Vào ngày 9/10/2018, ông Kim Jong Un chủ tịch Bắc Hàn đã nhờ tổng thống Nam Hàn gửi lời MV 4-C151
Vào ngày 9/10/2018, ông Kim Jong Un chủ tịch Bắc Hàn đã nhờ tổng thống Nam Hàn gửi lời mời Đức Thánh Cha Phanxicô thăm viếng Bắc Hàn. Ông nói rằng: “Đức Giáo hoàng sẽ được chúng tôi đón tiếp hết sức nồng nhiệt khi đến thăm Bình Nhưỡng”.Tòa Thánh đã đón nhận động thái tích cực này và cho biết: Đức Thánh Cha rất quan tâm đến lời mời của ông Kim Jong Un. Tuy nhiên, để có thể thực hiện được cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha, hai bên còn phải có nhiều thời gian để chuẩn bị và phía Bắc Hàn phải thể hiện sự chân thành bằng thư mời chính thức gửi cho Tòa Thánh. Thế giới có phần nghi ngờ việc làm này của chủ tịch Kim, không biết là do thật lòng muốn thay đổi đất nước hay chỉ là chiêu trò có tính chính trị, vì ông ta cũng đã nhiều lần thất thường như thế. Dưới thời dòng họ Kim làm chủ tịch, đạo Công Giáo hầu như bị xóa sổ tại Bắc Hàn, các nhà thờ bị phá hủy, các linh mục bị bắt, sách Kinh Thánh bị coi là quốc cấm.
Thưa quý OBACE, hôm nay chúng ta đã bước vào tuần áp lễ Chúa Giáng Sinh, Lời Chúa mời gọi chúng ta phải thật lòng mở rộng cánh cửa tâm hồn để đón mời Chúa bước vào. Chúa vẫn đứng chờ và sẵn sàng để đến thăm tâm hồn chúng ta, chỉ có điều chúng ta có thật lòng muốn mời Ngài vào, hay chỉ là những hình thức chuẩn bị qua loa lấy lệ bên ngoài mà không thực lòng. Vì một khi để cho Chúa bước vào, đòi chúng ta phải thay đổi từ trong suy nghĩ đến đời sống và còn phải có những việc làm thể hiện thiện chí của chúng ta. Lời Chúa hôm nay chỉ ra những mẫu gương và những thái độ phải có để đón tiếp Chúa.
Trước hết là thái độ của Đức Maria: Maria, một cô gái làng Nazaret đơn sơ thánh thiện đã được Thiên Chúa tuyển chọn làm nơi cho Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Thiên Chúa đã sai sứ thần đến hỏi ý kiến của Mẹ. Mặc dù không thể hiểu hết được lời chào và lời giải thích của sứ thần về việc: Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao, vậy mà Đức Maria đã sẵn sàng thưa tiếngxin vâng: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”.Với lời thưa xin vâng này, Đức Maria đã thể hiện một thái độ khiêm nhường thẳm sâu, biến mình nên một dụng cụ trong bàn tay của Thiên Chúa. Mẹ đã sẵn sàng để cho Thiên Chúa sử dụng cung lòng của mình cho Con Thiên Chúa cư ngụ, trước mắt người đời, điều này là vô cùng xấu hổ và có thể bị ném đá đến chết. Mẹ Maria đã hoàn toàn đặt trọn tương lai và cuộc đời cho Thiên Chúa dẫn dắt mà không đòi một điều kiện nào. Mẹ để mình hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa và còn quảng đại dâng tặng máu thịt của mình để làm nên máu thịt Con Thiên Chúa trong lòng Mẹ.
Kế đến là thái độ của bà Isave: Cuộc viếng thăm của Đức Maria đến nhà bà Isave khiến bà hết sức bất ngờ. Bà Isave đã đón tiếp người em của mình trong vui mừng và hân hoan hạnh phúc, vì bà nhận ra người con trong dạ cô em mình là chính Thiên Chúa. Vì thế khi vừa gặp Maria, Isave đã thốt lên: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa của tôi đến viếng thăm tôi”.Isave đã nhận ra việc Thiên Chúa viếng thăm gia đình bà qua con người của cô em Maria. Nhờ cuộc viếng thăm này, Thiên Chúa đã đổ tràn Thánh Thần xuống trên cả hai bà mẹ để cả hai người cùng cất lên những lời ca đẹp nhất tôn vinh Thiên Chúa. Bà Isave đã hết lời ca tụng Thiên Chúa vì những việc kỳ diệu Chúa đã làm cho người em của mình và cho chính bà. Bà cảm nhận được Gioan, đứa con trong dạ bà cũng nhảy lên vì sung sướng khi được Đấng Cứu Thế viếng thăm. Cuộc viếng thăm này còn là cuộc viếng thăm của hai đứa trẻ, của Đấng Cứu Thế gặp gỡ vị tiền hô của mình. Cuộc gặp này tuy không nói lên lời, nhưng lại là cuộc gặp đem lại ơn cứu độ cho Gioan, ông được tẩy sạch vết nhơ nguyên tội từ khi chưa sinh ra.
Thư Do Thái cho thấy Đấng Cứu Thế đến không phải để kết án, nhưng tha thứ, không phải để hủy diệt nhưng để cứu sống nhân loại. Chúa không đến trong vẻ ngoài của một vị hoàng đế hay hoàng tử, nhưng Ngài đến trong phẩm vị là một thượng tế. Ngài đến trong sự khiêm hạ vâng phục hoàn tòan thánh ý Thiên Chúa. Trong phẩm vị là tư tế, Đấng Cứu Thế đến trong một thân xác người phàm. Ngài thi hành chức vụ tư tế bằng việc hiến dâng cả cuộc đời của mình trong sự vâng phục, làm của lễ dâng lên Thiên Chúa Cha để cầu xin ơn tha thứ cho toàn thể nhân loại. Thiên Chúa có thể cứu chuộc nhân loại bằng nhiều cách, nhưng Thiên Chúa lại chọn cách cho Con của Ngài làm người và chịu hiến tế chính mình làm của lễ toàn thiêu và là lễ xá tội cho nhân loại. Mang thân phận con người, Đấng Cứu Thế đã chấp nhận được sinh ra làm con một người phụ nữ, chịu sự giới hạn của thân phận con người. Ađam ngày xưa đã nghe theo ma quỷ, đã kiêu ngạo, muốn mình trở nên ngang hàng với Thiên Chúa, ông đã thất bại và phải chết. Chúa Giêsu ngày nay đã không chọn ý riêng của mình nhưng phó dâng cả con người của mình để phục vụ thánh ý Chúa Cha, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thập giá. Chính cái chết vâng lời trong yêu mến này đã làm nên hy lễ đền tội cho tất cả nhân loại và vũ trụ. Đức Giêu đã khiêm nhường đón nhận thánh ý Chúa Cha, Thiên Chúa đã trả lại cho Ngài vinh quang danh dự và địa vị là vua trời đất, Chúa tể muôn loài. Đức Maria khiêm nhường đón nhận Thiên Chúa vào cuộc đời mình, Chúa đã trả lại cho Mẹ vinh dự lớn lao, trở nên cao trọng hơn tất cả mọi người phụ nữ trên trần gian này. Bà Isave đón tiếp Chúa vào nhà, Chúa đã chúc phúc và ban ơn cứu độ cho gia đình bà. Ngay cả vùng đất Bêlem nhỏ bé hẻo lánh của Giuđa, nhờ đón nhận Đấng Cứu Thế, nó trở nên một vùng đất được chúc phúc và được mọi người biết đến, vì từ nơi đây, Đấng Cứu Thế đã sinh ra, thủ lãnh muôn dân đã xuất hiện và đó là điều Tiên tri Mikha đã nói về đất Bêlem. Như thế Lời Chúa cũng cho thấy rằng, những ai quảng đại mở cửa lòng đón nhận Thiên Chúa, Chúa sẽ không bao giờ chịu thua lòng quảng đại của người ấy. Thiên Chúa sẽ trả lại cho người ấy và gia đình dư tràn ân phúc và đặc biệt Ngài sẽ ban lại ơn cứu độ cho người ấy và gia đình họ.
Thưa quý OBAEC, đến hôm nay hầu hết các nhà thờ, các hang đá, đèn sao đã được trang hoàng xong. Tuy nhiên, sự chuẩn bị đó cho dù có rực rỡ lung linh đến đâu đi nữa thì cũng chỉ là sự chuẩn bị, trang hoàng bên ngoài. Chúa vẫn chờ đợi để được bước vào, thăm viếng mỗi tâm hồn và mỗi gia đình. Để cuộc thăm viếng này có thể diễn ra tốt đẹp, đòi mỗi người cũng phải bày tỏ thái độ thiện chí, tích cực. Chúa không thể bước vào một tâm hồn khi lòng người đó còn ngổn ngang quá nhiều thứ như tội lỗi, gian dối, bất công hoặc những thói quen xấu. Chúa cũng không thể bước vào gia đình để thăm viếng khi gia đình quá bận rội với công việc đến độ không còn giờ chuyện trò với Chúa qua các giờ kinh, hoặc bận rộn với việc kèn cựa cãi vã, đến độ không nhận ra Chúa vẫn đứng đó chờ chúng ta mời ngài ngồi để tâm sự.
Có thể có nhiều người, nhiều bạn trẻ đã có những kế hoạch để “chơi giáng sinh” bằng những cuộc ăn nhậu thâu đêm, bằng tăng hai, tăng ba buông thả hết ga, nhưng vẫn chưa có một động thái gì để điều chỉnh bản thân, chưa có một hành động nào tích cực để đón Chúa vào tâm hồn. Vì thế sau những đêm vui chơi như thế, chỉ còn đọng lại những nỗi sầu và sự trống rỗng trong tâm hồn. Chỉ khi có Chúa trong tâm hồn, để cho Chúa bước vào cuộc đời, Chúa sẽ lấp đầy những trống vắng và thiếu thốn, sẽ xóa đi nỗi buồn chán và đem lại niềm vui, bình an và ơn cứu độ, như Chúa đã làm cho Đức Maria, Bà Isave và Gioan Tiền Hô.
Mùa Giáng Sinh đã về, chúng ta chỉ thực sự đón nhận niềm vui của mùa Giáng Sinh khi mỗi người chủ động mở cửa lòng để Chúa bước vào. Chúa vừa là thượng khách và cũng có thể nói Chúa là “người quét dọn, thiết kế”, Chúa sẽ dọn dẹp những lo lắng còn ngổn ngang trong tâm hồn, Chúa sẽ chiếu sáng những góc khuất, sẽ làm sạch những chỗ bụi bặm hôi hám bởi tội lỗi, dục vọng và lười biếng. Ngài sẽ giải gỡ những bất hòa, bất an và làm cho căn nhà tâm hồn chúng ta nên tươi mới và xinh đẹp hơn. Cầu chúc cho mỗi người biết dành những giây phút thinh lặng bình an bên hang đá Chúa để cảm nhận được tình thương của Thiên Chúa và sự đơn sơ thánh thiện từ hang đá Bêlem lan tỏa và biến đổi chúng ta. Amen.
Thánh Luca kể chuyện hai người phụ nữ diễm phúc đang mang thai gặp gỡ nhau. Bà Êlidabet mang MV 4-C152
Thánh Luca kể chuyện hai người phụ nữ diễm phúc đang mang thai gặp gỡ nhau. Bà Êlidabet mang thai, đó là ân huệ Chúa thương ban để bà cất đi nỗi nhục cả đời mình “Chúa đã làm cho tôi như thế đó khi thuận tiện Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời” (Lc 1,25). Thời gian dài đợi chờ rất dài, nay đã thành hiện thực và bà lại bắt đầu một thời gian trông đợi khác. Bà ẩn dật, cầu nguyện, nghỉ ngơi và chuẩn bị. Đức Maria cưu mang Con Thiên Chúa bởi quyền năng Chúa Thánh Thần. Đức Maria xin vâng với lòng tin và đợi chờ trong niềm vui.
Sau khi được sứ thần truyền tin, Đức Maria có thai và đã lên đường đi thăm người chị họ. Khi gặp nhau, hai người mẹ thông tin cho nhau biết về ý nghĩa của những phép lạ xảy ra trong cuộc đời mình. Đó là thời gian hai người mẹ mang thai chia sẻ sự mong đợi trong vui mừng. Cả hai đều là nữ tỳ khiêm tốn được Thiên Chúa mời gọi tham gia vào sứ mạng cứu độ của Người. Cả hai cùng hân hoan vì những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện nơi họ và cả hai cùng cảm nhận niềm hạnh phúc dâng trào vì đã tin.
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay chứa chan niềm vui. Bà Êlidabet vui mừng vì được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm. Đức Maria vui mừng vì được Thiên Chúa đoái thương. Hài nhi Gioan vui mừng vì được tha tội ngay từ khi còn trong lòng mẹ. Những niềm vui ấy hoà chung làm cho cuộc gặp gỡ trở thành một lễ hội vui mừng tạ ơn Thiên Chúa. Suối nguồn của những niềm vui ấy là ơn Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần đã giúp chuẩn bị các tâm hồn đón nhận niềm vui ơn cứu chuộc.
Cuộc viếng thăm lịch sử. Đây là cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ, hai người con đang được cưu mang cũng là giữa hai giao ước cũ và mới.
– Giữa hai người mẹ: Đức Maria thăm viếng đem niềm vui có Chúa cho gia đình người chị họ. Ở lại phục vụ người chị trong thời gian mang thai sinh con. Êlidabet được ơn Thánh Thần đã xưng tụng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa và đã ca tụng đức tin của Đức Mẹ.
– Giữa hai người con: Nghe lời chào của người mẹ cưu mang Đấng Cứu Thế, con trẻ Gioan trong lòng Êlidabet nhảy mừng vui sướng.
– Giữa hai giao ước: Cuộc viếng thăm của Đức Mẹ là cuộc gặp gỡ giữa hai giao ước. Thời đại mới mở ra giao ước mới. Con Thiên Chúa làm người khai mở giao ước của thời đại ân sủng và tình yêu.
Cuộc viếng thăm tình yêu. Tình yêu đòi hỏi phải biểu lộ ra chứ không giữ kín bên trong. Một tình yêu giữ kín, không được biểu lộ thành hành động thì không phải là một tình yêu đích thực. Tình yêu phải được biểu lộ ra thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ, giúp đỡ, hy sinh cho người thân, làm cho người thân trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn.
Tình yêu đích thực đòi hỏi phải năng gặp nhau, nhất là những lúc người mình yêu có chuyện vui buồn. Tục ngữ có câu: “Nhất nhật bất kiến như tam thu hề!” (một ngày không gặp nhau thì dài như ba năm). Do đó, đi thăm viếng nhau là đòi hỏi của tình yêu đích thực, là biểu lộ sự quan tâm đến nhau.
Đức Mẹ là mẫu gương tuyệt vời. Năng thăm viếng những người chúng ta yêu mến. Những người bệnh tật, già cả, những người nghèo khổ, đau khổ, những người khô khan thờ ơ, những gia đình rối rắm bất hoà… Họ rất cần đựơc thăm viếng. Đến thăm nhau là một phương cách tuyệt vời để biểu lộ tình huynh đệ, tình yêu thương của đạo Chúa.
Niềm vui thăm viếng Khi đến thăm bà Êlidabet, Mẹ đem Chúa đến cho người thân của mình. Nhờ Mẹ mang Chúa đến, nên không chỉ bà Êlidabet vui mừng mà hài nhi trong lòng bà cũng vui theo mà “nhảy lên” hân hoan. Nhảy mừng diễn tả niềm vui. Đây là niềm vui ơn cứu độ. Sự hiện diện của Đức Maria mang đến niềm vui và còn có sự biến đổi khiến hai mẹ con bà Êlidabet được tràn đầy Thánh Thần, và nhờ đó nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Mẹ. Gia đình Bà Êlidabet là gia đình đầu tiên được Chúa Cứu Thế viếng thăm. Đây là gia đình diễm phúc đón nhận niềm vui ơn cứu độ.
Đến thăm nhau không chỉ là một phương cách biểu lộ tình yêu, nói lên sự quan tâm, mà còn là một dịp thuận lợi để đem Chúa đến cho người mình thăm viếng. Nhờ ta đem Chúa đến mà niềm vui của người được thăm tăng lên gấp bội, và họ nhận lãnh được Thánh Thần.
Đem Chúa đến cho người mình thăm viếng, không có nghĩa là mình nói thật nhiều thật hay về Chúa cho họ nghe. Đức Maria có nói gì về Chúa với Bà Êlidabet đâu! Chúa là tình thương, ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân, khi chính ta thật sự yêu thương họ bằng một tình yêu chân thực. Đến với nhau bằng tình thương, bằng niềm vui là sự gặp gỡ có Chúa hiện diện rồi. Khi người ta mang hận thù oán ghét, ý nghĩ đen tối đến với nhau thì nảy sinh bất hoà chiến tranh và đau khổ. Ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân khi ta đến với ý muốn làm hiện thân của Chúa đối với họ, và coi họ cũng là hiện thân của Chúa đối với mình.
Thiên Chúa yêu thương nhân loại nên đã ban tặng Con Yêu Dấu là Đức Giêsu. Người đến với con người trong lịch sử, cách đây hơn hai ngàn năm. Người đem ơn cứu độ và đem hạnh phúc đến cho mọi người, cho từng người. Khi còn tại thế, Đức Giêsu đã đến thăm nhiều người, nhiều gia đình. Người quan tâm chăm sóc chữa lành những bệnh nhân. Người giảng dạy và ân cần với những người nghèo. Ngưòi cải hóa nhiều tội nhân. Người biểu lộ tình yêu thương cho mọi người.Đức Giêsu muốn chúng ta tiếp nối công việc của Người.
Một trong những vấn đề mục vụ hàng đầu của linh mục là thăm viếng giáo dân. Khi đến một giáo xứ mới, công việc đầu tiên của linh mục là đi thăm tất cả các gia đình trong giáo xứ. Như mục tử với đoàn chiên, linh mục biết tình hình chung, biết hoàn cảnh mọi gia đình trong xứ. Từ đó có kế hoạch mục vụ để mang lại hiệu quả thiết thực cho cộng đoàn.
Các tu sĩ, các hội đoàn trong giáo xứ có những thời giờ thăm viếng mục vụ. Đến với các bệnh nhân, người già cả, người nghèo, gia đình rối, gia đình bất hoà luôn được coi là việc tông đồ. Đem Chúa đến với anh chị em của mình là niềm vui và là sứ mạng của người tín hữu.
Những tuần lễ Mùa Vọng, mỗi người trong xứ đạo tiết kiệm chi tiêu để làm việc bác ái. Những phần quà ân tình chia sẻ cho các gia đình nghèo trong Đêm Giáng Sinh thật ý nghĩa, diễn tả tình yêu và sự quan tâm đến người khác.
Đức Maria viếng thăm phục vụ và đem Chúa đến với gia đình bà Êlidabet. Đó là hình ảnh tuyệt đẹp và là mẫu gương cho mọi tín hữu noi theo. Dành thời giờ quý báu để thăm nhau. Chia sẻ tình thương và đem niềm vui có Chúa cho tha nhân luôn là sứ vụ của người tín hữu.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết quan tâm đến niềm vui, nỗi khổ, và nhu cầu của từng người sống chung quanh chúng con. Xin giúp chúng con biết hy sinh thì giờ cho dù rất quí báu để năng đến gặp gỡ, thăm viếng nhau, hầu nhờ đó thông cảm được những nỗi vui buồn và nhu cầu của anh chị em. Xin giúp chúng con biết sẵn sàng chia vui sẻ buồn và tìm mọi cách để giúp đỡ những nhu cầu chính đáng của họ. Amen.
Chúng ta vừa được thánh Luca tường thuật lại cho chúng ta một câu chuyện thật đẹp, có một MV 4-C153
Chúng ta vừa được thánh Luca tường thuật lại cho chúng ta một câu chuyện thật đẹp, có một không hai trong Lịch sử loài người: Chuyện Đức Maria, mẹ của Thiên Chúa nhập thể làm người đi thăm người chị họ già cả của mình trong lúc bà đang cưu mang một người con của ân điển trong lòng. Phải nói rằng đây là một câu chuyện tuyệt đẹp đặc biệt vì nó mang lại những hiệu quả tuyệt vời cho cả người viếng thăm và người được thăm viếng.
Với người được viếng thăm thì con của bà nhận được hồng ân cao cả là được khỏi tội nguyên tổ ngay từ khi còn ở trong lòng mẹ. Với người đi thăm viếng thì cuộc viếng thăm đã là một cơ hội cho sự ra đời của một bài ca ca tụng tình thương của Thiên Chúa đẹp đến mức độ Giáo Hội đã phải dùng để cầu nguyện hằng ngày cho những giây phút thánh thiêng nhất để kết thúc một ngày sống trên đời. Bài ca đó là bài ca Magnificat- Linh hôn tôi ngợi khen Đức Chúa…
Trong bài ca này, hầu như Đức Maria đã không nài xin gì cùng Thiên Chúa, kể cả những điều chính đáng và cần thiết nhất cho cuộc đời của mình. Chẳng hạn như xin được bình an, khỏe mạnh trong thời mang thai, xin cho mẹ tròn con vuông khi sinh, xin cho thánh Giuse làm ăn khá giả để nuôi gia đình, xin cho mình được thánh thiện đóng tròn vai trò làm Mẹ Thiên Chúa.
Tất cả những điều đó giả sử Đức Maria có xin thì cũng là chính đáng. Tuy nhiên Người đã không xin vì Người hiểu rằng tạ ơn thì tốt hơn là xin ơn. Người chỉ nói lên niềm vui đang dâng lên trong lòng mình, rồi biến niềm vui đó thành lời chúc tụng: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa. Tâm trí tôi hớn hở reo mừng trong Chúa là Đấng Cứu dộ tôi”. Lời ngợi khen dâng lên tự phát, nhẹ nhàng, hồn nhiên, không cầu kỳ, gò bó, gọt dũa.
Chúng ta tự hỏi: Tại sao đức Maria lại có thể đem hết tâm trí để chúc tụng Thiên Chúa như vậy?
Có hai lý do: Người biết sống phó thác và Người có tâm hồn nhạy cảm.
+ Trước hết Đức Maria biết sống phó thác.
Phó thác là thế nào?
Vào một ngày thu, chim quạ nói chuyện với chim én chưa đầy một tuổi :
– Như tôi thấy, em sắp sửa đi xa phải không? Em đi đâu vậy?
Én trả lời:
– Ở đây trời sẽ lạnh hơn, em chịu lạnh không được, nên sẽ bay đến một miền ấm áp hơn.
Chim quạ chế nhạo:
– Nhưng em mới sinh ra vài tháng thôi, sao em biết có một miền ấm áp hơn để em không vì chết lạnh ?
Én trả lời:
– Thiên Chúa, Đấng đặt trong lòng em cái mong ước tìm về một nơi ấm áp, sẽ không bao giờ phỉnh gạt em đâu. Em tin vào Đấng đó, nên em sẽ bay đi.
Người sống phó thác là người có một niềm tin tương tự như vậy. Người đó luôn biết rằng có Thiên Chúa hướng dẫn đời mình. Mình được che chở, giữ gìn. Điều quan trọng không phải là cái gì sẽ xảy đến, nhưng là mình có tìm thấy ý Chúa trong những điều Chúa cho xảy đến với mình hay không. Nếu có tìm thì sự dữ cũng có thể trở thành sự lành. Và như vậy thì vẫn có thể an tâm.
Người cũng tin chắc rằng: người càng nghèo khó và bất hạnh thì càng được Thiên Chúa che chở, giữ gìn. Bởi thế Người mới nói: “Người nghèo đói được no đầy ơn phúc. Kẻ giàu sang bị đuổi về tay không”. Và người khiêm tốn nhận mình thuộc hạng nghèo khó, nghĩa là thuộc hạng người có phúc. Vì thế càng phải chúc tụng Thiên Chúa hơn.
+ Tiếp đến Đức Maria còn có tâm hồn nhạy cảm
Nhạy cảm với cái tốt đẹp và những niềm vui là những điều không thế không có trong cuộc sống. Nếu chỉ thấy toàn đau buồn trong cuộc sống thì không thể chúc tụng mà cuộc đời chỉ có thể buồn chán, than vãn.
Đây là những lời rất hay của một bài thơ
Cuộc sống như một cơ may, hãy nắm lấy nó. Cuộc sống như một nỗi buồn, hãy vuợt qua nó. Cuộc sống thì rất đẹp, hãy chiêm ngưỡng nó. Cuộc sống như một lời hứa, hãy cố thực hiện. Cuộc sống như một giấc mơ, hãy đón nhận nó. Cuộc sống như một sự bí ẩn, hãy khám phá nó. Cuộc sống như một thử thách, hãy đáp ứng nó. Cuộc sống như một sự phiêu lưu, hãy can đảm lên. Cuộc sống như một trò chơi, hãy chơi với nó. Cuộc sống như một bài ca, hãy reo hò cùng với nó. Cuộc sống như một gia tài, hãy giữ gìn nó.
Và cuộc sống thì vô cùng tuyệt vời, đừng bao giờ phá hủy nó. Cuộc sống như một tình yêu, hãy thưởng thức nó.
Phải là những người biết nhạy cảm lắm mới có thể cảm nghiệm được những giá trị của những niềm vui nỗi buồn của cuộc sống.
Đức mẹ luôn nhạy cảm với các ơn mà Thiên Chúa ban cho mình mỗi ngày. Những ơn này Chúa thường ban một cách thật kín đáo qua một cuộc sống không có gì là hào nhoáng. Ơn của Chúa không bao giờ thiếu, nhưng phải biết nhận ra. Cần có con mắt thật tinh, lòng thật ngay. Mắt tâm hồn Đức Maria luôn thật tinh và lòng Người thật ngay vì thế Người nhận thấy đời mình tràn đầy ơn phúc: “Đấng Toàn năng đã làm cho tôi những điều cao cả”.
Ngoài những ơn cá nhân Đức Maria còn nhạy cảm với những ơn Thiên Chúa ban cho toàn dân mình suốt chiều dài của lịch sử dân tộc. Ơn Chúa bao trùm tất cả lịch sử Israel, từ Abraham cho đến muôn đời. Đó cũng lại là một lý do để dâng lời chúc tụng.
Chúng ta hãy tập cho mình có được lời cầu kinh chúc tụng Thiên Chúa như Đức Mẹ Maria. Vì chỉ khi nào chúng ta biết cầu nguyện như thế thì lời cầu nguyện của chúng ta mới đẹp lòng Chúa và ơn Chúa sẽ đến với chúng ta.
Phải nhìn nhận rằng cách chúng ta cầu nguyện và cách chúng ta sống gắn liền nhau. Sống cách nào thì sẽ cầu nguyện như vậy. Cách cầu nguyện phản chiếu cách sống của mỗi người. Điều đó có nghĩa là chỉ khi nào chúng ta theo gương Đức Maria trong cách sống của Người thì chúng ta mới có thể theo gương Người trong cách cầu nguyện của Người.
Một linh mục để ý người đàn bà đang ngồi trong nhà thờ trống vắng, hai tay ôm đầu. Một giờ, rồi hai giờ trôi qua và bà ta vẫn ngồi yên ở đấy.
Nghĩ rằng bà đang có chuyện đau khổ trong tâm hồn và ao ước được giúp đỡ, ngài đứng dậy đến bên bà và nói
– Tôi có thể giúp bà được gì không?
Bà nói
– Thưa cha không! Con cám ơn cha. Con đang có tất cả những điều con cần.
Các người láng giềng của nhà thần bí Hồi giáo, Farid, đã thuyết phục ông đến kinh đô ở Delhi để xin hoàng đế Akhar ban cho dân làng một ân huệ. Farid đến cung điện và gặp lúc Akhar đang đắm mình cầu nguyện.
Khi hoàng đế cầu nguyện xong, Farid hỏi:
– Nhà vua vừa cầu nguyện như thế nào?
Vua đáp:
– Ta cầu xin Đấng nhân từ ban cho ta sự thành công, giàu có và được sống lâu.
Vừa nghe xong, Farid liền quay lưng lại và bỏ đi. Vừa đi ông vừa nói:
– Ta đến gặp một vị vua. Thế mà ta lại gặp một người ăn xin, không khác gì những hạng người khác!
Mẹ thánh Têrêsa nói cầu nguyện không phải là xin xỏ mà là phó thác. Mẹ Maria đã làm gương cho chúng ta điều đó.
Một nhân chứng đương thời với tổng thống A. Lincoln, kể lại rằng:
– Đêm ấy tôi không ngủ được. Tôi bèn thử dợt lại những gì phải nói trước công chúng sáng hôm sau đó. Đã quá nửa đêm, đúng ra là gần hừng đông. Chợt tôi nghe có tiếng thầm thì trong phòng Tổng Thống ngủ. Cửa phòng hé mở. Theo bản năng. Tôi bước lại gần và thấy một cảnh không thể nào quên được. Tôi thấy Tổng Thống đang quì bên một cuốn Kinh Thánh đang mở. Ánh sáng trong phòng chỉ vừa đủ. Lưng ngài quay về phía tôi nên không thấy tôi vào. Tôi đứng lặng một lúc, quá đỗi bàng hoàng và kinh ngạc. Rồi tôi nghe Tổng Thống cầu nguyện :
– Lạy Chúa, Chúa đã nghe lời cầu khấn của Salômon trong đêm khuya, xin cho được ơn khôn ngoan. Xin Chúa nhậm lời con đây, con không thể dẫn dắt dân tộc này nếu Chúa không ra tay giúp đỡ con. Con là kẻ nghèo hèn và tội lỗi. Lạy Chúa, Chúa đã nhậm lời cầu xin của Salômon, xin hãy nghe lời con nài van mà cứu lấy đất nước này!
Vâng chúng ta hãy cầu nguyện như thế để được Chúa nhậm lời. Amen.
Nếu chúng ta để ý thì trong mùa Vọng có những mẫu gương tiêu biểu cho việc trông chờ Đấng MV 4-C154
Nếu chúng ta để ý thì trong mùa Vọng có những mẫu gương tiêu biểu cho việc trông chờ Đấng cứu độ. Chẳng hạn như: Tư tế Giacaria, Gioan tẩy giả, cụ già Simêon, bà tiên tri Anna và cuối cùng là Mẹ Maria, nhưng càng gần đến lễ giáng sinh, thì vai trò của Mẹ Maria nổi bậc trong các bài đọc Thánh kinh. Tại sao vậy!. Thưa, bởi vì Mẹ Maria đóng một vai trò hết sức quan trọng trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Sách Sáng Thế ngay từ những chương đầu đã kể lại: Sau khi ông bà nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa không bỏ mặc con người trong chốn tội lỗi, để cho ma quỷ thống trị, nhưng liền ngay tức khắc, Ngài hứa ban Đấng cứu độ bằng những lời lẽ như sau: “Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người phụ nữ…. Người phụ nữ đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi sẽ rình cắn gót chân Người” (St 3,15). Người phụ nữ đó chính là Đức trinh nữ Maria.
Thiên Chúa có chương trình tốt đẹp cho con người, nhưng để chương trình ấy thành công thì cần có sự tham gia cộng tác của con người. Chương trình đầu tiên của Thiên Chúa đã bị thất bại, do bởi ông bà nguyên tổ nghe lời ma quỷ hơn nghe lời Chúa, đã làm theo ý riêng mình hơn theo ý Chúa.
Trái lại, Mẹ Maria được Thiên Chúa mời gọi, nhờ cộng tác bằng lòng tin và sự khiêm nhường, nên chương trình cứu độ của Thiên Chúa bắt đầu thực hiện.
Đức Mẹ khiêm nhường trong đời sống bình dị. Sinh ra và lớn lên trong thôn làng Nazarét nào có cái chi hay!. Ngày ngày với những công việc rất đỗi bình thường như bao cô thiếu nữ khác. Ví dụ như: Bếp núc, may vá, dọn dẹp nhà cửa… Nhưng chính trong chốn lặng thầm ấy, thì Đức Mẹ được Chúa chọn làm Mẹ Đức Chúa Trời.
Đức Mẹ khiêm nhường trong cách ứng xử. Khi sứ thần Gabriel báo tin “Này Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu”. Thì Đức Mẹ khiêm tốn đáp lại: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”.
Trong biến cố thăm viếng, bà Êlisabét chúc mừng: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm”, thì Đức Mẹ đáp lại “Phận nữ tì hèn mọn, được Chúa đoái thương nhìn tới, nếu được ơn này ơn nọ là do hồng ân nhưng không Chúa cho thôi”.
Đức Mẹ khiêm nhường trong đời sống phục vụ. Tin mừng thánh Luca ghi lại, vừa hay tin chị họ Êlisabét mang thai trong lúc tuổi già, Mẹ Maria vội vã lên đường vượt núi băng rừng, bất chấp đường xá xa xôi. Mẹ đến đó chia sẻ niềm vui với chị, đồng thời ở lại phục vụ giúp đỡ chị ba tháng trời, sau đó mới trở về nhà mình.
Thưa anh chị em,
Cũng trong biến cố thăm viếng này, bà Êlisabét chúc khen Đức Mẹ “Phúc cho Bà, vì Bà đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà đã được thực hiện”.
Thật vậy, làm sao mà tin được, khi muốn giữ mình đồng trinh thuộc trọn về Chúa, mà bây giờ Chúa bảo sẽ mang thai, mà không theo quan hệ vợ chồng – nhưng Mẹ vẫn tin đó là do quyền năng Chúa Thánh Thần, vì không có việc gì mà Chúa không làm được.
Làm sao mà tin được, một Thiên Chúa giàu có vô cùng, vậy mà giờ đây phải hạ sinh trong hang đá nghèo khó – nhưng Mẹ vẫn tin đó là Đấng tác thành vũ trụ, đã mặc xác con người.
Làm sao mà tin được, một Thiên Chúa Đấng cầm quyền sinh tử vạn vật, mà bây giờ phải nhờ đôi tay Đức Mẹ bồng bế trốn sang Aicập. Nhưng Mẹ vẫn tin đó là Thiên Chúa rất đổi khiêm nhường, giầu lòng xót thương.
Làm sao mà tin được, một Thiên Chúa là cõi nguồn hạnh phúc, mà bây giờ lao nhọc vất vả nơi xưởng mộc, mồ hôi đổi lấy bát cơm – nhưng Mẹ vẫn tin đó là Thiên Chúa làm người, là Chúa đất trời.
Làm sao mà tin được, một Thiên Chúa đã tự xưng mình: Ta là sự sống lại và là sự sống, mà bây giờ bị con người ngược đãi giết chết trên thập giá – nhưng Mẹ vẫn tin đó là Đấng mang nguồn cứu độ, đã chịu chết cho con người.
Các nhà thánh mẫu học nói rằng: Ngày xưa, bà Evà đã nghi ngờ tình thương của Chúa, giơ tay hái trái cấm, đánh mất ân sủng, làm cho cửa thiên đàng đóng lại. Thì bây giờ nhờ lòng tin của Mẹ Maria, đã đem lại cho nhân loại ơn giải thoát và cửa thiên đàng được mở ra.
Ngày xưa bà Evà do không vâng phục, nghe theo lời ma quỷ xúi giục, đưa nhân loại đến sự chết. Thì nay, nhờ lời xin vâng của Đức Maria, đã đưa nhân loại đến sự sống.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta không biết khi đi thăm viếng, Mẹ Maria mang theo những gì, nhưng chắc rằng: Đức Mẹ mang Hài Nhi Giêsu đến thăm gia đình ông Giacaria.
Nhờ sự hiện diện của Đức Maria, mà Chúa Thánh Thần đã thánh hoá gia đình này một cách đặc biệt: làm cho ông Giacaria nói được sau hơn 9 tháng bị câm, làm cho bà Êlisabét nhận ra Mẹ Maria không những là em của mình, nhưng còn là Mẹ Thiên Chúa, và Gioan Tẩy giả được sạch tội tổ trước khi chào đời. Như vậy, Đức Mẹ thăm viếng là một hồng ân.
Vậy mỗi khi rước lấy Chúa Giêsu vào lòng, chúng ta noi gương Đức Mẹ là mang Chúa đến cho người khác. Để Chúa ban ơn bình an và phúc lành của Ngài cho những người chúng ta gặp gỡ.
Cuối cùng, ai trong anh chị em ít là một lần trong đời được bạn bè hay những người thân quen mời đi tham dự sinh nhật. Khi đi mừng sinh nhật, chắc chắn chúng ta mang quà đi mừng người ấy.
Năm xưa, khi Chúa giáng sinh ở Belem, các chú mục đồng và ba nhà Đạo sĩ mang quà đến mừng sinh nhật Chúa. Vậy, mừng sinh nhật Chúa, anh chị em có chuẩn bị quà mừng gì cho Chúa chưa?. Và nếu có thì món quà đó là gì?. Chắc chắn Chúa không đòi chúng ta quà mừng như: vàng, nhủ hương và mộc dược, nhưng Ngài thích món quà nơi tấm lòng mỗi người chúng ta thôi.
Cho nên hôm nay Chúa Nhật cuối của mùa Vọng, chúng ta được mời gọi để cùng nhìn lên Mẹ Maria, người Mẹ của mùa Vọng, là mang niềm hi vọng Giêsu đi đến những nơi thiếu vắng tình thương, những người đang cần sự giúp đỡ, những mảnh đời lây lất bên vệ đường, nhờ sự viếng thăm của chúng ta, sẽ đem lại cho họ niềm hi vọng và phúc lành của Chúa trong đêm giáng sinh. Đó là món quà sinh nhật ý nghĩa nhất mà Chúa hài nhi đang mong chờ. Amen.
Lịch sử có ý nghĩa, không phải chỉ là một sự lặp lại vô tận của chu kỳ giữa sự sống và sự chết MV 4-C155
Lịch sử có ý nghĩa, không phải chỉ là một sự lặp lại vô tận của chu kỳ giữa sự sống và sự chết với các mùa màng năm tháng. Lịch sử không phải chỉ là những diễn biến tình cờ mà được đan dệt bằng những cố gắng của con người được Thiên Chúa yêu thương mời gọi dấn thân theo chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Những bài đọc của Chúa nhật 4 mùa Vọng làm cho chúng ta tiến sát đến sự thực hiện quyết định sau những thời gian chờ đợi lâu dài. Trong lịch sử này, con người đã sa ngã do tội lỗi, trầm luân trong tội và sự chết lại được Thiên Chúa xót thương nâng đỡ và mời gọi đón tiếp sự viếng thăm của Thiên Chúa. Vẫn luôn có những tiên tri để mời gọi dân chúng tin tưởng và trở về với Thiên Chúa là Đấng vẫn yêu thương chờ đợi. Tiên tri Mikhê đã loan báo về Bêlem là nơi Đấng cứu thế sẽ giáng sinh, sẽ được ban tặng cho con người và được sinh hạ bởi một người nữ. Đấng cứu thế chính là Thiên Chúa đến viếng thăm dân người, người sẽ vững vàng chăn dắt dân người trong bình an, trong sức mạnh của Thiên Chúa và dân sẽ trở lại với người.
Bài Tin mừng của Luca bắt đầu tường thuật về người phụ nữ này sẽ sinh hạ con Thiên Chúa nhập thể làm người. Bà là một con người được nâng đỡ bởi sức mạnh Thánh Thần. Xuất thân từ làng nghèo Nazarét thuộc miền Galilê, người phụ nữ bình thường nhưng thực là mạnh mẽ này đã đính hôn với Giuse nhưng chưa sống chung với chồng đã nhận được sự viếng thăm đặc biệt của sứ thần Gabriel, và bà đã được báo tin vui là sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai sẽ là Đấng cứu thế thuộc dòng tộc Đavít. Bà cũng được báo tin là việc thụ thai này là do bởi Thánh Thần Thiên Chúa thực hiện và Bà đã khiêm tốn và tin tưởng đón nhận lời mời gọi của sứ thần. Đồng thời, bà cũng được báo tin là Êlisabét, người chị họ của bà cũng đã thụ thai nay đã được sáu tháng, người vẫn bị mang tiếng là son sẻ. Được tin người chị họ đã mang thai, Bà Maria không quản ngại đường xa, đã vội vã lên đường đi thăm viếng người chị họ của mình ở tận Giuđêa, con đường dài trên 150 cây số bộ hành. Maria là người hành động bởi sức mạnh Thánh Thần, bà đã lãnh nhận Con Thiên Chúa nhập thể với sức mạnh Thánh Thần, giờ đây bà mang sự hiện diện của Con Thiên Chúa cách cụ thể và chia sẻ niềm vui này cho mọi người. Maria hành động không kiểu cách, bà hành động rất đơn sơ, bà vội vã lên đường đơn độc nhưng có Chúa ở cùng bà và bà đã đến nhà của Êlisabét một cách thân tình và khiêm tốn.
Khi đón nhận sự viếng thăm của Maria, Êlisabét đã cảm nghiệm được niềm vui trong lòng, niềm vui dào dạt thúc đẩy bởi Thánh Thần, bởi vì chính hài nhi đã nhảy mừng trong lòng mẹ. Nơi hai người nữ này, hình ảnh những người nữ đạo đức khác được Thiên Chúa yêu mến và chuẩn bị. Êlisabét nói lên lời kinh ngạc của Giáo hội đứng trước mầu nhiệm mà Maria đang mang trong mình. Như xưa kia, vinh quang của Thiên Chúa bao phủ đền thờ là nơi chứa đựng hòm bia Thiên Chúa, thì giờ đây vinh quang Thiên Chúa bao phủ trên Đức Maria là người đang mang trong chính mình Con Thiên Chúa nhập thể làm người. Maria không phải chỉ là mẹ của một con người nhưng là mẹ của Thiên Chúa nhập thể làm người. Niềm vui của Êlisabét là niềm vui cho toàn thể nhân loại được Thiên Chúa thăm viếng. Giờ đây chính Thiên Chúa viếng thăm dân người và ở lại với dân người. Êlisabét cảm nghiệm mình cùng với hài nhi trong lòng được thánh hóa bởi sự hiện diện của Đức Maria, một người nữ sáng ngời bởi lòng tin mạnh mẽ vào lời Thiên Chúa. Niềm vui của Thiên Chúa và niềm vui của con người đã bắt đầu được cảm nghiệm và tuyên xưng. Hài nhi nhảy mừng trong lòng mẹ khi Êlisabét vừa nghe tiếng chào của Maria còn nói lên niềm vui sâu xa dào dạt mà sau này ông sẽ là người công bố cho mọi người phải chuẩn bị để đón Đấng sẽ đến và sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần. Êlisabét được đầy Thánh Thần và bà đã nhạy bén để dự đoán được ý nghĩa của niềm vui diễn ra trong lòng mình: Êlisabét diễn tả niềm vui này là không phải Thiên Chúa đã cho chúng ta một điều gì đó dù là lớn lao, nhưng là cho chúng ta điều mà chúng ta không thể ngờ được là Con Thiên Chúa đến viếng thăm cùng với người mẹ của Người, và Maria là người nữ khiêm tốn và bé nhỏ của nhân loại đã đồng hành cùng với Con Thiên Chúa nhập thể không phải với điều gì khác hơn là lòng tin mạnh mẽ vào lời Chúa: “Em được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng em được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi? Vì này, tai tôi vừa nghe lời em chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho em là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng em sẽ được thực hiện”.
Tin mừng của Luca muốn nói lên ở chặng đường của lịch sử nhân loại với nhiều vấp váp, Thiên Chúa đã thực sự đi vào với sự tràn ngập của sức mạnh Thánh Thần, Maria cùng với hài nhi là Con Thiên Chúa trong lòng, Êlisabét cùng với hài nhi là Gioan tẩy giả, những con người này đã đón nhận được sức mạnh Thánh Thần biến đổi họ và họ nói lên cho chúng ta niềm vui của mình. Đức Maria vội vã lên đường đến với người chị họ của mình bởi vì bà đã được Thánh Thần thúc đẩy đến với chị họ của mình để chia sẻ niềm vui của mình cũng như đón nhận niềm vui của Êlisabét cũng đang mang thai nhờ bởi ơn Chúa. Nơi mọi người, Thánh Thần Thiên Chúa chan hòa và thánh hóa họ. Chúng ta đang lần hồi được tiếp cận sự viếng thăm của Thiên Chúa, một sự viếng thăm thực là kỳ diệu, không phải chỉ là một cuộc viếng thăm theo nghi thức với những lời chúc mừng trang trọng vồn vã nhưng không thực chất, nhưng là cuộc viếng thăm thực sự với việc nhập thể của Con Thiên Chúa nơi Maria. Chiều sâu của mầu nhiệm giáng sinh là đó: con Thiên Chúa đi vào trần gian để đổi mới cuộc đời của chúng ta. Những hy lễ của chúng ta đã trở nên vô hiệu vì thiếu phẩm chất đích thực, giờ đây Con Thiên Chúa sẽ thực hiện một sự đổi mới thực sự, người không dùng những hy lễ, lễ tế hay lễ toàn thiêu hay lễ đền tội, nhưng người hiến dâng chính thân xác của mình để thi hành thánh ý của Chúa Cha, và người mời gọi chúng ta đón nhận sức mạnh Thánh Thần để được đổi mới từ bên trong, để làm cho con người yếu hèn của chúng ta trở nên nơi mà Con Thiên Chúa đến viếng thăm và ở lại để người cũng sẽ thực hiện những việc lạ lùng cho mỗi người như đã thực hiện nơi Đức Maria.
Nhân đức là sức mạnh tinh thần phải kiên trì mới có thể thực hiện. Về siêu nhiên, nhân đức là MV 4-C156
Nhân đức là sức mạnh tinh thần phải kiên trì mới có thể thực hiện. Về siêu nhiên, nhân đức là một tập quán tốt do thiện chí theo tiếng thúc gọi trong tâm hồn và thực thi điều Chúa muốn.
Theo Thánh LM TS Thomas Aquino, “nhân đức là một tập quán mà ta có thể tập luyện, nó hoàn hảo hóa con người để người ta thực thi các việc thiện”. Theo giáo lý Công giáo, “nhân đức là một xu hướng thường xuyên và kiên định để làm điều thiện, không những giúp ta thực hiện những hành vi tốt mà còn muốn cống hiến hết khả năng của mình cho Chúa, cho tha nhân” (số 1803).
Có hai loại nhân đức: [1] Nhân đức tự nhiên – tập quán do tập luyện để làm theo lẽ phải; [2] Nhân đức siêu nhiên – tài năng Chúa phú vào linh hồn cùng với ơn thánh làm cho người ta có thể thực thi các việc siêu nhiên đáng được ân thưởng vinh phúc đời sau. Nhân đức đối thần gồm ba nhân đức: Tin, Cậy, Mến – có thể tham khảo chương 13, thư thứ nhất gởi giáo đoàn Côrintô; các nhân đức đối nhân, gọi là nhân đức luân lý cơ bản, có rất nhiều, nhưng chủ yếu gồm bốn nhân đức quan trọng: khôn ngoan, công bình, can đảm, tiết độ (GLCG số 1805).
Mùa Vọng là mùa tập luyện nhân đức bằng cách thi hành việc lành phúc đức, cụ thể là đức ái – nhân đức quan trọng nhất. Mùa Vọng được biểu tượng hóa bằng 4 ngọn nến: Ánh sáng của HY VỌNG, ánh sáng của HÒA BÌNH, ánh sáng của TÌNH YÊU và ánh sáng của NIỀM VUI. Ánh sáng soi đường chúng ta bước qua những ngày u tối. Cả 4 loại ánh sáng đó luôn cần được chiếu soi suốt cuộc đời chúng ta.
Khởi đầu rồi kết thúc, đó là quy trình mọi thứ. Và Mùa Vọng cũng thế, đang dần đến hồi kết thúc. Niềm hy vọng của chúng ta đã lên đỉnh điểm. Khoảng mong chờ gần hết. Chúa Giêsu sắp đến với chúng ta. Điều đó nghĩa là chúng ta được mãn nguyện. Nhưng càng cuối thời gian chờ đợi, đức vâng lời càng phải kiên quyết. Chúng ta đã “quen” với tinh thần tích cực của đời sống Kitô hữu: “Vâng lời trọng hơn của lễ” (1 Sm 15:22 và Tv 50:8-9). Đức vâng lời cần thiết cho mọi người, đặc biệt là những người sống đời tu trì, vì đức vâng lời là một trong ba lời khấn chính – gọi cho “văn hoa” hơn thì là thanh tuân hoặc tuân phục.
Trong các thụ tạo của Thiên Chúa, Đức Maria là thụ tạo đặc biệt nhất và hoàn hảo nhất. Đức Mẹ trở nên người diễm phúc vì đã mau mắn thực hiện đức vâng lời ngay khi được truyền tin: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền” (Lc 1:38). Lời “xin vâng” của Đức Mẹ đầy sự can đảm và trọn niềm tín thác.
Thuở xưa, ngôn sứ Mikha đã nhắn nhủ: “Phần ngươi, hỡi Bêlem Épratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ítraen. Nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa” (Mk 5:1). Không chỉ vậy, ông còn cho biết trước nhiều điều khác: “Vì thế, Đức Chúa sẽ bỏ mặc Ítraen cho đến thời một phụ nữ sinh con. Bấy giờ những anh em sống sót của người con đó sẽ trở về với con cái Ítraen. Người sẽ dựa vào quyền lực Đức Chúa, vào uy danh Đức Chúa, Thiên Chúa của Người mà đứng lên chăn dắt họ. Họ sẽ được an cư lạc nghiệp, vì bấy giờ quyền lực Người sẽ trải rộng ra đến tận cùng cõi đất. Người sẽ chiến thắng Átsua” (Mk 5:2-3). Và có điều đặc biệt nhất: “Chính Người sẽ đem lại HOÀ BÌNH” (Mk 5:4a). Thật tuyệt vời, vì hòa bình là niềm khao khát không chỉ riêng ai.
Chưa bao giờ có được tận hưởng sự hòa bình đích thực nên mơ ước của con người càng mạnh mẽ và cháy bỏng. Chắc chắn cuộc sống không gì hơn là được tận hưởng nền hòa bình đích thực, nhưng muốn có hòa bình đích thực thì công lý phải được tôn trọng đúng mức, mà muốn có công lý thì phải cầu nguyện: “Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, xin cho chúng con được phục hồi, xin tỏ Thiên Nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng con được ơn cứu sống” (Tv 80:4). Cầu nguyện không chỉ là đối thoại với Thiên Chúa, mà còn là sức mạnh của con người.
Không chỉ cầu nguyện một vài lần, tùy hứng hoặc khi “kẹt”, mà phải cầu nguyện liên lỉ: “Lạy Chúa Tể càn khôn, xin trở lại, tự cõi trời, xin ngó xuống mà xem, xin Ngài thăm nom vườn nho cũ, bảo vệ cây tay hữu Chúa đã trồng, và chồi non được Ngài ban sức mạnh” (Tv 80:15-16). Chân thành và tha thiết cầu nguyện thì chắc chắn Thiên Chúa sẽ “mủi lòng” mà thương xót: “Xin giơ tay bênh vực Đấng đang ngồi bên hữu là con người được Chúa ban sức mạnh” (Tv 80:18). Đồng thời còn phải tự nhủ lòng và đoan hứa chắc chắn: “Chúng con nguyền chẳng xa Chúa nữa đâu, cúi xin Ngài ban cho được sống, để chúng con xưng tụng danh Ngài” (Tv 80:19). Cầu nguyện không phải chỉ van xin, mà còn là tạ ơn và chúc tụng.
Thánh Phaolô cho biết rằng, khi vào trần gian, Đức Kitô đã nói rõ: “Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội” (Dt 10:5-6). Điều đó do chính Đức Kitô xác nhận chứ không phải ai khác, thế thì chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa: Chúa KHÔNG CẦN lễ này hay vật nọ, ngay cả lễ toàn thiêu và lễ xá tội Chúa cũng coi như không. Thế mà chúng ta lại thích bày ra nhiều điều kiện và nhiều thứ lễ để làm gì? Chúa chỉ cần LÒNG CHÂN THÀNH và ĐỨC VÂNG LỜI, như Đức Kitô đã thân thưa với Chúa Cha: “Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10:7). Chính điều đó mới quan trọng nhất. Đừng coi trọng cái phụ mà coi thường cái chính, thích bề ngoài hơn tâm linh – vì đó là trái Ý Chúa. Thế nhưng người ta lại thích và thường làm điều trái ngược – ưa chuộng bề ngoài hơn bề trong, rồi viện cớ là “có đầy mới tràn”. Thật đáng quan ngại!
Chính Đức Kitô đã xác định trước tiên: “Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền” (Dt 10:8). Sau đó Ngài mới nói thêm: “Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10:9). Hai vế cân bằng. Chính Người BÃI BỎ CÁC LỄ TẾ CŨ mà THIẾT LẬP LỄ TẾ MỚI. Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, CHỈ MỘT LẦN LÀ ĐỦ. Quan trọng là tuân phục Ý Chúa chứ không theo ý mình, dù Ý Chúa nhiều khi hoàn toàn trái ngược với ý riêng của chúng ta.
Thế nhưng Đức Maria lại khác hẳn, không hề lưỡng lự hoặc đắn đo khi vâng lời mà MAU MẮN VÂNG LỜI, vì thế Đức Mẹ trở nên gương mẫu về đức vâng lời. Không chỉ vậy, Đức Mẹ còn là người vợ và người mẹ tuyệt vời, đồng thời cũng như một nữ tu, dù không mặc áo dòng, và giữ trọn ba lời khấn: Thanh tuân, thanh khiết, và thanh bần. Vâng, Đức Mẹ đúng là nữ-tu-không-tu-phục.
Ngày ấy, sau khi thụ thai Thánh Tử và biết tin chị Êlidabét cũng đã mang thai một “người con đặc biệt” khi đã lớn tuổi, Đức Maria đã vội vã lên đường, đến miền núi, tại một thành thuộc chi tộc Giuđa, đó là nhà anh chị họ Dacaria và Êlidabét. Đức Maria vào nhà và cất tiếng chào, vừa nghe tiếng dì Maria chào, đứa con trong bụng chị Êlidabét nhảy lên. Được đầy tràn Thánh Thần, chị Êlidabét liền kêu lớn tiếng và nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1:42-45). Hằng ngày, chúng ta cũng nhiều lần ca tụng Đức Maria: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc…”.
Phúc nhân gặp phúc nhân, người phúc thăm viếng người phúc. Chị Êlidabét đã là người có phúc vì mang thai Thánh Gioan Tẩy Giả, người tiên phong mở đường của Thiên Chúa, dì Maria còn có phúc hơn vì mang thai Thánh Tử Thiên Chúa. Không chỉ vậy, dì Maria còn có đại phúc khác, như chị Êlidabét xác nhận, đó là “tin Chúa sẽ thực hiện điều Người đã hứa”. Có TIN TƯỞNG thì mới VÂNG LỜI. Vâng lời minh chứng đức tin. Thật là lô-gích và kỳ diệu biết bao!
Xét theo chuỗi hệ lụy đó, (có lẽ) chúng ta chưa đủ tin nên chúng ta khó vâng lời, khó vâng lời vì yếu lòng tin. Nếu vậy, rõ ràng đức tin thực sự là điều cần thiết cho tất cả mọi người chúng ta, không ngoại trừ bất kỳ ai, và là nền tảng cho công việc chúng ta làm. Có thể nói rằng biên độ giữa hữu thần và vô thần rất nhỏ hẹp, chỉ nhích qua nhích lại là… khác hẳn. Một chút mà quan trọng và khó khăn, vì người ta có thể hơn thua nhau ở mức độ sống nhân đức, sống bình thường mà lại phi thường. Các thánh là những người đã chứng tỏ điều đó.
Lạy Thiên Chúa chí thánh hằng hữu, trong khi chờ đón Thánh Tử Ngôi Hai giáng sinh, chúng con thao thức nhưng vẫn chưa dứt khoát dọn dẹp đường lòng, xin thêm lòng can đảm cho chúng con, xin cũng ban thêm đức tin và giúp chúng con sẵn sàng “xin vâng” theo Thánh Ý Ngài – nhất là khi chúng con không được như ý muốn. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.
Phụng vụ Giáo Hội ấn định Mùa Vọng có 4 tuần lễ tượng trưng cho 4.000 năm thời Cựu Ước trông MV 4-C157
Phụng vụ Giáo Hội ấn định Mùa Vọng có 4 tuần lễ tượng trưng cho 4.000 năm thời Cựu Ước trông đợi Chúa đến lần thứ nhất: Chúa nhật I mùa Vọng “báo tin ngày Chúa đến”; Chúa nhật II “Tiiếng hô trong hoang địa” Gio-an đến dọn đường; Chúa nhật III “niềm vui bừng lên” vì Chúa đã đến gần; còn Chúa nhật IV mùa Vọng hôm nay loan báo Tin Mừng Đức Maria Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm người chị họ Ê-li-za-bet để cùng “chia sẻ niềm vui”, vì bà đã 70 tuổi còn được Thiên Chúa ban hồng ân cho thụ thai (mà thai nhi chính là sứ giả Tiền Hô Gio-an Bao-ti-xi-ta); đồng thời cũng là dịp người chị họ chúc mừng tin vui của Đức Mẹ: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1, 42-43).
Mẹ Ma-ri-a được sứ thần tuyên dương là người có phúc, tức đầy tràn tình yêu Thiên Chúa. Còn bà Ê-li-sa-bét cũng là người có phúc, vì tình yêu Thiên Chúa đã cứu thoát bà khỏi nỗi tủi nhục son sẻ. Giờ đây hai bà mẹ tương lai gặp gỡ nhau, nhìn nhận tình yêu Thiên Chúa đã tuôn đổ xuống tâm hồn họ, nên đem hết tâm tình cảm tạ Chúa. Mặc dù đóng vai trò rất quan trọng trong kế hoạch cứu độ của Chúa, nhưng hai người luôn khiêm nhường và dành tất cả công trạng cho ân sủng Chúa hoạt động nơi mình. Gương mẫu chia sẻ tình yêu Thiên Chúa của hai người được biểu lộ qua cuộc gặp gỡ đặc biệt, có thể dạy chúng ta cách chuẩn bị đón Chúa và nhất là đem Chúa đến với anh em.
Trong Mùa Vọng có 3 nhân vật nổi bật luôn được nhắc đến: Đó là ngôn sứ I-sai-a loan báo Đấng Cứu Độ sẽ đến; nhân vật thứ hai (cũng được ngôn-sứ I-sai-a báo trước) mang danh hiệu “Tiếng hô trong hoang địa” là thánh Gio-an Tẩy Giả đến dọn đường đón mừng Đấng Thiên Sai. Nhân vật thứ ba – Đức Trinh nữ Maria – là nhân vật quan trọng nhất, vì qua Mẹ và nhờ Mẹ, Đấng Thiên Sai đã đến để thực hiện công trình cứu độ của Thiên Chúa dành cho loài người. Mặc dù mỗi nhân vật ở một cương vị, đóng một vai trò khác nhau, nhưng đều chung một mục đích loan báo, dọn đường đón vị Cứu Tinh của nhân loại. Nói cách khác, cả 3 nhân vật đó tuy có những phương cách hoạt động khác nhau, nhưng đều cùng chung một sứ vụ là loan báo, dọn đường sửa lối đón mừng nhân vật trọng tâm: Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Cứu Độ giáng trần.
Có thể Mẹ Maria tới thăm gia đình ông Da-ca-ri-a là để chia sẻ một niềm vui trong gia tộc, đồng thời cùng với người chị họ chúc tụng Thiên Chúa, vì cả 2 chị em đều được ân thưởng đặc sủng của Thiên Chúa. Tuy nhiên, lý do chính Đức Mẹ tới viếng thăm người chị họ chỉ có thể là vì Tình Yêu. Chính là vì tình yêu, vì lòng lân tuất, Mẹ đã lên đường tới thăm gia đình người chị họ neo đơn, cả hai ông bà đã già yếu, rất cần sự giúp đỡ trong những tháng cuối cùng của thai kỳ và cả khi sinh nở. Mẹ đã ở lại với người chị họ tới 3 tháng cũng là vì thế. Như vậy, có thể nói Đức Mẹ đã ra đi thi hành sứ vụ truyền giáo là đem niềm vui đến cho tha nhân. Mẹ đã đem Đấng Cứu Thế đến cho bà Ê-li-da-bet, kể cả người con mà bà đang cưu mang trong lòng là Gio-an Tiền Hô. Vì thế, khi thấy Đức Mẹ thì Gio-an Tiền Hô đã vui mừng nhảy lên trong lòng bà mẹ (Lc 1, 44).
Điểm đáng lưu ý trong chuyện này là trước những lời chân tình và khiêm tốn của bà Ê-li-da-bét, Đức Mẹ không nói gì ngoài những lời ngợi khen và cảm tạ Thiên Chúa trong bài ca Magnificat. Mẹ cảm tạ Chúa không chỉ cho riêng mình, nhưng cho hết thảy nhân loại. Những lời chân tình của bà Ê-li-sa-bét xuất phát từ một tâm hồn thực sự khiêm tốn, nhìn nhận những gì Thiên Chúa làm cho bà và đứa con trong bụng qua cuộc viếng thăm của cô em họ Maria. Cả hai bà đều thâm cảm được tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa dành cho mình và cho nhân loại. Cả hai đều bày tỏ lòng khiêm nhường tin tưởng vào công trình cứu độ của Thiên Chúa giải thoát loài người khỏi ách thống trị của tội lỗi và sự chết đời đời. Mẹ Maria đã thay mặt cho toàn thể nhân loại, cất lời ngợi khen và cảm tạ Thiên Chúa bắt đầu thực hiện kế hoạch lấy tình yêu làm vũ khí “dẹp tan phường lòng trí kiêu căng, hạ bệ những ai quyền thế, nâng cao mọi kẻ khiêm nhường, kẻ đói nghèo được ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng” (Bài ca “Ngợi Khen” – Magnificat – Lc 1, 51-53).
Nói đến tình yêu là nói đến 3 nhân đức cốt tuỷ của người Ki-tô hữu: Tin + Cậy + Mến. Có Yêu thì mới Tin và càng Tin thì càng Yêu gấp bội. Chỉ đến khi dốc một lòng Tin Yêu thì mới dám Cậy nhờ trợ giúp. Một tấm gương sáng chói cho lập luận này chính là thánh Phao-lô Tông đồ dân ngoại: Kể từ khi trở về nẻo chính đường ngay, sau biến cố Đa-mát, thánh nhân đã rút ra được những kinh nghịêm quý báu về Tình Yêu trong quá trinh rao giảng Tin Mừng, mở mang Hội Thánh Chúa. Ngài khẳng định: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1Cr 13, 13). Ngài còn xác quyết: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.” (1Cr 13, 3). Quả thật muốn “yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực” thì phải “yêu người thân cận như chính mình”. Chỉ có hết dạ “yêu người” mới chứng tỏ là thực lòng “mến Chúa”. Đó là quy luật tất yếu. Tuy nhiên, ngay từ trước khi Thánh Phao-lô đưa ra lập luận chắc chắn như vậy, thì Đức Maria đã thể hiện một cách rất sinh động: Đầu tiên là chia sẻ niềm vui với ngưới chị họ và sau đó là chia sẻ niềm vui cho toàn thể nhân loại trong suốt cuộc đời của Mẹ và cho mãi đến thiên thu vạn đại.
Bài Tin Mừng hôm nay đã nêu bật những bài học quý giá cho hành trình thực thi sứ mạng loan báo Tin Mừng của mỗi Ki-tô hữu: Thứ nhất: Mẹ đã “yêu Chúa hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực” nên Mẹ mới tin tưởng dâng mình trong đền thờ năm 16 tuổi, và vì thế Mẹ càng yêu Chúa gấp bội và tin tưởng tuyệt đối vào lòng Thuơng xót của Chúa bằng hành động “xin vâng” theo Thánh ý Chúa trong mọi tình huống. Thứ hai: Vì tình bác ái, Mẹ rất quan tâm đến hoàn cảnh bà Ê-li-za-bét rất cần sự thăm hỏi động viên, giúp đỡ. Thứ ba: Dù là chỗ họ hàng, mà chì là họ hàng xa, không bó buộc phải thăm nom, giúp đỡ; nhưng Mẹ đã nhận trách nhiệm ấy cho mình (Tình bác ái không phân biệt họ hàng xa hay gần, có họ hàng với nhau hay không). Thứ tư: Mẹ đã không quản ngại đường xá xa xôi, núi non trắc trở, vì “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách nùi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Đường đi có thể khó khăn nguy hiểm, nhưng nếu lòng người đã quyết thực thi tình bác ái, thì hiểm trở tới đâu cũng không quản ngại. Thứ năm: Mẹ đã kiên tâm ở lại giúp đỡ người chị suốt 3 tháng ròng. Đó là đức mến được thể hiện bằng hành động cụ thể nhất. Cũng như “Đức tin không có hành động là đức tin chết”, đức mến mà chỉ ở nơi đầu môi chót lưỡi thì cũng chẳng hơn gì. Vì thế, nên giúp đỡ chia sẻ một cách cụ thể mới thực sự là những “chứng tá bác ái”. Thứ sáu: Mẹ đã đem Đấng Cứu Độ đến cho cả 2 mẹ con bà Ê-li-za-bet (người Mẹ thì vui mừng thốt lên “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” còn người con thì nhảy lên mừng rỡ trong lòng mẹ – Lc 1, 43-44). Rõ ràng Đức Mẹ đã đem Tin Mừng đến cho tha nhân. Há chẳng phải đó là nhà truyền giáo đầu tiên của Giáo Hội thời Tân Ước đó sao?
Qua mẫu gương tuyệt hảo của Đức Mẹ, Giáo Hội mời gọi mọi tín hữu hãy trở về với tinh thần đích thực của mầu nhiệm Giáng Sinh. Tinh thần ấy là khiêm nhường, cảm tạ và tín thác vào sức mạnh Tình yêu Thiên Chúa, để từ đó sẵn sàng lên đường tới viếng thăm tất cả mọi người, nhất là những người mà Đức Vua Tình Yêu – trong ngày chung thẩm – đã nhận là chính Người (“Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” – Mt 25, 35). Quả thật, “Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài” (Thánh Au-gus-ti-nô). Đức Mẹ đã cộng tác với Thiên Chúa trong công trình cứu độ bằng tất cả con người và cuộc sống của minh. Học theo gương Mẹ, người Ki-tô hữu hãy cộng tác với Thiên Chúa bằng cách đem chính bản thân mình phục vụ mọi người. Hãy quan tâm đến niềm vui, nỗi khổ, và nhu cầu của từng người sống chung quanh; sẵn sàng hy sinh thì giờ cho dù rất quí báu của mình, để năng đến thăm viếng, gặp gỡ, chia vui sẻ buồn và tìm mọi cách để thỏa mãn những nhu cầu chính đáng của họ.
Ôi! “Lạy Chúa! Xin hãy dạy con tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được mến yêu. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời…” (“Kinh Hoà Bình” – TCCĐ). Ôi! “Lạy Chúa, Chúa đã dùng lời thiên sứ truyền tin mà cho chúng con biết thật Ðức Ki-tô, Con Chúa, đã xuống thế làm người. Xin đổ ơn thánh đầy lòng chúng con, để nhờ công ơn Con Chúa chịu khổ hình thập giá, Chúa cũng cho chúng con được sống lại hiển vinh. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật IV mùa Vọng).
Lạy Chúa, Chỉ vỏn vẹn một ngày nữa thôi, ngày 23/12, Mùa Vọng sẽ qua đi, Mùa Giáng sinh lại MV 4-C158
Lạy Chúa, Chỉ vỏn vẹn một ngày nữa thôi, ngày 23/12, Mùa Vọng sẽ qua đi, Mùa Giáng sinh lại đến. Chúa nhật thứ tư Mùa Vọng, Giáo hội cho chúng con chiêm ngắm Đức Maria trong biến cố Truyền tin, để biết Đức Maria đã mở lòng đón Chúa đến với nhân loại như thế nào? Mẹ Maria đã sống cuộc đời của một thiếu nữ đơn sơ, thánh thiện trong một gia đình thuộc vùng quê yên bình, cùng với mọi người tại làng Na Gia rét bé nhỏ, nhưng Mẹ đẹp lòng Thiên Chúa và được Thiên Chúa chúc phúc.
Tất cả cuộc đời Mẹ Maria gói gọn bằng hai từ XIN VÂNG. Kể từ lúc Sứ Thần Chúa truyền tin, do trí hiểu biết của con người giới hạn khiến Mẹ phải bối rối thốt lên: “ Việc ấy xảy ra thế nào được “. Thế nhưng khi được biết ý định của Thiên Chúa, mẹ đã cúi đầu :”Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói “. Chính từ lời Xin Vâng ấy mà “Hoa quả đầu mùa là Đức Kytô đoạn đến những kẻ thuộc về Người “ nên Mẹ được Giáo hội tôn phong là đấng hiệp công cứu chuộc loài người chúng con. Chính Mẹ là Đấng đã đem Chúa đến với nhân loại.
Ngày hôm nay, người người đã, đang nô nức dọn nhà cửa, trang hoàng phố xá, cửa hàng, siêu thị, tiệm ăn để mừng lễ. Các nhà thờ, nhà nguyện, xóm đạo chúng con cũng chăng đèn điện, đủ màu sắc nhập nhòe trên những cây thông sặc sỡ, nhiều hang đá được tái hiện thật lôi cuốn người xem thể hiện niềm vui ngày Chúa Giáng trần. Chúng con vui thật, vì Mùa lễ hội của cả thế giới này. Rồi đến đêm Giáng sinh sẽ là một đêm huy hoàng tráng lệ với những âm thanh rộn ràng của những bài ca, tiếng nhạc. Sau giờ lễ sẽ là những bữa tiệc liên hoan với những thức ăn ngon, những ly rượu nồng, tất cả là muốn thể hiện niềm vui Emanuelle, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Đối chiếu bài Tin Mừng, chúng con có dịp suy gẫm về gương phó thác, xin vâng, mở rộng lòng đón Chúa đến với nhân loại của Đức Maria, con đang tự hỏi mình có dọn lòng cho đủ để đón Chúa vào linh hồn con như Mẹ Maria sẵn sàng cho Chúa ngự đến? Con có sống tín thác vào Chúa như Mẹ đã sống? Con có để cho ý Chúa được thể hiện nơi con hay ý muốn của con đã thay cho ý Chúa?
Lạy Chúa,
Xin cho con biết tiếp bước theo con đường của Mẹ Maria. Là người con Mẹ, chúng con muốn sống đời Hiệp Sống – Xin Vâng – Phục Vụ. Đó là mong muốn hiệp nhất với nhau, với mọi người, để cùng nhau sống theo Thánh ý Thiên Chúa, phục vụ mọi người đang sống cùng, sống với chúng con, ngay trong gia đình, trong khu xóm, xứ đạo, nơi làm việc, chỗ buôn bán, giữa chợ đời. Và rộng ra là với mọi giới đồng bào trên quê hương Việt Nam này .
Xin cho mỗi lần mừng lễ Chúa Giáng Sinh, chúng con biết noi gương Mẹ nhiều hơn nữa. Biết chu toàn bổn phận từng người trong gia đình, từng tín hữu trong Hội Thánh; biết sống trung thành với Thiên Chúa, phục vụ tha nhân, hầu mai ngày cũng được cùng Mẹ hưởng vinh phúc trên quê trời .AMEN .
Cháu cưng của bà dậy rồi à. Để bà pha nước tắm cho cháu nào. Nghe bà ngoại âu yếm gọi cháu MV 4-C159
Cháu cưng của bà dậy rồi à. Để bà pha nước tắm cho cháu nào.
Nghe bà ngoại âu yếm gọi cháu cưng, chị mỉm cười hạnh phúc. Sinh con đầu lòng với bao bỡ ngỡ và vụng về, nhưng có mẹ ở bên, chị an tâm rất nhiều. Vì thương con thương cháu, bà ngoại lặn lội đường xa đến với con với cháu. Bà không chỉ thăm viếng nhưng đã ở lại phục vụ với cả tình yêu.
Cũng có một cuộc thăm viếng tràn đầy tình yêu, niềm vui và hạnh phúc, đó là cuộc viếng thăm bà Êlisabet của Đức mẹ Maria.
Nghe sứ thần Gaprien báo tin vui, Đức Maria vội vã lên đường. Mẹ vượt dặm đường xa hiểm trở để đến với chị mình. Dường như trong từng bước chân vội vã của Mẹ có sự vui mừng, phấn khởi. Mẹ là người được Thiên Chúa thương và Mẹ cũng nhận thấy tình thương Thiên Chúa dành cho chị họ Êlisabet khi Chúa đã cất nỗi khổ nhục của chị qua việc ban tặng cho chị một đứa con. Mẹ không lên đường một mình nhưng đã lên đường với Chúa vì chính Chúa đang ngự trong cung lòng Mẹ, và Mẹ cũng đem Chúa đến cho chị họ. Khi có thai, Bà Êlisabet đã ẩn mình năm tháng, bà luôn tự nhủ: “Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi người thương cất nỗi khổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời” (x.Lc 1,24-25). Và giờ đây, tâm hồn bà được đầy Thánh Thần khi vừa nghe tiếng chào của Đức Maria, tiếng ấy cũng khiến cho cả hài nhi trong bụng bà Êlisabet nhảy lên vui sướng (x. Lc 1,41-44). Đã bao giờ ta tự hỏi, vì sao ta được Chúa viếng thăm và ta nhận ra cuộc viếng thăm của Chúa ngang qua người anh chị em mình? Chúa mời gọi ta mang Chúa đến cho người khác, đồng thời Chúa cũng đích thân đến với ta để đem hạnh phúc cho ta như có lời của một ai đó đã nói: “Khi có một ai đó đến viếng thăm ta, dù họ chỉ là một người hành khất thì chính khi ta tiếp đón họ là tiếp đón chính Chúa”.
Bà Êlisabet đã nói cùng Đức Maria lời này: “ Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45). Thiên Chúa là Đấng trung tín và ai tin vào lời của Chúa thì thật là người có phúc, vì chính Chúa sẽ thực hiện mọi điều Thiên Chúa hứa ban. Đức Mẹ đã hoàn toàn xin vâng trước thánh ý Thiên Chúa. Còn ta, ta có tin rằng chính Chúa sẽ thực hiện cho ta những điều tốt đẹp nhất không? Nếu ta tin vào Chúa thì ta là người có phúc. Chính thánh Phaolô tông đồ cũng xác tín điều này: “ Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích lợi cho những ai yêu mến Người” (x.Rm 8,28a). Thiên Chúa đã ban tặng cho ta một trái tim để yêu thương. Hãy yêu mến Thiên Chúa để Người dạy ta yêu mến anh chị em mình. Để yêu mến anh chị em mình đòi hỏi ta phải có lòng thực khiêm tốn. Vì nếu không có sự khiêm tốn, ta không biết phải yêu thế nào cho phải. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, nhưng đã chủ động viếng thăm chị và ở lại phục vụ chị bằng cả tình yêu. Mẹ có lòng khiêm nhường thẳm sâu, vì thế, đức ái nơi Mẹ là phản ánh một tâm hồn mến yêu Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu yêu mến! Chúa chính là món quà quý giá nhất mà con được nhận lãnh và muốn trao ban cho người khác. Xin cho con biết dùng giây phút hiện tại để đón Chúa ngự đến trong tâm hồn và cùng Chúa viếng thăm anh chị em.“ Xin cho con luôn biết hiến thân mà không mong chờ, phần thưởng nào hơn là được biết con đang thi hành ý Chúa” ( Kinh Quảng đại hiến dâng). Amen.
Cận kề mừng Chúa Giêsu Giáng Sinh, bầu khí về đêm rực lên những ánh đèn nhấp nháy. Người người MV 4-C160
Cận kề mừng Chúa Giêsu Giáng Sinh, bầu khí về đêm rực lên những ánh đèn nhấp nháy. Người người cùng đi thăm viếng những hang đá Belem trong những kiểu dáng tuyệt vời. Thật là ấm áp và tràn đầy niềm vui, nhưng niềm vui nào cho bằng niềm vui Chúa ngự đến trong tâm hồn.
Vậy làm sao để được Chúa ngự đến ?
Mẹ Maria, Mẹ tuyệt hảo. Mẹ khiêm tốn đáp lời xin vâng trước lời sứ thần truyền tin. Qua lời xin vâng, Mẹ được tràn đầy Thánh Thần. Mẹ hân hoan vội vã lên đường đến với chị họ mình là bà Êlisabét (người phụ nữ mang tiếng là son sẻ). Khi vừa đến nhà ông Dacaria, Mẹ liền chào bà Êlisabet trong niềm vui hớn hở chân thật. Lời chào ấy đã khiến đứa con trong bụng bà Êlisabét nhảy mừng lên (x.Lc 1,41). Lời chào của Mẹ mang tâm tình thân thương, chia sẻ và tràn đầy tình yêu khiến tâm hồn bà Êlisabet cũng hân hoan và bà cất tiếng lời tán dương: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1,42). Qua sự thăm viếng của Mẹ, Bà Êlisabet nhận ra hồng ân được Thiên Chúa viếng thăm: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa đến với tôi thế này” (Lc 1,43).
Mẹ Maria đã đem Thần Khí, niềm vui đến cho gia đình ông Dacaria và niềm vui ấy được lan rộng đến cho mọi người.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết ra khỏi lòng mình mà chạy đến với Chúa, chạy đến với người anh em của mình để cùng với Mẹ hưởng trọn niềm vui ân sủng của Chúa Hài Nhi. Amen.
Trong thần thoại Hy Lạp, Asin được coi là một chiến binh vĩ đại nhất của quân Hy Lạp trong cuộc MV 4-C161
Trong thần thoại Hy Lạp, Asin được coi là một chiến binh vĩ đại nhất của quân Hy Lạp trong cuộc chiến thành Troia. Ông là kết quả của một cuộc tình giữa người anh hùng trần thế, Pêlê và nữ thần biển Thêtix. Vì là người con hỗn hợp giữa một bên là phàm trần và một bên là thần thánh nên mẹ của chàng suốt đời chỉ chăm lo cho con được trở thành bất tử để sánh vai với các vị thần khác. Bởi lẽ, trong sáu lần sinh con trước, Thêtix đều đem tôi vào trong ngọn lửa của thần Prômêtê. Nhưng cả sáu đứa con đó đều không thể sống được dưới sức nóng của ngọn lửa.
Vì thế, đến người con thứ bảy là Asin, nữ thần Thêtix không đem tôi vào lửa nữa mà đem tôi vào nước của dòng sông âm phủ Xtích. Lần này thì nữ thần đã thành công. Nhưng tiếc thay khi tôi con vào nước sông âm phủ Xtích, bà đã quên không tôi chỗ gót chân của Asin là nơi tay bà cầm lấy con mình để nhúng vào nước. Vì thế Asin vẫn có thể chết, nghĩa là không thể bất tử vì chỗ gót chân của anh.
Do đó, ngày nay, thành ngữ “Gót chân Asin” người ta thường dùng chỉ để nơi hiểm yếu, nhược điểm của một con người, tổ chức hay một lực lượng nào đó. Đánh trúng, nhằm trúng “Gót chân Asin” có nghĩa là đánh trúng huyệt, nhằm trúng huyệt để hạ gục địch thủ của mình.
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ, câu chuyện thần thoại “Gót chân Asin” gợi nhắc chúng ta nhìn lại chuyến thăm viếng của Đức Trinh Nữ Maria đến nhà Bà Êlizabeth mà Lời Chúa của Chúa Nhật hôm nay nói đến, để qua đó mời gọi từng người cùng chiêm ngắm đôi chân, đôi gót hồng của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Rất Thánh của chúng ta.
Chúng ta thấy, trong câu chuyện “Gót chân Asin”, dù là một nữ thần và được coi là bất tử, nhưng Thêtix không thể mang lại sự bất tử ấy cho chính người con máu mủ của mình. Điều này cho chúng ta thấy rằng những gì thuộc về con người hay những gì mà con người tôn vinh lên làm thần thánh cũng không thể nào giải quyết cho chúng ta về vấn nạn về sự sống đời đời. Vì thế, điều này càng làm cho chúng ta xác tín hơn về quyền năng của Thiên Chúa. Chỉ có Chúa mới là Đấng làm cho con người được sống đời đời: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”(Lc 1, 37)
Quay trở lại với đôi chân, đôi gót hồng của Đức Trinh Nữ Maria, chúng ta cũng được nhắc lại lời nguyền xưa giữa Thiên Chúa và con rắn: một bên là Thiên Chúa đại diện cho sự sống đời đời, một bên là con rắn đại diện cho tội lỗi, cho sự tối tăm và là sự chết: Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người nữ. Người nữ ấy sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì rình cắn gót chân người (x. St 3,15). Thế nhưng, qua các đặc ân mà Mẹ Maria đã lãnh nhận từ Thiên Chúa có thể quả quyết cho chúng ta một điều: Mẹ đã được chiến thắng sự chết. Điều này cho thấy gót chân của Mẹ sẽ không còn là điểm yếu nữa; và đôi chân, đôi gót hồng của một cô gái liễu yếu đào tơ Maria sẽ thay bằng một đôi chân, đôi gót của sự sống; và là đôi chân, đôi gót của hồng phúc. Có thể nói, tất cả những gì Mẹ có đều xuất phát từ chính lời “Xin Vâng” một cách khiêm nhường tự hạ từ chính cõi lòng của Mẹ. Để rồi Mẹ đã được chính Sự Sống của Thiên Chúa bao trùm: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà” (Lc 1, 35). Và cũng chính lời “Xin Vâng” đó, Mẹ đã được diễm phúc ôm lấy Ngôi Lời của Thiên Chúa nơi cung lòng của mình, và để cho chính Ngôi Lời, là “ánh sáng bởi ánh sáng” (Kinh Tin Kính), là ngọn lửa, và là dòng nước đích thực tôi luyện Mẹ: “hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc 1, 28). Như thế, Mẹ đã được Thiên Chúa đổi lấy sự chết của nhân loại nơi Mẹ để nhường chỗ cho sự sống thần linh vĩnh cữu của Ngài bằng chính nhờ lòng tin của Mẹ. Vì thế, chúng ta hãy tạ ơn Chúa và ngợi khen Mẹ như bà Êlizabéth đã làm: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này.”
Cộng đoàn thân mến, Mẹ đại diện cho nhân loại được diễm phúc đón nhận sự sống đời đời từ Thiên Chúa nhờ vào lòng tin, vì thế sự chết sẽ mãi mãi không thể cắn được gót chân Ngài. Do đó, sứ điệp lời Chúa hôm nay một cách nào đó như một lời thức tỉnh cuối cùng cho chúng ta để chúng ta thêm phần xác tín hơn trong Mầu Nhiệm Nhập Thể mà chúng ta sắp mừng kính trong đêm Giáng Sinh tới đây. Và hơn thế nữa, Thiên Chúa cũng muốn mời gọi chúng ta hãy xác tín thật mạnh mẽ vào Hài Nhi Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa thực sự. Chính sự hiện diện của Ngài nơi cung lòng của những ai đón nhận và ghi nhớ Lời của Ngài qua việc lắng nghe và đón rước Chúa thường xuyên thì sẽ có đôi gót, đôi chân chiến thắng sự dữ như Mẹ.
Hôm nay, hình ảnh của Đức Trinh Nữ Maria ra đi trên đôi chân đôi gót hồng phúc của mình để mang ơn cứu độ, mang sự sống vĩnh cửu đến chia sẻ niềm vui ấy với người chị họ của Mẹ là Bà Êlizabéth. Điều đó cũng muốn nhắc nhở chúng ra rằng: chúng ta sẽ có đôi chân hay đôi gót hồng phúc như Mẹ khi chúng ta có đức tin hoà lẫn với những hy sinh. Chính đức tin sẽ giúp chúng ta đạt đến quê trời vĩnh cữu. Còn những hy sinh sẽ giúp mỗi người tôi luyện chính đôi chân của mình trên những bước đường gian khó của dòng đời, là những gian nan thử thách của thế gian, ma quỷ và xác thịt. Đó cũng chính là sự tôi luyện của sự ra đi, ra đi để đón nhận, ra đi của cảm thông và ra đi để sẻ chia hòng đạt đến đức ái toàn hảo như lòng Chúa ước mong.
Nơi Giáo hội, sự hiện diện của Lời Chúa cùng với các Bí tích, cách riêng là Bí tích Giải tội chính là nơi Thiên Chúa đặt để lò tôi luyện của Ngài dành cho những ai khao khát chạy đến, hạ mình như Mẹ đáp lại lời “Xin vâng” để được diện kiến Thiên Chúa trên cõi vĩnh phúc.
Thiên Chúa đã đến mà người nhà của Ngài không hay biết; Thiên Chúa đã gõ cửa mà người nhà cũng chẳng nghe! (x. Ga 1, 10-11) Có thể chúng ta đang mê ngủ trong vòng xoáy của cuộc đời, hay trong căn phòng đóng kín của cõi lòng nên chúng ta không thể nghe được tiếng Chúa để rồi lời “Xin vâng” không thể toát lên nơi môi miêng chúng ta.
Vì thế, xin Mẹ hãy chỉ cho chúng ta nhận ra tiếng Chúa và cùng đi với chúng ta hòng giúp mỗi người được tôi luyện để được đôi chân của đức ai; đôi chân đạt đến sự sống đời đời – đôi chân hồng phúc như Mẹ. Amen.
Cảm tình dành cho nhau trong lần gặp gỡ đầu tiên hoàn toàn độc lập khỏi lí trí. Hầu hết mọi quyết MV 4-C162
Cảm tình dành cho nhau trong lần gặp gỡ đầu tiên hoàn toàn độc lập khỏi lí trí. Hầu hết mọi quyết định đến từ lí trí Dường như lí trí giúp ta làm quyết định nhưng một phần nào trong quyết định đó cũng bị tình cảm lúc đầu ngấm ngầm chi phối. Cảm nhận lần đầu tiên gặp gỡ là một thực tế, nó đóng vai trò quan trọng trong giao tế hàng ngày. Ai cũng biết nó tồn tại, hiện diện trong ta nhưng rất khó chứng minh. Cá nhân người đó biết mình cảm nhận người khác, sự việc ra sao. Nếu phải giải thích tại sao lại cảm nhận sự việc như thế thì dường như không có câu trả lời chính xác. Các nhà thần bí học trong thinh lặng của cuộc sống chiêm niệm cũng đi tìm và lắng nghe cảm nhận những điều về tâm linh và họ sống theo cảm nhận tâm linh đó. Không dễ gì hiểu được điều cảm nhận tâm linh của họ, vì thế cần có người giải thích bằng ngôn ngữ hàng ngày giúp ta tạm nắm bắt điều họ cảm nghiệm.
Về phương diện tâm linh, người nào cũng có kinh nghiệm nghe tiếng nội tâm. Tiếng đó khi thì khuyên nhủ hoặc ta nên làm; nó nhắc nhở ta nên tránh điều gì kia; ngày đêm nó dằn vặt ta khi làm điều nọ; kèm theo đó là sợ hãi và tìm cách trốn người này, né người nọ. Người đặt niềm tin vào Đức Kitô cho đó là tiếng nói của Thánh Thần Chúa hướng dẫn và khi ta hành động theo hướng dẫn đó con tim ta cảm thấy thoải mái, thảnh thơi.
Phúc Âm tuần này cho biết bà Elizabeth cảm nhận được tiếng nói Thánh Thần trong tâm tư bà. Nhờ thế bà Elizabeth nhận biết cuộc viếng thăm của người họ hàng bà Maria là cuộc viếng thăm đặc biệt và thánh thiện. Chúng ta biết được cảm nhận đó khi bà Elizabeth vui mừng đón tiếp bà Maria. Niềm vui dạt dào , tràn ngập tâm hồn bà, vui đến mức bà lớn tiếng ngợi ca Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ… Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi, đến với tôi thế này? Lk 42-45
Bà Elizabeth lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa bởi sâu trong tâm tư bà cho biết Mẹ của Thiên Chúa viếng thăm. Chúng ta biết điều này bởi chính bà Elizabeth nói ra và tất nhiên không ai có khả năng kiểm nhận điều bà lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa. Cuộc viếng thăm của bà Maria giúp chúng ta học biết nhiều điều mới lạ về tình yêu Chúa.
Thứ nhất, Chúa là Đấng duy nhất ban cho ta niềm vui dạt dào xuất phát từ tâm hồn. Niềm vui đến từ ngoài không bền vững. Những ai thành tâm sống theo tiếng nói của Thánh Thần Chúa, tâm tự họ tràn ngập niềm vui. Bà Elizabeth nhận biết điều đó bởi bà luôn sống trong tâm tình tạ ơn.
Thứ hai, nguồn vui Chúa ban không phải dành riêng cho cá nhân ta hưởng mà niềm vui đó cần đuợc chia sẻ cho người khác cùng hưởng. Niềm vui chia sẻ không mất đi, không nhỏ đi nhưng trái lại chia sẻ, cho đi chính là gieo nguồn vui vào lòng đất tốt, giúp cho nguồn vui đó tăng trưởng, cao lớn lên, kết quả vĩ đại hơn. Cả hai bà Maria và Elizabeth đều chia sẻ niềm vui của mình cho người khác. Hai bà mang lời Chúa trong cõi lòng mình, trong tâm mình và còn làm cho lời Chúa sống động trong cuộc sống.
Thứ ba, ân sủng Chúa trao ban cho cá nhân, chính cá nhân đó nhận biết, xác nhận và chia sẻ, người nghe có thể vui lây, có thể từ chối tin; người nghe không bao giờ cảm nhận rõ như người nhận ơn Chúa ban.
Thứ tư, khi có ơn Chúa trong ta, cuộc sống ta trở nên vui tươi. Chính niềm tin dạt dào giúp ta nhận ra Chúa ở trong ta và chính Thiên Chúa hoạt động trong đời ta. Bà Elizabeth và bà Maria là Mẹ Đấng Cứu Thế làm chứng về sự thật đó. Không phải chỉ mình bà mà thai nhi trong lòng bà cũng nhảy mừng. Không có niềm tin chúng ta cho đây là chuyện lạ, chuyện hoang tưởng. Với niềm tin chúng ta biết Thiên Chúa có cách làm việc riêng của Ngài và đôi khi cách đó không theo, nhưng vượt qua luật tự nhiên.
Thứ năm, bà Elizabeth còn cho biết một việc rất quan trọng đó là việc Thiên Chúa thực hiện điều Ngài đã hứa. Có thể hiểu đây là hai lời hứa. Lời hứa thứ nhất là sẽ ban cho nhận loại Đấng Cứu Thế và nay điều đó được thực hiện. Lời hứa thứ hai là cho bà sinh con và điều đó nay cũng được thực hiện.
Bà Maria và Elizabeth lắng nghe tiếng nói nội tâm và nhận ra í Chúa. Học từ hai bà, chúng ta cũng học lắng nghe tiếng nói nội tâm để nhận ra í Chúa hướng dẫn cuộc sống ta.
Thiên Chúa thực hiện những ý định cao cả của Người dựa trên những con người phận nhỏ, yếu MV 4-C163
Thiên Chúa thực hiện những ý định cao cả của Người dựa trên những con người phận nhỏ, yếu hèn và khiêm hạ. Đó là giáo huấn của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Mùa Vọng này.
Mk 5: 1- 4a
Ngôn sứ Mi-kha loan báo rằng chính ở nơi thị trấn nhỏ bé của miền Giu-đê, ở đó một thị tộc nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa sinh sống, mà Đấng Mê-si-a một ngày kia sẽ xuất hiện. Con trẻ này sẽ thống lãnh Ít-ra-en và quyền lực của Ngài sẽ trải rộng cho đến tận cõi đất.
Dt 10: 5-10
Ngay từ khi nhập cuộc vào kiếp sống phàm nhân, Đức Giê-su sống khiêm hạ và vâng phục ý muốn của Thiên Chúa, Cha Ngài. Ngài hằng sống trong tư thế dâng hiến bản thân mình thành hy lễ để kế hoạch của Cha Ngài được thành tựu.
Lc 1: 39- 45
Tin Mừng Lu-ca tường thuật cuộc gặp gỡ của Đức Ma-ri-a với người chị họ mình là bà Ê-li-sa-bét, sau biến cố Truyền Tin. Chính ở nơi người thiếu nữ phận nhỏ và khiêm hạ của làng Na-da-rét này mà bà Ê-li-sa-bét nhận ra ý định cao cả của Thiên Chúa và niềm vui Thiên Sai khiến con trẻ, Gioan Tẩy Giả, nhảy lên vui sướng trong dạ mẹ.
BÀI ĐỌC I (Mk 5: 1-4a)
Lời sấm của ngôn sứ Mi-kha này là một trong những bản văn vĩ đại loan báo Đấng Mê-si-a. Sấm ngôn này đã được trích dẫn hai lần trong các sách Tin Mừng: một lần trong Tin Mừng Mát-thêu, trong đó các kinh sư trưng dẫn sấm ngôn này cho vua Hê-rô-đê để báo cho các nhà Chiêm Tinh biết “Bê-lem” là nơi Vua dân Do thái vừa mới sinh ra (Mt 2: 6); và một lần khác trong Tin Mừng Gioan, khi đám đông dân chúng tranh luận với nhau về nguồn gốc của Đức Giê-su, có kẻ lại nói rằng Ngài không thể là Đấng Thiên Sai bởi vì theo sấm ngôn Đấng Thiên Sai phải “xuất thân từ Bê-lem” (Ga 7: 42).
Thân thế và sự nghiệp
Ngôn sứ Mi-kha thi hành sứ vụ của mình trong vương quốc Giu-đa suốt hậu bán thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên, đồng thời với ngôn sứ I-sai-a. Nhưng trong khi ngôn sứ I-sai-a thuộc gia đình quý tộc ở Giê-ru-sa-lem, thì ngôn sứ Mi-kha xuất thân từ hàng dân giả miền Nam, phía tây Khê-ron.
Như các ngôn sứ thuộc thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên: A-mốt, Hô-sê, I-sai-a, ngôn sứ Mi-kha tố cáo những bất công xã hội, nạn áp bức những người nghèo, tệ nạn tham ô hối lộ của các quan án, các tư tế, các thủ lãnh, vân vân, những hành vi này tạo nên một đoạn tuyệt với Giao Ước và dẫn đến những án phạt của Thiên Chúa. Có lẽ ngôn sứ Mi-kha định nghĩa rõ nét nhất những yêu sách của Giao Ước: “Hỡi người, bạn đã được nói cho hay điều nào là tốt, điều nào Đức Chúa đòi hỏi bạn: đó chính là thực thi công bình, quý yêu nhân nghĩa và khiêm nhường bước đi với Thiên Chúa của bạn” (Mk 6: 8). Ngôn sứ Mi-kha báo trước cho Sa-ma-ri cũng như cho Giê-ru-sa-lem những bất hạnh kinh khiếp, nhưng ông cũng hé mở những viễn cảnh chứa chan hy vọng, như bản văn hôm nay làm chứng.
Tác phẩm của ngôn sứ Mi-kha đã chịu nhiều sửa đổi và vài đoạn thêm vào cuối thời lưu đày hay hậu lưu đày, tức cuối thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên. Bản văn hôm nay được trích từ chương 5 là một trong những bản văn nêu lên nhiều vấn đề. Tuy nhiên, cũng vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên này, ngôn sứ I-sai-a vang lên cùng một sứ điệp tương tự: ở giữa lòng những biến cố bi thảm (những đột nhập của quân đội Át-sua, cuộc vây hãm Giê-ru-sa-lem, sự tàn phá Sa-ma-ri, vân vân), các ngôn sứ nối tiếp nhau khơi lên niềm hy vọng khi nhắc lại những lời hứa gắn liền với nhà Đa-vít. Đó là điểm chung giữa các sấm ngôn của họ.
Bê-lem Ép-ra-tha
Hai địa danh Bê-lem và Ép-ra-tha được liên kết với nhau ngay từ những bản văn cổ xưa nhất, ví dụ: “Bà Ra-khen qua đời và được chôn trên con đường đi Ép-ra-tha, tức là Bê-lem” (St 35: 9). Thị trấn Bê-lem nhỏ bé là nơi một thị tộc bé nhỏ, những người Ép-ra-tha, từ miền Nam đến định cư lập nghiệp; sau đó, họ đã được sáp nhập vào bộ tộc Giu-đa. Tuy nhiên, “Ép-ra-tha” theo tiếng Do thái có nghĩa “sự màu mỡ”. Ngôn sứ Mi-kha xem ra chơi chữ: Bê-lem là vùng đất màu mỡ vì nó sẽ sinh ra Đấng Thiên Sai.
Một sự tương phản
Lời sấm của ngôn sứ Mi-kha được xây dựng trên một sự tương phản: sự tương phản của một thị tộc nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa, giữa viễn cảnh về một con trẻ chào đời và uy danh cũng như quyền lực của con trẻ này có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en, quy tụ dân chúng bị phân tán và trải rộng quyền lực của mình cho đến tận cùng cõi đất.
Câu này được dịch sát nghĩa theo nguyên bản bằng tiếng Do thái như sau: “Phần ngươi, hỡi Bê-lem Ép-ra-tha, ngươi quá nhỏ bé đến nổi không thể là một trong các thị tộc Giu-đa”. Từ “thị tộc” theo tiếng Do thái có nghĩa “ngàn”, vì nhóm người chỉ có thể hình thành nên một thị tộc nếu có thể cung cấp một ngàn chiến binh. Vì thế, Bê-lem nhỏ bé đến nổi nó không thể cung cấp một ngàn chiến binh. Chúng ta cũng gặp thấy một cách đối lập giữa sự nhỏ bé và sự vĩ đại như thế ở sấm ngôn I-sai-a đệ tam: “Người nhỏ nhất sẽ có ngàn con cháu, kẻ hèn nhất thành một dân hùng cường” (Is 60: 22).
Bê-lem, thành vua Đa-vít, thành Đấng Thiên Sai
“Từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en”: Lời sấm của ngôn sứ Mi-kha đem đến một sự xác định mới. Nếu lời sấm của ngôn sứ Na-than khẳng định muôn năm bền vững của vương triều Đa-vít: “Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi” (2Sm 7: 16), và sấm ngôn I-sai-a đệ nhất công bố rằng dòng dõi vua Đa-vít sẽ được đảm bảo nhờ một con trẻ chào đời, được gọi là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Is 7: 14), thì ngôn sứ Mi-kha xác định Bê-lem là sinh quán của Đấng Thiên Sai. Xưa kia, khi còn niên thiếu, Đa-vít đã chăn dắt đàn chiên trên cánh đồng Bê-lem; Đấng Mê-si-a sẽ là một Đa-vít mới và sẽ là vị mục tử đích thật của dân Ngài.
“Nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa”: Có lẽ đây là lối nói phóng dụ về gia tộc của vua Đa-vít, có nguồn gốc lâu đời (sách Sử Biên quyển thứ nhất cho gia phả của vua Đa-vít lên đến tổ phụ Gia-cóp). Nhưng chúng ta cũng có thể nghĩ rằng sấm ngôn này loan báo cuộc sống tiền hữu của Đấng Thiên Sai.
Thời thử thách và thời hy vọng
Trước khi Đấng Thiên Sai giáng sinh ở Bê-lem, Ít-ra-en sẽ phải trải qua một thời gian đầy thử thách cam go, thời “Đức Chúa sẽ bỏ mặc Ít-ra-en”. Trước đó, ngôn sứ đã khai triển những tiên báo kinh khiếp liên quan đến vương quốc miền Bắc cũng như vương quốc miền Nam. Nhưng những trừng phạt không bao giờ là tiếng nói cuối cùng của Thiên Chúa: “Cho đến thời một phụ nữ sinh con”. Con trẻ kỳ diệu sinh ra từ một người nữ này sẽ cai trị Ít-ra-en và thế giới. Bản văn không nói một chút gì về cha của con trẻ này.
Toàn thể đoạn văn nhắc nhớ lời sấm của ngôn sứ I-sai-a được công bố hai mươi năm trước đó: “Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en. Con trẻ sẽ ăn sữa chua và mật ong cho tới khi biết bỏ cái xấu mà chọ cái tốt. Vì trước khi con trẻ biết bỏ cái xấu mà chọn cái tốt, thì đất đai…đã bị bỏ hoang. Thiên Chúa sẽ đem lại cho ngài, cho dân ngài, cho thân phụ ngài những ngày như chưa từng có, kể từ khi Ép-ra-im tách khỏi Giu-đa” (Is 7: 14-17)
Quy tụ những người tản mác khắp nơi
“Bấy giờ những anh em sống sót của người con đó sẽ trở về với con cái Ít-ra-en”: Chúng ta nhận ra ở đây nỗi bận lòng quy tụ những người Do thái bị tản mắc khắp nơi, nỗi ám ảnh xuất hiện nhất là vào thời lưu đày Ba-by-lon cũng như vào thời hậu lưu đày. Có nhiều lý do xác đáng để nghĩ rằng đoạn văn này được thêm vào sau này.
Vị Mục Tử của Ít-ra-en
Đấng Thiên Sai sẽ lãnh nhận từ chính Thiên Chúa sứ mạng chăn dắt Ít-ra-en: “Ngài sẽ dựa vào quyền lực Đức Chúa, vào uy danh Đức Chúa, Thiên Chúa của Ngài mà đứng lên chăn dắt họ”. Bản văn tiên báo hay nhắc nhớ một đoạn văn nổi tiếng của ngôn sứ Ê-dê-ki-en về “vị mục tử nhân lành” (Ed 34: 23). Việc gợi lên quyền năng hoàn vũ và nền hòa bình viên mãn của Đấng Thiên Sai tương lai mang đậm nét I-sai-a (Is 9: 5), nhưng cũng có thể mang dấu ấn Mi-kha, trừ phi đây là một bản văn được hiệu đính lại.
Từ phận nhỏ đến địa vị vĩ đại, rõ ràng đây là bài học mà bản văn Tin Mừng hôm nay đưa ra: Đức Ma-ri-a, một thiếu nữ khiêm hạ làng Na-da-rét được người chị họ của mình, bà Ê-li-sa-bét, hoan hỉ chào đón như “Thân Mẫu Chúa tôi”.
BÀI ĐỌC II (Dt 10: 5-10)
Lễ Giáng Sinh sắp đến gần, Phụng Vụ Lời Chúa dâng hiến cho chúng ta suy niệm một bản văn trình bày một cách thống thiết mục đích biến cố Nhập Thể; Đức Ki-tô đảm nhận một thân thể nhằm dâng hiến thân mình thành hiến lễ và biến cuộc Tử Nạn của mình thành hy lễ để thánh hóa con người.
Chúng ta không biết lai lịch tác giả thư gửi tín hữu Do thái (chắc chắn một môn đệ của thánh Phao-lô); bản văn của ông gần với văn phong bài giảng hơn là thư tín; ông ngỏ lời với các Ki-tô hữu gốc Do thái, họ đã biết và đã thực hành phụng tự Mô-sê và xem ra luyến nhớ sự uy nghi trang trọng của nền phụng tự này. Tác giả chứng minh cho họ chức tư tế của Đức Giê-su còn cao vời hơn chức tư tế Cựu Ước và hy lễ của Đức Ki tô thì độc nhất, vô giá và có hiệu quả khôn sánh so với các hy lễ của Luật Cũ.
Phụng Tự tinh thần
Để giải thích bản chất rất đặc biệt và đặc thù của hy lễ Đức Ki-tô, tác giả dựa trên thánh vịnh 40, thánh vịnh mang chiều kích Thiên Sai. Thánh vịnh này diễn tả tâm tình của một người công chính. Từ cuộc sống đạo hạnh của mình, ông hiểu rằng vâng phục thánh ý Thiên Chúa và sẵn sàng dâng hiến thân mình thì cao vời hơn bất cứ hy lễ nào.
Một viễn cảnh như vậy không hoàn toàn đơn độc lẽ loi trong Cựu Ước. Chúng ta gặp thấy viễn cảnh này trên môi miệng của các ngôn sứ (x. Is 1: 11-16), các ngài công bố rằng các hy lễ sẽ là vô ích nếu thiếu tấm lòng; điều này cũng được khẳng định trong các Thánh Vịnh, hai sách Sa-mu-en (x. 1Sm 15: 22), và các tác phẩm Minh Triết (x. Hc 34: 19 và 35: 2-3). Vị thế hàng đầu của phụng tự tinh thần này là một sợi chỉ đỏ chạy xuyên suốt cái cốt lõi mặc khải Kinh Thánh và chuẩn bị cho sứ điệp Tin Mừng.
Ơn gọi của Đức Ki-tô
Chính ở nơi Người Công Chính này mà tác giả thư gửi các tín hữu Do thái tái khẳng định tư thế sẵn sàng dâng hiến trọn vẹn bản thân mình của Đức Ki-tô, ngay từ giây phút đầu tiên của biến cố Nhập Thể: “Ngay khi vào trần gian…”. Đồng thời tác giả cũng muốn nói đến cuộc sống tiền hữu của Đức Ki tô.
“Chúa không ưa hy lễ và hiến lễ, nhưng đã tạo cho con một thân thể”: Thánh vịnh được trích dẫn ở đây nhấn mạnh tính chất hiến lễ tự thân qua những lời: “Chúa đã tạo cho con một thân thể”. Tác giả thư gửi các tín hữu Do thái đã đọc thấy ở đây lời tiên báo về biến cố Nhập Thể. Thân thể của Đấng Thiên Sai đã được Chúa Cha yêu thương chuẩn bị nhằm hướng đến một hiến lễ cao vời.
Với những thuật ngữ: “Hy lễ và hiến lễ”, tác giả tập hợp hai loại lễ tế vĩ đại, đổ máu và không đổ máu. Đoạn, ông thêm vào đây lễ toàn thiêu theo đó thân thể tế vật hoàn toàn bị hỏa tế, và lễ xá tội theo đó máu tế vật hoàn toàn được hiến dâng. Tất cả những lễ tế này được Lề Luật quy định nhưng không được Thiên Chúa ưa thích. Bản văn để cho hiểu rằng chính vì tính chất duy luật của chúng. Đức Ki-tô bãi bỏ phụng tự duy hình thức và đề cao hiến lễ tinh thần.
Cái chết thành hiến lễ
“Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài”: Đối với Đức Ki-tô không cốt tuân giữ những huấn lệnh mà ông Mô-sê truyền, nhưng chấp nhận quyết định của Thiên Chúa, đó là dẫn dắt nhân loại đến ơn cứu độ qua con đường đau khổ và tử nạn của Ngài.
Thư gửi tín hữu Do thái là một trong những bản văn Tân Ước giải thích rõ nhất tại sao cuộc tử nạn của Đức Ki tô có thể được xem như một hy lễ. Xét trên thực tại hữu hình, cuộc tử nạn của Đức Ki-tô không là một hy lễ, nhưng do kết quả của một sự xét xử sai lầm, hay, chính xác hơn, do sự thù hận quá độ; không có bàn thờ, không người dâng hiến, không sự thanh tẩy, không tế vật. Nhưng xét trên thực tại vô hình, cái chết này có giá trị của một hy lễ vì đây là hiến lễ tự nguyện, tự ý và tự thân, vì thế nó có một hiệu quả tinh thần: vả lại đã có một thân thể bị giết chết và máu đã hoàn toàn đổ ra.
Tuy nhiên, có một hy tế chỉ vì có tội lỗi của con người. Đây là bằng chứng bi thảm. Suốt bức thư của mình, tác giả chứng mình rằng con người hưởng được hy tế của Đức Ki-tô, dưới ba khía cạnh liên tục: thanh tẩy, thánh hóa, và hiệp nhất với Thiên Chúa. Như vậy trong lời “Xin vâng” của mầu nhiệm Nhập Thể hàm chứa rồi lời xin vâng của cuộc Khổ Nạn: “Xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha” (Lc 22: 42).
TIN MỪNG (Lc 1: 39-45)
Trong sách Tin Mừng Lu-ca, chuyện tích Viếng Thăm tiếp liền sau chuyện tích Truyền Tin, như vậy, lời chào của sứ thần tiếp liền theo sau lời chào của bà Ê-li-sa-bét. Rất sớm các Ki-tô hữu đã liên kết hai lời chào này. Chúng ta gặp thấy chúng trong những bản văn thuộc thế kỷ thứ năm: “Kính mừng Ma-ri-a đầy ơn phúc. Thiên Chúa ở cùng bà. Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ”. Đây sẽ là khởi điểm của kinh Kính Mừng.
Đức Ma-ri-a vội vã lên đường
Lý do đầu tiên của việc “Đức Ma-ri-a vội vã lên đường” có thể nhằm kiểm chứng những lời sứ thần đã nói cho Mẹ biết rằng chị họ của Mẹ, tuy đã già rồi mà cũng đã được cưu mang một người con trai. Đây là một “dấu lạ” đã được ban cho Mẹ để nâng đỡ mặc khải làm xáo động cuộc đời của Mẹ và cho Mẹ hiểu rằng đối với Thiên Chúa không có gì là không thể. Nhưng đây không là lý do chính yếu. Đức Ma-ri-a đã tin rồi; Mẹ đã không một mảy may nghi ngờ gì về sứ điệp của thiên sứ; sự vội vã của Mẹ là diễn tả niềm vui của Mẹ; Mẹ muốn đi chúc mừng người chị họ của Mẹ và chia vui với chị vì được làm mẹ như một thiên ân trong khi bà chị này không còn một chút hy vọng gì. Chắc chắn Đức Ma-ri-a cũng muốn giúp đỡ bà chị họ của mình “nay đã có thai được sáu tháng”. Quả thật, thánh ký viết ở cuối chuyện tích của mình: “Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng”, nghĩa là cho đến khi con trẻ chào đời.
Niềm vui thời Thiên Sai
Đức Ma-ri-a “vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét”. Vì là vai em nên Đức Ma-ri-a là người đầu tiên chào hỏi bà chị họ mình. Nhưng đột nhiên vai trò của hai chị em bị đảo ngược. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, bà Ê-li-sa-bét phát hiện bí mật của người em họ mình và thốt lên lời “Chúc Tụng”: “Em được chúc phúc hơn mọi người nữ!”. Đây là cách thức người Do thái diễn tả tuyệt đối mà chúng ta gặp thấy nhiều lần trong Cựu Ước (Tl 5: 24; Gđt 15: 10): Đức Ma-ri-a là người nữ tuyệt vời nhất bởi vì Mẹ được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế.
“Người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” Danh hiệu “Chúa tôi” thường được dành riêng cho Đức Chúa, tuy nhiên cũng được gán cho Đấng Thiên Sai trong vài bản văn ngôn sứ. Chắc hẳn bà Ê-li-sa-bét không nghi ngờ gì về thần tính của Đấng Thiên Sai; nhưng chính xác hơn, các Ki-tô hữu tiên khởi sẽ dùng danh hiệu này cho Đức Ki-tô để tuyên xưng thần tính của Ngài. Danh xưng “Thân Mẫu Chúa tôi” chắc chắn là nền tảng cho tước hiệu đầu tiên mà Giáo Hội sau này dùng để tôn vinh Đức Ma-ri-a, “Theotokos”, Mẹ Thiên Chúa, cũng như hình thành nên phần thứ hai của kinh Kính Mừng: “Thánh Ma-ri-a Đức Mẹ Chúa Trời…”.
“Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. Đây là mối phúc đầu tiên của Tân Ước. Ân phúc này liên quan đến lòng tin của Đức Ma-ri-a đã được thể hiện ở nơi biến cố Truyền Tin qua tiếng xin vâng tròn đầy của Mẹ (Lc 1: 38).
Thánh Lu-ca quy tụ vào trong lời chúc tụng của bà Ê-li-sa-bét (1: 42-45) hai ân phúc của Đức Ma-ri-a: phúc được làm Mẹ Đấng Cứu Thế và phúc vì đã tin vào mọi lời Chúa phán. Chính hai ân phúc này mà thánh ký chủ ý tách rời ra ở 11: 27-28, ở đó một người phụ nữ giữa đám đông ca ngợi người mẹ của Đức Giê-su: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm” và Đức Giê-su đáp trả: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa”. Ở nơi Đức Ma-ri-a hai ân phúc này trở thành một: ngay khi tin rằng mọi lời Thiên Chúa phán sẽ được thực hiện, Đức Ma-ri-a trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế. Rõ ràng đức tin của Mẹ là điều kiện tất yếu nhất cho mọi lời Chúa phán được thực hiện.
Bài ca “Ngợi Khen”(Mangificat)
Tất cả lời chào của bà Ê-li-sa-bét tràn đầy niềm vui thời Mê-si-a. Đức Ma-ri-a được công bố là có phúc; niềm hạnh phúc ở với bà Ê-li-sa-bét, đứa con trong bụng bà đã nhảy lên vui sướng. Sứ thần cũng đã nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng” và Đức Trinh Nữ xướng lên bài ca “Ngợi Khen” của mình. Đây là bài thánh ca thứ nhất trong bốn bài thánh ca trong Tin Mừng Thời Thơ Ấu theo thánh Lu-ca. Bài thánh ca này, mô phỏng bài thánh ca của bà An-na (1Sm 2: 1-10), gồm có ba phần:
– Phần thứ nhất (1: 46-50): Đức Ma-ri-a ngợi khen Thiên Chúa vì đã đoái thương ban cho Mẹ được làm Mẹ Đấng Mê-si-a, dù Mẹ chỉ là phận nữ tì hèn mọn, chẳng có công trạng gì.
– Phần thứ hai (1: 51-53): một sự đảo ngược cảnh sống và bậc thang giá trị vào thời Thiên Sai giữa những người thấp hèn, bị áp bức chà đạp và những kẻ quyền thế kiêu căng, tự cao tự đại.
– Phần kết (1: 54-55): Đức Ma-ri-a cảm tạ Thiên Chúa vì Người vẫn hằng trung tín với những gì Người đã hứa.
Thánh Lu-ca là thánh ký gợi lên rõ nét nhất niềm vui cứu độ được đem đến cho loài người qua biến cố Đấng Thiên Sai ngự đến. Ngoài ra, chuyện tích Viếng Thăm của thánh ký đem đến một lời chứng quý giá về tâm tình cảm tạ tri ân của người Ki-tô hữu tiên khởi đối với đức tính cao vời khôn sánh của “Thân Mẫu Chúa chúng ta”.
Với Chúa Nhật IV Mùa Vọng, chúng ta đang tiến gần với biến cố Con Chúa giáng trần. Không khí MV 4-C164
Với Chúa Nhật IV Mùa Vọng, chúng ta đang tiến gần với biến cố Con Chúa giáng trần. Không khí giáng sinh đã bắt đầu lan tỏa khắp mọi nơi trong các xứ đạo, từ miền quê đến thành thị. Mọi người đang náo nức chuẩn bị trang trí hang đá, cây thông, đèn điện… để mừng Chúa giáng sinh. Tuy nhiên, việc chuẩn bị giáng sinh không được dừng lại ở những hình thức bên ngoài hay “trần tục hóa” lễ Giáng Sinh với việc tiêu xài thái quá, tiệc tùng, quà cáp… nhưng phải hướng về trọng tâm của Lễ Giáng Sinh là tôn thờ Con Thiên Chúa làm người. Để giúp mừng lễ Giáng Sinh ý nghĩa, Lời Chúa hôm nay tường thuật câu chuyện Đức Maria viếng thăm bà Êlisabét.
1- Đức Maria, người mang Chúa đến cho nhân loại
Thánh Luca cho biết sau biến cố Truyền Tin, Đức Maria lên đường, vội vã đi đến miền núi, tới một thành thuộc chị tộc Giuđa, để thăm viếng bà Êlisabét. Đức Maria vào nhà ông Dacaria và chào bà Êlisabét. Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy Thánh Thần (x. Lc 1,39-44). Một sự kiện xảy ra rất âm thầm và bình thường nhưng lại chứa đựng những điều vĩ đại ẩn dấu mà Thiên Chúa thực hiện qua hai nhân vật phụ nữ này. Đây là cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ và giữa hai người con. Cuộc gặp gỡ giữa giao ước cũ và giao ước mới.
Quả thế, hai người phụ nữ đang mang thai hai người con. Bà Êlisabét là biểu tượng cho dân Israel, dân riêng đang chờ Đấng Mêsia, còn Đức Maria là biểu tượng của dân Israel mới, người cưu mang Đấng Cứu Thế. Bà Êlisabét sinh hạ Gioan Tẩy Giả, còn Đức Maria sinh hạ Chúa Kitô. Người con của bà Êlisabét sẽ là người dọn đường cho Đấng Mêsia, còn Người Con của Đức Maria sẽ thực hiện những lời hứa. Vì thế, trong cuộc gặp gỡ này hai người mẹ tràn đầy niềm vui và hai người con cũng tràn đầy niềm vui. Bởi vì, họ đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần.
Qua cuộc viếng thăm này, chúng ta nhìn thấy Đức Maria chính là “nhà tạm di động và sống động” của Con Thiên Chúa. Việc Mẹ viếng thăm và mang Chúa đến cho gia đình ông Dacaria, nghĩa là Mẹ mang Chúa đến cho gia đình nhân loại. Đức Maria là người có Chúa Kitô và mang Chúa đến cho người khác. Mẹ là “nhà truyền giáo” đầu tiên trong lịch sử Kitô giáo.
2- Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa
Nói về Chúa Kitô mà không nói về Đức Maria, thì sẽ không biết rõ nguồn gốc nhân loại của Chúa Kitô. Cũng vậy, nói về Đức Maria mà không nói về Chúa Kitô thì sẽ không nhận ra nguồn gốc và sự cao trọng của Đức Maria. Biết rõ về Đức Maria sẽ giúp chúng ta biết rõ về Chúa Kitô hơn và ngược lại.
Quả vậy, khi đón tiếp Đức Maria, bà Êlisabét nhận ra rằng lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện nơi Đức Maria và bà ca ngợi Đức Mẹ: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1,42-43).
Thành ngữ “Em được chúc phúc giữa mọi người phụ nữ” được dùng trong Cựu Ước thuộc thời Gioel (Tl 5,24) và sách Giuđitha (Gđt 13,18), để nói về hai người phụ nữ chiến binh đã cố gắng giải cứu Israel khỏi tay quân thù ngoại bang. Nhưng bây giờ, những lời này được áp dụng cho Đức Maria, một trinh nữ sẽ sinh Đấng Cứu Độ cho thế giới.
Như thế, việc Gioan nhảy mừng trong lòng mẹ vì niềm vui (x. Lc 1,44) làm chúng ta nhớ lại việc Đavít nhảy mừng trước cửa Hòm Bia Giao Ước tiến vào Giêrusalem (x. 1 V 15,29). Hòm Bia có để Lề Luật (Torah), Mana và cái gậy của Aaron (x. Dt 9,4). Gioan nhảy mừng trước Đức Maria, Hòm Bia giao ước mới.
Mẹ là người phụ nữ được chúc phúc bởi vì Mẹ được Thiên Chúa chọn làm người cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Độ. Mẹ Maria là người tinh tuyền, thánh thiện, toàn mỹ và toàn thánh, xứng đáng là “nhà tạm thánh thiện” cho Con Thiên Chúa ngự. Nhờ Thánh Thần thúc đẩy, bà Êlisabét nhận ra Đức Maria là “Thân Mẫu Chúa tôi đến viếng thăm,” bởi vì Mẹ đang cưu mang trong lòng Con Đức Chúa Trời, và Mẹ sẽ sinh cho thế giới “nguồn ơn cứu độ.” Đây cũng là nền tảng cho niềm tin của Giáo Hội tuyên xưng Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa – Theotokos, một tước vị cao cả, mà Giáo Hội định tín tại Công Đồng Êphêsô (431). Bởi đó, qua dòng lịch sử, Giáo Hội đã dành cho Đức Maria một sự biệt kính sau Ba Ngôi Thiên Chúa trong phụng vụ Kitô giáo.
3- Chứng nhân nền văn hóa gặp gỡ
Cuối cùng, cảnh thăm viếng này cũng diễn tả vẽ đẹp của lòng hiếu khách và nền văn hóa gặp gỡ: Đây có sự đón tiếp lẫn nhau, lắng nghe nhau, dành chỗ cho nhau, chia sẻ với nhau niềm vui có Chúa, cũng như phục vụ lẫn nhau. Sống trong một xã hội con người ngày hôm nay đang trở nên xa lạ với nhau, bởi vì con người đang sống cách vô cảm, loại trừ và thù địch với nhau. Đức Giáo Hoàng Phanxicô gọi đó là hiện tượng “vô cảm toàn cầu hóa” trong đời sống chúng ta. Mỗi người Kitô hữu được mời gọi xây dựng nếp sống, văn hóa gặp gỡ và thăm viếng nhau. Bởi vì điều quan trọng trong cuộc sống không phải chúng ta có cái gì mà là chúng ta có Ai (hoặc ai) đó để sống với.
Khi có Chúa Kitô, Đức Maria đã vội vã tới thăm bà Êlisabét (Lc 1,39), chúng ta cũng hãy vội vã lên đường để mang Chúa đến cho người khác. Bắt chước Đức Maria, chúng ta hãy thăm viếng những người nghèo khổ, người bệnh tật, kẻ tù đày, người già và trẻ em cô đơn.
Lạy Chúa, xin cho chúng con ý thức rằng chính Chúa là Người đến viếng thăm chúng con trước. Xin cho chúng con biết mở rộng tâm hồn để đón Chúa đến. Đặc biệt, xin cho chúng con biết noi gương Đức Trinh Nữ Maria mang Chúa đến cho những người xung quang bằng chính cuộc sống yêu thương và phục vụ. Amen!
Thánh Phaolô đã xác quyết: “Tôi biết tôi tin vào ai”. Niềm tin đó dựa trên nền tảng căn bản là MV 4-C165
Thánh Phaolô đã xác quyết: “Tôi biết tôi tin vào ai”. Niềm tin đó dựa trên nền tảng căn bản là “Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nỗi ban Con Một của mình, để ai tin vào Ngài sẽ được cứu độ”. Tình yêu đó được biểu lộ ra bên ngoài chứ không giữ kín bên trong. Một tình yêu giữ kín, không được thể hiện bằng hành động cụ thể, đúng đắn thì không phải là tình yêu đích thực. Tương tự như lời của thánh Giacôbê: “Đức tin không việc làm là đức tin chết”. Chỉ còn hơn một ngày nữa chúng ta sẽ mừng mầu nhiệm tình yêu, mầu nhiệm giáng thế. Phụng vụ lời Chúa ngày giới thiệu cho chúng ta về nhân vật chính của mầu nhiệm này là Đức Giêsu Kitô. Tình yêu của Ngài được thể hiện cụ thể ngay khi nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ Maria.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Bài Đọc I: Mk 5, 1-4a
Tiên tri Mikha cho chúng ta biết một số nét về Đấng cứu thế. Ngài không xuất hiện ở Giêrusalem hay một thành phố lớn, mà ở một thị trấn nhỏ bé, khiêm nhường là Bêlem. Mặc dù một nơi quê mùa như vậy nhưng Đấng Cứu Thế lại có sứ mạng thống lãnh Israel. Chính Ngài sẽ đem đến hòa bình cho muôn dân. Nhờ sự xuất hiện của Ngài mà người ta được “vinh dự lây”, “vinh dự ké”, chứ không còn mặc cảm vì xứ sở quê mùa của mình nữa.
Bài Đọc II: Dt 10, 5-10
Tác giả thư Do Thái thì hình dung Đấng cứu thế đó là một vị Thượng Tế, và chức Thượng Tế của Ngài trổi vượt hơn chức Thượng Tế trong cựu ước nhờ những việc sau đây: Lễ tế Ngài dâng không phải là chiên, bò để xá tội như trong cựu ước, mà là chính thân thể Ngài và việc thực thi thánh ý Thiên Chúa. Lễ tế ấy không cần dâng lên nhiều lần, mà chỉ dâng một lần là đủ.
Tin Mừng: Lc 1, 39-45
Thánh Luca cố ý viết câu chuyện Đức Maria đi viếng bà Isave giống với câu chuyện Đavit mang Hòm Bia về Giêrusalem trong cựu ước, để muốn nói lên rằng Đức Maria là Hòm Bia của Tân ước. Trong cựu ước, Hòm Bia trên đường tiến về Giêrusalem đã ghé ngang nhà ông Ôbed 3 tháng. Còn hôm nay, Đức Maria cũng từ Nagiaret theo hướng Giêrusalem, ghé ngang nhà bà Isave 3 tháng. Đavit đã kêu lên rằng: “Làm sao Hòm Bia của Chúa ghé nhà tôi được?”. Isave cũng kêu lên rằng: “Làm sao mà Mẹ Chúa lại đến thăm tôi?”. Nhờ Hòm Bia ghé thăm mà ông Ôbed mà cả nhà của ông được Thiên Chúa chúc phúc. Đức Maria ghé thăm bà Isave làm cho bà và cả gia đình bà (kể cả hài nhi trong bụng) cũng được chúc phúc. Qua đó chúng ta thấy “Đức Chúa đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người”. Thiên Chúa đã hành động một cách cụ thể qua Đức Maria để đem đến tình thương cho nhân loại. Vì vậy chúng ta hãy hết lòng cảm tạ Thiên Chúa.
Phúc lành của Thiên chúa làm cho Đức Trinh Nữ Maria vui mừng vì được Thiên Chúa đoái thương. Phúc lành đó làm cho bà Isave hân hoan vui mừng vì được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm. Phúc lành đó lan tỏa cả đến hài nhi trong bụng bà Isave cũng phải nhảy mừng. Nguồn gốc của những niềm vui ấy chính là sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế.
II. DẤU HIỆU TÂM HỒN THIỆN TÂM
Tuy nhiên, niềm vui ấy chỉ đến với những ai có “tâm hồn thiện tâm”, những ai đã tích cực dọn đường cho Đấng Cứu Thế.
Tâm hồn khiêm nhường:
Thiện tâm trước hết ở sự khiêm nhường. Khiêm nhường vì biết thân phận của mình hèn yếu, nhỏ bé, tội lỗi. Khiêm nhường vì biết tự sức mình không thể làm gì được, mà tất cả những gì mình có đều do lòng thương xót của Chúa. Vì thế khi nhận được tin làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria đã nhìn nhận mình chỉ là nữ tì của Chúa. Bà Isave mặc dù vai vế lớn hơn Đức Maria nhưng đã tự hỏi: “Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi thế này?”. Và Đức Maria cũng đáp lại bằng một bài ca khiêm nhường, Magnificat.
Đức nguyên giáo hoàng Bênêđictô XVI đã từng nhắc nhở các Kitô hữu : “trở lại lịch sử đức tin của chúng ta được đánh dấu bằng mầu nhiệm đan xen giữa sự thánh thiện và tội lỗi”. Nghĩa là nhìn nhận một thực tại nơi bản thân con người là điệp khúc thánh thiện và tội lỗi đan xen với nhau và cột trụ của thực tại đó là lòng thương xót của Thiên Chúa. Từ đó con người không kiêu ngạo khi thánh thiện và không chán nản khi tội lỗi vì có Chúa sẽ phán xét và thương xót họ. Thái độ khiêm nhường đó dẫn chúng ta đến việc hoán cải mỗi ngày để trở nên tốt đẹp hơn. Kết quả bên ngoài là việc chúng ta thường xuyên đến với tòa giải tội, còn kết quả bên trong là chúng ta được đổi mới.
Tâm hồn Bác ái
Dấu chỉ thứ hai là việc bác ái. Thiên Chúa là tình yêu. Ở đâu có Thiên Chúa thì lửa yêu mến của Ngài khơi dậy nơi đó. Khi Thánh Thần rợp bóng trên Đức Maria, đồng thời với việc mang thai Đấng Cứu Thế, Mẹ cũng được đầy tràn lòng bác ái, đã nghĩ ngay đến bà chị họ của mình. Mẹ đã đi thăm bà chị họ để chia sẻ hai điều. Thứ nhất là giúp đỡ bà chị của mình mang thai trong lúc tuổi già ; nhưng quan trọng nhất là đến để chia sẻ niềm vui ơn cứu độ mà chỉ hai người đàn bà này hiểu nhau mà thôi. Chắc chắn không thể có người thứ ba hiểu được niềm vui của họ.
Một trong những việc làm trong Năm Gia Đình 2019, “đồng hành cùng những gia đình gặp khó khăn” là một tấm lòng bác ái bằng nhiều hình thức khác nhau dành cho những gia đình đó. Tất cả những điều đó là sự thúc bách của niềm vui ơn cứu độ, muốn san sẻ mọi thứ với mọi người bằng mọi hình thức.
Phục vụ
Lòng bác ái, sự khiêm nhường được kết tinh ở cao điểm là việc phục vụ. Đức Maria không nghĩ đến việc mình cũng đang mang thai, cần được nghỉ ngơi, mà đã lặn lội đường xá xa xôi cách trở để viếng thăm và giúp đỡ bà chị họ của mình. Việc phục vụ chỉ có kết quả khi người ta biết khiêm nhường và có một lòng bác ái thực sự. Cha mẹ đã quên mình và vì yêu thương nên đã làm mọi cách để lo lắng cho con cái. Mọi thành phần trong Giáo xứ đã quên mình và vì yêu mến Giáo hội nên đã cộng tác với nhau để dọn lễ Giáng Sinh… và sẽ còn những việc phục vụ khác khi người ta biết yêu thương và quên mình thực sự.
Tóm lại, phụng vụ lời Chúa của Chúa Nhật cuối cùng trong Mùa Vọng giới thiệu cho chúng ta rõ hơn về Đấng Cứu Thế. Đấng Cứu Thế đó xuất hiện sẽ đem đến niềm vui và hạnh phúc cho con người. Tuy nhiên Đấng Cứu Thế đó chỉ ở nơi những tâm hồn thiện tâm, tức là những người khiêm nhường, bác ái và phục vụ theo gương của Đức Trinh Nữ Maria. Xin Chúa qua lời cầu bầu của Mẹ cho chúng ta học được guơng khiêm nhường, bác ái và phục vụ như Mẹ, để chúng ta cũng được niềm vui ơn cứu độ trong ngày Chúa Giáng Sinh sắp tới và trong suốt cuộc đời chúng ta.
Hôm nay là Chúa nhật thứ tư, Chúa nhật cuối cùng của Mùa Vọng. Chỉ còn một thời gian rất MV 4-C166
Hôm nay là Chúa nhật thứ tư, Chúa nhật cuối cùng của Mùa Vọng. Chỉ còn một thời gian rất ngắn nữa là chúng ta hân hoan đón mừng hồng ân lớn lao và một niềm vui đích thực vào trong tâm hồn. Niềm vui và hồng ân đó chính là mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người đem bình an và ơn cứu độ đến cho nhân loại. Phải nói là việc đón mừng hồng ân và niềm vui cao quí này tùy thuộc một phần lớn vào sự quyết định quan trọng của một người nữ vô danh, đơn sơ, đạo đức và khiêm nhường đã xảy ra cách đây hơn 2018 năm. Người nữ ấy chính là Đức Maria, người đã cưu mang lời hứa và kế hoạch cứu độ nhân loại của Thiên Chúa. Chính trong khung cảnh ấy mà hôm nay chúng ta được mời gọi, trước hết, chú trọng vào đời sống của Đức Maria, và thứ hai, chiêm ngưỡng dung nhan Đức Maria như là một mẫu gương khiêm nhường, vâng phục đón nhận Lời Chúa, và sốt sắng tham gia vào kế hoạch của Chúa qua hai Mầu nhiệm Truyền tin và Thăm viếng trong kinh Mân côi.
Tin mừng thánh Luca hôm nay diễn tả mầu nhiệm Thăm viếng. Mấy ngày trước, khi đọc bài Tin mừng này, tôi đã tự hỏi: “Tại sao thánh Lu-ca lại kể cho chúng ta nghe câu truyện này?” Hy vọng những điều tôi chia sẻ sẽ giúp mọi người hiểu biết Đức Maria và Chúa Giê-su hơn. Chúng ta biết lúc đi thăm viếng bà Ê-li-za-bét, Đức Maria đang mang một niềm vui lớn lao và hồng ân cao quí trong tâm hồn. Để đón nhận tin vui mừng và hồng ân trọng đại ấy và trong lúc đang cầu nguyện, trong mầu nhiệm Truyền tin, thiên thần Gabriel hiện đến hỏi Đức Maria có đồng ý trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế hay không? Đức Maria đã trả lời bằng hai tiếng “Xin Vâng.” Chúng ta tin một cách chắc chắn Đức Maria không bao giờ thưa “không” với Thiên Chúa điều gì. Lúc đó thiên thần báo cho Đức Maria biết người chị họ, là bà Ê-li-za-bét, đã lớn tuổi nhưng đã có thai và nay đã được sáu tháng. Sau đó, Tin mừng cho chúng ta biết Đức Maria đã vội vã lên đường để đi thăm giúp người chị họ.
Khi cầu nguyện bằng Kinh Mân côi, tôi thường suy niệm tự hỏi: “Tại sao Đức Maria, ngay sau khi được truyền tin, lại vội vã lên đường đi thăm, đi giúp người chị họ?” Ngày nay sự kiện nào xảy ra làm cho chúng ta vội vã lên đường? Lúc đó, Đức Maria có thể tự nghĩ là mình cũng đang mang thai, cho nên phải giữ gìn sức khỏe, không cần phải vội vã lên đường đi thăm ai. Chúng ta hãy thử nghĩ một người đàn bà mang thai có bao giờ đi thăm ai không? Hiếm lắm! Hay Đức Maria lúc đó cũng có thể tự cao vì đang mang thai một người con sẽ được gọi là Đấng Tối Cao, sẽ nên cao trọng và kế vị triều đại của vua Đa vít. Hay tự coi mình là quan trọng không phải giúp đỡ người chị họ tuổi đã già. Nhưng chúng ta thấy Đức Maria đã không nghĩ như vậy. Không có thái độ như thế. Vì yêu thương và quảng đại, Đức Maria đã vội vã lên đường đi thăm và giúp đỡ bà E-li-za-bét. Nhưng tôi nghĩ rằng còn có một lý do quan trọng khác khiến Đức Maria vội vã lên đường, đó là, trong khi truyền tin, thiên thần còn báo cho Đức Maria biết: bà E-li-za-bét có thai là trong kế hoạch của Thiên Chúa, chứ không phải mang thai một cách bất đắc dĩ hay ngoài ý định. Thiên thần cho Đức Maria biết: “Không có gì mà Thiên Chúa không làm được.” Do đó, sự kiện Đức Maria vội vã lên đường là dấu chỉ sự sốt sắng vâng lời để cùng tham dự vào kế hoạch của Thiên Chúa, trở thành một mẫu gương của người môn đệ trung thành. Vì thế khi vào nhà bà E-li-za-bet đã thưa với Đức Maria: “Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện.” Đây là lần thứ hai bà Ê-li-za-bet nói Đức Maria được chúc phúc. Lần thứ nhất khi vào nhà gặp mặt, bà Ê-li-za-bét đã ca tụng rằng: “Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc!” Và để đáp trả, Đức Maria đã thốt lên cảm tạ ngợi khen Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa.”
Ngoài những sự kiện về Đức Maria, chúng ta thấy Tin mừng thánh Lu-ca còn cho chúng ta biết những điều lạ lùng về Chúa Giê-su. Trong mầu nhiệm Truyền tin, chúng ta biết Chúa Giê-su được thụ thai bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần. Bây giờ Chúa Giê-su mang Chúa Thánh Thần đến cho người khác. Bài Tin mừng cho chúng ta biết bà Ê-li-za-bét được đầy Chúa Thánh Thần và người con trong lòng bà cũng nhảy mừng qua cuộc thăm viếng của Đức Maria và Chúa Giê-su. Chúa Giê-su xuống trần cũng đem Chúa Thánh Thần đến cho nhân loại chúng ta.
Ngoài ra còn có một sự kiện rất quan trọng về Chúa Giê-su được diễn tả trong câu hỏi của bà Ê-li-za-bét mà chúng ta cần chú ý, đó là: “Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi?” Có nghĩa là cuộc thăm viếng của Đức Maria đã đem sự hiện diện của Chúa, sự an bình, vui mừng và hồng ân của Chúa, đến cho gia đình của bà Ê-li-za-bét.
Qua sự cầu nguyện, Đức Maria đã được Chúa ban tin vui mừng, và qua hai tiếng “Xin Vâng”, Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể trong lòng Đức Mẹ. Đây chính là giây phút nhiệm mầu giao hòa giữa đất và trời, giữa Thiên Chúa với loài người, và hồng ân ơn cứu độ được ban xuống cho nhân loại. Nhờ Đức Maria mà Thiên Chúa đã đi vào lịch sử nhân loại một cách hiện hữu, đã trở nên Đấng Emmanuel, nghĩa là “Thiên-Chúa-Ở-Cùng-Chúng-Ta.” Lòng bác ái, thương yêu và sốt sắng trung thành với thánh ý Chúa đã thúc đẩy Đức Maria mau mắn lên đường, vượt qua những khó khăn, nguy hiểm đến thăm viếng và giúp đỡ người chị họ. Câu ca dao tục ngữ Việt Nam: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sống” thật chí lý! Nếu chúng ta có lòng bác ái, yêu thương, quảng đại, cũng như trung thành muốn thực hành Lời Chúa, và muốn chia sẻ ơn Chúa với người khác thúc đẩy, thì không có gì ngăn cản được, và chắc chắn Chúa sẽ ban sức mạnh.
Xin Đức Maria cầu bầu giúp chúng ta là những người con của Mẹ, vượt qua được những khó khăn hiểm trở trong cuộc sống, biết noi gương Mẹ, lắng nghe lời Chúa, và như Mẹ, biết thưa với Chúa hai tiếng “Xin Vâng”, sống theo thánh ý Chúa, sống bác ái và quảng đại với một niềm vui mừng, xác tín vào tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa. Để chuẩn bị tâm hồn đón mừng mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, hôm nay chúng ta cùng với bà Ê-li-za-bét tự hỏi và suy niệm: “Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi?”
Đối với người tín hữu, mỗi ngày sống là một cuộc lên đường đầy hứng khởi. Lên đường để theo MV 4-C167
Đối với người tín hữu, mỗi ngày sống là một cuộc lên đường đầy hứng khởi. Lên đường để theo Chúa và để đến với tha nhân. Người không lên đường sẽ luôn sống khép kín, giống như nước ao tù, thiếu sinh khí và không có niềm vui.
Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta về cuộc lên đường của Đức Trinh nữ Maria. Liền sau khi được Sứ thần đến truyền tin, Mẹ đã nhiệt thành, vội vã lên đường đến thăm gia đình người chị họ là bà Elisabeth. Trước đó, Sứ thần Gabrien cho Đức Mẹ biết bà Elisabeth đã mang thai được sáu tháng. Đức Mẹ đi thăm người chị họ không phải để kiểm chứng xem lời Sứ thần có thật hay không, nhưng Mẹ đi thăm để loan báo cho mọi người biết Chúa sẽ làm những điều kỳ diệu cho dân tộc Israen và cho thế giới. Mẹ cũng lên đường để chăm sóc bà Elisabeth trong những ngày chuẩn bị sinh con. Hình ảnh Đức Mẹ lên đường là mẫu mực cho các nhà truyền giáo và những ai thực thi bác ái.
“Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. Bà Elisabeth đã thốt lên như vậy, vì bà thấy nơi người em họ của mình sự xác tín trọn vẹn. Chính tin vào Lời Chúa mà Đức Maria can đảm bước vào cuộc phiêu lưu, chấp nhận cộng tác với Chúa trong công trình nhập thể. Mẹ biết rằng việc cưu mang và sinh hạ Con Thiên Chúa đi liền với biết bao hy sinh và đau khổ. Mẹ đã chấp nhận cuộc phiêu lưu ấy, không phải để tìm danh dự cá nhân, nhưng để chương trình của Thiên Chúa được thực hiện, mang lại phần rỗi cho con người. Cuộc gặp gỡ của hai người phụ nữ, cũng là cuộc gặp gỡ của hai thai nhi còn trong lòng mẹ. Niềm vui mừng của hai người mẹ, cũng là niềm hân hoan của hai người con. Nếu bà Elisabeth vui mừng vì được gặp Trinh nữ Maria, thì hài nhi Gioan Tẩy giả trong lòng bà hân hoan vì được gặp Đấng Cứu thể. Trước khi Đức Maria tâm sự những điều định nói, thì bà Elisabeth đã biết hết những điều kỳ diệu Chúa đã làm. Vì thế, Đức Maria đã vui mừng ca lên bài ca tạ ơn Magnificat. Mẹ vô cùng sung sướng hân hoan, như một vũ nữ tưng bừng tôn vinh Chúa với cả thân xác và tâm hồn. Lên đường là chấp nhận rời bỏ những tiện nghi để chấp nhận mọi thiếu thốn, phiền toái. Lên đường còn là đến với người khác để sẻ chia với họ niềm vui nỗi buồn. Chúa Giêsu đã vâng lời Chúa Cha và “lên đường” để đến trong thế gian. Người đến để thực thi ý Chúa Cha là canh tân vũ trụ và thiết lập mối tương quan mới giữa Thiên Chúa và con người. Người là Thiên Chúa cao sang đã mặc lấy thân phận loài người, sống như mọi người trần thế, chỉ ngoại trừ tội lỗi. Thiên Chúa vĩnh cửu đã bước vào thời gian. Đấng vô hạn đã trở nên hữu hạn vì hạnh phúc của con người. Đấng mạnh mẽ quyền năng đã trở nên một trẻ thơ nơi hang đá máng cỏ. Lễ Giáng Sinh nhắc cho chúng ta sự dấn thân hy sinh của Ngôi Hai Thiên Chúa. Ngày hôm nay, Chúa Giêsu vẫn đang hiến thân vì con người qua Bí tích Thánh Thể. Người vẫn hiện diện cách huyền nhiệm trong Giáo Hội, nơi các thừa tác viên và nơi mỗi tâm hồn tín hữu. Người đang mời gọi chúng ta, hãy noi gương Người mà tiếp tục lên đường loan báo ơn Cứu độ. Mầu nhiệm Giáng Sinh là niềm vui cần được chia sẻ. Đây là niềm vui cho toàn thế giới. Người tín hữu khi mừng lễ Giáng Sinh được mời gọi lên đường để đem niềm vui Giáng Sinh vào cuộc sống. Con Thiên Chúa đã đến trong trần thế, chính người sẽ đem lại hòa bình cho nhân loại. Đấng Cứu độ sẽ phát xuất từ Bêlem Epratha và từ đó trải rộng vương quyền tình yêu của Người khắp nơi trên trần thế (Bài đọc I). Người hiện diện giữa đời để chia sẻ phận người với chúng ta. Từ nay, trên con đường chúng ta bước đi mỗi ngày, có Chúa chia sẻ vui buồn và nâng đỡ, nhờ đó mà chúng ta tìm thấy hy vọng trong những lúc gian nan, tìm thấy sức mạnh trong những khi yếu đuối. Chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, chúng ta hãy noi gương Đức Trinh nữ thành Nagiarét, mở rộng tâm hồn đón nhận Đấng Cứu Thế. Cùng với Mẹ, chúng lên đường để nói với mọi người đang sống trong thời đại chúng ta rằng: NGÔI LỜI ĐÃ LÀM NGƯỜI VÀ Ở CÙNG CHÚNG TA.
Vào cuối tháng 11/2015 vừa qua, Đức Thánh Cha đã có một chuyến công du thăm viếng ba quốc MV 4-C168
Vào cuối tháng 11/2015 vừa qua, Đức Thánh Cha đã có một chuyến công du thăm viếng ba quốc gia Châu Phi : Kenya, Uganda và Cộng hòa Trung Phi. Đây là một chuyến đi đầy khó khăn nguy hiểm, vì các quốc gia này thường được biết đến là những quốc gia nghèo đói nhất trên thế giới, nội chiến triền miên, nhất là sự đe doạ của các nhóm Hồi Giáo quá khích muốn nhắm vào chuyến công du này. Tuy nhiên, Đức Thánh Cha đã không hề sợ hãi hoặc lo lắng cho tính mạng để đến các quốc gia này chỉ mấy ngày sau những cuộc khủng bố đẫm máu. Trong ngày Chúa Nhật 29/11, Đức Thánh Cha đã mở cửa Năm Thánh Lòng Thương Xót Chúa tại nhà thờ chính toà Bangui của Trung Phi. Với hành động có tính biểu trưng này, Đức Thánh Cha kêu gọi mọi thành phần của quốc gia này hãy cùng nhau xây dựng bình an, hy vọng cho đất nước, cùng bước đến với nhau để bắt tay tha thứ, hoà giải với nhau. Ngài quả quyết rằng, Chúa Giêsu vì chạnh thương, Ngài đã chạm đến người bại liệt, cho anh đứng dậy, thì chúng ta cũng cần phải dùng tình yêu và lòng xót thương để giúp anh em mình đứng dậy khỏi sự bại liệt của thể xác và tinh thần, đứng dậy khỏi sự nghèo đói và thù hận để bước đi trên con đường yêu thương và phục vụ.
Cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha như thổi một luồng sinh khí mới vào các quốc gia này, đem đến cho họ niềm vui và hy vọng, sức mạnh và niềm tin để họ cùng nhau khôi phục lại cuộc sống và đất nước, mở ra cho họ một tương lai hy vọng. Làn gió mới Đức Thánh Cha đem đến cho những quốc gia châu phi, phần nào cũng phản ánh làn gió mới tiên tri Mikha nói về Giêsrusalem trong ngày Chúa viếng thăm họ.
Mikha đã tiên báo về sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế sẽ làm thay da đổi thịt cho Giêrusalem, Ngài sẽ cất đi mọi tủi hổ, nhục nhằn để ban lại cho Giêrusalem vinh quang và danh dự : Phần ngươi, hỡi Belem Ephata, ngươi nhỏ bé nhất trong chi tộc Duda, nhưng từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Israel. Với lời tiên báo này, vị tiên tri đã chỉ rõ nơi Đấng Cứu Thế sẽ xuất hiện. Hơn thế nữa, tiên tri Mikha còn nói rõ cách thức Đấng Cứu Thế xuất hiện : Ngài sẽ là con của một người phụ nữ. Điều này vượt quá mọi khả năng suy đoán và tưởng tượng của con người. Ngài chính là Đấng sẽ quy tụ Israel tản mác trở về, Ngài sẽ dùng quyền năng của Thiên Chúa mà chăn dắt Israel. Họ sẽ được an cư lạc nghiệp, vì chính Người sẽ đem lại hoà bình cho nhân loại.
Lời của tiên tri Mikha khắc hoạ lên một tương lai tươi sáng, đầy hy vọng cho Israel trong lúc họ đang rơi vào cảnh cùng cực ; đồng thời cũng cho thấy một Thiên Chúa xót thương dân Người. Ngài đã bước đến với con người không phải như những ông vua quyền thế, nhưng được sinh ra bởi một người phụ nữ như bất cứ một con người nào. Thư Do Thái nói rõ cho thấy, Đấng ấy chính là Đức Giêsu-Kitô. Khi bước vào trần gian, Ngài đã chọn con đường vâng phục hoàn toàn thánh ý Thiên Chúa Cha : Cha đã không ưa thích hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân xác. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa : Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thự thi ý Ngài. Ý của Thiên Chúa là nói cho mọi người biết Thiên Chúa là Cha và họ được Thiên Chúa yêu thương.
Thiên Chúa đã không ngại ngần bước đến với con người, không khinh chê con người yếu đuối, tội lỗi, Ngài đã mang lấy thân xác của con người ; không dửng dưng với con người, Ngài đã nhập cuộc với con người, cùng chung chia số phận của con người. Trong biến cố này, Đức Maria là người đã sẵn sàng gỡ bỏ mọi rào cản ngăn cách để cho Con Thiên Chúa bước vào cuộc đời Mẹ và bước vào thế giới qua cung lòng của Mẹ. Con Thiên Chúa đã đón nhận sự nuôi dưỡng, chăm sóc từ dòng máu và dòng sữa của Mẹ.
Đón nhận Thiên Chúa vào cung lòng của mình, Mẹ Maria đón nhận tình yêu thương, niềm vui và hạnh phúc của Thiên Chúa. Mẹ đã vượt qua sự mệt mỏi của một người phụ nữ lần đầu mang thai, để nhanh chóng lên đường đem Chúa đến cho gia đình Giacaria và Elizabét. Cuộc viếng thăm này không chỉ là cuộc viếng thăm của hai người phụ nữ, nhưng còn là cuộc viếng thăm của Thiên Chúa đến với dân Người. Cuộc viếng thăm này đã làm cho gia đình bà Elizabet ngập tràn niềm vui, tiếng cười và hạnh phúc.
Bà Elizabet hết sức bất ngờ trước cuộc viếng thăm, bà đã kêu lên : Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm, còn Gioan trong lòng bà thì nhảy lên sung sướng vì được gặp Đấng Cứu Thế. Bà Elizabet được đầy Chúa Thánh Thần để nhận ra sự cao trọng mà Thiên Chúa đã làm cho Đức Maria và gọi người em của mình là Mẹ Thiên Chúa. Sứ điệp Đức Maria đem đến cho gia đình Giacaria chính là lòng tin và tâm tình tạ ơn về lòng thương xót của Thiên Chúa. Chính bà Elizabet đã nói lên điều đó : Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Chúa đã nói với em và cả hai người cùng cất tiếng tạ ơn Thiên Chúa.
Thiên Chúa yêu thương nhân loại. Tình yêu ấy không phải là những lời lẽ suông, mà là hành động cụ thể. Thiên Chúa không đứng xa để nhìn con người, nhưng Ngài đã bước đến để cùng chia sẻ thân phận con người, để yêu thương và nâng con người chỗi dậy. Ngài gỡ bỏ tất cả những rào cản của các nghi lễ xưa để thiết lập nên một tương quan mới giữa con người với Thiên Chúa, qua cái chết của Ngài, chúng ta được nhận làm con Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã đi bước trước để đến với nhân loại, Ngài chấp nhật tất cả rủi ro và đau khổ của con người chỉ vì yêu thương và muốn thể hiện lòng xót thương của Ngài dành cho con người, thì chúng ta là những người được yêu thương, cần phải có những thái độ đáp trả tích cực. Hôm nay, Ngài cũng vẫn đang đến với mỗi người qua Bí tích Thánh Thể, qua Lời của Chúa, qua Giáo Hội và Ngài đang chờ đợi sự đáp trả của chúng ta.
Hãy mạnh dạn gỡ bỏ những rào cản, những nghi ngại còn lại trong tâm hồn mỗi người. Những rào cản đó có thể là những thói quen xấu lâu ngày, là cái tôi quá lớn khiến cho con đường dành cho Chúa bị chật hẹp lại. Rào cản đó còn có thể là những nghi ngờ về lòng thương xót của Thiên Chúa, không dám phó thác cuộc đời của mình và gia đình mình cho Chúa. Rào cản còn là sự lười biếng, ù lỳ, khiến chúng ta phản ứng chậm chạp trước lời mời gọi, nhắc bảo của Thiên Chúa.
Cần phải gỡ bỏ các rào cản trong gia đình để cho Thiên Chúa bước vào. Thiên Chúa rất tế nhị, Ngài không thể bước vào nhà mỗi người, nếu chúng ta không mở cửa, không đón Ngài vào. Bởi vì nhiều người đã để cho gia đình mình lỉnh kỉnh, chật chội bởi sự khác biệt, bởi xung khắc, nóng nảy, chửi bới. Nhiều người khác đã lấy lý do bận rộn với công việc, với cuộc sống để từ chối Thiên Chúa, không đến với Chúa và cũng không muốn Chúa bước vào gia đình, sợ Chúa chạm đến các vấn đề của gia đình.
Chúng ta sẽ không thể tìm được niềm vui, sự bằng an cho tâm hồn và gia đình khi không có Chúa. Vì thế, muốn cho gia đình ngập tràn niềm vui và tiếng cười, muốn cho tâm hồn thanh thản và bình an, hãy mạnh dạn, thường xuyên đến với Chúa nơi Bí tích Giải Tội, vì chính nơi toà giải tội, chúng ta sẽ cảm nhận một cách sâu xa lòng thương xót của Thiên Chúa. Ở nơi đây, chúng ta sẽ được Chúa ôm vào lòng, được an ủi vỗ về và được chữa lành những vết thương tâm hồn của chúng ta. Đừng ngại ngần, cũng đường bao giờ hồ nghi lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa.
Để cho niềm vui được trọn vẹn, chúng ta còn cần phải gỡ bỏ những giới hạn, những rào cản, để mỗi người có thể bước đến với anh chị em, đặc biệt là những người nghèo, để đem niềm vui và lòng thương xót đến với họ. Trong cuộc sống có những nơi, có những gia đình và có những người chúng ta nghi kỵ, ngại ngùng không muốn bước đến. Có những người đã bị chúng ta đã xoá tên họ trong bộ nhớ, loại họ ra khỏi sự quan tâm và tình thương của mình, coi họ như không hiện hữu trên trần gian này. Hãy can đảm, chủ động bước đến với những người ấy, hãy đưa tay ra để gỡ bỏ những vướng mắc, để làm hoà, để nối lại tình yêu thương đối với họ.
Xin Chúa giúp mỗi người biết để cho Chúa giúp chúng ta gỡ bỏ vướng mắc trong cuộc sống, phá những rào cản của nghi kỵ để chúng ta có được một tâm hồn vui tươi và bình an đón Chúa đến trong dịp đại lễ Giáng Sinh sắp tới ; đồng thời, xin Chúa giúp chúng ta noi gương Đức Maria mau mắn lên đường, chủ động bước đến với anh chị em để đem lòng thương xót của Chúa đến cho họ. Amen.
Tin mừng Chúa Nhật IV Mùa Vọng cho chúng ta chân dung của hai người phụ nữ diễm phúc: Đức MV 4-C169
Tin mừng Chúa Nhật IV Mùa Vọng cho chúng ta chân dung của hai người phụ nữ diễm phúc: Đức Maria, Mẹ Đấng Cứu Thế và Êlidabet, mẹ Gioan Tiền Hô.
Cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ chứa chan niềm vui. Bà Êlidabet vui mừng vì được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm. Đức Maria vui mừng vì được Thiên Chúa đoái thương; Mẹ nhìn thấy ơn cứu độ mà cả dân tộc của Mẹ mong chờ, niềm vui được tham dự vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa, niềm vui có Đức Giêsu ở cùng; Để có được niềm vui này, Mẹ đã có một niềm tin tuyệt đối vào lời hứa ơn cứu độ của Thiên Chúa đối với dân tộc Mẹ. Thánh Gioan Baotixita vui mừng “hoan ca” trong lòng mẹ.
Những niềm vui ấy hoà chung làm thành một lễ hội hân hoan tạ ơn Thiên Chúa. Những niềm vui ấy là do ơn Chúa Thánh Thần ban tặng.
Suy niệm về cuộc gặp gỡ kỳ diệu của hai bà mẹ cho chúng ta những bài học bổ ích.
Đức Maria đi thăm người chị họ Êlidabet. Dù đường sá xa xôi, vất vả, qua miền đồi núi, Mẹ yêu thương nên vẫn lên đường viếng thăm vì yêu thương. Chính tình thương đã thúc đẩy bước chân Mẹ. “Đẹp thay trên đồi núi, bước chân người loan báo Tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ” (Is 52,7). Hình ảnh Đức Maria đang cưu mang Đấng Cứu Thế, băng ngàn để loan báo tin vui cũng chính là hình ảnh Isaia đã loan báo từ xa xưa.
Cuộc viếng thăm lịch sử.
Đây là cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ, hai người con đang được cưu mang cũng là giữa hai giao ước cũ và mới.
– Giữa hai người mẹ: Đức Maria thăm viếng đem niềm vui có Chúa cho gia đình người chị họ. Ở lại phục vụ người chị trong thời gian mang thai sinh con. Êlidabet được ơn Thánh Thần đã xưng tụng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa và đã ca tụng đức tin của Đức Mẹ.
– Giữa hai người con: Nghe lời chào của người mẹ cưu mang Đấng Cứu Thế, con trẻ Gioan trong lòng Êlidabet nhảy mừng vui sướng.
– Giữa hai giao ước: Cuộc viếng thăm của Đức Mẹ là cuộc gặp gỡ giữa hai giao ước. Thời đại mới mở ra giao ước mới. Con Thiên Chúa làm người khai mở giao ước của thời đại ân sủng và tình yêu.
Cuộc viếng thăm tình yêu.
Tình yêu đòi hỏi phải biểu lộ ra chứ không giữ kín bên trong. Một tình yêu giữ kín, không được biểu lộ thành hành động thì không phải là một tình yêu đích thực. Tình yêu phải được biểu lộ ra thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ, giúp đỡ, hy sinh cho người thân, làm cho người thân trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn.
Tình yêu đích thực đòi hỏi phải năng gặp nhau, nhất là những lúc người mình yêu có chuyện vui buồn. Tục ngữ có câu: “Nhất nhật bất kiến như tam thu hề!” (một ngày không gặp nhau thì dài như ba năm). Do đó, đi thăm viếng nhau là đòi hỏi của tình yêu đích thực, là biểu lộ sự quan tâm đến nhau.
Đức Mẹ là mẫu gương tuyệt vời. Năng thăm viếng những người chúng ta yêu mến. Những người bệnh tật, già cả, những người nghèo khổ, đau khổ, những người khô khan thờ ơ, những gia đình rối rắm bất hoà… Họ rất cần đựơc thăm viếng. Đến thăm nhau là một phương cách tuyệt vời để biểu lộ tình huynh đệ, tình yêu thương của đạo Chúa.
Niềm vui thăm viếng
Khi đến thăm bà Êlidabet, Mẹ đem Chúa đến cho người thân của mình. Nhờ Mẹ mang Chúa đến, nên không chỉ bà Êlidabet vui mừng mà hài nhi trong lòng bà cũng vui theo mà “nhảy lên” hân hoan. Nhảy mừng diễn tả niềm vui. Đây là niềm vui ơn cứu độ. Sự hiện diện của Đức Maria mang đến niềm vui và còn có sự biến đổi khiến hai mẹ con bà Êlidabet được tràn đầy Thánh Thần, và nhờ đó nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Mẹ. Gia đình Bà Êlidabet là gia đình đầu tiên được Chúa Cứu Thế viếng thăm. Đây là gia đình diễm phúc đón nhận niềm vui ơn cứu độ.
Đến thăm nhau không chỉ là một phương cách biểu lộ tình yêu, nói lên sự quan tâm, mà còn là một dịp thuận lợi để đem Chúa đến cho người mình thăm viếng. Nhờ ta đem Chúa đến mà niềm vui của người được thăm tăng lên gấp bội, và họ nhận lãnh được Thánh Thần.
Đem Chúa đến cho người mình thăm viếng, không có nghĩa là mình nói thật nhiều thật hay về Chúa cho họ nghe. Đức Maria có nói gì về Chúa với Bà Êlidabet đâu! Chúa là tình thương, ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân, khi chính ta thật sự yêu thương họ bằng một tình yêu chân thực. Đến với nhau bằng tình thương, bằng niềm vui là sự gặp gỡ có Chúa hiện diện rồi. Khi người ta mang hận thù oán ghét, ý nghĩ đen tối đến với nhau thì nảy sinh bất hoà chiến tranh và đau khổ. Ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân khi ta đến với ý muốn làm hiện thân của Chúa đối với họ, và coi họ cũng là hiện thân của Chúa đối với mình.
Thiên Chúa yêu thương nhân loại nên đã ban tặng Con Yêu Dấu là Đức Giêsu. Người đến với con người trong lịch sử, cách đây hơn 2000 năm. Người đem ơn cứu độ và đem hạnh phúc đến cho mọi người, cho từng người. Khi còn tại thế, Đức Giêsu đã đến thăm nhiều người, nhiều gia đình. Người quan tâm chăm sóc chữa lành những bệnh nhân. Người giảng dạy và ân cần với những người nghèo. Ngưòi cải hóa nhiều tội nhân. Người biểu lộ tình yêu thương cho mọi người.Đức Giêsu muốn chúng ta tiếp nối công việc của Người.
Một trong những vấn đề mục vụ hàng đầu của linh mục là thăm viếng giáo dân. Khi đến một giáo xứ mới, công việc đầu tiên của linh mục là đi thăm tất cả các gia đình trong giáo xứ. Như mục tử với đoàn chiên, linh mục biết tình hình chung, biết hoàn cảnh mọi gia đình trong xứ. Từ đó có kế hoạch mục vụ để mang lại hiệu quả thiết thực cho cộng đoàn.
Các tu sĩ, các hội đoàn trong giáo xứ có những thời giờ thăm viếng mục vụ. Đến với các bệnh nhân, người già cả, người nghèo, gia đình rối, gia đình bất hoà luôn được coi là việc tông đồ. Đem Chúa đến với anh chị em của mình là niềm vui và là sứ mạng của người tín hữu.
Những tuần lễ Mùa Vọng, mỗi người trong xứ đạo tiết kiệm chi tiêu để làm việc bác ái. Những phần quà ân tình chia sẻ cho các gia đình nghèo trong Đêm Giáng Sinh thật ý nghĩa, diễn tả tình yêu và sự quan tâm đến người khác.
Đức Maria viếng thăm phục vụ và đem Chúa đến với gia đình bà Êlidabet. Đó là hình ảnh tuyệt đẹp và là mẫu gương cho mọi tín hữu noi theo. Dành thời giờ quý báu để thăm nhau. Chia sẻ tình thương và đem niềm vui có Chúa cho tha nhân luôn là sứ vụ của người tín hữu.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết quan tâm đến niềm vui, nỗi khổ, và nhu cầu của từng người sống chung quanh chúng con. Xin giúp chúng con biết hy sinh thì giờ cho dù rất quí báu để năng đến gặp gỡ, thăm viếng nhau, hầu nhờ đó thông cảm được những nỗi vui buồn và nhu cầu của anh chị em. Xin giúp chúng con biết sẵn sàng chia vui sẻ buồn và tìm mọi cách để giúp đỡ những nhu cầu chính đáng của họ. Amen.
Có một câu chuyện giả tưởng có tên là “Hoàng Tử Bé Nhỏ, The Little Prince” đã làm nhiều người MV 4-C170
Có một câu chuyện giả tưởng có tên là “Hoàng Tử Bé Nhỏ, The Little Prince” đã làm nhiều người lớn cũng như trẻ em say mê và thích thú như phim Star War, xin được tạm dịch là “Chiến Tranh Hành Tinh” đang được trình chiếu tại các rạp hát mấy ngày hôm nay. Hoàng tử nhỏ bé là một người sống ở một hành tinh xa lạ. Một hôm cậu cảm thấy mình đang hiện diện trên trái đất, và tự nhiên, cậu cảm thấy lạc lõng và bơ vơ. Một động vật cư ngụ trên trái đất đã giúp cậu rất nhiều là một con cáo. Sau đó hai bên đã tạo nên một tình bạn thân thiết. Trước thời điểm hoàng tử nhỏ bé và con cáo phải từ biệt chia tay, con cáo năn nỉ xin hoàng tử cùng hẹn một giờ nhất định cho những cuộc gặp gỡ tương lai. Và hai bên cùng đồng ý vào 4 giờ chiều của một ngày nhất định. Khi hoàng tử nhỏ bé hỏi con cáo tại sao muốn hẹn một giờ nhất định, con cáo trả lời rằng nếu biết trước được sẽ gặp lúc 4 giờ thì sẽ bắt đầu vui mừng vào lúc 3 giờ trước đó.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúa nhật Thứ Tư mùa Vọng mang một tâm tình như vậy, là thời điểm chúng ta cảm thấy vui mừng vì còn mấy ngày nữa chúng ta sẽ mừng ngày giáng sinh của Chúa Giê-su Ki-tô, Ngôi Hai Thiên Chúa, đã sinh xuống trần cách đây hơn 2 ngàn năm, tại một ngôi làng nhỏ bé, có tên là Be Lem, như lời ngôn sứ Mi-ca đã tiên đoán trong bài đọc 1 hôm nay.
Chúng ta hân hoan trong khi sửa soạn cho sự xuất hiện, sự hiện diện của Chúa Giê-su, “Hoàng Tử Hòa Bình.” Và tâm hồn của mọi người chúng ta tràn đầy niềm vui mừng hân hoan, và niềm vui mừng hân hoan này cũng giống như niềm vui mừng hân hoan trong trái tim của Gioan Tẩy giả trong bài Tin mừng hôm nay.
Niềm vui mừng hân hoan này đã khiến cho Gioan nhảy lên trong lòng bà E-li-za-bét khi Đức Maria xuất hiện ở ngưỡng cửa. Và điều làm cho Gioan Tẩy giả nhảy mừng phát xuất từ một sự hiện diện có sức thu hút mãnh liệt. Và sức mạnh thu hút của sự hiện diện này đã làm cho từng tế bào trong thân thể của Gioan phải dâng lên. Và đôi khi sự hiện diện này cũng tạo chúng ta những cảm nghiệm hiếm có này trong đời sống. Đó chính là khi chúng ta cảm nghiệm được sự hiện diện của chính Chúa Giê-su, đặc biệt trong Bí tích Thánh Thể.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta có thể phân biệt được sự khác biệt giữa có hiện diện và vắng mặt của Chúa Giê-su trong đời sống, như bóng tối với ánh sáng, như bất an với hy vọng, như sầu khổ và vui mừng. Chúng ta có thể hình dung ra sự hiện diện của Chúa Giê-su trong ngày giáng sinh thứ nhất đã biến đổi thế giới, đang sống trong bóng tối tội lỗi, nhìn thấy ánh sáng của Thiên Chúa, và từ một nơi sầu khổ đến một nơi đầy tràn niềm vui mừng và hy vọng. Và chúng ta cũng có thể hình dung và tin rằng khi Chúa hiện đến và hiện diện lần thứ hai trong ngày tận thế, những người tin và sống lời Người dạy sẽ vui mừng và vinh quang đến thế nào.
Ông bà anh chị em thân mến. /Tất cả chúng ta được kêu gọi chuẩn bị và sửa soạn tâm hồn trong mùa Vọng này cho hai sự hiện diện của Chúa Giê-su, thứ nhất ngày Chúa giáng sinh lần thứ nhất, và thứ hai, ngày Chúa lại đến trong ngày tận thế. Và sự mong đợi của hai ngày trọng đại này làm cho tâm hồn chúng ta hân hoan vui mừng, và chúng ta được kêu mời suy niệm và cảm nghiệm với Đức Maria mầu nhiệm lạ lùng Thiên Chúa giáng trần đến với nhân loại, lần thứ nhất, và học và biết noi gương Mẹ để chúng ta chuẩn bị săn sàng.
Bài Tin mừng trước đó cho chúng ta biết, sứ thần Ga-pri-el đến báo tin cho Đức Maria là người diễm phúc, vì đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Ngôi Hai Thiên Chúa, và để bảo đảm cho lời truyền tin này, sứ thần đã đưa ra một bằng chứng về quyền năng của Thiên Chúa qua sự việc bà Ê-li-za-bét thụ thai. / Đức Maria đã đặt tất cả niềm tin của mình vào lời Chúa và thưa với sứ thần hai tiếng “xin vâng” theo thánh ý Chúa. / Khi sứ thần cho biết như thế, thì ít ngày sau, Đức Mẹ đã vội vã lên đường đi thăm bà Ê-li-za-bét, và ở lại giúp đỡ trong ba tháng.
Ông bà anh chị em thân mến. Động lực nào đã thúc đẩy Đức Maria vội vã lên đường, vượt qua con đường xa sôi, khó khăn, hiểm trở, để đi thăm bà Ê-li-za-bét? Chúng ta có thể đưa ra 2 lý do chính sau đây. Lý do thứ nhất, Đức Maria đi để chia sẻ niềm vui, và đem chính Đấng Cứu Thế đến cho bà chị họ và cho Gio-an tiền hô lúc đó đang trong bụng mẹ. / Vì thế, khi Đức Maria vào nhà thì bà Ê-li-za-bét và cả thai nhi Gio-an, chỉ còn 3 tháng nữa sẽ được sinh ra, đều nhảy mừng. Động lực thứ hai đã khiến cho Đức Maria vội vã lên đường để đi thăm viếng bà Ê-li-za-bét, là Mẹ muốn thể hiện lòng bác ái, yêu thương của mình. Thật vậy, lòng yêu thương bác ái đã thúc đẩy Mẹ lên đường, vượt qua con đường gồ ghề và hiểm trở. Vì vậy, khi vào nhà và sau lời chào của Đức Maria, bà Ê-li-za-bét đã cảm nhận được sự hiện diện của Thánh Thần Chúa và cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa: “Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi?” Và bà đã nói với Đức Maria: “Phúc cho bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng bà sẽ được thực hiện.” Chúng ta biết chữ “Phúc” trong câu trên, theo Kinh thánh, bao hàm 2 ý nghĩa: thứ nhất vui mừng và thứ hai hạnh phúc vì có Chúa hiện diện trong tâm hồn. Mẹ Maria có sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn, nên cuộc sống của Mẹ chiếu tỏa tình yêu thương, bác ái và quảng đại đến những người chung quanh.
Trong một thời gian ngắn nữa, chúng ta sẽ mừng sinh nhật của Đấng cứu thế, Con của Mẹ. Chúng ta cầu xin, luôn cảm nhận được sự vui mừng qua mầu nhiệm giáng trần của Con Mẹ mang đến, và tin chắc rằng qua Con của Mẹ, Thiên Chúa đang hiện diện, ở giữa chúng ta và luôn yêu thương chúng ta, để chúng ta biết noi gương của Mẹ có lòng yêu thương, bác ái và quảng đại, chia sẻ ơn lành của Chúa với mọi người, và luôn ý thức biết xử dụng ơn Chúa ban để làm sáng danh Chúa.
Chúng ta đang sống trong Năm Thánh Lòng Thương Xót. Chúng ta được mời gọi chiêm ngắm tình MV 4-C171
Chúng ta đang sống trong Năm Thánh Lòng Thương Xót. Chúng ta được mời gọi chiêm ngắm tình yêu của Chúa Cha qua khuôn mặt của Đức Giêsu Kitô. Tình yêu đó được biểu lộ bằng những hành động cụ thể của Ngài. Một tình yêu giữ kín, không được thể hiện bằng những hành động cụ thể, đúng đắn thì không phải là tình yêu đích thực. Chỉ còn vài ngày nữa chúng ta sẽ mừng mầu nhiệm tình yêu, mầu nhiệm giáng thế. Phụng vụ lời Chúa ngày hôm nay giới thiệu cho chúng ta nhân vật chính của mầu nhiệm này, là Đức Giêsu Kitô. Sự xuất hiện của Ngài đã đem đến “bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Bài Đọc I: Mk 5, 1-4a
Đấng cứu thế mà tiên tri Mikha rao giảng không xuất hiện ở Giêrusalem hay một thành phố lớn, mà ở một thị trấn nhỏ bé, quê mùa là Bêlem. Mặc dù ở một nơi như vậy, nhưng “Ngài có sứ mạng thống lãnh Israel”, đem lại hòa bình cho họ. Nhờ sự xuất hiện của Ngài mà người ta được “vinh dự lây”, “vinh dự ké”, chứ không còn mặc cảm vì xứ sở quê mùa của mình nữa.
Bài Đọc II: Dt 10, 5-10
Chân dung Đấng Messia được tác giả thư Do Thái phác họa là một vị Thượng Tế. Vị Thượng Tế này trổi vượt hơn các Thượng Tế trong cựu ước nhờ biết thực thi thánh ý Chúa Cha; dâng hy lễ là chính bản thân Ngài chứ không phải xúc vật như các thượng tế khác dâng; và lễ tế ấy không cần dâng nhiều lần, mà chỉ dâng một lần là đủ.
Tin Mừng: Lc 1, 39-45
Phúc lành của Thiên Chúa được đem đến ngay khi Đấng Cứu Thế nhập thể làm người trong lòng Đức Maria. Phúc lành đó làm cho Mẹ vui mừng vì được Thiên Chúa đoái thương: “Tâm hồn tôi nhảy mừng trong Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng”. Phúc lành đó làm cho bà Isave hân hoan đến kinh ngạc: “Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?”. Phúc lành làm cho cả hài nhi Gioan cũng phải nhảy mừng ngay khi còn trong bụng bà Isave. Nguồn gốc của những niềm vui ấy xuất phát từ Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha được thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế.
II. DẤU HIỆU TÂM HỒN THIỆN TÂM
Năm Thánh Lòng Thương Xót đã mở ra, Tình yêu đã giáng thế, và mỗi người chúng ta đang sốt sắng chuẩn bị để sống lại mầu nhiệm cao cả đó. Phúc lành của Thiên Chúa sẵn sàng tuôn đổ và tuôn đổ một cách dồi dào. Điều quan trọng là làm sao để đón nhận phúc lành đó. Trong đêm giáng sinh, chúng ta nghe thiên thần loan báo: “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Những con người thiện tâm là những con người sẽ đón nhận được phúc lành của Chúa như bài Tin Mừng hôm nay đã giới thiệu cho chúng ta. Vậy đâu là những nét nổi bật của một tâm hồn thiện tâm?
Khiêm nhường:
Thứ nhất là sự khiêm nhường. Khiêm nhường là nhìn nhận sự thật nơi bản thân mình. Khiêm nhường để biết mình hèn mọn, nhỏ bé trước mặt Chúa. Khiêm nhường vì biết tự sức mình không thể làm gì được, mà tất cả những gì mình có đều do lòng thương xót của Chúa. Vì thế khi nhận được tin làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria đã nói với sứ thần: “Này tôi là nữ tì của Chúa”, nên đương nhiên “tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”.
Bà Isave cũng là một con người khiêm nhường. Đức Maria chỉ là em, là một tín hữu, là một cô gái mười mấy đôi mươi; trong khi bà là chị, là vợ của ông thượng tế, “mang thai trong lúc tuổi già” , nhưng bà lại vui mừng quá sức khi thấy Maria đến thăm mình, bà tự hỏi “Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi thế này?”. Cả hai chị em cùng nhau dâng lên Thiên Chúa bài ca chúc tụng Magnificat, vì họ thấy mình được Thiên Chúa xót thương.
Để chuẩn bị Năm Thánh Lòng Thương Xót, Đức Thánh Cha Phanxicô không ngừng mời gọi chúng ta nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình trước mặt Chúa. Ngài chia sẻ kinh nghiệm của chính bản thân Ngài đi xưng tội mỗi 2, 3 tuần một lần, vì Ngài cảm nhận sức mạnh của Thiên Chúa nơi Bí tích Giải tội.
Chỉ những tâm hồn khiêm nhường mới có thể đón nhận tin vui cứu độ qua mầu nhiệm Nhập thể, và nhất là mới có thể sống tốt Năm Thánh Lòng Thương Xót này. Khiêm nhường để nhìn nhận những sai lỗi của mình. Khiêm nhường để đến với Bí tích Giải tội. Khiêm nhường để sẵn sàng tha thứ cho anh chị em mình. Khiêm nhường để cộng tác với người khác…
Bác ái
Dấu chỉ thứ hai của tâm hồn thiện tâm là việc bác ái. Thiên Chúa là tình yêu. Ở đâu có Thiên Chúa thì lửa yêu mến của Ngài khơi dậy nơi đó. Khi Thánh Thần rợp bóng trên Đức Maria, đồng thời với việc mang thai Đấng Cứu Thế, Mẹ cũng được đầy tràn lòng bác ái, đã nghĩ ngay đến bà chị họ của mình. Mẹ đã đi thăm bà chị họ để chia sẻ hai điều. Thứ nhất là giúp đỡ bà mang thai trong lúc tuổi già. Nhưng quan trọng nhất là đến để chia sẻ niềm vui ơn cứu độ mà chỉ hai người đàn bà này hiểu nhau mà thôi. Chắc chắn không thể có người thứ ba hiểu được niềm vui của họ.
Một trong những điểm nổi bật của Kitô giáo là noi gương Thầy Chí Thánh để thực thi tình bác ái. Một trong những nét làm cho con người nên vĩ đại là họ biết cho đi những gì mình có, mà người vĩ đại nhất là Đức Giêsu Kitô, cho đi chính mạng sống của Ngài.
Năm Toàn Xá cứ 50 năm một lần trong truyền thống Cựu ước là thời gian trả tự do cho tất cả: đất đai, ruộng nương, nô lệ, người mắc nợ…
Đến thời của Chúa Giêsu, Năm Hồng Ân mà tiên tri Isaia loan báo được thực hiện nơi chính bản thân Ngài: “Loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xác cho kẻ bị giam cầm, phóng thích cho những tu nhân”.
Đức Thánh Cha Phanxicô thiết lập Năm Thánh Lòng Thương Xót cũng không ngoài mục đích để Giáo hội biết thực thi Lòng Thương Xót. Hình ảnh Đức Giêsu cõng trên vai một người đang quằn quại phải là hình ảnh luôn thôi thúc chúng ta biết sống bác ái với mọi người.
Phục vụ
Lòng bác ái, sự khiêm nhường được kết tinh ở cao điểm ở thái độ phục vụ. Đức Maria không nghĩ đến việc mình cũng đang mang thai, cần được nghỉ ngơi, mà lặn lội đường xá xa xôi, hiểm trở để viếng thăm và giúp đỡ bà chị họ của mình.
Mùa Vọng năm nay chúng tôi rất vui vì có nhiều người đã cộng tác tích cực với Họ đạo để trang trí, làm hang đá, tập văn nghệ; đã có những người mời gọi, cộng tác với nhau để “sửa lại con đường cho nhau đi”, nhưng cũng là để đón Chúa đến với những tâm hồn thiện tâm.
Tóm lại, phụng vụ lời Chúa hôm nay giới thiệu cho chúng ta rõ hơn về dung mạo của Lòng Thương Xót là Đức Giêsu Kitô. Ngài xuất hiện sẽ đem đến niềm vui và hạnh phúc cho con người. Tuy nhiên Ngài chỉ ở nơi những tâm hồn thiện tâm, tức là những người khiêm nhường, bác ái và phục vụ theo gương của Đức Trinh Nữ Maria.
Xin Chúa qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria cho chúng con trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này, biết đem đến niềm vui và hạnh phúc cho người khác qua thái độ khiêm nhường, bác ái và phục vụ như Mẹ, để chúng con cũng được niềm vui ơn cứu độ trong ngày Chúa Giáng Sinh sắp tới và trong suốt cuộc đời chúng con. Amen.
Chủ đề Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay, IV Mùa Vọng ( C ) cho chúng ta suy gẫm về một nhân vật MV 4-C172
thật quen thuộc, thật gần gũi, thật tôn kính, thật mến yêu, thật trìu mến,thật biết ơn. Vâng, đó là Đức Maria, là Đức Mẹ của chúng ta, là Mẫu Thân của Đấng Cứu Thế, là Mẹ của Chúa Giêsu, và là Mẹ Thiên Chúa. Như vậy, Tin Mừng IV Mùa Vọng hôm nay dành trọn một hình ảnh về Đức Maria, tuy nhiên thực ra có bốn nhân vật
Vâng , thưa quý vị, Đoạn Lời Chúa hôm nay (Lc 1, 39 -45) là đoạn Lời Chúa được dùng trong Mầu Nhiệm thứ hai Mùa Vui : Đức Bà đi viếng Bà thánh Isave. Ta hãy xin cho được lòng yêu người.
Vâng, như vậy là quá rõ “ lòng yêu người”, hay gọi là bác ái, có nghĩa là gì ? Thưa, điều ấy có nghĩa là :” Đem Chúa cho người khác”.
Vâng, căn cứ vào Lời Tin Mừng thì hôm nay Đức Mẹ đem Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế đến cho người khác. Như vậy, “Đem Chúa Giêsu đến cho tha nhân” chính là một hành động “ yêu người”, chứ không phải là bất cứ hành động gì khác. Nếu, chúng ta nói là : “yêu người”, mà không đem được Chúa Giêsu cho người khác, thì không thể gọi là “yêu người”.
Theo đó, hành động “đem Chúa đến với tha nhân”, thì gọi là “Truyền giáo”. Vì vậy, bản chất của Giáo Hội là ”Truyền giáo”, vậy ai là người truyền giáo đầu tiên, há chẳng phải là Đức Mẹ sao ?
Vâng, cử chỉ Truyền giáo của Đức Mẹ như thế nào? Thái độ “yêu người “ của Mẹ ra sao ?
Tin Mừng thuật lại rằng: “ Ngày ấy Trinh Nữ Maria vội vã lên đường đến một miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa, vào nhà ông Giacaria, và chào bà Ê-li-sa-bet …
Vâng, thái độ của Đức Mẹ là “quên mình” để nghĩ đến người khác. Tại sao vậy ? Thưa, sau khi Đức Mẹ nhận được “ơn truyền tin “, có nghĩa là: Đức Mẹ được tràn đầy Chúa Thánh Thần, Thần Khí Thiên Chúa đã thôi thúc Mẹ, trong khi Đấng Cứu Thế đang ngự trong cung lòng thánh khiết vẹn tuyền của Mẹ, thì việc Mẹ vội vã lên đường chia sẻ “ tin vui” với người chị họ, khi Mẹ nhận được “sứ vụ Truyền Tin“. Đồng thời, Mẹ cũng nhận được “Tin Mừng” của người chị họ Elisabet, mang thai được sáu tháng, người mà bị mang tiếng “son sẻ”. Son sẻ đối với người phụ nữ Dothai đã lập gia đình thời đó là một sự “ tủi nhục” rất lớn. Vâng, Thiên Chúa đã cất sự tủi nhục nơi bà Isave là một “ tin mừng” lớn dành cho bà và những người thân, trong đó có Đức Maria.
Vì thế, cử chỉ vội vã của Mẹ đã biểu lộ tình tương thân, tương ái ,“yêu người” nơi Mẹ. Không phải chỉ đối với thân nhân, mà còn tha nhân nữa. Vì , Đức Maria vốn sẵn mang trong tâm hồn một nền tảng đạo đức tự nhiên, như một đặc ân tự nhiên nơi Mẹ. Nay Mẹ được tràn đầy Chúa Thánh Thần và vừa được Đấng Cứu Thế ngự vào lòng Mẹ, thì ân sủng ấy lớn lên bội phần. Vì vậy, động cơ thôi thúc Mẹ đến thăm người chị họ của Mẹ là một động thái tổng hợp vừa siêu nhiên lẫn tự nhiên nơi Mẹ. Tất cả những động thái đó biểu hiện ra bên ngoài, tức vừa siêu nhiên vừa tự nhiên, mà người đối diện đã nhận ra được. Đến độ Bà Elisabet phải thốt lên : “ Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế nầy?”( c 43) Và: “ Vì nầy đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng” (c 44)
Vâng, nếu một sự thăm viếng hoàn toàn tự nhiên, thì không thể có hiện tương nầy, chính bà Elisabet cũng phải thừa nhận điều ấy. Vâng, chúng ta thấy rõ điểm mầu nhiệm ở đây vượt khỏi ranh giới tự nhiên, điều mà phàm nhân vẫn gọi là “ phép lạ”. Vâng, một phép lạ nơi Đức Maria, nhưng phép lạ ấy không phải tự nơi Đức Mẹ thực hiện, mà “ lòng tin “ của Mẹ đã tỏ lộ điều ấy , hya nói cách khác đó là “ hệ quả” của lòng tin. Điều nầy do ơn Thánh tác động nơi thánh nữ Elisabet nên bà nói tiếp: “ Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”( c 45)
Vâng, sự xác quyết của bà Elisabet là do Linh Tác nơi Đức Maria, chính là Thần Khí Thiên Chúa đang hoạt động nơi một “ lòng tin “ tuyệt đối nơi Đức Mẹ.
Như vậy, Đức Mẹ đem Chúa Cứu Thế đến với tha nhân là trọng trách và sứ vụ Thiên Sai của Đức Mẹ. Vâng, phàm nhân thì yếu đuối, nhưng Thánh Ân thì cao vời, có thể làm được mọi sự.
Vâng, đoạn Lời Chúa hôm nay thật kỳ diệu thay, vì Đức Maria ngay từ giây phút Mẹ nhận Lời sứ thần “Truyền tin”, thì giây phút ấy, Mẹ đã được khỏi tội tổ tông, hưởng nhận ơn Đặc Ân Vô Nhiễm Nguyên Tội. Như vậy, Mẹ mang một sứ mạng “truyền giáo” trong một trạng thái hoàn toàn trong trắng vẹn tuyền, hoàn tòan không tỳ vết kể cả nguyên tội. Vì Đấng cứu thế đang ngự trong cung lòng Mẹ, một Thánh Ân tuyệt đối, như vậy, Mẹ là đấng thánh và đang cưu mang Đấng Cực Thánh , ” ngàn trùng Chí Thánh” nữa. Mặc nhiên nơi Mẹ ngay giấy phút ấy, có thể nói mà không sợ sai rằng: “ Mẹ không còn là phàm nhân thuần túy nữa, mà là Thánh Mẫu Thiên Chúa trong phần nhân tính”. Vì, phần nhân tính nơi Mẹ đã ảnh hưởng phần Thiên Tính của Chúa Giêsu Con Mẹ. Theo đó, sự nhảy mừng của Gioan Tiền Hô nơi cung lòng thánh nữ Isave là điều tất yếu, bởi Gioan Tiền Hô một lúc được đón chào hai Vị ngàn trùng Cưc Thánh, chính là Chúa Giêsu – Kitô và Đức Maria.
Hai nhân vật là hai mẹ con của Gioan Tiền Hô và bà Elisabet chỉ được phúc thừa hưởng nơi Đức Maria và Chúa Giêsu, vì hai vị vẫn là phàm nhân. Nhưng, cũng có thể hiểu :” Gioan Tiền Hô cũng được khỏi tội tổ tông trong bào thai, vì hành động nhảy mừng trong cung lòng bà Elisabet.” Cũng có thể hiểu là ông được khỏi tội tổ tông nên vui sướng.
Như vậy, Đức Mẹ là nhà truyền giáo đầu tiên mang ơn “ cứu rỗi ” đến cho tha nhân, cụ thể là Gioan Tiền Hô và gia đình của ngài. Mặc nhiên , “ ơn cứu rỗi ” ở đây chính là Chúa Giêsu. Như vậy, chủ đề Lời Chúa hôm nay ( Lc 1, 39- 45) cũng có thể nói là “ Một cuộc hạnh ngộ”
Lạy Chúa là Cha toàn năng, Cha đã hoạch định kế hoạch nhiệm mầu là cứu rỗi nhân loại, nhưng khởi sự công trình cứu chuộc, Cha đã ban cho Đức Trinh Nữ Maria một ơn vô giá là làm Mẹ Đấng Cứu Chuộc, hầu cộng tác vào công trình cứu độ nhân loại của Con Cha, để mưu ích cho nhân loại và sáng Danh Cha./. Amen.
Đạo làm người đã khơi gợi lên trong cha ông chúng ta những vần điệu thật thi vị : khôn ngoan nhờ MV 4-C173
Đạo làm người đã khơi gợi lên trong cha ông chúng ta những vần điệu thật thi vị : khôn ngoan nhờ phúc ông bà, làm nên phải nhớ tổ tiên phụng thờ. Kinh nghiệm ở đời cũng nhắc nhớ : bán họ hàng xa, mua láng giềng gần; hoặc bằng những lời khuyến khích : mở rộng tâm ra đời thanh thản, an vui tự tại đời thong dong. Cũng có quan niệm cho rằng : phúc đức tại mẫu, con cái tốt hay không, hệ tại nơi người mẹ giáo dục dạy dỗ, vì tầm ảnh hưởng của người mẹ vô cùng quan trọng.
Khuynh hướng tự nhiên, người ta thường thần thánh hóa những ai tài giỏi : được người được cả nết; hoặc đã ác ảm với kẻ nào thì kẻ ấy thật đáng sợ : ghét ai ghét cả tông ti họ hàng. Rõ ràng Đức Maria thăm viếng người chị họ là hành động bác ái, không ai phủ nhận nghĩa cử đó. Còn lý do tại sao người chị họ “được đầy Chúa Thánh Thần, khi kêu lớn tiếng rằng : Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và con lòng Bà được chúc phúc…..”? Đúng, Maria được tuyển chọn, được chúc phúc, được cộng tác với chương trình của Thiên Chúa trong sứ mạng làm mẹ Chúa Giêsu, nhưng Maria vẫn là thụ tạo, được nhờ công ơn cứu chuộc của Đức Kitô.
Khi đọc đoạn Tin mừng hôm nay, ai cũng hiểu Maria và Isave đều được chúc phúc, vị trí hai người mẹ ấy đã làm nên “hồng phúc” cho người Do-thái, cho chúng ta cùng biết mình được tuyển chọn, được ban phúc. Vì được phúc của Thiên Chúa nên hai người mẹ luôn trở nên bé nhỏ, cần được soi dẫn, cần biết làm gì để ơn phúc tiếp tục ở mãi nơi “hai người con” và cộng đồng nhân loại. Vì phúc đức làm mẹ không phải để “khoe khoang” nhưng là chia sẻ, được phúc không phải để giữ cho riêng mình, mà cuộc viếng thăm giữa hai người mẹ là mở rộng tình Chúa yêu thương.
Cho đi niềm vui vật chất hay tinh thần là khởi đầu, là căn bản mà đạo làm người chúng ta hằng nghĩ tới; người quảng đại là người biết khơi nguồn cho “dòng chảy” như câu thành ngữ : có nụ mừng nụ, có hoa mừng hoa. “Tin mừng” được chia sẻ giữa hai người mẹ, không dừng lại ở việc bác ái tình người, mà “ân phúc” nơi hai người mẹ đã hiệp thông thành lời ca tụng tôn vinh Thiên Chúa. Được chúc phúc và biết chia sẻ hồng phúc, chính là qui luật tình yêu nhận lãnh và tình yêu cho đi, dòng tộc giữa người được chúc phúc luôn trổ sinh hoa trái “tri ân, cảm tạ”.
Các thánh hiền đã để lại nhiều cảm nghiệm hết sức cụ thể thân thương : cánh cửa khó khăn nhất để mở ra là cánh cửa tâm hồn, con đường khó khăn nhất để lưu thông là lòng dạ con người, cây cầu khó khăn nhất để qua là cây cầu kết nối trái tim. Cuộc thăm viếng gặp gỡ nơi hai người phụ nữ năm xưa, không phải là “thủ tục” tình chị em, đúng hơn là lần đầu tiên niềm vui “Tin-mừng” Chúa được thông chia. Khi cánh cửa ơn phúc được mở ra, tình yêu Chúa sẽ “trào tràn” đến mọi tâm hồn đang thao thức niềm vui ơn giải thoát.
Tâm hồn được chúc phúc, gia đình được chúc phúc, hay dân tộc được hạnh phúc, nhất định không phải là tưởng tượng mơ hồ, mà ngay từ cuộc viếng thăm giữa hai người phụ nữ, nhân loại sẽ thấy đó là “Đại Phúc” vì có Chúa hiện diện. Được tiền được vàng, không bằng chỉ đàng đi buôn, đó là cầu thành ngữ mà nhiều người tâm đắc trong phát triển kinh tế gia đình. Hôm nay đây, thông qua hai người mẹ, Thiên Chúa gởi đến sứ điệp : con người ai cũng “được chúc phúc”, đó là hạnh phúc có sẵn từ đời đời, là triều đại những tâm hồn ngập tràn tình yêu Chúa.
Có hai thứ khó giấu nhất trên đời đó là kẻ đang yêu và người nghèo đói, hai chị em phụ nữ trong Tin-mừng hôm nay sẽ mãi là hình ảnh người mẹ đang yêu, thông chia niềm vui và hy vọng có Chúa cho chúng ta. Câu tục ngữ : con có khóc, mẹ mới cho con bú, có thể được hiểu cách ý nghĩa hơn, đó là khi ta trẻ dại, chưa có kinh nghiệm nên cứ khóc, cứ kêu gào lên. Thiên Chúa đi vào lịch sử loài người, Ngài chính là Bậc Cha Mẹ, dù quan tâm yêu thương đến từng cá nhân, nhưng mỗi người con phải nhận ra mình được yêu thương, được chúc phúc.
Càng đi sâu vào cuộc sống, người ta sẽ rõ hơn, hạnh phúc chính là niềm vui mà người khác mang lại cho mình. Maria đem niềm vui có Chúa đến cho người chị họ Isave. Bà chị họ chia sẻ niềm vui từ đứa trẻ nhảy mừng trong lòng khi nghe lời chào của Maria. Bài ca cám tạ của Đức Maria sẽ còn vội vã mãi, bao lâu người Kitô hữu chúng ta chưa mau chóng lên đường thực hiện nghĩa vụ yêu thương. Người anh chị em chúng ta sẽ còn nhiều khổ đau, cô đơn, nếu như chúng ta không làm cuộc thăm viếng, chia sẻ như Đức Maria. Chúa Thánh Thần sẽ tiếp tục hoạt động, nâng đỡ, soi sáng, nhằm ý thức chúng ta ai cũng là người “được chúc phúc”, ngay từ khi ta có mặt trên cõi đời này. Amen.