Suy niệm Chúa Nhật PS 4-A Bài 101-150 Ta là cửa chuồng chiên
--------------------------------------
Phúc Âm: Ga 10, 1-10"Ta là cửa chuồng chiên".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ". Chúa Giêsu phán dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào". - Ðó là lời Chúa.
---------------------------------------------
PS 4-A101: ĐẤNG CHĂN CHIÊN.. 2
PS 4-A102: Chuyện minh họa. 5
PS 4-A103: ĐỨC GIÊSU LÀ CỬA RÀN CHIÊN.. 6
PS 4-A104: Ta đến để chúng được sống, và sống dồi dào. 11
PS 4-A105: NOI GƯƠNG VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH GIÊ-SU.. 14
PS 4-A106: Tôi là cửa cho chiên ra vào. 21
PS 4-A107: CHÚA CHIÊN LÀNH.. 23
PS 4-A108: Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên – Lm Trần Ngà. 25
PS 4-A109: CHÚA CHIÊN LÀNH.. 27
PS 4-A110: Chúa Chiên Lành. 29
PS 4-A111: Mục tử nhân lành. 31
PS 4-A112: CHÚA GIÊSU MÔSÊ MỚI DẪN TA ĐẾN SỰ SỐNG MUÔN ĐỜI 33
PS 4-A113: Chuồng chiên. 36
PS 4-A114: Chúa Chiên Lành – Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty. 37
PS 4-A115: Cửa ràn chiên – Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty. 38
PS 4-A116: Cánh cửa mở toang. 41
PS 4-A117: Tình mẹ hiền – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 43
PS 4-A118: Đức Giêsu, Đấng chăn dắt đời tôi – An Phong. 45
PS 4-A119: Ơn gọi thánh hiến – Lm Dom. Trần Quang Hiền. 46
PS 4-A120: Mục Tử Tốt Lành – Lm Giuse Nguyễn Hữu An. 48
PS 4-A121: Ta đến để chúng được sống, và sống dồi dào. 52
PS 4-A122: CẦU NGUYỆN NHIỀU CHO DÂN CHÚNG.. 54
PS 4-A123: Mục tử đàn chiên. 60
PS 4-A124: Mục Tử Nhân Lành – Lm. G. Nguyễn Cao Luật 62
PS 4-A125: Biện chứng Mục Tử - Chiên. 65
PS 4-A126: Mục tử nhân lành: mẫu gương các chủ chăn. 68
PS 4-A127: Chúa Nhật 4 Phục Sinh. 70
PS 4-A128: SỰ SỐNG DỒI DÀO.. 72
PS 4-A129: NGƯỜI MỤC TỬ NHÂN LÀNH.. 78
PS 4-A130: Đồng cỏ xanh, Dòng suối mát 81
PS 4-A131: Mục tử nhân lành. 83
PS 4-A132: Mục Tử Nhân Lành – ViKiNi 85
PS 4-A133: Mục tử và chiên. 87
PS 4-A134: Suy niệm và chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông. 90
PS 4-A135: Chúa Chiên Lành. 95
PS 4-A136: Có một tương quan thật lạ lùng. 98
PS 4-A137: Chú giải của Noel Quession. 100
PS 4-A138: Chứng tá cuộc khổ nạn. 104
PS 4-A139: CHÚA CHIÊN LÀNH.. 106
PS 4-A140: ĐỨC KITÔ - MỤC TỬ NHÂN LÀNH.. 108
PS 4-A141: SUY NIỆM CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH.. 112
PS 4-A142: CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH – năm A.. 115
PS 4-A143: BÀI GIẢNG LỄ THIẾU NHI 118
PS 4-A144: Tin tưởng và can đảm đáp lại tiếng Chúa gọi mời 121
PS 4-A145: Tôi là cửa chuồng chiên. 125
PS 4-A146: TÔI LÀ CỬA.. 127
PS 4-A147: Thánh Thần hoạt động vượt xa nhà giảng thuyết 128
PS 4-A148: Thênh thang – Đỗ Lực. 132
PS 4-A149: Cánh cửa Đức Giêsu rộng mở đón chúng ta. 137
PS 4-A150: NGƯỜI CHĂN CHIÊN VÀ ĐÀN CHIÊN.. 140
------------------------------------------
Người chăn chiên hay cừu, được nhắc đến nhiều lần trong Kinh Thánh, từ sách đầu tiên là Sáng Thế PS 4-A101
Người chăn chiên hay cừu, được nhắc đến nhiều lần trong Kinh Thánh, từ sách đầu tiên là Sáng Thế cho đến sách cuối là Khải Huyền ( St 4, 2; Kh 7, 17 ). Những người nổi bật như Abraham, Môsê và vua Đavít đều là người chăn cừu. Người viết sách Thánh Vịnh là Đavít miêu tả một cách thi vị trách nhiệm và mối quan tâm của người chăn cừu tốt lành.
Sau này, vào thời Chúa Giêsu, chăn cừu vẫn còn là công việc quan trọng. Chúa Giêsu tự cho mình là “người chăn chiên tốt lành” và ngài thường dùng các đức tính của người chăn tốt để dạy những bài học quan trọng ( Ga 10, 2-4, 11 ). Ngay cả Đấng Toàn Năng, Đức Chúa Trời cũng được ví như người chăn chiên: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì…” ( Tv 23, 1-4 ).
Người chăn cừu vào thời nước Israel xưa hẳn chăn một số loại cừu, trong đó có giống cừu Syria, đuôi mập và lông dày. Cừu đực thuộc giống này có sừng, còn cừu cái thì không. Loài vật ngoan ngoãn ấy không thể tự bảo vệ mình, khi sống ở ngoài thiên nhiên, khỏi nanh vuốt của thú dữ. Người chăn cừu phải luôn huấn luyện bầy cừu của mình biết vâng lời. Dù vậy, người chăn tốt lành kiên nhẫn và dịu dàng chăm sóc bầy, ngay cả đặt tên cho mỗi con để nó có thể nghe tiếng người chăn. ( Ga 10, 14.16 ).
Vào mùa xuân, có lẽ mỗi ngày người chăn dẫn bầy từ chuồng ở gần nhà đến những cánh đồng cỏ gần làng. Ở đấy, chúng gặm chồi non xanh tươi. Trong mùa này, cừu con sinh sôi nảy nở. Cũng vào thời điểm này, người ta xén lông cừu và đây là dịp ăn mừng !
Sau khi những cánh đồng gần làng đã thu hoạch, người chăn dẫn bầy ra ăn chồi non và hạt còn lại trên những gốc rạ. Khi mùa hè oi bức đến, người chăn chuyển bầy mình đến những cánh đồng cỏ trên vùng đất cao hơn. Trong nhiều ngày liền, người chăn dẫn bầy đi ăn cỏ trên những đồi dốc xanh mướt, làm việc và ngủ ngoài trời để canh chừng bầy. Đôi khi, người chăn cho bầy của mình nghỉ qua đêm trong một cái hang, nơi chúng được che chở khỏi những con sói và linh cẩu. Nếu tiếng tru của linh cẩu làm cho bầy hoảng loạn trong đêm tối, thì giọng trấn an của người chăn làm chúng bình tĩnh lại.
Mỗi buổi chiều tà, người chăn đếm và kiểm tra sức khỏe từng con. Buổi sáng, ông gọi và chúng theo ông ra đồng cỏ ( Ga 10, 3-4 ). Giữa trưa, người chăn dẫn bầy đến những ao nước mát. Khi ao cạn, người chăn dẫn chúng đến giếng và múc nước cho chúng uống. Cuối mùa khô, người chăn có thể chuyển bầy đến cánh đồng và thung lũng thuộc miền duyên hải. Khi mùa mưa đến, ông dẫn chúng về nhà để trú đông. Nếu không, loài vật này có thể chết vì mưa, bão mưa đá và tuyết. Người chăn giữ chúng trong chuồng cho đến mùa xuân. Người chăn tốt lành thì siêng năng, đáng tin cậy và can đảm, thậm chí liều mạng sống để bảo vệ bầy. ( 1Sm 17, 34-36 ) ( Người chăn cừu, Thư viện trực tuyến ).
Tin Mừng theo Thánh Gioan hôm nay phác hoạ chân dung vị Mục Tử Nhân Lành với tất cả tình yêu dành cho từng con chiên, sự phục vụ chu đáo và cứu chuộc đoàn chiên khỏi phải chết đời đời.
Yêu thương
“Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra.” Mục Tử nhân lành chính thức, công khai, hợp pháp đến với đàn chiên. Người biết rõ tên từng con, âu yếm gọi tên và dẫn chúng đi ăn. Quan tâm chăm sóc, Người còn biết cả thể trạng, sức khoẻ, tính nết mỗi con, chứ chẳng bao giờ gọi chúng bằng những con số lạnh lùng, xa lạ.
“Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh.” Chúng nhận biết chủ chăn, vì anh yêu thương chúng, anh nưng niu từng con, chẳng muốn mất mát con nào. "Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi, mà đi tìm con chiên lạc sao ?” ( Mt 18, 12 ).
Phục vụ
“Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ." Mục Tử Nhân Lành luôn quên mình, dấn thân phục vụ đoàn chiên, chẳng bao giờ hách dịch, đe doạ, áp bức con chiên. “Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” Chỉ có chủ chăn giả mạo, sói đội lốt, mới đến lợi dụng, hãm hại, a tòng, âm mưu với kẻ dữ ăn thịt chiên lành.
Bởi vì ”Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ." ( Mc 10, 45 ). Mặc dù là Mục Tử là người chỉ huy, lãnh đạo, nhưng luôn yêu thương phục vụ, chăm sóc, dẫn dắt, nuôi dưỡng đoàn chiên được sung mãn.
Hy sinh
“Tôi hy sinh mạng sống mình cho chiên của Tôi” ( Ga 10, 15 ). Không chỉ yêu thương phục vụ, Đấng Chăn Chiên tốt lành còn sẵn sàng chịu đối xử bất công, chịu khổ nạn, chịu đóng đinh, chịu chết nhục nhã trên thập giá, để cứu chuộc đoàn chiên khỏi phải chết trầm luân và sống lại khải hoàn. Vì thế, Người đã công khai tuyên bố cho những ai trung thành đi theo Người: “Tôi là cửa Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ.”
“Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu.” ( Ga 15, 13 ). Người khiêm nhường, tự hạ, yêu thương phục vụ, còn hơn là bạn hữu, mà y như người Đầy Tớ đau khổ, ứng nghiệm lời Ngôn Sứ Isaia đã nói: “Ðây là người Tôi Trung Ta đã tuyển chọn, đây là người Ta yêu dấu. Ta hài lòng về Người. Ta cho Thần Khí Ta ngự trên Người. Người sẽ loan báo công lý trước muôn dân...” ( Mt 12, 18 – 21 ).
Kinh Tin Kính phải đánh động con vì sự hy sinh của Chúa Giêsu: "Người đã nhập thể... và đã làm người. Người chịu đóng đinh... chịu tử hình, và mai táng..." Hy sinh trong cả cuộc sống, hy sinh trong lễ toàn thiêu. ( Đường Hy Vọng, số 173 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn ý thức rằng, Người chính là Mục Tử Nhân Lành, luôn quên mình, dấn thân, hy sinh, chăm sóc, nuôi dưỡng, cứu giúp chúng con từng giây phút trong đời. Xin giúp chúng con biết đáp lại tình yêu vô biên của Người.
Khấn xin Mẹ Maria luôn cầu thay nguyện giúp chúng con, xin Chúa ban cho nhiều Mục Tử Nhân Lành, để dẫn đưa chúng con về Nước Hằng Sống. Amen.
AM. TRẦN BÌNH AN
------------------------------------
a/ "Ta là cửa chuồng chiên"
Từ lâu, tôi vẫn cứ ấm ức không hiểu tại sao khi minh họa chân dung mình trong dụ ngôn Mục tử tốt lành, Chúa Giêsu lúc thì ví mình như Mục tử, lúc lại ví mình như cửa chuồng chiên. Gần đây, một cuốn sách đã giải tỏa cho tôi thắc mắc đó. Sách viết: một du khách đến Palestin, gặp được một mục tử đang làm việc tại một trại cừu. Người đó chỉ cho du khách thấy cảnh vật biến ảo của cánh rừng. Thấy thế, du khách hỏi: "Đó là trại cừu, kia là bấy cừu, đây là lối vào. Vậy còn cửa đâu?" Người mục tử hỏi lại: "Cửa hả? Chính tôi là cửa. Ban đêm tôi nằm giữa lối đi này. Không một con cừu nào bước ra hay một con sói nào bước vào mà không phải qua xác tôi." Thế đó, Chúa Giêsu đâu có lẫn lộn khi trình bày chân dung mình: Ngài vừa là mục tử vừa là cửa vào.
b/ "Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào"
Người Tây Ban Nha có câu chuyện sau đây: Khi có người đến cửa thiên đàng, Thánh Phêrô đặt cho mỗi người một câu hỏi rất lạ: "Lúc còn ở trần thế, bạn đã biết nếm mùi những vui thú mà Chúa nhân lành ban cho bạn không?"Nếu người đó đáp "Thưa không" thì Thánh nhân nói: "Bạn chưa biết nếm những vui thú nhỏ dưới thế thì làm sao có thể nếm những vui thú lớn lao trên thiên đàng được! Xin lỗi, Ta chưa cho bạn vào được."
------------------------------------
(10,1-10 – CN IV PS - A)
1.- Ngữ cảnh
Những biến cố vây quanh Đức Giêsu tại Giêrusalem vào dịp Lễ Lều, bắt đầu từ ch. 7, lại tiếp tục ở đây. Người đã dạy dỗ và bằng dấu lạ đưa lại ánh sáng cho anh mù bẩm sinh, nêu rõ rằng Người đã làm trọn ý nghĩa của Lễ Lều, vì Người ban nước trường sinh và ánh sáng thế gian. Bản văn “Đức Giêsu là cửa và vị Mục tử nhân lành”, là bài diễn từ cuối cùng của Đức Giêsu trong thời gian hoạt động công khai; bài này triển khai một đề tài đã được nêu lên ở ch. 9: Đức Giêsu, chứ không phải là các nhà lãnh đạo Do Thái giáo, mới là vị Mục tử đích thật, vị lãnh đạo của Dân Thiên Chúa.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Ẩn dụ Cửa ràn chiên (10,1-5);
2) Phản ứng của người Do Thái (10,6);
3) Đức Giêsu giải thích ẩn dụ Cửa ràn chiên (10,7-10).
3.- Vài điểm chú giải
- ràn chiên (1): Có nhiều loại ràn chiên. Có khi đó là một mảnh đất vuông bên sườn đồi, có tường đá vây quanh. Ở đây có lẽ là một mảnh sân phía trước một ngôi nhà, chung quanh có tường đá.
- gọi tên từng con (2): Các mục tử Paléttina thường đặt tên cho những con chiên họ yêu quý.
- Chúng sẽ không theo người lạ (5): Điều này khiến chúng ta có thể nghĩ rằng có nhiều đàn chiên trong một ràn, nên mỗi mục tử gọi tên các chiên là để tách chúng khỏi các đàn khác.
- ẩn dụ (6): Từ Hy Lạp TM IV dùng là paroimia, được BJ dịch là “discours mystérieux”. TOB dịch là “parabole” và ghi chú: “Là lời huyền bí hoặc biểu tượng tối tăm, la parabole dưới mắt tác giả Ga là cách mạc khải thuộc về sứ mạng của Đức Giêsu trong thời gian; ta chỉ có thể thật sự hiểu được mạc khải này trong đức tin, đưới ánh sáng của mạc khải cuối cùng, khi Đức Giêsu được giương cao và khi Thần Khí được ban tặng”. NAB dịch là “figure of speech”, và chú thích là từ ngữ này tương tự với “dụ ngôn” của các TMNL. R.E. Brown dịch là “picture”, còn Zerwick&Grosvenor dịch là “simile, hidden saying” và cho rằng từ này cùng nghĩa với parabolê của TMNL (x. Hc 47,17). Vậy đây là một sự so sánh hoặc một dụ ngôn, nhưng nhấn mạnh trên ý nghĩa ẩn giấu. N. Guillemette dịch là “allégorie” (ẩn dụ). Trong bài ẩn dụ, phải chuyển các yếu tố khác nhau sang một trật tự khác các ý tưởng; sự chuyển dịch này được chính ẩn dụ gợi ra. Người ta không bắt đầu một bài tường thuật hay một bài miêu tả bằng câu “Thật, tôi bảo thật các ông…”. Ta có ngay ẩn dụ: ràn chiên gợi đến đoàn chiên của Yhwh, đến dân Thiên Chúa; có những mục tử thật và giả, như Đức Giêsu và các nhà lãnh đạo dân Chúa; và có các con chiên, đó là các tín hữu đang nghe lời của vị mục tử. Vậy mục tiêu của bài ẩn dụ là cho thấy sự tách biệt giữa đoàn chiên chân thật và đoàn chiên giả trá. Xem thêm Ga 15,1-8.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Vào thời ấy, những người chăn chiên không phải là những con người tốt lành, dịu dàng như chúng ta tưởng tượng ra hôm nay. Trái lại, họ là những người khỏe mạnh, thô bạo. Họ bị khinh bỉ do cung cách hoang dại. Họ bị coi là ô uế, bất lương, nên không được làm chứng tại tòa án. Những người chăn chiên Paléttina quen quy tụ các đàn vật của họ vào chung một ràn vào lúc tối. Một người chăn bảo vệ, những người khác đi nghỉ. Buổi sáng, khi một mục tử lên tiếng với người giữ cửa, các chiên của người ấy nhận ra tiếng anh và quy tụ lại bên anh. Đây là hình ảnh Đức Giêsu dùng trong dụ ngôn của Người.
* Ẩn dụ Cửa ràn chiên (1-5)
Tác giả Ga vẫn tiếp tục mạch tư tưởng của truyện Anh mù, và tiếp tục triển khai ý chính của bản văn ấy bằng cách chuyển sang ẩn dụ Cửa ràn chiên.
Cách duy nhất để đến với con chiên, đó là qua cái cửa được người giữ cửa mở ra. Đây là điểm nhấn mạnh của dụ ngôn. Chính cái cửa xác định ai là kẻ trộm, kẻ cướp, và ai là mục tử. Ai không qua cửa mà vào, nhưng lại trèo qua lối khác mà vào, tức là không đến với đàn chiên một cách chính thức, thì kẻ ấy là kẻ trộm và kẻ cướp. “Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử” (c. 2).
Đến đây, tương quan mật thiết giữa các con chiên và mục tử được nêu bật. Dân Ả-rập du cư trong sa mạc cho chúng ta hôm nay một khái niệm về đời sống của các chi tộc Israel ngày trước: trong xã hội ấy, quan hệ giữa mục tử và đàn chiên không phải chỉ theo kiểu kinh tế, dựa trên lợi nhuận mà mục tử có thể rút ra từ các con chiên để nuôi mình và gia đình: xén len, uống sữa, ăn thịt (nướng), bán bớt chiên khi cần tiền, tức là một tương quan “sở hữu”. Đúng ra đây là một tương quan hầu như riêng tư giữa mục tử và đàn chiên. Chiên và người sống ngày qua ngày với nhau tại những nơi hoang vắng, trong thế “diện đối diện”, không có ai khác ở quanh đó. Cuối cùng, mục tử biết rõ từng con chiên, và mỗi con chiên phân biệt và nhận ra được tiếng của mục tử mình, vì anh nói với chúng thường xuyên. Chúng sẽ đi theo anh đến các đồng cỏ.
Thật ra, Đức Giêsu đang mô tả chính cách thức xử sự của Người, để cho thấy là Người thực hiện tất cả các điều kiện cần thiết về Người Mục tử chân chính của Israel. Để đến với Đàn Chiên của Thiên Chúa, Người đã dùng con đường thông thường, bởi vì Người có đến là vì nhận được tiếng gọi và bài sai của Thiên Chúa, trong biến cố Phép rửa (Ga 1,31-34). Gioan Tẩy Giả đã đóng vai người giữ cửa do bài sai của Thiên Chúa, đã mở cửa cho Đức Giêsu và đã giới thiệu Người cho toàn dân, đặc biệt cho các môn đệ ông (1,23-31). Tương quan giữa mục tử và chiên là một trong những tương quan chặt chẽ nhất mà người ta có thể nhận thấy trong cuộc sống hằng ngày của một người Israel: chính vì thế, Thiên Chúa đã dùng biểu tượng này để diễn tả quan hệ của Ngài với Dân tuyển chọn và với toàn thể nhân loại. Một trong những Thánh vịnh đẹp nhất mô tả sự an toàn mà dân Chúa cảm nhận khi có Chúa là Mục tử, là Tv 23. Nhưng điều này cũng có giá trị cho các quan hệ giữa con người với nhau. Do đó, trong Kinh Thánh, danh hiệu mục tử cũng được ban cho tất cả những ai bắt chước sự ân cần, tận tâm của Thiên Chúa để lo cho tình trạng an vui của dân mình. Vì vậy, các vua, các tư tế, và nói chung, mọi vị hữu trách trong dân, cũng được gọi là mục tử.
Trong chiều hướng này, khi một ngôn sứ như Êdêkien nhắc đến các thủ lãnh của dân, ngài đã gọi họ là mục tử. Tuy nhiên, ngài gọi như thế không phải là để nhắc đến hình ảnh người che chở mà lẽ ra họ phải nêu ra, nhưng là để nhắc đến tình trạng thực của họ: những thủ lãnh vô trách nhiệm, thậm chí bất lương, vì đã lợi dụng địa vị của họ để bóc lột và áp bức. Họ đã tự đặt mình làm thủ lãnh và người hướng dẫn thiêng liêng của đàn chiên, mà chẳng thông qua Người giữ cửa tối cao, không hề nhận bài sai từ Thiên Chúa cho sứ mạng đó. Như những tên trộm cướp, họ đã chiếm lấy Dân Chúa vì ham vinh quang và quyền lực hơn là vì quan tâm đến đời sống thiêng liêng của Dân (cc. 8.10).
* Phản ứng của người Do Thái (6)
Phản ứng của các chiên tương tự phản ứng của người mù sơ sinh. Khi nghe Đức Giêsu, mặc dù bị người Pharisêu ngăn chặn, con người phát xuất từ Dân Chúa đó đã phân biệt được người mục tử với quân trộm cướp. Các kinh sư và người Pharisêu bị trách không phải là đã không biết giữ cửa, nhưng đã xử với đàn chiên như những kẻ trọm, kẻ cướp. Nhưng họ đã không hiểu các lời Đức Giêsu nói. Do đó, Đức Giêsu đã giải thích các dụ ngôn Cửa ràn chiên và Người mục tử. Họ không hiểu: đây không phải là một vấn đề trí thức, nhưng là một thái độ không muốn đáp trả thách đố của các dụ ngôn. Trong các TMNL, thách đố này xoáy vào đề tài Nước Trời; trong TM IV, thách đố này lại tập trung nơi Đức Giêsu.
* Đức Giêsu giải thích ẩn dụ Cửa ràn chiên (7-10)
Đức Giêsu tuyên bố: “Thật, tôi bảo thật các ông: Chính tôi là cửa cho chiên ra vào” (c. 7). Người không xác định cửa này phải chăng chỉ dành cho chiên ra vào, hay là cũng dành cho mục tử ra vào. Nhưng dựa vào câu nói tiếp theo: “Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp” (c. 8) và đối chiếu với dụ ngôn trên đây (10,1-5), ta hiểu là cửa này cũng để cho mục tử ra vào nữa. Như vậy, đã có những kẻ không qua cửa mà đến với đàn chiên, nhưng đã trèo qua lối khác. Những người này là ai? Phải chăng là những mêsia giả hiệu thời Đức Giêsu? hay là chính vị Thầy dạy Đường công chính của Qumran? Tuy nhiên, gần với bản văn nhất, là chính các người Pharisêu và Xađốc; giọng điệu của Đức Giêsu ở đây cũng rất gần với Mt 23.
Đến đây, Đức Giêsu lại nhắc lại: “Chính tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ” (c. 9). Ở đây Người là cửa dẫn đến ơn cứu độ, không phải là cửa cho mục tử mà là cửa cho con chiên. Tư tưởng này rất giống với Ga 14,6 và Tv 119,20.
Trong Ga 4 và 6, chúng ta đã nghe Đức Giêsu tuyên bố rằng Người là Đấng cung cấp nước hằng sống và bánh ban sự sống; bây giờ Người ban đồng cỏ đưa lại sự sống, có thể hiểu là sự sống viên mãn. Món quà đưa lại sự sống này đối lập lại với việc “giết hại và phá hủy (thys¢ kai apoles¢ do động từ apollymi])” của kẻ trộm. Trong bài diễn từ dịp Lễ Lều (8,44), Đức Giêsu cho biết ma quỷ là kẻ sát nhân; như thế, sự đối lập giữa kẻ trộm và người mục tử là phản ánh sự đối lập giữa Satan và Đức Giêsu. Kẻ trộm đến là để “phá hủy” (apollymi); ở 3,16, Đức Giêsu nói rằng Thiên Chúa ban Con một để bất cứ ai tin vào Người thì “khỏi phải diệt vong [= khỏi bị phá hủy [apol¢tai, do động từ apollymi]) nhưng được sự sống đời đời (x. 6,39). Chỉ mình Đức Giêsu có thể đưa các tín hữu đi vào trong không gian ban sự sống mà Thiên Chúa đã thiết lập, bằng cách giúp họ sinh vào sự sống nhờ nước và Thánh Thần (3,3-6), và đó chính là ơn cứu độ đích thực (3,16-17). Các tín hữu đã được cứu có thể “ra vào”: đã được giải thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi và ma quỷ, nhờ Đức Giêsu, họ được hưởng tự do đích thực của các con cái trong nhà Cha (8,34-44). Nơi Người, họ sẽ tìm được đồng cỏ rất bồi dưỡng, đó là bánh và nước hằng sống, có khả năng thỏa mãn vĩnh viễn cơn đói khát thiêng liêng của con người (6,35; 4,14).
Vì dường như cc. 8 và 9-10 là hai cách giải thích Đức Giêsu là cửa (mà c. 8 thì gần với dụ ngôn trên hơn), ta không cần phải nghĩ rằng kẻ trộm và kẻ cướp ở c. 8 (và c. 1) cũng là các nhân vật của c. 10. Kẻ trộm của c. 10 đến chỉ là để ăn trộm, giết hại và phá huỷ, thì giống với “kẻ nhân danh mình mà đến” ở 5,43, tức là một một đại diện tổng quát của bóng tối đối nghịch với Người Con.
+ Kết luận
Trong lòng Israel cũng như giữa lòng Họi Thánh, có hai hạng người: những người thực sự thuộc về người mục tử và chỉ đáp lại tiếng người ấy gọi mà thôi, và những người không đáp lại tiếng mục tử gọi vì chưa bao giờ thuộc về người ấy.
Đức Giêsu chỉ có một mối bận tâm duy nhất, đó là làm cho các con chiên sống bằng sự sống của Thiên Chúa, ngày càng dồi dào phong phú hơn. Người chính là người Mục tử chân thật đã được Thiên Chúa giao phó đàn chiên cho. Cũng có những mục tử giả hiệu, chỉ tìm giết con chiên, theo sự thôi thúc của Satan, tên sát nhân. May mắn là các con chiên chân thật không nghe và đi theo các mục tử giả này, vì chúng không nhận ra lời họ nói chính là Lời Nói của vị Mục Tử tối cao.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Người Pharisêu cho rằng họ hướng dẫn những người khác nhân danh Thiên Chúa; họ rất ghen tị về sự tín nhiệm dân chúng dành cho Đức Giêsu, khiến họ bị mất uy tín thiêng liêng. Vậy giữa họ và Đức Giêsu, có một xung đột về ảnh hưởng. Qua các lời được bài Tin Mừng hôm nay ghi lại, Đức Giêsu xác định cho họ biết đâu là ảnh hưởng mà người Pharisêu đang tạo ra trên đàn chiên Israel và đâu là ảnh hưởng mà chính Người đang tạo ra.
2. Đức Giêsu là cửa. Người không loại trừ ai khỏi ơn cứu độ, “Người đã đến là để cho mọi người được sống dồi dào”, kể cả những người Pharisêu đang tìm cách loại trừ Người. Khi khẳng định như vậy, Người muốn cho biết rằng chỉ mình Người mới có thể thông ban ơn cứu độ. Người ta không thể đi vào cạnh tranh với Người. Người là cửa duy nhất đưa đến ơn cứu độ mà tất cả phải chấp nhận đi qua, không ai được miễn chuẩn, dù là những người có một uy quyền hay một thẩm quyền thiêng liêng trong cộng đoàn tín hữu.
3. Xét lại lối sống của chúng ta hôm nay, chúng ta có yên tâm rằng chúng ta đang đi theo Đức Giêsu, vị Mục Tử duy nhất? Và những tiêu chuẩn để xét lại đời sống là: nhận biết tiếng Người và đi theo Người, không nhận biết tiếng mục tử lạ và tránh xa mục tử ấy, đi qua cửa ràn chiên, đang nhận sự sống do chính Mục Tử chân chính cung cấp. Là con chiên, các Kitô hữu cũng là mục tử trong quan hệ với người khác: phải giúp người khác tìm được hạnh phúc trong đời họ, phải dấn thân bảo vệ các quyền căn bản của con người.
4. Hôm nay chúng ta cũng cầu nguyện để Thiên Chúa ban thêm cho có những mục tử xứng đáng thay mặt Đức Giêsu, Vị Mục Tử chân thật. Các ngài rao giảng về Chúa Kitô và ơn cứu độ, các ngài nói về và bảo vệ nhân quyền. Để có thể là một mục tử xứng đáng, một vị lãnh đạo trong Họi Thánh cũng phải sống tư cách con chiên của Đức Giêsu, cũng ra vào qua cửa ấy và nhận được lương thực nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của mình.
Lm FX Vũ Phan Long, ofm
------------------------------------
Suy niệm Chúa nhật Chúa Chiên Lành
(CN IV Phục Sinh, 2014)
(Ga 10, 1-10)
"Đức Chúa phán thế này: Này Ta chống lại các mục tử, Ta sẽ đòi lại chiên Ta nơi tay chúng " (Ez 34, 10). Các mục tử đã làm gì để Thiên Chúa nổi giận và đòi lại chiên đây? Qua miệng ngôn sứ Ezêkiel, Thiên Chúa còn nói mạnh hơn nữa : "Ta sẽ không để chúng chăn chiên Ta nữa. Các mục tử sẽ không còn được chăn nuôi lấy mình chúng nữa. Ta sẽ giựt lấy chiên khỏi mõm chúng, khiến chiên Ta không còn là mồi ngon cho chúng ăn thịt nữa " (Ez 34, 10). À thì ra, các mục tử chỉ để ý đến lợi ích của mình, không dám xả thân vì để cứu chiên, nay Chúa đòi lại chiên và Ngài tuyên bố : "Chính Ta sẽ tìm kiếm chiên của Ta, và Ta sẽ chăm nom đến chúng " (Ez 34, 10). Thiên Chúa chăm nom chiên như thế nào? Ngài phán : " Như người mục tử chăm nom đàn chiên của mình vào ngày nó ở giữa chiên phiêu bạt thế nào, cũng vậy Ta sẽ chăm nom chiên của Ta. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi nơi chúng tán loại, vào ngày mây mù đen tối. Ta sẽ đem chúng ra khỏi các dân. Ta sẽ thâu họp chúng lại từ các xứ. Ta sẽ dẫn chúng về lại thửa đất của chúng. Và Ta sẽ chăn nuôi chúng trên núi Israel " (Ez 34, 13-14).
Những "ngọn núi Israel " theo các tác giả Thánh Kinh là nơi an nhàn, có suối nước trong lành, không có gì độc hại và nguy hiểm, nơi ấy có đồng cỏ non xanh tốt, màu mỡ (x. Ez 34, 13-15). Nếu ta muốn an toàn thoải mái, hãy đến đó tận hưởng. "Đức Chúa phán: Chiên thất lạc, Ta sẽ tìm kiếm. Chiên tản mác, Ta sẽ lùa về. Chiên xây xát, Ta sẽ băng bó. Chiên bệnh hoạn, Ta sẽ bổ sức " (Ez 34, 16). Những ngọn núi chúng ta vừa nói ở trên còn ám chỉ dòng suối chảy Tin Mừng được rao giảng từ các Tông Đồ cho đến tận cùng thế giới : " Tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển " (Ps 18, 5).
Thật là hình ảnh cụ thể tuyệt đẹp và đầy cảm động về một Vì Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa đã làm đối với chúng ta là những tạo vật, những con chiên của Ngài. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, được Chúa Cha phái đến, cũng tuyên bố : " Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta" (Ga 10, 14 ).
Hôm nay, mỗi người chúng ta tự hỏi : tôi có phải là chiên của Chúa không, nếu phải thì tôi có biết Chúa không, biết thì biết thế nào ? "Biết" ở đây, không có nghĩa là "biết" nhờ đức tin, nhưng là "biết" nhờ đức mến. "Biết" không có nghĩa là "biết" được diễn tả qua thái độ tin, nhưng là "biết" được diễn tả qua việc làm. Chính thánh Gioan Tông Đồ đã viết điều này và làm chứng ở nơi khác : "Ai nói mình biết Thiên Chúa mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối" (1 Ga 2, 4).
Chúa Giêsu còn nói về các con chiên : " Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi, Tôi cho chúng được sống đời đời và chúng sẽ không bao giờ hư mất " (Ga 10, 27).
Vậy, ai chân thành đi theo Chúa Giêsu thì được nuôi dưỡng nơi đồng cỏ xanh tươi muôn đời. Đồng cỏ của đoàn chiên đây là gì nếu không phải là cảnh thiên đàng luôn xanh ngắt, khiến tâm hồn ngập tràn niềm vui, nơi có Thiên Chúa luôn hiện diện, nơi đây chiên theo Chúa và làm theo ý Chúa sẽ được hân hoan mừng lễ cùng với bao công dân Nước Trời.
Trên đây là những lý do với nhiều lý do khác mà Giáo hội gọi Chúa nhật thứ IV Phục Sinh là Chúa nhật Chúa Chiên Lành, đồng thời mời gọi con cái mình suy nghĩ đặc biệt về hình ảnh của Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô, Vị Mục Tử Tối Cao đã hy sinh Mạng Sống Mình vì đoàn chiên. Chúa Giêsu muốn không chỉ có các mục tử tiếp bước, Người muốn những người nam nữ dâng mình cho Chúa trong đời thánh hiến, đến lượt mình, cũng xả thân mình để bảo vệ đàn chiên, đưa các con chiên lạc trở vể. Người mong ước các mục tử với ơn Người trợ giúp sẽ hoàn thành trách nhiệm dẫn dắt đoàn chiên đến đồng cỏ Nước Trời.
Chúa nhật Chúa Chiên Lành cũng là một Chúa nhật đặc biệt đối với các mục tử khi đặt mình vào vị trí của Chúa Giêsu Mục Tử nhân lành duy nhất. Chúng ta hãy cầu nguyện cho các mục tử thân yêu : nâng đỡ, cám ơn và khuyến khích các ngài ! Chúng ta cũng cầu nguyện cho Giáo hội Việt Nam có thêm nhiều linh mục lành thánh. Ý chỉ này cũng thật khẩn thiết cho Giáo hội hoàn vũ.
"Ơn gọi, chứng tá cho sự thật" là chủ đề ngày thế giới cầu cho ơn kêu gọi năm nay. Ðức Thánh Cha Phanxicô yêu cầu người Công Giáo hãy "mở lòng chúng ta ra cho những lý tưởng tuyệt vời, cho những điều cao cả với niềm tín thác rằng Chúa không bao giờ bỏ rơi công nghiệp tay Ngài là chúng ta. "Chính Ngài là Ðấng dựng nên ta, ta thuộc về Người; ta là dân Người, là đoàn chiên Người dẫn dắt " (Tv 100, 3). Và cùng với Ngài, chúng ta có thể tiến bước, trở thành những môn đệ và những chứng nhân cho tình yêu của Thiên Chúa, trong khi mở rộng con tim của chúng ta với những lý tưởng tuyệt vời, và những điều cao cả.
Đức Nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI viết rằng : "Ngày nay vẫn vậy, sống trong cộng đồng các môn đệ là Giáo Hội, Chúa Giêsu Kitô kêu gọi đi theo Người". Ngài cũng đặc biệt mời giới trẻ "hãy trau dồi nét hấp dẫn các giá trị, các mục tiêu nâng cao, các chọn lựa triệt để, để có thể phục vụ tha nhân theo chân Chúa Giêsu". Chúa Giêsu không ngừng lặp đi lặp lại "Hãy đến! Hãy theo ta". Theo Chúa Giêsu "có nghĩa là nhấn chìm ý muốn của chính mình vào thánh ý Chúa Giêsu, dành ưu tiên cho thánh ý Người và đặt Chúa Giêsu ở vị trí đầu so với tất cả những gì làm nên cuộc sống chúng ta : gia đình, công việc, những lợi ích ca nhân và bản thân".
Xin cho giới trẻ hôm nay đang ở giữa biết bao những gợi ý nông cạn và phù phiếm, tạm thời, biết chuyên tâm trau dồi nét hấp dẫn đối với các giá trị, các mục tiêu cao thượng, những chọn lựa triệt để, hầu phục vụ tha nhân theo chân Chúa Giêsu. Đáp trả quảng đại và mau lẹ tiếng Chúa Kitô kêu gọi đi theo Người sát sao hơn nữa, đặc biệt với các thế hệ mới. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
------------------------------------
CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH A
Cv 2,14a.36-41 ; 1 Pr 2,20b-25 ; Ga 10,1-10
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 10,1-10
(1) “Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. (2) Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. (3) Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh, anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. (4) Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. (5) Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ. (6) Đức Giê-su kể cho họ nghe dụ ngôn đó. Nhưng họ không hiểu những điều Người nói với họ. (7) Vậy, Đức Giê-su lại nói: “Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào. (8) Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp, nhưng chiên đã không nghe họ. (9) Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. (10) Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay giới thiệu Đức Giê-su vừa là mục tử vừa là cửa chuồng chiên:
- LÀ MỤC TỬ THẬT SỰ CỦA DÂN ÍT-RA-EN: Vì Người đi qua cửa chính mà vào chuồng chiên và được người giữ cửa là Gio-an Tẩy Giả giới thiệu. Do đó, Người được đàn chiên là dân chúng nghe theo. Còn các đầu mục Do thái chỉ là người lạ, nên chiên chạy trốn và không đi theo họ.
- LÀ CỬA CHO CHIÊN RA VÀO: Các kinh sư và Pha-ri-sêu không tin Đức Giê-su và không được Thiên Chúa ủy nhiệm coi sóc đàn chiên. Họ leo rào mà vào chuồng nên chỉ là hạng trộm cướp. Kẻ trộm đến chỉ để giết hại và phá huỷ đàn chiên. Còn Đức Giê-su đến để đem lại cho chiên sự an toàn, tự do, lương thực và sự sống dồi dào.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-3: + Ràn chiên: hay chuồng chiên, nơi nuôi giữ chiên cừu của dân Do thái vốn là một dân du mục. Ở đây ràn chiên là hình ảnh ám chỉ Giáo hội là Nước Trời hay Nước Thiên Chúa. + Cửa vào: Mỗi chuồng chiên chỉ có một cửa chính để chiên ra vào. Ai muốn được công nhận là mục tử đích thực của Chúa phải qua cửa chính là Đức Giê-su mà vào Hội Thánh. Họ phải được Người tuyển chọn và trao sứ mạng chăn chiên. Còn kẻ trèo qua lối khác mà vào, như các kinh sư hay Pha-ri-sêu, thì chỉ là mục tử giả hiệu và được xếp vào hạng trộm cướp. + Người giữ cửa mở cho anh ta vào: Đức Giê-su chính là Mục tử đích thực, vì đã được người giữ cửa là Gio-an Tẩy Giả làm chứng là “Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1,31-34). + Và chiên nghe tiếng của anh: Đàn chiên chỉ nhận biết và nghe theo một chủ chăn duy nhất, như các tông đồ đã nghe lời và đi theo một mình Đức Giê-su (x. Ga 1,35-51). + Anh gọi tên từng con rồi dẫn chúng ra: Trong ràn có nhiều đàn chiên. Ban chiều, mỗi mục tử sẽ đưa đàn chiên của mình vào ràn, rồi sáng sớm lại đến đưa đàn chiên ấy ra khỏi chuồng để dẫn đến đồng cỏ cho chúng ăn cỏ uống nước. “Gọi tên từng con” trong câu này là kiểu nói cường điệu. Thực ra các mục tử chỉ đặt tên và gọi tên một con chiên đầu đàn và các con khác sẽ theo sau con chiên đầu đàn ra ngoài. Ở đây Đức Giê-su nhấn mạnh tinh thần trách nhiệm của Người là Mục tử tốt lành, khác với các Pha-ri-sêu và kinh sư là những kẻ chăn thuê vô trách nhiệm.
- C 4-6: + Anh ta đi trước và chiên đi theo sau: Câu này nhắc đến sứ mệnh Mục tử của Đức Giê-su: Khi đã kéo Môn đệ ra khỏi thế gian (x. Ga 15,19). Người đi tiên phong dẫn họ tới đồng cỏ non là Hội Thánh. Chiên sẽ nhận biết tiếng nói và chỉ đi theo Mục tử Giê-su, vì Người luôn nói Lời của Thiên Chúa cho họ (x. Ga 14,10). + Chúng sẽ không theo người lạ,..: Người lạ là những kẻ không do Thiên Chúa sai đến, nhưng là kẻ trộm leo rào mà vào. Người lạ ám chỉ các đầu mục Do thái đương thời. Vì không phải là mục tử đích thực, nên chiên không đi theo mà còn lẩn trốn họ.
- C 7-8: + Tôi là cửa cho chiên ra vào: Vì thính giả không hiểu ý nghĩa dụ ngôn, nên Đức Giê-su phải giải thích rõ ràng: Người chính là cửa chuồng chiên tức là cửa vào Nước Trời, mà ai muốn vào Nước Trời đều phải đi qua Người. + Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp, nhưng chiên đã không nghe họ: Mọi kẻ đến trước ở đây không nhằm nói về các ngôn sứ Cựu ứơc, mà chỉ nhắm nói về những kẻ không được Thiên Chúa sai như các Pha-ri-sêu và kinh sư Do thái (x. Mt 23,1-8). Họ bị Đức Giê-su quở trách là bọn đạo đức giả, cản đường người khác gia nhập Nước Trời, có lòng tham lam, ăn ở bất công, dẫn dường đui mù và đã từng giết hại nhiều vị ngôn sứ chân chính (x. Mt 23,13-32).
- C 9-10: + Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu: Đức Giê-su là con đường mà người ta phải đi qua để vào Nước Trời. Tương tự như câu: “Thầy là đường…Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). + Người ấy sẽ ra vào: Ra vào nghĩa là tự do đi lại. + Gặp được đồng cỏ: Trong Đức Giê-su, các tín hữu sẽ được cứu khỏi làm nô lệ cho tội lỗi và ma quỷ. Họ sẽ được hưởng tự do đích thực (x. Ga 8,31-36). Nhờ Đức Giê-su, họ sẽ tìm được của nuôi thân là Nước hằng sống và Bánh trường sinh (x. Ga 4,14 ; 6,35). + Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy: Kẻ trộm ám chỉ các đầu mục Do thái, vì không được Thiên Chúa sai phái nhưng leo rào mà vào. Họ chỉ tìm kiếm lợi ích cho bản thân hơn là lợi ích của đàn chiên (x. Mt 23,4-7). + Tôi đến cho chiên được sống và sống dồi dào: Nhờ lương thực Đức Giê-su ban là Lời Chúa và Thánh Thể, mà đức tin của các tín hữu sẽ trở nên vững mạnh và được sự sống đời đời.
4. CÂU HỎI:
1) Ràn chiên nghĩa là gì và là hình ảnh ám chỉ điều gì ? Cửa vào ám chỉ ai ? 2) Đức Giê-su là Mục Tử thực sự của đàn chiên vì đã được Gio-an Tẩy Giả là người giữ cửa làm chứng thế nào ? 3) Đàn chiên chỉ nhận biết tiếng nói và đi theo ai ? Phải chăng mọi con chiên đều được đặt tên và mỗi buổi sáng người mục tử phải gọi tên từng con chiên để dẫn chúng ra khỏi chuồng ? 4) Ý nghĩa của câu: anh ta đi trước và chiên đi theo sau… là gì ? 5) Tại sao đàn chiên không nghe theo người lạ ? Người lạ nói đây ám chỉ những ai ? 6) Những kẻ đến trước được liệt vào hạng trộm cướp là những người nào ? 7) Đức Giê-su tự nhận mình là cửa chuồng chiên mà ai muốn vào chuồng chiên phải đi qua, tương tự như câu nào ? 8) Kẻ trộm là các đầu mục dân Do thái khác với Mục Tử tốt lành là Đức Giê-su như thế nào ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LÒI CHÚA: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ” (Ga 10,9)
2. CÂU CHUYỆN: QUO VADIS ? THẦY ĐI ĐÂU ?
Thời Hội thánh sơ khai, tại Rô-ma bạo vương Nê-rông đã bách hại các tín hữu công giáo cách rất tàn khốc. Biết bao tín hữu đã ngã xuống chết dưới bàn tay cuả ông vua điên loạn và tàn bạo này. Hội thánh non trẻ tại đây dường như sắp bị tận diệt. Bấy giờ các tín hữu đã yêu cầu tông đồ Phê-rô phải mau chạy trốn khỏi thành để tiếp tục lãnh đạo đàn chiên trong cơn bách hại. Ông Phê-rô tỏ ra phân vân, vì quả thật nếu bị mất đi người lãnh đạo thì đàn chiên Hội Thánh làm sao có thể đứng vững ? Đàng khác, chính Đức Giê-su đã chẳng khuyên các môn đệ: “Khi người ta bắt bớ chúng con ở thành này, thì hãy trốn sang thành khác” đó sao ? Cuối cùng Phê-rô quyết định hóa trang thành một người khác và trốn thoát thành công ra ngoài thành Rô-ma. Nhưng sau đó Phê-rô đã gặp Chúa Giê-su Phục Sinh đang đi vào thành. Ông lên tiếng hỏi: “Quo vadis, Domine ?” - “Thưa Thầy, Thầy đi đâu ?” Chúa Giê-su liền đáp: “Thầy vào thành Rô-ma để chịu đóng đinh một lần nữa” rồi Chúa biến mất. Ông Phê-rô hiểu ý Chúa muốn ông trở vào trong thành để động viên tinh thần của đoàn chiên. Rồi sau đó ông đã bị bắt bớ và bị kết án chết giang tay trên cây thập giá đúng như lời Đức Giê-su đã tiên báo trước đó: “Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: Lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy và đi đâu tùy ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn” Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào đẻ tôn vinh Thiên Chúa” (Ga 21,18). Tuy nhiên, ông đã yêu cầu được treo thập giá ngược đầu xuống đất vì nghĩ mình không đáng chịu khổ hình cùng một cách thế giống như Thầy mình.
3. SUY NIỆM:
1) Có hai loại mục tử:
Mục tử là người lãnh đạo chăn dắt đàn chiên. Đức Giê-su đã phân biệt hai loại mục tử là mục tử đích thực là chủ chiên và mục tử giả hiệu là người chăn thuê như sau:
- Hạng thứ nhất là mục tử tốt hay là chủ chiên thực sự của đàn chiên noi gương Đức Giê-su như Người đã khẳng định: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (10,14). Đức Giê-su đã thể hiện chức vụ mục tử của loài người qua việc hy sinh quên mình để nghĩ đến đàn chiên: Người đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng Nước Trời (x Mt 13,1-9), làm nhiều phép lạ cứu nhân độ thế, sẵn sàng chịu chết trên cây thập tự đền tội thay cho đàn chiên như Người đã nói: «Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên» (Ga 10,11). Điều Đức Giê-su luôn quan tâm là lo cho «chiên được sống và sống dồi dào» (10,10). Đây cũng là điều các mục tử hôm nay cần quan tâm thực hiện noi gương Mục Tử Giê-su là lo phục vụ đàn chiên Hội Thánh được sống và sống dồi dào: dồi dào về mặt tinh thần qua việc hăng say rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Dồi dào cả về phạm vi thể chất qua việc chữa lành các bệnh tật của dân chúng (x. Mt 8,16-17), xua trừ ma quỷ (x. Mt 9,32-34) và nhân bánh ra nhiều để nuôi đám đông đang bị đói (x. Mt 14,15-21; 15,32-38).
- Hạng thứ hai là mục tử giả hiệu hay những người chăn thuê, ám chỉ các đầu mục dân Do Thái đương thời gồm các kinh sư, người Pha-ri-sêu và các tư tế phục vụ Đền thờ. Những người này không phải là chủ chiên thực sự nên «không thiết gì đến chiên» (10,13). Họ vô trách nhiệm trước sự an nguy của đàn chiên: «nên khi thấy sói đến, đã bỏ chiên mà chạy», để «sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn» (10,12). Đối với hạng mục tử này, đàn chiên chỉ có giá trị lợi dụng để phục vụ cho họ như ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã tuyên sấm lời Đức Chúa trách cứ các mục tử dân Ít-ra-en như sau: «Khốn cho các mục tử Ít-ra-en, những kẻ chỉ biết lo cho mình! Sữa chiên thì các ngươi uống, len thì các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, nhưng đàn chiên thì lại không lo chăn dắt. Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc» (Ed 34,2-4).
2) Hai loại mục tử hôm nay:
Ngày nay trong Hội thánh cũng luôn có hai loại mục tử như thời Đức Giê-su xưa kia:
- Các mục tử tốt lành là những người thành tâm đáp lại ơn Chúa kêu gọi để gia nhập chủng viện, được huấn luyện, tuyển chọn lên lãnh tác vụ linh mục và được sai đi chăm sóc đàn chiên Hội Thánh. Đặc điểm của mục tử tốt lành là nhiệt tình và khiêm tốn phục vụ đàn chiên vô vụ lợi noi gương Đức Giê-su. Họ luôn vui vẻ đón tiếp mọi người không phân biệt giàu nghèo sang hèn khi làm các công tác mục vụ như rao giảng Tin Mừng, an ủi các người đau khổ, chia sẻ cơm bánh và khiêm tốn phục vụ người nghèo với tình thương noi gương Mục Tử Giê-su.
- Bên cạnh những mục tử tốt lành nói trên, vẫn còn một số mục tử không tốt. Những người này coi việc mục vụ như một nghề kiếm sống. Họ cũng rao giảng Tin mừng, cũng dạy giáo lý, cũng khuyên bảo mọi người… nhưng chính họ lại không nêu gương thực hiện trước, như lời Đức Giê-su đã phê phán về các đầu mục dân Do thái: «Tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng làm theo, vì họ nói mà không làm» (Mt 23,3). Họ thường tỏ ra kính nể săn đón người giàu và khinh thường bạc đãi người nghèo. Họ có lối sống xa hoa hưởng thụ thể hiện qua nhà ở sang trọng, quần áo thời trang, xe cộ đời mới đắt tiền… mà không quan tâm đến những nhu cầu của người nghèo khổ và các bệnh nhân bên cạnh đang cần được trợ giúp. Họ có thái độ kiêu căng khi tìm cách trả thù những ai dám lên tiếng phê phán các việc làm sai trái của họ. Họ quá quan tâm đến những công việc ngoài đời hơn là những việc thuộc phạm vi chức năng mục tử của mình, và chỉ làm việc phục vụ nếu được trả công xứng đáng...
3) Kiểm điểm đời sống:
Hiện nay có hiện tượng ngày càng có nhiều tín hữu chủ trương “Tin Chúa chứ không tin Giáo Hội”. Thực tế tại các nước Nam Mỹ, một số khá đông tín hữu công giáo đã từ bỏ Hội Thánh để đi theo các giáo phái có lối ứng xử có tình người hơn và phù hợp với lời Chúa dạy hơn. Ngày lễ Chúa Chiên nhân lành hằng năm chính là dịp để các tín hữu chúng ta, nhất là các người đang có trách nhiệm chăn dắt đàn chiên kiểm điểm đời sống, xét lại về cung cách phục vụ của mình. Có thể chúng ta đã “nói mà không làm” như kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình đã bị Đức Giê-su nặng lời quở trách như sau: "Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên tòa ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ; nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào” (Mt 23,2-4). Có thể một số mục tử đã có thái độ thiếu bác ái khi giải quyết giấy tờ hôn phối theo ý riêng vượt quá quy định của giáo luật, nên đã gây trở ngại cho công việc làm ăn sinh sống, thiệt hại về tiền bạc và thời giờ, gây bức súc cho những người di dân. Một số các mục tử khi giải quyết công việc đã không đặt mình vào hoàn cảnh của người khác nên đã có lối hành xử “vụ lề luật”, thiếu tình người, hoặc có lối ứng xử thiếu nhân bản và không thân thiện, gây bất mãn cho các người lương khi có dịp tiếp xúc.
4) Mục tử lý tưởng theo Đức Thánh Cha Pha-xi-cô:
Đức Thánh Cha Phan-xi-cô quan niệm mục tử lý tưởng phải là "người gần gũi với dân chúng, là người cha, người anh em, với sự hiền dịu, kiên nhẫn và thương xót. Là những người yêu sự khó nghèo, sự khó nghèo nội tâm trước mặt Chúa, cũng như khó nghèo bên ngoài như sự đơn sơ và khắc khổ trong cuộc sống. Là những người không có "tâm lý của các ông hoàng". Là những người không tham vọng và là các phu quân của Giáo Hội. Là những người có khả năng thức tỉnh đoàn chiên được giao phó, và quan tâm duy trì sự hiệp nhất, canh giữ đoàn chiên, chú ý tới các hiểm nguy có thể đe dọa đàn chiên. Nhất là, làm cho niềm hy vọng được lớn lên. Ước gì các Mục Tử luôn có mặt trời và ánh sáng trong trái tim. Là những người có khả năng hỗ trợ Thiên Chúa nơi dân Người, với tình yêu thương và lòng kiên nhẫn. Và cuối cùng vị mục tử có ba vị trí trong đàn chiên của mình để thi hành sứ vụ mục tử như sau:
-Một là ở đàng trước để dẫn đường.
-Hai là ở giữa để duy trì sự hiệp nhất và giữ vững tinh thần của đàn chiên.
-Ba là ở đàng sau để tránh cho chiên khỏi đi tụt hậu, và tạo điều kiện để đàn chiên đánh hơi hầu tìm ra một hướng đi mới.
5) Ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu:
Hiện nay trên thế giới nhất là tại các nước Âu Mỹ đang thiếu ơn gọi linh mục tu sĩ cách trầm trọng. Nhiều nhà thờ không có linh mục coi sóc, nhiều tu viện to lớn bị bỏ hoang vì không còn tu sĩ trẻ. Nguyên nhân của tình trạng này rất nhiều. Nhưng có lẽ nguyên nhân chính là do lỗi của mỗi người tín hữu chúng ta: Vì chưa ý thức được tầm quan trọng của sứ vụ truyền giáo nên chúng ta chưa thiết tha nài xin Thiên Chúa sai thêm thợ gặt đến, chưa canh tân đời sống để làm chứng nhân tình thương của Chúa Giê-su trước mặt người đời; Các bậc cha mẹ công giáo chưa quảng đại dâng con cho Chúa và không khuyến khích chúng đi tu làm linh mục và tu sĩ để phục vụ Chúa và Hội Thánh hữu hiệu hơn.
Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II trong sứ điệp về ơn gọi năm 1996 cũng nhắc đến vai trò của giáo xứ trong việc vun trồng ơn thiên triệu như sau: “Phải làm sao để mỗi giáo xứ trở thành một cộng đoàn lắng nghe Lời Chúa, cộng đoàn cầu nguyện, hăng say làm việc tông đồ và luôn quan tâm phục vụ những người nghèo khổ. Giới trẻ hôm nay vẫn không thiếu những tâm hồn quảng đại, không thiếu những người trẻ muốn sống cuộc đời lý tưởng và có ý nghĩa. Họ cần được Hội thánh hướng dẫn để gặp được Đức Giê-su, để nghe lời Người và đi theo làm môn đệ của Người, sẵn sàng chia sẻ sứ mạng cứu độ của Người. Giới trẻ hôm nay cũng cần được nghe những tiếng kêu than của bao người đói khát chân lý hay đang cần được công lý bảo vệ. Hội Thánh phải giúp giới trẻ cảm nhận được bổn phận lớn lao là xây dựng thế giới này trở thành một ngôi nhà của tình thương và hạnh phúc. Giới trẻ cũng cần có những người thầy, người bạn dám sống điều mình tin giữa muôn trở lực khó khăn, và luôn đứng vững trước sức mạnh của các cám dỗ muốn thỏa mãn các đam mê tội lỗi bất chính”.
4. THẢO LUẬN:
1) Bạn sẽ làm gì giúp Hội Thánh có thêm nhiều linh mục tình nguyện dấn thân phục vụ dân Chúa ? 2) Cùng nhau hát bài: “Lạy Chúa, xin hãy sai đi…” để xin Chúa sai thêm thợ gặt lành nghề đến cánh đồng lúa đã chín vàng ở khắp nơi.
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin ban cho chúng con những linh mục biết quảng đại, hy sinh phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Xin ban cho chúng con những linh mục có trái tim biết yêu thương bằng tình yêu của Chúa, một trái tim mở rộng để sẵn sàng đón nhận hết mọi người, nhất là những người đau khổ và bị bỏ rơi. Xin ban cho chúng con những linh mục có đức tin vững mạnh, luôn sống kết hiệp mật thiết với Chúa, để giúp chúng con gặp được chính Chúa. Xin ban cho chúng con những linh mục biết nhiệt tình rao giảng Lời Chúa, có sức làm bùng cháy ngọn lửa yêu thương trong lòng chúng con, giúp chúng con thêm đức tin để nhìn thấy Chúa trong mọi người. Cuối cùng xin Chúa ban cho chúng con những linh mục là những vị chủ chăn tốt lành noi gương Chúa xưa, đến để cho chiên “được sống và sống dồi dào”.
- LẠY CHÚA. Xin cho các gia đình Công giáo trở thành một môi trường tốt ươm trồng ơn thiên triệu, bằng việc tạo bầu khí đạo đức và yêu thương giữa các thành viên với nhau. Xin cho chúng con luôn kính trọng yêu mến các linh mục coi sóc chúng con, thành tâm cộng tác với các ngài, sẵn sàng giúp đỡ các ngài chu toàn nhiệm vụ. Ước gì giáo xứ chúng con trở thành một cộng đoàn luôn hiệp thông giữa chủ chăn và đàn chiên, là điều kiện để giáo xứ phát triển cả về vật chất cũng như tinh thần. Nhờ đó chúng con sẽ chu toàn được sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa giữa lòng xã hội Việt Nam hôm nay.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM
------------------------------------
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 10:1-10)
Chúng ta từng biết, sự sống còn của đàn chiên gần như hoàn toàn tùy thuộc vào khả năng của người chăn chiên. Như thế, vai trò của người chăn chiên vô cùng quan trọng đối với chiên. Dựa trên chân lý này, Kinh Thánh Cựu Ước không ngần ngại tuyên xưng Thiên Chúa là Mục Tử của nhà Ít-ra-en. Thiên Chúa đã đặt nhiều người thay mặt Người để chăm sóc dân tuyển chọn, trong số đó có người tốt, nhưng cũng có những nhà lãnh đạo không phải là những mục tử tốt. Khi Chúa Giê-su tuyên bố vai trò mục tử của mình, Người khẳng định: Tôi là Mục Tử Nhân Lành.
Trong cả ba chu kỳ Chúa Nhật IV Phục Sinh, Tin Mừng Gio-an đã lần lượt trình bày một vài đức tính căn bản nơi Chúa Giê-su, vị Mục Tử Nhân Lành của tất cả chúng ta. Trước hết, Chúa Giê-su sử dụng hình ảnh “cửa chuồng chiên” để nói lên việc bảo vệ chiên và cho chiên được sống dồi dào. Đọc phần đầu đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giê-su đề cập tới hành vi của người chăn chiên tốt là “đi qua cửa mà vào ràn chiên”. Hành vi này muốn diễn tả: đây là người mục tử đích thực. Bởi vì kẻ nào “trèo qua cửa mà vào” thì đâu phải là mục tử, nhưng là “kẻ trộm cướp” hoặc là mục tử xấu. Người giữ cửa mở cửa cho mục tử tốt vào, để anh dẫn chiên ra và đi tới “đồng cỏ xanh tươi”. Anh đi trước, chiên theo sau. Đúng là giữa chiên và người chăn đã có mối quan hệ mật thiết, thậm chí qua cả tiếng nói người chăn gọi tên từng con!. Nếu điều này nói về Chúa Giê-su, chúng ta có thể hiểu “người giữ cửa” đây chính là Chúa Cha. Người sai Chúa Con đến để thay thế cho các mục tử xấu của Ít-ra-en (Ê-dê-ki-en 34).
Thánh Gio-an ghi chú một câu rất tế nhị: “Chúa Giê-su kể cho họ dụ ngôn đó, nhưng họ không hiểu những điều Người nói với họ!” Họ không hiểu hoặc không muốn hiểu thì cũng phải, vì họ đây là “người Do-thái”, từ ngữ thánh Gio-an ám chỉ những kẻ thù của Chúa Giê-su. Là kẻ thù, họ đâu muốn chấp nhận Chúa Giê-su là Mục Tử Nhân Lành của họ!
Phần thứ hai của đoạn Tin Mừng đưa chúng ta đi xa hơn. Giờ đây Chúa Giê-su không chỉ quả quyết Người là kẻ “đi qua cửa mà vào ràn chiên”, nhưng: “Tôi là cửa”, và “Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu”. Chúa Giê-su đi từ dụ ngôn người qua cửa chuồng chiên đến hình ảnh cửa ràn chiên, từ sự kiện Người là Mục Tử đích thực sang thực tại Người là “cửa ơn cứu độ”. Cửa này có một chức năng vô song. Nó là lối duy nhất để chiên ra vào và gặp được đồng cỏ. Nó cũng là thành lũy để bảo vệ chiên khỏi bị ăn trộm, giết hại và phá hủy. Cuối cùng, Chúa Giê-su kết luận về vai trò cứu độ của Người: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống, và sống dồi dào”.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Có lẽ để sống cụ thể mối tương quan giữa chúng ta và Chúa Giê-su, Mục Tử Nhân Lành, chúng ta hãy đọc và suy niệm bài đọc 2 hôm nay. Thánh Phê-rô khẳng định: “Quả thật, trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em” (1 Phê-rô 2:25). Chúng ta quay về với Vị Mục Tử. Việc “quay về” này không chỉ là một hành động nhất thời, nhưng là cả một tiến trình liên tục bỏ lại lối sống cũ tội lỗi để gắn bó với lối sống mới của Chúa Ki-tô.
Như Chúa Giê-su đã nói: Người là cửa ơn cứu độ để chúng ta ra vào mà tiếp nhận sự sống của Thiên Chúa. Chúng ta thực hiện việc ra vào này qua cầu nguyện để phát huy mối tương quan với Vị Mục Tử của chúng ta. Chúng ta ra vào Cửa cứu độ khi lãnh nhận các bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể là “đồng cỏ xanh tươi” dành cho đàn chiên của Người. Chúng ta cũng ra vào Cửa cứu độ để xác tín rằng Chúa Giê-su luôn che chở giữ gìn chúng ta khỏi những “kẻ trộm cướp”, tức là mọi nguy hiểm do ma quỷ cám dỗ và mời mọc của thế gian.
Có lẽ từ trước tới nay, chúng ta chỉ để ý đến hình ảnh Chúa Chiên Lành mà quên mất hình ảnh “Cửa” để chúng ta được sống dồi dào và được cứu độ. Ước gì chúng ta luôn quan tâm đến việc ra vào Cửa ấy để sống với Chúa và được cứu độ!
Lm. Đaminh Trần đình Nhi
------------------------------------
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH, năm A ( CHÚA NHẬT ƠN GỌI )
Ga 10, 1-10 )
Chúa Giêsu khi sống ở đất nước Do Thái đã dùng những hình ảnh, những biến cố, những sự việc xảy ra chung quanh, ở trong xã hội, trong làng xóm người Do Thái lúc đó để dạy dỗ con người, hay để nói lên một sứ điệp nào đó. Qua dụ ngôn thật gần gũi, thật thân thương với người Do Thái hồi Chúa Giêsu đang sinh sống : hình ảnh người chăn chiên. Ngài khẳng định Ngài là người chăn chiên tốt lành, phải qua Ngài, như qua một vị Mục Tử giàu lòng thương xót, nhân loại, Hội Thánh và con người mới tìm được hướng sống, sức sống và sự sống dồi dào.
Thực tế, nơi đất nước Do Thái lúc xưa, người ta thường thấy nhiều đàn chiên được các chủ chiên dẫn tới những cánh đồng cỏ xanh rì, dẫn tới những suối mát trong lành để cho đàn chiên ăn cỏ non, uống nước trong, rồi từng đàn chiên nghỉ ngơi, nô đùa trên những đồi núi đầy cỏ xanh non. Chúa Giêsu nói dụ ngôn này sau khi chữa lành người mù từ bẩm sinh và dụ ngôn người chăn chiên tốt lành xuất phát từ đoạn sách ngôn sứ Êdêkiên ( Ed 34 ), trong đoạn này, Chúa trách cứ những vị mục tự giả hiệu trong Israen và hứa ban cho dân của Người một Đấng Messia, mục tử xuất thân từ dòng dõi vua Đavít, Đấng chăn chiên lành đã được thể hiện cụ thể nơi chính Chúa Giêsu.
Ràn hay đàn chiên, Chúa dùng để nói với người Do Thái vì dân Do Thái coi đàn chiên là tài nguyên, sản nghiệp của họ.Do đó, Chúa dùng hình ảnh chiên cho dễ hiểu.Trong Cựu Ước cũng đề cập nhiều tới chiên, đặc biệt dân Palestine thường nhiều gia đình nhốt chung chiên vào một chuồng , chung quanh có tường đá bao vây và chỉ có một người canh giữ chuồng chiên mà thôi. Muốn ăn trộm, muốn bắt chiên phải phá hàng rào hoặc leo lên, vào trong chuồng. Các mục đồng cứ mỗi buổi sáng tới chuồng chiên, gọi chiên của bầy mình, chiên biết tiếng mục đồng và đi theo mục đồng.Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên. Chúa Giêsu đưa đến cho nhân loại cuộc sống mới, cuộc sống trường sinh vĩnh cửu, cuộc sống dồi dào ( Ga 10, 10 ). Chúa Giêsu phục sinh làm cho chúng ta thông phần thiên tính và do đó chúng ta được hưởng cuộc sống đầy phong phú, cuộc sống sung mãn. Chúa Giêsu khi dùng hình ảnh chủ chiên, đàn chiên, con chiên nhằm cho mọi người hiểu rằng Ngài là vị lãnh đạo duy nhất có khả năng cho con người và cho nhân loại cuộc sống xứng đáng là con người và con Chúa. Vị lãnh đạo thật gần gũi, thật sâu sát với dân, lại là vị mục tử nhân hậu. Chúng ta là những con chiên nhận biết chủ chiên của mình và yêu mến chủ chiên của mình. Chuồng chiên là Giáo Hội Chúa, luôn được Chúa săn sóc giữ gìn. Chúa Giêsu cho mình là cửa chuồng chiên, nên Ngài muốn mọi người chúng ta hãy gắn bó với Giáo Hội để được sống dồi dào cuộc sống của Chúa Giêsu. Sứ mạng của Giáo Hội là chăn sóc chiên của mình. Sứ mạng này sau khi Chúa Giêsu phục sinh đã được trao cho Phêrô chăn dắt và củng cố lòng tin cho đàn chiên mình. Phêrô đã yêu mến Chúa, do đó, Ngài cũng yêu mến chiên của Ngài, chiên của Giáo Hội. Chúa Giêsu là mục tử nhân lành và là mục tử gương mẫu. Mọi mục tử đều phải noi gương bắt chước Ngài.
Chúa nhật Chúa chăn chiên lành là Chúa nhật của các mục tử. Mục tử là những giám mục, những linh mục đang nối gót Chúa Giêsu mục tử nhân lành. Hôm nay, mọi người chúng ta hãy cầu nguyện cho có nhiều tâm hồn nam, nữ, quảng đại hiến thân cho Chúa trong đời sống thánh hiến.Chúng ta cũng cầu nguyện cho có nhiều mục tử thánh thiện, nhân lành. Chúng ta hãy cầu nguyện, nâng đỡ, động viên các Ngài. Xin cho mọi nước, mọi nơi có nhiều mục tử đạo đức, thánh thiện, những mục tử biết yêu thương, gần gũi và gắn bó với đàn chiên Chúa và Giáo Hội trao phó.
Veronique Margron, nữ tu Đaminh viết :” Vị mục Tử nhân lành là người thật sự có đức độ.Bởi vì tiếng nói của Người là tiếng của một mục tử thực hiện điều mình nói : bảo vệ đoàn chiên và sẽ hy sinh mạng sống mình vì yêu thương đoàn chiên. Một tiếng nói giải tỏa cho chiên được tự do, vì mỗi một người-được gọi đích danh-và khi đảm nhận đời mình thì biết mình đang sống trong tình thân với mục tử …”.
Ơn gọi tận hiến, ơn gọi đi theo Chúa Giêsu, là ơn gọi cao cả, quí giá. Chỉ một lời nói, Lêvi , Simon, Giacôbê, Gioan đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Đức Thánh Cha Phanxicô trong Tông Huấn “ Evangelii Gaudium “ đã mời gọi mọi người hãy ra chỗ nước sâu thả lưới. Đức Bênêđitô XVI và thánh Gioan Phaolô II đã đưa con người ra chỗ nước sâu ( Duc in Altum “…Ơn gọi theo Chúa Giêsu có nghĩa là để cho thánh ý của Ngài được thực hiện nơi chúng ta “. Đức Bênêđitô XVI mời gọi các bạn trẻ “ Hãy trau dồi nét hấp dẫn các giá trị, các mục tiêu nâng cao, các chọn lựa triệt để, để có thể phục vụ tha nhân theo chân Chúa Giêsu”. Chúa Giêsu đã không ngừng mời gọi :” Hãy đến ! Hảy theo Ta “.
Xin Chúa soi đường mở trí để lời mời của Đức Kitô được nhiều bạn trẻ khắp nơi trên thế giới đáp trả :” Hãy đến mà xem “. Hãy đến xem, ở lại và đi theo Chúa Giêsu.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.“Chiên tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng biết tôi“. ÔBACE đã nghe tiếng Chúa chưa ? Chúng ta đã làm gì và đã nhận ra Ngài chưa ?
2.Mục tử tốt lành là người thế nào ?
3.ÔBACE có khi nào nghĩ tới việc sút giảm các linh mục, các tu sĩ và thành tâm xin Chúa sai thợ gặt tới các đồng lúa chín vàng không ?
4.Ngày nay các bạn trẻ có muốn dâng mình cho Chúa không ?
5.Tại sao ở nhiều nơi ơn gọi đi tu lại bị sa sút ?
------------------------------------
"Tôi là Cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên tôi được sống và sống dồi dào”. (Ga 10, 9-10)
* * *
Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên
Cửa đóng lại để bảo vệ chở che
Ban đêm hầu như tất cả mọi nhà đều đóng cửa lại. Nhà có cửa đóng then cài chắc chắn thì chủ nhà ngủ mới yên giấc và tài sản trong nhà mới được bảo vệ. Vì thế, khi xây nhà, việc đầu tiên là lắp đặt cửa ngõ thật vững chắc rồi khoá lại kỹ lưỡng để người nhà được yên giấc về đêm và của cải được an toàn.
Nhưng tìm đâu trên đời nầy một thứ cửa đủ vững chắc và kiên cố có thể bảo vệ tâm hồn con người được bình an và giúp cho linh hồn họ được an toàn trước những đợt tấn công ác liệt của ác thần? Cửa nào có thể bảo vệ tâm linh con người khỏi bị công phá bởi vô vàn hung thủ của thế gian?
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tỏ cho thấy Ngài là thứ Cửa như thế. Ngài nói: "Tôi là Cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu", tức là được bảo vệ. Ngài là cửa đóng lại để bảo vệ đoàn chiên trong chuồng được an toàn, không bị trộm cướp và ác thú giết hại.
Chưa bao giờ trong lịch sử nhân loại lại có nhiều cạm bẫy của ác thần, nhiều nọc độc của văn hoá sự chết, nhiều cám dỗ tệ hại lôi kéo nhân loại vào vòng sa đoạ như trong thế kỷ hôm nay.
Vô vàn sách báo xấu xa, phim ảnh đồi trụy, tư tưởng độc hại, lối sống thác loạn; được quảng bá khắp nơi trên thế giới, được tung lên mạng lưới điện toán toàn cầu làm sai lệch méo mó lương tâm con người, khiến họ xem tội ác là chuyện bình thường, xem việc phá thai, mẹ giết con là điều chính đáng, xem hôn nhân đồng tính là lẽ tự nhiên, xem việc huỷ hoại đời sống chung thuỷ của vợ chồng là điều đơn giản và cần thiết...
Trước những nguy cơ khủng khiếp như thế đang đe doạ nhân loại trên khắp thế giới, chỉ có một lá chắn vững chắc, một cánh cửa an toàn, một thành trì kiên vững là Chúa Giêsu Chúa. Giáo huấn của Ngài là tấm Cửa che chắn đoàn chiên được an toàn không kẻ thù nào xâm hại được, nếu chiên của Ngài biết đón nhận giáo huấn của Ngài.
* * *
Cửa mở ra để dẫn đưa vào đồng cỏ thiêng liêng
Không chỉ đóng lại để bảo vệ chở che, Cửa Giêsu còn mở ra để mở lối cho nhân loại tiến vào đồng cỏ thiêng liêng.
Các vị đại thánh trong Giáo Hội như Phanxicô Át-xi-di, Phanxicô Xaviê, Têrêxa Hài Đồng Giêsu của những thế kỷ trước hay những nhân vật tầm cỡ như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Mẹ Têrêxa Calcutta thời nay, nhờ được dẫn vào nuôi ăn trong cánh đồng cỏ thiêng liêng nầy nên đã được trở thành những vĩ nhân của nhân loại và những thánh nhân sáng ngời trong Hội Thánh.
Nhân loại hôm nay như đàn chiên đói khát, đói khát lương thực tinh thần cách khẩn thiết, nhưng tiếc thay, còn lắm người chưa chấp nhận bước qua Cánh Cửa Giêsu để được dẫn vào đồng cỏ tốt tươi.
* * *
Lạy Chúa Giêsu,
Nhờ Chúa là Cửa đóng lại che chắn nên chúng con được bảo vệ khỏi sự xâm nhập và tàn phá của ác thần;
Nhờ Chúa là Cửa mở ra đồng cỏ xanh, chúng con được nuôi dưỡng sung mãn trong vô vàn ân phúc của Chúa.
Xin cho nhân loại hôm nay biết nhìn nhận Chúa là Cửa, là Thành Trì chở che bảo vệ tâm linh nhân loại và xin cho mọi người nương vào Chúa như Cửa rộng mở vào đồng cỏ thiêng liêng cho muôn người được lớn lên thành người có đạo đức và phẩm chất cao đẹp.
------------------------------------
Linh mục Giuse nguyễn Hưng Lợi DCCT
CHÚA NHẬT IV PHỤCSINH,năm A
( NGÀY CẦU NGUYỆN CHO ƠN GỌI LINH MỤC VÀ TU SĨ )
Ga 10,1-10
Hằng năm Giáo Hội dành riêng ngày Chúa nhật IV Phục Sinh để cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ. Giáo Hội luôn ý thức trách nhiệm, bổn phận và quyền lợi của mình là rao giảng, giới thiệu Đức Giêsu Kitô cho nhân loại. Do đó, cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ là việc làm quan trọng và ý nghĩa đối với toàn thể Dân Chúa và cả Hội Thánh.
Nếu chúng ta chịu khó quan tâm và tha thiết với ơn gọi, chúng ta sẽ cảm thấy hết sức ngạc nhiên vì nhiều nước trên thế giới rất hiếm ơn gọi, Nhiều tu viện, đan viện, nhà dòng phải đóng cửa vì không có người đi tu nữa.Lớp linh mục già, tu sĩ nam nữ già nua, tuổi tác càng ngày càng gia tăng. Các gia đình sinh con ít, và sống trong nền kinh tế thị trường, văn minh tột bậc, hưởng thụ, nên lớp trẻ không muốn dấn thân hy sinh. Chính vì thế, hầu hết các nước Tây Phương đều thiếu các bạn trẻ dấn thân vào các chủng viện, các dòng tu. Ơn gọi linh mục và tu sĩ trở nên khan hiếm nghiêm trọng . Thế nhưng, tại Việt Nam ơn gọi linh mục và tu sĩ vẫn còn đông đảo. Các bạn trẻ nam nữ vẫn can đảm, hy sinh, xả thân đi tìm một chỗ trong các chủng viện, trong các dòng tu, tu hội, tu đoàn để mong thực hiện được mộng ước phục vụ Chúa, phục vụ Giáo Hội và tha nhân với tất cả thiện chí và tình thương của mình. Có nhiều chủng viện không có đủ chỗ để đáp ứng nhu cầu, đáp ứng đòi hỏi của các bạn trẻ, có chủng viện một người phải chọi với ba chụcngười, nên số được tuyển sinh thực sự vào các chủng viện không đáp ứng đủ cho số dự tuyển còn phải bỏ lại rất nhiều. Nhiều đan tu, tu hội, dòng tu không đủ chỗ nhận các bạn trẻ vào tu.
Giáo Hội Việt Nam vần còn nhiều ơn gọi. Hiện nay, các bạn trẻ nam nữ ở miền quê còn rất thích đi tu. Nhưng trong tương lai có thể ơn gọi sẽ khan hiếm ơn vì các gia đình sinh con ít, vì những cám dỗ của vật chất,hưởng thụ làm các bạn trẻ ngao ngán dấn thân, đặc biệt các bạn trẻ ở thành phố, nhiều khi được tiếp xúc với nền văn minh hiện đại, những phương tiện ăn chơi, những trò giải trí, những cạm bẫy dễ lôi cuốn các bạn trẻ vào thế thụ động, ăn chơi, ích kỷ, hưởng thụ, không còn mở rộng cõi lòng, mở rộng con tim để quảng đại dấn thân, hy sinh giúp đời nữa.
Chúa nhật IV mùa Phục Sinh là Chúa nhật Chúa chăn chiên lành: Vị Mục Tử Hiền Lành, Nhân Hậu tự hiến mạng sống mình để chia xẻ với chúng ta sự sống PhụcSinh của Người. T rong thời Cựu Ước đề tài người mục tử nhân lành, xả thân cho bầy chiên là một nguồn hứng khởi cho các văn sĩ Thánh Kinh khiến họ mô tả Thiên Chúa như một Đấng Mục Tử. “ Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi, Tôi không hề thiếu chi …Dù phải đi qua thung lũng tối đen, Tôi cũng không hề lo sợ “ ( Tv 23, 1-4 ). Từ đó các vị lãnh đạo tôn giáo của Israen cũng được ví như các vị mục tử. Tiếc thay, theo thời gian, vai trò lãnh đạo tôn giáo của Israen đã bị thoái hóa. Khi điều này xảy ra, ngôn sứ Êdêkien đã nhân danh Chúa nói lên :” Hỡi các mục tử của Israen, các ngươi đã bị băng hoại rồi ! Các ngươi chỉ biết lo cho bản thân mình chứ chẳng hề nghĩ đến bầy chiên…Vậy, hỡi các chủ chăn, hãy nghe đây, Ta, Vị Chủ Tể tối cao, Ta tuyên bố rằng…Ta sẽ bầy chiên ra khỏi các ngươi…Ta sẽ giao chúng cho một Vị Vua giống như Đavít tôi tớ Ta để làm mục tử của chúng ta và Người ấy sẽ chăm sóc lo lắng chúng “ ( Ez 34, 2-4, 9-10, 23 ).
Do đó, chúng ta phải đọc đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay theo cách nhìn này. Chúa Giêsu nói :” Ta là mục tử tốt lành, sẵn sàng hysinh liều mạng sống vì đàn chiên…Chúng sẽ nghe tiếng Ta và chúng sẽ trở nên một đàn chiên dưới quyền một chủ chiên “.
Đức Giêsu chính là mục tử tốt lành mà tiên tri Êdêkiên đã tiên báo.Giống như Đavít, người mục tử nhân lành, Ngài chăm sóc những con chiên yếu đuối bơ vơ, lạc lõng, chữa lành con nào bệnh hoan tật nguyền, và đi tìm những con chiên lạc đường, sai lối. Đức Giêsu còn nhiều hơn thế nữa, Ngài hy sinh, hiến mạng sống để cứu thoát đàn chiên của Ngài. Và Chúa Giêsu còn làm hơn thế, Ngài đã phục sinh từ cõi chết và chia xẻ đời sống phục sinh của riêng Ngài với đàn chiên.
Đức Giêsu quả thật là mục tử tốt lành mà Thiên Chúa đã hứa ban cho chúng ta. Ngài không chỉ hiến mình cho nhân loại, cho con người cách đây hơn 2.000 năm, nhưng Ngài còn tiếp tụccư ngụ giữa chúng ta và thông ban sự sống lại của riêng Ngài cho nhân loại, cho thế giới, chúng ta nữa.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn nhận ra Chúa là mục tử nhân lành nhờ đó, chúng con tin nhận và đi theo Chúa mãi mãi. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Tại sao lại gọi Chúa Giêsu là mục tử nhân lành ?
2.Nhân vật mà ngôn sứ Êdêkiên nói tới là ai ?
3.Đavít là ai ?
4.Mục tử tốt và mục tử xấu khác nhau thế nào ?
5.Chúa Phục Sinh có còn hiện diện giữa chúng ta không ?
------------------------------------
(Suy niệm của Lm. Phaolô Nguyễn Văn Châu)
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng hình ảnh người mục tử và đoàn chiên. Hình ảnh này đối với người Việt nam chúng ta thì không quen thuộc lắm vì dân tộc chúng ta sống chủ yếu dựa vào nền nông nghiệp cây lúa, gắn bó với con trâu con bò: “Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.”
Nhưng đối với những dân tộc du mục ở xứ Palestina thì rất quen thuộc và dễ hiểu. Dân Israel nuôi chiên rất nhiều vì nơi đây có nhiều đồng cỏ thích hợp cho việc chăn nuôi chiên, cừu. Chăn chiên là một nghề rất quen thuộc đối với họ. Người mục tử rất yêu thương đoàn chiên, sống gần gũi với chiên, không muốn để một con chiên nào bị bệnh hay hư mất.
Vì thế, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh người mục tử với đoàn chiên để nói về Người với nhân loại, cách riêng đối với Hội Thánh là từng người Kitô hữu chúng ta. Giống như người mục tử trong bài Tin Mừng là biết đích danh từng con một, đi trước đoàn chiên và không để cho chiên nghe tiếng người lạ…Chúa Giêsu cũng khẳng định Ngài là mục tử biết từng người chúng ta luôn chăm sóc chúng ta và tâm sự với từng con chiên một là từng người chúng ta để giúp chúng ta không nghe theo tiếng của ma quỷ, của thế gian, của những thế lực không thuộc về Thiên Chúa. Người mục tử đi trước đoàn chiên, nói lên tâm tình của Chúa Giêsu là đi trước nhân loại, bảo vệ nhận loại, không để cho nhân loại bị rơi vào tay của ma quỷ, của sự chết bằng cái chết thập giá và phục sinh của Người. Người đã mang lại sự sống dồi dào cho đoàn chiên là những kẻ thuộc về Người.
Khi chiêm ngưỡng dung mạo của vị mục tử đích thật là Chúa Giêsu, chúng ta được Người mời gọi lãnh nhận vai trò mục tử và đoàn chiên trong đời sống đức tin và đức ái của mình. Vì vậy, chúng ta sẽ sống như thế nào trước lời mời gọi này?
Trong cuộc sống ngày hôm nay, chúng ta đang bị ảnh hưởng bởi những trào lưu tục hóa của con người. Đó là: Chúng ta thích sống hưởng thụ, ăn chơi sa đọa, tôn thờ tiền bạc, của cải vật chất, tìm kiếm chủ nghĩa cá nhân... Nhiều vị mục tử cũng đã bị cuốn vào vòng xoáy thích sống sa hoa tiện nghi, chỉ biết chạy theo những lợi lộc trần thế mà quên đi nhiệm vụ chăm sóc đoàn chiên và hy sinh vì đoàn chiên.
Chúng ta không chỉ cầu nguyện cho các vị mục tử nói chung mà con phải cầu nguyện cho các giám mục, linh mục trong giáo phận Quy Nhơn chúng ta nói riêng, luôn biết sống dấn thân trọn vẹn, biết hy sinh xả kỷ vì quyền lợi của đoàn chiên để đoàn chiên được tràn đầy ân sủng, bình an và tình yêu của Thiên Chúa. Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nói về mục tử như sau: “Giám Mục không phải là Giám Mục cho bản thân ngài, mà là cho dân. Cũng vậy, Linh Mục không phải là Linh Mục cho bản thân ngài, mà là cho dân: để phục vụ, nuôi dưỡng, chăm sóc dân là đoàn chiên của ngài…” Ngài đòi hỏi phận vụ của linh mục là “Tôi yêu cầu anh em hãy là những mục tử mang nặng mùi con chiên của mình.” Hiện nay trong giáo xứ của chúng ta, vẫn còn nhiều người chưa về với Chúa, đã chối bỏ Chúa, cố tình loại Chúa ra khỏi cuộc đời mình, đôi khi cũng bị bách hại bởi thế gian…Người mục tử nhân lành là Cha xứ cần phải tìm đến với họ để an ủi, chữa lành và mời gọi họ quay trở về với Chúa.
Trong năm Tân Phúc Âm hóa gia đình, chúng ta cũng cầu nguyện cho chính chúng ta vì mỗi người chúng ta cũng là mục tử trong giáo xứ, trong giáo họ và trong gia đình của chúng ta với vai trò chức việc, làm chồng, làm vợ, làm cha mẹ và làm con cái: Người làm chồng biết yêu thương và chung thủy với vợ, không ngoại tình, không bạo lực. Người làm vợ cũng vậy, biết yêu thương, chung thủy và phục tùng chồng để vợ chồng được hạnh phúc. Bậc làm cha, làm mẹ biết sẵn sàng yêu thương đón nhận con cái mà Chúa ban cho, biết nuôi nấng, dạy dỗ con khôn lớn, biết chăm sóc gìn giữ từng người con khỏi những nguy hiểm trong cuộc sống hiện tại. Người làm con biết hiếu thảo, vâng lời và phụng dưỡng cha mẹ để làm đẹp lòng Chúa; Người chức việc biết xây dựng tinh thần yêu thương, hiệp nhất và phục vụ để xây dựng một giáo xứ lớn mạnh về mọi mặt.
Xin anh chị em cũng cầu nguyện cho cha xứ của anh chị em luôn là vị mục tử nhân lành như lòng Chúa mong ước.
Nguyện xin Chúa Giêsu Kitô là Mục Tử tối cao, xin chúc lành và thánh hóa cho những ước nguyện và quyết tâm của chúng con. Amen.
------------------------------------
Dân Do Thái là dân du mục. Cuộc đời họ gắn liền với đoàn vật và những đồng cỏ. Nên khi Đức Giêsu đưa ra hình ảnh người mục tử và đoàn chiên, người Do Thái hiểu ngay tức khắc. Đức Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc ấy để nói lên mối liên hệ của ta với Người và của Người với ta. Người là Mục tử nhân lành. Ta là đoàn chiên của Người. Người lãnh đạo đoàn chiên không phải bằng uy quyền áp chế, bằng kỷ luật khắc nghiệt, nhưng bằng tình yêu tha thiết. Tình yêu của Người được biểu lộ qua ba khía cạnh: hiểu biết, quan tâm chăm sóc và hy sinh cho đoàn chiên.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hiểu biết. Sự hiểu biết này không phát xuất từ lý trí, do học hỏi, nhưng phát xuất từ trái tim, do tình yêu. Khi yêu, trái tim trở nên vô cùng nhậy bén đến độ hiểu được hết những âm thanh của tâm hồn và tai người thường không nghe thấy, nhìn thấy hết những gì ẩn kín trong tâm hồn mà mắt thường không nhìn thấy, cảm nhận được hết những chiều sâu thăm thẳm của tâm hồn mà không một nhà tâm lý học nào có thể cảm được. Khi Đức Giêsu nói: “Ta biết chiên Ta” có nghĩa là Người hiểu biết từng người trong chúng ta. Người không chỉ hiểu rõ hoàn cảnh sinh sống của chúng ta, mà còn thấu rõ tâm tư tình cảm của ta. Người biết những gánh nặng mà ta đang phải gánh. Người thông cảm với những đau đớn mà ta đang phải chịu. Người đau những nỗi đau trong tâm hồn ta. Người khổ những nỗi khổ đang dày vò ta. Người nhức nhối trong vết thương của tâm hồn ta.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu quan tâm chăm sóc. Sự hiểu biết sâu xa đến từ sự quan tâm chăm sóc. Sự quan tâm chăm sóc cũng phát xuất từ tình yêu. Có yêu mới quan tâm. Có quan tâm mới hiểu biết nhu cầu. Có hiểu biết nhu cầu mới biết đường chăm sóc. Đức Giêsu yêu thương ta nên Người quan tâm đến ta. Người biết rõ những nhu cầu của ta. Người chăm sóc ta. Có những tình yêu muốn chiếm hữu. Đó là thứ tình yêu ích kỷ. Có những chăm sóc khiến ta trở nên ấu trĩ, yếu ớt, không lớn lên được. Đó là thứ chăm sóc độc đoán ràng buộc. Đức Giêsu chăm sóc không phải để ràng buộc ta nhưng để giúp ta sống trong tự do. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên ấu trĩ, nhưng là để giúp ta trưởng thành. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên yếu ớt nhút nhát, nhưng là để giúp ta mạnh mẽ, tự tin. Vì thế, Nguơì cung cấp cho ta những lương thực lành mạnh. Người đưa ta đến những đồng cỏ non, đến những giòng suối trong. Lương thực Người mang đến, đó là Lời Chúa, là Mình Máu Thánh Chúa, là Thánh ý Chúa Cha. Những lương thực ấy sẽ cho ta được sống và sống dồi dào.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hy sinh. Đây chính là dấu chỉ chắc chắn nhất của một tình yêu. Càng yêu mến nhiều càng sẵn sàng hy sinh nhiều. Yêu đến sẵn sàng hy sinh mạng sống là một tình yêu cao cả không có gì sánh được. Đức Giêsu đã xác nhận điều ấy khi Người nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13). Chính Người đã thực hiện điều ấy. Người là Mục tử nhân lành sẵn sàng liều mạng, một mình chống lại sói dữ để bảo vệ đoàn chiên. Người đã tự hiến mạng sống vì ta. Người đã chấp nhận chết đi để ta được sống.
Hạnh phúc cho ta được là đoàn chiên của Người. Ta được an ủi vì Người hiểu ta. Ta an tâm vì Người hằng quan tâm chăm sóc ta. Ta sung sướng vì Người yêu thương đến nỗi chết vì ta.
Người muốn ta chia sẻ hạnh phúc ấy cho mọi người. Người muốn ta lớn mạnh để đến lượt ta, chính ta trở thành mục tử nhân lành theo gương Người. Cha mẹ là mục tử của con cái. Thày cô giáo là mục tử của học sinh. Giám đốc là mục tử của công nhân. Y bác sĩ là mục tử của bệnh nhân. Anh chị lớn là mục tử của các em nhỏ.
Nhưng đặc biệt hơn hết, Người muốn có những người tiếp tục công việc của Người, chăm sóc đời sống tâm linh nhân loại. Chính vì thế, Giáo Hội dành ngày hôm nay để cầu nguyện cho ơn kêu gọi làm linh mục. Nhìn tình hình chung trên toàn thế giới, và riêng trong Giáo phận, ta thấy còn thiếu rất nhiều linh mục. Giáo dân cần linh mục như bệnh nhân cần bác sĩ. Giáo dân cần linh mục như học sinh cần thầy cô giáo. Giáo dân cần linh mục như một người bạn sẵn sàng cảm thông, chia sẻ vui buồn trong đời sống và như một người bạn đồng hành giúp đỡ trong cuộc hành trình tiến về đời sau.
Hãy cầu nguyện cho có nhiều thanh niên sẵn sàng hiến thân làm linh mục. Hãy khuyến khích con cháu dâng mình cho Chúa, làm linh mục để phục vụ anh em. Nhất là hãy cầu nguyện cho các linh mục được trở nên những mục tử như Đức Giêsu, vị Mục Tử nhân lành, biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, hiểu biết tâm tư tình cảm của từng người, quan tâm chăm sóc từng con chiên và sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích của đoàn chiên.
Lạy Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành, xin hãy ban cho chúng con nhiều mục tử tốt lành theo gương Chúa. Xin biến chúng con thành những mục tử tốt lành trong gia đình, trong khu phố, trong xã hội. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Đức Giêsu hướng dẫn đoàn chiên bằng cách nào? Bằng quyền lực hay bằng tình yêu thương?
2- Hãy kể ra những đặc tính của tình yêu của Đức Kitô.
3- Bạn có cảm thấy trách nhiệm là mục tử của mình không? Bạn đã đối xử với đoàn chiên của mình thế nào?
4- Bạn nghĩ gì về đời sống tu trì? Bạn có cầu nguyện cho cha Xứ của bạn không?
(Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt)
------------------------------------
Chúa nhật IV PS A
Cv 2, 14a.36-41; 1Pr 2, 20b-25; Ga 10, 1-10
Dụ ngôn “Cửa chuồng chiên” có nhiều nhân vật. Người giữ cửa chuồng chiên là Đức Chúa Cha. Có kẻ trộm cướp lẻn vào phá hoại đàn chiên. Nhân vật chính trong dụ ngôn này là Chúa Giêsu. Người vừa là mục tử vừa là cửa chuồng chiên. Lời Chúa hôm nay trình bày Chúa Giêsu chính là Môsê mới.
Thực vậy, cũng như Môsê được Thiên Chúa sai về Ai cập để giải phóng Dân Chúa, Chúa Giêsu được Đức Chúa Cha sai xuống trần gian để giải thoát nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi.
Như Môsê từ bỏ cuộc sống hoàng cung, để chia sẻ kiếp sống nô lệ với anh em. Chúa Giêsu đã từ bỏ thiên đàng gánh lấy tội lỗi của nhân loại. Như lời thư 1 Phêrô: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá”.
Như Môsê chống lại Pharao, giải thoát dân Do thái khỏi ách nô lệ Ai cập, Chúa Giêsu chống lại Tử Thần, giải thoát nhân loại khỏi nô lệ thần chết.
Như Môsê dẫn dân vào miền Đất Hứa chảy sữa và mật, Chúa Giêsu là mục tử dẫn đàn chiên, tiến vào sự sống vĩnh cửu, để chiên được sống dồi dào.
Tuy nhiên Môsê chỉ là hình bóng so với Chúa Giêsu.
Môsê từ bỏ hoàng cung, tuy giầu sang phú quý, nhưng cũng chỉ là cõi trần gian giới hạn và mau qua. Còn Chúa Giêsu từ bỏ thiên đàng là nơi hạnh phúc viên mãn và vĩnh cửu.
Môsê từ bỏ thân phận hoàng tử, cũng chỉ là một chức vị trần gian của con người. Còn Chúa Giêsu từ bỏ thân phận là Thiên Chúa, ngàn trùng trổi vượt trên con người, để nhận lấy thân phận con người vô cùng hèn hạ thấp kém.
Môsê đến chia sẻ kiếp sống với những người anh em cùng khổ. Chúa Giêsu còn hơn thế nữa. Người gánh lấy những tội lỗi bất toàn của ta để chữa lành, như thư 1 Phêrô nói: “Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành”.
Môsê chống lại Pharao tuy khó khăn, nhưng không phải chết. Còn Chúa Giêsu chống lại Thần Chết đến phải chịu chết cho nhân loại được sống.
Môsê thành lập một dân chỉ có chủng tộc Do Thái. Còn Chúa Giêsu lập một dân mới gồm mọi chủng tộc, mầu da, ngôn ngữ.
Môsê dẫn dân Do Thái vào miền Đất Hứa tuy tốt đẹp nhưng vẫn là trần gian còn đau khổ, chết chóc. Còn Chúa Giêsu dẫn đưa đàn chiên vào Nước Trời nơi cuộc sống dồi dào phong phú, tràn đầy hạnh phúc. Như lời Thánh vịnh 22: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì…”
Con đường Chúa Giêsu đi đã mở ra một cánh cửa như lời thánh Phêrô nói: “Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô”.
Cánh cửa của Chúa là an toàn giữ cho đàn chiên khỏi bị trộm cướp giết hại. Pharao là một biểu tượng kẻ cướp rất tinh vi. Pharao hứa hẹn cho dân củ hành củ tỏi. Nhưng dân sống trong sự no đủ của Pharao sẽ tàn lụi đi và mất hết phẩm giá, vì chỉ là thân phận nô lệ. Đó cũng chính là cách những kẻ trộm cướp tinh vi đời nay thường áp dụng: Cho ta một chút hưởng thụ vật chất nhưng giam hãm linh hồn và làm ta mất hạnh phúc đời đời.
Cánh cửa của Chúa là tự do. Trong cửa đó ta được thảnh thơi “ra vào”.
Cánh cửa của Chúa là sự thật. Để ta nhận biết tội lỗi. Sám hối vì đã lầm lạc. Như các tín hữu đầu tiên nghe tiếng Phêrô thì “đau đớn trong lòng”. Để chúng ta “trước kia là chiên lạc, nay được quay về với Vị Mục Tử” chân thật.
Cánh cửa của Chúa là sự sống. Vào qua đó ta “gặp được đồng cỏ”. Đó là sự sống mới như lời thánh Phêrô dậy: “Anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần” và để sống theo Thần Khí “anh em hãy tránh xa thế hệ gian tà này”.
Chúa Giêsu là mục tử nhân lành. Xin cho chúng ta đừng nghe tiếng người lạ, tiếng của những Pharao thời mới hứa hẹn vật chất hưởng thụ. Xin cho chúng ta biết nghe tiếng Chúa để sống theo Thần Khí và được sống muôn đời.
Chúng ta cũng cầu nguyện cho có nhiều ơn gọi để có nhiều người đi vào cánh cửa của Chúa. Đi vào con đường từ bỏ mình. Đó là cửa hẹp. Nhưng là cửa an toàn. Cửa tự do. Cửa sự thật. Và cửa sự sống.
Lạy Chúa, xin hãy sai nhiều thợ lành nghề ra gặt. Vì lúa đã chin đầy đồng. Amen.
TGM. Giuse Ngô Quang KIệt
------------------------------------
Chuồng chiên là một hình ảnh rất quen thuộc đối với dân Do Thái. Đó là một dãy hàng rào chắc chắn theo hình chữ nhật với một cửa ra vào duy nhất. Chiều đến, các mục tử lùa chiên vào chuồng qua khung cửa duy nhất này, rồi trao phó việc canh giữ cho một vài người nào đó. Và khi ngày mới trở về, họ đưa chiên ra khỏi chuồng để đi ăn nơi những đồng cỏ.
Chuồng chiên là nơi bảo đảm an toàn cho đoàn chiên. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc này khi so sánh mình với cửa chuồng chiên và với người mục tử tốt lành để mạc khải tình yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa đối với con người nói chung và nhất là sự bảo vệ của Ngài đối với những ai tin nhận Ngài nói riêng.
Phản ứng đầu tiên của dân chúng khi nghe qua hai hình ảnh này là không hiểu được ý Chúa Giêsu muốn nói gì, mặc dầu Người đã dùng những hình ảnh rất quen thuộc đối với họ. Phải chăng chúng ta ngày hôm nay đôi khi cũng phản ứng như thế, đó là chúng ta không hiểu không hoặc muốn hiểu những gì Chúa muốn nói với mình qua những dấu chỉ đơn sơ của cuộc sống thường ngày. Phải chăng chúng ta sợ hiểu được ý định của Thiên Chúa để rồi phải canh tân đời sống cho hợp với ý định cảo cả ấy? Thế nhưng Chúa Giêsu vẫn kiên nhẫn giải thích cho họ: Ta là cửa chuồng chiên. Ai qua Ta mà vào thì sẽ được giải thoát. Ta là mục tử tốt lành, hiến mạng sống vì chiên. Ta biết các chiên Ta và các chiên ta biết ta.
Khi so sánh mình với hình ảnh cửa chuồng chiên và hình ảnh người mục tử tốt lành, Chúa Giêsu muốn mạc khải một sự thật tuyệt vời làm cho chúng ta thêm can đảm và hy vọng, đó là sự thật về mối tương quan thân tình không thể nào tách rời được giữa Ngài và những kẻ tin vào Ngài. Trước hết so sánh mình với cửa chuồng chiên, Chúa Giêsu cho mọi người chúng ta hiểu rằng: Người chính là tiêu chuẩn, chính là mẫu mực cho tất cả những ai muốn bước theo Người và cộng tác với Người để đem ơn cứu độ đến cho muôn dân.
Còn khi so sánh mình với người mục tử tốt lành, Người muốn mạc khải cho chúng ta biết: Người là mẫu mực duy nhất cho những chủ chăn được tuyển chọn. Chúa Giêsu vẫn luôn luôn là mục tử duy nhất chăm sóc đến từng con chiên, đến từng người trong đoàn chiên cũng nhưđến những ai chưa thuộc vào đoàn chiên, để một ngày nào đó cũng sẽ được bước vào trong cùng một đoàn chiên và cùng một chủ chiên.
Còn chúng ta thì sao, liệu chúng ta có chấp nhận để cho Chúa hướng dẫn và chăm sóc cuộc đời của chúng ta hay không, để bản thân chúng ta trở nên một con chiên trong đoàn chiên của Người hay không?
------------------------------------
Phúc âm Gioan triển khai đề tài Mục Tử nhân lành trong bầu khí căng thẳng của cuộc tranh luận giữa đức Giêsu và những người lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ, đặc biệt các người thuộc nhóm Pha-ri-sêu. Sau những khảng định về sự khác biệt căn bản giữa mục tử làm thuê và mục tử chân chính (Ga 10, 1-18), Đức Giêsu long trọng công bố các yếu tố chính yếu trong tương quan giữa Ngài với các kẻ tin vào Ngài, giữa vị Mục Tử tốt lành với các chiên được trao cho Ngài chăn dắt. Chúng ta cùng suy niệm từng điểm một.
Về người Mục Tử:
“Tôi biết chúng”. Rất ít ai đề cập sâu rộng tới cái ‘biết’ của Người Mục Tử nhân lành đối với chiên của mình. Ngài không chỉ biết số lượng (100 con), con ở lại dàn và con đi lạc (99 và 01 con). Ngài biết từng con chiên của Ngài, với những tốt xấu, những mạnh yếu, những thiện chí và ác ý, những nỗ lực và sa ngã... Ngài rành về chiên, có lẽ, còn hơn cả chính chiên biết về mình. Nhưng sự ‘biết’ này khác xa một giám thị soi mói, một cảnh sát rình rập, một quan tòa xét xử. Nó gần giống với với cái biết của một bà mẹ âu yếm đối với đứa con dại. Đó chính là cái ‘biết’ của một Mục Tử nhân lành chăm sóc và tự hiến cho từng con chiên của mình.
“Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi… Không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”. Lời khảng định của Mục Tử thật tuyệt đối: Ngài sẽ dùng tất cả sức lực Ngài để giữ chiên lại với Ngài. Và không chỉ Ngài mà thôi, Ngài còn làm việc đó nhân danh Chúa Cha, với tất cả uy quyền của Cha. Ngài không dùng dây để cột chiên lại, không xây chuồng, gài then để canh phòng, không rào cao, dậu dày để ngăn chặn. Ngài dùng chính tình yêu thương tha thứ và nhân ái để bao bọc. Dây cột, rào dậu duy nhất của Ngài là hiến mình thập giá. Và đó cũng là uy quyền của Cha, vì “Tôi và Chúa Cha là một”.
“Tôi ban cho chúng sự sống đời đời… không bao giờ chúng phải diệt vong”. Công việc hoàn toàn nằm trong tay người Mục Tử. Ngài chủ động và quyết đoán tất cả. Ngài đảm bảo và tuyệt đối quyết tâm chu toàn như một ủy thác tối hậu từ Cha: “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả…”
Về phía chiên:
Hình như không đòi một điều kiện tương xứng nào, ngoại trừ “ Chiên nghe tiếng… chiên theo tôi”.
Người ta vẫn thường giải thích, ‘nghe và theo’ chính là chấp nhận và thi hành những điều Chúa (và Hội Thánh) dạy bảo. Ta hình dung Mục Tử là một nhà thuyết giảng luân lý, đạo đức, đứng trên bục giảng…, và chiên là những tín hữu ngoan ngoãn cúi đầu lắng nghe.
Không, vị Mục tử nhân lành không coi dạy dỗ là chính. Ngài là (Ngôi) Lời trong bản thể của mình, trong đời sống và cái chết của Ngài. Chiên chỉ thật sự nghe tiếng Ngài khi chiêm ngắm thập giá và phục sinh. Lúc đó chiên nghe thấy Lời tình yêu nhân ái của một Thiên Chúa cứu độ giầu lòng xót thương. Qua việc lãnh nhận bí tích rửa tội, chiên quyết bước đi trong niềm tin vào Lời tình yêu giáng thế. Và cứ thế tiến bước theo Mục Tử nhân hậu và tự hiến suốt cả đời mình.
Chỉ cần có thế, và chiên được sống đời đời và không bao giờ phải diệt vong. Dầu tội lỗi và bất xứng, chiên tin nghe Lời nhân lành và quyết tâm bước theo Mục Tử tự hiến nhân hậu. Phải chăng Ki-tô hữu, trước nhất, phải là những chiên như thế?
Cách nói này của đức Giêsu quả đã gây sốc cho các Pha-ri-sêu, những đôi tai và con tim chỉ có biết mẫu mục tử như Mô-sê (rất chính trực và cao đẹp của Cựu ước, nhưng chưa phải là Ki-tô Giêsu). Xem ra, nó cũng đã từng gây sốc nhiều lần cho cả tôi và bạn nữa.
Lạy Chúa Giêsu, Mục Tử duy nhất nhân lành của tự hiến thập giá và phục sinh, xin cho con - Alter Christus của Chúa - được có một chút nét nhân lành và tự hiến quá độc đáo của Chúa. Xin cho con giảm bớt tính mô phạm trong đời mục vụ, và biết gia tăng nơi mình sự tự hiến và lòng thương xót, để các chiên nhận ra nơi con đôi chút hình bóng của Mục Tử Giêsu nhân lành. Amen.
Chương 10 Phúc Âm Gio-an chia thành hai mảng đề tài: Mục Tử nhân lành và Lễ Cung Hiến đền thờ. Mảng đề tài thứ nhất lại đưa ra hai hình ảnh: cửa ràn chiên (câu 1-10) và người mục tử nhân lành (câu 11-18). Phụng vụ ngày Chúa NhậtChúa Chiên Lành hôm nay triển khai hình ảnh thứ nhất là chính: “Tôi là cửa cho chiên ra vào”. Trong nội dung đó Đức Giêsu mới đề cập tới một hạng mục tử chân chính nào đó mà tiên quyết họ phải là những người ‘đi qua cửa’; ‘ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử’. Người xác định: chỉ những mục tử đi qua cửa mới có thể có các phẩm chất tốt đẹp như ‘chiên nghe tiếng anh…; gọi tên từng con rồi dẫn chúng ra…; anh ta đi trước và chiên đi theo sau…; chúng nhận biết tiếng của anh…” Như vậy thì việc đi qua cửa trở thành dấu hiệu tiên quyết để Hội Thánh và mọi người nhận ra một mục tử chân chính; “người giữ cửa mở cho anh ta vào’, bởi vì bất cứ ai ‘trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp’.
Những ngày làm việc ở Mông Cổ đã cho tôi hiểu được thế nào là ràn chiên và cửa ràn chiên. Người chăn chiên chuyên nghiệp ở đó đều là dân du mục (tương tự như chăn vịt chạy đồng ở xứ ta) cứ tối đến họ lùa chiên vào ràn. Ràn không phải là một thứ chuồng trại cố định như heo bò của ta. Ràn (tiếng Anh chính xác dịch là ‘enclosure’, ‘stable’ chỉ là theo nghĩa rộng) là miếng đất trống gần lều trại được rào dậu bằng đá xếp hoặc cành cây. Chiên có thể thuộc nhiều đàn khác nhau được lùa vào ràn qua một lối mở duy nhất gọi là cửa. Sẽ có một người trực qua đêm canh gác bên đống lửa đốt ngay giữa lối ra vào được che chắn cách sơ sài. Sáng ra, các người chăn chiên sẽ vào lùa đàn chiên của mình ra dưới sự giám sát của người trực đêm. Chỉ khi nào thấy có những biểu hiện thuận thảo giữa chiên và người chăn dắt, anh giữ cửa hay trực đêm mới xác định được người chăn chiên đó quả thật là mục tử của đàn vật mình đang lùa đi ăn.
Câu hỏi được đặt ra ở đây là: tại sao Đức Giêsu lại so sánh mình với cửa ràn chiên trước cả khi giới thiệu mình là mục tử nhân lành?
Hãy nhớ rằng đám thính giả chính của các lời tự giới thiệu này là các Pha-ri-sêu, “Thật, tôi bảo thật các ông…” Nhóm này trong Gio-an chương 9 đã có cuộc đối chất căng thẳng với Đức Giêsu về việc chữa lành người mù từ thuở mới sinh. Chính họ đã nêu lên lời phản bác: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?” Phải, chính với nhóm lãnh đạo này mà Đức Giêsu muốn xác định: “Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm kẻ cướp”.
Các Pha-ri-sêu nói riêng, các thượng tế và trưởng lão kinh sư Do Thái nói chung, dựa vào luật pháp mà Mô-sê đã ban hành mà biện minh cho vị thế lãnh đạo của họ; trong tư thế đó họ không quan tâm tới gì khác hơn là làm sao luật được cặn kẽ tuân giữ. Nhiều giai thoại đã cho thấy thái độ này làm cho các Pha-ri-sêu thường xuyên có thái độ cực đoan, xét nét và khắt khe với đám quần chúng, tới độ Đức Giêsu đã phải nghiêm khắc lên án: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Phai-ri-sêu giả hình! Các người khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào các người cũng không để cho họ vào!” (Mt 23 13) Vấn đề chính ở đây là: đối với các Pha-ri-sêu, cũng như với bất cứ ai chăn dắt bằng luật pháp, sẽ không hề có cửa hoặc không thể có sự ra vào nào. Luật pháp tự nó bao giờ cũng đóng lại, cũng khép kín, và có khuynh hướng ngày càng chặt chẽ, bưng bít hơn.
Với những con người như thế, thật là ý nghĩa khi Đức Giêsu trịnh trọng tự giới thiệu: “Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào!” Đây quả là khác biệt một trời một vực giữa Tin Mừng cứu độ và tôn giáo của luật pháp: một bên là rộng mở, còn một bên là đóng chặt. Đức Giêsu đang giới thiệu mình như một Mô-sê mới, mới ở đây không có nghĩa là cùng một Mô-sê luật pháp được đánh bóng lại cho sáng đẹp hơn, nhưng là một tác phẩm hoàn chỉnh so với một phác thảo đầy những khiếm khuyết cần được chỉnh sửa, đôi chỗ là cơ bản; và có lẽ điểm cơ bản nhất chính là “Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ”. Luật pháp nào thì cũng không thể khảng định được điều này, trự phi đó là luật pháp của tình yêu, lòng nhân từ và cứu vớt. Thiết tưởng trước khi tự giới thiệu mình là Mục Tử nhân lành, Đức Giêsu đã sử dụng hình ảnh ‘cửa ràn chiên’ là để khảng định mình chính là luật pháp mới của lòng nhân từ và cứu vớt. Do đó Người lên tiếng quả quyết: “Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử”. Đương nhiên các Pha-ri-sêu không thể chấp nhận được lối lãnh đạo mới này, đơn giản là vì họ vẫn khư khư với luật pháp Mô-sê và không tin vào Đức Giêsu với thái độ ‘cứu vớt’ của Người (xem giai thoại chữa người mù từ thuở mới sinh Ga 9). Họ thậm chí lên tiếng kết án Người cách cay độc: “Ông ấy bị quỉ ám và điên khùng rồi, nghe ông ta làm gì!” (Ga 10,20)
Như thế đối tượng trước hết của bài Tin Mừng hôm nay chính là giới giáo sĩ chúng ta, được mệnh danh là linh mục, tức là mục tử của Đức Ki-tô. Là linh mục trong một Hội Thánh cứu độ thì luật pháp đối với tôi không được là gì khác hơn là Đức Ki-tô - ‘cửa ràn chiên’. Chính thông qua cửa đó, và chỉ qua cửa đó thôi mà công tác mục vụ của tôi được thi hành và triển khai. Giáo hội đã chẳng luôn nhắc nhở tôi: luật tối thượng của toàn bộ giáo luật chính là cứu vớt các linh hồn là gì? Chỉ có như thế tôi mới có thể là mục tử như lòng Chúa từ nhân mong muốn, “chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con rồi dẫn chúng ra; khi đã cho chiên ra hết, anh đi trước và chiên đi theo sau vì chúng nhận biết tiếng của anh!”
Lạy Chúa là ‘cửa ràn chiên’, dầu con đã được học giáo luật… nhưng chính Chúa mới đích thực là cửa ràn chiên, là ‘giáo luật’ mà con phải ra vào trong công tác mục vụ của mình. Nếu chỉ quan tâm tới luật pháp, kể cả luật Hội Thánh, con vẫn luôn có nguy cơ trở thành như các Pha-ri-sêu ‘khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào’. Xin ‘Người giữ của’ mở cho con được vào ràn mỗi sáng tối khi con dâng Thánh Lễ, để qua đó các chiên sẽ không còn thấy tiếng con xa lạ mà chạy trốn. Ước gì chúng cũng luôn nghe được tiếng nói của lòng nhân ái và tự hiến của Chúa vang vọng nơi con! Amen.
------------------------------------
(Barbara E. Reid, nữ tu dòng Đaminh tại Grand Rapids, Michigan Hoa Kỳ. Bà là giáo sư môn Tân ước tại Đại học công giáo ở Chicago, bang Illinois. Cũng tại đây bà làm trưởng khoa và là phó viện trưởng. – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Tôi là cửa cho chiên ra vào” (Ga 10,7)
Vài năm trước, trên truyền hình có trình chiếu một chương trình đố vui mang tên “Mời bạn tham gia trò chơi”. Người tham gia cuộc chơi sẽ có cơ hội trúng thưởng. Sự hồi hộp gay cấn xảy ra khi họ được hỏi phải chọn cửa nào trong ba cửa. Hai trong ba cửa không trúng giải, còn cửa thứ ba sẽ trúng một giải thưởng có giá trị, như một chuyến du lịch, một chiếc xe hơi hay một số tiền mặt khá lớn. Mỗi lần tổ chức như thế, sẽ có người may mắn trúng giải khi chọn đúng cánh cửa có giải thưởng.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu sánh ví mình như là “cánh cửa” đem đến cho ta quà tặng đắt giá nhất. Không giống như trò chơi đố vui ở trên khi người ta đánh lừa người tham gia để họ chọn sai cánh cửa có giải thưởng. Đức Giêsu đã minh thị Ngài chính là cánh cửa mở toang, để tất cả chúng ta có thể chọn đúng cánh cửa này.
Khởi đầu bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói về Ngài như là mục tử chăn dắt chiên. Ngài sẽ đến với đàn chiên qua cửa chuồng chiên. Ngài sánh ví mình với hình ảnh trái ngược về những người ăn trộm. Họ lần mò vào đàn chiên không bằng cửa chính, và sẽ không thể điều khiển đàn chiên theo họ đi ra ngoài. Họ là người xa lạ, và các con chiên sẽ chạy trốn, vì chúng không nghe được tiếng của họ. Sau đó, trong phần cuối của chương này, Chúa Giêsu đã đưa hình ảnh người chăn chiên nhân lành để nói về chính Ngài. Một khía cạnh khác khá quan trọng khi trưng dẫn hình ảnh này, đó là cánh cửa được mở ra cả hai hướng: Đi vào và đi ra. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay quy chiếu về Đức Giêsu như là cửa chuồng chiên. Các môn đệ không chỉ đến với đàn chiên qua Ngài, nhưng họ còn được Ngài dẫn ra ngoài đồng cỏ để bổ dưỡng.
Tất cả những ai được Ngài dẫn vào sẽ tìm được cho mình, giữa sự thân ái của cộng đoàn đức tin, một nơi để thư giãn và nghỉ ngơi, một nơi để được an dưỡng và chữa lành. Đó cũng là nơi chúng ta được nuôi dưỡng qua bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể. Nhưng bất cứ ai được dẫn vào cũng sẽ được dẫn ra, đi đến những đồng cỏ xanh tươi, những đồng cỏ mầu mỡ để thực hiện sứ mệnh. Đức Giêsu là cửa chuồng chiên, vừa dẫn chúng ta đi vào, vừa dẫn chúng ta đi ra.
Sau đó, trong Tin Mừng Gioan, hình ảnh cánh cửa mở toang cũng mang lấy một hình thái mới. Cạnh sườn Chúa Giêsu trên Thập giá được mở ra, khi người lính lấy giáo đâm Ngài (Ga 19, 34), cũng gọi mời chúng ta tiến vào, để bước ra trong sức mạnh của Đấng Phục Sinh. Tất cả những ai đi vào cuộc sống như Ngài đã sống, một cuộc sống trải rộng y hệt một đồng cỏ mênh mông đầy ắp những khinh miệt, những quên lãng, và những chống đối từ những con người đã đi vào chuồng chiên bằng con đường khác, thậm chí ngay cả mạng sống chúng ta cũng bị lấy đi, thì khi đó chính Đức Giêsu mở toang cạnh sườn Ngài ra để dẫn chúng ta ra ngoài đến một cuộc sống hồi sinh hoàn toàn mới mẻ. Trước cái chết, Đức Giêsu đã nói với các môn đệ về cuộc khổ nạn Ngài sẽ kinh qua như một cơn đau quặn khi sinh nở để có được niềm vui lúc một sinh linh được chào đời (Ga 16,20-26). Máu và nước tuôn trào từ cạnh sườn mở toang ra, gợi nhắc chúng ta về những “dòng sông mang chở nước sự sống” mà Chúa Giêsu đã hứa. Những dòng sông đó sẽ tuôn trào từ nơi Ngài (theo nguyên ngữ là từ cõi lòng của Ngài) và từ con tim của những kẻ tin Ngài (Ga 7,38).
Ngôi mộ mở toang ngày Chúa Nhật Phục Sinh khép lại hình ảnh này. Cánh cổng sự chết đã bị bẻ gẫy bởi Đấng đã đến để “cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Cánh cổng sự sống bây giờ đã rộng mở ra cho mọi người. Lời mời gọi hãy đi vào cánh cổng này qua Ngài và qua cách sống của Ngài, đối với nhiều người cũng không dễ dàng để chấp nhận. Những người Pharisêu, đại biểu cho hạng người cứng lòng, đã không chấp nhận lời gọi mời đó để bước vào và bước ra cùng với Ngài và qua Ngài. Họ nghĩ rằng có một lối đường khác, chứ không chấp nhận đi qua cửa chuồng chiên là chính Đức Giêsu.
Chắc chắn, không có một kỹ xảo nào nhằm đánh đố chúng ta để chọn cho đúng cánh cửa. Cánh cửa Giêsu vẫn luôn mở toang ra chờ đón mọi người.
------------------------------------
Người ta nói người mẹ có thể đọc được tâm tư của con. Dù con không nói nhưng mẹ vẫn biết con đang muốn gì? Bởi vì tình yêu của mẹ luôn quan tâm đến con cái một cách rất tỉ mỉ. Từng cử chỉ, từng hành động đều không qua được mắt mẹ.
Có một anh bạn nhà nghèo, chạy vạy mãi mới được một suất hợp tác lao động, anh coi đó như cách duy nhất để giúp đỡ gia đình. Nhưng ảo mộng chóng tan, xứ người chẳng phải thiên đường, anh chỉ còn biết làm quần quật và dành dụm từng đồng. Để nhà khỏi buồn, trong thư anh tô vẽ về một cuộc sống chỉ có trong mơ.
Ngày về, mọi người mừng rỡ nhận quà, anh lại tiếp tục nói về cuộc sống trong mơ.
Đêm. Chỉ còn mẹ. Hết nắn tay nắn chân anh rồi mẹ lại sụt sùi. Anh nghẹn ngào khi nghe mẹ nói:
- Dối mẹ làm gì. Giơ xương thế kia thì làm sao mà sung sướng được hở con!
Hóa ra tình mẹ thật sâu lắng. Sâu lắng đến độ có thể hiểu được con tim của con. Mẹ có thể hiểu được con đang nghĩ gì, muốn gì. Mẹ cũng có thể biết được phải làm gì để xoa dịu nỗi đau cho con.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy chân dung của người mục tử tốt lành. Người mục tử luôn gắn liền đời mình với đàn chiên tựa như người mẹ gắn liền với định mệnh đời con. Người mẹ được Thiên Chúa sắp đặt để bảo vệ đứa con, chăm sóc đứa con, dậy dỗ và gìn giữ đứa con khỏi những nguy hiểm trong suốt hành trình cuộc đời. Không có mẹ đứa con sẽ không lớn nổi thành người. Đàn chiên cũng không thể có đồng cỏ xanh tươi, có suối mát ngọt ngào nếu không được người mục tử miệt mài tìm kiếm cho đàn chiên. Đàn chiên sẽ không thể sống an toàn khỏi cạm bãy, khỏi thú dữ rình chờ, nếu không có chủ chiên canh phòng với đầy đủ trách nhiệm và đầy yêu thương.
Chúa Giêsu sánh ví tình thương của mình như tình thương của người mục tử dành cho đàn chiên. Người mục tử tốt lành đầy yêu thương luôn gắn bó với đàn chiên, luôn sẵn sàng hy sinh cả mạng sống mình vì lợi ích đàn chiên. Ngài chính là vị mục tử mà bài đáp ca đã ca ngợi rằng: Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tuơi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính. Lạy Chúa, dầu qua thung lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có chúa ở cùng con”.
Ngày 27/04/2014, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã được Giáo hội tôn phong lên bậc hiển thánh. Người là một môn sinh đã hoạ lại rõ nét hình ảnh mục tử của Thầy Chí Thánh Giêsu. Người mục tử luôn làm việc không nghỉ ngơi. Cho dù tuổi đã cao lại thêm bệnh tật kéo dài, thế mà ngài vẫn đến với đàn chiên, vẫn cất cao tiếng gọi đàn chiên, vẫn là chỗ dựa thật vững chắc và an toàn cho đàn chiên. Đến nỗi khi ngài qua đời, Đức tổng Giám mục Leônardo Sandri, thứ trưởng Ngoại giao Toà Thánh đã nói với toàn thể thế giới rằng: “Hôm nay, chúng tôi như những đứa con mồ côi”.
Tại sao người ta thương tiếc một cụ già như thế? Có phải người ta ngưỡng mộ Ngài vì ngài nhiều tiền, nhiều quyền lực không? Thưa không phải thế. Người ta thương tiếc một mục tử hết mình vì đàn chiên. Một mục tử canh giữ hoà bình không chỉ cho đàn chiên mà cho hàng tỉ người trên khắp hành tinh này. Người mục tử với 26 năm chăn dắt đàn chiên của Chúa đã không ngừng bảo vệ quyền sống của con người, nhất là của các thai nhi. Người mục tử đã không ngừng đi đến tận cùng thế giới để gieo rắc an bình, công bình, tha thứ và yêu thương. Người mục tử đã đi đến cùng đường để quy tụ đàn chiên, để tìm kiếm các con chiên lạc đưa về một mối và cuối đời, trong những tiếng nấc hoà trộn với hơi thở bị ngắt quãng, ngài đã nói với đàn chiên đang canh thức cầu nguyện cho ngài trong giờ lâm chung rằng: “Ta đã đi tìm kiếm các con. Và bây giờ các con đã đến với Ta. Ta xin cám ơn các con”.
Hôm nay lễ Chúa chiên lành, chúng ta dâng lời cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho Giáo hội luôn có những mục tử như lòng Chúa mong ước. Cám tạ Chúa đã thương chăm sóc, chở che và gìn giữ cuộc đời chúng ta trong tình thương quan phòng của Chúa.
Hôm nay cũng là Chúa nhật II trong tháng năm, được chọn là ngày của mẹ. Mẹ chính là một mục tử gần gũi nhất để chăm sóc chúng ta. Tình thương của mẹ là vô bờ bến. Tình thương của mẹ dám hy sinh đánh đổi cả cuộc đời của mình để cho con niềm vui, tiếng cười. Thế nên, khi nói về mẹ có lẽ chúng ta phải nói về những hy sinh của mẹ. Nói với mẹ chúng ta phải nói lời cám ơn mẹ đã sẵn lòng hy sinh cho chúng ta.
Người ta kể lại rằng trong nạn đói vào năm Ất Dậu 1945, có một bà mẹ đã cắn đứt ngón tay của mình để con được bú những giọt máu cuối cùng thay cho dòng sữa đã cạn kiệt vì cái đói kéo dài. Bà chỉ hy vọng đứa con sẽ được cứu khỏi chết. Bà không can tâm nhìn con chết đói mà mình không làm điều gì đó để cứu con. Bà đã chấp nhận cái chết để con được sống.
Tình thương của mẹ là thế. Yêu thương quên cả chính mình. Một tình thương dám hòa trộn mồ hôi trong những giọt nước mắt bể dâu để mang lại hạnh phúc cho con. Một tình thương không bao giờ giả dối nhưng luôn mộc mạc chân tình gần gũi như chuối ba hương hay như xôi nếp mật.
Thế nên, trong ngày của mẹ chúng ta hãy cám ơn mẹ đã cho chúng ta vào đời. Cám ơn mẹ đã thức trọn canh khuya để canh giữ giấc ngủ cho chúng ta, để gìn giữ chúng ta khỏi mọi hiểm nguy giữa cuộc đời. Cám ơn cuộc đời đã cho chúng ta có mẹ để được yêu thương. Cầu mong mẹ mãi ở với chúng ta để chúng ta mãi tận hưởng sự ngọt ngào của tình mẹ, và cầu Chúa ban hạnh phúc thiên đường cho mẹ vì cả một đời gian nan mẹ đã làm cho con cái. Amen.
------------------------------------
Đàn chiên và người chăn dắt, đó là hai hình ảnh quen thuộc trong Kinh thánh. Hình ảnh người chăn chiên đi trước, đoàn chiên đi theo sau, hình ảnh đó là "độc nhất vô nhị", là hình ảnh rất thân thương, nói lên mối ân tình sâu đậm giữa hai thực thể này.
Người chăn dẫn đoàn vật đến đồng cỏ xanh tươi, đến giòng suối mát trong, để bổ dưỡng, nghỉ ngơi; hình ảnh đó đã hằn sâu trong tâm trí dân Israen, được diễn tả rõ nét trong thánh vịnh 22:
Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi
Trên đồng cỏ xanh tươi, Người để tôi nằm nghỉ
Đàn chiên có béo tốt, khoẻ mạnh, là nhờ người chăn gần gũi yêu thương; Đàn chiên có cho nhiều thịt, sữa, nhiều lông để làm áo, là nhờ người chăn ân cần chăn nuôi, bồi dưỡng.
Đàn chiên được an toàn là nhờ người chăn dắt hết mình, trọn lòng bảo vệ. Vì đàn chiên nghe thấy người chăn gọi tên từng con vật. Vì đoàn chiên đi theo bước chân người chăn đến mọi chốn mọi nơi người chăn dẫn tới.
Như thế, giữa người chăn và đàn chiên có một mối tương quan tình cảm "đồng hành", không phải tương quan "vua tôi", "chủ-tớ".
Nhưng, Đức Giêsu là Đấng chăn dắt đời tôi, Người gần gũi thân quen. Người kitô hữu được trở nên "Kitô thứ hai", nên bạn Đức Kitô.
Đức Giêsu là Đấng ân cần chăn nuôi, bồi dưỡng tinh thần tôi; vì Người đã đem đến cho tôi Tin mừng. Tin mừng đó là sống làm người cho ra người, bằng "mến Chúa yêu người".
Đức Giêsu là Đấng hết mình, trọn lòng bảo vệ tôi, vì Người đã chia sẻ thân phận con người của tôi, hiểu tôi, muốn tôi "sống và sống dồi dào".
Trong một thời đại mà đặc trưng là khó phân biệt đâu là thật, đâu là giả, bạn đã chọn Đức Kitô là Đấng chăn dắt thật của đời bạn chưa?
Hãy mở sách Thánh, bạn sẽ hiểu Đức Giêsu là Đấng chăn dắt tôi, Người cho tôi "sống và sống dồi dào hơn".
Lạy Chúa Giêsu,
Ngài là Đấng chăn dắt cuộc đời chúng con.
Xin ban cho chúng con ánh sáng soi đường,
để chúng con luôn đi trên đuờng ngay nẻo thật.
Xin dẫn dắt cuộc đời chúng con
để chúng con không bị lạc lối trong đêm đen mù mịt;
Xin đưa chúng con tới quê hương của sự sống,
để chúng con được ở gần bên Chúa.
------------------------------------
Ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi
Chiều hôm qua tôi đi dâng lễ an táng cho một nữ tu dòng Đaminh Rosalima vừa mới qua đời vào buổi sáng cùng ngày, là cô của một người giáo dân trong giáo xứ của tôi đang phục vụ. Nữ Tu thọ 86 tuổi, trong đó 55 năm sống trong nhà Chúa, nghĩa là hơn nửa đời người sống trong đời thánh hiến, một cuộc đời hoàn toàn sống cho Thiên Chúa là Đấng Tình Quân của mình. Nhìn vào bề dầy đời sống thánh hiến của Nữ Tu này, tôi nhớ đến câu nói mà tất cả những ai là saledieng hay nhắc nhở nhau: “khi nào về với Chuá trên mộ có ghi là tu sĩ saledieng” lúc ấy chúng ta mới biết chúng ta trung thành. Đời sống thánh hiến là một cuộc đời dấn thân, tận hiến cho Thiên Chúa và phục vụ tha nhân, là luôn trung thành sống theo lời mời gọi của Tin Mừng, mỗi ngày mỗi nên giống Đức Kitô hơn và sống cho người khác cho đến hơi thở cuối cùng.
Đời tu nhìn bên ngoài rất đẹp nhưng cũng có những hy sinh, từ bỏ để sống triệt để lời mời gọi của đời sống thánh hiến. Vì thế, trên thực tế ở Châu Âu Giáo Hội đang báo động tình trạng khan hiếm ơn gọi, đời sống thánh hiến không còn hấp dẫn nơi người trẻ nữa, nhiều dòng tu đã đóng cửa, nhiều dòng tu chỉ còn những Cha, Thầy, nữ tu đã già. Nếu so sánh ở Việt Nam, chúng ta vẫn còn cảm thấy phải tạ ơn Chúa vì chúng ta vẫn còn nhiều ơn gọi tuy đang trong tình trạng giảm sút so với trước đây, nhưng vẫn còn có nhiều bạn trẻ quảng đại, dấn thân trong đời sống thánh hiến. Nói như thế, tự bản chất đời sống thánh hiến là đẹp, là hấp dẫn, là ước mơ của bao người, là hồng ân của Thiên Chúa, Chúa yêu thương, Chúa mời gọi và thánh hiến, chỉ có điều là mỗi người chúng ta phải nhận ra tiếng Chúa mời gọi và quảng đại đáp trả lại tiếng gọi này.
Chúa nhật hôm nay là ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ, trong sứ điệp gởi toàn thể dân chúa nhân ngày ơn gọi năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như sau: “Ơn gọi là hoa trái chín mọng trong một cánh đồng được canh tác tốt bởi tình yêu thương lẫn nhau thể hiện nơi việc phục vụ lẫn nhau, trong bối cảnh của một cuộc sống cộng đoàn thực sự. Không có ơn gọi nào được sinh ra chỉ cho riêng mình hay sống cho chính mình. Ơn gọi triển nở từ con tim Thiên Chúa và đâm hoa kết trái trong mảnh đất tốt của dân trung tín với Chúa, và từ những cảm nghiệm của tình huynh đệ. Chẳng phải là Đức Giêsu đã từng nói: “Cứ dấu này mà người ta sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 13:35) hay sao?”
Đây chính là câu trả lời cho những thao thức về tình hình ơn gọi giảm sút hiện nay, trả lời cho những chất vấn tại sao các bạn trẻ không cảm thấy bị thu hút nơi những người sống đời thánh hiến nữa? có nhiều lần tôi đã nghe nhiều bạn trẻ nói, nhìn vào cách sống của ông Cha này, ông Thầy kia hay bà Sr nọ con chẳng muốn đi tu chút nào, vì họ sống không triệt để lối sống mà họ đã chọn, vẫn còn lo cho chính bản thân mình, không quảng đại phục vụ người khác, không phải là một mục tử nhân lành..... rồi cũng có nhiều câu hỏi tự chúng ta đặt ra: tại sao giáo xứ, cộng đoàn của tôi ở đây bao nhiêu năm rồi mà chẳng có một mống ơn gọi nào? lỗi do ai? chắc có lẽ mỗi người chúng ta cần phải chất vấn chính mình, tôi có làm chứng một cách hùng hồn về đời sống thánh hiến của tôi để qua đó người trẻ có thể bị hấp dẫn, lôi cuốn muốn dấn thân trong đời sống tu trì hay không? cộng đoàn của tôi có làm chứng về đời sống hiệp nhất, yêu thương, vui tươi trong đời sống thánh hiến và phục vụ người khác hay không? vì ngày nay giới trẻ muốn tận mắt chứng kiến chứng tá của người tu sĩ hơn là qua tu phục, qua những lời giảng dạy. Người trẻ ngày nay bị thuyết phục hơn khi thấy người linh mục, tu sĩ sống khiêm tốn, hy sinh, khó nghèo, quên mình phục vụ người khác. Mẹ Têrêsa thành Calcuta là một mẫu gương sống động nhất về một chứng tá của người tu sĩ quên mình phục vụ những người đau khổ, bệnh tật, bị bỏ rơi làm cho nhiều người trẻ bị hấp dẫn, lôi cuốn và thế giới phải thán phục.
“Tôi chính là Mục Tử Nhân Lành, Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên” (Ga 10,11). Đức Kitô chính là Mục Tử nhân lành đã hy sinh tính mạng vì đàn chiên, Ngài yêu thương hết tất cả chúng ta và Ngài muốn hết thảy chúng ta đều là những con chiên dễ thương của Ngài, sống trong một ràn chiên của Ngài. Là những linh mục, tu sĩ chúng ta hãy cố gắng sống xứng đáng là những mục tử nhân lành, biết yêu thương, hy sinh, phục vụ, quan tâm đến giới trẻ, thanh thiếu niên để nhờ đó thanh thiếu niên, người trẻ sẽ cảm thấy được yêu thương, quan tâm, được đánh động bởi chứng tá đời sống thánh hiến của chúng ta, qua đó họ sẽ quảng đại dấn thân trong đời sống tu trì. Để có nhiều ơn gọi, mỗi người chúng ta phải quan tâm vun trồng, gieo hạt, Thiên Chúa sẽ cho lớn lên, vì Ngài chính là Chủ mùa gặt, chúng ta là cánh tay nối dài, khơi dậy nơi thanh thiếu niên và giới trẻ lòng quảng đại dấn thân. Amen.
------------------------------------
Chúa Giêsu nói: ‘Ta là cửa chuồng chiên” (Ga 10,9); “Ta là mục tử tốt lành” (Ga 10,11.14).
Sách Giáo Lý Công Giáo số 754 giải thích hình ảnh này như sau: “Giáo Hội là chuồng chiên với Chúa Kitô, là cửa vào độc nhất và cần thiết. Giáo Hội cũng là đàn chiên mà chính Thiên Chúa đã công bố rằng Ngài sẽ là mục tử, và những con chiên, dầu có những mục tử loài người dẫn dắt, nhưng chúng luôn luôn có chính Chúa Kitô hướng dẫn va nuôi dưỡng, vì Ngài là chủ chăn tốt lành và là Ông Hoàng của các chủ chăn. Ngài đã thí mạng sống mình vì các chiên của Ngài”.
Chúa Giêsu là vị Mục Tử Tốt Lành với những nét đặc trưng sau đây:
- Vị Mục Tử Tốt Lành hết lòng yêu thương những người thuộc về mình. Vì yêu thương nên Người quan tâm đến mọi người và đến từng người. Càng quan tâm thì càng biết tường tận: biết họ muốn gì, họ cần gì, họ có thể gặp phải những nguy cơ cạm bẫy hay thử thách nào.
- Vị Mục Tử Tốt Lành luôn đi đầu, đi trước, hướng dẫn, lãnh đạo đoàn chiên, đứng mũi chịu sào, gánh chịu mọi khổ cực cho người thuộc về mình. Mục Tử Tốt Lành đem chiên đến những miền an toàn, có suối mát có cỏ xanh, cho chiên được ăn uống no nê, được nghỉ ngơi thoải mái. Chiên sẽ tăng trưởng cả về chất lượng lẫn số lượng. Mục Tử Tốt Lành dám hy sinh mạng sống vì chiên.
- Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đến để yêu thương, chăm sóc, quy tụ mọi con chiên. Ngài biết tên từng con chiên như Cha Ngài biết Ngài ( Ga 10,14-15). Ngài gọi tên từng con chiên và dẫn đi (Ga 10,3). Mục Tử sẵn sàng hy sinh mạng sống vì chiên: "Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu" ( Ga 15, 13). Chúa Giêsu đã chứng tỏ Ngài là vị Mục Tử Tốt Lành, vị chủ chăn không bao giờ hèn nhát thấy sói tấn công chiên mà bỏ trốn, nhưng Ngài luôn cứu vớt, tập họp, chăn dắt ( Ga 10,9.16 ).
Chúa Giêsu là Mục Tử Tốt Lành đã luôn luôn hiện diện, yêu thương săn sóc và hy sinh mạng sống để cứu chuộc chúng ta. Chúa Giêsu đã chọn các tông đồ các môn đệ tiếp nối sứ mạng mục tử của Ngài. Chúa nhật IV Phục sinh, ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và ơn gọi tu sĩ nam nữ. Giáo Hội luôn cần đến những mục tử tốt lành. Hãy cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều mục tử đạo đức, thánh thiện như lòng Chúa mong ước.
Các mục tử của Giáo Hội đều được mời gọi sống theo mẫu gương Mục Tử Giêsu Tốt Lành là “Ông Hoàng của các chủ chăn” (GLCG #754).
ĐGM Bùi Tuần đưa ra những đặc tính của người mục tử tốt lành.
1. Mục tử tốt lành là người nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực có chất lượng cao.
Lương thực thứ nhất là Lời Chúa. Chúa Giêsu phán: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn bằng mọi lời do miệng Chúa phán ra” (Mt 4,4). Lời Chúa là hạt giống mang sự sống thiêng liêng (Lc 8,11).
Lương thực thứ hai là Phép Thánh Thể. Chúa Giêsu phán: “Ta là bánh trường sinh… là bánh bởi trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (Ga 5,48-51).
Lương thực thứ ba là thánh ý Chúa Cha. Chúa Giêsu phán: “Lương thực của ta là thi hành thánh ý Chúa Cha, Đấng đã sai Ta” (Ga 4,34).
Mục tử không tự mình làm ra những lương thực thiêng liêng này, và không được phân phát ra một cách máy móc, nhưng phải cộng tác chặt chẽ với Chúa Giêsu, kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, là mục tử tốt lành đứng đầu các mục tử.
2. Mục tử tốt lành là người kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu phán: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu là có một sự hiểu biết sâu xa về Chúa Giêsu do đã gặp gỡ Ngài và sống với Ngài thực sự.
Khi thánh Phêrô tìm người thay thế Giuđa Iscariốt, ngài đã nói với cộng đoàn: “Trong số những anh em đã cùng chúng tôi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được Ông Gioan làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời, phải có người trở thành chứng nhân cùng với chúng ta làm chứng Người đã phục sinh” (Cv 1,21-22). Với những lời trên đây, thánh Phêrô, khi chọn người mục tử thay thế Giuđa, đã chỉ đưa ra một tiêu chuẩn là: người đó đã phải cùng sống với Chúa Giêsu và đã tham dự cuộc đời cứu thế của Ngài, một đời mặc lấy thân phận đoàn chiên, yêu thương đoàn chiên, cứu độ đoàn chiên và còn hơn nữa, như lời Ngài nói: “Ta còn có những chiên không thuộc đoàn này. Ta cũng phải đưa chúng về” (Ga 10,16). Ngài cũng khẳng định: “Mục tử nhânh lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (10,11).
Muốn được như vậy, người mục tử phải có những tâm tình của Chúa Giêsu. Nhất là sự khiêm nhường. Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ hãy học với Ngài, đặc biệt là về đức tính“hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29). Chính Ngài đã cứu chuộc loài người bằng sự hiền từ khiêm tốn, vâng phục thánh ý Chúa Cha.
3. Mục tử tốt lành là người luôn khát khao và cầu xin ơn Chúa Thánh Thần
Để biết phân định sự thực và sự không thực về thánh ý Chúa Cha, người mục tử tốt lành rất cần ơn Chúa Thánh Thần.
Chúa Giêsu phán: “Khi nào Thần Khí chân lý đến, Người sẽ dẫn anh em đến sự thật vẹn toàn” (Ga 16,13).Thần Khí chân lý là Chúa Thánh Linh. Khi Ngài đến, Ngài sẽ giúp cho mục tử làm mục vụ một cách rất mới, có hồn, đầy uy tín. Bởi vì Thánh Thần sẽ cho mục tử nếm được phần nào mùi vị ngọt ngào của sự sống Thiên Chúa trong Lời Chúa. Ngài sẽ cho mục tử nhìn thấy phần nào dung mạo đẹp đẽ của Thiên Chúa trong Phép Thánh Thể. Ngài sẽ cho mục tử cảm được phần nào lửa nồng nàn của tình xót thương Chúa ẩn tàng trong thánh ý Chúa. Những lúc đó, người mục tử sẽ phục vụ đoàn chiên với tất cả tâm hồn hòa tan trong quyền lực Thánh Linh, như thánh Phaolô xưa: “Khi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run tẩy. Tôi nói, tôi giảng mà chẳng dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn. Nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thánh Linh và quyền năng Thiên Chúa”. (1Cor 2,3-5).
Thời nay người mục tử rất cần ơn Thánh Thần. Như ơn sáng suốt khôn ngoan trong phân định việc nên làm với cách nên làm, và việc không nên làm với cách không nên làm, ơn tiên liệu, ơn đối thoại, ơn đào tạo, ơn biết an ủi nâng đỡ đoàn chiên.
Tôi cho là rất quan trọng, đó là ơn biết quên mình, biết cởi gỡ mình khỏi mọi nô lệ tội lỗi, biết sống tự do thực sự nội tâm, để đón nhận Nước Trời, ơn biết xây dựng sự hiệp nhất yêu thương trong sự trọng kính những khác biệt. Đặc biệt, tôi khát khao ơn cầu nguyện, ơn biết xót thương đoàn chiên và đồng bào mình, và biết giới thiệu Tin Mừng qua những diễn tả mới mẻ, dễ hiểu và có sức thuyết phục. Làm sao để khi gặp linh mục và thấy linh mục làm mục vụ và việc xã hội, ngay cả khi thấy ngài thinh lặng cầu nguyện, hoặc thinh lặng hiện diện với tuổi tác và bệnh tật, mọi người thiện chí đều có cảm tưởng là một Đấng thiêng liêng đang hiện diện một cách tích cực trong cuộc sống ngài, và qua ngài mà Đấng ấy đang đến với lịch sử hôm nay.Với Đấng thiêng liêng ấy, linh mục hiện diện và đến như một tình thương, một hy vọng, một sức mạnh đổi mới trong dáng vẻ tu thân hiền từ và khiêm tốn.
Nghĩ tới đây, tôi cảm thấy vui, khi thoáng nhìn các mục tử trong Hội Thánh. Bản thân các ngài có rất nhiều giới hạn, kể cả tội lỗi. Nhưng các ngài đáng được chúng ta kính trọng yêu thương, nhất là rất đáng mọi người chúng ta chân thành giúp đỡ bằng lời cầu nguyện. Nhận thức đó do đức tin, vượt qua những sự bề ngoài, sẽ đưa chúng ta đến vô vàn lợi ích, Thiên Chúa giàu tình yêu thương xót sẽ ban thưởng cho chúng ta. (x. Thao Thức 3, trang 147-153, ĐGM Bùi Tuần).
4. Mục tử tốt lành luôn cử hành Thánh Thể sốt sắng và nhiệt thành trong bí tích Hòa Giải.
Thư Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010 của HĐGMVN mời gọi các mục tử: “…Thánh Thể là trung tâm, nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống và sứ vụ của Giáo Hội. Do đó, các mục tử phải chú tâm đến việc cử hành Thánh Thể thật sốt sắng và xứng đáng, nhất là ngày Chúa Nhật, và hướng dẫn cộng đoàn tham dự Thánh Lễ cách ý thức, tích cực và sống động hơn. Các ngài cũng cần thúc đẩy và canh tân việc sùng kính Thánh Thể, vốn đã từng nổi bật trong truyền thống Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam.
Ý thức về thân phận tội lỗi của mình, các tín hữu cần khiêm nhường thống hối và đón nhận ơn tha thứ qua bí tích Giao Hòa, để xứng đáng là chi thể trong Nhiệm Thể Đức Kitô. Bí tích Giao Hòa vừa là bí tích của hiện tại qua việc tha tội vừa là bí tích của tương lai nhằm xây dựngtình hiệp thông giữa gia đình con cái Thiên Chúa.
Ước mong các mục tử luôn quảng đại và sẵn sàng hơn nữa trong việc giúp các hối nhân lãnh nhận bí tích Giao Hòa. (Số 12).
Lạy Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành.
Xin cho đoàn chiên của Chúa có thêm nhiều mục tử giống như Chúa. Amen.
------------------------------------
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
"Đức Chúa phán thế này: Này Ta chống lại các mục tử, Ta sẽ đòi lại chiên Ta nơi tay chúng " (Ez 34, 10). Các mục tử đã làm gì để Thiên Chúa nổi giận và đòi lại chiên đây? Qua miệng ngôn sứ Ezêkiel, Thiên Chúa còn nói mạnh hơn nữa: "Ta sẽ không để chúng chăn chiên Ta nữa. Các mục tử sẽ không còn được chăn nuôi lấy mình chúng nữa. Ta sẽ giựt lấy chiên khỏi mõm chúng, khiến chiên Ta không còn là mồi ngon cho chúng ăn thịt nữa " (Ez 34, 10). À thì ra, các mục tử chỉ để ý đến lợi ích của mình, không dám xả thân vì để cứu chiên, nay Chúa đòi lại chiên và Ngài tuyên bố: "Chính Ta sẽ tìm kiếm chiên của Ta, và Ta sẽ chăm nom đến chúng " (Ez 34, 10). Thiên Chúa chăm nom chiên như thế nào? Ngài phán: " Như người mục tử chăm nom đàn chiên của mình vào ngày nó ở giữa chiên phiêu bạt thế nào, cũng vậy Ta sẽ chăm nom chiên của Ta. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi nơi chúng tán loại, vào ngày mây mù đen tối. Ta sẽ đem chúng ra khỏi các dân. Ta sẽ thâu họp chúng lại từ các xứ. Ta sẽ dẫn chúng về lại thửa đất của chúng. Và Ta sẽ chăn nuôi chúng trên núi Israel " (Ez 34, 13-14).
Những "ngọn núi Israel " theo các tác giả Thánh Kinh là nơi an nhàn, có suối nước trong lành, không có gì độc hại và nguy hiểm, nơi ấy có đồng cỏ non xanh tốt, màu mỡ (x. Ez 34, 13-15). Nếu ta muốn an toàn thoải mái, hãy đến đó tận hưởng. "Đức Chúa phán: Chiên thất lạc, Ta sẽ tìm kiếm. Chiên tản mác, Ta sẽ lùa về. Chiên xây xát, Ta sẽ băng bó. Chiên bệnh hoạn, Ta sẽ bổ sức " (Ez 34, 16). Những ngọn núi chúng ta vừa nói ở trên còn ám chỉ dòng suối chảy Tin Mừng được rao giảng từ các Tông Đồ cho đến tận cùng thế giới: " Tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển " (Ps 18, 5).
Thật là hình ảnh cụ thể tuyệt đẹp và đầy cảm động về một Vì Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa đã làm đối với chúng ta là những tạo vật, những con chiên của Ngài. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, được Chúa Cha phái đến, cũng tuyên bố: " Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta" (Ga 10, 14 ).
Hôm nay, mỗi người chúng ta tự hỏi: tôi có phải là chiên của Chúa không, nếu phải thì tôi có biết Chúa không, biết thì biết thế nào? "Biết" ở đây, không có nghĩa là "biết" nhờ đức tin, nhưng là "biết" nhờ đức mến. "Biết" không có nghĩa là "biết" được diễn tả qua thái độ tin, nhưng là "biết" được diễn tả qua việc làm. Chính thánh Gioan Tông Đồ đã viết điều này và làm chứng ở nơi khác: "Ai nói mình biết Thiên Chúa mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối" (1 Ga 2, 4).
Chúa Giêsu còn nói về các con chiên: "Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi, Tôi cho chúng được sống đời đời và chúng sẽ không bao giờ hư mất" (Ga 10, 27).
Vậy, ai chân thành đi theo Chúa Giêsu thì được nuôi dưỡng nơi đồng cỏ xanh tươi muôn đời. Đồng cỏ của đoàn chiên đây là gì nếu không phải là cảnh thiên đàng luôn xanh ngắt, khiến tâm hồn ngập tràn niềm vui, nơi có Thiên Chúa luôn hiện diện, nơi đây chiên theo Chúa và làm theo ý Chúa sẽ được hân hoan mừng lễ cùng với bao công dân Nước Trời.
Trên đây là những lý do với nhiều lý do khác mà Giáo hội gọi Chúa nhật thứ IV Phục Sinh là Chúa nhật Chúa Chiên Lành, đồng thời mời gọi con cái mình suy nghĩ đặc biệt về hình ảnh của Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô, Vị Mục Tử Tối Cao đã hy sinh Mạng Sống Mình vì đoàn chiên. Chúa Giêsu muốn không chỉ có các mục tử tiếp bước, Người muốn những người nam nữ dâng mình cho Chúa trong đời thánh hiến, đến lượt mình, cũng xả thân mình để bảo vệ đàn chiên, đưa các con chiên lạc trở vể. Người mong ước các mục tử với ơn Người trợ giúp sẽ hoàn thành trách nhiệm dẫn dắt đoàn chiên đến đồng cỏ Nước Trời.
Chúa nhật Chúa Chiên Lành cũng là một Chúa nhật đặc biệt đối với các mục tử khi đặt mình vào vị trí của Chúa Giêsu Mục Tử nhân lành duy nhất. Chúng ta hãy cầu nguyện cho các mục tử thân yêu: nâng đỡ, cám ơn và khuyến khích các ngài! Chúng ta cũng cầu nguyện cho Giáo hội Việt Nam có thêm nhiều linh mục lành thánh. Ý chỉ này cũng thật khẩn thiết cho Giáo hội hoàn vũ.
"Ơn gọi, chứng tá cho sự thật" là chủ đề ngày thế giới cầu cho ơn kêu gọi năm nay. Đức Thánh Cha Phanxicô yêu cầu người Công Giáo hãy "mở lòng chúng ta ra cho những lý tưởng tuyệt vời, cho những điều cao cả với niềm tín thác rằng Chúa không bao giờ bỏ rơi công nghiệp tay Ngài là chúng ta. "Chính Ngài là Đấng dựng nên ta, ta thuộc về Người; ta là dân Người, là đoàn chiên Người dẫn dắt " (Tv 100, 3). Và cùng với Ngài, chúng ta có thể tiến bước, trở thành những môn đệ và những chứng nhân cho tình yêu của Thiên Chúa, trong khi mở rộng con tim của chúng ta với những lý tưởng tuyệt vời, và những điều cao cả.
Đức Nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI viết rằng: "Ngày nay vẫn vậy, sống trong cộng đồng các môn đệ là Giáo Hội, Chúa Giêsu Kitô kêu gọi đi theo Người". Ngài cũng đặc biệt mời giới trẻ "hãy trau dồi nét hấp dẫn các giá trị, các mục tiêu nâng cao, các chọn lựa triệt để, để có thể phục vụ tha nhân theo chân Chúa Giêsu". Chúa Giêsu không ngừng lặp đi lặp lại "Hãy đến! Hãy theo ta". Theo Chúa Giêsu "có nghĩa là nhấn chìm ý muốn của chính mình vào thánh ý Chúa Giêsu, dành ưu tiên cho thánh ý Người và đặt Chúa Giêsu ở vị trí đầu so với tất cả những gì làm nên cuộc sống chúng ta: gia đình, công việc, những lợi ích ca nhân và bản thân".
Xin cho giới trẻ hôm nay đang ở giữa biết bao những gợi ý nông cạn và phù phiếm, tạm thời, biết chuyên tâm trau dồi nét hấp dẫn đối với các giá trị, các mục tiêu cao thượng, những chọn lựa triệt để, hầu phục vụ tha nhân theo chân Chúa Giêsu. Đáp trả quảng đại và mau lẹ tiếng Chúa Kitô kêu gọi đi theo Người sát sao hơn nữa, đặc biệt với các thế hệ mới. Amen.
------------------------------------
Căn tính Linh Mục có hai chiều kích, một hướng lên Thiên Chúa, và một hướng về nhân loại. Hướng PS 4-A122
Căn tính Linh Mục có hai chiều kích, một hướng lên Thiên Chúa, và một hướng về nhân loại. Hướng lên Thiên Chúa, căn tính Linh Mục hệ tại sự thánh thiện. Hướng về con người, căn tính ấy hệ tại dấn thân phục vụ với Đức Ái Mục Tử.
Phần xướng đáp Phụng Vụ Kinh Chiều lễ các Thánh Mục Tử, chúng ta đọc: “Đây là người đã sống hết tình với anh em, cầu nguyện nhiều cho dân chúng, đã hy sinh tính mạng vì anh em mình”. Câu nói ngắn nhưng bao hàm đầy đủ nội dung của sứ vụ Mục Tử. Tình Yêu Mục Tử nối kết cả ba khía cạnh đó: Có yêu thì mới sống hết tình, tận tụy phục vụ. Có yêu thì mới nhớ đến và cầu nguyện cho. Và có yêu thì mới dám hy sinh mạng sống, đây là tình yêu đạt đến đỉnh điểm. Chúa Giêsu – Mục Tử Nhân Lành đã nêu gương về cả ba khía cạnh này cho mọi mục tử trong Giáo Hội.
1. Sống hết tình với anh em
Chúa Giêsu đã sống hết tình với anh em. Ngài rao giảng miệt mài từ sáng đến khuya, quên cả ăn ngủ, mệt lử đến nỗi ngủ say, sóng gió tơi bời mà không hay; dân chúng “tấp nập kẻ lui người tới, đến nỗi thầy trò không có giờ nghỉ ngơi” ( Mc 6, 31 ), chữa mọi thứ bệnh tật cho dân, thậm chí cả vào ngày sabát ( shabbat ) khiến bị chỉ trích; hóa bánh ra nhiều để nuôi dân đi theo nghe giảng; hóa nước thành rượu để giữ thể diện cho đôi tân hôn. Ngài làm nhiều phép lạ chữa quỷ ám, mù lòa, điếc câm, cả chết rồi cho cũng sống lại. Ngài gần gũi người nghèo, bà góa, trẻ em, bênh vực họ...
Biết bao việc làm chứng rằng Chúa Giêsu đã sống hết tình với anh em. Cầu nguyện cho dân chúng: cho mọi người, cho các môn đệ, cho kẻ ghét mình, cầu nguyện thâu đêm, lúc sắp chết mà còn cầu xin ơn tha thứ cho kẻ giết mình, lại bào chữa rằng vì họ lầm không biết việc họ làm. Tấm lòng của Chúa thật là tuyệt vời. Hy sinh tính mạng vì anh em, đó là điều Chúa Giêsu đã làm, và là bằng chứng hùng hồn nhất về tình yêu của Chúa: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu mình” ( Ga 15, 12 ). Ngài có thể thoát khỏi cái chết, nhưng ngài không làm: “Không ai có thể cướp mạng sống tôi, nhưng tự tôi hiến mạng” ( Ga 10, 18 ).
Đức Thánh Cha Phanxicô cũng là mẫu gương về đức ái mục tử. Ở tuổi 76 khi được bầu làm Giáo Hoàng, sức khỏe của ngài không tốt, vì đã bị mất một lá phổi. Ở tuổi này người ta nghỉ hưu, nhưng ngài đã can đảm chấp nhận. Những năm qua, ngài làm việc thật nhiều, vì ngài biết không còn nhiều thời gian trước mắt. Ngài đã khơi bùng lên niềm vui và hy vọng cho Giáo Hội. Ngài làm say mê hàng trăm triệu con tim, nhiều người bỏ đạo quay về với Giáo Hội, nhiều kẻ lâu nay hờ hững với Mẹ Hội Thánh nay lao vào vòng tay yêu thương vẫn giang rộng chờ đón của ngài. Số người thiện cảm gia tăng. Ngài đang “hồi sinh” Giáo Hội !
Với chủ trương “Giáo Hội nghèo cho người nghèo”, ngài yêu thương người nghèo và chọn nếp sống giản dị. Ngài ban hành tông huấn Niềm Vui của Tin Mừng để mở một trang mới cho công cuộc Tân Phúc-Âm-hóa, và khích lệ Giáo Hội đứng dậy, mở cửa, ra đi đến tận vùng ngoại vi để loan Tin Mừng. Ngài mở Năm Thánh Lòng Thương Xót để toàn thể Giáo Hội cảm nếm tình yêu tha thứ vô biên của Chúa. Ngài ban hành tông huấn Laudato Si’ kêu gọi bảo vệ môi trường, gìn giữ vũ trụ thiên nhiên xinh đẹp là ngôi nhà chung mà Chúa đã tạo dựng. Ngài triệu tập Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới để tìm phương cách giải quyết những thách đố về hôn nhân và gia đình. Ngài đã thực hiện nhiều chuyến tông du mục vụ, chủ lễ bế mạc Đại Hội Gia Đình Thế Giới. Ngài cũng vừa ban tông huấn Niềm Vui Yêu Thương về tình yêu thương trong gia đình.
Ngài đã làm được quá nhiều việc trong một thời gian vắn vỏi ! Ngài thật là Mục Tử nhân lành, là hiện thân của Chúa Giêsu. Gương sáng, lời rao giảng và chứng tá của Đức Phanxicô đã khiến nhiều Giám Mục và Linh Mục quyết định sống theo “phong cách” của ngài, họ tự nhận là thuộc “thế hệ Phanxicô”, từ chối sống trong những tòa nhà sang trọng, tự lái xe, tự đi chợ nấu ăn, sống gần gũi người nghèo, giản dị như một người bình dân, đề cao và bảo vệ quyền lợi của những người thấp kém và trẻ em.
“Người thời nay tin vào những chứng nhân hơn thầy dạy, nếu họ tin thầy dạy, chính là vì thầy dạy ấy cũng đồng thời là chứng nhân” ( Đức Phaolô VI ). Một trăm bài giảng hay ho không giá trị bằng một việc làm nhỏ bé nhưng đong đầy yêu thương. Công cuộc Tân Phúc-Âm-hóa sẽ chỉ hiệu quả nếu người ta vừa nhận ra niềm tin nơi lời rao giảng, vừa nhận thấy tình yêu thương nơi hành động và phong cách sống của người ấy.
Mọi người kỳ vọng các Linh Mục sẽ giống Chúa Giêsu Mục Tử theo phong cách của Đức Phanxicô, sẽ là hiện thân của Đấng đến “không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Linh Mục được đánh giá theo như cung cách phục vụ của ngài : tận tụy, cần mẫn, trung tín, nhưng không ( vô vụ lợi ), sẵn sàng, nhanh nhẹn, quên mình.
Người Giáo Dân hôm nay không muốn thấy, không muốn có những mục tử 3 L ( làm sang, làm phách, làm biếng ), 3 T ( tình, tiền, tửu ), 3 Đ ( độc tôn, độc tài, độc đoán ), lè phè, hưởng thụ, lười biếng, chẳng quan tâm đến người khốn khổ, chất trên vai họ những gánh nặng, vô cảm trước những khổ đau của họ, sống xa cách người nghèo, không bênh vực người bị áp bức bất công, không đứng dậy đi ra khỏi nhà xứ để viếng thăm kẻ bệnh tật, người già nua, trẻ cơ nhỡ, để đem về đàn những con chiên lạc bầy đang lang thang trong hoang địa.
Vì Linh Mục là người của sự linh thánh, nên việc huấn luyện thiêng liêng là quan trọng nhất. Đức Thánh Cha Phanxicô đã phát biểu rằng, ngài muốn chủng sinh được đào tạo ưu tiên về mặt thiêng liêng, các mặt khác cũng quan trọng: nhân bản, vì Linh Mục cũng là một con người như mọi người; trí thức, vì Linh Mục sẽ phải giảng dạy hướng dẫn người khác; mục vụ, vì đó là “nghề” của Linh Mục. Có thể nói, sau bao nhiêu năm tháng được huấn luyện như thế, Linh Mục là người hoàn hảo, hay theo cái nhìn chung của mọi người, là một người có tài có đức, giỏi giang.
Linh Mục phải là người có những nhân đức đối thần ( Tin-Cậy-Mến ), những nhân đức đối nhân ( Bác ái-Khôn ngoan-Công bằng-Can đảm-Tiết độ ), những nhân đức tôn giáo ( Các lời khuyên Phúc Âm, tha thứ, hiền lành, đạo đức, trung thành... ), những nhân đức nhân loại hay còn gọi là đức tính của con người theo quan điểm Á Đông: Nhân-Nghĩa-Lễ-Trí-Tín ( với tha nhân ), Cần-Kiệm-Liêm-Chính-Dũng ( với chính mình ).
Được đào tạo kỹ lưỡng như thế, Linh Mục hẳn phải đạt một mức độ cao trên “đàng nhân đức” mới phải lẽ. Cho nên khi thấy các Linh Mục không sống đúng với những đòi hỏi của chức vụ và đời sống thì chẳng trách Giáo Dân bất mãn, và dễ đi đến chỗ bài bác.
Linh Mục không tuyên khấn như các Tu Sĩ, nhưng cũng phải giữ đức thanh bần, khiết tịnh và vâng phục, không thụ động, miễn cưỡng, nhưng như lời Đức Phanxicô: “Những lời khấn khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục là “chứng từ vui tươi về tình yêu của Thiên Chúa”, khi chúng được cắm rễ trong lòng Chúa thương xót”. ( x. “Đức Ái mục tử”. Bài giảng tĩnh tâm Linh Mục Giáo Phận Phan Thiết 2016, Gm. Anphongsô Nguyễn Hữu Long ).
Cầu nguyện nhiều cho dân chúng
Các sách Tin Mừng cho thấy, Chúa Giêsu luôn cầu nguyện vào những giây phút quan trọng nhất trong cuộc đời của Người. Khi chịu Phép Rửa và nhận lãnh sứ mạng Chúa Cha giao phó ( Lc 3, 21 ); đêm trước khi chọn các môn đệ ( Lc 6, 12 ); trước khi biến hình ( Lc 9, 28 ); trước khi chữa bệnh cho nhiều người ( Lc 5, 16 ); trước khi đặt ra cho các môn đệ câu hỏi quan trọng: người ta bảo Thầy là ai?; khi dạy các môn đệ cầu nguyện ( Lc 11, 1-2 ); khi các môn đệ đi truyền giáo lần đầu tiên trở về; trước khi chịu thương khó ( Lc 22, 34-46 ); trong bữa Tiệc Ly; đêm thương khó; trên Thánh Giá ( Lc 23, 34.46 )…
Lời cầu nguyện đã nuôi sống tất cả sứ mạng của Người. Các Tông Đồ đã nhiều lần thấy Thầy cầu nguyện. Có lẽ khi Thầy cầu nguyện có một cái gì đó thật đẹp, thật huyền bí và cũng thật lôi cuốn tỏa ra từ nơi con người Thầy.
Vào một buổi sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Chúa Giêsu đã ra khỏi nhà ông Phêrô để tìm một nơi thanh vắng mà cầu nguyện ( Mc 1, 35 ). Chúa Giêsu phấn khởi trong Thánh Thần, Ngài ngước mắt lên trời và cầu nguyện: “Con ngợi khen Cha là Chúa trời đất, vì Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn những điều mà Cha giấu không cho những bậc khôn ngoan và trí thức biết” ( Lc 10, 21 ).
Chúa Giêsu ngước mắt lên Trời tâm sự với Chúa Cha rằng: “Con cảm tạ Cha vì Cha đã nghe lời con cầu xin. Vâng, con biết rằng lúc nào Cha cũng vẫn nghe lời con xin. Sở dĩ con nói thế là để những người đang đứng bên con đây tin rằng Cha đã sai con” ( Ga 11, 41-41 ). Đặc biệt là trong phòng Tiệc Ly, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời để cầu nguyện với Chúa Cha. Tâm sự ngỏ với Cha rất nhiều lời tha thiết ( Ga 17 ).
Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu quỳ gối và cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu đựoc thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng xin đừng theo ý con, xin chỉ thực hiện ý của Cha” ( Lc 22, 42 ). Lúc hấp hối trên Thánh Giá, Chúa Giêsu cầu nguyện gởi lên Cha ba lời tâm sự tha thiết: Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm; Lạy Cha, sao Cha bỏ con ?; Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha.
Chúa Giêsu dạy phải cầu nguyện như Người hằng cầu nguyện ( Lc 6, 12 ); cầu nguyện cho các địch thù ( Lc 6, 28; Mt 5, 34 ); kiên trì và tin tưởng cầu nguyện ( Lc 11, 5-8.9-13; Mt 7, 7-11 ); cầu nguyện với lòng khiêm tốn để nhận ơn tha thứ ( Lc 18, 9-14 ); vững tâm cầu nguyện đón chờ ngày Chúa đến ( Lc 21, 36 ); cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ ( Lc 22, 40.46 )...
Khi các môn đệ xin Người dạy cách cầu nguyện, Người dạy họ cầu nguyện với kinh Lạy Cha ( Lc 11, 2-4; Mt 6, 9-13 ). Chúa Giêsu mang theo cả nhân loại trong lời cầu nguyện của mình. Người nói chuyện với Chúa Cha, bàn bạc với Chúa Cha về những việc Người làm cho công cuộc cứu độ nhân loại.
Chúa Giêsu phán: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” ( Ga 15, 5 ).
Mục tử luôn kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu là có một sự hiểu biết sâu xa về Ngài do đã gặp gỡ và sống với Ngài thực sự. Khi Thánh Phêrô tìm người thay thế Giuđa Iscariốt, ngài đã nói với cộng đoàn: “Trong số những anh em đã cùng chúng tôi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được Ông Gioan làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời, phải có người trở thành chứng nhân cùng với chúng ta làm chứng Người đã phục sinh” ( Cv 1, 21-22 ).
Với những lời trên đây, Thánh Phêrô, khi chọn người mục tử thay thế Giuđa, đã chỉ đưa ra một tiêu chuẩn là: người đó đã phải cùng sống với Chúa Giêsu và đã tham dự cuộc đời cứu thế của Ngài, một đời mặc lấy thân phận đoàn chiên, yêu thương đoàn chiên, cứu độ đoàn chiên và còn hơn nữa, như lời Ngài nói: “Ta còn có những chiên không thuộc đoàn này. Ta cũng phải đưa chúng về” ( Ga 10, 16 ). Ngài cũng khẳng định: “Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” ( 10, 11 ).
Muốn được như vậy, người mục tử phải có những tâm tình của Chúa Giêsu. Nhất là sự khiêm nhường. Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ hãy học với Ngài, đặc biệt là về đức tính“hiền lành và khiêm nhường” ( Mt 11, 29 ). Chính Ngài đã cứu chuộc loài người bằng sự hiền từ khiêm tốn, vâng phục thánh ý Chúa Cha.
Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn, là sự sống, là sức mạnh của đời mục tử. Cầu nguyện là lẽ sống và có một tầm quan trọng đặc biệt trong cuộc sống mục tử. Lời cầu nguyện chỉ thực sự có giá trị và sức mạnh khi phát xuất từ một đức tin có chất lượng và sống động. Mục tử cầu nguyện, hãm mình, đền tội cho giáo dân theo gương cha Thánh Gioan Vianney.
Hy sinh tính mạng vì anh em mình
Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi là Mục Tử Tốt Lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của Tôi biết Tôi. Mục Tử Tốt Lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên”. Chúa Giêsu là vị Mục Tử Tốt Lành, là Đấng bảo vệ đoàn chiên, yêu thương săn sóc và hy sinh mạng sống cho đàn chiên, là nền tảng, là mẫu mực cho mọi vị chủ chăn tương lai được Ngài trao quyền chăn dắt đoàn chiên, tiếp nối sứ mạng Mục Tử của Ngài.
Chúa Giêsu so sánh mục tử và người làm thuê. Mục tử tốt lành luôn hết mình vì đàn chiên. Người làm thuê chỉ lo vun quén cho bản thân. Mục tử hy sinh cho đàn chiên. Người làm thuê chỉ đến để xén lông chiên. Mục tử luôn tìm kiếm nguồn nước và đồng cỏ xanh tươi cho đàn chiên no đầy. Người làm thuê chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chính bản thân mình, sống hưởng thụ, lười biếng và thiếu trách nhiệm đến sự sống còn của đàn chiên.
“Trong bài giảng Lễ Dầu năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khuyên các Linh Mục: “Cha mời gọi các con điều này, các con hãy là những người chăn chiên có mùi của chiên. Người chăn chiên thì có mùi chiên, làm cho cái mùi ấy thành cái mùi thực, giống các người chăn chiên ở giữa đoàn chiên của các con. Mùi của chiên chỉ có được bằng cách sống các thực tại đời sống hàng ngày của họ, các bối rối khó khăn của họ, các niềm vui của họ, các gánh nặng và các hy vọng của họ”.
Đức Thánh Cha nhấn mạnh thêm rằng mùi ấy cũng có thể phát sinh từ các yêu cầu bất tiện, đôi lúc hoàn toàn vật chất hay hoàn toàn tầm phào. Người chăn chiên phải nhận thức và đồng cảm với ý muốn của đoàn chiên, như Chúa Giêsu đã nhận thức và đồng cảm cái đau ra huyết trắng của người đàn bà khốn khổ trong Tin Mừng. Muốn có cái mùi ấy, các mục tử phải ra khỏi con người mình, phóng mình tới những vùng ngoại biên nơi có đau khổ, đổ máu, mù lòa, giam cầm đủ loại. Mục tử phải cảm nhận được các gánh nặng và bộ mặt của quần chúng Giáo Dân, trên vai và trong trái tim mình” ( Vũ Văn An: Đức Phanxicô và mùi chiên, Vietcatholic.net, 4/1/2013 ).
Linh Mục cũng được đánh giá theo như ngài có hay không lòng thương yêu, hy sinh cho đoàn chiên của ngài.
Chúa Nhật IV Phục sinh, ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh Mục và ơn gọi Tu sĩ nam nữ. Giáo Hội luôn cần đến những mục tử tốt lành. Hãy cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều mục tử đạo đức, thánh thiện như lòng Chúa mong ước. Mục tử tốt lành luôn sống kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, luôn khát khao và cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, vị mục tử tốt lành biết rõ đàn chiên, yêu thương đàn chiên và sẵn sàng hiến mạng vì đàn chiên. Từ đó, vị mục tử tốt lành biết nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực có chất lượng cao đặc biệt là cử hành Thánh Thể sốt sắng và nhiệt thành trong Bí Tích Hòa Giải.
Linh Mục là Mục tử, người chăm sóc phần hồn các tín hữu. Một sứ mạng rất cao quý. Linh Mục noi gương Chúa Giêsu Mục Tử Tối Cao, tận tình phục vụ tha nhân qua công việc mục vụ với đức ái mục tử. Đây là linh đạo của Linh Mục Giáo Phận.
Cha sở Gioan Vianney “là mục tử đã sống hết tình với anh em, cầu nguyện nhiều cho dân chúng, đã hy sinh tính mạng vì anh em mình”, ngài là Bổn Mạng các Linh Mục. Hôm nay ngày cầu nguyện cho các mục tử, xin ngài giúp anh em Linh Mục chúng con luôn biết sống theo gương sáng mục tử của ngài. Amen.
Lm. Giuse NGUYỄN HỮU AN
------------------------------------
Chúa Nhật hôm nay được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, là ngày dành cầu nguyện đặc biệt cho ơn gọi giáo sĩ và tu sĩ. Hình ảnh mục tử chăn dắt đàn chiên thường được dùng để diễn tả những người có trách nhiệm lãnh đạo Giáo hội, có nhiệm vụ chăm do đời sống giáo dân. Hình ảnh này được bắt nguồn từ trong Cựu Ước. Tiên tri Ezêkiel đã dùng hình ảnh đàn chiên và chủ chiên để báo trước rằng Chúa sẽ đến dẫn dắt Israel như mục tử chăn dắt đàn chiên. Đến thời Tân Ước, Chúa Giêsu cũng tự xưng Thầy là mục tử tốt lành.
Hình ảnh mục tử có vẻ xa lạ đối với người Việt nam hôm nay. Nhưng đối với người Palestine thời ấy, đầy là hình ảnh rất đẹp. Nó diễn tả sự gần gũi, quan tâm chăm sóc hết mình trong liên hệ chủ chăn và đàn chiên. Sự hiện diện gắn bó của mục tử đối với đàn chiên là không thể thiếu.
Đời sống của mục tử tại Palestine rất vất vả. Không có bầy chiên nào dám ăn cỏ nếu không có người chăn chiên bên cạnh. Vì thế, người chăn chiên không hề được nghỉ ngơi. Những vùng cỏ ít, chiên phải đi dông dài, không hàng rào bảo vệ, người chăn phải luôn luôn dõi theo đàn không rời mắt. Công việc của người chăn chiên không chỉ có tính cách thường trực mà còn có khả ngăn gặp nhiều nguy hiểm nữa. Phải tìm cách chống trả với những bầy thú dữ như sói , hay những lần phải đối mặt với những tên trộm cướp đến bắt chiên. Có thể nói những đặc điểm nổi bật nhát của người chăn chiên là: thường xuyên canh thức theo dõi, can đảm không sợ hãi, khiên nhẫn yêu thương bầy chiên mình.
Vì những đặc điểm ấy, Chúa Giêsu đã lấy người chăn chiên để nói về chính bản thân Ngài. Ngài đến trần gian và hy sinh tất cả cho đàn chiên là những con người yếu hèn, tội lỗi. Chúa Giêsu là người chăn chiên tốt lành. Ngài sẵn sàng hy sinh mạng sống để tìm và cứu vớt những con chiên đi lạc xa đàn ( Mt 18,12; Lc 15,4). Ngài động lòng thương xót dân chúng vì họ như chiên không có người chăn dắt (Mt 9,36; Mc 6,34). Chúa Giêsu chính là vị mục tử trung thành của Thiên Chúa. Ngài đã tự nguyện đón nhận săn sóc bầy chiên chứ không phải làm cách miễn cưỡng, làm vị nhiệt tình chứ không vì ham lợi, không lạm dụng địa vị để đánh đập ức hiếp đàn chiên nhưng nều gương lành yêu thương trìu mến.
Người ta bảo, mối liên hệ giữa chiên và người chăn chiên ở Palestine rất khác ở Anh quốc. Ở Anh người ta nuôi chiên để giết lấy thịt. Còn ở Palestine thì không, nuôi chiên để lấy lông làm len. Vì thế mà chiên được sống nhiều năm hơn vớichủ nên có mối liên hệ thân tình. Thân tình đến độ chiên biết rõ tiếng chủ và chủ biết rõ đắc điểm của từng con chiên. Đối với chủ chăn Giêsu, Ngài không chỉ biết nhưng còn quan tâm, tích cực hơn nữa Ngài còn ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ diệt vong. Đây là một ân huệ lớn lao cho những chiên nào thuộc đàn của mục tử Giêsu.
Ngày nay, Giáo hội có những người tiếp tục công việc chăn dắt của Chúa Giêsu. Đó là những Giám mục, Linh mục, tu sĩ. Họ là người tự nguyện dấn thân bước theo vị mục tử Giêsu. Chúng ta cầu nguyện cho họ có nhiều nghị lực trung thành phục vụ Hội thánh Chúa. Giáo hội ngày nay rất cần những mục tử, nhất là những mục tử tốt lành: những mục tử sẵn sàng xả thân vì đàn chiên, những mục tử quan tâm chăm lo đàn chiên, những mục tử luôn thao thức phục vụ đàn chiên để "chiên được sống và sống dồi dào".
Thực tế, giới trẻ ngày nay dường như chẳng mấy quan tâm đến ơn gọi làm linh mục tu sĩ. Có nhiều lý do khiến các bạn trẻ chẳng màn gì đến ơn gọi: Chính từ nhận thức và hoàn cảnh sống làm cho họ ngại ngùng khi nói đến dấn thân hay từ bỏ. Trong gia đình ít con, con cái có học vị cao thì cha mẹ không dễ gì cho con cái đi tu. Vì sợ chúng phải khổ sở và không muốn chúng bị "xuống đời". Giới trẻ cũng quên nếp sống tự do, tự lập nhiều sáng tạo, sáng kiến. Chính vì thế, họ sợ gặp căng thẳng với nếp sống kỷ luật và hình thức tu trì hiện nay. Nhiều bạn trẻ cảm thấy tiến trình thành người linh mục, tu sĩ quá nhiêu khê, đòi hỏi phải từ bỏ nhiều thứ quá và họ sợ không thể làm nổi. Do đó, dù cho họ có tinh thần dấn thân phục vụ đi chăng nữa nhưng trước những khó khăn, thách đố cuộc sống dễ làm cho họ ngó lơ, miễn bàn khi nhắc đến đời sống tu trì dấn thân.
Chúa Giêsu luôn mời gọi mỗi người tiếp bước theo Ngài trong nhiệm vụ chăn dắt. Hình ảnh Mục tử nhân lành Giêsu sẽ không mờ nhạt đi nếu Giáo hội vẫn còn những con người dám xả thân phục vụ vì hạnh phúc con người, vì tương lai của Giáo hội và vì lý tưởng cao đẹp là mỗi ngày có thêm nhiều người nhận biết Thiên Chúa là tình yêu.
------------------------------------
Năm 1964 dư luận thế giới xôn xao bàn tán về kịch bản tựa đề "Vị Đại Diện" Trong đó, soạn giả Hóc-hút kết án Đức Giáo Hoàng Piô XII là đồng lõa với Đức Quốc Xã nên đã không hề lên tiếng bênh vực người Do Thái trong thời thế chiến II. Rồi tất cả những người thù nghịch Tòa Thánh Vatican đã nhao nhao hùa vào bôi nhọ gương mặt của Đức Piô XII và đả kích Giáo Hội. Nhưng một năm sau đó, linh mục Rosaria Espuslto đã cho xuất bản cuốn sách tựa đề "Vụ án Vị Đại Diện" thu thập rất nhiều tài liệu và chứng từ chứng minh cho thấy cái sai lầm của những lời kết tột nói trên.
Thật ra, qua các Tông huấn và hàng trăm thư từ và cả các sứ đíệp đọc trên đài Vatican, Đức Piô XII đã nhiều lần kết án Đức Quốc Xã về quyền con người và các vụ tàn sát do Đức Quốc Xã chủ mưu cũng như bênh vực và cứu hàng ngàn người Do Thái khỏí chết. Và hình ảnh khó quên nhất là khi thủ đô Rô-ma bị quân Đức Quốc Xã bỏ bom, Đức Piô XII đã rời thành Vatican đến uỷ lạo dân chúng bí chết và bị thương trên quảng trường trước nghĩa trang Pam-pu-pi-ra-nô giữa tiếng bom đạn nổ chung quanh. Trong tình hình chiến sự nguy ngập và với những phương tiện eo hẹp của thơì thế chíến II, Đức Piô XII đã hành động như một Vị Mục Tử nhân lành.
Mục Tử nhân lành hiến mạng sống mình cho đoàn chiên. Đây cũng là đề tài nổi bật của các bài đọc Phụng vụ CN IV Phục Sinh Năm A.
Trong bài Tin Mừng: Chương 10 Tin Mừng Gio-an vẫn được gọi là Tin Mừng Mục Tử nhân lành được khai triển theo một lược đồ quen thuộc trong nền văn chương Khải huyền. Lược đồ đó gồm ba nhịp: Lời Mạc khải - Thái độ không hiểu của cử tọa - Lời Mạc khải mới. Khác với các Tin Mừng Nhất Lãm nhấn mạnh trên việc săn sóc đoàn chiên và niềm vui của sự hoán cải, Tin Mừng theo thánh Glo-an nêu bật các mối liên hệ cá nhân, thân tình của vị Mục Tử và từng con chiên. Tất cả những hình ảnh Thánh kinh: Mục Tử,.., đoàn chiên và các chiên cũng như các động từ để diễn tả mối tương giữa Thiên Chúa với loài người với cộng đoàn Giáo Hội, dân riêng của Thiên Chúa, trong nhãn quan Kitô.Hình ảnh Chúa Giêsu Mục Tử nhắc nhở hình ảnh Thiên Chúa Mục Tử hướng dẫn dân Do Thái ra khỏi cảnh nô lệ bên Ai Cập và đưa họ vào Đất Hứa như được tường thuật trong sách Xuất hành.
Mạc khải thứ nhất trong chương 10 Tin Mừng theo thánh Gio-an nêu bật sự khác biệt giữa Chúa Giêsu Mục Tử nhân lành và các người chăn thuê: Chúa Giêsu đi vào qua cửa chính chứ không đột nhập chuồng chiên bởi vì Người là chủ chăn có các mối liên hẹ thân tình với đoàn chiên, bằng chứng là Người biết và gọi trên từng con chiên một và các chiên biết tiếng gọi của Người. Động từ "biết" ở đây theo ngôn ngữ Thánh Kinh ám chỉ các liên hệ thân tình liên bản vị như liên hệ sâu thẳm khắng khít giữa hai vợ chồng.
Và Chúa Giêsu Mục Tử dẫn đưa đoàn chiên đi ra tới các đồng cỏ xanh tươi, Người hướng dẫn và đồng hành với đoàn chiên. Đây là một hình ảnh tuyệt đẹp diễn tả cuộc Xuất hành mới do Chúa Giêsu lãnh đạo Cộng đoàn của những người đi theo Người trong cuộc giải phóng này là cộng đoàn Phục Sinh, là Giáo Hội đã được Chúa Giêsu giải thoát khỏi tội lỗi và khỏi mọi sự dữ và cái chết. Sau phản ứng không hiểu của cử tọa, Chúa Giêsu tuyên bố mình là Cửa chiên. Lúc đó trong khi giảng dạy, Chúa Giêsu nhìn Cửa chiên là một hình ảnh của cửa thành thánh Giê-ru-sa-lem và đoàn tín hữu tiến qua cửa chiên đó để vào Đền thờ cầu nguyện và gặp gỡ Thiên Chúa. Vì thế khi tuyên bố mình!à Cửa chiên, Chúa Giêsu có ý nói Người là nơi mà qua đó con người bước vào trong tương quan trọn vẹn với Thiên Chúa. Người là ngôi lều bằng thịt nơi Thiên Chúa ngự trị và sống giữa dân người, đồng thời là trung gian cần thiết, nghĩa là Cửa chính qua đó con người tới được với Thiên Chúa.
Kiểu nói "Ta là" ám chỉ tên gọi của Thiên Chúa đã mạc khải cho ông Mô-sê trong sa mạc xưa kia: 'Ta là Đấng Hằng Hữu. Nói cách khác Chúa Giêsu tự xưng mình là Thiên Chúa. Chính vì thế nên ai tin vào Người, chấp nhận và sống Tin Mừng của Người sẽ được ơn Cứu độ. Lòng tin đó vào Chúa Gìê-su, Đền Thờ toàn vẹn của Thiên Chúa Cha bao gồm ba kết quả quan trọng:
Thứ nhất: nếu ai bước vào trong đó sẽ được cứu rỗi, nghĩa là ai chọn tôn thờ Thiên Chúa trong Thánh Thần và trong sự thật, tức là trong Chúa Giêsu Kitô, thì được thông phần trọn vẹn vào sự sống thần linh của Người, và vì thế được ơn cứu rỗi.
Thứ hai: người đó sẽ "vào, ra". Theo klểu nói của người Do Thái, hai động từ đối chọi này ám chỉ hai cực của cuộc sống con người: là ra khỏi lòng mẹ để chào đời, để bước vào trong lòng thế giới; là ra khỏi cuộc sống ở trần gian này để đi vào lòng đất. Nói cách khác, 'vào ra, ra vào' diễn tả toàn bộ cuộc sống của người tín hữu với Chúa Kitô, một cuộc sống của sự hiện diện và đồng hành với Chúa Kitô, một cuộc sống kết hiệp với Người trong mọi sự.
Thứ ba: tín hữu sẽ tìm thấy đồng cỏ xanh. Chúa Giêsu Kitô sẽ đáp ứng mọi khát vọng và chờ mong của họ và cho họ hưởng nếm những phút giây hạnh phúc trên đồng cỏ xanh tươi là Nước của Người. Điều đó còn có nghĩa là Người luôn luôn chăm sóc cho đoàn chiên của Người khác với "những kẻ trộm trèo qua cửa sổ" để cướp bóc và tàn sát đoàn chiên.
Chúa Giêsu Kitô Mục Tử nhân lành đến để trao ban cuộc sống của chính Người và niềm vui dồi dào cho những ai tin vào Người. Nhưng để có niềm tin trao ban sự sống và niềm vui ấy chúng ta phải làm gì?
Trong bài giảng cua thánh Phêrô trong ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, như ghi trong chương hai sách Công vụ Tông đồ, thánh Phêrô đề nghị với mọi người một chương trình hoán cải bao gồm các đểm giáo lý nền tảng như được rao giảng trong cộng đoàn Kitô tiên khởi. Muốn được hưởng ơn Cứu độ, người tín hữu phải lựa chọn Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của Người, nghĩa là lựa chọn Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của Người làm kim chỉ nam cho toàn cuộc sống. Quyết định này dẫn tín hữu đến chỗ thay đổi tấm lòng, thay đổi lối sống từ cách suy tư và hành xử, để cho Chúa Giêsu Kitô biến đổi toàn cuộc sống của mình.
Tiến đến cần lãnh nhận bí tích Rửa tội và Chúa Thánh Thần để được ơn tha tội và bước vào cuộc sống kết hiệp thân tình với Thiên Chúa. Như thế, khi được tràn đầy Chúa Thánh Thần, tín hữu trở thành một thụ tạo mới vì có trong mình một nguyên lý sự sống mới thần thiêng, siêu việt. Dân riêng mới phát sinh từ những người biết tìếp nhận Lời Chúa.
Nơi bài đọc II trích từ thư I của thánh Phêrô chỉ cho chúng ta một bí quyết khác giúp tín hữu đón nhận được sự sống mới, đó là chiêm ngắm dung mạo của Chúa Giêsu Kitô khải hoàn, vinh híển được diễn tả trong Kính thánh Cựu Ước là "Chiên Con" của Lễ Vượt Qua, là "Người Tôi Tớ Đau Khổ của Gia-vê Thiên Chúa" và là con dê đền tội trong lễ nghi xá giải xưa kia. Việc chiêm ngắm gương sống của Chúa Giêsu Kitô khiến cho tín hữu dấn thân sống xác tín bằng lòng tin sâu đậm hơn. Khổ đau mà họ phải gánh chịu trong cuộc sống thường ngày không còn là một lời chúc dữ tối tăm nữa nhưng chất chứa môt mầu nhiệm phong phú cần phải khám phá ra với đôi mắt đức tin. Nếu chính câc vết thương đớn đau và khổ nhục của Cllúa Giêsu cbịu chết treo trên thập giá chữa chúng ta khỏi các thương tích do tội lỗi gây ra trong tâm hồn và cuộc đời chúng ta, thì giờ đây chúng ta có thể dùng mọi đau khổ trong đời để tiếp tục phổ biến ơn lành Cứu độ phát xuất từ cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Và đó là hoa trái tuyệt diệu và bất ngờ nhất của đức tin Kitô.
------------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Hằng năm cứ vào ngày Chúa nhật IV Phục Sinh, Hội Thánh mời gọi chúng ta, Kitô hữu đặc biệt cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Qua các con số thống kê, chúng ta nhận ra đây là một nhu cầu vừa chính đáng và hợp lý lại vừa mang tính cấp thiết. Tuy nhiên, dù có cấp thiết đến mấy thì Hội Thánh vẫn kiên trì chủ trương rằng cần "chất hơn là lượng". Chính vì thế mà không thể vì lý do thiếu hụt linh mục hay tu sĩ mà hạ thấp tiêu chí cũng như các yêu cầu của việc đào tạo. Xin được góp một vài suy nghĩ về vấn đề này dựa trên các bản văn Lời Chúa của ngày Chúa Nhật IV Phục Sinh. Cụ thể, xin chia sẻ đôi nét về biện chứng mục tử nhân lành và con chiên ngoan hiền.
Nói đến biện chứng là nói đến một trong những "học thuyết mang tính triết học về các mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển, hay là khoa học về các quy luật vận động và phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy" (Tự Điển Bách Khoa Việt Nam-1995). Biện chứng pháp được xây dựng chủ yếu trên quy luật vận động, sự biến đổi của sự vật, hiện tượng và những ảnh hưởng tương tác giữa chúng. Cái nhìn này không phải là mới lạ với khám phá của Hégel hay Karl Marx, nhưng đã bàng bạc sẵn có trong các hệ tư tưởng Đông phương như quy luật âm dương, bát quái, ngũ hành hay sắc sắc không không... Không muốn đi sâu vào lãnh vực chuyên môn mang tính triết học, nhưng xin góp cái nhìn theo một góc độ cha ông chúng ta cảm nghiệm: "có con rồi mới có cha; có cháu rồi mới có ông, có bà".
1. Để là mục tử nhân lành, cần phải là chiên ngoan hiền:
Chúa Kitô đã minh nhiên khẳng định Người chính là mục tử nhân lành (Ga 10,11). Tuy nhiên, để đảm nhận vai trò mục tử thì trước tiên Người đã vuông tròn vị thế con chiên hiền ngoan. Thánh Phêrô giới thiệu Đức Kitô như là con chiên tinh tuyền, hiền lành, gánh tội gian trần. "Người không hề phạm tôi; chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe, nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình. Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá..." (1P 2,21-24). Thánh Tông đồ cả kết luận rằng chính khi đảm nhận phận việc ấy thì đức Kitô đã chu toàn trách vụ "vị mục tử, Đấng chăm sóc linh hồn chúng ta" (c.25).
Chiên không đi theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn. Trái lại, chiên nhận biết tiếng mục tử và đi theo mục tử. Dưới cái nhìn này thì Chúa Kitô là một con chiên đích thực vì "lương thực của Người là thi hành thánh ý Cha trên trời" (x.Ga 4,34). Cho dù mồ hôi tuôn ra pha lẫn máu, Con chiên tinh tuyền Giêsu Kitô vẫn một mực "xin đừng theo ý con, một vâng theo thánh ý Cha mà thôi" (x.Lc 22,39-44).
2. Để là con chiên hiền ngoan, cần phải có tấm lòng mục tử nhân hậu:
Chúa Kitô không minh nhiên giới thiệu mình là con chiên, nhưng cuộc đời của Người, đặc biệt cuộc hiến tế thập giá của Người mặc nhiên khẳng định Người là con chiên vượt qua của giao ước mới. Trong khi đó vị ngôn sứ cao trọng hơn mọi ngôn sứ là Gioan Tẩy giả đã long trọng giới thiệu Chúa Kitô là "Chiên Thiên Chúa" (Ga 1,36).
Để thực thi phận vụ "Con Chiên Thiên Chúa", Chúa Kitô đã sống tình một mục tử tốt lành, nhân hậu. Người chạnh lòng thương xót khi thấy đoàn lũ đông đảo như chiên không người chăn (x.Mc 6,34). Người nhiệt thành đến quên cả ăn uống để băng bó thương tích cho đoàn chiên (x.Mc 3,20), để dẫn chiên đến đồng cỏ xanh, nguồn suối mát. Người hiến dâng mạng sống vì đàn chiên và mong sao không một con chiên nào lạc đàn (x.Ga 10,11;14). Lẽ sống của người mục tử chính là sự sống, sự phát triển của từng con chiên và của đàn chiên. Chính vì thế, người mục tử là người "biết" chiên tức là gắn bó mật thiết với chiên, sẵn sàng chung thân, đồng phận với chiên, lấy sự sống của chiên làm nguồn sống của mình.
Vài tâm tình hướng đến các mục tử (giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ):
Diễn ý câu nói của Thánh Giáo phụ Âugustinô: Cho anh em, tôi là mục tử (giám mục). Cùng với anh em, tôi là con chiên (tín hữu). Để các ngài, các vị chu toàn bổn phận mục tử Chúa giao phó thì ta hãy cầu xin cho các vị, các ngài trước hết biết sống vuông tròn vị thế con chiên:
- Hiền lành: Trưởng thành nhân cách, vững vàng các nhân đức nhân bản. Điều này không phải được ngay một sớm một chiều hay nhờ lãnh nhận chức này, vụ kia. Nhưng cần phải trau dồi, luyện tập liên lĩ. Học xong một giáo trình các nhân đức nhân bản với điểm số tối đa mà vẫn là người thiếu nhân bản là chuyện rất bình thường.
- Vô tì tích: Dĩ nhiên, ngoại trừ Mẹ Maria được Chúa giữ gìn thì phận người khó tránh lỗi lầm. Để ngày càng thêm thanh sạch, vô tì tích, thì không gì hơn "hãy đem những cái bên trong ra mà phân phát (lòng quảng đại)" (x.Lc 11,41).
- Ngoan ngoãn: biết luôn vâng theo ý Chúa. Để sống và hành động theo thánh ý Chúa thì tiên vàn cần có một đời sống cầu nguyện chuyên chăm và một tâm hồn "dễ bảo" dưới tác động của Thánh Thần.
Vài tâm tình hướng đến những ứng viên ơn thiên triệu linh mục, tu sĩ:
Khi nhận ứng viên vào Tu viện hay Chủng viện, các vị hữu trách thường dò xét các ý hướng của ứng viên. "Con đi tu để làm gì?" Một câu hỏi thường gặp nhằm lượng giá ý hướng các ứng viên. Các vị hữu trách thường dễ hài lòng trước các câu trả lời mang tính cống hiến, phục vụ vị tha hơn là những câu trả lời hàm chứa sự vị kỷ cho dù đó là lợi ích cá nhân rất là thiêng thánh như đi tu để được rỗi linh hồn. Thánh Công Đồng dạy: "Việc giáo dục toàn diện các chủng sinh nhằm huấn luyện cho họ thực sự thành những vị chăn dắt các linh hồn... (tức là các mục tử)" (ĐT số 4). Ước gì các tu sinh, chủng sinh có được chút tâm tình của người mục tử ngay khi còn mài đũng quần ở tu viện hay chủng viện. Đó là tâm tình của người mục tử:
- Biết cống hiến hơn là hưởng thụ: "Con Người đến không phải để cho người ta hầu hạ nhưng để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc muôn người" (Mc 10,46; x. Ga 13,12-17).
- Nhiệt thành: Sẵn sàng đi trước trong các việc khó mà đó là những việc phải làm, đáng làm và nên làm.
- Biết đồng cảm, đồng phận với tha nhân, đồng loại và nhất là với những người nghèo, người bất hạnh... "Quả vậy, thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người trong các mối tương quan với Thiên Chúa để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội. Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối..." (Dt 5,1-3).
Có thể nói rằng hơn bao giờ hết, nhân loại chúng ta hiện nay đang vào giai đoạn thích hưởng thụ và tìm đủ cách đủ kiểu để hưởng thụ. Chính vì thế, đời sống cống hiến dường như đang vắng bóng dần. Một điều chắc chắn là nhân loại, xã hội mọi thời, đặc biệt hôm nay đang rất cần những con người sẵn sàng cống hiến, những cuộc đời biết hiến dâng. Chính vì thế ơn thiên triệu linh mục, tu sĩ vẫn mãi là ơn chúng ta cần kiên trì cầu xin. Tuy nhiên sự cầu xin của chúng ta không được phép dừng lại ở thái độ thầm thỉ, chấp tay hay móc túi để góp tiền, mà còn phải biết mở miệng, nắm tay để dệt xây những mục tử biết vuông tròn phận vụ con chiên hiền ngoan và những con chiên luôn ắp đầy tâm tình mục tử tốt lành.
------------------------------------
(Suy niệm của Phêrô Phạm Văn Hoành)
Theo truyền thống của Giáo Hội, chúa nhật thứ tư phục sinh được gọi là “Chúa Nhật Chúa Chiên Lành”. Yếu tố cơ bản trong ngày lễ hôm nay, Giáo hội mời gọi nơi mỗi người chúng ta hãy hướng về hình ảnh Người Chủ Chăn với đàn chiên. Người chủ chăn hiền lành và tốt bụng đã theo sát đàn chiên của mình trong hơn hai ngàn năm qua.
Trình thuật Tin Mừng hôm nay, thánh sử Gioan đã cho chúng ta thấy cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người Do thái. Mấu chốt của cuộc đối thoại là Chúa Giêsu đã chân nhận mình là CỬA của đoàn chiên. Người đến thế gian để rao truyền chân lý, những lời Người nói, những việc Người làm không phải để lên án thế gian, nhưng để kiện toàn. Hầu làm cho thế gian được sống và sống dồi dào. Bên cạnh đó, bài Tin Mừng cũng cho chúng ta thấy thái độ của Chúa Giêsu với dân Do Thái, một dân tộc chỉ dựa vào lề luật cứng nhắc của mình để thờ phượng Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã lên án họ và cho họ là kẻ trộm, kẻ cướp. Họ thích ngồi trên toà của ông Môsê mà giảng dạy, họ quan niệm rằng, mình là những người có trách nhiệm hướng dẫn nhân danh Chúa, không ai có được quyền hành đó. Họ được phép ra luật, “Bó những gánh nặng mà chất lên vai người khác”. Họ là cửa để mọi người đi vào, theo họ, những người công chính là những người biết giữ trọn lề luật, vai trò ngôn sứ và giữ những tập tục cha ông. Nhưng thái độ của họ không xứng đáng trước mặt Thiên Chúa, thiếu trung thực và gian dối. Chúa Giêsu đã thẳng thắn nói với họ rằng “Các ngươi khoá cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng không thể để cho họ vào” (Mt 23,13).
“Tôi là cửa cho chiên ra vào” (Ga 10, 7). Đức Kitô đã khẳng định mình chính là cửa, trong cánh cửa đó Người luôn mời gọi con chiên của Người, bởi vì, Người là đường, là sự thật và là sự sống. Chúng ta chỉ có cuộc sống đích thực, khi chúng ta biết đi trong con đường của Người, chúng ta chỉ có thể biết được chân lý về Người, nghĩa là chúng ta chỉ có thể biết được mình bởi đâu mà hiện hữu, rồi sẽ đi về đâu và phải sống như thế nào? Đó là chúng ta chỉ có sự sống trong và nhờ vào Đức Kitô mà thôi.
Trong thế giới ngày hôm nay, con người vẫn khát khao tìm kiếm Chúa, thế nhưng, ở thời đại nào cũng có tiên tri giả, thời đại nào cũng tồn tại những thứ mà Tin Mừng hôm nay được Chúa Giêsu gọi là quân trộm cướp. Họ không qua cửa là Chúa Giêsu để dẫn đến cuộc sống đích thực, mà chỉ sống trong sự dối trá, hay những thực tại trần thế .
“Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống, và sống dồi dào” (Mt 10,10). Hình ảnh Người Chủ Chăn đang dẫn đàn chiên đến một đồng cỏ xanh tươi, đến bên dòng suối mát để cho chiên tha hồ bổ dưỡng. Và theo năm tháng, những con chiên đó được lớn lên khoẻ mạnh trong bàn tay yêu thương và tận tuỵ của Vị chủ chăn vì: “chiên của tôi thì nghe tiếng tôi” (Ga 10,27). Vậy, khi chúng ta khước từ Chúa, loại trừ Người ra khỏi cuộc sống, thì chính là lúc chúng ta tự kết liễu đời mình, cuộc sống trở thành vô vị, mất điểm tựa, chạy theo những thứ hư ảo, để rồi cuộc sống cứ trượt dài trong thế sự.
Đức kitô là vị mục tử nhân lành, nơi Người ẩn chứa một tình yêu cao cả. Tình yêu đó được kết tinh trong Ba Ngôi Thiên Chúa, Người đã thể hiện tình yêu đó qua cái chết và sự Phục Sinh của Người để cho nhân loại tin vào Người để được cứu độ. Thánh Phêrô đã không ngần ngại khi nói về Người rằng: “xưa kia, anh em như những con chiên lạc, nhưng giờ đây anh em đã về cùng với vị mục tử đấng canh giữ linh hồn anh em”
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, khi soi chiếu Lời Chúa hôm nay vào tâm hồn chúng con, chúng con nhận thấy rằng, có những lúc mình như những con chiên lạc, đang ngơ ngác giữa dòng đời, chúng con như đang xa rời Vị Chủ Chăn, bởi lối sống buông thả và thực dụng. Cái tôi bành trướng đang che phủ lấy con, nhiều lúc đã làm cho chúng con bất hoà hay kiêu căng với người khác. Và hơn thế nữa, chúng con đâu có biết Vị chủ chăn đang cất tiếng gọi và cánh tay không ngừng vẫy gọi chúng con trở về.
Ước gì, lời chúa qua bài Tin Mừng hôm nay, là lời mời gọi và thôi thúc chúng con đi theo Chúa Giêsu và sống như Người, để chúng con không những tìm được cuộc sống đích thực mà trở thành ánh sáng soi dẫn cho không biết bao nhiêu người chưa nhận biết Chúa và đang mò mẫm tìm kiếm đời sống vĩnh hằng.
Hôm nay, Giáo Hội cũng mời gọi chúng ta cầu nguyện cho ơn thiên triệu. Trong tâm tình đó, chúng ta cầu nguyện cho những vị mục tử đang sống và rao truyền chân lý của Chúa trong lòng giáo hội, luôn hướng đến sự trọn lành như lòng Chúa mong ước, để hướng dẫn cộng đoàn dân chúa đi qua cửa cứu độ đến cửa Nước Trời. Amen.
------------------------------------
Chúa nhật thứ 4 phục sinh được gọi là Chúa nhật Chúa Chiên lành và cũng là ngày thế giới cầu PS 4-A127 Dalat
Chúa nhật thứ 4 phục sinh được gọi là Chúa nhật Chúa Chiên lành và cũng là ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ.
Vì sao lại gọi Chúa nhật thứ 4 phục sinh được gọi là Chúa nhật Chúa Chiên lành và vì sao lại gọi hôm nay là ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ?
Hình ảnh mà các bài đọc hôm nay trình bày cho chúng ta là hình ảnh người mục tử nhân lành. Chúa Giêsu đã tự ví mình là vị mục tử đó: "Ta là người mục tử nhân lành" (Ga 10, 11). Ngài đã dùng hình ảnh quen thuộc để mạc khải lòng yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa đối với con người và nhất là sự chăm sóc bảo vệ của Ngài đối với những ai tin nhận Ngài.
Thế nào là một mục tử nhân lành? Chính Chúa Giêsu đã chỉ rõ cho thấy người mục tử nhân lành phải có những ưu phẩm như là biết chiên, mục tử phải biết tâm tính của từng con chiên, biết rõ tình trạng hiện tại của chúng khoẻ mạnh hay đau bệnh tật. Biết rõ từng con, biết từng đặc điểm của chúng nên dễ dàng gọi đúng tên từng con. Bên cạnh đó, mục tử phải biết chăm sóc chiên, mục tử dẫn chiên đến đồng cỏ xanh, đến suối nước mát trong; giữ chiên tránh xa chỗ hiểm nguy của hố sâu, của sói dữ hay thác ghềnh. Mục tử phải lùa chiên vào chuồng cho kịp trời tối. Quan tâm càng nhiều thì đòi hỏi sự nhạy bén và vất vả càng cao. Hơn nữa, mục tử phải có tinh thần hy sinh là dám hiến mạng cho đàn chiên. Hy sinh để bảo vệ cho đàn chiên, bảo vệ cao độ đến nỗi không còn nghĩ ngợi về bản thân mình cho đàn chiên, quan tâm sự sống của chiên con, đặt lợi ích sự sống của chiên trên mạng sống của mình. Có dấn thân trong hy sinh mới hy vọng mang lại kết quả tích cực. Có yêu mến đàn chiên thì mới mong có hy sinh. Đàn chiên Chúa đang và luôn cần những con người biết yêu thương và hy sinh như Mục tử Giêsu.
Mục tử nhân lành hy sinh bản thân mình để chăm lo cho đàn chiên được phát triển tốt. Xuất phát từ tấm lòng nhân hậu và đầy yêu thương của người mục tử đối với đàn chiên mình, Mục Tử Giêsu quan tâm, để hết tâm huyết, đặt hết tình cảm của mình vào đàn chiên. Ngài xứng đáng là mục tử nhân lành gương mẫu, Ngài chăm sóc đàn chiên không nhằm mục đích làm kinh tế, không nhằm để bán lông, bán thịt. Ngược lại, Ngài quan tâm chăm sóc hết từng con chiên: "Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta", Ngài quan tâm chăm sóc đến những nhu cầu căn bản của đời sống của chiên con để chúng được no đủ và được bảo vệ, được an vui và hạnh phúc: "Ta đến để chúng được sống và sống đời đời." (Ga 10,14-15 )
Vì thế, khi so sánh mình với người mục tử tốt lành, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta rằng: Ngài chính là tiêu chuẩn, là mẫu mực để xác định sứ mạng đích thực của những người được gọi và tuyển chọn cộng tác với Ngài trong sứ mạng coi sóc đoàn chiên là cộng đoàn những kẻ tin Chúa.
Hôm nay là ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Từ nhiều năm nay, Giáo Hội dành riêng Chúa Nhật thứ tư Mùa Phục Sinh để kêu gọi người Kitô hữu cầu nguyện cho ơn kêu gọi. Thật thế, ngày nay nhiều nơi trên thế giới đang cần linh mục, tu sĩ. Giáo Hội luôn cần đến sự chăm sóc của các mục tử nhân lành để đoàn chiên được sống trong đồng cỏ xanh tươi. Giáo Hội vẫn cần đến các tu sĩ sống đời thánh hiến, để thế giới hiểu được thế nào là tình yêu, thấy được những thực tại vô hình, và vươn lên khỏi cái tự nhiên, bình thường, hợp lý. Được làm Kitô hữu là một ơn gọi của Thiên Chúa. Mọi Kitô hữu đều có nhiệm vụ làm chứng cho Tin Mừng, nhưng một số người được mời gọi đặc biệt để dấn thân cách trọn vẹn hơn cho Nước Chúa và bắt chước Đức Giêsu tận căn hơn. Khi đã quen nghe tiếng Chúa trong Thánh Kinh, người trẻ sẽ dễ nghe được tiếng Chúa mời gọi vang lên từ sâu thẳm của con tim mình. Biết chuyên tâm cầu nguyện, dành ưu tiên cho đời sống tâm linh, coi trọng việc cầu nguyện riêng tư, lặng lẽ trước nhan Chúa, người trẻ mới dám đáp lại tiếng Chúa kêu mời, quên mình để phục vụ cho lợi ích của tha nhân, khao khát làm cho muôn dân trở thành môn đệ Chúa. Từ đó những bạn trẻ quảng đại sẽ được thúc đẩy dâng trọn đời mình để làm cho Chúa Kitô được nhận biết. Một Giáo Hội mạnh mẽ sẽ cho nhiều ơn gọi. Giới trẻ hôm nay không thiếu lòng quảng đại, không thiếu lý tưởng và những ước mơ cao cả. Họ cần có ai đó giúp họ gặp được Đức Giêsu, say mê con người Ngài, và chia sẻ nỗi bận tâm của Ngài về thế giới. Họ cần có ai đó giúp họ nghe được tiếng kêu của bao người đói khát chân lý và công lý, giúp họ cảm nhận được bổn phận lớn lao là xây dựng trái đất thành mái ấm yêu thương. Giới trẻ cần những người thầy, người bạn dám sống điều mình tin giữa muôn vàn khó khăn và giúp họ đứng vững trước cơn lốc của cám dỗ. Vì thế bổn phận truyền giáo là của mỗi người, hơn nữa, cộng đoàn cố gắng sống đức tin là vườn ươm ơn gọi để phục vụ Giáo Hội Chúa Kitô mà mỗi người đều có trách nhiệm cộng tác.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con những linh mục có trái tim mục tử nhân lành như Chúa. Xin cho mỗi người tín hữu chúng biết sống đức tin, cậy, mến và cho chúng con có những ơn gọi như Mục Tử Giêsu nhân lành. Amen.
------------------------------------
Nhân lành Mục tử Giêsu
Kiếm tìm chiên lạc ốm o gầy mòn
Đưa về an ủi, chăm nom
Sớm chiều lo liệu mọi phần cho chiên
Có câu chuyện kể rằng…
Một hôm, cậu lễ sinh vừa cười vừa tròn mắt nhìn linh mục xứ và nói: "Ôi, cha có mùi gì lạ thế ?" – "Mùi gì ?" – "Con không xác định được, nhưng hình như là mùi… heo !"
Linh mục cười và xoa đầu cậu bé: "À, tưởng gì. Cha mới tắm cho mấy con heo bên nhà hàng xóm, mùi heo là tất nhiên rồi !" – "Sao cha lại làm việc ấy ?" – "Không có việc xấu, chỉ có người xấu. Ông ấy đã già, không thân nhân, nuôi heo để sinh sống. Mấy hôm nay ông ấy bị mệt, cha phải giúp ông ấy thôi." – "Dạ, con hiểu rồi."
Hôm sau, cậu lễ sinh cười: "Ôi, hôm nay cha lại có mùi gì kỳ lắm. Mùi này tanh lắm !" – "À, hồi nãy cha đi thăm mấy bệnh nhân nằm liệt, không ai giúp đỡ, cha phải giúp họ vệ sinh cá nhân." – "Dạ, con hiểu rồi."
Tuần sau, cậu lễ sinh ngạc nhiên nói: "Mùi cha lúc này khác lạ lắm, cha ơi !" – "Thế con thấy mùi gì ?" – "Mùi này không hôi, không tanh, không khó chịu, mà thơm tho lắm, dễ chịu lắm !" – "Cái thằng này, mũi thính thế !" Cậu bé gãi đầu, ngập ngừng: "Nhưng…" – "Nhưng gì nào ?" – "Nhưng… con thích… ngửi mùi hôi… hơn mùi… thơm."
Linh mục tròn mắt: "Sao vậy ? Thơm không thích mà thích hôi à ?" – "Mùi hôi tanh là mùi thật. Mùi thơm là mùi giả. Cha hôi thì con còn muốn đến gần, cha thơm thì con không dám đến gần, vì cha sang trọng quá ! Chúa Giêsu cần chiên đen hơn chiên trắng, luôn gần gũi người nghèo khổ chứ đâu có thân thích với người giàu có !" – "Cha xin lỗi và cảm ơn con. Từ nay cha sẽ cố gắng giống Ngài hơn !"
Câu chuyện ngắn gọn nhưng chứa đựng triết lý sống tích cực về nhân bản. Thiên Chúa là tình yêu, là vị Mục Tử luôn chạnh lòng thương, và vì giàu lòng thương xót, Ngài chấp nhận bỏ 99 con chiên trắng để đi tìm cho được 1 con chiên đen ( Mt 18, 12-14; Lc 15, 4-7 ). Ngài không muốn ai phải sống èo uột, mà chỉ muốn mọi người được sống dồi dào, sống viên mãn, sống đúng nhân vị và nhân phẩm của con người, đồng thời cũng được hưởng nhân quyền và sự tự do đích thực – cả về xã hội lẫn tôn giáo. Muốn được vậy thì chắc chắn chúng ta phải “đi qua” Đức Giêsu Kitô.
Thật vậy, chỉ có Đức Giêsu Kitô là Con Đường duy nhất dẫn đến Chúa Cha ( Ga 14, 6 ) và là Nguồn Sống dồi dào ( Ga 10, 10 ) cho chúng ta. Đức Giêsu Kitô không chỉ nuôi sống chúng ta bằng ân sủng mà đặc biệt là chính Mình Máu Ngài để chúng ta được sống dồi dào, vì Ngài là Thiên Chúa của người sống chứ không là Thiên Chúa của người chết ( Mt 22, 32; Mc 12, 27; Lc 20, 38 ).
Tuy nhiên, nếu muốn có sự sống dồi dào thì mỗi cành-nho-chúng-ta phải nối kết với Cây Nho Thật để được truyền nhựa-yêu-thương ( Ga 15, 1-17 ). Cây càng có nhiều nhựa thì càng có nhiều sức sống, con người cũng vậy, đặc biệt là sự sống tâm linh, sự sống từ Thiên Chúa.
Khi được tái sinh bởi Đức Giêsu Kitô, người ta biến đổi hoàn toàn để trở thành một con người mới – tội nhân trở thành thánh nhân. Hồi đó, sau khi Chúa Giêsu đã phục sinh, ông Phêrô đứng chung với Nhóm Mười Một lớn tiếng nói với tất cả những người đang cư ngụ tại Giêrusalem, và lắng nghe những lời ông nói: “Toàn thể nhà Ítraen phải biết chắc điều này: Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô” ( Cv 2, 36 ).
Nghe thế, họ đau đớn trong lòng, và hỏi ông Phêrô cùng các Tông Đồ khác: “Thưa các anh, vậy chúng tôi phải làm gì ?” Biết hỏi như vậy là dấu hiệu tốt lành biết bao, vì chứng tỏ tâm hồn đã thực sự biết sám hối lỗi lầm, biết khao khát điều tốt, và biết ước muốn hướng thiện !
Thấy họ chân thành hỏi như vậy, ông Phêrô đáp: “Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần. Thật vậy, đó là điều Thiên Chúa đã hứa cho anh em, cũng như cho con cháu anh em và tất cả những người ở xa, tất cả những người mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi” ( Cv 2, 38-39 ). Ông Phêrô còn dùng nhiều lời khác để long trọng làm chứng và khuyên nhủ họ. Rồi ông nói: “Anh em hãy tránh xa thế hệ gian tà này để được cứu độ” ( Cv 2, 40 ). Những ai đã đón nhận lời ông thì đều xin được lãnh nhận phép rửa, muốn được tái sinh để hy vọng được vào Nước Trời ( Ga 3, 5 ). Thật kỳ lạ, ngay hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo. Việc Chúa làm thật lạ lùng vô cùng !
Ngày nay, chúng ta có phương tiện định vị toàn cầu giúp người ta không lạc lối, nhưng chỉ có Chúa Giêsu mới chính là “định vị kế” chuẩn mực nhất. Người nào nhận biết được như vậy thì sẽ an vui tín thác vào Ngài, để Ngài quan phòng và tiền định, vì người đó xác định: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” ( Tv 23, 1-3 ).
Chắc chắn người đó cũng luôn an tâm vững chí và hạnh phúc thân thưa: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” ( Tv 23, 4-6 ). Thật vậy, ai tuân giữ lời dạy của Đức Kitô thì không bao giờ phải lạc đường và cũng không phải chết ( Ga 8, 51 ).
“Lòng nhân hậu và tình thương của Thiên Chúa” không hề xa lạ, bởi vì đó chính là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa mà ngày nay đang rất phổ biến khắp nơi trên thế giới, từ thành thị tới thôn quê, từ người già tới người trẻ. Không ai không là tội nhân, và vì thế mà không ai lại không cần đến Lòng Chúa Thương Xót. Hằng ngày, khi cầu nguyện bằng Kinh Mai Khôi, chúng ta vẫn nhiều lần tha thiết cầu xin: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con, xin cứu chúng con cho khỏi hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên Thiên Đàng, nhất là những linh hồn cần đến Lòng Chúa Thương Xót hơn”. Nhưng cũng rất có thể vì quen quá hóa nhàm nên chúng ta không thực sự chú ý hoặc không cảm nhận lời cầu da diết như vậy.
Đời sống tâm linh được lồng trong đời thường, vẫn có đủ thất tình ( hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục ) theo bản tính phàm nhân. Do đó mà chúng ta luôn phải cố gắng không ngừng, sơ sảy một chút là té nhào ngay thôi. Đôi khi còn có những điều trái tai, gai mắt, và chúng ta phải “vượt qua chính mình”. Thánh Phêrô nói: “Nếu có tội mà anh em bị đánh đập và đành chịu thì nào có vẻ vang gì ? Nếu làm việc lành và phải khổ mà anh em vẫn kiên tâm chịu đựng, đó là ơn Thiên Chúa ban” ( 1Pr 2, 20 ).
Thật vậy ư ? Chúng ta hãy nghe Thánh Phêrô giải thích: “Anh em được Thiên Chúa gọi để sống như thế. Thật vậy, Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. Người không hề phạm tội; chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe; nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình” ( 1Pr 2, 21-23 ). Cái khó là “im lặng” và “phó thác” cho Chúa.
Chính Chúa Giêsu là Nguồn Sống nhưng Ngài đã chịu bị giết chết, không phải Ngài đáng bị như vậy, mà Ngài chịu thay cho chúng ta, Ngài chịu chết để chúng ta có cơ hội sửa sai và có thể phục sinh vinh quang như Ngài: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành. Quả thật, trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em” ( 1Pr 2, 24-25 ). Chúa Giêsu chết vì tội lỗi của chúng ta, nghĩa là chúng ta cũng phải dám chết cho tội lỗi của chính mình – và tội lỗi của người khác, nhờ đó mà được sống lại và được sống dồi dào trong Đức Giêsu Kitô Phục Sinh.
Chúa Giêsu là Con Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống ( Ga 14, 6 ), đồng thời Ngài còn là Cửa ( Ga 10, 9 ), chính Cửa này dẫn vào Nguồn Sống Dồi Dào của Thiên Chúa: “Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ” ( Ga 10, 1-5 ). Nghe Đức Giêsu nói vậy, người ta không hiểu Ngài nói gì.
Tất nhiên không chỉ khó hiểu đối với những người thuộc nhóm Pharisêu hồi đó, mà còn khó hiểu đối với cả chúng ta ngày nay, thậm chí có khi chúng ta còn không muốn hiểu. Thật vậy, những lời Chúa Giêsu nói nghe không thấy có gì “gay gắt”, nhưng thực ra hiểu rồi thì mới cảm thấy “đụng chạm” và “nhức óc” lắm, vì Ngài muốn nhấn mạnh đến tính chất cần thiết của Mục Tử Nhân Lành. Mục tử đó phải thể hiện lòng thương xót và dám liều mạng vì đoàn chiên. Nói đến lòng trắc ẩn, và đặc biệt trong Tháng Hoa, chắc hẳn nhiều người còn nhớ gương yêu thương sáng chói của Thánh tuẫn đạo Lm. Maximilian Maria Kolbe.
Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành đích thực, Ngài yêu thương mọi người, và Ngài chỉ muốn mọi người “đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” ( 1Ga 3, 18 ), nhất là những người được lãnh nhận tác vụ Linh Mục, họ cũng PHẢI là những mục tử nhân hậu, PHẢI biết phục vụ chứ không hưởng thụ ( Mt 20, 28 ), thế nhưng vẫn thấy có những người thích dùng quyền và ra lệnh hơn là khiêm nhường phục vụ vì yêu thương. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã từng cảnh báo các Giám Mục: “Mục tử có nguy cơ bị mê hoặc bởi viễn tượng nghề nghiệp, bởi cám dỗ về tiền bạc, và những thoả hiệp theo tinh thần thế gian”.
Có lần ngài nhấn mạnh rằng Giám Mục là người được chọn để phục vụ một Giáo Hội duy nhất, vì thế không được tìm kiếm một việc gì khác ngoài việc phục vụ Giáo Hội, và ngài đã nói thẳng: “Nếu tìm kiếm một việc gì khác thì chính Giám Mục đó đang ngoại tình”. Gương “Giám Mục sa hoa” Franz Peter Tebartz van Elst ( người Đức ) còn đó, và rồi ông đã bị đình chỉ nhiệm vụ hồi tháng 10 năm 2013. Chắc hẳn Mục Tử Giêsu buồn lắm !
Nhắc tới những điều “nhạy cảm” như vậy, có những người “nhột” ( chính họ nhột hoặc nhột dùm ), nhưng phải nhột như vậy mới có thể “thức giấc”. Chúng ta chỉ tâng bốc nhau bằng những lời khen sáo rỗng để lấy lòng nhau thì có ai lợi gì không, hay lại chỉ dìu nhau vào con đường mê lầm ? Dám nhìn thẳng vào sự thật mới là người yêu sự thật, và nhờ đó mới có thể thành nhân. Sợ sự thật hoặc tránh sự thật là đồng lõa với sự giả dối, đừng biện hộ vì thế này hoặc thế nọ, và cũng đừng ảo tưởng “chiếc bánh vẽ” nào đó !
Cũng vậy, khi đọc Lời Chúa thì người ta chỉ thích đọc những câu “vừa ý mình”, tránh những câu “chói tai” càng nhiều càng tốt. Người ta nói rất mạnh khi gặp đoạn Kinh Thánh không “chạm” tới mình, nhưng lại “bẻ lái” khi gặp đoạn Kinh Thánh “hóc búa”, vì có những câu “chạm” mạnh quá, nên họ cảm thấy… “nhột” lắm !
Lời Chúa là thế, có lúc khiến chúng ta vui mừng phấn khởi, nhưng có lúc làm chúng ta đau điếng. Nhưng có dám chịu “nỗi đau” đó thì mới khả dĩ “bừng cơn mê” mà sớm thành nhân. Chỉ có thuốc đắng mới “đã” tật !
Đức Giêsu là Mục Tử Nhân Lành và là Chúa Chiên Lành, Ngài xác định: “Tôi là cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp, nhưng chiên đã không nghe họ. Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” ( Ga 10, 7-10 ). Mục Tử Nhân Lành là vậy, luôn sống và hành động vì người khác, vì đoàn chiên. Ai không là chủ chiên nhân hậu như Đức Giêsu Kitô thì chỉ là “thợ chiên” ( chăn thuê ) mà thôi. Đi qua Cửa đó sẽ phải chịu “đau nhức” lắm đấy !
Liên quan sự viên mãn, Thánh Phaolô có mơ ước và cũng là lời kêu gọi: “Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Đức Kitô ngự trong tâm hồn; xin cho anh em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, để cùng toàn thể Dân Thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của Đức Kitô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy anh em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa” ( Ep 3, 17-19 ). Trong lời kinh hòa bình, Thánh nghèo khó Phanxicô Assisi đã nguyện ước thực tế mà sâu sắc: “Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người”. Và ngài tin chắc: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Đó chính là sự-sống-dồi-dào của những người tin thật Đức Giêsu Kitô là Thiên-Chúa-nhập-thể-làm-người, là Con-Thiên-Chúa-chịu-chết-và-phục-sinh.
Trong cuộc sống con người, những người thân thích được gọi là “họ máu”. Máu rất quan trọng. Máu có màu đỏ tươi, rất đẹp, và cũng rất đắt giá. Chúa Giêsu đã cứu độ chúng ta bằng Giá Máu. Chính nhờ Giá Máu đó mà chúng ta được phục hồi cương vị làm con và được hưởng sự sống dồi dào trong ân nghĩa với Thiên Chúa.
Hôm nay là Chúa Nhật CHÚA CHIÊN LÀNH, ngày cầu cho ơn thiên triệu dâng hiến – ơn gọi Linh Mục và Tu Sĩ. Ngày xưa, Đức Giêsu thấy đám đông thì chạnh lòng thương vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. Và Ngài đã nhắn nhủ với môn đệ: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” ( Mt 9, 37-38 ).
Lạy Thiên Chúa hằng hữu và giàu lòng thương xót, xin giúp chúng con biết sẵn sàng quên mình mà dấn thân vì chân lý, vì công lý, và vì tha nhân – nhất là vì những người hèn mọn.
Xin cho chúng con được sự sống dồi dào của Ngài, biết thể hiện sự sống đó bằng hành động cụ thể chứ không bằng lời nói suông, thực sự trở nên “Kitô khác” chứ không “khác Kitô”, chấp nhận chịu thiệt thòi và bị người đời ghét bỏ. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Ghi chú:
Thánh Maximilian Maria Kolbe, Linh Mục Dòng Phanxicô, sinh ngày 8.1.1894, chết vì đạo ngày 14.8.1941 tại trại tập trung Auschwitz của Đức Quốc Xã hồi Thế Chiến II. Ngài được tuyên xưng là vị tuẫn đạo bác ái, vì ngài đã động lòng trắc ẩn mà chịu chết thay cho một tử tù còn vợ con. Ngài được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyên Thánh ngày 10.10.1982, ngài được chọn làm Thánh Bổn Mạng của những người nghiện ma túy, các tù nhân chính trị, các gia đình, các ký giả, và phong trào Bảo Vệ Sự Sống. Ngài còn được tôn làm “Thánh Bổn Mạng của Thế Kỷ Khó Khăn” – tức là thời đại chúng ta đang sống. Ngài đã nỗ lực thúc đẩy phong trào tận hiến và phó thác cho Đức Mẹ, được mệnh danh là Tông Đồ Tận Hiến cho Đức Mẹ. Cái chết của ngài là đỉnh điểm của cuộc sống hoàn toàn tận hiến cho Đức Mẹ, và người ta gọi ngài là “Gã Khờ của Đức Mẹ”, bởi vì ngài đã làm mọi thứ cho Đức Mẹ.
------------------------------------
PS 4-A129: NGƯỜI MỤC TỬ NHÂN LÀNH
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH
Ga 10: 1-10
Ta thấy hình ảnh người chăn chiên là một diễn tả quen thuộc của lòng nhân từ, yêu thương. Trong Kinh PS 4-A129
Ta thấy hình ảnh người chăn chiên là một diễn tả quen thuộc của lòng nhân từ, yêu thương. Trong Kinh Thánh các tác giả Cựu Ước đặc biệt là Thánh Vịnh thường hay so sánh mối quan hệ giữa Giavê Thiên Chúa và dân Israel như người chăn và đàn chiên. Israel và đàn chiên Thiên Chúa chăm sóc trong đồng cỏ của Ngài.
Trong Cựu Ước, dân Do Thái thường dành tước hiệu này cho Thiên Chúa. Ngài chính là người mục tử, đã dẫn dắt họ qua sa mạc, qua biển Đỏ để tiến vào miền đất hứa. Ngài đã chăm sóc, dưỡng nuôi họ bằng manna, bằng chim cút, bằng suối nước vọt lên từ tảng đá. Như người mục tử gắn liền số mạng với đoàn chiên, thì Thiên Chúa cũng và đã luôn ở giữa dân Ngài để chia sẻ những buồn vui gian khổ với họ dưới sương sớm và nắng chiều.
Còn trong Tân Ước, hình ảnh người chăn và đàn chiên cũng được nhiều lần nói đến, đặc biệt là người chăn chiên được Chúa Giêsu tự đồng hóa mình với người chăn chiên nhân lành. Nỗi lòng của người chăn chiên cũng là nỗi lòng của Ngài. Một trong những diễn tả ấy được thánh sử Gioan ghi lại trong trang Tin Mừng hôm nay.
Chúa Giêsu cũng đã tự sánh ví mình như người mục tử nhân lành. Khác với những kẻ chăn thuê và giữ mướn, những kẻ trộm cướp và lợi dụng, người mục tử đích thực chỉ biết phục vụ đoàn chiên và giải thoát đoàn chiên khỏi mọi sự dữ. Đổi lại, con chiên nghe tiếng người mục tử, hăm hở đi theo và tỏ lòng yêu mến quyến luyến với người mục tử. Người ấy sẽ đi trước để bảo vệ đoàn chiên. Còn đoàn chiên thì theo sau một cách ngoan ngoãn, để rồi cuối cùng sẽ đến được nơi đồng cỏ xanh và nơi dòng suối mát. Chính Ngài đã phán: Ta đến để chúng được sống và được sống một cách dồi dào. Thực hiện mục đích ấy, Ngài đã phải trả bằng một giá rất đắt, bằng chính mạng sống của mình.
Ta là cửa chuồng chiên, ai qua Ta mà vào thì được cứu rỗi, người ấy sẽ tìm thấy của nuôi thân, Chúa Giêsu muốn nói lên rằng: Nơi Ngài, chúng ta sẽ gặp gỡ Thiên Chúa và anh em. Nơi Ngài, chúng ta được cứu rỗi và tìm thấy niềm hạnh phúc Nước Trời.
Chúa Giêsu nói rõ cho họ biết: "Ta là cửa chuồng chiên". Đức Giê-su là cửa chuồng chiên, cửa dẫn vào sự sống đời đời: “ Thật tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào”. Đức Giê-su đã tuyên nhận Ngài là cửa cho chiên ra vào , và bất cứ ai qua Cửa ấy mà vào thì sẽ được cứu độ. Đức Giê-su là Cửa chuồng chiên, Cửa ấy không luôn luôn đóng lại nhưng vẫn hằng mở ra. Cửa Đức Giê-su mở ra ơn cứu độ, mở ra suối nguồn sự sống và mở ra chân trời hạnh phúc cho tất cả những ai đi qua cửa mà vào. Cụm từ ‘tất cả những ai’, nghĩa là không phân biệtmàu da hay sắc tộc, Do-thái hay dân ngoại, bởi vì ơn cứu độ của Đức Giê-su có tính phổ quát, một ơn cứu độ dành cho toàn thể nhân loại.
Ta thấy Chúa Giêsu mạc khải cho họ biết con đường đi tới Chúa Cha như là cửa mà đàn chiên ra vào và được hưởng sự an toàn, được sống dồi dào. Còn những kẻ đến trước mà vào là kẻ trộm cướp nên chiên đã không nghe tiếng họ. Những người đến trước ở đây không phải là các ngôn sứ, nhưng là những người dựa vào sự khôn ngoan thông thái thế gian. Chính họ là những người Thiên Chúa dấu không cho biết những điều thuôc về ơn cứu độ. Trong thực tế, mặc dù bị áp đặt, nhưng người mù được Chúa Giêsu chữa lành không nghe lời người Pharisiêu và chỉ tin vào Chúa Giêsu. Vì họ là kẻ trộm đã giết hại chiên và phá hủy, còn Chúa Giêsu đến để chiên được sống và sống dồi dào.
Chúng ta là những người đang ở trong đàn chiên của vị Mục Tử – Giê-su, được diễm phúc làm con cái Thiên Chúa, được hưởng hạnh phúc, sự êm ái của đồng cỏ xanh, sự mát mẻ của dòng suối trong lành… trong khiđó còn có rất nhiều người chưa được ở trong đàn chiên của Chúa. Vậy, chúng ta đã nghĩ gì, có chương trình và kế hoạch như thế nào cho những người chưa đượcdiễm phúc làm con Thiên Chúa? Chúng ta đã cầu nguyện cho họ? Đã bao giờ chúng ta thao thức, ưu tư và thầm nguyện xin cho những người này sớm có được cơ may lắng nghe, nhậnbiết và tin vào Chúa để được hưởng ơn cứu độ?
Chúa Giêsu đã tóm tắt vai trò của Ngài, Ðấng chăn chiên với đàn chiên là hình ảnh cửa đàn chiên: "Ta là cửa, ai qua Ta mà vào thì sẽ được cứu độ". Ðây là hình ảnh quen thuộc của vùng Trung Ðông đối với các mục tử chăn chiên. Người mục tử nhân lành biết lo liệu cho đàn chiên của mình vào ban đêm và ban ngày, sẽ dẫn chiên tới đồng cỏ xanh tươi với dòng suối mát như tác giả Thánh Vịnh 22 vẫn hát lên "trong đồng cỏ xanh tươi Người cho tôi nằm nghỉ, Người cho tôi dòng nước trong lành".
Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên. Muốn đi vào đoàn chiên và phục vụ đoàn chiên thì người ta sẽ đi qua cửa chính mà vào, tất cả mọi lối đi vào khác đều là lối đi của quân trộm cướp. Qua hình ảnh này, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng, chỉ có một cung cách phục vụ duy nhất đó là phục vụ như Ngài đã phục vụ, nghĩa là sẵn sàng hiến thân cho và vì tha nhân mà thôi. Ai sống và phục vụ như Chúa Giêsu thì kẻ ấy thuộc về Ngài, còn ai sống ngược lại cung cách phục vụ của Ngài thì kẻ ấy chỉ là quân trộm cướp mà thôi.
Chúa Giêsu là cửa để qua đó từng con chiên vào và được nghỉ qua đêm an toàn. Chính nơi cửa, người mục tử sẽ cầm gậy để kiểm từng con chiên, không để một con nào bị lạc mất. Chúa Giêsu là cửa, qua đó các con chiên được dẫn đi ăn mỗi buổi sáng, để các chiên nghe và nhận biết tiếng gọi của chủ chăn. Chủ chăn gọi đàn chiên và dẫn chúng đi, người chăn chiên đi trước và chiên theo sau, vì chiên biết tiếng chủ chiên của mình. Hình ảnh cửa chuồng chiên và hình ảnh vị chủ chăn cho chúng ta thấy Ngài là Ðấng chăn chiên, là Ðấng Cứu Ðộ cho những ai nghe tiếng Ngài.
Đức Giêsu chỉ có một mối bận tâm duy nhất, đó là làm cho các con chiên sống bằng sự sống của Thiên Chúa, ngày càng dồi dào phong phú hơn. Người chính là người Mục tử chân thật đã được Thiên Chúa giao phó đàn chiên cho. Cũng có những mục tử giả hiệu, chỉ tìm giết con chiên, theo sự thôi thúc của Satan, tên sát nhân. May mắn là các con chiên chân thật không nghe và đi theo các mục tử giả này, vì chúng không nhận ra lời họ nói chính là Lời Nói của vị Mục Tử tối cao.
Ta xin Chúa để Chúa ban thêm cho có những mục tử xứng đáng thay mặt Đức Giêsu, Vị Mục Tử chân thật. Các ngài rao giảng về Chúa Kitô và ơn cứu độ, các ngài nói về và bảo vệ nhân quyền. Để có thể là một mục tử xứng đáng, một vị lãnh đạo trong Họi Thánh cũng phải sống tư cách con chiên của Đức Giêsu, cũng ra vào qua cửa ấy và nhận được lương thực nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của mình.
Huệ Minh
------------------------------------
PS 4-A130: Đồng cỏ xanh, Dòng suối mát
(Trích “Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc)
Dương Ân Điển là đứa bé bị bỏ rơi, người ta nhặt được nó ở một quầy bán thịt, trong cái chợ PS 4-A130
Dương Ân Điển là đứa bé bị bỏ rơi, người ta nhặt được nó ở một quầy bán thịt, trong cái chợ nghèo vùng núi miền Nam, đảo Đài Loan. Câu chuyện thương tâm này xảy ra năm 1974, ấy là lúc vừa lọt lòng, em đã không có hai cánh tay, chân phải thẳng đơ không thể co duỗi.
Thế mà 25 năm sau, đứa bé tàn tật bất hạnh ấy đã trở thành nhà danh họa tài ba, chuyên vẽ tranh bằng chân và miệng. Cô đã tổ chức nhiều cuộc triển lãm ở Mỹ và Nhật, và là thành viên của Hiệp Hội quốc tế những người vẽ tranh bằng chân và miệng.
Cuộc đời co thay đổi nhanh chóng như thế, thành công rực rỡ như thế, cũng là nhờ mục sư Dương Húc và vợ ông là Lâm Phương Anh nhận nuôi. Đặc biệt là ông Tưởng Kinh Quốc đã cho cô đi giải phẫu chỉnh hình cột sống, nắn chân phải, sửa đường làm cầu cho cô dễ dàng đi tới trường. Ông đã nói với cô: “Cháu không có tay, nhưng còn chân, và có thể làm được rất nhiều việc”. Chính tình thương, sự chăm sóc, và lời động viên của ông Tưởng Kinh Quốc đã thay đổi số phận của một con người.
“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10, 27). Thiên Chúa là chủ chiên nhân lành, Người yêu thương mỗi người chúng ta bằng một tình yêu cá biệt, cho dù chúng ta có què quặt đui mù, có xấu xa đốn mạt đến đâu, mỗi người chúng ta đều có chỗ đứng độc nhất vô nhị trong tình yêu bao bọc của Chúa; mỗi người chúng ta đều có vị trí đặc biệt trong trái tim yêu thương của Người. Tấm lòng quảng đại yêu thương của ông Tưởng Kinh Quốc dành cho cô bé tàn tật Dương Ân Điển chỉ là hình bóng tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa đối với chúng ta, những con chiên của Người.
Vâng, chiên của Chúa thì nghe Chúa, biết Chúa và theo Chúa.
- Nghe Chúa chính là lắng nghe Lời Chúa qua Kinh Thánh, nơi giáo huấn của Giáo Hội, và những ơn soi sáng trong tâm hồn mình. Nghe Chúa chính là để có một mối tương giao thân tình với Người, vạ nhất là để tin vào Người. Thánh Phaolô viết: “Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô” (Rm 10, 17).
- Biết Chúa không chỉ là học hỏi và suy niệm theo nghĩa tri thức, mà chính là hiểu biết sâu xa, yêu mến thân tình, đến nỗi kết hợp cả thân xác lẫn tâm hồn. Chính tình yêu mới làm cho chúng ta nhận biết Chúa một cách đích thực, đến nỗi đoán biết cả thánh ý Người.
- Theo Chúa chính là một thái độ hoàn toàn tự do, tự nguyện dấn thân, và trao phó thân phận cho duy một mình Người. Theo Chúa cũng chính là từ bỏ, từ bỏ con người cũ, nếp sống cũ, đường lối cũ: Các môn đệ đã bỏ mọi sự, Maddalêna đã bỏ đường tội lỗi, Augúttinô đã bỏ đời trụy lạc, để đi theo Người.
Nghe Chúa, biết Chúa và Theo Chúa để được những gì? Đức Kitô đã trả lời: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi” (Ga 10, 28). Đoàn chiên đi theo chủ chiên nhân lành thì đồng cỏ xanh với dòng suối mát chắc chắn phải là đích đến của chúng, vì chủ chiên Giêsu chính là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Người không những ban cho chúng ta sự sống đời đời mà còn bảo đảm sự sống ấy chắc chắn không thể mất được.
Không chỉ Chúa Con mà cả Chúa Cha cũng gìn giữ, bảo vệ chúng ta trong bàn tay yêu thương của Người: “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha” (Ga 10, 29). Chúa Cha đã trao ban đoàn chiên cho Chúa Con như quà tặng quí giá nhất, nên Chúa Con cũng gìn giữ và yêu mến đoàn chiên như Chúa Cha đã yêu mến và gìn giữ vậy. Như thế, chúng ta được bảo vệ an toàn tuyệt đối trong cả hai bàn tay, của cả cha lẫn mẹ, còn hình ảnh nào đẹp hơn thế nữa!
Lạy Chúa, xin cho chúng con trở nên nhỏ bé đơn sơ, để chúng con được nằm trong bàn tay yêu thương của Chúa.
Giữ một thế giới ồn ào vì tranh giành quyền lực, của cải, xin cho chúng con lắng nghe được tiếng Chúa.
Giữa một thế giới chỉ biết tôn thờ vật chất, xin cho chúng con hiểu biết Chúa thật sâu xa để yêu mến Người thiết tha.
Giữa một thế giới chỉ biết chạy theo danh lợi thú, xin cho chúng con luôn theo Chúa là chủ chiên nhân lành của đời chúng con mà thôi. Amen.
------------------------------------
Đối với người Việt Nam chúng ta thì hình ảnh "người chăn chiên" là một hình ảnh rất xa lạ, PS 4-A131
Đối với người Việt Nam chúng ta thì hình ảnh "người chăn chiên" là một hình ảnh rất xa lạ, vì nước ta không chăn nuôi chiên như những người Do thái thời xưa. Hơn nữa, trong khi cả đất nước đang nói đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà chúng ta cứ nhắc đi nhắc lại câu chuyện "đàn chiên và mục tử" thì e rằng chúng ta bị coi là người quê mùa, lạc hậu. Nhưng đối với người công giáo chúng ta, thì hình ảnh "chiên và mục tử" là một hình ảnh đẹp, đầy ý nghĩa, nói lên mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người, Thiên Chúa luôn yêu thương, quan tâm, tận tình chăm sóc dân của người không chỉ về vật chất mà còn về tâm linh, không chỉ ở đời này mà còn cả đời sau nữa. Bài Tin Mừng hôm nay là một bằng chứng cụ thể, Chúa Giêsu ví mình như một Mục Tử Nhân Lành, luôn quan tâm, chăm sóc, yêu thương đàn chiên của mình.
Mục Tử Nhân Lành đi qua cửa chính mà vào chuồng chiên. Anh gọi chiên bằng một tiếng gọi riêng, chiên nhận ra tiếng anh và đi theo. Còn mục tử giả hiệu thì trèo tường mà vào chuồng, chiên chẳng những không theo mà còn sợ hãi, chạy trốn, vì chúng không biết tiếng người lạ. Chúa Giêsu gọi những mục tử giả hiệu này là trộm cướp. Họ đến chỉ để giết hại và phá huỷ đàn chiên, còn Chúa Giêsu đến để chiên được sống và sống dồi dào, giữa chiên và Ngài có một mối dây thân thiết "Tôi biết chiên tôi và chiên tôi biết tôi". Chiên đã trở thành điều vô cùng quý giá đối với Ngài, đến nỗi Ngài dám hy sinh mạng sống mình cho chúng.
"Ta là Mục Tử Nhân Lành", Chúa Giêsu đã nói như thế. Các bạn muốn được nuôi dưỡng, được chăm sóc, được hướng dẫn thì như Chúa Giêsu đã nói "Hãy theo Ta", nhưng các bạn hãy cảnh giác, đừng có bắt cá hai tay, nghĩa là các bạn không thể vừa nghe theo tiếng gọi của Mục Tử Nhân Lành lại vừa nghe theo tiếng gọi của thế gian. Vì chính Chúa Giêsu đã cảnh cáo "các ngươi không thể làm tôi hai chủ được". Tiếng của Mục Tử Nhân Lành luôn luôn đối nghịch với tiếng của thế gian và chúng ta sẽ chọn một trong hai "Ngươi sẽ ghét chủ này và yêu chủ nọ hoặc sẽ bỏ chủ này mà theo chủ kia" (Lc 16,13).
Chúa Nhật thứ IV PS hằng năm, còn gọi là Chúa Nhật Chúa Chăn Chiên Lành, Giáo Hội dành riêng để cầu nguyện cho ơn thiên triệu, nghĩa là cầu xin Chúa ban cho Giáo Hội có nhiều người trẻ biết hy sinh, biết quãng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu để dâng mình cho Chúa trong ơn gọi làm Linh mục, làm tu sĩ. Đây là vấn đề sống còn của Giáo Hội. Giáo Hội hôm nay cũng như trong tương lai vẫn luôn cần đến sự hướng dẫn của các mục tử để đoàn chiên được sống trong đồng cỏ xanh tươi. Vì thế, suốt chiều dài lịch sử của Giáo Hội, Chúa Giêsu vị Mục tử tối cao đã chọn các Mục Tử là các Đức Giáo Hoàng, các Giám mục, các Linh mục, Ngài trao phó cho họ tất cả với điều kiện là phải trở nên vị Mục Tử tốt lành như Ngài.
Để có những ơn gọi cho Giáo Hội, để có những thợ gặt cho cánh đồng truyền giáo, thì ngay từ hôm nay các bạn phải biết tập lắng nghe tiếng gọi của Chúa Giêsu, hãy tập sống theo gương Chúa Giêsu, vị Mục Tử Nhân Lành bằng cách cố gắng thực hiện 3 việc sau đây:
Biết sống hy sinh: sự khác biệt giữa người Mục Tử Nhân Lành và người chăn thuê ở chỗ là có dám hy sinh vì đàn chiên của mình hay không? Sự hy sinh của các bạn hôm nay sẽ là dấu chỉ cho thấy tương lai các bạn trở nên Mục Tử như lòng Chúa mong ước. Sự hy sinh đó được thể hiện bằng những việc cụ thể như: tham dự thánh lễ mỗi ngày, mỗi tuần, tích cực tham gia các phong trào thiếu nhi thánh thể và giới trẻ trong họ đạo của mình. Biết giúp nhau vượt khó, hy sinh tiền quà bánh, tiền mua sắm để giúp bạn có điều kiện đến trường.
Biết quan tâm đến người khác: Từ nhỏ cho tới lớn các bạn được cha mẹ quan tâm nhiều, từ việc ăn uống tới học tập, từ việc ăn mặc tới nghỉ ngơi. Điều này có thể dẫn các bạn đến chỗ đánh mất ý thức là chính các bạn phải quan tâm đến người khác. Quan tâm tức là nhìn thấy công ơn to lớn của cha mẹ mà cảm ơn, sống tốt. Quan tâm là biết trở thành đứa con ngoan trong gia đình qua việc cố gắng phụ giúp cha mẹ, cố gắng học hành cho thật tốt. Quan tâm là biết giúp đỡ, biết quên mình để phục vụ cho lợi ích tha nhân, biết vui với niềm vui và buồn với nỗi khổ của người khác.
Sống có lý tưởng, có ước mơ: Sống là phải có lý tưởng, phải có ước mơ. Ước mơ làm Linh mục, làm thầy giáo, làm kỹ sư, làm bác sĩ... chính những ước mơ đó sẽ là động lực giúp các bạn phấn đấu vượt khó để vươn lên. Những ước mơ đó sẽ thôi thúc các bạn học và thực hành theo vị Mục Tử Giêsu đã làm là: hy sinh, quan tâm tới tha nhân và sống theo lý tưởng cao đẹp mà Chúa đã mời gọi. Amen.
------------------------------------
PS 4-A132: Mục Tử Nhân Lành – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Bối cảnh đoạn Tin mừng: Giữa cảnh lễ hội cung hiến đền thờ Giêrusalem, Đức Giêsu thấy đoàn PS 4-A132
1- Bối cảnh đoạn Tin mừng: Giữa cảnh lễ hội cung hiến đền thờ Giêrusalem, Đức Giêsu thấy đoàn dân chúng tấp nập kéo nhau về mừng lễ trong tám ngày. Người xúc động nhìn họ như những đoàn chiên hiền lành và ngoan ngoãn. Nhưng Người cũng đau xót vì họ như đoàn chiên bơ vơ lạc lõng trong vòng kiềm hãm của những kẻ trộm cướp (Mt. 18, 12; Lc. 15, 4-7). Người nói với họ phải biết phân biệt kẻ trộm cướp với mục tử hiền lành. Trên đường đến đền thờ, họ đi qua biết bao nhiêu chuồng chiên được vây kín chung quanh bằng đá, chỉ có một cửa nhỏ để cho từng con chiên ra vào theo lệnh quen thuộc của mục tử thân yêu gọi tên từng con, rồi mục tử dẫn chiên đi ăn trong đồng cỏ xanh tươi (Ricciotti - Vie de Jesus Christ). Còn những kẻ trộm, chúng trèo qua tường vào chuồng, khiến chiên hoảng hốt chạy tán loạn. Mục tử nhân lành còn giữ nhiệm vụ đóng mở cửa cho chiên ra vào, bảo đảm an toàn cho chiên khỏi bị trộm cướp và lang sói xông vào cắn xé. Nhờ đó chiên được thảnh thơi tự do, được lương thực nuôi sống dồi dào.
Sau khi phân biệt cho dân chúng biết rõ về mục tử nhân lành khác với kẻ trộm cướp, Đức Giêsu đã xác nhận với họ: “Tôi là cửa cho chiên ra vào ... Ai qua tôi mà vào sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ xanh tươi... Tôi đến để cho chiên được sống và được sống dồi dào”. Người còn tuyên bố rõ ràng: “Tôi chính là mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho chiên”.
2- Lý do có đoạn Tin Mừng:
Lý do nào khiến Đức Giêsu nói: “Tôi là mục tử nhân lành”.
Trước nhất, Đức Giêsu thấy dân chúng đang bị dẫn dắt lầm lạc, bơ vơ do tầng lớp lãnh đạo Do thái mù quáng, cụ thể là mới đây họ đã kết án anh mù từ khi sinh ra là “kẻ sinh ra trong tội lỗi ngập đầu, rồi họ trục xuất anh” (Ga. 9, 34). Anh bị loại khỏi hội đường như kẻ vô đạo. Họ còn kết án cả Đấng đã chữa anh khỏi mù. Thật vô lý khi họ cho bệnh tật là hình phạt của Thiên Chúa giáng xuống kẻ có tội. Nhưng họ không công nhận Người cứu chữa khỏi bệnh là bởi Thiên Chúa. Đúng là mù dắt mù xuống hố. Họ chính là kẻ trộm cướp đã giết hại những con chiên vô tội.
Phần Đức Giêsu, Người không kết án anh mù hay cha mẹ anh mù là kẻ có tội. Trái lại, Người đã bênh vực anh: Tật mù của anh “là để Thiên Chúa tỏ hiện quyền phép của Ngài nơi anh” (Ga. 9, 3). Quyền năng đầy thương xót đó đã chữa anh sáng mắt thể xác và con mắt đức tin, để anh nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu thế bởi Thiên Chúa mà đến và Người đón nhận anh vào gia đình Thiên Chúa giầu lòng thương xót khi anh bị đuổi ra khỏi đạo Do thái.
Lý do thứ hai khiến Đức Giêsu nói: “Tôi là mục tử nhân lành” trong ngày lễ hội Cung hiến Đền thờ, vì đây là tuần lễ kỷ niệm thời anh em Macabê khởi nghĩa đánh đuổi quân xâm lăng Hy lạp năm164 trước Công nguyên. Quân xâm lăng đã tục hóa đền thờ, đặt tượng thần trên bàn thờ, bắt dân đến tế thần để bắt dân bỏ đạo. Khi đánh bại quân Hy lạp, anh em Macabê đã lo tẩy uế Đền thờ, xây lại bàn thờ và tổ chức lễ Cung hiến Đền thờ rất long trọng trong suốt tám ngày (1Mac. 2,4). Nhiều kẻ lợi dụng dịp lễ này để xưng hùng xưng bá lăm le xúi dân nổi lên đánh đuổi quân xâm lăng Rôma để lãnh đạo đất nước. Đức Giêsu thấy tham vọng bất chính đẩy dân vào chỗ chết, nên Người tuyên bố: “Đó là những kẻ trộm cướp” làm hại dân, hại đạo. Họ không qua cửa của Thiên Chúa tuyển chọn. Chỉ những kẻ công chính mới được Thiên Chúa xức dấu phong vương như Davit, mới là mục tử thật. Thời này, chẳng ai được xức dầu phong vương, trừ một mình Đức Giêsu đã được Thánh Thần xức dầu sai đi rao giảng Tin mừng như tiên tri Isaia đã loan báo (Is. 61, 1-2; Lc. 4, 18), như Gioan tiền hô đã giới thiệu (Ga. 1, 29-34).
Thực sự, trong nhân loại chỉ mình: “Đức Giêsu là được Thánh thần Chúa xức dầu tấn phong”, vì chỉ mình Người là “Con rất yêu dấu của Chúa Cha” (Ga. 1, 11). Cho nên chỉ mình Đức Giêsu là mục tử duy nhất: “Anh em đừng gọi ai là người lãnh đạo vì chỉ có một vị lãnh đạo là Đức Kitô” (Mt. 23, 10).
Để tiếp nối và tham gia vào quyền mục tử tối cao của Người, Người đã trao phó đoàn chiên cho Phêrô và các tông đồ. Phêrô đã noi gương Đức Kitô (Bài đọc 2) để cùng với mười một tông đồ, lớn tiếng nói với dân chúng về Đức Kitô giữa ngày lễ Ngũ tuần. Nghe thế, họ đã sám hối, chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô để được tha tội và lãnh ân sủng của Thánh thần. Họ đã trở nên 3.000 con chiên đầu đàn của hàng tỷ con chiên ngày nay (Bài đọc 1).
Lạy Chúa Giêsu Kitô là mục tử tối cao, xin cho các mục tử tôi tớ Chúa biết luôn luôn theo gương Chúa đi loan báo Tin mừng cho đàn chiên nghèo hèn, bơ vơ để họ trở nên những con chiên đầy ân sủng của Thánh thần, và được sống trong một đàn chiên của một Chủ Chiên tối cao duy nhất mà thôi. Amen.
------------------------------------
PS 4-A133: Mục tử và chiên
Chúa Nhật 4 Phục Sinh
Giáo Hội dành riêng Chúa nhật IV Phục Sinh này để cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và PS 4-A133
Giáo Hội dành riêng Chúa nhật IV Phục Sinh này để cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Vì thế, Lời Chúa hôm nay xoay quanh chủ đề mục tử và chiên. Đức Giêsu gọi mình là mục tử thật, mục tử nhân lành. Ngài cũng muốn những ai tham dự vào chức vụ mục tử cũng hãy trở nên mục tử thật, mục tử nhân lành chứ không phải là mục tử giả. Còn những ai là chiên của Ngài thì cũng phải là chiên thật chứ không phải là chiên giả. Vậy, thế nào gọi là mục tử thật, mục tử nhân lành? Thế nào gọi là mục tử giả? Thế nào gọi là chiên thật hay chiên giả?
1. Thế nào gọi là mục tử thật?
Mục tử thật là mục tử “đường đường chính chính” luôn yêu thương đàn chiên: hiểu biết và cảm thông với đàn chiên; lo lắng chăm nom đàn chiên; sẵn sàng hy sinh vì đàn chiên. Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết thế nào là vị mục tử thật: “Ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy”(Ga 10, 1-4).
Đức Giêsu chính là mục tử thật. Ngài là vị mục tử nhân lành. Chính Ngài tuyên bố: “Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta”(Ga 10, 14 ). Thật vậy, Ngài là mục tử nhân lành: Vì Ngài không những biết từng con chiên mà Ngài còn đi tìm các con chiên bị thất lạc: “Chính Ta sẽ tìm kiếm chiên của Ta, và Ta sẽ chăm nom đến chúng”(Ez 34, 10); Ngài chăm sóc và băng bó những con chiên bị xây xát, bệnh hoạn: “Chiên thất lạc, Ta sẽ tìm kiếm. Chiên tản mác, Ta sẽ lùa về. Chiên xây xát, Ta sẽ băng bó. Chiên bệnh hoạn, Ta sẽ bổ sức”(Ez 34, 16); Ngài cho các con chiên được sống dồi dào: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”(Ga 10,10).
Điều này đã được chứng minh một cách cụ thể qua những hành động trong suốt ba năm đời sống công khai của Ngài: Chính Ngài đã từng gặp gỡ và chữa lành các bệnh nhân, tha thứ cho những người tội lỗi; chính Ngài là người cha trong “dụ ngôn người cha nhân hậu”(x. Lc 15, 11-32), là người chủ chiên trong “dụ ngôn con chiên bị mất”(x. Lc 15,4-7), là người đàn bà trong “dụ ngôn đồng bạc bị đánh mất”(x. Lc 15, 8-10); chính Ngài đã chấp nhận hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,11). Không những thế, Ngài còn hơn hẳn các mục tử bình thường vì chỉ có Ngài mới cho đàn chiên được sự sống đời đời: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi”(Ga 10,28).
2. Thế nào gọi là mục tử giả?
Đức Giêsu cho chúng ta biết thế nào là mục tử giả: Đó là những mục tử “đường đường chính chính”, nghĩa là những kẻ không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác; đó là những kẻ đến chỉ để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ đàn chiên (x. Ga 10,10).
Thật vậy, mục tử giả là mục tử không có trách nhiệm với đàn chiên: “Con chiên nào mất, nó chẳng quan tâm; con thất lạc, nó chẳng đi tìm; con bị thương, nó không chạy chữa; con mạnh khoẻ, nó chẳng dưỡng nuôi” (Dc 11,16a); mục tử giả là mục tử không lo chăn dắt đàn chiên mà chỉ nghĩ đến mình, sẵn sàng bóc lột đàn chiên để phục vụ cho nhu cầu của mình, như tiên tri Êdêkiel đã nói: “Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, mà đàn chiên lại không lo chăn dắt” (Ed 34,3); mục tử giả là mục tử thống trị đàn chiên “một cách tàn bạo và hà khắc” (x. Ed 34,3); mục tử giả là mục tử “đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến đàn chiên” (x. Gr 23,2b); mục tử giả luôn tác hại đến đàn chiên, có thể làm cho đàn chiên phải tan tác (x. Gr 23,2).
Tóm lại, mục tử giả không có tình thương với đàn chiên, không muốn mang vào mình “mùi chiên”, không chấp nhận hy sinh, thiệt thòi về mình vì đoàn chiên, trái lại coi đàn chiên như là phương tiện, bắt chúng phải hy sinh phục vụ cho lợi ích riêng tư và tham vọng của mình.
3. Thế nào là chiên thật?
Chiên thật là chiên biết nghe tiếng của Chủ chiên. Đức Giêsu nói: “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi, Tôi cho chúng được sống đời đời và chúng sẽ không bao giờ hư mất”(Ga 10, 27). Tiếng chủ chiên ở đâu? Đó là tiếng Chúa qua Kinh Thánh; đó là lời giáo huấn của Hội Thánh; đó là tiếng nói của lương tâm; đó là sự hướng dẫn dạy dỗ của những kẻ thay mặt Chúa như cha mẹ, thầy cô giáo, anh chị và những người khôn ngoan.
Chiên thật thì phải biết tin tưởng, phó thác và yêu mến Chủ chăn của mình. Vì Chủ chiên luôn quan tâm, chăm sóc và cho chiên được sống và sống dồi dào. Điều đó được diễn tả một cách cụ thể qua Thánh vịnh 22: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người. Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23).
Ngày hôm nay, Đức Giêsu mục tử nhân lành vẫn tiếp tục nuôi dưỡng chúng ta qua Lời của Ngài, qua các Bí tích. Ngài chăm sóc chúng ta qua Giáo hội của Ngài. Vì vậy, chúng ta phải đáp trả bằng việc lắng nghe, tin tưởng phó thác và yêu mến Ngài.
4. Thế nào là chiên giả?
Đó là những người kitô hữu trên danh nghĩa nhưng không sống theo tinh thần của Bí tích Rửa tội là từ bỏ ma quỷ và tuyên xưng đức tin.
Đó là những kẻ không thực hành bác ái yêu thương như lời Đức Giêsu nói: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng.” Nên gọi họ là dê (x. Mt 25,31-46).
Đó là những “giáo gian”, là những kitô hữu luôn bắt cá hai tay, bên nào có lợi cho mình thì theo bên đó. Họ có thể vì tiền, vì quyền, vì lợi ích của mình mà bán rẻ Giáo hội, bán rẻ anh chị em của mình.
5. Câu hỏi gợi ý và cầu nguyện
Mỗi người chúng ta hãy tự xét mình xem: Tôi có phải là mục tử thật, mục tử tốt lành đối với những người Chúa giao phó cho tôi coi sóc không? Hay tôi chỉ là mục tử giả, là kẻ trộm cướp? Tôi có phải là con chiên thật, con chiên ngoan trong đoàn chiên của Chúa của Giáo hội không? Hay tôi chỉ là con chiên giả, thậm chí là con dê luôn phá hoại Giáo hội, làm hại anh chị em mình? Tôi đã đóng góp gì cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ?
Lạy Chúa xin cho mỗi người chúng con trở thành những mục tử nhân lành khi chúng có có trách nhiệm với anh chị em mình. Đồng thời, xin cho chúng con luôn là con chiên ngoan hiền trong đàn chiên của Chúa và Giáo hội. Amen.
------------------------------------
PS 4-A134: Suy niệm và chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Theo chu trình ba năm Phụng Vụ, Chúa Nhật IV Phục Sinh là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, Chúa PS 4-A134
Theo chu trình ba năm Phụng Vụ, Chúa Nhật IV Phục Sinh là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, Chúa Nhật cầu cho Ơn Thiên Triệu.
Cv 2: 14, 36-41
Chúng ta tiếp tục đọc bài diễn từ thánh Phê-rô công bố cho đám đông đến Giê-ru-sa-lem mừng lễ Ngũ Tuần. Thánh nhân khuyên họ hoán cải và lãnh nhận phép Thánh Tẩy nhân danh Đức Giê-su Ki-tô. Đó phải là con đường đi vào ràn chiên của Đức Giê-su Ki-tô.
1Pr 2: 20-25
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Phê-rô, trong đó thánh nhân an ủi các tín hữu đang phải chịu đau khổ và cho họ biết rằng Đức Ki-tô là vị Mục Tử của họ.
Ga 10: 1-10
Dụ ngôn Đấng Chăn Chiên nhân lành được trích từ Tin Mừng Gioan và được chia thành ba phần theo chu trình ba năm Phụng Vụ. Đoạn Tin Mừng được trích dẫn hôm nay là phần đầu của dụ ngôn “Người Mục Tử nhân lành”.
BÀI ĐỌC I ( Cv 2: 14a, 36-41)
Bản văn nầy là phần kết của bài diễn từ mà thánh Phê-rô công bố ở Giê-ru-sa-lem, vào đúng ngày lễ Ngũ Tuần, qua đó thánh nhân đang ngỏ lời với đám đông dân chúng đến mừng lễ.
Trong phần trước đó, thánh nhân công bố ý nghĩa cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su và ân ban dồi dào của Chúa Thánh Thần, Đấng nội tâm hóa sứ điệp của Đức Ki-tô và thúc đẩy các tín hữu dấn bước theo Đức Giê-su.
1. Đức Giê-su là Đức Chúa và là Đấng Ki-tô:
Trong phần kết nầy, khởi đi từ nhân tính của Đức Giê-su, thánh nhân công bố tước vị Đức Chúa và Đấng Ki-tô của Đức Giê-su: “Thưa toàn thể nhà Ít-ra-en, xin biết chắc cho điều nầy: Đức Giê-su mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Ki-tô”. Tước hiệu “Đức Chúa” (“kupios”) là tước hiệu mà bản Bảy Mươi dùng để dịch danh xưng của chính Thiên Chúa là “A-đô-nai”. Thánh Phê-rô ban cho Đức Giê-su tước hiệu nầy, như vậy thánh nhân không ngần ngại định vị Đức Giê-su vào trong lãnh vực thần linh. Vả lại, sách Công Vụ ban tước hiệu Đức Chúa lúc thì cho Thiên Chúa (Đức Chúa Cha), lúc thì cho Đức Giê-su (Đức Chúa Giê-su), để nhấn mạnh tính duy nhất của Cha và Con.
Lời công bố nầy đã tác động mạnh mẽ đến tâm hồn những người đang hiện diện khiến họ đi đến một quyết định cụ thể: “Thưa quý ông, vậy chúng tôi phải làm gì?”. Thế nên, thánh Phê-rô trả lời với một đòi hỏi kép: hoán cải tận căn: “Anh em hãy đoạn tuyệt với thế hệ gian tà nầy” và lãnh nhận phép Thánh Tẩy “nhân danh Đức Giê-su Ki-tô”. Đây là phương thức đầu tiên để trở thành người Ki-tô hữu.
2. Hoán cải và lãnh nhận phép Thánh Tẩy nhân danh Đức Giê-su Ki-tô:
Như thường gặp thấy trong Kinh Thánh, tên gọi của một người chính là con người mang tên ấy. Ai lãnh nhận phép Thánh Tẩy “nhân danh Đức Giê-su Ki-tô”, tức là tuyên xưng đức tin của mình vào Chúa Giê-su Ki-tô, người ấy được sáp nhập vào con người của Đấng Phục Sinh, thuộc vào Đức Ki-tô, trở nên một với Ngài. Thánh Phê-rô nghĩ đến ý nghĩa phép Thánh Tẩy chứ không đến chính nghi thức. Chúng ta ghi nhận rằng thánh Lu-ca không bao giờ dùng danh từ “phép rửa” để chỉ phép Thánh Tẩy Ki tô giáo, bởi vì thuật ngữ này luôn luôn quy chiếu đến phép rửa của Gioan Tẩy Giả. Thánh Lu-ca dành riêng cho phép Thánh Tẩy Ki-tô giáo động từ “rửa”, thường nhất ở thể thụ động thần linh.
Có lẽ công thức Ba Ngôi “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” đã chưa được sử dụng cách phổ quát ngay. Công thức Ba Ngôi được thánh Mát-thêu trích dẫn (Mt 28: 19) rõ ràng được thánh Phao-lô nêu lên ở 1Cr 6: 11: “Anh em đã được tẩy rửa, được thánh hóa, được nên công chính nhờ danh Chúa Giê-su Ki-tô và nhờ Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta”. Cuối thế kỷ thứ nhất, sách Đi-đa-khê hay “Giáo Huấn của nhóm Mười Hai” (sưu tập giáo lý và phụng vụ) chỉ biết công thức Ba Ngôi. Tuy nhiên, ở đây thánh Phê-rô kể ra liền ngay ân sủng Thánh Thần như thực hiện lời Thiên Chúa hứa. Thế nên, Ba Ngôi hiện diện rồi.
3. Ơn cứu độ phổ quát:
Thánh nhân ngỏ lời trước tiên với người Do thái: “Vì đó là điều Thiên Chúa đã hứa cho anh em” (nghĩa là ân sủng Thánh Thần như lời hứa ban cho dân Ngài vào thời Mê-si-a), nhưng ngay liền sau đó, thánh nhân ngỏ lời với lương dân: “và tất cả những người ở chốn xa xăm”. Quả thật, cách nói nầy thường được dùng để chỉ lương dân đối lập với dân Chúa chọn, dân ở “gần” Thiên Chúa, như Is 57: 19: “Bình an cho những ai ở xa (lương dân) như cho những ai ở gần (dân Chúa chọn)”. Đang khi xuất thần ở trong Đền Thờ, thánh Phao-lô nghe tiếng Chúa bảo ông: “Hãy đi, vì Thầy đã sai anh đến với các dân ngoại ở phương xa” (Cv 22: 21).
Thánh Lu-ca kết thúc bài bài trình thuật nầy khi nhấn mạnh rằng Ki-tô giáo phát triển rất nhanh như thánh nhân thường làm: “Và hôm ấy đã có thêm được ba ngàn người theo đạo” .
BÀI ĐỌC II (1Pr 2: 20-25)
Phụng vụ hôm nay chọn đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phê-rô, vì câu cuối của đoạn trích nầy vang dội Tin Mừng hôm nay về Người Mục Tử nhân lành: “Vì trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về cùng Vị Mục Tử chăm sóc linh hồn anh em”.
1. Ý hướng:
Trong đoạn trích nầy, thánh Phê-rô đưa ra những lời khuyên cho những người Ki-tô hữu thuộc nhiều tầng lớp xã hội khác nhau. Những lời khuyên này cốt yếu được gởi đến cho “những tôi tớ”, “những gia nhân”. Bản văn phụng vụ dịch khá khái quát: “anh em”, vì những lời khuyên bảo nầy có giá trị đối với tất cả những ai đang chịu đau khổ.
Việc thánh Phê-rô chú ý đến những người bé mọn nầy chứng thực Ki-tô giáo được đón nhận rộng rãi ở giữa những thành phần xã hội bị ngược đãi nhất. Cũng như thánh Phao-lô trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phê-rô không nhằm đặt lại tận căn những cơ cấu xã hội vào thời đại của ngài: thánh nhân chỉ nhắm đến việc biến đổi bên trong. Sống những giá trị Ki-tô giáo trong điều kiện mà người ta đang sống đó là cách thức biến đổi những mối tương quan giữa người với người. Một cách khái quát, thư nhắm đến ý nghĩa nầy: cách ăn nếp ở của những người Ki-tô hữu phải khiến cho lương dân suy nghĩ, soi sáng họ, khiến họ thay đổi cách hành xử của mình. Lúc đó, sức mạnh giải phóng của Đức Ki-tô thay đổi cơ cấu xã hội và biến toàn thể nhân loại thành một cộng đoàn huynh đệ và bình đẳng.
2. Người Công Chính phải chịu đau khổ:
Để an ủi những người bé mọn nầy phải chịu nhiều đau khổ bất công, thánh Phê-rô nhắc nhở họ, hãy theo gương Đức Giê-su, hãy lấy Ân báo Oán. Thánh nhân không ngần ngại nói về ơn gọi của người Ki-tô hữu đó là chấp nhận đau khổ: “Anh em được Chúa gọi để sống như thế”, ám chỉ đến lời mời gọi của Đức Giê-su: “Nếu ai muốn theo Ta, hãy vác lấy thập giá mình…”.
Đức Ki-tô đã không giải quyết những đau khổ, nhưng Ngài đã đảm nhận, đón nhận chúng vào nơi chính bản thân mình và biến đổi chúng bằng cách cho chúng một ý nghĩa. Để giải thích cuộc Tử Nạn mà Đức Giê-su phải chịu dựa trên sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị về Người Tôi Trung Đau Khổ, thánh Phê-rô trích dẫn khá tự do bài ca thứ ba (Is 50: 5-8) và bài ca thứ tư (Is 53: 4-7), và áp dụng vào Đức Ki-tô, Đấng “mang trong thân xác mình tội lỗi của chúng ta mà đưa lên thập giá…”.
Vì thế, câu cuối của đoạn văn này minh họa một chủ để quan trọng của bức thư: thành quả tinh thần của sự đau khổ mà người công chính phải chịu và mối phúc của những người bị bách hại. Những người Ki-tô hữu đang phải sống những gian nan thử thách, họ chắc chắn thuộc vào đoàn chiên của Vị Mục Tử chân thật, Ngài đang “chăn dắt họ”.
TIN MỪNG (Ga 10: 1-10)
Trong cả ba chu trình Năm Phụng Vụ, Chúa Nhật IV Phục Sinh là Chúa Nhật “Chúa Chiên Lành.” Dụ ngôn “Vị Mục Tử nhân lành” được chia thành ba phần theo chu trình ba năm Phụng Vụ: năm A: Ga 10: 1-10, Ga 10: 11-18 vào năm B: Ga 10: 11-18, và năm C: Ga 10: 27-30.
1. Hình ảnh “người mục tử” trong Kinh Thánh:
Hình ảnh “người mục tử và đàn chiên” chạy xuyên suốt Kinh Thánh, từ Cựu Ước đến Tân Ước. Tự nguồn gốc, dân Ít-ra-en vốn là dân du mục. Vào thời Đức Giê-su, một thành phần vẫn còn sống nghề chăn chiên. Các tác giả thánh vịnh đã có chủ ý phóng chiếu trên Thiên Chúa của mình những nét đặc trưng của vị mục tử lý tưởng, như Tv 23:
“Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi.
Trên đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức tôi…”
hay Tv 78:
“Còn dân Chúa, Người dẫn đi như thể đàn cừu,
đem họ vào sa mạc chẳng khác bầy chiên,
đưa họ đi an toàn, chẳng có chi phải sợ…” (Tv 78: 51-52).
Các ngôn sứ đã phác họa Đấng Mê-si-a theo những nét đặc trưng của vị mục tử lý tưởng này; nhất là ngôn sứ Ê-dê-ki-en mô tả một viễn cảnh thật táo bạo. Vị ngôn sứ, nhân danh Thiên Chúa, gay gắt lên án các vị lãnh đạo thời ông. Họ là những mục tử vô trách nhiệm, là quân trộm cướp, chỉ biết lo cho mình mà không quan tâm đến đoàn chiên. Vì vậy, Thiên Chúa sẽ tước đi khỏi họ quyền chăn dắt đoàn chiên của Người. Chính Người sẽ đích thân chăm sóc chiên của Người. Cuối cùng, Người sẽ cho xuất hiện một vị Mục Tử Nhân Lành theo dung mạo vua Đa-vít, sống chết vì đàn chiên (Ed 34). Dụ ngôn của Đức Giê-su được đặt vào truyền thống của dụ ngôn Ê-dê-ki-en, vì thế, khi tuyên bố mình là Mục Tử Nhân Lành, Đức Giê-su đòi hỏi cho mình tước hiệu Mê-si-a.
Trong Tin Mừng Gioan, Diễn Từ: “Người Mục Tử đích thật” đặt liền ngay sau câu chuyện người mù từ thuở mới sinh được sáng mắt. Những kiểu nói được lập đi lập lại: “Thật, tôi bảo thật các ông” loan báo sự phối hợp của hai câu chuyện này và chỉ cho thấy sự liên tục của tư tưởng và tuyến phát triển của lập luận. Mối liên kết nầy soi sáng những lời nói của Đức Giê-su. Qua những hình ảnh biểu tượng: người mục tử, ràn chiên, cửa chuồng chiên, Đức Giê-su muốn mặc khải cho chúng ta những khía cạnh mầu nhiệm của con người Ngài, vén mở cho chúng ta thoáng thấy những mối tâm giao mới giữa Thiên Chúa và con người mà Ngài đến thiết lập, và giúp chúng ta nắm bắt một cách sâu xa tấm lòng trìu mến của Thiên Chúa.
2. Người Mục Tử đích thật:
Phần thứ nhất đặt sự tương phản giữa người mục tử và quân trộm cướp. Bức tranh nầy rất quen thuộc với miền Pa-lết-tinh. Ràn chiên là một thuở đất giữa đồng được rào chung quanh và có người canh giữ để chiên khỏi bị quân trộm cướp đến giết hại. Khi chiều xuống, những người mục tử gởi đàn chiên của mình vào chung một ràn chiên. Sáng sớm, người chăn chiên đến tìm đàn chiên của mình, anh chỉ cần lên tiếng gọi: chiên nào thuộc người chăn chiên thì nhận ra tiếng của anh và chạy đến với anh; chúng không theo người lạ.
Qua hình ảnh đó, Chúa Giê-su khẳng định mối tâm giao giữa người chăn chiên và đàn chiên: “Anh gọi tên từng con một”. Đối với Đức Giê-su, không có đám đông vô danh; Ngài nhận biết và yêu mến từng con chiên. Đáp lại, đàn chiên quen hơi bén tiếng với người chăn chiên của mình: “Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh”. Qua mối tâm giao hổ tương này, Chúa Giê-su đối lập thái độ của Ngài với thái độ của nhóm Pha-ri-sêu: họ đã loại bỏ một cách tàn nhẫn anh mù được sáng mắt, như thế họ đã hành xử như mục tử gian ác. Trái lại, Đức Giê-su không chỉ tiếp đón anh, nhưng sau khi đã cho con mắt xác thịt của anh được thấy, Ngài còn dẫn dắt anh đến niềm tin, đã khai lòng mở trí cho anh đón nhận ánh sáng, vì Ngài là mục tử đích thật.
3. Cửa chuồng chiên:
“Đức Giê-su kể cho họ nghe dụ ngôn đó. Nhưng họ không hiểu Người có ý nói gì”. Vì thế, Chúa Giê-su tiếp tục nói với họ khi giới thiệu Ngài là “cửa chuồng chiên”. Tuy nhiên, chúng ta cần nhận ra nét tinh tế của bản văn ở đây. Đức Giê-su không nói: “Tôi là cửa chuồng chiên”, nhưng “Tôi là cửa cho chiên ra vào”. Đây là một nét biệt phân quan trọng: Đức Giê-su không là cửa của một nơi chốn, nhưng Ngài là lối đi cho chiên ra vào, như vậy, Ngài khẳng định mình là Đấng trung gian duy nhất. Ngài là cửa duy nhất, qua đó chiên có thể vào nơi trú ẩn an toàn mỗi khi chiều xuống, để rồi khi bình minh đến, đàn chiên ra đi đến đồng cỏ xanh tươi: “Ai qua tôi mà vào, thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ được ra vào và tìm được lương thực nuôi mình”. Cuối cùng, khi phác họa chân dung người mục tử lý tưởng, Đức Giê-su mời gọi tất cả những ai tiếp tục sự nghiệp dẫn dắt dân Ngài hãy bước theo mẫu gương nầy. Vì thế, Chúa Nhật IV Phục Sinh này cũng được gọi “Chúa Nhật Ơn Thiên Triệu”.
------------------------------------
PS 4-A135: Chúa Chiên Lành
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Minh)
“Tôi ban sự sống dồi dào cho chiên của Tôi”
1. Chúa Giêsu là Mục tử nhân lành:
Chúa Nhật thứ IV Phục sinh được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Phụng vụ lời Chúa năm A, B PS 4-A135
Chúa Nhật thứ IV Phục sinh được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Phụng vụ lời Chúa năm A, B, hay C lấy từ Tin Mừng Gioan. Trong đó, Chúa Giêsu tự nhận mình là cửa chuồng chiên (Ga 1,1-10), là người mục tử hiến thân cho đoàn chiên, để ban sự sống đời đời cho đoàn chiên (Ga 10,11-18; Ga 10, 27-30)
Thánh sử Gioan mời gọi chúng ta đi một vòng qua các ngọn đồi Galilêa để chứng kiến một cảnh thanh bình: Các mục tử dẫn bầy chiên ra đồng cỏ xanh tươi bên dòng suối mát.
Hình ảnh người chăn chiên và đàn chiên là một hình ảnh đẹp và rất quen thuộc đối với nền văn hóa du mục. Người Do Thái sống bằng nghề du mục chăn nuôi, nên hình ảnh người mục tử là hình ảnh rất thân thương. Người mục tử đi trước đàn chiên, tay cầm gậy, miệng thổi tù và và đàn chiên đi sau người đó. Người chăn chiên tốt phải là người biết chăm sóc đến từng con chiên, hiểu biết tính tình từng con chiên, dẫn đàn chiên đến những đồng cỏ xanh tươi, nguồn suối nước trong lành để con chiên được nuôi dưỡng bồi bổ. Người mục tử cũng còn phải băng bó những con chiên bị thương, bảo vệ chúng khỏi bị thú rừng cắn xé.
Trong lịch sử trước kỷ nguyên, các vua chúa và đại tư tế thường được gọi là mục tử. Pharaon được gọi là người chăn chiên nhân lành. Danh xưng ấy, dân du mục Israel thường dành cho Thiên Chúa. Ngài dẫn đưa họ qua biển đỏ, qua sa mạc đến đất hứa, như người mục tử gắn liền số mạng với đàn chiên, vui buồn gian khổ một nắng hai sương. Đó là viễn ảnh một vị mục tử mà Thiên Chúa sẽ gởi đến là Đức Giêsu Kitô. Hôm nay, khi nhìn thấy cảnh bầy chiên trên đồi Galilê, Chúa đã tự mô tả mình như một mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.
Nhiều lần Chúa đã tự ví mình như người mục tử nhưng lần này Ngài đã nói với tất cả ý nghĩ của mình. Khác với những người chăn thuê giữ mướn, những người lợi dụng và trộm cướp, người chăn chiên lành chỉ biết phục vụ đàn chiên và cứu đàn chiên khỏi mọi sự dữ.
Đối lại, con chiên thì nghe tiếng người chăn, hăm hở đi theo và tỏ tình yêu mến.
Người mục tử đi trước để bảo vệ đàn chiên, đoàn chiên theo sau ngoan ngoãn và tín nhiệm, Chúa phán: “Ta đến để mọi người được sống và sống dồi dào”, cho dù phải trả bằng giá rất cao, bằng chính mạng sống mình.
Khác với Tin Mừng Nhất Lãm, trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu không chỉ nhận là người Mục tử mà còn tự ví mình là “cửa”: “Ta là cửa, ai qua Ta mà vào thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân” (Ga 10,9). Đức Kitô là cửa để bao bọc bảo vệ đoàn chiên khỏi mọi gian nguy. Cha Mark Link SJ. có mô tả một cái chuồng chiên trong câu chuyện “vùng đất Thánh-The Holy Land” của John Kellman: Chuồng chiên ở Do Thái có một bức tường bằng đá bao chung quanh cao khoảng bốn bộ (cỡ 1m4) và một lối vào. Kellman kể rằng: Ngày nọ một du khách Thánh địa đã trông thấy một cái chuồng chiên ngoài đồng gần Hebron. Anh du khách hỏi người mục tử đang ngồi cạnh đó: “Cửa chuồng của anh đâu?”. Người mục tử liền đáp: “Tôi chính là cửa chuồng”. Đoạn người mục tử kể cho du khách nghe anh ta nằm chặn ngang lối vào chật hẹp đó. Không có chủ chiên nào có thể bỏ chuồng chiên đi ra, và cũng chẳng có con thú rừng nào có thể đi vào mà không bước qua mình anh ta”.
Như thế, hình ảnh mục tử và cửa chuồng chiên đều chỉ vào Đức Kitô, và là hình ảnh mô phạm cho các bậc chủ chiên.
2. Mối tương quan giữa Chúa Giêsu Mục tử và Kitô hữu
Chính nơi Chúa Giêsu, loài người gặp gỡ Thiên Chúa, và loài người cũng gặp gỡ anh em mình. Nhưng con người có kẻ tốt, và người xấu, kẻ thánh thiện và kẻ gian ác. Đối với đoàn chiên, có kẻ không qua cửa mà đột nhập vào, họ là kẻ trộm cướp, đến để ăn cướp, để sát hại và phá đổ. Là con chiên ta phải đi theo Chúa, và như thế ta không lo mắc nạn, vì có Chúa ở cùng ta, như Thánh vịnh 22,4 đã cảm nghiệm sự yêu thương đùm bọc này:
“Trong thung lũng tối,
Con không lo mắc nạn,
Vì Chúa ở cùng con”
Theo vết chân của vị mục tử chúng ta sẽ được thấy đời sống ấm áp lại với bao băng giá, bao đổ vỡ, bao bóng tối, bao nghịch cảnh bao trùm chúng ta. Chúng ta hãy vững tin vào lời hứa của Chúa Giêsu mục tử: “Ta đến để cho chiên được sống và được sống dồi dào” (Ga 10,10)
Chúa Nhật IV Phục sinh được Thánh hiến đặc biệt cầu nguyện cho ơn gọi làm linh mục, tu sĩ với lời ước nguyện cầu cho Giáo hội có được những mục tử, những người hiến dâng cuộc đời cho Chúa trở nên giống Chúa Kitô, Đấng chăn chiên lành sẵn sàng hy sinh phục vụ đoàn chiên như lòng Chúa mong ước, để có thể đối thoại với nhân loại hôm nay, khơi dậy hình ảnh người mục tử nhân lành là Đức Kitô cho các bạn trẻ về lý tưởng hiến dâng; lý tưởng trở nên mục tử, trở nên cửa tình yêu, cửa sự sống trong ơn gọi của đời Thánh hiến.
Mong ước cho mọi Kitô hữu lắng nghe tiếng gọi của các mục tử và cùng với các Ngài kết hiệp với người chủ chăn nhân lành là Đức Kitô, Đấng muốn ban ơn cứu độ cho nhân loại, nhờ đó chỉ có một đoàn chiên và một chủ chiên.
------------------------------------
PS 4-A136: Có một tương quan thật lạ lùng
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Khi giới thiệu một nhân vật quan trọng cho công chúng thì người ta sẽ nêu lên tước vị, vai trò PS 4-A136
Khi giới thiệu một nhân vật quan trọng cho công chúng thì người ta sẽ nêu lên tước vị, vai trò hay học vị cao nhất của người đó để cho mọi người nể trọng, chẳng hạn: Đây là ngài tổng thống… Đây là giáo sư tiến sĩ… Đây là khoa học gia nổi tiếng…
Thế mà qua đoạn Tin mừng được trích đọc hôm nay, Chúa Giêsu tự giới thiệu Ngài bằng một danh hiệu thật lạ kỳ và đáng kinh ngạc. Ngài nói: “Tôi là cửa chuồng chiên!” (Ga 10,7).
Vì sao Chúa Giêsu lại tự giới thiệu mình với một vai trò quá đỗi tầm thường như thế?
Xưa kia, tại Do-thái, để canh giữ đoàn chiên ban đêm, người chăn chọn một bãi đất trống ngoài đồng rồi rào dậu chung quanh, chỉ chừa một lối hẹp cho chiên ra vào mà không có cửa. Ban đêm, sau khi đã lùa chiên vào ràn, người chăn nằm ngay lối ra vào chật hẹp đó thay cho cánh cửa. Thế là chiên bên trong không thể ra bên ngoài được vì đã có người chăn chặn lối, kẻ trộm bên ngoài cũng không vào trong ràn bắt chiên được vì người chăn đã chắn lối đi. Như thế, người chăn trở thành một “cánh cửa sống” bảo vệ an toàn cho đoàn chiên.
Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tự xưng mình là “cửa chuồng chiên” như thế đó.
Thân thế của Chúa Giêsu
Chúa Giêsu, Đấng xưng mình là người chăn chiên, là cửa chuồng chiên… lại có thân thế rất diệu kỳ.
Ngài chính là Ngôi Lời, tức là Thiên Chúa ngôi hai, đã hiện hữu từ lúc vũ trụ chưa được tác thành, như Tin mừng Gioan cho biết: “Từ khởi đầu đã có Ngôi Lời… Ngôi Lời là Thiên Chúa.”
Ngài cũng chính là Đấng tạo dựng nên vũ trụ càn khôn: “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành và không có Ngài thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1, 1-3).
Thế mà, vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14).
Ngài cư ngụ giữa chúng ta để làm gì?
- Để chia vui với người vui như Ngài đã tham dự tiệc cưới tại Ca-na và làm phép lạ đầu tay cho nước hóa nên nhiều rượu ngon cho mọi người vui hưởng;
- Để khóc với người khóc như Ngài đã khóc thương trước mồ La-da-rô khi thấy cô Maria nức nở khóc thương em mình đã chết;
- Để cảm thông với vô vàn đau đớn, khốn khổ của nhân loại, của những người bệnh hoạn tật nguyền… Vì thế, Ngài đã làm cho người mù được thấy, người què được đi, người câm được nói, người phong hủi được lành sạch…
Thế là Ngài đã tạo nên một tương quan rất đặc biệt, rất độc đáo với con người.
Tương quan đó thế nào?
- Ngài là Đấng Tạo hóa, đã dựng nên muôn loài muôn vật trong vũ trụ bao la vô biên vô tận, so với Ngài, con người chẳng là gì cả. Vậy mà Ngài vẫn trân trọng chúng ta, yêu quý chúng ta, quan tâm chăm sóc từng người chúng ta.
- Ngài là Chúa tể trời đất, là vua hoàn vũ cao sang phép tắc, quyền năng vô lượng, còn chúng ta chỉ là thần dân nhỏ bé; nhưng Ngài vẫn quý mến chúng ta, không xem chúng ta như người dân đen vô danh tiểu tốt.
Vậy thì tương quan giữa Ngài với chúng ta như thế nào?
Thưa, đó là tương quan bạn bè! Ngài trở nên bạn hữu của chúng ta, Ngài thân ái gọi chúng ta là bạn, như lời Ngài nói: “Thầy không gọi các con là tôi tớ… nhưng Thầy gọi các con là bạn hữu…” (Ga 15,15).
Và qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu xác lập thêm một tương quan mới giữa Ngài với chúng ta, đó là tương quan giữa người chăn và đoàn chiên. Như người chăn chiên tốt, Ngài thấu hiểu từng con chiên một, gọi đích danh từng con trong đoàn, Ngài đi trước dẫn chiên theo sau và sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ đoàn chiên.
Và đặc biệt hơn nữa, Ngài tự ví mình như cánh cửa chuồng chiên.
- Cánh cửa này đóng lại vào ban đêm để bảo vệ chiên khỏi tay trộm cướp, khỏi nanh vuốt của thú rừng;
- Cánh cửa này mở ra vào ban ngày để đưa chiên đến đồng cỏ xanh, đến nguồn suối mát… vì mục đích Ngài đến trần gian là “để cho chiên Ngài được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa hạ mình xuống thật thấp để nâng chúng con lên thật cao; Chúa chấp nhận làm người để nâng loài người lên hàng con Thiên Chúa; Chúa tự xóa mình đi, gác bỏ vinh quang, quyền lực qua một bên để hóa thân làm người phàm yếu đuối, để đồng cam cộng khổ với chúng con, để nên bạn bè thân thiết, chia vui sẻ buồn với chúng con và thậm chí còn trở thành cánh cửa chuồng chiên để che chắn, bảo vệ chúng con là đoàn chiên của Chúa.
Xin cho chúng con hiểu cho thấu tình thương sâu đậm Chúa dành cho chúng con và sống sao cho xứng với tình yêu đó.
------------------------------------
PS 4-A137: Chú giải của Noel Quession.
Giáo Hội mời gọi chúng ta “cầu nguyện cho các ơn gọi” và mỗi năm đề nghị chúng ta đọc một PS 4-A137
Giáo Hội mời gọi chúng ta “cầu nguyện cho các ơn gọi” và mỗi năm đề nghị chúng ta đọc một đoạn Tin Mừng của Thánh Gioan về “Vị mục tử nhân lành”
Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp
Trên những đồi núi vùng Galilê và Giuđê, người ta thấy khắp nơi có những người chăn chiên, những mục tử. Ban ngày họ cho đàn chiên ăn cỏ trên những đồng cỏ hiếm hoi mọc ở giữa những đống đá của các ngọn đồi. Ban đêm, nhiều mục tử đồng ý với nhau tập họp đàn chiên của họ vào chung một khu đất có vây tường, làm bằng những tảng đá nhỏ ở đây, Đức Giêsu giới thiệu với chúng ta hai nhân vật rất tương phản: mục tử và kẻ trộm. Chính cách họ vào ràn chiên mà người ta phân biệt được họ! Kẻ trộm trèo qua rào. Còn người mục tử đi qua cửa mà vào. Ngay từ đầu chúng ta không thấy những hình ảnh thơ mộng nào cả như vẫn thoáng thấy ở các đề tài về đồng quê!
Chuồng cừu đối với Đức Giêsu không phải là một nơi ngọt ngào và thơ mộng mà là một nơi phải tự bảo vệ chống lại trộm cướp. Chúng ta chớ quên rằng bài giảng này của Đức Giêsu rất bút chiến. Đây là phần tiếp nối cuộc đối đầu bi đát khi Người chữa lành một người mù từ thuở mới sinh. Anh này bị đối xử tệ hại như một con chiên đáng thương bị người ta đánh đập chỉ vì nó tật nguyền.
Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh
Vậy, Đức Giêsu đặt đối lập những "mục tử giả hiệu” kẻ trộm cướp, khoe rằng mình hướng dẫn những người khác nhưng không được ủy nhiệm chân chính, với "mục tử chân thật" đi qua cửa để vào một cách quang minh chính đại, được người gác đã cho vào. Chúng ta chớ vội bỏ qua người gác cửa này. Tất cả Tin Mừng nói với chúng ta về người đó! Đó là Chúa Cha, Đấng đã sai Đức Giêsu đến (Ga 8,16-42), Đấng đã giao mọi sự trong tay Người (Ga 3,35; 5,22-26). Đấng đã ban cho Người những con chiên của Người (Ga 17,6-9).
Anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ.
Được tập trung vào chung một chỗ có vây tường ban đêm để được các mục tử bảo vệ, buổi sáng các mục tử thu hồi các con chiên của họ, vì các con chiên nhận biết tiếng của mục tử của chúng. Những con chiên này theo bản năng biết được mục tử yêu thương chúng từng con một: Chúng đi theo và lắng nghe mục tử. Người tín hữu chân chính, là người “lắng nghe" tiếng Đức Giêsu và “đi theo" Đức Giêsu. Động từ "lắng nghe" được lặp lại năm mươi tám lần trong Tin Mừng của Thánh Gioan: Đức Giêsu là "lời" là "Ngôi Lời” sự "mạc khải" được nói vào lỗ tai chăm chú của các bạn hữu Người "điều mà Người đã nghe từ Chúa Cha" (Ga 3,31; 8,40; 15,15). Bạn đang suy niệm bài Tin Mừng này, bạn có biết lắng nghe Lời Chúa, tiếng nói của Tình Yêu và Chân Lý?
Đức Giêsu kể cho họ nghe dụ ngôn đó. Nhưng họ không hiểu những điều Người nói với họ.
Họ không hiểu bởi vì họ không muốn hiểu, bởi vì họ cảm thấy mình bị chỉ trích. Là những người Pharisêu, họ tự hào hướng dẫn những người khác, nhưng mà người ta chạy trốn bởi vì họ là những mục tử xấu, những kẻ trộm cướp.
Vậy, Đức Giêsu lại nói: "Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không nghe họ.
Những sự tự phụ của Đức Giêsu nếu Người chỉ là một con người quả là thái quá! Người tự giới thiệu như người hướng dẫn duy nhất của nhân loại! "Tất cả những ai đến trước tôi" đều là trộm cướp. Con người nói điều đó là một người điên; hoặc giả người ấy mang trong người một sứ điệp triệt để nhất, tuyệt đối nhất, siêu việt nhất, cách mạng nhất mà nhân loại chưa bao giờ nghe thấy. Than ôi, chúng ta có thể đi theo những người hướng đạo khác nếu chúng ta chịu nổi họ và nhiều người tự giới thiệu với chúng ta như những "cứu tinh do Thiên Chúa an bài"; nhưng Đức Giêsu đã mạnh mẽ báo trước cho chúng ta biết: Các kẻ ấy đều là trộm cướp và phá hoại; mọi người đưa ra những lời hứa hẹn hay đẹp đều là những kẻ trộm cướp. Một thứ tuyệt đối thuyết như thế chỉ có thể đụng chạm đến tâm thức của thời đại chúng ta, mong muốn sự khoan dung, lo lắng đến "tính đa nguyên". Vậy ai là người dám nói với một sự bảo đảm và một sự loại trừ như thế? còn Đức Giêsu vốn khác với ‘mọi người khác’, Người hứa hẹn chúng ta điều gì?
Tôi là cửa.
Đức Giêsu thích trình bày tư tưởng của Người dưới những hình ảnh. Người đã tự giới thiệu Người như vị Mục tử độc nhất, ở đây, sử dụng những ý nghĩa tượng trưng như các nhạc sĩ thường làm khi các chủ đề của họ đan kết với nhau. Đức Giêsu đưa vào một hình ảnh thứ hai, tinh tế hơn, mầu nhiệm hơn. Người nói: "Tôi là cửa", cái cửa duy nhất, cái cửa độc nhất! Những tác giả Phúc Âm nhất lãm cũng đã đặt vào miệng Đức Giêsu sự so sánh ấy khi nói về cái “cửa hẹp" dẫn đến Nước Chúa (Mt 7,13-14; Lc 13,24). Nhưng ở đây từ ngữ chứa đựng một ý nghĩa thần học sâu xa hơn, theo nghĩa mà Đức Giêsu không bao lâu nữa sẽ nói; "Chính Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy" (Ga 14,6). Trong Kinh Thánh đã có một thứ thần bí về cái cửa. Giacóp ở giữa sa mạc đã nhìn thấy một cầu thang là cửa của thiên đàng (St 28,17). Những cái cửa của Giêrusalem được mô tả như những con đường đưa vào nơi bình an, công bằng, đến nhà của Thiên Chúa (Is 60,11; Tv 122,2; l18,19-20).
Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ.
Như thế, Đức Giêsu có ý thức Người là môt con đường đi qua, một cái cửa, dẫn đến một nơi mới, một không gian mới! Để cảm nhận ân huệ của đề nghị này nới Đức Giêsu, chúng ta phải cảm nghiệm mình đang bị giam hãm trong một thứ "căn hầm đóng kín" như Jean Paul Sartre đã mô tả. Vâng, nhân loại như bị cầm tù bởi những điều tất định khắc nghiệt nào đó: Sinh ra rồi chết đi, sản xuất rồi tiêu thụ, ăn, làm, ngủ rồi lại bắt đầu lại!”. Viễn cảnh của con người lẽ nào lại dừng lại ở vòng tròn chật hẹp này? có phải nhân loại bị kết án quay vòng tròn như thế trong khi chờ đợi cơn đắm tàu sau cùng? Có chăng một lối thoát cho con người?
Chính tại đây Đức Giêsu can thiệp và nói với chúng ta rằng Người là một cái cửa, một lối thoát. Những hình ảnh nói lên nhiều điều: "Các bạn có thể ra vào, lui tới"; đây là hình ảnh của sự tự do! Các bạn sẽ tìm thấy một đồng cỏ, hình ảnh của sự sống và sự tươi trẻ!
Tại sao chúng ta không thử mượn cái cửa mầu nhiệm ấy để đi một vòng hít thở khí trong lành, trong những đồng cỏ tắm nắng mặt trời? Đức Giêsu nói với chúng ta rằng nhân loại không thể khép kín lại với chính mình một cách tuyệt vọng: Trước mắt nhân loại, một không gian được mở ra, một không quan vô tận, một sự sống còn ở phía trước. Thiên Chúa đề nghị dành không gian của Người cho con người. Tại sao chúng ta không muốn cái cửa ấy để đến đó mà hít thở? Cánh cửa này mở ra vô tận và không chỉ mở vào ngày sau cùng, vào giờ lâm tử của chúng ta, điều đó tùy thuộc vào mỗi người chúng ta. Cánh cửa ấy hướng về Thiên Chúa, tại sao chúng ta không bước qua nó ngay từ bây giờ?
Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ.
Đức Giêsu trở lại những viễn cảnh tiêu cực này để giúp chúng ta hiểu rõ hơn đề nghị tích cực của Người. Trong các lãnh vực kinh tế, chính trị, kỹ thuật, con người đã thực hiện nhiều cuộc giải phóng mà chúng ta không thể coi thường và mọi Kitô hữu phải tham gia. Nhưng Đức Giêsu nhắc chúng ta chỉ có duy nhất một cuộc giải phóng triệt để mà Thiên Chúa đề nghị với chúng ta. Mọi lời hứa khác về giải phóng, về hạnh phúc đều là lừa bịp, một thứ trộm cắp. Nhân loại được dựng nên không phải để bằng lòng với không khí ngột ngạt của mọi thứ chủ nghĩa duy vật. Các chủ nghĩa vô thần chỉ đem lại cho con người một hình ảnh bị cắt xén. Đối với Đức Giêsu, nếu chỉ đưa ra cho con người các viễn cảnh hạn chế thì đó chính là "Giết chết và Phá hủy" con người chỉ sống viên mãn khi con người mở ra với Thiên Chúa. Và Đức Giêsu là cái cửa! Nếu người nào đi qua cửa đó, người ấy sẽ được cứu!
Không đi qua lối đó, con người sẽ hư mất. Môi trường sống tuyệt đối duy nhất của con người, chính là môi trường của Thiên Chúa. Chỉ có nơi đó mới là không gian của con người. Chỉ có nơi đó, con người thật sự được tự do. Chỉ có nơi đó con người thật sự hít thở và phát triển đến vô tận.
Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.
Ở đây chúng ta gặp lại một chủ đề mà Thánh Gioan ưa thích. Rượu nho ở tiệc cưới Cana được ban cho một cách dồi dào: 600 lít! (Ga 2,6-7). Nước sự sống ban cho người phụ nữ Samari vọt lên để sau cùng làm mọi cơn khát phải chấm dứt (Ga 4,14). Bánh được hóa ra nhiều và rất dồi dào và còn dư lại mười hai giỏ đầy (Ga 6,10-12). Sự đánh cá mầu nhiệm làm chiếc thuyền đầy cá (Ga 21,6). Nhưng đó chỉ là những hình ảnh. Thực tế còn đẹp hơn nhiều. Có một sự sống "dồi dào": Sự sống của Thiên Chúa!
Quả thật, rõ ràng chỉ có Đức Giêsu mở ra một không gian vô cùng, vô tận cho con người. Bên ngoài Người, nhân loại hoàn toàn "bị giam hãm" trong chính mình: không một ý thức hệ, một lãnh tụ chính trị hay xã hội, một khám phá khoa học nào giải thoát chúng ta khỏi số phận "Chỉ là những con người và vì thế phải chết". Nhưng chính Đức Giêsu, vừa là người vừa là Thiên Chúa, lôi kéo ta ra khỏi sự bất lực của chúng ta để đưa chúng ta vào lãnh địa của Thiên Chúa. Cái Cửa ấy mở ra cái vô cùng vĩnh cửu.
------------------------------------
PS 4-A138: Chứng tá cuộc khổ nạn
(Suy niệm của John W.Martens - Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Chính Ngài mang lấy tội của chúng ta nơi thân thể Ngài, đưa lên cây Thập giá” (1P 2,24).
Trong thế giới Hy Lạp- Rôma ngày xưa, những nô lệ đôi khi cũng được đối xử tử tế, nhưng hoàn PS 4-A138
Trong thế giới Hy Lạp- Rôma ngày xưa, những nô lệ đôi khi cũng được đối xử tử tế, nhưng hoàn toàn do tùy thích của người chủ, chứ luật pháp không đòi buộc. Ngay cả những nô lệ tại nhà, như được nói tới trong thơ thứ nhất của Thánh Phêrô, vẫn có thể bị bạo hành theo ý của ông chủ. Thánh Phêrô trong thơ thứ nhất của Ngài đã khuyên những người nô lệ đó hãy phục tùng quyền bính của người chủ, cả khi họ tử tế cũng như lúc họ khắc nghiệt. Người nô lệ không có một quyền gì trên cuộc sống của họ, tất cả hoàn toàn lệ thuộc vào chủ. Thánh Phêrô đưa ra lời mời gọi này, hàm ngậm sự nhẫn nhục chịu đựng, ngay cả khi thân xác họ bị khai thác hay bị lạm dụng tình dục.
Khi đọc lại những lời khuyên đó trong bối cảnh xã hội thế kỷ đầu tiên, chúng ta hôm nay sẽ hiểu sứ điệp đó như thế nào? “Nếu anh em hứng chịu những đánh đập khi anh em sai lỗi, thì dễ hiểu, nhưng khi anh em làm đúng mà vẫn phải chịu đựng những bất công, thì có Thiên Chúa chứng giám cho anh em”. Khuyên nhủ tín hữu như thế, dường như Thánh Tông đồ đòi hỏi phải biết cam chịu trong câm nín trước những tàn bạo và bất công, lại còn có vẻ gián tiếp tán thưởng những hành vi gian ác đó. Không phải vậy đâu. Quả thật, khi chúng ta nhìn vào thực trạng xã hội ngày hôm nay, chúng ta sẽ thấy có một hình thái nô lệ mới đang nở rộ quanh ta. Sứ điệp mà Thánh Phêrô nói ở trên hàm ngậm điều gì, để ngỏ trao cho con người thời đại này?
Rất quan trọng, chúng ta phải nhớ rằng, vào thế kỷ đầu tiên, việc mua bán nô lệ là một định chế xã hội hợp pháp. Việc sang tay trao đổi nô lệ, hoàn toàn tùy thuộc vào cá nhân các ông chủ. Nếu có ai giúp các nô lệ trốn thoát, nguời đó sẽ bị pháp luật trừng trị. Chính những nô lệ bỏ trốn sẽ bị đối xử bằng những cực hình rất kinh sợ, và đương nhiên điều đó hợp pháp lúc bấy giờ. Giáo hội thời sơ khai chỉ là một thiểu số nhỏ nhoi, hầu như cũng chẳng có tiếng nói gì về mặt xã hội và chính trị. Chính vì thế, các Kitô hữu thuở ban đầu đứng trước tình trạng này, chỉ biết khuyến khích các nô lệ hãy noi gương Chúa Giêsu, chịu đựng những bất công và chấp nhận để tiếp bước theo Ngài.
Đoạn văn trong thơ thứ nhất của Thánh Phêrô, (1P2,22-24), theo ý kiến của một vài học giả, là một phần trong thánh thi của các tín hữu thời sơ khai. Thánh thi này quy chiếu vào cuộc khổ nạn Đức Giêsu, như ngôn sứ Isaia nói tới (Is53, 4-12). Đó là bài ca về “ Người Tôi Tớ Đau Khổ”. Những bi thương của các nô lệ trong thế kỷ đầu tiên là một điều rõ rệt, không cần bàn cãi, và những khổ đau đó được gắn kết với những kinh nghiệm trong nỗi thống khổ của chính Đức Giêsu. Quả thật, những ai hứng chịu đau khổ cách bất công, cả trong thời đại ngày hôm nay, vẫn có thể suy tưởng trạng huống đời mình liên đới với Đức Giêsu, “Đấng đã bị đối xử tàn bạo, phũ phàng, nhưng không oán thù, hoàn toàn tín thác vào Đấng sẽ giải oan cho mình”. Đau khổ ngày nay, được mặc lấy một ý nghĩa linh thánh, để những khốn khó Đức Giêsu đã gánh chịu được hiện lộ rõ nét nơi tất cả những ai chấp nhận khổ đau trong thân thể mầu nhiệm của Ngài.
Tuy nhiên, có một nguy cơ ở đây, đó là chúng ta cứ thụ động thinh lặng đứng ngoài lề, khi thấy những bóc lột và lạm dụng người khác gây ra cho những kẻ yếu thế, khiến họ phải chịu đựng cách bất công và vô lý. Không phải vậy. Thánh giáo phụ Chrysolomo, trong khảo luận “Bàn về hư danh” (số 69) đã chỉ dạy các người trẻ hãy chấp nhận những bất công xảy đến, nhưng “tuyệt đối không để điều đó tiếp tục xảy ra”. Khi nào những đau thương và bất công xảy đến, bổn phận chúng ta là phải cố gắng đẩy lùi tình trạng đó bằng chứng tá của chính mình. Dầu sao, có những lần chúng ta cố ngăn chặn những bất công mà người khác phải gánh chịu, nhưng không cách nào làm được, chúng ta vẫn phải cam chịu. Ở đây, mẫu gương của Chúa Giêsu sẽ giúp chúng ta hiểu được rằng chính Ngài là đấng vô tội đã hứng chịu mọi phũ phàng và gian ác, để qua những khổ đau đó, Ngài chữa lành mọi thương tích nơi chúng ta. Tôi không muốn hứng chịu khổ đau. Tôi cũng không muốn những người tôi yêu thương phải lãnh lấy đau khổ. Tôi cũng chẳng muốn ai chịu đựng như thế. Nhưng mổi lần chúng ta đón nhận những bầm dập và nghiệt ngã, điều quan trọng là chúng ta ý thức được Đức Kitô, vị Mục Tử Nhân Lành thấu rõ những khổ đau nơi thân phận con người chúng ta. Thánh Phêrô trong thơ thứ nhất của Ngài đã viết: “Chúng ta bị tan tác như chiên non tan đàn xẻ nghé, nhưng chúng ta sẽ được chủ chăn dẫn về, và Ngài cũng là Đấng chăm sóc linh hồn chúng ta”. Đoạn văn trong Is 53,6 nói rõ hơn: “ Vị Mục tử Nhân lành đã chuốc lấy khổ đau, để khơi nguồn cứu độ, vì chúng ta là những con chiên lang thang mỗi người mỗi ngả, nhưng đức Chúa đã đặt mọi tội khiên chúng ta trên đầu Ngài”.
Nỗi thống khổ của đức Giêsu vô tội giúp chúng ta nhận thức được ý nghĩa của những đau khổ chúng ta đã và đang kinh qua, đồng thời hướng việc chặn đứng những bất công của chúng ta đến một mục đích linh thiêng. Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu ngày xưa, cũng cho phép chúng ta thông dự với những ai đang gánh chịu đau khổ ngày hôm nay, đang bị bách hại sống kiếp nô lệ, đang bị lạm dụng thân xác, bị áp bức hay bị tổn thương bởi muôn vàn lý do khác nhau. Khi chúng ta chịu đựng đau khổ, hoặc cố gắng ngăn chặn những khổ đau người khác gánh chịu, điều quan trọng là chúng ta nhận ra rằng Đấng Chăn Chiên Nhân Lành không muốn tạo ra những khổ đau cho ta, nhưng Ngài muốn cất đi những đau khổ đó. Chúng ta sẽ làm chứng tá rằng vị Mục Tử Nhân Lành đó đã đến trần gian để cho ta “được sống và sống dồi dào”(Ga 10,10), và Ngài mong muốn đưa chúng ta trở về với đàn chiên trong an lành.
------------------------------------
PS 4-A139: CHÚA CHIÊN LÀNH
Tin Mừng Ga 10: 1-10
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu tự giới thiệu mình là “cửa chuồng chiên”, cho nên trước PS 4-A139
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu tự giới thiệu mình là “cửa chuồng chiên”, cho nên trước hết chúng ta cần tìm hiểu xem tại sao Chúa Giêsu lại ví mình là cửa chuồng chiên.
Trong dụ ngôn này, Đức Giêsu đề cập đến hai loại chuồng chiên. Tại các làng mạc và thị trấn, có những đàn chiên cộng đồng, tất cả các bầy chiên tại địa phương đó đều được nhốt chung khi chúng trở về buổi tối. Các chuồng chiên ấy được bảo vệ bằng một khung cửa thật chắc chắn mà chỉ có người canh cửa mới được giữ chìa khóa mà thôi. Đó là loại chuồng chiên mà Chúa đề cập đến trong bài Tin Mừng hôm nay. Nhưng đến mùa nắng ấm, khi chiên được thả trên núi, đêm đến không lùa về làng, thì chúng được nhốt trong các chuồng chiên ngoài sườn đồi. Các chuồng chiên trên sườn núi này chỉ là một khoảng đất trống có rào chung quanh, có một chỗ trống cho chiên ra vào, không có cửa rả gì cả. Đêm đến người chăn chiên nằm ngay tại khoảng đất trống làm chỗ ra vào, không có chiên nào ra vào được, trừ phi nó bước qua anh ta.
Và cũng trong Tin Mừng hôm nay, Chúa nêu rõ hai hình ảnh trái ngược: mục tử và kẻ trộm. Ðâu là tiêu chuẩn để có thể nhận ra khuôn mặt của hai hạng người đó ?
Tùy thái độ đối với đoàn chiên, hai hạng người đó sẽ lộ nguyên hình. Tự bản chất, tên trộm bao giờ cũng rình mò xâm phạm đến của cải và tính mạng người khác. Bất chấp luật pháp, “kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ.” (Ga 10:10)
Trái lại, mục tử đích thực không những tôn trọng công lý, mà còn hy sinh bản thân vì người khác. Họ hy sinh tất cả cho hạnh phúc tha nhân. Có nhìn thấy mục tử chăn chiên trên đồi Palestine, mới thấy họ hy sinh cho đoàn chiên tới mức nào. Họ mất ngủ, mệt mỏi đứng dựa trên gậy, theo dõi từng động thái của đàn chiên. Tối đến, sau khi lùa đàn chiên vào chuồng, họ nằm chắn ngang bực cửa để bảo vệ đoàn chiên khỏi thú dữ. Mục tử như một chiếc cửa mở ra cho chiên ra vào và che chở đoàn chiên khỏi thú dữ sát hại. Có được bảo vệ an toàn như thế, đoàn chiên mới “sống và sống dồi dào.” (Ga 10:10)
Đức Giêsu là mục tử tốt lành, như trong TV 23 đã diễn tả
"Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người. Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên" (Tv 23).
Vì thế, khi ý thức được Đức Giêsu luôn chăm sóc mình như người mục tử tốt lành chăm sóc đàn chiên, người Kitô hữu có thể hết sức an tâm trước tất cả mọi giông tố, thử thách trong cuộc đời. Chúng ta hãy tin tưởng vào tình thương vô biên và chân thật của Ngài, và an tâm phó thác mọi sự cho Ngài, kể cả mạng sống, hạnh phúc của mình. Nhờ đó cuộc đời ta luôn luôn bình an, vui tươi, hạnh phúc.
Hôm nay cũng là ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Đây là một công việc rất quan trọng, cần sự cộng tác đắc lực của gia đình cũng như giáo xứ. Quả thực hạt giống thiên triệu là hạt giống vô cùng cao quí. Nhưng hạt giống ấy lại rất cần thời gian để nảy mầm và phát triển. Hạt giống càng được gieo vào tâm hồn sớm bao nhiêu càng có hy vọng trổ sinh hoa trái đúng mùa bấy nhiêu. Biết bao Kitô hữu bước vào đời sống linh mục hay tu sĩ vì đã nhận được hạt giống ơn gọi từ thuở thơ ấu. Những hình ảnh tốt lành thánh thiện của các vị chủ chăn, những khuyến khích hướng dẫn chân thành của ông bà cha mẹ, những việc làm dấn thân phục vụ của bao Kitô hữu đã hun đúc tâm hồn và chuẩn bị con em mình thành các tông đồ tương lai cho Nước Trời.
Chúng ta cầu nguyện cho có nhiều tâm hồn quảng đại, biết dấn thân vô điều kiện, và phục vụ vô vị lợi cho đàn chiên Chúa, vì đàn chiên không thể thiếu chủ chăn.
Lạy Chúa, Chúa là mục tử tốt lành, xin dẫn dắt chúng con đi trên nẻo đường của Chúa, để chúng con được no thỏa ân tình của Ngài. Xin ban cho chúng con những chủ chăn nhân lành, chỉ biết say mê Chúa và say mê con người, chỉ biết yêu thương, phục vụ và chăm lo cho đàn chiên Chúa, để chia sẻ với Chúa nỗi bận tâm về một đàn chiên “được sống và sống dồi dào”. Amen
Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
------------------------------------
PS 4-A140: ĐỨC KITÔ - MỤC TỬ NHÂN LÀNH
Trong Tin mừng hôm nay, Đức Kitô tự giới thiệu Người là vị mục tử nhân lành, hết lòng săn sóc PS 4-A140
Trong Tin mừng hôm nay, Đức Kitô tự giới thiệu Người là vị mục tử nhân lành, hết lòng săn sóc đoàn chiên của mình. Người mục tử nhân lành biết từng con chiên của mình là mỗi người chúng ta. Đứng trước tình yêu của Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành, mỗi người Kitô hữu thêm niềm hy vọng, thêm niềm tin tưởng và nhất là gia tăng mạnh mẽ hơn tình yêu dành cho Người. Vui mừng hân hoan vì được làm chiên của Mục tử Giêsu Kitô, đó là thái độ của mọi Kitô hữu.
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1. Bài đọc I : Cv 2,14.36-41
Những Kitô hữu đầu tiên
Bản văn hôm nay là phần kết bài giảng của Thánh Phêrô ngày Lễ Ngũ tuần. Sau khi loan báo cho mọi người biết Đức Kitô mà mọi người đã giết chết nay Người đã sống lại và đi vào vinh quang, Thánh Phêrô thúc đẩy thính giả của ngài đến chỗ sám hối tội lỗi để đón nhận đời sống trong Thần Khí Đấng Phục sinh.
a. Nhờ lời rao giảng đầy lửa mến của Thánh Phêrô, một số đông dân chúng đã hối cải, gia nhập Hội thánh mới khai sinh và xin được thanh tẩy.
b. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, Hội thánh đã cất cánh bay lên : Thánh Luca đưa ra con số những người mới quay trở về của ngày hôm đó ước khoảng ba ngàn người. Đó quả là một con số mơ ước.
c. Sức mạnh của lời rao giảng thật đáng kinh ngạc. Một bài giảng của Phêrô đã đưa hàng ngàn người vào Giáo hội. Tất nhiên tác nhân chính yếu chính là Chúa Thánh Thần. Mỗi người Kitô hữu phải mạnh tin và can đảm loan báo Tin mừng. Chính Chúa Thánh Thần sẽ làm cho việc rao giảng mang lại hoa trái tốt đẹp.
2. Bài đọc II : 1Pr 2,20-25
Mời gọi noi theo Đức Kitô
Theo lược đồ lá thư thứ nhất của Thánh Phêrô thì chương 2 là lời giáo huấn khuyên mọi người biết đón nhận đau khổ cách xứng đáng và độ lượng theo gương Chúa Giêsu.
a. Khi khuyên bảo phải biết nhẫn nhục chịu đau khổ trong các công việc lành, Thánh Phêrô không có ý muốn bảo phải cam chịu những bất chính ức hiếp con người nhưng theo ánh sáng Tin mừng là biết trở nên khiêm nhường nhỏ bé và yếu đuối trước mặt Thiên Chúa. Tin mừng chính là hạt mầm của sự giải phóng, của tự do.
b. Chịu đựng mọi sự theo gương Đức Kitô là hiệp thông tình yêu với Người ; là kết hợp với đau khổ của Người để làm nên giá trị cho những đau khổ mà bản thân mỗi người đang gánh nhận.
c. Chấp nhận chịu đau khổ theo gương Chúa Giêsu là một huyền nhiệm trong cuộc đời Kitô hữu. Đau khổ luôn có trong cuộc sống mỗi người, nếu biết đón nhận và nối kết với khổ giá của Chúa Giêsu, sẽ là giá thanh luyện và giải phóng con người khỏi nô lệ cho ma quỉ, tội lỗi và đam mê bất chính, và là khơi nguồn sự sống và niềm vui trong hy vọng.
3. Tin mừng : Ga 10,1-10
Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành và là cửa chuồng chiên
Để giúp thính giả hiểu mình là Đấng Messia được Chúa Cha sai đến, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh người mục tử và đàn chiên ; hình ảnh cửa chuồng chiên để làm sáng tỏ sứ mạng của Người đến yêu thương, chăm sóc cho nhân loại.
a. Chúa Giêsu dùng hình ảnh "mục tử" để nói về vai trò tôn giáo của Người nơi dân Do Thái. Với người Do Thái, hình ảnh đàn chiên, mục tử là những hình ảnh rất quen thuộc và nhiều ý nghĩa với họ, là dân có nguồn gốc là người du mục. Họ đã nhìn thấy nơi những thực tại quen thuộc ấy một biểu tượng giá trị cho những thực tại tôn giáo: Mục tử là hình ảnh mô tả đúng tình yêu của Giavê Thiên Chúa dành cho họ và đàn chiên là hình ảnh rỏ nét tương quan của họ đối với Ngài (x. Ed 34,11-16).
b. Ta là cửa chuồng chiên : bằng hình ảnh này, Chúa Giêsu khẳng định rõ ai muốn vào Nước Trời, muốn lãnh nhận ơn Cứu độ bắt buộc phải đi qua Người ; muốn đến với Chúa Cha phải qua Người. Như Người đã từng nói : "Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy."
c. Chúa Giêsu là mục tử biết từng con chiên và chiên Người nghe tiếng Người. Trong Giáo hội và trong dân Do Thái cũng luôn tồn tại hai hạng người : những người thực sự thuộc về Đấng chăn chiên, biết nghe và đáp lời Người. Và những người không biết nghe và đáp lời Người vì không thuộc về Người.
II. GỢI Ý BÀI GIẢNG
1. Tình yêu nơi Chúa Giêsu mục tử nhân lành, một tình yêu cá vị : Những từ ngữ Chúa Giêsu dùng : người mục tử biết và gọi đích danh từng con chiên, các con chiên theo sau người chăn vì biết tiếng của người ấy, các từ ngữ này diễn tả một tình yêu thương cá vị. Thiên Chúa là tình yêu, Ngài yêu thương tất cả mọi người nhưng không phải bằng một tình yêu chung chung, mà là một tình yêu đặc biệt dành cho mọi người và từng người. Ngài biết rõ từng người, từng hoàn cảnh và quan tâm từng người đều như nhau. Nơi Thiên Chúa không có sự thiên vị ai mà tất cả đều hưởng trọn vẹn tình yêu của Ngài. Chỉ có về phía con người có biết nghe theo Chúa, đi theo Ngài hay không mà thôi. Chính niềm tin của con người làm cho mỗi người đón nhận được ơn Chúa, tình yêu của Chúa khác nhau. Chúa luôn công bằng trong tình yêu dành cho mọi người.
Hiểu điều này để mỗi Kitô hữu nhìn lại đời sống đức tin của mình. Chính bản thân đã sống với Chúa như thế nào ? Chúa vẫn yêu tôi nhưng tôi đón nhận và đáp trả như thế nào ? Đừng vội vàng oán trách Chúa, so bì tị nạnh khi thấy người khác được nhiều ơn Chúa hơn. Tất cả đều được Chúa Giêsu mục tử nhân lành chăm sóc, lo lắng chu đáo.
2. Chúa Giêsu mục tử nhân lành, Đấng duy nhất đưa con người đến hạnh phúc và sự sống đích thực : Chúa Giêsu khẳng định : "Ta đến để cho chúng được sống và sống dồi dào". Người tự ví mình là cửa chuồng chiên, ai qua cửa mà vào thì được cứu rỗi. Những hình ảnh ẩn dụ này nhằm mạc khải sứ mạng của Người là đến để ban tặng sự sống vĩnh cửu, hạnh phúc viên mãn cho nhân loại, đang lầm lũi bước đi trong bóng tối của tội lỗi, ma quỉ và sự chết. Chỉ có Chúa Giêsu, mục tử đích thực mới đưa nhân loại vào Nước Trời, cánh đồng bao la bát ngát, bằng cách tái sinh họ bởi nước và Thánh Thần. Cũng nơi Người, ai nấy đều tìm được thức ăn mang lại sự sống vĩnh cửu là Mình Máu Thánh của Người. Tìm được nguồn lương thực giúp mang lại hạnh phúc là lời Người, ánh sáng soi dẫn mọi người.
Tin và gắn bó với Chúa Giêsu nơi Bí tích Thánh thể, sống thực thi lời Người là những phương thế hữu hiệu và luôn có giá trị để đón nhận sự sống và hạnh phúc mà Người mang lại.
3. Nghe theo tiếng gọi của Chúa Giêsu mục tử nhân lành :
Từ dân Israel khi xưa cho đến trong xã hội hôm nay, luôn có những người tin theo Chúa Giêsu và những không tin theo Người. Tin theo Người thì được cứu rỗi, còn ngược lại thì không. Tin theo Chúa Giêsu là biết sống và thực thi lời Người. "Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta". Chiên đi theo mục tử vì quen tiếng của mục tử. Kitô hữu đi theo Chúa Giêsu vì quen tiếng của Người, hiểu lời của Người. Danh xưng Kitô hữu, các bí tích đã lãnh nhận không phải là những yếu tồ cần và đủ để được ơn cứu rỗi nếu như không tin và sống lời Chúa. Chính việc tin và thực hành theo lời Chúa là yếu tố quan trọng nhất. Mọi bí tích đều là bí tích đức tin nghĩa là đòi phải có đức tin mới mang lại hiệu quả. Kinh nguyện, dâng lễ cũng phải được khởi đi từ đức tin mới trở nên sức sống cho đời Kitô hữu.
Trước mặt Thiên Chúa thì những dáng vẻ bên ngoài không quan trọng mà chính là thái độ sống niềm tin của mình mới là điều quan trọng. Thái độ đó thể hiện ở chỗ biết nghe lời Chúa và mau mắn thi hành. Biết làm mọi sự theo sự hướng dẫn của lời chúa. Đó chính là điều cốt lõi để xác định mình có thuộc về đàn chiên của mục tử Giêsu hay không.
III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU :
Mở đầu : Anh chị em thân mến, tin tưởng vào Chúa Giêsu, mục tử nhân lành luôn yêu thương chăm sóc đoàn chiên, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
1. Giáo hội chính là chuồng chiên rộng lớn của Thiên Chúa được Chúa Giêsu, mục tử nhân lành chăm sóc. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các vị chủ chăn trong Giáo hội, cách riêng là Đức Giáo hoàng, các Đức Giám mục giáo phận, các linh mục trong giáo xứ và cộng đoàn luôn đi theo ánh sáng lời Chúa để các ngài thực sự là hình ảnh sống động và trung thực của Chúa Giêsu, mục tử nhân lành.
2. Ngày nay còn biết bao nhiêu anh chị em nghèo đói, bị áp bức, bị ngược đãi trong xã hội, chung quanh chúng ta. Chúng ta cùng cầu nguyện cho họ luôn được mọi thành phần trong xã hội và các nhà lãnh đạo quan tâm chăm sóc.
3. Chúa Giêsu đến để cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn hăng say học hỏi và nhiệt thành sống lời Chúa để có thể đón nhận và trao ban hạnh phúc, tình yêu và sự sống của Chúa cho mình và cho tha nhân.
Lời kết : Lạy Thiên Chúa là Cha giàu lòng nhân ái, chúng con vui mừng được làm con chiên của Chúa dưới sự chăm sóc của Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành. Xin ban Thánh Thần cho chúng con để chúng con biết vâng nghe lời Người, can đảm sống lời Người là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
Lm Giuse Maria Lê Quốc Thăng
------------------------------------
PS 4-A141: SUY NIỆM CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH
năm A
“…Ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử…” Tôi là cửa của các con chiên” (Ga 10,2.7b).
Trong ba Chúa Nhật đầu của Mùa Phục Sinh, các bài đọc Tin Mừng cho chúng ta chiêm ngắm các PS 4-A141
Trong ba Chúa Nhật đầu của Mùa Phục Sinh, các bài đọc Tin Mừng cho chúng ta chiêm ngắm các hoạt động cuối cùng của Đấng Phục Sinh trong khoảng thời gian tám ngày, nhằm củng cố niềm tin vào Người của các môn đệ và chuẩn bị cho các vị ấy tiếp tục sứ vụ mà Chúa Cha đã trao cho Người mà không có sự hiện diện hữu hình của Người. Các Chúa Nhật tiếp theo, các bài đọc Tin Mừng đưa chúng ta về lại hành trình rao giảng công khai của Đức Giêsu. Chúa Nhật IV Mùa Phục Sinh được phụng vụ gọi là Chúa Nhật “Chúa chiên lành”. Tin Mừng cả ba năm ABC đều nói đến tương quan giữa Đức Giêsu – Chúa Cha – Đàn Chiên – Các Mục Tử ngang qua hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống chăn nuôi của người Do Thái tại Palestin.
Trong phụng vụ Công Giáo, Chúa Nhật IV Mùa Phục Sinh được gọi tên là Chúa Nhật “CHÚA CHIÊN LÀNH” để tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho nhân loại “NGƯỜI MỤC TỬ NHÂN LÀNH” là Đức Giêsu, đã dám hi sinh cả đến mạng sống mình để tha thứ, chữa lành, phục hồi, nuôi dưỡng, cứu độ đàn chiên. Hội Thánh nài xin Thiên Chúa ban nhiều “thợ gặt”, nhiều ơn gọi linh mục, tu sĩ đến các “cánh đồng” truyền giáo, lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. “Mầm Sống Thần Linh” do Đức Giêsu phục sinh mang đến tặng ban cho nhân loại cần có các tay thợ lành nghề tiếp tục chăm sóc chuẩn bị cho vụ mùa cánh chung bội thu.
Thông thường khi nói đến tương quan giữa Đức Giêsu với đàn chiên tín hữu, người ta nghĩ ngay tới vai trò Mục Tử của Đức Giêsu: Người là VỊ MỤC TỬ TỐT. Tuy nhiên, trích đoạn Tin Mừng được chọn đọc trong Chúa Nhật IV A Mùa Phục Sinh thì vai trò chính yếu của Đức Giêsu được nhấn mạnh tới lại là “CỬA”. Đức Giêsu lại nói: “Thật tôi bảo thật các ông: tôi là CỬA CỦA CÁC CON CHIÊN” (x.Ga 10,7.9).
Cách nói nghe lạ tai đối với chúng ta. Tuy nhiên nếu ta chịu khó tìm hiểu ý nghĩa của cách nói này thì sẽ thấy rằng đó là một mắc xích trọng yếu trong quá trình Thiên Chúa tỏ mình cho dân Chúa, giúp dân Chúa ngày càng tiến sâu vào mối tương quan phụ tử thân tình với Thiên Chúa. Thật vậy, cách nói “tôi là CỬA” tương đương với “Thầy là CON ĐƯỜNG…” (x.Ga 14,6). “Con đường” là yếu tố bắt buộc một khách lữ hành phải trải nghiệm để có thể đạt đến cùng đích mà mình ước mong. Vậy “cửa”, “con đường” ám chỉ gì?
Khi nói về Đức Giêsu, chúng ta thường tuyên tín Người là Thiên Chúa thật và cũng là con người thật, nhưng khi đến với Đức Giêsu thường chúng ta chỉ thấy Người là Thiên Chúa; Điều đó càng được củng cố thêm trong bối cảnh Mùa Phục Sinh: nhân tính của Đức Giêsu được đưa về trời, được tôn vinh là CHÚA, muôn vật phải tôn thờ…(x.Pl 2,10-11). Cũng như ba môn đệ trên núi Tabor lúc Đức Giêsu hiển dung, các ông quên mất Đức Giêsu đang là một con người vừa loan báo đường Thập Giá. Chúng ta quên mất yếu tố nào đã đưa chúng ta thông hiệp vào vinh quang thần linh của Thiên Chúa cách trung thực và chắn chắn. Yếu tố đó chính là NHÂN TÍNH của Đức Giêsu. Trước khi nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa thì các chứng nhân về phục sinh đều đã tiếp xúc trực tiếp bằng các giác quan với nhân tính của Đức Giêsu. Chính nhân tính đó đã từng bước một đào tạo, dẫn đưa họ đến đức tin chân chính.Vậy cái “CỬA”, “CON ĐƯỜNG” chính là những gì mà Đấng Phục Sinh tỏ bày hữu hình cho môn đệ được thấy, đó là NHÂN TÍNH của Người. Chính trong và qua nhân tính ấy mà Ngôi Lời Thiên Chúa đang hiện diện, điều khiển dòng lịch sử, và chỉ một mình Người mới đưa mọi sự về lại với Cha: “không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (x.Ga 14,6).
Trong bầu khí của Mùa Phục Sinh, các tín hữu đang phấn khích tôn vinh Đức Giêsu là CHÚA, thì Giáo Hội nhắc lại cho chúng ta đừng vội quên vị Thiên Chúa đó cũng là một con người trọn vẹn, cũng chịu mọi thử thách như bao con người khác, chỉ khác một điều là không phạm tội thôi (x.Dt 2,17a; 4,15); Người phải trải qua nhiều khổ đau của phận làm người mới học biết được thế nào là vâng phục (x.Dt 5,8) và chính nhờ vâng phục, chấp nhận phận tội nhân như thế (nghĩa là sống trọn vẹn kiếp làm con người) thì Người mới trở nên nguồn ơn cứu độ cho những ai thần phục Người (x.Dt 5,9), đền tội cho họ, làm cho họ nên công chính trong Người (x.Rm 8,3; 2Cr 5,21). Vậy nhân tính Đức Giêsu chính là cầu nối kết hiệp vũ trụ, con người vốn hữu hình với Thiên Chúa vô hình, thần linh. Ngoài “cánh cửa” Giêsu này, vũ trụ và con người không đạt đến Chúa được. Qua mặc khải mình là “cửa của các con chiên”, Đức Giêsu đang chuẩn bị trước cho các môn đệ sẵn sàng đương đầu với Thập Giá, giúp họ vững tin vào Người, cho dù lúc ấy xác thân Người bị bầm dập, tơi tả vì các nhục hình (x.Ga 14,29) và còn hơn nữa là nhận ra “tội nhân” Giêsu ấy chính là Thiên Chúa (x.Ga 13,19).
Đức Giêsu không nói “tôi là cửa của chuồng chiên”, mà lại nói “tôi là cửa của các con chiên” (10,7 dịch sát theo tiếng hi lạp: “amen, amen…êgô êimi he thura ton probaton”): điều mà Đức Giêsu muốn nhắm tới, khi dùng hình ảnh “cái cửa” không phải là một nơi chốn cố định (vì “cái cửa” không đi theo sát “con chiên” được) mà là một mối tương quan mật thiết gắn bó nhân vị của Người với đàn chiên, với từng con chiên của Người. Chính con người của Đức Giêsu là hồng ân mà Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại và Thiên Chúa muốn nhân loại sẽ tiếp xúc, gặp gỡ Chúa qua con người Giêsu ấy. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã muốn chọn HÒM BIA làm phương tiên để đồng hành với dân trong suốt cuộc hành trình vượt sa mạc để về tới Đất Hứa, thì nay qua hình ảnh “cửa của các con chiên”, với tư cách là “êgô êimi” (tên mà Yavê Thiên Chúa mặc khải cho Môsê qua bụi gai rực cháy mà không tiêu tan: Xh 3,14). Đức Giêsu tỏ mình cho dân mới Người là trung gian duy nhất mà Thiên Chúa yêu thương ban tặng cho nhân loại để con người có thể gặp được Thiên Chúa và thông hiệp trọn vẹn vào sự sống thần linh của Thiên Chúa. Thật vậy, trong Kinh Thánh, “CỬA” cũng được dùng để ám chỉ lối vào thế giới của Thiên Chúa (x.St 28,17 “đây là CỬA Trời” trong giấc mơ của Giacob; x.Mt 7,13-14: vào Nước Trời bằng CỬA hẹp).
Kể từ khi nguyên tổ phạm tội trốn chạy Thiên Chúa, thì CỬA TRỜI đóng lại (x.St 3,8.23-24). Tương giao thân tình với Thiên Chúa tạm thời cắt đứt; “hình ảnh của Thiên Chúa” nơi con người bị lem ố đi! Mặc dù vậy, tận đáy thẳm tâm hồn, con người vẫn hướng vọng về trời cao: họ nài xin Thiên Chúa xé trời ngự xuống với họ (x.Is 63,19) và xin Thiên Chúa ngự đến dẫn đầu đưa dân Chúa qua CỬA về lại đồng cỏ bình an (x.Mk 2,12-13). Đức Giêsu được Cha sai đến để thực hiện dự tính đó: qua Thập Giá và Phục Sinh, Đức Giêsu trở nên CỬA TRỜI mở ra để các con chiên của Chúa có lối về lại nhà Cha qua CỬA GIÊSU (x.Ga 1,51).
Còn tron giai đoạn lữ hành, “lúa” và “cỏ lùng” còn lẫn lộn, thì “CỬA” Giêsu chính là chuẩn mực giúp biện phân đâu là mục tử tốt/xấu, con chiên nào là chiên thật sự thuộc về đàn chiên của Chúa (x.Ga 10,1-2; 10,9).
Những gì Đức Giêsu đã thực hiện cho toàn nhân loại, thì Đức Giêsu cũng muốn từng môn đệ hãy làm như Người. Đức Giêsu đã là CỬA để các môn đệ đến được với Cha, thì tới phiên mình mỗi môn đệ cũng phải là CỬA để những ai tiếp xúc với môn đệ đều có CỬA bảo đảm đến được với Đức Giêsu và trong Đức Giêsu đến được với Cha: như Thầy đã rửa chân cho anh em, anh em hãy rửa chân cho nhau (x.Ga 13,14); “Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em” (x.Ga 20,21). Chính thân phận làm người đầy yếu hèn, tội lỗi của chúng ta, Thiên Chúa đã hồi phục, sử dụng làm trung gian đem ơn cứu độ đến cho kẻ khác. Thật vậy những con người hèn yếu trốn chui trốn nhủi vì “sợ người Do Thái”, thì giờ đây, trong bài đọc một, đã trở thành “CỬA” tuôn ban Lời cứu độ đến cho muôn dân.
Hãy can đảm sống trọn vẹn ơn gọi làm người mà Chúa đã thương ban, hãy chứng tỏ cho mọi người thấy rằng phận người yếu đuối là “hình ảnh của Thiên Chúa” và là Con Thiên Chúa.
Frère Pierre Đình Long FSC
------------------------------------
PS 4-A142: CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH – năm A
Cv 2,14a.36-41; Ga 10,1-10
Chủ đề: Đức Giêsu là cửa cho chiên ra vào
Phải qua Đức Giêsu mới được cứu.
* Cv 2,38: Anh em hãy sám hối và chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô để được ơn cứu độ.
* Ga 10,9: Tôi là cửa cho chiên ra vào…ai qua tôi mà vào sẽ được cứu.
Chúa nhật IV Mùa Phục Sinh được gọi là Chúa Nhật CHÚA CHIÊN LÀNH. Giáo Hội mời gọi PS 4-A142
Chúa nhật IV Mùa Phục Sinh được gọi là Chúa Nhật CHÚA CHIÊN LÀNH. Giáo Hội mời gọi các tín hữu cầu nguyện đặc biệt cho ơn thiên triệu giáo sĩ và tu sĩ: Xin Chúa ban xuống cho Giáo Hội nhiều mục tử tận tụy, biết quên mình theo mẫu mực Vị Mục Tử nhân lành là Đức Giêsu, hiến trọn cuộc đời chăm sóc, dưỡng nuôi Đàn Chiên; đồng thời cũng không ngại dấn thân đi tìm những chiên còn đang trong tình trạng xa lìa đàn để qui tụ tất cả về lại trong MỘT ĐÀN CHIÊN, dưới sự chăm lo của MỘT CHỦ CHĂN DUY NHẤT.
Lời Chúa trong cả ba năm ABC đều qui về một chủ đề: đó là những tương quan nối kết giữa MỤC TỬ – CHIÊN và CHIÊN – MỤC TỬ. Ngang qua những tương quan sống động ấy, Lời Chúa mặc khải cho chúng ta vài nét về dung mạo của Đức Giêsu.
Lời Chúa Năm A nhấn mạnh đến ba mối tương quan giữa CHIÊN và MỤC TỬ là BIẾT – NGHE và ĐI THEO.
Bài đọc một thuật lại các sự kiện xảy ra trong ngày lễ Ngũ Tuần liên quan đến biến cố CHÚA THÁNH THẦN ĐƯỢC BAN XUỐNG CHO ĐOÀN MÔN ĐỆ Đấng Phục Sinh. Các tông đồ đã mở tung cửa ra, không còn sợ hãi nữa. CÙNG NHAU, “đứng chung với nhau” và Phêrô đại diện tông đồ đoàn, loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người tin vào ĐỨC CHÚA của Israel đang tuôn về Giêrusalem, từ bốn phương để dự lễ Ngũ Tuần.
Trong bài một này, MỤC TỬ là các tông đồ: các vị đã rao giảng chân lý cho đàn chiên là mọi người tin Chúa của Israel đang về Thánh Đô dự lễ hành hương Ngũ Tuần: “Toàn thể nhà Israel phải biết chắc điều này LÀ: Đức Giêsu mà anh em treo trên Thập Giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm ĐỨC CHÚA và làm ĐẤNG KITÔ. Và ĐÀN CHIÊN ở đây đã NGHE, HIỂU lời Mục Tử, họ đã xin các tông đồ tư vấn: “Thưa các anh, vậy chúng tôi phải làm gì?
Thánh Phêrô đại diện các tông đồ chỉ dẫn cho ĐÀN CHIÊN con đường phải ĐI THEO để được ơn cứu độ.
Trước tiên là phải SÁM HỐI; Rồi mỗi người hãy chịu phép Rửa nhân danh Đức Giêsu và đón nhận Chúa Thánh Thần.
Đáp lại ân huệ bao la trên của Thiên Chúa, họ phải thay đổi đời sống: tránh xa thế hệ gian tà, nghĩa là sống theo một nền luân lý mới do Đức Giêsu phục sinh mang tới.
Kết quả là ĐÀN CHIÊN đã VÂNG NGHE lời CÁC MỤC TỬ: họ ĐI THEO con đường mới: CHỊU PHÉP RỬA trở nên môn đệ Đấng Phục Sinh. Hôm ấy, 3.000 CHIÊN đã về lại với ĐÀN của Đức Kitô.
Trong năm A, bài Tin Mừng không nói Đức Giêsu là mục tử. Đức Giêsu xác nhận Người là “CỬA CHO CHIÊN RA VÀO”. Đức Giêsu nói Người là CỬA của CHUỒNG CHIÊN. “CHUỒNG” hay “RÀN” là nơi mà mục tử khi đêm đến lùa chiên vào đó để chiên được ấm và dễ bề canh giữ. “CỬA” là nơi chiên phải đi ngang qua đó để vào chuồng và thế là chiên tìm được nơi nghỉ ngơi an toàn, ấm áp, được mục tử canh coi, bảo vệ. Rồi khi ngày đến, “CỬA” là nơi mà chiên phải đi qua để được mục tử nhận diện và để nhận ra được mục tử của mình rồi đi theo (vì trong môi trường chăn thả thì một chuồng, ban đêm có thể chứa nhiều đàn chiên của nhiều chủ khác nhau). Và rồi chiên sẽ được mục tử dẫn đến đồng cỏ xanh tươi. Đức Giêsu khẳng định dứt khoát như thế: “Tôi là CỬA. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ” (10,9).
Khi nói “Tôi là CỬA”, Đức Giêsu muốn mặc khải một tương quan mới: Người là CHUẨN MỰC để biện phân, nhận diện ai là MỤC TỬ thật, ai là GIẢ (kể cả cho chiên): “Kẻ nào không qua cửa mà vào ràn…đó là kẻ trộm” (10,1). Hắn leo rào vào chỉ để ăn trộm và giết hại chiên (10,10); Vì chiên không biết, không nghe và không đi theo chúng (10,4-5).
Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp các mục tử lẫn đàn chiên năng đến gặp gỡ Đức Kitô, năng nghe lời Người, làm theo những gì Người dạy bảo để trở nên chiên thật của Chúa, rồi từng bước trở thành MỤC TỬ thật của Chúa tùy theo ơn gọi mà Chúa thương ban cho mỗi người trong cuộc sống. Giáo sĩ, tu sĩ hay giáo dân, ước gì tất cả đều là chiên ngoan là mục tử tốt của vị MỤC TỬ NHÂN LÀNH GIÊSU.
Frère Pierre Đình Long FSC
------------------------------------
PS 4-A143: BÀI GIẢNG LỄ THIẾU NHI
CN 4 PS A
Thiếu nhi chúng con yêu quí,
Chúng ta vừa nghe một đoạn Tin Mừng với kiểu nói hơi lạ của Chúa Giêsu. Chúa nói thế nào PS 4-A143
Chúng ta vừa nghe một đoạn Tin Mừng với kiểu nói hơi lạ của Chúa Giêsu. Chúa nói thế nào mà cha bảo là hơi lạ ? Chúng con thấy Chúa bảo Chúa là gì không ? Chúa bảo Chúa là cái “Cửa”.
Chúng con đã thấy cái cửa bao giờ chưa ?
- Dạ thấy.
- Thấy ở đâu nào ?
- Ở nhà, ở nhà thờ, ở nhiêu nơi lắm.
- Đúng vậy...Có nhiều nơi có cửa lắm.
- Thế cha hỏi chúng con: Cửa để làm gì nào ?
- Cửa để ra vào...ra vào của một căn phòng... ra vào của một lớp học, ra vào của nhà thờ....
- Ngoài ra cửa còn để làm gì nữa ?
- Thưa để gìn giữ an toàn cho những nơi những chỗ cần phải được giữ an toàn....
- Rất đúng! Chúng con giỏi.
Vậy khi Chúa ví mình như cái cửa, Chúa muốn nói với chúng ta điều gì nào ?
Để hiểu được Lời của Chúa, chúng ta phải nhìn vào xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu lúc đó.
Khi Chúa nói: “Ta là cửa chuồng chiên” thì chúng ta phải nghĩ đến sinh hoạt chăn chiên của người Do Thái thời đó. Có như vậy chúng ta mới hiểu Chúa muốn nói gì.
Cha thấy thời đó người Do Thái có hai loại chuồng chiên. Thứ nhất là loại chuồng chiên ở các làng mạc và thị trấn. Đây là loại chuồng chiên cộng đồng. Người ta gọi là chuồng chiên cộng đồng vì những đàn chiên của những người trong làng hay thị trấn đều có thể sử dụng chung khi người ta đưa chiên trở về sau một ngày đem chúng đi ăn, vào mỗi buổi tối.
Chắc chúng con sẽ hỏi cha rằng nhốt chung như thế thì sao mà phân biệt được ?
Cha xin trả lời ngay: Con chiên có một đức tính rất đặc biệt. Chúng chỉ nghe tiếng của chủ chứ không nghe tiếng của người lạ. Bởi vậy khi chủ lên tiếng gọi là chúng tụ tập lại bên chủ ngay.
Các chuồng chiên này được bảo vệ bằng một khung cửa thật chắc chắn mà chỉ có người canh cửa mới được giữ chìa khóa mà thôi. Đó là loại chuồng chiên mà Chúa đề cập đến trong câu Tin Mừng hôm nay (2,3).
Loại thứ hai là loại được làm ngay ở những nơi người ta chăn chiên vào mùa nắng ấm. Vào mùa này thì người ta thường thả chiên trên núi, cho nên khi đêm về những người chăn chiên không lùa chiên về làng. Thay vào đó thì chiên được giữ chung trong các chuồng ở sườn đồi. Các chuồng chiên này chỉ là một khoảng đất trống có rào chung quanh, có một chỗ trống cho chiên ra vào, không có cửa nẻo gì cả. Đêm đến sau khi đã cho chiên vào thì người chăn chiên đến nằm ngay tại khoảng đất trống làm chỗ ra vào đó. Không một con chiên nào có thể ra vào được, trừ phi nó nhảy qua người chăn chiên.
Cha kể cho chúng con câu chuyện này. Câu chuyện này do Ông George Smith kể. Một hôm ông đi du lịch tại Đông Phương, ông thấy một loại chuồng chiên như cha kể trên.
Khi gặp một người chăn ở đó, ông hỏi:
- Có phải đó là chuồng chiên không ?
Người ấy đáp:
- Dạ, đúng
Rồi George nói:
- Tôi thấy chỉ có một lối đi vào.
Người chăn chiên giơ tay chỉ vào khoảng trống, và nói:
- Đó là cái cửa.
Ông George rất ngạc nhiên, bảo:
- Nhưng tôi có thấy cửa đâu.
Lúc đó người chăn chiên mới vội đáp:
- Dạ, tôi là cái cửa.
Ông George chợt nhớ lại câu chuyện trong Tin Mừng Gioan kể rồi nói với người chăn chiên:
- Anh muốn nói gì khi bảo chính anh là cái cửa ?
Người chăn chiên giải thích:
- Khi chiên vào chuồng xong, tôi đến nằm ngay ở đó. Không một con chiên nào có thể đi ra hoặc con chó sói nào có thể vào chuồng trừ phi phải nhảy qua người tôi.
Câu chuyện thật tuyệt vời. Người chăn chiên đã trở thành cửa để canh giữ chuồng chiên. Không một con chiên nào có thể tự do ra vào, ngoại trừ phải nhảy qua chính người chăn chiên.
Tới đây cha chắc chúng con đã hiểu được phần nào câu nói của Chúa Giêsu khi Ngài ví mình như là cái cửa: “Ta là cửa chuồng chiên”.
Khi nói như thế Chúa muốn nói với mọi người rằng: Chỉ nhờ Ngài và chỉ qua Ngài, loài người mới có thể đến với Thiên Chúa và Ngài chính là người bảo vệ đoàn chiên. Ai sống dưới sự che chở hướng dẫn của Ngài thì kẻ ấy sẽ được an toàn và hạnh phúc bằng không thì cuộc đời của họ sẽ bất hạnh.
Năm 2008 trong một chuyến đi diễn thuyết ở Hawaii, tôi đã gặp vận động viên lướt sóng đẳng cấp thế giới Bethany Hamilton. Bạn biết không, cô gái ấy bị mất cánh tay trái do cá mập tấn công vào năm 2003 trong khi đang lướt sóng tại một vùng biển ở Hawaii. Tai nạn xảy ra khi cô mới 13 tuổi. Trước khi bị cá mập tấn công, Bethany là một vận động viên lướt sóng nổi tiếng, nhưng sau khi thoát chết trong vụ tấn công đó và kiên cường quay trở lại với môn thể thao mà cô yêu thích, ngợi ca và tạ ơn Chúa đã che chở cho mình, cô trở nên nổi tiếng thế giới nhờ tinh thần dũng cảm và niềm tin phi thường. Giờ đây, giống như tôi, cô đi khắp thế giới, khích lệ mọi người vượt lên nghịch cảnh và chia sẻ niềm tin của cô với họ.
Bethany tâm sự rằng mục đích của cô là “nói với mọi người về niềm tin của tôi đối với Chúa để mọi người biết rằng Người luôn yêu thương họ và để giải thích cho mọi người biết ngày hôm đó Chúa đã quan tâm, che chở cho tôi như thế nào. Bị cá mập tấn công, tôi đã mất 70% lượng máu trong cơ thể. Nếu ngày hôm đó Chúa không che chở thì tôi đã không có mặt ở đây ngày hôm nay”.
Trước khi gặp Bethany, tôi chưa biết tường tận về tai nạn đó, và tôi không hiểu được cô gái trẻ ấy đã cận kề cái chết như thế nào. Cô nói cho tôi biết cô đã không ngừng cầu nguyện khi người ta đưa cô tới một bệnh viện cách bờ biển bốn mươi lăm phút đi xe hơi và người phụ giúp công việc y tế đã thì thầm vào tai cô những lời động viên như sau: “Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi hoặc từ bỏ em đâu!”.
Tình hình lúc đó thật gay go. Khi đưa cô tới được bệnh viện và khẩn trương chuẩn bị phẫu thuật, người ta phát hiện ra rằng tất cả các phòng mổ của bệnh viện đều bận. Bethany lịm dần. Nhưng rồi vào phút chót, một bệnh nhân đã hủy bỏ cuộc phẫu thuật đầu gối sắp sửa được tiến hành, vậy nên bác sĩ của ông ấy có thể phẫu thuật cho Bethany. Hãy đoán xem người hủy bỏ cuộc phẫu thuật đầu gối là ai ?
Đó chính là bố của Bethany!
Không thể ngờ được, đúng không bạn ? Tất cả mọi thứ cho một cuộc phẫu thuật đã được chuẩn bị sẵn sàng, vậy nên họ chỉ việc đưa cô con gái vào thay chỗ của người bố trên bàn mổ và tiến hành phẫu thuật. Cuộc phẫu thuật đó đã cứu sống cô.
Trong cuộc gặp, Bethany cho biết niềm tin vào Chúa đã khiến cô đi đến kết luận rằng việc mất cánh tay là một phần trong kế hoạch của Chúa dành cho cuộc đời cô. Thay vì cảm thấy buồn cho bản thân, cô chấp nhận điều đó và tiếp tục vươn lên. Trong cuộc thi lướt sóng với những nữ vận động viên hàng đầu thế giới, cô giành vị trí thứ ba - với chỉ một cánh tay! Cô nói rằng mất cánh tay không phải là một điều rủi mà là một sự may mắn bởi mỗi lần cô đạt thành tích cao, sự kiện đó lại khích lệ những người khác tin rằng cuộc sống của họ không có giới hạn!
“Chúa đã đáp lại lời cầu nguyện của tôi, đã sử dụng tôi. Khi mọi người nghe câu chuyện của tôi chính là khi Chúa nói với mọi người”, cô nói. “Nhiều người nói rằng qua câu chuyện của tôi họ thấy mình được đến gần Chúa hơn, bắt đầu tin ở Chúa và tìm được niềm hy vọng cho cuộc sống của chính họ, hoặc được động viên, khích lệ để vượt qua nghịch cảnh. Khi nghe họ nói như thế, tôi tạ ơn Chúa bởi không phải là tôi làm được gì cho họ - mà chính Chúa là người đang giúp họ. Tôi cảm thấy rất vui bởi Chúa đã cho phép tôi trở thành một phần trong kế hoạch của Người”.(nguồn Internet)
Đó chúng con thấy, người biết tin tưởng vào Chúa thì sống hạnh phúc như thế nào. Amen
Giuse Đinh Tất Quý
------------------------------------
PS 4-A144: Tin tưởng và can đảm đáp lại tiếng Chúa gọi mời
Suy niệm Tin mừng Chúa Nhật 4 Phục Sinh , năm A,
của Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
Suy niệm Chúa nhật Chúa Chiên Lành
(Ga 10, 1-10)
Chúa nhật thứ IV Phục Sinh, Chúa nhật Chúa Chiên Lành. Lời Chúa mời gọi chúng ta chiêm ngắm PS 4-A144
Chúa nhật thứ IV Phục Sinh, Chúa nhật Chúa Chiên Lành. Lời Chúa mời gọi chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu, Vị Mục Tử Tối Cao đã hy sinh mạng sống vì đoàn chiên, đồng thời cầu nguyện cho những người đã được Chúa gọi để nhân Danh Chúa chăn dắt đàn chiên Chúa. Chúng ta cũng không quên cầu nguyện cho có nhiều người trẻ quảng đại dâng mình cho Chúa.
Chúa là mục tử
Hình ảnh người “Mục tử” hay người chăn chiên là một hình ảnh rất quen thuộc của nền văn minh nông nghiệp còn trong trạng thái thô sơ của thời du mục vùng Trung Đông, được dùng để diễn tả mối tương quan thân mật dễ mến dễ thương giữa Thiên Chúa với dân.
Cựu Ước thường gọi Chúa là mục tử, còn dân Chúa là chiên (St 49, 24 – 31 ; Gr 31, 10 ; Mk 7,14 v.v …). Chúa không những là Đấng dẫn dắt dân, tìm kiếm những người tội lỗi, chữa lành những kẻ bị thương lòng, mà còn là Đấng lấy mạng sống mình để bảo vệ dân, trao ban sự sống cho dân. “Đức Chúa phán: Chiên thất lạc, Ta sẽ tìm kiếm. Chiên tản mác, Ta sẽ lùa về. Chiên xây xát, Ta sẽ băng bó. Chiên bệnh hoạn, Ta sẽ bổ sức ” (Ez 34, 16). Những người được chọn để lãnh đạo dân Chúa như Abraham, Môisen, Đavít đều là những người chăn chiên.
Chúa chăm sóc chiên Chúa như thế nào? “Như người mục tử chăm nom đàn chiên của mình vào ngày nó ở giữa chiên phiêu bạt thế nào, cũng vậy Ta sẽ chăm nom chiên của Ta. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi nơi chúng tán loại, vào ngày mây mù đen tối. Ta sẽ đem chúng ra khỏi các dân. Ta sẽ thâu họp chúng lại từ các xứ. Ta sẽ dẫn chúng về lại thửa đất của chúng. Và Ta sẽ chăn nuôi chúng trên núi Israel ” (Ez 34, 13-14).
Chúa tập hợp những con chiên yếu kém không thể đi được ; vác chúng trên vai, ôm chúng vào lòng ; như người mẹ bồng ẵm con thơ. Chúa cũng muốn những người nhân danh Chúa chăm sóc đoàn chiên, noi gương Chúa chăm sóc dân Chúa : “Như mục tử, Người chăn đàn chiên của Người, cánh tay Người thâu họp chúng lại; Người bồng chiên con và dìu đi cừu mẹ nuôi con” (Is 40,11). Mục tử nào không làm tròn trách nhiệm, Chúa sẽ quở trách và đòi lại chiên.
“Đức Chúa phán thế này: Này Ta chống lại các mục tử, Ta sẽ đòi lại chiên Ta nơi tay chúng ” (Ez 34, 10). Hỏi các mục tử đã làm gì để Thiên Chúa nổi giận và đòi lại chiên vậy? Qua miệng ngôn sứ Ezêkiel, Thiên Chúa còn nói mạnh hơn nữa : “Ta sẽ không để chúng chăn chiên Ta nữa. Các mục tử sẽ không còn được chăn nuôi lấy mình chúng nữa. Ta sẽ giựt lấy chiên khỏi mõm chúng, khiến chiên Ta không còn là mồi ngon cho chúng ăn thịt nữa ” (Ez 34, 10). À thì ra, các mục tử chỉ để ý đến lợi ích của mình, không dám xả thân để cứu chiên, nay Chúa đòi lại chiên và Ngài tuyên bố : “Chính Ta sẽ tìm kiếm chiên của Ta, và Ta sẽ chăm nom đến chúng ” (Ez 34, 10).
Mục tử Giêsu thí mạng sống vì chiên
Hình ảnh Chúa Giêsu Mục Tử nhân lành được người ta khắc vẽ với vẻ dịu dàng, trìu mến của người chăn chiên, vác chiên trên vai, tìm kiếm con chiên lạc, ôm chúng vào lòng, đưa chiên về với đàn của chúng thật là đẹp. Quả thật, Chúa Giêsu Mục Tử đã yêu thương loài người, tức chiên bằng một tình yêu thí mạng, chết cho đoàn chiên. Người nuôi dưỡng chúng ta bằng những Lời Hằng Sống, bằng chính thịt máu mình nơi Bí tích Mình Thánh. Người giang cánh ta trên thập giá để thâu họp “con cái Thiên Chúa tản mác về lại làm một” (Ga 11,52). Nguy hiểm, Người không chạy trốn như lính đánh thuê, Người chết, nhưng cái chết của Người toàn thắng để cho chiên được sống đời đời.
Cầu cho các mục tử
Chúa Giêsu muốn các tông đồ và con người ở mọi thời tiếp bước theo Chúa trong đời thánh hiến, đến lượt mình, cũng xả thân bảo vệ đàn chiên, đưa các con chiên lạc trở về. Chúa mong ước các mục tử với ơn Chúa trợ giúp sẽ hoàn thành trách nhiệm dẫn dắt đoàn chiên đến đồng cỏ Nước Trời.
Chúa nhật này, chúng ta hãy cầu nguyện cho các mục tử thân yêu : nâng đỡ, cám ơn và khuyến khích các ngài ! Cầu cho Giáo hội Việt Nam có thêm nhiều linh mục lành thánh. Ý chỉ này cũng thật khẩn thiết cho Giáo hội hoàn vũ.
Chúng ta hướng về các y bác sĩ, nhất là các linh mục của Chúa tại Ý và nhiều nơi trên thế giới đã qua đời vì đàn chiên của mình. Ý thức mình là những người đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, dấu chỉ sự gần gũi của Chúa, hành động trong cương vị của Chúa, nhiều linh mục đang chạy đua trên tuyến đầu chống dịch Covid 19. Sự hiện diện của các ngài xoa dịu nỗi đau, an ủi và chữa lành nhiều tâm hồn. Vì thế, hơn bao giờ hết, các linh lục là những người cùng với các y bác sĩ chữa lành cho những ai nhiễm phải con virus này. Xin cầu nguyện thật nhiều cho các ngài.
Cầu cho ơn thiên triệu
Chủ đề ngày thế giới cầu cho ơn kêu gọi năm nay là : “Những lời của ơn gọi “. Đức Phanxicô lấy lại 4 từ : đau khổ, biết ơn, can đảm và ngợi khen trong thư gửi các linh mục ngày 04 tháng 8 năm 2019, năm 2019, nhân kỷ niệm 160 năm ngày mất của Thánh Gioan Vianney. lấy lại 4 từ : đau khổ, biết ơn, can đảm và ngợi khen.
Trên hết, mọi ơn gọi đều phát sinh từ ánh mắt yêu thương mà Chúa đối với con người; vì phát xuất từ trên cao, nên ơn gọi cũng là lời đáp trả trước tiếng gọi cao vời của Chúa, chúng ta phải biết ơn Chúa.
Chọn lựa nào cũng có khó khăn. Ơn gọi cũng thế, chúng ta phải can đảm vượt qua, Chúa Giêsu nói với các môn đệ : “Thầy đây, đừng sợ!” Chúa cũng nói với chúng ta : “Can đảm lên! Đừng sợ!”
Trên hành trình theo Chúa, phiền muộn, đôi lúc làm ta không thể nhận ra vẻ đẹp của ơn gọi . Lo lắng quá về trách nhiệm khiến chúng ta thấy mệt mỏi trên hành trình ơn gọi. Chúa gọi ai thì trao nhiệm vụ cho người ấy; cố gắng hoàn thành là dĩ nhiên. Nhưng nếu để mình bị ám ảnh bởi những trách nhiệm, người ta sẽ không nhận ra sự hiện diện, đồng hành và ánh mắt nhân từ của Chúa.
Để vượt qua sự mệt mỏi, sợ hãi, cô đơn, sự bất an và lo lắng… cần phải tin tưởng rằng, Chúa sẽ đưa tay cứu giúp. Có Chúa trong hành trình ơn gọi, chúng ta sẽ bình an. Chúa luôn động viên ta: “Cứ yên tâm, đừng sợ!” Chúa ban cho chúng ta sự nhiệt huyết với niềm vui và lòng hăng say để sống ơn gọi của mình.
Lời cuối của sứ điệp, Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta noi gương Mẹ Maria cất lời ngợi khen Chúa với lòng biết ơn, biến đời ta thành một bài ca tán tạ hồng ân Thiên Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp người trẻ chúng con biết thưa xin vâng với Chúa như Mẹ để làm môn đệ Chúa. Amen.
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
------------------------------------
PS 4-A145: Tôi là cửa chuồng chiên
Ac 2, 14a.36-41; 1P2, 20b-25; Ga 10, 1-10
Cửa đóng, cửa mở
Do sự lây lan của coronavirus, chúng ta phải ở lại trong nhà hoặc trong phòng vây kín cách ly PS 4-A145
Do sự lây lan của coronavirus, chúng ta phải ở lại trong nhà hoặc trong phòng vây kín cách ly. Nhưng đó không phải là một sự đơn độc, mà là sự bình đẳng để bảo vệ chúng ta khỏi bị lây lan virus. Cơn virus này như kẻ trộm cướp trong bài Tin mừng hôm nay tìm mọi cách để "trèo vào lối khác"giết hại đàn chiên, giết hại chúng ta. Dù chúng ta có một sự cách ly nào đó, nhưng nhờ sự gần gũi của những tấm lòng hào hiệp và lời cầu nguyện sưởi ấm con tim chúng ta. Một cánh cửa đóng nhưng lại có một cánh cửa mở.
Trong đời sống, chỉ sợ rằng chúng ta đóng cánh cửa tâm hồn chúng ta vì một nguyên nhân nào đó. Hãy để cho Chúa Giêsu đến và Ngài nói với chúng ta: “Tôi là cửa, ai qua Tôi mà vào, thì sẽ được cứu độ, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân”. Chúa Giêsu là Cửa và cũng là Đường dẫn chúng ta đến sự sống, đến tự do....
Chúng ta hãy nhớ lại:
- Lần đầu tiên, khi một số môn đệ muốn theo Chúa Giêsu, Ngài chỉ cho họ nơi Ngài sống và mở của cho họ, Ngài nói: “Hãy đến mà xem” ; sau đó họ ở lại với Ngài. Khi đi vào nhà thân mật của Chúa, họ luôn nhận ra Ngài qua giọng nói của Ngài. Các chiên của Ngài sẽ được Ngài bảo vệ khỏi nhiều mối đe dọa từ bên trong hoặc bên ngoài.
- Và sau khi Chúa Giêsu nói về Bánh Hằng sống, đám đông dân chúng và một số môn đệ bỏ đi, Chúa hỏi số môn đệ còn lại: “Chúng con có muốn bỏ đi không”? Phêro đại diện nhóm trả lời: “Bỏ Thầy, chúng con biết theo ai, vì Thầy có những lời ban sự sống đời đời”.
Vào thời điểm sau dịch bệnh, bắt đầu xuất hiện một chân trời khủng hoảng hoặc thiếu hụt, chúng ta hãy đón nhận trong hy vọng vào câu cuối của bài tin mừng hôm nay: “Tôi đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào”.
Nhìn lại đời sống quá khứ cũng như hiện tại, chúng ta đã làm gì với của cải và những điều tốt đẹp mà Thiên Chúa đã trao phó cho chúng ta?
- Chúng ta vừa cùng với ca đoàn hát bài đáp ca: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi, trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nưới, cỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi. Tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng…Dù bước đi trong thung lũng tối, tôi không lo mắc nạn vì Chúa ở cùng tôi…Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi”.
- Chẳng có gì bị mất cả, vì Chúa Thánh Thần sẽ được ban cho chúng ta trong ngày lễ Ngũ Tuần. Chúng ta biết cách nhận ra những ân sủng mà Thiên Chúa đã ban cho toàn thể nhân loại và trái đất này. Bài đọc I lặp lại sự phong phú đó được thể hiện cách đầy đủ vào thời kỳ đầu Giáo hội: đó là một thế giới mới được sinh ra. Chúng ta hôm nay cũng có thể đón nhận được sự phong phú của các ân sủng đó!
Chúa Giêsu mục tử, cánh cửa luôn mở.
Để không bỏ lỡ một khởi đầu mới sau cơn đại dịch này, chúng ta hãy xem Chúa Giê-su quở trách những người Pha-ri-sieu và một số tín hữu được coi là đạo đức như thế nào. Họ đóng hoặc mở cửa với hành vi người làm thuê. Có nghĩa là họ chỉ lo cho chính họ hơn là lo cho đàn chiên mà Chúa Giêsu, là vị mục tử tốt lành đã trao phó cho. Chúa Giêsu là Mục tử đích thực duy nhất có thể dẫn chúng ta đến sự phong phú của đồng cỏ.
Trong bài đọc thứ hai, thánh Phêro cho chúng ta biết Chúa Kitô là mục tử đích thực như thế nào: “Chúa Kitô đã chịu đau khổ vì chúng ta và để lại cho anh em một gương mẫu để anh em theo vết chân Người. Người là Đấng không hề phạm tội và nơi miệng Người không thấy điều gian trá”.
Mỗi khi phạm tội hoặc những thử thách trong đời sống làm chúng ta bối rối, chúng ta trở lại với Chúa Kitô hiện diện trên Thập giá vì chúng ta. Chúng ta đừng sợ kết hợp những đau khổ của chúng ta với đau khổ của Ngài trong cùng một tình yêu của Ngài hướng về Chúa Cha và tất cả anh em chúng ta. Nhìn lên thập giá sẽ là niềm an ủi lớn nhất cho chúng ta: “Xưa kia anh em như những chiên lạc, nhưng giờ đây, anh em đã trở về cùng vị mục tử và Đấng canh giữ linh hồn anh em”. Trong mọi cuộc gặp gỡ thực sự với Chúa Kito, Ngài gọi tên từng người một và chúng ta nhận ra tiếng nói của Ngài. Hãy để Ngài vượt qua biên giới của con tim chúng ta. Chính Ngài đứng trước cửa nhà tâm hồn chúng ta và Ngài nói: “Tôi gõ cửa; nếu ai đó mở ra, chúng ta vào nhà người đó và chúng ta chia sẻ bữa ăn với người đó”.
Bí tích Thánh Thể:
Trong thời khắc dich corona, đức tin người kito chúng ta vẫn mạnh mẽ, thể hiện qua việc tham dự Thánh Lễ, nhất là Thánh Lễ Chủ nhật và Tam Nhật vượt qua, dù là trực tuyến. Hơn bao giờ hết, chúng ta hãy khám phá ra rằng chúng ta, cá nhân cũng như tập thể, được Chúa Kito đón nhận để trở thành một cộng đoàn. Về điều này, chúng ta rất vui khi thấy được gần gũi với các linh mục, là những người dùng đủ mọi cách thế hiện Chúa Kito Tôi Tớ ở giữa chúng ta, đặc biệt trong việc cử hành Bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể vừa là con đường vừa là “đồng cỏ tươi”, nơi mà mỗi con chiên, mỗi người chúng ta có thể tìm được sự bình an và được nuôi dưỡng để tiến xa hơn trên chặng đường đức tin.
Khi vừa mới thoát khỏi thử thách khủng khiếp của đại dịch, chúng ta cảm thấy mình được an ủi bởi những lời này của thánh Phêro: “Xưa kia anh em như những chiên lạc, nhưng giờ đây, anh em đã trở về cùng vị mục tử và Đấng canh giữ linh hồn anh em”… Chúa Kito, vị mục tử đích thực cũng yêu cầu chúng ta làm chứng nhân cho Ngài để với sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần, mọi người có thể nhận ra tiếng của Ngài!: “Con chiên Tôi, thì nghe tiếng Tôi”.
Linh mục Gioan Đặng Văn Nghĩa
------------------------------------
PS 4-A146: TÔI LÀ CỬA
Cv 2,14a.36-41; 1Pr 2,20b-25; Ga 10,1-10
Đức Giêsu kể dụ ngôn với người Do Thái cho họ hiểu ai là mục tử đích thực, ai là kẻ trộm, kẻ PS 4-A146
Đức Giêsu kể dụ ngôn với người Do Thái cho họ hiểu ai là mục tử đích thực, ai là kẻ trộm, kẻ cướp: “Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ.” (Ga 10,1-5). Đức Giêsu chính là Mục Tử nhân lành mà đàn chiên yêu mến và luôn “theo sau”, là chính Mục Tử mà chiên “nghiện” và bám riết lấy Ngài chứ không chịu theo người lạ. Ngài “biết” rõ chiên của Ngài từng con một. Chiên nào ốm yếu bệnh hoạn tật nguyền ra sao, chiên nào dễ thương ngoan ngoãn, chiên nào đã từng lầm lỡ quay lưng, được “vác” trên vai trở về… Ngài yêu hết, cưng hết dù cách chăm sóc có khác nhau tùy hoàn cảnh khác biệt. “Anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra”. Còn lũ chiên ngoan thì nghe tiếng Ngài, nhận biết được tiếng của Ngài, hiểu ý Ngài, Ngài khẽ gọi hay ra dấu hiệu nhỏ là chúng biết ngay và quay ngoắt chạy theo.
Họ không hiểu dụ ngôn trên nên Người lại nói: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu”. (Ga 10,9a). Cửa là lối để đi vào bên trong. Ai muốn vào bên trong mà tận hưởng thì phải qua Cửa là chính Đức Giêsu. Cánh cửa của Ơn Cứu Độ luôn sẵn sàng mở ra cho bất cứ ai tin yêu, mê say mà tự nguyện “chui” vào. Vào đây để được ăn gì hay bị nhốt nhỉ? Không, “Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ.” (Ga 10,9b). Chiên mà gặp “đồng cỏ” thì tha hồ ăn no say thỏa thích. “Đồng cỏ” tươi là chính Máu Thịt của Chủ, ăn mãi mà không chán, không hết. Càng ăn càng “khỏe mạnh” và “lớn” lên mãi, “tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”. (Ga 10,10b). Vị Mục Tử Giêsu đã hy sinh tính mạng vì đoàn chiên, Ngài đã chấp nhận cái chết vô cùng bi thương trên Thập Giá để mở ra Cánh Cửa Cứu Độ con người. Trong Ngài những ai tin và sống đức tin thực sự sẽ được hạnh phúc sung mãn tràn đầy. Vì yêu thương Ngài đến để thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa, quy tụ thành một đoàn chiên duy nhất.
Chúa Chiên ơi! xin giữ con trong Bàn Tay Yêu Thương của Ngài. “Ở bên Ngài hoan lạc chẳng hề vơi”. Dù con có bệnh hoạn làm sao hay chạy lăng xăng sai lối xin Ngài chữa lành, uốn nắn và dắt con về, về bình an bên “ngàn suối mát” của Ngài. Thành con chiên ngoan hiền, con sẽ ra vào trong Cánh Cửa Tình Yêu của Ngài, con vào đó tha hồ mà múc vợi ăn uống thỏa thuê, từ Ngài con lại mang ra phân phát cho anh em mọi ân huệ, để “cả nhà ta cùng thương yêu nhau” hạnh phúc Chúa nhé! “Đồng là đồng cỏ tươi, Chúa chăn cho tôi nghỉ ngơi. Suối ngọt cỏ non xanh rì. Tôi nay còn thiếu thốn chi? vui thay mà cũng phúc thay!”
Én Nhỏ
------------------------------------
PS 4-A147: Thánh Thần hoạt động vượt xa nhà giảng thuyết
(Suy niệm của Fr. Jude Siciliano)
Thưa quý vị.
Tôi vẫn thích suy tư một lần nữa về sách Tông Đồ Công Vụ. Nhiều nhà chú giải thời nay gọi PS 4-A147
Tôi vẫn thích suy tư một lần nữa về sách Tông Đồ Công Vụ. Nhiều nhà chú giải thời nay gọi nó là Phúc âm của Chúa Thánh Thần. Bởi sách thuật lại rất nhiều hoạt động của Ngài trong Giáo Hội sau ngày Chúa Giêsu phục sinh. Công cuộc truyền giáo của các tín hữu tiên khởi rất có hiệu quả nhờ những hoạt động này và ngày nay còn là gương mẫu cho Hội Thánh toàn cầu noi theo.
Trong các tuần lễ vừa qua, các sách Tin Mừng cho ta những gương sáng rực rỡ về các nhà rao giảng đạo mới. Trước hết, chính Chúa Giêsu, sau đó là Gioan Tẩy giả, rồi đến người đàn bà ở giếng Giacóp. Bà ta đã mang tin vui về Chúa Giêsu cho các dân làng của bà (CN 3 Mùa Chay). Maria Magdala loan tin mừng Chúa Phục sinh. Ông Phêrô rao giảng công khai cho dân thành Giêrusalem (bài đọc 1 tuần vừa qua và tuần này). Tất cả những nhà rao giảng đó đều rất thành công trong cương vị của mình. Phêrô thành công hơn nữa trong bài giảng ngày lễ Ngũ Tuần. Sự thành công đó hoàn toàn là nhờ bởi ơn Chúa Thánh Linh. Chưa hết, Thánh Linh còn hoạt động vượt xa hơn khả năng của các nhà giảng thuyết, Ngài khích động linh hồn các thính giả, đổ tâm tình ước ao xuống lòng họ để họ háo hức nghe lời Chúa và sẵn sàng đáp trả. Bài đọc 1 hôm nay cho chúng ta ý niệm rằng, đám đông nghe Phêrô không chỉ có ấn tượng về tài hùng biện của ông hoặc ngạc nhiên về những tư tưởng mới lạ, hợp lẽ phải hay chiều sâu trí thông minh của ông mà còn khơi dậy trong linh hồn họ tâm tình thống hối ăn năn: “Thưa các ông, vậy chúng tôi phải làm gì?” Lời đáp trả thật quá lòng mong đợi của Phêrô và các Tông Đồ. Thực ra, lúc ấy Phêrô chỉ giãi bày cho dân chúng biết câu chuyện về Chúa Giêsu. Những gì Thiên Chúa đã thực hiện nơi Ngài, một vị tiên tri vĩ đại. Nhưng dân chúng đã động lòng ăn năn và quyết định thay đổi lối sống cũ. Điều đó hoàn toàn là do ơn Chúa Thánh Linh, Phêrô không nhắm tới và cũng chẳng dự trù trước, ông hoàn toàn bị động.
Như vậy lời Thiên Chúa không chỉ đơn giản soi sáng chúng ta hay cho chúng ta thêm kiến thức, mà nó còn thúc giục ăn năn hối cải và ban ơn tha thứ, đưa chúng ta tới gần Thiên Chúa, thiết lập lại mối tương giao con thảo với Ngài. Khi được chịu phép Thánh tẩy chúng ta bước vào tâm tình thống hối và sự sống siêu nhiên. Đời sống này tăng trưởng suốt cả quá trình sống của mỗi tín hữu, khi chúng ta lắng nghe lời Chúa, sẵn sàng chấp nhận lời Ngài, chúng ta lớn lên một bước. Nhưng là bởi ơn Chúa Thánh Linh. Ngài hoạt động trong chúng ta để mang lại hoa trái. Sách Công Vụ các Tông Đồ được viết ra, không phải chỉ để cho chúng ta kiến thức về các tín hữu tiên khởi và công cuộc truyền đạo của họ, nhưng còn để nhắc nhớ Hội Thánh về hoạt động của Chúa Thánh Linh trong thời hiện tại và bổn phận của chúng ta đối với hoàn cảnh mình đang sống. Chúa Thánh Linh vẫn còn hoạt động hữu hiệu ngày hôm nay đúng như Ngài đã thực hiện các dấu lạ thời các Tông Đồ, nhất là ngày lễ Ngũ Tuần khi Phêrô lên tiếng trước đám đông ở Giêrusalem. Không có chi khác biệt. Bởi Ngài là Thiên Chúa đời đời và vẫn hằng hiện diện trong Giáo Hội. Chỉ do tính ươn lười hoặc tự mãn của chúng ta mà các hoạt động của Ngài kém hiệu quả. Vương quốc của Satan ngày một bành trướng. Tội ác, chiến tranh, xì ke, đĩ điếm, mưu mẹo lan rộng khắp hang cùng ngõ hẻm.
Bổn phận nên thánh là bắt buộc: “Anh em hãy nên trọn lành như Cha anh em trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5, 48). Trong Thánh kinh có tất cả 11 lần mệnh lệnh này được nhắc tới. Bắt đầu từ sách Xuất hành, rồi đến Lêvi ký v.v… Nhưng chẳng mấy khi được tôn trọng. Dân Chúa cứ theo thói thế gian mà ăn ở cho thỏa chí, toại lòng, rồi đưa ra các lý luận để hợp thức hóa tội lỗi của mình. Tin cậy vào Thánh Thần Chúa. Hôm nay chúng ta lắng nghe lời Thiên Chúa, được tuyên đọc trong thánh lễ, rồi cũng đặt cho mình câu hỏi tương tự: “Tôi phải làm gì bây giờ để đáp trả lời Chúa?” hay “Còn gì thiếu sót trong bổn phận của tôi?” Sau đó lắng nghe Chúa Thánh Linh dạy bảo trong lương tâm.
Sách Công Vụ Tông Đồ lưu giữ những lời ca ngợi và những việc diệu kỳ, Chúa Thánh Linh đã thực hiện và các tín hữu cảm nghiệm rõ ràng, sắc nét về những công việc đó. Họ nghe Phêrô giảng và nhận ra rằng không thể tư duy và hành động như cũ được nữa. Họ đang sống trong một thời đại mới có Chúa Giêsu ngự trị. Ngài đã được Thiên Chúa đặt làm “Đức Chúa và làm Đấng Kitô”. Ngày hôm nay, chúng ta chấp nhận sứ điệp của Phêrô, thì cũng phải hành động như các tín hữu tiên khởi. Thay đổi não trạng và cuộc sống, tiến sâu hơn vào ơn Bí tích Rửa tội. Những tiêu chuẩn cũ của thế gian không thể còn ý nghĩa nào trong cộng đoàn giáo xứ. Không ai còn tự coi mình có đặc quyền, đặc lợi vì thuộc về thành phần này, nọ trong xã hội. Thiên Chúa đã ban Thánh Thần và trật tự mới, “Cho anh em, con cháu anh em, tất cả những người ở xa mà Thiên Chúa đã kêu gọi”. Ngài ban ơn sủng và hành động rất tự do vì lợi ích của những kẻ được Ngài tuyển chọn. Một học sinh khi bước vào Trung Học đã nhằm tới Đại học, phải làm sao để có đủ khả năng trúng tuyển các kỳ thi Đại học. Một sinh viên Đại học cũng phải hành động tương tự để có thể kiếm được một chỗ làm tốt trong các cơ quan, xí nghiệp… nhưng Thiên Chúa, bất kể đến các công nghiệp của chúng ta Ngài chú ý đến chúng ta theo chương trình Ngài đã tiền định. Thánh thần là quà tặng Ngài đổ xuống linh hồn mỗi người để thay đổi nếp sống tội lỗi cũ: “Chúng tôi phải làm gì, thưa anh em?”
Thánh Phêrô trả lời chúng ta hôm nay, như Ngài đã trả lời các người thành Giêrusalem: “Quý vị hãy sám hối và chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được tha tội.” Đêm vọng Phục sinh vừa qua, chúng ta đã tuyên xưng lại việc dấn thân của mình trong ơn Thánh Tẩy. Chúng ta hành động ra sao để làm tròn lời tuyên hứa đó? Chút nữa quý vị sẽ rời thánh đường này, làm dấu thánh giá trên mình với chút nước thánh, xin nhớ lại lời hứa rửa tội của mình mà thầm thì cầu xin Chúa Giêsu cho được trung thành với Phúc âm. Đôi khi có nhưng câu Kinh thánh thật ý nghĩa, nhưng vì lặp lại nhiều lần quá hóa thành trống rỗng, tỷ như được vác thập giá theo chân Chúa Giêsu, chúng ta không còn hiểu nội dung của nó ra sao. Vậy xin hãy chân thành hồi tỉnh, để nhờ Đức Thánh Linh soi sáng, chúng ta áp dụng nó sốt sắng trong cuộc đời.
Đó cũng là trường hợp của bài đọc thứ 2 thánh lễ hôm nay, tức thơ I của thánh Phêrô: “Vì vết thương của Ngài, mà anh em đã được chữa lành.” Ý nghĩa của nó thật là tối tăm, dù chúng ta có đọc đi đọc lại nhiều lần. Nhưng nhờ ơn Chúa, nó sẽ sáng tỏ cho những ai nhìn lên tượng chuộc tội. Chỉ nhờ cuộc khổ nạn của Chúa mà toàn thể nhân loại được cứu rỗi để được sống muôn đời. Những ai sống ngoài ý nghĩa của câu nói này, đời đời sẽ chẳng được trông thấy ơn sống lại.
Trong Đại chiến thế giới lần thứ hai (1939-1945) quân đồng minh đổ bộ vào một thành phố nước Đức. Quân Đức không kịp trở tay, tháo chạy. Nhưng ban đêm họ giả trang ăn mặc như quân đồng minh, lẻn vào thành phố quay ngược mọi bảng chỉ đường, sáng hôm sau họ mở cuộc phản công. Quân đồng minh mất phương hướng, thua trận thê thảm. Binh lính bị quân Đức giết chết hết, toàn bộ vũ khí bị tịch thu.
Kinh thánh cũng là bảng chỉ đường cho chúng ta về nước trời. Chúa Giêsu là tướng lãnh. Nếu chúng ta không theo Kinh thánh, không theo Chúa Giêsu. Thất trận là điều chắc chắn. Vì vậy thánh Phêrô đã lớn tiếng nói với người Do thái rằng: “Đức Giêsu mà anh em treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô”. Ngài không giải thích rõ ý nghĩa của câu nói đó, nhưng phàm đã là người Israel ai cũng hiểu rằng: Đức Chúa tức là Thần linh có quyền hành trên kẻ sống cũng như kẻ chết, làm Đấng Kitô tức làm Thiên sai chỉ đường cứu rỗi cho nhân loại.
Cho nên hôm nay, Hội Thánh đặt tên chúa nhật này là chúa nhật Đấng Chăn Chiên Lành. Chúa Giêsu đã chịu khổ hình, bị giết chết và sống lại, để chăn dắt mọi linh hồn đi theo đường lối của Ngài mà được sống muôn đời. Như thế chúng ta được chữa lành và cứu chuộc nhờ những vết thương của Ngài. Cây thập giá đã cưu mang hết tội lỗi, yếu đuối, sự chết và án phạt của nhân loại. Bên kia thánh giá là ánh sáng, vinh quang và hạnh phúc. Chúa Giêsu đã bước vào đời sống của mỗi thành viên nhân loại qua sự vâng phục Thánh ý Đức Chúa Cha, đúng như thơ gởi tín hữu Do thái: “Dẫu là Con Thiên Chúa, Ngài đã trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục, và khi trở nên tới mức thập toàn Ngài là nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho những ai thần phục Ngài” (5,8-9). Mùa Phục sinh là cơ hội tốt nhất để chúng ta chiêm ngắm quá trình thánh thiện của Đấng đã sống lại vì chúng ta để làm Chúa tể kẻ sống, kẻ chết. Và nhờ kết hiệp với Ngài chúng ta hy vọng sẽ được sống muôn đời. Amen. Alleluia.
------------------------------------
PS 4-A148: Thênh thang – Đỗ Lực
Ngày 15.04.2008 ĐGH Bênêđictô XVI sẽ tông du Hoa kỳ. Nhân dịp này , giám mục Thomas Wenski PS 4-A148
Ngày 15.04.2008 ĐGH Bênêđictô XVI sẽ tông du Hoa kỳ. Nhân dịp này , giám mục Thomas Wenski, chủ tịch Ủy ban về Chính Sách Quốc tế của các giám mục Hoa Kỳ, nhận định: “ĐGH không phải là một chính trị gia, nhưng là Giám Mục Roma và là mục tử của Giáo Hội Công giáo toàn cầu. ĐGH Bênêđictô XVI sẽ xuất hiện trước Liên Hiệp Quốc như một nhà lãnh đạo tôn giáo, một nhà lãnh đạo tinh thần – và là một nhà lãnh đạo duy nhất am hiểu tình hình. Người sẽ nói với các người Công giáo cũng như ngỏ lời với Liên Hiệp Quốc và thế giới.”[i] Giám mục Wenski hy vọng “ĐGH cũng sẽ thách đố các nhà lãnh đạo chính trị thế giới nữa. Nhiều bất an trên thế giới chính trị hôm nay bắt nguồn từ việc tách biệt niềm tin khỏi lý trí và mất niềm tin trong hoạt động lý trí. Như ĐGH Gioan Phaolô II, Người sẽ dựa trên đức tin để bênh vực lý trí. Làm thế, chắc chắn ĐGH sẽ lại giới thiệu luật luân lý phổ quát cho các nhà lãnh đạo thế giới.”[ii]
Trong chuyến tông du của ĐGH Bênêđictô XVI, các vị lãnh đạo thế giới sẽ là đối tượng quan trọng nhất của ĐGH . Vấn đề nổi cộm nhất là vấn đề an ninh thế giới, phần lớn do việc không tôn trọng nhân quyền. Dầu vậy, ĐGH cũng thấy đây là cơ hội lớn để nói lên niềm hy vọng. “Thật vậy, thế giới đang cần niềm hy vọng nhiều hơn bao giờ: hy vọng hòa bình, công lý, và tự do. Nhưng hy vọng này có thể không bao giờ được lấp đầy nếu không vâng theo luật Thiên Chúa do Đức Kitô đẩy tới mức toàn hảo trong giới luật yêu thương. Hãy làm cho người khác những gì bạn muốn người khác làm cho bạn, và đừng làm những gì bạn không muốn người khác làm cho bạn. “Luật vàng” này đã có trong Kinh Thánh, nhưng có giá trị cho mọi dân tộc, kể cả những người vô tín ngưỡng. Đó là luật được viết trong tâm hồn con người. Tất cả chúng ta đều đồng ý như thế, để khi trình bày những vấn đề khác, chúng ta có thể làm một cách tích cực và xây dựng cho toàn thể cộng đồng nhân loại.”[iii]
Phải chăng đây là cơ hội lớn cho chúng ta suy nghĩ về chiều hướng mục vụ của Giáo Hội trong thế giới hôm nay?
TIÊU CHUẨN
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa nêu bật hai hình ảnh trái ngược: mục tử và kẻ trộm. Đâu là tiêu chuẩn để có thể nhận ra khuôn mặt của hai hạng người đó?
Tùy thái độ đối với đoàn chiên, hai hạng người đó sẽ lộ nguyên hình. Tự bản chất, tên trộm bao giờ cũng rình mò xâm phạm đến của cải và tính mạng người khác. Họ không biết luật công bình là gì. Bất chấp luật pháp, “kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ.” (Ga 10:10) Họ không biết tôn trọng của cải, mạng sống và những giá trị tinh thần cũng như vật chất. Tất cả đều phải hy sinh cho cái lợi bản thân và phe đảng họ. Thật là một bất công khủng khiếp!
Trái lại, không những tôn trọng công lý, mục tử đích thực còn hy sinh bản thân vì người khác. Họ hy sinh tất cả cho hạnh phúc tha nhân. Có nhìn thấy mục tử chăn chiên trên đồi Palestine, mới thấy họ hy sinh cho đoàn chiên tới mức nào. Họ mất ngủ, mệt mỏi đứng dựa trên gậy, theo dõi từng động thái của đàn chiên. Tối đến, sau khi lùa đàn chiên vào chuồng, họ nằm chắn ngang bực cửa để bảo vệ đoàn chiên khỏi thú dữ. Mục tử như một chiếc cửa mở ra cho chiên ra vào và che chở đoàn chiên khỏi thú dữ sát hại. Có được bảo vệ an toàn như thế, đoàn chiên mới “sống và sống dồi dào.” (Ga 10:10) Mục tử không còn nghĩ tới bản thân. Họ quên mình để bảo về sự sống cho đoàn chiên. Không những tôn trọng sinh mạng con chiên, họ còn lo phát triển đoàn chiên. Đó là nét nổi bật của một mục tử đích thực. Sở dĩ mục tử có thể hy sinh tất cả cho đoàn chiên, vì họ rất gần gũi con chiên. Quả thực, khi vào trong chuồng chiên, họ có thể “gọi tên từng con,” (Ga 10:3) khi chúng quây quần chung quanh. Cảnh sinh hoạt rất thân mật.
Dù lúc ở trong chuồng hay khi ra ngoài, đoàn chiên luôn an tâm vững lòng vì người mục tử luôn sẵn sàng đối phó với mọi thách đố để bảo vệ con chiên. Khi dẫn chiên ra ngoài kiếm ăn, ông “đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng” (Ga 10:4) của ông. Trái lại, bọn trộm cướp không bao giờ được hưởng hạnh phúc đó. Chúng hoàn toàn xa lạ với đoàn chiên. Làm sao chiên có thể nghe theo chúng? Chương 9 trong Tin Mừng Gioan đưa ra một ví dụ cụ thể: mặc dù những nhà lãnh đạo Do thái dùng đủ mọi kỹ thuật thuyết phục, nhưng anh mù vẫn khẳng khái trả lời không tố cáo Chúa. Cuối cùng, anh đã bị trục xuất ra khỏi hội đường. Nói chung, những nhà lãnh đạo Do thái đương thời không chú tâm tới đàn chiên. Họ chỉ muốn thỏa mãn tham vọng quyền lực.
Làm sao tiếng nói mục tử có thể vang động trong con chiên? Đây là lúc bắt đầu phân biện được tiếng gọi của Thiên Chúa. Nếu mục tử không sinh hoạt thân mật với con chiên, làm sao chiên có thể nhận ra tiếng ông mà đi theo? Do đó thời giờ theo sát và quan tâm đến đoàn chiên thật quan trọng. Nếu không, dù là mục tử, tiếng nói cũng chẳng lọt tai con chiên. Tiếng nói Vị Mục Tử Nhân Lành đụng tới miền sâu thẳm nhất trong con chiên.
Vai trò mục tử vô cùng quan trọng trong lịch sử Israel đến nỗi Kinh thánh tôn xưng Giavê là Mục Tử quy tụ đoàn chiên tản mác từ muôn dân nước. Ngôn sứ Êdêkien tiên báo Vị Thiên Sai sẽ đến và gọi Người là một Mục tử (Ed 34:23). “Ngược với tên trộm, Người ban ngay sự sống cách phong phú, dồi dào và toàn vẹn. Ngay bây giờ sự sống vĩnh cửu bắt đầu. Sự sống trong Chúa Kitô ở trên một mức độ cao hơn, vì tràn ngập tình yêu, ơn tha thứ và được định hướng.”[iv] Con người sẽ sống hạnh phúc, bình an, tự do, vượt xa những gì người Do thái vẫn mơ tưởng.
VAI TRÒ LÃNH ĐẠO HÔM NAY
Mục tử là người lãnh đạo dân Chúa. Vai trò lãnh đạo một phần quyết định thành bại của cộng đoàn. Vậy muốn lãnh đạo thành công, mục tử phải có những đức tính gì? Như Chúa Giêsu đã dạy, mục tử phải liều thân trong mọi trường hợp. Lúc ở trong nhà hay khi ra ngoài, họ luôn hiên ngang liều mạng vì đoàn chiên. Nếu là người đang lãnh đạo dân Chúa, họ dám có những thay đổi tích cực. Họ khuyến khích các thành viên tìm ra những giải pháp mới, xem xét những phương cách thực hiện chỉ tiêu và dự liệu thay đổi. Người lãnh đạo giỏi không sợ thay đổi. Họ biết những lợi điểm thành công vượt quá những thất bại có thể gặp thấy trên đường.
Sở dĩ thành công vì mục tử biết lắng nghe “con chiên.” Thời đại thông tin và đối thoại hôm nay luôn đòi thông tin hai chiều, chứ không thể bắt con chiên nghe tiếng mục tử mà thôi. Mục tử tài giỏi luôn lắng nghe mọi ý kiến. Ông không bác bỏ những ý kiến mới lạ. Làm sao có thể đối thoại kết quả? Giáo hội dạy “các tín hữu nên ‘cố gắng đối thoại chân thành trong tinh thần yêu thương nhau và trên hết phải quan tâm tới lợi ích chung.”[v] Không có lòng bác ái và chỉ nhắm tư lợi, không thể nào đối thoại với nhau.
Một trong những điểm nổi bật nhất của mục tử là lòng say mê mục vụ. Trên bình diện công lý, đây là một bằng chứng lòng nhiệt thành của họ đối với giới trẻ, các nạn nhân, công lý, công bình và bình đẳng. Cái nhìn hay ý hướng của họ về công lý lôi kéo người khác đến với Chúa Kitô. Đó là việc rao giảng Tin Mừng thực sự. Thật vậy, Không thể rao giảng Tin Mừng, nếu không cổ động sự tiến bộ thực sự của con người về công lý và hòa bình. Lý do vì “không có gì liên quan tới cộng đồng nhân loại lại xa lạ với việc rao giảng Tin Mừng – như những hoàn cảnh và vấn đề công lý, tự do, phát triển, tương quan giữa các dân tộc, hòa bình. Có một liên hệ sâu xa giữa việc Phúc Âm hóa và thăng tiến con người.”[vi]
Giữa cộng đồng đầy những vấn đề như thế, việc Phúc âm hóa có thành công hay không cũng tùy thuộc một phần vào thái độ của mục tử. Họ phải là những người lạc quan, tin tưởng vào những việc khả thi và không để những trở ngại hôm nay hay những thất bại hôm qua trói tay. Trái lại, những kinh nghiệm đó càng thúc đẩy họ hành động hơn nữa. Một mục tử bi quan chỉ tìm bắt lỗi những người dưới quyền. Chính vì thế, họ không thể hành động hữu hiệu cho công cuộc xây dựng Nước Chúa. Chúa muốn “khi nhìn vào thiên nhiên, thời tiết và con người, các môn đệ của Chúa đầy lòng tin tưởng phó thác như trẻ em, vì biết rằng họ không bao giờ bị Cha quan phòng bỏ rơi (x. Lc 11:11-13). Thay vì bị lệ thuộc vào vạn vật, người môn dệ Chúa Giêsu phải biết làm cách nào xử dụng chúng để chia sẻ và gây dựng tình huynh đệ (x. Lc 16:9-13).”[vii]
Khi hành động, mục tử có thể chia sẻ kiến thức, quyền lực và cần tín nhiệm người khác. “nếu thực thi quyền bính với những đức tính, như kiên nhẫn, cần kiệm, chừng mực, bác ái, nỗ lực chia sẻ, giới hữu trách sẽ biến quyền lực thành phương tiện phục vụ, một thẩm quyền do những người có khả năng thực thi, nhắm công ích như mục tiêu của công việc, chứ không nhắm gây thanh thế hay tư lợi.”[viii] Một mục tử làm việc hiệu quả không quan tâm xem công việc mình có được ai truy nhận hay không. Trái lại, ông cố gắng nhận biết thành quả của người khác và nhấn mạnh đến thành công của nhóm hơn của những cá nhân đặc biệt. Có như thế mới có thể tạo được bầu khí hứng khởi cho mọi người làm việc cho lợi ích chung là hạnh phúc con người.
NHÂN LOẠI ĐI VỀ ĐÂU
Chính vì muốn cho nhân loại sống hạnh phúc hơn, ĐGH Bênêđictô XVI muốn nối tiếp bước chân mục vụ của các vị tiền nhiệm tông du Hoa Kỳ trong tuần lễ từ ngày 15 đến 20 tháng 04 năm 2008. Trong cuộc tông du này, ĐGH sẽ viếng thăm LHQ sáng thứ Sáu, 18 tháng 4, nhân dịp kỷ niệm 60 năm bản Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền. ĐGH sẽ đọc diễn từ trước một cử tọa khoảng 3000 thính giả, đại diện của 192 quốc gia thành viên LHQ. Cha Lombardi cho biết: “Người ta trông đợi bài diễn văn sẽ đặt trọng tâm vào các quyền của con người, về căn bản, sự hiệp nhất và tính chất không thể chia cắt [của các quyền này]. Đó là những chủ đề rất gần gũi trái tim của Đức thánh cha Bênêđictô XVI.”[ix] Có nhân quyền, con người mới sống hạnh phúc.
Nhưng những người lãnh đạo trong các nước cộng sản có muốn con người hạnh phúc không? Nếu có tại sao họ vẫn bóp méo hay chà đạp nhân quyền? Vấn đề nhân quyền trong các nước đó vẫn gây nhức nhối cho nhân loại rất nhiều. Một tháng sau khi Tây Tạng bị quân đội Trung Hoa đàn áp đẫm máu, chủ đề nhân quyền nổi cộm trong dịp cây đuốc Thế Vận đi vòng quanh thế giới. “Cách đây bảy năm, khi Ủy Ban Olympic Quốc Tế quyết định trao cho Bắc Kinh vinh dự tổ chức cuộc tranh tài thể thao lớn nhất thế giới, chính các thành viên thuộc Ủy Ban Vận Động do Bắc Kinh thành lập đã đưa ra lời cam kết, đảm bảo thế giới sẽ nhìn thấy một nước Trung Hoa hài hòa hơn, nhân quyền được tôn trọng hơn, đáp ứng những đòi hỏi mà cộng đồng quốc tế trông đợi.”[x] Trung Hoa muốn khoe với cả thế giới về thành tích nhân quyền. Nếu họ đã nỗ lực tạo lập thành tích đó, tại sao ngọn đuốc thế vận đi đến đâu bị phản đối tới đó? Người ta không phản đối ngọn đuốc Thế vận hội hay dân tộc Trung Hoa, nhưng chống lại nhà cầm quyền cộng sản Trung Hoa đang chà đạp nhân quyền.
Chính quyền và những người lãnh đạo đảng cộng sản Trung hoa chắc chắn không vui khi nhìn thấy những cảnh tượng “những tấm biểu ngữ thật lớn được treo ngay trên nóc Tháp Eiffel ở Paris, ở cầu Golden Gate tại San Francisco, mang những hàng chữ đòi hỏi nhà cầm quyền Bắc Kinh phải thực thi nhân quyền, ngưng ngay cuộc đàn áp và phải trả lại độc lập cho người dân Tây Tạng. Chưa bao giờ chương trình rước ngọn đuốc thiêng Thế Vận Hội lại gặp khó khăn đến thế. Ở Luân Đôn và Paris, có những người trong đoàn biểu tình tìm cách cướp và dập tắt ngọn đuốc trên tay người được vinh dự cầm ngọn đuốc chạy trên đường phố. Trước con số hàng chục ngàn người chống đối ở San Francisco, Ban Tổ Chức đã phải dời cuộc rước đuốc đến một địa điểm không thông báo trước cho dân chúng biết, đồng thời cắt ngắn chương trình.”[xi] Ngọn đuốc bị cô lập và phải trốn chui trốn nhủi, chỉ vì nhân quyền chưa được tôn trọng tại Trung hoa.
Tóm lại, nhìn vào hai lớp người lãnh đạo trong Giáo hội cũng như ngoài xã hội, chúng ta mới thấy rõ tiêu chuẩn phân biệt mục tử đích thật của Chúa. Mục tử đích thực luôn hy sinh cho hạnh phúc con người. Còn những người lãnh đạo chuyên lạm dụng quyền bính để ăn cướp, giết chóc và phá hoại đều là những tên trộm cướp. Làm sao nhân loại có thể sống hạnh phúc và bình an giữa những tên trộm cướp như thế?!
Lạy Chúa, xin ban Thần Khí cho những lãnh đạo Giáo hội trên khắp thế giới. Xin Chúa ban cho các nhà lãnh đạo thế giới biết tôn trọng nhân quyền hầu mọi người được sống và sống dồi dào. Amen.
——————————–
[i] http://www.zenit.org/article-22237?l=english
[ii] Ibid.
[iii] http://www.zenit.org/article-22232?l=english
[iv] Life Application Study Bible, Zondervan, 1991:1897.
[v] Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 574.
[vi] Ibid., 66.
[vii] Ibid., 453.
[viii] Ibid., 410.
[ix] http://www.vietcatholic.net/News/Html/53865.htm
[x] http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2008/04/11/IssueOfTheWeek-Olympic_Torch_Relay_NKhanh/
[xi] Ibid.
------------------------------------
PS 4-A149: Cánh cửa Đức Giêsu rộng mở đón chúng ta
(Lm. Jude Siciliano, OP – Anh Em Nhà Học Đa Minh Gò Vấp chuyển ngữ).
Thưa quý vị,
Tôi thấy bài Tin mừng hôm nay thật phức tạp. Tôi muốn nói với Đức Giêsu: “Xin Ngài quyết định PS 4-A149
Tôi thấy bài Tin mừng hôm nay thật phức tạp. Tôi muốn nói với Đức Giêsu: “Xin Ngài quyết định đi. Ngài là “người giữ cửa” hay là cánh cửa”? Hay có lẽ Ngài là “Mục Tử.” Ra như chỉ có mỗi hình ảnh mục tử mà chúng ta không nghe được trong đoạn văn hôm nay lại là hình ảnh chúng ta mong đợi, “Tôi là Mục Tử Nhân Lành.” Là một người giảng thuyết, hình ảnh này cứ khiến tôi phân vân: làm thế nào có thể tập trung vào thông điệp hôm nay đây?
Có lẽ tôi quá khắt khe. Tôi muốn mọi thứ ngăn nắp và trật tự. Thế nhưng những hình ảnh này lại lung tung và chồng chéo lên nhau. Tin mừng của Gioan không phải là kiểu “một cỡ vừa cho tất cả”, hay cung cấp những hình tượng vừa khít như trên những hộp giày. Ngài là một thi sĩ và như một thi sĩ sử dụng hình ảnh, bẻ cong và gọt đẽo những hình ảnh cũng như ngôn từ sao cho có thể dẫn ta đi sâu hơn vào trong Tin mừng của ngài. Chắc chắn ngài cho chúng ta đủ những chọn lựa để có thể dễ dàng đi vào bên trong! Thế nên, đừng có mà cố gắng sắp xếp những hình ảnh của ngài cách cứng nhắc. Thay vì vậy, hãy tiếp cận những hình ảnh của ngài với cặp mắt và đôi tai rộng mở để thấy được đa tầng ý nghĩa mà ngài muốn gửi đến cho chúng ta.
Ngay phần trên của đoạn văn hôm nay, chúng ta được nghe Đức Giêsu nói đến các Pharisêu, những người đã phản đối Người vì đã chữa một người mù trong ngày Sabbat (Ga 9,40-41). Vì thế, trong đoạn Tin mừng hôm nay, có lẽ Người tiếp tục phê phán họ khi ám chỉ “kẻ trộn và kẻ cướp.” Những ngôn sứ như Ezekiel cũng rất hay sử dụng kiểu nói này; họ lên án những nhà lãnh đạo tôn giáo sai lầm và đồi bại (“các mục tử”) về việc đã không chăm lo chu đáo cho dân (những con chiên). Nhưng các người nghe thông điệp này cũng là các môn đệ của Người, đặc biệt là trong phần thứ hai của trình thuật hôm nay. Thánh Gioan là một tác giả tài năng nên những mơ hồ trong văn phong của ngài quả không phải là một sự ngẫu nhiên hay do kết quả của việc biên soạn cẩu thả.
Nếu như không thấy nói đến thính giả thì thông điệp của ngài chính là để mở ra cho giáo hội của ngài trong thế kỷ đầu của Hội thánh. Và cũng nói với cả chúng ta ngày nay nữa. Đức Giêsu không chỉ phê phán giới lãnh đão Pharisêu sai trái kia; nhưng còn nhắm đến tất cả mọi lãnh đạo giáo hội cách lầm lạc trong mọi thời. Nói ra thật buồn, nhưng mỗi thế hệ và triều đại của các nhà lãnh đạo Giáo hội đều có những sai lỗi và gây ra biết bao hậu quả tệ hại, cả cho cộng đoàn tín hữu của họ cũng như những người bên ngoài Giáo hội, những người biết về các nhà lãnh đạo bất tài này qua truyền thông cũng như qua các phương tiện thông tin khác.
Trong suốt Tin mừng của mình, thánh Gioan còn có một cách trộn lẫn những hình ảnh để mô tả Đức Giêsu: những kiểu khẳng định “Tôi là”. “Tôi là đường, là sự thật và là sự sống,” “Tôi là sự sống lại,” “Tôi là nước hằng sống”… Thánh Gioan cho thấy rằng Đức Giêsu không muốn làm một cái thùng thư công cộng; như chúng ta thấy trong cuộc trao đổi sau khi chữa lành người mù (chương 9). Những người Pharisêu muốn những giải thích rõ ràng, nghiêm túc và tôn trọng lề luật cũng như truyền thống cách nghiêm ngặt. Tin mừng phong phú của thánh Gioan không chấp nhận hay tuân theo kiểu nghiêm khắc đó. Mầu nhiệm Thiên Chúa trong Đức Giêsu quá lớn nên không thể nào tóm kết trong một kiểu như thế. Mệnh đề “Tôi là” là một ví dụ rất hay về kiểu mở của Tin mừng Gioan giúp chúng ta diễn giải ý nghĩa của Đức Giêsu trong cuộc đời chúng ta.
Có một số lãnh đạo giáo hội và một số thành viên muốn thu hẹp và giản lược những thực hành cũng như niềm tin tôn giáo. Chẳng hạn như trong ngày Thứ Năm Tuần Thánh vừa rồi, một số giáo phận cấm không cho phụ nữ được rửa chân trong nghi thức truyền thống. Nhưng những hạn chế như thế có vẻ như không giống như lối mở của Tin mừng Gioan và những cách thức ngài muốn nói cho mọi thế hệ – kiểu mà các môn đệ đầu tiên, trong đó có cả Gioan, có lẽ chẳng thể tưởng tượng ra. Vì thế, nếu thánh Gioan đã chủ ý để mở ngôn ngữ cũng như hình ảnh của ngài, thì chúng ta có thể tự do áp dụng trong thời gian và không gian của chúng ta.
Hôm nay, có một kiểu khẳng định khác của mệnh đề “Tôi là”. Đức Giêsu nói: “Tôi là cửa.” Tôi gặp khó khăn, buồn nản, xáo trộn và đói khát tinh thần nơi đâu? Thánh Gioan giải thích rõ ràng: Người mời chúng ta lại chọn Đức Giêsu, để bước vào cánh của mang lại nguồn sống. Bước vào con đường hẹp, một cánh của, lúc đầu có vẻ như bị hạn chế. Nhưng không hạn chế chút nào nếu cánh của đó dẫn chúng ta đến một nơi an nghỉ và bước vào một nơi được no đủ. Một cánh cửa có thể khóa đoàn chiên trong đó. Nhưng, cánh cửa là Đức Giêsu thì mở cho đàn chiên đi vô và đi ra.
Tương quan của chúng ta với Đức Giêsu không phải kiểu chung chung. Chúng ta không đơn giản chỉ là những gương mặt trong đám đông. Người biết tên từng con chiên của mình và chúng ta biết tiếng của Người. Có khi chúng ta quên hay lờ đi không nghe tiếng Người và chúng ta bị lạc lối. Nhưng Người tìm kiếm chúng ta, rồi tìm cách kêu gọi chúng ta trở về: có thể qua lời khuyên của một người bạn, một đoạn trong quyển sách đang đọc dang dở, hay một lời trong bài giảng. Rồi, sau khi nghe được lời Người, chúng ta làm một bước ngoặt khác trong đời mình và quay đầu về phía cánh cửa của Đức Giêsu đang rộng mở đón chúng ta bước vào trong sự tha thứ, nghỉ ngơi và canh tân.
Quả là hôm nay Đức Giêsu sử dụng nhiều hình ảnh khác nhau để tự mô tả chính mình cho chúng ta. Nhưng thông điệp được nhắc lại trong mỗi hình ảnh cho thấy Người quan tâm đến hạnh phúc của chúng ta. Người muốn chúng ta cẩn trọng với các mục tử dẫn chúng ta lạc lối và gây tổn hại cho đạo lý của chúng ta bằng gương mù gương xấu và khả năng lãnh đạo tồi của họ. Họ có thể đánh cắp cuộc đời chúng ta, Người nói cho chúng ta biết thế. Người hướng dẫn chúng ta quay về với Người, chúng ta biết tiếng của người và tin tưởng vào lời Người. Người muốn rằng chúng ta “được sống và sống dồi dào.”
Làm sao chúng ta có thể cảm nhận được sự chăm sóc độc nhất mà Đức Giêsu dành cho chúng ta? Hôm nay hãy biết ơn các ngôn sứ cũng như những người thánh thiện trong lịch sử Giáo hội đã gợi hứng cũng như nuôi dưỡng chúng ta. Làm sao chúng ta có thể kể ra được những ân nhân của mình; những người đã hướng dẫn chúng ta trong cuộc đời này? Chúng ta cũng biết ơn vì những lời mục tử mà chúng ta nghe được nơi các thành viên của gia đình, các thầy cô, nghệ sỹ, cha sở, các tác giả, người hướng dẫn tĩnh tâm, thầy giảng, giáo lý viên,… Qua những người này, Mục Tử nói với chúng ta và chúng ta biết ơn vì nhận ra tiếng của Người và đáp lại.
Thánh Phêrô nhận ra tiếng gọi của Mục Tử khi Đức Giêsu lần đầu tiên gọi ông khi ông đang trên thuyền. Ngài “bước vào cổng” và theo tiếng gọi của Mục Tử khi lắng nghe lời dạy của Đức Giêsu cũng như chứng kiến các hành động chữa lành của Người trên hành trình tiến về Giêrusalem. Dù Phêrô có quay lưng lại với vị Mục Tử và bỏ rơi Người khi Người cần đến, thì ngài vẫn nghe được lời tha thứ khi Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ đang sợ hãi trong căn phòng đóng kín và nói: “Bình an cho anh em.” Thánh Phêrô quay lại với thầy Giêsu, ngài bước vào cánh của tha thứ đang rộng mở.
Hôm nay, trong bài đọc một, chúng ta nghe một phần bài giảng của thánh Phêrô trong ngày Lễ Hiện Xuống. Ngài đề cập đến “toàn thể nhà Israel” (Cv 2,36). Nhân danh Đức Giêsu, giờ đây Phêrô là lời của Mục Tử kêu gọi đàn chiên của Người. người ta nghe thấy lời của Mục Tử trong bài giảng của Phêrô và đáp lại “Chúng tôi phải làm gì đây?” Liên quan đến bài Tin mừng hôm nay, Phêrô kêu gọi người ta quay trở lại và lãnh nhận phép rửa nhân danh Chúa Giêsu – để bước qua của vào chuồng chiên. Rất nhiều người đã thực hiện điều đó, 3000 người đã nghe lời Mục Tử và bước vào.
Bước vào “chuồng chiên” có thể giống như bước vào một thế giới khép kín và cô lập. “Hãy đến và gia nhập vào nhóm nhỏ và riêng tư của tôi”. Thật khó! Thánh Phêrô là một thí dụ của một người đã bước qua cửa vào chuồng chiên. Ngài nhận được ân sủng của Thánh Thần, là những gì mà ngài hứa các thính giả cũng sẽ nhận được và rồi ngài bước qua cánh cửa rồi tiến ra thế giới bên ngoài. Sau khi Đức Giêsu bị bắt, Phêrô đã từ chối Đức Giêsu. Giờ đây ngài xác nhận mối liên hệ giữa ngài với Đức Giêsu, liều lĩnh và công khai tuyên xưng niềm tin của mình vào Đức Giêsu là “Đức Chúa và là Đấng Kitô”.
Bài giảng của thánh Phêrô hôm nay chỉ là một phần của bài giảng trong ngày Lễ Hiện Xuống. Các bản văn Kinh thánh từ Phục sinh và trong tháng tới hướng chúng ta đến cử hành Lễ Hiện Xuống vào ngày 12 tháng 6. Chúng ta vẫn còn thời gian để lắng nghe và canh tân tiếng của Mục Tử Nhân Lành. Người sẽ lại quy tụ chiên của mình vào chuồng, làm chúng ta nên mới bằng Thánh Thần của Người và rồi Đấng tự nhận mình là “cửa” sẽ dẫn đưa chúng ta bước ra thế giới bên ngoài – như Người đã thực hiện nơi Phêrô và các Kitô hữu đầu tiên. Ở đó, chúng ta cũng sẽ can đảm làm chứng cho danh Đức Giêsu bằng lời nói và việc làm của chúng ta. Hy vọng rằng qua cuộc sống của chúng ta, người khác có thể nghe được tiếng của Mục Tử đang mời gọi họ bước qua cánh của rộng mở cho mọi người đi vào đời sống Đức Giêsu ban cho chúng ta.
------------------------------------
PS 4-A150: NGƯỜI CHĂN CHIÊN VÀ ĐÀN CHIÊN
Tin Mừng Chúa Nhật IV năm A ( Ga.10:1-10) nói về dụ ngôn người chăn chiên. Chủ đề chính PS 4-A150
Tin Mừng Chúa Nhật IV năm A ( Ga.10:1-10) nói về dụ ngôn người chăn chiên. Chủ đề chính của Chúa nhật này là Chúa nhật Chúa Chiên Lành.
Chúa Giêsu đã xác nhận: “ Ta là mục tử tốt lành” và “ Ta là cửa chuồng chiên.” Còn người chăn chiên thuê, những kẻ trộm chiên là ai? Ai là những con chiên đích thực? Đó là những nhân vật, những biểu tượng được Chúa Giêsu nói đến trong bài Dụ ngôn về Đấng Chăn Chiên Lành.
Phẩm chất của người chăn chiên lành là gì?
¨ luôn đi sát đàn chiên: “kẻ ấy đi trước và chiên theo sau” ( câu 4)
¨ biết tên từng con chiên: “gọi đích danh từng con chiên mình” ( c.3)
¨ cho chiên “được sống và sống dồi dào” (c. 10 )
¨ “thí mạng sống vì con chiên” ( c.11)
¨ là người chăn chiên chính danh, đường đường chính chính từ cửa mà vào, không trèo tường đi vào lối khác như những tên trộm “tìm đến chỉ để ăn trộm, để sát hại và phá hủy” ( c.10), hay như người chăn chiên thuê, vì không phải là chiên của họ, nên khi thấy sói rừng đến, họ bỏ chiên mà trốn mặc cho sói bắt chiên và làm cho đàn chiên chạy tản mác.
Hình ảnh người mục tử nhân hậu ấy là ai? Đó là Thiên Chúa Tình Yêu, Đấng Chăn Chiên Nhân Hậu, là Mục Tử Hiền Lành.
Qua bài Tin Mừng, Chúa Giêsu Kitô mặc khải cho chúng ta một Thiên Chúa nhân hậu, đầy tình thương, luôn sát cạnh, đồng hành với chúng ta trong cuộc sống. Người luôn quan phòng và yêu thương con cái của mình.
Tương quan giữa Thiên Chúa và con người không phải là tương quan chủ- tớ, đúng hơn là tương quan giữa cha- con, giữa yêu thương và được yêu thương.
Khác với người chăn chiên thuê phó mặc “ sống chết mặc bay” hay ba chân bốn cẳng vội vàng chạy trốn khi thấy sói rừng xuất hiện… người chăn chiên đích thực là một người mục tử nhân hậu, thương mến đàn chiên, tận tình chăm sóc, bảo vệ đàn chiên, thỏa mãn mọi nhu cầu cần thiết, luôn sát cạnh với chúng hằng ngày, và sẵn sàng thí mạng sống mình vì đàn chiên.
Như người mục tử tốt lành biết tên từng con chiên, gọi đích danh từng con chiên của mình, Thiên Chúa biết rõ những khó khăn vất vả, những yếu đuối vấp ngã, những bệnh tật khổ đau, những ê chề thất vọng của chúng ta… Và Người luôn ở bên chúng ta để an ủi vỗ về, để nuôi dưỡng bổ sức.
Chúa là người chăn chiên hiền lành. “ Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trên đồng cỏ xanh tươi, Người thả tôi nằm nghỉ. Người dẫn tôi đến dòng suối nước trong lành để nghỉ ngơi, và tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng.” ( Tv 22: 1-3)
Thiên Chúa đầy lòng xót thương chẳng bỏ rơi con chiên nào như hình ảnh người chăn chiên vác trên vai con chiên bị thương tích, bệnh hoạn..mà đưa về nhà, hay bỏ 99 con chiên trên núi mà đi tìm con chiên lạc.
Người chăn chiên tốt lành thì như thế, nhân hậu yêu thương con chiên và đàn chiên thì như thế, nhưng con chiên và đàn chiên thì sao?
Để được sống yêu thương và được đùm bọc chở che, nuôi dưỡng, con chiên và đàn chiên phải:
- biết ai là người chăn dắt chúng, biết nghe theo tiếng người chăn chiên. (câu 3)
- luôn theo sau người chăn chiên, vì chúng quen tiếng người ấy và biết trốn đi khi nghe tiếng người lạ. ( c. 5)
- biết tin tưởng, phó thác vào sự hướng dẫn của người chăn chiên.
Chúa đã phán rằng : “… Ta biết chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta.”( Ga 10 :14). Chúa biết chúng ta, chuyện đó đã đành rồi. Còn chúng ta, chúng ta biết Chúa thế nào?
Khi lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy, chúng ta đã trở thành con chiên của Thiên Chúa, chúng ta thuộc về một đàn chiên là Giáo Hội như Thánh Phêrô đã noi trong thư thứ 1 ( 1 Pr 2 : 25) : « Xưa kia, anh em như những con chiên lạc, nhưng giờ đây, anh em đã trở về cùng vị mục tử và Đấng canh giữ linh hồn anh em. » Lắng nghe, thực thi Lời Chúa, tuân giữ những điều Giáo Hội truyền dạy là chúng ta nghe biết tiếng của người chăn chiên, là đi theo sự hướng dẫn của đức tin, đức cậy và đức mến. Vì « Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, vì danh dự của Người. Dù bước đi trong thung lũng tối, tôi không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng tôi. Cây roi và cây gậy của Người, đó là điền an ủi lòng tôi. » ( Tv 22 : 3-4)
Tin tưởng, phó thác vào tình thương của Chúa khiến chúng ta an lòng. Chúng ta phải luôn cảnh giác: Mấy tên trộm chiên đang quan sát, rình mò. Từ xa, cả một đàn chiên béo tốt. Có những con đang ăn cỏ, có những con đang nằm nghỉ, có những con đang nghịch ngợm đùa giỡn với nhau. Một cảnh thanh bình! Chúng đang tìm cách đến gần, chờ đợi cơ hội có con chiên nào đó muốn tách ra khỏi đàn, muốn chạy nhảy theo sở thích riêng để tóm lấy.
Điểm tựa cho cuộc sống chúng ta là: “ Ta chính là mục tử nhân lành. Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta. ( Ga 10: 14). Là Mục tử nhân lành, Ta hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” ( Ga 10: 11)
Sống theo đàn, nghe biết tiếng người chăn chiên, theo sau người chăn chiên, tránh xa tiếng kêu gọi của người lạ là sống trong lòng Giáo Hội, sống theo Tin Mừng, là chết đi cho con người tội lỗi để theo chân người chăn chiên đi vào Cửa Chuồng Chiên là Chúa Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại. « Chính Người đã gánh vác tội lỗi chúng ta nơi thân xác Người trên cây khổ giá, để một khi đã chết cho tội lỗi, chúng ta sống cho sự công chính; nhờ vết thương của Người, anh em đã được chữa lành. » (1 Pr. 2 :24)
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin dẫn đưa chúng con đến cộng đồng đang hưởng vui mừng trên trời, để đoàn chiên khiêm tốn được tới nơi mà Đấng chăn chiên hùng mạnh đã đến. Xin cho chúng con vững tin vào lòng nhân từ và ân sủng của Chúa trong suốt cả cuộc sống chúng con và tin rằng Chúa chăn nuôi chúng con, chúng con chẳng thiếu tốn chi !
------------------------------------