Suy niệm Chúa Nhật PS 5-A Bài 51-100: Thầy là đường, là sự thật và là sự sống.
-------------------------------------
Phúc Âm: Ga 14, 1-12: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ cho các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi". Ông Tôma thưa Người rằng: "Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?" Chúa Giêsu đáp: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ các con biết và đã xem thấy Người". Philipphê thưa: "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha, và như thế là đủ cho chúng con". Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: "Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư, Philipphê? Ai thấy Thầy là xem thấy Cha, sao con lại nói "Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha"? Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin vì các việc Thầy đã làm. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha". - Ðó là lời Chúa.
--------------------------------------------------------------
PS 5-A51: Điều không thể được đã có thể được trong Chúa Kitô. 2
PS 5-A52: Xao xuyến. 4
PS 5-A53: Trở nên hình ảnh Chúa Giêsu – Lm. Trần Ngà. 5
PS 5-A54: Con đường mang tên Giêsu. 7
PS 5-A55: Con đường. 10
PS 5-A56: Chú giải của Noel Quession. 12
PS 5-A57: Chú giải của Fiches Dominicales. 16
PS 5-A58: CON ĐƯỜNG GIÊSU.. 18
PS 5-A59: Đường Dẫn Tới Sự Sống. 20
PS 5-A60: Con đường, sự thật và sự sống. 27
PS 5-A61: NHƯ VIÊN ĐÁ XANH.. 28
PS 5-A62: ĐƯỜNG CỦA CHÚA.ĐƯỜNG DẪN VỀ TRỜI 31
PS 5-A63: Chúa Nhật V Phục Sinh. 33
PS 5-A64: Cha của Đức Giêsu và Nhà của Ngài 37
PS 5-A65: CHÚA NHẬT V PHỤC SINH.. 41
PS 5-A66: CHÚA NHẬT V -PHỤC SINH 2002. 45
PS 5-A67: Tôi Ở Đâu, Anh Em Cũng Ở Đó. 46
PS 5-A68: CHỌN LỰA CON ĐƯỜNG.. 49
PS 5-A69: CHÚA GIÊSU LÀ ÐƯỜNG DẪN ÐẾN SỰ SỐNG THẬT.. 51
PS 5-A70: THẦY LÀ ĐƯỜNG, LÀ SỰ THẬT VÀ LÀ SỰ SỐNG.. 52
PS 5-A71: HÃY TIN VÀO THẦY.. 53
PS 5-A72: ĐƯỜNG ĐI CÓ CHÚA.. 55
PS 5-A73: CON ĐƯỜNG HẠNH PHÚC.. 56
PS 5-A74: ĐƯỜNG VỀ NHÀ CHA.. 58
PS 5-A75: KHÁT VỌNG ĐỜI THƯỜNG.. 59
PS 5-A76: BƯỚC VỀ NHÀ CHA.. 62
PS 5-A77: TẠI SAO ĐỨC GIÊSU LẠI CĂN DẶN CÁC MÔN ĐỆ: 64
PS 5-A78: CON ĐƯỜNG GIÊ-SU LÀ TIN YÊU VÀ PHỤC VỤ.. 68
PS 5-A79: NHÀ CHA.. 73
PS 5-A80: CON ĐƯỜNG ĐI TỚI CHÚA.. 75
PS 5-A81: SỰ HIỆP THÔNG BỀN VỮNG.. 77
PS 5-A82: Vững tin vào Thiên Chúa, không xao xuyến. 84
PS 5-A83: CON ĐƯỜNG GIÊ-SU LÀ TIN YÊU VÀ PHỤC VỤ.. 87
PS 5-A84: Chúa Giê-su, đường đến với Chúa Cha. 94
PS 5-A85: NIỀM TIN VÀO ĐỜI SAU FB.. 96
PS 5-A86: Con Đường Giêsu. 98
PS 5-A87: Đường Giêsu, Đường con đi 99
PS 5-A88: Chúa Nhật 5 Phục Sinh. 102
PS 5-A89: Đường Về Nhà Cha – Lm. Trịnh Ngọc Danh. 105
PS 5-A90: Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. 109
PS 5-A91: Về cùng Chúa. 110
PS 5-A92: CHỖ Ở CỦA TA.. 113
PS 5-A93: CON ĐƯỜNG HẠNH PHÚC.. 115
PS 5-A94: Xao xuyến. 118
PS 5-A95: Xin cho chúng con thấy Chúa Cha. 119
PS 5-A96: Lưu giữ Kỷ niệm sống động về Đức Giêsu. 121
PS 5-A97: Con đường sự sống. 123
PS 5-A98: Tâm hồn anh em đừng xao xuyến. 126
PS 5-A99: Cuộc đời là một chuyến đi 128
PS 5-A100: NHỮNG LỜI CHÚA GIÊSU TÂM SỰ.. 130
----------------------------------
Đoạn này diễn tả cách gián tiếp điểm độc đáo và thâm sâu nhất của cuộc sống Kitô hữu, đồng:PS 5-A51
Đoạn này diễn tả cách gián tiếp điểm độc đáo và thâm sâu nhất của cuộc sống Kitô hữu, đồng thời tóm tắt sứ điệp của Phúc Âm theo thánh Gioan. Nó thuộc về toàn bộ lời dạy của Chúa Giêsu nhằm cắt nghĩa về chính thân thế Ngài. Qua đó, Ngài cũng trình bày cho chúng ta rõ Ngài là gì đối với chúng ta và chúng ta phải làm gì đối với Ngài. Chúa Giêsu là người đích thật, giống chúng ta trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi. Đồng thời Ngài thấm nhuần thực tại thần linh sống động đến mức giữa Ngài và Chúa Cha có sự duy nhất và đồng nhất về hữu thể, hiện hữu và bản tính. Đối với chúng ta, Ngài là mặc khải chính xác về Chúa Cha, tỏ bầy cá vị, lời nói, hành động của Chúa Cha. Liên kết với Chúa Giêsu là chúng ta liên kết với Chúa Cha. Đối với Ngài, chúng ta là những kẻ Chúa Cha đã ban cho và Ngài muốn rằng Ngài ở đâu chúng ta cũng được ở đấy với Ngài.
Ngài cầu nguyện và hành động để cho chúng ta được chia phần trong Ngài vào sự sống Chúa Cha thông ban. Ở đây chúng ta đứng trước một mầu nhiệm trí khôn không thấu suốt, nhưng cởi mở đón nhận sự dấn thân linh hoạt do đức tin thúc đẩy. Mọi trang của Phúc Âm thánh Gioan đều gợi ra những suy niệm bất tận. Khi đọc qua đoạn văn ngày hôm nay, chúng ta hãy dừng lại đây đó, như khi đi đường chúng ta thấy một phong cảnh mở rộng, làm cho tâm hồn chúng ta cũng như chân trời sáng ngời lên.
1) Tâm hồn các con thôi đừng bối rối. Các con tin nơi Thiên Chúa thì cũng hãy tin nơi Ta.
Điều này có nghĩa là trọng tâm của đức tin chúng ta chính là Ngài, con người Ngài, sứ điệp Ngài. Người ta có thể thắc mắc: làm sao Chúa Giêsu Kitô cũng là Thiên Chúa lại có thể nói về Thiên Chúa như một ai khác? Ở đây chúng ta chạm đến một trong những khía cạnh của mầu nhiệm Nhập Thể, nghĩa là mầu nhiệm Thiên Chúa đi vào thời gian và không gian, chịu các giới hạn nhân loại. Con Thiên Chúa, tuy vẫn còn chức phẩm mình, đã như thể tự thu hẹp theo kích thước của thực tại nhân loại. Chúa Giêsu muốn nói: Con người hữu hình của Ngài dễ cho chúng ta đặt lòng tin sống động hơn Thiên Chúa vô hình. Nhờ tin vào Ngài, Chúa Con, chúng ta có thể tin vào Chúa Cha. Mà tin vào Chúa Cha là ước nguyện thâm sâu nhất của con người bị đau khổ dày vò. Lòng tin sống động vào Chúa Giêsu Kitô và qua đó sự quy thuận Chúa Cha chẳng khiến sự bối rối xa lìa chúng ta, mang lại cho chúng ta an bình, vui mừng, sức mạnh sao?
2) Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống
Trong cuộc sống của con người vô thần, đường là một hệ thống tư tưởng hay một minh triết sự thật, là một chọn lựa trong số các ý kiến; sự sống là một hoạt động; một tình yêu mong manh, thường là một sự chịu đựng.
Đối với người theo Đức Kitô, sự dấn thân là một thông hiệp mở ra những lối bất khả. Nơi Đức Kitô, người Kitô hữu tìm thấy đường đi, lối thoát vượt qua biên giới của một thế giới khép kín vô vọng. Hơn nữa con đường ấy, chính Đức Kitô, là một lời mời gọi cất bước, tiến tới, đi lên không ngừng. Nơi Đức Kitô, người Kitô hữu khám phá được sự đáp ứng cho nhu cầu kỳ lạ của con người, là cảm thấy cần nương tựa vào một chân lý chắc chắn, nhưng còn để rộng chỗ cho việc tìm tòi. Hơn thế nữa, việc chắc chắn đã tìm thấy kích thích sự tìm tòi. Ngươi đã không tìm kiếm Ta nếu ngươi đã không gặp Ta rồi. Chân lý sống động không bao giờ là một sở hữu, nhưng cho người ta sự đảm bảo chân thực. Càng gặp Chúa Giêsu, càng tìm biết Ngài. Cần xác định, biết Đức Kitô trước hết là sống bởi Ngài. Khi sống bởi Đức Kitô, các thực tại tự nhiên của cuộc sống có thay đổi không? Không. Người Kitô hữu có một hoạt động nhân loại và thực tế như mọi người, nhưng hoạt động ấy có được một linh hồn. Có một cách suy nghĩ, chọn lựa mục đích, gặp gỡ người khác… do sự hiện diện của Đức Kitô trong cuộc sống điều khiển. Chúng ta có biết ngạc nhiên về việc trong Đức Kitô điều bất khả thi đã được biến thành điều khả thi hay không?
----------------------------------
Con tàu ra khơi thì gặp phải giông bão. Gió to và sóng lớn. Mọi hành khách đều hốt hoảng. Chỉ: PS 5-A52
Con tàu ra khơi thì gặp phải giông bão. Gió to và sóng lớn. Mọi hành khách đều hốt hoảng. Chỉ một mình em nhỏ vẫn bình tĩnh ngồi chơi nơi xó góc. Người ta hỏi em tại sao thì em trả lời: Làm sao tôi có thể sợ hãi đang khi ba tôi là người điều khiển con tàu. Cũng thế trong một cuộc động đất, người ta thấy một bà già hăng say giúp đỡ các nạn nhân, mặc dù nhà cửa của bà cũng đã bị sụp đổ. Người ta hỏi bà tại sao lại không lo lắng sợ hãi, thì bà trả lời: Thiên Chúa quyền năng. Người làm được mọi sự và Ngài luôn lo liệu cho tôi những sự tốt đẹp nhất.
Từ hai mẩu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay với lời khuyên nhủ của Chúa: Các con đừng xao xuyến. Băn khoăn xao xuyến là một cái gì đụng đến trái tim, là phần sâu thẳm nhất của con người. Có ai trong chúng ta đã không từng bị băn khoăn, xao xuyến và lo lắng?
Các môn đệ đã xao xuyến khi các ông được nghe biết về sự phản bội của Giuđa, về sự chối bỏ của Phêrô, về cái chết gần kề của Chúa Giêsu. Những biến cố kinh hoàng này đã ảnh hưởng đến đời sống các ông, phá vỡ những gì các ông đã xây dựng, đã vun trồng. Phải xa cách Thầy, phải đương đầu với một thế gian thù nghịch, tất cả những điều ấy đã làm cho các ông lo lắng và xao xuyến.
Không phải chỉ các môn đệ mới lo lắng và xao xuyến, mà chính Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần lâm vào một hoàn cảnh như thế. Ngài đã xao xuyến khi thấy Maria và những người Do Thái khóc nức nở bên nấm mồ Lagiarô. Ngài đã xao xuyến khi thấy giờ Ngài được tôn vinh qua đau khổ và cái chết đã đến: Giờ đây, tâm hồn Thầy xao xuyến, Thầy biết nói gì. Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Ngài đã xao xuyến khi loan báo về việc phản bội của một người môn đệ.
Như thế, Chúa Giêsu không phải là một con người sắt đá, hay đã tôi luyện cho mình một thái độ vô cảm trước những nỗi đau của bản thân và của người khác. Trái lại, Ngài cũng có một trái tim như chúng ta. Và trái tim ấy cũng đã thổn thức và xót thương, cũng đã lo lắng và xao xuyến. Vì thế, Ngài rất hiểu và cảm thông với chúng ta.
Xao xuyến và băn khoăn là một tâm trạng bình thường, đó không phải là một tội, nếu nó không đưa chúng ta đến chỗ sợ hãi mà bỏ cuộc, không chu toàn thánh ý Chúa. Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu cũng đã băn khoăn lo lắng, nhưng Ngài đã vượt thắng những băn khoăn lo lắng ấy, Ngài đã can đảm chấp nhận thập giá, không lùi bước trước khổ đau và hiểm nguy.
Chúng ta không xin cho mình tránh khỏi mọi xao xuyến nhưng dạy chúng ta vượt qua những xao xuyến ấy bằng niềm tin: Lòng các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Chính niềm tin sẽ đem lại cho chúng ta sự bình an. Thực vậy, hiểm nguy vẫn còn đó, khổ đau vẫn còn đó, nhưng chúng ta luôn an tâm vì biết rằng quyền năng và tình thương của Chúa còn lớn hơn mọi sóng gió như muốn nhận chìm con người và cuộc đời chúng ta.
----------------------------------
Nhiều lần Chúa Giêsu nói về Chúa Cha khiến các môn đệ đâm ra tò mò. Chúa Cha là Ai?: PS 5-A53
Nhiều lần Chúa Giêsu nói về Chúa Cha khiến các môn đệ đâm ra tò mò. Chúa Cha là Ai? Ngài ở đâu? Ngài là Đấng thế nào?
Thế nên Philípphê mới đề nghị với Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện."
Dùng ngôn ngữ vốn rất hạn hẹp của con người để diễn tả mầu nhiệm cao vời về Chúa Cha thì khác chi lấy gang tay đo chín tầng trời. Vì vậy, thay vì dùng lời để diễn giải, Chúa Giêsu dùng phương pháp trực quan. Ngài chỉ cho Philípphê cũng như các môn đệ xem chân dung, xem hình ảnh đích thực của Thiên Chúa Cha. Chân dung đó, hình ảnh đó chính là Ngài: "Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha".
Tiếp theo, Chúa Giêsu cũng tỏ cho các môn đệ biết giữa Ngài và Chúa Cha có một mối hiệp thông hết sức mật thiết. Những lời Chúa Giêsu nói chính là những lời của Chúa Cha được phát ra qua môi miệng Chúa Giêsu: "Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. (Ga 14,10). Những gì Chúa Giêsu thực hiện trong cuộc đời đều cũng là những hành động của Chúa Cha...
Thế là Chúa Cha tự tỏ mình qua Chúa Giêsu. Nhìn vào Chúa Giêsu, nhân loại sẽ biết được Thiên Chúa Cha.
***
Thánh A-tha-na-si-ô đã diễn tả chân lý nầy như sau: "Chúa Cha được bày tỏ qua Chúa Con và Chúa Con được bày tỏ qua Giáo Hội." Nói khác đi, Chúa Con là hình ảnh trung thực của Chúa Cha, còn Giáo Hội là hình ảnh trung thực của Chúa Con, và chúng ta, vì là thành phần của Giáo Hội, nên cũng phải là hình ảnh trung thực của Chúa Giêsu.
***
Theo nhật báo Chứng Nhân kitô hữu (Témoignage Chrétien), vào năm 1941 có một vị linh mục bị Đức Quốc Xã giam trong trại tập trung dành cho người gốc Do thái. Như bao tù nhân khác, ngài cũng bị hành hạ và ngược đãi thậm tệ. Tuy nhiên ngài vẫn vui vẻ và luôn sẵn sàng giúp đỡ anh em đồng cảnh ngộ đang lâm vào tình trạng khủng hoảng và tuyệt vọng.
Trong cảnh tù đày đói khát, một vụn bánh còn quý hơn vàng, vậy mà ngài dám chia sớt phần ăn ít ỏi của mình cho những bạn tù yếu sức hơn.
Những lúc trời rét buốt xương, tấm áo len được xem là kho tàng vô giá, thế mà có lần ngài tặng không chiếc áo len đang mặc cho bạn tù đang lâm trọng bệnh nằm run cầm cập trong xó nhà.
Ngài là nhịp cầu yêu thương giữa những kẻ bất hoà, đem sự khích lệ tinh thần cho những tâm hồn sầu muộn... Ngài đã cứu được mấy bạn tù tuyệt vọng khỏi tự huỷ mình nhờ những khuyên lơn an ủi... Vì thế, các tù nhân trong trại rất yêu quý và xem ngài như người cha thứ hai. Họ đều gọi ngài cách thân thương là... Bố.
Trong trại tù còn có một thanh niên bụi đời, lớn lên nơi đầu đường xó chợ, căm hờn mọi người, không ngần ngại phạm bất kỳ tội ác nào.
Vị linh mục khả ái từng bước tiếp cận, trò chuyện, giúp đỡ, khuyên răn, và cuối cùng đã cảm hoá được chàng thanh niên chai đá và tưởng chừng như vô phương cứu chữa nầy. Ngài cũng mong ước dần dần dẫn dắt cậu về với đạo thánh Chúa.
Thế rồi, một hôm, có lệnh chuyển cha sang trại Ao-sơ-vích (Auschwitz), một trại tập trung mà chỉ mới nghe danh xưng, mọi trại viên đều phải kinh hoàng. Đó là lò hủy diệt con người bằng những hầm hơi ngạt và lò thiêu xác.
Trước khi chia tay với các bạn tù và đặc biệt với cậu thanh niên mới hoàn lương, ngài quyết định phải giới thiệu đôi nét về Chúa Giêsu cho cậu với hy vọng cậu sẽ trở thành người con Chúa.
Ngài vỗ vai cậu và ôn tồn nói "Này, con yêu của Bố, đã từ lâu Bố rất mong con nhận biết và trở thành môn đệ Chúa Giêsu."
Cậu thanh niên thưa lại: "Nhưng con chưa biết gì về Chúa Giêsu cả. Bố có thể kể sơ lược về Ngài cho con biết được không?"
Biết mình không còn thời gian để giới thiệu dông dài vì giờ chuyển trại sắp đến, vị linh mục già thinh lặng cúi đầu, cầu nguyện giây lát, rồi ngài ngẩng lên khiêm tốn đáp: "Chúa Giêsu mà Bố muốn cho con tin và yêu mến, Ngài giống như Bố đây!"
Bấy giờ cậu thanh niên nhìn thẳng vào mắt ngài cách trìu mến và chân thành đáp lại: "Nếu Chúa Giêsu mà giống Bố thì có thể một ngày nào đó, con sẽ tin và yêu mến Chúa Giêsu!"
Sau thế chiến thứ hai, người ta không còn gặp lại vị linh mục nầy nữa. Còn cậu thanh niên thì được sống sót qua các trại tập trung trở về với gia đình và đã thuật lại câu chuyện trên đây về một mục tử đã thực sự trở thành hình ảnh trung thực của Chúa Cứu Thế. Cũng chính nhờ hình ảnh Chúa Giêsu ngời sáng lên nơi con người và cuộc đời của vị mục tử tốt lành nầy, chàng thanh niên được cảm hoá và trở thành người con Chúa.
Lạy Chúa Giêsu,
Đã bao lần chúng con làm cho khuôn mặt Chúa trở méo mó, biến dạng và có thể là rất khó thương vì đời sống không đẹp của chúng con.
Xin cho chúng con biết nhìn lên Chúa như một khuôn mẫu tuyệt vời để đào tạo bản thân mình thành con người mới, có phẩm chất cao đẹp, có đạo đức và văn hoá để nhờ đó, chúng con trở thành hình ảnh trung thực về Chúa cho thế giới hôm nay.
----------------------------------
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Theo Báo Thanh Niên số 69 ngày thứ ba 30.4.1996, Thành phố Hồ Chí Minh đang tiến hành: PS 5-A54
Theo Báo Thanh Niên số 69 ngày thứ ba 30.4.1996, Thành phố Hồ Chí Minh đang tiến hành công việc chỉnh đổi tên đường trên địa bàn toàn thành phố. Bởi vì trong hơn 1000 con đường của thành phố có khoảng 100 con đường trùng tên và hơn 300 con đường mang số. Đợt đổi tên này sẽ đặt tên mới cho các con đường trên. Ngoài ra, một số nhân vật lịch sử trước kia có tên đường, nhưng đã bị huỷ bỏ, nay có thể sẽ được phục hồi, như gần đây đã phục hồi tên đường cho Giáo sĩ Alexandre de Rhodes.
Tới đây, dự kiến sẽ có con đường mang tên Đức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình. Con đường TGM. Nguyễn Văn Bình sẽ thay thế đường Nguyễn Hâu, nối liền đường Hai Bà Trưng với bên hông Nhà Thờ Chính Toà và Công Xã Paris với công viên Nữ Vương Hoà Bình trước mặt tiền Vương Cung Thánh Đường Đức Bà.
Có một con đường thật danh tiếng và luôn luôn nổi tiếng, không thể thay đổi được, từ hai mươi thế kỷ nay, trong Giáo Hội chúng ta ai cũng biết, đó là con đường mang tên Giêsu. Chính Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Ta là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống”. Trả lời cho ông Tôma, đồng thời Chúa Giêsu để lộ cho biết từ nay chỉ có một con đường duy nhất được mở ra trong ơn Cứu Độ, và tên gọi con đường ấy chính là Ngài.
Ngài là Đường Sự Thật, bởi Ngài là Chân Lý, một chân lý sống động khả tín làm nền tảng và hướng đi cho mọi cuộc đời, một thực tại năng động đầy Thần Khí làm sức mạnh giải thoát cho mọi kẻ tin. Đường Sự Thật không phải là một hệ thống giáo điều, nhưng là toàn thể cuộc sống, lời nói và việc làm của Chúa Giêsu trong ý nghĩa cứu độ. Nhưng đâu phải ai cũng nhận ra con đường Sự Thật này. Tổng trấn Philatô, giữa phiên toà dịp lễ Vượt Qua, trước mặt Chúa Giêsu, đã hỏi một câu ngớ ngẩn: “Sự thật là gì?”. Chúa Giêsu không trả lời. Vì hỏi là đã trả lời rồi: Sự thật hiện thân chính là Ngài đang đứng đó. “Ta là Sự Thật”.
Ngài là Đường Sự Sống, bởi vì Ngài là Sự Sống thượng nguồn phát sinh các sự sống khác trong công trình sáng tạo, và là sự sống cội nguồn mà mọi sự sống khác phải tìm về trong công cuộc tái tạo của ơn Cứu Độ. Ngài thông ban sự sống cho mọi sinh linh và luôn đi bước trước để lôi kéo mọi người về với sự sống của Thiên Chúa. Ngài chịu chết để nhân loại được sống và Ngài sống lại để mãi mãi mở ra nẻo đường dẫn vào cõi sống. Mọi sự sống trần gian có thể đổi thay tan biến, nhưng sự sống Ngài là vĩnh cửu thường tồn. Ngài hằng sống hằng trị muôn đời.
Ngài là Đường dẫn tới Nhà Cha, bởi vì Ngài và Cha là một. Chúa Con ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Chúa Con. Vẫn là một từ ngàn xưa và mãi mãi là một tới ngàn sau. Chính Ngài quả quyết: “Con đường dẫn đến Chúa Cha chính là Thầy”. “Không ai đến được Cha mà không qua Thầy”. “Ai thấy Thầy là thấy Cha”. Cho nên đường mang tên Giêsu tất yếu cũng là địa chỉ Nhà Cha, và ngược lại, tìm đến Nhà Cha cũng là hành trình vào đường Sự Thật và Sự Sống.
Thưa anh chị em,
Dẹp bỏ con đường cũ của thất vọng hoang mang để khai mở con đường mới, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cất bước lên đường theo Ngài. Đi trên Đường Giêsu là đi bằng cả niềm tin gắn bó hiệp thông của những con người biết mình có một lý tưởng để theo đuổi, và sẵn sàng hy sinh tất cả để đạt được lý tưởng ấy. Trút bỏ những hành trang cồng kềnh của danh lợi thú, đoạn tuyệt với những ngõ cụt lối mòn của cuộc sống khô khan, chấp nhận canh tân để có được bước đi vừa thanh thoát vừa thanh thản của đời nhân đức, chính là “hát lên khúc ca mới trên con đường mới” (Thánh Augustinô). Vì lý tưởng ấy chính là lẽ sống, cũng chính là vinh dự một đời: “Anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là chủng tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa” (Bài đọc 2).
Đi trên Đường Giêsu cũng là đi bằng niềm hy vọng bền vững. “Thầy đi dọn chỗ cho các con”. Vận mệnh tương lai đã mở ra. Không còn xa xôi tít tắp, nhưng đã châm rễ từ cuộc đời này. Sống hôm nay là chuẩn bị sống ngày mai, và ngày mai tại Nhà Cha đã được định hình ngay từ hôm nay trên bước đường lữ thứ của Hội Thánh giữa lòng đời. Đi trong hy vọng là nhận ra rằng con người được tạo dựng để hướng về một cứu cánh, được tái sinh trong giới hạn nhưng không ngừng hướng về vô hạn. Thiết tưởng lời kinh của Thánh Augustinô có thể tóm kết của bước đi hy vọng đã biến thành khát vọng: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con đẻ cho Chúa, nên con mãi khắc khoải cho tới khi được nghỉ ngơi trong Ngài”.
Đi trên Đường Giêsu còn là đi bằng cả tình yêu chan hoà phục vụ. Bài đọc thứ nhất là hình ảnh đẹp về một Giáo Hội trẻ đang cựa mình vươn vai tiến tới. Có những phân công khác biệt: kẻ phục vụ Bàn Thánh, người phục vụ bàn ăn; kẻ chuyên chăm rao giảng Lời Chúa, người chuyên lo hạnh phúc anh em. Nhưng vẫn là nhịp bước đồng hành đặt chân mình trong dấu chân Chúa Giêsu. Và cũng có thể hiểu được rằng: “Con người là con đường của Giáo Hội” (Gioan Phaolô II), là đối tượng mà Giáo Hội yêu mến và phục vụ đến hơi thở cuối cùng, như Chúa Giêsu đã sống. Đó chính là tốc độ mới của tình yêu chan hoà phục vụ trên Con Đường Giêsu hôm nay.
Anh chị em thân mến,
Nếu mai ngày thành phố chúng ta có một con đường mang tên Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình bên cạnh Nhà Thờ Chính Toà thì đó là điều chính đáng. Vì Đức Tổng Giám Mục luôn đặt từng bước chân của Ngài vào đúng vết chân của Chúa Giêsu trên dòng lịch sử dân tộc và thế giới, với niềm xác tín rằng: bước theo dấu chân Ngài là sẽ gặp được niềm vui xum họp đông đủ với mọi người anh em trong Nhà Cha chúng ta trên trời.
Con Đường mang tên Giêsu hôm nay là Con Người sống động đang hiện diện ở đây, trong Thánh lễ này. Ngài lấy Lời Ngài làm ánh sáng chiếu soi Chân Lý và lấy Mình Máu Ngài làm lương thực dưỡng nuôi sự sống. Như thế, Thánh lễ phải là đỉnh cao của lời tuyên xưng: “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”, đồng thời là khởi điểm cho hành trình chung bước với Chúa Giêsu trên đường yêu thương phục vụ.
----------------------------------
Họa sĩ Broulette đã vẽ một loạt ba bức tranh để diễn tả điều đã nhìn thấy trong đời sống văn: PS 5-A55
Họa sĩ Broulette đã vẽ một loạt ba bức tranh để diễn tả điều đã nhìn thấy trong đời sống văn minh hiện đại. Bức tranh thứ nhất vẽ một người đàn ông điên loạn đang cố gắng tìm kiếm một miếng giấy quan trọng trong căn phòng bề bộn. Tất cả những ngăn kéo đã mở toang ra, giấy tờ ném bừa bãi khắp nơi, Khăn trải giường rách nát, các bức tranh rơi xuống khỏi vách tường. Một tên quỷ đang đi theo con người điên loạn đó. Tay nó nắm giữ tờ giấy quan trọng ông đang tìm kiếm một cách tuyệt vọng.
Bức tranh này diễn tả con người thời đại đang mải miết kiếm tìm một điều thần diệu mang lại hạnh phúc cho họ trong cuộc đời. Có lẽ tờ giấy đã bị mất sẽ không bao giờ được tìm thấy, nhưng trên con đường tìm kiếm, nhiều người đã thử tìm trong men rượu, sắc dục, cờ bạc… mà chẳng bao giờ thấy hạnh phúc.
Bức tranh thứ hai diễn tả một người đàn ông xanh xao gầy còm hốc hác với một cái xuổng đang nỗ lực đào bới trong cánh đồng bát ngát. Đàng sau lưng, ông để lại vô số những cái lỗ đã tốn công đào bới. Và bên cạnh mỗi cái lỗ là một chiếc hộp mở nắp ra, bên trong hoàn toàn trống rỗng.
Bức tranh này cho thấy một con người đang đi tìm kiếm mục đích của cuộc đời, nhưng chẳng tìm thấy cái nào mang lại hạnh phúc. Con người luôn đi tìm kiếm điều gì lớn lao và tốt đẹp hơn. Tôi phải có cái này, cái kia, thì cuộc đời mới đầy đủ. Cuộc đời luôn thúc đẩy, lôi kéo con người vào một nhu cầu mới, và chẳng bao giờ có được một giây phút để tận hưởng cái mình đang có.
Bức tranh thứ ba vẽ về một người bị bịt miệng và bị trói vào một cái ghế, với đôi con mắt trợn trừng kinh khiếp nhìn đăm đăm vào một tên cướp đang thu dọn tất cả những đồ đạc có giá trị trong căn phòng của mình.
Bức tranh này chứng tỏ những nỗ lực vô ích của một người tìm kiếm hạnh phúc qua của cải vật chất trong cuộc đời. Sau cùng thần chết sẽ cướp đi tất cả mọi sự.
Bài Phúc âm hôm nay, là những lời chỉ đạo cho các tông đồ khi cuộc đời của họ bước vào một giai đoạn mới: cuộc đời sau cái chết của Chúa Giêsu với bối cảnh thù nghịch từ phía xã hội, trong tâm trạng hoang mang lo sợ của họ. Phải làm sao bây giờ? Đâu là ý nghĩa cuộc đời? Chúa Giêsu đã cho họ những hướng dẫn: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”.
Thầy là đường
“Nếu Tin Mừng là mạc khải sự thật rằng đời sống con người là cuộc lữ hành về nhà Cha, thì Tin Mừng cũng đồng thời là tiếng gọi tới đức tin cho phép ta lên đường như những lữ khách. Tin Mừng đòi ta một niềm tin của kẻ lữ hành”.
Gerhard Frost đã dùng một ví dụ như sau: “Hãy tưởng tượng bạn đi bộ ngang qua nhà hàng xóm. Cả gia đình đang chất hành lý lên xe hơi để đi nghỉ hè. Họ có ba người con đều dưới năm tuổi đang ngồi trong xe mini-van nóng lòng chờ ba má hoàn tất mọi sự để lên đường. Bạn bước tới chiếc xe mini-van, thò đầu vào trong cửa sổ và hỏi: “Các cháu sẽ đi đến đâu?” Chúng chẳng biết gì! “Các cháu sẽ lấy xa lộ nào?” “Tối nay, các cháu sẽ ăn cơm ở đâu?” Chúng cũng chẳng biết! Nhưng nếu bạn hỏi: “Các cháu sẽ đi với ai?” Các bé reo lên: “À, với ba mẹ!”
Các em bé không biết chính xác là đi đâu, không biết cả đường đi, cũng không biết sẽ ăn uống ngủ nghỉ ở đâu, nhưng biết chắc chắn rằng mình sẽ đi với ai. Niềm tin tưởng vào ba má là tất cả vấn đề. Ba má sẽ săn sóc, dẫn đưa các bé đi tới nơi tới chốn bình an.
Thiên Chúa cũng không trả lời tất cả các câu hỏi, các chi tiết hay thắc mắc về điều gì sẽ xảy ra, nhưng Người ban cho chúng ta chính Con Một của Người, Đức Giêsu Kitô, vừa là người hướng dẫn, vừa là con đường cho chúng ta đi. “Chúa Giêsu là con Thiên Chúa và cùng bản thể với Chúa Cha. Là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, Ngài đã làm người để trở nên con đường dẫn ta về với Cha.
----------------------------------
Trước khi rời khỏi thế gian này để về cùng Chúa Cha. Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Lòng anh em đừng xao xuyến".
Trang Tin Mừng ngày hôm nay viết về ngày thứ Năm Tuần Thánh vào cuối bữa ăn sau cùng: PS 5-A56
Trang Tin Mừng ngày hôm nay viết về ngày thứ Năm Tuần Thánh vào cuối bữa ăn sau cùng của Đức Giêsu. Quả thật bầu khí của nhóm các môn đệ thật bi thương: Đức Giêsu vừa loan báo sự phải bội của Giuđa và y đã đi ra khỏi căn phòng vào đêm tối bên ngoài (Ga 13,21-30); rồi Đức Giêsu bảo rằng Người sẽ ra đi và nơi Người đi, các bạn hữu Người không thể theo được (Ga 13,31-36). Sau cùng, đầy nỗi lo sợ, Đức Giêsu báo trước cho Phêrô rằng ông sẽ chối Người "ba lần" trong đêm hôm ấy trước khi gà gáy (Ga13,37-38). Như thế, người ta biết được sự xao xuyến kinh hoàng đang xiết chặt mọi tâm hồn và tư tưởng các môn đệ. Trong đời sống của chúng ta cũng thế có chăng giờ phút sự sợ hãi kinh hoàng ập xuống trên chúng ta. Một tương lai bấp bênh, một thiệt hại không vượt qua được, những suy sụp của tuổi già, một căn bệnh không thể chữa khỏi Và còn có những sợ hãi tập thể: sự thất nghiệp. Bao lực, nạn nhân mãn, nạn đói, sự ô nhiễm môi trường những nguy cơ của nguyên tử. Và trong bối cảnh khủng hoảng ấy, những câu hỏi nghiêm trọng mà mọi tín hữu chân chính phải đặt ra: Những giá trị cao cả của con người chẳng phải đang bị xoá nhòa đó sao? Nhân loại ngày mai sẽ tin vào điều gì? Và một ngọn gió hoảng sợ cũng xâm chiếm những tín hữu mạnh mẽ nhất và người ta lẩm bẩm rằng trong Giáo Hội cũng không có gì là ổn cả.
Chính trong bối cảnh nhân loại như thế mà tính lạc quan không gì thắng nỗi của Đức Giêsu bùng lên như một ngọn lửa nồng nàn, cháy sáng trong đêm tối! Chỉ còn mấy giờ nữa Người phải lên thập giá thế mà Người đã cố sức vực dậy tinh thần của các bạn hữu của Người: "Lòng anh em đừng xao xuyến!” Chúng ta hãy lắng nghe những lý do Người sẽ đưa ra để chúng ta không bao giờ còn sợ nữa về bất cứ điều gì.
"Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy".
Đức Giêsu yêu cầu các bạn hữu đang xao xuyến của Người hướng cái nhìn về một hướng duy nhất: Đức tin thâm sâu của Đức Giêsu, vượt qua mọi nỗi sợ hãi không dựa trên sức người, nhưng dựa trên Thiên Chúa. Tất cả, không chừa môt ai đều có thể suy sụp, chỉ có Đức Giêsu nắm giữ sự trợ giúp siêu nhiên nằm bên ngoài ảnh hưởng của mọi sức mạnh phá hoại. Cái chết cũng không thể phá hủy sự bình an của Người: Sự bình an của Người không do sức con người mà do Thiên Chúa! Vả lại, chúng ta nhận thấy rằng Đức Giêsu đòi hỏi đối với bản thân Người một thái độ đđc tin mâ người ta có thể có đối với Thiên Chúa. Tính duy lý của con người vỡ tung như một nhân nguyên tử, dưới sức ép khó quan niệm nổi của cái vô cùng thánh thiêng: Làm thế nào mà Đức Giêsu vốn là Thiên Chúa lại có thể nói về Thiên Chúa như một Đấng khác mình? Và điều đó mang lại công thức làm ngạc nhiên: “Hãy tin vào THIÊN CHÚA, Hãy tin vào THẦY” Vậy thì Người là ai để nói như thế?
"Trong nhà Cha của Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em".
Phải, đó là mầu nhiệm không thể hiểu thấu của Nhập Thể Đức Giêsu với tư cách con người, phân biệt không ngừng với Thiên Chúa! Người nói về Thiên Chúa như thể đó là một Đấng Khác (Tha Thể Tuyệt Đối). Người nói về Chúa Cha. Không bao giờ Đức Giêsu hướng cái nhìn của con người về chính mình. Không bao giờ Đức Giêsu lôi kéo sự tôn kính hay thờ phượng về bản thân Người: Người hoàn toàn hướng về một Đấng Khác; và Người muốn xoay hướng chúng ta về Đấng Khác ấy, Đấng Hoàn Toàn Khác, Đấng mà chưa có ai đã từng trông thấy, tức là Chúa Cha. Như thế, Đức Giêsu đối diện với cái chết của Người, sự ra đi khỏi thế gian này, như một sự trở về nhà mình; Người sẽ tìm lại nơi đó một Đấng mà Người yêu mến và mến yêu Người. Đức Giêsu biết mình được yêu.
Sau những lời làm vỡ tung lý trí, giờ đây là những lời hoàn toàn thân mật, những lời thường nói mỗi ngày: nhà, chỗ ở, dọn chỗ…
Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy”.
Đây là những lời dịu đàng không tả nổi: "Đem về với Thầy, trở lại …” Thiên Chúa tất nhiên là Đấng Hoàn Toàn khác không thể đạt đến được nhưng cũng là Đấng rất thân thiết. Chúng ta không có một Thiên Chúa dửng dưng và lãnh đạm, nhưng là một người Cha đầy tình âu yếm, một người Anh để cho những nỗi lo sợ của chúng ta làm thương tổn và Người nói với chúng ta những lời an ủi và thân ái.
"Để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó".
Chúng ta chớ lướt qua nhanh quá trên những lời xem ra có vẻ đơn giản và thân mật một cách ngây thơ. Có cả một thần học được diễn tả xuyên qua mạc khải ấy. Khi dám nói rằng “Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó". Đức Giêsu mở ra cho nhân loại một viễn cảnh có âm vang vô tận, siêu nhân, siêu nhiên: Chính "đời sống thánh thiêng" được ban cho chúng ta. Mục đích của con người không còn ở trong con người, mà ở trong Thiên Chúa? Nhân loại đi về hướng có Đức Giêsu ở đó. Con người đã được lập trình để trở thành "như Thiên Chúa". Người ta hiểu được lời Người nói: “Lòng anh em đừng xao xuyến!".
“Và Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi". Ông Tôma nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”.
Đây là một điệp khúc: "Thầy đi”, “chúng con không biết Thầy đi đâu...". Đó là câu hỏi nền tảng của nhân loại mà Tôma dũng cảm đặt ra nhân danh chúng ta. Chúng ta sẽ đi về đâu? ý nghĩa, mục đích sau cùng của đời sống là gì? Có cái gì sau khi chết?
Đức Giêsu đáp: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”.
Đối với Đức Giêsu, chân trời không bao giờ bị ngăn chặn, gây ra sự tuyệt vọng.
Đối với người tin, ai chấp nhận lời Đức Giêsu, lịch sử sẽ có một ý nghĩa, đời sống sẽ không còn phi lý nữa. Đức Giêsu là "người mở đường", Người đã mở ra một lối thoát cho các hữu hạn và cho đăc tính phải chết của con người. Không có Đức Kitô con người bị giam hãm trong những giới hạn của mình. Với Người, và chỉ với Người, như Người khẳng định có một con đường không dẫn tới cái hố đen của nấm mộ, nhưng về "nhà của Chúa Cha".
“Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng sẽ biết Cha của Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người”.
Câu này của Thánh Gioan là một câu làm hiện ra tính không thể diễn tả của Thiên Chúa, sự "mạc khải” này vẫn còn một phần "không thể quan niệm được": ánh sáng... nhưng vẫn còn một thứ ánh sáng của đêm tối... ánh sáng của đức tin.
Thật vậy, câu này gồm hai khẳng định bề ngoài trái ngược nhau: Anh em cũng (sẽ) biết Cha của Thầy (ở thì tương lai)... bây giờ, anh em biết Người (thì hiện tại).
Rõ ràng là Thiên Chúa không hiển nhiên và thật ra, chúng ta không biết Người. Người ta cũng có thể nói rằng chúng ta hiểu được Người! rõ ràng có một thứ hồ nghi. Không chắc chắn đã xuất hiện trong câu hỏi của Tôma: “chúng con không biết...". Tình cảnh của chúng ta hiện nay đúng là như thế. Có thể một ngày nào dó, chúng ta sẽ biết Thiên Chúa. Sự vô tri về Thiên Chúa hôm nay, sẽ biến đổi thành tri thức, như lời Đức Giêsu nói: Anh em sẽ biết Người! Vả lại trong Đức Giêsu, sự hiện diện vô tri của Thiên Chúa chịu một "cú sốc của tương lai" đến độ những thực tại phải đến đã trở thành hiện tại: "Ngay từ bây giờ, anh em biết Thiên Chúa và đã thấy Người?". Có thể nói rằng, bằng một cảm thức siêu nhiên, tương lai được tiên cảm trong hiện tại đối với những người tin Đức Giêsu: thời sau hết đã ở đó, mặc dù chưa hoàn tất. Giáo Hội, nơi cư ngụ của các tín hữu đã trở thành nơi cư ngụ của Thiên Chúa ở giữa con người" (Kh 21,3). Một ngày nào đó, chúng ta sẽ có một sự hiểu biết nào đó về Chúa Cha, còn bây giờ chúng ta đã hiểu biết Chúa Cha qua bức màn của đức tin. Đó là điều mà các nhà thần học gọi là cánh chung? Tương lai được cảm nghiệm trước trong lòng của các tín hữu, trong Đức Giêsu Kitô.
Ông Philípphê nói: ' Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện". Đức Giêsu trả lời: "Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?”.
Mới rồi, chúng ta vừa nghe Đức Giêsu phân biệt Người với Chúa Cha. Giờ đây dường như Người đồng hóa với Chúa Cha. Đức Giêsu đi về với Chúa Cha, Người là con đường dẫn đến Chúa Cha và đồng thời, Người ở trong Chúa Cha và ai thấy Đức Giêsu là thấy Chúa Cha Đức Giêsu là một con người, nhưng một con người "chứa đầy Thiên Chúa" một con người Thiên Chúa! Chúng ta phải để những từ có vẻ đơn giản ấy thấm nhuần chúng ta: "Thầy ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong Thầy... Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy...".
Phải, đâu có một con người là Giêsu Nagiarét, sống cách nay hai ngàn năm trong một tổng nhỏ ít người biết đến của Đế quốc La Mã, một con người bằng xương bằng thịt đã đứng trên đôi chân của mình và trên một miền đất xác định, đất Israel, một con người có những bạn hữu, một con người ăn uống như mọi người; một người sắp chết như mọi người; và con người này lúc này đây hiệp thông với Thiên Chúa và đồng nhất với Thiên Chúa và hoàn toàn không là một kẻ điên. Một con người quân bình tột bậc, khiêm tốn, không tham vọng và kiêu ngạo: một con người vừa mới quỳ gối trước các bạn hữu để rửa chân cho họ như một tôi tớ bình thường vào thời đó... đồng thời giao nộp thân thể tan nát, và đã đổ máu ra vì họ.
Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.
Thiên đàng không phải là môt sự chạy trốn vào một giấc mơ của tương lai hoang tưởng. Thiên đàng không phải một miếng đường được hứa ban cho sau này để bỏ qua chua cay hiện tại. Thiên Chúa không phải là một thứ thuốc phiện dùng để ru ngủ những đau khổ cho một cuộc đời.
Một thiên đàng đã bắt đầu và được cảm nghiệm bởi những người "làm những việc Đức Giêsu làm": Có một cách nào đó để suy nghĩ, để chọn lựa, để gặp gỡ Thiên Chúa và con người, một cách sống nào đó công chính là cách sống của Đức Giêsu.
----------------------------------
TA LÀ ĐƯỜNG LÀ SỰ THẬT VÀ LÀ SỰ SỐNG
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Đường về với Chúa.
Cũng giống như Chúa nhật tới, bài Phúc âm Chúa nhật thứ 5 Phục Sinh hôm nay trích từ: PS 5-A57
Cũng giống như Chúa nhật tới, bài Phúc âm Chúa nhật thứ 5 Phục Sinh hôm nay trích từ chương 14, diễn từ sau bữa tiệc ly, với những từ như "ra đi", "đi tới", "trở lại”, “con đường”. A.Marchadour minh định chương này ("được kết cấu xung quanh cuộc trở về với Chúa Cha của Chúa Cha vai trò độc nhất của Chúa Con trong việc đưa dẫn huynh đệ của mình về với Chúa Cha. (Tin Mừng Gioan, Centurion, 1992, p. 190) những lời loan báo liên tiếp về việc Giuđa phản bội (“một trong các con sẽ phản Thầy":14,2) về cuộc ra đi dứt khoát của riêng Ngài ("Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa” 13,38) và về việc Phêrô chối thầy (trước khi gà gáy, con đã chối ta ba lần: l3,38) đã khiến các môn đệ hoang mang - Dufour nhận xét "sự hoang mang ấy không chỉ vì phải xa cách Người thực sự cần thiết cho đời họ, mà cũng còn vì nỗi thất vọng sâu xa khi lượng giá công việc của Chúa Giêsu mà họ đang trông mong kết quả" (Đọc Tin mừng theo thánh Gioan, tập 3, Seuil, 1993, tr 90). Do đó mới có lời Đức Giêsu kêu gọi: "Lòng anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin vào Thầy chớ gì họ cậy dựa vững vàng vào lời Ngài và vào chính Ngài. Dufour viết tiếp: "Đức Giêsu dựa trên niềm tin của người Do thái, và những người không bao giờ tự coi mình độc lập trong mối liên hệ với Thiên Chúa, Đấng ban cho thụ tạo sự kiên vững của đá tảng, Ngài cũng dựa vào niềm tin vào chính mình Ngài, nếu họ còn có thể theo Ngài, các môn đệ chỉ dựa vào Ngài, như dựa vào chính Thiên Chúa". Vì thế nếu Ngài có ra đi, thì cũng chính là để trở lại nhà Cha, nơi Ngài sẽ "dọn chỗ sẵn cho họ". Từ chủ đề "ra đi" bài diễn từ sau bữa tiệc ly bắt sang ‘đường đi’, Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ ở đó. Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi Đức Giêsu bảo họ như vậy bấy giờ Tôma mới hỏi: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết được đường?" Chúa long trọng đáp "Thầy, Thầy chính là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy! Dufour đã diễn dịch câu nói ấy như sau: 'Tôma, nếu anh tin Thầy là chân lý và là sự sống, chắc chắn anh sẽ tìm thấy nơi Thầy con đường đưa về với Cha, đó là nơi Thầy đi đó là nơi Thầy ở. Đức Giêsu, trong đoạn 10,9, đã tự coi mình như là "cửa" dẫn đến sự sống, ở đây, lại nói như mình đã ở nơi mà các môn đệ muốn đến, bằng công thức vắn gọn này, Ngài thực sự công bố về tính đồng nhất sẽ còn vang vọng mãi trong nên chiêm niệm Kitô giáo" (p. 100)
2. Bày tỏ Chúa Cha.
Thấy thế, Philipphê mới lên tiếng: Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện rồi và Đức Giêsu đáp lại thấy Thầy, là thấy Chúa Cha rồi trong cuộc sống, mọi lời nói và việc làm của Đức Giêsu là một biểu hiện hoàn hảo hình ảnh của Chúa Cha vì người kết hợp mật thiết với Chúa Cha "Anh không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư?” cuộc sống của Ngài, đó là Chúa Cha thực hiện qua Ngài, lời Ngài nói đó là tư tưởng của Chúa Cha.
3. Đức Giêsu tiếp tục làm việc qua các môn đệ.
Nhắc lại lời mời gọi tin tưởng trên, Đúc Giêsu bắt đầu mạc khải cho các môn đệ biết cuộc sống mới của họ sẽ ra sao: "Ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, vì Thầy đến cùng Chúa Cha”. Cho dù, hay đúng hơn Ngài về cùng Cha, mà các môn đệ sẽ sống cuộc sống Ngài không ngần ngại đồng nhất với cuộc sống chính mình. Dufour còn minh định thêm: Không phải vì cuộc sống của Ngài vẫn là gương mẫu, nhưng vì chính Ngài sẽ là tác giả đích thực của những họ thực hiện, đọc kỹ bản văn, người ta thực sự thấy rằng người tín hữu sẽ không làm những việc Đức Giêsu đã làm, nhưng là những việc Ngài đang làm và sẽ làm: Chúa Cha tiếp tục được tôn vinh nơi trần thế, từ đây, sứ mệnh Ngài đã hoàn tất phải đơm bông kết trái trong thời gian và không gian: và điều ấy được thể hiện nơi hành động của các tín hữu." (p.l07)
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Thiên Chúa thật gần".
Khi Phúc âm thứ tư được viết ra, chắc chắn "những biến cố" đã xẩy ra hơn 60 năm, các cộng đoàn tín hữu ở Palestine, Tiểu Á, và các nơi khác đã chịu rất nhiều đau khổ. Họ phải chịu những cuộc tấn công dai dẳng trong các vùng có người Do thái. Họ đã bị chính quyền Rôma bách hại triền miên. Đặc biệt niềm tin của các Giáo Hội Tiểu Á lúc ấy đã rung động trước những luồng tư tưởng cho rằng mình khiến người ta quá tin vào trời cao mà khinh chê trần thế, chỉ để ý đến tâm hồn mà coi thường thân xác nhưng cuộc sống thề trần và sự phục sinh có đối nghịch đến độ phải khước từ cuộc sống này để sống cuộc sống kia không? Chẳng lẽ cứ phải trải qua cái chết mới được phục sinh hay sao?
Tác giả Tin Mừng nhấn mạnh: người tín hữu đã sống cuộc sống phục sinh ngay trên trần thế này. Niềm tin vào Đức Kitô hằng sống đã xóa bỏ khoảng cách giữa những sự dưới đất và trên trời. Niềm tin ấy giúp người ta sống ngay trên trần thế cuộc sống vĩnh hằng của Thiên Chúa. Chân lý thật khó hiểu và khó chấp nhận, cũng thế, Đức Giêsu nhà sư phạm đại tài, để dẫn đưa người nghe vào trong ánh sáng của Thiên Chúa, đã lợi dụng sự cứng tin của Tôma và Philipphê "Thưa Thầy chúng tôi không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con được đường?" Lầm lớn? Đây không phải con đường tính được bằng kilômét. Khoảng cách giữa cuộc sống trần thế và cuộc sống phục sinh không lớn hơn khoảng cách giữa Chúa Cha và Chúa Con: Cha ở trong Con và Con ở trong Cha. Niềm hi vọng về điều đã có và chưa có sẽ triển nở và đâm bông trong lòng người tín hữu như vậy đó.
Hoàn cảnh của cộng đoàn tín hữu giữa cuộc sống trần gian của Đức Giêsu và ngày Ngài trở lại. ("Célébrer", số 258, tr.34, tháng 3.l996)
Đâu là vị trí của cộng đoàn tín hữu giữa cuộc sống trần gian của Đức Giêsu và ngày Ngài trở lại?
Trước tiên, cộng đoàn tín hữu sống trong mềm hi vọng vô bờ một ngày kia sẽ được sống với Đức Giêsu rong nhà Cha Ngài: "Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ ở đó”! Sau đó họ biết được đường đi: "Thầy là đường là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy" hơn thế nữa, họ còn biết được Chúa Cha, họ đã “thấy” Ngài: “Ai thấy Thầy, là thấy Chúa Cha" Thấy Đức Giêsu, dĩ nhiên là biết được Ngài bằng niềm tin, là "nhận ra Ngài là con duy nhất, là lời sáng tạo vĩnh hằng đến độ khi Đức Giêsu nói, tôi biết rằng Ngài nói những lời của Chúa Cha, khi Đức Giêsu hành động, chữa lành, tha tội, phó mình cho đao phủ, tôi biết rằng Ngài làm theo ý Chúa Cha và Chúa Cha đã chữa lành, tha tội, tự hiến hoàn toàn qua Ngài. Tôi biết Cha và Con là "một”!
Như vậy, cộng đoàn tín hữu đã thực sự biết Đức Giêsu bằng đức tin, đến lượt mình có thể nhận biết Chúa Cha và hoàn thành những công việc của Người được không? được, Đức Giêsu nói thế và còn hơn thế nữa, vì Thầy đến cùng Chúa Cha”. Qua những lời này, ta có thể hiểu rằng Đức Giêsu phục sinh đã mặc lại trọn vẹn sức siêu nhiên mà Ngài đã tự giới hạn khi mặc lấy thân phận tôi đòi mặc lấy nhân tính. Cũng vậy, một khi đã được mời gọi tiếp tục sự nghiệp của Chúa Giêsu trên trần gian cộng đoàn các Tông đồ, bằng đức tin của mình, thực sự thông phần với Thiên-Chúa, họ là cộng đoàn những người con trong Đức Giêsu, Thiên-Chúa Con.
----------------------------------
Ga 14, 1-12
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Cái trớ trêu của các môn đệ Chúa là các Ngài đã sống với Chúa một thời gian đủ để nhận: PS 5-A58
Cái trớ trêu của các môn đệ Chúa là các Ngài đã sống với Chúa một thời gian đủ để nhận, hiểu và biết Chúa, nhưng các Ngài vẫn tỏ ra thật ngớ ngẩn khi Chúa nói:” …Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi “. Ông Tôma nói với Đức Giêsu:” Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường ?”.
Đọc lại Kinh Thánh, chúng ta hiểu được rằng Lời của Chúa thường ví cuộc đời như một cuộc hành trình. Từ lúc Ađam và Evà trốn Chúa tới Nôe và cả đại gia đình của ông xuống tàu, Abraham cùng gia đình ra đi tới một vùng đất thật xa lạ, đến ngày vội vã ra đi của Mẹ Maria, thánh cả Giuse và Hài Nhi Giêsu sang đất Ai Cập, và cả một cuộc đời di chuyển rầy đây mai đó của Chúa Giêsu. Những hình ảnh này diễn tả cuộc hành trình đức tin không ngừng của người Kitô hữu. Đời con người là một cuộc hải hành, là một cuộc hành trình không ngừng. Sinh ra, lớn lên với tất cả tranh dành để sống, rồi tuổi già đến, tất cả đều cho con người thấy cuộc đời ở trần gian chỉ là tạm bợ mà thôi. Chúa Giêsu đã cho ta thấy chính Ngài đã trải qua cuộc đời này bằng biết bao nhiêu cuộc hành trình: Chúa sinh ra trong cuộc hành trình, cha mẹ Ngài trở về quê khai lại sổ nhân danh, Ngài vừa sinh ra đã được cha mẹ vội vàng đưa đi lánh nạn bên Ai Cập. Năm 12 tuổi, Chúa cũng lạc mất trong một cuộc hành trình về Giêrusalem mừng lễ. Những năm rao giảng, Ngài đi không mệt mỏi khắp vùng Palestina và các vùng phụ cân. Cuối cuộc hành trình của đời sống trần thế của Ngài là Giêrusalem và đồi Canvê. Qua cả một cuộc đời hành trình, Chúa Giêsu đã tuyên bố:” Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống “. Tuyên bố như vậy, Chúa Giêsu muốn nói lên một sự thực:’’ Ai tin vào Ngài và đi theo Ngài “ sẽ không bao giờ bị trệch hướng trong cuộc hành trình đức tin dài lâu của mình.
Chân Phước Gioan Phaolô II cũng đã từng nói về Đức Mẹ là Mẹ Chúa Giêsu, vào ngày 16.10.1978 tại Quảng Trường thánh Phêrô:” Tôi trình diện với hết thảy anh chị em để tuyên xưng đức tin chung của chúng ta, lòng trông cậy và tín thác của chúng ta nơi Đức Mẹ Chúa Kitô và nơi Giáo Hội, và cũng là để lại – khởi hành trên con đường lịch sử là con đường Công Giáo tông truyền “. Chân Phước Gioan Phaolô II đã đặt Triều Đại Giáo Hoàng của Ngài dưới lá cờ phù hộ đặc biệt của Đức Mẹ Maria. Cả triều đại của Chân Phước Gioan Phaolô là một cuộc hành trình. Bởi vì, nói cho cùng tất cuộc đời trần thế là một cuộc hành trình đức tin liên lỉ. Thánh Tôma lúc đó vẫn chưa hiểu lời của Chúa Giêsu nói. Do đó, Tôma đã thưa với Chúa: “…chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường “. Thánh Tôma làm sao biết được Chúa Giêsu tự nhận là đường. Con đường tình yêu, con đường mở ra hạnh phúc. Con đường hy vọng, con đường tin yêu, con đường cứu độ. Con đường ấy có tên Giêsu. Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống, bởi vì Ngài là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình. Ngài đến trần gian là để hướng dẫn con người về với Thiên Chúa Cha, đạt được hạnh phúc đích thực và được thông dự vào sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Trong Chúa Kitô, chúng ta tìm được con đường và được mời gọi vươn cao lên mãi, vươn lên không ngừng. Càng mặc lấy Đức Kitô, chúng ta càng cảm nghiệm sâu xa lời của thánh Phaolô tông đồ:” Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi “.
Con người là con đường dẫn tới Thiên Chúa. Nên, dù chưa thấy Nhan Thánh Chúa qua Chúa Giêsu Kitô, con người vẫn có thể đi vào tương quan mật thiết với Ngài. Con người đến với Chúa bằng một tương quan thân mật Cha-Con. Chúa dạy chúng ta hãy đi theo con đường của Chúa trong suốt cuộc sống trần thế của chúng ta. Có Chúa, chúng ta sẽ hiên ngang vững bước và như thánh Phaolô trong thư Philíp đã nói:” Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi “. Có Chúa chúng ta sẽ không cô đơn vì Chúa đã hứa:” Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế “. Chính vì thế, cuộc hành trình đức tin của chúng ta sẽ không vô ích bởi vì chắc chúng ta đang tìm hạnh phúc nghĩa là tìm thông hiệp với Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ đạt được.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là ánh sáng, là đường, là sự thật, xin hướng dẫn chúng con để chúng con lúc nào cũng đi trên con đường của Chúa và sau cõi đời này, chúng con được về quê trời với Chúa. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
Thế giới có nhiều con đường không ?
Đường nổi tiếng là đường nào ?
Tại sao Chúa lại tự nhận Ngài là đường ?
Đường đây có nghĩa là gì ?
Hạng phúc chúng ta đang tìm là hạnh phúc nào ?
----------------------------------
(Cv 6,1-7; 1P 2,4-9; Yn 14,1-12)
Phúc Âm: Yn 14, 1-12
"Thầy là đường, là sự thật và là sự sống".
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ cho các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi". Ông Tôma thưa Người rằng: "Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?" Chúa Giêsu đáp: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ các con biết và đã xem thấy Người". Philipphê thưa: "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha, và như thế là đủ cho chúng con". Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: "Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư, Philipphê? Ai thấy Thầy là xem thấy Cha, sao con lại nói "Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha"? Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin vì các việc Thầy đã làm. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha".
Suy Niệm:
Chúa Nhật V Phục Sinh
Cv 6,1-7; 1P 2,4-9; Yn 14,1-12
Chúa Nhật trước, chúng ta đã nghe thánh Phêrô khuyên nhủ hãy quay mặt về với Đấng là Mục: PS 5-A59
Chúa Nhật trước, chúng ta đã nghe thánh Phêrô khuyên nhủ hãy quay mặt về với Đấng là Mục tử các linh hồn để thấy Người đã đi trước đưa chúng ta vào sự sống dồi dào. Hôm nay có thể nói chúng ta hãy đến xem cánh đồng cỏ mà Người đã dẫn chúng ta đến, cũng là đàn chiên mà Người đã đem chúng ta vào, là Hội Thánh mà chúng ta đã gia nhập nhờ đi qua mầu nhiệm Tử nạn - Phục sinh của Người, khác nào như qua Cửa của ràn chiên. Cả ba bài Kinh Thánh vừa nghe đọc đều cho chúng ta thấy những phương diện khác nhau của Hội Thánh.
A. Một Cơ Quan Có Nhiều Phận Sự
Bài Công vụ các Tông đồ không đơn sơ như chúng ta tưởng sau khi nghe qua một lượt. Chúng ta nghĩ đây chỉ là chuyện thiết lập các Phó tế, chứng tỏ Hội Thánh đầy đặc sủng của Chúa Thánh Thần. Nhưng tại sao lại có việc thiết lập ấy? Việc thiết lập này đã giải quyết được những gì? Và có hệ gì đến đời sống đạo của chúng ta ngày nay không?
Những câu đầu của bản văn thật ý nghĩa. Số các môn đồ gia tăng. Hội Thánh như hạt cải đang lớn thành cây. Sự đồng tâm ý hiệp phải khó hơn. Sách nói có tiếng người Hylạp rì rầm chống đối người Dothái. Đó là triệu chứng bất hòa và xung khắc giữa bổn đạo mới và bổn đạo cũ, giữa lương dân trở lại và Dothái tòng giáo. Cả hai đều mới mẻ trong Đức Kitô. Nhưng xuất xứ, nguồn gốc và nhất là phong tục làm cho hai bên khó sống chung trong một thân thể và nhận mình là chi thể của nhau. Sự khó dung hòa này còn kéo dài lâu và đưa đến những thái độ quyết liệt như chúng ta sẽ thấy sau này.
Ở đây, nguyên nhân sự bất hòa xem ra chỉ do việc các quả phụ người Hylạp không được phục vụ tươm tất. Bản văn nói vắn tắt quá khiến chúng ta khó thẩm định được sự thật như thế nào. Nhưng ít nhất chúng ta phải nhận thức: sinh hoạt của Hội Thánh ngay từ đầu đã không hạn chế nguyên trong phạm vi phụng vụ. Giáo hội đã biểu thị sức sống bác ái của mình trong cả việc phục vụ tha nhân, đặc biệt trong các phần tử đau khổ trong xã hội. Chính Chúa đã nói với Hội Thánh, kẻ nghèo sẽ còn ở mãi với chúng ta. Và Người ngầm bảo: thế nên, chúng con phải săn sóc họ. Chắc chắn các Tông đồ đã ý thức tầm quan trọng của công việc phục vụ này nên đã muốn tự tay làm. Nhưng miễn là việc cầu nguyện và phục vụ Lời Chúa không bị thiệt thòi!
Thế mà dường như sự đó đã xảy ra. Lời các Tông đồ nói khi giải quyết nỗi bất hòa khiến chúng ta có thể nghĩ như vậy. Ít ra, khi có tiếng rì rầm phàn nàn về việc phục vụ, các Tông đồ đã có dịp suy nghĩ về cách thức thi hành phận sự của mình. Các ngài tỏ ra là những người cởi mở, biết nghe nguyện vọng và chỉ trích của người dưới. Đó là những cơ hội để nhận định đúng về sứ mệnh và lề lối làm việc của mình. Nhận ra mình phải dồn sức cho những công việc quan trọng hơn, các ngài đem sáng kiến giải quyết vấn đề cho anh em suy nghĩ và kêu gọi sự cộng tác. Rõ ràng các ngài dành cho anh em nhiều phần sáng kiến để chỉ định những người có tiêu chuẩn. Người phục vụ phải đầy Thánh Thần và khôn ngoan, vì lẽ công việc của Hội Thánh là công việc của Chúa Thánh Linh và của Đức Yêsu Kitô. Việc nào trong Hội Thánh cũng mang tính cách tôn giáo. Thế mà việc thờ phượng của Đạo Mới phải thi hành trong Thần Khí và Sự Thật (Yn 4,23). Matthya đã được chọn thế chân Yuđa vì ông đã biết Chúa Yêsu và tất cả các Tông đồ phải chờ ơn Thánh Thần xuống để khởi sự hoạt động trong Giáo hội và cho Giáo hội. Vì thế việc lựa chọn những người mới theo các tiêu chuẩn trên chứng tỏ sự "một lòng một ý" giữa hàng ngũ Tông đồ và các cộng sự viên. Hội Thánh vẫn duy nhất trong cơ cấu, mặc dầu mỗi ngày càng nhiều cơ quan phục vụ. Và có lẽ đây là điểm then chốt trong bài Công vụ hôm nay. Tác giả muốn đề cao sự nhất trí sâu xa nhân dịp có những chuyện dường như muốn chia rẽ Giáo hội.
Hai nhóm trong Hội Thánh, hai khuynh hướng mới cũ, Dothái và Hylạp, tiêu biểu cho mọi mối căng thẳng, đã tìm lại được sự sống bình an. Vai trò chủ động vẫn do các Tông đồ nắm giữ, nhưng được thực thi với thái độ cởi mở, linh động và không thiếu phần cương quyết. Những người được kêu gọi hợp tác cũng ý thức phận sự của mình là tham gia vào sứ vụ của Thần Khí và Sự Thật. Kết quả dù những người được bầu lên đều mang tên Hylạp và sẽ đi giảng nơi dân ngoại như Philip sẽ đi Samari, công việc của họ đều đã được các Tông đồ đặt tay. Họ chỉ nối dài tay các ngài khiến ta thấy rồi đây Tin Mừng sẽ mau lan rộng ra lương dân. Và ngay ở Yêrusalem số môn đồ cũng tăng gấp lên, chắc chắn nhờ thái độ cởi mở của các Tông đồ và của Giáo hội, cũng như nhờ sự hợp tác và duy nhất sâu xa giữa các tín hữu.
Như vậy bài sách Công vụ hôm nay còn nói rất nhiều với chúng ta, với cộng đoàn giáo xứ, giáo phận và Giáo hội chúng ta. Hội Thánh của Chúa không được đóng khung trong Phụng vụ. Sinh hoạt của Hội Thánh phải bao hàm việc phục vụ tha nhân. Cả trong lãnh vực này, Hội Thánh vẫn phải "chỉ có một tấm lòng, một linh hồn" và điều đó đòi hỏi cố gắng của mọi người trong chúng ta. Chúng ta sẽ thấy những lý do mạnh mẽ để sống tinh thần duy nhất này khi suy nghĩ về bài Thánh Thư và bài Tin Mừng.
B. Một Đền Thờ Do Nhiều Viên Đá Sống Động
Mở đầu bài thư, thánh Phêrô khuyên mọi người hãy đến với Tảng đá sống động mà loài người đã chê chối nhưng Thiên Chúa đã lựa chọn và tôn vinh. Rõ ràng ngài muốn nói đến Đức Yêsu Tử nạn Phục sinh. Chúa nhật trước cũng chính thánh Phêrô giới thiệu Người như là Đấng chăn dắt các linh hồn, đã hy sinh mạng sống vì chiên. Hôm nay Người được coi như Tảng đá sống động đã bị loại bỏ nhưng rồi đã được nhặt lên để xây lên một Đền Thờ lớn. Không phải thánh Phêrô đã tạo ra hình ảnh này. Chính Đức Kitô khi còn sống đã trích lời Thánh vịnh 118 nói về Viên Đá bị thải nhưng rồi trở thành Đỉnh Góc để ám chỉ cuộc Tử nạn-Phục sinh của Người (Mt 21,42). Thánh Phêrô chỉ thêm tĩnh từ "sống động" vào danh từ "Tảng Đá" để nói lên niềm tin của mình vào Đức Kitô Phục sinh hiện nay đang sống động thực sự. Và có thể nói Người sống động hơn bao giờ hết vì đang xây dựng tín hữu nên Đền Thờ mới.
Những người này cũng là những viên đá sống động vì mang trong mình sự sống của Đức Kitô phục sinh, nhờ việc đã đi qua Bí tích tái hiện việc chết đi sống lại của Chúa. Họ đã đồng hóa với Người nên cùng Người làm thành Đền Thờ mới. Nói đúng ra, thánh Phêrô không dùng danh từ Đền Thờ vì có lẽ khi ngài viết bức thư này, Giáo hội chưa có Đền thờ riêng, nhưng thường thi hành việc bẻ bánh trong các "nhà". Nhưng nhà thiêng liêng cũng là Đền thờ. Vì không phải vật liệu đá, gỗ hay các chiều cao thấp, lớn nhỏ, phân biệt nhà và Đền thờ. Chính Thánh Thần mới là yếu tố phân định. Nhà trở thành Đền thờ khi Thần Trí Chúa ập vào. Chính Thần xác Đức Kitô cũng chỉ trở thành Đền thờ thay thế Đền thờ Yêrusalem như Yn 2,19-22 đã nói, khi Người đã đi qua mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh để Thân xác Người trở thành đầy Thánh Thần. Vậy, khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, các tín hữu đã chết cho tội lỗi và sống cho Thiên Chúa, thì họ được đầy Thánh Thần, trở nên đá sống xây trên Tảng đá sống động, làm thành nhà thiêng liêng.
Và như Đức Kitô Phục sinh không phải chỉ là Đền thờ mới, mà còn là vị Thượng tế tuyệt với, các tín hữu khi làm thành nhà thiêng liêng cũng trở nên hàng tư tế thánh để dâng lễ. Không cần các lễ dâng vật chất nữa, nhưng đã có các hy tế thiêng liêng đầy Thánh Thần, là những lễ vật duy nhất đẹp lòng Thiên Chúa.
Chúng ta có thể nghĩ trong đoạn thư này thánh Phêrô nhấn mạnh đến sinh hoạt phụng vụ và vai trò dâng lễ của Hội Thánh. Nhưng chúng ta cũng có thể nói chủ ý của ngài là nói lên đặc tính duy nhất, thánh thiện của Giáo hội. Toàn thể các tín hữu được xây trên Đức Yêsu Phục sinh làm thành Ngôi nhà thiêng liêng. Và như vậy ta sẽ thấy ăn ý hơn ở đoạn sau.
Quả vậy tiếp đó, thánh Phêrô trích một lời trong Tiên tri Isaia (28,16) để làm chứng Thiên Chúa đã tiền định như vậy, để Đức Kitô "trở thành viên đá đỉnh góc quý giá và ai tin vào đó tất không bị hổ thẹn" (c.6). Và ngài nói luôn: "Vậy vinh dự cho anh em là những người tin, còn đối với những kẻ không tin, thì... đá kia chỉ là khối thạch chướng ngại". Như thế, ngài vẫn không quên Đức Kitô Phục sinh đã được đặt làm "Thẩm phán" kẻ chết và người sống. Những ai tin Người ở một bên và bên kia là những kẻ không tin. Như vậy, thánh Phêrô đã coi tín hữu như một khối. Ngài muốn nói đến sự duy nhất trong Giáo hội. Ngài coi tín hữu như những viên đá sống động nằm trong Ngôi nhà thiêng liêng. Các vinh dự mà ngài kể ra và nói đã được dành cho tín hữu toàn có tính cách tập thể, vì anh em là "dòng giống được lựa chọn, hàng tư tế hoàng vương, nước thánh thiện, dân được chọn làm sở hữu". Bao nhiêu phẩm tước của dân Giao ước cũ (Xh 43,20; 19,5) được chuyển cho Dân Giao ước mới. Đó là những vinh dự của cộng đồng chứ không phải của cá nhân. Nên ta có thể nghĩ ở đây thánh Phêrô muốn nói nhiều về Hội Thánh duy nhất.
Nếu thế thì chữ "nhà" mà tác giả dùng ở trên có thể gợi đến một đoạn Kinh Thánh quan trọng. Đavít bấy giờ muốn làm nhà cho Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa lại hứa sẽ xây cho Đavít một nhà tồn tại muôn đời. Đó là nhà vua Đavít, dòng họ của ông, là Đức Yêsu Kitô Vua muôn thuở nhờ việc Tử nạn Phục sinh, là Hội Thánh gồm những viên đá sống động làm nên nhà thiêng liêng. Nhà Đavít chỉ nắm vương quyền; nhưng Đấng Cứu Thế phải thi hành quyền tư tế, nên các tiên tri về sau vẫn loan báo một Vị Cứu Tinh vừa làm Vua vừa là Thượng tế. Và lời Thánh Kinh ấy đã ứng nghiệm nơi Đức Kitô Phục sinh. Hội Thánh, Thân thể của Người, vì thế được gọi là hàng tư tế hoàng vương.
Thánh Phêrô muốn cho chúng ta suy nghĩ những tước hiệu tập thể ấy để chúng ta rao truyền các kỳ công của Thiên Chúa trong tinh thần duy nhất, như tác giả Công vụ đã khẳng định Hội Thánh thuở ban đầu đã một lòng một ý trong việc mở mang Nước Chúa. Và đó cũng là mệnh lệnh Chúa đã để lại cho chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay.
C. Một Đường Dẫn Tới Sự Sống
Thánh Yoan ghi lại câu chuyện cuối cùng Chúa nói với môn đệ trước khi bị nộp. Người hướng về tương lai, nói đến những việc sẽ tới. Người đang ngồi giữa môn đệ trước khi ra đi chịu chết, nhưng lại nói như thể Người đang ở trong trạng thái phục sinh. Thế nên chúng ta có điều kiện hiểu Người dễ hơn các môn đệ lúc bấy giờ. Nói cách khác, đây đúng hơn là tâm tình của Chúa phục sinh nói với chúng ta. Và vì vậy chúng ta hãy chú ý nghe Người.
Người mở đầu: "Lòng chúng con chớ rúng động!". Người quen nói như vậy mỗi khi hiện ra sau ngày sống lại. Chính tiếng nói của Đấng Vô hình làm cho người ta sợ, nên Chúa phục sinh phải mở đầu như thế. Và thái độ đầu tiên Người đòi hỏi nơi người ta là hãy tin vào Người. Không tin Người đã sống lại thì không có đủ điều kiện để thu hoạch lời Người. Và phải tin vào Người như tin vào Thiên Chúa, vì bây giờ Người không còn như xưa nữa, khi "Người đã chẳng nghĩ phải giằng cho được chức vị đồng hàng cùng Thiên Chúa, song Người đã hủy mình ra không" (Ph 2,6-7). Nhưng bây giờ Người đã được đặt làm Chúa, nên người ta phải tin vào Người như tin vào Thiên Chúa.
Vậy chính Chúa Yêsu Phục sinh đang nói với chúng ta, qua các môn đệ của Người. Người bảo: trong nhà Cha có nhiều chỗ ở; Người sẽ đi dọn chỗ cho chúng ta; rồi Người trở lại đem chúng ta đến nơi Người ở. Đầu óc chúng ta tự nhiên muốn vẽ ra con đường lên trời và như thấy Người đang ở xa chúng ta, tận nhà của Cha Người. Nhưng không phải vậy, vì chính Người lại quả quyết: đàng dẫn đến Chúa Cha lại chính là Người. Làm sao có thể như vậy được? Đầu óc chúng ta muốn nổ tung ra mất. Nhưng này, đang tiếp chuyện "Con Người thiên thai", sao chúng ta lại cứ nghĩ như con người trần ai? Chúng ta hãy để Người giải thích, nâng tâm trí chúng ta lên bình diện Nước Trời. Lúc đó, Lời Người nói sẽ rõ rệt hơn và có thể hiểu được lắm.
Người nói: Cha với Người là một. Người ở trong Cha và Cha ở trong Người. Ai thấy Người cũng thấy Cha. Có gì cấm ta tin như vậy? Người đã phục sinh rồi. Người đã trở lên nơi vinh hiển của thuở đầu; Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa, theo kiểu nói của người Dothái; và sống lại rồi, Người cũng đang ở với Hội Thánh hàng ngày cho đến tận thế. Vậy giữa Người với Cha và với Hội Thánh không có không gian cách quãng gì cả. Chỉ có giữa Hội Thánh và Cha phải có Người là trung gian, là đàng dẫn Hội Thánh tới Cha, dẫn các linh hồn tới Thiên Chúa. Một mình Người làm được công việc này; và Người đã làm khi ra đi Tử nạn Phục sinh. Chính khi chết và sống lại, Người đã trở nên đàng cứu độ dẫn chúng ta tới Thiên Chúa. Vì thế Người cũng là sự thật và là sự sống của chúng ta để chúng ta chắc chắn được đến cùng Cha và được sống.
Như vậy bài Tin Mừng Yoan quá sâu sắc. Ít nhất chúng ta phải thấy rằng Đức Yêsu Phục sinh này là đàng dẫn ta đến Thiên Chúa. Không phải con đàng có chiều dài chiều rộng, vì Cha đang ở trong Người và Người đang ở trong Cha. Nhưng là Trung gian, là Cửa để chúng ta đến với Thiên Chúa, là Cửa ràn chiên để chúng ta ra vào tìm được sự sống. Chúng ta vào Cửa là đã gặp Thiên Chúa rồi. Chúng ta đến với Chúa Yêsu là đến với Thiên Chúa. Chỉ có một điều nên nhớ: tự sức mình chúng ta không đến với Người được. Chính Người phải đến đưa chúng ta lại. Và Người chỉ đến với chúng ta khi đã trở về với Cha qua mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh, mầu nhiệm mà chúng ta sắp tái hiện trên bàn thờ. Ở đây, Chúa Yêsu trở lại gặp chúng ta đức chúng ta vào nhà Cha, để Người ở đâu chúng ta cũng ở đó; Người ở trong Cha và Cha ở trong Người thì chúng ta cũng ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong chúng ta. Và sở dĩ được như vậy là nhờ Bí tích Thánh Thể, nhờ mầu nhiệm Vượt qua của Đức Kitô, nhờ Người là đàng, là sự thật và là sự sống.
Mầu nhiệm này không xây dựng sự hiệp nhất sao? Chính nhờ việc Người ở trong Cha, Cha ở trong Người và hai Ngài ở trong chúng ta và chúng ta ở trong các Ngài mà chúng ta mật thiết với nhau hơn các viên đá trong một Đền thờ, hơn các chi thể trong một thân thể. Sự duy nhất ấy không được chỉ thể hiện nơi nhà thờ, vì như bài Công vụ cho biết, sinh hoạt tôn giáo phải là phục vụ tha nhân nữa. Chúng ta chỉ sống đạo đầy đủ khi thể hiện sự duy nhất cả nơi xã hội, trong mọi sinh hoạt với đồng bào, khiến tuy có nhiều phận vụ khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một tấm lòng, một linh hồn. Xuất xứ, tính tình, phong tục làm chúng ta xung khắc, nhưng sức mạnh hợp nhất chúng ta lại bởi Chúa. Chính Người là đàng đưa chúng ta vào sự duy nhất của Thiên Chúa để Thánh Thần sẽ là dây bác ái kết hợp chúng ta lại với nhau ở trong Người. Và Người sắp làm việc ấy bây giờ cho chúng ta trong mầu nhiệm Thánh Thể. Chúng ta hãy cùng nhau sốt sắng tham dự.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
----------------------------------
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 14:1-12)
Chúa Nhật trước, bài Tin Mừng cho chúng ta một hình ảnh tuyệt vời về Chúa Giê-su: Vị Mục: PS 5-A60
Chúa Nhật trước, bài Tin Mừng cho chúng ta một hình ảnh tuyệt vời về Chúa Giê-su: Vị Mục Tử Nhân Lành. Còn hình ảnh Chúa Giê-su qua bài Tin Mừng hôm nay không sống động, nhưng khô khan và trừu tượng: con đường, sự thật và sự sống. Những hình ảnh và ý niệm này tự chúng chẳng nói lên được điều gì. Do đó, muốn hiểu ý nghĩa của con đường, sự thật và sự sống được áp dụng vào Chúa Giê-su, chúng ta phải đặt chúng trong những mối tương quan giữa Chúa Giê-su với Chúa Cha và giữa Chúa Giê-su với Ki-tô hữu chúng ta.
Thực vậy, khi Chúa Giê-su nói Người là con đường, là sự thật và là sự sống, chúng ta cần phải biết con đường ấy đưa người ta đi đâu, sự thật ấy nói lên điều gì và sự sống ấy dành cho ai. Trước hết chúng ta hãy trở lại với khung cảnh Chúa nói những lời này, đó là cuộc tâm sự giữa Thầy và trò trong bữa Tiệc ly. Người đang cho các môn đệ biết mối tương quan mật thiết giữa Người với Chúa Cha, thì ông Tô-ma hỏi Người về con đường, ông Phi-líp-phê xin Người cho biết Chúa Cha là ai. Vậy để trả lời những câu hỏi này, Chúa Giê-su đã phát biểu những lời nói trên. Do đó chúng ta sẽ nắm bắt được ý nghĩa điều Chúa Giê-su nói trong bối cảnh tình yêu kết hiệp giữa Người với Chúa Cha. Nói khác đi, từ nơi Chúa Cha phát xuất con đường, sự thật và sự sống, để được chuyển tải qua Chúa Giê-su đến với chúng ta.
Chúa Giê-su là con đường. So sánh thật là mộc mạc, nhưng vô cùng ý nghĩa. Con đường nối hai điểm với nhau. Giữa Thiên Chúa và con người là khoảng cách vô tận không thể qua lại (xem Lu-ca 16:26). Cho nên Thiên Chúa đã làm một “con đường” bằng xương bằng thịt khi sai Ngôi Lời nhập thể để nối kết với chúng ta. Tầm quan trọng của con đường như thế nào chúng ta đã biết, vì nó chuyển thông mọi vấn đề, từ tình cảm, xã hội, kinh tế, văn hóa… và cả truyền giáo nữa. Tất cả đều tìm kiếm một con đường mà đi. Vậy chúng ta hãy thử xem con đường Ki-tô đã chuyển tải từ Thiên Chúa đến chúng ta những gì? Ôi, làm sao kể cho hết được, là tất cả sự phong phú giàu sang của Thiên Chúa, để chúng ta “được sống và sống dồi dào” (Gio-an 10:10)!
Khi Chúa Giê-su nói với Phi-la-tô rằng Người đến để làm chứng cho sự thật, ông ta chẳng hiểu gì cả và hỏi lại một câu thật ngớ ngẩn: “Sự thật là gì?” (Gio-an 18:37). Sự thật ở đây là tất cả những gì Thiên Chúa muốn tỏ ra cho nhân loại biết thì đã được thể hiện nơi Chúa Giê-su. Thánh Gio-an đã tóm tắt tất cả trong một câu để định nghĩa sự thật. Đó là: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (3:16). Tình Thiên Chúa yêu chúng ta là một chân lý không thể chối cãi. Bằng chứng lớn nhất và rõ ràng nhất, đó là cái chết của Chúa Giê-su!
Chúa Giê-su là sự sống. Ngoài sự kiện Người là nguyên lý phát sinh sự sống, vì “nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành” (Gio-an 1:3), Chúa Giê-su còn là sự sống mới của những ai được gọi làm con Thiên Chúa (Gio-an 1:12). Việc chuyển thông sự sống của Thiên Chúa đến với chúng ta qua Chúa Giê-su được ví như cây nho đem sự sống đến cho các cành nho (Gio-an 15:1-8). Sự sống của Thiên Chúa sẽ biến đổi chúng ta, làm cho chúng ta đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô và nhất là sinh nhiều hoa trái.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Hiểu ý nghĩa những hình ảnh về Chúa Giê-su là điều quan trọng, nhưng quan trọng hơn là phải ý thức được sự sống động luôn có trong đó. Đường mà không có người đi, sự thật mà chẳng ai thèm quan tâm và sự sống không phải là sự sống của chính mình, thì tất cả những thực tại đó chỉ là những bức tranh tĩnh vật thôi! Nhưng chúng cần phải được sử dụng. Con đường phải đưa Chúa đến với chúng ta và đưa chúng ta đến với Chúa. Sự thật phải luôn nhắc nhở rằng Chúa yêu chúng ta và chúng ta phải đáp lại. Sự sống phải là sống thực, nghe và nói với Chúa, ăn tiệc với Chúa, vui buồn với Chúa… Làm cho sống động những hình ảnh ấy không chỉ là công việc đơn phương của Chúa, mà cần chúng ta cộng tác nữa.
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
----------------------------------
Nếu khám phá ra hạnh phúc tuyệt vời của người Kitô hữu, chắc chắn người ta phải phát ghen: PS 5-A61
Nếu khám phá ra hạnh phúc tuyệt vời của người Kitô hữu, chắc chắn người ta phải phát ghen lên. Nhưng chính người Kitô hữu nhiều lúc quên lãng hay coi thường hạnh phúc của mình. Hạnh phúc đó chính là đức tin nơi Thiên Chúa và Đức Giêsu Kitô.
SỰ NGHIỆP VĨ ĐẠI
Con người hạnh phúc vì đã xây được những công trình vĩ đại trên mặt đất. Đó là niềm hãnh diện của nhân loại. Nhưng đó chỉ là những công trình vật chất. Kitô hữu còn hạnh phúc biết bao khi được “Thiên Chúa dùng như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng,” (1 Pr 2:5) không ai phá hủy nổi, vì đó là công trình của Thiên Chúa. Chính Đức Giêsu cũng là “viên đá sống động bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa chọn lựa và coi là quí giá.” (1 Pr 2:4) Đúng hơn, đó là “đá tảng góc tường” (1 Pr 2:6) nối kết các viên đá xây nên Đền Thờ đó.
Những viên đá sống động đó đã được Thiên Chúa biến thành “hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người nhờ Đức Giêsu Kitô.” (1 Pr 2:5) Vinh dự và cao cả biết bao được làm Kitô hữu trên trần gian ! Đó là chiều dọc trong sứ mệnh Kitô hữu. Chiều ngang cũng quan trọng không kém. Đó là Kitô hữu được Thiên Chúa kêu gọi “để loan truyền những kỳ công của Người.” (1 Pr 2:9) Họ trở nên những chứng nhân vì “là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa.” (1 Pr 2:9) Tất cả đều là công trình vĩ đại của tình yêu Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô.
Hồng ân cao cả Thiên Chúa đã ban tặng các Kitô hữu. Họ được tuyển chọn do cái chết và phục sinh của Đức Giêsu Kitô. Đó là tất cả “công việc Thầy làm” (Ga 14:11) cho nhân loại. Chỉ cần tin vào công việc đó, họ sẽ thấy một sức mạnh vô cùng lớn lao của Đức Giêsu nơi chính mình. Sức mạnh đó do sự hiện diện thâm sâu và hiệp nhất lạ lùng giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Quả thực, chính Thánh Linh mới có thể giải thích tại sao huyền nhiệm cao cả: “Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy.” (Ga 14:11) Nếu tin, Kitô hữu sẽ đi vào tương quan kỳ diệu đó vàsẽ tìm được một nơi trú ẩn vững chắc nhất giữa bao nhiêu thách đố. Chính Đức Giêsu đã bảo đảm cho các môn đệ: “Anh em đừng xao xuyến ! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.” (Ga 14:1) Điệp khúc này Đức Giêsu không ngừng lập lại: “Anh em hãy tin Thầy.” (Ga 14:11)
Tin vào Thầy không những tìm được nơi an toàn nhất trong cuộc đời đầy bất trắc. Nhưng hơn nữa, tin vào Thầy sẽ làm được những công trình vĩ đại. Quả thực, “ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha,” (Ga 14:12) để “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28:20) Nhờ đó, Thầy mới có thể hiện diện một cách sâu xa và sung mãn hơn nơi các tín hữu. Thầy về cùng Chúa Cha để kéo mọi sự lên với Thầy (x. Ga 12:32) và để nắm mọi quyền bính trên trời dưới đất (x. Mt 28:19). Tin tưởng tuyệt đối vào lời Thầy hứa, ngay từ đầu các môn đệ đã thực hiện những việc lớn lao hơn về mặt tổ chức, chiều kích và ảnh hưởng. Quả thế, trong cộng đoàn tông đồ nhỏ bé, không phân biệt những người “chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa.” (Cv 6:4) và những người chuyện “lo việc ăn uống” (Cv 6:2) hay “phân phát lương thực hằng ngày” (Cv 6:1) cho dân Chúa. Trước phục sinh, “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ítraen mà thôi.” (Mt 12:24) Nhưng sau phục sinh, Thầy sai các môn đệ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ.” (Mt 28:19) Ngày còn tại thế, Đức Giêsu là đối tương của lòng căm thù ghen tức. Có bao giờ thấy cảnh tư tế tỏ lòng sám hối hàng loạt sau bài giảng của Đức Giêsu đâu ! Thế nhưng, sau khi biến cố phục sinh, các môn đệ đã làm cho “một đám rất đông các tư tế đón nhận đức tin.” (Cv 6:7) Môn đệ đã làm những việc lớn lao hơn sư phụ, nhưng vẫn không qua mặt sư phụ được. Quả thế, nếu Thầy xác tín “Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình,” (Ga 14:10), người môn đệ cũng thâm tín rằng: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi.” (Gl 2:20) Như vậy, chính Đức Giêsu đang làm những việc vĩ đại hơn khi còn tại thế nơi Giáo Hội. Đó là niềm tin của người môn đệ Chúa.
TOÀN CẦU HÓA NIỀM TIN.
Vì tin tưởng mãnh liệt vào sự hiện diện và hành động của Đức Giêsu trong lòng Giáo Hội, các môn đệ đã dễ dàng thực hiện mệnh lệnh toàn hầu hóa niềm tin hầu đem ơn cứu độ đến cho toàn thể nhân loại. Ngay sau khi phục sinh, Chúa đã ban bố mệnh lệnh đó (x. Mt 28:19) Bao nhiêu lực lượng thù nghịch bên trong cũng như bên ngoài đang nỗ lực cản trở việc toàn cầu hóa đó.
Bên trong, nhiều anh em Kitô hữu giữ mãi mối thù nghịch với Giáo Hội Công giáo. Chẳng hạn, Đức Tổng giám mục Chính thống giáo Nga Yevsevi (Savvin) đã yêu cầu Tổng thống Vlaimir Putin “đừng cho phép những kẻ thù của quê hương và quốc gia – Giáo hoàng Rôma và Công giáo – phất cờ chiến thắng trên miền Đất Thánh Pskov.” (CWNews 23/04/02) Ông giải thích: “Chúng ta phải ý thức rằng các người Công giáo không phải là những ân nhân của chúng ta. Họ chẳng mang lại cái gì tốt đẹp hay ích lợi cho quê hương chúng ta. Họ đi đến đâu, hủy diệt, phân hóa và phá hoại tới đó.” (CWNews 23/04/02) Tại sao lại có một cái nhìn hằn học như vậy ? Có thể tìm thấy nét Tin Mừng nào trong cái nhìn đó không ? Chẳng lẽ tình yêu đầy khoan dung thứ tha của Thiên Chúa không ảnh hưởng gì tới người an hem Kitô hữu sao ? Nếu đúng thế, làm sao có thể thi hành mệnh lệnh toàn cầu hóa đức tin ?
Bên ngoài, kẻ thù đang tìm cách giới hạn sức mạnh toàn cầu hóa của Giáo Hội. Tại Hoa kỳ, “cuộc khủng hoảng về linh mục lạm dụng tính dục vị thành niên không phải là do truyền thông tạo nên hay là quan tâm của công luận tại Hoa Kỳ, nhưng đây là một vấn đề rất hệ trọng làm cho sứ mạng của Giáo hội bị tê liệt. Muốn thay đổi đòi phải tái tạo niềm tin." (ĐHY Bernard Law: VietCatholic 23/4/2002) Thế nhưng, đằng sau sự kiện đó kẻ thù đang nỗ lực hạ uy tín hàng giáo phẩm. Nếu họ thành công, chắc chắn việc Phúc âm hóa sẽ bị khựng lại. Lý do vì linh mục đóng vai chủ chốt trong mọi sinh hoạt Giáo Hội. ĐGH Gioan Phaolô II nhắc nhớ: “Chúng ta phải xác tín rằng thời gian thử thách sẽ thanh tẩy toàn thể cộng đồng Công giáo, một sự thanh tẩy khẩn thiết nếu Giáo Hội muốn rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu Kitô với tất cả sức mạnh giải phóng nhân loại một cách hiệu quả hơn. Giờ đây phải tin chắc rằng ở đâu tội lỗi gia tăng, ở đó ân sủng càng chan chứa (x.Rm 5:20). Càng nhiều đau khổ, càng nhiều buồn sầu càng đưa chức linh mục, giám mục và Giáo Hội đến sự thánh thiện hơn. Chỉ Thiên Chúa mới là nguồn sự thánh thiện. Trên hết chúng ta phải quay về với Người để xin ơn tha thứ, để chữa lành và đón nhận ân sủng để có đủ can đảm đối đầu với thách đố một cách không khoan nhượng mà vẫn đạt mục đích” (CWNews 23/04/02) là toàn cầu hóa niềm tin theo mệnh lệnh Chúa.
Càng bị thách đố, Giáo Hội càng ý thức hơn về sức mạnh đích thực trong việc toàn cầu hóa niềm tin. “Thách đố trước mắt làm cho chúng ta hiểu rõ những lựa chọn cải tiến tinh thần qua cuộc đối thoại giữa đức tin và văn hóa, giữa mạc khải và những vấn đề nhân loại để bảo đảm cả phẩm giá con người lẫn sự trưởng thành nhân vị” (Zenit 2/9/02) sẵn sàng cho việc toàn cầu hóa đức tin. Thiên Chúa đang dùng biến cố hôm nay để đẩy mạnh công cuộc Phúc âm hóa đang khựng lại ở nhiều nơi chăng ?
Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP
----------------------------------
Ga 14, 1-12
Cuộc vui nào rồi cũng có lúc tàn. Những năm tháng sống với các môn đệ quả thực hạnh phúc: PS 5-A62
Cuộc vui nào rồi cũng có lúc tàn. Những năm tháng sống với các môn đệ quả thực hạnh phúc, Chúa đã sống với các ông, đã huấn luyện, dạy dỗ các ông và hé mở cho các ông thấy Nước Trời. Các môn đệ cứ tưởng, Thầy của mình sẽ sống mãi, sẽ làm vua, sẽ khôi phục nước Israen và các ông sẽ tha hồ chia nhau những chức vị trong Vương Quốc của Thầy. Nhưng, đùng một cái Thầy bị bắt, bị kết án tử hình, bị treo trên Thập Giá và rồi Thầy Phục Sinh đúng như lời Thầy đã nói trước. Chúa sống lại đã hiện ra với các ông để củng cố đức tin các ông và minh chứng cho các ông Ngài đã sống lại thật. Chúa Phục Sinh không thể ở lại mãi với các môn đệ trong thân xác Phục Sinh, Ngài phải trở về với Chúa Cha và dọn chỗ cho các Ngài.
CUỘC CHIA LY NÀO CŨNG MANG LẠI LO ÂU, BUỒN PHIỀN VÀ KHỔ ĐAU: Sống trên gian trần người nào cũng có lúc phải suy nghĩ, lo âu, đau buồn vì những quyết định, về những trách nhiệm khiến họ mất ăn mất ngủ. Đặc biệt khi phải xa lìa người thân, cha mẹ, anh em vv…con người đều cảm thấy nôn nao, xao xuyến và đau buồn khôn xiết. Đối với các môn đệ, Chúa Giêsu đã ở với họ suốt 3 năm ròng, Thầy trò đã cùng nhau chia xẻ ngọt bùi, đắng cay.Nay, khi biết Chúa Giêsu không còn ở với mình nữa, các ông đâm ra hoang mang, xao xuyến tột độ. Đây là lẽ thường tình của con người, nhất là khi những người ra đi xa lại là những con người thân thiết, đã từng nếm ngọt chia cay với mình. Các môn đệ rơi vào trường hợp này.
NHƯNG CHÚA ĐÃ NÓI VỚI CÁC MÔN ĐỆ: Chia ly, xa lìa buồn và lo âu, hoang mang thiệt, nhưng Chúa cho các ông biết sự ra đi của Ngài là hoàn toàn cần thiết và hoàn toàn có lợi cho các ông. “ Anh em đừng xao xuyến ! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em”( Ga 14,1-3 ). Chúa Phục Sinh cho các môn đệ hay Ngài đi về với Chúa Cha và cũng cho các môn đệ hay Cha của Ngài cũng là Cha của các Ngài và Cha của mọi người. “ Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy ( Ga 14, 6 ). Rồi Chúa quả quyết: “ Chính Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” ( Ga 14, 6 ). Chúa là sự thật bởi vì Người dẫn chúng ta từ sự lo âu đến an bình, từ sự đau khổ đến vinh quang, từ sự chết đến sự sống, từ đời sống trần gian mau qua đến đời sống trường sinh. Đức Giêsu là sự thật. Sự thật về một Thiên Chúa hay chạnh thương và giầu lòng thương xót. Sự thật về một Thiên Chúa cứu độ và giải thoát con người. Đức Giêsu là sự sống. Sự sống vĩnh hằng, sự sống trường sinh. Sự sống ngay chính trong cung lòng Chúa Cha ban cho mọi loài được sống. Chúa là Đấng cứu độ duy nhất, Ngài muốn cứu tất cả mọi người, không trừ một ai, miễn là con người biết mở lòng ra để đón nhận ơn của Chúa.
Chúa là đường. Người đã trở nên người phàm là cốt để nơi Người, mọi người thấy được Chúa Cha. Người đã đi hết con đường của Người, con đường làm mọi người ngỡ ngàng, nhưng sau này con người đều hiểu bởi vì con đường ấy là con đường tình yêu, con đường Thập Giá và sự chết, mọi người sẽ chinh phục được sự thật của chính mình và sẽ đạt tới sự sống. Con đường của Chúa là con đường phục vụ, con đường tự hiến, con đường hẹp vì con đường rộng rãi dẫn tới hư vong. Chúa đã ngang qua Thập Giá để kéo mọi người lên cùng Chúa. Và tình yêu của Người là tình yêu cứu độ, tình yêu tự hiến và hy sinh:” Không tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của Người hiến mạng sống vì người mình yêu”( Ga 15, 13 ).
Đạo là đường. Chúa chính là đường, là cửa chuồng chiên. Ai muốn vào nước trời phải đi ngang qua cửa chuồng chiên.
Như một câu hát của Soeur Sourire:” Tất cả mọi nẻo đường của trần thếsẽ đưa ta về trời…”. Có ngang qua đau khổ, ngang qua thử thách, Thập Giá, con người mới có vinh quang, mới được sự sống đời đời. Các môn đệ từ Phêrô, Phaolô, Batolômêô, Tôma vv…tất cả đã kinh qua con đường đó vì họ đã tin nhận Chúa “ là đường, là sự thật, là sự sống” ( Ga 14, 6 ).
Lạy Chúa Phục Sinh xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn tuyên xưng Chúa là đường, là sự thật, là sự sống. Xin cho chúng con biết trải qua sự đau khổ mà Chúa đã kinh qua để chúng con cùng được vinh quang với Người. Amen.
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
----------------------------------
Sách Công vụ Tông Đồ quả thực là sách lịch sử Giáo Hội sơ khai. Sau ngày sinh nhật của Giáo: PS 5-A63
Sách Công vụ Tông Đồ quả thực là sách lịch sử Giáo Hội sơ khai. Sau ngày sinh nhật của Giáo Hội là biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống, lịch sử được đánh dấu bằng những biến cố phát triển lạ lùng: các Tồng đồ rao giảng mầu nhiệm Ki-tô, hàng ngàn người sám hối và lãnh nhận phép rửa, họ nhận lấy Thánh Thần xuống trên họ như đã xuống trên các Tông đồ, Giáo Hội nhỏ bé từ Giê-ru-sa-lem lan rộng tới các vùng xa xôi ngoài đất Ít-ra-en. Việc hình thành một giáo hội có tổ chức và cơ chế bắt đầu. Đồng thời một giáo lý về Giáo Hội cũng sẽ được thánh Phao-lô khai triển. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay giới thiệu Giáo Hội lữ hành trần gian trên đường về nhà Cha, với Chúa Giê-su là đường, sự thật và sự sống, với cộng đồng dân Chúa là “giống nòi được tuyển chọn và hàng tư tế vương giả”, sau cùng với những tổ chức thực tiễn để qua việc làm biểu lộ tinh thần bác ái và phục vụ.
1. “Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (bài Tin Mừng – Ga 14:1-12)
Chúa Nhật trước ta đã suy gẫm về Chúa Giê-su là cửa chuồng chiên để ta được ra vào làm đoàn chiên của Chúa và được sống dồi dào, đồng thời Người cũng là Vị Mục Tử Nhân Lành dẫn ta tới đồng cỏ xanh tươi. Đồng cỏ xanh tươi và suối nước trong lành chính là “nhà Cha” mà Người nói đến trong cuộc đàm thoại với các Tông đồ trước khi chịu cuộc Tử nạn. Trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giê-su cho các Tông đồ biết Người sắp sửa làm một cuộc Vượt Qua, qua cái chết khổ nhục để tới phục sinh vinh quang và trở về nhà Cha, Đấng đã sai Người đến thế gian. Người hành trình về với Chúa Cha, nhưng cũng nhắm mục đích dọn chỗ cho các môn đệ sẽ đến sau, để Thầy ở đâu thì môn đệ cũng ở đấy. Câu hỏi của ông Tô-ma không đơn sơ như ta nghĩ, nhưng đưa ta khám phá những chân lý cao cả về sứ mệnh của Chúa Ki-tô. “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”
Sứ mệnh của Chúa Ki-tô là ra đi thi hành sứ mệnh Chúa Cha trao ban. Trước hết là đi từ trời xuống đất, đi từ “địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, trút bỏ vinh quang” để xuống “mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân” (Pl 2:6-7). Chúa Cha đã sai Người đi để làm chứng “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một” (Ga 3:16). Be-lem là điểm Người đến gặp nhân loại. Sau thời gian sống ẩn dật tại Na-da-rét, Chúa Ki-tô được sai đi để thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng. “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi…” (Lc 4:18). Khắp miền đất Ít-ra-en đều mang vết chân của Người đi rao giảng Tin Mừng. Người đi để nhân loại được “thấy Chúa Cha” là Đấng nào, vì “ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”. Qua Chúa Giê-su, người ta “thấy” Chúa Cha chữa lành những vết thương bệnh tật thể xác lẫn tâm hồn, người ta nghe được lời khôn ngoan của Thiên Chúa, người ta nhận được ơn tha thứ tội lỗi… Có lẽ Chúa Giê-su buồn vì người ta không “thấy” hoặc không muốn “thấy” Chúa Cha. Người có vẻ “trách móc” ông Phi-líp-phê và nhiều người khác nữa: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”.
Tuy nhiên, mục đích Chúa Ki-tô đến với ta không chỉ là để ta “thấy” được Chúa Cha là Đấng nào, nhưng còn để ta “đến” với Chúa Cha. Giữa Thiên Chúa và con người là khoảng cách vô biên, tự sức ta không bao giờ có thể vượt qua được. Do đó, Thiên Chúa đã quyết định đến với ta trước qua Chúa Ki-tô, để Chúa Ki-tô dẫn đưa ta đến với Người. Chúa Ki-tô đã chọn con đường “trút bỏ vinh quang” để đến với ta. Người dạy ta biết về Thiên Chúa, tỏ cho ta thấy Thiên Chúa và trở thành “đạo lý” hoặc con đường để ta đến với Thiên Chúa. Con đường của ta là con đường xa rời Thiên Chúa và dẫn ta đến hư mất. Chỉ có con đường của Chúa Ki-tô mới dẫn ta đến Thiên Chúa. Do đó, ta phải đổi đường, hoặc nói khác đi, phải sám hối, phải quay đầu hướng về Thiên Chúa. “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Ta phải quay lưng lại tội lỗi và lắng nghe cùng thực thi Lời Chúa.
Trước khi trở về với Chúa Cha, Chúa Ki-tô đã thiết lập Giáo Hội như một bí tích nói lên việc Người “ở lại” với nhân loại cho đến tận thế (Mt 28:20) qua sự hiện diện và hoạt động của Thánh Thần. Dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần, Giáo Hội thi hành sứ mệnh rao giảng về “con đường Ki-tô” cho nhân loại, để họ quay về và đi con đường ấy mà đến với Thiên Chúa.
2. “Anh em hãy tiến lại gần Đức Ki-tô” (bài Thánh Thư – 1 Pr 2:4-9)
Đức Ki-tô là con đường đưa ta đến với Thiên Chúa. Nhưng con đường ấy lại ngược chiều với con đường thế gian ta thích đi, do đó ta thường ngần ngại không muốn đi theo. Thánh Phê-rô khuyên ta đừng sợ hãi e ngại, nhưng “hãy tiến lại gần Đức Ki-tô”. Ngài không mô tả Chúa Giê-su bằng những nét lôi cuốn của loài người, nhưng sử dụng hình ảnh quen thuộc với anh chị em Do-thái để nói về Chúa Ki-tô: Người là viên đá quý giá được Thiên Chúa chọn lựa và đặt làm tảng đá góc tường. Thiên Chúa muốn thiết lập Giáo Hội Người trên trần gian làm phương tiện đem ơn cứu độ đến cho nhân loại. Người đặt Chúa Ki-tô làm đá tảng góc tường. Vị trí quan trọng của tảng đá góc tường là để nối kết các bức tường lại với nhau và giữ cho căn nhà không sụp đổ. Nền tảng của ngôi nhà Giáo Hội là các Tông Đồ, những người lãnh nhận, gìn giữ và giảng dạy giáo lý Tin Mừng.
Dĩ nhiên mỗi người Ki-tô hữu cũng có phần trong công việc xây dựng ngôi nhà Giáo Hội tại trần gian. Thánh Phê-rô nói lên tầm quan trọng của ta trong việc xây dựng ấy: “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng”. Viên đá nằm trong tay thợ xây. Ông biết đặt nó ở đâu mới đúng chỗ. Hình ảnh linh hoạt này giúp ta nhìn lại chính mình và khám phá ra những tài năng vẻ đẹp Thiên Chúa ban cho ta để ta đóng góp vào việc xây dựng Giáo Hội.
Hình ảnh thứ hai được thánh Phê-rô sử dụng để nói lên sự đóng góp xây dựng của Ki-tô hữu, đó là ta được làm dân tuyển chọn, một Ít-ra-en Mới với sứ mệnh loan truyền những kỳ công của Người. Mà kỳ công của Người không chỉ là việc tạo dựng trời đất muôn loài, mà nhất là Người đã cứu độ ta và cho ta được bước theo Con Một Người tiến về cõi phúc muôn đời. Chúa không những cứu độ ta như những cá nhân, nhưng còn như một tập thể. Sự cứu độ của ta liên kết với sự cứu độ của người khác. Nói khác đi, ta cũng có trách nhiệm đối với ơn cứu độ của người khác. Do đó, nếu ta giúp anh chị em được cứu độ là ta làm cho ngôi nhà Giáo Hội Chúa Ki-tô được phát triển và tăng thêm rạng rỡ.
3. “Lời Thiên Chúa vẫn lan tràn, và tại Giê-ru-sa-lem, số các môn đệ tăng thêm rất nhiều” (bài trích sách Công vụ Tông Đồ – Cv 6:1-7)
Phụng vụ Lời Chúa muốn đưa ra một gương mẫu cụ thể về việc xây dựng và phát triển Giáo Hội Chúa Ki-tô. Đó là việc thiết lập một sứ vụ mới nhắm vào công việc bác ái: chức phó tế. Việc xây dựng Giáo Hội tại thế cần phải được quân bình. Ta không thể chỉ dồn mọi nỗ lực vật chất và tâm trí để lo xây những nhà thờ thật lớn, thật đẹp mà quên đi việc xây dựng một cộng đồng Ki-tô có căn tính đích thực. Ta không thể lập cho nhiều hội đoàn để sinh hoạt xôm tụ mà coi nhẹ việc huấn luyện đời sống đạo đức nội tâm của hội viên. Ngược lại, ta cũng không thể chỉ chú trọng đến kinh hạt, xưng tội rước lễ mà quên đi những công tác từ thiện bác ái. Giáo Hội sơ khai cũng gặp những trở ngại mất quân bình ấy. Các bà góa trong nhóm tín hữu gốc Do-thái theo văn hóa Hy-lạp đã bị bỏ quên trong sự thiếu thốn. Do đó, các Tông đồ đã họp với tín hữu để tìm cách giải quyết. Mọi người đồng ý thiết lập một sứ vụ mới chuyên lo giúp đỡ các bà góa và làm công việc bác ái, để các Tông đồ có thì giờ lo giảng dạy Lời Chúa. Họ tuyển chọn một số người, đem đến giới thiệu với các Tông đồ và các ngài truyền chức phó tế cho họ.
Điều đáng ghi ở đây là tinh thần cộng tác và hăng say của tín hữu và các Tông đồ. Họ thành thực muốn xây dựng Giáo Hội và dễ dàng cảm thông với nhau. Đồng cảm với Giáo Hội (sentire cum Ecclesia) là yếu tố căn bản để cả hàng giáo phẩm lẫn giáo dân cộng tác với nhau mà làm cho Giáo Hội được phát triển. Giáo Hội đã kịp nhận ra sự mất quân bình và cùng nhau tìm phương cách giải quyết. Công việc bác ái thường dễ bị quên lãng trong Giáo Hội. Những gì đã xảy ra cho Giáo Hội sơ khai cũng có thể xảy ra tại bất cứ giáo hội địa phương nào. Do đó, Giáo Hội hôm nay vẫn luôn luôn nhắc nhở và khuyến khích giáo dân tham gia tích cực vào những công cuộc bác ái. Đây chính là một phương thức sống Lời Chúa thực tế nhất và giúp cho “Lời Thiên Chúa lan tràn”, đồng thời cũng giúp cho “số các môn đệ tăng thêm rất nhiều”.
4. Sống Lời Chúa
Từ hình ảnh Chúa Giê-su, Vị Mục Tử Nhân Lành, Phụng vụ Lời Chúa đưa ta đến suy niệm về Giáo Hội. Người dẫn toàn thể nhân loại tiến về đoàn tụ với Thiên Chúa. Người tiếp tục công việc dẫn dắt ấy bằng cách thiết lập Giáo Hội, bí tích phổ quát, để quy tụ mọi người muốn bước theo Người là con đường, sự thật và sự sống. Chúa Giê-su vẫn là Đầu Giáo Hội, là đá tảng góc tường. Do đó, khi ta tiến lại gần và liên kết với Chúa Ki-tô là ta gia nhập đoàn lữ hành của Giáo Hội do Người dẫn dắt. Ta cũng được mời gọi sử dụng mọi tài năng Chúa ban để góp phần xây dựng Giáo Hội của Người ngay tại trần gian này.
Suy nghĩ: Chúa Giê-su nói với ông Phi-líp-phê: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”. Tôi đã thấy Chúa Giê-su ở đâu và qua những ai? Tôi đã gặp gỡ Chúa Giê-su trong những hoàn cảnh nào? Trong cầu nguyện? Trong suy gẫm Kinh Thánh? Trong tiếp xúc với người khác? Tôi nhận ra Chúa Giê-su biểu lộ những gì về Chúa Cha?
Cầu nguyện: Lạy Chúa là Đấng an bài mọi sự cách tuyệt vời, Chúa trải rộng vương quyền Đức Ki-tô trên khắp cùng trái đất để mọi dân được hưởng ơn cứu độ. Xin làm cho Hội Thánh thực sự trở thành dấu chỉ ơn cứu độ cho hết thảy mọi người, đồng thời cũng trở thành nơi Chúa tỏ bày và thực hiện chương trình yêu thương của Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện nhập lễ, Lễ cầu cho Hội Thánh toàn cầu)
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
----------------------------------
ĐỌC LỜI CHÚA
· Cv 6, 1-7: (7) Lời Thiên Chúa vẫn lan tràn, tại Giêrusalem, số các môn đệ tăng thêm rất nhiều, cũng có rất đông các tư tế đón nhận đức tin.
· 1Pr 2, 4-9: (5) Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người.
· TIN MỪNG: Ga 14, 1-12
Nói với các môn đệ sau tiệc ly
(1) Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. (2) Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi don chỗ cho anh em. (3) Nếu Thầy đi don chỗ cho anh em, thì Thầy lai đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. (4) Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi».
(5) Ông Tôma nói với Đức Giêsu: «Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đươc đường?» (6) Đức Giêsu đáp: «Chính Thầy là con đường, là sư thật và là sư sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. (7) Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người».
(8) Ông Philípphê nói: «Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện». (9) Đức Giêsu trả lời: «Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lai nói: 'Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha'? (10) Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tư mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. (11) Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. (12) Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm đươc những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa Ba Ngôi, Ba Ngôi đa dạng và khác biệt nhau, Ngài tạo dựng: PS 5-A64
1. Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa Ba Ngôi, Ba Ngôi đa dạng và khác biệt nhau, Ngài tạo dựng nên vũ trụ cũng vô cùng đa dạng và đầy khác biệt. Điều đó có ý nghĩa gì? Trong bối cảnh ấy, câu nói của Đức Giêsu: «Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở» có ý nghĩa gì?
2. Đức Giêsu nói: «Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha». Chúa Cha vô hình, Đức Giêsu hữu hình, sao lại nói như thế được? Câu này phải hiểu thế nào?
3. Bây giờ đâu ai thấy Đức Giêsu nữa. Vậy thì có cách gì khác để thấy Thiên Chúa? Có thể nói: «Ai thấy tha nhân là thấy Chúa Cha» không? Tại sao?
Suy tư gợi ý:
Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu nói về hai thực tại siêu hình mà không ai ở trần gian này có thể hiểu thấu hay kinh nghiệm trực tiếp được. Trước hết Ngài nói về Nhà Cha Ngài, nơi Ngài và những kẻ theo Ngài sẽ đến. Ngài đã đến đó trước để chuẩn bị cho chúng ta, những người sẽ đến sau này. Kế đó, Ngài nói đến chính Thiên Chúa, Cha của Ngài.
1. Đức Giêsu nói về Nhà Cha Ngài, hay thiên đàng
Ngài nói: «Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở». Nếu Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa với Ba Ngôi khác nhau nhưng lại bằng nhau, đã tạo dựng nên một vũ trụ hết sức đa dạng với đủ mọi giống loài khác nhau, ắt Thiên Chúa của chúng ta phải là một Thiên Chúa rất thích sự đa dạng và bình đẳng. Tất cả mọi sự Ngài dựng nên đều đa dạng, đều gồm nhiều loại khác nhau. Riêng con người, là «hình ảnh của Ngài», thì có nam có nữ, có nhiều chủng loại (da trắng, da đen, da màu), nhiều dân tộc, nhiều quốc gia, nhiều tôn giáo, nhiều nền văn hóa, nhiều tính tình, nhiều khuynh hướng khác nhau. Ngay trong cơ thể một con người thì cũng gồm nhiều cơ quan rất khác nhau. Như thế, ắt ở trên thiên đàng, Ngài cũng phải tạo lập nhiều «chỗ ở» rất khác nhau phù hợp với sự đa dạng của con người.
Thiên Chúa của chúng ta vốn đa dạng ngay từ bản tính (vì là Ba Ngôi khác nhau), và sự đa dạng ắt phải là bản chất mọi đường lối của Ngài. Thế nhưng con người – vốn được tạo dựng nên rất đa dạng – do lòng ích kỷ, tự kiêu và óc bè phái của mình, lại có khuynh hướng thích độc dạng. Họ không muốn những ai khác mình, có niềm tin, chủ trương hay đường lối khác mình… được tồn tại và phát triển. Họ chỉ muốn bè phái mình, văn hóa của mình, ý thức hệ của mình, tôn giáo của mình tồn tại và phát triển mà thôi. Vì thế, họ tìm cách thuyết phục hoặc ép buộc người khác phải giống mình, theo mình. Họ muốn thống nhất mọi sự trong sự đồng dạng hay độc dạng, và dạng mà họ muốn mọi người đều có chính là dạng của họ. Đó chính là một ước muốn đi ngược lại tự nhiên, ngược lại đường lối của Thiên Chúa. Vì thế, càng muốn thống nhất, càng không chấp nhận sự khác biệt của nhau, con người càng bị chia rẽ. Câu chuyện về tháp Baben (St 11,1-9) là một bài học điển hình mà con người suốt bao thế hệ học mãi vẫn không thuộc. Con người muốn thống nhất mọi sự: «Ta hãy xây cho mình một thành phố và một tháp có đỉnh cao chọc trời. Ta phải làm cho danh ta lẫy lừng, để khỏi bị phân tán trên khắp mặt đất» (St 11,4). Nhưng điều đó ngược lại thánh ý Thiên Chúa, nên Ngài đã quyết định «làm xáo trộn tiếng nói của mọi người, và phân tán họ ra khắp nơi trên mặt đất» (St 11,9).
Trong quá khứ, Giáo Hội Công giáo cũng đã từng bị cám dỗ muốn thống nhất trong đồng dạng hơn là hiệp nhất trong đa dạng. Lịch sử cho thấy mỗi lần Giáo Hội thống nhất thêm một chi tiết về đức tin thì lại có thêm một bè rối hoặc một giáo phái ly khai. Vì thế, hiện nay sự hiệp nhất trong Giáo Hội đã bị sứt mẻ rất nhiều. Trong Tông Thư «Tiến Tới Thiên Niên Kỷ Thứ Ba» (Tertio Millennio Adveniente), Đức Gioan-Phaolô II đã kêu gọi Giáo Hội sám hối vì trong thiên niên kỷ thứ hai, Giáo Hội một phần nào đã «phá hỏng sự hiệp nhất mà Thiên Chúa muốn có nơi Dân Ngài» (số 34). Và hiện nay Giáo Hội đang muốn sửa chữa lại những sứt mẻ ấy. Nhưng thiết tưởng Giáo Hội chỉ có thể thành công nếu chủ trương hiệp nhất chứ không thống nhất. Hiệp nhất là tập hợp những con người hay tập thể khác nhau, có chủ trương khác nhau thành một tập thể lớn có một đường hướng chung, nhưng vẫn tôn trọng sự khác biệt của nhau. Còn thống nhất là dẹp bỏ tất cả những khác biệt để trở nên một khối đồng nhất, đồng dạng. Hiện nay, sau công đồng Vatican II, trên lý thuyết, Giáo Hội đang chủ trương hiệp nhất trong đa dạng. Ước mong chủ trương ấy đang được thực hiện.
Đang khi Đức Giêsu muốn dọn chỗ cho mọi người trên thiên đàng, thì lại có nhiều người muốn hạn chế số người được vào thiên đàng vì họ mong rằng chỉ những ai cùng tôn giáo, cùng niềm tin, cùng chủ trương với mình mới được vào đấy mà thôi. Tôi e rằng chính những người này sẽ không thích hợp với một thiên đàng «có nhiều chỗ ở», rất phong phú và đa dạng theo ý của Thiên Chúa.
2. Đức Giêsu nói về Thiên Chúa hay Cha của Ngài
Chẳng ai thấy được Thiên Chúa vì Ngài vô hình đối với mọi giác quan con người. Nhưng kinh nghiệm về Thiên Chúa thì ai cũng có thể có được. Tương tự như dòng điện chẳng ai có thể thấy được, nhưng thời nay, ai cũng có đầy ắp kinh nghiệm về điện, cho dù là trẻ con. Thật vậy, khi cả phố đang bị cúp điện mà bắt đầu có điện lại, là ta thấy đám trẻ con trong xóm la ầm lên ngay: «Có điện rồi!» Dòng điện không thể thấy được, vậy tại sao khi có điện chúng lại nhận ra ngay? Chính vì chúng thấy dòng điện biểu hiện thành đèn sáng, quạt quay, tivi có hình, v.v… Cũng vậy đối với Thiên Chúa. Tất cả những gì hiện hữu và hoạt động ở trong bản thân ta và chung quanh ta đều là những biểu hiện của Thiên Chúa. Vì không có Thiên Chúa thì không thể có tất cả những thứ ấy. Vì thế, thật là ngớ ngẩn khi Philípphê yêu cầu Đức Giêsu: «Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha». Yêu cầu ấy cũng ngớ ngẩn y như yêu cầu của một em bé đang coi tivi dưới ánh đèn sáng choang: «Bố ơi, xin cho con thấy điện là gì? ở đâu?» Bố em sẽ chỉ vào tivi đang có hình và bóng đèn đang sáng, nói: «Điện đấy con!».
Thiên Chúa không thể thấy được, nhưng biểu hiện rõ nét nhất của Ngài là Đức Giêsu, Con yêu quý của Ngài. Thánh Phaolô viết: «Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa» (Dt 1,3; x. Cl 1,15). Vì thế, Đức Giêsu mới nói với Philípphê: «Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha» (Ga 14,9), phần nào tương tự như: ai thấy đèn sáng là thấy dòng điện. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, Ngài giống Thiên Chúa Cha chắc chắn không phải ở thân xác, mà chủ yếu là ở tình yêu vô biên của Ngài đối với nhân loại và vũ trụ. Không gì biểu hiện Thiên Chúa cách trung thực cho bằng tình yêu chân thật, nhất là thứ «tình thương của người dám hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình» (Ga 15,13). Ai càng có nhiều tình yêu chân thật thì càng giống Thiên Chúa, vì từ bản chất, «Thiên Chúa là tình yêu» (1Ga 4,8.16), mà Đức Giêsu là người có tình yêu cao cả nhất. Vì thế, tình yêu mới chính là bản chất cốt yếu của sự thánh thiện, hơn là việc có nhiều nhân đức hay sự trong sạch. Trong sạch như thiên thần, đầy nhân đức như Đức Mẹ mà thiếu tình yêu thì cũng chỉ như một dãy số không thiếu số 1 đứng đầu.
Tuy nhiên, biểu hiện của Thiên Chúa không chỉ có Đức Giêsu, mà còn là tất cả những gì hiện hữu và hoạt động trong vũ trụ, vì không gì có thể hiện hữu hay hoạt động mà không do Thiên Chúa, hoặc không có nền tảng là Thiên Chúa. Nhưng một trong những biểu hiện rất rõ nét và cụ thể của Thiên Chúa chính là những người sống chung quanh ta, những người mà ta gặp trong cuộc đời. Họ cũng chính là hiện thân và là hình ảnh của Thiên Chúa đối với ta. Kinh Thánh đã xác nhận điều đó trong rất nhiều câu như: «Mỗi lần các ngươi làm (/không làm) điều gì cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm (/không làm) cho chính Ta» (Mt 25,40.45). Vì thế, ta không cần phải tìm gặp Thiên Chúa ở đâu xa. Lời Đức Giêsu nói với Philípphê có thể đổi lại thành: «Ai thấy tha nhân là thấy Chúa Cha». Tình yêu và cách đối xử của ta đối với tha nhân sẽ được Thiên Chúa chính thức coi là tình yêu và cách đối xử thực tế nhất với chính Ngài, hơn là những biểu lộ tình yêu đối với Ngài trong những nghi thức tôn giáo bề ngoài. Rất nhiều Kitô hữu không nắm được điều cốt yếu và cần thiết này, nên có thể họ sẽ rất ngạc nhiên khi thấy Chúa nói với họ trong ngày phán xét: «Ta không hề biết các ngươi; hỡi bọn làm điều gian ác» (Mt 7,23).
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con cảm nghiệm về Cha cách sâu xa và dễ dàng nhất khi con cảm nghiệm về chính bản thân con. Bản thân con chính là tác phẩm của Cha với biết bao kỳ diệu hàm ẩn trong đó. Vì thế, biểu hiện cụ thể nhất, dễ cảm nghiệm nhất về sự hiện hữu của Cha đối với con chính là sự hiện hữu đầy kỳ diệu của chính bản thân con. Con cũng chính là biểu hiện của Cha. Xin Cha hãy biến con thành một biểu hiện trung thực của Cha trước mặt mọi người bằng cách đổ tràn tình yêu chân thật của Cha vào trong con, để con yêu thương mọi người như chính Đức Giêsu yêu thương con. Để qua tình yêu chân thật của con, mọi người đều nhận ra Cha ở nơi con.
Joan Nguyễn Chính Kết
----------------------------------
Thánh ca và lời nguyện mở đầu
Kinh Thánh: 1 Phê-rô 2: 4-9
Có thể nói nội dung thư 1 Phê-rô là một suy niệm sâu xa về công cuộc cứu chuộc của Chúa: PS 5-A65
Có thể nói nội dung thư 1 Phê-rô là một suy niệm sâu xa về công cuộc cứu chuộc của Chúa Giê-su qua cái chết và phục sinh của Người. Máu cứu chuộc và sự sống lại của Chúa Giê-su đã biến đổi thân phạn con người chúng ta và tạo một quan hệ mới giữa chúng ta với Thiên Chúa. Một hình ảnh thật gần gũi diễn tả mối quan hệ ấy là hình ảnh đoàn chiên, để nói lên quan hệ mật thiết giữa Vị Mục Tử nhân lành với các con chiên. Cũng như trong Cựu Ước, Đức Chúa là Mục Tử của dân Ít-ra-en, thì giờ đây trong thời Tân Ước, Chúa Giê-su là Mục Tử Mới, dẫn dắt Giáo Hội Người, cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Nhưng với Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, Giáo Hội tiếp tục mời gọi chúng ta suy niệm về mối quan hệ ấy qua một hình ảnh sống động khác: Đền Thờ thiêng liêng.
Qua hai hình ảnh trên, thánh Phê-rô muốn nói lên vai trò của Chúa Giê-su Phục Sinh. Nhờ Người, Thiên Chúa đã đưa chúng ta lên một địa vị mới: 1) làm con chiên của Đàn chiên mới để được sống và sống dồi dào (sự sống của Thiên Chúa), và 2) làm những viên đá sống động để xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng. Để bắt đầu suy niệm về Đền Thờ thiêng liêng, thánh Phê-rô theo cùng một phương thức suy niệm về hình ảnh đoàn chiên, nghĩa là trước hết ngài mời gọi chúng ta nhìn vào Chúa Giê-su, một yếu tố quan trọng nhất trong kiến trúc xây dựng Đền Thờ thiêng liêng.
a) Anh em hãy tiến lại gần Đức Ki-tô, đá tảng góc tường.
Quá quen với kiến trúc tân thời, chúng ta khó mà hiểu được tầm quan trọng của đá tảng góc tường trong kiến trúc thời xưa. Đức Ki-tô là đá tảng góc tường của ngôi Đền Thờ mới, thay thế cho đá tảng Xi-on của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Trước mặt Thiên Chúa và những người tin, Đức Ki-tô là "viên đá sống động", "được Thiên Chúa chọn lựa" và "quý giá." Nhưng đối với những kẻ không tin, viên đá Ki-tô đã bị họ loại bỏ. Họ đã tẩy chay Người, phủ nhận giáo lý của Người, chống đối Người và trao Người cho kẻ dữ đóng đinh trên thập giá.
Kế hoạch của Thiên Chúa Cha là xây dựng một Đền Thờ thiêng liêng. Người đã chọn Đức Ki-tô, viên đá sống động, làm đá tảng góc tường. Người cũng muốn dùng chúng ta như những viên đá sống động mà xây Đền Thờ ấy. Đá tảng và những viên đá của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem chỉ là những viên đá bất động, là nơi chốn để con người gặp gỡ Thiên Chúa qua phụng tự mà thôi. Nhưng với Đền Thờ mới này, sức sống là Thánh Thần tác động trên mọi phần tử, trên Đức Ki-tô và những kẻ tin vào Người, làm cho mọi người trở nên sống động, để dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa. Tuy nhiên chúng ta đừng bỏ qua một cụm từ vô cùng quan trọng, là "nhờ Đức Giê-su Ki-tô." Không có Đức Ki-tô, Đền Thờ thiêng liêng kia không bao giờ được khởi sự và sẽ chẳng bao giờ có những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa. Không có Đức Ki-tô, chúng ta sẽ không bao giờ được Thiên Chúa dùng làm những viên đá sống động. Thánh Phê-rô coi việc Thiên Chúa sử dụng chúng ta như những viên đá sống động là một "vinh dự" cho chúng ta.
b) Anh em là hàng tư tế vương gia
Từ hình ảnh Đền Thờ thiêng liêng, thánh Phê-rô dẫn chúng ta tới một suy niệm sâu xa về chính chúng ta. Nhờ được kết hiệp với Chúa Ki-tô giống như những viên đá nối kết với đá tảng góc tường, thân phận của chúng ta được biến đổi. Chúng ta không phải qua trung gian của những hy lễ chiên bò nữa, nhưng vì Chúa Ki-tô là chính của lễ, nên khi chúng ta liên kết với Chúa Ki-tô là chúng ta được trở thành "những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa." Ngày xưa chỉ có một số ít người được tuyển chọn vào hàng tư tế. Ngày nay, nhờ Đức Ki-tô, tất cả chúng ta đã được Thiên Chúa tuyển chọn để làm Dân của Thiên Chúa, vì chỉ có Dân của Người mới được gọi là hàng tư tế vương giả. Việc tuyển chọn này đã cho chúng ta đủ tư cách để "loan truyền những kỳ công của Người" và "được hưởng lòng xót thương" của Người.
c) Những viên đá sống động của Đền Thờ Giáo Hội hôm nay
Hình ảnh Chúa Ki-tô là đá tảng góc tường trở thành gương mẫu cho chúng ta. Đá tảng ấy đã được Thiên Chúa tuyển chọn. Đá tảng ấy sống động, đầy thần khí của Thiên Chúa, phân phát sự sống thiêng liêng. Nhưng đá tảng ấy cũng bị những người không tin loại bỏ. Những gì chúng ta gặp nơi Chúa Ki-tô thì chúng ta cũng gặp nơi chính chúng ta. Quan trọng là cũng như Chúa Ki-tô, chúng ta "hãy để Thiên Chúa dùng chúng ta như những viên đá sống động."
Câu hỏi gợi ý chia se
Tham dự vào chức tư tế của Chúa Giê-su là điều ít khi chúng ta để ý tới. Đoạn thư này của thánh Phê-rô giúp tôi có cái nhìn mới như thế nào về quan hệ tư tế giữa tôi với Chúa Ki-tô và với Thiên Chúa?
Qua kinh nghiệm thiêng liêng cá nhân, tôi diễn tả và chia sẻ với anh chị em thế nào là "những viên đá sống động"trong gia đình và trong xứ đạo?
Thánh Phao-lô thường gọi Ki-tô hữu là "các thánh" để nói lên phẩm giá của địa vị mới chúng ta. Ở đây, thánh Phê-rô cũng gọi chúng ta là "dân thánh". Ý tưởng ấy có nhắc nhớ tôi sống đúng với địa vị của mình không? Tôi sẽ sống thế nào để người ta nhận ra tôi thuộc về Thiên Chúa như Đức Ki-tô?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng đọc kinh sau đây:
Lạy Chúa Giê-su, Tình Yêu của con, nếu Hội Thánh được ví như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất. Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu. Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động. Nếu Trái Tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu, thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng, các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình...
Lạy Chúa Giê-su, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con, ơn gọi của con chính là tình yêu. Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội Thánh: nơi Trái tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu, và như thế con sẽ là tất cả, vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh. Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con, mọi ước mơ của con được thực hiện. (dựa theo lời của thánh Tê-rê-xa)
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 62)
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
----------------------------------
Đức Giám Mục Giáo Phận trong một Thánh Lễ Giới Trẻ tại nhà thờ Bảo Lộc
Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy." Có lẽ hơn khi nào hết: PS 5-A66
"Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy." Có lẽ hơn khi nào hết, thời đại chúng ta đang sống có quá nhiều âu lo và bất ổn. Thời đại đang đánh mất niềm tin. Gần đây nhất, Đức Hồng Y Bernard Law của Tổng Giáo Phận Boston, nơi xuất phát ra cơn đại hồng thủy xì-căng-đan với danh sách 80 linh mục bị tố cáo vi phạm tính dục, đã phải đến Vatican để gặp Đức Thánh Cha, trong đó có việc xin từ chức, nhưng không được chấp thuận.Thời đại cần lắng nghe được lời nhắn nhủ của Đấng Mục Tử Nhân Lành trong toàn vẹn sứ điệp của nó.
"Hãy tin vào Thầy" điều đó có nghĩa gì?
Thánh Phêrô không dấu diếm một thực tế "Đức Kitô, viên đá sống động bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa chọn lựa và coi là quý gia". Bởi vì theo Ngài "đối với kẻ không tin...cũng là viên đá làm cho vấp, tảng đá làm cho ngã. Họ đã vấp ngã vì không tin vào Lời Chúa."
Vấn đề là không phải chỉ có người Do Thái, các giới chức lãnh đạo tôn giáo cũng như chính trị xã hội đã loại bỏ Người, ngay cả các môn đệ, mà "Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà này Philipphê, anh chưa biết Thầy ư ?".
Sứ điệp của lời nhắn nhủ hệ tại vào điều Đức Giêsu công bố với các môn đệ "Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người". Có một mầu nhiệm thẳm sâu trong cái vóc dáng bề ngoài khiêm hạ này. Có một "con đường, sự thật và sự sống" mở ra trên xác thịt Đức Giêsu vươn tới tận "Nhà Cha".
"Con đường, sự thật và sự sống" ấy theo Đức Giêsu được mở ra trước hết là để "dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi và dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy". Dường như mầu nhiệm chỉ liên hệ đến hành trình của người môn đệ. Ý nghĩa này được củng cố mạnh mẽ trong lời thiết lập chức Linh Mục thừa tác cùng với Bí Tích Thánh Thể: "Này là chén Máu Thầy... sẽ đổ ra vì các con. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy". Trong những lời cốt lõi và chí tình ấy, chúng ta không thể phủ nhận một cái nhìn rất chính xác của Đức Giêsu về người môn đệ. Ngài thấy họ trong tình trạng yếu hèn tội lỗi cần được thanh tẩy và giải thoát. "Con đường, sự thật và sự sống" như vậy là chính đường Đức Giêsu đã mở ra trên chính Xác Thể Ngài, và môn đệ được mời gọi đi vào trước tiên để được sống. Người môn đệ không phải là chính "con đường, sự thật và sự sống". Nếu chính họ, và thực sự cũng đã có nhiều Người không kiên trì đi trọn "con đường" đã được kêu gọi, thực ra đó là điều còn dễ hiểu hơn là thật nhiều người trong họ đã kiên cường cho đến hơi thở cuối cùng trên hành trình mầu nhiệm ấy.
Theo thánh Phêrô, thành quả trung tín của người môn đệ hệ tại ở "chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Chúa". Và quả thật, những xì-căng-đan cho dù được nhìn dưới góc độ nào, thì đó cũng chỉ là xì-căng-đan của một đời sống thiếu "cầu nguyện và phục vụ Lời". Xét dưới góc độ nào đó, thì cũng là một minh chứng cho tính Ân Sủng nhưng không của Ơn Gọi Linh Mục.
Ân Sủng đã nhào nặn con người phàm tục, như người ta làm chứng trong tường thuật của sách Công Vụ Tông Đồ "anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thánh Thần và khôn ngoan", và "sau khi cầu nguyện, các Tông Đồ đặt tay trên các ông", và "Lời Thiên Chúa vẫn lan tràn... số các môn đệ tăng thêm rất nhiều...". Thánh Phaolô đã đặc biệt lưu tâm về điều này trong các thư gửi cho các bậc Niên Trưởng giáo đoàn: "Vì lý do đó, tôi nhắc anh phải khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa, đặc sủng anh đã nhận được khi tôi đặt tay trên anh." Và khi họ vùi lấp "Ân Sủng" thì họ cũng rơi vào hư vong như những kẻ không tin.
Vì vậy, lời và sứ điệp của Đức Giêsu "Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy." là Lời và Sứ Điệp cấp bách của thời đại hôm nay vậy.
Giuse Nguyễn Hữu Duyên
----------------------------------
Chúa Nhật V Phục Sinh A
Gv 14,1-12: 1 "Lòng các ngươi chớ rúng động! Hãy tin vào Thiên Chúa, mà cũng hãy tin vào Ta. 2 Trong nhà Cha Ta, có nhiều chỗ ở - chẳng vậy, Ta đâu có nói với các ngươi là Ta đi dọn chỗ cho các ngươi. 3 Và nếu Ta ra đi dọn chỗ cho các ngươi, thì Ta sẽ đến lại và đem các ngươi theo Ta, để Ta ở đâu, các ngươi cũng ở đó. 4 Và Ta đi đâu, các ngươi biết đàng rồi".
5 Thôma nói với Ngài: "Thưa Ngài, chúng tôi không biết Ngài đi đâu, làm sao mà biết được con đàng?" 6 Ðức Yêsu nói với ông: "Ðàng và sự thật, sự sống, chính là Ta! Không ai đến với Cha mà lại không nhờ Ta, 7 Nếu các ngươi biết Ta, tất các ngươi cũng biết Cha Ta. Ngay từ bây giờ các ngươi biết Người và đã thấy Người".
8 Philip nói với Ngài: "Thưa Ngài, xin tỏ cho chúng tôi thấy Cha; thế là đủ cho chúng tôi!" 9 Ðức Yêsu nói với ông: "Ðã bao lâu rồi, Ta ở với các ngươi! Thế mà, Philip, ngươi đã không biết Ta ư? Ai thấy Ta là đã thấy Cha. Làm sao ngươi nói: Xin tỏ cho chúng tôi thấy Cha! 10 Ngươi không tin Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta sao? Các lời Ta nói với các ngươi không phải tự Ta mà Ta nói ra, nhưng chính Cha, Ðấng ở trong Ta, hằng làm công việc của Người. 11 Hãy tin Ta: là Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta. bằng không, hãy tin vì các việc kia vậy.
12 Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa, vì Ta đi đến cùng Cha. 13 Và điều gì các ngươi xin nhân danh Ta, Ta sẽ làm, ngõ hầu Cha được tôn vinh nơi Con, 14 Và nếu các ngươi xin gì với Ta, nhân danh Ta, Ta sẽ làm".
Văn mạch của đoạn 14:1-15 là diễn từ giã biệt (13:33-1431). Đoạn nầy nằm ở phần đầu của diễn: PS 5-A67
Văn mạch của đoạn 14:1-15 là diễn từ giã biệt (13:33-1431). Đoạn nầy nằm ở phần đầu của diễn từ. Ở câu 13:33 và 36 Chúa Giêsu đã tiên báo là Người sẽ ra đi. Việc ra đi nầy gây nên một thử thách lớn cho các môn đệ của Người. Họ phải đối diện với sự vắng mặt của Người. Bởi đó mục đích của diễn từ nầy là củng cố lòng tin và hy vọng vào Người. Mệnh lệnh “Lòng anh em chớ xao động” ở câu 1 sẽ được lập lại ở câu 27, và đóng khung chương 14. Nội dung của chương 14 là những lời lẽ giải thích mệnh lệnh nầy.
Có thể phân chia chương 14 như sau: - Mở đầu diễn từ thứ nhất: Chúa ra đi và sẽ trở lại (14:1-4); - Chúa Giêsu ra đi và môn đệ kết hợp với Người trong đức tin (14:5-14); - Chúa Giêsu trở lại và môn đệ kết hợp với Người trong tình yêu (14:15-24); - Kết thúc diễn từ thứ nhất (14:25-31).
Chúa ra đi và sẽ trở lại (14:1-4): - Củng cố các môn đệ (c. 1); - Lý do để các môn đệ tín thác: Chúa đi dọn chỗ và sẽ trở lại đem các môn đệ theo (cc. 2-3); - Chuyển tiếp sang đề tài “đường đi” (c. 4).
Đoạn mở đầu bằng hai mệnh lệnh liền nhau (c. 1), và tiếp theo đó là lời dẫn giải gây niềm tin nơi các môn đệ (cc. 2-3). Tarassô, “xao động”, được dùng theo nghĩa đen trong trình thuật nói về nước trong hồ các thiên thần đến khuấy động lên (x. 5:7). Trong mệnh lệnh “Đừng để tâm hồn bị xao động” động từ được hiểu theo nghĩa bóng, ám chỉ trạng thái đau buồn của tâm hồn. Chúa Giêsu “xao động” khi đứng mộ của Lazarô (11:33), khi đối diện với sự chết của chính mình (12:27), hay khi nói về người phản bội giữa các môn đệ (13:21). Sự xao động nầy gắn liền với sự mất mát, sợ hãi và đau buồn đến nỗi thân thể có thể run bật lên.
Đối lại mệnh lệnh tiêu cực trên là mệnh lệnh “Hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin vào Tôi” (c. 1b). “Thiên Chúa” được dùng một lần duy nhất ở đây trong chương nầy. Sau đó “Thiên Chúa” nầy được gọi là “Cha” hay “Cha Tôi”. Lời khuyến dụ “tin vào Thiên Chúa” là duy nhất ở đây. Thông thường chỉ thấy lời mời gọi tin vào Chúa Giêsu trong tin mừng thánh Gioan. Pisteuô, “tin”, là đặt mình trong tương quan với Thiên Chúa và Chúa Giêsu, “tin vào tôi” (cc. 1.11.12), và giao phó chính mình cho Người.
Chúa Giêsu đưa ra những lý do để giải thích việc ra đi của Người, và như thế, các môn đệ có thể tin vào Người (cc. 2-3). Nằm ở vị trí trung tâm của hai câu 2-3, “ra đi và dọn chỗ” cho thấy mục đích của việc Chúa Giêsu làm: một đàng ra đi để dọn chỗ trong nhà Cha (vế trước), và đang khác Người trở lại để đem các môn đệ về nơi ấy với Người (vế sau).
“Ra đi” là đi về với Chúa Cha ngang qua cuộc khổ nạn (1:23.27; 13:1). Đó cũng là lúc Người được tôn vinh trong sự sống lại và lên trời (17:1). Người đi để chuẩn bị chỗ cho họ. Monç, “nơi để ở”, bởi động từ menô có nghĩa là cư ngụ, lưu lại. Nơi cư ngụ nầy được gắn liền với “nhà của Cha”. Điều nầy muốn nói là nơi cư ngụ ấy có sự hiện diện của Thiên Chúa, thuộc về Thiên Chúa. Như thế, “chuẩn bị một chỗ” có hiểu là chuẩn bị đưa các môn đệ vào một cách tương quan mới và một cách hiện diện mới. “Chỗ” ấy không mang tính cách không gian. “Chỗ” ấy sẽ là nơi thông hiệp giữa Thiên Chúa và những người yêu mến Chúa Giêsu và giữ lời của Người (x. 14:23). “Chỗ” ấy không bị giới hạn bởi bất cứ biên giới nào: Chúa Giêsu ở đâu, các môn đệ ở đó (c. 3b; 12:26.32). Động từ paralambanô có nghĩa là “nhận về nhà với mình”. Chúa Giêsu đã không được người nhà nhận về khi Người đến trần gian (1:11). Cụm từ pros emauton “nhà tôi” làm mạnh thêm ý nghĩa cho động từ đi trước. Chỗ mà Chúa Giêsu đi và chuẩn bị là nhà của Người, dù đó cũng là nhà của Cha.
Đường đi (c. 4). Từ đề tài “đi dọn chỗ”, Chúa Giêsu đề cập sang đề tài đường đi. Chủ để “đường đi” nầy liên kết đoạn nầy với đoạn tiếp theo (cc. 5.6). Theo lời của Chúa Giêsu, các môn đệ đã biết Người đi đâu. Chúa Giêsu nói nhiều lần cho họ biết là Người sẽ trở về với Đấng đã sai Người (7:33; 16:5), về cùng Cha (16:10.28), và về nhà Cha (14:2). Việc nói trước nầy đã làm họ một lần thắc mắc; nhưng lúc ấy họ đặt ra một vấn đề khác (x. 16:17-19). Lần nầy Tôma đặt ra vấn đề đường đi đến “nhà Cha” (c. 5); trong khi Chúa Giêsu sẽ cho thấy đường ấy chính là Người (14:6).
Vậy việc Chúa Giêsu ra đi sẽ gây nên một mất mát, khiến các môn đệ phải buồn sầu và xao xuyến. Trái lại, việc ấy sẽ đưa các môn đệ thông hiệp cách trọn vẹn hơn với Thiên Chúa. Họ sẽ ở trong nhà Cha như là con cái, chứ không phải là nô lệ (8:35), vì nhờ sự ra đi của Chúa Giêsu mà họ được trở nên con cái của Thiên Chúa và ở trong nhà của Người.
Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
----------------------------------
Ga 14, 1 – 12
Một lần tôi vào quán ăn trên đường, tôi chú ý đến bàn ăn bên cạnh, vì nơi đó có một đứa bé khó: PS 5-A68
Một lần tôi vào quán ăn trên đường, tôi chú ý đến bàn ăn bên cạnh, vì nơi đó có một đứa bé khó tánh. Thức ăn bày ra trước mặt nó, vậy mà nó không bằng lòng với những gì đang có. Người mẹ ngồi bên cạnh hết sức nhẫn nại, vừa năn nỉ vỗ vành, vừa cố gắng cho thức ăn vào miệng cho con, nhưng cuối cùng, bà không thể nào làm gì hơn được. Bên cạnh đó, cũng có một đứa bé lẵng lặng đứng nhìn. Nó nhìn những tô thức ăn của thực khách đã dùng xong nhưng còn thừa lại. Nó cũng nhìn vào tô thức ăn mà đứa bé khó tánh kia đang làm khó mẹ nó. Người mẹ trẻ cũng nhìn thấy đứa bé đang đứng nhìn như thế, bà gọi em đến và cho em tô thức ăn gần như còn nguyên vẹn. Em rục rè cho tất cả những gì trong tô vào trong chiếc lon của em và mang ra ngoài. Bên ngoài còn một đứa trẻ khác nhỏ hơn, đang ngồi chờ đợi. Người chị vui mừng, cho em ăn trước, sau đó nó mới dùng phần còn lại.
Tôi chợt suy nghĩ. Đứa bé có người mẹ bên cạnh, được nâng niu chiều chuộng, nó không biết tận hưởng hạnh phúc mà nó đang có, mà lại đòi hỏi cái gì không có trong hiện tại, nên nó khó chịu và không chấp nhận hiện tại. Còn đứa bé có đứa em đang ngồi chờ bên ngoài, nó biết tận dụng những gì mình có được, để mang lại lợi ích cho mình và cho người khác.
Hạnh phúc không ở đâu xa, nó ở ngay bên cạnh, nếu ai biết tận hưởng thì sẽ được, còn ai không biết thì sẽ không bao giờ nhận được.
Các Tông Đồ sống với Chúa Giêsu bao nhiêu năm trời, các ông nhìn thấy những việc làm, những điều lạ mà Ngài đã thực hiện. Các ông còn được nghe những lời giảng dạy riêng cho các ông để hướng dẫn cho bước đường tương lai. Vậy mà trong giờ phút quyết định, các ông lại thốt lên qua miệng của Tôma: "Chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết đường đi". Còn Philipphê thì sao? Ông không nhận ra được người mà mình đã theo bao nhiêu năm trời đây là ai, ông chỉ thấy đây là một con người, vì mặc dù sống với Chúa Giêsu, nhưng ông chỉ lắng nghe chính mình, ông chỉ theo những gì mình muốn, nên những gì của Chúa Giêsu không ảnh hưởng đến ông.
Chúa Giêsu bảo các ông "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống....... Ai thấy Thầy là xem Thấy Cha". Ngài muốn nói với các ông: những gì các ông đòi hỏi, nó đang ở trong hiện tại trước mắt các ông, nếu biết nhìn thấy để nhận ra mà sống thì thật là hạnh phúc. Một học giả nói rằng: "Con người luôn nuối tiếc quá khứ, mơ ước đến tương lai, nhưng lại hờ hững với hiện tại". Cái hiện tại là kết quả của quá khứ, là đường để đi đến tương lai, nhưng con người thường quên nó đi.
Các Tông đồ ngày xưa đã như thế, nhưng các ông được dạy bảo, nhắc nhở và các ông đã biết sống trở lại cho tốt. Câu chuyện của ngày xưa, tưởng đã đi vào quá khứ, nhưng nó vẫn còn là một câu chuyện thời sự nóng bỏng của ngày hôm nay đối với mỗi người trong chúng ta. Cũng như các Tông Đồ khi xưa, chúng ta cũng thường đòi hỏi, mơ ước những gì không có trong hiện tại, để những đòi hỏi, những mơ ước đó nó làm khổ chúng ta trong cuộc sống. Biết bao lần chúng ta bất mãn với hiện tại, không bằng lòng về chính mình, không bằng lòng về cách sống, không bằng lòng với người chung quanh và thường hay hỏi tại sao tôi không được như người khác, tại sao tôi không được tốt hơn.......... Những lần như thế, chúng ta đang đi trên con đường của các tông đồ khi xưa. Những lúc đó, Chúa Giêsu cũng nói với chúng ta lời nói khi xưa "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống......... ai xem thấy Thầy là xem thấy Cha". Những khi đó chúng ta có cảm nhận được hạnh phúc mà mình đang có, cảm nhận được hồng ân Chúa bao bọc chúng ta không? Nếu chúng ta biết trân trọng hiện tại và chu toàn trách nhiệm mình cho tốt: trách nhiệm của một con người mà Thiên Chúa đã đặt để trong xã hội, trách nhiệm của một người Công Giáo. Cụ thể hơn là trách nhiệm của một người cha, người mẹ trong gia đình, chúng ta có làm gương tốt, có dạy dỗ con cái theo thánh ý Chúa không? Nếu trong cuộc sống đời thường, chúng ta biết vượt qua những trở ngại, những vất vả, để chấp nhận cuộc sống và hoàn thành trách nhiệm của mình mà không phàn nàn trách móc.
Đó là chúng ta như đứa trẻ biết tận dụng cái mình đang có để đem lợi ích đến cho mình và cho người khác. Khi đó chúng ta đang nhận ra Chúa là đường, là sự thật và là sự sống cho chính chúng ta.
----------------------------------
Ga 14, 1 – 12
Nếu so với truớc đây khoảng vài thập niên thì ngày nay chúng ta đi đây đi đó dễ dàng hơn nhiều. Bởi: PS 5-A69
Nếu so với truớc đây khoảng vài thập niên thì ngày nay chúng ta đi đây đi đó dễ dàng hơn nhiều. Bởi lẽ, đường đi ngày càng được mở rộng và thông thoáng hơn. Phương tiện di chuyển cũng đa dạng và phong phú hơn. Thậm chí, người ta có thể lên cung trăng hoặc nhiều hành tinh khác. Dầu vậy, có một con đường mà con người đành phải bó tay. Ðó là con đường dẫn tới sự sống thật.
Tuần trước, chúng ta đã cùng suy niệm Chúa Giêsu chính là mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành dẫn đoàn chiên của mình tìm lại sự sống. Hôm nay, Giáo hội tiếp tục cho chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu với ý nghĩa Người chính là đường dẫn tới sự sống thật.
Chúng ta biết, ý định ngàn đời của Thiên Chúa Cha là muốn cho tất cả con người được sống dồi dào. Thiên Chúa cũng biết là tự sức mình, con người chúng ta không thể nào tìm lại sự sống đã bị đánh mất. Do đó, chỉ có Ðấng từ Thiên Chúa mà đến mới có đủ sức đưa ta trở về tình trạng ấy. Ðấng ấy chính là Chúa Giêsu - Con Một Chí Ái của Ng ười.
Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ cách riêng là với Thánh Tôma cũng như cho mỗi người chúng ta: "Thầy là đ ường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Cha mà không qua Thầy " (Ga 14, 6). Trên hết mọi sự Thiên Chúa luôn luôn muốn cho con ng ười chúng ta được sống và sống dồi dào. "Ta đến để cho chiên đ ược sống và sống dồi dào " (Ga 10, 10); " Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người " (Mc 10, 45); "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn." (Lc 5, 31 - 32). Nhờ ăn năn sám hối mà những người tội lỗi mới mong được sống.
Như thế, nếu muốn có sự sống thật thì không cách nào khác chúng ta cần phải đặt trọn niềm tin vào Chúa Giêsu. Vì chính Người là Ðấng dẫn đường và cũng chính là con đường dẫn đến Chúa Cha - Ðấng là nguồn sống thật của chúng ta. Chúa Giêsu đã mời gọi Nicôđêmô và chúng ta: "Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời " . (Ga 3, 14 - 15)
----------------------------------
Ga 14, 1 – 12
Anh chị em thân mến,
Ngày 20.04.1999, hai nam học sinh da trắng đã bắn vô trường Trung học Columbine, Colorado: PS 5-A70
Ngày 20.04.1999, hai nam học sinh da trắng đã bắn vô trường Trung học Columbine, Colorado, khiến 12 em học sinh phải chết...một thầy giáo và nhiều em học sinh khác bị thương... vì hai em này đã gia nhập vào một tổ chức của Satan, đảng viên của Đức quốc xã. Hai em nhỏ này, cũng trạc tuổi như các em học sinh Trung học khác. Sở dĩ các em có gan lỳ dám phạm tội ác tày trời là giết người không gớm tay, chính vì các em bị nhồi sọ: không tin Thiên Chúa - không tin có Chúa - và cho rằng ai theo Chúa, thì cũng là kẻ ngu đần như người Do thái...Tiếc thay, các em này đã chọn lầm đường: đường của Satan, của bọn Đức quốc xã khát máu! Chỉ có một mình Thiên Chúa mới là đường, là sự thật của nhân loại mà thôi. Bài Tin mừng hôm nay mời chúng ta suy niệm cặn kẻ đề tài này...
a/. Trước hết chúng ta cần tìm hiểu vài câu nói của Chúa Giêsu:
Thầy là đường: con đường là phương tiện đưa người ta tới đích mình mong muốn, cũng là hình ảnh gần gủi với người Do thái. Họ đã lên đường về Đất Hứa (Tv 76, 8). Abraham lên đường về nơi Chúa chỉ (STK 12, 1-5). Con đường cũng là luật pháp Chúa dạy phải theo. Có hai con đường: Tốt và xấu. Người ta có quyền lựa chọn theo hai con đường đó, và phải chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình (Đnl 30, 15-20). Chúa Giêsu trước khi từ giã môn đệ, Chúa nói rõ cho họ: Ngài là đường dẫn đưa họ về với Chúa Cha, bằng lời nói cũng như bằng công nghiệp của Ngài.
Thầy là sự thật: vừa có nghĩa chắc chắn, thực tế, vừa trung tín và còn là qui tắc vững chắc cho đời sống nữa.
Thầy là sự sống: Chúa là nguồn gốc của sự sống, nên Ngài có thể ban cho chúng ta sự sống mới, đồng thời Ngài có thể cho ta được kết hiệp với sự sống của Chúa Cha. Vì vậy, ai đi trong đường của Ngài, đón nhận chân lý Ngài trao ban, thì sẽ được sự sống của Chúa Cha ở trong Ngài, nhờ đó mà ta sẽ được lớn lên...
b/. Qua bài Tin mừng hôm nay, có hai đề tài ta cần suy niệm:
Thầy là đường là sự thật và là sự sống: Chúa Kitô là đường, là con đường dẫn đưa nhân loại tới với Thiên Chúa. Chúa Kitô cũng là sự thật, vì Chúa Kitô không hề dối gạt ai; và vì Ngài là sự thật, nên Ngài cũng chính là con đường thật, sẽ đưa ta tới đích, chính là Thiên Chúa. Chúa Kitô là sự sống, vì Chúa Kitô là con đường và là sự thật, nên Ngài chính là Người đem lại sự sống thật cho chúng ta... Nói một cách vắn tắt, Chúa Kitô là Thiên Chúa Ngôi Hai; mà Thiên Chúa là Đấng Toàn Mỹ, nơi Thiên Chúa không hề có hình bóng của sự xấu, sự ác; chính vì thế, khi Chúa Kitô tự xưng mình là đường, là sự thật, và là sự sống... Điều đó có nghĩa Chúa Kitô chỉ nói lên sự thật, không hề thêm bớt, và cũng từ đó có ý nghĩa, chỉ một mình Thiên Chúa mới là đường là sự thật và là sự sống mà thôi...
Hội Thánh qua 20 thế kỷ, đã sẵn sàng làm chứng cho chúng ta về niềm tin này: tin Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống. Trước hết, Hội thánh công giáo qua các tông đồ truyền lại, không bao giờ coi lời nói của Chúa Giêsu ở đây là lời nói chơi, hay có ý gạt gẫm con người chúng ta. Qua lịch sử Hội thánh, các thánh tử đạo, các thánh hiển tu, đã không dại dột liều mạng sống mình, để minh chứng niềm tin đó cho chúng ta, là con cháu các ngài ngày hôm nay. Vua quan Việt nam, trước gương hi sinh, vui lòng đón nhận cái chết của các thánh tử đạo Việt Nam , họ vô cùng kinh ngạc vì gương can đảm phi thường của các ngài. Thực ra trên đời, là con người có ai không sợ chết? Như thế gương trung kiên bỏ mình của các vị tử đạo, không phải là lời chứng hùng hồn cho chúng ta rằng Đức Kitô, Người thật là đường, là sự thật và là sự sống sao?
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: là người kitô hữu, thực ra ta có tin Chúa Kitô là đường. là sự sống thật của chúng ta không? Nếu ta đã tin, ta có muốn yêu mến Chúa Kitô và sẵn sàng sống theo lời Chúa dạy không?
----------------------------------
Ga 14, 1 – 12
Cuộc sống của mỗi con người là một cái gì đó mong manh, dễ vỡ. Nhìn vào viễn cảnh của xã hội: PS 5-A71
Cuộc sống của mỗi con người là một cái gì đó mong manh, dễ vỡ. Nhìn vào viễn cảnh của xã hội lại càng thấy bấp bênh cho số phận của mỗi con người. Một thế giới đầy những biến động của chính trị, bạo lực; một thế giới đầy những toan tính đầy những nguy cơ đẩy con người ta đến chỗ phải tận diệt. Trước những diễn tiến như thế, con người tự đặt câu hỏi cho chính mình: Cuộc sống con người có ý nghĩa gì? Con người rồi sẽ ra sao hay cũng chỉ chỉ là được tồn tại nơi cõi dương gian này một thời gian rồi lại biến mất trong hư vô? Nếu có cõi sống trường sinh thì con người có thể làm gì cho mình trong cõi sống vô biên ấy?...
Đoạn Tin Mừng mà Giáo hội cho chúng ta suy niệm ngày hôm nay nằm trong bối cảnh sau khi Chúa Giêsu tiên báo Người sẽ chịu sự phản bội, chịu đau khổ và sẽ chịu chết...Nghe nói thế các môn đệ đầy phân vân xao xuyến. Sao mà không xao xuyến được, một người thầy đầy quyền năng trong lời nói và hành động lại có thể chịu những sự âý hay sao? Chúng ta (những môn đồ) lâu nay theo Thầy Giêsu, nay Thầy bảo rằng phải đi xa rồi chúng ta sẽ theo ai, sẽ làm gì cho tương lai của mỗi người chúng ta?... Với những tâm tình đó các môn đệ xao xuyến, sợ hãi. Chúa Giêsu thấu hiểu tâm trạng của các môn đệ nên Chúa Giêsu nói "Anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy..." (Ga14, 1). Anh em (các môn đồ) đừng xao xuyến bởi hãy nhìn vào những việc Thầy làm từ lúc khởi đầu hành trình rao giảng cho đến bây giờ, Thầy có đủ quyền năng để làm mọi sự, nhiều lần người Do thái định giết Thầy nhưng họ không làm gì được Thầy bởi "Giờ Thầy chưa đến"(Ga2, 4), nhưng cuộc ra đi này là Thầy tự hiến, Thầy đi dọn chỗ cho anh em, Thầy đi trước để đưa anh em đi theo Thầy...Còn tâm tình nào sâu lắng mặn nồng, đầy tình cảm hơn tình yêu Chúa Giêsu đã dành cho các môn đệ cũng là cho mỗi người chúng ta. "Anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy..." đó là câu nói mà Chúa Giêsu muốn nói với mỗi người chúng ta hôm nay. Đừng xao xuyến nhưng hãy đặt nền tảng cuộc đời của mình trên quyền năng và sự hướng dẫn của Thiên Chúa, đừng xao xuyến bởi Chúa có đủ quyền năng để thực hiện trong mỗi người chúng ta những sự việc lớn lao ngoài sự tưởng nghĩ của chúng ta.
Chúng ta đang sống trong mùa Phục sinh, chúng ta mừng mầu nhiệm Chúa sống lại. Chúa Giêsu sống lại chứng tỏ rằng Ngài là Thiên Chúa thật và là Đấng cứu độ trần gian. Chúng ta có diễm phúc hơn các tông đồ xưa vì đã xác tín Đức Giêsu đã chết và sống lại thật. Tin vào Đức Giêsu phục sinh cho ta biết được rằng những lời Ngài nói, những việc Ngài làm đều mang lại giá trị cứu độ bởi đó là hành động của chính Thiên Chúa. Tin vào Chúa Giêsu phục sinh cho ta một niềm hy vọng lớn lao rằng chúng ta cũng sẽ được phục sinh như Ngài, cuộc đời chúng ta không là vô nghĩa, cuộc sống của chúng ta không là vô vọng mà mở ra một viễn cảnh đẹp, tốt lành trong Đức Kitô phục sinh.
Như thế cuộc sống của con người đầy những ý nghĩa, vì sự sống là do chính Đức Giêsu đã chuộc lấy bằng máu mình, cuộc sống không là "đoản hậu" bởi chúng ta có sự sống bất diệt trong Đức Kitô. Cho dù cuộc sống có những biến chuyền, cho dù cuộc sống đầy những cam go... nhưng với niềm tin tưởng vào Thiên Chúa và nơi Đức Giêsu chúng ta tin chắc rằng tất cả đều nằm trong sự quan phòng đầy yêu thương của một Thiên Chúa quyền năng. Khi biết tin tưởng phó thác như thế thì cũng là lúc ta đang xây dựng cho mình một cuộc sống vĩnh cửu trong tình thương Thiên Chúa, như là Đức Giêsu đã nói: "Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống." (Ga8,12)
----------------------------------
Ga 14, 1 – 12
Thưa anh chị em,
Chúa nhật thứ V Phục Sinh hôm nay Chúa Giêsu trả lời cho Tông đồ Tôma, khi ngài hỏi làm sao: PS 5-A72
Chúa nhật thứ V Phục Sinh hôm nay Chúa Giêsu trả lời cho Tông đồ Tôma, khi ngài hỏi làm sao biết đường mà đi theo Chúa: "Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy" (Ga 14,6). Như vậy chính Chúa Giêsu là con đường dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa, là ơn cứu độ duy nhất mà Thiên Chúa ban tặng cho trần gian, là con đường đưa chúng ta đến hạnh phúc viên mãn; bởi vì ở đâu có Thiên Chúa, ở đấy chính là thiên đàng.
Vậy làm sao chúng ta có thể đi trên con đường là Chúa Giêsu hay làm sao chúng ta có Chúa đi cùng trong cuộc hành trình đời người của mình?
Như chúng ta đã biết mọi con đường đều dẫn đến một nơi nào đó, dù đó là đường mòn, đường đất, đường nhựa hay đường sông, đường biển. Không có đường thì không thể đi đến nơi mình muốn được. Và để thực hiện chuyến đi, chúng ta sử dụng nhiều phương tiện khác nhau: đi bộ, đi xe máy, đi máy bay, đi bằng ghe, tàu..v.v..
Chúa Giêsu hôm nay chỉ cho chúng ta biết Ngài chính là con đường dẫn ta tới Chúa Cha, vì Người là sự thật, là hình ảnh Chúa Cha trong thế gian. Chính vì vậy, Người cũng là sự sống, nguồn thông ban ơn Thần Khí, là chính sự sống của Thiên Chúa cho những ai lớn lên trong Người là các kẻ tin. Cho nên Chúa Kitô là con đường duy nhất dẫn chúng ta đến với Chúa Cha mà không sai lầm. Có Chúa Kitô là có Thiên Chúa, mà Thiên Chúa ở đâu thì thiên đàng, hạnh phúc thật cũng ở đấy.
Xác định được như thế, chúng ta tự vấn xem mình đang đi trên con đường nào: con đường của Chúa hay con đường riêng của chúng ta, vắng bóng Thiên Chúa.
Có con đường đam mê những thú vui trần thế, lo tìm thú vui xác thịt, sống chỉ để thoã mãn những khát vọng nhục dục, những nhu cầu ích kỷ của chính mình, không bận tâm đến tha nhân và những lý tưởng cao đẹp.
Có con đường chỉ mong kiếm tìm những lợi lộc trần thế. Cuộc sống chạy theo những gì là có lợi cho mình. Lợi thì làm, không lợi thì thôi. Bế tắc. Bởi vì con con người còn có niềm vui lớn hơn, khi sống cho những giá trị tâm linh.
Có con đường chỉ biết giành giật chổ đứng trong xã hội. Mục đích chỉ là sống sao cho hơn người, được người đời trọng vọng, ca tụng..hay cho rằng con người có khả năng giải quyết mọi sự, mà quên rằng tất cả đều là ơn ban của Thiên Chúa. Sức người có hạn. Cuộc sống mỏng dòn. Con người không thể tự mãn về chính mình được.
Con đường có Chúa là con đường chăm chăm hướng về Chúa là mục đích đời mình. Sống vâng phục tin tưởng như Abrahma, như Mẹ Maria. Cùng đồng hành với Chúa như hai môn đệ Emmau. Sống như "thấy Đấng vô hình" đang hiện diện bên mình.
Để con đường cuộc đời chúng ta luôn luôn có Chúa, cần liên lỉ cầu nguyện xin Chúa thêm lòng tin cho chúng ta. Cần năng chạy đến các Bí tích để hưởng nhờ ơn trợ lực nâng đỡ của Chúa, nhất là Bí tích Thánh Thể, để có Chúa trong tâm hồn.
Lạy Chúa, cuộc đời có Chúa cùng đi, con an tâm vui bước!
----------------------------------
Ga 14, 1 – 12
Sau nhiều năm học chung, tôi mới có dịp về Cà Mau thăm nhà người bạn thân, trước khi đi tôi cứ: PS 5-A73
Sau nhiều năm học chung, tôi mới có dịp về Cà Mau thăm nhà người bạn thân, trước khi đi tôi cứ nghĩ Cà Mau sẽ rất xa, mình phải ngồi trên xe lâu lắm mới tới. Đúng như tôi suy nghĩ. Cuộc hành trình về Cà mau của chúng tôi rất vất vả. Sáng sớm chúng tôi đã đón được chuyến xe tốc hành về Cà Mau. Tuy đường từ Cần Thơ về Cà Mau có nhiều chỗ "ổ gà" thậm chí cũng có rất nhiều "ổ voi", nhưng cũng không thấm vào đâu so với sức trẻ của chúng tôi. Chúng tôi hãnh diện là những người khỏe, trẻ không sợ gian khó, nhưng chúng tôi cũng phải chùn bước khi thấy con đường từ Cà Mau về nhà bạn tôi. Từ Cà Mau vào phải đi qua hai chiếc đò, và đi bộ thêm hai giờ đồng hồ trên đường đất nhỏ với bốn chiếc cầu khỉ mới đến được nhà bạn tôi. Trong đoàn chúng tôi có tất cả sáu người, nhưng khi ngồi xe đến Cà Mau, thì đã có ba người không đi nổi nữa phải ở lại. Còn lại ba người tuy rất ngán ngẫm về con đường phía trước, nhưng vẫn phải đi vì không còn con đường nào dẫn về nhà bạn tôi được. Cuối cùng chúng tôi quyết tâm đi với hy vọng cũng sẽ tới và tâm niệm trong đầu "ai bền đỗ đến cùng người đó sẽ được rỗi". Cuối cùng chúng tôi đã tới. Thật là vui mừng và sung sướng vì chúng tôi đã đi đến đích cách thành công.
Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đã giới thiệu cho chúng ta biết như một lệnh truyền độc nhất không thể huỷ bỏ "Thầy là đường". Có thể lúc Chúa Giêsu nói Tôma vẫn chưa thể hiểu hết câu nói của Người. Ông còn đang mơ tưởng đến một quê hương nào đó, vì ông thuộc mẫu người thực nghiệm, muốn tay sờ, mắt thấy, tai nghe... Nhưng Đức Giêsu đã khẳng định chỉ cần nhìn vào Người, vì Người là con đường độc nhất dẫn về cùng đích duy nhất. Trong thực tế thì "đường" đã có sẵn và có từ muôn đời, nhưng người ta lại không muốn đi, có người thi lại không chịu nghe lời hướng dẫn để rồi bị đi lạc như Giuđa Iscariô. Có người đã đi đúng đường, đã tìm được sự hướng dẫn đích thực, nhưng lại bị lôi kéo bởi những con đường giả tạo, phù phiếm...để rồi bị lạc đường và bị lún sâu vào vũng lầy bóng tối, xa cách sự sáng mãi mãi.
Trên đường về thăm nhà bạn tôi, cũng chỉ có ba người về đến đích, còn ba người phải tạm chia tay hay nói đúng hơn là bỏ cuộc. Tượng tự những người lữ hành về quê trời cũng vậy, tất cả đều đang đi, nhưng cũng có người vì bị một lý do chủ quan hay khách quan nào đó mà phải ở lại, đành bỏ cuộc. Thật đúng như lời Đức Giêsu đã nói "Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy". Đi theo Người đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ mình vác thập giá mình hàng ngày mà theo. Nếu đường đã có sẵn mà chúng ta không chịu đi thì không bao giờ về đến đích. Đức Giêsu chính là con Đường và là Người dẫn đường, nhưng nếu chúng ta chán nản chúng ta không chịu đi thì Ngài cũng đành "bó tay", vì Ngài luôn cho ta có một sự tự do để lựa chọn.
Còn những người về đích, không phải họ là những người may mắn, mà là những người đã đi đúng đường, với nỗ lực bản thân vượt qua được những trở ngại trước mắt để về đến đích bình an.
Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta vẫn chưa đạt tới đích, tất cả chúng ta đều đang đi, trên quãng đường này chắc chắn có rất nhiều chông gai thử thách, cám dỗ mời mọc... nó sẽ thật nguy hiểm cho đời sống đạo của chúng ta. Có rất nhiều ngã và lối rẽ, nếu ta không thức tỉnh, nếu ta không vững vàng, ta sẽ bị sụp bẫy của kẻ thù mà đi lạc hướng, đi vào con đường của bóng tối và sự chết.
Lạy Chúa, xin cho con xác tín chỉ có Chúa mới là con đường nhanh nhất, và chắc chắn nhất dẫn chúng con về với Chúa Cha. Amen
----------------------------------
Ga 14, 1 – 12
Có lẽ những ai đã học qua chương trình Văn Học lớp 12 đều không quên một tiểu tiết vui vui trong: PS 5-A74
Có lẽ những ai đã học qua chương trình Văn Học lớp 12 đều không quên một tiểu tiết vui vui trong truyện ngắn "Đôi Mắt" của Nam Cao. Trong đó, anh Hoàng kể cho anh Độ nghe một câu chuyện "nực cười nhưng chẳng dám cười". Anh kể rằng: "Tôi kể cho anh nghe chuyện nầy thế nào anh cũng cho là bịa. Nhưng tôi có bịa tí nào, tôi chết. Một hôm, tôi đi chợ Huyện chơi. Ở nhà đã hỏi đường cẩn thận rồi, nhưng đến một ngã ba, lại quên béng mất, không biết phải rẽ lối nào. Đành đứng lại, chờ có người đi qua thì hỏi, chờ mãi mới thấy có một anh thanh niên vác một bó tre đi tới. Tôi chào rồi hỏi: 'Đi chợ Huyện lối nào, ông làm ơn chỉ giúp tôi'... Anh ta bảo: 'Ông cứ đi lối nầy, đến chỗ có một cây đa to thì rẽ về tay phải, đi một quãng lại rẽ về tay trái, qua một cánh đồng, vào đường gạch làng Ngò, vòng ra đằng sau đình, rẽ về tay phải, đi một quãng nữa thì đến chợ'. Đại khái như thế chứ không hoàn toàn đúng như thế. Chỉ biết nó lôi thôi rắc rối, nhiều bên phải bên trái, đến nỗi tôi không tài nào nhận ra được. Cuối cùng, anh bày cho tôi một cách: Đứng đợi đấy, gặp ai gánh hàng đi chợ thì đi theo...".
Tình huống của anh Hoàng đôi khi chúng ta cũng có thể gặp phải. Nếu ta đang ở một nơi xa lạ cần phải hỏi thăm đường đi. Đôi khi cách chỉ đường quá phức tạp đến nỗi ta "hỏi cũng bằng không". Nhưng cũng có thể ta may mắn gặp được một người tử tế, nhiệt tình, người ấy nói: "Thật khó chỉ cho anh. Thôi, anh cứ đi theo tôi, tôi sẽ dẫn anh đi".
Bối cảnh Tin Mừng hôm nay cho ta thấy tâm trạng âu lo của các Tông đồ khi biết mình sắp phải đơn độc. Trong Bữa Tiệc Ly, khi được biết Thầy không còn ở với mình nữa, các Tông đồ đã hết sức hoang mang và xao xuyến. Chúa Giêsu biết được tâm trạng của các ông nên Người đã trấn an, đồng thời hé mở cho các ông thấy việc ra đi của Người hoàn toàn cần thiết và có lợi cho các ông: "Anh em đừng xao xuyến!... vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em". Tôma vẫn chưa yên tâm vì chưa biết làm sao đi đến đó được. Ông hỏi Thầy: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường?". Chúa Giêsu không chỉ đường bằng cách đưa ra nhiều phương hướng phức tạp. Thay vào đó, Người nói: "Thầy là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy".
Như thế, Chúa Giêsu đã chỉ rõ mục đích của cuộc hành trình đời người là về với Thiên Chúa là Cha; và trong cuộc hành trình đó, chính Chúa Giêsu vừa là con đường, vừa là người dẫn đường cho mọi người.
Thật vậy, bước vào cuộc trần nầy là chúng ta bước vào một cuộc hành trình, hành trình hướng về Thiên Chúa là nguồn cội và cùng đích của đời mình. Nhưng con đường đến với Thiên Chúa không phải lúc nào cũng bằng phẳng. Nếu ta tự mình dò dẫm bước đi thì rất dễ lạc mất phương hướng, rất dễ rơi vào trạng thái lo âu chán nản rồi mất cả niềm hy vọng. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã dọn đường dẫn lối cho ta. Đi trên con đường Giêsu, ta không bao giờ sợ lạc lối. Trên con đường Giêsu, ta không đi lẻ loi một mình mà có Chúa Giêsu dẫn bước ta đi, có những anh chị em cùng đồng hành với ta.
Do đó, mỗi người chúng ta hãy hoà cùng cộng đoàn Dân Chúa, vững tâm tiến bước dưới sự dẫn dắt của vị thủ lãnh là Đức Giêsu Kitô. Hãy tin tưởng ta có một mái nhà vĩnh cửu để hướng về, nơi đó ta sẽ có một cuộc sống thật, một cuộc sống hạnh phúc đời đời.
----------------------------------
Ga 14, 1 – 12
Trong đời sống đức tin của người Công giáo, hình ảnh mà chúng ta có về Thiên Chúa là rất quan: PS 5-A75
Trong đời sống đức tin của người Công giáo, hình ảnh mà chúng ta có về Thiên Chúa là rất quan trọng. Bởi lẽ, tuỳ như hình ảnh mà mình nuôi dưỡng về Thiên Chúa như thế nào, thì mình sẽ xây dựng đời sống đạo đức của mình như thế.
1. Hình ảnh con người có về Thiên Chúa trong Cựu ước:
Nhìn lại lịch sử dân Do thái qua những trang Kinh Thánh thời Cựu Ước, chúng ta thấy được rằng: đối với họ,Thiên Chúa còn là một vị thần quá xa vời, mặc dầu họ vẫn cảm nhận được rằng Ngài rất yêu thương họ, luôn bảo vệ họ và ở với họ trong mọi biến cố quan trọng của đời sống. Vì thế, tâm tình của họ dành cho Thiên Chúa là sợ hãi hơn là yêu mến. Họ sợ Thiên Chúa vì: "có ai nhìn thấy Thiên Chúa mà còn được sống bao giờ". Chẳng hạn Ông Ma-nô-ác liền nói với vợ: "Chúng ta chết mất thôi, vì đã thấy Thiên Chúa." (Tl13,22), hay Ông Gia-cóp đặt tên cho nơi đó là Pơ-nu-ên, "vì ông nói: tôi đã thấy Thiên Chúa mặt đối mặt, mà tôi đã được tha mạng." (St 32,31), nên họ sợ nhìn thấy Thiên Chúa và sợ gặp Thiên Chúa lắm. Những hình ảnh ấy nếu không được giải thích cho tận tường có thể sẽ làm méo mó khuôn mặt đích thực về Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa vẫn chấp nhận cho con người tô vẽ về Ngài với những điều chưa đúng đắn ấy để dần dần Ngài sẽ dẫn đưa họ tới sự thật về Ngài khi đến giờ Ngài đã định.
2. Khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô:
Đến thời Tân Ước, thời của Chúa Giêsu Kitô đến làm người và sống với con người, thì mọi mặc khải rõ ràng và chuẩn mực về Thiên Chúa được trình bày cho con người. Đức Giêsu đã âu yếm gọi Thiên Chúa là Cha và dạy cho con người biết nhìn về Thiên Chúa như người Cha đích thực của mình; một sự thật vượt quá suy nghĩ và tưởng tượng của con người. Ngài không ngừng nói về Thiên Chúa Cha cho con người qua những dụ ngôn "người cha nhân hậu", "ông chủ thương xót tên đầy tớ" . . . Thiên Chúa là một người cha hết mực yêu thương con người dù Ngài vẫn là Thiên Chúa toàn năng và là Thiên Chúa sáng tạo mọi loài.
3. Khát vọng của con người về Thiên Chúa:
Các môn đệ của Đức Giêsu ao ước được nhìn thấy Cha lắm. Do đó, Philipphê đã không bỏ qua cơ hội xin Đức Giêsu cho mình và anh em được nhìn thấy Thiên Chúa Cha khi Ngài nói về Thiên Chúa Cha cho họ "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con".
Khát vọng của Philipphê và của các tông đồ cũng là khát vọng của biết bao con người trên thế gian này, những con người thiện chí không ngừng tìm kiếm Thiên Chúa, Đấng mà họ gọi bằng những tên gọi khác nhau: Đấng tối cao, Đấng Tạo thành, Thượng Đế. . . Con người muốn bắc một nhịp cầu với Đấng siêu việt, muốn cảm nghiệm và tương quan với Đấng Tạo hoá. Khát vọng ấy suy cho cùng là chính đáng, là khôn ngoan. Bởi lẽ, con người nào mà không muốn biết mặt, không muốn nhìn thấy và sớ mó đến cha của mình bao giờ, nhất là người cha ấy lại là Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã thấu hiểu nỗi niềm của con người nên Ngài đã đáp lại khát vọng ấy khi cho Con Một của Ngài làm người và ở giữa chúng ta. Để qua Đức Giêsu Kitô, chúng ta được gặp gỡ Chúa với chính Thiên Chúa, được diện kiến mặt đối mặt với Ngài, một Thiên Chúa dễ gần, dễ thấy, dễ quen, dễ cảm thông với con người. Như vậy, Thiên Chúa đâu chỉ ở nơi cao thẳm ngàn trùng hay vô phương thấu đạt nữa. Qua Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa hiện diện cách khiêm hạ với con người. Nhưng điều này con người không dễ chấp nhận nếu không được Thiên Chúa ban ơn đức tin cho họ. Đức Giêsu đã nói "Ai thấy Thầy là thấy Cha" vì "Cha ở trong Thầy và Thầy ở trong Cha" (Ga 14,10) và Ngài còn mạnh dạn khẳng định "Cha và Tôi là một". Đây là một sự gắn bó và kết hiệp cách lạ lùng giữa Đức Giêsu và Cha của Ngài và cũng là Thiên Chúa của chúng ta.
Sự hiệp thông giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa Cha đạt tới sự trọn vẹn để giờ đây lời nói và việc làm của Chúa Giêsu chính là lời nói và việc làm của Chúa Cha. Toàn bộ cuộc đời của Chúa Giêsu được Cha chiếm ngự. Đức Giêsu trở nên một tấm gương trong suốt phản chiếu trái tim và khuôn mặt của Thiên Chúa: đầy lòng nhân ái và hết mực bao dung với hết mọi người "Ai thấy Thầy là thấy Cha".
Sứ mạng của mỗi người chúng ta là hãy sống như Đức Giêsu đã sống. Chúng ta hãy cố gắng sao cho đời sống của mỗi người chúng ta trở nên trong suốt khỏi những lớp bụi mờ của lòng ích kỷ, ghen tương, hận thù, để người khác nhìn thấy được Đức Giêsu trong chúng ta. Sứ mạng của người Kitô hữu là trở nên một Chúa Kitô khác cho con người hôm nay, là phấn đấu để nói lên rằng: "Ai biết tôi là biết Đức Giêsu. Ai thấy tôi là thấy Đức Giêsu" và như thế cũng là biết và thấy Thiên Chúa vậy.
Jack là một công nhân khai thác đá. Anh tuy ít học, nhưng lại có một đời sống rất tất lành. Anh gần gũi, cảm thông và chia sẻ với mọi người trong những công việc nặng nhọc hay nhẹ nhàng. Không ai thấy sự nóng nảy, cáu gắt trên khuôn mặt của anh bao giờ, dù có những lúc anh làm việc rất vất vả... Một người bạn của anh hỏi anh: "Này Jack, tại sao anh đối xử tốt với mọi người như vậy?". Anh đơn sơ trả lời rằng: "vì Chúa dạy tôi như vậy đó". Bạn anh lại tiếp tục hỏi anh: "Chúa của anh ra sao?" Anh quá bối rối trước câu hỏi này vì anh không phải biết trình bày Chúa của mình như thế nào để cho bạn anh hiểu đây. Nhưng sau một phút ngập ngừng, anh trả lời với bạn của anh rằng: "Chúa tôi giống như tôi vậy nè". Người bạn của Jack nghe vậy quá xúc động và nói với anh rằng: "Vậy thì tôi xin tin vào Chúa của anh". Vài ngày sau, người ta thấy Jack dẫn người bạn của mình đến một ngôi nhà thờ gần đó để người ấy được gia nhập vào đạo và trở thành Kitô hữu.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta không ngừng khao khát trở thành hình ảnh của Đức Giêsu và của Thiên Chúa Cha trong cuộc đời mình bằng một đời sống yêu thương phục vụ và hy sinh vì anh em đồng loại, để mọi người nhận ra được khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa và để cho Danh Ngài được cả sáng khắp mọi nơi. Amen.
----------------------------------
Ga 14, 1 – 12
AI CŨNG HIỂU VỀ ĐẾN NHÀ CHA mới là một thành công thật sự cho mọi nổ lực của những: PS 5-A76
AI CŨNG HIỂU VỀ ĐẾN NHÀ CHA mới là một thành công thật sự cho mọi nổ lực của những người theo Chúa. Nhà Cha được hiểu đó chính là Thiên đàng, nơi con người được sống trong hạnh phúc bất diệt với Thiên Chúa. Đường trần gian đi đã khó, đường về Thiên đàng thì lại càng khó hơn. Đường trần gian có những bóng mờ, thì đường về thiên đàng cũng có khi mịt lối vì những quyến luyến trần gian làm khuất mắt con người. Nếu nói đường đời có nhiều ngã rẽ thì đường nhà Cha chỉ có một lối mòn nhưng khó ai chịu đi đúng hướng. Nhiều người đã tự ý đi theo lối đi của riêng mình.
"Thầy là đường là sự thật và là sự sống" (Ga14,6). Lời Chúa Giêsu như vừa tự giới thiệu về mình, vừa như muốn hối thúc nhiều người hãy đến với Ngài. Chính Ngài sẽ đứng ra dẫn lối, đồng thời Ngài cũng là lối đi duy nhất dẫn về Chúa Cha. "Thầy đi Thầy dọn chỗ cho anh em" (Ga14,2). Đường về nhà Cha có nhiều cách đi. Thành công của kẻ lữ hành là phải đến nơi mình định tới.
Đường đi một mình
Mỗi người phải tự quyết định ngay từ ban đầu, đi hay không đi. Sự quyết định nói lên sự tự do chọn lựa và một trách nhiệm về số phận của mình. Chúa kêu gọi từng cá nhân theo Ngài, dó đó mỗi người phải có lời đáp trả cách riêng tư. Tuy nhiên, cho dù vai trò cá nhân được đề cao đến đâu đi nữa thì con đường đi một mình là con đường nguy hiểm: Mệt lã không ai nâng đỡ; lạc hướng không kẻ chỉ đường; buồn phiền không người an ủi. Nếu biết thế, dại gì ta đi một mình trong khi ta có quyền chọn lựa những cách đi khác: Đồng hành với Chúa và với anh chị em.
Đồng hành với anh chị em
"Và tôi vẫn nhớ hoài một loài cây sống gần nhau thân mới thẳng ..." Lời hát như nhắc nhớ con người sống giữa mọi người cần có sự nâng đỡ của người khác để mình được lớn lên. Một sự lớn lên theo đường hướng tốt đẹp. Cây được thẳng là nhờ những cây khác mọc xung quanh mình. Người sống với người cũng rất cần sự nâng đỡ nhau như thế. Hôm nay tôi ngã có người nâng đỡ tôi. Và đến lượt tôi cũng có trách nhiệm để nâng đỡ kẻ khác khi họ cần đến.
Chúa Giêsu đến trần gian, Ngài không chọn duy nhất một "đệ tử ruột" để truyền hết "bí kiếp võ công" cho riêng kẻ ấy. Không, Ngài đã chọn nhiều tông đồ và sai đi "Cứ dấu này mà người ta nhận các con là môn đệ của Thầy là các con hãy yêu thương nhau". Ngài muốn môn đệ của mình phải sống với nhau bằng sợi dây yêu thương không thể tách rời.
Trong tập suy niệm "Đường Đi Một Mình", Cha Nguyễn Tầm Thường có nhắc đến câu chuyện về những người lữ hành trong trận bão tuyết. Người thứ nhất đi đầu và bị ngã quỵ trong cơn bão. Người thứ hai đi ngang qua cúi nhìn rồi bỏ đi. Người thứ ba đi đên thấy và vác kể xấu số đã quỵ ngã ấy. Ông cố chống tuyết, ôm người ngất xỉu trên vai. Đến ngôi làng, người ta thấy xác của người thứ hai chết trên đường. Rõ ràng cái chết bí ẩn không phải vì do cái giá lạnh của tuyết nhưng nằm ẩn kín trong tim của mỗi con người. Người thứ ba còn bước đi nỗi bởi vì khi vác kẻ xấu số trên vai, hơi ấm của họ đã truyền sang nhau nên cả hai còn sống sót. Bấy giờ ông hiểu, có những con đường không thể tự mình đi.
Đồng hành với Chúa Giêsu
Người tông đồ dù cho tự mình có đứng vững ở mức nào, dù bản thân có được sự nâng đỡ của người khác ra sao thì tự bản thân người ấy không thể đến với vinh quang Thiên Chúa được. Tự bản chất có một hố sâu ngăn cách thế giới trên cao và thế giới ta đang sống. Thế giới trên cao không phải là điều gì quá mơ hồ khiến con người không thể vươn tới. Tôma thì coi việc trở về với Cha là điều gì rất bí nhiệm, rất mong manh.
Chúa Giêsu đã tự nói "Thầy là Đường... ai thấy Thầy là xem thấy Cha" (Ga14, 6.9 ). Chúa Giêsu chính là con đường độc nhất dẫn tới nơi duy nhất. Tiếc rằng có nhiều người đã không dám đón nhận con đường ấy. Có nhiều người quá chú ý đến những chi tiết phụ tuỳ. Họ chỉ nghĩ đến những chuyện trước mắt như thiếu phụ Samaria chỉ biết nghĩ đến nguồn nước tươi mát vọt lên từ dòng suối (Ga 4,11-15) mà không nghĩ tới Đấng đang ở trước mặt bà. Họ giống như người Do thái chỉ ớong chờ vào bánh manna mà không màng chi đến Bánh Hằng Sống mà Người đem lại (Ga6, 33).
Đường về nhà cha xem ra đã quá rõ ràng mà không bị bí lối. Chính Chúa Giêsu đã khai mở con đường. Duy chỉ một con đường mà chính Ngài là người dẫn đường và cũng chính Ngài là con đường. Ai theo Người, cùng đi với Người sẽ không hề bị lạc lối bao giờ.
Tâm nguyện
Lạy Chúa đường đời còn nhiều ngã rẽ, khiến con dễ lầm lạc. Xin cho con luôn bước đi trong lối bước duy nhất của Ngài. Đường gian trần còn nhiều bóng mát mời gọi. Xin cho con đừng vì thế mà dừng lại quá lâu nhưng luôn hăng hái tiến về nhà Cha. Vì nhà Cha là nơi hạnh phúc thật mà chúng con kiếm tìm.
----------------------------------
"ĐỪNG XAO XUYẾN?"
Ga 14, 1 - 12
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Trong buổi tĩnh tâm các linh mục quốc tế ngày 12.10.1998 tại thành phố Monterrey, nước Mexico: PS 5-A77
Trong buổi tĩnh tâm các linh mục quốc tế ngày 12.10.1998 tại thành phố Monterrey, nước Mexico, qua bài nói chuyện của đức cố Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận, ngài đã chỉ ra một số điểm sai xót của Đức Giêsu, một trong những điểm sai xót đó là những lời giảng dạy, hành động xem ra mâu thuẫn.
Ví dụ như: có lần, Ngài đưa ra lời mời gọi: phúc cho kẻ nghèo, kẻ phải đói, kẻ phải khóc, kẻ bị người ta oán ghét (x. Lc 6, 20-22); hay "ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (Lc 9, 24); hoặc làm sao có thể ví Nước Thiên Chúa, Nước của Ðấng toàn năng, vô tận với một hạt cải (x. Lc 13, 18-19); và điều mâu thuẫn lớn nhất chính là "Con Thiên Chúa, Ðấng hằng sống"; "Đấng công chính!" lại phải chấp nhận sự chết và chết nhục nhằn trên Thập giá??? (x. Lc 23, 47).
Những mâu thuẫn kiểu như thế, hôm nay lại được Đức Giêsu cất lên khi căn dặn các môn đệ: "Anh em đừng xao xuyến!" (Ga 14,1). Phải chăng lời của Đức Giêsu nói với các môn đệ giờ này xem ra có vẻ không tâm lý, mâu thuẫn với hoàn cảnh hiện tại, bởi lẽ các ông rất buồn vì Thầy trò sắp phải xa nhau. Vậy, câu hỏi được đặt ra là chính Đấng đang nói: "Anh em đừng xao xuyến!" (Ga 14,1), Ngài có xao xuyến không? Và từ đó, như một hệ luận, chúng ta tin hay không tin vào lời nói của Đức Giêsu!
1. Sự xao xuyến của Đức Giêsu
Thực ra trong cuộc đời của Đức Giêsu, Ngài cũng đã nhiều lần xao xuyến, chẳng hạn như:
Nhìn niềm tin trong viễn cảnh tương lai, Đức Giêsu đã thốt lên: "Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?" (Lc 18,8); rồi khi về Giêrusalem, Ngài cũng thốt lên lời than thở "Giêrusalem, Giêrusalem! [...] Ðã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các người không chịu" (Lc 13,34); hay trong bữa Tiệc Ly với các môn đệ, Ngài cũng trải qua nỗi xao xuyến thực sự, bởi vì chỉ còn một ít nữa thôi, Ngài sẽ từ biệt các môn đệ, sẽ bị bắt, do chính môn đệ thân tín của mình trao nộp, rồi Ngài cũng thấy trước được những đau khổ vì mình mà các ông phải chịu. Nỗi xao xuyến ấy bao trùm lên Thầy trò, khi kẻ đi người ở... Sự xao xuyến ấy dần càng tăng lên khi trong vườn Cây Dầu, Đức Giêsu cảm thấy sợ hãi, và Ngài đã than thở với các môn đệ: "Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức!" (Mc 14,34), và Ngài mướt mồ hôi máu. Sau đó, Ngài đã cầu nguyện tiếp: "Ápba, Cha ơi! Cha có thể làm được mọi sự, xin tha cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha" (Mc 14, 36). Cuối cùng, nỗi xao xuyến này được dâng lên đến tột đỉnh trên Thánh Giá, khi cơn đau đớn thấu con tim, báo hiệu giờ hấp hối đã gần, Ngài đã lớn tiếng kêu lên Thiên Chúa Cha: "Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?" (Mc 14, 34).
Như vậy, cả cuộc đời của Đức Giêsu đã trải qua những cơn xao xuyến. Thật ra, sự xao xuyến của Đức Giêsu cho thấy, Ngài vừa là Thiên Chúa và cũng là con người, nên những nỗi xao xuyến đó của Ngài như là con đường để dẫn đưa chúng ta là những người cũng xao xuyến đến sự sống đời đời.
Tại sao chúng ta lại xác tín điều đó, thưa, vì lời căn dặn của Ngài "Anh em đừng xao xuyến!" (Ga 14,1), là khả tín, đáng tin. Bởi vì sự xao xuyến này đã ngang qua cuộc đời của chính Đức Giêsu, và Ngài đã biến nó thành niềm hy vọng khi tin tưởng và tín thác nơi Thiên Chúa Cha là Đấng khơi nguồn và cùng đích của mọi sự.
2. Sự xao xuyến của các môn đệ
Sau Đức Giêsu, sự xao xuyến cũng không buông tha các môn đệ. Các ông xao xuyến là bởi vì trước khi nói những lời ly biệt, Đức Giêsu đã tiên báo Phêrô sẽ trối Thầy (x. Ga 13, 38); Giuđa thì bán Thầy (x. Ga 14, 21); các môn đệ sẽ bỏ chốn (x. Mt 26, 56). Như thế, các ông thấy trước những viễn cảnh đó sẽ xảy ra, nên các ông lo sợ cho giờ phút kinh hoàng này sẽ đến với Thầy mình và các ông đều bị liên lụy là lẽ tất yếu.
Nỗi xao xuyến của các ông còn là nỗi sợ cô đơn. Các ông đã bỏ mọi sự, vợ con, nhà cửa, sự nghiệp để đi theo, ấy vậy mà giờ đây các ông sắp phải chia tay Thầy của mình. Sự chia tay này theo lối hiểu của các ông chẳng khác gì "rắn mất đầu"; hay "tàu không người lái". Vậy thì các ông sẽ đi đâu và về đâu đây???
Thêm một lý do nữa khiến các môn đệ xao xuyến, đó là: khi còn sống với các ông, Đức Giêsu hướng dẫn, dạy dỗ và dẫn dắt các ông từng ly từng tý, vậy Ngài sắp ra đi thì ai là người dẫn lối chỉ đường cho các ông?
Buồn sầu và xao xuyến của các môn đệ là lẽ thường tình nơi thân phận con người trước những điều không may, nguy hiểm, chia ly, từ biệt, rồi phải đối diện với chốn trần gian đầy tục lụy, thù hằn, thử thách và ngay cả cái chết như Thầy của mình.
Tuy nhiên, những sự xao xuyến đó của các ông đã được Đức Giêsu trấn an khi nói: "Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy" (Ga 14,1). Chỉ có niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa mới có thể giúp các ông vượt qua mọi gian nan, thử thách xảy đến trong cuộc sống trần gian; còn khi các ông xao xuyến không biết về đâu thì chính Ngài đã nói: "Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó" (Ga 14,3), rồi khi các ông xao xuyến không biết định hướng cho cuộc sống tương lai thì Đức Giêsu lại nói: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy" (Ga 14, 6). Đường ở đây không phải Đức Giêsu muốn nói về một lối đi theo nghĩa đen, nhưng Ngài muốn các ông hiểu rằng: Ai yêu mến, tôn thờ, sống theo lời Ngài thì chắc chắn đến được với Chúa Cha. Vì Đức Giêsu và Chúa Cha là một. Thấy Đức Giêsu là thấy Chúa Cha!; cuối cùng, sự ra đi của Đức Giêsu đem lại lời hứa hẹn tràn đầy niềm vui và bình an khi Ngài hứa trao ban Chúa Thánh Thần trên các ông. Như vậy, Đức Giêsu ra đi thì tốt hơn cho các ông, vì Ngài sẽ ban Chúa Thánh Thần đến dạy dỗ các ông biết những điều mà trước đây, các ông không thể hiểu được! (x. Ga 14, 26).
Như vậy, qua lời trấn an của Đức Giêsu "Anh em đừng xao xuyến!" (Ga 14,1), Ngài muốn mặc khải cho các ông thấy rằng: quê hương họ ở trên trời (x. Pl 3, 19), mà Đức Giêsu sẽ là người đầu tiên trở về với nguồn cội, nơi mà từ đó được phát xuất ra để dọn chỗ cho họ. Vì thế, các ông đừng xao xuyến, hãy tin vào Thầy, trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở.
3. Sự xao xuyến của con người ngày hôm nay
Trong thực tại cuộc sống, chúng ta thường gặp những cảnh ngộ nhiều lúc không được như lòng mong muốn. Tâm trạng này của mỗi chúng ta cũng chính là tâm trạng của các môn đệ khi xưa, nào là: sự cô đơn; quan điểm và thực trạng xã hội hoàn toàn xa lạ với đường lối của Thiên Chúa, của Tin Mừng; rồi ốm đau; bệnh tật... nào là con cái hư hỏng; nào là buôn bán không gặp thời; nào là thất vọng vì những gương xấu trong cuộc đời; hay chính những chuyện tốt ta muốn làm mà cũng không được... Những sự xao xuyến ấy luôn luôn ở bên cạnh chúng ta, nó theo chúng ta như hình với bóng, vì thế, triết gia Martin Heideiger khi suy tư về con người, ông đã nói về sự xao xuyến này như sau: "Con người là một hữu thể bị ném ra cuộc đời, hiện hữu giới hạn trong thời gian, nghĩa là con người sống để mà chết. Và bởi con người sống và đi đến cái chết không thể tránh khỏi, nên con người mang nỗi khắc khoải khôn nguôi. Cái chết và nỗi khắc khoải được định nghĩa là thành tố làm nên con người hiện sinh. Đời người là như vậy. Chẳng ai làm người mà vô sự".
Tuy nhiên, đối với chúng ta là người kitô hữu, chúng ta có một niềm tin mạnh mẽ, đó là: đằng sau cái chết là sự sống vĩnh hằng. Niềm tin này hôm nay được Đức Giêsu mặc khải: "Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở [...] Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó" (Ga 14, 1-3); hay lúc khác Đức Giêsu nói: "... tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết" (Ga 6, 40).
Như vậy, chết không phải là hết. Cuộc sống này chỉ là một sự chuyển tiếp mà thôi. Khi tin như thế, Chúng ta có quyền hy họng vào lời căn dặn, trấn an của Đức Giêsu: "Anh em đừng xao xuyến!" (Ga 14,1).
Một mẫu gương đáng để chúng ta noi theo khi sống niềm tin của mình vào Đấng là đường, là sự thật, và là sự sống....đó chính là triết gia Pascal. Cả cuộc đời và sự nghiệp của ông đã đi vào trong lối suy tư mang đậm niềm tin nơi Đức Giêsu. Điều này được chứng minh khi người nhà của Pascal tìm thấy nơi gấu áo của ông lúc ông đã qua đời, tấm giấy chính tay ông viết và lưu giữ suốt cuộc đời, ông viết: "Sự sống đời đời là hiểu biết và yêu mến Ðức Kitô và Ðấng đã sai Ngài... lửa, lửa, lửa; nước mắt, nước mắt, nước mắt của tình yêu".
Ðó là bí quyết sống niềm tin, phó thác của B. Pascal một văn hào, một triết gia, một nhà toán học. Đây cũng phải là bí quyết sống của mỗi chúng ta khi xác định quê hương của chúng ta ở trên trời. Nơi quê hương ấy hoàn toàn khác với quê hương hay những thực tại mà chúng ta thấy hiện nay, vì thế, mọi việc làm, lời nói... của chúng ta hãy quy chiếu về đó như là điểm đến của cuộc đời nơi những người có niềm tin vào Chúa và cuộc sống đời sau
.
Quê hương ấy được thánh Giáo phụ Augustinô diễn tả như sau: "Hội Thánh được biết có hai cuộc sống Thiên Chúa đã mạc khải và trao ban, đó là cuộc sống trong đức tin và cuộc sống trực kiến, cuộc sống lữ hành và cuộc sống nơi cư ngụ vĩnh viễn, cuộc sống lầm than vất vả và cuộc sống nghỉ ngơi an nhàn, cuộc sống ra sức làm việc và cuộc sống chiêm ngắm tôn nhan Thiên Chúa là phần thưởng".
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con không bị rơi vào tình trạng xao xuyến trước những điều bất trắc trong cuộc sống, xã hội và con người hôm nay, bởi xác tín rằng, quê hương chúng con ở trên trời, và mọi điều trái ý đó xảy đến như là một điều kiện cần cho được cứu rỗi. Có thế, chúng con hy vọng sẽ được vào nơi mà Đức Giêsu đã đi trước dọn đường và chuẩn bị cho chúng con. Amen.
----------------------------------
Ga 14, 1 – 12
1. LỜI CHÚA: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy" (Ga 14, 6).
2. CÂU CHUYỆN:
1) THIÊN CHÚA LÀ ĐẤNG QUYỀN NĂNG VÀ VÔ HÌNH:
Một ông vua kia do cận thần xúi bẩy nên một hôm đã ra lệnh triệu tập tất cả các giám mục trong: PS 5-A78
Một ông vua kia do cận thần xúi bẩy nên một hôm đã ra lệnh triệu tập tất cả các giám mục trong nước vào hoàng cung. Vua ra lệnh cho các giám mục: trong một tuần lễ phải chứng minh được là có Thiên Chúa. Nếu không chứng minh được thì tất cả các giám mục sẽ bị khép vào tội lừa bịp dân chúng và bị án treo cổ. Thật là một đòi hỏi nan giải, vì làm sao có thể chỉ cho nhà vua xem thấy Thiên Chúa vô hình được ? Rồi càng gần đến ngày hẹn, tâm trạng các vị giám mục càng thêm bồn chồn lo lắng. Bấy giờ một tu sĩ trẻ nghe biết câu chuyện, liền đến yêu cầu nhà vua được thay các giám mục chỉ cho nhà vua nhìn thấy Thiên Chúa. Đúng hẹn, anh tu sĩ đã dẫn nhà vua cùng quần thần lên một ngọn đồi đang lúc trưa hè nắng gắt, rồi chỉ tay lên mặt trời và nói: "Tâu bệ hạ, xin nhìn theo ngón tay của thảo dân, thì bệ hạ sẽ thấy Thiên Chúa". Nhà vua và các cận thần đều nhìn lên mặt trời theo hướng tay của anh tu sĩ kia đã chỉ, nhưng không ai có thể xem thấy gì vì bị ánh sáng mặt trời làm chói mắt. Bấy giờ nhà vua liền nổi cơn lôi đình truyền thị vệ chém đầu anh tu sĩ trẻ kia vì đã dám đánh lừa mình. Vị tu sĩ liền quỳ dưới chân nhà vua thưa rằng: "Muôn tâu bệ hạ, bệ hạ đòi nhìn xem Thiên Chúa. Thế mà mặt trời chỉ là một tạo vật tầm thường của Thiên Chúa, mà bệ hạ đã không thể xem thấy được, thì làm sao bệ hạ đòi nhìn thấy chính Thiên Chúa là Đấng vô cùng cao cả được ? Thiên Chúa luôn hiện hữu, nhưng vì Ngài thiêng liêng vô hình, nên người phàm mắt thịt không thể xem thấy Ngài, mà chỉ có thể thấy Ngài bằng mắt đức tin thôi". Nhờ câu nói này của anh tu sĩ trẻ và các giám mục đã không bị khép tội khi quân và khỏi bị hành hình.
Trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giê-su đã nói với môn đệ Phi-líp-phê rằng: "Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư ? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha. Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao ? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình (Ga 14,9-10).
2) TIN VÀO THIÊN CHÚA LÀ NIỀM AN ỦI VÀ HY VỌNG CHO CUỘC SỐNG MAI SAU:
Trong một gia đình nọ. Ông chồng là người không tin có Thiên Chúa. Ông thường nhạo báng việc cầu nguyện dự lễ để thờ phượng Thiên Chúa. Trái lại, bà vợ của ông lại là một tín hữu sùng tín. Hằng ngày bà đều đến nhà thờ cầu nguyện cho chồng sớm được ơn trở về với Chúa. Bà luôn ăn ở ngay lành và dạy con sống tốt lành đạo đức để sau khi chết được lên thiên đàng hưởng nhan thánh Thiên Chúa. Dù sống giữa hai niềm tin trái nghịch giữa bố mẹ, người con trai duy nhất của hai người vẫn sống ngoan ngoãn với cha mẹ. Rồi một ngày kia, đứa con trai yêu quý bị mắc cơn bệnh phổi hiểm nghèo. Nghe bác sĩ cho biết mình sắp bị chết, em đã hỏi ông bố bấy giờ đang ở bên giường bệnh rằng: "Bố ơi, xin bố hãy nói thật cho con biết: sau khi chết con sẽ đi về đâu? Nếu theo mẹ dạy thì con sẽ được về trời gặp gỡ Thiên Chúa là Cha hằng yêu thương con và sẽ được hưởng hạnh phúc mãi mãi với Chúa và sau này còn được đoàn tụ với cả bố mẹ trên thiên đàng. Còn nếu theo bố thì sau khi chết sẽ chẳng còn gì nữa: con sẽ chẳng còn ai để yêu thương con và bảo vệ cho con...
Ông bố nghe đứa con yêu hỏi mà tê tái lòng. Ông liền ôm con vào lòng và nói với con: "Bố đã sai rồi con ạ. Con hãy tin theo mẹ con nhé". Đứa con lại nói: "Nhưng nếu bố không cùng tin Chúa như mẹ, thì làm sao sau này con có thể gắp được cả bố mẹ trên thiên đàng được?" Trước lời nói đơn sơ của đứa con thân yêu, ông bố của em đã không kềm nổi những giọt nước mắt thống hối. Sau ngày con qua đời, ông đã xin theo học khóa giáo lý dự tòng. Nhờ được nghe Lời Chúa, ông đã đạt tới đức tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa và thiên đàng đời sau. Ông đã tập sống đức tin bằng việc thực tập đức cậy và đức mến. Cụ thể là cầu nguyện sớm hôm để phó thác cuộc đời trong tay Chúa quan phòng, thực thi yêu thương bằng sự tha thứ và khiêm nhường phục vụ tha nhân noi gương Chúa Giê-su. Ông năng đến nhà thờ dự lễ và rước lễ để được kết hiệp với Chúa Giê-su Thánh Thể là mầm sống lại trong ngày sau hết. Ông xác tín Chúa Giê-su chính là con đường duy nhất dẫn đưa ông lên trời hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa như lời Người dạy: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy" (Ga 14,6).
3. SUY NIỆM:
1) Nội dung Tin Mừng hôm nay:
Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại câu trả lời của Đức Giê-su cho môn đệ Phi-líp-phê khi ông muốn Thầy chỉ cho xem thấy Chúa Cha. Đức Giê-su nói: "Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư ? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha" (Ga 14,9). Ngày nay muốn nhìn thấy Thiên Chúa, chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giê-su. Vì Người là Đấng "Em-ma-nu-en", nghĩa là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (Mt 1,23). Người là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình đã trở nên hữu hình khi mặc lấy thân xác phàm nhân để nên giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ không có tội (x. Ga 1,14). Đức Giê-su cũng trấn an các môn đệ trước khi bước vào cuộc khổ nạn và phục sinh như sau: "Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở" (Ga. 14,1-2).
Tin mừng hôm nay cũng mặc khải cho chúng ta: Mọi người trên trần gian đều có một Cha chung trên trời là Thiên Chúa, và đều là anh em với nhau. Sau này chúng ta sẽ được đoàn tụ với Thiên Chúa và với nhau trên Thiên Đàng. Thánh Phao-lô cũng dạy: "Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta" (Pl 3,20). Tuy nhiên chúng ta chỉ có thể lên trời với Thiên Chúa qua con đường Giê-su như Người đã nói: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha nếu không qua Thầy" (Ga 14,6). Vậy Con Đường Giê-su có những đặc điểm nào ? Và chúng ta phải làm gì để đi tới đích là được về quê trời với Thiên Chúa và hưởng hạnh phúc đời đời trên thiên đàng?
2) Những đặc điểm của Đường Giê-su ?
1) Đức Giê-su là Đường: Con đường lên trời vô cùng khó khăn và vượt quá tầm khả năng hữu hạn của người phàm. Chỉ có Đức Giê-su, Đấng từ trời mà đến, trở thành "Em-ma-nu-el" nghĩa là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta", mới có khả năng chỉ đường lên trời cho chúng ta như Người đã nói: "Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống" (Ga 3,13). Người luôn đồng hành với chúng ta trong cuộc sống (x. Lc 24,15) và ban Thánh Thần giúp chúng ta về tới thiên đàng đời sau.
2) Đức Giê-su là sự thật và là sự sông: Người dạy cho chúng ta sự thật là các mầu nhiệm của Thiên Chúa, ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Người: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống mà tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết" (Ga 11,25-26). Người cho chúng ta biết sự thật về Thiên Chúa là Đấng đã yêu thương loài người và sai Con Một xuống thế để dạy loài người con đường cứu độ và sẵn sàng chịu chết đền tội thay và sống lại để phục hồi sự sống cho loài ngươi. Chính Sự thật ấy sẽ giải thoát chúng ta nếu chúng ta tin vào Đức Giê-su (x. Ga 8,32)
3) Đi con đường của Đức Giê-su là chọn con đường hẹp, leo dốc và ít người muốn đi; Là chấp nhận "qua đau khổ sự chết để vào vinh quang phục sinh" theo thánh ý Chúa Cha; Là "mến Chúa yêu người" theo gương mẫu và lời dạy của Chúa Giê-su; Là "bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo chân Chúa", là khiêm tốn rửa chân phục vụ anh em và quảng đại chia sẻ cơm bánh cho người nghèo đói, góp phần chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền của tha nhân, năng thăm viếng an ủi những người sầu khổ bất hạnh... Là sẵn sàng chịu đựng những sỉ nhục và đau khổ vì danh Chúa như các Tông đồ xưa. Tóm lại là sống theo bản hiến chương Nước Trời là "Tám Mối Phúc Thật" do Chúa Giê-su đã công bố.
3.Chúng ta phải làm gì?:
- Nên đồng hình đồng dạng với Đức Giê-su: Trở thành Ki-tô hữu tức là thành một Chúa Giê-su khác trước mặt người đời. Mỗi tín hữu chúng ta phải sống thế nào để có thể nói được rằng: "Ai biết tôi là biết Chúa Giê-su. Ai thấy tôi là thấy Chúa Giê-su, vì chính Chúa Giê-su đang sống trong tôi". Từ nay, chúng ta cần xác tín rằng: Chỉ có Con Đường Giê-su mới dẫn đưa chúng ta lên trời. Tông đồ Phê-rô cũng đã quả quyết trước Thượng Hội Đồng Do thái như sau: "Chính Đấng ấy, là Tảng Đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, Tảng Đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường. Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ. Vì dưới gầm trời này, không có một Danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào Danh đó mà được cứu độ" (Cv 4,11-12).
- Phải về quê trời cùng với tha nhân: Đức Giê-su đã về với Chúa Cha trong vinh quang phục sinh, sau khi đã sống một cuộc đời yêu thương tận hiến và đã trải qua cuộc khổ nạn theo thánh ý Chúa Cha. Cuộc đời của Người đã trở thành con đường lên trời của các tín hữu chúng ta hôm nay. Khi suy niệm Lời Người và sống gắn bó với Người trong bí tích Thánh Thể, chúng ta sẽ hiểu biết ý Chúa Cha muốn chúng ta phải làm gì và sống kết hiệp mật thiết với Chúa Giê-su. Nếu chúng ta đi trên Con Đường Giê-su thì chính chúng ta cũng sẽ trở thành con đường để giúp anh em lương dân đến với Đức Giê-su. Chính nhờ gặp gỡ chúng ta, họ sẽ nhận biết Chúa Giê-su qua lời nói, việc làm và lối ứng xử hiền hòa nhân ái yêu thương phục vụ của chúng ta. Rồi "nhờ Người, với Người và trong Người", họ sẽ gặp được Thiên Chúa Cha và trở thành con Chúa Cha trong gia đình Hội Thánh ở đời này, để sẽ được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa Cha và với công đoàn tín hữu trên thiên đàng đời sau.
4. THẢO LUẬN:
1) Bạn có đồng ý với lập luận: "Đạo nào cũng tốt. Đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành. Do đó, Hội Thánh chẳng cần truyền đạo cho ai. Chỉ cần giúp anh em lương dân sống theo lương tâm hay sống đạo làm người là đủ" ? Tại sao ?
2) Khi gặp một hoàn cảnh nan giải, bạn cần làm gì để nhận biết thánh ý Thiên Chúa và vâng theo ?
3) Hát bài kết thúc như sau: "Con đây ! Lạy Chúa Chúa muốn con làm gì ?"
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúng con cảm thấy mình thật nhỏ bé và bất lực, khó lòng có thể chu toàn sứ mạng loan báo Tin mừng mà Chúa đã trao cho Hội Thánh trước khi lên trời. Xin cho chúng con ý thức rằng: Sứ mạng truyền giáo trước hết phải thực hiện cho những người thân quen như: cha me, vợ chồng, con cái, anh em và bạn bè của chúng con, rồi sau đó mới đến người khác. Xin giúp chúng con năng nhìn ngắm khuôn mặt dịu hiền của Chúa và suy niệm các hành vi và lời dạy của Chúa, vì Chúa chính là hình ảnh trung thực của Chúa Cha. Xin giúp chúng con biết lắng nghe Lời Chúa dạy và quyết tâm thực hành ý Chúa trong đời sống thường ngày. Xin cho chúng con biết từ bỏ ý riêng và vác thập giá mình hằng ngày mà theo chân Chúa. Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ ngày một nên con ngoan hiếu thảo của Chúa Cha, nên môn đệ đích thực của Chúa và nên anh chị em của mọi người.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM
----------------------------------
Ga 14, 1 - 12
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Những điều làm chúng ta lo lắng nhiều trong cuộc sống đời tạm này là tìm kiếm có nhà để ở, có của: PS 5-A79
Những điều làm chúng ta lo lắng nhiều trong cuộc sống đời tạm này là tìm kiếm có nhà để ở, có của ăn nuôi dưỡng, có gia đình, bạn bè và bà con thân thuộc chung sống. Chứng kiến cảnh những người vô gia cư sống lang thang nay đây mai đó, chúng ta thấy thật tội! Trong khu vực tôi đang phục vụ, hàng ngày tôi vẫn thấy có nhiều người vô gia cư sống bên lề đường. Một hôm tôi bắt truyện với một người và mới được biết anh là người Việt Nam. Ngày trước, quê ở Saigòn, anh được bảo lãnh sang Hòa Kỳ theo diện con lai. Không may mắn, vợ con từ bỏ và đi sống ở tiểu bang khác. Anh bơ vơ một mình. Quanh năm suốt tháng, với năm ba cái vali và bao bì, anh di chuyển từ chỗ này đến chỗ kia bên lề đường. Tôi không biết anh giải quyết các nhu cầu cá nhân ở đâu. Mùa Hè qua, mùa Đông đến, anh luôn có mặt đó. Anh không xin ăn. Anh đứng hoặc ngồi đó, miệng luôn lẩm bẩm nói điều gì không rõ. Biết rằng anh có bệnh trong người, nhưng hình như anh an phận và không than van trách móc. Tôi nghĩ có lẽ tâm trí của anh không được bình thường lắm. Tôi cũng không thể tưởng tượng nổi làm sao anh có thể sống sót ngoài đường sương gió tuyết lạnh và nóng nảy quanh năm suốt tháng như vậy. Anh không có nhà để về, không có nơi để ở và không có chốn để dung thân. Chính anh lại không muốn vào 'shelter' chỗ sống chung dành cho người vô gia cư. Thật đáng thương! Thân phận một đời người. Tôi chẳng giúp được gì cho anh.
Chúng ta dù có đi đâu, rồi cũng mong về nhà. Nhà là tổ ấm của yêu thương. Ai ai cũng mong có một mái nhà để được đùm bọc sinh sống. Dù là mái tranh nghèo, nhưng cuộc sống ấm áp là đủ. Người ta thường nói: Hai trái tim vàng, một túp lều tranh là thế. Thật là lý tưởng và đơn sơ. Trong thực tế cuộc sống văn minh ngày nay, hình như sự đòi hỏi các phương tiện và nhu cầu cuộc sống cao hơn nhiều. Nhưng chúng ta biết rằng nhà to hay nhỏ không quan trọng, điều cần thiết là có mái nhà. Nhà là nơi mọi thành viên trong gia đình có thể qui tụ và vui hưởng hạnh phúc bên nhau. Chúng ta đang trong cuộc lữ hành trần thế, chúng ta chỉ có thể sống tạm nơi đây một thời gian. Đôi khi, vì nhu cầu cuộc sống, chúng ta đã chuyển đổi từ nơi này tới nơi khác nhiều lần. Cho nên các ngôi nhà dù có xây cất kiên cố, cũng không thể giữ chân của chúng ta tại một chỗ. Chúng ta luôn phải đi kiếm tìm cuộc sống tươi đẹp hơn. Ai cũng như ai, cuộc đời con người bước tới và phát triển mỗi ngày. Dù nhà có sang có đẹp, rồi một ngày nào đó, mỗi người chúng ta đều phải giã từ.
Niềm tin hy vọng của con người trên trần thế có cùng đích và có nơi để về. Chúa Giêsu sau khi phục sinh từ cõi chết, Ngài đã mạc khải cho các môn đệ: Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con (Ga 14, 2). Chúa Giêsu đi trước để dọn chỗ cho chúng ta. Còn gì hạnh phúc hơn. Chúng ta biết chắc chắn là sẽ có đường để đi theo và có nhà để tới. Chúa Giêsu mở một chân trời mới đáp ứng mọi ngưỡng vọng của đời người. Có người ví đời người như cánh bèo trôi, lênh đênh dòng nước, khi trôi khi dừng, lững thững theo dòng nay đây mai đó và cuối cùng tàn rụi. Nhưng người có niềm tin vào Thiên Chúa là có niềm hy vọng. Đời tạm này sẽ đi qua và cuộc đời trần thế sẽ kết thúc, nhưng hồn thiêng sẽ sống mãi. Chúa Giêsu đã hứa sẽ trở lại đón chúng ta về nhà Cha. Ngày hạnh phúc đó, xác hồn kết hợp trong một cuộc sống mới và nơi đó không còn bóng dáng sự chết.
Chúa Giêsu đã dọn cho chúng ta có chỗ dung thân đời đời. Nhưng để tìm đạt cùng đích của cuộc đời, chúng ta không thể đi con đường nào khác ngoài con đường Chúa Giêsu đã vạch ra. Chúa nói: Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy (Ga 14, 6). Con đường dẫn tới sự sống viên mãn là con đường sự thật. Chúa Giêsu đến trần gian là để làm chứng cho sự thật. Có rất nhiều người chưa hiểu biết sự thật là chi? Sự thật là Chúa Kitô, Con Thiên Chúa giáng thế làm người và đã hy sinh thân mình để cứu độ chúng sinh. Chúa Kitô là sự thật tuyệt đối. Sự thật của Chúa sẽ giải thoát chúng ta khỏi mọi điều bất chính. Sự thật thì đơn sơ, trong sáng và thanh khiết. Chúa Thánh Thần chính là Thân Chân Lý. Muốn học biết sự thật, chúng ta phải biết hướng thiện và tìm về nguồn cội rễ của sự hiện hữu. Thiên Chúa Cha đã mạc khải sự thật qua chính Con Một của Người. Chúng ta chỉ có thể đến với Chúa Cha qua Đức Kitô.
Ngay sau khi Chúa Giêsu về trời, các tông đồ đã ra đi làm nhân chứng. Công việc chính yếu của các ngài là: Còn chúng tôi, thì sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ lời Thiên Chúa (Tđcv 6, 4). Sứ vụ của các tông đồ là cầu nguyện và rao giảng. Các tông đồ đã nhiệt tâm và hăng say rao giảng tin mừng Chúa Kitô phục sinh và đón nhận các tín hữu. Đặt nền tảng và xây dựng Giáo Hội sơ khai. Tuy phải đối diện với nhiều khó khăn cả về mặt tôn giáo và xã hội, các ngài đã can đảm vượt qua mọi gian khổ để mở mang Nước Chúa: Lời Chúa lan tràn và số môn đồ ở Giêrusalem gia tăng rất nhiều. Cũng có đám đông tư tế vâng phục đức tin (Tđcv 6, 7). Giáo hội mở rộng cửa và có rất nhiều người đã ăn năn sám hối trở về gia nhập đạo thánh. Hình thành tổ chức của Đạo Công Giáo thời sơ khai là do chính các người Do-thái. Họ đã giơ tay xin đóng đinh Chúa Giêsu vào thánh giá, nay trở thành môn đệ của Chúa. Một số các vị tư tế xin giết Chúa, nay cũng tin nhận Chúa Kitô phục sinh và ăn năn sám hối đổi đời.
Niềm tin vào Chúa Kitô là căn cốt của ơn cứu rỗi: Vậy vinh dự cho anh em là những kẻ tin; nhưng đối với những người không tin, thì tảng đá mà thợ xây loại bỏ, đã trở thành đá góc tường (1Petr 2, 7). Chúa Kitô trở thành tảng đá góc của niềm tin. Chúa Kitô là tất cả, là đầu hết và là cùng đích. Mọi sự đều qui phục dưới chân Người. Các tông đồ đã nhờ Danh của Đức Kitô làm mọi sự lạ lùng: Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha (Ga 14, 12). Chúa Giêsu trao ban trực tiếp cho các tông đồ quyền giảng dậy, làm các phép lạ và xua trừ ma quỉ. Biết rằng, không thể cáng đáng mọi công việc, các tông đồ đã tuyển chọn và đặt tay cầu nguyện trên những người cộng tác tiếp tục sứ mệnh. Ân sủng của Chúa Kitô là kho tàng chung của Giáo Hội được kế thừa qua mọi thời.
Thánh Phêrô tràn đầy sinh lực của Chúa Thánh Thần đã mạnh dạn công bố tin mừng và xác tín điều giảng dậy: Còn anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để rao giảng quyền năng của Đấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người (1Petr 2, 9). Chính nhờ Chúa Kitô, cùng với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô, các tín hữu trở thành dân riêng được tuyển chọn. Qua Bí tích Thanh Tẩy, mỗi người được trở nên tạo vật mới, được tháp nhập vào nhiệm thể Chúa Kitô và được chung phần gia nghiệp mà Chúa đã dọn sẵn cho. Chúa Kitô là trưởng tử đã sống lại từ cõi chết và đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Ngài đã chuẩn bị sẵn chỗ cho chúng ta trong Nhà Cha của Ngài.
Lạy Chúa, hôm nay là ngày Chúa đã dựng nên, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan. Chúng ta hãy sống niềm vui phục sinh ngay khi còn đang lữ hành dưới thế. Xin cho chúng con luôn biết dõi theo con đường chính thật để đạt tới sự sống đời đời.
----------------------------------
Ga 14, 1 – 12
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Trước khi Chúa Giêsu chịu khổ hình, chịu chết và sống lại, Ngài đã bộc bạch tâm sự của Ngài cho: PS 5-A80
Trước khi Chúa Giêsu chịu khổ hình, chịu chết và sống lại, Ngài đã bộc bạch tâm sự của Ngài cho các môn đệ. Bài Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay nằm trong văn mạch của các bài diễn từ dài của Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly hay sau bữa ăn.Chúa Giêsu loan báo Giuđa bán Chúa, phản bội, Phêrô chối Thầy và sự ra đi của Ngài...Các môn đệ đâm ra hoang mang, nao núng và mệt mỏi, khiến Chúa phải trấn an các môn đệ, các tông đồ để các Ngài lấy lại bình tĩnh mà đón nhận những việc sắp xảy đến.
Tin Mừng Chúa Nhật V Phục Sinh, năm A mở đầu bằng lời trấn an của Chúa " Lòng các con đừng xao xuyến ". Đừng xao xuyến để bình tĩnh, hiểu được những biến cố, những sự việc sẽ diễn ra trong những ngày sắp tới.Ở đây, Chúa an ủi, động viên các môn đệ rằng Ngài đi trước dọn chỗ cho các ông, để Chúa ở đâu các môn đệ cũng ở đó với Thầy. Đây là lời trấn an thật giá trị, quí báu bởi vì Thầy ở đâu trò cũng ở đó, thật là thượng sách !Nhà Cha là nơi Chúa Giêsu sẽ về và các môn đệ cũng sẽ được về, và ở với Chúa trong Nước Thiên Chúa Cha. Các môn đệ ở lại trần gian trong cuộc hành trình đức tin, chỉ cần các Ngài đi đúng con đường của Thầy, nhuần nhuyễn, tin mạnh mẽ vào lời của Chúa Giêsu và sống điều Chúa Giêsu đã sống. Các môn đệ thực hiện được những điều đó, các Ngài mới đến được với Chúa Cha, có nghĩa là mới vào được Nước Thiên Chúa.
Thực tế, những lời của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng này là những lời an ủi, trấn an, khích lệ các tông đồ và đặc biệt cũng là lời mạc khải thêm, đặc biệt cho tông đồ Tôma. Bởi vì Tôma chưa hiểu gì về điều Chúa Giêsu nói! Con đường mà Chúa Giêsu nói là đường nào ? " Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường ? ". Dù rằng Chúa đã xác định, quả quyết:" Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy ". Tôma và các môn đệ vẫn còn lơ mơ, ấm ớ về lời mạc khải của Chúa Giêsu. Tại sao Chúa lại là đường. Đường đó là đường nào ? Chúa Giêsu còn quả quyết:" Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người ". Đây là lời mạc khải cao sâu và đầy tình thương của Chúa Giêsu đối với các môn đệ và đối với nhân loại, đối với chúng ta. Tôma và các môn đệ chưa hiểu về cách nói bóng nói gió của Chúa Giêsu về nơi ở, về đường đi. Đường các môn đệ và chúng ta đi là con đường Giêsu. Nơi Chúa dọn trước là Nhà Cha trên trời.
Trên thế giới, trên quê hương, trong thôn làng đều có những con đường. Nhưng câu nói làm chúng ta thật tâm đắc của bà cụ già trong phim "Sám Hối "..."Nếu đường này không dẫn tới Nhà thờ thì quả thực là vô ích ". Đường dẫn tới Nhà thờ là đường dẫn tới Chúa, dẫn tới Quê trời ". Bất cứ một con đường nào không mở ra tình thương, không chấm dứt bằng một hạnh phúc thì con đường đó chưa phải là con đường Giêsu. Đường Giêsu là đường tình yêu, là đường thắp sáng niềm tin. Chỉ có con đường Giêsu mới đưa ta vào Nước Thiên Chúa.
Đức Cha Georges Pontier đã viết:" Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy"...Đức Giêsu tự giới thiệu mình là Người " đưa " đến với Chúa Cha, vì Người đã đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ.Cái chết và sống lại của Người là thời điểm lịch sử Người vĩnh viễn phá rào cho anh em nhân loại của Người có lối đi qua.Người đi đầu để mở đường, để "dọn một chỗ " cho họ trong nhà Cha. Nhà Cha đây không là gì khác ngoài trái tim Cha.Ở trong tim của ai còn quí hơn ở trong nhà người ấy." Thầy ở trong Chúa Cha, và Chúa Cha ở trong Thầy ". Đây chỉ nơi cư ngụ là trái tim, là sự hiện diện bên trong, là tình hiệp thông vĩnh hằng, tức là chính bản thể Thiên Chúa.
Người đưa đường đã trả chi phí: trả bằng sinh mạng của Người, trả bằng ơn tha thứ.Người đã đi đầu để vượt qua:" trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại","trưởng tử giữa một đàn em đông đúc ".Người chỉ xin chúng ta một điều là đừng đi lầm đường:" Thầy là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống ".
Bảy lần trong đoạn Tin Mừng ngắn của Chúa Nhật hôm nay, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ " tin " vào Người, tin Người là Đường đi đến với Chúa Cha. Chúng ta hãy dâng tặng Người lòng tin của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, xin dẫn chúng con đi dưới sự soi sáng của Chúa và dưới tác động của Chúa Thánh Thần để chúng con không sợ bị lầm lạc mà luôn đi trên con đường của Chúa để sau khi đi hết cuộc hành trình đức tin ở trần thế này, chúng con được về với Chúa trong Nhà Cha trên Trời.Đó là cùng đích của mọi Kitô hữu. Amen.
----------------------------------
(Gioan 14,1-12 – CN V PS - A)
1.- Ngữ cảnh
Trong khối từ ch. 13 đến ch. 17 của TM Ga, tức phần đầu của “Sách về Giờ của Đức Giêsu” (ch. 13–20): PS 5-A81
Trong khối từ ch. 13 đến ch. 17 của TM Ga, tức phần đầu của “Sách về Giờ của Đức Giêsu” (ch. 13–20), có ba Diễn từ cáo biệt: (1) 13,31–14,31; (2) 15,1–16,33; (3) 17,1-26. Bản văn chúng ta đọc trong Phụng vụ hôm nay thuộc về Diễn từ thứ nhất. Đức Giêsu sắp ra đi; Người nói những lời này sau khi đã rửa chân cho các môn đệ (13,1-20) và loan báo Giuđa phản bội (13,21-30). Bài Diễn từ thứ nhất (13,31–14,31) có hình thức là một cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và các môn đệ, được triển khai thành năm điểm (13,31-36a; 13,36b-38; 14,2-6; 14,7-14; 14,15-24), điểm này bổ túc cho điểm kia và mỗi điểm gồm ba thì. Mỗi lần, Đức Giêsu bắt đầu bằng một lời khẳng định huyền bí diễn tả bằng những từ ngữ có hai nghĩa khiến các môn đệ không hiểu: họ liền đặt câu hỏi. Câu hỏi này tạo cho Đức Giêsu cơ hội để tái khẳng định và xác định tư tưởng của Người bằng cách nâng các môn đệ lên bình diện mầu nhiệm bản thân Người và mầu nhiệm công trình Người. Đây là cách viết tiêu biểu các tác giả Ga, nhằm nói rằng: bỏ mặc cho sức riêng, chúng ta không thể hiểu được ý nghĩa của các biến cố và mầu nhiệm Đức Giêsu.
Bài Diễn từ được dùng để trả lời cho những vấn đề gây nên bởi sự ra đi này, tức những vấn đề sẽ xảy ra cho các môn đệ, chứ không phải là những vấn đề sẽ xảy ra cho Đức Giêsu (cuộc tôn vinh Người chỉ được nhắc qua thôi).
Bản văn của chúng ta thuộc về các điểm thứ ba và thứ tư của bài Diễn từ, trong đó Đức Giêsu trấn an các môn đệ, bảo rằng các ông sẽ không bao giờ bị chia lìa với Người. Người sẽ trở lại và đưa các ông đi với Người. Tuy nhiên, chúng ta sẽ thấy: vấn đề cốt lõi được nêu ra trong chương này cũng như trong suốt TM Ga chính là “đức tin”.
Phải nói là một trong những điểm độc đáo của TM IV là tầm nhìn thần học được triển khai trong các bài diễn từ cáo biệt (Ga 14–16). Vào lúc rời xa các môn đệ, Đức Giêsu tự hỏi về ý nghĩa của việc Người sắp biến mất. Nói chính xác hơn, đứng trước cuộc chia ly đang tới, Người đề cập đến vấn đề tương lai của công việc mạc khải, do chỗ Người vừa là Đấng mạc khải vừa là nội dung của mạc khải, lại sắp biến mất khỏi sân khấu lịch sử. Nói một cách nghịch lý, số phận trần thế của Đấng mạc khải phải chấm dứt, thì công cuộc mạc khải mới đạt tới điểm hoàn tất.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu trấn an các môn đệ (14,1);
2) Mạc khải về Nhà Cha và đường về (14,2-6);
3) Mạc khải về sự duy nhất Cha–Con (14,7-12 [14]).
Bản văn này nếu được đọc tới hết c. 14 thì hẳn là trọn nghĩa hơn.
3.- Vài điểm chú giải
- Anh em đừng xao xuyến (1): dịch sát là “trái tim (kardia, số đơn) của anh em đừng xao xuyến”. Ngược lại với lối sử dụng của hy-ngữ và La-tinh, Tân Ước theo cách dùng A-ram và Híp-ri, sử dụng một số đơn có nghĩa toàn thể. Trong Cựu Ước và các TMNL, “trái tim” thường là cơ quan lấy các quyết định, còn trong phần lớn các lần Ga sử dụng, từ ngữ này có một vai trò tình cảm (x. Ga 14,27; 16,6.22).
- Hãy tin vào Thiên Chúa (1): Trong tiếng Híp-ri, từ ngữ chỉ “đức tin” là ’mn, hàm ý có sự vững vàng, chắc chắn. Tin vào Thiên Chúa là thông dự vào sự vững chắc của Ngài.
- nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em (2): Câu này có thể hiểu theo các cách sau đây tuỳ chúng ta hiểu là câu khẳng định hay câu hỏi, và hiểu hoti là “rằng/là” hay là “bởi vì”.
(1) nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ ...
(2) nếu không, lẽ nào Thầy lại nói với anh em, vì Thầy đi dọn chỗ ...?
(3) nếu không, Thầy đã nói với anh em rằng/là Thầy đi dọn chỗ ...
(4) nếu không, lẽ nào Thầy lại nói với anh em rằng/là Thầy đi dọn chỗ ...? (NAB; Traduction officielle pour la liturgie; TOB; NTT). Có lẽ cách này hợp lý nhất.
(5) nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi; Thầy đi dọn chỗ ... (Brown; BJ).
- Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống (6): Chúng ta ghi nhận là trong Sách các Dấu lạ, từ ngữ zœ¢, “sự sống”, được dùng 32 lần, trong khi chỉ có 4 lần trong Sách về Giờ. Tác giả Ga muốn nói là vào lúc này, “giờ” đã gần, sự sống hiện đang được trao ban, nên không cần phải nói đến nữa.
Các từ ngữ “con đường”, “sự thật”, và “sự sống” liên hệ với nhau thế nào? Có hai loại giải thích:
A. Các giải thích cho thấy con đường hướng về một mục tiêu là sự thật và/hay sự sống: (1) Đa số các Giáo Phụ Hy Lạp, thánh Ambrôsiô và thánh Lêô Cả hiểu con đường và sự thật đưa đến sự sống (vĩnh cửu trên trời). Maldonatus cho rằng sự thật chỉ là một tính từ mô tả con đường (“con đường thật”). (2) Thánh Clêmentê Alexandria, Âutinh và đa số các Giáo Phụ La-tinh hiểu là con đường đưa tới cả sự thật và sự sống, và đây là hai thực tại cánh chung, thần linh. Thánh Tôma Aquinô cho rằng Đức Kitô là con đường thể theo nhân tính của Người, nhưng là sự thật và là sự sống thể theo thần tính của Người. (3) Có những tác giả hiện đại nói rằng nơi Đức Giêsu, các môn đệ gặp được Đấng Cứu Thế của họ, nên con đường không có nghĩa không gian và không tách biệt với mục tiêu là sự thật và sự sống. Con đường của họ đã là mục tiêu của họ rồi. Sự thật là thực tại thần linh được tỏ hiện ra, còn sự sống là thực tại ấy nay được loài người chia sẻ.
B. Các giải thích cho thấy con đường là từ ngữ chính, còn sự thật và sự sống là những giải thích cho con đường. Đức Giêsu là con đường bởi vì Người là sự thật và sự sống (De la Potterie, Bengel, B. Weiss, Schlatter, Strathmann, W. Michaelis, Tillman, Van den Bussche). Nói rằng “con đường” là từ chính trong c. 6, điều này được gợi ra bởi sự kiện Đức Giêsu tái khẳng định câu nói của Người về con đường ở c. 4, để trả lời cho câu hỏi của Tôma về con đường ở c. 5. Hơn nữa, chi câu sau của c. 6 bỏ qua một bên sự thật và sự sống mà tập trung vào Đức Giêsu như là con đường: “Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”. Cách nhìn này dường như hợp lý nhất.
- đến với Chúa Cha (6): Đây là mục tiêu của “con đường”.
- đã thấy Người (7): Ở đây và ở c. 9, động từ là heôrakôs (ptc pf của horan); ở 12,45, cũng tư tưởng này lại được diễn tả bằng theôrôn (ptc pres của theôrein). Cả hai đều nói đến một cái nhìn thiêng liêng.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Đức Giêsu đã loan báo cho các môn đệ rằng Người sẽ ra đi và sự hiệp thông đời sống của các ông với Người đã đến lúc kết thúc. Phải chăng đây là một chỉ là một lúc “nghỉ chuyển hồi” (entr’acte) ngắn, một tình bạn vui tươi, khuyến khích người ta mỗi khi nhớ lại, nhưng sẽ bị cắt ngang và chấm dứt với cái chết của Đức Giêsu? Vào lúc cáo biệt, Đức Giêsu phải giải thích cho các môn đệ rằng Người không bao giờ rời xa họ, nhưng Người ra đi là để thiết lập một liên hệ còn bền chặt hơn.
* Đức Giêsu trấn an các môn đệ (1)
Đức Giêsu nói ngay đến thái độ căn bản mà các môn đệ phải có để đương đầu được với tình trạng xa cách, tức sự kiện Người chết trên thập giá và họ sẽ không thấy Người hiện diện hữu hình giữa họ nữa: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy!” (Ga 14,1). Lời khuyến khích này không chỉ có giá trị cho các môn đệ có mặt hôm ấy mà thôi, nhưng cho tất cả những ai sau đó sẽ tin vào Người. Các môn đệ không được để cho mình bị hoang mang lo lắng, mất sự cương quyết và bình tĩnh. Chính ngay bây giờ các ông phải đặt được nền móng vững chắc nhất và tìm sự nâng đỡ không lay chuyển nơi Thiên Chúa và nơi Đức Giêsu. Chỉ nhờ đứng vững trong niềm tin, các ông mới có thể đương đầu với hoàn cảnh này. Đức Giêsu đã nói nhiều lần đến đức tin như lời đáp lại các dấu lạ Người làm và như nẻo đường đưa tới sự sống đời đời. Chính bây giờ, khi mà các ông không còn thấy Người nữa, đức tin của ông phải được vận dụng. Vì không thấy, các môn đệ sẽ phải ký thác với lòng tin tưởng không giới hạn vào Chúa Cha và Chúa Con, bằng cách xây dựng mọi sự trên các Đấng.
* Mạc khải về Nhà Cha và đường về (2-6)
Việc Đức Giêsu ra đi không phải là một sự xa cách vĩnh viễn, nhưng nhằm đưa họ đến chỗ kết hợp muôn đời với Người. Đối với chính Đức Giêsu, cái chết của Người không phải là điểm chấm hết của con đường, nhưng lại là cánh cửa mở rộng ra với con đường ấy; cái chết của Người là việc trở về nhà Cha (Ga 13,1). Đức Giêsu đang tiến đến cái chết lại là Đấng đang nói: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (14,6). Khi đã được nâng cao và tôn vinh, Người sẽ mãi mãi ở trong sự hiệp thông hoàn hảo với Chúa Cha. Nhưng cả các môn đệ cũng có quê hương vĩnh cửu, và quê hương này không phải ở trên trái đất, nhưng là ở bên Thiên Chúa: “Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở… Thầy đi dọn chỗ cho anh em” (13,2). Đức Giêsu ra đi không phải để bỏ rơi họ, nhưng dọn chỗ cho họ bên Chúa Cha, để đưa họ đi với Người và sống trong sự hợp nhất vĩnh cửu với họ. Hiểu như thế, dứt khoát là các ông không được chỉ đăm đăm nhìn vào sự việc Đức Giêsu bị chết như thế và không còn ở với các ông nữa; nhìn biến cố Thương Khó như thế là lạc hướng! Các ông phải dùng đức tin mà thấy chỗ tận cùng, nghĩa là thấy rằng tất cả những gì Đức Giêsu đã làm đều nhắm đến chỗ cho họ được hiệp thông với Người và với Chúa Cha.
Những điều nói trên có thể khiến người ta nghĩ rằng các môn đệ hoàn toàn thụ động và chờ Đức Giêsu dẫn họ về với Chúa Cha. Tuy nhiên, họ không được ở trong thế bất động, nhưng cũng phải chuyển động: “Thầy đi đâu, anh em đã biết đường rồi” (Ga 13,4). Khẳng định này đưa Tôma đến một thắc mắc (“Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”, 13,5), khiến chúng ta nhạn được một mạc khải đặc biệt của Đức Giêsu. Người dạy cho các ông biết con đường đưa đến với Chúa Cha: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (13,6). Các môn đệ không phải chỉ chờ Đức Giêsu dẫn về với Chúa Cha; chính các ông phải lên đường. Tuy nhiên, con đường lại vẫn là Đức Giêsu. Ngay trong dụ ngôn người mục tử nhân hậu, Người đã nói: “Chính tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu” (10,9). Là con người, chúng ta không thể tự cứu mình khỏi sự hư hoại; y như thể có một bức tường không thể chui qua hay vượt qua đang ngăn cản chúng ta. Nhưng có một cái cửa, một lỗ hổng duy nhất trong bức tường, một nẻo đường duy nhất đưa tới ơn cứu độ: chính Đức Giêsu. Ơn cứu độ hệ tại sự hợp nhất với Thiên Chúa. Cũng như Người là cửa duy nhất, Đức Giêsu cũng là con đường duy nhất dẫn đến với Chúa Cha, trong tư cách Người là sự thật và sự sống. Người là “sự thật” có nghĩa là chỉ nhờ Người, ta mới có thể biết mầu nhiệm Thiên Chúa.
Ở đây, chúng ta gặp lại một hiểu lầm liên hệ đến các điểm trung tâm của Kitô học Gioan (x. 2,19-21; 6,51-53; 7,33-36; 8,21-22; 12,32-34; 13,36-38; 16,16-19).
* Mạc khải về sự duy nhất Cha–Con (7-12 [14])
Chỉ nhờ Người, trong thực tại là Con Thiên Chúa, chúng ta mới được mạc khải cho biết Thiên Chúa quả là Cha và Người sống từ muôn đời trong sự hiệp thông yêu thương và bình đẳng với Người Con này (1,18). Người là “sự sống”, có nghĩa là chúng ta có được hợp nhất với Thiên Chúa Cha, tức là có sự sống vĩnh cửu đích thật, chỉ nhờ hợp nhất với Đức Giêsu. Không ai trong chúng ta là con người, chỉ nhờ sức riêng, mà có thể đạt tới Thiên Chúa trong thực tại đích thực của Ngài là Cha. Chỉ nhờ Đức Giêsu mà chúng ta được biết Chúa Cha và được kết hợp với Ngài.
Cũng như mỗi lần Người xác định bản thân bằng công thức Thầy/Ta là, ở đây cũng vậy, Đức Giêsu cho chúng ta thấy là nơi Người, Thiên Chúa đang hiện diện như là Đấng ban ơn cứu độ cho chúng ta. Ân ban lớn lao mà Thiên Chúa trao cho chúng ta và ở đây Đức Giêsu mạc khải cho ta biết, đó là chúng ta có thể đến với Ngài. Đối với chúng ta, Thiên Chúa là Đấng ẩn mình và vô phương đạt tới, nhưng Ngài không loại trừ việc chúng ta có thể đi đến với Ngài. Nơi Chúa Con, Thiên Chúa ban cho chúng ta cái cửa và con đường, khiến chúng ta có thể kết hợp với Ngài. Chính Ngài hiện diện với chúng ta trong thực tại chân thật của Ngài, chứ không phải nhờ trung gian là các ân huệ đủ loại mà không phải là chính Ngài.
Trong câu trả lời cho Philípphê, Đức Giêsu giới thiệu cho thấy rõ ràng Người là con đường đưa tới Chúa Cha theo cách nào. Philípphê đã xin Người: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện” (Ga 14,8). Chắc chắn ông đang nghĩ đến một cuộc thần hiển, một thị kiến trực tiếp về Thiên Chúa, một kinh nghiệm phi thường về Thiên Chúa. Nhưng Đức Giêsu không phải là “con đường” theo nghĩa là Người truyền đạt các hiện tượng và kinh nghiệm đặc biệt theo loại này. Ngược lại, Người là con đường theo cách các môn đệ đã trải nghiệm cho đến nay, bằng lời nói và các việc làm, bằng đời sống chung với các ông. Để có thể đi trên con đường này, điều kiện duy nhất là có đức tin. Với những ai có cái nhìn đức tin, Người bảo: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (14,9). Ai nhờ đức tin mà nhìn nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì tức khắc nhờ đức tin đạt tới Chúa Cha. Chỉ đối với ai tin vào Người, Đức Giêsu mới là con đường, và sẽ tiếp tục là con đường cả khi Người không còn hiện diện hữu hình giữa các môn đệ. Các môn đệ và tất cả những ai tin nhờ chứng từ của các môn đệ có thể nhờ đức tin mà đạt tới Người, và nhờ Người, đạt tới Chúa Cha.
Trong câu trả lời sau đó cho Philípphê, Đức Giêsu cung cấp lý do cho thấy vì sao ai tin vào Chúa Con thì thấy Chúa Cha và đến được với Chúa Cha. Chúa Con ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Chúa Con (cc. 10-11): Chúa Cha và Chúa Con được liên kết với nhau hoàn toàn nên một và sống nên một như thế, có tất cả mọi sự chung với nhau. Không bao giờ Chúa Con lại không kết hợp hoàn toàn với Chúa Cha, và chẳng bao giờ Chúa Cha lại thôi kết hợp cách hoàn hảo với Chúa Con. Do đó ai ngắm nhìn Chúa Con với niềm tin thì thấy Chúa Cha nơi Người và nhờ Người.
+ Kết luận
Tại sao Phụng vụ lại đề nghị bản văn từ biệt này (Ga 14,1-12) cho chúng ta đọc và suy ngẫm sau lễ Phục Sinh? Là vì một ý muốn chỉ được đọc và thi hành sau cái chết của người viết ra. Những lời Đức Giêsu nói trong bữa tối cuối cùng được ngỏ với các môn đệ mọi thời.
“Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy” (14,2-3). Chỉ trong tư cách Đức Giêsu là Con Một ngang hàng với Thiên Chúa, Người mới là khung cửa và là con đường dẫn đến với Chúa Cha. Tất cả những con đường khác không thể đưa chúng ta đến đích được. Chúng ta không thể đạt tới Chúa Cha nhờ bất cứ một hướng dẫn viên nào khác, hoặc nhờ thực hành việc suy gẫm, hoặc nhờ những kỹ thuật thiêng liêng hay những phương pháp, hoặc nhờ bất cứ phương tiện nào ngoài Đức Giêsu. Chỉ nhờ Người, chúng ta mới có được sự hiểu biết về Thiên Chúa và được kết hợp với Thiên Chúa trong chính thực tại của Thiên Chúa là Cha.
Phải nói rằng lộ trình Đức Giêsu phải theo gồm có cả việc Chúa Cha sai phái Người đi lẫn việc Người trở về với Chúa Cha, và chỉ cuộc trở về này mới làm cho công cuộc mạc khải đạt tới hình thái hoàn thành.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu là người thật, giống như chúng ta trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi, lại đồng thời là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình: Người thấm nhuần thực tại thần linh sống động đến nỗi có một sự duy nhất và đồng nhất về hữu thể, về cuộc hiện sinh, giữa Người và Chúa Cha. Người chính là sự mạc khải chính xác về Chúa Cha nơi bản thân Người, nơi Lời Người, nơi hành động của Người. Người chính là Chúa Cha đến với chúng ta cách hữu hình cụ thể để chúng ta được tiếp xúc cụ thể với tình yêu của Thiên Chúa.
2. Đức Giêsu là Thiên Chúa mà lại nói về Thiên Chúa như là một Đấng khác với Người. Đây chính là cốt lõi của mầu nhiệm Nhập Thể, mầu nhiệm Thiên Chúa đi vào trong thời gian, trong không gian và trong các giới hạn của loài người. Con Thiên Chúa, trong khi vẫn là Con Thiên Chúa, lại chấp nhận khép mình vào trong các chiều kích của thực tại phàm nhân. Tiếp xúc với bản thân hữu hình của Đức Giêsu thì dễ hơn là tiếp xúc với Thiên Chúa vô hình; nhưng điều tuyệt vời là khi tiếp xúc với Con Thiên Chúa hữu hình, chúng ta lại được gặp Thiên Chúa vô hình. Tin vào Chúa Con là có thể tin vào Chúa Cha. Tin vào Chúa Cha lại đưa đến cho chúng ta sự bình an, sức mạnh, niềm vui.
3. Chúng ta đã được Chúa Cha ban cho Đức Giêsu. Do đó, Đức Giêsu luôn quan tâm lo lắng chăm sóc cho chúng ta. Người muốn rằng Người ở đâu, chúng ta cũng được ở đó. Người cầu nguyện và hành động để nhờ kết hợp với Người, chúng ta được tham dự vào sự sống mà Chúa Cha trao ban. Đây là một thách đố cho đức tin chúng ta, bởi vì chúng ta đang được tiếp cận với mầu nhiệm thâm sâu của chính Thiên Chúa: lời lẽ con người không đủ khả năng diễn tả; chỉ nhờ chiêm ngưỡng, chúng ta mới ngày càng hiểu rõ nội dung những lời Đức Giêsu nói ra như thể nghịch lý.
4. “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Đức Giêsu là con đường bởi vì Người là sự thật hoặc sự mạc khải về Chúa Cha, để khi loài người biết Người, thì cũng biết Chúa Cha và khi loài người thấy Người là thấy Chúa Cha. Đức Giêsu là con đường bởi vì Người là sự sống (do Người sống trong Chúa Cha và Chúa Cha sống trong Người), Người là con kênh dẫn sự sống của Chúa Cha đến với loài người.
Lm FX Vũ Phan Long, ofm
----------------------------------
Suy niệm Chúa nhật V Phục Sinh năm – A
( Ga 14, 1-12 )
Bước vào Chúa nhật thứ V Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta đọc và suy niệm về: PS 5-A82
Bước vào Chúa nhật thứ V Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta đọc và suy niệm về những lời của Chúa Giêsu trước lúc ra đi về Trời. Sắp từ giã Thầy yêu quí, tâm trạng các môn đệ không khỏi " xuyến xao", vì họ hiểu rằng con đường Thầy đi qua sẽ là cái chết ; và có lẽ họ lo cho sự sống của chính mình. Chúa Giêsu trấn an họ: " Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy " (Ga 14, 1). Người mời gọi họ hãy tin vào Thiên Chúa là Chúa của Israel, Đấng đã cứu dân Ngài vượt qua Biển Đỏ, nay hãy tin vào Người, Người cũng sẽ cứu họ vượt qua dòng nước của sự chết. Khi nói thế, Chúa Giêsu không chỉ quả quyết rằng cái chết không thể cầm giữ được Người nữa, Người còn cho các môn đệ biết Người sẽ làm một cuộc xuất hành với các ông là mở lối đi cho dân mới của Thiên Chúa.
" Thầy đi để dọn chỗ cho các con " (Ga 14, 2). Lời nói trên biểu lộ ý nghĩa cứu độ của Chúa Giêsu. Người ra đi để chuẩn bị chỗ cho các ông và xin Chúa Cha ban cho mỗi người một chỗ trong nhà của Chúa Cha. Vì yêu thương, nên Người muốn, Người ở đâu, thì chúng cũng ở đó với Người.
Dường như Chúa Giêsu muốn gợi ý khiến Tôma thắc mắc khi nói: " Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi " (Ga 14, 4). Đường nào, và đi đâu các ông nào có hay, khiến Tôma phản ứng: " Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi? " (Ga 14, 5). Đó là lý do để Người khẳng định: " Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống " (Ga 14, 6). Ai bước đi trên con đường Giêsu, thì sẽ được về cùng Chúa Cha, vì Người chính là đường đi. Không có con đường nào khác để về cùng Chúa Cha, để đạt tới mục đích cuối cùng của đời người, ngoài con đường Giêsu, Người đã tuyên bố: " Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy " (Ga 14, 6).
Chúa Giêsu là Sự Thật, là Chân Lý; Người cho chúng ta biết sự thật về Thiên Chúa và sự thật về con người. Nhờ Chúa Giêsu chúng ta biết rõ Thiên Chúa đích thực là ai và con người là ai, sinh ra ơ trần gian để làm gì và chết rồi sẽ đi đâu. Người mặc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa là Tình Thương, và ai yêu thương thì sẽ giống như Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là Sự Sống; Người đến thế gian trao ban sự sống của Thiên Chúa cho con người, với sứ mạng đến trần gian để cho nhân loại được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,10). Người là Đấng cứu tinh, Người đến giải thoát chúng ta khỏi mọi sự dữ, khỏi mọi tội lỗi và khỏi chết đời đời, nay Người trở về nhà Cha sau một hành trình dài. Người cảm thấy hạnh phúc biết bao khi được trở về " nhà Cha " ! Niềm vui ngập tràn trước lúc lên đường, hạnh phúc và niềm vui ấy cần được chia sẻ. Người đi chuẩn bị cho mỗi người một chỗ, đích thân Người sẽ trở lại đón chúng ta đi. Chúa Giêsu đến thế gian ấp ủ trong lòng sự khắc khoải là một ngày nào đó đón được chúng ta về nhà " Cha của Người và cũng là Cha chúng ta, Thiên Chúa của Người cũng là Thiên Chúa của chúng ta " (Ga 20 , 17) để chia sẻ sự sống thần linh với Thiên Chúa và sẽ sống với Chúa Giêsu Ktiô trong cung lòng Chúa Cha.
Đối với Philipphê, chỉ cần thầy Chúa Cha là đã đủ rồi, nên ông thưa: "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha, và như thế là đủ cho chúng con" (Ga 14, 8). Thêm một cơ hội để Chúa Giêsu mạc khải Thiên Chúa Cha, Người nói: "Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư, Philipphê? Ai thấy Thầy là xem thấy Cha, sao con lại nói 'Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha'? Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư? (Ga 14, 8-10).
Đúng theo những lời Đức Kitô đã nói với Philípphê, việc " thấy Chúa Cha" việc thấy Thiên Chúa trong đức tin - đạt được trong sự gặp gỡ lòng thương xót của Ngài một cấp độ đơn sơ và chân thật nội tâm giống như cấp độ chúng ta nhận ra trong dụ ngôn người con hoang đàng (Lc 15, 11s).
"Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha " (Ga 14, 9). Tất cả những gì làm thành việc " thấy " Đức Kitô trong đức tin sống động và trong lời giảng dạy của Giáo Hội đều đưa chúng ta lại gần việc " thấy Chúa Cha " trong sự thánh thiện của lòng Ngài thương xót. Trích Thông điệp " Thiên Chúa Đấng giầu lòng thương xót số 13 ".
Ở chỗ khác Chúa Giêsu nói, " Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta, Ta và Cha là Một" (Ga 10 , 30). Thật lôgích để nói rằng " ai thấy Thầy là xem thấy Cha " ; nghĩa là ai đón nhận Lời Chúa Con trong đức tin, thì cũng biết Chúa Cha mà Chúa Giêsu mạc khải rõ khuôn mặt đích thực.
Vượt qua ngưỡng cửa này, những người tin được hứa: " Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn " (Ga 14, 12). Mỗi người chúng ta có ơn gọi mạc khải khía cạnh sự dịu dàng vô biên của Chúa Cha, " Đấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người " (1 Pr 2, 9 ) đây là cách chúng ta trở nên " những tảng đá sống động, xây dựng toà nhà thiêng liêng," được xây dựng trên "nền tảng" là chính Chúa Kitô.
Như các môn đệ sau ngày Lễ Ngũ Tuần, " đầy đức tin và Chúa Thánh Thần " họ là " dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa " (1 Pr 2, 5), có trách nhiệm loan báo cho mọi người biết Chúa Giêsu là con đường chân chính, Người sẽ dẫn đưa chúng ta sự sống đời đời. Thiên Chúa nhắc lại cho chúng ta và tất cả những người mà chúng ta được sai đến: " Các điều ấy Ta đã nói với các ngươi rồi, ngõ hầu sự vui mừng của Ta có nơi các ngươi, và sự vui mừng của các ngươi được nên trọn " (Ga 15 , 11).
Lạy Mẹ Maria, giữa bao nghịch cảnh của cuộc đời, xin giúp con vững tin vào Chúa như Mẹ. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
----------------------------------
Cv 6,1-7; 1 Pr 2,4-9; Ga 14,1-12
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 14,1-12
(1) Lòng anh em đừng xao xuyến ! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. (2) Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở. Nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. (3) Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại, và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. (4) Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi. (5) Ông Tô-ma nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường ?” (6) Đức Giê-su đáp: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”. (7) Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha của Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người. (8) Ông Phi-líp-phê nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. (9) Đức Giê-su trả lời: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư ? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha. (10) Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao ? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. (11) Anh em hãy tin Thầy, Thầy ở trong Chúa Cha, và Chúa Cha ở trong Thầy. Bằng không, thì hãy tin vì chính các việc kia vậy. (12) Thật, Thầy bảo thật anh em: Ai tin vào Thầy, thì Người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.
2. Ý CHÍNH:
Trong bữa Tiệc Ly, Đức Giê-su đã tiên báo việc Người sắp từ giã môn đệ mà về trời với Chúa Cha.: PS 5-A83
Trong bữa Tiệc Ly, Đức Giê-su đã tiên báo việc Người sắp từ giã môn đệ mà về trời với Chúa Cha. Người đi trước để dọn chỗ và sẽ trở lại đón các ông lên trời với Người (1-4). Sau đó, Đức Giê-su mặc khải Người chính là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Người. Ai biết và thấy Người là đã thấy và biết Chúa Cha (5-7). Rồi Người cũng cho biết mối liên hệ mật thiết giữa Chúa Cha với Người: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (9). Cuối cùng Người còn hứa sẽ ban quyền năng lớn lao cho những kẻ tin vào Người (12).
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-2: + Đừng xao xuyến: Sau khi nghe Thầy Giê-su tiên báo Người sắp chịu chết treo trên thập giá (x. Ga 12,32-33), một trong Nhóm Mười Hai sẽ phản nộp Thầy (x. Ga 13,21) và Phê-rô sẽ chối Thầy ba lần (x. Ga 13,38), nên các môn đệ cảm thấy xao xuyến và lo âu chán nản. Vì thế Đức Giê-su đã phải an ủi động viên tinh thần của các ông là “Đừng xao xuyến”. + Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy: Anh em đã tin vào Thiên Chúa, thì cũng hãy tin vào quyền năng và tình thương của Thầy sẽ cứu anh em khỏi mọi nguy hiểm đang chờ đón anh em. + Nhà Cha Thầy: Là trời cao hay thiên đàng, nơi Thiên Chúa ngự trị. + Nhiều chỗ ở: Theo một số giáo phụ (I-rê-nê, Clê-men-tê, Ô-ri-dê-nê) thì trên thiên đàng có nhiều cấp độ hạnh phúc khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết các học giả ngày nay (Maldonat, Lagrange, Durant, Huby) lại hiểu là trên thiên đàng có đủ chỗ ở cho tất cả mọi người. + Nếu không…: Nếu không phải như thế thì Đức Giê-su đã nói rõ để các ông khỏi thất vọng.
- C 3-4: + Đi dọn chỗ: Đức Giê-su cho các môn đệ biết Người không về trời một mình, mà Người sẽ trở lại đón các ông lên trời, để cùng được hưởng hạnh phúc với Người. + Thì Thầy sẽ trở lại: Khi nào Người trở lại ? Có ba ý kiến: Ý THỨ NHẤT: vào thời Giáo hội sơ khai, người ta cho là đến ngày tận thế sắp xảy ra, Chúa Giê-su sẽ lại đến phán xét chung toàn nhân loại và sẽ cho các môn đệ được hưởng hạnh phúc trên thiên đàng với Người (x. Mt 25,31-46). Ý THỨ HAI: cho rằng sự đoàn tụ với Chúa xảy ra ngay sau cái chết của mỗi người. Ngày nay nhiều người theo Ý THỨ BA: Đức Giê-su sẽ đoàn tụ với các môn đệ sau khi Người từ cõi chết sống lại. Từ đây, Người sẽ hiện diện với các môn đệ mọi ngày cho đến tận thế (x. Mt 28,20), Người sẽ ở giữa và ở trong các tín hữu bằng ơn thánh hóa (x. Ga 14,17-18). Rồi sau khi họ chết, Người sẽ ban cho họ được hưởng hạnh phúc thiên đàng tùy theo công việc họ đã làm khi còn sống (x. Mt 16,27).
- C 5-7: + Chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết được đường ?: Câu này cho thấy Tô-ma là một con người thực nghiệm: đòi phải sờ mó, nhìn xem và kiểm chứng rồi mới chấp nhận (x. Ga 20,24-29). Câu nói của Tô-ma chứng tỏ ông cũng như Phê-rô và các người Do thái khác đều không hiểu gì về việc ra đi của Đức Giê-su (x. Ga 13,37; 7,35-36; 8,14). + Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống: *LÀ CON ĐƯỜNG: Đức Giê-su là con đường duy nhất dẫn đưa loài người từ mặt đất lên trời cao, giống như chiếc thang tổ phụ Gia-cóp đã nằm mơ. *LÀ SỰ THẬT: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ. Nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1,1-2). Đức Giê-su mặc khải về mầu nhiệm Thiên Chúa (x. Ga 12,45; 14,9) và chỉ đường cho các tín hữu phải ăn ở sao cho đẹp lòng Chúa Cha, nhờ lắng nghe lời Người (x. Mt 17,5). *LÀ SỰ SỐNG: Con đường dẫn đến mục tiêu cuối cùng là sự sống sung mãn nơi Chúa Cha. Chúa Cha đã ban sự sống cho Đức Giê-su, nên chỉ Người sau khi phục sinh sẽ ban sự sống đời đời cho những ai tin Người (x. Ga 3,36; 10,28). Tín hữu nhờ đức tin sẽ có mầm sống vĩnh cửu trong mình. Họ cần tiếp tục gia tăng mầm sống ấy nhờ lãnh nhận các phép bí tích do Đức Giê-su thiết lập, và có trách nhiệm làm cho mầm sống ấy phát triển cho đến khi đạt tới sự sống sung mãn trong Thiên Chúa ở đời sau. + Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy: Qua thập giá, Đức Giê-su đã giao hòa nhân loại với Chúa Cha. Từ đây, không ai có thể nhận được ơn cứu độ nếu không đi “con đường thập giá” (x Mt 16,24) và không được tái sinh bởi nước và Thần Khí (x Ga 3,5). Vì dưới gầm trời này không một danh nào khác ban ơn cứu độ ngoài danh Giê-su Ki-tô. + Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người: Thực ra các môn đệ đã không xem thấy Chúa Cha vì Người thiêng liêng vô hình, mà chỉ xem thấy Chúa Giê-su, Đấng vừa là Thiên Chúa vừa là người phàm. Tuy nhiên ai xem thấy Chúa Giê-su cũng như đã xem thấy Chúa Cha rồi, vì Chúa Giê-su chính là Đấng Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x Mt 1,23), và Người hằng làm đẹp lòng Chúa Cha (x Mt 17,5), vâng theo ý Cha. Có lần Người đã khẳng định: “Tôi và Chúa Cha là Một” (Ga 10,30).
- C 8-10: + Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha: Phi-líp-phê yêu cầu Đức Giê-su chỉ cho ông xem thấy Chúa Cha như ông Mô-sê xưa đã xem thấy Đức Chúa trong đám mây trên núi Si-nai (x. St 24,9-17). + Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha: Đức Giê-su đã cho Phi-líp-phê biết: ngày nay Thiên Chúa sẽ không tỏ hiện trong sấm chớp như xưa, mà sẽ ngự nơi con người Đức Giê-su. Từ nay không có con đường nào khác để người ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa, ngoài con đường duy nhất là Đức Giê-su (x. Ga 1,18), vì Người là đầu của thân thể nhiệm mầu là Hội Thánh (x Ep 5,23). + Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy: Chúa Cha được biểu lộ qua Đức Giê-su là Con Một của Ngài (x. Ga 12,45; 14,7). Chúa Cha sẽ được tỏ mình ra cách hoàn hảo qua đời sống, lời nói và việc làm của Đức Giê-su. Vì Người luôn kết hiệp mật thiết với Chúa Cha và làm theo ý Chúa Cha.
- C 11-12: + Ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm: Đó là được tham phần vào sứ mạng cứu độ loài người của Đức Giê-su. + Còn làm những việc lớn hơn nữa bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha: Không phải các môn đệ sẽ làm được những phép lạ lớn hơn Đức Giê-su. Nhưng sau khi Người lên trời, các ông sẽ được trao cho sứ mạng thay Người đi loan báo Tin Mừng cho các dân tộc đến tận cùng thế giới, với ơn phù trợ của Thánh Thần (x.Cv 1,8).
4. CÂU HỎI:
1) Tại sao các môn đệ bị xao xuyến khiến cho Đức Giê-su phải động viên tinh thần của các ông ? 2) Đức Giê-su muốn nói gì qua câu "Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở" ? 3) Đức Giê-su đã hứa sẽ đi trước dọn chỗ và khi nào Người sẽ trở lại đón các môn đệ đi theo Người ? 4) Khi tự ví mình là con đường, là sự thật và là sự sống, Đức Giê-su muốn dạy các tín hữu điều gì ? 5) Câu "Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy" nghĩa là gì ? 6) Ngay từ bây giờ các môn đệ đã xem thấy Chúa Cha qua hình ảnh của ai ? 7) Từ đây ai muốn gặp được Chúa Cha thì phải gặp qua người nào ? 8) Ai tin vào Đức Giê-su sẽ làm được những việc Người đã làm và còn làm được những việc lớn hơn nữa, cụ thể là những việc gì ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).
2. CÂU CHUYỆN:
1) THIÊN CHÚA LÀ ĐẤNG QUYỀN NĂNG VÀ VÔ HÌNH:
Một ông vua kia do cận thần xúi bẩy nên một hôm đã ra lệnh triệu tập tất cả các giám mục trong nước vào hoàng cung. Vua ra lệnh cho các giám mục: trong một tuần lễ phải chứng minh được là có Thiên Chúa. Nếu không chứng minh được thì tất cả các giám mục sẽ bị khép vào tội lừa bịp dân chúng và bị án treo cổ. Thật là một đòi hỏi nan giải, vì làm sao có thể chỉ cho nhà vua xem thấy Thiên Chúa vô hình được ? Rồi càng gần đến ngày hẹn, tâm trạng các vị giám mục càng thêm bồn chồn lo lắng. Bấy giờ một tu sĩ trẻ nghe biết câu chuyện, liền đến yêu cầu nhà vua được thay các giám mục chỉ cho nhà vua nhìn thấy Thiên Chúa. Đúng hẹn, anh tu sĩ đã dẫn nhà vua cùng quần thần lên một ngọn đồi đang lúc trưa hè nắng gắt, rồi chỉ tay lên mặt trời và nói: “Tâu bệ hạ, xin nhìn theo ngón tay của thảo dân, thì bệ hạ sẽ thấy Thiên Chúa”. Nhà vua và các cận thần đều nhìn lên mặt trời theo hướng tay của anh tu sĩ kia đã chỉ, nhưng không ai có thể xem thấy gì vì bị ánh sáng mặt trời làm chói mắt. Bấy giờ nhà vua liền nổi cơn lôi đình truyền thị vệ chém đầu anh tu sĩ trẻ kia vì đã dám đánh lừa mình. Vị tu sĩ liền quỳ dưới chân nhà vua thưa rằng: “Muôn tâu bệ hạ, bệ hạ đòi nhìn xem Thiên Chúa. Thế mà mặt trời chỉ là một tạo vật tầm thường của Thiên Chúa, mà bệ hạ đã không thể xem thấy được, thì làm sao bệ hạ đòi nhìn thấy chính Thiên Chúa là Đấng vô cùng cao cả được ? Thiên Chúa luôn hiện hữu, nhưng vì Ngài thiêng liêng vô hình, nên người phàm mắt thịt không thể xem thấy Ngài, mà chỉ có thể thấy Ngài bằng mắt đức tin thôi”. Nhờ câu nói này của anh tu sĩ trẻ và các giám mục đã không bị khép tội khi quân và khỏi bị hành hình.
Trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giê-su đã nói với môn đệ Phi-líp-phê rằng: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư ? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha. Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao ? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình (Ga 14,9-10).
2) TIN VÀO THIÊN CHÚA LÀ NIỀM AN ỦI VÀ HY VỌNG CHO CUỘC SỐNG MAI SAU:
Trong một gia đình nọ. Ông chồng là người không tin có Thiên Chúa. Ông thường nhạo báng việc cầu nguyện dự lễ để thờ phượng Thiên Chúa. Trái lại, bà vợ của ông lại là một tín hữu sùng tín. Hằng ngày bà đều đến nhà thờ cầu nguyện cho chồng sớm được ơn trở về với Chúa. Bà luôn ăn ở ngay lành và dạy con sống tốt lành đạo đức để sau khi chết được lên thiên đàng hưởng nhan thánh Thiên Chúa. Dù sống giữa hai niềm tin trái nghịch giữa bố mẹ, người con trai duy nhất của hai người vẫn sống ngoan ngoãn với cha mẹ. Rồi một ngày kia, đứa con trai yêu quý bị mắc cơn bệnh phổi hiểm nghèo. Nghe bác sĩ cho biết mình sắp bị chết, em đã hỏi ông bố bấy giờ đang ở bên giường bệnh rằng: "Bố ơi, xin bố hãy nói thật cho con biết: sau khi chết con sẽ đi về đâu? Nếu theo mẹ dạy thì con sẽ được về trời gặp gỡ Thiên Chúa là Cha hằng yêu thương con và sẽ được hưởng hạnh phúc mãi mãi với Chúa và sau này còn được đoàn tụ với cả bố mẹ trên thiên đàng. Còn nếu theo bố thì sau khi chết sẽ chẳng còn gì nữa: con sẽ chẳng còn ai để yêu thương con và bảo vệ cho con…
Ông bố nghe đứa con yêu hỏi mà tê tái lòng. Ông liền ôm con vào lòng và nói với con: "Bố đã sai rồi con ạ. Con hãy tin theo mẹ con nhé". Đứa con lại nói: "Nhưng nếu bố không cùng tin Chúa như mẹ, thì làm sao sau này con có thể gắp được cả bố mẹ trên thiên đàng được?" Trước lời nói đơn sơ của đứa con thân yêu, ông bố của em đã không kềm nổi những giọt nước mắt thống hối. Sau ngày con qua đời, ông đã xin theo học khóa giáo lý dự tòng. Nhờ được nghe Lời Chúa, ông đã đạt tới đức tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa và thiên đàng đời sau. Ông đã tập sống đức tin bằng việc thực tập đức cậy và đức mến. Cụ thể là cầu nguyện sớm hôm để phó thác cuộc đời trong tay Chúa quan phòng, thực thi yêu thương bằng sự tha thứ và khiêm nhường phục vụ tha nhân noi gương Chúa Giê-su. Ông năng đến nhà thờ dự lễ và rước lễ để được kết hiệp với Chúa Giê-su Thánh Thể là mầm sống lại trong ngày sau hết. Ông xác tín Chúa Giê-su chính là con đường duy nhất dẫn đưa ông lên trời hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa như lời Người dạy: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).
3. SUY NIỆM:
1) Nội dung Tin Mừng hôm nay:
Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại câu trả lời của Đức Giê-su cho môn đệ Phi-líp-phê khi ông muốn Thầy chỉ cho xem thấy Chúa Cha. Đức Giê-su nói: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư ? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Ngày nay muốn nhìn thấy Thiên Chúa, chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giê-su. Vì Người là Đấng “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23). Người là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình đã trở nên hữu hình khi mặc lấy thân xác phàm nhân để nên giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ không có tội (x. Ga 1,14). Đức Giê-su cũng trấn an các môn đệ trước khi bước vào cuộc khổ nạn và phục sinh như sau: "Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở" (Ga. 14,1-2).
Tin mừng hôm nay cũng mặc khải cho chúng ta: Mọi người trên trần gian đều có một Cha chung trên trời là Thiên Chúa, và đều là anh em với nhau. Sau này chúng ta sẽ được đoàn tụ với Thiên Chúa và với nhau trên Thiên Đàng. Thánh Phao-lô cũng dạy: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta” (Pl 3,20). Tuy nhiên chúng ta chỉ có thể lên trời với Thiên Chúa qua con đường Giê-su như Người đã nói: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha nếu không qua Thầy” (Ga 14,6). Vậy Con Đường Giê-su có những đặc điểm nào ? Và chúng ta phải làm gì để đi tới đích là được về quê trời với Thiên Chúa và hưởng hạnh phúc đời đời trên thiên đàng?
2) Những đặc điểm của Đường Giê-su ?
1) Đức Giê-su là Đường: Con đường lên trời vô cùng khó khăn và vượt quá tầm khả năng hữu hạn của người phàm. Chỉ có Đức Giê-su, Đấng từ trời mà đến, trở thành “Em-ma-nu-el” nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, mới có khả năng chỉ đường lên trời cho chúng ta như Người đã nói: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13). Người luôn đồng hành với chúng ta trong cuộc sống (x. Lc 24,15) và ban Thánh Thần giúp chúng ta về tới thiên đàng đời sau.
2) Đức Giê-su là sự thật và là sự sông: Người dạy cho chúng ta sự thật là các mầu nhiệm của Thiên Chúa, ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Người: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống mà tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25-26). Người cho chúng ta biết sự thật về Thiên Chúa là Đấng đã yêu thương loài người và sai Con Một xuống thế để dạy loài người con đường cứu độ và sẵn sàng chịu chết đền tội thay và sống lại để phục hồi sự sống cho loài ngươi. Chính Sự thật ấy sẽ giải thoát chúng ta nếu chúng ta tin vào Đức Giê-su (x. Ga 8,32)
3) Đi con đường của Đức Giê-su là chọn con đường hẹp, leo dốc và ít người muốn đi; Là chấp nhận “qua đau khổ sự chết để vào vinh quang phục sinh” theo thánh ý Chúa Cha; Là “mến Chúa yêu người” theo gương mẫu và lời dạy của Chúa Giê-su; Là “bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo chân Chúa”, là khiêm tốn rửa chân phục vụ anh em và quảng đại chia sẻ cơm bánh cho người nghèo đói, góp phần chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền của tha nhân, năng thăm viếng an ủi những người sầu khổ bất hạnh… Là sẵn sàng chịu đựng những sỉ nhục và đau khổ vì danh Chúa như các Tông đồ xưa. Tóm lại là sống theo bản hiến chương Nước Trời là “Tám Mối Phúc Thật“ do Chúa Giê-su đã công bố.
3.Chúng ta phải làm gì?:
- Nên đồng hình đồng dạng với Đức Giê-su: Trở thành Ki-tô hữu tức là thành một Chúa Giê-su khác trước mặt người đời. Mỗi tín hữu chúng ta phải sống thế nào để có thể nói được rằng: “Ai biết tôi là biết Chúa Giê-su. Ai thấy tôi là thấy Chúa Giê-su, vì chính Chúa Giê-su đang sống trong tôi”. Từ nay, chúng ta cần xác tín rằng: Chỉ có Con Đường Giê-su mới dẫn đưa chúng ta lên trời. Tông đồ Phê-rô cũng đã quả quyết trước Thượng Hội Đồng Do thái như sau: “Chính Đấng ấy, là Tảng Đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, Tảng Đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường. Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ. Vì dưới gầm trời này, không có một Danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào Danh đó mà được cứu độ” (Cv 4,11-12).
- Phải về quê trời cùng với tha nhân: Đức Giê-su đã về với Chúa Cha trong vinh quang phục sinh, sau khi đã sống một cuộc đời yêu thương tận hiến và đã trải qua cuộc khổ nạn theo thánh ý Chúa Cha. Cuộc đời của Người đã trở thành con đường lên trời của các tín hữu chúng ta hôm nay. Khi suy niệm Lời Người và sống gắn bó với Người trong bí tích Thánh Thể, chúng ta sẽ hiểu biết ý Chúa Cha muốn chúng ta phải làm gì và sống kết hiệp mật thiết với Chúa Giê-su. Nếu chúng ta đi trên Con Đường Giê-su thì chính chúng ta cũng sẽ trở thành con đường để giúp anh em lương dân đến với Đức Giê-su. Chính nhờ gặp gỡ chúng ta, họ sẽ nhận biết Chúa Giê-su qua lời nói, việc làm và lối ứng xử hiền hòa nhân ái yêu thương phục vụ của chúng ta. Rồi “nhờ Người, với Người và trong Người”, họ sẽ gặp được Thiên Chúa Cha và trở thành con Chúa Cha trong gia đình Hội Thánh ở đời này, để sẽ được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa Cha và với công đoàn tín hữu trên thiên đàng đời sau.
4. THẢO LUẬN:
1) Bạn có đồng ý với lập luận: “Đạo nào cũng tốt. Đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành. Do đó, Hội Thánh chẳng cần truyền đạo cho ai. Chỉ cần giúp anh em lương dân sống theo lương tâm hay sống đạo làm người là đủ” ? Tại sao ? 2) Khi gặp một hoàn cảnh nan giải, bạn cần làm gì để nhận biết thánh ý Thiên Chúa và vâng theo ? 3) Hát bài kết thúc như sau: “Con đây ! Lạy Chúa Chúa muốn con làm gì ?"
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúng con cảm thấy mình thật nhỏ bé và bất lực, khó lòng có thể chu toàn sứ mạng loan báo Tin mừng mà Chúa đã trao cho Hội Thánh trước khi lên trời. Xin cho chúng con ý thức rằng: Sứ mạng truyền giáo trước hết phải thực hiện cho những người thân quen như: cha me, vợ chồng, con cái, anh em và bạn bè của chúng con, rồi sau đó mới đến người khác. Xin giúp chúng con năng nhìn ngắm khuôn mặt dịu hiền của Chúa và suy niệm các hành vi và lời dạy của Chúa, vì Chúa chính là hình ảnh trung thực của Chúa Cha. Xin giúp chúng con biết lắng nghe Lời Chúa dạy và quyết tâm thực hành ý Chúa trong đời sống thường ngày. Xin cho chúng con biết từ bỏ ý riêng và vác thập giá mình hằng ngày mà theo chân Chúa. Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ ngày một nên con ngoan hiếu thảo của Chúa Cha, nên môn đệ đích thực của Chúa và nên anh chị em của mọi người.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 14:1-12)
Lái xe thời nay, chúng ta sử dụng GPS nên nhiều khi không cần để ý tới con đường. Máy chỉ sao,: PS 5-A84
Lái xe thời nay, chúng ta sử dụng GPS nên nhiều khi không cần để ý tới con đường. Máy chỉ sao, chúng ta cứ theo đó mà đi. Nhưng trước đây, khi chúng ta sử dụng bản đồ thì không như vậy. Chúng ta để ý tới con đường nhiều hơn, nghiên cứu kỹ lưỡng bản đồ trước khi khởi hành. Trả lời ông Tô-ma, Chúa Giê-su nói: “Thầy là con đường…”, chắc chắn không phải như cái máy GPS nói, mà là lời mời gọi ông cùng các bạn tông đồ và cả chúng ta nữa, hãy học hỏi, khám phá và nhất là đi trên con đường ấy để đến điểm hẹn vĩnh cửu của chúng ta.
Chúng ta đã nghe nhiều lần lời khẳng định này của Chúa Giê-su: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống”. Thường chúng ta ít khi tách rời ba hình ảnh này, nhưng đọc liền với nhau. Có lẽ thói quen ấy đã giới hạn suy nghĩ của chúng ta, khiến chúng ta khó nhận ra sự liên kết giữa con đường, sự thật và sự sống. Vậy lời nói của Chúa Giê-su khởi đi từ đâu? Chính là từ câu Chúa trả lời cho thắc mắc của ông Tô-ma không biết Người sẽ đi về đâu. Nơi Chúa Giê-su đến để dọn chỗ cho môn đệ là nơi Chúa Cha ngự. Từ chúng ta đến Chúa Cha là cả một khoảng cách vô tận (Lu-ca 16:26). Chúa Giê-su xác nhận khoảng cách loài người không thể vượt qua ấy, nhưng Người lập tức chỉ cho chúng ta thấy vẫn có con đường duy nhất để đến với Chúa Cha, là “Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”. Nói như vậy có khác gì nói “Thầy là con đường”! Con đường này không phải là xa lộ bằng vật chất do con người xây dựng, mà là một con đường bằng xương bằng thịt Thiên Chúa đã sai xuống trần gian để đưa nhân loại về với Người. Những dấu chỉ gặp thấy trên “con đường mang tên Giê-su” không phải là những bảng chữ hay hình vẽ, mà là những đặc nét nói lên một lối sống mà “Con Yêu Dấu” của Thiên Chúa đã để lại cho tất cả nhân loại đi theo. Rõ ràng nhất, những dấu đường đã được thu gọn lại trong bản hiến chương Nước Trời, với cái tên mộc mạc: Tám Mối phúc thật. Con đường ấy mời gọi mọi người từ bất cứ hoàn cảnh sống nào, đều có thể đi theo và đến điểm tới là Chúa Cha.
Nhưng tại sao tiếp theo tư tưởng “Thầy là con đường”, Chúa Giê-su còn nói “Thầy là sự thật và là sự sống”? Phải, sự liên hệ giữa con đường với sự thật và sự sống là điều chúng ta có lẽ không mấy để ý. Sự thật và sự sống là ở trong Chúa Cha. Con đường Giê-su là con đường chuyên chở sự thật và sự sống từ Chúa Cha đến với chúng ta. Sự thật và sự sống Thiên Chúa muốn cho nhân loại biết đã được thánh Gio-an tóm tắt lại trong câu Tin Mừng: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (3:16). Sự thật là tình Thiên Chúa yêu ta, còn Chúa Giê-su, Tình Yêu nhập thể, là dấu chỉ hoặc con đường giúp chúng ta tiếp nhận tình yêu Thiên Chúa. “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy”. Dĩ nhiên là biết theo ý nghĩa Kinh Thánh, tức là sống mối tương quan mật thiết với Chúa Giê-su và Chúa Cha. Đó là lời Chúa Giê-su mời gọi chúng ta hãy ở trong mối liên hệ ba chiều: Chúa Cha-Chúa Giê-su-chúng ta.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Lối trình bày của thánh Gio-an tuy mang chiều kích thần học sâu xa, nhưng lại rất thực tế cho đời sống Ki-tô hữu chúng ta, những người đang cùng đồng hành dưới sự dẫn dắt của Chúa Giê-su để tiến về Nhà Cha. Giao thông giữa nhân loại và Thiên Chúa đã bị cắt đứt do tội lỗi. Chúa Giê-su là “con đường” nối liền giữa vô biên với hữu hạn, giữa Thiên Chúa siêu việt và con người. Sự hiện diện của Chúa Giê-su giữa chúng ta là một bảo đảm để chúng ta biết phải đi về đâu và chắc chắn sẽ tới được nơi ấy. Vì thế Người mới khích lệ chúng ta: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Mỗi lần lái xe bị lạc đường, chúng ta cảm thấy xao xuyến và không yên tâm. Nhưng trên đường về Nhà Cha, chúng ta yên tâm đi trên “con đường mang tên Giê-su” thì không thể lạc đường được, nếu chúng ta cứ “ở lại” trên con đường ấy, đọc và sống những dấu hiệu chúng ta gặp trong lối sống của Chúa Giê-su. Chúa Giê-su lập lại với chúng ta một lần nữa: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở… Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy”.
Lm. Đaminh Trần đình Nhi
----------------------------------
Chúa Giêsu đã hứa rằng: "Thầy đi trước để dọn chỗ cho các con, để ........ Đây là một lời hứa thật đẹp: PS 5-A85
Chúa Giêsu đã hứa rằng: "Thầy đi trước để dọn chỗ cho các con, để Thầy ở đâu các con cũng ở đó với Thầy." Đây là một lời hứa thật đẹp. Đẹp vì nó mở ra cho chúng ta một khung trời hy vọng vì ngày mai tốt đẹp hơn. Đẹp vì cuộc sống của chúng ta không đi vào ngõ cụt. Cuộc sống của chúng ta từ nay đã có một lối đi về. Cuộc sống của chúng ta không dừng lại ở cái chết là hết một kiếp người. Cuộc sống vẫn tiếp diễn. Cuộc sống được nối dài vĩnh viễn trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa là Cha, là cội nguồn sự sống.
Người ta kể rằng: Có một gia đình kia. Chồng là người ngoại đạo. Ông không tin vào Chúa. Ông còn luôn miệng nhạo báng, khinh miệt những hành vi thờ phượng kính mến Chúa. Ngược lại, bà vợ thì rất sùng đạo, luôn dạy con giữ đạo sốt sắng. Ngày nào bà cũng dắt con đi lễ cầu nguyện. Dù sống giữa hai niềm tin trái ngược nhau, nhưng đứa con trai duy nhất của họ vẫn hiếu thảo với cha mẹ. Cho tới một hôm, em lâm bệnh hiểm nghèo. Em biết rằng mình chẳng còn sống được bao lâu ở dương gian. Em đã mạnh dạn hỏi bố rằng: "Bố ơi, trong ít ngày nữa con sẽ không còn sống ở dương gian nữa! Con xin bố hãy dạy cho con biết, con phải tin theo ai? Theo bố hay theo mẹ? Tin theo bố thì chẳng có thiên đàng để tiếp tục sự sống, chẳng có Chúa hay có Mẹ để yêu thương và bảo vệ cho con được hạnh phúc đời đời? Còn tin theo mẹ, thì có Thiên Chúa là cha nhân lành sẽ ban thưởng hạnh phúc thiên đàng vĩnh cửu và có Mẹ Maria luôn bầu cử chở che.”
Ông bố nghe mà tái tê lòng. Ông ôm con vào lòng và nói: "Con hãy tin theo mẹ". Đứa bé lại nói tiếp: "Nhưng nếu bố không tin theo mẹ, thì làm sao con có thể chờ đợi bố ở trên thiên đàng được?" Trước lời nói đơn sơ và chân thành của em bé, ông bố đã không kiềm nổi những giọt nước mắt ứ tràn nơi khoé mắt, và để mặc cho nó tuôn tràn trên gò má già nua của ông. Kể từ ngày đó, ông đã đổi đời, ông chọn Chúa là lẽ sống và là cùng đích của đời mình.
Vâng câu nói: "Con hãy tin theo Mẹ" của người cha là câu nói hay nhất trong cuộc đời của ông. Câu này đã giúp cho con ông cảm thấy thanh thản khi bước vào đời sau. Câu này cũng giúp ông thay đổi đời sống mà từ trước tới nay ông đã cố tình không sống theo. Ông biết rằng phải có đời sau. Ông biết rằng là người thì hơn muôn loài muôn vật, vì con người có sự sống thần linh, con người có hồn thiêng bất tử. Thế nhưng, vì lười biếng và cố chấp ông đã không dám nhìn nhận sự thật từ trong sâu thẳm lòng mình là tin có Trời, có thần thánh, có hồn thiêng và cả đời sau. Ông lừa đối chính mình và lừa dối tha nhân. Hôm nay, ông đã phải nuốt những giọt nước mắt mặn đắng để nói lên sự thật của lòng mình trước mặt đứa con yêu dấu, sắp sửa từ giã ông tiến vào đời sau.
Thực vậy, là người ai cũng tin có đời sau. Là người ai cũng tin có quả phúc. Có thưởng có phạt đời sau. Từ trong sâu thẳm tâm hồn luôn có tiếng nói của Thượng Đế nhắc nhở con người phải sống ngay lành, sống thánh thiện như tình trạng ban đầu là "nhân chi sơ tính bản thiện." Sống đúng theo lề luật tối thượng của Thượng Đế, con người mới được bình an và hạnh phúc. Người khôn ngoan phải biết sống thuận theo ý trời mới được trời chúc phúc cho cuộc sống an khang hạnh phúc. Đạo lý đó đã được cha ông ta gom lại thành đạo lý tam tài: "Thiên thời - Địa lợi - Nhân hòa."
Chúa Giêsu trong tư cách là một con người. Ngài đã luôn tìm kiếm ý Cha trên trời để thực thi. Cuộc sống của Ngài luôn mang hai chiều kích: hướng về Thiên Chúa và hướng về tha nhân. Ngài phục vụ tha nhân để tôn vinh Thiên Chúa. Ngài phụng sự Thiên Chúa qua việc phục vụ nhân loại theo thánh ý Chúa Cha. Có thể nói, Ngài đã sống cả cuộc đời vì yêu thương nhân loại và tôn vinh Chúa Cha. Vì Chúa Cha mà Ngài đã nhập thể làm người. Vì Chúa Cha mà Ngài đã hy sinh chịu chết cho con người được sống dồi dào.
Là người Kitô hữu, chúng ta được mời gọi bước theo con đường Chúa Giêsu đã đi. Đó là con đường đi tìm thánh ý Chúa và thực thi đến hơi thở cuối cùng. Đó không phải là con đường trải thảm rộng thênh thang mà là con đường hẹp, đầy chông gai giăng kín hành trình. Đó là con đường từ bỏ, đường thập giá, đường hiến tế đẫm máu trên đỉnh đồi Calve. Đó là con đường của tình yêu, tận hiến và hy sinh như thầy Chí Thánh Giêsu. Và như thế, đó chính là con đường duy nhất để chúng ta tiến vào nhà Cha, nơi đó, Chúa đã đi trước để dọn chỗ cho chúng ta.
Nguyện xin Chúa Giêsu Phục Sinh luôn đồng hành với chúng ta trong cuộc sống. Xin Người nâng đỡ những yếu đuối của chúng ta. Xin Người chỉ đường dẫn lối để chúng ta luôn tiến bước về nhà Cha trong an bình và thanh thoát với những bận rộn của cuộc sống bon chen hôm nay Amen!
LM Giuse Tạ Duy Tuyền
----------------------------------
Đầu tháng hai năm 1990, báo chí đã làm cho nổi tiếng một con đường ở ngoại ô thành phố Saigon.: PS 5-A86
Đầu tháng hai năm 1990, báo chí đã làm cho nổi tiếng một con đường ở ngoại ô thành phố Saigon. Con đường ấy, một đầu là biểu ngữ giăng ngang khai trương phòng vật lý trị liệu, một kiểu mãi dâm trá hình. Còn đầu kia là sừng sững một khách sạn mini sang trọng, làm nhà riêng của ông giám đốc Xacogiva, người đã từng biển thủ công quỹ. Con đường ấy chợt nổi tiếng vì những vụ tai tiếng.
Thế nhưng, đã 20 thế kỷ trôi qua, trong Giáo Hội chúng ta biết có một con đường luôn nổi tiếng. Con đường ấy mở ra bằng một tình thương và kết thúc bằng một hạnh phúc. Con đường ấy trải dài bằng tin yêu để vươn lên tới sự sống bất diệt. Con đường ấy thắp sáng niềm hy vọng và dẫn tới quê hương Nước Trời. Con đường dẫn tới vĩnh cửu. Đó là con đường mang tên Giêsu.
Thực vậy, qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Ngài đã trả lời cho Tôma: Thầy là đường là sự thật và là sự sống. Qua đó, chúng ta thấy: chỉ có một con đường duy nhất được mở ra cho ơn cứu độ. Và con đường ấy chính là Ngài.
Trước hết, Ngài là đường chân lý, một chân lý sống động, làm tiêu chuẩn hướng dẫn cho mọi cuộc đời. Đường chân lý ấy, không phải là một mớ những tín điều, những sự phải tin, nhưng là toàn thể cuộc sống của Ngài, từ tư tưởng cho đến lời nói và việc làm. Tất cả đều hướng tới chân trời cứu độ. Nhưng không phải ai cũng nhận ra con đường này, bởi vì trong phiên toà xet xử, Philatô cũng đã hỏi: Sự thật là gì? và Chúa Giêsu đã không trả lời bởi vì sự thật chính là Ngài đang đứng đó.
Tiếp đến, Ngài là đường sự sống bởi vì Ngài là nguồn phát sinh mọi sự sống tự nhiên cũng như siêu nhiên. Sự sống phần xác trong công trình tạo dựng, cũng như sự sống phần hồn trong công trình cứu chuộc. Ngài đã chết để mọi người được sống và Ngài đã sống lại để mãi mãi mở ra một con đường dẫn vào cõi sống vĩnh cửu. Sự sống vật chất một ngày nào đó sẽ tan biến, nhưng sự sống mà Ngài trao ban sẽ là một sự sống trường tồn bất diệt. Chính vì thế mà chúng ta thường kết thúc lời cầu nguyện bằng câu: Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
Sau cùng, Ngài là con đường dẫn tới nhà Cha, dẫn tới quê hương Nước Trời, bởi vì Chúa Cha và Ngài không thể tách lìa nhau. Chúa Cha ẩn mình trong Chúa Con và Chúa Con ẩn mình trong Chúa Cha. Vẫn là một tự ngàn xưa và mãi mãi là một đến muôn thuở muôn đời. Vì thế con đường mang tên Giêsu, tất nhiên sẽ dẫn tới địa chỉ Nhà Cha và ngược lại, muốn đến nhà Cha thì phải đi trên con đường Giêsu. Có nghĩa là muốn được bước vào quê hương Nước Trời, chúng ta phải thực thi những điều Đức Kitô truyền dạy.
----------------------------------
(Trích trong ‘Với Cả Tâm Tình’ – ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)
Trong những ngày đầu tháng 02 năm 1990, có một con đường ở huyện ngoại thành đã được báo: PS 5-A87
Trong những ngày đầu tháng 02 năm 1990, có một con đường ở huyện ngoại thành đã được báo chí làm cho nổi tiếng. Con đường ấy một đầu là giăng ngang biểu ngữ khai trương phòng vật lý trị liệu trá hình, còn đầu kia là sừng sững một khách sạn mini sang trọng làm nhà riêng của người biển thủ, chức danh là giám đốc. Con đường ấy chợt nổi tiếng vì những vụ tai tiếng.
Từ hai mươi thế kỷ nay, trong Giáo Hội, người ta biết có một con đường thật danh tiếng và luôn luôn nổi tiếng. Con đường ấy mở ra bằng một tình thương và kết thúc bằng một hạnh phúc. Con đường ấy trải dài tin yêu để lâng lâng vươn lên sự sống. Con đường ấy thấp sáng hy vọng để dẫn tới Nhà Cha trên trời. Đường mở về miên viễn, Đường dẫn đến vĩnh hằng. Đó là đường mang tên Chúa Giêsu.
1. Đường hy vọng tin yêu.
Nếu có một câu hỏi được các Tông đồ đặt ra nhiều nhất thì đó phải là câu hỏi thuộc về nơi chốn. “Thầy ở đâu?” là câu hỏi của Gioan đặt ra trong lần đầu gặp gỡ, để được gọi đến xem và bước vào ơn gọi; “Thầy muốn chúng con dọn lễ Vượt Qua ở đâu?” là câu hỏi của các Tông đồ đặt ra để có được địa chỉ chính xác cho Bửa Tiệc Ly; và hôm nay lại là Tôma nôn nóng bật ra câu hỏi “Thầy đi đâu?” trước một tương lai vẫn còn ẩn khuất.
Bận tâm về nơi chốn là bởi vì trong đời theo Chúa, các ông luôn được dẫn vào những cuộc hành trình, mà cuộc hành trình cuối cùng là tiến về Giêrusalem để chứng kiến Thầy mình chịu chết. Có khối ông đã coi đây là con đường thất bại của Chúa để trở thành con đường thất vọng của mình. Mấy năm dài miệt mài theo Chúa những mong có ngày tả hữu vinh quang, nào ngờ Người lại bị đóng đinh như tên tử tội. Công dã tràng! Khi mọi vốn luyến hy vọng đặt cả vào canh bạc cuộc đời, rồi bổng dưng lật ngữa trắng tay, người ta như rớt từ trên cao quay cuồng chao đảo. Thế mới hay ước vọng thì rộng lớn nhưng khung đời lại chật hẹp mà thực tế lại phũ phàng!
“Thầy đi đâu?” Ẩn sâu dưới câu hỏi ấy là một tâm trạng hoang mang trước một quá khứ vứa mới khép lại mà tương lai chưa kịp mở ra. Tương lai ấy mới mẻ hay chỉ là quá khứ đươc lặp lại ở thì sẽ đến? Đã một lần vỡ mộng, các Tông đồ băn khoăn là chuyện thường tình. Giống như đứa trẻ lỡ một lần phải bỏng, hễ thấy lửa là tự nhiên rụt tay lại. Vì thế, nghe trong câu hỏi “Thầy đi đâu?” có âm hưởng lo âu tự hỏi “mình đi đâu?”.
Thất vọng về quá khứ và hoang mang trước tương lai, đó là những con đường các Tông đồ đã nếm trải. Nhưng mở đầu Tin Mừng hôm nay lại là lời của Chúa Giêsu: “Các con đừng xao xuyến”. Đó là lời an ủi vỗ về, đồng thời cũng là lời cắt băng khai mở một con đường mới trong hy vọng tin yêu.
2. Đường mang tên Giêsu.
“Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”. Trả lời cho Tôma, cùng lúc Chúa Giêsu để lộ cho biết từ nay chỉ có một con đường duy nhất được mở ra trong ơn cứu độ, và tên gọi con đường ấy lại chính là Người.
Người là Đường Sự Thật bởi Người là Chân Lý, một chân lý sống động khả tín làm nền tảng và hướng đi cho mọi cuộc đời, một thực tại năng động đầy Thần Khí làm sức mạnh giải thoát cho mọi kẻ tin. Đường Sự Thật không phải là một hệ thống tín điều do Chúa Giêsu thiết định, nhưng là toàn thể cuộc sống lời nói việc làm của Người trong ý nghĩa cứu độ. Nhưng đâu phải ai cũng nhận ra? Giữa phiên tòa dịp lễ Vượt Qua, trước mặt Chúa Giêsu, Philatô đã hỏi một câu ngớ ngẩn: “Sự Thật là chi?- Quid est Veritas?” Chúa Giêsu không trả lời, vì Sự Thật hiện thân chính là Người đứng đó. Có biết đâu hỏi là đã trả lời, chỉ cần sắp xếp lại thứ tự các mẫu tự sẽ thành hàng chữ: “Est Vir qui adest” (x. Tihamet Toth, Chúa Cứu Thế Với Thanh Niên, p. 95).
Người là Đường Sự Sống bởi Người là Sự Sống thượng nguồn phát sinh các sự sống khác trong công trình sáng tạo, và là Sự Sống cội nguồn mà mọi sự sống khác phải tìm về trong công cuộc tái tạo của ơn cứu độ. Người thông ban sự sống cho mọi sinh linh, và luôn đi bước trước để lôi kéo mọi người về với Sự Sống của Thiên Chúa. Người chịu chết để nhân loại được sống, và Người sống lại để mãi mãi mở ra nẻo đường dẫn vào cõi sống. Mọi sự sống trần gian có thể đổi thay tan biến, nhưng Sự Sống Người là vĩnh cữu trường tồn. Người hằng sống hằng trị muôn đời.
Người là Đường dẫn tới Nhà Cha bởi Người và Cha không thể tách lìa: Chúa Con ẩn mình trong Chúa Cha và Chúa Cha tỏ hiện trong Chúa Con. Vẫn là Một từ ngàn xưa và mãi là Một tới ngàn sau. Thế nên Đường mang tên Giêsu tất yếu cũng là địa chỉ Nhà Cha, và ngược lại tìm đến Nhà Cha cũng là hành trình vào Đường Sự Thật và Sự Sống.
3. Đường con đi.
Dẹp bỏ con đường cũ của thất vọng hoang mang để khai mở con đường mới bằng toàn diện con người mình, Chúa Giêsu muốn truyền lại cho các Tông đồ cái kinh nghiệm hiện sinh phong phú liên kết với Cha qua Chân Lý và Sự Sống; đồng thời đó cũng chính là lời mời gọi Giáo Hội cất bước lên đường với những hành trang đi về hạnh phúc.
Đi trên Đường Giêsu là đi bằng cả niềm tin gắn bó hiệp thông của những con người biết mình có một lí tưởng để theo đuổi, và sẵn sàng hy sinh tất cả để đạt được lí tưởng ấy. Trút bỏ những hành trang cồng kềnh của danh lợi thú, đoạn tuyệt với những ngõ cụt lối mòn sao gợn sỏi đá của cuộc sống khô khan, chấp nhận canh tân để có được bước đi vừa thanh thót vừa thanh thản của đời nhân đức chính là hát lên khúc ca mới trên con đường mới. Vì lí tưởng ấy chính là lẽ sống, cũng chính là vinh dự một đời: “Anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là chủng tộc thánh thiện, Dân riêng của Chúa…” (bài đọc thứ hai).
Đi trên Đường Giêsu cũng là đi bằng niềm hy vọng bền vững. “Thầy đi dọn chổ cho các con”. Vận mệnh tương lai đã mở ra. Không còn xa xôi tít tắp, nhưng đã châm rễ từ cuộc đời này. Sống hôm nay là chuẩn bị sống ngày mai, và ngày mai tại Nhà Cha đã được định hình ngay từ bây giờ trong bước đường lữ thứ của Hội Thánh ở giữa lòng đời. Đi trong hy vọng là nhận ra rằng con người được tạo dựng để hướng về một cứu cánh, được tái sinh trong giới hạn nhưng không ngừng hướng về vô hạn. Thiết tưởng lời kinh của Thánh Auguatinô có thể là tóm kết của bước đi hy vọng đã biến thành khát vọng: “ Lạy Chúa, Chúa dựng nên con để cho Chúa, nên con mãi khắc khoải cho tới khi được nghĩ ngơi trong Ngài”.
Đi trên Đường Giêsu còn là đi bằng cả tình yêu chan hòa phục vụ. Bài đọc thứ nhất là hình ảnh đẹp về một Giáo Hội trẻ đang cựa mình vươn vai tiến tới. Có những phân công khác biệt: kẻ phục vụ bàn thánh, người phục vụ bàn ăn; kẻ chuyên chăm rao giảng Lời Chúa, người chuyên lo hạnh phúc anh em. Nhưng vẫn là nhịp bước đồng hành. Có thể nói được rằng tình yêu và phục vụ là đôi chân của Giáo Hội lữ hành đặt bước chân mình trong dấu chân Chúa. Và cũng có thể hiểu được rằng cách nhìn “con người là con đường của Giáo Hội” (Gioan Phaolô II) chính là tốc độ mới của tình yêu chan hòa phục vụ trên Đường Giêsu hôm nay.
Và lời cuối cùng sẽ là một lời kinh, dệt nên khúc hát hy vọng cho những ai đang băn khoăn tìm kiếm một con đường sống, và biến nên hành khúc tin yêu cho những ai đã một lần cất bước hành trình: “Chúa muốn nhận con đường con đi, nên Ngài đã sinh xuống dương gian. Chúa đã nhận đôi bàn tay con, dìu từng bước, bước đi trên đường. Chúa ôi, khi nhìn đời con, con không hiểu từng giọt lệ sầu. Chúa ôi, khi nhìn đời Ngài, con đã gặp đường hướng con đi”.
----------------------------------
NHỮNG LỜI CHÚA GIÊSU TÂM SỰ VỚI CÁC TÔNG ĐỒ SAU BỮA TIỆC LY
1. Tìm hiểu: 3 điều:
a/ Thiên đàng có nhiều chỗ
b/ Thầy là Đường đi...
c/ Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.
- Câu 14,2 Nhà Cha Thầy có nhiều chỗ
Chúa cho biết trong nước Trời của Chúa, tức là trên thiên đàng có nhiều cấp bậc, nhiều phần thưởng khác: PS 5-A88
Chúa cho biết trong nước Trời của Chúa, tức là trên thiên đàng có nhiều cấp bậc, nhiều phần thưởng khác nhau, tùy Chúa ban, tùy công phúc người ta cố gắng lập khi còn sống. Rất công bằng và thương xót. Không có chuyện "Bé không đi học, lớn lên làm đại úy".
- Câu 14,6 Thầy là đường đi...
Nhờ ông Tôma hỏi, Chúa nói rõ Ngài chính là đường đi về quê trời, là sự thật và là sự sống, chỉ qua Chúa Giêsu chúng ta mới có thể đến được với Chúa Cha, đến được Nước Trời.
- Câu 14,9 Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.
Nhiều khi người ta tự hỏi: Không biết Chúa Cha thế nào? Có giống như người ta vẽ cụ già đầu râu tóc bạc, uy nghi dễ sợ không?
Chúa Giêsu trả lời rõ ràng: Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Cha cũng trẻ, cũng nhân từ, hiền lành, thương xót như Thầy, đừng sợ.
2. Suy niệm:
Truyện: Đi tìm minh chủ
Truyện kể rằng: có một chàng thanh niên khỏe mạnh, muốn tìm một ông chủ tốt làm sư phụ.
- Anh ta đến với một người giầu có trong làng, anh rất hài lòng về cách cư xử của người này. Nhưng một hôm, theo người này đến một nơi, thấy người này quì lạy một người tự xưng là ông quỉ. Chàng thanh niên phân vân tự nghĩ: như vậy ông chủ mình còn thua ông quỉ. Anh ta liền xin ông chủ cho đi theo ông quỉ.
- Ông quỉ hài lòng với người thanh niên lắm, sai hắn làm cái này cái kia…đều được việc, nhưng một hôm chàng theo ông quỉ tới đầu làng, chàng thấy ông quỉ không dám đi gần cây Thánh giá dựng ở đó, chàng thanh niên bỡ ngỡ, hỏi căn cớ tại sao thì ông quỉ cho biết, người chết trên đó là ông Giêsu. Chàng thanh niên lại bỏ ông quỉ đi tìm hiểu Ông Giêsu.
- Người ta giới thiệu chàng vào gặp cha xứ.
Sau một thời gian tìm hiểu, chàng được rửa tội, cha xứ thấy chàng to con, khỏe mạnh, cha đề nghị chàng làm việc bác ái, đưa đồ giúp người qua khúc sông, vì nơi đó không có thuyền không có cầu. Chàng vui vẻ làm theo, ngày nào cũng có mặt để giúp những người mang vác nặng nề.
Nhưng một hôm, chàng vác một em bé trên vai cho mẹ em rảnh tay lội nước.
Chàng cảm thấy Em bé gì mà nặng quá, nặng như cả mấy bao gạo trên vai, làm chàng thanh niên khỏe mạnh lực lưỡng muốn té nhào. Chàng than: " Sao em nhỏ ăn cái gì mà nặng thế, anh vác không nổi!
Em bé đang ôm đầu chàng, bật cười lớn, em nói: "Anh vác nổi sao được, anh đang vác cả một Thiên Chúa dựng nên trời đất đấy mà! Này chàng thanh niên, Ta rất hài lòng với việc giúp đỡ của con. Ta là Giêsu con đang tìm kiếm.
Chàng thanh niên đó chính là ông thánh Giorgiô, đã từ bỏ mọi sự trần gian đi theo Chúa Kitô.
Có 3 điều quan trọng cho cuộc sống con người:
a/ Đi đúng đường, không sợ lạc.
b/ Tìm ra sự thật, không hồ nghi.
c/ Tìm được sự sống, không sợ chết. Theo Chúa Kitô, sẽ được cả 3 thứ trên.
1/ Đường đi: Nếu bạn đến một thành phố xa lạ và hỏi thăm đường đi, có người chỉ dẫn rằng:
"Đến ngã tư thứ nhất anh rẽ sang phải, đến ngã tư thứ hai anh rẽ sang trái, đi qua công viên, vượt qua một nhà thờ, đến ngã tư thứ ba thì rẽ sang phải nữa… con đường anh tìm là con đường thứ tư bên trái.
Nếu chỉ dẫn như thế, có thể đi được nửa đường, anh đã bị lạc.
Nhưng nếu có người nói: "Anh đi theo tôi, tôi sẽ dẫn anh đến đó", người ấy sẽ đưa ta tới nơi, sẽ không lạc đâu.
Đó là việc Chúa Giêsu đang làm cho ta. Người không đưa ra những lời khuyên, chỉ hướng đi xong rồi thôi, nhưng Người nắm lấy bàn tay và dẫn ta đi. Người cùng đi với ta, Người thêm sức cho ta, hướng dẫn ta mỗi ngày. Người là Đường đi: Người làm gương về cách hành động vâng ý Chúa Cha, và Người đưa kẻ tin Người đến cùng Chúa Cha. Sướng thật.
2/ Sự thật: Không ai thích người nói dối, không ai thích hàng giả.
Phụ nữ Việt Nam không mấy ai muốn đeo nữ trang giả, ai cũng thích thứ thật, vàng thật, đôla thật, hột xoàn thứ thiệt.
Ngày nay, có nhiều thứ giổm, giổm lại còn độc chết người. Nhiều người nói với ta về sự thật, nhưng họ không phải là sự thật.
Chỉ có mình Chúa Giêsu nói: "Ta là sự thật". Ngài không lừa dối ai và không ai lừa dối được Ngài. Chúa Giêsu đã tỏ ra những mầu nhiệm về Thiên Chúa Cha cách không sai lầm.
3/ Sự Sống: Thông thường, người ta tìm kiếm sự sống, ai cũng muốn sống, sống khỏe, sống hạnh phúc… sống hoài sống muôn năm. Không ai muốn sống nhăn răng.
Chúa Giêsu hứa ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Người. Đời đời quí hơn một đời là cái chắc.
Thế nên Chúa nói: "Được lời lãi cả thế gian mà mất sự sống đời đời nào có ích gì?" (Mt 16,26)
3. Chúa muốn tôi làm gì?
- Bằng giá nào, tôi cũng phải tìm mọi cách để chiếm được một chỗ trên thiên đàng. Vì Chúa Giêsu nói "Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ". Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu nói: " Ta trông cậy thế nào, Chúa sẽ ban cho như vậy".
- Xin Mẹ Maria, giúp con bền lòng theo Chúa Giêsu "bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa là Đường đi,
Luôn nghĩ tưởng, nói năng, làm thật thà theo Chúa là Sự Thật,
Luôn bênh vực sự sống, theo Chúa là Sự Sống như thánh Giorgiô trên đây. Noi gương các thánh tử đạo VN: chết cũng không bỏ đạo, không bỏ Giáo hội Công giáo, để được ơn cứu rỗi muôn đời trong nhà Cha Cả. Amen.
----------------------------------
Sau biến cố Chúa Giêsu chịu chết và đã sống lại như một số môn đệ đã thấy, đa số các môn đệ vẫn: PS 5-A89
Sau biến cố Chúa Giêsu chịu chết và đã sống lại như một số môn đệ đã thấy, đa số các môn đệ vẫn còn bàng hoàng, buồn bã, chua thực sự an tâm: một sự kiện quá sức hiểu biết của con người! Một Đấng Tiên Tri đầy uy lực trong cả lời nói và hành động mà lại chịu chết cách nhục nhã đến thế! Tin Chúa đã sống lại cũng chưa làm cho họ an tâm và tin tưởng thực sự; và Thánh Phêrô đã phải nhiều làn lên tiếng để trấn an và củng cố đức tin: “Vinh dự cho anh em là những kẻ tin… anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để rao giảng quyền năng của Đấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người.” (1 Pr. 2, 7.9)
Tin Mừng hôm nay, Chúa nhật V mùa Phục sinh năm A (Ga. 14,1-12), Giáo Hội muốn chúng ta sống lại những giây phút cuối cùng giữa Thầy Giêsu và các môn đệ, và những gì Thầy trăn trối trước khi chia tay.
Chia ly nào chẳng ít nhiều gây buồn rầu, nuối tiếc! Hiểu được tâm trạng ấy, trong bữa ăn cuối cùng Chúa Giêsu đã phải lên tiếng trấn an các môn đệ:
- “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở” (Ga. 14,1-2)
Ông Simon Phêrô hỏi lại Thầy: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy?”
Thầy Giêsu trả lời: “Nơi Thầy đi, bây giờ anh không thể theo đến được; nhưng sau này anh sẽ đi theo.” (Ga. 13,36) “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ cho anh em rồi, Thầy sẽ trở lại đem anh em đi với Thầy, để Thầy ở đâu anh em cũng ở đó. Thầy đi đâu, anh em đã biết đường rồi” (Ga 14, 2-4)
Ông Tôma hỏi lại: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường đi!” (Ga. 14,5)
Thầy Giêsu đáp: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.”…
Như thế Chúa Giêsu là ĐƯỜNG VỀ NHÀ CHA
Điều chúng ta cần khẳng định trước tiên là chúng ta cùng ANH EM một nhà, chúng ta có một người CHA và có chung một mái NHÀ. Để về NHÀ CHA, chúng ta không có con đường nào khác hơn là CON ĐƯỜNG GIÊSU: Thầy là đường, là sự thật và là sự sống.
Nhiều lúc, con người thắc mắc không biết mình là ai? Từ đâu tới? Có mặt trên thế gian này để làm gì? Tại sao lại phải sống và chết? Tại sao phải bệnh hoạn, đau khổ…? Và nhiều vấn nạn khác nữa mà không biết bao nhiêu triết gia, bác học, khoa học… chưa tìm được lời giải thích thỏa đáng. Còn chúng ta, chúng ta tin con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Chúng ta là con cái Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương chúng ta và đã làm mọi cách để cho chúng ta được hiển vinh như Cha chúng ta ở trên trời, ngay cả việc cho Ngôi Hai, người con yêu dấu duy nhất của Ngài xuống thế gian chịu mọi cực hình khốn khổ để tìm cách cứu vớt chúng ta khỏi sự hủy diệt…
Chúng ta là anh em có một Cha chung. Người Cha nhân hậu ấy vẫn hằng mong mỏi những người con lưu lạc trở về như hình ảnh người cha nhân từ mà Chúa Giêsu đã một lần ám chỉ.
Và có lẽ cũng như Philiphê, chúng ta muốn biết hình dáng người Cha chung của chúng ta: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con.”
Và Thầy Giêsu đã trả lời: “Ai thấy Thầy là xem thấy Cha… Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy.” (Ga. 14: 8-9). Thầy Giêsu và Người Cha chung của chúng ta là một.
Sống và chết đối với chúng ta không phải không phải là đi vào cõi hư không, nhưng chỉ là một biến đổi từ trạng thái này qua trạng thái khác, là giã từ trần gian để về nhà Cha, là chờ ngày đoàn tụ với Người Cha nhờ sự sống của Anh Cả Giêsu.
Chúng ta sẽ về Nhà Cha bằng con đường nào?
Đường có nhiều loại: Có đường quanh co, thẳng tắp; có đường gồ ghề, trơn tru; có đường một chiều hai chiều; có xa lộ không đèn; có lối mòn yên tĩnh… CON ĐƯỜNG GIÊSU hẹp mà rộng, trơn tru mà sỏi đá.
CON ĐƯỜNG GIÊSU có Tin Mừng hướng dẫn chỉ đường để đi về sự sống trường sinh. Đi trên con đường đó, phải biết lách mình mà đi, phải chống chọi với nhiều thú dữ, phải canh chừng thức tỉnh với những phù phiếm xa hoa bên đường, phải vững tin bước đi theo những hướng dẫn của Tin Mừng, phải biết “vác thánh giá mỗi ngày” mà đi, phải biết gạt bỏ những dục vọng, đam mê cuốn hút… Con đường ấy rộng thênh thang nhưng có rất nhiều cạm bẫy. Mất cảnh giác là gặp phải tai nạn. Con đường thênh thang nhưng gồ ghề khúc khuỷu là thế.
Nếu có bị lạc đường, lấy đèn sáng đức tin mà đọc lại bản Tin Mừng hướng dẫn. Con đường đến với Thiên Chúa gây nhiều trở ngại và bối rối cho nhiều người. Có người vì quá bối rối mà mất cả niềm hy vọng, mất phương hướng, lạc đường. Những lúc mất phương hướng và lạc đường như thế, hãy tìm lại CON ĐƯỜNG GIÊSU, vì “Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.” Con đường Giêsu là con đường sự thật, là con đường dẫn đến sự sống.
Như thế, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta hiểu rằng không kết hợp với Ngài, không đi theo đường lối hướng dẫn của Ngài, con người sẽ khó đi đến cùng đích, sẽ khó đạt được vinh quang vĩnh hằng, sẽ khó mà vào được nhà Nhà Cha.
Chỉ khi nào chúng ta khám phá ra gương mặt của Chúa Giêsu trong mọi biến cố của cuộc đời mình, lúc đó chúng ta mới thực sự hiểu thế nào là Con đường Giêsu.
Cuộc sống của chúng ta hiện nay là một cuộc hành trình đi về Miền Đất Hứa, là một cuộc hành trình đi về Nhà Cha, một cuộc hành trình Đức tin.
Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, có những lúc chúng ta gặp khủng hoảng về đức tin. Chính những lúc như thế, cần có đức tin nâng đỡ, thì chúng ta lại buông xuôi; và cũng chính những như thế, chúng ta mời thấy lòng tin vào Thiên Chúa ở mức độ nào.
Khi gặp khủng hoảng về đức tin, điều duy nhất mà chúng ta có thể làm là bước đi trong sự kiên quyết tín nhiệm nơi Thiên Chúa.
Lòng tin đích thực giúp chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa luôn ở với chúng ta. Đó là điểm tựa, là niềm hy vọng cho cuộc sống chúng ta. Ai có đức tin đều có nguồn an ủi và niềm cảm hứng ấy, đặc biệt khi gặp cảnh bối rối.
Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống. Trong Ngài và với Ngài, chúng ta nhận ra thân phận, ý nghĩa cuộc đời mình. Ngài là phần thưởng và là cùng đích của mỗi Kitô hữu chúng ta. Chúng ta hãy bước đi trên con đường của Chúa Giêsu đã vạch ra. Sống chân lý tình yêu của Ngài. Và sống sức sống thần linh của Ngài mỗi ngày trong cuộc sống chúng ta.
Lạy Chúa, chúng con tin rằng: “ Lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa. Chúa để mắt trông coi những kẻ kính sợ Chúa, nhìn xem những ai trông cậy ân sủng của Chúa để cứu giúp họ khỏi tay thần chết và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn.” (Tv.32: 18-19). Nhờ Chúa, chúng con được cứu chuộc và trở nên nghĩa tử, xin Chúa đoái nhìn đến chúng con, những kẻ tin vào Chúa Giêsu Kitô, cho được hưởng tự do thật sự và phần gia nghiệp muôn đời nơi nhà cha trên trời.
Câu hỏi:
1. Tại sao Chúa Giêsu nói: “Trong nhà Cha thầy có nhiều chỗ ở.” Nhiều chỗ ở có ý nghĩa gì?
2. Chúa nói: “Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm.” Câu nói ấy ám chỉ gì?
3. Thánh Phêrô đã nói: “Chính anh em là như những tảng đá sống động”. Tảng đá sống động biểu tượng cho vấn đề gì?
----------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Nguyễn Đức Vinh)
Khung cảnh của bài tin mừng hôm nay thật đầm ấm. Đó là một buổi nói chuyện, chia sẻ và giáo PS 5-A90
Khung cảnh của bài tin mừng hôm nay thật đầm ấm. Đó là một buổi nói chuyện, chia sẻ và giáo huấn của Đức Giêsu cho các Tông đồ trong bầu khí thật thân thương, tràn đầy tình mến. Buổi nói chuyện hôm nay diễn ra trong tình yêu của Chúa Giêsu và sự tích cực của các Tông đồ.
Khởi đầu bài tin mừng Chúa Giêsu mời gọi các tông đồ: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”, để làm gì? để đừng xao xuyến! Lời mời gọi cho chúng ta thấy Chúa Giêsu thấu hiểu nỗi lòng của các ông, thấu hiểu những lo toan … có cả nỗi sợ hãi của cuộc sống hiện tại và tương lai mà các ông đang và sẽ trải qua. Cuộc đời con người là như thế, được dệt nên bởi những niềm vui – nỗi buồn, bởi những thành công – thất bại, bởi những hy vọng – lo lắng…, xem ra dễ dàng dẫn họ tới thất vọng, chán nản, xao xuyến và buông xuôi tất cả. Thế nhưng cuộc đời người tông đồ của Đức Giêsu thì lại không như vậy; dẫu biết rằng họ vẫn sống, vẫn trải qua những vui – buồn của kiếp người như bao người khác, nhưng tinh thần thì lại khác hẳn, vì sao? Vì họ có Chúa Giêsu đồng hành và nâng đỡ nên họ không còn xao xuyến và sợ hãi nữa, mà ngược lại họ sống đầy hy vọng bởi đã thiết lập với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu mối tương giao được đặt trên nền tảng Đức Tin.
Không ai sống mãi ở đời này, đó là chân lý mà Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo dạy chúng ta. Chân lý này không chỉ được người Kitô hữu đón nhận mà được cả nhân loại đón nhận vì thực tế cuộc sống cho thấy như vậy (mọi người đều phải chết). Ra khỏi cuộc đời này, con người trở về với Thiên Chúa là nơi mình phát xuất ra. Sự trở về đó diễn tả cho chúng ta thấy sự cần thiết của ‘con đường’, vì không có đường đi thì làm sao mà trở về?
Hình ảnh ‘con đường’ rất gần gũi, vì đó là thực tế cuộc sống mà hằng ngày mọi người đều cảm nhận sự cần thiết không thể thiếu của nó (con đường). Để có thể đi đến nơi này nơi kia, thực hiện việc này việc nọ, mọi người đều phải đi trên ‘đường’; nếu không có đường đi, con người không thể đến được nơi mình muốn đến và càng không thể thực hiện được ước muốn mà mình muốn. Từ ‘con đường’ của trần thế mà mọi người đi trên đó để đạt được mục đích của mình, đến được nơi mình muốn đến; chúng ta suy nghĩ ‘con đường về trời’ (con đường thiêng liêng); và một khi hiểu được ý nghĩa và sự cần thiết ‘phải có con đường’, chúng ta mới nhận ra và hiểu lời mà Chúa Giêsu nói hôm nay: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”.
Lời Chúa Giêsu nói và sự khẳng định của Ngài đã cho chúng ta ‘chân lý sống’, khiến chúng ta an tâm vì đã tìm được ‘con đường’ để đi, tìm được ‘sự thật’ để sống, tìm được sự sống vĩnh cửu mai sau là đích điểm chúng ta hướng đến. Tất cả những thao thức và tìm kiếm của con người cho một con đường để đi, cho một sự thật để sống đều có nơi con người Giêsu. Từ đó, chúng ta có thể nói được rằng: có Chúa là có tất cả: ‘con đường, sự thật và sự sống’; ngược lại, thiếu vắng Giêsu trong đời, con người chỉ còn bóng tối và sự trống rỗng.
Lạy Chúa, với Lời Chúa dạy hôm nay, tự vấn lại chính mình; chúng con nhận ra mình đang sống đầy sợ hãi trước những thách đố của cuộc đời: những thách đố có sức làm cho chúng con ngã gục, thất vọng và xao xuyến. Xin Chúa ban ơn thánh và giúp chúng con luôn biết đáp lại lời Chúa mời gọi: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Xin Chúa nâng đỡ và ban Thánh Thần để chúng con luôn tin nhận Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống của đời chúng con. Amen.
----------------------------------
Chúng ta thường nói: - Đã là người, thì làm bất cứ việc gì, cũng đều theo đuổi một mục đích nào: PS 5-A91
Chúng ta thường nói:
- Đã là người, thì làm bất cứ việc gì, cũng đều theo đuổi một mục đích nào đó.
Chẳng hạn tôi vất vả trên ruộng đồng là để gia đình có chén cơm manh áo. Tôi cặm cụi lao động trong nhà máy là để kiếm tiền nuôi sống gia đình. Tôi cắp sách tới trường là để trau dồi thêm những kiến thực làm giàu cho cuộc sống.
Thế nhưng, khi hỏi về mục đích của cuộc đời, nhiều người lại phân vân không biết phải trả lời như thế nào. Đúng thế, chúng ta sống trên đời là để làm gì? Câu hỏi này nhiều lúc đã ám ảnh tâm trí, để rồi chúng ta cảm thấy băn khoăn và day dứt:
- Tôi bởi đâu mà tới và rồi tôi sẽ đi về đâu?
Câu hỏi tuy đơn sơ nhưng lại vô cùng quan trọng, vì nó ấn định toàn bộ hướng đi của cuộc đời chúng ta.
Thực vậy, có những kẻ coi tiền bạc, địa vị hay vui thú phần xác là mục đích cuối cùng của cuộc sống, để rồi đầu tư mọi công sức vào đó. Họ sử dụng mọi biện pháp, kể cả những biện phát bất chánh để tìm tiền kiếm bạc, miễn sao nhét đầy túi tham của mình. Còn để leo lên ghế nọ ghế kia trong xã hội, họ không ngần ngại đạp lên người khác mà tiến thân, nhưng rồi khi phải đối đầu với cái chết, họ mới bẽ bàng nhận ra rằng mình đã lầm.
Với chúng ta thì sao? Sách giáo lý đã trả lời:
- Đời sống chính là một cuộc hành hương trở về cùng Chúa trong niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
Niềm hạnh phúc vĩnh cửu được ở bên Chúa phải là điểm tới cuối cùng và bắt buộc cho mỗi người chúng ta. Tuy nhiên, muốn được như thế, chúng ta phải sống đạo, phải bước đi trên con đường Chúa đã chỉ dạy, bởi vì đạo là đường. Con đường nào cũng có một hướng đi, con đường nào cũng dẫn tới một bến bờ.
Đạo của chúng ta được gồm tóm trong những điều Chúa truyền dạy, đó là mến Chúa và yêu người. Con đường của chúng ta là chính Chúa và con đường này sẽ dẫn chúng ta đến cuộc sống muôn đời, như lời Ngài đã phán:
- Thầy là đường, là sự thật và là sự sống.
Bởi vậy, ngay từ bây giờ, chúng ta phải lên đường và trở về cùng Chúa, đồng thời mỗi ngày sống phải là một bước chúng ta tiến đến với Chúa, mỗi tháng năm chúng ta phải chất đầy trên đôi tay nhỏ bé những công nghiệp, được kết đọng từ những hành động bác ái yêu thương, nhờ đó chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương Nước Trời. Chính những hành động bác ái yêu thương này sẽ ấn định số phận đời đời của mỗi người chúng ta. Vì thế, chúng ta có thể nói được rằng:
- Niềm hạnh phúc vĩnhcửu được ở bên Chúa đang nằm trong lòng bàn tay chúng ta, bởi vì tương lai phải được bắt đầu từ hiện tại và ngày mai phải được bắt đầu từ ngày hôm nay.
Có một bà giàu sang mơ thấy mình được đưa vào thiên đàng. Bà ta đi một vòng và nhìn thấy một tòa biệt thự huy hoàng đang được được xây dựng. Bà ta bèn hỏi thiên thần dẫn đường: - Tòa biệt thự này được xây dựng cho ai thế?
Thiên thần trả lời: - Cho người làm vườn của bà đó.
Bà ta ngạc nhiên bởi vì ở trần gian, người làm vườn của bà ta chỉ ở trong một túp lều tranh xiêu vẹo, nhỏ bé đến nỗi không có đủ chỗ cho cả gia đình bác ấy nữa. Thấy vậy, thiên thần liền nói: - Ở trần gian, bác ấy có thể khá hơn, nếu bác ấy đã không quảng đại, đã không bác ái.
Đi được một quãng, nhìn thấy một căn nhà lụp xụp cũng đang được cất lên, bà ta liền hỏi: - Căn nhà lụp xụp này được cất lên cho ai thế?
Thiên thần trả lời: - Cho bà đó.
Bà ta bực tức và nói: - Tôi quen ở nhà cao cửa rộng, làm sao chui rúc được trong một căn nhà tồi tàn như thế này.
Thiên thần đáp: - Chúng tôi đã làm hết sức mình mà chỉ được có vậy mà thôi, bởi vì vật liệu bà gửi lên quá ít.
Người đàn bà tỉnh giấc, suy nghĩ và đã tìm ra bài học của giấc mơ, đó là hạnh phúc mai sau tùy thuộc vào những hành động bác ái yêu thương mình làm khi còn sống ở trần gian. Vì thế, kể từ ngày ấy, bà ta đã ra sức lập công, tích lũy cho mình một kho tàng thiêng liêng trên trời.
Bởi đó, hãy sống thế nào để trong này sau hết, chúng ta sẽ được Chúa mời gọi:
- Hời nhưng kẻ đã được Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh nhận phần thưởng nước trời đã được dành sẵn cho các con.
Hãy sống thế nào để ngày sau hết, chúng ta sẽ được nghe lời Chúa phán:
Thầy ở đâu, các con cũng sẽ được ở đó với Thầy.
----------------------------------
“Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” -- Gioan 14:1-3
Bài đọc này của Phúc Âm Gioan thường được dùng ở đám tang để nói lên sự hy vọng của mỗi một: PS 5-A92
Bài đọc này của Phúc Âm Gioan thường được dùng ở đám tang để nói lên sự hy vọng của mỗi một người có một chỗ ở trong tình thương của Thiên Chúa khi nhắm mắt lìa trần vì đó là lời hứa của Đấng đã Phục Sinh, một chỗ ở được hứa hẹn vì công nghiệp của Ngôi Lời Nhập Thể. Tuy nhiên, bài đọc này không chỉ dành cho người quá cố mà cho tất cả mọi người chúng ta. Như vậy đối với chúng ta là những người còn sống, Thánh Sử Gioan muốn nhắc nhở gì qua bài đọc này và Con Một Thiên Chúa hứa hẹn gì với mỗi người chúng ta? Hơn nữa, “chỗ ở” mà Chúa Giêsu nhắc đến là chỗ nào? Nó có chiếm một phần nào trong không gian, và chúng ta có được chạm đến “chỗ ở” đó khi còn sống, hay nó là một nơi mơ hồ mà chúng ta chẳng bao giờ nghĩ đến và để mặc cho linh hồn chúng ta tự đi tìm lấy khi nó lìa trần?
Trước hết, là Kitô Hữu chúng ta được mời gọi tham dự vào sự Phục Sinh của Chúa Giêsu và sống niềm vui Phục Sinh trong tâm tình tin, cậy, và mến. Chúng ta cũng đừng để tâm hồn ta xao xuyến nhưng hãy tin rằng chúng ta sẽ có một chỗ ở ngay khi còn sống. Phải chăng “chỗ ở” mà Chúa Giêsu ám chỉ ở đây chính là tâm hồn của mỗi người. Có lẽ đây là điều mà Thánh sử Gioan muốn nhắm tới và là điều Chúa Giêsu ao ước cho mỗi người chúng ta. Chúng ta sẽ có một chỗ trong con tim của những người mà chúng ta gặp hàng ngày; cũng thế, trong con tim của chúng ta sẽ có chỗ cho những người chúng ta gặp trong cuộc sống.
Trong tâm tình sống mầu nhiệm Phục Sinh, tâm hồn chúng ta sẽ là chỗ nương tựa cho nhau, nơi chúng ta cùng nhau chia sẻ niềm vui và nỗi buồn của hành trình làm người, nơi mà chúng ta thật sự đón tiếp người thân cũng như kẻ qua đường với một con tim rộng mở và bao dung. Chúng ta sẽ không nhìn họ với thành kiến riêng tư, với những hờn giận, với những ý nghĩ so sánh và ích kỷ, với những thèm muốn nhục dục và sắc diện ngoại hình, hoặc với những ham muốn thoả mãn bản thân. Nhưng trước tiên chúng ta sẽ biết dành một chỗ trong con tim của mình cho người chúng ta gặp và tôn trọng phẩm giá con người của họ.
Chúa Giêsu đã hứa là Ngài sẽ đi dọn chỗ cho chúng ta, và đúng vậy, qua mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, Thiên Chúa Con sẽ đến và chính Ngài sẽ dọn sạch tâm hồn của mỗi người hầu chúng ta biết nhận ra hồng ân của Thiên Chúa nơi mỗi người. Mặc dầu được dọn sạch tâm hồn của chúng ta là điều mà Chúa Giêsu hằng mong ước, Ngài cần sự hợp tác của chúng ta qua sự tự do lựa chọn của mỗi người. Có lẽ câu hỏi cấp bách mà chúng ta nên tự hỏi chính mình đó là "Chúng ta có thật sự muốn cho tâm hồn chúng ta được sạch không?" (cf. Lc 5:12-13).
Chúng ta có muốn gạt đi thành kiến của mình để biết nhìn mọi sự như nó cần được nhìn không? Chúng ta có muốn đón nhận bạn bè trong tâm tình tha thứ mặc dầu chúng ta chưa quên đi điều mà chúng ta chưa hài lòng không? Chúng ta có muốn đón nhận hành trình thiêng liêng của con cái trong tâm tình tri ân hay còn muốn bám lấy thất vọng trong sự ích kỷ vì chọn lựa của chúng không như ta mong muốn? Chúng ta có muốn quên đi chính mình để đón nhận tài năng và vẻ đẹp của kẻ khác hay lòng chúng ta còn ham muốn những gì không thuộc về mình? Chúng ta muốn nhìn người khác trong hồng ân tạo dựng hay chúng ta còn muốn dùng họ để thoả mãn chính mình cho dù đó là những khao khát thầm kín bên trong?
Thật vậy, khi lòng chúng ta chưa sẵn sàng để được dọn sạch vì một lý do nào đó thì Chúa Giêsu luôn bên cạnh trông chờ ngày chúng ta cho ánh sáng Phục Sinh len vào hầu Ngài có thể dọn tâm hồn chúng ta. Vì ngày nào chúng ta chưa muốn Đấng Phục Sinh giải phóng chính mình thì ngày đó chúng ta còn xiềng xích chúng ta và người khác vào những thành kiến, ganh tị, so sánh, dục vọng của mình, và tâm hồn chúng ta chẳng có chỗ cho người mà đang cần sự đón nhận đích thực của chúng ta.
Nguyện xin niềm vui và ánh sáng Phục Sinh len lỏi vào tâm hồn và giải thoát chúng ta hầu tâm hồn của chúng ta trở nên Đền Thờ của Thiên Chúa, nơi mà lời hứa của Chúa Giêsu trở thành hiện thực. Tâm hồn chúng ta sẽ là chỗ mà Thiên Chúa gặp gỡ người khác, là nơi hẹn hò giữa Chúa Giêsu và những ai khao khát được tìm thấy và ở bên Ngài. Amen!
Củ Khoai
----------------------------------
Con đường tơ lụa được biết tới là con đường giao thoa của các nền văn hoá giữa Châu Á và Châu: PS 5-A93
Con đường tơ lụa được biết tới là con đường giao thoa của các nền văn hoá giữa Châu Á và Châu Âu. Bắt đầu từ các thành phố lớn của Trung Quốc như Phúc Châu, Hàng Châu, Bắc Kinh, rồi đến các nước Mông Cổ, Ấn Độ, Afghanistan, Kazakhstan, Iran, Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp xung quanh vùng Địa Trung Hải và đến tận Châu Âu. Con đường kéo dài tới cả Hàn Quốc và Nhật Bản với tổng chiều dài khoảng 6.437 km.
Trung Quốc là nước đầu tiên tìm ra cách trồng dâu nuôi tằm, lấy kén ươm tơ,dệt lụa sớm nhất trên thế giới vào thế kỷ 3 trước Công Nguyên. Tơ lụa thời đó được dành riêng cho vua chúa và hàng quí tộc, sau này lụa tơ tằm được đưa đi các vùng. Con đường tơ lụa dần dần được hình thành từ đó.
Trường An ( nay là Tây An ) là nơi các thương gia Trung Hoa tập kết hàng hóa, tơ lụa, để chuẩn bị cho những chuyến buôn bán lớn qua Con đường tơ lụa. Người Trung Hoa mang vải lụa, gấm vóc, sa, nhiễu… đến Ba Tư và Rôma. Đồng thời những doanh nhân các vùng khác cũng tìm đường đến với Trung Hoa vì sự nổi tiếng của lụa là gấm vóc nơi đây.
Thời kỳ đầu, những bậc đế vương và những nhà quý tộc của Rôma thích lụa Trung Hoa đến mức họ cho cân lụa lên và đổi chỗ lụa đó bằng vàng với cân nặng tương đương. Chuyện cũng nói rằng Nữ hoàng Ai Cập Cleopatra lúc đó chỉ diện váy lụa Trung Quốc mà thôi. Chính trị thời đó cũng có ảnh hưởng lớn đến Con đường tơ lụa, nó trở thành chiến trường đẫm máu với mong muốn kiểm soát kinh tế để bành trướng thế lực tại Trung Quốc. Nhưng đến thời nhà Minh, Con đường tơ lụa đã bị vương triều này khống chế và bắt mọi người phải nộp thuế rất cao, khiến cho những thương gia phải tìm đến những con đường vận chuyển khác bằng đường biển.
Con đường tơ lụa trên đất liền tồn tại khá lâu, rồi suy tàn dần theo năm tháng. Người ta thiết kế con đường khác an toàn, dễ dàng và thuận tiện hơn trên biền. Nhưng cũng không thoát khỏi nguy nan như phong ba bão táp, hay chiến tranh bùng nổ cắt đứt con đường thông thương này. Trong khi đó, hơn 2.000 năm nay, Đức Giêsu đã tuyên xưng: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” ( Ga 14, 6 ). Một con đường duy nhất dẫn con người đến hạnh phúc vĩnh cửu, với nhiều đặc tính vượt trội, mà không con đường nào sánh được.
Tuy vậy, Đức Giêsu cảnh báo con đường của Người chật hẹp, quanh co, khúc khuỷu, gập ghềnh, lên thác xuống đèo, cheo leo, gai góc, phải chiến đấu liên lỷ, khi dám can đảm chọn lựa: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” ( Mt 7, 13 – 14 ).
Con đường cải lão hoàn đồng
Nhân chi sơ tính bản thiện, Đức Giêsu luôn mời gọi mọi người lên đường, trở nên trẻ trung, đơn sơ, tốt lành, như trẻ em ngây thơ, trong sáng, khiêm tốn, đơn sơ, vô tư, phó thác, không chút mưu mô, gian dối, xảo quyệt, hay kiêu căng, ngạo mạn: "Thầy bảo thật anh em: Nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ em, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” ( Mt 18, 3 ).
Người còn nhủ với mọi người qua ông Nicôđêmô. con đường tái sinh: "Thật Tôi bảo thật cho ông hay: “Nếu ai không tái sinh bởi Nước và Thánh Linh, sẽ không được vào Nước Thiên Chúa" ( Ga 3, 5 ). Nhiệm Tích Thánh Tẩy do Đức Giêsu thiết lập và truyền cho Giáo Hội thực hiện, để thông ban cho mọi người được ơn tái sinh trở nên con cái Chúa và Giáo Hội, nhờ Nước và Thánh Thần.
Thánh Phaolô giải thích cặn kẽ về con đường canh tân đổi mới: “Không phải vì tự sức mình chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Người thương xót, nên Người đã cứu chúng ta, nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới” ( Tt 3, 5 ).
Con đường Tình Yêu
Con đường Đức Giêsu hướng dẫn và đồng hành luôn bừng sáng, choáng ngập Tình Yêu: “Vì Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ, thích được các ngươi nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu” ( Hs 6, 6 ).
Với Tình Yêu nồng nàn, Đức Giêsu luôn làm đẹp lòng Đức Chúa Cha ( x. Mt 3, 17 ), cũng như luôn vâng phục ý Cha cho đến hiến mạng sống, phản ảnh một tình yêu tuyệt đối ( x. Pl 2, 8 ). Ngài cũng yêu con người bằng một tình yêu tột đỉnh, tình yêu chí nhân, chí ái: "Người đã yêu thương họ cho đến cùng" ( Ga 13, 1 ).
Tình yêu liên kết mật thiết giữa Đức Chúa Cha và Đức Chúa Giêsu với con người: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” ( Ga 14, 23 ). Cũng như Tình Yêu biến đổi tất cả mọi người đều trở thành huynh đệ thắm thiết: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu anh em” ( Ga 14, 34 ).
Tình yêu dấn thân, xả kỷ vị tha: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta” ( Mc 8, 34 ). Tình yêu hóa giải, xóa tan chia rẽ, oán cừu, thù hận: “Các con hãy yêu thương thù địch và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con” ( Mt 5, 43 – 44 ). Tình yêu phục vụ: “Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” ( Ga 13, 14 – 15 ).
Con đường hồi hương
Trước cuộc chia ly tử biệt, Đức Giêsu mặc khải con đường quan trọng duy nhất Người dẫn đoàn chiên về: “Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy dọn chỗ cho anh em” ( Ga 14, 2 ).
Hồi hương về với quê nhà đích thật, nguồn cội và cứu cánh của con người: “Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em.” ( Ga 20, 17 ).
Về với Nước Trời còn là cùng đích con người: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” ( Mt 6, 33 ).
Con có một lý tưởng: hướng về Chúa Cha, một người Cha đầy yêu thương. Cả cuộc đời Chúa Giêsu, mọi tư tưởng, hành động, đều nhắm một hướng: “Để thế gian biết Thầy yêu mến Đức Chúa Cha và Đức Chúa Cha yêu mến Thầy…” – “Những gì đẹp lòng Đức Chúa Cha thì Thầy thực hiện luôn” ( Đường Hy Vọng, số 990 ).
Lạy Chúa Giêsu, Ngài là con đường dẫn về Quê Hương yêu dấu, xin giúp chúng con can đảm chọn và theo Ngài, tái sinh, trẻ hóa, tình yêu chân thật, cùng luôn hướng về quê Cha Nhân Lành.
Lạy Mẹ Maria, chúng con kính xin Mẹ luôn khích lệ, an ủi và đồng hành cùng chúng con trên con đường hồi hương hạnh phúc viên mãn. Amen.
AM. TRẦN BÌNH AN
----------------------------------
Lòng các con đừng xao xuyến.
Mặc dù Chúa Giêsu đã khuyên chúng ta như thế, nhưng nhìn vào đời sống chúng ta cảm thấy có PS 5-A94 Lượng
Mặc dù Chúa Giêsu đã khuyên chúng ta như thế, nhưng nhìn vào đời sống chúng ta cảm thấy có rất nhiều băn khoăn lo lắng. Trước hết chúng ta băn khoăn lo lắng về tiền bạc. Phải lo cho mình, cho gia đình mình có đủ những phương tiện sinh sống, phải tiết kiệm phòng khi nghèo túng, tai ương bệnh hoạn. Đó là sự khôn ngoan của người biết lo xa. Tuy nhiên không nên lo lắng thái quá, vì trời sinh voi sinh cỏ. Chim trời không gieo không gặt mà chẳng con nào bị chết đói, hoa cỏ đồng nội không dệt không may, mà áo cẩm bào của Salomon vẫn chẳng thế nào sánh nổi. Hơn nữa, lời Chúa còn đem lại cho chúng ta niềm an ủi và khích lệ: Hãy tìm kiếm Nước Trời trước đã còn mọi sự khác Chúa sẽ ban cho sau.
Tiếp đến chúng ta băn khoăn lo lắng về địa vị và danh vọng. Khi chưa có địa vị, chúng ta bon chen tìm đủ mọi cách để tìm kiếm cho mình chỗ đứng ngoài xã hội. Khi đã có rồi, chúng ta lo gây phe cánh, để duy trì chức vị đó. Nhưng chúng ta nên nhớ danh vọng chính là của đồng lần thiên hạ tiêu chung, nay thuộc về ta và mai thuộc về người. Hơn nữa, như lời Chúa đã phán: Ai đong đấu nào thì sẽ được đong lại bằng đấu ấy. Gieo gió thì gặt bão. Một khi đã có những hành vi tội ác, thì lương tâm sẽ bị cắn rứt, và công lý sẽ lên án phạt.
Nhưng có lẽ cái làm cho chúng ta băn khoăn lo lắng nhất chính là sự chết. Thực vậy, đã là người thì ai cũng phải chết. Cái chết ở trước mặt người già và ở sau lưng người trẻ. Nếu như thế thì băn khoăn lo lắng mà làm chi. Thực sự, chúng ta không lo mình sẽ phải chết, nhưng lo về những điều xảy ra sau khi chết, chẳng hạn như sợ bị Chúa phán xét, sợ hậu quả không hay do đời sống tội lỗi và bê bối. Đây mới là nỗi băn khoăn và lo lắng chính đáng. Tuy nhiên, để khỏi băn khoăn lo lắng thì ngay từ giờ, chúng ta hãy sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương.
Szécheny người Hung Gia Lợi và là một nhân vật nổi danh. Ngày kia ông đang tắm trên bờ biển thì thình lình bị sóng cuốn đi. Ông ra sức bơi, hai tay chống cự nhưng sóng gió cứ đẩy ông vào chỗ nước xoáy. Trong lúc thất vọng và tưởng rằng mình sẽ bị cuốn trôi, ông nghĩ rằng mình mới xưng tội và rước lễ, và ông cảm thấy an tâm ra sức chống đỡ và sau cùng đã thoát nạn.
Trái lại biết bao người tội lỗi, không giục lòng ăn năn, đã thực sự hoảng sợ khi tử thần đến gõ và đã chết một cách bàng hoàng kinh hãi. Hãy tin tưởng vào Chúa bằng cách khử trừ tội lỗi, thực hiện bác ái yêu thương, nhờ đó mà cuộc đời chúng ta sẽ không còn băn khoăn lo lắng.
----------------------------------
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Ông Philipphê xin với Thầy Giêsu: "Xin cho chúng con thấy Chúa Cha" (Ga 14,8). Khao khát của PS 5-A95
Ông Philipphê xin với Thầy Giêsu: "Xin cho chúng con thấy Chúa Cha" (Ga 14,8).
Khao khát của ông cũng là khao khát của biết bao người, những người thiện chí không ngừng tìm kiếm Thiên Chúa, Đấng mà họ gọi bằng những tên khác nhau: Đấng Tối Cao, Đấng Tuyệt Đối, Đấng vượt trên mọi danh...
Con người muốn bắc một nhịp cầu với Đấng siêu việt, muốn có cảm nghiệm và tương quan với Tạo Hóa.
Thiên Chúa đã đáp lại khát vọng Ngài gieo nơi lòng người khi cho Con Một Ngài làm người, ở giữa chúng ta.
Nơi Đức Giêsu Kitô, chúng ta gặp được Thiên Chúa, dễ gần, dễ thấy, dễ quen.
Thiên Chúa đâu chỉ ở nơi cao thẳm ngàn trùng, Thiên Chúa hiện diện nơi con người Đức Giêsu khiêm hạ. Giữa Ngài và Thiên Chúa Cha có một gắn bó lạ lùng đến nỗi Đức Giêsu dám nói: "Ai biết Thầy là biết Cha" (14,7) "Ai thấy Thầy là thấy Cha" (14,9) vì "Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy"(14,10).
Lời nói và việc làm của Đức Giêsu chính là lời nói và việc làm của Thiên Chúa (14,10). Toàn bộ cuộc đời Đức Giêsu được Cha chiếm ngự. Ngài như tấm gương trong suốt, phản chiếu khuôn mặt và trái tim Thiên Chúa, đầy nhân ái và bao dung với hết mọi người.
Làm Kitô hữu là làm người như Đức Giêsu Kitô, là trở nên một Giêsu khác cho con người hôm nay, là ước ao nói được rằng: "Ai biết tôi là biết Đức Kitô, ai thấy tôi là thấy Đức Kitô."
Như thế cũng là biết và thấy Thiên Chúa.
"Xin cho chúng con thấy Chúa Cha"
Xin dẫn chúng con đến gặp Thiên Chúa Cha.
Đức Giêsu không phải chỉ là người đưa đường dẫn lối; Ngài tự nhận mình là Con Đường, thậm chí là Con Đường độc nhất dẫn đến Cha: "Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy" (14,6). Mọi con đường cứu độ đều phải đi vào Con Đường Giêsu.
"Thiên Chúa không ban một danh nào khác dưới bầu trời,
để nhờ danh đó mà chúng ta được ơn cứu độ" (Cv 4,12).
Nhân loại được cứu độ nhờ Danh Đức Giêsu, kể cả những ai không biết Ngài - tuy không do lỗi của họ - nhưng đã sống theo những đòi hỏi của lương tâm.
Đức Giêsu đã về với Chúa Cha trong vinh quang phục sinh, sau khi đã sống một đời yêu thương tự hiến. Cuộc đời Đức Giêsu trở thành con đường cho chúng ta đi.
Khi chiêm ngắm Ngài trong Tin Mừng, chúng ta biết mình phải nghĩ gì, nói gì, làm gì.
Khi đi vào Con Đường Giêsu, chúng ta cũng trở nên nẻo đường cho con người hôm nay, nẻo đường dẫn đến Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
1. Người ta thường nói đạo nào cũng như đạo nào, đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành. Còn bạn, tại sao bạn là Kitô hữu? Đức Giêsu có gì đặc biệt khiến bạn chọn theo?
2. Có khi nào bạn thấy mình bị lạc hướng không? Cách sống của Đức Giêsu trong Tin Mừng có khi nào giúp bạn tìm thấy hướng giải quyết không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, Cha muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý, chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.
Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người chưa nhận biết Đức Giêsu, họ cũng là những người đã được cứu chuộc.
Xin Cha thôi thúc nơi chúng con khát vọng truyền giáo, khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc, niềm vui và bình an của mình cho tha nhân, và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.
Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất để loan báo Tin Mừng.
Chúng con chỉ xin đến với những người bạn gần bên, giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài, qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.
Chúng con cũng cầu nguyện cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.
Xin Cha cho những cố gắng của chúng con sinh nhiều hoa trái. Amen.
----------------------------------
(Suy niệm của Daniel J. Harrington. SJ. – Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
“Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14,9).
Vào phần 2 mùa Phục sinh, những câu hỏi chính được đặt ra cho mọi người: “Làm sao lưu giữ được PS 5-A96
Vào phần 2 mùa Phục sinh, những câu hỏi chính được đặt ra cho mọi người: “Làm sao lưu giữ được những kỷ niệm sống động về Đức Giêsu? - Làm sao để những công việc Đức Giêsu đã thực hiện và khơi mào trước đây, được tiếp nối sau khi Ngài chết và trở về với Chúa Cha?”. Để trả lời những câu hỏi này, chúng ta hãy trở về với những chỉ dẫn nơi bài huấn từ của Đức Giêsu trong bữa tiệc ly mà Thánh Gioan đã ghi lại (Ga 14,17). Bối cảnh của bài diễn từ này nằm trong bữa tối cuối cùng với các môn đệ, trước khi Chúa Giêsu thọ nạn. Đức Giêsu đã nhắn gửi những học trò thân thiết của mình, cách thức lưu giữ những kỷ niệm về Ngài và thực hiện sứ mạng Ngài trao phó. Những chỉ huấn này vẫn thức thời và luôn mang tính thời sự cho Giáo hội trong mọi thời đại, đặc biệt cho chúng ta ngày hôm nay.
Khởi đầu bài diễn từ, Đức Giêsu và các môn đệ đã trò chuyện với nhau. Trong mẩu đối thoại đó, Ngài đưa ra một khẳng quyết. Một môn đệ đã bình phẩm, hiểu sai điều Chúa giáo huấn.Vì thế, Chúa Giêsu đã nói những lời dạy bảo rõ nét hơn và tích cựu hơn về chính Ngài.
Trong bài Tin Mừng hôm nay trích trong Gioan chương 14, Đức Giêsu thoạt đầu nói về việc đi dọn chỗ cho các môn đệ, và chỉ cho các ông đâu là lối đường đưa họ đến đó. Tôma cắt ngang và hỏi Chúa, “Chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường đi”. Đức Giêsu trả lời, chỗ đó chính là tình trạng “chúng ta được sống với Chúa Cha”, và “Ngài chính là con đường đi, là sự thật và là sự sống”.
Rồi đến lượt Philip, Ông ta nói với Chúa là hãy cho họ thấy Chúa Cha, và điều đó cũng đủ rồi. Điều này không giản đơn, có gì đó xem ra có vẻ ngô nghê và hơi khó chịu. Tuy nhiên, yêu cầu của Philip đã khiến đức Giêsu truyền đạt cho các học trò của mình nhãn quan sâu xa nhất và thâm thúy nhất được diễn đạt trong suốt Tin mừng của Thánh Gioan. “Ai thấy Thầy là thấy Cha”. Sứ điệp mà Gioan nhắm tới, là trình bày Đức Giêsu vừa như là người khải thị về Chúa Cha, vừa là hiện thân của chính Chúa Cha. Nếu ta muốn biết Thiên Chúa là ai, Thiên Chúa nghĩ gì, và Thiên Chúa muốn gì nơi ta, chúng ta phải đến với đức Giêsu, Ngôi Lời của Chúa Cha.
Đức Giêsu chính là “Lời” của Thiên Chúa được gởi trao cho con người, nên những gì chúng ta biết và nhớ về Ngài, sẽ trở nên rất quý báu. Bởi lẽ khi chúng ta biết Đức Giêsu là chúng ta biết Chúa Cha. Đối với chúng ta là những kẻ tin, cũng như đối với toàn thế Hội Thánh, việc cần thiết phải làm là lưu giữ những kỷ niệm về Chúa Giêsu cho thật sống động. Chúng ta làm được điều đó, bằng việc đọc và gẫm suy Lời Chúa, bằng việc cùng nhau cử hành Thánh Thể để tưởng nhớ đến đức Giêsu, bằng việc thực hành những truyền thống đức tin của Hội Thánh, và cùng nhau sống theo những chỉ dạy khôn ngoan của chính Ngài. Những kỷ niệm về đức Giêsu sẽ đưa dẫn chúng ta hướng về giá trị cao quý của cuộc sống làm người, sẽ giúp chúng ta loại trừ những hành vi sai trái, sẽ làm cho chúng ta ý thức tầm quan trọng của một tình yêu vị kỷ, biết yêu thương cả những kẻ thù, sẽ công bố cho mọi người biết rằng chết không phải là hết, và sẽ giúp chúng ta xác tín rằng trong Đức Giêsu, tình yêu và sự sống sẽ chiến thắng hận thù và cái chết.
Giữ mãi kỷ niệm về đức Giêsu cho thật sống động, là một thách đố lớn nhất cho chúng ta trong mùa Phục sinh. Về vấn đề này, Giáo hội với những định chế của mình đóng một vai trò chủ đạo và quan trọng. Bài đọc ngày hôm nay trong sách Công vụ tông đồ chương 6, cho chúng ta thấy được các Kitô hữu buổi sơ khai đã áp dụng những định chế cụ thể. Trường hợp các bà góa trong xã hội theo văn hóa Hy Lạp ngày xưa thời giáo hội sơ khai, là một ví dụ. Để giải quyết, nhóm 12 tông đồ đã chỉ định 7 người Hy Lạp (có lẽ là phó tế?) để chăm sóc cho họ và cho những người khác. Sự kiện này cho thấy Giáo hội ban đầu đã thiết định những quy chế để áp dụng, và Giáo hội vẫn giữ mãi những kỷ niệm về Chúa Giêsu cách sống động. Kết quả là Lời của Chúa vẫn tiếp tục được tỏa rộng.
Trong thân thể mầu nhiệm đức Kitô, chúng ta được chuyển giao để thủ đắc một căn tính mới và một phẩm giá mới. Các Kitô hữu gốc dân ngoại, được nói tới trong thơ thứ nhất của Thánh Phêrô, vẫn bị coi như là nhửng người bị gạt ra bên ngoài, trên phương diện chính trị và xã hội. Nhưng Thánh Phêrô đã mặc cho họ một tước hiệu ấn tượng nhất như tước hiệu dành cho dân Israel thời cựu ước. Qua phép rửa nhân danh Đức Giêsu, họ trở thành “ Một dân được tuyển chọn, thuộc hàng tư tế vương giả, chủng tộc thánh thiện, là dân riêng của Chúa”. Công việc của họ bây giờ là làm chứng tá về đức Giêsu, như một viên đá sống động, bị con người loại bỏ nhưng được tuyển chọn và trở nên quý giá trong con mắt của Thiên Chúa. Những con người đã một thời lưu lạc chẳng còn dân tộc, nay đã là dân của Thiên Chúa. Họ kết liên với nhau để cho mọi người biết cách thức Thiên Chúa đã kêu gọi họ thoát khỏi vùng tối tăm đến nơi đầy ánh sánh huy hoàng như thế nào.
Giữ mãi những kỷ niệm về Chúa Giêsu một cách sinh động là bổn phận của mọi Kitô hữu và của cả Hội Thánh. Nếu chúng ta thật sự tin rằng Đức Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống, chúng ta sẽ biết khám phá ra những cách thức mới mẻ và đầy sáng tạo để lưu giữ mãi những kỷ niệm sống động về Ngài. Nếu chúng ta thật sự tin rằng “Ai thấy và nghe Đức Giêsu, chính là nghe và xem thấy Chúa Cha”, thì việc lưu tồn những kỷ niệm sống động về Ngài sẽ là một công việc quan hệ nhất và ý nghĩa nhất mà mỗi người chúng ta có thể và phải đem ra thực hành.
----------------------------------
Có người cho rằng tiền quí nhất, có người cho rằng tình yêu quí nhất hoặc quyền lực, danh vọng PS 5-A97
Có người cho rằng tiền quí nhất, có người cho rằng tình yêu quí nhất hoặc quyền lực, danh vọng quí nhất... Nhưng theo tôi, cái quí nhất chính là sự sống, cho dù có tất cả mọi thứ nhưng khổ nỗi mình đang mắc chứng bệnh ung thư giai đọan cuối thì sao? Chắc chắn sự sống là quí nhất.
Người ta làm tất cả mọi việc chỉ để sống. Nhưng rất tiếc sự sống ở đời này lại quá ngắn ngủi. Vì thế, vua Tần Thủy Hoàng đi tìm thuốc trường sinh bất tử, vì ông ta muốn có sự sống đời đời. Hôm nay Chúa Giêsu bảo đảm cho chúng ta một cuộc sống vĩnh cửu và hạnh phúc, nếu chúng ta đi trên con đường của Chúa, vì Chúa là đường dẫn chúng ta tới sự sống đời đời. Đối với các nhà thám hiểm, các hoa tiêu, các phi công thì vấn đề phương hướng rất quan trọng! Đi đúng đường, đúng hướng là có hy vọng tới đích, đi lạc đường là nguy hiểm đến tính mạng của mình và của bao nhiêu người khác nữa.
Năm 1989 chiếc phi cơ hàng không dân dụng của Nam Triều Tiên lạc đường vào lãnh thổ Liên Xô. Hậu quả, máy bay bị bắn hạ làm mọi người chết hết. Có đi đúng đường, đúng hướng mới về đích an toàn. Đường dẫn đến sự sống đời đời chỉ có một. Ai tìm được là sống, ai lạc đường sẽ mất sự sống.
Con đường của Chúa đi không trải bằng những thảm hồng và nhung lụa, nhưng là con đường thập giá, đòi hỏi phải hy sinh và từ bỏ. Thường thì ai ai cũng muốn chọn cho mình con đường dễ đi của hưởng thụ, sung sướng cho bản thân, nhưng lại bất chấp mọi điều gian ác, tội lỗi. Người ta sợ đi trên con đường của Chúa vì phải hy sinh và từ bỏ.
Sự sống trường sinh mà Chúa ban cho ta phát xuất từ tình yêu và cái chết đau thương trên thập giá. Thập giá và sự phục sinh không tách rời nhau nhưng gắn liền với nhau. Có con đường thập giá thì mới có con đường phục sinh vinh quang. "Sống là chết mà chết là sống". Sống là từng ngày chết đi con người cũ tội lỗi để trở thành con người mới trong Chúa. Cái chết từng phần mà mỗi ngày chúng ta gọi là hy sinh chính là điều kiện để đạt đến sự sống đời đời. Đó là sự sống của chính Chúa. Nếu Đức Kitô đã chết và đã sống lại thì chúng ta cũng sẽ chết và sống lại với Ngài.
Trong một xã hội hưởng thụ như ngày nay, cái lợi trước mắt vẫn hơn, vinh hoa phú quí, tiền của, tình dục, dang vọng đang cung ứng cho mình thì mình cứ hưởng thụ, tương lai hậu xét. Nhiều người còn nghĩ rằng; chắc gì có tương lai, có đời sau. Nếu không có đời sau thì những phấn đấu nỗ lực của con người thật vô nghĩa và đáng thương, rốt cuộc rồi cũng chết như con vật sao? Không, chính Chúa Giêsu sống lại là niềm tin và là con đường dẫn chúng ta đến sự sống đời đời. Khi chết rồi chúng ta được gì chứ? Tiền của chăng? danh vọng chăng? Tất cả mọi sự đều là phù vân. Chỉ có chúa là đường dẫn chúng ta đến sự sống đời đời thôi. "ngay trong đêm nay người ta lấy linh hồn ngươi thì tất cả những của cải ngươi tích trữ sẽ về tay ai".
Là người kitô hữu, tôi tin rằng có Chúa Giêsu là đường dẫn tôi đến sự sống đời đời, vậy niềm tin này thúc bách tôi có thái dộ sống thích hợp hơn, hãy coi ngày hôm nay là ngày cuối đời. Cuộc sống đời này vẫn tốt đẹp và hạnh phúc nhưng nó không phải là điểm dừng của chúng ta. Đời sau có được hạnh phúc trên thiên đàng hay phải trầm luân trong hỏa ngục là tùy cách sống hiện tại của mọi người.
Vậy ngay từ bây giờ, chúng ta hãy bám lấy Chúa Giêsu là đường dẫn chúng ta đến sự sống đời đời. Để được như vậy chúng ta nên áp dụng phương châm sau đây: tạo vật nào đưa chúng ta đến với chúa thì chúng ta sử dụng, ngược lại tạo vật nào ngăn cản chúng ta đến với chúa thì ta không dùng nó"
Thế thì để có một cuộc sống trường sinh bất diệt chúng ta cần phải làm gì? Tôi thiết nghĩ chẳng có cách nào hơn là chúng ta phải sống theo đường lối của Chúa dạy: đó là mến Chúa và yêu người. Mến Chúa qua việc giữ những điều Chúa dạy, siêng năng tham dự thánh lễ, lãnh nhận các bí tích...Yêu người được thể hiện qua cuộc sống hằng ngày yêu thương người nghèo đó là điều kiện để chúng ta được sự sống đời đời.
Chúa không cần chúng ta làm những việc to tát, nhưng là những việc rất nhỏ, tầm thường với một tình yêu chân thành.
Lạy Đức Kitô phục sinh, Ngài là đường để con bước đi, là sự thật để con tín thác, là sự sống để con no thỏa, và là điểm hẹn để con gặp gỡ trong niềm vui muôn đời.
Tin vào sự phục sinh của Chúa cũng chính là tin vào sự phục sinh của con, để con không quản ngại trên đường thập giá, không nao núng dấn thân cho sự thật, không sợ chết đi cho sự sống. Amen.
----------------------------------
Suy niệm của Barbara E. Reid
(Barbara E. Reid, nữ tu Đa Minh, giáo sư môn Tân Ước tại Đại học Công giáo ở Chicago. Bà cũng là trưởng khoa và là phó viện trưởng tại trường đại học này. – Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
“Tâm hồn anh em đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và cũng hãy tin vào Thầy” (Ga 14,1)
Có nhiều người được phú ban khả năng đặc biệt. Đó là, họ vẫn giữ được bộ dạng thanh thản, an bình, PS 5-A98
Có nhiều người được phú ban khả năng đặc biệt. Đó là, họ vẫn giữ được bộ dạng thanh thản, an bình, ngay cả trong những thời điểm khốn khó nhất. Họ không có vẻ căng thẳng hay cảm thấy phiền toái, dù bên trong họ vẫn phải đắng lòng gánh lấy những bầm dập và nghiệt ngã. Không phải chỉ vì họ là những con người lạc quan, biết nhìn ra những khía cạnh tích cực trong mọi trạng huống. Cũng không phải vì họ biết khôn khéo giải quyết sự việc khi nhìn vào những khổ đau hoặc bất công người khác phải gánh chịu sau đó được minh oan. Nhưng trên hết, niềm vui sẽ được hiện lộ ra bên ngoài rõ ràng khi họ biết nhìn thực tại bằng một cặp mắt cắm sâu trong niềm hy vọng, và hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa. Họ có thể biểu tỏ trạng huống tâm hồn họ theo cách thức sâu xa mà Đức Giêsu đã khuyến mời các môn đệ thực hành trong bài Tin Mừng hôm nay: “ Tâm hồn anh em đừng xao xuyến”. Bạn có bao giờ gặp những con người như vậy không? Hay có thể chính bạn là con người như thế?
Trong Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu không chỉ khuyên mời các học trò của mình hãy để tâm hồn của họ tĩnh lặng, đừng lo lắng, nhưng Ngài còn vạch dẫn cho họ cách thái để đạt được điều ấy. Bối cảnh câu chuyện xảy ra trong bữa tiệc ly, các môn đệ có nhiều lý do khiến họ lo âu, buồn sầu. Đức Giêsu nói với họ về viễn cảnh sẽ đi xa, xa thật xa, sẽ bị trao nộp, và sẽ bị phản bội bởi hai người bạn thân tín nhất. Các môn đệ nhốn nháo hỏi nhau, Ngài sẽ đi xa, nhưng đi đâu? Làm sao họ biết con đường Ngài đi để có thể cùng đi với Ngài. Tin mừng Marcô đề cập đến vấn đề “ Ai” sẽ là người phản bội ( 2,7 ; 4,41 ; 8,29). Nhưng trong Tin mừng Gioan, trọng tâm của khúc mắc là chuyện đó xảy ra “ ở đâu”. Người môn đệ được Đức Giêsu trao quyền hành lớn nhất tức Phêrô, muốn biết “ Thầy ở đâu” (Ga 1,38). Đức Giêsu biết Ngài từ đâu đến và sẽ đi về đâu, nhưng những kẻ thù của Ngài không biết ( Ga 7,27 ;8,14 ;9,29). Trước tòa án, Philatô tra hỏi, muốn biết Chúa Giêsu từ đâu đến (19,9). Khi đến ngôi mộ trống, Maria Madalêna cũng bộc bạch sự lo lắng “ Chúng tôi không biết họ để Người ở đâu” (Jn 20,2 ;20,13).
Xuyên suốt Tin mừng của Thánh Gioan, ý niệm “ ở đâu” không mang ý nghĩa một nơi chốn không gian, nhưng là trạng huống con người kết hợp sâu xa với Đức Giêsu, trong đó họ được nghỉ ngơi trong Chúa và tin vào Ngài. Đức Giêsu cũng muốn những kẻ tiếp bước theo Ngài sống theo cách thức mà Ngài đã sống, là luôn kết hợp với Chúa Cha, như Ngài đã nói “ Cũng như Cha ở trong con và con ở trong Cha, để họ cũng vui hưởng được ở trong Cha, và ở trong chúng ta” ( Ga 17,21). Có lần Đức Giêsu còn minh giải thêm “ Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở và Ngài còn cắt nghĩa rõ hơn “ Thầy đi để dọn chỗ cho anh em” ( Ga 14,2). Nhiều Kitô hữu phác vẽ một viễn cảnh về một nơi ở trên trời, nơi Đức Kitô đã chuẩn bị sẵn môt “căn hộ năm sao” cho những ai trung thành bước theo Ngài. Nơi ở mà Chúa Giêsu nói đến không phải vậy, nhưng chính là tình trạng kết hợp sâu xa với Ngài. Đó vừa là một thực tại hiện sinh, vừa là một động thái sâu xa hướng về sự viên toàn vào thời cánh chung.
Đây không phải là điều chúng ta dễ dàng lãnh hội được, cũng không phải là một cuộc hành trình giản đơn. Tuy nhiên, theo một nghĩa khác, có một điều khá đơn giản: Đức Giêsu chính là con đường đi. Trong Tin mừng Gioan, Thánh Tôma luôn là đại biểu cho những người hay chất vấn và nghi ngờ, đã lên tiếng “ Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường đi?” (câu 5) Không biết đường đi, là một cách biểu lộ dễ nhất của một người muốn đứng ngoài cuộc. Philip đã đưa ra một chiến thuật khác để đối kháng “ Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, thế là đủ cho chúng con ( câu 8)”. Ông ta bày tỏ ước muốn chỉ cần nhìn thấy Đấng mời gọi chúng ta sống kết hợp sâu tận với Ngài, thế thôi, giống như chỉ cần nhìn thấy căn phòng khách sạn rẻ tiền đã trang bị sẵn đồ đạc để ta đến trú ngụ, không cần điều gì khác. Dù chúng ta không biết cách thâm nhập vào cõi lòng đầy an bình của Thiên Chúa, nhưng chúng ta đã gặp được Đức Giêsu, thấy được vẻ thần linh, kín nhiệm của Thiên Chúa nơi Ngài. Tin Ngài và dấn bước theo Ngài, ngay cả khi trực diện cái chết, tâm hồn chúng ta sẽ trở nên tĩnh lặng và an bình, không còn xao xuyến, giống như một đứa bé thơ chẳng lo âu, đang ngủ yên trong vòng tay của mẹ nó (Tv 131,2)
----------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Người ta nói cuộc đời là một chuyến đi. Có chuyến đi dài. Có chuyến đi ngắn. Có chuyến đi đến PS 5-A99
Người ta nói cuộc đời là một chuyến đi. Có chuyến đi dài. Có chuyến đi ngắn. Có chuyến đi đến vô tận. Chuyến đi nào cũng có thể gặp người ta yêu nhưng cũng có thể phải chia tay và bỏ họ lại phía sau. Chuyến đi nào cũng có niềm vui nhưng cũng có những chuyến đi mang lại nỗi buồn. Vui buồn lẫn lộn trong kiếp người cũng tùy thuộc vào chuyến đi mang theo mục đích gì? Mục đích chuyến đi sẽ quyết định về sự vui buồn trong hành trình của chúng ta.
Càng đi, ta lại càng thêm dẻo dai. Như một lực sĩ, càng chạy, ta càng mềm dẻo để có thể dấn thân vào một chuyến đi mới, vào những cuộc chiến đấu mới. Đi càng nhiều thì đời càng cho ta thêm kinh nghiệm. Thế nhưng, có khi càng đi, con người lại càng thêm buồn đau hơn! Vì thất bại nên thất vọng. Vì không như ý muốn nên chán nản...
Tựu trung trong cuộc đời chúng ta có ba chuyến đi:
1/ Những chuyến đi thể lý:
Đó là những chuyến đi theo nhu cầu tự nhiên của một người bình thường. Nhu cầu công việc. Nhu cầu về thăm quê hương. Nhu cầu thăm nom cha mẹ và anh chị em trong gia đình... Đây là những chuyến đi của bổn phận nhưng đòi hỏi chúng ta vượt lên sự ngại ngùng, lười biếng để dấn thân về phía trước.
2/ Những chuyến đi nhân ái
Có những chuyến đi không phải của bổn phận mà là của tình người chia sẻ, hiệp thông với tha nhân. Có chuyến đi đến với người nghèo để cho họ bữa ăn, hay đến với người bất hạnh để ủi an nâng đỡ họ. Mỗi năm giáo xứ chúng tôi vẫn có chuyến đi thăm người nghèo ở những vùng xa xôi hẻo lánh như Cao Nguyên hay Miền Trung khô cằn. Nhìn nét mặt hân hoan của họ khi nhận quà mà lòng mình cũng hân hoan. Lúc đó mới thấy chuyến đi mình thật ý nghĩa.
3/ Những chuyến đi tâm linh
Sự sống con người không dừng lại ở những chuyến đi thể lý hay nhân ái mà còn có chuyến đi về với cội nguồn là Thiên Chúa, Đấng tạo thành con người. Chuyến đi này xuyên suốt trong những chuyến đi thể lý hay nhân ái. Chính chuyến đi này làm cho những gánh nặng, những khó khăn trở nên nhẹ nhàng hơn. Ai đã từng đau khổ hay mang gánh nặng nề nếu biết hướng lòng về chuyến đi cùng đích sẽ cảm thấy nhẹ vơi, bình an. Vì sau đêm dài là ánh bình minh. Sau thập giá là vinh quang.
Chúa Giê-su đã từng thực hiện chuyến đi ấy trong suốt cuộc đời Ngài luôn hướng về Chúa Cha, luôn sống trong chờ đợi “Giờ” mà Chúa Cha đã định cho Ngài. Ngài đã sống trọn vẹn một hành trình vâng phục thánh ý Chúa Cha. Cho dầu đó là thập giá đau thương, Ngài vẫn đón nhận trong niềm tín thác nơi Cha.
Sau cuộc hành trình đầy thương khó, Ngài đã về Trời để lãnh triều thiên vinh quang. Ngài đã bước qua thập giá để tiến tới vinh quang Phục sinh.
Hôm nay Ngài bảo: “Ngài về cùng Chúa Cha”. “Ngài đi trước để dọn chỗ cho chúng ta. Ngài mong rằng Ngài ở đâu thì chúng ta cũng ở đó với Ngài. Nhưng để có thể ở bên Ngài trong Nước Cha Ngài, chúng ta cũng phải đi trên con đường Ngài đã đi. Con đường của thập giá tiến tới vinh quang. Thập giá trong bổn phận. Thập giá trong sự chia sẻ trách nhiệm với tha nhân. Thập giá trong những hy sinh phục vụ đồng loại. Nhất là thập giá trong hy sinh từ bỏ những quyến luyến tội lỗi, những đam mê lầm lạc để sống theo thánh ý Chúa.
Là người ky tô hữu, chúng ta được mời gọi bước theo con đường Chúa Giê-su đã đi. Đó là con đường đi tìm thánh ý Chúa và thực thi đến hơi thở cuối cùng. Đó không phải là con đường trải thảm rộng thênh thang mà là con đường hẹp, đầy chông gai giăng kín hành trình. Đó là con đường từ bỏ, đường thập giá, đường hiến tế đẫm máu trên đỉnh đồi Calve. Đó là con đường của tình yêu, tận hiến và hy sinh như Thầy Chí Thánh Giêsu. Và như thế, đó chính là con đường duy nhất để chúng ta tiến vào nhà Cha, nơi đó, Chúa Giê-su đã đi trước để dọn chỗ cho chúng ta.
Cuộc đời là một chuyến đi trở về nguồn. Trở về với Thiên Chúa là Cha. Trở về thiên đàng là nơi dành sẵn cho con người. Xin cho chúng ta biết đi theo Con Đường Chúa Giêsu đã đi để tiến về nhà Cha. Xin đừng vì những đam mê bất chính, những thói hư tật xấu, những lười biếng mà lạc mất hướng đi về trời. Xin Chúa Giêsu luôn đồng hành và nâng đỡ chúng ta trên hành trình tiến về nhà Cha. Amen.
----------------------------------
VỚI CÁC TÔNG ĐỒ SAU BỮA TIỆC LY
Chúa Nhật 5 Phục Sinh
1. Tìm hiểu: 3 điều:
Thiên đàng có nhiều chỗ b/ Thầy là Đường đi...c/ Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. - Câu 14,2 Nhà PS 5-A100
a/ Thiên đàng có nhiều chỗ
b/ Thầy là Đường đi...
c/ Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.
- Câu 14,2 Nhà Cha Thầy có nhiều chỗ
Chúa cho biết trong nước Trời của Chúa, tức là trên thiên đàng có nhiều cấp bậc, nhiều phần thưởng khác nhau, tùy Chúa ban, tùy công phúc người ta cố gắng lập khi còn sống. Rất công bằng và thương xót. Không có chuyện "Bé không đi học, lớn lên làm đại úy".
- Câu 14,6 Thầy là đường đi...
Nhờ ông Tôma hỏi, Chúa nói rõ Ngài chính là đường đi về quê trời, là sự thật và là sự sống, chỉ qua Chúa Giêsu chúng ta mới có thể đến được với Chúa Cha, đến được Nước Trời.
- Câu 14,9 Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.
Nhiều khi người ta tự hỏi: Không biết Chúa Cha thế nào? Có giống như người ta vẽ cụ già đầu râu tóc bạc, uy nghi dễ sợ không?
Chúa Giêsu trả lời rõ ràng: Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Cha cũng trẻ, cũng nhân từ, hiền lành, thương xót như Thầy, đừng sợ.
2. Suy niệm:
Truyện: Đi tìm minh chủ
Truyện kể rằng: có một chàng thanh niên khỏe mạnh, muốn tìm một ông chủ tốt làm sư phụ.
- Anh ta đến với một người giầu có trong làng, anh rất hài lòng về cách cư xử của người này. Nhưng một hôm, theo người này đến một nơi, thấy người này quì lạy một người tự xưng là ông quỉ. Chàng thanh niên phân vân tự nghĩ: như vậy ông chủ mình còn thua ông quỉ. Anh ta liền xin ông chủ cho đi theo ông quỉ.
- Ông quỉ hài lòng với người thanh niên lắm, sai hắn làm cái này cái kia…đều được việc, nhưng một hôm chàng theo ông quỉ tới đầu làng, chàng thấy ông quỉ không dám đi gần cây Thánh giá dựng ở đó, chàng thanh niên bỡ ngỡ, hỏi căn cớ tại sao thì ông quỉ cho biết, người chết trên đó là ông Giêsu. Chàng thanh niên lại bỏ ông quỉ đi tìm hiểu Ông Giêsu.
- Người ta giới thiệu chàng vào gặp cha xứ.
Sau một thời gian tìm hiểu, chàng được rửa tội, cha xứ thấy chàng to con, khỏe mạnh, cha đề nghị chàng làm việc bác ái, đưa đồ giúp người qua khúc sông, vì nơi đó không có thuyền không có cầu. Chàng vui vẻ làm theo, ngày nào cũng có mặt để giúp những người mang vác nặng nề.
Nhưng một hôm, chàng vác một em bé trên vai cho mẹ em rảnh tay lội nước.
Chàng cảm thấy Em bé gì mà nặng quá, nặng như cả mấy bao gạo trên vai, làm chàng thanh niên khỏe mạnh lực lưỡng muốn té nhào. Chàng than: " Sao em nhỏ ăn cái gì mà nặng thế, anh vác không nổi!
Em bé đang ôm đầu chàng, bật cười lớn, em nói: "Anh vác nổi sao được, anh đang vác cả một Thiên Chúa dựng nên trời đất đấy mà! Này chàng thanh niên, Ta rất hài lòng với việc giúp đỡ của con. Ta là Giêsu con đang tìm kiếm.
Chàng thanh niên đó chính là ông thánh Giorgiô, đã từ bỏ mọi sự trần gian đi theo Chúa Kitô.
Có 3 điều quan trọng cho cuộc sống con người:
a/ Đi đúng đường, không sợ lạc.
b/ Tìm ra sự thật, không hồ nghi.
c/ Tìm được sự sống, không sợ chết. Theo Chúa Kitô, sẽ được cả 3 thứ trên.
1/ Đường đi: Nếu bạn đến một thành phố xa lạ và hỏi thăm đường đi, có người chỉ dẫn rằng:
"Đến ngã tư thứ nhất anh rẽ sang phải, đến ngã tư thứ hai anh rẽ sang trái, đi qua công viên, vượt qua một nhà thờ, đến ngã tư thứ ba thì rẽ sang phải nữa… con đường anh tìm là con đường thứ tư bên trái.
Nếu chỉ dẫn như thế, có thể đi được nửa đường, anh đã bị lạc.
Nhưng nếu có người nói: "Anh đi theo tôi, tôi sẽ dẫn anh đến đó", người ấy sẽ đưa ta tới nơi, sẽ không lạc đâu.
Đó là việc Chúa Giêsu đang làm cho ta. Người không đưa ra những lời khuyên, chỉ hướng đi xong rồi thôi, nhưng Người nắm lấy bàn tay và dẫn ta đi. Người cùng đi với ta, Người thêm sức cho ta, hướng dẫn ta mỗi ngày. Người là Đường đi: Người làm gương về cách hành động vâng ý Chúa Cha, và Người đưa kẻ tin Người đến cùng Chúa Cha. Sướng thật.
2/ Sự thật: Không ai thích người nói dối, không ai thích hàng giả.
Phụ nữ Việt Nam không mấy ai muốn đeo nữ trang giả, ai cũng thích thứ thật, vàng thật, đôla thật, hột xoàn thứ thiệt.
Ngày nay, có nhiều thứ giổm, giổm lại còn độc chết người. Nhiều người nói với ta về sự thật, nhưng họ không phải là sự thật.
Chỉ có mình Chúa Giêsu nói: "Ta là sự thật". Ngài không lừa dối ai và không ai lừa dối được Ngài. Chúa Giêsu đã tỏ ra những mầu nhiệm về Thiên Chúa Cha cách không sai lầm.
3/ Sự Sống: Thông thường, người ta tìm kiếm sự sống, ai cũng muốn sống, sống khỏe, sống hạnh phúc… sống hoài sống muôn năm. Không ai muốn sống nhăn răng.
Chúa Giêsu hứa ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Người. Đời đời quí hơn một đời là cái chắc.
Thế nên Chúa nói: "Được lời lãi cả thế gian mà mất sự sống đời đời nào có ích gì?" (Mt 16,26)
3. Chúa muốn tôi làm gì?
- Bằng giá nào, tôi cũng phải tìm mọi cách để chiếm được một chỗ trên thiên đàng. Vì Chúa Giêsu nói "Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ". Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu nói: " Ta trông cậy thế nào, Chúa sẽ ban cho như vậy".
- Xin Mẹ Maria, giúp con bền lòng theo Chúa Giêsu "bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa là Đường đi,
Luôn nghĩ tưởng, nói năng, làm thật thà theo Chúa là Sự Thật,
Luôn bênh vực sự sống, theo Chúa là Sự Sống như thánh Giorgiô trên đây. Noi gương các thánh tử đạo VN: chết cũng không bỏ đạo, không bỏ Giáo hội Công giáo, để được ơn cứu rỗi muôn đời trong nhà Cha Cả. Amen.
----------------------------------------------