Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 5-C Bài 151-194 Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu ------------------------------------ Phúc Âm: Ga 13, 31-33a. 34-35: "Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau".
Một buổi tối nọ, trước khi ngôi sao âm nhạc nổi tiếng của Broadway, Mary Martin lên sân khấu trình bầy vở nhạc kịch lừng danh South Pacific (vở nhạc kịch này đoạt giải hay nhất năm 1950). Người ta đưa cho Mary Martin một mảnh giấy của Oscar Hammerstein, tác giả của vở kịch này, hiện đang nằm trên giường bệnh, sắp chết. Không biết trong mảnh giấy viết gì, chỉ biết rằng sau buổi trình diễn hôm đó, nhiều khán giả ùn ùn chạy ra hậu trường, tràn ngập xúc động, nói rằng: “Mary, điều gì đã xẩy ra với cô tối nay vậy ? Chúng tôi chưa bao giờ thấy cô diễn xuất nhập tâm một cách tuyệt vời hơn như vậy cả”.
Vừa chớp mắt đôi mắt ướt đẵm, Mary đọc bức thư ngắn ngủi của Oscar Hammerstein, nội dung như sau:
“Mary mến, một cái chuông không phải là chuông cho đến khi cô rung nó. Một bản nhạc không phải là bản nhạc cho đến khi cô hát nó. Tình yêu trong trái tim của cô đừng để nó nằm yên tại đó. Tình yêu không phải là tình yêu cho đến khi cô cho đi”
Rồi Mary Martin nói: “Tối nay, tôi đã cho đi tình yêu của mình…”(Internet)
Người ta chỉ thật sự là mình khi biết trao cho nhau tình yêu thương, cho nên có câu: “Sự chia sẻ và tình yêu thương là điều quý giá nhất trên đời” (khuyết danh).
Chúa Giêsu đã truyền cho các môn đệ:“Các con hãy yêu nhau như Thầy đã yêu…”. Người nhấn mạnh đây là “Điều Răn Mới”…, là một lệnh mệnh của Thầy trước khi ra đi về cùng Cha.
Về sự yêu thương, Kinh Thánh mạc khải cách tiệm tiến, Luật Cựu Ước dạy: “Yêu thương tha nhân như chính mình” (Lv 19,18). Ông Tôbít khuyên con là Tôbia: "Ðiều gì con không thích, thì cũng đừng làm cho ai cả" (Tb 4,15), trở thành luật vàng (règle d’or) cho cách sống của dân Chúa. Ðức Giêsu đã lặp lại luật vàng này, đồng thời làm trọn nó, như làm trọn Lề Luật nói chung (x. Mt 5,17) khithay lời khuyên không làm với hình thức tích cực (hãy làm). Ngài nói: "Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta" (Mt 7,12; Lc 6,31).
Hơn nữa, Chúa Giêsukhi đến trần gian, Ngài dạy sống tình yêu và Ngài phát triển tiệm tiến, ban đầu xác định rõ sự tương đương giữa yêu người và yêu mình khiNgài quả quyết: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22,39). Tình yêu được phát triển cao độ dựa vào chính tình yêu của Ngài đối với con người: “Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,12).
Mà tình yêu của Ðức Giêsu đối với ta lại là một tình yêu hy sinh mạng sống mình vì người mình yêu, một tình yêu của Thiên Chúa (Ga 15,9.13).Chúa Giêsu dạy: “Yêu thương tha nhân như chính Chúa yêu thương chúng ta”. Yêu như Đức Giêsu: Ngài quỳ gối xuống rửa chân cho các môn đệ của mình, một cử chỉ phục vụ như người tôi tớ phục vụ chủ (Ga 13,14). Tình yêu Chúa Giêsu đối với chúng ta là ân cần, tận tâm, vô vị lợi (x. Ga 13,13-16; 15,16-19; Rm 15,13). Đỉnh cao của tình yêu: Người đã hiến thân mình cho nhân loại đến cùng, nghĩa là cho đến chết (Ga 13,1; 15,12-14). Thật thế, Chúa đã yêu thương chúng ta đến độ Ngài sẵn sàng chết để chúng ta được sống, Thánh Gioan đã xác quyết: “Tình yêu cốt tủy ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta. Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau" (1Ga 4,10-11).
Theo lệnh truyền của Chúa: “Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,12). Cho nên Thánh Gioan đã mời gọi: “Chính điều này mà Ta nhận ra được lòng yêu mến: Là Đấng ấy (Đức Kitô) đã thí mạng mình vì chúng ta, nên ta cũng phải thí mạng mình vì anh em (1 Ga 3,16).
Hơn nữa yêu thương nhau như Ngài yêu đó là dấu chỉ nên người môn đệ của Chúa Kitô: “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 35)
Sống trong yêu thương, Thánh Phaolô mời gọi chúng ta cụ thể sinh hoa trái của Tình yêu: “Nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy sự chân thật…” (1 Cr 13,4-6)…
Lời Kinh của Giáo Hội cụ thể sự tha thiết theo lời dạy yêu thương của Thầy:
Ôi lạy Chúa, mở cho con đôi mắt Thấy tình yêu kỳ diệu Chúa khắp nơi Con mù loà, bên vệ đường hành khất Xin chữa con để nhìn thấy mặt Ngài Cúi lạy Ngài, cho tai con nghe rõ Tiếng tha nhân cầu khẩn lượng hải hà Họ khổ đau, họ kêu gào than thở Ðừng để con cứ giả điếc làm ngơ Cúi lạy Ngài, xin mở rộng tay con Luôn nắm lại giữ khư khư tất cả Trước cửa nhà có người nghèo đói lả Xin dạy con biết chia sẻ vui lòng . . . (Thánh Thi Giờ Kinh Sách Thứ Năm Tuần II).
Đức Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận mời gọi: “Đừng để tháng ngày làm quả tim già nua. Hãy yêu thương với một tình yêu mãnh liệt, mới mẻ, trong trắng hơn: Tình yêu Chúa đổ vào quả tim con” (Đường Hy Vọng, 178).
Với lòng yêu thương cho nhau, con người phục vụ nhau: khi cho đi cũng là lúc được nhận lại như Rainer Maria Rilke nói: “Có điều kỳ diệu xảy đến với những người thực sự biết yêu thương: họ càng cho nhiều, họ càng có nhiều”. Hạnh phúc đến từ lòng yêu thương và cũng từ sự yêu thương cho anh em đồng loại, cũng là dành cho chính mình, giải phóng cho chính mình khỏi mọi nỗi khắc khoải... Cho nên Sophocles nhận định: “Có một từ giải thoát chúng ta ra khỏi mọi nỗi đau khổ trong cuộc sống. Đó chính là từ: yêu thương”.
Chúng ta sống trên đời như Albert Camus tâm niệm: “Tôi chỉ biết một nghĩa vụ, đó là yêu thương”.
Cho nên, William Blake nói :”Chúng ta đã được đặt vào trần gian ngắn ngủi để học tỏa sáng tình thương”.
Thật thế, chúng ta sống như thầy Giêsu dạy: “Hãy yêu thương nhau...”
Ngày xưa, có một người trồng một cây ăn trái trong khu rừng. Thoạt đầu, cây còn nhỏ, dường như PS 5-C152
Ngày xưa, có một người trồng một cây ăn trái trong khu rừng. Thoạt đầu, cây còn nhỏ, dường như nó bị mất dạng giữa đám cây lớn. Hình dáng của những cây hết sức to lớn khác đã khiến nó cảm thấy mình thật vô nghĩa: chúng cao, mạnh mẽ và hữu ích ; còn nó thì quá bé nhỏ, mỏng manh và vô ích. Vì thế nó phải làm gì bây giờ ? Nó xác định vị trí và chỗ đứng phải đạt được cho chính mình trong khu rừng.
Thật khó mà thực hiện cũng như chẳng dễ gì thành công! Cuối cùng ngọn của nó cũng vươn được lên bầu trời để có thể chuyện trò với những cây cao nhất của khu rừng. Cành của nó trải rộng bốn phía như một cái dù khổng lồ, đòi hỏi ngày một nhiều khoảng không gian cho chúng. Thân của nó trở nên to mập và rắn chắc đến độ nó có thể cười những cón giông bão mà đôi lúc chúng gào thét xuyên qua cánh rừng.
Nhưng rồi một ngày nọ, người đã trồng nó thình lình xuất hiện ở khu rừng. Nhìn cây mình đã trồng, ông nói: "Mày lớn nhanh thật ! Sao mày lại có những nhánh tuyệt vời đến thế, mà tao chưa hề bao giờ trông thấy. Còn thân mày như bức tường thành."
“Nhưng tôi vẫn còn có những điều sai lỗi", cây nhún nhường mường tượng nói "Cứ nhìn vào tất cả những vết lõm, khe nứt, và những cái mắt gỗ trên thân tôi. Giả như tốt nhất, tôi có thể lấy chúng ra khỏi tôi, tôi còn đẹp hơn nhiều. Nhưng tôi còn phải chịu đựng chúng."
"Ta không quan tâm đến những lỗi này. Thật ra, ta cũng chưa từng xem chúng như là những điều lỗi", Người trồng cây trả lời. Nghe câu này, cây ăn trái bắt đầu rạo rực với niềm kiêu hãnh. Nhưng sau đó, người trồng cây thêm vào: "Tuy nhiên, có một điều khiến ta chẳng hài lòng."
"Ô sao ông lại chẳng hài lòng về tôi", cây ăn trái trả lời, phòng thủ bất ngờ. "Tôi không hiểu. Ông cứ nghĩ lại mà xem, tôi đã phát triển sung sức như thế nào. Tôi có thể tự hào với cây sồi, cây du. Tôi nghĩ ông phải hãnh diện vì tôi chứ. Tôi đã làm việc cật lực để chiếm được vị trí mà giờ đây tôi vui sướng ở giữa rừng cây."
"Ta không nghi ngờ một chút nào về việc làm cật lực của mi", người trồng cây nói.
“Thế thì ông còn muốn gì nơi tôi ?"
“Điều mà ta hy vọng thấy nơi mi, mi lại quên mất", ông trả lời. “Mi đã xao lãng điều quan trọng nhất trên tất cả chỉ có một điều quan trọng."
"Điều đó là gì ? , Cây ăn trái thất vọng hỏi.
“Trái. Mi không phải là thông, chẳng phải sồi, chẳng phải du. Mi là loại cây rất quý, rất hiếm. Mi là một cây ăn trái. Ta đã trông mong vào mi để cung cấp những trái ngon lành cho những người chết đói lang thang trong rừng có được một chút gì ăn. Nhưng mi đã chẳng làm được những việc đó, bởi vì mi đã quên mi là loại cây gì. Mi chỉ trở nên như những thứ cây khác ở trong rừng."
Lệnh truyền mà Chúa Giêsu ban cho ta phải thực hiện đó là yêu mến nhau. Đây là điều luật mới chỉ vì trong ý nghĩa nó đã xác lập một chuẩn mực mới: "như Thầy đã yêu thương anh em". Thông thường các Kitô hữu tìm cách đạt được những thành công thuộc thế giản, và nhiều trường hợp đã đạt được Nhưng khi sống như thế, họ đã quên một điều mà Chúa Giêsu mong đợi nơi họ, ấy là tình yêu. "Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau, (Ga 13,35). .
Tình yêu làm cho chúng ta nên công cụ của thánh ý Thiên Chúa trong đời sống với anh em. Tình yêu của chúng ta trở nên máng chuyển đến anh em, qua đó họ có đúc kinh nghiệm tình yêu Thiên Chúa. Một ký giả Mỹ, khi chiêm ngắm Mẹ Têrêsa dang chăm sóc cho một người dàn ông mắc bệnh hoại tử, đã phê bình: "Tôi chẳng thèm làm công việc đó cho dù có cho tôi một triệu đô la đi nữa."
Mẹ Têrêsa trả lời: "Ngay cả tôi, tôi cũng chẳng thèm làm với số tiền đó. Tuy nhiên tôi làm điều này vì tình yêu Chúa."
Elie Wiesel viết về kinh nghiệm của ông ở Auschwitz cho rằng những người Đức cố để những PS 5-C153
Elie Wiesel viết về kinh nghiệm của ông ở Auschwitz cho rằng những người Đức cố để những người trong tù quên đi bà con thân thuộc, bạn bè, để rồi chỉ nghĩ về chính họ, và chỉ phục vụ cho những nhu cầu của chính họ, hoặc những điều khác họ sẽ diệt vong. Vì lẽ đó mà người ta cứ nói đến chúng suốt ngày đêm. Nhưng Wiesel nói rằng điều xảy ra thì trái ngược. Những người mà sống cho chính họ, ít có cơ hội sống sót ; trong khi những người sống vì cha mẹ, anh em, bạn hữu, lý tường đã có cơ hội tốt hơn để giành lấy sự sống.
Ích kỷ khiến chúng ta khép kín, nó giam hãm ta. Nó dựng nên những rào chắn, ngay cả những bức tường giữa ta với anh em. Điều giải phóng ta khỏi những tình trạng giam cầm này là lòng yêu thương chân thành, thâm sâu với anh em. Hãy là những ngói bạn, là anh chị em, tình yêu phá mở những nhà tù. Tình yêu giải phóng ta khỏi những tù ngục của ích kỷ.
Brian Keenan bị bắt làm con tin trong suốt bốn năm trời tại Lebanon. Sau đó anh đã viết:
"Chỉ khi chúng ta vươn ra khỏi chính ta để ôm lấy, để hiểu và cuối cùng để tìm cách vượt thắng những đau khổ nơi những người anh em, khi ấy chúng ta mới trở nên trọn vẹn nơi chính ta. Chúng ta được mở rộng và phong phú khi những đau khổ của anh em được bộc lộ cho ta, như là chính ta, và chúng ta vươn tới để tiếp xúc và ôm ấp chúng."
Tình yêu luôn đòi hỏi và mang đến những điều tốt nhất cho ta. Dược yêu thương sẽ mang đến cho người đó một sự can đảm và nghị lực đầy kinh ngạc. Cũng vậy đối với người yêu thương. Người ta nói: Tình yêu và nghị lực sẽ được ban cho bạn. Nơi đâu có một tình yêu mãnh liệt thì nơi đó luôn luôn là một huyền nhiệm. "Tình yêu là ngọn lửa sưởi ấm tâm hồn ta, tiếp thêm nghị lực cho tinh thần ta, và cung cấp niềm đam mê cho cuộc sống của ta, đó chính là mối tương quan của ta với Thiên Chúa và với anh em". (Elizabeth Kubler-ross).
Tù nhân Oscar Wilde nói tiếp: "Bằng mọi giá tôi phải giữ tình yêu trong trái tim mình. Nếu tôi vào tù mà không có tình yêu, tâm hồn tôi sẽ trở thành cái gì ?"
Nếu không có tình yêu người ta sẽ ra sao ? Những kẻ không chút yêu thương sống một cuộc đời thật đáng thương. Còn những ai biết sống yêu thương, họ có một cuộc sống rất phong phú và sinh nhiều lợi ích. Mục đích của cuộc sống là gì, nếu không phải đó chính là tình yêu ? "Chúng ta được đặt trên trái đất một khoảng thời gian ngắn để chúng ta học cách sinh ra những hoa trái của tình yêu' (William Blake). Thoát khỏi những ích kỷ và có khả năng để yêu thương anh em, đó chính là mục đích của cuộc sống. .
Một bác sĩ, người đã từng vinh dự chia sẻ khoảnh khắc thâm sâu nhất trong đời sống của con người, nói rằng khi người ta đối diện với cái chết, người ta không nghĩ gì đến những bằng cấp đã đạt được, hoặc những địa vị đã nắm giữ, hoặc sự giàu có đã tích luỹ được. Giây phút cuối cùng, điều thật sự có ý nghĩa đó là bạn yêu mến ai, và ai yêu mến bạn.
Những người mà chọn sống yêu thương mở ra cho chính họ tới tiềm năng hạnh phúc vô biên mà họ chưa từng nghĩ tưởng đến. Yêu là một tình trạng hạnh phúc. Tình yêu khiến chúng ta sinh hoa kết trái. Từ chối tình yêu là bắt đầu chết. Khởi đầu yêu thương là khởi đầu sự sống. Khi tin tường, mọi sự đều khả thể, tình yêu làm cho mọi sự dễ dàng. Tình yêu chữa lành mọi người - cả người nhận lãnh cũng như người trao ban.
Ngày nay chúng ta hiểu rõ hơn trước đây về sự phức tạp của nhân tính, và những động cơ hỗn PS 5-C154
Ngày nay chúng ta hiểu rõ hơn trước đây về sự phức tạp của nhân tính, và những động cơ hỗn tạp ẩn sau những gì chúng ta làm. Ít là có năm loại tình yêu.
Trước hết đó là tình yêu thực dụng. Chúng ta yêu ai bởi vì người ấy có lợi cho ta. Nó tựa như sự ích kỷ chứ không như là tình yêu. Tôi muốn điều gì đó nơi bạn chứ tôi không muốn bạn.
Thứ đến là loại tình yêu lãng mạn. Đây là thứ tình cảm chúng ta hướng về người khác bởi vì sự khoái lạc mà người khác ban tặng cho ta. Chúng ta mê đắm họ. Nhưng đó không phải là tình yêu. Chúng ta có thể nghĩ đó là người mà ta yêu thương, nhưng sự thật chúng ta chỉ yêu chính bản thân ta. Thường thì điều này không bền, đó là lý do tại sao có những đôi hôn nhân mau tan vỡ.
Loại thứ ba đó là tình yêu dân chủ, tình yêu này được xây dựng trên nền tảng sự bình đẳng của luật pháp. Chúng ta kính trọng ngưỡng mộ người khác bởi vì họ cùng là những công dân đồng hội đồng thuyền. Chúng ta nhìn nhận sự tự do của họ cũng là của ta, và ngược lại. Lý do góp phần để làm những điều tốt cho người khác chính là sự trông mong nhận được lại những điều tốt như thế.
Loại tình yêu thứ tư đó là tình người. Đó là tình yêu thương con người phổ quát. Khuyết điểm của loại tình yêu này đó là tình yêu trong lý thuyết, hơn là trong cụ thể. "Tôi yêu mến nhân loại, nhưng chẳng dính dáng đến ai."
Loại tình yêu thứ năm đó chính là tình yêu của các Kitô hữu, tóm tắt trong lệnh truyền của Chúa Giêsu: "Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em." Ở đây chúng ta đang nói về một tình yêu không vụ lợi, yêu thương ngay cả khi không còn gì cho ta. Tình yêu này bền bỉ bất chấp thái độ thù địch và ngược đãi. Nó không phải là thứ hăng hái bất thường, nhưng là mối tương quan vĩnh viễn. Nó diễn tả qua việc phục vụ, lòng yêu mến và hy sinh quên mình. Tình yêu này chỉ đạt được nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần.
Có thể nói rằng nếu bạn làm một hành động tốt, nhưng có một động cơ tiềm ấn trong đó, tốt hơn bạn đừng làm. Chỉ trừ ra đức ái. Ngay cả mặc dù khi chúng ta hành động với một mục đích trong sáng xem chừng không tốt bằng đi nữa, thì nó vẫn là một hành động tốt, và sinh ích cho người khác, không có vấn đề động cơ của bạn là nhằm vào điều gì. Bên cạnh dó, thực tế là sự ích kỷ và sự khoan dung cùng tồn tại trong chính mỗi người chúng ta, sẽ làm cho điều tốt mà chúng ta thực hiện hoàn toàn đáng ca ngợi hơn. Nó thoát ra từ một cuộc đấu tranh.
Người ta thường hướng nhìn về những vấn đề của tình yêu như là chính tình yêu hơn là yêu thương chính một con người. Do đó, tất cả những nỗ lực của họ thường nhắm đến làm cho chính họ trở nên đáng yêu qua sự thành công, những vẻ đẹp quyến rũ, hoặc quyền lực, hoặc giàu có ... và để rồi họ đi đến tình trạng không có tình yêu, vì họ được yêu mến, không phải chính bản thân họ, nhưng họ được yêu vì nhúng gì họ sở hữu hoặc đã đạt được. Ngược lại, nếu họ trở nên yêu thương con người, họ sẽ được yêu mến, được yêu chính con người họ. Và tóm lại, tất cả chúng ta ai cũng muốn được yêu thương, được yêu chính bản thân chúng ta.
Có ba tình trạng: (1) không yêu và cũng không được yêu điều này xem chừng giống như địa ngục trên trái đất. (2) yêu nhưng không được yêu lại - điều này, mặc dù đau thương nhưng còn tốt hơn tình trạng thứ nhất. (3) yêu và được yêu - đây là tình trạng hạnh phúc mà Chúa Giêsu hưởng nếm: "Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em."
Tình yêu mang đến những điều tốt nhất cho những người yêu thương. Người ta đạt đến tình trạng tốt nhất và rực rỡ nhất khi người ta yêu thương. Họ như một ánh sao rực rỡ. Tình yêu là một sự lựa chọn, thứ không phải là một cảm xúc. Khi từ chối tình yêu là bắt đầu chết. Điều tồi tệ nhất trong tất cả đó là thái độ dửng dưng lạnh giá.
Thầy truyền cho các con một điều răn mới là các con….. Không phải chỉ có Kitô giáo mới giảng PS 5-C155
Thầy truyền cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau.
Không phải chỉ có Kitô giáo mới giảng dạy về tình yêu thương. Văn hoá Á đông đã từng nhấn mạnh: Tứ hải giai huynh đệ, bốn bể đều là anh em. Cha ông chúng ta thuở trước cũng đã khuyên nhủ: Thương người như thể thương thân, để nói lên tấm lòng yêu thương rộng mở đối với mọi người trong xã hội. Vậy giới luật của Chúa có điều chi mới mẻ?
Dựa vào những lời tâm sự cuối cùng của Chúa, chúng ta có thể tìm thấy được những nét độc đáo của tình thương yêu trong Kitô giáo. Nét độc đáo thứ nhất đó là hãy yêu thương nhau như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta. Thực vậy, cái khuôn mẫu lý tưởng, cái thước được dùng để đo tình yêu thương của chúng ta, không còn là mối liên hệ máu mủ, cũng không còn là chính bản thân của mình nữa, nhưng là chính tình yêu của Chúa Giêsu, Đấng đã xuống thế và chịu chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta như lời Ngài đã nói: Không ai có tình yêu cao quý hơn người dám hy sinh mạng sống vì bạn hữu. Chỗ khác Ngài cũng bảo: Ta là mục tử tốt lành. Người mục tử tốt lành thì hy sinh mạng sống cho đoàn chiên. Tình yêu ấy không bị giới hạn, không bị ngăn cách nhưng được dành cho hết mọi người.
Bên cạnh thập giá Đức Kitô không ai là không có chỗ của mình, kể cả những kẻ tội lỗi, đĩ điếm và trộm cướp. Ngài không huỷ diệt một khả năng nào để vươn lên. Đứa con hoang đàng cũng có chỗ trong nhà cha mình. Người trộm cắp cũng được mời gọi tham dự tiệc cước và người phụ nữ nhẹ dạ cũng có thể hôn chân Ngài. Ngài đã tỏ cho chúng ta thấy một Thiên Chúa đầy lòng nhân từ và thương xót đối với mọi người, không trừ một ai. Tình yêu thương vô bờ ấy phải trở nên mẫu mực để chúng ta noi theo: Hãy yêu thương như như Thầy đã yêu thương các con.
Nét độc đáo thứ hai đó là tình yêu thương phải trở nên dấu chỉ của những người thuộc về Chúa. Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con yêu thương nhau. Thực vậy, Chúa Giêsu không đòi hỏi các môn đệ của mình phải thông thái như các tiến sĩ luật, cũng không bắt họ phải sống gò bó nhiệm nhặt như nhóm biệt phái. Điều duy nhất Ngài đòi hỏi nơi các ông đó là tình yêu thương.
Ngay từ đầu các tín hữu đã thực sự sống tình bác ái yêu thương để làm chứng cho Đức Kitô phục sinh và trải qua dòng lịch sử của Giáo Hội, các tâm hồn ở mọi nơi và trong mọi lúc, vẫn nhận ra Thiên Chúa là tình yêu xuyên qua những chứng từ sống động của những người tin Chúa, được biểu lộ bằng hành động bác ái yêu thương.
Trong cuộc sống hằng ngày không phải chúng ta không biết rằng thương yêu là đòi hỏi căn bản nhất của Tin Mừng, thương yêu là giới luật mới của Chúa Giêsu, thương yêu là dấu chỉ của người môn đệ Chúa. Thế nhưng, từ chỗ biết đến chỗ sống, từ chỗ hiểu đến chỗ làm luôn luôn có một khoảng cách. Chúng ta vẫn thích lấy lòng mình làm thước đo tình yêu dành cho người khác. Chúng ta vẫn muốn giới hạn tình thương ấy trong một phạm vi hạn hẹp nào đó. Chúng ta vẫn thích tính toán cộng trừ để tình thương không làm chúng ta bị thiệt thòi mà trái lại còn đem đến những lợi ích riêng tư. Chúng ta vẫn muốn dựa vào màu cờ, sắc áo hay danh xưng để xác định chúng ta thuộc về Chúa, chúng ta không dám chứng tỏ bằng những hành đông yêu thương và hy sinh mạng sống của mình. Quan hệ của chúng ta còn quá vụ lợi.
Mới đây, tại một cuộc hội thảo bàn tròn về “Tôn giáo và tự do”, trong giờ giải lao nhà thần học PS 5-C156
Mới đây, tại một cuộc hội thảo bàn tròn về “Tôn giáo và tự do”, trong giờ giải lao nhà thần học người Brazil, Leonardo Boff hỏi Đức Đạt Lai Lạt Ma rằng: “Thưa ngài, tôn giáo nào tốt nhất?”. Nhà thần học nghĩ rằng ngài sẽ nói: “Phật giáo Tây tạng” hoặc “Các tôn giáo phương Đông, lâu đời hơn Ki-tô giáo nhiều”. Đức Đạt Lai Lạt Ma trầm ngâm giây lát, mỉm cười và nhìn vào mắt Nhà thần học, Ngài trả lời: “Tôn giáo tốt nhất là tôn giáo đưa anh đến gần Đấng tối cao nhất. Là tôn giáo biến anh thành con người tốt hơn.” Nhà thần học hỏi tiếp: “Cái gì làm tôi tốt hơn?” Ngài trả lời: “Tất cả cái gì làm anh biết thương cảm hơn, biết theo lẽ phải hơn biết từ bỏ hơn, dịu dàng hơn, nhân hậu hơn, có trách nhiệm hơn và có đạo đức hơn. Tôn giáo nào biến anh thành như vậy, là tôn giáo tốt nhất”.
Vâng, chỉ có Thiên Chúa mới thương cảm con người trải qua muôn ngàn đời. Vì thương con người, Ngài tạo dựng trời đất muôn loài muôn vật, cho con người hưởng hạnh phúc viên mãn. Ngược lại, con người phản bội và phạm tội với Chúa, Thiên Chúa không bỏ con người nhưng thương xót đến nỗi sai Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, chịu nạn, chịu chết và phục sinh để chuộc tội chúng ta và làm cho chúng ta thành con người tốt hơn trước. Vâng, Chúa Giêsu dạy làm người tốt hơn ở điềm này: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao?” (Mt 5,44-48). Vì vậy, Chúa Giêsu hôm nay ban cho chúng ta điều răn mới, mới ở chỗ là hãy yêu thương hết mọi người như Chúa.
Qủa thế, trọn cuộc sống dương gian của Chúa Giêsu, từ lúc chào đời cho đến chết và phục sinh, được gồm tóm trong chữ “THƯƠNG NGƯỜI”. Thứ nhất, vì thương, “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2,6-7). Thứ hai, vì thương, Chúa Giêsu đã mạc khải Chúa Cha (Ga 8,19) và Nước Thiên Chúa để phàm ai tin vào Ngài sẽ được Nước ấy làm gia nghiệp (Ga 3,5) và được sống muôn đời (Ga 3,15). Thứ ba, vì thương, Chúa Giêsu đến thế gian như người tôi tớ phục vụ và tha thứ tội lỗi cho hết mọi người (Ga 5,20-27). Cuối cùng, vì thương, Chúa Giêsu đã hiến thân mình trên cây thập giá để cho mọi người được hưởng tình yêu dạt dào của Thiên Chúa (Ga 14,1-3).
Nhận ra tình thương của Chúa Giêsu dành cho chúng ta, Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy thương yêu nhau. Thế nào là thương yêu nhau? Người đời cho rằng: “Yêu nhau mấy núi cũng leo, mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua. Yêu nhau chẳng ngại đường xa, một ngày không đến thì ba bốn ngày. Yêu nhau cởi áo cho nhau, về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay. Yêu nhau chẳng ngại đường xa, đá vàng cũng quyết phong ba cũng liều. Yêu nhau kéo áo đắp chung, ghét nhau nắng dại mưa dầm mặc nhau. Yêu nhau con mắt liếc qua, ghét nhau ném đá vỡ đầu nhau ra”. Yêu như thế có nghĩa yêu nhau thì có qua có lại, có qua mà không có lại thì mưa dầm mặc nhau, thậm chí là ném đá vỡ đầu nhau ra. Như thế có phải là người tốt không? Dĩ nhiên là không vì Kark Marx nói rằng: “Chỉ có con thú nói mới quay lưng trước nỗi đau của đồng loại để chăm sóc cho bộ lông của mình”.
Đạo nào cũng dạy thương nhau: Phật dạy “từ bi xả kỷ”, Không tử dạy “sở kỷ bất dục vật thi ư nhân”, tức điều gì mình không muốn, đừng làm cho người khác. Ông bà dạy “Thương người như thể thương thân hay bầu ơi thương lấy bí cùng tuy rằng khác giống như chung một giàn”. Còn Chúa Giêsu hãy thương yêu nhau. Yêu thương của Chúa là phải hy sinh phục vụ, tha thứ, thậm chí thí mạng vì người mình yêu. Vì thế, Chúa Giêsu dạy: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Tình thương của người môn đệ Chúa đòi hỏi sự chia sẻ, sự trao ban và ra khỏi chính mình để đến với tha nhân. Chúa Giêsu không giữ hạnh phúc cho riêng mình, Ngài đã trao ban cho con người hạnh phúc của chính Thiên Chúa. Vì vậy, mỗi người tín hữu hôm nay phải là một Kitô khác để có thể hiểu và cảm thông với tha nhân. Một Kitô khác có nghĩa rằng chúng ta đừng khác với Ðức Kitô khi chúng ta sống thiếu vắng tình yêu trong lời nói và việc làm của chúng ta. Chúng ta đừng khác với Ðức Kitô khi chúng ta sống thiếu sự quan tâm với những anh em nghèo đói, với những mảnh đời bất hạnh bên đường. Chúng ta đừng khác với Ðức Kitô khi chúng ta sống trong bùn nhơ của tội lỗi, của sự thiếu trong sạch, thiếu công bình và bác ái với tha nhân. Chúng ta đừng khác với Ðức Kitô khi chúng ta hà khắc, kết án anh em một cách đoạn tuyệt và thiếu lòng bao dung. Chúng ta hãy nên giống Chúa Kitô khi chúng ta hiện diện với ai, là chúng ta đem đến cho họ niềm vui và hạnh phúc. Chúng ta hãy nên giống Chúa Kitô để chúng ta có thể gieo vãi yêu thương, hạnh phúc vào cho nhân thế qua việc phục vụ và dấn thân quảng đại của chúng ta. Chúng ta hãy nên đồng hình đồng dạng với Ðức Kitô để có thể tha cho kẻ làm hại chúng ta, để có thể quên đi lỗi lầm của anh em và dám hy sinh quên mình mà vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn kiên vững tuân giữ điều răn mới của Chúa: Mến Chúa thương người như Chúa đã thương yêu chúng con bằng tình thương chân thật: đó là từ bỏ tính ích kỷ mà đón nhận mọi người trong môi trường chúng con đang sống bằng sự yêu thương, tha thứ và hy sinh phục vụ họ trong chân lý và sự thật. Alleluia.
Cả ba bài đọc của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Phục Sinh đều làm chứng theo cách riêng của PS 5-C157
Cả ba bài đọc của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Phục Sinh đều làm chứng theo cách riêng của mình cái mới mẻ tận căn mà mầu nhiệm Phục Sinh đem lại.
Cv 14: 21-27
Bài Đọc I, trích từ sách Công Vụ, kể lại phần cuối cuộc hành trình truyền giáo thứ nhất của thánh Phao-lô. Dân Thiên Chúa mặc lấy một diện mạo mới qua việc lương dân gia nhập Giáo Hội.
Kh 21: 1-5
Chủ đề lớn của sách Khải Huyền sắp đến hồi kết thúc: cuộc khải hoàn của Con Chiên Vượt Qua đã làm biến mất trời cũ đất cũ, thế giới tội lỗi. Thiên Chúa sáng tạo trời mới đất mới. Một Thành Thánh Giê-ru-sa-lem mới từ trời xuống để là nơi Thiên Chúa ở cùng nhân loại.
Ga 13: 31-35
Tin Mừng là phần đầu Diễn Từ Cáo Biệt của Đức Giê-su với các môn đệ Ngài trong Tiệc Ly, trong đó Chúa Giê-su ban cho họ một điều răn mới: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”, nghĩa là, yêu thương nhau cho đến mức hiến dâng mạng sống mình cho nhau như Ngài đã hiến dâng mạng sống mình vì nhân loại. Điều răn mới này làm chứng Chúa Giê-su vẫn hiện diện ở giữa loài người.
BÀI ĐỌC I (Cv 14: 21-27)
Vào Chúa Nhật trước, sách Công Vụ kể lại phần đầu cuộc hành trình truyền giáo thứ nhất của thánh Phao-lô ở miền Tiểu Á (ở An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a); bản văn hôm nay kể lại phần cuối cuộc hành trình này.
Vì bận lòng củng cố những Hội Thánh còn non trẻ mà hai ông đã thiết lập, thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba quyết định trở lại những thành phố ở đó họ đã bị bắt, trước khi trở về An-ti-ô-khi-a miền Xy-ri-a, điểm khởi hành của họ. Hai ngài không còn rao giảng trong các hội đường, nhưng chỉ trong các cộng đoàn Ki-tô hữu, củng cố niềm tin của các tân tòng và khuyến khích họ can đảm và kiên vững.
1. Những quấy nhiễu và bách hại:
Cả hai ngài nói bằng cung giọng nghiêm trọng. Thánh Phao-lô cho các thính giả hiểu rằng sự thù hận chống đối họ chưa chịu lùi bước, nhưng “Ta phải qua nhiều gian khổ mới vào được Nước Thiên Chúa”. Chính thánh nhân mới đây đã có kinh nghiệm về sự tàn bạo này: ở Lýt-ra, thánh nhân đã bị ném đá, rồi bị lôi ra ngoài thành, vì tưởng ngài đã chết (Cv 14: 19). Sau này, thánh Phao-lô viết cho Ti-mô-thê: “Anh đã biết những cơn bắt bớ, nhũng sự đau khổ tôi đã gặp ở An-ti-ô-khi-a, I-cô-ni-a, Lýt-ra, đã biết tôi chịu bắt bớ như thế nào. Nhưng Chúa đã giải thoát tôi khỏi tất cả” (2Tm 3: 11). Khi viết những dòng này, thánh Lu-ca biết những cộng đoàn miền Tiểu Á này đã phải chịu và còn đang chịu biết bao những quấy nhiễu và bách hại.
2. Thiết lập các Kỳ Mục:
“Trong mỗi Hội Thánh, hai ông chỉ định cho họ những kỳ mục…”. Về phương diện lịch sử, bản văn này rất quý; cơ cấu Giáo Hội đang bắt đầu hình thành. Hội Thánh Giê-ru-sa-lem có các kỳ mục rồi; các Hội Thánh khác cũng sẽ có những kỳ mục của mình. Sau này, thánh Phao-lô viết cho Ti-tô, cộng tác viên của mình, mà thánh nhân đã giao phó cho ông Hội Thánh Cơ-rê-ta: “Tôi đã để anh ở lại đảo Cơ-rê-ta, chính là để anh hoàn thành công việc tổ chức, và đặt những kỳ mục trong mỗi thành, như tôi đã truyền cho anh” (Tt 1: 5).
Chắc chắn cơ cấu Giáo Hội được gợi hứng từ định chế của các cộng đoàn Do thái, theo đó mỗi cộng đoàn đều có các kỳ mục chủ trì. Đoạn văn Công Vụ chúng ta đọc là đoạn văn duy nhất cho chúng ta biết cách thức chỉ định các Kỳ Mục: “Trong mỗi Hội Thánh, hai ông chỉ định cho họ những kỳ mục, và sau khi ăn chay cầu nguyện, hai ông phó thác những người đó cho Chúa, Đấng họ đã tin”.
Những phận sự của các kỳ mục này là gì? Thánh Phao-lô tóm tắt như sau, khi thánh nhân giả biệt các kỳ mục ở Ê-phê-xô: “Anh em hãy ân cần lo cho chính mình và toàn thể đoàn chiên mà Thánh Thần đã đặt anh em làm người coi sóc, hãy chăn dắt Hội Thánh của Thiên Chúa, Hội Thánh Người đã mua bằng giá máu của chính mình” (Cv 20: 28).
3. Trở về từ sứ vụ:
Chính cộng đoàn An-ti-ô-khi-a miền Xy-ri-a đã cử thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba ra đi thi hành sứ vụ. Chính ở cộng đoàn này mà hai ông trở về tường thuật mọi sự việc và những thành quả các ông đã đạt được: “Thiên Chúa đã thực hiện với hai ông, và nhất là Người đã mở đường cho các dân ngoại đón nhận đức tin thế nào”. Chúng ta ghi nhận rằng những lời này thánh Lu-ca đặt chính xác vào giữa tác phẩm của mình.
BÀI ĐỌC II (Kh 21: 1-5)
Sau khi đã mô tả một cách biểu tượng những cuộc chiến đấu của Giáo Hội, thánh Gioan phác họa cũng một cách biểu tượng thị kiến về Thánh Thánh Giê-ru-sa-lem trên trời, tức là thị kiến về cuộc khải hoàn đang chờ đón Giáo Hội khi Giáo Hội đã trải qua những gian nan thử thách ở dưới thế. Những chương cuối cùng sách Khải Huyền (20, 21, 22) toan tính diễn tả bằng những từ ngữ và hình ảnh thường lấy lại giáo huấn của các ngôn sứ, dự định lớn lao của Thiên Chúa là ở với loài người, trong một thế giới được giải thoát khỏi mọi tội lỗi.
1. Trời mới đất mới:
Cuộc xử án đã xảy ra; sự ác đã bị tiêu diệt; trời cũ đất cũ chứng kiến tội lỗi đã biến mất để nhường chỗ cho trời mới đất mới. Sự Dữ không còn nữa trong cuộc tạo dựng mới này được chỉ ra: “không còn biển nữa”; theo quan niệm thời xưa, biển là nơi cư ngụ của các quyền lực sự dữ.
Đề tài về cuộc tạo dựng mới vào thời cánh chung thường hằng trong các sách khải huyền Do thái. Đề tài này xuất xứ từ các ngôn sứ, nhất là ngôn sứ I-sai-a đệ tam: “Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới, không còn ai nhớ đến thuở ban đầu và nhắc lại trong tâm trí nữa… Phải, này đây Ta sẽ tạo Giê-ru-a-lem nên nguồn hoan hỷ và dân ở đó thành nỗi vui mừng… Nơi đây, sẽ không còn nghe thấy tiếng khóc kêu la” (Is 65: 17-19).
Vị ngôn sứ viết sấm ngôn này chẳng bao lâu sau năm 538 trước Công Nguyên, năm đã chứng kiến một đoàn người lưu đày đông đảo hồi hương trở về Giê-ru-sa-lem. Ấy vậy, vào lúc đó, Giê-ru-sa-lem không còn Đền Thờ, Đền Thờ đã bị tàn phá bởi các đạo quân Ba-by-lon vào năm 587 trước Công Nguyên. Vị ngôn sứ đọc thấy ở đây một dấu chỉ: Thiên Chúa dự định đổi mới và ông mô tả một thành thánh Giê-ru-sa-lem lý tưởng. Trong viễn cảnh cận kề, vị ngôn sứ nghĩ đến cuộc tái thiết Thành Thánh từ những hoang tàn đổ nát; nhưng lời sấm vượt qua bên kia lịch sử hiện thời mà trở thành sứ điệp cánh chung. Đây là nét đặc trưng của ơn linh hứng ngôn sứ.
Khi thánh Gioan viết sách Khải Huyền của mình, hoàn cảnh cũng tương tự: Giê-ru-sa-lem đã bị các đạo quân Rô-ma triệt hạ và Đền Thờ bị tàn phá (năm 70 sau Công Nguyên). Lịch sử ở đây vẫn còn là dấu chỉ.
2. Thánh Thánh Giê-ru-sa-lem mới:
Thánh Thánh Giê-ru-sa-lem mới xuống từ trời, vì Thánh Thánh là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa, như thánh thánh Giê-ru-sa-lem lịch sử trên trần thế đã là nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài. Thiên Chúa sắp canh tân Giao Ước của Ngài với dân Ngài: Giê-ru-sa-lem trang điểm như tân nương sửa soạn đón tân lang, nhưng lần này, trong niềm vui vĩnh viễn: “Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất!”.
Thành Đô Giê-ru-sa-lem tương lai sẽ là Thành Đô của Thiên Chúa và Thánh Đô của con người: “Đây là nơi Thiên Chúa ở cùng nhân loại. Người sẽ ở cùng họ. Họ sẽ là dân riêng của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ”. Đây là kiểu nói Giao Ước được mượn ở Lv 26: 11-12: “Ta sẽ đặt chỗ ở của Ta ở giữa các ngươi… Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi, còn các ngươi sẽ là dân của Ta”. Chúng ta cũng gặp thấy ở Dcr 8: 8: “Ta sẽ dẫn chúng về, cho cư ngụ ở giữa Giê-ru-sa-lem. Chúng sẽ là dân của Ta; còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng”. Thành Đô Giê-ru-a-lem tương lai sẽ là Giáo Hội hoàn vũ.
3. Thiên Chúa ở cùng nhân loại:
“Thiên Chúa ở cùng họ" là danh xưng “Em-ma-nu-en”. Đó là hoàn tất Lịch Sử Cứu Độ, đó là dự định của Thiên Chúa khi sáng tạo con người, đó là hình ảnh về thiên đàng hạ giới ở đó Thiên Chúa đàm đạo với con người. Cái trở ngại là tội lỗi. Nhưng Con Chiên bị sát tế đã chiến thắng Xa-tan, ý định của Thiên Chúa được thực hiện vĩnh viễn. Kinh Thánh bắt đầu với thị kiến về vườn Địa Đàng và kết thúc với thị kiến về Thành Đô Giê-ru-sa-lem mới; như vậy, Kinh Thánh được hoàn tất ở nơi khởi điểm của mình.
TIN MỪNG (Ga 13: 31-35)
Các nhà chú giải chia sách Tin Mừng Gioan thành hai phần: phần thứ nhất (từ chương 1 đến chương 12) được gọi “Sách về Các Dấu Chỉ”, phần thứ hai (từ chương 13 đến chương 21) được gọi “Sách về Vinh Quang”. Bản văn chúng ta đọc hôm nay được trích dẫn từ Sách về Vinh Quang.
Vinh quang của Đức Giê-su chính là Giờ Ngài “phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha” và Giờ Ngài sắp làm chứng cho những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian là “Ngài yêu thương họ cho đến cùng” (Ga 13: 1). Giờ Tử Nạn của Ngài khởi sự với sự phản bội của Giu-đa. Đoạn văn này được trích từ phần đầu của bài Diễn Từ Cáo Biệt của Chúa Giê-su cho các môn đệ trước khi Ngài bước vào cuộc Thương Khó và Tử Nạn của mình.
1. Bữa Tiệc Ly. Giu-đa ra đi:
Chúa Giê-su đồng bàn với các môn đệ lần sau cùng, trong đó Ngài báo trước cho họ “một người trong họ sẽ phản bội Ngài”. Bữa ăn chưa chấm dứt thì Giu-đa ra đi. Chúa Giê-su sắp nói những lời từ biệt với các môn đệ Ngài và trao gởi những lời tâm huyết của Ngài cho các ông mà không có sự hiện diện của Giu-đa.
Việc Giu-đa ra đi báo hiệu cho Đức Giê-su biết Giờ Tử Nạn của Ngài sắp đến gần, nhưng đó cũng là giờ vinh quang: “Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh ở nơi Ngài”. Từ “tôn vinh” được lập đi lập lại nhiều lần trong hai câu này đem lại cho lời nói của Chúa Giê-su một dấu nhấn của sự chiến thắng. Những đối thủ của Ngài và kẻ tòng phạm của họ tưởng rằng mình chiến thắng, trái lại, Thiên Chúa sắp “được tôn vinh nơi Con Một của Người và đến phiên mình Thiên Chúa sẽ tôn vinh Con của Người”.
Chúng ta đang ở giữa lòng “Thần Học Vinh Quang” của Tin Mừng Gioan mà đỉnh điểm là thập giá: kế hoạch của Thiên Chúa là cứu độ con người mà Chúa Giê-su thực hiện qua cuộc Tử Nạn của Ngài. Trong Tin Mừng Gioan, thập giá là nơi vinh quang của Chúa Con và vinh quang của Chúa Cha đồng nhất với nhau trong một tình yêu tận hiến cho nhân loại.
2. Huấn lệnh yêu thương:
Chúa Giê-su sắp làm chứng về tình yêu, yêu cho đến cùng này. Ngài làm cho tình yêu tận mức này thành di chúc của Ngài: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi”. Lời xưng hô đầy trìu mến thân thương này là độc nhất trong Tin Mừng Gioan. Mối cảm xúc dâng trào tận đáy lòng của Chúa Giê-su, tâm tình yêu mến này nối kết Ngài với các môn đệ Ngài, tất cả đều được bộc lộ ở nơi những lời trìu mến này. Chúa Giê-su ngỏ lời với các môn đệ Ngài như người cha trước khi nhắm mắt lìa đời trao gởi những ước nguyện sau cùng của mình cho các con và chỉ ra những quy luật xử thế mà ông muốn thấy các con thân yêu của mình cư xử với nhau: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Điều răn mới này cốt là điều gì? Từ lâu người ta đọc trong sách Lê-vi: “Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình” (Lv 19: 18). Luật yêu thương của sách Lê-vi đã được các kinh sư Do thái khai triển, như kinh sư Hillel dạy: “Điều gì con không muốn người khác làm cho mình, đừng làm cho người khác. Phần còn lại là phần giải thích. Hãy đi và làm như vậy”, hay kinh sư Akiba dạy: “Hãy yêu thương người thân cận như bạn thân, đó là nguyên tắc tổng quát và quan trọng nhất của lề luật”. Nhưng Chúa Giê-su cho các môn đệ Ngài một điều răn mới, mới đến mức không thể nào đo lường được, tình yêu không còn quy chiếu đến chính mình, nhưng đến tình yêu vô tận của Thiên Chúa, Đấng sắp hiến dâng trọn vẹn mạng sống mình: “như Thầy đã yêu thương anh em”.
Điều răn này còn mới theo cách khác nữa, vì nó làm thay đổi cuộc sống xã hội: thực hành luật yêu thương này làm chứng trước thiên hạ biết rằng người Ki-tô hữu trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô. Đức ái rạng ngời này sẽ là dấu chỉ cho thấy Đức Giê-su vẫn tiếp tục hiện diện ở giữa loài người.
Khi sắp từ giã cõi đời, người hấp hối cố tranh thủ chút thời gian vắn vỏi còn lại và tận dụng chút PS 5-C158
Khi sắp từ giã cõi đời, người hấp hối cố tranh thủ chút thời gian vắn vỏi còn lại và tận dụng chút hơi tàn để căn dặn người thân yêu những điều mà họ cho là quan trọng nhất, đồng thời cũng để trối lại những gì được xem là gia bảo.
Tương tự như thế, khi sắp từ giã các môn đệ để chịu khổ nạn và chịu chết, Chúa Giê-su trao cho họ những lời tâm huyết: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi.” Rồi Chúa Giê-su trối lại cho các môn đệ yêu dấu phần gia bảo quan trọng nhất, đó là Điều Răn mới: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau…”
Tuy nhiên, Chúa Giê-su không muốn các môn đệ yêu thương nhau bằng thứ tình yêu hời hợt bề ngoài, nhưng muốn họ yêu thương nhau thật đậm đà nên Ngài nói thêm: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Như thế, tình yêu Chúa Giê-su dành cho các môn đệ phải trở thành chuẩn mực cho tình yêu của các môn đệ đối với nhau.
Rồi Đức Giê-su nhấn mạnh: “Người ta sẽ căn cứ vào dấu hiệu nầy để nhận ra anh em là môn đệ của Thầy, là anh em thương mến nhau.”
Như thế, nếu kẻ nào không thương mến tha nhân thực lòng, người đó chưa phải là môn đệ thật của Chúa Giê-su.
Muốn thử vàng, người ta phải dùng đến lửa; muốn biết ai là môn đệ thật của Chúa, người ta phải nại đến tình yêu, đúng như lời Chúa Giê-su dạy: “Người ta cứ dấu nầy mà nhận biết anh em là môn đệ (thật) của Thầy, là anh em yêu thương nhau.” Thế thì, nếu ai đó xưng mình là môn đệ Chúa Giê-su mà không tôn trọng, không yêu thương người khác, thì chắc chắn người đó là môn đệ giả.
Người môn đệ giả
Có người nằm mơ thấy mình phải lìa bỏ đời nầy sang thế giới bên kia. Được biết thánh Phê-rô canh cửa thiên đàng rất nghiêm ngặt, xét hỏi kỹ càng trước khi cho vào, nên anh ta mang theo đầy đủ những giấy tờ cần thiết.
Vừa gặp thánh Phê-rô, anh liền xuất trình đủ thứ giấy tờ để chứng minh mình là người công giáo, từ chứng thư rửa tội, thêm sức cho đến hôn phối… Anh hy vọng với những chứng từ nầy thì thánh Phê-rô sẽ mở cửa thiên đàng cho anh ngay. Nào ngờ, thánh nhân lại lắc đầu từ chối.
Anh ngạc nhiên hỏi: “Ngài còn đòi gì nữa? Con cũng xin thưa là ngày nào con cũng có đọc kinh lần hạt; con không bỏ lễ Chúa nhật bao giờ, không gian tham trộm cắp, không mê muốn vợ chồng người... Bấy nhiêu không đủ để được vào thiên đàng sao?”
Thánh Phê-rô trả lời:
“Thiên đàng chỉ đón nhận những môn đệ thật của Chúa Giê-su. Ai không mang phù hiệu người môn đệ Chúa Giê-su thì không được vào thiên đàng.”
“Phù hiệu nào vậy, thưa Ngài?”
“Thế con không nhớ lời Chúa phán dạy sao: “Người ta căn cứ vào dấu hiệu (phù hiệu) nầy mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em có lòng thương mến nhau” (Ga 13, 35). Nếu chưa có lòng thương mến nhau thì con chưa phải là người môn đệ thật của Chúa.”
Qua dụ ngôn phán xét cuối cùng, Chúa Giê-su cũng khẳng định điều nầy: Ai có lòng yêu thương giúp đỡ người khác, kẻ ấy mới được đón nhận vào thiên đàng.
Tin mừng Mát-thêu thuật lại lời Chúa phán như sau: “Bấy giờ Đức Vua sẽ phán với những kẻ bên phải rằng: “Nào những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho các ngươi từ thuở tạo thiên lập địa” vì các người đã thương mến chăm sóc các anh em bé nhỏ của Ta.
Rồi Chúa quay sang lên án những người bên trái: “Quân bị nguyền rủa kia! Hãy đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó”… vì các ngươi đã không yêu thương chăm sóc các anh em bé mọn của Ta (Mt 25, 34-46).
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho chúng con biết dựa vào Lời Chúa dạy để rà soát lại xem mình đã tôn trọng, yêu thương và phục vụ những anh chị em chung quanh chưa? Nếu chưa thì chúng con vẫn còn là những Ki-tô hữu giả hiệu, chúng con không thuộc vào số những người môn đệ thật của Chúa và trên vương quốc thiên đàng không có chỗ dành cho chúng con.
Tin mừng Ga 13: 31-35 Đã đến giờ Người được tôn vinh là giờ mà Người biểu lộ tình yêu Thiên Chúa cho nhân loại, giờ Người bước vào cuộc thương khó, hiến tế chính mình để cứu độ nhân loại.
Trong Diễn từ Tiệc ly Thánh Gioan ghi lại cho chúng ta việc Đức Kitô mạc khải cho các môn PS 5-C159
Trong Diễn từ Tiệc ly Thánh Gioan ghi lại cho chúng ta việc Đức Kitô mạc khải cho các môn đệ biết điều giải thích cho tất cả cuộc sống của Người: Người đến để biểu lộ cho con người tình yêu của Thiên Chúa. Đã đến giờ Người được tôn vinh là giờ mà Người biểu lộ tình yêu Thiên Chúa cho nhân loại, giờ Người bước vào cuộc thương khó, hiến tế chính mình để cứu độ nhân loại. Người đã chết vì yêu thương nhân loại. Người cũng muốn mọi môn đệ cũng phải yêu như người.
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA: Ga 13, 31-35
Trong diễn từ biệt ly, vào tối Thứ năm Tuần thánh, Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ cách mạnh mẽ: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu anh em, đó là dấu chỉ để người ta nhận biết ai là môn đệ của Người.
a. Sau khi Giuđa rời khỏi phòng ăn có lẽ sau lúc rửa chân và trước khi thiết lập Bí tích Thánh thể, Chúa Giêsu nói bây giờ là lúc Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người. Giờ này là giờ mà Thiên Chúa đã ấn định, giờ mà vì đó Người đến thế gian, không ai có quyền cho xảy ra sớm hơn hay trễ hơn. Đây là giờ Thiên Chúa thực hiện cuộc thương khó của Người để tiêu diệt Satan và sự chết. Đó cũng là vinh quang của Người và là vinh quang của Thiên Chúa.
b. Trước khi từ giã các môn đệ, Chúa Giêsu đã cho các ông biết ý định của Người là ban cho các ông một điều răn mới: Hãy yêu nhau như Người đã yêu thương các ông. Tính chất mới mẻ ở đây được thể hiện trong cách thức yêu thương giữa con người với nhau là yêu như Người đã yêu. Lấy tình yêu của Người làm chuẩn mực, làm gương mẫu để thực hiện. Khác với điều răn yêu thương được Thiên Chúa trao ban thời Cựu ước: hãy yêu thương tha nhân như chính mình.
c. Sự mới mẻ của điều răn này còn được thể hiện ở chỗ tình yêu chính là dấu chỉ để người khác nhận ra ai là môn đệ của Chúa Giêsu. Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của thầy là các con yêu thương nhau.
II. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Tình yêu là căn tính Kitô hữu: Được tạo dựng và được cứu độ trong tình yêu của Thiên Chúa, lại được mời gọi sống điều răn yêu thương, cho nên có thể nói được rằng yêu thương là căn tính, là bản chất của Kitô hữu. Điều này đòi buộc mỗi người luôn phải xét mình xem đã sống và thực thi tình yêu như thế nào. Tình yêu của Kitô hữu không hệ tại ở những cảm xúc tự nhiên, nhưng đó là sự tiếp nối tình yêu của Chúa Giêsu Kitô, một tình yêu siêu nhiên vượt trên hẳn những cảm xúc tự nhiên. Tình yêu ấy luôn mang lại một khả năng biết mở rộng con tim và vòng tay để đến với mọi đối tượng ngay cả với kẻ thù của mình. Yêu vì nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa nơi chính tha nhân. Yêu vì họ cùng là con cái Chúa như mình, cùng là anh chị em với mình trong gia đình Thiên Chúa. Yêu vì cùng là chi thể của Chúa Giêsu Kitô.
Căn tính tình yêu làm nên nhân cách, làm nên cuộc đời Kitô hữu. Không yêu thương thì không còn là Kitô hữu. Càng biết yêu, dám yêu, yêu không loại trừ là càng trở nên Kitô hữu chính danh.
2. Yêu như Chúa Giêsu yêu: Tình yêu của Chúa Giêsu thể hiện rất phong phú vì cả cuộc đời của Người là cả một trời yêu thương: yêu đến độ hy sinh quên mình, chết cho người mình yêu. Một khi đã yêu là yêu đến cùng, yêu vô vị lợi. Tình yêu của Người là tình yêu nảy sinh sự sống và điều thiện hảo cho toàn thể nhân loại. Vì thế, yêu như Người đã yêu thật là khó thực hiện đối với bản tính giới hạn, yếu đuối, mỏng dòn của thân phận con người. Mỗi hoàn cảnh, mỗi môi trường, mỗi con người đều có thể noi gương và sống tình yêu Chúa Giêsu cách khác nhau. Tuy nhiên, chiêm ngưỡng tình yêu của Chúa Giêsu chúng ta dễ dàng nhận ra hai đặc tính của một tình yêu chân thành mà mọi người đều có thể thực hiện được. Đó là, hy sinh cho người mình yêu và gần gũi với người mình yêu. Hy sinh đến độ chết cho người mình yêu. Càng hy sinh càng chứng tỏ tình yêu. Càng hy sinh càng cảm nhận hạnh phúc cho mình và càng mang lại hạnh phúc cho người yêu. Khi yêu nhau người ta luôn muốn gần gũi với nhau, gắn bó với nhau. Sự gần gũi gắn bó mật thiết đi vào tận sâu thẳm lòng người, để rồi luôn nhớ về nhau, luôn quan tâm đến nhau và luôn cầu nguyện cũng như ước mong những điều tốt đẹp cho nhau. Chúa Giêsu vì yêu chúng ta, Người đã đến làm người ở giữa nhân loại. Vì yêu mà Người đã trở nên lương thực để đi vào từng con người, để kết hợp mọi người nên một với Người. Không còn có sự gần gũi nào sâu xa, bền chặt hơn thế nữa. Người yêu và chính mình được trở nên một.
Yêu như Chúa yêu đòi mỗi người chúng ta phải biết hy sinh và sống gần gũi, quan tâm đến những nhu cầu, những hoàn cảnh của những người chung quanh. Ngày nay, tình yêu của chúng ta, những Kitô hữu như thế nào ? Có phải chỉ là những cảm xúc tự nhiên ?
3. Tình yêu là dấu chỉ của niềm tin:
Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy là anh em yêu thương nhau. Tình yêu thương hiệp nhất mọi người trong Hội thánh là dấu chỉ loan báo Tin mừng hữu hiệu nhất, giá trị nhất. Mọi người cố gắng xây dựng sự yêu thương, hiệp nhất trong Hội thánh qua việc cộng tác vào các công việc của Hội thánh, cụ thể là tích cực tham gia các hội đoàn, các công việc giáo xứ, xây dựng giáo xứ mỗi ngày một hiệp nhất hơn. Chúng ta cố gắng xây dựng gia đình mình thành cộng đoàn yêu thương, hạnh phúc. Yêu hy sinh như Người đã yêu; yêu thủy chung như Người đã thủy chung gắn bó nên một với Giáo hội. Làm sao có thể nói cho người khác biết về Thiên Chúa là tình yêu nếu như lòng chúng ta còn hận thù, đố kỵ và ganh ghét. Làm sao nói cho mọi người biết Chúa Giêsu yêu thương đến độ hy sinh chết để cho nhân loại được sống và sống dồi dào nếu người ta chỉ thấy nơi đời sống Kitô hữu sự ích kỷ, thủ lợi và khép kín.
Một thế giới chiến tranh và hận thù, đầy bạo lực và khủng bố trong đó lòng tham, tính ích kỷ ngự trị, chỉ biết đến quyền lợi cá nhân, vật chất hẹp hòi đang biến con người trở nên lạnh lùng chai cứng với nhau, thì Kitô hữu phải làm sáng lên mạnh mẽ ngọn lửa mến của Chúa Giêsu Kitô. Đời sống của Kitô hữu phải vang lên niềm tin của mình.
III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU
Mở đầu: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu đã đến để biểu lộ trọn vẹn tình yêu cứu độ của Người. Tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1. Ngày nay, Chúa Giêsu Kitô vẫn không ngừng trao ban tình yêu của Người cho nhân thế qua chính Giáo hội, Nhiệm thể của Người. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Giáo hội luôn trở nên nơi cưu mang, nơi mang lại tình yêu thương, hạnh phúc và sự sống cho những người nghèo khổ, bất hạnh trong thế giới.
2. Ngày nay, vì sự thờ ơ, vì lòng tham, vì tính ích kỷ của con người mà biết bao anh chị em đang lâm vào hoàn cảnh bất hạnh, cùng khốn trong đáy vực của xã hội. Chúng ta cùng cầu nguyện cho những anh chị em đau khổ, bất hạnh, nghèo đói tìm được tấm lòng bác ái yêu thương quảng đại của nhiều người chung quanh.
3. Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con yêu thương nhau. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn biết đón nhận tình yêu của Thiên Chúa để biết cảm thông với người nghèo khổ; biết tha thứ dịu dàng với những kẻ nghịch thù; biết quảng đại hy sinh vì anh chị em.
Lời kết: Lạy Thiên Chúa là tình yêu, chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương chúng con vô cùng. Xin ban Thánh Thần tình yêu của Chúa cho chúng con, để chúng con biết đáp trả tình yêu Chúa bằng chính tình yêu của mình dành cho tha nhân. Xin cho chúng con biết yêu mà không hề tính toán; biết cho đi mà không mong báo đền; biết quảng đại thứ tha. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
Tin mừng Ga 13: 31-35 Đoạn văn Tin mừng hôm nay được xem là một trong những lời tâm tình nhất của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ, vì nó nằm trong bối cảnh Chúa Giêsu sắp chia tay các môn đệ yêu dấu.
Suy niệm
Đoạn văn Tin mừng hôm nay được xem là một trong những lời tâm tình nhất của Chúa Giêsu dành PS 5-C160
Đoạn văn Tin mừng hôm nay được xem là một trong những lời tâm tình nhất của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ, vì nó nằm trong bối cảnh Chúa Giêsu sắp chia tay các môn đệ yêu dấu. Có thể nói những tâm tình của người sắp rời xa dành cho người ở lại lúc này đây là những tâm tình căn cốt nhất, tâm huyết nhất, và là lời nhắn nhủ đầy tha thiết.
Chúa Giêsu cho biết Chúa Cha làm hiển danh Con của Ngài khi Người Con được giương lên cao trên Thánh giá. “Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người”. Chúa Giêsu xác tín rằng vì mang cả nhân tính lẫn thiên tính, cương vị của Con Người Giêsu được tôn vinh nơi cuộc khổ nạn và và đỉnh điểm nơi phục sinh là dấu chỉ Người chiến thắng tội lỗi và sự chết cách vinh hiển. Chính Người là hiện thân của “Thiên Chúa ở với loài người”, như Bài đọc II trích sách Khải Huyền cho biết: “Người sẽ lau khô mọi giọt lệ ở mắt họ. Sự chết chóc sẽ không còn nữa, cũng không còn than khóc, không còn kêu la, không còn đau khổ”. Giờ đây bắt đầu một sự mới mẻ và hoàn thiện của việc thực thi “giới răn mới”. Chúa Giêsu, Đấng không đến để bãi bỏ điều luật nhưng để kiện toàn. Việc Người kiện toàn tình yêu của giới răn cũ là “mến Chúa yêu người” giờ đây được đòi hỏi thêm nở tình bác ái huynh đệ: “Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau". Yêu tha nhân như chính mình chưa đủ, còn phải yêu tha nhân như gương Chúa Giêsu Kitô đã yêu.
Sở dĩ Chúa Giêsu có thể yêu như thế vì Người mô phỏng theo tình yêu Chúa Cha dành cho loài người cũng đến cùng đến nỗi sẵn sàng trao ban Con Một. Thiên Chúa còn yêu thương con người ngay lúc con người còn là tội nhân, Ngài biết tại sao họ lại hành xử và phản ứng như vậy, nên Ngài thông cảm và tha thứ với những yếu đuối của con người. Qua đó Chúa mong muốn chúng ta tập theo cách hành xử như Chúa, con tim như Chúa, bao dung nhân hậu như Chúa, có cái nhìn như Chúa. Đó là tình yêu ân cần, tận tâm, vô vụ lợi, sẵn sàng hiến mình.
Trong thế giới ích kỷ và người ta dửng dưng với nhau, ham mê tiền bạc, bóc lột người nghèo, Kitô hữu càng cần thể hiện cách cụ thể tình yêu đó để người chung quanh nhận ra người Kitô hữu là môn đệ đích thật của Chúa Kitô. Thù hận, tìm cách trả thù chỉ làm cho con người khổ sở bất hạnh. Ngay cả khi người ta xúc phạm đến mình, nếu mình tha thứ, mình sẽ sống an bình và hạnh phúc hơn.
Ngày 23.03.2019, ĐHY Angelo Becciu, Tổng trưởng Bộ phong thánh đã chủ sự Lễ phong chân phước cho Mariano Mullerat Soldevila, một bác sĩ có lòng bác ái, thương yêu giúp đỡ người nghèo. Với đức tin mạnh mẽ, bác sĩ bênh vực Giáo hội trong thời chiến tranh bách hại. Đến phút cuối, bác sĩ vẫn chăm sóc cho người làm hại đến mình.
Mullerat theo học ngành y tại đại học Barcellona và tốt nghiệp 7 năm sau đó, năm 1921, khi 24 tuổi. Một năm sau, anh kết hôn và bắt đầu đi đến các thành phố lân cận để chữa trị miễn phí cho những người nghèo. Anh an ủi khuyến khích những người nằm liệt giường và những người bệnh nặng siêng năng lãnh nhận các bí tích và lo liệu để những người này có thức ăn cũng như thuốc thang đầy đủ.
Năm 1931, cách mạng lan rộng khắp cả nước, Cộng hòa Tây Ban Nha lên nắm quyền, cùng lúc vua Alphongso XIII bị đi lưu đày. Một số người gần gũi thân cận với bác sĩ Mullerat đã đề nghị ông rời Tây Ban Nha, nhưng ông từ chối. Người ta cũng đề nghị ông chạy đến ẩn náu ở Zaragoza, nơi ông sẽ được an toàn, nhưng một lần nữa ông không muốn làm thế. Ông tin rằng mình phải hoàn thành sứ mệnh giúp đỡ người nghèo. Tràn đầy niềm tin và không sợ phải đối mặt với nguy hiểm, vẫn quyết ở lại nơi đó.
Và rồi không lâu sau đó, những người lính đã đến nhà bác sĩ và bắt anh đưa đi. Một phụ nữ có đứa con bị bệnh đã bước ra giữa đường và chặn chiếc xe tải dừng lại, và hỏi xem bác sĩ Mullerat có thể giúp con của bà không. Những quân lính đã cho bác sĩ khám bệnh cho đứa bé và kê đơn thuốc. Kế đó, bác sĩ Mullerat cũng nhận thấy rằng một trong những người lính dân quân đang bị một vết thương, ông liền hỏi xem mình có thể kiểm tra vết thương cho anh ta không. Người lính chỉ cho ông thấy một vết cắt sâu ở chân, và bác sĩ đã băng bó cho anh ta và chỉ cho anh ta cách chăm sóc vết thương. Sứ mệnh bác sĩ của ông đã là phúc lợi cuối cùng cho một trong những kẻ tra tấn bắt bớ ông.
Trong bài giảng Thánh lễ phong chân phước, ĐHY Becciu nhận định: “Chân phước tử đạo Mullerat không chỉ là một anh hùng, còn thúc giục chúng ta trở nên đồng hình trọn vẹn hơn với Chúa Kitô, khi tìm thấy nơi Người suối nguồn của sự hiệp thông Giáo hội đích thực, để chúng ta có thể làm chứng tá cho xã hội ngày nay về tình yêu và sự dấn thân của chúng ta với Chúa và với anh em của chúng ta. Bằng gương sáng và lời chuyển cầu của mình, vị chân phước giúp chúng ta không để mình bị sự chán nản và trì trệ thống trị”.
Hành động yêu thương đến cùng là cung cách hành xử của Thiên Chúa, và “căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau”. Chính khi yêu thương nhau như Chúa làm con người được hạnh phúc thật sự, và Thiên đàng là nơi người ta yêu thương, sống hạnh phúc vì quan tâm đến nhau. Vậy, lạy Chúa, xin cho chúng con nhận ra không có con đường nào khác dẫn tới Thiên đàng ngoài con đường yêu thương. Khi chúng con yêu như Chúa Giêsu yêu là chúng con đang được trở nên thần hóa, đang bắt chước Thiên Chúa và dần trở nên thánh vì Thiên Chúa là Đấng Thánh. Amen.
Tin mừng Ga 13: 31-35 Nếu con người sống không có tình yêu thì cũng chỉ là một Robot cô độc lạnh lùng mà thôi.
Thầy ban cho anh em điều răn mới là anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương anh em (Ga,13,34).
Vậy chúng ta đã sống giới răn mới đó như thế nào và tình yêu thương mà chúng ta đang sống đó PS 5-C161
Vậy chúng ta đã sống giới răn mới đó như thế nào và tình yêu thương mà chúng ta đang sống đó là tình yêu thương nào?
Nhân loại ngày nay đã sáng chế ra Robot để làm thay con người nhưng Robot không biết yêu mà chỉ là một chiếc máy vô hồn. Trong bài luận văn của em Phan Hoàng Yến, học sinh lớp 9A2 trường trung học Chu Văn An, Hà Nội, đã gây ấn tượng mạnh trong xã hội hôm nay.
Bài văn được viết như sau: có được một xã hội văn minh, hiện đại ngày nay một phần lớn cũng là do những phát minh vĩ đại của con người. Một trong số đó chính là sự sáng chế ra robot, và càng ngày, robot càng được cải tiến cao hơn, tỉ mỉ hơn làm sao cho thật giống con người để giúp con người được nhiều hơn trong các công việc khó nhọc, bộn bề của cuộc sống. Chỉ lạ một điều: đó là trong khi các nhà khoa học đang "vò đầu bứt tóc" không biết làm sao có thể tạo ra một con chip "tình cảm" để khiến "những cỗ máy vô tình" biết yêu, biết ghét, biết thương, biết giận thì dường như con người lại đi ngược lại, càng ngày càng vô tình, thờ ơ với mọi sự xung quanh. Đó chính là căn bệnh nan y đang hoành hành rộng lớn không những chỉ dừng lại ở một cá nhân mà đang len lỏi vào mọi tầng lớp xã hội – bệnh vô cảm. Nhìn thấy cái xấu, cái ác mà không thấy bất bình, không căm tức, không phẫn nộ. Nhìn thấy cái đẹp mà không ngưỡng mộ, không say mê, không thích thú. Thấy cảnh tượng bi thương lại thờ ơ, không động lòng chua xót, không rung động tâm can. Vậy đó còn là con người không hay chỉ là cái xác khô của một cỗ máy?
Quả thực, nếu con người sống không có tình yêu thì cũng chỉ là một Robot cô độc lạnh lùng mà thôi. Nhân loại ngày nay có thể sáng chế ra Robot để làm thay con người nhưng đáng tiếc Robot thì không có tình yêu, vì nó chỉ là cái máy không hồn. Phải chăng nó cũng là phản ảnh lối sống vô cảm không hồn của con người thời đại hôm nay? Có mọi sự nhưng thiếu tình yêu.
Quả thật Robot ngày nay có thể đọc kinh, hát thánh ca nhưng không có tình yêu trong hành động của mình. Robot ngày nay có thể đi chợ, quét nhà, ru em nhưng vô cảm với công việc của mình. Nói đúng hơn, Robot có thể nói, có thể làm nhưng vô hồn, vô cảm, lạnh lùng vì thiếu tình yêu.
Đạo Công Giáo đặt nền tảng trên tình yêu. Yêu Chúa, yêu người. Yêu Chúa không dừng lại ở việc máy móc đi lễ hay đọc kinh ra rả, nhưng phải yêu Chúa hết lòng hết trí khôn và yêu thương anh em như chính bản thân mình. Chính vì vậy Chúa đã nói trong bài Tin Mừng hôm nay: "Thầy ban cho anh em điều răn mới là ành em hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga,13,34)
Vậy "Yêu Như Chúa Yêu" là như thế nào?
Với bản tính tự nhiên, chúng ta thường giới hạn tình yêu nơi những người thân cận: Yêu thương những kẻ thuộc về mình như cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em và những người yêu thương chúng ta, những người có thể đền đáp công ơn cho chúng ta. Nhưng để yêu như Chúa, chúng ta không được dừng lại ở đó, chính Chúa Giêsu đã nói: “nếu các ngươi yêu thương những kẻ yêu thương các ngươi, thì có công cán gì? Những người thu thuế chẳng làm như thế sao”? (Mt 5,6).
Vì vậy, "Yêu Như Chúa Yêu" là phải đi xa hơn: yêu thương hết mọi người; yêu thương những người không có gì để đền đáp cho chúng ta; yêu thương cả những người bất đồng ý kiến; yêu thương những người không yêu thương chúng ta; thậm chí chúng ta cần phải yêu thương những người ghét bỏ chúng ta, bách hại chúng ta. Đó là tình yêu phổ quát, tình yêu không loại trừ một ai.
"Yêu Như Chúa Yêu" là biết cúi xuống rửa chân cho nhau để bày tỏ một tình yêu sâu thẳm, cho dù người ấy là Giuđa, kẻ phản bội tình yêu.
"Yêu Như Chúa Yêu" là biết hạ mình xuống ngang hàng với người mình yêu để cảm thông, chia sẻ và yêu thương như "bạn hữu thân tình".
"Yêu Như Chúa Yêu" là "yêu cho đến cùng", yêu cho đến chết và chết trên thập giá. Vâng, kể từ khi Con Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại cho đến cùng, thì luật yêu thương đã trở thành điều răn mới, mới ở đây chính là yêu "Yêu Như Chúa Yêu".
Như vậy, yêu "Yêu Như Chúa Yêu" không phải là tình yêu vị kỷ (Eros). Yêu người khác chỉ để lợi dụng, chỉ để chiếm đoạt. Còn Yêu "Yêu Như Chúa Yêu" chính là tình yêu vị tha (Agapé). Agapè là thứ tình yêu xả kỷ, vị tha, chỉ biết tìm hạnh phúc cho người khác. Đó là tình yêu sẵn sàng hy sinh cho kẻ khác, quên mình, quên hạnh phúc của mình để nghĩ đến người khác. Nó không phải là tình yêu theo bản năng, ưa thích những gì đẹp đẽ nơi người khác, mà là sẵn lòng vươn tới tha nhân, hành động vì lợi ích của tha nhân. Nó không phải là yêu thương dành cho thân thuộc mà thôi, nhưng cho hết mọi thành viên trong nhân loại.
Chúng ta chỉ có thể yêu "Yêu Như Chúa Yêu" khi chúng ta dám xả thân đến mức như Chúa Giêsu đã hiến dâng mạng sống cho chúng ta. Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu hiến thân cho người mình yêu. Amen.
Trong căn phòng Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã trao ban chính mình cho chúng ta trong Bí Tích Thánh PS 5-C162
Trong căn phòng Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã trao ban chính mình cho chúng ta trong Bí Tích Thánh Thể. Tình yêu trào tràn trong con tim của Người và vì thế, ân ban Thánh Thể còn được lồng vào bằng những dấu chỉ khác của tình yêu. Chúa rửa chân cho môn đệ là cụ thể hóa tình yêu trong phục vụ. Tiếp nối là trao ban di chúc thiêng liêng: Hãy Yêu Thương nhau. Đây là lệnh truyền, là tiếng gọi tha thiết với môn sinh của Chúa và với tất cả Kitô hữu chúng ta hôm nay.
Những người thầy trên trần gian khi truyền dạy cho môn sinh bài học đạo đức hay những luật lệ thì dường như không một thầy nào dám lấy chính mình ra để làm gương hay mời gọi trò hãy nhìn thầy, học cách sống của thầy, hoặc hãy sống như thầy đã sống...Thế nhưng, Chúa Giêsu - Chúa của chúng ta khi truyền ban bài học yêu thương, Người dạy môn đệ: "Các con hãy yêu thương nhau." Vậy yêu cách nào? "Như Thầy đã yêu thương các con thì các con cũng hãy yêu thương nhau."(Ga 13,34) Nghĩa là khi các con thực hành đức yêu thương nhau, các con hãy nhìn vào chính gương của Thầy đã yêu thương các con. Đây như là phương cách và cũng là động lực để các con có thể thực hiện được. Bởi vì, yêu thương nhau không dễ chút nào.
- Như Thầy đã yêu thương các con. Thầy yêu như thế nào? Chúa đã chứng minh tình yêu của Người yêu thương chúng ta bằng sự khiêm hạ nhập thể làm người "Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế"(Kinh Tin Kính N. C.); bằng cuộc đời nghèo khó hy sinh từ Belem, Nazareth đến đồi Canvê; tất cả là một tình yêu hy sinh vì chúng ta như lời Thánh Phaolô khẳng định "Chúa Kitô đã yêu tôi và hiến mạng vì tôi."( x.Gl 2,20c)
Chúa yêu tất cả loài người chúng ta dù tội lỗi, yếu hèn, hay phản bội và Người muốn giải thoát chúng ta khỏi mọi nỗi đau thương. Tình yêu của Chúa không chỉ dừng lại ở đó nhưng Người còn đi xa hơn là Chết và Phục Sinh để ban cho chúng ta sự sống đời đời. Tình yêu của Chúa cũng không chỉ kéo dài trong cuộc đời ba mươi ba năm nhưng là mãi đến tận thế. Tất cả Tình yêu của Chúa là hy sinh, là hiến ban chính mình "Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình."(Ga 15,13)
- Các con hãy yêu thương nhau. Chúa không truyền dạy chúng ta: Như Thầy đã yêu thương các con thì các con cũng hãy yêu lại Thầy như vậy, nhưng Chúa muốn chúng ta yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương ta. Đây là điều răn mới, mới ở chỗ yêu như Chúa yêu; yêu nhau như Chúa yêu ta và chính ở điểm này sẽ chứng minh chúng ta yêu Chúa thế nào và đáp đền tình Người yêu ta ra sao, như lời Thánh Gioan nhắc: "Nếu ai nói:'Tôi yêu mến Thiên Chúa' mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối."(1Ga 4,20a) Khi chúng ta yêu thương nhau, chứng tỏ Thiên Chúa hiện diện ở giữa chúng ta và tình yêu của Người tràn đầy trong tim ta.
Yêu thương nhau như Chúa yêu ta phải được cụ thể hóa bằng việc làm như chính Chúa đã dạy, đã thực hiện. Phải "Yêu thương cách chân thật và bằng việc làm."(1Ga 3,18) chứ không chỉ nói suông. Tình yêu nói thì dễ nhưng để sống, đòi ta phải hy sinh vì "Hy sinh đó là thực tập sống tình yêu". Tình yêu không hy sinh như xác không hồn.
Yêu như Chúa yêu không dễ chút nào khi yêu thương người mình chẳng thích chẳng ưa. Khó lắm khi yêu thương kẻ làm hại ta, hiểu lầm ta, gây đau khổ cho ta... Yêu như Chúa yêu còn là đón nhận những yếu đuối của anh em và can đảm sửa lỗi cho nhau. Chỉ khi tâm hồn ta hướng về mầu nhiệm tình yêu của Chúa, cảm nhận sâu xa tình Chúa yêu thương ta dẫu bao lần ta lỗi tội, lúc đó ta biết ơn vì Chúa đã yêu ta bằng một tình yêu vô cùng, thì đến lượt ta, lòng biết ơn và ân sủng Chúa sẽ giúp ta yêu thương người dù người chẳng yêu ta. Và khi yêu như vậy, tình yêu của ta mới có giá trị vì đòi ta hy sinh bỏ mình. Chắc chắn để có được tình yêu dạt dào trong tim và có thể yêu thương, ta phải cầu xin ân huệ của Chúa Thánh Thần thì ta mới có thể yêu như Chúa yêu và yêu bằng tình yêu của chính Chúa "Vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta."( Rm 5, 5b)
- Yêu thương nhau, dấu chỉ là môn đệ của Chúa. Tình yêu là luật, là tinh thần của người môn đệ Chúa Kitô và của mỗi Kitô hữu chúng ta. Chúa chọn gọi chúng ta, Người sai chúng ta ra đi nhưng chưa nói ta làm việc này việc kia, mà điều đầu tiên và quan trọng đó là "Yêu thương nhau" bởi vì: "Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ của Thầy là các con có lòng yêu thương nhau."( Ga 13,35) Đây là lời chứng hiệu quả nhất và là lời rao giảng mà con người mọi thời đại đều muốn thấy và nghe.
Vậy sống yêu thương nhau là sứ mệnh của chúng ta. Tình yêu đưa đến hiệp nhất; tình yêu mang lại an vui. Vì thế, yêu thương nhau sẽ như mặt trời mọc lên chiếu sáng, lan tỏa cho mọi người xung quanh trong bất cứ nơi nào những Kitô hữu hiện diện, để rồi khi người ta nhận ra chúng ta là con cái của Chúa, người ta cũng sẽ nhận ra Chúa của chúng ta là Thiên Chúa Tình Yêu và tin yêu Chúa. Đây là sứ vụ và cũng là thách đố cho mỗi cộng đoàn Kitô hữu chúng ta sống giữa lòng thế giới hôm nay.
Yêu thương nhau như Chúa yêu là di chúc, là luật, là tinh thần và là sứ mệnh của chúng ta, những môn đệ Chúa Kitô. Yêu thương nhau như Chúa yêu cũng là lời chứng hùng hồn trong công cuộc truyền giáo của Giáo hội. Chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần dạy bảo chúng ta và giúp chúng ta tuân giữ di chúc Tình yêu của Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, cảm tạ Chúa đã yêu thương chúng con và thí mạng vì chúng con. Xin ban Thánh Thần của Chúa cho chúng con để Người dạy chúng con biết yêu thương nhau như Chúa đã yêu chúng con. Amen.
(Suy niệm của Lm. Phan Đỗ Phục Linh, Mai Tá diễn giải)
Cô gái Việt Nam ơi!, nếu chữ "hy sinh" có ở đời, tôi muốn nạm vàng muôn cực khổ cho lòng cô PS 5-C163
Cô gái Việt Nam ơi! nếu chữ "hy sinh" có ở đời tôi muốn nạm vàng muôn cực khổ cho lòng cô gái Việt Nam tươi. (thơ Hồ Dzếnh)
Nói chữ “hy sinh” ở đời, sao chỉ giới hạn với cô gái Việt Nam, thôi. Hy sinh ở đời, nay vẫn muốn. Những muốn nạm vàng cực khổ, để mọi người vui. Vui vì những “hy sinh” có ở đời, là ý nghĩa mọi cuộc tình. Tình đời. Tình người. Tình Chúa với dân con nhà Đạo. Như trình thuật Thánh Sử nói hôm nay.
Trình thuật hôm nay, Thánh Gio-an nói về một tình yêu rất đặc biệt. Thứ tình trọn đầy ý nghĩa mà Đức Chúa đã làm gương. Tình Chúa nêu gương, là tình Ngài bày tỏ không chỉ riêng tư, có một người. Như tình người dưới thế, ta luôn có với nhau. Tình Thầy luôn yêu, là tình đượm sắc mầu thương mến, rất hy sinh. Thầy hy sinh cho tất cả. Hy sinh đến chết. Hy sinh để ta được sống. Để ta cứ yêu. Yêu như Thầy vẫn hy sinh.
Ngôn ngữ phàm trần, không thấy có cụm từ nào được người đời biết đến, nhiều bằng từ ngữ “yêu”. Yêu, là phạm trù phổ biến dễ truy cập nhất. Một đề tài nói đến cả trong mọi trường hợp. Mọi địa hạt: từ nghệ thuật đến văn chương, thi tứ. Từ thơ nhạc, cho đến phim ảnh văn xuôi, truyện ngắn. Nhất nhất, nói về tình yêu. Tình yêu có chữ “hy sinh” ở đời, là tình ta nghe biết nhiều nhất.
Với đời thường, tình yêu là cảm xúc ướt át, diễm lệ mọi người quanh ta, hằng đeo đuổi, đeo và đuổi cho đến khi nào không thể làm gì hơn được nữa, mới thôi. Yêu, theo nghĩa dân gian người phàm, là tình thấy đầy nơi phố chợ. Ở đó, có tình đằm thắm lúc ban đầu. Nhưng, nhạt dần với tháng năm. Tình nào không kèm chữ “hy sinh”, chung cuộc rồi ra cũng sẽ chán. Rất chán, khi vừa xuất hiện đối tượng mới. Đối tượng tươi trẻ, hấp dẫn hơn. Tràn đầy nhựa sống hơn.
Tình đời mau chán, bởi người người chỉ chú trọng đến xác thân. Đến dục tính. Tình đời loại này, thường dẫn đến điểm thoát rất nhanh, nơi đọan cuối của đường hầm, nhiều tăm tối. Nôm na hơn, ta gọi đấy “tình là tình nhiều khi không rồi có” hoặc: “tình là tình nhiều lúc có cũng như không”. Tình như thế, tuyệt nhiên là tình không mang dáng vẻ “hy sinh” nghĩa hiệp, nào hết.
Tình “có hy sinh”, là mối tình được thể hiện bằng hành động, chứ không phải bằng lời. Tình đó là tình được dặn dò khuyên nhủ, như một lệnh truyền ngày Chúa giã từ, với chia tay. Lệnh truyền Chúa nơi tình có hy sinh vẫn được nhấn mạnh rất nhiều lần; vìNgài vẫn thường bảo: “Với dấu này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau.” (Ga 13, 35)
Làm người, ai cũng từng hơn một lần, đã biết yêu. Là môn đệ của Thầy, người người lại càng phải biết yêu thương nhau nồng nàn hơn nữa. Yêu, say đắm hơn bao giờ hết. Yêu, như Thầy vẫn thương chúng ta. Yêu thương nhau, là thứ tình thực tiễn được đánh giá qua cách thức ta đối xử với nhau. Xử sự với nhau, thật hiền hòa. Thật tử tế. Ta hành xử với nhau thật kiên nhẫn. Rất chịu đựng.
Tình ta thương nhau, là tình của những người đồ đệ theo chân Chúa. Đó là tình không kiêu sa. Cũng chẳng mượt mà, trau chuốt đánh bóng chính người mình. Tình ta thương nhau, như tình Chúa yêu ta là tình không dày đạp người khác. Dày vùi và đạp lên đó để mọi người nhìn mình cho rõ, như người hùng anh cần được yêu. Phải được tôn kính. Tình ta thương nhau, là cùng vui với người vui. Cùng khóc với người đang khóc. Cùng đạt ước nguyện tạo niềm vui cho nhau. Tình ta thương nhau, là biết thương tiếc khóc than vì người khác đã mất mát. Từng khổ đau.
Yêu thương nhau như tình Thầy yêu ta, là biết nói lên sự thật. Với lòng xót thương không bến bờ. Yêu thương nhau như Thầy yêu ta, là yêu thương đấy, vẫn yêu trong hy sinh tha thứ cho người mình thương yêu. Thương yêu rất mực tin tưởng vào người mình yêu thương. Yêu trong kiên định, cả vào những giây phút gặp nhiều khó khăn, trắc trở. Yêu, cả vào lúc thấy có khổ đau. Những lúc đang trầm mình dưới bùn đen, ở dưới thấp. Yêu như thế, mới giống tình Chúa yêu thương mọi người, không xét nét.
Tình có hy sinh là chấp nhận thua thiệt, để người kia được lợi. Yêu trong hy sinh, là biết tự kiềm chế mọi đam mê, dục vọng. Yêu rất hy sinh, là như thể đang chết dần chết mòn cho những cảm xúc vinh vang, hãnh tiến. Yêu trong hy sinh, là chết đi cho chính mình. Chết cho con người mình. Chết, không phải về thể xác. Mà, chết cho nhu cầu xác thân, tạm bợ. Dù, nhu cầu ấy vẫn chính đáng. Vẫn rất cần.
Yêu trong hy sinh, càng không phải là yêu với mặc cảm tội lỗi. Mặc cảm thâm trầm, vì đã làm điều bất ưng và bất xứng, nay muốn tự hủy. Tự hủy, bằng tâm trạng âm thầm, khúm núm, cúi đầu sợ sệt. Yêu trong hy sinh, càng không phải là những khuyên răn, khích lệ bạn bè nguời thân hãy có cùng tâm trạng hủy diệt, vùi dập thân xác như mình. Nói khác đi, tình “có hy sinh”, là quà tặng Chúa ban nhưng-không gửi đến để người người chấp nhận một chọn lựa. Chấp nhận cơ hội vinh thăng cho tình yêu ta đang có, sẽ ngày càng tốt đẹp hơn lên.
Với dặn dò đàn con biết tỏ bày tình có hy sinh, Đức Chúa đã nêu gương để ta cũng có cử chỉ tự hạ làm người thấp hèn. Ngài tự giáng hạ vào chốn nghèo hèn, để Thiên Chúa là Cha sẽ nâng Ngài lên nơi vinh hiển. Noi gương Chúa, ta cũng tự hạ chính mình nhịn nhường mọi vinh hoa, phú quý sang qua người khác. Nhường nhau, để tạo cuộc sống mới dồi dào sức sống.
Tự hạ, nhưng không tự hủy. Tự hạ, không có nghĩa dứt bỏ phẩm giá con người rất vinh quang. Vinh quang, vì mang thân phận làm con dân Đức Chúa. Tự hạ, là tự giảm chính mình xuống mức thấp hơn người khác. Tự đặt mình ở mức thấp, để người khác được nổi bật hơn, hạnh phúc hơn mình. Thực tế, trong sống đời dân gian trầm hạ, cũng nên tìm ra phương cách hoặc động thái khả dĩ giúp ta cởi thoát những hành vi không mang đặc thù của người con yêu Đức Chúa. Cởi thoát, là tự mình không đòi ở chỗ cao, trên người khác. Hoặc, người khác phải cảm nhận công sức mình, đã bỏ ra. Cởi thoát, là không đòi cho được quyền ra lệnh người khác thực hành ý kiến của mình.
Tham dự tiệc thương yêu hôm nay, ta cầu mong Thầy Chí Thánh giúp ta yêu thương mọi người như một nhân vị, chứ không như sự vật. Cầu và mong sao, ta tạo được cho mình và mọi người những tình tự “có hy sinh” đưa ta vào cuộc sống rất vui. Sống can đảm, để giải quyết mọi bất đồng trong tương quan với mọi người chung quanh. Cầu và mong sao, tình của ta luôn là tình “có hy sinh” như Đức Chúa từng dạy bảo. Và cầu mong sao, trong yêu thương giao dịch, tình của ta với người, vẫn là tình hy sinh ở mức cao độ, như Thầy thương ta.
Trong hân hoan cầu và mong như thế, ta cũng hăng say cùng người nghệ sĩ hát bài ca của người tự do con cái Chúa, hát rằng:
“Hôm nay ta yêu, yêu tình nước non ngập lòng, Hôm nay ta thương, thương khắp nhân lọai trên đời Lời tha thiết, bài thơ khúc ca ân tình Ta sẽ xây nguồn vui dựng một ngày mai”. ( Xuân Lôi – Y Vân 29.12.1961 )
Vâng. Yêu thương, là thương khắp nhân lọai trên đời. Yêu như thế, ta sẽ xây nguồn vui dựng ngày mai. Ngày của trời mới. Đất mới. Nơi, có “chữ Hy sinh” trong mọi thứ tình. Tình ta yêu Chúa. Yêu thương mọi người. Yêu “có hy sinh”. Và, rất trữ tình.
Từ khi có con người xuất hiện trên địa cầu, thì đã có yêu thương. Yêu thương hạn hẹp nhất là PS 5-C164
Từ khi có con người xuất hiện trên địa cầu, thì đã có yêu thương. Yêu thương hạn hẹp nhất là giữa người nam và người nữ, để làm phát sinh ra những con người mới. Yêu thương mở rộng thì coi mọi người là anh em. Khổng Tử với thuyết “tứ hải giai huynh đệ,” Mạnh Tử thì nói rõ hơn bổn phận với những anh em (huynh đệ) đó, bằng thuyết "Kiêm Ái": Yêu tất cả. Đức Phật với chủ trương từ bi cũng chẳng muốn loại trừ ai ra khỏi quĩ đạo yêu thương. Và trong Cựu Ước, sách Luật Lêvi 19,18 đã ghi rõ lệnh của ĐỨC CHÚA: “Hãy yêu thương người khác như chính mình.” Tức là đâu đâu, thời nào cũng có yêu thương. Vậy tại sao khi nói với các môn đệ trong bữa ăn ly biệt, Đức Giêsu lại nói: Thầy ban cho anh em một điều răn mới, mà chẳng thấy mới ở chỗ nào, vì cũng là nội dung: hãy yêu thương nhau.
Chuyện yêu thương đã xưa như trái đất, cũ như con người mà Chúa Giêsu lại cứ gọi là mới. Vậy vì Chúa cố ý gọi là mới – mới đến nỗi Ngài gọi đó là luật của riêng Ngài: Đây là điều răn của Thầy (Ga 15,12), nên ta thử tìm hiểu xem, giới luật mới, mới ở điểm nào?
Người ta đã tìm ra được ba, bốn điểm “mới”. Thánh Âu-tinh cũng có một bài phân tích rất hay về cái mới này: những con người mới hát bài ca mới. Hôm nay chỉ nói 2 điểm. Gọi là Luật mới, vì nó mới trong tư cách và mới trong thế cách.
1) Mới trong tư cách
Khi một quốc gia được tuyên bố độc lập, hoặc khi có cuộc đảo chánh hay thay ngôi đổi chủ, người ta viết một Hiến pháp mới. Hiến Pháp là luật căn bản của một Nước. Nhiều khi cùng một thể chế, nhưng có sự đổi ngôi, thay vị, người ta cũng viết Hiến pháp mới, như Hiến Pháp đệ II Cộng hoà của Việt Nam thời TT Thiệu so với Đệ I Cộng Hoà thời TT Diệm. Ở Pháp có Hiến pháp đệ ngũ cộng hoà thời TT De Gaulle... Những Hiến pháp đó cũng lấy lại những chất liệu trong hiến pháp cũ hay Hiến pháp của những quốc gia tiên tiến… nhưng vẫn mang tên là Hiến pháp mới, Hiến pháp của riêng Nước mình, vì đây là Hiến Pháp của một nước, một dân tộc trong tư cách mới, trong vị thế mới.
Năm 1250 trước Công nguyên tại núi Si-nai, bán đảo Ai cập, Đức Chúa đã ký một giao ước với Mô-sê để thành lập một Dân tộc: Dân Israel – Dân của Chúa. Hiến Pháp của Dân Israel là thập giới ghi trên bia đá. Máu để ký giao ước là máu chiên bò được rảy trên bàn thờ và trên Dân.
1283 năm sau tức năm 33 sau Công nguyên (tạm xem như Chúa Giêsu chết năm 33), Đức Giêsu đã ký một giao ước mới – dĩ nhiên là sẽ có lề luật mới. Luật không ghi trên bia đá nữa, mà ghi trong trái tim bằng Thần khí (Ed 31, 25-28 ) và máu để ký giao ước mới là Máu Chúa: “Này là chén Máu Thầy, máu giao ước mới.” Tuy Giao ước mà Đức Giêsu ký vẫn còn dây mơ rễ má với giao ước cũ, dân mà Đức Kitô thiết lập vẫn liên tục với dân cũ, nhưng đã được gọi là Dân mới rồi. Dân tộc mới, Giao ước mới, thì lề luật phải mới và người dân sống trong tư cách mới. Công đồng Vatican II mô tả Nước mới, Dân mới này như sau: (x. GH số 9):
Có Thủ lãnh (Tổng thống, Chủ tịch, Vua) là Đức Kitô. Có biên giới là vô biên (không chỉ gói gọn trong nước Israel) Có cùng đích là Nước Trời. Có Hiến Pháp là “điều răn mới” Có Qui chế – quốc tịch, là chức vị và sự tự do của con cái Chúa.
Vậy ta có thể tóm điểm mới thứ nhất như thế này: Đây là luật mới, vì ở trong một Dân mới là Giáo Hội, một Nước mới là Nước Trời. Và người dân trong nước này có quốc tịch mới, vị thế mới, tư cách mới là con cái Chúa.
Yêu người khác trong tư cách mình là con Chúa, chứ không phải trong tư cách người nô lệ, như nô tì Isaura nữa!
2) Mới trong thế cách
Tức là mới trong cách thế. Nói nôm na hơn, mới nơi chữ “như.”
Khi chúng ta nói đẹp: đẹp như tiên giáng trần, đẹp như Tây Thi, đẹp như Điêu Thuyền… thì khác, mà “đẹp” như Chung vô Diệm thì lại khác xa! Nó khác, nó mới là ở chữ như.
Khi chúng ta nói về mầu sắc, thí dụ trắng, thì có thể trắng như vôi, trắng như tuyết, trắng như trứng gà bóc… mỗi cái như là một cái khác…
Cũng như căn nhà trước đây ta quét vôi trắng: trắng như vôi. Nay ta cạo vôi ra, xịt sơn nước Thái Lan, ta có căn nhà mới, trắng tinh!
Cũng là yêu thương, nhưng yêu thương trong luật cũ thì “yêu tha nhân như chính mình.” Còn yêu thương trong Luật mới là yêu thương như Chúa yêu ta. “Thầy ban cho anh em giới luật mới là: hãy yêu nhau ‘như’ chính Thầy đã yêu anh em”. Mà Chúa yêu ta với cách thế nào, ta đã rõ: yêu đến cùng. Yêu đến hi sinh mạng sống vì người mình yêu.
Hai người tình, yêu nhau sẵn sàng chết cho nhau; người mẹ kia bị ung thư đã không hoá trị, xạ trị, để cho bào thai được sống. Khi con đỏ hít hơi chào đời, mẹ trút hơi lìa đời. Con vuông mà mẹ không tròn. Người mẹ đó là nữ thánh Gioanna.
Và xa hơn tình vợ chồng, tình mẹ con, tình bạn, ta có tình đồng loại: người tù số 16670 tại trại tập trung Auschwitz tức linh mục phan sinh Maximilianô Kolbe, người Ba Lan đã chết thay cho người tù khác Francois Ga-jo-nic-zek. Đó là những gương mẫu về chữ như: Yêu người như Chúa yêu ta. Yêu người như Thầy yêu thương.
Có một bà đạo đức kia bệnh nặng. Bạn bè đến thăm an ủi, và cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa biết người này yêu Chúa biết bao! Bà bệnh liền chen vào: Các bạn đừng thưa với Chúa như thế. Các bà có biết khi Maria và Matta đến với Chúa để nói về Lazaro, em họ đang bệnh nặng, các bà ấy nói gì không? Các bà không thưa với Chúa: thưa Thầy, kẻ yêu Thầy đang bệnh, mà là kẻ Thầy yêu mến đang bệnh. Bà bệnh nói tiếp, không phải tình yêu tôi đối với Chúa làm tôi lành bệnh, mà là tình Chúa yêu tôi làm tôi mạnh sức. Tức là không phải yêu như tôi đây yêu Chúa, mà là như Chúa yêu tôi đây. Tôi yêu Chúa thì có hạn, nhưng Chúa yêu tôi thì vô cùng.
Thánh Phaolo đã nói đến chiều cao, chiều sâu, chiều dài, chiều rộng của tình Chúa yêu con người (x. Ep 3, 18). Và cũng có người đã tìm ra chiều cao, sâu, rộng dài của tình yêu Chúa như thế này:
Yêu người như người yêu người là bậc thấp, là luật cũ của Cựu Ước. Yêu người như Chúa yêu người là bậc cao, là luật mới của Tân Ước.
Nhưng chúng ta còn được kêu gọi đạt tới cái mới tinh, cái cao chót vót của luật yêu thương nữa. Yêu người như Chúa yêu Chúa: Xin cho họ nên một. Như Cha và Con là một. (Vợ chồng yêu nhau nên một, tuy hai là một, nhưng vẫn còn ranh giới vì còn trong thân xác, nên tuy một mà hai. Còn yêu như Chúa Cha yêu Chúa Con trong Chúa Thánh Thần thì nên một trọn vẹn).
Chúng ta phải làm sao, trong Vương Quốc mới, giấy căn cước của ta ghi dấu vết riêng không phải là nốt ruồi trên mép, vết sẹo nơi môi… mà là yêu thương. “Kìa họ yêu nhau đến chừng nào.” (x. Cv 1-2). “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các các yêu thương nhau, … như Thầy yêu các con.”
Trong bản báo cáo dài 98 trang khổ lớn của cha Gaspar d'Amaral viết bằng tiếng Bồ Đào Nha từ kinh đô Thăng Long ngày 31-12-1632 gửi cha bề trên André Palmeiro ở Macao, cha Gaspar chẳng những thuật lại những kết quả truyền giáo lớn lao, mà còn ghi nhận rằng "người lương dân gọi bổn đạo là những người theo đạu yêu nhău". Thật là tuyệt vời! Người lương không biết đặt tên cho nhóm người theo đạo mới này là đạo gì, đã nghĩ ngay đến cách họ sống mà đặt tên: Đạu yêu nhău. Mặc dầu đây là bản văn tiếng Bồ Đào Nha, nhưng tác giả có chêm một số chữ Quốc ngữ thời đó, như đạu, yêu nhău (ley de se amar), đàng ngoày, đàng tlão, đàng tlên ..., là thứ chữ Palmeiro chẳng hiểu gì, cả đến người Việt cũng chưa biết.
Hãy giữ luật mới là "yêu nhau như Chúa yêu," để nhiều người được hưởng lòng Thương Xót của Chúa và gia nhập vào “Đạo Yêu Nhau”.
Chỉ vài câu ngắn thôi, thánh Gioan đã tóm gọn cuộc đời của Chúa Giêsu: Ngài đến trần gian để PS 5-C165
Chỉ vài câu ngắn thôi, thánh Gioan đã tóm gọn cuộc đời của Chúa Giêsu: Ngài đến trần gian để tôn vinh Cha Ngài.
Ngài đến trong trần gian, mang lấy kiếp người là để mạc khải khuôn mặt nhân hậu của Chúa Cha. Ngài chính là tiếng nói của Chúa Cha ngỏ lời với nhân loại.
Đó là những câu nói của Cháu Giêsu trong bữa Tiệc Ly, khi Ngài biết rằng Ngài sắp đi vào cuộc khổ nạn và sẽ về với Cha Ngài.
Chúa Giêsu đã đuổi khéo Giuđa vì thấy rằng không thể nào thay đổi được lòng dạ của anh. Tiền bạc đã làm mờ mắt anh, khiến anh không còn thấy gì, nghe gì nữa, buộc lòng Chúa phải loại anh ra khỏi cộng đoàn nhỏ bé của Ngài. Khi Giuđa ra khỏi phòng, chỉ còn lại những người thân tín, Ngài mới tuôn trào tâm sự của Ngài.
Giuđa là chướng ngại. Anh không ở trong tình yêu của Ngài. Anh cản trở tình yêu.
Chúa Giêsu nói đến tôn vinh. Các tông đồ có hiểu được những gì Ngài nói không? Chắc là không, sau này, khi Ngài sống lại, các ông mới khám phá ra những gì chứa đựng trong những lời ngắn ngủi đó. Chúng ta cũng không mấy người hiểu những lời bí nhiệm này.
Nói đến tôn vinh hay vinh quang, người Do Thái thường nghĩ đến sấm chớp hãi hùng ở núi Khoreb khiến họ phải kinh hoàng, những kỳ công Chúa đã thực hiện ở Ai Cập và chôn vùi xa mã Pharaô dưới lòng Biển Đỏ. Tôn vinh ở đây không nói đến những biểu hiện của quyền lực của Thiên Chúa mà chỉ nói đến tình yêu.
“Con Người được tôn vinh” nghĩa là khi tình yêu của Ngài được tỏ hiện trọn vẹn trong cuộc khổ nạn và phục sinh.
Vinh quang của Chúa Kitô không phải là được tung hô ủng hộ mà ngược lại vinh quang là tình yêu của Ngài được nhìn nhận. Chỉ sau phục sinh, Tình yêu của Ngài mới hiện rõ và các tông đồ mới khám phá ra sứ mệnh yêu thương và cứu độ của Ngài. Vì thế, Chúa Giêsu nói: “Thiên Chúa sắp tôn vinh Người”, nghĩa là trong tương lai, khi mọi sự đã hoàn tất.
Chúa Giêsu cũng được tôn vinh khi tình yêu của Ngài đối với Cha Ngài được thực hiện đến cùng, đồng thời công cuộc cứu chuộc đã khởi đầu. Tình yêu của Ngài đối với Chúa Cha được thực hiện trong một sự vâng phục tự do và trọn vẹn, và Chúa Cha được tôn vinh nơi Chúa Con khi Chúa Con được nhìn nhận là “Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha”. Khi mọi người nhìn nhận tình yêu của Chúa Cha đối với loài người khi ban Con Một Người cho trần gian: “Thiên Chúa đã yêu thương trần gian đến nỗi ban Con Một mình cho trần gian”. Đó là vinh quang của Thiên Chúa Tình Yêu. Trong vinh quang của Chúa Cha, vinh quang của Chúa Con cũng được tỏ hiện nơi thập giá, trong máu lệ: “Khi Ta được treo lên, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta”.
Giờ đã đến. Chúa Giêsu biết rằng Ngài sẽ lìa các môn đệ để thực hiện ý Cha. Trong giây phút đầy ắp tình thương này, Ngài gọi các môn đệ bằng một tiếng nói hết sức ngọt ngào: “Các con bé nhỏ của Thầy”. Một lần duy nhất, Ngài dùng những tiếng nói của một bà mẹ ôm con nhỏ trong vòng tay âu yếm.
Một lời ngắn ngủi thôi đủ cho chúng ta thấy xuất hiện một vùng trời yêu thương man mác.
Đây là giờ phút cuối cùng trước khi chia tay để đi vào cô đơn thống khổ. Ngài biết rõ những gì đang chờ đợi các môn đệ. Ngài muốn bao bọc họ trong vòng tay âu yếm của Ngài. Ngài đưa họ vào vùng đất riêng biệt của Ngài, vùng đất yêu thương: “Các con nhỏ bé của Thầy”.
Rồi đây chúng con sẽ bị tản mát: “Đánh chủ chiên, đàn chiên sẽ tan tác”.
Ngài biết họ mong manh yếu đuối, vì thế Ngài nói: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Chỉ có tình yêu mới tập hợp chúng con lại, chỉ có tình yêu mới giúp chúng con vượt qua những cam go thử thách giữa trần gian.
Chúng ta không thể nghe giọng nói của Chúa lúc bấy giờ, nhưng chúng ta cũng có thể hình dung khuôn mặt và giọng nói của Ngài, một giọng nói bình thản, ngọt ngào và thâm trầm cắm sâu vào tâm hồn các môn đệ. Các ông lắng nghe và tâm hồn ấm lại. Ngọn lửa tình yêu đã được nhóm lên, yếu ớt, nhưng nó sẽ bùng cháy lên và bao trùm thế giới: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy… Thầy ban cho anh em một điều răn mới”.
Mới, nghĩa là có một điều răn cũ. Cựu Ước dạy: “Mắt đền mắt, răng đền răng. Yêu thương người khác như chính mình”.
Yêu thương người khác như chính mình cũng là một điều vượt khả năng của con người. Có ai trong chúng ta đã thực hiện điều răn đó?
Yêu thương tha nhân như chính mình là làm sao cho người khác được như mình. Mình ấm no, phải lo cho người khác được ấm no như mình. Điều này chúng ta chưa làm được, huống chi yêu thương như Thầy. Cái mới chính là yêu thương như Thầy đã yêu.
Như Thầy là thế nào? Hãy nhìn Thầy, nhìn cách Thầy yêu thương. Chúng ta có bao giờ nhìn thực sự không? Chúng ta chỉ nhìn thoáng qua thôi. Nếu nhìn Thầy thực sự, chúng ta sẽ choáng váng, sẽ ngợp thở thôi. Điều răn mới của Thầy chỉ có mấy chữ thôi nhưng những đòi buộc của nó vô biên, không thể tưởng tượng được. Nó đòi buộc đến tối đa, đến chết: “Không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu của người dám chết cho bạn hữu”. Đó mới thực sự là yêu. Yêu mà không đưa đến cái chết chỉ là tình yêu non nớt, không thực chất, gầy còm, mau tan, mau biến. Tình yêu đưa đến cái chết vì phải cho đi tất cả, “đến tận cùng”.
Tình yêu tha nhân chính là trung tâm của đạo Công giáo mà cũng là hạnh phúc của con người. Nhưng người ta không biết yêu, vì thế mà người ta chỉ làm khổ nhau thôi. Bao nhiêu khốn khổ mà con người đem lại cho nhau thì vô kể, vì họ không biết yêu thương. Chúng ta là người Công giáo, được Chúa dạy, thấy gương lành của Chúa, chúng ta vẫn chưa biết yêu.
Vậy yêu thương là gì? Câu hỏi xem ra thừa thãi, nhưng cần thiết.
Theo như thánh Tôma Aquinô, yêu thương là muốn điều thiện hảo cho người mình yêu. Nhưng điều thiện hảo là gì? Vì không biết cái gì là thiện hảo, nhiều người đã sai lầm. Cha mẹ quá cưng con, tưởng rằng như thế là thương con, nhưng họ giết con mà họ không hay.
Chỉ có Chúa Giêsu mới thánh thiện vẹn toàn, Ngài lại là Tình Yêu, Ngài mới dạy chúng ta thương nhau. Ngài đem đến cho chúng ta điều thiện hảo tuyệt đối là chính bản thân Ngài. Ngài trao ban nhưng không, trong một sự tự nguyện hoàn toàn. Ngài dạy chúng ta yêu thương như Ngài, tức là trao ban tất cả, “không còn gì để cho”. Chúng ta dám không?
Cũng vì chúng ta không dám cho không cuộc đời nên thế giới đầy dẫy đau thương, gia đình chúng ta không hạnh phúc, Giáo xứ chúng ta chia rẽ. Chúng ta hãy trở về với giới luật yêu thương của Chúa, may ra chúng ta còn cứu vãn được cuộc sống khô cằn của chúng ta. Trở về với Ngài, học yêu thương với Ngài, nhìn Ngài yêu thương đến tận cùng, chúng ta mới cảm thấy cần cố gắng hơn. Con tim chúng ta đã tê liệt mà chúng ta không hay biết.
Yêu thương như Thầy là một đòi hỏi gắt gao, nhưng nó sẽ mang lại hạnh phúc. Không mấy người dám bước vào con đường yêu thương. Thương mình, gia đình mình… thì dễ, nhưng yêu thương mọi người thì ít người dám.
Nói đến giới luật yêu thương, chúng ta liên tưởng đến những khuôn mặt quen thuộc như Mẹ Têrêxa Calcutta, hi sinh cho những người cùng khốn nhất trong xã hội, thánh Vinh Sơn Phaolô, tận tụy cho trẻ em mồ côi, thánh Đamiên, sống chết cho người cùi ở đảo Môlôkai, thánh Gioan Maria Vianney suốt ngày đêm, kiệt sức ở tòa giải tội… Những gương lành sáng chói đó là một khích lệ mãnh liệt cho chúng ta, những con người hèn nhát, co ro trong tổ ấm của mình. Hiện nay vẫn còn bao nhiêu gương lành trong các trại cùi, trại AIDS, cô nhi viện… Chúng ta hãy can đảm bước theo dấu vết của những tâm hồn trong sáng đó.
Con đường yêu thương là con đường sỏi đá không mấy người đi. Chúng ta, những môn đệ của Thiên Chúa Tình Yêu, hãy cố gắng bước theo Thầy.
Thế giới đang cần chúng ta, cần những con tìm tràn đầy tình thương chứ không cần vũ khí. Đau khổ quá nhiều không lường được, chúng ta hãy trút bớt gánh nặng cho những anh em đang nặng nề bước đi trong biển lửa ích kỷ, vô tâm và tàn nhẫn: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy ở điểm này là anh em có lòng yêu mến nhau”.
Hãy ăn lấy tấm bánh Tình Yêu để đủ sức bước đi bền vững trên con đường yêu thương.
Để nói lên tình yêu thương rộng mở giữa người với người trong xã hội, người Á Đông chúng ta PS 5-C166
Để nói lên tình yêu thương rộng mở giữa người với người trong xã hội, người Á Đông chúng ta có châm ngôn: "Tứ hải giai huynh đệ" (bốn biển là anh em). Cha ông của chúng ta cũng dạy: “Thương người như thể thương thân”. Cựu Ước cùng mời gọi: “Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình” (Lv 19,18). Trên đây chỉ là lời những lời mời gọi tình yêu thương theo mối tương quan giữa con người với nhau, mà đỉnh điểm của tình yêu là: Yêu tha nhân như chính mình. Còn nét độc đáo và đặc thù của tình yêu mà Đức Kitô mời gọi chúng ta là: Yêu Như Chúa Yêu. Vậy, làm thế nào để Yêu Như Chúa Yêu?
1. Trước hết, chúng ta tìm hiểu xem Chúa Giêsu yêu thương như thế nào?
1) Tình yêu của Chúa Giêsu là tình yêu phổ quát.
Ngài yêu thương hết thảy mọi người. Đó là những người tội lỗi, bệnh tật, đói khổ, yếu đuối và bị áp bức…Ngài gặp gỡ chàng thanh niên giàu có và khuyên anh để được sống đời đời: «Hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi» (x. Mc 10, 17-22). Ngài gặp gỡ ông Giakêu thủ lĩnh người thu thuế và giúp ông biết sống công bằng và quảng đại (x. Lc 19,1-10). Ngài gặp gỡ những người nghèo về tinh thần và vật chất và luôn ưu tiên họ hơn. Đó cũng chính là dấu hiệu để nhận ra Ngài. Ngài nói với các môn đệ Gioan rằng: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11,5-6). Ngài tự đồng hoá mình với những người nghèo hèn, đói khổ đến nỗi ai làm cho những người này là làm cho chính Ngài (x. Mt 11,5-6). Ngài đã ca ngợi bà goá nghèo chỉ bỏ ¼ đồng xu vào hòm tiền nhà thờ và tuyên bố một câu bất hủ: “Bà góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết” (Mc 12,43). Khi dân chúng đói khát, Ngài đã mời gọi các Tông đồ “Anh em hãy cho họ ăn đi” (x. Mc 6,34-44). Sứ mạng giải phóng cho người nghèo chính là sứ mạng của Ngài: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”(Lc 4, 16-22). Qua những hành động và lời nói của Chúa Giêsu đều thể hiện rõ nét một tình yêu bất biến, tình yêu phổ quát không loại trừ một ai.
2) Tình yêu của Chúa Giêsu là tình yêu tha thứ.
Chúa nói với người phụ nữ ngoại tình: "Tội của chị đã được tha rồi" (Lc 7,48). Chúa nói với người bất toại: “Này con, con đã được tha tội rồi” (Mt 9, 2; Mc 2, 5; Lc 5, 20). Ngài tha thứ cho Phêrô (Mt 26, 69-75), cho kẻ trộm lành (x. Lc 23,43), cho những kẻ giết Ngài (x. Lc 23,34)...Ngài đã ban quyền tha tội cho Hội Thánh, khi Ngài nói với các môn đệ: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20, 22). Ngài còn thiết lập chức linh mục để thi hành sứ mạng đó mãi cho đến tận thế. Tình yêu của Chúa Giêsu thực sự là tình yêu tha thứ. Ngài luôn luôn ở tư thế cứu thoát chứ không muốn lên án. Chính Chúa Giêsu đã nói với ông Ni-cô-đê-mô rằng: “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” ( Ga 3, 17).
3) Tình yêu của Chúa Giêsu là tình yêu hy sinh phục vụ.
Vì yêu thương loài người chúng ta, nên Ngài đã hy sinh hạ mình xuống chấp nhận làm một con người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Thánh Phaolô diễn tả: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế”(Pl 2,6-7).
Thật vậy, vì yêu thương loài người nên Ngài chấp nhận sinh ra trong hang đá nghèo hèn lạnh lẽo. Ngài sống âm thầm tại làng quê Nazareth với Thánh Giuse và Đức Maria suốt ba mươi năm. Ngài tiếp tục sống nghèo hèn trong ba năm rao giảng Tin Mừng. Chính Ngài nói: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu" (Lc 9, 58). Ngài đã hy sinh hạ mình xuống rửa chân cho các môn đệ (x. Ga 13, 1-20). Cuối cùng, Ngài bị bắt, đánh đòn, đóng đinh và chết trên thập giá không một mảnh vải che thân. Đó là bằng chứng hùng hồn nhất cho lời Ngài nói: "Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hi sinh tính mạng vì bạn hữu của mình" (Ga 15,13). Không những thế, trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Ngài đã lập Bí tích Thánh Thể để làm của ăn của uống nuôi sống nhân loại chúng ta. Ngài đã yêu thương nhân loại và yêu thương họ cho đến cùng (x. Ga 13,1). Tình yêu của chủ chiên hy sinh vì đàn chiên, đó mới là một tình yêu tròn đầy, một tình yêu hy sinh phục vụ.
2. Làm thế nào để Yêu Như Chúa Yêu?
1) Yêu như Chúa yêu là phải yêu thương mọi người.
Với bản tính tự nhiên, chúng ta thường giới hạn tình yêu nơi những người thân cận: Yêu thương những kẻ thuộc về minh như cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em và những người yêu thương chúng ta, những người có thể đền đáp công ơn cho chúng ta. Nhưng để yêu như Chúa, chúng ta không được dừng lại ở đó, chính Chúa Giêsu đã nói: “Nếu các ngươi yêu những kẻ yêu mến các ngươi, thì các ngươi có công gì? Há những người thu thuế cũng không làm thế sao”? (Mt 5,6). Vì vậy, Yêu như Chúa yêu là phải đi xa hơn: Yêu thương hết mọi người; yêu thương những người không có gì để đền đáp cho chúng ta; yêu thương cả những người bất đồng ý kiến; yêu thương những người không yêu thương chúng ta; thậm chí chúng ta cần phải yêu thương những người ghét bỏ chúng ta, bách hại chúng ta. Đó là tình yêu phổ quát, tình yêu không loại trừ một ai.
2) Yêu như Chúa yêu là phải tha thứ lỗi lầm cho anh chị em mình.
Trước hết, tinh thần tha thứ phải được thực hiện ngay trong mối tương quan giữa các thành viên trong gia đình: Cha mẹ con cái, vợ chồng, anh em ruột thịt với nhau. Tiếp đó, tha thứ phải được thể hiện giữa các thành viên trong cộng đoàn giáo xứ và mọi người chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Ngoài ra, sự tha thứ cũng cần được thể hiện với những người ghét bỏ chúng ta, và thậm chí họ là kẻ thù của chúng ta. Các Thánh đã làm gương cho chúng ta: Thánh Stêphanô đã tha thứ cho Phaolô; Thánh Nữ Maria Goretti đã tha thứ cho chàng thanh niên Alexade; Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tha thứ cho Ali Agca và bao nhiêu tấm gương tha thứ khác.
Nhưng thực tế trong đời sống gia đình và cộng đoàn vẫn còn đó những người sống thiếu tinh thần tha thứ cho nhau. Vì không có sự tha thứ nên xảy ra rất nhiều cảnh đau thương, chết chóc. Mỗi người chúng ta hãy mang tinh thần tha thứ đến với mọi người: “Đem tha thứ vào nơi lăng nhục... Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ” (Kinh Hoà Bình của Thánh Phanxicô).
3) Yêu như Chúa yêu là phải biết hy sinh phục vụ.
Chúa Giêsu đã hy sinh tính mạng vì chúng ta. Giờ chúng ta cũng phải hy sinh tính mạng vì người khác. Hy sinh tính mạng là hy sinh những gì thuộc về chúng ta. Vì vậy, chúng ta có thể hy sinh thời gian, sức khoẻ, tiền bạc vì lòng yêu mến tha nhân. Chúng ta thấy điều này nơi gia đình, cộng đoàn giáo xứ và nơi các trung tâm từ thiện.
Trong gia đình: Cha mẹ hy sinh vì con cái; vợ chồng hy sinh cho nhau; người khoẻ hy sinh chăm sóc cho người đau yếu. Trong giáo xứ: Ban Hành Giáo hy sinh để phục vụ cộng đoàn; thầy cô giáo hy sinh để dạy giáo lý cho giới trẻ. Tại các trung tâm bác ái từ thiện, có rất nhiều người tự nguyện hy sinh vì những người bệnh hoạn tật nguyền. Tại những trung tâm đó, các nữ tu và những thiện nguyện viên đang ngày đêm âm thầm hy sinh phục vụ những người ốm đau, bệnh tật. Họ là những tấm gương hy sinh phục vụ, phản ánh phần nào gương hy sinh phục vụ của Đức Kitô.
Nhưng đây đó vẫn còn có những gia đình cơm không lành canh không ngọt, vợ chồng ly tán, con cái bơ vơ. Nhiều cộng đoàn vẫn còn sự chia rẽ, bất hoà, thiếu sự hiệp nhất yêu thương. Đây đó vẫn còn có cảnh chém giết lẫn nhau...Vậy, để không còn có những cảnh đau thương đó xảy ra, mỗi người chúng ta hãy toả sáng tình thương mọi nơi mọi lúc, như William Blake nói: “Chúng ta đã được đặt vào trần gian ngắn ngủi để học tỏa sáng tình thương”. Đó cũng là cách chúng ta đang làm chứng cho Chúa, vì “Cứ dấu này mà mọi người nhận ra anh em là môn đệ của Thầy là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.
Tin mừng Ga 13: 31-35 Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta bài học mới về tình yêu; đồng thời cũng chỉ ra cho chúng ta thấy điểm khởi nguồn và phát xuất tình yêu, đó là lòng thương xót.
Đọc lại lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam thủa ban đầu, chúng ta thấy cha ông mình đã sống PS 5-C167
Đọc lại lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam thủa ban đầu, chúng ta thấy cha ông mình đã sống hết lòng yêu thương và đoàn kết với nhau. Vì thế, những người ngoài Công Giáo thời đó không biết tiền nhân của chúng ta theo đạo gì mà lại sống những giá trị cao đẹp như vậy, nên họ nói với nhau: những người này họ sống “Đạo Yêu Nhau”.
Tại sao các tín hữu lại có lối sống như thế? Lối sống đó bắt nguồn từ đâu? Thưa! Các ngài đã lấy Chúa làm trung tâm, làm điểm tựa cho mọi hoạt động. Lấy tinh thần bác ái, yêu thương làm nên bản chất của mình. Mọi giá trị và ưu phẩm đó khởi đi từ một Đấng đã sống và dạy cho con người bài học “yêu thương”, Đấng đó chính là Đức Giêsu.
1. Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu
Khởi đi và bắt nguồn từ lòng dạ thương xót của Thiên Chúa Cha, vì thế, người: “Yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
Đến lượt Đức Giêsu, Ngài cũng sống triệt để sứ mạng đó khi yêu và yêu đến cùng. Ở điểm này, thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philipphê đã diễn tả hành vi thương xót của Đức Giêsu như sau:“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-8).
Thế nên, cả cuộc đời của Đức Giêsu chỉ có một nỗi thao thức, đó là “chạnh lòng thương” đến những người bất hạnh. Luôn cảm thông với người tội lỗi, nâng đỡ kẻ yếu đuối, vỗ về người thất vọng. Xót thương đến đàn chiên bơ vơ không người chăn dắt, nên đã nuôi sống họ bằng phép lạ hóa bánh ra nhiều. Ngài không đành lòng khi nhìn thấy những người ốm đau bênh tật, nên sẵn lòng ra tay chữa lành. Ngài còn cúi xuống rửa chân cho các môn đệ; làm ơn cho kẻ hại mình; yêu luôn cả kẻ thù và sẵn sàng tha thứ cho họ. Không những thế, Đức Giêsu còn trao ban chính mình Ngài cho chúng ta qua Bí tích Thánh Thể và ở lại mọi ngày với loài người cho đến tận thế. Đỉnh cao của mầu nhiệm thương xót này chính là cái chết trên thập giá để hiến mạng vì người mình yêu: “Không có mối tình nào lớn lao cho bằng mối tình của kẻ chết vì người mình yêu” (Ga 15,13).
Đồng thời, do lòng xót thương thúc đẩy, Đức Giêsu không ngừng lên tiếng phản đối những kẻ không chút thương xót và gây nên những hậu quả bi đát cho những người thấp cổ bé họng, khiến họ phải lao tâm khổ tứ, quằn quại trong khổ nhục đắng cay...
Như vậy, cả cuộc đời của Đức Giêsu đã sống và chết vì yêu. Qua đó, Ngài cũng dạy cho các môn đệ bài học về tình yêu: “Đây là Điều Răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12).
Lệnh truyền: “Hãy yêu thương nhau” là di chúc của Đức Giêsu dành cho các môn đệ khi sắp lên đường chịu chết. Còn yêu “như Thầy đã yêu” là căn cốt của tình yêu, là một lối yêu mới, khác với lối yêu cũ của thời Cựu Ước.
2. Điểm mới của giới luật yêu thương
Khi khuyên bảo các môn đệ: “Hãy yêu thương nhau”, Đức Giêsu không chỉ dừng lại ở khái niệm trừu tượng, chung chung, mà Ngài nói tiếp: “Yêu như Thầy đã yêu”. “Yêu Như Thầy”, chính là điều khác biệt với những kiểu yêu trước đó, và “Yêu như Thầy” đã làm nên điểm mới của giới luật yêu thương nơi người môn đệ Đức Giêsu.
Nếu thời Cựu Ước, người ta yêu nhau theo lẽ công bằng, tức là được phép trả thù khi có người làm hại mình: “Mắt đền mắt, răng đền răng”, hay đi xa hơn một chút thì cũng chỉ là yêu mọi người như yêu chính mình.
Nhưng với lời mời gọi: “Yêu như Thầy”, Đức Giêsu muốn đột phá và đi đến tận căn của tình yêu.
Chữ “như” ở đây không phải là liên từ để so sánh hai vế, mà nó có một ý nghĩa rất đặc biệt, đó là mở ra nguồn gốc của tình yêu. “Yêu như Thầy”, tức là lấy khuôn mẫu tình yêu giữa Đức Giêsu với Chúa Cha và giữa Ngài với các môn đệ, để các ông cũng yêu nhau và yêu mọi người như chính mình đã chứng kiến và được yêu.
Vậy “yêu như Thầy đã yêu” là gì?
Thưa, đó là hạ mình như một người tôi tớ. Tự hủy mình ra không và từ bỏ cái tôi ích kỷ. Yêu với một tình yêu phát xuất từ lòng dạ xót thương chứ không phải một thứ tình yêu vụ lợi, thực dụng, chụp giật. Yêu với một thái độ cảm thông, phục vụ chứ không phải bố thí, ban phát, thương hại. “Yêu như Thầy” là không chấp nhất, coi người làm hại mình là bạn và sẵn lòng tha thứ tất cả. Đỉnh cao của tình yêu này chính là chết thay cho người khác, đây chính là một tình yêu cao cả.
Với tất cả những nét đặc thù trên đã làm nên điểm mới của luật yêu thương mà Đức Giêsu mời gọi các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay.
3. Sống và thi hành giới luật yêu thương
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta bài học mới về tình yêu; đồng thời cũng chỉ ra cho chúng ta thấy điểm khởi nguồn và phát xuất tình yêu, đó là lòng thương xót.
Lời mời gọi: “Hãy yêu như Thầy” mà Đức Giêsu trăng trối cho các môn đệ thì cũng là tâm tư mà Ngài muốn gửi đến cho mỗi người chúng ta.
Vì vậy, hôm nay, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu và tập sống tinh thần yêu thương ấy ngang qua một nghĩa cử xót thương cụ thể với những người mà chúng ta hay gọi là kẻ thù của mình. Bởi vì yêu được kẻ thù, ấy là chúng ta đang thực thi cốt lõi của tình yêu, là phản ảnh lòng dạ thương xót của Thiên Chúa cho anh chị em của mình cách rõ nét nhất.
Tuy nhiên, muốn thực hiện được điều đó, trước tiên, chúng ta phải thay đổi quan điểm và tên gọi cho phù hợp với tinh thần Tin Mừng. Khi dùng từ kẻ thù, ấy là lối nói có tính tiêu cực, và vô hình chung, ta coi đối phương là kẻ mà chắc chắn phải tiêu diệt! Vì thế, muốn yêu kẻ thù, chúng ta nhất định phải thay đổi cách gọi, quan điểm và lối nhìn.
Thứ đến, khi người anh chị em chúng ta xúc phạm đến ta, hãy coi nhẹ lỗi của họ, đừng thổi phồng như bong bóng. Nhiều khi cần phải đặt mình vào hoàn cảnh của người anh em để dễ thông cảm cho hành vi của họ hơn. Nhìn thấy lỗi của anh em gây ra cho mình, ngay lập tức, cẩn trọng và hồi tâm suy nghĩ: có bao giờ cũng cùng lỗi đó, mình đã gây ra cho người khác không? Đôi khi lỗi của mình nặng hơn chăng? Hay điều mà người anh em đang gây ra cho mình có lẽ đúng! Nếu đúng, tại sao không biết cám ơn, nếu sai, sao phải hận thù cho khổ tâm!
Tiếp theo, noi gương Đức Giêsu trên thập giá, không ngớt cầu xin Chúa Cha tha cho kẻ hại mình. Vì thế, khi gặp phải những người hại ta, hãy cầu nguyện cho họ. Xin cho họ và ta được bình an. Hành vi này thật cao quý, vì hơn bao giờ hết, trong tận cùng của khổ đau, chúng ta lại thật hạnh phúc vì đang được diễm phúc tham dự vào công cuộc cứu chuộc của Thiên Chúa cách cụ thể.
Cuối cùng, khi bị hiểu lầm, vu khống, phân biệt, thậm chí bách hại bằng tư tưởng, miệng lưỡi hay đòn vọt và chết chóc, ta hãy vui mừng, bởi lẽ, đó là lúc ta được tôn vinh vì đang được hiệp thông với Đức Giêsu chịu đóng đinh.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng hiện thân của lòng thương xót, xin Chúa ban cho chúng con được ở lại trong tình yêu của Chúa và luôn biết yêu thương nhau như Chúa đã yêu và thương xót chúng con. Amen.
Tin mừng Ga 13: 31-35 Giới răn yêu thương mà Chúa Giêsu trăn trối lại cho các tông đồ và cho cộng đoàn Giáo hội thật mới mẻ, vì nó diễn tả thái độ dấn thân tuyệt đối và trọn vẹn mà Chúa Giêsu đã ký kết với loài người bằng chính máu của Ngài.
Ta thấy rằng không phải chỉ có Kitô giáo mới giảng dạy về tình yêu thương. Văn hoá Á đông PS 5-C168
Ta thấy rằng không phải chỉ có Kitô giáo mới giảng dạy về tình yêu thương. Văn hoá Á đông đã từng nhấn mạnh: Tứ hải giai huynh đệ, bốn bể đều là anh em. Cha ông chúng ta thuở trước cũng đã khuyên nhủ: Thương người như thể thương thân, để nói lên tấm lòng yêu thương rộng mở đối với mọi người trong xã hội.
Tình yêu luôn luôn đòi hỏi điều tốt nhất của chúng ta và thể hiện điều tốt nhất trong chúng ta. Được yêu thương cho người ta một lòng can đảm và năng lực lạ lùng. Khi yêu cũng thế, người ta nói: tình yêu và năng lực sẽ được ban cho bạn, ở đâu có tình yêu lớn, ở đó luôn có phép lạ. "Tình yêu là ngọn lửa sưởi ấm linh hồn chúng ta, đem lại năng lực cho tinh thần và cung cấp đam mê cho đời sống của chúng ta. Nó là sự liên kết của chúng ta với Thiên Chúa và người khác"
Nét mới mẻ của tình yêu Kitô giáo là ở chỗ: mẫu mực, thước đo tình yêu đối với tha nhân không còn là "tình anh em máu mủ", cũng không còn là "bản thân mình" nữa. Mẫu mực, thước đo của tình yêu Kitô giáo là chính tình yêu của Chúa Giêsu Kitô. Cả cuộc đời của Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa là tình yêu trao ban, là tình yêu dâng hiến. Chúa Giêsu khi nói về tình yêu của Thiên Chúa và cũng là tình yêu của chính mình, Ngài đã khéo so sánh: "Không ai có tình yêu lớn hơn người hy sinh mạng sống cho bạn hữu" (Ga 15,13).
Luật yêu thương này là cốt tủy của đạo Chúa và cũng là nền tảng của mối liên hệ giữa con người với Thiên Chúa cũng như giữa con người với nhau. Mến Chúa yêu người đi song đôi với nhau. Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu tha nhân và tình yêu tha nhân là thước đo tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa là mẫu mực để tình yêu con người trở nên hoàn thiện. Chính Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước để mỗi người noi theo: Tình yêu cốt tủy ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta. Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau" (1Ga 4, 10-11).
Như Chúa đã yêu là yêu thương chính lúc người thường không thể yêu, yêu thương chính cái điều mà người thường không thể yêu, và yêu thương những người mà người thường không thể yêu. Hơn nữa người môn đệ Chúa bó buộc phải yêu thương như thế thì mới xứng đáng là môn đệ Chúa. Chúa muốn chúng ta yêu thương theo kiểu mới đó. Không phải Chúa chỉ muốn, mà Chúa còn truyền như một giới răn "Thầy ban cho chúng con một giới răn mới".
Như Thầy đã yêu thương các con là điều răn mới mà Đức Kitô thêm vào luật cũ của Cựu ước. Nói con phải yêu thương anh chị em như chính mình con, nơi thánh Gioan 12,34 Chúa Giêsu nói: "Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con".
Như vậy, tình yêu thương này không còn phát xuất từ chính chúng ta nữa, nhưng là phát xuất từ Thiên Chúa. Lòng mến phát xuất từ Thiên Chúa như thư I của thánh Gioan 4, 7 diễn tả như sau: "Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau như vậy".
Tình thương của chúng ta đối với anh chị em là tham dự vào tình thương của chính Thiên Chúa đối với chúng ta. Cũng chính vì vậy giới răn yêu thương mới này được đồng hoá bởi tình yêu mến mà chúng ta có đối với Chúa. Yêu thương anh chị em và mến Thiên Chúa là một, và ai không yêu thương anh chị em thì cũng không
Và ta thấy trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu ban bố và trăn trối cho các môn đệ trước khi Người ra đi chịu chết: "Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con". Giới luật yêu thương của Cựu Ước: "Ngươi không được để lòng ghét anh em. Ngươi không được trả thù, không được oán hận. Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình" (Lv 19, 17-18). Giới luật đó đã được Chúa Giêsu hoàn tất và ban bố như luật tối thượng của giao ước mới, của luật mới: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và là điều răn thứ nhất, còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là ngươi hãy yêu người thân cận như chính mình. Tất cả luật Môisen và các sách Ngôn Sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy" (Mt 22, 37-40).
Đức Kitô cũng đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu tuyệt vời nhất: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Đúng thế, Ngài đã đổ máu ra để cứu chuộc chúng ta, nhờ đó chúng ta được xoá bỏ bản án của tội nguyên tổ, lấy lại địa vị làm con cái Chúa. Kể từ nay, chúng ta là anh em một nhà vì có chung cùng một người cha là Thiên Chúa. Chính vì thế, Ngài đã truyền dạy: Phải kính mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương anh em như chính mình. Đồng thời, nhờ tình bác ái yêu thương đối với anh em, mà chúng ta trở nên người môn đệ đích thực của Chúa: Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau.
Tình yêu hy sinh quên mình, tình yêu hiến dâng mạng sống của người mẹ dành cho đứa con trong câu chuyện trên đây, là lời minh chứng hùng hồn cho lời dạy của Đức Kitô trong bài Tin Mừng hôm nay: "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Yêu như Thầy đã yêu chính là cúi xuống rửa chân cho nhau để bày tỏ một tình yêu sâu thẳm, cho dù người ấy là Giuđa, kẻ phản bội tình yêu. Yêu như Thầy đã yêu chính là hạ mình xuống ngang hàng với người mình yêu để cảm thông, chia sẻ và yêu thương như bạn hữu thân tình. Yêu như Thầy đã yêu chính là yêu cho đến cùng, yêu cho đến chết và chết trên thập giá. Vâng, kể từ khi Con Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại cho đến cùng, thì luật yêu thương đã trở thành điều răn mới, mới ở đây chính là yêu như Thầy đã yêu.
Chúa Giêsu không đòi các môn đệ của Ngài phải thông thái như các thầy kinh sư và ký lục. Ngài cũng không bắt họ phải sống nhiệm nhặt, gò bó như nhóm người Biệt phái Pharisêu trong việc tuân giữ các giới luật. Điều Ngài đòi nơi các môn đệ, chỉ một điều duy nhất mà thôi, là phải yêu thương anh em, yêu thương người khác như chính Ngài đã yêu thương mọi người đến tột cùng, đến hết khả năng yêu thương của Thiên Chúa.
Chính tình yêu thương vô vị lợi, phổ quát, bao dung nầy sẽ là dấu chứng của những người tin theo và tuân giữ Lời Chúa. Người môn đệ Chúa Giêsu là người biết yêu thương tha nhân và ngược lại. Ngay từ cộng đoàn các Kitô hữu tiên khởi, dấu chứng tình yêu đã trở thành chứng tá của Chúa Kitô Phục Sinh. Trong suốt lịch sử Giáo Hội, các người bên ngoài Giáo Hội cũng vẫn nhận ra Chúa là tình yêu xuyên qua những chứng từ sống động của một tấm lòng vị tha, bác ái của người tín hữu. Giới răn yêu thương mà Chúa Giêsu trăn trối lại cho các tông đồ và cho cộng đoàn Giáo hội thật mới mẻ, vì nó diễn tả thái độ dấn thân tuyệt đối và trọn vẹn mà Chúa Giêsu đã ký kết với loài người bằng chính máu của Ngài. Tình yêu thương ấy là tình yêu thương hai chiều bình đẳng giữa các tín hữu. Bởi vì trong cộng đoàn ai cũng cần yêu thương và được yêu thương. Nhưng từ nay không còn chuyện yêu người như yêu mình nữa, mà yêu người như chính Thầy đã yêu chúng con, nghĩa là Kitô hữu phải yêu thương nhau với cùng cường độ trong cùng tâm tình và kiểu cách của Chúa Giêsu là tận hiến vô biên và trọn vẹn. Tình yêu thương của Chúa Giêsu là suối nguồn, mẫu mực và linh hồn tình yêu thương của Kitô hữu. Và sau cùng, tình yêu ấy là căn cước, là chứng tích sống động giúp nhận ra ai là thành viên thực sự thuộc cộng đoàn Giáo Hội của Chúa Giêsu Kitô
Vì là giới răn, là mệnh lệnh của Thầy, nên tình yêu thương huynh đệ của người môn đệ phải mang chiều kích của Thầy: "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Vì là giới răn của Thầy, nên từ nay yêu thương sẽ là dấu ấn, là bằng chứng, là danh hiệu của người môn đệ: mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy khi anh em yêu thương nhau.
Trang Tin Mừng hôm nay thuật lại những tâm tư của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ trước khi PS 5-C169
Trang Tin Mừng hôm nay thuật lại những tâm tư của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ trước khi Ngài bước vào cuộc thương khó. Giờ đây, sau khi Ngài trỗi dậy từ cõi chết và trước khi rời xa các môn đệ để về cùng Chúa Cha, Chúa Giêsu một lần nữa nhắn nhủ các môn đệ những lời từ sâu thẳm cõi lòng: anh em hãy thương mến nhau.
Chúa Giêsu không nhắc nhở các môn đệ ghi nhớ điều gì khác, không phải là những điều Ngài đã giảng dạy, không phải là các phép lạ lớn lao, nhưng là điều liên quan đến chính nội tâm của từng người, đó là khả năng để yêu mến.
Với điều răn “Anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (13,34), Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ ý muốn cuối cùng và di chúc của Người: Người sẽ nhắc lại thêm hai lần nữa (x. Ga 15,12.17).
Chúa Giêsu cho các môn đệ thấy một cách thức theo đó Ngài sẽ tiếp tục hiện diện giữa các ông và Ngài quy định cách sống của các ông. Các môn đệ phải quy hướng bản thân về tình yêu của Ngài, là tình yêu mà mỗi ông đã trải nghiệm.
Trong tình yêu này, mỗi ông phải là Giêsu cho người khác, phải chấp nhận người khác, giúp đỡ người ấy, quan tâm đến điều thiện hảo của người ấy, như chính Chúa Giêsu đã làm. Như thế, các ông sẽ làm cho Chúa Giêsu hiện diện cho nhau trong cái đặc điểm tiêu biểu của Người: tình yêu. Các môn đệ được ngỏ lời với như là mộtcộng đoàn, các ông phải định hướng đời mình theo sự hiệp thông đời sống mà các ông đã có thể có với Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu không nghi ngờ lòng nhiệt thành của Phêrô, Ngài cũng không cần lo lắng về lòng trung thành của Giacôbê hay của Gioan, Chúa Giêsu đã từng khen ông Nathanaen là nơi ông “không có gì gian dối”, v.v. Chúa Giêsu hài lòng về nhiều đặc nét cá tính của môn đệ. Duy chỉ có một điều khiến Chúa Giêsu ưu tư là tương quan giữa các ông với nhau.
Chắc chắn Chúa Giêsu nhớ khi Ngài loan báo cho các ông về cuộc thương khó Ngài sắp trải qua, các ông lại lo tranh luận xem ai là người lớn nhất. Trong bối cảnh ấy, cũng dễ hiểu tại sao Chúa Giêsu chỉ căn dặn các môn đệ điều mà Ngài gọi là “điều răn mới”: “như Thầy đã yêu mến anh em, anh em hãy yêu mến nhau. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy: là anh em có lòng yêu mến nhau.” (Ga 13, 34-35)
"Mọi gười cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau". Xin ban thêm đức tin và lòng yêu mến cho chúng con, để chúng con có thể thờ phượng Chúa với tâm tình biết ơn, chúc tụng Chúa hết con người chúng con. Để khi cảm nhận được những tình yêu Chúa, chúng con biết cho đi, biết chia sẻ những gì chúng con nhận được cho anh chị em chung quanh của chúng con, và như thế chúng con trở nên nhân chứng tình yêu Chúa cho mọi người.
Chúa Giêsu để lại cho các ông một mẫu gương của lòng yêu mến, đó là hãy yêu thương như Ngài, yêu thương hết lòng và yêu đến cùng. Khía cạnh thứ hai là chính ở dấu chỉ các môn đệ yêu mến nhau làm chứng cho người ta các ông là người của Chúa, là môn đệ của Thầy Giêsu.
Như vậy, tất cả những điều khác, dù quan trọng và hữu ích, nhưng nếu chưa có lòng yêu thương thực sự đối với nhau, hình ảnh người môn đệ có nguy cơ bị phai mờ, vai trò chứng nhân của Thầy Giêsu có thể không đủ thuyết phục. Yêu mến như Thầy trở thành khuôn mẫu và dấu chỉ cụ thể không những cho các môn đệ mà còn cho tất cả những ai bước theo Chúa.
Kinh nghiệm thực tế chỉ cho chúng ta rằng liên đới và yêu mến tha nhân là một thách đố lớn lao. Không dễ để đồng cảm với người bên cạnh và càng khó hơn để yêu thương những ai khác biệt hay thậm chí thù nghịch. Để yêu thương cần một con tim trong suốt và cõi lòng rộng mở. Con tim trong suốt để không lưu giữ những dấu vết ích kỷ và cõi lòng rộng mở để tha thứ không ngừng. Được như thế, ta mới có thể yêu mà không tính toán, thương mà không quản ngại khó khăn.
Vào năm 1995, một trận động đất với cường độ mạnh đã xảy ra tại Thành phố Kô-bê Nhật Bản. khiến cho nhiều nhà cửa trong thành phố sụp đổ trở thành những đống gạch khổng lồ, gây thiệt hại rất lớn cho thành phố về người và của. Các đội cứu hộ ngày đêm làm việc khẩn trương để lôi ra từ những đống gạch đổ nát nhiều xác chết và người bị thương. Nhưng cũng chính từ tai họa này, người ta đã khám phá ra một câu chuyện cảm động về một tình yêu hy sinh quên mình như sau:
Đến ngày thứ hai của cuộc đào bới, thì từ dưới một ngôi nhà đổ nát, người ta đã đào lên được hai mẹ con vẫn còn sống thoi thóp. Đứa con nhỏ mới được vài tháng tuổi đang nằm ngủ yên trong lòng mẹ, đang khi mẹ của em lại bị hôn mê bất tỉnh.
Sau khi được cứu sống, một nhà báo đã phỏng vấn bà mẹ trẻ ấy như sau: “Làm thế nào mà hai mẹ con chị có thể sống được đến hai ngày dưới đống gạch đổ nát kia?”. Chị đáp: “Tuy bị vùi dưới tòa nhà, nhưng rất may chúng tôi đã không bị đè chết. Mấy tiếng đồng hồ sau thì con tôi khóc đòi ăn đang khi tôi chẳng còn giọt sữa nào. Tôi quờ quạng tìm xem có cái gì ăn cho đỡ đói không. Bất ngờ bàn tay tôi chạn vào một con dao sắc trong cái giỏ bên mình. Tôi cầm dao rạch một đường ở ngón cái cho chảy máu, rồi ấn ngón tay bị cắt vào miệng con để bú máu thay vì sữa mẹ. Sau khi bú ngón tay của tôi được mươi phút thì cháu nằm im ngủ. Nhưng rồi lại tiếp tục khóc vì đói. Tôi liền rạch thêm một đường nữa nơi ngón tay khác và cho cháu bú. Sau đó tôi ngất đi lúc nào không biết cho tới khi cả hai mẹ con được cứu sống”. Nhà báo tiếp tục hỏi: “Thế chị không nghĩ rằng làm như thế thì chị sẽ bị mất máu chết sao?” Chị ta trả lời: “Lúc ấy, tôi không nghĩ đến mình, mà chỉ lo kiếm cái gì cho con bú để nó được sống!”.
Để yêu thương cần một con tim trong suốt và cõi lòng rộng mở. Con tim trong suốt để không lưu giữ những dấu vết ích kỷ và cõi lòng rộng mở để tha thứ không ngừng. Được như thế, ta mới có thể yêu mà không tính toán, thương mà không quản ngại khó khăn.
Ước gì lời nhắn nhủ yêu thương của Chúa cho các môn đệ được chúng ta thuộc lòng, khi chứng kiến chúng ta bày tỏ lòng thương mến anh chị em đồng loại, nhìn ra tình yêu của Chúa tiếp tục hiện hữu và người môn đệ của Chúa không ngừng bày tỏ Ngài cho thế giới. Xin Chúa Giêsu phục sinh thánh hoá chúng ta trong lửa mến để tình yêu thương không bao giờ vơi cạn nơi con tim nhỏ bé của chúng ta nhờ biết mở ra với tình yêu vô hạn của Chúa.
Chỉ trong vỏn vẹn có 2 câu trong đoạn Tin Mừng Thánh Gioan hôm nay, Chúa Giêsu sử dụng PS 5-C170
Chỉ trong vỏn vẹn có 2 câu trong đoạn Tin Mừng Thánh Gioan hôm nay, Chúa Giêsu sử dụng 5 lần chữ “tôn vinh”. Dựa vào Lời Chúa tiên báo: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu”, Thánh sử Gioan muốn diễn tả giờ phút Chúa chịu khổ hình thập giá cũng là giờ phút Chúa được tôn vinh. Đó cũng là giờ phút người ta nhận ra Người là Thiên Chúa đích thực. Nếu Chúa Con đã vâng lời cho đến chết để tôn vinh Chúa Cha, thì qua cuộc phục sinh huyền diệu, chính Chúa Cha tôn vinh Chúa Con, để rồi vinh quang của Chúa lan tỏa trong vũ trụ, nơi con người cũng như nơi vạn vật. Sự tôn vinh như một dòng chảy giữa Chúa Cha và Chúa Con, và chúng ta, những tạo vật thấp hèn, cũng được chia sẻ vinh quang với Đấng đã chết và sống lại. Hơn thế nữa, chúng ta được hòa vào dòng chảy hiệp thông và vinh quang của Chúa Ba Ngôi. Chính vì vậy, càng nỗ lực rao truyền Danh Chúa bao nhiêu, chúng ta càng được thông phần vinh quang của Ngài bấy nhiêu.
Trong quá khứ cũng như trong hiện tại, Thiên Chúa đang được tôn vinh qua những cộng tác của chúng ta để loan báo Tin Mừng. Sách Tông đồ Công vụ kể lại sức sống mãnh liệt và sự phát triển không ngừng của Cộng đoàn Kitô hữu sơ khai. Mọi tín hữu, nhất là các tông đồ đều dấn thân đến mọi môi trường xã hội để loan báo Chúa Giêsu phục sinh. Bài đọc hôm nay kể lại những hoạt động của Phaolô và Barnabê. Một số địa danh được tác giả nhắc tới cho thấy nỗ lực và lòng nhiệt thành của các ông. Các ông luôn rảo khắp mọi nơi để thiết lập những cộng đoàn mới. Đến bất kỳ nơi nào, hai ông “tập hợp Hội Thánh”, tức là quy tụ mọi người thiện chí và kể lại cho họ những gì Thiên Chúa đã làm. Đức tin vào Chúa Giêsu phục sinh đã vượt qua ranh giới những người Do Thái để đến với các dân ngoại, vì vậy, số người tin Chúa ngày một tăng thêm. Vinh quang Thiên Chúa tỏ hiện nơi các cộng đoàn và nơi cá nhân mỗi người tín hữu, nhờ đó cộng đoàn đầy tràn sức sống và niềm vui.
Thiên Chúa được tôn vinh khi chúng ta sống hòa thuận yêu thương nhau. Thánh Irênê đã viết: “Vinh quang Thiên Chúa là con người sống vui”. Khi khẳng định điều này, vị Giáo phụ Hy Lạp muốn diễn tả: mỗi khi con người sống hạnh phúc và yêu thương nhau, thì vinh quang Thiên Chúa được tỏ hiện. Cũng vậy, mỗi khi con người nỗ lực thực hiện tình yêu thương và sống hạnh phúc, là họ loan truyền vinh quang Thiên Chúa. Sau khi nói đến việc Chúa Cha tôn vinh mình, Chúa Giêsu nhắc lại lời mời gọi sống yêu thương. Giới răn yêu thương còn được nhắc lại trong phần tiếp theo của Tin Mừng (x. Ga 15,17). Đức Giêsu cũng khẳng định: một khi các tín hữu sống yêu thương nhau, họ sẽ làm cho vinh quang Thiên Chúa tỏ hiện, và những người khác sẽ nhận ra các tín hữu là môn đệ của Chúa. Thiên Chúa là Đấng vô hình, người ta có thể nhận ra hình ảnh của Ngài nơi đời sống của người tín hữu, ở mức độ cá nhân cũng như tập thể.
Vinh quang Thiên Chúa được tỏ hiện một cách hoàn hảo vào lúc tận cùng thời gian, tức là ngày cánh chung. Thánh Gioan trong thị kiến đã thấy trời mới đất mới. Lúc đó, mọi đau khổ và nước mắt sẽ không còn. Thiên Chúa không còn là Đấng vô hình nữa, nhưng Ngài sẽ hiện diện giữa dân Ngài một cách hữu hình cụ thể (Bài đọc II). Đó là tương lai mà chúng ta đang hướng tới. Đó cũng là đích điểm của đời sống Kitô hữu.
Sứ mạng cốt lõi của Chúa Giêsu khi Người được sai đến trần gian là để tôn vinh Thiên Chúa. Việc rao giảng Tin Mừng và những phép lạ Chúa đã thực hiện là nhằm mục đích thể hiện quyền năng của Chúa Cha và lòng thương xót của Ngài. Chúa Giêsu đã trung tín thực hiện sứ mệnh được trao, dù phải trải qua thập giá. Tôn vinh Thiên Chúa cũng là ơn gọi của người Kitô hữu. Điều này nghe có vẻ khó khăn, nhưng trong thực tế lại đơn giản. Quả vậy, tôn vinh Thiên Chúa chỉ là đơn giản là cuộc sống đạo đức yêu thương và nhiệt thành tông đồ. Điều này mọi Kitô hữu đều có thể làm được, nhờ nỗ lực của cá nhân, cộng với ơn phù trợ của Chúa, Đấng đang hiện diện giữa chúng ta.
Đứa trẻ thường ước mơ rất phong phú, nhưng lại đầy phức tạp, nhu cầu chúng cần được yêu thương PS 5-C171
Đứa trẻ thường ước mơ rất phong phú, nhưng lại đầy phức tạp, nhu cầu chúng cần được yêu thương, thao thức của chúng là gia đình được hạnh phúc hơn quà bánh, tiền mới, quần áo mới. Trải qua tháng ngày tuổi thơ, người trẻ mỗi lúc mỗi hình thành phong cách từ bầu khí gia đình: cây tốt, sinh trái tốt ; hoặc chúng sẽ phản ánh từ cộng đồng xã hội: gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Ngày xưa bậc sinh thành rất vui, khi con cháu biết đọc kinh “lạy cha, kính mừng, sáng danh” ; nay, cha mẹ lại hãnh diện khi con cháu sử dụng thành thạo chiếc điện thoại thông minh. Bài học hay và kinh nghiệm quí báu, nhiều người rất mạnh mẽ cho rằng: nguy hiểm nhất ở đời là đứng trước con bò, ở đằng sau con ngựa và bên cạnh đứa ngu. Thấm nhuần tình yêu thương của bậc sinh thành, có lưu lại được những nét tinh hoa, tuỳ thuộc tự do chọn lựa và quyết tâm sống của mỗi người.
Nếu năm xưa Thầy Giêsu hỏi các học trò, chúng con thích gì, rất có thể các ông sẽ nói, chúng con thích Thầy làm vua, thích được Thầy chia sẻ quyền lực, trong khi Đức Giêsu luôn mong các học trò thấm nhuần tình hiệp nhất yêu thương và nhiệt huyết tông đồ. Thời gian và tình Thầy đã lớn lên trong các môn đệ, hôm nay, đã và đang soi sáng, mở rộng tầm nhìn cho chúng ta: địa vị vật chất, sự thông thái, không thể lấp được khoảng trống cuộc đời, bao lâu giữa các tương quan của chúng ta chưa có tình yêu Chúa. Sở thích và lối sống của mỗi người mỗi khác nhau, nhưng ước muốn được sống yêu thương, được bình an và niềm vui, đều là thao thức chung.
“Xuân Diệu” đã thu hút nhiều đối tượng bằng lý lẽ riêng của ông: làm sao cắt nghĩa được tình yêu, có nghĩa gì đâu một buổi chiều, nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt, bằng mây nhè nhẹ nắng hiu hiu…Bằng ngôn ngữ và giai điệu thân thiện, Chúa Giêsu nói lên quan điểm rất thực tế: “Thầy ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con hãy yêu thương nhau”. Rõ ràng, tình yêu ai bán mà mua, tình yêu không phải là sản phẩm mơ hồ, tình yêu bao giờ cũng cao đẹp giữa các tương quan gia đình xã hội, tính “keo sơn” đó liên đới, hoà hợp, làm nên đặc tính chung: cho và nhận, là không tính toán hơn thiệt, là chấp nhận sự khác biệt của nhau.
Trải qua những gian khó trong đời, tiền nhân chúng ta đã để lại nhiều bài học cao quí: ở chọn nơi, chơi chọn bạn ; tìm nơi có đức gởi thân, tìm nơi có nhân gởi của. Đức Giêsu không ý kiến việc chọn nơi hay chọn bạn, nhưng hãy để đức ái thấm nhuần vào cuộc sống của mình: “căn cứ vào điều này mà thiên hạ nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là các con hãy yêu thương nhau”. Nếu không đặt tình yêu vào việc chăm sóc nuôi dạy con cái, bậc cha mẹ dễ xem đó là “của nợ” mà họ phải trả. Nếu đặt để tình yêu vào việc giáo dục con cái, đấng sinh thành sẽ thấy “chúng” là hoa quả của niềm vui, là hạnh phúc được cộng tác xây dựng con người mới, trời đất mới. Hãy yêu thương nhau, hãy sống căn tính của người môn đệ Đức Giêsu, hãy sống xứng hợp với tình yêu của Đấng là Thầy là Chúa, Đấng cứu độ trần gian, Đấng cho chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha.
Tình yêu của Chúa phục sinh lúc này đang sống động trong các tương quan, Ngài vẫn nhắn hỏi chúng ta: các con có mơ ước được hưởng phúc vinh quang cùng Thầy không, các con có yêu thương nhau không, và có yêu như Thầy yêu không ? Yêu và được yêu, tin và sống niềm tin yêu, sẽ không phải là giao ước, là cảm nhận trên giấy, mà mỗi người bằng khả năng, bằng điều kiện riêng, phải minh chứng cách rõ ràng hơn nơi anh chị em của mình. Cha ông chúng ta có câu: người ta có thể bỏ qua một lời nói, nhưng không nên bỏ qua mười lời góp ý. Chúng ta có một ơn gọi theo Đấng là thầy là Chúa, nhưng chúng ta có cả đời để học hỏi, để khám phá nét đẹp của tình yêu Giêsu, để sống tin yêu, để thấm nhuần giáo huấn yêu thương Chúa truyền dạy.
Hãy yêu thương nhau, hãy nhớ mỗi người đều mang hình ảnh của Thiên Chúa yêu thương, và cần xét xem chúng ta có thuộc về Đức Kitô trên lý thuyết, chúng ta có là đệ tử của “thần tài, thần lưu ly, hay thần đỏ đen” ? Đi theo Chúa, thấm nhuần niềm tin yêu Đức Kitô là Mục tử nhân lành, chúng ta đang sống tiến trình: có gieo có gặt, có vượt qua đau khổ để đến vinh quang không ? Thấm nhuần niềm tin yêu không phải là tìm danh lợi thú, mà là biết khiêm tốn để được nên một trong đại gia đình của Chúa, một gia đình yêu thương nhau không giới hạn là đồng hương hay đồng môn. Xin Đấng phục sinh hiện diện mãi nơi mỗi tâm hồn và gia đình chúng con như Chúa đã đồng hành với các môn đệ của Chúa, xin tiếp tục làm cho chúng con mãi mãi là con chiên ngoan hiền của Chúa, là chứng nhân tình yêu thương của Chúa. Amen.
Sau những thành công hay thất bại, ta thường ngồi lại gẫm suy: Tôi đã được gì và mất gì. Đã PS 5-C172
Sau những thành công hay thất bại, ta thường ngồi lại gẫm suy: Tôi đã được gì và mất gì. Đã bao giờ ta bận tâm về cái ta phải có là tình yêu thương? Đây là di chúc của Thầy Giêsu:
“Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
Tình yêu đích thực luôn làm cho cuộc sống càng tươi đẹp. Nếu khi nào ta cố gắng yêu nhưng vẫn thấy cuộc sống có vẻ bế tắc, đó là khi tình yêu của ta chưa tinh tuyền, ta chưa yêu như Thầy Giêsu. Trước khi con Thiên Chúa nhập thể, con người đã biết đến tình yêu. Con người đã yêu và yêu rất nhiều. Tại sao Thầy Giêsu gọi điều răn của Ngài là “điều răn mới”? Thầy nhắn nhủ các môn đệ: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34). Điều răn của Thầy là yêu thương và phải yêu như Thầy đã yêu thương. Yêu thương theo cách ta muốn không khó nhưng để yêu như Thầy đã yêu thì phải có ơn Chúa ta mới yêu được. Chiêm ngắm tình yêu Thầy trong Bữa Tiệc Ly, ta nhận thấy đó là một tình yêu trên mọi tình yêu. Ngài là Thầy và là Chúa nhưng lại cúi mình rửa chân cho môn đệ. Ngài đã rửa chân cho cả Giuđa là kẻ sẽ phản bội Ngài. Miếng bánh Ngài trao cho Giuđa như một cử chỉ của lòng yêu thương mặc dù Thầy Giêsu biết đó là kẻ sẽ bán mình. Có nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau của Thầy trong giờ phút này? Thầy đã yêu tất cả, một tình yêu không loại trừ ai, một tình yêu luôn tôn trọng tự do của người mình yêu thương. Nhân loại đã yêu và lớn lên trong tình yêu. Sống điều răn của Chúa Giêsu, người môn đệ sẽ trưởng thành, sẽ nên giống Chúa Giêsu. Tình yêu giúp họ nên đồng hình đồng dạng với Chúa, ở trong vòng tay Chúa, ở trong trái tim Chúa, người môn đệ sẽ mở rộng vòng tay đón nhận nhau, mở rộng trái tim để yêu thương nhau và nhìn thấy hạnh phúc của người khác, nhìn nhận chiến thắng của nhau trong Chúa. Ai cũng muốn được hạnh phúc và hạnh phúc chỉ thật sự đến khi ta dám yêu như Chúa muốn, một tình yêu quên mình và tự hiến, sẵn sàng trao ban.
Lạy Chúa Giêsu! Xin giúp con mỗi ngày biết chiêm ngắm Chúa chịu đóng đinh, để con cảm nếm tình yêu dịu ngọt của Chúa, để con được chạm đến trái tim Chúa. Xin Chúa huấn luyện trái tim con nên giống trái tim Chúa và xin lôi kéo con bước vào con đường tình yêu của Chúa. Bởi chính nhờ đó mà con hiểu mình hơn và nhận ra Chúa nơi anh chị em. Amen.
Trong giờ cơm trưa ở xưởng may. Mai đang ăn cơm trưa, chị Loan đi tới: Em bên đạo à? PS 5-C173
Trong giờ cơm trưa ở xưởng may. Mai đang ăn cơm trưa, chị Loan đi tới:
Em bên đạo à?
Dạ, sao chị biết em là người bên đạo?
À, chị cứ thấy mỗi lần ăn cơm là em đưa tay khua trước mặt, miệng thì lắp bắp.
Dạ, em làm dấu thánh giá để tạ ơn Chúa vì những của ăn mà Chúa đã thương ban cho em, chị ạ.
Đạo Thiên Chúa hay em nhỉ!
Thế là hai chị em rôn rả chuyện trò với nhau. Mai được dịp cho chị Loan nghe về đạo Thiên Chúa – đó là đạo yêu thương.
Làm dấu thánh giá là dấu chỉ bên ngoài để mọi người nhận biết mình là kitô hữu. Khi làm dấu thánh giá, người kitô hữu tuyên xưng đức tin của mình về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi Chúa Cha, Chúa Con Và Chúa Thánh Thần. Có rất nhiều người Kitô hữu thể hiện niềm tin cách mạnh mẽ. Họ công khai làm dấu thánh giá mọi lúc, mọi nơi. Tuy nhiên cũng không ít người lại muốn che dấu niềm tin của mình, họ ngần ngại và sợ hãi khi làm dấu thánh giá ở chốn đông người hay chỉ là một nhóm bạn không cùng tôn giáo.
Hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi mỗi người kitô hữu đi sâu vào cuộc sống của Thiên Chúa, một cuộc sống yêu thương. Ngài nói: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34). Vâng “hãy yêu thương nhau” là giới luật mà Thiên Chúa muốn mỗi người thực thi. Giới luật yêu thương là nấc thang giúp chúng ta đến gần Chúa và trở nên giống Ngài vì chính Ngài đã yêu thương chúng ta. Nhìn lại chính mình, chúng ta tự xét xem mình là người thế nào? Một người tốt hay một người xấu; là người giàu có hay người nghèo khó; là người hiền lành hay người dữ dữ dằn. Dầu chúng ta là người thế nào, Chúa vẫn yêu thương chúng ta. Ngài tha thứ tất cả và đã hiến trao thân mình để cứu chúng ta. Đáp lại tình yêu Chúa, chúng ta cũng hãy yêu thương hết tất cả mọi người xung quanh dù họ thế nào.
Vì yêu như Chúa yêu, nên chúng ta không chỉ yêu ở môi miệng, ánh mắt mà còn yêu bằng những hành động cụ thể. Nhất là yêu cả con tim. Chúng ta mở lòng và đôi tay ra cho Thiên Chúa, để Ngài dùng chúng ta như khí cụ hữu hiệu. Chúng ta hãy bắt đầu yêu thương nhau từ chính những người thân trong gia đình chúng ta, là những người gần chúng ta nhất. Điều này không mấy dễ dàng, nhưng nó là điểm xuất phát cho mọi hoạt động phục vụ của chúng ta. Sống điều răn yêu thương là chúng ta trở nên những cộng sự viên của Chúa, trở nên những người con bé nhỏ và trở nên môn đệ của Ngài (x.Ga 13,35).
Lạy Chúa, yêu thương người khác thật là khó với mỗi người chúng con. nhưng đó là con đường để chúng con có hạnh phúc trên Nước Trời. Xin Chúa ban cho mỗi người chúng con quả tim biết yêu thương người khác. Để tình yêu Chúa được lan rộng khắp nơi và chúng con hưởng hạnh phúc trên Nước Trời. Amen.
Phụng vụ Lời Chúa của Chúa nhật V Phục sinh năm C mời gọi các tín hữu đi vào đời sống mới PS 5-C174
Phụng vụ Lời Chúa của Chúa nhật V Phục sinh năm C mời gọi các tín hữu đi vào đời sống mới trong Chúa. Đức Giêsu đã chết và đã sống lại. Chính Ngài đã băng qua cuộc sống đầy cam go của kiếp người và bước vào đời sống mới. Lòng khao khát vươn lên và thoát ra khỏi cảnh khổ ải phiền não luôn nung nấu tâm can con người. Chính Chúa Giêsu đã sống khát vọng ấy và Ngài đã bước vào vinh quang. Giờ đây nhân loại được mời gọi tiến bước với Ngài để cùng được sống an bình trong vinh quang phục sinh với Ngài.
Khát vọng đổi mới bản thân, đổi mới xã hội luôn làm cho con người phải nỗ lực tìm tòi cải tiến. Chính cái khát vọng ấy thúc đẩy con người tiến bước: khát vọng sự thiện thì hướng bước về sự thiện; khát vọng điều bất chính thì bước chân sẽ lạc đường chính lộ. “Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng” (Mt 5,7).
Đức Phật Thích Ca năm xưa đã khát khao tìm kiếm nguồn bình an, nơi không còn khổ ải, không còn u mê. Và Ngài đã tìm ra con đường thoát khổ, tận diệt tham – sân – si, giác ngộ bến mê tiến bước về miền ánh sáng. Đức Khổng Tử đã thao thức với cuộc đời, ngày đêm suy gẫm tìm cách thế ổn định xã hội. Và để rồi những đạo lý hiếu nghĩa, quân thần, quân tử ở đời được Ngài đưa ra mà giảng cho học trò. Hay như Đức Lão Tử đã lấy cách xử thế của Đạo làm nền tảng cho đời sống mới.
Dân tộc Do Thái luôn ấp ủ một đời sống mới trong vinh quang bất diệt của Thiên Chúa. Miền đất hứa không còn là một mảnh đất trên trái đất này, nhưng là Thành Thánh Giê-ru-sa-lem trên Thiên Quốc, nơi vinh quang Chúa bao trùm tất cả. Tiên tri Ezekiel đã miêu tả khung cảnh của Thành Thánh mới, nơi “vinh quang Yavê đầy cả Ðền thờ” (Ez 43,5).
Trong bài trích sách Khải Huyền, thánh Gioan đã mô tả cảnh trời mới đất mới trong vinh quang của Chúa. Nơi mà “Thiên Chúa ở với loài người” (Kh 21,3). Thiên Chúa không còn là đích điểm xa vời mà con người hướng tới. Trong khung cảnh đời sống mới, chính Thiên Chúa đã đến ở với con người, và chính Ngài đưa con người thoát khỏi khổ đau. Thánh Gioan đã mô tả thật rõ nét về đời sống mới: “Sự chết chóc sẽ không còn nữa, cũng không còn than khóc, không còn kêu la, không còn đau khổ: bởi vì các việc cũ đã qua đi” (Kh 21,4).
Chính Đức Giêsu đã ngụp lặn trong vũng lầy của kiếp nhân sinh. Để rồi, bằng một tình yêu mãnh liệt, Ngài đã mở toang cánh cửa bước vào đời sống mới. Chính Ngài đã yêu nhân loại, đã yêu cái khốn cùng của nhân loại, yêu tha thiết những khuôn mặt lem luốc bởi tội lỗi, hốc hác vì khổ đau của con người. Ngài đã yêu với trái tim rực lửa, yêu đến hao mòn thân xác, yêu đến cùng, yêu đến chết. Để rồi người môn đệ được Ngài yêu mến đã thốt lên “Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8).
Lời trần tình của Giêsu trước giờ chia ly các môn đệ trong bài Tin Mừng của Chúa Nhật này là lời mời gọi mọi người bước vào đời sống mới. Lời bộc bạch từ tận ruột gan của người thầy với các môn đệ là: “các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13, 34-35). Chỉ có 2 câu mà cụm từ “các con hãy yêu thương nhau” được lặp lại tới 3 lần, khiến ta cảm được sự tha thiết đến dường nào nơi trái tim Chúa.
Tình yêu thương đồng loại là chuyện xưa như trái đất. Lòng từ bi hỷ xả, tình huynh đệ đại đồng luôn là điều được mời gọi xưa nay. Nhưng yêu làm sao, yêu bao nhiêu cho đủ. Tình yêu vốn dĩ chẳng có phạm trù, chẳng có danh giới, nên chẳng ai định nghĩa được tình yêu. Và giả như có ai cố gắng định nghĩa nó, thì ngay khi nó được định nghĩa, nó chẳng còn là tình yêu nguyên tuyền trọn vẹn. Đức Giêsu đã không miêu tả tình yêu hay hệ thống hóa nó bởi ngôn từ. Nhưng Ngài đã diễn tả nó bằng cả cuộc đời dương thế của Ngài. Để rồi Ngài cất lời mời gọi: “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12).
Một “Nền văn mình tình thương” đã được Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI nói đến lần đầu tiên vào ngày lễ Hiện Xuống năm 1970 tại quảng trường thánh Phêrô sau khi nguyện kinh Truyền Tin. Dưới triều đại của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, “Nền văn mình tình thương” không ngừng được nhắc đến trong các bài diễn thuyết cũng như trong các văn kiện của Ngài, đặc biệt cuốn sách của Ngài với tựa đề “Xây dựng Nền Văn Minh Tình Thương”. Trong sứ điệp hòa bình ngày 01/01/2004, ngài khẳng quyết: “Chỉ có một nhân loại được thống trị bởi ‘Nền Văn Minh Tình Thương’ mới có thể thủ đắc một nền hòa bình đích thực và dài lâu. Vào đầu một năm mới, tôi nhắc lại với các quý bà quý ông ở mọi ngôn ngữ, mọi miền văn hóa câu châm ngôn cổ thời: “Omnia vincit amor” – Tình yêu chiến thắng tất cả.
Lạy Chúa, trong mọi cảnh huống của cuộc đời, xin Ngài nhắc con: “hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Và xin Ngài ban ơn để con có thể yêu thương anh em mình như Ngài đã yêu con.
Di chúc của một người là cái gì rất quý giá, thiêng liêng cho những người thân. Vì vậy họ sẽ làm mọi cách để thực hiện di chúc đó, nhiều khi phải hy sinh sinh nhiều thứ để thực hiện nguyện vọng của người đã khuất. Khi cầu Cần Thơ được khánh thành vào năm 2008. Lúc đó có một ông già ở Phụng Hiệp, Hậu Giang ước mong ngày khánh thành cây cầu dây văng lớn nhất Đông Nam Á này ông sẽ đi cho biết. Tuy nhiên ông lâm bệnh nặng trước ngày cầu Cần Thơ hoàn tất. Trong lúc hấp hối, ông nói với các con ông: “Trước khi chôn ba, bây cho ba đi cầu Cần Thơ một lần cho biết”. Trời đất ơi, chết rồi biết gi nữa! Thế là ngày chon ôn, con cái thuê xe, vượt đường 30 cây số từ Phụng Hiệp đến Cần Thơ, chạy lên cây cầu dây văng, qua bờ Vĩnh Long, rồi vòng về mới đem ông đi chôn. Họ muốn thực hiện lời di chúc của ông. Hay có những đám tang người ta mướn dàn đờn ca tài tử về hát suốt đêm. Hỏi sao vậy? Họ nói: “má con lúc sống khoái cải lương lắm, nên mướn về hát cho bả nghe”. Thôi thì hát cho bà nghe vài bài được rồi, để giờ mà đọc kinh cầu lễ, người Công giáo chắc cần cầu lễ hơn là cần mướn dàn nhạc về để “giúp vui văn nghệ nhân ngày má chết”. Nói một cách ngắn gọn: di chúc là gia tài vô giá mà người thân để lại cho chúng ta trước khi qua đời. Phụng vụ lời Chúa hôm nay cho chúng ta một di chúc vô cùng quý giá của Chúa Giêsu, đó là: “Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con”.
Trong bài đọc thứ nhất (Cv 14, 21b-27) sách Tông Đồ Công Vụ kể lại việc Phaolô và Banaba đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng về Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, đã chết và đã sống lại. Tội tình gì mà phải đi rao giảng cho mệt vậy? Chính Phaolô sau này cũng tâm sự, ông gặp đủ thứ khó khăn trên bước đường truyền giáo, thậm chí là nguy hiểm đến tính mạng nữa. Nhưng ông vẫn làm vì: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi”. Ông đang sống một tình yêu, nhưng tình yêu theo kiểu mới chứ không phải theo kiểu cũ. Một tình yêu muốn san sẻ chứ không giữ cho riêng mình. Một tình yêu sẵn sàng hy sinh chứ không tìm an nhàn cho mình…
“Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa”(Cv 14,22).
Trong cuộc sống hằng ngày, khi phải lo cho cái ăn, cái mặc, chúng ta cũng phải đổ mồ hôi, sôi PS 5-C176
Trong cuộc sống hằng ngày, khi phải lo cho cái ăn, cái mặc, chúng ta cũng phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có chứ đâu phải dễ, huống chi là vào Nước Thiên Chúa. Để vào được Nước Thiên Chúa, chúng ta cũng phải chịu nhiều gian khổ mới vào được. Chính Đức Giê-su cũng đã nói, đường vào Nước Trời là đường chật; cửa vào Nước Trời là cửa hẹp mà (x. Mt 7,13) và qua các điều Chúa dạy trong Tin Mừng thì không dễ gì mà thực hiện. Hơn nữa, “Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được” (x. Mt 11,12).
Như thế, vào được Nước Trời không phải dễ, nên ta đừng bao giờ nghĩ đơn giản, cứ chịu phép rửa tội là xong; cứ lo đọc kinh, dự lễ hằng ngày là chắc ăn “như đinh đóng cột” là được lên Thiên Đàng. Đức Giê-su đã chẳng nói thế này sao ? “Không phải cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa! Lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi” (x. Mt 7,21).
Điều kiện duy nhất để được vào Thiên đàng là thi hành Ý Chúa. Ta thi hành ý Chúa ở đâu? Chỉ ở trong nhà thờ thôi sao? Không. Là người tín hữu Công Giáo, cuộc sống đức tin của ta không dừng lại ở Nhà Thờ mà còn trải dài trong cuộc sống hằng ngày của ta nữa. Nơi Nhà Thờ, chúng ta lãnh nhận Ơn Chúa và nghe Lời Chúa. Để rồi nhờ Ơn Chúa giúp, chúng ta đem Lời Chúa ra thực hành trong cuộc sống của mình.Sống Lời Chúa chính là thi hành Ý Chúa.
Nếu ta chỉ sống đức tin ở Nhà Thờ thôi, thì sẽ không có ích lợi bao nhiêu; có chăng chỉ khoảng hai tiếng đồng hồ là cùng. Nếu ta sống đức tin trong cuộc sống của ta, thì sẽ có ích lợi luôn luôn và mãi mãi, dù trong cuộc sống của chúng ta có nhiều gian truân và đau khổ. Điều này, chính Đức Giê-su đã làm gương cho chúng ta.
Đức Giê-su đã nói không chỉ một lần mà đến ba lần, Ngài loan báo cuộc thương khó của Ngài: “Con người sẽ phải chịu đâu khổ, bị các Kỳ Mục, Thượng Tế cùng Kinh Sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại” (x. Mc 8,31). Và trước khi chịu khổ nạn, Đức Giê-su đã thưa: “Áp-pa, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén đắng này khỏi con. Nhưng đừng theo ý con, nhưng theo ý Cha” (x. Mc 14,36).
Đức Giê-su đã thi hành ý muốn của Thiên Chúa, Ngài đã chịu khổ hình, chịu chết và đã phục sinh. Đức Giê-su là mẫu gương, là mô phạm cho đời sống đức tin của mỗi người chúng ta. Ta có cho rằng việc thi hành Ý Chúa; việc phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Trời là việc mơ hồ và vô ích không? Không mơ hồ và không vô ích chút nào; trái lại rất thực tế và rất có ích cho cuộc sống của chúng ta.
Ta hãy nghĩ mà xem, là người sống trên trần gian này, có ai là người không phải trải qua nhiều gian khổ không? Không khổ trước thì khổ sau; sướng trước thì khổ sau, mà khổ trước thì sướng sau. Dù cho lắm tiền nhiều của đi chăng nữa thì cũng chẳng sung sướng gì. Sướng về vật chất thì lại khổ về tinh thần. Lắm tiền nhiều của thì con cái ăn chơi, hư hỏng, không lo học hành. Con nhà nghèo, không đủ ăn, đủ mặc, lại siêng năng học hành, thành đạt và nên người. Thế thì ta phải làm sao?
Ta phải sống đức tin, phải thi hành Ý Chúa chứ làm sao nữa. Trong cuộc sống hằng ngày, nếu ta lấy đức tin để cố gắng mà chịu nhiều những nỗi khó khăn, nhọc nhằn, gian khổ, ta sẽ thu được những kết quả tốt. Ta làm không chỉ với sức riêng của ta mà còn với Ơn Chúa nữa. Với Ơn Chúa giúp, ta sẽ làm cho tới cùng. Làm cho tới cùng thì chắc chắn ta sẽ thu được kết quả tốt thôi.
Nếu có thất bại, thì ta cầu xin Ơn Chúa giúp và ta làm lại; ta làm cho tới khi nào thành công. Nếu ta thành công thì ta hãy tạ ơn Chúa. Quả thật, ta làm với lòng tin thì tất cả những gian lao, khốn khổ sẽ không đi vào quên lãng đâu; nó sẽ là những cơ hội giúp ta vào Thiên Đàng nữa đấy.
Ví dụ như bệnh tật hay bị ung thư. Trên đời này có ai không bị bệnh gì và không bị ung thư chăng? Không mắc bệnh này cũng mắc bệnh kia; không đau răng cũng đau bụng; không ung thư phổi, cũng ung thư máu; không hàng tháng bị hành kinh, thì cũng bị “lở miệng” nó hành 10 ngày. Cứ đi bác sĩ khám sẽ biết mình có bệnh hay không thôi. Mà đau cái gì cũng khổ, chứ đâu có cái nào sướng đâu. Người ta nói: “Đời là bể khổ” mà.
Thế nhưng, những ai sống đức tin; sống Lời Chúa; những ai thi hành Ý Chúa thì có thể chuyển “bể khổ” đó thành “bể sướng”. Nếu không có đức tin, thì ta bệnh; ta ung thư; ta đau rồi ta chết. Xong phim.
Nhưng nếu ta có lòng tin, ta vẫn bệnh, vẫn ung thư, vẫn đau, vẫn chết nhưng chưa hết. Ta chấp nhận những đau khổ đó; ta chấp nhận những đớn đau đó như là của lễ hy sinh dâng lên Thiên Chúa. Thứ nhất để đến tội lỗi của ta; thứ đến ta có thể cầu nguyện cho người khác; cho cha mẹ, cho anh chị em; cho con cái; cho những người còn sống hay những người đã qua đời.
Ta mà đền tội ở đời này thì đời sau ta khỏi đền ở trong luyện ngục, không sướng à! Ta dâng những hy sinh của ta để cầu nguyện cho người khác, là vô ích hay sao! Thế thì tại sao ta lại không dùng những cơ hội đó cơ chứ!!!! Ta mà không chấp nhận; ta không dâng những hy sinh đó lên cho Chúa, có phải là “phí của Giời” không. Ta mà không biết dùng thì chúng sẽ trôi xuống sông xuống biển hết, chẳng có ích lợi gì cho ta cả. Đau vẫn hoàn đau và tay trắng vẫn hoàn trắng tay.
Quả thật, nếu ta làm với lòng tin; ta chịu với lòng tin thì có thể không có giá trị trước mặt người đời, nhưng sẽ có giá trị trước mặt Thiên Chúa và đem ơn cứu độ của Chúa đến cho chúng ta. Ta thử nghĩ xem, sau khi trải qua một cuộc đời gian lao, vất vả mà ta chẳng được ích gì; chẳng được vào Thiên Đàng thì có phí không! Có được sung sướng về vật chất, tiền của trong một thời gia ngắn, khoảng 50 hay 100 năm là cùng, mà không được vào thiên đàng thì ích lợi gì cho ta.
Nếu ta sống đức tin; nếu ta sống Lời Chúa; nếu ta thi hành Ý Chúa thì ta sẽ được gì? Ta hãy Chúa nói trong Bài đọc 2: “Đây Nhà Tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người; còn chính Người sẽ là Thiên Chúa ở cùng họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ; sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (x. Kh 213-4). Đó chính là Thiên Đàng; đó chính là niềm vui và hạnh phúc của chúng ta.
Vậy ta hãy sống đức tin; sống Lời Chúa và thi hành Ý Chúa trong cuộc sống hàng ngày của ta. Với Ơn Chúa giúp, ta hãy chấp nhận những gian lao, khốn khổ; đừng kêu ca hay ghen tức với ai, nhưng hãy dùng tất cả những cơ hội đó để lập công cho chính mình. Để ta có bình an trong tâm hồn; có niềm vui trong cuộc sống và sau này ta được vào Nước Thiên Chúa. Hãy biến “bể khổ” thành “bể suớng” cho đời ta nhé !!!!
Tình yêu đơn thuần tưởng chừng ai cũng có thể hiểu, đó là tình yêu qua lại giữa hai người. Người ta PS 5-C177
Tình yêu đơn thuần tưởng chừng ai cũng có thể hiểu, đó là tình yêu qua lại giữa hai người. Người ta thường nói : “Có qua , có lại, mới toại lòng nhau ”. Có nghĩa là định nghĩa tình yêu đơn thuần phải là “có qua, có lại”, nghĩa là hôm nay : Anh giúp tôi, mai tôi giúp anh. Anh cho tôi chiếc bánh, tôi phải trả lại anh chiếc kẹo. Nếu không như vậy, thì không phải là “tình yêu”. Như vậy, tình yêu , mà dựa vào sự có qua có lại theo ý nghĩa vật chất, đó là “TÌNH BẠN HỮU”, gọi là “AGAPE”. Theo đó, tình yêu ấy vẫn tốt đẹp, nhưng chưa đạt đến sự trọn lành.
Còn tình yêu nam nữ, trai gái, vợ chồng, vượt trên tình ” bạn hữu “ một chút là tình yêu qua lại giữa “thân xác” với nhau. Điều nầy cũng là một tình yêu tốt lành, bởi vì nó cũng được dựng nên bởi Thiên Chúa, nó cũng nằm trong yếu tố tình yêu. Tình yêu nầy phổ quát hơn, thuần túy hơn, được gọi là “ EROS” nghĩa là quan hệ tính dục. Tình yêu nầy tạo nên sự gắn bó hôn nhân , gia đình, tạo nên xã hội con người. Được chúc phúc, tức được thánh hóa, được nâng lên hàng Bí Tích , đó là Hôn Nhân Công Giáo. Căn cứ vào điều ấy, nếu ngược lại, thì tình yêu “eros” sẽ bị lạm dụng, tức phạm tội. Qua Bí Tích Giải Tội tùy theo mức độ vẫn được Thiên Chúa tha thứ qua Giáo Hội của Người. Như vậy, tình yêu “EROS”, nếu được nằm trong ân sủng thì tình yêu” EROS” vẫn là tình yêu tốt lành. Còn nếu thánh thiện , thì tùy vào trường hợp cụ thể.
Như vậy, chúng ta thấy, hai tình yêu nêu trên được gọi là phổ quát hay thuần túy, đều tốt đẹp, nếu nó nằm trong “trật tự”. Vâng , “TRẬT TỰ ” có nghĩa là ”giới luật ”. Nhưng, nếu chỉ có hai loại “tình yêu” nầy, thì cũng bình thường thôi, bởi vì tình yêu thuần túy mà.
Vâng, thưa quý vị, tình yêu thuần túy có nghĩa là chưa đặt nền tảng trên “Tôn Giáo”. Tình yêu thuần túy là tình yêu mà mọi người, hay là quyền làm người phải có, phải biết, không cần phải nói.
Nhưng còn một thứ “TÌNH YÊU” thứ ba là gì? Thưa, đó là “ TÌNH YÊU CỦA ĐỨC KITÔ”. Vâng, khi xác tín Tình yêu của Đức Kitô, là ”tình yêu” ấy không dựa vào tình yêu thuần túy tự nhiên nữa, mà là một tình yêu “tự hiến “ siêu nhiên, đó là tình yêu bởi Thập Gía. Tiêu chuẩn tình yêu nầy là căn cứ vào Thập Gía của Đức Kitô. Khi Chúa Giêsu để lại tình yêu nầy cho môn đệ, rồi đến cho giáo hội và nhân loại. Tình yêu nầy, Người cũng muốn cho phổ quát, đó là ”ơn cứu độ” của Thiên Chúa. Nhưng. “TÌNH YÊU” nầy đòi hỏi cao hơn, tuy là phổ quát, nhưng không dễ đạt được, bởi vì tiêu chuẩn của nó là “ tự hiến” đôi lúc cảm thấy “đơn phương” tuyệt vọng. Bởi vì hành trình của tình yêu “tự hiến” là “HÀNH TRÌNH THẬP GIÁ”. Tình yêu bởi Thập Gía, mặc nhiên phải là hành trình Thập Gía. Hành Trình Thập Gía là hành trình bước theo Đức Kitô, Người nói: “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Tôi. Vì ai yêu mạng sống mình vì đời nầy thì sẽ mất. Còn ai tự hiến mạng sống mình ở đời nầy, thì sẽ giữ được mạng sống muôn đời” ( Mt 10, 38 -39)(Lc 14, 27)
Như vậy, tình yêu mà Chúa Giêsu nói trong đoạn Tin Mừng hôm nay (Ga 13, 31 -33a; 34- 35) là tình yêu gì ? ! Há chẳng phải là “Tình Yêu bởi Thập Gía “ hay sao?!
“Thầy để lại cho anh em một giới răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” ( c 34). Tình Yêu ấy há không phải dựa trên tiêu chuẩn của ”THẬP GIÁ” hay sao? “ NHƯ THẦY ĐÃ YÊU ”, chứ không phải như “phàm nhân đã yêu”. Như vậy, tình yêu của Đức Kitô là tình yêu là “tình yêu” như thế nào? Thưa, đó là “tình yêu” cho đi không đòi đáp trả, là “TÌNH YÊU THẬP GIÁ”.
Vâng, thứ tình yêu ấy được gọi là “PHILIA” là “Tinh yêu anh em” “brotherly love”. Tình anh em là tình không tính toán, bởi vì như : ”Chúa Cha đã yêu thương Thầy như thế nào, thì Thầy cũng yêu thương anh em như vậy “. Thật vậy, tình Philia là yêu cho đi không tính toán, không so đo, không cân đong, đo , đếm. Chúa Giêsu muốn cho môn đệ của Người phải yêu nhau như thế, yêu như Chúa yêu, chứ không phải yêu như “phàm nhân yêu nhau”. Yêu như Thầy Kitô đã yêu là dùng tiêu chuẩn Thập Gía, Thập giá của Đức Kitô là thước đo của tình yêu tự hiến.
Tình yêu “Philia” là tình yêu anh em ruột thịt của “con “cùng một Cha trên trời. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh, tình chất của “Philia” để giáo huấn, để truyền đạt một thứ “TÌNH YÊU” vô vị kỷ, vô vị lợi cho nhân loại biết rằng: Tình Yêu đích thực là tình yêu “Con cùng một Cha trên trời”. Mặc nhiên, tình yêu ấy khác với hai thứ tình yêu “thông thường” của phàm nhân. Vâng, chúng ta thấy, các tôn giáo khác Kitô giáo, họ cũng có thứ tình yêu : “Từ Bi” “Hỷ Xả” . Nhưng, là chung chung, có nghĩa là nhìn thấy tha nhân”khổ” họ cũng giúp, “đói” họ cũng cho cơm ăn. Nhưng, để ”xả thân, vị tha ” ( vì người khác), như các tu sĩ công giáo, thì rất hiếm. Bởi vì, họ không có , không biết ”Thập Gía” của Đức Kitô.
Vâng, “Mến Thánh Gía” không phải là một cụm từ theo “cảm tính thông thường”, là môn đệ của Đức Kitô thì tôi phải mến Thánh Gía. Vâng, điều ấy chỉ đúng một phần, còn điều chính yếu là tôi phải biết “ nhận lấy” Lời “DI HUẤN “ trong Tin Mừng thánh Gioan (Ga 13, 31 -38), bởi vì đây là “Những Lời Di Huấn sau cùng” của Đức Kitô.
Năm Kính LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT 2016 là năm để gợi nhớ, suy niệm sâu sắc hơn về LÒNG TỪ BI CỦA THIÊN CHÚA. Không những Chúa Giêsu tỏ hiện ra cho các thánh, mặc khảỉ về “một tình yêu” tự hiến hoàn toàn của Người, mà là Người muốn lập lại nhiều lần “Di Huấn” “TìNH YÊU THẬP GIÁ”, một thứ tình yêu “duy nhất” mà nhân loại cần đến, mà các tôn giáo khác không thể có được là : “Thầy truyền cho anh em, một giới răn mới là anh em hãy yêu thương nhau, NHƯ THẦY ĐÃ YÊU thương anh em”. Vâng, chỉ có nơi “Kitô giáo” mà thôi. Vâng, đó là “tình anh em ruột thịt”, chứ không phải là tình ”EROS” hay là “AGAPE”.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng đã đến thế gian để Sống, để Yêu và để chết, rồi Phục Sinh. Xin cho phàm nhân nhận ra chân lý tình yêu nơi Chúa mà thực thi, hầu dẫn đưa họ về bên Chúa là Đấng TÌNH YÊU muôn thuở vì TỰ HIẾN vô vị lợi vì nhân loại, để minh chứng tình nơi Chúa là Philia ./. Amen
Nếu trong tuần Bát nhật Phục sinh, Phụng vụ trích dẫn những chứng từ của những người đã mắt PS 5-C178
Nếu trong tuần Bát nhật Phục sinh, Phụng vụ trích dẫn những chứng từ của những người đã mắt thấy tai nghe về Đấng đã sống lại từ cõi chết, thì trong mùa Phục sinh, Phụng vụ lại giới thiệu cho chúng ta sự phát triển kỳ diệu của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Quả thật, chỉ hơn 40 năm sau cái chết của Đức Giêsu, Đức tin vào Người đã lan rộng khắp nơi vùng Địa Trung Hải. Giáo lý của các tông đồ thời đó không cao siêu mang tính thần học hay triết học. Lời chứng của các ông rất đơn sơ, đó là Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai. Người đã chịu chết trên thập giá và đã sống lại như lời Thánh Kinh, và chúng tôi sẵn sàng làm chứng về điều đó, dù có phải đánh đổi bằng chính mạng sống mình.
Khi bầu khí sôi động của ngày lễ Phục sinh và tuần Bát nhật đã lắng xuống, Giáo Hội mời gọi chúng ta lắng đọng tâm hồn để suy niệm lời giáo huấn của Chúa Giêsu, đồng thời cảm nhận Đấng Phục sinh đang hiện diện và tiếp tục giáo huấn chúng ta, để chuyên cần thực thi những lời dạy ấy. Bài Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh đến hai chữ “yêu thương”.
Yêu thương đã là một trong những điểm nhấn quan trọng trong giáo huấn của Cựu ước. Yêu thương là cốt lõi trong lời dạy của Chúa Giêsu, đến nỗi Chúa gọi đó là giới răn mới, và là giới răn của Người. Yêu thương không phải một mệnh lệnh. Vì tình yêu không bao giờ cưỡng ép và bó buộc, nếu không chẳng còn phải là tình yêu. Tình yêu luôn là tự nguyện, là sự gắn bó thật lòng, chứ không phải giả tạo hay nhẫn nhịn. Thiên Chúa không buộc chúng ta phải yêu Ngài. Nhiều người coi tình yêu như một điều ràng buộc, nên làm giảm bớt ý nghĩa của tình yêu. Mẫu mực cho tình yêu mà Đức Giêsu đề nghị chính là bản thân Người. Hãy yêu như Thày đã yêu. Chúa Giêsu mời gọi tình yêu thương không giống như bác sĩ kê đơn cho bệnh nhân, với điều kiện nếu mua và dùng thuốc này thì sẽ khỏi bệnh. Tình yêu Chúa đề nghị không kèm theo điều kiện nào. Đó là tình yêu cho đi, dựa trên mẫu mực là chính Chúa Giêsu. Quả vậy, Đức Giêsu là Thiên Chúa cao sang đã huỷ mình ra không, trút bỏ mọi danh sự vinh quang, đã hy sinh mạng sống vì yêu thương nhân loại. Yêu như Thày đã yêu chính là bài học từ cây thập giá.
Như vậy, theo Chúa Giêsu, đâu là người môn đệ đích thực: phải chăng là người đi tham dự thánh lễ thường xuyên? Phải chăng là người siêng năng cầu nguyện và rước lễ? Những thực hành này rất cần và rất tốt, nhưng còn thiếu nếu chúng ta chỉ dừng lại ở đó. Người môn đệ đích thực được Chúa Giêsu khẳng định: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau”. Có thể nói, khi chuyên tâm thực hành giới răn mới của Chúa Giêsu là chúng ta chu toàn mọi lệnh truyền và giáo huấn của Cựu ước. Sau này, thánh Phaolô khẳng định: “Yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13,10).
Chính tình yêu thương đã giúp cho Tin Mừng lan rộng nhanh chóng và cộng đoàn Đức tin cũng được thăng tiến phát triển. Bài trích sách Công vụ Tông đồ nhắc tới những địa danh khác nhau trong hành trình truyền giáo của thánh Phaolô và thánh Barnaba cho thấy hoa trái dồi dào của công cuộc truyền giáo thuở ban đầu. Với nỗ lực cố gắng của các tông đồ, rất đông những người ngoài Do Thái trở lại và đón nhận Đức tin. Một số tín hữu, vì tin vào Chúa Giêsu mà bị các kỳ mục Do Thái và nhà cầm quyền thù ghét, nên phải bỏ quê hương đến lánh nạn ở nơi khác. Điều kỳ lạ là đi đến đâu, họ tiếp tục loan báo Danh Đức Giêsu với niềm xác tín. Danh thơm tiếng tốt của các Kitô hữu đến từ việc thực thi những hành động yêu thương, như lời Chúa Giêsu mời gọi.
Tình yêu dành cho tha nhân diễn tả tình yêu ngàn đời của Thiên Chúa, và làm cho tình yêu Thiên Chúa hiện hữu nơi cuộc sống hằng ngày. Yêu thương cũng giúp người Kitô hữu trải nghiệm hạnh phúc thiên đàng ngay nơi trần thế. Thánh Gioan Tông đồ trong một thị kiến đã thấy thành Giêrusalem mới. Nơi đây không còn những đau khổ và nước mắt. Nơi đây, Thiên Chúa ở với con người. Đúng hơn, con người được hoà mình vào đại dương mênh mông của tình yêu Ba Ngôi. Nhờ được kết hợp với Ba Ngôi Thiên Chúa, con người trở nên thần thiêng và bất tử. Đó chính là lý tưởng của đời sống Kitô hữu. Nhờ Đức Kitô, với Đức Kitô và trong Đức Kitô, những ai sống công chính sẽ được gia nghiệp muôn đời nơi Thiên Chúa. Hạnh phúc hôm nay khởi đầu cho hạnh phúc mai sau. Yêu thương như Thày Giêsu, đó là bí quyết giúp chúng ta đạt đến hạnh phúc ấy.
Được – mất, thắng – thua, thành công – thất bại, những cụm từ đối nghịch nhau, mà thông thường ai PS 5-C179
Được – mất, thắng – thua, thành công – thất bại, những cụm từ đối nghịch nhau, mà thông thường ai cũng thích vế trước, vì mọi người đều quen hướng đến một thao thức làm gì để có: vinh dự, hạnh phúc. Kinh nghiệm các đấng bậc để lại cho hậu thế: đừng sợ thua thiệt, mà hãy sợ bạn chưa cố gắng hết sức. Đừng sợ thất bại, vì chưa thành công, chẳng qua đó là cơ hội để bạn bắt đầu mọi thứ cách thông minh hơn. Đừng mơ một cuộc sống chỉ có được mà không có mất, nhưng hãy sống thật cho mơ ước hạnh phúc của mình. Cuộc sống luôn nhắc ta về trách nhiệm phải trả bài, vì ta từng ngồi ghế nhà trường, tuy không phải tương quan xã hội làm lệch đi tính triết lý, mà bài học thực tế nơi mỗi người chính là đáp án về việc ta đang làm đẹp hoặc chưa đẹp của mình.
Tại sao người xưa nói: không có con đường tắt nào dẫn đến thành công ? Không có phương pháp nào là vạn năng, trong toàn bộ tiến trình giáo dục trẻ ! Ấy vậy, người trẻ hôm nay lại rất tâm đắc với câu thành ngữ: nếu có phương pháp thì “tệ” cũng thành “tài”, không có phương pháp thì “tài” cũng thành “tệ”. Nỗ lực chăm chỉ, làm nên thành công đâu phải là không hợp lý, thời thế tạo anh hùng hoặc anh hùng tạo thời thế, không phải là chuyện lạ. Nhưng “căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ Thầy: là các con hãy yêu thương nhau”, đúng thật đó là điều phi thường. Được xếp vào hàng ngũ các học trò của người tài, người nổi tiếng, đã khó rồi. Trong khi được công nhận là môn đệ của Đấng là Thầy, là Chúa, quả là mơ cũng mấy ai có ?
Tại sao cổ nhân nói: thà rằng cô đơn vì không có ai để yêu, còn hơn yêu ai đó mà vẫn cô đơn ? Thà rằng ăn bát cơm rau, còn hơn thịt cá nói nhau nặng lời ! “Thà làm kẻ giữ cửa nhà Đức Chúa, còn hơn là sống trong trại kẻ dữ”. (Tv 84, 11). Đúng, yêu mà vẫn cô đơn có thể là yêu nhầm, hoặc ta quan niệm chưa chuẩn về “tình yêu” ? Chắc chắn không ai nghĩ quanh năm suốt tháng ăn rau mà đủ dinh dưỡng, cũng không ai muốn sau khi hoàn tất cuộc đời này, mà cứ đứng mãi ở cửa thiên đàng ? Suốt 33 năm tại trần thế, Đức Giêsu đã minh chứng Ngài là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa: yêu đến cùng, sẵn lòng hiến dâng mạng sống cho người mình yêu ! “Bây giờ Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa được tôn vinh nơi Ngài”. Cũng là câu trả lời cho các học trò và chúng ta hôm nay, tại sao Giuđa ra khỏi phòng tiệc ly, mới là lúc Đấng là Thầy là Chúa phải đối diện với khổ đau thập giá, phải bị cám dỗ về tinh thần thể xác, quả là khủng khiếp !
Nếu là đệ tử của những người có danh tiếng, là con ông cháu cha của những vị có thế lực, hẳn ta cũng được xã hội vị nể, ưu đãi. Nếu là môn đệ, là học trò Đức kitô, nhất định chúng ta không thể im lặng trước con đường Thầy đã đi, đã truyền dạy. Thực thi giới luật yêu thương chính là sống tinh thần người môn đệ: “Thầy ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con”. Nhiều người trong chúng ta đã nói, đã nghe: con người được tạo ra từ “yêu thương”, vật chất được làm ra để sử dụng, nhưng hà cớ gì mà vật chất được yêu thương, còn anh chị em mình lại bị lợi dụng ! Được quyền cao chức trọng, được giầu sang phú quý, ở đời này vẫn được xem là thành công, khối kẻ mơ ước. Hiện tại, bạn và tôi đang tìm kiếm thành công hạnh phúc nào, có khao khát được trở thành học trò, trở thành môn đệ Đức Kitô không ?
Đừng bao giờ hỏi, ai là người yêu thương tôi, mà nên hỏi: tôi phải sống thế nào để có hạnh phúc ? Đừng cố dương đông kích tây, luồn lách, để mong có thành công ở đời này. Đừng cố “tu tập” để mong thoát khổ, mà hãy tu học, hãy thực hành đức ái theo tinh thần của Thầy Giêsu, để thực sự có hạnh phúc. “Thầy ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con, thì các con hãy yêu thương nhau”. Sống yêu thương, là được trở nên môn đệ của Thầy Giêsu. Thực hành bài học yêu thương, là đang được biến đổi nên giống Thầy Giêsu, được nên một tình yêu duy nhất và được gọi Thiên Chúa là Cha. Trở nên môn đệ của Thầy Giêsu, là nối tiếp sứ vụ yêu thương của Đấng là Thầy là Chúa, là đi con đường khổ đau thập giá, là làm cho tình yêu Thiên Chúa thật sự sống động trong các tương quan.
Có một nơi để về đó là nhà, có những người để yêu thương đó là gia đình, biết ý thức sống hai mục tiêu đó là hạnh phúc. “Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính mình, …”. Mỗi người chúng ta sẽ được vinh hiển, nhưng không phải nhờ tài giỏi, giầu có, mà là thực sự trở nên môn đệ Thầy Giêsu, đã và đang sống giới luật yêu thương. Lý lẽ cuộc đời luôn phong phú, đầy tính lãng mạn: hoạ sĩ biến thơ thành tranh đẹp, nghệ sĩ biến tranh thành âm nhạc hay. Do đó, nhiệm vụ cao quý của nghệ thuật là đưa điều hay lẽ phải vào sâu thẳm trái tim con người, hầu trổ sinh hoa trái hạnh phúc. Vâng, hạnh phúc sẽ không tự nhiên đến, hạnh phúc sẽ đến từ những hành động của ta: “cứ dấu này mà thiên hạ nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là các con hãy yêu thương nhau”. Amen.
Nhân loại ai cũng mong cho thế giới được hiệp nhất và bình an. Ai cũng mong cho con người biết PS 5-C180
Nhân loại ai cũng mong cho thế giới được hiệp nhất và bình an. Ai cũng mong cho con người biết sống yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Thế nhưng ước mơ tưởng chừng như nhỏ bé ấy vẫn là hoài bão từ bao đời nay. Thế giới vẫn còn chiến tranh, hận thù. Lòng người vẫn còn oán trách, tị hiềm lẫn nhau.
Sở dĩ con người chưa xây dựng được thế giới hiệp nhất yêu thương là bởi vì con người chưa dẹp được cái tôi của mình. Cái tôi luôn muốn hơn người khác. Cái tôi luôn muốn chiếm đoạt về cho mình. Nói tóm lại, cái tôi thường tham lam và ích kỷ. Khi con người không thắng được lòng tham nghĩa là con người đã hết yêu thương, lúc này người ta bất chấp chấp tất cả để được điều mình muốn. Nhưng lòng tham được ví như một cái thùng không đáy, có bao nhiêu cũng không đủ. Khi không có thì muốn có, khi có rồi, lại muốn có nhiều hơn. Do đó con người ta phải cả đời làm lụng nhọc nhằn, vất vả để được sung sướng để thỏa mãn lòng tham muốn. Nhưng vì lòng tham là vô tận, người không biết dừng thì không bao giờ thấy đủ, do vậy cả đời là khổ, nhiều khi gây vạ vào thân.
Cũng chính vì lòng tham khi không kiểm sóat được mà dẫn đến những tranh quyền đoạt vị, những lừa đảo chiếm đoạt, những ganh ghét dèm pha, những hạ bệ và loại trừ lẫn nhau. Cuộc sống chung với nhau yêu thương thì ít đấu đá nhau thì nhiều. Chia sẻ thì ít, tranh dành nhau thì nhiều. Nhường nhịn thì ít xô đẩy nhau thì nhiều.
Người Công Giáo sống giữa thế gian lắm thị phi được mời gọi sống chứng nhân cho tình yêu. Yêu thương thì phải chia sẻ, phải đùm bọc lẫn nhau nên cần loại bỏ tính tham lam , ghen ghét và đố kị. Vì chính Chúa Giê-su đã nói giới răn quan trọng nhất chính là “hãy yêu thương nhau”. Tình yêu thương sẽ giúp chúng ta vui với người vui và khóc với người khóc. Tình yêu thương sẽ giúp chúng ta biết sống công bằng bác ái với nhau. Không vì cái thích của mình để rồi lỗi công bằng với tha nhân.
Theo sách Tông đồ công vụ, Giáo hội sơ khai được toàn dân thương mến vì họ sống tình yêu thương và hiệp thông với nhau. Hiệp thông trong cầu nguyện và yêu thương trong sự đùm bọc lẫn nhau để không ai bị đói, bị khổ, bị cô đơn ngay giữa anh em mình. Chính vì tình yêu thương và hiệp nhất mà họ đã làm nên một cộng đoàn duy nhất để loan truyền tin mừng cho thế gian.
Ước mong lời di chúc của Chúa được thể hiện nơi mỗi người chúng ta khi biết từ bỏ cái tôi của mình để hòa hợp chia sẻ với nhau. Và xin hãy yêu thương nhau , vui với ai mừng vui, khóc với ai đang khổ sầu để tình yêu được tỏa sáng giữa thế giới hôm nay. Amen
Thầy ban cho anh em một điều răn mới: hãy yêu thương.... Yêu thương nhau trở thành điều răn PS 5-C181
“Thầy ban cho anh em một điều răn mới: hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Yêu thương nhau trở thành điều răn mới, vì không còn yêu theo kiểu cũ là yêu như chính mình, hoặc yêu như chúng ta muốn yêu; mà là yêu như Chúa muốn chúng ta yêu, là yêu như Ngài đã yêu thương chúng ta. Trước khi công bố điều răn mới này, Ðức Giêsu đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, trong đó có Giuđa. Dù lúc đó biết ông sẽ phản bội, nhưng Ngài vẫn cúi xuống bên chân ông để bày tỏ tình yêu thương đối với ông. Ngài còn chấm miếng bánh đầu tiên trao cho Giuđa, như cơ hội cuối cùng để mong ông nhận ra mình đang lầm đường lạc lối. Nhưng rồi cũng vô ích, ông vẫn lầm lì ra đi thực hiện mưu đồ của mình. Đúng là “ma đưa lối quỷ đưa đường, lại tìm những chốn đoạn trường mà đi”.
Trước thái độ cố chấp của Giuđa, Chúa Giêsu biết rõ số phận đang chờ mình, và Ngài sẵn sàng hiến thân để yêu thương cho đến cùng. Yêu như Chúa yêu là như vậy: một tình yêu khiêm hạ, cúi mình để phục vụ; một tình yêu tha thứ trước sự vong ân bội phản; một tình yêu cho đến cùng dù phải hy sinh chính mình. Tôn giáo nào cũng đặt nặng tình yêu thương đồng loại, nhưng điều thật mới mẻ nơi Kitô giáo là yêu thương“như Thầy đã yêu thương”. Tình thương này đã trở nên mẫu mực cho mọi tình yêu của con người. Chưa từng có vị Thầy nào trên thế giới đã dám sống và công bố như thế. Hơn nữa, tình yêu ấy còn là chính sức mạnh linh thiêng đem lại ơn cứu độ cho con người.
Lời trăn trối về giới răn mới của Chúa Giêsu vẫn làm chúng ta trăn trở và nhức nhối. Tuy có nhiều gương sống sáng ngời của nhiều vị thánh đã thực hiện Lời Chúa hôm nay, nhưng nhìn lại bản thân, đời sống cộng đoàn cũng như lịch sử Giáo Hội, ta thấy không thiếu những phân rẽ, bất hòa, kỳ thị, chống chọi, kình địch và triệt hạ lẫn nhau. Điều này đã làm cho thiên hạ chê cười, và gây ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống đức tin, khiến nhiều tín hữu rời bỏ Giáo hội để tìm đến những giáo phái hay đạo giáo khác. Thật mỉa mai cho chúng ta, những người tự hào về tôn giáo của mình là đạo rất chính rất thật, nhưng đời sống lại không chính thật, khiến cho nhiều người phải thất vọng.
Mahatma Ghandhi được coi như bậc đại thánh của dân tộc Ấn cũng đã có lần bị kỳ thị và khinh khi, đến nỗi ông không được vào nhà thờ dự lễ. Ông là người rất yêu mến Thánh Kinh và đã tìm ra nơi Kitô Giáo một sách lược hữu hiệu cho đường lối chính trị của mình. Quả thật, dễ dàng yêu mến đạo, nhưng khó lòng yêu người có đạo. Đường lối yêu thương của Phúc Âm thì tuyệt vời, nhưng chưa đi vào đời mà mới chỉ là một mớ giáo thuyết, tuy rất đồ sộ và hệ thống, xem ra không có tôn giáo nào bằng. Nhưng tất cả chỉ bằng không nếu điều răn mới của Đức Giêsu vẫn còn để nguyên trong các sách Tin Mừng, mà chưa được khai sáng trong đời Kitô hữu để có thể khai phóng cho đời sống con người.
Tôn giáo nào cũng có những dấu hiệu riêng để người khác biết mình là tín hữu. Những dấu hiệu nơi người Kitô hữu thì chúng ta thường cho là đeo thánh giá, làm dấu thánh giá, đi nhà thờ, kinh nguyện sớm tối,… Nhưng đối với Ðức Giêsu, dấu hiệu đặc trưng của người môn đệ là tình yêu thương mà họ dành cho nhau, qua sự cảm thông, tha thứ, tôn trọng, hy sinh, phục vụ, chia sẻ,… Có yêu thương người đồng đạo thì ta mới có thể yêu thương người khác đạo, cũng là những người con cái Thiên Chúa mà Ngài muốn cứu chuộc. Chúng ta trách những con người hôm nay sao quá vô cảm, nhưng xem ra chúng ta cũng vẫn vô tâm.
Có điều là muốn yêu thương thì phải chấp nhận đau thương. Đây là điều đòi phải có một trái tim phi thường. Nhìn lên thập giá Chúa ta hiểu điều đó. Đó mới là tình yêu có sức thánh hóa và biến đổi đời sống ta. Chỉ có tình yêu đó mới giúp ta hoàn thiện, trở nên chính mình, làm nên cuộc đời mình theo ý định của Thiên Chúa, đem lại cho ta niềm an vui và hạnh phúc cho nhau. Hãy để cho Lời Chúa một lần nữa lọt vào tâm khảm chúng ta, để những con người được Chúa chọn gọi vì yêu thương biết sống tình thương yêu như Chúa, một tình yêu thương vượt qua mọi ranh giới, để làm chứng rằng: Thiên Chúa là tình yêu, Ngài đang sống trong tôi, và tôi đang sống trong Ngài, để sự hiện diện của tôi ngày càng phản ảnh sâu xa sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời này.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu! Con được dạy yêu thương như chính mình, nhưng chính mình lại yếu đuối mỏng giòn, cuộc sống với bao nhiêu là sai sót, nhân cách con cũng dễ bị sói mòn, dễ tham lam chiếm hữu lo hưởng thụ.
Hôm nay Chúa dạy con điều răn mới, yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương, một tình yêu nhân hậu và khiêm nhường, như Chúa đã rửa chân cho đồ đệ.
Dù biết họ sẽ lỗi ước quên thề, và hơn nữa còn manh tâm phản bội, nhưng Chúa vẫn đón nhận không từ chối, và sẵn sàng chọn đường lối hiến thân.
Yêu như Chúa yêu thật chẳng dễ dàng, vì không phải tình yêu trong chốc lát, mà tình yêu dám vượt những trái ngang, cả đau thương và chua xót bẽ bàng.
Yêu như Chúa không tìm kiếm an toàn, mà trong tâm thế sẵn sàng hiến mạng, bởi khi yêu là bắt đầu cuộc tử nạn, qua đau khổ mới đạt tới vinh quang.
Để yêu như Chúa yêu, con cần đến ơn thánh Chúa rất nhiều, vì con thấy bản thân mình quá yếu, và nghị lực chẳng có được bao nhiêu.
Để sống giới răn mới, xin ban cho con một quả tim mới, để từ nay con thực sự đổi đời, nên hình ảnh sáng ngời tình yêu Chúa. Amen.
Có nhiều khi chúng ta sinh hoạt như thể Giáo Hội là Giáo Hội của chúng ta, mà không là Giáo PS 5-C182
Có nhiều khi chúng ta sinh hoạt như thể Giáo Hội là Giáo Hội của chúng ta, mà không là Giáo Hội của Đức Giêsu; hành xử như Giáo Hội thuộc về chúng ta, mà không phải chúng ta thuộc về Giáo Hội; và hành động như thể Giáo Hội là phương tiện thuộc quyền sở hữu, xử dụng của chúng ta theo chương trình của chúng ta, mà quên hẳn Giáo Hội là dấu chỉ của công trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta.
Thực vậy, vì nhìn sai, nhận định không đúng về Giáo Hội, mà trong đời sống, chúng ta gặp nhiều lúng túng, lấn cấn với Giáo Hội, và đời sống Kiô hữu của chúng ta thường xuyên bất ổn.
Để trở thành một Kitô hữu đích thực hạnh phúc, trước hết chúng ta cần xác định: Giáo Hội là Giáo Hội của Đức Giêsu, vì một lý do đơn giản: chính Đức Giêsu đã thành lập Giáo Hội trên tảng đá Tông Đồ trưởng Phêrô của Ngài, chứ không phải các Tông Đồ đã lập Giáo Hội trên nền tảng “Đức Giêsu” như Tin Mừng đã chi tiết ghi lại : “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: Anh là Phêrô, nghiã là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16,18).
Vì là Giáo Hội của Đức Giêsu, nên những người thuộc về Giáo Hội phải công bố, loan truyền qua tiếng nói và việc làm niềm tin của mình vào Đức Giêsu, và sẵn sàng đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện nơi Đức Giêsu. Nói cách khác, tuy thuộc về Giáo Hội, nhưng chúng ta không được tự cho mình là nguồn ơn cứu độ, là người có quyền cứu độ, như một số người quên sứ vụ “thừa tác” của mình, mà “vô ý, vô tình” tự đồng hóa mình với Thiên Chúa, tự nâng mình lên hàng “Đấng ban ơn cứu độ” cho anh em mình.
Thực vậy, nguy cơ lớn nhất của những người thuộc về Giáo Hội, nhất là khi được đặt vào vị thế có quyền quản trị Giáo Hội, là nghĩ mình sở hữu Giáo Hội, khi lầm tưởng Giáo Hội từ nay thuộc về mình, và không còn là Giáo Hội của Đức Giêsu, khi mắt bị mờ trước những thành quả lớn lao, hoành tráng của mình trong Giáo Hội.
Bởi thế, bao lâu Giáo Hội, được hiểu là chúng ta, những người Kitô hữu ở bất cứ vị thế, và mang bất cứ trách nhiệm nào trong Giáo Hội, còn biết mình là dấu chỉ hữu hiệu của ơn cứu độ, còn chân nhận Đức Giêsu là Đầu của Giáo Hội, là Mục Tử tối cao của đoàn chiên “Dân Chúa”, và luôn khiêm tốn đặt mình dưới sự hướng dẫn và sinh động của Chúa Thánh Thần, bấy lâu Giáo Hội còn xứng đáng là Hiền Thê yêu dấu của Đức Giêsu, “Đấng yêu thương và hiến mình vì Giáo Hội” ( Ep 5,25).
Chính vì lý do này mà chúng ta cần:
a/ Ý thức sứ vụ cầu nguyện của mình, và không coi việc cầu nguyện như phương tiện; trái lại, cầu nguyện là không gian và thời gian để nhận ra Giáo Hội là Giáo Hội của Đức Giêsu.
b/ Ý thức sứ vụ cử hành bí tích của mình chính là lúc chúng ta nhận ra mình bất xứng, đồng thời tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng hoạt động trong Giáo Hội để cứu độ nhân loại, và chính Giáo Hội hằng ngày được lớn lên, lan rộng nhờ cử hành các bí tích.
c/Sau cùng, chúng ta ý thức sứ vụ truyền giáo của mình là “loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại” trước mặt và cho muôn dân để toàn thể nhân loại đi vào tương quan Cha Con với Thiên Chúa, khi nhận biết Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ nhân hậu, giầu lòng thương xót, Đấng ban cho tất cả những ai tin vào Ngài ơn tha tội và sự sống đời đời.
Xin Đức Giêsu phục sinh ban cho chúng ta tình yêu Giáo Hội, vì thiếu tình yêu dành cho Giáo Hội, chúng ta sẽ dễ biến Giáo Hội thành một phe đảng, một tổ chức “vụ lợi” dưới nhiều hình thức, hoặc một phương tiện “toàn năng” nhờ vỏ bọc “thần quyền”, và xin cho chúng ta lòng khiêm tốn biết mình bất xứng với ơn gọi và đặc ân làm người Kitô hữu bằng tháp nhập, cậy dựa vào Đức Giêsu, qua đời sống cầu nguyện, đón nhận các bí tích và hăng say, nhiệt thành loan báo Tin Mừng để góp phần làm cho Giáo Hội ngày càng xinh đẹp, thánh thiện và tinh tuyền, xứng đáng là Dấu Chỉ Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa giữa loài người.
Với tình Thầy trò dốc bầu tâm sự trước lúc chia tay đôi ngả đôi nơi, Chúa Giêsu nói: “Các con PS 5-C183
Với tình Thầy trò dốc bầu tâm sự trước lúc chia tay đôi ngả đôi nơi, Chúa Giêsu nói: “Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa thôi. Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13, 35).
Điều Răn Mới
Câu hỏi được đặt ra: Phải chăng chúng ta dùng những tình cảm tự nhiên để yêu thương như bạn bè yêu nhau, cha mẹ yêu thương con cái, con cái yêu thương cha mẹ, đồng lớp đồng niên yêu nhau, nam nữ yêu nhau là cổ hủ lỗi thời, hay khác với tình yêu Đức Kitô đã yêu chúng ta sao mà Người còn phải truyền dạy chúng ta một “Điều Răn Mới”?
Mới ở chỗ nào khi tình yêu phát xuất từ con tim, lòng không yêu thì làm sao bắt buộc phải yêu? Tình yêu là cả vùng trời bao la bát ngát, người ta khai thác tình yêu trên mọi lĩnh vực. Cuộc sống cần tình yêu. Nhân loại cần tình yêu. Mỗi người sống trong cuộc đời này đều cần và rất cần tình yêu. Có thể nói, tình yêu là lẽ sống, là niềm hạnh phúc, là sự bình an của tất cả mọi người. Có bao nhiêu cuốn tiểu thuyết là có bấy nhiêu chuyện tình. Có bao nhiêu bài thơ, ca, hò, vè, phim truyện, tiểu phẩm, bài hát hay quảng cáo là có bấy nhiêu cách diễn tả tình yêu. Tình yêu là tặng phẩm quí báu Thiên Chúa ban cho nhân loại, sống yêu là sống trong hy vọng. Vì muốn chúng ta hạnh phúc, nên Chúa truyền dạy: “Các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34).
Mến Chúa như Chúa yêu ta
“Mến Chúa” là điều răn thứ nhất và trọng nhất. Sau khi sống lại Chúa Giêsu hỏi Phêrô đến ba lần “con có yêu mến Thầy không?” Ông đều xác nhận “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21, 15-17). Một Hội Thánh thiếu gì chứ thiếu tình yêu là điều không thể. Chồng khao khát tình yêu của vợ, cha mẹ khao khát tình yêu của con cái, thì Chúa cũng khao khát tình yêu của chúng ta đối với Chúa. Thánh Gioan viết “Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga 4,8). Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào lỗ mũi để con người được sống, Thiên Chúa cũng thông ban tình yêu cho con người (x. St 2,7).
Mượn lời của Phêrô, chúng ta thưa với Chúa rằng: “Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự, Chúa biết rằng con yêu mến Chúa”. Tuân giữ Lời Chúa chứng tỏ rằng chúng ta yêu Chúa.
Yêu người như Chúa yêu
Thiên Chúa là Tình Yêu, Đạo chúng ta là Đạo yêu thương. Chúa dạy chúng ta phải yêu nhau vì Chúa đã yêu chúng ta trước: “Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34).
Chúng ta thấy đôi nam nữ yêu nhau, đó là tình yêu. Trong gia đình, cha mẹ, con cái, anh chị em họ hàng mến thương nhau, đó là tình yêu. Những người đồng lớp, đồng niên yêu thương nhau cũng là tình yêu. Tình yêu Kitô giáo mới ở chỗ, trong tình yêu có lòng nhân từ và thương xót, tiếp Hy lạp gọi là Agape. Yêu người khác không phải là cảm xúc thương hại, nhưng là yêu có lý chí, luôn muốn điều tốt cho mọi người. Không cảm thấy đắng cay và không ý thức trả thù.
Yêu nhau là dấu hiệu có Thiên Chúa ở cùng (x.1Ga 4,12). Yêu nhau chứng tỏ rằng chúng ta yêu Chúa, là môn đệ Chúa như Chúa Giêsu nói: “Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau” (Ga 13,35-35).
Mới ở chỗ yêu cả kẻ thù, và cầu nguyện cho kẻ bắt bớ (x. Lc 6,27). Giống như Thiên Chúa khiến mặt trời mọc lên soi chiếu người lành cũng như kẻ dữ, làm mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương (x. Mt 5,45). Yêu người yêu mình, yêu người đáng yêu, thì ai cũng yêu được, song yêu người ghét mình, yêu người không đáng yêu, mới là tình yêu, vì đó là tình yêu Chúa, Thiên Chúa đã yêu chúng ta như vậy đấy.
Có người nói tình yêu Thiên Chúa ban cho con người để thương yêu nhau. Nơi đâu thiếu sự yêu thương, nơi đó sinh ra lộn xộn. Nhìn vào thế giới chúng ta đang sống, chắc hẳn chúng ta cũng nhận thấy tình yêu thương đang héo úa dần, nên bất an, loạn lạc, chiến tranh về mọi phương diện tinh thần cũng như vật chất, chiến tranh tôn giáo, sắc tộc, xác thịt và tâm linh ngày càng gia tăng.
Bằng chứng của tình yêu
Yêu thật lòng không bằng đầu môi chóp lưỡi, nhưng bằng việc làm và lẽ thật (x.1Ga 3,18). Chúa yêu chúng ta nên đã tự hiến thân mình làm tế lễ đền tội cho chúng ta. Nếu chúng ta thật lòng yêu Chúa, thì hãy dâng mình làm của lễ sống thánh thiện đẹp lòng Chúa (x. Rm 12,1). Ai yêu Chúa thật lòng, người ấy sẽ tuân giữ lời Chúa, đó là bằng chứng cụ thể nhất, không thể có một người yêu Chúa, mà không giữ lời Chúa được (x. Lc 6, 46; Mc 3,5).
Ai thật lòng yêu người, thì kẻ ấy chia sẻ cái mình có cho anh em đồng loại (x.1Ga 3,17).Làm sao chúng ta yêu thật, yêu như Chúa dạy khi mà chúng ta đầy lòng ích kỷ? Được Chúa yêu và đổ vào lòng chúng ta ân sủng tình yêu Chúa, chúng ta yêu anh em mình là phải lẽ: “Mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ Thầy, nếu các con một lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 35). Người đời thấy Chúa là Cha qua chúng ta. Vì không yêu anh em mình thấy được, thì làm sao yêu Thiên Chúa là Đấng chẳng hề thấy. “Chúng ta yêu nhau vì Chúa yêu chúng ta trước, ai yêu Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình là kẻ nói dối…” (x.1Ga 4, 20).
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu của Chúa, để rồi tình yêu đó là bài giảng sống, chinh phục được nhiều người trở về với Chúa. Tình yêu không bằng lời nói, bằng lưỡi mà bằng việc làm, từ lòng đến lòng, từ nơi sâu thẳm nhất của con tim. Lạy Chúa, xin ban cho chúng ta tình yêu đó. Amen.
Sứ điệp trung tâm của phụng vụ Lời Chúa tuần này là giới răn yêu thương: “Anh em hãy yêu PS 5-C184
Sứ điệp trung tâm của phụng vụ Lời Chúa tuần này là giới răn yêu thương: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em.” Chúa Giêsu lặp lại ba lần những lời này. Điều đó cho thấy đây là mạc khải quan trọng, Người gọi là giới răn mới. Nên trong thánh lễ này, chúng ta tìm hiểu về ý nghĩa của giáo huấn này.
1- Giới răn mới
Thực ra, Cựu Ước đã nói về giới răn yêu thương rồi. Từ xa xưa, sách Lêvi đã dạy giới răn yêu thương: “Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình” (Lv 19,18). Ở đây, Cựu Ước lấy việc “yêu mình” làm chuẩn mực, bởi theo một mức độ nào đó, nếu ta yêu người như yêu mình, thì tình yêu đó cũng là tốt lắm rồi. Vì ai cũng muốn điều tốt cho chính mình. Tuy nhiên, yêu người như yêu chính mình vẫn là tình yêu giới hạn, nhiều lúc nặng tính ích kỷ, có điều kiện, chưa phải là tình yêu hoàn hảo.
Chúa Giêsu đã đi xa hơn khi nói: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” “Yêu như Thầy đã yêu” nghĩa là yêu thương theo cách thức của Chúa Giêsu. Đây chính là sự mới mẻ, là căn bản của Kitô Giáo. Quả vậy, Kinh Thánh Cựu Ước chỉ nói tới giới răn yêu thương mà không giới thiệu một khuôn mẫu cụ thể hoàn hảo nào của tình yêu. Ngược lại, trong Tân Ước, Chúa Giêsu tự giới thiệu mình như là khuôn mẫu tuyệt hảo và nguồn mạch của tình yêu.
Bởi lẽ, điều Chúa Giêsu nói và làm là một: Người là Thiên Chúa, nhưng đã trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận tôi đòi. Người cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Người chấp nhận chết trên thập giá để cứu độ chúng ta. Người sống lại và ban Thánh Thần cho chúng ta. Người đã lập bí tích Thánh Thể để ở lại với chúng ta mãi cho đến ngày tận thế.
Tình yêu Chúa là mới mẻ bởi vì tình yêu đó được thể hiện bằng những việc làm cụ thể, đó là phục vụ, cảm thương, dịu dàng, tha thứ, hy sinh vì chúng ta.
Tình yêu Chúa là mới mẻ bởi vì đó là một tình yêu hoàn toàn nhưng không, Người không tìm kiếm điều kiện để yêu, Người yêu cả những ai không xứng đáng, Người yêu cả những ai làm hại mình.
Tình yêu Chúa là mới mẻ bởi vì Chúa Giêsu không nói: “Thầy đã yêu thương anh em, nên anh em hãy yêu thương Thầy và hãy phục vụ Thầy…” Nhưng Chúa nói: Thầy đã yêu thương anh em. Giờ anh em hãy yêu thương nhau và phục vụ lẫn nhau. Đó là sự mới mẻ và cao cả!
2- Dấu chỉ người môn đệ Chúa Kitô
Như thế, tình yêu Chúa Giêsu ở dạng thức cao cả nhất– agape – tình yêu hiến dâng hoàn toàn mà không hề có bóng dáng ích kỷ và chiếm hữu. Tình yêu Chúa là phổ quát, không giới hạn và vô điều kiện. Người yêu chúng ta trước khi chúng ta còn là tội nhân. Tình yêu đó là lớn lao.
Vì thế, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em.” Tình yêu Chúa là mẫu gương tuyệt hảo cho chúng ta noi theo.
Chúa Giêsu còn nói thêm: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là anh em yêu thương nhau” (Ga 13,35).
Như thế, qua câu nói trên, Chúa Giêsu muốn quả quyết rằng: Dấu chỉ mà người ta nhận biết chúng ta là môn đệ Chúa Kitô không phải vì chúng ta có chức vụ trong Giáo Hội, không phải vì chúng ta đeo thánh giá, tràng hạt, mặc áo tu, hay phẩm phục tôn giáo, đọc kinh nhiều, nhưng là tình yêu thương nhau.
Người môn đệ Chúa Kitô là người theo sát dấu chân của Người, học theo cung cách sống của Người để trở nên đồng hình đồng dạng với Người (sequela Christi). Như thế, dấu chỉ của người môn đệ đích thực yêu thương như Chúa đã yêu thương. Tình yêu và lòng bác ái mà chúng ta dành cho nhau là bằng chứng hùng hồn chúng ta thực sự là môn đệ Chúa Kitô. Yêu thương là dấu chỉ người môn đệ chân chính của Đức Kitô. Như thế, rõ ràng theo logic này: Nếu chúng ta không sống yêu thương nhau thì chúng ta không phải là môn đệ Chúa. Nếu chúng ta làm cho người khác phải đau khổ, chúng ta không phải là môn đệ Người. Chúng ta thử hỏi: chúng ta có yêu thương nhau như Chúa dạy không?
3- Mọi sự sẽ thay đổi nhờ tình yêu
Câu chuyện sau đây diễn tả về đời sống cộng đoàn thay đổi khi họ biết yêu thương nhau:
Bề trên một tu viện Công Giáo đến tìm vị ẩn sĩ trên vùng núi Hi Mã Lạp Sơn để trình bày về tình trạng bi đát của tu viện.
Trước kia, tu viện này là một trung tâm sầm uất. Khách hành hương tấp nập. Nhà thờ lúc nào cũng vang lừng lời ca tiếng hát cầu nguyện. Tu viện không còn chỗ nhận thêm người vào tu. Vậy mà giờ đây, tu viện chẳng khác một ngôi nhà hoang phế. Nhà thờ vắng lặng. Tu sĩ thưa thớt già nua. Cuộc sống buồn tẻ.
Cha bề trên hỏi vị ẩn sĩ nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã khiến tu viện rơi vào tình trạng suy sụp như hiện nay. Vị ẩn sĩ ôn tồn bảo: “Các tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn đó là tội vô tình.” Ông giải thích thêm: “Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quý vị, nhưng quý vị không nhận ra Người.”
Nhận được lời giải đáp, cha bề trên hớn hở ra về. Cha tập họp các tu sĩ lại và loan báo cho họ biết Đấng Cứu Thế đang ẩn mình giữa cộng đoàn. Nghe nói thế, mọi người mở to mắt và quan sát nhau. Ai là Đấng Cứu Thế cải trang? Nhưng chắc chắn nếu Đấng Cứu Thế đã cải trang thì chẳng ai có thể nhận ra Người. Mỗi người sống chung với ta đều có thể là hiện thân “Đấng Cứu Thế.”
Từ ngày ấy, mọi người kính trọng nhau như với Đấng Cứu Thế. Mọi người quan tâm và phục vụ nhau. Chẳng bao lâu, bầu khí yêu thương huynh đệ, sức sống và niềm vui trở lại với tu viện. Khách hành hương bốn phương lại tấp nập tuôn về. Lời kinh tiếng hát lại vang lừng trong tu viện. Bị cuốn hút bởi bầu khí vui tươi thánh thiện, nhiều thanh niên đến xin gia nhập cộng đoàn.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta luôn ý thức rằng, được làm môn đệ Chúa Kitô là một niềm vui lớn lao; đồng thời chúng ta biết sống yêu thương anh em như Chúa Giêsu đã nêu gương. Amen.
Chúng ta biết một phần nhỏ về thân thích, thân hữu, mà không thể biết rõ về người đó. Cũng vậy PS 5-C185
Chúng ta biết một phần nhỏ về thân thích, thân hữu, mà không thể biết rõ về người đó. Cũng vậy, chúng ta biết ít nhiều về Juda. Ông không biết những mặc khải Đức Kitô thông báo cho các môn đệ về những gì sắp xảy ra cho Ngài. Sau khi ông ra đi, Đức Kitô cho các môn đệ khác biết.
Thứ nhất, Ngài chỉ còn ở trần gian một thời gian ngắn.
Thứ hai, Ngài đến từ Chúa Cha và sẽ trở về cùng Chúa Cha. Hiện nay chúng ta biết Đức Kitô ra đi bằng con đường thập giá.
Thứ ba, Đức Kitô loan báo Juda phản bội (Gn 13,21), và tất cả các môn đệ đều tỏ ra yếu đuối khi đối diện với đau khổ, bắt bớ.
Thứ tư, trong gian truân, Phêrô sẽ chối không biết Đức Kitô là ai.
Biết rõ bị phản bội, chối bỏ, Đức Kitô không hề giận dữ, hằn học, trách móc. Trái lại Ngài nói về lòng mến. Ngài nói về tình yêu để Vinh Danh Chúa Cha và nói về tình yêu Ngài dành riêng cho các môn đệ (Gn 13,1). Ngài yêu mến môn đệ thiết tha, nhưng yêu mến Chúa Cha trên tất cả, hơn cả chính sự sống mình. Với Chúa Cha, Đức Kitô Vinh Danh Chúa Cha. Với môn đệ, Đức Kitô ban cho các ông ân sủng đoàn tụ qua bữa Tiệc Li, hiện nay được biết đến là Bí Tích Thánh Thể.
Các tông đồ nghe biết những gì sắp xảy ra cho Đức Kitô, nhưng các ông không thể hiểu làm sao việc hy sinh chết đau khổ trên thập giá lại có thể mang Vinh Danh cho Chúa Cha và mang Vinh Danh cho chính Đức Kitô.
Có lần Philip hỏi Đức Kitô xin cho các ông gặp Chúa Cha. Đức Kitô đáp:
‘Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha…. Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy’ Gn 14,9
Ở một nơi khác Đức Kitô xác định: ‘Tôi và Chúa Cha là một’ Gn 10,31.
Đức Kitô chính là hình ảnh của Chúa Cha. Tình yêu của Đức Kitô cũng là tình yêu của Chúa Cha. Bởi cùng một nguồn tình yêu nên không thể tách rời tình yêu Chúa Cha ra khỏi tình yêu Đức Kitô. Nếu có tách rời thì cũng ví như sợi tóc chẻ đôi, cùng bản tính, cùng nguồn gốc, cùng mục đích. Đức Kitô vừa là tình yêu của chính Chúa Cha vừa là con đường dẫn Kitô hữu đến với Chúa Cha. Vì thế làm Vinh Danh Chúa Cha cũng chính là làm Vinh Danh Chúa Con.
Đức Kitô cũng cho biết tình yêu chân thành đòi buộc hy sinh. Yêu chân thành và hy sinh gắn bó mật thiết không thể phân li, chia lìa. Đức Kitô thể hiện tình yêu chân chính đó trên thập giá. Ngài là Đấng duy nhất dùng chính mạng sống mình để ban sự sống trường sinh cho nhân loại. Ngài cũng là Đấng duy nhất dùng chính Mình và Máu Mình thành mối giây liên kết Kitô hữu với chính Ngài khi Kitô hữu tụ họp để cùng bẻ bánh, đầu mối của mọi liên kết Kitô hữu.
Cha mẹ thường để tiền tài, vật chất làm của hồi môn cho con cái. Đức Kitô không để lại của cải, vật chất, nhưng để lại sự sống trường sinh và ơn bình an vĩnh cửu cho Kitô hữu. Ngài còn hướng dẫn cách thức để cầm giữ, bảo vệ ơn bình an vĩnh cửu bằng cách
‘Yêu thương tha nhân như chính Thầy yêu thương anh em’.
Khi thực hành điều răn yêu thương Đức Kitô truyền dậy, Kitô hữu nhận được sự sống trường sinh và ơn bình an vĩnh cửu.
Yêu mà thiếu hy sinh là yêu một cách thoáng qua, thông thường. Ví dụ như ta yêu một bông hoa, cánh bướm, giọt sương trên lá, buổi sáng bình minh. Yêu chân thành đòi hy sinh và đây chính là điều Đức Kitô kêu gọi môn đệ thực hành trong cuộc sống. Chính hy sinh, tận hiến biến tình yêu Kitô hữu trở thành mối tình đặc biệt, phát xuất tự con tim yêu mến.
Yêu thương chính là con đường thập giá. Thực hiện công việc thường ngày với tâm tình yêu mến, hy sinh chính là vui lòng vác thập giá đời mình. Đây chính là thực hiện tình yêu Đức Kitô nói đến. Vác thập giá cách miễn cưỡng vẫn không tránh khỏi đau khổ, trái lại còn làm cho đau khổ tăng lên gấp bội. Vui lòng đón nhận thập giá với tất cả tâm tình, ngay trong trường hợp đòi hy sinh lớn, sầu thương chất ngất, nhưng vui lòng đón nhận chính là thể hiện điều Đức Kitô kêu gọi Kitô hữu
‘Hãy yêu mến nhau như thầy yêu anh em’ Gn 13,35.
Điều răn này là một phần của cuộc giã biệt. Chúng ta coi chia tay như là việc chia lìa, ra đi. Đức Kitô coi việc chia tay chính là tụ họp, là vắng mặt một thời gian ngắn trước khi đoàn tụ vĩnh viễn. Ngài trở về, đoàn tụ cùng Chúa Cha và Kitô hữu bước theo chân Đức Kitô để cùng đoàn tụ với Đức Kitô. Việc đoàn tụ đầu tiên chính là gặp gỡ nhau trong tiệc ‘Bẻ Bánh – Tiệc Li’ qua sự kết hợp của Chúa Thánh Thần.
Mỗi lần Kitô hữu tụ họp tham dự Thánh Thể chính là gặp lại Đức Kitô Phục Sinh không phải bằng con mắt thường nhưng bằng tâm linh, lòng yêu mến. Lời kêu gọi ‘Hãy Theo Ta’ giờ đây được thay thế bằng điều răn mới: ‘Hãy yêu thương nhau như chính Thầy yêu thương anh em’.
Chúng ta cùng hỗ trợ nhau thực hiện điều răn mới: Yêu Thương.
Chúng ta tìm thấy những lời tâm huyết nhất của CG ở đâu? Chắc chắn không đâu khác hơn là PS 5-C186
Chúng ta tìm thấy những lời tâm huyết nhất của CG ở đâu? Chắc chắn không đâu khác hơn là lời Chúa nói trong bữa Tiệc ly. Như cha mẹ dặn dò, di chúc cho con cái lúc hấp hối, CG cũng dặn dò các môn đệ bằng những lời nói chân tình và tha thiết nhất như vậy. Chúng ta có thể thấy những lời này trong Tin Mừng hôm nay: “Thầy ban cho các con điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con hãy yêu thương nhau…”
Tại sao CG lại gọi đây là điều răn mới? Trong Cựu Ước luật Môsê đã dạy: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình (Lv19, 18)” Cha ông chúng ta nói: “Tứ hải gia huynh đệ : Bốn bể là nhà và tất cả đều là anh em”. Khổng Tử dạy: “Kỉ sở bất dục, vật thi ư nhân: Cái gì mình không thích đừng làm cho người khác”. Việt Nam chúng ta có câu tục ngữ: “Thương người như thể thương thân”.
Vậy điều răn Yêu thương của CG mới ở điểm nào. Thưa mới là ở chữ NHƯ: Như Thầy đã yêu thương các con thì các con cũng hãy yêu thương nhau. CG muốn chúng ta lấy tình yêu của Chúa làm mẫu mực. Vậy chúng ta hãy nêu lên đôi nét về tình yêu của Chúa đối với các môn đệ và cũng là đối với chúng ta như thế nào.
Thánh Gioan hiểu về tình yêu theo mẫu gương của CG nên đã viết: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi. mà yêu thương cách chân thật và bằng việc làm (1Ga 3, 18) ” tình yêu thương phải được chứng tỏ bằng việc làm và sự thật. CG đã biểu lộ tình yêu đó bằng tinh thần phục vụ đúng như lời Chúa nói: “Con người đến không phải để được người ta hầu hạ nhưng để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người (Mt 20, 28)”. Đúng vậy cuộc sống của Chúa là đời sống của người phục vụ: Chúa đi rao giảng Tin Mừng từ thành này qua thành nọ, Chúa làm phép lạ chữa lành bệnh tật, trừ quỉ; Chúa gần gũi những người nghèo khổ, ốm đau, Chúa hoán cải những người tội lỗi và không ngần ngại Rửa chân cho các tông đồ để dạy các ông bài học yêu thương phục vụ vì thế CG đã nói : “Thầy sống giữa anh em như người phục vụ (Lc 22,27)”. Tình yêu CG lên tới cao điểm khi Chúa hiến mạng sống mình để cứu chuộc chúng ta: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hi sinh tính mạng vì bạn hữu mình (Ga 15,13).” Đó cũng chính là tình yêu cứu độ vì nhờ Chúa yêu thương chịu chết vì chúng ta mà chúng ta được ơn tha tội và được hưởng ơn cứu rỗi.
Vậy trong cuộc sống thường ngày chúng ta phải làm gì để có thể yêu thương nhau như Chúa yêu thương chúng ta? Tình yêu xuất phát từ trong tâm hồn, chúng ta hãy ước muốn điều tốt cho anh em, thực hiện lời thánh Phao lô : “Vui với người vui, khóc với người khóc (Rm 12,15)”: Chia sẻ niềm vui, nỗi buồn của anh em. Đức Giáo hoàng Phanxicô muốn chúng ta hướng về anh em ở Ucraine đang đau khổ, tang thương chết chóc vì chiến tranh để cảm thông, cầu nguyện và chia sẻ nhu cầu vật chất cho họ như các sinh viên ở Mỹ đã làm, chúng ta cũng luôn có những người nghèo khổ ở bên chúng ta chúng ta hãy giúp đỡ họ khi có thể làm được.
– Như Chúa đã tha thứ cho anh em thế nào thì anh em cũng hãy tha thứ cho nhau như vậy (Cl 3,13). Yêu như Chúa yêu thúc đẩy chúng ta tha thứ cho nhau từ trong gia đình ra ngoài xã hội. Trước tiên là phải có tinh thần chấp nhận khuyết điểm của anh em. Thí dụ nay có một số người thích hát karôkê và khi hát họ thường mở loa lớn khiến bà con hàng xóm khó chịu. Tôi thiết nghĩ nếu những người hát karôkê không tôn trọng bà con hàng xóm và Chính quyền chưa có biện pháp, thì trước hết mình hãy có tinh thần chấp nhận, nhờ vậy cũng giúp ta bớt đi được ít nhiều sự bực dọc.
Yêu như Chúa cũng dạy ta hãy cầu nguyện cho nhau, không những là cầu nguyên cho ân nhân, thân nhân mà còn cầu nguyện cho những người có ác cảm với mình, những người mình không ưa và cả kẻ nghịch thù nữa. Nếu CG đã cầu nguyện trên Thánh Giá: “Xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm (Lc 23, 33)”, và thánh Stêphanô vị tử đạo tiên khởi cũng cầu nguyện tương tự: “Xin Chúa đừng chấp họ tội này (Cv7, 60)”, thì chúng ta cũng hãy mở rộng tâm tình cầu nguyện của mình như vậy .
CG đã dạy chúng ta thực hành tình yêu thương nhau như là dấu hiệu của người môn đệ Chúa để khi đến trước Tòa Chúa phán xét thì như lời thánh Gioan Thánh Giá: “chúng ta sẽ được Chúa xét xử theo hành động đức bác ái. Chính tình yêu sẽ ấn định số phận đời đời của mỗi người”
Câu chuyện thánh M. Goretti. Goretti là thiếu nữ vừa đẹp người lại đẹp nết. Alexander đang làm ở ngoài đồng về nhà rủ rê Goretti ân ái, nhưng cô không chịu, nên Alexander dùng dao chém tới 17 lát. Anh trai của Goretti định trả thù nhưng Goretti dù rất đau đớn đã can anh đừng trả thù, và sẵn lòng tha thứ cho Alexander. Sau đó Goretti được đưa tới nhà thương, nhưng không qua khỏi. Còn Alexander bị bắt giam trong tù. Một ngày kia Alexander mơ thấy Goretti hiện về tặng cho chàng bó hoa có bông hồng trắng và hồng đỏ. Từ đó chàng ăn năn và sống tốt hơn nên được tha trước kì hạn 30 năm tù khổ sai và đến ngày M. Goretti được Giáo hội phong thánh thì Alexander đã đi dự lễ này.
Chúng ta nguyện sống giới răn mới của CG yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta để được xứng đáng là môn đệ Chúa. Amen.
Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh.... Đó là dòng chảy tình yêu từ nguồn cội Thiên PS 5-C187
“Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em, anh em hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến anh em”. Đó là dòng chảy tình yêu từ nguồn cội Thiên Chúa Ba Ngôi tràn trào đến con người. Một tình yêu có khả năng mang lại sự sống và sức sống cho cuộc đời.
Khi sắp từ giã các môn đệ để bước vào khổ nạn, Chúa Giêsu trao cho họ những lời tâm huyết sau cùng: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau. Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau“.
Với ba câu Tin Mừng, Chúa Giêsu lặp lại điệp khúc: “Yêu thương nhau”. Chúa gợi lên ba lý do bổ sung cho nhau về đức yêu thương. Đó là lệnh truyền: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới”; Đó là gương mẫu: “Yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”; Đó là dấu chỉ: “Người ta sẽ nhận biết anh em nhờ tình yêu…”.
Lệnh Truyền
“Thầy ban cho anh em một điều răn mới”.Trước khi công bố điều răn mới, Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ. Và Ngài đã yêu họ đến cùng bằng việc hiến dâng mạng sống trên thập giá. Chúa Giêsu đã yêu trước khi truyền cho các môn đệ yêu thương nhau. Đây là điều răn mới, mới đến nỗi Chúa gọi đó là luật của riêng Ngài: “Đây là điều răn của Thầy” (Ga 15,12), mới ở chỗ yêu như Chúa yêu. Yêu thương nhau như Chúa yêu thương phải được cụ thể hóa bằng việc làm như chính Chúa đã dạy, đã thực hiện.
Chúa Giêsu đã coi “yêu thương” là điều răn căn bản của Kitô giáo: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em trên Trời” (Mt 5,43-45). Bài giảng trên núi khai triển giáo lý căn bản này và trở thành Hiến chương Nước Trời: “…Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương… Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5, 7-10).
Điều răn “cũ” trong sách Lêvi 19,18: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”. Yêu thương theo luật cũ là “yêu tha nhân như chính mình”. Còn yêu thương trong Luật mới là yêu thương như Chúa yêu thương. Chúa yêu chúng ta là yêu đến cùng, yêu đến hy sinh mạng sống vì người mình yêu. Tình yêu của Chúa Giêsu phải là nền tảng và là nguồn gốc của tình yêu lẫn nhau giữa các môn đệ. Tình yêu giữa các môn đệ với nhau sẽ không còn ý nghĩa nếu không liên lỉ quy chiếu về tình yêu của Chúa Giêsu.
Thánh Phaolô đã nói đến chiều cao, chiều sâu, chiều dài, chiều rộng của tình Chúa yêu con người (x.Ep 3,18). Và cũng có người đã tìm ra chiều cao, sâu, rộng dài của tình yêu Chúa như thế này:Yêu người như người yêu người là bậc thấp, là luật cũ của Cựu Ước;Yêu người như Chúa yêu người là bậc cao, là luật mới của Tân Ước.
Luật yêu thương mới là cốt tủy của đạo Chúa và cũng là nền tảng của mối liên hệ giữa con người với Thiên Chúa cũng như giữa con người với nhau. Mến Chúa yêu người đi song đôi với nhau. Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu tha nhân và tình yêu tha nhân là thước đo tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa là mẫu mực để tình yêu con người trở nên hoàn thiện.
2.Gương Mẫu
“Yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Chữ “như” ở đây không phải là liên từ để so sánh hai vế, mà nó có một ý nghĩa mở ra nguồn gốc của tình yêu. “Yêu như Thầy” là lấy khuôn mẫu tình yêu giữa Chúa Giêsu với Chúa Cha và giữa Ngài với các môn đệ, để các ông cũng yêu nhau và yêu mọi người như chính mình đã chứng kiến và được yêu.
Chữ “như” ở đây thật quan trọng. Nói đến Công Giáo là người ta nghĩ ngay đến hai từ “bác ái”. Bác ái không nguyên là yêu thương nhau theo kiểu cha ông truyền dạy là “thương người như thể thương thân” mà còn phải yêu thương nhau như Chúa Kitô đã yêu thương chúng ta. Chúa Giêsu đã so sánh: như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em, anh em hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến anh em.
Như Cha đã yêu mến Thầy. Chúa Giêsu đã nhiều lần nói về tình yêu của Chúa Cha dành cho Người (x.Ga 3,35;5,20;17,24). Chúa Cha cũng nhiều lần xác nhận điều này (x.Mt 3,17;17,5). Tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Con là tình yêu chia sẻ và trao ban.Tình yêu của Chúa Con đối với Chúa Cha là tình yêu tôn kính và vâng phục. Chúa Con yêu các môn đệ như tình yêu Chúa Cha đối với Người.
Yêu như Thầy đã yêu có nghĩa là:
– Thầy chấp nhận cái chết thập hình để chuộc tội nhân loại: “Không có tình thương nào cao hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình”.
– Thầy cúi xuống rửa chân cho các môn đệ để nêu gương phục vụ.
– “Thầy không coi anh em là tôi tớ, nhưng Thầy coi anh em là bạn hữu của Thầy”(Ga 15,15a). Người là Thầy, là Chúa, các môn đệ là người, là đệ tử. Nếu Chúa muốn coi các ông là tôi tớ cũng được, nhưng không, Chúa đã coi họ là bạn hữu ngang hàng với Người. Bạn hữu tri âm tri kỷ nên “tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy,Thầy đã cho anh em biết”(Ga 15,15b).
– Thầy hy sinh quên mình, Thầy hạ mình phục vụ anh em. Thầy yêu những người bé nhỏ nghèo hèn, yêu thương cả những người thù ghét mình, những người làm hại mình, những người khó thương khó ưa và Thầy không ngừng tha thứ, muốn mọi người làm hoà với nhau.
– Cả cuộc đời Chúa Giêsu đã sống tình yêu nhập thể và hiến dâng cho tất cả mọi người. Chúa không để ai về tay không khi đến với Người. Kẻ mù được sáng, người què đi được, kẻ điếc nghe được, người câm nói được, những kẻ tội lỗi, những cô gái điếm tìm được ơn thứ tha…
Yêu “như Thầy đã yêu” làm nên nét đẹp của Tin mừng. Nét đẹp ấy có sức lôi cuốn mọi người đến cùng Chúa. Tình yêu ấy thật cao đẹp nên Chúa mời gọi: “Anh em hãy yêu như Thầy đã yêu” (Ga 13,34). Vẫn biết rằng con người chẳng bao giờ yêu nhau tới mức “như Thầy đã yêu”, nhưng lời mời gọi của Chúa vẫn luôn giục giã chúng ta hướng theo đường Chúa đã đi, lấy tình yêu của Chúa làm tiêu chuẩn cho mọi hành động, làm khuôn vàng thước ngọc cho mọi suy nghĩ, lời nói việc làm của chúng ta.
“Yêu như Chúa Kitô có nghĩa là nói ‘không’ với những thứ ‘yêu’ khác mà thế gian dành cho chúng ta: yêu tiền, chẳng hạn, những người yêu tiền không yêu như Chúa Giêsu yêu, yêu thành công, phù phiếm, yêu quyền lực…. Những con đường lừa dối của “tình yêu” này khiến chúng ta xa rời tình yêu của Chúa và khiến chúng ta ngày càng trở nên ích kỷ, tự ái, hống hách. Và hống hách dẫn đến suy thoái tình yêu thương, lạm dụng người khác, làm cho những người thân yêu của chúng ta đau khổ. Tôi đang nghĩ đến tình yêu không lành mạnh biến thành bạo lực, và có biết bao những phụ nữ là nạn nhân của bạo lực ngày nay. Đây không phải là tình yêu…
Yêu như Chúa yêu chúng ta có nghĩa là đánh giá cao những người bên cạnh chúng ta, tôn trọng tự do của họ, yêu họ như họ vốn có…” (ĐTC Phanxicô, 09/05/2021).
Dấu Chỉ
“Người ta sẽ nhận biết anh em nhờ tình yêu…”.
Người Kitô hữu có nhiều cách để biểu lộ lòng yêu mến Chúa, nhưng cụ thể nhất là giữ các điều răn Chúa dạy, cách riêng là điều răn yêu người. Chúa Giêsu đã chỉ một dấu hiệu để nhận biết người môn đệ của Chúa là “yêu thương nhau”.
Có nhiều dấu hiệu để người ta nhận ra một Kitô hữu: đeo thánh giá, làm dấu thánh giá trước khi ăn… Nhưng theo Chúa Giêsu, dấu hiệu đặc trưng của người môn đệ là tình yêu thương mà họ dành cho nhau: cảm thông, tha thứ, cộng tác, hy sinh, chia sẻ, đối thoại…
Tình yêu không phải là cái gì trừu tượng mà là thật cụ thể nên rất dễ nhận ra.
Yêu thương nhau là luôn nghĩ tới nhau. Những người yêu thương nhau thường nghĩ tới nhau; yêu nhau nhiều thì nghĩ tới nhau nhiều, nghĩ tới mà trong lòng cảm thấy vui sướng.
Yêu nhau nên thích gặp nhau. Những người kitô hữu yêu nhau, thì rất thích tụ họp, thích gặp gỡ nhau. Và thường họ tụ họp nhau vào ngày Chúa Nhật, trước hết là để cùng nhau cử hành thánh lễ, sau là để gặp nhau trò chuyện, hàn huyên, chia sẻ tâm tình với nhau. Yêu nhau nên ước muốn điều lành cho nhau. Mong cho nhau được sự may mắn, được thăng tiến, được làm ăn thành đạt, được sức khoẻ dồi dào, được có lòng đạo đức, được mãn nguyện theo ý muốn tốt lành. Và chính vì thế mà những người yêu nhau thường cầu nguyện cho nhau, xin Chúa yêu thương, an ủi, cứu giúp, phù hộ bạn mình.
Yêu nhau nên làm những điều lành cho nhau: có thể đó là sự giúp đỡ khi túng thiếu hay ốm đau, sự chăm sóc sức khoẻ, đời sống tâm linh của nhau, là sự chia sẻ của cải vật chất và tinh thần cho nhau. Giúp nhau củng cố và giáo dục đức tin, giúp hoà giải với nhau, giúp nhau xây dựng hạnh phúc gia đình, giúp nhau thành đạt trong công ăn việc làm. Dấu hiệu rõ nhất của tình yêu là sự hy sinh cho nhau: hy sinh thì giờ, sức khoẻ, tiền bạc, và thậm chí cả sự sống vì nhau.
Điều cao quý nhất mà Kitô hữu là mang Chúa đến cho nhau, vì mỗi người kitô hữu khi đã chịu phép rửa đều là đền thờ của Thiên Chúa.
Dòng chảy tình yêu giữa Chúa Cha, Chúa Giêsu và các môn đệ là một trong những đề tài độc đáo riêng của thần học Tin Mừng Gioan. Có thể nói, toàn bộ sứ vụ của Chúa Giêsu nhằm bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để bất cứ ai tin vào Người thì không hư mất, nhưng có sự sống đời đời” (Ga 3,16).
“Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương“. Dòng chảy tình yêu từ Thiên Chúa đến với tha nhân qua đời sống Kitô hữu: bác ái, yêu thương, phục vụ. Chúa Giêsu đã đối xử tốt với mọi người, yêu thương mọi người. Nguyện xin Chúa giúp chúng con tập sống yêu thương “như Thầy đã yêu” khi thực thi lời Chúa dạy “Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất là làm cho cho chính Chúa” (x.Mt 25,40)
Nhìn phong cách và động thái của ai đó, chúng ta có thể biết người đó như thế nào. Dĩ nhiên không PS 5-C188
Nhìn phong cách và động thái của ai đó, chúng ta có thể biết người đó như thế nào. Dĩ nhiên không tuyệt đối, nhưng có thể đa số và với mức đúng cao. Quả thật, tâm hồn thế nào sẽ phát tiết ra tướng mạo. Nói cho dễ hiểu, “tâm” là nhân của “tướng” và “tướng” là quả của “tâm” vậy.
Bề ngoài thể hiện bề trong, và ngược lại. Đó là một loại dấu hiệu hoặc dấu chỉ. Có nhiều loại dấu chỉ, có thể đó là điềm báo tốt hoặc xấu (gở). Dấu chỉ bình thường thì người ta gọi là dấu hiệu, còn về sức khỏe thì người ta gọi là triệu chứng – điềm báo xấu về một chứng bệnh nào đó, có thể trầm trọng hoặc nguy hiểm tới tính mạng. Thời gian qua, người ta “kinh nghiệm” rất nhiều về triệu chứng Cúm Tàu.
Dấu buồn còn đó. Vết đau còn đó. Có lẽ chưa bao giờ có năm nào nhiều gia đình có giỗ như năm nay – năm 2022. Bởi vì số tử vong vì Cúm Tàu trên thế giới là xấp xỉ 6.300.000 người, trong đó Việt Nam có vài chục ngàn trường hợp, có nhà có đến vài người mất, nhiều trẻ em hóa mồ côi vì mất cả cha mẹ. Thật tang tóc!
Bất cứ lĩnh vực nào cũng có dấu chỉ đặc trưng: tôn giáo, xã hội, kinh tế, chính trị, môi trường, y tế, giao thông, thời tiết,… và kể cả tâm linh. Thấy mây vần vũ, người ta đoán có thể mưa; thấy người khác khóc, người ta biết họ buồn; thấy người khác cười, người ta biết họ vui. Hằng ngày chúng ta thấy có nhiều dấu hiệu thuộc các lĩnh vực khác nhau.
Chúa Giêsu nói về dấu chỉ thời tiết bình thường để nói về dấu chỉ thời đại: “Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc thì anh em biết là mùa hè đã đến gần. Cũng vậy, khi thấy tất cả những điều đó, anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi.” (Mt 24:32-33; Mc 13:28-29; Lc 21:30-31) Tại sao cần nhân biết dấu chỉ? Để ý thức và chuẩn bị hoặc “chấn chỉnh” điều gì đó cho hợp ý Chúa.
Mọi nơi và mọi lúc đều có các dấu chỉ. Mỗi thời mỗi khác. Thời Cựu Ước, dấu chỉ của giao ước là phép cắt bì, (Cv 7:8) dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm là các vầng sáng trên vòm trời, (St 1:14) dấu chỉ của một tâm hồn hạnh phúc là nét mặt vui tươi, (Hc 13:26) dấu chỉ giữa Thiên Chúa với dân chúng là ngày sabát. (Ed 20:12)
Các động thái cũng bày tỏ dấu chỉ: QUỲ GỐI là dấu chỉ của lòng sám hối, tôn thờ và cầu xin, (Cv 7:50; Cv 9:40; Cv 20:30; Kn 41:43; Et 3:2; Lc 5:8; Lc 22:41) ĐỨNG là dấu chỉ kính trọng, là tư thế của kẻ sống lại, (Kh 7:9; Kh 15:2) là tư thế của những người vượt qua về miền đất hứa, (Xh 12:11) là tư thế của những con người tự do, (Ga 5:1; Ep 6:1-4) CHẮP TAY hoặc KHOANH TAY thể hiện sự nghiêm trang và kính trọng, ĐẤM NGỰC chỉ sự khiêm nhường sám hối, DANG TAY chỉ sự cầu nguyện, LÀM DẤU THÁNH GIÁ là dấu chỉ nhận thức và tuyên xưng đức tin Kitô giáo, THINH LẶNG là dấu chỉ suy tư, suy niệm hoặc cầu nguyện,… Rất đa dạng về các dấu chỉ hoặc dấu hiệu.
Về việc truyền giáo, trình thuật Cv 14:21-26 cho biết: Sau khi đã loan Tin Mừng cho thành ấy và nhận khá nhiều người làm môn đệ, hai ông Phaolô và Banaba trở lại Lýtra, Icôniô và Antiôkhia. Hai ông củng cố tinh thần các môn đệ, khuyên họ giữ vững đức tin và xác định: “Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa.” Lời xác định này cũng nhắc nhở và thức tỉnh mỗi chúng ta hôm nay. Chắc chắn không thể cứ tà tà hoặc cứ khơi khơi mà được vào Nước Trời. Không phải Chúa “chơi ép” hoặc hù dọa, mà đó là sự thật minh nhiên, vì Nước Trời là Viên Ngọc Quý Giá Nhất.
Hai ông chỉ định cho họ những kỳ mục trong mỗi Hội Thánh. Sau khi ăn chay và cầu nguyện, hai ông phó thác những người đó cho Chúa, Đấng họ đã tin. Rồi hai ông đi qua miền Pixiđia mà đến miền Pamphylia, rao giảng lời Chúa tại Pécghê, rồi xuống Áttalia. Từ đó hai ông vượt biển về Antiôkhia, nơi mà trước đó các ông đã được giao phó cho ân sủng của Thiên Chúa để làm công việc vừa mới hoàn thành. Công việc gì cũng có mức độ khó khăn khác nhau, khó có thể nói việc nào khó hoặc dễ hơn việc nào. Chắc chắn công việc truyền giáo còn khó khăn hơn nhiều, rất cần sự kiên trì. Vả lại, việc chúng ta làm thì cứ làm cho tròn bổn phận, kết quả hay không là do Chúa quyết định.
Chắc chắn mỗi người chúng ta đều muốn công việc đạt kết quả, không ai muốn thất bại, nhưng còn tùy ý Chúa. Cần tâm niệm là “làm mọi sự vì đức ái” (1 Cr 16:14) và “xin cho ý Chúa được thể hiện.” (Cv 21:14) Thiên Chúa chí minh và chí thiện, Ngài thông suốt mọi sự, là “Đấng từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Ngài đã dựng nên.” (Tv 145:8-9)
Thất bại có thể là điều xấu đối với chúng ta, nhưng trong cách nhìn của Thiên Chúa, thất bại lại tốt cho chúng ta, ít nhất là Ngài muốn chúng ta không kiêu ngạo vì ỷ mình thành công hơn người khác. Thánh Vịnh gia thành tâm cầu nguyện: “Lạy Chúa, muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ, kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài, nói lên rằng: triều đại Ngài vinh hiển, xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng, để nhân loại được tường những chiến công của Chúa, và được biết triều đại Ngài rực rỡ vinh quang.” (Tv 145:10-12)
Thiên Chúa vĩnh hằng, “triều đại Ngài thiên niên vĩnh cửu, vương quyền Ngài vạn đại trường tồn, Ngài thành tín trong mọi lời Chúa phán, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm.” (Tv 145:13) Vì thế, người khôn ngoan luôn nhận biết mình hèn yếu, cần tín thác vào Ngài và chỉ mình Ngài mà thôi. Thiên Chúa tốt lành, chính Ngài sẽ lau khô mọi giọt lệ và tặng ban trời mới đất mới cho những ai thành tín. Thánh Gioan kể lại thị kiến: “Bấy giờ, tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa. Và tôi thấy Thành Thánh là Giêrusalem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang.” (Kh 21:1-2)
Tất cả đều mới. Cái gì mới thì lạ. Rất kỳ diệu. Rồi sau đó, Thánh Gioan nghe có tiếng hô to từ phía ngai: “Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất.” (Kh 21:3-4) Rõ ràng. Rạch ròi. Hoàn toàn là sự thật, chắc chắn chứ không chút gì mơ hồ. Rồi Đấng-ngự-trên-ngai còn tuyên phán thêm: “Này đây Ta ĐỔI MỚI MỌI SỰ.” (Kh 21:5a) Và như vậy, tính xác thực càng được nâng cao hơn nữa!
Những lời cáo biệt của Chúa Giêsu trước cuộc khổ nạn và quy luật yêu thương tuyệt đối. Trình thuật Ga 13:31-35 cho biết dấu chỉ đặc biệt: Khi Giuđa ra khỏi phòng, Đức Giêsu nói: “Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người.” Một câu ngắn mà từ ngữ “tôn vinh” xuất hiện tới 5 lần.
Khi nghe Sư Phụ Giêsu nói vậy, có lẽ các đệ tử vui lắm, vì có thể đã đến lúc mình cũng được sống sung sướng nhờ Thầy. Nhưng không phải như họ tưởng, bởi vì Chúa Giêsu nói: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Anh em sẽ tìm kiếm Thầy; nhưng như Thầy đã nói với người Do Thái: ‘Nơi tôi đi, các người không thể đến được,’ bây giờ, Thầy cũng nói với anh em như vậy.” Có lẽ họ bắt đầu lờ mờ hiểu về “sự chẳng lành” nào đó sắp xảy ra… Vâng, nhưng làm sao các đệ tử hiểu được hết ý cao siêu của Thầy, vì họ còn là phàm nhân và đầy mơ ước trần tục, còn Thầy là “người cõi trên” mà!
Và dấu hiệu đặc biệt nhất được chính Chúa Giêsu cho biết: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ NHẬN BIẾT anh em là môn đệ của Thầy ở ĐIỂM này: là anh em có LÒNG YÊU THƯƠNG NHAU.” Cũng chỉ một câu ngắn mà chữ “yêu thương” được lặp lại tới 4 lần.
Đạo của Đức Kitô Giêsu là Đạo Làm Người, là Nhân Đạo, điều mà ai cũng cần, tôn giáo nào cũng cần, xã hội nào cũng cần, thể chế nào cũng cần,… Nói chung là ai cũng cần, mà cần thì phải thực hiện. Rất chí lý, mình muốn có thì phải thể hiện với người khác. Luật Yêu là Khuôn Vàng Thước Ngọc, là “thước đo” cuộc sống: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta.” (Mt 7:12; Lc 6:31) Thánh Phaolô xác định: “Ai yêu người thì đã chu toàn lề luật. Yêu thương là chu toàn lề luật.” (Rm 13:8 và 10)
Tương tự, hiền triết Khổng Tử (551-479 trước công nguyên) đã dạy đệ tử: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân.” (Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác.) Và hiền triết Aristotle (384-322 trước công nguyên) cũng dạy: “Đừng áp đặt trên người khác những điều mà bạn không thích.”
Trong Do Thái giáo có hai trường phái đạo đức: Trường phái của Shammai chủ trương khắc khổ, và trường phái của Hilel chủ trương phóng khoáng. Một hôm, có một người đến xin học tập với Shammai, anh ta thưa: “Thưa thày, tôi muốn làm môn đệ thày, nhưng trước hết, xin thày cho tóm gọn luật phải giữ trong bao lâu tôi còn có thể đứng trên một chân để nghe thầy giảng.” Shammai liền đuổi anh ta đi và trao cho một cuốn sách dày về luật mà ông đang cầm trên tay. Anh ta đến gặp Hilel và cũng nói với ông lời ấy, Hilel nói với anh ta: “Những gì anh không thích thì đừng làm cho người khác, đó là tóm tắt về luật.” Anh ta giác ngộ và nhận thấy đó là BÀI HỌC QUÝ GIÁ NHẤT ở đời.
Lạy Thiên Chúa, xin ban Thần Khí và soi sáng cho con nhận ra Ý Ngài qua các sự kiện đời thường, những gì xảy ra với con, xin giúp con phân định đúng đắn và thực sự ý thức, sẵn sàng chấp nhận và thi hành theo Ý Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Thật khó để định nghĩa được tình yêu. Có lẽ cũng không cần định nghĩa về thuật ngữ này cho PS 5-C189
Thật khó để định nghĩa được tình yêu. Có lẽ cũng không cần định nghĩa về thuật ngữ này cho bằng sống với nó. Tình yêu sẽ vô nghĩa với những lời giải thích, nhưng phong phú hơn nhiều khi chúng ta chìm đắm trong nó. Giống như việc uống trà hoặc cà phê vậy. Không nhất thiết giải thích về vị ngon ngọt của trà hoặc cà phê, nhưng quan trọng là nhâm nhi để cảm nhận và thưởng thức. Trong ý hướng này, thánh Augustinô đưa ra lời hướng dẫn rất thực tế: “Hãy yêu trước, rồi sau đó hãy làm gì thì làm.”
Trong Tin mừng Chúa Nhật 5 hôm nay (Ga 13,31-35), Chúa Giêsu thể hiện tình yêu cho các môn đệ rất thực tế. Đức Giêsu trước khi nói về tình yêu, Ngài đã sống với nó. Tình yêu Đức Giêsu dành cho các môn đệ là tuyệt vời; và các môn đệ cũng cảm nhận được tình yêu này trong khi ở với Đức Giêsu. Nếu có những lần nào đó Đức Giêsu nói về tình yêu, thì lời nói ấy cũng là cung cách sống của Ngài. Chẳng hạn hôm nay Đức Giêsu gọi các môn đệ là những người con bé nhỏ. Là người thầy, người cha, Đức Giêsu sắp phải đi chịu chết để cứu độ con người. Trong lời cáo biệt này, Đức Giêsu cho biết chỉ còn ở với họ một ít thời gian nữa. Theo ngôn ngữ bình dân, đây là di chúc mà Đức Giêsu để lại cho các môn đệ.
Nội dung của di chúc rất rõ ràng: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau.” (Ga 13,34). Đây cũng là tâm huyết của Thầy Giêsu muốn huấn luyện và chia sẻ tình yêu với các môn đệ. Hơn ai hết, Đức Giêsu thừa biết tình yêu phải là điều quan trọng nhất để nối kết các ông. Hơn nữa, tình yêu là Thiên Chúa, là căn tính của người môn đệ Đức Giêsu. Vì lý do này, mà Đức Giêsu nói: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em hãy yêu thương nhau.” Chúng ta cũng có thể bối rối như các môn đệ, yêu thương trừu tượng quá, làm sao chúng con sống được?
Đức Giêsu trả lời: “Hãy yêu như Thầy yêu thương các con.” Câu trả lời đã rõ, đòi hỏi của Đức Giêsu dành cho chúng ta cũng sáng tỏ. Cứ nhìn vào cuộc đời của Đức Giêsu, chúng ta sẽ thấy tình yêu của Ngài. Ngay từ ngày đầu chọn gọi các môn đệ, Đức Giêsu đã cho thấy tương quan của các ông với Đức Giêsu không chỉ là thầy-trò, nhưng còn là bạn hữu, là cha-con và là Đấng Tạo Hóa với thụ tạo. Chính trong tương quan này, Đức Giêsu thể hiện tình yêu trong những lời giảng dạy, trong những phép lạ và cả trong những lần sửa lỗi cho các ông. Đức Giêsu tuyệt nhiên không loại bỏ các ông, kể cả Giuđa bán Thầy, nhưng Đức Giêsu luôn mời ông hoán cải đến phút cuối. Tình yêu hùng hồn nhất khi Đức Giêsu sẵn sàng hiến mạng mình, để mở ra cho các ông con đường cứu độ. “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Nhờ đó chúng ta cũng được thừa hưởng hồng ân này.
Có lẽ những dòng trên đây vẫn còn xa lạ đối với bạn. Đây là bài tập thực hành để bạn cảm nhận tình yêu của Thiên Chúa nhiều hơn:
Chọn cho mình một nơi thoáng mát, có thể trong khu vườn, trong nhà thờ hoặc nơi bạn yêu thích. Một mình bạn với Thiên Chúa lúc này. Hít thở thật sâu, và tự nói với mình và với Chúa: “Lạy Chúa con đây!” Hãy nhìn ra thiên nhiên, ngắm lên trời, bạn thấy sự vĩ đại và huyền diệu của muôn loài, mà Thiên Chúa đã tạo dựng dành cho bạn. Hãy nói thầm một tâm tình tạ ơn với Chúa. Bởi theo phép lịch sự, ai cho mình điều gì tốt, lời cảm ơn là cần thiết để diễn tả lòng biết ơn. “Con cảm ơn Chúa, vì yêu mà Ngài vẫn cho con sống và được chiêm ngắm vẻ đẹp tuyệt vời này!”
Hãy nhắm mắt lại để nhìn vào lòng mình. Nếu còn những bộn bề lo toan, hãy tâm sự với Chúa về những điều đó. Xin Chúa giúp mình lắng đọng tâm hồn để được ở với Chúa lúc này. Thiên Chúa không có hình hài, nên Ngài có thể đang ở trong tâm hồn bạn một cách dễ dàng. Đó là không gian của tình yêu. Bạn cứ lắng nghe Chúa. Chẳng hạn đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đang gọi bạn là: “người con bé nhỏ của Thầy.” Là con, bạn luôn được Chúa yêu. Hơn nữa, Chúa đang chăm sóc cho bạn mà có khi bạn không để ý đến. Lúc này, hãy nói với Chúa Giêsu như một người con nói với người Cha: “Con đây, lạy Cha, xin hãy nói, vì con đang lắng nghe.” Cứ để lòng mình ở gần bên Chúa, khi đó, Chúa sẽ thì thầm với bạn bằng những lời mang lại sự sống.
Cũng như các môn đệ, bạn nghe Chúa Giêsu mời gọi: “Con hãy yêu thương người khác như thầy yêu thương con vậy.” Cứ nói cảm giác hoặc suy nghĩ của bạn lúc này. Điều răn này có khó không, có thực tế hoặc bạn có thể làm được không? Nhớ lại những lần Chúa yêu bạn. Nhờ vào kinh nghiệm này, xin Chúa cho bạn cũng sống được giới răn này, mỗi ngày một chút.
Sau cùng, hãy mở mắt ra để một lần nữa nhìn vẻ đẹp của Thiên Nhiên. Tạ ơn Chúa về những gì bạn cảm nhận và nghe được từ Chúa. Dành một phút để cảm, để nhận ra lòng bạn lúc này. Để kết thúc, hãy thì thầm một Kinh Lạy Cha để cầu nguyện với Chúa nhé.
Bạn thân mến,
Đạo Công giáo là đạo của Tình yêu. Tình yêu ấy bắt nguồn từ Thiên Chúa. Tình yêu ấy cũng là điều bạn cảm nhận trong cầu nguyện, trong những kinh nghiệm sống của cuộc đời. Xin đừng lo lắng nếu tình yêu của bạn chưa đủ mạnh. Chúng ta vẫn thực tập tình yêu này mỗi ngày, có thể là tự nhiên, nhưng đôi khi cũng cần chủ động tập tành. Người Công giáo tốt là người biết thể hiện và sống tình yêu này. Kinh nghiệm cho thấy ai đó sống mà không có tình yêu, người ấy khổ sở vô cùng; những ai sống với họ cũng đau buồn không kém. Nếu bạn liên lạc được với Thiên Chúa, đón nhận được tình yêu này, thì bạn, gia đình và những ai bạn gặp gỡ sẽ hạnh phúc hơn nhiều, vui vẻ và thoải mái hơn nhiều. Tình yêu là vậy, một tình yêu cần tập, cần sống và cần lan tỏa cho mọi người.
Để kết thúc, xin trích mẩu chuyện của cha Anthony de Mellô:
“Tình yêu là gì?” – Trò hỏi
Minh Sư đáp: “Vắng bóng hoàn toàn sự sợ hãi.”
“Chúng ta sợ hãi điều gì?” – trò hỏi lại
Minh Sư đáp: “Tình yêu.”
Yêu thì không sợ thể hiện tình yêu ấy cho người khác. Nếu sợ, nghĩa là chúng ta chưa yêu thật, hoặc vẫn còn ngượng ngạo trong tình yêu. Không sao! Cứ tập yêu và xin với Chúa thêm sức để bạn và tôi tập yêu Chúa, yêu người mỗi ngày. Hy vọng tình yêu ấy sẽ lớn hơn, mạnh hơn và sống động hơn trong cuộc đời của chúng ta. Bạn hãy cứ “giới hạn của tình yêu là yêu không giới hạn.” (Thánh Phanxicô Salêxiô). Nhờ tình yêu này mà người khác nhận ra chúng ta là người Công giáo, là chúng ta cũng tự hào là người con cái của Chúa.
Chỉ vài câu này từ Tin Mừng của Gioan cũng đã đủ để tạo nên phần mở đầu của lời di chúc thiêng PS 5-C190
Chỉ vài câu này từ Tin Mừng của Gioan cũng đã đủ để tạo nên phần mở đầu của lời di chúc thiêng liêng của Chúa Giêsu vào tối Thứ Năm Tuần Thánh. Giuđa vừa bước ra và lao vào đêm tối, đêm của sự chối bỏ, phản bội và buồn bã, và đây là thời điểm mà Chúa Giêsu chọn để nói với các môn đệ của Ngài, cũng như với mỗi người chúng ta hôm nay, bằng một trái tim rộng mở.
Ngài liên tục giải thích cho các môn đệ rằng Chúa Cha sẽ tôn vinh Ngài, rằng sự tôn vinh này cần đến việc Ngài trở về với Chúa Cha, do đó, sự ra đi của Ngài và việc Ngài rời bỏ chúng ta, như một lời cam kết về tình bạn của Ngài, một điều răn mới.
Chúa Giêsu nói: “Bây giờ Con Người đã được tôn vinh.” Khoảnh khắc “bây giờ” mà Chúa Giêsu đang nói đến này rộng hơn và có ý nghĩa hơn nhiều so với vài phút ra đi của Giuđa. “Bây giờ” là giờ của Chúa Giêsu, giờ mà Ngài thường gọi là “giờ để đi từ thế gian này đến với Cha của Ngài”, giờ đối mặt với đau khổ và cái chết và được tôn vinh bởi quyền năng của Chúa Cha. Bước ngoặt này trong số phận của Chúa Kitô là cuộc khổ nạn vinh quang, trong đó sự ra đi của Giuđa vừa báo hiệu. Bây giờ Chúa Cha sẽ được tôn vinh, vì Con của Cha sẽ nói với Cha tất cả tình yêu của Con, yêu thương loài người cho đến cùng. Giờ đây, ngay sau sự chết, Chúa Cha sẽ đón Con Ngài vào trong vinh quang của chính Chúa Cha.
Mặt trái của vinh quang này, đối với chúng ta, là Chúa Giêsu chiến thắng sẽ không còn thấy bằng ánh mắt của chúng ta. Vì vậy, cần phải tin mà không thấy, tin mà không cần phải thấy. Chúa Giêsu dịu dàng nói: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Anh em sẽ tìm kiếm Thầy; nhưng như Thầy đã nói với người Do thái: "Nơi tôi đi, các người không thể đến được.” Dù sao đi nữa, không phải ngay lập tức, như Chúa Giêsu giải thích với Phêrô.
Tuy nhiên, một liên kết sống động và rất hữu hình sẽ vẫn còn giữa Ngài và chúng ta: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau” (Gioan 13:34). Nhưng điều răn này mới như thế nào? Ngay trong sách Lêvi, Thiên Chúa đã truyền lệnh: “Anh em hãy yêu người lân cận như chính mình” (Lv 19,18). Tính mới ở đây nằm ở đâu?
Trước hết, mệnh lệnh của Chúa Giêsu là mới vì nó được liên kết với giao ước mới. Trong Kinh thánh, nói tới điều răn là nói tới giao ước, nghĩa là có đi có lại giữa Thiên Chúa và dân Ngài; và cũng giống như mười điều răn của Thiên Chúa vốn dĩ là sự diễn tả của giao ước đầu tiên tại Sinai, thì điều răn mới là khía cạnh con người của giao ước mới mẻ và dứt khoát, chính là điều mà Chúa Giêsu sẽ niêm phong, chính xác, bằng cái chết và sự tôn vinh của ngài.
Nhưng mệnh lệnh của Chúa Giêsu là mới nhất là vì từ đây, mô hình tình yêu của chúng ta sẽ là tình yêu mà Chúa Giêsu dành cho chúng ta: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Gioan 13:34).
Và Chúa Giêsu yêu các môn đệ như thế nào? Tin Mừng Gioan trả lời cho chúng ta ba lời khẳng định:
Chúa Giêsu yêu các môn đệ vì Chúa Cha đã ban họ cho Ngài: “Họ thuộc về Cha, Cha đã ban họ cho con”; “Con cầu nguyện cho họ. Con không cầu nguyện cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho con, bởi vì họ thuộc về Cha”; “Chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con” (17,6.9.23).
Chúa Giêsu yêu thương hết mực mỗi người trong thế gian, đến tột cùng của sự hiểu biết, từ bi, nhẫn nại, đến tột cùng của sự khiêm nhường và phục vụ, vì Ngài đã quỳ gối trước mặt họ để rửa chân cho họ, dù Ngài là Thầy và là Chúa.
Cuối cùng, Chúa Giêsu Mục Tử đã hiến mạng sống vì đàn chiên của mình, để đàn chiên của Ngài có được sự sống dồi dào, và mỗi người chúng ta có thể tự mình xác tín điều khiến Thánh Phaolô choáng ngợp: “Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Galát 2:20).
Yêu như Chúa Giêsu đã yêu:
Đó sẽ là yêu thương anh chị em, chồng vợ hay con cái, như món quà mà Thiên Chúa đã trao ban và ban cho chúng ta mỗi ngày, như món quà mà chính Chúa Cha đã ban cho chúng ta để yêu thương.
Đến lượt chúng ta, chúng ta sẽ yêu đến tột độ là phục vụ, tha thứ và hy vọng; không phải để thôn tính người kia vào dự án của mình, vì niềm vui riêng của chúng ta, hạnh phúc riêng của chúng ta, không phải để mang lại cho chúng ta tình yêu hoặc tình bạn mà chúng ta đã trao tặng, nhưng bằng cách gánh vác người kia ngay cả trong những đau khổ, mệt mỏi và nặng nề của nó.
Cuối cùng, chúng ta sẽ chấp nhận bỏ mình đi trọn vẹn để cống hiến, trong sự chung thủy, trong sự cho đi cách nhưng không mà chúng ta sẽ trao ban cho người khác; đó sẽ là yêu thương bằng một tình yêu thực tế, biết rửa chân, xả thân từ ngày này qua ngày khác.
Vì Thiên Chúa đã biểu lộ tình yêu của Ngài cho loài người một cách hoàn toàn mới mẻ trong cuộc khổ nạn vinh quang của Chúa Giêsu, vì trong giao ước mới, Thiên Chúa đã bắt đầu một mối thân tình mới với loài người, cho nên những điều này sẽ bắt đầu giữa con người với nhau bằng một thái độ huynh đệ theo một kiểu hoàn toàn mới, và đó là giới răn của Chúa Giêsu.
“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34; 15:12).
Bạn thấy có gì lạ trong lời di chúc này của Chúa không? Tôi hơi thắc mắc, Chúa chỉ cần nói: "Anh PS 5-C191
Bạn thấy có gì lạ trong lời di chúc này của Chúa không? Tôi hơi thắc mắc, Chúa chỉ cần nói: "Anh em hãy thương yêu nhau" một câu ngắn gọn như vậy là đủ rồi, tại sao Ngài lại phải thêm: "Yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" làm chi nữa vậy? Bạn có biết tại sao không? Tôi nghĩ là tại vì cách yêu thương của Chúa khác với cách yêu thương của chúng mình.
Cách yêu của người đời, trong đó có bạn và có tôi, là YÊU THƯƠNG NHỮNG AI YÊU THƯƠNG MÌNH. Ví dụ:
- Tôi yêu thương ông bà, cha mẹ, chú bác, cô dì ... vì các ngài đã yêu thương, chăm sóc, hy sinh vất vả nuôi nấng, chỉ bảo, dạy dỗ tôi nên người.
- Tôi yêu mến anh A, chị B, chú C, cô D, bác H... bởi vì họ là những người yêu mến ơn gọi, yêu thương nhà dòng của tôi, và yêu thương giáo xứ này.
- Tôi yêu mến những anh chị em thiện nguyện viên bởi vì họ là những người tốt lành, tốt bụng, tốt tướng và tốt nghiệp trường đời, nay đã về hưu... Họ yêu mến giáo xứ, yêu mến ngôi thánh đường này, yêu mến các em học sinh, yêu mến thánh lễ, yêu mến phụng vụ, yêu thích công việc tu sửa, bảo trì, sửa chữa, xây dựng, lau chùi dọn dẹp, gây quỹ, cắt cỏ tỉa cây...
Bạn thấy cách yêu thương của người đời như thế có gì là sai trái hay phản lại Phúc Âm không? No, chẳng có gì là sai trái hay phản lại với Phúc Âm tí nào cả! Tôi cam đoan như vậy! Thế nhưng cách yêu thương của người đời chưa hoàn hảo, chưa giống cái cách yêu thương của Chúa.
Bạn có biết cách yêu thương của Chúa là cách nào không? Thánh Sử Mát-thêu cho chúng ta biết cách yêu thương của Chúa Giê-su là một cách yêu thương phi thường, bởi vì bất cứ ai Ngài cũng yêu ráo trọi. Thật vậy, kẻ yêu mến Ngài, kẻ không thích Ngài, kẻ châm chích và kiếm cách gài bẫy Ngài, những kẻ đã nhục mạ, hành hạ, đánh đập, và thậm chí đã giết Ngài, Ngài cũng yêu họ tuốt tuồn tuột luôn. Bằng chứng là trước khi trút hơi thở cuối cùng, trong lúc cơ thể đang chịu những sự đau đớn tột độ, Chúa Giê-su đã thưa với Thiên Chúa Cha như thế này: "Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm!" (Lc 23:34).
Bạn thấy yêu theo cái cách của Chúa Giê-su có dễ không? Yêu kẻ không thích mình đã là khó, còn yêu kẻ thù thì không thể dễ được? Tôi nói thật, ai nói yêu kẻ thù là dễ thì người ấy là kẻ... nói dóc! Không dễ một chút nào cả, nếu không muốn nói là cực kỳ khó! Thế nhưng, khó không có nghĩa là không thể làm được, bởi vì đã có những người đã yêu thương theo cái cách của Chúa yêu. Họ đã yêu thương những kẻ đã gây ra đau khổ, những mất mát cũng như bất hạnh cho họ và cho gia đình họ nữa. Tôi xin đơn cử ra đây ba ví dụ:
1. Thánh Stêphanô, khi bị người Do Thái vu oan cáo vạ, bị ném đá, giữa lúc sinh thì, Ngài đã thốt lên rằng: "Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này" (Cv 7:60).
2. Sáng ngày thứ hai ngày 2 tháng 10 năm 2006, Charles Roberts xông vào một lớp học của cộng đồng người Amish bên Lancaster, Pennsylvania, bắn chết 5 em nữ sinh và bắn bị thương 5 em nữ sinh khác, và sau đó y tự sát. Ngay sáng hôm sau, cha mẹ của 5 em nữ sinh bị Roberts giết, đã tuyên bố với báo chí là họ muốn tha thứ cho Roberts. Chưa hết, họ còn đem thực phẩm, đem vòng hoa đến thăm viếng, an ủi, giúp đỡ cho vợ và hai đứa con của Roberts. Họ cũng đến tham dự lễ an táng, cầu nguyện và tiễn đưa Roberts ra tới nơi an nghỉ cuối cùng.
3. Ngày 3/10/2019 Brandt Jean, 18 tuổi, đứng trước tòa án, đã tuyên bố tha thứ cho cô cảnh sát viên Amber, người đã đi vào căn hộ của gia đình của cậu và bắn chết anh trai của cậu ngay tại ghế sofa.
Chúa Giê-su đã nói: "Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao?" Ngài muốn chúng mình Ngài phải yêu thương cả những kẻ KHÔNG yêu thương mình nữa. Chưa hết, còn phải yêu cả kẻ thù, những kẻ đã gây ra đau khổ, phiền muộn và bất hạnh cho chúng mình nữa.
Để có thể yêu theo cách của Chúa Giê-su: “yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” tôi nghĩ bạn và tôi phải TIN CHẮC rằng "đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được" (Lc 1:37). Với ơn can đảm và khôn ngoan của Chúa ban, tôi chắc chắn bạn và tôi sẽ yêu theo cái cách của Chúa Giê-su.
Còn nữa, khi bạn và tôi yêu thương theo cách của Chúa, tức là yêu thương hết tất cả mọi người, kể cả những kẻ ngược đãi mình, thì sách Huấn Ca khẳng định rằng: “Khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha” (28:2).
Chúng mình cầu nguyện cho nhau, xin Chúa Kitô Phục Sinh, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse, hướng dẫn, soi sáng, và ban ơn giúp sức, để bạn và tôi có thể yêu thương nhau, như [Chúa] đã yêu thương chúng mình. Cầu chúc bạn và gia đình của bạn một tuần lễ mới vui khỏe, hạnh phúc và bình an.
Tuần rồi, chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là mục tử nhân lành đã và vẫn chăn dắt đàn chiên của PS 5-C192
Tuần rồi, chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là mục tử nhân lành đã và vẫn chăn dắt đàn chiên của Chúa là chính chúng ta trong tình yêu. Nhưng mối tình ấy không đơn thuần là tình của những người yêu nhau (bạn bè, cha mẹ, vợ chồng, anh chị em… chẳng hạn) trao tặng nhau. Đó không đơn thuần là tình yêu trên phương diện con người.
Tình yêu của Chúa Kitô là khối tình vô giá, có một không hai. Đó là tình yêu của Đấng là Thiên Chúa chấp nhận hiến thân làm người, sống, chết, sống lại vì trần thế, nhằm dẫn đưa trần thế tham dự vào sự sống tràn đầy yêu thương và hạnh phúc vô cùng tận.
Đó là tình yêu của Đấng mang trái tim Thiên Chúa đã làm người.
Ngoài Chúa Kitô, ta không thể có được, không thể bắt gặp, không thể tìm kiếm thứ tình yêu thiêng thánh ấy, dù ta có tìm kiếm trọn đời mình.
“Thiên Chúa làm người”, nói thì đơn giản, thực tế đó là cả một triết lý cao sâu, nhưng không thuộc về lý trí, lại vượt lên trên tất cả những gì mà lý trí có thể nắm bắt được.
Đó là chân lý tuyệt đối, chân lý thuộc về mầu nhiệm của đức tin, một mầu nhiệm lớn lao mà con người chỉ có thể sống với mầu nhiệm ấy bằng sự cảm nghiệm và lòng tin tưởng.
Vừa là triết lý nhưng không thuộc về lý trí, vừa là mầu nhiệm của đức tin, bởi ta không thể hiểu nổi, không thể tưởng tượng nổi vì sao lại có một tình yêu vĩ đại đến thế.
Tình yêu của Đấng quyền năng, cao trọng vô cùng, vượt trên tất cả mọi loài, mọi sự, còn hơn thế, là chủ tể mọi loài, mọi sự, lại có thể hạ mình để nên một trong những thụ tạo do chính mình dựng nên.
Nhưng điều mà loài người không một chút mảy may hiểu được, càng không bao giờ dám nghĩ tới, lại là sự thật. Thiên Chúa đã làm nên và đã trao ban sự thật rất đỗi kỳ diệu ấy để làm bằng chứng hùng hồn, chứng minh tình yêu quá sức lớn lao của Ngài.
Bởi vậy, nhìn vào tình yêu cuồn cuộn và mãnh liệt, không bờ bến của Thiên Chúa, ta hãy đặt bước chân của đời mình vào những bước yêu thương của Thiên Chúa để sống với nhau, sống cho nhau, hiến thân vì nhau.
Với kinh nghiệm về sức mạnh của tình yêu, chúng ta dám đi đến kết luận rằng, trong tình yêu, người ta có thể vượt thắng mọi khó khăn, dù khó khăn đó lớn đến đâu đi nữa, để chỉ thỏa mãn một điều kiện duy nhất: làm cho người mình yêu hạnh phúc.
Cả cuộc đời Chúa Giêsu là như thế: Chúa chấp nhận trao hiến chính mình để mưu cầu hạnh phúc cho ta. Bởi khi sinh ra làm người trong thân phận một bé thơ, Chúa san sẻ đến cùng thân phận cùng cực, mong manh, yếu đuối của ta.
Suốt ba mươi năm sống thầm lặng trong gia đình Nazaret, bên cạnh Đức Maria, thánh Cả Giuse, Chúa Giêsu đồng hành cùng những người nghèo hèn, chấp nhận sống nghèo, sống vất vả.
Ba năm cuối cùng đi rao giảng Tin Mừng để loan báo ơn cứu độ, loan báo Nước trời cho trần gian. Chúa chấp nhận chết đau thương, ai oán vì lợi ích phần rỗi của tất cả chúng ta. Sự sống sau phục sinh của Chúa, không phải chỉ vì vinh quang của Chúa mà thôi, nhưng Chúa sống lại là để ta được sống đời đời cùng Chúa, bên Chúa.
Hôm nay, chính Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người ấy, trước khi từ giã các môn đệ đã nói những lời hết sức cảm động, những lời yêu thương tràn đầy, mang dáng dấp của một sự lưu luyến thẳm sâu: “Thầy đi dọn chỗ cho các con, rồi Thầy sẽ trở lại mang các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng ở đó với Thầy”.
Những lời hết sức tâm tình, ấm áp một tình mến không gì sánh nổi ấy, cũng là lời đầy an ủi không chỉ riêng cho các tông đồ, nhưng còn cho mỗi môn đệ của Chúa hôm nay.
Lắng nghe lời trăn trối chất chứa nỗi lòng yêu thương và an ủi của Chúa Giêsu, ta chấp nhận cuộc sống của chính mình, dẫu còn đó nhiều long đong, khổ ải, để như Chúa Giêsu, khi đã đi qua cuộc đời này, ta được cùng Chúa đến nơi mà chính Chúa đã đến, đã dọn sẵn cho ta.
Hóa ra cũng giống như cả cuộc đời trần thế để hiến thân, để ban tặng, sau khi phục sinh, Chúa về trời, thì sự được tôn vinh trên trời ấy cũng lại quy về chúng ta.
Ra đi, nhưng không phải vĩnh biệt mà là chuẩn bị, là “dọn chỗ” để “Thầy ở đâu, các con cũng ở đó”.
Hạnh phúc quá đỗi, vinh dự quá đỗi cho loài người. Tưởng chừng bản thân mỗi người chỉ là mong manh, là nhỏ bé, là khó có thể hoàn thiện, lại được chính Thiên Chúa là Chúa của mình yêu thương cúi xuống để cứu chữa, để nâng đỡ, để phục vụ mình. Một tình yêu không thể tưởng tượng, chỉ có thể lặng đi mà chiêm ngưỡng, mà cảm nghiệm.
Cả cuộc đời Chúa Giêsu: sinh ra, lớn lên, đi rao giảng, chịu đóng đinh, chết, sống lại, lên trời, tất cả vì chúng ta, vì hạnh phúc vĩnh cửu của loài người.
Chỉ có một tình yêu lớn lao như tình yêu của Chúa Giêsu, tình yêu của Đấng mang trái tim Thiên Chúa đã làm người, mới có thể mạnh mẽ, mãnh liệt như thế, mới trở nên quá đỗi kỳ diệu và tuyệt vời như thế.
Chúng ta nói với nhau rằng, trong tình yêu, người ta có thể vượt thắng mọi khó khăn, dù khó khắn đó lớn đến đâu đi nữa, để làm cho người mình yêu hạnh phúc. Thì đây, Chúa Kitô là như thế. Tình yêu của Chúa Kitô là tình yêu vượt thắng, vượt lên trên mọi khó khăn, mọi thách đố để mang lại hạnh phúc cho ta, những kẻ được Ngài yêu mến vô cùng.
Hôm nay Chúa cũng đang mời gọi bạn và tôi yêu thương, hãy bắt chước Chúa mà sống đời sống yêu thương.
Không có mẫu số chung để bày tỏ về lòng yêu thương cho hết mọi người, mọi hoàn cảnh. Chúng ta hãy yêu. Tình yêu sẽ chỉ cho mình biết phải làm gì để bày tỏ lòng yêu thương và sống lòng yêu thương suốt đời mình.
Người ta kể rằng, Helen Keller là cô gái câm điếc người Mỹ, đã trở nên không còn xa lạ với thế giới. Vừa được 19 tháng, sau một cơn đau màng óc, cô gái bất hạnh trở thành mù lòa và câm điếc suốt đời. Thế giới âm thanh và màu sắc đã đóng chặt cánh cửa lại với cô.
Làm sao để có thể truyền đạt kiến thức cho một người vừa câm, vừa điếc, lại mù lòa? Helen Keller và cả cha mẹ cô đều chịu thua, hầu như cô và mọi người đã đầu hàng số phận.
Nhưng có một “thiên thần”, bằng tình yêu, sự hy sinh của bản thân đã “làm phép lạ” để giúp đỡ cô. Vị thiên thần có một cái tâm cao cả đó chính là cô giáo Anna Sullivan. Anna đã không bỏ cuộc chạy trốn khi đến với người học trò quá bất hạnh của mình.
Hy vọng duy nhất mà cô có thể truyền thông kiến thức và liên lạc với Helen Keller là tiếp xúc với đôi bàn tay của cô gái này.
Đúng là phép lạ cả thể. Chỉ với ngôn ngữ tiếp xúc trên đôi bàn tay, Helen Keller đã có thể học xong đại học, lấy bằng tiến sĩ, trở thành nhà văn nổi tiếng khắp thế giới.
Chính trong nỗi bất hạnh tưởng như tột cùng của mình, Helen Keller lại là người hạnh phúc. Bởi cô có được một người thầy đẹp quá, đáng yêu quý, đang trân trọng, đáng cho tất cả mọi người noi gương biết bao nhiêu.
Chỉ có tình yêu chân thực, người ta mới có thể mang lại hạnh phúc cho nhau.
Chúa Kitô, chính vì yêu, đã cúi xuống cho ta. Chúa sống lại để trả lại hạnh phúc đời đời do chính ta đã đánh mất trong tội.
Nay Chúa về cùng Cha để hạnh phúc của ta nên trọn, đúng như lời Chúa nói: “Thầy đi dọn chỗ cho các con…”.
Như Chúa Giêsu, ta cũng được mời gọi mang lại hạnh phúc cho anh chị em quanh mình.
Câu chuyện về cô giáo Anna Sullivan và người học trò bất hạnh Helen Keller của cô là một điển hình để bạn và tôi có thể lấy làm bằng chứng sống mà tìm ra đáp số củng cố lòng yêu thương nơi chính mình.
Từ đây cho đến cuối mùa Phục sinh, Giáo hội đọc một số trích đoạn từ “Diễn từ đặc biệt của Đức PS 5-C193
Từ đây cho đến cuối mùa Phục sinh, Giáo hội đọc một số trích đoạn từ “Diễn từ đặc biệt của Đức Giê-su” chiều Thứ Năm thánh, áp ngày Người “ra đi”, một di chúc tinh thần của Người. Đoạn hôm nay cho thấy một vài khía cạnh trong mầu nhiệm của Người: được tôn vinh cách ngược đời qua Thập giá và hiện diện nhiệm mầu qua tình thương giữa các môn đệ.
1. Tôn vinh ngược đời qua Thập giá
“Khi Giu-đa ra khỏi phòng tiệc ly, Đức Giê-su bảo…”. Đọc câu khai mở này, ta có cảm tưởng Người vừa được giải thoát, Người có thể bắt đầu nói lên một vài tâm sự… như thể sự hiện diện của tên phản bội trước đó khiến tắc họng nghẹn lời. Khi gặp phải những phút cô đơn thử thách, những khó khăn trong các quan hệ, những phong tỏa tâm lý đôi khi ngăn cản ta nói ra tất cả những gì cần nói… hãy nghĩ đến Đức Giê-su; Người cũng đã nếm biết trong nhân tính mình những hoàn cảnh bi thương tương tự. Khi đau khổ vì những tranh chấp cá nhân hay tập thể, chống đối hay hiểu lầm… xin nhớ rằng Đức Giê-su cũng đã khổ đau về điều đó. Tối hôm ấy, bầu khí nhóm đồng bàn với Người thật thê thảm: một kẻ trong họ vừa ra đi… để phản bội nhóm. Đây là cực điểm của thái độ “phi-tình yêu”: tố giác bằng hữu, bỏ rơi ai đó mình đã từng sống tháng năm như bạn đường. Đức Giê-su chẳng thiếu khả năng hiểu mọi khó khăn của chúng ta. Người đã trải qua chúng.
Nhưng trong hoàn cảnh bi thương đang gặp phải, Đức Giê-su vẫn giữ một thái độ thanh thản phi phàm. Bình an của Người vẫn trọn vẹn. Bình an đó biểu lộ trong một câu nằm giữa hai trạng từ: giờ đây… sắp sửa (sẽ)… : “Giờ đây Con Người được tôn vinh… và Thiên Chúa sắp sửa tôn vinh Người”. Các động từ đầu câu ở thì hiện tại và các động từ cuối câu ở thì tương lai. Cả một thái độ tinh thần giấu ẩn đằng sau cấu trúc ngôn ngữ đó. Trong giây phút này, giây phút phát khởi cuộc Khổ nạn với sự ra đi của Giu-đa, Đức Giê-su đã nghĩ đến kết thúc của tiến trình, đã nghĩ đến cuộc Sống lại. Niềm hy vọng giúp ta sống trước cái còn chưa tới là như thế! “Tôi nghĩ rằng những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18). Như Đức Giê-su, ngay từ bây giờ ta đã có thể nếm được, chính giữa lòng đau khổ, niềm hạnh phúc vô biên vốn sẽ thể hiện trong tương lai cách trọn vẹn và dứt khoát.
“Giờ đây Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người”: Hãy trở lại với điểm mạc khải lạ lùng này, vốn giúp ta tiến sâu vào “bên trong Đức Giê-su”. Quá trình Khổ nạn vừa phát khởi với sự ra đi của “tên phản chủ”. Thế mà ngay lập tức, đối với Đức Giê-su, sự tôn vinh Người đã có đó, đã hoàn tất rồi. Chúng ta thấy khó tin rằng Thập giá đã là vinh quang của Đức Giê-su, vì có khuynh hướng than khóc ngày Thứ Năm và Thứ Sáu thánh, rồi rộn rã vui cười ngày Chúa nhật sống lại. Thế mà chính “kẻ bị đóng đinh” đã được tôn vinh cũng như đã tôn vinh Thiên Chúa rồi! Bao giờ chúng ta mới ngừng xem Thập giá như một cái ghê tởm, phải loại bỏ nếu có thể được? Nhìn từ quan điểm Đức Giê-su, Thập giá chính là vinh quang của Người! “Chẳng có tình yêu nào lớn hơn” (Ga 15,13). Ai yêu mới kinh nghiệm được rằng tình yêu dẫn đến chỗ hy sinh chính mình cho người yêu. Ai chỉ biết yêu mình thì không thể hiểu được vậy.
Bạn có muốn biết mình thật sự yêu ai đó không? Hãy tự hỏi mình có khả năng hy sinh cho kẻ đó vì yêu không? Nhưng coi chừng, tiếng nói lọc lừa của thế giới hiện đại sẽ thầm thỉ bên tai rằng hy sinh là bạn sai lầm, là bạn dại dột, là bạn thiếu nhân cách, bạn phải nghĩ một chút về mình, phải phát triển chính mình v.v…
2. Hiện diện nhiệm mầu qua tình thương
Đây là điều Đức Giê-su muốn khẳng định trong phần hai của bài đọc: “Hỡi những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau”. Đức Giê-su ra đi. Người biết đêm sống với môn đệ đây là đêm giã biệt. Người sắp bỏ họ cô độc, thiếu sự hiện diện khả giác, nhân loại, hữu hình của Người vốn rất quý báu! Đây sẽ là thời gian vắng mặt. Nhưng Người loan báo cách thức hiện diện mới mẻ của mình: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha cùng Thầy sẽ đến ở lại với người ấy” (Ga 14,23). Và thánh Gio-an giải thích như sau: “Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở trong chúng ta” (1Ga 4,12). Vâng, tình yêu chân thành là sự “hiện diện đích thực” của Thiên Chúa. “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ”. Đức Giê-su ngự giữa những ai cầu nguyện cùng nhau (Mt 18,20). “Những gì các ngươi làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Đức Giê-su hiện diện trong mỗi con người đang cần đến tôi và được tôi phục vụ (x. Mt 25,31-46).
Nếu đúng như thế, thì “cái chết của Thiên Chúa”, sự vắng mặt của Người trong thế giới hiện đại chính là hậu quả của việc tình yêu đã dẫy chết, đã lụi tàn! Nhưng coi chừng, vì tiếng nói xảo trá của thế giới hiện đại không ngừng lừa gạt chúng ta, trên mọi làn sóng, trong mọi quảng cáo. Nó bảo: không thấy thiên hạ chỉ nói, chỉ hát về “tình yêu” đấy ư? Nhưng thứ tình yêu gì? Eros (tình dục) hay Agapè (bác ái)? “Yêu mình” hay “yêu người”? “Tình yêu” là từ hàm hồ nhất, dối trá nhất trong mọi từ được chúng ta sử dụng. Khi nói: “Tôi yêu kẹo cao su!”, phải chăng bạn yêu nó thật sự khi đã tiêu hủy nó cho mình? Khi yêu ai đó, phải chăng bạn cũng yêu theo cách ấy… hay yêu họ vì họ? Ở đây người ta nhớ lại câu tuyên bố “xanh dờn” của một thành viên Ku-Klux-Klan (một đảng kỳ thị chủng tộc tại Mỹ): “Tôi đâu có ghét người da đen! Tôi vẫn yêu họ đấy chứ, nhưng trong vai trò bồi bàn, quét đường của họ”. Ngôn ngữ Hy-lạp ít hàm hồ hơn, vì có hai từ khác nhau để nói lên hai thực tại đối nghịch: “éros”: yêu mình… tình yêu lợi dụng người khác đến độ hủy diệt họ; “agapè”: yêu người… tình yêu sẵn sàng hy sinh mình cho kẻ khác.
“Như Thầy đã yêu thương anh em, anh em cũng hãy yêu thương nhau”. Từ “như” đơn giản này vạch mặt tất cả những thứ tình yêu giả hiệu, nhàm chán, dễ dãi của chúng ta. Yêu thương như Đức Giê-su, đó là quỳ xuống trước mặt anh em để rửa chân cho họ, cử chỉ phục vụ khiêm tốn nhất (Ga 13,14), điều Người vừa làm lúc nãy. Yêu thương như Đức Giê-su, đó là “thí mạng vì những kẻ mình quý mến” (Ga 10,11; 15,13), điều Người sẽ làm trên Thập giá ngày mai. “Việc Ta yêu con đâu có phải chuyện đùa!” Người đã nói với thánh nữ Angèle de Foligno như vậy. Tình Chúa yêu ta đã dẫn Người đến chỗ hoàn toàn tự hủy. Để yêu kẻ khác đúng bản chất họ và thừa nhận họ trong sự khác biệt của họ, phải thôi biến mình thành trung tâm, phải sẵn sàng trả giá. Đối với Thiên Chúa, tình yêu ấy dẫn Đức Giê-su đến đồi Can-vê. Thiên Chúa đã yêu thương con người tới độ chấp nhận quyền lực của nó, một tạo vật dễ sai lầm nhưng lại có tự do, quyền lực từ chối Người, thù ghét Người, kết án tử Người!
Đối với Đức Giê-su, tình yêu không phải là điệu hát nhàm tai, dễ dãi và cũ rích đến độ vô nghĩa, như trên môi mép của hầu hết loài người! Nó là cái gì rất nghiêm chỉnh, nhưng ít ai hiểu rõ và thực hiện. Nên Đức Giê-su mới bảo giới răn yêu thương của mình là giới răn mới. Vâng, yêu như Người là rất độc đáo, mới mẻ. Đây là một nền luân lý mới, vì ta chẳng bao giờ biết nó sẽ dẫn mình đến đâu. Ngày nọ, cậu Pierre-Yves, 16 tuổi, nói với cha André Sève, một nhà chú giải Kinh thánh thời danh: “Thật tuyệt vời khi Ki-tô giáo chỉ đòi hỏi chúng ta một chuyện: yêu mến. Thật tuyệt vời khi Chúa Giê-su chỉ cho chúng ta một giới răn: tình thương”. Ngừng lại một chút, cậu nhìn chòng chọc vào vị linh mục rồi hỏi: “Cha, cha có thực hành giới răn của Chúa không?” Cha André lưỡng lự giây lát rồi trả lời, như mỗi người chúng ta có lẽ trả lời: “Tôi đang cố gắng”.
Phải cố gắng, vì “mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau”. Chỉ trong ba dòng, Đức Giê-su lấy lại ba lần cùng một điệp khúc: “Yêu thương nhau”. Việc lặp lại này rất ý nghĩa. Người qua đó cho thấy ba động cơ bổ túc khiến chúng ta phải yêu thương: 1/ Đây là giới răn của Người: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới…” 2/ Đây là tấm gương của Người: “Hãy yêu thương như Thầy đã yêu thương anh em…” 3/ Sau hết, đây là dấu chỉ của Người: “Thiên hạ sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy ở điểm yêu thương”.
Như thế, Đức Giê-su thật sự kêu mời môn đệ hãy nối tiếp sứ vụ của chính Người ngay khi Người rời khỏi thế. Tình huynh đệ là “định chế” đích thực cho phép Đức Ki-tô vẫn mãi hiện diện suốt “thời cuối cùng” đã được cái chết của Người khai mạc. Gio-an đã không kể lại câu chuyện lập phép Thánh Thể như ai nấy trông chờ. Thay vào đó, ông đã tường thuật việc “rửa chân” và ban “điều răn mới”, như thể dưới mắt ông, Tình yêu là “đài tưởng niệm” sự Hiện diện Đích thực của Đức Ki-tô, cũng chân thật và hữu hiệu như chính phép Thánh Thể. “Này là mình Thầy bị nộp và máu Thầy đổ ra…” Đức Giê-su đã nói thế theo Tin mừng Nhất lãm. Nhưng trong Gio-an thì lại: “Thầy rửa chân cho anh em; anh em hãy thương yêu nhau như Thầy…”.
Cũng là một sự “hiện diện”, không kém chân thực. Ở đây có cái gì chất vấn mạnh mẽ các Ki-tô hữu. Dấu chỉ giúp thiên hạ nhận ra “người có đạo” không chỉ là thánh lễ. “Cái sẽ cho họ thấy anh em là môn đệ Thầy, đó là tình yêu của anh em…”. Làm sao nó lại chỉ xuất hiện những lúc Ki-tô hữu hội họp nhau giữa bốn bức tường nhà thờ? Đức Giê-su chắc chắn đã nói đến một dấu chỉ được tỏ ra trong đời sống trần tục, dấu duy nhất mà mọi người có thể trông thấy. Trong các điều kiện đó, chứng từ của Ki-tô hữu chỉ có thể được nhận biết nếu chúng ta quan tâm đến các nhiệm vụ lớn lao của thế giới hiện thời: công lý, hòa bình, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ nhân phẩm… Thánh Thể “trả” chúng ta về lại với các con đường, bàn giấy, công trường, trường học của chúng ta, về với mọi nơi chúng ta “phục vụ”.
Dựa vào bài đọc sách Khải Huyền hôm nay (Kh 21:1-5a), chúng ta tìm hiểu và suy niệm về thị PS 5-C194
Dựa vào bài đọc sách Khải Huyền hôm nay (Kh 21:1-5a), chúng ta tìm hiểu và suy niệm về thị trấn thánh Jerusalem và những địa danh quan yếu của nó theo tinh thần Kitô giáo.
Thầy cả rabbi đã để lại một ý tưởng khá lạ lùng trong kinh sách Talmud Babylone (Kiddushin 49b): thiên đàng, trần thế và Jerusalem là 3 yếu tố chính của linh hồn người Do Thái. Các rabbi nói: “Khi thế giới được tạo dựng, Thiên Chúa cho thế giới 10 phần vui thì Jerusalem được 9 phần; Thiên Chúa cho thế giới 10 phần đẹp thì Jerusalem được 9 phần; Thiên Chúa để thế giới 10 phần đau khổ thì Jerusalem chịu 9 phần.”
JERUSALEM: TRUNG TÂM LỊCH SỬ VÀ HÌNH ẢNH CỨU CHUỘC
Jerusalem là thị trấn vui mừng, nguyện cầu và đau khổ của loài người. Thị trấn của những ước mơ đã thành tựu và tan vỡ. Nhìn vào bản đồ thời Trung Cổ ta thấy Jerusalem và đền thờ Salomon nằm ngay trung tâm thế giới, các đại lục Âu Châu, Phi Châu và Á Châu làm thành hình cánh quạt tỏa ra như những cánh hoa vĩ đại. Địa thế như vậy cho thấy một viễn tượng “cứu chuộc” sẽ xuất phát từ Jerusalem. Jerusalem là trái tim thế giới, là trung tâm lịch sử.
JERUSALEM: VUI MỪNG VÀ ĐAU KHỔ
Lịch sử cứu chuộc được nói trong Kinh Thánh nằm giữa hai viễn kiến tạo thành thảm cảnh loài người lúc khởi đầu và hồi kết thúc. Viễn ảnh địa đàng bị mất được nói trong sách Sáng Thế và viễn ảnh một Tân Jerusalem đến từ Thiên Chúa được nói trong sách Khải Huyền. Chúng ta đến từ Thiên Chúa thì sẽ trở về với Thiên Chúa. Hai viễn kiến này là hai tiêu điểm tỏa sáng trên muôn vật có liên hệ đến lịch sử và số phận loài người đã được tạo nên do đau khổ và vui mừng.
JERUSALEM TRONG CỰU ƯỚC
Jerusalem là biểu tượng của đất thánh. Thị trấn là biểu tượng bảo đảm cho quyền năng cứu chuộc của Thiên Chúa:
“Jerusalem núi đồi tứ bề bao quanh, “Dân Người được Chúa bao bọc muôn đời an vui.” (Tv 125:2)
Tác giả Thánh Vịnh / David đã ca tụng Jerusalem với những lời đầy phấn chấn:
“Lòng tôi phấn khởi hân hoan….khi họ nói với tôi: ‘Nào, chúng ta cùng đi về nhà Chúa’ “Ta dừng chân nơi thành cửa, Ôi Jerusalem!” (Tv 122:1-2)
“Lưỡi ta cứng họng tái tê, “Chẳng còn nhớ ra ngươi, “Chẳng nâng ngươi lên tuyệt đỉnh niềm vui trong đời.” (Tv 137:6)
Không ai có thể tiên đoán được tương lai Jerusalem tài hơn là Isaiah, một tiên tri kiêm thi sĩ người Do Thái sống ở thế kỷ VIII. Sau khi tiên đoán thế giới sẽ bị tiêu hủy, Isaiah cho biết đầng thiên sai sẽ cứu chuộc toàn thế giới ở đồi Jerusalem. Ông nói trước là một ngày kia tất cả mọi quốc gia sẽ tụ họp lại nơi đây để hòa giải kết thúc chiến tranh tại ngọn đồi cao nhất là Zion tức Jerusalem. Từ Zion, tức “Núi nhà Chúa”, luật công lý của Thiên Chúa sẽ được ban hành. Hãy nghe đây lời tiên đoán của Isaiah (Is 2:1-5): Vào những ngày sắp tới, núi nhà Chúa sẽ là đỉnh núi cao nhất trong các núi. Mọi quốc gia sẽ tuôn đổ về đó, mọi dân tộc sẽ đến và cùng nói: ‘Nào, chúng ta hãy đi lên Núi Chúa, nhà của Thiên Chúa Jacob. Người sẽ dạy chúng ta đường lối của Người và chúng ta bước theo vết chân Người.’ Vì từ Zion, lời giáo huấn của Chúa sẽ được ban ra, xuất phát từ Jerusalem.
JERUSALEM VÀ NGƯỜI KITÔ GIÁO
Tin Mừng Luca và những câu chuyện sau này ở Giáo Hội sơ khai trong Công Vụ Tông Đồ đã đề cập đến Jerusalem rất tích cực. Tin Mừng Luca bắt đầu và kết thúc trong đền Jerusalem. Bắt đầu ở chỗ sứ thần báo tin cho ông Zachary -một tư tế lúc đó đang bước vào cung thánh đền Jerusalem để dâng hương- sẽ sinh con là Gioan Tiền Hô (Lc 1:10). Kết thúc ở chỗ các môn đệ của Chúa Giesu thờ lạy Chúa mỗi ngày ở trong đền thờ trong khi chờ đợi ơn Thánh Linh đổ xuống vào ngày Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống (Lc 24:52-53).
Cũng có nhiều dấu hiệu ghi trong các sách thánh của Giáo Hội sơ khai ám chỉ sự quan trọng của Jerusalem. Thánh Phaolo đã đến với dân ngoại bằng sứ điệp Tin Mừng, kêu gọi phải giúp đỡ những người nghèo khó của Giáo Hội ở Jerusalem và Judea. Ngài muốn tạo tình đoàn kết, thương yêu nhau giữa các thành viên của Giáo Hội gốc Do Thái và gốc dân ngoại. Phaolô đã phân biệt Jerusalem thành hai loại: loại dưới hay hạ giới tức nô lệ và loại trên hay thượng giới tức tự do như trong thư ngài gửi tín hữu Galat, nhưng Jerusalem vẫn là neo tầu, kim chỉ nam và là điểm tham khảo quan trọng.
JERUSALEM VÀ KHẢI HUYỀN
Đối với Kitô hữu, Jerusalem là nơi Chúa Giêsu chịu chết và sống lại, là trung tâm lịch sử loài người và thế giới. Nó cũng là một tân thị trấn ở tương lai. Tân Jerusalem này đã được nói tới trong bài đọc sách Khải Huyền chương 21. Trong giấc mơ, Gioan đã nói về một thị trấn từ Chúa, bởi Chúa và với Chúa. Tác giả trình bày Tân Jerusalem như là mục đích của lịch sử loài người. Jerusalem sẽ là khuôn mẫu cho thấy cuộc sống với Chúa thế nào vào “thời cánh chung”. Elie Weisel người đoạt giải Nobel đã dựa vào ý tưởng đó mô tả thị trấn thánh như sau: “JERUSALEM phải ở mọi nơi, JERUSALEM là mọi nơi, ở đó người ta phấn đấu cho HÒA BÌNH khi lòng mở rộng để NGUYỆN CẦU, với lòng QUẢNG ĐẠI và BIẾT ƠN.”
JERUSALEM VÀ BA TÔN GIÁO LỚN
Jerusalem là thị trấn của Chúa và là đền thánh của Chúa, nơi mà mọi tín hữu Do Thái giáo, Kito giáo và Hồi giáo đến để nghe lời Chúa và thờ lạy Chúa. Nhu cầu tôn giáo này là yếu tố chính của bản tính con người, cá nhân cũng như tập thể. Nó bao gồm nhiều người và cả một dân tộc. Ký ức tôn giáo cũng là ký ức quốc gia, đặc biệt đối với tín hữu Do Thái giáo và Hồi Giáo. Đối với tín hữu Kitô giáo, Jerusalem đã và đang là Giáo Hội Mẹ, nơi phát sinh ra cộng đồng Kito giáo tiên khởi.
MỘT VÀI VẤN NẠN ĐỂ SUY TƯ
Jerusalem như vậy nhưng tại sao dân Jerusalem và cả thế giới vẫn gây chiến với nhau có khi tưởng như ngày tận thế đến! Tại sao Jerusalem lại quan trọng như vậy? Jerusalem có ý nghĩa gì đối với bạn? Khía cạnh nào của Do Thái giáo và Hồi giáo đã soi sáng và giúp ích cho niềm tin của bạn? Bạn nghĩ gì về một viễn tượng của Jerusalem tương lai?
Khi nghĩ về Giáo Hội thì hình ảnh gì đến trong đầu bạn? Hình ảnh về Giáo Hội phản ảnh thế nào trên kinh nghiệm của bạn là một thành viên của Giáo Hội? Nếu bạn là đền thờ sống động của Thiên Chúa, những đặc tính gì nói lên bạn là thành viên của Giáo Hội? Theo bạn, biểu tựợng nào nói lên được tình đoàn kết nhất của người Kito hữu?
Tất cả cư dân thành Jerusalem ngày nay đang chiến đấu cho một xã hội công bằng và bảo đảm ngay lập tức. Thảm cảnh liên tục nơi đất thánh chính là thảm cảnh của niềm tin. Vậy thì chiến tranh vì tôn giáo và cuộc tranh cãi giữa những người cùng tin vào một Thiên Chúa còn kéo dài bao lâu nữa? Không phải vì lý do này mà Thiên Chúa tỏ mình cho chúng ta và nói cho chúng ta nơi đất thánh này, mà chính là vì ơn cứu độ loài người và tình yêu nhân loại. Đó là khí cụ xây dựng duy nhất và phương cách độc nhất dẩn đến hòa bình và công lý.
Làm sao bạn có thể biết được một Jerusalem tương lai? Những khuôn mẫu và ẩn dụ tôn giáo nào giúp bạn có được một viễn kiến về thị trấn thánh này? Sự tưởng tượng về tôn giáo của bạn có đưa bạn đến một viễn ảnh hòa bình và công lý không, hay nó lại phát sinh ra những ý tưởng hận thù, loại bỏ và bạo động?
ĐÔI LỜI KẾT: TRUNG THÀNH VỚI JERUSALEM VÀ GIÁO QUYỀN LA MÃ
Để kết luận bài suy niệm này, xin chuyển dịch lời nguyện cầu của HY Carlo Maria Martini, sj trong sách của ngài nhan đề Due Pellegrini per la Guistizia (Centro Ambrosiano: Edizioni Piemme, 1992). Biết được kinh này khi tôi đi hành hương Jerusalem hơn 10 năm trước đây.
Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con Chúng con cầu xin Chúa Chúng con chúc tụng Chúa, vì Jerusalem… Vì Chúa ban cho chúng con thị trấn này Như biểu tượng câu chuyện của Chúa và câu chuyện loài người; Dấu hiệu tình yêu Chúa thương chúng con Lòng Chúa thứ tha tội lỗi mọi người. Biểu tượng cuộc hành hương dương thế của chúng con đi về nhà Chúa, Đầy gian nan và tranh chấp.
Chúng con cầu xin cho Jerusalem Cho tất cả những người anh chị em huynh đệ Do Thái và Ả Rập…. Chúng con tạ ơn Chúa Vì Chúa kêu gọi chúng con phụng sự Chúa Kitô Vác thánh giá Chúa ngày nay trong Giáo Hội Một Giáo Hội mà trung tâm là La Mã Vì Chúa đã kêu gọi chúng con trở nên một với con Chúa. Chúa dạy chúng con đặt tên cho sự hiệp nhất ấy của chúng con với Người Như lời thánh Ignatius Loyola nói. Hôn thê đích thực của Chúa Kitô Chúa chúng con, Là Giáo Hội Mẹ chúng con. Chúng con tạ ơn Chúa vì Giáo Hội và La Mã; Đó là hình ảnh của hiệp nhất Là hành hương đi tới thống nhất, Đi tới tòa phán xét chúng con phải chịu Để hoàn thành tình hiệp nhất ấy. Chúng con xin Chúa ban ơn trung thành… Với Jerusalem và La Mã, Với Con Chúa và Giáo Hội Trong cuộc hành trình chung với nhân loại Hướng về Trái Tim Chúa Ba Ngôi Để chiêm nghiệm dung nhan Chúa, Đức Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Amen.