Suy niệm Chúa Nhật PS 5-A Bài 101-150: Thầy là đường, là sự thật và là sự sống.
-------------------------------------
Phúc Âm: Ga 14, 1-12: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ cho các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi". Ông Tôma thưa Người rằng: "Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?" Chúa Giêsu đáp: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ các con biết và đã xem thấy Người". Philipphê thưa: "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha, và như thế là đủ cho chúng con". Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: "Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư, Philipphê? Ai thấy Thầy là xem thấy Cha, sao con lại nói "Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha"? Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin vì các việc Thầy đã làm. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha". - Ðó là lời Chúa.
--------------------------------------------------------------
PS 5-A101: Ra đi & Trở về. 2
PS 5-A102: Hai chân lý Đức Tin. 4
PS 5-A103: Ai biết Thầy là biết Chúa Cha. 9
PS 5-A104: “Lòng anh em đừng xao xuyến...". 11
PS 5-A105: Chính Thầy là con đường. 15
PS 5-A106: Chính Thầy là con đường. 19
PS 5-A107: ĐỨC GIÊSU, ĐƯỜNG DẪN ĐẾN CHÚA CHA.. 23
PS 5-A108: Dọn chỗ cho anh em - Huệ Minh. 26
PS 5-A109: Hãy tin tưởng vào Chúa. 28
PS 5-A110: Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành. 31
PS 5-A111: Suy niệm của GKGĐ Giáo phận Phú Cường. 33
PS 5-A112: Đức Giêsu: Dung nhan của Thiên Chúa Cha. 35
PS 5-A113: Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. 37
PS 5-A114: Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. 40
PS 5-A115: Suy niệm của Lm. Trầm Phúc. 42
PS 5-A116: Sự thật 44
PS 5-A117: Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 45
PS 5-A118: Chúa Nhật V Phục Sinh A.. 50
PS 5-A119: TA LÀ ĐƯỜNG, LÀ SỰ THẬT VÀ LÀ SỰ SỐNG.. 52
PS 5-A120: Đường dẫn tới Chúa Cha và hạnh phúc. 53
PS 5-A121: Chúng ta hoang mang. 55
PS 5-A122: Chúa Nhật 5 Phục Sinh. 56
PS 5-A123: Thấy Thầy là thấy Chúa Cha. 60
PS 5-A124: “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”. 62
PS 5-A125: Trong cơn đại họa, hãy vững tin vào Chúa. 65
PS 5-A126: Anh Em Đừng Xao Xuyến. 67
PS 5-A127: Tìm một lối đi 68
PS 5-A128: Thầy là Đường, Sự Thật và Sự Sống. 70
PS 5-A129: Ai thấy Thầy là thấy Cha. 74
PS 5-A130: Xao xuyến. 76
PS 5-A131: Con Đường Giêsu. 78
PS 5-A132: Thầy là con đường. 81
PS 5-A133: Dám sống sự thật?. 84
PS 5-A134: Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng. 87
PS 5-A135: Chúa Nhật 5 Phục Sinh. 89
PS 5-A136: Như mẹ hiền và con thơ. 91
PS 5-A137: Chúa Nhật 5 Phục Sinh. 92
PS 5-A138: Chúa Giêsu, đường về Chúa Cha. 100
PS 5-A139: CHÚA NHẬT V PHỤC SINH NĂM A.. 111
PS 5-A140: GIÁO HỘI CỦA ĐỨC GIÊSU.. 115
PS 5-A141: LỐI ĐI NÀO CHO KIẾP NGƯỜI 118
PS 5-A142: ĐƯỜNG SỰ THẬT, SỰ SỐNG.. 120
PS 5-A143: XIN CHO CON BIẾT CHÚA.. 122
PS 5-A144: CON ĐƯỜNG CHÚA ĐI 123
PS 5-A145: THEO CHÚA LÀ ĐƯỜNG, LÀ SỰ THẬT VÀ LÀ SỰ SỐNG.. 124
PS 5-A146: THANH NHÀN.. 126
PS 5-A147: CHÚA GIÊSU LÀ ĐƯỜNG LÀ SỰ THẬT VÀ LÀ SỰ SỐNG.. 128
PS 5-A148: VỮNG CHÍ 131
PS 5-A149: NHÀ CHA THẦY.. 138
PS 5-A150: CUỘC TRÒ CHUYỆN THÂN MẬT.. 141
------------------------------------
Đoạn Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy việc Chúa Giêsu ra đi và trở về. Hẳn nhiên chúng ta thấy vấn đề đặt ra là Chúa Giêsu đi đâu và trở về đâu? Sứ mạng của Ngài là gì?
Chúa Giêsu là Thiên Chúa, từ nơi Chúa Cha mà đến trần gian trong thân phận xác phàm nhưng không mất bản tính Thiên Chúa nơi mình. Sau khi hoàn thành sứ mạng ở trần gian, Ngài trở về cùng Chúa Cha. Sứ mạng của Ngài là "Cứu Thế", Vị Cứu Tinh không chỉ cho dân Do thái mà còn cho toàn thể nhân loại, cho cả vũ trụ vạn vật vì tất cả vũ trụ vạn vật được sinh ra nhờ Người và trong Người (x. Cl 1, 16).
Một trong những sứ mạng của Chúa Giêsu là mạc khải cho con người biết Chúa Cha. Chúa Giêsu cũng chỉ rõ "Ai thấy Thầy là thấy Cha" (Ga 14 ,9) vì "Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy"(Ga 14,10). Nơi Đức Giêsu Kitô, chúng ta gặp được Thiên Chúa, dễ gần gũi, dễ yêu thương. Giữa Ngài và Thiên Chúa Cha có một gắn bó mật thiết lạ lùng đến nỗi Chúa Giêsu dám nói: "Ai biết Thầy là biết Cha" (Ga 14,7). Như thế, Lời nói và việc làm của Chúa Giêsu chính là lời nói và việc làm của Thiên Chúa (Ga 14,10).
Cuộc đời Chúa Giêsu phản chiếu khuôn mặt và trái tim Thiên Chúa, đầy nhân ái và bao dung với hết mọi người. Điều kỳ diệu và tuyệt vời là chính Đấng Tuyệt Đối, Đấng Toàn Năng, Cao Cả và Hằng Hữu đã có thể trở thành con người thấp hèn, đơn sơ như em bé nơi máng cỏ Belem, sinh sống nơi làng Nadarét, giao tiếp với người thu thuế, người tội lỗi,...cuối cùng phải chết khổ nhục trên thập giá. Điều kỳ diệu nơi Chúa Giêsu, sự uy nghi của Thiên Chúa tỏ hiện trong khiêm tốn và yếu đuối cách lạ thường như thế.
Không ai thấyThiên Chúa bao giờ (Ga 1,18). Tuy nhiên, chúng ta có thể biết Thiên Chúa qua công trình sáng tạo và lịch sử cứu độ, thấy sự hiện diện đầy kỳ diệu và huyền nhiệm trong vũ trụ này. "Ai thấy Thầy là thấy Cha", điều này cho chúng ta một xác quyết mạnh mẽ hơn, một niềm tin vững chắc hơn khi chúng ta tiếp cận Lời Chúa, chúng ta đón nhận Mình Máu Chúa, chúng ta lãnh nhận các bí tích và ân sủng tràn lan của Thiên Chúa ban qua Hội Thánh của Người cho chúng ta. Đó là con đường, là cơ hội, là cách thức nhận biết Thiên Chúa để củng cố và nâng đỡ đời sống đức tin của chúng ta.
"Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy" (Ga 14, 6). Mọi con đường cứu độ đều phải đi vào Con Đường Giêsu. "Thiên Chúa không ban một danh nào khác dưới bầu trời, để nhờ danh đó mà chúng ta được ơn cứu độ" (Cv 4,12). Hơn nữa, hằng ngày chúng ta có thể gặp Chúa nơi tha nhân, nơi những người nghèo khổ, nơi những người bị bỏ rơi,...(x Mt 28) hay nơi những người sống và thi hành ý muốn của Thiên Chúa...
Chúa Giêsu mạc khải cho con người biết Chúa Cha. Ngài còn mạc khải chính Ngài cho chúng ta biết: "Ta là Đường, là Sự thật và là sự sống". Nơi Chúa Giêsu Kitô có sự sống đời đời, có niềm hạnh phúc vĩnh cửu. Ngài đã mạc khải về con đường đó và Ngài cũng chính là con đường mà ta có thể bước theo để được hưởng ơn cứu độ nhưng không của Thiên Chúa. Chính Ngài mạc khải là lời chân lý, không sai lạc, không hề lừa dối ai bao giờ. Đi trong đường lối Ngài là ta đang đi trong Sự Thật, đi trong đường lối Ngài là ta được đi trong tình thương và ân sủng của Ngài. Đi theo Ngài ta có được sự sống đời đời. Ở trong Lời Ngài, ta sẽ gặp được bình an. Bước đi theo Ngài ta sẽ được hạnh phúc đời đời. Đó chẳng phải là khao khát của chúng ta, khao khát của biết bao người, của những người thành tâm thiện chí đi tìm kiếm Thiên Chúa, Đấng mà họ gọi bằng những tên khác nhau: Đấng Tối Cao, Đấng Tuyệt Đối, Đấng vượt trên mọi danh hiệu... Như thế, con người đang muốn bắc một nhịp cầu với Đấng siêu việt, với Đấng là Đường là Sự Thật và là sự sống đời đời, con người muốn cảm nghiệm và đi sâu vào mối tương quan, vào mối hiệp thông thâm sâu với Đấng Tạo Hóa ấy. Phần của Thiên Chúa, Ngài đã đáp lại khát vọng, Ngài gieo nơi lòng người khi cho Con Một Ngài làm người, ở giữa chúng ta và cũng chính Ngài là Đấng khơi lên và giúp con người biết khát vọng và muốn tìm về cội nguồn của mình, tìm về Đấng đã yêu thương, sáng tạo và quan phòng chăm sóc.
Sau khi đã sống trọn sứ mạng yêu thương tự hiến, Chúa Giêsu đã về với Chúa Cha trong vinh quang Phục Sinh. Ngài cũng muốn chúng ta đi theo Ngài mà về nơi đó. Chúa Giêsu trở thành con đường cho chúng ta đi. Là Kitô hữu, chúng ta can đảm bước đi theo Chúa, chúng ta hãy gạt bỏ những gì không phù hợp với đời sống của người Kitô hữu, đi trên con đường Chúa chỉ dẫn. Con đường mà Chúa Giêsu đã đi là con đường mà Thiên Chúa muốn, là con đường vâng phục theo thánh ý Chúa Cha, là con đường đón nhận đau khổ, chết và phục sinh như Chúa Giêsu. Làm Kitô hữu là làm người như Đức Giêsu Kitô, là trở nên một Giêsu khác cho con người hôm nay, là ước ao để có thể nói được rằng: "Ai biết tôi là biết Đức Kitô, ai thấy tôi là thấy Đức Kitô." Nếu chúng ta có tình yêu và đức tin, chúng ta sẽ thấy Chúa Giêsu nơi tha nhân vì họ đều là hình ảnh của Thiên Chúa để chúng ta yêu thương họ, bất kể họ thế nào, bất kể họ khác biệt ta đến mức độ nào, vì chính Ngài cũng yêu thương họ, muốn cứu chuộc họ, phục vụ họ. Ngài đã tự đồng hóa Ngài với họ đến nỗi ai làm gì cho họ thì cũng là làm cho chính Ngài, không làm cho họ thì cũng là không làm cho chính Ngài (x. Mt 10.40; 18, 5; 25, 40.45; Lc 10, 16). Ngài muốn ta yêu thương họ bằng trái tim của ta, phục vụ họ bằng đôi tay của ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hiểu được tình thương mà Chúa dành cho chúng con để chúng con đón nhận và đáp lại tình yêu đó, cho chúng con luôn trung thành bước theo Chúa như Chúa hằng khao khát và mạc khải cho chúng con. Amen.
------------------------------------
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An - Giêrusalem 13.5.2014)
Chúng tôi đang ở Giêrusalem. Đoàn hành hương gồm 38 người (9 linh mục và 29 giáo dân) đi từ Việt Nam qua Ai cập đến Israel và sẽ qua Giocđan rồi trở về với hành trình 14 ngày.
Đi hành hương theo dấu chân Chúa Giêsu với tâm tình tạ ơn và cảm mến. Mỗi nơi đến, chúng tôi đều dành thời giờ đọc phúc âm và cầu nguyện, hát thánh ca. Nhờ đó mỗi người càng thêm xác tín những chân lý đức tin.
Đọc Tin mừng Chúa nhật V Phục sinh trong bầu khí cầu nguyện tại Đất Thánh, tôi suy niệm về lời giảng dạy của Chúa Giêsu.
Hai thánh Tông đồ Tôma và Philípphê đã hỏi Chúa hai câu và Chúa đã mạc khải hai chân lý thật quan trọng:
- Thầy là đường là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.
- Ai thấy Thầy là thấy Cha; Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy.
Chỉ có thể đạt tới Cha khi chúng ta đi theo Đấng tự nhận là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Và cũng không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa mà lại không do Thánh Thần. Hiểu biết đích thực về Cha và Con mang dấu ấn Thánh Thần. Chính trong Thánh Thần mà Thiên Chúa là Cha và Đức Giêsu là Con. Thiên Chúa mà mọi tín hữu tôn thờ và yêu mến hết linh hồn, hết sức lực, hết trí khôn, chính là Thiên Chúa hiện thân nơi Đức Giêsu Kitô "Ai thấy Thầy là thấy Cha" ( Ga 14, 9 ) vì "Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy"(Ga 14, 10 ).
Trải qua bao thời, con người kiếm tìm con đường dẫn đến chân lý và sự sống thật. Đã có biết bao nhiêu suy tư siêu hình học, triết học, thần học, tôn giáo, chiêm niệm, thần bí và khoa học… tìm kiếm sự thật về vũ trụ chung quanh và về cuộc sống con người. Bao nhiêu chất xám đã đầu tư để đi tìm nguồn sự sống và cùng đích của cuộc sống. Dù đã cố gắng hết mình con người vẫn còn bế tắc trong nhiều lĩnh vực của sự thật và sự sống.
Cách đây trên hai ngàn năm, Chúa Giêsu đã xuất hiện mặc khải cho con người con đường đi đến chân, thiện, mỹ. Ngài mở ra nhân loại con đường: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).
1. Thầy là Đường
Thánh Gioan Tiền Hô đã loan báo ơn cứu độ. Gioan kêu gọi mọi người hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng. Để đón nhận Đấng Cứu Thế, mọi người phải chuẩn bị sám hối, cải đổi đời sống và mở rộng tâm hồn.
Thường khi đón chào một vị Vua, Hoàng đế hay Nữ hoàng, người ta chỉ cần sửa sang lối đi, quét dọn nhà cửa sạch sẽ và đón chào trong tiếng kèn tiếng trống náo nhiệt, hân hoan vui vẻ. Đón nhận Đức Chúa hoàn toàn khác biệt, Gioan gióng lên lời mời gọi: Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi (Mc 1,3). Chúa cần đi lối thẳng thắn nơi tâm hồn. Con đường Chúa đi là con đường dẫn tới đời sống nội tâm bên trong. Con đường Chúa đi là con đường khiêm tốn và yêu thương.
Chúa là con đường dẫn tới sự sống. Ngài giới thiệu cho các môn đệ con đường dẫn tới Nhà Cha: Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi (Ga 14,4). Con đường Chúa đi không phải là con đường thênh thang rộng mở và không phải là con đường trần thế vinh quang. Con đường Chúa đi là con đường phục vụ, hy sinh. Con đường Chúa đi là con đường lên dốc đồi Calvariô để chịu nạn và chịu chết.
Chúa Giêsu là con đường tiến lên. Các môn đệ còn nhiều thắc mắc về đường đi nước bước của Chúa. Tâm tư các tông đồ còn đang mong mỏi một con đường vinh hoa phú quý. Ông Tôma nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” (Ga 14,5). Các Tông đồ không biết con đường nào Chúa sẽ đi. Không ai mong muốn con đường thập giá, con đường khổ đau, chết chóc. Chúa đã từng bước dẫn dắt các Tông đồ qua con đường sự chết để vào con đường sự sống. Qua con đường nhỏ hẹp để bước vào cõi sống hạnh phúc trường sinh.
2. Thầy là Sự Thật
Chúng ta đang sống trong một thế giới có nhiều ảnh hưởng của mê lầm và dối trá. Các nhà lãnh đạo quốc gia không dám nói hết sự thật. Các cấp lãnh đạo tôn giáo đôi khi cũng sợ nói sự thật. Các nhà giáo dục cũng không muốn đặt vấn đề sự thật trong các ngành nghề. Các bậc bề trên, phụ huynh và người hướng dẫn cũng che dấu sự thật. Vì nói sự thật thì có khi mất lòng, mất danh dự, mất uy tín, mất địa vị, mất công ăn việc làm và mất chính mình. Chúng ta sợ sự thật của gia đình, của con cái, của cha mẹ, của nhân viên, của các cộng tác viên và của chính mình bị phơi bầy và tỏ lộ. Có khi vì sự thật liên quan đến miếng cơm manh áo và tiếng tăm địa vị. Mấy ai can đảm nói hết sự thật.
Chúa Giêsu là Sự Thật. Chúa thấu tỏ lòng người. Chúa hiểu thấu được lòng con người nghĩ gì và muốn gì. Nhiều người nghe Chúa giảng đã phải thốt lên: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy nói và dạy một cách thẳng thắn, không thiên vị ai, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa” (Lc 20,21). Chúa Giêsu thẳng thắn phê bình những lầm lỗi và cách hành xử của các nhà lãnh đạo tôn giáo. Họ chỉ thích được ưa chuộng những hình thức xuất hiện bên ngoài, giả dạng và khoe khoang. Họ ngại bước vào đời sống nội tâm vì sợ nhìn thấy mặt trái của đời sống mình. Vì sống theo sự thật là sống trong ánh sáng: Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa (Ga 3,21).
Chúa Giêsu là con đường dẫn tới sự thật. Nghĩ thật, nói thật và rao giảng sự thật. Con người Chúa Giêsu là con người trong sáng và chân thật tuyệt đối. Ngài ra giảng dạy công khai và minh chứng cụ thể qua các việc làm. Ngài giảng dạy chân lý và áp dụng lời giảng trong cuộc sống mình. Còn chúng ta đôi khi nói một đàng, làm một nẻo. Ngôn hành bất nhất. Chúng ta muốn có sự thật nhưng không thực hành sự thật. Sự dối trá cứ len lỏi ràng buộc chúng ta vào những mê lạc tự vệ, cố chấp, ương ngạnh và sống giả hình.
Chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta. Chúa Giêsu nói với những người Do thái rằng: Các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông (Ga 8,32). Sự thật thì đơn sơ chân thành ví như tâm hồn trong trắng của trẻ thơ. Tâm hồn chân thật thì thanh thoát và không lệ thuộc vào những tranh đua hơn thua ở đời. Khi so sánh hơn thiệt và đua đòi cuộc sống dễ dẫn chúng ta đến những sự giấu giếm, giả trá, lừa lọc và dối gian. Người đời thường nói rằng: Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai đo cho cùng. Chúa Giêsu thì hiểu thấu lòng con người hơn ai hết. Chúa biết những ý nghĩ thầm kín của người đời. Chúa thường yêu và cầu nguyện cho các môn đệ được thành tín chân thật: Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật (Ga 17,17).
3. Thầy là Sự Sống
Chúa Giêsu là nguồn sự sống và là bánh trường sinh. Chúa phán: Tôi là bánh trường sinh (Ga 6,48). Chính nhờ Người, với Người và trong Người, Thiên Chúa Cha đã tác tạo muôn loài. Chúa Giêsu là đầu và là cùng đích của các loài thụ tạo. Ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại (Ga 1,4). Chúa Giêsu là sự sống và là ánh sáng đến trong trần gian. Người đến để mọi người được sống và sống dồi dào. Người là bánh ban sự sống, dưỡng nuôi và dẫn chúng ta đến sự sống đời đời. Thánh Gioan, người tông đồ được Chúa yêu mến đã xác tín rằng: “Vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian” (Ga 6,33). Chúa Giêsu là chủ thể có quyền trên vũ trụ vạn vật và uy quyền trên sự sống và sự chết.
Sự sống mà Chúa sẽ ban là sự sống thật. Con đường dẫn vào sự sống là chu toàn lề luật và các giới răn. Đức Giêsu đáp: “Sao anh hỏi tôi về điều tốt? Chỉ có một Đấng tốt lành mà thôi. Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn” (Mt 19,17). Chúa Giêsu căn dặn chúng ta rằng đừng quá lo lắng cho cuộc sống tạm bợ này. Ngày tháng sẽ trôi qua, tuổi đời sẽ chồng chất và sự chết sẽ đến. Tiên vàn chúng ta hãy tìm kiếm nước trời, mọi sự khác Người sẽ ban thêm cho. Vì sự sống hay chết đều nằm trong sự quan phòng của Chúa. Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Vì vậy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc; vì mạng sống thì hơn của ăn, và thân thể thì hơn áo mặc” (Lc 12,22-23).
Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại. Sự chết không còn làm chủ được Người nữa. Người đã đi vào sự sống vĩnh cửu. Chúa phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11,25). Chúng ta cần đặt niềm tin tưởng vào Chúa Kitô Phục Sinh. Nơi Người, chúng ta sẽ tìm được câu giải đáp cho thân phận con người. Thiên Chúa tạo dựng loài người là muốn cho tất cả mọi người được chung hưởng niềm hạnh phúc viên mãn.
Chúa Giêsu là đường dẫn đến sự sống thật. Người là sự thật đưa dẫn đến sự sống đời đời và sự sống thật là con đường kết hợp mật thiết với Đấng Tạo Thành. Chúa Giêsu trở thành trung tâm cốt lõi cho tất cả mọi suy tư tìm kiếm nguồn chân lý, sự thánh thiện và sự hoàn hảo tuyệt mỹ.
Lạy Chúa, Chúa là đường, là sự thật và là sự sống. Xin Chúa dẫn dắt chúng con theo đường chân lý của Chúa để chúng con được hưởng niềm vui sự sống muôn đời.
------------------------------------
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
“Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”, thiết tưởng lời thỉnh cầu của ông Philipphê cũng đồng thời diễn tả ước nguyện sâu xa của chính tôi, cũng như của nhiều tín hữu khác qua mọi thời đại. Như biết bao người ‘có đạo’ khác, tôi vẫn đinh ninh rằng mình thật sự tin có Thiên Chúa, và mình có trách nhiệm phải nói, phải chứng minh, phải thuyết phục để mọi người cùng tin rằng thật sự có Thiên Chúa, rằng Thiên Chúa thực sự hiện hữu. Thế nhưng thú thật, khi làm công việc đó tôi thấy mình cần phải là một triết gia, một nhà lý luận hơn là một tín hữu; đồng thời cũng nhận ra rằng, cho dầu có học hành thông minh tới mấy tôi cũng chẳng thuyết phục được mấy người. Nhiều người trong chúng ta đã từng có lần tự vấn: có thật tôi biết, tôi tin cách xác thực Thiên Chúa, như thể tôi đã tận mắt thấy Ngài? Trong thâm tâm biết bao người trong chúng ta vẫn thầm ấp ủ mộng ước một ngày nào đó mình sẽ được ‘thấy’ Thiên Chúa, qua một phép lạ nhãn tiền chẳng hạn, khi Ngài tỏ lộ cách công khai quyền năng và thượng trí khôn ngoan của Ngài.
Cũng thế đối với các môn đệ, cụ thể hai ông Tôma và Philipphê. Biết sâu hơn về Thiên Chúa là ước vọng chính đáng, đồng thời cũng là mục đích của việc các ông đi theo Thầy Giêsu. Chắc chắn các ông đã từng được nghe Thầy nói nhiều về Chúa Cha; tuy nhiên giữa những gì Đức Giêsu trình bày và ý niệm các ông có về Đức Chúa Cựu Ước xem ra chẳng mấy ăn khớp với nhau. Trong thâm tâm các ông vẫn mơ ước một ngày nào đó Đức Giêsu tỏ cho các ông được thấy Chúa Cha trong uy quyền sáng láng, như hình ảnh các ông vẫn có về Ngài. Chỉ như thế các ông mới cảm thấy toại nguyện: “xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha!”
Đức Giêsu tỏ thái độ vô cùng kinh ngạc trước lời thỉnh nguyện này của các ông: “Tại sao anh lại nói: ‘Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha’?” Quả thật Người ngạc nhiên vì vẫn yên trí rằng sự hiện diện trần thế của Người hiển nhiên là để mạc khải Chúa Cha, rằng Người chính là Lời của Cha. Người coi như minh nhiên việc các môn đệ phải hiểu được điều căn bản đó. Vậy mà các ông vẫn hoàn toàn mù tịt! “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà… anh chưa biết thầy ư? Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người… Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”.
Giai thoại trên cho thấy: có nhiều cách để một người tin hoặc biết về Thiên Chúa. Sơ đẳng nhất là người ta mơ hồ biết rằng có Thiên Chúa; sau đó người ta có thể biết thêm một vài yếu tính của Ngài như Ngài tự hữu, Ngài tạo dựng trời đất, Ngài quyền năng, thông minh, thánh thiện vô cùng… Đầu óc suy luận của con người có thể tiến tới một niềm tin, hay hiểu biết về Thiên Chúa đại loại như thế. Thế nhưng có một thứ ‘biết’ khác, thứ biết mà Kinh Thánh quen sử dụng, biết trong tương quan sống động và mật thiết mà chỉ có tiếp xúc trực tiếp mới có được. Thứ biết này cần một tiếp súc, hay ít ra một cầu nối, và như thế thì chỉ duy nhất một mình Đức Giêsu, Đấng từ cung lòng Thiên Chúa mà đến, mới có thể cho biết được. “Không ai đã lên trời (để mà thật sự hiểu biết được Thiên Chúa), ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3, 13). Thiên Chúa mà người Kitô hữu tin khác xa một trời một vực với Thiên Chúa của triết học, hay của các tôn giáo khác. Vì thế cho nên, dầu không phủ nhận những khái niệm về Thiên Chúa của người Do Thái đương thời, Đức Giêsu, bằng lời giảng dạy, nhưng nhất là bằng chính cuộc sống và cái chết thập giá của Người, đã tỏ lộ cho các môn đệ thấy một Thiên Chúa vô cùng độc đáo: “Ngài yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một… Ngài không lên án thế gian… nhưng muốn thế gian được cứu độ” (Ga 3, 16-17).
Trong cụ thể, một linh mục như tôi đã bao giờ được ‘thấy’ Thiên Chúa chưa? Hay ít ra tôi đã ‘hiểu biết’ về Ngài như thế nào, cái biết chi phối cuộc sống tôi và làm nền tảng cho những gì tôi trình bày cho giáo dân trong hướng dẫn mục vụ? Rất có thể hình ảnh và hiểu biết tôi có về Thiên Chúa, sau bao năm tu học, vẫn quá nặng tính triết học hay Cựu Ước, chứ chưa phải thực sự là diện mạo mà Đức Giêsu cố tâm trình bày? Tôi vẫn thấy một Đức Chúa hùng mạnh, thưởng phạt công minh vừa dễ hiểu lại vừa thiết thực hơn, nhất là trong việc giữ cho các giáo dân làm lành lánh dữ...; thậm chí đôi lúc tôi còn dám đối kháng chính Đức Giêsu với Cha Ngài khi khảng định cái chết của Người trên thập giá là để làm nguôi cơn thịnh nộ công thẳng của Chúa Cha?! Cái lô-gic hạ đẳng rất nhân cách hóa đó đã bị Đức Giêsu thẳng thắn gạt bỏ, vì nó phá vỡ nội dung Tin Mừng của sứ điệp cứu chuộc của Người: Người và Chúa Cha chỉ là một, không thể bị chia cắt. “Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hay tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy”. Khi khảng định Thiên Chúa là Đấng từ bi và giầu lòng thương xót, chúng ta không ngụ ý chỉ nói riêng về Đức Giêsu, Đấng đã chết trên thập giá để cứu độ chún ta. Cái chết đó là một khảng định hùng hồn: chính Thiên Chúa, toàn bộ Thiên Chúa (Cha, Con và Thánh Thần), là giầu lòng thương xót. Ta nghe biết điều đó qua những lời giảng dạy của Đức Giêsu, tôi đã thấy điều đó trong cái chết thập giá tự hiến của Người, và ta gọi điều đó là Tin Mừng, là niềm tin cất khỏi chúng ta mọi mối sợ hãi, kể cả trong trường hợp ta có lỗi phạm và sa ngã vào những tội tày trời nhất. Thấy và biết một Thiên Chúa như thế sẽ làm cho toàn bộ đời sống ta trở thành một niềm vui bất tận, cho dầu vẫn tồn tại nơi bản thân ta những yếu đuối và thất bại nặng nề. Tông đồ Phao-lô, trong chương 5 thư gửi các tín hữu Rô-ma, khảng định với chúng ta rằng: niềm tin Kitô hữu chính yếu hệ tại ở điều này.
Như thế, là Kitô hữu, tôi không cần cầu xin được thấy Chúa Cha, vì Đức Giêsu đã cho tôi được thấy rồi đó. Người cho tôi được thấy tỏ tường bộ mặt thật của Thiên Chúa qua chính Thập Giá của Người!
Lạy Chúa từ nhân, kể từ lần được thoáng gặp Chúa qua biến cố chết lâm sàng tại Mongolia cuối năm 2007, con mới thực sự được‘thấy’ Chúa, trước hết như một Thiên Chúa giầu lòng từ nhân và hay thương xót. Lẽ ra con đã phải nhận biết điều này từ lâu trước, khi con từng học giáo lý và thần học. Tạ ơn Chúa đã cho con được ‘thấy’ Chúa Cha là như thế. Con cầu xin để tất cả các Kitô hữu đều cùng con cảm nghiệm được Thiên Chúa là như thế, để niềm vui của chúng con được nên trọn vẹn, và để chúng con vui mừng lên đường loan báo Tin Mừng về một Thiên Chúa yêu thương cứu độ cho mọi người. Amen.
------------------------------------
Trước khi rời khỏi thế gian này để về cùng
Trong Tin Mừng ngày hôm nay viết về ngày thứ Năm Tuần Thánh vào cuối bữa ăn sau cùng của Đức Giêsu. Quả thật bầu khí của nhóm các môn đệ thật bi thương: Đức Giêsu vừa loan báo sự phải bội của Giuđa và y đã đi ra khỏi căn phòng vào đêm tối bên ngoài (Ga 13,21-30)... rồi Đức Giêsu bảo rằng Người sẽ ra đi và nơi Người đi, các bạn hữu Người không thể theo được (Ga 13,31-36)... sau cùng, đầy nỗi lo sợ, Đức Giêsu báo trước cho Phêrô rằng ông sẽ chối Người "ba lần" trong đêm hôm ấy trước khi gà gáy (Ga 13,37-38)... Như thế, người ta biết được sự xao xuyến kinh hoàng đang xiết chặt mọi tâm hồn và tư tưởng các môn đệ.
Trong đời sống của chúng ta cũng thế có chăng giờ phút sự sợ hãi kinh hoàng ập xuống trên chúng ta: một tương lai bấp bênh, một thiệt hại không vượt qua được, những suy sụp của tuổi già, một căn bệnh không thể chữa khỏi. Và còn có những sợ hãi tập thể: sự thất nghiệp, bạo lực, nạn nhân mãn, nạn đói, sự ô nhiễm môi trường, những nguy cơ của nguyên tử. Và trong bối cảnh khủng hoảng ấy, những câu hỏi nghiêm trọng mà mọi tín hữu chân chính phải đặt ra: Những giá trị cao cả của con người chẳng phải đang bị xoá nhòa đó sao? Nhân loại ngày mai sẽ tin vào điều gì? Và một ngọn gió hoảng sợ cũng xâm chiếm những tín hữu mạnh mẽ nhất và người ta lẩm bẩm rằng trong Giáo Hội cũng không có gì là ổn cả.
Chính trong bối cảnh nhân loại như thế mà tính lạc quan không gì thắng nỗi của Đức Giêsu bùng lên như một ngọn lửa nồng nàn, cháy sáng trong đêm tối! Chỉ còn mấy giờ nữa Người phải lên thập giá thế mà Người đã cố sức vực dậy tinh thần của các bạn hữu của Người: "Lòng anh em đừng xao xuyến!”. Chúng ta hãy lắng nghe những lý do Người sẽ đưa ra để chúng ta không bao giờ còn sợ nữa, về bất cứ điều gì.
"Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy".
Đức Giêsu yêu cầu các bạn hữu bang xao xuyến của Người hướng cái nhìn về một hướng duy nhất: Đức tin thâm sâu xa của Đức Giêsu, vượt qua mọi nỗi sợ hãi không dựa trên sức người, nhưng dựa trên Thiên Chúa. Tất cả, không chừa môt ai đều có thể suy sụp, chỉ có Đức Giêsu nắm giữ sự trợ giúp siêu nhiên nằm bên ngoài ảnh hưởng của mọi sức mạnh phá hoại. Cái chết cũng không thể phá hủy sự bình an của Người: Sự bình an của Người không do sức con người mà do Thiên Chúa! Vả lại, chúng ta nhận thấy rằng Đức Giêsu đòi hỏi đối với bản thân một thái độ đức tin mà người ta có thể có đối với Thiên Chúa. Tính duy lý của con người vỡ tung như một nhân nguyên tử, dưới sức ép khó quan niệm nổi của cái vô cùng thánh thiêng: Làm thế nào mà Đức Giêsu vốn là Thiên Chúa lại có thể nói về Thiên Chúa như một Đấng khác mình? Và điều đó mang lại công thức làm ngạc nhiên: “Hãy tin vào THIÊN CHÚA... Hãy tin vào THẦY…” Vậy thì Người là ai để nói như thế?
"Trong nhà Cha của Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em".
Phải, đó là mầu nhiệm không thể hiểu thấu của Nhập Thể Đức Giêsu với tư cách con người, phân biệt không ngừng với Thiên Chúa! Người nói về Thiên Chúa như thể đó là một Đấng Khác (Tha Thể Tuyệt Đối). Người nói về Chúa Cha. Không bao giờ Đức Giêsu hướng cái nhìn của con người về chính mình. Không bao giờ Đức Giêsu lôi kéo sự tôn kính hay thờ phượng về bản thân Người: Người hoàn toàn hướng về một Đấng Khác... và Người muốn xoay hướng chúng ta về Đấng Khác ấy. Đấng Hoàn Toàn Khác, Đấng mà chưa có ai đã từng trông thấy, tức là Chúa Cha. Như thế, Đức Giêsu đối diện với cái chết của Người, sự ra đi khỏi thế gian này, như một sự trở về nhà mình: Người sẽ tìm lại nơi đó một Đấng mà Người yêu mến và mến yêu Người. Đức Giêsu biết mình được yêu.
Sau những lời làm vỡ tung lý trí, giờ đây là những lời hoàn toàn thân mật, những lời thường nói mỗi ngày: nhà, chỗ ở, dọn chỗ...
Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy”.
Đây là những lời dịu đàng không tả nổi: "Đem về với Thầy... trở lại …” Thiên Chúa tất nhiên là Đấng Hoàn Toàn Khác không thể đạt đến được nhưng cũng là Đấng Rất Thân Thiết. Chúng ta không có một Thiên Chúa dửng dưng và lãnh đạm, nhưng là một người Cha đầy tình âu yếm, một người Anh để cho những nỗi lo sợ của chúng ta làm thương tổn và Người nói với chúng ta những lời an ủi và thân ái.
"Để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó".
Chúng ta chớ lướt qua nhanh quá trên những lời xem ra có vẻ đơn giản và thân mật một cách ngây thơ. Có cả một thần học được diễn tả xuyên qua mạc khải ấy. Khi dám nói rằng “Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó". Đức Giêsu mở ra cho nhân loại một viễn cảnh có âm vang vô tận, siêu nhân, siêu nhiên: Chính "đời sống thánh thiêng" được ban chúng ta. Mục đích của con người không còn ở trong con người, mà ở trong Thiên Chúa? Nhân loại đi về hướng có Đức Giêsu ở đó. Con người đã được lập trình để trở thành "như Thiên Chúa". Người ta hiểu được lời Người nói: “Lòng anh em đừng xao xuyến!".
“Và Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi". Ông Tôma nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”.
Đây là một điệp khúc: "Thầy đi "chúng con không biết Thầy đi đâu...". Đó là câu hỏi nền tảng của nhân loại mà Tôma dũng cảm đặt ra nhân danh chúng ta. Chúng ta sẽ đi về đâu? ý nghĩa, mục đích sau cùng của đời sống là gì? Có cái gì sau khi chết?
Đức Giêsu đáp: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”.
Đối với Đức Giêsu, chân trời không bao giờ bị ngăn chặn, gây ra sự tuyệt vọng.
Đối với người tin, ai chấp nhận lời Đức Giêsu, lịch sử sẽ có một ý nghĩa, đời sống sẽ không còn phi lý nữa. Đức Giêsu là "người mở đường", Người đã mở ra một lối thoát cho các hữu hạn và cho đăc tính phải chết của con người. Không có Đức Kitô con người bị giam hãm trong những giới hạn của mình. Với Người, và chỉ với Người, như Người khẳng định có một con đường không dẫn tới cái hố đen của nấm mộ, nhưng về "nhà của Chúa Cha".
“Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng sẽ biết Cha của Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người “.
Câu này của Thánh Gioan là một câu làm hiện ra tính không thể diễn tả của Thiên Chúa, sự "mạc khải” này vẫn còn một phần "không thể quan niệm được": ánh sáng... nhưng vẫn còn một thứ ánh sáng của đêm tối... ánh sáng của đức tin.
Thật vậy, câu này gồm hai khẳng định bề ngoài trái ngược nhau: Anh em cũng (sẽ) biết Cha của Thầy (ở thì tương lai)... bây giờ, anh em biết Người (thì hiện tại).
Rõ ràng là Thiên Chúa không hiển nhiên và thật ra, chúng ta không biết Người. Người ta cũng có thể nói rằng chúng ta hiểu được Người! rõ ràng có một thứ hồ nghi. Không chắc chắn đã xuất hiện trong câu hỏi của Tôma: chúng con không biết...". Tính cảnh của chúng ta hiện nay đúng là như thế. Có thể một ngày nào dó, chúng ta sẽ biết Thiên Chúa. Sự vô tri về Thiên Chúa hôm nay, sẽ biến đổi thành tri thức, như lời Đức Giêsu nói: Anh em sẽ biết Người! Vả lại trong Đức Giêsu, sự hiện diện vô tri của Thiên Chúa chịu một "cú sốc của tương lai" đến độ những thực tại phải đến đã trở thành hiện tại: "Ngay từ bây giờ, anh em biết Thiên Chúa và đã thấy Người?". Có thể nói rằng, bằng một cảm thức siêu nhiên, tướng lai được tiên cảm trong hiện tại đối với những người tin Đức Giêsu: thời sau hết đã ở đó, mặc dù chưa hoàn tất. Giáo Hội, nơi cư ngụ của các tín hữu đã trở thành nơi cư ngụ của Thiên Chúa ở giữa con người" (Khải Huyền 21,3). Một ngày nào đó, chúng ta sẽ có một sự hiểu biết nào đó về Chúa Cha, còn bây giờ chúng ta đã hiểu biết Chúa Cha qua bức màn của đức tin. Đó là điều mà các nhà thần học gọi là cánh chung? tương lai được cảm nghiệm trước trong lòng của các tín hữu trong Đức Giêsu Kitô.
Ông Philípphê nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện". Đức Giêsu trả lời: "Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?”.
Mới rồi, chúng ta vừa nghe Đức Giêsu phân biệt Người với Chúa Cha. Giờ đây Người đồng hóa với Chúa Cha. Đức Giêsu đi về với Chúa Cha, Người là con đường dẫn đến Chúa Cha và đồng thời, Người ở trong Chúa Cha và ai thấy Đức Giêsu là thấy Chúa Cha. Đức Giêsu là một con người, nhưng một con người "chứa đầy Thiên Chúa" một con người Thiên Chúa! Chúng ta phải để những từ có vẻ đơn giản ấy thấm nhuần chúng ta: "Thầy ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong Thầy... Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy...".
Phải, có một con người là Giêsu Nagiarét, sống cách nay hai ngàn năm trong một tổng nhỏ ít người biết đến của Đế quốc La Mã, một con người bằng xương bằng thịt đã đứng trên đôi chân của mình và trên một miền đất xác định, đất Israel, một con người có những bạn hữu, một con người ăn uống như mọi người... một người sắp chết như mọi người... và con người này lúc này đây hiệp thông với Thiên Chúa và đồng nhất với Thiên Chúa và hoàn toàn không là một kẻ điên. Một con người quân bình tột bậc, khiêm tốn, không tham vọng và kiêu ngạo: một con người vừa mới quỳ gối trước các bạn hữu để rửa chân cho họ như một tôi tớ bình thường vào thời đó... đồng thời giao nộp thân thể tan nát, và đã đổ máu ra vì họ.
"Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy chính Người làm những việc của mình. Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy, bằng không thì hãy tin vì chính các việc kia vậy. Thật Thầy bảo thật anh em ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc. Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha".
Thiên đàng không phải là môt sự chạy trốn vào một giấc mơ của tương lai hoang tưởng. Thiên đàng không phải một miếng đường được hứa ban cho sau này để bỏ qua chua cay hiện tại. Thiên Chúa không phải là một thứ thuốc phiện dùng để ru ngủ những đau khổ cho một cuộc đời đời.
Một thiên đàng đã bắt đầu và được cảm nghiệm bởi những người "làm những việc Đức Giêsu làm": Có một cách nào đó để suy nghĩ, để chọn lựa, để gặp gỡ Thiên Chúa và con người, một cách sống nào đó công chính là cách sống của Đức Giêsu.
------------------------------------
Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Ga 14,1-12
"Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống"(Ga,14,6)
A. Chúa nhật truớc Chúa tự xưng : “Ta là cái cửa”(Ga 10,9)
Hôm nay Chúa tự xưng: “Thầy là con đường”(Ga 14,6)
Cửa là lối ra vào. Còn con đường là lối đi. Khi mở đường, người ta khai mở một lối đi. Và một lối đi thì thường phải có một điểm tới.
Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa bảo: "Thầy là đường"(Ga 14,6) nhưng Chúa lại không xác định rõ điểm tới hay nói một cách khác: Chúa có nói nhưng cách nói của Chúa chưa rõ nên các Tông đồ thắc mắc: “Chúng con không biết Thầy đi đâu thì làm sao chúng con biết đường đi”(Ga 14,5)
Thắc của các tông đồ rất đúng.
Trước khi nói những lời tâm huyết như trong bài Tin Mừng hôm nay ghi lại, Chúa Giêsu có nói là Ngài sẽ lên Jêrusalem. Hãy tạm coi Jêrusalem là điểm tới. Nhưng tới đó như lời Chúa nói thì chẳng làm sao các tông đồ có thể hiểu nổi.
Tại sao? Tại vì Chúa bảo lên Jêrusalem để bị bắt, bị tra tấn, và cuối cùng bị giết chết. Làm sao mà có thể tin là những việc như thế có thể xẩy ra, nhất là đối với một con người như Chúa.
* Bao nhiêu năm trời theo Chúa, các tông đồ đã có dịp thấy Chúa là một con người thật là vĩ đại và kỳ diệu. Chưa hề bao giờ các ông ấy thấy Chúa có vẻ là một người chiến bại. Hơn nữa cuộc đời của Chúa hãy còn quá sung mãn. Với tuổi đời mới chỉ ngoài 30, cứ lẽ thường mà nói thì cuộc đời đó sẽ còn dài. Với biết bao nhiêu việc lạ lùng Chúa đã thực hiện trong quá khứ, thì tương lai chắc là còn phải huy hoàng và rực rỡ hơn...Vậy mà đột nhiên Chúa lại nói đến cái chết vậy thì làm sao mà tin cho nổi.
Và nếu câu chuyện kết thúc bằng cái chết như thế thì quả thực là không thể nào chấp nhận được.
Vâng quả đúng như vậy. Rõ rệt là Chúa không dừng lại ở cái chết. Sau khi chết người ta đã cẩn thận niêm phong Ngài trong huyệt đá. Người ta đã cắt lính canh chừng. Họ tưởng như thế là đã thành công trong việc kết thúc cuộc đời của một đối thủ mà họ đã cay cú muốn loại trừ từ bao nhiêu năm trời.
Thế nhưng họ đã lầm. Đúng như lời Ngài đã nói. Sau khi từ cõi chết sống lại, Ngài đã cho các tông đồ thấy suộc sống đích thực của Ngài là cuộc sống vượt lên trên lằn mức của không gian và vượt ra ngoài giới hạn của thời gian để trở thành vĩnh cửu, trở thành đời đời - điều mà các tông đồ chưa hề bao giờ được thấy.
Như vậy đích điểm con đường Ngài đi không phải là cái chết nhưng là ở một chỗ khác. Đó là nhà của Cha (Ga 14,2). Vâng...nhà của Cha mới là đích điểm cuối cùng Ngài dẫn những kẻ tin Ngài đi tới để ở đó Ngài cho họ điều mà trong suốt cuộc đời công khai Ngài đã nhiều lần đoan hứa với những ai tin Ngài.
B. Vậy bổn phận của con người hôm nay là phải biết tìm đến con đường mang GIÊ-SU để đi. Ngài chính là con đường và Ngài cũng là đích tới.
Hãy nhớ lại: Suốt cuộc đời trần thế, ngoại trừ những năm ẩn dật tại Nagiareth, còn thì chúng ta thấy Ngài sống ở ngoài đường hơn là ở trong nhà: "Con chim có tổ, con cáo có hang, Con Người không có chỗ tựa đầu."(Mt 8,20)
- Chúa đã khởi sự cuộc đời của Ngài ở ngoài đường. Hang Belem không phải là một mái nhà.
- Ngài sống ở ngoài đường. Có vào nhà ai thì cũng chỉ là tạt qua chứ không phải lả để cư trú
- Ngài chết cũng ở giữa đường chỗ có nhiều người qua lại.
- Và hầu như những cuộc gặp gỡ giữa Ngài với mọi người cũng được diễn ra ở ngoài đường. Gặp rồi lại đi chứ không dừng lại.
Tại sao Ngài làm thế?
* Trước hết Ngài muốn nhắc nhủ cho mọi người: Trần thế này không phải là chỗ lập cư vĩnh viễn. Nó không phải là quê hương. Một câu mà người ta coi như một châm ngôn được tìm thấy trên cổng của một ngôi thành cổ: "Thế gian như một chiếc cầu, bạn hãy đi qua mà đừng dừng chân lại"
Một Kitô-hữu già cả sắp chết. Một người đến nói:
- Con đọc cho cụ nghe một câu Thánh Kinh ngọt ngào nhất nhé!
- Vâng.
- Trong nhà Cha có nhiều chỗ. Ta đi dọn chỗ cho các con.
- Không, đó không phải là câu ngọt ngào nhất. Đọc tiếp đi.
- ...Ta sẽ trở lại để Ta ở đâu các con cũng ở đó với Ta.
- Đó mới là câu ngọt ngào nhất. Điều tôi cần, không phải là một chỗ, mà là chính Chúa. (Góp nhặt)
* Thứ hai: Trần thế đã không phải là quê hương thì ta phải đi. Muốn đi tới đích thì phải đi trên con đường Chúa đã chỉ, theo lối mà Chúa đã vạch cho.
Trong tập truyện “Thiên đàng là thế đó” tôi được thấy một câu chuyện vui. Câu chuyện như thế này: Có một vị tu sĩ già nọ một đêm kia khi đi vào nhà nguyện để viếng Chúa thì tình cờ gặp thấy một thiên thần đang quì và hí hoáy viết vào một cuốn sổ vàng đặt trước bàn thờ. Với tâm hồn tràn ngập hân hoan vị tu sĩ rón rén đến gần thiên thần và hỏi:
- Ngài đang viết gì trong cuốn sổ vàng này vậy?
Không cần ngước mắt nhìn lên vị tu sĩ, thiên thần rả lời ngay:
- Ta đang viết danh sách những ai yêu mến Chúa.
Vừa lo lắng, lại vừa hồi hộp, vị tu sĩ hỏi thiên thần xem có tên mình trong cuốn sổ vàng đó không. Thiên thần chăm chú mở từng trang, đọc từng dòng nhưng không thấy tên ông đâu cả. Dầu sao thì câu trả lời của thiên thần cũng không làm cho vị tu sĩ già thất vọng bởi vì ông đã nghĩ ra cách khuyến dụ thiên thần để tên của ông được ghi vào sổ vàng. Ông nài nỉ, nói với thiên thần:
- Xin Ngài cứ vui lòng ghi tên tôi vào sổ như là một thầy dòng lúc nào cũng yêu mến người khác vậy.
Thiên thần chiều ý vị tu sĩ. Thế là tên ông được ghi vào sổ vàng.
Tối hôm sau, ông lại gặp thiên thần một lần nữa....Vừa khi gặp lại vị tu sĩ già, thiên thần đã kêu ông lại, mở cuốn sổ vàng cho ông coi. Vưa liếc mắt nhìn, vị tu sĩ già đã vô cùng bỡ ngỡ vì tên của ông được ghi ngay ở đầu danh sách những người yêu Chúa. Ông thầm cảm tạ ơn Chúa đã nhớ đến ông. Sau một thời gian thì vị tu sĩ già đó qua đời.
Sau khi ông chết, anh em trong dòng tìm được cuốn nhật ký của ông. Vừa mở ra họ đã gặp thấy dòng chữ này: “Nếu ai nói mình yêu mến Chúa mà lại thù ghét anh em thì người đó là kẻ nói dối. Ai không yêu mến người anh em mà mình thấy trước mắt thì cũng không thể yêu mến Thiên Chúa là Đấng mình không thấy được”.(1Ga 4,20)
Đó là lời ông trích từ thư của Thánh Gioan.
Tiếp theo các tu sĩ ấy còn đọc thấy những lời chú giải này: “Tôi đi tìm kiếm linh hồn tôi nhưng tôi không thấy. Tôi đi tìm kiếm Chúa nhưng Chúa vượt khỏi tầm tay của tôi. Tôi đi tìm người anh em của tôi thì tôi lại gặp được Chúa và gặp được cả Linh hồn tôi”
Vâng kính thưa anh chị em
Con đường yêu thương chính là con đường của Chúa. Tên của Ngài là tình yêu. Tình yêu đem lại sức sống và tình yêu làm cho người thực thi lòng yêu thương có được sự sống đời đời. Amen
------------------------------------
Bài giảng lễ thiếu nhi: Chúa Nhật V Phục Sinh, năm A
Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Ga 14,1-12
Ðức Giêsu đáp: "Chính Thầy là con đường,
là sự thật và là sự sống. " (Ga 14,6)
Thiếu nhi chúng con yêu quí,
1. - Chúng con vừa nghe một bài Tin Mừng rất hay. Cha đố chúng con trong bài Tin Mừng này Chúa tự ví mình là gì nào?
- Thưa cha Chúa bảo Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống.
- Chúng con rất giỏi.
- Thế chúng con còn nhớ Chúa nhật trước Chúa xưng mình là gì không?
- Dạ thưa cha, Chúa xưng mình là cái cửa.
- Rất đúng, chúng con nhớ rất giỏi. Và lần trước cha đã nói với chúng con về cái cửa. Cha đã nói cửa là lối ra vào. Còn hôm nay Chúa bảo Chúa là con đường mình là con đường thì Chúa muốn nói gì nào?
-…….
- Người ta làm đường để làm gì chúng con.
- Thưa để đi.
- Vậy thì khi Chúa bảo mình đường thì Chúa muốn nói Chúa là lối đi. Mỗi lối đi phải có một điểm tới.
Khi Chúa nói mình là con đường thì Chúa nói cho mọi người biết Ngài là lối đi dẫn con người tới một điểm mà Chúa nói: Thầy đi để dọn chỗ cha các con, để rồi Thầy ở đâu chúng con cũng sẽ ở đấy với Thầy.
Vậy thì nơi Chúa bảo Chúa sẽ dân những tin yêu Chúa đến đó là ở đâu vậy chúng con.
- Thưa đó là Thiên đàng.
Thiên đàng là nơi Chúa muốn dẫn những người tin yêu Chúa tới đó. Đó là đích điểm của mọi người nếu họ biết sống như Chúa đã sống. Và sống ở Thiên đàng mới là cuộc sống thật, cuộc sống đời đời, cuộc sống vĩnh cữu, cuộc sống hạnh phúc, cuộc sống không còn đau khổ, cuộc sống không còn đổi thay…Đó là cuộc sống của Chúa. Sống ở Thiên đàng là được tham dự vào cuộc sống của Chúa.
2. Vậy muốn có được cuộc sống đó thì ta phải làm gì chúng con?
Thưa phải đặt chân vào con đường mang tên GIÊSU. Con đường mang tên Giêsu còn có tên là gì nữa chúng con. Đó là con đường yêu thương.
Như vậy là cha đã có câu trả lời cho chúng con. Muốn được về trời với Chúa sau khi kết thúc cuộc sống ở dưới trần gian này chúng ta chỉ có một con đường duy nhất đo là sống yêu thương như Chúa đã sống.
Vậy sống yêu thương như Chúa là sống như thế nào?
Nhìn vào cuộc sống của Chúa Giêsu cha thấy Chúa đã sống yêu thương thật như thế này.
a. Trước hết Chúa đã chọn cuộc sống nghèo. Nghèo ở đây không phải là nghèo khổ, nghèo không có gì để ăn, không có gì để mặc mà là sống tin tưởng và phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa Cha.
Chúng con thấy, suốt cuộc đời trần thế, ngoại trừ những năm ẩn dật tại Nagiareth, còn thì chúng ta thấy Chúa sống ở ngoài đường hơn là ở trong nhà: "Con chim có tổ, con cáo có hang, Con Người không có chỗ tựa đầu."
Người ta bảo: "Đức Phật nghèo nhưng hãy còn giầu hơn Chúa vì ít ra Đức Phật cũng còn có một gốc cây bồ đề để làm chỗ trú chân". Còn Chúa, Chúa đã sống như một con người không có chỗ tựa nương.
- Chúa đã khởi sự cuộc đời của Ngài ở ngoài đường. Hang Belem không phải là một mái nhà.
- Ngài sống ở ngoài đường. Có vào nhà ai thì cũng chỉ là tạt qua chứ không phải lả để cư trú
- Ngài chết cũng ở giữa đường chỗ có nhiều người qua lại.
- Và hầu như những cuộc gặp gỡ giữa Ngài với mọi người cũng được diễn ra ở ngoài đường. Gặp rồi lại đi chứ không dừng lại.
Tại sao Ngài làm thế?
Tại vì Chúa muốn cảm thông với kiếp sống nghèo của con người.
Hơn nữa vì Chúa nghèo cho nên những người nghèo dễ gần gũi với Chúa hơn.
b. Thứ đến cha thấy Chúa biết quan tâm đến mọi người.
Chẳng hạn Chúa quan tâm đến nỗi khổ của một người mẹ mất con ở thành Naim, Chúa quan tâm đến người mù toại cứ phải đợo mãi bên hồ mà không có ai giúp đỡ. Hay….
Chúng con hãy tập cho mình biết quan tâm đến người khác như Chúa.
Đây là một câu chuyện có thật:
Ông Leo Buscaglia lần kia có kể về cho mọi người về một cuộc thi mà ông là giám khảo. Mục đích của cuộc thi này là tìm ra đứa trẻ biết quan tâm đến người khác nhất. Người thắng cuộc là một em bé 4 tuổi.
Người hàng xóm của em là một ông lão vừa mất vợ. Nhìn thấy ông khóc, cậu bé đến sân nhà ông, lại gần, rồi leo lên ngồi vào lòng ông và cứ ngồi lâu như thế. Khi mẹ em hỏi em đã trò chuyện những gì với ông ấy, cậu bé trả lời: "Không có gì mẹ ạ. Con chỉ để ông khóc!
Việc là của em bé này khó hay dễ chúng con. Chúng con có thể làm được những việc tương tự như vậy hay không?
c. Cuối cùng cha thấy Chúa luôn sống tốt với mọi người. Có lần sau khi Chúa giảng có một người đã lớn tiếng ca tụng Chúa rằng: "Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được."(Mc 7,37)
Chúng con cũng hãy bắt chước Chúa luôn sống tốt với mọi người, đừng làm điều gì xấu đối với bất cứ ai, đừng cư xử không đẹp với bất cứ một người nào. Những đối với ai mình cũng cố gắng sống thật tốt.
Hôm đó khi món kem trái cây đã giảm giá, một cậu bé bước vào quán cà phê và ngồi vào một chiếc bàn. Cô phục vụ đặt ly nước mát trước mặt cậu.
- Một ly kem trái cây giá bao nhiêu vậy thưa cô? Cậu bé hỏi.
- 50 xu. Cô trả lời.
Cậu bé rút tay ra khỏi túi quần và cẩn thận đếm những đồng tiền xu mình đang có.
- Thế còn một ly kem loại thường giá bao nhiêu vậy cô?. Cậu hỏi tiếp.
Nhìn khách vào quán đang còn đợi chỗ, cô phục vụ trở nên mất kiên nhẫn:
- 35 xu. Cô trả lời có vẻ khó chịu.
Cậu bé đếm đi đếm lại những đồng xu của mình một lần nữa rồi nói:
- Thế thì cháu chọn ly kem loại thường thôi!
Cô phục vụ mang kem đến và quay đi. Cậu bé ăn xong, đến quầy trả tiền rồi đi khỏi. Khi quay lại, cô phục vụ bất chợt nghẹn ngào trước những gì cô nhìn thấy. Trên bàn, bên cạnh ly kem đã ăn hết là số tiền 15 xu đặt ngay ngắn - tiền thưởng phục vụ dành cho cô.
Có bao giờ chúng con tốt với người khác như vậy chưa. Cha chúc chúng con biết sống như Chúa và như lời Chúa hứa, những ai biết sống như Chúa thì mai mốt có phải chết đi thì Chúa cũng đón đưa người đó vào Thiên đàng với Chúa để Chúa ở đâu thì người ấy cũng ở đó với Ngài. Amen.
------------------------------------
Không ai làm người mà không đi, không ai vào đời mà không lên đường. Bởi con người cần đi, nên cả nhà vỗ tay mừng những bước chân chập chững đầu đời của em bé; bởi đời là những con đường, nên hạnh phúc của cha mẹ là thấy con tìm được đường hạnh phúc, chọn đúng đường phải đi, khi đến tuổi trưởng thành vào đời.
Vì đời là những con đường, được làm nên bởi vô số con đường: có đường ngắn, đường dài, đường thênh thang, đường trắc trở, đường hạnh thông, đường cùng bế tắc, đường đưa đến thành công, đường dẫn đến thất bại, đường bình an, hạnh phúc, đường nguy hiểm, đe dọa, đường sự sống được bảo đảm, đường nắm chắc sự chết, đường ngay thẳng, công chính, đường bất chính quanh co, đường nhân ái, vị tha, đường ích kỷ, hận thù, bạo lực…
Vì có qúa nhiều con đường, nên người ta phải chọn cho mình một đường để đi, vì thời gian sống không cho phép mãi do dự, chần chờ trước nhiều con đường đan kín, chằng chịt trước mặt, và cũng không ai có thể kịp thời đến đích, nếu cứ liên tục thay đường, đổi hướng, nhưng phải dứt khoát chọn một con đường, quyết tâm đi trên một con đường tốt nhất, nhanh nhất, bảo đảm thành công, hạnh phúc nhất. Nếu không, cuộc đời sẽ mãi là “đường đi không đến”.
Thực vậy, có rất nhiều rủi ro để đường đời biến thành “đường đi không đến”: rủi ro chọn sai đường, rủi ro ảo tưởng về con đường mình chọn, rủi ro bị dụ dỗ vào tử lộ, đường chết, rủi ro không thoát ra khỏi đường nguy hiểm, đầy mìn chông, cạm bẫy, rủi ro “đi loanh quanh cho đời mỏi mệt”, mà chẳng bao giờ đến đích hạnh phúc.
Kinh nghiệm cho thấy: nhiều người trong chúng ta không cần phải chờ đến ngày hưu, tuổi già, giờ chết mới tiếc nuối con đường mình đã chọn, mới xót xa con đường mình đã đi, mới ân hận đã không chọn con đường tốt đẹp, mà ngay ở tuổi thanh xuân năng động, chúng ta đã phải sống tâm trạng buồn, và cay đắng, bẽ bàng ấy rồi.
Xuống thế làm người với tình yêu vô cùng và đến cùng, Đức Giêsu đã muốn giải phóng nhân loại khỏi nỗi lo lạc đường, giải thoát con người khỏi nỗi buồn lầm đường lạc lối, bởi khi chọn lựa sai lầm “đường đời”, người ta không thể đạt đích bình an, hạnh phúc, như thánh ý Thiên Chúa khi tạo dựng con người: được sinh ra để hạnh phúc trong Thiên Chúa.
Chương trình của Đức Giêsu, vì thế, là chương trình đem đến hạnh phúc toàn diện cho đời con người được đặt trên nền tảng đức tin, mà không đặt trên cơ sở chính trị, hay xã hội bằng trở nên Đường dẫn con người đến với Chúa Cha, như Ngài đã hai lần khẳng định trong Tin Mừng Gioan của chúa nhật thứ năm Phục Sinh: “Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy” (Ga 14,10-11). Và từ chân lý này, Ngài qủa quyết với các môn đệ: “Thầy là Đường, Sự Thật và Sự Sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).
Ở đây, chúng ta thấy được kế hoạch của Thiên Chúa trong mối tương quan và tương trợ chặt chẽ giữa Đức Giêsu và toàn thể nhân loại, khi Đức Giêsu không chỉ là Thiên Chúa, mà còn là Con Người, để trở thành Đường của Thiên Chúa dẫn con người về với Thiên Chúa. Để thực hiện công cuộc là “con đường dẫn con người về với Chúa Cha”, Đức Giêsu tha thiết mời gọi các môn đệ của Ngài cùng hợp tác với Ngài để giải phóng con người khỏi kiếp nô lệ toàn diện gồm cả thể lý, luân lý và thiêng liêng.
Để hợp tác với Đức Giêsu là “Đường dẫn nhân loại đến với Chúa Cha”, các môn đệ được mời gọi “chuyên lo cầu nguyện, phục vụ Lời Thiên Chúa” (Cv 6,4), phục vụ anh em (x. Cv 6,3), sau khi các ông nhận ra đây chính là di chúc của Đức Giêsu để lại cho các ông trước khi Ngài lên đường đi Giêrusalem chịu khổ nạn và chịu chết.
Thực vậy, sứ mạng của các môn đệ Đức Giêsu chính là loan báo Đức Giêsu, Con Đường Thiên Chúa trao tặng nhân loại, Con Đường dẫn nhân loại về với Thiên Chúa là Nguồn Cội và Cùng Đích của con người.
Đi trên Con Đường Giêsu, chúng ta không lạc lối về quê nhà, không mất hướng về mái ấm của Cha, không trệch đường về bến bờ Hạnh Phúc, bởi Đức Giêsu là Con Đường dẫn đến Sự Thật và Sự Sống vĩnh cửu.
Đi với Đức Giêsu trên Đường của Ngài, trên Đường là Ngài, chúng ta sẽ vượt qua mọi khó khăn, thử thách của cuộc đời, vượt qua mọi phong ba bão táp của dòng đời, vượt qua mọi thách đố, cạm bẫy nguy hiểm của người đời, vì Ngài là Đường Vượt Qua: vượt qua đau khổ đến vinh quang, vượt qua tội lỗi đến ân sủng, vượt qua kiếp nô lệ đến vinh dự làm con, vượt qua sự chết đến phục sinh khải hoàn.
Đi với Đức Giêsu trên Đường của Thiên Chúa dành cho con người, chúng ta được chính Đức Giêsu bảo đảm an toàn trên đường, và tới bến Thiên Đàng bình an, vì Ngài là Con Đường Cứu Độ trong chương trình Yêu Thương nhân loại của Chúa Cha.
Đi trên Đường của Đức Giêsu, với Đức Giêsu, chúng ta không sợ sói rừng, cũng không sợ đói khát, vì Ngài là Mục Tử nhân lành bảo vệ đoàn chiên và dắt đoàn chiên đến đồng cỏ xanh tươi, bên bờ suối mát, để chiên được thoải mái, no nê (x. Tv 23).
Vâng, trước đường đời muôn lối, muôn ngả, người Kitô hữu chỉ có một Con Đường tuyệt vời là Đức Giêsu, Đường có Thiên Chúa đồng hành và dẫn đến Thiên Chúa. Con Đường này trăm phần trăm bảo đảm niềm vui sống của cuộc đời dương thế, vì người môn đệ luôn an tâm bước đi trong sự thật và sự sống, dù phải ở trong những tình huống khó khăn, nghiệt ngã. Con Đường mang tên Giêsu ấy cũng là con đường duy nhất và tuyệt đối bảo đảm cho người môn đệ hạnh phúc đời đời, vì không con đường nào có thể dẫn đến với Thiên Chúa, như chính Đức Giêsu đã qủa quyết: “Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14, 6).
Chân nhận Đức Giêsu là Con Đường cứu độ, chúng ta không có quyền ích kỷ một mình bước đi trên Con Đường ấy, nhưng sứ mệnh được trao cho những ai muốn đi theo Đức Giêsu, chính là hợp tác với Ngài để làm cho mọi người cũng nhận ra Ngài là Con Đường duy nhất đem lại sự thật, sự sống và dẫn con người đến với Thiên Chúa, bởi làm môn đệ Đức Giêsu, chính là được nhận vào “nòi giống được tuyển chọn, hàng tư tế vương giả, dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người” (1 P,2,9), và kỳ công vô cùng lớn lao là Ngôi Lời đã “xuống thế làm người, chịu khổ hình, chịu chết và sống lại” để trở nên Đường cho mọi người đến được với Thiên Chúa.
Jorathe Nắng Tím
------------------------------------
Nhiều lần nhiều lúc không muốn nói ra hay ngại nói nhưng con người cảm thấy bơ vơ giữa ngã ba không biết phải đi về đâu.
Thầy đi đâu? Đằng sau câu hỏi này là tâm trạng hoang mang bất ổn trước một dĩ vãng vừa mới khép lại mà tương lai thì chưa kịp mở ra. Tương lai ấy hoàn toàn đổi mới hay chỉ là một dĩ vãng được lặp lai nơi chính bản thân mình. Đã một lần vỡ mộng, các ông băn khoăn là chuyện thường tình. Giống như đứa trẻ lỡ một lần bị phỏng, hễ thấy lửa, là tự nhiên rụt tay lại. Vì thế trong câu hỏi: Thầy đi đâu? Cũng nói lên nỗi âu lo rằng mình sẽ đi đâu? Thất vọng về dĩ vãng. Hoang mang trước tương lai đó là con đường các tông đồ đã nếm trải.
“Thầy đi đâu?” Ẩn sâu dưới câu hỏi ấy là một tâm trạng hoang mang trước một quá khứ vứa mới khép lại mà tương lai chưa kịp mở ra. Tương lai ấy mới mẻ hay chỉ là quá khứ đươc lặp lại ở thì sẽ đến? Đã một lần vỡ mộng, các Tông đồ băn khoăn là chuyện thường tình. Giống như đứa trẻ lỡ một lần phải bỏng, hễ thấy lửa là tự nhiên rụt tay lại. Vì thế, nghe trong câu hỏi “Thầy đi đâu?” có âm hưởng lo âu tự hỏi “mình đi đâu?”.
Khi xuống trần, Chúa Giêsu đã cho ta biết nguồn cội của Người là Đức Chúa Cha, ý nghĩa đời Người là thi hành thánh ý Chúa Cha, và cùng đích đời Người là trở về với Chúa Cha. Muốn về với Đức Chúa Cha, ta phải theo một con đường. Đường ấy có tên là Giêsu. Đường này chắc chắn an toàn đi đến nơi về đến chốn vì Chúa Giêsu là người mở đường. Người chính là con đường và Người là tâm điểm của đích tới của cuộc đời người Kitô hữu, cuộc đời của những ai tin vào Ngài.
Hình ảnh ‘con đường’ rất gần gũi, vì đó là thực tế cuộc sống mà hằng ngày mọi người đều cảm nhận sự cần thiết không thể thiếu của nó (con đường).
Để có thể đi đến nơi này nơi kia, thực hiện việc này việc nọ, mọi người đều phải đi trên ‘đường’; nếu không có đường đi, con người không thể đến được nơi mình muốn đến và càng không thể thực hiện được ước muốn mà mình muốn. Từ ‘con đường’ của trần thế mà mọi người đi trên đó để đạt được mục đích của mình, đến được nơi mình muốn đến; chúng ta suy nghĩ ‘con đường về trời’ (con đường thiêng liêng); và một khi hiểu được ý nghĩa và sự cần thiết ‘phải có con đường’, chúng ta mới nhận ra và hiểu lời mà Chúa Giêsu nói hôm nay: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”.
Thầy là đường là sự thật và là sự sống: Chúa Kitô là đường, là con đường dẫn đưa nhân loại tới với Thiên Chúa. Chúa Kitô cũng là sự thật, vì Chúa Kitô không hề dối gạt ai; và vì Ngài là sự thật, nên Ngài cũng chính là con đường thật, sẽ đưa ta tới đích, chính là Thiên Chúa. Chúa Kitô là sự sống, vì Chúa Kitô là con đường và là sự thật, nên Ngài chính là Người đem lại sự sống thật cho chúng ta... Nói một cách vắn tắt, Chúa Kitô là Thiên Chúa Ngôi Hai; mà Thiên Chúa là Đấng Toàn Mỹ, nơi Thiên Chúa không hề có hình bóng của sự xấu, sự ác; chính vì thế, khi Chúa Kitô tự xưng mình là đường, là sự thật, và là sự sống... Điều đó có nghĩa Chúa Kitô chỉ nói lên sự thật, không hề thêm bớt, và cũng từ đó có ý nghĩa, chỉ một mình Thiên Chúa mới là đường là sự thật và là sự sống mà thôi...
Người là Đường Sự Thật bởi Người là Chân Lý, một chân lý sống động khả tín làm nền tảng và hướng đi cho mọi cuộc đời, một thực tại năng động đầy Thần Khí làm sức mạnh giải thoát cho mọi kẻ tin. Đường Sự Thật không phải là một hệ thống tín điều do Chúa Giêsu thiết định, nhưng là toàn thể cuộc sống lời nói việc làm của Người trong ý nghĩa cứu độ
“Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”, để làm gì? để đừng xao xuyến!
Lời mời gọi cho chúng ta thấy Chúa Giêsu thấu hiểu nỗi lòng của các ông, thấu hiểu những lo toan … có cả nỗi sợ hãi của cuộc sống hiện tại và tương lai mà các ông đang và sẽ trải qua. Cuộc đời con người là như thế, được dệt nên bởi những niềm vui – nỗi buồn, bởi những thành công – thất bại, bởi những hy vọng – lo lắng…, xem ra dễ dàng dẫn họ tới thất vọng, chán nản, xao xuyến và buông xuôi tất cả. Thế nhưng cuộc đời người tông đồ của Đức Giêsu thì lại không như vậy; dẫu biết rằng họ vẫn sống, vẫn trải qua những vui – buồn của kiếp người như bao người khác, nhưng tinh thần thì lại khác hẳn, vì sao? Vì họ có Chúa Giêsu đồng hành và nâng đỡ nên họ không còn xao xuyến và sợ hãi nữa, mà ngược lại họ sống đầy hy vọng bởi đã thiết lập với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu mối tương giao được đặt trên nền tảng Đức Tin.
Chúa Giê-su đã hứa rằng: “Thầy đi trước để dọn chỗ cho các con, để Thầy ở đâu các con cũng ở đó với Thầy”. Đây là một lời hứa thật đẹp. Đẹp vì nó mở ra cho chúng ta một khung trời hy vọng vì ngày mai tốt đẹp hơn. Đẹp vì cuộc sống của chúng ta không đi vào ngõ cụt. Cuộc sống của chúng ta từ nay đã có một lối đi về. Cuộc sống của chúng ta không dừng lại ở cái chết là hết một kiếp người. Cuộc sống vẫn tiếp diễn. Cuộc sống được nối dài vĩnh viễn trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa là Cha, là cội nguồn sự sống.
Vận mệnh tương lai đã mở ra. Không còn xa xôi tít tắp, nhưng đã châm rễ từ cuộc đời này. Sống hôm nay là chuẩn bị sống ngày mai, và ngày mai tại Nhà Cha đã được định hình ngay từ bây giờ trong bước đường lữ thứ của Hội Thánh ở giữa lòng đời. Đi trong hy vọng là nhận ra rằng con người được tạo dựng để hướng về một cứu cánh, được tái sinh trong giới hạn nhưng không ngừng hướng về vô hạn. Thiết tưởng lời kinh của Thánh Auguatinô có thể là tóm kết của bước đi hy vọng đã biến thành khát vọng: “ Lạy Chúa, Chúa dựng nên con để cho Chúa, nên con mãi khắc khoải cho tới khi được nghỉ ngơi trong Ngài”.
Chúa Giêsu trong tư cách là một con người. Ngài đã luôn tìm kiếm ý Cha trên trời để thực thi. Cuộc sống của Ngài luôn mang hai chiều kích: hướng về Thiên Chúa và hướng về tha nhân. Ngài phục vụ tha nhân để tôn vinh Thiên Chúa. Ngài phụng sự Thiên Chúa qua việc phục vụ nhân loại theo thánh ý Chúa Cha. Có thể nói, Ngài đã sống cả cuộc đời vì yêu thương nhân loại và tôn vinh Chúa Cha. Vì Chúa Cha mà Ngài đã nhập thể làm người. Vì Chúa Cha mà Ngài đã hy sinh chịu chết cho con người được sống và sống dồi dào.
Hôm nay, Chúa Giêsu vẫn đang kêu gọi mọi người hãy đi vào con đường của Ngài để tìm được sự thật và sự sống. Chúng ta đừng chạy theo thế gian vì nó sẽ hư đi với những đam mê của nó, nhưng hãy cố gắng đi vào con đường hẹp của Chúa. Chúng ta hãy mở Thánh Kinh ra, chúng ta sẽ tìm thấy Chúa và tìm ra con đường mình phải đi.
------------------------------------
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Theo nguồn tin của Tổ Chức Khí Tượng Thế Giới (WMO: World Meteorological Organization) nói hôm Thứ Năm (27/01/2011). Các lớp băng ở Bắc Cực tan thêm và bởi thời tiết cực đoan khiến trái đất này đang nóng dần lên. Có một số khác lại cho rằng trái đất đang lạnh đi, ngày 06/01/2014 cơn bão Hercules đi qua khu vực phía bắc Mỹ khiến nhiệt độ nơi này xuống thấp kỷ lục trong vòng 20 năm -31 độ C ở Chicago, thậm chí đến - 60 độ C tại một số thành phố làm 13 người chết, gần 3.000 chuyến bay bị hủy. Ngày 7/1, 50 bang nước Mỹ đều có nhiệt độ dưới 0 độ C vào một thời điểm. Ngay tại Sapa, Việt Nam có tuyết phủ nhiều ngày.
Số khác trung dung hơn, cho rằng nhiệt độ Trái đất đang thay đổi nóng lạnh, đột ngột bất thường, từ mức lạnh gần như thấp nhất chuyển sang mức nóng đỉnh điểm chưa từng thấy trong lịch sử suốt gần 100 năm qua.
Tóm lại, sự sống trên mặt đất của con người và mọi sinh vật đang bị đe dọa, và người ta đi tìm một hành tinh xanh khác dễ sống hơn.
Về phương diện con người, nạn phá thai đã lến tới mức báo động chưa từng thấy trong lịch sử loài người. Mỗi năm chỉ riêng Việt Nam đã có gần 3 triệu ca phá thai. Có nghĩa là mỗi ngày có khoảng 8 ngàn ca phá thai. Thứ nhất Sài Gòn, kế đến là Hà Nội, Huế, Cần Thơ... Duy trì sự sống là một yếu tố căn bản cho sự tồn tại của một dân tộc, ấy vậy mà họ đang tiêu hủy sự sống con người.
Con người đã dùng vũ khí sinh học giết người hàng loạt để hủy diệt nhau. Có những chuyện chưa từng nghe thì nay đã thấy, như "Bất hiếu với cha mẹ nơi cửa tử bệnh viện" gây nỗi xót xa, tức giận trong cộng đồng, nghĩa là mẹ ốm có thể chữa được, 8 người con cãi nhau rồi quyết định mang mẹ về chờ chết. Hay cả năm người con đồng ý với án tử hình bố. Một vài dẫn chứng cụ thể trên cho thấy Trái đất này, con người ngay nay thật khó sống và khó yêu.
- Những ngày hè thật là nóng, phiến quân IS đã làm thế giới lo sợ, nay cộng thêm khủng hoảng quan hệ Liên - Triều, khiến người ta lo âu về chiến tranh thế giới có thể xảy ra.
Trái đất và con người đang như thế, lời Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: "Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy " (Ga 14, 1). Tại sao Chúa Giêsu nói những lời ấy? Thưa là vì trước sự ra đi sắp đến của Người đã làm cho các môn đệ cảm thấy bất an. Các ông lo cho chính mình, sợ bị bỏ rơi, phải sống cô đơn, và bằng một lời hứa Chúa Giêsu nâng đỡ các ông: " Thầy đi để dọn chỗ cho các con " (Ga 14, 2), và sau đó " Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó " (Gn 14,2-3). Qua thánh Tôma, các tông đồ đáp lại lời trấn an của Chúa Giêsu như sau: ": " Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi? " (Ga 14, 5). Nhân định nầy rất đúng, và Chúa Giêsu đã không tránh né câu hỏi đi kèm theo đó. Câu trả lời của Chúa Giêsu qua bao thế kỷ vẫn còn giá trị như là ánh sáng rõ ràng cho bao thế hệ tiếp đến: "" Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy "(Ga 14, 6).
"Chỗ" mà Chúa Giêsu ra đi để chuẩn bị, là ở nơi "nhà Cha"; ở đó, người môn đệ sẽ có thể được sống đời đời với Thầy mình, và tham dự vào niềm vui của Người. Tuy nhiên, để đạt đến mục tiêu nầy, thì chỉ có một đường mà thôi: đó là Chúa Kitô, là Ðấng mà người môn đệ phải từ từ đồng hóa chính mình theo đó. Sự thánh thiện thật sự hệ tại ở điểm nầy: đó là không phải người Kitô sống, nhưng Chúa Kitô sống trong người đó (x. Gal 2,20). Ðây là đích điểm cao cả, được đi kèm với một lời hứa cũng hết sức khích lệ: " Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha"(Ga 14,12).
Chúng ta lắng nghe những lời trên của Chúa Giêsu: " Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy..." Thử hỏi, cuộc sống của chúng ta sẽ ra như thế nào, nếu vô thần, nếu người kitô hữu không thực hành và liên lỉ sống đức tin, được củng cố bởi Ðức Cậy hướng về Trời Cao, nơi con người có thể gặp Chúa Kitô? "Thầy đi để dọn chỗ cho các con … để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó " (Ga 14, 2).
Vậy, đừng xao xuyến lo âu vì những bất ổn của địa cầu, của tình anh em hữu nghị đổi thay, hay lòng người thay lòng đổi dạ. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Chúa Đức Giêsu Kitô. Hãy phó thác hoàn toàn cho Chúa, như trẻ nhỏ trong vòng tay của nguời Mẹ. Vì thế giới này là tạm bợ, con người là thay đổi, không phải là chổ nương thân. Chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới tìm được nguồn vui tột đỉnh của tâm hồn. Ước chi lời khuyên của Chúa Giêsu hôm nay thấm nhập vào trong tâm trí chúng ta, như là nguồn mạch của hòa bình, sự thanh thản và niềm an vui. Nếu Chúa Giêsu Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, chúng ta còn lo sợ hãi gì? Tại sao không tin tưởng vào Thiên Chúa, là Cha Đức Giêsu, Cha chúng ta và tin vào Đức Giêsu, Chúa chúng ta?
Còn hạnh phúc nào hơn khi có Thiên Chúa là sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta không bị gục ngã dưới sức nặng của khổ nhọc, của tuyệt vọng và buồn phiền...
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta chăm chú nhìn lên Thiên Chúa Cha. Xin Mẹ hãy nắm tay hướng dẫn và thôi thúc chúng ta luôn vững tin vào Chúa như Mẹ. Amen.
------------------------------------
Sống trong xã hội tiến bộ như hôm nay, để đi đến một địa chỉ nào đó, có rất nhiều con đường để lựa chọn. Có con đường rộng. Có con đường hẹp. Có con đường khó đi. Có con đường dễ đi. Có con đường cong. Có con đường thẳng. Có con đường gồ ghề sỏi đá. Có con đường bằng phẳng. Có con đường ngắn. Có con đường dài…Nhưng chắc chắn trong muôn vàn con đường đó sẽ có một con đường thuận tiện hơn cả, sẽ dẫn tới đích nhanh nhất.
Đích đến của mỗi Kitô hữu chúng ta là Thiên Đàng. Để tới Thiên Đàng cũng có nhiều con đường đi, nhưng con đường thuận tiện hơn cả và dẫn tới Thiên Đàng nhanh nhất đó là con đường Giêsu.
Thật vậy, Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết, sau khi yên ủi các môn đệ: “Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”(Ga 14,1), Đức Giêsu cho các ông biết: Trên Thiên Đàng “có nhiều chỗ ở” và Ngài muốn cho các ông tới đó, vì Ngài “đi trước để dọn chỗ,” rồi Ngài “sẽ trở lại đón các ông…vì Thầy đi đâu các ông đã biết đường rồi.” (x. Ga 14, 2-4).
Vậy, đường của Đức Giêsu đi là con đường nào? Chính những người thân cận của Đức Giêsu vẫn còn vu vơ, chưa biết. Tôma là hiện thân của con người thực dụng, ông muốn biết một cách chính xác những gì ông chưa hiểu. Chính vì thế, ông mới hỏi Đức Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?” (Ga 14,5). Cám ơn Thánh Tôma, vì nhờ ông mà chúng ta có được một câu trả lời hết sức quan trọng của Đức Giêsu: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ các con biết và đã xem thấy Người” (Ga 14, 6). Như vậy, chính Đức Giêsu là đường đi, muốn tới Chúa Cha, muốn tới Thiên Đàng, thì cần phải đi trên con đường Giêsu. Nhưng con đường Giêsu là con đường nào? Đó là con đường Ngài đã đi trong suốt 30 năm đời sống ẩn dật: khiêm nhường, hy sinh phục vụ, vâng lời Đức Mẹ và Thánh Giuse, càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Ngài…Đó là con đường Ngài đã đi trong suốt 3 năm đời sống công khai: rao giảng Tin mừng, chữa lành bệnh hoạn tật nguyền, tha thứ tội lỗi, tuyển chọn và huấn luyện các Tông đồ, thiết lập Giáo hôi, thiết lập các Bí tích, chấp nhận bước vào cuộc khổ nạn và chết trên thập giá để cứu độ thế gian.
Muốn đi trên con đường của Giêsu, chúng ta phải theo vết chân Ngài. Muốn đi trên con đường của Giêsu, chúng ta phải thực hiện giáo huấn của Ngài. Giáo huấn của Đức Giêsu dạy chúng ta được ghi lại trong các cuốn Tin mừng. Giáo huấn của Đức Giêsu dạy chúng ta được cô đọng trong 10 điều răn, tóm lại trong hai điều này là mến Chúa và yêu người.
Đi theo con đường Đức Giêsu đã đi, có thể là bước theo con đường của Đức Maria, nghĩa là biết sống phó thác, khiêm nhường, phục vụ. Đi theo con đường Đức Giêsu đã đi, có thể là bước theo con đường của các Thánh. Nhưng mỗi thánh cũng có một con đường để đi: Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã đi con đường thơ ấu thiêng liêng; Thánh Đamiêng đã đi con đường phục vụ người cùi; Thánh Phanxicô Xaviê đã đi con đường truyền giáo; Thánh Têrêxa Caculta đã đi theo con đường phục vụ người nghèo; Thánh Maria Goretti đã đi con đường tha thứ cho kẻ thù; các thánh Tử đạo đã đi con đường đau khổ…Nhưng tất cả các con đường đó đều được Đức Giêsu vạch ra. Chính vì thế, hãy đến với Đức Giêsu, chúng ta sẽ chọn một con đường thích hợp cho mình để tới tới Chúa Cha, để về Thiên Đàng.
Bài đọc I, trích sách Công vụ Tông đồ cho chúng ta biết một số sinh hoạt của Giáo hội thời sơ khai (x. Cv 6,1-7). Khi số tín hữu ngày càng đông, các tông đồ không thể đáp ứng hết mọi công việc phục vụ nên đã mời gọi một số người cộng tác, đây là sự xuất hiện đầu tiên của chức phó tế trong Giáo hội. Chắc chắn ngoài 7 vị phó tế ra còn có nhiều người giúp đỡ các ông trong những lãnh vực khác. Sự phân chia các công việc này là mô hình đẹp cho các cộng đoàn giáo xứ hôm nay. Thật vậy, trong các giáo xứ, cha xứ là người chủ chăn được Giáo hội giao phó để coi sóc đoàn chiên. Nhưng một mình cha xứ không thể đảm đương hết tất cả các công việc. Vì thế, để cha xứ chu toàn bổn phận của mình cần có nhiều người cộng tác như: Cha phó, thầy Phó tế, chủng sinh, các Sr…Đặc biệt, trong giáo xứ luôn có Hội đồng mục vụ Giáo xứ, là cánh tay nối dài của cha xứ. Ngoài ra, trong giáo xứ còn có các ban ngành đoàn thể như: Ban Phụng Vụ, Ban Giáo lý, Ban Gia Trưởng, Ban Hiền Mẫu, Ban Giới Trẻ, Ban Phụ Lão và các hội đoàn khác. Tất cả các ban ngành được thành lập nhằm giúp đỡ Cha xứ hoàn thành trách nhiệm của mình. Nếu mỗi người trong cương vị của mình biết chu toàn bổn phận, trách nhiệm, thiết nghĩ đó cũng là con đường nên thánh. Con đường đến được với Chúa Cha, con đường dẫn tới Thiên Đàng.
Một con đường khác nữa để đến với Chúa Cha, đến với Thiên đàng, đó là con đường mà Thánh Phêrô đã vạch ra trong bài đọc II (x. 1 Pr 2, 4-9). Thật vậy, Thánh Phêrô cho chúng ta biết phẩm giá cao quý của người Kitô hữu, đó là “dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa.” Nhưng để gìn giữ phẩm giá cao quý đó, Ngài nhắc nhở chúng ta phải chu toàn bổn phận của mình như những viên đá sống động được tham dự vào viên đá tảng là chính Đức Giêsu, để xây dựng tòa nhà thiêng liêng, chức vụ tư tế thánh thiện, để hiến dâng của lễ thiêng liêng đáng Thiên Chúa chấp nhận nhờ Ðức Giêsu Kitô. Ngoài ra, mỗi Kitô hữu cũng phải biết “rao giảng quyền năng của Ðấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người.”
Tóm lại, Đức Giêsu là con đường để mỗi người chúng ta đi và ai đi theo con đường của Ngài vạch ra chắc chắn sẽ tới được Chúa Cha, tới được cùng đích của mình là Nước Thiên Đàng. Nguyện xin Đức Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống giúp mỗi người chúng ta biết đi theo con đường của Ngài vạch ra, hầu tất cả mỗi người chúng ta được nên thánh. Amen.
------------------------------------
SUY NIỆM
Mỗi Thánh lễ là dịp nhắc nhớ chúng ta không bao giờ được quên chân lý này là “tuy ở giữa thế giới này nhưng chúng ta lại thuộc về một cộng đoàn dân thánh’, ‘dân được Thiên Chúa tuyển chọn’”. Đây là một vinh dự, nhưng đồng thời cũng là một trách nhiệm. Nếu như chúng ta cảm thấy mình chưa xứng đáng với vinh dự này và chưa chu toàn trách nhiệm này, thì xin hãy đến với Chúa Giêsu trong Thánh lễ, để Ngài sẵn sàng thanh luyện chúng ta và thêm sức giúp chúng ta.
Nhìn lại các tông đồ ngày xưa, các ông đã sống với Chúa Giêsu nhiêu năm, các ông nhìn thấy những việc làm, những điều lạ mà Chúa đã thực hiện. Rồi các tông đồ cũng được nghe những lời giảng dạy, những hướng dẫn riêng để chuẩn bị cho bước đường tương lai. Vậy mà trong giờ phút quyết định, Tôma lại nói với Chúa Giêsu: "Chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết đường đi". Còn Philipphê thì sao? Ông không nhận ra được người mà mình đã đi theo bao nhiêu năm nay là ai, ông chỉ thấy đây là một con người, bởi vì mặc dù sống với Chúa Giêsu, nhưng ông chỉ lắng nghe chính mình, ông chỉ theo những gì mình muốn, nên những gì của Chúa Giêsu nói và làm đã không có được ảnh hưởng đến ông.
Trước thái độ của các tông đồ, Chúa Giêsu đã nói: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống... Ai thấy Thầy là xem thấy Cha". Điều đó khẳng định cho chúng ta rằng:
Chúa Giêsu chính là con đường, con đường dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa thật. Đó là con đường thập giá. Và chúng ta phải đi trên con đường đó mới đến được với Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là sự thật, sự thật của ơn cứu độ, sự thật của lòng thương xót. Chính vì Chúa là sự thật nên Chúa không ngần ngại nói lên sự dối trá của thế gian, để làm rõ nên chân lý tình yêu của mình.
Chúa Giêsu là sự sống. Trong suốt cuộc đời rao giảng, Chúa Giêsu đã đem sự sống đến cho mọi người, cách riêng là người nghèo, người cô đơn, người bệnh tật, người tội lỗi, người chết và nhất là chính Chúa đã sống lại để hủy diệt nộc độc của sự chết và minh chứng rằng: Chúa chính là sự sống đời đời.
Khi nói lên tất cả như thế, Chúa Giêsu muốn dạy các tông đồ rằng: những gì các ông đòi hỏi, nó đang ở trong hiện tại trước mắt các ông, nếu biết nhìn thấy để nhận ra mà sống thì thật là hạnh phúc.
Cứ tưởng như câu chuyện của các tông đồ ngày xưa đã đi vào quá khứ và chỉ còn là một hoài niệm nào đó. Vậy mà nhìn lại, nó vẫn còn là một câu chuyện rất thời sự của ngày hôm nay đối với mỗi người trong chúng ta.
Cũng như các tông đồ khi xưa, chúng ta cũng thường đòi hỏi những gì không có trong hiện tại, để những đòi hỏi đó làm chúng ta cảm thấy khổ sở. Biết bao nhiêu lần chúng ta bất mãn với hiện tại, không bằng lòng về chính mình, không bằng lòng về cách sống, không bằng lòng với những người chung quanh và thường hay hỏi tại sao mình không được như người khác, tại sao mình không được tốt hơn...
Nếu chúng ta biết trân trọng và chu toàn tốt trách nhiệm của mình; biết vượt qua những trở ngại, những vất vả, để chấp nhận cuộc sống và hoàn thành trách nhiệm của mình mà không phàn nàn trách móc, thì những lúc đó, chúng ta như đứa bé được nói đến trong bài viết đã biết tận dụng cái mình đang có để đem lợi ích đến cho người khác và cho mình. Khi đó chúng ta đang nhận ra Chúa là đường, là sự thật và là sự sống cho chính mình.
Rất ước mong chúng ta luôn cảm nhận được sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống trong lòng của mình mỗi khi tham dự Thánh lễ cũng như khi về cuộc sống hiện tại. Để nhờ đó, chúng ta sẽ có thêm sức mạnh và tâm hồn mãi luôn được bình an để hoàn tất cuộc hành trình về nhà Chúa. Amen.
------------------------------------
(Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh)
Sách xuât hành tường thuật việc Ông Môsê xin được thấy tôn nhan Thiên Chúa. Chúa liền nói với ông: "Ngươi không thể xem thấy tôn nhan Ta, vì con người không thể thấy Ta mà vẫn sống."(Xh 33, 20), thế mà hôm nay qua Đức Giêsu Thiên Chúa đã tỏ tôn nhan Ngài cho chúng ta: Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.
Khi tạo dựng con người Thiên Chúa muốn con người làm bạn, nên Ngài đã tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài, và sách thế đã diễn tả mối tương quan bằng hữu giữa Thiên Chúa với con người qua việc Thiên Chúa đi dạo trong vườn cây Eden và nói chuyện với con người, thế nhưng mối tương giao này gẫy đổ khi con người phạm tội, và tự con người lánh trốn Thanh nhan “Nghe thấy tiếng ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày, con người và vợ mình trốn vào giữa cây cối trong vườn, để khỏi giáp mặt ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa” (St 3, 8), không những con người chạy trốn Thanh nhan, nhưng chính tội cũng làm cho con người không còn có khả năng chiêm ngưỡng Tôn Nhan.
Kể từ khi bị đuổi ra khỏi mối tương giao bằng hữu, con người không thể nào nhìn thấy được Chúa. Nhưng vì là Cha nhân ái, Thiên Chúa luôn mong ước được gần gũi với con cái, lòng thương xót của Chúa luôn thôi thúc Ngài đến với con người, gặp gỡ con người, và tỏ cho con người biết Ngài luôn yêu thương họ. Vì yêu thương Ngài đã sai con chí ái đến với con người, và với sáng kiến bởi tình yêu nhiệm lạ, Con Thiên Chúa đã mạc lấy thân xác con người để biểu tỏ tôn nhan trong cách thế mà con người có thể nhìn thấy. Đức Thánh Cha Phanxicô trong tông thư “Thiên Chúa giàu lòng thương xót” một lần nữa minh định điều Chúa Giêsu đã mạc khải: “Dung mạo lòng thương xót của Chúa Cha chính là Đức Kitô Giêsu. Mầu nhiệm đức tin Kitô giáo như đã được tóm tắt đầy đủ trong mệnh đề này.” (số 1).
Một cuộc tỏ bày tôn nhan quá ư nhiệm mầu. Tại sao Thiên Chúa hành động như thế? Thưa bởi vì quá yêu thương con người nên Thiên Chúa đã quay lại chống đói chính mình”, nói như Đức Benđíctô XVI. Phải, Ngài đã quay lại chống đối với điều Ngài đã làm, đó là đuổi con người ra khỏi Tôn Nhan, nay Ngài lại cho con người nhìn thấy Dung nhan, Ngài đã luận phạt con người, nay Ngài lại ra tay cứu vớt con người, Ngài đã loại trừ con người nay lại giao hoà với con người bằng chính cái chết của Người Con dấu ái. Vâng, vì là Thiên Chúa tình yêu nên Ngài không báo giờ bỏ rơi công trình do tay Ngài tạo thành.
Tinh yêu Thiên Chúa là thế đấy, nhưng con người vẫn chứng nào tật ấy, vẫn tỏ ra cao ngạo, và chẳng nhận ra Tôn Nhan Chúa qua Người Con, Đức Giêsu Kitô. Ngay từ những thế kỷ đầu của lịch sử Giáo Hội có nhiều người đã không nhận ra Đức Kitô là dung mạo của Chúa Cha, và chỉ coi Người như là “người con nuôi” của Thiên Chúa. Họ không nhận ra bởi quá dựa vào lý luận của lý trí con người mà không để cho Thần Khí Chúa can thiệp. Rồi trôi theo dòng lịch sử của nhân loại, tinh thần thế tục ngày càng lan toả trong lối sống, càng ngày người ta càng bóp méo dung nhan của Đức Kitô, để rồi coi Người đơn giản như một lãnh tụ khởi nghĩa nhằm giải phóng dân tộc, chống lại Đế Quốc Roma, hoặc Đức Kitô chỉ như một Rabbi trình bày giáo huấn về đối nhân xử thế như Khổng Tử, Lão giáo, hoặc Phật Thích Ca. Và để loại trừ bản tính Thiên Chúa ra biến mất nơi con người Đức Kitô, người ta tô vẽ Người chỉ còn là một con người bình thường như bao người khác qua những bộ phim mang tính phỉ báng như “cơn cám dỗ cuối cùng của Giêsu”, hay “Mật mã da Vinci”.
Không nhận ra tôn nhân Thiên Chúa nơi con người Đức Kitô, cũng có nghĩa là không nhận ra tình thương và lòng thương xót của Ngài, nên con người mãi mê lầm trong bóng tối của sự chết. Thế giới luôn tràn ngập hận thù, con người càng ngày càng trở nên vô cảm nỗi khổ của người khác, giết chóc, hãm hiếp, buôn bán nô lệ dưới mọi hình thức, cướp bóc… và cuộc sống càng ngày càng trở nên bất an.
Để tìm lại niềm vui của cuộc sống và bình an trong xã hội không gì khác ngoài việc tìm đến vàdung mạo của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Quả thật, Nói như Đức Phanxicô: “Tình yêu Thiên Chúa giờ đây trở nên hữu hình và được tỏ bày trong cả cuộc sống của Chúa Giêsu. Bản thân Người không gì khác hơn là tình yêu, một tình yêu được ban tặng cách vô điều kiện. Các mối liên hệ giữa Người và những ai tìm đến với Người, là một tương quan đặc thù duy nhất và không thể tái diễn. Những dấu lạ Người thực hiện, nhất là cho các tội nhân, cho những người nghèo khổ, những người bị gạt ra bên lề xã hội, cho các bệnh nhân và những người đau khổ, tất cả đều mang dấu ấn của lòng thương xót. Tất cả mọi sự nơi Người đều tỏ bày cho thấy lòng thương xót. Không có gì nơi Người lại thiếu vắng lòng thương xót’’ Dung mạo long thương xót số 8).
Lạy Chúa Giêsu, còn gì hạnh phúc hơn khi được chiêm ngưỡng dung nhan Chúa, bởi từ đó chúng con thấu hiểu Chúa yêu thương chúng con là dường nào. Xin cho chúng con cũng trở thành dung mạo của Chúa để qua đó người ta nhận ra tình thương Chúa, họ nhận được ơn cứu độ . Amen.
------------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Minh)
I. Dẫn vào
Bài Tin Mừng Ga 14,1-12 hôm nay là bài thứ nhất trong ba bài giảng sau Tiệc Ly được thánh Gioan trình bày kế tiếp nhau. Bắt đầu bằng việc Đức Giêsu ra đi để dọn chỗ cho các môn đệ, rồi Người sẽ trở lại đem các môn đệ đến với Người, để Người ở đâu, các môn đệ cũng ở đó (cc. 1-3) và điểm đến là mặc khải về sự duy nhất Cha-Con (cc. 7-11). Con đường mà cộng đoàn các môn đệ phải đi theo, là chính Đức Giêsu vì Người là con đường, là sự thật và là sự sống (cc 4-6). Các môn đệ đi trên con đường đó với điều kiện duy nhất là lòng tin, một thực tại có sức mạnh lớn lao (c. 12)
II. Đức Giêsu, con đường đến cùng Chúa Cha
Trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ, Đức Giêsu đã nói lời từ biệt để về cùng Chúa Cha. Đã khiến cho các môn đệ hoang mang, lo sợ, xao xuyến. Trong suốt ba năm gắn bó với Thầy và chia sẻ ngọt bùi trong cuộc sống, Thầy là chỗ dựa, là cuộc sống, là con đường tương lai. Tất cả cuộc sống, hướng đi tương lai nay bơ vơ không biết đi về đâu… Chúa Giêsu hiểu rõ tâm trạng bồn chồn, lo lắng, ưu phiền của các môn đệ. Người nói với họ: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Như thế, Người kêu gọi các môn đệ xây dựng cuộc sống trên nền tảng vững chắc không lay chuyển trong Thiên Chúa và trong chính Người.
Sở dĩ, Người kêu gọi hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Người, đó là bởi vì Người và Chúa Cha là một (10,30-38; 14,11-20; 17,21-23). Như Người đã quả quyết: “Ai tin vào tôi thì không phải tin vào tôi, nhưng tin vào Đấng đã sai tôi” (Ga 12,44). Bây giờ Người đi về cùng Đấng ấy, nhằm đưa các môn đệ đến chỗ nên một với Người. Đó là cuộc trở về nhà của Chúa Cha như Người nói: “Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến để đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”.
Sau khi trấn an các môn đệ, Đức Giêsu nói về con đường đưa các ông đến cùng Chúa Cha. Người nói với các môn đệ: “‘Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi’. Ông Tôma nói với Đức Giêsu: ‘Thưa Thầy chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết đường đi?’ (cc. 4-5). Đức Giêsu trả lời: ‘Chính Thầy là đường là sự thật và là sự sống, không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy’” (c. 6).
Đức Giêsu chính là con đường, bởi vì Người là sự thật và là sự sống. Con đường này đưa đến Chúa Cha, và đây là con đường duy nhất bởi vì không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy (14,6). Đến với Đức Giêsu đồng nghĩa với tin vào Đức Giêsu. Như thế “Đến cùng Chúa Cha” là tin vào Chúa Cha. Và Đức Giêsu là con đường nghĩa là trung gian dẫn thiên hạ đến với Chúa Cha, làm cho thiên hạ tin vào Chúa Cha.
Đức Giêsu tự ví mình với con đường, vì con đường là một trong những tượng trưng của Thánh Kinh. Theo Cựu Ước, nghe lời Thiên Chúa và tin tưởng vào Người, dân Israel đã ra đi và phải trải qua một con đường dài và cực nhọc để tới đất hứa. Do đó, con đường là tượng trưng cho cuộc xuất hành (x. Đnl 1,30-39). Một khi đã vào đất hứa, dân Israel cũng phải ăn ở theo đường Chúa dạy bảo thì mới được phần thưởng muôn đời (Đnl 32,4; Tv 25,10). Mà Thiên Chúa đã mặc khải những đường hướng ấy trong luật Môsê. Do đó, con đường còn là tượng trưng cho luật Môsê.
Trong Tân Ước, Thiên Chúa mặc khải những đường hướng của Ngài qua trung gian Đức Giêsu, vị trung gian tuyệt hảo và sau hết. Do đó, con đường vẫn còn là tượng trưng, nhưng đối tượng của tượng trưng đã thay đổi, không còn phải là con đường trong sa mạc, cũng không phải là luật Môsê, mà là Đức Giêsu (Mc 8,30; Mt 16,24; Lc 8,23).
Đức Giêsu là con đường dẫn đưa “vượt qua” từ đau khổ đến vinh quang, từ sự chết đến sự sống. Tất cả được tiên báo trước bằng hình ảnh con đường nối liền giữa trời và đất như giấc mơ tổ phụ Giacóp, ông thấy chiếc thang từ đất chạm tới trời, trên đó có các sứ thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống (x.St 28,12), và chính Chúa Giêsu cũng khẳng định: “Các anh sẽ thấy trời rộng mở và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người” (Ga 1,51).
Đức Giêsu là con đường vì Người là chân lý. Theo ngôn ngữ của Cựu Ước và của Do Thái giáo thì chân lý (hay sự thật) có nghĩa là tiếng nói của thánh ý Chúa liên quan đến loài người và đời sống chân lý của loài người. Chân lý ấy, ngày xưa được truyền đạt cho loài người qua trung gian ông Môsê và các ngôn sứ. Nhưng ngày nay chân lý ấy được mặc khải qua trung gian Đức Giêsu (Ga 1,17). Một cách sâu rộng chúng ta có thể nói: Đức Giêsu và chân lý Ngài mặc khải là một, vì khác với Môsê và các ngôn sứ, Người là Chúa Con nhập thể, và vì thế, Ngài là lời tuyệt hảo của Chúa Cha, là chân lý được Chúa Cha phát biểu bằng cuộc sống và lời nói của Chúa Giêsu (Ga 17,8-12).
Thật vậy, Đức Giêsu là sự thật, sự thật về một Thiên Chúa tình yêu (x. 1Ga 4,8) hay chạnh lòng thương, và giàu lòng thương xót. Sự thật về một Thiên Chúa cứu độ và giải thoát con Người: “Các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 8,32). Cho nên thánh Augustinô đã cắt nghĩa căn nguyên sự bối rối của các tông đồ: “Các ông đã không biết kho tàng sự thật mà chính mình đang sở hữu”.
Đức Giêsu cũng là sự sống. Muốn có đời sống vĩnh cửu, loài người phải nghe và làm theo lời Thiên Chúa dạy bảo qua trung gian Con Một của Người là Đức Giêsu (12,50). Hơn nữa, Đức Giêsu không chỉ nói lời của Thiên Chúa như ông Môsê hay các ngôn sứ: Ngài chính là lời tuyệt hảo của Thiên Chúa. Vì thế, chẳng có gì lạ khi Người là sự sống.
Đức Giêsu là sự sống, sự sống vĩnh hằng, sự sống ấy ngay trong cung lòng Chúa Cha (x. Ga 6,5a). Như Ngài đã tuyên bố: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Thầy thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11,25). Sự sống này được ban cho những người tin vào Người: “Ai tin vào Người Con thì được sự sống đời đời”.
Đích điểm của con đường là Chúa Cha. Nhưng Chúa Cha hiện diện nơi Chúa Giêsu. Các môn đệ đã từng biết Đức Giêsu, và vì thế họ cùng biết Chúa Cha nơi Người. Vì thế, Đức Giêsu nói: “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ anh em biết Người và đã thấy Người” (c.7). Lúc ấy, ông Philipphê mới xin được thấy Chúa Cha: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. Thánh nhân đã nói lên khát vọng sâu xa của loài người mà chưa bao giờ đạt được. Nhưng Chúa Giêsu trả lời rằng xem thấy Người là xem thấy Chúa Cha. Tuy nhiên, con người chỉ xem thấy Chúa Cha, không phải bằng cặp mắt Người phàm, mà bằng cặp mắt đức tin qua việc Đức Giêsu nói và việc Ngài làm, vì Chúa Cha ở trong Người và thực hiện công trình của Người qua Chúa con (14,10b). Thánh tiến sĩ Tôma Aquinô giải thích: “Lời xin của Philipphê không gây ngạc nhiên, bởi vì, được nhìn thấy Chúa Cha là cùng đích của mọi ước muốn và hành động của chúng ta thì không còn gì, làm cho chúng ta mãn nguyện hơn, như lời Thánh Vịnh: “Nhìn thấy dung nhan Chúa, lòng con khấp khởi mừng vui”.
III. Người tín hữu sống Tin Mừng hôm nay như thế nào?
Bài Tin Mừng hôm nay, một lần nữa, nhắc nhở chúng ta hãy khẳng định, hãy xác tín hơn nữa vào Chúa Giêsu. Ngài chính là con đường, nghĩa là ai tin vào Ngài và đi theo dấu chân của Ngài mới thực sự tìm được hướng đi cho cuộc hành trình cuộc đời của mình.
Thực vậy, trên thế giới không thiếu gì những con đường nổi tiếng, những xa lộ, những con đường siêu tốc. Tất cả mọi con đường đều dẫn đến điểm hẹn. Nhưng trong cõi rộng mênh mông của cuộc đời, nhiều khi hành trình của chúng ta bị lạc hướng, nhiều khi chúng ta muốn bỏ cuộc, muốn dừng chân, vì những chống đối, hiểu lầm, ghen ghét, kết án cứ bám chặt lấy cuộc đời chúng ta. Tuy nhiên, có một con đường được mở ra bằng một tình thương và kết thúc bằng một hạnh phúc. Con đường ấy trải dài tình yêu để vươn lên sự sống; con đường ấy thắp sáng hy vọng để dẫn tới nhà Cha trên trời. Đó là “con đường mang tên Giêsu”.
Người tín hữu hôm nay, đi trên “đường Giêsu” là đi bằng cả niềm tin gắn bó với Chúa Giêsu, để được sống và sống dồi dào do ân ban của Ngài, và để nói như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không còn là tôi, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.
Người tín hữu hôm nay, đi trên “đường Giêsu” là đi bằng cả tình yêu và phục vụ. Bởi vì con đường của Giêsu chính là con đường phục vụ và yêu thương. Vì thế, khi chúng ta sống trong yêu thương, sống trong phục vụ là lúc chúng ta đang đi trên con đường của Chúa.
Xin Chúa là ánh sáng, là đường đi, là chân lý, hướng dẫn chúng ta lúc nào cũng đi trên con đường của Chúa, để sau cuộc hành trình đời này, chúng ta được về bên Chúa là cùng đích của chúng ta. Amen.
------------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Trong cuộc sống con người, những băn khoăn về cội nguồn của con người, những thắc mắc về ý nghĩa cuộc sống, những thao thức truy tìm cứu cánh của đời người đã tiếp nối hằng bao thế kỷ mà chưa có được câu trả lời thoả đáng. Con người bơ vơ giữa ngã ba đường không biết phải đi về đâu.
Khi xuống trần, Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết cội nguồn của Người là Chúa Cha, ý nghĩa cuộc sống của Người là thi hành thánh ý Chúa Cha, và cùng đích của Người là trở về với Chúa Cha. Muốn về với Chúa Cha, ta phải theo một con đường. Con đường ấy có tên là GIÊSU. Con đường ấy chắc chắn an toàn đi đến nơi về đến chốn vì Chúa Giêsu là người mở đường. Người chính là con đường dẫn chúng ta tới đích.
Mười năm về trước, một lần từ Bình Dương về Long Khánh. Trên đường đi tôi thấy một bảng chỉ dẫn Bình Dương - Biên Hòa 30 km. Tôi yên tâm cứ thế mà đi. Đi được khoảng một tiếng đồng hồ, tự nhiên tôi có cảm tưởng là sao hôm nay con đường này lạ quá và tôi đã dừng xe lại hỏi một người bên đường từ đây đến Biên Hòa còn bao xa?
Và tôi hốt hoảng với câu trả lời: còn 30 cây số nữa.
Bình Dương cách Biên Hòa 30 cây số. Đi cả một tiếng đồng hồ mà vẫn còn 30 cây số.
Tôi bắt đầu lo lắng, vì hai bên đường toàn cây cao su vắng lặng, không một bóng người.
Làm sao đây? Rủi hư xe hoặc hết xăng thì như thế nào đây?
Với cảm nghiệm này, tôi mới thấy tầm mức quan trọng của Lời Chúa hôm nay:
“Ta là con đường, là sự thật và là sự sống".
Con đường chính là cái giúp chúng ta đến nơi mà chúng ta mong đợi. Con đường càng tốt, càng đưa chúng ta tới đích nhanh. Con đường càng sáng sủa, càng giúp chúng ta nhận định chính xác điểm đến của chúng ta. Dĩ nhiên, nếu con đường vòng vèo sẽ làm chúng ta mất nhiều thời giờ và lâu tới đích hơn.
Chúa Giêsu là con đường, con đường thật, con đường chân chính dẫn đến Chúa Cha.
Chúng ta biết Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là con người. Người là trung gian hòan hảo duy nhất giữa Chúa Cha với chúng ta.
Biết bao con đường mở ra trước mắt chúng ta, nhưng chỉ có Người mới là con đường đưa chúng ta đến cùng Chúa Cha, vì Ngài biết Chúa Cha và bởi Chúa Cha mà ra. Chúng ta hãy tin tưởng bước theo Người vì chính Người đã khẳng định với chúng ta: ”Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy”(Ga 14,6).
Một hình ảnh khác về con đường: chú ruồi với con đường
Hôm ấy là một ngày cuối tháng Bảy bình thường như mọi ngày. Tôi đang ngồi trong một căn phòng yên tĩnh ẩn giữa rừng thông và lắng nghe những âm thanh tuyệt vọng của trận chiến sinh tử đang diễn ra cách chỗ tôi ngồi một vài bước chân. Đó là một chú ruồi nhỏ đang dốc chút sức lực cuối cùng để vượt qua tấm kính của cửa sổ. Những nỗ lực điên cuồng không mang lại chút hy vọng nào. Càng cố gắng, nó càng mau kiệt sức. Thật vô ích khi chú ruồi cứ nhất định muốn phá vỡ tấm kính bằng sức lực nhỏ bé của mình.
Cuối cùng, chú ruồi phải chịu số phận bi đát. Nó kiệt sức và gục chết trên bậu cửa. Chỉ cách mười bước chân thôi, cánh cửa đang rộng mở. Chỉ mất mười giây đồng hồ để bay đến đó, và con vật bé nhỏ này sẽ ra được với thế giới bên ngoài mà nó đang tìm kiếm. Chỉ cần một phần nhỏ sức lực đã bỏ phí, nó đã có thể thoát khỏi chiếc bẫy mà nó tự áp đặt cho mình, nhưng nó đã không làm thế. Nó đã chết một cách thê thảm.
Và một hình ảnh khác: chú ong đất với con đường
Khi chúng ta nhốt một con ong đất vào một chiếc lọ thủy tinh, chúng ta thấy chú ong cứ luẩn quẩn ở đáy lọ và tìm cách thoát ra ngoài bằng con đường ở đáy lọ, đang khi đó, nắp lọ mở rộng, nhưng nó không bao giờ nghĩ tới. Chúng ta nhiều khi cũng như chú ong đất, chỉ loay hoay tìm hướng ra từ mặt đất, không thể hướng lên cao, nên chúng ta phải nhờ Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu giúp chúng ta hướng lên, hướng lên cao tới tầm mức của một con người và tầm mức của một con Chúa.
Chính Chúa Giêsu là người mở đường đồng thời cũng là chính con đường dẫn chúng ta đến Chúa Cha. Phải, chính Chúa Giêsu, Người đã đến từ Chúa Cha, nay Người trở về cùng Chúa Cha. Người lại hứa dọn chỗ cho ta trong Nhà Cha. Với những thông tin như thế, Người đã cho ta biết Trời chính là Nhà Cha. Quê Trời trở thành Quê Cha. Nước Trời trở thành một cõi đi về thân thương của con người. Con đường đi về ấy, chính Chúa Giêsu đã khai mở.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tin tưởng và tín thác vào Lời Chúa như trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ta là con đường, là sự thật và là sự sống.” Amen.
------------------------------------
Lễ Vượt Qua là một đại lễ đầy vui mừng, vì tưởng niệm cuộc vượt qua của dân Do Thái, thoát ách nô lệ Ai Cập. Thế nhưng trong nhà tiệc ly, bầu không khí không vui và nặng nề, vì Chúa Giêsu đã nói đến nhiều vấn đề nghiêm trọng. Ngài muốn biến bữa tiệc này thành một cuộc giả từ, vì giờ của Ngài đã đến. Ngài sẽ trở về với Chúa Cha. Trước khi vào bàn ăn, Ngài đã lấy nước rửa chân cho các môn đệ và ban cho họ điều răn mới của Ngài. Sau đó, Ngài cho họ biết rằng, đêm nay, một người trong nhóm sẽ nộp Ngài, và Phêrô tỏ ra hào hùng khi tuyên bố rằng con sẽ thí mạng con vì Thầy. Nhưng Chúa báo cho ông biết rằng, đêm nay ông sẽ chối Thầy ba lần. Vì thế họ phân vân, lo ngại. Và cũng vì thế, Ngài bảo họ: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”.
Không xao xuyến sao được khi Thầy báo Thầy sẽ ra đi. Đi đâu? Tôma nhạy cảm đã thắc mắc: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường?” Thầy đi đâu? Đi dọn chỗ cho anh em. Dọn chỗ là gì? Chúng ta không thể hiểu theo nghĩa vật chất mà phải hiểu rằng Chúa ra đi là để chuẩn bị những gì cần thiết cho chúng ta để Thầy ở đâu, anh em sẽ ở đó với Thầy. Ngài ra đi để ban Thánh Thần cho chúng ta, để Thánh Thần dẫn chúng ta đến sự thật vẹn toàn.
Nhờ câu hỏi của Tôma, Chúa mạc khải một điều mới lạ: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy”. Muốn đi đến một nơi nào đó, chúng ta cần đi đúng đường, nếu không chúng ta sẽ lạc lối và chẳng đi đến đâu. Chúng ta đang đi về đâu? Về với Chúa Cha là nguồn hạnh phúc duy nhất của chúng ta, vì Ngài là Tình yêu. Chỉ có Ngài mới là hạnh phúc của chúng ta thôi. Chúng ta cần xác tín mạnh mẽ điều này. Dù thế gian có hứa hẹn với chúng ta những gì đi nữa, bộ mặt thế gian này sẽ qua đi, nhưng Chúa vẫn còn. Con đường là Ngài, là những gì Ngài đã mạc khải cho chúng ta. Ngài là hình ảnh của Chúa Cha vô hình, là phản ánh huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa”. Nhiều lần, Chúa đã bảo chúng ta: “Hãy theo Ta”. Theo Ngài là con đường duy nhất, không có con đường nào dẫn chúng ta đến Chúa Cha cả.
Ngài cũng là sự thật và là sự sống. Chúng ta không thể định nghĩa một cách chính xác hai từ này, nhưng chúng ta có thể hiểu rằng, sự thật là một điều bất biến. Những gì thay đổi không thể là sự thật. Và Sự Thật và Sự Sống chính là Thiên Chúa. Chúa Giêsu muốn cho chúng ta biết rằng, Ngài là Thiên Chúa. Ngài được sai đến là để làm chứng cho sự thật, tức là làm chứng cho Thiên Chúa. Vì thế Chúa cũng nói: “Nếu anh em biết Thầy thì anh em cũng biết Cha Thầy”. Philipphê nài xin: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha”. Nhờ lời thỉnh cầu của ông, Chúa Giêsu lại mạc khải thêm một chân lý mới: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha… Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?” Nơi khác Chúa Giêsu cũng nói: “Cha Thầy với Thầy là một”. Có cách nào nói rõ hơn nữa không? Trước khi bước vào tử nạn, Ngài muốn cho các môn đệ biết rõ về Ngài, về mối liên hệ mật thiết giữa Ngài với Chúa Cha. Ngài là hiện thân của Chúa Cha. Ngài đến trần gian là để mạc khải Chúa Cha là nguồn sống và hạnh phúc của con người. Ngài nói những gì Chúa Cha bảo Ngài nói, Ngài làm những gì Chúa Cha bảo Ngài làm. Vì thế, Ngài đòi buộc: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Chỉ cần tin thôi: “Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm được những gì Thầy làm, người ấy còn làm những việc lớn hơn nữa”. Và đúng thế, từ bao nhiêu thế kỷ, bao nhiêu thế hệ Kitô hữu, là những người đã tin, đã làm cho Giáo Hội trở thành một cộng đoàn lớn mạnh trên khắp thế giới.
Đức tin chính là điều kiện tất yếu để chúng ta trở thành dụng cụ cho Chúa, cho tình yêu Chúa lớn mạnh trong tâm hồn mọi người. Đức tin là nguồn sống giúp chúng ta thi hành những gì Chúa muốn, như Chúa Giêsu đã làm những gì Chúa Cha muốn Ngài làm. Muốn có được đức tin như thế, chúng ta cần cầu xin và bền vững cầu xin, vì đức tin là một hồng ân chứ không là kết quả của nỗ lực của chúng ta. Chúng ta noi gương Chúa Giêsu là luôn tuân theo ý Cha trên trời, làm những gì Cha mong ước. Chúng ta không xao xuyến như các môn đệ vì Chúa đã hứa ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Chúng ta vững tin rằng Ngài luôn luôn hiện diện nơi bàn thờ hiến tế, khi chúng ta làm những gì Ngài căn dặn để nhớ đến Ngài. Ngài hứa sẽ cho chúng ta ở với Ngài, thì hôm nay, Ngài đến ở với chúng ta, trong xương thịt chúng ta, hoạt động với chúng ta, yêu thương với chúng ta, đau khổ với chúng ta và thánh hóa mọi gánh nặng trần thế của chúng ta. Tình thương của Ngài không hao hụt và ngược lại, trở thành sự sung mãn cho chúng ta. Nếu không có Ngài, cuộc sống chúng ta sẽ ra sao? Và chúng ta sẽ đi về đâu? Ngài là con đường duy nhất đưa chúng ta đến hạnh phúc đời đời. Ở lại trong tình yêu của Ngài như Ngài ở lại trong tình yêu của Chúa Cha, đó là niềm hạnh phúc lớn lao cho chúng ta, chúng ta có hiểu được không?
Mặc dù Ngài đến với chúng ta qua hình thức rất nhỏ bé và khiêm tốn, một tấm bánh thôi, nhưng, tấm bánh đó là sự sống, sự sống không tàn phai, vì đó là Thiên Chúa Tình Yêu.
------------------------------------
Giáo chủ Môhamét tự nhận mình là một người tội lỗi. Đức Phật Thích ca từ chối bất cứ sự tôn kính cá nhân nào dành cho ngài. Abraham và Môsê thà chết chứ không để ai coi mình là thần linh. Chỉ có một mình Đức Giêsu Kitô dám tự xưng: Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”.
Người dân Hebrides ở quần đảo phía tây Scotland, có một huyền thoại về một vị thần biển rất thích bắt trẻ em của loài người để nuôi. Vị thần biển này thường đi tìm kiếm trẻ em trên những con tàu qua lại trên biển từ đảo này sang đảo khác. Vào một dịp, vị thần này nổi lên đuổi theo chiếc tàu nhỏ chở hành khách trong đó có một em bé trai. Tuy nhiên, con tàu đã cập bến kịp thời. Khi người ta đưa em lên đất liền, vị thần biển đã gửi đi một làn sóng nhỏ đuổi theo, chạy thẳng vào trái tim của em bé trai. Lúc đó vị thần biển đã hơi thất vọng vì không bắt ngay được em bé, nên phải núp dưới những làn sóng và người ta nghe có tiếng phán rằng: “Đứa trẻ này sẽ trở về với ta vì ta đã đặt một phần bản thân ta vào trong trái tim của nó”.
Nhiều năm sau, dân làng trên đảo đã ngạc nhiên khi thấy, vào một ngày, có một chàng thanh niên mạnh khỏe bước xuống chiếc thuyền chèo, nhưng anh lại không bơi thuyền hướng về một hòn đảo khác, mà chèo ra biển khơi mênh mông. Dân làng đồng thanh kêu gọi lớn tiếng: “Không có hòn đảo nào về hướng đó cả”. Nhưng anh vẫn cứ chèo, và khi trôi ra thật xa ngoài biển khơi, họ trông thấy anh nhào xuống nước trở về với thần biển là người đã đặt một phần bản thân mình vào trong trái tim của em bé trai khi nó còn nhỏ.
Huyền thoại này nói về ý nghĩa của mầu nhiệm sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa. Khi Thiên Chúa tạo dựng nên nhân loại, Người cũng đặt một phần thần tính của Người, linh hồn vĩnh cửu, vào trong trái tim của chúng ta. Và Người khao khát chờ đợi chúng ta trở về với nguồn mạch của sự sống vĩnh cửu đó. Đây là sự thật được mạc khải bởi Con Thiên Chúa, Đấng cứu chuộc chúng ta, Đức Giêsu Kitô. “Nơi Chúa Giêsu Kitô, chân lý của Thiên Chúa đã được bày tỏ cách trọn vẹn”. “Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể, để chúng ta được thông phần vào bản tính thần linh”. Bởi vì Con Thiên Chúa làm người để chúng ta làm Thiên Chúa”.
Văn sĩ Kitô giáo, C.S. Lewis đã nói: “Kitô giáo là một bản tuyên bố. Nếu sai, thì nó không quan trọng, và nếu nó đúng, thì nó quan trọng vô cùng. Nhưng chắc chắn một điều là nó không thể nào ít quan trọng”.
------------------------------------
c.1: “Lòng chúng con đừng xao xuyến”: Sau lời loan báo Giuđa sẽ nộp Thầy (13,18-30), lời loan báo Phêrô sẽ chối Thầy (13,36-38) và lời loan báo Đức Giêsu sẽ ra đi (13,33), lòng các môn đệ rất hoang mang bối rối. Do đó Đức Giêsu an ủi họ đừng xao xuyến.
“Cứ tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”: Động từ tin được dùng tới 6 lần trong phần này. Điều kiện để khỏi hoang mang xao xuyến là phải tin: tin vào Thiên Chúa và tin vào Ngài.
c.2-3: Đức Giêsu giải thích lý do Ngài ra đi: đi để về nhà Cha và để dọn chỗ cho các môn đệ. Xong xuôi rồi Ngài sẽ trở lại đón các môn đệ cùng đi đến nhà Cha, khi đó thầy trò sẽ sum hợp.
- “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”: Irénée, Clément d’Alexandrie và Origène dựa vào câu này để nghĩ rằng trên thiên đàng có nhiều cấp bậc hạnh phúc. Thực ra câu này chỉ đơn giản nghĩa là thiên đàng có đủ chỗ cho mọi người.
- Sau khi dọn chỗ xong thì Ngài trở lại cùng đi và thầy trò sum hợp.
- “Thầy ở đâu, chúng con cũng ở đó”: “Đức Giêsu nói với các môn đệ “Thầy sẽ trở lại đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”. Trái lại Người nói với dân Do thái: “Tôi ở đâu, các ông không thể đến được” (7,34) Thế cũng bởi vì Đức Giêsu ở đâu, kẻ phục vụ Người cũng sẽ ở đó (12,26). Mà các môn đệ chấp nhận làm môn đệ của Người, còn dân Do thái thì không. Nên đúng theo định nghĩa của người môn đệ là “người đi theo”, các môn đệ sẽ được đi theo Đức Giêsu và ở với Người” (Lm Tanila Hoàng đắc Ánh, sđd, trang 210)
- Như thế là Thầy trò sẽ sum hợp. Nhưng khi nào? Có người nghĩ là đến ngày Tái lâm (Parousia); kẻ khác nghĩ là ngày chết của mỗi người. Cả hai lối giải thích đều đúng.
* Nếu các môn đệ phải xa cách Thầy mãi mãi thì các ông xao xuyến là phải. Nhưng đây chỉ là xa cách tạm thời, sau đó thầy trò lại sum hợp, mà sum hợp vĩnh viễn hạnh phúc trong nhà Cha, thì có gì mà xao xuyến!
c.4-7: Câu hỏi của Tôma:
- Tôma là người đa nghi. Dù Đức Giêsu đã nói Ngài đi về nhà Cha, nhưng đối với Tôma, cái “nhà Cha” ấy còn mù mờ xa xôi quá. Ông chưa dám dấn thân vào một tương lai không chắc chắn như vậy, nên ông hỏi lại cho rõ: cụ thể Đức Giêsu sẽ đi đâu và các môn đệ sẽ dùng con đường nào để theo Ngài.
- Đức Giêsu giải đáp cả hai thắc mắc của Tôma: cứ đi theo Ngài là đúng đường và sẽ tới đích, vì Ngài là đường (Le chemin), con đường duy nhất dẫn tới Chúa Cha. “Đức Giêsu đã ví mình với con đường, vì “đường” là một trong những tượng trưng của Thánh Kinh. Theo Cựu Ước, nghe lời Thiên Chúa gọi là tin tưởng vào Người, dân Israel ra đi và phải trải qua một con đường dài và cực nhọc để tới Đất Hứa. Do đó “đường” là tượng trưng cho cuộc Xuất Hành (Đnl 1,3-33; 2,1-2; 8,2-10 Tv 77,20. 136). Một khi đã vào Đất hứa, dân Israel cũng còn phải ăn ở theo đường Thiên Chúa bảo mới được lãnh phần thưởng muôn đời (Đnl 32,4; Tv 25,10; 128,1; 147,19-20; Br 3,13-14.37; 4,1). Mà Thiên Chúa đã mặc khải những đường hướng ấy trong Luật Môsê. Do đó, “đường” còn là tượng trưng cho Luật Môsê. Trong Tân Ước, Thiên Chúa mặc khải những đường hướng của Người qua trung gian Đức Giêsu. Vị trung gian tuyệt đẳng và sau hết. Do đó, “đường” vẫn còn là tượng trưng. Nhưng đối tượng của tượng trưng đã thay đổi, không còn phải là đường trong sa mạc, cũng không phải là luật Môsê, mà là Đức Giêsu (Mc 8,34 Mt 16,24 Lc 9,23 Dt 10,20)” (Lm Tanila Hoàng đắc Ánh, sđd, trang 211)
- Sở dĩ Ngài là con đường duy nhất dẫn tới Chúa Cha vì Ngài là sự thật (chân lý). “Thánh Gioan thường mượn ngôn ngữ của Cựu Ước và của Do thái giáo. Trong ngôn ngữ ấy, chân lý (hay sự thật) có nghĩa là tiếng nói của thánh ý Chúa liên quan đến loài người và đời sống chân lý của loài người. Chân lý ấy, xưa kia, được truyền đạt cho loài người qua trung gian ông Môsê và các ngôn sứ; nhưng ngày nay, chân lý ấy được mặc khải qua trung gian Đức Giêsu (Ga 1,17). Một cách sâu rộng hơn, chúng ta có thể nói rằng Đức Giêsu và Chân lý mà Người mặc khải là một, vì, khác với ông Môsê và các ngôn sứ, Người là Chúa Con nhập thể và, vì thế, Người là Lời tuyệt hảo của Chúa Cha (1,1.14), là chân lý được Chúa Cha phát biểu bằng cuộc sống và lời nói của Đức Giêsu (17,8.14 1,18)” (Lm Tanila Hoàng đắc Ánh, sđd, trang 211). Nói cách khác, Đức Giêsu là sự thật về Chúa Cha nghĩa là: cứ nhìn vào Ngài là biết Chúa Cha. Tất cả mặc khải Cựu Ước chỉ là chuẩn bị và dọn đường cho mặc khải trọn vẹn và đích thực nằm trong bản thân Đức Giêsu.
- Và cũng vì Đức Giêsu là đường, là sự thật như thế, nên Ngài cũng là sự sống: “Muốn sống vĩnh cửu, loài người phải nghe và làm theo lời Thiên Chúa phán. Mà Thiên Chúa phán qua trung gian Đức Giêsu (12,50). Hơn nữa Đức Giêsu không phải chỉ nói lời của Thiên Chúa như ông Môsê hay các ngôn sứ. Người chính là Lời tuyệt đẳng của Thiên Chúa. Vì thế chẳng có gì lạ khi Người là “sự sống” (Lm Tanila Hoàng đắc Ánh sđd, trang 212)
c.8-10: Câu hỏi của Philipphê:
- Philipphê hơi ấu trĩ, khi nghe nói về Chúa Cha thì nghĩ đến một cảnh thần hiện theo kiểu ngày xưa Thiên Chúa hiện ra cho Môsê, Êlia, Isaia v.v… và ông muốn mình cũng được thấy cảnh đó như vậy.
- Đức Giêsu đáp “Ai thấy Thầy tức là thấy Chúa Cha rồi đấy”: Thiên Chúa không còn hiện ra trên đám mây hay trong những thị kiến. Từ nay Thiên Chúa tỏ mình cho loài người qua hình dáng nhân loại của Đức Giêsu. Đức Giêsu là hình ảnh mặc khải trọn vẹn Chúa Cha. Thực vậy Đức Giêsu chính là Lời mặc khải trở thành xác thịt và ở giữa loài người (1,14). Khi Lời đã ở giữa loài người thì tất cả những nơi xưa nay người ta thường đến để gặp Thiên Chúa như đền thờ Giêrusalem hoặc đền thờ Garizim hay bất cứ nơi nào khác cũng đều trở thành vô ích, vì nơi duy nhất để gặp Thiên Chúa chính là Đức Giêsu. Tại sao? Vì “Thầy vốn ở trong Cha và Cha ở trong Thầy”: Chúa Cha và Đức Giêsu không thể tách rời nhau, cả hai chỉ là một. Tất cả những lời Ngài nói và những việc Ngài làm đều là những lời nói và việc làm của Chúa Cha.
c.11: Đức Giêsu khuyến khích các môn đệ tin rằng Chúa Cha và Ngài luôn ở trong nhau và là một với nhau. Nếu họ chưa thể tin bằng lời của Ngài thì ít ra hãy tin vì thấy những việc Ngài làm, tức những phép lạ, những “dấu chỉ” cho thấy có Chúa Cha hoạt động trong Ngài.
c.12: “Ai tin vào Thầy thì sẽ làm được các việc Thầy làm, lại còn làm được việc to hơn nữa”: a/ Các môn đệ được Đức Giêsu thông ban quyền lực của Ngài, nhờ đó họ cũng làm được những phép lạ như Ngài; b/ Nước Trời mà Đức Giêsu lập hiện còn rất nhỏ bé, nhưng Đức Giêsu thông quyền giúp các môn đệ mở mang Nước Trời ấy “cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Không phải các ông giỏi hơn Ngài, nhưng hoạt động của các ông sẽ triển khai mầm mống đã được Ngài đặt sẵn. Điều kiện duy nhất để các ông làm được như vậy là phải tin vào Ngài.
KẾT LUẬN
Chúa Giêsu nhắn gởi lời khuyến dụ này cho các môn đồ Người thuộc mọi thời đại. Người kêu gọi họ giữ vững lòng tin vào Người trong những bước đường tối tăm và trong các cơn dông tố thiêng liêng của cuộc đời, đồng thời hãy dâng cho Người một tình yêu quảng đại và vâng phục, tình yêu sẽ đặt họ vào trong tình yêu thân mật của Ba Ngôi Thiên Chúa và sẽ làm cho họ sống trong bình an và hoan lạc của Chúa Giêsu.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Bản văn này tóm tắt sứ điệp Tin Mừng Gioan. Nó diễn tả cách gián tiếp điểm đặc trưng và sâu xa nhất của đời sống Kitô hữu. Nó là một phần trong toàn bộ các lời nói của Chúa Giêsu giải thích về chính mình Người. Cùng một trật nó trình bày cho thấy Người là gì đối với chúng ta và chúng ta phải trở nên nhất thế nào đối với Người. Chúa Giêsu là một người thật, hoàn toàn giống chúng ta trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi, nhưng đồng thời được tràn đầy thực tại thần linh sống động đến nỗi trở nên duy nhất và đồng hóa với Chúa Cha trong hữu thể, trong bản chất và trong đời sống: Người mặc khải Chúa Cha cách đích thực, Người mặc khải chúng ta là những kẻ Cha đã ban cho Người và Người muốn rằng Người ở đâu, chúng ta cũng ở đó. Người cầu nguyện và hành động để trong Người chúng ta được thông phần vào sự sống Chúa Cha ban. Ở đây, chúng ta đứng trước một mầu nhiệm dày đặc đối với tâm trí nhưng sáng tỏ cho những ai dấn thân cách sống động nhờ đức tin.
2) “Lòng các con chớ xao xuyến. Các con tin vào Thiên Chúa, thì cũng hãy tin vào Ta". Đây là một cách Chúa bảo rằng nòng cốt đức tin của chúng ta là chính Người, bản thân của Người, sứ điệp Người. Ta có thể tự hỏi: Làm sao Chúa Giêsu Kitô, vốn là Thiên Chúa, lại có thể nói về Thiên Chúa như nói về một Đấng khác với chính Người. Ở đây chúng ta đụng đến một trong những khía cạnh của mầu nhiệm Nhập thể. Nghĩa là mầu nhiệm Thiên Chúa xâm nhập vào thời gian, vào không gian và vào trong những giới hạn của con người. Con Thiên Chúa, có thể nói, là đã tự giới hạn mình vào trong những chiều kích của thực tại nhân loại, mà vẫn không thôi là chính Người. Chúa Giêsu muốn bảo điều này: Con người hữu hình của Người dễ gần gũi với hành động đức tin của chúng ta hơn là Thiên Chúa vô hình; sự kiện lạ lùng là lòng tin của chúng ta vào Người làm cho chúng ta đụng đến Đấng không thể nào tới gần được. Khi tin vào người là Chúa Con, chúng ta có thể tin vào Chúa Cha. Mà tin vào Chúa Cha là nguyện vọng và tiếng gọi sâu xa nhất của con người vốn thường bị đau khổ làm cho xao xuyến. Niềm tin tưởng ấy làm cho sự xao xuyến tách ra khơi chúng ta và mang lại bình an, sức mạnh, niềm vui.
3) "Ta là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống". Trong cuộc sống của người-không-có-Thiên-Chúa, dường là một hệ thống tư tưởng hay là sự khôn ngoan, sự thật là một chọn lựa giữa nhiều ý kiến, sự sống là một sinh hoạt, một tình yêu suy nhược, và thường là một sự chịu đựng. Đối với người-có-Chúa-Kitô, thì sự sống là một sự thông hiệp mà những khám phá có sức làm được điều ta tưởng là bất kham. Trong Chúa Kitô, người Kitô hữu tìm được đường đi, lối về, nhờ đó họ vượt qua những biên giới của thế gian. Mà tự bản chất là một cánh cửa đóng kín tuyệt vọng. Hơn nữa con đường này, tức là Chúa Kitô, là một lời mời gọi ra đi, tiến tới đằng trước, vươn mình lên mãi. Người Kitô hữu khám phá nơi Chúa Kitô câu trả lời cho nhu cầu bí mật mà con người cảm thấy, là phải nương tựa vào một cái gì vửng chắc để luôn có thể tìm kiếm mãi. "Con sẽ không tìm Ta, nếu con đã không gặp Ta" (Th. Augustin). Sự thật sống động không bao giờ là một cái gì hoàn toàn đạt được, nhưng nó bảo đảm với ta rằng nó xác thực. Càng gặp Chúa Giêsu, ta càng tìm kiếm để biết Người hơn. Khỏi phải nói là biết Chúa Kitô là trước tiên sống bởi Người. Khi ta sống bởi Chúa Kitô, phải chăng các thực tại tự nhiên của đời sống đều thay đổi. Không, người Kitô hữu có một sinh hoạt nhân sinh và thực tế như tất cả mọi người, nhưng sinh hoạt ấy được một cái hồn. Có một cách suy nghĩ, một cách chọn lựa mục đích, một cách gặp gỡ con người... được hướng dẫn bởi sự hiện diện của Chúa Kitô trong cuộc đời. Chúng ta có biết ngạc nhiên về điều không thể làm được lại trở nên có thể được cho chúng ta trong Chúa Kitô không?
------------------------------------
( Ga 14, 1-12 )
Kinh nghiệm trong cuộc sống cho thấy, không ai sống mà không có mục đích, mà không tự tạo cho mình một mục tiêu, một đường hướng để theo. Có những mục đích ngắn hạn, trước mắt, như kiếm được nhiều tiền, thăng quan tiến chức, sống lâu trường thọ... Thế nhưng, đến một lúc nào đó, sau khi thấy rõ những hạnh phúc tạm bợ trần gian không thể thỏa mãn được khát vọng thâm sâu nơi chính bản thân mình, nhất là khi thấy cái chết không nhân nhượng một ai, thì mỗi người sẽ thấy câu hỏi căn bản nhất hiện đến một cách rõ ràng: « Cuối cùng chúng ta sẽ đi về đâu ?- Mục đích sau hết của chúng ta là gì ?- Đâu là hạnh phúc đích thực của chúng ta ?- »
Câu hỏi nầy, không ai trả lời được một cách minh bạch, ngoại trừ Chúa Giêsu. Chỉ có ngài mời thực sự biết rõ mình đi về đâu. Trong bữa tiệc ly biệt với các tông đồ thân yêu, vào chiều thứ năm tuần thánh, ngài khẳng định: « Thầy về cùng Cha. »
Chúa Giêsu cho biết, Thiên Chúa Cha là Đấng chân thật, hoàn hảo, toàn thiện, yêu thương tất cả mọi người, cách riêng là những kẻ xấu số, bất hạnh. Ngài cho mặt trời mọc lên trên kẻ lành người dữ, làm mưa xuống cho người ngay, kẻ ác. Ngài là Đấng thương xót, luôn luôn tha thứ cho kẻ lầm đường, biết ăn năn trở lại. Ngài quan phòng, chăm sóc các nhu cầu cần thiết cho cuộc sống con người. Lòng thương yêu chăm sóc đó không chỉ giới hạn nơi cuôc sống trần gian, mà còn chuẩn bị cho con cái Nước Trời, đời sống vĩnh cữu trong tình yêu sung mãn của ngài.Vì thế, về với Chúa Cha là về với sự sống trường sinh, về với hạnh phúc dích thực, sung mãn, vĩnh cửu.
Ở đây, Chúa Giêsu khẳng định là, ngài đi trước để chuẩn bị chỗ cho chúng ta. Bởi vì, Cha của Chúa Giêsu cũng là Cha của chúng ta.Vì thế, muốn về với Chúa Cha, nhất thiết phải qua Chúa Giêsu, phải tin tưởng, liên kết với ngài; bởi vì ngài chính là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.
Ngài là con đường duy nhất đưa đến Thiên Chúa Cha, vì ngài được Chúa Cha sai đến để cứu chuộc muôn người, làm trung gian giữa Thiên Chúa Cha và con người. Ngài là sự thật, vì ngài đã tỏ cho biết Thiên Chúa là Cha, thương yêu con cái loài người đến nỗi đã trao ban chính Con Một làm giá cứu chuộc con người. Ngài là sự sống, bởi vì ngài giúp chúng ta nhận biết Thiên Chúa Cha và Đức Kitô, Đấng Cứu Thế nhân loại.
Vì thế, Tin vào Chúa Giêsu là chọn ngài làm ánh sáng cuộc đời, là tín nhiệm ngài, qui chiếu vào ngài trong các quyết định của chúng ta, dùng Lời ngài soi sáng hành động chúng ta.
Tin vào Chúa Giêsu là chọn Phúc Am, Tin Mừng Tình Yêu của ngài làm bảng chỉ đường, giúp chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Cha, Đấng hằng yêu thương, dẫn dắt chúng ta đi về Nước Trời. Tất cả những Lời ngài dạy, tất cả những việc ngài làm, cách thức ngài đón tiếp người nghèo, tha thứ cho kẻ tội lỗi, nâng đỡ những người đau khổ... là con đường phải theo để đi về với Thiên Chúa Cha.
Tin vào Chúa Giêsu không chỉ đơn thuần là tin tất cả những gì ngài đã nói và đã làm cách nay gần hai ngàn năm, mà là xác tín rằng, ngài đã phục sinh, hằng sống giữa chúng ta, trong cuộc đời chúng ta, luôn luôn còn có thể làm những việc mà ngài đã thực hiện xưa kia. Khi tha thứ cho người tội lỗi, chữa lành các bệnh nhân, làm cho kẻ chết sống lại, trục xuất tà thần, là ngài tỏ chọ biết là, con người luôn luôn có thể đổi mới, có thể trở nên tốt hơn, luôn luôn được niềm nở đón tiếp trong nhà Chúa Cha. Cho nên, đừng thất vọng, ngã lòng, nhưng hãy tin tưởng, hy vọng và phó thác vào tình yêu của ngài.
Chúng ta đang ở trong mùa Phục Sinh, mùa mừng Chúa sống lại. Chúa sống lại để đem lại ơn cứu rỗi cho chúng ta, để dẫn đưa chúng ta về Nhà Cha, Nước Trời. Và để có thể đạt được mục đích cuối cùng đó, chúng ta cần phải đi theo con đường của Chúa Giêsu đã đi: sống yêu thương bằng hành động, bằng những việc làm cụ thể trong cuộc sống, với những con người bằng xương, bằng thịt ở chung quanh chúng ta. Nghĩa là phải biết nổ lực cộng tác với mọi người để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn, công bình hơn, nhân bản hơn. Đồng thời, cũng phải biết xây dựng chính mình, loại trừ những tính hư, nết xấu, thăng tiến bản thân hằng ngày bằng những việc thiện, việc tốt, việc lành.
Nếu chúng ta thực hiện được điều đó trong cuộc sống, thì Nước Trời sẽ ở trong tầm tay chúng ta, hạnh phúc thiên đàng sẽ là phần thưởng dành cho chúng ta.
------------------------------------
Tin mừng Ga 14: 1-12
Một nhà tu đức nổi tiếng Ấn Độ, cha Antôn Mêlô kể một câu chuyện như sau: “một hôm lang thang trên phố, tôi thấy một cửa hiệu với hàng chữ: “tại đây có bán chân lý”. Tò mò tôi bước vào. Cô bán hàng niềm nở đón tiếp tôi và hỏi: “ông muốn mua loại chân lý nào? Chân lý từng phần hay chân lý toàn diện?” Tôi cho cô biết dĩ nhiên tôi đang đi tìm thứ chân lý toàn diện, thứ chân lý không pha trộn giả dối, thứ chân lý mà lý trí tôi phải đầu hàng vô điều kiện. Tôi muốn có chân lý đơn thuần và toàn diện.
Cô bán hàng nhìn tôi lắc đầu rồi chỉ sang một cửa hiệu khác, nơi có bán thứ chân lý mà tôi đang đi tìm. Người đàn ông đứng bán hàng nhìn tôi với lòng thông cảm. Ông chỉ cho tôi xem giá biểu của món hàng mà tôi muốn mua, rồi nói với tôi: “thưa ông, giá của món hàng rất cao”. Đã cương quyết mua cho được chân lý toàn diện, tôi liền hỏi: “giá bao nhiêu, xin cho tôi biết”. Người bán hàng trả lời: “nếu ông muốn mua thứ chân lý này, ông phải trả bằng cả cuộc sống của ông”.
Tôi ra khỏi cửa hiệu, lòng buồn rười rượi, nhưng thật là may mắn, bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã mang đến cho chúng ta món hàng quí giá đó khi Chúa nói với Tôma: ”Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).
Quả thật Đức Giêsu là Đường, là Chân Lý và là Sự Sống. Ngài chính là Con Đường dẫn đến Chân Lý và Chân Lý đó dẫn đến Sự Sống đời đời. Đó là việc Đức Giêsu đang làm cho chúng ta. Ngài không chỉ đưa ra những lời khuyên dạy, chỉ hướng đi mà thôi, nhưng Ngài nắm lấy bàn tay và dẫn chúng ta đi. Ngài cùng đi với chúng ta, đích thân Ngài thêm sức cho chúng ta, hướng dẫn chúng ta mỗi ngày. Chính Ngài là con đường dẫn đến Chúa Cha, vì chính Ngài đã mạc khải Chúa Cha (Ga 12,45), tuy Ngài bởi Chúa Cha mà đến và về với Chúa Cha (Ga 7,29-33), nhưng Ngài lại là một với Chúa Cha (Ga 13,30) vì chính Ngài là chân lý và là sự sống (Ga 3,15).
Chúng ta có thể tóm tắt điều Đức Giêsu muốn nói: nếu không nhờ Thầy, không ai đến được với Chúa Cha. Chỉ một mình Thầy là con đường đến với Thiên Chúa. Chỉ trong Thầy chúng con mới thấy được Thiên Chúa như thế nào, và chỉ một mình Thầy đưa chúng con đến với Thiên Chúa Cha mà thôi.
Ts. Lin Yutang là một triết gia và học giả Trung Hoa nổi tiếng. Ông viết một cuốn sách thật khích lệ mang tựa đề From Pagan to Christian (từ lương dân đến Kitô Hữu). Ông viết: trong 30 năm, tôn giáo duy nhất của tôi là chủ nghĩa nhân văn: tin tưởng rằng… chỉ cần có sự tiến bộ về kiến thức sẽ tự động đưa đến một thế giới tốt đẹp hơn…tôi thấy rằng một người càng gia tăng sự tin tưởng về chính mình thì không làm cho họ trở nên giống Thượng Đế được. Khi chủ nghĩa nhân văn của tôi vì đó sút giảm, tôi lại càng tự vấn chính mình: liệu có tôn giáo nào có thể thoả mãn được con người của thời đại này không? Và ông bắt đầu nghiên cứu về các tôn giáo trên thế giới.
Rồi vào một ngày Chúa Nhật, vợ ông, một tín hữu Kitô, thuyết phục ông đến một nhà thờ ở Nữu Ước. Ở đây chính khi nghe bài Phúc Âm, bỗng dưng ông bị đánh động bởi sự đơn sơ và vẻ đẹp của lời Chúa Giêsu đến độ kinh hoàng: “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy. Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha… Con không tin rằng… Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? "(Ga 14,6, 9, 11)
Quả thật, Thiên Chúa không còn là một hữu thể xa cách, nhưng là một người Cha rất gần gũi, rất thân thương mà ông có thể quay trở về bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, bất cứ lý do gì. Và rồi sau một cuộc hành trình dài tìm kiếm Thiên Chúa cuối cùng ông đã nhận ra Đức Giêsu như nói với ông: “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” và ông đã tin theo Đức Giêsu. Amen.
Lm Giuse Đỗ Văn Thụy
------------------------------------
1. Chúa Giêsu là Đường, đường dẫn tới Chúa Cha và hạnh phúc : Chúa Giêsu đã từng nói : Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy hay không ai biết được đường đi về Chúa Cha nếu như người ấy không đến từ Thiên Chúa. Như thế, Người luôn khẳng định Người chính là con đường để đi đến Chúa Cha, đi đến Nước Trời để hưởng hạnh phúc. Đi vào con đường Giêsu sẽ không bao giờ đi tới bất hạnh và sự chết, mà con đường ấy dẫn vào sự sống, dẫn vào hạnh phúc đích thực. Trong xã hội, tùy theo nền văn hóa, tùy theo tôn giáo, tùy theo thời đại người ta luôn nói đến những thứ đạo, tức là những đường lối để tìm kiếm được hạnh phúc. Nhưng tất cả những con đường ấy tựu trung là những hệ thống tư tưởng, các trào lưu triết học và những sự khôn ngoan, đúc kết từ kinh nghiệm của con người trong cuộc sống. Tất cả chỉ dẫn tới những thực tại hạnh phúc chóng qua của trần gian mà không dẫn con người vượt qua biên giới của thế gian để đi vào Nước Chúa Cha.
Trong Đức Kitô, người Kitô hữu tìm được đường đi lối về nhà Chúa Cha. Con đường Kitô dẫn người ta tiến về phía trước, vươn mình lên tới Thiên Chúa ; dẫn người ta đến với nhau bằng tình yêu thương chân thành, bằng sự hy sinh phục vụ chân tình, bằng mối hiệp thông chân chất đơn sơ.
2. Chúa Giêsu là Sự Thật, sự thật mạc khải về Chúa Cha và về con người : Con người luôn khao khát chân lý, mải miết đi tìm sự thật về Thiên Chúa, về vũ trụ và về chính mình. Từ cổ chí kim đã có nhiều triết thuyết, nhiều tôn giáo nỗ lực đi tìm lời giải đáp. Thế nhưng, tất cả đều khó mà thỏa mãn trọn vẹn. Nơi Chúa Giêsu Kitô, chúng ta tìm được câu trả lời xác thực. Người là sự thật vì mạc khải cho chúng ta biết về Thiên Chúa. Thiên Chúa là Cha đầy tình yêu thương, giàu lòng khoan dung tha thứ. Người cũng mạc khải cho chúng ta biết sự thật về huyền nhiệm cuộc đời : con người sinh ra từ Thiên Chúa và rồi sẽ trở về với Thiên Chúa ; con người được tạo dựng và cứu độ để sống mối tình hiệp thông hạnh phúc với Thiên Chúa là Cha. Chính nơi cuộc đời của Người, nơi chính Người đã bộc lộ trọn vẹn sự thật. Người là sự thật không chỉ đơn thuần là nói sự thật, không nói điều gian dối mà cao hơn hết Người là mạc khải chung cuộc để nhân loại nhận biết Thiên Chúa và công trình của Ngài.
Chúa Giêsu là Sự Thật, sự thật giải thoát con người và đưa con người được giải thoát khỏi mọi u mê của lạc thú trần gian mê hoặc lòng người ; khỏi mọi u mê của một trí khôn tự mãn ; khỏi mọi u mê kềm hãm con người trong sự dối trá, lọc lừa.
3. Chúa Giêsu là Sự Sống, sự sống vĩnh cửu phát xuất từ Chúa Cha : Chúa Giêsu đã luôn khẳng định Người là Đấng ban sự sống. Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta dù có chết cũng sẽ được sống, ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ. Việc Người làm cho con trai bà góa thành Naim và Lagiadô sống lại, đặc biệt là sự phục sinh vinh hiển của Người đã minh chứng những gì Người nói là sự thật. Chúa Giêsu là sự sống theo nghĩa Người là chủ thể của sự sống của toàn thể vũ trụ và nhân loại, tức là Đấng cầm quyền sinh tử. Do đó, con người có sống được là sống bởi Người. Trong Người, chúng ta được sống và sống dồi dào. Tất nhiên, sự sống nơi Đức Kitô không chỉ thuần túy là sự sống thân xác mà chính là sự sống tâm linh, sự sống của Thần Khí Thiên Chúa. Nói cách khác, Kitô hữu sống sự sống của Chúa Giêsu thì vẻ ngoài vẫn sống và sinh hoạt như mọi người, nhưng bên trong có một sức sống năng động điều khiển là chính Chúa Giêsu. Nói như Phaolô : Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi.
Chúa Giêsu là sự sống, chúng ta, những Kitô hữu hôm nay chắc chắn tin vào điều đó. Thế nhưng tin mà có biết đón nhận sự sống của Người hay không ? Để biết có sống bởi sự sống của Chúa hay không thì cần nhìn vào chính cách sống của mình như Thánh Phaolô dạy : dù ăn, dù uống hay làm gì bất cứ tôi đều làm vì Danh Đức Kitô.
------------------------------------
Trong những ngày tháng vừa qua, có lẽ nhiều người đã lo lắng, hoang mang và đôi khi còn thất vọng chỉ vì bệnh dịch đường hô hấp (COVID-19). Chúng ta hoang mang không biết Chúa đang ở đâu? Chúa có nhìn thấy nỗi thống khổ của con người hay không? Chúa có nghe thấy tiếng kêu cầu của con cái Chúa đang van xin hay không?
Chắc hẳn những nỗi hoang mang, thất vọng của chúng ta ngày nay cũng giống như nỗi hoang mang, thất vọng của các tông đồ năm xưa. Họ vẫn hy vọng là Chúa đến để giải thoát họ khỏi nỗi lầm than, khỏi quyền lực của chính trị, khỏi sự dữ, v.v. Họ chứng kiến Chúa Giêsu đã chữa cho người mù thấy được, người bại liệt đi được, người câm nói được, người điếc nghe được và thậm chí Chúa còn làm cho người chết sống lại được. Bên cạnh đó, Chúa Giêsu đã mặc khải cho các ông biết trước con đường cứu độ của Chúa là phải trải qua đau khổ, bị người ta bỏ rơi, bị đánh đòn và bị kết án tử, nhưng khi Chúa bước vào con đường khổ nạn và chịu chết thì họ như thế nào? Họ cũng rơi vào tình thế bi đát, hoang mang, thất vọng, buồn chán. Nhưng trong nỗi thất vọng ưu sầu, Chúa Giêsu có bỏ rơi họ không? Thưa không.
Sau khi sống lại, Chúa đã hiện ra với các ông, an ủi các ông. Chính vì thế, các ông lại vui mừng, lại có một sức sống mới. Sức sống này khác với sức sống của những ngày ưu buồn, lo lắng hoang mang, vì từ nay các ông không còn sống cho chính các ông, mà chỉ sống cho mình Chúa Giêsu. Như lời thánh Phaolo nói: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi”; “Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa”.
Chúng ta cũng thế, hãy tin tưởng và phó thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Chắc chắn Thiên Chúa không bỏ rơi chúng ta, Ngài vẫn nghe thấy tiếng kêu cầu của chúng ta, thấy cảnh con cái của Ngài đang hoang hoang.
Qua biến cố dịch COVID-19 này, chúng ta có tự đặt câu hỏi rằng: Chúa muốn tôi làm gì trong cơn đại dịch này? Tôi có biết lắng nghe tiếng Chúa muốn nói với mình không?
Có phải Chúa muốn vợ chồng yêu thương nhau, quan tâm đến nhau, tha thứ cho nhau? Cha mẹ cần dành thời gian chăm sóc, yêu thương, lắng nghe con cái hơn là quăng cho nó chiếc điện thoại? Con cái biết lắng nghe ông bà cha mẹ dạy dỗ? Chúng ta biết kính trên nhường dưới? Chúng ta cần phải sống sự thật với nhau? v.v.
Xin Chúa Giêsu Phục Sinh luôn ở với chúng con, ban sự bình an cho cho chúng con và nhất là ban cho chúng con thêm niềm tin, niềm hy vọng và đức mến. Nhờ đó mỗi ngày chúng con luôn biết phó thác tin tưởng, hy vọng và yêu mến Chúa dẫu cho cuộc đời của chúng con thế nào. Amen.
GKGĐ Giáo Phận Phú Cường
------------------------------------
NHỮNG LỜI CHÚA GIÊSU TÂM SỰ VỚI CÁC TÔNG ĐỒ SAU BỮA TIỆC LY
1. Tìm hiểu: 3 điều:
a/ Thiên đàng có nhiều chỗ
b/ Thầy là Đường đi...
c/ Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.
- Câu 14,2 Nhà Cha Thầy có nhiều chỗ
Chúa cho biết trong nước Trời của Chúa, tức là trên thiên đàng có nhiều cấp bậc, nhiều phần thưởng khác nhau, tùy Chúa ban, tùy công phúc người ta cố gắng lập khi còn sống. Rất công bằng và thương xót. Không có chuyện "Bé không đi học, lớn lên làm đại úy".
- Câu 14,6 Thầy là đường đi...
Nhờ ông Tôma hỏi, Chúa nói rõ Ngài chính là đường đi về quê trời, là sự thật và là sự sống, chỉ qua Chúa Giêsu chúng ta mới có thể đến được với Chúa Cha, đến được Nước Trời.
- Câu 14,9 Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.
Nhiều khi người ta tự hỏi: Không biết Chúa Cha thế nào? Có giống như người ta vẽ cụ già đầu râu tóc bạc, uy nghi dễ sợ không?
Chúa Giêsu trả lời rõ ràng: Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Cha cũng trẻ, cũng nhân từ, hiền lành, thương xót như Thầy, đừng sợ.
2. Suy niệm:
Truyện: Đi tìm minh chủ
Truyện kể rằng: có một chàng thanh niên khỏe mạnh, muốn tìm một ông chủ tốt làm sư phụ.
- Anh ta đến với một người giầu có trong làng, anh rất hài lòng về cách cư xử của người này. Nhưng một hôm, theo người này đến một nơi, thấy người này quì lạy một người tự xưng là ông quỉ. Chàng thanh niên phân vân tự nghĩ: như vậy ông chủ mình còn thua ông quỉ. Anh ta liền xin ông chủ cho đi theo ông quỉ.
- Ông quỉ hài lòng với người thanh niên lắm, sai hắn làm cái này cái kia...đều được việc, nhưng một hôm chàng theo ông quỉ tới đầu làng, chàng thấy ông quỉ không dám đi gần cây Thánh giá dựng ở đó, chàng thanh niên bỡ ngỡ, hỏi căn cớ tại sao thì ông quỉ cho biết, người chết trên đó là ông Giêsu. Chàng thanh niên lại bỏ ông quỉ đi tìm hiểu Ông Giêsu.
- Người ta giới thiệu chàng vào gặp cha xứ.
Sau một thời gian tìm hiểu, chàng được rửa tội, cha xứ thấy chàng to con, khỏe mạnh, cha đề nghị chàng làm việc bác ái, đưa đồ giúp người qua khúc sông, vì nơi đó không có thuyền không có cầu. Chàng vui vẻ làm theo, ngày nào cũng có mặt để giúp những người mang vác nặng nề.
Nhưng một hôm, chàng vác một em bé trên vai cho mẹ em rảnh tay lội nước.
Chàng cảm thấy Em bé gì mà nặng quá, nặng như cả mấy bao gạo trên vai, làm chàng thanh niên khỏe mạnh lực lưỡng muốn té nhào. Chàng than: " Sao em nhỏ ăn cái gì mà nặng thế, anh vác không nổi!
Em bé đang ôm đầu chàng, bật cười lớn, em nói: "Anh vác nổi sao được, anh đang vác cả một Thiên Chúa dựng nên trời đất đấy mà! Này chàng thanh niên, Ta rất hài lòng với việc giúp đỡ của con. Ta là Giêsu con đang tìm kiếm.
Chàng thanh niên đó chính là ông thánh Giorgiô, đã từ bỏ mọi sự trần gian đi theo Chúa Kitô.
Có 3 điều quan trọng cho cuộc sống con người:
a/ Đi đúng đường, không sợ lạc.
b/ Tìm ra sự thật, không hồ nghi.
c/ Tìm được sự sống, không sợ chết. Theo Chúa Kitô, sẽ được cả 3 thứ trên.
1/ Đường đi: Nếu bạn đến một thành phố xa lạ và hỏi thăm đường đi, có người chỉ dẫn rằng:
"Đến ngã tư thứ nhất anh rẽ sang phải, đến ngã tư thứ hai anh rẽ sang trái, đi qua công viên, vượt qua một nhà thờ, đến ngã tư thứ ba thì rẽ sang phải nữa... con đường anh tìm là con đường thứ tư bên trái.
Nếu chỉ dẫn như thế, có thể đi được nửa đường, anh đã bị lạc.
Nhưng nếu có người nói: "Anh đi theo tôi, tôi sẽ dẫn anh đến đó", người ấy sẽ đưa ta tới nơi, sẽ không lạc đâu.
Đó là việc Chúa Giêsu đang làm cho ta. Người không đưa ra những lời khuyên, chỉ hướng đi xong rồi thôi, nhưng Người nắm lấy bàn tay và dẫn ta đi. Người cùng đi với ta, Người thêm sức cho ta, hướng dẫn ta mỗi ngày. Người là Đường đi: Người làm gương về cách hành động vâng ý Chúa Cha, và Người đưa kẻ tin Người đến cùng Chúa Cha. Sướng thật.
2/ Sự thật: Không ai thích người nói dối, không ai thích hàng giả.
Phụ nữ Việt Nam không mấy ai muốn đeo nữ trang giả, ai cũng thích thứ thật, vàng thật, đôla thật, hột xoàn thứ thiệt.
Ngày nay, có nhiều thứ giổm, giổm lại còn độc chết người. Nhiều người nói với ta về sự thật, nhưng họ không phải là sự thật.
Chỉ có mình Chúa Giêsu nói: "Ta là sự thật". Ngài không lừa dối ai và không ai lừa dối được Ngài. Chúa Giêsu đã tỏ ra những mầu nhiệm về Thiên Chúa Cha cách không sai lầm.
3/ Sự Sống: Thông thường, người ta tìm kiếm sự sống, ai cũng muốn sống, sống khỏe, sống hạnh phúc... sống hoài sống muôn năm. Không ai muốn sống nhăn răng.
Chúa Giêsu hứa ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Người. Đời đời quí hơn một đời là cái chắc.
Thế nên Chúa nói: "Được lời lãi cả thế gian mà mất sự sống đời đời nào có ích gì?" (Mt 16,26)
3. Chúa muốn tôi làm gì?
- Bằng giá nào, tôi cũng phải tìm mọi cách để chiếm được một chỗ trên thiên đàng. Vì Chúa Giêsu nói "Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ". Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu nói: " Ta trông cậy thế nào, Chúa sẽ ban cho như vậy".
- Xin Mẹ Maria, giúp con bền lòng theo Chúa Giêsu "bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa là Đường đi,
Luôn nghĩ tưởng, nói năng, làm thật thà theo Chúa là Sự Thật,
Luôn bênh vực sự sống, theo Chúa là Sự Sống như thánh Giorgiô trên đây. Noi gương các thánh tử đạo VN: chết cũng không bỏ đạo, không bỏ Giáo hội Công giáo, để được ơn cứu rỗi muôn đời trong nhà Cha Cả. Amen.
------------------------------------
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
SUY NIỆM
Khi Đức Giêsu báo cho các môn đệ biết mình sắp ra đi. thì các ông lập tức rơi vào cơn xao xuyến. PS 5-A123
Khi Đức Giêsu báo cho các môn đệ biết mình sắp ra đi
thì các ông lập tức rơi vào cơn xao xuyến.
Để làm các ông yên lòng, Ngài cần cho họ biết mình sẽ đi đâu,
Ngài báo cho các ông biết mình sắp về nhà Cha,
nơi Ngài đã ở với Cha từ vĩnh hằng.
Đức Giêsu từ Cha mà đến trần gian, nay lại về với Cha (Ga 13,1).
Đức Giêsu ví thế giới của Thiên Chúa như một ngôi nhà.
Ngôi nhà ấm áp của Cha có đủ chỗ ở cho mọi người.
Đức Giêsu về nhà Cha trước để chuẩn bị cho chúng ta đến sau.
Rồi Ngài còn hứa Ngài sẽ trở lại để đón môn đệ về.
Ước mơ của Ngài là Thầy trò được ở bên nhau mãi mãi (Ga 14,3).
“Lạy Cha, con muốn rằng, con ở đâu,
thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con” (Ga 17,20).
Đức Giêsu muốn đưa các môn đệ về với nhà Cha.
Và Ngài nhận chính mình là Con Đường duy nhất dẫn đến Cha.
“Không ai đến được với Cha nếu không qua Thầy” (Ga 14,6).
Đức Giêsu là Con Đường độc nhất vô nhị, khác với mọi con đường,
vì Ngài là Ngôi Lời làm người, từ trời xuống,
là Con Một Thiên Chúa, là Đấng luôn ở cung lòng Cha (Ga 1,14.18).
Chỉ Đấng từ trời xuống mới biết đường dẫn chúng ta lên trời.
Mọi con đường khác cần được nối kết với Con Đường Giêsu,
để có thể trở thành những nẻo đường cứu độ.
Đức Giêsu suốt đời nói sự thật mà Ngài đã nghe từ Cha,
“Không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha,
Đấng đã sai phái tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì...” (Ga 12,49-50).
Duy mình Ngài thấy Thiên Chúa, và biết sự thật về Chúa Cha (Ga 1,18),
nên chỉ mình Ngài mới mặc khải được sự thật trọn vẹn về Thiên Chúa.
Mục đích cuộc đời Đức Giêsu là làm chứng cho sự thật (Ga 18,37).
Nơi Ngài, sự thật được tỏa sáng, không bị che khuất bởi cái tôi,
đến nỗi Ngài đã có thể nói: “Chính tôi là Sự Thật” (Ga 14,6).
Đức Giêsu đã trao ban sự sống cho thân xác nhiều người:
cho con trai của viên quan, cho anh bất toại, cho người mù bẩm sinh,
cho Ladarô chết bốn ngày trong mộ (Ga 4,46-54; 5,1-9; 9; 11).
Ngài còn ban Bánh hằng sống, nước hằng sống, ánh sáng ban sự sống.
Ngài nhận mình là mục tử đến để chiên được sống dồi dào (Ga 10,10).
Vì nhận được quyền “có sự sống nơi mình” từ Chúa Cha (Ga 5,26),
Nên Đức Giêsu đã có thể nói: “Chính Tôi là Sự Sống.”
Qua trung gian Đức Giêsu là Con Đường,
chúng ta có thể đến gặp Thiên Chúa Cha.
Hơn thế nữa, chính Ngài là hiện thân của Chúa Cha trên trần gian.
Thiên Chúa Cha là Đấng không ai thấy bao giờ,
không ai sờ chạm được, không ai đến gần được.
Nhưng nơi Đức Giêsu bằng xương bằng thịt,
ta gặp được Thiên Chúa Cha gần gũi, hữu hình và thân thương.
“Ai biết Thầy là biết Chúa Cha, ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.”
Chỉ cần gặp được Đức Giêsu Nadarét, là ta gặp được Đấng ba lần thánh,
Đấng siêu việt trên cõi trời cao.
“Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy” (Ga 14,10.11).
Đây là sự ở trong nhau của Cha và Con, khiến Đức Giêsu có thể nói:
“Tôi và Cha Tôi, chúng tôi là một” (Ga 10,30).
Chỉ mong chúng ta cũng ở lại trong Thiên Chúa Cha như Thầy Giêsu,
để ai thấy chúng ta cũng thấy hình ảnh của Thiên Chúa.
Thánh Gioan nói: “Ai nói rằng mình ở lại trong Thiên Chúa,
thì cũng phải đi như chính Đức Giêsu đã đi” (1 Ga 2,6).
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Sự Thật.
Mỗi ngày trên thế giới,
có bao người dám đứng về phía sự thật,
dám chết để làm chứng cho công lý,
dù họ chưa biết Chúa.
Chúa là Sự Sống.
Có bao người dám hy sinh mạng sống mình,
để chết thay cho người khác,
để bảo vệ người bị áp bức bóc lột,
dù họ chưa biết Chúa.
Chúa là Tình Yêu.
Có bao người thành tâm tìm kiếm Chúa
và đã cố gắng sống theo tiếng lương tâm,
làm những việc công bình, bác ái,
dù họ chưa biết Chúa.
Lạy Chúa Giêsu,
những người đó gần bên chúng con.
Chúng con có bổn phận giới thiệu Chúa cho họ,
Đấng họ đã ở gần, nhưng chưa gọi tên trên môi,
Đấng họ đã thoáng nghe, nhưng chưa hề giáp mặt.
Xin cho chúng con thấy Chúa hoạt động
nơi những anh em không cùng tôn giáo,
thấy nơi các tôn giáo những tia sáng của sự thật,
những hạt giống của Lời mà Chúa đã vãi gieo.
Chúa là Đường duy nhất dẫn đến Chúa Cha.
sau khi được nâng cao trên thánh giá
và tôn vinh trên trời,
Chúa vẫn không ngừng kéo mọi người lên cùng Chúa.
Chúa đã chết cho mọi người,
và muốn cho nhân loại hưởng cùng một ơn cứu độ,
xin đừng để mất một người nào trong chúng con. Amen.
------------------------------------
----------------------
Ai ai cũng thích ở nơi mình được yêu
Bài Tin Mừng hôm nay được mở đầu bằng câu “Anh em đừng xao xuyến”. Đang lúc các môn PS 5-A124
Bài Tin Mừng hôm nay được mở đầu bằng câu “Anh em đừng xao xuyến”. Đang lúc các môn đệ khiếp sợ vì sắp phải chứng kiến cuộc khổ nạn và cái chết của Thầy mình, là Chúa Giêsu, thì Chúa nói với họ: “Anh em đừng sợ, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”.
Khi ở với các môn đệ, Chúa Giêsu đã chỉ cho họ thấy Chúa Cha và mở ra cho họ con đường về nhà Cha. Khi đi vào con đường này, Chúa ban sức mạnh cho họ để họ theo Ngài. Ai tin vào Ngài, sẽ tìm được con đường trở về nhà Cha: tham dự vào sự sống của Chúa Con và nhận biết sự thật về Thiên Chúa là Cha.
Khi phải đối diện với sợ sệt, đau khổ, sự chết và bất chắc cho tương lai, Chúa Giêsu chỉ cho các môn đệ và cả chúng ta một cách để chiến thắng, đó là: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Thật vậy, Chúa Giêsu rất có lý: Chỉ mình Thiên Chúa là đá tảng. Tất cả những sự chắc chắn khác đều làm cho người ta thất vọng. Tình yêu Thiên Chúa luôn trung thành và không bao giờ bỏ rơi chúng ta.
Báo Vatican New ngày 30/4 vừa qua có đăng tin: Theo Trung tâm Nghiên cứu Pew, “Virus corona, người Mỹ được củng cố đức tin trong khủng hoảng”…
Đón nhận lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”, không phải là gắn kết cách trừu tượng vào một sứ điệp, mà là say đắm, tin tưởng vào một người là chính Chúa Kito và bước theo Ngài liên tục trong mọi cử chỉ nhỏ bé trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Khi đã tin tưởng say đắm như vậy, chúng ta sẽ làm cho mọi cử chỉ và hành động dù là nhỏ bé đi vào con tim chúng ta. Và lúc đó chúng ta sẽ hiểu những lời mà Chúa nói :“Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với các con rồi: Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Khi Thầy đi dọn chỗ cho các con, Thầy sẽ trở lại và đem các con về với Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng ở đó với Thầy”.
Vậy chỗ ở mà Chúa Cha và Chúa Con và chúng ta cũng sẽ ở đó, là chỗ như thế nào? Chúa Giêsu trả lời rõ cho chúng ta: “Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy”. Chỗ ở mà Chúa Giêsu nói tới, đó là chỗ mà ai ai cũng thích mình được yêu. Trong đời sống thường ngày, chúng ta có rất nhiều kinh nghiệm về vấn đề này:
- Trong một gia đình dù nghèo hay giàu, nếu cha mẹ yêu thương con cái và con cái yêu thương cha mẹ, thì mọi người trong nhà không muốn rời khỏi gia đình này. Và nếu có phải ra đi khỏi gia đình vì lý do nào đó, thì họ vẫn luôn nhớ về gia đình, nơi mà mình được yêu.
- Trong một tập thể hoặc một cộng đoàn, người đứng đầu cộng đoàn hoặc tập thể đó, yêu thương các thành viên, thì cộng đoàn đó rất hạnh phúc.
Vì thế, nếu gia đình nào, cộng đoàn nào mà các thành viên không được yêu, thì không bao giờ cảm nhận tình yêu Thiên Chúa…Chúa Cha ngự trị trọn vẹn trong Chúa Con là Đấng đón nhận Chúa Cha, cũng như Chúa Con ngự trị trọn vẹn trong Chúa Cha. Và trong ngôi nhà đó cũng có chỗ cho nhiều người, cho tất cả chúng ta. Như vậy chúng ta khẳng định rằng chỗ ở của chúng ta là ở trong trái tim Chúa Cha.
Vậy câu nói của Chúa Giêsu: ”Thầy đi để dọn chỗ cho các con”, có ý nghĩa gì?
- Chúa đi chuẩn bị chỗ cho chúng ta là nhắc cho chúng ta biết rằng chúng ta là con Thiên Chúa.
- Vì là con của Chúa Cha, chúng ta cũng có một chỗ trong trái Tim Chúa Cha.
- Không những thế, Chúa Giêsu còn ban cho chúng ta tình yêu của Ngài bằng cách trở nên của ăn nuôi sống nuôi sống chúng ta. Chính vì thế mà chúng ta được ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong chúng ta.
Chúa Giêsu là đường dẫn chúng ta đến nơi ở của sự sống đích thực.
Ngay trong Cựu ước, dân Chúa đã cầu nguyện: “Một điều tôi kiếm tôi xin, là luôn được ở trong đền CHÚA tôi, mọi ngày trong suốt cuộc đời, để chiêm ngưỡng CHÚA tuyệt vời cao sang, ngắm xem thánh điện huy hoàng”. Lời cầu xin được hạnh phúc như thế là lời cầu xin của người có một tình yêu đích thực ở bất cứ nơi đâu và bất cứ lúc nào. Và Chúa Giêsu sẽ nói với người cầu xin như vậy: “Tôi là đường dẫn đến nơi ở của cuộc sống đích thực".
Chúa Giêsu là đường dẫn đến sự sống, hay đúng hơn là chính Ngài là sự sống. Trước hết Ngài là sự sống và sự sống ở trong Ngài. Ngài là sự thật, vì Ngài "là ánh sáng cho con người”. Và ánh sáng, chính là sự thật. Vì vậy, nếu chúng ta tìm kiếm nơi để đến, chúng ta hãy đón nhân Chúa Kitô vì Ngài là sự sống.
Chính Ngài cũng là con đường dẫn chúng ta nhận biết sự thật. Lời Thánh vịnh nói: “Lạy Chúa, xin hướng dẫn con theo chân lý Chúa…”. Con đường này là con đường tình yêu được hoàn thành, con đường rửa chân, con đường cho đi và tha thứ, con đường thập giá, con đường đưa chúng ta trở về nhà Cha. Chỉ con đường này, con đường tình yêu làm cho chúng ta ở với Ngài và như Ngài, là Đấng yêu chúng ta.
Để đi theo con đường này, thánh Phaolo nhắc nhở chúng ta: “Anh em hãy có những tâm tình như Đức Giêsu Kito! Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ,trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.”
Như vậy, để có được chỗ trong nhà Cha, chúng ta phải điều chỉnh cách suy nghĩ của chúng ta sao cho phù hợp những tâm tình của Chúa Giêsu. Đó là tâm tình yêu thương, lòng trắc ẩn, khiêm nhường và trao ban, từ bỏ quảng đại. và tuân giữ các giới răn của Ngài.
Linh mục Gioan Đặng Văn Nghĩa
(Ga 14, 1-12)
" Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy " (Ga 14, 1).
Lời Chúa hôm nay như một tiếng chuông vang thức tỉnh niềm tin của cả nhân loại và trấn an PS 5-A125
Lời Chúa hôm nay như một tiếng chuông vang thức tỉnh niềm tin của cả nhân loại và trấn an thế giới đang sống trong hoảng sợ kinh hoàng do sự lây lan với tốc độ chóng mặt của virus Vũ Hán.
Hỏi: ai không hoảng sợ trước sự lây lan của virus corona và sự giết chóc của nó? Trong cơn lo âu, sợ hãi dịch bệnh nguy hiểm này, nhiều người trong chúng ta đặt câu hỏi “có Thiên Chúa không?” Nếu có thì tại sao Ngài lại để cơn dịch bệnh hoành hành tàn sát nhân loại? Nếu có thì tại sao con người tin tưởng, nài van, tha thiết khẩn cầu ngày đêm trong đau đớn và thậm chí có người sợ hãi thất vọng mà Chúa không can thiệp gì? Lòng người xao xuyến, đức tin bị thử thách. Giống như các môn đệ, chúng ta thấy đức tin của mình bị lung lay vì chẳng những cá nhân mình mà cả thế giới đều lo âu, sợ hãi. Sợ đói khổ, sợ chết. Lo cho bản thân, lo gia đình, người thân, ông bà cha mẹ và con cái.
Quả thật, cơn đại dịch xảy ra. Từ Trung quốc tới Mỹ, từ Ý tới Iran, từ Pháp tới Tây Ban Nha, từ Nga tới các nước khác... Hơn 200 quốc gia vất vả, lao đao chống chọi. Nỗi sợ hãi bao trùm thế giới. Người người đều bó buộc phải ở nhà, không ra đường; các công ty, xí nghiệp, hàng quán, hiệu buôn đóng cửa, trừ những gì thiết yếu cho đời sống. Xe cộ, máy bay, tàu lửa hầu như ngừng chạy… Điều đặc biệt nhất là nhiều nhà thờ không có thánh lễ, các chùa chiền không có những buổi tụ họp thuyết pháp, tụng kinh. Cơn đại dịch đã làm đảo lộn hoàn toàn đời sống xã hội, kinh tế và cả đời sống đạo.
Trong mấy tháng qua, cả thế giới đã, đang và vẫn còn kinh hồn bạt vía, trước cảnh vỡ trận của ngành y tế tại một số nơi trên thế giới, bệnh viện không còn chỗ, y bác sĩ phải chọn người mà chữa, kẻ chết ít người chôn…do đại dịch Covid-19. Sự kinh hoàng do lây nhiễm lan nhanh cộng thêm cú sốc bởi sự khởi phát đột ngột của nó. Nguồn gốc từ đâu chưa ai biết. Nguyên nhân lây nhiễm có lúc thấy lúc không, F1, F2, F3 thì biết, nhưng F0 lại chẳng hay, dẫn đến tình trạng hoảng loạn, sợ hãi, giận dữ, buồn bã, bối rối và tuyệt vọng.
Lời Chúa hôm nay như một liều thuốc thần tiên giúp chúng ta bớt sợ hãi, an tâm, tin tưởng, phó thác và cậy trông vào Chúa. Lời ấy đã từng vang vọng bên tai các tông đồ khi tình thầy trò chuẩn bị đôi ngả đôi nơi. Từ giã Thầy yêu quí, tâm trạng các môn đệ không khỏi " xuyến xao", vì họ hiểu rằng con đường Thầy đi qua sẽ là cái chết ; họ lo cho sự sống của chính mình, Thầy chết thì trò chắc gì sống. Thấu hiểu lòng trò, Thầy trấn an: " Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy " (Ga 14, 1). Khi nói thế, Chúa Giêsu không chỉ quả quyết rằng cái chết không thể cầm giữ được Người nữa, Người còn cho các môn đệ biết Người sẽ làm một cuộc xuất hành với các ông để mở lối đi cho dân mới của Thiên Chúa.
Trước sự tấn công của virus Vũ Hán hung bạo, gây ra bao lo âu và sợ hãi. Tâm trạng con người hôm nay giống y như các môn đệ xưa, lo âu sợ chết, lo cho sự sống của chính mình. Chúng ta lo nghĩ không biết rồi sẽ ra sao! Chúa Giêsu mời gọi chúng ta : " Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy " (Ga 14, 1). Chúa là Thiên Chúa của Israel, Đấng đã cứu dân Ngài vượt qua Biển Đỏ, nay hãy tin vào Người, Người cũng sẽ cứu chúng ta vượt qua dòng nước của sự chết. Chúa : " là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống " (Ga 14, 6). Ai bước đi trên đường Giêsu, thì sẽ được về cùng Chúa Cha, vì Người chính là đường đi. Không có con đường nào khác để về cùng Chúa Cha, để đạt tới mục cùng đích của kiếp người, ngoài con đường Giêsu, như Chúa Giêsu tuyên bố : " Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy " (Ga 14, 6).
Chúa Giêsu là Sự Thật, là Chân Lý; Nhờ Chúa Giêsu chúng ta biết rõ Thiên Chúa đích thực là ai và con người là ai, sinh ra ở trần gian để làm gì và chết rồi sẽ đi đâu. Người mặc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa là Tình Yêu, ai yêu thương thì sẽ giống như Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là Sự Sống; Người đến thế gian trao ban sự sống cho con người, để con người được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,10). Người là Đấng cứu tinh, Người đến giải thoát chúng ta khỏi mọi lỗi âu lo, khỏi sự dữ, khỏi tội lỗi, nhất là khỏi chết đời đời.
"Thầy đi để dọn chỗ cho các con " (Ga 14, 2). Người đi chuẩn bị cho mỗi người một chỗ, đích thân Người sẽ trở lại đón chúng ta đi. Chúa Giêsu đến thế gian ấp ủ trong lòng sự khắc khoải là một ngày nào đó đón được chúng ta về nhà " Cha của Người và cũng là Cha chúng ta, Thiên Chúa của Người cũng là Thiên Chúa của chúng ta " (Ga 20 , 17) để chia sẻ sự sống thần linh với Thiên Chúa và sẽ sống với Chúa Giêsu Ktiô trong cung lòng Chúa Cha.
Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con. Xin cứu chữa và giải thoát chúng con khỏi xuyến xao, lo âu, sợ hãi và cái chết trong cơn đại dịch này.
Lạy Mẹ Maria, giữa bao nghịch cảnh của cuộc đời, xin giúp chúng con vững tin vào Chúa như Mẹ. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
------------------------------------
Cv 6,1-7; 1Pr 2,4-9; Ga 14,1-12
Khi Thầy Giêsu sắp từ giã các môn đệ mà trở về với Chúa Cha, lòng các ông u buồn xao xuyến PS 5-A126
Khi Thầy Giêsu sắp từ giã các môn đệ mà trở về với Chúa Cha, lòng các ông u buồn xao xuyến. Chuyến đò nên nghĩa, làm sao các ông không khỏi buồn phiền hụt hẫng, vì sau ba năm theo Thầy chan chứa bao nghĩa tình, Thầy trò bên nhau, với bao là vui buồn sướng khổ, hạnh phúc chứa chan. Làm sao không lo âu khi chốn tựa nương ấy giờ đây sắp hết chẳng còn? Thời gian bên nhau càng dài với nhiều kỷ niệm, nhiều biến cố, người ta càng luyến tiếc không muốn rời xa…
Thầy dùng những lời tâm huyết mà an ủi dỗ dành: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở ; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14,1-4). Nghe những lời trấn an dịu dàng, đầy hy vọng và hứa hẹn một tương lai tươi sáng của Thầy cho các ông, chắc họ an lòng vui vẻ vì được Thầy mình vỗ về thương yêu. Nhưng dưới cái nhìn của “người trần mắt thịt”, chúng con thấy cả đời Thầy mãi… “ất ơ bập bênh”! “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8,20). Thầy nghèo khổ từ lúc mới sinh ra trong hang lừa hôi hám chật hẹp… cho tới lúc chết trần trụi trên cây gỗ, phải nằm nhờ mộ của người khác. Mọi điều Kinh Thánh đã chép về Đấng Thiên Sai phải được ứng nghiệm nơi Thầy. Sau khi Thầy Phục Sinh, các môn đệ mới “à ra” mọi sự.
“Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14,6). Chương trình Cứu Độ của Thiên Chúa được thực hiện trong Thầy. Thầy là đường đưa chúng con đến với Chúa Cha. Con đường chúng con phải qua là con đường chật hẹp khó đi của Tin Mừng, là đường dẫn tới sự sống. Nhưng chúng con lại cứ thích đi trên con đường rộng rãi thênh thang, êm ru của xác thịt trần tục, theo ý riêng của chính mình, đường dẫn tới diệt vong, dẫn tới “cái chết êm dịu”.
Đức Giêsu chứng minh cho các ông, rằng Ngài chính là Lời của Chúa Cha: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha”? (Ga 14,8). Rõ xấu hổ cho ông vì bị “kiểm tra kiến thức thực hành”, nhưng lúc đó chắc cả đoàn đều chưa “biết”. “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy”. (Ga 14,7a). Nhưng dù ở với Thầy bấy lâu, các ông vẫn chưa “biết”, không hiểu nổi Thầy mình, vì đầu óc còn mơ mộng danh vọng, chức quyền, địa vị, chỉ mong cùng “hiển trị” với Thầy sau này… đủ thứ lấp kín tâm trí. Trong bài “Viếng Thánh Thể”, thánh Alphongsô từng thốt lên: “Không dân tộc nào, dù hùng cường đến đâu, mà lại được Chúa họ thờ ở cùng họ, như Chúa Giêsu của chúng ta “ở cùng” chúng ta.”
Ngày nay nếu chúng con mở lòng đón nhận và biết Chúa là con đường, để được đi vào bên trong, “ở với” và sống trong Chúa, chúng con sẽ nhận ra khuôn mặt của Cha, Thiên Chúa Tình Yêu trong anh em. Có Chúa ở trong, cuộc đời tầm thường của chúng con sẽ trở nên ý nghĩa, đáng sống và hạnh phúc ngọt ngào, đời thường hiện tại mà trở nên như Thiên Đàng thánh thiêng.
Én Nhỏ
----------------------------
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Phụng vụ của mỗi Chúa nhật Phục sinh diễn tả một khía cạnh về sứ mạng của Chúa Giêsu: Chúa nhật PS 5-A127
Phụng vụ của mỗi Chúa nhật Phục sinh diễn tả một khía cạnh về sứ mạng của Chúa Giêsu: Chúa nhật thứ nhất, chúng ta cùng với Giáo Hội khẳng định: Đức Giêsu đã trỗi dậy từ cõi chết. Chúa nhật thứ hai, Chúa phục sinh đang hiện diện giữa chúng ta, mặc dù chúng ta không thấy Người. Chúa nhật thứ ba, Đấng Phục sinh đang đồng hành để khơi lên niềm hy vọng nơi những người bi quan, chán chường, cụ thể là hai môn đệ trên đường Emmaus. Chúa nhật thứ bốn, Đấng Phục sinh đang hướng dẫn chúng ta như một mục tử, để đưa chúng ta đến bến bờ của hạnh phúc. Chúa nhật hôm nay, tức là Chúa nhật thứ năm, Đức Giêsu là Đường, là Sự thật và là Sự sống.
Đường, Sự thật, Sự sống. Đó là ba yếu tố quan trọng làm nên căn bản của cuộc sống con người. Ai trong chúng ta cũng phải tìm cho mình một lối đi. Đó là định hướng cho một đời người. Ai trong chúng ta cũng phải sống theo sự thật, vì sự thật giải phóng con người và làm cho con người trở nên quang minh chính đại. Đi ngược lại với sự thật là sự dối trá mưu mô. Ai trong chúng ta cũng cần đến sự sống. Không chỉ sự sống phần xác mà còn sự sống thiêng liêng. Nhờ sự sống thiêng liêng mà chúng ta có tình yêu, hạnh phúc trong cuộc đời. Như thế, Đường, Sự thật và Sự sống làm nên vẻ đẹp của cuộc sống chúng ta và làm cho cuộc đời này có ý nghĩa.
“Thầy là Đường”. Trong lịch sử cũng như trong hiện tại, chưa có ai tuyên bố tự tin như thế. Hình ảnh con đường mang rất nhiều ý nghĩa đối với cuộc sống chúng ta.
Mỗi người, khi bắt đầu biết suy nghĩ, thì đã lo chọn cho mình một con đường, tức là một định hướng cho tương lai. Đó là định hướng về nghề nghiệp, về tình yêu, về phong cách sống, về nơi ăn chốn ở, về các mối quan hệ. Khi xác định được một con đường, họ cứ thế mà bước theo. Những chuyên viên tâm lý kết luận rằng, ở độ tuổi từ 25 đến 30 là lúc một người trẻ phải xác định được hướng đi cho tương lai cuộc đời. Nếu ở tuổi 30, tức tuổi “tam thập nhi lập” mà không trả lời được hỏi: đâu là định hướng tương lai của đời bạn? thì người đó khó mà có một tương lai tốt đẹp. Người ở tuổi 30 mà không chủ động chọn cho mình một định hướng, thì sẽ rơi vào lối mòn, bỏ mặc cho cuộc sống đưa đẩy về một tương lai vô định.
Con đường nào cũng có một đích điểm. Con đường Giêsu dẫn chúng ta đến với Chúa Cha. “Lòng anh em đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thày…. thày đi để dọn chỗ cho anh em”. Chúa Giêsu đã “đến đích” của con đường, tức là đến với Chúa Cha. Người đi trước để dọn chỗ cho chúng ta trong nhà Cha trên trời. Đích điểm của con đường này, cũng là đích điểm của cuộc đời người tín hữu, đó là hạnh phúc viên mãn nơi Ba Ngôi Thiên Chúa.
Con đường nào cũng nhiều thử thách gian nan. Người đi trên con đường có tên Giêsu phải chấp nhận qua cửa hẹp. Quả vậy, cửa rộng thênh thang thì dẫn tới hư hỏng. Chẳng có chiến thắng nào mà lại không trải qua đau khổ. Chẳng có vành nguyệt quế nào mà không qua tập luyện dày công. Con đường Giêsu cũng là con đường thập giá. Tuy vậy, thập giá không phải là chặng cuối của con đường. Chặng cuối của con đường là Phục sinh. Đi trên con đường Giêsu là chấp nhận những đề nghị của Người. với xác tín “qua thập giá tới phục sinh, qua đau khổ tới hạnh phúc”. Trong hành trình theo Chúa, có những khó khăn, hạn chế và ràng buộc. Tuy vậy, như “lửa thử vàng, gian nan thử đức”, những ràng buộc ấy giúp con người trưởng thành và tôi luyện để kiên trung vững vàng hơn.
Trong một cuộc hành trình, người bi quan chỉ nhận ra những vất vả gian nan; người lạc quan lại cảm nhận hạnh phúc dâng trào, vì mỗi bước đi là đang thu ngắn khoảng cách và gần tới đích. Hành trình theo Chúa cũng là hành trình Đức tin và hành trình cuộc đời. Chúa Phục sinh đang đồng hành với chúng ta trong cuộc hành trình này. Câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmaus đã minh chứng cho chúng ta: vào lúc bi quan chán nản và đau thương nhất, Chúa đến để cùng đi và nâng đỡ chúng ta. Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy nhận ra Đức Giêsu là lý tưởng của chúng ta. Như viên đá bị thợ xây loại bỏ, Chúa Giêsu đã trở nên đá góc tường, là phiến đã chịu lực, đỡ nâng tòa nhà và bảo đảm cho sự vững chắc của tòa nhà ấy. Vì thế, hãy nhận ra vinh dự tuyệt vời mà Chúa ban cho chúng ta qua Bí tích Thanh tẩy. Bởi lẽ nhờ Bí tích này mà chúng ta được gọi là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa. Những khái niệm này thật lớn lao vĩ đại, làm cho chúng ta – những con người trần mắt thịt – trở nên như những thần linh (Bài đọc II).
Nhờ sự hiện diện của Đấng Phục sinh, số người tin Chúa không ngừng tăng trưởng. Giáo Hội từ thời sơ khai ấy cho đến hôm nay, vẫn đang cố gắng thể hiện hình ảnh của Đấng Phục sinh giữa đời (Bài đọc I). Không chỉ bảy người được trao sứ vụ phục vụ bàn (sau này được gọi là Phó tế), nhưng mỗi tín hữu đều được trao vinh dự loan báo Đức Giêsu.
“Lòng anh em đừng xao xuyến”. Chúa nói với chúng ta như thế, trong lúc chúng ta đang hoang mang hoảng sợ vì đại dịch COVID-19. Quả thật, nếu vững tin vào Chúa thì còn có gì làm chúng ta lo sợ. Hãy vững tin vào Chúa. Hãy tìm một lối đi dẫn đưa tới bến bờ hạnh phúc. Lối đi ấy có tên là Giêsu. Người là Đấng Cứu độ chúng ta.
------------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.)
Con người đi về đâu? Con người tìm kiếm điều gì? Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy (Ga. 14 PS 5-A128
Con người đi về đâu? Con người tìm kiếm điều gì?
Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy (Ga. 14, 3)
Con người trong cơn khủng hoảng, hoang mang không biết mình đi về đâu, cuộc đời mình có ý nghĩa gì! Đây là một khủng hoảng cũng thường xảy ra trong đời một người.
Đức Yêsu nói với các môn đệ "lòng anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy" (Ga.14, 1).
Đức Yêsu sẽ trở lại. Ngài trở lại để đem chúng ta đi theo Ngài, để chúng ta ở với Ngài.
Đức Yêsu là đường dẫn đến Thiên Chúa Cha
Các tông đồ không biết Đức Yêsu đi đâu, nên các ngài không hiểu gì về "con đường" mà Đức Yêsu nói! "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, thì làm sao chúng con biết được đường" (Ga.14, 5)!
"Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy" (Ga.14, 6)!
Đức Yêsu và chúng ta, đều đến với Cha như cùng đích! Con đường dẫn chúng ta đến với Cha, là Đức Yêsu. Cách sống của Đức Yêsu, có tác dụng như một con đường.
Không có Đức Yêsu trợ giúp, con người không thể đến với Cha được, con người không thể đạt được cứu cánh đời mình. "Không ai biết Cha trừ Con, và những người được Con mặc khải cho" (Mt.11, 27).
Biết Đức Yêsu, là biết Cha. Thiên Chúa là Đấng vô hình, người ta không thể nhìn thấy Ngài bằng mắt trần, nhưng người ta có thể nhận biết Ngài bằng đức tin, khi họ "vượt qua" những gì vật chất để nhận biết Thiên Chúa đang hoạt động nơi mọi người.
Thiên Chúa là ai? Thiên Chúa là Đấng yêu thương chúng ta vô cùng.
Ngài yêu con người đến độ ban Con Một Ngài cho chúng ta. Con Một Thiên Chúa đã nhập thể để giúp chúng ta sống trọn kiếp người, để chúng ta được "Chúa hoá".
Ngài đã phục sinh, để chúng ta được sống lại trong ngày Ngài quang lâm.
Trong thời hiện tại, Ngài ban các mục tử cho chúng ta, để giúp chúng ta đi đến với Thiên Chúa là Cha.
Ngài sẽ trở lại đón chúng ta, để chúng ta được ở với Ngài!
Khi nào Ngài trở lại?
Trong những ngày này, có nhiều người xôn xao lo lắng, vì có nhiều tin đồn về ngày cùng tận! Phải chăng những người này xôn xao lo lắng, vì không biết tương lai của họ thế nào như các tông đồ hồi xưa? Hay tại họ muốn bám víu vào trần thế "mau qua" này?
Những ý kiến về ngày cùng tận
Có người cho rằng năm 2000 sẽ tận thế! Có người cho rằng vào tháng 9 năm nay sẽ tận thế; những người này còn đòi trưng dẫn "ý kiến của các nhà khoa học"!
Theo ý kiến của tôi, trước khi tin rằng đó là ý kiến của các nhà khoa học, thì phải kiểm chứng có đúng như vậy không, nghĩa là, có đúng là có các nhà khoa học hội họp với nhau và bàn về vấn đề này không, ở đâu, bao giờ, hãng thông tấn nào loan tin, ai triệu tập, tại sao các nhà khoa học lại bàn về vấn đề này? nhà khoa học nào có thẩm quyền để triệu tập một hội nghị như vậy?
Có người cho rằng Đức Mẹ mặc khải cho biết ngày giờ tận thế, và khuyên người ta ăn năn sám hối. Về việc người ta phải ăn năn sám hối, thì rất đúng! Nhưng có cần Đức Mẹ phải mặc khải về ngày giờ tận thế không, nhất là khi chính Chúa Yêsu nói không ai biết ngày giờ đó (Mc.13, 32)?
Lời dạy của Đức Yêsu
Chúa Yêsu đã nói "Còn về ngày giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay cả người Con cũng không; chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi" (Mt.24, 36; Mc.13, 32). Nếu Chúa Yêsu nói không ai biết, thì tại sao lại có những kẻ tự nhận rằng họ biết! Chẳng lẽ họ đúng, còn Chúa Yêsu thì sai?!
Ý kiến của thánh Phaolô
Thời thánh Phaolô, người ta cũng tưởng Chúa trở lại "đến nơi" rồi, và thánh nhân cũng tưởng không chừng mình thuộc vào số những người còn sống mà được đi đón Chúa: "Dựa vào Lời của Chúa, chúng tôi nói với anh em điều này, là chúng ta những người đang sống, những người còn lại vào ngày Chúa quang lâm, chúng ta sẽ chẳng đi trước những người đã an giấc ngàn thu đâu. Vì khi hiệu lệnh được ban ra, khi tiếng tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Đức Kitô sẽ sống lại trước tiên; rồi đến chúng ta, là những người đang sống, những người còn lại, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây cùng với họ, để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi" (1Tx.4, 15-17).
Ở chỗ khác trong cùng thư, thánh Phaolô nói: "Thưa anh em, về ngày giờ và thời kỳ Chúa đến, anh em không cần ai viết cho anh em. Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm. Khi người ta nói "bình an biết bao, yên ổn biết bao" thì, lúc ấy tai họa sẽ thình lình ập xuống, tựa cơn đau chuyển bụng đến với người đàn bà có thai, và sẽ chẳng có ai trốn thoát được" (1Tx.5, 1-3).
Trong thư thứ hai gởi Thessalonica, thánh Phaolô viết: "Thưa anh em, về ngày Đức Yêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm và tập hợp chúng ta về với Người, tôi xin anh em điều này: nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mặc khải, hoặc đã nói, đã viết thư quả quyết rằng ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ. Đừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào" (2Tx.2, 1-3a).
Tại sao đòi biết ngày giờ và lo lắng hoảng loạn?
Chắc chắn Chúa Yêsu sẽ quang lâm! Chắc chắn không ai thoát được biến cố này. Thế nhưng về ngày giờ biến cố đó xảy ra thì không ai biết, trừ Cha! Biến cố đó có thể xảy ra trong ít phút nữa đây, cũng có thể xảy ra vào tháng chín tới, nhưng cũng có thể vào năm 2000, hay vào năm 4000, hay vào một thời rất xa xưa trong tương lai! Đâu có ai biết!
Tại sao chúng ta quá bận tâm về ngày giờ đó?
Nếu chúng ta quá bận tâm để biết ngày giờ, phải chăng vì mình muốn thoát khỏi ngày đó? Và như vậy, phải chăng bởi vì
tôi còn ham thế gian, không coi thiên đàng là quê thực!
hay vì tôi sống chưa ngay thẳng để ra trước nhan Chúa trong ngày Người quang lâm?!
hay tại tôi không tin vào Chúa Yêsu, tôi không coi trọng Lời Người?! Chúa nói không ai biết, còn tôi thì đòi biết, và tin vào người khác hơn tin vào Chúa Yêsu.
Làm sao có thể thoát được ngày đó nếu ngày đó tới! Làm gì để chuẩn bị đón biến cố đó? Hãy xem Chúa mời gọi các tông đồ thế nào, và chúng ta hãy sống như vậy!
"Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy" (Ga.14, 1).
Tin vào Đức Yêsu, có thể làm được những điều kỳ diệu hơn cả Đức Yêsu!
"Hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha, và Chúa Cha ở trong Thầy" (Ga.14, 11). "Ai tin vào Thầy, người đó sẽ làm được những việc Thầy đã làm; người đó còn làm được những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha" (Ga.14, 12).
Một bài giảng của Phêrô sau biến cố Thánh Thần hiện xuống, đã làm khoảng 3000 người trở lại (Cv.2, 41)! Điều này làm cho người ta nghĩ đến câu Lời Chúa ở trên "người đó còn làm được những việc lớn hơn nữa".
Ngày nay, với những người tin vào Đức Yêsu, họ còn có thể làm được những điều kỳ diệu mà Chúa Yêsu đã tiên báo trước. Họ có thể vượt qua chính mình. Họ dám sống hiến dâng đời mình để phục vụ Chúa và tha nhân.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Tại sao các tông đồ xao xuyến? Có sự tương đồng nào đó giữa niềm xao xuyến của các tông đồ xưa và của con người ngày nay trước luồng tin "ngày tận thế"?
2. Theo lời khuyên dạy của Đức Yêsu, làm sao để hết xao xuyến và lo lắng?
3. Bạn hiểu câu "Đức Yêsu lại là đường, sự thật và là sự sống" như thế nào?
4. Thiên Chúa vô hình! Có bao giờ bạn nghĩ bạn "thấy Thiên Chúa" không? Nếu được, mời bạn chia sẻ kinh nghiệm này.
---------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.)
Sau biến cố tử nạn và phục sinh của Đức Yêsu, các tông đồ nhớ lại những gì Đức Yêsu đã nói PS 5-A129
Sau biến cố tử nạn và phục sinh của Đức Yêsu, các tông đồ nhớ lại những gì Đức Yêsu đã nói và đã làm khi các ông được diễm phúc đi theo và sống với Ngài. Tin Mừng hôm nay là hồi niệm, tường thuật những gì các tông đồ đã thấy và đã nghe. Lời Chúa được công bố hôm nay giúp con người hiểu biết hơn về Đức Yêsu, và về Hội Thánh cụ thể trong lịch sử.
1. Xin chỉ cho chúng con biết Chúa Cha, thế là đủ cho chúng con
Tin Mừng theo thánh Yoan cho biết về Đức Yêsu và các tông đồ trong thời gian Đức Yêsu còn tại dương thế hơn. Một trong những bận tâm chính của con người là hiểu biết về Thiên Chúa. Chính trong tâm tình này mà Philip nói với Đức Yêsu: “xin chỉ cho chúng con Chúa Cha, và thế là đủ”. Ao ước biết hơn về Thiên Chúa, là ao ước của con người trong mọi thời đại, đặc biệt của các tông đồ.
“Ai thấy Ta là thấy Cha”. Tại sao Philip còn đặt câu hỏi với Đức Yêsu về Thiên Chúa Cha? Sở dĩ vậy vì Philip và các tông đồ lúc đó không nhận ra Đức Yêsu là “hình ảnh” của Thiên Chúa Cha, là phản ánh của Thiên Chúa Cha. Sau biến cố tử nạn và phục sinh của Đức Yêsu, các tông đồ nhận biết Đức Yêsu hơn; và với Thánh Thần của Đức Yêsu, các tông đồ được dẫn vào sự thật trọn vẹn (Ga.16, 12-13).
Có nhiều điều một người nói, và những người khác không hiểu được. Cũng tương tự vậy, Đức Yêsu đã nói nhiều điều với các tông đồ, nhưng các ngài không hiểu cho tới khi các ngài được Thiên Chúa soi sáng đặc biệt. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Yêsu mời gọi các tông đồ hãy nhìn các việc Ngài làm mà gắng hiểu Ngài. Thời gian “bốn mươi ngày” là thời gian đặc biệt các tông đồ nhớ lại những tháng ngày sống với Đức Yêsu, nhớ lại những gì Đức Yêsu nói, những việc Đức Yêsu làm, để các ngài hiểu hơn về Đức Yêsu, và với ơn của Thánh Thần các ngài nhận biết Đức Yêsu là Con Thiên Chúa.
2. Đức Yêsu là viên đá sống động
Một thời gian dài sau biến cố Đức Yêsu chết và sống lại, khi thư thánh Phêrô được viết, các tông đồ đã có cái nhìn đúng đắn và sâu xa hơn về Đức Yêsu. Tác giả thư thứ nhất của thánh Phêrô nhận ra Đức Yêsu là viên đá mà thợ xây loại bỏ, đã trở nên đá góc tường, là nền tảng trên đó Thiên Chúa xây dựng Hội Thánh của Thiên Chúa.
Đức Yêsu cũng là viên đá làm người ta vấp ngã, vì không dễ gì để tin vào Đức Yêsu. Hiện nay, đa số người Do Thái không tin Đức Yêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai mà mọi người phải đợi trông. Khá nhiều người trên thế giới không tin Đức Yêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa đến độ người ta có thể nói Ngài là Thiên Chúa nhập thể.
Tác giả thư thứ nhất của thánh Phêrô cũng nhận ra rằng, số phận của con người được biến đổi nhờ Đức Yêsu Kitô. Với Đức Yêsu tử nạn và phục sinh, con người có thể trở thành con người mới trong Đức Yêsu. Tác giả thư thánh Phêrô nói: chúng ta là dân tộc được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh, là người của Thiên Chúa. Nhờ đức tin vào Đức Yêsu, chúng ta trở thành một tạo vật mới, một con người mới.
3. Dù đã thuộc về Chúa, con người vẫn còn giới hạn
Sách Công Vụ Tông Đồ cho thấy sinh hoạt của Hội Thánh sơ khai. Thời đầu, các Kitô-hữu đã để tất cả tài sản của họ làm của chung, và ai cần gì thì cứ dùng theo nhu cầu (Cv.2, 44-45). Sách Công Vụ cũng cho biết trường hợp của Khanania cùng vợ gian lận (Cv.5, 1-11). Và hôm nay bài đọc sách Công Vụ Tông Đồ cũng cho biết “tính người” của những Kitô-hữu tiên khởi: họ càm ràm vì không được đối xử công bình.
Sách Công Vụ cũng cho biết cách cư xử của các tông đồ trước vấn đề này. Hội Thánh cho dù gồm những người được Thiên Chúa chọn, nhưng họ vẫn là người với những yếu đuối của con người. Điều nào là tốt nhất, thì làm. Các tông đồ đã đề nghị cách giải quyết cho cộng đoàn, và cộng đoàn đã chấp nhận, và rồi các tông đồ đã thực hiện điều đó.
Qua cách giải quyết của các tông đồ, người ta nhận ra một tiêu chuẩn rõ ràng: việc phục vụ Lời Chúa phải là ưu tiên một đối với trách vụ tông đồ. Nhu cầu vật chất là quan trọng và không thể bỏ, nhưng nhu cầu tinh thần phải được đặt ưu tiên hơn. Đây cũng là một tiêu chuẩn mà mỗi người phải giữ trong việc chọn lựa ưu tiên để phục vụ và sống trong Hội Thánh.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Đức Yêsu giúp bạn biết gì về Thiên Chúa hơn?
2. Bạn có thất vọng khi thấy Hội Thánh vẫn còn nhiều giới hạn không? Tại sao?
3. Theo bạn, đâu là vấn đề nổi cộm hiện nay của Hội Thánh? Và Hội Thánh phải giải quyết những vấn đề này như thế nào?
------------------------------
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Chúa Giêsu khuyên các Tông đồ: “Các con đừng xao xuyến”. Động từ xao xuyến nói đến một PS 5-A130
Chúa Giêsu khuyên các Tông đồ: “Các con đừng xao xuyến”. Động từ xao xuyến nói đến một tình cảm rung động mạnh và kéo dài không dứt trong lòng. Như vậy, băn khoăn xao xuyến là một cái gì đụng đến trái tim, là phần sâu thẳm nhất trong thâm tâm của con người. Hôm nay, các môn đệ đã xao xuyến khi các ông được nghe biết về sự phản bội của Giuđa, về sự chối bỏ của Phêrô, về cái chết gần kề của Thầy minh. Những biến cố kinh hoàng này đã ảnh hưởng đến đời sống các ông, phá vỡ những gì các ông đã xây dựng, đã vun trồng và ước mơ vì phải xa cách Thầy, phải đương đầu với một thế gian thù nghịch, với những hiểm nguy về tính mình sẽ xảy đến… tất cả những điều ấy đã làm cho các ông phải xao xuyến.
Không phải chỉ các môn đệ mới lo lắng và xao xuyến, mà chính Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần lâm vào một hoàn cảnh như thế. Ngài đã từng xao xuyến khi thấy Maria và những người Do Thái khóc nức nở bên nấm mồ Lagiarô. Ngài đã xao xuyến khi thấy giờ Ngài được tôn vinh qua đau khổ và cái chết đã đến, nên Ngài đã nói và cầu nguyện: “Giờ đây, tâm hồn Thầy xao xuyến, Thầy biết nói gì. Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến”. Rồi Ngài đã xao xuyến khi loan báo về việc phản bội của một người môn đệ là Giuđa và Phêrô chối Thầy…Như thế, Chúa Giêsu không phải là một con người sắt đá, hay đã tôi luyện cho mình một thái độ vô cảm trước những nỗi đau của bản thân và của người khác. Trái lại, Ngài cũng có một trái tim như chúng ta. Và trái tim ấy cũng đã thổn thức, xót thương, lo lắng và xao xuyến trước hoàn cảnh bi đát của con người. Vì thế, Ngài rất hiểu và cảm thông với con người chúng ta. Xao xuyến và băn khoăn là một tâm trạng bình thường, đó không phải là một tội, nếu nó không đưa chúng ta đến chỗ sợ hãi mà bỏ cuộc, không chu toàn thánh ý Chúa. Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu cũng đã băn khoăn lo lắng, nhưng Ngài đã vượt thắng những băn khoăn lo lắng ấy, Ngài đã can đảm chấp nhận vác thập giá, không lùi bước trước khổ đau và hiểm nguy. Và Ngài đã toàn thắng phục sinh vinh hiển.
Chúng ta nhìn vào thế giới và trái đất hôm nay có những biến cố sự kiện xảy ra thật khủng khiếp kinh hoàng: Dịch bệnh Covid giết người hàng triệu triệu, các lớp băng ở Bắc Cực tan thêm bởi thời tiết cực đoan khiến trái đất này đang nóng dần lên, rồi nhiệt độ Trái đất thay đổi nóng lạnh, đột ngột bất thường. Cụ thể ở Việt Nam chúng ta chưa bao giờ thấy cảnh người niềm Tây đi mua từng thùng nước để uống, dự báo niềm trung năm nay nóng chưa bao giờ có trong vòng hơn 40 năm nay… Về phương diện con người, con người đã dùng vũ khí sinh học giết người hàng loạt để hủy diệt nhau, rồi phá thai tự do lan tràn, tệ nạn xã hội ngày càng diễn biến phức tạp…
Trái đất và con người đang như thế, lời Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: "Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy " (Ga 14,1). Tại sao Chúa Giêsu nói những lời ấy? Thưa là vì trước sự ra đi sắp đến của Người, đã làm cho các môn đệ cảm thấy bất an. Các ông lo cho chính mình, sợ bị bỏ rơi, phải sống cô đơn, sợ chết… và bằng một lời hứa Chúa Giêsu nâng đỡ các ông: "Thầy đi để dọn chỗ cho các con"(Ga 14, 2), và sau đó "Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó "(Ga 14,2-3). Qua thánh Tôma, các Tông đồ đáp lại lời trấn an của Chúa Giêsu: "Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?"(Ga 14, 5). Câu trả lời của Chúa Giêsu làm ánh sáng rõ ràng cho bao thế hệ con người và cho chúng ta hôm nay: "Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy"(Ga 14,6). "Chỗ" mà Chúa Giêsu ra đi để chuẩn bị, là ở nơi "nhà Cha"; ở đó, người môn đệ sẽ có thể được sống đời đời với Thầy mình, và tham dự vào niềm vui của Người. Tuy nhiên, để đạt đến chỗ này, thì chỉ có một đường đến mà thôi: đó là Chúa Kitô, là Ðấng mà người môn đệ phải từ từ đồng hóa chính mình với Đức Kitô tức là không phải người Kitô sống, nhưng Chúa Kitô sống trong chúng ta (x. Gal 2,20).
Thử hỏi làm sao chúng ta không xao xuyến trước thế giới, vũ trụ và cuộc sống của chúng ta quá nhiều hiểm nguy đang đe dọa. Chúa Giêsu hôm nay dạy chúng ta không xin cho mình tránh khỏi mọi xao xuyến nhưng dạy chúng ta vượt qua những xao xuyến ấy bằng niềm tin: Lòng các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Chính niềm tin sẽ đem lại cho chúng ta sự bình an. Thực vậy, hiểm nguy vẫn còn đó, khổ đau vẫn còn đó, nhưng chúng ta luôn an tâm vì biết rằng quyền năng và tình thương của Chúa còn lớn hơn mọi sóng gió như muốn nhận chìm con người và cuộc đời chúng ta. Vì vậy, chúng ta hãy siêng năng đọc kinh sáng tối, tham dự Thánh lễ và rước Mình thánh Ngài vào lòng để thờ phượng Ngài, cậy trông Ngài trong mọi hoàn cảnh vì chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới tìm được nguồn an ủi, niềm vui và sự bình an tột đỉnh của tâm hồn. Ước chi lời khuyên của Chúa Giêsu hôm nay thấm nhập vào trong tâm trí chúng ta, như là nguồn mạch của bình an, thanh thản và niềm an vui. Còn hạnh phúc nào hơn khi có Thiên Chúa là sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta không bị gục ngã dưới sức nặng của khổ nhọc, của tuyệt vọng và buồn phiền, lo âu xao xuyếng... Xin Mẹ Maria trong tháng hoa này giúp chúng ta chăm chú nhìn lên Thiên Chúa Cha toàn năng để Ngài phù trì nâng đỡ chúng ta. Xin Mẹ hãy nắm tay hướng dẫn và thôi thúc chúng con luôn vững tin vào quyền năng của Chúa như Mẹ. Amen.
----------------------------
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Chúa Giêsu hôm nay nói: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống”. Một câu nói thật PS 5-A131
Chúa Giêsu hôm nay nói: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống”. Một câu nói thật uy hùng, dũng cảm, uy tín mạnh mẽ và chân lý đến nỗi trước Chúa Giêsu và sau Chúa Giêsu không ai dám tuyên bố câu này. Cụ thể, Đức Phật sinh trước Chúa Giêsu, (rằm tháng 4 vừa rồi là kỷ niệm Đức Phật sinh ra được 2561PL năm – Còn Chúa Giêsu mình được 2017), ấy thế mà Đức Phật tự xác nhận Ngài là Đấng đã đạt đến giác ngộ. Còn ông Socrate một triết gia lỗi lạc sinh 469 TCN, cũng trước Chúa Giêsu xa, ấy thế mà ông vẫn rất bình tỉnh vui cười bưng chén thuốc độc uống cạn, chấp nhận cái chết để bảo vệ chân lý, rất giống cái chết của Chúa Giêsu nhưng Socrate không bao giờ dám nói như Chúa Giêsu: “Ta là đường là sự thật và là sự sống và ai thấy Tôi là thấy Chúa”. Vâng, chỉ có mình Chúa Giêsu mới có thể nói: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống”. Như vậy, duy chỉ có Chúa Giêsu là con đường đến với Chúa Cha, con đường cứu độ duy nhất và ai đi con này này sẽ đến cùng đích trong vinh quang với Ngài. Chính vì vậy, Chúa Giêsu là Đấng duy nhất cho mình biết về Thiên Chúa đích thực là ai, tâm tư Ngài như thế nào. Vì vậy, Ngài là Người duy nhất cho mình sự thật về con người: nguồn gốc, cùng đích của đời người, vì con người là hình ảnh về Thiên Chúa. Cho nên, đối với người Kitô Giáo, Chúa Giêsu là đường là sự thật và là sự sống. Khi tuyên xưng và nhìn nhận như thế, chúng ta phải đặt bàn chân của mình lên con đường đó.
Trước hết, Chúa Giêus là đường sự thật và chân lý sống động, làm tiêu chuẩn hướng dẫn cho mọi cuộc đời ở chỗ nào? Thưa, đường chân lý ấy, không phải là một mớ những tín điều, những sự phải tin, nhưng là toàn thể cuộc sống của Chúa Giêsu, từ tư tưởng cho đến lời nói và việc làm. Tất cả đều hướng tới chân trời cứu độ. Sự thật là thế này: Chúa Cha đã dùng quyền năng Chúa Thánh Thần cho Ngôi Hai "nhập thể trong lòng Trinh nữ Ma- ri- a và đã làm người". Chúa Giêsu sinh tại hang Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hê-rô đê, cha nuôi là Thánh Giuse thuộc con cháu dòng dõi Đa-vít, làm nghề thợ mộc, mẹ là Ma-ri-a lo việc nội trợ. Đến năm trạc 30 tuổi Chúa Giêsu rời khỏi gia đình, khởi sự đi rao giảng Tin mừng và thực hiện ơn cứu độ. Sau khi Đức Chúa Giêsu chịu phép rửa, được Thánh Thần dẫn vào trong sa mạc, ăn chay, cầu nguyện 40 đêm ngày, chịu ma quỷ cám dỗ. Sau đó, Đức Giêsu trở về miền Ga-li-lê và bắt đầu giảng dạy trong các hội đường của họ, dùng những ngụ ngôn giảng dạy và được mọi người tôn vinh. Người đã dùng quyền năng của mình đi rao giảng khắp nơi và chữa lành cho nhiều người bị quỷ ám, đau yếu, bị phong hủi, bại liệt được lành bệnh, kẻ điếc được nghe, kẻ mù được thấy, kẻ câm nói được, kẻ què được đi và kẻ chết sống lại. Chúa Giêsu thiết lập Hội Thánh để ban ơn cứu độ cho loài người bằng việc chọn và thiết lập Mười Hai người lại làm Tông Đồ, huấn luyện và ban cho các ông năng lực và quyền phép để trừ mọi thứ ma quỷ và chữa các bệnh tật. Chúa đã đặt Phêrô làm đầu, chính công Đoàn này là hạt nhân làm phát triển Hội Thánh Người sai các ông đi rao giảng nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân khắp mọi nơi. Chúa Giêsu đã làm nhiều phép lạ để chứng minh sứ mệnh của Người, Người phải chịu nhiều đau khổ và phải chết để cứu độ hết mọi người. Vì thế, trong bữu ăn tối Vượt Qua với các Tông đồ, Chúa Giêsu hoá bánh và rượu trở thành Mình và Máu Người cách nhiệm mầu để ở lại với họ và những người Chúa yêu trong mọi thời đại. Chúa còn rửa chân cho các môn đệ để dạy họ bài học yêu thương phục vụ. Lúc đêm khuya, Chúa vào vườn Cây Dầu cầu nguyện. Giuđa, một trong12 môn đệ đã phản bội vì tham tiền, ông dùng cái hôn tình nghĩa để chỉ điểm cho lính bắt Chúa. Chúa bị Philato kết án tử hình. Chúa bị trao cho các lý hình, chúng đánh đập, nhạo báng, ấn vòng gai lên đầu Người như mũ triều thiên,bắt Người vác thập giá lên Núi Sọ. Vào giờ trưa chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với 2 tên trộm cướp. Người đã tắt thở vì cực hình tàn bạo ấy lúc 3 giờ. Chập tối, ông Nicôđêmô đến xin Philato cho tháo xác Người, xác Người được mai táng trong mồ, còn linh hồn thì xuống ngục tổ tông để loan báo Tin Mừng cứu độ cho những người công chính đã chết trước khi Người đến. Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định ngày thứ ba Người đã sống lại như Người đã báo trước. Sau khi sống lại, Chúa Giêsu còn hiện ra dạy dỗ, an ủi các môn đệ trong 40 ngày, sai các ông đi rao giảng Tin Mừng rồi Người lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Rồi Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Vì vậy, sự sống lại của Chúa Giêsu là mở lối cho chúng ta bước vào sự sống mới đồng thời là khơi nguồn và bảo đảm sự sống lại sau này của chúng ta. Sự thật là thế!
Cho nên, Chúa Giêsu là đường sự sống dĩ nhiên bởi vì Ngài là nguồn phát sinh mọi sự sống tự nhiên cũng như siêu nhiên: Sự sống phần xác trong công trình tạo dựng, cũng như sự sống phần hồn trong công trình cứu chuộc. Ngài đã chết để mọi người được sống và Ngài đã sống lại để mãi mãi mở ra một con đường dẫn vào cõi sống vĩnh cửu. Sự sống vật chất một ngày nào đó sẽ tan biến, nhưng sự sống mà Ngài trao ban sẽ là một sự sống trường tồn bất diệt. Chính vì thế mà chúng ta thường kết thúc lời cầu nguyện bằng câu: “Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời”.
Với kinh tế thị trường và lòng tham sân si trong con người hôm nay như cơn lốc xoáy nó xô đẩy làm chúng ta lao mình đi tới mà chẳng biết đường biết hướng ở đâu. Chúa là con đường nhưng vật chất, tài, tiền danh vọng lạc thú làm chủ tốc độ, nó dẫn chúng ta đi nhiều khi ta tưởng đó là đúng mục đích nhưng thực ra chúng ta đi đến tội lỗi và chết chóc. Là Kitô hữu, tức những người thuộc về Chúa Giêsu Kitô, chúng ta luôn môi miệng tuyên xưng Chúa là con đường con con bước đi nhưng thực tế trong cuộc sống chúng mình đặt bàn chân của mình lên con đường đó, con đường Chúa Giêsu đi ngày xưa không? Cụ thế, chúng ta dám đặt bàn chân mình vào con đường của những Lời dạy Phúc Âm: Tám Mối Phúc Thật, 10 điều răn Đức Chúa Trời... Chúng ta thử đặt khung cảnh lúc Chúa Giêsu nói: Ta là đường.... Ai thấy Tôi là... lúc đó là bữa tiệc ly, Chúa Giêsu chuẩn bị bước vào đường thương khó, đến đồi Gôngôta. Vậy lúc đó Ngài nói Ngài là con đường, đường nào? Đường dẫn đến cái chết. Ngài là sự thật nào? Sự thật phũ phàng của một con người chịu đóng đinh. Ngài là sự sống nào? Cái chết trên thập giá. Cho nên, chính vì thế mà chúng ta không dám đặt bàn chân mình trên con đường của Phúc âm. Vì sao chúng ta không dám bước đi con đường Giêsu vì thiếu tình yêu, niềm tin, can đảm, nghị lực và không muốn bỏ mình. Vì thế, chỉ con đường Phúc âm, con đường Giêsu mới dẫn chúng ta tới địa chỉ Nhà Cha và ngược lại, muốn đến nhà Cha thì phải đi trên con đường Giêsu. Có nghĩa là muốn được bước vào quê hương Nước Trời, chúng ta phải thực thi và sống Lời Chúa dạy đó là: yêu thương, tha thứ, phục vụ, hy sinh, hiền hậu, nhân từ như Chúa Giêsu.
Vì vậy, giờ này mời anh chị em cùng đứng lên và hát bài Thánh ca này như một lời cầu nguyện của chúng ta với Chúa hôm nay rằng: “Xin chỉ cho con (Xin chỉ cho con) đường đi của Chúa (đường đi của Chúa). Xin dạy bảo con (Xin dạy bảo con) nước bước của Ngài (nước bước của Ngài). Xin hướng dẫn con trong chân lý, xin dạy bảo con những điều cao quý, vì Chúa là Đấng cứu độ con. Là Đấng ngày đêm con cậy trông.
1. Tất cả nẻo đường Chúa là tình yêu và chân lý, dành cho những ai giữ trọn minh ước. Điều răn Chúa ra nghiêm chỉnh thực thi.
2. Xin mở lượng từ bi từ ngàn xưa Ngài vẫn có, mà quên hết những lỗi lầm con mắc. Hồi niên thiếu vươn lên trong dại khờ.
3. Xin đừng để kẻ hại con ngày nào reo mừng chiến thắng, thẹn thay khốn thay cho bọn thất tín. Làm sao thoát tay Thiên Chúa toàn năng.
--------------------------------
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Đoạn Tin Mừng chúng ta suy nghĩ hôm nay là một trong những đoạn quan trọng nhất và mang PS 5-A132
Đoạn Tin Mừng chúng ta suy nghĩ hôm nay là một trong những đoạn quan trọng nhất và mang đậm nhiều vấn đề thiết yếu. Đây là một đoạn trong diễn từ vĩnh biệt, trong bữa Tiệc Ly, trong đó Chúa Giêsu như trút hết tâm sự cho các môn đệ của Ngài, đồng thời Ngài cho biết hướng đi sau này các ông phải theo.
“Anh em đừng xao xuyến”. Không xao xuyến sao được khi Thầy nói rằng một người trong anh em sẽ nộp Thầy? Rồi Ngài lại nói thêm: “Thầy sẽ ra đi”. Mấy năm sống bên Thầy, Thầy là tất cả. Bây giờ Thầy lại ra đi. Đi đâu? Thầy đi dọn chỗ cho anh em? Đây chỉ là một cách nói điển hình cho dễ hiểu. Trong thế giới tâm linh thì không thể có chỗ ngồi hay đứng. Nhà Cha Thầy không là một tòa nhà xây bằng gạch đá, mà là chính Cha, Tình Yêu của Cha. Trái tim Cha rộng đến nỗi có thể cho mọi người một chỗ. Cha không từ chối ai cả, chỉ có những người con của sự hư mất mà thôi, những người không chấp nhận ân ban nhưng không của Cha.
Thầy dọn chỗ, tức là Thầy đi trước, Thầy lo tất cả, chúng ta chỉ cần chấp nhận bước theo. Thầy sẽ đến và đưa anh em đến với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Thầy đi đâu, anh em đã biết đường rồi. Những lời Thầy nói hình như có ẩn ý gì, không rõ rệt. Tôma, người đã tuyên xưng đức tin lại thắc mắc: “Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường?”
Nhờ những thắc mắc của các môn đệ, Chúa Giêsu mạc khải rõ nét hơn về khuôn mặt của Ngài. Và đây là những nét hết sức quan trọng đối với chúng ta.
Anh em không biết đường? Thầy chính là đường, là sự thật và là sự sống. Đây là một lời tuyên bố thật mạnh mẽ. Thầy là đường, phải đi trong Thầy mới có thể đến với Cha. Không có con đường nào khác. Từ xưa đến nay, biết bao người đã dẫn đường cho nhân loại, nhưng không có con đường nào dẫn đến sự sống cả, nhiều chủ nghĩa đã dẫn con người đến chết chóc và khốn khổ. Nhân loại vẫn tìm đường để đạt đến hạnh phúc, nhưng hình như không có con đường nào cả. Công Đồng Vatican II đã xác quyết: chỉ có Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người mới là con đường duy nhất dẫn đến hạnh phúc mà thôi. Người ta đã tạo ra đủ các thứ tổ chức để ngăn chặn những tranh chấp nhưng thế giới vẫn đầy đe dọa. Các nước vẫn chống đối nhau và nguy cơ một thế chiến thứ ba vẫn đang là một ám ảnh cho con người hôm nay, vì không có Chúa Giêsu, thì không thể có gì tốt đẹp, chỉ có tranh chấp và hận thù.
Chúa Giêsu là Tình Yêu nhập thể, không thể có con đường nào khác ngoài con đường mang tên Giêsu Tình Yêu. Càng loại trừ Thiên Chúa, con người càng lún sâu vào khốn khổ mà thôi, vì chỉ có Tình Yêu của Chúa mới giải thoát chúng ta ra khỏi ngục tù của tham lam và gian ác.
Chúa Giêsu cũng là sự thật. Philatô hất hàm hỏi Chúa: “Sự thật là gì?” rồi bỏ đi. Đó là thái độ của nhiều người hôm nay. Họ không quan tâm đến những vấn đề tinh thần, chỉ cần vật chất. Linh mục Jean Sulivan đã nói: “Thời này là thời trâu bò… Người ta chỉ sống cho cái xác”. Không cần sự thật, không cần hạnh phúc. Chúa Giêsu mang đến cho chúng ta hạnh phúc bất diệt, hạnh phúc đó chính là sống trong sự thật. Chính Chúa đã nói: “Sự thật giải thoát các ngươi”. Chúng ta chỉ hạnh phúc khi chúng ta không bị ràng buộc trong tội ác, hoàn toàn tự do. Muốn thế phải sống trong sự thật, là sống trong Chúa. Chỉ những người có đức tin mới biết sự thật là gì. Vì chỉ có Chúa mới là sự thật. Hãy cám ơn Chúa vì đã ban cho chúng ta đức tin. Nhờ đức tin chúng ta mới thấy cuộc sống có ý nghĩa. Chúng ta không chỉ sống bằng cơm bánh mà bằng niềm tin vì chỉ có Ngài mới có những lời ban sự sống đời đời.
Chúa Giêsu lại là sự sống. Chúng ta đã chết trong tội, như thánh Phaolô đã nói, nhưng Chúa đến tiêu diệt sự chết và khôi phục sự sống cho chúng ta. Rất nhiều người không biết đến sự sống thật mà chỉ biết sự sống thể xác. Chúng ta là những người có phúc vì đã được biết sự sống đời đời là gì: “Sự sống đời đời chính là nhận biết Cha và Đấng Người sai đến”. Chúng ta đang sống trong Chúa Kitô, chúng ta đang hưởng hồng ân đức tin nhờ được thanh tẩy trong Chúa Kitô. Cám tạ ơn Chúa vì đã cho chúng ta hồng ân tuyệt diệu là biết Cha, yêu mến Cha. Cha là nguồn tình yêu, là lòng từ nhân.
Nhưng chúng ta có yêu mến Cha không? Không mấy khi chúng ta nghĩ đến Cha trên trời, nhưng chính Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta con đường đến với Cha, chính là Ngài. Philipphê thắc mắc: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. Chúa nói rõ cho Philipphê biết Ngài là ai và Cha là ai. “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha… Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?” Đây chính là một mạc khải quan trọng. Chúa Giêsu cho chúng ta thấy, Chúa Cha và Ngài là một, như Ngài đã nói. Ngài chính là Chúa Cha hiện diện giữa loài người, cụ thể và rõ rệt. Thiên Chúa đến với chúng ta, trong thế giới vật chất của chúng ta. Chúng ta có thể đến gần Ngài, chạm lấy Ngài, chiếm hữu lấy Ngài như thánh Gioan đã nói: “Điều vẫn có từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến… chúng tôi loan báo cho anh em.”
Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Người Con Một. Người Con Một ấy lại thuộc về thế gian, và chúng ta chiếm hữu Thiên Chúa. Ngài đến không phải để lên án mà để cứu vớt. Ngài đến như một tình thương rộng mở đón tiếp và ban bố ơn lành. Chúng ta có thấy được hạnh phúc của chúng ta không? Hạnh phúc đó chính là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, và Thiên Chúa chính là hạnh phúc thật, hạnh phúc vĩnh cửu. “Nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở” là như thế. Mọi người đều được mời gọi vào tình yêu của Cha.
Sự hiệp nhất toàn vẹn giữa Chúa Cha và Chúa Con lan tỏa đến mỗi người chúng ta. Thầy với Cha là một, Cha ở trong Thầy và Thầy ở trong Cha… thì chúng ta cũng phải như thế. Chúng ta cũng phải nên một như Chúa Cha và Chúa Con. Chính Ngài đã cầu xin như thế: “…để tất cả nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để họ cũng ở trong chúng ta”. Sự hiệp nhất trong tình yêu là một bằng chứng cụ thể về Thiên Chúa. Sở dĩ thế gian không tin nhận Chúa là vì chúng ta chưa có một bằng chứng cụ thể về Chúa, chúng ta không hiệp nhất.
Hơn nữa, Chúa Giêsu còn muốn chúng ta trở thành chính hiện thân của Ngài giữa thế gian: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”. Ngài cũng muốn người ta thấy Ngài nơi mỗi người chúng ta, để ai thấy chúng ta là thấy Ngài. Các thánh đã làm được. Người ta đã nhìn thấy Chúa nơi các ngài. Chúng ta nghĩ sao? Chúng ta là hiện thân của ai? Của kiêu căng, hận thù hay của tình yêu?
Hãy đến ăn lấy Ngài để nên một với Ngài, không phải chỉ trong ước muốn mà trong thực tế của mỗi ngày. Trong hy sinh bỏ mình vì anh em, trong phục vụ chân thành không tránh né: “Ai ăn Thịt và uống Máu Thầy, người ấy ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy”.
----------------------------------
(Suy niệm của JB Lê Ngọc Dũng)
Lý trí và sự sống con người chúng ta đòi biết và biết đúng sự thật. Đi chợ, đòi phải mua hàng đúng PS 5-A133
Lý trí và sự sống con người chúng ta đòi biết và biết đúng sự thật. Đi chợ, đòi phải mua hàng đúng, hàng thật. Nghe một thông tin, cũng phải xem xét có đáng tin không.
Tuy nhiên, cùng với ý muốn biết đúng sự thật, chúng ta có dám sống sự thật không? Thường thì, ta muốn biết đúng sự thật nhưng lại không dám sống sự thật. Đó chính là vấn đề ngang trái của con người chúng ta.
Chúa Giêsu hôm nay nói: “Thầy là Đường là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6).
Ngài là Sự Thật và đã sống Sự Thật vậy ta có dám sống sự thật như Ngài không?
Sống theo sự thật thì phải chấp nhận chịu mất mát hy sinh, thua thiệt. “Thật thà thì thua thiệt”. Đó là một chân lý của cuộc sống.
Có thể có nhiều người giống như Philatô hỏi Đức Giêsu: “Sự thật là chi?” (Ga 18,38). Philatô hỏi nhưng lại không muốn nghe câu trả lời. Bởi vì ông không muốn, không dám chấp nhận sự thật.
Một hôm anh sự thật và anh dối trá gặp nhau tại một ngã ba đường. Hai bên trao đổi nhau về cuộc sống. Anh sự thật thì gương mặt hốc hác, quần áo xốc xếch, bẩn thiểu, tâm sự như sau:
- Cuộc sống của tôi ngày càng bi đát. Đã ba ngày rồi, tôi không có một hạt cơm trong bụng. Nơi nào tôi đến thì tôi cũng như bạn bè đều gặp rắc rối. Nếu cứ như thế này, tôi không biết đi về đâu.
Anh dối trá liền lên lớp với cái nhìn đắc chí:
- Anh đừng than thân trách phận làm gì. Này hãy đi theo tôi, anh sẽ được ăn sung mặc sướng.
Họ dắt nhau vào phòng ăn của một khách sạn sang trọng. Sau khi đã ăn uống no nê, mọi người lui về phòng mình. Tuy nhiên anh dối trả không chịu trả tiền, hắn nài nĩ sự thật ngồi nán lại. Vừa thấy ông chủ khách sạn đi qua, hắn đập bàn và la lớn tiếng:
- Tôi đã trả tiền cho nhân viên lâu lắm rồi, chừng nào các ông mới đem tiền thối lại cho tôi?
Ông chủ liền đi tìm nhân viên để hỏi chuyện. Anh ta cho biết anh chưa hề nhận bất cứ đồng bạc nào. Sau một hồi cải cọ, sự dối trá mới rút tiền ra trả rồi nói lớn:
- Thôi được, tôi trả tiền thêm một lần nữa đây, mang tiền thối lại cho tôi gấp.
Sợ mất mặt và gây tiếng xấu cho khách sạn, ông chủ khách san không nhận tiền và thừa nhận vị khách này đã trả tiền ăn cho khách sạn. Ông chủ tìm người nhân viên hầu bàn để khiển trách. Nhân viên đó thề thốt rằng mình không hề nhận tiền, nhưng chẳng ai chịu tin, anh chỉ biết giơ tay lên trời mà kêu than:
- Hỡi sự thật đáng thương, ngươi còn đó hay chết rồi?
Nghe thế, anh sự thật nhìn nhân viên và cố gắng thét lên;
- Ta vẫn còn sống đây, nhưng đã ba ngày ta không có hạt cơm trong bụng. Giờ đây miệng ta bị lấp đầy, ta không thể nói được nữa. Ngươi phải tự đấu tranh cho mình, lưỡi ta bị cột lại rồi.
Anh sự thật cố gắng nói thật lớn nhưng nhân viên hầu bàn không nghe thấy gì. Khi hai người ra khỏi khách sạn, anh dối trá cười nắc nẻ và nói với anh sự thật:
- Ngươi phục tài ta chưa?
Nhưng anh sự thật trả lời:
- Ta thà chết đói còn hơn là làm điều dối trá như ngươi.
Từ đó hai người vĩnh viễn chia tay nhau.
Sống theo sự thật thì phải chấp nhận chịu mất mát hy sinh, thua thiệt. Đó là một chân lý của cuộc sống.
Đức Giêsu tuyên bố với các môn đệ rằng: “Thầy là Đường là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6). Đồng thời, Ngài cũng mạc khải rằng: “Ai thấy Thầy là thấy Cha”, “Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy” (Ga 14,10). Điều đó có nghĩa là Ngài cho biết Sự Thật: Ngài là Thiên Chúa. Ngài với Thiên Chúa Cha là một. Thế nhưng chính vì sự thật này mà Đức Giêsu phải chịu án tử hình trên thập giá.
Trước toà án người Do Thái, thượng tế Cai Pha hỏi Đức Giêsu: “Tôi nại đến Thiên Chúa hằng sống mà truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: Ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống không?” Đức Giêsu trả lời: “Chính ngài nói đó. Hơn nữa, tôi nói cho các ông hay: Từ nay các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến.” Bấy giờ vị thượng tế liền xé áo mình ra và nói: “Hắn nói phạm thượng! Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Đấy, quý vị vừa nghe hắn nói phạm thượng đến Thiên Chúa, quý vị nghĩ sao?” Họ liền đáp: “Hắn đáng chết” (Mt 26, 63-66).
Như vậy, ngay khi Đấng tuyên bố: “Ta là Sự Thật”, Đấng ấy phải chết. Sự kiện này vẫn cứ xảy ra mãi trong lịch sử con người. Khi cam đảm sống theo sự thật ở trần gian này thì phải chịu mất mát hy sinh. Và cũng chính vì vậy mà ngay khi tuyên bố mình là Đường là Sự Thật thì Chúa Giêsu cũng nói luôn: “là Sự Sống”, để kêu gọi các môn đệ hãy tin vào Ngài.
Sự thật cuối cũng cũng sẽ dành được sự sống sung mãn và vinh quang, sự sống hạnh phúc muôn đời với Thiên Chúa trên Thiên quốc. Sự dối trá lúc đầu, ở trần gian, có thể được sung túc nhưng cũng sẽ sớm bị diệt vong cùng với sự giả trá của trần gian.
Xin Chúa cho chúng ta luôn vững tin rằng ngay khi chúng ta dám chết đi cho Sự Thật thì lúc đó sự sống của Thiên Chúa lại bừng lên trong chúng ta.
------------------------------
GIÊSU - ĐƯỜNG DẪN TỚI CHÂN LÝ VÀ SỰ SỐNG MUÔN ĐỜI
Kính thưa quý cộng đoàn Phụng Vụ!
Chuyện xưa kể rằng: ‘một hôm Đức Phật dẫn các đồ đệ của Ngài ngắm trăng rằm đang treo lơ PS 5-A134
Chuyện xưa kể rằng: ‘một hôm Đức Phật dẫn các đồ đệ của Ngài ngắm trăng rằm đang treo lơ lửng xa xa ngoài chùa; Ngài chỉ tay lên mặt trăng và hỏi các đồ đệ: Các con có nhìn thấy gì chăng? Liền tức thời, các môn đệ không ngần ngại đáp: dạ, chúng con nhìn thấy mặt trăng to tròn! Nghe thế, Đức Phật liền nói: Ta chẳng phải là ánh trăng kia, nhưng ta chỉ là một ngón tay chỉ cho các con hướng nhìn về ánh sáng tuyệt diệu đó mà thôi!’ Thật sự, nhìn lại các nhà sáng lập tôn giáo trên thế giới, chưa một vị nào dám khẳng định: họ chính là đường, là sự thật và là sự sống, ngoài Đức Ki-tô là Thiên Chúa xuống thế làm người, chịu khổ nạn, chịu chết và phục sinh như lời Người đã phán hứa cả. Cũng trong niềm vui Phục Sinh nối tiếp trong đời sống của mỗi chúng ta, một lần nữa, Chúa Giê-su muốn chúng ta hãy xác tín vào Người như Người đã từng dạy dỗ các Thánh Tông Đồ, đặc biệt ông Tô-ma và Phi-lip-phê trong đoạn Tin Mừng hôm nay “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (x. Ga 14, 6), và “Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư, Phi-lip-phê? Ai thấy Thầy là xem thấy Cha” (x. Ga 14, 9).
Chúa Giê-su trước khi từ giã, Người đã dặn dò với các Tông Đồ yêu dấu “lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy…Thầy đi để dọn chỗ cho các con…Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng ở đó” (x. Ga 14, 1-3). Lời căn dặn tha thiết trìu mến này luôn vang vọng trong đời sống đức tin, cầu nguyện của mỗi người chúng ta, đặc biệt những lúc chúng ta thất vọng, đối diện với đau khổ, tâm hồn xuyến xao, đối mặt với vấn nạn cuộc đời, v.v…Những lúc chúng ta nghĩ Thiên Chúa đang bỏ mặc, xa lìa chúng ta, ‘Thiên Chúa đi vắng, Thiên Chúa ngoảnh mặt làm ngơ, không đoái hoài đến nỗi niềm thổn thức, ưu tư lo lắng của chúng ta!’, nhưng chính thời khắc ấy, lời Người vang vọng trong tâm hồn chúng ta đó “…hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (x. Ga 14, 1). Vì chính Chúa Giê-su là chân lý, là sự sống viên mãn. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, là sự sống muôn đời như chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính của Công Đồng Nicea-Constantinople. Và vì Người là nguồn mạch chân lý, và sự sống vĩnh hằng, nên chỉ duy mình Người có khả năng dẫn dắt, vạch đường chỉ lối cho chúng ta đến cùng Chân Lý và Sự Sống ấy. Hơn nữa, không những là người ‘quân sư’ chỉ lối, mà Người chính là ‘đường dẫn tới sự thật và sự sống viên mãn’ ấy. Cuộc đời chúng ta có rất nhiều đường, vô số ngã rẽ, những đoạn đường quanh co dẫn ta đến thú vui, hạnh phúc chóng qua, thành quả phút chốc nhưng bị diệt vong đời đời!
Cuộc sống chúng ta không luôn luôn là những thảm hoa hồng trải dài, lót chân ta đi trên đường phẳng phiu, tươi đẹp! Tương tự, trong mối tương quan xã hội, cộng đoàn, giáo xứ, gia đình, giữa người với nhau, giữa người với môi sinh xung quanh, chẳng phải lúc nào cũng suông sẻ, ‘thuyền êm trôi, xuôi mái chèo’, mà thiết nghĩ, những lúc này, thời khắc ấy, chúng ta có nhận ra Chúa Giê-su đang ‘trải rộng’ đường cho ta bước đến chân lý và sự sống, hay chúng ta lơ đễnh bước trên con đường ‘thảm đỏ’ của trần gian, của thú vui, của thói quen ươn hèn, biếng nhác dẫn đến chỗ diệt vong? Những lúc mất phương hướng trong đời, bị ruồng bỏ, bị thờ ơ, bị lãng quên, bị lạc lõng và lạc lối, chúng ta có tín thác, tin tưởng, quay về với Chúa Giê-su - chính là đường dẫn đưa chúng ta đến Chân Lý và Sự Sống vĩnh cửu, hay chúng ta cứ ương ngạnh trong cái tôi to tướng, nhỏ nhen, thói đời đi ngược với lời Chúa và giáo huấn của Giáo hội?
Vì vậy, để lòng chúng ta luôn thức tỉnh, nến Đức tin chúng ta luôn cháy sáng, ta hãy xác tín ơn gọi của mỗi chúng ta, đặc biệt trong xã hội hôm nay, như Thánh Phê-rô đã nhắc nhở giáo đoàn: “Anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế, vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để rao giảng quyền năng của Đấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người” (1Pr 2, 9). Chúng ta được Thiên Chúa ban tất cả đặc sủng này không phải bởi vì chúng ta xứng đáng lãnh nhận, cũng chẳng phải vì chúng ta có công trạng trước mặt Chúa; nhưng đơn giản chỉ vì lòng lân tuất, tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta mà thôi. Chính nhờ lòng thương xót vô bờ bến ấy, mà mỗi người chúng ta được Thiên Chúa tuyển chọn, được thông phần vào sứ vụ thờ phượng (tư tế), rao truyền và làm chứng (tiên tri), xây dựng tình hiệp nhất (vương giả).
Mỗi lúc nhớ lại, khi chúng ta được rửa tội nhờ bởi Thánh danh Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta cũng được tháp nhập, tham dự vào 3 sứ mạng: tư tế (phụng tự, cầu nguyện, tham dự các Bí tích), tiên tri (giảng dạy, rao truyền, chứng tá) và vương đế (đóng góp, xây dựng cộng đoàn trong tình hiệp nhất, hiệp thông). Và sứ vụ này được thể hiện một cách rõ nét từ thời Giáo hội sơ khai (thời các Tông đồ) như sách Công Vụ Tông Đồ đã thuật lại một cách sống động, rõ nét: “Vậy thưa anh em, anh em hãy chọn lấy bảy người trong anh em có tiếng tốt, đầy Thánh Thần và khôn ngoan, để chúng tôi đặt họ làm việc đó. Còn chúng tôi, thì sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ lời Chúa” (Cv 6, 3-4) Bảy ứng viên trong cộng đoàn được chọn để hỗ trợ, phụ giúp các Thánh Tông Đồ, phục vụ cộng đoàn; và nhờ đó “Lời Chúa lan tràn, số môn đồ ở Giê-ru-sa-lem gia tăng rất nhiều…đám đông tư tế vâng phục đức tin” (Cv 6, 7).
Noi gương cộng đoàn Giáo hội tiên khởi, chúng ta hãy nhìn lại cung cách phục vụ, tinh thần xả thân, cộng tác với các chủ chiên, các linh mục trong việc mục vụ-làm chứng-rao truyền như thế nào? Là dân được Thiên Chúa tuyển chọn, đặt Chúa Ki-tô Phục Sinh làm trung tâm đời sống, tất cả mọi sinh hoạt của chúng ta chưa? Hay thay vì Chúa Ki-tô Phục Sinh là trung tâm, thì chúng ta lại muốn mọi người khác phải quay tròn quanh ta, muốn mọi người phải làm hài lòng cái tôi của ta? Chúng ta cùng dành ít phút thầm thỉ trong lòng, thưa chuyện với Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh - là trung tâm đời sống của ta, của cộng đoàn, của gia đình ta. Người chính là đường dẫn đến sự thật và sự sống muôn đời:
Giê-su yêu dấu của lòng con
Dang đôi tay thương đón con thơ
Dẫu chông gai, mịt mờ tăm tối
Đưa con về đường lối trường sinh. Amen!
-----------------------------
(Suy niệm của Lm Gioan Phan Tiến Dũng)
TĐCV thuật lại việc những người tin vào Chúa gia tăng, vì lẽ đó mà nhóm 12 không có thể PS 5-A135
TĐCV thuật lại việc những người tin vào Chúa gia tăng, vì lẽ đó mà nhóm 12 không có thể nào lo lắng cách chu đáo cho các tín hữu. Qua lời cầu nguyện và ơn của Thánh Thần, các Tông đồ đã tuyển chọn thêm 7 người, các Ngài đặt tay xin ơn Chúa và chúc lành, để những người này từ đây cùng với các Ngài, trở thành những người cộng tác mà phục vụ anh chị em mình. Vì sứ vụ chính yếu của các Tông đồ đó là rao giảng Lời Chúa. Còn nơi bảy người được chọn này, họ là những cộng sự viên tiếp nối sứ vụ và truyền thống phục vụ -bác ái của các Tông đồ. Ơn quan phòng của Chúa và Thánh Thần này vẫn tuôn chảy đến với chúng ta cho đến ngày nay qua các vị Mục tử và những người cộng tác với các Ngài. Qua đó, chúng ta nhận ra rằng chính Thiên Chúa luôn là Đấng luôn yêu thương, quan tâm, chăm sóc cho chúng ta, qua việc Ngài gởi đến cho chúng ta những vị Mục tử kế tiếp nhau để thay mặt Ngài mà ban ơn giúp sức cho chúng ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
Trong Thư thứ nhất của Phêrô, Ngài đã nhắc lại chính ơn tuyển chọn cách đặc biệt của Thiên Chúa dành cho chúng ta. “Chức vụ tư tế thánh thiện để hiến dâng của lễ lên Thiên Chúa Cha” ơn này được trao ban không phải vì tài sức, công trạng của chúng ta, mà hoàn toàn là do tình thương và ân sủng của Thiên Chúa qua sự vâng phục và tự hiến của Chúa Giêsu. Đúng ra, chỉ có Chúa Giêsu là vị Thượng tế-Đấng dâng của lễ hiến tế mà thôi, nhưng vì yêu thương Chúa đã chia sẻ để cho chúng ta được thông phần, cộng tác với Ngài trong ơn thiêng này. Vậy ai là người được Chúa tuyển chọn? Tất cả chúng ta, những ai tin và chấp nhận Chúa Giêsu là Chúa của chúng ta. Qua lời dạy này của Phêrô, chúng ta thấy thánh ý nhiệm mầu và đầy quan phòng yêu thương mà Chúa Giêsu đã quan tâm lo lắng cho đoàn chiên mà Chúa Cha trao phó cho Ngài.
Tất cả ý nghĩa của lời rao giảng và huấn lệnh của các Tông đồ trong bài đọc một và hai là sự ứng nghiệm và kết tinh trong Tin mừng hôm nay. Chính Chúa Giêsu, đã vì yêu thương lo lắng cho đoàn chiên cùng những người mà Ngài sai đi nhân danh Ngài trước khi Ngài hoàn tất sứ vụ ở trần gian và trở về cùng Chúa Cha. “Lòng các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”. Chính Chúa Giêsu đã an ủi, động viên, khích lệ và hứa ban ân sủng cho các môn đệ và những ai tin vào Chúa. Chúa đã đi bước trước là lo lắng cho đoàn chiên của mình. Ở đây chúng ta thấy nơi Thiên Chúa - Người Cha nhân lành; có tấm lòng bao dung quan tâm chăm sóc cho con cái của một người mẹ. “Lòng xót thương của Chúa tồn tại muôn đời” là ở chỗ này. Trong tiếng Do Thái “Rachamim” Lòng Thương xót Chúa, nó bắt nguồn từ chữ “Rechen”- “dạ của người mẹ”, nơi cung lòng-dạ mẹ này, người mẹ cảm nhận được chính mọi sự chuyển động và sự sống của người con; Dạ mẹ, cũng có thể nói là trái tim của người mẹ hằng yêu thương quan tâm chăm sóc cho những người con của mình. Thật vậy, chính Thiên Chúa mời gọi chúng ta luôn tin vào tình yêu của Ngài, hãy chấp nhận Ngài để Ngài bảo bọc, chở che và ban ơn cho chúng ta.
Anh chị em thân mến, trong Tháng Năm-Tháng Hoa kính Đức Mẹ Maria, chúng ta nhận thấy Đức Maria chính là ân sủng mà Chúa đã tiền định và ban cho nhân loại. Qua Mẹ chúng ta được thừa hưởng biết bao nhiêu ơn phúc tuôn đổ từ Chúa cho chúng ta qua sự chuyển cầu của Ngài. Hãy chạy đến với Chúa qua Mẹ Maria, hãy tin vào Chúa với mẫu gương mà Mẹ để lại cho chúng ta; là luôn suy niệm thánh ý Chúa, xin vâng thực thi ý Chúa trong mọi hoàn cảnh. Chắc chắn khi chúng ta cùng với Mẹ để sống Lời Chúa, siêng năng lần chuỗi mân côi; đây chính là phương cách hữu hiệu nhất mà qua đó Chúa sẽ ban ơn cho chúng ta.
Hôm nay cũng là ngày để chúng ta dành mọi sự yêu thương, tôn trọng với lòng biết ơn cho người Mẹ-người đã cưu mang, hạ sinh và nuôi dưỡng chúng ta. Xin Chúa ban ơn chúc phúc cho các người Mẹ của chúng con, xin cho những người Mẹ luôn sống đúng phẩm giá cao quý của mình, là người cộng tác và chuyển thông ơn Chúa cho chúng con. Amen.
------------------------------
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
Người mẹ hiền không bao giờ an tâm khi phải xa lìa con yêu. Mẹ nào cũng muốn ôm ẵm vỗ PS 5-A136
Người mẹ hiền không bao giờ an tâm khi phải xa lìa con yêu. Mẹ nào cũng muốn ôm ẵm vỗ về con thơ, nuôi con bằng dòng sữa tiết ra từ máu thịt mình, âu yếm con bằng những lời êm đềm thân ái, chăm sóc con trong từng chi tiết nhỏ và không bao giờ muốn lìa xa bé bao giờ.
Nếu có việc quan trọng phải xa nhà khá lâu, người mẹ không đành để con ở nhà, e rằng phải quay quắt nhớ con… thế nên, bà phải ẵm con theo mình, dù phải vượt qua muôn dặm đường xa, để mẹ ở đâu thì con cũng ở đó.
Chúa Giê-su cũng gắn bó mật thiết với đoàn con của Ngài như vậy. Ngài muốn Ngài ở đâu thì chúng ta cũng ở đó. Ngài mong muốn sống cùng, sống với… đoàn con thân yêu mọi lúc, mọi nơi. Ước vọng “ở với, ở cùng, ở lại…” với chúng ta được Chúa Giê-su bày tỏ nhiều lần qua Tin mừng.
- Khi cầu nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha, con muốn rằng Con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho Con cũng ở đó với Con…[1]”, Chúa Giê-su tỏ cho thấy Ngài muốn sống gắn bó mật thiết với đoàn con mà Chúa Cha đã trao cho Ngài.
- Khi sắp từ giã các môn đệ để nộp mình chịu tử nạn, Chúa Giê-su an ủi các ông rằng: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở … Thầy đi dọn chỗ cho anh em…. Thầy sẽ lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. (Ga 14,1-3).
- Rồi khi tạm biệt các môn đệ để về Trời, Chúa Giê-su cũng hứa với các ông: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
- Và để thể hiện lời hứa ở cùng các môn đệ mọi ngày, Chúa Giê-su lập nên bí tích Thánh thể, để tiếp tục ở với, sống với… đoàn con của Ngài trên dương gian. Nơi bí tích cực thánh này, có Chúa Giê-su toàn vẹn, vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật, đang thực sự hiện diện dưới hình tấm bánh[2] để ở với chúng ta và trao ban chính mình Ngài cho chúng ta.
Thế là Chúa Giê-su sống đúng với danh hiệu của mình là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài sống mật thiết với đoàn con như hình với bóng, như mẹ hiền ấp ủ con thơ, luôn luôn gắn bó bền chặt với nhau trong tình thương mến.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa muốn sống gắn bó mật thiết với chúng con, thế mà nhiều lúc trong đời, chúng con không tưởng gì đến Chúa, để mặc Chúa thui thủi một mình trong nhà chầu bé nhỏ với ngọn đèn hắt hiu.
Chúa muốn ấp ủ chúng con như mẹ hiền bồng ẵm con thơ, nhưng chúng con muốn tách lìa xa Chúa để được tự do sống theo đam mê, dục vọng của mình.
Xin cho chúng con đừng bội bạc với tình thương Chúa, nhưng biết sống gắn bó mật thiết với Chúa qua từng phút sống mỗi ngày. Amen.
--------------------------------
(Suy niệm Chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Phục Sinh tập trung đề tài vào Giáo Hội. Cv 6: 1-7 Bài Đọc I PS 5-A137
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Phục Sinh tập trung đề tài vào Giáo Hội.
Cv 6: 1-7
Bài Đọc I, trích từ sách Tông Đồ Công Vụ, cho chúng ta biết rằng Giáo Hội sáng tạo cơ cấu đầu tiên của mình: lập “nhóm Bảy Người” là một hình thức mới của công việc phục vụ.
1Pr 2: 4-9
Thánh Phê-rô viết rằng Giáo Hội đặt nền móng trên viên đá sống động là Đức Giêsu Kitô. Những người Ki-tô hữu cũng là những viên đá sống động, vì họ tiếp tục xây nên Đền Thờ của Chúa Thánh Thần.
Ga 14: 1-12
Tin Mừng hôm nay là phần đầu bài diễn từ cáo biệt của Đức Giêsu với các môn đệ Ngài trong Tiệc Ly. Đức Giêsu giải thích cho họ biết nơi mà Ngài dẫn những người tin vào Ngài đi là nhà Cha của Ngài.
BÀI ĐỌC I (Cv 6: 1-7)
Bài Đọc I tường thuật một giai đoạn quan trọng trong sự phát triển của Giáo Hội tiên khởi: việc lập “nhóm Bảy Người” khác với “nhóm Mười Hai”. Giữa cộng đoàn Giêrusalem, bảy thành viên được chọn nhằm mục đích phụ giúp công việc với các Tông Đồ. Thánh Luca đưa ra hai lý do cho quyết định này: trước tiên, số các tín hữu ngày càng đông khiến cho các Tông đồ không thể nào đảm đương công việc điều hành cộng đoàn được. Thêm nữa, sự bất hòa giữa những “Kitô hữu Do thái bản địa” và những “Kitô hữu Do thái hải ngoại”.
Trong cộng đoàn Giêrusalem, có những Kitô hữu Do thái sinh trưởng ở Paléttin và nói tiếng Aram, và những Kitô hữu Do thái sinh trưởng ở hải ngoại, trở về định cư ở Giêrusalem và nói tiếng Hy-lạp. Ở Giê-ru-sa-lem có những hội đường, ở đó phụng vụ ngày sabát được cử hành bằng tiếng Hylạp, Kinh Thánh được sử dụng là bản Bảy Mươi, bản dịch Hy-ạp. Số người Kitô hữu Do thái hải ngoại này chắc chắn là thiểu số.
1. Mối bất hòa
Chung chung người phụ nữ Do thái lập gia đình rất sớm và thường vẫn còn sống sau khi chồng đã qua đời. Vì thế, số lượng các bà góa có thể là khá đông. Bổn phận giúp đỡ các bà góa phát xuất từ lòng đạo đức truyền thống. Trong việc phân phát lương thực hằng ngày, những cuộc tranh cãi nổi lên giữa các bà góa: các bà góa thuộc khối Do thái hải ngoại nghĩ rằng mình không được quan tâm bằng các bà góa thuộc khối Do thái bản địa. Chính mối bất hòa này tạo cơ hội cho các Tông Đồ siêu thoát những bận lòng vật chất để “chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa”.
2. Việc tuyển chọn Nhóm Bảy Người
Chính cộng đoàn chỉ định bảy người: “Họ chọn các ông… đưa các ông ra và giới thiệu với các Tông Đồ”. Các tiêu chuẩn để chọn lựa nhóm bảy người là “được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan”. Nếu con số “Mười Hai” tượng trưng cho mười hai chi tộc Ít-ra-en (Mc 3: 14) thì con số “Bảy” được ấn định chắc chắn vì tính thánh thiêng và ý nghĩa viên mãn của nó, nhưng cũng có thể vì con số bảy tượng trưng cho bảy dân tộc ngoại giáo ở xứ Ca-na-an (Cv 13: 19). Như vậy, việc thiết lập nhóm Bảy Người nói lên hướng đi mới của Giáo Hội, đã đến lúc Giáo Hội và Tin Mừng Đức Ki-tô không còn bị giới hạn nơi những anh em Do thái, nhưng phải được phổ biến rộng rãi nơi các dân ngoại.
Dường như tất cả bảy cộng tác viên này được chọn giữa khối Ki-tô hữu Do thái hải ngoại, chắc chắn chủ yếu cốt là làm dịu đi sự bất đồng của khối này. Quả thật, tất cả tên của bảy cộng tác viên đều tên Hylạp. Dù thế nào, sự chọn lựa này chứng thực rằng cộng đoàn Giê-ru-sa-lem chấp nhận mở rộng mình ra hơn nữa với thế giới ngôn ngữ và văn hóa Hylạp. Thật đáng chú ý khi mà trong số bảy cộng tác viên, có một người tên là Nicôla quê Antiôkia, gốc dân ngoại, đã theo đạo Do thái, đoạn Kitô giáo. Ông là người Kitô hữu gốc dân ngoại đầu tiên đón nhận thừa tác vụ chính thức trong Giáo hội.
3. Nghi thức đặt tay
“Sau khi cầu nguyện, các Tông đồ đặt tay trên các ông”. Việc đặt tay có nghĩa truyền đạt quyền hành hay phẩm chất đặc biệt. Trong đạo Do thái, nghi thức này đã được thực hành từ xa xưa. Ông Môsê đã đặt tay trên ông Giô-suê và “ông đã được đầy tràn thần khí khôn ngoan” (Đnl 34: 9). Để là thành viên Thượng Hội Đồng, phải được Thượng Tế đặt tay.
Việc đặt tay trên bảy cộng tác viên chứng thực rằng ngay từ đầu người ta thấy trước rằng công việc của họ sẽ không bị giới hạn ở nơi “việc phân phát lương thực hàng ngày”. Quả thật, sau đó vì nhu cầu mục vụ đòi hỏi, bảy cộng tác viên ấy cũng tham dự vào việc phục vụ Lời Chúa như các Tông Đồ; và rồi do hoàn cảnh bách hại, họ chạy trốn ra ngoài xứ Pa-lét-tin và trở thành những nhà truyền giáo đầu tiên.
4. Nhiều tư tế đón nhận đức tin
Thánh Luca không bao giờ quên nhấn mạnh đức tin Kitô giáo phát triển rất nhanh, vì thế thánh ký nêu ra một số lượng lớn các tư tế Do thái đón nhận đức tin Ki-tô giáo. Chi tiết này rất quý báu vì nó giúp cho chúng ta hiểu biết hơn nỗi lo lắng của giáo quyền Giêrusalem và cuộc bách hại sắp giáng xuống trên cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, khởi đi với việc sát hại một trong bảy cộng tác viên là thánh Têphanô.
BÀI ĐỌC II (1Pr 2: 4-9)
Đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phêrô hôm nay, hòa hợp với hai bài đọc khác, nói với chúng ta về Giáo Hội, cơ cấu của Giáo Hội, sứ mạng của Giáo Hội và nền tảng của Giáo Hội là Đức Kitô.
Chúng ta nên nhớ rằng thư này được gởi đến cho những Kitô hữu đang chịu đau khổ, bị vu khống và ít nhiều bị loại bỏ. Vì thế, thánh Tông đồ nhắc họ nhớ rằng đức tin kiên vững đặt nền tảng trên Đức Kitô, “viên đá sống động” bị con người loại bỏ, nhưng được Thiên Chúa chọn.
1. Ẩn dụ của đá
Một mặt, “đá” tự nhiên gợi ra ngay tức khắc yếu tố vững chắc, bền vững trước mắt chúng ta. Vì thế, chẳng có gì phải ngạc nhiên khi thấy phần lớn các dân tộc liên kết đá với việc cúng tế các vong nhân, như niềm hy vọng vào cuộc sống bất diệt. Mặt khác, Đức Kitô được gọi là “viên đá sống động”, chính vì Ngài đã chiến thắng sự chết và phân phát sự sống vô tận. Thêm nữa, đây là hình ảnh mang chiều kích thiên sai mà Kinh Thánh đã nhiều lần gợi lên: viên đá quí giá (Is 28: 16), đá tảng góc tường (Tv 118: 22), phiến đá độc nhất (Dcr 3: 9). Vì thế, “đá” trước tiên phải là Đức Ki-tô, rồi đến chính vị lãnh tụ của Giáo Hội, người mà Đức Giê-su gọi là “Kepha”, nghĩa là “đá tảng”.
2. Viên đá sống động
“Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi đền thờ của Chúa Thánh Thần”, nghĩa là được Chúa Thánh Thần ở cùng, theo kiểu nói của thánh Phao-lô: “Anh em là ngôi nhà Thiên Chúa xây lên” (1Cr 3: 9). Ở đây, chúng ta có thể nhấn mạnh động từ “xây” mà thánh Phêrô sử dụng cũng là động từ mà Đức Kitô sử dụng khi Ngài nói với Phêrô: “Con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy”.
3. Chức tư tế thánh
“Hãy để Người đặt anh em hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Ki-tô”. Bản dịch của nhóm CGKPV này có thể khiến chúng ta nghĩ rằng đây cốt là chức tư tế thừa tác. Trái lại, bản văn này gợi lên chức tư tế của toàn thể Giáo Hội: Chức Tư Tế Cộng Đoàn. Bản TOB dịch chính xác hơn: “Anh em được xây dựng thành ngôi nhà của Chúa Thánh Thần để hình thành nên một cộng đồng tư tế thánh”.
4. Hiến lễ thiêng liêng
“Dâng những hiến lễ thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giê-su Ki-tô”. Cách diễn tả này rất gần với tư tưởng của thánh Phaolô, ví dụ như trong thư gởi tín hữu Rôma: “Tôi khuyên anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12: 1).
5. Lương dân hoán cải và người Do thái cứng lòng tin
Biểu tượng “đá” thúc đẩy thánh Phê-rô đề cập đến một vấn đề đau đớn tận đáy lòng mình: việc dân Ít-ra-en loại bỏ Đức Kitô. Thật cảm động khi thấy rằng thánh nhân đau xót biết bao trước sự lòng cứng tin của dân mình: thánh nhân cố gắng hiểu, trong ánh sáng Kinh Thánh, tại sao sự chọn lựa của Thiên Chúa lại không đạt đến đích. Biểu tượng “đá” chứa đựng một biện chứng: căn nguyên của ơn cứu độ hay cớ vấp ngã. Đức Ki-tô là dấu chỉ mâu thuẫn. Ngài đòi buộc một sự chọn lựa: Ngài là điểm tựa cứu độ hay tảng đá vấp ngã.
A- Căn nguyên của ơn cứu độ
Trước hết, “đá” có thể là hình ảnh về một sự vững chắc của toà kiến trúc: đá nền hay đá góc tường (đá này có thể chỉ đá chóp đỉnh để đảm bảo sự cố kết của tòa nhà). Theo ngôn ngữ biểu tượng: một phần thay cho toàn thể, đá có nghĩa toàn khối kiến trúc. Bản văn Is 28: 16: “Này đây Ta đặt tại Xi-on một viên đá quý được lựa chọn, làm đá tảng góc tường: kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng” mà thánh Phêrô trích dẫn, thật dễ dàng ủng hộ cách giải thích theo chiều hướng thiên sai. Viên đá quý giá mà Đức Chúa tuyển chọn để xây dựng dân Ngài sẽ là Đấng Thiên Sai, Đấng Mêsia của Ngài.
“Kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng. Vậy, vinh dự cho anh em là những người tin”, trong câu này, chữ “vinh dự” đối lập với chữ “thất vọng”; nhưng đồng thời chữ “vinh dự” theo từ Hy lạp này cũng có nghĩa là “giá trị” vì thế gợi lên viên đá quý chính là Đức Kitô; nghĩa là trong Đức Kitô, những người tin cũng trở nên những viên đá quý. Những sắc thái ngữ nghĩa của bản văn khó diễn tả cho hết được.
B- Cớ vấp ngã
Thánh Phê-rô tiếp tục tìm kiếm trong Kinh Thánh tại sao dân Do thái cứng lòng tin. Thánh nhân kết hợp Tv 118: 22: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường” với Is 8: 14: “Một hòn đá làm cho vấp, một hòn đá làm sẩy chân” vào trong cùng một câu trích dẫn. Thánh Phê-rô lấy lại hình ảnh này để chứng minh trước Thượng Hội Đồng, sau khi thánh nhân bị bắt: “Nhân danh Đức Giêsu Kitô, người Nadarét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho chỗi dậy từ cõi chết… Đấng ấy là tảng đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, chính tảng đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường” (Cv 4: 10-11).
Thánh nhân nói trong bài đọc hôm nay, “Họ đã vấp ngã vì không tin vào Lời Chúa. Số phận của họ là như vậy”. Đây không là chứng nhận số phận đã định trước, nhưng lời ta thán buồn phiền trước việc lời các ngôn sứ được ứng nghiệm, các ngài đã thấy trước sự loại bỏ này.
Đức Giêsu đã trích dẫn cũng chính lời tiên báo của Tv 118 sau khi đã kể dụ ngôn những tá điền sát nhân: “Các ông chưa bao giờ đọc câu này trong Kinh Thánh sao? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta. Bởi đó, tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” (Mt 21: 42-43).
Dân Thiên Chúa mới này, dân mà thánh Phê-rô viết cho họ, đó là những dân ngoại trở lại đạo rất đông. Chính đó là những tước hiệu tuyệt vời mà xưa kia Đức Chúa đã trao tặng cho dân Ít-ra-en, từ nay được áp dụng cho dân mới này: “Còn anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa…”.
TIN MỪNG (Ga 14: 1-12)
Đoạn văn này được định vị ở phần đầu của diễn từ cáo biệt mà Đức Giêsu ngỏ lời với các môn đệ của mình trong bữa ăn cuối cùng mà Ngài tham dự với họ.
1. Bối cảnh
Trước khi rời bỏ họ để bước vào cuộc Khổ Nạn của mình, Ngài nói với họ thật thân thương và trìu mến: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy”. Ngài cố làm cho các ông hiểu biết hơn con người của Ngài và sứ mạng của Ngài. Ngài gợi lên tương lai theo cung bậc ngôn sứ. Ngài vừa mới loan báo cho họ một người trong họ phản bội Ngài và cho Phê-rô biết ông sẽ chối Ngài.
Nỗi buồn phiền chắc chắn hiện lên trên gương mặt của họ, vì Đức Giêsu nói với họ: “Anh em đừng xao xuyến!”. Tiếp đó, Ngài ra sức cũng cố niềm tin của họ: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Là những người Do thái mộ đạo, các Tông đồ tin vào Đức Chúa, nhưng họ không thể nào hiệp nhất giữa Đức Giêsu và Đức Chúa, vị Thiên Chúa mà họ tôn thờ. Có thể nào Đấng Mêsia là chính Thiên Chúa sao? Vì thế, Đức Giêsu sẽ nhấn mạnh sự duy nhất của Ngài với Cha Ngài. Diễn từ của Ngài sẽ xoay quanh sự duy nhất này. Độc thần giáo tuyệt đối của Do thái giáo bất khả chuyển lay, nhưng đó không là một điều hiển nhiên.
Đức Giêsu sẽ trấn an các môn đệ theo hai cách: khi gợi lên rằng họ sẽ hội ngộ với Ngài trong nhà Cha Ngài (Tin Mừng Chúa Nhật tuần này) và khi loan báo cho họ rằng Ngài sẽ hiện diện bên cạnh họ theo hình thức khác qua việc sai phái Thần Khí của Ngài (Tin Mừng Chúa Nhật tuần tới).
2. Họ sẽ hội ngộ với Ngài trong nhà Cha Ngài
“Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở”. Căn nhà ở miền Pa-lét-tin có kích thước nhỏ bé, vì thế để làm cho các môn đệ hiểu rằng có chỗ cho nhiều người trong nhà Cha Ngài, Đức Giêsu gợi lên nhiều chỗ ở, nhưng Ngài không đặt bất kỳ thứ bậc của những chỗ ở này, không nói về nhiều cấp độ khác nhau trong hạnh phúc thiên giới. Ngài xác định rằng chính Ngài sắp xếp: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em”.
“Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”. Đức Giêsu không hứa hẹn một cuộc hội ngộ với các môn đệ vào thời cánh chung, nhưng cái chết sắp đến của Ngài sẽ mở rộng nhà của Cha Ngài, như thế cái chết là lối vào sự sống. Chúng ta đọc các bản văn này chính xác sau lễ Vượt Qua bởi vì biến cố vượt qua soi sáng những lời này. Tuy nhiên, các môn đệ chưa nhận được ánh sáng này, vì thế họ không hiểu, họ xao xuyến. Thánh Tôma là một con người thực tiễn, thích những chính xác cụ thể, hỏi: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu?”.
Đây không phải là lần đầu tiên Đức Giêsu gặp phải sự ngộ nhận này. Ngài thường lợi dụng sự ngộ nhận này để khai triển cuộc đối thoại đi xa hơn và dẫn đưa người đối thoại của Ngài vào trong thế giới của những thực tại vô hình.
3. “Chính Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”
Chữ “đường” thuộc từ vựng tôn giáo của Do thái giáo: chữ này chất nặng lịch sử, nhắc nhớ cuộc hành trình băng qua sa mạc và đám mây sáng chói soi lối chỉ đường về Đất Hứa. Vào thời trở về từ cuộc lưu đày, một sứ giả “đã chuẩn bị con đường cho Đức Chúa”. Đức Giêsu đã lấy lại hình ảnh này lần đầu tiên khi gợi lên rằng “con đường dẫn đến sự sống” thì chật hẹp, trong khi con đường dẫn đến họa diệt vong thì rộng mở thênh thang (Mt 7: 8).
Trong Tin Mừng Gioan, chữ “đường” chỉ một thực tại sâu xa hơn. “Thầy là đường”: Chính Đức Giê-su là đường, không phải chỉ bởi giáo huấn của Ngài, nhưng bởi vì con người của Ngài là sự hiện diện thần linh. Ẩn dụ “Đường” nối kết với ẩn dụ Cửa: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu” (Ga 10: 9).
“Thầy là Sự Thật”. Đức Giêsu đã mặc khải Chúa Cha và kế hoạch cứu độ của Cha Ngài cho con người. Ngài là phát ngôn viên của Cha: “Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra”. Ngài là chứng nhân của Sự Thật.
“Thầy là Sự Sống”. Đức Giêsu là Thiên Chúa đang sống giữa con người, vị Mục Tử đến cho chiên “được sống và sống dồi dào” (Ga 10: 10). Ngài là “bánh ban sự sống” và Lời Ngài cũng là sự sống: “Ai tuân giữ lời tôi sẽ không chết bao giờ”, v.v…
Nói cho cùng, Đức Giê-su là “Đường” dẫn chúng ta đến “Sự Thật và Sự Sống”. Nhưng Ngài cũng là “Sự Thật và là Sự Sống”. Vì thế, ai đi theo Ngài, thật sự sống trong “Sự Thật và Sự Sống” ngay khi còn sống trong trần thế rồi.
4. Biết Đức Giêsu chính là biết Cha Ngài
Vì muốn các môn đệ Ngài thấu hiểu hơn nữa mầu nhiệm con người của Ngài, Đức Giêsu tiếp tục gợi lên chân tính của mình. “Ấy vậy, chân tính của Ngài chính là Con Thiên Chúa”.
“Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha của Thầy”. Trong Tin Mừng thứ tư, động từ “biết” có một ngữ nghĩa rất mạnh: động từ này diễn tả một nhận thức của trí tuệ được tình yêu soi sáng, một sự thông hiệp trong mối tâm giao thật sự. Sự hiểu biết tròn đầy là sự hiểu biết hổ tương giữa Cha và Con. Sau này, trong lời cầu nguyện của Ngài, Đức Giêsu nói: “Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Đức Giêsu Kitô” (Ga 17: 3). Các môn đệ nhận biết Cha rồi vì họ tin vào Con, và sống trong tình yêu của Ngài. Đức Giêsu, nên một tròn đầy với Cha, nói: “Nếu anh em biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ anh em biết và đã thấy Ngài”.
Chính lúc đó thánh Philipphê góp phần vào câu chuyện. Chúng ta biết vị Tông Đồ này chỉ qua Tin Mừng Gioan, trong đó ông xuất hiện bốn lần: ơn gọi của Philipphê (Ga 1: 43), bánh hóa nhiều (Ga 6: 5), những người Hy lạp xin được gặp Đức Giêsu (12: 21) và đoạn Tin Mừng hôm nay (Ga 14: 8). Philipphê vốn bản tính ngay thẳng và nhiệt thành, ông đòi hỏi một cuộc “thần hiển”, ông muốn “thấy Thiên Chúa”. Như thế là mãn nguyện lắm rồi. Khát vọng này là khát vọng của tất cả mọi người: thấy Thiên Chúa, biết chắc chắn Ngài hiện hữu, thấu hiểu mầu nhiệm cao vời nhất.
Như khát vọng của tất cả mọi nguời Do thái, ông ao ước được thấy Thiên Chúa hiện diện trong uy nghi sáng chói như cuộc thần hiển trên núi Xi-nai xưa. Thế nhưng cuộc thần hiển theo kiểu ấy không còn nữa kể từ ngày Ngôi Lời Nhập Thể. Thiên Chúa sẽ không còn xuất hiện trong sấm chớp chói lòa khiến con người khiếp sợ không dám đến gần, nhưng hiện diện trong hình hài nhân loại của Đức Kitô, để từ đây ai thấy Chúa Giêsu là thấy Đức Chúa Cha.
5. Công việc của Ngài chính là chứng nhân
Sau khi nhấn mạnh sự đồng nhất giữa Ngài và Cha Ngài, Đức Giêsu nói tiếp: “Anh em cứ tin Thầy đi: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không, thì ít ra hãy tin vì công việc Thầy làm”. Đức Giêsu nhắc cho những tâm trí quá thực tiễn này nhớ công việc mà Ngài đã làm: đây không ám chỉ đến những dấu lạ của Ngài cho bằng sứ vụ và hành động cứu độ của Ngài. Đức Giêsu hứa với các môn đệ Ngài rằng họ sẽ làm những việc Ngài làm, nhưng còn làm những việc lớn lao hơn thế nữa, bởi vì công việc của họ sẽ được mở rộng khắp cùng cõi đất.
Từ nay, không ai có thể tin vào Thiên Chúa mà không tin vào Đức Ki-tô. Lời dạy này tóm gọn tất cả Tin Mừng.
---------------------------------
(Chú giải và Suy niệm của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)
CÂU HỎI GỢI Ý
Trong nhà Cha, “có nhiều chỗ ở” theo nghĩa nào? 2. Chúa Giêsu ám chỉ điều gì khi bảo sẽ trở PS 5-A138
1. Trong nhà Cha, “có nhiều chỗ ở” theo nghĩa nào?
2. Chúa Giêsu ám chỉ điều gì khi bảo sẽ trở lại đem các môn đồ đi theo Người?
3. Chúa Giêsu muốn nói gì khi quả quyết Người là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống (c.6)?
4. Phải hiểu thế nào lời xin của Philipphê (c.8) và câu trả lời của Chúa Giêsu (c.9)?
5. “Các việc” của môn đồ vượt trên các việc của Chúa Giêsu theo nghĩa nào (c. 12)?
CHÚ GIẢI
1. Tiếp theo sau lời kêu gọi hãy tin tưởng và phó thác (14, 1), Chúa Giêsu nêu rõ một trong những lý do khiến Người ra đi, có lẽ là lý do an ủi hơn hết. Người về với Cha để chuẩn bị chỗ ở cho môn đồ. Các ông chẳng nên sợ vì không thể theo Người. Nhà Cha Người rộng rãi, chỗ ở có rất nhiều. Mặc dù người ta thường viện dẫn cách nói này để chứng minh là có nhiều cấp độ khác nhau trong hạnh phúc thiên giới (thánh Irênê, Clêmentê thành Alexandria, Origène), ở đây chỉ muốn bảo rằng sẽ có chỗ cho tất cả mọi người. Chẳng thế thì Chúa Giêsu đã nói rõ để khỏi làm cho các môn đồ rơi vào niềm thất vọng cay đắng. Chỗ ở không thiếu. Bằng chứng là Người sắp đi dọn cho họ (“Vì Ta đi dọn chỗ …”). Cách giải thích này xem ra thỏa đáng hơn hết (Maldonat, Lagrange, Durand, Hudy). Vẫn biết ta có thể hiểu phần thứ hai của c.2 theo một cách khác: “Nếu không phải vậy, thì sao Ta đã nói với các con là Ta đi dọn chỗ?” (Bauer, Bernard, TOB). Nhưng trong trường hợp này thì phải giả thiết là trước đó, Chúa Giêsu đã loan báo quyết định về với Cha Người trước các môn đồ để dọn chỗ cho họ: nhưng điều này chúng ta không thấy đâu cả. Về cách thế Chúa Giêsu dọn chỗ cho các môn đồ Người, thánh Augustinô đã tóm lại trong một câu ngắn: “Chúa Kitô dọn chỗ cho các môn đồ mình bằng cách chuẩn bị những người sẽ ở các chỗ ấy” (PL 35, 18)
2. Chúa trở về với Cha, về nhà Người (8, 35- 36) không phải là không có lý do, cũng chẳng phải chỉ cho riêng Người. Việc Người lên trời trên nguyên tắc bao hàm việc các môn đồ cùng Người lên với Chúa Cha (12, 26; 17, 24). Chúa đi vào vinh quang như Đấng dọn đường cho chúng ta: Người đi trước chúng ta (Dt 2, 1c; 6, 20) như trưởng tử của một thế hệ được tiền định cho sự sống vinh hiển, được kêu mời phục sinh trong sự sống vinh hiển ấy (1Cr 15, 20) và thông phần với Người vào gia tài vinh quang tương lai (Rm 8, 17- 18).
Các Kitô hữu đầu tiên đã nóng lòng ao ước được đoàn tụ như vậy với Chúa Giêsu. Họ chờ đợi việc đó thể hiện, lúc Chúa quang lâm trong ngày Chung thẩm, ngày mà họ hằng cầu mong cho mau tới (Ga 21, 22- 23; 1Ga 2, 28; Kh 22, 20; 1 Tx 4, 16- 17, 1 Cr 4, 5; 11, 26; 16, 22; Mt 26, 29; Lc 22, 29- 30 v.v…). Trong viễn tượng của niềm trông đợi nơi cộng đoàn kitô hữu đầu tiên ấy nhiều nhà chú giải muốn nhận ra ở đây, chỗ nói về việc Chúa trở lại và đoàn tụ với các môn đồ Người, một lời ám chỉ đến ngày Quang lâm; nhưng nhiều tác giả khác lại nghĩ đến sự đoàn tụ xảy ra tiếp theo cái chết của mỗi môn đồ.
Thực ra, vào cuối thế kỷ thứ nhất, lúc mà Tin Mừng thứ tư được phổ biến, nỗi chờ mong ngày cánh chung không quá căng thẳng như vậy, mặc dù vẫn còn sống động như một yếu tố cơ bản và thường xuyên của Kitô giáo. Với dòng thời gian, ngày phán xét cuối cùng, chung cho toàn thể vũ trụ, càng lâu càng khó dự liệu và chìm vào trong một tương lai càng lâu càng thụt lùi.
Mặc dầu chậm trễ như vậy, ngày cánh chung vẫn được khai mào bắt đầu từ Giờ tôn vinh. Từ lúc ấy, Chúa Giêsu đã được đặt làm Con Người và Quan án tối cao của thế gian trong hào quang sáng láng giữa triều thần thiên quốc (Ga 1, 51; 3, 13; 5, 20- 29: 6, 62; 8, 28). Kỷ nguyên cứu rỗi và phán xét khởi sự từ giây phút ấy, giây phút bẻ quặt dòng lịch sử của thế giới. Từ nay, Chúa luôn hiện diện, hoặc như một người anh em (20, 17), hoặc như một người bạn (15, 15) hoặc như một quan tòa có thể gây nên một tai họa cuối cùng vào bất cứ lúc nào. Những lần Chúa Kitô hiện ra cho các tín hữu của Người không phải là một cuộc Quang lâm trước kỳ hạn, như khi Người biến hình, cũng chẳng phải là tiền ảnh của lần xuất hiện cuối cùng trong vinh quang. Đúng hơn, đó là bằng chứng khả giác hữu hình của sự hiện diện thường xuyên của Chúa với tư cách Con Người đã được tôn vinh trong cộng đoàn các tín hữu để tiếp tục nâng đỡ họ chống lại các cuộc tấn công luôn đáng sợ của Satan. Những lần hiện ra đó, bất thần xảy đến sau ngày sống lại và ngay cả thời gian tiếp theo (14, 18- 24, 16, 16), còn có một ý nghĩa khác hơn là một hiện tượng nhất thời; chúng nói lên sự hiện diện chắc chắn thường xuyên của Chúa Kitô. Như thế, nỗi trông đợi ngày phán xét cuối cùng vẫn còn sống động ngay cả khi người ta không còn chờ đợi ngày Quang lâm như một biến cố gần kề. Từ biến cố trở lại vinh quang người ta chuyển sự chú ý qua thực tại thâm sâu của việc kết hợp với Chúa Kitô; từ việc phán xét chung, người ta chú trọng đến vận mệnh riêng biệt của mỗi người Kitô hữu.
Do đó, thật là hữu lý khi xem việc trở về của Chúa ở Ga 14, 3 ám chỉ biến cố Phục sinh (20, 19. 24. 26; 21, 13), biến cố được coi là sự bảo đảm cho việc Chúa hiện diện giữa cộng đoàn (14, 18.23; 16, 16) cũng như ám chỉ đến việc các môn đồ đoàn tụ với Chúa, được thể hiện một cách thành toàn vào giờ chết của mỗi người trong họ. Như vậy luật tuyển chọn môn đồ được thực hiện cách trọn hảo: “Ta ở đâu, kẻ hầu hầu hạ Ta cũng ở đó”. (12, 26; 17, 24). Nếu trong truyền thống Nhất Lãm (Mt 16, 25; Mc 8, 34; Lc 9, 23; 14, 27), luật này buộc môn đồ phải theo Chúa Ki-tô mà thôi (15,18 – 16, 4), nhưng còn bao hàm một lời mời gọi theo Người vào trong vinh quang của Chúa Cha (14, 3; 17, 24). Chúng ta đã gặp thấy cái nhìn lưỡng diện này trong câu trả lời cho Phêrô: “Ngươi sẽ theo Ta … về sau” (13, 36- 38). Ở đây luật này còn nói mạnh hơn điểm giống nhau giữa vận mệnh của các môn đồ và vận mệnh của Chúa Kitô: như cái chết của Chúa, theo quan niệm Gioan, là sự trở về với Cha (8, 14. 21.22; 13, 1. 33; 14, 4. 5. 28; 17, 11), thì cũng thế, cái chết của người môn đồ cũng là sự trớ về với Chúa Cha, một cuộc vinh thăng với Chúa bên Chúa Cha.
Nếu tạm thời họ còn ở lại trong thế gian này, thì giờ chết họ sẽ được chiêm ngưỡng ánh vinh quang của Chúa (17, 15. 24). Nhưng hiệu quả này của cái chết không có tính cách tự động và không nhất thiết bảo đảm cho người môn đồ thể hiện vận mệnh của mình đâu; người môn đồ không thể tự mình đến vinh quang Thiên Chúa được (7, 34. 36; 8, 21- 23; 13, 33), vì tự bản chất, có một hố sâu ngăn cách thế giới trên cao với thế giới chúng ta. Chỉ có Chúa bởi trên xuống và bây giờ lại trở về mời có thể đưa chúng ta từ thế giới này về nhà Cha. Người Kitô hữu phải nhận thấy sau cái chết là bàn tay chìa ra và nụ cười tiếp đón của Đấng đã đi trước mình và đang đến tìm mình.
3. Là một người điềm đạm, sứ đồ Tôma cảm thấy buồn cười khi phải liều mạng sống một cách vô ích (11, 16) và sau cái chết của Chúa Kitô, ông không muốn phải tỉnh mộng lần nữa. Ông bắt đầu sốt ruột. Sự trở về với Cha đối với ông xem ra là một cái gì bí nhiệm, và quá mơ hồ mong manh để ông có thể liều mạng sống mình được. Như người Do thái (7, 35- 36; 8, 14. 22), hay Phêrô (13, 37), ông chẳng hiểu được ý nghĩa của chuyến đi này. Chúa Cha, Đấng lấp đầy thần trí và tâm hồn Chúa Giêsu, các môn đồ coi là người xa lạ, vì họ thuộc về thế gian này và không thể hướng tầm mắt qua khỏi những chân trời trần tục để nhìn về thế giới trên cao. Vì thế, họ cần phải nhận phép rửa của Thần khí.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn không nao núng vì câu nói cúp ngang nửa chừng của Tôma. Một lần nữa, Người giới thiệu đường và mục đích cho các môn đồ như một lệnh truyền độc nhất và không thể hủy bỏ. Ta là Đường; Tôma đừng có mơ tưởng đến một quê hương nào xa lạ, hãy chỉ cần nhìn nơi Thầy, vì Người là con đường, con đường độc nhất dẫn về cùng đích duy nhất. Các môn đồ chẳng biết cùng đích, vì họ không nhìn cho kỹ con đường. Họ quá chú ý tới những chi tiết phụ tùy, họ không chỉ nghĩ đến một mình Chúa Giêsu, họ muốn thấy Ladarô nữa (12, 9) Họ hành động như thiếu phụ Samari, chỉ nghĩ tới nước tươi mát, vọt ra từ giòng suối (4, 11- 15) mà không nghĩ tới Đấng đang ở trước mặt bà (4, 26). Họ giống những người Do thái hy vọng nhận được nơi Người bánh và manna, nhưng bánh là chính Người thì họ chẳng hề mơ ước (6, 33tt). Thay vì phỏng đoán về nơi chốn mà con đường dẫn tới, họ nên quan sát con đường ấy thì hơn, vì từ đó họ sẽ biết được hướng đi: Chúa Giêsu là con đường độc nhất dẫn về Chúa Cha.
Người là đường vì Người là sự thật. Đối với Gioan cũng như với mọi người Do thái, sự thật là cái gì cụ thể và thực tế, là cái gì có thực, chắc chắn, ta có thể tín nhiệm, có thể xây dựng cuộc sống của mình lên trên, là cái khả dĩ làm nền móng cơ sở và hướng đi cho cuộc đời. Trong truyền thống cổ xưa của Israel, từ ngữ này đã có một ý nghĩa tôn giáo đặc biệt; nó thường diễn tả sự trung tín của Giavê với lời hứa và giao ước của Ngài. Nhưng lúc mà, trong Do thái giáo, Lề luật trở thành dữ kiện chính yếu của các việc đạo đức, thì từ đó lề luật được xem như hiện thân đích thực của sự thật. Luật sự thật nghĩa là quy tắc đời sống do Thiên Chúa mặc khải. Tư tưởng của Gioan nối dài quan niệm trên; đối với Gioan, sự thật là mặc khải cuối cùng do Chúa Kitô mang đến, hay đúng hơn là mặc khải được thể hiện trong con người và hành động của Chúa Kitô. Chúa Kitô-sự thật là giai đoạn chung kết của việc mặc khải. Mặc khải chung cục này đối nghịch với mặc khải tạm thời của Cựu ước, như thực tại đối với hình bóng.
Sự thật ấy đối với Gioan cũng là quy tắc đời sống vững chắc do đó có thành ngữ “đi trong sự thật, thực thi sự thật”: 3, 21; 1Ga 1, 6; 3Ga 3- 4). Sự thật không phải là một giáo huấn lý thuyết, một hệ thống giáo điều do Chúa Giêsu soạn thảo, nhưng là toàn thể Chúa Kitô, là toàn thể con người, hành động và lời nói của người cũng như ý nghĩa cứu độ bao hàm trong đó. Vì thế nên tùy theo từng trường hợp mà dịch chữ sự thật là “ơn cứu độ hữu hiệu” hoặc “mặc khải đích thực, trọn hảo, chung quyết”, làm sao để cho nổi bật đặc tính chung cục của mặc khải thể hiện trong con người của Chúa Kitô ân sủng và sự thật, theo Ga 1, 14. 17 không phải là nại thực tại đặt kề với nhau. Ân sủng của Thiên Chúa được thực hiện và được thông ban cho Ngôi Lời cách trọn hảo nhất, và nhờ Ngôi Lời, ân sủng xác định toàn thể đời sống chúng ta. Trong Chúa Giêsu, ân sủng trở thành sự thật, nghĩa là thực tại tràn đầy. Việc thờ phượng đích thực trong Thần khí và Sự thật mà Chúa Giêsu đề cập tới trong cuộc đàm thoại với thiếu phụ Samari là việc cầu nguyện tương xứng với thực tại thần linh được tỏ lộ trong Chúa Kitô.
Và để đạt đến thực tại ấy, cần thiết phải có sự trợ giúp của Thần khí (4, 23- 24). Những ai làm chứng cho Sự thật (5, 33; 18, 37), thì không chỉ thỏa thuận với những gì Chúa Giêsu nói, nhưng còn phải quả quyết sứ mạng thần linh của Người là xác thực, phải chứng nhận rằng Chúa Cha hành động và nói qua Chúa Giêsu. Sự thật ấy, xét như mặc khải thần linh (8,40), là một thực tại năng động, đầy Thần khí (4, 23- 24; 6, 63; 1Ga 5, 6) Nó giải thoát người tín hữu (8, 31), thanh tẩy họ (15, 3), hành động trong họ (2Ga 2), thánh hiến họ cho Thiên Chúa (17, 17-19) và lôi họ ra khỏi thế gian đầy gian dối mà Satan là Cha (8, 41- 45). Vì là thực tại thần linh của ơn cứu độ được mặc khải trong Chúa Kitô, nên Sự thật chỉ có thể được tiếp nhận như thần khí sự thật mà thôi (14, 17; 15, 26).
Thành thử Chúa Giêsu là đường dẫn tới Chúa Cha, vì Người là sự thật, là mặc khải thần ánh có sức cứu rỗi, vì Người là ánh sáng đích thật và duy nhất. Và vì Người là sự thật và là sự sáng, bởi hiện thân cho ánh sáng cứu độ của Thiên Chúa trong thế gian, nên Người là sự sống, Người ban sự sống, Người là nguồn mạch của Thần khí, nghĩa là của sinh lực và của sự sống Thiên Chúa.
Chỉ một vài tiếng mà đủ nói lên mọi sự: Người là đường: về cùng Cha, bởi vì Người là sự thật, là hình ảnh của Cha trong thế gian; đồng thời Người là sự sống của kẻ lớn lên trong Người. Vì Cha là nguồn gốc nguyên thủy của sự sống – sự sống mà Con cũng có – và của sinh lực mà Ngài thông ban cho các kẻ tin (Ga 3, 34- 36; 5, 26; 6, 57; 10, 28- 29).
4. Trong lúc hăng say bồng bột như trẻ con, Philipphê tưởng mình đã hiểu được một chút gì rồi. Ông nghĩ sắp xảy ra một cuộc thần hiện, một sự tỏ mình oai phong của Thiên Chúa, giống như những cuộc thần hiện mà ngày xưa Môisen đã chiêm ngắm trên núi Sinai (Xh 24, 9- 11; 33, 18), Elia trên núi Horeb (1 V 19, 10- 14), hoặc như Isaia trong Đền Thờ (Is 6). Người Do thái nào cũng ao ước hưởng được đặc ân này, tuy nhiên vẫn hơi lo sợ vì thị kiến được xem như có nguy hiểm đến tính mạng. Lòng ước muốn được thấy cảnh tượng này làm cho vị môn đồ hết kiên nhẫn.
Chắc Chúa đã đón nhận lời nguyện cầu của ông với một cử chỉ gật đầu. Vậy phải chăng Người sắp đem Chúa Cha từ trời xuống để cho họ một cảnh tượng vui mắt? Không! Chẳng có ai thấy Thiên Chúa bao giờ (1, 1; 6, 46); hơn nữa chẳng ai có thể thấy Thiên Chúa trừ ra trong Chúa Kitô. Philipphê mong đợi Thiên Chúa tỏ mình một cách tỏ tường nơi nào đó trên đám mây, nhưng Thiên-Chúa-trong-Chúa-Kitô lại ở trước mặt ông. Thiên Chúa không còn tỏ hiện trong sấm chớp, cũng như trong thị kiến nữa; từ nay Ngài tỏ mình trong hình thể con người Chúa Ki-tô, Đấng không bao lâu nữa sẽ được ánh vinh quang bao phủ. Vinh quang mà Isaia đã chiêm ngắm trong Đền thờ chỉ là một tiền ảnh xa vời của mặc khải Thiên Chúa trong Con (Is 6, 1; Ga 12, 41). Và khi người Do thái nại đến các vị anh chàng của giòng giống họ là những người đã nghe tiếng Thiên Chúa và chiêm ngắm dung nhan Ngài, thì cũng chẳng còn sót lại cho họ một âm vang hay một tia sáng nào, mặc dầu họ thông hiểu Kinh Thánh, vì các lần mặc khải mang tính cách chuẩn bị của Thiên Chúa trong Cựu ước không có mục đích nào khác ngoài việc dẫn đưa họ đến vị Sứ giả cuối cùng của của Mặc khải thần linh là Chúa Kitô (5,37-38).
Mọi mặc khải của Thiên Chúa trong Cựu ước chỉ có ý nghĩa cho Lời, và từ khi lời ấy hóa thành nhục thể (1,14), thì Thiên Chúa chỉ có thể tiếp xúc được trong Chúa Giêsu. Tất cả mọi thánh điện dầu hết công dụng, Đền thờ Giêrusalem cũng như Đền thờ của người Samari trên núi Garizim; chỉ còn tồn tại một đền thờ duy nhất, một nơi gặp gỡ với Thiên Chúa là chính bản thân Con của Ngài (4, 21- 24; 2, 13-22). Ai có lòng đạo đức thật, thì đến với Giêsu là ánh sáng (3, 21) và ai mở lòng đón nhận luồng khí của Chúa Cha bằng cách lãnh nhận giáo huấn của Ngài, thì đến với Chúa Giêsu (6, 45). Không có con đường nào đến với Chúa Cha ngoài Chúa Con vậy.
“Philipphê, làm sao con nói: Xin tỏ cho chúng con thấy Cha”. Khi xin Chúa Cha tỏ hiện cách rõ ràng ngoài con người Chúa Giêsu, Philipphê tỏ ra mình đã chẳng biết, chẳng hiểu Thầy. Vì thấy Chúa Giêsu, chiêm ngắm Người là thấy Chúa Cha trong Người; cũng giống như tin vào Người là tin vào Đấng đã sai Người (12, 44- 45). Chúa Cha và Chúa Con không thể tách lìa nhau: Con đâm rễ sâu trong Cha và Cha ẩn mình sau Con. Ngài ở nơi Con, Ngài nói và hành động qua Con. Nếu Philipphê không tin vào lời người thì ít nữa hãy tin vào các việc Người làm là các phép lạ vậy (10, 25. 37. 38): Biết bao lần Người đã nói cho họ điều đó? Các lời nói và việc làm của Chúa Giêsu là lời nói và việc làm của Cha (5,17- 26. 30. 36; 7, 16- 17; 8, 26- 29; 9, 16- 33; 10, 25. 36- 38; 12, 49- 50). Việc Người nên một với Cha trong hành động giả thiết là Người đã nên một với Cha trong hữu thể. Sở dĩ Chúa Giêsu vẫn luôn nhất trí với Cha chính vì Người tự bản thể là một với Cha.
5. Sau khi loan báo cuộc ra đi của mình, Chúa Giêsu chuyển qua những lời hứa sẽ khích lệ an ủi các môn đồ Người trong thời gian chia ly. Lời hứa đầu tiên có liên quan đến quyền năng sẽ được trao ban cho các môn đồ sau khi Người ra đi Quyền năng ấy vĩ đại đến nỗi sẽ giúp họ làm được những việc cả thể hơn việc Người đã làm. Không kể đến các phép lạ, mà chắc chắn chẳng vượt qua nổi các phép lạ của Chúa Giêsu, họ sẽ mở rộng Nước Thiên Chúa đang còn quá nhỏ bé và còn đâm rễ quá yếu trong mảnh đất Palestine “ra cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1, 8). Giữa các kết quả trông thấy mà Chúa Giêsu đã đạt được vào cuối đời công khai của Người và những thành công do các sứ đồ mang lại không đầy 30 năm sau tại Syri, Tiểu Á, Hy lạp, Rôma, thì chẳng có sự so sánh nào mà không nghiêng về các sứ đồ. Tuy nhiên, ta chớ nên ngộ nhận; thành công ấy là hậu quả của việc Chúa Giêsu trở về với Cha Người. Thành ra, Chúa Giêsu dành sức hành động cách oanh liệt nhờ các sứ đồ sau khi chết. Sứ vụ của họ sẽ biểu lộ sức mạnh ẩn náu sẽ tác động trong họ. Chỉ cần họ có một điều kiện duy nhất là tin vào con người Giêsu.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
c.1: “Lòng chúng con đừng xao xuyến”: Sau lời loan báo Giuđa sẽ nộp Thầy (13,18-30), lời loan báo Phêrô sẽ chối Thầy (13,36-38) và lời loan báo Đức Giêsu sẽ ra đi (13,33), lòng các môn đệ rất hoang mang bối rối. Do đó Đức Giêsu an ủi họ đừng xao xuyến.
“Cứ tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”: Động từ tin được dùng tới 6 lần trong phần này. Điều kiện để khỏi hoang mang xao xuyến là phải tin: tin vào Thiên Chúa và tin vào Ngài.
c.2-3: Đức Giêsu giải thích lý do Ngài ra đi: đi để về nhà Cha và để dọn chỗ cho các môn đệ. Xong xuôi rồi Ngài sẽ trở lại đón các môn đệ cùng đi đến nhà Cha, khi đó thầy trò sẽ sum hợp.
- “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”: Irénée, Clément d’Alexandrie và Origène dựa vào câu này để nghĩ rằng trên thiên đàng có nhiều cấp bậc hạnh phúc. Thực ra câu này chỉ đơn giản nghĩa là thiên đàng có đủ chỗ cho mọi người.
- Sau khi dọn chỗ xong thì Ngài trở lại cùng đi và thầy trò sum hợp.
- “Thầy ở đâu, chúng con cũng ở đó”: “Đức Giêsu nói với các môn đệ “Thầy sẽ trở lại đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”. Trái lại Người nói với dân Do thái: “Tôi ở đâu, các ông không thể đến được” (7,34) Thế cũng bởi vì Đức Giêsu ở đâu, kẻ phục vụ Người cũng sẽ ở đó (12,26). Mà các môn đệ chấp nhận làm môn đệ của Người, còn dân Do thái thì không. Nên đúng theo định nghĩa của người môn đệ là “người đi theo”, các môn đệ sẽ được đi theo Đức Giêsu và ở với Người” (Lm Tanila Hoàng đắc Ánh, sđd, trang 210)
- Như thế là Thầy trò sẽ sum hợp. Nhưng khi nào? Có người nghĩ là đến ngày Tái lâm (Parousia); kẻ khác nghĩ là ngày chết của mỗi người. Cả hai lối giải thích đều đúng.
* Nếu các môn đệ phải xa cách Thầy mãi mãi thì các ông xao xuyến là phải. Nhưng đây chỉ là xa cách tạm thời, sau đó thầy trò lại sum hợp, mà sum hợp vĩnh viễn hạnh phúc trong nhà Cha, thì có gì mà xao xuyến!
c.4-7: Câu hỏi của Tôma:
- Tôma là người đa nghi. Dù Đức Giêsu đã nói Ngài đi về nhà Cha, nhưng đối với Tôma, cái “nhà Cha” ấy còn mù mờ xa xôi quá. Ông chưa dám dấn thân vào một tương lai không chắc chắn như vậy, nên ông hỏi lại cho rõ: cụ thể Đức Giêsu sẽ đi đâu và các môn đệ sẽ dùng con đường nào để theo Ngài.
- Đức Giêsu giải đáp cả hai thắc mắc của Tôma: cứ đi theo Ngài là đúng đường và sẽ tới đích, vì Ngài là đường (Le chemin), con đường duy nhất dẫn tới Chúa Cha. “Đức Giêsu đã ví mình với con đường, vì “đường” là một trong những tượng trưng của Thánh Kinh. Theo Cựu Ước, nghe lời Thiên Chúa gọi là tin tưởng vào Người, dân Israel ra đi và phải trải qua một con đường dài và cực nhọc để tới Đất Hứa. Do đó “đường” là tượng trưng cho cuộc Xuất Hành (Đnl 1,3-33; 2,1-2; 8,2-10 Tv 77,20. 136). Một khi đã vào Đất hứa, dân Israel cũng còn phải ăn ở theo đường Thiên Chúa bảo mới được lãnh phần thưởng muôn đời (Đnl 32,4; Tv 25,10; 128,1; 147,19-20; Br 3,13-14.37; 4,1). Mà Thiên Chúa đã mặc khải những đường hướng ấy trong Luật Môsê. Do đó, “đường” còn là tượng trưng cho Luật Môsê. Trong Tân Ước, Thiên Chúa mặc khải những đường hướng của Người qua trung gian Đức Giêsu. Vị trung gian tuyệt đẳng và sau hết. Do đó, “đường” vẫn còn là tượng trưng. Nhưng đối tượng của tượng trưng đã thay đổi, không còn phải là đường trong sa mạc, cũng không phải là luật Môsê, mà là Đức Giêsu (Mc 8,34 Mt 16,24 Lc 9,23 Dt 10,20)” (Lm Tanila Hoàng đắc Ánh, sđd, trang 211)
- Sở dĩ Ngài là con đường duy nhất dẫn tới Chúa Cha vì Ngài là sự thật (chân lý). “Thánh Gioan thường mượn ngôn ngữ của Cựu Ước và của Do thái giáo. Trong ngôn ngữ ấy, chân lý (hay sự thật) có nghĩa là tiếng nói của thánh ý Chúa liên quan đến loài người và đời sống chân lý của loài người. Chân lý ấy, xưa kia, được truyền đạt cho loài người qua trung gian ông Môsê và các ngôn sứ; nhưng ngày nay, chân lý ấy được mặc khải qua trung gian Đức Giêsu (Ga 1,17). Một cách sâu rộng hơn, chúng ta có thể nói rằng Đức Giêsu và Chân lý mà Người mặc khải là một, vì, khác với ông Môsê và các ngôn sứ, Người là Chúa Con nhập thể và, vì thế, Người là Lời tuyệt hảo của Chúa Cha (1,1.14), là chân lý được Chúa Cha phát biểu bằng cuộc sống và lời nói của Đức Giêsu (17,8.14 1,18)” (Lm Tanila Hoàng đắc Ánh, sđd, trang 211). Nói cách khác, Đức Giêsu là sự thật về Chúa Cha nghĩa là: cứ nhìn vào Ngài là biết Chúa Cha. Tất cả mặc khải Cựu Ước chỉ là chuẩn bị và dọn đường cho mặc khải trọn vẹn và đích thực nằm trong bản thân Đức Giêsu.
- Và cũng vì Đức Giêsu là đường, là sự thật như thế, nên Ngài cũng là sự sống: “Muốn sống vĩnh cửu, loài người phải nghe và làm theo lời Thiên Chúa phán. Mà Thiên Chúa phán qua trung gian Đức Giêsu (12,50). Hơn nữa Đức Giêsu không phải chỉ nói lời của Thiên Chúa như ông Môsê hay các ngôn sứ. Người chính là Lời tuyệt đẳng của Thiên Chúa. Vì thế chẳng có gì lạ khi Người là “sự sống” (Lm Tanila Hoàng đắc Ánh sđd, trang 212)
c.8-10: Câu hỏi của Philipphê:
- Philipphê hơi ấu trĩ, khi nghe nói về Chúa Cha thì nghĩ đến một cảnh thần hiện theo kiểu ngày xưa Thiên Chúa hiện ra cho Môsê, Êlia, Isaia v.v… và ông muốn mình cũng được thấy cảnh đó như vậy.
- Đức Giêsu đáp “Ai thấy Thầy tức là thấy Chúa Cha rồi đấy”: Thiên Chúa không còn hiện ra trên đám mây hay trong những thị kiến. Từ nay Thiên Chúa tỏ mình cho loài người qua hình dáng nhân loại của Đức Giêsu. Đức Giêsu là hình ảnh mặc khải trọn vẹn Chúa Cha. Thực vậy Đức Giêsu chính là Lời mặc khải trở thành xác thịt và ở giữa loài người (1,14). Khi Lời đã ở giữa loài người thì tất cả những nơi xưa nay người ta thường đến để gặp Thiên Chúa như đền thờ Giêrusalem hoặc đền thờ Garizim hay bất cứ nơi nào khác cũng đều trở thành vô ích, vì nơi duy nhất để gặp Thiên Chúa chính là Đức Giêsu. Tại sao? Vì “Thầy vốn ở trong Cha và Cha ở trong Thầy”: Chúa Cha và Đức Giêsu không thể tách rời nhau, cả hai chỉ là một. Tất cả những lời Ngài nói và những việc Ngài làm đều là những lời nói và việc làm của Chúa Cha.
c.11: Đức Giêsu khuyến khích các môn đệ tin rằng Chúa Cha và Ngài luôn ở trong nhau và là một với nhau. Nếu họ chưa thể tin bằng lời của Ngài thì ít ra hãy tin vì thấy những việc Ngài làm, tức những phép lạ, những “dấu chỉ” cho thấy có Chúa Cha hoạt động trong Ngài.
c.12: “Ai tin vào Thầy thì sẽ làm được các việc Thầy làm, lại còn làm được việc to hơn nữa”: a/ Các môn đệ được Đức Giêsu thông ban quyền lực của Ngài, nhờ đó họ cũng làm được những phép lạ như Ngài; b/ Nước Trời mà Đức Giêsu lập hiện còn rất nhỏ bé, nhưng Đức Giêsu thông quyền giúp các môn đệ mở mang Nước Trời ấy “cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Không phải các ông giỏi hơn Ngài, nhưng hoạt động của các ông sẽ triển khai mầm mống đã được Ngài đặt sẵn. Điều kiện duy nhất để các ông làm được như vậy là phải tin vào Ngài.
***
“Hãy tin vào Thiên Chúa, mà cũng hãy tin vào Ta”. Xét theo văn phạm, thì hình thức pisteuete có thể là một trực thuyết cách hiện tại (indicatit présent) hoặc là một mệnh lệnh cách (impératif). Bởi thế có hai cách dịch: “Các ngươi tin vào Thiên Chúa, thì cũng hãy tin vào Ta” (Bản Phổ thông, thánh Augustin, Bêđa, Maldonat, Knabenbauer, Tillmann, Lagrange, Durand, TOB …) hoặc là “Hãy tin vào Thiên Chúa và cũng hãy tin vào Ta” (Cyrille thành Alexandna, Gioan Kim khẩu, “Théophylacte, Hilaire, Jouon, Bernard, Huby, Van den” Bussche, BJ …). Khó mà chọn lựa giữa hai cách dịch, vì cả hai đều có thể chấp nhận. Cách thứ hai giả thiết là chúa Giêsu muốn khơi dậy cách nào đó niềm tin vào Thiên Chúa của các sứ đồ. Cách thứ nhất trước hết xác quyết rằng các sứ đồ đã có lòng tin vào Thiên Chúa rồi chuyển qua khuyên nhủ họ cũng hãy có một lòng tin như vậy vào Chúa Giêsu. Nhưng nhận cách dịch nào thì ý chính vẫn là Chúa Giêsu kêu mời các sứ đồ hãy tin vào Người như tin vào Cha, nghĩa là hãy tin vào thiên tính của Người.
“Nếu các con biết Ta, tất các con cũng biết Cha Ta”. Các thủ bản chia rẽ gần như đồng đều nhau về tính chất của điều kiện cách (cơnditionnel) được nhắm tới ở đây; một vài thủ bản thì viết egnôkate, là hình thức của trực thuyết cách quá khứ (indicatif partait) để nói lên một điều kiện có thể có thực (nếu các con biết Ta); các thủ bản khác lại ghi egnôkeite, là một hình thức của trực thuyết cách đại quá khứ (indicatiì plusque-partàit) để nói lên điều kiện không thể nào có được nữa (nếu các con đã biết Ta). Vì thực-điều-kiện-cách (conditionnel réel) thích hợp hơn với phần thứ hai của câu này, nên bị nghi ngờ là muốn tu chỉnh bản văn: có lẽ một vài người sao chép đã thấy lời Chúa Giêsu nói với các sứ đồ hơi nặng nên đã sửa đổi nó. Bởi thế chọn hư-điều-kiện-cách (conditionnel irréel) thì đúng hơn.
KẾT LUẬN
Chúa Giêsu nhắn gởi lời khuyến dụ này cho các môn đồ Người thuộc mọi thời đại. Người kêu gọi họ giữ vững lòng tin vào Người trong những bước đường tối tăm và trong các cơn dông tố thiêng liêng của cuộc đời, đồng thời hãy dâng cho Người một tình yêu quảng đại và vâng phục, tình yêu sẽ đặt họ vào trong tình yêu thân mật của Ba Ngôi Thiên Chúa và sẽ làm cho họ sống trong bình an và hoan lạc của Chúa Giêsu.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Bản văn này tóm tắt sứ điệp Tin Mừng Gioan. Nó diễn tả cách gián tiếp điểm đặc trưng và sâu xa nhất của đời sống Kitô hữu. Nó là một phần trong toàn bộ các lời nói của Chúa Giêsu giải thích về chính mình Người. Cùng một trật nó trình bày cho thấy Người là gì đối với chúng ta và chúng ta phải trở nên nhất thế nào đối với Người. Chúa Giêsu là một người thật, hoàn toàn giống chúng ta trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi, nhưng đồng thời được tràn đầy thực tại thần linh sống động đến nỗi trở nên duy nhất và đồng hóa với Chúa Cha trong hữu thể, trong bản chất và trong đời sống: Người mặc khải Chúa Cha cách đích thực, Người mặc khải chúng ta là những kẻ Cha đã ban cho Người và Người muốn rằng Người ở đâu, chúng ta cũng ở đó. Người cầu nguyện và hành động để trong Người chúng ta được thông phần vào sự sống Chúa Cha ban. Ở đây, chúng ta đứng trước một mầu nhiệm dày đặc đối với tâm trí nhưng sáng tỏ cho những ai dấn thân cách sống động nhờ đức tin.
2) “Lòng các con chớ xao xuyến. Các con tin vào Thiên Chúa, thì cũng hãy tin vào Ta". Đây là một cách Chúa bảo rằng nòng cốt đức tin của chúng ta là chính Người, bản thân của Người, sứ điệp Người. Ta có thể tự hỏi: Làm sao Chúa Giêsu Kitô, vốn là Thiên Chúa, lại có thể nói về Thiên Chúa như nói về một Đấng khác với chính Người. Ở đây chúng ta đụng đến một trong những khía cạnh của mầu nhiệm Nhập thể. Nghĩa là mầu nhiệm Thiên Chúa xâm nhập vào thời gian, vào không gian và vào trong những giới hạn của con người. Con Thiên Chúa, có thể nói, là đã tự giới hạn mình vào trong những chiều kích của thực tại nhân loại, mà vẫn không thôi là chính Người. Chúa Giêsu muốn bảo điều này: Con người hữu hình của Người dễ gần gũi với hành động đức tin của chúng ta hơn là Thiên Chúa vô hình; sự kiện lạ lùng là lòng tin của chúng ta vào Người làm cho chúng ta đụng đến Đấng không thể nào tới gần được. Khi tin vào người là Chúa Con, chúng ta có thể tin vào Chúa Cha. Mà tin vào Chúa Cha là nguyện vọng và tiếng gọi sâu xa nhất của con người vốn thường bị đau khổ làm cho xao xuyến. Niềm tin tưởng ấy làm cho sự xao xuyến tách ra khơi chúng ta và mang lại bình an, sức mạnh, niềm vui.
3) "Ta là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống". Trong cuộc sống của người-không-có-Thiên-Chúa, dường là một hệ thống tư tưởng hay là sự khôn ngoan, sự thật là một chọn lựa giữa nhiều ý kiến, sự sống là một sinh hoạt, một tình yêu suy nhược, và thường là một sự chịu đựng. Đối với người-có-Chúa-Kitô, thì sự sống là một sự thông hiệp mà những khám phá có sức làm được điều ta tưởng là bất kham. Trong Chúa Kitô, người Kitô hữu tìm được đường đi, lối về, nhờ đó họ vượt qua những biên giới của thế gian. Mà tự bản chất là một cánh cửa đóng kín tuyệt vọng. Hơn nữa con đường này, tức là Chúa Kitô, là một lời mời gọi ra đi, tiến tới đằng trước, vươn mình lên mãi. Người Kitô hữu khám phá nơi Chúa Kitô câu trả lời cho nhu cầu bí mật mà con người cảm thấy, là phải nương tựa vào một cái gì vửng chắc để luôn có thể tìm kiếm mãi. "Con sẽ không tìm Ta, nếu con đã không gặp Ta" (Th. Augustin). Sự thật sống động không bao giờ là một cái gì hoàn toàn đạt được, nhưng nó bảo đảm với ta rằng nó xác thực. Càng gặp Chúa Giêsu, ta càng tìm kiếm để biết Người hơn. Khỏi phải nói là biết Chúa Kitô là trước tiên sống bởi Người. Khi ta sống bởi Chúa Kitô, phải chăng các thực tại tự nhiên của đời sống đều thay đổi. Không, người Kitô hữu có một sinh hoạt nhân sinh và thực tế như tất cả mọi người, nhưng sinh hoạt ấy được một cái hồn. Có một cách suy nghĩ, một cách chọn lựa mục đích, một cách gặp gỡ con người... được hướng dẫn bởi sự hiện diện của Chúa Kitô trong cuộc đời. Chúng ta có biết ngạc nhiên về điều không thể làm được lại trở nên có thể được cho chúng ta trong Chúa Kitô không?
--------------------------------------
(07/05/2023)
“THÀY Ở ĐÂU, ANH EM CŨNG Ở ĐÓ!”
[Cv 6,1-7; 1 Pr 2,4-9; Ga 14,1-12]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Vào thời Xuất Hành (khoảng 1250 năm trước Công Nguyên) dân Israel chỉ là một bộ tộc nhỏ PS 5-A139
Vào thời Xuất Hành (khoảng 1250 năm trước Công Nguyên) dân Israel chỉ là một bộ tộc nhỏ bé sống dưới chế độ nô lệ Ai-cập là một cường quốc giầu mạnh. Nhưng điều mà dân Israel hãnh diện, điều làm nên căn tính, phẩm giá và hạnh phúc của dân Israel là có Thiên Chúa ở cùng! Hơn thế nữa Thiên Chúa của Israel là Đấng Thiên Chúa luôn đi cùng với dân; luôn sống bên cạnh dân; thấy hết những gì làm cho dân khổ sở cơ cực và luôn lắng nghe tiếng kêu than của dân và ra tay cứu giúp dân.
Căn tính, phẩm giá và hạnh phúc của dân Israel cũng là căn tính, phẩm giá và hạnh phúc của dân Kitô giáo. Càng ngày người công giáo càng trở thành thiểu số trong các thành phần xã hội. Nhưng người công giáo có căn tính, phẩm giá và hạnh phúc riêng là có Thiên Chúa ở cùng, “Emmanuel” Trong Bài Tin Mừng Chúa Nhật V Phục Sinh Năm A hôm nay, chúng ta được nghe chính Chúa Giêsu khẳng định: “Thày ở đâu, anh em cũng ở đó!”
Mỗi người Kitô hữu có quyền tự hỏi: tôi có cảm thấy mình hạnh phúc về tư cách Kitô hữu của tôinkhông? Tôi có thấy những người công giáo sống xung quanh tôi cảm nghiệm được hạnh phúc có Thiên Chúa ở cùng họ không?
II. LẰNG NGHE/ĐỌC LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (Cv 6,1-7): “Họ chọn bảy người đầy Thánh Thần” Trong những ngày ấy, số môn đồ gia tăng, nên xảy ra việc các người Hy-lạp kêu trách các người Do-thái, vì trong việc phục vụ hằng ngày, người ta khinh miệt các bà goá trong nhóm họ. Nên Mười hai Vị triệu tập toàn thể môn đồ đến và bảo: "Chúng tôi bỏ việc rao giảng lời Chúa mà lo đi giúp bàn, thì không phải lẽ. Vậy thưa anh em, anh em hãy chọn lấy bảy người trong anh em có tiếng tốt, đầy Thánh Thần và khôn ngoan, để chúng tôi đặt họ làm việc đó. Còn chúng tôi, thì sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ lời Chúa".
Cả đoàn thể đều tán thành lời các ngài, và chọn Têphanô, một người đầy đức tin và Thánh Thần, và chọn Philipphê, Prôcô, Nicanô, Timon, Parmêna, và Nicôla quê ở Antiôkia. Họ đưa mấy vị đó đến trước mặt các Tông đồ. Các ngài cầu nguyện và đặt tay trên các vị đó.
Lời Chúa lan tràn, và số môn đồ ở Giêrusalem gia tăng rất nhiều. Cũng có đám đông tư tế vâng phục đức tin.
2.2 Trong bài đọc 2 (1 Pr 2,4-9): “Anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả” Anh em thân mến, khi đến cùng Chúa là tảng đá sống động, bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa tuyển chọn và tôn vinh, chính anh em như những tảng đá sống động, xây dựng toà nhà thiêng liêng, chức vụ tư tế thánh thiện, để hiến dâng của lễ thiêng liêng đáng Thiên Chúa chấp nhận nhờ Đức Giêsu Kitô. Vì thế, có lời Thánh Kinh rằng: "Đây Ta đặt tại Sion tảng đá góc tường, được tuyển chọn và quý giá, ai tin Người, sẽ không phải hổ thẹn". Vậy, vinh dự cho anh em là những kẻ tin; nhưng đối với những kẻ không tin, thì tảng đá mà thợ xây loại bỏ, đã trở thành đá góc tường, đá vấp ngã và đá chướng ngại cho những kẻ chống lại và không tin lời Chúa, và số phận của họ là thế. Còn anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để rao giảng quyền năng của Đấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người.Đó là lời Chúa.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Ga 14,1-12): “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ cho các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi". Ông Tôma thưa Người rằng: "Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?" Chúa Giêsu đáp: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ các con biết và đã xem thấy Người". Philipphê thưa: "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha, và như thế là đủ cho chúng con". Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: "Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư, Philipphê? Ai thấy Thầy là xem thấy Cha, sao con lại nói 'Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha'? Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin vì các việc Thầy đã làm. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha".
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:
- Là Thiên Chúa Cha, Đấng đã ban Thánh Thần cho các Tông đồ và các tín hữu đầu tiên khiến mỗi ngày cộng đoàn một phát triển. Nhờ có Thánh Thần, các Tông Đồ đã khôn ngoan chọn lựa các “cộng sự viên” (là các phó tế) để trong cộng đoàn ai nấy đều được chăm lo chu đáo cả về phần hồn lẫn về phần xác.
- Là Thiên Chúa Cha, Đấng đã quy tụ các Kitô hữu và lập thành một dân tư tế, vương giả, một dân riêng của Thiên Chúa khiến họ trở nên nòi giống được tuyển chọn và được hiến dâng cho Thiên Chúa như của lễ toàn thiêu.
- Là Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã mạc khải cho các môn đệ (và chúng ta) biết Người là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống; Người là hình ảnh của Thiên Chúa Cha; là Đấng gần gũi, mật thiết, rất giống với Thiên Chúa Cha và ở trong Chúa Cha, Vì thế ai thấy Người là thấy Thiên Chúa Cha; ai đến với Người là đến với Thiên Chúa Cha; ai kết hợp với Người là kết hiệp với Thiên Chúa Cha. Người cũng nói cho các môn đệ (và chúng ta) biết là họ (và chúng ta) chẳng có gì phải lo sợ, buồn sầu và xao xuyến vì “Thày ở đâu, anh em cũng ở đó!”
- Là Chúa Thánh Thần, Đấng luôn ở bên cạnh Chúa Cha và Chúa Con, Đấng luôn hiện diện và hành động trong cộng đoàn tín hữu, nhất là trong những người lãnh đạo của cộng đoàn ấy.
3.2 Sứ Điệp Lời Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?): Qua ba bài Sách Thánh hôm nay, giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa gồm hai phần:
* Phần thứ nhất liên quan tới mầu nhiệm của Chúa Giêsu Kitô: Chúa Giêsu Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, là một với Thiên Chúa Cha, là nền tảng của Hội Thánh là Dân Chúa.
* Phần thứ hai liên quan tới căn tính, phẩm giá và hạnh phúc của các Kitô hữu: Các Kitô hữu là những người được tuyển chọn, được dành riêng cho Thiên Chúa, thuộc về Thiên Chúa (tức được thánh hiến cho Thiên Chúa) và luôn có Thiên Chúa ở cùng! Các Kitô hữu còn là những viên đá sống động của Đền Thờ Thiên Chúa.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Ý thức và cảm nghiệm về căn tính, phẩm giá và hạnh phúc lớn lao của mình trong cương vị là Kitô hữu.
Chúng ta tự kiểm xem tư tưởng, lời nói, việc làm và cách sống của mình có tương xứng với căn tính, phẩm giá và hạnh phúc của những người được Thiên Chúa tuyển chọn, dành riêng, thánh hiến…. không?
4.2 Nhìn nhận và đi sâu (thông hiệp) vào Mầu nhiệm của Chúa Giêsu Kitô.
Chúng ta tự kiểm xem mình đã biết về Chúa Giêsu Kitô như thế nào, đã sống và đối xử với Người như Người đã mạc khải cho chúng ta biết không?
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một thành phần dân chúng nào đó]
5.1 “Chính Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các dân, các nước, nhất là cho những người chưa nhận biết Chúa Giêsu Kitô là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống và là Đấng dẫn mọi người đến với Thiên Chúa, để họ tin nhận Người.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 “Còn anh em, anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người” Chúng ta hãy cầu nguyện cho toàn thể Hội Thánh Chúa Kitô - nhất là cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ -, để mọi Kitô hữu nhận thức và cảm nghiệm được căn tính, phẩm giá và hạnh phúc lớn lao của mình mà cảm tạ Thiên Chúa và sống xứng đáng với ơn huệ mà Thiên Chúa đã ban!
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 “Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” Chúng ta hãy cầu nguyện cho giáo dân của giáo xứ/cộng đoàn/cộng đồng chúng ta, nhất là cho những người đang sống trong lo âu, xao xuyến vì những khó khăn, thử thách của cuộc đời, để họ cảm nghiệm được sự hiện diện gần gũi, tấm lòng thông cảm và sự chăm lo chu đáo của Chúa Giêsu Kitô là Đấng “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”!
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người gặp tai ương, hoạn nạn, chiến tranh, dịch cúm covit-19 để họ vững tin vào tình thuơng và quyền năng của Thiên Chúa.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Sàigòn ngày 03/05/2023
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
-----------------------------
Với niềm tin sắt đá vào Đức Giêsu, chúng ta cố gắng trở nên những viên đá sống động được Thiên PS 5-A140
TMĐP- Với niềm tin sắt đá vào Đức Giêsu, chúng ta cố gắng trở nên những viên đá sống động được Thiên Chúa dùng “mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng” ( 1P2,5), bằng cầu nguyện nhiều và tha thiết cho Giáo Hội…
Không lúc nào Giáo Hội bị truyền thông đại chúng và dư luận thế giới đem ra mổ xẻ gay gắt bằng lúc này, khi mà những xì căng đan trong Giáo Hội liên tục bị đào bới, lột trần đến đáng thương hại. Từ những tội ác ấu dâm, những lạm dụng tình dục đến những biển thủ, gian lận, những đấu đá phe cánh, những tranh chấp quyền lực, những thủ đọan phế lập ngai toà, những lên án, trừng phạt lẫn nhau, những nếp nghĩ cửa quyền, hưởng thụ, những lối sống “giáo sĩ trị”, những tha hóa, sa đọa đến thất kinh, thất thần, tất cả đã đặt nhiều người, trong đó có cả những người Kitô hữu trước câu hỏi: Không biết Giáo Hội tôi thuộc về có còn là Giáo Hội của Đức Giêsu và như Ngài mong muốn?
Quả thực, Giáo Hội không chỉ nhiêu khê, phức tạp, nhiều vấn đề, nhưng Giáo Hộ còn nhiều tội lỗi nữa. Điều này hiển nhiên, không thể chối cãi, và Giáo Hội không ngừng đấm ngực nhận tội, và thống hối, ăn năn.
Những hình ảnh cúi mình xin lỗi các nạn nhân bị một số hồng y, giám mục, linh mục, tu sĩ lạm dụng tình dục của Đức Thánh Cha tại Canada,… đã nói lên tình trạng của một Giáo Hội gánh vác trên vai không ít con cái yếu đuối, hoang đàng, tội lụy.
Các bài đọc phụng vụ chúa nhật này đem đến cho chúng ta những giải đáp thoả đáng về Giáo Hội của Đức Giêsu:
Giáo Hội có những vấn đề của con người, vì là gia đình nhân loại của Thiên Chúa:
Tránh né những vấn đề của con người là điều không tưởng đối với Giáo Hội, vì Giáo Hội được lập nên cho con người, nên Giáo Hội không ngừng chia sẻ không chỉ thao thức, khát vọng, niềm vui, thành công, và những điều tốt đẹp, mà cả những khó khăn, vất vả, thất bại, yếu đuối và tội lỗi của con người. Đàng khác, Giáo Hội là nhà Thiên Chúa giữa con người, ở đó Đức Giêsu đi tìm và đưa về những tội nhân cần được thương xót, cứu độ, như lời Ngài nói với những người Pharisêu trách móc Ngài “ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi”: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần … Vì Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,11-13).
Sách Công Vụ Tông Đồ cho chúng ta thấy trong nội bộ Giáo Hội ngay từ buổi đầu đã xảy ra những căng thẳng giữa “các tín hữu Do Thái theo văn hoá Hy Lạp và những tín hữu Do Thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày”, các bà goá trong nhóm các tín hữu Do Thái theo văn hoá Hy Lạp bị bỏ quên (Cv 6,1). Để giải quyết những khúc mắc, lấn cấn gây nên bất hoà trong giữa ccá tín hữu với nhau, các Tông Đồ đã cho chọn ra bảy “phó tế” chuyên lo việc phục vụ cộng đoàn.
Nhưng đó chỉ là vấn đề nhỏ, dễ giải quyết, vì bên cạnh còn rất nhiều vấn đề khó khăn hơn có nguy cơ dẫn đến cắt đứt, chia lià, tách thành giáo phái mới, như vấn đề “cắt bì” đã trở thành điểm nóng đối kháng giữa người Kitô hữu gốc Do Thái và Kitô hữu gốc ngoại đạo, mà mức độ căng thẳng giữa hai tông đồ Phêrô và Phaolô, là hai vị đứng đầu của hai nhóm đã được nêu lên trong thư của thánh Phaolô gửi giáo đoàn Galát: “Khi ông Kêpha (tức Phêrô) đến Antiokhia, tôi đã cự lại ông ngay trước mặt, vì ông đã làm điều đáng trách. Thật vậy, ông thường dùng bưa với những người gốc dân ngoại trước khi có những người của ông Giacôbe đến; nhưng khi những người này đến, ông lại tránh né và tự tách ra, vì sợ nững người được cắt bì. Những người Do Thái khác cũng theo ông mà giả hnìh giả bộ, khiến cả ông Banaba cũng bị lôi cuốn mà giả hnìh như họ. Nhưng khi tôi thấy các ông ấy không đi đúng chân lý của Tin Mừng, thì toi đã nói với ông kêpha trước mặt mọi người: “nếu ông là người Do Thái mà còn sống như người dân ngoại, chứ không như người Do Thái, thì làm sao ông lại ép người dân ngoại phải xử sự như người Do Thái?” (Gl 2, 11-14).
Thực vậy, dọc theo dòng lịch sử Giáo Hội, chúng ta đã chứng kiến biết bao cuộc ly khai và những sóng gió mà con thuyền Giáo Hội phải đối phó và điều này cho chung ta nhận ra Giáo Hội không xa thân phận con người, vì Giáo Hội là tập thể những con người tin và đi theo Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người và ở giữa loài người chúng ta.
Đức Giêsu là sự sống và nền móng vững chắc của Giáo Hội:
Khi đặt Phêrô thay mặt Ngài cai quản Giáo Hội, Đức Giêsu đã quả quyết: “Quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16,18). Qủa quyết như thế, một cách gián tiếp, Đức Giêsu công nhận Giáo Hội không ngừng bị sức mạnh tử thần chống phá, nhưng không bao giờ Giáo Hội sụp đổ vì chính Ngài là sự sống của Giáo Hội, chính Ngài cho đoàn chiên Ngài được “sống và sống dồi dào” bằng dâng hiến chính mạng sống của Ngài (x. Ga 10,10.11).
Giáo Hội còn được xây trên nền móng vững chắc là chính Đức Giêsu. Ngài là “viên đá sống động bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa chọn lựa và coi là quý giá”; là “viên đá thợ xây loại bỏ đã trở nên đá góc tường” (1 P 2,4.7), “như có lời Kinh Thánh chép: “Này đây Ta đặt tại Xion một viên đá quý được lựa chọn, làm tảng đá góc tường: kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng” (1 P 2,6).
Tin Mừng Gioan cho chúng ta thấy các môn đệ, vào những ngày trước cuộc tử nạn của Đức Giêsu đã hoang mang, lo lắng khi phong ba bão tố từng lớp lồng lộn, như muốn cuốn trôi, nhận chìm con thuyền Giáo Hội, bật tung tảng đá Phêrô trên đó Giáo Hội vừa được xây dựng. Thấy họ hoảng loạn, mất tinh thần, Đức Giêsu đã âu yếm trấn an: “Anh em đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14,1).
Như các môn đệ đã hoảng sợ trước tương lai mù mịt của Giáo Hội còn non trẻ, khi đối mặt với nhiều thử thách, đe dọa vào những giờ phút đen tối nhất của Đức Giêsu, chúng ta cũng đang bị nhiều thế lực dồn vào thế bí nghi nan, và cám dỗ mất niềm tin ở Giáo Hội và muốn rời bỏ Giáo Hội, vì không biết Giáo Hội sẽ đi về đâu?
Cùng một tâm trạng như Tôma khi ông nói với Đức Giêsu: “Chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường? (Ga 14,5), chúng ta xin Đức Giêsu nâng đỡ đức tin yếu kém của chúng ta để chúng ta tin vào lời Ngài: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).
Với niềm tin sắt đá vào Đức Giêsu, chúng ta không hùa theo thế lực thần dữ để lên án, chống phá, làm tổn thương Mẹ Giáo Hội, nhưng cố gắng trở nên những viên đá sống động được Thiên Chúa dùng “mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng” ( 1P2,5), bằng cầu nguyện nhiều và tha thiết cho Giáo Hội; bằng sống xứng đáng là “giống nòi được tuyển chọn, hàng tư tế vương giả, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người” Đấng đã gọi chúng ta ra khỏi vùng u tối, và quy tụ chúng ta trong Giáo Hội, là dân thánh của Ngài.
Jorathe Nắng Tím
------------------------------
Lm.Jos Tạ duy Tuyền
Đời người lẽ thường là phải theo lộ trình của sinh – lão – bệnh – tử. Tuy nhiên, cũng có người PS 5-A141
Đời người lẽ thường là phải theo lộ trình của sinh – lão – bệnh – tử. Tuy nhiên, cũng có người không đi hết lộ trình mà đi đường tắt chỉ sinh rồi tử. Đó là lý do người ta nhìn đời là phù du, là cõi tạm, kiếp nhân sinh cũng chỉ là tro bụi một mai cũng trở về bụi tro.
Có một bài hát quen thuộc với giai điệu rằng:
“Người ơi hãy nhớ ta là cát bụi.
Sẽ về cát bụi thì xin đừng toan tính thiệt hơn.
Đời như thoáng mơ được mất ta đâu ngờ
Hỏi ai có bao giờ không trở về cát bụi đâu.
Sống để làm gì và chết rồi đi đâu vẫn là bài toán nan giải cho kiếp người chúng ta. Ai mà không biết sống tức là đang đi về cõi chết, nhưng chết rồi sẽ về đâu? Thân xác về cát bụi nhưng linh hồn sẽ về đâu?
Một bạn già nói với bạn mình: “Tôi sợ rằng chúng mình đều gần đất xa trời rồi, kiếm chỗ nào đi chơi cho thoải mái”. Người kia vui vẻ nói: “Theo mình nghĩ là chết là bỏ đất mà về Trời thì tụi mình xa đất gần Trời mới đúng”.
Theo niềm tin ky-tô gíao thì chết là bỏ đất mà về trời. Bỏ cát bụi về chốn thần thiêng. Bỏ cõi tạm về cõi vĩnh hằng. Bỏ tham sân si để sống thanh thoát bình an. Bởi vì, quê hương đích thực của chúng ta là Nước Trời và cuộc sống chúng ta hôm nay đang hết lòng hướng về đó để có sự sống vĩnh cữu và hạnh phúc viên mãn với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên, đâu là con đường, là cách thế thật sự để chúng ta đạt tới đích này.
Qua Chúa Giê-su đã cho chúng ta biết con đường về Trời, về nơi mà Ngài đã hứa rằng:“Thầy đi trước để dọn chỗ cho các con, để Thầy ở đâu các con cũng ở đó với Thầy”. Đây là một lời hứa thật đẹp. Đẹp vì nó mở ra cho chúng ta một khung trời hy vọng vì ngày mai tốt đẹp hơn. Đẹp vì cuộc sống của chúng ta không đi vào ngõ cụt. Cuộc sống của chúng ta từ nay đã có một lối đi về. Cuộc sống của chúng ta không dừng lại ở cái chết là hết một kiếp người. Cuộc sống vẫn tiếp diễn. Cuộc sống được nối dài vĩnh viễn trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa là Cha, là cội nguồn sự sống.
Tuy nhiên, để bước vào cõi Trời và thông hiệp sự sống thần linh của Thiên Chúa thì ngay từ đời này con người cần phải sống theo thánh ý và giáo huấn của Chúa.
Chúa Giê-su trong tư cách là một con người. Ngài đã luôn tìm kiếm ý Cha trên trời để thực thi. Ngài đã sống trọn vẹn 2 chữ yêu. Yêu Chúa Cha và yêu nhân loại. Có thể nói, Ngài đã sống cả cuộc đời vì yêu thương nhân loại và tôn vinh Chúa Cha. Vì Chúa Cha mà Ngài đã nhập thể làm người. Vì yêu nhân loại mà Ngài đã hy sinh chịu chết để cứu chuộc con người trở về làm con cái Thiên Chúa.
Là người ky tô hữu, chúng ta được mời gọi bước theo con đường Chúa Giê-su đã đi. Đó là con đường đi tìm thánh ý Chúa và thực thi đến hơi thở cuối cùng. Đó là con đường từ bỏ, đường thập giá, đường hiến tế đẫm máu trên đỉnh đồi Calve. Đó là con đường của tình yêu, tận hiến và hy sinh như Thầy Chí Thánh Giê-su. Đường tình yêu là con đường duy nhất để về Trời. Và Ngài còn nhấn mạnh chỉ những ai thực thi huấn lệnh yêu thương mới là môn đệ đích thực của Thầy Giê-su: “Căn cứ điều này để người ta nhận biết các con là môn đệ Thầy là hãy yêu thương nhau”.
Nguyện xin Chúa Giê-su Phục Sinh luôn đồng hành với chúng ta trong cuộc sống. Xin Người chỉ đường dẫn lối để chúng ta luôn tiến bước về nhà Cha trong an bình và gieo rắc tin mừng yêu thương đến tận cùng thế giới. Amen
---------------------------------
Lm Giuse Hoàng Kim Toan.
Đường mỗi người đang đi có thể là đường sự sống nhưng cũng đầy đường của sự chết. Con đường PS 5-A142
Đường mỗi người đang đi có thể là đường sự sống nhưng cũng đầy đường của sự chết. Con đường của sự chết do chỉ thích đi con đường của mình, càng đi càng lầm lạc, càng thấy đau khổ và bóng tối. Thánh Tôma hỏi Chúa Giêsu: ‘Làm sao chúng con biết đường đi” (Ga 14, 1 – 12)
Đường đi của cá nhân.
Con đường đi tự mình quyết định, xem ra thật đúng đắn và tự chủ. Thế nhưng, đường đi đâu dễ gì bằng phẳng như mong muốn. Phan Bội Châu trải qua nhiều đoạn đường gian nan, nói lên rằng: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai”. Vì đường đi mỗi người không giống nhau, mỗi người có thể cứ loay hoay mãi giữa cuộc đời, bước đi mà chẳng biết đi đâu; hoặc có cố gắng bước đi trên đường đã hoạch định mà cứ hoài thất bại, vấp ngã. Đó là đường đời, con đường nội tâm bất trắc còn hơn nhiều, thất bại về chính mình với những lần sa ngã, với cả những con đường tưởng sống thiêng liêng cao cả mà rốt cuộc chẳng gặt hái được gì, không thấy mình lớn lên trong ân sủng, cứ giống như đứa trẻ khóc đòi những gì mình muốn cho được.
Vết thương do tự mình gây ra.
Đi tìm mình nhưng lại tùy thuộc vào cái bên ngoài, thật sự là một điều tự gây thương tích cho mình. Theo các nhà tâm lý xuyên bản ngã, người nào tự mình muốn dập tắt lo âu lại thường gặp những lo âu khác, càng muốn giải quyết trở ngại thì lại gặp những trở ngại khác. Thư thánh Phêrô chỉ ra nguyên nhân: “cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian” (2 Pet 1, 4). Con người chỉ tùy thuộc vào trần gian, lấp đầy những trấn an cho mình bằng những mua sắm như Pascal Bruckner nói: “Sự tiêu thụ là một sản phẩm tôn giáo được chế xuất, là tin vào sự phục hồi vô biên của sự vật, mà hội thánh là siêu thị, tin mừng là quảng cáo”. Không thể tự lấp đầy cho mình được sự bình an, niềm vui, đích thực, nên luôn cần tự sướng bằng cách khoe những gì sở hữu bằng mua sắm, thích được nhiều view, nhiều like…
Khinh chê trần gian, cho mọi sự vật trần gian là xấu, là dịp tội. Điều ấy cũng rất thường xuyên ở đời sống người tu sỹ hay người tín hữu nhiệt thành. Thật ra, những khinh thường đó cũng để che khuất góc tối đời mình. Vì thiếu vắng sống sự sống của Thiên Chúa ngay trong đời sống tu đức, đạo hạnh; nên chính mình lấy đời sống thiêng liêng, đạo đức để sống ảo, tự sướng, đánh bóng mình, thỏa mãn những dục vọng thầm kín.
Trở về với Chúa Giêsu là đường là sự thật và là sự sống.
Chúa Giêsu đến và ở lại trong mỗi người, điều đó Thánh Phaolô như nhắc nhở: “Tôi sống, không phải tôi, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi” (Gal 2, 20). Khi sống như thế Thánh Phaolô “Tôi coi mọi sự như phân tro, để chỉ mong được lời lãi Tình yêu Chúa Kitô” (Pl 3, 8). Một cái nhìn rất tốt đẹp trên mọi nẻo đường đi khi đường đi ấy có Chúa. Đôi khi, như hai môn đệ trên đường Emmau, dù không nhận ra Chúa đang cùng đi với họ, nhưng Lời Chúa bên họ cũng làm cho lòng họ an vui. Dù khi cuộc đời người tín hữu, bước đi trong buồn nản, nếu cùng gẫm lại Lời Chúa, nhờ Chúa Thánh Thần hướng dẫn, giảng giải, cũng sẽ nhận ra Chúa Giêsu Kitô, Người đang sống với con người trong mọi nẻo đường.
Niềm vui ở nơi Chúa, tất cả là do Chúa tác tạo, mọi sự là hồng ân. Đó là một niềm vui biết mình đang được thông phần với Chúa trên mọi nẻo đường, lúc vui, khi buồn, khi thành công; lúc thất bại, lúc xao xuyến cũng như lúc bình an. Chúa Giêsu Kitô là niềm vui của sự sống, niềm vui của con đường hành trình và để xác tín lại một lần nữa: “Bỏ Ngài con biết theo ai, Thầy mới có Lời ban sự sống” (Ga 6, 68)
Tìm biết Chúa mỗi ngày và “xin Chúa ở lại với con vì trời đã về chiều” ( Lc 24, 13 – 35) để được cùng sống với Chúa, cùng Chúa và gặp được Chúa sống trong con.
-------------------------------------
Bông hồng nhỏ
Mỗi người đều mang trong trái tim mình nhiều ước mơ, có những ước mơ cháy bỏng những khát PS 5-A143
Mỗi người đều mang trong trái tim mình nhiều ước mơ, có những ước mơ cháy bỏng những khát khao. Theo Thầy Giêsu, các môn đệ cũng mang trong lòng những khát khao. Hôm nay, ông Philípphê đã thưa với Thầy Giêsu rằng: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện” (Ga 14, 8). Ông đã thay mặt các anh em khác nói lên nỗi khát khao này.
Chính Thầy Giêsu đã khẳng định điều này: “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha của Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người” (Ga 14, 7). Nghe lời ấy, ông Philípphê mới ngỏ ý xin cùng Thầy, Thầy đáp lại rằng: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư?” (Ga 14, 9). Mới nghe điều đó, ta cũng đã hết sức ngạc nhiên. Ông Philípphê xin Thầy tỏ cho biết Chúa Cha, vậy mà Thầy Giêsu lại trách ông chưa biết Người. Thầy Giêsu đã nói: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14, 9b). Nếu chỉ dừng lại bằng cái nhìn của tự nhiên, bằng kinh nghiệm của mình, ta cũng chỉ hiểu lờ mờ rằng, Thầy Giêsu có diện mạo rất giống Chúa Cha, đến nỗi chỉ cần nhìn thấy Thầy, ta có thể hình dung ra khuôn mặt và vóc dáng của Cha Người. Cũng giống như bao lần về quê nội chơi, ta nghe thấy mấy người lạ vui vẻ bắt chuyện: “Con bố Hưng về chơi à!” Điều đó cũng khiến ta thầm hiểu rằng mình rất giống bố.
Lắng nghe tiếp Lời của Thầy, ta lắng nghe được tâm tư và cảm nhận được nỗi khát khao đang cháy bỏng của Người: “Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy” (Ga 14, 11). Hai nỗi khát khao tìm kiếm và gặp gỡ nhau. Khát khao của con người được nỗi khát khao của Chúa Giêsu thánh hóa. Người môn đệ khát khao mong được gặp Chúa Cha cho lòng mãn nguyện đã gặp thấy nỗi khát khao của Thầy Giêsu, Người mong mỏi các ông tin vào Người, tin rằng “Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy” (Ga 14, 11). Đây là một mầu nhiệm đức tin. Bằng thái dộ vâng phục của đức tin, ta mới có thể đón nhận mầu nhiệm ấy bằng chính cả cuộc sống và con người mình. Bằng ân sủng và sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần, mầu nhiệm đức tin ấy sẽ dần dần biến đổi cuộc sống của ta. Mỗi ngày ta hãy xin Chúa “xin cho con biết Chúa”, biết Chúa hơn để yêu mến Chúa hơn.
Chúa Giêsu và Chúa Cha nên một trong Thánh Thần tình yêu. Ai ở trong Chúa Giêsu, lắng nghe và thực hành giới răn yêu thương của Người cũng sẽ được trở nên đồng hình đồng dạng với Người. Hãy để cho tình yêu của Chúa Giêsu biến đổi tâm hồn ta và hãy đến gần Người hơn nữa, để Người dạy cho ta biết yêu như Người đã yêu, để nhờ được ở với Người, ta cũng được Người bày tỏ chính mình cho ta. Đó là hạnh phúc lớn lao của người môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã cho con cảm nhận được nỗi khát khao của Chúa. Khát khao của Chúa làm cho khát khao trong con được diễn tả thành hành động, hành động của một đức tin mỗi ngày một lớn lên. Mỗi ngày Chúa vẫn hỏi con: “Thầy ở với con bấy lâu, thế mà con chưa biết Thầy ư?”. Đây quả là một lời mời gọi con tiến đến gần Chúa hơn và giúp con nhìn lại chính mình và sám hối. Xin cho con càng yêu mến Chúa, càng hiểu biết Chúa hơn nữa; càng hiểu biết Chúa lại càng yêu mến Chúa. Amen.
---------------------------------
Anna Cỏ May
Khi muốn đến với ai đang ở xa hay đến một nơi nào đó, trước tiên chúng ta phải biết đường đi PS 5-A144
Khi muốn đến với ai đang ở xa hay đến một nơi nào đó, trước tiên chúng ta phải biết đường đi và địa chỉ nơi ở. Tuy nhiên, điều đó cũng không làm cho chúng ta cảm thấy khó khăn trong việc tìm đường. Vì chúng ta đã có phương tiện hữu ích là Internet. Chúng ta chỉ cần gõ tên đường, địa chỉ nơi ở là sẽ được hướng dẫn đi đến tận nơi. Đó là việc tìm đường đi ở thế gian. Còn đường đi đến Nước Trời thì sao?
Ông Tôma, sau khi nghe những lời nhắn nhủ yêu thương của Thầy, đã nói: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” (Ga 14,5). Câu hỏi của ông không hẳn là sai, vì ông thuộc về thế gian nên chỉ biết hỏi chuyện ở thế gian (x Ga 3,31). Ông nghĩ rằng muốn đến với Thầy phải biết đường đi và chỗ ở của Thầy. Ông chỉ dừng lại ở việc nghe lời Thầy nói nhưng chưa hiểu ý cũng như ước mong của Thầy. Chúa Giêsu không lấy vậy làm buồn. Ngài đáp lại ông: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6a). Con đường Chúa Giêsu nói tới là con đường cuộc đời của Ngài. Ngài mời gọi các ông hãy sống lại cuộc đời của Ngài, là sống trong sự thật và tiếp nối con đường Ngài đi, đó là con đường tình yêu. Vì không ai đến với Chúa Cha mà không qua Ngài (x. Ga 14,6b). Con đường của Ngài không có địa chỉ, vì Ngài đi khắp nơi, đến tận cùng trái đất rao giảng Tin Mừng và yêu thương hết mọi người. Con đường của Ngài cũng không có ngã ba hay ngã tư, mà chỉ một con đường thẳng, không xen đường gian dối. Tên con đường của Ngài là con đường tình yêu, tình yêu thì luôn có sự đau khổ và sự hy sinh, hy sinh cả tính mạng của mình. Chính Ngài đã yêu Chúa Cha và nhân loại bằng việc đón nhận sự sỉ nhục cho đến chết và chết trên thập giá. Bài hát “Đường thập giá” của tác giả Giang Ân đã nói về con đường Ngài đã đi qua. Đó là con đường mang tên thập giá. Những ai yêu Chúa và theo Chúa cũng phải đi qua con đường đó mới có thể vào Nước Trời mà đến với Chúa Cha.
Ngày nay, chúng ta không thấy Ngài bằng con mắt xác phàm để đi theo và sống lối sống của Ngài. Chúng ta sẽ dùng đôi mắt đức tin để gặp thấy Ngài trong Bí tích Thánh Thể và các Bí tích khác. Chúng ta dùng đôi tai đức tin để nghe lời Ngài qua Kinh Thánh và để Thần Khí Chúa hướng dẫn chúng ta sống cuộc sống của Chúa qua các mối phúc, các điều răn và các giáo huấn của Hội Thánh. Đó là những kho tàng và đường lối Chúa Giêsu đã để lại cho tất cả mọi người bước đến Nước Trời.
Đức Cha Pierre Lambert de la Motte đã gửi một Bức Tâm Thư cho các nữ tu Mến Thánh Giá. Trong thư ngài viết: “Mục đích chính của Tu hội các con là tiếp nối nơi bản thân mình cuộc đời đau khổ của Chúa Giêsu Kitô và hằng ngày dâng việc suy gẫm cầu nguyện của các con, nước mắt của các con, các việc làm của các con và các hy sinh của các con, để cầu xin Người ban cho lương dân và những Kitô hữu bất hảo được ăn năn trở lại. Nhưng điều hết sức quan trọng là phải thực hành mọi việc thay cho Chúa Giêsu Kitô” (Btt 8-9). Là Kitô hữu, đã chịu Bí tích Rửa tội, chúng ta đã từng nghĩ đến con đường của Chúa chưa? Chúng ta đã và đang bước đi trên con đường như thế nào? Nếu chúng ta chưa để ý hay chưa bước đi trên con đường của Chúa thì đây là lúc chúng ta bước đi, đặc biệt là trước đại dịch Corona này. Chúng ta sẽ bước đi trong lời mời gọi yêu thương của Chúa là anh em hãy yêu thương nhau (x.Ga 15, 12). Chúng ta hãy chia sẻ của cải cho nhau và cùng nhau cầu nguyện. Chúng ta hãy tha thứ và nâng đỡ nhau vượt qua khó khăn, cùng bảo vệ mội trường mà chúng ta đang hiện diện. Nhờ đó, không chỉ có chúng ta bước đi trên con đường của Chúa mà cả những người nhận được sự yêu thương từ chúng ta, chính họ cũng đang tiến bước đến cuộc sống hạnh phúc trong Nước Trời.
Lạy Chúa! Chúa là con đường để chúng con bước đi. Xin cho mỗi người chúng con luôn vững tin vào Chúa trên con đường tình yêu, một con đường không thiếu những đau khổ nhưng đích đến là cuộc sống vĩnh cửu. Amen.
-----------------------------------
Lm Trần Bình Trọng
Lời giã từ của Chúa Giêsu, để lại cho các tông đồ cảm giác lo lắng và sợ hãi. Vì thế trong Phúc Âm PS 5-A145
Lời giã từ của Chúa Giêsu, để lại cho các tông đồ cảm giác lo lắng và sợ hãi. Vì thế trong Phúc Âm hôm nay Chúa dùng những lời lẽ khích lệ để an ủi và trấn an các ông:
Lòng các con đừng lo lắng bối rối. Hãy tin tưởng vào Thiên Chúa và hãy tín nhiệm nơi Thày (Ga 14:1). Qua các tông đồ, Chúa cũng muốn ta đặt tin tưởng, cậy trông, phó thác vào Chúa, vào chương trình quan phòng và cứu rỗi của Chúa.
Phó thác là điều mà ta có thể học được qua kinh nghiệm sống. Khi phải đương đầu với những khó khăn và vấn nạn của cuộc sống, ta cảm thấy như Chúa đi vắng. Nhiều người phải gặp cảnh lo âu, đau lòng và trắc trở trong cuộc sống. Ðứng trước những vấn nạn và trắc trở của cuộc sống, ta tự hỏi tại sao Chúa để gian nguy, khốn khó xẩy đến cho bản thân và gia đình ta? Tuy nhiên nếu nhìn sự vật bằng con mắt đức tin, ta sẽ thấy những cảnh gian nguy, khổ cực có thể là những thử thách làm tăng triển đời sống đức tin. Nhìn bằng con mắt đức tin, những khó khăn trắc trở của cuộc sống sẽ giúp ta xích lại gần Chúa trong lời cầu nguyện.
Từ giã các tông đồ về Trời, nhưng Chúa không bỏ rơi họ, mà vẫn ở lại với các tông đồ bằng ơn thánh, bằng sức mạnh thiêng liêng. Chúa còn hứa: Thày sẽ trở lại đón các con về cùng Thày, để cốt cho Thày ở đâu, các con cũng được ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi (Ga 14:3-4).
Ðến đây Thánh Tôma liền thắc mắc là ông không biết đường. Chúa Giêsu đáp: Thày là đường, là sự thật, và là sự sống (Ga 14:6). Ðọc Thánh kinh, người ta thấy ông Tôma là người thực tế và có óc thực tiễn. Lần khác các tông đồ cho hay Chúa đã phục sinh và hiện ra với các ông, ông Tôma nhất định không tin. Ông đòi phải xỏ ngón tay vào lỗ đinh và cạnh sườn Người, ông mới tin. Vấn nạn của thánh Tôma nói lên sự thiếu hiểu biết của các tông đồ. Họ đã theo Chúa ba năm, nghe lời Chúa giảng dạy, chứng kiến phép lạ Chúa làm, mà họ vẫn chưa nhận thức được rằng, qua Ðức Kitô là họ được đến với Thiên Chúa Cha. Còn Thánh Philipê thì cũng cá mè một lứa. Ông xin Thày mình để cho được thấy Chúa Cha. Chúa Giêsu bảo ông Philipê là ông ta đã thấy Thiên Chúa Cha bằng việc xem thấy Chúa Con rồi.
Nếu đi lạc đường, sai hướng, Chúa Giêsu hứa sẽ chỉ lối cho ta đến cùng Chúa Cha. Qua bốn mươi năm trong sa mạc, ông Môsê cố gắng tìm đường1 đưa dân trở về đất hứa. Bây giờ Ðức Giêsu xác nhận Người là đường. Ðường của Chúa là đường lối Phúc âm.
Qua bao nhiêu thế kỉ, nhiều nhà triết học và học giả, đã cố công tìm sự thật2. Bây giờ Chúa Giêsu lại nói Người là sự thật. Sự thật cũng được tìm thấy trong sứ điệp Phúc âm. Qua bao nhiêu thế hệ, vua chúa người Trung Hoa và Ai Cập cố gắng tìm thuốc trường sinh để kéo dài mạng sống mãi mãi. Ngay cả gần đây những nhà lãnh đạo cộng sản Sô Viết cũng cố gắng làm như vậy. Còn bây giờ Chúa Giêsu lại bảo Người chính là sự sống, và là sự sống lại (Ga 11:25).
Chúa vẫn ở lại với ta, đồng hành với ta trên mọi nẻo đường của cuộc sống. Nếu ta đi lầm đường lạc lối, Chúa hứa chỉ đường cho ta trở về với Chúa qua Thánh kinh, qua Giáo Hội. Người giảng dạy sự thật được ghi lại trong Phúc âm. Ðể đáp lại những khát vọng và những lời cầu xin của loài người qua nhiều thế hệ, Chúa Giêsu công bố Người là hiện thân của cả ba cùng đích: là đường, là sự thật, và là sự sống (Ga 14:6). Vào thời Trung cổ, tác giả sách: Gương Chúa Giêsu đặt những lời lẽ sau đây vào miệng Chúa: Ta là đường mà con phải bước theo, là sự thật mà con phải tin tưởng, là sự sống mà con hằng hi vọng.
Lời nguyện xin cho được hưởng sự sống vĩnh cửu:
Lạy Ðức Kitô phục sinh: là đường, là sự thật và là sự sống.
Con xin dâng lên Chúa những khó khăn trắc trở của cuộc sống.
Những lúc con đứng giữa ngã ba đường,
cũng như khi con bỏ đường đạo hạnh và công chính
xin chỉ cho con đường lối phải theo,
và dẫn dắt con về đường ngay nẻo chính.
Những khi tâm trí con bị lú lẫn về đạo lí phúc âm,
xin soi sáng cho con biết đâu là sự thật phải tìm kiếm.
để con được huởng sự sống vĩnh cửu. Amen.
--------------------------------------
Lm Vũđình Tường
Thế giới hữu hình bao gồm những gì mắt có thể nhìn, tay có thể đụng chạm, mũi có thể ngửi và PS 5-A146
Thế giới hữu hình bao gồm những gì mắt có thể nhìn, tay có thể đụng chạm, mũi có thể ngửi và lưỡi có thể nếm. Nói chung, giác quan giúp con người nhận biết chúng tồn tại trên đời. Chúng ta biết thế giới vô hình tồn tại qua cảm xúc. Đọc một câu chuyện bạn cảm thấy vui buồn, thương tâm. Nghe một câu nói bạn cảm thấy an ủi, mừng hay buồn. Nhờ vào những cảm xúc đó mà ta cho là chúng tồn tại trên đời. Rất thường khi nghe kể chuyện, khi đọc sách, chúng ta phải dùng đến thế giới hữu hình bằng cách mường tượng ra trong đầu những hình ảnh và bạn thấy dễ cảm nhận, thấy chúng gần hơn, xác thực hơn. Cả hai cách trên đều không thể dùng vào thế giới tâm linh, bởi thế giới tâm linh dùng ngôn ngữ của con tim. Con tim giúp bạn nhận biết thế giới tâm linh. Ai cũng biết yêu nhưng không ai giải thích được. Con người chỉ có thể diễn tả hình ảnh, hành động yêu thương, mà không thể giải thích được tình yêu. Tình yêu Đức Kitô dành cho bạn cũng thế. Bạn biết Thiên Chúa yêu bạn, và bạn đáp trả lại tình yêu đó. Đáp trả, diễn tả tình yêu Chúa qua kinh cầu, hành động bác ái, thương người và tha thứ. Chúng không phải là yêu mà là thành quả của yêu thương. Ngoài ra ta khó có cách nào tốt hơn để diễn tả tâm tình yêu thương. Đức tin thuộc vào thế giới tâm linh và thế giới tâm linh thường huyền bí, ngoài sức tưởng tượng của trí óc con người. Bởi thế giới tâm linh vừa mầu nhiệm, vừa huyền bí, không thể dùng giác quan cảm nhận nên niềm tin luôn bị thách thức giữa vững tin và ngờ vực. Môn đệ Đức Kitô muốn được nhìn thấy bằng thế giới giác quan, thế giới hữu hình. Các ông hỏi Đức Kitô điều đó. Cảm nghiệm của các tông đồ Đức Kitô, cũng là cảm nghiệm của các Kitô hữu. Thánh Thoma hỏi Đức Kitô chỉ cho biết đường về nhà Chúa Cha. Còn thánh thánh Philip xin Đức Kitô cho gặp Chúa Cha. nhờ vào thắc mắc của các Ngài mà chúng ta hiểu thêm về niềm tin, và về thân phận con người. Đáp lại thắc mắc của hai thánh nhân, qua giải thích của Đức Kitô chúng ta nhận được nhiều hữu ích cho niềm tin vào Đức Kitô.
Thứ nhất, Đức Kitô cho biết hiện tại các tông đồ chưa thể gặp được Chúa Cha, nhưng trong tương lai các vị sẽ được gặp Chúa Cha. Hiện tại các vị có thể nhận biết Chúa Cha qua nhận biết Đức Kitô,
‘Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha’ Gn.14, 9 vì ‘Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy’. Đức Kitô giải thích thêm ‘Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình’.
Đức Kitô cho biết con người không thể trực tiếp nhận biết Chúa Cha. Con người chỉ có thể nhận biết Chúa Cha qua nhận biết Đức Kitô. Đức Kitô vừa là Thiên Chúa vừa là con người. Các tông đồ chỉ có khả năng nhận biết bản tính con người của Đức Kitô, các ông không đủ khả năng nhận biết bản tính Thiên Chúa của Đức Kitô. Tại sao thế? Bởi vì nhân loại có giới hạn riêng của mình. Chúng ta là những con người hữu hạn, được Thiên Chúa tạo dựng như thế. Giới hạn về nhiều phương diện. Giới hạn về sức khoẻ, tuổi tác; giới hạn về trí khôn, trí nhớ; giới hạn về tài năng, kiến thức; giới hạn về nhận thức và trí tưởng tượng; giới hạn về thời gian và không gian. Các giới hạn này khác nhau giữa người này với người kia. Giới hạn này cũng khác biệt ở trong cùng một người, giữa tuổi này với tuổi kia. Ví dụ như trí nhớ, sức khoẻ, sắc đẹp, bén nhậy. Con người dù cố gắng cách nào cũng không thể vượt thoát được giới hạn này. Con người chỉ có một lối thoát là chấp nhận thực tế giới hạn của mình. Vì thế mọi cố gắng chứng minh Thiên Chúa tồn tại, hiện hữu, là những cố gắng vượt quá giới hạn của con người. Cố gắng làm những gì quá giới hạn thường gặp phải thất bại ê chề. Bởi những giới hạn đó mà Đức Kitô cho các môn đệ biết hiện tại các ngài chưa thể nhìn thấy Chúa Cha, nhưng sẽ có ngày các vị sẽ diện kiến Chúa Cha. Để vượt qua các thắc mắc về giới hạn đức tin, Đức Kitô kêu gọi các môn đệ hãy đặt trọn niềm tin vào Ngài. Tin vào Đức Kitô các ông sẽ được thanh thản trong niềm tin, con tim được an bình, tâm trí được thanh thản. Hiện tại các môn đệ đang sống trong thế giới vật chất nên bị giới hạn về đời sống tâm linh. Con người sẽ vượt thoát giới hạn vật chất khi nào các ngài tái sinh vào cuộc sống trường sinh; lúc đó mọi giới hạn vật chất bị chấm dứt, và các ngài sẽ hiện diện trước tôn nhan Chúa Cha. Đức Kitô còn cho các tông đồ biết ‘Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở… thầy đi dọn chỗ cho anh em… Thầy đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó’ Gn.14,3.
Thoma xin Đức Kitô chỉ cho ngài đường đi. Nhờ câu hỏi này mà Đức Kitô cho biết a/ việc Đức Kitô ra đi không phải để các ông cô đơn, đơn độc một mình. Việc Đức Kitô ra đi là có lợi cho các ông, bởi Ngài đi trước chuẩn bị đón môn đệ trong ngày đoàn tụ. b/ các ông không thể tự sức riêng mình đến cùng Thiên Chúa. ‘Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy’ Gn 14,6. Con người có khả năng đi một mình trên đường trần thế, nhưng đường tâm linh, đường đức tin đẫn con người đến với Thiên Chúa, con người không có khả năng tự đi một mình. Con người cần Đức Kitô, hướng dẫn, chỉ đường, vạch lối. Đức Kitô là Đấng duy nhất biết đường dẫn ta đến cùng Chúa Cha. Đồng hành cùng Đức Kitô ta còn sợ chi, còn thắc mắc gì bởi có Đức Kitô cùng đồng hành. Kitô hữu sẽ có ngày diện kiến Chúa Cha và ngày đó sẽ đến trong tương lai và đó là điều Đức Kitô hứa ban cho ai trung thành đồng hành với Ngài. Hãy tin và được sống thanh thản.
--------------------------------
Lm.Giuse Đỗ Đức Trí
Đức Hồng Y George Pell, vị Hồng Y đáng kính của Giáo Hội đã được Tối Cao Pháp Viện Australia PS 5-A147
Đức Hồng Y George Pell, vị Hồng Y đáng kính của Giáo Hội đã được Tối Cao Pháp Viện Australia tuyên bố trắng án hôm 7/4/2020. Phát biểu sau khi tòa tuyên kết luận, Đức Hồng y nói: “Tôi đã kiên định trước sau như một để bảo vệ sự vô tội, ngay cả khi phải chịu cảnh bất công nghiêm trọng.”
Đức Hồng y cũng khẳng định ngài tha thứ cho người đã cáo buộc ngài và nhấn mạnh: “Tôi không muốn việc mình được tha sẽ làm tổn thương và mang lại cay đắng cho người khác; đã có quá nhiều đau đớn và cay đắng rồi.” “Điều cần thiết để có sự chữa lành là sự thật, nền tảng của công lý cũng là sự thật, vì công lý là sự thật cho mọi người.” Đức Hồng Y Pell được ra khỏi nhà tù của Úc sau 404 ngày bị giam giữ. Ngài là một người giữ nhiều chức vụ cao trong giáo hội Úc Châu và toàn cầu. Ngài cũng là một trong những hồng y cố vấn của Đức Thánh Cha Phanxicô.
Những người ủng hộ cùng tạ ơn Chúa và coi Đức Hồng Y như là nạn nhân của một thế lực thế tục. Phe chống đối lại đang kêu gào “bênh vực cho các nạn nhân”. Vậy, ai là nạn nhân trong vụ án này? Đức Hồng Y là nạn nhân hay những kẻ cáo gian là nạn nhân ?
Thưa quý OBACE, có thể nói, chúng ta sống trong một thế giới mà sự thật, chân lý đang bị xem nhẹ bị bóp méo. Người ta lấy sự giả dối để che đậy bộ mặt thật của mình, lấy sự gian trá để dẫn đường thế giới. Hôm nay, Chúa Giêsu quả quyết cho chúng ta: Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy.
Các tông đồ hình dung đến việc sẽ phải chia tay với Đức Giêsu. Các ông vẫn chưa hình dung Thầy các ông sắp làm gì, sẻ đi về đâu? Vì thế, các tông đồ tỏ ra buồn phiền lo lắng về hiện tại, tương lai của các ông. Các ông sợ mình sẽ lạc đường, mất phương hướng. Chúa Giêsu đã phải trấn an các ông và chỉ cho các ông một con đường, đó là con đường trở về Nhà Cha, nơi đó, mọi người sẽ gặp Thiên Chúa và gặp lại nhau trong niềm vui và hạnh phúc.
Các tôn giáo khác chỉ có thể dẫn người ta đi lanh quanh theo vòng luân hồi từ kiếp này qua kiếp khác không lối thoát. Nhưng Chúa Giêsu đến, Ngài chỉ cho chúng ta một con đường thẳng và là con đường hướng về trời đưa chúng ta về với Thiên Chúa: Anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào thầy. trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, Thầy đi để dọn chỗ cho anh em….Thầy sẽ trở lại đem anh em về với Thầy. Con đường của Chúa Giêsu là con đường đưa tới hạnh phúc đích thực được diễn tả qua niềm vui của người lữ khách về tới quê nhà, được cha mẹ và anh em đón tiếp yêu thương. “Quê nhà” là nơi Chúa Giêsu “đã ở”. Ngài từ đó ra đi đến với trần gian, nay Ngài lại dẫn tất cả trần gian trở về.
Thánh Toma còn băn khoăn về lời giải thích của Chúa Giêsu. Ông đặt vấn đề: Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết đường đi? Chúa Giêsu trả lời: Thầy là đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Con đường của Chúa Giêsu là con đường của sự thật và đưa tới sự thật là chính Thiên Chúa, vì Chúa là sự thật, là chân lý. Nơi Thiên Chúa không có mảy may sự gian dối. Sống và hành động theo sự thật con người sẽ được giải thoát. Sự thật sẽ giải thoát chúng ta khỏi những trói buộc của quá khứ, tội lỗi; sự thật sẽ giải phóng chúng ta khỏi sự dữ và sự ác; sự thật sẽ đem lại cho chúng ta cuộc sống tự do. Chỉ những ai sống theo sự thật mới thực sự là con người tự do. Trái lại, những ai sống trong gian dối quanh co thì biến mình trở thành nô lệ của bóng tối và sự ác.
Chúa Giêsu đến để nói cho chúng ta biết sự thật về Thiên Chúa chân thật tốt lành, là người cha yêu thương nhân loại. Ngài đã sống và bảo vệ sự thật đến độ chấp nhận hy sinh mạng sống trên cây thập gía, để mình chứng một tình yêu chân thật dành cho con người. Trước mặt Philatô, Chúa Giêsu đã nói cho ông biết sự thật là: Nước tôi không thuộc về thế gian này, nếu nước tôi thuộc về thế gian này, tôi sẽ đem quân đội để chiến đấu. Nhưng nước tôi không thuộc chốn này. Philatô vì không phải là con người thuộc về sự thật đã không đón nhận được mạc khải thật đó. Ông đã hỏi lại Chúa: Sự thật là gì?
Chúa Giêsuu không trả lời Philatô, nhưng trước đó Philipphê hỏi Chúa: Thưa Thầy xin tỏ cho chúng con xem thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện. Chúa Giêsu đã mạc khải cho Philipphê một sự thật đó là: Ai thấy Thầy thì thấy Chúa Cha… Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy. Đây chính là một mạc khải sâu xa về màu nhiệm Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu. Qua mặc khải này Chúa Giêsu cho các môn đệ biết Ngài chính là Thiên Chúa, là Đấng “đồng hình, đồng dạng, đồng bản thể” với Đức Chúa Cha và là Đấng tạo dựng và cứu chuộc nhân loại.
Chính Thiên Chúa là chủ sự sống trên trần gian này, Ngài thông truyền sự sống cho loài nào, vật nào, loài đó vật đó sẽ có sự sống. Con người đã được dựng nên từ bùn đất và được Thiên chúa thổi hơi truyền trao sức sống thần linh của Ngài, làm cho con người có sự sống. Đặc biệt hơn nữa, Đức Giêsu là Đấng từ nơi Thiên Chúa Cha mà đến trần gian, Ngài đã rao giảng, chỉ đường, dẫn chúng ta về với Thiên Chúa là nguồn sự sống; Ngài còn trao tặng sự sống của Ngài cho nhân loại qua cái chết trên thập giá. Ngài đã sống lại trong vinh quang và ban cho con người được chia sẻ vào sự sống trường sinh bất tử với Ngài.
Sau khi về trời, Chúa Giêsu còn ban Chúa Thánh Thần cho Giáo Hội. Chúa Thánh Thần chúng ta tuyên xứng Ngài là Đấng Ban sự sống. Ngài làm Giáo Hội trở nên mới, có một sức sống mới, để tiếp tục làm chứng và rao giang về Chúa Giêsu là Đường là sự Thật và là Sự Sống. các tônng đồ và các tin hữu sơ khai đã thể hiện rõ néi sức sống thần linh của Thiên Chúa được ban qua Thánh Thần đang hoạt động trên từng người. Chúa Thánh Thần giúp Giáo Hội vượt qua những khó khăn của buổi sơ khai, ban sức mạnh, lòng can đảm để các tông đồ và các tín hữu mạnh mẽ sống theo con đường của Tin Mừng. Cuối cùng các tông đồ cũng đã chấp nhận cái chết để lànm chứng và bảo vệ cho sự thật là Thiên Chúa.
Sách Công Vụ hôm nay kề về hoạt động của Giáo Hội sơ khai. Nhờ đời sống chứng tá yêu thương, số những người tin theo Chúa Giêsu ngày càng gia tăng. Các tông đồ đã phải chọn thêm các phó tế, đặt tay trên họ, trao cho họ nhiệm vụ cùng với các ông phục vụ cộng đoàn. Mọi người đều sống theo sự thúc đẩy và sức sống của Chúa Thánh thần. Lời Chúa được loan truyền đi khắp nơi từ Giêrusalem đến tận cùng trái đất.
Giáo hội ngày này dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần vẫn đang nỗ lực làm chứng về về Đức Giêsu là Thiên Chúa, là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống cho thế giới. Giáo Hội không ngần ngại nói lên sự thật và bênh vực cho sự thật, cho dù bị hiểu lầm, bị chỉ trích, chống đối bằng nhiều cách. Thế giới này đang bị che phủ bởi thần tối tăm và gian dối là ma quỷ. Ma quỷ đang tìm mọi cách gieo rắc sự dối trá vào trong suy nghĩ, vào tâm hồn con người và không ngừng tấn công Giáo Hội bằng sự dối trá. Nó không bao giờ nói thật, nó chỉ nói một nửa sự thật mà thôi. Vì ma quỷ là cha của sự gian dối. Những ai dám sống theo sự thật, bênh vực sự thật là những người thuộc về Đức Kitô. Những ai sống và hành động theo sự gian dối thì thuộc về bóng tối và ma quỷ.
Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy sự dối trá. Sự dối trá được lặp đi lặp lại nhiều lần, nhiều ngày khiến cho người ta dần quen và chấp nhận nó như sự thật. Đó là một mưu chứơc rất nguy hiểm của ma quỷ. Nó sẽ làm cho lương tâm cùa chúng ta bị xói mòn, chai cứng khi quen sống với gian dối. Nó sẽ biến chúng ta thành kẻ độc ác, tàn nhẫn khi chúng ta đánh mất sự thật trong tâm hồn. Nó sẽ cướp mất sự sống thần linh trong chúng ta và sẽ đưa chúng ta đi lạc đường, không thể trở về với Thiên Chúa được.
Xin Chúa giúp chúng ta can đảm sống và làm chứng về Chúa Giêsu là đường đưa tối sự sống, là sự thật giải thoát nhân loại và là Đấng đem lại sự sống cho chúng ta. Amen.
-------------------------------------
Trầm Thiên Thu
Kiên định là một đức tính cần thiết tập luyện và duy trì trong cuộc sống, cả đời thường và tâm PS 5-A148
Kiên định là một đức tính cần thiết tập luyện và duy trì trong cuộc sống, cả đời thường và tâm linh. Để xây dựng đức tính này, điểm cốt lõi là cần đặt ra mục đích và quyết tâm hoàn tất, bắt đầu bằng việc xác định ước muốn sống kiên định như thế nào và hướng tới mục đích đó. Dần dần, khi đã thực sự kiên định, hãy cố gắng duy trì động lực và tự có trách nhiệm với chính mình. Trong quá trình tập luyện tính kiên định, cũng rất có thể phải thay đổi suy nghĩ để luôn sống lạc quan và làm việc một cách hiệu quả.
Con đường nào cũng có những loại “chông gai” đặc trưng, không là thảm lụa. Vì thế, rõ ràng rất cần kiên định, nói chung là luôn phải tự khó với chính mình. Chúa Giêsu đã từng động viên: “Đừng xao xuyến!” (Ga 14:1; Ga 14:27) và Thánh Phêrô cũng khuyến khích như vậy. (1 Pr 3:14) Điều đó cũng có nghĩa là không hèn hoặc không sợ hãi. Muốn vậy thì phải can đảm, muốn can đảm thì phải mạnh mẽ, muốn mạnh mẽ thì phải cầu xin Thiên Chúa Ngôi Ba, Đấng ban sức mạnh – một trong các ơn của Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần là Thần Khí, sống là nhờ thần khí: “Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì.” (Ga 6:63a) Lời Chúa Giêsu cũng là thần khí và là sự sống. (Ga 6:63b) Nhưng đôi khi người ta có thể ảo tưởng mà lầm lẫn, cái gì cũng bảo là “Ý Chúa.” Vì thế, Thánh Gioan Tông Đồ đã khuyên chúng ta PHẢI cảnh giác và đưa ra cách nhận biết: “Anh em ĐỪNG cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy CÂN NHẮC các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì đã có NHIỀU NGÔN SỨ GIẢ lan tràn khắp thế gian. Căn cứ vào điều này, anh em nhận ra thần khí của Thiên Chúa: thần khí nào TUYÊN XƯNG Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến và trở nên người phàm thì thần khí ấy bởi Thiên Chúa; còn thần khí nào KHÔNG TUYÊN XƯNG Đức Giêsu thì không bởi Thiên Chúa, đó là thần khí của tên phản Kitô. Anh em đã nghe nói là nó đang tới, và HIỆN NAY nó ở trong thế gian rồi.” (1 Ga 4:1-3) Đơn giản mà nhiêu khê, dễ mà khó.
Quả thật, lời cảnh báo của Thánh Gioan rất đáng sợ. Chúng ta cũng đã và đang thấy nhiều thứ giả, trong đó cũng có đủ loại “người giả” – còn đáng sợ hơn các loại giả khác. Những điều tương tự cũng đã được Đức Mẹ nhiều lần tiên báo. Do đó, sự cảnh giác càng cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết, đặc biệt trong thế kỷ XXI đầy những khó khăn này, càng văn minh càng nhiêu khê. Thời nay mệnh danh là thời @ – mà đúng là cái chữ @ nó “vòng vo” rắc rối lắm, đôi khi giống như cứ loanh quanh trong mê cung, không biết lối ra. Và hơn bao giờ hết, người ta càng cần kiên định hơn.
Dù đời và đạo, cuộc sống luôn có nhiều thứ khiến chúng ta dao động, chia trí. Thật vậy, ma quỷ có thiên hình vạn trạng, nó len lỏi vào bất cứ nơi nào, thậm chí ma quỷ có thể cám dỗ người ta cảm thấy mình đạo đức và thánh thiện. Đó là dạng cám dỗ rất nguy hiểm, vì là dạng GIẢ DANH GIẢ NGHĨA. Thà rằng nó cám dỗ chúng ta khô khan, phạm tội, hoặc “quay lưng” lại với Chúa thì chúng ta dễ nhận biết mà tránh, đằng này nó lại làm cho chúng ta cảm thấy rất gần Chúa, thế mới đáng sợ, và chúng ta phải rất tỉnh thức. Đừng ảo tưởng, vì rất khó phân biệt, như Thánh Phaolô nói: “Lạ gì đâu! Vì chính Satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng!” (2 Cr 11:14)
Có một người quen ở Mỹ cho biết rằng em gái của họ lấy chồng là Phật tử, người chồng này làm cho cô ta bỏ đạo Công giáo và nói xấu Công giáo đủ thứ. Một thanh niên tại Saigon bỏ đạo Công giáo rồi cạo đầu và quy y, anh ta bảo rằng theo Công giáo phải giữ nghiêm luật nên “căng” quá, theo Phật giáo “khỏe” hơn nhiều. Còn tại Đồng Nai, một nữ tu bỏ đạo Công giáo rồi đi lập chùa riêng và làm ni cô trụ trì. Những người này không chỉ yếu đức tin Công giáo, mà còn thiếu tính kiên định.
Đừng vội hoang mang khi thấy có những trường hợp như vậy. Đó chỉ là những trường hợp hiếm hoi. Thật ra họ chỉ bất mãn một vấn đề nào đó vì họ không được thỏa mãn ý riêng, đồng thời họ là những người “yếu bóng vía” và chẳng hiểu rõ Công giáo, chỉ là dạng “lý sự cùn,” đầu óc thiển cận hoặc như “ếch ngồi đáy giếng” mà thôi. Những “ông tổ” của các đạo khác liên quan Kitô giáo cũng vậy, họ chỉ muốn theo ý riêng mà ly khai khỏi Công giáo. Rồi cũng chẳng đâu vào đâu, nhưng họ vẫn cố chấp.
Những người thiển cận hoặc nông cạn mới như vậy, còn những người sâu sắc không như vậy, bởi vì người ta càng giỏi thì càng nhận biết Thiên Chúa và tin yêu Ngài. Đa số các bác học đều là những người tin vào Thiên Chúa. Khoảng hơn 40 năm trước, chính Đức cố TGM Phaolô Nguyễn Văn Bình (1910-1995) đã rửa tội cho một Thượng tọa Phật giáo cao niên vào chính đêm Chúa giáng sinh. (Liên quan chuyện “theo đạo” nên liên tưởng, nhưng tiếc rằng lâu quá rồi nên không còn nhớ tên ông cựu họ Thích này). Hơn 20 năm trước, có một ni cô chán “ăn chay trường” rồi gia nhập Công giáo, sau đó cô này lấy chồng là người Công giáo. Vợ chồng họ người Đồng Nai, nay họ vẫn sống hạnh phúc tại Bình Dương. Và còn rất nhiều những trường hợp tương tự, từ khắp nơi trên thế giới, không thể kể hết.
Có điều vô cùng đặc biệt: Không một người nào mà dám nói “tôi là Thiên Chúa” khi lập đạo, chỉ có Chúa Giêsu mới xác định như vậy. Cũng chẳng có ai làm được những phép lạ như Ngài đã làm. Và cũng chỉ có Ngài dám nói: “Tôi là con đường, là sự thật và là sự sống.” (Ga 14:6) Đặc biệt nhất là chẳng có ai bị giết chết mà sống lại như Ngài. Chỉ vài điều như vậy thôi cũng đủ để chúng ta biết đâu là “chân lý thật” và đâu là “chân lý giả.” Càng ngày khoa học và khoa khảo cổ càng phát hiện những điều chính xác như Kinh Thánh đã đề cập. Đó là chứng cớ minh nhiên, những kẻ phủ nhận chỉ là cố chấp. Và còn các phép lạ Thánh Thể và những lần Đức Mẹ hiện ra nữa…
Bằng chứng cụ thể trong sách Công Vụ: Khi nghe ông Phêrô rao giảng việc ăn năn sám hối, chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô để được ơn tha tội, và nhận được ân huệ là Thánh Thần, ngay lúc đó đã có KHOẢNG BA NGÀN người theo đạo. (Cv 2:38-41) Đâu có thể đơn giản mà có số người đông như vậy cùng gia nhập đạo một lúc, cũng đâu phải họ theo đạo cho vui hoặc có lợi về vật chất, đặc biệt là không ai dụ dỗ họ theo đạo để được giàu sang, danh vọng,… Và rồi ngày nay, hằng tháng tại nhiều nhà thờ Công giáo vẫn có những người trưởng thành (chứ không nói trẻ em) vui mừng lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy. Đó là những bằng chứng hùng hồn, là phép lạ thực sự mà Chúa Thánh Thần đang tác động không ngừng trong Giáo Hội, Nhiệm Thể Đức Giêsu Kitô.
Có những người gia nhập Công giáo không chỉ là người đã thực sự trưởng thành (tâm sinh lý), mà còn có những người lớn tuổi, họ sống đạo rất tốt với một đức tin trưởng thành và vững mạnh. Đặc biệt là có những người theo đạo Công giáo rồi đi tu trở thành tu sĩ hoặc linh mục – một người nổi bật là Lm Thiên Phong Bửu Dưỡng. [1] Họ đã trưởng thành, chắc chắn không ai có thể “dụ dỗ” được họ nếu họ không thực sự tin vào Đức-Giêsu-nhập-thể-làm-người-chịu-chết-và-phục-sinh. Ai cảm thấy còn “đắn đo,” hãy cố gắng giữ vững lòng tin, hãnh diện về Đức Tin Công giáo, và đừng dao động vì những chuyện không đâu. [2]
Những người càng giỏi càng tìm hiểu và nhận ra Thiên Chúa. Giáo Hội Công giáo đặt tiêu chuẩn cao về luân lý, rất cảm thông với người bất đồng ý kiến, nhưng KHÔNG NHƯỢNG BỘ bất kỳ áp lực nào. Tất cả chúng ta đều là tội nhân, Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Hòa Giải để tha thứ tội lỗi, để thương xót và ban ân sủng cho chúng ta, giúp chúng ta sống đời sống luân lý tốt hơn. Công giáo mệnh danh là Đạo Yêu Thương, vì Thiên Chúa là tình yêu. (1 Ga 4:8 và 16)
Vô tri bất mộ. Con mắt liên quan lý trí, liên quan đức tin. Kinh Thánh xác định và lý giải: “Hết những ai không chịu nhìn nhận Thiên Chúa, tự bản chất là những kẻ ngu si. Từ những vật hữu hình tốt đẹp, chúng không đủ khả năng nhận ra Đấng hiện hữu, và khi chiêm ngắm bao công trình, chúng cũng không nhận biết Đấng Hoá Công. Thế mà, lửa với gió, hay làn khí thoảng qua, hay tinh tú bầu trời, hay nước chảy cuồn cuộn, hay đèn trời thắp sáng, chúng lại coi là thần, là những bậc quản cai hoàn vũ.” (Kn 13:1-2) Rất rõ ràng, rất rạch ròi!
Ngay trong thời Giáo Hội sơ khai, khi Chúa Giêsu đã phục sinh và số môn đệ thêm đông, các tín hữu Do Thái theo văn hoá Hy Lạp kêu trách những tín hữu Do Thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên. Bởi thế, Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và nói: “Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống là điều không phải. Vậy, thưa anh em, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo CẦU NGUYỆN và PHỤC VỤ Lời Thiên Chúa.” (Cv 6:2-4)
Trình thuật Cv 6:5-7 cho biết: “Đề nghị đó được mọi người tán thành. Họ chọn ông Têphanô, một người đầy lòng tin và đầy Thánh Thần, cùng với các ông Philípphê, Pơrôkhôrô, Nicano, Timôn, Pácmêna và ông Nicôla, một người ngoại quê Antiôkhia đã theo đạo Do Thái. Họ đưa các ông ra trước mặt các Tông Đồ. Sau khi cầu nguyện, các Tông Đồ đặt tay trên các ông. Lời Thiên Chúa vẫn lan tràn, và tại Giêrusalem, số các môn đệ tăng thêm rất nhiều, lại cũng có một đám rất đông các tư tế đón nhận đức tin.” Đó chính là Nhóm Bảy Người, tức là các Phó tế đầu tiên của Giáo Hội, trong đó có Phó tế Têphanô về sau chịu tử đạo. Không chỉ có Phó tế Têphannô mà còn biết bao vị tử đạo khác đã xả thần vì danh Đức Giêsu Kitô, ở mọi nơi và mọi thời.
Niềm hãnh diện của Kitô hữu “không giống ai” chút nào, đôi khi người ta còn coi đó là dại dột hoặc ngu xuẩn, nhưng không phải vậy. Hãnh diện gì? Thánh Phaolô cho biết: “Vinh quang của tôi là Thập Giá của Đức Giêsu Kitô – Mea Gloria Est Crux Christi.” (Gl 6:14) Chắc chắn không ai và không tôn giáo nào có dạng vinh quang “ngược đời” như Kitô giáo. Người ta sợ đau khổ, nhưng khi đã cảm nhận được đau khổ, người ta lại bị đau khổ thu hút. Chắc chắn rằng những người không có niềm tin Kitô giáo sẽ chẳng bao giờ hiểu được điều đó, thế nên người vô thần bảo tôn giáo là thuốc phiện đã “ru ngủ” các Kitô hữu. Văn sĩ trào phúng Mark Twain (1835-1910, Mỹ) nhận định rất thú vị: “Chẳng thà mình không nói để người ta tưởng mình ngu, còn hơn mở miệng ra để người ta không còn nghi ngờ gì nữa.”
Thực sự cảm nghiệm sâu sắc về Thiên Chúa, Thánh Vịnh gia hân hoan mời gọi: “Người công chính, hãy reo hò mừng Chúa, kẻ ngay lành, nào cất tiếng ngợi khen. Tạ ơn Chúa, gieo vạn tiếng đàn cầm, kính mừng Người, gảy muôn cung đàn sắt.” (Tv 33:1-2) Và rồi không thể lặng im, Thánh Vịnh gia còn giải thích: “Vì lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất.” (Tv 33:4-5)
Là tình yêu, Thiên Chúa thương xót chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân, (Rm 5:8) còn thù nghịch với Ngài, (Rm 5:10) thậm chí Ngài còn chết để cứu độ chúng ta. Tình yêu thương đó quá lớn lao. Thật vậy, Ngài luôn quan tâm chúng ta: “Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn.” (Tv 33:18-19) Và còn hơn vậy, Ngài biết rõ từng người: “Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi.” (Ga 10:14)
Thế nhưng có điều đáng quan ngại về chính chúng ta, rất cần xem lại chính mình, như Thánh Giacôbê đã phân tích: “Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ ĐẠO ĐỨC HÃO.” (Gc 1:26) Sở dĩ như vậy vì chúng ta vốn dĩ là “kẻ xấu.” (Lc 11:13)
Vừa khuyên nhủ vừa động viên, Thánh Phêrô nói: “Anh em hãy tiến lại gần Đức Kitô, viên đá sống động bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa chọn lựa và coi là quý giá. Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giêsu Kitô. Quả thật, có lời Kinh Thánh chép: Này đây Ta đặt tại Sion một viên đá quý được lựa chọn, làm đá tảng góc tường: kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng.” (1 Pr 2:4-6) Lòng thương xót của Thiên Chúa quá đỗi kỳ diệu, chúng ta không thể nào hiểu nổi. Suốt đời xin tín thác và tạ ơn Ngài!
Về hạnh phúc của những người được tái sinh bởi Nước và Thánh Thần – các Kitô hữu, Thánh Phêrô cho biết thêm: “Vậy vinh dự cho anh em là những người tin, còn đối với những kẻ không tin thì viên đá thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng góc tường, và cũng là viên đá làm cho vấp, tảng đá làm cho ngã. Họ đã vấp ngã vì không tin vào Lời Chúa. Số phận của họ là như vậy. Còn anh em, anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền.” (1 Pr 2:7-9) Có nhiều dạng ơn thiên triệu, nói theo bình dân là “ơn gọi,” và ơn gọi nào cũng cao cả: Ơn gọi tu trì, ơn gọi kết hôn, ơn gọi độc thân,… Ơn gọi nào cũng là để hoàn tất sứ mạng theo kế hoạch của Thiên Chúa. Ngài cũng nói với mỗi Kitô hữu như đã nói với Gia-cóp xưa: “Đừng sợ, vì Ta đã chuộc ngươi về, đã gọi ngươi bằng chính tên ngươi: ngươi là của riêng Ta!” (Is 43:1)
Thật tuyệt vời, nhưng Thiên Chúa cần chúng ta vững chí tích cực cộng tác, như Chúa Giêsu đã động viên: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.” (Ga 14:1) Cuộc sống đã và đang chứng tỏ cho chúng ta thấy như vậy, đúng là chỉ có Thiên Chúa là cứu cách và cùng đích, thiếu Đức Kitô thì chúng ta không thể làm được gì, dù là điều nhỏ nhoi. (x. Ga 15:5) Chúng ta có hoang mang hoặc lo sợ thì cũng chẳng “chuyển hóa” được gì, đúng như có lần Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được.” (Mt 5:36)
Vì thế, tín nhân phải vững chí sống theo lời khuyên của Chúa Giêsu: “Đừng xao xuyến!” Nói theo kiểu nói ngày nay: “Cứ vô tư mà sống!” Tại sao? Bởi vì lo bạc râu, sầu bạc tóc. Mà có lo cũng chẳng được gì, rồi cái gì đến sẽ đến, lo nhiều chỉ khổ thêm mà thôi. Chúa Giêsu khuyên “đừng xao xuyến” nghĩa là Ngài bảo chúng ta phải vững chí tin vào sự TIỀN ĐỊNH và QUAN PHÒNG của Ngài. Thiết tưởng có điều nên lưu ý: “Không xao xuyến” nghĩa là đừng chạy theo những cái mà người ta cho đó là “sự lạ,” dạng này thường xuyên được người ta “chú ý,” nếu vậy thì chưa thực sự tin vào Thiên Chúa, chưa thực sự tín thác vào Lòng Chúa Thương Xót.
Chúa Giêsu căn dặn: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14:2-3) Người đời cũng biết nhận định: “Sinh ký, tử quy” (sống gởi, thác về). Thế gian chỉ là chuyến lữ hành về Thiên Đàng, như Thánh nữ Catarina đã khuyên: “Cuộc đời như chiếc cầu, hãy ĐI QUA chứ ĐỪNG DỪNG LẠI trên đó.” Chắc chắn chết không là “dấu chấm hết” mà là cuộc biến đổi, là “ngưỡng” bước vào sự sống vĩnh hằng. Thật hạnh phúc cho chúng ta vì đã được chính Chúa Giêsu hứa: “Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” Đúng là hạnh phúc của mọi hạnh phúc, hơn cả mức tuyệt vời.
Ngày xưa, khi Chúa Giêsu bảo: “Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi.” Ông Tôma đã ngạc nhiên và hỏi ngay: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” Ngài cười hiền: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14:6) Đây là câu “nổi tiếng” trong Kitô giáo, được trích dẫn rất nhiều, và cũng là niềm hy vọng chắc chắn của những người thực sự tin vào Con Thiên Chúa, Đấng nhập thể làm người, chịu chết và Phúc Âm. Rồi Ngài nói thêm: “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.” (Ga 14:7)
Sau đó, ông Philípphê xin Thầy Giêsu tỏ cho thấy Chúa Cha để được mãn nguyện. Nhưng Ngài trách ông đã ở với Ngài bao lâu rồi mà còn “hỏi ngớ ngẩn” như vậy. Rồi Ngài xác định: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.” (Ga 14:9) Chắc chắn đó là cách hiểu vượt quá tầm hiểu của phàm nhân, nếu chúng ta ở bên Chúa Giêsu hồi đó thì chúng ta cũng vẫn “ngớ ngẩn” như Tông đồ Philípphê mà thôi, nhưng có lẽ ngày nay chúng ta cũng chưa hơn người xưa. Buồn thật!
Chính Chúa Giêsu cũng đang nói với mỗi chúng ta qua lời giải thích với ông Philípphê và các tông đồ khác: “Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.” (Ga 14:10-12) Có vẻ dài mà không dài, mà là mức độ cần thiết.
Về tầm quan trọng của Đức Tin, Chúa Giêsu lại nhấn mạnh một lần nữa. Thật vậy, khi có đủ niềm tín thác vào Thiên Chúa – Đấng giàu lòng thương xót luôn quan phòng và tiền định cho mỗi người theo ơn gọi riêng (ơn thiên triệu), người ta sẽ thanh thản và vững chí sống lời khuyên của Thầy Giêsu trong mọi hoàn cảnh. Thánh Vịnh gia minh định: “Chúa là gia nghiệp đời con.” (Tv 16:5-6) Ước gì mỗi Kitô hữu chúng ta cũng khả dĩ xác định như vậy!
Lạy Thiên Chúa, xin ban thêm đức tin và lòng can đảm để chúng con không bị dao động trước mọi nghịch cảnh, ngay cả khi đối diện với kẻ thù, mặc dù chúng con chỉ là bụi tro dám làm bận mắt Ngài. Xin làm cho chúng con nên thánh theo kế hoạch mầu nhiệm của Ngài, xin ban Thánh Thần để chúng con vững chí bước đi trên hành trình đức tin. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
--------------------------------------
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Bài Tin Mừng hôm nay thường được đọc trong thánh lễ an táng hoặc thánh lễ cầu hồn. Vào lúc PS 5-A149
Bài Tin Mừng hôm nay thường được đọc trong thánh lễ an táng hoặc thánh lễ cầu hồn. Vào lúc tang thương nhất của kiếp sống nhân sinh, tức là khi đối diện với cái chết, những lời Chúa Giêsu đem lại cho chúng ta niềm hy vọng lạc quan. Dù sống chết âm dương cách biệt, chúng ta vẫn tin rằng người thân yêu của chúng ta không tan biến vào cõi hư vô, nhưng đến nơi Chúa Giêsu đã dọn sẵn. Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh rất ý nghĩa và sinh động, đó là nhà Cha. Nhà Cha bao giờ cũng gợi nên tình cảm thân thương nồng ấm, là nơi trú ẩn an toàn trước những thử thách thị phi của người đời. Nơi nhà Cha, mọi lỗi lầm đều được tha thứ bao dung.
Những lời an ủi ngọt ngào của Chúa không chỉ hướng tới những người đã chết, mà còn giúp chúng ta, là những người đang sống, suy tư về ý nghĩa cuộc đời. Chúa nhật tuần trước, hình ảnh người Mục Tử nhân lành khẳng định với chúng ta, trên đường đời dương thế, chúng ta có Chúa Giêsu hướng dẫn, nhờ đó, chúng ta không sợ lạc đường. Người dẫn chúng ta như mục tử dẫn chiên tới suối mát lành và đồng cỏ xanh tươi. Chúa nhật hôm nay, Phụng vụ khẳng định với chúng ta, Đấng Phục sinh chuẩn bị và dọn sẵn cho chúng ta một nơi cư ngụ bền vững trên trời, nơi mà Người gọi là “Nhà Cha”. Đây không phải là một lời hứa suông, nhằm ru ngủ chúng ta giữa những lo toan bận rộn trần thế. Trái lại, đó là một khẳng định chắc chắn. Bởi lẽ Chúa Giêsu từ Chúa Cha mà đến. Người có sứ mạng nói với chúng ta về Chúa Cha. Thánh Gioan đã khẳng định: “Chưa ai thấy Thiên Chúa bao giờ, Con Một Ngài từ cung lòng Chúa Cha đến nói với chúng ta về Chúa Cha” (Ga 1,18). Vì vậy, những gì Chúa Giêsu nói với chúng ta về Nước trời và về Chúa Cha đều lả những điều chân thật và xác tín.
Đôi khi chúng ta tự hỏi: cái chết và sự phục sinh của Chúa có liên quan gì đến chúng ta, những người sống hai mươi thế kỷ sau Chúa Giêsu. Kinh Thánh đưa ra cho chúng ta câu trả lời: Đức Giêsu Phục sinh mở lối cho chúng ta về quê trời. Người cũng cho chúng ta một cái nhìn mới mẻ lạc quan về kiếp sống nhân sinh. Con người sau khi sống cuộc đời trần thế, nếu họ sống ngay chính và thánh thiện, được mời gọi về hưởng phúc vĩnh cửu nơi thiên quốc. Đức Giêsu gọi nơi ấy là nhà Cha. Còn hình ảnh nào sinh động và thân thương hơn là nhà Cha, nơi đó mình được sinh ra và lớn lên chập chững vào đời? Sau khi kết thúc hành trình trần thế, theo ngôn ngữ đời thường gọi là sau khi chết, người tin Chúa sẽ được về nhà Cha, là đấng sinh ra mình, là cội nguồn nơi chúng ta hướng về. Nhà Cha là nơi thân thương trìu mến. Nhà Cha cũng là nơi mọi người con, dù hư đốn đến đâu chăng nữa, cũng có một chỗ để cư ngụ và được đón tiếp. Nơi nhà Cha, những người con dù bất hiếu đến mức nào, nếu thành tâm sám hối, đều được tha thứ và yêu thương. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh thân thương này để nói về đích điểm của người tín hữu. Những ai xa quê đều hiểu nhà Cha có ý nghĩa như thế nào. Đó là nơi mọi người, nhất là khi gặp thất bại trên con đường công danh sự nghiệp, đều mong tìm về, với hy vọng tìm lại nơi trú ẩn bình yên.
Chúa Giêsu Phục sinh đã đi trước chúng ta để dọn đường cho chúng ta. Người luôn muốn những điều tốt đẹp cho chúng ta, mặc dầu chúng ta bất xứng và tội lỗi. Thánh Phêrô đã khẳng định điều này (Bài đọc II). Người tín hữu phải luôn tự hào, vì mình là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa. Danh xưng và vinh dự này dẫn chúng ta đến bổn phận phải loan truyền quyền năng của Thiên Chúa giữa các dân nước và trong môi trường chúng ta đang sống. Bởi lẽ những ai đã cảm nghiệm được những điều tốt lành Chúa đã làm đối với cuộc đời của mình, thì họ có bổn phận phải tuyên xưng Danh Chúa, đồng thời nói cho môi trường xung quanh rằng: Chúa đã làm cho tôi những điều kỳ diệu. Ngài yêu thương tôi và hôm nay, ngay lúc này, Người đang hiện diện để đỡ nâng tôi trong cuộc đời còn đầy những gian nan vất vả và những thử thách cam go khắc nghiệt trên đường đời.
Tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, cộng đoàn tín hữu luôn thi hành sứ mạng phục vụ. Tác giả sách Công vụ Tông đồ kể cho chúng ta vào thời sơ khai, Giáo Hội đã ý thức được sứ mạng quan trọng này và đã thiết lập bảy phó tế đầu tiên chuyên chăm lo việc đáp ứng những nhu cầu vật chất cho cộng đoàn. Nhờ đó, Giáo Hội vừa rao giảng Lời Chúa, vừa phục vụ những nhu cầu trần thế của con người. Giáo Hội vừa thi hành sứ mạng của Chúa Giêsu khi coi việc loan báo Lời Chúa là ưu tiên số một, vừa đáp ứng những nhu cầu bức thiết của con người mọi thời đại, nhằm nâng đỡ họ về tinh thần cũng như vật chất, để họ sống xứng với phẩm giá con người và nhờ đó, họ nhận ra Đấng Tối cao. Trong suốt hai mươi thế kỷ đã qua, Giáo Hội vẫn luôn trung thành với sứ mạng ấy.
Người công giáo là người đang tiến bước trong hành trình về quê trời. Tuy vậy, hướng về quê trời không làm cho họ quên đi những bổn phận trần thế. Bởi lẽ hạnh phúc nước trời chính là kết quả của một cuộc sống yêu thương vị tha và bác ái mà chúng ta thực hiện ờ đời này. Chúa Giêsu Phục sinh và là Mục tử đang hướng dẫn cuộc đời của mỗi chúng ta. Hãy nghe theo lời người. Hãy quảng đại tiến bước theo Người. Hãy chọn Người như lý tưởng hoàn hảo của đời sống chúng ta, để Người dẫn chúng ta đến bến bờ của hạnh phúc. Đó là Nhà Cha, nơi không còn u buồn và tang chế, nhưng là nơi hạnh phúc tràn đầy, là nơi Chúa Giêsu dọn sẵn cho chúng ta nơi nhà Cha vĩnh cửu.
Khi nghĩ đến cái chết, người ta thường lo sợ và coi như một điều xui xẻo. Nhưng cái chết là một thực tại gắn liền với kiếp nhân sinh. Không ai tránh khỏi cái chết, dù giàu có và nhiều tiền bạc. Khi đối diện với cái chết, người vô tín đồng nghĩa với sự trở về hư vô. Đối với người tin Chúa, chết là trở về nhà Cha. Chết là sự biến đổi. Chết là cuộc vượt qua với Chúa Giêsu để về cõi sống. Nói cách khác, sự chết chỉ là sự biến đổi từ tình trạng hư nát hữu hạn sang tình trạng tồn tại vĩnh viễn.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng được đọc trong lúc chúng ta chuẩn bị mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Việc Chúa về cùng Chúa Cha mang nhiều ý nghĩa. Cụ thể đối với chúng ta là người tín hữu, Chúa về trời mà không xa chúng ta. Trái lại, Người vẫn ở với chúng ta như lời Người đã hứa. Nếu Người có đi xa, là để dọn chỗ cho chúng ta, để nhờ đó, chúng ta được ở cùng Người trong hạnh phúc vĩnh cửu. Đó là niềm hy vọng và là lý tưởng của người tín hữu chúng ta.
----------------------------------
Anna Cỏ may
Trong những thời gian Chúa Giêsu ở với các môn đệ, đã không ít lần thầy trò ngồi lại nói chuyện PS 5-A150
Trong những thời gian Chúa Giêsu ở với các môn đệ, đã không ít lần thầy trò ngồi lại nói chuyện, đàm đạo thân mật với nhau. Hôm nay, Tin Mừng Gioan sẽ cho chúng ta biết một cuộc đàm đạo thân thiết giữa Chúa Giêsu với các môn đệ. Cuộc đàm đạo này diễn ra sau khi Chúa Giêsu loan báo Giuđa sẽ phản bội. Đây cũng là lời cáo biệt, lời hứa hẹn Chúa Giêsu sẽ quay trở lại với các môn đệ. Trong cuộc đàm đạo có bốn môn đệ là Phêrô, Tôma, Philípphê và Giuđa. Nhưng Tin Mừng chúng ta nghe hôm nay nói về Chúa Giêsu với hai mộn đệ là Tôma và Philípphê.
Khi nghe Chúa Giêsu nói những lời cáo biệt cùng câu trả lời dành cho ông Phêrô: “ Nơi Thầy đi, bây giờ anh không thể theo đến được, nhưng sau này anh sẽ đi theo” (x. Ga 13,36). Có lẽ các ông lo sợ nên Chúa Giêsu đã an ủi. Ngài dùng những lời nói thân mật, xác tín và đầy tâm tình để làm cho họ vững tin. Ngài nói: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi” (Ga 14, 1- 4).
Chúa Giêsu tỏ lộ và xác quyết ý định của Thiên Chúa về chỗ ở. Chỗ ở đã có, nhưng chưa dọn sẵn vì công trình cứu chuộc chưa thực hiện. Nhờ sự chết, Ngài dọn sẵn chỗ ở và nhờ sự thăng thiên, Ngài mở cửa Nước Trời, để rồi Ngài lại đến và đem các ông về cùng với Ngài.
Khi Thầy đang nói, thì ông Tôma vẫn đang bối rối và chia trí, không nghe Thầy nói thì hỏi: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”. Chúa Giêsu đang nói về việc Ngài về với Chúa Cha nên Ngài trả lời cho ông: “Chính Thầy là con đường, là sự thật, là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (x Ga 14, 5-6 ). Ngài nói cho các ông hay rằng: Đường để các ông đi là những con đường Chúa đã và đang đi, sự thật để các ông tin và sự sống để các ông chia sẻ cho nhau.
Chúa Giêsu là sự sống, là con của Chúa Cha, cùng đồng bản thể với Chúa Cha nên Ngài muốn các ông hiểu rõ hơn nữa. Ngài nói: “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ giờ, anh em biết Người và đã thấy Người” (x Ga 14, 7).
Nghe những lời ấy, Philípphê liền hình dung ngay một cuộc hiển dung như ông đã từng nghe. Vì thế ông hỏi Thầy một cách thật thà: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.” (Ga 14, 8). Với giọng âu yếm, có chút trách móc, Chúa Giêsu nói: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philipphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha’? (Ga 14, 9). Chúa Giêsu đã công bố cho ông rõ về sự hiệp nhất của Ba Ngôi Thiên Chúa. Nhưng để chứng minh điều ấy Chúa Giêsu tiếp tục cho các ông biết rằng Ngài không tự mình nói ra, chính Chúa Cha ở trong Ngài, và hãy nhìn và tin vào việc Ngài làm (x Ga 14, 10-11).
Chúa Giêsu đã khẳng định và công bố cho ông Tôma rằng Ngài là con đường, là sự thật và là sự sống. Còn ông Philipphê, Ngài nói lên chân lý về sự đồng bản thể của Ba Ngôi Thiên Chúa. Những lời ấy sẽ giúp chúng ta nhìn thấy rõ con đường của chúng ta đi và cho chúng ta thấy sự hiệp nhất nên một của Ba Ngôi Thiên Chúa. Ngoài ra chúng ta thấy sự yếu đuối, đa nghi, thiếu lòng tin và sự hiểu biết của các môn đệ khi ở cùng với Chúa Giêsu. Vậy sao các ông vẫn được Chúa tuyển chọn, yêu thương, dạy dỗ, sai đi và còn chúc bình an nữa?
Vậy chúng ta đừng lo sợ gì về bản thân chúng ta mà hãy tin vào Chúa. Năng học hỏi tìm hiểu Lời Ngài qua bài Tin Mừng hằng ngày. Vì Ngài mãi luôn dẫn dắt chúng ta đi trên muôn nẻo đường.
Lạy Chúa Giêsu, Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Xin cho chúng con vững tin vào Lời Chúa, để chúng con đứng dậy hân hoan lên đường về bến bình an là Nước Trời. Amen.
------------------------------