Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 6-C Bài 201-213 Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy. ------------------------------------ Phúc Âm: Ga 14, 23-29: "Thánh Thần sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con".
Thiên Chúa dựng nên muôn loài muôn vật trong vũ trụ bao la vô biên vô tận nầy. Ngài là Chúa PS 6-C201
Thiên Chúa dựng nên muôn loài muôn vật trong vũ trụ bao la vô biên vô tận nầy. Ngài là Chúa tể thống trị muôn loài trên trời dưới đất. Vì thế, không có đền đài hay cung điện nào trên đời, cũng chẳng có ngai tòa nào trên khắp thế giới xứng đáng cho Ngài ngự trị… Thế thì thân xác và tâm hồn mỗi người chúng ta chẳng đáng là gì để Chúa ngự đến viếng thăm và ở lại với chúng ta.
Vậy mà Thiên Chúa quý mến con người cách đặc biệt và ưa thích ngự trị trong tâm hồn các tín hữu như trong đền thờ của Ngài.
Chúa Giê-su khẳng định rằng không chỉ riêng Chúa Cha mà còn cả chính Ngài cũng như Chúa Thánh Thần, là Đấng luôn kết hợp với Chúa Cha và Chúa Con, sẽ ngự đến và ở lại với những người xứng hợp.
Nhưng những ai được xem là xứng hợp?
Đó là những người yêu mến và vâng giữ lời Chúa Giê-su dạy, như lời Ngài phán: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy thì Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14, 23).
Có lẽ chúng ta chưa bao giờ ước mơ có ngày được tiếp đón Đức thánh Cha hay những vị hồng y cao cả trong Hội thánh đến ngụ tại nhà mình, vì cảm thấy mình bất xứng; thế mà chúng ta lại được vinh dự vạn lần hơn khi được cả ba Ngôi Thiên Chúa đến ở lại với mình. Hạnh phúc biết bao!
Diễm phúc tuyệt vời nhất
Hôm xưa, khi đến truyền tin cho Đức trinh nữ Maria, sứ thần Gáp-ri-en cất tiếng chào: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng!”
Vì sao trinh nữ Maria được gọi là người đầy ân sủng thì sứ thần cho biết lý do: “Vì được Thiên Chúa ở cùng.”
Được Thiên Chúa ở cùng là diễm phúc tuyệt vời nhất trên thế gian. Muốn đạt được diễm phúc đó thì phải thực hiện hai điều Chúa Giê-su dạy: một là yêu mến Chúa, hai là tuân giữ lời Ngài. Việc nầy nằm trong khả năng, trong tầm tay mỗi người.
Tiếc thay, nhiều người ước mơ những phúc lộc phù du đời nầy và dồn hết công sức để chiếm hữu chúng, mà lãng quên hồng phúc lớn lao là được Chúa ở cùng.
Những phúc lộc đời nầy sẽ tiêu tan như khói như mây nên chẳng đáng cho ta đầu tư công sức để chiếm hữu, chỉ có những ai được Chúa ở cùng mới đạt được hạnh phúc đích thực và trường cửu mà thôi.
Lạy Chúa Giê-su,
Mặc dù chúng con bất xứng nhưng Chúa vẫn ưa thích ngự đến và ở lại với chúng con.
Xin cho chúng con đừng để tâm hồn bị ô nhiễm vì tội lỗi và những thói hư tật xấu, nhưng luôn gìn giữ tâm hồn trong sạch và tô điểm tâm hồn bằng các nhân đức, để xứng đáng làm nơi Chúa ngự. Amen.
Người Do thái mỗi khi gặp thường chào chúc nhau “shalom” có nghĩa là bình an hay hòa bình PS 6-C202
Người Do thái mỗi khi gặp thường chào chúc nhau “shalom” có nghĩa là bình an hay hòa bình. Văn hóa Việt Nam “bình an” cũng có nghĩa là “hòa bình”. Tuy nhiên, “bình an” thường được sử dụng để diễn tả tình trạng nội tâm cá nhân, còn “hòa bình” diễn tả tương quan giữa người với người, quốc gia với quốc gia và quốc tế với nhau.
Đã làm người, ai cũng muốn được bình an. Sống cần bình an, chết cũng cần bình an. Vì thế mà trên bia mộ của người Kitô hữu, chúng ta thường bắt gặp ba ký tự (R.I.P) viết tắt của (Requiescat in Pace) trong tiếng La tinh có nghĩa là “hãy nghỉ ngơi bình an”. Dưới cái nhìn mặc khải Kitô Giáo, bình an là trạng thái của người dồi dào ân sủng Chúa và bình an đáng mong đợi nhất là ơn cứu độ vĩnh cửu Chúa ban.
Đức Kitô là Hoàng Tử Bình An
Khoảng 700 năm trước Chúa Giêsu ra đời, tiên tri Isaia đã loan báo Người là Hoàng Tử Bình An, Người đến để thiết lập hòa bình giữa con người với Thiên Chúa, với vũ trụ vạn vật và giữa con người với nhau (Is 9,5). Lúc đó, người ta sẽ “đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến” (Is 2,4). Giữa cảnh tha hương, lưu đày, Thiên Chúa nói với Dân Người: “Ta sẽ lập với chúng một giao ước bình an” (Ed 37,26).
Khi Chúa Giêsu giáng sinh tại Bêlem, các thiên thần ca hát rằng “vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14). Như thế, “Bình an” đã xuất hiện tỏ tường trong ngày Chúa giáng sinh.
Khi đến “giờ Chúa Giêsu qua khỏi thế gian này để về cùng Đức Chúa Cha” (Ga 13,1), với trọn tình Thầy trò, Người đã dành cho các môn đệ những lời tâm huyết, cụ thể như truyền cho các môn đệ một Điều Răn Mới (x. Ga 15,12). Tiếp theo, Người mạc khải cho các ông về Chúa Thánh Thần (x.Ga 14,26). Đồng thời hứa ban bình an cho các ông. “Bình an” là quà tặng cao quý của Thầy để lại cho các học trò trước lúc ra đi. Đó cũng là “Bình an” sau khi sống lại Chúa Giêsu sẽ tặng cho các môn đệ đang cửa đóng then cài vì sợ hãi. “Bình an” là điều các ông đang cần đến hơn bao giờ hết.
Chúa Giêsu chính là Bình An đích thực. Có bình an của Chúa Giêsu đồng nghĩa với có chính Chúa, “Bình An Giêsu”. Có được Bình An Giêsu người ta sẽ cảm nhận được tâm hồn thanh thản, thể xác lành mạnh, nghĩa là bình an cả xác hồn. Bình an này hướng các môn đệ về mầu nhiệm cách chung, nhiệm cục cứu độ.
Bình an của Đức Kitô khác với bình an thế gian ban tặng
Câu hỏi được đặt ra: Tại sao là ‘bình an’ mà không phải là giàu sang, tài giỏi, sức khỏe hay điều gì khác? Thưa, vì nếu con người có tất cả những thứ đó mà không có bình an thì coi như chẳng có gì.
Với nghĩa nặng tình sâu trong tình thầy trò đầy thương mến, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14,1). Người cũng nói với họ: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14,27). Người ban cho họ bình an, sự bình an mà thế gian không thể ban tặng. Tại sao bình an của Chúa Giêsu thế gian không thể ban tặng? Thưa, vì Chúa Giêsu chính là Bình An; là nguồn bình an, Người ban cho các các môn đệ chính bình an của Người, bình an nội tâm, bình an tuyệt đối, bình an vượt xa sự hiểu của con người.
Lời Chúa Giêsu nói với người đàn bà bị mắc bệnh: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (Mc 5,34). Bà được khỏi bệnh cả thể xác lẫn tâm hồn, bình an tuyệt đối. Bình an cũng là điều Chúa truyền cho các môn đệ khi đi rao giảng Tin Mừng, Người căn dặn: “Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy” (Mt 10,12). Trên đường đi Giêrusalem, tới gần chỗ dốc xuống núi Ôliu, những người theo Đức Giêsu tung hô: “Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời” (Lc 19,38). Chúa Giêsu là Bình an trên trời và dưới đất.
“Bình an cho anh em!” (Lc 24,36) là lời đầu tiên của Chúa Giêsu sau khi sống lại và hiện ra với các môn ngày thứ nhất trong tuần. Có Bình an Giêsu, con người các ông hoàn toàn đổi mới, ngờ vực trở nên vững tin, nhút nhát nên người can đảm, sống cửu đóng then cài, nay đi rao giảng Thiên Chúa Chúa Giêsu chết bị chôn trong mồ đã sống lại hiển vinh, mà chính các ông làm chứng, không sợ chết.
Thánh Phaolô khẳng định: “Chính Người là bình an của chúng ta” (Ep 2,14). Về căn bản, bình an của Chúa Giêsu là bình an bên trong, bình an nội tâm, bình an mà không mãnh lực nào có thể cướp mất được, kể cả cái chết. Sở dĩ Chúa Giêsu có thể ‘cam lòng chịu chết’ để cứu độ nhân loại vì chính Người là Bình An.
Lời Chúa Giêsu an ủi các môn đệ: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14,1). Tại sao tin vào Thiên Chúa và tin vào Chúa Giêsu Kitô lại giúp các môn đệ khỏi xao xuyến, khỏi bất an? Thưa, bởi vì Chúa Giêsu là Hoàng Tử Bình An của Thiên Chúa giữa lòng nhân loại. Người đem bình an cho nhân thế. Ai thiết lập tương quan mật thiết, liên vị với Người, sẽ vượt qua muôn hình thức sợ hãi gieo rắc bởi thế lực bóng đêm, ma quỷ, thế gian, xác thịt.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói với các tông đồ rằng: “Thầy để lại bình an cho các con, thầy ban bình an của thầy cho các con…”. Thế giới hiện nay đang khao khát bình an của Chúa. Xin đoái thương ban cho chúng con ơn hiệp nhất và bình an theo ý Chúa muốn, để ngay ở đời này chúng con đã được nếm hưởng hạnh phúc bất diệt Chúa giành cho chúng con nhờ sự chết và phục sinh của Chúa. Amen.
Yêu ai, ta sẽ muốn ở gần người ấy, muốn được sống với họ cả đời. Có bài hát với những lời ca PS 6-C203
Yêu ai, ta sẽ muốn ở gần người ấy, muốn được sống với họ cả đời. Có bài hát với những lời ca rất ý nghĩa: “Khi hai ta về một nhà, khép đôi mi chung một giường, đôi khi mơ cùng một giấc, thức giấc chung một giờ. Khi hai ta chung một đường, ta vui chung một nỗi vui, nước mắt rơi một dòng, sống chung nhau một đời”.
Vì yêu thương con người, Thiên Chúa đã chủ động đi bước trước để đến với, ở cùng và làm cho họ nhận biết mình được Thiên Chúa yêu thương. Người cũng không ngừng cuốn hút, thúc bách họ đáp trả lại tình yêu bao la của Người, để họ được sống hạnh phúc, triển nở và sung mãn trong tình yêu của Người. Thầy Giêsu đã gửi gắm những tâm tư tình của mình với các môn đệ thân tín. Lời của Người vừa dứt khoát vừa tâm tình: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14, 23). Người khẳng định rằng tình yêu được diễn tả qua hành động cụ thể: “yêu Thầy thì sẽ giữ lời Thầy”.
Quả thế, người ta sẽ không thể làm cho người khác tin vào tình yêu của mình chỉ với những lời đầu môi chóp lưỡi ngọt ngào. Những lời nói “có cánh” ấy chỉ làm rung động con tim trong phút chốc, chính hành động mới có tính bền vững. Yêu Chúa, ta cũng được mời gọi mở rộng con tim cho Thần Khí của Đức Kitô hướng dẫn. Những giờ cầu nguyện sốt sắng đầy cảm xúc, đầy tâm tình luôn luôn cần được đẩy đến bước quyết định: thực thi đức ái. Hay nói cách khác, nếu ta muốn biết mình có yêu Chúa thật không thì ta hãy xét mình về lòng yêu thương tha nhân, như lời các thánh đã chỉ dạy. Những tâm tình sốt sắng, những quyết tâm ta nhận được khi cầu nguyện phải được trổ sinh hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ. Thầy Giêsu đã khẳng định rằng: “Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy”. Con người yếu đuối và giới hạn, do đó ta có thể vấp ngã. Nhưng điều đó không có nghĩa là ta không thể sống điều Chúa mời gọi. Bởi nếu ta thật sự khao khát yêu Chúa thì chính Chúa Cha là Đấng thấu suốt mọi bí ẩn sẽ ban ơn sức mạnh cho ta, để khi càng yêu mến Chúa ta lại càng yêu mến Người hơn nữa. Thầy Giêsu đã khẳng định với những ai yêu mến Người và giữa lời của Người rằng: “Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14, 23). Thiên Chúa luôn đi bước trước trong tình yêu. Người đã yêu con người trước khi con người nhận biết và yêu mến Người.
Điều mà Thầy Giêsu để lại cho các môn đệ chính là “bình an”. Con đường của những ai muốn trở thành môn đệ đích thực của Thầy Giêsu sẽ không phải là một con đường dễ dàng, nhưng đó là con đường đi đến đồi Canvê- con đường của “từ bỏ mình, vác thập giá mình để theo Chúa”, con đường của việc hiến tế chính mình theo gương Thầy Giêsu. Bởi Người biết rõ những gì sẽ xảy ra cho người môn đệ ở phía trước: đó là những khó khăn, thử thách, hiểm nguy, bắt bớ, … Người trấn an các ông: “Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. Anh em đã nghe Thầy bảo: “Thầy ra đi và đến cùng anh em”. Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin.” (Ga 14, 27- 29). Đó cũng là lời mà Người đang nhắn nhủ ta.
Lạy Chúa Giêsu! Những giây phút ở lại bên Chúa, lắng nghe Lời của Người, con được kín múc nguồn sức mạnh, sự bình an; nhưng cũng có nhiều lúc con bị Lời chất vấn, con phải trải qua những cuộc chiến đấu nội tâm đầy cam go. Chúa hứa với con rằng, nếu con biết cưu mang Lời của Chúa như hạt giống được gieo trên đất tốt, Lời sẽ đâm rễ và trổ sinh hoa trái trong cuộc sống của con. Chú tâm lắng nghe Chúa nói trong đời sống của mình, con sẽ thấy Lời Chúa luôn ứng nghiệm mọi nơi và mọi thời, ngay trong giây phút hiện tại con đang sống. Con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng tình yêu Chúa. Amen.
Sau khi ban điều răn mới “yêu như Thầy đã yêu”, Đức Giêsu đã hứa ban Thánh Thần – Đấng Bào PS 6-C204
Sau khi ban điều răn mới “yêu như Thầy đã yêu”, Đức Giêsu đã hứa ban Thánh Thần – Đấng Bào Chữa cho các môn đệ của Người. Người thật chu đáo và chẳng nỡ để các môn đệ “mồ côi”, không nơi nương tựa. Đấng Bào Chữa là Thánh Thần sẽ dạy cho các ông mọi điều và giúp các ông nhớ lại mọi điều Đức Giêsu đã nói với các ông. Quả thực, nếu Đức Giêsu không đi thì Đấng Bảo Trợ sẽ chẳng đến. Người cũng trao ban bình an của Người cho các môn đệ và tiếp tục kêu mời các ông tuân giữ mọi điều Thầy truyền dạy (x. Ga 14, 23-29).
“Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.” (Ga 14, 23). Đối với những ai đã từng có kinh nghiệm “yêu đương” đều thấy rằng, dường như khi yêu, chúng ta có khả năng nhớ mọi điều người ấy nói với ta, đặc biệt là những lời yêu thương. Ta luôn muốn làm đẹp lòng người ta yêu. Trong kinh nghiệm này, Đức Giêsu tin tưởng vào các môn đệ – những kẻ yêu mến Ngài sẽ giữ lời Ngài dạy. Tình yêu thúc đẩy hành động, hành động là giữ lời Thầy dạy. Chính khi người môn đệ tuân giữ mọi điều của Thầy Giêsu, họ sẽ được Chúa Cha yêu mến. Chúa Cha và Chúa Con sẽ đến và ở lại với người ấy. Được Chúa Cha yêu thương là một ân huệ lớn lao.
Đấng Bào Chữa, Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần sẽ dạy cho chúng ta mọi điều và giúp chúng ta nhớ lại mọi điều Thầy đã truyền dạy. Trải qua dòng lịch sử, chúng ta có thể thấy được phần nào hoạt động của Chúa Thánh Thần trên Hội thánh. Có biết bao dòng tu, biết bao đổi mới trong cách thức sống đạo, biết bao sự kiện lớn nhỏ đã xảy ra. Từ xưa tới nay, dù ít dù nhiều, các môn đệ Đức Giêsu vẫn đang tiếp tục thực thi lệnh truyền của Ngài, tiếp tục sống giới răn yêu thương. “Yêu như Thầy” thật khó nhưng chính Thánh Thần sẽ dạy chúng ta biết cách yêu ấy. Chính Thánh Thần sẽ hướng dẫn chúng ta, gợi nhắc khi chúng ta quên, mải mê chạy theo thế sự. Chúng ta chẳng thấy Ngài nhưng Ngài vẫn có đó, vẫn hoạt động qua mọi thời và mọi lúc.
Bình an là ân phúc mà Đức Giêsu đã để lại cho các môn đệ, cho Hội Thánh của Người. Bình an ấy Người không ban theo kiểu thế gian. Đối với những ai yêu mến thật sự, những đau khổ, khó khăn thử thách trong cuộc sống sẽ là cơ hội để họ nên giống Đấng họ yêu mến – Đức Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh. Khi họ xem đó là cơ hội để được thông phần với Chúa, họ sẽ tìm thấy được bình an đích thực. Chúa ban bình an không theo kiểu thế gian. Bình an của Người vượt qua mọi đau khổ, gian nan, giúp ta có cái nhìn thiêng liêng, tức là Thấy Chúa trong mọi sự, yêu mến Chúa trong các sự ấy. Cũng khi yêu thực sự, chúng ta sẽ biết đón nhận những trái ý trong cuộc sống. “Nếu anh em yêu mến Thầy thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Cha, bởi vì Cha cao trọn hơn Thầy” (Ga 14, 28). Quả thưc, nếu yêu mến Thầy thật sự, chúng ta sẽ nhìn ra được điều cao trọng, quý giá hơn, để có thể đón nhận những mất mát lúc này.
Xin cho tình yêu của chúng ta đủ lớn để can đảm, kiên trì bước đi trên con đường yêu thương của Thầy Giêsu. Xin cho chúng ta biết mở lòng đón nhận sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần để chính Ngài giúp chúng ta yêu đúng cách của Chúa, nhớ và thực thi mọi điều Thầy truyền dạy. Chính khi say mê yêu theo cách của Chúa, yêu như Chúa, chúng ta sẽ nhận được bình an đích thực, bình an của Đấng Phục Sinh; và Thánh Thần luôn là Đấng Bảo Trợ, là món quà Chúa Cha và Chúa Con trao gửi cho mỗi chúng ta trên hành trình tiến về nhà Cha.
Giáo Hội là một thực thể vừa thánh thiện vì Đầu của Thân Thể Giáo Hội là Đức Giêsu, Đấng tuyệt đối PS 6-C205
Giáo Hội là một thực thể vừa thánh thiện vì Đầu của Thân Thể Giáo Hội là Đức Giêsu, Đấng tuyệt đối thánh thiện; vừa thiếu sót, đầy khuyết điểm, vì Thân Thể ấy mang những chi thể yếu đuối là “tập thể những con người tội lỗi”. Vì thế, Giáo Hội thánh thiện ấy luôn ý thức mình phải liên tục thống hối, trở về, và liên lỷ thanh luyện, đổi mới. Đó cũng là lý do tại sao trong Giáo Hội có những đối kháng, khủng hoảng, những bất đồng, tranh chấp, cả những tội ác tầy trời và gương mù gương xấu khó có thể tưởng tượng… mà chúng ta là tác nhân hoặc đồng phạm.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta trở về sống bầu khí đối kháng rất căng thẳng trong Giáo Hội buổi ban đầu trước vấn đề cắt bì được kể lại trong sách Công Vụ Tông Đồ: vì đạo Do Thái đòi buộc các con trai phải chịu cắt bì. Nay phát sinh từ đạo Do Thái một Đạo Mới là Đạo của Đức Giêsu Kitô, nên việc cắt bì như điều kiện nhập đạo được nhiều người đặt ra, điển hình là “có những người thuộc phái Pharisêu đã trở thành tín hữu, bấy giờ đứng ra nói rằng: “Phải làm phép cắt bì cho người ngoại và truyền cho họ giữ luật Môsê” (Cv 15,5); lại có những người mạnh miệng qủa quyết: “Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Môsê, thì anh em không thể được cứu độ” (Cv 15,1). Hai vị tiên phong hướng về dân ngoại và ủng hộ việc không bắt dân ngoại phải chịu cắt bì khi gia nhập Giáo Hội của Đức Giêsu là ông Phaolô và Banaba (x. Cv 13,44-51; 15, 2-4).
Nếu Giáo Hội ở những ngày đầu mới thành lập, khi đứng trước những đối kháng căng thẳng, những tranh luận nẩy lửa, những bất đồng sâu sắc, các Tông đồ và các kỳ mục đều họp nhau để xem xét, bàn bạc, quyết định (x. Cv 15,6), thì Giáo Hội hôm nay, khi đứng trước những vấn đề sôi bỏng, những khủng hoảng, và khó khăn đủ loại trong Giáo Hội và những tấn công, chống phá từ bên ngoài cũng không đi ra ngoài con đường các thánh Tông Đồ đã đi, con đường mà chính Đức Giêsu đã đi và mời gọi Giáo Hội cùng đi với Ngài.
Đó là con đường yêu mến Chúa và yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương (x. Ga 13,34 ; 14.23), vì có đi trên đường yêu thương này, mọi thành phần trong Giáo Hội mới có thể hiệp nhất với nhau, nhờ tất cả đều tuân giữ lời Chúa, và được Thánh Thần hướng dẫn, chỉ bảo (x. Ga 14,23.26); có đi trên hành trình yêu thương này, mọi chi thể của Thân Thể mầu nhiệm là Hội Thánh mới không xao xuyến, cũng không sợ hãi, nhưng bình an trong gian truân, thử thách, và vui mừng khi bị vu khống, xỉ vả, hãm hại, vì biết có Chúa là thành lũy che chở, là gia nghiệp, phần thuởng đời đời (x. Mt 5, 11-12); có đi trên những dấu chân của lòng thương xót mà Đức Giêsu đã đi, đoàn thể môn đệ Ngài mới có thể “đồng tâm nhất trí”, “luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng”; dân Ngài mới có thể chia sẻ “với lòng đơn sơ vui vẻ”, sốt sắng “ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến” (x. Cv 2,42.46.47); nhất là có đi với nhau trên đường Thánh Giá của vâng phục Thánh Ý, đoàn chiên của Ngài mới có thể “nên một” khi tất cả đều ý thức một điều rất quan trọng, đó là Giáo Hội được thành lập trên Tảng Đá Tông Đồ (x. Mt 16), Giáo Hội mà sách Khải Huyền đã mô tả như Thành Thánh Giêrusalem mới “từ nơi Thiên Chúa mà xuống, chói lọi vinh quang Thiên Chúa… Thành có tường rộng và cao, với mười hai cửa do mười hai thiên thần canh giữ … Tường thành xây trên mười hai nền móng, trên đó có tên mười hai Tông Đồ của Con Chiên” (Kh 21,10-12.14).
Thực vậy, để có thể hoà giải khi có chia rẽ, bất bình; để có thể hiệp nhất khi có đương đầu, đối kháng; cũng như để có hiệp thông, bình an giữa cuồng phong bão tố, ngoài những việc khác phải làm, chúng ta không thể bỏ qua việc quan trọng cần phải làm trước hết, đó là bám chặt vào Tảng Đá Phêrô, trên đó Đức Giêsu đã xây Giáo Hội mà chúng ta là thành viên; cần gắn bó với Núi Đá “các Tông Đồ” là thành lũy vững chắc chở che, là hải đăng soi đường chỉ lối mà Đức Giêsu đã chuẩn bị sẵn cho chúng ta; cần tin tưởng vào “Chìa Khóa” Chúa trao cho Simôn Phêrô (x. Mt 16,19), vì đây là chìa khóa cởi trói, giải thoát, cứu chữa nhân loại mà Đức Giêsu đã trao tận tay các Tông Đồ và những đấng kế vị cho sự sống và hạnh phúc đời đời của chúng ta.
Vâng, giữa thời buổi người ta đang cố tách Đức Giêsu ra khỏi Giáo Hội của Ngài, và nghi ngờ sứ vụ cũng như vai trò thiết yếu của Giám Mục trong Giáo Hội, thiết tưởng, người Kitô hữu hơn lúc nào hết cần lui về bên trong tâm hồn để chiêm ngắm với niềm xác tín sâu sa mầu nhiệm Giáo Hội, để nhận ra ý định và công trình thánh thiện của Thiên Chúa khi xây dựng Giáo Hội của Đức Giêsu trên Tảng Đá Phêrô, và đặt nền móng Thành Thánh Giêrusalem mới là Giáo Hội trên các Tông Đồ, bởi ý muốn và kế hoạch không bao giờ thay đổi của ma quỷ chính là đánh phá Tảng Đá Phêrô, và quyền lực của tử thần đã liên tục ngày đêm, từ đời này đến đời kia, hết thế hệ này đến thế hệ nọ tấn công không ngơi nghỉ, đánh phá không mệt mỏi hàng ngũ cai quản Giáo Hội là các Tông Đồ và các đấng kế vị, như lịch sử Giáo Hội đã minh chứng.
Chúng ta hiệp ý cầu nguyện cho Đức Thánh Cha Phanxicô và toàn thể các Giám Mục hiệp thông với Ngài. Xin Chúa Kitô sống lại, Đấng đã hứa với các Tông Đồ: “quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16,18) khi xây dựng Giáo Hội ban cho các vị ơn bình an phục sinh của Chúa, để các vị chăn dắt đoàn chiên Chúa trao phó bằng trái tim thương xót của Mục Tử nhân lành “biết” chiên, “thương” chiên và sẵn sàng “hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,15).
Quan niệm xã hội vẫn cho rằng: “tài giỏi” là người có được công thành danh toại; “đức độ” là PS 6-C206
Quan niệm xã hội vẫn cho rằng: “tài giỏi” là người có được công thành danh toại; “đức độ” là người luôn có sự bình an tâm hồn. Xưa, người ta khâm phục những ai văn võ song toàn; nay người trẻ còn tham vọng hơn: được voi đòi hai “bà trưng”. Cùng đích đời người là gì ? Bằng ý chí quyết tâm, hoặc những nỗ lực cụ thể, có phải mọi người đều muốn mong được hạnh phúc ? Có đúng không, cuộc đời chúng ta đẹp nhất ở tuổi thanh xuân, nhưng chắc chắn sẽ đẹp hơn khi tuổi xuân ấy xuất hiện bóng hình để ta nhung nhớ và thương yêu ! Tình là gì, tình là chi, mà từ xa xưa, người ta hạnh phúc và đau khổ cũng vì tình ? Vâng, tại sao cứ nhớ là thương, cứ chờ đợi là có cảm giác lâu thế, tại sao đêm không ngủ ngày quên ăn, gọi là tương tư ? Phải chăng đó là tình yêu !
Chữ tình quả là phong phú, Thầy Giêsu làm cho ý nghĩa hơn, khi nối kết với yêu mến, và tuân giữ: “ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”. Kitô giáo không chủ trương thành công trên lý thuyết, không kêu gọi người tín hữu phải có văn võ song toàn, nhưng cần phải tuân giữ lời Thầy truyền dạy, luôn sống mến yêu. Tình Thầy Giêsu phải là tình liên đới hiệp thông, tình Giêsu mời gọi phải đem việc làm mà dạy, mà sống, mới là yêu là thương, mới có tính thuyết phục. Cha ông chúng ta nói rằng: những người thầy giỏi, luôn dạy các học trò bằng trái tim chứ không từ sách vở. Thầy Giêsu không đặt vấn đề tài giỏi hay đức độ, nhưng nói đến sức mạnh của chữ tình, phát xuất từ trái tim yêu thương: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an cho các con không như thế gian ban tặng”.
Theo lý lẽ tự nhiên: có lửa thì có khói, có đầu tư công sức sẽ gặt hái thành quả. Về phương diện siêu nhiên: có mến Chúa thì sẽ biết yêu người, có tuân giữ lời Thầy Giêsu, người ta mới cảm nhận được tình yêu của Ba Ngôi đang sống động trong cuộc đời mình. Thực ra, con người tự nhiên có thể che giấu được mọi thứ, nhưng có hai thứ không thể đó là say rượu và đang yêu. Người ta có thể khoe mọi thứ, người ta có thể nổ, hoặc cưa bom ở mọi nơi mọi lúc, nhưng có hai thứ không thể là cố tỉnh rượu và cố tình không yêu. (Khuyết danh). Trong tình yêu, chúng ta dễ dàng nói đẹp, nói tốt, nói hay, tình yêu là ngọt, là thơm, nhưng đâu phải ai cũng hiểu tình yêu thế gian và tình yêu Chúa có một khoảng cách xa, dù chúng ta được gọi là đạo đức.
Tình Thầy Giêsu lúc nào cũng cao đẹp đối với những ai có lòng khiêm tốn, và sẽ mơ hồ trước những ai sống xa lạ với hành động yêu thương. Kinh nghiệm tiền nhân cho biết: cả giầu sang phú quý lẫn sự vĩ đại đều không thể mang tới hạnh phúc. Thực tế thì mọi người vẫn cho rằng: tiền của, tài năng, sức khoẻ, cũng chỉ là nhất thời, chỉ khi có hồn an xác mạnh, người ta mới hạnh phúc. Tình Thầy Giêsu mở ra cho các học trò một xác tín: “Đấng Phù Trợ là Thánh Thần mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con biết tất cả những gì Thầy đã nói với các con”. Thứ quý nhất ở đời này không phải là tiền quyền, mà là niềm vui, sức khoẻ, là hạnh phúc bé nhỏ nơi những ai ta gặp gỡ. Thứ quý báu mà Thầy Giêsu chỉ dạy đó là bình an thật, là tình yêu thật: “Thầy đi, rồi Thầy sẽ quay trở lại với các con”.
Công cha nghĩa mẹ ơn thầy chớ quên. Tình Thầy Giêsu sẽ thật vĩ đại, khi các học trò tín thác cậy trông: “các con đừng xao xuyến, và đừng sợ hãi”. Dù thời tiết nắng mưa bất thường, hoa hướng dương vẫn một mực quay về phía mặt trời. Dù các môn đệ, hoặc chúng ta hôm nay phải đối diện với nhiều nghi ngờ, cám dỗ, tình Thầy Giêsu vẫn duy nhất, chuẩn nhất, bao bọc chở che, cứu giúp ta là thật nhất. Cần phải có một chút kiến thức, ta mới có thể phân biệt đâu là người bạn tốt. Cần một chút kiên nhẫn, ta mới có thể nghe và hiểu người thầy luôn dành hết tâm huyết để đưa dẫn ta tới hạnh phúc. Để có thể phân biệt đâu là tình cảm, đâu là tình yêu, để phân biệt đâu là tình đời thay trắng đổi đen, đâu là tình Thầy Giêsu, mọi người phải liên đới hiệp thông, sống mến yêu.
Tình Thầy Giêsu vừa là mời gọi vừa là nhắc nhớ đến tình yêu Chúa và tha nhân, một tình yêu chân thật và chuẩn mực “yêu như Thầy yêu”. “Nếu các con yêu mến Thầy, thì hay vui mừng vì Thầy về cùng Cha, bởi Cha trọng hơn Thầy”. Ở đời người ta biết nói với nhau: thật thà thường thua thiệt, ở trong Thầy Giêsu, ai cũng được biết đến tình yêu thật, bình an thật, dù tâm tính của ta còn nhiều giới hạn. Cha ông chúng ta cũng nói: cây lớn kên nhờ được chăm sóc, người lớn lên, trưởng thành hơn nhờ giáo dục, nhờ được yêu và biết yêu. Tình yêu và bình an của thế gian đôi khi chỉ là “xáo ngữ”: yêu ai yêu cả đường đi; an toàn là bạn, tai nạn là thù, nhất là khi đời sống cầu nguyện, kết hiệp mật thiết với Chúa hời hợt, muốn ý Chúa phải theo ý mình. Mỗi người kitô hữu dù ở bậc sống nào, hoàn cảnh nào, chúng ta cũng được mời gọi yêu thật, sống thật, ở trong tình yêu Giêsu thật trọn vẹn. Amen.
Xưa có một ông vua tổ chức một cuộc thi tìm ra người nào vẽ được bức tranh yên bình nhất. Nhiều PS 6-C207
Xưa có một ông vua tổ chức một cuộc thi tìm ra người nào vẽ được bức tranh yên bình nhất. Nhiều họa sĩ đã tham gia và nộp bài. Nhà vua xem xét tất cả các bức tranh và ông chọn ra hai bức ông thích nhất. Nhưng ông vẫn phải chọn ra một bức tranh đạt giải.
Bức tranh thứ nhất vẽ một hồ nước tĩnh lặng đến mức có thể thấy những ngọn núi cao vút xung quanh soi bóng dưới hồ. Bên trên là bầu trời trong xanh, mây trắng. Đó là một bức tranh mà ai nhìn vào cũng phải mê mẩn.
Bức tranh thứ hai cũng vẽ cảnh núi, nhưng nó mấp mô và trần trụi. Bên trên là bầu trời u ám, vần vũ như sắp có mưa bão, sấm chớp. Phía dưới một ngọn núi là thác nước đổ xuống ào ào. Nhưng khi nhà vua nhìn kỹ, ông thấy bên cạnh thác nước là một bụi cây nhỏ nằm trong một kẽ đá. Trong bụi cây, một con chim mẹ đang làm tổ. Giữa thác nước đang gào thét, chim mẹ ngồi yên bình trong tổ.
Bạn sẽ chọn bức tranh nào?
Nhà vua đã chọn bức tranh thứ hai và giải thích: “Bởi vì yên bình không có nghĩa là bạn ở một nơi không có tiếng ồn, không gặp rắc rối, không phải làm việc vất vả. Yên bình là khi sống giữa tất cả những thứ đó, bạn vẫn cảm thấy bình an trong tim. Đó mới là yên bình thực sự”.
Kính thưa,
Hôm nay ngang qua các bài đọc, Giáo hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm sự bình an của Đức Giê-su Phục Sinh, một sự bình an đích thực chứ không phải sự bình an theo kiểu thế gian, là tạm bợ, là mau qua. Giữa những xao động của xã hội, của công việc, của âu lo, của chán chường, của thất vọng, của những hiểu lầm, của những vất vả, của những bệnh tật, của những thiếu thốn, của những thao thức, của những ê chề thất vọng, thì sự bình an từ tiền bạc, từ các thú vui trần thế sẽ không bao giờ giải toả được những xao xuyến trên đối với mỗi chúng ta, tuy nhiên, chỉ có Đức Giê-su, nơi Đức Giê-su và ngang qua Đức Giê-su, chúng ta mới đón nhận được sự bình an đích thực và êm ái. Hôm nay, chính Đức Giê-su cũng khẳng quyết: Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi”. Quả thật, kính thưa, nhờ sự hiệp hành bắt nguồn từ Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần, nhờ sự nối kết một là ba, ba là một, chúng ta, nhân loại được đón nhận được sự thánh thiện, sự hiệp nhất và yêu thương từ Ba Ngôi. Sự hiệp hành không dừng lại ở tại Ba Ngôi Thiên Chúa, chúng ta cũng nhận được sự hiệp hành của Ngôi Lời Thiên Chúa, là Đức Giê-su, khi Ngài chấp nhận mang lấy bản tính nhân loại để trở nên giống con người chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi để hiệp hành và cứu độ con người chúng ta. Trong 3 năm công khai loan báo Tin mừng cho nhân loại, tính hiệp hành nơi Đức Giê-su được hiện thực hoá ngang qua cung cách sống, thái độ yêu thương, tha thứ, lối sống thân thiện, gần gũi, bao dung và phục vụ hi sinh hết tất cả mọi người, nhất là những hoàn cảnh bị loại trừ. Quả thật, để đón nhận được sự bình an, nguồn sống từ nơi Đức Giê-su, Thiên Chúa làm người, con người chúng ta được mời gọi hãy tin vào Ngài, hãy yêu mến Ngài và tuân giữ các điều răn của Ngài, hãy ở lại với Ngài để Ngài ở lại với chúng ta,…
Tuy nhiên, kính thưa, làm sao chúng ta sống hiệp hành vói nhau: hiệp thông, tham gia và thực thi sứ vụ được nếu trước hết và trên hết chúng ta không hiệp hành với Chúa, cụ thể với Đức Giê-su Ki-tô ngang qua đời sống cầu nguyện, kinh hạt lễ lạy. Vì thế, để có lối sống hiệp hành trong đời thường đối với anh chị em đồng loại, mỗi chúng ta cần có sự nối kết và gắn bó chặt chẽ với Đức Giê-su, với Thiên Chúa, là nguồn mạch mọi sự thánh thiện và bình an. Chính nơi Chúa, nơi Đức Giê-su, chúng ta mới đón nhận được sự bình an chân thật và bền vững. Nhờ có sự bình an đó và ngang qua sự bình an đó, chúng ta dễ dàng ra đi lan toả bình an và nối kết với tha nhân ngõ hầu Tin Mừng Bình an được toả sáng. Quả thật, làm sao chúng ta sống bình an, và lan toả sự bình an cho anh chị em chúng ta, nếu trước đó, chúng ta không đón nhận sự bình an từ Thiên Chúa ngang qua Đức Giê-su, cụ thể nơi Lời Ngài và Mình Máu Ngài. Lối sống hiệp hành là bản chất của giáo hội. Làm sao hiệp hành với anh chị em được nếu không có sự hiệp hành từ Thiên Chúa. Hay nói cách khác, làm sao ở lại được với anh chị em đồng loại, nếu không ở lại với Thiên Chúa. Nói rõ hơn là, một khi đã ở lại, hiệp thông với Chúa, thì không thể không ở lại, hiệp thông với anh chị em. Hơn nữa, lối sống hiệp hành còn đòi buộc chúng ta phải biết lắng nghe: lắng nghe Chúa để lắng nghe nhau. Không lắng nghe Chúa ngang qua đời sống chuyên chăm cầu nguyện, đọc Kinh Thánh, tham dự Thánh Lễ, thì làm sao chúng ta lắng nghe anh chị em nơi gia đình, nơi trường học, nơi chợ búa, nơi đồng ruộng, nơi mọi công việc hằng ngày,…Quả thật, sống bình an là sống hiệp hành.
Tóm lại, ai trong chúng ta cũng rất cần sự bình an. Tuy nhiên, để có sự bình an đích thực, chúng ta buộc phải từ bỏ con người cũ, con người của tội lỗi, con người của sự lười biếng, để can đảm bước theo Đức Giê-su, nguồn bình an đích thật. Thật vậy, chỉ nơi Đức Giê-su và trong Đức Giê-su, chúng ta mới có được bình an, bình an vĩnh cửu, thứ bình an mà không ai có thể cướp đi mất được. Và một khi đã tràn trề bình an đó, chúng ta cũng không ngần ngại bước lên đường để sống hiệp hành với tha nhân, nhất là đối với những ai đang sống trong hoàn cảnh thất vọng, chán chường, âu lo, đói khổ, bệnh tật,…Đây là việc chúng ta đang thực thi sứ vụ Loan báo Tin Vui, tin bình an cho tha nhân. Đó là cách thức thiết thực chúng ta đang thi hành lệnh truyền của Thầy Giê-su: Như Cha đã sai Thầy và Thầy cũng sai anh em. Cầu Chúa chúc lành và ban bình an cho anh chị em. Amen.
Phần đầu tiên của bài Tin Mừng Gioan chương 14, từ câu 23 đến câu 29 khá thú vị, bởi vì Chúa PS 6-C208
Phần đầu tiên của bài Tin Mừng Gioan chương 14, từ câu 23 đến câu 29 khá thú vị, bởi vì Chúa Giêsu bày tỏ ở đó, trước các môn đồ, vai trò của Chúa Thánh Thần, một vai trò thường không dễ hiểu đối với chúng ta. Chúa Giêsu gọi Chúa Thánh Thần là “paraclete”, đó là một từ pháp lý theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là luật sư. Từ ngữ Hy Lạp para-klètos và từ ngữ La tinh ad-vocatus là những từ đồng nghĩa, cả hai đều chỉ người được kêu gọi đến để giúp đỡ. Do đó, từ này cũng có nghĩa là “người bầu chữa - bảo trợ”, mà có lẽ thánh sử Gioan, vốn là tác giả Tin Mừng duy nhất sử dụng từ đó, hiểu nó theo nghĩa này. Do đó, Chúa Thánh Thần rõ ràng có một vai trò trung gian.
Trên thực tế, Chúa Giêsu giao phó cho Chúa Thánh Thần hai chức vụ: dạy dỗ và làm cho nhớ: “Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Gioan 14: 26). Chức vụ đầu tiên thì không đáng ngạc nhiên sao: không phải chính Chúa Giêsu là người nên dạy dỗ sao?
Nhưng Chúa Giêsu nói rằng Ngài công bố lời: “Mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Gioan 14: 26), còn Thánh Thần – Đấng bầu chữa này - sẽ làm cho những lời đó xuất hiện như trong một ánh sáng rạng rỡ, làm cho những lời đó thâm nhập vào sâu thẳm cõi lòng và trí hiểu của các Tông đồ: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Ngài. Còn anh em biết Ngài, vì Ngài luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (Gioan 14: 16-17). Không có sự cạnh tranh giữa Chúa Con và Chúa Thánh Thần, nhưng thay vào đó lại có sự bổ sung cho nhau, bởi vì cả Chúa Con và Chúa Thánh Thần đều có cùng một nguồn cội là Chúa Cha: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Ngài sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Ngài sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Ngài nghe, Ngài sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến. Ngài sẽ tôn vinh Thầy, vì Ngài sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em. Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế, Thầy đã nói: Ngài lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” (Gioan 16: 13-15).
Chúa Giêsu cũng nói rằng Chúa Cha sẽ sai Thánh Thần này nhân danh Ngài: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy” (Gioan 14:26), và đây là một điểm hấp dẫn, bởi vì điều đó cho thấy rõ mối quan hệ giữa các ngôi vị Thiên Chúa với nhau: không ngôi nào hành động cho chính mình. Chúa Giêsu không nói về chính mình: “Không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy.” (câu 24), nhưng theo những gì Ngài đã nhận được từ Chúa Cha, và tương tự như vậy, Thánh Thần không dạy về việc riêng của Ngài: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Ngài sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Ngài sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Ngài nghe, Ngài sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến” (Gioan 16:13), vì Ngài được sai đến nhân danh Chúa Con. Thật ấn tượng biết bao!
Vai trò thứ hai được giao cho Thánh Linh là làm cho nhớ những gì Chúa Giêsu đã nói: “làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Gioan 14:26). Chúng ta cần phải hiểu cách diễn đạt này theo một ý nghĩa mạnh mẽ. Thánh Thần làm cho chúng ta hiểu, đó là một chuyện, nhưng để những lời của Chúa Giêsu đi vào trong lòng chúng ta, từ một sự hiểu biết sáng soi đến một thực tại sống động, thực sự làm cho chúng ta sống, thì những lời này phải được ghi nhớ và đi “ký ức”.
Theo nghĩa Kinh Thánh, ký ức không chỉ là việc nhớ lại quá khứ, mà còn nhiều hơn thế. Khi Chúa Giêsu dặn dò các môn đồ hãy nhớ lại cử chỉ Thánh Thể của Ngài: “Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy” (Luca 22:13) thì theo một cách nào đó, Ngài thánh hiến ký ức Kitô giáo đó mãi mãi, nghĩa là Chúa Giêsu thánh hiến tâm trí và cõi lòng của các môn đồ và những ai thực hiện di huấn này “tưởng nhớ đến Thầy.” Đối với một Kitô hữu, nhớ đến những lời của Chúa Giêsu sẽ luôn là một lời mời gọi để sống ký ức đó, nghĩa là hiện tại hóa Lời Chúa Giêsu, việc làm, cuộc sống và hy tế của Chúa Giêsu trong cuộc sống thực của mỗi Kitô hữu, đến mức độ: “Anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em” (Gioan 14:20), bởi vì: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Gioan 14:21). Những người này được vui mừng vì đã yêu mến Chúa Giêsu: “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng” (Gioan 14:28).
Niềm vui từ Chúa Cha, qua Chúa Con, nhờ Chúa Thánh Thần.
Chúng ta không nói đủ về niềm vui này. Niềm vui đến với cõi lòng của một người khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa trong cuộc đời mình:
“Nguyện tiếng lòng tôi làm cho Ngài vui thoả, đối với tôi, niềm vui là chính Chúa” (Tv 104,34). Nơi Thánh Gioan, vốn không phải là một tác giả Tin Mừng u buồn như đôi khi người ta nói, Chúa Giêsu nói về niềm vui của người bạn của chàng rể: “Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn” (Gioan 3,29), về niềm vui của người gieo giống: “Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi để được sống muôn đời, và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng” (Gioan 4,36), và trong bài diễn văn tuyệt vời của Ngài trong Bữa Tiệc Ly, nhấn mạnh vào một số trường hợp: những ai tin vào Ngài thì có được niềm vui trọn vẹn: “Bây giờ, con đến cùng Cha, và con nói những điều này lúc còn ở thế gian, để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của con” (Gioan 17,13). Thánh Gioan sử dụng động từ khareo, vốn được liên kết trong ngôn ngữ cổ điển của người Hy Lạp, với một cách nhìn tốt đẹp về cuộc sống; trong tiếng Hy Lạp, để nói “xin chào”, người ta nói sử dụng từ Khaire vốn đã được sử dụng bởi thiên thần khi đến với Mẹ Maria: “Mừng vui lên!” (Luca 1,28).
Chúa Giêsu cũng vẫn còn đang nói với các tín hữu chúng ta “Khaire - Mừng vui lên!” Dĩ nhiên, Ngài áp dụng lời nói đó vào hoàn cảnh sống của từng người để nói về niềm vui: “Thật, Thầy bảo thật anh em: anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui” (Gioan16:20). Niềm vui nào? Niềm vui vì luôn được bình an, sự bình an của chính Chúa Giêsu: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian” (Gioan 14:27), bình an của những người yêu mến Chúa Giêsu và biết mình được Thiên Chúa yêu mến qua Chúa Giêsu, được Thiên Chúa và Chúa Giêsu luôn ở cùng: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Gioan 14:23) và “Niềm vui của anh em, không ai lấy mất được” (Gioan 16:22).
Tin Mừng, tức là Lời Thiên Chúa được mặc khải qua Ngôi Lời là Chúa Giêsu, không làm tan biến đi những vấn nạn của cuộc sống, nhưng chính trong những vấn nạn đó Lời Thiên Chúa có thể mang lại niềm vui, khiến chúng ta đi sâu vào chính mình, vượt trên bất cứ vấn nạn nào, vượt trên bất kỳ mối quan tâm nào, trên bất cứ sự sợ hãi nào, bởi vì: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em” (Gioan 14:17). Thật vậy, Chúa Giêsu đến để nói với chúng ta một lần nữa rằng, trong đời sống hằng ngày, cầu nguyện cũng như khi rao truyền Lời Chúa, bận rộn, căng thẳng, đôi khi giằng xé của chúng ta, Thiên Chúa luôn là khởi đầu, và Ngài luôn có sáng kiến: chính Thiên Chúa nói trước, chính Ngài đến qua Chúa Giêsu: “Thầy ra đi và đến cùng anh em” (Gioan 14:28); chính Chúa là Đấng còn ở lại qua Chúa Thánh Thần: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Gioan 14:16), “Ngài luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (Gioan 14:17), chính Ngài “là Thần Khí phát xuất từ Thiên Chúa” (1 Côrintô 2:12) mà mỗi tín hữu chúng ta lãnh nhận “để nhận biết những ân huệ Thiên Chúa đã ban cho chúng ta” (1 Côrintô 2:12) và làm cho các ân huệ của Đức Kitô được thành toàn và sinh hoa kết quả nơi tâm hồn mỗi tín hữu. Chính Chúa Thánh Thần “là nguyên lý của mọi hành động tác sinh và sự thật có giá trị cứu độ trong mỗi phần tử của thân thể. Ngài hoạt động bằng nhiều cách khác nhau để xây dựng toàn thân trong đức mến: bằng Lời Chúa, bằng bí tích Rửa tội, bằng ân sủng, bằng các nhân đức... giúp các tín hữu có khả năng và sẵn sàng đảm nhận các công việc và phận vụ khác nhau, để mưu ích cho việc canh tân, xây dựng và phát triển Hội thánh” (GLGHCG, số 789).
ĐTC Phanxicô, trong buổi tiếp kiến chung trực tuyến vào sáng thứ Tư ngày 17 tháng ba 2021, đã nói “Quà tặng đầu tiên được ban cho mỗi cuộc sống của Kitô hữu chính là Chúa Thánh Thần. Nó không phải là một trong nhiều quà tặng, mà là quà tặng cơ bản. Không có Chúa Thánh Thần thì không có tương quan với Chúa Kitô và với Chúa Cha. Vì Chúa Thánh Thần mở lòng chúng ta ra với sự hiện diện của Thiên Chúa và lôi cuốn lòng chúng ta vào “cơn lốc” tình yêu là chính trái tim của Thiên Chúa. Chúng ta không chỉ là khách trọ và lữ khách trong hành trình trên mặt đất này, chúng ta cũng là khách và người hành hương trong Chúa Ba Ngôi. Chúng ta giống như tổ phụ Ápraham, một ngày kia khi đón ba người đi đường vào lều của mình, đã gặp Thiên Chúa. Nếu chúng ta có thể cầu khẩn Chúa và gọi Người “Abba” – nghĩa là lạy Cha, là bởi vì Chúa Thánh Thần cư ngụ trong chúng ta; chính Ngài biến đổi chúng ta một cách sâu sắc và làm cho chúng ta cảm nghiệm được niềm vui cảm động được Thiên Chúa yêu thương như những người con đích thực của Ngài.”
Trong tất cả các thánh, có lẽ Phan-xi-cô thành A-xi-di-ô nước Ý là vị thánh cố gắng bắt chước Chúa PS 6-C209
Trong tất cả các thánh, có lẽ Phan-xi-cô thành A-xi-di-ô nước Ý là vị thánh cố gắng bắt chước Chúa Giê-su tỉ mỉ hơn hết và thực hiện lời Người sát mặt chữ hơn cả. Mở đầu cuộc đời làm môn đệ Chúa, Phan-xi-cô đã “từ bỏ mọi sự” theo đúng nghĩa đen: trút đến mảnh y phục cuối cùng cho thân phụ (muốn từ rảy con mình) trước bàn dân thiên hạ tại tòa Giám mục. Thánh nhân có lần bắt chước Chúa chay tịnh tuyệt đối trong bốn mươi đêm ngày, rồi chỉ chịu phó tế chứ không lãnh chức linh mục để nên giống Thầy khiêm nhượng. Trong chỉ thị của Chúa về hành trang của nhà truyền giáo (x. Mt 10,9-10; Mc 6,8-9; Lc 10,4), Phan-xi-cô chọn theo đoạn Mát-thêu vì đòi hỏi nhất: không dùng gậy và đi chân trần. Ý nguyện cuối cùng của thánh nhân là: “Khi tôi tắt hơi, hãy đặt tôi trần truồng trên mặt đất. Tôi muốn được chết như thế”… Vì tình yêu nồng nhiệt này, Chúa đã cho thánh nhân được nên giống Người cách đặc biệt trong giai đoạn cuối đời là mang năm Dấu thánh. Dù gian khổ như vậy, hay đúng hơn nhờ gian khổ và bỏ mình như vậy, mà Phan-xi-cô luôn thấy vui tươi, hạnh phúc, an bình và đã để lại cho hậu thế một bài thơ bất hủ về sự bình an (“Kinh Hòa bình” ta vẫn thường đọc).
Câu chuyện cuộc đời vị Thánh Khó nghèo hoàn toàn thích hợp để dẫn chúng ta vào bài Tin Mừng hôm nay. Nằm trong “diễn từ giã biệt”, nó được Gio-an trình bày như lời Đức Giê-su loan báo về những di sản Người để lại cho môn đệ: một sự hiện diện của Người và của Chúa Cha, một ân huệ được Cha ban nhân danh Người là Thánh Thần, và cuối cùng là một thứ bình an mà chỉ Người mới cho được.
1. Hiện diện trong tâm hồn
Câu mở đầu bài Tin Mừng là lời Người đáp lại câu Giu-đa (không phải Giu-đa Ít-ca-ri-ốt) hỏi: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con mà không tỏ cho thế gian?” (14, 22). Sở dĩ Giu-đa hỏi thế là vì quần chúng thời ấy đều chờ mong một Đấng Mê-si-a chính trị uy hùng sẽ hiển nhiên chiến thắng mọi kẻ thù và buộc được các đối thủ tùng phục. Đây cũng là nỗi chờ mong của các môn đệ… Và cũng chẳng hề là nỗi chờ mong của chúng ta sao? Nhưng không! cách tỏ mình duy nhất Thiên Chúa đã quyết định thực hiện là đến ngự trong con tim của những ai đón tiếp Người và tin vào Người. Nói cách khác, sự hiện diện của Người sẽ chỉ được những kẻ yêu mến Người nhận ra: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở với người ấy”. Kinh nghiệm này, kinh nghiệm về sự hiện diện thâm sâu nào đó của một kẻ vắng mặt, chúng ta vẫn thường có trong các tình yêu nhân loại của chúng ta nếu các tình yêu này chân thực: chúng ta tự bắt chợt mình đang trò chuyện, qua một đối thoại nội tâm, với người mình yêu mến: bằng hữu, con cái, tình nhân, bạn đời… Sự có mặt của kẻ vắng mặt! Một kinh nghiệm chỉ những con người yêu thương mới có.
Đức Giê-su khẳng định từ nay sẽ hiện diện qua những ai yêu mến Người, qua các tín hữu đích thực có Người ở bên trong. Thật ra, khi nói thế, Đức Giê-su chỉ cách cái chết vài giờ thôi. Điều này Người hoàn toàn biết rõ. Nhưng Người đã bảo mình là Đền thờ mới, được xây lại trong ba ngày (Ga 2,19-22), thay thế cái nơi dân Do-thái từng cảm thấy Thiên Chúa “hiện diện thật sự”. Nhờ cuộc phục sinh của mình, Đức Giê-su Na-da-rét, nhân vật lịch sử, đã đi vào thế giới chung quyết của Thiên Chúa, khiến Người trở nên Đấng hằng sống, hằng tác động, còn tỏ mình hôm nay, trở nên kẻ cùng thời với bất cứ ai và có thể ở trong bất cứ ai. Nhưng ở đây, Đức Giê-su còn đi xa hơn. Người dám nói: kể từ khi Người ra đi, sự hiện diện khôn tả này, dĩ nhiên là giấu ẩn, sẽ được các Ki-tô hữu bảo đảm.
Vì “ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy… Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Cha, Đấng đã sai Thầy”. Giữa những người yêu nhau, bao giờ cũng có lắng nghe, đối thoại, trao lời, thông hiệp. Chẳng có gì tệ hại đối với các thứ tình yêu của chúng ta cho bằng “không nghe”, “không nói”… Ở đây, Đức Giê-su mạc khải một trong những cơ sở của đời Ki-tô hữu đích thực: suy niệm Lời Chúa như dấu chỉ hữu hiệu (bí tích) của việc Người hiện diện. Chúng ta thiếu sự hiện diện cụ thể của Đức Giê-su, nhưng đối với những ai yêu Người, tuyệt vời làm sao vì đã có tư tưởng, lời nói Người để lại. Lời này không chỉ nhận qua trí tuệ, nhưng còn là một lời “ta phải trung tín”, “đem ra thực hành”, một lời mà sau khi “được sống”, thì làm cho Đấng đã thốt lên nó hiện diện thực sự. Sự hiện diện của Đức Ki-tô phục sinh, hằng sống có thể (và phải) “được thấy” cách cụ thể trong đời các môn đệ đích thực. Vì như Đức Giê-su Na-da-rét từng là nơi Chúa Cha hiện diện và phát biểu, thì từ nay các Ki-tô hữu và Giáo Hội cũng sẽ là nơi như vậy. Trách nhiệm to lớn dường bao!
2. Ban Thánh Thần dạy dỗ
Và đây, “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần, Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy”. Đức Giê-su ra đi, thì có một “Đấng khác” đến tiếp nối Lời của Chúa Cha, một thứ Phụ đạo thần linh, một Vị Thầy nội giới, được Chúa Cha sai đến nhân danh Con mình. Thánh Thần chẳng thêm gì vào Đức Giê-su, như Đức Giê-su đã chẳng thêm gì vào Chúa Cha. Cả ba chỉ làm một! Thiên Chúa là duy nhất, Ít-ra-en từng tuyên xưng như thế và Hồi giáo cũng sẽ lặp lại như vậy. Bất chấp nhiều khác biệt ngôn ngữ, Ki-tô hữu chẳng nói ngược đức tin chủ yếu này. Cha là chính Thiên Chúa trong sự vô hình của Người. Đức Giê-su là chính Thiên Chúa từng hiện diện, nói năng và hoạt động để cứu nhân loại. Thánh Thần là chính Thiên Chúa nối dài sự hiện diện, lời nói và hành động của Đức Giê-su và của Chúa Cha cách thiêng liêng. Thánh Thần mang danh là “Đấng Bảo Trợ” vì Người trợ giúp các tín hữu và linh ứng cho lời cầu nguyện của họ để nó có thể được Thiên Chúa lắng nghe (x. Rm 8,26-27)
Để hình dung mầu nhiệm này, ta hãy nhớ lại ảnh thánh “Ba Ngôi” thời danh của Andrey Rublev, được cất giữ tại viện bảo tàng Trétiakov ở Moscou (Nga) và được cả thế giới đến chiêm ngưỡng. Ba nhân vật có cánh, kết hiệp mật thiết với nhau chung quanh một chiếc bàn, làm thành một vòng tròn duy nhất và hoàn hảo. Chúa Cha, “Đấng ở trên tất cả”, ngồi đằng sau chiếc bàn… mãnh liệt nhìn vào Con chí ái, ngồi bên phải mình và thông cho Người tất cả. Ngôi Con, để lộ màu xanh của thần tính qua chiếc áo màu đỏ thịt, mãnh liệt nhìn vào Thánh Thần và thông cho Người tất cả. Nhưng mầu nhiệm hiệp thông tình yêu Ba ngôi không dừng lại ở đó. Nơi Thánh Thần, vòng tròn ấy mở ra, vì Thánh Thần nhìn xuống trái đất và chỉ ngón tay về phía nó, để thông cho nó tất cả. Ba Ngôi, đó chính là sự thân mật tình yêu vĩnh cửu của ba nhưng chỉ nên một: Chúa Cha ở trong Chúa Con, Chúa Con ở trong Chúa Cha, trong cùng một Thánh Thần. Và Đức Giê-su đã đến đưa môn đệ mình vào “gia đình” ấy, nhờ Ngôi Ba.
Thánh Thần này sẽ chuyển thông tất cả sự sống Thiên Chúa cho nhân loại, bằng cách giúp hiểu biết dần dần về Lời thần linh là chính Đức Giê-su, Ngôi Lời của Chúa Cha: “Người sẽ dạy anh em mọi sự và sẽ giúp anh em nhớ lại những điều Thầy đã nói với anh em”. Đó là vì chính các Tông đồ, tuy đã sống nhiều năm tháng với Đức Giê-su, vẫn chưa có một đức tin đích thực vào Người lúc Người ra đi. Gio-an thú nhận rằng mình chỉ thấu hiểu sau những gì Thầy đã nói (Ga 2,17.22; 13,6.19). Khi Đức Giê-su ra đi, theo một nghĩa nào đó, đã chẳng có gì hoàn tất, cố định. Chính Thánh Thần sẽ giúp Giáo Hội thấu hiểu dần dần “dữ kiện mạc khải”. Có một số đầu óc ngạc nhiên trước việc Giáo Hội “đổi thay”, như họ nói. Nhưng rõ ràng là đối với Đức Giê-su, Giáo Hội còn phải thay đổi nhiều, dưới ảnh hưởng của Thánh Thần. Phần lớn các lời Đức Giê-su chỉ bộc lộ trọn vẹn bản chất của chúng sau khi đã được cưu mang lâu dài và được chiêm niệm trong ký ức Giáo Hội suốt nhiều thế kỷ. Mỗi tín điều trong kinh Tin kính chúng ta đều có một thời điểm lịch sử, và chỉ được xác định lúc đã chín muồi. Và điều ấy vẫn tiếp tục. Chúng ta có thật sự tin kính Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội không? Tại sao Thánh Thần lại phải ngừng công việc của Người vào thế kỷ III hay thế kỷ XVI? ở công đồng Nixêa hay công đồng Trentô? Ngày nay, rõ ràng là Thánh Thần vẫn còn làm việc. “Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”, ở lại bằng tinh thần (Thánh Thần) của Thầy, Đức Giê-su đã nói thế. Giáo Hội vẫn còn có lắm điều để hiểu rõ, khám phá và cảm nghiệm. Và điều đúng cho Giáo Hội nói chung suốt dòng lịch sử… thì càng đúng cho mỗi người chúng ta nói riêng: Thánh Thần vẫn còn có lắm điều giúp tôi khám phá, vì trong tôi có một năng lực lãng quên thật kinh khủng. Như thế, khi một lời Tin Mừng đã được soi sáng cho tôi, ước chi tôi hãy vội đem thực hiện dưới sức Thánh Thần thúc đẩy, soi sáng, “trung tín” với lời đó đến độ luôn tiến tới trong sự hiểu biết mầu nhiệm Thiên Chúa và con người.
3. Để lại bình an đặc biệt
“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em phúc bình an của chính Thầy”. Bình an! Shalom! Lời chúc thông thường của dân Do-thái. Nhưng ở đây là Lời chúc Phục sinh của Đức Giê-su sống lại: một niềm bình an xuất phát từ sự hiện diện của Đấng khiếm diện, nhưng chẳng ngừng trở lại với những kẻ mến yêu Người… Thế gian không thể nhận ra bình an này, cũng như không thể biết được sự hiện diện đầy phấn khích đó.
Sở dĩ thế, vì bình an đây không phải là hòa bình quốc tế, tình trạng chẳng có chiến tranh giữa các quốc gia, cũng không phải là tâm trạng của con người chẳng còn bị căng thẳng về mặt tâm lý, hoặc tâm trạng khoan khoái, thoải mái, sung sướng, vui vẻ. Đó là những gì thuộc lãnh vực tự nhiên. Theo ngôn ngữ của Gio-an, “bình an”, “sự thật”, “ánh sáng”, “sự sống”, “niềm vui”… là những từ diễn tả nhiều khía cạnh khác nhau của ân huệ lớn lao mà Đức Giê-su từ Chúa Cha mang đến cho loài người. Ân huệ này chính là ơn giải thoát, ơn cứu độ. Bình an này là bình an thấy mình được Thiên Chúa yêu thương ở đời này và được Người cho sống lại trong thế giới mai sau. Bình an này là bình an thấy mình luôn nỗ lực chiến thắng lòng ích kỷ để cố gắng xả thân, và nếu cần thì hiến mạng cho anh em vì lòng yêu mến Chúa. Vậy thì bạn muốn kiểu bình an nào? Thứ bình an dễ dãi nhưng bấp bênh của thế gian, của con người, hay thứ bình an sâu thẳm, vững bền, thủ đắc từ cuộc tử nạn phục sinh mà chúng ta đều được mời gọi trải qua với Đức Giê-su?
Suy niệm lời dạy của Chúa Giêsu: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy PS 6-C210
Suy niệm lời dạy của Chúa Giêsu: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con…”, tôi nhận ra, sự bình an trong đời sống nhân loại thường liên quan đến sự tha thứ.
Người ta kể, tại Ấn Độ, trong thời chiến giữa người Ấn giáo và người Hồi giáo, một lần, một người đàn ông Ấn giáo gặp Mohandas Gandhi và kể rằng: Một người Hồi giáo đã giết chết con trai của ông. Trong cơn tức giận, ông giết chết người đàn ông Hồi giáo trả thù cho con mình. Người đàn ông Ấn giáo cho biết: “Từ khi chuyện xảy ra, tôi không thể nào tìm thấy bình an”.
Gandhi suy nghĩ một lúc rồi nói: “Nếu đúng là sự bình an mà anh muốn, thì đây là điều cần thiết, anh phải làm. Người đàn ông đã bị giết cũng có một con trai. Anh đã làm cho nó không có cha. Anh phải là cha của nó, nó phải là con trai của anh. Anh phải nuôi dạy nó như con riêng của mình, và phải là cha như cha thật của nó, dạy dỗ nó như một người Hồi giáo dạy con mình. Làm được như thế, anh mới mong tìm được một chút bình an”.
Chúng ta không xét xem người đàn ông Ấn giáo có làm được điều Gandhi dạy không, hay lỗi là của ai, ai gây ra trước, cùng một hành động giết người, nhưng người Hồi giáo hay người Ấn giáo mang tội nặng hơn.
Điều tôi muốn rút ra trong câu chuyện, đó là khi muốn có bình an, người ta phải tha thứ. Biết bao cảnh huynh đệ tương tàn, biết bao nỗi oan khuất, căm thù, đổ máu… chỉ vì lòng người không thể tha thứ.
Nhân loại rất cần bình an. Mọi người đều hiểu bình an là vốn liếng quý giá trên mọi thứ của cải. Nhưng thực tế lại trớ trêu: chính nhân loại cũng lại là thủ phạm giết chết bình an một cách tàn nhẫn.
Nếu lỡ giết chết bình an, dù tìm cách lấy lại bằng sự hối hận ăn năn thật lòng, may ra cũng chỉ “tìm lại được một chút bình an” mà thôi. Hóa ra người ta giết chết bình an thì dễ nhưng tìm lại bình an thì khó vô cùng.
Cả người Palestine lẫn người Israel, lòng khoan dung, tha thứ thiếu vắng, nên xung đột và bạo động vẫn thường diễn ra. Bình an chưa thực sự đến cho vùng Trung đông từ khi Palestine đòi đất của mình.
Hiện tại, cuộc chiến mà người Nga đổ lên đầu dân Ucraina một cách bất nghĩa trong suốt gần ba tháng qua, vẫn đang đầy căng thẳng, tàn phá và chết chóc. Nguy cơ châu Âu lâm chiến không phải là điều gì xa xôi. Thậm chí nhiều người còn bi quan khi lo sợ chiến tranh thế giới nổ ra...
Bất cứ điều gì, dù tàn nhẫn nhất, kinh khủng nhất vẫn có thể xảy ra, khi nhân loại không nhắm đem bình an cho nhau, lại căm thù, giành quyền lợi của nhau, trong khi tiêu diệt nhân nghĩa và tha thứ.
Không thể tha thứ, ngược lại mải miết đề cao thù hận, mà nhân loại không lúc nào không tiềm ẩn nguy cơ bạo động, khủng bố. Trong quá khứ không xa, lương tâm của nhiều người công chính vẫn còn nhiều đau khổ, uất ức vì quá nhiều người bị bắt cóc, bị giết, bị hành hạ, bị đánh bom...
Dù nhân loại đã bước vào ánh sáng văn minh từ khá lâu, rải rác khắp nơi vẫn còn đó cảnh chà đạp quyền sống, quyền tự do sống và làm người, tự do lương tâm, tự do tỏ bày ý kiến, tự do biểu đạt thái độ chánh trị... của nhiều người bị đè bẹp, bị bóp nghẹt, tù tội và oan sai...
Dường như có một cuộc chiến bại nào đó đang diễn ra trong đời sống nhân loại. Đó không là cuộc chiến bại ở quốc gia hay dân tộc nào. Sự chiến bại ấy khủng khiếp hơn, đó chính là sự chiến bại của lương tâm và đạo đức con người.
Bao nhiêu quyền lực, bao nhiêu hệ thống chánh trị, bao nhiêu tỷ người trên thế giới, lại không thể bảo vệ một số ít anh chị em là tù binh lương tâm, hoặc đang từng ngày phải đối diện với bất công, với lối hành xử bạo tàn của đồng loại mình. Đó là chưa kể, biết bao nhiêu người vì niềm tin vào Thượng Đế, Tin nơi Thiên Chúa, đã đành chấp nhận để người ta tước mất tự do của mình.
Đâu chỉ có thế, bình an còn trở nên hiếm hoi trong đời sống cộng đồng hoặc của từng cá nhân trong cuộc sống hằng ngày khi những cá nhân ấy thiếu lòng yêu thương tha thứ.
Biết bao cảnh trả thù, chém giết, oán hận nhau, nhớ mãi lỗi lầm của nhau vẫn diễn ra. Những kiểu nói “sống để bụng, chết đem theo” hay “không đội trời chung”… là những kiểu nói chất chứa thù oán mà nhiều lần chúng ta phải nghe. Tệ hơn, nếu những lời ấy lại chính là lời diễn tả tâm hồn của bạn và tôi.
Suy cho tới cùng, ta nhận ra, hình như lịch sử loài người từ tạo thiên lập địa, chưa có một ngày bình an. Từ nguyên khởi, lúc mà con người còn chan chứa thứ hạnh phúc của trời cao, của thiên đàng, họ đã sát hại nhau. Lúc Cain giết chết Abel, đứa em trai của mình, chính là lúc Cain khai mạc lòng hận thù, bạo động tàn nhẫn của con người trên thế giới.
Đọc lại câu chuyện về những lần vua Đavit tha thứ, chúng ta cảm thấy thèm khát lòng yêu thương. Ta cũng cảm nhận lòng yêu thương sao mà đẹp quá đỗi. Chỉ cần một chút yêu thương, như một hạt muối bỏ vào cả một chén đầy hận thù, thế là nở ra cả một biển trời bình an.
Vua Đavit đã làm được điều đó khi ông tha thứ cho người cha vợ của mình là vua Saul và đứa con trai ngỗ nghịch là Apsalon. Không phải tha một lần, nhưng Đavit đã tha rất nhiều lần. Vì thế biển trời bình an xung quanh ông vốn đã rộng, lại cứ nở thêm, nở thêm…
Trở lại Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Chúa không nói: “Thầy chúc bình an cho các con”, nhưng lại nói: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy Ban bình an của Thầy cho các con”. “Thầy Ban…”, “Thầy để lại…” nghĩa là gì, nếu không là những kiểu nói của quà tặng, của ân huệ. Bình an chính là ơn Chúa ban nhưng không cho trần gian.
Nhưng có thật là Chúa đã ban bình an hay chẳng có Chúa, chẳng có bình an nào? Bình an đã được ban, sao thế giới cứ mãi ngụp lặn trong bất an, trong bóng tối của thù hận, trong máu và sự chết của chiến tranh? Đúng là thử thách quá lớn cho đức tin chúng ta, vì có một khoảng cách quá xa giữa Lời Chúa với thực tế của thế giới và của bản thân từng người.
Thực ra, Lời Chúa không hề mâu thuẫn. Chỉ trong một bản văn ngắn, có đến hai lần Chúa Giêsu đòi hỏi con người phải có lòng yêu mến. Trước khi ban bình an, Chúa nói: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở lại nơi Người ấy”. Cũng vậy, sau khi trao ban bình an, Chúa lại đòi: “Nếu các con yêu mến Thầy, thì các con hãy vui mừng vì Thầy về với Cha”.
Như vậy có hai điều kiện trên hết mọi điều kiện để thế giới và để lòng người có sự bình an, đó là: “YÊU MẾN THẦY”; “GIỮ LỜI THẦY”.
Nhờ yêu mến và giữ lời Chúa Giêsu, ta được Chúa Cha và Chúa Con ngự trong lòng mình. Vì: “Chúng Ta sẽ đến và ở lại nơi người ấy”. Nơi nào có Chúa Cha, Chúa Con, thì cũng có Chúa Thánh Thần.
Làm sao tâm hồn ta có thể hiềm thù, nổi loạn, chiến tranh, khủng bố khi lòng mình có Thiên Chúa Ba Ngôi, nguồn Bình An tuyệt đối, nguồn Bình An có sức cứu độ và đưa ta vào thế giới vô biên!
Lòng yêu mến mà con người cần phải có đối với Thiên Chúa, sẽ như một dòng chảy tất yếu: yêu Thiên Chúa đưa đến yêu con người. Khi có tình yêu, con người sẽ dễ tha thứ cho anh chị em của mình. Có tình yêu, có lòng tha thứ, chắc chắn sẽ không bao giờ thiếu vắng bình an. Đó là chưa kể, khi một tâm hồn bình an có Thiên Chúa ngự trị, tâm hồn ấy sẽ tràn đầy tình yêu, bất bạo động và rất khoan dung.
Bởi vậy, nếu ngày nào thế giới và mỗi con người trong thế giới chối từ Chúa, còn xua đẩy Lời của Chúa ra khỏi lòng mình, ngày ấy nhân loại vẫn còn đó nỗi chết chóc vì chiến tranh; lòng người vẫn còn đó thù hận vì mất bình an. Cá nhân này với cá nhân kia, tập thể này với tập thể kia, đảng phái này với đảng phái kia, quốc gia này với quốc gia kia… vẫn còn đó sự đối kháng, sự trả thù vì thiếu tha thứ.
Chính vì lý do thiếu vắng tình yêu và tha thứ, ta hiểu được vì sao bình an đã được Chúa ban, vẫn cứ xa vời. Ta cũng hiểu được vì sao từ thuở tạo thiên lập địa, nhân loại không có được một ngày bình an. Thế giới mãi sống trong đe dọa, lòng người sống trong sợ hãi, long đong.
Bạn và tôi là Kitô hữu, tức đã thuộc về Chúa Kitô. Bởi vậy, dù cho thế giới quanh mình có thế nào đi nữa, ta vẫn phải ưu tiên sống Lời Chúa và đặt lòng yêu mến Thiên Chúa của mình lên trên hết mọi sự.
Vì nếu, ngay cả người Kitô hữu mà còn không yêu mến và giữ Lời Chúa, thì làm sao có thể mong ước thế giới hết chiến tranh, loài người sống bình an, người với người tha thứ cho nhau?
Hãy ghi nhớ: khi bình an đã bị đánh, dẫu có tìm lại, cũng chỉ “tìm lại được một chút bình an” mà thôi. Tấm gương tha thứ tuyệt vời của vua Đavid là bài học quý giá cho chúng ta. Nếu một Đavit, nhờ lòng tha thứ, mở ra cả biển trời bình an, mỗi chúng ta biết tha thứ cho nhau, biển trời bình an ấy được nhân lên vô cùng.
Ngoài ra, ta còn phải cầu nguyện cho ơn bình an. Xin Chúa ban cho chính lòng mình tràn ngập bình an, để sống với anh chị em xung quanh.
Sau nữa là xin Chúa tiếp tục tuôn đổ bình an cho thế giới, để nhân loại biết yêu thương và tha thứ cho nhau. Xin Chúa hãy làm cho mọi người hiểu rằng, giết chết bình an thì dễ, nhưng để có bình an, khó lắm! Vì thế, nếu đã không nỗ lực để kiến tạo bình an, thì cũng đừng tìm cách chà đạp bình an của thế giới, của lòng người, nhất là đối với những người vô tội.
Bất đồng ý kiến có xấu không? Chưa chắc. Trái lại, nó là cơ hội để một tập thể trở nên đồng nhất PS 6-C211
Bất đồng ý kiến có xấu không? Chưa chắc. Trái lại, nó là cơ hội để một tập thể trở nên đồng nhất và đoàn kết hơn. Cộng đồng Giáo Hội sơ khai ở Jerusalem không phải là không có vấn đề như trong bài đọc sách Công Vụ Tồng Đồ hôm nay (Cv 15:1-2, 22-29).
Khi thấy cuộc truyền giáo đầu tiên của Phaolô thành công, một số Biệt Phái mới trở lại yêu cầu dạy các tân tòng dân ngoại phải giữ luật Môsê. Vì Giáo Hội Jerusalem có thẩm quyền, nên Phaolô và Barnabas đã lên đó để xin ý kiến về vấn đề này. Hội Đồng Jerusalem (Cv15:1-35) đã phủ nhận quan niệm đó. Dân ngoại trở lại đạo không buộc phải giữ đầy đủ luật Môsê. Từ thời điểm này Luca đã đặc biệt viết về sứ vụ truyền giáo của Phaolô với dân ngoại cho đến kết thúc sách Công vụ Tông đồ.
NHỮNG TRANH LUẬN TRONG GIÁO HỘI SƠ KHAI
Dân ngoại khi trở lại đạo có phải giữ những tập tục của Do Thái như cắt bì, chay tịnh, kiêng khem và luật hôn nhân không? Bài đọc 1 cho thấy đây là một trong những cuộc tranh luận lớn đầu tiên ở Giáo Hội sơ khai, đồng thời giúp ta hiểu tường tận truyền thống cũng như việc giải quyết những bất đồng trong Giáo Hội lúc bấy giờ.
Sách Công vụ Tông đồ ghi lại một số người không có quyền trong Giáo Hội ở Jerusalem đã coi phép cắt bì là điều kiện cần để được cứu rỗi trong Giáo Hội Antioch. Ở Giáo Hội sơ khai, việc cần phải giữ luật Môsê mới được cứu rỗi là vấn đề quá xưa đã được giải quyết rồi. Chúa Giêsu đã giữ luật đó một cách hoàn hảo. Người đã chịu cắt bì vào ngày thứ 8 sau khi sinh ra (x. Lc 2:21). Người không bao giờ hủy bỏ luật Môsê. Trái lại Người đã tuyên bố: “Anh em đừng nghĩ rằng Thầy đến là để bãi bỏ luật Môsê hay các lời tiên tri. Thầy đến không để bãi bỏ mà để kiện toàn” (Mt 5:17). Tuy nhiên thánh Phêrô, vì sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, đã rửa tội cho tên cận vể của đại đội trưởng La Mã Cornelius mà không cần làm cắt bì.
Các Tông đồ và các bô lão đã cùng nhau họp lại để bàn luận về những bất đồng đã đi đến kế luận: đồng ý với Giáo Hội Mẹ ở Jerusalem là không buộc phải tuân giữ luật Môsê và nhiều truyền thống của các tôn sư rabbis. Những người trở lại đạo, vì lịch sự, cũng không buộc phải giữ luật ăn kiêng máu hay súc vật bị giết mà không lấy hết máu cũng như luật lệ về hôn nhân có liên hệ bà con…
TRUYỀN THỐNG VÀ LỊCH SỬ
Do đó để giữ hòa khí, Hội đồng Jerusalem đã đưa ra một giáo lý về phép cắt bì và luật Môsê. Đây là một tiêu chuẩn mẫu rất tốt để ứng sử với những vấn nại về truyền thống, về việc tiếp tục thi hành truyền thống và những bất đồng hiện nay. Hai ông Phêrô và Phaolô đều rất kính trọng và tin tưởng vào sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống và mọi cảnh huống của con người. Ngay cả khi Chúa Thánh Thần có vẻ như muốn hủy bỏ những truyền thống đã có cà hàng thế kỷ, ông Phêrô và Phaolô vẫn tin rằng Chúa Thánh Thần cũng không bị ràng buộc bởi những truyền thống và lịch sử đó.
Cả hai ông Phêrô và Phaolô cũng không sợ phải mang những trường hợp này và những vấn nại của các ông ra trước toàn thể những vị lãnh đạo của Giáo Hội. Kết quả cuối cùng đã được quyết định sau khi cầu nguyện, ăn chay hãm mình, bàn hỏi và bỏ phiếu. Điều thiết yếu và trên hết là phải giữ hòa khí bằng mọi giá, mà không phải cam kết về những nguyên tắc hay luật lệ về nhân quyền. Sau cùng, tặng phẩm của Chúa Giêsu ban cho Giáo Hội lúc giã từ nhau là BÌNH AN, không CHIA RẼ, không BẤT ĐỒNG. Phán đoán và quyết định của chúng ta phải dẫn đưa chúng ta và mọi thế hệ mai sau tới đích cuối cùng là một TÂN JERUSALEM được thiết lập trên mặt đất này, một Vương Quốc của Công Lý, Hòa Bình và Hạnh Phúc.
LUẬT SƯ BIỆN HỘ
Bài Tin Mừng Gioan hôm nay (x. Ga 14:23-29) nhắc nhở chúng ta là những ai gặp Chúa Kitô và kết bạn với Người thì sẽ được Thiên Chúa Ba Ngôi yêu mến và đón chào hiệp thông với Người, như Chúa Giêsu đã hứa với các môn đệ của Người: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.” (Ga 14:23)
Chúa Giêsu cũng đã nói Người sẽ gửi “một vị cố vấn” đến ở bên cạnh chúng ta (Ga 14:23-29). Nói về vị cố vấn, Gioan dùng tiếng Hy Lạp là ‘parakletos’, nghĩa là ‘bạn đồng hành’ đi bên cạnh để giúp đỡ, chỉ bảo chúng ta về pháp luật như một luật sư biện hộ vậy. Nói là luật sư biện hộ, nhưng hình ảnh Chúa Giêsu đưa ra lại là một công tố viên.
Chúa Giêsu bị đóng đinh và chết. Dưới mắt người đời thì Chúa Giêsu bị mang ra tòa xét sử và bị kết án có tội. Nhưng sau khi Chúa chết, “luật sư biện hộ” sẽ lật ngược bản án, chứng minh Chúa vô tội và kết án thế gian (Ga 16:8-11)
Chúa Giêsu cùng với Chúa Cha là Đấng bào chữa đầu tiên của chúng ta. Vị tân biện sĩ này không phải là đại diện được sai đến để thay thế Chúa vắng mặt, nhưng là để bảo đảm sự có mặt của Người và Cha Người. Các ngài sẽ “đến với” và “ở với” kẻ trung thành với Lời Chúa Giêsu, không phải với những kẻ không yêu Chúa và không giữ lời Chúa.
Vị luật sư cố vấn này cũng ở với bất cứ ai yêu Chúa Giêsu và giử các giới răn của Người. Sự hiện diện của Người không có giới hạn không gian và thời gian (x. Ga 14:15-17), một cách hay nhất để Người đến với chúng ta. Những lời Chúa nói về vị luật sư cố vấn đồng hành này đã được diễn tả rất tuyệt vời trước các Tông đồ trong bữa tiệc ly cuối cùng. Ảnh hưởng của nó còn đi xa hơn cả những người hiện diện lúc đó. Chúa Giêsu, ngày hôm nay, cũng nói với chúng ta như vậy.
Vị luật sư cố vấn đồng hành này cũng hiện diện với các môn đệ thời nay của Chúa Giêsu như đã hiện diện với các Tông đồ tiên khởi của Chúa. Người vẫn tiếp tục gửi Chúa Thánh Thần Sự Thật đến với chúng ta. Tin Mừng đã cho chúng ta thấy “Đấng mà Thiên Chúa Cha gửi đến cho chúng ta sẽ dạy chúng ta mọi sự và giúp chúng ta nhớ lại tất cả những gì Chúa Giêsu đã nói với chúng ta” (c.26). Những tư tưởng này đã được diễn nghĩa rõ ràng trong sách Giáo Lý Công Giáo câu #1099 về Chúa Thánh Thần là “ký ức sống động của Giáo Hội”. Chúa Thánh Thần sẽ tăng sức mạnh cho chúng ta để chúng ta yêu mến Chúa Giêsu và những người anh em huynh đệ của chúng ta, để chúng ta sống trong lời Chúa, vâng theo các giới răn Chúa, đồng thời chia sẻ với tha nhân một cách quảng đại tất cả những điều chúng ta đã nhận được.
MỘT KIỂU MẪU ỨNG SỬ
Hội đồng Jerusalem đã để lại một kiểu mẫu để giúp chúng ta ứng sử với những tình trạng và hoàn cảnh khó khăn trong Giáo Hội. Đối với các Tông đồ thì cả hai vấn đề thần học và cảm nghĩ của dân chúng đều rất quan trọng. Ngay cả khi Chúa Thánh Thần tỏ ra không chấp nhận những truyền thống thánh đã có từ nhiều thế kỷ, nhưng Phêrô và Phaolô cũng nhận ra là Chúa Thánh Thần không bị ràng buộc vào truyền thống và lịch sử.
Ước mong chúng ta là những người theo cùng truyền thống và lịch sử luôn luôn mở rộng tâm hồn để làm việc với Chúa Thánh Thần. Như vậy chúng ta sẽ là những tác nhân của vị luật sư cố vấn đó của Giáo Hội và thế giới.
Trong bài chia sẻ hôm nay, tôi muốn gửi đến quý bạn đọc một trích đoạn trong bài viết của Linh PS 6-C212
Trong bài chia sẻ hôm nay, tôi muốn gửi đến quý bạn đọc một trích đoạn trong bài viết của Linh mục Phanxicô, chia sẻ về sự khác biệt giữa hai sự bình an: Bình an của thế gian và bình an của Chúa. Qua đó, tôi hy vọng, bạn và tôi cũng sẽ có khả năng nhận ra sự khác biệt giữa bình an của thế gian và bình an của Chúa.
"Ngày mới bước chân qua Mỹ, tôi cảm thấy bình an và hạnh phúc vì tôi và gia đình đã thoát khỏi những nỗi sợ hãi, không còn sợ bị công an khu vực gõ cửa xét hộ khẩu, đòi hối lộ, không sợ bị du kích đến bắt đi bộ đội, không còn sợ đói sợ khát, không còn sợ thiếu thốn... Mỗi sáng đón xe bus đi làm việc, hai tuần lãnh lương một lần, muốn mua gì thì mua, muốn ăn gì thì ăn, tối đến leo lên giường ngủ một giấc đến sáng thức dậy đi làm tiếp, tôi cảm thấy tâm hồn bình an và hạnh phúc.
Nhưng sự bình an của tôi lúc bấy giờ kéo dài chẳng được bao lâu, bởi vì đi xe bus mất nhiều thời giờ, và bất tiện, nhất là khi chờ ở trạm xe bus dưới mưa gió, ướt át và lạnh lẽo… thế là tôi mua xe. Tưởng mua được xe rồi là sẽ được vui vẻ, bình an, sẽ thoải mái hơn, nhưng ngược lại, chẳng bao lâu, sau khi mua được xe, tôi lại cảm thấy bất an, đơn giản là vì tôi phải lo lắng và phải chi tiêu nhiều hơn trước, nào là bảo hiểm, nào là sửa chữa, nào là bảo trì, xăng nhớt… Rồi có xe xong, thì lại phải ăn mặc cho chỉnh chu hơn, thế là lại phải mua sắm quần áo, giày dép, đồng hồ... Nhưng càng sắm sửa, càng tích lũy, và càng có nhiều bao nhiêu, thì sự bình an trong tâm hồn của tôi lại ngắn ngủi và hiếm hoi bấy nhiêu.
Thế rồi một ngày nọ, sau khi nghe được tiếng Chúa mời gọi sống đời sống tu trì, tôi bắt đầu làm công việc thiện nguyện, giúp những gia đình mới đến Mỹ đi nhà thờ, đi chợ, đi mua đồ garage sale, đi học Anh Văn, đi làm giấy tờ ...Và lạ lùng thay, tôi càng dấn thân phục vụ, càng cho đi thời giờ, công sức và kể cả tiền bạc, tôi càng "Ăn cơm nhà đi vác ngà voi"... nhiều bao nhiêu, thì tâm hồn của tôi lại càng cảm nghiệm được sự bình an nhiều bấy nhiêu. Giờ đây tôi nghiệm ra được rằng, sự bình an mà tôi có được khi tôi thu vén, tích lũy, mua sắm… chính là bình an của thế gian ban tặng, nó vừa ngắn ngủi, lại vừa mau phai tàn. Còn sự bình an mà tôi cảm nhận được, qua việc dấn thân phục vụ, chia sẻ và cho đi...thì đó mới là sự bình an đích thực của Chúa Kitô Phục Sinh, sự bình an mà Ngài hứa ban tặng cho các môn đệ của Ngài ..."
Bạn có đồng ý với cha Phanxicô rằng, bình an mà ta có qua việc mua sắm, tích lũy, và thu vén cho mình, là bình an của thế gian, còn bình an của Chúa Giê-su Phục Sinh ban tặng là bình an có được từ việc cho đi, chia sẻ và phục vụ không? Cá nhân tôi, tôi đồng ý 100%.
Chúa Giê-su đã phán với các môn đệ, trong đó có chúng mình: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy." Bạn có muốn nhận được sự bình an đích thực của Thầy Giêsu không? Nếu muốn, thì bạn và tôi hãy cố gắng phục vụ, chia sẻ, cho đi và dâng hiến...thì chúng mình mới nhận được sự bình an của Chúa Giê-su, tức là sự hạnh phúc, và niềm vui trong tâm hồn. Chúa Giêsu đã phán: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20:35), cho đi thời giờ, tài năng, nụ cười, tiền bạc, cho đi những lời nói an ủi, yêu thương, tha thứ...thì chúng mình chắc chắn sẽ nhận được sự bình an đích thực của Chúa. Xin bạn hãy cố gắng thử xem sao nhé!
• Nếu Chúa ban cho bạn năng khiếu về âm nhạc, về giọng hát, về sử dụng các nhạc cụ…Bạn hãy đem ra phục vụ giáo xứ, phục vụ cộng đoàn, qua môi trường của ca đoàn!
• Nếu Chúa ban cho bạn khả năng sư phạm, có trình độ và kiến thức cao về giáo lý, về Kinh Thánh, về kế toán, về network, về computer, về cắm hoa, trang trí…bạn hãy cống hiến, cộng tác và giúp đỡ cho giáo xứ, cho cộng đoàn qua môi trường dạy tiếng Việt, dạy giáo lý, hay làm kế toán, hoặc trang trí…
• Nếu bạn có thời giờ và biết sửa chữa điện nước, làm mộc, dọn dẹp, làm vệ sinh, hút bụi, lau chùi, cắt cỏ, tỉa cây…Bạn hãy ghi danh vào các nhóm làm vệ sinh, vào nhóm bảo trì sửa chữa của nhà thờ, để giúp cho cộng đoàn trong việc làm đẹp, làm sạch và bảo trì nhà Chúa…
• Nếu Chúa ban cho bạn có đời sống vật chất khá hơn nhiều người, bạn hãy chia sẻ, hãy rộng rãi cho đi, hãy quảng đại bố thí hay dâng cúng cho Giáo Xứ, cho các dòng tu, cho các cơ quan từ thiện…để họ có thể thay bạn giúp đỡ cho những người kém may mắn hơn bạn.
Bạn có tin rằng khi bạn và tôi vui vẻ dấn thân phục vụ, rộng rãi cho đi, quảng đại chia sẻ, tự nguyện dâng hiến…thì chúng mình sẽ nhận được sự bình an thật của Chúa Giêsu ban tặng không? Bạn tin hay không tùy bạn, nhưng tôi thì xác tín như vậy!
Cầu chúc bạn và những người thân trong gia đình bạn, một tuần lễ mới mạnh khỏe, vui vẻ, có nhiều niềm vui, gặp nhiều may mắn, và nhất là chúc bạn luôn hăng say phục vụ tha nhân, phục vụ cộng đoàn, để bạn nhận được sự bình an đích thực của Chúa Kito Phục Sinh. Amen!
Dường như lo âu và sợ hãi là những người bạn không thể thiếu vắng trong cuộc đời. Tất cả PS 6-C213
Dường như lo âu và sợ hãi là những người bạn không thể thiếu vắng trong cuộc đời. Tất cả chúng ta đều có lúc sợ hãi. Khi còn nhỏ chúng ta sợ ma và bóng tối. Trong hoàn cảnh đó, điều làm cho chúng ta bớt sợ và cảm thấy an toàn hơn là nhận ra có người ở bên cạnh bảo vệ và che mưa chắn gió cho mình. Khi lớn lên, một số người trong chúng ta có thể sợ sấm sét và sấm sét lại đi kèm với bão tố (thiên nhiên và đời sống!) Nó chung dù muốn trốn chạy, nhưng sợ hãi luôn tìm đến chúng ta.
Thế giới chúng ta đang còn phải chống trọi với thiên tai và dịch bịnh. Đại dịch do Covid-19 gây ra vẫn chưa chấm dứt. Hàng triệu người dân vô tội đã chết, còn rất nhiều người sống trong âu lo và sợ hãi do hậu quả và các di chứng do đại dịch để lại. Tâm trạng lo âu và sợ hãi đã gây ra các ảnh hưởng tiêu cực trong việc tương tác giữa người với người. Một số người sợ đám đông, sợ bị lây lan. Tình trạng sợ hãi này kéo dài khiến họ cảm thấy cô đơn dẫn đến trầm cảm và không dám tiếp xúc với ai!
Hơn thế nữa, chúng ta tưởng rằng các cuộc cách mạng về công nghệ thông tin sẽ giúp chúng ta xây dựng một cuộc sống trong đó con người có thể được nối kết với nhau gần hơn, nhưng trên thực tế lại có nhiều người sống cô đơn hơn. Họ có thể là nạn nhân của chủ nghĩa cá nhân hay là nạn nhân của một cách sống không cần đến ngày mai, chọn những thú vui trước mắt như hạnh phúc; nhưng thật ra lối sống tìm thú vui chóng qua và thiếu tương tác này lại dẫn họ đến tình trạng chán nản và cô đơn. Thêm vào đó, chúng ta đang sống trong một xã hội có quá nhiều tiện nghi, như mua hàng online, không cần giáp mặt mà vẫn đạt được sở nguyện; thói quen này tăng dần cho đến một ngày con người tự mình cô lập mình.
Thứ cảm giác cô đơn có thể là một điều thật khó khăn để trải nghiệm. Và đây có thể là điều làm các môn đệ lo sợ. Làm thế nào mà các ông có thể tránh nỗi hoang mang và lo sợ khi biết Thầy phải ra đi và để họ ở lại. Cho đến hôm nay, tất cả những gì họ làm và đeo đuổi đều gắn liền với sứ mạng của Đức Giê-su. Giờ đây công danh và sự nghiệp đâu chưa thấy, thế mà Thầy lại phán rằng Thầy đi thì ích lợi hơn cho họ (Gio-an 16:7) Vẫn biết học để tin vào Lời Thầy phán là điều cần thiết, nhưng làm sao lại không khỏi lo sợ chứ! Trong hoàn cảnh đó, Đức Giê-su tiếp tục trấn an: Họ sẽ không cô đơn, “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.” (Gio-an 14:26)
Đó là vai trò của Chúa Thánh Thần mà Đức Giê-su bộc lộ hôm nay. Ngài vừa là thầy dậy vừa là bạn đồng hành nhắc lại cho các môn đệ nhớ lại những Lời mà Đức Giê-su đã dậy bảo. Với vai trò của Chúa Thánh Thần như một người Thầy và bạn đồng hành mà Đức Giê-su giới thiệu hôm nay khiến tôi nhớ đến một vai trò mà chúng ta thường nghe hay đã có kinh nghiệm, đó là vai trò của một ‘mentor’ trong cuộc sống của chúng ta. Vậy, mentor là ai?
Với kinh nghiệm trong cuộc sống, nhất là qua lối đào tạo rất nhân văn của xã hội hôm nay, chúng ta nhận ra vai trò của một vị vừa là thầy vừa là người bảo trợ giúp chúng ta khỏi cô đơn. Họ hiện diện để hướng dẫn chứ không áp đặt. Họ có mặt để giúp chúng ta thoát cảnh cô độc và khi chúng ta đã vững vàng thì họ lại lùi về phía sau, mà không biến mất; để chờ dịp khác hộ phù và tiếp tục bảo trợ.
Khi nói đến vai trò của những người ‘mentor-đồng hành’ làm tôi nhớ lại công việc của những người mẹ. Bởi vì, khi nhìn Chúa Thánh Thần trong vai trò Thầy dậy và người bầu chữa làm tôi nhớ ngay đến các người mẹ. Các ngài là tất cả. Mẹ đã hiện diện ngay khi ta mở mắt chào đời, tiếp tục dìu dắt và vực chúng ta dạy mỗi khi ta vấp ngã. Các ngài đã dậy bảo nhưng không áp đặt, dìu dắt và nâng đỡ chứ không lôi kéo. Lùi về phía sau nhưng không biến mất để chờ dịp cùng chúng ta tiến về đích bình an. Quan trọng hơn cả là cùng đồng hành để ta không cô đơn.
Thưa anh chị em,
Sau cùng, chúng ta biết rằng Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay đã được ứng nghiệm nơi cuộc sống sứ vụ của các môn đệ sau khi Chúa sống lại từ cõi chết. Với quyền năng và sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các Ngài đã làm được những dấu lạ điềm thiêng khiến bao nhiêu kẻ trở lại và tin vào Danh Chúa Ki-tô. Nhưng hiện trong lúc này, tình cảnh xẩy ra ngay trước mắt các ông vẫn là việc ra đi của Thầy. Điều này làm cho lòng dạ các ông hoang mang, rối bời và lo sợ.
Với tình huống đó, Đức Giê-su đã phán: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.” (Gio-an 14, 27)
Đây là một trong những khoảnh khắc sâu đậm nhất trong bản văn Tin Mừng hôm nay. Chúa ban bình an cho các môn đệ, một thứ bình an mà các môn đệ không thể nào tìm được ở đâu khác trên thế gian này. Thế gian không có thứ bình an này. Bình an xuất phát từ trong tâm hồn.
Chỉ có người nào có con tim thanh tịnh, cõi lòng thanh thản mới có thể cảm nhận được thứ bình an này. Vì thế, Người khuyên họ đừng để con tim giao động và sợ hãi trước những biến cố sẽ xẩy đến. Người sẽ không để các ông mồ côi. Không chỉ có Thầy mà cả Cha Thầy cũng sẽ đến để trao ban bình an cho những ai tin vào Người.
Như vậy, bình an không chỉ là lời chúc hay nguyện ước; đó chính là quà tặng của Chúa ban ngay tại thời điểm mà chúng ta cần để có thể đối diện với những giây phút bi đát mà chúng ta có thể gặp trước sự ra đi của Đức Giê-su. Không chỉ có thế, với ơn bình an, Đức Giê-su còn mong muốn các môn đệ và chúng ta hãy hân hoan và vui mừng vì biết rằng chính vào giờ từ giã thế gian lại là thời điểm trở về nhà Cha của Người.
Tuy nhiên, đối diện với hoàn cảnh thực tế, các môn đệ và chúng ta không thể tránh thoát những giây phút hoang mang, lo lắng về sự vắng bóng của Đức Giê-su. Nhưng cho dù lòng dạ có xao xuyến đến đâu hay hoàn cảnh mà chúng ta gặp phải có bi đát đến dường nào đi chăng nữa, chúng ta hãy nhớ rằng lòng mến Chúa và ơn bình an mà Chúa trao ban hôm nay vẫn là những khí cụ hữu hiệu nhất mà chúng ta cần có để chu toàn sứ mạng.
Sau cùng, đừng để lo âu và sợ hãi giết chết các mối quan hệ của chúng ta. Bất cứ khi nào anh chị em thấy mình trong bóng tối hay chao đảo trước các sóng gió và bão tố của cuộc đời thì hãy tin rằng Chúa Giê-su Phục Sinh vẫn ở cùng chúng ta. Chớ gì cuộc đời của chúng ta luôn là chiếc bình rỗng, trống không để Chúa đổ tràn đầy sự sống, tình yêu và bình an vào trong đó. Amen!