi tín hữu Phi-líp: "Thưa anh em, anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi, Chúa đã sắp đến rồi. Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn mà giải bầy trước mặt Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa là bình an không ai hiểu thấu sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hiệp với Đức Giêsu Ki-tô." (Pl 4,1-7)
Ai chẳng muốn vui như thế. Nhưng xem ra khó, vì niềm vui bình thường phát xuất từ con người và sự vật bên ngoài, như vui vì được gặp lại người thân, được người ta hiểu biết thông cảm, được thành công may mắn, không phải lo ăn lo mặc, có công việc làm bảo đảm chắc chắn, có một địa vị nào đó trong xã hội v.v... Thành ra niềm vui phải dựa vào ngoại cảnh. Ngoại cảnh có thuận lợi thì lòng người mới dễ vui. Nếu vui chỉ hiểu theo nghĩa này thôi thì phạm vi khá nhỏ hẹp và cũng chẳng mấy khi chúng ta hoàn toàn được vui, vì có bao giờ chúng ta hội đủ được những điều kiện bên ngoài để vui đâu; mà dù cho có đi nữa thì niềm vui cũng không kéo dài được. Bởi vậy người ta mới phải mua vui, tìm vui. Nhưng rồi những niềm vui này cũng lại mau qua khiến người ta phải tìm những niềm vui khác. Và cứ thế, cái vui này tiếp nối cái vui kia cho đến khi chẳng cái vui nào thỏa mãn hoàn toàn được lòng người.
Nhưng tâm tình mừng vui của người tín hữu trong những ngày này vượt ra ngoài phạm vi của những niềm vui thông thường. Đó là niềm vui trong Chúa. Niềm vui trong Chúa phải chăng là quá lý tưởng không thực tế? Nghe nói thì cũng biết vậy thôi, chứ lý thú gì cho bằng những niềm vui thông thường ở đời! Quả thật, thoạt mới nghe vui trong Chúa có vẻ lý thuyết lắm, nhưng nghĩ kỹ mới thấy thấm thía và chỉ có niềm vui này mới thỏa mãn được khát vọng sâu xa của lòng người.
Vui trong Chúa là thế nào?
Vui trong Chúa là đặt niềm vui nơi Chúa, lấy Chúa làm niềm vui cho mình hay được Chúa đổ đầy Thánh Thần của Người trong chúng ta. Vui trong Chúa, bởi vì chính Chúa là nguồn hoan lạc của ta. Niềm vui này căn cứ trên ơn được Chúa ở cùng. Chúa ở trong linh hồn ta, khi ta sạch tội. Người ban cho ta được bình an trong tâm hồn, được thanh thoát nhẹ nhàng, được nếm tất cả sự ngọt ngào khi kết hợp với Người, qua những lần tiếp xúc với Người trong kinh nguyện ở nhà thờ hay ở những nơi thanh vắng yên lặng, lúc chúng ta cầu nguyện riêng một mình. Chúng ta còn vui khi được Chúa ban cho sức mạnh để đẩy lui các cơn cám dỗ, hoặc chịu đựng và thắng vượt các nghịch cảnh.
Hiệu quả của niềm vui này là chúng ta ăn ở hiền hòa, rộng rãi, tin tưởng phó thác mọi nỗi lo âu của chúng ta trong tay Chúa và thành thật giải bày với Người những điều chúng ta ước ao thỉnh nguyện.
Làm thế nào để có được niềm vui này?
Đây là niềm vui Chúa ban vào thời Đấng Mê-si-a ngự đến, nghĩa là thời Cứu thế, đặc biệt hằng năm vào dịp chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh, Người ban cho ai nấy được chan chứa niềm vui, vì được Người đến viếng thăm và ban ơn cứu độ.
Điều kiện để được hưởng niềm vui này, trước hết là chúng ta phải có một tâm hồn đơn sơ nghèo khó, nghĩa là tùy thuộc và trông đợi ở Chúa. Sự nghèo khó ở đây hiểu về một trạng thái tinh thần hơn là một cảnh nghèo thực sự, vì ai cũng có thể tạo cho mình một tâm hồn đơn sơ nghèo khó qui hướng và tùy thuộc vào Chúa như những người con tùy thuộc cha mẹ.
Ngoài ra là khiêm nhường. Người nghèo bên trong cũng như bên ngoài thì dễ khiêm nhường, không tự phụ vì biết mình chẳng có gì đáng tự phụ. Mà Chúa lại đặc biệt ưa thích và ban ơn cho hạng người nghèo vì họ được Thiên Chúa ưu tiên viếng thăm (xem Lc 2,24), chúc lành (Lc 6,20; Mt 5,3).
Cuối cùng là cầu nguyện. Nhưng không phải là cầu nguyện để xin những ơn vật chất mà thôi, nhưng cầu nguyện để kết hợp với Chúa, để tìm ra ý của Người và nhất là để khám phá ra tất cả ý nghĩa của cuộc đời người Ki-tô hữu.
2. Lắng Nghe Tỉnh Thức
Tỉnh thức và lắng nghe là hai thái độ cần thiết của những người sống trong tình trạng chờ đợi và canh chừng. Hiện nay, trong những ngày gần kề chuẩn bị lễ Giáng sinh, chúng ta là những người đang đợi chờ và canh chừng Chúa đến.
Lý do khiến chúng ta phải tỉnh thức, canh chừng, ngoài ý nghĩa tôn giáo sâu xa, là một lý do thuộc phạm vi giao tế do phép lịch sự xui khiến.
Quả vậy, theo phép lịch sự thông thường, khi đã hẹn đón ai thì lúc người ấy đến, ta phải tỏ ra sẵn sàng đón tiếp người ấy. Ta càng quý người mình đón tiếp bao nhiêu thì lại càng tỏ ra mình bằng lòng mất thời giờ vì người ấy, và nếu có bị xáo trộn một chút trong nếp sống hàng ngày thì cũng lấy làm vui.
Đối với Chúa Cứu thế cũng vậy. Sắp đến ngày trọng đại kỷ niệm lễ Giáng sinh của Người rồi; lẽ đương nhiên là chúng ta phải tỉnh thức chờ Người đến. Chúng ta đã biết ngày và giờ Người đến, nhưng ngày và giờ ấy mới chỉ có tính cách kỷ niệm, và nếu chỉ mừng ngày Chúa Giáng sinh như mừng một ngày kỷ niệm thì mọi sự cũng sẽ mau qua lắm. Cho nên hàng năm, chúng ta mừng lễ Giáng sinh như một kỷ niệm đã đành, vì đó là một ngày rất đáng kỷ niệm, một biến cố phân chia lịch sử loài người ra làm hai giai đoạn, mà hơn nữa còn phải mừng ngày ấy như một dịp nhắc nhở và hướng lòng chúng ta về thời viễn lai như chúng ta vẫn thường xưng tụng mỗi ngày trong Thánh lễ: " Lạy Chúa Ki-tô phục sinh, mỗi lần ăn bánh và uống chén này chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết và đợi chờ ngày Chúa quang lâm".
Bây giờ chúng ta chuẩn bị mừng ngày Giáng sinh nhưng chính ra là đợi chờ ngày Chúa quang lâm, nghĩa là ngày Chúa đến lần thứ hai, khi lịch sử loài người kết thúc. Lần thứ nhất, Chúa đến trong hang đá máng cỏ, trong cuộc đời hàng ngày của chúng ta và lần thứ hai Người đến với đầy vẻ oai phong rực rỡ để phán xét người sống cũng như kẻ chết, rồi đưa chúng ta vào vương quốc của Người.
Ban đầu Giáo hội không mừng lễ Giáng sinh mà chỉ mừng lễ Phục sinh. Mãi đến năm 353, ĐGH Li-bê-ri-ô mới ấn định ngày 25 tháng 12 làm ngày mừng Chúa giáng sinh, để thay cho ngày đông chí của người Rô-ma mừng Thần Mặt trời cũng vào những ngày đó. Còn hình thức mừng lễ Giáng sinh như ngày nay với cây thông đèn sao hang đá, máng cỏ mới có từ thế kỷ XIII (1223) vào thời thánh Phan-xi-cô khó khăn, hai năm trước khi thánh nhân qua đời. Sau đó, thánh Clara mới đem phổ biến trong Dòng Anh em hèn mọn, rồi cuối cùng lan rộng khắp thế giới.
Phải tỉnh thức thế nào?
Phải tỉnh thức như những người hoạt động chứ không phải như những kẻ ngồi chờ mà không làm gì cả. Trước hết là tỉnh thức để chỉnh đốn lại linh hồn. Thứ hai là tỉnh thức để nghĩ và hướng về ngày Chúa đến rực rỡ trong vinh quang, bằng những việc làm biểu lộ đức tin của mình. Thứ ba là tỉnh thức để tránh rơi vào cạm bẫy của những hành vi đam mê, dục vọng bất chính.
Có như thế thì việc chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh hằng năm mới có ý nghĩa sâu xa và nhắm tới ngày Chúa lại đến là ngày quyết định cho cuộc đời Ki-tô hữu chúng ta.
3. Lắng Nghe
Trong những ngày này, Thiên Chúa muốn nói với chúng ta và quả thực Người đã nói nhiều qua những bài sách Thánh chúng ta đã nghe từ đầu Mùa Vọng cho đến bây giờ và đặc biệt từ đầu tuần cho đến nay. Những lời đó là những lời loan báo Chúa Cứu thế đã gần đến và chúng ta phải sửa soạn ra nghênh đón Người.
Thiên Chúa đã nói.
Người đã nói bằng nhiều kiểu nhiều cách với các bậc tổ tiên chúng ta như Áp-ra-ham, Gia-cóp, I-xa-ác và các ngôn sứ như Ê-li, Ê-li-sêu, I-sa-i-a và đến thời cuối cùng này qua chính con Một của Người là Đức Giêsu Ki-tô. Đức Giêsu Ki-tô là chính lời của Thiên Chúa. Thiên Chúa nói một cách đặc biệt qua chính Con Người, và cuộc đời của Đức Giêsu Ki-tô mà chúng ta đang chuẩn bị mừng kỷ niệm Giáng sinh.
Ngày nay Thiên Chúa vẫn còn nói:
Trong sách Thánh chúng ta đọc hay nghe hằng ngày, hoặc qua các biến cố xảy đến cho quê hương xứ sở, cho cá nhân, gia đình cũng như cho xã hội. Có thể coi đó là những thời điểm Thiên Chúa muốn dùng để nói với ta một cái gì. Bổn phận của chúng ta là phải tỉnh mắt, thính tai để nhìn thấy sự việc Thiên Chúa muốn chỉ bảo và lắng nghe điều Người muốn nói.
Thiên Chúa nói đặc biệt trong những Mùa Phụng vụ và những dịp lễ lớn.
Trong những Mùa và Lễ này có nhiều cái bên ngoài dễ đánh động chúng ta hơn, như những bài sách Thánh đặc biệt nói riêng về mầu nhiệm chúng ta sắp cử hành, những ngày tĩnh tâm dọn mừng lễ và chính những sự chuẩn bị ở bên ngoài để mừng lễ nữa. Tất cả những thứ đó đều có thể được coi như những cơ hội Thiên Chúa dùng để nói với chúng ta.
Vậy, thái độ chúng ta phải như thế nào?
Trước hết, phải như ngôn sứ Sa-mu-en, nghĩa là xin Chúa nói, vì chúng ta đang sẵn sàng đón nghe. Nghe rồi nhưng không bỏ ngoài tai, mà trái lại cố gắng noi gương Đức Mẹ giữ kỹ và suy đi nghĩ lại, để làm mẫu mực sống cho mình.
Ngoài ra là phải để cho lòng mình lắng xuống trong sự im lặng suy nghĩ, tạm bỏ qua một bên những bận tâm lo lắng của đời sống hàng ngày, vào những thời khắc thuận tiện mình dành cho Chúa, mỗi khi đọc kinh cầu nguyện hay đi lễ đi nhà thờ. Những thời khắc yên lặng đó dù chóng vánh cũng rất cần thiết, để cho Lời Chúa thấm vào lòng ta. Sau khi giảng, hay rước lễ, nếu có ngưng một vài phút cũng là vì vậy.
Bởi thế, lắng nghe là thái độ cần thiết và hợp lý để ý nghĩa của Mầu nhiệm Giáng sinh tràn ngập tâm hồn ta, hầu đem lại cho ta niềm vui và bình an thật sự như lời thần sứ loan báo: " Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương".
Tin mừng Mc 13: 33-37: Chúa mời gọi chúng ta nhìn vào những cái biến cố. Những biến cố trong cuộc đời này rất là bình thường, để chúng ta phát hiện ra những cái ý chỉ bên trong đó!...
Kính thưa Cộng đoàn,
Thời giờ thấm thoát thoi đưa, Nó đi đi mãi có chờ đợi ai. Chúng ta bắt đầu bước vào năm Phụng MV 1-B175
Thời giờ thấm thoát thoi đưa Nó đi đi mãi có chờ đợi ai.
Chúng ta bắt đầu bước vào năm Phụng Vụ mới, với Chúa Nhật thứ nhất mùa Vọng.
Cái hành trang để đi vào năm phụng vụ mới này, Chúa Giêsu gửi đến với mỗi người chúng ta, một cái câu chuyện để mà nhắc nhớ chúng ta về sự tỉnh thức và sẵn sàng cầu nguyện.Chúa Giêsu dùng một cái hình ảnh rất là đời thường.
Có một ông chủ kia đi xa, để nhà cửa lại , trao quyền cho đầy tớ. Và mỗi người trong các công việc của mình, trong cái bổn phận của mình. Và hết sức dễ thương, ông chủ còn căn dặn mỗi người hãy tỉnh thức. Bởi vì, ông chủ có báo trước rằng, là ông chủ không biết rằng sẽ về vào lúc nào! về chiều tối, hay nữa đêm hay là gà gáy, hay là ban sáng. Ông chủ rất thương và ông chủ dặn điều đó. Chắc có lẽ, ông chủ phải nói rằng quá tốt bụng; chứ còn nếu mà không, thì ông chủ cũng chẳng nói gì.
Ông chủ có quyền mà! Người đầy tớ thì chỉ biết ở nhà để quản gia, quản lý nhà thôi! Chứ đâu có quyền biết giờ nào mà ông chủ về. Nhưng mà ở đây, Ông chủ có lòng thương đầy tớ, và ông chủ trao nhà cho người đầy tớ như một cái nhà vắng chủ, và không biết ngày hôm nào ông chủ về.
Và nhìn vào thực tại thế giới ngày hôm nay, chúng ta thấy, một thế giới giống như một cái ngôi nhà vắng chủ, một thế giới vắng bóng Thiên Chúa.
Ngày xưa người ta còn nhìn vào thiên nhiên để người ta đọc ra, người ta khám phá ra một Thiên Chúa vô hình, một Thiên Chúa đã tác tạo nên trời đất này. Thế nhưng mà, ngày hôm nay khoa học tiến bộ và cuộc sống người ta đã phát triển quá nhiều. Người ta lên tới cung trăng, đã phát triển internet, điện thoại thông minh.
Tất cả, người ta có thể làm được. và cái sự hiện diện của Thiên Chúa dường như là vắng bóng và người ta cảm giác rằng là người ta vất Thiên Chúa ra cuộc đời người ta. Và thế rồi cái giá trị của Thiên Chúa không còn trong cuộc đời người ta nữa. Cái cảm thức linh thánh không còn, cái tình yêu thương bây giờ cũng không còn, và sự công bằng cũng không còn!
Bởi vì một thế giới vắng bóng Thiên Chúa và một thế giới bị cái đêm đen phủ đầy của sự gian ác, của sự vô cảm. Cả với Thiên Chúa người ta còn không cảm nhận được sự hiện diện của Ngài, và rồi cái cảm nhận sự hiện diện của anh chị em đồng loại bên cạnh người ta càng không có.
Và chúng ta thấy, ngày hôm nay bị đánh mất một sự hiện diện của Thiên Chúa, vì không cảm thức được một Thiên Chúa hiện diện trong cuộc đời. Để rồi, từ cái chuyện nhỏ người ta kéo ra cái chuyện lớn, và người ta vô cảm với nhau. Và đặc biệt, người ta không còn cảm thức về tội nữa.
Đức Thánh Cha Piô thứ XXII nói rằng: “ Ngày hôm nay cái điều mà lớn nhất, lo lắng nhất, đối với thế giới đó là người ta đánh mất cảm thức về tội lỗi. Và người ta tha hồ phạm tội, người ta tha hồ xử lý anh em mình bằng mọi cách, mà không hề bị ái náy lương tâm. Lương tâm ngày hôm nay được bán với cái giá quá rẻ, một cái giá quá hời, có khi chỉ vài đồng bạc thôi.
Một thế giới bị đêm đen phủ đầy.Và chính trong thế giới đó, mỗi một người Kitô Hữu, chúng ta được mời gọi, chúng ta làm tỏa sáng hình ảnh của ĐỨC Kitô trong cuộc đời chúng ta. Và cái cách mà chúng ta làm tỏa sáng Đức Kitô trong cuộc đời chúng ta, đó là: chúng ta tỉnh thức, chúng ta cầu nguyện, chúng ta sống và chúng ta kết hợp mật thiết với Đức Kitô.
Ngày hôm nay, người ta vô cảm với nhau và vô cảm với cả Thiên Chúa nữa. Chúng ta cần phải tỉnh thức bởi vì như Thánh Phaolô nói: ma quỷ lúc nào rình rập, cắn xé. Và ma quỷ lúc nào cũng ở bên cạnh chúng ta. Có khi không phải chỉ ở bên cạnh, ở bên ngoài, mà là chính trong nội tâm của đời sống chúng ta. Cám dỗ thật sự, chúng ta nói là ở bên ngoài nhưng chính trong nội tâm của chúng ta chứ không phải ai khác.
Nói tới đây, con nhớ tới một cái câu chuyện:
Có một anh chàng kiếm khách, đi lên trên núi để mà xin tầm sư học đạo. Lên đỉnh núi thì gặp ông thầy, ông thầy nhận làm đệ tử, làm học trò. Ngày này qua ngày khác thì, anh chàng này cứ gánh nước, quét sân chùa thôi. Chứ không được thầy dạy một cái gì cả. Anh ta nản và anh ta đòi đi xuống núi. Và ông thầy ổng nói: Thôi ráng một thời gian nữa. Ráng cố gắng lên!
Và sau đó, đang nấu cơm, có một lưỡi kiếm đâm thẳng vào cổ. Và anh ta giật mình thấy kiếm đâm vào cổ của mình. Nhưng rồi anh ta né được. May quá đó là kiếm gỗ chứ mà kiếm sắt thì chết rồi. Và đang quét nhà cũng bị một lưỡi kiếm bay vô. Anh ta né. Đang quét sân thì cũng kiếm bay. Anh ta né!
Có nghĩa rằng ông thầy ông dạy cho anh ta, kiếm có thể bay vào bất cứ lúc nào, bất cứ giờ nào khi anh ta làm việc này, việc kia. Dĩ nhiên rằng cái câu chuyện này có thể là cái câu chuyện tôn giáo hay là cái câu chuyện xem qua nó vui nhưng mà ở bên dưới của nó, nó có mang một cái ý nghĩa về đời tinh thần, về đời sống tâm linh.
Nếu mà chúng ta muốn để Chúa Giêsu nên hình nên dạng, và khuôn mặt của chúng ta được tỏa sáng khuôn mặt của Chúa Giêsu, thì chúng ta phải lúc nào cũng tỉnh thức, bất cứ lúc nào chúng ta cũng tỉnh thức để mà lắng nghe tiếng Chúa.
Ngày hôm nay người ta đã đánh mất cảm thức “Lắng nghe tiếng Chúa” bởi vì cuộc sống quá ồn ào náo nhiệt.
Sách Khải Huyền có nói: “Này ta đứng ngoài cửa, Ta gõ cửa ai mở Ta sẽ vào và dùng bữa với người đó” rõ ràng rằng là Chúa luôn luôn đứng ngoài cửa, và Chúa gõ cửa, phần còn lại chúng ta, chúng ta có lắng nghe hay không mà thôi!
Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong cái dòng nhạc của ông, trong cái tâm hồn của ông, thấy được là hay lắm! “Một hôm thấy ta là lá cỏ, ngồi hát ca tự do”. Hỏi ra cái tâm tình sáng tác bài đó ông chịu cái ảnh hưởng của nhà văn người Pháp. Qua tiếng chó sủa thôi, nhưng mà nhà văn người Pháp đó lại khám phá ra một cái điều gì đó rất là độc đáo!
Rồi Thiền sư Thích Nhất Hạnh cũng vậy! Ông cũng ảnh hưởng cái nhà văn Pháp đó khi ông mô tả một cái người tử tù đi ra pháp trường. Đêm cuối cùng khi anh ra pháp trường anh nhìn thấy cái ánh trăng, cái ánh trăng đó ngày hôm đó nó có ý nghĩa hơn nhiều so với những ngày trước đây. Ngày nào anh cũng đi qua cái ánh trăng, nhưng anh không thấy được cái vẻ đẹp của ánh trăng.
Có những điều rất đỗi bình thường trong cuộc đời của chúng ta, nhưng nhiều lần nhiều lúc chúng ta không thấy được, không giác ngộ ra. Chúng ta không chịu nhìn ra để thấy cái chiều sâu ở bên trong.
Chúa mời gọi chúng ta nhìn vào những cái biến cố. Những biến cố trong cuộc đời này rất là bình thường, để chúng ta phát hiện ra những cái ý chỉ bên trong đó!
Không chỉ tỉnh thức trước những nguy cơ, mà chúng ta còn phải tỉnh thức trước những lời gọi thầm kín nữa, để cho Chúa Giêsu được tỏa sáng trong cuộc đời của mình. Có thể nói là lý thuyết nhưng thực tế.
Đó là một câu chuyện rất gần trong cuộc đời: Chủ đi phương xa, giao nhà cho những người tôi tớ. Tôi tớ thì mỗi người có một nhiệm vụ: Người thì nấu ăn, người thì làm vườn, người thì giữ cửa, người thì bảo vệ.
Nếu mà anh chu toàn nhiệm vụ đó thì bất cứ lúc nào nữa đêm hay trời sáng, chủ về chúng ta cũng không sợ, bởi vì, anh đó đã chuẩn bị tinh thần.
Mỗi một người chúng ta, là một người Kitô Hữu, trong cái đấng bật nào cũng vậy! Chúng ta là linh mục tu sĩ, chúng ta đã lập gia đình, chúng ta có một bổn phận của chúng ta. Là một linh mục, chúng ta có sống xứng đáng với bổn phận của một linh mục, một nhiệm vụ của một linh mục hay không? Còn là cha là mẹ, chúng ta có hoàn thành trách nhiệm của người cha người mẹ hay không?
Nói qua thì e rằng dễ lắm! Như là bản thân con thôi! Ngay như đời sống linh mục: kinh sáng, kinh tối, vì mệt mỏi, vì bận rộn; nhiều khi mình cũng quên! rồi thậm chí: mình dâng lễ, nhiều khi mình cũng muốn dâng cho nó xong thôi! chứ còn mình không có đặt cái cảm xúc sâu xa và khi đó mình đã móp méo hình ảnh của Chúa Giêsu.
Và bổn phận người Kitô Hữu, ngày hôm nay chúng ta thấy, rất đơn giản: dự lễ một tuần một lần ngày Chúa Nhật thôi!
Nhưng mà thử hỏi coi: nhiều người đã bỏ đi cái bổn phận rất đơn giản, bỏ đi cái giờ kinh chung. Và chính vì mình không hoàn thành cái trách nhiệm của mình là một người Kitô Hữu; không hoàn thành trách nhiệm của một người chồng, một người cha, một người mẹ, một người vợ, trong gia đình, thì làm sao mình có thể can đảm dạy được con của mình, khi mình không làm gương mẫu cho con cái của mình.
Và chúng ta sống cái tinh thần tỉnh thức đó như thế nào?
Chúng ta còn nhớ Thánh Đa Minh Saviô rất là dễ thương! Đá banh trong nhà thờ, mà khi mà cha Sở hỏi: Khi mà Chúa đến, con phải làm gì?
Các em khác thì: đứa thì chạy vào nhà thờ để cầu nguyện, đứa thì đi xưng tội, đứa thì dọn mình nhưng mà Đa Minh Saviô nói rằng Đaminh Savio vẫn chơi. Bởi vì bất cứ lúc nào Đaminh Savio cũng tỉnh thức để đón chờ Chúa đến.
Và một hình ảnh rất đẹp nên mẹ Têrêsa Calcutta. Mẹ Têrêsa Calcutta có ghi một cái tờ giấy ở trong cái phòng Thánh, trong Nhà nguyện của nhà dòng của Mẹ. “Lạy Chúa con dâng đây như là thánh lễ cuối cùng của con.” một cái tâm tình rất là tuyệt vời! thà rằng là mẹ ý thức rằng ngày hôm nay là thánh lễ cuối cùng của đời mẹ. Và trong tất cả hoàn cảnh sống của cuộc đời, từng giây, từng phút của mẹ, mẹ luôn luôn nghĩ: hôm nay là ngày cuối cùng.
Ước gì, mỗi người chúng ta cũng nghĩ rằng cũng sống, rằng cũng có tâm tình như Thánh Đaminh Saviô như mẹ Têrêsa Calcutta. Để bất cứ lúc nào chúng ta cũng tỉnh thức, cũng sẵn sang, vì chúng ta biết rằng: không biết ngày nào Chúa có thể đến với chúng ta.
Chúng ta thấy xung quanh nhiều biến cố. Có những người tưởng chừng là sống rất dai. sống rất thọ, nhưng chỉ vì một cái hoàn cảnh nào đó, một cái biến cố nào đó, người đó ra đi! mà đến nỗi, ta phải sững sờ. Có khi ta cũng phải ra đi như thế! Nhưng mà nhiều lần, nhiều lúc, ta lại đánh lừa: Đánh lừa cảm giác của ta, đánh lừa cái suy nghĩ của ta. Ta tưởng rằng là ta mãi sống ở cuộc đời này! Cuộc sống này, nó rất mong manh!
Và ngày hôm nay bước vào mùa vọng, xin cho mỗi người chúng ta luôn luôn tỉnh thức sẵn sàng và đặc biệt xin cho chúng ta hoàn thành cái bổn phận trách nhiệm cái nhiệm vụ sống của mỗi người chúng ta trong gia đình chúng ta. Sống như thế, chúng ta đã hoàn thành sứ vụ của chúng ta. Và sống như thế, chúng ta đã chuẩn bị sẵn sàng để Chúa đến bất cứ lúc nào, chúng ta vẫn trả lời với Chúa: này con đây. Amen.
“Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến. Cũng như người kia trẩy đi phương xa, để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ của mình, chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức” (Mc 13, 33-34).
Hôm nay, lời Thầy Giêsu âm vang trong lòng ta. Lời ấy dội thẳng vào tận sâu trong cõi lòng ta. MV 1-B176
Hôm nay, lời Thầy Giêsu âm vang trong lòng ta. Lời ấy dội thẳng vào tận sâu trong cõi lòng ta. Mỗi lần, ta không thể đón nhận và yêu thương người khác là vì họ quá khó thương là vì ta chưa sống Lời Chúa, chưa giống Chúa. Chúa yêu thương ta chẳng phải vì ta dễ thương, cũng không phải vì ta xứng đáng. Ngài yêu thương ta chỉ vì Ngài là Tình Yêu (1 Ga 4, 8). Tình yêu của ta rất giới hạn, ích kỷ và hẹp hòi lắm. Ta khác Chúa nhiều quá! Điều ấy làm cho ta đau buồn. Phải chăng, ta chưa sống thái độ canh thức để chờ đón Chúa đến? Ta đã ngủ mê trong những toan tính nhỏ nhen, bận rộn tìm kiếm danh vọng, tiền tài, muốn quy mọi sự về mình, để rồi những thứ ấy cản lối ta đến với anh em, làm sứt mẻ tình hiệp thông. Ai sẽ đánh thức ta khỏi cơn mê ngủ ấy, để ta có thể tỉnh thức ngóng chờ Chúa đến?
Ai ai cũng đều là “những đầy tớ” được ông chủ trao quyền, mỗi người được chỉ định mỗi việc khác nhau. Ai cũng phải gắng sức hoàn thành. Tất cả đều phải tỉnh thức, tất cả đều phải “cố gắng đạt cho được đức mến, và khao khát những ơn của Thần Khí…” (x. 1 Cr 14,1). Người bạn hôm qua cùng ta vui chơi, hôm nay đã lặng lẽ nằm xuống. Người hôm qua bất hòa với ta, ta hãy mau chóng làm hòa với họ, nếu không, giờ Chúa đến bất ngờ, ta sẽ không thể ra đi trong bình an. Chúa sẽ gọi ta ra đi: lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng. Ngày giờ Chúa đến rất bất ngờ. Chẳng ai biết được ngày giờ Chúa đến với mình. Thái độ tỉnh thức mà Thầy Giêsu muốn nói đến là gì? Phải chăng, đó là mối tình bác ái ta có đối với người khác. Nếu ta thực sự sống yêu thương như Chúa dạy, ta sẽ là người đầy tớ luôn tỉnh thức, sẵn sàng đón chủ trở về. Ngược lại, khi ta sống thiếu tình bác ái, không biết thương yêu anh chị em mình, ta sẽ không sẵn sàng để ra đi. Chúa đến với ta, thay vì mừng vui hớn hở, ta lại bàng hoàng sợ hãi. Thiếu yêu thương làm cho con tim ta héo úa, tàn phai.
Vì ta đang còn khác Chúa nhiều quá, nên ta không thể yêu thương và đón nhận người khác. Cái tôi của ta còn tự ái, tự kiêu, ghen ghét, đố kỵ, giận hờn, oán trách, nên trái tim ta chết dần chết mòn. Đã có lúc, ta mong muốn người khác phải thay đổi để mọi sự sẽ trở nên tốt đẹp hơn. Ta luôn mong chờ người khác thay đổi, trong khi chính mình lại không thay đổi. Ta và họ đều có những công việc phải hoàn thành, tất cả đều phải tỉnh thức. Mỗi người đều được sinh ra để được thuộc về Thiên Chúa. Đến ngày sau hết, Chúa cũng sẽ chỉ hỏi ta về tình yêu ta đã trao ban cho anh chị em mình. Thật hạnh phúc cho ta nếu giờ Chúa đến mà ta đang sống yêu thương, đang miệt mài phục vụ. Chúa sẽ vui mừng đón ta vào hưởng hạnh phúc với Ngài. Mỗi giây phút sống yêu thương là mỗi phút giây ta đến gần hơn với Thiên Chúa, được giống Ngài nhiều hơn. Yêu thương là sống tỉnh thức, là sẵn sàng mở rộng tâm hồn đón Chúa đến, là hạnh phúc với những gì mình có, là vui chung niềm vui của người khác, là rộng lòng bao dung với những lầm lỗi của người khác, là can đảm thay đổi chính mình.
Lạy Chúa! Chúa vẫn đang từng ngày đến với con. Xin cho con lắng nghe được tiếng Chúa gọi, biết quên mình để sống yêu thương anh chị em như Chúa mời gọi. Nhờ đó, con cảm nhận đươc niềm vui đón Chúa vào trong căn nhà của tâm hồn con; để con cũng được chia sẻ niềm hạnh phúc của những người đầy tớ tỉnh thức đón chủ trở về. Amen.
Khi hẹn nhau đi uống cafe, người đến trước thường chọn một vị trí ngồi đẹp, chỉ uống trà đá MV 1-B177
Khi hẹn nhau đi uống cafe, người đến trước thường chọn một vị trí ngồi đẹp, chỉ uống trà đá, và chuẩn bị mọi thứ thật tốt để chờ bạn đến. Khi người bạn đã tới, cả hai gọi nước uống và cùng trò chuyện. Đây là cuộc hẹn đã định trước thời gian, địa điểm. Tuy nhiên, vẫn có những cuộc hẹn không biết trước thời gian và địa điểm. Cuộc hẹn này đòi hỏi chúng ta phải luôn trong tư thế sẵn sàng, tỉnh thức và canh thức để gặp được bạn mình. Đó là cuộc hẹn Cánh chung của từng người.
Trong tâm tình Mùa Vọng, Chúa Giêsu đang mời gọi mỗi người chúng ta phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì chúng ta không biết khi nào thời ấy đến. Có thể, Ngài sẽ đến lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng (x. Mc 13, 33-35). Đây là cuộc hẹn không biết trước thời gian hay địa điểm. Vì vậy, mỗi người chúng ta phải canh thức. Canh thức là một thái độ chờ đợi, sẵn sàng để gặp người bạn của mình để khi bạn mình đến, họ sẽ hoàn toàn vui vẻ và hài lòng vì thái độ của mình.
Chúa Giêsu đến trao ban tình yêu. Ngài đến đem lại niềm vui và ơn cứu độ cho chúng ta. Còn chúng ta, chúng ta đã canh thức chờ đợi Ngài như thế nào? Trong bối cảnh xã hội hôm nay, dịch bệnh đang hoành hành, thiên tai lũ lụt vẫn còn đó, chúng ta dường như bất lực và buôn xuôi vì đang phải sống trong lo âu, sợ hãi, phải đối đầu với những khó khăn, thách đố. Giữa những thách đố đó, chúng ta có dành giờ để chuẩn bị tâm hồn đón chờ Chúa không? Là những người Kitô hữu, giữa những biến động của thế giới này, chúng ta có vững tin vào Chúa không? Cứ tin tưởng vào Chúa, Ngài sẽ làm cho chúng ta nên vững chắc đến cùng (x. 1Cr 1,8). Vì vậy, chúng ta hãy canh thức đón Ngài đến trong tâm hồn mình.
Lạy Chúa! Cuộc sống hôm nay đã làm cho chúng con lãng quên Chúa và xa rời Chúa. Xin cho chúng con biết dừng lại để nhìn vào tất cả mọi sự đang diễn ra cho chính mình và cho mọi người. Nhờ đó, chúng con xác tín lại niềm tin vào Chúa và đón nhận tình yêu của Chúa đang hoạt động nơi tâm hồn chúng con. Nhờ đó, chúng con biết chuẩn bị tâm hồn đón chờ Chúa đến. Amen.
Tỉnh thức luôn đi chung với nhau. Biết mình tỉnh có nghĩa là còn thức; tỉnh thì thức, không thể MV 1-B178
Tỉnh thức luôn đi chung với nhau. Biết mình tỉnh có nghĩa là còn thức; tỉnh thì thức, không thể ngủ. Tỉnh thức là điều chủ nhân muốn gia nhân ông thực hiện. Dụ ngôn người kia trước khi đi xa, giao gia tài cho gia nhân coi sóc. Chủ nhân trong Phúc Âm hôm nay nói đến là Đức Kitô, gia nhân là môn đệ Đức Kitô và tài sản là dân Chúa. Tỉnh thức để làm công việc mà Tiên tri Isaiah sống hơn bảy trăm năm trước Đức Kitô đã tiên đoán, đó là ‘cho người mù sáng mắt, ban tự do cho kẻ bị đoạ đầy và mang ánh sáng, niềm tin cho người sống trong bóng tối, lầm lạc’ Is 42,7. Ngày chủ trở lại là giờ phán xét, ngày giờ này không được xác định, nhưng việc trở lại là chắc chắn. Bởi vì ngày giờ chủ trở lại không xác định, nên chủ khuyên gia nhân tỉnh thức, để bất cứ khi nào chủ về là sẵn sàng.
Tỉnh thức trong một thời gian ngắn không thành vấn đề, bởi việc đó dễ dàng. Tuy nhiên tỉnh thức trong thời gian lâu dài và việc khó, bởi tỉnh thức đòi cố gắng, phấn đấu chống lại đòi hỏi buồn ngủ, chán nản của cơ thể con người. Dụ ngôn ‘Mười Trinh Nữ’ Mt 25,1-11, đón chàng rể đến chậm tất cả đều ngủ vì họ chờ đợi trong thụ động, không làm gì cả. Môn đệ Đức Kitô trên vườn Cây Dầu cũng ngủ bởi các ông chờ đợi trong thụ động. Một mình Đức Kitô thức bởi Ngài chờ đợi trong hoạt động, Ngài quì cầu nguyện cùng Chúa cha, Ngài đi tới, đi lui với các môn đệ. Để tránh rơi vào trường hợp nhàm chán khi chờ đợi, đi đến buồn ngủ, Kitô hữu cần phải sinh hoạt, giúp cơ thể và tâm linh luôn tỉnh thức. Tốt hơn nữa là sinh hoạt chung với nhau, cùng khuyến khích nhau làm việc tốt lành, việc bác ái, cùng giúp nhau tỉnh thức. Khi không làm việc là cơ thể bắt đầu tiến sang tình trạng nghỉ, và nhỉ xả mệt thường dẫn đến buồn ngủ. Các em nhỏ luôn đi tới, đi lui, sinh hoạt, vận động vì thế các em không buồn ngủ. Chỉ cần chúng ngồi yên năm phút là chúng ngủ say. Rõ ràng nhất là khi lên xe, chỉ cần vài ba phút sau là các em ngủ ngon, bởi các em thụ động, không hoạt động. Người lớn cũng nằm trong trường hợp đó, khi cơ thể không sinh hoạt, khi đầu óc không suy nghĩ sẽ đi vào giấc ngủ. Để tỉnh thức cần phải hoạt động. Công việc đâu tiên cần làm chính là cầu nguyện. Cầu nguyện mang lại bình an cho tâm hồn vì thế cầu nguyện cũng rất dễ đưa ta vào giấc ngủ. Không dễ tránh cầu nguyện và ngủ ngồi đi chung với nhau. Điều này xảy ra bởi cầu nguyện diễn ra trong lúc cơ thể mỏi mệt. Vì thế cần thực nguyện cầu nguyện trong lúc cơ thể tỉnh thức. Cầu nguyện giúp hướng dẫn việc thực thi bác ái, bởi thực hành đức ái mà thiếu cầu nguyện dễ đi sai đường, nên cầu cầu nguyện hướng dẫn. Cầu nguyện và thực thi đức ái chính là cộng tác với Thánh Thần Chúa. Việc làm mà có Thánh Thần Chúa soi sáng, hướng dẫn thì không thể sai lầm. Thánh Thần Chúa hướng dẫn Kitô hữu làm công việc mà chính Đức Kitô đã làm khi Ngài sống nơi trần gian. Đó là làm cho tình yêu Chúa sống động trong cuộc sống tha nhân, giúp đỡ anh chị em nghèo đói, khổ cực, thiếu cơm ăn, nước uống trong sạch, kẻ vô gia cư Lk. 4,18tt.
Tỉnh thức còn là dấu chỉ của niềm tin bởi tin vào điều đã hứa nên tỉnh thức mong chờ điều đó đến, mong gặp lại người thân, người thương yêu. Khi biết người mình yêu thương, quí mến đến thăm mà không chuẩn bị đón người thân thương là đón tiếp cáxch vu vơ. Đón tiếp vu vơ làm cho khách cảm thấy nhạt nhẽo, không thật tình. Biết rõ Đức Kitô đến mà không chuẩn bị tâm hồn đón Ngài vào trong tâm hồn, ta tự hỏi mình là người môn đệ yêu mến Đức Kitô ra sao? Tỉnh thức chờ đón là dấu chỉ của niềm hy vọng bởi. Bởi hy vọng nên tỉnh thức chờ đợi. Đức Kitô hứa sẽ đến lần thứ hai. Vì thế Kitô hữu đón Ngài trong hy vọng, cậy trông và linh hoạt. Trong lúc chờ Ngài đến Kitô hữu hỗ trợ nhau bằng những sinh hoạt cộng đoàn. Cùng nâng đỡ nhau, yêu ủi nhau khi có người chán nản, hỗ trợ tinh thần khi có người mệt mỏi, thất vọng. Sinh hoạt chung với nhau sưởi ấm lòng tin, củng cố đức cậy và duy trì đức tin. Trở thành khí cụ bình an trong tay Chúa, thành cánh tay Kitô nối dài, thành bước chân Kitô thập giá là điều Đức Kitô mong mjốn nơi các môn đệ. Chính Đức Kitô không được lợi gì vì Ngài không thiếu. Lợi đây là lợi cho dân Chúa và đó là điều Đức Kitô mong muốn. Chúng ta cảm tạ Đức Kitô mời gọi chúng ta là tay, là chân của Đức Kitô.
Tín Nhân Sẵn Sàng Chờ Thiên Chúa Đến, Tôi Tớ Canh Thức Đợi Chủ Nhân Về. Mùa Vọng là MV 1-B179
Tín Nhân Sẵn Sàng Chờ Thiên Chúa Đến Tôi Tớ Canh Thức Đợi Chủ Nhân Về
Mùa Vọng là thời gian chuẩn bị mừng đón Con Thiên Chúa giáng sinh làm người. Việc chuẩn bị này được tìm thấy trong sách ghi chép về Công nghị Saragossa, ở Tây Ban Nha năm 380 sau Công Nguyên. Công hội này tuyên bố các Kitô hữu đã rửa tội nên có mặt ở nhà thờ từ 17/12 đến 25/12, thời gian này không là Mùa Vọng trọn vẹn nhưng là sự khởi đầu. Các Giáo hội Đông phương bắt đầu cử hành Mùa Vọng từ thế kỷ VIII để thực hành việc “ăn chay nghiêm nhặt và kiêng khem” – vẫn phổ biến trong Chính Thống giáo Đông phương. Việc làm này cũng phản ánh tính tương tự với Mùa Chay. Màu tím là màu phụng vụ Mùa Vọng đối với Công giáo, còn các Giáo hội Đông phương sử dụng màu đỏ.
Tín nhân là lữ khách trần gian, cả đời là Mùa Vọng kéo dài. Thời gian lâu quá khiến người ta dễ “ngủ quên” hoặc khinh suất, thế nên phải luôn tự nhủ mà tỉnh thức, vì dễ sập bẫy của ma quỷ, như Thánh Phêrô đã cảnh báo: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé.” (1 Pr 5:8) Tỉnh thức là biết mong chờ, luôn sẵn sàng, quyết tâm khó với chính mình. Thánh Vịnh gia xác định: “Hồn tôi trông đợi Chúa Trời, còn hơn lính gác mong trời hừng đông. Bởi Chúa luôn từ ái một niềm, ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa.” (Tv 130:6-7) Đó là lời nhắc luôn mang tính thời sự.
Thời gian cứ trôi, mọi sự biến thiên. Ngày qua, tháng hết, một năm cũng khép lại. Một lần nữa, Mùa Vọng lại về, bắt đầu Năm Phụng Vụ mới. Cũng như xưa, Thiên Chúa vẫn tiếp tục nhắn nhủ: “Hãy coi chừng, hãy tỉnh thức, hãy sẵn sàng!” Đó là những mệnh lệnh cách mạnh mẽ cảnh báo, chắc chắn điều đó nghiêm trọng, thậm chí có thể nguy hiểm về phương diện nào đó. Hằng ngày, chúng ta có nhiều thứ phải cảnh giác từng giây, từng phút, không chỉ về thể lý mà cả tinh thần, tâm linh. Bất cứ dạng nguy hiểm nào cũng có thể xảy ra mọi lúc, mọi nơi.
Luôn phải cẩn trọng về tư tưởng vì nó sẽ biến thành lời nói; phải cẩn thận với lời nói vì nó sẽ biến thành hành động; phải cẩn thận với hành động vì nó sẽ biến thành thói quen; phải cẩn thận với thói quen vì nó sẽ biến thành tính cách; phải cẩn thận với tính cách vì nó sẽ biến thành số phận. Một chuỗi liên kết ngấm ngầm, nếu không cảnh giác sẽ nguy hiểm cho chính mình. Thật mà như đùa vậy!
Là con người, chúng ta luôn có những mơ ước và mong chờ kết quả mỹ mãn, cả trong đời thường và tâm linh. Giả sử chúng ta có đạt được ước vọng cháy bỏng nào đó, có vui mừng thế nào rồi cũng hết, thậm chí niềm vui còn có thể hóa thành nỗi buồn. Chắc chắn chỉ có Thiên Chúa mới là niềm vui trọn vẹn và vĩnh cửu. Ngày xưa ngôn sứ Isaia đã kêu lên: “Quả chính Ngài là Cha chúng con! Chúng con không được ông Ápraham biết đến, không được ông Israel nhìn nhận, còn Ngài, lạy Đức Chúa, Ngài mới là Cha, là Đấng cứu chuộc chúng con: đó là danh Ngài từ muôn thuở. Lạy Đức Chúa, tại sao Ngài lại để chúng con lạc xa đường lối Ngài? Tại sao Ngài làm cho lòng chúng con ra chai đá, chẳng còn biết kính sợ Ngài? Vì tình thương đối với tôi tớ là các chi tộc thuộc gia nghiệp của Ngài, xin Ngài mau trở lại.” (Is 63:16-17) Vắng Chúa thì khổ ngay, không thể an bình, ray rứt khôn nguôi.
Dễ thấy và dễ hiểu như trường hợp hai người yêu nhau, họ không muốn rời xa nhau một khoảnh khắc nào, xa nhau một ngày mà cứ tưởng lâu lắm. Tương tự, đứa bé cũng không muốn rời tay mẹ dù chỉ trong chốc lát, vắng mẹ một lúc thì đứa bé bật khóc vì bất an, lo sợ. Đối với Thiên Chúa, chúng ta còn cần Ngài hơn như vậy, nhất là những khi chúng ta bất xứng: “Từ lâu rồi, chúng con là những kẻ không còn được Ngài cai trị, không còn được cầu khẩn danh Ngài. Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước Thánh Nhan.” (Is 63:19)
Thiên Chúa quá đỗi kỳ diệu, vô hình mà hiện hữu, hữu hình mà không thể nhìn thấy. Cách hành động của Ngài cũng không thể dự đoán. Khi Ngài xuất hiện thì mọi thứ biến đổi: “Khi thấy Ngài làm những điều kinh hồn táng đởm mà chúng con không ngờ: Ngài ngự xuống: và núi non rung chuyển trước Thánh Nhan! Người ta chưa nghe nói đến bao giờ, tai chưa hề nghe, mắt chưa hề thấy có vị thần nào, ngoài Chúa ra, đã hành động như thế đối với ai tin cậy nơi mình.” (Is 64:2-3) Có những điều trái ý chúng ta nhưng thực sự là Ý Chúa. Ngài thấu suốt mọi sự, Ngài muốn điều có lợi nhất cho chúng ta, mặc dù chúng ta cảm thấy không vừa lòng hoặc cho là kém may mắn.
Kinh Thánh nói: “Ngài đón gặp kẻ sống đời công chính mà lấy làm vui và nhớ đến Ngài khi theo đường lối Ngài chỉ dạy. Kìa, Ngài phẫn nộ vì tội lỗi chúng con, nhưng khi mải đi theo các đường lối của Ngài, chúng con sẽ được cứu thoát. Tất cả chúng con đã trở nên như người nhiễm uế, mọi việc lành của chúng con khác nào chiếc áo dơ. Tất cả chúng con héo tàn như lá úa, và tội ác chúng con đã phạm, tựa cơn gió, cuốn chúng con đi.6 Không có ai cầu khẩn danh Chúa, cũng chẳng ai tỉnh dậy mà níu lấy Ngài, vì Ngài đã ngoảnh mặt không nhìn đến, và để cho tội ác chúng con phạm mặc sức hành hạ chúng con.” (Is 64:2-6)
Thiên Chúa có phương pháp giáo dục rất độc đáo, khác hẳn kiểu của phàm nhân. Ngài không cặn kẽ theo kiểu “nói toạc móng heo,” nhưng khéo léo làm cho chúng ta “sáng mắt” bằng cách để chúng ta ý thức mà tự nguyện đón nhận Ngài. Tại sao như vậy? Kinh Thánh cho biết: “Ngài là Cha chúng con; chúng con là đất sét, còn thợ gốm là Ngài, chính tay Ngài đã làm ra tất cả chúng con.” (Is 64:2-7) Thiên Chúa là Nghệ Sĩ siêu phi thường, mỗi chúng ta là một kiệt tác với mục đích trong ý định mầu nhiệm của Ngài.
Con người có nhiều thứ khao khát, nhất là lĩnh vực tinh thần, nhưng chắc chắn không có niềm khao khát nào bằng nỗi mong chờ Thiên Chúa, Đấng duy nhất (Xh 20:3; Xh 34:14; Đnl 4:35; Đnl 4:39; Đnl 5:7; Đnl 32:39; 2 V 5:17; Gđt 8:20; Kn 12:13; Is 43:10; Is 44:8; Is 46:9; Đn 14:41; Hs 13:4) mà chúng ta tôn thờ suốt đời. Mùa Vọng nhắc nhở về niềm khao khát cháy bỏng và lâu dài: “Lạy Mục Tử nhà Israel, Ngài là Đấng chăn giữ nhà Giuse như chăn giữ chiên cừu, xin hãy lắng tai nghe! Ngài là Đấng ngự trên các thần hộ giá, xin giãi sáng hiển linh cho dòng dõi Épraim, Bengiamin và Mơnase được thấy. Xin khơi dậy uy dũng của Ngài, đến cùng chúng con và thương cứu độ.” (Tv 80:2-3)
Thánh Vịnh gia cho biết: “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi. Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên.” (Tv 104:29-30) Biết chắc như vậy, Thánh Vịnh gia luôn mong chờ Thiên Chúa đến và luôn tha thiết cầu xin: “Lạy Chúa Tể càn khôn, xin trở lại, tự cõi trời, xin ngó xuống mà xem, xin Ngài thăm nom vườn nho cũ, bảo vệ cây tay hữu Chúa đã trồng, và chồi non được Ngài ban sức mạnh.” (Tv 80:15-16) Thiên Chúa siêu phàm, vắng Ngài chỉ trong tích tắc là chúng ta hóa hư vô ngay.
Chỉ vì “cái tôi” mà cuộc đời luôn rắc rối. Cá lớn nuốt cá bé, kẻ mạnh áp bức kẻ yếu, cuộc đời luôn có bất công, chỉ khổ cho những người ngước đầu không nổi vì yếu thế, la lớn không nổi vì bé miệng, có la khàn giọng cũng chẳng ai thèm nghe. Không chỉ vậy, họ còn bị những người có quyền lực đè đầu, bóp cổ và bịt miệng. Họ bị tước mất quyền căn bản nhất của con người là “quyền sống.” Và họ chỉ còn biết trông cậy vào Thiên Chúa: “Xin giơ tay bênh vực Đấng đang ngồi bên hữu là con người được Chúa ban sức mạnh. Chúng con nguyền chẳng xa Chúa nữa đâu, cúi xin Ngài ban cho được sống, để chúng con xưng tụng danh Ngài.” (Tv 80:18-19) Chế độ độc tài sinh ra những người độc ác, độc ác vì ngu dốt, ngu dốt sinh độc quyền, độc quyền sinh bất chấp. Dân đen thời nào cũng khổ!
Ai cũng có thể cảm nhận điều đó trong các trường hợp và mức độ khác nhau. Chắc hẳn ai cũng đã từng bị như vậy, cách này hoặc cách khác, từ gia đình tới xã hội, dù đời hay đạo. Khổ nhất là chúng ta bị thế lực bóng tối ma quỷ chèn ép. Thánh Phaolô bày tỏ với cộng đoàn Côrintô: “Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an. Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Kitô Giêsu.” (1 Cr 1:3-4)
Không chỉ đề cập khoảng mong chờ của Mùa Vọng, Thánh Phaolô còn mạnh mẽ nói về cuộc tái lâm của Chúa Giêsu: “Trong Đức Kitô Giêsu, anh em đã trở nên phong phú về mọi phương diện, phong phú vì được nghe lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Người. Thật thế, lời chứng về Đức Kitô đã ăn sâu vững chắc vào lòng trí anh em, khiến anh em không thiếu một ân huệ nào, trong lúc mong đợi ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mặc khải vinh quang của Người. Chính Người sẽ làm cho anh em nên vững chắc đến cùng, nhờ thế không ai có thể trách cứ được anh em trong Ngày của Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Người đã kêu gọi anh em đến hiệp thông với Con của Người là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.” (1 Cr 1:6-9) Đấng ấy đang đến – theo nghĩa Mùa Vọng hằng năm và Mùa Vọng suốt đời, Ngài đến càng ngày càng gần.
Dĩ nhiên và chắc chắn rằng không ai biết lúc nào, thuộc tương lai xa hay gần, vì thế mà phải luôn canh thức và trông đợi, phải cảnh giác kẻo nghe theo tiên tri giả. Có những người lấy danh nghĩa sự thật nhưng toàn là giả dối, lừa bịp, với nhiều kiểu tà thuyết, phao tin giả, tin đồn nhảm nhí qua chiêu thức “sự lạ” đủ kiểu. Lời khuyên của tiền nhân vẫn mang tính thời sự: “Cẩn tắc vô ưu.” Ca dao nói chí lý: “Dù ai nói ngả nói nghiêng, tôi đây vẫn vững như kiềng ba chân.” Rất hợp với lời cảnh báo của Chúa Giêsu: “Kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.” (Mt 10:22; Mc 13:13)
Trình thuật Mc 13:33-37 ngắn gọn nhưng súc tích. Chúa Giêsu mạnh mẽ cảnh báo: “Anh em PHẢI coi chừng, PHẢI tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến.” Ngài dùng hình ảnh cụ thể đời thường: “Cũng như người kia trẩy phương xa, để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ của mình, chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa PHẢI canh thức.” Rồi Ngài căn dặn: “Vậy anh em PHẢI canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng. Anh em PHẢI canh thức, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ. Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: PHẢI canh thức!”
Ngắn gọn chỉ 5 câu mà có tới 6 mệnh lệnh với từ “phải” – kèm theo 1 từ “coi chừng,” 1 từ “tỉnh thức,” và 4 từ “canh thức.” Điều đó cho thấy sự cấp bách của việc canh thức trong thời gian mong chờ Đức Giêsu Kitô. Không chỉ mùa thu mà bất cứ mùa nào, lá vàng hoặc xanh cũng có thể rụng bất cứ lúc nào, cũng không thể biết thời điểm rụng: Sáng sớm, trưa, chiều, tối, khuya hoặc nửa đêm về sáng.
Đó là thực tế mặc nhiên và minh nhiên, là sự thật rõ ràng, không ai lại không biết. Kinh Thánh nói: “Trước mặt con người là cửa sinh, cửa tử; ai thích gì, sẽ được cái đó.” (Hc 15:17) Hoàn toàn tự do, tùy ý, bất cứ ai cũng không bị bắt buộc. Vấn đề là có “biết sợ” hay không: Biết sợ thì biết coi chừng – cảnh giác, biết coi chừng thì cố gắng tỉnh thức, có tỉnh thức mới có thể canh thức và sẵn sàng. Nếu như thế thì không còn sợ nữa. Thật kỳ lạ!
Lạy Thiên Chúa, xin làm cho chúng con biết sợ mà không hoảng, sợ tích cực chứ không tiêu cực, chủ động chứ không thụ động, an tâm chờ đợi Ngài. Xin canh giữ chúng con đủ sức chống lại mọi mưu chước của ma quỷ và tay sai của chúng. Xin ngăn chặn đại dịch vẫn hoành hành khắp nơi, xin cứu chúng con thoát khỏi mưu ác của kẻ xấu. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Bố mẹ ơi! Chắc khoảng một hoặc hai giờ sáng con mới về tới nơi. Bố mẹ ra đường Đặng Văn Bi để MV 1-B180
“Bố mẹ ơi! Chắc khoảng một hoặc hai giờ sáng con mới về tới nơi. Bố mẹ ra đường Đặng Văn Bi để đón con nhé. Khi nào gần đến, con sẽ gọi trước. Con cám ơn Bố mẹ.”
Tuy phải thức dậy từ lúc một hoặc hai giờ sáng để đón con, nhưng bố mẹ nào cũng sẽ rất vui vì sắp được gặp lại người con yêu của mình. Giờ giấc không còn là vấn đề nữa mà là nỗi chờ mong sớm được gặp lại, được nhìn thấy người con bao năm xa cách. Thiên Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy có tâm tình chờ đợi ngày Con của Người quang lâm với tâm tình mong mỏi, yêu thương và vui sướng như vậy. Tuy nhiên, ngày Đức Giêsu quang lâm không được báo trước cụ thể như người con trong câu chuyện trên. Ngày ấy sẽ rất bất ngờ. Bởi đó, Ngài mời gọi chúng ta hãy canh thức. Không còn là chuyện thức dậy lúc một, hai giờ sáng nhưng là một sự canh thức luôn luôn.
Chúng ta biết chắc rằng, dù muốn hay không, ngày Đức Giêsu quang lâm chắc chắn sẽ đến. Bởi đó, điều chúng ta cần làm là sống canh thức. Chúng ta hãy chọn cho mình một thái độ tích cực, như người đầy tớ đợi chủ trở về. Sự canh thức ấy chính là một thái độ, một lối sống theo Tin Mừng, theo giáo huấn của chính Đức Giêsu, của Giáo Hội. Thường chúng ta không sẵn sàng cho ngày đó vì chúng ta còn yêu quý mạng sống mình, vương vấn cuộc sống trần gian; vì nghĩ rằng, ngày ấy là ngày chúng ta lìa bỏ cuộc sống này. Hay khi chúng ta còn ngủ mê trong tội lỗi, trong những đam mê. Canh thức ở đây không hẳn là không ngủ về mặt thể lý nhưng hơn hết là một thái độ sống luôn quy hướng về Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn cho chúng ta cơ hội để trở về. Bao lâu còn nghĩ đến, lưu tâm đến tương quan giữa ta với Thiên Chúa, với tha nhân, bấy lâu chúng ta sẽ biết sống canh thức. Người biết canh thức là người có một đời sống gắn bó với Thiên Chúa, một cuộc sống đượm tình bác ái, yêu thương với mọi người, dám yêu và cầu nguyện cho cả kẻ thù như chính Đức Giêsu đã dạy.
Cuộc sống hiện tại dễ làm cho chúng ta bận rộn, bị cuốn vào những lo lắng của công việc, của cuộc sống mưu sinh, của những vui hưởng nơi trần gian này. Mùa Vọng là mùa Giáo Hội mời gọi mỗi người chúng ta sống chậm lại một chút. Chậm lại để biết rằng và để nhớ rằng mình đang chờ đợi ngày Chúa đến. Chúa đã đến trong lịch sử nhân loại và Ngài còn sẽ đến trong ngày Ngài quang lâm và nhất là đến với từng người chúng ta mà chúng ta không biết giờ nào ngày nào. Trong khi chờ đợi ngày Chúa quang lâm, chúng ta được lãnh nhận biết bao ân huệ Thiên Chúa đã ban. Chúng ta hãy cùng nhau dâng lời ca ngợi, cảm tạ Thiên Chúa về tất cả những gì Ngài ban cho ta bằng chính cuộc sống đầy niềm tin kính mến yêu đối với Thiên Chúa và yêu thương đối mọi người. Đó cũng là thái độ cần có cho việc sống sự canh thức mà Thiên Chúa mời gọi. chúng ta được mời gọi hãy luôn canh thức để đón Chúa đến. Chỉ cần Người ngõ cửa là ta mở ngày vì ta luôn canh thức chờ đợi Người.
Thật kỳ lạ! Trong cuộc sống vồn vã, hằng ngày, chúng ta luôn bận rộn và chạy đua với thời gian MV 1-B181
Thật kỳ lạ! Trong cuộc sống vồn vã, hằng ngày, chúng ta luôn bận rộn và chạy đua với thời gian, nhưng tôi và bạn vẫn luôn có những giây phút “chờ đợi”. Chẳng hạn, bạn chờ để mua một món đồ, hay đợi để đón bé tan trường về nhà, hoặc đợi chờ người thân để cùng tham dự bữa cơm chung gia đình, …. Chờ đợi là một phần trong cuộc sống chúng ta. Đặc biệt, về đời sống thiêng liêng, trong năm Phụng vụ, Mẹ Giáo hội đã dành Mùa Vọng- mùa của đợi chờ và hy vọng, để chuẩn bị tâm hồn các tín hữu đón mừng đại lễ Ngôi Lời Nhập Thế, nhưng sâu xa hơn là sự chờ đón Đức Kitô ngự đến trong tâm hồn mỗi người, và chờ đợi Người ngự đến trong ngày cánh chung.
Theo tâm lý, con người thích những gì là mau lẹ, “có ngay kết quả”, nên sự chờ đợi dường như trở thành bắt buộc, vô nghĩa, thậm chí là bực dọc, chán chường, mất hy vọng. liệu rằng câu nói đúc kết kinh nghiệm của biết bao đời: “Chờ đợi là hạnh phúc!” còn hợp thời không? Tôi và bạn cùng cảm nghiệm về sự chờ đợi của người mẹ mang thai mong cho người con chào đời. Người mẹ phải kiên nhẫn mang người con trong chín tháng mười ngày. Khoảng thời gian ấy, bà mong ngóng từng ngày cho con mình lớn lên và khi cảm nhận đứa con đang cử động trong bụng, bà cảm thấy rất vui. Dẫu rằng, bà phải chịu bao vất vả, đau đớn, lãnh lấy bao khó khăn do sự thay đổi từ bên ngoài lẫn bên trong của bản thân. Đến khi con cất tiếng khóc chào đời là lúc niềm vui, hạnh phúc vỡ òa. Nhìn ngắm đứa con chào đời, tất cả khó khăn, đau đớn trở nên nhẹ nhàng, vì bà đã có người con là niềm hạnh phúc tuyệt vời. Đó là kết quả của sự chờ đợi. Như thế, chờ đợi quả là hạnh phúc!
Đó là những sự việc diễn ra trong thực tế cuộc sống, còn trong đời sống thiêng liêng một thực tại vô hình thì sao? Có sự chờ đợi chăng? Tôi cảm nhận, chắc chắn “là có”! Sự chờ đợi trong đời sống thiêng liêng là sự khao khát nguồn hạnh phúc, nguồn hạnh phúc ấy chính là Thiên Chúa. Chúng ta chờ đợi Thiên Chúa trong niềm hy vọng. Thánh vịnh gia đã cất lên lời khao khát ấy: “Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn không giọt nước” (Tv 62, 2). Thật vậy, tâm hồn chúng ta cũng chỉ như những mảnh đất hoang khô cằn cần những giọt nước ân sủng của Thiên Chúa, tưới gội để làm cho mảnh đất nên màu mỡ. Hay với kinh nghiệm của một vị thánh được hạnh phúc cảm nếm những vết đinh của Đấng Chịu – Đóng – Đinh, thánh Gioan Thánh Giá đã bày tỏ kinh nghiệm tìm kiếm và khát khao, chờ đợi Thiên Chúa: “Người ẩn nơi nao, hỡi Đấng Chí Ái, mà bỏ em rên rỉ? Như một con nai, Người trốn biệt, sau khi đã làm em bị thương, em chạy ra, gọi với theo Người, thì Người đã đi” (Ca khúc tâm linh, Thánh Gioan Thánh Giá) . Trong tất cả mọi sự, con người đang tìm kiếm hạnh phúc, mà hạnh phúc thật chỉ có ở nơi Thiên Chúa: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61, 2).
Nhưng niềm khao khát, sự chờ đợi ấy được diễn tả như thế nào? Giống như người phụ nữ trong thời gian mang thai phải chuẩn bị mọi thứ: đồ dùng, những thứ cần thiết, nhưng trên hết là tâm lý và tình cảm của người mẹ dành cho con. Hay như người tôi tớ canh giữ cửa chờ khi chủ trở về là mở ngay (x. Lc 12, 35-36). Mùa vọng chính là thời gian chuẩn bị để đón chờ Chúa đến. Niềm khao khát, chờ đợi được diễn tả bằng chính sự thay đổi lối sống của mỗi người. Thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (Mt 3, 3). Tôi và bạn cùng sửa soạn con đường tâm hồn để chính Chúa Kitô sẽ đi đến gặp chúng ta. Chúng ta hãy đi sâu vào tận cõi lòng để lắng nghe tiếng Chúa, cùng tâm sự với Người, và xin Người thương xót chúng ta. Đồng thời, chúng ta hãy làm hòa với tha nhân, bỏ đi cái tôi ích kỷ, khoe khoang hay thu vén cho bản thân. Hay chúng ta sẵn sàng đi bước trước đến với người khác. Hoặc đơn giản, mỗi ngày hãy làm cho con đường của mình phủ đầy hoa hồng là những việc làm bác ái, yêu thương. Như vậy, mỗi ngày tôi và bạn thêm can đảm và tự tin để mời Chúa đến trong lòng.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã khắc ghi vào tâm trí, trong trái tim chúng con lòng khao khát thuộc về Chúa và chỉ nhờ Thiên Chúa, chúng con mới được cứu độ và vinh quang (x. Tv 61, 8). Xin cho chúng con luôn biết chờ đợi qua việc chuẩn bị tâm hồn để được Chúa tuôn trào ân sủng Tình Yêu Giáng Thế của Người trên từng người chúng con. Nhờ đó, mỗi ngày chúng con được hân hoan bước trên đường dương thế tiến về hưởng hạnh phúc quê Trời. Amen.
Ai cũng bảo: “Sống là không chờ đợi”! Chờ đợi là dại. Chờ đợi là ngu. Nhưng có thật chúng ta MV 1-B182
Ai cũng bảo: “Sống là không chờ đợi”! Chờ đợi là dại. Chờ đợi là ngu. Nhưng có thật chúng ta sống mà không chờ đợi được ư? Thực ra, cuộc sống con người là đi vào vô vàn bến bờ chờ đợi, đến nỗi có người bảo rằng: “Không chờ đợi không phải là người!”
Hai chữ chờ đợi được thể hiện rất nhiều trong cuộc sống. Hàng trăm ngàn học sinh đi thi, họ chờ đợi suốt 12 năm hoặc còn hơn thế để cho hai ngày gay go và đầy lo lắng. Cha mẹ lo lắng chờ đợi con cái cũng suốt 12 năm hoặc còn hơn thế. Đi thi thì kẹt xe, đi về thì tắc đường, phải đi chầm chậm, phải kiên nhẫn nhích dần từng cm, phải chờ đợi để không xảy ra điều đáng tiếc, không xảy ra điều gì với con cái và người xung quanh..
Và trong tình yêu, có ai yêu nhau mà không từng chờ đợi nhau, trên những ghế đá công viên hay trên những con phố dài, trong những buổi chiều tà khuất bóng hoàng hôn, trong những cơn mưa tầm tã, trong những xao động của dòng đời, trong những bình yên của nỗi nhớ. . .
Ở Việt Nam có Núi Tô Thị hay còn gọi là núi Vọng Phu nằm ở thị xã Lạng Sơn gắn liền với truyền thuyết người con gái chung thủy ôm con chờ chồng đi lính nhiều năm không về mà hóa thành đá.
Chuyện kể rằng từ ngày chồng đánh giặc Phương Bắc, nàng Tô Thị ở nhà nhưng các quan lại tìm trăm phương ngàn kế ức hiếp để chiếm đoạt nàng làm thê thiếp. Nàng liền bế con lên Chùa Tam Thanh trú ẩn để cầu cho chồng mau chóng được trở về, và hằng ngày lên núi nhìn sang hướng Bắc ngóng chồng chinh chiến trở về.
Một hôm, trời nổi cơn giông. Mây đen kéo đầy trời. Gió rít lên từng hồi qua khe đá. Mưa như trút nước. Chớp lòe khắp núi. Nàng vẫn bế con đứng trơ trơ, đăm đăm nhìn về Phương Bắc. Toàn thân quả núi rung chuyển dưới những luồng sét dọc ngang. Mưa mỗi lúc một to. Tô Thị vẫn bế con đứng trơ trơ trên mỏm đá cao chót vót.
Sáng hôm sau, mưa tạnh, gió yên, mặt trời tỏa ánh sáng xuống núi rừng. Nàng Tô Thị bế con đã hóa đá tự bao giờ. Ngày nay, còn truyền lại câu ca:
“Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh…vv”
Chờ đợi của nàng Tô Thị là chờ đợi trong hy vọng chồng sớm trở về . Chờ đợi của nàng còn là chờ đợi với lòng chung thủy sắt son. Chờ đợi là một thử thách lòng trung thành và tính kiên nhẫn. Thế nên, người biết kiên nhẫn chờ đợi sẽ hạnh phúc biết bao khi đạt được điều mình mong đợi.
Mùa vọng là mùa của hy vọng, của đợi chờ ông chủ sẽ trở về. Thiên Chúa là ông chủ đã giao cho chúng ta vô số công việc ở trần gian này. Ngài đòi chúng ta phải tận tụy trong công việc. Ngài đòi chúng ta phải làm việc hết mình và đầy đủ trách nhiệm.
Chờ đợi ngày Chúa đến cũng đòi hỏi chúng ta đừng mê ngủ trong đam mê lầm lạc, trong ảo ảnh của trần gian. Cuộc sống này rồi cũng qua đi. Đừng vì những ảo vọng trần gian mà bán linh hồn cho ma quỷ. Hãy tỉnh thức để sống đúng với phẩm giá con người là “nhân chi sơ tính bản thiện”, đừng sống gian ác, đừng buông mình theo thói đời tội lỗi, đừng thả trôi theo đam mê xác. Hãy tỉnh thức để sống theo luân thường đạo lý, theo đường ngay chính của chân, thiện, mỹ. Hãy tỉnh thức để chúng ta luôn hành động như con cái sự sáng để nhờ đó, giờ Chúa đến chúng ta tràn ngập hân hoan vì luôn trung thành sống cho Chúa.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh thức trong từng giờ từng phút. Tỉnh thức để chúng ta sống nghiêm túc trong lời nói, việc làm của mình luôn đi theo lề luật của Chúa, hầu xứng đáng là người quản lý trung thành và tận tuỵ của Chúa. Amen.
Dù lắm tài nhiều mưu trong công việc làm ăn, tổ chức đời sống giỏi hay dở, đắc ý hay phật ý MV 1-B183
Dù lắm tài nhiều mưu trong công việc làm ăn, tổ chức đời sống giỏi hay dở, đắc ý hay phật ý, bởi tiếng khen chê ở đời, thiên hạ vẫn nhất mực cho rằng: đầu có xuôi đuôi mới lọt. Theo quy luật tự nhiên, xe càng ít di chuyển, nguy cơ va chạm càng ít là đúng, nhưng các nhà sản xuất không có ý xuất xưởng xe với mục đích trưng bày. Trong tương quan xã hội, có phải vì quá chuộng người hiền tài, nên có câu: ba năm sống gần người dại, không bằng một phút sống gần người khôn ? Con người tự bản chất là sống có tình làng nghĩa xóm, người trước rước người sau cùng đến bến bờ hạnh phúc. Trong giáo dục, các chuyên gia quả quyết: hữu tâm tất thành sự, hữu đức tất thành nhân, với chủ trương thành đạt phải có đức, có tâm. Do đó, tài trí dù có hơn người, mà sống vô kỷ cương lễ giáo, mọi người sẽ xem như kẻ không đáng yêu, hư việc, uổng đời, đại loại là dốt đặc hơn lỏng chữ.
Bước vào trường đời với ý chí quyết tâm, xác suất thành công đã là 50%, khao khát trở nên người hữu ích, ít nhiều cũng được thêm 30%, như thế hạnh phúc cuộc đời ở tương lai không phải là không có hứa hẹn. Trong khi mọi người có thể mất phương hướng về “niềm vui hạnh phúc thật”, bởi những quyến rũ trần gian, Chúa Giêsu đã minh định về việc tỉnh thức và cầu nguyện, một giao ước yêu thương ngay từ phút ban đầu được trao ban. Tỉnh như thế nào, thức làm sao, hầu mọi người không cảm thấy ngao ngán, mơ hồ ? Chắc chắn khái niệm cơ bản mà ai cũng nghe: tỉnh là không say, không mê sảng, thức không phải là không ngủ, thức để biết thân phận mình giới hạn, bất toàn. Biết việc trời, muôn đời không khổ, biết mình là ai, để cảnh giác với những “virus” xâm nhập tâm hồn, hầu gặp được Đấng yêu thương ta.
Thuận buồm xuôi gió. Khó, giúp nhau mới thảo, giầu, trừ nợ không ơn. Những câu tục ngữ đầy tình lắm nghĩa, những mơ ước mong chờ từ khía cạnh vật chất, tinh thần, không phải chúng mới xuất hiện trong trí ta, đúng hơn, niềm an vui hạnh phúc đó được hình thành từ khi có đất trời. Bước vào trường đời với muôn vàn mơ ước đẹp, bước vào năm phụng vụ mới, vẫn một lời nhắn nhủ không cũ, không xưa: tỉnh thức, cầu nguyện, những điều kiện, khôn ngoan, tự do, luôn là tác động cần thiết mà mỗi người đang vận dụng, minh chứng cho một tình yêu. Nếu hiểu biết theo nghĩa đen, tỉnh thức, cầu nguyện, để đợi chờ chủ, có thể chưa thu hút, nhưng tỉnh thức để chờ chủ trở về trao ban phần thưởng, hẳn có phần hấp dẫn hơn.
Cuộc sống thực tế mỗi ngày là một ước mơ hạnh phúc, gia đình an vui, tâm tính của mình được cải thiện, các tương quan thuận hoà, người người nhà nhà ngập tràn tình yêu thương. Khuynh hướng chung, người ta chờ kết quả tốt đẹp, có mong là mong gặt hái hạnh phúc, có thức có tỉnh là vì nhu cầu hạnh phúc, mấy ai không nói: sống là sống vì trách nhiệm, vì bổn phận ! Cái gì rồi cũng trôi qua, niềm vui vật chất rồi cũng trở nên nhàm chán, như cha ông ta vẫn nhắc nhớ: quan nhất thời, dân vạn đại. Từ sâu thẳm tâm hồn, nhiều người vẫn chủ trương: cầu vừa đủ xài, hoặc nhiều làm phúc, ít làm duyên, cứ nỗ lực, cứ hết tình hết mình là ổn, là an hoà, là đang thuỷ chung với Thiên Chúa cội nguồn hạnh phúc. Suy xét một chút, chỉ khi trưởng thành thực sự, người ta mới phát hiện ra: tôi có một khối óc và đôi bàn tay, giá trị ở chỗ bàn tay này biết giúp mình, bàn tay kia biết chia sẻ với anh chị em mình.
Hướng tới điều tốt đẹp ở phía trước, mong ước cuộc sống sẽ diễn tiến xuôi thuận, tâm tư không phải lăn tăn hối tiếc về khả năng tự do của mình: ít người yêu hơn nhiều người ghét ! Tỉnh thức, cầu nguyện, mong chờ được: tình yêu, khoẻ xác, mạnh hồn, trường thọ, gia đình êm ấm, anh chị em hoà thuận, không phải là sai, là chưa chuẩn. Chúa Giêsu không nói tỉnh thức một cách chung chung, không kêu gọi mong chờ niềm vui loáng thoáng, không có ý nói cầu nguyện cách thụ động vì sợ án phạt, mà là cụ thể trong tư thế tỉnh thức sẵn sàng chờ ngày Chúa đến. Điều mơ ước của bậc sinh thành là con cháu biết sống hết tình hết nghĩa với gia đình xã hội, chứ đâu phải là thụ hưởng.
Điều đẹp ý Chúa chắc chắn là mỗi người phải phấn đấu, tích cực trong suy nghĩ hành động. Không lãng phí thời giờ công sức, không phải cứ ngồi chờ phép lạ, có chăng là mong chờ được Chúa biến đổi tâm tính, được biết sửa chữa những lỗi lầm thiếu sót. Mỗi người nên tự hỏi: tôi đang mong chờ điều xuôi thuận nào ? Tôi đang tỉnh thức cầu nguyện vì sợ, hay vì yêu ? Hay tôi đang sẵn sàng mạo hiểm như con thiêu thân: được một điều mừng, trăm điều lo lắng ? Ắt hẳn mỗi người đang lý sự: có niềm vui, có phần thưởng, đó là sự công bằng mà người ta đầu tư công sức, đã tỉnh thức cầu nguyện, đã tích cự sống nén bạc Chúa trao cách hợp lý nhất. Xin Chúa chúc lành cho chúng con luôn khao khát được xuôi thuận trong tình yêu Chúa và tha nhân. Amen.
Trong tiếng La Tinh, Mùa Vọng được gọi là ADVENTUS, xuất phát bởi động từ ADVENIRE hay MV 1-B184
Trong tiếng La Tinh, Mùa Vọng được gọi là ADVENTUS, xuất phát bởi động từ ADVENIRE hay ADVENTARE, có nghĩa “đến gần”, “đang tới”; nếu “kẻ đang đến” đó là một vị vua, một hoàng đế, thì gọi là “giá lâm” hay “quang lâm”.
Nhưng nếu có ai đang đến thì phải có kẻ đợi chờ, đón gặp; nếu có vị vua “giá lâm” thì phải có thần dân “sẵn sàng dàn chào đón rước”. Giáo Hội Việt Nam dùng từ “VỌNG” để diễn tả “ý nghĩa kép” ĐẾN và ĐỢI đó: vừa nhấn mạnh việc “Chúa đến lần thứ nhất” qua mầu nhiệm Nhập Thể Giáng Sinh, đồng thời hướng tới ngày “Chúa đến lần thứ hai” khi “quang lâm” xét xử; vừa đề nghị thái độ và tâm tình vươn về phía trước, hướng đến đàng xa, để “đón đợi”, để “gặp gỡ. Gần là sẵn sàng cho đại lễ Giáng Sinh; xa là “sắp sẵn” để được “gọi vào hưởng Nước Trời” (Lời nguyện Nhập lễ).
Sứ điệp Lời Chúa của Chúa Nhật I Mùa Vọng nầy đã trình bày thật rõ nét hai chiều kích ý nghĩa trên.
Từ “cảm nghiệm Chúa đến” của dân tộc Israel:
Có thể nói được, Israel là một dân tộc duy nhất có cảm nghiệm sâu xa và phong phú về Thiên Chúa và hoạt động của Ngài trong lịch sử. Mà cũng phải thôi, vì dân tộc nầy là “Dân Chúa chọn”, “Dân riêng” của Thiên Chúa; toàn bộ lịch sử của dân Israel là “câu chuyện dài của Giao ước” giữa Thiên Chúa và dân tộc, của những lần Thiên Chúa thi ân, giải thoát, hay đoán phạt, răn đe… Đối với họ, nỗi khốn khổ lớn lao nhất, tình trạng bi đát nhất chính là bị “Thiên Chúa tuyệt giao”, ẩn mặt, như cách diễn tả của ngôn sứ Isaia: “Lạy Chúa, tại sao Chúa để chúng con đi lạc xa đường Chúa, và làm cho tâm hồn chúng con trở nên chai đá, không còn biết kính sợ Chúa nữa?… Và không còn ai kêu cầu thánh danh Chúa, không còn ai tỉnh thức để bám lấy Chúa. Chúa đã ẩn nấp không cho chúng con nhìn thấy nữa, và Chúa đã phó mặc chúng con cho quyền lực tội lỗi”.
Từ cái “cảm nghiệm” về nỗi thống khổ và bi đát bị Chúa bỏ rơi, Chúa bỏ mặt đó, dân Israel lại cho thấy sự cần thiết tuyệt đối của việc Chúa đến viếng thăm, Chúa trở lại mối giao tình, thực thi Giao ước; mà không phải chỉ ý thức suông, họ khát khao, họ trông cậy, họ nguyện cầu tha thiết để Chúa đến: “Vì các tôi tớ Chúa, các chi tộc thừa hưởng gia nghiệp Chúa, xin hãy đoái nhìn lại. Xin Chúa băng qua các tầng trời mà ngự xuống… Chúa đã ngự xuống và các núi đồi rung chuyển trước tôn nhan Chúa. Đó là việc từ xưa đến nay chưa từng có ai nghe thấy; lạy Chúa, không tai nào nghe thấy không mắt nào nhìn thấy một chúa nào khác ngoài Chúa đã dành những hồng ân cho những ai trông đợi Chúa…”.
Khi hát lại những lời ca kinh tha thiết “Trời cao xin đổ sương mai, mây ơi hãy mưa Đấng Công Chính…”, Dân Chúa của Mùa Vọng hôm nay sống lại chính cái cảm ngiệm “Chúa Đến” tuyệt vời đó giữa một xã hội con người mà lời của ngôn sứ Isaia vẫn chưa sai: “không còn ai tỉnh thức để bám lấy Chúa”.
Đến thái độ “tỉnh thức” đợi chờ của Đức Kitô:
Về mặt con người, vì được nuôi dạy và lớn lên trong môi trường đức tin của cha ông, Đức Kitô đã cảm nghiệm thật rõ tình trạng sống đạo của dân tộc Ngài lúc bấy giờ: “không còn ai kêu cầu thánh danh Chúa, không còn ai tỉnh thức để bám lấy Chúa”. Và Ngài đã dày công canh tân niềm tin bằng cách loan báo một Tin Vui về Nước Thiên Chúa, hiện thực nơi chính “Lời” và “hành động” của Ngài mà các ngôn sứ đã tiên báo: “Thần Khi Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn…” (Lc 4,18-19). Và điều đòi hỏi tối quan trọng, dứt khoát để đi vào Nước Thiên Chúa đó là thái độ “mở lòng ra để tin nhận Ngài”, là “hoán cải để đi theo lộ trình Bát Phúc” do Ngài đề nghị, là khiêm hạ nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi để phó thác cho lòng xót thương của Thiên Chúa…
Để làm được như thế, nhất là trong bối cảnh của một cuộc sống đầy phức tạp, cám dỗ từ chính nơi bản thân cho đến thế giới chung quanh, không phải cứ chủ quan cậy dựa vào “dầu đèn”, vào “kho lẫm chắc chắn”… mà phải là “sắp sẵn, khiêm hạ, chỉn chu” từ những chi tiết nhỏ, mà ngôn ngữ của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Máccô đó là “Tỉnh thức”: “Vậy các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào chủ nhà trở về, hoặc là chiều tối, hoặc là nửa đêm, hoặc là lúc gà gáy, hay ban sáng, kẻo khi ông trở về thình lình, bắt gặp các con đang ngủ. Điều Ta bảo cho các con, thì Ta bảo cho tất cả mọi người là: Hãy tỉnh thức!”.
Sống “Tỉnh thức” giữa cuộc đời hôm nay:
Trong ngôn ngữ Tin Mừng, thái độ “đợi chờ”, “tỉnh thức” mà Chúa Giêsu đề nghị hoàn toàn mang tính chủ động và tích cực như câu chuyện “Nàng Penelope dệt Khăn đợi chồng” trong sử thi “Cuộc chiến thành Troa”: nàng Penelope chờ đợi chồng là tráng sĩ Ullisse chiến đấu phương xa không nản lòng, không mệt mỏi và khước từ mọi cám dỗ bằng cách “dệt cho xong tấm khăn”. Ban ngày dệt, ban đêm tháo. Mãi 20 năm sau mới gặp lại chồng…
Ý nghĩa “đợi chờ Chúa đến” của Mùa Vọng, một cách nào đó, cũng là một cuộc “dệt cho xong tấm khăn của cuộc đời mình” để gặp gỡ Thiên Chúa. Điều đó phải chăng muốn nói lên rằng: Sống một cách “tỉnh thức” đó là không ngừng trang bị cho mình một đôi tai thính để biết lắng nghe tiếng Chúa, lắng nghe lẽ phải, lắng nghe lương tâm, lắng nghe Hội Thánh…
Sống một cách “tỉnh thức” đó chính là luôn có đôi mắt sáng để nhận ra Chúa nơi anh chị em và thấy Chúa hiện diện trong mọi biến cố của đời thường.
Sống một cách “tỉnh thức” là luôn trang bị cho mình một trí khôn minh mẩn để nhận ra đâu là thánh ý Thiên Chúa, đâu là dấu chỉ của Ngài để thực thi các trung thành và can đảm.
Sống một cách “tỉnh thức” là luôn có đôi tay mở rộng để phục vụ, đôi chân nhiệt thành loan báo tin Mừng, và trái tim nhạy cảm để yêu thương và biết nghiêng mình trên những thân phận khổ đau bất hạnh của đồng loại….
Như vậy, “tỉnh thức đợi chờ Chúa đến” đâu chỉ là “chuyện của tương lai”, của “ngày chung thẩm”, của “Ngày Chúa quang lâm xét xử địa cầu”… mà là chuyện của “hôm nay, bây giờ”. Nói cách khác, tương lai của chúng ta, vận mệnh đời đời của chúng ta bắt đầu ngay hôm nay, bây giờ.
Nhưng chúng ta đừng quên, “tỉnh thức” còn là một ơn trọng Thiên Chúa ban, như chính Thánh Phaolô xác quyết trong thư gởi giáo đoàn Côrintô: “Cũng chính Ngài sẽ ban cho anh em bền vững đến cùng, không có gì đáng trách trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ngự đến. Thiên Chúa là Đấng Trung Tín, đã kêu mời anh em hiệp nhất với Con của Người, là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.
Vì thế, trong suốt Mùa Vọng nầy, Giáo Hội mượn lời Thánh vịnh 24 gọi mời Dân Chúa “Nâng tâm hồn lên cùng Chúa”, như lời Ca Nhập Lễ hôm nay:
“Con nâng tâm hồn lên cùng Chúa, Lạy Thiên Chúa của con, con tin tưởng nơi Ngài, Xin Ngài đừng để con tủi nhục, Đừng để quân thù đắc chí nhạo cười con. Chẳng ai trông cậy Chúa, Mà lại phải nhục nhằn.
Kết: Đợi Chúa, Chúa sẽ về.
Trong khuôn viên Đại học Tokyo có một tượng đài mang tên “CHÚ CHÓ ĐỢI CHỜ”. Thì ra, đây là bức tượng ghi nhớ chú chó Hachico của giáo sư Ueno… Sau khi ngài Ueno đột ngột qua đời, con cho Hachico mỗi ngày, trong suốt mười năm liền, ra đón đợi người chủ của mình tại ga tàu Shibuya cho tới chết. Tội làm sao con cho trung thành nhưng không gặp được chủ. Với chúng ta thì khác. Hôm nay, sứ điệp Mùa Vọng nói với chúng ta rằng: Hãy đợi Chúa đi, Chúa đang trở về. Vâng, Chúa đang trở về chính nơi bàn Tiệc Thánh Thể nầy; và chút nữa đây, Ngài trở về bằng chính Máu Thịt được trao ban cho chúng ta. Gặp được Chúa hôm nay, bây giờ, chắc chắn sẽ gặp Chúa trong ngày sau hết của đời mình hay trong ngày chung thẩm của hoàn vũ. Amen.
Con người cần có Chúa như thân xác cần hơi thở, như cây cỏ cần mặt trời. Vắng Chúa, đời sống MV 1-B185
Con người cần có Chúa như thân xác cần hơi thở, như cây cỏ cần mặt trời. Vắng Chúa, đời sống chúng ta trở thành vô nghĩa, vì Chúa là nguồn mạch của niềm vui và hạnh phúc. Mùa Vọng là thời điểm để chúng ta suy nghĩ về sự cần thiết này và dọn lòng đón Chúa đến trong đời. Trước trào lưu chối bỏ Thiên Chúa, Đức Thánh Cha Bê-nê-đi-tô XVI đã viết: “Chủ nghĩa nhân bản loại trừ Thiên Chúa là một chủ nghĩa phi nhân… Ý thức về tình yêu bất diệt của Thiên Chúa sẽ nâng đỡ ta trên con đường dấn thân đầy khó khăn và cao cả cho công lý và phát triển các dân tộc; tình yêu này sẽ đưa ta vượt qua những thành công và thất bại trong nỗ lực kiên trì thực hiện những trật tự công chính cho chuyện nhân sinh” (Thông điệp Spe Salvi, số 78). Ngôn sứ Isaia đã diễn tả nỗi khát vọng của con người cần có Chúa chăm sóc dưỡng nuôi. Vì vắng bóng Ngài, nên dân Israen đi lạc đường và tâm hồn họ trở nên chai đá. Nội dung Bài đọc I vừa là một khát vọng, vừa là một lời cầu nguyện xin Chúa tỏ tình thương đối với dân Ngài đã chọn. Trải qua dòng lịch sử, kinh nghiệm của dân Israen đã chứng minh, mỗi khi họ kiêu ngạo thách thức Chúa hoặc không tuân theo giáo huấn Ngài chỉ dạy, họ sẽ gặp những thảm họa tai ương trong cuộc sống. Trước nỗi trống vắng ấy, ngôn sứ Isaia đã cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin Chúa băng qua các tầng trời mà ngự xuống!”. Lời cầu nguyện của ngôn sứ Isaia cũng là tâm tình của Giáo Hội trong Mùa Vọng: “Trời cao, hãy đổ sương mai, ngàn mây, hãy mưa Đấng Công chính!”. Con người thời nay có khuynh hướng gạt bỏ Chúa ra khỏi đời sống của họ. Vì đâu có bạo lực tại học đường, trong gia đình hay trong các lãnh vực khác của xã hội? vì họ khước từ sự hiện diện của Chúa ở những nơi đó. Vì đâu có bất công, lừa đảo và mánh mung? vì nhiều người chủ trương một lối sống vô thần, không còn đặt niềm tin nơi Chúa và nơi những giá trị thiêng liêng. Lời cầu nguyện của ngôn sứ Isaia nài xin Chúa “băng qua các tầng trời mà ngự xuống”, đã được Chúa chấp nhận. Cách đây hơn hai ngàn năm, Con Thiên Chúa từ trời cao đã xuống thế làm người và ở với chúng ta. Lễ Giáng Sinh là kỷ niệm ngày Người đến thế gian. Nếu hôm nay chúng ta nài xin Chúa ngự đến, điều đó không có nghĩa là Người đang vắng bóng trong cuộc sống của chúng ta. Không, Người đang hiện diện giữa cuộc đời đầy nhiễu nhương này, nhưng con người không biết đón nhận. Vì vậy, khát vọng mong Chúa đến phải đi liền với những cố gắng để mở rộng tâm hồn đón Người. Hơn nữa, đón Chúa không phải chỉ dừng lại ở những ý niệm và công thức, mà còn ở thiện chí sống đạo đức tốt lành và nhân ái với anh chị em mình. Những tâm hồn thiện chí sẽ được Chúa ngự đến. Khi ngự đến, Người sẽ ban cho họ ân sủng, hạnh phúc và niềm vui. Để đón Chúa, một điều kiện căn bản là phải tỉnh thức. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh người chủ và những đầy tớ. Những người đầy tớ được trao mỗi người một việc. Dù việc lớn hay nhỏ, dù quan trọng hay tầm thường, người đầy tớ nào cũng phải tỉnh thức và thận trọng. Tỉnh thức ở đây có nghĩa là chuyên cần với việc được trao và cố gắng làm theo ý của ông chủ. Tỉnh thức là lòng yêu mến, trân trọng đối với chủ mình. Tỉnh thức cũng là khôn ngoan chọn lựa cách sống giữa một xã hội giả thật lẫn lộn và đầy những mưu mô toan tính. “Hãy tỉnh thức!”, đó là thông điệp được gửi đến cho mọi người, bất luận già hay trẻ, sang hay hèn. Không biết lúc nào, nhưng chắc chắn sẽ có lúc Chúa đến gặp chúng ta. Nếu chúng ta mở rộng tâm hồn để đón Chúa hôm nay, thì cuộc gặp gỡ với Chúa vào lúc cuối đời sẽ là cuộc gặp gỡ của hạnh phúc và niềm vui, giống như người đầy tớ chuyên cần tỉnh thức. Qua những tâm tình của Thánh Phaolô, cộng đoàn tín hữu ở Côrinto được diễn tả như những người tín hữu đạo đức, đầy đủ mọi đức tính tốt đẹp của người Kitô hữu. Vì vậy, ngài coi họ như những người đang sẵn sàng đón Chúa ngự đến (Bài đọc II). Mùa Vọng đã về. Tại nhiều xứ đạo, đã bừng lên một bầu khí hân hoan vui nhộn. Tuy vậy, những bài thánh ca du dương cùng với những mô hình hang đá lộng lẫy chỉ có ý nghĩa khi chúng giúp chúng ta đón Chúa. Chúa Giêsu đã đi vào lịch sử cách đây hơn hai ngàn năm. Người đang đi qua cuộc đời chúng ta, qua mỗi gia đình, mỗi xứ đạo và mỗi cá nhân. Những ai đón tiếp Người sẽ dư tràn hạnh phúc. Ai khước từ Chúa sẽ bất hạnh khổ đau. Lạy Chúa, chúng con cần đến Chúa để soi sáng hướng dẫn và phù trợ chúng con trên những nẻo đường đời. Xin Chúa ngự đến tâm hồn và cuộc sống chúng con, nhờ đó cuộc đời chúng con bừng lên ánh sáng của niềm hy vọng, giữa tăm tối đau thương của cuộc đời. Amen.
Vọng theo một trong những ý nghĩa là trông đợi, chờ đợi ở tương lai. Nói đến vọng này, ai chúng MV 1-B186
Vọng theo một trong những ý nghĩa là trông đợi, chờ đợi ở tương lai. Nói đến vọng này, ai chúng ta cũng đều có những ước mong, trông đợi. Điều ước mong, chờ đợi ấy là điều vui, tốt đẹp, tươi sáng hơn hiện tại. Thế nhưng vẫn có những vọng ảo, vọng ngã, vọng chấp, hãy tắt dần đi để Chúa đến thắp sáng cho cuộc đời
Mùa vọng, trong phụng vụ Kitô giáo nhắc đến hai điều: Chuẩn bị tâm hồn kỷ niệm Chúa Giáng Sinh. Mong đợi Chúa sẽ đến vào ngày quang lâm.
Dọn tâm hồn:
Sứ điệp Chúa Giáng Sinh, không chỉ là cõi lòng lâng lâng khi nghe những bản Thánh Ca như: Trời cao, Bên sông Babylon, Cao cung lên, Đêm Thánh vô cùng hoặc Hang Bêlem… Rộn ràng nhưng không thiếu phần nhìn lại năm tháng đã qua theo sứ điệp của Gioan Tẩy Giả: “Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.” (Lc 3, 4 – 6).
Như vậy, vọng về phía trước, mừng Chúa Giáng Sinh cần có một cái nhìn thực tại về quá khứ để thấy ra được con đường để sửa lối. Dọn tấm lòng để Chúa ngự đến.
Vọng tưởng. Có nhiều thứ cần dọn dẹp trong đời sống, bởi vì vọng cũng có một nghĩa khác là vọng tưởng. Bao giờ cái tưởng như thế là cái không tưởng, không thật. Vì nó không thật nên khi vọng chờ trở nên thất vọng hoặc dẫn đến đổ vỡ. Dẹp cái tưởng, không tưởng ấy đi, cần trở về với thực tại nhiều hơn, soi vào chính mình, chứ không soi vào người khác, đi tìm về chính mình để biết mình nhiều hơn để tránh cái vọng tưởng nhiều hơn.
Vọng ngã là cái vọng tự nhiên của con người sống kỳ vọng về chính mình: Ước muốn sống lâu hơn, dồi dào hơn về vật chất hay tinh thần hoặc sức khỏe, vọng tới tương lai, vọng về quá khứ. Vọng ngã dẫn tới hệ lụy buồn phiền, sầu não vì cuộc đời không được như ý, tiếc nuối những gì đã qua, đôi khi còn dẫn tới trí trá, lừa dối, ghen tỵ… để gian tham đạt tới cái cuồng vọng. Vọng ngã gây phiền muộn, có khi vì mơ ước sức khỏe tốt hơn, nhưng thân này cứ mang bệnh tật; ước mong khá giả hơn nhưng cứ nghèo túng; có được tiếng tốt hơn nhưng cứ bị người đời cười chê…Kỳ vọng mà không được thì sinh ra phiền muộn, đau khổ.
Vọng ngã là quy về cái “tôi” ích kỷ của mình, mà cái ích kỷ bao giờ cũng mang đến sự cô lập, buồn phiền và đôi khi là tự mãn.
Vọng chấp là cái vọng so sánh mình với người khác: Không được như người hoặc tự khoe khoang hơn người, cả hai thái độ so sánh đều khập khiễng vì mang những hệ lụy khổ đau phiền muộn. Thái độ so sánh thua kém mang tính mặc cảm tự ty, một đau khổ âm thầm day dứt con người thấp bé, một thái độ khác mang sắc thái tự tôn khiến cản trở không tiếp nhận gì được nơi người khác khiến chính mình tự làm nghèo đi trong cuộc sống.
Đón Mừng Chúa Giáng Sinh
Có bốn Chúa Nhật mùa Vọng được biểu hiện bằng vòng hoa, kết bằng thông xanh, điểm lên đó hoa, quả thông, và ba cây nến màu tím và cây nến mầu hồng, mỗi tuần thắp lên một cây. Riêng tuần thứ ba, thường gọi là Chúa Nhật Hồng, biểu hiện của niềm vui Chúa sắp đến viếng thăm dân Người.
Ý nghĩa của vòng thông xanh, vừa biểu hiện vòng nguyệt quế của chiến thắng. Trong bóng đêm của trần thế đau thương, khắc khoải chờ đợi. Chúa đến hiển trị vinh quang khiến cả trời đất reo lên: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời – Bình an dưới dưới thế cho người thiện tâm”. Màu xanh của cây thông vẫn xanh tươi dầu những loài khác đã rụng lá để lại những cành khẳng khiu. Màu xanh của niềm hy vọng được cứu rỗi vẫn xanh tươi trong muôn lòng nhân thế dù tội lỗi dường như đang vây quanh “rình mồi cắn xé” (1Pet 5, 8).
Chúa đến là dấu chỉ chắc chắn cho niềm hy vọng cho nhân loại. Bốn cây nến lần lượt được thắp lên, như ánh sáng Thiên Chúa dần dần qua dòng thời gian sẽ được sáng lên, xua tan những tăm tối đối với những người đang mong tìm gặp Chúa. Niềm vui khai mở nơi con người từ hoang địa bước ra cho đến khi được đón nhận trong lòng Đức Maria và cuối cùng Con Thiên Chúa được sinh ra cho nhân loại.
Với tiến trình của Mùa vọng, chúng ta được nhắc trở về với Chúa thực sự để Chúa được sinh ra nơi tâm hồn mỗi người. Vì câu truyện Giáng Sinh vẫn nhắc chúng ta một điều: “Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2, 7).
Origene thành Alexandria đã chia sẻ một cảm nghiệm sâu xa: “Nếu Chúa sinh ra ngàn lần trong hang đá mà chưa bao giờ sinh ra trong lòng bạn nào có ích gì?”
Tâm hồn vọng ngóng mong chờ, Nguyện cầu tỉnh thức, tôn thờ Chúa Cha. Một niềm hy vọng MV 1-B187
Tâm hồn vọng ngóng mong chờ, Nguyện cầu tỉnh thức, tôn thờ Chúa Cha. Một niềm hy vọng mưa sa, Ban ơn Cứu Độ, thứ tha tội tình. Chúa Con xuống thế liều mình, Làm người giáng thế, hết tình vì yêu. Ngôi Lời nhập thể huyền siêu Xả thân chuốc lấy bao nhiêu khổ hình. Tình yêu mời gọi đáp tình, Vọng canh thức tỉnh, xét mình trước tiên. Tránh xa lầm lạc tội khiên, Dọn đường đón Chúa, vọng thiên cứu đời. Ân thiêng phúc lộc cao vời, Cung lòng sưởi ấm, Ngôi Lời giáng sinh.
Cử hành Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, chúng ta bước vào năm Phụng Vụ mới của Giáo Hội. Năm nay chúng ta sẽ lắng nghe Lời Chúa, năm B. Khởi đầu Mùa Phụng Vụ, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn.
Đôi khi chúng ta thức mà không tỉnh. Cuộc sống của chúng ta trở thành thói quen và ngày này qua ngày khác sinh hoạt giống nhau. Một ngày giống như mọi ngày. Sáng sớm chúng ta thức dậy lo mọi việc như đi lễ, đi làm, đi học,.. xong mọi công việc về gia đình chia sẻ bữa cơm và ngủ nghỉ. Thế là hết một ngày. Thời gian thấm thoát qua mau chẳng đợi chờ ai.
Nhìn trời Thu lá rụng, chúng ta thấy giật mình. Thời tiết chuyển đổi và khí trời xe lạnh. Mới ngày nào, hoa lá còn xanh mơn mởn và cây cành xum xuê mà nay đã đổi mầu và lá rụng xuống. Cả lá già lẫn lá non đều rơi rụng. Lá rụng về cội. Cuộc sống của mỗi người chúng ta cũng đang đổi thay như thế. Mỗi ngày sống là chúng ta đi gần về cội nguồn.
Mùa Vọng về mang lại cho chúng ta một niềm Hy Vọng. Hy vọng trong đợi chờ. Trông chờ Chúa ghé thăm tâm hồn. Thực ra, Chúa Giêsu đã giáng sinh hơn 2000 năm trước rồi. Vậy chúng ta trông chờ chi nữa? Chúng ta trông chờ Chúa ghé thăm tâm hồn mỗi người và Chúa cũng sẽ đến lần thứ hai để đón nhận chúng ta. Lần Chúa viếng thăm này đòi chúng ta phải tỉnh thức. Tỉnh thức như người lính gác trông chờ rạng đông.
Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ và những lôi cuốn quyến rũ trong cuộc đời. Phải tỉnh thức như khi chúng ta đang lái xe, luôn nhìn trước ngó sau, chân ga chân thắng sẵn sàng và tay lái vững vàng dẫn đường ta đi. Cầu nguyện trong tỉnh thức cũng thế, phải luôn sắn sàng vì chúng ta không biết ngày giờ Chúa viếng thăm.
Lạy Chúa, mỗi ngày là một ngày mới. Xin Chúa giúp chúng con biết sống và tỉnh thức cầu nguyện luôn, để chuẩn bị tâm hồn mong chờ Chúa đến.
Mùa Vọng lại về. Điệp khúc, cũng chính là sứ điệp mùa Vọng lại vang lên: “Hãy tỉnh thức”. Gọi MV 1-B188
Mùa Vọng lại về. Điệp khúc, cũng chính là sứ điệp mùa Vọng lại vang lên: “Hãy tỉnh thức”. Gọi là điệp khúc vì nó quen thuộc. Quen thuộc như hơi thở của bản thân.
Hôm nay, Chúa Nhật thứ I mùa Vọng, lại một lần nữa, chúng ta lắng nghe lời Chúa dạy: “Các con phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì các con không biết khi nào thời ấy đến” (Mc 13, 33).
Như hơi thở cần cho sự sống thế nào, điệp khúc và sứ điệp mùa Vọng: “Hãy tỉnh thức” cần thiết đến vô cùng như thế, để đưa ta vào nếm hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Bởi sống trong đời, biết mình là Kitô hữu nhưng không tỉnh thức, không cầu nguyện, đồng nghĩa với việc ta chỉ mang danh Kitô hữu mà không thực là Kitô hữu.
Tỉnh thức giúp ta cảnh giác thói hư tật xấu, cảnh giác tội lỗi, không để những cái xấu thế trần ảnh hưởng, hoặc làm mất đi sự thánh thiện trong tâm hồn. Nói cách khác, tỉnh thức là biết ăn năn thống hối, biết dọn tâm hồn bằng một đời sống nhân đức để Chúa có thể chiếm ngự tâm hồn, và tâm hồn thuộc về Chúa.
Tôi muốn giới thiệu một khuôn mặt thánh nhân, tuy không mừng kính vào mùa Vọng, nhưng với tôi, đó là khuôn mặt đáng yêu giúp ta noi gương bắt chước sống tinh thần mùa Vọng suốt đời mình. Đó chính là thánh Phanxicô Assisi.
Bằng con đường riêng, thánh nhân sống lời mời gọi của Tin Mừng theo sát mặt chữ: Từ một thanh niên giàu sang, phung phí, thánh nhân trút bỏ mọi sự để nên nghèo khó. Nghèo đến nỗi hoàn toàn trần trụi, không còn gì.
Kể từ khi quyết trút bỏ, đời của chàng trai Phanxicô là cuộc hành trình dài (chứ không phải chỉ một vài năm tháng) đi đến tận cùng của sự nghèo khó, để tiến về đích điểm cao trọng không ai bằng, đó là trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô.
Từ khi Phanxicô bắt gặp chân lý đức tin, người ta phải ngỡ ngàng trước thái độ đổi đời quá ngoạn mục của một chàng trai giàu có, phóng túng.
Bắt gặp chân lý đức tin rồi, chàng trai – vị thánh ấy đã ôm chặt bên mình chân lý ấy, say trong chân lý ấy.
Đúng hơn, từ khi bắt gặp chân lý đức tin, Phanxicô luôn tỉnh thức, luôn hiến thân hoàn toàn để được gắn chặt đời mình vào cuộc đời và Lời Chúa Kitô. Gắn chặt đến nỗi, suốt một đời tỉnh thức, vị thánh chìm đắm trong chiêm niệm, tắm mình hoàn toàn trong ơn Chúa, kết hiệp hoàn toàn với thập giá Chúa Kitô.
Phanxicô đã trút bỏ hết sức, đã bước ra, để từ một chàng trai giàu có thành người nghèo khó; Từ một thanh niên phung phí, lêu lỏng trở nên khí cụ bình an đem nguồn bình an cho tâm linh con người; Từ một kẻ sống gần sự tội, trở thành chứng nhân và thành thánh nhân của Thiên Chúa; Từ một người chỉ biết hoạt động và ngụp lặn trong đời, trở thành nhà cầu nguyện tài ba. Nhờ đó, con người yếu kém của Phaxicô đã đổi đời, trở nên khuôn mặt khả ái phản chiếu lớn lao tình yêu của thiên Chúa…
Đặc biệt thời gian cuối đời, thánh nhân ẩn lên núi Alverne để nên một với Đấng-Chịu-Đóng-Đinh, đến độ năm dấu thánh thể hiện trên chi thể của thánh nhân, như một bằng chứng không thể tả cho cả một đời trút bỏ mà thánh nhân đã sống.
Thế nhưng trong hình hài đớn đau của nỗi đau thập giá Chúa Kitô khắc vào thân thể mình, và hầu như mù lòa, Phanxicô vẫn ca ngợi Thiên Chúa bằng tâm tình tạ ơn, đặc biệt qua Bài Ca Vạn Vật, một tuyệt tác của con người thần bí, nhìn thấy dấu vết của Thiên Chúa trong mọi tình huống của cuộc đời…
Chính tâm hồn thánh thiện, phản chiếu sâu đậm tình yêu và lòng nhân từ của Thiên Chúa nơi thánh Phanxicô Assisi, chiếu rọi vào cuộc đời mỗi Kitô hữu, giúp họ trưởng thành trong sự tỉnh thức.
Cũng vậy, một khi thực sự sống sứ điệp và điệp khúc của mùa Vọng: “Hãy tỉnh thức”, chúng ta cũng sẽ trở nên đồng hình đồng dạng hoàn toàn với Chúa Kitô, Chúa chúng ta.
Tỉnh thức luôn luôn, tỉnh thức suốt đời mình, ta sẽ không còn dễ bị ru ngủ bởi những hoan lạc trần thế. Sẽ không còn tình trạng trì trệ, nặng nề, say sưa, thói nuông chiều thân xác… lôi kéo ta xa rời tình yêu của Chúa.
Như chính Lời Chúa mời gọi, như Hội Thánh hằng nhắc lại để dạy ta, như thánh Phanxicô và nhiều anh chị em khác trong Hội Thánh đã sống, ta quyết một lòng sống một đời trong sự “tỉnh thức”.
Sáng sớm tinh mơ, làn gió nhẹ đu đưa những lá cây. Các chú thỏ không ngừng nhảy nhót. Một tiếng MV 1-B189
Sáng sớm tinh mơ, làn gió nhẹ đu đưa những lá cây. Các chú thỏ không ngừng nhảy nhót. Một tiếng nói vang lên:
– Các bạn ơi đến nơi rồi, điểm danh thôi. – Anh Tít ơi! còn thiếu anh Tò. – A! khi nãy tớ thấy nó còn trong một cái hang nào đó. – Thế à, hy vọng anh Tò sẽ đến.
Rồi các chú thỏ tíu tít đùa giỡn với nhau. Chúng như đang chờ đợi bạn mình tới. Trông chúng thật giống chúng ta. Chúng ta cũng bắt đầu bước vào Mùa Vọng. Mùa của mong chờ và hy vọng vào Thiên Chúa. Để sống niềm hy vọng ấy, chúng ta phải luôn tỉnh thức trước cuộc sống của mình và hằng sẵn sàng chờ đợi Chúa đến.
Vậy vì sao chúng ta phải tỉnh thức? Như Chúa Giêsu đã nói: “Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến” cũng như “Anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến” (Mc 13,33-35). Là những con người hèn mọn và yếu đuối, chúng ta có khi tỉnh mà không thức hay có lúc thức mà không tỉnh. Đôi khi chúng ta tỉnh về điều này, nhưng lại mê muội về điều kia. Từ đó, chúng ta dễ rơi vào những lối sống nguy hiểm. Bởi vậy, Mùa Vọng là dịp chúng ta có cơ hội xét lại chính bản thân mình. Chúng ta xem xét về điều gì? Chiếc xe đang chạy trên đường. Bỗng nó dừng lại, chúng ta vội ngồi xuống xem nó thế nào. Hay một đàn heo được ăn uống như nhau, nhưng có con vẫn không lớn được. Chủ chăn vội vàng tìm hiểu lý do vì sao. Còn chúng ta, chẳng ai hoàn những con người không bao giờ hoàn hảo, chúng ta cũng cần phải xem xét lại lối sống của chúng ta với Thiên Chúa, với mọi người và với chính mình.
Chúng ta sống là để làm việc, và chúng ta có quyền, có tự do trong công việc chúng ta đang làm. Nhưng chúng ta không để cho công việc làm giảm lòng yêu mến Chúa của mình. Vì bản thân, có lúc chúng ta ít quan tâm đến mọi người xung quanh, hay chê bai, phê phán. Chúng ta thường thích đánh giá những gì chúng ta nhìn thấy trước mắt mà không tìm hiểu nguyên do tại sao nó lại như vậy. Đôi khi chúng ta cứ lo làm đẹp lòng mọi người mà không lo làm đẹp lòng Thiên Chúa. Và cứ như vậy, chúng ta dễ dàng sống trong vòng xoáy của sự hiểm nguy. Nhưng nguy hiểm nhất là chúng ta không nhận ra mình đang ở trong tình trạng nguy hiểm nào. Chỉ một chút quá đà của chúng ta sẽ gây ra sự bất ngờ khi Chúa đến. Chỉ một chút hụt hẫng, chúng ta sẽ rơi vào cảnh trống vắng nội tâm, dễ bị ma quỷ khống chế. “Chúng thấy nhà bỏ trống lại được quét tước trang hoàng hẳn hoi. Nó liền đi kéo thêm bảy thần khác dữ hơn nó và chúng vào ở đó. Rốt cuộc tình trạng của người ấy còn tệ hơn” (Mt 12,44-45). Bởi thế, Chúa Giêsu nói: “Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là phải canh thức!” (Mc 13,37).
Lạy Chúa, thân phận chúng con Ngài thấu rõ. Dầu chúng con có cố gắng đi nữa cũng không tự mình thoát khỏi lỗi lầm. Nhưng vì tình yêu Chúa, chúng con xin Chúa ban cho chúng con lòng kiên nhẫn, sự ý thức và nhìn thấy mọi hành vi của mình trong ngày sống. Nhờ đó, dù Chúa đến lúc chập tối hay nữa đêm, lúc gà gáy hay rạng sáng, chúng con đều tỉnh thức mà đón rước Ngài. Amen.
Hai chị em đi lễ về, ghé nhà cô chơi. Đêm nay hai chị em quyết phải canh thức đón giao thừa mới MV 1-B190
Hai chị em đi lễ về, ghé nhà cô chơi. Đêm nay hai chị em quyết phải canh thức đón giao thừa mới được. Nghe chúng bạn khoe đón giao thừa xem bắn pháo hoa đẹp lắm nên hai chị em cũng háo hức quá.
– Cô ơi! Khi nào đến giao thừa thì cô thức chúng cháu dậy xem bắn pháo hoa nha cô.
Dặn dò cô rồi hai chị em leo lên giường ngủ ngon lành. Mới hơn mười giờ đêm thôi mà hai chị em đã ngủ gà ngủ gật. Thấy thương quá, cô mới khuyên hai chị em đi ngủ, khi nào tới giao thừa sẽ gọi. Ấy vậy mà vừa mở mắt ra, hai chị em đã thấy mặt trời lên từ hồi nào. Hai đứa tiếc nuối hỏi cô:
– Cô ơi, giao thừa đến chưa cô?
– Sáng rồi cháu ạ.
Giao thừa qua rồi thế là hết được nghe tiếng pháo nổ vui tai, hết được xem pháo bông rực trời. Tiếc ơi là tiếc.!
Hai chị em trong câu chuyện trên không thể thức để đón giao thừa, bỏ lỡ cơ hội được xem bắn pháo hoa. Ta cũng từng canh thức để đón đợi một điều gì đó. Có những khi ta đợi được và đón nhận được niềm vui nhưng cũng không ít lần ta bỏ lỡ cơ hội vì không thể chờ đợi lâu hơn.
Hôm nay, Thầy Giêsu nhắc nhở ta phải tỉnh thức và sẵn sàng. Ngày Con Người đến rất bất ngờ, không ai biết trước được. Nếu ta không kiên tâm chờ đợi thì ta cũng không thể sẵn sàng khi ngày Con Người đến. Thái độ tỉnh thức đòi hỏi ta luôn tỉnh, nghĩa là luôn biết phán đoán và nhận định để sống những tháng ngày đẹp lòng Chúa. Có nhiều khi ta thức nhưng không tỉnh, nghĩa là ta sống cho qua ngày đoạn tháng, không có mục đích sống, sống nặng nề mệt mỏi hoặc sống quá vội vã. Dường như những bận rộn của công việc hay những đam mê khiến ta quay cuồng, hay ngủ vùi trong những thành công ta đạt được. Tình trạng ngủ mê này khiến ta không quan tâm đến lời cảnh bảo của Thầy Giêsu: “Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức!” (Mc 13, 37). Ta không nghĩ mình đang ở trong tình trạng nguy hiểm. Có những người một đời vất vả mưu sinh rồi phất lên như diều gặp gió, người khác nhìn vào trầm trồ khen ngợi, khát mong, nhưng rồi bỗng một ngày đẹp trời, người ấy có dịp đi công tác xa rồi không bao giờ trở về nữa. Một tai nạn thật bất ngờ. Chẳng ai nghĩ rằng, sáng nay tôi ra đường là sẽ gặp điều bất trắc; và chắc chắn chẳng ai muốn nghĩ đến điều đó cả. Có khi, ngồi lên xe là ta bước lên một hành trình cuối cùng. Chẳng ai biết chắc rằng ngày mai tôi vẫn sống. Mỗi sớm mai thức dậy, ta từ từ mở đôi mắt, cảm nhận từng nhịp thở trong mình và biết chắc mình vẫn còn sống. Một ngày mới lại mở ra. Ta hăng hái bước vào cuộc đời. Hãy bước đi trong ý thức rằng, ta đang bước đi trong sự quan phòng của Thiên Chúa và dâng hết ngày sống này cho Thiên Chúa.
Một khi đã tỉnh thức để sống cuộc đời của chính mình, ta sẽ đạt được thái độ sẵn sàng. Vì biết rằng cuộc đời thật ngắn ngủi, ta quý trọng từng ngày sống. Mỗi ngày qua đi, ta nhìn lại những phút giây quý báo mà ta đã làm cho uổng phí đi để nhắc nhở mình cần phải ý thức hơn. Chúa luôn ban cho ta những cơ hội để ta thu tích kho tàng thiêng liêng, làm giàu trước mặt Chúa. Để luôn sẵn sàng, ta hãy sống kết hiệp với Chúa trong từng ngày sống. Có Chúa song hành, ta sẽ biết sống xứng đáng hơn. Có thiên thần Hộ Thủ nhắc nhở ta luôn, ta sẽ biết cách giữ mình khỏi những cám dỗ. Nếu như có sa chân té ngã, ta cũng mau mắn đứng dậy để bước tiếp.
Cuộc đời thật ngắn ngủi và ta chỉ có một lần để sống. Ta phải sống sao để luôn sẵn sàng trong ngày Chúa đến? Mặc dù biết rằng, được Chúa đón về là điều hạnh phúc nhưng ta vẫn sợ hãi. Bởi ta lo sợ sự phán xét thật nghiêm minh của Chúa. Ta lo sợ vì biết mình không xứng đáng. Có những khi sốt sắng, ta xin Chúa đón ta về nhưng vừa bệnh một chút là ta đã vội vã thuốc thang. Ta sợ chết. Cái chết dường như là kẻ thù đáng sợ nhất của ta. Quá lo sợ về cái chết mà ta quên mất rằng Thiên Chúa là chủ của sự sống. Ngài có quyền trên cái chết và cũng có quyền trên sự sống. Ngài sẽ ban sự sống cho những ai yêu mến Ngài. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Hãy chạy đến với Chúa và tin tưởng nơi Ngài.
Lạy Chúa! Con nghĩ rằng con đang tỉnh thức nhưng thật ra con vẫn lo sợ khi nghĩ đến cái chết. Con không biết được con sẽ chết ngày nào, giờ nào, chết trong tình trạng nào. Chúa luôn yêu thương con và Chúa muốn con tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến để được chung phần hạnh phúc với Chúa. Xin Chúa thức tỉnh con luôn, kéo con ra khỏi cơn mê, sửa dạy con dù nhiều khi sẽ làm con đau đớn. Xin Chúa giữ lại tình yêu trong tâm hồn con và làm cho tình yêu ấy được triển nở. Amen.
Mọi người chúng ta đều đã từng kinh qua kinh nghiệm về sự chờ đợi. Một người vợ thức đêm trằn MV 1-B191
Mọi người chúng ta đều đã từng kinh qua kinh nghiệm về sự chờ đợi. Một người vợ thức đêm trằn trọc đợi chồng đi xa trở về. Đôi tình nhân đợi chờ giây phút hẹn hò bên nhau với bao rạo rực xao xuyến. Những bạn công nhân tha phương vẫn ngong ngóng đợi chờ ngày tháng qua mau để mong tết đến được về quê xum họp. Có những cuộc chờ đợi với bao xốn xang rộn rã, ngược lại cũng có những phút giây đợi chờ trong tuyệt vọng và chán chường. Dầu sao, bất cứ sự đợi chờ nào cũng làm cho thời gian như chùng lại, từng giờ từng khắc qua đi tựa như cả một thế kỷ dài đằng đẵng. Tất cả đều lệ thuộc vào tâm trạng và thái độ của những kẻ đợi chờ.
Mùa vọng là mùa chờ đợi, điều này ai cũng biết. Nhưng chờ đợi ai, chờ đợi những gì và mong đợi như thế nào, không phải ai cũng biết và thực hành. Các bài đọc Lời Chúa khởi đầu mùa vọng hôm nay sẽ gợi mở để giúp chúng ta thấu triệt những điều ấy.
Chờ đợi Đấng sẽ đến
Hạn từ Adventus (mùa vọng) mang chở ý nghĩa này. Người tín hữu chúng ta đang mong chờ, nhưng không phải chờ đón một biến cố hay một sự kiện sẽ xảy ra. Chúng ta chờ đợi một ‘Con người’. Con người đó là chính Đức Giêsu, Đấng Thiên Chúa làm người và cũng là Đấng Cứu thế. Ngài đã đến trần gian cách đây 2000 năm. Ngài cũng đang đến trong từng biến cố của cuộc sống đời thường chúng ta. Đồng thời Ngài sẽ đến, sẽ trở lại trong ngày chung thẩm để phán xử vũ trụ, khóa sổ trời cũ đất cũ và khai mở một trời mới và đất mới. Trong Tông huấn ‘Tiến về Thiên niên kỷ thứ ba’ (Tertio Milennio Adveniente), Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã diễn tả cuộc lữ hành đức tin của chúng ta như một mùa vọng lớn. Mỗi khi cử hành Thánh lễ, Giáo hội khơi dậy cảm thức đức tin và thắp lên niềm hy vọng khi mời gọi chúng ta tuyên tín: “ Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”. Đức Kitô là đối tượng của đức tin, cũng là điểm quy chiếu của đức cậy giúp chúng ta canh tân mỗi ngày niềm hy vọng của những lữ khách trên con đường tiến về quê hương. Chúng ta vẫn hằng ngày cầu xin Chúa ban bình an, gìn giữ chúng ta khỏi vương tội lỗi, được an toàn giữa những biến loạn, đang khi mong đợi niềm hy vọng hồng phúc, và ngày trở lại của Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu độ chúng ta. Như vậy Giáo hội lữ hành hôm nay đóng vai một tân nương chờ đón đức lang quân của mình. Trong suốt mùa vọng, Giáo hội mượn lời kết trong sách khải huyền để dạy chúng ta thưa lên với Chúa tâm tình cầu nguyện: “ Maranatha, lạy Chúa Giêsu xin hãy đến”.
Chờ đợi trong hi vọng
Trên thế giới ngày nay hiện có hai khối người đang sống cùng một niềm hy vọng chờ đợi, đó là tín hữu Do thái và các Kitô hữu. Người Do thái vẫn mong chờ Đấng Messia như lời các ngôn sứ đã loan báo, đặc biệt dựa vào lời tiên báo trong sách ngôn sứ Isaia, nhưng họ không tin nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu thế. Còn đối với Kitô hữu chúng ta, Đức Giêsu Kitô chính là Đấng đã đến trần gian để quy tập dân Irael tản mác từ khắp bốn phương và khai lập một vương quốc mới, vương quốc của thời thiên sai. Ngài đã đến để thực hiện kế hoạch cứu độ, và ơn cứu độ này sẽ đạt đến viên mãn trong ngày Người trở lại lần thứ hai để khóa sổ vũ trụ. Mùa vọng là thời gian giúp chúng ta tái hiện tâm thức hy vọng trong chờ đợi. Niềm hy vọng chính là chìa khóa then chốt để chúng ta sống tinh thần của mùa phụng vụ này.
Một triết gia đã nói: “Một tôn giáo không đem lại cho ta niềm hy vọng, không phải là một tôn giáo đáng để chúng ta tin theo”. Đúng như thế, không có hy vọng, chúng ta sẽ bị nhấn chìm trong bóng tối của sự chết và hủy diệt. Một con người có thể sống mà chưa có tình yêu, nhưng không ai có thể tồn tại nếu không hy vọng mình sẽ biết yêu và sẽ được yêu. Trong những năm tháng tù ngục, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã viết cuốn sách tựa đề ‘Con đường hy vọng’ để diễn tả cuộc hành trình đức tin trong những thời điểm đen tối nhất của cuộc đời Ngài. ‘Vui mừng và hy vọng’ cũng chính là khẩu hiệu Ngài chọn khi được tấn phong Giám mục. Niềm hy vọng Ngài nói đến không phải là một mơ ước hão huyền hay mông lung, nhưng đó là một trong ba nhân đức đối thần : Tin – Cậy- Mến, quy chiếu vào chính Đức Giêsu, Đấng đã đến để cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Mỗi khi có dịp cử hành Thánh lễ một cách lén lút trong căn phòng chật chội và tối tăm của nhà tù, Ngài vẫn khơi lại nơi mình niềm hy vọng, đặc biệt khi cầm Mình Thánh Chúa trên đôi tay chai sạn với chiếc áo tù sờn cũ. Ánh sáng hy vọng đó là sức mạnh sâu xa, giúp Ngài vượt qua những ngày tháng đen tối nhất.
Cha Teilhard Chardin, một linh mục dòng Tên cũng đã viết: “ Ngóng đợi là nhiệm vụ hàng đầu của Kitô hữu, và là nét nổi bật nhất để hiển thị đức tin. Người Kitô hữu luôn phải sống trong sự đợi chờ với niềm tin và hy vọng”. Thái độ chờ đợi của người tín hữu không phải là sự mỏi mòn trong tuyệt vọng giống như một tên tử tội khiếp sợ đợi chờ giây phút bị đem đi hành quyết. Trái lại, chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của một cô dâu chờ đón chú rể đến giữa đêm khuya để tiến vào phòng cưới, tham dự ‘Tiệc Cưới Chiên Con’ cùng với Đấng đã chiến thắng tử thần và khải hoàn trong vinh thắng.
Chờ đợi trong tỉnh thức và sẵn sàng
Đây là sứ điệp mà cả ba bài đọc trong phụng vụ hôm nay nhắn gửi đến chúng ta. Trong phần kết luận của bài Tin mừng, sau khi tiên báo về ngày chung thẩm, Chúa Giêsu nhắc nhở : “ Vậy anh em hãy canh thức vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến”. Đồng thời Chúa cũng khuyến mời chúng ta đừng ngủ mê trên chè chén say sưa hay những lo toan trần thế, giống như dân chúng thời Noe năm xưa. Trong bài đọc 2, Thánh Phaolô cũng nhắc nhớ dân thành Rôma phải ‘thức dậy’, đừng ngủ mê trên những việc làm đen tối, vì ngày cứu độ đang gần tới. Chúa đến để đem ơn cứu độ cho trần gian. Ơn cứu chuộc được dàn trải trên tất cả mọi người và Đức Giêsu đã tiến nhận cái chết để khai mở nguồn mạch cứu độ bất tận ấy. Nhưng hồng ân cứu độ chỉ thực sự hoàn tất khi Chúa đến lần thứ hai, khai mở trời mới đất mới và thiết lập vương quốc vinh hiển của Ngài. Vì vậy không chỉ trong mùa vọng kéo dài bốn tuần lễ, nhưng trong suốt cả mùa vọng lớn là trọn cuộc hành trình lữ thứ trần thế, chúng ta luôn phải sống với thái độ thức tỉnh và sẵn sàng.
Cách đây gần 30 năm, có một trận động đất dữ dội xảy ra tại California, Hoa kỳ. Một cô gái trẻ bị vùi lấp trong đống đổ nát, và người ta lập tức chuyển ngay cô vào bệnh viện. Trước đây cô ta sống trong một gia đình khá đạo đức, nhưng từ khi lấy chồng, sự giầu có đã làm cô gái lạc mất định hướng cuộc đời mình. Cô ta sống phóng túng như một kẻ vô thần. Nằm trên giường cấp cứu, cô gái cố gắng thu gom hết tàn lực cuối cùng để hỏi bác sĩ :“ Liệu tôi có qua khỏi hay tôi còn sống được bao lâu nữa?” Bác sĩ thành thật nói với cô ta rằng ông cố gắng lắm chỉ giúp cô sống thêm được vài tiếng đồng hồ nữa thôi. Nghe nói thế, cô gái ôm mặt khóc nức nở và đau đớn thốt lên: “ Ôi muộn quá rồi”. Có lẽ rất nhiều người trong chúng ta cũng sẽ phải thốt lên câu này khi đối diện trước cái chết. Thánh Gioan Bosco vẫn tổ chức tĩnh tâm hàng tháng cho các học sinh và Ngài gọi đó là ‘Ngày dọn mình chết lành’. Đây không phải là một động thái mang tính tâm lý, nhưng là một việc thực hành trong đức tin. Chúa Giêsu cũng nói với chúng ta hôm nay : “Anh em hãy sẵn sàng vì chính lúc anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.” ( Mt 24, 44 )
Chúng ta nhớ lại giai thoại về tướng quân Archais của Hy Lạp năm xưa. Ông là một vị tướng giỏi, đánh trận nào thắng trận đó. Sau một trận thắng lớn, ông khao quân lính một bữa tiệc thịnh soạn. Giữa cuộc vui, một sứ giả đem đến cho ông bức thư khẩn và báo tin là ông đang bị mưu sát để biết cách đề phòng. Thay vì mở thư ra đọc và cảnh giác, ông nhét thư vào túi, vẫn tiếp tục nhậu nhẹt và tự nhủ : “ Thôi để mai hãy tính”. Ngay đêm đó, ông bị giết chết. Câu chuyện gợi nhắc sứ điệp mà các bài đọc Lời Chúa hôm nay mang chở. Những gì cần phải làm hôm nay, đừng để đến ngày mai.
Kết luận
Thánh Phanxico Salêsiô đã viết “ Thời để sống là lúc chúng ta đi tìm kiếm Thiên Chúa. Thời để chết là lúc chúng ta đến gặp gỡ Ngài. Thời vĩnh cửu là lúc chúng ta sẽ chiếm hữu Ngài cách trọn vẹn”. Hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào mùa vọng, một mùa vọng nhỏ trong một mùa vọng khác lớn hơn. Mùa vọng là thời gian chúng ta đi tìm kiếm Thiên Chúa và mong đợi Ngài đến. Chúa sẽ đến để đem ta đi vào vĩnh cửu trong sự hiệp thông và gắn kết trọn vẹn với Ngài. Nhưng, ngày mai bắt đầu từ ngày hôm nay. Trời mới và đất mới của ngày mai đang bắt đầu với cuộc sống hiện sinh của chúng ta tại đây và ngay bây giờ. Chúng ta sống làm sao thì sẽ chết như thế. Chúng ta hãy sống theo lời dạy của thánh Phaolô trong bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay: “ Anh em hãy ăn ở cho đúng đắn như người đang sống giữa ban ngày” (Rm 13,13). Sống giữa ban ngày là thời điểm có ánh sáng mặt trời soi chiếu. Xin ánh sáng của Đức Giêsu là mặt trời công chính luôn tỏa sáng trên tâm hồn mỗi người chúng ta.
Lạy Chúa, Những bài Thánh Ca mùa Giáng sinh lại đang vang lên tại mỗi gia đình “Mùa đông năm MV 1-B192
Lạy Chúa, Những bài Thánh Ca mùa Giáng sinh lại đang vang lên tại mỗi gia đình “Mùa đông năm ấy sao sáng soi cuối trời, mùa đông năm ấy Con Chúa sinh xuống đời. . .”. Đông về, một chút cái lạnh hiếm hoi len về thành phố vùng nhiệt đới này làm lòng con cũng mềm đi theo tiếng nhạc, theo thời tiết. Nhưng chính tiết đông này báo hiệu cho một năm Phụng vụ mới, một Mùa Vọng mới lại đến với Giáo hội .
Mùa Vọng, mùa trông đợi. MùaVọng, mùa của những tiếng vọng lên trời.
“Trời cao hãy đổ sương xuống , Và ngàn mây hãy mưa đấng chuộc tội”
Từ hàng ngàn năm trước, nhân loại đã vang lên tiếng khẩn cầu mong chờ một Đấng Thiên Sai để giải thoát con người khỏi xiềng xích nô lệ. Và Người đã đến. Người đến không với tư cách một minh chủ, một lãnh tụ trần thế nhưng là một Thiên Chúa Tình Yêu dành cho hết mọi người. Chính Người đã để lại cho nhân loại một thông điệp :”Yêu thương và yêu thương cho đến cùng “.
Hơn 2000 năm qua đi, bản thông điệp Tình yêu ấy vẫn mãi mãi mang tính thời sự. Tình yêu ấy vẫn được triển nở cho đến ngày Người lại đến. Khi ấy mọi người, mọi dân tộc trên trái đất này sẽ qui tụ về làm một .
Để chờ ngày ấy đến với từng người, vì không thể biết khi nào, lúc nào thời ấy đến? Lời Chúa trong Tin mừng hôm nay nhắc cho con: “Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức vì anh em không biết khi nào thời ấy đến. . .Vậy anh em phải canh thức,vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng “.
Xin cho con trong lúc trông chờ ngày trở lại của Chúa, con luôn biết canh thức để nhận ra lời Chúa thôi thúc mỗi ngày: Sống với Chúa và với anh em, luôn sẵn sàng đáp trả tiếng gọi của Tình yêu Chúa. Xin cho con luôn có tinh thần vui tươi, phấn khởi vì nhận được Lòng thương xót của Chúa đến với mọi người và với con .
Xin cho lòng chúng con luôn khát vọng chờ mong Chúa đến, Xin cho lòng chúng con luôn thấm đượm một tình yêu mến. Xin cho lòng chúng con , luôn ước ao, luôn khát khao, Một thế giới mến yêu dạt dào, Một thế giới không còn khổ đau. Maranatha, Lạy Chúa xin hãy đến . AMEN .
Mùa Vọng chuẩn bị cho chúng ta mừng Lễ Giáng Sinh. Phụng vụ Mùa Vọng làm sống lại lịch MV 1-B193
Mùa Vọng chuẩn bị cho chúng ta mừng Lễ Giáng Sinh. Phụng vụ Mùa Vọng làm sống lại lịch sử của dân Ítraen, nhắc chúng ta rằng tất cả lịch sử đó đều hướng chúng ta đến với Đức Giêsu. Vì thế, Mùa Vọng là thời gian thức tỉnh để chờ đợi ngày Chúa đến lần sau hết, và cũng là ngày chờ đợi Chúa đến với mỗi người chúng ta vào giờ chết. Cả hai thời điểm đó đều đang ẩn giấu; vì thế, chúng ta phải luôn ở trong trạnh thái thức tỉnh sẵng sàng gặp Chúa vào bất cứ lúc nào. Như lời Đức Giêsu đã căn dặn: “ Vậy anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng. Anh em phải canh thức, kẻ lỡ ông chủ đến bất thần, gặp anh em đang ngủ.”
“ Như người kia trẩy đi phương xa, để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ của mình, chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức.” Tù đó Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta phải biết thức tỉnh và cảnh giác tâm hồn để chờ ông chủ là Đức Kitô sẽ trở lại vào ngày cánh chung.
Ông chủ đi vắng:Đức Kitô về trời. Ngài đã thiết lập Hội Thánh và trao quyền và trách nhiệm cho các môn đệ tùy phận vụ của mỗi người.Thức tỉnh và canh giữ ngôi nhà của Ngài cho đến ngày lại đến là bổn phận của chúng ta.Thức tỉnh và canh giữ không có nghĩa là thụ động ngồi đó, nhưng phải tích cực hoat động. Lơ là, buông lỏng trách nhiệm là không chu toàn bổn phận; vì thế,các đầy tớ phải luôn thức tỉnh trong phận vụ của mình. Đó là trạng thái thức tỉnh nơi tâm hồn mỗi người.
Đời sống của chúng ta có những lúc như đi trong bóng đêm, khi chúng ta chiều theo những đam mê dục vọng của thân xác, của ý riêng, khi quên đi những bổn phận của con dân Nước Trời. Đêm tối gợi lên cho chúng ta một môi trường đầy cám dỗ, thử thách. Bóng đêm đối nghịch với ánh sáng. Ý riêng của con người đối nghịch với ý muốn của Thiên Chúa. Khi tâm hồn trong trạng thái ngủ mê trong đêm tối tội lỗi, sẽ đánh mất trạng thái thức tỉnh trong ánh sáng của Thiên Chúa.Khi ông chủ đi vắng, nếu thiếu thức tỉnh, chúng ta sẽ rơi vào tình trạng như dân Chúa xưa:“ Tất cả chúng con đã trở nên như người nhiễm uế, mọi việc làm chúng con khác nào chiếc áo dơ. Tất cả chúng con héo tàn như lá úa, và tội ác chúng con đã phạm, tựa cơn gió cuốn chúng con.” ( Is 64:5)
Mùa vọng là lời mời gọi chúng ta thức tỉnh, là cơ hội để bắt đầu lại. Mùa Vọng cũng là cơ hội cho chúng ta thoát khỏi những thói quen tiêu cực để hướng về một tương lai mới trong thức tỉnh, mong đợi và cầu nguyện. Chúng ta có thể tham gia vào các lễ nghi phụng vụ, nhưng đã trở thành thói quen, đã đánh mất ý nghĩa của những công việc chúng ta làm. Thói quen bóp chết chúng ta từ từ. Chúng ta bị chìm ngập trong những lối mòn truyền thống và sự tùng phục. Khi đi vào cuộc sống nhàm chán, thì hậu quả là chúng ta chỉ là những Kitô hữu theo thói quen; chúng ta đánh mất ý nghĩa của những lễ nghi phụng vụ, không còn biết lắng nghe Lời Chúa một cách tích cực.
Trải qua hàng ngàn năm đợi chờ Chúa đến , dân Do Thái đã có những giai đoạn đánh mất niềm tin và hy vọng trong khi chờ Chúa đến. Họ đã có những lúc ngủ mê, nhưng họ đã tỉnh thức: “Lạy Đức Chúa, tại sao Ngài lại để chúng con lạc xa đường lối Ngài? Tại sao Ngài làm cho lòng chúng con ra chai đá, chẳng còn biết kính sợ Ngài?”( Is 63: 17a) và từ tâm tình thức tỉnh thống hối ấy, họ đã kêu cầu: “ Vì tình thương đối với tôi tớ là các chi tộc thuộc gia nghiệp của Ngài, xin Ngài mau trở lại.”( Is 63 :17b)
Khi không còn niềm tin, không có Chúa trong cuộc sống, chúng ta như đi trong đêm tối. Vì thế, để không vướng phải những hiểm nguy của đêm tối phủ vây, phải tỉnh thức. Tỉnh thức với những gì không phù hợp ý Chúa, tỉnh thức với những gì làm chúng ta xa rời Chúa, tỉnh thức trong niềm tin tưởng vào sự quan phòng và yêu thương của Chúa.
“Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức vì anh em không biết khi nào thời ấy đến.
I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (13,33-37):
(33) Khi ấy Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: “Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức vì anh em không biết khi nào thời ấy đến. (34) Cũng như người kia trẩy phương xa, để nhà lại, trao quyền cho đầy tớ của mình, chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức. (33) Vậy anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng. (36) Anh em hãy canh thức kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ (37) Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết mọi người là: phải canh thức!”
II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (13,33-37):
Lời kêu gọi coi chừng và tỉnh thức của Chúa Giê-su dành cho người Do-thái đương thời mang 2 ý MV 1-B194
2.1 Lời kêu gọi coi chừng và tỉnh thức của Chúa Giê-su dành cho người Do-thái đương thời mang 2 ý nghĩa:
* một là coi chừng và tỉnh thức để nhận ra và đón nhận Đấng Mê-si-a của Thiên Chúa là Đức Giê-su Na-da-rét;
* hai là coi chừng và tỉnh thức để chu toàn trách nhiệm mà Thiên Chúa đã giao cho Ít-ra-en là dân riêng của Chúa, trong đó trách nhiệm lớn nhất mà Ít-ra-en được giao là làm chiếc cầu để Thiên Chúa đến với các dân các nước.
2.2 Lời kêu gọi coi chừng và tỉnh thức của Chúa Giê-su dành cho người công giáo ngày nay cũng mang 3 ý nghĩa:
* một là coi chừng và tỉnh thức để nhận ra và đón nhận Đấng Mê-si-a của Thiên Chúa là Đức Giê-su Na-da-rét là Đấng đã được cộng đoàn Hội Thánh nhận làm Cứu Chúa, làm Vua và là Đấng sẽ đến trong ngày quang lâm.
* hai là coi chừng và tỉnh thức để chu toàn trách nhiệm mà Thiên Chúa đã giao cho mỗi người, mỗi cộng đoàn, mỗi Hội Thánh, trong đó trách nhiệm lớn nhất mà Thiên Chúa đã giao là mỗi người/cộng đoàn/Hội Thánh là làm chứng nhân cho Tin Mừng Cứu Độ.
* ba là coi chừng và tỉnh thức để đón Chúa mỗi ngày vì Chúa hằng viếng thăm chúng ta. Sách Khải Huyền nói Chúa Giê-su Ki-tô đứng chờ bên ngoài cửa và đợi chúng ta mở cửa ra mời Chúa vào. Người sẽ ăn tối với chúng ta.
* bốn là coi chừng và tỉnh thức để chuẩn bị chào đón Chúa Giáng Sinh trong ngày lễ 25/12/2017. Không chỉ chuẩn bị và trang trì bên ngoài mà nhất là chuẩn bị tâm hồn và lối sống sao cho phù hợp và đẹp lòng Chúa.
III. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (13,33-37):
3.1 Tôi đã coi chừng và tỉnh thức: khi tôi đón nhận Chúa và Tin Mừng, Giáo Lý của Chúa trong Hội Thánh. Tôi cần phải luôn tỉnh thức để tận dụng mọi thuận lợi mà cuộc sống đem lại nhằm phát huy (tức sinh lời sinh lãi) những ơn huệ tài năng mà Chúa đã ban cho tôi.
3.2 Tôi phải coi chừng và tỉnh thức: để chờ Chúa mỗi ngày và nhất là trong ngày Lễ Chúa Giáng Sinh 25/12 sắp tới. Tôi sẽ hy sinh hãm mình và sửa soạn tâm hồn thật nồng ấm để đón rước Chúa.
3.2 Tôi phải coi chừng và tỉnh thức: để chờ ngày Chúa xuất hiện trong ngày tôi lìa đời. Tôi không biết ngày ấy là ngày nào nên tôi phải luôn sẵn sàng để khi Chúa đến thì tôi không bị lỡ mất cơ hội gặp Chúa và được Chúa đem vào Nước Trời với Người.
IV. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (13,33-37):
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến cách đây hơn hai ngàn năm trên đất Palestin. Chúa cũng đã đến trong mỗi ngày Giáng Sinh. Và Chúa cũng sẽ đến trong Ngày Giáng Sinh năm nay. Con nóng lòng nghênh đón Chúa!
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng sẽ đến trong ngày quang lâm. Chúa cũng sẽ đến trong ngay mỗi con người nhắm mắt lìa đời. Không ai biết ngày nào là ngày Chúa quang lâm. Cũng không ai biết được ngày lìa đời của mình. Con cũng thế, con không biết ngày nào con lìa đời. Vì thế cách an toàn, khôn ngoan nhất là con phải tỉnh thức cách chủ động để chờ đón ngày ấy, để nghênh đón Chúa khi Chúa xuất hiện. Cách đẹp lòng Chúa nhất là con tích cực chu toàn trách nhiệm Chúa giao.
Xin Chúa ban cho con ơn tỉnh thức! Xin Chúa ban cho con ơn canh thức! Con cầu xin Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
Mùa Vọng, là thời gian Giáo hội chuẩn bị tâm hồn chúng ta chờ đón Chúa đến được lặp lại MV 1-B195
Mùa Vọng, là thời gian Giáo hội chuẩn bị tâm hồn chúng ta chờ đón Chúa đến được lặp lại như một kỷ niệm đối với việc Chúa Kitô đến lần thứ nhất tại Belem. Tâm tình chờ đón này còn mặc ý nghĩa sẵn sàng và tỉnh thức chờ đón Chúa Kitô đến lần thứ hai để phán xét nhân loại. Vì thế, để giúp ta sống tinh thần mùa vọng Giáo hội nêu cao ba hình ảnh sáng chói như một mẫu gương mà chúng ta lần lượt suy ngắm: Isaia, Gioan tẩy Giả và Đức Maria.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay khởi đi từ kinh nghiệm của dân Do thái thời Cựu ước với niềm hân hoan hồ hởi ban đầu về việc tái thiết thành thánh và đền thờ sau ngày hồi hương từ Babilon vào những năm 539 trước công nguyên đã dần tan biến trước thực tế phủ phàng: Giêrusalem vẫn nằm trong cảnh điêu tàn, và đền thờ vẫn là một đóng gạch vụn. Trước tâm trạng thất vọng và bất mãn đó của dân chúng. Isaia viết lên những dòng trấn an, ông quả quyết rằng: Tuy còn khó khăn và cản trở phải vượt qua, nhưng sự cứu rỗi từ Thiên Chúa chắc chắn sẽ đến. Isaia thay mặt toàn dân kêu van Thiên Chúa dủ lòng thương đến cứu giúp dân Chúa trong giờ phút khó khăn hiện tại. Xác tín về một Thiên Chúa là Cha, Đấng cứu chuộc, là Thiên Chúa duy nhất, là sức mạnh của niềm mong chờ nơi toàn dân về ngày Chúa đến, dù ngày đó có tính cách đột xuất. Lời cầu nguyện đó của Iasaia không chỉ dừng lại ở dân tộc Do thái thời Cựu ước mà còn hướng tới thời Cứu thế: Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu chuộc sẽ đến.
Thưa anh chị em, trang Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu khẳng định với các môn đệ là Người sẽ trở lại trần gian này cách bất ngờ: “Các con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì các con không biết lúc đó là lúc nào”. Để dễ hiểu, Người đưa ra dụ ngôn về người đầy tớ phải canh cửa để đón chủ về bất cứ lúc nào. Do đó, Chúa Giêsu chỉ rõ thái độ cần phải có để chờ Chúa đến là Tỉnh thức sẵn sàng như người đầy tớ thức chờ chủ về đột ngột giữa đêm khuya. Dĩ nhiên tỉnh thức ở đây không có nghĩa là không được ngủ nhưng là tình trạng luôn sẵn sàng khử trừ tội lỗi ra khỏi cuộc sống và tích trữ cho một kho tàng quý giá là những hành động bác ái, là những công nghiệp chúng ta lập được khi còn sống ở đời này chờ đón chủ về. Câu chuyện sau đây cho thấy việc tỉnh thức và sẵn sàng là điều rất cần thiết:
Trong vụ hỏa hoạn lúc 13g45 1/11/2016 tại quán karaoke số 68 Trần Thái Tông (Cầu Giấy, Hà Nội) làm 13 người thiệt mạng, hư hại ít nhất 4 ngôi nhà và nhiều tài sản bị thiêu rụi. Được biết, đa số nạn nhân tử vong là học viên Học viện Chính trị quốc gia, lớp dành cho trưởng, phó phòng cấp sở. Thi xong môn học, nhóm học viên tổ chức liên hoan. Một tương lai vừa hé mở với bao ước mơ đã bị đóng sầm lại trong khói lửa của ngày định mệnh ấy!. Cảnh tang tóc thê lương chụp xuống bất ngờ trên các nạn nhân. Mỗi người hứng chịu cái chết trong lửa một cách khác nhau, nhưng tất cả đều có một điểm chung: ngay trước khi cơn hỏa hoạn xảy ra, chỉ trước đó một lúc, không ai nghĩ là mình sẽ chết!
Thưa anh chị em, “Hãy tỉnh thức”, đó là lời mời gọi khẩn cấp vang lên trong khung cảnh của ngày sau hết trong lúc xuất hiện một thế giới mới. Cha Charles de Foucault nói: “Bạn hãy sống như bạn sẽ chết vào tối nay”. Đó là một lời khuyên khôn ngoan, một lời khuyên lặp lại lời nhắn nhủ của chính Chúa: “Hãy tỉnh thức, vì các con không biết giờ nào chủ sẽ về”.
Lạy Chúa, chúng con tin rằng Chúa đã đến, đang đến và sẽ đến trong từng người chúng con bằng nhiều cách. Xin Chúa giúp chúng con chờ đón Chúa trong mỗi giây phút hiện tại, trong giờ chết, và trong ngày cánh chung của nhân loại. Amen.
Theo công lịch (kể cả âm lịch và nói chung các thứ lịch trên thế giới) thì Năm Mới bắt đầu vào MV 1-B196
Theo công lịch (kể cả âm lịch và nói chung các thứ lịch trên thế giới) thì Năm Mới bắt đầu vào mùa Xuân là mùa của hoa xinh cỏ đẹp, mùa của vạn vật đua tươi khoe thắm; nhưng đối với lịch Phụng vụ, thì Năm Mới lại khởi đầu bằng Mùa Vọng (thời điểm cuối năm công lịch). Mùa Vọng là mùa Trông Đợi (mong đợi, trông chờ một mùa khác sắp đến, hy vọng điều tốt lành sẽ đến). Thật vô cùng ý nghĩa khi mở đầu năm Phụng vụ là mùa Vọng. Vậy thì mở đầu cuộc đời là mùa Vọng cho cuộc lữ hành trần thế “ba vạn sáu ngàn ngày”. Sự chuẩn bị cho ngày chào đời của một con người suốt 9 tháng 10 ngày (khám thai định kỳ, siêu âm xét nghiệm, dưỡng thai, dưỡng mẫu, sắm sửa tã lót, áo quần v.v… và v.v…) há chẳng phải là những hành động biểu lộ sự trông đợi ngày chào đời của một con người đó sao?
Còn cuối đời? Thời gian cuối năm công lịch tượng trưng cho quãng đời cuối cùng ấy, mà công lịch thì lại lấy ngày sinh của Đấng Cứu Thế làm một cái mốc để tính lại thời gian lịch sử cho mãi đến thời thượng cổ, thời tối cổ; đồng thời cũng là cái mốc khởi điểm cho tương lai ngàn sau. Vậy thời gian trước Công nguyên chính là mùa Vọng cho Công nguyên – hay nói khác đi, thời Cựu Ước chính là mùa Vọng của thời Tân Ước – tức là mùa Trông Đợi Chúa đến lần thứ nhất (mở ra kỷ nguyên Chúa Giê-su Ki-tô giáng trần Cứu Độ nhân loại). Như vậy, thì rõ ràng cả cuộc đời trần thế sẽ là Mùa Vọng cho cuộc đời vĩnh cửu mai sau (sau khi đã chấm dứt cuộc đời trần thế). Nói rõ hơn, cả cuộc đời trần thế sẽ là Mùa Vọng trông đợi ngày Thiên Chúa quang lâm lần thứ hai (“Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến” – Lc 21, 27).
Ở Việt Nam trước đây (khoảng 70 – 80 năm) vẫn gọi mùa Vọng là mùa Át. Đó là tiếng gọi tắt của từ La-tinh “Adventus”. Theo ngôn ngữ cổ, “Adventus” có một nghĩa chuyên môn, chỉ sự “đến” (viếng thăm một vùng dân cư) của vua chúa thời phong kiến, về mặt tôn giáo thì “Adventus” biểu thị ý nghĩa một thần minh “đến” với cộng đồng tín hữu. Trong một bài giảng khai mạc mùa Vọng (ngày 28-11-2009), ĐTC Bê-nê-đic-tô XVI đã giải thích về ý nghĩa của từ ”Mùa Vọng” (Adventus): “Theo ngôn ngữ cổ, từ này có một nghĩa chuyên môn, chỉ sự đến của một quan chức, cuộc viếng thăm của vua hoặc hoàng đế trong một tỉnh, và cũng chỉ một thần minh đến, ra khỏi sự ẩn dật, để biểu dương quyền năng. Các tín hữu Ki-tô nhận từ ”Adventus” để diễn tả quan hệ của họ với Chúa Giê-su Ki-tô: Ngài là Vua đến một ”tỉnh nghèo” là trái đất này để viếng thăm tất cả mọi người. Với từ “Adventus”, người ta muốn nói đại ý: Thiên Chúa ở đây, Ngài không rút lui khỏi thế giới, không để chúng ta lẻ loi.”
Đức Thánh Cha nhận xét rằng: “Chúa đi vào trong đời sống chúng ta và muốn ngỏ lời với chúng ta. Tất cả chúng ta cảm nghiệm trong đời sống hằng ngày, mình có ít thời giờ cho Chúa và ít thời giờ cho chính chúng ta. Phải chăng nhiều khi hoạt động chiếm hữu chúng ta, xã hội với bao điều thích thú thu hút độc quyền sự chú ý của chúng ta? Phải chăng người ta dành quá nhiều thời giờ cho sự tiêu khiển và giải trí đủ loại? Mùa Vọng mời gọi chúng ta hãy ở trong thinh lặng để hiểu một sự hiện diện. Đó là một lời mời gọi hãy hiểu rằng mỗi biến cố trong ngày là những dấu hiệu mà Thiên Chúa gửi tới chúng ta, những dấu hiệu quan tâm của Ngài đối với mỗi người chúng ta. Mùa Vọng kích thích chúng ta hãy chiêm ngắm Chúa hiện diện. Xác tín chắc chắn về sự hiện diện của Chúa phải giúp chúng ta nhìn thế giới với một đôi mắt khác.”
Ngoài ra, Đức Thánh Cha cũng nhấn mạnh đến một ý nghĩa thứ hai của mùa Vọng là sự mong đợi trong hy vọng: ”Sự hy vọng đánh dấu hành trình của nhân loại, nhưng đối với các tín hữu Ki-tô, niềm hy vọng ấy mang một sự chắc chắn, đó là Thiên Chúa hiện diện trong đời sống chúng ta, tháp tùng chúng ta, và một ngày kia, Chúa sẽ lau khô nước mắt chúng ta. Một ngày kia tất cả sẽ viên mãn trong Nước Thiên Chúa, nước của công lý và hòa bình.” (nguồn: Đài Vatican). Như vậy, ý nghĩa chủ yếu của Mùa Vọng là ”Xác tín chắc chắn về sự hiện diện của Chúa” đồng thời “mong đợi trong hy vọng: Một ngày kia tất cả sẽ viên mãn trong Nước Thiên Chúa, nước của công lý và hòa bình”.
Với Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô thì ngài đã đánh dấu năm phụng vụ mới tại Giờ Kinh Truyền Tin vào Chúa Nhật Thứ I Mùa Vọng (28/11/2016) bằng lời giảng dạy: Vào Chúa Nhật này, Tin Mừng giới thiệu cho chúng ta một trong những chủ đề “mang tính gọi mời” nhất của Mùa Vọng, đó là: việc thăm viếng của Thiên Chúa đối với nhân loại. Đức Giáo Hoàng chỉ ra ba cuộc thăm viếng của Thiên Chúa: đầu tiên, trong quá khứ, với Sự Nhập Thể, và Sự Hạ Sinh của Chúa Giê-su vào Lễ Giáng Sinh; thứ hai, trong hiện tại, khi Chúa Giê-su thăm viếng chúng ta liên tục, mỗi ngày; và chuyến thăm cuối cùng, trong tương lai, khi Chúa Giê-su “sẽ lại ngự đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Mùa Vọng khích lệ chúng ta suy tư về sự tương phản giữa thói quen thường nhật của chúng ta và sự ngự đến bất ngờ của Thiên Chúa. Đức Giáo Hoàng nói: Tin Mừng, không nỗ lực để doạ chúng ta, “nhưng mở ra các chân trời” cho những chiều kích xa hơn nữa và mang lại ý nghĩa thậm chí cho những việc thường nhật của chúng ta. (nguồn: Đài Vatican).
Mùa Vọng mở đầu cho năm Phụng vụ mới, mở đầu mùa sốt sắng và hân hoan mong đợi, Lời Chúa hôm nay nhắc lại lời hứa của Thiên Chúa là ban Đấng Công chính cho Israel. Bốn tuần lễ Mùa Vọng tượng trưng cho 4000 năm dân Do Thái mong đợi Đấng Cứu thế. Lời hứa ấy đã được thực hiện trong lịch sử cách đây hơn 2000 năm, khi Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người và được Đức Maria sinh ra tại hang đá Bê-lem. Nói cách cụ thể thì Mùa Vọng chính là niềm tin và hy vọng giúp người tín hữusống Đạo một cách tốt đẹp. Niềm tin ấy là Đức Tin, mà Đức Tin là Hy Vọng, nên bước vào Mùa Vọng, để có được niềm hy vọng trông đợi Chúa đến lần thứ hai, tất cả mọi Ki-tô hữu “hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn, vì trong lòng thì đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm, còn ngoài xác thì đã được tắm rửa bằng nước tinh tuyền. Chúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín.” (Dt 10, 22-23).
Có tin mới hy vọng. Một cách rất trần tục: Có tin khi trúng số độc đắc sẽ có được cuộc sống dư dả về vật chất, thì mới bỏ tiền mua vé số để hy vọng mình sẽ trúng độc đắc. Dám bỏ tiền ra mua một cái hy vọng ảo, thế thì tại sao lại không bỏ hết tâm lực ra để hy vọng đạt được phần thưởng đích thực nơi Thiên Quốc? Chỉ lo tích trữ kho tàng vật chất, tại sao không biết tích trữ kho tàng tinh thần mà đầu tư vào ngân hàng Nước Trời? Vâng, “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, nơi kẻ trộm khoét vách và lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được.” (Mt 6, 19-20), mà hãy đầu tư vào ngân hàng Nước Trời như Lời Ông Chủ nói với tên đầy tớ vô dụng: “Hỡi đầy tớ tồi tệ và biếng nhác! Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, thì đáng lý anh phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ!” (Mt 25, 26-27).
Nói tóm lại, Mùa Vọng là “một lời mời gọi đến với sự tỉnh thức, vì, không biết rằng khi nào Ngài sẽ đến, chúng ta phải luôn sẵn sàng để ra đi”. Trong Mùa Vọng, “chúng ta được mời gọi để làm mở rộng các chân trời của trái tim, để được kinh ngạc bởi cuộc sống được thể hiện mỗi ngày bằng sự mới mẻ của nó. Để thực hiện điều này chúng ta cần phải học cách đừng lệ thuộc vào những đảm bảo của chúng ta, vào các kế hoạch đã hoạch định của chúng ta, vì Thiên Chúa đến vào giờ mà chúng ta không tưởng nghĩ ra được.” (ĐGH Phan-xi-cô -nt-). Vậy thì chúng ta còn đợi gì mà không thể hiện niềm “Hy Vọng” vào “Đức Tin” của chúng ta qua hành động dọn đường cho Chúa đi, bằng cách bạt phẳng gò đống chia rẽ, phát quang chông gai hận thù, san bằng gập ghềnh ghen tị, và với một kiệu hoa rực rỡ hào quang Bác Ái trong Chân Lý đón Chúa vào lòng. Và như thế, thì tại sao chúng ta lại không duy trì 4 tuần Mùa Vọng bằng cả cuộc lữ hành trần thế này, để làm hành trang trông đợi ngày Chúa quang lâm lần thứ hai?
Vâng, xin hãy bắt đầu ngay từ bây giờ, ngay từ hôm nay ngẩng cao đầu “tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng” (Dt 10, 23), để mạnh dạn bước vào MÙA VỌNG – MÙA TRÔNG ĐỢI CHÚA ĐẾN LẦN THỨ HAI – MÙA TRÔNG ĐỢI CUỘC SỐNG VĨNH CỬU mai sau. Ước được như vậy. Ôi! “Lạy Chúa Cha toàn năng, xin cho đoàn tín hữu chúng con hằng quyết tâm làm việc thiện, để đón chào Con Chúa đang ngự đến xét xử trần gian. Nhờ đó chúng con sẽ được Người cho ở bên hữu, và gọi vào hưởng phúc Nước Trời. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thủa muôn đời, Amen.” (Lời nguyện nhập lễ Chúa nhật I Mùa Vọng).
Phấn đấu làm việc, đầu tư công sức lo liệu cho bản thân và gia đình, đó là điều bình thường mọi người MV 1-B197
Phấn đấu làm việc, đầu tư công sức lo liệu cho bản thân và gia đình, đó là điều bình thường mọi người vẫn thực hiện như một quyết tâm cao. Mong chờ con cháu khôn lớn, thành tài, thành danh, luôn là hy vọng của gia đình, xã hội. Mơ ước có một gia đình ổn định, khấm khớ hơn về kinh tế, có chăng hạnh phúc đời người là chờ đợi và hy vọng ? Thực ra, không ai mơ ước một điều tồi tệ đến với mình, chẳng ai phấn đấu, đầu tư vào công việc hão huyền, vô tích sự, hẳn cha ông chúng ta phải vượt qua nhiều khó khăn, kinh nghiệm, các ngài mới quả quyết: giầu đôi con mắt, khó đôi bàn tay. Người trẻ có thể đứng dậy sau lần vấp té, với một vài lời động viên cảm thông của gia đình ; tất cả chúng ta sẽ trở nên người tốt, khi đã sử dụng thời giờ và khả năng hiểu biết cách khôn ngoan nhất.
Tâm tình của mùa vọng là chờ đợi, là tỉnh thức, nhiều người đã nghe, đã có thể lập lại cách dễ dàng, nhưng điều chúng ta cần lưu ý là mình đang chờ đợi tin vui, và có sống tỉnh thức sẵn sàng không ? Sống trong ưu tư lo lắng, nhiều người chúng ta đã trải qua, sống trong quyền cao chức trọng, có thể chúng ta chưa có kinh nghiệm, nhưng sống trong tinh thần chờ đợi chủ trở về, chúng ta thường khó hình dung, vì đại đa số chúng ta đang làm chủ bản thân, làm chủ gia đình mình. Người tín hữu dễ thắc mắc thế nào là tỉnh, và thế nào là thức, quả là phức tạp, nhưng đâu phải ai cũng đủ khôn ngoan để tìm gặp Chúa, nhờ Chúa giải đáp.
Tục ngữ có câu: quân tử phòng thân, đại ý nói chỉ có người khôn ngoan mới biết sống điều độ căn cơ, người có Chúa trong tâm hồn là người tự tin, biết sống lạc quan yêu đời. Đức Giêsu xây dựng hình ảnh người tôi tớ tỉnh thức, chờ đợi, Ngài hy vọng chúng ta là người khôn ngoan, qua đó chúng ta không ngạc nhiên khi được Thiên Chúa trao trách nhiệm quản lý gia đình, giáo xứ, với sự tự do không chè chén say sưa. Theo suy xét tự nhiên, ông chủ và người quản lý dù ít gặp nhau, ông chủ vẫn có quyền xem xét sổ chi tiêu của người quản lý, và bổn phận sống trung thành, nghiêm túc, trình báo cách rõ ràng thuộc về người quản lý. Nếu hiểu mình là người quản lý, người giúp việc của Thiên Chúa, tự chúng ta phải biết minh chứng tôi là người có tinh thần lạc quan, là người quản lý khôn ngoan, đang sử dụng nén bạc Chúa trao cách tốt đẹp nhất.
Người thời nào cũng chủ trương, sống là hy vọng, sống sao để không hổ thẹn với con cháu, sống sao để hậu thế hiểu: phòng bệnh hơn chữa bệnh, sống thế nào để trả lời tôi là người quản lý khôn ngoan, luôn trung thành với trọng trách chủ giao, sống có kỷ luật, yêu thương. Người quản lý khôn ngoan là người biết sống tỉnh thức để quản lý khối tài sản mà chủ tin tưởng giao. Người quản lý khôn ngoan là người biết tự chủ về hành vi của mình: bình tĩnh để không hỏng việc, cảnh giác để không hao hụt khối tài sản quý báu, cẩn thận để không bị tai tiếng là hoang phí keo kiệt.
Các bậc làm cha mẹ rất khôn ngoan khi biết truyền lửa nhiệt tâm nhiệt tình cho con cháu bằng gương sáng đạo đức: chăm học, chăm làm, xã hội rất cụ thể rõ ràng về sức khỏe cộng đồng, hãy ăn chín uống sôi, tất cả vì một tương lai tốt đẹp. Mục đích chung của gia đình, xã hội, là con người có được cuộc sống hạnh phúc, một đất nước phồn thịnh, an vui, một thế hệ văn minh công bằng bác ái. Chi tiết mà mỗi người vẫn từng xác tín không phải là “lý của kẻ mạnh”, đại loại là mong có một xã hội công bằng yêu thương, ai cũng được mặc lấy một lý trí vững mạnh, một tinh thần nghiêm túc sẵn sàng để cả một tương lai đầy hy vọng thành nhân, thành tài là sự thật.
Sống hy vọng, là sống tỉnh thức và cầu nguyện, vì có đặt tin tưởng vào Thiên Chúa ta tin thờ, có biết đề phòng bất trắc, người ta sẽ không sợ yếu tố bất ngờ xảy đến. Sống hy vọng là khiêm tốn đặt mình trước Đấng quyền năng, để được hiểu biết, để khởi đầu và kết thúc, hiện tại và tương lai, ta sẽ trở nên chứng tá tình yêu đối với Chúa và tha nhân. Khi đưa ra dụ ngôn “ông chủ và người tôi tớ”, Đức Giêsu có ý kêu gọi mọi người hãy khôn ngoan tỉnh thức đề phòng kẻo thiệt thân, để không quá bám víu vào thực tại trần gian. Sống trong hy vọng không phải là để ngăn ngừa, xa tránh nguy hiểm bệnh tật, nhưng là sống tín thác trong tình yêu thương với Đấng đã hiến mình làm giá cứu độ nhân loại.
Người xưa nói rằng: sống sao chết vậy, muốn chết lành, muốn được hạnh phúc, mọi ngày, mọi lúc, mọi nơi, ai cũng phải sống có kỷ luật, điều độ, trung thành với giáo huấn của Chúa. Đức Giêsu trong tin mừng hôm nay không nói các môn đệ sống hy vọng hay mong chờ cách loáng thoáng, ví như mỗi người lãnh nhận một sứ mạng và ơn ban khác nhau, nhưng tất cả đều phải nhanh nhạy với trọng trách riêng của mình. Nếu sống hy vọng là sống không thụ động, không tỉnh thức theo nghĩa ngồi im đợi chờ, hẳn mỗi người đang sống thánh ý Chúa bằng tất cả tự do và yêu mến của mình. Không ai hy vọng mình sẽ được cả thế giới thương yêu, được sống an nhàn thư thái mãi mãi ở đời này. Cũng không ai ngồi lặng thinh chờ đợi phép lạ, có chăng chúng ta hy vọng vào ơn tác động của Chúa Thánh Thần biến đổi tâm hồn, sửa chữa những thiếu sót, hầu được nên xứng hợp với tình yêu của Chúa. Amen.
Ngày 03 tháng 9 vừa qua, công chúa Nhật Bản Mako đã tuyên bố đính hôn với một người bạn học MV 1-B198
Ngày 03 tháng 9 vừa qua, công chúa Nhật Bản Mako đã tuyên bố đính hôn với một người bạn học là dân thường tên Kei Komuro. Công chúa Mako, 25 tuổi, là con gái đầu lòng của Hoàng tử Akishino, con trai thứ 2 của Nhật hoàng Akihito. Khi xảy ra một cuộc hôn nhân không tương xứng như thế, theo luật của Hoàng gia, thành viên nữ trong hoàng tộc Nhật Bản sẽ phải từ bỏ thân phận hoàng tộc để trở thành một dân thường. Dù biết trước rằng mình sẽ phải trở thành một thường dân, không còn một quyền lợi hoặc vinh dự gì từ Hoàng gia, nhưng công chúa Mako cho biết: Chính tình yêu của cô vời chàng trai Komuro đã khiến cô đi đến quyết định này. Dân chúng Nhật Bản vừa tiếc thay cho thân phận của một công chúa, nhưng lại vừa cảm phục sức mạnh tình yêu ở nơi cô gái này.
Cách đây hơn hai ngàn năm cũng đã xảy ra một chuyện tình còn mạnh hơn như thế nữa. Một hoàng thái tử đã chấp nhận từ bỏ cung điện ngai vàng chỉ vì yêu con người, trở thành một thường dân để được sống với con người, vị Thái Tử đó là Con Thiên Chúa. Hôm nay bước vào Mùa Vọng, chúng ta cùng với nhân loại chuẩn bị tâm hồn để mừng sự kiện lớn lao này. Thiên Chúa, Đấng vô hạn vô biên đã chấp nhận bước vào lịch sử nhân loại, trở nên thường dân hữu hạn, Ngài đã làm thay đổi hoàn toàn lịch sử và thân phận của nhân loại chúng ta.
Trước Chúa Giáng sinh sáu trăm năm, tiên tri Isaia đã mơ về một ngày Thiên Chúa không còn che giấu chính mình nữa, không còn “giận dỗi ngoảnh mặt” làm ngơ trước thân phận đau khổ khốn cùng của con người nữa, ông đã kêu lên: Lạy Chúa là Cha chúng con, Ngài là Đấng cứu chuộc chúng con, xin đừng để cho dân Ngài mãi lòng chai dạ đá. Xin nhìn đến gia nghiệp của Chúa mà mau trở lại. Xin Ngài đừng mãi đóng cửa trời, nhưng xin Ngài xé trời mà ngự xuống, mà làm cho núi non rung chuyển, cho lòng người mềm ra.
Qua bài đọc một, tiên tri Isaia cho thấy một thảm cảnh hết sức trầm trọng mà con người đang phải gánh chịu vì tội. Khởi đi từ việc nguyên tổ đã hồ nghi tình yêu của Chúa, đã muốn đặt mình ngang hàng với Thiên Chúa và họ đã phải chuốc lấy thất bại và kéo theo đau khổ, sự chết cho mình và con cháu. Từ khi ông bà nguyên tổ phạm tội, cửa vườn địa đàng đã bị đóng lại, hạnh phúc mỗi buổi chiều được bách bộ trò chuyện với Thiên Chúa cũng đã mất, niềm vui, hạnh phúc bên nhau cũng không còn. Thay cho niềm vui, hạnh phúc thuở ban đầu là sự bất hạnh, cãi vã, thù óan gia tăng, đau khổ tinh thần và thể xác vùi dập trên con người, gia đình tan vỡ, anh em bất hòa. Nhưng đau khổ nhất cho con người là phải vĩnh viễn xa lìa Thiên Chúa và phải chết. Cái chết trở thành đau khổ tột cùng cho thân phận con người và là hậu quả từ sự cao ngạo của ông bà nguyên tổ, đã tự mình cắt đứt nguồn sống từ Thiên Chúa.
Lời cầu xin của Isaia cũng là lời cầu xin của những kẻ đã biết hối hận vì tội lỗi mình gây ra, vì thế, tiên tri nài xin Chúa đừng ngoảnh mắt làm ngơ, đừng đóng mãi cửa vườn, nhưng xin Chúa ngoảng mặt lại, ghé mắt nhìn đến đoàn dân Chúa và xin Chúa thương xé trời, phá cổng, mà ngự đến để cứu thoát con người. Thiên Chúa là cha, Ngài không thể làm ngơ trước tiếng khóc than của con người, Ngài đã cho Con Một của Ngài xuống thế làm người, ở với con người, Ngài được gọi là Đấng Emanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Chúa Giêsu chính là món quà Thiên Chúa Cha ban tặng cho nhân loại. Đến như Con Một của Ngài, Thiên Chúa cũng đã ban tặng cho nhân loại, đã cho Ngài xuống để cứu nhân loại, thì không có gì mà Thiên Chúa lại tiếc với con người được. Thánh Phaolô đã quả quyết: Trong Đức Giêsu, anh em đã được trở nên phong phú về mọi phương diện, vì được nghe Lời Chúa và hiểu biết về màu nhiệm của Người. Chính Đức Kitô đã phục hồi chúng ta, trả lại cho chúng ta vinh dự làm con mà ta đã đánh mất vì phạm tội, Ngài đã tẩy rửa tội lỗi chúng ta bằng cái chết thập giá của Người. Thiên Chúa luôn muốn và chờ đợi chúng ta sống trung thành với Chúa, hiệp thông với Con của Người để được đón nhận sự sống từ nơi Chúa thông chuyển cho, nhờ đó mà đón nhận được sự sống vĩnh cửu.
Chúa đã đến, đã ban tặng sự sống cho con người. Tuy nhiên, con người vẫn cứ để mình bị lôi kéo bởi tội lỗi, dục vọng, xác thịt và thế gian, khiến con người nghiêng chiều về sự xấu, từ chối tình yêu của Thiên Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu đã cảnh báo: Anh em hãy coi chừng, hãy tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào Chúa sẽ trở lại. Chúa sẽ trở lại vào ngày cuối cùng của vũ trụ, nhưng trước đó, Chúa sẽ trở lại với mỗi người chúng ta trong ngày cuối cùng cuộc đời mỗi người, ngày chết. Ngày đó sẽ là ngày chung cuộc cho số phận của mỗi người. Chúng ta sẽ được hạnh phúc, sẽ được gặp Chúa và bước vào nhà của Chúa, nếu chúng ta tỉnh thức sẵn sàng. Trái lại, chúng ta sẽ phải chết đời đời, bị loại trừ vĩnh viễn nếu chúng ta để mình chè chén say sưa hoặc ngủ vùi trong tình trạng tội lỗi ươn lười của mình.
Giống như ông chủ đi xa, trao nhà cửa, quyền hành lại cho các đầy tớ, ông cũng trao cho mỗi người một việc tùy theo khả năng của họ. Ông muốn họ làm việc với hết khả năng, với tất cả trách nhiệm và luôn tỉnh thức sẵn sàng để bất cứ khi nào trở về, ông sẽ đòi đầy tớ tính toán và nộp lại sổ sách cho ông. Ông sẽ trở về, có thể là lúc chập tối hoặc lúc nửa đêm hay về sáng, điều ông mong muốn khi trở về, là thấy mọi người còn tỉnh thức, không bị mê ngủ.
Thiên Chúa chính là ông chủ của cuộc đời chúng ta, Ngài đang trao cho mỗi người những khả năng, những trách nhiệm khác nhau, người là linh mục, kẻ là tu sĩ, là giáo dân, là ông bà, cha mẹ hoặc con cái trong gia đình. Chúa muốn mỗi người đều phải tỉnh thức. Vì có nhiều người tuy thức nhưng không tỉnh, để mình trong trạng thái lơ mơ, nửa tỉnh nửa thức. Họ lao vào cuộc sống này và bị quay cuồng bởi sức ép tìm kiếm, không chỉ là cơm áo thường ngày, mà còn lo tìm kiếm sự giàu sang địa vị mà quên mất ngày Chúa trở lại. Nhiều người khác đã bỏ bê trách nhiệm làm cha mẹ, làm con cái, họ quan tâm đến nhiều việc khác hơn là gia đình. Nhiều người để mình rơi vào con đường sống buông thả, tự do, dễ dãi, bất kể luật Chúa và Giáo hội: làm ăn gian dối, chơi bời bê tha, rượu chè cờ bạc…
Nhiều người trẻ cứ nghĩ rằng Chúa sẽ không trở lại với mình lúc này. Họ nghĩ mình không phải chết, vì thế, nhiều người hầu như đã loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, không còn quan tâm đến việc đạo đức và bổn phận đối với Chúa. Nhiều người trẻ đã để mình bị ngủ quên trong việc học hành, trong công việc và các thứ công nghệ, khiến họ không còn nhìn thấy Thiên Chúa, cũng không nhìn thấy những người thân đang hiện diện bên cạnh.
Chúa muốn mỗi chúng ta như một người đầy tớ phải giữ cửa và canh thức. Giữ cửa là không để cho kẻ xấu là ma quỷ, kẻ gian là dục vọng, thế gian, tội lỗi lọt vào căn nhà tâm hồn, phá phách tâm hồn, không để chúng lấy đi những giá trị tốt đẹp trong tâm hồn. Ma quỷ là kẻ không ưa tình yêu thương, chúng sẽ tìm cách phá hủy khả năng yêu thương nơi tâm hồn những ai để nó lọt vào. Chúa muốn chúng ta cũng phải canh thức, tức là không để mình mê ngủ hoặc ngủ mê khiến bị rơi vào tình trạng bất ngờ khi Chúa trở lại gõ cửa tâm hồn. Chúa không muốn chúng ta chờ đợi trong thụ động, buồn tẻ, nhưng trong tư thế của những người đầy tớ đang làm việc hết mình, để đáp lại tình thương và tin tưởng của Chúa dành cho mỗi người.
Chuẩn bị mừng Đại lễ Chúa Giáng Sinh, xin cho chúng ta biết sử dụng thời gian Mùa Vọng này để uốn nắn lại những chỗ quanh co gập ghềnh, chuẩn bị tâm hồn thật sạch sẽ và tỉnh thức, sẵn sàng để đón Chúa đến với mỗi người. Chúa vẫn đang đến với mỗi người qua Bí tích Thánh Thể, xin cho chúng ta biết mở lòng để đón Chúa bước vào cuộc đời mình mỗi ngày. Chúa sẽ giúp chúng ta tỉnh thức và sẵn sàng cho ngày trọng đại cuối cùng của chúng ta Amen.
Nội dung Đoan Lời Chúa Chúa Nhật I MV ( B ) hôm nay cho chúng ta một Dụ Ngôn rõ ràng MV 1-B199
Nội dung Đoan Lời Chúa Chúa Nhật I MV ( B ) hôm nay cho chúng ta một Dụ Ngôn rõ ràng về “sự canh thức”. Chúng ta sống trong thân xác hữ hình trong trần thế như một sự “chờ mong” ngày giờ Thiên Chúa xuất hiện. Tâm trang nầy theo nghĩa đen là tâm tarng “chờ mong “ Đấng Cứu Thế của dân Israel ngày xưa, họ mong đợi một Đấng Cứu Tinh xuất hiện , để giải thoát họ khỏi những “nô lệ” của sự hữu hình.
Thánh Vịnh 79 hôm nay cho chúng ta một hình ảnh rõ nét về “sự mong đợi” Ơn Cứu Thế đến với họ. Không gì lớn lao và mạnh mẽ, uy quyền và dũng lực tuyệt đối từ Thiên Chúa, mà dân Israel mong đợi. Một sự mong đợi đúng nghĩa, mãnh liệt, tha thiết .
Vâng, sự mong đợi nầy là tâm tarng phải có dành cho tất cả những ai mong đợi Thiên Chúa đến với họ. Tâm trang mong chờ như một người lính canh mong trời sáng, con thơ mong mẹ hiền. Vâng, tâm trang mong chờ thiên Chúa đến để giải thoát, là một tâm tarng khao khát, tâm trang tình thức, tâm trạng vừa vui, vừa lo, vừa sợ hãi, vừa bồn chồn.
Như vậy tâm trạng nầy, hôm nay Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta trong Đoan Lời Chúa , Chúa Nhật I Mùa Vọng ( Mc 13, 33 -37), chỉ có 05 câu, rất dễ hiểu , dễ nhớ : “ Như một Ông Chủ trẩy đi phương xa, chia cắt công việc cho gia nhân, và nhắn nhủ, khi trở về bất thình linh ,Ông Chủ phải thấy tất cả đều tỉnh thức.Như vậy họ mới được chúc phúc.” Vâng, đấy là tất cả những gì mà Sứ Điệp Lời Chúa hôm nay nhắc nhớ cho chúng ta.
Sự tỉnh thức là một trang thái sẵn sàng, nói lên sự trung thành với chủ, mà như có lần Chúa Giêsu nói : “ Các ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, thì Ta sẽ giao việc lớn cho các ngươi. Nếu các người không trung tín trong việc nhỏ, thì ai giao việc lớn cho các ngươi.”
Như vậy, Mùa Vọng là ”mùa canh thức”, sự canh thức trong Thành Kinh dường như là sự đòi hỏi bắt buộc, bởi vì, nó nói lên tâm tư luôn sẵn sang chờ Chúa đến, không phải chỉ là sự chết, bởi vì bước qua sự chết là đến sự sống đời đời. Sự sống nơi Thiên Chúa mới chính là ”mục đích sống”. Bởi vì, sự sống viên mãn là sự sống bên cạnh Thiên Chúa. Trở về nguyên thủy của sự sống mà không có “kẻ cướp” nào cướp nổi.
Sự sống nguyên tuyền nơi Thiên Chúa, mới là sự sống đích thực chứ không phải như là người ta nói , nơi nầy , nơi kia là thành phố đáng sống, như : “ Đà Nẵng là thành phố đáng sống”.
Sự sống nơi Thiên Chúa là “sự sống đích thực”, bởi vì, nơi Thiên Chúa không có sự chết. Hướng về Mùa Vọng là hướng về nơi không có sự chết.Một Mùa Vọng đích thực là một Mùa Vọng phải biết “tình thức”.
Vậy thế nào là tình thức ?
Vâng, theo thánh Phao-lô thì : “Không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đảng”. Như vậy, là phải canh tân đời sống chúng ta.
Như vậy, sự “canh thức “ mà Chúa Giêsu nói trong trang Tin Mừng hôm nay phải chăng là một “lối sống “ lành mạnh. Một sự thay đổi tích cực trong cuộc sống.
Vậy, muốn sống “canh thức” không gì khác hơn là lối sống “cập nhật “ Lời Chúa. “Nén bạc”, hoặc sự “ cắt cử” công việc cho từng gia nhân chính là “trách nhiệm “ bổn phận hằng ngày chúng ta đã lãnh nhận. Lời Chúa, làm cho chúng ta “tỉnh thức”, bởi vì, Lời Chúa là sự “răn dạy” chúng ta , nhắc nhở chúng ta, giáo huấn chúng ta, hầu dẫn đưa chúng ta đến sự sống , và sống đời đời. Một sự sống mà chỉ có nơi Thiên Chúa, vì vậy, Lời Chúa là “Lời hằng Sống”.
Chính Chúa Giêsu là “MẠCH SỐNG TRƯỜNG SINH “, bởi vì, Người đã lãnh nhận từ Chúa Cha, Đấng là chân lý của sự sống, nguồn sống vĩnh cửu. Như vậy, há chẳng phải chúng ta “muốn sống” và mong sống đời đời sao ? Vậy, chúng ta mong chờ sự sống là mong chờ Chúa đến mang lại nguồn sống vĩnh cửu cho chúng ta. Vâng, đó là ý nghĩa “đích thực của Mùa Vọng vậy.
Vâng, đó là ý nghĩa chung của Mùa Vọng, còn ý nghĩa riêng là “giờ chết” của từng người. Không ai mong cái chết, nhưng quy luật của sự sống chính là “ cái chết”. Bởi vì, không có sự chết thì sự sống không tồn tại. Sự chết là một sự “yên nghĩ” của thân xác, để đưa đến sự sống vĩnh cửu, mọi sinh vật đều phải chết, để có sự sống tồn tại.
Sự sống tồn tại chính là “sự chết” nơi thân xác. Sự bất toàn nơi thân xác chính là sự dẫn đưa đến sự sống vĩnh cửu. Nhưng, nếu sự sống vĩnh cửu ở đâu, nếu như không có Thiên Chúa? Dù khôn ngoan , hay ngu dốt, sang hèn, hay trung lưu. Con người, phải có sự sống đời đời. Nhưng, sự sống đời đời ấy , con người được sống với ai? Ai là nơi họ nương tựa vũng chắc vững bền, há chẳng phải là Thiên Chúa sao?!
Vậy, tâm tình của Mùa Vọng là Mùa chuẩn bị tâm tình đón mừng Mầu Nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa đến lần thứ I, và chuẩn bị tâm hồn để được gọi về trong đời sống bất diệt của mỗi người. Chúng ta cầu xin Chúa cho chúng ta biết chuẩn bị một tâm hồn tích cực để xứng đáng đón mừng Mầu Nhiệm Giáng Sinh.
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, Cha đã ban cho chúng con một Ngôi Lời làm Người, để cứu những ai sa ngã trở về cuộc sống vĩnh hằng. Xin cho mọi người nhận lãnh biết tỉnh thức chờ đợi ngày Con Cha Giáng Trần, đồng thời nhờ Người chúng con được kêu gọi vào cuộc sống vĩnh cửu nơi Cha. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con ./. Amen.
Nhạc sĩ Lê Thương có 3 bản nhạc trùng tên với câu truyện cảm động về một người phụ nữ ôm con chờ chồng, đó là 3 tác phẩm: “Hòn Vọng Phu 1, 2, 3” đã trở thành bất hủ. Sự chờ đợi của nàng Tô Thị là chờ đợi trong tuyệt vọng, chờ đến mỏi mòn, đến hóa đá. Hôm nay cùng với Giáo Hội, chúng ta bắt đầu năm phụng vụ mới với Chúa Nhật thứ I MV năm B. Mùa Vọng được Giáo Hội gọi là mùa chờ đợi, nhưng không phải là trong tuyệt vọng mỏi mòn, mà là trong hy vọng và yêu thương. Nhìn khung cảnh trên cung thánh chúng ta thấy được một màu sắc nỗi bật, đó là màu tím. Trong cách pha màu, màu tím là sự kết hợp giữa hai gam màu chủ lực: đỏ – xanh. Đỏ và xanh dương sẽ cho ra tím than. Đỏ lợt và xanh da trời sẽ cho ra tím hoa cà. Màu đỏ là màu của sự mạnh mẽ, là biểu tượng của tình yêu. Trong khi đó, màu xanh thể hiện tính khiêm nhường, là biểu tượng của niềm hy vọng. Trước đây còn nhỏ, khi thấy linh mục mặc áo lễ màu tím, tôi nghĩ một cách đơn giản đây là màu buồn, nhưng bây giờ thì không, vì tôi biết rõ màu tím trong phụng vụ không phải là màu buồn, nhưng là màu được kết hợp bởi tình yêu và hy vọng. Khởi đầu mùa vọng hôm nay, tôi xin chia sẻ với cộng đoàn tâm tình tỉnh thức chờ đợi trong tình yêu và hy vọng.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Bài Đọc I: Is 63. 16b-17.19b; 64,2b-7
Đoạn trích này, tiên tri Isaia đại diện cho dân để bày tỏ hai tâm tình: Tâm tình thứ nhất là thú nhận tội lỗi của mình: “Tội ác chúng con đã phạm như cơn gió cuốn chúng con đi”. Tâm tình thứ hai là nài xin Chúa đến để tha thứ và cứu thoát họ. Tâm tình này rất tha thiết: “Phải chi Ngài xé trời ngự xuống”. Hai tâm tình này thể hiện sự tỉnh thức để chờ mong của dân Do Thái. Họ chờ mong trong một tình yêu, bởi vì chỉ có tình yêu dành cho Thiên Chúa mới có thể cho họ thấy được tội lỗi của họ. Họ chờ mong trong hy vọng vì họ tin tưởng Thiên Chúa sẽ đến tha thứ và cứu thoát họ.
Tin Mừng: Mc 13,33-37
Nếu trong bài đọc 1 thể hiện sự chờ mong Chúa đến lần thứ nhất, và quả thật Chúa đã đến qua biến cố Giáng Sinh, thì bài Tin Mừng hôm nay nhắm đến việc Chúa sẽ đến lần thứ hai trong vinh quang, lần mà chúng ta gọi là quang lâm hay tận thế. Trong đoạn Tin Mừng này, Đức Giêsu chỉ rõ cho chúng ta thái độ cần phải có trong khi chờ mong Chúa đến lần thứ hai là phải tỉnh thức. “Tỉnh thức” được Đức Giêsu nhắc tới nhắc lui trong đoạn Tin Mừng đến 5 lần, đủ cho chúng ta thấy sự quan trọng của nó. Nhưng tỉnh thức ở đây để làm gì? Bởi vì người ta có nhiều lý do để tỉnh thức lắm, tỉnh thức để xem TV, tỉnh thức để đánh bài, tỉnh thức để nhậu, tỉnh thức để canh xác chết… Còn tỉnh thức mà Đức Giêsu muốn các môn đệ của mình sống là tỉnh thức để chờ mong Chúa đến. Trong sự chờ mong này, Đức Giêsu đòi hỏi các môn đệ phải có một tình yêu như người đầy tớ trung thành dành cho ông chủ. Nếu không có tình yêu thì người đầy tớ sẽ lợi dụng lúc ông chủ đi vắng để làm đủ thứ chuyện xấu. Còn ngược lại vì yêu mến ông chủ nên khi ông chủ đi vắng, người đầy tớ sẽ lo quán xuyến mọi công việc nhà. Đức Giêsu còn đỏi hỏi các môn đệ của mình phải chờ mong trong niềm hy vọng. Có nghĩa là phải trong tư thế sẵn sàng như chủ của mình trở về bất cứ lúc nào.
II. TÌNH YÊU VÀ HY VỌNG
Thiên Chúa là tình yêu và hy vọng cho nhân loại. Vì vậy mà trong suốt cuộc đời, Đức Giêsu không ngừng rao giảng và hướng con người đến tình yêu và niềm hy vọng đó.
Tình yêu
Khi người ta đem đến cho Ngài một người phụ nữ bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình. Dù cho ý đồ của con người có như thế nào đi nữa, thì Ngài cũng hướng họ đến một tình yêu dành cho đồng loại của mình, đó là một sự thông cảm và tha thứ. Khi quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, Đức Giêsu muốn các đệ tử của mình học một bài học: tình yêu là phục vụ. Khi bị treo trên thập giá, Ngài cho nhân loại thấy được một tình yêu đến hiến mình… Còn nhiều, nhiều lắm bài học yêu thương mà Đức Giêsu đã sống và nêu gương.
Hy vọng
Trong khi sống tình yêu, Đức Giêsu cho chúng ta thấy đó không phải là nỗ lực trong tuyệt vọng, là một sự mệt mỏi, buồn chán, nhưng đó là một niềm hạnh phúc và hy vọng cho con người, bởi vì Ngài đã nói: “Ta là đường là sự thật và là sự sống”. Con đường chúng ta đi không đơn độc, vì có Chúa là chính con đường, là người dẫn đường và cũng là cuối con đường của chúng ta.
III. SỐNG TỈNH THỨC
Không phải chỉ trong mùa vọng Giáo Hội mới mời gọi chúng ta sống tỉnh thức. Nhưng tỉnh thức phải là thái độ thường xuyên của Kitô hữu. Nếu người Kitô hữu thường xuyên tỉnh thức, thì họ sẽ thể hiện được tình yêu và niềm hy vọng trong cuộc sống.
Tình yêu
Nhờ tình yêu dành cho Thiên Chúa mà những người Do Thái trong bài đọc I mới có thể thấy được những sai trái của mình, và mới có thể thay đổi cuộc đời. Vì vậy trước hết chúng ta hãy nhìn xem đối tượng mà chúng ta đang yêu mến là ai? Hay nói cách khác, khởi đầu mùa vọng này chúng ta hãy xác định lại Thiên Chúa đang ở đâu trong trái tim của chúng ta? Bởi vì nếu chúng ta xác định Thiên Chúa là tất cả của chúng ta và chúng ta yêu mến Ngài thì chúng ta mới khao khát, chờ mong Chúa đến. Khi thấy cuộc sống của mình có những sai trái thì người ta sẽ lo sửa đổi cho phù hợp với Đấng là tình yêu. Tình yêu đây còn là chu toàn những bổn phận hằng ngày: làm vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh chị em trong gia đình; là giáo dân trong họ đạo, thành viên của khu xóm…
Niềm hy vọng
Kế đến chúng ta phải tỉnh thức trong niềm hy vọng, có nghĩa là lúc nào chúng ta cũng phải sẵn sàng để Chúa có thể đến mọi nơi mọi lúc. Có những người lúc gặp khó khăn nguy hiểm hoặc bệnh tật, họ mau lẹ chạy đến với Chúa và thể hiện một sự gắn bó mật thiết với Chúa, ví dụ như đi xưng tội, rước lễ, cầu nguyện thường xuyên, làm nhiều việc lành phước đức… nhưng khi hết khó khăn, vượt qua được bệnh tật, họ lại quay trở lại với nếp sống cũ. Vì vậy nhiều khi tôi ước mong cho những người đó cứ gặp khó khăn, nguy hiểm, bệnh tật hoài để họ gắn bó với Chúa, hầu còn được niềm hy vọng.
Tóm lại, khởi đầu mùa vọng, mùa mong chờ Chúa đến năm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức. Thái độ tỉnh thức mà Đức Giêsu muốn nhắm đến hôm nay là tỉnh thức trong một tình yêu và niềm hy vọng. Tình yêu để chu toàn những công việc bổn phận. Hy vọng để trung thành và bền đổ dù Chúa có đến muộn. Xin ơn Chúa giúp để chúng ta xác định lại vị trí của Chúa trong cuộc đời của mình, và để chúng ta dành tất cả tình yêu và niềm hy vọng của mình cho Chúa. Có được như thế, coi như chúng ta đã khởi đầu mùa vọng này một cách hết sức ý nghĩa.