Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Kính Mình Máu Chúa Kitô ABC Bài 151-200 Dấu Chỉ của Tình Yêu
(Thứ 6 sau lễ MMTC) --------------------------------------- Năm A:
Phúc Âm: Ga 6, 51-59: "Thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái rằng: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống". Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?" Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Ðấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Ðây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời". - Ðó là lời Chúa.
Năm B:
Phúc Âm: Mc 14, 12-16. 22-26 :“Này là Mình Ta. Này là Máu Ta”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn bánh không men là ngày giết chiên mừng lễ Vượt Qua, các môn đệ thưa Chúa Giêsu rằng: “Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua tại đâu?” Người liền sai hai môn đệ đi và dặn rằng: “Các con hãy vào thành, và nếu gặp một người mang vò nước thì hãy đi theo người đó. Hễ người ấy vào nhà nào thì các con hãy nói với chủ nhà rằng: Thầy sai chúng tôi hỏi: ‘Căn phòng Ta sẽ ăn Lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu?’ Và chủ nhà sẽ chỉ cho các con một căn phòng rộng rãi dọn sẵn sàng và các con hãy sửa soạn cho chúng ta ở đó”. Hai môn đệ đi vào thành và thấy mọi sự như Người đã bảo và hai ông dọn Lễ Vượt Qua. - Ðang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: “Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta”. Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. Và Người bảo các ông: “Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người. Ta bảo thật các con: Ta sẽ chẳng còn uống rượu nho này nữa cho đến ngày Ta sẽ uống rượu mới trong nước Thiên Chúa”. Sau khi hát Thánh Vịnh, Thầy trò đi lên núi Cây Dầu. - Ðó là lời Chúa.
(Gioan 6,51-58 – Mình Máu Thánh - A; CN XX TN - B)
Lm PX Vũ Phan Long, ofm
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn này nằm trong Phần I của Tin Mừng Gioan (“Sách các Dấu lạ”, ch. 2-12) nói về “Bánh:THÁNHTHỂ-151
Đoạn văn này nằm trong Phần I của Tin Mừng Gioan (“Sách các Dấu lạ”, ch. 2–12) nói về “Bánh trường sinh” (6,1-71).
Nói chính xác, bài diễn từ “Bánh trường sinh” bắt đầu từ c. 25 và được kết cấu thành năm vòng tròn, mỗi vòng bắt đầu bằng một câu nói của Đức Giêsu và một vấn nạn của người Do-thái: a) 6,25; b) 6,28; c) 6,34; d) 6,41; e) 6,52. Cứ một câu hỏi của người Do-thái lại đưa Đức Giêsu đến một mạc khải mới về mầu nhiệm bản thân Người; mạc khải này càng gây thắc mắc cho người Do-thái hơn. Năm vòng tròn này chuyển theo hình trôn ốc, đưa đến chọn lựa cuối cùng: bỏ Đức Giêsu (6,66) hoặc tiếp tục gắn bó với Người (6,69).
2.- Bố cục
Bản văn có thể được chia thành bốn đơn vị:
1) Đề tài được xác định lần ba (x. cc. 35 và 48): “Tôi là bánh hằng sống” (6;51); 2) Thắc mắc của người Do-thái (6,52); 3) Triển khai đề tài (6,53-56); 4) Nền tảng của đề tài (6,57-58. Câu 58a nhắc lại c. 51a).
3.- Vài điểm chú giải
- từ trời xuống (51): hàm ý mầu nhiệm Nhập Thể. - bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây (51): Chúng ta có thể tự hỏi vì sao tác giả Gioan không dùng từ ngữ “thân thể” (sôma) mà lại dùng từ “thịt” (sarx), nhất là khi mà từ sôma đã trở thành từ quen thuộc trong văn chương Tân Ước để gọi Bí Tích Thánh Thể (x. Mc 14,22; Mt 26,26; Lc 22,19; 1 Cr 11,24). Đồng ý là trong bữa tiệc cuối cùng, hẳn là Đức Giêsu đã sử dụng từ a-ram besar (híp-ri bâsâr), và từ này, cho dù chỉ “thân thể”, vẫn được ưu tiên dịch ra bằng sarx, “thịt”, trong bản dịch LXX. Nhưng thông thường, Ga cũng không mấy để ý đến từ Hy-lạp chính xác. Ở đây hẳn phải có lý do khác.
Sarx đúng là từ để dịch besar. Nhưng sarx không chỉ có nghĩa là “thịt” là còn có nghĩa là “toàn thân thể”; “toàn thể con người [theo nghĩa là có quan hệ với người chung quanh; x. 1,14]”. Để diễn tả các sắc thái này, ngôn ngữ Hy-lạp có khả năng tinh tế hơn tiếng A-ram. Nhưng trong Do-thái giáo sau này, người ta đã chọn dịch bâsâr là sôma, cho dù trong Tân Ước, đôi khi người ta dùng cả hai từ. Nhưng để nói về Bí Tích Thánh Thể, từ sôma đã được chọn, ngoại trừ một vài bản văn sau thời các tông đồ, được viết dưới ảnh hưởng của Ga 6, đã dùng từ sarx (vd: thánh Inhaxiô Antiôkhia, thánh Giúttinô…). Như thế, dù trong Họi Thánh tiên khởi, đã có một từ nhất định để gọi Bí Tích Thánh Thể, nếu Ga vẫn giữ lại từ sarx, là vì sarx-thịt có trong ngôn ngữ A-ram một ý nghĩa rộng hơn sôma-thân thể. Đàng khác, trong Ga, sôma được dùng để gọi một xác chết: làm thế nào một xác chết có thể ban sự sống? Ngược lại, “thịt” vừa có nghĩa là toàn thể con người vừa có nghĩa là thân thể, và “hai nghĩa trong một” này rất lý tưởng để gợi ra một trật cái chết trên thập giá và Bí Tích Thánh Thể. Bởi vì ý nghĩa căn bản và tại nguồn của “thịt mà Con Người sẽ ban” không phải là Bí Tích Thánh Thể, mà là “chính bản thân” Người trong cái chết trên thập giá. Vậy, khi Đức Giêsu nói về “thịt của Người để cho thế gian được sống”, Người muốn nói đến “bản thân Người” (chịu sát tế) để cho thế gian được sống”.
- làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt (52): Đại danh từ Hy-lạp “ông này” hàm ý khinh bỉ (x. c. 42). Trong Kinh Thánh, “ăn thịt ai” là một công thức bóng bảy để diễn tả sự thù nghịch (x. Tv 27,2; Dcr 11,9). Còn việc uống máu bị coi như một việc ghê tởm bị luật Thiên Chúa cấm (St 9,4; Lv 3,17; Đnl 12,23; Cv 15,20).
- ăn ... uống (53): Hai động từ Hy-lạp này (esthiein và pinein) là những hành vi rất cụ thể để nuôi dưỡng thân xác.
- thịt ... máu (53): Thành ngữ Híp-ri “thịt và máu” có nghĩa là toàn thể con người. Vào thời phong trào Cải Cách (tk. xvi), người ta đã tranh luận là có cần nhận Thánh Thể dưới hai hình không. Tất cả những gì có thể rút ra từ bản văn này là: cần phải nhận trọn vẹn Đức Kitô.
- Ai ăn (54 và 57): Động từ “ăn” ở đây là trôgein (bản văn tiếng Anh dịch là feed) chứ không phải là esthiein như ở trên, để diễn tả một hành động rất cụ thể: “nhai bằng răng”. Động từ này nêu bật tính hiện thực của Bí Tích Thánh Thể.
- ở lại (56): Đọng từ menein (remain; rester) là một động từ quan trọng của Tin Mừng Ga (x. chương 15: “Cây nho thật”; động từ này được dùng trong TMNL: 12 lần; Ga: 40 lần; 1-3 Ga: 27 lần; Kh: 1 lần). Tác giả Ga thích dùng động từ này để diễn tả quan hệ trường tồn giữa Chúa Cha và Chúa Con và giữa Chúa Con và các Kitô hữu. Ở trong Cựu Ước, “trường tồn” là một đặc điểm của Thiên Chúa và của những thứ thuộc về Thiên Chúa (x. Đn 6,26; Kn 7,27; 1 Pr 1,25), đối lại với đặc tính tạm bợ, chóng qua của con người. Tuy nhiên, TM Ga còn dùng một công thức là “ở trong” (menein en) để nói về tính nội tại liên kết Chúa Cha, Chúa Con và các Kitô hữu lại với nhau: như Con ở trong Cha, và Cha ở trong Con (14,10-11), thì Con cũng ở trong loài người, và loài người phải ở trong Cha và trong Con (17,21.23).
- kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống (57): Bí Tích Thánh Thể thông ban cho các tín hữu sự sống mà Chúa Con nhận từ nơi Chúa Cha. - chết (58): Đây là cái chết thể lý đối lại với sự sống thiêng liêng.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Trong tư cách là Con Thiên Chúa được Chúa Cha sai đến, Đức Giêsu kêu gọi chúng ta hiệp thông vào sự sống với Người. Nếu chúng ta tin vào Người, chúng ta được đi vào trong sự sống với Người, trong sự sống vĩnh cửu. Ở đây Người giải thích cặn kẽ Người là bánh ban sự sống cho chúng ta như thế nào: Trong cái chết trên thập giá, Người hiến mình cho thế gian được sống và Người ban cho chúng ta thịt và máu Người làm của ăn của uống.
* Xác định đề tài (51)
Đề tài đã được xác định ở cc. 35 và 48, nay lại được nhắc lại, nhưng mang ý nghĩa phong phú hơn, bởi vì đã được triển khai hai đợt (cc. 35-47 và cc. 48-50). Khi nói “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (c. 51a), Đức Giêsu tóm ý nghĩa của dấu chỉ hóa bánh ra nhiều. Chính bản thân Người là sức sống thiên quốc và thần linh, tuyệt đối không thể cạn kiệt. Ai đi vào tương quan đúng đắn với Người thì được thông phần vào sự sống muôn đời. Trong câu “Và bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (51b) chứa đựng những yếu tố sẽ được triển khai sau này. Cho đến nay, các lời Đức Giêsu nói chỉ giới thiệu tổng quát rằng Người là bánh ban sự sống; nhưng bây giờ Người nói rằng trong tương lai, Người sẽ ban bánh. Bánh ấy chính là thịt Người, hoặc là chính bản thân Người với trọn vẹn cuộc sống con người. Người đã đưa nhân tính của Người ra mà phục vụ sự sống của thế giới, của tất cả mọi người không loại trừ ai.
* Thắc mắc của người Do-thái (52)
Người Do-thái bị vấp phạm nặng nề vì lời khẳng định của Đức Giêsu: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”. Với mức độ Đức Giêsu mạc khải rõ ràng hơn, sự đối kháng cũng tăng theo. Lúc đầu, còn là những xầm xì, nay đã trở thành tranh luận. Nếu ráng ép, thì cũng có thể hiểu lời khẳng định của Đức Giêsu theo nghĩa ẩn dụ: ăn và uống đây chính là học hỏi Lề Luật. Nhưng dựa theo giọng điệu của Đức Giêsu, những lời Người nói, người Do-thái đã hiểu rằng phải hiểu mọi sự theo nghĩa chữ. Và theo họ, như thế là phi lý.
* Triển khai đề tài (53-56)
Đức Giêsu đã dùng ngôn ngữ hiện thực, thậm chí sống sượng (“ăn”, trôgein) để diễn tả tính hiện thực của Bí tích Thánh Thể. Để được thông phần vào sự sống muôn đời, cần phải ăn thịt Con Người và uống máu Người. Cùng với thịt, bây giờ còn có máu nữa: Đức Giêsu nhắc đến chính cái chết thảm khốc của Người trên thập giá, được tượng trưng bàng từ ngữ “máu”. Trong bánh, là thịt Người, và trong rượu, là máu Người, Người sẽ ban tặng chính bản thân Người như Đấng đã trao ban mạng sống trên thập giá. Các tặng phẩm Thánh Thể có nền tảng là chính cái chết của Đức Giêsu trên thập giá, trong hành vi Người hiến tặng mạng sống để cho thế gian được sống, như bằng chứng tối cao về tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Đức Giêsu, Đấng hiến mạng sống trên thập giá, cũng ban thịt Người như là của ăn và máu Người như là của uống. Thịt và máu này là một bằng chứng tối hậu về tình yêu của Người và là bảo chứng về tình yêu mà Người chứng tỏ khi hy sinh mạng sống.
Ai lấy đức tin mà đón nhận quà tặng này, thì cũng tuyên xưng Đấng Chịu đóng đinh với tình yêu của Người là nguồn mạch ban sự sống, và sẽ được thông phần vào sự sống của Người, cũng là hiêp thông với Người: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (6,54). Một lần nữa, Đức Giêsu lại khẳng định rõ ràng rằng sự sống đời đời và hiệp thông cá nhân với Người chỉ là một. Với người ăn thịt và uống máu Người, Đức Giêsu hứa: “[Người ấy] được sống muôn đời (c. 54)” và “người ấy … ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (c. 56). Ở lại trong nhau có nghĩa là trao đổi hỗ tương trọn vẹn và kết hợp với nhau chặt chẽ nhất. Dụ ngôn cây nho và các cành sẽ làm sáng tỏ thêm nữa ý nghĩa này (x. 15,1-17).
* Nền tảng của đề tài (57-58)
Chúa Cha chính là nguồn phát xuất ra mọi sự: Ngài gửi Chúa Con đến với loài người như là “bánh ban sự sống” (6,32.44), nhưng cũng dẫn đưa loài người đến với Đức Giêsu trong tư cách là “bánh ban sự sống” (6,37.44.65). Thiên Chúa là Cha “hằng sống”, là chính sự sống, là sức sống viên mãn không bao giờ cạn kiệt, là Thiên Chúa hằng sống. Đức Giêsu được sai phái đi bởi Chúa Cha và có sự sống bởi Chúa Cha; Người cũng có thể thông ban sự sống thần linh. Bánh ban sự sống đến từ Chúa Cha hằng sống và nhận từ Chúa Cha tất cả sức mạnh ban sự sống. Bởi vì Người phát xuất từ Chúa Cha hằng sống, Đức Giêsu là bánh ban sự sống, là bánh từ trời xuống.
+ Kết luận
Đức Giêsu đã đến để cứu độ thế gian (3,17), Người là Đấng “Cứu độ trần gian” (4,42). Người đã hy sinh chính mạng sống, để đưa lại sự sống cho thế gian. Do đó, không ai bị loại trừ cả.
Bí Tích Thánh Thể là bữa tiệc Thiên Chúa đặt để thết đãi loài người. Bàn thờ dâng lễ cũng chính là bàn tiệc, nơi thịt và máu Đức Kitô được chuyển đến cho các thực khách làm thức ăn thức uống. Mọi người đều được mời gọi đến bàn tiệc này. Lương thực là chính Đức Giêsu, mà Người ban cho chúng ta, không được dùng để duy trì sự sống trần gian hoặc ngăn cản cái chết thể lý. Chính Đức Giêsu cũng đã chết, khi trao hiến thịt và máu trên thập giá. Nhưng cũng chính Người, là bánh ban sự sống, sẽ ban sự sống muôn đời, sự sống này không mai mọt đi trong cái chết và sẽ được viên mãn trong ngày sống lại.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Nhận lấy Mình Máu thánh Đức Kitô, trước tiên là nhận biết Chúa Cha là nguồn ban cho chúng ta ơn cao trọng ấy. Đức Giêsu đã nhiều lần nói với chúng ta về Chúa Cha như về Đấng ban cho chúng ta tất cả mọi sự. Chúa Cha sai Con đến với loài người như là “bánh ban sự sống” (6,32.44), nhưng Chúa Cha cũng dẫn đưa loài người đến với Đức Giêsu, “bánh ban sự sống” (6,37.44.65). Đức Giêsu cũng nói về Chúa Cha: “Ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (6,40). Người cũng nói rằng tất cả những gì Người ban như là ân huệ riêng, thì có nền tảng là chính Chúa Cha (6,57). Thiên Chúa là Cha hằng sống, là chính sự sống, là sinh lực viên mãn. Như thế, khi đến với Tiệc Thánh Thể, chúng ta cần nhớ rằng chính Chúa Cha đang dẫn chúng ta đến để ban cho chúng ta lương thực là chính Con Một của Ngài.
2. Nếu chúng ta ăn thịt và uống máu Đức Giêsu, chúng ta đón nhận các quà tặng của chính Người và tuyên xưng niềm tin rằng Người hiện diện trong bánh và rượu đã được truyền phép và chỉ nhờ Người, Đấng được giương cao và chịu đóng đinh, chúng ta mới có sự sống đời đời. Khi đó, chúng ta cũng được mời gọi nhận ra rằng Thịt và Máu Người chính là bằng chứng cao cả nhất về tình yêu của Chúa Cha và của chính Người đối với nhân loại, đồng thời cũng là bảo chứng về sự sống đời mà Người muốn ban cho chúng ta.
3. Ăn Thịt Đức Giêsu, hoặc ăn chính Đức Giêsu, trong Bí Tích Thánh Thể, là cách thức duy nhất giúp tránh được tình trạng suy nhược thiêng liêng và cái chết. Ăn Đức Kitô, chính là sống nhờ Đức Kitô. Nếu chúng ta hiệp thông đều đặn vào sự sống của Người, chúng ta đã được đặt để trong tình trạng ơn nghĩa, và tình trạng này sẽ triển nở thành vinh quang trong cuộc sống vĩnh cửu.
4. Đã hiệp thông vào Thịt và Máu Đức Kitô, chúng ta trở thành “Đức Kitô toàn thể”. Do đó, chúng ta cũng phải trở thành “lương thực” nuôi dưỡng anh chị em chúng ta. Mãi mãi chúng ta sẽ thấy mình bất xứng, muốn co lại, khép kín trên chính mình, nên cứ phải để cho Đức Giêsu giúp biết hy sinh hầu phục vụ sự sống của anh chị em mình. “Hồng ân Chúa Kitô và Thánh Thần của Người mà chúng ta lãnh nhận trong việc hiệp lễ hoàn tất cách sung mãn tuyệt vời những ước muốn hiệp nhất huynh đệ đang ngự trị trong tâm hồn con người, đồng thời nâng cao kinh nghiệm về tình huynh đệ trong việc tham dự chung vào cùng một bàn tiệc Thánh Thể đến một mức độ vượt hẳn kinh nghiệm đồng bàn đơn thường của con người” (Thông điệp Giáo Hội từ Bí Tích Thánh Thể, 24). (www.kinhthanhvn.org)
Tại nhà thờ chánh tòa Wurzburg trong miền Baviere, Tây Đức, có một tượng thánh giá rất:THÁNHTHỂ-152
Tại nhà thờ chánh tòa Wurzburg trong miền Baviere, Tây Ðức, có một tượng thánh giá rất nổi tiếng được chạm trổ vào khoảng thế kỷ 14. Trên những tượng thánh giá, thông thường đôi tay Chúa Giêsu giang ra và bị đóng vào gỗ giá. Riêng đôi tay của Chúa Giêsu trên tượng thánh giá tại nhà thờ chánh tòa Wurzburg thì khác hẳn: thay vào bị giang ra và bị đóng vào gỗ giá, hai cánh tay của Chúa lại khoanh trước trái tim như thể đang ôm vào lòng một người nào đó.
Người dân địa phương truyền tụng rằng trong cuộc chiến tranh tôn giáo giữa tin lành và công giáo vào giữa thế kỷ 17, một người lính chống công giáo đã vào nhà thờ này. Nhìn thấy trên đầu Thiên Chúa có một triều thiên bằng vàng, anh sinh lòng tham, bắc thang leo lên để đánh cắp. Khi anh vừa đưa tay tháo gỡ triều thiên thì đôi cánh tay của Chúa Giêsu bỗng được tháo gỡ. Chúa Giêsu giang tay ôm trọn lấy anh vào lòng, với tất cả trìu mến. Người lính chết lịm trong vòng tay âu yếm của Chúa Giêsu.
Người ta tìm thấy xác của anh dưới chân thánh giá!
Kể từ ngày đó, hai cánh tay của Chúa Giêsu không còn giang ra và bị đóng vào lỗ đinh nữa, nhưng được khoanh trước trái tim trong tư thế đang ôm chầm lấy một người nào đó.
Du khách nhìn lên thập giá đều có cảm tưởng như ánh mắt của Chúa Giêsu nhìn mình và nghe có tiếng thì thầm: "Ta không hề kết án con".
"Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài", đó là chân lý cơ bản nhất trong Kitô giáo. Tất cả cuộc đời của Chúa Giêsu, cái chết của Ngài trên thập giá: đó là ngôn ngữ qua đó muốn nói với chúng ta rằng Ngài yêu thương chúng ta, yêu thương đến nỗi sẵn sàng để cho Người Con Một của Ngài chết thay cho chúng ta.
Thiên Chúa yêu thương con người: điều đó không có nghĩa là Ngài yêu thương con người một cách trìu tượng, yêu thương con người như một đám đông hay như một con số. Thiên Chúa yêu thương con người bằng một tình yêu cá biệt, nghĩa là mỗi người chúng ta đối với Ngài như thể là người duy nhất hiện hữu trên trần gian này. Mỗi người là một lịch sử, mỗi người chiếm trọn tình yêu của Chúa.
Thiên Chúa yêu thương tôi, nghĩa là Ngài chỉ muốn điều thiện cho tôi. Ðiều thiện ấy có thể vượt khỏi suy tính, đo lường của tôi. Do đó, cho dẫu có gặp trăm nghìn đớn đau, vất vả, chúng ta cũng hãy tin rằng Thiên Chúa đang yêu thương chúng ta. Ngài yêu thương tôi đến độ làm mọi cách để cho mọi sự đều quy về điều thiện hảo cho tôi. Một cơn bệnh, một sự thất bại, một cái chết, một sự mất mát và ngay cả tội lỗi: tất cả đều là những cơ may để Ngài ban cho tôi một ơn phúc cao cả hơn.
“Thịt tôi thật là của ăn, máu tôi thật là của uống”.
Bạn thân mến,
Nếu có một ai đó tuyên bố: ai ăn thịt của tôi thì được sống đời đời, chắc chắn bạn sẽ nói họ là:THÁNHTHỂ-153
Nếu có một ai đó tuyên bố: ai ăn thịt của tôi thì được sống đời đời, chắc chắn bạn sẽ nói họ là những người điên, và rồi bỏ đi. Chúa Giê-su cũng đã bị nhiều người Do Thái bỏ đi, khi Ngài tuyên bố: “Thịt tôi thật là của ăn, máu tôi thật là của uống”, trong số những người bỏ đi ấy cũng có những người là môn đệ của Ngài.
Có lúc nào bạn nói với người yêu bạn: em đẹp và dễ thương quá, yêu em quá, thương em quá muốn ăn muốn cắn em cho đỡ nhớ đỡ thương; hoặc có lúc nào bạn thấy người ta nựng em bé không, họ hôn họ cắn, họ nhéo em bé, đó chính là yêu thương đó bạn ạ. Tình yêu luôn mong muốn được trao ban và đón nhận, luôn mong muốn được hòa tan với người mình yêu, đó chính là tình yêu tận hiến, và Chúa Giê-su đã làm như thế khi Ngài lấy chính máu thịt của mình làm của ăn của uống để nuôi linh hồn chúng ta, để chúng ta được sự sống đời đời.
Khi tuyên bố: “thịt tôi thật là của ăn, máu tôi thật là của uống”, thì Chúa Giê-su thật sự đã trở thành tâm điểm cho mọi chống đối của thế gian, bởi vì không một hy sinh nào mà không phải trả giá đắt, không một tình yêu nào mà không có hy sinh.
Bạn thân mến,
Mỗi lần tham dự thánh lễ là bạn và tôi đều cảm nghiệm được tình yêu mà Chúa Giê-su đã dành cho Giáo Hội, cho thế gian qua bí tích Thánh Thể nhiệm mầu, đó chính là bí tích yêu thương, hy sinh và nuôi dưỡng. Chính qua bí tích này mà Chúa Giê-su luôn ở với Giáo Hội và nhân loại cho đến ngày tận thế.
- Vì bí tích Thánh Thể là bí tích yêu thương, nên bạn và tôi cũng tập tành bắt chước yêu thương tha nhân, như Chúa Giê-su đã yêu thương chúng ta.
- Vì bí tích Thánh Thể là dấu chỉ của hy sinh, nên bạn và tôi cũng cố gắng học tập hy sinh cho tha nhân, như Chúa Giê-su đã hy sinh mạng sống vì chúng ta.
- Vì bí tích Thánh Thể là bí tích nuôi dưỡng, nên bạn và tôi cũng tập tành chia sẻ vật chất lẫn tinh thần với tha nhân, như Chúa Giê-su đã lấy thịt máu của mình để nuôi dưỡng linh hồn chúng ta.
- Và vì bí tích Thánh Thể là bởi tấm bánh tinh tuyền và rượu nho thanh khiết tạo thành, cho nên bạn và tôi cũng sẽ luôn cố gắng trở thành tấm bánh cho anh chị em và tha nhân hưởng dùng...
Phụng vụ hôm nay đưa chúng ta đến bữa ăn cuối cùng Đức Giêsu chia sẻ với các môn đệ. Đây là: THÁNHTHỂ-154
Phụng vụ hôm nay đưa chúng ta đến bữa ăn cuối cùng Đức Giêsu chia sẻ với các môn đệ. Đây là một trong nhiều sự cố đã xảy ra kể từ khi Đức Giêsu đến Giêrusalem (x. 11,1). Tuy nhiên, bữa ăn này có một giá trị đặc biệt, vì đây là một bữa tiệc Vượt Qua, trong đó Đức Giêsu sẽ ký kết giao ước mới trước khi đi vào cuộc Thương Khó.
II. BỐ cỤc
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Chuẩn bị tiệc Vượt Qua (14,12-16); 2) Khai mạc giao ước (14,22-26).
III. Vài điỂm chú giẢi
- Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày sát tế chiên Vượt Qua (12): Theo truyền thống Kinh Thánh, lễ Vượt Qua (Pesach) được cử hành vào chiều ngày 14 Nisan (“Nisan” là tháng thứ nhất của năm) và chính ngày lễ là 15 Nisan, còn lễ Bánh Không Men (lễ Matzoth), kéo dài thành bảy ngày, lại bắt đầu vào đúng ngày 15 Nisan. Vì hai đại lễ này quá gần nhau, chẳng mấy chốc lễ Bánh Không Men đã được gọi là lễ Vượt Qua, và kéo dài trong bảy ngày và bắt đầu với đêm lễ Vượt Qua, và phụng vụ cũng gọi đêm lễ Vượt Qua ấy là “lễ Bánh Không Men”. Chiên và bánh không men là lương thực biểu tượng của lễ mùa xuân. Cả hai thứ này nói lên sự tái sinh và đời sống mới.
Truyền thống kinh sư quy định việc sát tế chiên bắt đầu sau khi đã dâng hy lễ chiều ngày vọng, nghĩa là vào khoảng 14g30, tức trước khi ngày thứ nhất bắt đầu vào lúc mặt trời lặn. Nếu lễ Vượt Qua rơi vào ngày thứ bảy, thì bắt đầu sát tế chiên sớm hơn 1 giờ. Nhưng tác giả Mc quan tâm đến độc giả gốc ngoại giáo, ông cho bắt đầu ngày bằng ban sáng (14,17: “chiều đến”, các ngài dùng bữa), “ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men”, tức là đúng ngay ngày 15 Nisan.
Nhận định tổng hợp là: Bản văn Mc xác định Bữa Tiệc cuối cùng chính là bữa tiệc Vượt Qua, tức đúng ngày 15 Nisan; các tác giả Nhất Lãm khác cũng theo thời gian biểu của Mc. Còn Ga 19,14 lại đặt cái chết của Đức Giêsu vào chiều ngày 14 Nisan và như thế làm cho bữa ăn tối cuối cùng trở thành một bữa ăn tiền-Vượt Qua. Thời gian biểu của Gioan có lẽ đúng hơn, bởi vì khó mà cho rằng các thượng tế và các kinh sư lại hành động như ta đã biết vào ngày thứ nhất của lễ Vượt Qua. Khi biến bữa Ăn tối cuối cùng thành một bữa tiệc Vượt Qua, Mc nhắm kéo cái chết của Đức Giêsu vào gần hơn nữa với các đề tài lớn của lễ Vượt Qua là hiến tế và giải phóng.
- dọn cho Thầy ăn lễ (12): Có nhiều việc phải làm: tìm một nơi thích hợp, giết chiên, chuẩn bị bánh không men, sắm các đồ dùng vào bữa tiệc. Các dân cư Giêrusalem rất sẵn sàng giúp cho các khách hành hương có chỗ mà ăn lễ. Nhưng ở đây, Mc không muốn nói tới điểm này, ngài muốn nêu ra một chuyện lạ lùng.
- một người mang vò nước (13): Các môn đệ được cho một dấu chỉ để có thể chu toàn nhiệm vụ, nhưng đây lại là một dấu chỉ của đời thường: một người mang vò nước thì ta có thể gặp bất cứ lúc nào trong Giêrusalem. Tuy nhiên dấu chỉ này cho hiểu rằng hành trình đưa Đức Giêsu đến cuộc Thương Khó được tiên liệu đến từng chi tiết.
- một phòng rộng rãi trên lầu (15): Khi cử hành lễ Vượt Qua, ít ra có khoảng mười người họp lại với nhau, nên sách Mishna quy định là phải có một không gian 10x10 “khuỷu tay” (tức khoảng 23m2). Khi ăn tiệc, người ta nằm dài để diễn tả là dân chúng đã ra khỏi kiếp nô lệ Ai-cập và đã được tự do; ngay cả người nghèo nhất cũng ăn tiệc Vượt Qua trong tư thế này.
- dâng lời chúc tụng (22): Với cách hành động này, ta có thể nói đây là bữa tiệc Vượt Qua hay bữc tiệc bằng hữu cũng được. Trong bữa tiệc Vượt Qua, phải có trước tiên lời chúc tụng về ngày lễ, rồi chén rượu đầu tiên, các món khai vị là rau đắng và trái cây, suy niệm về lễ Vượt Qua, rồi chén rượu thứ hai. Phần chính của bữa ăn bắt đầu với lời chúc tụng trên bánh không men. “Cầm lấy, dâng lời chúc tụng, bẻ ra” là những từ ngữ chuyên môn của lời kinh người Do-thái đọc trước khi ăn. Rất có thể người Do-thái nghĩ rằng miếng bánh được trao cho họ, do ông chủ bẻ ra từ tấm bánh lớn, đưa lại phúc lành cho mình.
- đây là mình Thầy… Đây là máu Thầy (22.24): Vì từ ngữ “mình” (sôma) là một từ nói quanh để chỉ bản thân con người, câu này có thể diễn lại là: “Đây là chính Thầy”. Những ai ăn tiệc thì được hiệp thông cách mới mẻ với Đức Giêsu. Dựa vào c. 24 nói về chén rượu, ta hiểu là đây là sự hiệp thông với Đấng đang đi tới cái chết. Từ ngữ sôma, vì ở trong thế song đối với “máu đổ ra”, có nghĩa là thân thể dâng làm hy lễ.
- Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn (23): Trong tiệc Vượt Qua, giữa lời chúc tụng trên bánh và lời chúc tụng trên rượu, có việc ăn thịt chiên. Theo sách nghi thức, đây là chén rượu thứ ba. Ta lưu ý là Mc đã chuyển đi từ “dâng lời chúc tụng (eulogein)” sang “dâng lời tạ ơn (eucharistein)”, trong khi trong bữa tiệc Do-thái, cả hai lần đều là “lời chúc tụng”. Có thể công thức này đã được chọn vì người ta đã nghĩ tối kết thúc bữa ăn. Nhưng rất có thể tác giả muốn gợi tới bữa tiệc Thánh Thể (eucharistia).
- tất cả đều uống (23): Chi tiết này đến quá sớm, vì sau đó Đức Giêsu còn giải thích ý nghĩa của rượu. Trong một ngữ cảnh rộng hơn, từ “tất cả” đây nhìn tới trước tình cảnh “tất cả” sẽ vấp ngã (14,27.50). Việc tham dự vào bữa tiệc không giữ cho người ta khỏi vấp ngã vào giờ quyết định.
- máu giao ước, đổ ra vì muôn người (24): “Máu giao ước” nhắc đến Xh 24,8. Trong đoạn văn này, sau khi dân đã cam kết giữ luật và sau hy lễ, Môsê rảy máu các tế vật lên dân và nói: “Đây là máu giao ước Đức Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời này”. Ngay sau đó ông dùng một bữa tiệc huynh đệ với các vị kỳ mục của dân (Xh 24,11). Nhờ cái chết của Đức Giêsu, một giao ước mới được thiết lập, thay thế giao ước thứ nhất. Máu Đức Giêsu đi vào thế đối lập tiên trưng với máu giao ước cũ. Theo Dcr 9,11, các tù nhân được phóng thích “nhờ máu của giao ước này”. Việc khai trương giao ước đưa lại sự cứu chuộc và cứu độ. “Máu đổ ra” đồng nghĩa với “bị giết”, bởi vì theo một quan niệm của Kinh Thánh, máu được coi là mang sự sống và sức sống. Từ đó ta hiểu rằng chén được dâng đảm bảo có sự hiệp thông với Chúa, Đấng hiến mình trong cái chết. “Đổ ra”, ekchêô, được dùng thường xuyên để nói về máu con vật được đổ ra (Lv 4,7.18.25.30.34…) và việc rưới rượu (Is 57,6).
Câu “đổ ra vì muôn người” (dịch sát là “đổ ra vì nhiều người”) nhắc đến Is 53,12 và đưa lại cho hành vi một chiều kích hy tế. Hai đoạn văn Cựu Ước này được dùng để diễn tả cái chết của Đức Giêsu như là một hy lễ vì những người khác. Cụm từ hyper pollôn, “vì nhiều người”, dựa trên kiểu nói sê-mít đặc biệt của Is 53,12 (rab), có nghĩa là “tất cả” / đoàn người đông đảo”, chứ không chỉ là “một số người”; đây là toàn thể thế giới ngoại giáo (x. Người Tôi Trung được gọi là “ánh sáng cho các dân” [x. Is 42,6; 49,7t]). Như vậy, “nhiều” đây không đối lập với “tất cả”, nhưng có nghĩa là “tất cả là nhiều”.
- chẳng bao giờ Thầy còn uống … trong Nước Thiên Chúa (25): Câu kết thúc này đặt Bữa Tiệc Ly trong khung cảnh là bữa tiệc thiên sai (x. 6,35-44; 8,1-10). Thay vì coi bữa tiệc cuối cùng này (và Tiệc Thánh Thể) là một biến cố cô lập, cần phải liên kết nó với các bữa ăn Đức Giêsu đã chia sẻ trước đây với những người thu thuế và tội lỗi (x. 2,16) và với bữa tiệc cánh chung tương lai. - Hát thánh vịnh xong (26): Đây là khối Tv 113–118, thường được gọi là Tập Hallel nhỏ. Tập Hallel này này có một vị trí đặc biệt trong ba đại lễ Vượt Qua, Ngũ Tuần và Lều.
IV. Ý nghĩa cỦa bẢn văn
* Chuẩn bị tiệc Vượt Qua (12-16)
Bữa tiệc có một tầm quan trọng lớn lao trong Tin Mừng. Tác giả Mc thường xuyên cho thấy Đức Giêsu ngồi vào bàn ăn với các môn đệ, với những người tội lỗi và với dân chúng. Biến cố cuối cùng trước Thương Khó cũng vẫn là một bữa tiệc: Đức Giêsu cùng với Nhóm Mười Hai cử hành tiệc Vượt Qua. Trong sự hiệp thông đức tin và đạo giáo Israel, các ngài cử hành lễ trọng nhất của dân tộc mình. Bằng bữa tiệc Vượt Qua, dân Israel nhắc lại cách Thiên Chúa đối xử với các tổ phụ và được canh tân trong niềm tin đầy tri ân, vui tươi và vững vàng đặt nơi Thiên Chúa.
Các môn đệ được phái đi chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ cuối cùng của Đức Giêsu với các môn đệ trên bối cảnh là bữa tiệc và nội dung của đại lễ Vượt Qua như thế.
Các môn đệ đã đi vào thành và gặp một người mang vò nước đón mình. Các ông đã chuyển giao sứ điệp: “Thầy nhắn: «Cái phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu?»”. Đây là lần duy nhất danh xưng “Thầy” (didaskalos) được Đức Giêsu dùng để nói về mình, vừa với nghĩa là “vị thầy truyền đạt kiến thức”, vừa theo nghĩa là “bậc đáng kính”; điều này còn được khẳng định bởi cụm từ “các môn đệ của tôi” chỉ được dùng duy nhất ở đây. Tuy nhiên, chi tiết “người mang vò nước” lại chứng tỏ rằng hành trình đưa Đức Giêsu đến cuộc Thương Khó đã được tiên liệu trong từng chi tiết: Người biết và Người vâng phục (x. 11,1t). Như thế, bên cạnh sự cao cả của Người, là sự hạ mình khiêm nhường của Người. Ông chủ nhà sẽ dành cho các môn đệ một phòng lớn trên lầu trên (thường đây là phòng rộng nhất của căn nhà). Các môn đệ thấy mọi sự đúng y như Đức Giêsu đã nói trước.
* Khai mạc giao ước (22-26)
Tại bữa tiệc, trong bánh và rượu, Đức Giêsu ban cho các môn đệ thân mình và máu của Người. Đây là bữa tiệc từ biệt. Đức Giêsu sẽ bị giao nộp và bị giết, Người sẽ không đi đi lại lại trong xứ cùng với các ông, cũng không ăn tiệc với các ông như lâu nay nữa. Tuy nhiên, Người sẽ ở giữa các ông trong bánh và rượu; trong tương lai, đây sẽ là cách thức hiện diện của Người. Đức Giêsu từ biệt, tuy vậy, Người vẫn ở lại đó.
Máu mà Đức Giêsu hiến dâng trong chén rượu là máu của giao ước, được đổ ra vì muôn người. Tiếp nối vào cuộc giải phóng khỏi đất Ai-cập, được nhắc lại trong tiệc Vượt Qua, là việc ký giao ước tại núi Sinai. Đây không phải là một giao ước giữa các partner ngang nhau. Trước tiên giao ước này có đặc điểm là Thiên Chúa tự ràng buộc và tự cam kết là Thiên Chúa nhân ái của dân (x. Xh 20,1); và giao ước này hàm chứa cam kết của dân là tuân giữ các điều răn (x. Xh 20,3-17). Giao ước được đóng ấn, khi Môsê rảy máu tế vật lên bàn thờ và dân chúng (Xh 24,6-8). Với máu của Đức Giêsu, giao ước mới và vĩnh viễn được đóng ấn. Trong máu Người, trong hành vi hiến tặng mạng sống của Người, tình yêu của Thiên Chúa đối với thế gian được tỏ bày (x. Ga 3,16); nhờ máu Người đổ ra, “một đoàn lũ đông đảo” được giải thoát khỏi tội lỗi. Đức Giêsu không chỉ ở lại với các môn đệ, mà còn đặt nền tảng và đóng ấn cho sự hiệp thông của họ với Thiên Chúa.
Đức Giêsu tặng ban cho họ mình và máu Người. Mình và máu là toàn thể bản thân một người. Việc Người tặng ban mình và máu phải mãi mãi nhắc nhớ đến việc Người hiến tặng mạng sống, cái chết của Người trên thập giá. Đàng khác, bánh là lương thực hằng ngày nuôi sống con người, còn rượu chính là tiệc mừng trong niềm vui. Để sống được, loài người chúng ta cần lương thực. Khi ban tặng chính mình trong bánh và rượu, Đức Giêsu cho ta thấy rằng nhờ sự hiện diện của Người giữa chúng ta và nhờ sự hiệp thông của chúng ta với Người, chúng ta có sự sống ở mức viên mãn và trong niềm vui.
Trong những lời kết thúc (c. 25), Đức Giêsu lại nhấn mạnh rằng sự hiệp thông mà Người đã sống cho đến lúc này với các môn đệ đã đến lúc kết thúc: Người sẽ không uống thứ rượu trong tiệc mừng với họ như lâu nay Người vẫn làm nữa. Đồng thời, Đức Giêsu nói đến sự hoàn tất của sự hiệp thông này trong Nuớc Thiên Chúa, khi Thiên Chúa sẽ thiết lập và tỏ bày vĩnh viễn quyền chúa tể của Ngài ra.
+ Kết luận
Khi tường thuật truyện Đức Giêsu mừng lễ Vượt Qua với các môn đệ, Mc đã cho thấy Đức Giêsu đã trung thành đi theo ý muốn của Thiên Chúa trong từng chi tiết. Do đó, bài tường thuật không chỉ để ghi nhận các sự kiện, nhưng mang tính tín lý. Tác giả đã liên kết Thương Khó với tiệc cuối cùng; với bữa tiệc này, cuộc Thương Khó đã bắt đầu vào lễ Vượt Qua. Lễ Vượt Qua của Đức Giêsu được ghi dấu ấn là cuộc Thương Khó của Người. Rất có thể từ ngữ pascha khiến Mc nghĩ đến ý nghĩa của từ Hy-lạp paschô (“đau khổ”); dĩ nhiên về từ nguyên thì không đúng, nhưng về thực tại thì có lý.
Đức Giêsu cũng bày tỏ sự trung thành với các môn đệ cho đến cùng, qua việc hiến tặng mình và máu Người trong bánh và rượu. Sự trung thành của Đức Giêsu, được tỏ hiện trong tất cả mọi hình thức hiện diện của Người, là điểm vững chắc duy nhất trong tương quan hỗ tương giữa Người với các môn đệ. Đức Giêsu luôn ở cùng chúng ta và cho chúng ta được hiệp thông của Người như cho một quà tặng.
V. GỢi ý suy niỆm
1. Đến cuối thời gian hoạt động, Đức Giêsu lại chia sẻ bữa tiệc Vượt Qua này với các môn đệ: bữa tiệc này nhắc lại lịch sử của quan hệ của Thiên Chúa với Israel và đưa tới chỗ hoàn tất. Đức Giêsu lại ăn tiệc với các môn đệ, như cách hiệp thông riêng tư với các ông. Tại đây mọi sự được quay hướng về các hình thái khác của sự hiện diện của Người giữa các môn đệ, về sự hiệp thông không cùng của họ với Người. Tuy nhiên, các môn đệ không thể tự ru ngủ mình trong sự an toàn; chính họ đã thấy định mệnh của Đức Giêsu là một chướng kỳ; chính họ đã không đủ sức liên kết với Người.
2. Trên thập giá, Đức Giêsu đã đổ máu ra; bằng cái chết của Người, Người đã thiết lập giao ước mới, tạo điều kiện cho có sự hiệp thông vĩnh viễn của Thiên Chúa với loài người. Đức Giêsu sẽ mãi mãi ở với họ và sẽ là Đấng Chịu đóng đinh đã hiến tặng mạng sống cho họ. Cho đến nay, Người đã ở giữa họ theo cách thấy được rõ ràng bằng mắt thường, kể từ nay, Người sẽ ở giữa họ trong bánh và rượu, trong tư cách Đấng Chịu đóng đinh, trong tư cách dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa và sự sống. Tất cả những điều này sẽ tới mức viên mãn khi Nước Thiên Chúa được tỏ hiện.
3. Hôm nay chúng ta đã quen coi truyền thống về bữa tiệc ly như là một thành phần thuộc cuộc Thương Khó. Điều này chính Mc đã nhắm: bữa tiệc này được quy hướng về thập giá và Phục Sinh. Bữa tiệc này kết thúc các bữa tiệc Đức Giêsu dùng với các người tội lỗi (2,15tt) và với dân chúng (6,35tt; 8,1tt) và đưa các môn đệ vào cuộc Thương Khó. Người Kitô hữu khi tham dự vào bữa tiệc Thánh Thể thì cũng đã được đặt trên cùng một nẻo đường.
Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa cao cả vô cùng, thế mà Ngài đã nhiều lần hạ mình: THÁNHTHỂ-155
Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa cao cả vô cùng, thế mà Ngài đã nhiều lần hạ mình ký kết giao ước với loài người chúng ta: Giao ước cũ ngày xưa ký kết ở núi Sinai được đóng dấu bằng máu chiên bò, và Giao ước mới ngày xưa được đóng dấu bằng máu của chính Ðức Giêsu.
Mỗi lần cử hành Thánh Lễ là chúng ta lặp lại Giao ước mới đó. Chúng ta hãy cử hành Thánh lễ này trong tâm tình yêu mến và tạ ơn Thiên Chúa.
II. GỢi ý sám hỐi
Chúng ta ít nhớ đến tình thương vô cùng của Thiên Chúa đã ký kết giao ước với loài người chúng ta. Khi đã kết giao ước với nhau, cả hai bên đều phải giữ trọn những điều cam kết. Phần Thiên Chúa thì luôn trung thành giữ giao ước, nhưng phần chúng ta thì luôn bất trung, lỗi phạm. Ðức Giêsu đã đổ máu ra vì chúng ta. Phần chúng ta thì không can đảm hy sinh vì Ngài.
III. LỜi Chúa
1. Bài đọc I Xh 24, 3-8 Tường thuật nghi lễ ký kết giao ước giữa Thiên Chúa với dân Do Thái:
Trước tiên, Môsê lặp lại cho dân những lệnh truyền của Thiên Chúa, và dân đồng ý tuân giữ.
Tiếp đến, Môsê viết lại những lệnh truyền ấy của Thiên Chúa để lưu giữ mãi về sau.
Sau cùng là nghi lễ kết giao ước: Môsê cho giết một số bò, lấy máu của chúng rảy một phần lên bàn thờ tượng trưng cho Thiên Chúa, và phần kia lên dân. Máu là tượng trưng cho sự sống, vì thế ý nghĩa của việc rảy máu là từ nay hai bên kết ước (Thiên Chúa và dân Do Thái) cùng một sự sống với nhau.
2. Ðáp ca Tv 115 Tv này là một phần của Kinh Hallel (gồm các Tv 112-117) mà người Do Thái thường hát trong những dịp lễ lớn, nhất là trong bữa ăn vượt qua. Ngày nay Phụng vụ dùng Tv này để bày tỏ tâm tình tạ ơn Thiên Chúa, nhất là trong Thánh lễ tưởng niệm hồng ân Thánh Thể.
3. Bài đọc II Dt 9, 11-15 Ðức Giêsu là Thượng tế của Giao ước mới, thánh hóa loài người bằng chính máu của Ngài.
4. Tin Mừng Mc 14, 12-16. 22-26 Tường thuật bữa tiệc Vượt qua cuối cùng của Ðức Giêsu:
Ðức Giêsu rất coi trọng bữa tiệc Vượt qua này nên đích thân thu xếp mọi chi tiết tổ chức (các câu 12-16)
Trong bữa tiệc Vượt qua đó, Ngài đã lập Bí tích Thánh Thể (các câu 22-25).
Ðặc biệt Ngài coi việc này là Giao ước mới. Giao ước cũ (bài đọc I) được đóng dấu bằng máu sức vật, còn Giao ước mới được đóng dấu bằng máu của chính Ðức Giêsu "Ðây là máu Thầy, máu giao ước đổ ra vì muôn người"
IV. GỢi ý giẢng
* 1. Giao ước mới Cả 3 bài đọc trong Thánh lễ hôm nay đều nói tới Giao Ước.
Giao ước không chỉ là mối liên hệ giữa hai bên mua bán chỉ nhắm tới những công việc làm ăn. Giao ước giống mối liên hệ vợ chồng hơn. Chính vì thế mà nhiều ngôn sứ đã so sánh Thiên Chúa là chồng và loài người là vợ. Trong giao ước này Thiên Chúa luôn trung thành, tuy nhiên loài người chúng ta thì thường bất trung.
Ðể yêu và được yêu, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta quyền tự do lựa chọn. Giao ước giữa Thiên Chúa với loài người không phải chỉ là vấn đề quyền uy Thiên Chúa nằm trong Lề Luật của Ngài, bởi vì nếu thế thì chúng ta chỉ biết vâng giữ lề luật chứ không yêu thương. Ðó phải là một thỏa thuận tự do giữa hai bên có tự do.
Trong bài đọc I hôm nay, chúng ta thấy ông Môsê cử hành lễ kết Giao ước trước mặt dân Do Thái trước khi họ vào Ðất Hứa. Thế nhưng dân đã chẳng tuân giữ Giao ước này, họ đã chạy theo các ngẫu thần. Dù vậy Thiên Chúa cũng không bỏ dân Ngài. Ngài vẫn tiếp tục hết lần nầy tới lần khác đề nghị kết giao ước với họ; và qua các ngôn sứ, Ngài dạy họ hy vọng ơn cứu độ.
Và khi thời giờ đã mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình xuống thế gian làm Ðấng Cứu Ðộ chúng ta. Qua Ðức Giêsu, Thiên Chúa ký kết một Giao ước mới với loài người chúng ta, và Ðức Giêsu đóng dấu Giao ước mới bằng chính máu của Ngài. Ðức Giêsu trở thành đầu của Dân mới. Ðất Hứa mà Ðức Giêsu dẫn chúng ta tiến vào không phải chỉ là một lãnh thổ mà là quê hương của cuộc sống vĩnh cửu. Chúng ta không chỉ là dân của Thiên Chúa mà còn là con cái của Ngài.
Trong Ðức Kitô và nhờ Ðức Kitô, Thiên Chúa đã ký kết một hợp đồng, một hợp đồng sẽ không bao giờ bị phá huỷ, đó chính là hợp đồng mà chúng ta cử hành trong Thánh lễ. Thật vậy, mỗi lần chúng ta cử hành Thánh lễ là chúng ta lập lại hợp đồng đã ký kết giữa Thiên Chúa với loài người chúng ta nhờ máu cứu chuộc của Ðức Giêsu đổ ra trên Thánh giá.
Tóm lại, chúng ta đang sống trong Giao ước mới với một Thiên Chúa vốn luôn trung thành. Vì thế chúng ta được mời gọi phải sống thế nào cho phù hợp với mối liên hệ đặc biệt của Giao ước mới này. (Viết theo Flor McCarthy)
* 2. Tấm lòng của Chúa
Vào tháng 12 năm 1987 một cơn động đất lớn đã xảy ra ở xứ Armênia thuộc Liên Xô cũ giết chết hằng ngàn người. Trong số những người bị chôn dưới đống gạch vụn có 2 mẹ con bà Suzanna. Hai mẹ con may mắn nằm lọt vào trong một khoảng trống nhỏ. Tất cả lương thực họ có chỉ là một hủ mứt nhỏ. Nhưng chẳng bao lâu hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó đứa con 4 tuổi kêu lên: "Mẹ ơi con khát quá". Bà Suzanna không biết tìm đâu ra nước cho con. Nhưng tình mẫu tử đã gợi cho bà một sáng kiến táo bạo: bà dùng một miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay mình cho máu chảy ra và đưa vào miệng đứa con cho nó mút. Một lúc sau nữa nó lại kêu khát, bà lại cắt một đầu ngón tay nữa. Cứ như thế cho đến cuối cùng người ta cứu 2 mẹ con ra. Sau khi ra ngoài, bà mẹ cho biết rằng: "Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết. Nhưng tôi muốn con tôi sống"
a/ Câu chuyện trên thật cảm động. Nhưng vẫn không cảm động bằng việc Ðức Giêsu tự hiến dâng thịt máu mình cho chúng ta. Bà Suzanna đã lấy máu của mình nuôi con khi bà biết rằng chắc chắn bà sẽ chết. Thay vì chết cách vô ích. Bà đã hy sinh dòng máu của mình để cho đứa con được sống. Ðó là sự hy sinh trong một tình thế bó buộc. Còn Ðức Giêsu thì không có gì bắt buộc cả: Ngài đến trần gian để chết cho loài người. Càng ngày Ngài càng tiến gần đến cái chết. Tuy nhiên bất cứ lúc nào Ngài cũng có thể thoát khỏi cái chết ấy. Dù vậy Ngài vẫn cương quyết đi đến cái chết và cương quyết lấy thịt Máu mình làm lương thực nuôi sống loài người chúng ta. Thật đúng là "không có tình yêu nào cao trọng cho bằng tình của người dám chết cho người mình yêu thương". Ðiểm thứ hai khác biệt giữa bà Suzanna với Ðức Giêsu là: việc bà Suzanna hy sinh máu mình cho đứa con chỉ xảy ra một lần; còn việc Ðức Giêsu ban thịt máu Ngài cho chúng ta xảy ra hằng ngày, như lời Ngài đã truyền dạy "Chúng con hãy làm việc này để nhớ đến Ta". Mỗi lần Giáo Hội dâng Thánh Lễ là mỗi lần việc hy sinh của Ðức Giêsu được lập lại, lập lại không chỉ như một tưởng niệm mà lập lại với tất cả hiệu quả của nó. Hiệu quả ấy là như lời Ðức Giêsu đã nói: "Ai ăn Thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ được sống muôn đời".
b/ Một điều đáng buồn là lòng chúng ta đã thành chai đá trước tấm lòng của Chúa mà lẽ ra phải khiến chúng ta hết sức cảm động. Ngày nay ở phương Tây, số giáo dân tham dự Thánh Lễ đã giảm sút rất nhiều. Ðiển hình tại Pháp, chỉ còn có 10 % giáo dân dự lễ Chúa Nhật. Còn bên VN chúng ta, số người bỏ lễ CN cũng càng ngày càng nhiều. Trong số những kẻ còn đi lễ thì nhiều người đứng ngoài Nhà thờ, vừa dự lễ vừa trò chuyện và hút thuốc. Hình như rất nhiều người đi lễ chỉ vì sợ phạm tội trọng.
c/ Khi Nữ Tu Têrêxa Calcutta sang Liên Xô xin mở trụ sở bác ái, Bà đã gặp các vị lãnh đạo chính quyền và đã được đồng ý nhanh chóng. Tuy nhiên khi bà xin cho có Linh mục tại những trụ sở đó thì các vị ấy đã ngần ngại. Lúc Mẹ Têrêxa giải thích: nguồn sức mạnh của các Nữ Tu chúng tôi là do Mình Thánh Chúa. Nhờ mỗi ngày được rước MTC nên các Nữ Tu chúng tôi có sức hy sinh quên mình để phục vụ những người nghèo khổ. Do đó cần phải có Linh mục để mỗi ngày dâng Thánh Lễ và cho chúng tôi rước lễ. Mẹ Têrêxa và các nữ tu của Bà là những người đã cảm nghiệm được Lời Chúa phán khi lập phép MTC "Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ được sống muôn đời".
Hôm nay lễ Mình và Máu Thánh CG. Chúng ta ôn lại tình yêu bao la của Ðức Giêsu khiến Ngài chịu chết vì chúng ta và trước khi chết đã ban Mình và Máu Ngài làm thương thực nuôi linh hồn chúng ta.
Nhưng chúng ta cũng nhận thấy sự giảm sút lòng sốt sống của chúng ta đối với việc dự lễ và rước lễ. Chúng ta thờ ơ với một thứ lương thực quý giá mà Chúa đã ban. Chúng ta bỏ mất biết bao ơn ích do việc rước lễ mà nhiều người đạo đức đã rất quý chuộng.
Giờ đây chắc chúng ta biết mình phải làm gì:
a/ Trước hết, là những người làm cha mẹ, làm ông bà, chúng ta hãy nhắc nhở và khuyến khích con cháu mình thường xuyên tham dự Thánh Lễ và Rước lễ sốt sắng.
b/ Phần chúng ta, mỗi khi dự lễ và Rước Lễ, chúng ta hãy cố gắng sốt sắng. Ðừng làm một cách máy móc theo thói quen, nhưng hãy đặt hết tâm tình vào đó. Ðể kết thúc, xin trích đọc sau đây tâm tình của một người đã biết cách dự lễ và rước lễ sốt sắng: "Mỗi Thánh Lễ, tôi lại cảm thấy có điều gì đó cần thống hối cách đặc biệt. Mỗi Thánh Lễ, tôi lại thấy mình muốn đặt lên đĩa thánh một chút cố gắng riêng tư, đau khổ, mơ ước, thao thức... Tôi không di dự Thánh Lễ với 2 bàn tay trắng, nhưng với lễ vật là chính cuộc đời tôi. Trong mỗi Thánh Lễ, Lời Chúa lại tác động lên tôi, những lời nói đã nghe nhiều lần nhưng vẫn luôn mới mẻ. Mỗi lần rước Chúa là một lần tôi nhớ rằng Ngài đã trở nên tấm bánh bẻ ra cho tôi, và tôi cũng phải trở nên tấm bán bẻ ra cho anh chị em tôi"
* 3. Mầu nhiệm Tình yêu
Du khách đến Huế không thể quên được Nam Giao, cũng như đến Bắc Kinh không thể bỏ qua Ðiện Trời. Chính tại nơi đây, hàng năm nhà vua sẽ tế Trời thay cho toàn dân.
Tại Huế, Ðiện Thái Hòa, cửa Ngọ Môn và đàn Nam Giao cũng nằm ngay trên một đường thẳng. Ðiện Thái Hòa là nơi vua quan lo việc triều chính. Cửa Ngọ Môn quay về hướng nam. Khi mặt trời lên tới đỉnh đầu, lúc 12 giờ trưa, tức là giờ Ngọ, thì hình và bóng sẽ trở nên đồng nhất.
Từ Ðiện Thái Hòa, vua sẽ qua cửa Ngọ Môn, tiến về phương nam để lên đàn Nam Giao thay dân tế Trời. Sau khi ăn chay nằm đất, vua sẽ bước lên tế đàn hình vuông tượng trưng cho đất, rồi mới tiến lên tế đàn hình tròn, tượng trưng cho Trời. Chính tại nơi đó, vua sẽ long trọng thay mặt toàn thể con dân tế Trời.
***
Vua trần gian thay dân tế Trời bằng những của lễ vật chất. Vua vũ trụ, Ðức Giêsu Kitô dùng chính thân xác và linh hồn của Người để tế lễ cho Thiên Chúa.
Vua trần gian thay dân tế Trời rồi lại trở về với công việc triều chính. Vua Giêsu khi tế lễ cho Thiên Chúa lại dùng chính thân xác mình làm của ăn của uống nuôi toàn dân.
"Này là Mình Ta, các con hãy cầm lấy mà ăn... Này là Máu Ta các con hãy cầm lấy mà uống" (Mc. 14, 22-25). Tiệc Thánh Thể này đã được chính Ðức Giêsu tiên báo trong tiệc cưới Cana, đã được Người hứa ban cho dân ở Caphanaum, đã được Người thiết lập ở Giêrusalem trước khi bước vào cuộc khổ nạn, và đã được chính Người cử hành đầu tiên tại làng quê hẻo lánh Emmau. Bốn khung cảnh này hòa quyện, đan kết với nhau tuyệt đẹp trong ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa.
Thánh Thể chính là trung tâm đời sống người tín hữu Kitô. Thánh Thể chính là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa với con người, và giữa con người với nhau. Thánh thể chính là món quà Thiên Chúa trao tặng cho nhân loại. Thánh thể chính là lương thực thiêng liêng cho cuộc sống người tín hữu. Thánh thể chính là bảo đảm cho hạnh phúc trường cửu của chúng ta.
Mầu nhiệm tình yêu này vượt quá tầm trí mọn của con người. Ðức Giêsu đã tự hiến trọn vẹn cho chúng ta, đến nỗi Người không thể cho chúng ta điều gì hơn thế nữa. Thánh Thể chính là sáng kiến táo bạo nhất của Thiên Chúa đang yêu. Trước khi giã từ cõi thế. Người không còn gì quí hơn để ban tặng cho con người. Người đã trao ban cả thân xác, để thấm nhập vào xác thân con người. Yêu là cho đi, là cho hết, cho cả cuộc đời.
***
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con được tham dự vào đời sống thánh thiện của Chúa, được hiệp nhất với Chúa và với nhau. Xin cho chúng con luôn yêu mến Thánh Thể và siêng năng đón nhận Bánh Trường Sinh, như một bảo đảm cho hạnh phúc muôn đời. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 4. Lời cầu nguyện trước Thánh Thể
Chúa ơi, Bên ngoài nhà thờ, xe cộ ồn ào, người ta chạy tới chạy lui lăng xăng. Nhưng cái thế giới náo nhiệt ấy, con xin bỏ lại sau lưng, để đến đây ở trước mặt Chúa. Con không bỏ lại những anh chị em của con, nhưng con cũng mang họ theo con, vì con biết rằng Chúa cũng rất quý mến họ. Thực ra con chẳng có gì, nhưng con biết rằng vì con có Chúa nên con có tất cả. Con khép trí óc lại và mở tâm hồn ra, và thế là con được an bình. Ở đây, con cảm nghiệm được giá trị thật của con. Giá trị ấy không phải là những gì con sở hữu được hay hoàn thành được, mà là biết rằng con được Chúa yêu thương. (Flor McCarthy)
* 5. Máu giao ước
"Ðây là máu Thầy, máu giao ước"
Dân Do Thái, cũng như một số dân khác, thường dùng máu trong giao ước. Có thể là máu của một con vật, và cũng có thể là máu của chính những người kết giao ước với nhau. Giao ước cũ trên núi Sinai dùng máu của con vật. Giao ước mới mà Ðức Giêsu thiết lập dùng máu của chính Ngài. Mà máu là biểu hiện của sự sống, cho nên lấy máu để đóng dấu giao ước ngụ ý rằng từ nay những người kết ước sẽ sống thân thiết với nhau như chỉ có cùng một mạng sống, đồng thời họ cam kết sẽ bảo vệ giao ước ấy cho dù phải đổ máu mình ra.
Giao ước có khi là đơn phương: một bên tự ý cam kết sẽ làm điều gì đó cho bên kia nhưng không buộc bên kia cam kết lại. Nhưng thường thì song phương: hai bên cam kết với nhau, bên nào vi phạm thì phải chịu những hình phạt.
Mỗi Thánh Lễ là một lần lặp lại giao ước. Nhưng tôi thường không để ý tới ý nghĩa quan trọng này.
Ðức Giêsu muốn Ngài và tôi chia xẻ cùng một sự sống. Tôi có muốn như thế không?
Ngài cam kết gắn bó với tôi. Tôi có cam kết lại như thế không?
Ngài đã hiến máu, hiến mạng sống cho tôi. Tôi có gì để dâng hiến cho Ngài không?
6. Chuyện minh họa
Một bé trai tám tuổi lâm chứng bệnh nguy hiểm. Cả tháng trời em vật lộn với thần chết. Khi các bác sĩ cho biết cuối cùng em đã thoát khỏi lưỡi hái tử thần thì em và gia đình đều mừng rỡ.
Nhưng đến lượt em gái của bé trai này lâm phải chứng bệnh như anh nó. Cả gia đình lại rơi vào cảnh âu lo. Các bác sĩ cho biết cách duy nhất để cứu sống bé gái là sử dụng máu của anh mới khỏi bệnh.
Không thể tránh né vấn đề, người ta phải hỏi ý kiến bé trai. Thoạt đầu em tỏ ra lo lắng, nhưng trong chốc lát, em đã cương quyết trả lời: Vâng, con sẵn sàng hiến máu cho em con.
Quả thật, nhờ sử dụng máu của anh mới được khỏi, tiếp cho em đang mê man, các bác sĩ đã cứu sống bé gái. Có điều, bé trai đã làm cho các bác sĩ ngẩn người ra khi nêu câu hỏi: Vậy ra, con vẫn còn sống à? Bé cứ tưởng mình sẽ tắt thở ngay sau khi tiếp máu cho em.
Nơi cậu bé tám tuổi ta chiêm ngưỡng một tình yêu lớn: "Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình" (Ga 15, 13). Mặc dầu không chết như em tưởng, nhưng sự sẵn sàng chết vì tình ruột thịt đã khiến cho tình thương của em trở nên cao cả.
V. LỜi nguyỆn cho mỌi ngưỜi
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Ðức Giêsu đã dùng Mình và Máu Thánh Người, như lương thực nuôi dưỡng đòi sống tin cậy mến của chúng ta. Với tâm tình tạ ơn, chúng ta dâng lên Chúa lời cầu nguyện sau đây:
1. Chúng ta cầu xin Chúa cho các giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân trong Hội thánh / luôn cử hành và tham dự bí tích Thánh Thể cách tích cực và linh động / để được sức sống của Ðức Giêsu bồi dưỡng.
2. Chúng ta cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền và mọi người trên thế giới / biết noi gương Ðức Giêsu Kitô / để chia sẻ và phân phối của cải vật chất cho công bằng / nhất là chia sẻ cho những dân tộc đang đói nghèo.
3. Chúng ta cầu xin Chúa cho những người đang đau khổ và nhiều cơm ăn áo mặc / thiếu công ăn việc làm / thiếu tự do và tình thương / được nhiều người là con cái Chúa biết quan tâm và nâng đỡ.
Chúng ta cầu xin Chúa cho anh chị em trong cộng đồng giáo xứ chúng ta / biết noi gương Ðức Giêsu Kitô / hiến dâng thời giờ, sức lực và của cải / để giúp cho những người chung quanh được nhận biết tình thương của Chúa.
Chủ tế: Lạy Ðức Giêsu, Chúa đã ban cho chúng con bí tích Thánh Thể là dấu chỉ tình thương của Chúa. Xin cho chúng con luôn được nuôi dưỡng bằng tình thương của Chúa, để chúng con sẵn sàng chia sẻ cho mọi người chung quanh. Chúa là Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
Một bé trai tám tuổi lâm chứng bệnh nguy hiểm. Cả tháng trời em vật lộn với thần chết. Khi: THÁNHTHỂ-156
Một bé trai tám tuổi lâm chứng bệnh nguy hiểm. Cả tháng trời em vật lộn với thần chết. Khi các bác sĩ cho biết cuối cùng em đã thoát khỏi lưỡi hái tử thần thì em và gia đình đều mừng rỡ.
Nhưng đến lượt em gái của bé trai này lâm phải chứng bệnh như anh nó. Cả gia đình lại rơi vào cảnh âu lo. Các bác sĩ cho biết cách duy nhất để cứu sống bé gái là sử dụng máu của anh mới khỏi bệnh.
Không thể tránh né vấn đề, người ta phải hỏi ý kiến bé trai. Thoạt đầu em tỏ ra lo lắng, nhưng trong chốc lát, em đã cương quyết trả lời: Vâng, con sẵn sàng hiến máu cho em con.
Quả thật, nhờ sử dụng máu của anh mới được khỏi, tiếp cho em đang mê man, các bác sĩ đã cứu sống bé gái. Có điều, bé trai đã làm cho các bác sĩ ngẩn người ra khi nêu câu hỏi: Vậy ra, con vẫn còn sống à? Bé cứ tưởng mình sẽ tắt thở ngay sau khi tiếp máu cho em.
Nơi cậu bé tám tuổi ta chiêm ngưỡng một tình yêu lớn: "Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình" (Ga 15,13). Mặc dầu không chết như em tưởng, nhưng sự sẵn sàng chết vì tình ruột thịt đã khiến cho tình thương của em trở nên cao cả.
Ðức Giêsu hiến mạng sống cho ta.
Nhưng tình thương của bé trai này làm sao sánh được với tình thương của chính Chúa Giêsu! Chúa không những hy sinh máu đào đổ ra vì muôn người mà còn tiếp tục hiến trọn cuộc đời mình như con đường để ai nấy bước đi hầu trở về cùng Cha. Mình và Máu Chúa nói lên cuộc hiến dâng trọn vẹn cho loài người được sống một cách vĩnh viễn.
Toàn bộ Tin Mừng Máccô là để cho thấy Ðức Giêsu Con Thiên Chúa đến để thiết lập Nước Thiên Chúa nơi bản thân Người. Nước ấy được thiết lập nhờ tình yêu cao cả do việc Người hy sinh mạng sống mình (Mc 14,24). Ba chương cuối cùng của Tin Mừng Máccô (14,15 và 16) với trình thuật đã trở nên quen thuộc với cuộc tử nạn và phục sinh của Ðức Giêsu, chính là tột đỉnh của tấn kịch phức tạp cho thấy tính chất của Nước Thiên Chúa.
Nước đó không dựa vào sự trung tín của nhóm Mười Hai môn đệ được Ðức Giêsu mời gọi, tuyển chọn và huấn luyện. Quả thật, cả nhóm đã tan tác khi một người trong nhóm phản bội và nộp Ðức Giêsu cho người ta đem đi giết (Mc 14,43-52).
Mặc dầu nhan đề của Tin Mừng Máccô giới thiệu Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa (Mc 1,1), nhưng lời tuyên xưng "Quả thật người này là Con Thiên Chúa" (Mc 15,39), không phát ra từ miệng bất cứ người môn đệ nào của Ðức Giêsu. Lời đó do viên đại đội trưởng Roma phát biểu sau khi đã thi hành án tử cho Người! Người đúng là Người Tôi Tớ chịu đau khổ để đền tội cho dân như ngôn sứ Isai đã loan báo (52,13-53,12) và Người thực hiện điều đó với tư cách là Con Thiên Chúa đúng theo kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa mà cuộc Vượt Qua của Israel xưa chỉ là hình bóng.
Xưa trong Cựu Ước dân Do Thái từng cử hành bữa ăn Vượt Qua để kỷ niệm cuộc giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập: "Ðức Chúa sẽ rảo khắp Ai Cập để đánh phạt, và khi thấy máu trên khung cửa, Ðức Chúa sẽ vượt qua trước cửa và không để cho thần tru diệt vào nhà anh em mà đánh phạt." (Xh 12,23): Máu bôi trên khung cửa chính là máu của Chiên Vượt Qua.
Thánh Lễ chính là Lễ Vượt Qua mới.
Nay trong Tân Ước chính Ðức Giêsu là chiên của lễ Vượt Qua mới. Sự chết và sự phục sinh của Người là cách thức mới và hoàn hảo theo đó Thiên Chúa cứu mọi người khỏi ách nô lệ. Nói theo Công Ðồng Vatican II: "Ðấng Cứu Ðộ chúng ta, trong bữa tiệc sau cùng đêm Ngài bị trao nộp, đã thiết lập hy tế Thánh Thể bằng Mình và Máu Ngài để lưu truyền hy tế thập giá suốt dòng thế kỷ cho đến khi Ngài tới và để trao cho Giáo Hội, hiền thê yêu dấu của Ngài, cuộc tưởng niệm nỗi chết và phục sinh của Ngài. Ðó là bí tích tình yêu, dấu chỉ hiệp nhất, dây liên kết đức ái, bữa tiệc Vượt Qua, trong đó ta lãnh nhận Ðức Kitô làm lương thực nuôi dưỡng, lãnh nhận tràn đầy ơn thánh trong tâm hồn và lãnh bảo chứng vinh quang tương lai" (SC 47).
Lời loan báo đầu tiên về Thánh Thể đã phân rẽ các môn đệ cũng như lời loan báo về cuộc tử nạn đã khiến họ vấp ngã: "Lời này quá nặng, ai nghe nổi?" (Ga 6,60). Thánh Thể và Thập giá là những viên đá vấp, điều đó cũng huyền nhiệm và không ngừng thành cơ hội phân rẽ. Ðó là lúc Ðức Giêsu nêu câu hỏi giúp nhóm Mười Hai khẳng định về niềm tin của mình: "Còn anh em, anh em cũng muốn bỏ đi sao?" (Ga 6,67). Thực ra, câu hỏi đó luôn vang dội qua các thế hệ, mời gọi người tín hữu Kitô yêu mến Ngài, để khám phá chính Ngài vì "mình Ngài có lời ban sự sống đời đời" (Ga 6,68). Họ được mời tiếp nhận ơn ban Thánh Thể trong niềm tin là tiếp nhận chính Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay cùng với bài Tin Mừng tương đương trong Mátthêu, Luca (Mt 26,26-29; Lc 22,19-20) và thư Phaolô (1Co 11,23-25) để lại cho Giáo Hội trình thuật về thiết lập Thánh Thể. Còn Tin Mừng Gioan chương 6 thuật lại bài giảng của Ðức Giêsu trong hội đường Caphanaum là bài giảng chuẩn bị việc thiết lập bí tích Thánh Thể.
Ta lưu ý điều tông đồ Phaolô nhấn mạnh là chính ngài đã lãnh nhận từ nơi Chúa điều ngài truyền lại: "Trong đêm bị nộp Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: "Ðây là Mình Thầy hiến tế vì anh em, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ Thầy? Ðây là Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy." (1Co 11,23-25).
Ðiều được Ðức Giêsu nhắc đi nhắc lại là "Hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy." Do đó mới có thánh lễ. Ðặc biệt, "ngày thứ nhất trong tuần", ngày Chúa Nhật, ngày phục sinh của Ðức Giêsu, các tín hữu tụ họp "bẻ bánh" (Cv 20,7). Việc cử hành Thánh Thể lưu truyền từ đó đến nay, tới mức ngày nay ta thấy bí tích Thánh Thể được cử hành khắp nơi trong Giáo Hội với cùng một cấu trúc nền tảng. Thánh lễ thực sự là trung tâm cuộc sống Giáo Hội. Thánh Lễ gồm hai phần chính: Thánh Lễ gồm hai phần chính:
Tụ họp nhau, phụng vụ Lời Chúa với những bài đọc Kinh Thánh, bài giảng và lời cầu nguyện cho mọi người.
Phụng vụ Thánh Thể với việc dâng bánh rượu tạ ơn hiến thánh và rước lễ.
Phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể cùng tạo nên, theo Công Ðồng Vatican II "một hành vi tôn thờ duy nhất" (SC 56): bàn tiệc bày dọn cho ta nơi Thánh Thể vừa là Lời Thiên Chúa, vừa là Thân Mình Chúa.
Cuộc cử hành diễn ra như sau:
Mọi người tụ họp. Các tín hữu tuốn đến nơi cử hành Thánh Thể. Ðứng đầu là Ðức Kitô, nhân vật chính của bí tích Thánh Thể. Ngài là Thượng Tế của Tân Ước. Chính Ngài chủ toạ cách vô hình toàn bộ cuộc cử hành Thánh Thể. Ðể đại diện Ngài, giám mục hay linh mục (hành động nơi bản thân Ðức Kitô là Ðầu) chủ toạ cuộc họp, diễn giải sau các bài đọc, tiếp nhận lễ dâng, và đọc kinh nguyện Thánh Thể. Mọi người đều có vai trò tích cực trong cử hành, mỗi người mỗi cách: đọc sách, mang lễ dâng, trao mình Chúa và toàn thể dân Chúa đáp Amen biểu lộ hành vi tham dự.
Phụng vụ Lời Chúa gồm những bản văn các ngôn sứ, nói khác, Cựu Ước và "các hồi ký tông đồ"; các thư và Tin Mừng. Bài giảng khuyến khích mọi người tiếp nhận Lời đúng như Chúa dạy và đem ra thực hành. Sau bài giảng là những lời cầu cho mọi người.
Dâng lễ vật: mang hoặc rước bánh và rượu lên bàn thờ. Bánh rượu sẽ là của lễ được linh mục dâng lên nhân danh Ðức Kitô trong hy lễ Thánh Thể để trở thành Mình và Máu Ðức Kitô.
Từ thuở đầu cùng với bánh rượu để trở nên Thánh Thể, các tín hữu còn mang quà tặng để chia sẻ với những ai thiếu thốn. Thói quen quyên góp này luôn hiện thực theo mẫu gương Ðức Kitô, Ðấng đã nên nghèo để chúng ta nên giàu (GLGHCG 1348-1351).
Một số câu hỏi gợi ý
Bạn tâm đắc gì về cậu bé tám tuổi sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để cứu em khỏi chết ? Bạn nhận ra những khác biệt nào giữa cậu bé ấy và Chúa Giêsu Ðấng đã hy sinh mạng sống để cứu chuộc bạn và cả nhân loại?
Bạn đọc lại phần cuối tờ chia sẻ này để nhận ra vai trò tham dự Thánh Thể của những nhân vật sau đây: Ðức Kitô ? Giám Mục hoặc Linh Mục chủ tế ? Chính bạn hoặc con em bạn có thể đóng vai trò nào khi tham dự Thánh Lễ?
Trong mỗi Thánh Lễ, sau khi linh mục truyền phép: bánh và rượu trở thành Mình Máu Thánh: THÁNHTHỂ-157
Trong mỗi Thánh Lễ, sau khi linh mục truyền phép: bánh và rượu trở thành Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, ông giới thiệu cùng cộng đoàn dân Chúa: Đây là Mầu nhiệm đức tin.
Phải hiểu mầu nhiệm đức tin như thế nào đây?
1.Bữa tiệc với những người tội lỗi
Linh mục Sieger Koeder, một họa sĩ về nghệ thuật thánh, đã vẽ bức tranh „bữa tiệc với những người tội lỗi“ dựa theo tường thuật trong Phúc âm Thánh Marcô 2, 15-17). Bức tranh vẽ diễn tả những người ngồi quanh bàn bữa tiệc gồm đủ mọi thành phần, và hầu như họ không có chút gì liên quan hay biết về Bí tích Thánh Thể Chúa Giêsu.
Đó là lớp người trí thức học cao suy nghĩ nhiều về khoa học thực dụng hơn là về mầu nhiệm Thánh Thể trừu tượng. Đó là lớp người sống hoài nghi luôn luôn đặt thắc mắc về những điều mắt thấy tai nghe. Đó là một cô gái điếm, mà cả phố đều nghe biết về đời sống lang thang bê bối tội lỗi. Đó là một người theo Do Thái giáo luôn luôn còn hằng mong chờ Đấng Cứu Thế đến. Đó là lớp người đến từ Phi Châu vẫn còn mang nặng tâm hồn đời sống với niềm tin tôn giáo địa phương bộ tộc của mình...
Trên bàn ăn là bánh mì và chén rượu, dấu chỉ Bí tích Thánh Thể. Ngoài ra hình ảnh Chúa Giêsu không nhìn thấy ở đây. Nhưng ở đầu bàn ăn là hình hai bàn tay đang dang mở ra hướng về phía mọi người ngồi quanh bàn.
Nhìn qua thì như vậy. Nhưng nhà họa sĩ muốn trình bày điều căn bản của bức tranh, mà hầu như người xem không mấy để ý tới: Bí tích Thánh Thể trình bày trong bức vẽ đây không là phần thưởng cho người đạo đức. Nhưng muốn mang đến cho người yếu hèn bé nhỏ sự củng cố tâm hồn, giúp họ vượt qua những thử thách trong đời sống. Tất cả mọi người muốn tham dự bữa tiệc, đều được đón tiếp. Không ai bị loại khỏi bàn tiệc. Chúa Giêsu, người chủ nhà của Bí tích Thánh Thể, mời mọi người đến dự tiệc. Bí tích Thánh Thể không đặt ra ranh giới chu vi nào. Nhưng ranh giới được nới mở rộng cho hết mọi người.
Ngắm nhìn bức tranh trong suy tư chúng ta đặt thắc mắc: ai là người xứng đáng gặp gỡ Chúa. Cùng trong Thánh Lễ chúng ta đã từng cầu nguyện“ Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con“.
Nhưng có lẽ không nên qúa chú trọng đến câu hỏi: Ai xứng đáng hay tôi có xứng đáng tiếp nhận Tấm Bánh chén rượu Bí tích Thánh Thể, mà chú ý hơn đến thắc mắc điều gì đã diễn ra trong bàn tiệc Bí tích Thánh Thể trong bức tranh này.
Đôi bàn tay giang mở ra hưóng về mọi người trong bức tranh vẽ có thể là một chỉ dẫn tìm ra câu trả lời cho thắc mắc đó.
2. Hình ảnh ẩn hiện trong đôi mắt
Với con mắt và trí hiểu thông thường của con người, mầu nhiệm Bí tích Thánh Thể vượt qúa tầm nhìn cùng suy hiểu của trí khôn.
Chúng ta không thể hiểu nổi tại sao, Chúa Giêsu lại có thể ẩn mình trong một miếng tấm bánh mì hay trong một chén rượu nho được? Tại sao Chúa Giêsu lại có thể biến đổi tấm miếng bánh mì, chén rượu nho thành thân xác và máu của Ngài, và để làm gì vậy?
Một ví dụ. Linh mục Giuse Nguyễn trọng Tước trong buổi giảng ở Đại hội Công Giáo bên Đức ngày 31.05.2009, khi nói về Bí tích Thánh Thể, đã dùng hình ảnh tấm bánh của một người mẹ mang về cho con mình, cắt nghĩa về Tấm bánh Thánh Thể.
“Một bà mẹ biết con thích ăn bánh, nên hằng tuần vào ngày thứ ba khoảng ba bốn giờ chiều, sau khi hội họp với các bà mẹ Công Gíao trong xứ đạo, bà đều mang theo về một gói qùa cho con đang chơi ngoài hàng hiên trước nhà. Nhận được gói qùa có chiếc bánh ngọt, em vui mừng ăn ngon lành. Mẹ em cũng vui mừng hãnh diện. Mẹ con cười nói kể cho nhau nghe những mẩu chuyện về con gà, con chó, luống rau ngoài vườn…
Nhưng dần dà em bé bỗng nảy sinh thắc mắc, làm sao mẹ mình hằng tuần vào ngày thứ ba khoảng ba bốn giờ chiều đi chợ về luôn có gói qùa với tấm bánh như mọi khi mang về cho mình ăn, ở đâu mẹ có như vậy??? Em thắc mắc và càng thắc mắc. Thắc mắc nhưng em vẫn nhận từ nơi mẹ em món qùa tấm bánh ăn ngon miệng.
Bỗng một hôm em nảy ra ý nghĩ xem mẹ đi đâu mà mua bánh như vậy. Vào đúng ngày thứ ba, Mẹ em đi rồi. Em nấp đàng sau bụi cây hàng dậu trước nhà xem mẹ đi tới đâu. Em khám phá ra, mẹ em đi đến phòng họp nhà xứ hội họp với các bà mẹ khác. Em hồi họp đi theo xa xa, và cúi mình nấp ở đàng sau nhà hội, cố đưa mắt nhìn xem như thế nào…
Sau những màn chào hỏi, đến mục uống nước ăn bánh. Khi đĩa bánh chuyền tới mẹ em, mẹ em một mặt cứ cười nói, một tay khéo léo kín đáo gạt miếng bánh xuống bên dưới lòng mình dưới ghế ngồi. Xong xuôi bà lại cẩn thận lấy miếng giấy sạch gói miếng bánh lại, và lại kín đáo bỏ vào túi mang về.
Tận mắt nhìn thấy cảnh tượng như thế, em vụt chạy về nhà trước. Em lại ra sân ngoài hiên chơi như mọi khi chờ mẹ về. Khi thấy mẹ về, em chạy ra ôm mẹ. Mẹ em lại cho em gói qùa như lần trước. Em vui mừng cám ơn mẹ. Sau đó em chạy ra đàng sau nhà ẩn khuất sau bức tường mở gói qùa ra ăn, nhưng em thắc mắc, tại sao mẹ lại không ăn mà lại kín đáo gói mang về cho em?
Việc cứ tiếp tục xảy ra như thế. Khi đã biết được như vậy, em nhận tấm bánh của mẹ và ăn bánh mẹ em trao cho với lòng nghẹn ngào biết ơn mẹ mình đã hy sinh nhịn ăn để có bánh mang về cho con ở nhà thích ăn bánh. Xưa kia em ăn bánh mẹ cho với lòng vui tươi của trẻ thơ ngon miệng. Nay em ăn bánh với lòng thổn thức, cảm động, nước mắt chảy thành dòng trên gò má. Em cảm thấy ngon miệng và no không phải vì bánh có mùi thơm ngon của bột của đường như lúc trứơc nữa, nhưng bây giờ chất chứa tràn đầy lòng hy sinh cùng tình yêu của mẹ em trong đó.
Em cầm tấm bánh mẹ cho trên đôi bàn tay như báu vật. Em ăn bánh với tâm tình thương nhớ mẹ. Lòng biết ơn của em kết tụ lại thành những giọt nước mắt cảm động lăn trên đôi gò má của trẻ thơ... “
Trong Bí tích Thánh Thể, qua hình tượng tấm Bánh và chén Rượu, Chúa Giêsu chỉ cho con người hình ảnh cùng cách sống lòng yêu mến và khiêm nhượng sâu thẳm. Qua hình ảnh tấm Bánh Bí tích Thánh Thể, Thiên Chúa muốn chỉ cho con người nhìn ra, Ngài đã yêu mến con người như thế nào, nên đã hạ mình ẩn hiện trong tấm bánh trong giọt rượu.
Chúng ta được phép tiếp nhận tấm Bánh Thánh Thể, trong đó ẩn chứa hình ảnh Thiên Chúa. Và tình yêu của Ngài được mở ra cho con người qua đó, như Thánh Gioan trong sâu thẳm của đức tin đã viết để lại: Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,16)
3. Thiên Chúa ở đâu
Từ xưa nay, hầu như con người chúng ta đều suy nghĩ rằng Thiên Chúa và trần gian con người xa nhau diệu vợi. Thiên Chúa, Đấng ở trên trời cao thẳm, còn dưới đất trần thế này là chỗ cư ngụ của con người. Thiên Chúa ở bên phía bờ bên kia, con người ở bên bờ bên này.
Nhưng càng như đẩy xa Thiên Chúa lên tít trời cao thẳm, con người chúng ta lại càng quay trở về mình. Càng quay trở về mình, khát vọng hướng về sức mạnh và sự tự lập lại càng nảy sinh thêm nơi con người. Lằn ranh ngăn chia cách không có bình an hạnh phúc như thế giữa với Thiên Chúa với con người làm phát sinh nơi con người ước vọng thống trị. Chính điều này gây nên cùng gieo rắc đầy dẫy những bất hạnh cho trần gian.
Trái lại, Bí tích Thánh Thể nói với con người chúng ta: Thiên Chúa không ở xa con người. Ngài không ở bờ phía bên kia, không ở trên chốn trời cao thẳm, nhưng Ngài ở sát gần con người. Gần sát hơn nữa, chúng ta không thể cắt nghĩa sự gần gũi của Thiên Chúa qua lương thực tấm bánh Bí tích Thánh Thể, mà chúng ta tiếp nhận. Thiên Chúa luôn hằng ở sát bên con người, cả trong thời gian khủng hoảng, thời điểm sống trong nghi hoặc, sợ hãi lo âu, thời kỳ gặp đau khổ. Khi gặp thập gía đau khổ chăng ngang lối cuộc đời, con người chúng ta đâu cần phải cậy vào sức lực riêng của mình, nhưng sức mạnh của Thiên Chúa trong đời sống giúp tinh thần vững mạnh vượt qua lúc khốn khó đau khổ.
Bí tích Thánh Thể kêu mời con người chúng ta tin tưởng vào sự gần gũi sát gần của Thiên Chúa.
***
Meister Eckhard nói lên kinh nghiệm đời sống tinh thần: “Nơi nào có đổ nát hoang tàn, nơi đó ẩn chứa niềm hy vọng vươn lên như một kho tàng qúy gía. Tại sao lại không đi tìm kiếm kho tàng tình yêu Thiên Chúa trong trái tim khô cứng hoàng tàn nơi chính trái tim lòng mình?”
Bức tranh “ Bữa tiệc với những người tội lỗi” của Sieger Koeder cắt nghĩa phần nào: Thiên Chúa cũng đi vào tận trái tim tâm hồn đổ nát hoang tàn. Khung cảnh sinh ra nơi hang chuồng súc vật Bethlehem của Chúa Giêsu nói lên Chúa đã làm người giữa trần gian như thế nào!
Lễ Mình Máu Thánh Chúa Ki tô đã được thiết định vào thế kỷ thứ mười ba. Lễ nầy phát: THÁNHTHỂ-158
Lễ Mình Máu Thánh Chúa Ki tô đã được thiết định vào thế kỷ thứ mười ba. Lễ nầy phát xuất từ giáo phận Liège, vào năm 1246. Vào năm 1264, được Đức Thánh Cha Urbano IV phổ biến cho toàn thể Giáo Hội, và vào năm 1312 được Đức Thánh Cha Clément V khẳng định.
Kinh nguyện, các bài đọc cũng như phụng tự được gán cho Thánh Tô-ma A-qui-nô. Những cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa qua các ngã đường xưa kia đem lại cho ngày lễ nầy một sự rực rỡ lớn lao.
Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay nêu bật giá trị của giao ước được đóng ấn bởi máu của tế vật.
Xh 24: 3-8 Sách Xuất Hành giới thiệu nghi thức Giao Ước được ký kết giữa Đức Chúa và dân Do thái. Giao Ước được đóng ấn bởi máu của tế vật, máu nầy được rảy trên hai phía ký kết: Đức Chúa, được biểu tượng bởi bàn thờ, và mười hai bộ tộc quy tụ ở chân núi Xi-nai, đối diện với bàn thờ.
Dt 9: 11-15 Thư gởi tín hữu Do thái cho thấy sự cao vời của hy tế Đức Ki tô trên các hy tế Cựu Ước, vì Đức Ki tô đã hiến dâng máu của chính mình.
Mc 14: 12-16, 22-26 Đoạn Tin Mừng Mác-cô tường thuật việc Đức Giê-su thiết lập bí tích Thánh Thể, hy tế Giao Ước mới.
BÀI ĐỌC I Xh 24: 3-8
Sách Xuất Hành tường thuật không chỉ cuộc “xuất hành ra khỏi” đất Ai-cập, nhưng còn kinh nghiệm tôn giáo mà dân Do thái đã kinh qua trong sa mạc. Kinh nghiệm không thể chối cãi nầy xác minh kinh nghiệm mà các tổ phụ xưa kia của họ đã được hưởng.
Chính khởi đi từ giây phút nầy mà dân Do thái đã không còn cảm thấy mình là một dân mất gốc, nhưng ý thức mình là dân được Thiên Chúa đích thân che chỡ phù trợ. Tất cả những ai, sau khi có một mặc khải huyền nhiệm, sống mặc khải nầy trọn cuộc đời của mình như thế nào, dân Ít-ra-en đã luôn luôn quy chiếu đến những biến cố Xuất Hành để hiểu lịch sử của mình và những mối liên hệ ưu tiên của mình với Thiên Chúa như vậy.
Họ đã ghi lại những mối liên hệ nầy bằng những thuật ngữ giao ước, theo cách thức mà nhân loại ký kết ở giữa họ: Thiên Chúa đề nghị che chỡ bảo vệ họ và đòi hỏi họ vài điều kiện của Ngài (những đòi hỏi của Thiên Chúa cốt yếu được chứa đựng trong Thập Giới). Phía họ phải cam kết tôn trọng những điều kiện nầy. Tất cả mọi truyền thống liên quan đến Giao Ước Xi-nai đều định vị Giao Ước trong khung cảnh uy nghi và trình bày Giao Ước như một phụng vụ.
Đoạn văn chúng ta đọc hôm nay tường thuật việc ký kết Giao Ước long trọng, theo một dị bản phát triển nhất trong số những dị bản. Đây là dị bản mà Đức Giê-su sẽ quy chiếu khi thiết lập hy tế Giao Ước mới. Dị bản nầy, thuộc chứng liệu Ê-lô-hít (thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên), được tường thuật ở Xh 24: 3-8. Một truyền thống khác thuộc chứng liệu Gia-vít (thế kỷ thứ mười và thứ chín trước Công Nguyên), được tường thuật ở Xh 24: 1-2 và 9-11. Trong khi truyền thống Gia-vít gợi lên việc ký kết Giao Ước qua một bữa ăn thánh trên núi Xi-nai trước sự hiện diện của Đức Chúa cùng với ông Mô-sê, ông A-ha-ron, các con trai của ông A-ha-ron và bảy mươi kỳ mục của dân Ít-ra-en, thì truyền thống Ê-lô-hít được trích dẫn hôm nay nhấn mạnh nghi thức rẩy máu trên bàn thờ và trên dân. Diễn tiến của nghi thức nầy rất đáng chú ý: nó loan báo sơ đồ sẽ được chấp nhận để cử hành Thánh Thể: trước tiên, phụng vụ Lời Chúa, đoạn, phụng vụ hy tế.
1. Phụng vụ Lời Chúa:
Khi từ trên núi xuống, ông Mô-sê, xướng ngôn viên của Đức Chúa, tường thuật cho toàn thể cộng đồng quy tụ ở dưới núi “mọi lời của Chúa và mọi giới luật”. Dân chúng đồng thanh cam kết: “Mọi lời Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành”. Vì thế, “ông Mô-sê chép lại mọi lời của Chúa”.
“Mọi lời của Chúa” phải được hiểu là “Mười Lời” hay “Thập Giới”. Còn “mọi giới luật” chắc chắn quy chiếu đến các luật luân lý, xã hội và tế tự được trình bày trong các chương 20-23, được gọi dưới tên “Bộ Luật Giao Ước”, nhưng bộ luật nầy rõ ràng không được soạn thảo trong sa mạc; nó thuộc về thời kỳ đầu tiên định cư ở đất Ca-na-an; nó được tháp nhập sau nầy vào Thập Giới và cho Thập Giới những áp dụng thực tiễn.
Như chúng ta đã biết rồi, ông Mô-sê đã lớn lên trong cung của Pha-ra-on và đã được đào tạo thành các thư lại. Ấy vậy, một trong những chức năng của các thư lại là ghi chép những bản hiệp ước. Một cách nào đó, ông Mô-sê làm như vậy khi xác định bằng văn bản những khoản Giao Ước mà dân Ít-ra-en sẽ phải tôn trọng. Mọi hiệp ước ở Đông Phương xưa đều được viết bằng văn bản và phải được đọc theo định kỳ.
2. Phụng vụ hy tế:
Sáng hôm sau diễn ra hy lễ đóng ấn Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Chúa chọn.
Hai bên ký kết diện đối diện với nhau: bàn thờ đại diện Đức Chúa. Dân Ít-ra-en, quy tụ lại, hiện diện vừa hữu hình vừa biểu tượng bởi mười hai thạch trụ đại diện mười hai chi tộc Ít-ra-en.
Như vậy, những thạch trụ nầy sẽ là những chứng nhân bất khả hủy về lời cam kết của dân Ít-ra-en. Cũng vậy, ở đại hội Si-khem, sau khi dân vào Đất Hứa, khi mà Giao Ước được long trọng làm mới lại, ông Giô-su-ê sẽ dựng một tảng đá lớn ghi nhớ muôn đời lời thề hứa trung thành của toàn thể con cái Ít-ra-en (Gs 24: 26-27).
“Rồi ông Mô-sê sai các thanh niên trong dân Ít-ra-en tiến dâng những lễ toàn thiêu, và ngả bò tơ làm lễ hiệp thông tế Chúa”. Vào thời ký nầy, chưa tổ chức chức vụ tư tế (ở Ít-ra-en, tư tế là chức vụ chứ không ơn gọi). Trong thời kỳ tiền quân chủ, người ta tự ý chọn các thanh niên thi hành chức vụ mà sau nầy sẽ dành riêng cho các tư tế Lê-vi (cf. Xh 33: 11; Tl 17: 5; 1Sm 3: 3; 7: 1).
Các thanh niên mà ông Mô-sê chỉ định thực hiện hai loại hy lễ:
Trước hết “hy lễ toàn thiêu”. Như từ chỉ ra, tế vật được hoàn toàn hỏa thiêu. Đây là hình thức hy tế xưa nhất ở Ít-ra-en, tự nguồn gốc, mang đặc tính tạ ơn. Sau nầy, hy tế nầy trở nên thông thường; sẽ có lễ toàn thiêu hằng ngày ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Tiếp đó, “hy lễ hiệp thông” theo đó hai bò tơ được sát tế. Nét đặc trưng của hy lễ hiệp thông là một bữa ăn giữa những người tham dự trước thánh nhan Thiên Chúa. Loại hy tế nầy nhằm thiết lập lại những mối quan hệ tốt đẹp giữa Thiên Chúa và các tín hữu của Ngài. 3. Nghi thức rảy máu:
Nghi thức được mô tả tiếp theo là duy nhất trong toàn bộ Cựu Ước.
Những súc vật bị cắt cổ cho máu hoàn toàn chảy ra hết. Điều nầy rất phù hợp với phong tục đặc biệt của dân Ít-ra-en. Nhưng máu nầy, thay vì được dành riêng cho chỉ mình Thiên Chúa như trong tất cả những hy tế khác, lại được tách riêng thành hai phần, được rảy trên hai bên ký kết giao ước. Trước hết, ông Mô-sê rảy phần nữa máu trên bàn thờ đại diện Đức Chúa; phần còn lại ông rảy trên dân chúng, sau khi đã lập lại lời hứa cam kết trung thành của họ: “Đây là máu giao ước Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời nầy”.
Việc đóng ấn sự thỏa thuận bằng máu, chỗ của sự sống, và chung chung được dành riêng cho chỉ mình Thiên Chúa, chính là đem lại cho sự thỏa thuận này hình thức trang trọng nhất, cực thánh nhất mà người ta có thể tưởng tượng được.
Cử chỉ của Đức Giê-su ban máu của chính Ngài để đóng ấn Giao Ước mới mặc lấy một sự trang trọng còn lớn lao hơn nhiều, vì Đức Ki tô không chỉ là Đấng Trung Gian như ông Mô-sê, Ngài đồng thời là tế vật nữa. Không thể nào có một sự cam kết tận căn về phía Thiên Chúa đối với nhân loại đến như thế, không lời hứa nào, không một nghi thức hiệp thông nào giữa Thiên Chúa và nhân loại, lớn lao hơn nghi thức của Giao Ước Mới được thực hiện trong bí tích Thánh Thể.
BÀI ĐỌC II Dt 9: 11-15
Thư gởi tín hữu Do thái là bản văn Tân Ước duy nhất giới thiệu Đức Ki tô là Thượng Tế đích thật.
Ngài là Thượng Tế nhưng cũng là tế vật. Vào ngày lễ Mình và Máu Chúa Ki tô nầy, phụng vụ dâng hiến cho chúng ta một đoạn trích thư gởi tín hữu Do thái ở đó tác giả cho thấy máu của Đức Ki tô cao vời khôn sánh so với máu của súc vật bị sát tế dưới Giao Ước Cũ. Nhưng còn hơn nữa, tác giả nhấn mạnh rằng hy tế của Đức Ki tô thuộc bản chất khác: một của lễ tiến dâng tự nguyện thuộc trật tự tinh thần và tính hiệu lực tinh thần của nó.
Chúng ta không biết tác giả lẫn người nhận. Ông chắc chắn là một môn đệ hay người bạn đồng hành của thánh Phao-lô; người nhận là những Ki tô hữu gốc Do thái, kỳ cựu trong đức tin, nhưng mất can đảm bởi những bách hại mà họ là đối tượng. Dường như họ vẫn ôm ấp nỗi nhớ về những nghi lễ uy nghi và trang trọng trong Đền Thờ. Đối với họ, nghi lễ Thánh Thể chắc chắn xem ra quá đơn giản.
1. Đức Ki tô, vị Thượng Tế của Giao Ước Mới:
Tác giả đối chiếu chức tư tế của vị Thượng Tế Cựu Ước và chức tư tế của Đức Ki tô. Những điểm so sánh của ông cốt yếu được vay mượn ở nơi nghi lễ của đại lễ Toàn Xá xảy ra một năm một lần. Vào ngày duy nhất nầy, vị Thượng Tế bước vào nơi cực thánh của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và với máu của tế vật ông tiến hành các nghi thức xá tội để xin tha thứ tội lỗi của chính ông và của toàn dân.
So sánh với sứ vụ của vị Thượng Tế nầy, sứ vụ của Đức Ki tô thì cao vời khôn sánh, vì Đức Ki tô là “vị Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai”.
Tác giả sắp mô tả và cho thấy những phúc lộc của thế giới tương lai nầy mà Đức Ki tô đã đạt được là thế nào: đó là những phúc lộc muôn đời bền vững, đã được hứa ban và từ nay đã đạt được một lần thay cho tất cả; những phúc lộc thần thiêng chứ không vật chất và bên ngoài.
Sự cao cả của sứ vụ của Đức Ki tô xem ra ngay từ đầu do bởi sự cao cả của cung thánh. Trái với vị Thượng Tế Cựu Ước, để gặp gỡ Thiên Chúa, Đức Ki tô không đi qua một đền thờ “do bàn tay con người làm nên, nghĩa là không thuộc về thế giới thọ tạo nầy”.
Dường như tác giả nhắm đến thân thể của Đức Ki tô được tôn vinh. Việc gặp gỡ Thiên Chúa như vậy là dứt khoát, không cần lập đi lập lại mỗi năm một lần. Đức Ki tô đã mở ra một lần thay cho tất cả một con đường dẫn đến Chúa Cha. Tác giả viết sau nầy: “Chúng ta được thánh hóa nhờ Đức Giê-su Ki tô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ” (Dt 10: 10).
Vị Thượng Tế Cựu Ước rảy máu trên bàn thờ, đó không phải máu của chính ông nhưng máu của những tế vật thụ động. Trái lại, Đức Ki tô đã dâng hiến chính máu của mình trong hiến lễ có ý thức và tự nguyện. Vị Thượng Tế Cựu Ước chỉ đạt được ơn tha thứ tội lỗi tạm thời; Đức Ki tô đạt được sự giải thoát dứt khoát.
Những tế vật phải là vô tì vết. Đức Ki tô là tế vật vẹn toàn, tuyệt mức thanh sạch và thánh thiện; vì thế, hy tế của Ngài cũng tác sinh tính hiệu lực tuyệt mức. Việc rảy máu súc vật đem lại sự thanh sạch nghi thức trong khi máu của Đức Ki tô đem lại sự thanh sạch nội tâm.
2. Tính hiệu lực của hy tế Đức Ki tô.
Tại sao hy tế của Đức Ki tô lại cao vời như vậy? Tại sao hy tế của Ngài đem lại tính hiệu lực như vậy? Vì ở nơi Đức Ki tô có Chúa Thánh Thần. Tác giả nói “Thánh Thần hằng hữu” để làm nổi bật sự tương phản đáng kinh ngạc: cái chết của Đức Giê-su đạt được những phúc lộc vĩnh viễn.
Với tư cách là hiến lễ thần linh, hiến lễ tinh thần, hy tế của Đức Giê-su tái sinh nền tảng ngay cả của lương tâm. Những ai đã được thanh tẩy như thế mới có thể dâng lên Thiên Chúa lễ tế xứng với Ngài.
Nên đọc lại toàn bộ thư gởi tín hữu Do thái, vì hiến lễ của Đức Ki tô được gợi lên ở đây không chỉ là hiến lễ đẩm máu của Thập Giá, nhưng là hiến lễ của toàn bộ cuộc sống trần thế của Đức Giê-su từ khi Ngài nhập thể. Tác giả áp dụng cho Đức Giê-su những câu Thánh Vịnh 40: “Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa nầy con đây, con đến đẻ thực thi ý Ngài” (Dt 10: 5-7).
Tác giả thư gởi tín hữu Do thái gợi lên những nghi lễ Đền Thờ hiện nay, như một phụng vụ vẫn còn sống động (điều nầy khiến nghĩ rằng ông viết thư nầy trước năm 70, năm đánh dấu Đền Thờ bị phá hủy); ông ngỏ lời với các Ki tô hữu gốc Do thái, và muốn cho họ thấy rằng những nghi thức của Giao Ước Cũ chỉ là tiên trưng; chúng chỉ có giá trị tương đối. Thực tế, chính hy tế của Đức Ki tô đã xóa hết “tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ”.
Từ đây, những ai đã nhận lời hứa phúc lộc đời đời đã đạt được nhờ Giao Ước Mới.
TIN MỪNG Mc 14: 12-16, 22-26
Đoạn Tin Mừng Mác-cô nầy được trích từ bài Thương Khó vào Chúa Nhật lễ Lá và Khổ Nạn. Chúng tôi quy chiếu đến bài chú giải nầy.
1. Chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua (14: 12-16): "Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày giết chiên mừng lễ Vượt Qua". Hai ngày đại lễ nầy từ lâu được cử hành cùng một cặp song đôi với nhau: vào lễ Vượt Qua, lễ của những người chăn nuôi, họ giết một con chiên tơ, và lễ Bánh Không Men, lễ của những người trồng trọt, họ dâng hiến những sản phẩm đầu mùa và làm bánh không men với những hạt lúa mạch đầu tiên. Việc hiệp nhất hai lễ nầy đã trở nên dể dàng hơn vì bữa ăn lễ Vượt Qua cũng bao gồm bánh không men.
Lễ Vượt Qua buộc phải được cử hành ở Giê-ru-sa-lem; bữa ăn con chiên bị sát tế trong khuôn viên Đền Thờ, "phải được ăn ở trong thành". Điều nầy khiến các môn đệ bận tâm. Đức Giê-su là một tôn sư lưu động không nơi cố định; thêm nữa, Ngài là người Ga-li-lê. Vì thế, họ hỏi Ngài: "Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?".
Hoạt cảnh theo sau giống đến kỳ lạ với hoạt cảnh trước đó khi Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem với tư cách là Đấng Mê-si-a: Đức Giê-su sai hai môn đệ đi trước, họ sẽ gặp thấy mọi việc như Ngài đã mô tả cho họ. Trong trường hợp thứ nhất: một con lừa con đang cột sẳn ở đó; còn ở đây, một người mang vò nước đến gặp hai ông. Cả hai lần, những biến cố xảy ra đúng như Chúa Giê-su mong muốn: người ta để cho hai ông dắt con lừa đi; người mang vò nước dẫn hai môn đệ vào nhà và chỉ cho hai ông một phòng đã được chuẩn bị sẳn sàng cho Ngài với các môn đệ cử hành lễ Vượt Qua. Thánh ký muốn nói rằng Đức Giê-su đã dự liệu tất cả, chính Ngài tổ chức lễ Vượt Qua sau cùng nầy như trước đây Ngài đã tổ chức cuộc khải hoàn tiến vào thành Giê-ru-sa-lem.
2. Thiết lập Bàn Tiệc Thánh Thể (14: 22-26):
Lễ Vượt Qua Do thái, mà Đức Giê-su cử hành với các môn đệ thành bữa Tiệc Ly, biến thành lễ Vượt Qua Ki tô giáo bởi việc thiết lập Bàn Tiệc Thánh Thể: vừa nối tiếp vừa đoạn tuyệt: song đối sâu xa và mới mẻ tận căn.
Lễ Vượt Qua Do thái tưởng niệm cuộc giải phóng dân Ít-ra-en khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập, nhờ vào máu con chiên được bôi trên cửa nhà của người Do-thái. Nhờ dấu hiệu nầy, Thiên Chúa đã nhận ra dân của Ngài nên đã tha chết cho họ.
Đức Giê-su loan báo cuộc giải phóng khỏi cảnh đời nô lệ tội lỗi nhờ máu Ngài "đổ ra vì muôn người". Về phương diện lịch sử, cuộc giải phóng khỏi Ai-cập đã hình thành nên dân Ít-ra-en như dân Chúa chọn và cuộc tuyển chọn nầy đã được hiến thánh trên núi thánh Xi-nai, bởi Giao Ước Cũ.
Nhờ ân ban thân thể của Ngài và máu của Ngài, được chia sẻ ở giữa mọi người, Đức Giê-su thiết lập một dân Chúa chọn mới; Giao Ước Mới được đóng dấu trong máu của Ngài. Ở nơi bàn tiệc Thánh Thể, Đức Giê-su tham dự trước vừa cuộc Tử Nạn của Ngài vừa cuộc Phục Sinh của Ngài.
Nếu khung cảnh lễ Vượt Qua soi sáng sự biến đổi kỳ diệu của việc cử hành xưa như vậy, thì bữa ăn nầy cũng là bữa tiệc ly, mặc khải tất cả khía cạnh thống thiết của nó: Đức Giê-su sắp từ biệt các môn đệ của mình, những người mà Ngài yêu thương, những người mà Ngài trao phó truyền đạt sứ điệp của Ngài; Ngài không muốn để họ lại một mình; Ngài gặp thấy phương tiện để ở lại với họ, bằng cách thiết lập quà tặng kỳ diệu này, quà tặng của chính bản thân mình, nhờ đó các Tông Đồ cũng như những người kế nghiệp các ngài có thể lưu truyền mãi mãi. Chỉ duy một mình Thiên Chúa mới có thể vừa ra đi vừa ở lại.
Thánh Mác-cô cũng nhấn mạnh "giá trị cánh chung" của "bàn tiệc Thánh Thể". Bàn tiệc này là một sự tiếp cận, một sự tham dự trước bàn tiệc Thiên Quốc: "Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa".
Cuộc sống tương lai thường thường được biểu thị như bàn tiệc; và rượu nho như một trong những dấu chỉ của "niềm vui thời Mê-si-a" và niềm vui muôn đời của thế giới sắp đến. Đây đã là một trong những ý nghĩa của dấu lạ tiệc cưới Ca-na, tự nó là khúc dạo đầu của phép lạ bàn tiệc Thánh Thể. Nước biến thành rượu đáp ứng với rược biến thành máu.
Đoạn văn này chứa đựng một chi tiết quý báu: "Hát Thánh vịnh xong…" Đây chính là thánh thi tạ ơn được gọi "Hallel", mà người ta hát sau bữa ăn Vượt Qua. Bài thánh thi tạ ơn này được trích từ các thánh vịnh 113-118 (một trong những Thánh vịnh nầy đã được trích dẫn rồi trong bữa ăn); như vậy, bữa Tiệc Ly của Đức Giê-su đích thực là bữa ăn Vượt Qua, ít ra theo các Tin Mừng Nhất Lãm.
Tình thương là động cơ chính thúc đẩy người ta ban tặng cho nhau. Vì tình yêu thương có nhiều: THÁNHTHỂ-159
Tình thương là động cơ chính thúc đẩy người ta ban tặng cho nhau. Vì tình yêu thương có nhiều cấp độ hơn kém khác nhau nên việc trao ban cũng có nhiều mức độ nhiều ít khác nhau.
Trao ban những thứ dư thừa
Khi gặp một người ăn xin xa lạ trên đường phố chìa tay tìm sự giúp đỡ, khách bộ hành dừng lại, tần ngần mở ví, tìm đồng tiền nhỏ nhất trao cho người ấy.
Khi gặp người lỡ bước không chỗ tạm trú qua đêm, người chủ của căn nhà sang trọng chỉ nhường cho người đó một xó nhỏ ngoài hành lang nhà mình.
Khi có nạn nhân những vùng bị lũ quét cuốn trôi hết gia tài sản nghiệp, người dư ăn dư mặc chỉ chia sẻ cho họ những bộ áo quần cũ kỹ, mặc không vừa ý…
Vì tình thương đối với những người hoạn nạn ấy rất nhỏ nhoi nên người ta chỉ trao tặng họ những của dư thừa.
Trao ban những điều cần thiết
Khi tình yêu dành cho người khác lớn hơn, người ta sẽ ban tặng cho họ những thứ cần thiết hơn. Hai người bạn tù thương mến nhau đang sống trong cảnh tù đày thiếu đói, người nầy sẵn sàng bẻ đôi miếng bánh đang ăn để chia sớt cho người kia cùng chịu cảnh tù tội đói khát với mình.
3. Trao ban cả bản than
Cao cả hơn hết là trao ban chính bản thân mình. Đó là khi người có đôi mắt tinh tường sẵn sàng hiến một con mắt của mình cho người bị nạn hỏng cả hai mắt; người có hai quả thận hoạt động tốt, hiến cho người bị hư thận hoàn toàn một quả; người có hai lá phổi lành lặn, hiến cho người bị ung thư hai buồng phổi một lá; người có hai cánh tay khoẻ mạnh tình nguyện hiến nguyên cả một cánh tay của mình cho người bị tai nạn nghề nghiệp đứt lìa hai chi trên.
Chỉ khi nào người ta yêu mến nạn nhân hết lòng hết sức, yêu nạn nhân còn hơn cả bản thân mình, người ta mới hiến tặng những chi thể trong thân mình cho họ. Vì thế, những nghĩa cử cao đẹp đó rất hiếm hoi trên cõi đời ô trọc nầy.
Chỉ có Chúa Giê-su mới trao ban cả thân xác và mạng sống của Người cho chúng ta.
Người đời nghèo thiếu tình yêu nên cũng rất bủn xỉn trong việc trao ban. Chúa Giê-su yêu thương chúng ta hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự nên Người trao ban cho chúng ta tất cả không tiếc nuối điều gì, thậm chí còn ban cả bản thân và mạng sống của Người cho chúng ta.
Khi nhân loại ngụp lặn trong đại dương chết chóc mong ước có một “Tấm Phao” thần diệu cứu họ khỏi đắm chìm trong biển chết hãi hùng, Chúa Giê-su từ trời gieo mình xuống và trở nên “Phao Cứu Sinh” cho họ.
Khi nhân loại khao khát thứ bánh thần thiêng mang lại sự sống đời đời, Chúa Giê-su hiến ban Thân Mình Người làm bánh trường sinh mang lại sự sống vĩnh cửu cho thế nhân.
Khi loài người cần máu của Con Thiên Chúa đổ ra tẩy rửa tội lỗi ngút ngàn của họ, Chúa Giê-su sẵn sàng trút máu mình ra không tiếc nuối.
Khi con người cần sinh mạng của Ngôi Hai Thiên Chúa để đổi mạng cho mình, Chúa Giê-su vui lòng dâng hiến mạng sống mình chết thay cho muôn dân…
Chúa Giê-su luôn đáp ứng tất cả những nhu cầu sâu xa nhất, bức thiết nhất của chúng ta cho dù Người phải thiệt mất mạng sống.
Chúa Giê-su trao ban hết tất cả những gì Người có và ban chính bản thân Người vì yêu thương chúng ta.
“Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình” (Gioan 15,13)
Lạy Chúa Giê-su, Không ai trên cõi đời nầy yêu thương chúng con bằng Chúa.
Dù chúng con có phản bội, có thờ ơ hờ hững với Chúa thì Chúa vẫn trọn đời yêu quý chúng con.
Vậy mà tiếc thay, nhiều người trong chúng con không nhận ra tình yêu cao vời ấy.
Xin đừng để chúng con trở nên người bội bạc vong ân vì không cảm nhận được tình yêu của Chúa và không biết đáp đền tình yêu trời bể Chúa dành cho chúng con. Lm. Ignatiô Trần Ngà
Chúa Giêsu đã nói một câu tuyệt diệu bằng chính cả cuộc đời của Ngài: " Không có tình yêu nào: THÁNHTHỂ-160
Chúa Giêsu đã nói một câu tuyệt diệu bằng chính cả cuộc đời của Ngài: " Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ). Chúa Giêsu đã đi tới cái tận cùng của việc hiến dâng là cái chết. Tình yêu hoàn toàn tự hiến của Ngài đã nói lên sự quảng đại vô bờ của Ngài: ” chết mới diễn tả mọi sự, chết mới thốt lên lời”. Chúa chết để cứu chuộc loài người, cứu độ con người. Ngài chết nhưng Ngài vẫn sống, Ngài chết để trao ban chính Thịt Máu của Ngài để nuôi sống nhân loại.
ĂN LỄ VƯỢT QUA LẦN CUỐI:
Trong lễ Vượt Qua lần cuối này, thực sự các môn đệ, những người thân cận của Chúa đã không ngờ được Thầy của họ đã làm một cử chỉ không bao giờ họ có thể ngờ và chưa hiểu ngay được.Chúa Giêsu đã tiên liệu nơi ăn lễ Vượt Qua: một phòng rộng rãi trên lầu của một gia đình mà Phêrô và Gioan đã vâng lời Chúa mượn được.Các môn đệ chỉ phải lo lễ vật để dùng trong bữa tiệc: bánh không men, rượu, chiên và rau diếp đắng. Các mộn đệ không hề biết Chúa sẽ làm gì trong bữa tiệc ly này. Nhưng chỉ mình Chúa biết việc gì Ngài sẽ làm trong lễ Vượt qua này. Bởi vì các môn đệ cũng đã từng ăn lễ Vượt Qua với Chúa. Tuy nhiên bánh và rượu những lần trước chỉ là bánh rượu bình thường. Còn trong bữa tiệc hôm nay, các môn đệ không thể ngờ và không bao giờ ngờ khi Chúa cầm lấy bánh tạ ơn Thiên Chúa Cha, bẻ ra vào trao cho các ông và nói: ” Anh em hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy “.
Ngài còn trao rượu cho các ông mà nói: ” Đây là Máu thầy, Máu giao ước mới, đổ ra vì nhiều người “. Như thế, chính giờ phút này, chính lúc nói lời này: bánh và rượu đã được biến đổi tận căn để trở thành Mình và Máu Chúa Giêsu. Các môn đệ ăn bánh và uống rượu để thông hiệp, trở nên một với cái chết của Thầy trên thập giá. Và cũng ngay ngày hôm sau, trên núi Sọ, máu của Chúa đã đổ ra, và thân xác của Chúa bị tàn tạ, nát tan. Ngài bị đóng đinh trên thập giá giữa giữa hai tên trộm cướp. Hy lễ núi Canvê chỉ diễn ra một lần nhưng bao trùm mãi mãi dòng lịch sử nhân loại, và bữa tiệc cuối cùng của Chúa chỉ diễn ra một lần nhưng Ngài muốn nó được lập đi lập lại mọi ngày cho tới tận thế: ” Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy “ ( Lc 22, 19 ).
HY TẾ TẠ ƠN VẪN TỒN TẠI MÃI CHO ĐẾN TẬN THẾ:
Từ giây phút ăn lễ Vượt Qua cuối cùng với các môn đệ, Chúa đã thiết lập Bí tích linh mục thừa tác và thiết lập Bí tích Thánh Thể. Do đó, mỗi thánh lễ là cuộc tái diễn lại bữa tiệc ly và mỗi thánh lễ là một hy tế thập giá. Cái chết của Chúa trên thập giá khi xưa để cứu độ con người nay thành hiện tại để đem lại sự sống mới cho con người mọi nơi mọi lúc. Mỗi lần chúng ta lãnh nhận Mình Máu Chúa là chúng ta gặp gỡ chính Đấng đã hy sinh chịu chết vì chúng ta, là chúng ta được kết hợp với Đấng đã yêu thương chúng ta đến cùng.Rước Chúa có nghĩa là chúng ta được mời gọi chia sẻ, thông phần, bẻ ra và hiến trao như Đấng chúng ta lãnh nhận. Chính vì thế, chúng ta không còn khép kín, ích kỷ chỉ nghĩ đến ta mà phải sống như Đấng đã hy sinh vì chúng ta. Bao lâu chưa đến ngày cùng tận, bấy lâu thánh lễ vẫn còn nối tiếp trong dòng đời, trong lịch sử nhân loại.
BÍ TÍCH THÁNH THỂ LÀ BÍ TÍCH TÌNH YÊU:
Để lại cho nhân loại chính Mình và Máu Chúa, Chúa Giêsu muốn nói lên tình yêu vô biên của mình đối với nhân loại, đối với mọi người, đối với từng người. Thánh Thể là Bí tích tình yêu, là trung tâm đời sống của Kitô hữu, là lương thực thiêng liêng nuôi sống người tín hữu, là món quà tuyệt vời Thiên Chúa trao tặng cho nhân loại, ban cho từng người. Đây là Bí tích bảo đảm sự sống trường sinh cho con người, là quà tặng không tiền khoáng hậu Thiên Chúa ban cho thế giới. Bí Tích Thánh Thể vượt quá trí khôn, trí hiểu của con người. Chúa Giêsu trước khi chết đã vì yêu con người nên đã cho đi, cho cả sinh mạng, cuộc sống của Ngài cho nhân loại, cho mỗi người.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ:
Khi lãnh nhận Mình Máu Chúa Kitô, chúng ta hãy ý thức sâu xa: đây chính là Đức Kitô đã sinh ra nơi Bêlem, đã lớn lên và sinh sống ở Nagiarét, đã rao giảng khắp nơi. Đây là Đức Kitô đã bị kết án, đã bị treo trên thập giá và đã phục sinh, đã lên trời và đã cho Chúa Thánh Thần xuống. Chúng ta sẽ không thể nào tưởng tượng nổi điều kỳ diệu ấy nhưng nhờ đức tin chúng ta hiểu đúng là như thế.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con luôn yêu mến Thánh Thể và siêng năng rước Chúa vào lòng như bảo đảm cho sự sống đời đời của chúng con. Amen.
Mc 14:12-16: 12 Ngày thứ nhất của lễ Bánh Không Men, khi người ta thường sát tế chiên: THÁNHTHỂ-161
Mc 14:12-16: 12 Ngày thứ nhất của lễ Bánh Không Men, khi người ta thường sát tế chiên Vượt Qua, các môn đệ nói với Người: “Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?” 13 Người sai hai môn đệ đi, và nói với họ: “Các anh hãy đi vào thành, và một người mang vò nước sẽ đón gặp các anh. Hãy đi theo người đó. 14 Người đó vào nhà nào, các anh hãy nói với chủ nhà là Thầy nói: “Cái phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu?” 15 Và người ấy sẽ chỉ cho các anh một phòng lớn bên trên, được trang bị đầy đủ và đã sẵn sàng. Các anh hãy chuẩn bị ở đó cho chúng ta.” 16 Các môn đệ ra đi và vào trong thành, và các ông tìm thấy như Người đã nói với họ, và các ông đã chuẩn bị lễ Vượt Qua.
14: 22-26: 22 Trong khi họ đang ăn, cầm lấy bánh Người chúc tụng, bẻ ra, và trao cho họ và nói: “Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy.” 23 Và cầm chén, Người dâng lời tạ ơn, trao cho họ, và tất cả đều uống từ chén này. 24 Và Người nói với các ông: “Đây là máu Thầy, máu giao ước đổ ra cho nhiều người. 25 Thật Thầy nói với anh em: Thầy không uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống rượu mới trong Nước Thiên Chúa.” 26 Hát thánh vịnh xong, họ đi ra đến núi Cây Dầu.
Hai đoạn kinh thánh của chúa nhật nầy không liên tục nhau; giữa chúng là đoạn Chúa Giêsu tiên báo một người trong Nhóm Mười Hai sẽ nộp Người (14:17-21). Bối cảnh chung của hai đoạn là dịp lễ Bánh Không Men của người do thái, Chúa Giêsu gởi hai môn đệ đi chuẩn bị lễ Vượt Qua cho Người và các môn đệ của Người (14:12-16); sau đó Người đến đó với nhóm Mười Hai để cử hành lễ Vượt Qua của Người (14:22-26). Ở đây, chúng ta chỉ bàn đến đoạn 14:22-26. Kết cấu của đoạn nầy gồm ba phần: 1- Trao ban thân thể: lời và hành động liên quan đến bánh (c. 22); 2- Trao ban máu: lời và hành động liên quan đến rượu (cc. 23-24); 3- Kết luận và lời tiên báo về bữa tiệc trong Nước Thiên Chúa (c. 25).
Lễ Vượt Qua là dịp nhắc lại sự can thiệp quyền năng và mạnh mẽ của Thiên Chúa giải thoát dân Israel khỏi kiếp nô lệ Ai cập. Khi cử hành lễ nầy, Chúa Giêsu hướng đến Thiên Chúa và để Thiên Chúa thực hiện nơi Người một lễ Vượt Qua mới. Do đó, Người không cử hành lễ Vượt Qua theo truyền thống của người do thái, mà của chính Người. Lời và hành động liên quan đến bánh và rượu trong đoạn nầy được trình bày tương tự nhau, gồm những tác động cầm, chúc tụng, trao ban, và lời xác nhận bản tính của bánh và rượu. Chúc tụng Thiên Chúa là một phần quan trọng trong bữa ăn, vì mọi ơn lành đều do bởi Thiên Chúa. Khi làm việc nầy, Chúa Giêsu ý thức mình và máu của Người sẽ được trao ban do Thiên Chúa mà đến.
Khi trao tấm bánh đã bẻ ra, Chúa Giêsu nói: “Nầy là Mình Thầy” (c. 22). Thân thể chỉ con người trọn vẹn. Cũng một cách thế tương tự: “Nầy là máu Thầy” (c. 23) Máu là chính sự sống (x. Lv 17:11.14; Dnl 12:23). Như thế, khi ban mình và máu, Chúa Giêsu ban cả con người và sự sống của Người.
Lời trên rượu dài hơn lời trên bánh. Máu nầy được gọi là “máu giao ước”. Cách nói nầy nhắc lại việc Môsê đã rảy máu súc vật trước tiên trên bàn thờ, rồi trên dân chúng và nói: “Đây là máu giao ước mà Thiên Chúa đã ký kết với anh em” (Xh 24:8). Máu ấy đã ghi ấn sự cam kết đôi bên. Tuy nhiên, trong giao ước không luôn luôn phải có hai bên như thế. Ký kết giao ước trước tiên là sáng kiến của Thiên Chúa. Ngài làm giao ước khi Ngài muốn và Ngài đặt ra những quy định cho giao ước ấy (x. Stk 9:1-17; 15:8; 17:10-11). Việc Chúa Giêsu đổ máu ra là do Thiên Chúa quyết định (x. Gio 18:11). Ngài cũng quyết định luôn cách thế đổ máu ấy ra và mục đích cứu chuộc của việc đổ máu ấy (c. 24); không có một cam kết nào về phía con người ngoài việc sẵn sàng lãnh nhận máu ấy để được tha tội và cứu độ. Như Người Tôi Tớ Đau Khổ, Chúa Giêsu đổ máu ra thay cho nhiều người (x. Is 53:12); nhờ đó chẳng ai bị loại khỏi hoa trái được tha tội bởi cái chết của Người (x.10:45; Mt 1:21; 20:28; Dt 9:22).
Sau cùng, lời tiên báo về việc uống rượu mới trong Nước Thiên Chúa cho biết Chúa Giêsu sẽ bước sang giai đoạn vinh quang sau khi đã hoàn tất việc uống chén đắng (c. 25; x. 10:35-45). Rượu mới biểu trưng sự sống và niềm vui. Rượu mới Người sẽ uống trong Nước Thiên Chúa chính là sự hiệp thông trọn vẹn và sự sống viên mãn mà Người sẽ chia sẻ với Cha Người.
Trong khi hiến dâng mình và máu cho công cuộc cứu độ của Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã cứu độ nhiều người và đưa họ vào dự tiệc hoan lạc trong nước của Cha Người.
Lễ Mình và Máu Thánh Chúa được mừng vào Thứ Năm sau Chúa Nhật Lễ Chúa Ba Ngôi: THÁNHTHỂ-162
Lễ Mình và Máu Thánh Chúa được mừng vào Thứ Năm sau Chúa Nhật Lễ Chúa Ba Ngôi, nhưng thường được cử hành trọng thể vào Chúa Nhật tiếp theo. Các Bài Đọc theo chu kỳ Năm B: Bài Đọc I (Xuất Hành 24: 3-8) nhắc đến Giao Ước trong Cựu Ước: Ông Moisê lấy máu con vật (chiên, bò) vẩy lên dân chúng và nói: “Đây là máu Giao Ước mà Thiên Chúa đã ký kết với anh em theo đúng những lời Ngài đã nói!” Bài Đọc II (Do Thái 9: 11-15): Thánh Phaolô nhắc đến Giao Ước Cũ do máu chiên, bò; nhưng Giáo Ước Mới, Giao Ước vĩnh cửu đã được Chúa Giêsu là Vị Thượng Tế hoàn hảo đổ máu ra để ký kết: “Chúa Giêsu là trung gian của Giao Ước Mới” (Do Thái 9: 15). Bài Phúc Âm (Matcô 14: 12-16, 22-26) ghi lại Bữa Tiệc Ly, và trong Bữa Tiệc Tình Thương đó, Chúa Giêsu đã lập Bí Tích Mình và Máu Thánh Chúa.
Thánh Lễ hôm nay nhắc chúng ta nhớ đến Thánh Lễ chiều ngày Thứ Năm Tuần Thánh: kỷ niệm Chúa Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể và chức Linh Mục để Thánh Lễ được tiếp tục mãi mãi cho đến ngày tận thế ở khắp nơi Tin Mừng được rao giảng mà nhớ đến Chúa Giêsu đã chịu nạn chịu chết để cứu chuộc nhân loại (1 Corinto 11:24-26).
Vì tình yêu thật sâu thẳm đối với nhân loại, Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người để chia sẻ thân phận đau khổ của con người như chúng ta, rao giảng Tin Mừng cứu độ, chịu nạn chịu chết khổ đau trên Thánh Giá để đền vì tội lỗi chúng ta. Như thế chưa lấy làm đủ, Ngài còn muốn ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế (Matthêu 28:20) qua Giáo Hội và qua sự hiện diện thật sự trong Bí Tích Thánh Thể.
Trong Giáo Hội, Chúa Giêsu vẫn là vị “Chủ Chăn Nhân Lành” chăn dắt đoàn chiên Chúa qua con người của Đức Giáo Hoàng và các chủ chăn hữu hình hiện diện ở các nơi.
Trong Bí Tích Thánh Thể, Chúa Giêsu hiện diện để làm Của lễ hy tế, làm của nuôi linh hồn chúng ta, ban ơn thánh hóa và bảo đảm sự sống đời đời cho chúng ta (Gioan 6:33-34). Chính trên bàn thờ Thập giá, Chúa Giêsu đã hiến dâng một Thánh Lễ hoàn hảo để đền tội cho cả thế giới. Các Thánh Lễ dâng qua mọi thời gian, ở khắp nơi trên thế giới đều là tham dự vào của lễ hoàn hảo Chúa Giêsu đã dâng trên bàn thờ Thập giá: “Chúa Giêsu vừa là Chủ Tế vừa là Của Lễ hiến dâng.”
Trong Thánh Lễ, sau lời truyền phép, Chúa Giêsu đến ngự thật (chứ không phải chỉ là tượng trưng) trong hình Bánh và hình Rượu, và chúng ta đều cúi đầu thờ lậy. Việc Chúa Giêsu hiện diện thật sự trong Hình Bánh và Hình Rượu đã được xác quyết trong nhiều đoạn Thánh Kinh. Trong Phúc Âm Gioan (6: 50-58), Chúa Giêsu đã xác quyết: “Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống, ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta sẽ được sự sống đời đời…” Nghe như vậy ai cũng thấy ‘chói tai’ (nhất là đối với người Do Thái), và mọi người đều xầm xì tỏ vẻ rất khó chịu. Chính các môn đệ của Chúa cũng rất khó chịu, nên bảo nhau: “Lời nói này chói tai quá ai mà nghe được!”, và “Từ đó nhiều môn đệ rút lui, không theo Chúa Giêsu nữa… (Gioan 6: 66). Nhưng lời Chúa Giêsu nói là sự thật, nên Chúa Giêsu đã không rút lại, mà vẫn xác quyết như vậy, và Ngài còn hỏi các Tông Đồ: “Còn anh em, anh em có muốn bỏ đi không?” Thánh Phêrô đã thay mặt anh em để trả lời: “Bỏ Thày, chúng con biết theo ai, vì Thày mới có những lời đem lại sự sống đời đời!” (Gioan 6: 68).
Đây là mầu Nhiệm tình yêu sâu thẳm của Thiên Chúa mà chỉ có Ơn Chúa Thánh Thần soi sáng, chúng ta mới có thể lãnh nhận đuợc (Gioan: 6: 63). Trong lời truyền phép Thánh Thể trong bữa tiệc ly, khi cầm lấy Bánh, đọc lời tạ ơn theo nghi thức Do Thái, Chúa Giêsu không nói: Đây là Bánh Thánh, chúng ta hãy tạ ơn Chúa rồi ăn… Nhưng Ngài nói: Này là Mình Thày…” Và khi cầm lấy Chén rượu, đọc lời tạ ơn, Chúa Giêsu cũng không nói: “Đây là chén rượu, chúng ta hãy tạ ơn Chúa và uống…” Nhưng Ngài nói: “Đây là chén Máu Thày…” Đọc Phúc Âm (Mathhêu 26:26-27; Matcô 14: 22-24; Luca 22: 19-20), chúng ta đều thấy ghi rõ như vậy. Sau này, Thánh Phaolô cũng nhắc lại những lời y như vậy trong Thư I gởi Tín Hữu Corintô (11: 23-26), và nhấn mạnh điều quan trọng này: Khi chúng ta ‘Rước Lễ’ là chúng ta rước lấy chính “Thân thể Chúa” (1 Corintô 11: 29), và vì thế, “bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng thì xúc phạm đến Mình và Máu Thánh Chúa.” (1 Corintô 11: 27). “Vì thế, mỗi người chúng ta phải tự xét mình xem có xứng đáng không trước khi rước Mình và Máu Thánh Chúa.” (1Corintô 11: 28-29).
Việc tôn thờ Chúa Giêsu ngự thật trong Bí Tích Thánh Thể luôn được thực hành trong Giáo Hội: ngoài các Thánh Lễ được dâng khắp nơi và hầu như mọi lúc (Vì thời giờ chênh lệch khác nhau trên thế giới), còn có việc chầu Thánh Thể thay phiên nhau ở các xứ đạo, thường gọi là “Chầu lượt”; rước kiệu Thánh Thể, nhất là vào Ngày Lễ Mình và Máu Thánh Chúa; việc siêng năng viếng Mình Thánh Chúa. Hiện nay, tại Hoa Kỳ có nhiều nhà thờ đặt Mình Thánh Chúa và giáo dân thay nhau đến thờ lạy suốt ngày đêm.
Hôm nay, hợp cùng toàn thể Giáo Hội, chúng ta cùng dâng Thánh Lễ sốt sáng và cầu xin cho chúng ta được lòng tin kính và sùng mộ Chúa Giêsu trong Bí Tích Mình và Máu Thánh Chúa. Xin Chúa thánh hoá và gìn giữ chúng ta trong ơn nghĩa Chúa luôn, để chúng ta xứng đáng rước lấy Chúa Giêsu mỗi khi chúng ta đi dâng Thánh Lễ cuối tuần hoặc ngày thường
Vào năm 1263, có một linh mục người Đức đang cử hành Thánh lễ tại một nhà thờ kính thánh: THÁNHTHỂ-163
Vào năm 1263, có một linh mục người Đức đang cử hành Thánh lễ tại một nhà thờ kính thánh Christiana, lúc bẻ bánh trước khi rước lễ, vị linh mục này đã trông thấy Mình thánh hình bánh đã biến thành Thân Xác Đức Giêsu tử nạn. Trên thân mình Chúa, máu đang rịn ra qua các vết thương ở tay chân và cạnh sườn Người. Máu chảy ra làm ướt tấm khăn thánh và mấy lớp khăn phủ bàn thờ. Vị linh mục vội gấp các tấm khăn kia lại. Nhưng gấp tới đâu thì máu lại thấm ra tới đó. Cuối cùng máu thấm qua tới 25 lần vải khăn. Vừa cảm động lại vừa sợ hãi đến nỗi vị linh mục không thể tiếp tục dâng hết thánh lễ được.
Sau đó, ngài đến xin yết kiến Đức Giáo hoàng Urbanô và tường trình sự kiện lạ lùng ấy. Đức Giáo hoàng liền sai một phái đoàn, đứng đầu là một Giám mục đến điều tra thực hư. Sau khi xác định là phép lạ, vị Giám mục đã cho rước Mình Thánh Chúa cùng các khăn bàn thờ đã thấm Máu Thánh kia về Rôma và đặt tại một nhà thờ dâng kính phép Thánh Thể, và mời gọi giáo dân đến chầu Mình Thánh liên tục. Sau đó, vào ngày mồng 8 thánh 9 năm 1264, Đức Giáo hoàng Urbanô đã ra sắc dụ truyền thiết lập lễ kính Mình Máu thánh Chúa Giêsu và truyền mừng lễ trong toàn thể Hôi thánh.
I. NHỮNG CHUẨN BỊ TỪ XA.
Hằng năm, người Do thái mừng lễ Vượt Qua rất trọng thể, cuộc lễ kéo dài tới bảy ngày. Khách thập phương trẩy đến Giêrusalem mừng lễ rất đông. Có những người ở xa ước được về Giêrusalem mừng lễ ít là một lần trong đời, giống như người Hồi giáo ngày nay tuốn về La Mecque để mừng lễ của họ.
Người Do thái gọi lễ Vượt Qua này là lễ Quốc khánh của toàn dân để kỷ niệm hai biến cố oai hùng vĩ đại nhất của dân tộc. Hai biến cố ấy là :
1. Giải phóng dân tộc.
Thiên Chúa giải phóng dân tộc thoát ách nô lệ Ai cập. Ngày đó, Thiên Chúa đã truyền cho ông Maisen và tổ tiên họ : giết con chiên một tuổi, sung sức nhất, trong sạch nhất, lấy máu nó bôi lên cửa nhà dân Do thái để được cứu sống. Còn cửa nhà dân Ai cập, không có máu chiên thì các con đầu lòng bị giết. Sau đó họ ăn thịt chiên với bánh không men lấy sức mạnh vượt ra khỏi Ai cập để về đất mà Thiên Chúa đã hứa ban cho tổ tiên họ.
2. Lập Giao ước Sinai.
Thiên Chúa muốn chọn cho mình một dân riêng làm sở hữu, nên Ngài đã lập giao ước với toàn dân ở núi Sinai. Thiên Chúa đã truyền cho ông Maisen xuống núi thuật lại lời giao uớc và giời luật của Chúa : Toàn dân đồng thanh đáp : “Mọi lời Chúa phán, chúng tôi sẽ thi hành”. Rồi họ ngả chiên bò làm lễ toàn thiêu và lễ hiệp thông.
Họ dâng lễ toàn thiêu bằng thiêu đốt tất cả lễ vật dâng lên trước nhan Chúa để tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và làm chủ mọi loài. Ngài đã ban sự sống cho họ, vì thế, họ hoàn toàn phó thác mạng sống mình và dân tộc mình cho Thiên Chúa. Ông Maisen đã ký kết với Thiên Chúa bằng cách lấy máu chiên bò : một nửa số máu được rảy trên bàn thờ, tượng trưng phía Thiên Chúa; một nửa kia được rảy trên toàn dân và Maisen lớn tiếng tuyên bố :”Đây là máu giao ước Chúa lập với anh em”. Sau đó, họ ăn thịt chiên hy tế trước tôn nhan Thiên Chúa để hiệp thông sự sống của Thiên Chúa (Xh 24,3-8).
II. ĐỨC GIÊSU LẬP PHÉP THÁNH THỂ
1. Tại bữa Tiệc ly.
Đức Giêsu yêu thương các môn đệ, không để họ sống bơ bơ trên trần thế nên hứa sẽ ở lại với họ mãi mãi :”Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 28,20). Ngài muốn ở cùng các môn đệ mãi mãi bằng cách ban cho họ một tặng phẩm, tặng phẩm thần linh. Người đời trước khi đi xa thường để lại cho người thân thích một món đồ nào đó để ghi nhớ như một cuốn sách, tấm hình, cái bút, cái khăn tay hay bất cứ một đồ vật gì.
Cách đây không lâu, đám thợ lặn đã tìm ra một chiếc tầu Tây ban nha được chế tạo đã 400 năm nay bị chôn vùi dưới nước ngoài khơi Bắc Ái nhĩ lan. Trong số báu vật tìm được trong tầu, người ta thấy một chiếc nhẫn đàn ông bằng vàng, trên nhẫn có chạm hình một cánh tay đang nắm một trái tim với những dòng chữ chư sau: ”Anh không thể cho em điều gì hơn thế nữa”.
Đức Giêsu cũng hành động như vậy, Ngài muốn để lại cho họ một kỷ vật có một không hai, không phải là món đồ vật nào mà chính là bản thân Ngài. Đây chính là lời Đức Giêsu nói với chúng ta : Thầy đã trao ban chính mình Thầy cho các con trọn vẹn đến mức Thầy không còn thể nào cho các con điều gì hơn thế nữa.
Ngài đã thực hiện trong bữa tiệc này mà thánh Marcô đã ghi lại:”Đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các ông mà nói:”Anh em hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy”. Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông và tất cả đều uống chén này, đổ ra vì muôn người”(Mc 14,22-24).
Với những lời ấy, Đức Giêsu đã lập phép Thánh Thể. Rồi Ngài còn truyền cho các môn đệ :”Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” tức là Ngài ban quyền cho các môn đệ được làm việc cao qúi này để tưởng nhớ đến Ngài.
2. Ý nghĩa bí tích Thánh Thể.
Trong bữa Tiệc ly và cũng là Thánh lễ đầu tiên do Đức Giêsu cử hành, Ngài đã thiết lập bí tích Thánh Thể và ban quyền chức Linh mục cho các tông đồ. Từ đó trở đi, cho tới ngày nay, và cho đến tận thế, trong Thánh lễ, khi Linh mục trịnh trọng lặp lại những lời Đức Giêsu :”Này là mình Thầy, “Này là Máu Thầy”, tức thì bánh không còn là bánh, rượu không còn là rượu nữa mà đã trở thành Mình Máu Chúa Kitô.
Lễ Chúa dâng tại bữa Tiệc ly, trên thánh giá và lễ các Linh mục dâng bây giờ cũng là một vì “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” chỉ khác nhau ở cách thức dâng lễ thôi, nghĩa là trên thánh giá có đổ máu, còn bây giờ thì không.
Như vậy, Đức Giêsu đã tìm ra phương thế để ở lại với các môn đệ; và qua mọi thời gian, ở lại với tất cả những ai tin vào Ngài. Vì thế, Thánh Thể được gọi là bí tích của sự hiện diện. Dưới hình bánh rượu, Đức Giêsu hiện diện luôn mãi với loài người nơi trần gian. Đây là một chân lý cao siêu vượt quá sự hiểu biết của trí khôn loài người. Vì vậy, sau truyền phép, Linh mục xướng lên :”Đây là mầu nhiệm đức tin”. Mọi người đều thưa lên:”Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết, và tuyên xưng Chúa sống lại, cho đến khi Chúa đến”.
Trong bài ca Tiếp liên của Thánh lễ hôm nay, Thánh Tôma tiến sĩ đã ca tụng mầu nhiệm Thánh Thể như sau:”Đây là tín điều dạy người Kitô hữu, rằng Bánh trở nên Thịt Chúa và Rượu trở nên Máu Chúa. Thịt Chúa là của ăn, Máu Ngài là thức uống, nhưng Chúa Kitô vẫn còn đầy đủ dưới mỗi sắc hình. Lạy Chúa Giêsu là mục tử tốt lành, là Bánh thực, xin Ngài thương xót, chăn nuôi và bảo vệ chúng con, xin Ngài ban cho chúng con nhìn thấy những điều thiện hảo trong cõi nhân sinh” (Bài Lauda Sion do thánh Tôma Aquinô soạn tại Orvieto năm 1264).
III. BÀI HỌC RÚT RA TỪ THÁNH THỂ.
1. Thánh Thể và hiệp thông.
Bí tích Thánh Thể cũng là một dấu chỉ : dấu chỉ của sự hiệp thông. Hiệp thông có nghĩa là nên một. Nói cách khác, bí tích Thánh Thể là dấu chỉ của sự nên một, của sự hiệp nhất, như Hội thánh luôn tuyên xưng và cầu nguyện rằng:”Chúng con cúi xin Cha cho Thánh Thần liên kết chúng con nên một khi chúng con dự tiệc Mình và máu Đức Kitô”(Kinh Tạ ơn II) Hay :”Và khi chúng con được Mình và Máu Con Cha bổ dưỡng, được đầy tràn Thánh Thần của Người, xin cho chúng con trở nên một thân thể và một tinh thần trong Đức Kitô”(Kinh Tạ ơn III).
Chính Đức Giêsu đã từng nói:”Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy”(Ga 6,56). Động từ “ở trong” mà Chúa nói, diễn tả mạnh mẽ ơn hiệp thông. Có ai trong chúng ta dám khẳng định dứt khoát và mạnh mẽ như Đức Giêsu ? Dẫu là tình yêu mặn nồng của đôi lứa yêu nhau hay ngay cả vợ chồng đi nữa, có chắc là họ ở trong nhau như Chúa ở trong ta và ta ở trong Chúa ? Chỉ có bí tích Thánh Thể làm nên sự hiệp thông kỳ diệu, sự hiệp thông toàn vẹn : Chúa với ta và ta với Chúa : một thân thể không thể tách lìa.
Trong bí tích Thánh Thể, ta không chỉ nên một với Chúa mà thôi, nhưng còn với anh chị em của mình nữa. Vì khi cùng chia sẻ một tấm bánh là chính thân mình Chúa Kitô, tất cả mọi người sẽ nên những chi thể của Ngài. Thánh Phaolô đã từng nói : Tất cả chúng ta tuy nhiều nhưng cùng chia sẻ một tấm bánh, vì thế chúng ta làm nên một thân mình. Thân mình mầu nhiệm này sẽ được sống nhờ sức sống của Chúa Kitô là chính Thánh Thần của Chúa Kitô mà Ngài ban cho ta.
Bởi thế, trong Chúa Kitô, nhờ Thánh Thể của Người, tất cả chúng ta thật xứng đáng gọi Thiên Chúa là Cha, còn ta chỉ là một với nhau , cùng làm con một Cha (Lm Ng. minh Hùng).
2. Thánh Thể và yêu thương.
Con người ta ai cũng có nhu cầu yêu, nghĩa là nhu cầu yêu và được yêu, mà không yêu là chết. Nhưng khi yêu người ta không dựa trên cơ sở lý luận mà chỉ theo cảm tình. Chính vì thế, Blaise Pascal đã nói:”Con tim có những lý lẽ của nó mà lý trí không thể hiểu được”. Tình yêu mạnh hơn sự chết. Với sự thúc đẩy mạnh liệt của tình yêu, người ta có thể làm những việc mà không ai có thể nghĩ tới. Chỉ tình yêu mới có thể cắt nghĩa được những hành động đó.
Thiên Chúa cũng yêu chúng ta bằng tình yêu như vậy đó. Tình yêu mà Thiên Chúa lắm lúc cũng có vẻ “điên khùng” như thế, vượt qua mọi lý luận của lý trí con người như tình yêu đôi lứa. Thật vậy, nhìn lại mối tương quan giữa Thiên Chúa và loài người, chúng ta sẽ thấy trong mối tương quan này, Ngài không nhận lại bất cứ một điều gì. Chỉ vì yêu loài người chúng ta, Ngài đã làm những việc mà trí khôn con người không thể tưởng tượng được, đó là việc Ngài từ bỏ vinh quang của một vì Thiên Chúa, nhập thể làm một con người nghèo hèn ở giữa chúng ta (x. Pl 2,6-7). Cuộc đời Đức Giêsu, dù xét một cách toàn thể hay từng chi tiết, chúng ta thấy Ngài sống hoàn toàn vị tha, nghĩa là vì tình yêu với Chúa Cha và đối với chúng ta. Cụ thể nhất là cái chết thê thảm và nhục nhã trên thập giá của Ngài. Hơn thế nữa, Ngài còn để lại chính thịt máu Ngài làm của ăn cho từng người chúng ta như Ngài phán:”Ta là Bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta ban, chính là thịt Ta để cho thế gian được sống”(Ga 6,51). Hành vi này là của Đức Giêsu, quả thật đã vượt quá suy luận của con người đến nỗi ngay các môn đệ của Ngài cũng phải thốt lên:”Lời chi mà sống sượng thế, ai nào có thể nghe nổi”(Ga 6,60). Thiên Chúa cảm thông và thương yêu chúng ta như vậy, lẽ nào chúng ta không cảm thông và yêu thương nhau ? Tình yêu của Đức Giêsu có hai chiều kích : yêu Chúa Cha và yêu con người. Lẽ nào chúng ta là con người với nhau lại chỉ quan tâm đến Thiên Chúa mà không quan tâm đến nhau ?
Là một Thiên Chúa yêu thương, chắc chắn Ngài muốn chúng ta yêu thương nhau, quan tâm đến nhau hơn là quan tâm đến Ngài. Tại sao ? Vì những người chung quanh chúng ta cần tình yêu và sự quan tâm của chúng ta hơn Ngài rất nhiều. Ngài là Thiên Chúa – Đấng không thiếu thốn sự gì và cũng không hề ích kỷ - Ngài không cần tình yêu và sự quan tâm của chúng ta cho bằng những người chung qyanh đang chung sống với chúng ta. Tại sao chúng ta lại quá quan tâm đến Ngài mà bỏ rơi anh chị em mình ? Trong thực tế, chính khi ta yêu thương và quan tâm đến anh chị em mình, là chúng ta yêu mến Chúa. Nếu yêu mến Thiên Chúa thì hãy bắt chước Đức Giêsu : chẳng những chấp nhận chịu khổ để anh chị em mình đỡ khổ, mà còn trở nên “của ăn” cho anh chị em mình nữa.
3. Thánh Thể và chia sẻ.
Với bí tích Thánh Thể, Đức Giêsu trao ban trọn vẹn và hoàn toàn con người của Ngài cho chúng ta, để nhờ Ngài chúng ta được thông phần vào sự sống của Thiên Chúa và được sống đời đời như Ngài quả quyết:”Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết”(Ga 6,54). Ngài yêu thương chúng ta đến nỗi đã tự hủy mình đi để trở nên tấm bánh và ao ước được chúng ta ăn, để chúng ta được nên một với Ngài. Vì thế, trong một đoạn Tin mừng ngắn hôm nay, động từ “ăn” được lặp lại tới 9 lần.
Như vậy, “ăn và uống máu” Đức Giêsu chính là suy niệm Lời và đời sống của Ngài để dần dần thay thế “chất tôi” thành “chất Ngài”, biến “tôi” thành “Ngài”.
Nói cách khác, đó là được trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, nên giống Đức Kitô mọi đàng để có thể nói như thánh Phaolô :”Tôi sống nhưng không phải tôi mà là chính Đức Kitô sống trong tôi”. Giống Đức Giêsu là giống Thiên Chúa, mà “Thiên Chúa là Tình yêu”(1Ga 4,8.16). Tình yêu ở đây là thứ tình yêu hoàn toàn vị tha nghĩa là trở nên “chiếc bánh bị ăn” (pain mangé) như Đức Giêsu (theo cách nói của cha Antôn Chevrier, tu hội Prado) để rồi mỗi người chúng ta sẽ trở nên “con người bị ăn thịt đi”(homme mangé) để phục vụ những người khác.
Truyện : Giới Tử Thôi cắt thịt đùi mình.
Trên bước đường lưu vong, trốn ra ngoài nước, công tử Trùng Nhĩ và bọn bề tôi trải qua rất nhiều cam go, lầm than, khổ sở, đói khát.
Không tiền bạc, hết lương thực, bọn người này phải đi ăn xin. Một hôm đói quá, đói đến lả người, cả bọn cơ hồ không đi được nữa. Trùng Nhĩ phải kiếm gốc cây có bóng mát gối đầu vào đùi Hồ Mao mà nằm. Bọn bề tôi bảo nhau đi bứt rau sam về luộc ăn. Trùng Nhĩ nuốt không trôi. Bỗng Giới Tử Thôi mang một bát thịt nóng hổi đến dâng. Trùng Nhĩ ăn ngon lành ! Ăn xong, khoẻ khoắn liền hỏi Giới Tử Thôi :
Nhà ngươi lấy đâu được thịt ngon như thế ? Giới Tử Thôi chỉ vào đùi mình, thưa : Ấy là thịt đùi của tôi đó. Tôi nghe rằng : người hiếu tử bỏ thân thờ cha, người trung thần bỏ thân thờ vua. Nay Công tử đói không có gì ăn nên tôi phải cắt thịt đùi dâng cho Công tử. (Thanh Lan Võ ngọc Thành, Nhân vật Đông châu, 1968, tr 324)
4. Thánh Thể và Thánh lễ Đức Giêsu ví Thánh Thể như bàn tiệc thịnh soạn đã dọn sẵn, mời chúng ta đến tham dự, hoàn toàn miễn phí. Nhưng có những người đã từ chối lời mời gọi thân tình này, họ viện ra những lý nọ lẽ kia không chịu đến tham dự (x. Lc 14,16-24). Chúa mời gọi ta đến dự tiệc thánh là có ý tìm lợi ích cho linh hồn chúng ta : phép Thánh Thể Chúa lập ra là một bảo đảm ơn cứu chuộc như Ngài nói:”Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho sống lại ngày sau hết” (Ga 6,54).
Chúa thiết tha mời ta tham dự Thánh lễ và rước lễ để được ơn phần rỗi, nhưng ngoài ra Ngài lại con răn đe :”Nếu các ngươi không ăn thịt Con người và uống máu Người, các ngươi không có sự sống nơi mình”(Ga 6,53). Chúa răn đe như vậy không có ý tìm lợi ích cho Ngài vì Ngài không còn thiếu gì nhưng cho chúng ta mà thôi.
Một lần thánh Phanxicô chầu Thánh Thể, được nghe tiếng Chúa hỏi :”Hỡi Phanxicô sao con mê Cha như điên như cuồng như vậy”? Thánh Phanxicô trả lời:”Lạy Chúa, xét về yêu, thì Chúa còn điên hơn con”. Lm Giuse Đinh lập Liễm
Thánh Thể là trung tâm phụng vụ và đời sống Kitô giáo. Chính vì tầm quan trọng đó, nên: THÁNHTHỂ-164
Thánh Thể là trung tâm phụng vụ và đời sống Kitô giáo. Chính vì tầm quan trọng đó, nên Giáo hội đã không ngừng mời gọi tín hữu đến Thánh Thể như cao điểm hiến tế và nguồn mạch hiệp thông với Chúa Kitô và anh em.
Không ai có thể quên đêm cuối cùng Ðức Giêsu chia sẻ với các môn đệ về tất cả những gì Người làm cho Giáo hội. Trong bữa tiệc ly đó, khi cầm chén rượu, Người đã nói một lời chí lý : "Ðây là máu Thày, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người." (Mc 14:24) Rõ ràng trong khung cảnh Chúa sắp bước vào tuần thương khó, không thể nào hiểu những lời đó theo nghĩa tượng trưng hay biểu tượng. Chúa muốn cho các môn đệ thấy cái chết của Thày đã cận kề. Phải nói cho họ thấy tất cả ý nghĩa lớn lao của cuộc hi sinh đó. Bởi vậy, Thày nói đến "máu Giao Ước," một hình ảnh quen thuộc trong Cựu Ước (Xh 24:8; Is 53:12) và gợi lên niềm hi vọng hướng về ngày nhập tiệc Thiên Sai trong Nước Chúa. Ông Môsê đã lấy máu các vật hiến tế rẩy trên dân Israel để đóng ấn giao ước.
Khác hẳn với "Máu Giao Ước" trong quá khứ, Ðức Giêsu sẽ lấy chính máu mình làm hiến tế dâng lên Thiên Chúa. Hơn nữa, "Máu Giao Ước" không chỉ giới hạn cho một dân tộc, dù là dân riêng của Chúa, nhưng sẽ bao trùm cả nhân loại. Nói khác, sẽ "đổ ra vì muôn người." (Mc 14:24) Lời ngôn sứ Is 53:12, một trong những đoạn nói về Người Ðầy Tớ Ðau khổ, cho thấy hành động đó có một chiều kích hiến tế. Nói khác, có thể tìm thấy một chiều kích bao la và một sức mạnh vô song nối kết đất trời trong một hòa điệu tuyệt vời. Ngay trong việc hiến tế, Ðức Giêsu đã muốn cho mọi người thấy cái chết của Người có một sức mạnh cứu độ phổ quát.
Cả hai đoạn Cựu Ước đều cho thấy cái chết của Ðức Giêsu là một cuộc hiến tế cho mọi người, chứ không chỉ cho một số người. Khi cầm lấy "máu Giao Ước," Người khẳng quyết "chẳng bao giờ Thày còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày ấy, ngày Thày được uống thư rượu mới trong Nước Thiên Chúa." (Mc 14:25) "Rượu mới" đó chỉ tìm thấy trong bữa tiệc Thiên Sai (c. 6:35-44; 8:1-10). Không thể coi Tiệc ly như một biến cố tách biệt. Trái lại chỉ có thể hiểu được ý nghĩa của bữa tiệc lịch sử đó khi nối kết với những bữa tiệc trước đây Ðức Giêsu đã từng chia sẻ với những người thu thuế và tội lỗi (x 2:16) và với bữa tiệc cánh chung. Như vậy, công cuộc cứu độ vừa có giá trị hiện tại vừa nhắm về tương lai nhân loại.
Ngay từ bây giờ, các tín hữu đã được uống thứ "rượu mới" đó. Vì Nước Thiên Chúa đang hiện diện giữa họ (x. Lc 17:21). Khi chịu lễ, họ được mời gọi chia sẻ với Ðức Giêsu trong cái chết của Người. Thực vậy, khi trao bánh cho các môn đệ, Người nói: "Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thày." (Mc 14:22) Tương tư, Người "trao cho các ông" (Mc 14:23) chén rượu là chính máu Ngươi (x. Mc 14:24). Người thúc đẩy các ông hành động, chứ không chỉ đón nhận một cách thụ động. Thực vậy, chính Ðức Giêsu đã phục sinh để trở thành "dấu chỉ" Giao Ước. Mỗi lần lặp lại cử chỉ hiến tế trong thánh lễ, người tín hữu dâng lên dấu chỉ Giao Ước là chính Ðức Giêsu, Chúa Cha sẽ lại nhìn thấy, tưởng nhớ và hành động theo Giao Ước đó.
Khi tham dự vào cuộc hiến tế đó, các tín hữu lập lại Giao Ước đã ký kết trong máu Ðức Giêsu. Máu đó không những có sức đưa họ vào cuộc hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa, nhưng còn hiệp nhất họ trong sức mạnh Thánh Linh. Chính Thánh Thể cho họ hưởng ngay từ bây giờ tất cả những gì họ sẽ tìm thấy trong bửa tiệc cánh chung, nơi họ sẽ được hiệp thông trọn vẹn và chung cuộc với Ðức Giêsu và Thiên Chúa. Bởi thế, không có cuộc hiệp thông hôm nay trong Mình và Máu Chúa Kitô, cũng chẳng có cuộc hiệp nhất ngày mai trong Nước Thiên Chúa.
Trong cuộc hiến tế, Mình và Máu Chúa Kitô tách lìa nhau, nhưng lại trở thành đầu mối hiệp nhất và hòa hợp cho muôn dân. Thánh Phaolô đã gọi bữa Tiệc ly là bữa tiệc "hiệp thông" để nói lên một mối liên hệ kép : "Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Ðức Kitô ư ? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao ? Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể." (1 Cr 10:16-17) Chén Giao Ước đã hòa hợp và nối kết con người với Thiên Chúa, Ðấng lập Giao Ước. Bánh là thân thể Ðức Kitô, nơi tín hữu tìm được sự hòa hợp và nối kết với Ðức Kitô là đầu và với mọi người là chi thể Người.
Như thế, trong chính Máu và Mình Thánh Chúa, người tín hữu có thể tìm thấy lý do và sức mạnh xây dựng Giáo hội. Thật vậy, từ nơi Thánh Thể, một dân mới sẽ được thành lập để trở nên nhiệm thể Chúa Kitô phục sinh. Chính trong nhiệm thể này, Thiên Chúa sẽ hoàn toàn được tôn vinh và con người được ơn thánh hóa. Chúa hiện diện thực sự trong Thánh Thể để nguồn lương thực nuôi sống và hiệp nhất muôn dân. Hơn thế, thánh Thomas còn nhìn thấy nơi Thánh Thể một "bảo đảm cho ta một ngày mai huy hoàng rực rỡ." Nhờ đó, mỗi lần chịu Mình và Máu Chúa, "chúng con đợi chờ ngày hồng phúc, ngay Ðức Giêsu Kitô, Ðấng cứu độ chúng con ngự đến." (Sách Lễ Rôma)
Có thể nói phụng vụ ngày lễ Mình và Máu Thánh chỉ quan tâm đến phần thứ hai của bản văn: THÁNHTHỂ-165
Có thể nói phụng vụ ngày lễ Mình và Máu Thánh chỉ quan tâm đến phần thứ hai của bản văn, trong đó thánh Mác-cô thuật lại biến cố Ðức Giêsu lập bí tích Thánh Thể. Còn toàn bộ bản văn nhấn mạnh đến ý nghĩa bí tích như dấu chỉ của giao ước và của vương quốc.
* Từ lễ Vượt Qua cũ đến giao ước mới
Tất cả dân tộc Do-thái đều thừa hưởng lời Ðức Chúa truyền khi mừng lễ Vượt Qua. Ðức Giêsu cũng thi hành như thế. Các nghi thức chuẩn bị cũng như trong chính lúc mừng lễ phải được tuân giữ cẩn thận. Khi tuân giữ các nghi thức này, Ðức Giêsu đã thực sự hội nhập vào giao ước được ký kết giữa Thiên Chúa và dân Người.
Trong thực tế, ngoài việc chuẩn bị, Ðức Giêsu đã đảo lộn các thói quen : Người cùng với các môn đệ cử hành lễ Vượt Qua theo một ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn với việc chu toàn một nghi thức.
Quả vậy, người Do-thái ăn mừng lễ Vượt Qua để tưởng niệm biến cố Thiên Chúa đã hành động mà giải thoát họ khỏi đất Ai-cập, đồng thời để nhắc nhớ lại giao ước Thiên Chúa đã ban cho họ tại núi Xi-nai. Giờ đây, Ðức Giêsu mừng lễ trong một chiều hướng mới. Chính Người sẽ dùng cái chết của mình để lập giao ước mới. Giao ước này thay thế tất cả các giao ước cũ, và từ nay giao ước này là giao ước duy nhất, giao ước vĩnh cửu. Chính giao ước này sẽ giải thoát không phải chỉ dân Ít-ra-en, mà là tất cả mọi người, khỏi quyền lực sự dữ và sự chết.
Thánh Máccô nhấn mạnh đến một chi tiết : "một người mang vò nước" - công việc này vốn dành cho các phụ nữ. Dấu chỉ này khởi đầu cho một giai đoạn mới : trong khi các môn đệ chuẩn bị về vật chất, thì Ðức Kitô chuẩn bị lễ Vượt Qua cho chính mình. Còn người mang vò nước là một người được sai đến để chuẩn bị lễ Vượt Qua cho Ðức Kitô.
Qua các lời nói, Ðức Giêsu xác nhận ý nghĩa mới của giao ước. Giao ước sẽ được đóng ấn không phải bằng máu chiên nhưng là máu của chính Người sẽ đổ ra trong cái chết.
* Khai sinh Hội Thánh
Các môn đệ là biểu tượng cho dân Ít-ra-en mới. Ðoàn dân mới này sẽ được máu của Ðức Kitô cứu thoát, và giờ đây, họ được ngồi cùng bàn, được "mời" cử hành lễ Vượt Qua cùng với Ðức Giêsu. Trong lễ Vượt Qua mới của Hội Thánh, tức là mỗi lần cử hành Thánh Thể, Ðức Giêsu không ngừng ban tặng chính mình làm bảo chứng cho giao ước vĩnh cửu.
Vì thế, mỗi lần Hội Thánh tụ họp để cử hành Thánh Thể là một lần mừng lễ Vượt Qua do Ðức Kitô thiết lập, chứ không phải chỉ là lặp lại một nghi thức. Mỗi lần Hội Thánh cử hành Thánh Thể là một lần Hội Thánh được sinh ra trong máu của Ðức Giêsu, trong giao ước vĩnh cửu. Do vậy, mỗi người Kitô hữu tham dự thánh lễ đều được mời dự phần vào mầu nhiệm của một cái chết. Chính cái chết này mở ra con đường dẫn đến vương quốc sự sống.
Trong máu của một con người
Người ta vẫn có thói quen đọc thoáng qua bài Tin Mừng hôm nay, vì những chi tiết trong đó người ta đều thuộc cả. Tuy nhiên, nếu để ý kỹ, bài Tin Mừng vẫn có những ý nghĩa mới.
Trong bài Tin Mừng có 2 từ ngữ quan trọng. Hai từ này được nhắc đến trong cả ba bài đọc của Chúa nhật này : sách Xuất hành, thư gửi tín hữu Do thái, Tin Mừng thánh Luca. Ðó là 2 từ "giao ước" và "máu". Khi được xếp lại gần nhau, chúng có nghĩa là "máu giao ước", và người ta hiểu ngay "máu giao ước" chính là Ðức Kitô.
Thành ngữ "máu giao ước" được lấy lại từ sách Xuất hành. Sau khi từ trên núi đi xuống, ông Mô-sê đã đưa ra cho dân thấy lời của Thiên Chúa được viết trên các bia đá, tức là sách giao ước. Lúc ấy, ông Mô-sê đã lấy máu bò tơ để rảy trên bàn thờ cũng như trên dân chúng và nói : "Ðây là máu giao ước Ðức Chúa đã lập với anh em dựa trên những lời này."
Như thế, giao ước có nghĩa là một cam kết, một giao kèo. Ðức Chúa phán: "Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, nếu ngươi bước theo đường Ta chỉ, ngươi sẽ là dân Ta."
Từ đó, giao ước dần dần chuyển sang một ý nghĩa khác, ít thiên về luật pháp, nhưng gợi lên một thứ kết hiệp, một mối liên hệ trong tình yêu. Càng lúc giao ước cũ này càng cho thấy chiều kích phong phú sẽ được ban tặng trong giao ước mới, và giao ước cũ chỉ là một bước chuẩn bị, một sự loan báo. Giao ước cũ sẽ được giao ước mới biến đổi, nếu không muốn nói là phải nhường chỗ cho giao ước mới.
Thật vậy, giao ước mới này đã hiện thân nơi Ðức Kitô với "tâm hồn mới, tinh thần mới". Xưa kia, giao ước cũ đặt nền tảng trên lề luật ; ngày nay, giao ước mới lấy tình yêu làm căn bản. Giao ước mới này được bày tỏ trong hy tế Mình và Máu Ðức Kitô được trao tặng cho nhân loại được sống. So với giao ước cũ, giao ước mới này thâm sâu hơn nhiều, đồng thời cũng có tính cách quyết liệt hơn, cá vị hơn. Lề luật vẫn còn đó, nhưng không còn giá trị tối thượng : con người được đón nhận các mối phúc và được mời gọi sống trong tương giao dựa trên lòng yêu mến. Máu sẽ không chỉ là biểu tượng của giao ước, nhưng còn là bằng chứng của giao ước .
Chính vì thế, không phải chỉ là thay đổi tên gọi, từ cũ sang mới, nhưng là thay đổi hoàn toàn về ý nghĩa và cách thực hiện, để rồi từ cái chết của Ðức Giêsu, chỉ có một giao ước, giao ước duy nhất và vĩnh cửu.
Thành ngữ "máu giao ước" trong phụng vụ Thánh Thể vừa gợi lên sự dâng hiến của Ðức Giêsu, vừa cho thấy sự canh tân thường xuyên của giao ước để đi vào cuộc sống muôn mặt của nhân loại.
Giao ước của mỗi ngày sống
Trong bữa ăn mừng lễ Vượt Qua với các môn đệ, cũng là bữa ăn cuối cùng, Ðức Giêsu đã thiết lập giao ước mới qua việc tự nộp mình làm lương thực và làm của lễ. Nhìn bề ngoài, bữa ăn này cũng giống mọi bữa ăn khác; nhưng thật ra, bữa ăn này đã đúc kết toàn bộ lịch sử của dân Ít-ra-en, đồng thời mở ra lịch sử của một dân mới. Cả quá khứ, hiện tại lẫn tương lai đều phải lấy đây làm mốc. Tất cả lịch sử Cựu ước hướng về bữa ăn này, và tất cả tương lai của lịch sử cứu độ cũng phát xuất từ bữa ăn này. Bữa ăn này là một biến cố làm đảo lộn cả lịch sử mọi thời.
Thánh lễ là cuộc tái diễn bữa ăn đặc biệt này, trong đó Ðức Giêsu tiếp tục nhắc lại giao ước với toàn thể nhân loại cũng như với từng người. Khi cử hành và tham dự thánh lễ, nhân loại một lần nữa đi vào giao ước của Thiên Chúa qua cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ðức Kitô. Giao ước ấy đã được thực hiện một lần trong lịch sử, một lần là đủ, nhưng cần được nhắc lại để nhân loại luôn nhớ đến tình yêu đã cứu chuộc mình, và tình yêu ấy vẫn đang cứu chuộc để đưa nhân loại đến sự sống vĩnh cửu.
Như thế, mỗi lần tham dự thánh lễ là người Kitô hữu tìm được nguồn an ủi cho cuộc sống đầy những biến động của mình. Cuộc sống ấy đã được máu của Ðức Kitô đổ ra để cứu chuộc. Cuộc sống ấy vẫn được tình yêu của Thiên Chúa ấp ủ, nâng đỡ.
Ðồng thời, mỗi lần tham dự thánh lễ cũng là một nhắc nhở về bổn phận họ phải thi hành trong giao ước với Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn luôn trung tín và yêu thương, thì ngược lại, người Kitô hữu cũng phải thực hiện phần của họ trong giao ước, bởi vì giao ước không chỉ có một phía, không chỉ là một chiều. Chính những hoàn cảnh sống khác nhau, với những buồn vui, thành công và thất bại, làm cho giao ước thêm sống động và bày tỏ được trọn vẹn ý nghĩa.
Xh. 24,3-8; Dt. 9,11-15; Mc 14,12-16.22-26 Phúc Âm: Mc 14, 12-16. 22-26
"Này là Mình Ta. Này là Máu Ta".
Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn bánh không men là ngày giết chiên mừng lễ Vượt Qua, các môn đệ thưa Chúa Giêsu rằng: "Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua tại đâu?" Người liền sai hai môn đệ đi và dặn rằng: "Các con hãy vào thành, và nếu gặp một người mang vò nước thì hãy đi theo người đó. Hễ người ấy vào nhà nào thì các con hãy nói với chủ nhà rằng: Thầy sai chúng tôi hỏi: 'Căn phòng Ta sẽ ăn Lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu?' Và chủ nhà sẽ chỉ cho các con một căn phòng rộng rãi dọn sẵn sàng và các con hãy sửa soạn cho chúng ta ở đó". Hai môn đệ đi vào thành và thấy mọi sự như Người đã bảo và hai ông dọn Lễ Vượt Qua.
Ðang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: "Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta". Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. Và Người bảo các ông: "Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người. Ta bảo thật các con: Ta sẽ chẳng còn uống rượu nho này nữa cho đến ngày Ta sẽ uống rượu mới trong nước Thiên Chúa". Sau khi hát Thánh Vịnh, Thầy trò đi lên núi Cây Dầu.
Suy NiỆm:
Câu kết và cả bài Phúc Âm hôm nay dường như lại muốn đưa chúng ta trở về bầu khí của ngày: THÁNHTHỂ-166
Câu kết và cả bài Phúc Âm hôm nay dường như lại muốn đưa chúng ta trở về bầu khí của ngày Thứ Năm Tuần Thánh. Mà quả thật, ngày lễ hôm nay bắt nguồn từ ngày đó. Hôm ấy, chúng ta kính nhớ việc Chúa Yêsu lập phép Thánh Thể. Ðó là biến cố đặc biệt và thâm thúy quá, lẽ ra phải để ra nhiều giờ mà suy niệm. Nhưng hôm ấy, Giáo hội phải vội đi theo Chúa Yêsu trong mầu nhiệm cứu thế. Bỏ bàn Tiệc ly Chúa với các môn đệ ra đi lên núi Cây Dầu. Rồi Chúa bị bắt, bị tra, bị đánh, bị đóng đinh vào thánh giá... Biết bao là việc kế tiếp nhau dồn dập! Giáo hội phải âu yếm đi theo Chúa ngay, không thể dừng lại lâu để suy nghĩ về bí tích Thánh Thể mà Chúa vừa thiết lập. Giáo hội hôm đó chỉ chầu Mình Thánh Chúa một lúc thôi. Nên hôm nay, sau khi đã đi hết chu kỳ phụng vụ và tưởng niệm hết các mầu nhiệm chính trong lịch sử cứu độ, Giáo hội dừng chân, lấy lại công việc bỏ dở hôm trước chạy đến với bí tích Thánh Thể một lần nữa để tìm hiểu cho hết ý nghĩa sâu xa của bí tích tình yêu này.
Và Giáo hội thấy đây là một mầu nhiệm cao cả, mầu nhiệm bao trùm, chứa đựng mọi mầu nhiệm khác. Hát ca tung hô mấy cũng không vừa. Vì thế Giáo hội khuyến khích chúng ta cố gắng tối đa để tôn sùng mầu nhiệm ấy. Lễ Mình Thánh Chúa trở thành một lễ lớn làm khuôn vàng thước ngọc cho mọi lễ khác, đến nỗi trong suốt năm, lễ nào cũng chỉ là lễ Thánh Thể tạ ơn. Thế nên, mầu nhiệm lễ này không thể diễn tả một lần. Hy vọng đây chỉ là khởi điểm cho những suy niệm sâu xa hơn.
Ðể bắt đầu, chúng ta hãy nhớ lại bài Phúc Âm. Hôm ấy các môn đệ hỏi ý Chúa Yêsu về việc dọn lễ Vượt qua. Ðó là ngày hội lớn trong dân. Càng những người đạo đức như các tông đồ lại càng háo hức mừng lễ trọng đại này. Vì hôm nay toàn dân sẽ tưởng niệm Ngày hoàn toàn được giải phóng khỏi ách nô lệ, được đưa vào đất chảy sữa và mật. Kỷ niệm ấy lại càng đáng nhắc nhở khi dân Chúa ngày nay đang sống dưới ách ngoại bang. Khơi lại lịch sử cũ và sưởi ấm lòng người để quy hướng về tương lai.
Các tông đồ muốn ăn lễ Vượt qua trong viễn tượng trông chờ ngày cứu độ mà các tiên tri từng nói tới. Chúa Yêsu chia sẻ những cảm tình đó. Người tỏ ra rộng rãi, bảo môn đệ đi dọn một căn phòng trang trọng. Rồi, như Phúc Âm Yoan cho chúng ta biết, Người đã bước vào phòng ăn một cách đặc biệt, bởi vì Người biết đã đến giờ Người hành động, nên Người tuyên bố: Thầy đã từng ước ao ăn lễ Vượt qua này với chúng con. Câu nói hẳn đã làm cho các môn đệ phải lưu ý. Thầy sắp có một hành vi nào đây. Phải chăng Người sắp công bố Công cuộc cứu dân độ thế của Người. Người vẫn xưng mình là đấng phải đến, là Ðấng Thiên Sai cứu thế. Thì đây là lúc thuận tiện nhất để công bố một kế hoạch như vậy. Tâm lý mọi người ngồi ăn đang hướng về tương lai cứu độ.
Có lẽ vì vậy mà vừa ngồi xuống, các môn đệ đã bắt đầu tranh nhau xem ai sẽ là người lớn nhất trong Nước Trời. Họ như đã được lôi vào bầu khí, tưởng bữa tiệc hôm nay sẽ khai Nước Trời ở trần gian. Ðủ mặt 12 tông đồ đại diện cho 12 chi tộc Israel. Thế nên bữa ăn này như đúc kết tất cả lịch sử dân tộc Dothái. Nó nhắc lại hôm mừng lễ Vượt qua chuẩn bị Xuất hành, từ giã nơi nô lệ lầm than để đi vào đất hứa tự do trù mật. Nó cũng gợi đến bữa ăn giao ước như bài đọc I hôm nay vừa thuật: Môsê cùng dân làm lễ cam kết trung thành với Thiên Chúa. Và nhất là nó nghĩ đến bữa ăn cứu độ mà một Isaia đã loan báo: Thiên Chúa sẽ dọn ra trên đồi Sion cho muôn dân đến no thỏa. Chính Ðức Kitô cũng đã từng ví Nước Trời như một bữa tiệc trọng đại.
Lời nói và thái độ của Chúa Yêsu hôm nay rõ ràng như muốn thực hiện điều đó ở trong bữa ăn này. Thế nên bàn tiệc Thánh Thể quả thật là Nước Trời. Quá khứ, hiện tại, tương lai phải lấy đây làm mốc. Tất cả lịch sử cựu ước hướng về bữa ăn này; và tất cả tương lai của lịch sử cứu độ cũng phát xuất từ đây. Ước gì mỗi khi đến dự bàn tiệc Thánh Thể chúng ta có được tâm trạng của các môn đệ ngày xưa cảm thấy đây là giây phút trọng đại của tất cả lịch sử loài người.
Quả thật, Phúc Âm hôm nay kể tiếp: đang khi ăn, Chúa Yêsu cầm lấy bánh mà đọc: này là Mình Ta sẽ bị nộp vì chúng con. Rồi Người lại cầm lấy chén rượu mà phán: Này là Máu Ta, Máu tân ước vĩnh cửu sẽ đổ ra cho muôn người được khỏi tội. Thật là rõ ràng, Chúa Yêsu đã biến mình trở thành con chiên vượt qua. Bữa ăn này không phải chỉ tưởng niệm lễ Vượt qua của người Dothái nữa, nhưng từ nay muốn thay hẳn lễ vượt qua này. Vì Con Chiên Vượt qua đích thực là đây, nơi con người mà trước kia Yoan đã trỏ vào mà nói: đây là Con Chiên Thiên Chúa gánh tội thiên hạ. Hôm ấy, Anrê đã có mặt... Ông đã nghe rõ lời Yoan. Ông xin Yoan cho đi theo Chúa Yêsu. Hôm nay chắc ông mới hiểu rõ lời của Yoan, vì trong lễ Vượt qua này, rõ ràng Chúa Yêsu đã muốn bỏ quên máu chiên để nói máu mình.
Và bữa ăn hôm nay, với những lời tuyên bố kia, rõ rệt cũng muốn thay thế lễ nghi ký kết giao ước như Môsê đã làm. Hôm ấy như bài đọc I hôm nay kể, ông đã lấy máu bò rảy trên dân để tuyên bố giao ước giữa Chúa và dân. Hôm nay Ðức Kitô đã lấy chính máu mình đưa cho các môn đệ uống và công bố đó là máu giao ước mới và vĩnh cửu. Như vậy cũng đã chấm dứt giao ước cũ và dĩ hậu trong tương lai cũng chẳng còn giao ước nào khác nữa vì đây đã là giao ước mới và vĩnh cửu rồi.
Thành ra các lời tiên tri loan báo Nước Trời, về bữa ăn thịnh soạn sẽ bày ra trên đỉnh đồi Sion để công bố thời đại thiên sai hòa giải nay cũng đã được thực hiện trong bữa ăn giữa Chúa và các môn đệ... Các tiên tri đã loan báo thời đại cứu thế như thời thái hòa: Chúa tha hết tội lỗi cho dân, dân trở thành nơi quy tụ các dân tộc, các dân tộc sống với nhau trong hòa bình và thông cảm. Hôm nay cầm lấy chén rượu, Chúa Yêsu tuyên bố đây là chén máu của giao ước mới và vĩnh cửu, tha tội cho dân và cho mọi người. Chúa Yêsu muốn thực hiện mọi lời tiên tri, khiến bàn tiệc Thánh Thể hôm nay trở thành bàn tiệc Nước Trời và ai muốn được ơn nào bởi trời, phải đến với bàn tiệc Thánh Thể.
Quả vậy, trong bàn tiệc này, không thiếu một ơn trên trời nào. Chúng ta cần trời ban cho những ơn nào? Sức khỏe phần xác và giàu sang phú quý ư? Chắc chắn đó không phải là những ơn đầu tiên chúng ta cần trời ban cho. Những ơn đó quá gần với mặt đất, nên có cầu xin, chúng ta cũng chỉ coi như là những ơn phụ, đi kèm và biểu lộ những ơn phần hồn quan trọng hơn.
Chính Chúa Yêsu cũng có ý như vậy khi dùng bánh rượu vào tiệc bồi dưỡng tâm hồn. Chúa ban Mình Máu Người cho ta dưới hình thức bánh rượu để nói lên ý Chúa muốn nuôi dưỡng tâm hồn ta nhưng cũng không quên đời sống vật chất của mọi người. Những ơn mà ta cần trời ban cho hơn cả chính là tình thương của Thượng đế, ơn tha tội mà chỉ mình Người mới có thể ban được, để chúng ta được hòa giải với Người hầu sống trong tình thương của Người.
Thế mà Thánh Thể lại muốn ban chính ơn ấy cho ta. Chén máu mà chúng ta lãnh nhận là chén máu giao ước tha tội. Và tấm bánh mà chúng ta cầm ăn chính là mình Chúa chịu nộp vì chúng ta. Lãnh nhận Thánh Thể như vậy là lãnh nhận được ơn cao cả nhất mà chúng ta cần được Chúa ban cho. Mọi ơn khác được bao hàm trong ơn cứu độ phong phú này. Tìm đến với Thánh Thể là tìm được điều cần thiết duy nhất và mọi sự khác sẽ được ban thêm cho. Chúng ta chỉ còn việc làm cách nào hầu lãnh nhận được ơn Thánh Thể cho sung mãn.
Chính Chúa Yêsu khi lập Bí tích Thánh Thể đã gợi ý cho ta: chúng con hãy làm việc này để nhớ đến Ta. Và thánh Phaolô đã quảng diễn: mỗi khi ăn bánh và uống chén rượu này, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết cho đến khi Người lại đến. Nghĩa là chúng ta luôn luôn phải cử hành mầu nhiệm Thánh Thể trong bầu khí Chúa chịu chết của ngày thứ Năm Tuần Thánh. Chúng ta phải có tâm tình hơn những người Dothái khi ăn thịt chiên vượt qua, vì Mình Thánh Chúa đây mới thật là thịt chiên vượt qua của đạo mới. Thế mà người Dothái ngày trước khi ăn lễ chiên đã có tâm trạng dứt khoát từ bỏ nếp sống nô lệ để dấn thân vào nếp sống tự do mới mẻ. Chúng ta tham dự phụng vụ Thánh Thể phải có tâm hồn cương quyết hơn nữa muốn dứt bỏ đời sống tội lỗi và xác thịt để sống cho Thiên Chúa. Và như dân Dothái ngày xưa khi làm lễ giao ước đã thề hứa sống liên kết với Chúa và trung thành với Lời Chúa thế nào, thì chúng ta ngày nay càng cần phải có tâm trạng như thế vì trong bàn tiệc Thánh Thể này có máu giao ước thật thay cho máu bò xưa.
Nếu tham dự lễ nghi Thánh Thể trong viễn tượng ấy, chúng ta có thể nhìn vào Mình Máu Thánh Chúa mà nói với tác giả thư Hibá như chúng ta vừa nghe đọc: Chúa Kitô xuất hiện như vị thượng tế... Người hiến tế chính mình làm của lễ trong sạch... Máu Người sẽ tẩy sạch lương tâm chúng ta, khiến chúng ta có thể phụng thờ Thiên Chúa hằng sống... và nhờ sự chết của Người mà những kẻ được kêu gọi đến lãnh gia nghiệp đời đời.Ít là hôm nay chúng ta hãy tham dự thánh lễ với tất cả những ý nghĩa đó. Và mong rằng ngày hôm nay khi tôn sùng Thánh Thể bằng bao nghi thức long trọng bên ngoài, chúng ta hằng suy niệm trong lòng tất cả các mầu nhiệm hàm chứa trong bí tích tình yêu, để ai tin và ăn bánh này sẽ được trường sinh.
Một hôm, có người thanh niên đến gặp một vị Linh mục, anh ta nói: Thưa cha, con có người: THÁNHTHỂ-167
Một hôm, có người thanh niên đến gặp một vị Linh mục, anh ta nói:
Thưa cha, con có người bạn gái và chúng con đang có chuyện… không hiểu, xin cha giúp cho con.
Linh mục nghĩ thầm: “Có lẽ là về chuyện tình cảm đây!” Ông mỉm cười:
Con nói cho cha nghe.
Thưa cha, bạn gái con hỏi con: “Đạo Thiên Chúa của anh, ai nấy không ăn gì khác mà lại ăn thịt và uống máu Chúa, sao kỳ cục quá vậy?” Thưa Cha con biết Mình, Máu Thánh của Chúa là một Bí Tích mầu nhiệm nhưng khi nghe bạn gái hỏi, con giật mình suy nghĩ...
Người thanh niên ấp úng một chút, rồi nói tiếp:
Và con cũng không biết giải thích như thế nào..
Linh mục nhìn anh, ông không trả lời câu hỏi của anh nhưng ông bắt đầu kể cho anh nghe một câu chuyện.
***
Ở một thành phố kia, một trận động đất đã gây hư hại, làm sụp nhà cửa, đường phố… và có rất nhiều người bị vùi dập trong trận động đất. Trong đó, có một bà mẹ cùng với một đứa con tám tháng tuổi, bị kẹt trong đất đá vụn, nhờ có chiếc bàn chắn ngang nên hai mẹ con bà đươc an toàn, nhưng họ không thể thoát ra ngoài. Họ chỉ có một gói nhỏ trong đó có một ít trái cây và bánh.
Ngày đầu tiên: đứa bé khóc vì đói, bà mẹ cho con bú sữa tuy không ăn uống gì nhưng lượng sữa cũng tạm đủ no lòng đứa bé.
Ngày thứ hai… ngày thứ ba thì lương thực đã cạn, sữa cũng không còn, đứa bé lại khóc đòi ăn. Bà lo lắng, bà quờ quạng trong bóng tối và tay bà đụng vào một mảnh vụn của cửa kính. Bà quyết định cắt một đường trên ngón tay và đưa vào miệng con thế sữa của mình. Cứ như vậy, hễ con đói là tay bà có thêm một vết cắt… …Cho đến tối ngày thứ tư, những người cứu hộ tìm thấy được một bà mẹ rất xanh xao và đang trong tình trạng nguy hiểm với tư thế đang che chở cho con. Trên tay bà vẫn ôm chặt đứa con mũm mĩm.
Khi bạn nghe hay nhìn bằng đôi mắt, hình ảnh một em bé mút máu từ ngón tay của mẹ, có lẽ bạn có chút nào đó cảm thấy ghê sợ và… kỳ cục!
Nhưng với đôi mắt của trái tim, bạn sẽ thấy điều ngọt ngào và… kỳ diệu biết bao trong Tình Yêu của bà mẹ dành cho con, đến nỗi thí cả mạng sống mình vì người mình yêu thương.
Chúa Cha đã ban cho chúng ta người con duy nhất của Người chính là Chúa Giêsu. Người đã hiến mạng sống của mình cho người mình yêu, đó là chúng ta. Và Máu, Thân Người chính là của ăn, của uống Tình yêu cho chúng ta, để chúng ta đươc hòa làm một cùng Thiên Chúa, như giọt máu của người mẹ biến thành dòng sữa ngọt ngào cho con uống để nuôi sống con mình. “Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6, 56).
Cũng như em bé đươc nuôi dưỡng bằng máu của mẹ để sống, chúng ta cũng cần của ăn Tình Yêu nuôi dưỡng đó chính là: Mình, Máu Thánh của Chúa Giêsu đã đổ ra để cứu chuộc tội lỗi của chúng ta, cho chúng ta dược hưởng cuộc sống đời đời. “Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời” (Ga 6, 54).
Ôi kỳ diệu thay Bí Tích mầu nhiệm của Tình Yêu, bạn hãy đến và nếm thử mà xem Thiên Chúa chính là Tình Yêu của chúng ta ngọt ngào là dường bao!
***
Lạy Chúa, chúng con là những người tội lỗi và luôn bất tuân với Ngài, nhưng Chúa vẫn yêu thương chúng con vô bờ bến, chúng con hết lòng tri ân vì Tình Yêu của Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng con. Xin cho chúng con luôn biết chúc tụng, ngợi khen, cảm tạ Hồng Ân của Thiên Chúa đã trao ban chính là Máu Thân mình, để bồi dưỡng cho chúng con thêm sức trong Tình Yêu của Thiên Chúa. Cho chúng con luôn ở trong Tình Yêu của Ngài và chúng con biết yêu thương tha nhân như chính Thiên Chúa đã yêu thương chúng con. “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em” ( Ga 15, 12). Amen!
Đã bao thế kỷ trôi qua, Giáo Hội Công giáo không ngừng đào sâu niềm tin vào sự hiện diện của: THÁNHTHỂ-168
Đã bao thế kỷ trôi qua, Giáo Hội Công giáo không ngừng đào sâu niềm tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể. Dẫu có gặp muôn vàn thử thách, dẫu phải đương đầu với bao chỉ trích, người tín hữu vẫn kiên vững trong niềm tin không lay chuyển, bởi chính họ biết rõ Thánh Thể đã đem lại cho họ những gì trong cuộc hành trình thiêng liêng của cuộc đời.
Mỗi thánh lễ là một lễ kính Mình Máu Thánh Chúa. Nhưng ngày lễ trọng được ấn định hàng năm phải là một dịp đặc biệt để chúng ta suy niệm cách sâu sắc hơn về một chân lý vốn được gọi là suối nguồn, là đỉnh cao của đời sống người Kitô hữu, đó là Bí tích Thánh Thể.
Đã hẳn, trong Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu ở đó để thực hiện lời hứa: Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.
Nhưng trước hết sự hiện diện ấy nhằm tái diễn hy tế thập giá của Ngài. Thực vậy, Bí tích Thánh Thể không phải là một hy tế mới và độc lập, thay thế hay bổ túc cho hy tế thập giá, nhưng là lặp lại hy tế chỉ diễn ra một lần trên thập giá. Cũng một lễ vật, cũng một Đấng đã tự hiến đời mình thuở xưa trên thập giá, còn nay hiến tế qua tác vụ của linh mục trong thánh lễ. Có khác chăng là khác trong cách thức biểu lộ mà thôi.
Như dân Do Thái hằng nhớ lại những kỳ công Thiên Chúa, đặc biệt là hai biến cố: Thiên Chúa giải phóng dân khỏi ách nô lệ Ai Cập và không ngừng ban lương thực của Ngài cho dân suốt dọc theo những nẻo đường sa mạc. Trong thánh lễ, Giáo Hội cũng nhớ lại cuộc vượt qua của Đức Kitô và việc Ngài ban Thánh Thể cho dân mới trên đường lữ hành trần thế.
Thực vậy, tiếp nối Manna trong hoang địa, Thánh Thể trở nên lương thực, trở nên của ăn đàng cho Israel mới là Giáo Hội. Nhưng Manna mới chỉ là hình ảnh tượng trưng, chứ không thể nào sánh ví được với Bí tích Thánh Thể. Bởi vì cũng như bao lương thực trần gian khác, Manna vẫn để con người lại đó với cơn đói và nỗi khát khao vĩnh cửu. Manna chỉ cho người ta sống tạm để khỏi chết chứ không giúp người ta khỏi chết đời đời. Chính thân thể vinh hiển của Đức Kitô mới thực là bánh ban sự sống: Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời.
Chúa Giêsu đã trở nên bánh khi hiến mình làm lễ tế dâng lên Chúa Cha. Chúa Cha đã chấp nhận lễ hy tế ấy bằng cách tôn vinh Chúa Giêsu và đưa vào trong vinh quang của Ngài. Ngài nhận lễ vật mà Chúa Giêsu thay cho loài người dâng tiến, để rồi ban lại cho loài người như của ăn thánh. Từ của ăn thánh ấy, loài người kín múc sự sống để thông hiệp với Thiên Chúa… Và trong bữa tiệc ấy, Thiên Chúa hòa niềm vui của Ngài với tiếng cười của nhân loại. Những ai đón nhận của ăn thánh ấy sẽ được lôi kéo vào trong quỹ đạo của tình yêu Thiên Chúa và lưu lại trong Ngài: Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì sẽ ở lại trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy. Người ăn uống Mình Máu Chúa sẽ thuộc về Chúa từ đời này và mai này thuộc về Ngài mãi mãi.
Như thế, Thánh Thể thực hiện trước bữa tiệc cánh chung trong nước trời, sẽ được cử hành trong niềm vui rượu mới. Và như thế Thánh Thể là dấu chỉ cho đời sống vĩnh cửu đã khởi sự và là bảo chứng cho sự sống lại trong ngày sau hết.
Hôm nay Giáo Hội mừng kính lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Thánh Lễ này nhắc nhở cho ta: THÁNHTHỂ-169
Hôm nay Giáo Hội mừng kính lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Thánh lễ này nhắc nhở cho ta: Chúa Kitô đã và đang trao ban chính Mình Máu Ngài làm lương thực để ban sự sống cho ta, để tiếp nhận ta vào sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Tin Mừng hôm nay thuật lại phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều. Phép lạ này không phải từ “không ra có”, nhưng từ năm chiếc bánh và hai con cá là phần đóng góp của con người. Tương tự như vậy, bánh và rượu trở nên Mình Máu Thánh Chúa được hiến dâng trên bàn thờ chính là hoa màu ruộng đất và lao công khó nhọc của con người. Thiên Chúa không muốn làm một mình, nhưng Ngài muốn con người cộng tác với Ngài. Được cộng tác với Ngài chính là hồng ân, là vai trò tuy nhỏ bé nhưng hết sức cao quý được dành riêng cho ta trong mầu nhiệm Thánh Thể.
Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Corintô, thánh Phaolô cho chúng ta một chứng từ cổ xưa về bí tích Thánh Thể mà ngài gọi là bữa ăn của Chúa. Bí tích Thánh Thể là một sáng kiến của Ðức Giêsu trong bữa ăn vào đêm Người bị nộp. Tấm bánh thành Mình Thầy: hãy cầm lấy mà ăn. Chén rượu thành Máu Thầy: hãy cầm lấy mà uống.
Đã bao nhiêu thế kỷ qua đi, có biết bao thánh lễ đã được cử hành trên mặt đất. Thánh lễ nào cũng là một bữa ăn do Chúa thết đãi, và cũng là một nghi thức tưởng nhớ cái chết của Chúa. Không thể tách rời thánh lễ với cái chết của Ðức Giêsu. Mình Thầy sẽ bị nộp, Máu Thầy sẽ đổ ra vì anh em. Rước lễ là rước lấy Ðấng đã chết vì loài người, Mỗi lần dự lễ, chúng ta loan truyền Chúa đã chịu chết va đã sống lại. Rước lễ chẳng phải là rước một thi hài người chết, mà là đón lấy Ðấng đang sống và đang ban phát sự sống.
Dự thánh lễ là tham dự một bữa ăn, là tham dự vào hy tế năm xưa trên Núi Sọ. Chính vì thế ta không nên dự lễ với hai bàn tay trắng. Cần đem theo tấm bánh của mình trong những ngày qua. Chúa Giêsu cần tấm bánh của tôi, để Người biến đổi. Thánh Thần cần tấm bánh của tôi, để Người thánh hoá. Chúa Kitô không từ trời cao ngự xuống tấm bánh. Ðúng hơn, Người nâng tấm bánh lên tới Người, và biến tấm bánh thành lương thực thần linh nuôi tôi. Như thế, tấm bánh mong manh nhỏ bé lại là nơi hội tụ của cả Thiên, Ðịa, Nhân. Vũ trụ, con người và Thiên Chúa gặp nhau, hoà quyện vào nhau. Bí tích Thánh Thể góp phần biến đổi cả vũ trụ loài người. Những gì là tự nhiên, nay được thần hoá, được biến đổi tận căn mà vẫn không đánh mất chính mình. Lễ vật tôi dâng lên Chúa, Chúa trao lại cho tôi. Bánh bởi trời cũng là bánh bởi đất...
Mầu nhiệm Mình Máu Thánh Chúa là Mầu Nhiệm Tình Yêu. Chính vì thế mà Thánh Gio-an đã viết về đêm Người bị trao nộp: "Người đã yêu thương họ đến cùng". Vì yêu thương đến cùng nên Người cũng hiến thân đến cùng. "Này là Mình Thầy, Này là Máu Thầy, các con ăn đi, và hãy làm như thế để tưởng niệm Thầy".
***
Lạy Chúa Giêsu! Có một ngọn đèn dầu gần Nhà Tạm, ngọn đèn đỏ mời con dừng bước chân, và nhắc con về sự hiện diện của Chúa.
Con mong sự hiện diện ấy lan toả khắp nơi, để đâu đâu cũng thấy những ngọn đèn đỏ, nơi xóm nghèo mùa mưa nhớp nháp, nơi lớp học tình thương lúc chiều tà, nơi những trung tâm phục hồi nhân phẩm, nơi bảo sanh viện nâng niu sự sống của trẻ thơ, nơi khách sạn năm sao, nơi quán bia đầu ngõ, nơi các tiệm cho mướn băng video, nơi tình yêu trong trắng của đôi bạn trẻ...
Nhưng lạy Chúa, trước hết, xin cho đời con là một ngọn đèn, ngọn đèn màu đỏ lung linh sáng, mời gọi tha nhân dừng bước, để trầm tư và gặp được Chúa. Amen
Chúng ta biết rằng niềm tin vào Thánh Thể đã khai mào cho nhiều cách hiểu khác nhau về : THÁNHTHỂ-170
Chúng ta biết rằng niềm tin vào Thánh Thể đã khai mào cho nhiều cách hiểu khác nhau về sự hiện diện của Đức Kitô trong bánh và rượu. Các cách hiểu khác nhau này đôi khi đã là nguồn chia rẽ giữa các Giáo Hội. Đó đây, chúng còn là một trong nhiều cản trở mà hướng đại kết phải cố gắng vượt qua. Người ta sẽ thích đọc đoạn văn dưới đây, tuy không có tính cách chính thức, nhưng đã đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong bước hiệp nhất giữa Giáo Hội Công giáo và Anh giáo. Đây là một trích đoạn trong bản tuyên ngôn chung về học thuyết Thánh Thể ban ngày 7-9-1971 do uỷ ban quốc tế Anh giáo-Công giáo La mã.
Sau khi đã nói rằng: “Chúng tôi ao uớc diễn tả trong tài liệu này sự đồng nhất mà chúng tôi đã đạt được”, Uỷ ban nói tiếp:
“Việc hiệp thông với Đức Kitô trong Thánh Thể giả thiết Ngài hiện diện thật sự, được biểu lộ dưới hình thức bánh và rượu. Bánh và rượu này trở nên Mình và Máu Ngài trong mầu nhiệm này. Nhưng sự hiện diện thật sự Mình và Máu Đức Kitô chỉ có thể hiểu được trong bối cảnh công cuộc cứu độ, nhờ đó Ngài tự hiến bản thân Ngài, và cũng nhờ đó Ngài ban cho những kẻ thuộc về Ngài, ơn giao hoà, bình an và sự sống. Một đàng ơn huệ Thánh Thể xuất phát từ Mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô, nhờ đó ý định cứu độ của Thiên Chúa đã được thực hiện cách dứt khoát. Đàng khác mục đích của Thánh Thể là thông ban cho thân thể Ngài là Giáo Hội, sự sống của Đức Kitô chịu đóng đinh và sống lại, đến nỗi các chi thể của Ngài luôn được kết hiệp với Đức Kitô và với nhau một cách trọn vẹn hơn nữa.
Những lời của Đức Giêsu nói trong bữa Tiệc ly: “Hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Ta” không cho phép ta tách biệt ơn huệ sự hiện diện với tác động của bữa ăn bí tích. Các yếu tố không hẳn chỉ là những dấu chỉ đơn thuần: Mình và Máu Đức Kitô hiện diện thực sự đấy và cũng được thực sự trao ban là để khi lãnh nhận chúng, các tín hữu được liên kết trong sự hiệp thông với Đức Kitô, Chúa chúng ta.
Theo quy luật phụng vụ cổ truyền, lời nguyện truyền phép dẫn đến việc tín hữu rước lễ. Nhờ lời nguyện tạ ơn này, 1 lời kinh tin tưởng dâng lên Chúa Cha, bánh và rượu nhờ tác động của Chúa Thánh Thần mà trở nên Mình và Máu Đức Kitô, cho nên khi rước lễ, chúng ta ăn thịt và uống máu Đức Kitô.
Vị Thiên Chúa đến gặp gỡ dân Ngài nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, chính là vị Chúa quang vinh. Trong nghi lễ tạ ơn, chúng ta hưởng trước các niềm vui của thế giới sẽ đến. Nhờ tác động biến đổi của Thần linh Thiên Chúa, bánh rượu của trần thế trở nên man-na bởi trời và rượu mới, bữa tiệc cánh chung cho người mới. Các yếu tố của tạo thành thứ nhất trở nên bảo chứng và của đầu mùa cho trời mới đất mới.
Từ đoạn văn khá cô đọng về mặt đạo lý trên, ta hãy ghi nhớ các điều này:
- Mình và Máu Đức Kitô thật sự hiện diện trong bánh và rượu Thánh Thể. - Việc hiệp lễ Thánh Thể nối kết lại với Đức Kitô và với nhau. - Việc hiệp lễ Thánh Thể ngay từ bây giờ đã hướng chúng ta vào một định mệnh:
Định mệnh liên kết chúng ta với Thiên Chúa. Việc kết hiệp này bắt đầu từ hôm nay sẽ đạt tới mức viên mãn khi thời gian kết thúc.
Một linh mục Mỹ, cha Frank Ramsberger đi viếng đất thánh. Cha muốn khảo cứu, đặc: THÁNHTHỂ-171
Một linh mục Mỹ, cha Frank Ramsberger đi viếng đất thánh. Cha muốn khảo cứu, đặc biệt những nơi Chúa Giêsu đã sống, đã làm việc, đã chịu nạn, chết và sống lại từ cõi chết. Cha làm thân với một cậu trai tên Yosef, người có bộ mặt nâu của một người chăn cừu Ả-rập. Cậu bé giúp lễ cho cha, dạy cha một vài từ ngữ Ả-rập khó.
Khi vị linh mục sắp sửa từ biệt để đến một vùng khác của đất thánh, ngài nói với Yosef: “Có ít con trai và con gái được đặc ân sống trên mảnh đất Đức Giêsu đã sống. Con biết rằng Con Thiên Chúa đã sống như một cậu con trai, một người đàn ông, đã đi đứng trên những con đường này và đã thở bầu không khí này. Cái đó không giúp con yêu Người hơn sao?
Yosef trả lời một câu đầy ý nghĩa: “Cha chẳng cần phải sống ở đây để yêu Chúa, vì bây giờ Chúa ở khắp nơi trên thế giới. Ngày nay mỗi một nơi đều là đất thánh. Bất cứ nơi nào chúng ta ở, chúng ta ở trên đất của Chúa Giêsu.
Có bao giờ bạn nghĩ như vậy không? Pilsen (thay thế bằng tên họ đạo của cha) là một phần đất thánh. Đức Giêsu ở ngay đây, ngay lúc này.
Đây là ý tưởng về ngày lễ Mình Thánh Chúa. Thân thể Đức Kitô. Chúng ta nhắc lại thứ năm tuần thánh. Lúc đầu tiên Người nói những lời này: “Đây là Mình Ta… đây là Máu Ta”. Hôm nay chúng ta mừng lễ, về việc những lời trên được lặp lại trên khắp thế giới mỗi ngày, về việc Đức Giêsu hiện diện trên mọi bàn thờ khắp thế giới. Đức Kitô ở nơi đây. Đây là đất thánh Pilsen (tên họ đạo thành phố) là đất thánh.
Đây là Betlehem. Đức Giêsu sinh ra tại đây trong mỗi Thánh Lễ. Đây là Nazareth. Đức Giêsu lớn lên ở đây trong đời sống chúng ta. Chúa Giêsu làm phép lạ ở đây, phép lạ thiêng liêng: Người chữa chúng ta khỏi phong cùi tội lỗi. Người chừa những người què thiêng liêng để họ có thể bước đi trên đường lối của Người. Người mở mắt cho những ai không thấy được những sự thiêng liêng. Đức Giêsu tha thứ tội lỗi tại nơi đây trong tòa cáo giải.
Quan trọng nhất, ngôi Thánh đường này là “Căn phòng rộng trên lầu” trong Tin Mừng hôm nay, ở đó Đức Giêsu đã nói lời truyền phép đầu tiên. Không có nơi nào Thánh hơn nơi này.
Đây cũng là Cana, Đức Giêsu tham dự đám cưới trong nhà thờ này. Người dự đám tang nơi quê hương Người. Người ở ngay đây, khi chúng ta an táng một người thân yêu. Đây là Đền Thờ Giêrusalem. Đức Giêsu giảng dạy ở đây qua vị linh mục của Người, qua các thầy cô giáo lý, qua cha mẹ của các con em. Chúa Giêsu hiện diện trong làng, trong nhà thờ, ngoài phố, ngoài cánh đồng, trên bờ hồ, trên đỉnh đồi, và ngôi nhà ở đất thánh. Người cũng hiện diện trong nhà của chúng ta.
Hôm nay là ngày của Chúa Cha, trên đất thánh Đức Kitô tôn kính Cha trên trời của Người. Trong phương cách giới hạn của chúng ta, chúng ta hãy tôn kính Cha mình. Bạn hãy nói với cha bạn như Đức Giêsu thường nói với Cha Người rằng: Bạn yêu Người, bạn quý mến những gì Cha bạn làm cho bạn.
Vâng, bạn và tôi thực sự đang sống trên đất thánh, vì Thiên Chúa làm người sống tại nơi đây ở giữa chúng ta: Mình Thánh Chúa Kitô ở với chúng ta.
Dường như có một từ hơi lạ đã được dùng ý liên quan tới Chúa Giêsu. Nhưng khi đọc bài tường: THÁNHTHỂ-172
Dường như có một từ hơi lạ đã được dùng ý liên quan tới Chúa Giêsu. Nhưng khi đọc bài tường thuật tuần lễ cuối cùng của đời Ngài, chúng ta không thể không ngạc nhiên về tài năng sắp xếp công việc của Ngài. Nhiều lần, chúng ta thấy Chúa Giêsu không hề để nước đến chân mới chạy. Trước đó, Ngài thu xếp có sẵn một lừa cho Ngài đi vào thành Giêrusalem. Ở đây chúng ta thấy Ngài thu xếp mọi sự từ trước. Các môn đệ Chúa muốn biết họ sẽ ăn Lễ Vượt Qua ở đâu. Ngài sai họ vào thành Giêrusalem với lời dặn dò hãy tìm một người đang mang vò nước. Đây là một dấu hiệu đã có sắp xếp trước. Mang vò đi lấy nước là việc của đàn bà. Đó là việc chưa hề thấy một người đàn ông nào làm. Một người đàn ông vác vò nước trên vai sẽ là một hình ảnh nổi bật giữa đám đông, chẳng khác gì một người đàn ông đi mưa mà che dù đàn bà. Chúa Giêsu không hề để sự việc đến phút chót mới lo. Từ lâu, Ngài đã thu xếp chỗ họp mặt cuối cùng cho chính Ngài với các môn đệ và mọi việc đều xảy ra đúng như ý muốn.
Các căn nhà lớn của dân Do Thái có những phòng cao, các căn nhà ấy trong như có một chiếc hộp nhỏ xếp chồng trên một chiếc hộp lớn vậy. Chiếc hộp nhỏ hơn đó là phòng cao, có cầu thang bên ngoài để đi lên, nên người ta không cần phải đi qua phòng lớn bên trong nhà. Phòng cao có nhiều công dụng. Nó có thể dùng làm phòng kho, hoặc dùng làm nơi suy gẫm, làm chỗ nghỉ khi nhà có khách. Nhưng đặc biệt nhất đó là nơi để một Rapbi dạy dỗ các môn đệ thân tín. Chúa Giêsu đã làm theo thói quen các Rapbi Do Thái vẫn thường làm.
Chúng ta phải nhớ đến một điểm về cách ghi nhận ngày của dân Do Thái. Theo người Do Thái, thì một ngày mới bắt đầu từ 6 giờ chiều, trước 6 giờ chiều là ngày 13 tháng Nisan, là ngày sửa soạn cho Lễ Vượt Qua. Nhưng ngày 14 tháng Nisan là ngày Lễ Vượt Qua thì bắt đầu từ 6 giờ chiều. Theo cách tính của chúng ta thì ngày thứ sáu của người Do Thái bắt đầu từ 6 giờ chiều ngày thứ năm.
Người Do Thái chuẩn bị những gì để ăn Lễ Vượt Qua:
Nghi lễ đầu tiên là nghi thức tìm men. Trước ngày Lễ Vượt Qua, tất cả các men được loại bỏ ra khỏi nhà. Trong ngày Lễ Vượt Qua đầu tiên tại xứ Ai cập (Xh 12), người ta đã ăn lễ ấy với bánh không men. Bánh không men không giống bánh mì chút nào, nó là một thứ bánh bột luộc. Sở dĩ tại Ai cập họ đã phải ăn như vậy vì làm thế sẽ nhanh hơn một ổ bánh có men, và ngày Lễ Vượt Qua đầu tiên là ngày thoát ra khỏi xứ Ai cập, dân Israel phải ăn hối hả và mọi người đều phải sẵn sàng để ra đi lên đường. Hơn nữa, men còn là biểu tượng của sự thối nát. Men là bột đã ủ cho dậy lên và người Do Thái đồng nhất sự lên men với quá trình thối rữa, hư hoại. Vào ngày trước Lễ Vượt Qua, người chủ nhà thắp một ngọn nến, rồi theo nghi lễ, đi tìm men khắp trong nhà. Trước khi đi tìm, người ấy khấn nguyện rằng: “Đáng chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa, là Vua toàn cõi vũ trụ, Đấng đã lấy các điều răn của Ngài để thánh hoá chúng tôi, và truyền lệnh cho chúng tôi phải cất hết men đi”. Sau khi đã tìm khắp nhà, chủ nhà nói: “Tất cả men tôi có, mà tôi đã tìm thấy hoặc không tìm thấy đều kể như không còn nữa, kể như bụi dưới đất vậy”.
Tiếp theo, vào xế trưa trước buổi chiều Lễ Vượt Qua là dâng sinh tế về Con Chiên Vượt Qua. Mọi người đều đến Đền Thờ. Người dâng lễ phải giết con chiên của mình để dùng nó dâng làm của lễ hy sinh. Dưới mắt người Do Thái, máu là vật thiêng liêng dâng cho Thiên Chúa, bởi vì người Do Thái xem máu ngang hàng với sinh mạng. Việc tin thế là điều tự nhiên, vì nếu một con người hay một con vật bị thương, có máu chảy ra, thì sự sống cũng theo đó mà ra. Cho nên trong Đền Thờ, kẻ đến thờ phượng tự giết con chiên mình đem đến. Giữa những người đến thờ phượng và bàn thờ, có hai hàng dài các thầy tư tế, mỗi người cầm một cái chén vàng hoặc bạc. Khi máu từ cổ họng con chiên chảy ra, máu được hứng vào các chén ấy, chuyền tay nhau cho đến thầy tư tế đứng ở cuối hàng đổ máu ấy lên bàn thờ. Con vật được mổ ra, bộ lòng và mỡ được lấy ra, vì là phần cần thiết cho việc tế lễ, còn xác được trả về cho người dâng lễ. Nếu phần tường thuật của Josephus hoàn toàn đúng, thì có hơn ¼ triệu con chiên đã bị giết, chúng ta khó tưởng tượng nổi quang cảnh tại Đền Thờ cũng như tình trạng bàn thờ đầy máu. Con chiên được đem về nhà và quay. Không thể đem nấu thịt ấy. Không thể để nó chạm vào một vật gì dù là cạnh của chiếc nồi. Nó phải được đâm xuyên qua bằng một khúc cây lựu và quay trên ngọn lửa. Khúc cây được đâm xuyên thẳng từ miệng đến đuôi, con chiên được quay nguyên con, còn cả đầu, giò, đuôi dính vào thân.
Chiếc bàn ăn thấp có dạng như một hình vuông để trống một cạnh. Tất cả khách nằm trên những chiếc ghế dài, chống bằng khuỷu tay trái, dùng tay mặt lấy thức ăn.
Có một số vật cần thiết mà các môn đệ của Chúa phải chuẩn bị sẵn sàng.
1/ Một con chiên để nhắc họ nhớ lại việc gia đình họ được bảo vệ nhờ máu bôi lên trên khung cửa khi thiên sứ của sự chết đi qua khắp xứ Ai cập.
2/ Bánh không men để nhắc họ nhớ thứ bánh mà họ phải ăn vội vã lúc thoát ách nô lệ.
3/ Chén nước muối để nhắc họ nhớ lại nước mắt họ từng đổ ra tại Ai cập và nước của Biển Đỏ mà họ đã vượt qua an toàn lạ lùng.
4/ Một mớ các loại rau đắng, để nhắc họ nhớ về sự cay đắng khi làm nô lệ tại Ai cập.
5/ Một loại bánh dẻo gọi là charosheth là một hỗn hợp các thứ trái táo, chà là, lựu và hạt dẻ, để nhắc họ nhớ về đất sét mà họ dùng làm gạch tại Ai cập. Lẫn lộn trong đó là những sợi quế để nhắc nhở họ về rơm họ đã trộn vào đất sét làm gạch.
6/ Bốn cốc rượu nho. Các cốc đựng loại rượu nho được pha bằng ba phần rượu với hai phần nước lã. Bốn cốc rượu được uống vào bốn giai đoạn khác nhau trong bữa ăn, để nhắc họ về bốn lời hứa trong sách Xuất Hành 6,6-7: “Ta sẽ rút các ngươi khỏi gánh nặng mà người Ai cập đã chất lên vai các ngươi. Ta sẽ giải thoát các ngươi khỏi vòng tôi mọi. Ta sẽ giơ thẳng tay ra, dùng hình phạt nặng mà chuộc các ngươi. Ta sẽ nhận các ngươi làm dân Ta, và Ta sẽ làm Chúa của các ngươi”.
Đó là những gì phải chuẩn bị cho ngày Lễ Vượt Qua. Tất cả các chi tiết đều nhắc nhở về ngày trọng đại, khi Chúa ban ơn giải phóng dân Ngài khỏi cảnh nô lệ tại Ai cập. Chính nhằm ngày lễ đó, Đấng giải thoát thế gian khỏi tội lỗi đã ngồi để dự bữa ăn cuối cùng với các môn đệ Ngài.
BIỂU TƯỢNG CỦA SỰ CỨU RỖI (Mc 14,22-26)
Trước hết, chúng ta cần biết rõ các giai đoạn khác nhau trong ngày Lễ Vượt Qua, để có thể hình dung những gì Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài đang làm ở đây. Mọi việc được diễn tiến theo thứ tự sau đây:
1/ Chén Kiddush. Kiddush có nghĩa là thánh hoá hay phân rẽ. Đây là một hành động mang tính chất tách rời bữa ăn này khỏi tất cả các bữa ăn bình thường khác. Người chủ gia đình nâng chén lên, cầu nguyện, rồi mọi người cùng uống chén đó.
2/ Rửa tay lần thứ nhất. Chỉ có người dâng lễ phải làm việc này mà thôi. Người ấy phải rửa tay ba lần theo cách thức quy định chúng ta nghiên cứu ở chương 7.
3/ Một miếng ngò tây hay rau diếp được đem nhúng vào một chén nước muối rồi ăn. Đây là một món khai vị để ăn cho ngon miệng, nhưng cây rau ngò tiêu biểu cho chùm kinh giới đã được nhúng trong máu rồi bôi lên khung cửa, còn muối tiêu biểu cho nước mắt đã đổ ra tại Ai Cập và nước của Biển Đỏ mà dân Israel đã được đưa ra khỏi đó an toàn.
4/ Bẻ bánh. Khi bẻ bánh có hai câu chúc phúc được đọc lên “Đáng cảm tạ Ngài là Đức Chúa. Thiên Chúa chúng tôi là Vua toàn cõi vũ trụ, nguyện Ngài được tôn vinh trên trái đất” hoặc “Đáng cảm tạ Ngài là Cha chúng tôi ở trên trời, Đấng hàng ngày ban bánh đủ dùng cho chúng tôi”. Trên bàn bánh không men được xếp thành ba vòng. Vòng bánh chính giữa được cầm lên và bẻ ra. Vào lúc đó, người ta chỉ ăn một chút bánh mà thôi. Việc này nhắc nhở cho người Do Thái nhớ lại thứ bánh đau khổ họ từng ăn tại Ai Cập, nhắc họ nhớ những kẻ làm nô lệ chẳng bao giờ được ăn trọn vẹn cả ổ bánh, nhưng chỉ được ăn những mảnh vụn. Lúc bẻ bánh, người chủ gia đình nói “Đây là bánh đau khổ mà tổ tiên ta từng ăn tại Ai Cập, ai đang đói, hãy đến mà ăn. Ai đang túng thiếu hãy đến cùng dự Lễ Vượt Qua với chúng tôi” (Trong cách hành lễ hiện đại tại các nơi xa lạ, lời con người nổi tiếng sau đây đã được thêm vào “Năm nay, chúng ta dự lễ ở đây, năm sau chúng ta sẽ dự lễ trong xứ Israel. Năm nay chúng ta dự lễ với tư cách kẻ nô lệ, năm tới chúng ta sẽ dự lễ với tư cách người tự do”).
5/ Tiếp theo là phần kể lại câu chuyện giải phóng. Người trẻ tuổi nhất hiện diện sẽ hỏi có gì khiến ngày này khác với các ngày khác và tại sao lại giữ lễ này. Và người chủ nhà bắt đầu kể lại cả câu chuyện về lịch sử dân Israel từ ngàn xưa cho đến khi có cuộc giải phóng vĩ đại mà ngày Lễ Vượt Qua không bao giờ trở thành một nghi lễ suông. Nó luôn luôn là một kỷ niệm về quyền năng và lòng nhân từ của Chúa.
6/ Các Thánh vịnh 113, 114 được hát lên. Các Thánh vịnh từ 113-118 vốn được biết đến dưới tên gọi Hallel nghĩa là ca ngợi Thiên Chúa. Tất cả Thánh vịnh ấy đều là những lời ngợi khen. Chúng là một phần của tài liệu xưa nhất mà một cậu bé Do Thái phải học thuộc lòng.
7/ Uống chén thứ hai. Chén này được gọi là haggadah, nghĩa là chén giải nghĩa hay công bố.
8/ Bây giờ thì mọi người đang có mặt đều rửa tay để chuẩn bị dùng bữa.
9/ Một bài cầu nguyện tạ ơn được đọc lên “Hỡi Đức Chúa Thiên Chúa chúng tôi, đáng cảm tạ Ngài vì đã ban hoa quả từ đất. Hỡi Thiên Chúa, đáng chúc tụng Ngài, Đấng đã thánh hoá chúng tôi bằng các điều răn của Ngài, và truyền cho chúng tôi ăn bánh không men”. Sau đó những mẩu bánh nhỏ được phân phát ra.
10/ Một ít rau đắng kẹp giữa hai miếng bánh không men, nhúng vào chén charosheth và ăn. Việc này được gọi là nhúng vào nước. Nó nhắc lại cảnh làm nô lệ và những viên gạch mà họ đã bị bắt buộc phải sản xuất.
11/ Tiếp theo là bữa ăn chính. Cả con chiên được đem ra ăn. Nếu còn dư thừa chút gì thì phải thiêu đi, chứ không được dùng cho một bữa ăn bình thường nào khác.
12/ Lại rửa tay.
13/ Ăn bánh không men còn lại. 14/ Đọc bài cầu nguyện cảm tạ, gồm một lời khấn xin Êlia kịp đến để báo tin về Đấng Mêsia. Rồi mọi người uống chén rượu thứ ba được gọi là chén cảm tạ. Lời chúc phúc lúc nâng chén là “Hỡi Đức Chúa là Thiên Chúa, là Vua toàn cõi vũ trụ, Đấng đã tạo nên trái nho, đáng cảm tạ Ngài”.
15/ Hát bài thứ hai các bài Hallel (Thánh vịnh 115,118).
16/ Hai bài cầu nguyện ngắn như sau được đọc lên “Hỡi Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, mọi công việc Ngài đều ca ngợi Ngài. Tất cả các thánh, các người công chính, những kẻ làm đẹp lòng và toàn thể dân Ngài, cả nhà Israel, bằng bài ca vui mừng, hãy ca ngợi và chúc tụng, tán dương và tôn vinh, tôn cao và cung kính, thánh hoá và ghi tạc danh Ngài vào Nước Ngài. Hỡi Chúa là Vua chúng tôi, thật là tốt đẹp khi ca ngợi, lấy làm thoả vui mà hát ngợi khen danh Ngài, vì từ đời đời cho đến đời đời Ngài là Thiên Chúa.
“Hơi thở của mọi sinh vật sẽ ca tụng danh Ngài là Chúa. hỡi Chúa chúng tôi, mọi vật sẽ mãi mãi tôn vinh và đề cao Ngài. Hỡi Thượng Đế, Vua chúng tôi, vì từ đời đời đến đời đời Ngài là Thượng Đế, ngoài Ngài ra chẳng có Vua, chẳng có Đấng cứu chuộc hay Đấng Cứu Thế nào khác”.
Như thế là Lễ Vượt Qua kết thúc. Nếu buổi lễ mà Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài đã ngồi lại để dự là Lễ Vượt Qua, thì chắc Chúa Giêsu đã dùng mục 13 và 14 để nói về chính Ngài và mục 16 chắc là bài thánh ca mà mọi người cùng hát lên trước khi ra đi đến núi Ôliu.
Bây giờ, chúng ta hãy vào xem Chúa Giêsu đã làm gì và Ngài đã làm cách nào gây ấn tượng trên những người theo Ngài. Hơn một lần chúng ta thấy các ngôn sứ Israel dùng các hành động biểu tượng và những diễn xuất kịch nghệ để truyền đạt sứ điệp khi họ cảm thấy lời nói không chưa đủ. Đó là việc Ahigia đã làm khi ông xé áo choàng của ông ra làm 12 mảnh và trao 10 mảnh cho Giêrôbôam, là dấu hiệu về 10 chi phái trong dân Israel sẽ tôn ông ta lên làm vua (1V 11,29-32). Đó là việc Giêrêmia cũng từng làm khi ông làm xiềng và ách rồi mang chúng như một dấu hiệu về tình trạng nô lệ sắp xảy đến (Gr 28,10-11). Đó là phương cách mà tiên tri Êdêkiên vẫn thường làm (Ed 4,1-8; 5,1-4). Người ta rất dễ quên lời nói, nhưng một hành động như diễn kịch có thể in sâu vào tâm trí họ. Đó là việc Chúa Giêsu đã làm khi Ngài kết hợp hành động như diễn kịch đó với ngày lễ cổ của dân tộc Ngài, để nó càng in sâu hơn vào tâm trí các môn đệ Ngài. Ngài phán “Hãy xem như bánh này đã bị bẻ ra làm sao, thì thân thể ta cũng sẽ vì các người mà bị vỡ nát ra như vậy. Chén đựng chất rượu màu đỏ này bị đổ ra làm sao thì máu ta cũng sẽ vì các ngươi mà đổ ra như vậy”.
Ngài ngụ ý gì khi bảo rằng chén này tiêu biểu cho Giao Ước mới? Từ Giao Ước là một chữ rất thông thường trong tôn giáo Do Thái. Nền tảng của Do Thái giáo là Thiên Chúa đã lập một Giao Ước với dân Israel. Từ này có nghĩa là một sự dàn xếp, trả giá, một hợp đồng hai chiều. Việc thừa nhận Giao Ước cũ được nói rõ trong Xuất hành 24,3-8. Theo đoạn sách đó chúng ta thấy Giao Ước hoàn toàn tuỳ thuộc việc dân Israel tuân giữ luật. Nếu luật bị vi phạm thì Giao Ước cũng bị vi phạm, và mối liên hệ giữa Thiên Chúa với dân Israel sẽ tan rã. Đây là một mối giao hảo hoàn toàn tuỳ thuộc luật và việc tuân giữ luật ấy. Thiên Chúa là vị thẩm phán. Vì không hề có ai giữ trọn luật nên phần khiếm khuyết luôn luôn ở về phía dân chúng. Nhưng Chúa Giêsu phán “Ta phê chuẩn và ban hành một Giao Ước mới, một mối liên hệ, một hợp đồng mới giữa Thiên Chúa với loài người. Nhưng Giao Ước này không lệ thuộc vào luật mà tuỳ thuộc tình yêu. Nói khác đi, Chúa Giêsu muốn bảo rằng “Việc Ta đang làm đây để chứng minh cho các ngươi thấy Thiên Chúa yêu thương các ngươi như thế nào”. Loài người không chỉ đơn giản ở dưới luật của Thiên Chúa. Vì điều Chúa Giêsu đã thực hiện, họ mãi mãi ở trong tình yêu của Thiên Chúa. Đó chính là yếu tính của những gì Tiệc Thánh nói lên với chúng ta.
Có thể ghi nhận thêm một điểm nữa. Trong câu cuối cùng, một lần nữa chúng ta lại thấy hai điều thường thấy: Chúa Giêsu biết Ngài sắp phải chịu chết và Ngài đã biết Nước Ngài sắp đến. Ngài chắc chắn về thập giá, và cũng chắc chắn không kém về vinh quang. Lý do khiến Ngài biết chắc cả hai như vậy vì Ngài biết cách chắc chắn về tình yêu của Thiên Chúa cũng như biết chắc về tội lỗi của loài người. Và Ngài biết cuối cùng thì tình yêu sẽ chinh phục tội nhân.
Trình thuật này làm độc giả ngạc nhiên bởi vì được mô tả khá chính xác. Trước hết nó cho biết: THÁNHTHỂ-173
Trình thuật này làm độc giả ngạc nhiên bởi vì được mô tả khá chính xác. Trước hết nó cho biết thời gian và ý nghĩa của bữa ăn tiệc ly Chúa Giêsu dùng chung với các môn đệ. Về thời gian, Maccô cũng như Matthêu (26,17-19) và Luca (22,7-13) cho rằng bữa tiệc của Chúa Giêsu xảy ra trùng hợp với bữa tiệc Vượt Qua của người Do Thái, được tổ chức vào đêm trước lễ Vượt Qua (c.12a), và Chúa Giêsu cũng rất ít có được khả năng ăn mừng lễ Vượt Qua Do Thái. Bởi vì hôm sau, ngay chính lễ Vượt Qua, Ngài sẽ chết. Nhưng theo luật tòa án hồi bấy giờ, người ta không thể kêu án và xử án bất kỳ ai một khi lễ Vượt Qua đã bắt đầu. Về phương diện lịch sử, trình tự thời gian mà Gioan ghi lại có vẻ hợp lý hơn. Năm ấy, lễ Vượt Qua Do Thái xảy ra vào ngày thứ Bảy, ngày Sabbat (Ga 19,31). Chúa Giêsu bị đóng đinh vào trước hôm đó, ngày thứ sáu, vào giờ mà người ta cắt tiết chiên để ăn mừng lễ (Ga 18-28). Như thế, Chúa Giêsu dùng bữa tiệc ly cùng với các môn đệ vào ngày thứ Năm. Sự xê xích thời gian này rất quan trọng. Dù sao đi nữa, chính vì lễ đã quá gần nên mới có bữa tiệc này, và người ta nhận ra ngay là cả ba Tin Mừng nhất lãm đều biến bữa tiệc này thành tiệc Vượt Qua. Sự chết và sống lại của Chúa Giêsu gắn liền với “lễ Vượt Qua mới”: việc giải thoát khỏi ách sự Ác và sự Chết-Phaolô là người đầu tiên có thể nói lên: “Đức Kitô, Chiên Vượt Qua của ta, đã bị sát tế. Ta hãy mừng lễ, đừng với men cũ… nhưng với bánh không men của lòng tinh tuyền và chân thật” (1Cr 5,7-8)..
Bản tường thuật tiếp tục với một văn phong gần như kiểu chuyện “thần kỳ”. Các môn đệ hỏi Ngài về địa điểm dọn tiệc, Chúa Giêsu trả lời khá kỳ cục (c.13-15). Có hai điểm nổi bật trong đoạn này. Điểm thứ nhất là các môn đệ sẽ gặp một người đội vò nước. Lẽ thường thì chỉ có phụ nữ mới đi lấy nước. Như vậy, Chúa Giêsu đã mặc cho đặc điểm kỳ lạ này một dấu chỉ trù định trước. Điều kỳ cục thứ hai, đó là việc tìm được một căn phòng “đã sắp sẵn” cho bữa tiệc. Hình như Thiên Chúa đã quan phòng hết mọi sự, và Chúa Giêsu được coi như là một tiên tri biết hết mọi chuyện sẽ xảy ra, biết từng chi tiết một. Làm sao giải thích điều này? Hầu chắc là Maccô đã được linh hứng khi viết những trang này, theo kiểu viết Kinh Thánh thông thường hồi đó. Trong sách Samuel thứ I, tiên tri Samuel đã thấy trước được những lần gặp gỡ (theo thánh ý Chúa) và chàng trai trẻ Saul. Những cuộc gặp gỡ này phải chứng tỏ được rằng Thiên Chúa đã chọn chàng trai trẻ này để làm vua Israel (1S 10,1-10). Cũng tương tự như thế, cuộc gặp gỡ được báo trước hai môn đệ với người đàn ông đội vò nước sẽ là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đã quyết chọn Chúa Giêsu làm Vua - Mêsia. Đoạn này còn được xác quyết chắc chắn bằng một đoạn khác của Maccô: đoạn kể về việc Chúa Giêsu vào Giêrusalem (11,1-11). Ở đó, Chúa Giêsu cũng phái hai môn đệ đi trước để tìm gặp con lừa con. Biến cố này rõ rệt là mang tính chất Mêsia và lần nào thì sự việc cũng xảy ra y như những lời dặn dò trước cả. Mọi sự đều diễn ra phù hợp với nhận định tiên tri của Thầy (c.16).
Ta kết thúc đoạn này bằng cách lưu tâm đến việc lặp lại tới hai lần tính từ “Vượt Qua” (c.12b và 12d) và danh từ “vượt qua” (c. 14,16) là nhằm mục đích kêu mời độc giả chú trọng đến ý nghĩa tối hậu của bữa tiệc Chúa Giêsu sắp tham dự. Nó là dịp lễ mừng nhắc nhở lại việc ra khỏi Ai Cập, đồng thời chính là dịp loan báo sự chết và sống lại của Đấng Mêsia cứu thế.
THIẾT LẬP BÍ TÍCH THÁNH THỂ (14,22-26)
Có lẽ ai cũng muốn biết tường tận những việc xảy ra trong bữa tiệc ly của Chúa Giêsu với các môn đệ. Nhưng thay vì tả lại dài dòng và đầy đủ chi tiết, Maccô cũng như Matthêu (26,26-29) và Luca (22,19-20) – đã kể lại vắn tắt và rất giản lược. Tựa như thế đó chỉ là một văn bản phụng vụ đã có sẵn. Ông chỉ dùng rất ít từ cô đọng để nêu lên ý nghĩa của các cử chỉ và lời nói của Chúa Giêsu trong bữa tiệc Thánh đó.
Chúa Giêsu đã làm một cử điệu mang tính nghi thức rất quen thuộc đối với người Do Thái khi họ cử hành bữa tiệc mừng lễ (c.22). Như người cha trong gia đình chủ tọa bữa ăn, Ngài cầm lấy bánh và chúc tụng Thiên Chúa về những ơn phúc Người đã ban cho. Lời kinh “tán tụng” của người Do Thái không phải là một lời cầu chiếu lệ, trái lại rất trang trọng bởi vì qua đó dân Israel dâng lên Thiên Chúa lời cảm tạ Ngài đã giải thoát họ. Trong kinh Haggada mừng lễ Vượt Qua (nghi thức ăn mừng đại lễ Vượt Qua), người ta cũng đọc thấy “Ta mắc nợ này: là phải cảm tạ, ngợi khen (…) chúc tụng Đấng đã ban cho cha ông chúng ta và cả cho chúng ta hằng hà dấu chỉ. Ngài đã kéo ta ra khỏi ách nô lệ đến nơi tự do, từ cõi u sầu đến miền hoan lạc, từ chốn tan tác vào nơi vui vẻ, từ tối tăm ra ánh sáng và từ chỗ bị áp bức tới nơi giải phóng. Và trước nhan Ngài ta hãy hát lên bài ca mới Alleluia”. Sau khi đã hát xong lời nguyện, Chúa Giêsu bẻ bánh. Ngài phát cho các vị đồng bàn mỗi người một miếng và vừa phân phát, Ngài vừa nói: “Hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy”. Trong tiếng Arain, ngôn ngữ Chúa Giêsu dùng, tiếng “Mình” không phải chỉ nói riêng đến phần thân xác, mà là đến toàn bộ “con người” như thế Chúa Giêsu không chỉ ban phát thân xác của Ngài làm của ăn cho chúng ta – như kiểu giải thích duy vật của Tây phương. Ngài loan báo rằng toàn bộ thân mình của Ngài sẽ được giải thoát khỏi sự chết và ta sẽ được thông phần vào việc giải thoát ấy.
Ý nghĩa của món quà tặng này còn được Ngài làm rõ hơn ngay sau đó, qua cử chỉ và lời nói của Ngài khi cầm lấy chén. Ngài trịnh trọng tuyên bố: “Đây là Máu Thầy, máu để lập giao ước, đổ ra cho nhiều người” (c.23-24). Mọi lời nói ở đây đều cô đọng lạ thường. Chúa Giêsu cầm lấy chén rượu nho lên, rồi chúc tụng “tạ ơn” Thiên Chúa một lần nữa. Chính từ ngữ Hy Lạp này đã phát sinh ra từ “cucharistic” (hành động tạ ơn) trong tiếng Pháp, rồi từ đó người ta dùng để chỉ về toàn bộ các nghi thức liên quan đến việc này. Khi đọc bản tường thuật trên đây, ta nên lưu ý đến sự kiện khó hiểu này, các tông đồ đã uống trước khi Chúa Giêsu loan báo ý nghĩa và làm phép. Những tiếng “Máu của Thầy” trong ngôn ngữ Do Thái có nghĩa là “cuộc đời Thầy” (Lv 17,14). Khi uống rượu đã được thánh hiến, các môn đệ không phải là đã uống Máu Người. Họ đâu có phải là những kẻ ăn thịt người. Họ thông phần với con người Đức Kitô, Đấng đã hiến dâng mạng sống mình trên thập giá (1Cr 11,17 - 34). Những lời Chúa Giêsu nói tiếp theo sau đó đã giải thích rất minh bạch ý nghĩa cái chết của Ngài. Máu Ngài đổ ra sẽ là “máu của giao ước”. Thuở xưa trên núi Sinai, Thiên Chúa đã kết ước với dân Israel, dân được tuyển chọn. Sau khi đọc lề luật của Thiên Chúa cho dân Israel nghe xong, Môsê đã ghi dấu giao ước đầu tiên này bằng máu của những bò tơ (Xh 24,3-8). Lúc này, qua cái chết của mình, Chúa Giêsu sẽ thiết lập điều mà Phaolô (1Cr 11,25) và Luca (22,20) gọi rất chính xác là giao ước “mới” giữa Thiên Chúa và toàn thể loài người. Thực vậy, Chúa Giêsu hiến mình chịu chết đã đem lại một ý nghĩa “cứu độ” và phổ quát. Máu Ngài “đổ ra cho nhiều người”. “Nhiều người” là một lối nói trong tiếng Do Thái để chỉ về toàn thể loài người và lối nói này đã ám chỉ chắc chắn đến người tôi tớ đau khổ sắp lãnh nhận cái chết để hòa giải các dân thiên hạ với Thiên Chúa như các tiên tri đã loan báo trước đó (Is 53,12).
Như thế, Chúa Giêsu đã nâng sự chết Ngài sắp phải chịu lên một tầm mức cứu độ phổ quát. Ngài hiến thân xác và mạng sống của mình để cứu chuộc thế giới. Rồi khi kết thúc bữa ăn, Thầy đã mở ra một viễn cảnh hạnh phúc (c.25). Ở đây, Chúa Giêsu loan báo Ngài sẽ chiến thắng sự chết. Ngài hứa hẹn Nước Chúa sẽ đến qua hình ảnh một bữa tiệc, ở đó rồi ra mọi người sẽ được ăn no uống đủ. Ở đó, “rượu mới” sẽ tuôn tràn cho mọi người, một khi sự chết đã bị tiêu diệt (chướng ngại vật tối hậu!) thì hết thảy mọi dân nước trên địa cầu này sẽ thông phần với Thiên Chúa hằng sống (Is 25,6-9).
Các cộng đoàn Kitô hữu đều có sử dụng đến các câu trích dẫn từ bản tường thuật trên. Maccô đã cho ta thấy rằng Chúa Giêsu đã thiết lập phép Thánh Thể. Đối với các Kitô hữu, bữa tiệc này đã được lập lại để “tưởng nhớ” sự chết và sự sống lại của Đấng Cứu Độ. Khi cùng nhau “bẻ bánh” và “uống rượu chúc tụng”, người Kitô hữu ý thức được họ phải loan truyền cho anh em biết đến các biến cố cứu độ này. Họ biết rằng bí tích này phải thực thi sống động mầu nhiệm Chúa Kitô đã chết và đã sống lại. Cũng như các anh em Do Thái cử hành lễ Vượt Qua thế nào, thì các môn đệ Chúa Giêsu cũng lập lại những lời nói, nghi lễ này thế ấy, đó là “từ thời nay tớ thời khác, khi con người ra khỏi đất Ai Cập, họ đã mắc nợ. Ta hãy chúc tụng Thiên Chúa chí thánh, Đấng không chỉ giải thoát cha ông chúng ta mà cả chúng ta nữa. Trong Ngài, chúng ta được cứu thoát!.
Bữa tiệc ly Chúa Giêsu dùng với nhóm Mười Hai kết thúc như mọi bữa tiệc khác của người Do Thái (c.25). Người ta hát phần thứ hai bài ca “Hallel”, trích từ Thánh Vịnh 115-118. Khi kết thúc bài ca tán tụng này, người ta hát “Alleluia”: “Hãy ca tụng Thiên Chúa”. Rồi Chúa Giêsu cùng các môn đệ lên núi Cây Dầu. Đó là cách thầy trò dễ dàng tìm được nơi nương náu an toàn, tránh được các đe dọa đang rình rập họ ở trong thành.
Hôm ấy nhằm ngày thứ nhất trong tuần bánh không men là ngày giết chiên mừng lễ Vượt qua,: THÁNHTHỂ-174
Hôm ấy nhằm ngày thứ nhất trong tuần bánh không men là ngày giết chiên mừng lễ Vượt qua, các môn đệ thưa với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?”.
Đức Giêsu đã bị “hành quyết” vào một ngày thứ sáu, rất có thể năm ba mươi hay ba muơi ba, vào lúc những con chiên được giết để mừng lễ Vượt qua trong khuôn viên đền Thánh (Ga 19,14).
Nhưng người ta không biết rõ Chúa Giêsu đã theo lịch nào để dùng bữa ăn cuối cùng của Người. Điều chắc chắn là Người đã mặc cho bữa ăn này một đặc tính “vượt qua”.
Lễ Vượt Qua là một lễ lớn của người Do Thái: Người ta ăn mừng cuộc “giải phóng”. Trong một bữa ăn cổ truyền được tổ chức tại nhà, trong gia đình, người cha phải giáo huấn con cái mình nhớ lại việc tổ tiên của họ đã được giải thoát khỏi ách nô lệ như thế nào. Vì thế, dân Do Thái luôn ý thức mình là một dân tộc “nguyên là nô lệ” nhưng bấy giờ được “tự do! Chúa đã can thiệp, ủng hộ sự nổi lên của họ chống lại kẻ áp bức, giúp họ ra khỏi đất Ai Cập, để vào miền đất hứa.
Mỗi năm tại Nagiarét, Đức Giêsu cùng với Thánh Giuse và Đức Maria, đã cử hành bữa tiệc mừng lễ này. Người đã thuộc lòng mọi diễn tiến theo nghi thức trong bữa ăn: Bánh miến, rượu nho, thịt chiên, rau đắng, kinh nguyện, thánh vịnh. Nhưng tối hôm đó, Người sẽ cho bữa ăn cổ truyền này một nội dung mới! Hôm nay chính người là đấng giải phóng!
Đó là lễ vượt qua! Công cuộc giải phóng! Một bữa tiệc mừng, một bữa ăn giải thoát dân khỏi ách nô lệ .
Chúng ta quá coi thường điều đó! Các Thánh lễ của chúng ta có nguy cơ bị nhạt nhẽo và nhàm chán lặp đi lặp lại biết bao Thánh lễ xem ra có phần bi thảm! Điều quan trọng là trước hết chúng ta phải lo lắng “cử hành những buổi lễ” và “tôn trọng các nghi thức”! Chúng ta có hay quên rằng mình luôn luôn cần phải được “giải phóng” và “cứu rỗi không”. Thưa quý ông bà, vâng quý ông bà vẫn còn là những “nô lệ”. Quý vị hãy xét kỹ lại cuộc đời của mình và hãy tỏ ra sáng suốt. Hãy ý thức tất cả những gì đang xiềng xích quý vị, lúc bấy giờ quý vị sẽ xin Đức Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy muốn chúng con dọn bữa ăn lễ vượt qua cho Thầy, bữa ăn giải phóng ở đâu?”. Vâng xin Chúa giải phóng chúng con thoát khỏi tội lỗi và sự chết.
Người liền sai hai môn đệ đi mà dặn họ: “Các anh đi vào thành, rồi sẽ gặp một người mang vò nước, cứ đi theo người đó.”
Bầu khí lúc bấy giờ trở nên nặng nề. Đức Giêsu là một người bị săn đuổi. Những lãnh tụ Do Thái đã quyết định giết hại người. Vì thế Đức Giêsu làm như ra tín hiệu cách kín đáo. Ngừơi có bạn hữu, nhưng phải liên hệ cách vụng trộm. Người đã chuẩn bị tất cả – tôi hình dung ra hai môn đệ đang đi theo người mang vò nước – cái chết của đức Giêsu, việc Người rời khỏi thế giới này, phải chăng đối với chính người trước tiên, là một việc vượt qua, một cuộc giải thoát. Đó là “Lễ vượt qua của Chúa”: người sẽ được giải thoát.
Người đó vào nhà nào, các anh đi theo và thưa với chủ: “Thầy hỏi ông dành cho Thầy phòng nào để ăn lễ vượt qua với các môn đệ?”. Ông ấy sẽ chỉ cho các anh một phòng rộng rãi trên lầu, sẵn sàng đầy đủ tiện nghi. Các anh dọn tiệc cho chúng ta ở đó.
Đức Giêsu đã tiên liệu tất cả. Người cảm thấy tầm quan trọng. Chính Người là chủ mời. Dó là “bữa ăn của Người”. Lát nữa, chính Người sẽ là chủ toạ. Những môn đệ là “khách được mời”.
Người dùng quyền sắp đặt và chuẩn bị. Chúng ta ngạc nhiên vì sự quan trọng của chi tiết này. Đúng vậy, ngày nay, bất cứ một buổi lễ nào cũng phải được chuẩn bị. Chúng ta hằng nghĩ đến những buổi lễ tại làng thôn hay trong khu xóm, những bữa ăn mừng rước lễ lần đầu, lễ đính hôn hay kết hôn. Chúng ta rất muốn buổi lễ được thành công, và như thế chúng ta phải rất cực nhọc.
Còn những Thánh lễ của chúng ta thì sao? Chúng ta có chuẩn bị tử tế không? Biết bao Thánh lễ đã được cử hành cách vội vã, đọc cho qua lần, cử hành cho mau xong. Như Đức Giêsu chúng ta cần quyết định biến các Thánh lễ của chúng ta thành buổi lễ thực sự, cần dành thời giờ để “chuẩn bị", và trước hết phải đến đúng giờ và nếu cần, hãy lập lại những bài Thánh ca trước khi cử hành Thánh Thể, như phần cốt yếu của buổi lễ. Đức Giêsu, tối hôm ấy đã chuẩn bị tất cả để cho buổi lễ được tốt đẹp và trang trọng.
Hai môn đệ ra đi - Vào đến thành các ông thấy mọi sự y như người đã nói, và các ông dọn tiệc vượt qua.
Thánh Máccô nhấn mạnh về điểm này. Ngài muốn đề cao uỷ quyền và vẻ nghiêm trọng của Đức Giêsu. Người đã tiên liệu tất cả, Người đã quyết định tất cả. Người là "Chúa”, không ai chối cãi được. Đức Giêsu biết rằng đó là buổi hội họp cuối cùng của Người với các bạn hữu, "giờ" đã nghiêm trọng rồi: Thánh Gioan sẽ nói là "giờ" của Người". Việc gì đã xảy ra? Chúng ta được đưa vào một hồi kịch quan trọng, biến cố sắp xảy ra... sẽ thay đổi lịch sử của hành tinh, của nhân loại. Cái chết và sự Phục sinh của Đức Giêsu là sự giải phóng thế gian tội lỗi.
Khi tôi đi dự lễ Chúa Nhật, tư tưởng của tôi như thế nào? Tôi chuẩn bị tâm hồn ra sao? Đó có phải là một “biến cố" trong tuần sống của tôi không? Tất cả có hội tụ và hướng về đó không? Hay đó chỉ là một thời gian nhỏ bị "đánh cắp" cách lén lút trong những công việc quan trọng khác của tôi? Một thứ "dấu ngoặc"? Đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy tấm bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra trao cho các môn đệ
Chúng ta có 4 trình thuật về cảnh này. Thánh Maccô, Thánh Luca, Thánh Matthêu và Thánh Phaolô (I Cr 11, 23-25). Bốn trình thuật này đều như nhau về điểm cốt yếu, nhưng trình bày cho chúng ta những công thức khác nhau trước những "lời" Chúa phán. Đức Giêsu đã không quá câu nệ là nghi lễ, và cả Giáo Hội tiên khởi cũng thế. Điều quan trọng là phải lưu ý sự kiện hiển nhiên này để giải thoát chúng ta khỏi một quan niệm, “duy vật" về các bí tích, cứ như là Người dính liền với những từ ngữ, theo kiểu phù thủy - Thực ra người ta không biết rõ "từng chữ" Đức Giêsu đã nói tối hôm đó như thế nào - Bốn trình thuật không phải là những phóng sự, mà là những bản văn phụng vụ khác nhau. Đã được dùng trong những cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên. Người ta có thể đoan chắc rằng những cộng đoàn đó, vì gần với biến cố vừa qua, đã tôn trọng ý định và cả những công thức của Đức Giêsu.
Trước tiên chúng ta cần tưởng tượng những "cử chỉ" của Đức Giêsu. Người "cầm lấy" bánh? Tôi thấy tay Người đưa ra với lấy chiếc bánh trên bàn. Tôi nhìn tay của Người, cầm chiếc bánh không men, "một thứ bánh của người nghèo mạt", vì tại Ai Cập, tổ tiên chúng ta đã không có thì giờ để cho lèn men. Người "đọc lời chúc tụng" đó là lời tạ ơn. Về chén rượu Thánh Máccô dùng chữ "Eueharitèsas" có nghĩa là "đang khi tạ ơn", do đó có từ Thánh Thể. Tôi lắng nghe Đức Giêsu cầu nguyện, nói lời "tạ ơn" Chúa Cha, trong thái độ vui mừng. Tôi ngắm nhìn dung nhan Đức Giêsu, khi Người nói chuyện với Chúa Cha. Chúng ta có thể quên được Thánh lễ là một lễ Tạ ơn sao?
Người "bẻ bánh", cử chỉ này không phải là mới lạ. Người cha trong gia đình cũng làm cử chỉ này để phân phát phần cho mỗi người, nhưng cử chỉ tượng trưng này rất đẹp: Mọi người đều ăn cùng một tấm bánh. Điều này nhấn mạnh việc "đồng bàn mà sẽ thành một ý lực trong những cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Thánh lễ là một thách thức muốn bứng tận gốc rễ những khuynh hướng vị kỷ của chúng ta. Nếu ta vẫn giữ những bức tường ngăn cách mà Đức Giêsu đã phá đổ, thì chúng ta đã nhạo báng Mình thánh Chúa vậy (Pr 2,14). Tôi nhìn Đức Giêsu bẻ bánh. Họ đã nhận ra Người qua cách bẻ bánh" Người "trao" bánh này. Khi tôi rước lễ, tôi có ý thức được rằng chính Đức Giêsu đưa miếng bánh cho tôi không? Đó là cử chỉ thánh thiêng và đầy ý nghĩa huyền bí. Lạy Chúa, đây là tay chúng con đưa ra để đón Chúa!
Và Người nói: "Anh em hãy cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy".
Sau nhiều thế kỷ, tranh cãi, mà trong thời gian đó từ trên đã được giải thích theo nhiều cách khác nhau, nhiều cộng đoàn họp lại thành Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội năm 1974, đã đồng ý về bản văn chung sau đây: "Bữa ăn bánh miến và rượu nho này là một bí tích, dấu chỉ hữu hiệu và quả quyết sự hiện diện của chính Đức Kitô, Người đã hy sinh mạng sống mình cho tất cả loài người và đã tự hiến thân mình làm bánh hằng sống. Vì lẽ đó, bữa tiệc Thánh Thể là Bí tích Mình và Máu Thánh của Đức Kitô. Bí tích của sự hiện diện thực sự của Người. Chính Thánh Thần trong Thánh Thể cho Đức Kitô thực sự và hiến thân trong bánh và rượu. Khi đọc lời truyền phép. Dĩ nhiên chúng ta luôn đứng trước một mầu nhiệm. Thánh Thomas Aquino, nhà thần học vĩ đại về Bí tích Thánh Thể ở thời Trung cổ đã viết: "Sự hiện diện thực sự" này không có nghĩa là giới hạn Đức Kitô ở trong bánh và rượu mà thôi hay gây ra một sự biến đổi vật lý hóa học nào của những chất này. Tất cả những vẻ bên ngoài vẫn không thay đổi (Tổng luận thần học cuốn III 76/3-5. 77/5-8).
Con người thời nay cần phải lặp lại những chân lý cổ truyền này. Thánh lễ về "Lễ Mừng kính Thiên Chúa" đã được Thánh Thomas Aquino soạn ở Orvieto vào năm 1264. Cùng với toàn thể Giáo Hội tiên khởi, Thánh Thomas “đã tin” nhưng không theo một cách đơn giản. Thánh Phaolô phải chăng là người đầu tiên đã nói rằng, cần phải có đức tin mới "nhận thấy được Mình và Máu Thánh Chúa sao?" (1 Cr 11,23-29).
Vâng, lạy Chúa, chúng con xin tin!
Người lại cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các môn đệ và tất cả đều uống. Người bảo họ: "Đây là Máu Thầy, Máu để lập Giao ước đổ ra vì muôn người”.
Đó là bản dịch chính xác đoạn văn Hy Lạp của Thánh Maccô. Đức Giêsu biết người sắp chết, và chết cách nào. Người thế chỗ cho con chiên vượt qua (mà người ta không nói đến tí nào trong bữa ăn vượt qua này, trong khi món này là chính trong nghi lễ Israel). Ở đây Đức Giêsu làm cho ta nhớ đến người tôi tớ của Đức Giavê (đã hy sinh mạng sống của mình cho muôn dân) (Is 53,11). Đó là một "Giao ước". Thiên Chúa trở nên một thực tại duy nhất với nhân loại, một người trong "đồng minh". Và điều này đã được định nghĩa với những gì là mật thiết và sống động nhất trong chúng ta; "Máu”.
Thầy bảo thật anh em: "Chẳng bao giờ Thầy còn uống rượu nho này nữa cho đến ngày được uống thứ rượu mới trong nước Thiên Chúa". Hát Thánh Vịnh xong, Đức Giêsu và các môn đệ đi lên núi Ôliu.
Các câu từ 12 đến 16, làm thành phần thứ nhất của bài Tin Mừng hôm nay, tập trung vào: THÁNHTHỂ-175
Các câu từ 12 đến 16, làm thành phần thứ nhất của bài Tin Mừng hôm nay, tập trung vào việc chuẩn bị lễ Vượt Qua của Đức Giêsu, lễ Vượt Qua "của Người”. Những miêu tả rất chi tiết không phải để thoả mãn óc hiếu kỳ của ta, nhưng để dẫn ta vào ý nghĩa sâu xa của những biến cố sắp diễn ra.
-Cũng như Matthêu và Luca, Máccô biến bữa ăn cuối cùng của Đức Giêsu với các môn đệ thành một bữa tiệc Vượt Qua, bữa tiệc Vượt Qua "của Người”. "Ngày thứ nhất trong tuần lễ bánh không men, lúc người ta sát tế chiên vượt qua, các môn đệ Đức Giêsu hỏi người: Thầy muốn chúng con dọn lễ Vượt Qua của Thầy ở đâu?”.
Chắc chắn lối ghi chép tuần tự theo dòng thời gian của Gioan đúng hơn (xem chương trình "Corpus Christi" phát hình trên kênh "Arte" suốt Tuần Thánh 1997), nhưng dù sao, tác giả Tin Mừng muốn độc giả chú ý đến ý nghĩa của bữa ăn cuối cùng của Đức Giêsu: bữa ăn Vượt Qua của người Do Thái, tưởng niệm biến cố lập quốc của dân Israel, phát triển thành một lễ Vượt Qua mới, cái chết, sự sống lại của Đức Giêsu, từ đó phát sinh một dân tộc mới. Trong bài tường thuật về bửa tiệc của Đức Giêsu với các môn đệ, không thấy có chỗ nào nhắc đến con chiên Vượt Qua, vì theo đức tin Kitô hữu, như thánh Phaolô đã viết: "Đức Kitô là chiên Vượt Qua đã bị sát tế" (1 Cor 5, 7).
Nếu bài Tin Mừng mở đầu bàng cuộc vận động của các môn đệ, đoạn kế tiếp lại nhấn mạnh đến sáng kiến của Đức Giêsu. Cũng như ngày người long trọng vào thành Giêrusalem như Đấng Cứu Thế, Người đã sai hai môn đệ dắt về một con lừa non (Mc 11,1-6), Đức Giêsu cử hai môn đệ đi chuẩn bị lễ Vượt Qua:
+ Không những Người đã thấy trước "căn phòng”.
+ Mà Người còn đưa ra một dấu hiệu để nhận ra ông chủ nhà: "một người đàn ông mang vòi nước”, cử chỉ rất khác lạ ở miền Trung Đông nơi phụ nữ phải làm công việc múc nước.
+ Thậm chí cả đến một mật hiệu: "Thầy chúng tôi hỏi ông: Căn phòng Thầy ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu?”.
Cũng như trong đoạn trước, Đức Giêsu "hành xử như một tiên tri, có khả năng biết những sự việc ẩn giấu”. (M.E.Boismard, trong "Đức Giêsu, một người Nagiarét, Cerf, 1 996, trang 150).
2. Bữa tiệc Vượt Qua mới cho một dân tộc mới.
Bỏ qua các câu 17-21 loan báo việc Giuđa phân bội, bản văn dùng trong lễ hôm nay kể ngay đến việc lập phép Thánh Thể. J. Hervieux nói trước: ‘truyện kể vắn tắt, sắp xếp gọn gàng’. Hiển nhiên đó là một băn văn phụng vụ đã thành hình. Trong những từ ngữ ít ỏi, rất cô đọng, bản văn chỉ nhắm làm sáng lên ý nghĩa của các động tác và các lời nói của Đức Giêsu trong Bữa Dạ Tiệc (Cena tiếng Latinh có nghĩa là ‘bữa ăn tối’) (Tin Mừng Máccô, Centurion, 1991, trang 208).
- Trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ, Đức Giêsu đã lặp lại hai cử chỉ theo nghi thức nơi người Do Thái để mở đầu và kết thúc bữa tiệc: "chúc phúc" trên bánh mì; "chúc phúc" trên rượu.
+ Đầu bữa ăn, vị chủ toạ cầm bánh dâng lời chúc tụng Thiên Chúa: Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, chúc tụng Chúa, Vua vũ trụ, Chúa đã tạo ra bánh từ ruộng đất! Rồi ông bẻ bánh, chia cho mỗi người đồng bàn một miếng; khi ăn bánh, mọi người đều nhận biết đó là một quà tặng của Thiên Chúa.
+ Cuối bữa ăn, người ta mang tới cho vị chủ toạ một ly rượu có pha nước. Ông cầm ly rượu trong tay, nâng lên, rồi, trong một lời đối thoại theo nghi thức, ông mời gọi các khách tham dự cũng tạ ơn Chúa: "Nào ta hãy tạ ơn Chúa, Người đã nuôi dưỡng ta no thoả! Mọi người đáp lời: "Chúc tụng Đấng đã dùng sự phú túc nuôi dưỡng ta và dùng lòng nhân hậu làm cho ta được sống!”. Rồi ông xướng kinh "chúc tụng". Tạ ơn vì sự sáng tạo, vì giao ước và vì quà tặng Đất hứa, đồng thời cầu nguyện cho hiện tại và tương lai của Giêrusalem. Sau đó ông chuyển ly rượu cho mọi người tham dự.
+ Khi làm lại những cử chỉ nghi thức của dân Người: chiều hôm ấy Đức Giêsu đã ban cho những cử chỉ ấy một ý nghĩa tuyệt đối mới mẻ, đặt chúng trong tương quan với mầu nhiệm phục sinh của Người.
+ "Này là Mình Ta” Người nói khi trao bánh đã bẻ ra cho các môn đệ. Như thế, Người xác định, theo nhân chứng học Do Thái, không có tách biệt giữa xác và 'hồn, nhưng toàn bộ con người của Người: Này là chính Ta (tự hiến). Phải hiểu như thế.
M. Autané bình luận: “Đối với một người Do Thái như Đức Giêsu, chẳng có phân biệt giữa "nhục thể” (sarx) và "xác thân" (sôma) như đối với người Hy Lạp. Xác thân hay nhục thể cũng là trọn vẹn con người. Khi nói: "Này là Mình Ta" Đức Giêsu chỉ có ý nói "Đây là tất cả bản thân, sự sống của tôi”. Như người chủ gia đình, trong bữa ăn Vượt qua, cắt nghĩa rằng bánh không men là "bánh nhục nhằn" (Tl 16,3), Đức Giêsu giải thích bánh của bữa tiệc vượt qua mới bằng cách đồng hoá bánh với chính bản thân Người. Người trao cho các môn đệ không chỉ có bánh để ăn, nhưng là chính bản thân Người" ("Hồ sơ Kinh Thánh" số 14).
+ Cũng vậy, sau khi đã chuyền ly rượu đầy, Người tuyên bố: “này là Máu Thầy, Máu giao ước, đổ ra cho mọi người" (nghĩa là "cho toàn thể nhân loại"), để công bố ý nghĩa của cái chết của Người.
M. Autané nói tiếp: "Máu ‘giao ước’ gợi nhớ đến Xuất Hành 24,3-8, khi Môsê ký giao ước với Thiên Chúa bằng việc rảy máu con vật tế hiến lên bàn thờ rồi trên dân chúng. Giao ước mới ra đời nhờ chính mạng sống của Đức Giêsu, sự sống được tượng trưng bằng máu đổ ra để cứu chuộc số đông nhân loại. Đức Giêsu, khi sắp bị địch thù tuyên án tử, đã để lại cho cộng đoàn của Người Thánh Thể như một lễ vượt qua mới. Như thế, trong bữa ăn này, các môn đệ vừa cảm nghiệm được sự giải phóng - không phải giải phóng khỏi tay người Ai Cập, nhưng khỏi những lực lượng sự chết- và nếm trước bữa tiệc trong Nước Thiên Chúa, khi thời gian chấm dứt.
Ta chẳng bao giờ biết được lời lẽ chính xác của Đức Giêsu trong bữa Tiệc Ly. Nhưng ta biết chắc rằng các môn đệ đã lưu giữ, dạy dỗ, và lưu truyền những gì các ngài cho là chính yếu: sự trao tặng của Đức Giêsu, sự trao tặng chính mạng sống của Người vì tình yêu. Và điều họ phải ghi nhớ đó là sự hiện diện mới của Đức Giêsu: Đấng Phục sinh đã đảo lộn đời họ và Người còn tiếp tục biến đổi thế giới qua Giáo Hội " (Sđd, trang 19).
BÀI ĐỌC THÊM
1. Vĩnh viễn ta chỉ bập bẹ về bí tích Thánh Thể
(Đức Cha L.Daloz, trong "Vậy Người là ai?". DDB. trang 90 -91).
Chỉ bằng một cử chỉ đơn sơ và duy nhất, Đức Giêsu trao phó cho các môn đệ kho tàng Mình và Máu Người. Bằng những lời lẽ vắn tắt và long trọng Người tuyên đọc di chúc của Người. Đó sẽ là trung tâm của các cộng đoàn Kitô hữu, và sẽ thẩm định các cộng đoàn dọc dài suốt lịch sử, cho tới ngày các môn đệ Người sẽ uống rượu mới trong Nước Thiên Chúa. Đức Giêsu truyền lại cho các môn đệ những cử chỉ và những lời lẽ của phép Thánh Thể, dấu chỉ của thân thể và máu giao ước. Người nộp mình vào tay chúng ta. Vào thời điểm Người sắp bước vào cuộc khổ nạn và hoàn tất thời hiện diện hữu hình. Người có ý tiếp tục bằng sự hiện diện vô hình và tầm vóc phổ quát của hiến tế đời người. "Chén mà ta sắp uống, các ngươi sẽ uống”, Đức Giêsu đã loan báo như thế (11,39). Người lên tiếng, cầm lấy chén và trao cho ta. Nhờ bánh và rượu này, ta thục sự dấn bước theo Người lên con đường khổ nạn và phục sinh của Người. Ta không chỉ dừng lại ở việc gợi lại lịch sử và thử bắt chước Người. Chúng ta bị lôi kéo vào cuộc phiêu lưu của Người và thành những kẻ tham dự vào số phận của Người. Lời lẽ bất ngờ chưa từng thấy: "Hãy cầm lấy, này là Mình Thầy, Này là Máu Thầy”. Thật ra, người này là ai mà dám nói những lời như thế? Người đã khai mở lỗ hổng nào nơi nhân tính chúng ta để cho giao ước có thể đi vào, thấm nhập vào đến tận thâm tâm của mỗi người? Ta có thể làm gì khác hơn là linh cảm được điều đó trước khi uống chất rượu mới của Nước Trời? Vĩnh viễn ta chỉ biết bập bẹ nói về phép Thánh Thể.
2. Những bài tường thuật nền tảng về việc cử hành Thánh Thể (M.Scouarnec, trong “Hồ sơ Thánh Kinh" số 41, "Phép Thánh Thể", trang 24). Giáo Hội coi những bài tường thuật bữa ăn tối là nền tảng của việc cử hành Thánh Thể. Luca (cũng như Phaolô) tường thuật lệnh truyền của Chúa: "Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Lệnh truyền mới tương quan với giao ước mới. Dẫu việc soạn thảo bản văn có những khác biệt, vẫn thấy xuất hiện những nét chính yếu:
(1) Bài ca tiếp liên trọng tâm của phép Thánh Thể: Đức Giêsu cầm lấy bánh, rồi cầm lý rượu. Người tạ ơn, hoặc dâng lời chúc tụng. Người bẻ bánh. Người trao cho các môn đệ.
Bốn động từ, 4 hành động diễn ra trong nghi thức của phép Thánh Thể: chuẩn bị và trình bày những quà tặng, kinh nguyện tạ ơn long trọng, cử chỉ bẻ bánh và rước lễ.
(2) Trong cử chỉ cuối cùng, cử chỉ trao ban, Đức Giêsu đã nói những lời này: "Này là mình Thầy”. Như vậy, đó là chìa khoá để hiểu toàn bộ hành động. Đức Giêsu ban tặng mình và máu Người. Mạng sống của Người, chính bản thân Người. Cái chết của Người, hy tế của Người là một quà tặng cụ thể chính bản thân Người: một hành vi tạ ơn dâng trước cho Chúa Cha và một quà tặng bản thân Người cho anh em.
(3) Một khung cảnh Vượt qua. Dù có những mâu thuẫn giữa Gioan và các Tin Mừng Nhất Lãm về ngày giờ chính xác của bữa Tiệc Ly, ta vẫn thấy ý định của các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm là ghi lại bài tường thuật về việc lập phép Thánh Thể trong khung cảnh lễ Vượt Qua của người Do Thái và của Giao ước, và cho biến cố một nội dung Vượt qua: Đức Kitô vượt qua từ sự chết đến sự sống, thực hiện công cuộc giải phóng mới khỏi tội lỗi nhờ Đức Kitô - Tôi Tớ, cho mọi người chứ không riêng cho dân Israel.
(4) Cử hành ngày Chúa nhật: ngày dân Chúa làm nên một thân thể hữu hình (Thư các Đức Giám Mục gởi người Công giáo Pháp, Cerf, 1 996, trang 93-94). Còn về phép Thánh Thể, các cộng đoàn đã tiến bộ trong nhận thức tầm quan trọng của bí tích ấy đối với đời sống Giáo Hội. Nhưng vẫn phải luôn luôn đổi mới ý nghĩa việc cử hành ngày Chúa nhật như thời gian dân đã được Rửa tội kết thành thân thể hữu hình, khi đáp lại lời mời gọi mà Đức Kitô ngỏ với các môn đệ với mục đích cho họ tham dự vào việc tặng bản thân của Người cho sự sống của thế giới.
Tất cả chúng ta đã có kinh nghiệm về những buổi cử hành đầy tinh thần đón tiếp nồng ấm khiến cho ta như cảm được ơn cứu độ Thiên Chúa ban tặng, đến phục hồi sức lực cho ta giúp ta tiếp tục rong đuỗi đường dài. Đó không phải và một lý tưởng không đạt tới được đối với các cộng đoàn của ta, nhất là nếu tất cả những ý thức và những truyền thống thiêng liêng chấp nhận điều tiết những đòi hỏi sau đây mà đôi khi người ta chống báng vì sai lầm: sự tôn trọng truyền thống phụng vụ, lời kêu gọi mọi người tích cực tham dự, sự đóng góp của những diễn tả khác nhau về thẩm mỹ vả nghệ thuật.
Một thực hành Thánh Thể như thế không thể tách rời khỏi ý thức về những tác vụ được loan truyền vì sự sống và vì sự xây dựng Thân Thể Giáo Hội.
Một trong những hậu quả của sự khốn khổ của các kẻ nghèo, dù ở bất cứ nơi nào, là họ cảm: THÁNHTHỂ-176
1) Một trong những hậu quả của sự khốn khổ của các kẻ nghèo, dù ở bất cứ nơi nào, là họ cảm thấy không có tương lai. Mỗi một ngày kế tiếp nhau không có dự tính. Chỉ có một cuộc sống vất vưởng và phân chia trong sự tìm kiếm một chút của nuôi thân hay một hạnh phúc nhỏ bé nhất thời. Dân Thiên Chúa trong cảnh nô lệ Ai Cập đã là như vậy (Bài đọc 1: Xh 24, 3-8). Và đây Môisen, nhân danh Chúa, đề ra cho họ một tương lai, một lịch sử. Thiên Chúa giao kết với dân này. Mọi sự sắp đổi thay. Đây là một biến cố quan trọng cần phải nhớ và người ta làm một đài kỷ niệm: 12 viên đá chồng lên nhau đặt ra một nghi lễ: dâng một hy tế bình an. Đọc một đoạn sách luật và làm một cử chỉ hội khó hiểu đối với chúng ta. Nhưng rất ý nghĩa đối với người Hy bá: rảy máu của một con vật dâng làm hy lễ. Máu: dấu chỉ sự sống, máu đổ ra và chia sẻ: dấu chỉ của cùng một sự sống nhận từ Thiên Chúa và được chia sẻ trong một định mệnh chung.
2) (Bài đọc 2: Dt 9, 11-15). Nhưng giao ước tình yêu này với một dân tộc chẳng phải là tiếng nói sau cùng của Thiên Chúa đối với nhân loại. Sau bao ngày kiên nhẫn. Thiên Chúa đã sai Con Ngài đến để mở ra cho nhân loại thấy được tình yêu mà Ngài đã ấp ủ trong tim. Chúa Giêsu đã trở thành tư tế của hạnh phúc sẽ tới. Vì thế Người cũng để lại cho ta một nghi thức mới về giao ước mới này. Lần này không còn là một biểu tượng, một sự nhắc nhở, nhưng là một hành vi, một biến cố. Chính là Chúa Kitô tự hiến làm hy lễ. Bây giờ tất cả mọi người có thể tìm một ý nghĩa mới cho đời sống họ, một lịch sử phải thể hiện, một ơn cứu độ phải làm cho tới.
3) (Bài Tin Mừng). Khi hội họp lại mỗi Chúa nhật. Chúng ta cử hành việc ơn cứu rỗi nói trên. Các nhà thờ của chúng ta, như bấy nhiêu viên đá chồng chất, có cả hàng ngàn trên thế giới, cho chúng ta thấy rằng lịch sử nhân loại của chúng ta đã được thánh hiến cho một tương lai chung quyết. Tất cả mọi công việc, mọi cuộc khám phá đều trở thành thực tại của Vương Quốc, như bánh và rượu mà chúng ta dâng đây trở thành Mình và Máu Chúa. Điều này không thể thực hiện mà không có thảm kịch, lầm lẫn, dò dẫm. Chúa Giêsu đã chia sẻ bữa ăn sau cùng của Người với các môn đồ trong ý thức về cái chết Người và trong bầu khí buồn thảm của sự phản bội và bỏ rơi. Lễ tạ ơn của chúng ta cũng được nối dài trong thảm kịch của thế giới: tội lỗi của nó, các cuộc nhảy chồm lên của nó đều chạm tới chúng ta. Nhưng niềm hy vọng của chúng ta lớn lao, vì chúng ta xác tín về vương Quốc sẽ tới.
Báo Thanh niên ra ngày thứ Hai 19-6 vừa qua đã đăng một bản tin nhỏ nói về “nhà vô địch”: THÁNHTHỂ-177
Báo Thanh niên ra ngày thứ Hai 19-6 vừa qua đã đăng một bản tin nhỏ nói về “nhà vô địch” hiến máu nhân đạo. Ðó là anh Nguyễn ngọc Tú, ở phường 11, Quận 10, thành phố Hồ chí Minh. Từ 1994 đến nay, anh Tú đã hiến máu nhân đạo 35 lượt. Anh cho biết sẽ tiếp tục công việc tốt đẹp này.
Máu cần thiết cho sự sống. Thiếu máu nhiều bệnh nhân sẽ khó sống. Hiến máu đã cứu được nhiều người thoát chết. Hiến máu là tặng ban sự sống. Ðó là hình ảnh cuộc hiến mình của Ðức Kitô trên thập giá. Trong bữa Tiệc ly, Ðức Kitô cho biết Người sẽ đổ máu ra để cứu thế giới khi Người cầm chén rượu và nói : “Tất cả các con hãy cầm lấy mà uống. Này là chén Máu Thầy, Máu giao ước mới, sẽ đổ ra cho các con và mọi người được tha tội”.
Máu để cứu sống, máu để thiết lập giao ước, máu để tha tội, tất cả những ý nghĩa này đã được tiên báo trong Cựu Ước.
Máu để cứu sống được diễn tả bằng hình ảnh con Chiên Vượt qua. Ðể cứu dân Do thái ra khỏi ách nô lệ Ai cập, Chúa truyền cho người Do thái giết một con chiên còn trong sạch, lấy máu bôi lên cửa. Ðêm hôm ấy, thiên thần Chúa đến trừng phạt người Ai cập. Nhà nào có máu chiên bôi trên cửa sẽ được cứu thoát. Ðể tưởng niệm việc được cứu sống và được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai cập, từ đó, hằng năm vào đúng ngày ấy, người Do thái vẫn giữ tập tục giết chiên mừng lễ. Lễ đó gọi là lễ Vượt qua. Con chiên bị giết gọi là con chiên Vượt qua. Khi hiến mình đúng vào dịp lễ Vượt qua, Ðức Giê-su trở thành Chiên Vượt qua mới. Máu Người đổ ra cứu linh hồn ta khỏi nô lệ tội lỗi và khỏi chết. Các thánh Giáo phụ cắt nghĩa rằng : Miệng ta là cửa linh hồn. Người rước Mình Máu Thánh Chúa vào miệng cũng như bôi máu chiên lên cửa nhà, sẽ được cứu sống và được giải thoát khỏi nô lệ tội lỗi.
Máu giao ước được diễn tả qua nghi lễ ông Mô-sê cử hành dưới chân núi Si-nai. Bài đọc thứ nhất hôm nay thuật lại : “Ông Mô-sê sai các thanh niên trong dân ít-ra-en tiến dâng những lễ toàn thiêu, và ngả bò tơ làm lễ hiệp thông tế Chúa. Ông lấy một nửa phần máu, đổ vào những cái chậu, còn nửa kia thì rảy lên bàn thờ. Ông lấy cuốn sách giao ước đọc cho dân nghe. Họ thưa : Tất cả những gì Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và sẽ tuân theo. Bấy giờ, ông Mô-sê lấy máu rảy trên dân và nói : Ðây là máu giao ước Chúa đã lập với anh em”. Ðó là giao ước cũ hay là Cựu ước.
Tại Việt nam cũng như tại các nước á đông có tục “uống máu ăn thề”. Khi muốn giao kết với nhau, mỗi người lấy một chút máu của mình hoà chung vào một chén rượu. Sau đó mọi người chia nhau cạn chén. Việc uống máu ăn thề nói lên sự đồng tâm nhất trí. Những người cùng uống chung chén rượu pha máu trở nên ruột thịt với nhau, cùng sống cùng chết với nhau. Ðức Giê-su đổ máu ra để lập một giao ước mới giữa loài người với Thiên chúa. Máu Ðức Giê-su giao hoà con người với Thiên chúa và con người với nhau. Máu giao ước đó làm cho con người trở thành con cái ruột thịt của Thiên chúa và trở nên anh em ruột thịt với nhau. Ðó là Máu Giao ước.
Máu để tha tội được dùng nhiều trong Cựu ước. Khi dâng lễ đền tội, người ta cũng xả thịt một con vật dâng cho Thiên chúa. Thày cả lấy máu con vật vảy lên tội nhân để ban ơn tha tội. Khi ta rước Mình Máu Thánh Chúa, ta cũng được tha tội vì Máu Chúa không vảy lên thân xác, nhưng vảy vào linh hồn ta.
Những ý nghĩa mà máu súc vật trong Cựu ước tượng trưng nay được hoàn thành viên mãn trong Máu Ðức Kitô. Nhân loại đang rên xiết trong ách nô lệ đã được Người giải thoát. Nhân loại đang xa lìa Thiên chúa và bất hoà với nhau đã được Người giao hoà thành một gia đình thương yêu thuận hoà, sống chết có nhau. Nhân loại đang sống trong tội lỗi được Máu Người tẩy sạch mọi vết nhơ.
Chúng ta được ân phúc dường ấy là nhờ Người đã tự hiến mạng sống vì ta. Dòng Máu Người đổ ra đến đâu đem sự sống đến đấy. Dòng Máu Người lan tới đâu thì ban ơn tha tội đến đấy.
Mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa, ta hãy cảm tạ tình yêu vô biên của Người đã hiến mình, đổ máu để cứu chuộc ta. Người đã gánh lấy tội lỗi của ta để ta được trong sạch. Người đã nhận lấy thân phận nô lệ cho ta được tự do. Người đã chịu chết để cho ta được sống.
Mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa, ta hãy đáp lại tình yêu của Người bằng cách siêng năng đến lãnh nhận và siêng năng đến thờ lạy Ðức Giê-su ngự trong phép Thánh Thể.
Mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa, ta hãy noi gương Người, biết quên mình, hiến thân phục vụ đồng loại. Người đã trở thành tấm bánh bị bẻ ra để hiến tặng cho ta. Ta cũng phải hiến đời mình như tấm bánh bẻ ra để hiến tặng cho anh em.
Đức Hồng Y Hellder Camara về ban phép Thêm sức cho trẻ em trong một xứ đạo. Khi đến: THÁNHTHỂ-178 FB
Đức Hồng Y Hellder Camara về ban phép Thêm sức cho trẻ em trong một xứ đạo. Khi đến nơi, Ngài thấy cả xứ đạo đang quỳ gối lăn lộn trên đất, đấm ngực khóc lóc than van như trong cơn đại hoạ. Đêm trước, trong khi mọi người mê mải chuẩn bị đón Đức Hồng Y, kẻ trộm đã lẻn vào nhà thờ ăn trộm những bình đựng Mình Thánh. Kẻ trộm đổ Mình Thánh Chúa ra vườn, lấy đi những bình mà họ tưởng làm bằng vàng. Thật là một sự phạm thánh ghê gớm.
Thế nhưng trong bài giảng hôm ấy, Đức Hồng Y đã làm cho mọi người kinh ngạc khi Ngài nói: Tại sao hôm nay anh chị em mới than khóc. Hằng ngày biết bao lần Chúa Giêsu bị nhục mạ, bị hành hạ, bị chà đạp, bị giết chết trong những anh chị em nghèo khổ, vô gia cư, trong các trẻ em không cha mẹ, không gia đình, sao chẳng thấy ai than khóc? Anh chị em không biết sao, những anh chị em ấy chính là Chúa Giêsu, là Thân Mình Chúa Giêsu, là Thánh Thể Chúa.
Nói như thế, Đức Hồng Y không có ý coi thường phép Mình Thánh Chúa. Nhưng Ngài có ý nhắc cho ta một khía cạnh thường hay bị lãng quên trong khi cử hành bí tích. Đó phải là cử hành bí tích không chỉ trong nhà thờ mà còn phải cử hành cả ngoài cuộc đời nữa.
Đọc bài Tin Mừng hôm nay, ta hãy lưu ý hai điểm:
1- Diễn tiến phép lạ hoá bánh ra nhiều giống hệt như diễn biến một Thánh Lễ. Nếu Thánh Lễ gồm hai phần Phụng vụ Lời Chúa và Phục vụ Thánh Thể thì trong bài tường thuật hôm nay, Chúa Giêsu cũng đã giảng dạy dân chúng trước rồi mới ban bánh sau. Dân chúng được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa trước khi được nuôi dưỡng bằng bánh đã được chúc phúc. Đây quả là một Thánh Lễ cử hành giữa đời thường. Một Thánh Lễ không có nhà thờ, chẳng có bàn thờ.
2- Cử chỉ và lời nói của Chúa Giêsu khi hoá bánh ra nhiều, khi lập phép Mình Thánh Chúa và khi dùng bữa với các môn đệ làng Emmau giống y như nhau. Cả 3 đoạn văn trên đều tả Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, rồi trao cho các môn đệ.
Tại sao có sự trùng hợp thế? Thưa vì Chúa Giêsu muốn cho ta hiểu rằng: Bí tích không chỉ là một nghi lễ, nhưng là một sự thực. Sự thực ấy phải đâm rễ sâu nơi cuộc đời, phản chiếu đời sống và đem lại lợi ích cho đời sống.
Nếu trong Thánh Lễ Chúa Giêsu ban phát lương thực nuôi linh hồn, thì ngoài cuộc đời, Người đã ban lương thực nuôi thân xác.
Nếu Thánh Lễ là một bữa tiệc huynh đệ, thì trong sa mạc hôm nay, Chúa Giêsu cũng đã tổ chức một bữa tiệc long trọng, mỗi bàn ăn gồm 50 người để họ chia sẻ với nhau không chỉ cơm bánh mà còn tâm tư tình cảm nữa.
Nếu trong Thánh Lễ, Chúa Giêsu dâng mình cho Đức Chúa Cha dưới hình bánh rượu, thì ngoài cuộc đời, Chúa Giêsu đã tự hiến mình trên thánh giá.
Nếu trong Thánh Lễ, Chúa Giêsu dưới hình bánh bị bẻ ra để phân phát, thì ngoài cuộc đời, thân xác Người cũng đã bị bẻ ra trong những sỉ nhúc, đòn vọt, đóng đinh.
Quả thật Chúa Giêsu đã dâng Thánh Lễ không chỉ trong nhà thờ, mà Người còn dâng Thánh Lễ ngoài cuộc đời. Người không chỉ dâng một lễ vật nào đó, nhưng đã dâng chính bản thân mình. Người chỉ cử hành một bí tích, nhưng chính bản thân Người đã trở thành bí tích. Người không chỉ bẻ ra một tấm bánh mà còn bẻ chính thân mình ra để ban phát cho mọi người. Chính vì thế mà lễ dâng của Người có giá trị. Thái độ của Chúa Giêsu khiến ta phải suy nghĩ.
Làm sao ta có thể gọi Thánh Lễ là một bữa tiệc huynh đệ nếu ta vẫn còn giữ trong lòng những thù hận ghen ghét? Làm sao ta có thể đi dự tiệc Thánh Lễ nếu chung quanh ta còn biết bao anh em đói khổ, thiếu thốn? Làm sao ta có thể dâng Thánh Lễ nếu trong cuộc đời ta không hiến mình cho anh em?
Khi truyền lệnh: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Chúa Giêsu không chỉ truyền cho ta cử hành Thánh Lễ trong nhà thờ. Người còn muốn cho ta dâng Thánh Lễ cả ngoài cuộc đời. Nghĩa là phải chia sẻ, chịu mọi đau khổ, biết khiêm nhường nhịn nhục, biết sống đoàn kết yêu thương, biết hiến mình vì anh em.
Việc cử hành Thánh Lễ ngoài cuộc đời cũng quan trọng như việc cử hành Thánh Lễ trong nhà thờ. Hơn nữa, nếu thiếu việc cử hành ngoài cuộc đời, những nghi lễ trong nhà thờ sẽ trở thành bùa chú, giả dối và phản chứng.
Xin cho bí tích Thánh Thể trở thành một sự thực trong đời sống. Xin cho chúng ta biết thờ lạy Chúa Giêsu không phải chỉ trong hình bánh mà còn nơi những anh em bé mọn trong cuộc đời. Xin cho chính đời sống ta trở thành một bí tích, chịu bẻ ra để đem lại lợi ích cho anh em. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
Theo bạn, thế nào là tích cực tham dự Thánh Lễ? Rước lễ đem lại những ơn ích nào cho đời sống thiêng liêng của bạn? Bạn đã dâng Thánh Lễ trong cuộc đời chưa?
Ăn uống là nhu cầu tất yếu để cho sự tồn tại và phát triển thể xác của một con người. Vì yêu: THÁNHTHỂ-179
1. Ăn uống là nhu cầu tất yếu để cho sự tồn tại và phát triển thể xác của một con người. Vì yêu thương, Thiên Chúa không những cho con người có thể xác mà còn có linh hồn, đó là điểm cơ bản để con người hơn hẳn các sinh vật khác. Đoạn Tin Mừng được chọn đọc Chúa Nhật Mình Máu Thánh Chúa hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng, không những được ăn no nê mà còn dư thừa, đó là dấu chỉ Bí Tích Thánh Thể mà Đức Giêsu thiết lập, để nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của chúng ta.
2. Phép lạ hoá bánh ra nhiều nầy có liên hệ gì tới Bí Tích Thánh Thể, tới Mình Máu Thánh Chúa? Thưa đây là phép lạ duy nhất được cả bốn sách Tin Mừng ghi lại, và đây cũng là phép lạ công khai trước một số đông người. Từ năm chiếc bánh và hai con cá ban đầu biến thành lương thực, thực phẩm cung cấp cho trên năm ngàn người ăn mà vẫn còn dư thừa! Cách ghi chép của Thánh Luca về phép lạ này có thể so sánh với việc Chúa Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể (x. Mt 26 và song song), như:
- Phép lạ xảy ra vào lúc ngày tàn; sau này Đức Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể cũng vào lúc cuối ngày.
Trong phép lạ này những hành động của Đức Giêsu như : cầm lấy bánh và cá đọc lời chúc tụng, bẻ ra, phân phát ; sau này Đức Giêsu khi lập Bí Tích Thánh Thể, Người cũng có những hành động giống như vậy.
Qua phép lạ hoá bánh, cá ra nhiều này và Bí Tích Thánh Thể mà Đức Giêsu thiết lập. Đức Giêsu muốn nói lên, muốn dạy ta điều gì? Thưa qua đó cho ta thấy tình thương của Thiên Chúa, Đức Giêsu dành cho mọi người chúng ta và Chúa cũng đòi hỏi chúng ta cũng phải lấy tình người đối với nhau.
3.Trước hết, phép lạ nầy và Bí Tích Thánh Thể cho ta thấy dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. Như đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Đức Giêsu đã cứu chữa những ai cần được cứu chữa. Rồi khi trời đã xế chiều, rất có thể Người giải tán đám đông để họ tự túc đi vào các làng mạc gần đó để mua thức ăn cho khỏi bận tâm như lời đề nghị của các Tông Đồ. Thế nhưng chúng ta thấy Chúa không đồng ý với đề nghị này mà Người lo liệu cho họ có của ăn bằng phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều.
Không những lo cho dân chúng được no đủ về thể xác, mà quan trọng hơn bằng việc tự hiến bản thân của mình để ban của ăn thiêng liêng cho loài người. Vì Người là Đấng quyền năng, có thể dùng những phương thức khác để nuôi sống linh hồn con người, nhưng Người đã chọn con đường tự hiến máu thịt của mình : “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Tình thương của Người dành cho chúng ta không những một lần thôi, mà mỗi khi Thánh Lễ được cử hành là tái diễn việc hy sinh của Đức Giêsu, và hiệu quả của việc hy sinh này tiếp tục được thực hiện, như lời Đức Giêsu đã hứa : Ai ăn Thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ được sống muôn đời(x. Ga 6,51-58).
4.Kế đến, phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều và Bí Tích Thánh Thể còn là dấu chỉ tình yêu thương của con người phải có đối với nhau. Khi các Tông Đồ đề nghị giải tán dân chúng để họ tự tìm thức ăn, thì chính Đức Giêsu đã nhắc nhở các ông : “Chính anh em, hãy cho họ ăn” (Ga 9,13). Vâng “chính anh em”, “chính các con” phải có trách nhiệm lo lắng, chăm sóc cho anh chị em mình chứ không đợi một ai khác!
Rồi cảnh tượng bữa ăn lạ lùng thật vui, trên 5.000 người cùng chia sẻ lương thực thực phẩm với nhau. Một hình ảnh nói lên sự yêu thương và hợp nhất. Thật vậy, một buổi tiệc dù vui hay buồn (sinh nhật, cưới, tang…), thì những người tham dự cùng chia sẻ niềm vui hay nỗi buồn, qua đó nói lên sự yêu thương, hợp nhất. Buổi ăn nơi hoang dã này càng đượm ý nghĩa hơn khi Đức Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể.
Bàn tiệc Thánh Thể được Đức Giêsu thiết lập dưới hình thức một bàn tiệc hiệp thông huynh đệ. Vì vậy, Thánh lễ, qua đó Bí Tích Thánh Thể được cử hành là bàn tiệc thánh, thiêng liêng, mọi người không phân biệt giai cấp, già trẻ, sang hèn… đều được mời gọi tham dự, chia sẻ. Thánh Phaolô đã viết : “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1Cr 10,17).
Như vậy quả thật Bí Tích Thánh Thể không chỉ là dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa ban cho con người mà còn là dấu chỉ của tình người cần phải có đối với nhau.
5. Nhân ngày lễ kính Mình Máu Thánh Chúa, và qua những suy nghĩ trên, chúng ta có quyết tâm gì ? Khi xác quyết Bí Tích Thánh Thể là dấu chỉ của tình Chúa, chúng ta phải siêng năng tham dự Thánh lễ và rước lễ, để đáp trả tình yêu thương Ngài đã dành cho chúng ta. Đồng thời nhờ ơn Chúa giúp để chúng ta có thể vượt qua những khó khăn, thử thách đời nầy và nhất là đảm bảo cho chúng ta được sống đời đời.
Khi xác quyết Bí Tích Thánh Thể là dấu chỉ của tình người, mỗi chúng ta phải cố gắng sống yêu thương, giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Không phải chúng ta chỉ hiệp nhất và yêu thương trong việc thờ phượng Chúa, trong Thánh lễ… mà còn phải thực sự hiệp nhất và yêu thương nhau trong cuộc sống. Đức Giêsu phán : “Anh em hãy làm việc nầy mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19), chắc hẳn Chúa không chỉ muốn chúng ta chỉ cử hành lại Bí Tích Thánh Thể mà thôi, mà còn muốn chúng ta yêu thương, giúp đỡ nhau trong tình bác ái huynh đệ theo gương của Người. Bởi đời ta là Thánh lễ nối dài và như lệnh truyền của Chúa : “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm nầy : là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
Thánh Thể Chúa Giêsu phải là nội lực cho tất cả những hy hiến trong đời sống các tín hữu: THÁNHTHỂ-180
Thánh Thể Chúa Giêsu phải là nội lực cho tất cả những hy hiến trong đời sống các tín hữu, vừa thôi thúc vừa hỗ trợ, lại còn phát sinh những phép lạ vĩ đại cho mỗi tín hữu và cho cả cộng đồng nhân loại. Từ đó, cuộc sống trở nên Thánh Lễ từng phút giây trong đời người, không chỉ cử hành Bí Tích trên bàn thờ, mà cử hành ngay trên đường ra phố chợ, trên đường tới những đau thương bi đát nhất trong cuộc đời.
“Cho ăn”, “nuôi sống”, là bổn phận cụ thể nhất nơi những người làm cha mẹ trong gia đình. Thử nhìn một vòng thế gian sẽ thấy không có cha mẹ nào lại được miễn khỏi phải bận tâm về việc nuôi sống những đứa con của mình.
Nhìn về những nước chậm tiến, những vùng sâu, vùng xa, vùng quê nghèo, sẽ thấy việc lo cho con cái có được “cái ăn” và được ăn đầy đủ, quả là một thách đố không nhỏ. Những ngày sau 1975, những lát khoai cõng lác đác vài hạt cơm trắng, cái củ nần luộc đến bảy nước rồi ăn vẫn còn ngứa cả miệng, những lát mì khô hầm nhừ từ đêm trước rồi quết dẻo với mấy hạt lạc rang cho dễ nuốt qua ngày, vài con cá khô mốc sì tranh mua ở cửa hàng nhà nước…, đã vậy, cha mẹ còn phải bấm bụng nhịn cho con có được bữa no tạm bợ.
“Chính anh em hãy cho họ ăn”
Khi cho con cái “cái ăn”, người làm cha mẹ phần nào hiểu ra rằng con cái đang sống chính sự sống của mình, đang ăn chính thịt máu của mình. Và ngược lại, làm con cái, không ai có thể phủ nhận việc mình đã được sinh thành và dưỡng nuôi bằng chính thịt máu của cha của mẹ.
Mẹ đang gầy guộc đi, vì đã hiến mình cho con cái. Cha đang tàn tạ đi, vì một đời tận tụy cho con.
Tôi muốn nói rằng: Bí Tích Thánh Thể đang được cử hành ngay trong nhà bạn, trong nhà tôi đấy. Chính những người làm cha, làm mẹ đang dâng Thánh Lễ hằng ngày, và cũng chính họ là của lễ cho Thiên Chúa để nuôi đàn con của mình. Họ vừa là chủ tế, vừa là chính lễ tế.
Động lực nào đã thôi thúc con người ta không chỉ chu toàn bổn phận làm cha mẹ, mà còn chu toàn một cách hiến tế thánh thiện ? Đối với những gia đình không Công Giáo, ý nghĩa hiến tế có vẻ mơ hồ, hoặc theo một trật tự tự nhiên Chúa đã đặt, nhưng đối với các Kitô Hữu Công Giáo, thì thiết nghĩ, phải vượt lên trên cái tự nhiên ấy, vì động lực thôi thúc họ tự hiến cho con cái chính là:
- Lời Chúa Giêsu dạy hôm nay: “Chính anh em hãy cho họ ăn” - Mình Máu Thánh Chúa Giêsu họ đã lãnh nhận nơi bàn tiệc Thánh Thể, để rồi họ ý thức sâu xa rằng, chính mình cũng phải trở nên của ăn cho con cái, cho người khác nữa.
Như thế, thiết nghĩ, mỗi động tác tình yêu và hy sinh trong gia đình của các tín hữu để nuôi sống con cái, sẽ trở nên Thánh Lễ thường nhật của những Tư Tế Cộng Đồng đang hiệp thông với các Tư Tế Thừa Tác trên toàn cầu, cùng trong một Thầy Cả thượng phẩm đời đời là Đức Giêsu Kitô.
“Chính anh em hãy cho họ ăn”
Càng kết hiệp với Chúa Giêsu Thánh Thể trong tâm tình hiến tế, càng năng ăn Thịt và uống Máu Chúa Giêsu qua việc rước lễ, mỗi người càng khám phá ra được Sức Sống Thần Linh đang linh hoạt trong cuộc sống mình từ lời ăn tiếng nói, đến cả những việc phải làm vì tình yêu, và lại càng khám phá ra những phép lạ kỳ diệu của Thánh Thể và của ơn hiến tế.
Hãy nhìn lại những phép lạ Thánh Thể trong đời sống các gia đình, phép lạ từ những cái ăn:
- Phép lạ từ những củ khoai, củ sắn, củ nần, của những ngày gian khổ nay đã trở nên những cử nhân, tiến sĩ, bác sĩ, kỹ sư, hoặc giản dị chỉ là những con người bình thường trong xã hội nhưng luôn có ích cho Thiên Chúa, hoặc đã trở nên những Nữ Tu, Linh Mục ngay trong chính gia đình mình.
- Phép lạ từ những Thánh Lễ trên đường bán bong bóng như bán cả hơi thở, bán cháo lòng như bán cả cõi lòng, bán hột vịt lộn như bán cuộc sống luôn sẵn sàng thích nghi, gánh cả hàng rong như gánh cả tương lai con trên đường quê ra phố chợ, nay đã được thấy cái ấm no hiện tại và tương lai ngời sáng của con cái mình.
- Phép lạ từ những Thánh Lễ trên đường ra ruộng, lên nương rẫy, trên sóng nước, vào rừng sâu, trong tiệm ăn, ngoài công trường, và cả bên vệ đường, nay đã thấy con cái thành gia thành thất đúng theo lề luật Chúa.
Vâng, không thể mơ tưởng một sự giàu có vô bổ nào khác, nhưng hãy ngộ ra rằng “Bánh đã hóa ra nhiều” ngay trong gia đình ta, những tấm bánh kết tinh từ những hy hiến đẫm mồ hôi nước mắt của mẹ của cha.
Hãy tạ ơn Chúa luôn luôn và tiếp tục làm cho cơm bánh hóa ra nhiều, để nuôi sống không chỉ người trong nhà mà còn biết bao nhiêu người đang đói. Đó chính là ý hướng Thánh Thể, nếu không nói là một đòi hỏi công bằng của Thánh Thể.
“Chính anh em hãy cho họ ăn”
Vì họ đang đói. Có những người đang thực sự đói của ăn phần xác chung quanh chúng ta giữa một xã hội phân cấp càng ngày càng chênh lệch, “kẻ ăn không hết, người làm không ra”. Họ đang cần một sự chia sẻ thực sự, một ổ bánh mì buổi sáng, một gói mì tôm buổi tối, một chén nước sạch, một chút ánh sáng đủ soi căn nhà ẩm thấp tồi tàn, một manh áo, một tấm chăn qua cái lạnh mùa đông…
“Chính anh em hãy cho họ ăn”
Có những người đang đói niềm hy vọng, đang đói tình thương yêu, sự cảm thông. Cũng có những người đang đói công lý, đói tự do, đói nhân quyền, đói nhà cửa, đói gia cư, đói cái chữ...
“Chính anh em hãy cho họ ăn”
Là Kitô hữu Công Giáo, thấp nhất là Giáo Dân, đã không thể đứng về phía những người giàu có quyền lực, giàu có vật chất mà dửng dưng trước những cái đói đang nhan nhản nơi tha nhân, của đồng bào, của các Kitô hữu khác, huống chi là các Đấng các Bậc cao cấp trong Hội Thánh lại có thể làm cho cái đói khát ấy ra tồi tệ hơn, lần hồi mà dẫn đến cái chết lạnh lùng. Dứt khoát tôi sẽ không tin là có thể nào lại ra nông nỗi như vậy được. Vì làm như thế, thì làm sao còn gọi được là sống Bí Tích Thánh Thể trong hành trình Đức Tin của mỗi người tin ?
Thánh Thể Chúa Giêsu phải là nội lực cho tất cả những hy hiến trong đời sống các tín hữu, vừa thôi thúc vừa hỗ trợ, lại còn phát sinh những phép lạ vĩ đại cho mỗi tín hữu và cho cả cộng đồng nhân loại. Từ đó, cuộc sống trở nên Thánh Lễ từng phút giây trong đời người, không chỉ cử hành Bí Tích trên bàn thờ, mà cử hành ngay trên đường ra phố chợ, trên đường tới những đau thương bi đát nhất trong cuộc đời.
Làm sao anh em có thể ăn thịt của tôi, uống máu của tôi nếu tôi không chấp nhận bị nghiền nát và hóa thân nên tấm bánh ngọt ngào, nên ly rượu thơm ngon ?
Làm sao tôi có thể cho anh em ăn những của thần linh, của ăn đem lại sự sống đời đời, khi tôi lại sống chỉ bằng những của ăn hay hư nát ?
Làm sao tôi có thể trở thành Máu Thịt Chúa Giêsu cho mọi người, khi tôi vẫn còn giữ cho mình một ngôi vị phàm tục ở đời cho muôn năm danh vọng, một sự vinh thân phì da, luôn sợ trầy trụa thương tích, cứ mải bận tâm lo cho mình một chỗ an thân, sợ đổi chủ, sợ bị kế vị, sợ phải nhường ngôi ?
Nếu có thật như thế thì chỉ là vì tôi chưa dám đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu Thánh Thể, một Đức Giêsu bằng lòng chịu chết cho thế gian chúng ta, trong đó có cả tôi nữa, được sống.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho chúng con biết yêu mến, gắn bó, và luôn khao khát rước lấy Thánh Thể Chúa, làm sức mạnh cho cuộc sống hiến dâng của chúng con, nơi gia đình, ngoài xã hội và trong Giáo Hội. Amen.
Mỗi người chúng ta đã từng nghe, từng nói những câu mời gọi sống tình liên đới và chia sẻ bác: THÁNHTHỂ-181
Mỗi người chúng ta đã từng nghe, từng nói những câu mời gọi sống tình liên đới và chia sẻ bác ái với nhau trong tình làng nghĩa xóm như: “Lá lành đùm lá rách”, hay
“Nhiễu điều phủ lấy giá sương – Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Sự liên đời đồng cảm với nhau trong tình thần “Tứ hải giai huynh đệ” để có thể “thương người như thể thương thân”. Đó là những lời răn dạy của tổ tiên, là khuôn vàng thước ngọc cho đời sống của người dân Việt chúng ta. Một dân tộc đặt chữ tình lên trên mọi mối quan hệ giữa người với người để có thể “tối lửa tắt đèn có nhau”.
Thế nhưng, có mấy ai đã thực sự sống điều đó? Có mấy ai đã thực sự sống đùm bọc lẫn nhau? Tại sao một nền văn hóa tương thân tương ái của dân tộc Việt Nam mà lại có sự chênh lệch giầu nghèo quá lớn như ngày hôm nay?
Ở giữa những phồn hoa của nền kinh tế thị trường hôm nay vẫn còn đó những mảnh đời đói rách bần cùng, kiếm ăn từng bữa, đôi khi cũng chỉ được bữa cơm, bữa cháo! Ngày nay khi xã hội thay đổi, cuộc sống người dân ngày càng ấm no, hạnh phúc. Thì ở đâu đó rất gần chúng ta vẫn còn có những mảnh đời lạnh giá cả về thể xác lẫn tâm hồn. Họ là những người vô gia cư bị xã hội đẩy ra bên lề xã hội. Họ là những em bé bị bỏ rơi, bị lợi dụng đang ăn xin, bán vé số, lượm ve chai … Họ là những người tật nguyền không có tiền để đến bệnh viện đành chấp nhận sống lây lất qua ngày ... Họ là những con người nghèo đang chờ từng hạt cơm rơi hay từng nghĩa cử bác ái của chúng ta. Song le, cái đói, cái nghèo không chỉ đến với một vài cá nhân nhưng đôi khi cũng bám vào cả một làng, một xã. Theo báo Nông Nghiệp VN, trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên-Huế, có một ngôi làng mà cư dân phải đối mặt với nạn đói quanh năm. Đó là làng Trung Chánh, xã Lộc Điền, huyện Phú Lộc, một ngôi làng không ruộng, không vườn, ăn không đủ no, trẻ con không được đến trường. Báo Nông Nghiệp ghi nhận về tình cảnh khốn khổ của dân làng này qua đoạn ký sự như sau.
Làng Trung Chánh nằm sát đầm Cầu Hai, phá Tam Giang. Cuộc sống ở đây chỉ theo đuổi con tôm, con cá ở đầm. Khi hoàng hôn bắt đầu buông xuống, cả thôn từ già đến trẻ lại kéo nhau "gieo mình" xuống đầm, xuống biển mưu sinh. Cứ như vậy, người và lưới rong ruổi khắp các con đầm, kênh, lạch và ra tận biển từ đêm đến sáng hôm sau. Trong làng chỉ còn lại những người già yếu và trẻ con 3-4 tuổi trong những căn nhà lụp xụp, xiêu xẹo, dột nát.
Làng Trung Chánh 6 giờ sáng, khi những "chuyến đò đêm" trở vào bờ. Cả thôn náo nhiệt tiếng í ới gọi nhau, đàn ông xả lưới, đàn bà quảy hàng đi chợ, trẻ con hò nhau phụ giúp bố mẹ nhặt từng con tôm, con tép còn sót lại. Đã từ lâu dân Trung Chánh hình thành nên thói quen bất đắc dĩ là mỗi ngày chỉ ăn một bữa cơm: "Cả thôn này không có bữa cơm trưa, bữa tối, thường thì chỉ ăn "bữa cơm chính" vào lúc 8-9 giờ sáng, rồi sau đó cả làng cùng đi ngủ, đến tối lại đi làm" một người dân tên Hạnh tâm sự như thế. Và cái tên "làng đói" cũng ra đời từ đó. Buổi trưa, cả thôn không có lấy một nhà nổi lửa. Không gian đìu hiu, chỉ có bóng dáng những đứa trẻ con đầu tóc vàng hoe vì nắng, vì gió tụ tập quanh những bóng tre. Chúng vẫn chưa đến tuổi làm nghề nên vẫn còn được chơi đùa thoả thích. Còn cha, mẹ, anh chị của chúng đã tranh thủ ngủ lấy lại sức sau một đêm dài thức trằng trên đầm, trên phá.
Cũng theo báo Nông Nghiệp VN, khi kể về chuyện nợ của người dân trong thôn, cư dân Mai Thị Gái chua xót nói với phóng viên "Chú không tin cứ đi hỏi mười người trong thôn này thì có đến... mười một người mắc nợ. Khổ lắm chú ơi. Hồi trước còn có cơm mà ăn, nhưng mấy tháng nay, nhiều gia đình đã chuyển sang...ăn cháo".
Xem ra làng Trung Chánh đang thiếu một tấm bánh được chia sẻ, được trao ban cho họ. Đất nước chúng ta đang ngày một giầu có vật chất nhưng lại nghèo tấm lòng. Nghèo đến mức chỉ tìm kiếm của cải cho mình mà vẫn chưa bao giờ thỏa mãn. Nghèo đến mức chẳng nghĩ rằng mình có khả năng cho đi. Nghèo đến mức chỉ nghĩ vun quén cho bản thân mà quên rằng mình còn có bổn phận chia sẻ cho anh em trong tình liên đới anh em một nhà. Cái đói, cái nghèo lận vào cuộc đời người dân làng Trung Chánh vì không được sự quan tâm của cộng đồng xã hội. Nếu “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ” thì cả một làng đói khổ sao cả một dân tộc không chạnh lòng với những đói khổ của anh em mình?
Hôm nay lễ Mình Máu Thánh Chúa là dịp để chúng ta nhìn lên tình yêu của Chúa. Chúa đã trao ban chính sự sống của mình cho thế gian được sống. Chúa còn trao ban cả Máu Thịt Ngài để trở nên của ăn của uống cho chúng ta. Có người cho rằng bánh và rượu làm sao trở nên Thịt và Máu của Chúa Giê-su được. Thực ra, chúng ta ăn bánh và rượu vẫn biến đổi thành thịt và máu của chúng ta thì Chúa Giê-su cũng có thể biến bánh và rượu trở nên Máu Thịt Ngài. Điều quan yếu không dừng lại ở việc bánh và rượu trở nên Máu Thịt Ngài mà hệ tại ở việc Ngài trao ban chính sự sống đó cho chúng ta. Để “ai ăn bánh này sẽ không chết muôn đời”. Như vậy, bánh và rượu trở nên Mình và Máu thì dễ, điều quan yếu là chúng ta có dám trao ban chính sự sống đó cho tha nhân hay không?
Nguyện xin Mình và Máu Thánh Chúa cũng biến đổi chúng ta trở nên giống Chúa. Giống Chúa ở trái tim biết chạnh lòng thương xót trước những khổ đau của anh em. Giống Chúa ở tấm lòng sẵn sàng làm bất cứ điều gì để vơi đi nỗi khổ của anh em trong tình liên đới chân thành. Giống Chúa ở việc cũng trở thành tấm bánh được sẻ chia cho tha nhân được sống hạnh phúc. Xin Chúa chúc lành cho những ước nguyện cao dẹp của chúng ta để mỗi cuộc đời chúng ta thực sự là tấm bánh đem lại cho nhân thế sự no thỏa và niềm vui, hạnh phúc. Amen
Trong các phép lạ được ghi lại, hóa bánh ra nhiều là phổ thông nhất: cả bốn sách Tin Mừng đều: THÁNHTHỂ-182
Trong các phép lạ được ghi lại, hóa bánh ra nhiều là phổ thông nhất: cả bốn sách Tin Mừng đều kể lại, thậm chí Mat-thêu và Mác-cô còn đề cập tới một vụ khác nữa ít hoành tráng hơn. Tại sao vậy? Nhiều nhà chú giải Kinh Thánh cho là ‘vì đây là phép lạ chứng tỏ rõ ràng nhất quyền uy tuyệt đối của Chúa Giê-su trên các định luật tự nhiên’ (xem chú giải Lc 9,12 trong ‘Lời Chúa Cho Mọi Người’ của nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ). Tôi xin mạn phép được suy nghĩ khác đi môt chút.
Căn cứ vào Phúc Âm Gio-an chương 6, ý nghĩa chính của sự kiện lạ này không mấy hệ tại ở việc ‘hóa bánh ra nhiều’, cho bằng ở việc ‘bẻ bánh ra và trao’. Hầu như cả sáu trình thuật đều đề cao hành vi xem ra tiểu tiết này. Hơn nữa, khi đọc đoạn Tin Mừng được Giáo hội trích dẫn trong ngày Lễ Mình Máu Thánh Chúa năm C, tôi càng thêm xác tín suy tư của mình. Đúng là ‘hóa bánh ra nhiều’ chỉ là ‘bao bì’ để thu hút khách hàng đón nhận một ‘sản phẩm’ tuyệt vời là tình yêu ‘bẻ ra và trao tặng’ gói đựng bên trong. Và có thể vì đã nắm được nội dung nòng cốt của sự kiện này nên các Ki-tô hữu thời đầu đã trân trọng nó đến thế. Phép lạ hóa bánh ra nhiều là tiền đề để dẫn tới việc ‘bẻ ra và trao tặng’ của một Thiên Chúa từ ái trong đức Giê-su Ki-tô hiến tế. Sau này, khi việc hóa bánh ra nhiều không còn là quan trọng nữa, thì hành vi ‘bẻ bánh và trao cho’ lại luôn được môn đệ nhận ra đó dấu hiệu không thể nhầm lẫn để nhận ra Thầy chí thánh (xem Lc 24, 30-31).
Nếu truyền thống Ki-tô giáo, qua các thời đại, luôn liên kết phép lạ này với Thánh Thể, thì chính là vì họ đã nhận ra việc ‘bẻ ra và trao ban’ được thực hiện cách trọn vẹn trong hiến tế thập giá của đức Giê-su. Trong bữa tiệc Vượt Qua ly biệt, đức Giê-su cũng đã chẳng ‘bẻ ra và trao ban là gì’? Bánh bẻ ra là bí tích của Mình Thầy hiến tế, rượu trao ban là bí tích của Máu Thầy đổ ra cứu chuộc. Tự nó việc xác định: bánh là Mình Thầy và rượu là Máu Thầy sẽ trở thành vô nghĩa, nếu đức Giê-su không thực hiện việc ‘bẻ ra và trao tặng’. Như thế Thánh Thể trước hết là một hành động, một hành động tự hiến, biểu lộ rõ nét nhất yếu tính nền tảng của Thiên Chúa, như đức Giê-su đã hé mở cho thấy: một Thiên Chúa hiến dâng và trao tặng cho nhân loại, trong chính lúc họ tội lỗi và bất xứng nhất.
Như vậy Mình và Máu Thánh Chúa sẽ không chỉ đơn thuần là hiện diện của Giê-su-Thiên Chúa, để tôi ‘phục bái tôn thờ’; nhưng luôn là dâng hiến của một Giê-su ‘bẻ ra - trao ban’, để tôi đón nhận và phân phát. Thánh Thể sẽ không chỉ đòi tôi phải có một lòng sùng kính ‘tĩnh’, nhưng đưa tôi đến một đón nhận và tham gia ‘động’ vào huyền nhiệm Giê-su hiến mình trên thập giá. Thánh Thể thôi thúc tôi “chính anh em hãy cho họ ăn”, khác hẳn với thái độ chỉ hưởng thụ và no nê.
Thế thì tôi hiểu được phần nào các đòi hỏi của việc cử hành Thánh Thể. Truyền phép để bánh trở thành Mình-Chúa-bẻ-ra và rượu trở thành Máu-Chúa-đổ-ra là một cử hành (celebration) thực sự, chứ không chỉ là một công thức (formula) nhiệm mầu. Và Chúa muốn tôi “anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy”, chứ không chỉ diễn lại hay lập lại mà thôi. Trong tư cách là một linh mục, chính tôi, và nhờ tôi, cả các anh chị em tín hữu khác nữa, sẽ phải làm việc cử hành này cách sinh động nhất: vào sâu trong niềm tin vào một Thiên Chúa hiến mình và trao ban, để rồi chính mình cũng khởi đầu cuộc hiến mình và trao ban trong Giê-su. Thống hối đầu lễ không chỉ mang mục đích thanh tẩy tôi cho xứng đáng, nhưng quan trọng hơn, cho tôi ý thức đón nhận món quà trao ban vô điều kiện đầy nhân ái và yêu thương. Việc rước lễ không chỉ cho tôi đón lấy và kết hiệp với Giê-su chung chung, nhưng là với một Giê-su ‘bẻ ra và trao tặng’, vì thế phải thôi thúc tôi làm như người đã làm.
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể, cảm tạ Chúa đã cho con được làm linh mục để con có điều kiện tốt hơn cử hành Thánh Lễ. Xin giúp con, để con có thể giúp nhiều tín hữu, không chỉ cử hành nghi thức thánh lễ, cho dầu có trang trọng và sốt sáng tới mấy, nhưng biết cử hành hiến tế thập giá của Chúa, cộng với việc ‘bẻ ra và trao ban’ chính mình. Xin cho con được một lòng sùng kính Mình Máu Thánh Chúa đích thực, để mỗi lần con tới gần Thánh Thể là con lãnh nhận tình yêu dâng hiến của Chúa dành cho con; đồng thời cũng mời gọi con tiến vào tình yêu phục vụ mọi người. Amen
Tôi có một người bạn rất dể mến, anh ta có đời sống bình thường đơn sơ không biết đua chen: THÁNHTHỂ-183
Tôi có một người bạn rất dể mến, anh ta có đời sống bình thường đơn sơ không biết đua chen, chính vì thế mà đời sống của anh dường như hơi vất vả.
Sau một thời gian không gặp. Một ngày nọ tôi đến thăm, dường như không tin vào những gì mình nhìn thấy. Vẫn con người đó, vẫn phong cách đó, nhưng mà sự nghiệp giờ đây đã hoàn toàn đỗi mới. Nhà cửa không sang trọng lắm, nhưng cũng khang trang sạch đẹp và có được một chút tiện nghi, với mãnh vườn cây ăn trái tạm bảo đảm cho cuộc sống. Thấy sự ngạc nhiên của tôi anh ta cười và bảo: nhờ may mắn.
Anh ít chơi vé số, nhưng anh lại trúng được số đặc biệt, anh chỉ thỉnh thoảng giúp đở khi người bán vé số kêu nài khiến anh phải động lòng. Nhờ đó anh mới có được sự nghiệp như ngày hôm nay. Tôi vui mừng với anh. Sau đó mới suy nghĩ: cũng có biết bao người trúng số đặc biệt như anh, hay còn được nhiều hơn anh, thế mà cuộc sống họ vẫn không được ổn định, họ phải lao đao vất vã. Đó là vì họ không biết tận dụng những gì mình có, họ không biết tận dụng dịp may cho đời sống của mình được tốt đẹp hơn.
Chúa Giêsu đã cho hơn 5000 người ăn no, trong khi các môn đệ bất lực muốn trốn chạy trước đám đông, vì sợ trách nhiệm. Ngài đã cho họ ăn no với những gì mà mọi người cho là nhỏ bé không thể làm gì được. Ngài đã nuôi sống họ, trong khi bao nhiêu người dường như tuyệt vọng. Ngài đã cho họ ăn no, vì các Tông Đồ biết tận dụng cơ hội: đó là biết vâng nghe Lời Ngài, biết cộng tác với Ngài. Ngài đã cho họ ăn no và dư thừa, vì có người đã biết đóng góp công sức nhỏ bé của mình với Ngài.
Họ đã đóng góp những chiếc bánh nhỏ để nuôi sống bản thân mà không tiếc nuối. Các Tông Đồ đã biết đóng góp công sức, bằng cách: vâng lời, ổn định trật tự dân chúng và đem phân phát những gì đã lãnh hận từ nơi Ngài. Của ăn Ngài ban luôn luôn dư thừa. Nếu con người biết tìm đến thì không bao giờ phải thiếu. Thế mà trong số những người được ăn no đó, được bao nhiêu người biết Ngài đã nuôi sống họ, được bao nhiêu người ý thức về của ăn mình vừa thưởng thức.
Không phải chỉ những người của ngày xưa mới như thế. Trải qua những năm dài của lịch sử. Những người của thế kỷ XXI cũng như đám đông của ngày xưa: họ cũng có những nỗi lo sợ cho sự thiếu thốn khi nhìn thấy sự bất lực của bản thân. Họ cũng lo sợ khi nhìn thấy trách nhiệm nặng nề trước mắt, nên họ tìm các trốn chạy. Họ sợ mất đi những gì nhỏ bé của mình nên họ không thể đóng góp. Còn hơn thế nữa, vì quá tự hào về sự hiểu biết của bản thân, nên họ không biết lắng nghe, càng không biết vâng phục vì họ cứ cho đó là những điều vô lý. Cũng vì sự ích kỷ, họ không biết phân phát những gì Thiên chúa trao ban và bảo phân phát.
Nên họ vẫn cảm thấy thiếu thốn, đói khát và không thể hành động theo như Lời Chúa bảo, ngay cả nơi những người chung quanh họ, những người mà họ có trách nhiệm cũng thế. Họ không nhận ra được cơ may mà họ có trong tầm tay. Họ cũng không biết dùng những gì mình đã được trao ban cho chính đáng. Của ăn Thiên Chúa ban vẫn dư thừa, trong bất cứ thời đại nào cũng thế. Ngay cả ngày hôm nay cũng vẫn còn có những người biết vâng nghe theo mệnh lệnh Chúa truyền, biết đóng góp phần nhỏ bé của mình, để họ không còn bất lực, không còn lo sợ, không còn trốn tránh trách nhiệm nữa, vì họ đã nếm được của ăn, họ đã tìm được sự sống, họ đã biết được Đấng ban của ăn cho mình.
Tất cả chúng ta đã được nuôi sống trong khi con người hoàn toàn bất lực. Chúng ta đã ăn Bánh Thiên Chúa đã trao ban, chúng ta đã nhận được Hồng Ân nuôi sống. Nhưng chúng ta có khi nào để một chút suy tư vào của ăn mà mình đã từng dùng đến. Một chút nữa đây, trong thánh lễ, chúng ta cũng nhận lấy của ăn, mà trước mắt con người thì đó dường như là một sự bất lực không thể nuôi sống được. Chúng ta có biết đóng góp phần nhỏ bé của mình để bánh nầy trở nên dư thừa trong đời sống của mình. Chúng ta có biết dâng những hy sinh, những khổ nhọc, những nghịch lý trong cuộc đời và hơn nữa chúng ta có biết phân phát những gì cần phải phân phát theo như Lời Chúa truyền dạy. Được như thế là chúng ta biết tận dụng những gì mình đang có, chúng ta biết dùng của ăn cách chính đáng. Đó là chúng ta đã trúng số đặt biệt của Nước Trời.
Xin Chúa cho chúng ta biết tìm của ăn đích thực mang sự sống đời đời cho mỗi người.
“Chúa cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng....họ phân phát cho dân chúng”.(Lc 9,16).
Bữa ăn, bữa Tiệc, với người Á Đông, người VN, rất quan trọng, vì thế mà tục ngữ VN có câu: THÁNHTHỂ-184
Bữa ăn, bữa Tiệc, với người Á Đông, người VN, rất quan trọng, vì thế mà tục ngữ VN có câu, “Trời đánh tránh bữa ăn”. Ngôn ngữ VN thường diển tả bữa ăn bằng những từ: ăn cưới – ăn giỗ – ăn tết – ăn hỏi – ăn đám. Những từ này nói lên Bữa Tiệc có tầm quan trọng lớn trong đời sống dân gian, chính vì thế người ta mới ví: Ông Trời có đánh ai cũng phải tránh bữa ăn của gia đình họ. Dĩ nhiên vì miếng ăn, cũng đã xảy ra những cuộc tranh chấp tồi tàn, “miếng ăn là miếng tồi tàn, mất đi một miếng lộn gan trên đầu”; nhưng nhìn chung, miếng ăn, hay bữa tiệc đều nói lên nguồn hạnh phúc, tình bác ái huynh đệ, sự đoàn kết của mọi thành viên đang tham dự…Còn hình ảnh nào hơn hình ảnh của một gia đình: cha mẹ, con cái đòan tụ bên mân cơm cười nói rôm rả, dù thức ăn không cao sang? Đây chính là hình ảnh của Bữa Tiệc Thánh Thể, chính Thịt Máu Chúa Giêsu muốn ban cho nhân loại sau này. Chúa Giêsu muốn nói đến qua bài Tin Mừng chúa nhật hôm nay…
a. Các Bữa Tiệc trong Kinh thánh là hình bóng của bữa Tiệc Thánh Thể: Tiệc Vượt Qua Cựu ước – Hóa bánh ra nhiều – Tiệc Ly Tuần thánh: Trước tiên, Tiệc Vượt Qua trong Cựu Ước: chính Môisen dạy dân chúng hàng năm cử hành Bữa tiệc này, tưởng nhớ việc Chúa cứu dân ra khỏi Ai cập. Đây chính là hình bóng của Bữa Tiệc Thánh Thể; Chúa Kitô chính là Con Chiên Tinh tuyền, không tỳ tích, Con Chiên vô tội, đã gánh tội trần gian. Kế đến, hai lần Hóa bánh ra nhiều: là để loan báo cho Bàn tiệc Thánh Thể, nơi đó Chúa Kitô không chỉ ban cho nhân loại bánh ăn nuôi thân xác, người sẽ ban cho họ thứ bánh có khả năng ban sự sống thật, sự sống vĩnh cữu trên Nước Trời. Sau cùng, Bữa Tiệc Ly: Chúa Kitô không chỉ ban cho nhân loại sự sống vĩnh cửu là Thịt Máu Chúa làm của ăn tại thế, Người còn loan báo Bàn Tiệc mới trong Vương quốc Thiên Chúa mai sau trên Nước Trời.
b. Tiệc Thánh Thể chính là Bữa Tiệc ban sự sống thần linh, nhờ đó người được lãnh nhận sẽ được hiệp thông với Thiên Chúa trong tình yêu, trở nên thân mật với Thiên Chúa, nên một với Thiên Chúa, như Công Đồng chung Vatican 2 nói: “con người được kết hợp với Thiên Chúa và liên kết với nhau, để cuối cùng, Thiên Chúa trở nên mọi sự trong mọi người.” (S.C. số 48).
Chúng ta thử nghĩ: Chúa Kitô lập BT. Thánh Thể để trở nên của ăn cho nhân loại và ở lại với họ, điều này quá đúng và quá thực tế! Cái ăn đối với con người là một nhu cầu quá lớn, không ai chối cải được. Chúa Kitô muốn Thịt Máu mình làm của ăn cho nhân loại, để được ở cùng nhân loại, đồng thời cũng loan báo hạnh phúc vĩnh cửu, Bàn Tiệc Thiên quốc, hay cuộc sống thật và hiệp thông viên mãn bên Thiên Chúa, điều đó không quá đúng và quá đánh động chúng ta sao? Có một tôn giáo nào dám đem lại cho con người hạnh phúc vĩnh cửu, chân thật và cụ thể như thế? Hay nói cách khác: chính vì Thiên Chúa là Đấng quá thánh thiện, quá tốt lành, nên Người muốn chia sẻ cuộc sống thần linh, hay cuộc sống quá sung mãn của Thiên Chúa cho nhân loại; Người không có cách nào khác hơn là lấy Thịt Máu mình làm của ăn nuôi họ, điều đó không đủ gây ấn tượng và cảm động cho ta sao? Chúng ta có tại sao Chúa Giêsu không dùng hình ảnh nào khác?
c. Gợi ý sống và chia sẻ
Chúng ta giữ đạo đã mấy mươi năm, biết bao lần rước Mình Máu Thánh Chúa, vậy mà hiện nay, sức sống của Chúa có tràn ngập trong ta, Tình yêu của Thiên Chúa có tràn đầy trong ta chưa? Hay ta cũng vẫn như vậy không có gì khác, như hồi nhỏ mình rước lễ vỡ lòng? Hội thánh qua 20 tk đã sống nhờ chính lương thực thần thiêng, mầu nhiệm nầy. Còn ta thì sao?
Hằng ngày trong cuộc sống, để biểu lộ niềm vui người ta thường tổ chức tiệc mừng. Tiệc mừng: THÁNHTHỂ-185
Hằng ngày trong cuộc sống, để biểu lộ niềm vui người ta thường tổ chức tiệc mừng. Tiệc mừng đôi nam nữ kết hôn, tiệc mừng gia đình vừa xây xong ngôi nhà mới, tiệc mừng thi đậu... Những bữa tiệc ấy dù có vui cách mấy thì cũng đến lúc tàn. Và rồi mọi sự đâu cũng vào đấy. Có một bữa tiệc hết sức trọng đại và bền vững hơn nhiều nhưng có khi chúng ta lại không ý thức đủ. Đó là tiệc Thánh Thể. Chính Thiên Chúa là Chủ tiệc. Của ăn và thức uống chính là Thịt và Máu Chúa Giêsu.
Trong bảy Bí tích Chúa Giêsu đã lập thì Bí tích Thánh Thể là quan trọng hơn hết. Vì qua Bí tích này Thiên Chúa ban cho chúng ta chính Chúa Giêsu là nguồn mọi ơn phúc. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết,vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống” (Ga 6, 54 - 55). Quả thật còn gì hạnh phúc khi một Vị Chúa đã tự nguyện và tự hiến chính mình làm của nuôi cho chúng ta.
Thịt và Máu là cái gì đó thiêng liêng và cao quý nhất của sự sống. Vì yêu thương và muốn cho chúng ta luôn được ở trong tình yêu ấy nên Thiên Chúa đã ban của nuôi quý giá ấy cho chúng ta. Người luôn muốn chúng ta được sống và được sống dồi dào (Ga 10, 10). Chúa Giêsu cũng đã nói: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy” (Ga 6, 56 - 57)
Hôm nay, qua đoạn Tin mừng Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi những người đi theo Người. Của ăn ấy không những đã làm cho họ hết đói mà còn no nê đến nỗi còn dư mười hai thúng. Đây là dấu chỉ cho biết những ai theo Chúa với lòng tin tưởng thật sự thì Người sẽ không để cho một ai phải thiếu thốn.
Bữa tiệc Thánh Thể được diễn ra mọi lúc mọi nơi khi Giáo hội họp nhau cử hành Thánh lễ. Giáo hội tạo mọi điều kiện thuận lợi để tất cả con cái đều được tham dự và rước lấy của nuôi thiêng liêng quý giá ấy. Dầu vậy nhiều lúc có thể chúng ta còn viện nhiều lý do để trốn tránh. Phải chăng chúng ta giống như những người mà Chúa Giêsu đã nói tới trong dụ ngôn những người khách được mời dự tiệc xin kiếu: “Một người kia làm tiệc lớn và đã mời nhiều người. Đến giờ tiệc, ông sai đầy tớ đi thưa với quan khách rằng: Mời quý vị đến, cỗ bàn đã sẵn. Bấy giờ mọi người nhất loạt bắt đầu xin kiếu. Người thứ nhất nói: Tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm; cho tôi xin kiếu. Người khác nói: Tôi mới tậu năm cặp bò, tôi đi thử đây; cho tôi xin kiếu. Người khác nói: Tôi mới cưới vợ, nên không thể đến được” (Lc 14, 16 - 20)
Thử hỏi, đóng vai trò chủ tiệc chúng ta sẽ cảm thấy thế nào khi những người được mời nhất mực từ chối. Chắc chắn chủ tiệc sẽ rất buồn và thất vọng. Ở đây nơi bữa tiệc Thánh Thể không những chẳng phải hao tốn gì mà chúng ta lại được bảo đảm có sự sống đời đời nữa.
Xin Chúa Giêsu ban thêm lòng tin và cho chúng ta biết quý trọng những Bữa Tiệc Thánh Thể.
Ngay từ thủơ tạo thiên lập địa, Thiên Chúa dựng nên con người và ban cho con người sự sống: THÁNHTHỂ-186
Ngay từ thủơ tạo thiên lập địa, Thiên Chúa dựng nên con người và ban cho con người sự sống của chính Thiên Chúa. Họ được thông ban sự sống thần linh, được đặt vào trong vườn địa đàng, được chăm sóc và cai quản mọi loài Chúa dựng nên. Họ được toàn quyền để phát triển sự sống của chính Thiên Chúa nhờ muôn vật Chúa ban trừ cây biết lành biết dữ. Trải qua dòng lịch sử, con người vẫn luôn ý thức rằng: sự sống của chính mình là sự sống của Thiên Chúa ban cho cho dù tội lỗi có là lu mờ đi niềm tín thác vào Thiên Chúa. Trong thời Tân Ước, Đức Giêsu đã đến để loan báo tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại, để khẳng định rằng con người luôn được Thiên Chúa yêu thương mặc cho tội lỗi có cản lối. Cao điểm của tình yêu Thiên Chúa là cái chết đau đớn của Con Thiên Chúa trên Thập giá, Ngài đã lấy hết máu và nước mình ra để minh chứng tình yêu. Yêu đến cùng cực, yêu đến điên cuồng. Tình yêu đó cũng được diễn tả cách đặc biệt bằng việc Đức Giêsu lấy thịt và máu mình để nuôi sống và cứu chữa nhân loại. Khi lập Bí Tích Thánh Thể trong bữa tiệc ly Đức Giêsu cầm lấy bánh và nói “Này là Mình Thầy”, và cầm lấy chén rượu và nói “ Này là Máu Thầy ” . Còn tình yêu nào cao hơn tình yêu Thiên Chúa trong việc Thiên Chúa hiến thân, hiến thân hoàn toàn cho nhân loại. Không phải trong bữa tiệc ly ChúaGiêsu cao hứng rồi lập Bí Tích Thánh Thể nhưng mặc khải Thiên Chúa ban Thịt và Máu Ngài cho nhân loại đã là ý định đời đời nơi Thiên Chúa và đã được mặc khải tiệm tiến trong Cựu Ước với việc Thiên Chúa ban Manna cho dân Do Thái trong sa mạc, ban cách dư tràn để nuôi dân chúng. Còn trong Tân Ước như trong bài Tin mừng hôm nay chúng ta đọc thấy Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều để nuôi dân chúng, họ đã ăn no nê mà lại còn dư đến 12 thúng đầy bánh vụn. Suy niệm bài Tin mừng hôm nay để chúng ta thấy được rằng Bí Tích Thánh Thể là bí tích tình yêu, một tình yêu nhưng không, một tình yêu tràn đầy.
Sau khi cho dân chúng no đầy thức ăn Lời Chúa và no đấy sức khoẻ thể lý bằng việc giảng dạy và chữa lành bệnh tật cho dân chúng thì đến lượt Chúa cho họ no đầy thức ăn để nuôi sống họ. Đọc Tin mừng ta thấy phát kiến nuôi đám đông dân chúng được đến từ Thiên Chúa, Ngài bảo #Chính anh em hãy cho họ ăn#. Trong tình yêu Ngài thấy được sự đói khát, sự thiếu thốn của dân chúng. Và Chúa Giêsu biết việc mình sắp thực hiện nhưng Chúa Giêsu mời gọi các tông đồ cộng tác với Ngài trong công việc của Ngài. Trong Bí Tích Thánh Thể Chúa cũng nhờ tay các linh mục sau khi đã truyền phép thì phân phát chính Thịt và Máu Chúa cho dân chúng. Con người không có khả năng đòi hỏi một điều vượt quá sự mơ tưởng của mình. Nhưng trong Bí Tích Thánh Thể Thiên Chúa chẳng những ban những ơn ban mà còn ban chính Đấng ban ơn là chính Ngài. Cả linh mục lẫn Kitô hữu đều lãnh nhận hồng ân cao vời được phát kiến từ tình yêu Thiên Chúa. Mặt khác, Bí Tích Thánh Thể còn là bí tích được ban các dư dật theo khả năng đón nhận của từng người. Trong bài Tin mừng hôm nay có một sự đổi khác : các môn đệ chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá nhưng sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ thì họ đã ăn no nê và dư 12 thúng đầy. Chúa Giêsu đã làm phép lạ nuôi sống sự sống thể lý cho dân chúng qua đó Ngài cũng muốn nói lên rằng Ngài cũng sẽ trở nên Bánh nuôi sống sự sống thần linh mà Thiên Chúa đã ban cho bằng Mình và Máu Chúa. Có thể nói cái cốt yếu là lãnh nhận hồng ân Chúa như thế nào bởi Thiên Chúa đã ban và luôn ban dư đầy.
Hôm nay lễ Mình và Máu Chúa Kitô, chúng ta hãy cảm nhận tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta đặc biệt nơi Bí Tích Thánh Thể . Có yêu thật thì mới dám chết cho người mình yêu, có yêu say đắm thì mới dám lấy thịt mình cho người yêu. Nơi Bí Tích Thánh Thể Thiên Chúa ban chính mình cho chúng ta, Ngài muốn hiện diện trong chúng ta, hành động trong chúng ta, chiến đấu cho chúng ta.. Sống mầu nhiệm Bí Tích Thánh Thể là sống bái ái yêu thương bởi ta đã lãnh nhận nhưng không từ Thiên Chúa thì cũng hãy biết cho nhưng không. Thiên Chúa đã yêu chúng ta đồng thời Ngài cũng yêu mọi người như chúng ta, nếu ta để Thiên Chúa hiện diện trong chúng ta thì lẽ gì mà chúng ta không yêu thương anh em đồng loại.
Sống mầu nhiệm Bí Tích Thánh Thể còn là sống đời sống vui tươi. Vui tươi vì được Thiên Chúa ở cùng, vui tươi vì ta được sống sự sống của chính Thiên Chúa.
Ai ăn thịt và uống máu Ta sẽ được sống đời đời" (Ga 6,59). Với niềm tin của người Kitô hữu thì THÁNHTHỂ-187
"Ai ăn thịt và uống máu Ta sẽ được sống đời đời" (Ga 6,59). Với niềm tin của người Kitô hữu thì Mình Máu Chúa trở nên lương thực thiêng liêng và là nguồn sống đời đời, nhưng với những người không phải là Công giáo thì họ không thể hiểu được ý nghĩa lớn lao của Bí tích này. Cụ thể, trong Tin mừng khi Đức Giêsu tuyên bố: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống" (Ga 6,51), thì Người Do Thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?". Từ thắc mắc này gợi lên cho chúng ta suy tư về mầu nhiệm Mình Máu Chúa mừng kính hôm nay.
Với cách nhìn của con người, việc ăn thịt người thật là ghê tởm, khủng khiếp quá, người Do thái thời Chúa Giê-su, họ coi máu là sự sống của con người, và chỉ có Thiên Chúa mới có quyền trên máu huyết. Cho nên, họ không ăn thịt sống khi có máu. Ngay cả chúng ta cũng khó hiểu, vì chẳng ai ăn thịt và uống máu người bao giờ. Người Do thái có lý để tranh luận với Chúa Giê-su. Và cuộc tranh luận đó càng trở nên sôi nổi và gây gắt, vì họ chỉ hiểu theo cách nhìn của con người, theo nghĩa thông thường, họ chưa thoát khỏi bởi thế giới của xác thịt. Trong khi đó, Chúa Giê-su muốn cho họ nhận ra Người, chính là gắn bó với Người, trở nên một với Người. Đó là đồng hóa bản thân với Người ngay trong thực hữu nhân loại của Người, thực hữu đã được ban tặng cho nhân loại trong cuộc sống và trong cái chết của Người. Như lời Đức Giêsu xác quyết: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống”.
Sau trận động đất ngày 17.1.1995 tại Kobe, Nhật bản, người ta phát hiện ra người mẹ và cô con gái bốn tuổi nằm ở dưới đóng gạch vụn. Cả hai mẹ con đã bất tỉnh. Sau đó, những người cứu hộ đưa cả hai mẹ con vào phòng cấp cứu, rất may là họ đã được cứu sống. Khi tỉnh lại, bác sĩ hỏi tại sao bà lại có vết thương và máu ở tay ra? Bà mới kể lại rằng: "Khi thấy con của tôi không còn gì để uống, tôi cũng không còn sữa cho con bú, và tôi cũng không biết tìm đâu ra thức ăn và nước để cho đứa con có thể sống, nên tôi đã lấy thanh sắt, rồi rạch mạch máu ở tay để lấy máu chảy ra cho đứa con uống." Bác sĩ hỏi thêm rằng, bà có biết làm như vậy là nguy hại đến tính mạng của mình không?. Bà ta trả lời: "Lúc đó, tôi không nghĩ đến tính mạng mình nữa, tôi chỉ mong sao cho con tôi được sống". Hình ảnh người mẹ hy sinh mạng sống cho đứa con của mình xuất phát từ tình yêu sâu thẳm của tình mẫu tử. Đứa con sống được là nhờ máu của người mẹ.
Câu truyện có nhiều ý nghĩa về tình yêu dâng hiến, và nó cũng có thể minh họa cho chúng ta những điều khó hiểu về mầu nhiệm Mình Máu Chúa mà chúng ta lãnh nhận mỗi ngày. Hơn nữa, chúng ta có thể hiểu được lời Chúa Giê-su nói rõ ràng nhất, chính là qua thập giá của Ngài. Cái chết của Chúa Giê-su là bằng chứng sống động và là nguồn ơn cứu độ cho con người. Trong bữa tiệc ly, Chúa Giê-su cầm bánh dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra trao cho các môn đệ và nói:" Anh em hãy cầm lấy mà ăn, này là mình Thầy"; và Người cầm lấy chén rượu và đọc:" Đây là máu Thầy, máu giao ước mới sẽ đổ ra cho các con".
Cho nên, mỗi lần chúng ta tham dự thánh lễ là chúng ta tham dự vào hy tế của Chúa Giê-su được tái diễn lại trên bàn thờ, mà chính Chúa Giê-su đã thiết lập Bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly trước khi đi vào cuộc khổ nạn.
Cho nên, Bí tích Thánh Thể là trung tâm của đời sống Kitô hữu, và tấm bánh đó được bẻ ra để phân phát cho mọi. Điều đó được diễn tả trong Tin mừng hôm nay. Khi đám đông theo Chúa vào trong hoang địa không có gì để ăn, thì Ngài thấy họ đói thì chạnh lòng thương, và bảo các tông đồ: "Các con hãy cho họ ăn đi". Các ông trả lời: "Chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá, trừ phi chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám đông này". Số đàn ông độ năm ngàn. Người nói với các môn đệ rằng: "Hãy cho họ ngồi xuống từng nhóm độ năm mươi người". Các ông đã làm như thế, và bảo tất cả ngồi xuống. Chúa Giêsu cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, nhìn lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và phân phát cho các môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Tất cả đều ăn no nê, và người ta thu lượm được mười hai thúng miếng vụn còn dư lại. Phép lạ hóa bánh ra nhiều không chỉ cho chúng ta thấy được quyền năng của Thiên Chúa mà còn là thể hiện tính hiệp nhất, liên đới giữa Thiên Chúa với con người mà Ngài ban cho chúng ta sự sống đời đời. Chúa Giê-su nói:" Cũng như Cha, là Đấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Đây là bánh bởi trời xuống. Không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết, ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời." ( Ga, 6,57-58)
Lạy Chúa, xin cho con biết siêng năng rước mình Thánh Chúa mỗi ngày để làm của ăn lương thực nuôi dưỡng đời sống tâm linh của chúng con, và xin cho con trở nên tấm bánh cho những người anh chị em đang sống bên cạnh con. Chỉ có Ngài là sự sống đích thực cho con. Amen.
Trên thế giới ngày nay đang xảy ra hai sự kiện rất thời sự, nhưng cũng rất bi thảm và chua cay: THÁNHTHỂ-188
Trên thế giới ngày nay đang xảy ra hai sự kiện rất thời sự, nhưng cũng rất bi thảm và chua cay: đó là cảnh một số người dư tiền thừa của, ăn uống lu bù… Và bên cạnh đó, một thảm cảnh trái ngược khác: đó là hàng triệu người thiếu ăn, hay không có gì để ăn… Ngay hôm nay đây, có những vùng rộng lớn trên thế giới-như Phi Châu- đang thiếu ăn đến độ không sống nổi, bên cạnh những người khác đang phung phí tiền của một cách phi nhân… Ăn uống tràn trụa, ăn chọ bội thực, ăn quá mà chết, và người ta đã chết vì ăn quá nhiều cũng như biết bao nhiêu người khác đã chết vì không có gì ăn!..
Trong hai thực trạng bi thảm đó, có chung hậu quả nầy là: cái chết. No quá mà chết. Đói quá mà chết. Tại sao lai# chết? Vì hai nhu cầu không được đáp ứng: nhu cầu thứ nhất, người ta muốn biết sống để làm gì? Tại sao lại sống? Vì thấy đời sống phi lý, nên người ta ăn để mà chết, ăn cho nó nổ tung cái bụng ra cũng được! Nhu cầu thứ hai, người ta muốn có cái gì ăn để sống. Sống bằng cái gì? Câu hỏi nầy lệ thuộc hoàn toàn vào câu hỏi thứ nhất: sống để làm gì? Qua Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu trả lời: người ta sống với nhau và chia sẻ với nhau. Thánh Thể Chúa ban cho chúng ta để thúc đẩy chúng ta chia sẻ tình yêu với anh em của mình. Nếu chúng ta thực hiện được điều nầy là giải quyết được nạn đói trên thế giới.
Trong thư gửi tín hữu Côrintô, Thánh Phaolô vừa cho chúng ta một chứng cớ rất xa xưa về Bí tích Thánh Thể, “Bữa tiệc của Chúa”. Bốn sách Tin Mừng cũng ghi lại những nét chính yếu về Bữa Tiệc nầy. Các tín hữu Côrintô vẫn hội họp nhau để cử hành “Bữa tiệc của Chúa”, nhưng Thánh Phaolô thấy chẳng có vẻ gì là “Tiệc của Chúa” cả. Gần giống các bữa tiệc tôn giáo của dân ngoại, bởi vì ai đến dự cũng đem phần ăn riêng của nhà mình đến. Người có nhiều thì ngồi chung với nhau ăn nhậu say sưa thoải mái, bên cạnh đó những người nghèo hơn đem theo phần ăn ít ỏi hay chẳng có gì, ôm bụng đói meo ngồi chờ… Người ta chỉ mương “Nhà của Chúa” để đem đồ ăn của “nhà mình” đến ăn nhậu. Người ta lợi dụng buổi lễ tôn giáo để ăn uống chứ không cử hành “Bữa ăn tối của Chúa” nữa.
Vì vậy, để sửa dạy giáo dân của ngài, thánh Phaolô phải nhắc lại thế nào là “bữa ăn” đích thực của Chúa. Ngài làm cho họ nhớ lại điều ngài đã nhận được nơi Chúa Giêsu để truyền lại cho tín hữu, đó là: Trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu đã cầm lấy bánh và tạ ơn xong, Ngài đã bẻ ra trao cho các môn đệ mà nói: “Nầy là Mình Thấy sẽ bị nộp vì anh em”. Cũng vậy, sau khi dùng bữa tối, Chúa Giêsu cầm chén rượu trao cho các ông mà nói: “Chén này là Giao Ước mới trong Máu Thầy. Anh em hãy làm lại việc nầy mỗi khi uống mà nhớ đến Thầy”.
Chỉ trong mấy câu vắn tắt, Thánh Phaolô đã thuật lại tất cả sự thật. Ngài nói rõ việc đó xảy ra trong đêm Chúa Giêsu bị nộp. Cho nên việc ban bánh rượu nầy cho các môn đệ gắn liền với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Và “Bữa ăn của Chúa” luôn luôn mang sắc thái của Bữa Tiệc Ly cũng là Bữa Tiệc Vượt Qua của người Do Thái. Trong Bữa Tiệc Vượt Qua nầy, việc giết một con chiên để lấy máu bôi lên cửa là việc cốt yếu. Vậy mà khi chia bánh rượu cho môn đệ, Chúa Giêsu lại nói: “Đây là Mình Ngài sẽ bị nộp và đây là Máu Ngài sẽ đổ ra”. Rõ ràng Chúa Giêsu đã tự coi, tự biến mình nên Chiên Vượt Qua để đem đến ơn cứu độ mà các tiên tri từng loan báo. Ngài đã thay thế Bữa Tiệc Vượt Qua của người Do Thái bằng Bữa Tiệc của Người hôm nay.
Vậy mà giáo dân Côrintô đâu có làm như vậy. Thánh Phaolô phải bảo họ: “Mỗi lần anh em ăn bánh và uống chén nầy, anh em loan báo cái chết của Chúa cho đến khi Ngài trở lại. Anh em làm bất xứng thì sẽ mắc tội đối với Mình và Máu Chúa”. Những lời nầy tuyên bố rõ ràng có sự hiện diện của Chúa nơi Thánh Thể. Bánh và rượu đã trở nên Mình và Máu Chúa. Nhưng mục đích của Thánh Phaolô không phải chỉ nói đến sự hiện diện của Chúa nơi Thánh Thể mà còn khuyên chúng ta vì tính chất linh thiêng của bữa ăn như vậy, nên phải cử hành Tiệc Thánh để gia tăng tình yêu: Bữa ăn của Chúa phải là bữa ăn huynh đệ.
Đây mới là ý nghĩa của bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe: Trước khi làm phép lạ nhân bánh ra nhiều để nuôi 5.000 người an, chưa kể đàn bà và trẻ em, Chúa Giêsu bảo các tông đồ: “Anh em hãy cho họ ăn đi!”. Các ông ngạc nhiên, lúng túng và bắt đầu tính toán: chúng ta chỉ có năm cái bánh và hai con cá; hay là phải đi mua thức ăn cho cả đám đông nầy? Làm sao nuôi nổi tới năm ngàn đàn ông, còn đàn bà và trẻ em chưa kể? Chỉ mua bánh cũng phải tốn ít ra là 200 đồng. Nhưng mua ở đây vì đây là hoang địa? Chính Philip là người đang cố tìm câu trả lời. Các ông định giải tán dân chúng để họ tự tìm lấy thức ăn và chỗ ở cho yên chuyện, vì trời sắp tối rồi. Thấy các ông thú nhận sự bất lực của mình, Chúa Giêsu bảo các ông chia đám đông thành từng tổ 50 người, rồi Ngài lại cầm lấy bánh và cá, chúc tụng Chúa, bẻ ra và trao cho các ông đem phân phát cho dân chúng. Tất cả mọi người đều được ăn no và cuối cùng còn thu lại được 12 thúng bánh vụn.
Những điều đó đáng chúng ta suy nghĩ. Trong Bàn Tiệc Thánh Thể, Chúa muốn chúng ta phải biết nghĩ đến nhu cầu cảu anh em. Có thể chúng ta bất lực, nhưng Chúa sẽ giúp. Máu Thịt Ngài, Ngài còn trao cho chúng ta để chia sẻ huống nữa là của cải vật chất và tài năng tự nhiên mà Chúa đã đặt trong tay mỗi người chúng ta. Chúng ta sợ mất mát thiệt thòi sao, khi thấy cuối cùng còn thu lại được mười hai thúng bánh dư thừa?
Vì vậy, hôm nay chúng ta phải đi từ bàn tiệc của Chúa đến bàn ăn của anh em; đi từ chia sẻ Mình Thánh Chúa đến chia sẻ tình hiệp thông bác ái huynh đệ trong việc xây dựng đời sống cụ thể: cơm ăn, áo mặc, nhà ở… cho mọi người. Chắc chắn Giáo Hội ban đầu đã hiểu rằng bàn tiệc của Chúa cũng phải là bàn tiệc huynh đệ, nên khi cử hành Mầu nhiệm Thánh Thể, Giáo Hội cũng tổ chức việc chia sẻ nâng đỡ đời sống vật chất. Giáo Hội Côrintô đã quên việc hiệp thông huynh đệ trong Bữa Tiệc Thánh Thể, nên Thánh Phaolô đã khiển trách họ nặng nề: “Họ vẫn chia rẽ nhau, vẫn không chia sẻ cho nhau; người giàu thì ăn uống no say, còn người nghèo thì ôm bụng đói meo ngồi chờ” (1Cr 11).
Người ta phải sống với nhau và chia sẻ cho nhau. Chúng ta sốt sắng dự lễ, rước lễ, tôn thờ Thánh Thể, nhưng chúng ta có biết chia sẻ với nhau một cách thực tế không, để trên thế giới ngày nay không một ai phải thiếu thốn quá, đang khi những người khác thì no đầy; để không còn xảy ra thảm cảnh những người chết vì bội thực bên cạnh những người chết vì không có gì để ăn!
Nơi Bàn Thánh chúng ta được nuôi dưỡng bằng sự sống của Chúa. Sự sống mới nầy phải đưa chúng ta đến với anh em và chia sẻ với anh em. Các bí tích không phải là những phương tiện để chúng ta được cứu sống mà còn để chúng ta thành những người đi cứu hộ kẻ khác nữa. Bởi đó, tất cả những gì làm cho mọi người liên kết, hoà hợp, yêu thương nhau phải thúc đẩy chúng ta không ngừng. Chúa Giêsu đã không chết vì hận thù, nhưng Ngài chết vì tình yêu, thì trong Bữa Tiệc Thánh Thể nầy Chúa Giêsu cũng muốn dạy chúng ta phải biết sống và chết vì tình yêu như Ngài.
Vào lúc này hay lúc khác, tất cả chúng ta không được ai biết đến hoặc làm lơ. Điều ấy làm: THÁNHTHỂ-189
Vào lúc này hay lúc khác, tất cả chúng ta không được ai biết đến hoặc làm lơ. Điều ấy làm chúng ta rất khổ sở. Chúng ta cảm thấy việc chúng ta làm không được thừa nhận và chính chúng ta bị đối xử như thể chúng ta thật sự không có gì đáng kể. Nhưng có một điều còn tệ hơn việc chúng ta không được biết đến. Chúng ta có thể bị bỏ quên. Điều này còn làm chúng ta khổ sở hơn. Điều đó không chỉ ở chúng ta có ít giá trị mà ở chỗ không có giá trị nào cả. Như thể chúng ta đã không hiện hữu.
Đức Giêsu cũng muốn đước tưởng nhớ. Đêm trước khi Người sắp chết, khi Người ngồi ăn với các môn đệ, Người cầm lấy bánh và nói: Đây là mình Thầy bị nộp vì các con: Rồi Người cầm lấy chén rượu nho và nói: “Này là chén máu Ta… Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”.
Dĩ nhiên, Đức Giêsu không đòi các môn đệ tưởng nhớ chỉ vì nhu cầu riêng của Người. Người cũng nghĩ đến các môn đệ của Người. Họ cũng cần nhớ đến Người. Vì tình yêu của Người đối với họ. Người đã để lại cho họ một phương thế đặc biệt để họ nhớ Người tức là Thánh Thể.
Mỗi lần chúng ta cử hành Thánh Lễ, chúng ta nhắc lại một vài việc làm và lời nói kỳ diệu của Người. Chúng ta suy nghĩ về những điều ấy và áp dụng vào đời sống chúng ta. Nhưng Thánh Lễ còn kỳ diệu hơn thế nữa. Khi chúng ta nhớ đến theo cách ấy, Người trở nên hiện diện với chúng ta. Không phải bằng thể chất, nhưng là hiện diện thật.
Qua Thánh Thể một dây liên kết được hình thành ở giữa chúng ta, với kết quả là chúng ta có thể bước vào sự thân mật sâu xa với Người hơn cả khi Người hiện diện bằng thể chất. Chúng ta không chỉ giao tiếp với Người nhưng ở trong sự hiệp thông với Người, một sự hiệp thông thánh thiện.
Trí nhớ là một khả năng quý giá. Nó liên kết chúng ta với người khác và các biến cố không còn hiện diện với chúng ta nữa. Nếu chúng ta ap ủ hồi ức về những người chúng ta yêu mến, họ trở nên hiện diện với chúng ta. Họ không chỉ là một hồi ức nhưng còn là một sự hiện diện mà chúng ta cảm thấy hơn là nhìn thấy. Khi tưởng nhớ đến họ, chúng ta tiếp tục thu hoạch một mùa gặt từ những gì họ đã gieo trồng khi họ còn sống giữa chúng ta.
Tưởng nhớ đến Đức Giêsu còn sinh lợi hơn biết bao, đặc biệt trong cách mà Người yêu cầu chúng ta nhớ đến Người.
Chiều sắp tàn, nhà thì xa, và dân chúng đều mỏi mệt, đói bụng. Lạ thay Chúa Giêsu truyền cho: THÁNHTHỂ-190
Chiều sắp tàn, nhà thì xa, và dân chúng đều mỏi mệt, đói bụng. Lạ thay Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ phải lo cho dân chúng ăn. Có hai cách suy gẫm phép lạ này. Thứ nhất, hiểu đơn giản đây là một phép lạ Chúa Giêsu đã thật sự làm ra thức ăn cho đám người đông đảo này. Thứ hai, có người nghĩ sự việc xảy ra như sau. Dân chúng đói, và họ rất mực ích kỷ. Tất cả đều có đem thức ăn theo, nhưng mỗi người cứ giấu kín vì ngại phải chia sẻ cho người khác. Mười Hai Tông Đồ đem đặt trước mặt dân chúng phần ăn ít ỏi của họ, việc đó đã làm động lòng dân chúng khiến ai nấy cũng bày phần ăn của mình ra, sau cùng mọi người đều có thức ăn dư dật. Khi Chúa cải hoá một số người ích kỷ, nghi ngờ trở thành những người rộng rãi, thì đó là phép lạ vì người ta được thúc đẩy bởi Chúa Giêsu mà có được tấm lòng muốn chia sẻ của cải cho anh em.
Thật ra, nhan định như vậy thì người đó quá chủ quan. Làm sao một câu chuyện như vậy có thể xảy ra lại được ghi trong Kinh Thánh và được cả Hội Thánh sơ khai bàn đến, học hỏi rất nhiều. Tất cả đều công nhận đó là phép lạ Chúa hoá bánh nuôi năm ngàn người (không kể đàn bà con nít, theo văn hoá thời bấy giờ). Tác giả các sách Phúc Âm ghi lại những điều này nhằm nhắc nhở dân Chúa vững tin rằng Chúa luôn thoả đáp nhu cầu của loài người trong lúc họ cần.
Trước khi phân phát thức ăn, Chúa Giêsu đã chúc phúc trên thức ăn, Ngài nói lên lời cảm tạ. Châm Ngôn Do Thái có câu: “Kẻ nào hưởng dùng của gì mà không cảm tạ khác nào kẻ ấy ăn trộm của Chúa”. Lời chúc tụng tạ ơn được đọc trong mỗi gia đình ở xứ Palestine trước mỗi bữa ăn như sau: “Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con và là Vua trần gian, ca ngợi Ngài là Đấng làm cho đất sinh ra bánh”. Hẳn Chúa Giêsu không bao giờ ăn món gì mà không cảm tạ Đấng đã ban mọi ơn lành. Đây là một câu chuyện dạy dỗ chúng ta nhiều điều:
1. Chúa Giêsu xúc động vì thấy dân chúng đói.
Thật thích thú cho chúng ta khi cố gắng tìm hiểu Chúa Giêsu đã dành bao nhiều thì giờ, không phải để giảng, nhưng để làm giảm bớt đau khổ của đoàn dân và cho họ được ăn no. Chúa Giêsu còn chờ đợi sự giúp đỡ của bàn tay loài người. Người mẹ dành cả đời mình để làm việc nội trợ phục vụ gia đình, cô y tá, vị bác sĩ, người bạn thân, người bà con đã hy sinh thì giờ và đời sống để xoa dịu đau khổ cho người khác, các nhà cải cách xã hội đã hy sinh tất cả để tìm kiếm cho loài người một cuộc sống tốt hơn –họ thật đã giảng cách có hiệu quả vượt xa những nhà hùng biện tài ba.
2. Sự giúp đỡ của Chúa Giêsu thật rộng lượng.
Sự giúp đỡ của Ngài thật đầy đủ và dư dật. Tình yêu không tính toán thiệt hơn. Chúa như thế đó. Khi chúng ta gieo giống, thường chúng ta phải nhổ tỉa bớt cây con cho trống bớt và đôi khi số cây con ném bỏ còn nhiều cây hơn số cây giữ lại. Thiên Chúa đã dựng nên thế giới có thừa của cải để nuôi mọi người nếu loài người sẵn lòng chia sẻ cho nhau.
3. Bao giờ cũng có một chân lý vĩnh cửu nằm trong tay một hành động thoáng chốc.
Trong Chúa Giêsu, mọi nhu cầu của loài người đều được tiếp trợ. Có sự đói khát của linh hồn, trong mỗi con người thỉnh thoảng có một niềm khao khát được gặp một ai đó mà mình có thể gửi gắm cuộc đời. Tâm hồn chúng ta không bao giờ nghỉ yên cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa. Phaolô đã nói: “Thiên Chúa sẽ tiếp trợ mọi sự cần dùng của anh em” (Pl 4,19) dầu trong những chỗ hoang vắng.
Phép lạ về bánh rất ăn khớp với mạch văn. Ngoài việc nó được đưa vào một cách hợp lý –ngày: THÁNHTHỂ-191
Phép lạ về bánh rất ăn khớp với mạch văn. Ngoài việc nó được đưa vào một cách hợp lý –ngày đã bắt đầu tàn, phải nghĩ đến chuyện ăn uống- trình thuật sắp gián tiếp trả lời cho câu hỏi mà Hêrôđê tự đặt ra cho ông; nếu không có một tước hiệu nào được gán cho Chúa Giêsu ở đây, thì dấu chỉ lạ lùng Ngài đã thực hiện cũng đưa nhóm Mười Hai (và độc giả) vào đúng hướng. Duy nhất chỉ có phép lạ này trong suốt sứ vụ ở Galilê, được tường thuật trong ba bản Nhất Lãm mà cũng thấy có cả ở Gioan nữa. Hơn thế, Mc 8,1-10, được Matthêu lấy lại, có một bản dịch với bảy bánh, bảy thúng và bốn ngàn người. Như vậy, được thuật lại sáu lần trong các Tin Mừng, “phép lạ làm quà” này theo một sơ đồ mà cách Các Vua đã sử dụng tới ba lần khi nói về Êlia và Êlisê: dù người ta không đòi hỏi, vị ngôn sứ đã do sáng kiến của riêng mình mà trao tặng những của cải vật chất (bột mì, dầu, bánh) một cách kỳ diệu. Người ta cũng nhấn mạnh đến sự dư dật của quà tặng. Trong trình thuật mà bản văn chúng ta cảm hứng theo, chính Êlisê tuyên bố: Chúa phán như thế này: Người ta sẽ ăn no mà còn dư thừa (2V 4,43 xem cả ở 1V 17,14). Trái với đoạn văn song song của Ga 6, Luca không đọc ở phép lạ hoá bánh theo ánh sáng của các trình thuật thời xuất hành nói về manna và ông cũng không trình bày Chúa Giêsu như Môsê mới trao ban bánh của thời kỳ cuối cùng.
Ngày đã bắt đầu tàn. Về mặt thời gian, ghi chú này cũng là một thoáng nhìn đầu tiên hướng về bữa ăn ở Emmas (24,29) sẽ được nói rõ hơn trong phần tiếp theo của bản văn. Tính cách cho không của dấu chỉ mà Chúa Giêsu sắp làm đến từ sự kiện là nếu địa điểm là nơi hoang vắng, cũng có các làng mạc và nông trại quanh đây; nhóm Mười Hai có thể đi mua thực phẩm dù đó là một chi phí khá lớn (c.13). Trong khi giải quyết vấn đề thực phẩm, phép lạ sắp xảy ra không giải quyết vấn đề chỗ ở, như cũng đã được nhắc đến… Lời đối đáp của Chúa Giêsu giống như lời của Êlisê (2V4 – Lc 9,13-17). Tính cách lớn lao của quà tặng được ban phát đến từ sự khác biệt giữa những con số; Chúa Giêsu là một Ngôn Sứ vĩ đại đến độ ta không thể so sánh Êlisê với Ngài được.
Lệnh được ban các môn đệ bảo mọi người ngồi xuống làm cho các ông đóng vai trò trung gian. Các ông đã trình bày với Thầy về nhu cầu của đám đông (c.12); trong chốc lát; họ sẽ đưa bánh và cá từ bàn tay Chúa Giêsu đến cho dân chúng. Trình thuật không chứa đựng lời tiên tri để nói lên ý nghĩa của những gì đang xảy ra (khác với 1V 17,14; 2V 4,13); ý nghĩa được cung cấp cho độc giả bằng bốn trong năm đương thời mô tả những cử chỉ của Chúa Giêsu. Cầm lấy, tạ ơn (ở đây là dâng lời chúc tụng), bẻ ra, trao cho là những từ ngữ dùng cho bữa tiệc cuối cùng ở 22,19. Màu sắc của phép lạ còn rõ nét hơn khi Luca dùng những từ ngữ “bẻ ra / bẻ bánh” để chỉ những buổi tiệc Thánh Thể của Giáo Hội (24,30.35; Cv 2,42-46). Hơn nữa, không có từ “tăng lên nhiều”; chỉ có chuyện bẻ ra và phân phát bánh thôi. Được nhắc đến hai lần, nhưng các con cá lại ở vào thế phụ thuộc, vì lý do các động từ liên quan đến bữa tiệc Thánh Thể được dùng ở đây. Cuối cùng nơi mà năm trình thuật khác trong Tin Mừng nhắc đến “chúc tụng Chúa” hoặc “tạ ơn Chúa”, chỉ có Luca nói chúc lành cho thực phẩm. “Bằng lời chúc lành”, Chúa Giêsu chuyển trao sức mạnh của ngài sang bánh và cá như khi chữa bệnh, một quyền năng xuất phát từ Ngài và làm cho phép lạ xảy ra (F. Bovon). Trái với các trình thuật chữa bệnh, ở đây không có thể phát biểu ý kiến về biến cố dựa trên một trình thuật như thế.
2V 4,44 ghi chú: “Tên đầy tớ phân phát trước mặt mọi người: họ đã ăn và còn dư lại theo lời Thiên Chúa”. Ở đây cũng vậy, thêm vào việc mọi người ai nấy được no nê là còn thừa những miếng bánh đã bẻ ra (dịch sát: những miếng vụn, cũng là một từ của bữa tiệc Thánh Thể); tất cả là mười hai thúng. Cuối cùng thì mỗi người trong nhóm Mười Hai (xc.12) mang một thúng đầy. Như vậy là một cách đọc có tính tượng trưng đã rộng mở…
Không hề có một phản ứng nào về phía đám đông, dường như họ không biết đến những gì vừa xảy ra. Trái lại, phản ứng của nhóm Mười Hai sẽ xảy ra ngay tức khắc; phép lạ hoá bánh ra nhiều chuẩn bị cho lời tuyên xưng của Phêrô liền ngay sau đó.
Hôm nay là “Lễ Mừng Thiên Chúa"! Từ đó xem ra kỳ lạ, nhưng được tuyển chọn để nói lên: THÁNHTHỂ-192
Hôm nay là “Lễ Mừng Thiên Chúa"! Từ đó xem ra kỳ lạ, nhưng được tuyển chọn để nói lên mầu nhiệm “Mình và Máu Đức Kitô”, là dấu chi vĩ đại, là bí tích thiêng thánh của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Vì thế để gợi lên cho ta thấy bí tích Thánh Thể quan trọng này, Giáo hội đã chọn, để năm nay chúng ta đọc lại một phép lạ liên hệ đến "vật chất": đó là phép lạ hóa bánh ra nhiều. Làm như thế có phải là giảm nhẹ mầu nhiệm không? Có lẽ đó là điều gây cho ta nhiều ngỡ ngàng. Với tinh thần duy lý, chúng ta không thường hiểu sai, khi muốn vật chất hóa bánh ra nhiều một cách triệt để, hãy thiêng liêng hóa bữa tiệc Thánh Thể đến cùng sao? Thực sự, chúng ta sẽ nhận ra rằng, hai thứ bánh đó liên kết với nhau. Để nói lên Đức Giêsu cho đám đông dân chúng đói bụng ăn no nê, Luca sử dụng chính những công thức của Bữa Tiệc ly... Nhưng ông cũng sẽ diễn tả Thánh Thể như một bữa ăn huynh đệ, đòi phải phục vụ lên nhau cách cụ thể.
Có lẽ chúng ta cần nhận ra rằng, "bánh của Thiên Chúa” đòi ta phải thương tới anh em mình, tới "bánh của con người”... hoa quả và ruộng đất công lao của con người! Vì lòng thương yêu chúng ta, khi trao nộp Mình và Máu Ngài, Đức Giêsu đã mời gọi chúng ta hãy làm như thế. Làm sao Thánh Lễ của chúng ta lại có thể thoát ra ngoài thế gian được?
Đức Giêsu đã nói với đám đông về nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được chữa.
Ngay những lời mở đầu, Luca đã tiếp tay rất nhanh, để độc giả của ông, những Kitô hữu sống Thánh Thể mỗi Chúa Nhật, hiểu rõ ý nghĩa biểu tượng của trình thuật ông sẽ kể. Cũng như trong thánh lễ, bữa ăn mà Đức Giêsu sắp cống hiến cho đám đông, bắt đầu bằng một "Phụng vụ Lời Chúa". Cần phải hiện diện tại đó ngay từ đau để được dưỡng nuôi bằng chính Giêsu đó, Đấng "nói về nước Thiên Chúa" và "chữa lành những ai cần được chữa". Phải, dấu chỉ của bánh che giấu một khuynh hướng biểu tượng sâu sắc mà ta cần phải hiểu ý nghĩa vượt trên thực tại vật chất trực tiếp. Lương thực sắp được trao ban, không chỉ nhằm tới làm dịu cơn đói phần xác, dù rằng trước hết nó đóng vai trò đó. Con người không chỉ sống bằng cơm bánh! Cơn đói khát của con người không phải chỉ là những lương thực trần gian. Lát nữa họ có nhận ra Đấng sẽ ban cho họ "bánh bởi trời" (Ga 6) không?
Đức Giêsu "nói đến nước Thiên Chúa". Do đó, đây là Lời giải thoát con người, là Ngoi Lời cứu độ con người, là sứ điệp mở lối cho con người tới Thiên Chúa. Hỡi con người giá như người biết nhu cầu đích thực của ngươi? Giá như ngươi biết rằng, sự "no thỏa" duy nhất và thực sự của người là chính Thiên Chúa. Người được tạo thành để hưởng hạnh phúc vô biên, mà các hạnh phúc trần gian chỉ là một thứ hình ảnh mờ nhạt. Vậy, bạn đừng hài lòng vì những thứ bánh ngọt, món rau đỗ, hay món thịt bò với khoai tây rán...
Đức Giêsu "chữa lành những ai cần được chữa". Đó là kiểu nói đầy tính mạc khải. Luca biết rằng có lẽ mọi người đều cần đến việc chữa lành như trên, mà Đức Giêsu sẽ mang đến. Nhưng rõ ràng, có quá nhiều người còn đang đóng kín trong tiểu vũ trụ con Người riêng tư của họ, thường không cảm nhận được những giới hạn sâu xa của mình, như tội lỗi và định mệnh phải chết. Họ cứ tưởng mình là “mạnh khỏe"! Thế mà, Đức Giêsu không đến với người mạnh khỏe, những kẻ công chính, nhưng đến với kẻ đau bệnh và tội lỗi (Lc 5, 31). Đó thực là "hồng ân cứu độ của Thiên Chúa, sắp được biểu trưng trong lương thực mầu nhiệm có sức làm no thỏa và vô cùng phong phú... mà Đức Giêsu (theo tiếng Hê-brơ danh của Ngài có nghĩa là "Thiên Chúa cứu độ") sẽ trao ban cho "những ai cần đến"! phần tôi, tôi có thuộc vào những người đó không?
Ta cũng đã thấy, tại điểm nào mà kiểu giải thích nhằm đơn giản hóa sự việc, muốn tìm hết cách để hợp lý hóa phép lạ, và cố nói lên rằng, Đức Giêsu đã thuyết phục dân chúng để họ đưa ra những đồ dự trữ mà họ cất giấu, do đó gợi lên một thái độ chia sẻ chung. Kiểu giải thích này không nghiêm chỉnh. Nó biến Tin Mừng thành một thứ tiểu thuyết màu mè, dù đã đưa ra được một bài học liên đới khá tốt.
Cũng thật là ấu trĩ khi nghĩ rằng, Chúa là Đấng không ngừng làm cho các đồng bắng trên thế giới đẫy rẫy những mùa gặt từ vài hạt lúa, lại có thể gặp lúng túng khi hóa bánh ra nhiều từ năm chiếc bánh... Thánh âu Tinh đã phát biểu như thế.Nhưng chúng ta hãy đi xa hơn. Nếu đó là ơn cứu độ, là sự sống đời đời, thì chỉ mình Thiên Chúa mới có thể ban tặng "Hỡi con người nếu ngươi nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban" (Ga 4, 10). Ôi, hỡi chị phụ nữ xứ Samari, cơn khát khao của chị không phải là cơn khát ở nước giếng này! (Ga 4,15) Còn tôi, tôi có đói khát không?
Ngày đã bắt đầu tàn. Nhóm Mười Hai đến bên Đức Giêsu thưa người rằng: "Xin Thầy cho đám đông về, để họ vào làng mạc nông trại quanh đây, tìm chỗ trọ và kiếm thức ăn, vì nơi chúng ta đang ở đây là nơi hoang vắng…".
Vẫn là nết nhạy bén của Luca. Dừng lại những chi tiết vật chất của cảnh tượng trên, có nghĩa là bỏ quá điều cốt yếu. Làm sao những người quen thuộc Kinh Thánh lại không nhận ra trong thứ bánh được trao ban cho dân chúng “trong hoang địa": Một nhắc nhở đến phép lạ "man na" kỳ diệu trong Xuất Hành? Đức Giếsu là Môsê mới, "nhà giải phóng” mới, Đấng,"cứu khỏi vùng đất tử thần" hoang địa!
Không phải nhờ đi đến các nông trại làng mạc mà đám đông được cứu sống... nhưng chính là nhờ ở lại với Đức Giêsu! Hỡi các tông đồ, các ông đã nhầm lẫn khi kiếm tìm giải pháp trong phạm vi nhân loại.
Nhưng Đức Giêsu bảo: "Chính anh em hãy cho họ ăn. Các ông đáp: “Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá... trừ phi chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám dân này". Quả thực, có tới chừng năm ngàn đàn ông. Đức Giêsu nói với các môn đệ: "Anh em hãy cho họ ngả lưng thành từng nhóm khoảng năm mười người một". Các môn đệ làm y như vậy và cho mọi người ngả lưng xuống.
Ta không thể không ngạc nhiên, về những vai trò mà Đức Giêsu yêu cầu các môn đệ thể hiện: thế nhưng chính Đức Giêsu sắp "ban bánh"... và nhóm Mười Hai sắp phân chia bánh. Trước hết, họ được trao cho trách liệm tổ chức đám đông ô họp thành "cộng đoàn" có cơ cấu. Họ được Đức Giêsu thiết lập như các "thừa tác viên", nghĩa là những "người phục vụ”. Làm sao các cộng đoàn thời Luca lại không hiểu được ám chỉ đó! Trình thuật mang tính đồng quê trên đây chắc chắn hàm chứa nhiều màu sắc phụng vụ hơn chúng ta tưởng, nếu ta không dừng lại ở vẻ bề ngoài.
Đức Giêsu cầm lấy năm cái bánh và hai con cá ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao ban cho các môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông.
Hiển nhiên là những từ trên được Luca chọn lựa, để nhắc lại nghi thức phẩm trật và phụng tự của Thánh Thể. Diễn tiến bốn cử chỉ Thánh trên đây, cũng sẽ được Luca thuật lại trong bữa tiệc ly thứ Năm Thánh và trong bữa ăn tại làng Em-mau:
Tại hoang địa (Lc 9, 15) Đức Giêsu cầm lấy năm cái bánh... Ngài chúc lành... bẻ ra... và trao ban... Tại phòng Tiệc ly (Lc 22,19) Ngài cầm lấy bánh... dâng lời tạ ơn... bẻ ra.... và trao ban... Tại Em-mau (Lc 2430) Ngài cầm lấy bánh... dâng lời chúc tụng..... bẻ ra... và trao cho họ...
Những lời trên không chắc chắn buộc chúng ta phải dừng lại trên lối giải thích, các Kitô hữu đầu tiên đã làm trước việc hóa bánh ra nhiều nổi tiếng mà các Tin Mừng không tường thuật cho ta ít hơn sáu câu đối chiếu (Mt 14, 13.21 và 15, 32.39 Mc 6, 30.40 và 8, 1.10 Lc 9, 10.17 Ga 6, 1,15). Khi linh mục, thừa tác viên phục vụ của Đức Giêsu lặp lại giữa chúng ta, trong cộng đoàn, bốn cử chỉ trên đây của Đức Giêsu, thì chính Người đang thực sự làm lại và: hiện diện giữa chúng ta. Thánh lễ có thể giúp ta, trong Đức tin gặp gỡ Đức Kitô Phục sinh, Đấng chiến thắng sự dữ và tử thần, do đó là Đấng cứu chuộc con người. Bánh được bẻ ra và trao ban, đó là dấu chỉ mà "Thiên Chúa ở cùng chúng ta. "Bánh đó chính là bản thân của Đức Giêsu được trao ban cho ta... là chính con người nhiệm mầu, như hai đoạn văn liền kể trước sau với trình thuật hóa bánh ra nhiều gợi lên cho ta: "ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện lạ như thế? Hêrôđê tự hỏi (Lc 9, 7.9)... "Anh em bảo Thầy là ai?". Đức Giêsu hỏi các bạn hữu, ngay khi Người làm phép lạ trên đây (Lc 9, 18.27). Nếu chúng ta không trả lời câu hỏi về căn tính của Đức Giêsu trên đây, thì "dấu chỉ bánh" vẫn còn giữ vẻ hời hợt bên ngoài. Như thế có phải là các Kitô không cần quan tâm đến sự đói khát vật chất của mình không? Cộng đồng chủng người trẻ của Taizé trả lời rằng việc phụng thờ và công cuộc phát triển liên kết với nhau. Việc bạn chia sẻ cơm bánh, thái độ dấn thân để thay đổi xã hội, cử chỉ cho kẻ đói ăn, hành động phục vụ kẻ khác... những việc làm như thế rất quan trọng. Trước hết bạn hãy thực hiện những công tác đó! Nhưng bạn cũng đừng quên tôn thờ, gặp gỡ con người của Đức Giêsu Đấng cứu độ... Nếu không, bạn có thể làm thất vọng anh em mình về điều họ đang cần nhất. Họ là làm no thỏa cái bụng, họ cần sự thỏa mãn mà Thiên Chúa sẽ mang đến nếu bạn biết trao cho họ. Bởi vì, bánh hằng ngày của con người (không có gì tầm thường hơn là bánh!), cần phải trở nên Minh Thánh Đức Kitô. Không được phung phí bánh của con người. Một mầu nhiệm đang ẩn giấu ở đó.
Mọi người đều ăn, và ai nấy được no nê. Những miếng vụn còn thừa, người ta thu lại được mười hai thúng.
Không được vứt đi một mảnh nào của đời người, một miếng nào của tầm thường, một giây nào của mỗi ngày... từ khi Thiên Chúa đã nhập thể vào đó! Lạy Chúa là Chúa tể càn khôn - chúc tụng Chúa đã rộng ban cho chúng con bánh này là hoa mầu ruộng đất và công lao của con người, xin dâng lên Chúa để bánh này trở nên bánh tràng sinh nuôi dưỡng chúng con!
Nhưng chúng ta cũng biết rằng, lúc đó đám đông chưa hiểu gì. Họ muốn tôn Ngài làm vua, gán cho Người vai trò của Đấng Mêsia, theo quan điểm chính trị, đóng khung Người trong phạm vi nhân loại! Người đã không nhận. Người "lánh mặt đi lên núi" (Ga 6, 15) và "Người bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia" (Mc 6, 45).
Xin ban cho chúng con lương thực hằng ngày... lương thực này và lương thực kia!
Ngay từ xa xưa, những người của Thiên Chúa đều được mời gọi tham dự vào mầu nhiệm: THÁNHTHỂ-193
Ngay từ xa xưa, những người của Thiên Chúa đều được mời gọi tham dự vào mầu nhiệm của Người : "Mầu Nhiệm của Lòng Thương Xót", "Mầu Nhiệm Ban Phát và Chúc Lành". Melkisêđê là hình ảnh của họ trong Cựu Ước. Khác với các vua chúa của những miền đất Abraham đã đi qua, vua Salem nhận ra Abraham kẻ lữ hành, không những chẳng phải là thù địch, mà lại là mối phúc cho vương quốc và dân tộc ông. Do đó dù là một vua mới chiến thắng trở về, ông không đánh đuổi Abraham mà còn đãi ngộ và chúc phúc cho ông. Sách Sáng Thế nhấn mạnh cái làm cho Melkisêđê có một thái độ như thế là vì "Ông này là tư tế của Thiên Chúa tối cao". Ông là tư tế của "lòng thương xót, ban phát và chúc lành".
Melkisêđê được truyền thống Thánh Kinh coi như là khởi đầu của sứ vụ tư tế vĩnh viễn "Con là Thượng Tế đời đời theo phẩm hàm Melkisêđê" theo thiển nghĩ chính là vì cái bản chất của sứ vụ ấy. Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy vẫn còn một khoảng cách tuyệt đối giữa điểm khởi đầu và sự viên mãn. Bởi vì khi vị Tư Tế Thượng Phẩm đến như Thánh Phaolô đã nhắc lại Lời trong đêm bị nộp của Người "...Đây là Mình Thầy, hy sinh vì anh em... Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập giao ước mới...". Như thế không phải chỉ là một lời chúc phúc giản đơn, mà là hiến dâng luôn chính sự sống Người để ban phát, để chúc lành và để thương xót.
Giữa điểm khởi đầu và điểm viên mãn ấy là một hành trình dài tưởng như vô tận, mà bất kể là ai tham dự vào chức tư tế ấy đều nhận được lệnh truyền thật dứt khoát "Chính anh em, anh em hãy liệu cho họ ăn" mà Thánh Phaolô lập lại "Anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy".
Cộng đoàn kitô hữu cũng được gọi là cộng đoàn Thánh Thể, được sinh ra, được lớn lên và được tồn tại trong sứ vụ là "tư tế của lòng thương xót, của ban phát và chúc lành" ấy. Bàn tiệc Thánh Thể, Thánh Lễ không phải là một nghi thức chỉ mang tính thờ phượng hay tôn vinh, nhưng trước hết và trên hết chính là sự tái diễn lại "Lòng Thương Xót, ban phát và chúc lành của Thiên Chúa" trong cuộc hiến dâng chính mình của Đức Giêsu trở nên bánh nuôi sống đám dân nghèo đói. Sự nghèo đói vật chất là hậu quả của sự nghèo đói tinh thần. Sự hiến dâng Thánh Thể là sự ban phát "Lòng Thương Xót vô biên" của Thiên Chúa làm mới trái tim và giòng máu của con người để tẩy sạch tội lỗi và tham vọng của nó khỏi cảnh vực nhân sinh. Biến cảnh vực nhân sinh hiện tại, cảnh vực của ích kỷ và tham vọng, cảnh vực của sự độc chiếm và độc quyền mọi phương tiện, để biến nên cảnh vực Thần Linh, cảnh vực chỉ có lòng "Thương xót, ban phát và chúc lành".
Mỗi cử hành Thánh Thể phải là một hành vi đích thân xây dựng cảnh vực Thần Linh ấy cho mọi người.
· St 14,18-20: (18) Ông Menkixêđê, vua thành Salem, mang bánh và rượu ra; ông là tư tế của Thiên Chúa Tối Cao.(19) Ông chúc phúc cho ông Ápram và nói: «Xin Thiên Chúa Tối Cao, Đấng dựng nên trời đất, chúc phúc cho Ápram!»
· 1Cr 11,23-26: (24) «Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy». (25) «Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy».
· TIN MỪNG: Lc 9,11b-17 Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều
(11) Đám đông dân chúng đi theo Người. Người tiếp đón họ, nói với họ về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được chữa. (12) Ngày đã bắt đầu tàn. Nhóm Mười Hai đến bên Đức Giêsu thưa Người rằng: «Xin Thầy cho đám đông về, để họ vào các làng mạc nông trại quanh đây, tìm chỗ trọ và kiếm thức ăn, vì nơi chúng ta đang ở đây là nơi hoang vắng». (13) Đức Giêsu bảo: «Chính anh em hãy cho họ ăn». Các ông đáp: «Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá, trừ phi chính chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám dân này». (14) Quả thật có tới chừng năm ngàn đàn ông. Đức Giêsu nói với các môn đệ: «Anh em hãy bảo họ ngồi thành từng nhóm khoảng năm mươi người một». (15) Các môn đệ làm y như vậy, và bảo mọi người ngồi xuống. (16) Bấy giờ Đức Giêsu cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông. (17) Mọi người đều ăn, và ai nấy được no nê. Những miếng vụn còn thừa, người ta thu lại được mười hai thúng.
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Mục đích của Đức Giêsu khi xuống thế là rao giảng Tin Mừng về Nước Trời. Khi tập trung năng: THÁNHTHỂ-194
1. Mục đích của Đức Giêsu khi xuống thế là rao giảng Tin Mừng về Nước Trời. Khi tập trung năng lực để thực hiện tốt việc quan trọng ấy, Ngài có quan tâm đến những nhu cầu thể chất của dân chúng không?
2. Một mục tử chỉ quan tâm đến việc rao giảng lời Chúa, không hề quan tâm đến những nhu cầu khác của con chiên, không hề biết chia sẻ cụ thể cho họ, thì đó có phải là một mục tử thật sự yêu thương đàn chiên không? Lời rao giảng của mục tử ấy có sức thuyết phục không? Tại sao?
3. Nếu trong thế giới, người có nhiều biết chia sẻ cho người không có, nước giàu chia sẻ cho nước nghèo, thì có ai bị nghèo khổ thiếu thốn không? Người Kitô hữu đã có tinh thần chia sẻ này chưa? Nếu có, thì ở mức độ nào?
Suy tư gợi ý:
1. Người mục tử tốt lành biết quan tâm tới cả nhu cầu cụ thể của dân chúng Đoạn Tin Mừng đi trước bài Tin Mừng hôm nay cho biết: Đức Giêsu và các môn đệ đã mệt nhoài sau một ngày rao giảng Tin Mừng, nên đã âm thầm trốn dân chúng, tìm nơi thanh vắng để nghỉ ngơi và cầu nguyện. Nhưng dân chúng vẫn còn muốn nghe Ngài rao giảng, nên khi biết Ngài dự định đi đâu, họ bèn đến chỗ Ngài nghỉ ngơi rất đông. Dù mệt mỏi mà không được nghỉ ngơi, nhưng thay vì bực mình từ chối, Đức Giêsu đã ân cần «tiếp đón họ, nói với họ về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được cứu chữa». Ngài đúng là mục tử nhân lành!
Sinh hoạt với họ đến khi trời tối tại một nơi hoang vắng như thế, Ngài không nỡ để họ ra về bụng đói. Ngài yêu cầu các môn đệ hãy lo cho họ ăn: «Chính anh em hãy cho họ ăn». Điều này cho thấy Ngài chẳng những không làm ngơ trước những nhu cầu thực tế vật chất của người dân, mà còn muốn các môn đệ Ngài phải biết lo cho họ. Tình yêu đích thực đòi hỏi người mục tử không chỉ quan tâm đến nhu cầu tâm linh của người dân, mà còn quan tâm đến cả những nhu cầu cụ thể của họ. Chính khi người mục tử tỏ ra yêu thương dân chúng và lo cho họ cả những nhu cầu cụ thể, thì họ mới hứng khởi lắng nghe người mục tử nói những vấn đề tâm linh.
2. Một cách chú giải khác thường về đoạn Tin Mừng này
Đa số các nhà chú giải Thánh Kinh cho rằng khi biến bánh và cá hóa nhiều cho dân chúng ăn, Đức Giêsu đã dùng đến quyền năng Thiên Chúa của Ngài. Tuy nhiên, có những nhà chú giải cho rằng Ngài đã không cần phải dùng đến phép lạ, mà chỉ cần thuyết phục để dân chúng biết chia sẻ của ăn cho nhau thì lập tức mọi người đều được dư đầy. Các nhà chú giải này cho rằng: khi theo Đức Giêsu như thế, thì những người giầu có hoặc những người biết lo xa đã đem theo dư dả thức ăn và thức uống cho chính họ. Đương nhiên cũng có rất nhiều người không chuẩn bị đem theo thức ăn gì cả. Trong bài giảng chiều hôm đó, Đức Giêsu nói về Nước Trời, tức một xã hội lý tưởng trong đó mọi người đều yêu thương nhau, sẵn sàng chia sẻ cho nhau mọi thứ. Và giảng xong, Đức Giêsu đã yêu cầu họ áp dụng tinh thần yêu thương chia sẻ ấy, bằng cách gom lại hết tất cả mọi thức ăn họ có và chia sẻ đồng đều cho mọi người. Điều vô cùng lạ lùng xảy ra là chẳng những tất cả mọi người đều ăn no, mà còn dư tới 12 thúng.
Chắc hẳn cách chú giải này không được mấy người ưa thích hay chấp nhận, nhất là những người có khuynh hướng đề cao thiên tính của Đức Giêsu. Nhưng không phải vì thế mà nó không có căn cứ hoặc không có ý nghĩa. Cách chú giải này có khuynh hướng nhấn mạnh đến nhân tính của Đức Giêsu, khiến Ngài trở nên gần gũi con người hơn, và con người dễ bắt chước Ngài hơn. Khi Đức Giêsu yêu cầu các môn đệ: «Chính anh em hãy cho họ ăn», điều đó hẳn có ý nghĩa là Ngài nhận thấy chính các tông đồ – nếu khôn ngoan và thấm nhiễm được tinh thần yêu thương chia sẻ của Ngài – thì có thể giải quyết được khó khăn này theo sức loài người, không cần đến quyền lực thần thiêng. Điều ta có thể chắc chắn là Ngài không bao giờ lại đề nghị với các ông làm một điều mà sức loài người không thể làm được! Chỉ khi các ông không nghĩ ra phải làm cách nào, Ngài mới cho các ông thấy cách giải quyết của Ngài dựa trên sự khôn ngoan biết kích thích tình yêu thương của mọi người, chứ không cần dựa trên quyền năng thần thiêng.
Chúng ta thử tìm hiểu ý nghĩa của việc hóa bánh ra nhiều theo cách chú giải này.
3. Con người sẽ không thiếu thốn nếu biết chia sẻ cho nhau
Hiện nay, rất nhiều nơi trên thế giới bị nạn đói, nhiều dân tộc nghèo khổ… Điều đó không phải vì Thiên Chúa không ban cho con người được đầy đủ, mà do sự phân phối của cải và lương thực giữa con người không hợp lý và đồng đều. Những bản thống kê cho thấy: 8/10 của cải trên thế giới đang nằm trong tay 1/10 nhân loại, còn 2/10 của cải kia cũng được chia một cách không đồng đều cho 9/10 nhân loại. Do đó, trên thế giới hiện nay, sự chênh lệch giữa người giầu và người nghèo, giữa nước giầu và nước nghèo hết sức lớn. Có những người hết sức giầu có, sống xa hoa phung phí cả đời mà vẫn không hết tiền. Và cũng có những người hết sức nghèo khổ, không sao thỏa mãn được cả những nhu cầu cơ bản nhất của sự sống, lo chạy gạo từng bữa mà không đủ. Mà của cải thì Thiên Chúa ban chung cho cả thế giới, và ban một cách dư dật để mọi người dùng, đâu ban riêng cho ai.
Do đó, nếu người giầu không biết chia sẻ của cải cho người nghèo, thì rõ ràng một cách nào đó là họ đã duy trì sự bất công trong nhân loại. Để cho mình quá giầu có giữa những người nghèo khổ, một cách nào đó là phạm một điều bất công. Vì bình thường nếu không nhờ sự bất công - có thể là bất hợp pháp mà cũng có thể hợp pháp, có thể bất hợp lý mà cũng có thể hợp lý - thì làm sao người ta có thể hơn nhau quá nhiều như thế? Sự bất công đó có thể do từ thời cha ông hay tổ tiên để lại, mà cũng có thể do cơ cấu xã hội chưa hoàn chỉnh tạo ra. Chẳng hạn bọn thực dân đã tới chiếm đất một cách bất công ở các nước thuộc địa, rồi để lại cho con cháu họ. Hàng con cháu đó được giàu có không phải vì chính họ đã làm gì bất công, mà vì sự bất công ấy là do cha ông họ làm. Hay do cơ cấu xã hội không hợp lý khiến có những người kiếm tiền quá dễ dàng và có những người kiếm tiền quá khó khăn…
Nếu của cải và lương thực trên thế giới được phân phối một cách tương đối đồng đều, bằng cách người có nhiều chia sẻ cho người có ít, nước giàu chia sẻ cho nước nghèo, thì không một ai trên thế giới này bị nghèo khổ và thiếu thốn.
4. Thực hành Nước Trời bằng sự chia sẻ như các Kitô hữu đầu tiên
Theo cách chú giải nêu trên, thì Đức Giêsu đã làm một «phép lạ» bằng cách rao giảng về Nước Trời, rồi đề nghị mọi người thực hành Nước Trời ấy ngay tức khắc và tại chỗ, đó là thực hành yêu thương và chia sẻ cho nhau. Nhờ đó, mọi người đều thấy ngay tại chỗ hiệu quả tuyệt vời của việc thực hành ấy: không những ai cũng no đủ mà còn dư dả nữa.
Việc thực hành Nước Trời cách thực tế ấy đã được các Kitô hữu đầu tiên áp dụng thật sự trong đời sống cộng đoàn của họ. Sách Công Vụ Tông Đồ mô tả: «Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu» (Cv 2,44-45). Kết quả của việc thực hành Nước Trời như thế là: «Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt dưới chân các Tông Đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tuỳ theo nhu cầu» (Cv 4,34-35). Chính vì họ thật sự thực hiện tinh thần yêu thương của Nước Trời ngay trong đời sống của họ như thế, nên họ «được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ» (Cv 2,47).
Nhìn lại cách sống đạo của người Kitô hữu ngày nay, ta thấy tinh thần chia sẻ của Nước Trời thật hiếm hoi, ngay cả nơi những người rao giảng Tin Mừng về Nước Trời. Vì thế, chúng ta cần xét lại cách sống Tin Mừng của chúng ta và sửa đổi lại cho đúng.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, trước khi lên đường chịu tử nạn để hy sinh mạng sống cho toàn nhân loại, Đức Giêsu đã «cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy”». Rồi Ngài «nâng chén và nói: “Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy”». Ngài yêu cầu chúng con hãy làm như Ngài, là cũng hãy trở nên của ăn của uống cho tha nhân, bị hiến tế vì tha nhân, cụ thể là hy sinh thì giờ, sức khỏe, tiền bạc, lương thực, vật chất… cho những người sống bên cạnh mình, thật sự chia sẻ sự sống của mình cho họ. Xin Cha giúp chúng con làm được như vậy.
* St 14, 18-20. Oâng Men-ki-xê-đê, vua thành Salem và cũng là Tư tế của Thiên Chúa Tối cao, mang bánh và rươụ ra thết đãi Oâng Aùp-ram sau khi ông này đã toàn thắng trở về.
* 1 Cor 11, 23-26. Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết.
* TIN MỪNG: Lc 9,11b-17: Đức Giêsu hoá bánh ra nhiều. Người tiếp đón họ, nói với họ về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được chữa.
Ngày đã bắt đầu tàn. Nhóm Mười Hai đến bên Đức Giê-su thưa Người rằng: "Xin Thầy cho đám đông về, để họ vào các làng mạc nông trại quanh đây, tìm chỗ trọ và kiếm thức ăn, vì nơi chúng ta đang ở đây là nơi hoang vắng". Đức Giê-su bảo: "Chính anh em hãy cho họ ăn". Các ông đáp: "Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá, trừ phi chính chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám dân này". Quả thật có tới chừng năm ngàn đàn ông. Đức Giê-su nói với các môn đệ: "Anh em hãy cho họ ngả lưng thành từng nhóm khoảng năm mươi người một". Các môn đệ làm y như vậy, và cho mọi người ngả lưng xuống. Bấy giờ Đức Giê-su cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông. Mọi người đều ăn, và ai nấy được no nê. Những miếng vụn còn thừa, người ta thu lại được mười hai thúng.
NGẪM:
CÂU HỎI GỢI Ý:
Bí tích Thánh Thể: Bàn tiệc ban sức sống? 2. Thực khách: Cộng đoàn được Chúa yêu thương?: THÁNHTHỂ-195
1. Bí tích Thánh Thể: Bàn tiệc ban sức sống? 2. Thực khách: Cộng đoàn được Chúa yêu thương? 3. Thực khách: Cộng đòan chiến thắng và xứng đáng? 4. Bài học cho các thành viên Khôi Bình?
SUY TƯ GỢI Ý:
1. Bí tích Thánh Thể: Bàn tiệc ban sức sống.
Hôm nay Hội Thánh cử hành lễ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, nhưng Hội Thánh lại chọn các bài đọc nói về tiệc tùng và cơm bánh. Hẳn Hội Thánh muốn nêu lên chủ đề: "Bí Tích Thánh Thể chính là mâm cỗ Chúa dọn sa#n để thiết đãi mọi người" và "Thánh Thể chính là thức ăn cần thiết đem đến sức sống phần hồn phần xác". Thật vậy, để thiết đãi ông Aùpram, tư tế Men-ki-xê-đê đã mang bánh và rượu ra (St 14, 18a).Thánh Phaolô cũng đã tường thuật bữa tiệc mà Chúa Giê-su thết đãi các Tông đồ (x 1 Cor 11, 23-26; Mt 26, 17-29; Mc 14, 12-31). Thánh sử Luca kể lại việc Chúa hoá bánh ra nhiều để chiêu đãi hàng vạn người đã cất công theo và nghe Chúa (Lc 9, 11-17).
Thiên Chúa tốt lành (Tv 33), Ngài muốn con cái Ngài được sống và sống dồi dào (Ga 10,10) nên Ngài luôn dọn sa#n một MÂM CỖ (TV 22) để con cái Ngài được thoả thuê ơn phước (TV 103;TV 147). Ngài không giới hạn số thực khách. Bằng chứng là sau khi dân chúng dùng bữa no nê, các Tông đồ đã thu lại được 12 thúng bánh đầy. Điều này có thể được hiểu là với số đông bằng 12 chi tộc Ít-ra-en kéo đến, thì số bánh vẫn đủ cung cấp.
Mình và Máu Chúa Kitô trước hết là lương thực dưỡng nuôi phần xác ta. Thân xác ta cần thức ăn để dinh dưỡng. Mình Chúa Kitô được ví như Man-na từ trời ban xuống (Xh 16, 1-5), bánh đem lại sự sống cho thế gian (Ga 6, 33). Máu Chúa Kitô chẳng khác gì nước mát cho dân Người thoả lòng khi lưu lạc trong hoang địa (Xh 17, 1-7). Ngay vào thời văn minh hiện đại này, không thiếu những bằng chứng cho thấy có những tín hữu bệnh nhân không dùng được thức ăn ngoại trừ chỉ rước Mình Thánh, đã có thể kéo dài sự sống trong một thời gian lạ lùng. Nhưng trên hết, Mình Máu Thánh Chúa Kitô là suối nguồn ban sự sống vĩnh hằng.
Đức Giê-su chính là Bánh Trường sinh (Ga 6, 35) nuôi sống linh hồn của mỗi một người chúng ta. Máu Chúa chính là nuớc hằng sống mà nếu ai dùng thì sẽ không còn khát nữa và sẽ được sự sống đời đời (Ga 4,14). Tóm lại, Bí Tích Thánh Thể là một bàn tiệc mà người chủ tiệc đầy lòng yêu thương có nhã ý mời mọi người đến dự để được chia sẻ sự sống trần gian và sự sống muôn đời.
2. Thực khách: Cộng đoàn được Chúa yêu thương.
Khác với thói đời, thường người ta mời tiệc không vì tình mà vì lợi. Còn cách cư xử của Chúa thì chỉ vì tình. Qua 3 bài đọc, ta thấy khách mời rất được trân trọng và yêu thương. Oâng Aùp-ram được tư tế Men-ki-sê-đê thương mến và kính trọng. Đích thân tư tế đã đem bánh và rượu ra mời Oâng Aùp-ram mà không lệnh cho một gia nhân nào khác làm giúp. Cũng vậy, chính Chúa Giê-su đã "thương đám dân này", không nỡ để họ tự đi kiếm thức ăn và tốn kém hầu bao. Ngài đích thân hoá bánh và cá ra nhiều để mời họ. Đặc biệt đối với các Tông đồ, Người vừa dùng bữa với họ vừa tâm tình hết sức chân thật và sâu lắng. Các Tông đồ được ăn cùng một bánh và uống cùng một chén với Ngài. Ngài khuyên họ thương yêu nhau và tiếp tục bẻ bánh để tưởng nhớ đến Ngài. Nhưng tại sao thực khách được Chúa yêu thương như thế?
3. Thực khách: Một cộng đoàn chiến thắng.
Thực khách được Chúa yêu thương vì họ đã chiến thắng. Oâng Aùp-ram được Men-ki-sê-đê yêu thương vì ông đã chiến thắng vua ngoại Cơ-đo-la-ô-me và các vua khác cùng phe.
Đám đông dân chúng đã chiến thắng bao trở ngại nội tâm và ngoại lực để có thể đến và nghe Chúa giảng dạy. Họ đã vượt qua tự ái của niềm tin đạo Do Thái, sự lười biếng, thú vui dễ dãi, sự ngăn cản của các kỳ mục, khí hậu nắng nóng và những bước chân trên sỏi đá đau thương. Các Tông đồ cũng đã chiến thắng những cám dỗ vật chất (lưới cá, tiền lợi do thu thuế), đã coi thường bọn biệt phái và Pharisiêu để tin theo Chúa và chuyên lo lưới người. Chính vì điều này mà Hội Thánh đòi buộc, nếu muốn dự tiệc Thánh, chúng ta phải là những thực khách đã chứng minh được sự chiến thắng tội lỗi và ác thần xấu xa trong ta. Nghĩa là ít ra ta phải ở trong tình trạng sạch tội trọng. Vậy, anh em Khôi Bình chúng ta có thể rút ra được những bài học gì?
NGUYỆN:
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể, con cảm tạ Chúa đã ban Mình Máu Thánh Chúa nuôi sống xác hồn con. Xin Chúa tha cho con những lần bất xứng khi dự tiệc Thánh. Xin Chúa hoán cải tim con giống như quả tim của cha Phu-cô (Foucauld) để con yêu Chúa và cảm thấy hạnh phúc khi sống trước nhà tạm Chúa nhiều hơn. Amen. Anrê Nguyễn Hữu Nghĩa.
Khác với trình thuật của thánh Mát-thêu và Mác-cô, bài Tin Mừng của thánh Lu-ca có sắc thái: THÁNHTHỂ-196
Khác với trình thuật của thánh Mát-thêu và Mác-cô, bài Tin Mừng của thánh Lu-ca có sắc thái riêng biệt, kể lại phép lạ Chúa Giê-su hóa bánh ra nhiều trong khung cảnh Người thi hành sứ vụ cứu thế: “Người tiếp đón họ, nói với họ về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được chữa” (Lc 9:11). Lời mở đầu giới thiệu khung cảnh thực hiện phép lạ như thế sẽ giúp ta suy niệm về ý nghĩa của Bí tích Thánh Thể trong kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa, hay nói khác đi, qua Chúa Giê-su, Thiên Chúa kêu gọi nhân loại đáp lại những gì Người muốn làm cho họ để tỏ ra lòng yêu thương vô điều kiện của Người. Trong hành trình tiến về nhà Cha, qua Chúa Giê-su, Thiên Chúa tiếp đón ta, nói cho ta biết về Nước Thiên Chúa, chữa lành ta, và nhất là nuôi dưỡng ta bằng lương thực thiêng liêng để ta đủ sức đi tới cùng.
a) Cuộc hành trình về nhà Cha
Hình ảnh đám dân chúng đi theo Chúa Giê-su quả là một hình ảnh đẹp. Nó phản ảnh trung thực cộng đồng dân Chúa mọi thời mọi nơi. Nhận xét của các tông đồ về đám dân chúng ấy nói lên thực trạng của những người theo Chúa. Họ đang phải đối phó với những nhu cầu thiết thực, họ đói về thể chất cũng như thiêng liêng. Tóm lại, đó là nhu cầu cho sự sống. Chính Chúa Giê-su trong một dịp khác cũng cho ta một nhận xét thực tế về tình trạng của đám người theo Chúa. Người nhìn họ “giống như bầy chiên không người chăn dắt.” Mà những con chiên không được chăn dắt thì hẳn ta đã có thể mường tượng chúng như thế nào rồi. Đó là những con chiên gầy gò ốm yếu, bệnh tật, không còn đủ sức để đi tới “đồng cỏ xanh tươi” hay “dòng suối nước trong” nữa.
Hình ảnh ấy cũng là hình ảnh của mỗi người muốn đi theo Chúa nhưng lại không được dẫn dắt và chăm sóc. Nó giúp ta xác tín rằng nếu không có Thánh Thể làm lương thực ban cho ta sức mạnh, ta sẽ chẳng khá hơn gì những con chiên ốm đói kia. Ta có thể so sánh đám dân chúng trước khi Chúa Giê-su làm phép lạ hóa bánh ra nhiều với đám dân chúng được no nê nhờ những thúng bánh Chúa ban cho họ, để dễ dàng nhận ra được hiệu quả của phép lạ do lòng thương xót của Chúa dành cho họ. Bánh đã biến đổi cuộc sống của họ. Họ không cần phải trở về nhà mình, nhưng tiếp tục đi theo Chúa. Nhu cầu vật chất được xếp xuống hàng thứ yếu để cho nhu cầu thiêng liêng được ưu tiên. “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4:4).
Cuộc hành trình đức tin của ta đòi hỏi phải có sức mạnh mới có thể thực hiện. Mà sức mạnh duy nhất là do chính Chúa Giê-su, Ngôi Lời trở nên người phàm, là “bánh Thiên Chúa ban, bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian” (Ga 6:33). Hành trình đức tin của ta là sống mối quan hệ mật thiết với Chúa Giê-su, vì chính Người đã diễn tả hành trình ấy như sau: “Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6:40). Thánh Lu-ca đã cho ta thấy Chúa Giê-su sống mối quan hệ ấy qua ba hành động: Người tiếp đón ta, nói cho ta biết về Nước Thiên Chúa và chữa lành ta khi ta cần được chữa lành. Như thế, lúc nào ta cũng ở trong vòng tay ân cần của Chúa, được nuôi dưỡng bằng Lời từ miệng Người phán ra và được chữa lành khi ta bị thương tích.
Hiểu Bí tích Thánh Thể trong ý nghĩa sứ vụ cứu thế của Chúa Giê-su như vậy, ta sẽ thấy Thánh Thể mang chiều kích rộng rãi hơn, không chỉ đơn thuần là một Chúa Giê-su “giam mình” trong nhà tạm, nhưng là một Chúa Giê-su sống động đi vào cuộc đời ta, đồng hành với ta trong hành trình đức tin, dạy dỗ chỉ bảo và nắn đúc ta để ta nên giống như Người. Hiểu như thế, ta sẽ mang những tâm tình mới mỗi khi rước lễ và sẽ luôn có những điều để nói với Chúa, để nghe Chúa nói, để sống mối quan hệ với Người và để tiếp tục hành trình cùng với Người đi về nhà Cha. b) “Chính anh em hãy cho họ ăn”
Truyền lệnh cho các môn đệ như thế, Chúa Giê-su mở ra cho ta một cái nhìn mới về Bí tích Thánh Thể. Suy nghĩ về toàn thể kế hoạch cứu rỗi, ta nhận ra vai trò của Bí tích Thánh Thể không chỉ giới hạn nơi Chúa Giê-su, Đấng đã được Chúa Cha trao ban cho nhân loại, nhưng chính nhân loại cũng được mời gọi dự phần vào việc cử hành Bí tích. Chúa Giê-su đã nuôi dưỡng đám dân chúng đói khát thế nào, ta cũng phải chăm sóc anh chị em đói khát trong thế giới như vậy, đói khát thể chất cũng như đói khát tinh thần. Chúa Giê-su đã hiến mình hy sinh làm lương thực cho nhân loại thế nào, ta cũng phải tích cực hy sinh làm lương thực tinh thần cho tha nhân như vậy. Chúa Giê-su là Lời Chúa nuôi dưỡng cuộc sống Ki-tô hữu của ta, đến lượt ta cũng phải sống Lời Chúa trong cách đối xử với anh chị em. Chúa Giê-su đã không để cho đám đông phải ra về bụng đói, thì ta cũng đừng để cho anh chị em cần ta giúp đỡ phải thất vọng. Chúa Giê-su đã nói cho dân chúng biết về Nước Thiên Chúa, đến lượt ta hãy sống thế nào để anh chị em nhận ra Nước Thiên Chúa đang hiển trị ở tại đây và trong lúc này. Chúa Giê-su đã chữa lành những người cần được chữa lành, ta cũng sẽ có bao nhiêu anh chị em chung quanh cần một lời an ủi, một cử chỉ khích lệ nâng đỡ, một sự giúp đỡ thiết thực. Có không biết bao nhiêu là cách để ta nuôi dưỡng tha nhân, đáp lại lệnh truyền của Chúa Giê-su “chính anh em hay cho họ ăn.”
Lệnh truyền này còn đòi ta phải suy nghĩ và trả lời cho Chúa: Có phải con đã trốn trách nhiệm, không muốn ý thức đây là điều chính con phải thi hành chứ không thể đổ thừa cho người khác không? Con có coi đây là một vinh dự được tham dự vào chính sứ vụ cứu thế của Chúa không?
Có thể ta sẽ lý sự với Chúa, giống như các tông đồ: “Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá.” Nghĩa là ta không có khả năng, vật lực... để giúp đỡ chăm sóc tha nhân! Nhưng Chúa đâu kể những gì ta có, Người chỉ cần ta đầy thiện chí cộng tác với Người trong sứ vụ nuôi dưỡng thế giới. Người là bánh ban sự sống, còn ta chỉ việc “dọn ra cho đám đông” và đừng lo thiếu bánh, vì bánh lúc nào cũng dư thừa.
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Trong cộng đồng những người đi theo Chúa, tôi thuộc loại người nào? Ốm đói hay được no đủ do Thánh Thể và Lời Chúa? Thánh Thể có thực sự là cao điểm của quan hệ mật thiết giữa tôi với Chúa Giê-su không?
Việc rước Thánh Thể có thực sự thay đổi lối sống của tôi không? Hay chỉ là việc trình diễn, thói quen nhàm chán...?
Mang Chúa Giê-su Thánh Thể trong mình, tôi có đem Chúa đến cho những người chung quanh không? Chúa Giê-su muốn tôi làm gì cho anh chị em và tôi đã làm chưa?
Lời nguyện: Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể, Chúa đến với chúng con dưới dạng tấm bánh bình thường. Tấm bánh chẳng nói gì, chỉ biết lặng lẽ chờ đợi. Tấm bánh hiện diện là để phục vụ cho con người. Tấm bánh quá đỗi mong manh, nhỏ bé, có thể bị ẩm mốc làm hư hoại, và tan rất mau sau khi được nhận lãnh. Lạy Chúa Giê-su, có cái gì tương tự giữa phận làm người và phận làm bánh của Chúa. Xin cho chúng con biết cách đến với con người hôm nay: đơn sơ, khiêm hạ, không chút vinh quang hay quyền lực. Nhờ ăn tấm bánh của Chúa, chúng con cũng trở nên tấm bánh ngon, được bẻ ra để đáp ứng khẩu vị của nhiều người. Ước gì chúng con dám rước Chúa đi vào mọi vùng mờ tối của lòng mình, để sự hiện diện của Chúa trong con được lớn lên. Và ước gì chúng con trở thành những Nhà Tạm di động, đem Chúa đến cho đồng bào và quê hương chúng con. A-men. (Trích RABBOUNI, lời nguyện 106)
Đang giữa mùa hè mà Gianfranco của hãng cà-vạt Wemco ở New Orleans đã vẽ kiểu cho: THÁNHTHỂ-197
Đang giữa mùa hè mà Gianfranco của hãng cà-vạt Wemco ở New Orleans đã vẽ kiểu cho mốt mùa thu rồi. Và hãng bắt đầu tung ra những bài viết và quảng cáo thôi thúc người ta phải chuẩn bị cho mùa thu sao cho hấp dẫn hợp thời, không thì thành già cỗi vất đi ngay.
Người vẽ kiểu dám nói thẳng thế này: "Tôi muốn tạo kiểu cà-vạt thật gợi cảm và gợi tình, kiểu cà-vạt mà ai thấy cũng muốn nhào tới. Đúng vậy, loại cà-vạt này thật khiêu khích."
Hãng cho biết một nghiên cứu khá lí thú là 64% người mua cà-vạt là các bà các cô mua để tặng cho các chàng. Họ biết rõ sở thích người mình thương: màu sắc nói lên tính tình người mang; người thắt nút lớn thì tính bạo và liều; người mang đồ bộ màu thẫm mà thắt cà-vạt màu đỏ là người trầm tính nhưng lại cương quyết dám đi tới… Nghĩa là ngầm bên trong quảng cáo vẫn là để lôi cuốn thị hiếu người đàn bà.
Như vậy mùa thu không còn phải là mùa lá vàng rơi xào xạc con nai vàng ngơ ngác thơ mộng nữa, mà là mùa nhắm tới thời điểm bán hàng dịp lễ Lao Động đầu tháng chín. Lạ lắm, ở Âu Mỹ mỗi tháng đều có một cơ hội "tốt" để bán hàng "on sale". Khi thì ngày đầu năm, ngày Valentine, ngày hiền mẫu, ngày của bố, ngày lao động, ngày tạ ơn, thậm chí cả ngày chơi ma đầu tháng 11, và khỏi phải nói tới cao điểm là ngày lễ Giáng Sinh thấy Chúa giáng sinh thì ít mà thấy tiền văng ra thì nhiều. Các lái buôn khéo "thu xếp" rải đều ra vậy để thôi thúc người ta luôn có dịp phải ra chợ, đổi mốt mới, hàng mới, cho đời tươi trẻ, cho hạnh phúc tràn trề hơn. Hãng hột xoàn diễn tả hạnh phúc của một cặp uyên ương âu yếm thật đáng khát thèm, rồi ngay sau đó thì cô con gái giơ bàn tay búp măng ra với cái nhẫn kim cương lóng lánh tình yêu và nụ cười rạng rỡ kèm theo lời tự kỷ ám thị như để nhập tâm rót vào máu: nhẫn kim cương giữ cho tình yêu bền chặt và nụ cười tươi nở. Cứ thế mà nhiều bà nhiều cô lại đi tin cái thứ tình yêu hạnh phúc kiểu vậy mới phiền.
Mốt mới phát khởi một phần do thị hiếu, nhưng thực ra là do hãng thuê người luôn vẽ kiểu mới, rồi thuê người mẫu ăn khách mặc vào là mọi người phải thấy hết xẩy, thu hút quá chừng… Vậy là ai nấy cứ răm rắp tuân theo để được coi là hợp thời. Ai không theo kịp là bị loại. Rõ khổ! Thì ra các lái buôn đào tạo dư luận, khiêu khích thị hiếu, khiến cho khách hàng luôn khao khát không cùng… để mà theo kịp đà tiến. Thế là như bị thôi thúc lên cơn thèm khát dường như không cưỡng lại được. Con người trong xã hội tiêu thụ này luôn được hay bị chỉ cho thấy những nhu cầu mới, và dễ trở thành con mồi ngon cho các tay buôn.
Các khu vực thương xá được xây dựng thật hấp dẫn, đẹp đẽ và mát mẻ, tập trung hầu hết những tiệm lớn nhỏ. Vì thế mà một trong những sinh hoạt cuối tuần là đi dạo ở thương xá, trước hết là để tiêu mỡ, cho đỡ cuồng chân… Nhưng rồi những mặt hàng bầy biện thu hút khiêu khích và thôi thúc như thế kia, làm sao cưỡng lại được?! Mà đã bị lên cơn thì phải mua, nhưng mua về thì chưa chắc đã hài lòng… Cái màu ở tiệm đẹp vậy mà đưa về nhà lại nhạt nhẽo làm sao ấy. Cái kiểu áo cô người mẫu mặc hấp dẫn thế kia mà mình mua về mặc thấy chẳng giống ai! Cũng mua đúng kiểu cà-vạt mắc tiền được quảng cáo là gợi cảm nhất, mà đeo vào thì chả ma dại nào ngó cả! Chả lẽ đem trả lại?! Thế là thay vì vui hơn, lại thấy mình bất mãn thêm ra, và lòng tự tin tuột dù xuống tận đáy!
NỖI ĐÓI KHÁT KHÔNG TÊN
Nhiều người có cái kinh nghiệm là trong lúc đang ngồi ở phòng khách thì tự nhiên thấy mình muốn ăn hay uống một cái gì. Đứng dậy tới mở tủ lạnh nhấc món này lên bo món kia xuống một hồi rồi lại trở về chỗ ngồi mà vẫn cảm thấy mình cứ thèm một cái gì mà không có trong tủ lạnh. Cái cảm giác này được các nhà tâm lý gọi là "cơn đói khát không tên". Nó phát khởi từ bên trong thẳm sâu chứ không phải là đói hay khát bình thường. Những lái buôn đã khéo biết được "cơn đói khát không tên" của thời đại mà khéo đánh lừa bằng những giải pháp do họ đưa ra là hãy nhớ mua món hàng của họ thì sẽ toại nguyện. Mà phải "nhớ lẹ lên, chỉ bán sale mấy ngày thôi, đến trễ không bảo đảm còn đồ, và sẽ hối hận!"
Các lái buôn đã thôi thúc đúng "nhu cầu" bản năng con người. Mà ba nhu cầu hạ đẳng thì chung với loài vật. Đó là nhu cầu ăn uống để sống, rồi đến nhu cầu có tiếng tăm nổi nang le lói do phải mặc đẹp ăn ngon cho tươi mát thu hút hơn, và nhu cầu truyền sinh gợi tình. Ba nhu cầu này nơi một con gà cũng thế: đời nó sinh ra là biết bới đống rác tìm mồi con sâu con bọ, rồi lớn lên chút nữa là biết tranh đua tiếng gáy ta đây, rồi cũng để thu hút "bạn" đời nữa.
Riêng con người nếu chỉ tìm ba thứ nhu cầu đó do những thôi thúc con buôn của nền văn minh vật chất này thì quả là đến một lúc thấy cuộc sống thật nhầy nhụa, vì mình được thôi thúc để trở nên giống súc vật hơn là thành người. Chả lẽ mình sinh ra trên đời chỉ có thế! Sinh ra đó, lớn lên đó, đua tranh tiếng gáy hơn thiệt, thèm khát những điều chẳng bao giờ thỏa. Và đây cũng là cơn giẫy giụa của con người trong "đỉnh cao" tiện nghi vật chất này. Mấy cuộc đánh nhau lớn nhỏ trên thế giới hay ngay cả ở Việt Nam cũng chỉ vì nước này muốn gáy to hơn nước kia, nhóm này tỏ ra ngầu hơn phe nọ, giành nhau miếng ăn to hơn và ngon hơn, chẳng khác gì mấy con gà tranh nhau trong đống rác ở vườn sau nhà.
TIN VUI HƠN BẨY HUYỆT ĐẠO
Một số tôn giáo đã hé mở được cánh cửa tới chiều kích cao hơn của con người. Người Ấn Độ đã diễn tả bảy nhu cầu căn bản của con người bằng cách vẽ lên 7 huyệt đạo. Ba nhu cầu hạ đẳng chung với súc vật là miếng ăn, tiếng gáy và tính dục được xếp thành nấc thang từ dưới lên trên. Con người phải vươn lên những nấc thang cao hơn để có thể đạt thành con người thực sự, thì mới thỏa cơn khát được, nếu không thì lùi lại thành con vượn con khỉ. Chỉ khác là con-khỉ-người đã trót mang cõi tâm vô biên, nghĩa là phải vượt tới trọn bảy nhu cầu. Vậy mà chỉ tìm ba nhu cầu hạ đẳng không thì cơn đói khát cũng sẽ vô tận luôn.
Chính vì thế mà Tin Vui tuần này được Chúa Giêsu loan báo là một Tin Vui đáp ứng thời điểm, lúc mà con người nhầy nhụa với những nhu cầu hạ đẳng mà chẳng bao giờ thỏa, và đói khát một nỗi không tên. Luyện cho nấc thang huyệt đạo lên đến huyệt thứ 7 chỉ là tượng trưng tương đối trong tầm sức loài người luyện công. Chúa Giêsu đã chỉ cho con người ở thời điểm này một cao điểm vượt lên tất cả, và chỉ khi đó con người mới được thỏa mãn những nhu cầu thực sự. Bởi vì chỉ có Ngài mới là bánh ban sự sống và là nguồn nước làm thỏa mọi cơn khát. Vì Ngài là Đường, là sự Thật và là Sự Sống.
"Anh em hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng là vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời". "Thật Ta bảo thật anh em, không phải Mô-Sê đã ban cho anh em bánh bởi trời, mà là chính Cha Ta mới ban cho anh em bánh bởi trời đích thật… Họ liền thưa: "Xin cho chúng tôi bánh đó luôn mãi". Chúa Giêsu nói: "Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ."
Lạy Chúa, con như con nai sắp chết khát ngước nhìn lên Chúa trong tâm tình thánh vịnh 62:
Chúa là Thiên Chúa của con
Con mong tìm Chúa.
Hồn con đang khát chính Chúa.
• Xh 16, 2-4. 12-15: (4) Đức Chúa phán với Môsê : «Này, Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các ngươi ăn. (12) Các ngươi sẽ được ăn bánh thoả thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi».
• Ep 4, 17. 20-24: (22) Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, (23) anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, (24) và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện.
• TIN MỪNG: Ga 6, 24-35 Đức Giêsu là Bánh Trường Sinh (24) Vậy khi dân chúng thấy Đức Giêsu cũng như các môn đệ đều không có ở đó, thì họ xuống thuyền đi Caphácnaum tìm Người. (25) Khi gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ, họ nói: «Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?» (26) Đức Giêsu đáp: «Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê. (27) Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận». (28) Họ liền hỏi Người: «Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?» (29) Đức Giêsu trả lời: «Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến». (30) Họ lại hỏi: «Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? (31) Tổ tiên chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời».
(32) Đức Giêsu đáp: «Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, (33) vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian». (34) Họ liền nói: «Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy». (35) Đức Giêsu bảo họ: «Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!»
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Con người khác và hơn con vật ở những khả năng nào? Con người giống với Thiên Chúa ở: THÁNHTHỂ-198
1. Con người khác và hơn con vật ở những khả năng nào? Con người giống với Thiên Chúa ở chỗ nào? Vậy con người phải đặc biệt quan tâm phát triển những khả năng nào?
2. Con người thường tìm hạnh phúc nơi những gì? Khi đạt được những thứ ấy, con người đã thỏa mãn chưa? hay họ lại khao khát những thứ khác? Như vậy, tìm hạnh phúc nơi những thứ ấy có phải là cách khôn ngoan không? Tìm hạnh phúc ở đâu mới là khôn ngoan? 3. Đức Giêsu là «bánh trường sinh». Vậy ta phải làm gì với Đức Giêsu để đạt được «bánh trường sinh» ấy? Có phải là rước lễ? Những người rước lễ có ai đạt được «bánh trường sinh» chưa?
Suy tư gợi ý:
1. Đời sống tâm linh, cấp độ sống cao nhất của con người Tất cả mọi sinh vật đều có sự sống. Nhưng sự sống ấy có nhiều cấp độ khác nhau, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Sự sống càng cao thì càng có những khả năng đặc biệt mà sự sống ở bậc thấp hơn không có, hay có rất ít. Cùng là sống, nhưng cái sống của một cây cổ thụ khác với cái sống của một cây cỏ, của một bụi gai; cái sống của con sư tử, một con cá heo khác với cái sống của con chó, con heo, và càng khác với cái sống của con giun, con dế. Cao hơn nữa là cái sống của con người. Và cao hơn cái sống của con người là cái sống của thiên thần, và cao nhất là cái sống của Thiên Chúa, nguồn phát sinh mọi sự sống.
Loài thực vật có khả năng tự dinh dưỡng, tự thích ứng, tự lớn lên, tự sinh sản, nhưng khả năng cảm giác rất ít. Loài động vật có đủ mọi khả năng của loài thực vật, nhưng khả năng cảm giác cao hơn rất nhiều, và còn có khả năng tự di chuyển. Nhưng các loài thú có rất ít trí tuệ, khả năng ý thức, không có khả năng tự quyết định hay sự tự do, chỉ biết làm theo bản năng. Còn con người có nhiều khả năng vượt rất xa loài động vật. Con người có đời sống tinh thần, trí thức, tình cảm, có khả năng tự do và tự quyết định, và nhất là có đời sống tâm linh. Đời sống tâm linh càng phát triển thì con người càng khác xa con vật và càng giống Thiên Chúa hơn.
2. Đời sống tâm linh phát triển và hạnh phúc đích thực
Con người chỉ được hạnh phúc tràn đầy khi đạt được sự phát triển cao nhất của mình. Con người có đời sống tâm linh mà các loài động vật khác không có. Khi phát triển những khả năng cao cấp của mình như tinh thần, tình cảm, trí tuệ, thì con người có khả năng hạnh phúc cao hơn tất cả mọi loài, nhưng hạnh phúc ấy chưa tràn đầy, chưa đạt tới viên mãn. Chỉ khi nào phát triển tâm linh đầy đủ, con người mới đạt được giá trị cao nhất của mình, và mới được hạnh phúc một cách viên mãn.
Chưa được hạnh phúc viên mãn, con người sẽ không bao giờ thỏa mãn. Khi chưa đạt được hạnh phúc viên mãn, thì dù có đạt được những điều mình đang mong ước, con người cũng chỉ tạm hạnh phúc trong chốc lát, để rồi sau đó lại khao khát một cái khác cao hơn; nếu không đạt được cái cao hơn đó thì con người lại rơi vào đau khổ. Những khao khát bình thường ấy chỉ giống như những ly nước, những chén thức ăn. Uống xong ly nước ấy tuy đã khát, ăn hết thức ăn ấy tuy no và hết đói, nhưng rồi sẽ lại khát, lại đói nữa: «Ai uống nước này, sẽ lại khát» (Ga 4,13). Cứ thế, chẳng bao giờ con người hết đói và hết khát với những thức ăn thức uống bình thường ấy. Và con người cứ phải kiếm nước kiếm thức ăn mãi. Còn đói khát những ước vọng bình thường ấy, con người còn phải gặp biết bao đau khổ.
Những hạnh phúc do sự thỏa mãn những ước vọng ấy chỉ giống như một người bị bệnh ngứa, khi ngứa lên thì gãi hay hơ nóng chỗ ngứa, tuy đã ngứa nhưng chỉ được một thời gian rất ngắn, để rồi sau đó sẽ còn ngứa dài dài nữa. Chỉ khi nào chữa cho hết bệnh ngứa, thì con người mới thật sự thoải mái. Cũng vậy, chỉ khi nào hết ích kỷ, biết sống vị tha, có đời sống tâm linh phát triển, con người mới thật sự hết đau khổ và được hạnh phúc đích thật, thứ hạnh phúc không ai lấy mất được.
3. Con người mải mê tìm những hạnh phúc chóng qua
Khi con người chưa cảm nghiệm được hạnh phúc đích thực của một tâm linh phát triển, thì họ chỉ mải miết tìm kiếm những hạnh phúc chóng qua, nơi của cải, nhà cửa, địa vị, quyền lực… Đạt được hạnh phúc này thì lại khao khát hạnh phúc khác. Khi phải đi bộ thì họ mong có chiếc xe đạp, tưởng rằng có xe đạp thì sẽ hạnh phúc lắm. Nhưng khi có xe đạp thì họ chẳng hạnh phúc, vì họ lại mong ước chiếc xe máy… rồi xe hơi… rồi nhà cao cửa rộng… rồi địa vị quyền lực… Nhưng dẫu có trở thành một ông vua hay bà hoàng, họ vẫn cảm thấy đau khổ, và chẳng hạnh phúc.
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu khuyên người ta không nên tìm thứ «lương thực mau hư nát» là những cái chỉ đem lại những hạnh phúc thoáng qua, mà hãy tìm loại «lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh». «Lương thực thường tồn» ấy chính là những gì nuôi sống đời sống tâm linh, làm cho sự sống ấy phát triển. Khi đời sống tâm linh phát triển, con người sẽ hạnh phúc mãi, và không gì trong cuộc đời có thể làm họ đau khổ hay mất hạnh phúc. Đó chính là thứ «nước» mà Đức Giêsu hứa ban cho ta: «Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời» (Ga 4,14).
4. Lương thực trường sinh ấy chính là Đức Giêsu
Để có đời sống tâm linh phát triển, nghĩa là để có hạnh phúc đích thực và lâu bền, Đức Giêsu giới thiệu cho chúng ta thứ «lương thực thường tồn» hay «bánh trường sinh», khiến chúng ta một khi đã «ăn» vào thì sẽ được thỏa mãn, hạnh phúc, không còn khao khát gì hơn nữa. «Lương thực» này khác với thứ «lương thực mau hư nát», «ăn» vào rồi là chán ngay, và muốn «ăn» thứ khác. Lương thực thường tồn ấy chính là Đức Giêsu. Ngài nói: «Tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!». Rất nhiều Kitô hữu hiểu câu này một cách rất vật chất rằng để đạt được đời sống trường sinh, ta chỉ việc rước lễ, tức rước Mình Máu Đức Giêsu vào bụng là xong. Nhưng trong đời tôi, tôi thấy biết bao Kitô hữu rước lễ hằng ngày và suốt đời mà có biến đổi hay cảm thấy hạnh phúc đích thực và lâu dài bao giờ đâu! Điều đó khiến tôi phải hiểu câu nói trên theo cách khác. Tôi đã sống và áp dụng theo cách hiểu mới ấy, và tôi cảm thấy đời tôi ngày càng thấy mình hạnh phúc hơn.
Chúng ta chỉ «ăn» được «bánh trường sinh» là chính Đức Giêsu bằng cách làm cho tâm linh ta được cấu tạo bởi những gì đã làm nên con người Đức Giêsu. Ăn thức ăn nào là nhận chất bổ, năng lực từ thức ăn ấy. Đức Giêsu là năng lực thần linh, nên «ăn» Đức Giêsu là đón nhận vào mình năng lực thần linh của Ngài. Đương nhiên «ăn» Đức Giêsu không phải là «ăn» bằng miệng, bằng thể xác, mà bằng ý thức và tâm linh của ta. Thể xác không thể nào ăn được của ăn tâm linh. Muốn «ăn» Đức Giêsu, tức «bánh trường sinh», ta phải ý thức sự hiện diện đích thực và thường hằng của Đức Giêsu trong tâm hồn ta. Ngài luôn hiện diện trong ta, nhưng ta thường không ý thức sự hiện diện ấy. «Ăn» Ngài là ý thức rằng Ngài là một nguồn năng lực vô tận về tình yêu, trí tuệ, sức mạnh, can đảm, hạnh phúc… luôn hiện diện trong ta, sẵn sàng thể hiện tràn đầy qua con người của ta, qua tư tưởng, lời nói và hành động của ta. «Ăn» Ngài thật sự sẽ làm cho đời sống của ta trở nên hạnh phúc và khởi sắc hơn bao giờ hết. Đó cũng chính là kinh nghiệm của tôi, người viết bài này, xin chia sẻ với mọi người.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Đức Giêsu chính là một lương thực bổ dưỡng hữu hiệu cho tâm linh con người. Nhưng «ăn» Ngài không phải là ăn theo kiểu vật chất, mà là ăn theo kiểu tâm linh. Xin Cha dạy cho con cách thức «ăn» Ngài, để con được sống trường sinh và hạnh phúc, thứ hạnh phúc đích thực và không bao giờ mất đi được. Đó là hạnh phúc đời đời. Amen. (JK)
Bài trích sách Xuất Hành hôm nay thuật lại việc con cái Israel kêu trách tổ phụ Maisen và: THÁNHTHỂ-199
Bài trích sách Xuất Hành hôm nay thuật lại việc con cái Israel kêu trách tổ phụ Maisen và tư tế Aaron: "Tại sao các ông dẫn chúng tôi lên sa mạc này, để cả lũ phải chết đói như thế này? Thà chúng tôi chết trong đất Ai Cập trong tay Chúa, khi chúng tôi còn ngồi kề bên nồi thịt và ăn bánh no nê".
Như chúng ta biết, Chúa đã thương yêu Israel, Dân Riêng của Chúa, Người đã dùng cánh tay uy quyền của Người, thực hiện những phép lạ phi thường để giải thoát họ khỏi ách nô lệ của vua Pharaon bên Ai Cập, dùng các tôi tớ trung thành của Người là Maisen và Aaron dẫn đưa họ về Đất Hứa. Vì những gian khổ trên đường tiến tới Đất Hứa, đã làm cho con cái Isarel quên bẵng những ơn lành Chúa đã ban; họ đã dám vô ơn bội nghĩa, buông ra những lời phàn nàn kêu trách các thủ lãnh của họ và hơn nữa, họ còn dám phạm thượng kêu trách cả Thiên Chúa nữa.
I. PHÉP LẠ MANNA VÀ CHIM CÚT
Thấu tỏ lòng dân vô ơn bội bạc. Lời họ kêu trách đã vọng tới tai Chúa, nhưng Chúa vốn nhân từ thương xót họ, ban Manna từ trời rơi xuống để nuôi sống họ; đồng thời, Người cũng cho chim cút bay tới rợp cả khu trại, để họ bắt giết thịt làm của ăn.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại: Sau khi Chúa làm phép lạ bánh và cá hóa nhiều để nuôi đám đông dân chúng đi theo nghe Chúa giảng. Khi gặp lại Chúa, họ thưa với Người: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ?" Chúa thừa biết tâm tư của họ, nên Người đã nói thật với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã được thấy các phép lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê". Chúa thấy họ chỉ nghĩ đến những sự tầm thường, những của ăn hay hư nát, những sự dưới đất này, nên Người muốn nâng tâm hồn họ lên cao hơn nữa, khi phán với họ lời này: "Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho cuộc sống muôn đời, là của ăn mà Con Người sẽ ban cho các ngươi".
II. TIN KÍNH CHÚA LÀ LẼ SỐNG HỒN TA
Họ thưa với Chúa: "Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?" Chúa đã quả quyết với họ: "Đây là công việc của Thiên Chúa, là các ngươi hãy tin vào Đấng Ngài sai đến". Dầu Chúa đã nói thẳng với họ là phải tin vào Ngài, là chính Đấng mà Chúa Cha đã sai đến, thế mà họ vốn còn cứ bám víu lấy "Của ăn phàm trần", đầu óc họ cứ vốn còn lẩn quẩn đến những nhu cầu vật chất tầm thường, nên họ đã thưa với Chúa: "Xin Ngài làm dấu lạ nào để chúng tôi thấy mà tin vào Ngài, Ngài làm được việc gì? Cha ông chúng tôi đã cho chúng tôi ăn bánh bởi trời". Chúa đáp: "Không phải Maisen đã cho các ngươi ăn bánh bởi trời, mà chính Cha Ta mới ban cho các ngươi bánh bởi trời đích thực. Vì Bánh của Thiên Chúa phải là vật từ trời xuống, và ban sự sống cho trần gian". Họ liền thưa với Ngài: "Thưa Ngài, xin ban bánh ấy cho chúng tôi luôn mãi". Nhờ cơ hội đó, Chúa Kitô đã tỏ cho họ biết chính Ngài là Bánh Thiên Chúa ban cho họ, khi Ngài trịnh trọng tuyên bố: "Chính Ta là Bánh ban Sự Sống, ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ".
Nơi khác trong Tin Mừng, Chúa cũng đã quả quyết: "Người ta không chỉ sống bằng cơm bánh, nhưng còn sống bằng mọi lời do miệng Chúa phán ra". Thực vậy, lương thực nuôi cho người ta được sống; nhưng cũng một sự thực trăm phần trăm là biết bao người có đầy tràn lương thực cũng vốn phải chết, chứ đâu có lương thực đầy đủ mà sống mãi được đâu. Vả nữa, lương thực chỉ là của ăn Chúa ban để nuôi chúng ta phần xác, bao lâu chúng ta còn sống trên trần gian này; nhưng lương thực vật chất đó không thể nuôi chúng ta trong cuộc sống vĩnh cửu, cuộc sống mãi mãi vĩnh tồn trong hạnh phúc bất diệt, mà Thiên Chúa ban cho những ai tin kính yêu mến Người.
Chính nhờ niềm tin kính vào Chúa, mới là lẽ sống nuôi dưỡng linh hồn chúng ta trong cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu.
III. THÁNH THỂ, NHIỆM TÍCH TÌNH YÊU
Manna là thứ bánh Chúa làm phép lạ để nuôi Dân Riêng trên đường tiến về Đất Hứa, cũng như phép lạ Chúa làm bánh hóa nhiều để nuôi dân chúng trong lúc họ đi theo nghe Chúa giảng. Đó là một hình bóng, một biểu tượng Chúa dùng, để dọn lòng chúng ta hiểu được mầu nhiệm Thánh Thể, một Nhiệm Tích Tình Yêu Chúa đã lập để bày tỏ lòng nhân từ Chúa yêu thương chúng ta. Nhiệm Tích Thánh Thể là một phép lạ gồm tóm mọi phép lạ, là trung tâm mọi việc tôn thờ dâng lên Thiên Chúa của Giáo Hội Công Giáo. Là một Nhiệm Tích cần thiết để được Ơn Cứu Độ. Người ta không có lương thực nuôi thân, người ta sẽ phải chết; cũng thế, nếu chúng ta không có lương thực thiêng liêng nuôi sống linh hồn chúng ta, linh hồn chúng ta cũng sẽ phải chết... Xin Chúa cho chúng ta hiểu biết giá trị đích thực và sự cần thiết phải được dưỡng nuôi bằng Bánh Thánh Thể Chúa. Phải hết lòng phụng sự tôn thờ yêu mến mầu nhiệm Chúa ngự thật trong Bí Tích Thánh Thể và siêng năng sốt sắng lãnh nhận Chúa Giêsu Thánh Thể cách xứng đáng, để chúng ta được hưởng ơn ích do Bí Tích Thánh Thể mang lại cho chúng ta, nhờ lòng nhân từ yêu thương của Chúa.
Biết bao nhiêu phép lạ Chúa đã làm để chứng minh sự hiện diện thực sự của Chúa nơi Thánh Thể. Nhiều vị Thánh và những tâm hồn thánh thiện, không những Bánh Thánh Thể đã nuôi sống linh hồn các ngài, mà còn dưỡng nuôi cả thân xác các ngài nữa, đến nỗi có nhiều vị đã sống nhờ duy một chút Bánh Thánh Thể trong nhiều năm.
Thánh Anton Padua rất khao khát được dự lễ và rước Chúa Giêsu Thánh Thể, nhưng vì ngài phải nằm liệt tại phòng bệnh, không thể tới dự lễ và rước Chúa được. Khi ngài nghe thấy tiếng chuông rung trong lúc Linh Mục chủ tế dâng Mình Thánh Chúa lên, bỗng ngài nhảy chồm xuống khỏi giường, cúi mình thờ lạy Chúa, đột nhiên bức tường phòng bệnh rẽ ra, để ngài đủ thấy rõ Linh Mục dâng Thánh Lễ. Chúa đã làm phép lạ này để thưởng lòng khát mong của Thánh Nhân... Các vị sau đây mỗi ngày chỉ chịu một tấm Bánh Thánh Thể nhỏ bé mà vẫn sống trong nhiều năm. Chân Phước Angela Foligno 12 năm, Thánh Nữ Catharina 8 năm, Chân Phước Elizabeth Reute 15 năm, Thánh Nữ Ledwina 28 năm, Chân Phước Catharina Reconnigi 10 năm, Rosa Andriani 28 năm, Louise Leteau 14 năm.
Là con cái Chúa, với tâm tình như các Thánh, chúng ta tin thật Chúa hiện diện thực tại nơi Nhiệm Tích Thánh Thể. Chúa ngự nơi đây vì yêu thương chúng ta, để nên nguồn an ủi, nên hạnh phúc, nên gia nghiệp đời đời, nên Thiên Đàng cho chúng ta trên dương thế này. Chúa khát mong được ngự vào linh hồn chúng ta để thánh hóa và biến đổi chúng ta nên giống Chúa như Chúa đã truyền dạy: "Các con hãy nên Thánh vì Ta là Thánh" (Lv 11:45). Và: "Các con hãy nên Thánh như Cha các con trên trời là Đấng Thánh" (Mt 5:48).
Kết Luận
Chúng ta hãy đáp lại lòng Chúa yêu thương bằng cách năng đến viếng thăm Chúa, đền tạ an ủi Chúa vì những tội lỗi loài người hằng xúc phạm đến Nhiệm Tích Tình Yêu Cực Thánh này, bằng những tội phạm thánh, đón rước Chúa cách bất xứng, hoặc thờ ơ nguội lạnh bất kính, hoặc chối từ không tin nhận Chúa đang ngự thật nơi đây.
Xin Chúa ban cho chúng ta Đức Tin vững mạnh và sống động mỗi khi chúng ta đến viếng thăm, tôn thờ Chúa Giêsu Thánh Thể, hoặc khi tham dự Thánh Lễ, nhất là khi chúng ta đón rước Thánh Thể Chúa ngự vào linh hồn chúng ta. Xin cho chúng ta hằng cháy lửa kính mến Chúa, cố gắng biến đổi cuộc sống chúng ta nên một Hy Lễ với Chúa, để làm vui lòng Cha Trên Trời, thánh hóa bản thân và cứu độ tha nhân. Lm. Minh Vận, CMC
Như bài chia sẻ tuần trước đã nhận định, chu kỳ Phụng Vụ Năm B theo Phúc Âm Thánh: THÁNHTHỂ-200
Như bài chia sẻ tuần trước đã nhận định, chu kỳ Phụng Vụ Năm B theo Phúc Âm Thánh Marcô, sẽ được chuyển sang Thánh Gioan 5 tuần liền, kể từ tuần vừa rồi. Và trong bài Phúc Âm tuần trước, Thánh Ký Gioan cho chúng ta thấy Chúa Giêsu chẳng những lo phần hồn cho con người mà cả phần xác của họ nữa, bằng cách hóa nhiều 5 ổ bánh lúa mạch và 2 con cá khô. Tuần này, cũng qua Thánh Ký Gioan, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho chúng ta biết ý nghĩa siêu nhiên thực sự của bánh ăn cũng như của việc ăn bánh. Theo ý của Chúa Giêsu thì bánh ăn đây là gì và việc ăn bánh là chi? Nếu Bánh hằng sống đây là chính bản thân Chúa Kitô thì việc ăn bánh đây còn gì khác ngoài việc tin vào Người, và Thiên Chúa ban Bánh bởi trời là Chúa Kitô cho con người còn muốn gì hơn là muốn cho con người tin vào Con của Ngài mà được sự sống. Câu cuối cùng của bài Phúc Âm hôm nay đã chứng thực nhận định trên đây: “Chính Tôi là Bánh Sự Sống. Không ai đến cùng Tôi lại bị đói, không ai tin vào Tôi lại phải khát”. Bởi thế, trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu chẳng những tỏ mình ra là Bánh Sự Sống được Thiên Chúa ban cho thế gian, mà còn kêu gọi con người hãy ăn Người, tức hãy tin nhận Người.
Thật vậy, tất cả mọi sự “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24) làm trên thế gian này, bắt đầu là việc tạo dựng trời đất muôn vật, hay trong lịch sử loài người, điển hình nhất là lịch sử Do Thái thời Cựu Ước cũng được gọi là lịch sử cứu độ, đều có một mục đích duy nhất, đó là làm cho con người tạo vật nhận biết Ngài. Vẫn biết, theo chương trình tạo dựng thì Thiên Chúa nghỉ ngơi trong ngày Thứ Bảy (x Gen 2:2). Thế nhưng, theo Mạc Khải được Sách Khởi Nguyên ghi nhận, thì Thiên Chúa Hóa Công chỉ “nghỉ ngơi không làm tất cả những gì Ngài đã làm vào ngày thứ bảy” (ibid) mà thôi, nghĩa là Ngài không tạo dựng nên thêm một sự gì nữa, việc tạo dựng của Ngài kể như đã hoàn toàn kết thúc sau thời gian sáu ngày, nhưng Ngài vẫn tiếp tục thực hiện việc bảo tồn chúng, nhất là việc thánh hoá con người, bằng không, công cuộc tạo dựng của Ngài không trọn, hay nói cách khác, bằng không, việc tạo dựng của Ngài chỉ là việc để Ngài tỏ quyền toàn năng của Ngài ra thôi, chứ không phải là việc tỏ chính bản thân là tình yêu của Ngài ra. Đó là lý do, ngay sau câu Thánh Kinh trên, Sách Khởi Nguyên viết tiếp: “Vậy Thiên Chúa chúc lành cho ngày thứ bảy và làm cho ngày này là một ngày thánh, vì Ngài nghỉ ngơi sau khi hoàn tất hết mọi việc tạo dựng Ngài làm” (Gen 2:3). Đó cũng là lý do Chúa Giêsu đã khẳng định về Cha của Người cũng như về chính Người với thành phần Do Thái bách hại Người về việc Người chữa lành trong ngày thứ bảy rằng: “Cha Tôi hằng làm việc cho tới nay, Tôi cũng đang làm việc như vậy nữa” (Jn 5:17).
Tóm lại, Thiên Chúa đã giành ra sáu ngày để tạo dựng nên trời đất, nên tất cả mọi sự hữu hình và vô hình, nhưng Ngài dùng một ngày thứ bảy duy nhất để thánh hóa con người nói riêng và tạo vật của Ngài nói chung (x Rm 8:21). Vậy Thiên Chúa làm việc trong ngày thứ bảy là ngày thánh của Ngài như thế nào, nếu không phải là Ngài tỏ chính bản thân của Ngài ra cho con người, một Mạc Khải Thần Linh được nên trọn và lên đến tuyệt đỉnh khi Ngài tỏ mình ra nơi chính “Lời đã hóa thành nhục thể” (Jn 1:14), để làm cho con người tin vào Ngài khi họ chấp nhận Con Ngài, “hiện thân đích thực bản thể Cha” (Heb 1:3). Đó là lý do Chúa Giêsu đã tỏ ý định sâu xa về các hoạt động thánh hóa của Cha Người làm từ sau khi hoàn tất công cuộc tạo dựng cho đám dân Do Thái theo đuổi Người, đám dân được Người làm phép lạ cho ăn bánh no nê, cũng là đám dân đã hỏi Người “chúng tôi phải làm những gì để thực hiện những việc của Thiên Chúa”, rằng: “Đây là công việc của Thiên Chúa, đó là hãy tin vào Đấng Ngài đã sai”.
Đúng thế, vì con người là loài hữu hình và hữu hạn, không thể tự mình biết được Đấng Hóa Công của mình thực sự là Đấng nào, nếu không được chính Ngài tỏ mình ra cho, bằng không, con người chỉ tôn thờ ngẫu tượng theo ý nghĩ của mình mà thôi. Hiện tượng đa thần ngày xưa của con người không thể nào không có tín ngưỡng, của loài tâm linh hữu thần, không chứng thực sự thật hiển nhiên này hay sao? Điển hình nhất là trường hợp Dân Do Thái trong sa mạc, dù đã được chứng kiến tận mắt quyền năng vô cùng của Thiên Chúa giải thoát họ khỏi Ai Cập, họ vẫn đúc bò bằng vàng để tôn thờ như đấng cứu tinh của họ (x Ex 32:1,4). Tuy nhiên, qua các cuộc thần hiển (theophany) trong Cựu Ước, dù có tỏ mình ra thế nào đi nữa, tất cả những dấu chỉ điềm lạ và nhân vật sống động (x Heb 1:2) đều không phải là chính bản thân Ngài, không thể nào diễn tả được thực sự Ngài là Đấng nào, bản tính của Ngài ra sao, cho đến khi Con Ngài xuất hiện, một Ngôi Vị duy nhất có hai bản tính, là Con Người thật sự đồng thời cũng chính là Thiên Chúa thật sự, đến nỗi, “ai thấy Thày là thấy Cha” (Jn 14:9).
Khi tỏ mình ra cho loài người qua Người Con là Lời của mình như thế, chẳng khác gì Thiên Chúa ban cho con người trần gian một thứ bánh bởi trời, như Chúa Giêsu đã cho những người xin xem dấu lạ của Người để có thể tin vào Người, như cha ông tổ phụ của họ đã được thấy dấu lạ manna trong sa mạc xưa do Moisen làm, biết trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này rằng: “Tôi nói thật cho quí vị biết, không phải là Moisen đã ban cho quí vị bánh bởi trời; chính Cha của Tôi đã ban cho quí vị bánh bởi trời thực sự. Bánh của Thiên Chúa từ trời xuống ban sự sống cho thế gian”. Ở đây, Chúa Giêsu chẳng những đính chính quan niệm lầm lẫn của người Do Thái về nguồn gốc của manna, một nguồn gốc thần linh chứ không phải nhân loại, mà còn xác định ý nghĩa đích thực của “bánh bởi trời thực sự”, một thứ bánh được tiên báo qua hình ảnh manna, một thứ bánh “ban sự sống cho thế gian”, một sự sống đời đời chỉ tìm thấy duy nơi bánh bởi trời duy nhất này thôi, một thứ lương thực không hư hoại song tồn tại cho sự sống trường sinh, như Chúa Giêsu đã khuyên người Do Thái trong bài Phúc Âm Chúa Nhật này cần phải tìm kiếm. Thứ bánh bởi trời ban sự sống cho thế gian này là gì, một thứ bánh sau khi nghe Chúa Giêsu nói thế những người Do Thái bấy giờ liền lên tiếng “Thưa Ngài, xin ban cho chúng tôi thứ bánh này luôn mãi”, đã được Người khẳng định ở câu kết bài Phúc Âm: “Chính Tôi là Bánh Sự Sống. Không ai đến cùng Tôi lại bị đói, không ai tin vào Tôi lại phải khát”. Nghĩa là Chúa Giêsu đã kêu gọi dân Do Thái hãy tin vào Người, Đấng Cha sai, vì tin vào Ngài là tin vào Thiên Chúa, là gặp được Thiên Chúa, là không còn khắc khoải không biết Thiên Chúa là ai và ra sao nữa, không còn đói khát thần linh nữa.
Nếu Chúa Giêsu Kitô, Lời Nhập Thể là Bánh Sự Sống, là lương thực tồn tại cho sự sống đời đời thì điều Người dạy trong Kinh Lạy Cha: “xin cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”, trước hết và trên hết, là xin ban cho chúng con Lời Nhập Thể, mà Lời Nhập Thể đã thực sự ban cho con người rồi, nên lời cầu này còn được hiểu là xin Cha hãy tiếp tục tỏ chính bản thân của Cha là Chúa Kitô ra cho chúng con, tức làm cho chúng con có thể “nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Chúa Giêsu Kitô” (Jn 17:3), tóm lại, xin Cha ban cho chúng con được sự sống đời đời là nhận biết Cha và Đấng Cha sai, một sự sống đời đời được thể hiện nơi “lương thực hằng ngày”.
Nếu “lương thực hằng ngày” đây là việc Thiên Chúa luôn tỏ mình ra cho con người, chẳng khác gì như manna hằng ngày nuôi dân Do Thái xưa trong cuộc hành trình sa mạc của họ tiến về Đất Hứa, một ân huệ Thiên Chúa ban cho thành phần tuyển chọn, ban cho con cái của Ngài, thì việc tỏ ra nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Chúa Giêsu Kitô, chính là thái độ đáp ứng của con người trước Mạc Khải Thần Linh, là hành vi đáp lại tình yêu của Thiên Chúa. Thế nhưng, làm sao con người nhiễm mắc nguyên tội đầy yếu hèn và mù tối có thể hoàn toàn và tuyệt đối đáp ứng Mạc Khải Thần Linh, có thể như Mẹ Maria đầy ơn phúc không hề làm mất đi một mảy may nào ân sủng Chúa ban.
Bởi thế, lời cầu tiếp theo là “xin Cha tha nợ chúng con”, tức tha cho chúng con những lần không đáp ứng tác động thần linh. Đó là lý do ngay sau khi “xin Cha thợ nợ chúng con”, Kitô hữu liền “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, nghĩa là xin chớ để chúng con theo khuynh hướng tự nhiên chỉ muốn làm theo ý nghĩ vị kỷ và ý muốn tự do của mình, dù phản lại với ý Chúa. Việc coi trọng ý nghĩ và ý muốn của mình hơn ý muốn vô cùng khôn ngoan và toàn năng của Thiên Chúa đã là một hành động lộng ngôn phạm thượng, như hai nguyên tổ đã làm trong vườn địa đường thuở sơ khai, là một sự dữ kinh hoàng rùng rợn mà Chúa Kitô dạy con người khi kết thúc Kinh Lạy Cha phải “xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ”. Vấn đề then chốt ở đây là, một khi linh hồn biết khao khát “lương thực hằng ngày” là Mạc Khải Thần Linh, bằng việc Đáp Ứng Đức Tin, thì họ sẽ được “sự sống và là một sự sống viên trọn”, đủ (nếu không muốn nói là dư) sinh lực thần linh để chẳng những chế ngự những “chước cám dỗ” mà còn tiêu diệt cả “sự dữ” là tội lỗi và sự chết nữa.