Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến. Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!” - Ðó là lời Chúa. ---------------------------------
Với Chúa Nhật thứ nhất mùa Vọng, chúng ta khởi đầu một năm phụng vụ mới, cũng là khởi MV 1-C201
Với Chúa Nhật thứ nhất mùa Vọng, chúng ta khởi đầu một năm phụng vụ mới, cũng là khởi đầu thời kỳ chuẩn bị đại lễ Chúa Giáng Sinh, mừng Ngôi Hai Thiên Chúa làm người để cứu chuộc nhân loại. Đức Kitô đã đến, đang đến và sẽ đến, thế nên việc chuẩn bị kỷ niệm ngày Chúa Giáng Sinh còn là dịp để nhắc nhở mỗi tín hữu biết chuẩn bị đón chờ Chúa đến cách thích đáng nhất.
Chuẩn bị để đón chờ Chúa sẽ giáng lâm vào ngày sau hết. Đó là biến cố chắc chắn sẽ xảy đến, như trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã báo trước với những hình ảnh lạ lùng của văn chương khải huyền: “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả”.
Việc chuẩn bị đón chờ Chúa đến hằng năm trong dịp lễ Giáng Sinh cũng nhắc nhở chúng ta phải biết chuẩn bị đón chờ Chúa đến trong mỗi giây phút sống và nhất là chuẩn bị đón chờ Chúa đến trong giây phút quyết định từ giã cõi đời của mỗi người.
Là Kitô hữu, việc chuẩn bị chính đáng nhất, theo đúng ý Chúa nhất, là sự chuẩn bị thiêng liêng trong tâm hồn chứ không phải là sự chuẩn bị bên ngoài của dự định mua sắm, của kế hoạch vui chơi trong những ngày lễ. Mùa Vọng là cao điểm của năm phụng vụ trong đó mọi tín hữu được mời gọi sống sâu xa kinh nghiệm hoán cải của con tim và tâm trí, bằng cách nhìn lại cuộc sống của mình, xem có gì là chưa phải, là lầm đường lạc lối để sửa đổi, để điều chỉnh, để làm lại cho đúng.
Lời Chúa trong Chúa Nhật thứ nhất mùa Vọng hôm nay vang lên lời kêu mời: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!” Cần tỉnh thức và cầu nguyện luôn bởi Chúa đến thật bất ngờ. Bất ngờ “như chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu… mọi dân cư khắp mặt đất”.
Để khỏi bị bất ngờ, về mặt tích cực ấy là phải luôn tỉnh thức và cầu nguyện. Tỉnh thức trong tư thế phục vụ và cầu nguyện liên lỉ không ngừng. Ngoài ra, về mặt tiêu cực, Chúa dạy: “Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời”. Nghĩa là chớ chè chén say sưa, lo lắng sự đời thái quá đến nỗi lòng trí ra nặng nề không còn biết phân biệt đen trắng, thiện ác, đúng sai…
Trong Chúa Nhật thứ nhất mùa vọng này tôi chỉ xin đề cập đến một trong những điểm Chúa dạy ở trên. Nếu mùa vọng này chúng ta thực hành được một điều này thôi, thiết tưởng cũng đã đủ. Điều ấy là chớ chè chén say sưa.
Nhấn mạnh về điểm thực hành này bởi lẽ trong vài chục năm gần đây, chưa bao giờ trên đất nước Việt Nam còn nghèo của chúng ta, ngành kinh doanh ăn nhậu lại phát triển đến thế, người ta lại nhậu nhiều đến thế. Vui cũng nhậu, buồn cũng nhậu, không vui không buồn cũng nhậu. Nhậu tối ngày sáng đêm. Nhậu cuối tuần, nhậu đầu tuần và nhậu cả giữa tuần. Thật đáng buồn khi trường học, nhà thương, nhà máy thì ít mà nhà hàng, quán nhậu thì đâu đâu cũng có: từ ngoài phố đến trong hẻm, từ ngoài đường đến trong nhà, từ cao cấp đến bình dân, thượng vàng hạ cám đủ cả.
Thứ trưởng y tế Việt Nam cho biết, tình hình tiêu thụ rượu, bia tại Việt Nam rất đáng báo động: Việt Nam đứng thứ hai trong các nước Đông Nam Á, đứng thứ 10 châu Á và đứng thứ 29 trên toàn thế giới. Theo thống kê, tổng chi tiêu một năm cho rượu, bia của Việt Nam là 16.372 tỷ đồng. Thật là hoang phí vô độ khi Việt Nam vẫn còn là một nước nghèo, với hơn 16.000 tỷ đồng hoang phí đó ta có thể mua 1.770.000 tấn gạo đủ để nuôi sống gần 21 triệu người/năm. 16.000 tỉ đồng, đó chỉ là cái giá vật chất trực tiếp chi cho rượu bia. Thế còn những cái giá phải trả do hậu quả của việc uống rượu là bệnh tật, là tai nạn giao thông, là tệ nạn trong xã hội, là những đổ vỡ trong gia đình… thì làm sao tính nổi?
Điều nguy hiểm nhất là nhậu trở thành chuẩn mực được đề cao, là phương cách để chứng tỏ bản lãnh. Cái thói tật tệ nhất ở bàn nhậu là người ta thách thức nhau uống, ép nhau uống cho kỳ được, với những lý lẽ mà nếu tỉnh táo suy nghĩ ta sẽ thấy là chẳng có lý lẽ gì. Nào là “Phải cạn ly thì mới cạn tình!”. Sao lại có thể gán ép tào lao như vậy! Bạn bè tình nghĩa với nhau là khi tắt lửa tối đèn có nhau, lúc hoạn nạn giúp đỡ nhau, là chân thật giúp nhau sống tốt hơn… chứ sao lại là phải cạn ly mới là cạn tình? Người ta đưa ra những lý lẽ vô lý như vậy để ép nhau uống, không muốn uống thì cũng phải uống…
Nào là “nam vô tửu như kỳ vô phong”, phải uống rượu tới bến mới chứng tỏ bản lãnh đàn ông. Kẻ uống được thì huênh hoang tự đắc, coi đó là cách chứng tỏ sức mạnh và bản lãnh đàn ông của mình, kiểu như: tôi đã từng hạ gục biết bao nhiêu người, chỉ một mình tôi còn đủ tỉnh táo, lên xe về nhà... tự hào như một kỳ tích, khoe khoang khắp chốn… Bản lãnh gì ở nơi bàn nhậu đó! Mặt đỏ, tay vung, nói như lãnh tụ… Bản lãnh của người đàn ông là biết chăm lo cho vợ con, biết lên tiếng cho công lý và hoà bình, biết chống lại những bất công, vô pháp xảy ra hằng ngày trong xã hội… Bản lãnh của đàn ông ở chỗ, tôi biết khả năng tôi uống tới đâu, và cương quyết từ chối không uống vượt quá giới hạn đó… Xin có lời khuyên cho các cô: đối với những thanh niên chỉ biết bày tỏ bản lãnh nơi bàn nhậu, các cô chớ có cưới vào, thà ở vậy còn đỡ bất hạnh hơn.
Có người lại ngụy biện rằng thời xưa Chúa Giêsu cũng ăn nhậu, lại còn hóa nước thành rượu ở tiệc cưới Cana cho người ta uống thả cửa nữa là! Có, Chúa có hóa nước thành rượu ở tiệc cưới Cana, nhưng là do yêu cầu của Mẹ Người, và là để chúc lành cho đôi tân hôn. Có, Chúa thường ăn nhậu với những người tội lỗi, nhưng không hề quá chén say xỉn…
Không, không cần phải biện luận dài dòng, chỉ cần lặp lại lời Chúa dạy: “đừng chè chén say sưa”, là đủ để bác mọi lý lẽ khác. Tiếp nối lời dạy đó, thánh Phaolô khuyên bảo các tín hữu Êphêsô: “Chớ say sưa rượu chè, vì rượu chè đưa tới truỵ lạc” (Ep 5,18).
Vậy có người sẽ nghĩ: tôi đâu có nhậu, mà dẫu có nhậu thì cũng đâu đến nỗi lè nhè say xỉn ; vậy bài giảng này chẳng liên quan gì đến tôi. Không! Kẻ ít người nhiều, đều liên quan hết! Bởi vì, thực ra, những điều nói trên chỉ là phần nổi của tảng băng chìm, của những vấn đề xã hội rộng lớn hơn chìm sâu bên dưới.
Xã hội ăn nhậu chẳng phải là dấu hiệu của một xã hội khủng hoảng niềm tin, sống không có lý tưởng, của một xã hội với nền văn hóa tinh thần thiếu nền tảng, không có chiều sâu hay sao?
Vậy, chúng ta phải có trách nhiệm đóng góp phần mình thế nào để lành mạnh hóa xã hội, để mang lại ý nghĩa cuộc sống cho một xã hội xuống cấp và thiếu định hướng đạo đức như ngày hôm nay? Đó là câu hỏi mà mỗi người chúng ta phải hỏi, để sống tích cực trong mùa vọng này ngõ hầu khỏi bị bất ngờ khi Chúa đến. Chúa đến bất ngờ, nhưng thực ra chỉ là bất ngờ đối với những ai không tỉnh thức.
Mong Đợi Thiên Chúa Giải Thoát Toàn Diện (Lc 21, 25 – 36)
Chúng ta bắt đầu bước vào năm phụng vụ mới. Các bài đọc Tin mừng năm nay được trích theo MV 1-C202
Chúng ta bắt đầu bước vào năm phụng vụ mới. Các bài đọc Tin mừng năm nay được trích theo thánh Luca. Tuy nhiên các bài đó không theo thứ tự trước sau như kiểu chúng ta đọc một cuốn sách hay một cuốn truyện, ngược lại được lựa chọn theo nhu cầu của từng mùa, từng Chúa nhật. Hôm nay là chương 21, gần cuối sách, (Luca có 34 chương). Chúa nhật IV mùa Vọng trở về câu chuyện Đức Mẹ thăm viếng bà chị họ Elizabét. Giáng sinh là truyện ở hang Bêlem ở đầu sách. Chỉ đến Chúa nhật thứ ba thường niên phụng vụ mới đọc theo thứ tự bình thường. Những ai ưa thích trật tự và bảo thủ trong cuộc sống hẳn lấy làm khó chịu. Họ chỉ được thỏa mãn khi phụng vụ làm theo não trạng của họ. Nhưng mãi sau này mới được, tức từ Chúa nhật thứ ba thường niên.
Còn lúc này thì chưa, Chúa nhật I mùa vọng mô tả cảnh hoang tàn đổ nát, song song với những chi chúng ta hiện thời cảm thấy trên thế giới; chiến tranh, chém giết, bom đạn,... tất cả đều là hỗn loạn ngoài sức tưởng tượng mỗi người: “Khi ấy, Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: sẽ có những điềm thiêng dấu lạ trên trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sẽ sợ hãi đến hồn siêu phách lạc; chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu. Vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển”. Như vậy, mùa Vọng không khởi sự với bài ca ru em, ngọt ngào và thứ tự. Nó bắt đầu với tiếng khóc than và tranh chấp, kiểu mà cuộc sống hàng ngày thường tiến hành, ở bình diện khu phố hoặc rộng lớn thế giới. Thực vậy, càng gần Giáng sinh, các câu chuyện phúc âm càng trở nên gay go như thể báo trước tương lai của con trẻ thần linh giáng trần. Em sẽ bị nghiền nát dưới bánh xe quyền lực thế gian mặc dù quang cảnh lúc em sinh ra thật thơ mộng, êm đềm với các mục đồng, máng cỏ, thiên thần, chiên lừa và đạo sĩ phương đông. Xin đừng lãng quên nhân vật tàn bạo Hêrôđê cũng là thành phần của trình thuật thơ ấu, tức bàn tay của quỷ vương đã hiện diện ngay từ lúc khởi đầu.
Nhưng mặc dù vậy, các bài đọc cũng có chút an ủi và hy vọng. Tiên tri Giêrêmia ở bài đọc một cho chúng ta hay tại sao? Tại vì cùng với các ngôn sứ khác, ông tiên báo Thiên Chúa sẽ ra tay cứu vớt dân Ngài. Ong viết như vậy khi đang bị cầm tù (33,1) và binh đội Babylon sẽ bao vây thành Giêrusalem, chẳng bao lâu nữa họ sẽ triệt hạ thành. Cho nên những mô tả của chúa Giêsu không chỉ xảy ra ở thời cánh chung, nhưng thường xảy ra nhiều lần trong lịch sử dân Dothái. Nó xảy ra trong cuộc đời mỗi người, cho Giêrêmia, cho cư dân Giêrusalem hoặc cho bất cứ ai trên mặt hành tinh, nếu chúng ta không cảnh giác. Sự thực Giêrêmia chỉ nói điều mà các ngôn sứ khác vẫn nói, khi tuyển dân gặp cơn khốn khó. Ong nhắc lại lời hứa của Thiên Chúa phục hồi dân tộc sau khi đã trừng phạt họ vì tội lỗi: “Trong những ngày ấy, Giuđa sẽ được cứu thoát, Giêrusalem sẽ an cư lạc nghiệp. Đây là tên người ta sẽ đặt cho thành: Đức Chúa là sự công chính của chúng ta!”. Tiên tri còn nhắc lại lời hứa ông đã tiên báo trước (23,5 -6): “Này sẽ tới những ngày, Ta sẽ làm nảy sinh cho nhà Đavít một chồi non chính trực”. Trong hoàn cảnh hiện tại, đổ vỡ đang xảy ra trước mặt, lời nói của vị tiên tri xem ra vô lý. Làm thế nào Thiên Chúa sẽ xây dựng lại một đất nước xem ra sắp bị phá tan tành? Làm thế nào thành Thánh sẽ xây dựng lại khi sắp bị đốt rụi? Làm thế nào dòng giống Đavít sẽ cai trị khi mà người Babylon xâm chiếm xứ sở và đưa các lãnh tụ đi đày?
Nhưng điều mà nhân loại không tưởng tượng nổi, thì Thiên Chúa làm được. Điều mà con người bất lực thì Thượng Đế thi hành dễ dàng như trở bàn tay. Giêrêmia cam kết Thiên Chúa sẽ vực dậy một chồi non Đavít. Và khác với cấp lãnh đạo Do Thái hư hỏng, chồi non ấy sẽ: “Trị nước theo lẽ công bình và chính trực”. Ong ta sẽ cứu vớt đất nước, xây lại thành thánh và trở nên lãnh tụ tài ba, đạo đức. Ong sẽ quy tụ tàn dân thành một cộng đoàn mà đặc tính là công lý, bình đẳng và thương yêu. Nếu chúng ta hỏi thử Giêrêmia hay bất cứ ngôn sứ nào khác: “Vậy thì sự cứu rỗi của dân tộc hệ tại cái chi?” Chắc chắn họ sẽ không nhấn mạnh vào việc “cứu vớt” cho bằng một cộng đồng biết kính sợ Thiên Chúa, quý trọng tương giao tốt đẹp với Ngài, được Ngài dẫn dắt và che chở, sống công bình và bác ái, thương yêu nhau. Và họ sẽ gọi tất cả những phẩm chất là “Shalom” Đó là sự cứu vớt mà các ngôn sứ đoan hứa nhân danh Chúa Trời. Nói một lời cho gọn,biến cố cộng đoàn, việc cứu vớt của Thiên Chúa đồng nghĩa với việc xây dựng một cộng đoàn công chính. Chúng ta nên suy nghĩ thêm về ý tưởng này. Nếu chúng ta ăn ở tốt lành, vun đắp một giáo xứ, tu vịên đạo đức thánh thiện, thì đó là ơn cứu độ của Chúa Trời. Ngoài ra là sự giả hiệu. Xưa nay chúng ta sống buông thả, đòi hỏi, ích kỷ, lười biếng, vô lề luật dưới danh nghĩa là văn minh hợp thời thì không hiểu có đáp ứng đúng tư tưởng của các tiên tri hay không? Các vị có hứa ơn cứu độ đó không? Ngay từ khởi đầu mùa vọng, Giêrêmia đã nhắc nhở chúng ta về điều mà các đồng nghiệp của ông thường tuyên bố về thánh ý Thiên Chúa, tức là “sự cứu rỗi”, mặc dù lúc ấy các tuyển dân đang trong vòng vây của đế quốc Babylon, sắp bị tàn phá lưu đày: “Này sẽ đến những ngày – sấm ngôn của Đức Chúa – Ta sẽ thực hiện điều tốt lành mà Ta đã phán về nhà Israel và Giuđa” Chúng ta nên chất vấn lương tâm xem thế nào? Nghe đúng thông điệp của đức Chúa hay đang làm ngơ giả điếc?
Luca không nói “ngày ấy” đến một cách dễ dàng nhưng rất nhiều sự kiện sẽ xãy ra trước đã: “sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng, và các vì sao. Dưới đất muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước những cảnh biển gào sóng thét”. Ngay trước đoạn trích hôm nay, chúa Giêsu khuyên nhủ các môn đồ phải làm chứng nhân cho danh Ngài: “Đó sẽ là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy” (21, 23). Vì họ sẽ bị vua chúa quan quyền bách hại (câu 12 đến câu 14) và Giêrusalem sẽ bị tàn phá (câu 20 đến câu 24). Cuối cùng thì “con người sẽ ngự đến”. Lúc ấy, họ mới được vui mừng. Như vậy chúng ta có thể rút ra vài bài học:
Được ơn Đức tin, không có nghĩa là thoát khỏi bách hại và gian nan thử thách. Ngược lại vì đức tin mà các kẻ theo Chúa phải gánh chịu những bất hạnh. Cho nên phải can đảm sẳn sàng đón nhận chúng như từ thánh ý đức Chúa Trời. Sau những cực khổ, Ngài sẽ trở lại và linh hồn vui sướng được xem thấy Ngài. Đoạn phúc âm hôm nay mở đầu với những tai họa, nhưng điểm chính là Thiên Chúa cứu vớt với sự xuất hiện của Chúa Giêsu, mặc dù các tín hữu sẽ bị “ngày ấy” tấn công: “Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề, chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống anh em” Thực ra thế gian này với những lôi cuốn của nó làm cho chúng ta nhiều khi mất cảnh giác. Cứ nhìn vào các hành xử của nhiều linh hồn nhắc rõ. Họ thu vén cho mình đủ mọi thứ sung sướng, và quên bẳng Lời Chúa trong nếp sống hằng ngày. Vậy chúng ta phải làm gì để ăn ở tỉnh thức? Xin thưa phải cầu nguyện.
Thánh Luca thường nhấn mạnh về điểm này. Người ta thường nói phúc âm của ông trĩu nặng bầu khí cầu nguyện. Có những lúc thánh nhân mô tả Chúa Giêsu bộc phát cầu nguyện. Thí dụ trong những biến cố quan trọng (5, 16;3, 21;6, 12;) Ngài cũng thúc giục các môn đệ bắt chước mình (6, 28;10, 2;20, 47,...). Bài tường thuật hôm nay dù đầy những lo lắng hãi hùng nhưng vẫn kết thúc bằng đặc tính Luca: “Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy ra và đứng vững trước mặt Con Người”. Liệu tình hình thế giới với những xấu xa của nó, bạo lực, sa đoạ, dâm ô, tham nhũng, áp bức, bóc lột, sẽ qua đi chăng? Xem ra đó chỉ là ước mơ viễn vông của những người không còn tiếp xúc với thực tế. Xin cứ nhìn vào lối sống thành thị, thôn xóm sẽ hiểu ra vấn đề. Xem ra những sinh hoạt ấy có tính cố định bền vững, mãi mãi chẳng bao giờ thay đổi. Sóng trước đổ đâu sóng sau đổ đấy, chẳng có hy vọng thay đổi tiến bộ. Nhưng như trời đất trăng sao vững bền gấp mấy; vậy mà Chúa nói sẽ có ngày tận cùng, chúng sẽ tan vỡ hoàn toàn. Các quyền lực đế quốc xem ra vững bền hơn đá tảng, núi đồi, vậy mà Chúa tiên báo sẽ có ngày tan tành như giấc chiêm bao của Đaniel. Cho nên Ngài thúc giục chúng ta cầu nguyện. Cầu nguyện nghiêm chỉnh để “ngày ấy” khỏi bất chợt ụp xuống mình như chiếc lưới bắt chim, chứ không phải chỉ như miếng bánh tráng miệng sau các lời giảng. Cầu nguyện phải là điều căn bản của ơn gọi làm môn đệ của Chúa để có thể tỉnh thức luôn, ngõ hầu chống lại các lôi cuốn của vật chất thế gian: say sưa, rượu chè, tiện nghi, ngoại tình, phóng đãng.
Về phương diện cá nhân, những người gánh chịu đau khổ lớn lao như mất mát người thân, vỡ nợ, tuổi già, tai nạn, thất nghiệp, khủng hoảng gia đình, bệnh tật, thuốc sái, thì hình ảnh Phúc Am hôm nay quả chính xác. Mặc dù ngôn ngữ Khải Huyền có phần mập mờ. Các biến cố miêu tả không mang tính xác thực, các hình ảnh tiên báo không nói rõ sự việc sẽ xảy ra như thế nào, để môn đệ Chúa có thể đứng thẳng và ngẩng đầu lên! Chỉ có niềm tin mới vững lòng trước sự dữ, dù đang hoành hành phá hoại nhân loại, sẽ có ngày kết thúc. Thiên Chúa sẽ lo liệu việc đó. Ngài đã hứa và Ngài sẽ hành động. Mọi sự sẽ thay đổi tận gốc. Vậy thì còn chi tồn tại? Chúng ta không thể đoán chắc chỉ trừ lời bảo đảm của Chúa Giêsu: “Ngày ấy” Ngài sẽ đến cứu thoát: “Anh em hãy đứng vững và ngẩng đầu lên. Vì anh em sắp được cứu chuộc”. Lúc này mọi sự xem ra bất khả, nhưng lời Ngài không thể sai. Điều kiện Ngài đưa ra là cầu xin để đức tin không rơi vào đổ vỡ, gây nên thất vọng. Có người lên vấn nạn là trong những khủng hoảng trầm trọng, cùng cực; con người ta không thể cầu nguyện và trong cộng đồng giáo xứ thiếu gì những linh hồn như vậy? Họ đang chịu những trăm bề đau khổ: vợ ốm, con đau, hết tiền, thất nghiệp. Giải pháp là mời họ đến cầu nguyện cùng với chúng ta. Họ không cần làm gì cả, chỉ cần hiện diện, chúng ta sẽ cầu xin cho họ cho đến khi họ tìm lại được sức khoẻ và khả năng để cầu nguyện. Sẽ có ngày họ sẽ lại cầu nguyện lại cho chính chúng ta, vì bất cứ ai, lúc này hay lúc khác kinh nghiệm tận thế về đời mình.
Tóm lại chúng ta không phải là những kẻ mơ mộng, để đầu mình nơi những đám mây trên trời cao. Chúa truyền chúng ta ăn ở thực tế, kiên trì phục vụ thế giới và đừng để bị đè bẹp dưới đống khổng lồ công việc. Đúng là luôn có những khó khăn và thời gian khủng hoảng. Nhưng bĩ cực thái lai luôn có điều chi mới đang chờ đợi đàng xa phía trước. Đêm đen mù mịt đang bao phủ hành tinh, nhưng cũng có nguồn sáng đang đến với nhân loại. Chúng ta chờ đợi sự giải thoát toàn diện mà Thiên Chúa đã hứa. Đó là mục tiêu mùa vọng. Viễn cảnh của loài người chỉ được giữ vững nhờ lời cầu nguyện. Cho nên hôm nay chúng ta đổi mới quyết tâm ăn ở tỉnh thức, cảnh giác với những âm mưu của satan, thế gian và xác thịt. Nhiệt tình phục vụ Chúa trong các người nghèo khổ. Đổi mới tinh thần mở rộng để ngóng trông Chúa đến. Phúc âm hôm nay đầy sợ hãi, nhưng điểm hội tụ là việc Chúa xuất hiện để cứu giúp. Thiên Chúa là trung tâm của câu chuyện. Chúng ta nên nhìn vào gương mặt đoan hứa của Chúa Giêsu và nhận ra Thiên Chúa đang điều hành mọi sự. Ngài chẳng bỏ mặc chúng ta cho đến khi Đấng Thiên Sai ngự đến. Amen.
"Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả"
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Năm Phụng Vụ mới của Hội Thánh Công Giáo bắt đầu với Chúa Nhật I Mùa Vọng. Lời Chúa nhấn MV 1-C203
Năm Phụng Vụ mới của Hội Thánh Công Giáo bắt đầu với Chúa Nhật I Mùa Vọng. Lời Chúa nhấn mạnh đến việc ngóng đợi ngày Chúa Giêsu Kitô Quang Lâm, vì đó là lần thứ hai Chúa Giêsu Kitô đến trần gian để tập hợp tất cả nhân loại dưới Vương Quyền của Người. Những người tốt thì được Chúa Giêsu Kitô chúc phúc và ban thưởng. Những người xấu thì bị Chúa Giêsu Kitô quở trách và giáng phạt (xem Mt 25). Đề các Kitô hữu chuẩn bị tốt cho Ngày Quang Lâm trọng đại ấy thì mỗi Mùa Vọng là thời gian thích hợp cho việc thực tập nghênh đón Chúa Giêsu Kitô.
II. LẰNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Lc 21,25-28.34-36:
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến.
Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!"
III. SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Ga 18,33b-37:
3.1 Thiên Chúa đã đến trong lịch sử: Đọc lịch sử dân Israel là dân được Thiên Chúa chọn làm dân riêng thì điều nỗi bất nhất là lời hứa và việc thực hiện lời hưa của Thiên Chúa. Lời hứa của Thiên Chúa với các tổ phụ và với toàn dân Israel là Thiên Chúa sẽ ban cho họ Đấng Mêsia tức Đấng Cứu Thế. Việc thực hiện lời hứa của Thiên Chúa là sự xuất hiện của Đức Giêsu Nagiarét là con của Đức Maria nhưng cũng là Con của Thiên Chúa. Sự kiện “có một không hai” ấy đã được ghi chép lại trong sách sử, nhất là trong các Sách của các Ngôn Sứ và của Tân Uớc.
3.2 Thiên Chúa sẽ đến trong ngày Quang Lâm: Đọc Phúc âm độc giả sẽ bị cuốn hút bởi ý niệm Cánh Chung và Ngày Quang Lâm của Chúa Giêsu Kitô. Cánh Chung là sự kiện kết thúc kế hoạch hay chương trình cứu độ Cứu Độ của Thiên Chúa. Nói cách khác là ngày Nước Trời được hàn thành. Đọc Phúc âm độc già còn bị đánh động bởi nhiều lời cảnh báo về những việc phải làm hay không được làm để tránh cảnh ngày ấy ập tới cách bất ngờ và không chuẩn bị. Nhưng Phúc âm cũng hé mở cho chúng ta biết những việc Chúa Giêsu Kitô sẽ thực hiện trong ngày ấy (đọc Mt chương 25). Tuy Phúc âm không cho biết ngày đó là ngày nào (chính Chúa Giêsu cũng đã nói với các tông đồ là Con Người cũng không biết khi nào ngày ấy xẩy ra) nhưng Phúc âm nhiều lần quả quyềt là ngày ấy sẽ xẩy ra. Vậy thì chúng ta chỉ cần chuẩn bị sằn sàng cho ngày ấy mà không cần phải quan tâm đến việc khi nào ngày ấy sẽ xẩy ra.
3.3 Thiên Chúa hằng đến với những ai ngóng chờ Người: Để không bị bất ngờ và thiếu chuẩn bị cho Ngày Quang Lâm của Chúa Giêsu Kitô thì tkhông gì tốt bằng là ngày chúng ta cũng ngóng đợi và sắ sang đón Chúa Giêsu Kitô. Thật ra Chúa Giêsu Kitô không chỉ đến lần thứ nhất và lần thứ hai mà Chúa Giêsu Kitô còn đến nhiều lần khác với những người Chúa thương, vì Người là Đấng Phục Sinh và luôn ở cùng chúng ta. Trong sách Khải Huyền Thánh Gioan diễn tả một cách hết sức thơ mộng hành động của Chúa Giêsu Kitô: Ngài đứng chờ ở ngoài cửa. Sẽ có lúc Ngài gõ cửa và ai mở cửa cho Ngài vào thì Ngài sẽ ăn tối với người ấy. (Bữa tối là bữa ăn quan trọng với người Phương Đông. Bữa tối của Chúa Giêsu Kitô với người đón Người vào nhà là bữa ăn Hiệp Thông). Vậy thì chúng ta phải luôn tỉnh thức để chạy ra mở cửa ngay cho Chúa Giêsu Kitô sau tiếng gõ cửa đầu tiên. Đó là việc chính yếu của đời sống nội tâm, của đời sống cầu nguyện.
IV. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Ga 18,33b-37:
4.1 Chúng ta hãy chuẩn bị đón Chúa Giêsu Hài Nhi: bằng việc sám hối và xưng tội rước lễ cho được ơn nghĩa cùng Thiên Chúa. Chúng ta hãy chuẩn bị đón Chúa Hài Nhi bằng cách dọn tâm hồn và gia đình mình thành máng cỏ Bêlem. Cách cụ thể là chúng ta xa lánh tội lỗi, khử trừ gian dối, đam mê và giữ lòng mình trong trắng và ngay thẳng.
4.2 Chúng ta chuẩn bị đón Chúa Giêsu Quang Lâm: bằng cách giữ mình, không để lòng ra nặng nề vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời. Danh vọng, quyền lực, tiền của và sắc dục là những kẻ thù không đội trời chung của người Kitô hữu vì chúng làm chúng ta xa Chúa, thù nghịch với Chúa.
4.3 Chúng ta mở rộng tâm hồn đón Chúa Giêsu Kitô khi Người gõ cửa nhà chúng ta: Đó là việc quan trọng nhất của đời sống Kitô hữu chúng ta. Muôn nghe được tiếng gõ cửa thì chúng ta phải tỉnh thức và luôn trong tư thế sẵn sàng. Lời kinh mà chúng ta phải lặp đi lặp lại là “Lạy Chúa, xin mau đến! Maranatha!”
V. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Ga 18,33b-37::
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã ban cho chúng con Con Một Cha là Chúa Giêsu Kitô, là Đấng đã đến trần gian để ở với chúng con và đưa chúng con về với Cha. Xin Cha nghe lời chúng con cầu xin.
Ý VÀ LỜI CẦU NGUYỆN
1.- «Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa tất cả mọi người có được sự tỉnh táo trong cuộc sống để có thể đọc được ý nghĩa của các sự kiện xẩy ra trong xã hội và trên thế giới này
Xướng: Chúng ta cùn g cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
2.- «Lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cách riêng cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ để các vị ấy luôn nhiệt thành rao giảng Ngày Chúa Giêsu Quang Lâm cho các tín hữu.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
3.- «Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến. Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất » Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Kitô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta và trong các cộng đoàn giáo xứ khác, để mọi Kitô hữu biết giữ mình mà sống thánh thiện chờ ngày Chúa Giêsu Kitô đến.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
4.- «Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho tất cả các Kitô hữu trên thế giới này sống tỉnh thức và cầu nguyện chờ đón ngày Chúa Giêsu Kitô xuất hiện.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
LỜI KẾT:
Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng con, chúng con xin chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Cha đã ban Con Một Cha là Chúa Giêsu Kitô cho nhân loại chúng con.
Chúng con xin Cha ban cho chúng con sức mạnh của Thánh Thần để chúng con tỉnh thức và cầu nguyện không ngừng chờ ngày Chúa Giêsu Kitô Quang Lâm. Chúng con cầu xin nhân danh Chúa Giêsu Kitô Con Cha Chúa chúng con. Amen.
Mùa Vọng đã về. Mùa Vọng là mùa Phụng vụ đầu tiên của năm Phụng vụ mới. Mùa Vọng nhắc MV 1-C204
Mùa Vọng đã về. Mùa Vọng là mùa Phụng vụ đầu tiên của năm Phụng vụ mới. Mùa Vọng nhắc chúng ta nhớ lại một lịch sử dài trải qua nhiều thế hệ. Đó là lịch sử của niềm mong đợi Đấng Cứu thế mà Thiên Chúa đã hứa từ ngàn xưa. Niềm mong đợi Đấng Cứu thế đã nuôi dưỡng đức tin của dân tộc Do Thái trong mọi biến cố thăng trầm, nhất là trong những năm tháng bi đát của lịch sử, như thời lưu đày. Mùa Vọng cũng nhắc cho chúng ta sự can thiệp kỳ diệu của Thiên Chúa: đó là sự kiện Ngôi Lời giáng sinh làm người và ở cùng chúng ta. Thiên Chúa ở cùng con người. Ngài không còn chỉ là Đấng ngự trên chín tầng mây xanh cao thẳm. Ngài cũng không còn ngỏ lời với con người qua những trung gian như thời Cựu ước. Thiên Chúa đã trực tiếp nói với chúng ta bằng chính Con của Ngài. Đức Giêsu là Ngôi Lời của Thiên Chúa. Người đến trần gian để ở với chúng ta, để chung chia vui buồn với mỗi con người đang lang thang phận người trên cõi dương gian.
Nội dung Bài đọc I và Bài Tin Mừng hướng chúng ta tới một tương lai, khi Thiên Chúa thực hiện lời Ngài đã hứa. Lúc đó, Đấng Công chính sẽ xuất hiện, mạnh mẽ như Đavít. Người sẽ đem lại cảnh an hoà cho vũ trụ và dân tộc Israen sẽ được cứu thoát. Xin lưu ý, Giêrêmia là một vị ngôn sứ sống trong giai đoạn lịch sử vô cùng khó khăn của Israen, tức là thời khủng hoảng chia rẽ trước cuộc lưu đày ở Babylon. Vị ngôn sứ đã loan báo niềm hy vọng, để mời gọi dân mình cậy trông vào lời hứa Thiên sai, vì Chúa là Đấng trung thành. Ngài sẽ thực hiện những gì Ngài đã phán.
Lời hứa ban Đấng Thiên sai đã được thực hiện, khi Chúa Cha sai Con Một của Ngài làm Đấng Cứu độ trần gian. Đức Giêsu đã đến trong lịch sử. Người là trung gian của lịch sử. Vì vậy, những gì xảy ra trước khi Người sinh hạ được gọi là “trước Công nguyên” và ngược lại. Mùa Vọng vừa kỷ niệm ngày Chúa Giêsu đến trần gian, vừa nhắc nhớ cho chúng ta, Người sẽ lại đến trong vinh quang, vào lúc tận cùng của thời gian. Tuy vậy, nếu chúng ta xác tín vào việc Người sẽ đến vào ngày tận thế, thì chúng ta cũng tin chắc rằng Chúa sẽ đến gặp mỗi người chúng ta, khi chúng ta nhắm mắt xuôi tay kết thúc cuộc đời. Vì vậy, trong khi chờ đợi Chúa Giêsu đến vào lúc chúng ta kết thúc cuộc đời, Lời Chúa nhắc bảo chúng ta: hãy tỉnh thức. Không ai sinh ra rồi sống mãi trên đời. Cuộc sống con người có ngày khởi đầu thì cũng sẽ có ngày kết thúc. Vì vậy, người tin Chúa cần tỉnh thức cầu nguyện, để luôn trong tình trạng sẵn sàng khi Chúa đến. Tỉnh thức là tình trạng thánh thiện, đạo đức. Đó cũng là một cuộc sống an bình thanh thản, không hờn giận bon chen, không mưu mô tính toán, với niềm tín thác nơi vị Thẩm phán công minh là chính Đức Giêsu, Đấng Cứu độ con người. Tỉnh thức còn là sự trân trọng đối với những người sống xung quanh chúng ta. Đức tin khẳng định, họ cùng là anh chị em với chúng ta, và cùng là con của Cha trên trời. “Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết, cũng như tình thương của chúng tôi đối với anh em vậy” (Bài đọc II). Tình yêu thương là nền tảng của mọi cộng đoàn Đức tin, là điều kiện cốt lõi để công cuộc truyền giáo có hiệu quả.
Hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã ấn định: Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng năm nay, cũng là ngày khai mạc Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới lần thứ XVI ở cấp Giáo phận. Đức Thánh Cha đã quyết định triệu tập Thượng Hội đồng Giám mục thế giới và ngài chọn chủ đề cho Thượng Hội đồng là “Vì một Giáo hội hiệp hành: hiệp thông, tham dự và sứ vụ”. Chủ đề này nhấn mạnh tới sự cộng tác của mọi thành phần Dân Chúa trong Giáo Hội. Quả vậy, nhờ Bí tích Thanh tẩy, mỗi Kitô hữu đều được gọi tham gia phần mình, tùy khả năng Chúa ban, vào việc xây dựng Giáo Hội, cụ thể là nơi cộng đoàn đức tin mình đang sống. Mỗi Kitô hữu đều là chi thể của Giáo Hội, với ba chức năng Chúa ban: Ngôn sứ, Tư tế và Vương đế. Trước khi cử hành chính thức Thượng Hội đồng vào tháng 10/2023, Đức Thánh Cha muốn lắng nghe ý kiến từ các Giáo Hội địa phương, sau đó ngài sẽ đưa ra một định hướng mục vụ phù hợp với bối cảnh thế giới và nguyện vọng của Dân Chúa. Để cụ thể tinh thần của Thượng Hội đồng, đây là dịp để mỗi người tín hữu chúng ta ý thức vinh dự và sứ mạng của mình, đồng thời góp phần làm cho sức sống nơi cộng đoàn đức tin mình đang sống được phát triển.
Nếu Thiên Chúa nhập thể làm người để đồng hành với phận người nơi trần thế, thì Giáo Hội cũng phải đồng hành với con người trong bối cảnh cụ thể của mọi quốc gia và mọi nền văn hoá. Một hạn từ nổi bật trong chủ đề của Thượng Hội đồng là “hiệp hành”. Hiệp hành có nghĩa là “đi cùng nhau”, là “liên kết”, là gắn bó với nhau để làm việc chung. Khi liên kết với nhau trong tinh thần đức tin và đức mến, chúng ta sẽ tạo nên sức mạnh phi thường. Sự hiệp thông liên kết cũng làm nên vẻ đẹp kỳ diệu của Giáo Hội, qua đó chúng ta diễn tả một Giáo Hội của Chúa với bốn đặc tính: Duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền.
“Đức-Chúa-là-sự-công-chính-của-chúng-ta”. “Ngôi Lời đã làm người và ở cùng chúng ta”. Đây là những danh xưng diễn tả nguồn gốc thiên linh và sứ mạng của Đấng Thiên Sai. Những danh xưng này cũng nói lên sự gần gũi thân thương giữa Thiên Chúa và con người. Vâng, Chúa Giêsu là sự Công chính của chúng ta và Người vẫn đang ở với chúng ta cho đến ngày tận thế. Chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn để đón Người.
Cha ông chúng ta có câu: chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo, nói thì dễ, bình tĩnh khi gặp sóng MV 1-C205
Cha ông chúng ta có câu: chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo, nói thì dễ, bình tĩnh khi gặp sóng gió bủa vây, đó là vấn đề. Ngay từ tấm bé, bậc cha mẹ thường nhắc bảo con cháu về việc chuẩn bị cho tương lai tốt đẹp: người không học như ngọc không mài. Ngọc không mài giũa, nó chỉ là cục đá, người bê bối, sống vô kỷ luật, cũng chỉ mang lại bất hạnh cho bản thân, gia đình, xã hội. Thầy cô giáo ở trường, cũng lưu ý các học sinh: sức khoẻ là vàng, kiến thức là hành trang vào đời, nghe rất hay, nhưng để có sự tự tin, người học trò phải nỗ lực, sống nghiêm túc. Cư xử có tình có nghĩa với nhau, nói lời phải giữ lấy lời, đừng như con bướm đậu rồi lại bay, đâu phải do khôn ngoan, bén nhạy trong xã giao, đúng hơn phải tỉnh, không mơ hồ, hầu có đủ sức mạnh, tự tin, đối diện với mọi tình huống ở đời.
Đợi ai, chờ ai, tỉnh thế nào và thức làm sao, cho phù hợp với đạo làm người, ít là khi ta được tai nghe mắt thấy, trí lòng có tự do chọn lựa. Phụng vụ Mùa vọng, mời gọi người tín hữu sống tỉnh thức, chờ đợi, để có sự tự tin, vì lạc quan tự tin, ta sẽ không chờ đợi như một cơ hội, một dịp may. Cũng không phải tỉnh thức đợi chờ một quan khách đặc biệt đến hàn huyên, tâm sự, hoặc để họp bàn phi vụ làm ăn quan trọng, chính xác là cùng ý thức đợi chờ ngày Chúa đến. Chờ đợi khách quý, một đối tác làm ăn, một người bạn, một người tình, có thể chúng ta đã biết phải sạch đẹp phòng ốc, chuẩn bị cho cuộc gặp bằng ngôn từ thích hợp, cử chỉ thân thiện, cơm thanh đạm … Đợi chờ Chúa: phải tỉnh, không chè chén say sưa, không cảm thấy sợ đến độ hồn xiêu phách lạc, như Đức Giêsu lưu ý: “sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng, dưới đất muôn dân sẽ lo lắng hoang mang, trước cảnh biển gào sóng thét”.
Đợi chờ vì yêu, tỉnh thức vì mến, ít nhiều cũng cho thấy những môn đệ, những học trò, hay những người bạn, họ rất mực trung thành muốn sống theo ý chủ, dù họ còn đầy giới hạn. Để có sự tự tin, người ta phải trải qua nhiều thất bại, trên đường đời có dại mới nên khôn. Kitô giáo chúng ta luôn kêu gọi mọi người hãy chuẩn bị tâm hồn cho xứng hợp với tình yêu Chúa, biết sống tỉnh thức cầu nguyện, sẽ không bao giờ sợ điều bất ngờ xảy đến. Nếu ý thức rằng Đức Giêsu là người yêu ta, Đức Giêsu là Đấng duy nhất yêu thương ta, chắc chắn Ngài đến bất cứ lúc nào, ta cũng vui, cũng hạnh phúc, việc chờ đợi chẳng bao giờ là dài hay ngắn. “Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến”.
Trong đời sống tự nhiên, để có sự tự tin, ngoài việc khoẻ mạnh, tập luyện, trau dồi nhiều kiến thức phong phú, ai cũng cần phải biết đến bài học khiêm tốn trong cư xử. Nói đến chờ đợi, tỉnh thức, tự tin, người kitô hữu chúng ta sẽ hiểu đó là: tinh thần của Mùa vọng, hãy sống cầu nguyện, hãy luôn trong tư thế chuẩn bị cho giờ Chúa đến. Sống có tình có nghĩa với anh chị em, sống đúng tinh thần người tin theo Chúa, vẫn được hiểu là sống tốt đạo đẹp đời, dù trời đất biến chuyển lạ thường, ta vẫn bình an, tự tin, như Đức Giêsu mời gọi: “hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên vì giờ cứu rỗi đã đến”. Để không phải đối diện với sợ hãi, và những xáo trộn trong lòng người, ai cũng có cơ hội chuẩn bị, sống nén bạc Chúa trao cách hữu hiệu nhất, như ở đời vẫn cho rằng: thế gian đẹp nhất là nơi có mặt trời, cuộc sống tuyệt vời nhất là nơi có người mình yêu.
Đợi chờ đúng, tỉnh thức chuẩn, bao giờ cũng mang lại cho người ta sự tự tin thật, vì chúng ta đã đặt tình yêu vào tương quan đó, người ta sẽ hiểu đợi chờ, tỉnh thức, không phải là bó buộc, mất tự do. Đợi chờ, tỉnh thức, cũng có ý hướng mọi người đến sự tự tin: sinh lão bệnh tử, có khởi đầu thì có kết thúc, có đợi chờ trong yêu thương, sẽ có tự tin trong niềm vui hân hoan. Đức Giêsu khuyến cáo: “anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời …”. Thiếu tỉnh thức sẵn sàng, người ta cũng quên mất nén bạc và nghĩa vụ mình phải sống, phải minh chứng đức tin cho hậu thế. Đợi chờ và tỉnh thức, cũng không khác gì cách mà mỗi người phải đối diện: đã mượn tiền thì nhớ phải trả, khi nào nói cho thì mới không cần trả, có những người ngại đòi, không có nghĩa là họ quên.
Hãy tự tin, hãy lạc quan yêu đời, bậc làm cha mẹ, là thầy dạy, hẳn đã từng khích lệ ta như thế, nhưng sự thật, tình yêu chân chính không bị mài mòn bởi thời gian, cũng không thể thay đổi bởi hoàn cảnh. Mơ ước có sự tự tin, đứng thẳng, không luồn cúi, không hẳn chỉ tìm thấy nơi người tài giỏi khôn ngoan, đúng hơn, những ai cậy dựa vào tình yêu và sức mạnh của Chúa, đều có thể đứng thẳng đón chờ ngày cứu độ đang tới. Người đời nói, quân tử quân tử phòng thân, tiểu nhân phòng bị gậy, Đức Giêsu thì mời gọi hãy tỉnh thức và cầu nguyện, qua đó ta không bị những xu hướng xấu đeo bám, mỗi khi ta nghiêm túc thực hành bài học yêu thương. Thời gian không chờ ta, thời gian không quay trở lại, nhưng sự tự tin vẫn tồn tại nơi người biết trung tín và khôn ngoan, hành động theo thánh ý Chúa. Amen.
Mùa Vọng nghĩa là mùa trông chờ, mong đợi Đấng sẽ đến, Đấng ấy là Ngôi Lời Thiên Chúa, Đấng MV 1-C206
Mùa Vọng nghĩa là mùa trông chờ, mong đợi Đấng sẽ đến, Đấng ấy là Ngôi Lời Thiên Chúa, Đấng Thiên Sai mà dòng dã lịch sử Israel là Lời Loan Báo, Thời Chuẩn Bị
Loan báo niềm hy vọng vào tương lai của ánh sáng, bình an, tình yêu và ơn tha thứ được Thiên Chúa thực hiện cho con người và qua con người; loan báo thời kỳ cứu độ với “trời mới, đất mới, nhân loại mới” nhờ cuộc tử nạn của Thiên Chúa làm người.
Mùa Vọng cũng là muà chuẩn bị: chuẩn bị con đường Chuá đến, bằng thay đổi đời sống; chuẩn bị mái nhà Chúa ngự bằng biến đổi con tim; chuẩn bị đón nhận ơn cứu độ bằng cởi mở tấm lòng.
Nhưng để Mùa Vọng trở thành lời Loan Báo và thời Chuẩn Bị, Thiên Chúa ban những dấu chỉ, và chính những dấu chỉ đã làm cho Mùa Vọng ngập tràn niềm hy vọng, chất ngất niềm vui, bởi những dấu chỉ được ban ấy đã hé lộ hạnh phúc được Thiên Chúa yêu thương, cứu chữa cho một nhân loại phải sống trong ghen ghét, hận thù, dưới ách thống trị của tội lỗi và thần dữ, và mặc khải mùa hồng ân “được Thiên Chúa thương xót” cho hết thảy những người hèn mọn, nghèo khó, yếu đuối, bệnh tật biết kính sợ và trông cậy vào Thiên Chúa nhân hậu, Đấng “luôn nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời” (Lc 1,55).
Khởi đầu Muà Vọng, Tin Mừng Luca cho chúng ta thấy sẽ có những dấu chỉ, là “những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao”, và dưới đất là “cảnh biển gào sóng thét” (x. Lc 21, 25).
Trước những dấu chỉ mang tính kỳ lạ, khác thường, người ta có nhiều chọn lựa và thái độ khác nhau: có người tỉnh bơ, coi thường, bất chấp và tiếp tục sống như không có gì xẩy ra; người khác “lo lắng, hoang mang”, “sợ đến hồn siêu phách lạc” (Lc 21,26); cũng có người cho rằng các dấu lạ là điềm báo “quyền lực trên trời sắp giáng trên địa cầu”(Lc 21,26), và cuộc sống con người sắp bị rút ngắn, nên tự cho phép thả cửa “ăn chơi”, hưởng thụ cuộc đời, “chè chén say sưa” (Lc 21,34).
Bên cạnh những tâm trạng và thái độ trên là tâm tình và thái độ Đức Giêsu muốn những ai đi theo Ngài phải chọn và sống:
1/ Tâm tình của người được giải thoát, cứu độ:
Trong tất cả bài đọc phụng vụ của chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng, chúng ta không thấy màn đêm thất vọng, bi quan hay bóng tối sợ hãi, bỏ cuộc. Trái lại, chính lúc những dấu chỉ xem ra không mấy thuận lợi ồ ạt xẩy ra, thì “Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến” (Lc 21, 27); vào thời mà nhiều biến cố làm xáo trộn cuộc sống “bất thần chụp xuống” lại là lúc “anh em sắp được cứu chuộc” (Lc 21,28).
Tin Mừng khẳng định: sở dĩ người ta hoang mang, sợ hãi, buông xuôi, tuyệt vọng trước những dấu chỉ không phù hợp với ý riêng, sở thích, đam mê, vì trái tim họ không được Thần Khí của Thiên Chúa cự ngụ để có thể cảm nhận qua những dấu chỉ công trình tốt lành sắp được thực hiện của Thiên Chúa, như phần đông dân Do Thái đã không nhận ra qua sấm ngôn của ngôn sứ Giêrêmia lời hứa của Thiên Chúa: “Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công Chính để nối nghiệp Đavít”, và “Giuđa sẽ được cứu thoát, Giêrusalem sẽ an cư lạc nghiệp” (Gr 33,15.16); cũng như phần đông người đương thời với Đức Giêsu dù đã được nhìn thấy những “điềm thiêng dấu lạ” như “Người nói một lời là trừ được các thần dữ và Người chữa lành mọi kẻ ốm đau” (Mt 8,16), truyền cho sóng gió yên lặng (x; Mt 8,23-26), hoá bánh ra nhiều (x. Mt 15, 32-39), biến nước lã thành rượu ngon (x. Ga 2, 1-10), họ vẫn không nhận ra “ Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần” (Lc 21,31).
Thực vậy, Thiên Chúa ban những dấu chỉ để chúng ta tin Ngài là Đấng Cứu Độ trung tín và nhân hậu, Đấng luôn giữ Lời Hứa thương xót, cứu chuộc và sẵn sàng mở lượng khoan dung với những ai tin vào Ngài. Vấn đề là chúng ta phải khiêm tốn nài xin Thần Khí Thiên Chúa mở lòng, mở trí để mắt được nhìn thấy, và trái tim được cảm nhận “Chính Ngài là Thiên Chúa cứu độ con. Sớm hôm con những cậy trông Ngài, bởi vì Ngài nhân ái” (Tv 24, 5).
2/ Thái độ của người tôi tớ trung tín:
Hai đức tính cần thiết của người tôi tớ đáng được chủ tin tưởng, tín nhiệm là yêu mến gắn bó với chủ và tỉnh thức để sẵn sàng thực thi ý muốn của chủ bất cứ lúc nào.
Quả thực, đầy tớ trung thành không thể lạnh lùng, hờ hững với chủ như người xa lạ; cũng không thể lơ là, dửng dưng như kẻ bànq quan không quan tâm chăm nom, coi sóc, gìn giữ, vun xới gia nghiệp của chủ. Trái lại người tôi tớ được gọi là trung tín ấy phải biết và yêu mến chủ, đồng thời phải rất tỉnh táo, bén nhạy, năng động, xốc vác để bất cứ lúc nào chủ về, bất ngờ chủ cần đến, bất thình lình chủ kiểm tra, đầy tớ ấy vẫn luôn sẵn sàng, “vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Lc 12, 40), như Đức Giêsu đã căn dặn những ai muốn thuộc về Ngài.
Tin Mừng khởi đầu Mùa Vọng hôm nay mặc khải cho người môn đệ thái độ cụ thể phải có, đó là: “đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc” (Lc 21, 28).
“Đứng thẳng” vì không sợ hãi, nhưng tuyệt đối tin tưởng vào Đấng Cứu Độ toàn năng đang đến cứu giúp, giải thoát và “ngẩng đầu” để “nâng tâm hồn lên cùng Chúa”, cầu xin Ngài “đoái nhìn và xót thương” (Tv 24,1.16) như tôi tớ trung thành tín thác, trông cậy vào lòng tốt của chủ mình.
Như thế, “đứng thẳng và ngẩng đầu lên” chính là “luôn tỉnh thức và cầu nguyện hầu đủ sức thoát khỏi khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21, 36), tức “được trở nên thánh thiện, không có gì đáng chê trách trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta trong ngày Đức Giêsu, Chúa chúng ta quang lâm cùng với các thánh của Người” (1 Tx 3, 13), bằng “san phẳng con đường dẫn chúng ta đến với anh em” (1 Tx 3,11), bằng chan hoà, cởi mở với mọi người, và san sẻ, chia sớt cơm bánh với người cơ cùng, thiếu thốn.
Mùa Vọng năm nay trở về giữa thời Covid như dấu chỉ chẳng mấy tốt lành, không mấy khác cảnh “biển gào sóng thét” đã làm muôn dân lo lắng, hoang mang như Tin Mừng Luca kể lại. Nhưng với niềm xác tín: Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, và ý muốn thánh thiện của Ngài là yêu thương, cứu độ hết mọi người, nên trước bất cứ dấu chỉ xấu tốt, lành dữ nào, chúng ta vẫn “đứng thẳng và ngẩng đầu lên” tìm Chúa; đều cố gắng tỉnh thức làm theo ý Chúa và cầu xin “cho tình thương đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết” ( Tx 3, 12), để được Chúa phù trợ và ban ơn “bền tâm vững chí”, xứng đáng là người môn đệ thân thương, tôi tớ trung thành của Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ vô cùng nhân hậu đã đến trong thế gian.
Mùa Vọng hướng đến việc Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người, để đem lại ơn cứu độ cho MV 1-C207
Mùa Vọng hướng đến việc Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người, để đem lại ơn cứu độ cho nhân loại. Nhưng quan trọng hơn là hướng chúng ta về ngày Chúa lại đến trong vinh quang. Vì vậy mà đoạn Tin Mừng hôm nay là một phần của diễn từ ngày cánh chung, Đức Giêsu nói tới những việc sẽ xẩy ra vào những ngày sau cùng. Điều quan trọng không phải là sự hiểu biết về ngày ấy như thế nào, mà là một thái độ sống ra sao, để có thể vui mừng đón Chúa đến trong ngày ấy, như Ngài đã căn dặn:“Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn”.
Thế nào là tỉnh thức? Người tỉnh thức là người không có ảo tưởng về bản thân và cuộc đời; không nhầm lẫn mộng tưởng với hiện thực; không sống mơ hồ, nhưng nhận biết mình đang biết: biết về thực trạng của bản thân; biết về thực chất của mọi công việc; biết về thực tại của mọi biến chuyển, để có thể sống thực tâm với Chúa, thực tình với người, và thực tế với đời. Chúa Giêsu nói rất cụ thể, là đừng để “lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy đến như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em”. Thật ra, Thiên Chúa không hành động bất ngờ để bắt chộp ai, vì vẫn luôn có những điềm thiêng dấu lạ để báo trước. Bất ngờ là vì ta đã sống ơ hờ, ươn lười và chểnh mảng (Mt 25, 1-10; 24-28). Nếu ta biết sống thanh thoát và sẵn sàng, thì việc Chúa đến bất ngờ lại là điều rất thú vị.
Người tỉnh thức luôn biết hướng đến Chân, Thiện, Mỹ, để luôn tư tưởng và hành động trong sự khôn ngoan và đạo đức. Người tỉnh thức cũng chính là người sống đẹp từng giây phút hiện tại, nghĩa là sống toàn tâm toàn ý trong từng công việc, từng bổn phận, từng mối quan hệ với tâm hồn đầy yêu mến. Thánh Phaolô nhắc nhớ chúng ta:“Lúc này là lúc thuận tiện. Hôm nay là ngày cứu độ” (2Cr 6, 2). Các thánh đã sống tuyệt hảo giây phút hiện tại theo ý muốn của Thiên Chúa, Đấng chỉ có hiện tại, không có quá khứ hay tương lai.
Tỉnh thức cũng là giác ngộ, vì giác ngộ là tỉnh ra mà thấu rõ chân tướng của cuộc đời và con người, là thoát khỏi vô minh: không bị ru ngủ bởi những hoan lạc trần thế, không bị đam mê và dục vọng lôi kéo, không bị chìm ngập trong những tính toán lợi lộc, không mong được giàu sang hay sung sướng, mà luôn thuận theo lẽ Trời. Đỉnh cao của việc giác ngộ là đặt Đức Kitô lên trên hết, như thánh Phaolô:“Tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô.” (Pl 3, 8).
Tỉnh thức không chỉ để đón chờ Chúa sẽ đến, mà còn nhận ra Ngài đang đến, và thường đến với ta mọi nơi, mọi lúc, mọi thời khắc (Kh 3, 20). Thiếu tỉnh thức ta sẽ đánh mất nhiều cơ hội gặp gỡ Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Hãy đón nhận từng giây phút đang đến như từng viên ngọc quí mà Chúa trao ban cho ta. Đừng thương tiếc hôm qua, đừng chờ đợi ngày mai, đừng lảng tránh hôm nay.
Tỉnh thức nhưng phải cầu nguyện luôn. Cầu nguyện luôn thì mới có thể sống tỉnh thức, vì tinh thần thì mau mắn nhưng xác thịt nặng nề. Cầu nguyện giúp ta tách mình ra khỏi sự ràng buộc của thế giới vật chất để sống với Chúa nhiều hơn. Cần gặp Chúa hôm nay trước khi gặp Chúa trọn vẹn sau này. Cầu nguyện làm nên phẩm chất, bản lãnh và sức mạnh của đời Kitô hữu, giúp ta thoát khỏi mưu mô và nanh vuốt của tà thần để sống thuộc về Chúa. Ý thức như thế nên R. Tagore đã dâng lời khẩn nguyện:“Lạy Thượng Đế! Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai để nâng hồn lên khỏi những ti tiện hằng ngày. Và xin cho tôi sức mạnh tràn đầy để âu yếm dâng mình theo ý muốn của Người”.
Ngày Chúa đến thật uy nghi như đã báo:“Thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến”. Ngài đến như vị Thẩm Phán xét xử trần gian, nhiều người sẽ khiếp sợ rụng rời trước thánh nhan. Nhưng nếu chúng ta đã tỉnh thức và cầu nguyện, thì đây lại là giây phút hạnh ngộ đã từ lâu mong chờ. Trong tin yêu, chúng ta đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì biết mình sắp được cứu chuộc. Lòng chúng ta tràn ngập hy vọng và hân hoan vui sướng để được sống sung mãn với Đức Giêsu, Vua vinh hiển muôn đời. Muốn vậy, chúng ta hãy sống sâu sát với Chúa ngay từ hôm nay, để không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô, Chúa chúng ta (Rm 8, 35).
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu! Rồi có một ngày Chúa lại quang lâm, kết thúc mọi diễn biến của cuộc trần, Ngài uy nghi xét xử khắp muôn dân, để cân phân thiện ác mọi thành phần, và đưa tới sự thành toàn mỹ mãn.
Để đón đợi ngày giờ chung quyết ấy, đòi con đây phải thanh tẩy chính mình, bằng tâm tình tỉnh thức và cầu nguyện, bởi Chúa đến vẫn luôn thật bất ngờ, thiếu tỉnh thức sẽ bàng hoàng kinh sợ, không thể nào đứng vững trước nguy cơ, thiếu cầu nguyện con sẽ sống ơ hờ, dễ sa chìm khi ngày giờ chấm dứt.
Cuộc sống ai cũng phải có trách nhiệm, có những điều con phải lo, có những việc con phải làm, nhưng nhiều khi lo làm không lo sống, lo bên ngoài đánh mất cả bên trong.
Ngay cả việc làm cho dù là bổn phận, nhưng nhiều khi chẳng có chút tình thân, nên sự hiện diện của con hóa khô cằn, không làm cho cuộc sống thêm tươi tắn.
Xin cho con mau mắn trong tình mến, với đức tin mạnh mẽ và vững bền, để chờ ngày Chúa đến vui hợp hoan, trong ân ban vinh phúc mãi ngập tràn, ngày hạnh ngộ thật huy hoàng trong Chúa! Amen.
Trong thời gian đại dịch Covid, không ít „ngôn sứ giả” đã lên tiếng nói về ngày tận thế. Hầu hết MV 1-C208
Trong thời gian đại dịch Covid, không ít „ngôn sứ giả” đã lên tiếng nói về ngày tận thế. Hầu hết các ngôn sứ này đều loan báo những tin gây hoang mang và gieo lo sợ cho người khác. Chưa kể đến việc những ai nhận được các tin ấy, phải có trách nhiệm loan tin đến với người khác nữa. Thế là số lượt thích (lượt like) các tin giả và giật gân được tăng lên mỗi ngày, tỉ lệ thuận với sự lo lắng và hoảng sợ lan tỏa trong cộng đồng. Nếu để ý một chút, chúng ta có thể nhận ra các điều này dường như đi ngược lại cái nhìn của Ki-tô giáo. Kinh Thánh nói cho chúng ta biết rằng, Thiên Chúa không dùng những sự kiện kinh thiên động địa của vũ trụ để hù dọa con người. Ngược lại, những điều ấy xảy ra, người Ki-tô hữu được mời gọi nhìn ra sự hữu hạn và bấp bênh của thế giới này, đặt niềm tin vào những điều bền vững hơn. Nói một cách khác, người Ki-tô hữu được mời gọi đọc ra những dấu chỉ của niềm hy vọng.
Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng[1], chúng ta thấy Đức Giê-su dùng những ngôn từ mang tính ngôn sứ để nói về những điều sẽ xảy đến trong tương lai và ý nghĩa của chúng[2]. Ngài nói về sự hỗn loạn của các tinh tú trên trời và sự đảo lộn các vật thể dưới đất. Trong tình cảnh ấy, mọi người sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Họ sẽ sợ đến hồn xiêu phách lạc[3], chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển. Có thể nói, đây là những phản ứng rất tự nhiên và bình thường của con người. Nhưng điều gây ngạc nhiên cho chúng ta là góc nhìn và cách giải thích ý nghĩa của Đức Giê-su. Ngài khẳng định: khi thấy những điều ấy xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên.
Chúng ta hiểu điều này thế nào đây? Khi có ai đó nói rằng sự hỗn loạn của vũ trụ xảy ra như là những dấu chỉ của niềm hy vọng, chứ không phải là thời của sự hủy diệt vĩnh viễn. Những lời này thật là tuyệt vời, khi chúng ta đang phải chung sống với đại dịch Covid. Nhưng chúng ta vẫn chưa hoàn toàn dập tắt được nỗi nghi ngờ, phải chăng mình đang ảo tưởng?
Với những suy luận của lý trí, chúng ta thấy khó hiểu câu nói của Đức Giê-su: “Khi những điều này bắt đầu xảy ra, hãy nhìn lên và ngẩng đầu lên, vì sự cứu chuộc[4] đã gần đến” (c. 28). Chưa kể là những lời này có vẻ xa lạ đối với chúng ta. Các nhà chú giải Kinh Thánh khuyên chúng ta không nên hiểu những lời này theo các sự kiện cụ thể, nhưng thay vào đó, chúng ta cần hiểu rằng đây là lời hứa của Thiên Chúa. Ngài sẽ can thiệp một cách dứt khoát vào lịch sử của con người. Cho nên, đây không phải là một lời đe dọa, mà là một lời hứa!
Sau khi dạy cách đọc và giải thích ý nghĩa, cũng như mục đích của các dấu chỉ thời đại, bây giờ Đức Giê-su cảnh báo chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng. Ví như người đi đón chàng rể (Mt 25,1-13). Thời gian chờ đợi là lúc quyết định. Phần thưởng chỉ dành cho những ai đã chuẩn bị sẵn sàng và tỉnh thức. Câu hỏi được đặt ra: Ai có thể tỉnh thức, khi sự chờ đợi thường rất buồn tẻ? Và nếu không tỉnh thức, thì sao?
Đức Giê-su căn dặn các môn đệ: „Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời.” Có thể diễn tả lại những lời này bằng ngôn ngữ tích cực hơn: Anh em hãy sử dụng các năng lượng sống một cách tích cực; đừng sử dụng những tài năng Chúa ban một cách vô ích.
Trong ngôn từ của Kinh Thánh, đừng chè chén say sưa[5], có thể hiểu là hãy cố gắng tận dụng tối đa các nguồn lực Chúa ban, để đem lại ích lợi cho chính mình và cho người khác. Nói một cách khác, hãy trở nên người quản lý khôn ngoan và tài giỏi những ơn lành Chúa ban. Vì việc sử dụng năng lượng và tài nguyên một cách vô ích, cũng giống như tình trạng của người say xỉn. Họ lãng phí thời gian, tiền bạc và sức khỏe… vào các thú vui mau qua – chúng đem đến những cảm giác sung sướng hạnh phúc lâng lâng, nhưng sau đó là sự hụt hẫng và cô đơn vì thiếu vắng hy vọng.
Nếu việc chè chén say sưa trái ngược với sự quản lý tài giỏi, thì sự lo lắng[6] đi ngược lại với đời sống đức tin lành mạnh. Giống như việc chè chén say sưa, sự lo lắng tiêu hao hết năng lượng sống của chúng ta, mà không sinh ra bất cứ điều hữu ích gì. Sự lo lắng có thể kéo theo cảm giác mệt mỏi và khiến chúng ta tăng huyết áp. Sự lo lắng còn làm tê liệt cuộc sống, khiến chúng ta không phản ứng kịp với các nguy hiểm đang đến gần.
Nhìn vào trong cộng đoàn, chúng ta thấy mỗi người có những khó khăn riêng. Có người trở nên nặng nề vì say xỉn; nhiều người khác lại gặp vấn đề với những lo lắng thái quá của cuộc sống hằng ngày. Cả hai đều có hại. Có lẽ nhiều người sẽ ngạc nhiên khi nghe thấy rằng lo lắng cũng gây ra tác hại như việc chè chén say sưa. Vì nếu đưa lên bàn cân để đong đếm, thì có lẽ sự lo lắng có vẻ là một lỗi nhẹ hơn nhiều. Nhưng thực ra sự lo lắng lại bóp nghẹt tinh thần sống và làm xơ cứng đời sống đức tin. Không quá lời, nếu nói sự lo lắng gây hại đến đời sống đạo của chúng ta hơn. Ở đoạn Tin Mừng khác, Đức Giê-su mời gọi tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa: „Anh em đừng lo lắng về ngày mai. Ngày mai, cứ để ngày mai lo.”[7]
Vậy điều chúng ta nên làm là gì? Đức Giê-su mời gọi: Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn. Cầu nguyện sẽ giúp chúng ta tránh được sự nặng nề vì chè chén say sưa và lo lắng thái quá. Lời cầu nguyện còn giúp chúng ta mở lòng ra để nhận được các ơn lành của Thiên Chúa và sử dụng các năng lượng một cách tích cực và khôn ngoan. Hãy tỉnh thức, là mời gọi hãy dành thời gian để duyệt xét lại lối sống hiện tại và loại bỏ đi những thú vui thiếu niềm hy vọng. Đừng chạy theo những bình an và hạnh phúc mau tàn chóng qua, thay vào đó đi tìm và xây dựng niềm an vui đích thực. Trong mùa Vọng này, xin cho chúng con sẵn sàng và luôn sẵn sàng, để nhận ra và mở lòng đón nhận Ơn Cứu Chuộc đang đến gần.
…………..
[1] Tin Mừng Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Vọng Năm C (Lc 21, 25-28, 34-36).
[2] Như lời của ngôn sứ I-sai-a: “Quả vậy, tinh tú bầu trời và các chòm sao sẽ không chiếu sáng nữa, mặt trời vừa mọc lên đã tối sầm, mặt trăng sẽ không còn toả sáng.” (Is 13, 10). Xem thêm (Is 34, 4; Ge 2,10; 3,4; 4,15).
[3] Từ Hy-lạp ἀποψυχόντων (apopsuchonton) = sợ kinh hãi hoặc sợ chết. Ở đây còn có nghĩa là bị đóng băng, bị tê liệt.
[4] Từ Hy Lạp ἀπολύτρωσις (apolytrosis) = sự cứu rỗi, tiền chuộc… Ở đây được hiểu là ơn cứu độ.
[5] Từ Hy-lạp κρεπάλῃ (kraipale) = chóng mặt; và μέθῃ (methe) = say rượu. Trong tiếng Hy Lạp, từ kraipale thường được dùng để chỉ cảm giác buồn nôn hoặc lú lẫn do say rượu. Ngoài ra, từ này còn dùng để nói về những thú vui chơi tiêu khiển nữa. Nó ám chỉ đến những ham mê, thú vui quá độ hoặc phóng đãng…. Tuy nhiên, điểm chung là đều quy về tình trạng say rượu.
[6] Từ Hy-lạp μερίμναις βιωτικαῖς (merimnais biotikais) = quan tâm, lo lắng những thứ cần thiết hàng ngày của cuộc sống mưu sinh.
Thế là Mùa Đông đã trở lại. Với không ít người, Mùa Đông mang về “ấm áp”, những giọt ấm MV 1-C209
Thế là Mùa Đông đã trở lại. Với không ít người, Mùa Đông mang về “ấm áp”, những giọt ấm thân thương của mùi ngô nướng hay nồi cũ khoai nóng bên bếp lửa gia đình:
Em có phải đông đã về vang vọng Khắp phố phường văng vẳng tiếng hàng rong Nụ cười tươi bên đôi má ửng hồng Ai ngô nướng cùng nồi khoai nóng hổi.
Và cũng là “mùa” của hy vọng, yêu thương, xua tan những sầu đau băng giá:
Em có phải đông đã về đúng lúc Ủ ấm lòng khỏi băng giá lẻ loi Mọi khổ đau sân hận chốn biển đời Đều tan chảy khi mùa đông chạm ngõ.
Riêng, đối với những người Công Giáo chúng ta, Mùa Đông luôn gắn liền với “Mùa đầu tiên của Năm Phụng vụ” mà âm sắc cũng đong đầy những ý nghĩa: vừa man mác nhớ nhung của đợi chờ như ngôn ngữ Việt nam diễn tả: Mùa Vọng; nhưng cũng vừa ấm áp tin yêu của sự trở về, của người đang đến trong ngữ nghĩa của Phương Tây: Adventus, Avent, Advent… Vâng, Việt Nam thì đang trông Chúa đến (Vọng); còn Tây phương thì Chúa đang đến kìa (Adventus) !
Thật ra, cả hai ý nghĩa “Vọng” và “Đến” đều hòa trộn để làm nên một ý nghĩa duy nhất cho phụng vụ Mùa Vọng: Nhắc lại việc Chúa đã đến qua mầu nhiệm Nhập Thể mà điểm nhấn “đại lễ Giáng Sinh” đang gọi mời dân Chúa đón đợi và loan báo việc Chúa sẽ đến ngày Quang lâm để khơi lên thái độ đón gặp Chúa đang đến giữa cuộc đời. (x. AC 39).
Chính trong hạn từ “Đến” đã nói lên toàn thể nội dung và ý nghĩa mang tính tích cực, năng động của nhịp sống đức tin Kitô hữu, của Năm Phụng vụ Hội Thánh, và của cả một chương trình cứu độ. Thật vậy, đức tin không bao giờ là một “chuyện đã qua”, một kỷ niệm của quá khứ để thỉnh thoảng ngồi ôn lại một cách bâng quơ hờ hững; hay là một con đường mòn quen thuộc, một tập quán đơn điệu, máy móc để mỗi ngày bước đi, mỗi ngày thực hiện như cuộc vận hành của một chiếc máy mù lòa theo quán tính.
Không ! Đức tin Kitô giáo, Đạo của Chúa Giêsu, Thiên Chúa của người Kitô hữu luôn luôn là một hiện thực mới mẻ, tinh khôi, đang đến, và đang hiện diện. Cho nên, ý nghĩa đầu tiên của Mùa Vọng, Mùa “Chúa Đến – Adventus”, phải chăng là thời điểm giúp mỗi người tín hữu chúng ta sống và cảm nhận, thực hiện và bước tới gặp gỡ một Thiên Chúa, một Đức Kitô, một Tin Mừng trong chiều kích đầy hoan vui và hiện thực đó.
Lời Chúa chúng ta vừa nghe công bố hôm nay đã chuyển tải đến chúng ta các nội dung ý nghĩa trên:
Trước hết, trích đoạn ngôn sứ Giêrêmia đã vẽ lên một bức tranh đầy hy vọng về Đấng Mêsia sẽ đến: “Trong những ngày đó và trong thời gian đó, Ta sẽ làm nảy sinh cho Ðavít một chồi công chính, Ngài sẽ xét xử và thi hành công lý trong xứ sở. Trong những ngày đó, Giuđa sẽ được cứu thoát, Giêrusalem sẽ sống yên ổn”. Chúng ta đừng quên, ngôn sứ Giêrêmia đã từng sống trong một giai đoạn mà vương quốc Giuđa bị đế quốc Babylon đè bẹp, Giêrusalem thất thủ; dân Chúa lầm lũi bước đi trong một hoàn cảnh éo le và đầy tăm tối thất vọng của kiếp sống nô lệ, mất nước. Và cũng từ dưới vực sâu tăm tối đó, Thiên Chúa, qua miệng của Giêrêmia, đã loan báo cho dân Chúa một viễn tượng huy hoàng ở cuối chân trời lịch sử: Từ dòng tộc Đavít sẽ phát sinh một chồi công chính, một Đấng Mêsia sẽ đến giải thoát dân Chúa: Và đây là tên người ta sẽ gọi Ngài: “Thiên Chúa, Ðấng Công Chính của chúng tôi”.
Niềm hy vọng đó, sự hứa hẹn đầy lòng xót thương đó, thật ra, không phải chỉ dành riêng cho dân tộc Israel mà cho muôn thế hệ con người muôn nơi muôn thuở. Vâng, thân phận của mỗi một cuộc đời, mỗi một gia đình, hay mỗi quốc gia…, đều phải đi qua những nỗi thăng trầm dâu bể, hụt hẫng, đau thương, vui buồn sướng khổ… như dân Israel, như dân Giuđa; đều phải kinh qua những nẻo đường gian nan của lưu đày, di cư, tha phương, khốn đốn… Và vì thế, tất cả đều cần niềm tin yêu hy vọng để sống, để tồn tại và để hoàn tất sinh mệnh cuộc đời ! Niềm hy vọng về một Đấng Cứu Độ đang đến, một Thiên Chúa tình yêu viếng thăm chính là “kim chỉ nam”, là “ánh sao Bắc Đẩu” để định hướng cho mọi cuộc hành trình dương thế !
Thế nhưng, cũng không ít người lại cho rằng: chỉ những kẻ ngu muội, điên rồ… mới tin vào “những lời tiên tri nhảm nhí đó”. Cho nên, chẳng lấy làm lạ, cách đây 2000 năm, khi Đấng Cứu Thế giáng sinh, khi “Chồi Công Chính của Đavít” xuất hiện thì cả Bêlem, Giêrusalem đang ngủ vùi trong chăn êm nệm ấm; chỉ có mấy mục đông khố rách áo ôm và Ba nhà Đạo sĩ Phương đông lạc loài tìm đến ! Thế giới hôm nay cũng y chang như thế. Đại dịch đã có Vaccine; sức khỏe, bệnh tật đã thuốc men và y bác sĩ…; mọi nhu cầu cuộc sống đã có khoa học kỹ thuật giải quyết…; và người ta tiếp tục “ngủ vùi trong thái độ tự mãn” kiêu căng của mình. Trong khi đó, cũng không thiếu những người khoác trên mình danh hiệu Kitô hữu, nhưng cuộc sống đức tin lại xoay quanh một con đường mòn buồn tênh, lạc điệu; quanh năm suốt tháng chỉ là những “lặp đi lặp lại” nhưng lời kinh đầu môi chót lưỡi, những cử hành lễ nghi vô hồn máy móc, những việc thể hiện đức tin nhuốm màu mê tín dị đoan…
Sứ điệp Mùa Vọng Công Giáo trở về để canh tân tất cả, để mượn lời của Chúa Giêsu trong Tin Mừng gọi mời hết thảy “hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến”. Vâng, thế giới vốn hữu hạn và đầy dẫy bấp bênh; cuộc sống luôn phải đối diện với muôn ngàn gian nan thử thách như cách diễn tả bằng ngôn ngữ khải huyền của Phúc Âm Luca: “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển…”. Trong khi đó, con người vốn bất toàn và đầy khiếm khuyết: “Người ta sợ hãi kinh hồn… lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời…”. Do đó, lựa chọn “hướng về Thiên Chúa” chính là khôn ngoan đích thực, như lời của tác giả Thánh vịnh 24: “Lạy Chúa, con vươn linh hồn lên tới Chúa. Vâng, sự khôn ngoan luôn biết đặt mình trong đường đi, lối bước và chân lý của Chúa: “Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa; xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con…”.
Và câu chuyện của Mùa Vọng lại chính là ở đây, giây phút này. Thật vậy, “Giờ Cứu Rỗi đang ở đây, ngay bây giờ”, một cuộc gặp gỡ kỳ diệu đang và sắp xảy ra: Đức Kitô một lần nữa đang đến với chúng ta trong bàn tiệc Tạ Ơn nầy: Đức Kitô hôm, qua hôm nay và tận cùng vẫn là Đức Kitô của một Mùa Xuân bất diệt; Đức Kitô mới mãi, trẻ mãi, sinh động và đầy ắp yêu thương. Ngài là Mục Tử nhân lành hôm nay trở về để đưa ta vào đồng xanh suối mát. Chúng ta vui mừng cử hành ngày Tân Niên Phụng Vụ trong tâm tình hân hoan, tin tưởng, trong thái độ khiêm tốn tạ ơn. Chúng ta hãy cùng nhau nắm tay mà bước đi trên hành trình Mùa Vọng để tiến vể Đại Lễ Giáng Sinh với tất cả niềm hăng say phấn khởi; đồng thời nỗ lực đổi mới cuộc đời cho đẹp hơn, thánh hơn, hiệp nhất hơn, yêu thương hơn…, một cuộc sống như đang có Chúa “thấp thoáng qua cuộc đời”, có Chúa đang trở về và “gặp gỡ tay bắt mặt mừng” trên muôn nẻo đường cuộc sống. Amen.
Mùa Vọng lại về. Sứ điệp mùa Vọng là chính lời Chúa Giêsu lại vang lên: “Tỉnh thức và cầu MV 1-C210
Mùa Vọng lại về. Sứ điệp mùa Vọng là chính lời Chúa Giêsu lại vang lên: “Tỉnh thức và cầu nguyện” . Sứ điệp ấy quen thuộc như hơi thở của bản thân.
Như hơi thở cần cho sự sống, sứ điệp mùa Vọng “tỉnh thức và cầu nguyện” cần thiết đến vô cùng, để đưa ta vào nếm hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Bởi sống trong đời, biết mình là Kitô hữu mà không tỉnh thức, không cầu nguyện, đồng nghĩa với việc ta chỉ mang danh mà không thực là Kitô hữu.
Tỉnh thức và cầu nguyện là hai chiều kích thánh thiêng bổ sung cho nhau nơi một tâm hồn biết để Chúa chiếm ngự, nơi một tâm hồn thực sự là tâm hồn Kitô hữu. Nói tỉnh thức và cầu nguyện là hai chiều kích thánh thiêng bổ sung cho nhau, là bởi:
1. Tỉnh thức giúp ta cảnh giác thói hư tật xấu, cảnh giác tội lỗi, không để những cái xấu thế trần ảnh hưởng, hoặc làm mất đi sự thánh thiện trong tâm hồn tín hữu. Nói cách khác, sống tinh thần tỉnh thức là biết ăn năn thống hối, biết dọn tâm hồn bằng một đời sống nhân đức để Chúa có thể chiếm ngự tâm hồn, và tâm hồn thuộc về Chúa hoàn toàn.
2. Cầu nguyện là phương thế tốt nhất để gắn kết phàm trần với thiêng liêng, gắn kết con người với Thiên Chúa. Vì thế, chỉ cần ham thích cầu nguyện, tự bản thân của việc cầu nguyện đã đưa ta về phía Chúa, đã là cách ta mở đường để Chúa đến chiếm ngự hồn ta.
Cầu nguyện là ta đi tìm Thiên Chúa, để bắt gặp chính Ngài là Đấng hằng đợi chờ, tìm kiếm ta. Bởi con người, cái phàm trần yếu đuối, đã có thể tìm gặp Thiên Chúa, Đấng thánh tuyệt đối, từ ngàn xưa đã đi tìm loài người. Nhờ thế, cái phàm trần yếu đuối nơi loài người càng được thánh hóa, càng vững mạnh, càng được củng cố, càng lãnh nhận nguồn ơn tuyệt hảo là chính Chúa, sức mạnh vô cùng cho loài người.
3. Một Kitô hữu lại luôn luôn có Chúa làm sức mạnh, làm “côn trượng”, “làm núi đá” nương thân như thế, chắc chắn sẽ là người dễ dàng đứng ngoài vòng vây hãm của cám dỗ, của sự dữ và tội lỗi hơn.
Chính vì thế, tỉnh thức và cầu nguyện luôn bổ sung cho nhau, cần có nhau, tương qua lẫn nhau. Bởi đã cầu nguyện thì người luôn luôn cầu nguyện chắc chắn là người luôn luôn tỉnh thức.
Càng tỉnh thức, người ta càng thấy nhu cầu của sự cầu nguyện là không bao giờ hết, trái lại tỉnh thức bao nhiêu thì đòi sự cầu nguyện càng tăng trưởng bấy nhiêu.
Có tỉnh thức, có cầu nguyện, linh hồn ta có Chúa. Còn có hạnh phúc nào bằng hạnh phúc ta có Chúa chiếm ngự hồn mình. Có Chúa chiếm ngự trong hồn, cánh cửa của hạnh phúc đời đời sẽ không bao giờ đóng lại nhưng đời đời mở ra cho ta, đưa ta vào lối trường sinh, sống trong lòng Thiên Chúa Vĩnh Cửu.
4. Cũng vậy, một khi thực sự sống sứ điệp mùa Vọng: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện”, chúng ta cũng sẽ trở nên đồng hình đồng dạng hoàn toàn với Chúa Kitô, Chúa chúng ta. Tỉnh thức và cầu nguyện thực sự bằng cả cuộc đời mình, ta sẽ không còn dễ bị ru ngủ bởi những hoan lạc trần thế. Sẽ không còn một tình trạng trì trệ, nặng nề, say sưa, thói nuông chiều thân xác… lôi kéo xa rời tình yêu của Chúa.
5. Bước vào mùa Vọng là bước vào hành trình chuẩn bị tâm hồn mừng mầu nhiệm Con Thiên Chúa nhập thể làm người. Nhưng trong tình hình dịch tễ nặng nề, nguy cơ bùng phát ngày càng cao, báo trước một lễ Giáng Sinh đìu hiu, kém lộng lẫy hơn, kém xa hoa hơn, kém tấp nập hơn…
Tuy nhiên, trong cái nhìn đức tin, đó lại là cơ may để ta dễ dàng chuẩn bị cho một đời sống tinh thần, biết nội tâm hóa và thiêng liêng hóa hơn. Chắc chắn sẽ có một lễ Giáng Sinh mà người ta phải: Bớt đi vật chất để dễ nâng cao tinh thần; bớt đi những xôn xao bên ngoài để dễ đi vào lòng mình; bớt đi những kiểu dáng đẹp mắt từ những trang trí để dễ kiểm soát thói hư tật xấu mà chỉnh trang tâm hồn; bớt đi những thanh âm rạo rực để dễ lắng nghe cõi riêng tư; bớt đi những xập xình của thói mừng lễ phồn hoa đô hội để dễ tìm về thế giới của ơn thánh…
Và biết đâu khi phải bớt đi những tụ điểm, những bar, những nhà hàng, những phố đèn đỏ, những loại hình kinh doanh lợi dụng Giáng Sinh hoặc biến Giáng Sinh thành lễ hội, thành chốn tội lỗi… để có thể trả lại cho đêm Giáng Sinh đúng nghĩa của đêm Thánh, đêm An Bình, đêm Tình Trời gặp gỡ lòng người, đêm của ơn Tình Yêu cứu độ…!
Vì thế, mùa Vọng giữa mùa dịch: ĐIỂM RƠI cần thiết hết sức để nhà nhà, người người, bắt đầu từ hôm nay, chuẩn bị cho mình sống một lễ Giáng Sinh, sau đó là một mùa Giáng Sinh đã đầy đủ một tâm thế của những tâm hồn đi qua trọn vẹn sứ điệp của Chúa Giêsu: TỈNH THỨC – CẦU NGUYỆN.
Trong đợt giãn cách vì đại dịch, nhiều người nói rằng:con rất nhớ nhà thờ, nhớ hội đoàn. . . Và cho MV 1-C211
Trong đợt giãn cách vì đại dịch, nhiều người nói rằng:con rất nhớ nhà thờ, nhớ hội đoàn. . . Và cho dù hôm nay đã hết phong tỏa nhưng dịch bệnh lại càng gia tăng khiến nhiều người vẫn không dám đến nhà thờ. Họ chỉ đành cầu nguyện tại nhà và lòng hướng về nhà Chúa với biết bao lời khấn cầu tha thiết xin Chúa dủ tình thương ban bình an xuống trên địa cầu.
Những trăn trở này dường như cũng là những nỗi lòng nhung nhớ thành thánh Giêrusalem năm xưa của dân Do Thái . Lời khóc, tiếng than thở của họ đã dệt thành những bài thánh vịnh, với giai điệu bi thương, não nề, nhưng không thất vọng mà đầy tin đầy tin tưởng phó thác, cậy trông.
(2) Như nai rừng mong mỏi tìm về suối nước trong, hồn con cũng trông mong được gần Ngài, lạy Chúa.
(3) Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống. (6) Hồn tôi hỡi, cớ sao phiền muộn, xót xa phận mình mãi làm chi? Hãy cậy trông Thiên Chúa, Hãy tán tụng Người, Người là Ðấng cứu độ, là Thiên Chúa của tôi.
Đây là lời than thở, nỉ non của dân riêng Thiên Chúa, khi họ không được thờ Chúa trong đền thờ, họ phải thờ Chúa ở bên bờ sông , nơi dân ngoại, bên Babilon, bên Ba Tư. Dù vượt xa ngàn trùng của không gian nhưng họ vẫn hướng về Đền Thánh, nơi có Đức Chúa ngự trị để cầu xin, để van nài, và nhất là để cho họ một niềm tin về một ngày mai tươi sáng. Một ngày Đấng cứu độ là Thiên Chúa của họ sẽ mang lại thái bình cho dân riêng của Ngài.
Hôm nay Giáo hội bước qua phụng vụ Mùa Vọng. Mùa vọng là thời gian đợi chờ, trông mong. Cuộc đợi chờ tân lang đến tuy không hẹn rõ ngày giờ. Ngày đó sẽ đến, nhưng không biết khoảng thời gian nào. Ngày đó sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó sẽ đến một cách bất chợt và thình lình. Sự khôn ngoan luôn nhắc nhở chúng ta là hãy tỉnh thức để luôn sẵn sàng đón chờ ngày đó sẽ đến.
Covid đã đến với Việt Nam 4 lần như là một lời nhắc nhở phải tỉnh thức. Nhưng nhiều người vẫn chưa tỉnh thức. Họ vẫn vui chơi sa đọa. Họ vẫn bắt tay làm chuyện bất chính. Xã hội vẫn đầy những tội phạm có nơi còn loạn luân công khai, trên mạng xã hội thì chửi bới nhục mạ nhau công khai, có nơi phá thai, trộm cắp công khai . . .
Ngày xưa khi thành Sôđôm bị xóa sổ vì xã hội băng hoại và Chúa đã chỉ cứu được một mình ông Lot khỏi chết khi đưa ông ra khỏi thành. Điều này thánh Phêrô qua thư thứ hai rằng: “Chúa cứu Lót ra khỏi Sôđôm vì ông là người công chính, tâm hồn luôn luôn bị dày vò vì những cảnh đồi bại luân lý diễn ra hàng ngày quanh mình.
Mùa vọng mời gọi chúng ta mang tâm tình của dân Do Thái để cầu xin Chúa hãy mau đến cứu độ trần gian. Xin Chúa ngự đến để đẩy lùi sự dữ, để thanh luyện trần gian khỏi những lỗi lầm gian ác, những đường lối gian tà. Người Do Thái khi bị lưu vong không được đến đền thờ thì họ phải sám hối ăn năn. Họ phải hứa một lòng trung thành với giao ước Chúa, nhờ đó mà họ được giải thoát và hân hoan vui mừng trẩy hội lên đền thờ.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta biết sửa đổi và canh tân đời sống phù hợp với Tin mừng, biết tỉnh thức để vượt ra khỏi những cám dỗ của danh lợi thú, của những đam mê thấp hèn, hầu xứng đáng là dân riêng của Chúa, được Chúa che chở và bảo vệ khỏi mọi sự dữ hôm nay. Amen
Trong các sinh vật Thiên Chúa dựng nên trên mặt đất, con người là thụ tạo thượng đẳng, ưu tú MV 1-C212
Trong các sinh vật Thiên Chúa dựng nên trên mặt đất, con người là thụ tạo thượng đẳng, ưu tú, thông minh, tuyệt vời nhất. Tuy nhiên, con người là loài thụ tạo phải đối mặt với nhiều cạm bẫy nhất.
Vô vàn cạm bẫy giương ra với nhiều mồi ngon cuốn hút và nhiều bả độc hấp dẫn như lạc thú, danh vọng, tiền tài, sắc dục, ham muốn xấu xa đê hèn… ngày đêm cám dỗ, lôi cuốn con người vào chỗ chết.
Tự thâm tâm, con người cảm thấy mình được mời gọi vươn lên, vượt lên thú tính để sống cho ra người, sống cao đẹp, tốt lành, thánh thiện, đạo đức… nhưng đồng thời có rất nhiều ma lực xô đẩy con người xuống vực, cố dìm con người xuống bùn đen.
Thân phận con người như chiếc thuyền nan bơi ngược dòng nước xiết, phải luôn kiên vững tay lái tay chèo, vượt qua bao nhiêu ghềnh đá để tiến lên đầu nguồn; bao giờ buông lái, buông chèo thì thuyền bị xô dạt và chìm đắm.
Vì thế, lắm người phải rơi vào vực sâu tội lỗi, không ít người đã chìm đắm trong bùn lầy xấu xa. Tránh xa cạm bẫy để sống cho ra người là điều rất khó.
Cá dễ ươn, thây ma mau thối, con người dễ hư!
Một thực tế đau lòng là so với các đồ vật khác, con người dễ bị hư hỏng suy sụp hơn nhiều. Một ngôi nhà xây dựng sơ sài cũng có thể đứng vững trước giông tố và tồn tại đến cả chục năm. Con thuyền mong manh cũng thách thức được với sóng gió nhiều năm tháng dài. Cái bàn, cái tủ được sử dụng cả vài chục năm vẫn còn tốt… Trong khi con người, tuy là thụ tạo thượng đẳng nhưng rất mỏng giòn yếu đuối, dễ thối dễ hư!
Hằng ngày, các phương tiện truyền thông thuật lại vô số cảnh đời sa đoạ dưới nhiều hình thức: người thì suy sụp vì ma tuý, người thì sa đoạ vì gian dâm, vì men rượu, vì lợi, vì tiền, vì nhiều hình thức đồi truỵ khác…
Mọi lứa tuổi, mọi thành phần, ngay cả một số người có địa vị cao trong xã hội cũng như chức sắc trong các tôn giáo, vì thiếu tỉnh thức nên cũng bị sa ngã, bị lún sâu xuống bùn.
Người ta thường nói: “Khôn ba năm, dại một giờ”, nhưng có khi khôn đến năm mươi, bảy mươi năm rồi cũng hoá dại trong một giờ!
Cá dễ ươn, thây ma mau thối, con người dễ hư. Đáng sợ thay!
Tỉnh táo đề phòng
Chính vì thế, Chúa Giê-su thường nhắc bảo chúng ta: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn!… Hãy đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em…” (Lc 21,34). Còn thánh Phao-lô thì cảnh báo: “Những ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” trong nay mai (I Cr 10,12).
Vì cạm bẫy giăng đầy khắp nơi và lòng người yếu đuối, nên lời nhắn nhủ của Chúa Giê-su: “Hãy đề phòng… Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn…” là một tiếng chuông cảnh tỉnh luôn luôn cần.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho chúng con thấy rõ thân phận giòn mỏng, yếu đuối của mình và nhận ra rất nhiều cạm bẫy nguy hại đang vây bủa khắp nơi, để luôn tỉnh táo, đề phòng; nhờ đó, chúng con sống xứng đáng là người con Chúa và không đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình. Amen.
Hai chữ “mùa Vọng” làm con liên tưởng đến một tiếng nói vẫn vang vọng trong lòng con từ MV 1-C213
Hai chữ “mùa Vọng” làm con liên tưởng đến một tiếng nói vẫn vang vọng trong lòng con từ rất lâu rồi: “Ta khát!”. Đó là tiếng kêu yếu ớt của Thầy trên thánh giá, tiếng nói thì thào thốt lên trong hơi thở yếu ớt, trong nỗi đau đớn tột cùng, trong sự cô đơn nhưng ánh mắt của Thầy vẫn hướng lên trời cao và lại cúi xuống nhìn đến thân phận yếu hèn của con. Chính con đã làm cho Thầy phải “khát” và con mong làm thỏa cơn khát của Thầy.
Thầy! Con cám ơn Thầy rất nhiều vì đã luôn bên con trong từng phút giây, luôn kiên nhẫn chờ đợi con, dù cho bao lần con quên Thầy. Chính Thầy đã luôn đi bước trước để đến với con. Con chỉ có một việc là đừng lẩn tránh Thầy nữa, hãy đi ra khỏi nơi ẩn trốn để gặp Thầy. Xin Thầy giúp con thêm niềm tín thác vào tình thương của Thầy. Tình yêu của Thầy lớn hơn tội lỗi của con. Con nhận thấy tội lỗi mình, nó làm con đau đớn và xấu hổ, vì con không tin chính mình lại đã phạm những tội như thế vì con đang kiêu ngạo. Lời Thánh Phaolô nhắc nhở khiến con phải cúi đầu: “Thưa anh em, xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết, cũng như tình thương của chúng tôi đối với anh em vậy” (1Tx 3,12). Yêu thương người khác quả không dễ. Vì khi yêu, con đã chỉ yêu theo cách con muốn. Những thất vọng và đổ vỡ trong tương quan đến từ chính sự ích kỷ, ghen tị, kiêu ngạo, tự mãn trong con. Tình thương con dành cho chị em vẫn chưa đậm đà thắm thiết. Mỗi khi con thấy mình chưa quảng đại như Thầy mời gọi, con đã chạy đến với Thầy, ban đầu chỉ để thưa với Thầy mọi nỗi buồn sầu, thất vọng, những tức giận trong con. Chính lúc con ở lại bên Thầy, Thầy đã cho con nhận ra lỗi lầm của mình. Con cám ơn Thầy đã cho con thấy rằng, dù con đang sống nhưng con chưa “tỉnh thức”, vì con chưa yêu như Thầy mời gọi. Lời Thánh Phaolô giúp con biết con cần phải tìm kiếm ánh sáng nơi đâu: “Như thế, Chúa sẽ cho anh em được bền tâm vững chí, được trở nên thánh thiện, không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giêsu, Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người”. Con tin, Thầy sẽ ban cho con thêm lòng kiên nhẫn, được bền tâm vững chỉ để theo đường Thầy chỉ dạy, mỗi ngày sẽ thánh thiện hơn. Những nỗ lực nho nhỏ mà mỗi ngày nhờ ơn Chúa Thánh Thần trợ giúp, con đã biết bỏ mình nhiều hơn, nghĩ đến người khác nhiều hơn nghĩ đến mình. Lúc ấy, con nhớ đến nụ cười của Thầy, và lòng con vui lên. Nhưng con vẫn nghe tiếng Thầy nói vọng trong tim: “Ta khát!”.
“Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công Chính để nối nghiệp Đavít” (Gr 33,15). Thầy! Mỗi lần con được đón Thầy vào lòng, con cảm nhận có một “mầm non” đang mọc lên trong tâm hồn mình. Con phải chăm sóc cho mầm non ấy, phải nuôi dưỡng để mầm non được lớn lên. Con xin lỗi Thầy vì nhiều lần con đã quên chăm sóc tưới nước yêu thương cho “mầm non” được lớn lên. Con để cho những toan tính, bận tâm sự đời mọc lên thành gai góc khiến cho “mầm non” ấy bị chết nghẹt. Thầy vẫn dạy dỗ con qua những vị có trách nhiệm, qua những con người con gặp hằng ngày: “Chúng tôi xin, chúng tôi khuyên nhủ anh em hãy tấn tới nhiều hơn nữa” (1 Tx 4,2). Thầy muốn con cần tiến tới nhiều hơn nữa trong tình thương yêu bác ái. Vì bao lâu con dừng lại trong một mức độ tình yêu mà con cho là đủ thì con đã tự đóng trái tim của mình, không còn nuôi dưỡng tình yêu nữa. Xin Thầy giúp con biết tỉnh thức, vì nếu con không đề phòng, con sẽ bị ma quỷ lừa dối. Thầy nói cho con biết về những chuyển biến trên trời, những tai họa sẽ ập xuống trên mặt đất, và Thầy cũng báo cho con biết về niềm hy vọng lớn lao: “Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc” (Lc 21,27). Chính Thầy là niềm tin và hy vọng của chúng con. Chính Thầy đã luôn nhắc con: “Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21,36).
Con cám ơn Thầy vì chính Thầy đã làm cho con khỏi khát. Khi con đang tìm cách để làm cho Thầy khỏi khát thì chính con lại nhận ra nỗi khát khao cháy bỏng trong tâm hồn mình: con khát Chúa, và chính Thầy đã là mạch nước trường sinh hằng đổ xuống trên con. Thầy đã muốn con chuyển trao nước ấy cho mọi anh chị em. Yêu thương không bao giờ là đủ. Xin Thầy cứ làm nơi con điều Thầy muốn. Amen.
“Trong những ngày ấy, vào thời đó, ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công Chính nối nghiệp Đa vít” (Gr 33, 15).
Đức Giêsu chính là “mầm non’ mà tiên tri Giêrêmia nói tới khi loan báo về “ngày ấy”. Mùa Vọng MV 1-C214
Đức Giêsu chính là “mầm non’ mà tiên tri Giêrêmia nói tới khi loan báo về “ngày ấy”. Mùa Vọng là mùa khởi đầu của một năm phụng vụ mới, mùa để muôn dân chuẩn bị tâm hồn mừng đón biến cố giáng sinh của Con Một Thiên Chúa. Đồng thời, Mùa Vọng nhắc nhở chúng ta hướng lòng về ngày quang lâm của Đức Giêsu, ngày Người đến lần thứ hai trong vinh quang và uy quyền.
Khởi đầu Mùa Vọng, qua bài Tin Mừng Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng được trích từ Tin Mừng theo thánh sử Luca, Giáo hội mời gọi chúng ta nhìn về ngày quang lâm của “Con Người”, Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu loan báo về những ngày “khốn cùng”, ngày mà muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét; người ta sẽ sợ đến hồn xiêu phách lạc, thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang, ngự trong đám mây mà đến (x. Lc 21, 25-27). Sau khi loan báo về ngày ấy, Đức Giêsu mời gọi những kẻ theo Ngài rằng: “anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu độ” (Lc 21, 28). Người còn mời gọi chúng ta phải đề phòng, phải tỉnh thức và cầu nguyện luôn hầu có thể thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.
Lịch sử nhân loại trải qua bao biến cố thăng trầm. Những trận động đất, sóng thần, chiến tranh, loạn lạc, bắt bớ xảy ra đó đây. Khi nhìn về những biến cố đã và đang xảy ra, nhiều lần chúng ta đã đặt câu hỏi: phải chăng ngày tận thế sắp đến. Nhân loại chúng ta đã bao phen sợ hãi, hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét, động đất, sóng thần và nhất là gần đây nhất là đại dịch Covid. Không ai trong chúng ta có thể biết được ngày nào “Con Người” sẽ đến nhưng chúng ta biết chắc rằng, để chuẩn bị cho ngày đó, chúng ta phải biết đề phòng, cầu nguyện và sống tỉnh thức. Đức Giêsu mời gọi chúng ta đề phòng thói chè chén say sưa, lo lắng sự đời và nhất là chớ để lòng mình ra nặng nề chai đá vì ngày ấy sẽ như chiếc lưới bất thần chụp xuống tất cả mọi dân, không ai tránh khỏi. Để đề phòng và tránh để lòng mình ra nạng nề chai đá, chúng ta phải sống tỉnh thức và cầu nguyện luôn.
Tỉnh thức và cầu nguyện luôn là thái độ cần có của kẻ có đức tin. Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Thêxalônica, thánh Phaolô đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của tình thương yêu, nhờ biết yêu thương mà chúng ta sẽ được đẹp lòng Thiên Chúa. “Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết, cũng như tình thương của chúng tôi đối với anh em vậy. Như thế, Chúa sẽ cho anh em được bền tâm vững chí, được trở nên thánh thiện, không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giêsu, Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người.” (1Tx 3, 12-13). Thánh Phaolô còn mời gọi chúng ta tấn tới hơn nữa khi biết sống yêu thương, và làm theo sự hướng dẫn của Lời Chúa và của Hội thánh. “Anh em đã được chúng tôi dạy phải sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa” (1Tx 4, 1).
Quả thực, Hội thánh chính là cánh tay hữu hình, là sự hiện diện sống động của Đức Giêsu nơi trần gian. Qua Hội thánh, Đức Giêsu hướng dẫn con cái của mình vì chính Ngài đã trao phó đoàn chiên cho Phêrô, tông đồ trưởng. Đứng trước những thách đố, khó khăn của thời đại, chúng ta đợc mời gọi sống đức tin cách cụ thể hơn khi biết lan tỏa yêu thương, sống chia sẻ và cùng nhau cầu nguyện. Đồng thời, chúng ta cũng được mời gọi bám sát vào lời của Chúa, sự hướng dẫn của Hội thánh qua các vị chủ chăn để không hoang mang lo sợ trong những ngày ấy. Đặc biệt là sống yêu thương như Chúa mời gọi để không còn gì đáng chê trách khi diện kiến tôn nhan Người như lời thánh Phaolô mời gọi. Đó là niềm tin tưởng, hy vọng của chúng ta, những người tin yêu Chúa.
Trong ngày đầu xuân, đầu năm mới người ta chúc nhau phúc lộc thọ khang an. Ai cũng muốn khởi MV 1-C215
Trong ngày đầu xuân, đầu năm mới người ta chúc nhau phúc lộc thọ khang an. Ai cũng muốn khởi đầu tốt đẹp và may lành. Thật ngạc nhiên khi ngày đầu năm phụng vụ, Lời Chúa lại đề cập đến ngày cuối cuộc đời, ngày chứa chan hy vọng lại tiềm ẩn nỗi truân chuyên. Thời điểm cuối cùng, không phải của một năm, nhưng là của mọi sự. Như thế, điểm tận cùng sẽ trở thành niềm hân hoan, trở thành thời điểm cứu chuộc. Mùa Vọng hướng lòng chúng ta về ngày Chúa đến trong vinh quang bất diệt. Để hướng về thời điểm này, chúng ta được mời gọi sống như người thuộc về Đức Kitô ngay hôm nay.
Có người nghĩ rằng, trong Mùa Vọng phụng vụ phải đọc những bài sách Thánh báo tin Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra. Thế nhưng, những bài sách Thánh và đặc biệt bài Tin Mừng Chúa Nhật I lại báo tin Chúa sẽ đến trong ngày phán xét. Giáo Hội muốn cho chúng ta hiểu ý nghĩa thần học của việc chờ mong Chúa đến.
Bài đọc 1 trích sách Giêrêmia, khơi lên niềm trông đợi; bài đọc 2 thư thánh Phaolô chỉ dẫn một cách cụ thể hơn những thái độ sống đạo chân thực trong Mùa Vọng.
Bài Tin Mừng nằm trong phần diễn từ cánh chung luận của Đức Giêsu. Diễn từ này nói về những sự việc sẽ xảy đến vào những ngày cuối cùng của thế giới dựa trên lời tiên báo về Thành Thánh Giêrusalem sẽ bị sụp đổ và Đền Thờ sẽ bị tàn phá. Đây là như một tai hoạ mang tính biểu tượng cho sự sụp đổ của thế giới này trong ngày tận thế hầu cảnh tỉnh người môn đệ phải tỉnh thức và sẵn sàng.Như thế, ngày tận thế đối với người Kitô hữu lại trở thành ngày đáng mong đợi nhưng cũng đầy yếu tố bất ngờ “như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em”. Do đó, người ta không thể chờ đợi ngày đó cách thụ động mà phải có thái độ sẵn sàng qua việc tỉnh thức và cầu nguyện luôn. Tỉnh thức là “chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời”. Nhờ đó “họ có thể đứng vững trước mặt Con Người” trong ngày cánh chung.
Hàng năm vào Mùa Vọng, Giáo Hội mời gọi con cái mình chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa đến. Thực ra, Chúa đã đến rồi khi giáng sinh tại hang đá Bêlem cách nay hơn hai ngàn năm. Tuy nhiên chúng ta vẫn luôn chờ mong vì Chúa đến hằng ngày và nhất là Chúa sẽ đến trong ngày phán xét. Giáo Hội mời chúng ta hãy hướng nhìn về ngày Ðức Giêsu Kitô sẽ đến trong vinh quang để vĩnh viễn thiết lập Trời Mới Ðất Mới cho loài người.
Mùa Vọng nhắc nhớ lần đến đầu tiên của Chúa Cứu Thế,và chuẩn bị lần đến cuối cùng của Ngài. Giữa hai lần ấy, có biết bao lần Ngài bất ngờ đến. Vì thế chúng ta phải tỉnh thức và cầu nguyện luôn.
Chúa Giêsu nói đến tư thế của người tỉnh thức là luôn: “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”. Đây là tư thế của tâm hồn con người. Chúa cũng nói đến thái độ sống của người tỉnh thức là không để “lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời”, không quá mê mẩn những đam mê hưởng thụ, không quá mê say danh lợi thú.
– “Đứng thẳng”: đây là động thái hiên ngang dũng cảm vượt trên mọi đam mê tội lỗi. Đứng thẳng mới khỏi sa chước cám dỗ và những lôi cuốn mời mọc hấp dẫn trong cuộc đời.Sống công chính ngay thẳng trước mặt Chúa và trước mặt người đời.
– “Ngẩng đầu lên”: đây là động thái hướng thượng, vươn mình lên tới những giá trị cao cả. Luôn tìm kiếm những điều thuộc về Thiên Chúa.
-“Không chè chén say sưa”, là đừng quá đam mê những hưởng thụ đời này.
-“Không lo lắng sự đời”, là không quá mê say danh, lợi, thú. Biết chuẩn bị cho đời sau bằng cách vươn tâm hồn lên những chân trời cao thượng. Sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau.
Để trở nên người “đứng thẳng” và “ngẩng cao đầu” với niềm vui sướng và tràn đầy hy vọng khi Chúa ngự đến, chúng ta phải luôn sẵn sàng và sống tỉnh thức. Là luôn “đứng thẳng” trong một nếp sống chân thành, tốt lành và thánh thiện, luôn “ngẩng đầu” hướng về Quê Hương Thiên Quốc, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa Cha.
Người Kitô hữu chờ đợi Chúa đến trong vinh quang ngày quang lâm và chờ đợi Chúa đến trong giờ sau hết đời mình. Vì thế, người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại một cách rất nghiêm chỉnh, họ cố gắng làm phận sự ở đời thật tích cực vì biết rằng đó là Thánh ý của Chúa và vì biết rằng hạnh phúc đời đời của mình đang được chuẩn bị ngay từ bây giờ.
Tỉnh thức để nhận ra mưu mô của ma quỷ, tỉnh thức trước những lôi cuốn của thế gian, tỉnh thức trước những yếu đuối của con người xác thịt.Chúng ta đang sống trong một xã hội có quá nhiều cám dỗ. Một xã hội đầy dẫy các tệ nạn, có nhiều lối sống buông thả. Đó là môi trường là cơ hội thuận tiện cho ma quỷ ẩn núp và tấn công. Cám dỗ ngày càng nhiều và ngày càng tinh vi dưới muôn hình dáng vẻ. Vì thế, lời dặn dò của Chúa Giêsu ngày càng khẩn thiết: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ”. Cơn cám dỗ độc hại nhất mà con người cần phải luôn tỉnh thức canh phòng và trường kỳ chiến đấu bằng mọi cách, chính là lòng ích kỷ, quan niệm sống hẹp hòi, thiển cận của chính mình, chỉ biết có mình mà quên kẻ khác, chỉ biết thu vén lợi ích cho riêng mình mà quên quyền lợi kẻ khác.
Tại các ngã ba ngã tư của đường phố đều có đèn đỏ đèn xanh rõ ràng, nhắc hướng cần đi vào và cấm vượt ranh giới. Trong lương tâm, chúng ta không thấy rõ hệ thống đèn đỏ đèn xanh. Mình phải tự phán đoán, chọn lựa và phân định. Không tỉnh thức là đôi khi mình tự cho phép mình vượt đèn đỏ vô hình, và cũng không đi theo hướng đèn xanh chỉ dẫn. Vài lần thấy quen. Rồi thấy xung quanh vô số người cũng làm như vậy. Thế là thành thói quen phạm lỗi trên hành trình cuộc đời.
Tỉnh thức là thái độ của một gia nhân trung thành. Tỉnh thức và đợi chờ với niềm hy vọng là chủ sẽ trở về.
Tỉnh thức là tâm trạng của một con người luôn bình an, thư thái. Thái độ sống này giúp người Kitô hữu luôn làm cho mọi công việc hàng ngày trở thành lời nguyện tạ ơn chân thành.
Người tỉnh thức là người luôn cố gắng và nhiệt thành, biết thực thi những gì là chân thật, ngay chính và đáng quý chuộng.
Người tỉnh thức sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau. Thời gian hiện tại là thời gian quyết định đối với số phận đời đời của con người. Mỗi giây phút qua đi là không bao giờ trở lại. Thời giờ Chúa cho ta sống ở trần gian là vô cùng quý báu, đây là lúc gieo mầm cho đời vĩnh cửu.
Ngày Chúa đến sẽ khủng khiếp hoặc vui mừng là tùy cách sống hiện tại của mỗi người. Mọi hành động, mọi tư tưởng đều được phơi bày ra trước ánh sáng của công lý, không ai có thể che dấu một chi tiết nào.
Ngày Chúa đến trong vinh quang để xét xử muôn dân sẽ là ngày cứu độ cho những ai tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng, nhưng sẽ là ngày kinh hoàng cho những ai đang mê ngủ trong đam mê tội lỗi.
Để tỉnh thức và cầu nguyện, chúng ta cần sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và ánh sáng soi dẫn của Lời Chúa.
Sau khi chịu phép Rửa Tội để trở nên một Kitô hữu, chúng ta dấn thân vào đời với nhiều thử thách của niềm tin, phải chịu nhiều cám dỗ của phận người lữ thứ. Nếu chúng ta tin rằng “Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta” (Tt 3,6) thì hãy vững tâm và tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng của Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ không bao giờ xa rời chúng ta đâu! Điều quan trọng là chúng ta có thành tâm để cầu xin và nhờ cậy Ngài, hay là không thôi!
Hãy tin tưởng và trông cậy vào Chúa Thánh Thần. Bảy hồng ân của Chúa Thánh Thần luôn trao ban cho người: ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn nhận thức, ơn chỉ bảo, ơn dũng mạnh, ơn thánh thiện và ơn kính sợ Thiên Chúa. Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận ơn Chúa Thánh Thần và hăng hái cộng tác với chương trình của Ngài, nhờ đó “Hoa trái của Thần Thần là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gl 5,22-23) sẽ tràn đầy trong tâm hồn và đời sống của chúng ta.
Việc gặp gỡ Chúa Thánh Thần rất dễ dàng. Chỉ cần hồi tâm lại, ý thức Ngài đang hiện diện ngay trong bản thân mình, và muốn được tan hòa vào trong Ngài. Chúa Thánh Thần sẽ mở tung cánh cửa ích kỷ. Ngài sẽ phá tan cánh cửa hẹp hòi. Ngài sẽ ban thêm sức mạnh. Ngài sẽ quét sạch mọi lớp bụi bặm rêu phong. Ngài sẽ đổ tràn vào hồn chúng ta nguồn sống mới giúp chúng ta chiến thắng mọi cám dỗ và hăng hái lên đường.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con đang khao khát đợi chờ ngày Chúa quang lâm; xin nhận lời nài xin của chúng con và giúp chúng con luôn tỉnh thức cầu nguyện, giữ vững đức tin cùng niềm hy vọng cho tới ngày Chúa ngự đến. Amen
Không còn hy vọng vì không còn niềm tin. Hết niềm tin thì bất cần, bất chấp, xả láng. Ba đức MV 1-C216
Không còn hy vọng vì không còn niềm tin. Hết niềm tin thì bất cần, bất chấp, xả láng. Ba đức đối thần – Tin, Cậy, Mến – như chiếc kiềng 3 chân vững vàng, giúp cân bằng cuộc sống. Ngụ ngôn kể rằng…
Trong căn phòng, không gian tĩnh lặng tới mức có thể nghe thấy tiếng thì thầm của những ngọn nến. Cây nến thứ nhất than vãn: “Tôi là biểu tượng của BÌNH AN và HOÀ THUẬN. Thế nhưng thời nay, những cái đó thật chênh vênh, chông chênh. Thế giới hiếm khi không có gươm đao, súng đạn, tranh chấp, cãi cọ,… giữa người với người – thậm chí vợ chồng hoặc anh em trong một nhà.” Ngọn lửa leo lét, mờ dần, mờ dần,… cho tới khi hoàn toàn lụi tắt!
Ngọn nến thứ hai lắc đầu kể lể: “Tôi là NIỀM TIN. Thế nhưng trong thế giới này hình như tôi trở nên thừa thãi, như một thứ xa xỉ. Biết bao kẻ sống xu thời, không cần niềm tin.” Ngọn lửa tắt dần, chỉ còn làn khói luyến tiếc!
Ngọn nến thứ ba than phiền: “Tôi là TÌNH YÊU, nhưng tôi không còn đủ sức tỏa sáng. Người ta gạt tôi ra một bên, không thèm hiểu giá trị của tôi. Cứ nhìn thế giới mà xem, không thiếu những kẻ quên luôn cả tình yêu đối với chính những người ruột thịt của mình.” Ngọn lửa vụt tắt lịm!
Cả căn phòng tối tăm. Nhưng còn một ngọn nến nằm ở góc xa vẫn tiếp tục phát ra ánh sáng, như ngôi sao đơn độc giữa đêm tối âm u. Bất chợt, một cô bé bước vào phòng. Thấy ba ngọn nến đã tắt, cô bé thốt lên: “Tại sao các bạn không cháy nữa? Cuộc sống này luôn cần các bạn. Hòa Bình, Niềm Tin và Tình Yêu phải luôn tỏa sáng!”
Cây nến thứ tư vẫn lặng lẽ cháy trong góc phòng khe khẽ nói: “Đừng lo! Tôi là HY VỌNG. Nếu tôi còn cháy, mặc dù ngọn lửa rất mong manh, nhưng vẫn có thể thắp sáng lại Hòa Bình, Niềm Tin và Tình Yêu.” Mắt cô bé sáng lên. Cô dùng cây nến Hy Vọng để thắp sáng lại các cây nến khác. Và rồi căn phòng lại đầy ánh sáng…
Hy Vọng rất quan trọng. Đức cậy luôn cần thiết. Nếu trái tim luôn cháy lên “ngọn lửa hy vọng,” dù chỉ leo lét và âm ỉ, chúng ta sẽ tìm lại được những điều tốt đẹp khác cho cuộc sống: Tình Yêu, Niềm Tin và Bình An. Một danh nhân đã nói: “Thà thắp lên một ngọn lửa, còn hơn ngồi nguyền rủa bóng tối.” Ngọn lửa đó là Niềm Hy Vọng.
Thiên nhiên tứ thới bát tiết, luân phiên bốn mùa. Đời sống tâm linh cũng tương tự. Và Mùa Vọng lại về, khởi đầu Tân Niên Phụng Vụ. Chẳng rực rỡ sắc màu như Mùa Xuân, không nhộn nhịp như Tết Nguyên Đán, nhưng Tân Niên Phụng Vụ mang vẻ lạ lùng lắm: lặng lẽ và thâm trầm trong sắc tím, nhưng không ảm đạm u sầu. Sắc tím biểu hiện sự chung thủy và hy vọng trong sự mong chờ Con Thiên Chúa đến cứu độ nhân gian, giải thoát khỏi mọi đau khổ, bất công, áp bức, bóc lột,… nhất là cứu chúng ta thoát khỏi ma quỷ, tội lỗi.
Mùa Vọng năm nay đặc biệt hơn, vì vẻ trầm lặng bao trùm khắp nơi do ảnh hưởng Cúm Tàu. Bị phong tỏa, cách ly nên chúng ta càng khao khát Đấng Cứu Thế: “Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến!” (Kh 22:20) Hy vọng và mong chờ Ngài, chúng ta vững tâm tín thác và cùng với ngôn sứ Isaia tha thiết van nài: “Trời cao hỡi, nào hãy gieo sương, mây hãy đổ mưa, mưa đức công chính; đất mở ra đi cho nẩy mầm ơn cứu độ, đồng thời chính trực sẽ vươn lên.” (Is 45:8)
Niềm hy vọng luôn cần thiết. Triết gia Jean Jacque Rousseau (1712-1778) tâm sự: “Tôi đã đau khổ quá nhiều ở thế giới này để hy vọng một thế giới khác.” Còn sử gia Thomas Fuller (1608-1661) đặt vấn đề: “Nếu không nhờ có hy vọng, trái tim sẽ tan vỡ.” Trong cuộc sống đời thường và tâm linh đều không thể thiếu niềm hy vọng.
Có hy vọng nhờ tin tưởng, vì tin tưởng mà hy vọng, kiên tâm mong chờ, hướng tới tương lai. Khi mong chờ thì phải tỉnh thức, nếu mong chờ mà không tỉnh thức thì chỉ là khờ dại. (x. Mt 25:1-13) Mùa Vọng nhắc nhở tỉnh thức, “dầu, đèn” luôn sẵn sàng để có thể đón Con Thiên Chúa ngự đến – cũng hàm ý sự chết của mỗi chúng ta.
Là Kitô hữu, nói cho rõ là tín nhân Công giáo, chúng ta luôn sống trong hy vọng và mong chờ Đức Giêsu Kitô. Thật vậy, cả cuộc đời Kitô hữu là Mùa Vọng liên lỉ và kéo dài, từ khi sinh ra cho đến lúc từ biệt cõi trần này. Thật vậy, Chúa Cha đã hứa ban Con Một, và Người Con đã đến. Trước khi về trời, Chúa Giêsu lại hứa sẽ đến đón chúng ta, để Ngài ở đâu thì chúng ta cũng sẽ ở đó với Ngài. (x. Ga 14:3)
Chúa Giêsu đã hứa gì thì chắc chắn nên trọn – gọi là ứng nghiệm. Kinh Thánh Cựu Ước nói về “định chế cho tương lai” qua sấm ngôn của Đức Chúa: “Này, sẽ đến những ngày Ta sẽ thực hiện điều tốt lành Ta đã phán về nhà Israel và về Giuđa.” (Gr 33:14) Về ngày đó, ngôn sứ Giêrêmia cho biết: “Trong những ngày ấy, vào thời đó, Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công Chính để nối nghiệp Đavít; Người sẽ TRỊ NƯỚC THEO LẼ CÔNG BÌNH CHÍNH TRỰC. Trong những ngày ấy, Giuđa sẽ được cứu thoát, Giêrusalem sẽ AN CƯ LẠC NGHIỆP. Đây là tên người ta sẽ đặt cho thành: Đức Chúa là sự-công-chính-của-chúng-ta!” (Gr 33:15-16) Thiên Chúa là Nguồn Chân Lý và Công Lý, tất nhiên Ngài toàn thiện, và cũng CHỈ MỘT MÌNH NGÀI NHÂN LÀNH. (Mc 10:18; Lc 18:19)
Thánh Vịnh gia tuyên xưng: “Lạy Chúa, đường nẻo Ngài, xin dạy cho con biết, lối đi của Ngài, xin chỉ bảo con. XIN DẪN CON ĐI THEO ĐƯỜNG CHÂN LÝ CỦA NGÀI và BẢO BAN DẠY DỖ, vì chính Ngài là Thiên Chúa cứu độ con. Sớm hôm con những cậy trông Ngài, bởi vì Ngài nhân ái.” (Tv 25:4-5) Đó cũng là ý nguyện mà mỗi chúng ta đều phải cầu xin luôn suốt kiếp lữ hành này.
Tín nhân chúng ta khao khát và mong đợi chính Ngôi Hai Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ duy nhất. Ngài mệnh danh là Đấng Emmanuel, Đấng Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. (Lc 1:23) Ngài đến không chỉ nêu gương khiêm nhường mà còn hướng dẫn và giáo huấn chúng ta biết cách đến với Chúa Cha, biết đường về trời để không bị lạc: “Chúa là Đấng nhân từ chính trực, chỉ lối cho tội nhân, dẫn kẻ nghèo hèn đi theo đường công chính, dạy cho biết đường lối của Người. Tất cả đường lối Chúa đều là yêu thương và thành tín đối với những kẻ nào giữ giao ước và lề luật Chúa.” (Tv 25:8-10)
Chúa Cha là Đấng Nhân Lành Giàu Lòng Thương Xót, Chúa Giêsu cũng giống như Chúa Cha. Thánh Vịnh gia nói rõ: “Chúa xử thân tình với những ai kính sợ Chúa và cho họ biết giao ước của Người.” (Tv 25:14) Câu tục ngữ “cha nào, con nấy” cũng khả dĩ áp dụng cho đời sống tâm linh, nghĩa là chúng ta cũng có dòng máu thương xót như Chúa Cha và Chúa Con, tất nhiên chúng ta cũng phải yêu thương mà tha thứ lẫn nhau.
Chúa Giêsu cũng chỉ mong chúng ta biết sống như vậy mà thôi, vì yêu người là yêu Chúa, là giữ trọn lề luật. (Rm 13:8; Rm 13:10) Với tâm tình đó, Thánh Phaolô cầu chúc: “Xin Chúa cho TÌNH THƯƠNG của anh em ĐỐI VỚI NHAU và ĐỐI VỚI MỌI NGƯỜI ngày càng thêm đậm đà thắm thiết, cũng như tình thương của chúng tôi đối với anh em vậy. Như thế, Chúa sẽ cho anh em được bền tâm vững chí, ĐƯỢC TRỞ NÊN THÁNH THIỆN, không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giêsu, Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người.” (1 Tx 3:12-13)
Trong thời gian chờ đợi, Thánh Phaolô vừa nhắn nhủ vừa truyền lệnh: “Thưa anh em, anh em đã được chúng tôi dạy phải sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa, và anh em cũng đang sống như thế; vậy nhân danh Chúa Giêsu, chúng tôi xin, chúng tôi khuyên nhủ anh em HÃY TẤN TỚI NHIỀU HƠN NỮA. Hẳn anh em rõ chúng tôi đã lấy quyền Chúa Giêsu mà ra những chỉ thị nào cho anh em.” (1 Tx 4:1-2)
Mỗi Mùa Vọng là một dịp mong chờ Chúa Giêsu, kỷ niệm ngày Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Nhưng quan trọng hơn, Mùa Vọng là dịp nhắc nhở chúng ta mong chờ ngày Con Thiên Chúa tái lâm, cũng gọi là Ngày Cánh Chung, hoặc Tận Thế. Trong khi chờ đợi, người ta phải tích cực hành động cụ thể chứ không thể thụ động. Chuẩn bị càng tốt thì kết quả càng mãn nguyện, không chuẩn bị thì có hối cũng không kịp.
Về các điềm lạ trên trời và dưới đất ngay trước khi Con Người quang lâm, trình thuật Lc 21:25-28 (≈ Mt 24:29-31 và Mc 13:24-27) cho biết: “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta SỢ ĐẾN HỒN XIÊU PHÁCH LẠC, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc.”
Chắc chắn cảnh tượng vô cùng khủng khiếp, chúng ta không thể tưởng tượng được. Cảnh tượng núi lửa, sóng thần, động đất, bão lụt, các vụ khủng bố – như vụ tòa tháp đôi WTC ở Hoa Kỳ ngày 11-9-2001 hoặc vụ khủng bố tại Pháp tháng 11-2015, dù có ghê rợn cỡ nào cũng không thể so với Ngày Tận Thế. Tất cả đều bất ngờ, không thể kịp phản ứng bất cứ động thái nào.
Vì thế, mọi người đều phải tỉnh thức và cầu nguyện như Chúa Giêsu khuyến cáo: “Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo NGÀY ẤY NHƯ MỘT CHIẾC LƯỚI BẤT THẦN CHỤP XUỐNG ĐẦU ANH EM, vì Ngày Ấy sẽ ẬP XUỐNG TRÊN MỌI DÂN CƯ KHẮP MẶT ĐẤT. Vậy anh em HÃY TỈNH THỨC và CẦU NGUYỆN LUÔN, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và ĐỨNG VỮNG trước mặt Con Người.” (Lc 21:34-36)
Ngày Tận Thế vô cùng khủng khiếp đến nỗi người ta “hồn xiêu phách lạc.” Bất cứ ai lì lợm tới mức nào cũng phải rung động vì sợ hãi. Thánh Vịnh gia khẩn cầu: “Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài.” (Tv 33:22) Trong khi dịch Cúm Tàu chưa chịu dừng cơn bách hại, lời cầu đó càng cần thiết hơn trong thời gian này, đặc biệt là Mùa Vọng này.
Lạy Thiên Chúa, xin ban bình an đích thực cho chúng con, xin giúp chúng con tỉnh thức khi mong chờ Đấng Thiên Sai, biết chuẩn bị sẵn sàng, không ngừng cầu nguyện. Cuộc đời chúng con như đất hạn hán, xin Mưa Giêsu gội mát và tẩy rửa để mọi người biết sống nhân hậu, không lây nhiễm điều xấu cho tha nhân. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Con người không thể sống ở đời mà không có niềm hy vọng. Niềm hy vọng giúp ta có sức mạnh MV 1-C217
Con người không thể sống ở đời mà không có niềm hy vọng. Niềm hy vọng giúp ta có sức mạnh để vươn lên, trong bất cứ hoàn cảnh nào. Vì thiếu niềm hy vọng, nhiều người khi gặp bế tắc đã tự kết liễu đời mình. Các nhà nghiên cứu xã hội cho biết Nhật Bản và Hàn Quốc là hai quốc gia có số người tự tử nhiều nhất trên thế giới. Trong số những người tự tử, có nhiều người thành đạt trong lãnh vực học vấn hoặc kinh doanh. Có nhiều người là ca sĩ, là người mẫu hoặc ngôi sao điện ảnh. Bổng lộc vinh quang trần thế không đem lại cho họ hạnh phúc, vì họ thiếu niềm hy vọng trong cuộc đời. Đức Kitô là niềm hy vọng cho thế giới. Thiếu Người, cuộc đời này trở nên trống rỗng, vô nghĩa. Vắng bóng Thiên Chúa, thế gian này trở thành bãi chiến trường.
Mùa phụng vụ mà chúng ta khai mở hôm nay có tên là “Mùa Vọng”. Mục đích của mùa này giúp chúng ta tìm thấy niềm hy vọng trong cuộc sống, nhờ đó chúng ta tìm ra ý nghĩa cuộc đời, tận hưởng những điều tốt đẹp Chúa ban cho ta.
Vì là niềm hy vọng, nên những gì Chúa nói với chúng ta trong Bài đọc I và bài Tin Mừng đều ở tương lai. Ngôn sứ Giêrêmia là người chịu nhiều đau khổ, trong tình cảnh dân Do Thái sắp phải đi lưu đày. Vào lúc dân chúng hoang mang, lo lắng và hoảng loạn, vị Ngôn sứ trấn an họ: hãy cậy trông vào quyền năng vô biên của Chúa, vì Ngài là Cha yêu thương, không bỏ rơi các con cái của Ngài. Giêrêmia đã hướng lòng dân chúng về một tương lai, lúc đó Thiên Chúa sẽ can thiệp vào lịch sử và cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công chính để nối nghiệp Đavít. Lúc ấy, sự bất công đàn áp sẽ không còn. Cảnh lưu đầy tha hương sẽ chấm dứt. Đấng Công chính sẽ dẫn dắt dân chúng và cai trị trong hòa bình. Chính những lời ngôn sứ này đã nuôi dưỡng niềm tin và niềm hy vọng của Dân Do Thái trong cảnh lưu đày, để rồi, dù bao tủi nhục, họ vẫn một lòng cậy trông. Trong cảnh tha hương, vào những buổi chiều, người Do Thái đến bờ sống Babilon để gửi nỗi hoài vọng về quê cha đất tổ. Họ cầu nguyện để Thiên Chúa sớm thực hiện điều Ngài đã hứa.
Và, Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa của Ngài từ ngàn xưa. Ngài đã sai Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô đến trần gian. Đức Kitô là Đấng muôn dân mong đợi. Lúc Người khởi đầu sứ mạng loan báo Nước Trời, những câu hỏi, những phản ứng đến từ các vị lãnh đạo tôn giáo cũng như từ phía người dân đã chứng minh sự mong đợi này. Câu truyện ông Gioan Tẩy giả là một ví dụ. Lúc đó ông đang bị giam cầm. Nghe nói về ông Giêsu đang rao giảng có nhiều người tin theo, ông Gioan sai người đến hỏi: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (x. Mt 11,2-6). Câu hỏi này cho thấy niềm hy vọng Đấng Thiên sai của dân Do Thái rất mãnh liệt. Trong lời giảng dạy của mình, Chúa Giêsu luôn chứng minh Người là Đấng Thiên Sai, nhưng không theo quan niệm trần tục như một số khá đông người Do Thái thường nghĩ. Nhiều lần, Người đã điều chỉnh quan niệm Thiên sai nơi các môn đệ. Người cho thấy, Đấng Thiên sai đến không phải để hưởng vinh quang trần thế, nhưng để phục vụ con người và dẫn đưa họ về với Chúa Cha. Người chính là Đấng Công chính mà ngôn sứ Giêrêmia đã tiên báo. Vương quốc của Người là vương quốc an bình, thánh thiện. Nơi đó, tình thương Thiên Chúa sẽ tràn ngập, bao phủ những ai sống công chính, thánh thiện và mến Chúa và yêu người.
Sống niềm hy vọng là gửi gắm tín thác tương lai của mình nơi Thiên Chúa. Người vững niềm hy vọng không lo sợ khi những tai ương xảy đến, vì tin có Chúa che chở đồng hành. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta, sống niềm hy vọng được thể hiện qua một đời sống lành mạnh, đạo đức. Người lên án lối sống bê tha, chè chén, say sưa, đam mê hoang đàng. Bởi có thể chính lúc say sưa ấy, Thiên Chúa đến gọi họ, và họ sẽ rơi vào tình huống bất ngờ, thiếu chuẩn bị hành trang về quê vĩnh cửu. Chúa mời gọi chúng ta: “Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người”.
Đức Giêsu đã đến trần gian cách đây hơn hai ngàn năm. Người đang hiện diện giữa chúng ta một cách thiêng liêng vô hình. Sống tinh thần của Mùa Vọng, là nhận ra sự hiện diện huyền nhiệm ấy, đồng thời chờ đợi Người sẽ đến trong vinh quang. Một cách cụ thể và đối với cá nhân mỗi người, Chúa Giêsu sẽ đến vào lúc chúng ta kết thúc cuộc đời trần thế. Lúc đó, Chúa sẽ phán xét những hành vi cử chỉ của chúng ta, trong cách đối xử với anh chị em mình.
Người Kitô hữu không chờ đợi Chúa trong một tâm trạng ù lỳ, miễn cưỡng hay tiêu cực buồn bã. Thánh Phaolô khuyên tín hữu thành Thessanonica: Hãy bền tâm vững chí, sống thánh thiện, không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giêsu, Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người.
Cuộc chờ đợi nào cũng đòi hỏi phải kiên nhẫn. Tình yêu mến cậy trông sẽ biến cuộc chờ đợi trở thành niềm vui, vì chúng ta xác tín Đấng mà chúng ta chờ đợi là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Vâng, Chúa Giêsu đang đến, hãy chuẩn bị tâm hồn để đón Người. Chính Người là niềm Hy Vọng của chúng ta. Sống niềm hy vọng phải đi kèm với thiện chí canh tân đổi mới cuộc đời, để khi Chúa đến gặp ta, đó sẽ là cuộc hội ngộ hạnh phúc Cha-con, Thày-trò trong niềm vui bất tận.
Vọng có nhiều nghĩa, cả xấu và tốt. Khía cạnh xấu gồm, vọng ngữ, vọng tưởng, vọng cuồng. Để MV 1-C218
Vọng có nhiều nghĩa, cả xấu và tốt. Khía cạnh xấu gồm, vọng ngữ, vọng tưởng, vọng cuồng. Để có một mùa vọng tốt lành, hãy lắng nghe sứ điệp của Tin Mừng theo Thánh Luca : “Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người”. (Lc 21, 34 – 36)
Vọng ngữ: Lời nói gian ngoa, không thành thật, lừa gạt, không ngay thẳng. Người dùng vọng ngữ mang tính tham lam, ưa thích danh vọng, mưu đồ thỏa mãn cho cái ích kỷ, chiếm đoạt lòng tin cho người khác. Thánh Phao lô hướng dẫn cộng đoàn Ê phê sô: “Anh em đừng bao giờ thốt ra những lời độc địa, nhưng nếu cần, hãy nói những lời tốt đẹp, để xây dựng và làm ích cho người nghe” (Ep 4, 29).
Người vọng ngữ trước tiên là lừa gạt chính mình, sau mới là hại đến người khác. Lời ngay thật và chân thành là lời xây dựng chính mình và cũng xây dựng cho người khác điều ích lợi, tốt đẹp trong đời sống. Chúa dạy: “có thì phải nói có, không thì phải nói không. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.” (Mt 5, 37)
Vọng tưởng: Mơ ước điều bất chính, mơ tưởng những điều xấu, âm mưu điều đê tiện hại người… Vọng tưởng ở cấp độ yên thân, áo ấm, tích trữ cho mình như người nhà giàu tự nhủ: “hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã! Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” (Lc 12, 19). Các giáo sĩ Do Thái nói rằng: “Người giàu giúp đỡ người nghèo trong cuộc sống này, nhưng người nghèo lại giúp người giàu trong sự sống ngày sau”.
Vọng tưởng trong đời sống cầu nguyện, còn là suy nghĩ mông lung, xác trong nhà thờ, hồn lang thang đâu đó ngoài phố thị, chợ đời… Mộng tưởng những điều không thật và làm nên lối sống ảo, cuối cùng thất bại trong cách sống của mình dẫn đến thiếu niềm tin ở cuộc sống… Mộng tưởng rất nguy hại, Chúa mời gọi neo giữ tâm trí của mình lại trong việc: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho.” (Mt 6, 33).
Cuồng vọng: Lối sống cuồng vọng dẫn dắt người ta đến chỗ nguy hại nhất. Cuồng vọng làm cho người ta điên cuồng chạy theo lối sống ảo tưởng, muốn làm tất cả không phân biệt tốt, xấu, lành dữ; điên cuồng để đạt được mục đích, tình, tiền, tài. Cơn cuồng vọng không chỉ xuất hiện ở cá nhân mà lắm lúc cuồng vọng phát sinh trong một số đông. Có những phong trào quái dị ra khỏi nếp sống bình thường của con người. có những cơn cuồng vọng muốn đập phá mọi tôn giáo ngay lành, chỉ muốn phát triển một tôn giáo ma quỷ, những giáo phái phá đổ mọi luật lệ, theo lối sống quần hôn, phục vụ cho khoái lạc. Có những cơn cuồng vọng muốn phá vỡ hôn nhân bình thường truyền thống cha ông để lại, để sống lối sống hôn nhân dị thường.
Cơn cuồng vọng giống như bão táp quét qua các nền văn hóa truyền thống, những tôn giáo kỷ cương, ngay lành, những xã hội trật tự an ninh, những giá trị công bằng và ngay chính…
Ra khỏi Vọng xấu để bước vào mùa Vọng Chúa mời gọi.
Tỉnh thức và cầu nguyện luôn. Phương thế ra khỏi những điều xấu luôn là lời mời gọi canh chừng tỉnh thức chính mình. “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5, 8)
Tập luyện các nhân đức. Vọng không chỉ về một ngày tháng mà gợi nhắc tới mùa. Như nhà nông đợi chờ ngày mùa bằng những vất vả hy sinh, chăm bón. Người Kitô hữu cũng được mời gọi tập luyện đời sống thiêng liêng. Theo gương Mẹ Maria: “suy đi, gẫm lại Lời Chúa” (Lc 2, 19) và những sự kiện gặp gỡ Chúa trong đời, để được lớn lên trong tình yêu của Chúa.
Mừng vui đón Chúa Giáng Sinh. Kết thúc mùa Vọng bằng tâm tình được sinh lại trong Chúa cùng Chúa Hài Nhi. Mùa ân phúc của ngày gặt hái kết quả của hy sinh, tập luyện. Mùa của ngày đón Chúa vào trong cuộc đời và tiếp tục đón Chúa trong ngày quang lâm.
Xin Chúa giúp chúng con được sinh ra trong Người và lớn lên cùng Người.
Mùa vọng lại trở về.Chu kỳ Phụng vụ lại bắt đầu. Mùa vọng là mùa chờ đợi, mong chờ lần thứ MV 1-C219
Mùa vọng lại trở về.Chu kỳ Phụng vụ lại bắt đầu. Mùa vọng là mùa chờ đợi, mong chờ lần thứ nhất Con Thiên Chúa đến trần gian, nhưng Mùa vọng cũng là mùa chờ đợi Chúa Giêsu quang lâm một cách bất ngờ, đột xuất không ai có thể suy đoán, biết trước được. Lần sau cùng này đến thình lình như :” chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất “ ( Lc 21,35 ).
Người ta cứ tưởng rằng ngày tận cùng sẽ xẩy đến lúc này, lúc nọ, năm này, năm kia. Không giữa hai lần chờ đợi, đã có biết bao lần Chúa bất ngờ đến. Đó là ngày chết của mỗi người, của chính chúng ta. Bởi vì, trên thế giới đã có biết bao người giỏi giang, trổi vượt, có biết bao nhà khoa học, bác học muốn biết ngày nào con người chết, ngày nào là ngày tận thế! Tuy nhiên, những người đó đã tốn biết bao công sức, tiền của với biết bao nghiên cứu khoa học, biết bao giả thiết đưa ra với nhiều kết luận, cuối cùng mọi cố gắng của họ đều bó tay. Bao đe dọa, bao lời tiên tri, suy đoán của giáo phái này, giáo phái kia đều trở nên lố bịch, vô ích !
Chúa Nhật thứ I Mùa vọng năm C, Chúa nói cho con người, cho nhân loại, cho chúng ta về viễn cảnh của ngày phán xét, ngày cánh chung. Chúa cho chúng ta thấy trước những cảnh tượng và những sự việc hãi hùng đến nỗi con người, và chúng ta sẽ sợ hãi, run lên, hồn xiêu phách lạc khi phải đối diện, đương đầu với những tai họa giáng xuống địa cầu như Tin mừng hôm nay kể ra :” Điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang vì biển gào sóng thét…” ( Lc 21,25-26 ).Trước những cảnh tượng khủng khiếp, nhưng xẩy đến bất ngờ, con người không kịp ăn năn, hối cải, không còn cơ hội để làm những việc lành phúc đức để mong Chúa thưởng công. Chỉ có những người biết lắng nghe lời Chúa, thực thi lời Chúa, những người thánh thiện, đạo đức luôn khôn ngoan, sẵn sàng như năm cô trinh nữ khôn ngoan mang đèn mà lại mang dầu theo, hoặc như những đầy tớ nhanh nhẹn, đắn đo kỹ càng, suy nghĩ cẩn thận, luôn chóng vánh, tỉnh thức đón chờ ông chủ đi làm xa về , mới đủ sức, đủ điều kiện thoát khỏi mọi sự việc sắp xẩy ra trong tư thế đứng thẳng và ngẩng đầu cao vì những người này luôn sẵn sàng, cầu nguyện và hết sức tỉnh táo “ đành mất mạng sống “ để sẵn sàng vào dự tiệc với Chúa Giêsu trong Nước Trời.
Vâng, Thiên Chúa yêu thương con người, Ngài không muốn để bất cứ người nào hư mất, nên Ngài đã cho con người, cho chúng ta biết trước cảnh tượng khủng khiếp đó để chúng ta tỉnh thức và cầu nguyện.Tuy nhiên, con người thường dửng dưng cho rằng ngày đó còn lâu, hoặc chưa thể nào xẩy đến được, cứ từ từ không gì phải vội vàng… Ngày đó không thề là hôm nay cũng không thể là ngày mai…Chính vì thế, họ tỉnh bơ trước lời cảnh tỉnh của Chúa Giêsu. Chúng ta hãy coi chừng vì Chúa cảnh giác chúng ta thật mạnh mẽ và rõ ràng :” Thiên Chúa chính là chủ nhân của cuộc sống vì Ngài là Vua Vũ trụ. Ngài điều khiển mọi sự trên trời, dưới đất “. Chính vì thế, chúng ta phải mau mắn sửa đổi nếp sống, ăn ngay ở lành để canh tân, sám hối, quay trở về với Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Xin giúp chúng con luôn “ tỉnh thức và cầu nguyện “, luôn sẵn sàng đón chờ Chúa đến. Xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn thanh thoát, mau mắn chờ đón Chúa vì chúng con sắp được lãnh ơn cứu độ. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Đức Giêsu báo trước cho con người điều gì ? 2.Chúng ta có biết khi nào Chúa đến không ? 3.Chúa có đến bất ngờ không ? 4.Lần thứ nhất, Chúa đến là lần nào ? 5.Ngày tận cùng của mỗi người chúng ta là ngày nào ?
Tầng trời rung chuyển khắp nơi, Biển gầm sóng vỗ, ngoài khơi thét gào. Bầu trời điềm lạ trăng sao, Mọi dân lo lắng, khát khao mỏi mòn. Kinh hồn chờ đợi héo hon, Càn khôn vũ trụ, núi non vọng chờ. Mây tan tỏa sáng vô bờ, Con Người ngự đến, kính thờ Vua ta. Uy nghi hiển thánh hiện ra, Hạ thân cứu rỗi, mưa sa phúc lành. Giữ mình tránh khỏi tranh dành, Xin đừng chè chén, thi hành đổi thay. Nguyện cầu tỉnh thức ăn chay, Hãm mình sửa lỗi, hằng ngày thực thi. Mong chờ ân phúc từ bi, Khổ đau chuốc lấy, bước đi trong đời. Hồng ân chan chứa tuyệt vời, Giê-su giáng thế, làm người hóa thân. Yêu thương cứu độ nhân trần, Hy sinh chịu chết, thiện chân cao vời.
Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Vọng của Năm Phụng Vụ mới. Mùa Vọng là mùa chuẩn bị đón mừng Chúa đến với hai ý nghĩa. Thứ nhất, chuẩn bị Lễ Chúa Giáng Sinh nơi tâm hồn mỗi người chúng ta. Thứ hai, nhắc nhở chúng ta rằng Chúa sẽ đến trong vinh quang.
Mùa Vọng là mùa của sự chờ đợi trong hy vọng. Niềm hy vọng làm phấn khởi lòng người. Mỗi năm khi Mùa Vọng đến, ai ai cũng nô nức, người tin Chúa cũng như người không tin, đều chuẩn bị một điều gì đó. Người trong đạo thì lo gởi thiệp, kết đèn, trang trí, chuẩn bị làm hang đá và trưng bày các tượng ảnh bên ngoài. Họ còn chuẩn bị tâm hồn qua các cuộc cấm phòng, tĩnh tâm, lãnh nhận bí tích hòa giải và thực hành việc bác ái.
Người không có niềm tin vào Chúa, họ cũng chuẩn bị nào là trưng bày cây thông, hình ảnh ông già Noel, giăng đèn điện và tổ chức các buổi liên hoan. Các nhà thương mại thì lợi dụng cơ hội để tiêu thụ các sản phẩm cả trong đạo lẫn ngoài đời. Như vậy ai cũng có sự chuẩn bị cho dù mục đích có khác nhau. Có biết bao nhiêu người hân hoan mừng Lễ Giáng Sinh, nhưng mấy ai để tâm suy niệm ý nghĩa đích thực của mùa lễ. Nhiều người không hiểu về mầu nhiệm Chúa giáng trần cứu độ nhân loại. Có khi họ không biết Chúa Giêsu là ai và tại sao Chúa lại xuống thế làm người. Họ chỉ biết là đây là một mùa lễ vui mừng. Có dịp nhận qùa và cho qùa.
Là Kitô hữu, chúng ta nhận rõ ý nghĩa đích thực của những ngày Mùa Vọng. Vọng chờ trong tỉnh thức và cầu nguyện. Chúa Hài Nhi Giêsu đã giáng sinh trong thời gian và không gian của lịch sử. Ngày nay Chúa không sinh ra nơi hang đá nghèo hèn, nhưng Chúa muốn gõ cửa tâm hồn của mỗi người. Chúng ta hãy sẵn sàng dọn lối và sửa đường đón Chúa vào lòng.
Chúa loan báo ngày Chúa đến sẽ có những dấu lạ trên trời, dưới đất và các dân tộc buồn sầu lo lắng… Chúa mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn. Quan sát chung quanh, hằng ngày chúng ta chứng kiến biết bao người đã ra đi. Chúng ta nhận biết những người ra đi không phân biệt kẻ già, người trẻ, người lớn hay trẻ em. Ra đi là mẫu số chung cho mọi người. Vậy chúng ta cần chuẩn bị sẵn sàng vì chúng ta không biết ngày nào và giờ nào.
Chúa giáng sinh làm người để cùng chia xẻ thân phận con người với chúng ta. Niềm vui của chúng ta là có Chúa ở cùng. Chúa chính là nguồn hoan lạc trong tâm hồn. Chúng ta hãy chuẩn bị đón chờ Chúa đến với tâm hồn trong mùa Giáng Sinh này và sẵn sàng đón Chúa đến ngày sau hết.
Chúng ta bước vào Mùa Vọng, hay còn gọi là mùa Ad. Mùa Vọng, nguyên nghĩa tiếng Latin là MV 1-C221
Chúng ta bước vào Mùa Vọng, hay còn gọi là mùa Ad. Mùa Vọng, nguyên nghĩa tiếng Latin là Adventus, (có nghĩa là đến, quang lâm). Thời thánh Giáo hoàng Grêgôriô I, thời gian chuẩn bị đón chờ Chúa đến trước lễ Giáng Sinh kéo dài bốn tuần được gọi là Mùa Vọng.
Hỏi : Chúa đã đến chưa ? Chúng ta phải khẳng định với nhau rằng : Chúa đã đến rồi. Vậy chúng ta còn mong chờ Chúa nào nữa?
Mùa Vọng Giáo hội đang sống là sống với hai chiều kích : một là tưởng niệm biến cố Nhập thể làm người của Đức Giêsu Con Thiên Chúa, sinh bởi Ðức Maria Đồng TrInh ; hai là chờ đợi Chúa trở lại trong vinh quang để “phán xét kẻ sống và người chết”, như chúng ta vẫn đọc trong kinh Tin Kính. Đó là lý do các từ “chờ đợi” được người ta nhắc nhiều đến trong Mùa Vọng. Các lễ nghi cử hành Phụng vụ trong Mùa Vọng, từ màu sắc, các bài đọc, các bài thánh ca đều diễn tả niềm hy vọng với lời cầu xin tha thiết : « Maranatha – Ngài ơi hãy đến, Ngài đến mau đi », và hơn thế nữa dân Do Thái kêu van : « Xin Ngài xé tầng trời mà ngự xuống ».
Vì sống cả hai chiều kích, nên người kitô hữu phải mặc tâm tình của dân Cựu Ước và của chính mình ngày hôm nay.
Mùa Vọng trong Kinh Thánh
Phụng vụ Lời Chúa trong Mùa Vọng làm chúng ta nhớ lại sự mong chờ Đấng Cứu Thế đến của Dân Do Thái, Đấng mà ngôn sứ đã loan báo : “Từ gốc tổ Giêsê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non…” (x.Is 11, 1-10).
Lời thiên thần Gabriel cho biết Đức Maria cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế :“Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu…” (x.Lc 1, 26-38)
Gioan Tẩy Giả, con trai của Êlisabét và là anh em họ với Chúa Giêsu, xuất hiện trước để loan báo việc Con Thiên Chúa đến, kêu gọi mọi người hoán cải và rao giảng rằng : “Có Ðấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi đã làm phép rửa cho anh em nhờ nước; còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1, 1.8 và Ga 1, 19.28)
Như thế, những việc cử hành thánh trong Mùa Vọng nhắc nhở chúng ta hoán cải nội tâm, canh tân niềm tin, vững tin vào tương lai và trở lên men giữa lòng thế giới.
Mùa Vọng
Trong lịch phụng vụ Công Giáo, Mùa Vọng kéo dài bốn tuần và mỗi tuần có tên gọi truyền thống đặc thù của nó, gồm những lời đầu tiên của bài thánh ca mở đầu :
– Chúa Nhật I Mùa Vọng: Ad Te levavi…(= Con nâng tâm hồn con lên tới Chúa, lạy Chúa… )
– Chúa Nhật II Mùa Vọng :Populus Sion …(Này hỡi Dân Sion…)
– Chúa Nhật III Mùa Vọng : Gaudete …(= Anh em hãy vui lên trong niềm vui của Chúa…)
– Chúa Nhật IV Mùa Vọng : Rorate … (= Trời cao, hãy đổ sương xuống, và làm mưa Đấng CôngChính…)
Đức Giêsu dạy chúng ta sống Mùa Vọng
Đức Giêsu đã đến rồi, nên chiều kích thứ nhất của Mùa Vọng nhắc lại cho chúng ta việc Chúa đến lần thứ nhất, và tỉnh thức sẵn sàng đón Chúa tái lâm là chiều kích thứ hai : “Vì giờ cứu rỗi các con đã đến gần” (x. Lc 21, 25-28, 34-36).
“Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biểngầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến” (Lc 21, 25-28). Đó là những dấu hiệu báo trước ngày Chúa tái lâm.
Hơn bao giờ hết, con người thời nay hết sức đau buồn vì nạn khủng bố gây rq. Các kitô hữu ở nhiều nơi kêu la thảm thiết. Biển gầm lên, đất rung chuyển tại Nhật Bản, Inđônêsia, Trung Quốc và nhiều nơi khác thiêu hủy biết bao sinh mạng con người. Phải chăng giờ cữu rỗi đã gần đến?
Lời Chúa Giêsu khuyên chúng ta vẫn còn cấp bách : “Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!” (Lc 21, 34-36).
Sống Mùa Vọng
Thế giới dường như đang cạn kiệt tình thương, nên loài người giết hại nhau, hủy hoại môi sinh, khiến thiên nhiên nổi nóng chống lại con người. Sách Khải Huyền viết : “Ta đứng ngoài cửa và gõ”. Chúa gõ cửa lòng chúng ta : “Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa chiều với người ấy và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3,20). Chúa đang chờ đợi chúng ta mở cửa để bước vào đem theo phúc lành cũng như tình bạn của Chúa đến cho chúng ta.
Chúa Giêsu là Hoàng Tử Hòa Bình, vì Người sinh ra hòa bình trong trái tim chúng ta. Người đến thế gian bằng tình yêu và lòng mến, với sự cảm thông dịu hiền của một Vì Thiên Chúa là Cha. Lợi dụng cơ hội này, chúng ta phải ý thức mình là người mang tình yêu, hòa giải và an bình, sẵn sàng trao ban và tha thứ cho nhau, liên đới trong tình huynh đệ, giúp đỡ lẫn nhau, đồng tâm chia sẻ vui buồn, khổ đau với đồng loại.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ của Chúa Giêsu, xin dẫn chúng con bước vào Mùa Vọng và hăm hở đón mừng Chúa Giêsu Con Mẹ ngự đến. Amen.
Hôm nay, chúng ta bước vào năm Phụng vụ mới, bắt đầu từ Chúa nhật thứ I mùa Vọng. Mùa Vọng MV 1-C222
Hôm nay, chúng ta bước vào năm Phụng vụ mới, bắt đầu từ Chúa nhật thứ I mùa Vọng. Mùa Vọng, là mùa của niềm vui, mùa trông đợi Chúa đến. Thật ra, Chúa đã đến với nhân loại lần thứ nhất cách đây hơn 2.000 năm, khi Ngài giáng sinh ở Belem, và hằng ngày Ngài vẫn đến với chúng ta qua Lời của Ngài, Ngài hiện diện trong Bí tích Thánh thể, Ngài ẩn mình trong từng người chúng ta gặp gỡ. Và tương lai, Ngài sẽ đến lần thứ hai trong ngày quang lâm.
Nhưng đan xen giữa 2 lần đến, thì chắc chắn Chúa sẽ đến riêng với mỗi người chúng ta đó là giờ sau hết. Chính vì thế mỗi năm mùa Vọng về, Giáo hội nhắc lại cho chúng ta lời Chúa nói về ngày giờ Chúa viếng thăm. Chẳng hạn như: “Các con hãy tĩnh thức và cầu nguyện, vì không biết ngày nào giờ nào Chúa các con sẽ đến”.
Một thầy phó tế chỉ còn hai ngày nữa là lãnh chức linh mục, áo lễ, chén lễ đã mua rồi, thiệp mời đã gửi đi hết rồi, nói chung là mọi sự đã sẵn sàng. Thế nhưng, buổi sáng hôm ấy trên đường đi về nhà thăm mẹ bệnh nặng, đang đi chiếc xe bổng dưng bể bánh trước, thầy té ngả lăn ra bên đường, liền ngay lúc đó chiếc xe lớn đàng sau chạy tới thắng không kịp cán thầy chết tại chỗ.
Dâng thánh lễ an táng cho thầy, cả nhà thờ hôm ấy dường như ai cũng rơi nước mắt. Bởi vì nhìn thấy những người thân của thầy ôm chầm chiếc quan tài khóc như mưa. Cha mẹ thì thương tiếc đứng không nổi trong nhà thờ. Những giọt nước mắt tang thương ấy chắc vang lên tới tận trời cao. Lúc đó, làm con chợt nhớ tới lời cha ông mình nói: “Lá vàng còn ở trên cây, là xanh rụng xuống Trời hay chăng Trời!”.
Cái chết bất ngờ, cái chết tức tưởi, cái chết tang thương ấy, như một lời nhắc nhở chúng ta, rồi đây sẽ đến một lúc nào đó, chúng ta cũng phải từ giã cuộc đời tạm bợ này. Và không ai biết trước giờ mình chết và chết ở hoàn cảnh nào. Tất cả dường như tấm màn bí mật che lấy cuộc đời chúng ta.
Chính vì thế, lời Chúa luôn luôn nhắc chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì giờ Chúa đến hết sức bất ngờ như kẻ trộm. Tĩnh thức để khỏi rơi vào cơn cám dỗ của ba thù, đó là: ma quỉ – xác thịt – thế gian. Kẻ thù đáng sợ nhất là ma quỉ.
Đức Giêsu nói: Ma quỷ là cha dối trá, nó đánh lừa rất tinh vi, làm chúng ta ươn lười, biếng nhác trong việc siêng năng lãnh nhận các Bí tích và đọc kinh dự lễ. Vì nghĩ rằng: mình còn trẻ, còn khỏe chưa chết đâu, cứ từ từ ăn chơi hưởng thụ, để khi về già bệnh nặng thì mời cha đến xức dầu, nếu như thế, thì e rằng mắc mưu ma quỷ rồi.
Tĩnh thức để khỏi rơi vào cơn cám dỗ thứ hai, đó là xác thịt. Người ta nói rằng nhu cầu xác thịt còn lớn hơn nhu cầu ăn uống. Chính vì xác thịt mà ngày nay người ta khai thác tình dục tối đa, đủ mọi hình thức. Hậu quả biết bao nhiêu thai nhi bị sát hại hết sức dã man, ngay từ trong lòng mẹ.
Tỉnh thức đừng để rơi vào cơn cám dỗ thứ ba, đó là thế gian. Thế gian ngày nay đầy dẫy những quyến rũ, mời gọi, cám dỗ lôi kéo con người hướng chiều về điều xấu. Những thú vui vật chất, tình tiền tài… rất ư là hấp dẫn mời gọi, làm chúng ta lung lạc đức tin, tâm hồn không còn có Chúa ngự trị.
Bởi vậy, Lời Chúa hôm nay nhắc nhở: Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con.
Như vậy, tĩnh thức là đi vào con đường hẹp, đừng tìm dễ dãi bản thân, nuông chiều theo xác thịt. Tĩnh thức như năm cô trinh nữ khôn ngoan, chuẩn bị ngọn đèn đức tin luôn tỏa sáng, và bình dầu luôn đong đầy tình Chúa, đầy ắp tình người. Để khi chàng rễ Giêsu đến bất cứ lúc nào, Ngài sẽ mời chúng ta vào dự tiệc cưới Nước trời.
Anh chị em thân mến,
Lời Chúa dạy: Tĩnh thức luôn phải đi đôi với cầu nguyện. Vì tinh thần thì mau mắn nhưng xác thịt thì nặng nề yếu đuối.
Bởi vì, cầu nguyện là nền tảng nuôi dưỡng đời sống đức tin. Là kết hợp mật thiết với Chúa. Lúc đó, trong tư thế đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến.
Như vậy, chỉ có cầu nguyện mới giúp chúng ta giảm bớt những bận tâm, lo lắng việc đời, biết tìm kiếm nước Thiên Chúa trước, còn mọi sự khác để Chúa lo cho sau.
Chỉ có cầu nguyện mới giúp chúng ta vơi đi những nỗi u buồn, thắng dẹp những cơn cám dỗ, tìm lại được bình an nội tâm.
Xin Chúa giúp chúng ta tích cực sống tinh thần tĩnh thức của Mùa Vọng, bằng đời sống cầu nguyện gắn bó với Chúa. Làm mới lại đời sống nội tâm. Sống tinh thần bác ái yêu thương. Đó là những việc làm căn bản để dọn mình mừng đại lễ Chúa giáng sinh, và hướng lòng trông đợi ngày giờ Chúa đến. Amen.
Khởi đầu của năm Phụng vụ, Giáo hội mời gọi chúng ta hướng về việc Chúa đến với nhân loại MV 1-C223
và mỗi người trong chúng ta. Thời gian của đời người không phải chỉ là để xây đắp những công trình nhân loại mà thôi, học hành, làm ăn mua bán, dù các công trình này có cần thiết cho đời sống con người. Thời gian của đời người còn là việc luôn chuẩn bị sẵn sàng hướng về việc Chúa đến để đưa con người chúng ta đến một đời sống mới quyết định hơn. Bài Tin mừng mô tả những hiện tượng thay đổi vũ trụ đáng sợ là dấu chỉ kết thúc thời gian. Mọi thời đại đều cảm thấy những dấu chỉ thay đổi vũ trụ như rất gần kề. Những dấu chỉ trên trời như mặt trời, mặt trăng, các tinh tú thay đổi đảo lộn, dưới đất những dấu chỉ nơi biển cả với sóng dữ thét gào những đợt sóng thần. Không còn bình yên và trật tự ổn định vốn là những chuẩn mực tự nhiên thông thường trong đời sống con người. Những lời tiên báo về những biến chuyển vũ trụ vốn thuộc một loại văn Khải huyền cánh chung, người ta khó có thể giải thích theo mặt chữ những hiện tượng này như là sự kiện của một cuộc tận thế gần kề khi mà vũ trụ chấm dứt vận hành của nó. Mặt khác, những biến chuyển vũ trụ như những thiên tai sóng thần, động đất, bão tố vẫn có thể xảy ra bất cứ lúc nào, khi thì ở nơi này khi thì ở nơi khác. Nói theo cách nhìn khoa học, những nhà khoa học cũng có thể dự đoán thời gian mặt trời sẽ tắt và vũ trụ tan biến nhưng thời điểm đó cũng còn phải hằng tỷ năm mới xảy ra. Mặt khác, người ta vẫn chứng kiến thiên nhiên vũ trụ điều hòa một cách trật tự nhịp nhàng làm cho con người an tâm tin tưởng và chung tay góp phần xây dựng với mọi người.
Chúa Giêsu không phải là một nhà thông thái, tiên đoán những hiện tượng vũ trụ dựa vào những tính toán khoa học tiên tiến, người cũng không phải là một nhà tiên tri của thời đại, tiên báo những điềm dữ để làm cho mọi người giật mình sợ hãi. Nhưng Người đã nói với uy quyền thần linh về một thực tại chung cuộc quan trọng có liên hệ thiết thân với mọi người để mời gọi mọi người biết chọn lựa hành động khôn ngoan trong cuộc đời hiện tại của mình. Người không xác định một thời gian nào sẽ xảy ra, nhưng chỉ đơn giản xác định là sẽ xảy ra, và mỗi người cần phải biết đối diện với những thực tại quyết định này ngay từ bây giờ. Trong khi mà ai cũng an tâm nghĩ rằng vũ trụ vận hành một cách trật tự hài hòa xác định, thì Chúa Giêsu lại cảnh giác các môn đệ tính chất bất thường và mong manh đổ vỡ của nó. Tuy nhiên, dù những tai ương vũ trụ này có đáng sợ cách mấy, thì đối với những người môn đệ của Chúa Kitô, đó lại là thời gian cứu độ của họ, họ được mời gọi tin tưởng và ngẩng cao đầu, đứng vững như dấu chỉ của những con người xứng đáng với thời gian cứu độ dành cho họ.
Vọng cũng là chờ đợi, thời gian chờ đợi Con Thiên Chúa đến để đổi mới cuộc đời mỗi người. Mùa Vọng của Giáo hội không phải chỉ là thời gian chờ đợi thụ động, mệt mỏi, nhưng là chờ đợi đầy hy vọng và tin tưởng. Người môn đệ của Chúa Giêsu được mời gọi tỉnh thức và cầu nguyện, xa tránh những đam mê tội lỗi của mình như chè chén say sưa, hay tham mê của cải và đắm mình trong nhục dục xác thịt. Tuy nhiên, Chúa đến không tùy thuộc vào hành động của chúng ta. Đây là công trình của Thiên Chúa, của lòng thương xót của Thiên Chúa. Đây là quà tặng của tình yêu và mời gọi con người đón nhận với tự do và trách nhiệm. Sự tỉnh thức của người tín hữu là tin tưởng vào tình yêu tuyệt đối của hồng ân Thiên Chúa và ý thức trách nhiệm của mình phải chuẩn bị thật xứng đáng với ân huệ tình yêu và sự sống cao trọng này. Sự chờ đợi có trách nhiệm bao giờ cũng là chờ đợi năng động, làm cho chúng ta trở nên biết liên đới với những người khác, chuyên cần cầu nguyện và từ bỏ những tội lỗi và tật xấu. Thái độ cầu nguyện làm cho con người nhận biết thánh ý Thiên Chúa và can đảm bước theo thánh ý này.
Vọng là thời gian hồng phúc bởi vì con người biết mình còn có hy vọng điều mới mẻ vượt lên trên thân phận yếu đuối của mình. Chính Chúa Giêsu là mục đích và ý nghĩa cho cuộc đời của chúng ta. Người sẽ xuất hiện trong vinh quang và âu yếm đợi chờ chúng ta để đưa chúng ta vào một cuộc sống mới vĩnh cửu. Con người chúng ta dễ bị những đam mê tội lỗi cuốn hút vào những đam mê trụy lạc. Có những người chìm ngập trong những thiên đàng giả tạo của men rượu hoặc của ma túy, hoặc của những lạc thú xác thịt và tiền của. Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta một thái độ thích hợp là cầu nguyện và tỉnh thức. Mỗi người sẽ phải trả lẽ về đời sống của mình, sẽ bị phán xét về những công việc làm của mình. Cuộc đời có giá trị cao cả không để chúng ta buông xuôi trong những yếu hèn của mình. Thánh Phaolô nhắc nhở các tín hữu một thái độ cụ thể trong đời sống cộng đoàn, đó là họ hãy biết yêu thương và tha thứ cho nhau. Đồng thời họ hãy luôn biết kiểm điểm chính mình để trở nên những con người thánh thiện không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha của họ. Cuộc đời chúng ta được xây dựng từng ngày với những cố gắng và thái độ thích hợp nhất là cầu nguyện để có thể đứng vững trước mặt “con người”.
Cùng với toàn thế Giáo Hội, chúng ta chính thức bước vào Mùa Vọng hôm nay. Mở đầu Mùa Vọng MV 1-C224
Cùng với toàn thế Giáo Hội, chúng ta chính thức bước vào Mùa Vọng hôm nay.
Mở đầu Mùa Vọng,”Chúa Giêsu bảo chúng ta: “Hãy ngẩng đầu lên vì ơn cứu độ đã đến gần”(Lc 21,28)
Thế nào là ngẩng đầu lên và tại sao lại phải ngẩng đầu lên như vậy? Chúa Giêsu bảo chúng ta phải ngẩng đầu lên vì chúng ta thường hay cúi đầu xuống. Cúi đầu xuống để chỉ nhìn thấy những cái dưới đất, chỉ khao khát, tìm kiếm những cái dưới đất và lấy làm thỏa mãn với những cái dưới đất.
Nói là: “cúi đầu xuống” nhưng thực ra là để cho lòng bị thu hút, bị phong tỏa, bị ràng buộc vào trái đất bởi biết bao sợi giây vô hình, gỡ ra không nổi. Tình trạng này làm tâm hồn chúng ta tê liệt đến nỗi không còn đủ sức cất cánh lên cao, để khao khát, tìm kiếm những gì chân thật, vĩnh cửu, là những cái tạo nên thực chất và ý nghĩa cuối cùng của cuộc đời con người.
Một chú vịt trời theo đàn bay về phương Bắc. Một buổi chiều khi đáp xuống một nông trại, chú vịt trời thấy đàn vịt nhà đang ăn bắp, liền nhảy lên để được ăn. Bữa ăn ngon làm nó không muốn bay theo đàn nữa, nó tự nhủ: để mai mốt mình bay theo cũng không muộn.
Nhưng rồi ngày qua ngày nó vẫn ở với đàn vịt nhà để được nuôi ăn. Mùa thu đến, đàn vịt trời bay từ hướng Bắc xuống hướng Nam: các bạn cũ kêu nó trở về khi bay qua nông trại, chú vịt trời ráng sức dập cánh bay lên, nhưng đôi cánh bây giờ quá yếu, nó chỉ bay được lên nóc nhà rồi lại rơi xuống đất. Đời sống dễ dãi ở đây đã làm nó không thể bay được như xưa. Nó đành đứng nhìn đàn vịt trời bay xa dần.
Từ đó mỗi mùa xuân và mùa thu, chú vịt trời đều thấy các bạn cũ bay qua hướng Bắc rồi trở về hướng Nam. Nhưng nó không thể cất cánh bay theo vì nó đã đánh mất đi khả năng thiên phú của nó để rồi nó yên phận sống dưới đất với đàn vịt nhà trong trang trại!.
Cuộc sống của con người trên trái đất này nhiều khi cũng như thế. Có nhiều người đã để cho mình bị mắc kẹt vào những sự tầm thường mà không gỡ ra nổi.
Đành rằng cuộc sống diễn ra dưới đất thì không thể không yêu mến trái đất này. Phải khai thác, sử dụng trái đất hợp với nhu cầu và lợi ích chính đáng của con người. Mỗi người phải nhận lấy trách nhiệm xây dựng trần thế và gây dựng cuộc đời của chính mình. Điều này chính đáng và cần thiết.
Nhưng như vậy đã đủ chưa? Một chén cơm đầy, một ngôi nhà sang trọng, một trương mục đầy tiền, một chiếc xe hơi lộng lẫy đã đủ để thỏa mãn ước mơ làm người của chúng ta chưa? Có còn cần cái gì khác nữa không?
Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy ngẩng đầu lên là muốn thức tỉnh chúng ta. Đừng giam mình trong những giấc mơ nhỏ bé hoặc hão huyền. Đừng bao giờ lấy làm thỏa mãn với những cái dễ dãi, tương đối. Đừng ưa hàng giả. Phải mơ ước những cái thật cao cả. Phải tìm kiếm những gì thực sự đưa tới hạnh phúc chứ không phải chỉ đánh lừa hạnh phúc.
Thế nào là đã gần đến? Có thể hiểu những chữ đã gần đến theo nhiều nghĩa.
Trước hết, ơn cứu độ đã gần đến c
Chúa Giêsu Còn Bảo: Ơn Cứu Độ Đã Gần Đến ó nghĩa là ơn cứu độ thật khẩn trương. Khẩn trương vì quan trọng nhất, cần thiết nhất. Đừng có chần chừ, do dự, thoái thác. Tìm ơn cứu độ phải đứng đầu trong các việc cần làm ngay. Khốn nỗi, trong tâm hồn nhiều tín hữu, nhiều lúc việc khẩn thiết nhất này đã mất tính ưu tiên. Có lẽ nó được nghĩ đến ít nhất vì thường bị coi là phụ thuộc nhất.
Thứ đến, ơn cứu độ đã gần đến cũng có nghĩa là ơn cứu độ luôn ở tầm tay, không bao giờ thiếu. Hễ muốn là có, hễ tìm là thấy… vì Thiên Chúa rộng lượng, lúc nào cũng sẵn sàng ban và ban thật dồi dào. Nhưng xem chừng hồng ân đó chẳng được giá bao nhiêu. Người ta đâu có hăm hở vào Nước Trời như chen chúc nhau vào các rạp hát, các cửa hàng bán hạ giá, xếp hàng dài trước địa điểm phát hàng ngoại nhập.
Vào năm 160, dưới thời bắt đạo của Hoàng Đế Marc Ausèle Valérien, chồng của thánh nữ Cécilia, và em là Tiburce bị nhốt ngục vì đức tin. Một sĩ quan Maxime được lệnh dẫn các ông ra pháp trường. Mở cửa ngục thất, ông thấy họ quỳ gối dưới đất, mắt ngước lên trời, guơng mặt bình tĩnh phi thường. Tuổi thanh xuân, gia đình sang trọng, vẻ ngây thơ trong trắng và tinh thần nhẫn nhục chịu đựng nơi các tử tội đã khiến người quân nhân rơi lệ.
– Tại sao ông khóc? – một tù nhân hỏi.
– Tôi khóc vì thấy các bạn trẻ trung, giàu sang, qúy phái mà lại sắp chết .
– Ông Maxime ạ, đừng tưởng nhầm nữa. Chúng tôi là người công giáo, và một một khi đã giã từ cõi trần này, người công giáo tôi chuyển sang một cuộc sống tươi đẹp hơn, một nơi không có bóng dáng tử thần nữa.
– A! Giả như đúng như lời các bạn nói?
– Nếu ông hứa sẽ giữ đúng niềm tin ngưòi công giáo thì giờ chúng tôi chết, ông sẽ nhìn thấy sự thật tận mắt.
Maxime hứa và khi nhát dao người đao phủ chặt đầu các vị tuẫn giáo vừa đứt, ông đã thấy linh hồn họ sáng ngời. Sau đó không lâu, chính Maxime cũng đã tìm đến với đức tin van được nhận triều thiên chiến thắng.
Khám Phá Niềm Vui
Có lẽ ít khi chúng ta nghĩ đến niềm vui trong Chúa. Chúng ta cũng thường quên rằng niềm vui là nét tiêu biểu của đời Kitô hữu. Có lẽ bởi vậy mà ít khi chúng ta vui thật, vui sâu xa và lâu bền trong lòng, một niềm vui biến thành bình an. Bình an chính là một tên gọi khác của niêm vui.
Cũng chính vì chúng ta không đặt niềm vui của chúng ta “trong Chúa” nên chúng ta thường đại tìm nguồn vui độc hại ở nơi khác ngoài Chúa. Hậu quả là lo âu, buồn chán của cuộc sống có cơ lấn át bình an, làm cản nghị lực và sức sông, làm chúng ta yếu đi, già đi.
Phụng vụ “Chúa nhật Vui mừng chẳng những gợi lên tính vui tươi của Mùa Vọng mà còn chỉ cho chúng ta thấy nguồn vui vô tận luôn tiềm ẩn trong lòng người tín hữu. Nguồn vui vô tận ấy chính là sự hiện diện của Thiên Chúa trong mỗi tâm hồn.
Cách đây mấy năm, tại Hollywood, có một tài tử điện ảnh đột nhiên ngã bệnh. Sau khi khám cho anh, bác sĩ riêng đã thẳng thắn nói cho chàng tài tử biết: “Tình trạng sức khoẻ của anh bi đát lắm! Chúng tôi cần phải thực hiện một cuộc giải phẫu kéo dài 36 tiếng đồng hồ mới may ra cứu sống anh được”. Về sau, chàng tài tử ấy thực sự thú nhận: “Trong 36 tiếng đồng hồ ấy, tôi đã học được nhiều điều hơn 36 năm trước đó của tôi, và tôi đã cảm nghiệm được niềm vui mà trước đó tôi chưa bao giờ cảm nghiệm được. Tôi khám phá ra rằng tôi chẳng hề sợ chết vì trước đó tôi có thói quen mỗi ngày cầu nguyện với Chúa Giêsu và bây giờ khi phút giây cam go xảy đến, tôi cảm nhận được kết quả của lời cầu nguyện ấy. Chính lúc đó tôi mới khám phá ra rằng nhờ những lần tâm sự, nói chuyện hằng ngày với Chúa Giêsu truớc đó, mà giữa Ngài và tôi chẳng xa lạ gì nhau, chúng tôi đã trở nên đôi bạn chí thân”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con nhìn thấy sự hiện diện của Chúa ở bên con dưới muôn ngàn dáng vẻ.
Xin cho con gặp Chúa nơi bất cứ ai là người vì họ có cùng khuôn mặt với Chúa.
Xin cho con khám phá ra Chúa đang hẹn gặp con nơi mọi biến cố buồn vui của đời thường.
Ước gì con thấy Chúa ở khắp nơi, đâu đâu cũng là nhà của Chúa.
Và ước gì con đừng bỏ lỡ bao cơ hội gặp Chúa trên bước đường đời của con. Amen.
Trái Đất Khô Cằn Khát Nguồn Mưa Móc. Nhân Gian Tội Lỗi Mong Đấng Cứu Đời. Từ ngàn MV 1-C225
Trái Đất Khô Cằn Khát Nguồn Mưa Móc
Nhân Gian Tội Lỗi Mong Đấng Cứu Đời
Từ ngàn xưa đã có lời cầu nguyện da diết: “Trời cao hỡi, nào hãy gieo sương, mây hãy đổ mưa, mưa đức công chính; đất mở ra đi cho nẩy mầm ơn cứu độ, đồng thời chính trực sẽ vươn lên” (Is 45:8). Lời cầu nguyện đó mang nỗi khắc khoải của nhân loại đêm ngày khát vọng và trông ngóng Đấng Thiên Sai là Ngôi Hai Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, đến thế gian để cứu những gì đã mất.
Năm Phụng Vụ mới khởi đầu bằng Mùa Vọng – chu kỳ phụng vụ năm C, thời điểm này có thể gọi là Xuân hoặc Tết Phụng Vụ. Mùa Vọng mang sắc tím, nhưng màu tím này không mang sắc tím buồn, nếu có buồn thì chỉ là buồn man mác hoặc bâng khuâng trong thời gian chờ đợi, mà là sắc tím chung thủy và kiên tâm trong nỗi mong chờ khắc khoải đêm ngày.
Mùa Vọng là mùa mơ ước, theo “vòng ngôn ngữ” kỳ diệu – khởi đầu và kết thúc bằng chữ ƯỚC: ước mong, mong chờ, chờ đợi, đợi trông, trông mong, mong ước. Người ta mong điều tốt chứ chẳng ai lại chờ điều xấu. Mong chờ thì phải tỉnh thức, đó là hệ lụy tất yếu. Tỉnh thức để mà “căn me” kẻo lỡ cơ hội, mà lẽ thường thì “phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”. Không chỉ tỉnh thức đợi chờ Chúa đến, mà còn phải tỉnh thức kẻo sa ngã vì mưu chước của ba thù – ma quỷ, thế gian và xác thịt, tình trạng mà Thánh Phêrô đã cảnh báo: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5:8). Lơ là một chút là “chết” ngay, bởi vì kẻ thù luôn thức để rình rập, chúng không bao giờ ngủ đâu!
Nếu ma quỷ khơi lại quá khứ xấu xa của chúng ta khiến chúng ta mặc cảm và chán nản, đừng mắc bẫy nó, cứ mặc kệ nó, và hãy thẳng thắn nói với nó về tương lai. Tại sao vậy? Bởi vì “thánh nhân nào cũng có quá khứ, tội nhân nào cũng có tương lai”. Thế nên đừng lo và đừng sợ chi cả! Từ ngàn xưa, Đức Chúa đã tuyên sấm ngôn: “Này, sẽ đến những ngày Ta sẽ thực hiện ĐIỀU TỐT LÀNH Ta đã phán về nhà Ít-ra-en và về Giuđa” (Gr 33:14). Đó là lời hứa từ ngàn xưa, và chắc chắn sẽ được thực hiện. Thật vậy, Thiên Chúa đã hứa bất cứ điều gì, dù to hay nhỏ, Ngài luôn thực hiện không sai một ly. Ngài khác hẳn chúng ta, vì đa số chúng ta đều mang họ Hứa và cùng phe với chàng Cuội (máu xạo).
Chúng ta là “công trình” của Thiên Chúa nên Ngài không bao giờ bỏ mặc chúng ta, và Ngài còn hứa thêm: “Trong những ngày ấy, vào thời đó, Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công Chính để nối nghiệp Đa-vít; Người sẽ trị nước theo lẽ công bình chính trực” (Gr 33:15). Đấng Công Chính đó thuộc dòng dõi Thánh vương Đa-vít, nối vương nghiệp của Đa-vít, và dùng lẽ công bình để trị quốc an dân. Chắc hẳn đó là đường lối hoàn toàn khác với mọi vua chúa trần gian. Và cũng trong những ngày ấy, cả Giuđa sẽ được cứu thoát, và Giêrusalem cũng được an cư lạc nghiệp. Công lý có thì hòa bình sẽ có, không có công lý thì không bao giờ có hòa bình. Vì thế, danh xưng “Đức-Chúa-là-sự-công-chính-của-chúng-ta!” (Gr 33:16) là tên gọi của thành trì đó.
Là Đấng tốt lành duy nhất, Thiên Chúa cũng luôn hứa ban điều tốt lành, vấn đề là chúng ta phải kiên trì chờ đợi “Giờ G” của Ngài. Chờ đợi thì phải liên lỉ cầu nguyện: “Lạy Chúa, đường nẻo Ngài, xin dạy cho con biết, lối đi của Ngài, xin chỉ bảo con. Xin dẫn con đi theo đường chân lý của Ngài và bảo ban dạy dỗ, vì chính Ngài là Thiên Chúa cứu độ con” (Tv 25:4-5). Tại sao chúng ta sớm hôm cậy trông Ngài? Bởi vì Ngài nhân ái, là “Đấng nhân từ chính trực, chỉ lối cho tội nhân, dẫn kẻ nghèo hèn đi theo đường công chính, dạy cho biết đường lối của Ngài” (Tv 25:8-9). Ai được Ngài yêu thương thì thật là hạnh phúc, nhưng người đó phải sống tốt lành: “Chúa xử thân tình với những ai kính sợ Chúa và cho họ biết giao ước của Ngài” (Tv 25:14). Thánh Phaolô phân tích và so sánh rất hay: “Vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính” (Rm 5:19). Hai cái một đối lập.
Và rồi Thánh Phaolô cầu chúc: “Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết, cũng như tình thương của chúng tôi đối với anh em vậy” (1 Tx 3:12). Một lời cầu chúc mang tính “trái khoản” độc đáo: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái” (Rm 13:8). Yêu thương là món nợ mà ai cũng PHẢI vay và PHẢI trả cho xong. Thánh Phaolô giải thích: “Như thế, Chúa sẽ cho anh em được bền tâm vững chí, được trở nên thánh thiện, không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giêsu, Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người” (1 Tx 3:13).
Lời lẽ của Thánh Phaolô rõ ràng, giản dị, dễ hiểu, và lịch sự: “Thưa anh em, anh em đã được chúng tôi dạy phải sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa, và anh em cũng đang sống như thế; vậy nhân danh Chúa Giêsu, chúng tôi xin, chúng tôi khuyên nhủ anh em hãy tấn tới nhiều hơn nữa. Hẳn anh em rõ chúng tôi đã lấy quyền Chúa Giêsu mà ra những chỉ thị nào cho anh em” (1 Tx 4:1-2). Mong sao mỗi chúng ta cũng đều quyết tâm sống đúng, nghĩa là “đang sống đẹp lòng Thiên Chúa”.
Sống đẹp lòng Chúa là chúng ta đang mong chờ Đức Kitô – không chỉ trong Mùa Vọng mà luôn như vậy, mong chờ suốt đời mình, mong chờ từ đời nọ đến đời kia, nhất là tỉnh thức và mong chờ thời điểm Chúa quang lâm – ngày “tận thế chung”, đặc biệt là lúc Ngài gọi chúng ta rời bỏ thế gian này – ngày “tận thế riêng”.
Khởi đầu Mùa Vọng – bắt đầu khoảng thời gian mong chờ, Phụng Vụ sử dụng trình thuật Tin Mừng đề cập ngày quang lâm của Đức Kitô. Đó là lời nhắc nhở cần thiết, cũng là “tin nhắn” luôn nóng hổi và mang tính thời sự được Chúa Giêsu gởi hằng ngày: “Hãy SẴN SÀNG, vì chính giờ phút anh em KHÔNG NGỜ thì Con Người sẽ đến” (Mt 24:44; Lc 12:40).
Vấn đề liên quan Ngày Giờ của Thiên Chúa, Đức Giêsu cho biết rõ các dấu chỉ xuất hiện trên trời: “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao” (Lc 21:25a), và các dấu chỉ xuất hiện dưới đất: “Muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển” (Lc 21:25b-26). Những dấu chỉ đó cho thấy thời điểm Chúa quang lâm vô cùng đặc biệt. Các dấu chỉ đó xem chừng rất đáng quan ngại vì quá kinh khủng đối với loài người, nhưng các dấu chỉ đó sẽ là bình thường đối với những người đang sẵn sàng nhận hiệu lệnh “xuất quân” của Thiên Chúa.
Luôn có sự trái ngược, Ngày Ấy là niềm vui với người này nhưng lại là nỗi lo cho kẻ khác, bởi vì “bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người ĐẦY QUYỀN NĂNG và VINH QUANG ngự trong đám mây mà đến” (Lc 21:27). Chúa Giêsu biết sẽ có ít nhiều “chấn động” trong lòng chúng ta nên Ngài đã ân cần căn dặn: “Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy ĐỨNG THẲNG và NGẨNG ĐẦU lên, vì anh em sắp ĐƯỢC CỨU CHUỘC” (Lc 21:28). Ngài còn giải thích rõ ràng hơn để bất kỳ ai cũng có thể hiểu: “Vậy anh em PHẢI đề phòng, CHỚ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì Ngày Ấy sẽ ẬP XUỐNG trên mọi dân cư khắp mặt đất. Vậy anh em hãy TỈNH THỨC và CẦU NGUYỆN luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21:34-36). Thiên Chúa cảnh báo chứ không hù dọa ai cả!
Chúng ta lại có dịp sống thêm một Mùa Vọng nữa – và cũng là cơ hội hoán cải, hãy noi gương Thánh Faustina sống tinh thần Mùa Vọng bằng cách thổ lộ với Chúa Giêsu niềm hoài vọng chính đáng theo Tôn Ý Thiên Chúa: “Nỗi khao khát nhất của con là các linh hồn nhận biết Ngài là hạnh phúc vĩnh cửu, vững tin vào lòng nhân từ và tôn vinh lòng thương xót của Ngài” (Nhật Ký, số 305). Được vậy thì thật diễm phúc cho chúng ta, cả hôm nay và mãi mãi… Và tự vấn: “Liệu tôi còn được sống Mùa Vọng năm tới?”. Lá lúc nào cũng rụng, dù trời không hề có gió!
Đó không là ý tưởng bi quan, yếm thế, mà là khôn ngoan. Văn sĩ Alexandre Dumas (1802-1870, Pháp quốc) có cách nhận định thú vị: “Tất cả sự khôn ngoan của con người được tập hợp lại trong hai từ: CHỜ ĐỢI và HY VỌNG”. Trong cuộc sống, có những nỗi mong chờ kèm theo niềm hy vọng, có những nỗi mong chờ đằng đẵng trong sự vô vọng. Dù là nỗi mong chờ nào cũng khiến người ta bồi hồi, thao thức, khắc khoải khôn nguôi. Nhưng dù sao thì Nỗi Mong Chờ vẫn tiềm ẩn Niềm Hạnh Phúc.
Ngày xưa, ngôn sứ Isaia mời gọi: “Hãy bước qua, hãy bước qua các cửa thành, hãy MỞ CON ĐƯỜNG cho dân, hãy DỌN ĐƯỜNG, hãy dọn đường, hãy NHẶT cho hết đá. Hãy PHẤT CỜ ra hiệu cho các dân” (Is 62:10). Mở đường cho Thiên Chúa và tha nhân, nhưng dọn đường và nhặt đá “đường lòng” của chính mình – đá to hay nhỏ cũng phải nhặt sạch. Và Thánh Vịnh gia tiếp tục nhắn nhủ: “Hãy hát mừng Thiên Chúa, đàn ca kính danh Người, hãy DỌN ĐƯỜNG cho Đấng ngự giá đằng vân” (Tv 68:5).
Lạy Thiên Chúa, miền hạn hán chúng con ngày đêm mong chờ Cơn Mưa Cứu Độ, xin thương ban Nguồn Mưa Giêsu để chúng con giải khát, vì chỉ có Mưa Giêsu mới khả dĩ làm đất-hạn-chúng-con được tưới mát mà trổ sinh cây đức trái lành. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.
Chúa Nhật Mùa Vọng cũng là đầu năm Phụng Vụ. Bốn tuần chuẩn bị trước khi mừng lễ Giáng MV 1-C226
Chúa Nhật Mùa Vọng cũng là đầu năm Phụng Vụ. Bốn tuần chuẩn bị trước khi mừng lễ Giáng Sinh được biết đến như là Mùa Vọng. Vọng đây mang í nghĩa chờ đợi trong hy vọng, chờ đợi với tinh thần tỉnh thức cộng chung với cầu nguyện. Đức Kitô nhắc nhở các môn đệ Ngài tỉnh thức trong cầu nguyện, chuẩn bị tinh thần, đổi mới cuộc sống, canh tân tâm hồn, xem xét lại cách sống cho phù hợp với đường lối Chúa, loại trừ cái xấu, cộng thêm cái tốt. Sống đường lối Chúa. Đường lối Chúa là đường ngay thẳng, công chính, có lần Đức Kitô nói:
Thầy là đường là sự thật và là sự sống Jn 14,6
Như thế Mùa Vọng chính là mùa chuẩn bị cho sự sống mới trong tâm hồn mỗi người. Hàng năm Giáo Hội mừng kính trọng thể hai sự kiện quan trọng trong cuộc sống đời người đó là ngày sinh vào trần thế và ngày sinh vào nước hằng sống. Hai sự kiện này xảy ra ở hai thời điểm khác nhau trong đời nhưng chúng liên kết với nhau. Có ngày sinh ra sẽ có ngày tử vong. Chính vì thế mà Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng các bài đọc trong Chúa Nhật tuần này nhắc về cuộc Phục Sinh của Đức Kitô bởi sự Phục Sinh của Ngài đem lại cho linh hồn ta sự sống trường sinh, xoá bỏ tội ta phạm và giải thoát ta khỏi khống chế của tội lỗi. Mừng Chúa sống lại với niềm hy vọng mỗi chúng ta cũng được hưởng phúc sống lại trong Đức Kitô khi chúng ta hoàn tất cuộc lữ hành trần thế. Cuộc sống trần gian là quan trọng, cuộc sống trường sinh còn quan trọng hơn và cần chuẩn bị kĩ hơn. Cha mẹ trần thế chuẩn bị đón chúng ta vào đời, vào cuộc sống gia đình; Đức Kitô chuẩn bị đón chúng ta vào cuộc sống trường sinh, vào đại gia đình Chúa trong thiên quốc của Ngài. Mùa Vọng nhắc chúng ta trân trọng ơn trường sinh Chúa ban, đừng thờ ơ với ân thánh, nhưng mau mắn đón nhận vào tâm hồn và trân trọng quí mến, nâng niu ân thánh. Chuẩn bị đón nhận ân thánh qua cầu nguyện, việc bác ái. Nhờ cầu nguyện hướng dẫn mà việc bác ái của ta trở nên ân phúc cho chính mình, thánh hoá việc làm và đời sống ta. Bác ái thiếu cầu nguyện dù là việc tốt, việc lành nhưng không phải việc thánh. Vì thế người ta ước mong lời khen, lời ca từ xã hội. Bác ái thiếu cầu nguyện kết hợp ta với tha nhân và ngưng tại đó. Bác ái chung với cầu nguyện, qua tha nhân, ta kết hợp với Chúa. Chính Thiên Chúa là Đấng làm cho việc bác ái của ta nên thánh thiện. Không phải hành động bác ái nào cũng thánh thiện mà chính là Thiên Chúa là Đấng Thánh biến việc tầm thường của ta thành việc lành thánh.
Đón nhận ơn thánh bằng cách mỗi ngày có giờ riêng cho cầu nguyện, cho xét mình, cho nhìn lại việc làm trong ngày và xác định chỗ đứng của mình trước mặt Chúa. Như thế sẽ tránh lo sợ, hãi hùng bởi có Chúa luôn đồng hành cùng ta trong mọi tình huống của cuộc sống. Kitô hữu sống trong hiện tại nhưng hướng về tương lai, về cuộc sống trường sinh. Màu tím trong Mùa Vọng là mầu của ăn chay, thống hối và thuộc về hoàng tộc liên kết với lễ Đức Kitô Vua vũ trụ Giáo Hội mới cử hành tuần qua.
Giáng Sinh và Phục Sinh liên kết với nhau. Điều này giải thích tại sao Giáo Hội lại chọn bài Phúc Âm thánh Luca nói về những biến cố liên quan đến cuộc thương khó của Đức Kitô và ngày thế mạt. Ngài kêu gọi các tông đồ tỉnh thức cầu nguyện để có được bình an trong tâm hồn trước những biến cố dồn dập xảy đến. Những dấu lạ khác thường xảy đến làm cho người ta hoang mang, sợ hãi, trốn chạy. Kitô hữu được báo trước cho biết những dấu lạ để kiên tâm cầu nguyện, tìm bình an trong Chúa. Họ không cần sợ hãi hoang mang nhưng tin tưởng, phó thác và vui mừng vì ngày giờ gặp Đấng ban sự sống đang đến gần. Nếu chúng ta tin những tiên đoán về đau khổ, sợ hãi xảy ra là điều thật thì chúng ta cũng cần tin và vững tin hơn, tin mãnh liệt hơn những điều Đức Kitô hứa Ngài sẽ đến trong vinh quang, cứu độ những ai trông cậy, vững tin nơi Ngài. Qua cầu nguyện và niềm tin nơi Đức Kitô chúng ta sẽ nhận được an bình và ủi an bởi chính Đức Kitô hứa Thầy sẽ ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế Mat 28,20. Bác ái và cầu nguyện cùng chay tịnh sẽ giúp chúng ta nhận ra Chúa trong cuộc sống, ngay cả trong trường hợp đứng giữa phong ba, bão táp cuộc đời chúng ta vẫn thấy Chúa hiện diện, giang tay cứu vớt.
“Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21,36)
Hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta bước vào Mùa Vọng. Mùa Vọng là mùa mong chờ; mùa MV 1-C227
Hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta bước vào Mùa Vọng. Mùa Vọng là mùa mong chờ; mùa trông đợi. Chúng ta mong chờ gì; chúng ta chờ đợi chi ? Chúng ta mong chờ Chúa đến. Thực ra, theo Phụng Vụ, Mùa Vọng là mùa kỷ niệm mong chờ Chúa đến Lần Thứ Nhất. Vì Chúa đã đến một lần rồi. Qua đó, Giáo Hội muốn con cái mình chuẩn bị trông đợi Chúa đến lần thứ hai cơ. Tức là ngày Chúa quang lâm cùng với thần thánh của Ngài.
Không biết Lần Thứ Hai này, Chúa đến lúc nào và khi Chúa đến, liệu chúng ta có còn sống không. Chúa chưa đến Lần Hai, có lẽ ta đã đến với Chúa rồi. Có nghĩa là ngày ta chết. Khi chết thì linh hồn ta sẽ về với Chúa. Chúng ta nên chuẩn bị cho ngày này sẽ thực tế, hiệu quả và khôn ngoan hơn. Nếu Chúa có đến LẦN HAI thì càng hay. Trong khi chờ ngày chúng ta về với Chúa, chúng ta sẽ làm gì đây ?
Theo Lời Chúa hôm nay, thì chúng ta phải luôn tỉnh thức và cầu nguyện. Có thể nói tỉnh thức là cầu nguyện và cầu nguyện là tỉnh thức. “Hai trong Một”. Quả thực nếu ta không tỉnh thức thì ta cũng không cầu nguyện được. Mà khi ta cầu nguyện, có nghĩa là ta tỉnh thức. Để cầu nguyện cho sốt sắng và tỉnh thức thì ta phải “Ý THỨC”.
Ý thức là ta biết mình đang làm gì, đang nghĩ gì và mục đích là chi; mình làm để làm gì. Đó là một khả năng cao quí Chúa ban cho con người chúng ta: Một sinh vật có lý trí. Mình làm mà chẳng biết mình làm cái gì; mình làm để làm chi thì còn chi là hấp dẫn, còn gì là phấn khởi. “Tôi buồn mà không biết vì sao tôi buồn” thì A-men rồi; thì chán lắm cơ.
Nếu cầu nguyện mà ta không ý thức những gì mình đọc và mình đọc kinh, dâng lễ để làm gì thì ta sẽ đọc như casette, sẽ làm như con vẹt thôi. Ta chán nản, khô khan và chia trí thôi và nhất là chẳng đem ích lợi gì cho ta cả đời này lẫn đời sau. Quả thật, khi ta ý thức thì ta sẽ tỉnh thức và sẽ cầu nguyện sốt sắng.
Chúng ta phải luôn tỉnh thức cầu nguyện để thoát khỏi “mọi điều sắp xảy ra”. Ta tự hỏi, điều gì sắp xảy ra đây ? Đó không chỉ là những biến đổi của thế giới, mà nhất là sự biến đổi của con người chúng ta. Đó chính là cái chết. Chúng ta, ai cũng muốn sống và sống lâu bao nhiêu có thể và rất sợ cái chết. Dù có sợ thì CÁI CHẾT cũng sẽ xảy ra thôi, chúng ta không biết lúc nào. Bởi đó, nếu ta luôn tỉnh thức, luôn cầu nguyện, luôn chuẩn bị thì ta sẽ không sợ chết nữa. Ai không sợ chết, người đó là người sung sướng nhất trên đời. Họ sống ung dung, tự tại; không phải lo lắng gì, luôn sống trong bình an và đương nhiên sẽ luôn sống trong hạnh phúc.
Vì sao ? Vì họ đã có sự chuẩn bị; họ ý thức mình sẽ chết, nên có làm gì, có cầu nguyện chi thì họ cũng hướng về ngày đó và trông chờ ngày đó đến. Nếu ngày đó đến, họ sẽ vui mừng và ngẩng đầu lên, vì họ sắp được cứu chuộc, sắp được vào thiên đàng sống đời đời với Chúa.
Như ta biết và có kinh nghiệm khi chờ đợi. Khi chờ đợi ta thấy nó lâu, thời gian như chậm lại. Chờ có một phút mà ta như cảm thấy cả tiếng đồng hồ vậy. Đó người gọi là “Giờ tâm lý”. Còn giờ vật lý thì lúc nào nó cũng vẫn thế, không nhanh, không chậm. Thánh Phê-rô nói: “Một điều duy nhất xin anh em đừng quên: Đối với Chúa một ngày vì thể ngàn năm; ngàn năm cũng tựa một ngày” (x. 2P 3,8).
Có thể nói “Ngày giờ” Chúa đến là “Ngày giờ tâm lý” chứ không phải ngày giờ vật lý. Nên ta đừng tìm kiếm ngày nào, năm nào Chúa đến hay suy nghĩ xem ngày nào, năm nào ta chết. Vô ích. Nước Chúa đến cũng vậy, không ở chỗ này hay chỗ kia mà chính trong tâm hồn của ta. Nên ta đừng đi tìm đâu đâu cho mất công. Hãy tìm Chúa trong tâm hồn ta thì hơn. Chúa ở đó, mà ta cứ đi tìm đâu đâu thì có phải là ngớ ngẩn không.
Ai đang yêu và chờ ngày giờ để gặp người mình yêu thì càng thấy nó lâu. Chờ thì thấy rất lâu, mà khi gặp thì lại cảm thấy giờ nó chạy rất nhanh. Vì sao ? Vì chờ để được yêu và yêu, ta mong mỏi đợi chờ cho có được giây phút đó, nên càng thấy nó lâu, nhìn đồng hình như kim gió không chạy; nhìn lịch mà cứ muốn xé hết các tờ cho đến ngày đó cho mau. Rồi khi ngày giờ đó đến, hạnh phúc biết chừng nào, quên cả thời gian, quên cả không gian, mới đó mà đã hết giờ, hết ngày gặp nhau rồi…tiếc tiếc…nuối …nuối. Cứ muốn cho một phút là 1000 giây, chứ 60 giây ít quá !!! Một ngày ước chi là 1000 giờ thì hay biết mấy !!!
Thế nhưng, đó chỉ là ngày giờ tâm lý thôi; phải theo ngày giờ vật lý mới được. Vấn đề là khi chờ đợi. Khi chờ đợi mà ta có làm việc gì thì sẽ thấy thời gian trôi qua đi nhanh hơn, nhưng nếu ham làm quá có khi ta lại quên luôn cả điều mình mong, mình chờ. Điều này chỉ đúng có 50% cho những người đang yêu. Vì họ có làm việc thì thời gian chờ đợi, họ sẽ cảm được là thời gian sẽ đi nhanh hơn, nhưng không bao giờ họ quên điều họ mong chờ, không bao giờ họ quên việc gặp người yêu của họ.
Còn đối với việc chờ đợi Chúa đến hay việc chờ đợi ta đến với Chúa thì đúng 100%. Nghĩa là, khi ta có làm việc để chờ sẽ thấy thời gian đi nhanh và cảm thấy còn ít giờ quá cho sự chuẩn bị hay thời giờ mình sống trên trần gian này, nên ta càng trân trọng và quí giá những ngày giờ mình còn sống và sẽ tận dụng tất cả, không để phí một giờ, một ngày nào. Không đi rông dài, đi đây đi đó cho mất thời gian; không phung phí cho những việc vô bổ, mất cả ngày trời mà chẳng được tích sự gì.
Và nếu không tỉnh thức, ta lại đâm đầu vào làm, quên cả việc chuẩn bị, quên cả việc ta sẽ chết, ta sẽ về với Chúa, sống mà như không bao giờ mình chết. Như chè chén say xưa, ăn chơi nhậu nhẹc; ham mê sự đời; ham tiền, ham danh, ham của mà quên đi việc chuẩn bị cho ngày ta trở về với Chúa. Rồi ngày đó đến, ta sẽ phải bỏ mọi sự, ra đi với đôi bàn tay trắng, không có công trạng, không có những hy sinh; không có những chịu khó, tập tành để nên thánh nên thiện, thử hỏi ta có dám ngẩng đầu lên; ta có đứng vững trước mặt Chúa không?
Bởi đó, hàng năm, Giáo Hội, kỷ niệm ngày Chúa đến lần thứ nhất để giúp ta ý thức lại việc mình sống và làm việc trên cõi đời này. Là người tín hữu Ki-tô, thì ta không thể không tỉnh thức và cầu nguyện luôn. Ta hãy tìm hiểu xem cầu nguyện là gì và thực hành thế nào cho phải?
Theo sách Giáo lý thì “Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên Chúa hay cầu xin Chúa ban cho mình những ơn cần thiết” (x. GLCG, số 2590).
Như vậy cầu nguyện có hai việc. Một là ta nâng tâm hồn lên tới Chúa. Nghĩa là ta không dính bén đến những gì của trần gian; ta bỏ mọi sự lo lắng, ưu tư về trần thế mà dành thì giờ nói chuyện với Chúa, nhớ đến Chúa. Có thể nói với Chúa tất cả những lo lắng hay ưu tư của mình; mình đang làm gì, mình đang gặp khó khăn gì; mình đang thương ai, mình đang nhớ ai; mình đang mong ước chi. Đó gọi là nâng tâm hồn lến với Chúa. Không nhất thiết phải đến nhà thờ, mà ở đâu ta làm cũng được.
Hai là cầu xin Chúa ban cho mình những ơn cần thiết. Tức là đang khi chúng ta làm việc; đang khi chúng ta muốn làm điều gì đó, nhưng ta ý thức con người của ta yếu đuối, cần có ơn Chúa để ta có thể làm một cách thánh thiện và công chính, sinh ích cho mình và đem niềm vui cho người khác. Có khi là xin ơn khôn ngoan để ta có suy nghĩ và quyết định chính xác. Đó là cầu nguyện.
Vì nhiều khi, ta kiêu ngạo, ta tưởng mình giỏi ghê gớm, không cần đến ơn Chúa, chỉ cần có “AIPHON”, “AIPAT”, chỉ cần có chiếc điện thoại thông minh “SMARPHON” là OK. Cái gì ta cũng biết, cái gì cũng làm được.
Đúng vậy, cái gì nó cũng biết, cái gì cũng làm được, nhưng chỉ trừ nên thánh, nên thiện là nó không làm được thôi. Nó không giúp cho ta cầu nguyện sốt sắng được, chỉ làm cho ta chia trí; nó không giúp ta suy gẫm được, chỉ làm cho ta lo ra; nó không giúp ta chiêm niệm được, vì nó làm cho ta không có thì giờ.
Ta hãy dẹp cái thứ đó qua một bên, để mà cầu nguyện, để đọc kinh, để suy gẫm và để chiêm niệm.
Khi đọc kinh, tức là khẩu nguyện thì: “Khẩu nguyện là đọc kinh thành tiếng, cách diễn tả rất phù hợp với con người, nên thích hợp với đám đông. Ngay cả khi cầu nguyện trong lòng, chúng ta không được xao lãng khẩu nguyện. Kinh nguyện trở thành tâm tình bên trong, khi chúng ta ý thức về Đấng chúng ta đang thưa chuyện. Lúc đó khẩu nguyện, biến thành hình thức đầu tiên của cầu nguyện chiêm niệm” (x. GLCG, số 2704).
Nghĩa là đọc kinh, thì miệng đọc lòng ta suy và hợp một lòng một ý với ý nghĩa trong kinh nguyện đó.
Tiếp đó là suy gẫm. “Suy gẫm là tìm hiểu trong khi cầu nguyện, bằng cách vận dụng khả năng suy tư, trí tưởng tượng, cảm xúc và ước muốn. Nhờ suy gẫm, chúng ta hấp thụ được đề tài trong đức tin và đối chiếu với thực tại cuộc sống” (x. GLCG, số 2723).
Tức là ta suy Lời Chúa, rồi ta gẫm sự đời, xem Lời Chúa nói có đúng không và khi ta thực hành Lời Chúa thì ta thu được kết quả gì.
Sau cùng là chiêm niệm. “Chiêm niệm là hình thức đơn sơ của cầu nguyện; là lấy đức tin mà chiêm ngắm Đức Giê-su; là lắng nghe Lời Chúa, là yêu mến Chúa trong thinh lặng. Chiêm niệm cho ta hợp nhất với Đức Ki-tô trong kinh nguyện của Đức Ki-tô theo mức độ chúng ta tham dự vào mầu nhiệm của Người” (x. GLCG, số 2724).
Nghĩa là ta chiêm, ta “chiếm” được Chúa cho chính ta; ta cảm, ta kết hợp mật thiết với Chúa trong thinh lặng và yêu mến thẳm sâu. Ta như nắm bắt được Chúa trong tay, trong lòng của ta vậy.
Vậy ta hãy đem Lời Chúa hôm nay ra thực hành; hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn. Hãy đọc kinh, suy gẫm và chiêm niệm luôn. Có như thế, Chúa sẽ cho ta được bền tâm vững chí; được nên thánh thiên, không gì đáng trách trước nhan Thiên Chúa, trong ngày ta trở về với Chúa; cũng như trong ngày Chúa quang lâm.
Bước vào mùa vọng chúng ta thấy bầu trời u ám với một chút gió lạnh của mùa đông làm cho MV 1-C228
Bước vào mùa vọng chúng ta thấy bầu trời u ám với một chút gió lạnh của mùa đông làm cho tâm hồn chúng ta cảm thấy nhẹ nhàng. Và ở đâu đó đã vang lên nhạc phẩm “Bài Thánh Ca Buồn” của nhạc sĩ Nguyên Vũ với những ca từ thật nhẹ nhàng và sâu lắng.
Vâng, nếu như “Bài Thánh Ca Buồn” của nhạc sĩ Nguyên Vũ thật nhẹ nhàng và sâu lắng, thì bài Tin mừng hôm nay của thánh sử Luca dường như chúng ta cảm thấy có một nỗi hoang mang nào đó, rồi sẽ có một ngày người ta hồn siêu phách lạc, hoang mang và sợ hãi, bởi không biết có điều gì đang chuẩn bị đổ ập xuống địa cầu này.
Tại sao Giáo hội cho chúng ta nghe những lời có vẻ sợ hãi và hoang mang ấy trong ngày thứ nhất của mùa vọng? Xin thưa, Mùa vọng không phải chỉ là một thời điểm để chúng ta chuẩn bị đón mừng Chúa Giáng Sinh, mà mùa vọng có hai ý nghĩa rõ rệt.
Từ Chúa Nhật thứ nhất mùa vọng đến hết ngày 16 tháng 12, Giáo hội nhắc nhở cho con cái của mình cuộc giáng lâm của Chúa Giêsu. Và chính bài Tin mừng của thánh sử Luca đã ghi lại trong lễ Chúa nhật hôm nay đã diễn tả một phần nào đó của khung cảnh ngày quang lâm, ngày quang lâm của Thiên Chúa, ngày tận cùng của trái đất, ngày tận thế và ngày Thiên Chúa đến để cứu độ chúng ta. Những lời văn có vẻ gây một chút hoang mang ấy, nhưng sứ điệp của Tin mừng thì thật là rõ ràng. Để có thể đứng vững trong ngày của con người, Thiên Chúa mời gọi mỗi chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện.
Tỉnh thức không phải là không ngủ, nhưng tỉnh thức là nghe được tiếng của Chúa và nhận ra tiếng gõ cửa của Ngài. Tỉnh thức để rồi với cuộc sống vẫn đang bề bộn, với những lo toan cơm áo gạo tiền, chúng ta vẫn có những khoảnh khắc để cho Thiên Chúa hiện diện trong cuộc sống, cho Chúa hiện diện trong tâm hồn của chúng ta. Tỉnh thức để những gì âu lo của cuộc sống không vùi dập cuộc đời của chúng ta. Tỉnh thức để những gánh nặng của trần gian không làm cho chúng ta mỏi mệt mà quên đi nghĩa vụ chúng ta đang chờ đón Chúa đến.
Tỉnh thức và cầu nguyện, đó là điều kiện để cho chúng ta đứng vững trong ngày của Con Người. Chỉ những ai lắng nghe tiếng Chúa, quen nghe tiếng Chúa thì mới nhận ra tiếng của Ngài, muốn nghe được tiếng của Ngài thì chúng ta phải biết thinh lặng, bởi vì cuộc sống hôm nay dường như con người sợ im lặng, họ cho rằng im lặng là thời gian chết, vì thế mà họ nói huyên thuyên cười giỡn khắp nơi.
Ngày Thiên Chúa đến đối với mọi người đó là ngày quang lâm, nhưng có thể là ngày rất riêng tư mà Thiên Chúa gõ cửa tâm hồn mỗi người chúng ta. Thế nhưng, đó không phải là ngày tận cùng của thế giới, đó cũng không phải là ngày chết của mỗi người làm cho ta hoảng loạn. Nhưng đó là những giây phút Chúa đến gặp gỡ tâm hồn của mỗi con người và đưa con người vào mối tâm giao với Thiên Chúa. Chỉ khi nào chúng ta nghe được tiếng của Thiên Chúa giữa muôn vàn những tiếng ồn ào của cuộc sống này, thì khi ấy chúng ta mới có thể đón tiếp Ngài một cách chu đáo.
Trong ngày của con người, Thiên Chúa mời gọi chúng ta hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên. Đứng thẳng là thái độ của một con người tự do, một con người không bị ràng buộc bởi những quyến luyến. Đứng thẳng là thái độ của một con người sẵn sàng. Chúng ta là những người đang sống trong sự tự do hào hùng của con cái Thiên Chúa, một sự tự do đã được Thiên Chúa trao tặng, Thiên Chúa đã dùng chính máu của mình để mà giải thoát chúng ta khỏi những quyến luyến ràng buộc của trần gian.
Ước gì trong năm phụng vụ mới này, mỗi người trong chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta sống trong tâm tình mùa vọng một cách đích thực, xin ơn thánh của Chúa biến đổi tâm hồn của chúng ta, để chúng ta mừng lễ Chúa Giáng Sinh không phải là lễ hội, không phải là quà tặng, không phải là tiệc tùng mà là chúng ta có một chỗ để cho Chúa Giáng Sinh ngự trong trái tim của chúng ta. Amen.
Cổ nhân có câu rằng “người không biết lo xa,ắt sẽ buồn gần”. Người xưa muốn khuyên răn nhau MV 1-C229
Cổ nhân có câu rằng “người không biết lo xa,ắt sẽ buồn gần”. Người xưa muốn khuyên răn nhau đừng quá dễ dãi, nông nổi, hời hợt, có con mắt thiển cận, thái độ ăn xổi ở thì; mà rất nên, rất cần có suy nghĩ chín chắn, biết nhìn xa trông rộng, ăn hôm nay phải nhớ đến ngày mai, làm việc gì cũng phải tính toán trước sau, đo lường sự thiệt hơn để mục đích cuối cùng là được nhiều hơn mất, góp phần làm cho tiếng cười vui nhiều hơn nước mắt, để cho làng trên xóm dưới nhiều niềm vui hơn là sự ta thán, phiền muộn.
Nhưng đáng tiếc nhiều người chỉ thấy lợi trước mắt mà không nghĩ tới hoạ liền sau. Họ tưởng rằng “một tay che được bầu trời” nhưng họ đã lầm to, những điều xấu sớm muộn cũng bị đưa ra ánh sáng.
Điển hình là các quan chức Việt Nam. Rất nhiều năm nay họ luôn nghĩ rằng Đảng bênh Đảng nên không xử lý họ. Các quan to nhỏ thi nhau tham nhũng làm nghèo đất nước. Họ đâu nghĩ rằng sẽ có ngày cuộc đời họ sẽ tàn trong những năm tháng tù tội thiếu thốn. . .
Theo Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng cho biết cơ quan chức năng đã kỷ luật hơn 840 tổ chức Đảng và 58.120 đảng viên vi phạm. Trong đó, hơn 2.700 đảng viên vi phạm về tham nhũng, cố ý làm trái, kiến nghị thu hồi trên 260.000 tỷ đồng.
“Điển hình là các vụ án: Dương Chí Dũng, Huỳnh Thị Huyền Như, Nguyễn Đức Kiên (Bầu Kiên), Châu Thị Thu Nga, Giang Kim Đạt, Trịnh Xuân Thanh, Đinh La Thăng, Phan Văn Anh Vũ (Vũ Nhôm), vụ án đánh bạc và tổ chức đánh bạc xảy ra tại Phú Thọ với 2 tướng Công an bảo kê là Phan Văn Vĩnh Và Nguyễn Thanh Hoá (ông Phan Đình Trạc ban PCTN đã nói).
Cuộc sống luôn thay đổi mà người ta hay nói rằng cuộc sống thì vô thường. Con người chẳng biết ngày mai sẽ ra sao. Sống hay chết đều không do mình quyết định. Cái chết đến thật bất ngờ. Bất ngờ như tên trộm đào ngạch vào nhà lấy đi đồ đạc lúc nào chẳng hay biết. Cái chết cũng chẳng định lứa tuổi hay giai cấp, vì có thể cùng một lứa tuổi, cùng một công việc nhưng kẻ thì được mang đi, người thì vẫn còn ở lại.
Sự khôn ngoan luôn nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức. Tỉnh thức bằng cả một đời sống theo thánh ý Chúa. Tỉnh thức không để lòng mình buông theo những cám dỗ thế gian, những ước muốn tầm thường. Tỉnh thức để sống ngay thẳng không theo đường lối gian tà.
Chúa Giê-su hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức đừng để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời mà hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Hãy sống công chính trước mặt Chúa. Sống trong ơn nghĩa của Ngài. Sống trung thành với giáo huấn của Ngài. Sống tự chủ bản thân mình đừng chiều theo tính xác thịt mà làm trái với luân thường đạo lý.
Đây cũng là thái độ của người khôn ngoan luôn tỉnh thức trước giờ Chúa đến. Tỉnh thức bằng việc cầm đèn cháy sáng như năm cô khôn ngoan có đủ dầu đèn. Dầu đèn ở đây chính là những việc lành bác ái, những ước vọng sống thánh thiện khước từ tội lỗi.
Mùa vọng là thời gian đợi chờ. Cuộc đợi chờ tân lang đến nhưng không hẹn rõ ngày giờ. Một cuộc đợi chờ luôn đòi hỏi chúng ta phải tỉnh thức. Tỉnh thức để xứng đáng dự tiệc vui muôn đời bên Chúa. Ước gì chúng ta hãy tận dụng mùa vọng để chuẩn bị cho mình hành trang cần thiết cho cuộc hội ngộ với Đức Lang Quân. Xin đừng vì những mải mê thế gian mà đánh mất cơ hội dự tiệc vui muôn đời. Amen
Khởi đầu Năm Phụng Vụ mới, để chuẩn bị đón mừng đại lễ Giáng Sinh – một đại lễ đánh dấu MV 1-C230
Khởi đầu Năm Phụng Vụ mới, để chuẩn bị đón mừng đại lễ Giáng Sinh – một đại lễ đánh dấu kỷ niệm Con Thiên Chúa xuống thế làm người cứu chuộc nhân loại lần thứ nhất cách đây hơn 2000 năm – Giáo hội ấn định 4 tuần lễ gọi là Mùa Vọng. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở đấy, Giáo hội còn muốn đi xa hơn nữa để đón chờ Đức Giê-su Ki-tô đến lần thứ hai trong ngày quang lâm, ngày tận cùng của trần thế (tận thế). Đây là điểm trọng tâm của Mùa Vọng.
Bài Tin Mừng hôm nay (CN I/MV-C – Lc 21, 25-28.34-36) trình thuật về ngày tận thế. Thánh sử Lu-ca chỉ lấy lại những hình ảnh văn chương đã có sẵn theo truyền thống Khải huyền, miêu tả thời cánh chung của vũ trụ có nhiều điềm lạ (“Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển.” – Lc 21 25-26). Đó chỉ là quang cảnh làm hình nền cho việc tiên báo sự kiện Con Người quang lâm. Chính điều này mới là trọng tâm, và vì thế, tác giả rất chú trọng đến sự kiện cuối cùng này, và ngài đã mượn lại lời ngôn sứ Ða-ni-en trong một thị kiến (Đn 7, 1-14) để tường thuật: Thoạt tiên ngôn sứ thấy bốn con vật từ biển đi lên phá phách dữ tợn. Rồi ông thấy một Con Người hiện đến trong mây được trao quyền thống trị trời đất và các dân tộc (“Trong những thị kiến ban đêm, tôi mải nhìn thì kìa: có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến. Người tiến lại gần bên Đấng Lão Thành và được dẫn đưa tới trình diện.” – Đn 7, 13)
Những lời tiên tri này rất thích hợp để nói về ngày Chúa Ki-tô tái quang lâm. Người chẳng phải là Con Người đó sao? Cùng lúc Ðức Giê-su Ki-tô có 2 bản tính: bản tính nhân loại + bản tính thần linh. Hình ảnh một Con Người đến trong mây rất thích hợp để nói lên cả hai bản tính ấy nơi Người. Nhưng nếu chỉ viết “Con Người ngự giá mây trời mà đến” thì vẫn chưa đủ để diễn tả việc Người trở lại trần gian lần thứ hai, nên thánh Lu-ca phải thêm vào hình ảnh Con Người những lời chú thích cần thiết: “Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến” (Lc 21, 27). Những lời chú thích này chỉ được dùng để nói về Ðức Giê-su Ki-tô sau ngày Phục Sinh. Và như vậy, tác giả muốn nói rằng: Khi Ðức Giê-su Ki-tô trở lại sẽ không như lần trước – lúc Người giáng sinh làm người trong thân thể một Hài Nhi bé bỏng và yếu ớt – mà Ngườii sẽ đến với uy quyền và vinh quang tuyệt đỉnh.
Thánh sử Lu-ca thừa biết rằng có nhiều suy nghĩ không cần thiết về ngày Chúa lại đến, nên ngài rất dè dặt trong việc trình thuật. Ngược lại, ngài chú trọng đến thái độ người tín hữu phải có cho ngày trọng đại ấy. Theo ngài, ngày ấy sẽ kinh khủng cho thiên hạ; nhưng đối với các Ki-tô hữu, đó là ngày cứu độ. Ngài nhắc nhở: “Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc.” (Lc 21, 28). Vâng, có lý nào những người tin thật Đấng Cứu Thế Giê-su Ki-tô, lại sợ hãi trước việc Người trở lại? Phải chăng chỉ có những kẻ không có hoặc đã đánh mất niềm tin, không còn sống theo niềm tin ấy? Do đó, tác giả mới khuyên ai nấy hãy sẵn sàng, đừng để ngày ấy đến chụp lấy mình như một cái lưới. Những kẻ chỉ lo chè chén say sưa và lo lắng sự đời, chắc chắn sẽ bị bất ngờ không kịp sửa soạn. Còn những ai vững niềm tin, luôn tỉnh thức và cầu nguyện thì chắc chắn “đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.”
Khi miêu tả sự tự tin của con người trước một biến cố nào đó, người ta thường dùng cụm từ “đứng thẳng và ngẩng cao đầu”. Ngẩng cao đầu không phải là thái độ kiêu ngạo coi thường sự việc, mà chính đó là một cách biểu lộ một niềm tin vào chủ định của bản thân. Nếu Ki-tô hữu đã vững tin vào Người Con đã vâng lời Thiên Chúa Cha xuống thế mặc xác phàm, chịu khổ hình chết treo trên thập giá và phục sinh vinh hiển, để cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết đời đời; đồng thời tin vào những lời dạy bảo của Người về ngày Người sẽ quang lâm lần thứ hai, thì chắc chắn “đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” vui hưởng hồng ân cứu độ. Ấy cũng bởi vì chính Con Người đã khẳng định: “Tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian” (Ga 12, 47).
Một cách cụ thể, muốn “đứng thẳng và ngẩng đầu lên” khi Con Người quang lâm, thì đừng lo lắng sợ sệt thái quá để rồi “rút cổ, gục đầu” phó mặc cho số phận đẩy đưa. Chẳng có số phận nào cả, mà chỉ có những “Đồ-Ghê-Tởm-Khốc-Hại đứng ở nơi nó không được phép đứng”, cùng với những “Ki-tô giả” dọa nạt lừa đảo người ta (Mc 13, 14-23) mà thôi. Không sợ hãi lo lắng thái quá, nhưng cũng không lơ là mất cảnh giác để “Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất”; mà phải là “tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.” (Lc 21, 34-36).
Tỉnh thức không phải chỉ là thức suốt đêm này qua đêm khác như một người bị bệnh mất ngủ, mà là phải tỉnh táo, canh giữ, phòng vệ trong mọi trường hợp, mọi lúc, mọi nơi. Nói cách khác là phải cảnh giác trước những hiện tượng thiên nhiên và nhất là những trò lừa bịp, ma mị của ma quỷ thông qua những “Ki-tô giả, ngôn sứ giả”, đồng thời phải tìm đến với Lời Chúa, lắng nghe Lời Chúa và kiên quyết sống theo Lời Chúa dạy. Vâng, nhất quyết “Phải như thế, vì anh em biết chúng ta đang sống trong thời nào. Đã đến lúc anh em phải thức dậy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo. Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng.” (Rm 13, 11-14).
Nói thì đơn giản, nhưng thực hành được mới là thiên nan vạn nan, vì vào những ngày ấy từ hiện tượng thiên nhiên đến tâm trạng con người không lúc nào được bình lặng. Hơn thế nữa, còn biết bao nhiêu “Đồ Ghê-Tởm-Khốc-Hại” hay “Ki-tô giả, ngôn sứ giả” cũng chẳng để yên cho con người có đủ tỉnh táo mà phòng vệ. Chính vì thế, nên phải “tỉnh thức và cầu nguyện”, vì đó là hai chiều kích tất yếu nhắm tới mục tiêu duy nhất là “đứng vững trước mặt Con Người” trong ngày cánh chung. Cầu nguyện xin Chúa ban Thần Khí để Người soi sáng cho hiểu biết tận căn sự chân thật và điều giả dối, đâu là người công chính, đâu là kẻ giả hình, đồng thời Người ban cho đầy đủ can đảm và dũng khí đối diện với mọi nghịch cảnh, thử thách nghiệt ngã, để sẵn sàng đón Chúa trong ngày Người trở lại lần thứ hai.
Thật ra, giáo huấn của Hội Thánh về việc Chúa trở lại rất trong sáng và đơn giản. Hội Thánh khuyên nhủ mọi Ki-tô hữu phải tin và sẵn sàng, tức là phải trông đợi trong hy vọng. Mùa Vọng là mùa trông đợi, mong ngóng, chờ đón Tin Mừng Đấng Cứu Thế quang lâm lần thứ hai. Đã đành là Chúa đã đến, đang đến và luôn sẵn sàng ở lại trong cung lòng mỗi người hàng ngày hàng giờ, nhưng chỉ những người ngay lành, công chính mới thực sự được Chúa ở cùng “mọi ngày cho đến tận thế”. Tuy rằng ngày Chúa quang lâm lần thứ hai chưa tới, nhưng nó có thể tới bất cứ lúc nào, tới vào lúc loài người bất ngờ nhất, và khi Người tới thì toàn thể nhân loại đều được diện kiến. Duy chỉ có điều – và là điều cần quan tâm nhất, cần lo lắng nhất – là vào ngày giờ ấy, ai sẽ được đứng ở bên phải và ai sẽ phải đứng ở bên trái Người.
Chính vì thế, xin hãy biến 4 tuần lễ Mùa Vọng đón chờ ngày Chúa giáng sinh trong năm Phụng vụ thành Mùa Vọng trong suốt cuộc đời trông đợi Chúa quang lâm vào ngày cánh chung vũ trụ. Ngay từ bây giờ, có thể anh vừa mới sinh ra, có thể chị đang ở tuổi thanh niên, trung niên, có thể ông bà đang ở vòng bóng xế, và cũng có thể các cụ đang thèm ăn đất hơn thèm ăn cơm, chân trên lỗ chân dưới lỗ; xin tất cả “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay. Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ.” (Lc 12, 35-37). Vâng, xin hãy thực sự sống cuộc đời trần thế cho Mùa Vọng Nước Trời mai hậu trong tư thế đứng thẳng và ngẩng cao đầu diện kiến Thiên nhan Đấng Cứu Tinh. Ước được như vậy.
Ôi! “Lạy Chúa Cha toàn năng, xin cho đoàn tín hữu chúng con hằng quyết tâm làm việc thiện, để đón chào Con Chúa đang ngự đến xét xử trần gian. Nhờ đó, chúng con sẽ được Người cho ở bên hữu, và gọi vào hưởng phúc Nước Trời. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ Chúa nhật I Mùa Vọng).
Bão về. Người dân miền Trung lại phải sống trong thấp thỏm, lo âu. Đã bao mùa bão đi qua, MV 1-C231
Bão về. Người dân miền Trung lại phải sống trong thấp thỏm, lo âu.
Đã bao mùa bão đi qua, những mất mát về tài sản còn gầy dựng được, nhưng những nỗi đau mất mát người thân thì còn mãi. Trong tâm tình cầu nguyện cho bao người đang phải lo lắng hoang mang vì bão đến, ta được Chúa nhắn nhủ về một thái độ tỉnh thức và cầu nguyện luôn để sẵn sàng chờ đón Chúa quang lâm.
Trước cảnh biển gào sóng thét, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang. Còn đâu sự bình yên ngày nào vì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng sẽ không còn chiếu sáng, nhưng điều mà muôn dân đang hoang mang lo lắng, ngày mà muôn dân không mong đợi, đó lại là lúc các môn đệ của Chúa được “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”, vì họ biết ngày đó sẽ được cứu chuộc. Chúa Giêsu hiểu được nỗi lo lắng của các môn đệ khi nghe những việc sẽ xảy đến trong ngày Con Người quang lâm, và Chúa đã chỉ cho các ông hai việc cần thiết là phải tỉnh thức và cầu nguyện.
Khi nghe tin có bão sắp đổ bộ vào đất liền, người ta lo lắng để đi tản dân, có các biện pháp để giảm các thiệt hại. Khi Con Người nói về ngày quang lâm, chúng ta sẽ chuẩn bị ra sao? Chẳng ai biết trước được ngày quang lâm chính xác là ngày nào. Chính Chúa Giêsu đã khẳng định rằng ngày và giờ chỉ có Chúa Cha biết thôi (x. Mc 13,32). Mặc dù đã được báo cho biết về cách mà ngày quang lâm xảy đến, con người vẫn không có sự chuẩn bị mà mải lo lắng với bao sự đời, say sưa với bao thú vui, để rồi ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu (x. Lc 21,34). Biển vẫn trong xanh, đàn cá tung tăng bơi lội, nhưng kìa chiếc lưới người ngư phủ tung xuống và đàn cá bị kéo lên khoang thuyền. Chúa Giêsu khẳng định: “Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất” (Lc 21,35). Như vậy, tất cả mọi người không trừ một ai đều sẽ phải tỉnh thức và sẵn sàng, vì tất cả sẽ được thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến (x. Lc 21,27).
Chúa Giêsu đã đổ máu mình ra để cứu chuộc nhân loại tội lỗi, giải thoát họ khỏi quyền lực sự chết mà đưa họ vào cõi sống ngàn thu. Thật diễm phúc cho ai nhận biết Thiên Chúa và đón nhận Tình Yêu của Chúa. Nhưng để bước theo Chúa Giêsu, người môn đệ phải từng ngày chết đi cho chính mình, nghĩa là chấp nhận “từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Chúa” (x. Mt 10, 38). Để ngày Chúa quang lâm, các môn đệ với tư thế “đứng thẳng và ngẩng đầu lên” thì từng ngày sống, từng giây phút họ phải chiến đấu. Đây là cuộc chiến đấu cao đẹp để chiếm cho được triều thiên vinh hiển là chính Chúa. Thánh Phaolô đã khuyên nhủ các tín hữu thành Êphêxô hãy tìm sức mạnh trong Chúa và trong uy lực toàn năng của Người. Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa để có thể đứng vững trước những mưu chước ma quỷ (x. Ep 6,10-11). Vinh quang Thiên Chúa được biểu hiện ngay cả trong cuộc sống của Chúa Giêsu, và nhất là ngay trên thập giá. “Chúa Giêsu đã dùng chính cái chết của mình để biểu lộ vinh quang và uy quyền, biểu lộ tình yêu đến cùng của Người. Để bước theo sát dấu chân của Chúa, ta hãy tha thiết cầu nguyện. Hãy theo Thần Khí hướng dẫn mà dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi” (x. Ep 6,18).
Lạy Chúa Giêsu yêu mến! Tỉnh thức và cầu nguyện là điều hết sức cần thiết để con đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Chúa. Xin Chúa cho con trở nên một chiến sĩ của Chúa: lưng thắt đai là chân lý, mình mặc áo giáp là sự công chính, chân đi giày là lòng hăng say loan báo tin mừng bình an, luôn cầm khiên mộc là đức tin, nhờ đó con có thể dập tắt mọi tên lửa của ác thần. Sau cùng, xin cho con đội mũ chiến là ơn cứu độ và cầm gươm của Thần Khí ban cho, tức là Lời Thiên Chúa” (x.Ep 6, 14-17) để cuộc đời của con là lời ca tụng Chúa luôn mãi. Amen
Hôm nay, chúng ta bước vào năm phụng vụ mới với việc cử hành Mùa Vọng. Đây là mùa chuẩn MV 1-C232
Hôm nay, chúng ta bước vào năm phụng vụ mới với việc cử hành Mùa Vọng. Đây là mùa chuẩn bị mừng kỷ niệm biến cố Con Chúa đến lần thứ nhất, qua đó, giúp chúng ta biết đón Chúa đến mỗi ngày; đồng thời cũng là thời gian hướng lòng chúng ta mong đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong vinh quang. Để giúp hiểu đúng về những lần Chúa đến, trong thánh lễ này, chúng ta hãy suy niệm về việc Chúa đến và thái độ cần thiết để đón Chúa.
1- Chúa đã đến
Trước hết, dựa vào Lời Chúa hôm nay, chúng ta biết rằng việc Chúa đến với loài người được loan báo qua tiên tri Giêrêmia trong bài đọc I: “Trong những ngày ấy, vào thời đó, Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công Chính để nối nghiệp Đavít; Người sẽ trị nước theo lẽ công bình chính trực” (Gr 33,14-15).
Đây là lời loan báo của Cựu Ước về Đấng Mêsia sẽ đến trong lần thứ nhất. Lời loan báo này được thực hiện trong thời Tân Ước qua biến cố Con Thiên Chúa nhập thể làm người, sinh bởi Đức Maria. Trong lần giáng trần này, Thiên Chúa đến với con người theo cách thức là một tôi tớ, trong khiêm tốn và âm thầm. Người được sinh ra và được bọc tã đặt nằm trong máng cỏ đơn hèn. Người sống âm thầm trong gia đình Thánh Gia suốt ba mươi năm tại làng Nazarét. Sau đó, Người công khai đi rao giảng Tin Mừng ba năm, rồi chịu tử nạn trên thập giá, sau ba ngày phục sinh vinh hiển vì ơn cứu độ loài người.
Như thế, Thiên Chúa đã đến với loài người và ở giữa chúng ta qua việc Chúa Cha sai Chúa Con đến trong thế gian, nhập thể làm người để cứu độ chúng ta. Đây là lần thứ nhất Chúa đến.
2- Chúa sẽ đến
Tuy nhiên, trước khi về trời, Đức Giêsu loan báo cho các môn đệ biết rằng, Người sẽ trở lại trong ngày quang lâm (parousia). Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca ghi lại lời loan báo về sự trở lại của Chúa Kitô như sau: “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ, thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến” (Lc 21,25-28).
Đây là những lời tiên báo về việc Chúa Kitô đến lần thứ hai. Nếu lần thứ nhất Chúa đến trong tư cách là một người tôi tớ khiêm hạ, thì lần thứ hai Chúa đến trong tư cách là “Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng Cứu Độ chúng ta xuất hiện trong vinh quang” (Tt 2,13). Người xuất hiện như vị thẩm phán đầy uy quyền và công minh để xét xử nhân loại trong ngày chung thẩm.
Vì thế, trong Kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng: “Người lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha, và Người sẽ lại đến trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết, triều đại Người sẽ vô cùng vô tận.”
Như vậy, trong ngày cánh chung, Đức Giêsu Kitô sẽ từ trời ngự đến. Người sẽ ngự đến trong vinh quang và uy quyền của Thiên chúa để xét xử mọi loài. Nhưng sự việc này xảy ra lúc nào và khi nào? Điều này không được Chúa Giêsu mạc khải. Vì đây là bí mật mà Chúa Cha nắm giữ. Kinh Thánh chỉ mạc khải cho biết Chúa đến bất ngờ, vào giờ con người không ngờ. Nên Lời Chúa hôm nay hướng dẫn chúng ta phải có những thái độ cần thiết để đón Chúa.
3- Thái độ đón Chúa đến
Trước hết, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta: “Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu độ” (Lc 21,28). Đứng thẳng và ngẩng cao đầu là tư thế của người sẵn sàng và tin tưởng. Tư thế này có ý nghĩa biểu tượng để nói rằng chúng ta được mời gọi dù sống trên mặt đất nhưng phải luôn biết hướng về trời cao, dù phải vất vả tìm kiếm lương thực hằng ngày, nhưng phải luôn biết hướng về hạnh phúc vĩnh cửu. Vì thế, đứng thẳng cũng có nghĩa là sống đúng với phẩm giá của mình, không quỵ ngã hay cúi mình trước khó khăn, thử thách và cám dỗ của cuộc sống. Ngẩng cao đầu là tư thế của người lạc quan và tin tưởng. Người ngẩng cao đầu là người biết trông cậy và hy vọng vào Thiên Chúa, bất chấp mọi khó khăn và nguy biến có thể xảy ra trong cuộc sống.
Tiếp đến, thái độ thứ hai để đón Chúa đến là: “Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời (Lc 21,34). Cuộc sống cần phải ăn uống. Nhưng mọi cái thái quá đều là không tốt. Lời Chúa nhắc nhở chúng ta phải đề phòng và diệt trừ những thói hư tật xấu, đó là “chè chén say sưa và lo lắng sự đời.” Đây là những điều cản trở chúng ta đến với Chúa. Người Kitô hữu phải là người sống quân bình và làm chủ các đam mê của mình, nhất là tính mê ăn uống.
Cuối cùng, Chúa mời gọi chúng ta: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21,36). Tỉnh thức là không ngủ, tỉnh táo trước những cơn cám dỗ của ba thù: ma quỷ, thế gian và xác thịt, nhưng nhạy bén với ơn Chúa và hoạt động của Chúa Thánh Thần. Còn cầu nguyện là gắn bó, đối thoại và lắng nghe Đấng mà chúng ta biết rằng Người yêu thương chúng ta (Têrêsa Avila). Nhờ tỉnh thức, chúng ta biết biện phân các nguy cơ tội lỗi và nắm bắt các cơ hội ân sủng. Nhờ cầu nguyện, chúng ta có sức mạnh và năng lực để vượt thắng mọi nguy hiểm trong đời.
Lạy Chúa, Chúa đã đến lần thứ nhất trong sự khó nghèo và đơn hèn để cứu độ chúng con. Chúa sẽ đến lần thứ hai trong vinh quang và quyền uy để xét xử loài người. Xin cho mỗi người chúng con trong Mùa Vọng này, luôn biết sống tỉnh thức và cầu nguyện, để bất kỳ lúc nào Chúa đến, chúng con đều sẵn sàng ra đón Chúa. Amen!
Các bài đọc trong Chúa Nhật thứ nhất mùa vọng đặt chúng ta trong bầu khí nhiều biến động mang MV 1-C233
Các bài đọc trong Chúa Nhật thứ nhất mùa vọng đặt chúng ta trong bầu khí nhiều biến động mang tính đe dọa, và một xã hội nhiều bất công. Đó là sự thật của một thế giới, khi đường lối công chính và ơn cứu độ của Thiên Chúa chưa được con người đón nhận. Nhưng chính trong bối cảnh hỗn loạn, “hoảng hồn mất vía” này, chúng ta được kêu gọi “tỉnh thức cầu nguyện hầu thoát mọi điều nguy hiểm và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21,36).
Bài đọc thứ nhất: sau khi tuyên sấm “cảnh điêu tàn, không người, không vật” của Giuđa và Giêrusalem, ở đó, tất cả “đã ra tan hoang…, không tiếng mừng vui, hoan lạc, tiếng cô dâu chú rể, tiếng những kẻ nói: “Hãy cảm tạ Giavê các cơ binh, vì Người tốt lành, vì ơn Người miên man vạn đại ” (Gr 33,10-11), ngôn sứ Giêrêmia đã loan báo những ngày Thiên Chúa Giavê cho nẩy chồi công chính và hạnh phúc trong nhà Đavít: “Giuđa sẽ được độ trì và Giêrusalem sẽ hưởng cảnh an cư” (Gr 33,16).
Tin Mừng Luca thì cảnh báo “sẽ có điềm lạ nơi mặt trời, mặt trăng và các tinh tú. Dưới đất, các dân hồi hộp vì biển gầm sóng vỗ. Người ta mất vía vì sợ…” (Lc 21, 25-26), và nhắc bảo cảnh giác đề phòng, kẻo lòng các ngươi ra nặng nề bởi chè chén say sưa, bởi những lo lắng sự đời…Nhưng hãy tỉnh thức và cầu nguyện” (Lc 21, 34.36).
Quả thực, những năm gần đây, ít nhiều chúng ta đã chứng kiến hoặc nghe kể thảm cảnh sóng thần trong vài phút đã cuốn trôi cả một thành phố gần biển, và hàng vạn dân cư. Thiên tai đủ loại, đủ cỡ xẩy ra liên tục khắp nơi trên thế giới làm nhiều người nghĩ đến ngày tận thế. Chẳng thế mà cứ lâu lâu lại nghe đồn đãi ngày ấy, tháng ấy, năm ấy đêm tối sẽ bao phủ địa cầu, không ai thấy ai, nên cả làng, cả nước đổ xô mua nến phòng hờ ngày tăm tối. Cũng có nhiều nhóm tự nhận mình được “mặc khải riêng” trong giấc mơ, hay “thị kiến” về ngày giờ tận thế, nên gõ cửa từng nhà cảnh báo, dặn dò những gì phải làm trong ngày cuối cùng của loài người. Thậm chí cả những “bậc đạo đức” tự cho mình thông hiểu Kinh Thánh cũng với bộ dạng trầm trọng “bỏ nhỏ” vào tai người thân quen “ngày giờ tận thế”.
Nhưng rồi thế giới vẫn chưa tận số, loài người vẫn sống, chỉ khổ thân những con người nhẹ dạ, cả tin đã căng thẳng chuẩn bị ngày tận thế, để phải thẹn thùng với bà con làng nước về “mặc khải dổm”, “lời tiên tri ấu trĩ, ngờ nghệch”, và những “chuẩn bị lố bịch đến nực cười” của mình khi ngày tận thế không xẩy ra.
Là người Kitô hữu, chúng ta không được mời gọi tiên đoán ngày tận thế, vì ngày đó thuộc quyền Thiên Chúa; chúng ta cũng không có bổn phận loan báo ngày tận thế cho anh em mình, với dáng vẻ của người “thất kinh bát đảo”, lo lắng, sợ hãi, thất vọng; chúng ta càng không được phép lấy cảnh hãi hùng của tận thế phần lớn do óc tưởng tượng để doạ nạt, trấn áp, ép buộc anh em mình đi đạo. Trái lại, trước những thiên tai, những bất thường trong thiên nhiên, chúng ta được mời gọi nhận ra dấu chỉ và sứ điệp của Chúa nhắn gửi:
Nước Thiên Chúa đã đến gần, và chúng ta phải chuẩn bị để đón nhận Nước Thiên Chúa.
Thánh Phaolô kêu gọi cộng đoàn Thessalônica hãy thực hiện việc đón nhận Nước Thiên Chúa bằng sống huynh đệ trong cộng đoàn, đồng thời lan tỏa lòng bác ái đến với mọi người, ở ngoài cộng đoàn.
Đường lối của Thiên Chúa là Tình Yêu và Sự Thật:
Một điều chúng ta thường hay quên, đó là ý nghĩ của Thiên Chúa không phải ý nghĩ của ta, và đường lối của Thiên Chúa không phải đường lối của ta (x. Is 55, 8-9). Thánh Phaolô còn nhấn mạnh: “Ôi, thẳm sâu thay sự giầu có, khôn ngoan, thượng trí của Thiên Chúa! Những phán quyết của Người vô phương dò thấu, đường lối của Người không thể dõi theo! ” (Rm 11, 33). Vì thế, chúng ta không thể sắp xếp chương trình cho Thiên Chúa, lập trình sẵn đường lối hay làm cố vấn cho Ngài. Chúng ta chỉ có thể đón nhận thánh ý Ngài được mặc khải qua Đức Giêsu, con yêu dấu của Ngài đã làm người và ở giữa chúng ta. Ngài ở giữa để chia sẻ phận làm người và để nói với chúng ta bằng ngôn ngữ loài người về Thiên Chúa, về đời sống và vận mệnh tương lai của con người; Ngài còn ở giữa, ở với, sống, chết, và phục sinh để cứu độ mọi người. Chính Ngài đã cho chúng ta biết đường lối của Thiên Chúa là Tình Yêu và Sự Thật. Trên đường lối này, Thiên Chúa muốn chúng ta bước đi theo Ngài.
Ở đây, chúng ta cần lưu ý: Sự Thật ở Thiên Chúa luôn sánh vai với Tình Yêu để sự thật, dù là sự thật đáng ghét, đáng nguyền rủa, trần trụi, trơ trẽn thế nào đi nữa, cũng vẫn là sự thật được Thiên Chúá biến đổi thành giá cứu độ, vì có Tình Yêu bao che, bảo bọc, bênh đỡ, tẩy rửa. Có thể sự thật của con người trong tay con người sẽ bị té tát, khai thác, lột trần trắng trợn, để lên án, trừng phạt, nhưng sự thật của con người trong tay Thiên Chúa lại được Thiên Chúa cất giấu trong Tình Yêu, gìn giữ trong Tình Yêu, bảo vệ trong Tình Yêu, thăng hoa trong Tình Yêu bằng thánh hoá trong Tình Yêu. Vì thế nên, trong Thiên Chúa, không sự thật nào, dù bẽ bàng, xấu xa đến đâu của tôi, của anh chị lại có thể bị Thiên Chúa xử dụng để lên án, thanh trừng, loại bỏ.
Khi nhắc bảo chúng ta: trong những ngày thử thách, “Hãy tỉnh thức ”, Đức Giêsu biết rõ: ta chỉ có thể tỉnh thức trong Sự Thật, vì dối trá sẽ làm u mê tim óc, gian manh sẽ làm tối tăm đôi mắt tâm hồn, chỉ Sự Thật mới giải phóng ta khỏi sai trái, lầm lạc và cho ta tỉnh thức khi Chúa đến. Bên cạnh là Tình Yêu, như bệ chắc chắn cho ta đứng vững trước mặt Con Người, bởi chỉ Tình Yêu mới là công trạng có giá trị trước mặt Chúa Cha; chỉ Tình Yêu mới có sức hấp dẫn trái tim Thiên Chúa là Tình Yêu; chỉ Tình yêu mới là tiêu chuẩn chọn lọc người lành, kẻ dữ trước Nhan Thánh, trong ngày chung thẩm; chỉ Tình Yêu mới làm Thiên Chúa nhớ đến ta, và chỉ Tình Yêu mới là dấu chỉ, huy hiệu ta thuộc về gia đình Thiên Chúa.
Vâng, Mùa Vọng khởi đầu bằng lời nhắc nhở: “Đường lối của Thiên Chúa không phải đường lối của loài người”, để chúng ta bỏ đi thói quen vẽ đường cho Chúa đi, ép Chúa làm những gì ta ưa thích, và trách móc Chúa khi lời cầu xin của ta không được toại nguyện, để thay vào đó lòng vâng phục đường lối của Thiên Chúa , bởi tự nó đã là hạnh phúc mang lại ơn cứu độ cho chúng ta.
Hành trình Mùa Vọng cũng bắt đầu bằng khởi điểm Sự Thật và Tình Yêu. Không bắt đầu bằng khởi điểm này, chúng ta không thể gặp được Thiên Chúa, dù Ngài đang ở giữa chúng ta, bởi một lý do rất đơn giản: Chính Thiên Chúa là Sư Thật và là Tình Yêu, nên ở ngoài Sự Thật, và Tình Yêu, chúng ta không có Thiên Chúa đồng hành trong cuộc đời.
Có Chúa là Sự Thật và Tình Yêu, chúng ta sẽ chẳng phải lo lắng trước bất cứ xáo trộn, tai hoạ nào, vì mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh vui, buồn, thành công, thất bại, chúng ta luôn được tỉnh thức với Chúa và đứng vững trước tôn nhan Ngài.
Với Chúa Nhật I Mùa Vọng, chúng ta bước vào năm Phụng Vụ mới theo chu kỳ là Năm C. Trong Mùa MV 1-C234
Với Chúa Nhật I Mùa Vọng, chúng ta bước vào năm Phụng Vụ mới theo chu kỳ là Năm C. Trong Mùa Vọng này, chúng ta sống lại tâm tình của dân Do thái xưa chờ đón Chúa đến. Nhưng khác với dân Do thái, chúng ta biết rằng Chúa đã đến rồi trong thân phận yếu hèn của kiếp người, hiện nay Ngài vẫn hằng đến với chúng ta mọi ngày cách mầu nhiệm và Ngài sẽ đến sau cùng với chúng ta trong vinh quang, gần nhất vào ngày mỗi người từ giả cuộc sống trần thế này, và xa hơn vào ngày Quang Lâm của Ngài. Vậy, Mùa Vọng vừa chuẩn bị chúng ta mừng kỷ niệm việc Chúa đến lần thứ nhất trong thân phận yếu hèn của kiếp người, vừa giúp chúng ta hướng lòng trông đợi Chúa đến lần thứ hai trong vinh quang của Ngài.
Gr 33: 14-16
Bài Đọc I là sấm ngôn của ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã được một bàn tay vô danh sửa lại, hay nói đúng hơn, hiện tại hóa vào trong thời đại của mình, sau khi vương triều Đa-vít biến mất. Bản văn này chuyển niềm hy vọng Mê-si-a sang Giê-ru-sa-lem, thành đô của Thiên Chúa.
1Tx 3: 12-4: 2
Thánh Phao-lô khuyên các Ki-tô hữu Thê-xa-lô-ni-ca sống trong tư thế sẵn sàng chờ đón ngày Đức Giê-su trở lại trong vinh quang bằng cách thực hành đức ái huynh đệ và thăng tiến trên con đường thánh thiện.
Lc 21: 25-28, 34-36
Tin Mừng được trích từ bài diễn từ của Đức Giê-su về ngày tận thế theo Tin Mừng Lu-ca. Đức Giê-su loan báo cuộc trở lại trong vinh quang của Ngài để khai mạc một thế giới mới; các tín hữu phải chờ đợi ngày này trong niềm tin tưởng chứa chan hy vọng.
BÀI ĐỌC I (Gr 33: 14-16)
Bản văn Gr 33: 14-16 nầy lập lại sấm ngôn của Giê-rê-mi-a ở 23: 5-6, tuy nhiên đoạn cuối đã được một nhà biên soạn vô danh sửa lại sau này: thay vì “Thời bấy giờ, Giu-đa sẽ được cứu thoát, Ít-ra-en được sống yên hàn” (23: 6), thì lại “Trong những ngày ấy, Giu-đa sẽ được cứu thoát, Giê-ru-sa-lem sẽ được an cư lập nghiệp” (33: 16). Việc sửa lại này dâng hiến một lợi ích lớn lao về phương diện lịch sử cũng như tâm lý.
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a công bố sứ điệp hy vọng này vào lúc triều đại Đa-vít biến mất trong một cơn phong ba bảo táp dữ dội và xem ra cuốn theo với triều đại này mọi lời hứa về Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít.
Bối cảnh lịch sử:
Bối cảnh lịch sử được định vị vào năm 597 trước Công Nguyên, khi vua Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, xâm chiếm Giê-ru-sa-lem và bắt vua Giơ-hô-gia-khin, hậu duệ của vua Đa-vít, và các thân hào nhân sĩ đi lưu đày; đoạn, mười năm sau đó cướp sạch thành thánh và triệt hạ Đền Thờ.
Trước khi tai họa xảy đến cho đất nước, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã lãnh nhận một sứ mạng khó khăn là báo trước cho các vị lãnh đạo và các thân hào nhân sĩ những biến cố bi thảm này, nếu họ không chịu thay đổi cách ăn nếp ở, thực hành công chính và trung tín với Đức Chúa. Nhưng khi những nỗi gian truân bất ngờ xảy đến, ngôn sứ Giê-rê-mi-a, từ ngôn sứ loan báo những tai họa trở thành sứ giả loan báo niềm hy vọng, khẳng định rằng không có gì mất cả; những lời hứa của Thiên Chúa liên quan đến dòng dõi vua Đa-vít không bị hủy bỏ.
“Này, sẽ đến những ngày” (biểu thức này ngôn sứ Giê-rê-mi-a rất tâm đắc, chắc chắn được mượn ở ngôn sứ A-mốt) Thiên Chúa sẽ cho mọc lên từ dòng dõi Đa-vít một “mầm non” (thuật ngữ này đã là một danh hiệu của Đấng Mê-si-a), Đấng này sẽ trị nước theo lẽ công minh chính trực. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a kết thúc sấm ngôn của mình khi trao tặng cho hậu duệ Đa-vít tương lai danh hiệu “Đức Chúa là sự-công-chính-của-chúng-ta”, một trong những danh xưng biểu tượng mà các ngôn sứ thường sử dụng (từ “công chính” được hiểu theo nghĩa Kinh Thánh là sự thánh thiện của Thiên Chúa).
Ý nghĩa của việc sửa lại.
Nhiều thế kỷ trôi qua, nền độc lập không được khôi phục và vương triều không được tái lập. Dân Thiên Chúa được tổ chức theo thần quyền, chung quanh các tư tế của họ và Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được tái thiết. Vào lúc đó, sấm ngôn Giê-rê-mi-a được sửa lại. Vì thế ai xứng đáng đón nhận danh hiệu Mê-si-a “Đức Chúa là sự-công-chính-của-chúng-ta” này, nếu không là Giê-ru-sa-lem được nhân cách hóa? Không phải từ nay Thành Thánh là nơi độc nhất mà các lời hứa cứu độ được ký thác sao?
Các nhà chuyên môn có thể ghi niên biểu của việc sửa đổi này vào hậu bán thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên, vì bản dịch Hy lạp, bản Bảy Mươi, không biết đoạn văn này. Ấy vậy, bản dịch nầy được thực hiện ở A-lê-xan-ri-a vào những năm 285-246 trước Công Nguyên.
Việc sửa đổi này rất có ý nghĩa. Vào thời đó, dòng dõi Đa-vít bị mất hút vào trong tập thể. Vị thượng tế lãnh nhận lễ xức dầu tấn phong thế vị vua. Trào lưu Mê-si-a vương đế và trào lưu Mê-si-a tư tế được nhập thành một. Thành Thánh Giê-ru-sa-lem là trung tâm độc nhất, dấu chỉ niềm hy vọng vĩnh hằng.
BÀI ĐỌC II (1Tx 3: 12-4: 2)
Thánh Phao-lô viết Thư thứ nhất gởi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca vào đầu năm 51, tức khoảng hai mươi năm sau cái chết của Đức Giê-su. Đây là một văn kiện Tân Ước lâu đời nhất.
Thánh Phao-lô viết hai bức thư gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca. Trong cả hai bức thư, viễn cảnh về ngày Quang Lâm của Đức Giê-su là một trong những chủ đề chính, viễn cảnh nầy đem lại cho những lời khuyến dụ của thánh nhân một cung giọng khẩn thiết. Như vậy, đoạn trích thư này hòa hợp với hai bài đọc còn lại của Chúa Nhật I Mùa Vọng năm C này.
Bối cảnh:
Thánh Phao-lô đã sáng lập giáo đoàn Thê-xa-lô-ni-ca vào năm 50. Thê-xa-lô-ni-ca là thành phố thương mại miền duyên hãi, thủ phủ của miền Ma-kê-đô-ni-a. Đây là thành phố thứ hai thuộc Châu Âu đón nhận sứ điệp Tin Mừng, sau thành phố thứ nhất là Phi-líp-phê (1Tx 2: 2). Việc thánh Phao-lô rao giảng thành công đã khiến một nhóm người Do thái ghen tức, họ xúi dục một nhóm người chống đối thánh nhân dữ dội đến mức thánh nhân cùng với hai người bạn đồng hành là Xin-va-nô và Ti-mô-thê đang đêm phải vội vã trốn khỏi thành phố (Cv 17: 5-10). Thánh Phao-lô ra đi mang theo nỗi bận lòng của ngài vì phải rời bỏ một giáo đoàn mà ngài vừa mới thành lập mà đức tin của họ vẫn còn non yếu. Vì thế, khi thời thế thuận tiện, thánh nhân đã phái ông Ti-mô-thê viếng thăm giáo đoàn Thê-xa-lô-ni-ca mà chính thánh nhân đã không thể. Khi trở về, ông Ti-mô-thê đem đến những thông tin đầy khích lệ: các tín hữu non trẻ vẫn “đứng vững trong Chúa” (Tx 3: 8), bất chấp những gian truân mà họ phải chịu. Lúc đó, thánh Phao-lô ở Cô-rin-tô, với niềm vui và tâm tình cảm tạ tri ân, viết một bức thư chan chứa ân tình, thư thứ nhất gởi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca.
Thư này gồm hai phần. Đoạn trích hôm nay là một bản lề: chúng ta đọc đoạn kết của phần thứ nhất (3: 12-13) và đoạn mở của phần thứ hai (4: 1-2).
Lời nguyện xin của thánh Phao-lô:
Phần thứ nhất kết thúc với lời nguyện xin của thánh Phao-lô (phần thứ hai cũng vậy). Qua những ngôn từ của lời nguyện xin này, thánh nhân nhắc các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca nhớ nguyên tắc Ki-tô giáo tuyệt vời: “Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết”. Trong giáo đoàn đa số là các Ki-tô hữu gốc lương dân, như mạch văn để cho thấy điều đó, nhưng chắc chắn cũng bao gồm những Ki-tô hữu gốc Do thái.
Trong Giáo Hội tiên khởi việc sống chung không là vấn đề, nhưng thánh nhân còn đi xa hơn: khuyên các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca không chỉ yêu thương nhau mà còn yêu thương hết mọi người, “ngày càng thêm đậm đà thắm thiết”, lời khuyên này vào hoàn cảnh đó thật quan trọng, tức là các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca phải yêu mến những người bách hại mình, dù phải chịu nhiều nỗi gian truân. Để nâng đỡ và khích lệ họ, thánh nhân nhắc họ nhớ lại tấm lòng mà ngài có đối với họ: “cũng như tình thương của chúng tôi đối anh em vậy”.
Luật yêu thương là con đường thánh thiện, “không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giê-su, Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người”.
Ngày của Chúa:
Chúng ta ghi nhận rằng ngay từ bản văn Tân Ước đầu tiên này, Đức Giê-su được gọi là Chúa (Đức Chúa), danh xưng mà Cựu Ước dành riêng cho Thiên Chúa. Như vậy, các Ki tô hữu tiên khởi đã khẳng định Thần Tính của Đức Giê-su. “Ngày của Chúa” mà các ngôn sứ đã loan báo nay được dùng để chỉ “ngày Quang Lâm”, nghĩa là ngày Đức Giê-su trở lại trong vinh quang cùng với “các thánh của Người”.
Các thánh này là ai? Theo truyền thống Do thái, nhất là truyền thống khải huyền, vào ngày chung thẩm, Đức Chúa được các thiên sứ đứng chầu chung quanh, thường được gọi “các thánh” (x. Dcr 14: 5). Các sách Tin Mừng vang dội lại truyền thống này: “Khi Con Người đến trong vinh quang của Ngài, có tất cả các thiên sứ theo hầu” (Mt 25: 31). Tuy nhiên, thánh Phao-lô vừa mới gợi lên sự thánh thiện của các tín hữu, vì thế, không thể không nghĩ rằng thánh nhân liên kết sự hiện diện của những người được tuyển chọn với sự hiện diện của các thiên sứ.
Trong ngày của Đức Giê-su:
Đoạn văn này chỉ trích dẫn lời mào đầu của phần thứ hai thư gởi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca (4: 1-2). Trong lời mào đầu này, thánh Phao-lô khuyên bảo các tín hữu hãy kiên vững và thăng tiến trên con đường thánh thiện. Thánh nhân nhắc nhớ giáo huấn của ngài, khi xác định ngài đã truyền đạt cho họ những chỉ thị mà ngài “đã lấy quyền Chúa Giê-su”. Thánh nhân sẽ luôn luôn tự giới thiệu mình chỉ là người trung gian, sứ giả phàm nhân của lời Thiên Chúa.
Mặt khác, thật đáng chú ý là, ngay từ bản văn đầu tiên của thánh Phao-lô, xuất hiện biểu thức thường được lập đi lập lại dưới ngòi bút của thánh nhân, biểu thức then chốt phản ảnh hồn tông đồ cũng như cuộc sống nội tâm của thánh nhân: “Nhân danh Chúa Giê-su, chúng tôi xin, chúng tôi khuyên nhủ anh em”. Xa hơn một chút, thánh nhân lập lại đến hai lần “Nhân danh Chúa Giê-su” (5: 12, 18). Phải sống, hành động, suy nghĩ, cầu nguyện “nhân danh Chúa Ki-tô”. Đây là cách thức duy nhất “làm vui lòng Thiên Chúa”.
TIN MỪNG (Lc 21: 25-28, 34-36)
Năm Phụng Vụ khởi đầu và kết thúc trên viễn cảnh Đức Giê-su trở lại vào ngày tận thế để thiết lập Triều Đại của Ngài một cách vĩnh viễn và tôn vinh các thánh. Như vậy, vào Chúa Nhật trước, trong ngày lễ Chúa Giê-su Vua kết thúc năm Phụng Vụ theo chu kỳ Năm B, chúng ta đã cử hành vương quyền hoàn vũ của Đức Giê-su. Vào Chúa Nhật I Mùa Vọng này theo chu kỳ là Năm C, chúng ta lấy lại sự gợi ý tương tự, nhưng trong viễn cảnh Giáng Sinh. Đức Giê-su đã trở thành phàm nhân và đã hội nhập vào trong cuộc sống nhân loại để hướng dẫn nhân loại đến vận mệnh siêu nhiên của Ngài; Ngài sẽ hoàn thành công trình của mình vào ngày Quang lâm. Tương ứng với việc Chúa đến lần thứ nhất trong sự yếu đuối và khiêm hạ của biến cố Bê-lem lại là việc Chúa đến lần thứ hai trong quyền năng và sự cao cả của việc “Con Người ngự đến”.
Bối cảnh:
Cũng như thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu, thánh Lu-ca đặt bài diễn từ về ngày Quang Lâm của Đức Giê-su vào lời giáo huấn sau cùng của Ngài ở Giê-ru-sa-lem, không bao lâu trước cuộc Thương Khó của Ngài. Chúng ta đọc phần cuối của bài diễn từ này.
Trong cả ba Tin Mừng nhất lãm, Chúa Giê-su công bố bài diễn từ này vào dịp Ngài rao giảng về sự sụp đổ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem “không còn tảng đá nào trên tảng đá nào” (Lc 21: 6). Viễn cảnh này làm xao xuyến các môn đệ đến độ các ông liên kết nó với viễn cảnh ngày tận thế. Về phần mình, thánh Lu-ca cẩn trọng ghi nhận giữa hai biến cố này có một thời kỳ trung gian, “thời kỳ dân ngoại” ở 22: 24 ngay trước đoạn trích này: “Họ sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ bị đày đi khắp các dân các nước, và Giê-ru-sa-lem sẽ bị dân ngoại giày xéo, cho đến khi mãn thời của dân ngoại”.
Theo thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu, Đức Giê-su công bố diễn từ này trên núi Ô-liu, khi ngỏ lời với các môn đệ, hay chỉ một nhóm nhỏ, theo Mác-cô. Thánh Lu-ca định vị nó vào ở trung tâm Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nơi mà việc sụp đổ sắp xảy ra (thành thánh Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ luôn luôn là trọng tâm của những viễn cảnh sách Tin Mừng Lu-ca). Bên kia các môn đệ, Đức Giê-su ngỏ lời với đám đông; như vậy thành thánh Giê-ru-sa-lem nghe công bố ngày Quang Lâm của Đấng mà nó sẵn sàng giết chết.
Truyền Thống Kinh Thánh:
Trong Kinh Thánh, những điềm báo về việc Thiên Chúa can thiệp dứt khoát trong lịch sử, đề tài này xuất hiện rất sớm, chẳng hạn như Đức Chúa gieo rắc sự kinh hoàng tại đất Ai-cập trước khi giải phóng dân Ngài (Xh 7: 14-11: 8). Đức Giê-su loan báo ngày tận thế theo cùng tiến trình: “Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc”, trong khi những người công chính “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”.
Những điềm trời thường được các ngôn sứ sử dụng để loan báo những án phạt của Thiên Chúa trên các dân ngoại áp bức dân Ít-ra-en, cũng như trên chính dân Chúa chọn khi dân bất trung như Is 13: 10: “Quả vậy, tinh tú bầu trời và các chòm sao sẽ không chiếu sáng nữa, mặt trời vừa mọc lên đã tối sầm, mặt trăng sẽ không còn tỏa sáng”.
Khởi đi từ thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên, các sách khải huyền phóng đại những mô tả này bằng những cảnh tượng huyền hoặc được gợi hứng từ Phương Đông (điều này đã để lại dấu vết trên sách Khải Huyền của thánh Gioan). Thể loại văn chương này đưa vào trong Do thái giáo một trào lưu suy luận rộng lớn về “thế giới tương lai” và “kỷ nguyên cánh chung”. Vào thời Đức Giê-su, người ta rất quan tâm đến vấn đề này; chúng ta cũng có thể nói rằng vào lúc đó nhiều thế hệ đã sống trong niềm mong đợi ngày tận thế. Nhiều người Ki-tô hữu gốc Do thái sống trong niềm mong đợi ngày Quang Lâm của Đức Ki tô.
Con Người ngự đến:
Thánh Lu-ca gợi lên những hình ảnh truyền thống và quy ước về những xáo động trên đất và biển như khúc dạo đầu “Ngày của Chúa”, vì những hình ảnh nầy diễn tả những vùng vẫy sau cùng của những quyền lực sự ác trước khi chúng bị tiêu diệt; nhưng thánh ký không chú tâm đến những hình ảnh này; ông ngỏ lời với quần chúng ít quen thuộc với thể loại văn chương khải huyền Do thái. Tất cả từ vựng này được sử dụng cốt nhấn mạnh quyền tối thượng của Đấng “ngự trong đám mây mà đến”.
Đức Giê-su đã loan báo nhiều lần rồi cho các môn đệ về cuộc trở lại đầy quyền năng và vinh quang của Ngài dưới danh hiệu Con Người; ở đây Ngài đặt danh hiệu này vào trong bối cảnh gốc của nó hầu như theo sát nguyên văn, thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en: “Có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến” (Đn 7: 13). Do đó, danh hiệu mà Đức Giê-su tự nhận cho mình được khám phá với tất cả trương độ ý nghĩa của nó. Trong thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en, Con Người là thủ lãnh “dân thánh của Đấng Tối Cao”. Với tư cách là Con Người, Đức Giê-su mang lấy vận mệnh nhân loại. Vinh quang của Ngài cũng sẽ là tôn vinh tất cả những ai đã tin vào Ngài.
Bức tranh bộ đôi:
Thánh Lu-ca đặc biệt nhạy bén trước chiều kích con người về tấn thảm kịch sau cùng; thánh ký đặt hai bức tranh đối lập với nhau: bức tranh về quân vô đạo (chư dân) “sợ đến hồn xiêu phách lạc” và bức tranh về các tín hữu phát hiện giờ mình được cứu độ, giờ mình được giải thoát. Nói cách chính xác, nếu thánh ký không mô tả cuộc quy tụ của những người được tuyển chọn, thì những từ ngữ ông sử dụng có một âm vang rất ý nghĩa: “đứng thẳng”, “ngẩng đầu lên”, diễn tả tư thế của những người được sống lại.
Biến cố bất ngờ:
Đức Giê-su không bác bỏ những hình ảnh của văn chương khải huyền; nhưng Ngài đề nghị mô tả Triều Đại của Ngài theo một cách thức khác, khi dựa trên một truyền thống phổ biến: Ngày Quang Lâm của Ngài xảy đến bất ngờ không có dấu hiệu nào báo trước; nó thình lình giáng xuống địa cầu. Trong Tin Mừng Lu-ca, Đức Giê-su đã gợi lên viễn cảnh này rồi ở nơi các dụ ngôn kêu gọi sự tỉnh thức của Ngài: “Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng , vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Lc 12: 40) và ở nơi việc Ngài so sánh Triều Đại của Ngài với trận đại hồng thủy xảy đến bất ngờ: “Vì ánh chớp lòa chiếu sáng từ phương trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng là như vậy trong ngày của Người” (Lc 17: 20). Ở đây, Đức Giê-su sử dụng hình ảnh “chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu” mà ngôn sứ I-sai-a đã dùng: “Nào kinh hoàng, nào hố sâu, nào dò lưới đang chờ đợi ngươi, hỡi cư dân trái đất” (I s 24: 17). Khi căn dặn các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, thánh Phao-lô cũng theo truyền thống như vậy: “Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm” (1Tx 5: 2), điều nầy không loại trừ thời kỳ gian nan khốn khó sau cùng: “Nhưng ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó, các tầng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành bốc cháy tiêu tan, mặt đất và các công trình trên đó sẽ bị thiêu hủy” (2Pr 3: 10).
Tỉnh thức và cầu nguyện:
Đức Giê-su đặt hai truyền thống này bên cạnh nhau: một truyền thống đặt dấu nhấn trên chiều kích hoàn vũ của biến cố, còn truyền thống kia – không loại trừ chiều kích hoàn vũ này – nhấn mạnh sự gặp gỡ thân tình của mỗi cá nhân với Chúa. Từ đó, Đức Giê-su mời gọi hãy tỉnh thức và cầu nguyện. Thánh Lu-ca không bao giờ quên tầm quan trọng của việc cầu nguyện; thánh nhân là thánh ký thường hằng ghi nhận tầm quan trọng quan trọng của lời cầu nguyện trong cuộc đời của Đức Giê-su: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn”, đây là lời căn dặn sau cùng của Đức Giê-su cho các môn đệ của Ngài; Ngài sẽ lập lại vài giờ sau này ở vườn Ô-liu…
Chuyện vui kể rằng: Ba đấng mày râu hẹn nhau đi nhậu sau nhiều ngày không gặp. Khi ngà ngà MV 1-C235
Chuyện vui kể rằng: Ba đấng mày râu hẹn nhau đi nhậu sau nhiều ngày không gặp. Khi ngà ngà hơi men, cả ba bắt đầu hàn huyên về đời sống vợ chồng. Anh chàng đầu tiên mở lời:
– Các cậu sẽ làm gì nếu một ngày biết vợ mình ngoại tình?
Chàng thứ hai không giấu nổi vẻ bực tức: “Tôi sẽ lập tức ly dị cô ta!”
Anh chàng còn lại: “Tôi sẽ tha thứ cho vợ tôi, nếu cô ấy hối hận về việc mình làm”.
Anh chàng đầu tiên cười ý nhị: “Với tôi, đó lại là điều tôi mong đợi…”.
– Cậu có bị làm sao không thế? – Hai anh kia phẫn nộ.
– Vì đó là lúc thích hợp để nói tớ cũng ngoại tình!
Thưa các bạn!
Phải chăng, có thứ “ngoại tình” bằng hành động, có loại “ngoại tình” qua tư tưởng? Mức độ “ngoại tình” cũng khác nhau, khi này khi khác, khi lác khi không; khi ít khi nhiều, khi liều khi không?…
Là người, “bạn & tôi” đã hơn một lần “mong đợi” một ai hay điều gì đó trong cuộc sống. Có khi mong đợi đến ngậm ngùi xót xa mà vẫn không thấy hay đạt được. Có khi chẳng mong đợi mà vẫn xảy ra…
Tội lỗi làm mất lòng Chúa, xa rời Giáo hội, gây phương hại đến anh chị em… có lẽ chẳng ai mong đợi, nhưng nó vẫn cứ xảy ra, ta vẫn cứ phạm, cứ sai, cứ lỗi…
Trong tương quan với Chúa, phạm tội là một hình thức “ngoại tình” không hơn không kém. Vì khi chịu phép Thánh Tẩy, ta đã kết giao với Thiên Chúa, từ chối ma quỷ, trở thành đền thờ, người yêu…
Bước vào đầu năm Phụng Vụ với Chúa Nhật I Mùa Vọng C, Giáo Hội mời gọi con cái mình sống tinh thần mong đợi. Mong đợi mọc lên trong nhà Đavít một mầm non, một Đấng Công Chính (Bài Đọc I).
Mong đợi Chúa sẽ làm cho anh em được bền tâm vững chí, được trở nên thánh thiện, không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người (Bài Đọc II).
Mong đợi vì anh em sắp được cứu độ, dù có phải lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét, hay sợ đến hồn xiêu phách lạc… hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì sắp được cứu chuộc (Tin Mừng Luca 21).
Thưa các bạn!
Thiết tưởng, trong khi mong đợi một việc quan trọng xắp xảy đến, thái độ cần có chính là “đề phòng”. Đề phòng chớ để lòng mình ra nặng nề, vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời…
Đề phòng chớ để lòng mình ra mê muội, vì tội lỗi xâm nhập, ngoại tình bất chính. Đề phòng chớ để lòng mình ra tham sân si, chạy theo lạc thú, vì thiếu tỉnh thức và cầu nguyện…
Đề phòng chớ để lòng mình ra mất tin tưởng vào tình yêu khoan dung và tha thứ của Thiên Chúa. Đối với Thiên Chúa, thời gian không giới hạn, Ngài luôn mong đợi “bạn & tôi” trở về trong tình yêu.
Tình yêu đó được sánh ví như người “ANH” là Đức Giêsu đối với người “EM” là mỗi người chúng ta, và được cụ thể hóa qua bài thơ “ANH SẼ CHỜ EM” của tác giả Thanh Tâm:
“Anh chẳng ngại thời gian đâu
Chỉ cần em hứa bao lâu cũng chờ
Nhớ em anh viết vần thơ
Câu thương câu nhớ câu chờ đợi em”.
Ước gì, câu thương câu nhớ câu chờ câu đợi của Thiên Chúa sẽ khắc sâu nơi “bạn & tôi” trong suốt hành trình đức tin, để ta có thể sống tích cực, yêu đời và lạc quan hơn, không phải xôn xao, lo lắng, và bồn chồn trong khi mong đợi Đức Giêsu đến lần thứ hai phán xét từng người. Hy vọng tình “ANH EM” sẽ đẹp như “MONG ĐỢI”. Amen
Khởi đầu năm mới, người ta hay chúc cho nhau những điều may lành. Ví dụ chúc làm ăn phát MV 1-C236
Khởi đầu năm mới, người ta hay chúc cho nhau những điều may lành. Ví dụ chúc làm ăn phát đạt, sức khỏe dồi dào. Những ai mới cưới vợ lấy chồng thì chúc năm mới có tin vui… Trong những ngày đầu năm người ta cũng tránh những lời nói xui xẻo như tai ương, bệnh tật… và chắc chắn màu sắc của ngày đầu năm cũng phải là những màu rực rỡ như đỏ, vàng …
Hôm nay cùng với Hội thánh là mẹ, chúng ta bước vào năm phụng vụ mới với CN I MV. Xem ra những hình thức bên ngoài của Hội thánh hoàn toàn ngược lại với quan điểm của con người. Khởi đầu năm mới mà chủ tế mặc áo tím, cung thánh được bao trùm bởi một màu tím, bông hoa trên bàn thờ ít hơn ngày thường, lời Chúa lại nhắc đến những biến cố kinh khủng: động đất, biển gào sóng thét, dân chúng thì sợ hãi đến hồn xiêu phách lạc…
Tuy nhiên dù khác nhau về quan điểm, nhưng cả hai cái nhìn nhân loại và linh thánh đều nhắm đến niềm hy vọng một tương lai tốt đẹp ở phía trước. Rõ ràng hơn, quy tắc tổng quát về năm phụng vụ của Hội thánh đã dạy rằng: “Mùa Vọng vừa là mùa chuẩn bị mừng lễ trọng Giáng Sinh, vừa là mùa mà qua việc kính nhớ này, các tín hữu hướng lòng trông đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong ngày tận thế. Vì hai lý do này, mùa vọng được coi như mùa sốt sắng và hân hoan mong đợi”.Tại sao chúng ta lại hân hoan vui mừng trong khi những người khác lại hoang mang lo sợ? Tại sao chúng ta lại ngẩng đầu lên trong khi người khác lại cúi mặt xuống? Đâu là cách thức để chúng ta có được sự hân hoan vui mừng và hiên ngang? phụng vụ lời Chúa ngày hôm nay sẽ cho chúng ta thấy rõ điều đó.
PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Bài Đọc I: Gr 33, 14-16
Tiên tri Giêrêmia loan báo: “Sẽ đến những ngày Đức Chúa sẽ thực hiện điều tốt lành cho nhà Israel và Giuđa”. Điều tốt lành đó là gì? Thưa là Đức Chúa “Sẽ cho mọc lên Đấng Công Chính”, và “Giuđa sẽ được cứu thoát”. Đó chính là niềm hy vọng của Israel và Giuđa, cũng là niềm hy vọng của cả nhân loại: Đấng Công Chính sẽ xuất hiện để cứu độ nhân loại.
Bài Đọc II: 1Tx 3, 12-4,2
Thánh Phaolô nhắn gởi giáo dân thành Thexalônica phải“bền tâm vững chí, trở nên thánh thiện, không gì đáng chê trách” trong khi chờ đợi ngày Đức Gêsu Kitô quang lâm. Như vậy, ngày Chúa ngự đến, Chúa muốn những môn đệ của Chúa phải thánh thiện, không gì đáng chê trách. Tuy nhiên Chúa biết con người yếu đuối mỏng giòn làm sao tránh khỏi những bất xứng, nên điều mà Ngài cần là sự trung thành “bền tâm vững chí” của họ.
Tin Mừng: Lc 21, 25-28 . 34-36
Trong bài Tin Mừng hôm nay, CG cho chúng ta biết một sự thật: sẽ có ngày tận thế. CG không nói ngày nào, nhưng Ngài cho chúng ta biết những dấu chỉ. Đó là: “Sẽ có điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao”. Ở dưới trần thì: “Biển gào sóng thét”. Người ta thì sợ hãi đến “hồn xiêu phách lạc”. Chỗ khác, CG còn cho chúng ta thấy những dấu chỉ đang xảy ra, đó là động đất, chiến tranh, sự xuất hiện của các tiên tri giả, tức là những người nói không đúng sự thật về Thiên Chúa, hoặc lôi kéo người khác đến với một Thiên Chúa méo mó, lệch lạc… Tất cả những điều đó là dấu chỉ của ngày tận thế sắp gần kề. Tuy nhiên, CG nói như thế không phải để chúng ta sợ hãi, nhưng Chúa nói rất rõ ràng: “khi thấy những cảnh tượng ấy thì anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên vì anh em sắp được cứu chuộc”.
Không phải ai cũng có thể “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”, mà chỉ những môn đệ của Đức Kitô mới có thể “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”, còn những người khác thì hoảng sợ đến hồn xiêu phách lạc. Tại sao giữa những cảnh tượng khủng khiếp như vậy mà các môn đệ của Chúa lại “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”, còn người khác thì cúi đầu run sợ? Thưa vì những người khác bám víu vào những giá trị của trần gian, mà hôm nay nó sụp đổ ngay trước mắt họ, nên họ không còn gì bám víu, đương nhiên họ phải sợ hãi. Còn những môn đệ của ĐK thì sống theo giá trị của Nước Trời, mà một khi thế gian này qua đi, Con Người sẽ ngự đến để đón rước họ vào Nước Trời. Vì vậy họ đứng thẳng và ngẩng đầu lên như một chiến binh thắng trận để vị chỉ huy gắn huy chương cho mình.
Tóm lại, phụng vụ lời Chúa trong ngày khởi đầu năm phụng vụ cho chúng ta thấy thế gian này sẽ qua đi, sẽ đến ngày tận thế. Trong ngày đó những ai là môn đệ của ĐK sẽ“đứng thẳng và ngẩng đầu lên”. Còn con cái của thế gian sẽ “run sợ đến hồn xiêu phách lạc”.
Lời Chúa ngày hôm nay sẽ làm cho những môn đệ của Chúa thêm vui tươi phấn khởi chứ không phải hoang mang lo sợ. Ngược lại sẽ làm cho con cái của thế gian thêm sợ hãi. Tuy nhiên vẫn còn niềm hy vọng cho những ai đang sống theo tinh thần của thế gian vì họ vẫn còn cơ hội lắng nghe lời Chúa. Vậy thì họ hãy biết hoán cải, sửa đổi cuộc đời để có thể đứng vững trước mặt Con Người. Rất có thể nhiều người trong chúng ta đây là con cái của thế gian. Nhưng chúng ta đừng quá sợ hãi, đừng thất vọng mà hãy lắng nghe lời của CG vì Ngài muốn cứu độ mọi người và từng người chúng ta.
TỈNH THỨC VÀ CẦU NGUYỆN
Hai điều CG dạy trong bài Tin Mừng hôm nay, chẳng những cho con cái thế gian, mà còn cho những môn đệ của Ngài nữa, để họ đừng ỷ y, nhưng phải biết trung thành để chờ đợi ngày Chúa quang lâm, vì chỉ những ai “bền đổ đến cùng mới được ơn cứu độ”. Đó là tỉnh thức và cầu nguyện luôn.
Tỉnh thức
Tỉnh thức không phải là không ngủ, nhưng dù có ngủ cũng trong tư thế sẵn sàng. Sẵn sàng vì chúng ta đã chu toàn bổn phận với Chúa và với người khác. Sẵn sàng vì chúng ta không làm điều gì đáng chê trách. Điều tệ hại là có nhiều người cứ nghĩ rằng mình còn trẻ, đời mình còn dài, mình có điều kiện nên mình cứ ăn chơi thoải mái, làm bất cứ điều gì mình thích, khi nào già rồi hãy tính đến phần rỗi, phần hồn. Những ai đang suy nghĩ và sống như vậy thì Hội thánh tha thiết mời họ “quay đầu là bờ”, không phải vì sợ ngày tận thế đến, nhưng bởi vì sống như vậy không phù hợp với tư cách là con cái Chúa. Tệ hại hơn nếu mình chết bất đắc kỳ tử, hoặc giả dụ nay mai tận thế, Chúa đến một cách bất ngờ thì mặt mũi đâu mà nhìn Chúa, nên phải cúi đầu run sợ là phải rồi. Chắc chắn không thể trong một ngày một bữa hoặc một thời gian ngắn mà chúng ta nên thánh thiện hoàn toàn được. Điều Chúa cần là sự trung thành. Hãy quyết tâm sống đúng với tư cách là con cái Chúa, cố gắng từ bỏ những điều sai trái. Khi nào vấp váp thì hãy nói với Chúa một cách chân thành: “Con đã cố gắng hết sức mà vẫn đành bó tay, nhưng Chúa biết dù như thế nào con vẫn yêu mến Chúa”, rồi với tất cả lòng thành đến với tòa giải tội để bắt đầu lại. Đó là sự trung thành của chúng ta, và sự trung thành thể hiện chúng ta đang tỉnh thức.
Cầu nguyện
Điều kế tiếp mà CG dạy chúng ta để có thể đứng vững trước mặt Con Người là cầu nguyện. Cầu nguyện không phải để đối phó với cảnh tượng hãi hùng của ngày tận thế, nhưng bởi vì đó là thái độ của người con cái Chúa, họ đã thực hiện một cách liên lỉ nên không sợ gì hết, dù đó là cảnh tượng sụp đổ của vũ trụ vạn vật này. Chúng ta phải khẳng định lại một lần nữa: cầu nguyện là cần thiết trong đời sống đức tin. Chỉ có cầu nguyện và những phương thế đạo đức mới có thể nuôi dưỡng đời sống đức tin của chúng ta và làm cho nó lớn mạnh mà thôi. Căn bản của việc cầu nguyện là gặp gỡ, nối kết và sống với Chúa. Vì vậy mỗi ngày chúng ta phải có những giây phút gặp gỡ Chúa. Việc gặp gỡ này có thể là chung với cộng đoàn trong các giờ lễ, giờ kính lòng thương xót Chúa, giờ lần chuỗi mân côi; có thể là giờ kinh trong gia đình… nhưng cần lắm những giây phút riêng tư, thân mật với Chúa. Có thể là trước Thánh Thể, có thể là trước khi đi ngủ. Có thể là những giây phút tĩnh lặng… mọi cách thức, mọi phương thế, nhưng cần phải một mình với Chúa.
Tóm lại, tỉnh thức và cầu nguyện là hai thái độ cần thiết cho những môn đệ của Đức Kitô để họ có thể “đứng thẳng và ngẩng đầu lên” trong khi chờ đợi ngày Con Người ngự đến, nhất là trong Năm Đức Tin này.
Chúng ta hãy chạy đến với Mẹ Maria, một gương mẫu tỉnh thức và cầu nguyện để xin Mẹ cho chúng ta biết bắt chước Mẹ luôn thức tỉnh sẵn sàng trong từng giây phút của cuộc đời, đề phòng ma quỷ lẻn vào quấy phá tâm hồn chúng ta. Bắt chước Mẹ luôn cầu nguyện để gắn bó với Chúa. Có như thế chúng ta mới xứng đáng là những môn đệ của Chúa, được Chúa đón rước vào hưởng hạnh phúc với Người.
Hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào mùa Vọng của năm Phụng vụ C. Trong năm Phụng vụ năm C MV 1-C237
Hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào mùa Vọng của năm Phụng vụ C. Trong năm Phụng vụ năm C này và trong những Thánh lễ ngày Chúa nhật, chúng ta sẽ nghe đọc và suy niệm những bài Tin mừng của thánh Lu-ca.
Vọng có nghĩa là hướng về, là chờ đợi. Mùa Vọng là thời gian để chúng ta hướng lòng về ngày Chúa đến, đồng thời chờ đợi Chúa đến. Chúa đến thế gian này hai lần. Lần thứ nhất đã đến rồi, và lần thứ nhì chưa đến nhưng chắc chắn sẽ đến. Vì thế, mùa Vọng có hai ý nghĩa: Thứ nhất là chuẩn bị đón mừng kỷ niệm biến cố Chúa giáng sinh đến lần thứ nhất cách đây 2018 năm. Và thứ hai chuẩn bị đón Chúa đến lần thứ hai. Lần này, chúng ta không biết sẽ xảy ra vào lúc nào. Có thể còn lâu, nhưng cũng có thể sắp đến nơi rồi. Chúa nói cho chúng ta biết Người sẽ đến bất ngờ như kẻ trộm.
Chúa nói cho chúng ta biết ngày ấy đến như kẻ trộm, điều đó không chỉ có ý nghĩa thời gian, tức vào thời điểm không ngờ được, mà có thể còn là hình thức, cách xảy đến cũng không ngờ được. Nghĩa là Chúa đến có thể theo một cách khác hẳn với cách mọi người thường nghĩ. Vì thế, Chúa khuyên chúng ta trong bài Tin mừng: “Anh em hãy đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất.”
Tuy nhiên, biến cố quan trọng này vẫn có thể biết trước, nhất là đối với những tâm hồn tỉnh thức, luôn luôn chuẩn bị đón chờ, vì có những điềm báo trước. Thánh Phaolô viết: “Ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm. Khi người ta nói: “Bình an biết bao! Yên ổn biết bao!” thì lúc ấy tai họa sẽ thình lình ập xuống, chẳng ai trốn thoát được. Nhưng thưa anh em, anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày” (1 Tx 5,2-5).
Mùa Vọng là thời gian thuận lợi để Giáo Hội nhắc nhở chúng ta phải luôn luôn chuẩn bị và sẵn sàng đón chờ Chúa đến. Chúa đến, thứ nhất, với ơn sủng để biến đổi cuộc đời, canh tân hóa tâm hồn con người trong tình yêu và lòng thương xót của Chúa, và thứ hai khai mở một kỷ nguyên, thế giới mới không còn chiến tranh, bất công, hận thù, không còn nước mắt, đau khổ, nhưng trong sự an vui, thanh bình và hạnh phúc vĩnh cửu. Vì thế, ngày Chúa đến là một ngày hết sức vui mừng cho những người biết sử dụng những ơn lành của Chúa ban một cách khôn ngoan làm sáng danh Chúa, những người sống tốt lành, khiêm nhường, hy sinh, bác ái và quảng đại, hay những người trung thành và can đảm sống Lời Chúa dạy. Nhưng ngày đó cũng là ngày hết sức khủng khiếp cho những người ích kỷ, kiêu căng, không có lòng bác ái, hy sinh và quảng đại, hay lãnh đạm trước những đau khổ của người khác, gây ra những sự chia rẽ, hận thù, tội ác và bất công. Ngày đó Thiên Chúa sẽ là một quan tòa phán xét thưởng phạt một cách công minh và chính trực.
Vậy chúng ta chuẩn bị như thế nào? Chúa khuyên chúng ta: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn.” Tỉnh thức là luôn luôn tỉnh táo ý thức rằng ngày ấy có thể đến bất kỳ lúc nào, nên lúc nào cũng sẵn sàng như thể Chúa sẽ đến vào ngay ngày mai, hay chốc lát nữa. Cầu nguyện không phải chỉ là đọc kinh, mà là tâm trạng luôn hướng về Chúa, sẵn sàng làm bất cứ điều gì Người muốn hay can đảm sống thánh ý Chúa. Cầu nguyện là hợp nhất với Chúa trong tâm tình yêu thương, nhất là trong ý hướng và hành động. Hay luôn luôn muốn và vui mừng thực hiện những điều Chúa muốn.
Nhìn vào xã hội ngày nay, chúng ta thấy có nhiều người sống như không bao giờ phải chết. Có nhiều người sống như thể thế giới sẽ vô tận. Có nhiều người sống như thế gian này đã là thiên đường để hưởng thụ vui sướng. Họ bị ru ngủ bởi những thú vui, đam mê và cuộc sống thoải mái trần thế. Trái tim họ “ra nặng nề, vì chè chén say sưa.” Họ bị chìm ngập trong những tính toán làm ăn, lo toan cho cuộc sống hiện tại, mà quên tìm lẽ sống thật, quên đi cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu đời sau. Họ bị cuốn hút bởi sự tham lam tiền bạc, của những đam mê và nghiện ngập mà quên đi có những sự kiện, những cái bất ngờ sẽ đến. Có một người đã nói như sau: “Cuộc sống con người không thiếu những bất ngờ: Có những bất ngờ thú vị làm cho chúng ta vui sướng khôn nguôi. Có những bất ngờ bi thảm khiến chúng ta đau khổ tột cùng.” Có lẽ nhiều người đã có những kinh nghiệm hay nghe biết những sự kiện, những việc xảy ra bất ngờ nơi người khác, vì vậy chúng ta phải chú ý và quan tâm, vì đã xảy ra cho người khác thì cũng có thể xảy đến cho chúng ta.
Mùa Vọng nhắc lại lần đến đầu tiên, ngày giáng trần của Ngôi Hai Thiên Chúa, và kêu gọi chúng ta chuẩn bị lần đến cuối cùng của Người. Ngày đó khi nào xảy đến, chẳng ai biết được. Nó đến bất ngờ như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất.” Giữa hai lần ấy có biết bao lần Chúa đến mang ơn sủng đến cho chúng ta, và ngày Chúa đến đó cũng có thể là ngày tận cùng của mỗi người chúng ta, vì thế Lời Chúa kêu gọi: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn” không phải là giải pháp chỉ thực hành khi đã “hết thuốc chữa” hay lúc khẩn cấp mà là việc chúng ta phải làm trước tiên và luôn luôn trong suốt cuộc đời.
Trong mùa Vọng này, chúng ta xin Chúa giúp chúng ta ý thức và cảm nghiệm sâu xa được cầu nguyện cần thiết như hơi thở cho cuộc sống, như nguồn sống giúp chúng ta lớn lên trong ơn sủng và bình an của Chúa, đức tin của chúng ta vững mạnh và sống động hơn. Và biết dùng thời giờ Mùa Vọng này để canh tân đời sống tinh thần cá nhân, gia đình và cộng đoàn, để tâm hồn luôn sẵn sàng và thanh thoát, hầu khi Chúa đến sẽ là giây phút lãnh nhận ơn lành Chúa ban, hay là giây phút được hưởng bình an, hạnh phúc thật trên Nước Trời.
Trong cuốn "Giai thoại về những cái chuông của cuốn “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng” đã viết MV 1-C238
Trong cuốn "Giai thoại về những cái chuông của cuốn “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng” đã viết: Đừng sợ. Đó là lời Chúa mời gọi nhiều lần với những người Ngài đã tiếp xúc.
Thực vậy, thiên thấn đã nói với Mẹ Maria: Đừng sợ. Cũng như đã nói với thanh Giuse trong giấc mộng: Đừng sợ. Ngài cũng đã nói với các môn đệ, đặc biệt với Phêrô trong những trường hợp khác nhau, chẳng hạn như khi mặt biển dậy sóng: Đừng sợ. Hay khi Ngài đã sống lại: Đừng sợ. Sở dĩ Ngài phải lặp đi lặp lại như vậy là vì Ngài biết rằng các ông đã sợ.
Phải, các ông đã sợ khi Ngài bị bắt. Các ông đã sợ khi Ngài phục sinh. Các ông họp mặt mà cửa thì đóng kín. Lời nói ấy của Chúa Giêsu cũng đã được Giáo Hội và Đức Thánh Cha lặp lại. Thế nhưng, chúng ta đừng sợ cái gì?
Xin thưa: Chúng ta đừng sợ sự thật của chính mình. Thánh Phêrô đã sống cái kinh nghiệm bản thân của sự thật đó, khi ông nói cùng Chúa Giêsu: Lạy Thầy, xin hãy xa con vì con là kẻ tội lỗi. Không phải chỉ mình Phêrô mới ý thức được sự thật đó, mà mỗi người chúng ta đều biết rằng sau câu nói ấy của Phêrô, Chúa Giêsu đã bảo ông: Đừng sợ, từ nay con sẽ là kẻ chài lưới người ta.
Tuy nhiên, để đứng vững và ngẩng đầu lên, chúng ta cần phải hết lòng tin tưởng và hy vọng vào quyền năng của Chúa, đồng thời phải yêu mến Ngài hết tâm hồn, quy hướng mọi khả năng để phục vụ Ngài, bởi vì ơn cứu độ chỉ đến từ Thiên Chúa mà thôi. Không có niềm tin tưởng vững mạnh. Không có niềm hy vọng dạt dào. Không có lòng mến bao la thì chẳng ai có thể đứng vững được trước những hiểm nguy, gian nan và thử thách của cuộc đời. Bởi vì bản tính tự nhiên của mọi sinh vật khi gặp nguy nhiểm là trốn tránh, là ẩn núp, là nằm rạp xuống, là thu mình nhỏ lại, như muốn mình tan biến để những cơn nguy hiểm không đụng chạm đến. Thế nhưng, Chúa Giêsu lại bảo chúng ta: Hãy đứng vững và ngẩng đầu lên, vì Thiên Chúa đem đến cho chúng ta niềm vui mừng và hy vọng.
Hãy đứng vững và ngẩng đầu lên, để những lo âu của cuộc sống không đè bẹp chúng ta và để cho chúng ta có thể niềm mở với hết mọi người, nhất là những người thân yêu trong gia đình, đồng thời để chúng ta có được một cái nhìn lạc quan trước mọi biến cố của cuộc đời, kể cả những biến cố đau thương nhất, bởi vì có Chúa nâng đỡ, chúng ta sẽ không còn sợ hãi chi. Với niềm tin yêu và phó thác, thì tất cả đều là hồng ân của Chúa.
Mùa vọng, thời gian mong chờ Chúa đến. Chúa đã đến. Ngày xưa mỗi khi dân Do Thái bị các MV 1-C239
Mùa vọng, thời gian mong chờ Chúa đến.
Chúa đã đến
Ngày xưa mỗi khi dân Do Thái bị các dân tộc láng giềng xâm lăng đàn áp, trong cơn cùng quẫn họ kêu cầu cùng Chúa, và Chúa đã sai người đến giải cứu họ. Đấng mà Chúa gởi tới, được gọi là Đấng Thiên Sai (Massiah, Kitô), Đấng được xức dầu để thực hiện sứ mạng Thiên Chúa trao. Trong lịch sử dân Do Thái, Môsê và các thẩm phán như Samson, Đêbôra, Samuel là các vị Thiên Chúa sai đến để giải phóng dân Do Thái khỏi ách nô lệ.
Thời của Đức Yêsu, người Do Thái cũng đang bị người Roma đô hộ, nên họ cũng mong chờ Thiên Chúa sai Đấng Cứu Tinh để giải phóng họ. Đức Yêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, được sai tới không chỉ để cứu giúp dân Do Thái mà thôi, mà còn giải phóng cứu giúp tất cả mọi người mọi dân nước; và không phải để giải phóng con người khỏi nô lệ chính trị, nhưng để giải phóng con người khỏi nô lệ tội lỗi và ma qủy.
Ngài sẽ tới trong vinh quang
Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể để sống với con người, chia sẻ thân phận con người. Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể, không phải chỉ trong một thời gian, nhưng Ngài vĩnh viễn là người. Đức Yêsu là người thật, và là Thiên Chúa thật.
Ngài đã bị giết và đã sống lại, và vẫn ở với con người “Này đây Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt.28, 20) dù con người không thấy Ngài, nhưng có ngày Ngài “sẽ trở lại trong vinh quang”, nghĩa là, ngày đó con người sẽ thấy Ngài. Đó là ngày Ngài “quang lâm”, ngày tận thế, ngày có trời mới đất mới.
Kitô-hữu ngày nay không mong chờ Chúa tới “trong máng cỏ hang lừa” nữa. Máng cỏ hang lừa là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đã tới và ở với con người, và mời gọi con người ngày nay cũng phải có thái độ mong chờ Thiên Chúa như người Do Thái ngày xưa mong chờ Chúa. Ngày nay kitô-hữu phải mong chờ Chúa tới trong vinh quang, ngày có trời mới đất mới, ngày Chúa giải phóng con người khỏi mọi hậu qủa của tội. Chính vì thế “hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì ơn cứu độ đã gần đến” (Lc.21, 28).
Thái độ phải có khi chờ Chúa đến
Tôi có mong chờ ngày Chúa đến không? Nếu tôi không sống đúng như con Chúa, tôi sẽ không mong chờ Chúa đến. Nếu tôi bám víu vào những thực tại trần gian, tôi cũng không mong chờ Chúa đến.
Ngày của Chúa, không ai biết trừ Chúa Cha (Mc.13, 32). Nên chúng ta phải sẵn sàng chờ ngày Chúa tới trong vinh quang. Ngày đó không ai biết, và con người của mọi thời đại đã chờ, nhưng ngày đó vẫn chưa tới, và có một số người nghĩ rằng ngày đó không tới vào thời của mình. Cũng có thể như vậy, chúng ta không biết. Và như vậy, chúng ta đừng tin vào ai loan báo ngày đó tới. Họ có thể mạo danh thánh này thánh kia để nói, và có thể họ mạo danh nói rằng Đức Mẹ nói như vậy. Về điều này, Đức Yêsu cũng không biết và Đức Mẹ cũng không biết. Chúng ta không được nại vào uy quyền nào hơn Lời của Thiên Chúa, chúng ta không được tin vào ai hơn tin vào Đức Yêsu. Đức Yêsu đã nói không ai biết, vậy ai dám nói mình biết hoặc khẳng định ai đó biết?
Có thể vào thời đại tôi Chúa không “đến trong vinh quang”, nhưng Ngài vẫn tới với tôi trong giờ chết. Và giờ này ít ai biết được. Tôi không biết chính xác ngày giờ nào tôi chết. Một tích tắc trong tai nạn xe cộ, máy bay, chất nổ, v.v... Tôi phải sẵn sàng để đón Chúa tới với tôi vào giờ chết. Tôi có sẵn sàng nếu trong ba phút nữa Chúa gọi tôi về với Ngài không?
Chúa cũng có thể đến với tôi, gặp gỡ tôi vào giờ tôi thinh lặng cầu nguyện. Chúa có thể đến và hiện diện với tôi qua tha nhân, qua những người khốn khổ cần tôi giúp đỡ... Tôi có muốn gặp gỡ Chúa không, tôi có sẵn sàng đón nhận Chúa tới qua những biến cố thường ngày, và qua tha nhân không? Tôi có mong gặp gỡ Chúa trong giờ cầu nguyện không? Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Theo bạn, con người ngày nay có mong chờ Chúa tới không? Tại sao? 2. Qua việc xét mình hằng ngày, bạn có nhận ra sự hiện diện của Chúa trong ngày sống của bạn không? Xin bạn chia sẻ cách lượng giá ngày sống (xét mình) của bạn. 3. Chúa tới, bạn được gì?
Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Vọng của năm Phụng vụ mới. Theo ý của Hội thánh: “Mùa Vọng MV 1-C240
Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Vọng của năm Phụng vụ mới. Theo ý của Hội thánh: “Mùa Vọng có hai đặc tính: vừa là mùa chuẩn bị mừng lễ trọng Giáng sinh, là lễ kính nhớ Con Chúa đến lần thứ nhất với loài người, vừa là mùa mà qua cuộc kính nhớ này, các tín hữu hướng lòng mong đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong ngày tận thế. Vì hai lý do này, Mùa Vọng được coi như mùa sốt sắng và hân hoan mong đợi” (Những qui luật tổng quát về năm Phụng vụ và niên lịch, số 39).
Chúa nhật I Mùa Vọng mở đầu cho năm Phụng vụ mới. Mở đầu mùa sốt sắng và hân hoan mong đợi, Lời Chúa hôm nay nhắc lại lời hứa của Thiên Chúa là ban Đấng Công chính cho Israel. Bốn tuần lễ Mùa Vọng tượng trưng cho 4000 năm dân Do thái mong đợi Đấng Cứu thế. Lời hứa ấy đã được thực hiện trong lịch sử cách đây hơn 2000 năm, khi Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người và được Đức Maria sinh ra tại hang đá Be lem. Hằng năm chúng ta vẫn mừng biến cố vĩ đại này: Lễ Chúa giáng sinh.
Lời Chúa hôm nay còn mời gọi người tín hữu hãy tỉnh thức và cầu nguyện, hãy tấn tới hơn nữa trong đời sống Đức ái đối với Chúa và tha nhân để đón chờ ngày Chúa Kitô “lại đến” trong vinh quang. Ước gì trong ngày Chúa đến, chúng ta “hãy đứng thẳng và ngẩng cao đầu lên”, vì ơn cứu rỗi chúng ta đã đến.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Gr 33,14-18
Giêrêmia là một tiên tri chứng kiến cảnh tang thương của đất nước mình: vì dân bất trung với Chúa nên Ngài để cho quân thù đến vây hãm thành thánh, Giêrusalem bị phá hủy và dân chúng bị phân tán và đi lưu đầy.
Nhưng trong khi dân chúng đang sống trong tuyệt vọng trong cảnh lưu đầy thì Giêrêmia lại loan báo rằng Thiên Chúa không quên lời Ngài đã hứa. Ngài sẽ ban một “Đấng Công chính” để giải thoát dân Ngài: ”Trong những ngày ấy… Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công chính… Giuđa sẽ được cứu thoát… Giêrusalem sẽ được an cư lạc nghiệp”. Rõ ràng đây là lời hứa về lần đến lần thứ nhất của Đấng Messia. Lời loan báo này làm cho dân Chúa xưa cũng như chúng ta hôm nay có thể chỗi dậy và tiến bước. + Bài đọc 2: 1Tx 3,12-4,2
Thánh Phaolô phải rời Thessalonica trước khi kịp dạy bảo những điều thiết yếu. Vì vậy Ngài lo lắng cho sự tăng trưởng về đức tin và đức ái trong cộng đoàn còn non trẻ này.
Ngài nhắc bảo họ hãy tin và chờ đợi Chúa sẽ trở lại trong vinh quang. Niềm tin này sẽ định hướng cuộc đời của mọi người. Trong khi chờ đợi Chúa sẽ đến trong vinh quang, mọi người phải thực hiện giới răn của Chúa là thi hành đức bác ái đối với nhau: ”Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đặm đà thắm thiết… Có như thế thì… anh em mới được bền tâm vững chí không có gì đáng trách… trong ngày Chúa Giêsu quang làm”.
+ Bài Tin mừng: Lc 21,25-27.34-36
Luca mô tả sự sụp đổ của Giêrusalem như một tai hoạ toàn cầu: trong thế giới tôn giáo của người tín hữu, thành Giêrusalem chiếm địa vị quan trọng đến nỗi khi tưởng tượng đến sự sụp đổ của thành thì không thể không nghĩ đến ngày tận thế.
Đoạn Tin mừng này nằm trong diễn từ chung luận, trong đó Đức Giêsu nói về những sự việc sẽ xẩy ra vào những ngày cuối cùng của thế giới. Vì thế, sống trong thế giới văn minh ngày nay, chúng ta đừng quên rằng cuộc sống của chúng ta không hoàn toàn thuộc về chúng ta, mà chúng ta còn phải trả lẽ với Đấng là chủ tể toàn năng về cuộc sống của mình. Chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện để luôn luôn ở trong tư thế sẵn sàng.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Đứng thẳng và ngẩng đầu lên.
I. Ý NGHĨA MÙA VỌNG
1. Mùa Vọng
Ngày xưa ta gọi mùa này là Mùa At, có lẽ do chữ Adventus của tiếng La tinh có nghĩa là việc Chúa đến. Ngày nay ta gọi mùa này là Mùa Vọng. Mùa vọng có nghĩa là thời gian trông mong, hướng về, chờ đợi Chúa đến.
* Cả Cựu ước là Mùa Vọng
Sau khi nguyên tổ loài người phạm tội, Thiên Chúa không nỡ bỏ rơi con người, Thiên Chúa không nỡ bỏ rơi con người dưới ách thống trị của tội lỗi và sự chết. Ngài đã hứa ban Đấng Cứu thế (St 2,15). Ai tin vào Thiên Chúa Tình yêu và sống trong tình yêu là sống trong Vương quốc của Ngài. Trong lịch sử dân Israel, Thiên Chúa đã nhiều lần lặp lại lời hứa này với các tổ phụ và tiên tri. Niềm hy vọng này đã nâng đỡ dân Chúa sống niềm tin tưởng phó thác qua giòng lịch sử.
* Cả cuộc sống Giáo hội là một Mùa Vọng
Lời hứa của Chúa đã được thực hiện, Ngôi Hai Thiên Chúa là Đức Giêsu đã giáng trần, sống trong kiếp người, đã chịu chết và sống lại, về trời cùng Thiên Chúa Cha và loan báo sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Do đó, toàn thể đời sống của Giáo hội hướng về ngày Quang lâm của Đức Giêsu. Vì thế, Giáo hội thường xuyên kêu lên: Maranatha, Lạy Chúa Kitô, xin ngự đến.
* Cả cuộc sống từng người cũng là một Mùa Vọng
Chúng ta cùng Giáo hội đón chờ ngày Chúa đến lần thứ hai. Nhưng Chúa có thể đến riêng với chúng ta lần thứ hai trước ngày tận thế, nghĩa là đến gọi chúng ta ra đi trong ngày kết thúc cuộc đời mình. Chúng ta được mời gọi sống tinh thần Mùa Vọng trong mỗi giây phút của cuộc đời.
2. Mùa Vọng đối với chúng ta
Hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Vọng. Mùa Vọng là thời gian để chúng ta hướng lòng về ngày Chúa đến. Chúa đến thế gian này hai lần: lần thứ nhất đã đến rồi, và lần thứ hai chưa đến, nhưng chắc chắn sẽ đến. Vì thế Mùa Vọng có 2 ý nghĩa:
- Nhìn về phía sau: chuẩn bị đón mừng kỷ niệm biến cố trọng đại lần thứ nhất cách đây 2000 năm, Ngày Chúa giáng trần.
- Nhìn về phía trước: chuẩn bị đón Chúa đến lần thứ hai. Ta không biết khi nào Chúa đến, có thể là còn lâu, có thể là đến nơi rồi vì Ngài đã nói giờ đó đến bất ngờ như kẻ trộm, hoặc như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất (Lc 21,35). Giữa hai lần ấy, có biết bao lần Ngài bất ngờ đến. Đó là ngày tận cùng của mỗi người chúng ta.
II. CHUẨN BỊ ĐÓN CHÚA ĐẾN
1. Chúa đến lần thứ nhất
Thực sự, Chúa đã đến với nhân loại lần thứ nhất tại hang đá Be lem, nghĩa là Chúa nhập thể làm người cách đây 2000 năm. Lúc này đây chúng ta đang sống trong mầu nhiệm làm người của Đức Giêsu. Tất nhiên chúng ta không thể sống một tâm tình như thể Chúa chưa giáng trần. Nhưng chúng ta sống lại những tâm tình của dân Do thái mong đợi Chúa đến, để lúc này đây công cuộc nhập thể cứu chuộc của Chúa ăn sâu vào đời sống của ta, việc này đòi nhiều thời gian và ta sẽ phải làm suốt đời.
Trong suốt năm, chúng ta sẽ được sống trở lại toàn bộ những câu chuyện của Ngài. Nhưng chúng ta đã nghe kể về những câu chuyện đó nhiều lần. Do đó, có nguy cơ là chúng ta có thể xem những câu chuyện đó là cũ rích, nhàm chán. Hãy cố gắng và nhìn nhận rằng đó là những câu chuyện vẫn còn mới mẻ, hiện đang tồn tại và sống động. Điều này không giống như việc xem một cuốn băng video cũ. Việc cử hành mỗi ngày lễ mang từng sự kiện trở lại, trong sự sáng tỏ và sinh động của nó, không bao giờ chúng ta được mặc cho ngày lễ đó trở nên lạnh lẽo, mất sức sống, hoặc chìm vào quên lãng.
Ngoài ra, chúng ta không phải là khán giả, nhưng là những tác nhân trong toàn bộ ngày lễ này. Những mầu nhiệm về cuộc đời của Đức Kitô được trình bầy theo cách thế khiến chúng ta được lôi cuốn, và trở nên những nguời tham dự vào những mầu nhiệm đó. Điều này làm cho ngày lễ mang tính cách đòi hỏi hơn, nhưng cũng phong phú hơn và đem lại phấn khởi hơn. Thiên Chúa không phải chỉ là một Thiên Chúa của quá khứ, nhưng còn là của hiện tại và tương lai nữa
(Flor McCarthy).
2. Chúa đến lần thứ hai
Hôm nay các bài đọc đều tập trung vào ngày Đức Kitô đến lần thứ hai và là ngày tận thế. Các Kitô hữu tiên khởi tin rằng ngày Đức Kitô đến lần thứ hai đã gần kề, và sẽ được báo trước bằng những dấu hiệu về thiên văn. Chúng ta không biết chắc chắn về điều đó. Nhưng chúng ta biết chắc chắn rằng, khi lịch sử kết thúc, Đức Giêsu sẽ đến trong vinh quang để đến phán xét kẻ sống và kẻ chết trong ngày chung thẩm.
Trước lời hứa trở lại của Chúa, người ta đem ra nhiều lý luận và suy đoán viển vông. Khi nào nó xẩy đến, xẩy đến như thế nào, chúng ta không đuợc biết. Nhưng một điều chân thật lớn lao sẽ phát xuất là lịch sử đang tiến tới một chỗ nào đó. Có một số người – các triết gia phái Khắc kỷ coi lịch sử là một vòng tròn. Họ tin rằng cứ mỗi 3000 năm hoặc khoảng như thế, vũ trụ lại một lần bị thiêu đốt, rồi sau đó bắt đầu lại, lịch sử lại tái diễn. Có nghĩa là lịch sử chẳng đi đến đâu cả và loài người cứ bước đi loanh quanh như một cối xay vĩnh cửu. Còn người Kitô hữu chúng ta tin rằng lịch sử có cùng đích và tại cùng đích đó Chúa Cứu Thế Giêsu sẽ làm chủ tể mọi sự mọi loài.
Đức Giêsu đã nói rõ ngày tận thế sẽ xẩy ra bất ngờ như “chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất”(Lc 21,35), như chiếc lưới chụp xuống đàn chim đang ăn mồi, như chiếc lưới chụp xuống đàn cá đang nhởn nhơ trên mặt hồ. Nhưng có những người lại dám tự mình cho mình biết rõ ngày tận thế, ấn định ngày tận thế và loan báo cho tín đồ của họ phải chuẩn bị cho ngày đó.
Truyện: Tận thế ở Đại hàn.
Hồi cuối tháng 10 năm 1992, hàng chục ngàn người Hàn quốc thuộc một giáo phái đã tụ tập tại hơn 150 nhà thờ ở nhiều nơi trong nước để chuẩn bị đón Chúa Kitô tái lâm và phán xét thế gian. Theo giới lãnh đạo của giáo phái này: ngày tận thế sẽ xẩy ra vào đúng nửa đêm 28.10.1992. Các tín đồ của giáo phái này trưng nhiều biểu ngữ với câu: ”Chúng ta sẽ gặp lại nhau trên trời”. Trong khi đó, hàng ngàn cảnh sát Hàn quốc được đặt trong tình trạng báo động trên toàn quốc để phòng ngừa một cuộc tự sát tập thể, nếu tận thế không xẩy ra. Một cuộc tự sát như thế có thể xẩy đến, bởi vì nhiều người đã bỏ tài sản, gia đình để chuẩn bị cho biến cố này. Thế nhưng, cuối cùng tận thế đã không xẩy ra, nên giáo phái này đã tự động giải tán (Phạm văn Phượng, Chia sẻ Tin mừng C, tr 4).
3. Chúa đến giữa hai lần: giờ chết
Chúa lại đến để đưa lịch sử loài người đến cùng đích và tất cả loài người đều phải trình diện trước Thiên Chúa, nhưng cũng có thể mỗi người phải trình diện Thiên Chúa khi kết thúc cuộc đời lữ hành trên trần gian này.
a) Cuộc đời chóng qua
Cuộc đời con người rất bấp bênh giống như con tầu đi trên mặt biển. Tuy con tầu có vẻ to lớn và rất chắc chắn, không gì có thể làm cho nó chìm được, nhưng con tầu sánh đâu được với biển cả. Số phận con người cũng thế, thật mỏng manh: ”Đời sống con người giống như cây cỏ, như bông hoa nở trên cánh đồng, một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi, nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích (đáp ca lễ an táng)..
Truyện: chiếc tầu Titanic.
Con tầu vĩ đại Titanic dài 271 mét, rộng 28 mét, cao 22 mét, có 8 tầng lầu với đủ các tiện nghi, có phố chợ, hồ tắm, sân chơi, rạp hát, vườn bông, khách sạn. Con tầu chỉ chở những nhân vật tai to mặt lớn: những ông hoàng, bà chúa, những đại phú gia. Nó đi từ Southampton, hải cảng Anh quốc, vượt Đại tây dương để đến New York là thành phố lớn nhất, giầu nhất thế giới hồi đó. Họ tưởng đi trên con tầu đó sẽ an toàn vững chắc như trên mặt đất, nhưng nó vừa khởi hành được mấy ngày thì đụng vào băng sơn gẫy đôi chôn sống hơn 1500 người vào ngày 14.04.1912 (Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, C, tr 6).
Cái chết thường đến đột ngột bất ngờ. Trong bài Tin mừng này, Đức Giêsu đã nói rõ điều ấy: ”Các con hãy tỉnh thức vì các con con không biết ngày nào giờ nào”. Đành rằng có nhiều người bệnh một thời gian khá lâu rồi mới chết, nhưng chẳng ai ngờ mình sẽ chết vào giờ này, ngày này. Tuy bất ngờ nhưng không phải hoàn toàn bất ngờ, vì Chúa thương chúng ta, Chúa luôn ban cho chúng ta nhiều tín hiệu báo trước trước cái chết để chúng ta kịp chuẩn bị. Ví dụ: mỗi khi chúng ta thấy một người khác chết, đó là một tín hiệu; mỗi khi chải đầu thấy mái tóc mình bạc hơn… Đó là những tín hiệu mà Chúa gửi trước cho chúng ta vì Chúa thương chúng ta. Vì thế chúng ta đừng giả mù, giả điếc trước những tín hiệu tình thương ấy. Tốt nhất là đón nhận chúng, nhận ra ý nghĩa của chúng và chuẩn bị.
b) Chuẩn bị cho tương lai
Sống ở trên đời, mỗi người phải đặt ra những thắc mắc, những ưu tư và phải tìm ra câu giải đáp. Ưu tư của chúng ta là khi rời bỏ thế gian này rồi sẽ ra sao? Chính vì vậy cổ nhân đã đưa ra cho chúng ta 3 câu hỏi và phải tìm ra câu giải đáp:
+ Nhân sinh hà tại: con người bởi đâu mà đến? + Tại thế hà như: đến để làm gì? + Hậu thế như hà: sau này sẽ ra sao?
- Con người bởi đâu mà đến? Thánh kinh viết: ”Ta hãy dựng nên loài người giống hình ảnh Ta”(St 1,26). Do đó chúng ta biết con người do Thiên Chúa mà đến.
- Đến để làm gì? Thánh kinh đáp: ”Con phải kính mến Thiên Chúa hết lòng và thương yêu đồng loại như mình”. Do đó, chúng ta lại biết con nguời đến để phụng thờ Thiên Chúa và giúp đỡ lẫn nhau.
- Sau này sẽ đi đâu? Thánh kinh lại minh chứng: ”Ai nấy sẽ về nhà đời đời của mình”(Kn 12,5) và ở đó sẽ được thưởng theo công trạng mình đã lập được”(x. Mt 10,19; Lc 10,7).
c) Hãy học với thần chết
Có câu chuyện về một người tên Cataneda tìm thầy học đạo, chàng đến với đạo sư Don
Juan. Đạo sư chỉ cho anh một bí quyết: học với thần chết. Dĩ nhiên, chàng đệ tử không muốn nghĩ đến sự chết, anh chỉ muốn học hỏi những kiến thức kỳ lạ, những pháp thuật, nên đạo sư tỏ ra khó chịu, bèn bảo anh: ”Con chớ nên bắt chước mọi người cứ nghĩ rằng mình chẳng bao giờ chết mà đòi làm những việc vĩ đại, kinh thiên động địa, vá trời lấp biển mà nên ý thức rằng Thần Chết là vị khôn ngoan nhất mà con sẽ gặp.
Truyện: Kinh nghiệm về sự chết.
Một vị đan tu tên là Mésique. Bất trung với ơn gọi, ông đã sống một cuộc đời không mấy tốt đẹp trong nhiều năm. Đột nhiên ông bị bệnh nặng. Thiên Chúa cho ông rơi vào tình trạng hôn mê trong một tiếng đồng hồ. Khi tỉnh dậy ông không nói gì về những điều đã cảm thấy trong thời gian một tiếng đồng hồ ấy. Ông xin người ta cho ông ở một mình trong một căn phòng xây kín, và ông đã ở đó suốt 12 năm trời. Hằng ngày, qua một cửa sổ nhỏ người ta đem đến cho ông một chút bánh mì và nước uống. Một hôm người ta tưởng ông đã chết nên đập phòng đi vào thì thấy ông đang hấp hối. Trước mặt các tu sĩ đang vây quanh, ông nói với họ những lời cuối cùng trước khi ra đi:
- Anh em thân mến của tôi, người nào luôn khắc ghi vào tâm khảm ý tưởng về sự chết, người đó sẽ không bao giờ phạm tội.
Nói thế rồi, ông tắt thở, để cho mọi người một ấn tượng sâu đậm. (Góp nhặt)
III. THÁI ĐỘ CỦA CHÚNG TA
1. Hãy đứng thẳng và ngẩng cao đầu lên
Ngày tận thế và ngày mỗi người phải ra đi khỏi trần thế này là một điều chắc chắn. Ngày đó là ngày đáng sợ cho mọi người, nhưng Chúa bảo chúng ta đừng sợ vì ơn cứu rỗi của chúng đã đến. Ngược lại, chúng ta còn phải phấn khởi và chờ đợi trong tư thế đứng thẳng và ngẩng cao đầu lên.
* Hãy đứng thẳng là tư thế của con người can đảm. Đúng thế, đức tính can đảm là một điều kiện cần thiết để có sức mạnh mà đối phó với mọi nghịch cảnh, khó khăn và quyết liệt dứt khoát từ bỏ mọi quyến rũ bất chính. Thử hỏi một người hay lười biếng, nhát đảm, yếm thế cầu an thì làm sao lướt thắng được mọi khó khăn, chu toàn bổn phận và giữ vững luơng tri giữa bao thử thách cám dỗ!
* Hãy ngẩng đầu lên là tư thế của con người lạc quan, hy vọng. Bởi vì, ai biết sống lạc quan, hy vọng không những tăng thêm sức mạnh cho mình, mà còn giảm thiểu được những sai phạm. Và sống mà không có hy vọng lạc quan để nhắm tới mục đích thì không thể nào ra sức phấn đấu và cố gắng vươn tới được. Nhưng chúng ta hy vọng gì và hy vọng vào ai? Tất nhiên ngoài Chúa ra và hạnh phúc đời đời thì tất cả mọi hy vọng khác chỉ là tạm bợ mau qua hoặc hão huyền mây khói mà thôi.
Vậy khi sống trên cõi đời này đầy bất trắc và lắm thử thách, chỉ có những ai biết tin tưởng phó thác nơi Chúa, chắc chắn họ sẽ có đủ can đảm vượt thắng gian nan và hy vọng được hưởng hạnh phúc đời đời giúp họ bền đỗ đến cùng.
Truyện: Hãy đứng thẳng
Mới đây các nhà khảo cổ đã tìm ra một thành phố cổ xưa đã bị chôn vùi trong lòng đất hàng ngàn năm, do núi phun lửa làm cho nham thạch bất ngờ ập xuống thành phố. Rất nhiều người đã bị chôn vùi trong lớp nham thạch nóng bỏng và chết lập tức. Nhiều xác chết đã được đào thấy bị chết khi đang ở trong những tư thế khác nhau: có người chết khi đang ngủ trên giường, người khác chết đang khi ngồi bàn ăn uống. Đặc biệt người ta đào được xác của một người lính bị chết trong tư thế đang đứng gác và đang cầm một cây giáo dài trong tay.
2. Hãy giữ lòng kẻo ra nặng nề
Chúa dạy chúng ta: ”Các con hãy giữ mình kẻo lòng chúng con ra nặng nề”. Chúa nhắc nhở ta phải canh chừng và đề phòng những lôi cuốn của thế gian nó làm cản trở tâm hồn bay lên. Ba điều cản trở được nhắc ở đây là: ăn uống thái quá, chè chén say sưa, lo lắng sự đời quá mức.
Truyện: Ham mê ăn uống.
Câu chuyện ngụ ngôn kể về một con chim ưng. Đang khi đói, nó bay qua một nông trại, nhìn xuống thấy biết bao nhiêu giun dế. Nó thèm lắm, nhưng lại sợ chết nên nó phải hạ cánh bay xuống sát mặt đất của nông trại để thương lượng với ông nông dân. Con chim ưng sẵn sàng đổi cho ông cứ mỗi cái lông lấy một con giun. Vì háu ăn, con chim đã ăn quá nhiều giun, và như thế nó cũng mất đi rất nhiều lông cánh tới độ nó không còn có thể bay lên cao được nữa. Dù nó nhận biết rằng thân phận của nó là phải bay trên bầu trời cao, nhưng những con giun đã làm cho nó mê muội rồi quên đi khung trời cao xanh ở trên, mà chỉ biết tới những con giun dưới đất.
3. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện
Chúng ta hãy tỉnh thúc và cầu nguyện để đón chờ Chúa đến. Chủ đề này được lặp đi lặp lại trong Tin mừng dưới nhiều cách thức. Chẳng hạn ở một đoạn Tin mừng khác, Đức Giêsu nói:”Hãy coi chừng! Hãy tỉnh táo! Các con không biết được ngày nào giờ nào Con Người sẽ đến, vào buổi tối, nửa đêm, lúc gà gáy hay vào buổi sáng… Điều Ta nói với các con cũng là điều Ta muốn nhắn nhủ mọi người đó là “Hãy tỉnh thức”(Mc 13,33.35-36)
Nếu chúng ta luôn tỉnh thức và cầu nguyện (Lc 21,36), luôn sẵn sàng và thanh thoát, thì việc Ngài đến sẽ là một thú vị bất ngờ. Ngày đó chúng ta không phải “lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét”(Lc 21,25), chúng ta sẽ không “sợ hãi đến hồn xiêu phách lạc”(Lc 21,26), nhưng sẽ “đứng thẳng và ngẩng cao đầu lên”(Lc 21,28), vì chúng ta sắp được lãnh ơn cứu độ.
4. Hãy sống đúng tinh thần Mùa vọng
Sống mùa Vọng không những là hy vọng và chờ đợi Chúa đến; mà còn sẵn sàng nhận ra sự hiện diện của Ngài ở giữa chúng ta, dù không trông thấy những dấu lạ lùng nơi mặt trời, mặt trăng và các tinh tú. Sống mùa vọng trong thế giới chúng ta là chuẩn bị ngẩng đầu lên mặc dù quyền uy và vinh quang của Con Người không hiện diện ở đó. Sống Mùa Vọng là hy vọng rằng Thiên Chúa luôn luôn được tỏ hiện trong đời chúng ta, không phải chỉ vào ngày tận thế, hoặc vào ngày phán xét cuối cùng, nhưng ngay hôm nay. Nhưng điều này đòi hỏi chúng ta phải biết đọc những dấu chỉ của Chúa và sự hiện diện của Ngài ngày hôm nay, nơi bản thân và chung quanh chúng ta. Điều này đòi hỏi chúng ta phải hiểu biết Ngài và quan tâm đến Ngài hơn nữa.
Dấu lạ là cần thiết khi sự chú ý yếu đi. Nhưng chúng ta lại chẳng thấy trong đời mình những dấu lạ ấy, những biến cố làm chúng ta chú ý đó sao, và đôi khi chúng ta tránh vì sợ ý nghĩa và sự thách thức của những dấu lạ đó, hoặc tầm thường hóa chúng vì ta đã thấy nhiều quá rồi. Vậy nên ta phải cùng nhau nghe lại Lời Chúa trong Cựu ước và Tân ước, cùng nhau ý thức lại sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu là như thế nào đến nỗi Ngài đã hiến mạng sống mình để cho thế gian được sống (Jean-Guy-Nadeau).
Phúc cho những ai nói lên được lời này khi Chúa đến:”Lạy Chúa, sau bao năm trung thành với việc tỉnh thức và cầu nguyện, giờ đây con vui mừng được diện kiến Ngài”. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện đó chính là sứ điệp Giáo hội truyền dạy chúng ta trong Chúa nhật thứ nhất mùa Vọng này. Vậy, chúng ta hãy lo tỉnh thức và cầu nguyện để khi Chúa đến, Ngài sẽ nói với chúng ta: ”Hãy đến, hỡi các con yêu dấu của Ta. Sau bao năm tháng xa cách, Ta thật hết sức vui mừng được gặp lại các con”.
Để kết thúc bài suy niệm hôm nay, chúng ta hãy đọc lời cầu nguyện của một tác giả vô danh thuộc một trường dành cho dân da đỏ là Red Cloud miền Pine Ridge tiểu bang South Dakota. Tư tưởng của lời cầu nguyện này có liên quan đến chủ đề phụng vụ hôm nay là Hãy tỉnh thức và cầu nguyện:
“Kính lạy Thần Trí cao vời, hơi thở Ngài đem đến nguồn sống cho thế gian, con đang nghe tiếng Ngài thì thầm trong gió thổi.
Xin hãy lắng nghe con là kẻ bé mọn yếu hèn đang khẩn cầu Ngài đây.
Xin cho con bước đi trên đường thiện mỹ, đôi mắt lúc nào cũng chiêm ngắm cảnh hoàng hôn mầu tím, cho đôi tay con biết kính trọng mọi tạo vật của Ngài, và đôi tai con luôn nhạy bén nghe lời Ngài nói.
Xin cho con ơn khôn ngoan để thấu hiểu những lời giáo huấn của Ngài; cho con biết khám phá ra bài học Ngài nhắn nhủ chúng con trong từng lá cây, viên đá.
Xin ban cho con sức mạnh không phải để con chế ngự anh chị em con, mà để con chế ngự kẻ thù hung hãn nhất là chính bản thân mình.
Xin cho con luôn sẵn sàng đến gặp Ngài với đôi tay thanh sạch và đôi mắt thẳng ngay, và khi cuộc đời xế tàn tựa bóng hoàng hôn lịm tắt, tâm hồn con không phải hổ thẹn khi đi diện kiến Ngài”. Amen. (Mark Link).
Phụng Vụ là việc Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô, một Mầu Nhiệm được thực sự tái diễn MV 1-C241
Phụng Vụ là việc Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô, một Mầu Nhiệm được thực sự tái diễn và tiếp diễn một cách trọn vẹn qua Phụng Niên của Giáo Hội, một Năm Phụng Vụ được mở màn từ Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Vọng như hôm nay đây. Thế nhưng, theo Dự Án Cứu Độ của Thiên Chúa cũng như theo lịch sử, Chúa Kitô thực sự đã được sinh ra rồi, hơn 2000 năm trước đây, thì Mùa Vọng chúng ta đang cùng Giáo Hội bước vào đây là gì, nếu không phải là việc Giáo Hội hướng về và mong đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai. Đó là lý do bài Phúc Âm Thánh Luca Năm C hôm nay ở đoạn 21 và câu 27 đề cập tới việc Chúa Kitô đến lần sau hết: “Loài người sẽ thấy Con Người đầy uy quyền và vinh quang đến trên mây trời”.
Nhưng vấn đề ở đây là, nếu Chúa Kitô đã thực sự đến rồi, thì Kitô hữu chúng ta đã cảm nghiệm được Người chưa, hay Người vẫn ở trong tình trạng, như Thánh Gioan Tiền Hô đã nói thẳng với dân Do Thái là thành phần cũng trông đợi Vị Cứu Tinh của họ đến, trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 1 câu 26 là: “có một Đấng ở giữa các người mà các người không biết”. Đó là lý do tại sao, để nhận ra Đấng Thiên Sai đã đến với Dân Do Thái, như lời Chúa hứa với họ qua tiên tri Giêrêmia trong bài đọc thứ nhất hôm nay, cũng là Đấng đã ở giữa loài người chúng ta, Chúa Giêsu đã nói với chúng ta trong bài Phúc Âm hôm nay, là chúng ta phải “đứng vững trước Con Người”. Thế nhưng, tại sao Kitô hữu chúng ta cần phải “đứng vững trước Con Người” và nhất là làm thế nào để có thể “đứng vững trước Con Người”? Nếu Kitô hữu chúng ta không ý thức được vấn đề “đứng vững trước Con Người” bằng đời sống của mình, thì chúng ta chưa thực sự Sống Mầu Nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh trong Mùa Vọng của Giáo Hội, nghĩa là Chúa Kitô vẫn còn là một Đấng ở giữa chúng ta mà chúng ta không biết!
Đúng thế, Mùa Vọng tới, chẳng những Kitô hữu mà cả trần gian, bao gồm tất cả mọi tín đồ thuộc tất cả mọi tôn giáo khác, không nhiều thì ít, đang sửa soạn đón mừng Giáng Sinh, ít là bề ngoài với những cánh thiệp chúc mừng nhau hay mua bán quà tặng trao cho nhau. Tuy nhiên, nếu không ý tứ, chúng ta đang sửa soạn dọn mừng Lễ Giáng Sinh hơn là dọn lòng để gặp được chính Vị Chúa Giáng Sinh. Những mầu sắc tưng bừng vui nhộn bề ngoài bắt đầu xuất hiện ở các khu thương mại, hay ở trước nhà của một số gia đình, liên quan đến việc mua sắm, trưng bày và tặng quà cho nhau, có thể làm cho chúng ta bị chi phối và quên đi chính cái ý nghĩa linh thiêng cao cả của Mầu Nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh. Từ đó, đối với không ít người, Lễ Giáng Sinh đã bị tục hóa, trở thành một dịp nghỉ ngơi vui chơi như tất cả mọi cuộc lễ khác.
Đó là lý do vấn đề tại sao Kitô hữu chúng ta cần phải “đứng vững trước Con Người” là vấn đề có liên quan hết sức mật thiết đến đức tin của Kitô hữu chúng ta. Thật vậy, tất cả Kitô hữu chúng ta đều đã được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, tức đã được trở nên con cái Thiên Chúa. Thế nhưng, biến cố chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa không phải chỉ là đặc ân Thiên Chúa ban cho chúng ta thôi, mà còn là việc chúng ta đáp ứng ân huệ Ngài ban nữa. Đúng thế, việc Con Thiên Chúa Làm Người là để loài người chúng ta được làm con Thiên Chúa, như Thánh Phaolô đã minh định trong Bức Thư gửi cho giáo đoàn Galata ở đoạn 3, câu 4 và 5 như sau: “Đến thời gian ấn định, Thiên Chúa đã sai Con Mình đến, sinh hạ bởi một người nữ, sinh ra theo lề luật để giải cứu những ai bị lụy thuộc lề luật, để chúng ta được hưởng địa vị làm thành phần dưỡng tử”. Tuy nhiên, một khi được Thiên Chúa kêu gọi làm dưỡng từ của Ngài trong Chúa Kitô, loài người chúng ta cũng cần phải xòe tay mở lòng đón nhận nữa, ở chỗ tỏ ra tin tưởng nhận biết Con Thiên Chúa được hạ sinh bỡi người nữ. Đó là lý do Phúc Âm Thánh Gioan, đoạn 1, từ câu 10 đến câu 12, đã xác nhận như sau: “Người đã ở trong thế gian, nhờ Người thế gian đã được tạo thành, song thế gian lại không nhận biết Người. Người đã đến với dân riêng của Người, song họ không chấp nhận Người. Bất cứ ai chấp nhận Người thì Người ban cho họ quyền trở nên con cái Thiên Chúa”.
Như thế, việc “đứng vững trước Con Người” đây chính là việc chúng ta tỏ ra hết sức trung thành với đức tin của mình, ở chỗ, không bao giờ chối bỏ hay dám chối bỏ Vị Thiên Chúa Làm Người, trái lại, hoàn toàn và liên lỉ tin tưởng chấp nhận Người, Đấng được Bức Thư gửi Giáo Đoàn Do Thái ở đoạn 9 câu 28 xác định là “sẽ đến lần thứ hai không phải để xóa bỏ tội lỗi mà là để mang ơn cứu độ đến cho những ai thiết tha trông đợi Người”, tức cho thành phần “bền đỗ đến cùng sẽ được cứu độ”, như Chúa đã khẳng định trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 24, câu 13. Chi tiết vùa đề cập đến trên đây có thể se õ làm cho một số người trong chúng ta tự nhiên nhớ lại lời Chúa Kitô tiên báo trong Phúc Âm Thánh Luca ở đoạn 9 câu 27 tuần trước, đó là câu “trong những kẻ đang đứng đây có một số sẽ không nếm cái chết cho đến khi họ thấy triều đại Thiên Chúa”. Chúa Giêsu ám chỉ về ai khi Người nói “có một số sẽ không nếm cái chết cho đến khi họ thấy triều đại Thiên Chúa”?
Về lời Chúa Giêsu nói “có một số sẽ không nếm cái chết cho đến khi họ thấy triều đại Thiên Chúa”, theo suy diễn của người chia sẻ đây thì đó là môn đệ Stêphanô và tông đồ Gioan. Trước hết, đó là Stêphanô, vị tử đạo tiên khởi của Kitô Giáo, bởi vì, ngay trước khi chết, Sách Tông Vụ ở đoạn 7 câu 56 đã thuật lại rằng “Người kêu lên ‘Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đang đứng bên hữu Thiên Chúa’”, một thị kiến rất ăn khớp với lời Chúa Giêsu nói trong Phúc Âm Thánh Mathêu, đoạn 16, câu 28: “có một số sẽ không nếm cái chết trước khi họ thấy Con Người đến trong vương quyền”. Sau nữa, trong số này còn có tông đồ Gioan, bởi vì, theo Phúc Âm Thánh Marcô đoạn 9 câu 1 ghi là “có một số sẽ không nếm cái chết cho đến khi họ thấy triều đại Thiên Chúa được thiết lập trong quyền năng”, thì trong Tông Đồ đoàn chỉ có một mình Thánh Gioan cùng với Mẹ Maria đứng dưới chân thập giá Chúa Kitô (xem Jn 19:25), để chứng kiến giây phút Nước Cha bắt đầu trị đến, giây phút vương quốc Satan bị tiêu diệt, cũng là giây phút thiên đàng mở ra cho tội nhân vào, mà người đầu tiên bước vào lại là người tử tội bị đóng đanh bên hữu Chúa Giêsu (xem Lk 23:43). Ngoài ra, cũng chỉ có một mình vị tông đồ Gioan này, trước khi chết, như ngài đã cho biết trong Sách Khải Huyền của ngài, ở đoạn 21, câu 2, thế này: “Tôi cũng thấy một tân Giêrusalem từ trời nơi Thiên Chúa mà xuống, diễm lệ như cô dâu sửa soạn nghênh đón lang quân của mình”, nghĩa là thánh nhân được thị kiến “thấy triều đại Thiên Chúa được thiết lập trong quyền năng”.
Vì vấn đề “đứng vững trước Con Người”, như đã diễn giải trên đây, mật thiết liên quan đến đức tin, do đó, để có thể “đứng vững trước Con Người”, Kitô hữu chúng ta cần phải giữ vững đức tin của mình, thế thôi, nói cách khác, giữ vững đức tin của mình là “đứng vững trước Con Người”, nhất là vào những lúc đêm tối đức tin, bị thử thách, chịu khổ đau, bị bách hại chống đối, đặc biệt vào những ngày cuối thời, những ngày khủng khiếp chưa từng thấy từ tạo thiên lập địa, như Chúa Giêsu báo trước trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 24, câu 21, thời điểm mà, trong bài Phúc Âm Thánh Luca hôm nay, Chúa Kitô cũng căn dặn các môn đệ rằng: “Khi những điều này bắt đầu xẩy ra thì các con hãy thẳng đứng và ngước đầu lên, vì việc cứu chuộc các con gần đến rồi”.
Đúng vậy, cách duy nhất để chúng ta có thể “đứng vững trước Con Người”, tức để chúng ta tỏ lòng mình kiên trung với Chúa Kitô cho đến cùng, nhất là trong thời đại văn hóa sự chết của chúng ta ngày nay đây, đó là thái độ chúng ta “thẳng đứng và ngước đầu lên”. Thẳng đứng và ngước đầu lên như thế nào, Chúa Giêsu cũng đã cắt nghĩa rõ ràng trong bài Phúc Âm hôm nay ngay sau đó thế này, “các con hãy coi chừng kẻo tâm thần các con bị trì trệ bởi lạc thú, chè chén và lo toan thế gian”. Thẳng đứng và ngước đầu lên, về phương diện tiêu cực, chẳng những liên quan đến việc sống tu đức, mà còn, về phương diện tích cực, cho thấy cả cử chỉ cử hành Mầu Nhiệm Đức Tin nữa. Đó là cử chỉ Đức Tin của Mẹ Maria “thẳng đứng và ngước đầu lên” nhìn Con Mình treo trên thập giá trên đồi Canvê, một cử chỉ phụng vụ long trọng tế lễ Thiên Chúa. Đúng thế, nếu Chúa Kitô vẫn tiếp tục hiện diện và sống động với Giáo Hội cho đến tận thế, thì việc Giáo Hội cử hành Phụng Vụ “mà nhớ đến Thày” (Lk 22:19) chính là việc Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô, cử hành Mầu Nhiệm Đức Tin của mình. Để rồi, nhờ tham dự Phụng Vụ một cách ý thức, chủ động và tích cực, Kitô hữu chúng ta được sống Mầu Nhiệm Chúa Kitô, hay Chúa Kitô tỏ hiện nơi Đức Tin của chúng ta và tỏ mình cùng ban mình cho lòng khao khát và trông mong của chúng ta. Tóm lại, Mùa Vọng là thời điểm Kitô hữu chúng ta phải làm sao cảm nghiệm được Thiên Chúa Làm Người đang thực sự ở cùng mỗi người chúng ta.
Mùa Vọng chẳng những là thời điểm Giáo Hội hướng về Chúa Kitô đến lần thứ hai, mà còn là thời điểm rất thích hợp để Kitô hữu chúng ta trở về nguồn nữa, tức trở về với Lịch Sử Cứu Độ của Thiên Chúa, để có thể cảm nhận được Thiên Chúa là Thần Linh đã thực sự tỏ mình ra cho loài người chúng ta, cho đến khi “Lời hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14), để chúng ta “được sự sống và là một sự sống viên mãn hơn” (Jn 10:10).
Về thời điểm Lịch Sử Cứu Độ được bắt đầu từ lúc nào, chúng ta có thể căn cứ vào những yếu tố sau đây để có thể đi đến kết luận thế này. Trước hết, nếu “vì một người mà tội lỗi cùng với sự chết đã đột nhập thế gian”, như Thánh Phaolô xác nhận trong Thư gửi Giáo Đoàn Rôma, đoạn 5 câu 12, thì Lịch Sử Cứu Độ được bắt đầu từ Adong, từ lời Thiên Chúa hứa với ông ngay trong bản án nguyên tội, như được Sách Khởi Nguyên ghi lại ở đoạn 3 câu 15 như sau: “Ta sẽ gây mối thù giữa ngươi và người nữ, giữa giòng dõi ngươi và giòng dõi người nữ, người miêu duệ này sẽ đạp nát đầu ngươi”. Sau nữa, nếu việc Thiên Chúa cứu độ con người cần con người phải đáp ứng bằng đức tin, nghĩa là phải có đức tin con người mới được cứu độ, thì Lịch Sử Cứu Độ được bắt đầu từ Abraham là cha những kẻ tin (xem Rm 4:16-22; Gal 3:29), người đã bỏ quê cha đất tổ đi theo tiếng Chúa gọi đến nơi không biết mình sẽ đi về đâu (Gen 12:1-4; Heb 11:8), và nhất là đã không tiếc đứa con trai duy nhất của mình (Gen 22:16), một mầm mống theo lời Chúa hứa sẽ phát sinh một dân tộc đông như sao trời cát biển (Gen 15:1-6). Sau hết, nếu Dự Án Cứu Độ của Thiên Chúa được thực sự tỏ hiện trong lịch sử loài người, chứ không phải là một chuyện hoang đường và mộng tưởng, thì Lịch Sử Cứu Độ được bắt đầu từ Moisen, người được Thiên Chúa thực sự sai đến cứu dân Ngài cho khỏi cảnh làm tôi người Ai Cập mà đưa họ vào mảnh đất Ngài đã hứa với cha ông tổ phụ của họ (xem Ex 3:10).
Trong 4 tuần lễ Mùa Vọng tuần cuối bao giờ cũng đọc bài Phúc Âm trực tiếp liên quan đến biến cố Giáng Sinh của Chúa Kitô, hai tuần giữa liên quan đến vai trò Tiền Hô Gioan Tẩy Giả trong việc dọn đường cho Người đến. Và tuần đầu tiên với bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn để nhắc nhở con cái mình hãy tỉnh thức đón chờ Chúa Kitô tới. Riêng chu kỳ năm C, Phúc Âm Thánh Ký Luca ghi lại lời Chúa Giêsu cảnh giác chúng ta và căn dặn chúng ta phải làm sao khi ơn cứu độ đến: Người bảo là phải tỉnh thức đừng chè chén say sưa với đam mê nhục dục và những vui thú trần thế, trái lại, phải đứng dậy và ngước đầu lên. Lạy Chúa Giêsu Kitô là Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa loài người chúng con bằng xương bằng thịt hơn hai ngàn năm trước đây. Nhưng Chúa vẫn hiện diện với Giáo Hội cho đến tận thế qua Thánh Thể và Quyền Linh Giáo Hội. Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, xin cho chúng con được cảm nghiệm thần linh về sự hiện diện của Chúa là Đấng Emmanuel. Amen.
(Suy niệm của Lm. Sean O'Brien - Chuyển ngữ:JB. Đào Ngọc Điệp)
Ngủ và thức là hai điều rất khác nhau. Thật vui khi có một đứa trẻ nhảy đến bên bạn, nhưng nếu MV 1-C242
Ngủ và thức là hai điều rất khác nhau. Thật vui khi có một đứa trẻ nhảy đến bên bạn, nhưng nếu bạn đang ngủ mà xảy ra như vậy thì hỡi ơi, đó là một bất ngờ chẳng vui thú chút nào! Thật thích thú khi được thưởng thức đồ uống mát lạnh. Nhưng nếu bạn đang ngủ mà người ta tọng thức uống đó xuống cổ họng bạn, bạn sẽ bị sặc, ho và không thở được. Thật là vui khi nhận được điện thoại của một người bạn đã nhiều năm chưa gặp lại. Nhưng nếu bạn đang ngủ và lúc đó là 3 giờ sáng thì cuộc gọi đó sẽ chẳng thú vị gì!
Ngủ và thức là hai điều khác nhau. Chúng là hai trạng thái ý thức đối nghịch làm ảnh hưởng đến cách chúng ta phản ứng đối với các sự kiện. Qua những ví dụ trên, hãy lưu ý rằng biến cố không thay đổi; chỉ có ý thức của người đó thay đổi thôi. Tùy theo đang thức hay đang ngủ, phản ứng với sự kiện sẽ khác nhau.
Trong Mùa Vọng, biến cố chúng ta đang chuẩn bị đón mừng là việc Chúa Kitô đến. Chúng ta chờ đợi Chúa Kitô đến như một hài nhi, nhưng chúng ta cũng chờ đợi Chúa Kitô đến với tư cách là Thầy và Chúa của Vũ trụ, là Thiên Chúa, Đấng sẽ sửa chữa mọi điều sai lầm, Đấng sẽ ban thưởng cho những người trung thành và trừng phạt những kẻ bất lương. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a gọi Đấng sẽ đến là "Đức-Chúa-là-sự-công-chính-của-chúng-ta". Đây là biến cố chúng ta đang chú ý tới. Đây là một biến cố sẽ thực sự xảy đến, nhưng không ai biết điều đó khi nào xảy ra.
Đây là một tình huống minh bạch: trong ngày đó sẽ có hai loại người - người đang ngủ và người đang thức. Tôi không nói về tình huống theo nghĩa đen, vì khi Đức Kitô đến, một số người dù thực sự đang ngủ nhưng lại rất sẵn sàng, và một số người dù đang thức lại chẳng mấy sẵn sàng. Tôi đang nói đến tình trạng tâm hồn mà Chúa Giêsu mô tả trong lời cảnh báo: “Hãy coi chừng lòng các ngươi, đừng mê ngủ”.
Hai loại người sẽ có hai loại phản ứng khác nhau. Những người tỉnh thức thì “đứng dậy, vì giờ cứu rỗi [của các con] đã gần đến .” Họ tự tin, sẵn sàng, háo hức và vui mừng. Đó sẽ là một ngày tốt đẹp và tươi sáng. Ngược lại, những kẻ đang ngủ mê sẽ cảm nhận sự kiện này như một “cái lưới”, một “đại họa” theo lời Chúa Giêsu mô tả. Chúa Giêsu nói rằng họ sẽ mất tinh thần và buồn sầu lo lắng. Họ sẽ chết vì sợ hãi kinh hồn trước công lý của Thiên Chúa Nhân Lành mà họ đã tự ý không muốn nhận biết trong sự nặng nề vì chè chén say sưa.
Giống như sẽ có hai loại người ngày xưa thì cũng đang có hai loại người ngày nay, ngay trong nhà thờ này hôm nay. Có thể một số người đang ngủ mê. Có thể họ mải miết “để lòng mình ra nặng nề”, tức là chỉ nghĩ đến thú vui và hưởng thụ hơn là đến ơn cứu rỗi. Có thể họ lựa chọn việc “chè chén say sưa”, chọn cuộc sống tiện nghi, một thứ tiện nghi làm thay đổi tâm tánh, một thứ tiện nghi làm tê liệt tâm hồn. Có thể họ chọn “những lo lắng sự đời”, thích bận rộn, làm việc để giữ được những gì họ sở hữu và gia tăng chúng, bảo đảm con cái cháu chắt họ sẽ được hưởng những thứ tốt nhất do thế gian cung cấp. Còn Thiên Chúa chỉ là một suy nghĩ bổ sung muộn màng vào cuối đời, và Người không phải là lý do tuyệt đối của sự tồn tại như đối với con người có đức tin.
Một số có thể đang tỉnh thức. Họ lục lọi Kinh Thánh để tìm kiếm sự khôn ngoan và bất cứ điều gì có thể giúp họ kết hợp với Thiên Chúa. Họ ra sức giữ một lương tâm trong sạch, tránh xa tội lỗi hết sức có thể và thường xuyên đi xưng tội. Họ luôn trông chờ Đức Kitô. Họ tin rằng họ nhận ra Chúa nơi một trong số những kẻ bé mọn của Thiên Chúa, hay nơi một trong những anh chị em yếu đuối, thấp hèn hoặc đau khổ của chúng ta. Họ đau buồn vì tội lỗi thế giới, nhưng không làm quan tòa xét xử thế giới, nên họ cầu nguyện, cầu nguyện và cầu nguyện cho tội nhân hoán cải.
Thánh Phao-lô khuyên chúng ta phải tỉnh thức như thế nào. “Vậy anh em hãy tỉnh thức mọi lúc và hãy cầu nguyện luôn để được sức mạnh” hầu sẵn sàng đứng trước mặt Chúa tể vũ trụ với niềm vui và hăng hái. Hãy sửa đổi tất cả những điều sai trái mà bạn có trách nhiệm phải sửa đổi trước khi Chúa sửa đổi mà không cần bạn, và khi ấy bạn sẽ bị coi là một trong những kẻ bất chính. Chúng ta đừng sống quá nhiều cho bản thân chúng ta (chúng ta sẽ quên đi điều đó ở đời sau lúc bị phán xét), nhưng sống sao cho đẹp lòng Chúa. Bước đi không lầm lỗi trong sự thánh thiện trước mặt Thiên Chúa là điều đẹp đẽ nhất, tràn đầy bình an, rõ ràng phải làm. Đó chính là tỉnh thức, nên chúng ta phải thức dậy. Nếu chúng ta tin là mình tỉnh thức, thì chúng ta phải hết sức đề phòng chống lại sự len lỏi của tinh thần thế tục và ngày càng thấm nhuần hơn lối sống thượng giới trong Đức Kitô. Xin Thiên Chúa thêm sức mạnh cho chúng ta trong khi chờ ngày Chúa Quang Lâm.
Hôm nay chúng ta bước vào năm Phụng vụ mới với mùa Phụng vụ đầu tiên là Mùa Vọng. Thời gian MV 1-C243
Hôm nay chúng ta bước vào năm Phụng vụ mới với mùa Phụng vụ đầu tiên là Mùa Vọng.
Thời gian của mùa Vọng kéo dài chưa tới một tháng, năm nay bắt đầu từ ngày 28.11 và kết thúc vào lễ Vọng Giáng sinh 24/12 gồm có 4 Chúa nhật. Chúng ta thường nói Mùa Vọng để chuẩn bị cho lễ Giáng sinh: đúng như vậy, nhưng Giáo hội còn muốn các tín hữu làm hơn thế nữa là hướng về ngày Chúa đến lần thứ hai tức là ngày Chúa sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết mà Phụng vụ gọi là ngày hồng phúc.
Trong mùa Vọng tuy linh mục mặc phẩm phục mầu tím trừ có Chúa nhật III là Chúa nhật Vui mừng thì mặc áo lễ mầu Hồng nhưng mùa Vọng không phải là mùa sám hối như Mùa Chay mà là mùa mong đợi trong hân hoan. Chúng ta hãy lắng nghe Chúa dạy chúng ta thế nào khi bước vào Mùa Vọng này?
Chúa cho biết Chúa sẽ trở lại trần gian: "Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả". Chúng ta biết Chúa Giêsu thường tự xưng là Con Người: một danh xưng gần gũi với loài người chúng ta nhưng cũng tỏ ra quyền năng của Con Thiên Chúa. Chúa hiện đến lần thứ hai này khác hẳn Chúa đến lần thứ nhất khi giáng sinh nơi hang đá Belem trong hình hài một trẻ thơ yếu đuối, còn lần thứ hai này, Chúa sẽ đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Đám mây được coi như xa giá của Chúa. Chúa đến uy nghi vì lúc này Chúa sẽ phán xét kẻ sống và kẻ chết. Sự uy nghi của Chúa không phải để làm cho con cái Chúa khiếp sợ. Có khiếp sợ chăng là đối với những kẻ chối từ Chúa thôi, nên Chúa an ủi chúng ta là đừng sợ mà hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên. Đứng thẳng và ngẩng đầu lên là thái độ của những người tự tin và hân hoan hi vọng. Vì sao? Chúa cho biết là vì họ sắp được cứu chuộc hoàn toàn. Chúa Giêsu thực hiện việc cứu chuộc loài người chúng ta khi Chúa chấp nhận cái chết Thánh giá trên Núi Sọ rồi Chúa Phục sinh. Nhưng sự Cứu chuộc của Chúa sẽ trở nên viên mãn khi Chúa quang lâm trở lại và cho thân xác chúng ta cũng được phục sinh để cùng với linh hồn vào hưởng vinh quang Nước Chúa. Chúa Giêsu là trưởng tử những người từ cõi chết sống lại và nay Chúa cho chúng ta là những người được kế tiếp sống lại như Đức Mẹ đã được Hồn Xác lên Trời sau Chúa Giêsu.
Vậy Chúa dạy chúng ta những người đang sống ở thế gian hiện nay phải có tâm tình và đời sống như thế nào khi mà Chúa cho biết là Chúa sẽ trở lại trần gian. Chúa Giêsu đã xác quyết về sự chắc chắc của biến cố này khi Chúa nói: "Trời đất sẽ qua đi nhưng Lời ta nói sẽ không bao giờ qua (Mt 24,35)".
Chúa dạy chúng ta thực hành hai điều sau đây:
- Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất". Chúa Giêsu giữ bí mật về ngày giờ Chúa trở lại nhưng Chúa cho biết là Chúa sẽ đến bất ngờ: ở đây Chúa dùng hình ảnh như chiếc lưới chụp xuống mọi người trên mặt đất.
- Để đối phó với sự bất ngờ này thì Chúa dạy chúng ta tránh chè chén say sưa và lo lắng việc đời. Hiện nay dịch Covid vẫn còn đang hoành hành nên đó cũng là thời cơ thuận tiện để chúng ta tránh được tệ nạn ăn uống nhậu nhoẹt say sưa. Chúa cũng dạy đừng quá lo lắng việc đời. Lòng lo lắng việc đời có lần Chúa so sánh như là gai góc mọc lên um tùm bóp nghẹt Lời Chúa gieo vào lòng chúng ta không sinh hoa kết trái được.
Nhưng tích cực hơn Chúa dạy chúng ta: "Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn"- Tỉnh thức nghĩa đen là không mê ngủ nhưng là biết dùng thời gian Chúa cho sống để chu toàn bổn phận nơi gia đình, nơi giáo xứ chúng ta đang sống và giữ lòng trung tín đến cùng như gương các thánh tử đạo chúng ta mới mừng kính.
Chúa cũng dạy chúng ta cầu nguyện luôn. Đức Mẹ Fatima dạy ta siêng năng cầu nguyện trong đó có việc cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi. Cầu nguyện không nản chí giúp ta giữ được đức tin sống động, vượt qua được những gian nan thử thách để khi Chúa trở lại chúng ta được đứng vững mặt Chúa và được nhận triều thiên sự sống Chúa ban.
Ngày nay có nhiều người sống như không có ngày tận thế và thậm chí sống như không biết có ngày mình sẽ phải chết. Việc nhớ đến ngày chết có lợi cho chúng ta. Một tu sĩ thánh thiện đã nói: "Ai luôn ý thức về sự chết thì không còn cố tình phạm tội nữa".
Tàu Titanic: Con tàu dài 271m, rộng 28 m, cao 22m có 8 tầng. Trên tàu có phố chợ, bể tắm, sân chơi thể thao, rạp hát, vườn bông, nhà hàng...và được đánh giá là con tàu an toàn tuyệt đối. Thế nhưng tầu mới chạy được 5 ngày thì gặp nạn ở Bắc đại tây dương khi đụng phải tảng băng ngầm khiến cho tầu bị gãy đôi, khách trên tàu toàn là những vị khách nhà giầu cao sang quyền quí trong xã hội. Từ lúc nước tràn vào tàu cho tới khi tàu chìm hẳn xuống đáy đại dương ngày 15/4/1912 là 2 giờ 40' nên rất ít người được cứu. Chỉ có 333 thi thể được tìm thấy trong số hơn 1.500 đã thiệt mạng. Tai nạn này cũng như nhiều tai ương khác nhắc chúng ta luôn nhớ lời Chúa dạy: "Vậy các con hãy tỉnh thức vì các con không biết ngày nào giờ nào (Mt 25,13)". Amen.
Tin mừng (Lc 21, 25-36) của Chúa Nhật thứ I Mùa Vọng trong ngày khởi đầu năm Phụng vụ, với MV 1-C244
Tin mừng (Lc 21, 25-36) của Chúa Nhật thứ I Mùa Vọng trong ngày khởi đầu năm Phụng vụ, với những lời tiên báo của Chúa về những tai họa của thiên nhiên vũ trụ sẽ xuất hiện như “Những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao, các tầng trời sẽ rung chuyển; dưới đất…biển gầm sóng vỗ…các dân tộc buồn sầu lo lắng, con người sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy đến”. Thưa ACE, khi suy niệm Lời Chúa hôm nay, đặc biệt hơn với những ai khi đã và đang đối diện, cũng như gánh lấy những hậu quả từ những tai họa đau thương như thế này từ thiên nhiên, thiết tưởng rằng, làm sao chúng ta không hoang mang lo sợ, đôi khi cảm thấy con người chúng ta quá nhỏ bé, vô vọng đến mức “hồn siêu, phác lạc”.
Từ kinh nghiệm của bản thân, thú thật mà nói, dẫu đã 5 năm trôi qua, giờ đây hồi tưởng lại hay mỗi lần có cơn bão sắp tới, tôi vẫn còn sợ. Khi cơn bão số 12 ập tới vào rạng sáng ngày 4/11/2017, khi mái ngói Tòa Giám Mục bị gió cuốn bong tróc lên, mưa đổ xuống làm sập toàn bộ laphong thạch cao, đồ đạc hư hại, nước mưa lớn cùng với sóng biển cao làm nước tràn vào…lúc đó, với trách nhiệm là quản lý của TGM, tôi dường như chỉ biết đứng lặng người, núp sau cây cột lớn mà nhìn, không thể suy nghĩ hay biết làm gì. Trong lòng tôi chỉ biết thưa: “Lạy Chúa, sao lại đến mức khủng khiếp như vậy?” Không chỉ riêng tôi, chắc hẳn với nhiều người, ai đã trải qua những kinh nghiệm đau thương, thì cũng đều có những cảm giác lo âu, sợ hãi như vậy. Thưa ACE, mang thân phận yếu đuối của kiếp người, ai mà không hoang mang lo sợ trước những tai họa tang thương, thế nhưng, là những Kitô hữu, là những người con cái Chúa chúng ta được mời gọi khi đối diện và nếu phải gánh lấy những tai họa hay sự kiện của ngày cánh chung, của ngày cuối cùng của cuộc đời mỗi người, thì chúng ta phải có thái độ, cung cách và hành động ra sao?
Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu như soi sáng, chỉ dẫn cho chúng ta cung cách hành động rất tuyệt vời “Lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến”. Thật vậy, theo Kinh thánh thì, thái độ đứng thẳng dậy hay đứng ngẩng cao đầu lên để nhìn lên Thiên Chúa chính là thái độ sống của con người có niềm tin vào Chúa, của con người luôn sống trong tỉnh thức và cầu nguyện. Đây thật sự là cách sống của con người luôn biết kính sợ Thiên Chúa bằng cách sống gắn bó mật thiết với Chúa để vâng theo thực thi huấn lệnh cùng thánh ý Ngài.
Không những thế, với những lời tiên báo về ngày cánh chung, Chúa không phải đưa ra để hù dọa hay làm chúng ta hoang mang lo sợ, nhưng Ngài muốn cảnh tỉnh, trấn an và động viên chúng ta hầu giúp cho chúng ta có những thái độ sống tích cực; vì trong thực tế của cuộc sống, một đàng vì bản tính yếu đuối, mang nhiều giới hạn của con người, một đàng thì không ai trong chúng ta biết được khi nào là ngày giờ cánh chung của cuộc đời mình. Thế nên, thái độ tỉnh thức, sẵn sàng rất là cần thiết và phải thực sự trở nên là cung cách sống của những người con cái Chúa. “Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời...Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!”
Thật vậy, chỉ có thái độ tỉnh thức, sẵn sàng là cách sống sẽ giúp cho chúng ta trở nên những người con sống đẹp lòng Chúa. Đây cũng chính là điều mà trong bài đọc hai (1 Tx 3, 12 - 4, 2) Thánh Phaolo không những đã khuyên nhủ, chỉ dạy mà Ngài còn cầu xin, khẩn nguyện cùng Chúa để ban ơn, giúp sức cùng gia tăng ơn thánh tình thương yêu cho chúng ta, để nhờ đó mà “Lòng anh em được bền vững trên đường thánh thiện, không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ngự đến cùng với tất cả các Thánh”. Điều hạnh phúc là: Chúng ta cần chú tâm vào cung cách thái độ của Thánh Phaolô, Ngài rất khẩn trương đến mức phải van xin chúng ta và xem như là điều rất thiết thực, phải thực thi, phải hành động, sống chứng tá trong cuộc sống hiện tại, chứ không còn cách khác: “Tôi còn van nài anh em trong Chúa Giêsu điều này...phải sống thế nào cho đẹp lòng Chúa, anh em đang sống như vậy, xin anh em cứ tiến thêm nữa. Vì anh em biết rõ huấn thị chúng tôi nhân danh Chúa Giêsu đã ban cho anh em”. Như vậy, chúng ta cần phải làm tốt, sống tốt trong bổn phận hiện tại, đồng thời, còn phải thăng tiến trên con đường thánh đức mỗi ngày để làm đẹp lòng Chúa hơn.
Thưa ACE, dẫu rằng vì dịch bệnh, với những hạn chế của việc không thể đến Nhà Thờ để tham dự Thánh Lễ và lãnh nhận bí tích Hòa Giải trong Mùa Vọng này, nhưng mong ước rằng, chúng ta cũng đừng vì thế mà không chuẩn bị lòng trí và cuộc sống của chúng ta cho xứng hợp với ơn thánh Chúa sẽ ban cho.
Lạy Chúa, chúng con tin rằng, thái độ, cung cách sám hối-ăn năn, cùng với một tâm hồn trong sạch qua những việc làm phúc đức, bác ái yêu thương, chắc chắn là điều Chúa muốn và yêu thích nơi mỗi người chúng con nhất hiện nay. Xin Chúa ban ơn chúc phúc để chúng con thật sự chuẩn bị tốt nhất cho việc Chúa sẽ Giáng Sinh, là ngự vào tâm hồn lòng trí chúng con và ban ơn thánh cho chúng con. Amen.
(Suy niệm của Jaime L. Waters - Ban học tập Sao Biển chuyển ngữ)
CHUẨN BỊ TÂM HỒN CHO LỄ GIÁNG SINH VÀ TÍCH CỰC DẤN THÂN CHO CỘNG ĐOÀN
Năm phụng vụ mới lại đến với chúng ta. Khởi đầu Mùa Vọng, chúng ta bắt đầu chu kỳ năm C của MV 1-C245
Năm phụng vụ mới lại đến với chúng ta. Khởi đầu Mùa Vọng, chúng ta bắt đầu chu kỳ năm C của Sách bài đọc, trong đó Tin mừng theo thánh Luca thường xuyên được công bố vào các Chúa nhật. Tên gọi ‘Mùa Vọng’ có gốc từ trong tiếng Latin là Adventus, có nghĩa là đến. Mùa Vọng là thời gian để suy ngẫm và chuẩn bị cho việc Chúa Kitô đến, cũng như đánh dấu khởi đầu một năm phụng vụ mới. Những chủ đề của các bài đọc hôm nay được xây dựng dựa trên hai bài đọc Chúa nhật tuần trước, và mời gọi chúng ta lên chương trình để sống Mùa Vọng như thời gian để tăng trưởng đời sống thiêng liêng.
Trong bài đọc thứ hai trích thư thứ nhất của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica, chúng ta được nghe về tầm quan trọng của việc yêu thương nhau, một giáo huấn nổi bật trong cả Cựu ước lẫn Tân ước. Qua bài đọc này, chúng ta nhận thấy rõ hơn lý do tại sao nên thực thi giáo huấn này: đó là để trở nên thánh thiện, không có gì đáng chê trách. Thánh Phaolô nhấn mạnh rằng: cách chúng ta đối xử với nhau phản ảnh, cung cấp thông tin và tác động đến tương quan của chúng ta với Thiên Chúa. Nói cách khác, để thể hiện tình yêu và lòng thành đối với Thiên Chúa, chúng ta phải bày tỏ tình yêu thương đối với nhau.
Điều này thể hiện như thế nào trong thực tế? Làm thế nào chúng ta có thể “gia tăng và tràn đầy lòng yêu thương” trong Mùa Vọng này và suốt cả năm? Nhiều người dành Mùa Vọng để chuẩn bị đón Giáng sinh qua việc mua quà, trang trí và chuẩn bị cho những buổi gặp gỡ gia đình và bạn bè. Những hoạt động thú vị này có thể giúp chúng ta mong đợi lễ Giáng sinh. Ngoài ra, có lẽ mục đích chính yếu hơn của Mùa Vọng là tạo cho chúng ta cơ hội cầu nguyện và suy ngẫm nhiều hơn về cách chuẩn bị tâm hồn để đến gần Thiên Chúa hơn. Bài đọc thứ hai nhắc nhở chúng ta, khi chuẩn bị tâm hồn đón lễ Giáng sinh, có thể và cần phải dấn thân cho các hoạt động bên ngoài với cộng đoàn. Chuẩn bị cho lễ Giáng sinh cũng cần theo tinh thần của mùa này là gia tăng phục vụ những ai đang thiếu thốn.
Qua bài Tin mừng, chúng ta được nghe lại hình ảnh Con Người ngự đến trong đám mây. Như trong hai Chúa nhật vừa qua, việc nhắc lại hình ảnh này trong Sách bài đọc nhằm kết nối việc Đức Kitô đến vào lễ Giáng sinh với thị kiến được mô tả trong sách ngôn sứ Đaniel. Ngoài ra, bài Tin mừng tập trung vào việc trông đợi và chuẩn bị là những chủ đề điển hình của các bài đọc trong Mùa Vọng. Bài Tin mừng dùng chính kiểu nói báo trước điều xấu xảy ra: sợ hãi, cảnh giác, lo lắng và tỉnh thức. Bắt đầu Mùa Vọng như thế, Sách bài đọc đã tăng thêm tính mãnh liệt của mùa phụng vụ này qua việc nhấn mạnh rằng chúng ta phải chuẩn bị cho lần ngự đến của Đức Kitô.
Bài Tin mừng cũng cảnh báo về những điều có thể khiến chúng ta thiếu tỉnh thức và lơ là trước việc Đức Kitô ngự đến, chẳng hạn như chè chén say sưa và lo lắng sự đời. Mùa Vọng thường có nhiều lễ hội và hoạt động, chúng ta được nhắc nhở không nên quá lãng phí thời gian vào những việc này, bởi chúng có thể khiến ta sao nhãng điều quan trọng nhất trong mùa này. Chúng ta nên tận dụng mùa phụng vụ mới này để xem lại các hoạt động và những ưu tiên của mình, cũng như hành động nhằm duy trì, củng cố mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa và với nhau.
HÃY CHỖI DẬY VÀ NGẨNG ĐẦU LÊN, VÌ GIỜ CỨU RỖI ĐÃ GẦN ĐẾN
Kính thưa quý anh chị em,
Ơn cứu chuộc là hành động thần linh can thiệp vào lịch sử, nhằm lôi kéo con người hiệp thông với MV 1-C246
Thiên Chúa, để được hạnh phúc và được sống muôn đời.
Mùa Vọng là khoảng thời gian cần thiết giúp dân Chúa hoán cải, canh tân, đón nhận mầu nhiệm Nhập Thể, Giáng Sinh, Con Thiên Chúa làm người ở giữa chúng ta. Cuộc giáng lâm này, không giáng phạt thế gian, nhưng một lòng xoa dịu vết thương đau, tội nhân thế Người ra tay cứu chữa.
Các dấu chỉ xuất hiện, đối với kitô hữu, là điềm báo vui mừng và hy vọng, ngày Thiên Chúa viếng thăm đã gần kề, nhất là, nhờ ánh sáng đức tin hướng dẫn, họ phải đọc ra được các dấu chỉ thời đại và phải biết hành động cách phù hợp, hữu hiệu, để khi Chúa đến, vẫn thấy đang tỉnh thức và vững dạ đợi chờ, họ sẽ được hưởng phần phúc của người công chính.
Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a, là những lời an ủi dân Chúa đang trong cảnh lưu đày bên Ba-by-lon. Có thể nói đây là thời kỳ đau khổ nhất trong lịch sử Israel. Họ bị tước đoạt tất cả: thể lý cũng như tinh thần.
Tình trạng bi đát, tuyệt vọng đẩy dân vào đường cùng buông xuôi, ngã lòng trông cậy nơi Chúa. Họ than thở, ai oán, đặt những câu hỏi gây tranh cãi: phải chẳng Chúa ruồng bỏ, phó mặc dân cho kẻ dữ hành hạ ? phải chăng Chúa cạn lòng thương xót, không còn nhớ lời hứa với tổ phụ xưa ?
Để trả lời, hôm nay Chúa sai ngôn sứ Giê-rê-mi-a đem lời an ủi tới cho dân đang ngụ miền đất lưu đày.
Chúa hứa sẽ sai đến với họ đấng cứu tinh muôn dân mong đợi. Người là chồi lộc thuộc dòng tộc vua David. Vị vua của lời hứa sẽ cai trị dân theo lẽ công bình, chính trực. Tên người là: “Đức Chúa: sự công chính của chúng ta” (Gr 33, 16).
Những lời ngôn sứ vừa tuyên đọc nhấn mạnh hai nội dung quan trọng:
Một là: Chúa sẽ đến giải thoát anh em khỏi kiếp lưu đày Ba-by-lon, đưa về lại miền đất hứa chảy tràn sữa và mật.
Hai là: dân sẽ được sống trong hòa bình, tự do, an toàn và nhất là được hưởng một nền cai trị vững bền, dựa trên công bình, chính trực, nhân phẩm và bình đẳng.
Những lời ngôn sứ trích đọc hôm nay, quả thật, gieo niềm hy vọng lớn lao cho dân Chúa đang trong cảnh lưu đày nô lệ. Lời an ủi như dòng suối chảy giữa sa mạc khô chồi, như làn gió mát, ngọt ngào giữa cơn nắng hạn làm phấn khởi tâm can. Nó cho kẻ yếu đuối nên mạnh sức, kẻ mù lòa được thấy ánh sáng, kẻ câm điếc được nghe, kẻ ốm đau tật nguyền được khỏe mạnh và kẻ chết được phục sinh.
Thật huyền diệu biết bao lời hứa cứu độ cứ mỗi ngày tăng trưởng cho tới thời gian viên mãn, Thiên Chúa sai “Con Một” nhập thể làm người trong lòng đức trinh nữ Maria, để đưa con người vào chế độ ân sủng, giải phóng, khai thông cách triệt để mọi bế tắc của họ.
Bài Tin Mừng chỉ ra cách thức Người xuất hiện. Thánh Luca diễn tả: sẽ có những điềm lạ cả thể, dữ tợn xẩy đến trên thế gian, vì các quyền lực trên trời bị lay chuyển, bấy giờ: “Con Người đầy quyền uy và vinh quang ngự xuống trên mây trời” (Lc 21, 36).
Luca dùng lối văn khải huyền diễn tả sự thần hiển của “Con Thiên Chúa” làm người. Giáng Sinh tại Belem và tử nạn tại đồi Golgotha đều là những dấu lạ điềm thiêng.
Tại Belem, các thiên thần hát mừng vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm. Biến cố rung chuyển cả vũ trụ, vì từ nay Thiên Chúa vĩnh viễn làm người, để con người được làm thiên chúa.
Và tại Golgotha, công cuộc thần hóa đã hoàn tất khi Đức Giê-su chịu chết và sống lại. Giê-su hòa giải nhân loại với Cha, bằng việc hiến dâng chính mình trên bàn thờ thập giá. Tại đây, Giê-su được Cha chứng nhận là “Con chí ái” và với tất cả quyền năng Thánh Thần, Chúa Cha đã phục sinh Ngài từ trong cõi chết, tôn vinh Ngài trên trời, đặt làm Chúa muôn loài, trên kẻ sống, cũng như kẻ chết.
Con Thiên Chúa uy quyền ngự xuống trên mây trời ngay tại Golgotha để mọi đầu gối phải bái thờ, mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng “Giê-su là Chúa”, để Cha được tôn vinh.
Bởi vậy, chúng ta không phải ngại ngùng, sợ hãi trong ngày Chúa viếng thăm, trái lại, lòng đầy hân hoan phấn khởi, mau mắn chỗi dậy, ngẩng cao đầu, đi đón Chúa trên các tầng mây và như vậy, được ở cùng Chúa luôn mãi.
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, chỉ cho cộng đoàn những việc phải làm để dọn lòng đón Chúa ngự đến.
Trong và trên tất cả là tình yêu, vì Thiên Chúa “tình yêu và sự sống” yêu thương trước, nên chúng ta cũng hãy thương yêu nhau. Yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực và yêu thương tha nhân như chính mình, thì hơn mọi lễ vật hy sinh và lễ vật toàn thiêu.
Nhờ tình yêu, Chúa cho chúng ta được bền tâm, vững chí, được nên thánh thiện, không có gì đáng chê trách trong khi mong đợi ngày hồng phúc, ngày Đức Kitô vinh hiển ngự đến.
Cũng theo chỉ dẫn của thánh Phao-lô: anh em đừng để lòng mình ra nặng nề bởi những việc làm đen tối chè chén say sưa theo kiểu thế gian, một hãy mặc lấy khí giới của sự sáng là đức tin, đức cậy, đức kính mến.
Thực hành những điều đó anh em đang làm điều tốt lành, phải lẽ, có sức cứu rỗi chính mình và mọi người.
Nguyện chính Thiên Chúa, nguồn mạch bình an, ban ơn trợ giúp để chúng ta nhận ra thánh ý Ngài, cố công đem ra thực hành, hoàn tất thời gian chuẩn bị, dọn lòng đón Chúa ngự đến, chính Người sẽ ban thưởng anh chị em hạnh phúc Nước Trời.
Xin Chúa thương nâng đỡ và chúc lành cho mỗi người chúng ta trong ngày chúa nhật I Mùa Vọng hôm nay. Amen!
Tin mừng Lc 21:25-27.34-36: Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói đến chung cánh của nhân loại và việc Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét mọi người. Đồng thời, Người đã ân cần nhắc nhở chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng cho ngày chung cánh ấy.
Mùa Vọng là mùa mong chờ một cuộc gặp gỡ. Người nông phu gieo hạt xuống đất mong chờ ngày MV 1-C247
Mùa Vọng là mùa mong chờ một cuộc gặp gỡ. Người nông phu gieo hạt xuống đất mong chờ ngày hạt trổ bông. Người bộ hành mong chờ gặp gỡ nơi chỗ hẹn.
Mùa Vọng là mùa mong đợi gặp gỡ Chúa. Chúa Giêsu chỉ đi vào lịch sử một lần khi Ngài giáng sinh trong hang lừa máng cỏ, cách đây 19 thế kỷ. Nhưng như vừa nói, Ngài sẽ đến lại với mỗi người chúng ta và nhất là Ngài sẽ đến lại trong vinh quang ngày tận thế.
Ta bắt đầu bước vào Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng để rồi ta cùng với Hội Thánh bước vào một năm Phụng Vụ mới, một năm mới trong hành trình đức tin, một giai đoạn mới trên đường hy vọng khi chúng ta cùng bước đi với Chúa Kitô để về với Chúa Cha.
Mùa Vọng Giáo hội đang sống là sống với hai chiều kích: một là tưởng niệm biến cố Nhập thể làm người của Đức Giêsu Con Thiên Chúa, sinh bởi Đức Maria Đồng Trinh; hai là chờ đợi Chúa trở lại trong vinh quang để "phán xét kẻ sống và người chết", như chúng ta vẫn đọc trong kinh Tin Kính. Đó là lý do các từ "chờ đợi" được người ta nhắc nhiều đến trong Mùa Vọng. Các lễ nghi cử hành Phụng vụ trong Mùa Vọng, từ màu sắc, các bài đọc, các bài thánh ca đều diễn tả niềm hy vọng với lời cầu xin tha thiết: "Maranatha – Ngài ơi hãy đến, Ngài đến mau đi", và hơn thế nữa dân Do Thái kêu van: "Xin Ngài xé tầng trời mà ngự xuống".
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói đến chung cánh của nhân loại và việc Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét mọi người. Đồng thời, Người đã ân cần nhắc nhở chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng cho ngày chung cánh ấy. Những gì Chúa dạy chúng ta phải chuẩn bị cho ngày tận thế là chung cánh của vũ trụ và nhân loại, cũng là những gì chúng ta phải chuẩn bị cho ngày chung cánh của riêng mình: ngay chết của chúng ta, ngày chúng ta từ giã cõi đời này để bước vào cõi vĩnh hằng.
Câu đáng lưu ý trong Tin Mừng là lời khuyên mạnh mẽ của Chúa Giêsu: "Chúng con đừng sợ, hãy đứng vững và ngẩng đầu lên". Với bài đọc thứ nhất, Giêrêmia chỉ rõ Thiên Chúa trung thành với lời hứa cứu rỗi. Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô trình bày Thiên Chúa Cha yêu thương, luôn mong điều tốt đẹp cho con cái. Bài Phúc Âm chỉ là lời kết luận: Dầu trời đất có rung chuyển, có sụp đổ, dầu Chúa có xuất hiện trong uy nghi cao cả, chúng ta cũng hãy đừng sợ, nhưng hãy vui mừng và hy vọng. "Hãy đứng vững và ngẩng đầu lên". Dầu cho trật tự trần gian này qua đi, Chúa sẽ thiết lập một trật tự mới trong an bình. hãy đừng sợ! Đừng sợ cả khi nhận ra sự yếu đuối của mình, của con người chính mình.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ngay trong chương đầu của quyển "Bước qua ngưỡng cửa hy vọng" đã viết: "Hãy đừng sợ, là lời Chúa đã mời gọi nhiều lần với những con người Chúa tiếp xúc. Thiên Thần đã nói với Maria "Hãy đừng sợ", và cũng đã nói với Giuse "Hãy đừng sợ". Chúa Kitô đã nói với các tông đồ, đặc biệt với Phêrô nhiều lần trong nhiều trường hợp khác nhau, nhất là sau khi Người sống lại: "Hãy đừng sợ". Chúa phải lặp đi lặp lại như thế vì Người biết rằng các ông sợ. Các ông đã sợ khi Người bị bắt. Các ông cũng sợ khi Người phục sinh. Lời đó của Chúa Giêsu, Giáo Hội đã lặp đi lặp lại. Lời đó, Giáo Hoàng cũng đã lặp lại. Tôi đã nói những lời: "Hãy đừng sợ" đó trong bài giảng đầu tiên của tôi tại quảng trường thánh Phêrô.
Muốn luôn ngẩng đầu lên phải có đức tin vững mạnh, phải có niềm hy vọng bao la, phải biết tỉnh thức và cầu nguyện. Tất cả những xác tín đó giúp chúng ta tin tưởng nơi Chúa. Vì dù cho các tầng trời có rung chuyển, biển có gầm sóng, dầu cho mọi người có sợ hãi kinh hồn, thì kìa, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả, Người là Đấng Cứu Thế, Người đến để cứu rỗi thế gian.
Và muốn đứng vững trong ngày sau hết, chúng ta phải biết đứng vững ngay từ bây giờ, hiên ngang ngẩng đầu lên trong hiện tại, vì cây nghiêng bên nào thì sẽ ngã bên ấy. Chúa Giêsu đã biết và đã dạy: "Chúng con hãy giữ mình kẻo lòng chúng con ra nặng nề". Nặng nề vì tiền của vật chất, giả trá, kéo ghì chúng ta xuống đất. Nặng nề vì một chút đặc quyền đặc lợi, cặn bã của thế gian có thể làm mờ mắt chúng ta, để không còn biết mình đang đứng vững hay đang khòm lưng cúi đầu.
Cầu nguyện vì tinh thần mau mắn nhưng xác thịt nặng nề. Cầu nguyện để biết tỉnh thức. Vì khi cầu nguyện ta tách ra khỏi sự ràng buộc của thế giới vật chất để vươn tới thế giới tâm linh. Nhất là cầu nguyện để xin ơn Chúa giúp. Con người phàm trần xác thịt nặng nề luôn bị trần gian lôi kéo. Chỉ với ơn Chúa giúp ta mới thoát ra khỏi vòng giam hãm của vật chất để vươn tâm hồn lên thế giới thiêng liêng.
Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới khao khát Chúa đến. Có tỉnh thức cầu nguyện, khi Chúa đến ta mới đứng dậy và ngẩng cao đầu lên. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới gặp được Chúa. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới được vào thế giới mới với Chúa. Tỉnh thức cầu nguyện, ta có thể gặp Chúa ngay bây giờ trong ngày hôm nay. Tỉnh thức cầu nguyện ta sẽ gặp được Chúa trong ngày lễ Chúa Giáng Sinh. Tỉnh thức cầu nguyện chắc chắn ta sẽ được gặp Chúa trong ngày cùng tận của thế giới. Chúa sẽ đón ta vào hưởng hạnh phúc trong một thế giới mới hạnh phúc tuyệt đối và không bao giờ tàn lụi.
Hãy Tỉnh Thức đừng để "lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy đến như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em". Hãy Tỉnh Thức vì ngày cuối cùng đời người chúng ta sẽ đến. Ngày đó sẽ đến, nhưng không biết khoảng thời gian nào. Ngày đó sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó sẽ đến một cách bất chợt và thình lình.
Hãy Tỉnh Thức, vì chúng ta đang sống trong một xã hội có quá nhiều ảo tưởng, mà ảo tưởng lớn nhất và nguy hiểm nhất của con người là ảo tưởng cho rằng mình có rất nhiều thời giờ, để rồi lại bị chính thời gian bào mòn đi ý chí, bị chính những sản phẩm mình làm ra ru ngủ trong cái cảm giác mình là những vị thần toàn năng và bất tử.
Hãy Tỉnh Thức, vì con người ngày nay, đang bị gây mê, bị ru ngủ trong lối sống hưởng thụ, thực dụng để rồi cứ ngỡ thế giới mình đang sống là duy nhất, vĩnh hằng.
Ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta sống trọn vẹn Mùa Vọng này, như lời Thánh Phaolô nhắn nhủ trong bài đọc thứ hai: "Anh chị em thân mến! Xin Chúa gia tăng và ban cho anh chị em tràn đầy lòng thương yêu nhau và thương yêu tất cả mọi người, để lòng anh chị em được bền vững trên đường thánh thiện, không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta ngự đến".
Để đón mừng Chúa Giáng Sinh sắp tới, để chờ đợi Chúa đến với chúng ta trong giờ chết và trong ngày tận thế, chúng ta phải luôn sống tỉnh thức: Tỉnh thức là biết sống yêu thương; Tỉnh thức là không chè chén say sưa; Tỉnh thức là không lo lắng việc đời; Tỉnh thức là luôn nghĩ về sự chết và phán xét; Tỉnh thức là luôn biết cầu nguyện. Làm được như vậy, chúng ta sẽ "Không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta trong ngày Ngài ngự đến viếng thăm" (1Tx 3, 13). Nhờ vậy, chúng ta sẽ được Ngài đón nhận vào hưởng hạnh phúc với Ngài trên Thiên đàng.