Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Hiện Xuống ABC Bài 351-400 Chúa Thánh Thần là Đấng Phù Trợ
-------------------------------------------- Lễ Vọng: Phúc Âm: Ga 7,37-39; "Phát sinh nước hằng sống"
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Gioan. Vào ngày cuối cùng và trọng đại của dịp lễ, Chúa Giêsu đứng lên giảng lớn tiếng rằng: "Ai khát nước hãy đến cùng Ta và uống; ai tin nơi Ta, thì như lời Thánh Kinh dạy: từ lòng họ nước hằng sống sẽ chảy ra như giòng sông". Người nói điều ấy về Chúa Thánh Thần mà các kẻ tin nơi Người sẽ lãnh lấy, vì bởi Chúa Giêsu chưa được tôn vinh. - Ðó là Lời Chúa.
***** Chính ngày: Phúc Âm: Ga 20,19-23: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con: Các con hãy nhận lấy Thánh Thần".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con!" Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại". - Ðó là lời Chúa. ---------------------------------------------
Vâng kính thưa cộng đoàn, 40 ngày sau Đại lễ Phục Sinh, Giáo hội long trọng cử hành mầu nhiệm cao cả Chúa về Trời, tiếp đến Giáo hội làm Tuần Cửu Nhật và thiết tha cầu xin: "Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến; lạy Đấng an ủi tuyệt vời, xin ngự đến...".
Giáo hội xin Chúa Thánh Thần đến để làm gì ? Thưa, Chúa Thánh Thần đến để rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, và chữa cho lành nơi thương tích. Uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng, chỉnh đốn lại chỗ trật đường… (Ca tiếp liên). Vậy chúng ta hãy trở nên những người trong sạch hơn, sốt sáng hơn, dễ bảo hơn...để Chúa Thánh Thần đỡ vất vả về vấn đề này, còn dạy dỗ chúng ta điều khác.
H. Đức Chúa Giêsu lên trời có bỏ chúng ta mồ côi không?
T. Không, Đức Chúa Giêsu lên trời đoạn, khỏi 10 ngày đã sai Đức Chúa Thánh Thần xuống trên các thánh tông đồ để ở lại với Hội Thánh mãi cho đến tận thế. Đúng 10 ngày sau khi Chúa về Trời, Chúa Thánh Thần đã hiện xuống trên các tông đồ và hiện diện trong lịch sử Giáo hội, hành động không biết mệt mỏi.
Nếu như khi xưa Chúa Thánh Thần đã lấy hình lưỡi lửa xuất hiện và rải rác đậu trên từng người cùng ban đầy đủ các ơn với các sự kiện bên ngoài, thì hôm nay chúng ta tin Chúa Thánh Thần đến với chúng ta cách đặc biệt trong ngày lễ của Ngài.
Quả thật, ơn Chúa Thánh Thần đang hiển hiện trước chúng ta đây. Ngài đang ở với chúng ta qua các bài đọc Kinh Thánh mà chúng ta vừa nghe, vì Ngài là tác tác giả thần linh. Cộng đoàn vừa lắng nghe rất sốt sáng với lòng khao khát được gặp gỡ Ngài, tiếp xúc với Ngài, được Ngài dạy dỗ, soi sáng và hướng dẫn nữa. Chúa Thánh Thần đang đến với chúng ta qua những lời cầu nguyện của Giáo Hội và của từng người trong chúng ta. Mọi người hát kinh Vinh Danh sốt sáng lắm, hẳn phải có Chúa Thánh Thần. Ngài khơi dậy sự cầu nguyện với những tâm tình đạo đức nơi chúng ta; Ngài đốt lửa kính mến Chúa nơi chúng ta. Nếu không có ơn Chúa Thánh Thần thì chúng ta chẳng đến đây làm gì, và có đến thì cũng chỉ ngồi yên thôi.
Chúa Thánh Thần còn đến với chúng ta qua lời giảng dạy của Giáo Hội, Ngài khơi dậy đức tin nơi chúng ta. Ngài dạy ta tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, lát nữa đây chúng ta sẽ tuyên xưng khi đọc kinh Tin Kính. Ngoài ơn đức tin là hồng ân trọng đại, Chúa Thánh Thần còn ban cho Giáo Hội rất nhiều ân sủng khác, mỗi người một kiểu một cách, không ai thiếu ân sủng của Ngài, để mỗi người chúng ta dùng những ơn đó mà xây dựng ích chung cho Giáo Hội như: ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết và ơn thông minh, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn đạo đức và ơn kính sợ Chúa và tài năng như: tông đồ, làm tiên tri, nói tiếng mới lạ… mỗi người mỗi ơn rất phong phú và đa dạng.
H. Chúa Thánh Thần là Đấng nào?
T. Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi Ba. Ngài bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra. Ngài là Thiên Chúa Thật, cùng uy quyền và vinh quang như Chúa Cha và Chúa Con.
H.Chúa Thánh Thần còn được gọi bằng những danh hiệu nào?
T.Ngài thường được gọi là Thần khí của Thiên Chúa,là Thần khí của sự thật,là Đấng an ủi và là Đấng ban sự sống.
Chúa Giêsu gọi Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ, Đấng An Ủi, là Bình An, là Niềm Vui, là Sự Sống.
Chúa Thánh Thần là Ơn Bình An mà Chúa Kitô Phục Sinh mang đến, khi hiện ra với các Tông Đồ, khi đến với Giáo Hội, đến với Cộng đoàn phụng vụ chúng ta. Ngài là Sự Bình An mà thế gian không thể ban tặng như Chúa Giêsu đã nói. Có Chúa Thánh Thần, lòng chúng ta sẽ được bình an, một sự bình an kỳ diệu, đồng nghĩa với hạnh phúc, với ơn cứu độ và sự sống đời đời.
Chúa Thánh Thần là Niềm Vui, mà Chúa Kitô Phục Sinh ban cho ta, một niềm vui khôn tả. Các môn đệ ngày xưa vui mừng vì được thấy Chúa Phục Sinh, chúng ta ngày hôm nay không nhìn thấy Chúa bằng giác quan, nhưng thấy Chúa bằng đức tin, thấy Chúa trong ánh sáng của Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần là Niềm Hoan Lạc ở trong Thiên Chúa Ba Ngôi, là Niềm Vui mà Chúa Kitô Phục Sinh chia sẻ cho chúng ta, để chúng ta thông phần hạnh phúc của Thiên Chúa.
Chúa Thánh Thần là Sự Sống, là Thần Khí, là Hơi Thở mà Chúa Kitô Phục Sinh ban cho Giáo Hội, khi Người thổi hơi vào các thánh Tông đồ và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ." (Ga 20, 23). Chúng ta nghe nói nhiều đến ơn cứu độ, nhưng có lẽ chúng ta vẫn chưa am hiểu và còn cảm thấy trừu tượng, xa vời. Theo đoạn Tin mừng Gioan hôm nay, ơn cứu độ, chính là Thần Khí Phục Sinh của Chúa Kitô, nhờ đó mà mọi người được Thiên Chúa vừa ban cho ơn tha tội, vừa ban cho sự sống mới, thông phần Sự Sống Lại của Chúa Kitô.
Lạy Chúa Thánh Thần xin Ngài ngự đến và xin canh tân bộ mặt trái đất. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ -------------------------------
Đọc các bài đọc Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, có lẽ chúng ta có cảm tưởng đây là mô tả một cuộc tạo dựng mới, với hơi thở sự sống là Chúa Thánh Thần và lời Thiên Chúa phán là Ngôi Lời. Qua tất cả những sinh hoạt của Chúa Thánh Thần trong ngày Hiện Xuống, chúng ta có thể nhận ra công việc chính của cuộc tạo dựng mới này là thiết lập một nhân loại có cùng một ngôn ngữ, ngôn ngữ của tình yêu Thiên Chúa và một nguyên lý căn bản, nguyên lý hiệp nhất trong những khác biệt.
Trước hết, chúng ta không thể không nói đến sự kiện Chúa Giê-su Phục Sinh đã hiện ra với các môn đệ và trao ban Thánh Thần cho họ. “Người thổi hơi vào các ông và bảo: ‘Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần’”. Cử chỉ “thổi hơi” của Chúa Giê-su khiến chúng ta liên tưởng đến việc Thiên Chúa “thổi sinh khí” vào lỗ mũi A-đam để ông “trở nên một sinh vật”. Giờ đây Chúa Giê-su thổi sự sống mới vào các môn đệ Người, nghĩa là Người cho họ thông phần vào sự sống thánh thiện của Thiên Chúa. Làm cho các môn đệ trở thành sinh vật mới, đó là công việc quan trọng nhất của cuộc tạo dựng mới, vì những người này sẽ là khí cụ Chúa Thánh Thần dùng để đổi mới bộ mặt địa cầu. Trao ban Thánh Thần cho các môn đệ, Chúa Giê-su cũng trao cho họ sứ mệnh phổ biến sự tha thứ, vì có tha thứ thì người ta mới có thể sống tình yêu chân chính đối với tha nhân. Sự tha thứ của tình yêu Thiên Chúa đã biến đổi thân phận của nhân loại từ kẻ thù của Thiên Chúa thành con cái Người. Cũng vậy, sau khi nhận được Thánh Thần là Tình yêu Thiên Chúa, các môn đệ Chúa Giê-su phải tiếp tục sứ mệnh biến đổi của Chúa Thánh Thần.
Ý thức được vai trò của Chúa Thánh Thần là tình yêu biến đổi mọi sự, chúng ta trở lại với khung cảnh lễ Hiện Xuống để thấy hoạt động biến đổi của Người như thế nào. Ở Giê-ru-sa-lem tại nơi các môn đệ Chúa tề tựu, một tiếng động và một cơn gió mạnh phát ra báo hiệu khởi đầu thời đại tạo dựng mới, thời đại Chúa Thánh Thần. Người xuất hiện dưới “những hình lưỡi giống như lưỡi lửa”. Lưỡi là biểu tượng của ngôn ngữ và lửa là biểu tượng của tình yêu. Khi các lưỡi lửa “tản ra đậu xuống từng người”, thì mọi người đều được tràn đầy ơn Thánh Thần và họ bắt đầu “nói” bằng ngôn ngữ của Thánh Thần! Họ nói với những người từ khắp nơi đến Giê-ru-sa-lem và ai cũng nghe họ nói tiếng bản xứ của mình. Cũng đâu có gì lạ, vì họ nói bằng ngôn ngữ tình yêu, bằng ngôn ngữ của Thiên Chúa. Ngôn ngữ của kiêu căng thù hận là thứ ngôn ngữ gây chia rẽ, như chúng ta đã thấy trong cuộc dựng tháp Ba-ben (Sáng Thế 11:1-9). Trái lại, ngôn ngữ của tình yêu là ngôn ngữ đem người ta về với sự tha thứ, hòa giải và hiệp nhất, con người hiệp nhất với Thiên Chúa và với nhau. Cuộc tạo dựng mới của Thiên Chúa được thể hiện nhờ quyền năng và sức mạnh bởi thứ ngôn ngữ của Thánh Thần là tình yêu. Xưa kia khi tạo dựng vũ trụ và con người, Thiên Chúa phán qua Ngôi Lời: “Phải có ánh sáng. Liền có ánh sáng…” Giờ đây, khi tái tạo dựng, Người phán qua Thánh Thần: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Chúng ta thử tưởng tượng xem vũ trụ và nhân loại này sẽ như thế nào khi cuộc tạo dựng mới của Thiên Chúa được thực hiện? Tất cả đều do sức mạnh và quyền năng của Chúa Thánh Thần là Tình Yêu thông hiệp giữa Chúa Cha, Chúa Con và cả chúng ta nữa.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Từ Chúa Thánh Thần, chúng ta có những bài học về yêu thương, về hiệp nhất, về phục vụ và xây dựng Giáo Hội…, như thánh Phao-lô kể ra trong bài đọc 2. Nhưng có một bài học dành riêng cho mỗi người chúng ta, là hãy để cho sức mạnh của Chúa Thánh Thần biến đổi chúng ta thành tạo vật mới trong cuộc tạo dựng mới. Thánh Phao-lô quả thực là thần học gia về Chúa Thánh Thần! Ngài khuyên chúng ta hãy trở nên tạo vật mới bằng cách “đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô”. Muốn trở thành thứ gì, chúng ta cần một “khuôn mẫu” của thứ ấy. Vậy muốn nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô thì chúng ta cứ theo khuôn mẫu Ki-tô. WWJD (What Would Jesus Do) đã một thời là khẩu hiệu rất quen thuộc của học sinh Công giáo Mỹ. Nhưng thiết nghĩ “hãy làm điều Chúa Giê-su làm” không chỉ là khẩu hiệu dành cho các em, mà cho cả chúng ta nữa. Tóm lại, hãy theo lối sống của Chúa Giê-su!
(19) Vào chiều ngày ấy, Ngày Thứ Nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em !”. (20) Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (21) Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em ! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. (22) Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. (23) Anh em tha tội cho ai, thì Người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”.
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Giê-su Phục Sinh đã hiện ra với các môn đệ để ban bình an và niềm vui cho các ông, khi ấy đang mang tâm trạng hoang mang sợ hãi (19), chứng minh Người đã thực sự sống lại từ cõi chết (20). Cuối cùng người còn ra lệnh cho các ông tiếp tục sứ mệnh thừa sai của Người (21b). Để hỗ trợ cho các ông đủ khả năng chu toàn sứ mệnh “được sai đi”, Người đã thổi hơi ban Thánh Thần cho các ông kèm theo quyền tha thứ hay cầm giữ tội của người ta (22).
3. CHÚ THÍCH:
- C 19-20:
+ Ngày Thứ Nhất trong tuần: Ngày nay, Giáo Hội đã chọn Ngày Thứ Nhất trong tuần để mừng mầu nhiệm Chúa Phục Sinh và gọi là Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. Đây là ngày lễ nghỉ, thay thế Thứ Bảy (Sa-bát) của Do Thái Giáo. + Đức Giê-su đến: Đức Ki-tô hiện đến trong lúc phòng vẫn đóng kín. Điều này cho thấy thân xác phục sinh của Người có đặc tính thiêng liêng siêu việt, có khả năng hiện diện khắp nơi. + Bình an cho anh em ! Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa: Đức Ki-tô Phục Sinh đem lại sự bình an (x. Ga 20,19.21) và niềm vui (x Ga 20,20) cho các môn đệ (x Ga 14,27).
+ Người cho các ông xem tay và cạnh sườn: Đức Giê-su Phục Sinh cũng là Đấng đã bị đóng đinh chân tay vào thập giá (x. Ga 19,18), và bị lưỡi đòng đâm thâu cạnh sườn (x. Ga 19,34). Điều này cho thấy có một sợi dây liên kết giữa hai mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh.
- C 21-23:
+ Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em: Tông đồ nghĩa là “được sai đi”. Sứ mạng này xuất phát từ Chúa Cha truyền cho Đức Giê-su, và giờ đây đến lượt Chúa Giê-su Phục Sinh lại truyền cho các môn đệ và tất cả các tín hữu.
+ Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”: Theo Kinh Thánh, hơi thở chính là sinh khí hay sự sống. Như xưa, Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào con người A-đam và ban sự sống cho ông (x. St 2,7), thì nay, Đức Giê-su Phục Sinh cũng thổi Thần Khí cho các môn đệ. Rồi đến lượt các môn đệ lại sẽ ban sự sống thiêng liêng ấy cho các tín hữu.
+ “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”: Đức Giê-su được Gio-an Tẩy Giả giới thiệu là Con Chiên của Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian (Ga 1,29). Khi làm phép lạ chữa lành một người bại liệt, Đức Giê-su đã cho thấy Người có quyền tha tội (x. Mt 9,6). Trong Tin Mừng hôm nay, Người thiết lập bí tích giải tội, ban quyền tha tội cho các Tông đồ bằng việc thông ban Thánh Thần cho các ông. Từ đây các Giám Mục, kế vị các Tông đồ sẽ tiếp tục thông quyền tha tội cho các linh mục là những cộng sự viên của các ngài.
4. CÂU HỎI:
1) Tại sao ngày nay Hội Thánh chọn Ngày Thứ Nhất trong tuần làm ngày Chúa Nhật thay vì Ngày Thứ Bảy (Sabát) như đạo Do thái ?
2) Việc Đức Giê-su Phục Sinh đến giữa các môn đệ tại nhà Tiệc ly đang khi cửa đóng kín cho thấy thân xác của Người sau khi sống lại có đặc tính gì ?
3) Qua lời chào chúc, Chúa Phục Sinh đến đã đem lại điều gì cho các môn đệ ?
4) Qua việc cho môn đệ xem tay và cạnh sườn, Chúa Phục Sinh muốn nói gì với các ông ?
5) Sứ mệnh tông đồ thừa sai của Hội Thánh phát xuất từ ai và khi nào ?
6) Tại sao Chúa Giê-su lại thổi hơi ban Thần Khí cho các môn đệ ?
HỎI 1: Tin Mừng Gio-an thuật lại rằng: Chúa Giê-su Phục Sinh đã thổi hơi ban Thánh Thần cho các môn đệ vào buổi chiều Ngày Thứ Nhất trong tuần (x. Ga 20,22), còn sách Công Vụ lại nói: Thánh Thần xuất hiện dưới dạng một tiếng động như tiếng gió mạnh và những hình lưỡi giống như lưỡi lửa đậu xuống trên từng người vào lễ Ngũ Tuần (x. Cv 2,1-3). Như vậy thực ra Thánh Thần đã hiện xuống trên các Tông Đồ vào lễ Phục Sinh hay lễ Ngũ Tuần ? Thánh Thần đã tác động thế nào trên Cộng Đoàn đầu tiên ?
** ĐÁP: Thực ra Chúa Giê-su đã ban Thánh Thần cho các Tông Đồ ngay từ “buổi chiều Ngày Thứ Nhất trong tuần”. Vì sau khi phục sinh, Người không còn bị lệ thuộc vào thời gian và không gian nữa, nên đã về trời ngự bên hữu Chúa Cha và được Chúa Cha tôn vinh, nên Người đã ban Thánh Thần cho các môn đệ ngay lúc đó rồi (x. Ga 7,39). Nhưng phải chờ tới ngày lễ Ngũ Tuần, tức là 50 ngày sau Phục Sinh, Thánh Thần mới phát huy tác dụng, khi các ông đã chuẩn bị tâm hồn đầy đủ bằng việc nghe lời Chúa Phục Sinh dạy bảo Thánh Kinh và xác tín vào mầu nhiệm Phục Sinh của Người; nhất là sau khi các ông “đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su” (Cv 1,14).
Sách Công Vụ đã thuật lại việc Thánh Thần tác động trên Cộng Đoàn đầu tiên như sau: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi. Bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa, tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy Ơn Thánh Thần. Họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2,1-4).
HỎI 2: Tại sao Thánh Thần lại tác động trên các Tông đồ đúng vào lễ Ngũ Tuần của đạo Do thái, tức 50 ngày sau khi Chúa Giê-su sống lại ? Có liên hệ nào giữa hoạt động của Thánh Thần với ý nghĩa của lễ Ngũ Tuần của đạo Do thái hay không?
** ĐÁP: Tuy Đức Giê-su sau khi sống lại đã hiện ra vào chiều Ngày Thứ Nhất trong tuần, trùng với lễ Vượt Qua của đạo Do thái, nhưng phải đợi đến ngày thứ 50, trùng với lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần mới tác động trên các Tông Đồ vì những lý do như sau:
+ Thiết lập giao ước: Trong Cựu Ước, Lễ Ngũ Tuần ban đầu là ngày lễ của nông dân, tạ ơn Đức Chúa về các hoa màu mùa màng (x. Xh 23,16). Về sau dân Do thái ăn mừng lễ này để kỷ niệm việc Đức Chúa ban Lề Luật và ký kết giao ước Xi-nai với họ. Thời Tân Ước vào lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần đã được Đức Giê-su ban cho các Tông Đồ vào chiều ngày phục sinh, giờ đây đã phát huy tác dụng trên các ông, như sách Công vụ thuật lại. Như vậy có thể nói: lễ Hiện Xuống chính là lễ Ngũ Tuần của Tân Ước.
+ Thành lập dân riêng mới: Cũng như trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã ký giao ước Xi-nai và ban Lề Luật vào lễ Ngũ Tuần, tức 50 ngày sau biến cố Vượt Qua, biến dân Ít-ra-en thành dân riêng của Người, thì đến thời Tân Ước, Thánh Thần đã hiện xuống vào 50 ngày sau biến cố Phục Sinh, trùng với lễ Ngũ Tuần của đạo Do thái, để tác động, làm cho Hội Thánh trở thành dân riêng mới của Thiên Chúa.
HỎI 3: Qua các hình dạng được diễn tả trong sách Công Vụ như: “Từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà nơi họ đang tụ họp, và xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa, tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần. Họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2,2-4), tác giả Sách Thánh muốn diễn tả điều gì về hoạt động của Chúa Thánh Thần ?
**ĐÁP: + Tiếng động như tiếng gió mạnh: Ám chỉ Thánh Thần là Đấng thiêng liêng vô hình, giống như gió mà người ta không thể xem thấy, mà chỉ cảm nhận được hiệu quả của nó mà thôi (x. Ga 3,8). “Gió mạnh” tượng trưng cho sức mạnh của ân sủng và tình yêu của Thánh Thần. Sức mạnh ấy sẽ giúp các môn đệ làm được những việc lớn lao hơn Đức Giê-su, nghĩa là ban cho các ông khả năng loan báo Tin Mừng khắp thế gian cho mọi dân tộc, đang khi Đức Giê-su chỉ mới rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho dân Do thái tại xứ Pa-lét-tin.
+ Lưỡi lửa: Lưỡi là bộ phận dùng để nói. Lưỡi lửa ám chỉ lời nói của các Tông đồ sẽ có tác dụng như lửa: vừa tẩy sạch tâm trí người nghe khỏi những tư tưởng sai lầm để nghe biết chân lý, vừa hun đúc tâm hồn người nghe để họ tin vào Lời Chúa.
+ Nói các thứ tiếng khác: Là ân huệ đầu tiên của Thánh Thần. Vậy các Tông đồ nói tếng lạ thế nào ? Chắc không phải là thứ tiếng lạ khác thường, vì khi nghe các Tông đồ nói thì “Người ta hiểu được bằng tiếng mẹ đẻ của mình” (Cv 2,6; 1 Cr 14,5). Ở đây, Lu-ca có ý nói rằng: Các Tông đồ được ơn ngôn ngữ, nghĩa là ơn diễn tả về Thiên Chúa cho người khác hiểu được, làm cho người ta trở nên hiệp nhất thay vì chia rẽ nhau như con cái lòai người thời kỳ xây tháp Ba-ben (x. St 11,1-9). Cuối cùng, ơn ngôn ngữ của các Tông đồ còn giúp Hội Thánh mang tính phổ quát nghĩa là rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc (x. Cv 2,9-11).
HỎI 4: Ngày nay, khi chịu phép Rửa Tội và phép Thêm Sức, Thánh Thần sẽ ban những ơn gì cho các tín hữu ?
** ĐÁP: Khi lãnh nhận phép Rửa Tội, và nhất là khi chịu phép Thêm Sức, Chúa Thánh Thần sẽ đến hoạt động trong các tín hữu chúng ta.
+ Thánh Thần sẽ thông ban dồi dào sự sống của Thiên Chúa cho chúng ta, biến đổi chúng ta nên Ki-tô hữu trưởng thành về đức tin, mạnh dạn tuyên xưng đức tin và kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần cho chúng ta hiểu biết đầy đủ về giáo lý của Chúa Giê-su, hầu giúp chúng ta giữ nghĩa cùng Chúa luôn và ngày càng nên hoàn thiện hơn, như lời Người đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,25).
+ Thánh Thần sẽ cho chúng ta được tham dự vào sứ mệnh của Chúa Giê-su bằng ba việc: rao giảng (Ngôn sứ), thánh hóa (Tư tế), và cai quản dân Chúa (Vương đế). Chúng ta làm chứng cho Chúa Ki-tô bằng lời nói, việc làm và bằng chính đời sống tốt lành của mình, nhờ đó sẽ giúp lương dân nhận biết và yêu mến Thiên Chúa.
+ Thánh Thần sẽ hoạt động trong chúng ta bằng việc ban 7 ơn để soi sáng, hướng dẫn và giúp chúng ta nên thánh. Đó là các ơn: khôn ngoan, hiểu biết, thông minh, biết lo liệu, sức mạnh, đạo đức và kính sợ Thiên Chúa (x. 1 Cr 12,8-11).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em ! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,21-23).
2. CÂU CHUYỆN:
1) NGƯỜI GIEO TRỒNG CẢ CÁNH RỪNG SỒI:
Vào thập niên 1930, có một thanh niên một mình đi thám hiểu dãy núi AN-PƠ (Alpes) nước Pháp. Anh ta đi ngang qua một dải đất đồi trọc rộng mênh mông. Dải đất này vừa hoang vắng không người lai vãng, lại vừa mấp mô xấu xí và không đáng để người ta quan tâm. Bỗng nhiên anh ta thấy một ông già đang khòm lưng làm việc, trên vai đeo một cái túi khá nặng chứa đầy hạt sồi. Tay ông cầm một khúc ống sắt dài khoảng 1m20. Ông đang dùng ống sắt ấy đâm sâu xuống mặt đất, làm thành những chiếc lỗ cách nhau khoảng 3 mét, Rồi ông thò tay vào túi hạt sồi lấy ra một nắm đặt vào mỗi lỗ một hạt. Khi anh thắc mắc thì ông giải thích như sau: “Nhà tôi ở trong vùng đất hoang vu này. Trước kia tôi cũng có gia đình. Nhưng vợ và 3 đứa con của tôi đã lần lượt bị chết do một dịch bệnh cách đây gần một năm. Sau khi vợ con chết hết, tôi buồn bã chán nản không thiết làm việc trồng tỉa như truớc, mà suốt ngày chỉ đi thơ thẩn khắp vùng này để giải khuây. Một hôm tôi đi ngang qua khu vực đồi trọc rộng bao la này và muốn làm một việc gì đó để đời mình có ý nghĩa. Tôi nảy ra ý định sẽ gieo hạt giống từ cây sồi trong vườn sau nhà, để phủ xanh khu vực đồi trọc này. Tuy biết mình đã lớn tuổi chẳng còn sống được bao năm và không có người thừa kế, nhưng tôi vẫn cố gắng làm việc này với hy vọng sẽ để lại cho thế hệ mai sau một quả đồi đầy những cây sồi. Đến nay, sau một năm miệt mài gieo trồng, tôi ước tính đã gieo được cả trăm ngàn hạt sồi xuống đất. Chỉ cần một phần mười số hạt này mọc lên thôi, thì tôi cũng đã mãn nguyện lắm rồi”.
Hai mươi năm sau, anh thanh niên kia giờ đã trở thành một người trung niên. Một lần, khi đi ngang qua khu vực này. Ông ta sửng sốt khi thấy khu vực đồi trọc hoang vu trước đây hai chục năm giờ đã biến thành một khu rừng sồi rất đẹp, rộng hai dặm và dài khoảng năm dặm. Tại khu rừng sồi này có nhiều lòai chim làm tổ và chạy nhảy trên cành ca hát líu lo. Nhiều loài thú hoang như hươu nai cũng đang nhởn nhơn gặm cỏ. Hoa sồi nở rộ khắp nơi lan tỏa mùi thơm khắp vùng. Toàn cảnh khu vực giống như một địa đàng. Ông nhận định rằng: Sở dĩ có được thành quả tốt đẹp này là do bàn tay của ông lão tốt bụng hai mươi năm trước đã để lại.
Lễ Hiện Xuống cũng là một lời mời gọi các tín hữu chúng ta hành động để góp phần xây dựng và mở rộng Nước Chúa đi khắp hòan cầu. Tuy không có khả năng làm thay đổi thế giới, nhưng chúng ta vẫn có thể biến đổi được phần nào ngay tại môi trường sống của mình, giống như ông lão trong câu chuyện trên đã làm. Mỗi chúng ta đều đã được Chúa ban cho một túi hạt sồi ân sủng và một khúc ống sắt tài năng khi lãnh nhận phép Thêm Sức. Chỉ cần một chút can đảm của ông lão trồng sồi, cùng với ơn Thánh Thần hỗ trợ, chúng ta cũng có thể góp phần làm cho thế giới ngày một an ninh trật tự hơn, công bình nhân ái hơn và tốt đẹp thịnh vượng hơn.
2) THÁNH THẦN SẼ CHO BIẾT Ý NGHĨA CỦA CUỘC SỐNG:
Có một nhà hiền triết nọ khi đi lang thang trong rừng, đã không ngừng lặp lại câu hỏi: Đâu là ý nghĩa của cuộc sống?
Bỗng một con họa mi bay đến và nói: Ý nghĩa cuộc sống ư? Chỉ là tiếng hót véo von. Rồi nó bay đi nhưng vẫn còn vương lại những âm thanh dễ mến. Nghe vậy, chú chuột chù phản đối: Đời là một cuộc chiến đấu không ngừng với bóng tối. Thế nhưng chị bướm lại lắc đầu không chịu: Cuộc sống chỉ là hưởng thụ và vui thú. Bấy giờ bác ong mật phát biểu: Cuộc sống không chỉ là vui thú, mà còn là lao động, lao động nhiều hơn vui chơi. Cô phượng hoàng thì vỗ cánh và nói: Chẳng ai có lý hết, đời sống chính là tự do, được tung bay trên khắp khoảng trời xanh. Cụ tùng bách thì lắc đầu và bảo: Đời sống là một cố gắng để vươn cao. Nhưng cô hồng nhung lại quả quyết: Cuộc đời chỉ là những tháng ngày trau chuốt cho vẻ đẹp được thêm duyên dáng. Còn chàng mây lang thang lại thở dài: Đời sống chỉ là những lần chia ly, khổ đau, cay đắng và nước mắt. Còn bà sóng thần thì bảo: Đời là một sự đổi thay không ngừng.
Nhà hiền triết nghe các loài vật phát biểu tỏ vẻ hốt hoảng và chạy trốn ra khỏi khu rừng để khỏi phải nghe những tiếng nói của muôn loài trước một vấn nạn vẫn chưa được giải quyết ngã ngũ. Còn chúng ta thì sao? Rất có thể chúng ta cũng đã băn khoăn như nhà hiền triết, để rồi cảm thấy như bế tắc, không tìm ra đáp số cho bài toán. Thế nhưng với biến cố Hiện xuống, các môn đệ Chúa Giê-su đã nhìn rõ vấn đề, đã thấu suốt được những chân lý mà Chúa Giêsu đã truyền dạy. Nhờ ơn Thánh Thần ban, chúng ta cũng sẽ nếm thử được niềm an bình mừng vui, bởi vì chúng ta xác tín rằng: quê hương chúng ta không phải trên mặt đất này, nhưng là ở chốn trời cao. Cuộc sống tạm bợ phù du này sẽ kết thúc để mở ra một chân trời mới hạnh phúc, kéo dài tới vĩnh cửu. Nhờ đức tin, chúng ta sẽ có được một cái nhìn mới và biết đánh giá đúng mức những thực tại trần gian, và biết xử dụng chúng để xây dựng một cuộc sống mới.
3) THÁNH THẦN CHÍNH LÀ THẦN KHÍ BAN SỰ SỐNG:
Trong kho tàng văn chương Ấn giáo có ghi lại câu chuyện như sau: Có một đệ tử đến thưa với vị linh đạo của mình: “Thưa thầy, con muốn gặp Chúa”. Vị linh đạo chỉ đáp trả bằng một cái mỉm cười thinh lặng. Ngày hôm sau, người môn sinh trở lại và bày tỏ cũng một ước muốn. Vị linh đạo vẫn mỉm cười tiếp tục giữ sự im lặng như lần trước.
Một ngày đẹp trời nọ, ông đưa người đệ tử đến một dòng sông. Thầy trò cùng trầm mình xuống nước. Chờ cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong dòng nước mát, bất ngờ, vị linh đạo đã túm lấy anh và cố dìm anh xuống nước một hồi lâu. Người thanh niên cố gắng vùng vẫy đế trồi lại lên mặt nước. Bấy giờ vị linh đạo mới hỏi anh rằng: “Khi bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?”. Không chút suy nghĩ, anh đệ tử đáp: “Thưa thầy, con cần không khí để thở”. Lúc bấy giờ vị linh đạo liền dẫn giải: “Con cảm thấy cần gặp Chúa giống như con cần có khí trời để thở phải không? Nếu con cảm thấy cần như thế, thì con sẽ lập tức gặp được Ngài. Ngược lại, nếu con không hề cảm thấy cần như thế thì cho dù con có vận dụng tất cả tài trí và cố gắng, con cũng sẽ không bao giờ gặp được Ngài”.
4) THÁNH THẦN SẼ MANG LẠI BÌNH AN THỰC SỰ CHO TÂM HỒN
Một vị vua treo giải thưởng cho nghệ sĩ nào vẽ được một bức tranh đẹp nhất về sự bình an. Nhiều họa sĩ đã cố công. Nhà vua ngắm tất cả các bức tranh nhưng chỉ thích có hai bức mà ông phải chọn lấy một.
Bức tranh thứ nhất vẽ cảnh một hồ nước yên ả. Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ vì có những ngọn núi cao chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời xanh với những đám mây trắng bay lơ lửng. Mọi người hiện diện đều đánh giá đây là bức tranh diễn tả sự an bình thật sự.
Bức tranh thứ hai cũng có những ngọn núi cao nhưng không cây cối và lởm chởm đầy những tảng đá xám xịt. Bầu trời trên cao đang giận dữ đổ mưa lớn kèm theo sấm chớp sáng lòe. Bên vách núi có một dòng thác đổ nước mưa xuống nổi bọt trắng xóa. Bức tranh xem ra chẳng chút bình an. Nhưng khi đến gần quan sát kỹ, nhà vua nhìn thấy phía sau dòng thác có một bụi cây nhỏ mọc lên từ khe nứt một tảng đá. Trong bụi cây một con chim mẹ đang giang rộng đôi cánh ủ ấp mấy chú chim con. Dù giữa dòng thác đang trút nước ầm ầm mà chim mẹ vẫn ấp ủ bảo về lũ con của mình. Điều này đã diễn tả sự an bình nội tâm thực sự.
Nhà vua công bố: “Ta chấm bức tranh này! Vì sự bình an không chỉ là nơi không có tiếng ồn ào, không gặp khó khăn cực khổ. Bình an tâm hồn chính là: dù đang sống giữa phong ba bão táp, mà người ta vẫn an bình chu toàn bổn phận với tình yêu của mình.
5) ĐỔI MỚI PHƯƠNG CÁCH LOAN BÁO TIN MỪNG HÔM NAY:
Từ ngày 20.03.2014 đến nay, các phương tiện truyền thông đã nhiều lần nhắc đến tên tuổi của một nữ tu: sơ CRIS-TI-NA SCUC-CI-A, 25 tuổi, thuộc Hội Dòng UR-SU-LINE THÁNH GIA, thành phố Mi-la-no nước Ý. Đơn giản chỉ vì sơ tham gia chương trình The voice of Italy của đài TV RAI 2 mùa giải năm nay và đã vượt qua được những vòng thi đầy hứng thú. Ở vòng giấu mặt, khi nghe sơ hát bài hit “No One” của Alicia Keys, cả 4 giám khảo (2 nam, 2 nữ) đều nhanh chóng quay mặt lại, tròn xoe đôi mắt kinh ngạc từ chăm chú đến thích thú. Trên YouTube, màn trình diễn của sơ chỉ qua ba ngày đã đạt 13 triệu lượt xem. Tính đến nay, số lượt xem đã hơn 49 triệu. Alicia Keys, tác giả bài hát đã bày tỏ sự thán phục bằng chữ “beautiful”. Diễn viên nổi tiếng Whoopi Goldberg, vai chính trong phim “Sister Act” cũng ghi lời tán thưởng. Đặc biệt, Hồng y Gian Franco Ravasi, chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Văn Hóa, trên trang Twitter đã khích lệ bằng một câu Kinh Thánh: “Mỗi người hãy dùng ơn Chúa ban để phục vụ người khác (1Pr 4,10)”.
Giải thích về việc tham gia cuộc thi, sơ Cris-ti-na cho biết: “Vì ĐGH Phanxicô kêu gọi hãy mang tiếng nói của Chúa đến với mọi người”. Báo chí dựa vào đây để khẳng định tiếng hát của sơ là cách đem Chúa đến với mọi người trên thế giới hôm nay, nhất là các bạn trẻ vốn gần gũi với ngôn ngữ âm nhạc, đồng thời cũng cho thấy dẫu là môi trường đời hay ngay cả những bài hát đời, nếu trình bày với hết tâm hồn, cũng có thể quy hướng người ta về nguồn chân thiện mỹ là chính Thiên Chúa. ĐGH Phanxicô đã kêu gọi công cuộc truyền giáo mới ngày nay rất cần đến nhiệt tình mới, phương pháp mới và ngôn ngữ mới. Hát chính là một trong những ngôn ngữ hiệu quả rất nên được khai thác và sử dụng khi thi hành sứ vụ truyền giáo. Kinh nghiệm, các chị em cũng biết đó: người ta thuộc lời bài hát hơn là nhớ lời bài giảng!
Sơ Cris-ti-na đã dùng đặc sủng Chúa Thánh Thần ban cho mình để sống chứng nhân cho Chúa như sơ đã phát biểu khi có người thắc mắc lý do nữ tu lại tham gia ca hát như sau: “Tôi có một món quà để trao tặng. Tôi đến đây để loan báo Tin Mừng”.
3. SUY NIỆM:
1) Quyền năng và sức mạnh của Thánh Thần trong lịch sử Hội Thánh:
Hôm nay lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là dịp nhắc nhở mỗi người chúng ta hãy tin vào quyền năng của Chúa Thánh Thần. Hãy hân hoan bước đi trong lòng Giáo hội vì Thánh Thần của Chúa Giê-su vẫn luôn ở cùng Giáo hội. Thánh Thần là Thần Chân Lý sẽ bảo vệ đức tin và hướng dẫn Giáo hội đi trong chân lý vẹn tuyền. Giáo hội luôn được lớn mạnh là nhờ sức sống thần linh của Ngôi Ba Thiên Chúa luôn ở trong Giáo hội. Thực vậy, chỉ với vỏn vẹn 12 tông đồ yếu kém học thức và nghị lực lại có thể loan báo Tin mừng của Chúa đi khắp thế gian. Tông đồ Phê-rô đã từng hèn nhát chối Chúa lại có thể can đảm làm chứng cho Chúa và đưa về cho Chúa tới 3 000 người chỉ sau một bài giảng đầu tiên ở Giê-ru-sa-lem. Giáo Hội Chúa Ki-tô dù trải qua bao sóng gió, đàn áp tiêu diệt vẫn ngày một phát triển khắp thế gian. Thực đúng như Téc-tu-ni-a-nô đã nói: "Máu các thánh tử đạo sẽ làm phát sinh các tín hữu" ? Trong thế kỷ 20, một nữ tu nhỏ bé thành Calcutta là Mẹ Têrêsa lại trở thành biểu tượng sáng giá cho sứ vụ làm chứng nhân cho Chúa được cả thế giới ngưỡng mộ… Tất cả những điều kỳ diệu đó đều là hồng ân của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần có thể biến các tông đồ nhút nhát thành can trường. Chúa Thánh Thần có thể ban ơn khôn ngoan cho những con người yếu hèn để họ có thể làm việc của Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần cũng có thể biến đổi kẻ từng bách hại đạo thành Chúa thành một tông đồ nhiệt thành ra đi mở mang Nước Chúa.
Ngày nay, tuy Hội Thánh vẫn còn nhiều khuyết điểm và thậm chí còn có cả tội lỗi nữa nên có thể làm cho nhiều tín hữu cảm thấy thất vọng. Nhưng nếu chúng ta biết rằng Chúa Giê-su vẫn đang ở với Hội Thánh qua Thánh Thần của Người để sẵn sàng bảo vệ, và giúp đỡ Hội Thánh vượt qua những thử thách đen tối... thì chúng ta sẽ không nản lòng, nhưng hãy cầu xin Thánh Thần soi sáng và gia tăng nghi lực để Hội Thánh vượt qua những khó khăn và trung thành đi trên con đường Giê-su. Đó là con đường khiêm hạ nhỏ bé, sẵn sàng chịu thua thiệt để mang lại ơn cứu độ cho đời. Con đường Giê-su đến để phục vụ chứ không tìm vinh quang cho mình. Con đường đó Chúa muốn mỗi người chúng ta hãy trở nên như muối men giữa lòng đời, để làm cho đời nên tốt hơn.
2) Thánh Thần thánh hóa các tín hữu nhờ sốt sắng lãnh nhận các phép bí tích:
Từ khi lãnh nhận phép Rửa Tội, nhất là khi chịu phép Thêm Sức, Thánh Thần cũng được ban cho các tín hữu. Thánh Thần hiện diện khi các tín hữu họp nhau lắng nghe Lời Chúa. Thánh Thần cũng soi sáng, giúp chúng ta thực hành Lời Chúa giữa đời thường (x. Ga 14,17), giúp ta tuyên xưng “Đức Giê-su là Chúa” (x. 1 Cr 12,3) và gọi Thiên Chúa là “Áp-ba! Ba ơi!” (x. Rm 8,15), giúp chúng ta sống như con Thiên Chúa (x. Rm 8,1). Thánh Thần sẽ làm cho chúng ta nên công chính, không còn sống theo xác thịt, nhưng sống cuộc đời mới tốt đẹp hơn (x. Rm 8,10-13), giúp ta cùng chịu đau khổ với Đức Ki-tô để cùng được hưởng vinh quang phục sinh với Người (x. Rm 8,17). Chính Thánh Thần làm cho Hội Thánh hiệp nhất qua việc ban nhiều ơn đặc sủng khác nhau để phục vụ lợi ích chung cộng đoàn (1 Cr 12,4-11). Nhất là được ơn nói tiếng khác và nói tiên tri (x. 1 Cr 14,5). Trong Hội Thánh, mỗi tín hữu là một bộ phận thuộc nhiều phẩm trật khác nhau (x.1 Cr 12,27-30). Ngày nay Thánh Thần hiện diện nơi các vị chủ chăn và cộng đoàn mỗi khi khi họp nhau cử hành bí tích Thánh Thể. Trong Thánh Lễ, Thánh Thần soi sáng cho các tín hữu lắng nghe, hiểu biết và sống theo Lời Chúa, biến hóa bánh rượu trở thành Mình Máu Chúa Giê-su sau lời truyền phép. Thánh Thần chính là linh hồn của Hội Thánh. Nếu không có Thánh Thần thì Hội Thánh cũng chỉ như một xác chết không hồn mà thôi.
3) Thánh Thần hiệp nhất các tín hữu nhờ ban ơn ngôn ngữ tình yêu:
- Câu chuyện về tháp Ba-bel trong Cựu ước: Bấy giờ thiên hạ chỉ nói một thứ tiếng, sau khi định cư tại đồng bằng Senna, họ bàn luận với nhau: “Ta hãy nung gạch và xây một ngọn tháp chọc trời, để tránh bị Đức Chúa cho “Đại Hồng Thủy” tiêu diệt chúng ta”. Trước ý định kiêu căng ngông cuồng này, Thiên Chúa đã khiến tiếng nói của họ trở nên lộn xộn, người này không còn hiểu được người kia. Thế là họ đành phải ngưng việc xây tháp và bỏ đi mỗi người một ngả. Chính tội lỗi nhất là tội kiêu ngạo là nguyên nhân gây sự chia rẽ giữa cộng đoàn.
- Trong lễ Hiện Xuống thời Tân Ước hôm nay, sách Công vụ Tông đồ đã thuật lại tác động của Chúa Thánh Thần như sau: “Bấy giờ các môn đệ đang tụ họp ở một nơi, bỗng dưng có tiếng từ trời đến, ào ào như gió thổi, ùa vào nhà nơi các ông đang hội. Lại thấy có hình lưỡi lửa tản ra và đỗ trên từng người. Tất cả đều được đầy tràn Chúa Thánh Thần và bắt đầu nói được nhiều thứ tiếng khác nhau. Trong thời gian lễ Ngũ tuần, có nhiều người Do thái từ khắp các nơi trở về Giê-ru-sa-lem. Nghe tiếng ồn, họ liền tuốn đến. Và ai nấy đều bỡ ngỡ vì mỗi người đều nghe các tông đồ nói tiếng của mình. Họ ngạc nhên và bàn tán cùng nhau: Phải chăng chúng ta đều nghe họ dùng tiếng thổ âm của mình mà nói đến những sự cao trọng của Thiên Chúa”.
Đây chính là một cuộc họp mặt đông đảo kể từ thời tháp Babel, trong đó mọi người đều hiểu được nhau và cảm thông với nhau nhờ tác động của Chúa Thánh Thần. Nhờ ơn Thánh Thần được tượng trưng qua hình ảnh lưỡi lửa và việc các tông đồ nói bằng nhiều thứ tiếng do Thánh Thần ban để liên kết các dân tộc và giúp họ dễ dàng cảm thông và hiệp nhất với nhau. Nếu không có Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ không có tình yêu, sẽ khó hiểu biết cảm thông với nhau, và dễ dàng làm bùng nổ sự tranh cãi và sự hận thù chiến tranh với nhau.
4) Thánh Thần giúp sống yêu thương để làm chứng cho Chúa:
Cách đây 20 năm ở xứ Long Châu thuộc giáo phận Nam Ninh bên Trung Quốc, ban đầu chỉ mới có một gia đình ông trùm là tin Chúa. Nhưng nhờ gia đình ông động viên nhau nói về Chúa cho dân làng nhận biết Chúa. Kết quả đến nay hầu như cả làng đều đã tin theo Chúa. Hằng năm vào dịp lễ Phục Sinh và Giáng Sinh đều có trên dưới 20 người xin chịu phép rửa tội.
Khi được hỏi: Nhờ bí quyết nào mà việc truyền giáo của ông lại mang lại hiệu quả tốt đẹp như thế. Ông trùm trả lời: “Nhờ đời sống gia đình”. Bên Trung quốc, đời sống gia đình trong thời đại mới gặp rất nhiều khủng hoảng: Vợ chồng bất hoà với nhau. Con cái không vâng lời cha mẹ, có khi còn hành hung cả cha mẹ. Số gia đình tan vỡ ngày càng gia tăng. Trong khi đó gia đình ông trùm vẫn giữ được nề nếp trên thuận dưới hoà: vợ chồng thương yêu kính trọng nhau, con cái vâng lời cha mẹ, anh chị em quan tâm đùm bọc lẫn nhau. Thấy thế, nhiều người lương trong làng đã nêu nhận xét về đạo công giáo như sau: “Công giáo là đạo tốt, vì các tín hữu đã có thể bảo vệ giữ gìn được hạnh phúc cho gia đình mình. Nhờ gương sống đạo tốt đẹp của gia đình ông trùm mà mọi người trong làng đã động viên nhau theo Chúa.
5) Phải làm gì để chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Chúa ?:
Ngày nay Chúa Thánh Thần vẫn đang tiếp tục tác động tuy âm thầm, nhưng không kém phần hiệu quả nơi Hội Thánh. Vậy chúng ta phải làm gì để chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng ?
- Việc thứ nhất là hãy tạo cho mình một bầu khí thinh lặng nội tâm, tránh những lo toan về các nhu cầu như cơm áo gạo tiền. Hãy lo tìm Nước Thiên Chúa trước còn những sự khác, Ngài sẽ ban cho chúng ta sau.
- Việc thứ hai là hiệp cùng Mẹ Ma-ri-a lắng nghe lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và năng tham dự lễ nghi Bẻ Bánh, noi gương hai môn đệ làng Em-mau xưa, đi loan báo Tin vui Phục Sinh.
- Việc thứ ba là chuyên tâm cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ trong đó có Mẹ Chúa Giê-su và các anh em bà con của Người. Nhờ đón nhận được ơn Thánh Thần, mỗi chúng ta sẽ được ơn biến đổi nên tốt hơn và chu toàn được sứ vụ làm chứng cho Chúa cho người chung quanh và cho mọi người chúng ta có dịp tiếp xúc.
2) Ta phải làm gì để được Thánh Thần ngự đến đổi mới và giúp ta thi hành sứ vụ “được sai đi” giống như các Tông đồ trong ngày lễ Ngũ Tuần khi xưa ?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA THÁNH THẦN. Xin hãy đến như cơn gió mát thổi vào tâm hồn chúng con, thổi vào Hội Thánh, thổi vào thế giới hôm nay, để làm tươi mát dịu dàng và ban sự tự do thanh thoát. Xin hãy đến như dòng nước trong lành chảy vào cuộc đời chúng con, chảy vào Hội Thánh, chảy vào thế giới hôm nay, để tẩy sạch mọi tội lỗi nhớp nhơ, làm dịu đi những khô cằn, uốn lại những tấm lòng cứng cỏi, và làm phát sinh những mầm xanh sự sống mới. Xin hãy đến ban ngọn lửa hồng chiếu sáng đời con, chiếu sáng Hội Thánh, chiếu sáng thế giới hôm nay, để xua đi bóng đêm tội lỗi ra khỏi tâm hồn chúng con, đẩy lùi bóng tối của đam mê thấp hèn ra khỏi môi trường chúng con đang sống, làm cháy lên những ước mơ cao cả, và làm bừng sáng tình yêu khiêm nhường phục vụ.
Kết thúc sách Tin Mừng, các thánh sử nói đến việc Chúa sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng. Chúa Giê-su đã nói rõ về nội dung của sứ mệnh ấy là làm cho muôn dân trở thành môn đệ Chúa và dạy người ta tuân giữ những điều Chúa đã truyền. Mọi cuộc lên đường đều cần hành trang. Nhưng lên đường thi hành sứ mệnh rao giảng Tin Mừng thì lại đòi hỏi một thứ hành trang đặc biệt, tuy vô hình nhưng là tất cả nguồn nghị lực và tinh thần của chính Thiên Chúa ban cho. Đó là Thánh Thần mà Chúa Giê-su đã ban cho các môn đệ và chúng ta.
Sứ mệnh là do Thiên Chúa trao, để chúng ta thực hiện kế hoạch của Người. Do đó chúng ta không thể thi hành theo ý riêng của chúng ta, nhưng theo đường lối và mục đích Chúa đã vạch sẵn. Thánh Thần đóng vai trò chủ yếu trong mọi hoạt động của Thiên Chúa, từ công cuộc tạo dựng cho đến kế hoạch cứu độ. Cùng với Chúa Cha và Chúa Con, Chúa Thánh Thần là nguồn sự sống và tình yêu được chia sẻ cho muôn loài, nhất là nhân loại. Khi vũ trụ còn là cõi mênh mang, “thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” để đem sự sống đến muôn vật. Đặc biệt khi dựng nên con người, Thiên Chúa đã “thổi sinh khí vào lỗ mũi” họ, một hình ảnh sống động nói lên vai trò của Thánh Thần (xem Sáng Thế 1:2; 2:7).
Tuy nhiên quan trọng hơn cả là vai trò của Thánh Thần trong việc Thiên Chúa sai một người đi thi hành sứ mệnh. Trước hết là đối với Chúa Giê-su, Đấng được Chúa Cha sai đến thế gian. Từ lúc Chúa Giê-su được thành thai trong lòng Đức Trinh Nữ Ma-ri-a do quyền năng Chúa Thánh Thần (Lu-ca 1:35) cho đến lúc Người “gục đầu xuống và trao Thần Khí” trên thập giá (Gio-an 19:30), Chúa Thánh Thần lúc nào cũng đầy tràn trong tâm hồn Người để “đẩy” Người vào hoang địa, “sai” Người đi rao giảng Tin Mừng, giúp Người trung thành với kế hoạch cứu độ và cuối cùng là vâng phục Chúa Cha đến hơi thở cuối cùng.
Nếu suốt cuộc đời, Chúa Giê-su đã sống và hành động trong sự dẫn dắt của Thánh Thần, thì giờ đây Người cũng muốn các môn đệ đi theo cùng một con đường. Chúa khẳng định với các môn đệ rằng như Chúa Cha đã sai Người đến trong Thánh Thần thế nào, Người cũng sai họ đi trong Thánh Thần như vậy. Cho nên Người đã “thổi hơi” vào họ và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Sai họ đi, Chúa Giê-su đã trang bị cho họ bằng những gì Người đã được trang bị khi đến trần gian, đó là sức mạnh và quyền năng của Chúa Thánh Thần. Đang khi thi hành sứ mệnh, các môn đệ sẽ nhận được sự trợ giúp của Thánh Thần. Người giúp họ “nhớ lại” những điều Chúa Giê-su đã dạy, tuyên xưng đức tin vào Chúa Ki-tô Phục sinh, can đảm chấp nhận mọi thử thách và gian nan để trung thành với Chúa và với sứ mệnh. Thí dụ cụ thể là ông Tê-pha-nô, trước khi bị ném đá chết, ông đã “được đầy ơn Thánh Thần, ông đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang Thiên Chúa và thấy Đức Giê-su đứng bên hữu Thiên Chúa” (Công Vụ 7:55). Tóm lại, Thánh Thần đã dẫn đưa Chúa Giê-su được sai đi thi hành sứ mệnh như thế nào thì Thánh Thần cũng dẫn dắt các môn đệ ngày xưa và hôm nay của Chúa Giê-su như vậy!
Sống sứ điệp Tin Mừng
Khi sai các môn đệ đi, Chúa Giê-su đã hứa: “Thầy sẽ ở với anh em hết mọi ngày cho đến tận thế” (Mát-thêu 28:20). Hôm nay thì Người nói với họ: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Gio-an 20:22). Lời hứa và sức mạnh của Chúa Giê-su là bảo đảm và hành trang cho chúng ta, các tông đồ hôm nay của Chúa. Tuy nhiên chúng ta sẽ không thể tin vào sự hiện diện và sức mạnh của Chúa Giê-su nếu chúng ta không xác tín vai trò của Chúa Thánh Thần. Trong bài đọc thứ hai hôm nay, thánh Phao-lô quả quyết: “Không ai có thể nói rằng: ‘Đức Giê-su là Chúa’, nếu người ấy không ở trong Thần Khí” (1 Cô-rin-tô 12:3b).
Tất cả chúng ta đã có sẵn “Thần Khí” của Chúa Giê-su trong tâm hồn. Lúc nào Chúa Thánh Thần cũng muốn làm bùng lên ngọn lửa mến Chúa yêu người trong chúng ta, ngọn lửa “nhiệt thành vì công việc nhà Chúa”, để chúng ta ra đi làm chứng nhân cho Tình Yêu Thiên Chúa và giúp Người biến đổi bộ mặt địa cầu!
Mỗi năm lễ Chúa Thánh Thần vẫn đem lại cho chúng ta những ấn tượng khó diễn tả. Bởi vì, trước khi về trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha, Đức Kitô phục sinh đã nhiều lần nói và đã hứa với các môn đệ, Ngài sẽ ban Chúa Thánh Thần xuống cho các Ông, Thánh Thần từ nơi Cha sẽ đến với các môn đệ. Lời hứa của Đức Kitô phục sinh đã hoàn tất viên mãn trong ngày lễ Ngũ Tuần, nghĩa là 50 ngày tính từ lễ Vượt Qua của người Do Thái, và từ khi Chúa Thánh Thần hiện xuống. Do đó, ngày hôm nay được gọi là lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Theo như Kinh Thánh thuật lại trong đoạn Tin Mừng của thánh Gioan 20, 19-23 thì Chúa Giêsu phục sinh đã ban bình an cho các môn đệ ngay từ buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần. Ngài sai các môn đệ đi rao giảng, rồi Ngài thổi hơi vào các ông và bảo:” Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần…”. Ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần xuống trên các môn đệ dưới hình lưỡi lửa và biến đổi các môn đệ thành những người mới, đầy quyền năng. Chúa Thánh Thần đã đi vào nội tâm các môn đệ. Đây là một cuộc xức dầu. Dầu linh thiêng thấm nhập vào tâm hồn của các Ngài, biến đổi các Ngài thành những con người hoàn toàn mới, hoàn toàn mạnh mẽ khác với khi chưa lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Xưa, các môn đệ là những người còn nhút nhát, e dè, sợ sệt, nay Chúa Thánh Thần làm cho các Ngài trở thành những người hiên ngang, bất khuất, hăng say, bừng bừng như ngọn lửa muốn thiêu đốt tất cả trong Tin mừng và lòng mến. Chẳng hạn Phêrô trước kia chỉ là một người chài lưới, ít học, nóng nảy, nhưng Chúa Thánh Thần xuống trên Phêrô, Ngài đã trở nên một người đầy lửa, ăn nói lưu loát, thu hút cả hơn ngàn người ngay bài giảng đầu tiên ngày lễ Ngũ Tuần và rồi tất cả các môn đệ đều nói nhiều thứ tiếng đến nỗi dân tộc nào tới đó cũng hiểu được tiếng của họ.
Vâng, ngay chiều ngày thứ trong tuần, Chúa Kitô phục sinh đã thổi hơi trên các môn đệ và ban Thánh Thần cho các Ông:” Các con hãy nhận lấy Thánh Thần “ ( Ga 20, 22 ). Qua việc thổi hơi và ban Thánh Thần, Chúa Kitô phục sinh muốn thông chuyển Thánh Thần và tâm tình con thảo của Ngài đối với Thiên Chúa Cha cho Hội Thánh, cho chúng ta. Quả thực, khi được vinh quang bên hữu Chúa Cha, Chúa Giêsu đã sai Thánh Thần xuống và trao ban Chúa Thánh Thần cho Hội Thánh như linh hồn của chính Hội Thánh. Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn, tác động linh hồn của Hội Thánh và uấn nắn nhân loại, uấn nắn tâm hồn chúng ta rập theo những tâm tình của Chúa Kitô.
Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội. Thiếu Chúa Thánh Thần, Giáo Hội sẽ không đứng vững vì giống như một thân xác thiếu sự sống. Chúa Thánh Thần là Đấng tốt lành vô biên vì Ngài là hoa quả của yêu mến, vui mừng, bình an.” Ta sẽ đổ xuống trên nó dòng sông bình an “. Yêu mến, vui mừng, bình an là món quà quí giá Chúa Kitô phục sinh trao ban cho Giáo Hội và nhân loại, cho mỗi người chúng ta sau khi Chúa Kitô sống lại.
Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống đánh dấu một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần. Lễ Chúa Thánh Thần nhắc nhớ cho chúng ta, cho mọi Kitô hữu về Chúa Thánh Thần bình an đã hoạt động trong Giáo Hội hơn 2.000 năm nay. Bây giờ Ngài vẫn luôn hiện diện nơi Giáo Hội, nơi tâm hồn của Kitô hữu khi họ lãnh nhận phép Thêm sức, để rồi Chúa Thánh Thần sai họ đi làm chứng cho Chúa Kitô phục sinh.
Chúng ta còn nhớ Công Đồng Vaticanô II được coi là Công Đồng của Chúa Thánh Thần. Đây là một Công Đồng thổi vào Giáo Hội một luồng khí mới, biến đổi Giáo Hội trở nên mới, nhạy cảm hơn đối với nhiều vấn đề trên thế giới, một Công Đồng đầy ắp tình thương, đầy Chúa Kitô và đầy Chúa Thánh Thần.
Làm chứng cho Chúa Kitô phục sinh là để tâm hồn mình mở toang ra trước những thử thách của thời đại, dám đương đầu với những khó khăn, không rụt rè, không e sợ.
Làm chứng cho Chúa Kitô phục sinh là không co cụm trong tháp ngà, trong sự hưởng thụ riêng tư mà là tung bay đến với những người nghèo, đến với những người bị bỏ rơi, gieo neo, đau khổ, mang lại bình an và phẩm giá cho họ.
Làm chứng cho Chúa Kitô phục sinh là để Chúa Thánh Thần thúc đẩy chúng ta đến với muôn dân, đến với những người chưa biết Chúa để phục vụ họ và rao giảng Chúa Kitô cho họ.
Vâng, chúng ta hãy để Chúa Thánh Thần biến đổi như Chúa Thánh Thần đã biến đổi các môn đệ ngày lễ Ngũ Tuần và như thế thế giới sẽ an bình và đầy ắp tình thương cứu độ. Chúa Thánh Thần sẽ hiệp nhất mọi người trong tình yêu.
Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy đến biến đổi chúng con và đổi mới bộ mặt thế giới. Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
Chúa Thánh Thần được ban xuống cho các môn đệ khi nào ? Thổi hơi có nghĩa là gì ? Tại sao lại gọi là lễ Ngũ Tuần ? Chúa Thánh Thần đã biến đổi các môn đệ thế nào ? Chúng ta đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần lúc nào ?
"Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con: Các con hãy nhận lấy Thánh Thần".
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con!" Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại". Suy Niệm:
Phụng vụ hôm nay cống hiến cho chúng ta hai bài tường thuật việc Chúa ban Thánh Thần cho các Tông đồ, tức cũng là cho Hội Thánh và cho chúng ta, để ngày nay chúng ta sống như lời thư Phaolô vừa nghe đọc. Hai bài tường thuật ấy khác nhau, nhưng bổ túc cho nhau, để chúng ta hiểu rõ việc Chúa Thánh Thần xuống trên Giáo hội, vừa rộng rãi vừa sâu xa. Dĩ nhiên chúng ta sẽ bắt đấu với bài sách Công vụ, vì dường như bài đó muốn tường thuật biến cố mầu nhiệm mà chúng ta cử hành hôm nay. Nhưng khi xem đến bài Tin Mừng, chúng ta sẽ thấy bài đó giúp chúng ta đi sâu vào Thánh lễ này. A. Thánh Thần Hiện Xuống
Bài sách Công vụ có vẻ rõ ràng sáng sủa. Hôm ấy là lễ Ngũ Tuần. Các môn đệ hội họp ở một nơi. Bỗng dưng Thánh Thần hiện xuống; họ liền nói nhiều thứ tiếng khiến ai đến xem cũng nghe thấy họ ca ngợi các kỳ công của Thiên Chúa trong ngôn ngữ của mình.
Nhưng trong hiện tượng sáng sủa ấy lại toàn những điều kỳ diệu làm nên nội dung phong phú của ngày lễ hôm nay.
Trước hết đối với người Dothái, hôm nay là ngày lễ lớn, một trong ba ngày lễ lớn nhất trong năm. Lễ cử hành 50 ngày sau lễ Vượt qua, nên gọi là lễ Ngũ Tuần. Vượt qua đưa họ ra khỏi nô lệ Aicập, thì 50 ngày sau họ cử hành lễ này để ghi nhớ ký kết giao ước ở chân núi Sinai. Ít ai ở thời các Tông đồ còn để ý đến nguồn gốc xa xưa hơn nữa của ngày lễ này. Vì thực ra, khởi đầu lễ Ngũ Tuần chỉ là một lễ nông nghiệp. 50 ngày sau khi xuống đồng cắt bó lúa đầu tiên đưa lên Ðền thờ cảm tạ Yavê, Dân Chúa hôm nay đem nhiều bột, nhiều bánh và nhiều súc vật lên hân hoan tạ ơn Thiên Chúa đã cho mùa màng phong phú. Lễ Ngũ Tuần vì thế ngay từ đầu đã nô nức vui tươi. Từ ngày mặc lấy ý nghĩa kỷ niệm ngày ký kết giao ước, lễ này lại có tính cách dân tộc vì là ngày dân bắt đầu có "hiến pháp", có pháp luật. Thế nên rất nhiều người Dothái ở xa cũng về Yêrusalem dự lễ.
Chính trong bầu khí hân hoan, nô nức của ngày lễ Ngũ Tuần Dothái mà chúng ta được chứng kiến sự kiện lạ lùng xảy ra nơi nhà các môn đệ Chúa đang hội họp.
Theo lệnh Chúa, họ đang ở tại Yêrusalem chờ đợi "điều Cha đã hứa". Thì này, "bỗng xảy đến tự trời một tiếng rào rào như thể tiếng cuồng phong thổi đến, vang dậy đầy cả nhà". Ðang sống trong bầu khí của ngày lễ Ngũ Tuần, ai mà không liên tưởng tới ngày hiện tượng hùng vĩ đã xảy ra trên núi Sinai xưa. Cả núi đều rung chuyển mạnh vì có tiếng sấm của Yavê vang lớn ở trên cao. Và ngày xưa đã có chớp, rồi khói bốc lên như khói lò thiêu; thì nay kìa "có những lưỡi như thể bằng lửa hiện ra cho họ và phân tán ra đậu trên mỗi người trong họ". Và như ở Sinai hôm đó toàn dân đã tập họp lại dưới chân núi để nghe ban bố Luật pháp, thì nay toàn thế giới trong con người của những dân nói tiếng khác nhau cũng đến nghe họ nói những kỳ công của Thiên Chúa.
Người ta dễ nhìn thấy đây là cảnh tượng trái ngược hẳn với câu truyện xây tháp Babel, vì một bên là người trong cùng một nhà bỗng nói những ngôn ngữ khác nhau thành ra chia rẽ tản mác đi mỗi người một ngã; còn ở đây các dân tộc nói những thứ tiếng khác nhau trở thành một cộng đoàn hiệp thông. Nhưng người ta còn phải thấy rằng sỡ dĩ được như thế này là nhờ việc các Tông đồ nói được những thứ tiếng khác lạ của người nghe, tức là Hội Thánh phải biết nói "ngôn ngữ của mọi thời, mọi nơi mới có thể biến cả thế giới nên một cộng đoàn duy nhất. Và điều đó thể hiện được, vì theo lời Phêrô tuyên bố hôm nay, Thiên Chúa đã đổ Thần trí của Người xuống trên mọi xác phàm, như lời Yoel đã đoan hứa và như Chúa Giêsu đã bảo phải chờ đợi.
Như vậy, xảy ra trong bối cảnh của ngày lễ Ngũ Tuần Dothái, việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Tông đồ nói lên cao điểm của mầu nhiệm Vượt qua mới. Ðức Giêsu Kitô đã giải phóng chúng ta trong sự chết và sự sống lại của Người. Nay Người tổ chức chúng ta lại thành một dân duy nhất, khi ban Thần trí Người xuống trên Giáo hội. Các Tông đồ của Người sẽ ra đi cho đến tận cùng mặt đất để nói lên các kỳ công của Thiên Chúa trong ngôn ngữ và văn hóa của mọi dân tộc khiến mọi người trên khắp thế giới cũng nhận một Cha chung trên trời và sống làm anh em với nhau theo giáo lý của Ðức Kitô.
Do đó ngày hôm nay có thể coi như ngày ra mắt của Dân Mới, ngày Hội Thánh hữu hình khởi sự đi vào lòng các dân tộc, ngày chúng ta phải ý thức mình là công dân của Nước Trời và là anh em với mọi người.
Nhưng khi chúng ta muốn tìm đến nguồn gốc sâu xa hơn nữa của ngày lễ hôm nay, thì chỉ bài Tin Mừng Yoan mới nêu lên được phương hướng phải đi vào. B. Chúa Yêsu Ban Thánh Thần Lập tức chúng ta thấy như ngỡ ngàng. Thánh Yoan thuật rằng ngay lúc xế chiều ngày thứ nhất trong tuần, Chúa phục sinh đã hiện diện với các môn đệ, thở hơi trên họ và nói: Hãy chịu lấy Thánh Thần. Như vậy, họ đã được chịu lấy Thánh Thần ngay chiều hôm lễ Phục sinh. Tại sao Luca lại kể mãi đến ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần mới hiện xuống trên các thánh Tông đồ?
Chúng ta có thể giải đáp một cách đơn sơ rằng Thần trí của Chúa đã hoạt động trên mặt đất ngay từ thời sáng thế. Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy, như lời kinh Tin Kính nói. Người đã phủ bóng trên Ðức Trinh Nữ và đỗ xuống trên Ðức Kitô. Chính Luca cũng nói ở đầu sách Công vụ: Ðức Giêsu đã chọn các Tông đồ dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần. Nghĩa là như lời thư Phaolô hôm nay nói: ơn Thần khí phát biểu ra nơi mỗi người mỗi khác, tùy ích chung. Và như vậy không phải chỉ có một lần Chúa Thánh Thần hiện xuống; và Người có thể đến với mọi người nhiều lần trong đời sống để làm những công việc khác nhau. Nhưng phải nói Người xuống trên cộng đoàn các môn đệ trong ngày lễ Ngũ Tuần có một giá trị và ý nghĩa đặc biệt, không tiền khoáng hậu, để đánh dấu một chuyển biến lớn trong Lịch sử cứu độ.
Còn khi Người đến trên các Tông đồ vào buổi chiều ngày Phục sinh như thánh Yoan kể thì lại có ý nghĩa khác. Có thể nói rằng: đối tượng của bài Tin Mừng hôm nay không phải là đối tượng của bài sách Công vụ. Rõ ràng thánh Luca muốn thuật lại việc Chúa Thánh Thần hiện xuống; còn thánh Yoan chỉ muốn cho chúng ta thấy Chúa sống lại hiện ra. Và đọc kỹ đoạn Tin Mừng này chúng ta phải ngỡ ngàng vì tác giả có nhiều ẩn ý sâu xa.
Thoạt đầu, thánh Yoan cho ta thấy bối cảnh của buổi chiều Chúa nhật Phục sinh. Các Tông đồ ở với nhau, nhưng cửa đóng cài chặt vì sợ người Dothái. "Thì Chúa Giêsu đã đến". Yoan dùng chữ "đến" chứ không dùng chữ "hiện ra". Chữ ấy ngài vẫn dùng trong các tác phẩm của ngài và đặc biệt trong câu kết của sách Khải huyền: Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến! Như vậy bối cảnh của buổi chiều ngày Chúa nhật là bối cảnh của một cuộc hội họp, phụng vụ. Nói đúng hơn, việc Chúa đến đã làm cho cuộc họp mặt của các Tông đồ trở thành buổi họp phụng vụ. Người chào họ bằng câu chúc bình an là muốn đem Nước Trời đến cho họ. Người chỉ tay và cạnh sườn Người cho họ, để họ thấy đây chính là Người, Người đã chịu đóng đinh, Người đã trở thành Chiên Vượt qua sát tế. Nên Yoan đã dùng chữ "chỉ" giống như Yoan Tẩy giả đã chỉ vào Ðức Giêsu và tuyên bố: "Ðây là Chiên Thiên Chúa gánh tội thiên hạ". Ðược thấy Chúa, các môn đệ mừng rỡ; vì Yoan luôn luôn nói "thấy" Chúa là được sự sống, là được cứu độ, và "thấy" Ðức Chúa Cha là được thỏa mãn.
Lẽ ra Yoan đã có thể dừng lại ở đây. Việc Chúa sống lại hiện đến với môn đồ đã đạt tới mục đích rồi. Họ đã được cứu độ nhờ việc Chúa Tử nạn Phục sinh đến với họ. Nhưng Yoan còn viết thêm. Và những lời sau đây cũng được xếp đặt tương tự như vừa kể ở trên. Người ta có cảm giác Yoan lặp lại những điều vừa viết. Ðúng, ông nói lại nhưng đào sâu thêm. Ông viết: một lần nữa, Người nói với họ: bằng yên cho các ngươi. Nhưng lần này, Người không gửi sự bằng yên đến với họ để biến họ nên "những con người được sai đi" để sai họ đi như Cha đã sai Người. Nhưng họ chỉ có thể ra đi khi đã được lãnh nhận Thánh Thần. Thế nên nói thế rồi Người đã thổi hơi trên họ và nói: Hãy chịu lấy Thánh Thần. Câu này Yoan đã viết song song với câu ở trên: Nói thế rồi, Người chỉ tay và cạnh sườn Người cho họ. Câu sau lặp lại câu trước nhưng sâu xa hơn. Và phải nhờ câu trước để hiểu câu sau. Câu trước nhắc đến Ðức Kitô trên Thập giá chịu lưỡi đòng đâm thâu. Câu sau diễn tả ý nghĩa của sự kiện "Nước cùng Máu" đã chảy ra tự cạnh sườn Ðấng bị đâm thâu, tức là Thánh Thần được ban cho Giáo hội do việc Tử nạn của Ðức Kitô.
Chịu lấy Thánh Thần rồi, Giáo hội có sự sống mới, có khả năng tác sinh, mà cụ thể là tha tội cho người ta trở nên con cái Thiên Chúa. Thế nên, nếu trên kia khi thấy Chúa, các môn đồ đã được vui mừng, thì bây giờ khi đã chịu lấy Thánh Thần là nội dung của sự vui mừng, các Tông đồ có thể làm nên Hội Thánh khi tha tội cho người ta.
Bài Tin Mừng Yoan như thế có hai phần song song rõ rệt. Phần sau phải tựa vào phần trước khiến cả hai phần chỉ là một diễn ra càng đi càng sâu. Nhờ việc Chúa sống lại, môn đồ được thấy Người và được vui mừng. Nhờ hơi thở của Người, họ được lãnh nhận Thánh Thần và có thể xây dựng Hội Thánh. Họ chỉ được ơn sau, nhờ đã thấy tay và cạnh sườn Người trước, tức là đã tin mầu nhiệm hy tế Thập giá: Thánh Thần như nước thanh tẩy đã chảy ra tự cạnh sườn máu me của Ðấng chịu đóng đinh.
Yoan không thể bỏ phần sau, vì như vậy sẽ dừng lại ở việc Chúa sống lại hiện ra; và tin việc Chúa sống lại để làm gì, nếu mầu nhiệm đó không có giá trị cứu thế, tức là ban Thánh Thần để tha tội? Yoan nhắc nhở cho chúng ta biết: mầu nhiệm Phục sinh phải bao hàm và đạt tới mầu nhiệm Hiện xuống; việc Chúa Thánh Thần hiện xuống là ơn tuôn trào từ mầu nhiệm Vượt qua vì Ðức Kitô có "ra đi" thì Thánh Thần mới được ban xuống cho loài người.
Và nếu mầu nhiệm Phục sinh - Hiện xuống chỉ là một, thì Hội Thánh huy hoàng trong ngày lễ Hiện xuống không được quên mình đã được sinh ra từ cạnh sườn Chúa Cứu Thế. Chính Nước Thánh Thần chảy ra từ các vết thương của Chúa chịu đóng đinh đã rửa Hội Thánh và chính hơi thở của Chúa sống lại đã sai các Tông đồ đi trong Thánh Thần để kết nạp Hội Thánh. Bài Tin Mừng Yoan hôm nay đưa chúng ta vào chiều sâu và nguồn gốc của hiện tượng kể trong bài sách Công vụ. Cả hai bài cho chúng ta thấy ý nghĩa sâu xa của lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Và bổn phận của những người đã lãnh nhận Thánh Thần là phải thực hiện lời thư Phaolô. C. Xây Dựng Nhiệm Thể
Sở dĩ chúng ta đã được lãnh nhận Thánh Thần là vì chúng ta đã đi qua mầu nhiệm Tử nạn - Phục sinh của Ðức Kitô trong phép Rửa. Trước khi chịu phép Thêm sức, người ta đã phải lãnh nhận bí tích Rửa tội. Không phải khi chịu phép Rửa tội người ta chưa trở nên Ðền thờ của Chúa Thánh Thần. Người ta cũng đã có "sự vui mừng" như các Tông đồ buổi chiều lễ Phục sinh, tức là đã được mầm mống của Thánh Linh nhờ hơi thở của Chúa sống lại. Nhưng cũng như các Tông đồ phải chờ đón nhận Thánh Thần trong ngày Ngài hiện xuống để ra đi tiếp nối sự nghiệp của Chúa Cứu Thế, thì sau khi chịu phép Rửa tội, người ta cũng còn phải được Thêm sức để đi thi hành sứ mệnh ở đời. Và sứ mệnh này, thư Phaolô nói, có rất nhiều diện và mặc nhiều hình thức, nhưng tất cả đều phát xuất từ một Thánh Thần và quy về cùng một đối tượng là xây dựng nhân loại nên một thân thể Ðức Kitô.
Nỗ lực xây dựng nào cũng tốt và cũng cần. Ðiều quan trọng không phải là sự khác biệt trong công việc, nhưng là cơ sở phát xuất, mục tiêu nhắm tới và thiện chí thi hành. Nếu ai cũng để cho Thánh Thần thúc đẩy và nhiệt tình xây dựng xã hội loài người nên một, thì tất cả chúng ta sẽ là tông đồ của ngày lễ Hiện xuống năm nay.
Và đó là điều mà Thánh lễ này muốn thực hiện. Chúa Tử nạn Phục sinh sẽ đến với chúng ta. Người ban lương thực bổ sức bằng Thánh Thần để chúng ta hết thảy không những được vui mừng vì thấy Người, mà còn được Thần khi Người thổi cho những tư tưởng sáng tạo, những nhiệt tình phấn khởi, muốn chung sức với mọi người để xây dựng một gia đình duy nhất, một dân tộc đoàn kết, một xã hội hòa bình.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm) -------------------------------
Giáo Hội hôm nay đã lớn mạnh và lan rộng khắp thế giới. Nhưng nếu trở lại thời điểm được thánh Gio-an kể lại trong bài Tin Mừng, chúng ta sẽ khó tin được sự phát triển ấy làm sao mà có. Đó là nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Khác với bài trích sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại việc Chúa Thánh Thần ngự đến trong “tiếng gió mạnh” và “hình lưỡi giống như lưỡi lửa”, bài Tin Mừng hôm nay chỉ vắn tắt nói đến việc Chúa Giê-su Phục sinh hiện ra với các môn đệ và ban Thánh Thần cho họ. Mục đích chính của cuộc hiện ra này là để Chúa ban Thánh Thần cho các môn đệ. Vậy chúng ta hãy xem Chúa Giê-su nói gì với họ về vai trò của Thánh Thần.
Trước hết thánh Gio-an cho chúng ta biết tâm trạng của các môn đệ lúc này. Các ông “sợ người Do-thái”, những người đã giết chết Thầy của các ông, nên “nơi các ông ở, cửa đều đóng kín”. Chúa Giê-su đến và chúc bình an cho họ. Với sự hiện diện này, “các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa”. Tuy nhiên mục đích chuyến hiện ra này của Chúa không phải chỉ là để giúp các môn đệ hết sợ hãi, được bình an và vui mừng, nhưng Người đến để chuẩn bị cho họ sẵn sàng thi hành sứ vụ Người sẽ trao ban cho họ. Hai lần Chúa chúc bình an cho môn đệ. Nếu lời chúc bình an đầu tiên chỉ là lời chào bình thường và giúp cho các môn đệ được vui mừng, thì lời chúc bình an thứ hai phải là để các ông vững tâm và sẵn sàng lãnh nhận một sứ mệnh khó khăn. Sứ mệnh đó là “được sai đi” để tiếp tục những gì Chúa đã làm khi Người còn sống tại trần gian. “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. Các môn đệ là những người đã đi theo Chúa. Họ đã nghe Người giảng Tin Mừng cứu độ, thấy Người làm những phép lạ chữa lành, nhất là khai mở Nước Thiên Chúa để quy tụ mọi người lại làm con cái Cha trên trời. Chúa Giê-su đã được Chúa Cha sai đi để làm tất cả những điều ấy. Giờ đây, với quyền năng Thiên Chúa, Chúa Giê-su cho các môn đệ chia sẻ sứ mệnh của Người và sai họ đi để tiếp tục sứ mệnh ấy.
Nhưng làm sao các môn đệ có thể tiếp tục những gì Chúa đã làm? Quả là một sứ mệnh vượt quá khả năng của họ. Chúng ta có thể tưởng tượng ra vẻ sợ hãi của họ. Có lẽ họ nhìn nhau, ngầm hỏi nhau làm sao mình dám nhận một sứ mệnh vĩ đại như thế. Chúa đọc được ý nghĩ của họ. Người làm một cử chỉ đầy ý nghĩa của Thiên Chúa. Như Thiên Chúa thổi hơi vào lỗ mũi A-đam để truyền sự sống cho ông thế nào, Chúa Giê-su cũng thổi hơi vào các môn đệ và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Nhận lấy Thánh Thần là nhận lấy sự sống mới và sức mạnh của Thiên Chúa để lên đường truyền giáo. Chúa Giê-su đã “trao Thần Khí” khi Người chết trên thập giá để bắt đầu công cuộc Tạo dựng Mới. Tiếp tục công việc này của Chúa, các môn đệ cũng ra đi để cộng tác với Người trong công cuộc Tạo dựng Mới.
Ở đây Chúa Giê-su không cần kể ra chi tiết những gì các môn đệ phải làm khi được sai đi, nhưng Người cho các ông thấy họ được sai đi như những người có đầy đủ tư cách và khả năng để thi hành sứ mệnh. Người nói vắn tắt: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”. Thánh Thần được ban cho họ chính là quyền bính và sức mạnh của Thiên Chúa. Chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội và cầm giữ. Tha tội và cầm giữ cũng là công việc hòa giải nhân loại với Thiên Chúa như Chúa Giê-su đã thi hành. Các môn đệ lãnh nhận quyền bính và sức mạnh của Thiên Chúa là để tha tội cho người ta, tức là giải thoát nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi, và để cầm giữ quyền lực của ma quỷ tội lỗi đang hoành hành nơi nhiều người.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Công tác của Chúa Thánh Thần là “đổi mới bộ mặt trái đất”. Thế giới vẫn cần được thay đổi, từ cá nhân đến gia đình, xã hội và Giáo Hội. Chúa kêu gọi chúng ta lãnh nhận Thánh Thần Người ban để giúp Người hoàn tất cuộc Tạo dựng Mới. Xây dựng lại những gì bị phá đổ do tội lỗi, thù hận, kiêu căng… là nhiệm vụ của mỗi Ki-tô hữu. Cuộc tái tạo này chúng ta hãy bắt đầu từ chính mình, thay đổi lối sống sao cho xứng làm con Chúa, rồi đến môi trường chung quanh, thí dụ hàn gắn những tương quan đổ vỡ… giúp cho Nước Chúa trị đến. Về công tác này, quả thực có nhiều điều bắt chúng ta phải suy nghĩ!
Xem ra có một cái gì đó vẫn chưa ổn đối với các tông đồ khi Chúa Giêsu bị bắt, bị treo trên thập giá và ngay cả khi Ngài đã sống lại ! Cái chưa ổn, đó là phong ba bão táp trong lòng các tông đồ. Thầy Giêsu, một Vị Thầy đầy uy quyền, làm nhiều phép lạ, đã bị giết chết. Làm sao các tông đồ lại có thể yên lòng, bình chân như vại được ru ? Các Ngài cứ tưởng Thầy Giêsu sẽ khôi phục lại Vương Quốc Israen để rồi các được nhiều đặc quyền đặc lợi. Nhưng đùng một cái, mọi sự đều biến tan theo mây khói. Các Ngài sợ hãi người Do Thái, ở im lìm trong một ngôi nhà tại Giêrusalem, các cửa đều đóng kín và rồi Chúa Phục Sinh hiện đến, thổi hơi ban Thánh Thần cho các Ngài. Cuộc đời các Ngài thay đổi từ đây…
CHÚA PHỤC SINH HIỆN ĐẾN THỔI HƠI, TRAO BAN THÁNH THẦN VÀ 50 NGÀY SAU CHÚA THÁNH THẦN NGỰ ĐẾN KHIẾN CUỘC ĐỜI CÁC TÔNG ĐỒ HOÀN TOÀN ĐƯỢC ĐỔI MỚI:
Tin Mừng thánh Gioan thuật lại cách rất rõ rệt, sau khi hiện ra, trấn an các tông đồ trong ngôi nhà cửa kín then cài, Chúa Phục Sinh thổi hơi và ban Chúa Thánh Thần cho họ. Người nói:”Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” ( Ga 20,22 ).Tuy nhiên, năm mươi ngày sau khi Chúa sống lại, vào buổi sáng Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần xuống tràn ngập trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa.Các tông đồ bỗng thay đổi hẳn: sự nhút nhát, sợ hãi biến khỏi các ông. Các ông đã trở nên những chứng nhân hiên ngang rao giảng Tin Mừng. Bởi vì, các tông đồ đã nhận được sự bình an của Chúa Phục Sinh. Sự bình an thật trong tâm hồn. Bình an của Chúa Phục Sinh khiến các tông đồ có thể đối diện với khổ đau và đối diện ngay cả cái chết. Do đó, Chúa Phục Sinh đã truyền lệnh cho các Ngài:” Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” ( Ga 20, 21 ). Các tông đồ được Chúa sai đi .Các Ngài đã hiên ngang, kiên cường vì như bài sách công vụ thuật:” Chính trong ngày lễ trọng đại của người Do Thái, năm mươi ngày sau lễ Vượt Qua. Dịp lễ đặc biệt này qui tụ nhiều dân thuộc mọi thứ tiếng về Giêrusalem. Cũng trong ngày lễ vô cùng trọng đại này mà hoạt động của Chúa Thánh Thần được biểu lộ một các rõ ràng. Các tông đồ của Chúa Phục Sinh nói tiếng lạ và nhiều người thuộc mọi ngôn ngữ đều hiểu những gì các Ngài nói. Điều này chứng tỏ Chúa Thánh Thần tạo nên sự hiệp nhất chứ không như tình trạng con người muốn xây tháp Babel xưa. Còn thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Corintô đã viết: “ Trong một Thánh Thần chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thể cho dù là Do Thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do, tất cả chúng ta đã uống trong một Thánh Thần “ ( 1 Co 12, 13 ). Chúa Thánh Thần là Đấng bảo trợ, an ủi, soi sáng, ủy lạo vv…Chúa Thánh Thần còn được ví như:” Quả tim mới “ theo ngôn ngữ của ngôn sứ Edêkiên. Hội Thánh của Chúa ở trần gian trong niềm tin của mình Chúa Thánh Thần chính là nguồn sống mới, nguồn sống vô biên.
CÁC TÔNG CHỖI DẬY, RAO GIẢNG VÀ XÂY DỰNG MỘT NGÔI NHÀ CHUNG ĐẦY ẮP TÌNH THƯƠNG VÀ SỰ HIỆP NHẤT:
Được đầy tràn Thánh Thần, các tông đồ nhất nhất đã chỗi dậy, đã nắm lấy lịch sử của Hội Thánh. Các Ngài đã ra đi khắp tứ phương thiên hạ để đến với muôn dân, xây dựng Giáo Hội huynh đệ và hiệp nhất. Các Ngài đã để cho Chúa Thánh Thần mở toang tâm hồn,mở toang cõi lòng của họ, không còn nhát đảm sợ sệt, không còn xao xuyến hoang mang, nhưng các Ngài đã làm chứng cho Chúa Phục Sinh và giới thiệu Nước Trời cho nhiều người.Nhờ Chúa Thánh Thần nhờ ngọn lửa tình yêu, các tông dồ đã mau mắn, nhanh nhẹ ra đi làm chứng cho Chúa bất chấp hiểm nguy, bất chấp khó khăn cho dù phải hy sinh tới cả tính mạng của mình. Đi tới đâu, các tông đồ cũng xây dựng giáo đoàn, xây dựng Hội Thánh. Và Giáo Hội của Chúa luôn đầy ắp tình thương, luôn xây dựng nước trời. Lễ Hiện Xuống là một cuộc hiển linh, một sự bầy tỏ Hội Thánh cho thế gian. Công Đồng Vaticanô là một Lễ Hiện Xuống mới. Công Đồng Vaticanô tuyên bố:” Bằng việc liên hệ của mình với Đức Kitô, Giáo Hội là một loại bí tích hay là một dấu chỉ sự hiệp nhất thân mật với Thiên Chúa và hợp nhất mọi dân nước. Giáo Hội cũng là khí cụ kiến tạo nên một sự hiệp nhất như vậy”.
GIÁO HỘI MỜI GỌI CHÚNG TA LÃNH NHẬN CHÚA THÁNH THẦN:
Như các tông cùng với Mẹ Maria trng nhà Tiệc Ly cầu nguyện, chờ đón lãnh nhận Chúa Thánh Thần,mỗi người Kitô hữu chúng ta khi được lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức cũng đang được Chúa sai đi loan báo Tin Mừng. Mọi Kitô hữu đã có Chúa Thánh Thần luôn được mời gọi làm chứng cho Chúa, bởi vì Hội Thánh là Hội Thánh truyền giáo. Làm chứng cho Chúa Phục Sinh có nghĩa là đến với những người nghèo, những người neo đơn, đau khổ, những người gặp khó khăn, những người tù bị tù đầy, những người bệnh hoạn tật nguyền. Làm chứng cho Chúa là mở tung cửa lòng của mình ra để cho Chúa ngự. Làm chứng cho Chúa là không nhát đảm chối Chúa khi gặp khó khăn, dám tuyên xưng niềm tin khi phải tuyên xưng niềm tin. Mỗi người Kitô hữu phải có thái độ sám hối, quay về như Phêrô:” Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy “. Làm chứng cho Chúa là xây dựng sự hiệp nhất giữa nhau, giữa các cộng đoàn, giữa các giáo xứ, giáo họ. Làm chứng cho Chúa là gieo vãi tình thương và bình an của Chúa cho nhiều người. Tình thương và bình an là hoa trái tốt lành của Chúa Thánh Thần. Sự bình an phát xuất bởi Chúa Phục Sinh và tình thương tự hiến do Chúa trao tặng cho nhân loại. Chúng ta cầu xin tái diễn một Lễ Hiện Xuống mới để mọi người hiểu biết sâu xa hơn về Giáo Hội của Chúa.
Cách đây hơn 2.000 năm, Thánh Thần của Chúa Phục Sinh bắt đầu ngự xuống trong tâm hồn các tông đồ cách đầy quyền năng. Chúng ta mừng ngày lễ trọng đại này với tất cả niềm tin và tình thương. Xin Chúa Thánh Thần đến trên chúng ta và biến đổi tâm hồn chúng ta hầu chúng ta trở nên những chứng nhân kiên trung của Chúa Phục Sinh.
· Cv 2,1-11; 1: (3) Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. (4) Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần.
· 1Cr 12,3b-7.12-13: (3) Không ai có thể nói rằng: «Đức Giêsu là Chúa», nếu người ấy không ở trong Thần Khí.
· TIN MỪNG: Ga 20,19-23
Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ
(19) Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: «Bình an cho anh em! » (20) Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (21) Người lại nói với các ông: «Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em». (22) Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: «Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. (23) Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ».
1. Thánh Thần là gì đối với bạn? Bạn hiểu về Ngài thế nào? Ngài là một thực tại trừu tượng và xa vời, hay cụ thể và gần gũi bạn? 2. Làm sao cảm nghiệm được Thánh Thần? Cảm nghiệm được Ngài có phải là chuyện khó khăn quá không? 3. Làm sao để Thánh Thần có thể biến đổi ta nên con người mới? hoạt động trong ta một cách tự do và dễ dàng?
Suy tư gợi ý:
1. Thánh Thần là ai?
Khi xem một cuốn phim trên màn ảnh hay trên tivi, hầu như ta chỉ nhìn thấy những hình ảnh chuyển động trong phim chứ không còn trông thấy màn ảnh hay cái tivi nữa. Nhưng thật ra, nếu xét về sự hiện hữu, thì cái màn ảnh hay cái tivi là cái gì có thật làm nền tảng cho những hình ảnh chuyển động kia hiện hữu. Mức độ hiện hữu của màn ảnh hay cái tivi cao hơn những hình ảnh kia rất nhiều. Sở dĩ ta không thấy màn ảnh là vì tâm trí ta bị cuốn hút hoàn toàn bởi những hình ảnh đang xuất hiện trước mắt ta đến nỗi ta không còn trông thấy và ý thức về sự hiện hữu của màn ảnh hay cái tivi nữa. Dù không thấy màn ảnh, nhưng thực ra, khi nhìn vào những hình ảnh chuyển động, là ta đã nhìn vào chính màn ảnh, vì hình ảnh và màn ảnh khi ấy tuy hai mà một. Ta không thấy màn ảnh là vì bị những hình ảnh che khuất.
Cũng tương tự như vậy đối với Thánh Thần. Thánh Thần không phải là một thực tại xa cách chúng ta, mà ở ngay trong bản thân ta: «Thánh Thần luôn ở giữa anh em và ở trong anh em» (Ga 14,17); «Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?» (1Cr 3,16; x.1Cr 6,19). Tất cả những gì tốt đẹp khởi lên trong tư tưởng ta, những gì tốt đẹp mà ta thực hiện được, đều xuất phát từ Thánh Thần ở ngay trong ta. Và Thánh Thần làm nên tất cả những cái tốt đẹp ấy và là nền tảng của chúng. Nhưng ta dường như chỉ thấy những điều tốt đẹp, mà không thấy Thánh Thần ở sau những điều tốt đẹp ấy. Nếu một số Kitô hữu xưa nói: «Ngay cả việc có Thánh Thần, chúng tôi cũng chưa hề được nghe nói» (Cv 19,2), thì nhiều Kitô hữu ngày nay cũng chỉ biết Thánh Thần một cách hết sức lý thuyết qua những câu kinh bổn học được từ nhỏ, mà nhiều khi người dạy cũng chỉ biết được cách lý thuyết.
Thật ra Thánh Thần là một thực tế rất sống động ở trong ta, là sự sống, là tình yêu, là sự hiện hữu của Thiên Chúa ở trong ta. Không có Ngài, ta chẳng làm nên được một điều gì tốt đẹp, chẳng thể hướng về Thiên Chúa và cầu nguyện với Ngài, chẳng thể yêu thương và hy sinh cho tha nhân. Thánh Kinh xác định: «Không ai biết được những gì nơi Thiên Chúa, nếu không phải là Thần Khí của Thiên Chúa» (1Cr 2,11); «Không ai có thể nói rằng: “Đức Giêsu là Chúa”, nếu người ấy không ở trong Thần Khí» (1Cr 12,3); «Không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em» (Mt 10,20); «Chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta» (Rm 8,26); «Chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách» (1Cr 12,11); «Chúng ta biết được Thiên Chúa ở lại trong chúng ta là nhờ Thần Khí» (1Ga 3,24).
2. Làm sao cảm nghiệm được Thánh Thần?
Không ai thấy Thánh Thần hay cảm nghiệm Ngài một cách trực tiếp, mà chỉ có thể cảm nghiệm Ngài cách gián tiếp qua những biểu hiện của Ngài thôi. Cũng tương tự như không ai thấy được dòng điện, nhưng dòng điện trở nên rất cụ thể và rất gần gũi với chúng ta nhờ những biểu hiện của dòng điện, như đèn sáng, quạt quay, bếp nóng lên… Cũng vậy, Thánh Thần sẽ trở nên rất cụ thể và gần gũi với ta, nếu ta nhận ra được những biểu hiện lúc nào cũng có của Ngài trong đời sống của ta và chung quanh ta. Chẳng hạn, khi viết bài này, tôi thấy mình có những tư tưởng về Thiên Chúa, về Thánh Thần, và cảm thấy hứng thú vì có thể đem lại ích lợi cho Giáo Hội, cho tha nhân, v.v… Đó là những biểu hiện của Thánh Thần hoạt động ở trong tôi. Hoặc khi bạn đọc bài của tôi, bạn hiểu và cảm thấy hứng khởi để sống tốt đẹp hơn, v.v… Đó là những biểu hiện hay việc làm của Thánh Thần ở trong bạn. Quan niệm như vậy, ta sẽ thấy Thánh Thần – phần nào tương tự như dòng điện vô hình kia – là một thực tại, một đấng, một Thiên Chúa rất cụ thể, sống động và rất gần gũi với ta. Không một giây phút nào ta có thể sống, thở, suy nghĩ, làm những điều tốt đẹp… mà không do Ngài.
Phải thấy Ngài cụ thể và gần gũi như thế, ta mới thân mật được với Ngài, mới nhận được dồi dào sức mạnh, sự sống, tình yêu, ân sủng, và hoa trái của Ngài. Và hoa trái của Ngài là «bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ» (Gl 5,22-23a). Nếu không cảm nghiệm được Ngài như thế, đời sống tâm linh của ta sẽ hết sức trừu tượng, xa vời, thiếu thực tế. Còn nếu cảm nghiệm được Ngài, ta sẽ thấy đời sống tâm linh rất cụ thể, nhiều hứng thú, và đầy những khám phá mới lạ. Thánh Thần ở trong ta cũng chính là Thánh Thần đã đưa Đức Giêsu vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ (x. Mt 4,1), đã hiện hình thành chim bồ câu đậu xuống trên Ngài khi Ngài chịu phép rửa (x. Mt 3,16), đã soi sáng và linh hứng Ngài nói lên tất cả những gì cần phải nói để dạy dỗ con người (x. Lc 10,21; Mc 13,11; Cv 2,4), đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa vào ngày lễ Ngũ Tuần sau khi Đức Giêsu về trời (x. Cv 2,3), v.v… Thánh Thần đó đang hoạt động trong bản thân ta, đang dần dần biến đổi ta và hướng dẫn ta tới «sự thật toàn vẹn» (Ga 16,13), miễn là ta cho phép Ngài hoạt động trong ta và ta cùng cộng tác với Ngài.
3. Làm sao để Thánh Thần hoạt động hữu hiệu trong ta?
Thánh Thần luôn hiện diện và sẵn sàng hoạt động ngay trong bản thân ta. Sẵn sàng hoạt động có nghĩa là Ngài sẽ hoạt động ngay nếu ta cho phép Ngài hoạt động. Ngài giống như dòng điện đã sẵn sàng hết ở trong phòng, chỉ cần bật công-tắc lên là đèn sáng, biến căn phòng tối om thành sáng choang. Không bật công-tắc lên, thì điện tuy có trong phòng nhưng vẫn dường như không có, chẳng đem lại lợi ích gì. Cũng vậy, nếu ta không đánh thức Thánh Thần dậy, thì Ngài cũng giống như Đức Giêsu ngủ say trong thuyền của các tông đồ khi sóng gió đang muốn làm con thuyền lật úp, mà Ngài chẳng làm gì cả (x. Mc 35-41). Nhưng khi Ngài được đánh thức dậy, Ngài lập tức làm cho sóng gió lặng yên. Trong máy vi tính, có nhiều trường hợp ta bị đảo điên vì virus hoành hành, đang khi ta có cả một chương trình chống virus rất hữu hiệu. Sở dĩ virus vẫn hoành hành là vì ta quên hay không kích hoạt (activate) chương trình ấy để làm cho nó hoạt động. Cũng vậy, Thánh Thần tuy hiện diện thường trực trong ta, nhưng vẫn thụ động, vì ta không tạo điều kiện cho Ngài hoạt động.
Thánh Thần không hoạt động hữu hiệu trong ta khi ta không ý thức sự hiện diện của Ngài trong ta. Những lời kinh như: «Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến!» khiến ta thường lầm tưởng Thánh Thần không ở trong ta, mà ở đâu xa lắm. Đôi khi ta lập đi lập lại lời cầu ấy thật nhiều lần mà dường như Ngài vẫn ở tận đâu đâu, chẳng chịu đến. Thật ra, trước khi ta cầu xin Ngài đến, thì Ngài vẫn ở ngay trong ta từ đời thuở nào rồi (x. 1Cr 3,16; 1Cr 6,19). Nhưng Ngài ở trong ta cách thụ động, như một người ngủ, vì ta không đánh thức Ngài dậy bằng cách ý thức sự hiện diện của Ngài trong ta.
Ý thức Thánh Thần ở trong ta là điều kiện tiên quyết để Ngài hoạt động. Nhưng Ngài chỉ hoạt động hữu hiệu khi không bị chính ta và ý riêng của ta cản trở. Một người có «cái tôi» quá lớn, coi mình như «cái rốn của vũ trụ», và coi ý riêng mình là quan trọng nhất trên đời, thì Thánh Thần không có cách nào hoạt động hữu hiệu nơi người ấy được. Một ly nước đã đầy ắp không thể chứa thêm được chút nước nào nữa. Cũng vậy, tâm thức của một người đã đầy ắp «cái tôi» của mình rồi, thì không còn chỗ nào cho Thánh Thần hoạt động nữa. Làm sao ta có thể nói được như thánh Phaolô: «Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi» (Gl 2,20), khi mà ta không để Ngài chiếm trọn bản thân ta, và làm mọi việc trong ta theo ý của Ngài? Cũng vậy, Thánh Thần không thể hoạt động và biến đổi ta khi ta không để Ngài làm chủ bản thân ta, mà chỉ coi Ngài như một người khách lạ đến chơi nhà. Một người khách làm sao có thể hoạt động hữu hiệu được trong nhà do một người khác làm chủ? Muốn Thánh Thần hoạt động hữu hiệu trong bản thân ta, biến đổi ta nên con người mới, hãy để Ngài hoàn toàn làm chủ bản thân ta, và ta hãy làm tất cả những gì Ngài muốn ta làm.
Để Thánh Thần làm chủ bản thân ta, để Ngài hoàn toàn tự do làm những gì Ngài muốn ở nơi ta, Ngài sẽ biểu hiện quyền năng vô biên của Ngài trong ta. Ngài chính là kho tàng hay viên ngọc quý ở ngay trong ta mà Đức Giêsu đã giới thiệu trong Tin Mừng (x. Mt 13,44-46). Muốn được viên ngọc quý ấy, ta phải bán hết gia tài mình có mới mua được. Gia tài ta phải bán hết chính là «cái tôi» hay chính bản thân ta, cùng với tất cả ý riêng của ta. Chính khi ta không còn «cái tôi» ích kỷ của mình nữa, thì một «cái tôi» mới sẽ phát sinh, bao hàm trong đó tất cả mọi người mọi vật trong vũ trụ. Lúc đó ta sẽ thấy mọi người mọi vật trong vũ trụ đều là chính bản thân ta, và ta sẽ yêu thương tất cả như ta yêu thương tất cả mọi bộ phận đang có trong thân thể ta. Và linh hồn ta lúc ấy chính là Thánh Thần, luôn chủ động làm tất cả mọi việc.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Thánh Thần luôn ở ngay trong con. Nhưng Ngài không hoạt động được ở trong con, vì con thường xuyên không ý thức sự hiện diện của Ngài ở trong con. Và vì con không để Ngài được tự do hoạt động ở trong con, không cho phép Ngài được hoàn toàn làm chủ bản thân con. Xin hãy giúp con làm tất cả những gì để Thánh Thần có thể biểu lộ quyền năng của Ngài ở trong con, để biến con thành một con người mới, hoàn toàn do Thánh Thần hướng dẫn trong mọi sự.
Joan Nguyễn Chính Kết Về Trang Suy Niệm Chủ Nhật Năm A | Về Trang Nhà -------------------------------
Cuối đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Gio-an khẳng định: “Bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh” (Ga 7:39). Điều này giúp ta thấy rõ hơn vị trí của lễ Chúa Giê-su lên trời được đặt trước lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, không phải chỉ theo thứ tự thời gian mà còn theo ý nghĩa của biến cố nữa. Khi còn tại thế, sự hiện diện của Chúa Giê-su và sứ mệnh của Người là điều thế giới mong chờ, nhất là cái chết cứu chuộc Người đã dùng để giải phóng nhân loại khỏi quyền lực tội lỗi. Trong khi rao giảng, Chúa Giê-su đã không ngừng kêu gọi người ta đến với Người. “Hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng... Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11:28-29). Giờ đây tuy Người trở về với Thiên Chúa Cha, nhưng Người vẫn ở lại với nhân loại qua Thánh Thần. Do đó, Người vẫn tiếp tục kêu gọi người ta đến với Người trong Thánh Thần: “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống. Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống” (Ga 7:37-38). Lời hứa ban Thánh Thần, nước hằng sống, của Chúa Giê-su chính là đề tài mà Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời ta suy niệm ý nghĩa và đáp lại lời mời ấy. a) Thời gian và nơi chốn của lời hứa ban Thánh Thần
Có thể ta ít chú ý tới chi tiết phụ thuộc là thời gian và không gian được nhắc đến trong sách Tin Mừng. Nhưng đối với Tin Mừng Gio-an, những mốc thời gian và không gian bao giờ cũng là điều quan trọng, soi sáng cho ta hiểu rõ hơn được ý nghĩa của chính biến cố. Ở đây thời gian là “ngày bế mạc tuần lễ Lều, và là ngày long trọng nhất”, còn không gian là “trong Đền Thờ”.
Lễ Lều được cử hành vào mùa thu, sau khi mùa màng được thu hoạch. Khách hành hương kéo về thánh đô, dựng lều và ở lại trong bảy ngày, tham dự những cuộc rước tưng bừng. Mỗi ngày các tư tế rước nước lấy từ hồ Si-lô-a đem về tưới lên bàn thờ. Các phụ nữ thì nhảy múa ca hát thâu đêm tại tiền đình dưới ánh đèn rực rỡ. Mọi người cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho mùa màng gặt hái tốt đẹp. Có lẽ thánh sử Gio-an muốn ghi lại thời điểm này để nhắc nhở ta về hoa trái quan trọng nhất Chúa Giê-su ban cho nhân loại khi Người “trao Thần Khí” từ trên thập giá (Ga 19:30). Đó là hoa trái “Thánh Thần”, sự sống cho cuộc tạo dựng mới Thiên Chúa khởi sự.
Khi hứa ban Thánh Thần, Chúa Giê-su đứng trong Đền Thờ. Hình ảnh này thể hiện điều ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã tiên báo trước đây: “Có nước vọt ra từ dưới ngưỡng cửa Đền Thờ và chảy về phía đông, vì mặt tiền Đền Thờ quay về phía Đông. Nước từ phía dưới bên phải Đền Thờ chảy xuống phía nam bàn thờ... chảy tới đâu thì nó chữa lành, chảy đến đâu thì ở đó có sự sống” (Ed 47:1-12). Đã có lần khi tỏ ra cho người phụ nữ Sa-ma-ri biết Người là ai, Chúa Giê-su đã nói với bà: “Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4:14). Như thế, đứng trong Đền Thờ, Chúa Giê-su chính là mạch nước ban sự sống cho những ai khao khát được sống đời đời. b) “Ai khát, hãy đến với tôi; ai tin vào tôi, hãy đến mà uống”
Lời mời gọi không phân biệt giai cấp, màu da, ngôn ngữ. Tuy nhiên mọi người đều mang một mẫu số chung: khát nước. Con người khát tình yêu của Thiên Chúa, khát ơn cứu độ. Ai ai cũng lo lắng về tương lai: tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? (Lc 10:25). Họ chỉ có được câu trả lời duy nhất: hãy đến với Chúa Giê-su, Đấng đã đến “để chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10).
Nhưng đến với Chúa Giê-su với cung cách như thế nào mới là điều quan trọng. Có những kẻ đến với Chúa để “thử thách, bắt bẻ, gài bẫy” Người. Có những người đến chỉ để xin ân huệ, sau khi được là đi luôn, không quay đầu trở lại, giống như chín người phong hủi (Lc 17:11-19) hoặc người đau ốm đã ba mươi tám năm (Ga 5:1-18) đã được Chúa chữa lành. Nhưng ta phải đến với Chúa Giê-su với tất cả lòng tin. Lòng tin là điều Chúa luôn đòi hỏi phải có. Người thường hỏi những kẻ Người sẽ chữa lành: Con có tin không? Chúa Ki-tô Phục sinh là nguồn mạch ban Thánh Thần. Do đó, nếu ta không tin vào Chúa Ki-tô, ta không thể lãnh nhận được Thánh Thần. Thánh Gio-an đã xác quyết điều kiện này khi ngài chú giải: “Đức Giê-su muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận.” Hoặc nói khác đi, thánh Gio-an muốn bảo ta rằng chỉ ai tin vào Chúa Giê-su mới lãnh nhận được Thánh Thần của Người mà thôi. Lãnh nhận Thánh Thần giống như uống nước để được sống. Vì Thánh Thần là mạch nước sự sống của ta, cho nên không đến mà uống là sự sống thiêng liêng của ta không thể tồn tại.
Lời mời gọi của Chúa Giê-su cũng mang tính cách trang trọng và khẩn thiết. Thánh Gio-an viết: “Đức Giê-su... lớn tiếng nói rằng”. Người muốn nói lớn tiếng để ta không thể bào chữa là mình không nghe thấy. Người nói lớn tiếng để những con chiên lạc nghe được tiếng của Mục Tử Nhân lành, vì Người không muốn mất đi một con chiên nào. Người nói lớn tiếng để ta hiểu rõ được Người muốn nói điều gì. Thực vậy, sứ điệp của Chúa Giê-su ngắn gọn và rõ ràng. Càng ngắn gọn và rõ ràng, sứ điệp càng mạnh mẽ và quan trọng. c) Từ Chúa Thánh Thần sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống
Chúa Giê-su Phục sinh ban cho ta sự sống mới, đó là sống trong Thần Khí của Người. Dân Do-thái xưa kia lấy Lề Luật làm lẽ sống. Còn Dân Chúa hôm nay lấy Thánh Thần làm nguyên lý sống, tức là lối sống và chính sự sống của Chúa Ki-tô phải được thể hiện nơi họ. Nói theo thánh Phao-lô, “đối với tôi, sống là Đức Ki-tô” (Pl 1:21).
Thánh Thần luôn hoạt động để đưa vào linh hồn ta sự sống của Chúa Ki-tô nếu ta biết mở lòng đón nhận sự sống ấy. Chúa Giê-su muốn ta được sống dồi dào, cho nên Người cũng muốn ban cho ta được dồi dào Thánh Thần. Lời ngôn sứ I-sai-a nói lên lòng quảng đại của Chúa Giê-su khi ban Thánh Thần cho ta: “Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến” (Is 55:1). Nhìn lại dòng luân lưu của sự sống giữa Chúa Ki-tô, Chúa Thánh Thần và ta, ta càng dễ nhận ra sự sinh động của Thánh Thần. Ta có thể tạm gác lại những lý thuyết thần học hay giáo lý cao siêu về Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa, để gắn bó với tư tưởng đơn sơ Thánh Thần là chính sự sống của Chúa Ki-tô Phục sinh ở trong ta, có lẽ ta sẽ cảm thấy dễ hiểu hơn về vai trò của Chúa Thánh Thần. Đồng thời ta cũng thấy dễ dàng đáp lại lời mời gọi của Chúa Giê-su: “Ai khát, hãy đến với tôi; ai tin vào tôi, hãy đến mà uống!” d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Thánh Thần đã là nguyên lý sống động hướng dẫn Chúa Giê-su chu toàn sứ mệnh Chúa Cha trao phó. Vậy tôi có biết bắt chước Người, làm mọi sự theo tinh thần của Thiên Chúa không? Hay tôi để cho tinh thần của thế gian, ma quỷ, lèo lái cuộc đời tôi? Tôi học cách phân định tinh thần của Chúa và tinh thần của thế gian như thế nào?
Chúa Giê-su nói: Ai tin vào tôi, hãy đến mà uống. Tôi cảm thấy thế nào nếu Chúa nói với tôi cũng những lời đó? Tôi có thực sự là kẻ tin vào Chúa Giê-su không? Câu hỏi này đòi tôi phải làm gì?
Chúa Giê-su lớn tiếng mời gọi mọi người. Tôi có nghe tiếng Người mời gọi không? Hay là tôi cố tình không muốn nghe? Tại sao? “Lạy Chúa Giê-su phục sinh xin ban cho con sự sống của Chúa, sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi. Xin ban cho con bình an của Chúa, bình an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời. Xin ban cho con niềm vui của Chúa, niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn. Xin ban cho con hy vọng của Chúa, hy vọng làm con lại hăng hái lên đường. Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con.” (Trích RABBOUNI, lời nguyện 85)
Một trong những rắc rối thánh Phao-lô phải giải quyết cho những anh chị em tân tòng tại giáo đoàn Cô-rin-tô là việc lộn xộn về các hồng ân Thánh Thần. Người ta thấy rõ là tín hữu Cô-rin-tô đã được Thánh Thần ban xuống những ân sủng đặc biệt. Ðời sống đạo tại giáo đoàn trẻ trung này xem ra vô cùng khởi sắc. Tuy nhiên tình trạng ấy cũng có thể khiến người ta có nhiều ngộ nhận về bản chất và mục đích của những ân sủng Thánh Thần, thậm chí có khi người ta còn sử dụng những ân sủng đó để phục vụ cho tư lợi hoặc làm bình phong gây nên chia rẽ trong cộng đoàn. Do đó, trong chương 12, thánh Phao-lô đã đặc biệt nhắc nhở tín hữu Cô-rin-tô về nguồn gốc và mục đích của các đặc sủng.
a) Bản chất và nguồn gốc của đặc sủng
Ðặc sủng là một ân huệ đặc biệt. Nếu đã là đặc biệt thì cũng phải được xét dưới những khía cạnh đặc biệt. Ðể nói lên những khía cạnh đặc biệt của hồng ân Thánh Thần, thánh Phao-lô đã nhìn đặc sủng ấy dưới lăng kính mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa để giúp chúng ta hiểu về nguồn gốc, mục đích và hoạt động của nó. Các câu 4-6 đề cao "tác giả" của tất cả những gì đã được ban phát để xây dựng cộng đồng Giáo Hội. "Tác giả" ấy là chính Ba Ngôi: Thánh Thần ban mọi đặc sủng; Ðức Ki-tô thực hiện mọi việc phục vu Thiên Chúa và nhân loại; Chúa Cha tiếp tục công cuộc tạo dựng mọi sự trong mọi người. Như vậy đặc sủng do Thánh Thần ban là để thi hành việc phục vụ mà Chúa Ki-tô đã làm hầu cộng tác vào việc hoàn tất công trình tạo dựng của Thiên Chúa Cha.
b) Ðặc sủng là phương tiện thực hiện sự hiệp nhất
Ân sủng của Thánh Thần mang nét độc đáo nhất, đó là do chính mục đích của nó: đem lại sự hiệp nhất. Mục đích này cũng khiến cho nhiều người thích gọi những đặc sủng này là đoàn sủng, tức là những ân sủng được ban với mục đích để xây dựng cộng đoàn. Nếu những đặc sủng đã đến từ một nguồn gốc duy nhất thì chúng cũng được sử dụng cho một mục đích duy nhất là xây dựng Nhiệm thể Chúa Ki-tô. Chính vì thế, tất cả phần còn lại của chương 12, thánh Phao-lô đã tỉ mỉ nói đến cơ cấu chặt chẽ của Nhiệm thể Chúa Ki-tô, để cuối cùng đi tới kết luận: chúng ta là thân thể Ðức Ki-tô, tất cả chúng ta đã được đầy tràn Thần Khí duy nhất.
Nếu không nhìn các đặc sủng theo mục đích của chúng, chúng ta có thể phóng đại tầm quan trọng của một đặc sủng nào đó theo mục đích riêng của chúng ta. Thí dụ một số anh em tín hữu Cô-rin-tô coi đặc sủng nói các thứ tiếng lạ là đặc sủng lớn lao, vì đặc sủng này dễ làm cho người nhận được "nổi tiếng", thay vì có ích lợi cho cộng đoàn. Trong trường hợp này, đặc sủng có thể dần dần biến thành một nguyên nhân gây đố kỵ, kiêu căng và cuối cùng là chia rẽ. Do đó, trong câu 28, vị trí của đặc sủng ấy đã được thánh Phao-lô xếp vào cuối cùng để cho thấy những đặc sủng khác là quan trọng hơn.
c) Ðức mến, điều kiện cần thiết nhất để thi hành đặc sủng
Nếu đọc câu chuyển ý (c.31) sang chương 13 nói đến thứ bậc các đặc sủng, chúng ta hiểu được vai trò vô cùng quan trọng của đức ái trong việc thi hành đặc sủng mình có. Ðức mến phải là động lực duy nhất thúc đẩy chúng ta đem những ân huệ Chúa ban riêng cho chúng ta mà phục vụ Giáo Hội và anh chị em. Nói khác đi, đặc sủng chỉ là phương tiện, là những khả năng đặc biệt của người tông đồ đi xây dựng Giáo Hội. Nhưng quan trọng hơn cả, đó là cái hồn tông đồ, tức là tất cả thiện chí, tâm huyết, gắn bó của người tông đồ với sứ mệnh và với Ðấng trao sứ mệnh cho mình. Thiếu cái hồn ấy, mọi việc chúng ta làm chỉ là những ồn ào vô bổ, tựa như "thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng" mà thôi.
Thánh Thần không thể tách rời khỏi Nhiệm thể Chúa Ki-tô. Ðây chính là cao điểm của giáo lý về Giáo Hội. Thánh Thần là linh hồn, hiệp nhất mọi chi thể khác nhau lại thành một Thân thể, một Dân Mới của Thiên Chúa, để không còn là "Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do" nữa, nhưng là anh chị em con cùng một Cha và "đồng thừa tự" với Ðức Ki-tô.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Những từ ngữ "đặc sủng, phục vụ, xây dựng (làm)" đã diễn tả những đặc nét của Ba Ngôi Thiên Chúa như thế nào? Ðó có phải là sứ mệnh Chúa muốn mỗi người chúng ta tiếp tục hay không?
Tôi có đặc sủng gì? Từ trước tới nay tôi đã sử dụng đặc sủng ấy cho ích lợi của nhóm, của cộng đoàn, của Giáo Hội như thế nào?
Một trong những sự kiện cho thấy chúng ta hiểu sai hoặc lạm dụng đặc sủng, đó là gây ra chia rẽ cộng đoàn. Tôi hoặc nhóm có khi nào rơi vào tình trạng này không? Nếu có, chúng tôi sửa sai như thế nào?
Tôi có chú trọng đến động lực đức mến khi làm bất cứ điều gì không? Chia sẻ một vài công việc có "hồn tông đồ" và một vài công việc không có "hồn tông đồ". Kết quả như thế nào?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, hát một bài kính Chúa Thánh Thần, hoặc kinh sau đây: Lạy Chúa Thánh Thần, xin ban sức sống cho chúng con. Xin cho cuộc đời kitô hữu của chúng con đừng rơi vào sự đơn điệu nghèo nàn, vào những lối mòn quen thuộc, nhưng xin canh tân và tái tạo chúng con mỗi ngày. Xin nuôi chúng con bằng những thức ăn mới, cho chúng con khám phá ra những chiều sâu khôn dò của Ðức Kitô và ý nghĩa thâm thúy của Tin Mừng. Lạy Chúa Thánh Thần là Ðấng ban sự sống, thế giới hôm nay luôn bị đe dọa bởi bạo lực, khủng bố, chiến tranh; mạng sống con người bị coi rẻ.
Xin cho chúng con biết say mê sự sống, và gieo vãi sự sống khắp nơi. Ước gì Chúa ban cho nhân loại một lễ Hiện Xuống mới, để con người có thể hiểu nhau hơn và đón nhận nhau trong yêu thương.
(Kinh nguyện trích từ RABBOUNI, 120 lời nguyện của bạn trẻ, lời nguyện 38)
Thế giới cách chung, và Giáo Hội cách riêng được con người hôm nay cảm nhận với những suy nghĩ và tình cảm thật khác biệt, khiến cho nhiều Kitô hữu bị giao động nếu không muốn nói là bị rơi vào một cuộc khủng hoảng đức tin: nghi ngờ và thất vọng.
Lời Chúa trong Thánh Lễ hôm nay mở ra cho chúng ta một cách cảm nhận mới mẻ có nền tảng vững chãi: không phủ nhận thực tại phân cắt và mâu thuẫn gắt gao trong lòng thế giới cũng như trong Hội Thánh do nguyên nhân tội lỗi, một thực tế không thể phủ nhận trong chính mỗi con người, nhưng đồng thời cũng loan báo sự hiện diện đích thật và hữu hiệu của một thế giới mới, một Hội Thánh tinh tuyền có khả năng quy tụ và hòa giải. Trong lòng thế giới mới và Hội Thánh tinh tuyền ấy người ta gặp được nguyên lý đã khai sinh và bảo tồn là Chúa Thánh Thần.
ở tường thuật của Luca thánh sử trong sách Công Vụ Tông đồ, Chúa Thánh Thần đã thâm nhập mọi nền văn hóa để có thể dùng tiếng nói của mỗi dân tộc mà "loan báo những kỳ công của Thiên Chúa". Sự kiện này có một ý nghĩa thần học quan trọng trong Kinh Thánh. Bởi vì nếu tội lỗi là nguyên nhân mọi chia cắt và mâu thuẫn trước tiên về ngôn ngữ, theo tường thuật Sáng Thế Sử trong câu chuyện tháp Babel, thì Chúa Thánh Thần đã làm cho mọi ngôn ngữ có thể hiểu và lãnh hội trong sự hội nhập và duy nhất với nhau là dấu chỉ của sự hòa giải thẳm sâu. Và đó cũng là lý do để Công đồng Vaticanô II khi muốn canh tân Phụng Vụ đã truyền dạy đưa tiếng địa phương vào ngôn ngữ Phụng Vụ Thánh. đáng tiếc là tại Việt Nam chúng ta, các bản dịch dường như lại không muốn tôn trọng tiếng nói dân tộc mình. điều, cho dù tôi chỉ là một người ít học thức, nhưng khi đọc những bản văn phụng vụ hay Kinh Thánh hoặc những bài viết về Chúa Thánh Thần mà thấy gọi Ngài là "Thần Khí", thì tôi không khỏi bị bức xúc. Chữ "thần khí" trong tiếng nói dân tộc mình là để nói về một thực tại xấu xa. Phải chăng chúng ta có quyền áp đặt cảm nhận và suy nghĩ của mình trên tiếng nói của cả dân tộc, để bắt tiếng nói của dân tộc phải phục vụ ý đồ của ta, đó chẳng phải chính là tinh thần đế quốc thực dân? Cũng như trong các công trình xây dựng nhà thờ hôm nay, biết bao nhà thờ đã áp đặt ngôn ngữ nghệ thuật Việt Nam bằng những đường nét không trân trọng ý nghĩa và bố cục nội tại của nó. đó mới thực là sản phẩm của "những thần khí" gieo rắc chia cắt và mâu thuẫn hủy hoại sức sống. Chữ viết chẳng là gì, đường nét cũng chẳng là chi nếu không muốn nói chỉ là "xác thịt nặng nề", chỉ có "tâm linh", chỉ có "thần trí", chỉ có "Thánh Thần" mới "ban sự sống". Tiếng nói dân tộc, kể cả ngôn ngữ nghệ thuật là thành quả một quá trình dựng nước và giữ nước, là biểu hiện "sự sống" với bề dày lịch sử của nó, và nếu nói theo Tông Huấn Giáo Hội tại a Châu thì cũng là một dấu chỉ của "Chúa Thánh Thần" trong mỗi nền văn hóa. Người ta phải trân trọng cái sự sống", cái "hơi thở" trong mỗi tiếng nói và mỗi đường nét, người ta mới thực sự trân trọng "hoạt động của Chúa Thánh Thần" trong mỗi nền văn hóa. Nhưng liệu tiếng nói "bình dân" của quần chúng ít học như tôi có đáng được con mắt và lỗ tai các bậc tiến sỹ và học giả lưu tâm đến, khi họ thi hành cái trách nhiệm và cái quyền làm ra ngôn ngữ trong Phụng Vụ và Kinh Thánh chăng?
Cũng còn một điều cần phải đón nhận từ bài Tin Mừng "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần." Thánh Thần được đấng Phục Sinh trao ban bằng "thổi hơi" vào các môn đệ. Thánh Thần là "Hơi Thở", là "Sự Sống" của chính đấng Phục Sinh."Sự Sống" ấy được minh chứng như thế này "Người cho các ông xem tay và cạnh sườn."điều đó có nghĩa là gì nếu không là chứng từ của cả một đời lao động và lo toan vì yêu thương, vì tha thứ, vì hiệp nhất, xóa bỏ mọi bức màn ngăn cách, hận thù chia rẽ giai cấp, mầu da, tiếng nói, sắc tộc và nhất là đổi mới tâm linh con người để mỗi người và mọi người thực sự là ngành nho phong nhiêu trong cây nho duy nhất mà chính Người là thân. Như thế, nếu như vẫn còn chung quanh chúng ta một thế giới và ngay cả một giáo hội nhiều vết nhơ và tì tích là bởi vì người ta đang chỉ muốn làm ra một thế giới, một giáo hội không Thánh Thần, không "Hơi Thở" của đấng Phục Sinh. Người ta chỉ muốn làm ra thế giới này, giáo hội này bằng tiền bạc, bằng khoa học, bằng kỹ thuật, bằng trí tuệ và tài năng con người, và từ chối "Sự Sống" của đấng Phục Sinh. Thế giới và Giáo Hội hôm nay cần tới "ngày lễ Ngũ Tuần" mới.
Nếu ngày lễ Ngũ Tuần xưa là thành tựu của Mầu Nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của đức Kitô, thì thành tựu ấy cũng đã chỉ có thể trở thành hiện thực nhờ sự khát khao chờ đợi trong cầu nguyện cùng với đức Maria. Vì vậy, thế giới và Giáo Hội hôm nay thay vì cứ mãi xao xuyến trăn trở trước mãnh lực của tội lỗi, thế giới và Giáo Hội cần đi vào Nhà Tiệc Ly để cầu nguyện cùng với Mẹ mình. Người Mẹ, vốn được ca tụng là Kiệt Tác của Chúa Thánh Thần, sẽ tiếp tục đảm nhận vai trò chuyển giao lòng khát khao và tín thác nơi Quyền Năng Chúa Thánh Thần. Và đó là điều kiện thiết yếu cho một Ngày Lễ Ngũ Tuần mới.
Trong Cựu ước, tác giả sách Sáng thể đã kể lại một trang sử buồn của lịch sử nhân loại, đó là câu chuyện tháp Baben. Vì con người kiêu ngạo, muốn xây tháp chọc trời. Chúa đã làm cho ngôn ngữ của họ trở thành hỗn loạn. Kết quả là họ không hiểu nhau. Cây tháp Baben được gọi là cây tháp gây phân tán (x. St 11,1-9).
Thế rồi, kể từ trang sử buồn ấy, con người ngày càng xa Chúa và xa nhau. Nhân loại bị trượt dài trong đường dốc sa đọa. Người Do Thái nhắc tới tháp Baben như một kinh nghiệm đau thương.
Trong Tân ước, tác giả Công vụ kể với chúng ta một biến cố trọng đại, đó là câu chuyện lễ Ngũ Tuần tại Giêrusalem (Bài đọc I). Chúa Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa, đã ngự xuống liên kết muôn người nên một. Họ đã hiểu nhau mặc dù khác biệt về nguồn gốc. Người Kitô giáo gọi Lễ Ngũ Tuần là lễ Hiện Xuống, ghi nhớ sự kiện Chúa Thánh Thần từ trời đến ở với cộng đoàn tín hữu, đến với Giáo Hội. Nếu tháp Baben trong Cựu ước là biểu tượng của sự phân tán, thì Lễ Ngũ Tuần của Tân ước là điểm quy tụ.
Kể từ ngày lễ Ngũ Tuần năm xưa, Chúa Thánh Thần không ngừng hoạt động để quy tụ muôn dân về một mối. Chúa Thánh Thần chính là ngôn ngữ chung cho toàn thể nhân loại. Ngôn ngữ đó là Tình Yêu, vì Ngài là Tình Yêu của Thiên Chúa. Tình yêu lấp đầy mọi ngăn cách, san bằng mọi núi đồi, phá tung mọi ranh giới. Nhờ Chúa Thánh Thần, Tin Mừng của Đấng Phục Sinh được loan báo cho mọi tạo vật, mọi nền văn hóa. Chúa Thánh Thần đã liên kết mọi người trong một Đức tin và làm thành Giáo Hội của Chúa Kitô.
Thánh Phaolô đã dùng hình ảnh một thân thể gồm nhiều chi thể để nói về Giáo Hội (Bài đọc II). nhờ sự liên kết của Chúa Thánh Thần, mọi tín hữu được quy tụ nên một thân thể. Mặc dù khác biệt về chức năng, mọi chi thể đều phải liên kết với nhau và làm cho thân thể được khỏe mạnh. Năng lực sống để điều khiển thân thể hoạt động, chính là Chúa Thánh Thần. Ngài nối kết và làm cho những khác biệt trở nên hài hòa với nhau. Lịch sử Giáo Hội hai ngàn năm nay đã chứng minh hoạt động của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội.
Thánh Gioan kể lại việc Chúa ban Thánh Thần cho các môn đệ qua cử chỉ “thổi hơi” trên các ông, qua biểu tượng này, Chúa Thánh Thần được diễn tả như hơi thở, như làn gió mát và như sự sống. Bài đáp ca trong thánh lễ hôm nay cũng khẳng định vai trò quan trọng của Chúa Thánh Thần đối với mọi loài tạo vật: “Ngài rút hơi thở chúng đi, chúng chết ngay, và chúng trở về chỗ tro bụi của mình. Nếu Ngài gửi hơi thở tới, chúng được tạo thành, và Ngài canh tân bộ mặt trái đất” (Tv 103,29). Bởi vậy, đời sống Đức tin của chúng ta cần có Chúa Thánh Thần nâng đỡ và hướng dẫn. Nhờ Ngài mà chúng ta không sợ lạc đường. Nhờ Ngài mà chúng ta có thể trung tín với Chúa cho đến hơi thở cuối cùng. Cũng nhờ Ngài mà chúng ta mới biết cách cầu nguyện thế nào cho có hiệu quả.
Nếu Chúa Thánh Thần là Đấng quy tụ muôn loài, thì những ý đồ gây chia rẽ thù oán là đi ngược lại với hoạt động của Ngài. Sống ở đời, chúng ta luôn bị giằng co giữa một bên là giáo huấn của Chúa, một bên là cám dỗ của thế gian. Thánh Phaolô khuyên nhủ giáo dân Thêxalônica: “Anh em đừng dập tắt Thần Khí… Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ; còn điều gì xấu thì bất cứ hình thức nào cũng phải lánh cho xa” ( 1Tx 5,19).
Lễ Hiện Xuống được cử hành trong tháng Năm, là tháng dâng hoa kính Đức Mẹ. Đức Maria đã hiện diện với Giáo Hội trong ngày lễ Ngũ Tuần. Chúa Thánh Thần ngự đến trong khi các tông đồ quây quần xung quanh Đức Mẹ để cầu nguyện. Trong suốt chặng đường dài của lịch sử Giáo Hội, Đức Mẹ vẫn hiện diện để che chở Giáo Hội và nâng đỡ các tín hữu. Đức Phaolô VI đã tôn vinh Trinh nữ Maria với tước hiệu “Mẹ Giáo Hội”. Chúng ta hãy cầu xin Mẹ chúc lành cho Giáo Hội hoàn vũ, cách riêng Giáo Hội Việt Nam chúng ta. Mỗi người hãy dâng lên Đức Mẹ đóa hoa lòng, thể hiện qua tâm tình yêu mến, siêng năng lần hạt Mân Côi và thực thi bác ái đối với tha nhân. Đó là những đóa hoa không tàn úa với thời gian, nhưng luôn tươi đẹp và tỏa ngàn sắc hương trước dung nhan Mẹ.
“Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”, cùng với việc trao ban bình an, Chúa Giêsu phục sinh còn trao ban cho chúng ta sức mạnh của Người. Nhờ được trang bị bằng sức mạnh là Chúa Thánh Thần, đến lượt mình, chúng ta có thể làm chứng cho Chúa trong cuộc sống hôm nay.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin quy tụ chúng con trong tình hiệp nhất yêu thương. Amen.
Con người luôn mơ ước bình an hạnh phúc. Hạnh phúc không đơn thuần là không có hận thù, không có chiến tranh mà hạnh phúc còn là biết đem yêu thương vào trong những hận thù, chia rẽ. Đây cũng là lời cầu nguyện của thánh Phanxico thành Assisi trong lời kinh Hòa Bình mà có lẽ nhiều người đã từng hát. Lời kinh ấy gọi mời cầu nguyện với Chúa cho con người biết xóa bỏ hận thù, kỳ thị, tranh chấp, nghi kị, kết án lẫn nhau… để trở nên những ‘Khí cụ bình an của Chúa…Biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi ngừơi…biết đem yêu thương vào nơi oán thù…Đem an hòa vào nơi tranh chấp…’
Chung quy của lời cầu nguyện là cầu mong cho có sự hiệp nhất yêu thương. Hiệp nhất trong yêu thương. Khi có hiệp nhất người ta mới có thể xây dựng thế giới an hòa, thịnh vượng theo như mong ước của con người. Lịch sử cứu độ đã từng chứng minh về những cái chết thương tâm khi con người chia rẽ nhau. Cain đã giết chết em của mình là Abel. Tháp Babel đã không thể hoàn thành vì loài người chia rẽ đến mức độ ngôn ngữ bất đồng mà Thánh Kinh bảo rằng họ chia rẽ nhau: “Không còn nói cùng một thứ tiếng” nữa… và cũng từ đó chiến tranh luôn xảy ra trên thế giới khiến nhân loại không còn là một gia đình yên vui, êm ấm, thuận hòa.
Nguyên nhân của sự bất đồng thường là do thiếu hiểu biết và kiêu căng mà ra. Người Việt Nam dường như ai cũng biết câu chuyện về 5 Người mù xem voi. Họ bất đồng với nhau vì bản thân họ khuyết tật. Họ chia rẽ nhau vì ai cũng cố chấp và bảo thủ không nhìn nhận sự bất toàn của mình. Thật buồn cười khi ông thứ nhất quả quyết rằng con voi là cây cột nhà vì ông đang sờ vào chân của nó. Ông khác lại khẳng định rằng con voi là cái quạt vì ông đang sờ vào tai của nó. Ông kia lại tuyên bố rằng con voi như cái chổi vì ông đang sờ vào cái đuôi của nó. Và cứ như thế, không ai chịu nghe ai và cuộc tranh cãi, ẩu đả diễn ra.
Xem ra con người luôn có cái nhìn phiến diện. Con người bị giới hạn rất nhiều về khả năng. Và dường như không ai hoàn hảo đến độ có thể hiểu biết mọi sự. Nhưng đáng tiếc, là con người lại kiêu căng đến độ cho mình thông hiểu mọi sự. Đó là lý do gây nên những mâu thuẫn, những đố kỵ, ghen ghét cho cuộc sống chung của loài người.
Các tông đồ năm xưa đã tìm được sự hiệp nhất dưới mái nhà tràn đầy Chúa Thánh Thần. Các ngài nói, các ngài hành động không phải do ý mình mà là do tác động của Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần đã làm mới con người các ngài qua hình ảnh lưỡi lửa đậu trên đầu các tông đồ. Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần đã làm nên một cộng đoàn các tông đồ hiệp nhất yêu thương.
Nhờ Chúa Thánh Thần mà các tông đồ đã tìm được tiếng nói chung với nhau. Khi phải quyết định một điều gì các ngài thường nói: “Thánh Thần và chúng tôi quyết định”. Như thế, các ngài làm điều gì cũng dước tái động của Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần mang lại sự hiệp nhất nơi tông đồ đoàn.
Dưới mái nhà hay nơi hội đoàn có lẽ cũng cần phải làm việc dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Không ai theo ý riêng mình. Không ai áp đặt ý mình lên tập thể mà là để Chúa Thánh Thần dẫn dắt thì gia đình, cộng đoàn chắc chắn sẽ có bình an. Vì Chúa Thánh Thần là thần chân lý sẽ dẫn con người tới sự thật. Chính Ngài sẽ giúp mỗi người sống theo sự thật, theo chân lý. Và như vậy niềm vui của sự bình an hiệp nhất sẽ đến với gia đình và cộng đoàn.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến đổi mới tâm hồn chúng con. Xin cho chúng con biết lắng nghe tiếng nói của sự thật để nhờ đó chúng con được sống trong bình an. Xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng con đi trong chân lý vẹn tuyền để chúng con làm chứng cho tình yêu của Chúa giữa thế gian. Amen -------------------------------
Đúng mười ngày sau khi mừng lễ Chúa Giêsu lên trời, Giáo hội cho chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Hai sự kiện cách nhau đúng mười ngày, nhưng lại liên hệ với nhau một cách chặt chẽ không thể tách rời như chính lời Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thầy nói thật với anh em: Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em” (Ga 16,7).
Có lẽ khi nghe Chúa nói những lời đó, các tông đồ không thể nào hiểu được tại sao Chúa lại nói như thế. Tại sao Chúa phải ra đi thì Đấng Bảo Trợ mới đến? Tại sao Chúa không ở lại để cùng với các tông đồ đón Đấng Bảo Trợ, để rồi cả hai Đấng đều ở lại với các ông có tốt hơn không? Không. Chúa Giêsu nói rõ là không có lợi. Tại sao nhỉ?
Nếu chúng ta để ý phụng vụ Lời Chúa hôm nay, bài thứ nhất trích trong sách Công vụ Tông Đồ, trong đó có đoạn ghi lại sự kiện Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các môn đệ (Cv 2,1-4). Bài Tin Mừng theo thánh Gioan cũng ghi lại sự kiện Chúa Phục sinh ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ (Ga 20,22-23). Thế há chẳng phải có hai lần Chúa Thánh Thần hiện xuống đó sao? Đúng là đã có hai lần Chúa Thánh Thần hiện xuống và đã được các thánh sử ghi lại. Tuy nhiên, khi cho chúng ta suy ngắm cả hai sự kiện này trong ngày mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Giáo hội như muốn nói với chúng ta rằng: Chúa Thánh Thần không phải chỉ có hiện xuống hai lần, mà rất rất nhiều lần. Chả lẽ trước khi Chúa Giêsu “thổi hơi vào các ông và bảo: ‘Anh em hãu nhận lấy Thánh Thần’”, thì Chúa Thánh Thần chưa hiện xuống sao! Chả lẽ trần gian này chưa có Chúa Thánh Thần? Rồi vào “ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, .. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần”. Chả lẽ lúc đó Chúa Thánh Thần mới xuất hiện? Có lẽ không phải thế. Thánh sử Gioan đã rất tinh tế khi sử dụng hai chữ “thổi hơi”. Chữ này làm cho chúng ta nhớ tới sự kiện được ghi lại trong sách Sáng Thế nói về việc Thiên Chúa “thổi hơi” như sau: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2,7). Việc Chúa Phục sinh “thổi hơi” vào các tông đồ và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” cho thấy đó như là một cuộc tạo dựng mới, một sự sống mới, một sự sống trong Thần Khí.
Chính Chúa Thánh Thần là Sức mạnh thần linh tái tạo tâm hồn con người, thanh tẩy lòng người nên trong sạch và làm cho con người xứng đáng nên con Thiên Chúa. Bởi thế, ta lại càng thấy sự tinh túy của thánh sử Gioan khi ngài viết những lời trước đó như sau: “Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần”. Ngày thứ nhất cũng là một chi tiết nhắc nhớ tới công trình sáng tạo của Thiên Chúa, đó là ngày “Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1,1). Với cái nhìn thần học của thánh Gioan, Chúa Thánh Thần chính là nguyên lý sự sống, nguyên lý của sự thánh thiện. Chính vì thế, sau khi nói lời ban Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu nói tiếp: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”. Như vậy, nếu Chúa Thánh Thần đã hiện diện trong vũ trụ ngay từ “ngày thứ nhất” của công trình sáng tạo, thì “ngày lễ Ngũ Tuần” là thời gian đánh dấu một gian đoạn mới của Ngài, đó là giai đoạn lịch sử mang tính quyết định của Chúa Thánh Thần, là giai đoạn Ngài sẽ “ra tay” hoạt động như “vũ bão- gió mạnh” hay như “lưỡi lửa” mà sách Công vụ Tông đồ nhắc đến.
Dưới cái nhìn thần học của tác giả sách Công vụ Tông Đồ, sự ra đi của Chúa Phục sinh là cần thiết vì đó là dấu hiệu thời của Chúa Thánh Thần đã đến. Nếu sự hiện diện hữu hình của Chúa Phục sinh làm cho các tông đồ không thoát ra được những ràng buộc thể lý, thì sự hiện diện vô hình của Người lại có thể làm cho các ông “hoan hỉ” vì thấy “có Chúa cùng hoạt động” với mình. Đấng có đủ quyền năng và sức mạnh để giúp các tông đồ cảm nghiệm được điều đó, không ai khác là chính Chúa Thánh Thần. Ngài làm cho Đấng Phục sinh có thể luôn hiện diện với Giáo hội một cách vô hình. Ngài cũng làm cho Giáo hội không ngừng nghiệm thấy Thầy Chí Thánh đang hoạt động với họ. Ngài còn là Đấng làm cho Giáo hội bước vào một thời đại mới, đó là thời đại xây dựng và mở mang Nước Chúa. Giáo hội vẫn được hiểu là đã khai sinh vào ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống. Đó là ngày thành lập Giáo hội, là ngày Giáo hội nhận được sứ mạng phải ra đi rao giảng Tin Mừng. Bởi thế, ngay sau khi tường thuật lại sự kiện Chúa Thánh Thần hiện xuống, tác giả sách Công vụ Tông Đồ ghi lại sự kiện thánh Phêrô cất lời rao giảng đầu tiên, và kết quả thật mỹ mãn: “hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo”. Một chuyện ngoạn mục đã xảy ra, chắc chắn không phải vì tài khéo của thánh Phêrô, nhưng rõ ràng có một sức mạnh thần linh nào đấy đã tác động rất mạnh, đó là sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Ba ngàn người theo đạo là hoa quả đầu tiên mà Chúa Thánh Thần ban xuống cho Giáo hội. Điều đó cho thấy thật rõ thời đại của Chúa Thánh Thần đã đến. Ngài đến như một trận cuồng phong: “Bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà”. Ngài đến như một sự sắc bén bằng lửa: “Họ thấy những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một”. Phải chăng đã đến thời lời ước nguyện của tiên tri Gioen trở thành hiện thực, đó là thời mà: “Thiên Chúa phán: ‘Trong những ngày cuối cùng, Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên hết thảy người phàm” (Ge 3,1.5).
Hai tác giả đã trình bày cho chúng ta hai khía cạnh khác nhau của cùng một sự kiện, sự kiện “thời của Chúa Thánh Thần”. Thánh sử Gioan thì nhấn mạnh đến vai trò thánh hóa, thánh hóa bản thân, thánh hóa Giáo hội. Tác giả sách Công vụ Tông Đồ lại nhấn mạnh đến khía cạnh truyền giáo, rao giảng Tin Mừng.
Giáo hội luôn ý thức vai trò hoạt động của Chúa Thánh Thần trong Giáo hội, đó là vai trò thánh hóa và loan báo Tin Mừng. Nếu chỉ lo giữ một khía cạnh, Giáo hội đã liều đánh mất một phần quan trọng không thể thiếu của mình. Thánh hóa là cần và tốt, nhưng nếu một Giáo hội chỉ thánh thiện mà không sống tinh thần truyền giáo, Giáo hội ấy sớm muộn sẽ già cỗi và tàn lụi. Nếu một Giáo hội chỉ lo truyền giáo mà quên rằng, chính bản thân mình là một “Giáo hội thánh thiện”, Giáo hội ấy sớm muộn sẽ trở thành một tổ chức xã hội thuần túy thế gian.
Ơn thánh hóa và ơn loan báo Tin Mừng là hai ơn đặc biệt mà Chúa Thánh Thần đã rộng rãi ban cho hết thảy mọi tín hữu, nhất là qua bí tích Thêm Sức. Nhưng nhìn vào thực tế đời sống, chúng ta dường như để ý quá nhiều, quan tâm quá nhiều đến ơn thánh hóa. Lãnh bí tích Rửa tội để nên con Chúa, thành người có đạo. Lãnh bí tích Thánh Thể để kết hiệp nên một với Chúa. Lãnh bí thích Thêm Sức để thêm sức mạnh sống đạo. Lãnh bí tích Giải tội để được tha tội và giao hòa với Chúa. Lãnh bí tích Hôn phối để “được ơn thánh cho được thương yêu nhau”. Lãnh bí tích Xức dầu để được thanh tẩy, thêm ơn thánh chống trả chước ma quỷ cám dỗ… Chúng ta toàn lo lắng sao cho mình được đạo đức, sốt sắng, thánh thiện (Chúa Thánh Thần trong Tin Mừng của thánh Gioan), mà chưa thấy lưu tâm nhiều đến ơn của Chúa Thánh Thần trong sách Công vụ Tông Đồ, đó là ơn Chúa Thánh Thần để hăng say loan báo Tin Mừng. Mình đã lãnh nhận bí tích Rửa tội rồi, sao không tìm cách để anh chị em khác cũng được làm con Chúa như mình. Mình đã được kết hiệp với Chúa qua bí tích Thánh Thể, sao không nghĩ tới biết bao anh chị em khác chưa bao giờ được kết hiệp với Chúa!
Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng ta xin Chúa Thánh Thần thánh hóa chúng ta, đổi mới chúng ta nên một người mới. Chúng ta đồng thời xin Chúa Thánh Thần thêm sức để chúng ta đủ can đảm và sẵn sàng loan báo Tin Mừng cho tất cả những anh chị em chưa biết Chúa.
“ Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, và tự trời tỏa ánh quang minh của Ngài ra! Lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến, Đấng ban ân huệ, Đấng soi sáng tâm hồn, xin ngự đến…”.
Hiện nay trên thế giới có 1.243 Dòng Nữ và 250 Dòng Nam. Tất cả các Hội Dòng này đều tuyên xưng cùng một lý tưởng Tin Mừng. Tuy vậy, mỗi Dòng được khai sinh ra với một tinh thần và một cách sống riêng do đấng sáng lập đề ra để đáp ứng cách tốt nhất những nhu cầu tâm linh của thời đại (Vat. II, Sắc lệnh về việc canh tân thích nghi đời sống tu trì, số 1). Mỗi đặc sủng của Hội Dòng đều là một hồng ân của Chúa Thánh Thần, mỗi ơn gọi của từng cá nhân các tu sĩ đều là ân ban nhưng không của Thiên Chúa. Mỗi Hội Dòng, mỗi ơn gọi đều có nét độc đáo của nó, để diễn tả Tin Mừng trong một hình thức đặc biệt của đời sống, để với con mắt đức tin, họ đọc các dấu chỉ của thời đại, để đáp trả, với sự sáng tạo, cho các nhu cầu của Giáo Hội (x. ĐTC Phanxicô, Tông thư gửi tất cả các người sống đời thánh hiến nhân dịp năm đời sống thánh hiến, mục I, số 1). Tất cả đã và đang góp phần mình tạo nên một vườn hoa muôn sắc của Giáo Hội (x. Nội san chia sẻ, số 77)
Giáo Hội thật đa dạng: nhiều giáo phận – giáo xứ, nhiều dòng tu, nhiều linh đạo, nhiều phương thức làm tông đồ, nhiều hội đoàn…sự đa dạng này thể hiện một sức sống thật phong phú. Đa dạng mà vẫn hiệp nhất. Đó là ân ban của Chúa Thánh Thần. Thánh Phaolô trong bài đọc II hôm nay có những giáo huấn rất sâu sắc: mỗi người, mỗi nhóm hãy ý thức rằng “đặc sủng” của mình là ơn ban của Chúa Thánh Thần; đừng khó chịu, trái lại hãy vui mừng khi thấy những người khác, nhóm khác cũng được ban cho những đặc sủng khác, đó là dấu Chúa Thánh Thần yêu thương Giáo Hội; tận dụng “đặc sủng” Chúa Thánh Thần ban để góp phần mình vào việc xây dựng Giáo Hội, đồng thời ý thức rằng đó chỉ là một phần nhỏ mình góp cho Giáo Hội nên vẫn tôn trọng phần góp của người khác và hy vọng Giáo Hội được nhiều người khác góp phần xây dựng hơn nữa.
Trong ngày Lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Thần đã khai thông mọi tương giao, phá vỡ bức tường đã bị đóng kín từ sự kiện tháp Babel. Chúa Thánh Thần trở nên nguyên lý hiệp nhất trong đa dạng và tạo nên mùa xuân mới cho Giáo hội. Câu chuyện Tháp Babel
Sách Sáng Thế 11,1-9 kể câu chuyện về Tháp Babel.
Bấy giờ thiên hạ chỉ nói một thứ tiếng, sau khi định cư tại đồng bằng Senna, họ bàn luận với nhau: Ta hãy nung gạch và xây một ngọn tháp chọc trời, trước khi phân tán tới mọi miền trên mặt đất.
Trước ý định đầy kiêu căng và ngông cuồng đó, Thiên Chúa đã khiến tiếng nói của họ trở nên lộn xộn, người này không còn hiểu được người kia. Thế là họ đành phải ngưng việc xây tháp và ra đi mỗi người một ngả.
Hình ảnh tháp Babel mượn từ các tháp Ziggurat miền Lưỡng Hà: tháp vuông, nhiều tầng, càng cao tầng nhỏ lại. Những tháp này xây trong khu vực đền thờ với mục đích tôn giáo là để bắt liên lạc với thần trên cao bằng dâng lễ vật và làm bệ để thần lên xuống với con người. Ngày nay còn có nhiều di tích về các tháp này. Tác giả Thánh kinh mượn hình ảnh các tháp Ziggurat để cắt nghĩa tại sao loài người lại chia rẽ và phân tán, từ đó dạy bài học tôn giáo. Babel bởi động từ balal (làm cho lộn xộn). Tác giả dùng hình ảnh xây tháp Babel để chỉ tội cộng đồng của con người, muốn dựa vào sức lực và tài năng của mình để chống lại Chúa, gạt bỏ Chúa mà tự quyết định cho mình. Trong Cựu ước, Babel là kinh đô của một đế quốc hùng mạnh tượng trưng cho sự kiêu căng. Chúa Thánh Thần là nguyên lý hiệp nhất.
Một khi con người đã loại bỏ Chúa, tự nhiên chia rẽ và phân tán với đồng loại. Kiêu căng gây chia rẽ. Thiên Chúa là duy nhất và là giềng mối hiệp nhất. Sự hiệp nhất chỉ có thể được tái lập bởi và quanh Thiên Chúa. Ngày Hiên Xuống, Thánh Thần sẽ hiệp nhất nhân loại quanh Đức Kitô Phục Sinh (Cv 2,1-11). Thánh Thần làm vết thương của tháp Babel được lành. Thánh Thần là nguyên lý đoàn kết và hiệp nhất. Thánh Thần làm cho con người hiểu nhau, gần nhau, và giúp Giáo Hội trở thành Giáo Hội của mọi dân tộc.
Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, một tình trạng mới đã được nảy sinh. Bài đọc 1, sách Công vụ kể: Bấy giờ các môn đệ đang tụ họp ở một nơi, bỗng dưng có tiếng từ trời đến, ào ào như gió thổi, ùa vào nhà nơi các ông đang hội họp. Lại thấy có hình lưỡi lửa tản ra và đậu xuống trên từng người. Tất cả đều được đầy tràn Chúa Thánh Thần và bắt đầu nói được nhiều thứ tiếng khác nhau.
Trong thời gian lễ Ngũ Tuần, có nhiều người Do thái từ khắp các nơi trở về Giêrusalem. Nghe tiếng ồn, họ liền tuốn đến. Và ai nấy đều bỡ ngỡ vì mỗi người đều nghe các Tông đồ nói tiếng của mình. Họ ngạc nhiên, sửng sốt, thán phục và bàn tán cùng nhau: Phải chăng chúng ta đều nghe họ dùng tiếng thổ âm của mình mà nói đến những sự cao trọng của Thiên Chúa?
Đây chính là một cuộc tụ họp đông đảo mà mọi người đều hiểu được nhau và cảm thông với nhau. Có được như vậy là do tác động của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là nguồn sức sống mãnh liệt. Chúa Thánh Thần là sự trẻ trung của Giáo hội. Chúa Thánh Thần là năng lực đổi mới thế giới. Ngài như luồng gió cường tráng. Ngài như ngọn lửa bừng bừng. Luồng gió và ngọn lửa ấy đã khơi dậy nguồn năng lực tiềm ẩn nơi những bác thuyền chài thất học, biến họ thành những con người thay đổi thế giới. Nhận lãnh ơn Chúa Thánh Thần là nhận lãnh sứ mạng hành động.
Qua hình ảnh lưỡi lửa và ơn nói nhiều thứ tiếng nơi các Tông đồ, chúng ta nhận thấy ngôn ngữ Chúa Thánh Thần dùng đã liên kết và tạo nên sự cảm thông. Đó chính là thứ ngôn ngữ của tình yêu. Thiếu vắng Ngài, thiếu vắng tác động của Ngài là thiếu vắng tình yêu, con người không thể hiểu biết nhau, không thể xích lại gần nhau và không thể cảm thông với nhau, khi đó hận thù sẽ bùng nổ.
Chương 17, Tin mừng Gioan là lời cầu nguyện đẹp nhất trong toàn bộ Kinh thánh mà Phụng vụ Lời Chúa đọc trong tuần lễ này, trong đó Chúa Giêsu với tư cách là Thượng tế, là Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người đã dâng Chúa Cha lời khấn nguyện. Chúa Giêsu cầu xin Chúa Cha tôn vinh Ngài qua cái chết và sự sống lại của Ngài. Chúa Giêsu cầu nguyện cho các môn đệ và cầu nguyện cho những ai tin vào Ngài được hiệp nhất trong yêu thương. Chúa Giêsu không cầu xin cho họ có sức mạnh, vì sức mạnh thường đưa con người vào nguy cơ ỷ lại chính mình, kiêu căng tự mãn. Chúa Giêsu cũng không cầu xin cho họ có quyền lực vì quyền lực dễ đưa con người vào hố sâu tham vọng, tham vọng thống trị, tham vọng giàu sang và nhiều tham vọng khác. Khi cầu nguyện cho Giáo hội, Chúa Giêsu không xin cho Giáo hội được phát triển bằng sức mạnh và quyền lực, nhưng Ngài chỉ xin cho tất cả được hiệp nhất trong Ngài và hiệp nhất với nhau, để Ngài ở đâu thì họ cũng được ở đó và để họ được chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần là thần Chân Lý và Sự Thật, gìn giữ Giáo hội trong tình thương, hiệp nhất Giáo hội trong Chân Lý và thánh hiến Giáo hội trong Sự Thật. 3. Mùa xuân mới của Giáo hội.
Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, các Tông Đồ đang họp nhau cầu nguyện trong nhà Tiêc Ly cùng với Đức Maria. Chúa Thánh Thần đã Hiện Xuống dưới hình lưỡi lửa đậu trên đầu mỗi người, ban tràn đầy sức sống mới. Quyền năng Chúa Thánh Thần đến trên Giáo hội với sức lay động và chuyển thông.
Sức lay động vì Chúa Thánh Thần đã đến như thể cuồng phong thổi vang dậy đầy nhà. Ghế bàn không bay bổng, tường và mái nhà vẫn nằm yên, nhưng lòng người đã được lay động. Quyền năng Chúa Thánh Thần như gió mạnh đã làm bật tung các ổ khoá, các cửa to cửa nhỏ của ngôi nhà các Tông Đồ đang ẩn náu. Quyền năng Thánh Thần tung họ ra khỏi pháo đài để với hai bàn tay không và một trái tim đầy nhiệt huyết họ đi vào thế giới rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu Phục Sinh.
Được sức lay động và đầy lửa Thánh Thần, các Tông Đồ cùng lên tiếng cao rao những kỳ công của Thiên Chúa. Thánh Phêrô, lòng đầy Thánh Thần, đã hùng hồn thuyết giảng về Chúa Giêsu Thương Khó và Phục Sinh. Có 3.000 người xin được Rửa Tội. Giáo Hội được khai sinh từ đó vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Thánh Thần đến, Giáo Hội khai sinh.
Tác động của Chúa Thánh Thần trên Giáo Hội thật mãnh liệt. Chỉ một nhóm Tông Đồ nhỏ bé, sợ hãi, co cụm, hoang mang, lúc nào cũng cửa đóng then cài. Thế mà giờ đây, khi được tràn đầy Thánh Thần họ đã trở nên mạnh mẽ phi thường, hiên ngang, can trường làm chứng và loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Các ngài được trang bị bằng quyền năng Thánh Thần để bẻ gãy sức mạnh của sự dữ, tội lỗi.
Dù bị đe dọa đòn vọt, dù gông cùm tù tội, các ngài vẫn trung kiên một niềm tin vào Chúa. Các ngài đã lấy máu đào minh chứng cho lời rao giảng. Dù bị đàn áp bách hại, Giáo Hội vẫn lớn mạnh không ngừng. Hơm hai mươi thế kỷ qua, con thuyền Giáo Hội do người dân chài Galilê cầm lái vẫn lướt qua mọi thăng trầm của lịch sử với muôn vàn thử thách giông tố để luôn đi tới.
Mùa xuân mới trong công trình cứu độ khởi đi từ Chúa Thánh Thần, cả một sức sống mới được khai mở và bừng lên trong Giáo hội. Các môn đệ không còn co cụm lại trong căn phòng then cài khóa ổ, căn phòng được mở toang và môn đệ can đảm bước tới vùng ngoại biên, những vùng địa lý xa xôi, đem Tin Mừng cứu rỗi cho mọi người. Đó chính là mùa Hiện Xuống đầu tiên làm nên sức sống mới lạ trong Giáo hội. Vì vậy, trong đáp ca cũng như trong ca tiếp liên của Thánh Lễ, chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần đến để Ngài đổi mới mặt địa cầu, để Ngài canh tân lòng trí tín hữu.
Ngày nay, Giáo Hội vẫn chỉ có một sức mạnh đặc biệt, đó là quyền năng Chúa Thánh Thần. Với quyền năng này, Giáo Hội không bao giờ chịu đóng chặt cửa để an hưởng hay cố thủ. Giáo Hội luôn ra khỏi tháp ngà để rao truyền Tin Mừng, dấn thân vào cuộc sống muôn mặt của thời đại, đồng hành và thích ứng với nhân loại trong thế giới ngày nay.
Công Đồng Vatican II là một Lễ Hiện Xuống Mới của Giáo Hội. Chúa Thánh Thần vẫn luôn thổi sinh khí mới và ban cho Giáo Hội những ân huệ lớn lao. Mẹ Têrêxa Calcutta, Cha Thánh Piô, Thánh Gioan Phaolô II, ĐTC Phanxicô là những gương mặt vĩ đại đã và đang làm bừng lên sức sống tình thương, hoà bình của Chúa Thánh Thần trong thế giới sục sôi vì chiến tranh và hận thù này.
Mỗi tín hữu cảm nhận được tình yêu và hồng ân của Chúa Thánh Thần ban tặng như một đặc sủng Thánh Linh, từ đó hiệp nhất trong đa dạng, phong phú trong sứ vụ, trung thành với sứ mạng và ơn gọi của mình, để niềm vui Tin Mừng được lan tỏa tới mọi người, hầu trở nên những chứng tá sống động trong lòng Giáo Hội và giữa lòng trần thế hôm nay. -------------------------------
Mùa phục sinh kết thúc với Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Chúa Nhật sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là lễ Chúa Ba Ngôi, và Chúa Nhật sau lễ Chúa Ba Ngôi là lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu.
Các con hãy nhận lấy Thánh Thần
Buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu Phục Sinh đã hiện ra cho các tông đồ. Ngài thổi hơi trên các ông và bảo: “các con hãy nhận lãnh Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì người ấy được tha”.
Trong ca tiếp liên: “Nếu không có Chúa trợ phù, trong con người chẳng còn chi thanh khiết, không còn chi vô tội. Xin Chúa rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, và chữa lành nơi thương tích”. Trong lời tha tội của bí tích xá giải, linh mục đọc: “Thiên Chúa là Cha nhân từ hay thương xót, Chúa đã dùng cái chết và sống lại của Con Chúa để giao hoà thế gian với Chúa, và đã ban Thánh Thần để tha tội…”
Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hoá, Đấng làm cho con người được giao hoà với Thiên Chúa, Đấng tha tội cho con người, Đấng làm cho con người trở thành con Thiên Chúa.
Thánh Thần- Đấng trợ phù
“Không ai có thể nói ‘Đức Giêsu là Chúa’ mà không nhờ bởi Thánh Thần”. Thánh Thần giúp con người tin vào Đức Giêsu. Không có ơn của Chúa Thánh Thần, không ai có thể tin vào Đức Giêsu được.
Có nhiều ân sủng, có nhiều đặc sủng, nhưng chỉ do một Thánh Thần. Thánh Thần ban cho người này ơn tiên tri, ban cho người kia ơn thông hiểu, ban cho người khác ơn lãnh đạo,… Có nhiều chức vụ, nhiều đặc sủng, nhưng tất cả đều do bởi một Thánh Thần. Cũng chính Thánh Thần liên kết chúng ta nên một, dù chúng ta thuộc thành phần nào, dân tộc nào, chúng ta vẫn làm nên một thân thể trong Đức Giêsu, cũng nhờ chỉ một Thánh Thần. Thánh Thần làm cho con người hiểu nhau, thông cảm lẫn nhau, thương yêu nhau, giúp đỡ lẫn nhau.
Thánh Thần giúp chúng ta cầu nguyện, giúp chúng ta sống đẹp lòng Chúa, làm chúng ta trở nên con người mới. Thánh Thần là Đấng làm mới tất cả.
Thánh Thần là Thiên Chúa
Nhờ Đức Giêsu phục sinh, và các tông đồ nhớ lại những gì Đức Giêsu đã nói với các ngài khi Đức Giêsu còn sống đời dương thế, các tông đồ “với ơn của Thánh Thần” đã nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa, và sau đó Thánh Thần là Thiên Chúa.
Thánh Thần có cùng nguồn gốc nơi Thiên Chúa, Ngài ở nơi Thiên Chúa “Khi Đấng bảo trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha” (Ga 15, 26), được Cha và Đức Giêsu sai gởi “Nhưng Đấng bảo trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga.14, 26).
Sứ mạng của Thánh Thần là ở với con người: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em Đấng bảo trợ khác, đến ở với anh em luôn mãi” (Ga.14, 16), dạy con người mọi sự (Ga.14, 26), làm chứng cho Đức Giêsu (Ga.15, 26), dẫn con người tới sự thật trọn vẹn (Ga.16, 13).
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
Bạn có cảm nghiệm Thánh Thần luôn ở với bạn, và gần gũi với bạn không?
Thánh Thần có thể làm bạn trở thành “con người mới”. Bạn hiểu “con người mới”, là người như thế nào?
Lời kinh nào về Chúa Thánh Thần mà bạn thích nhất? -------------------------------
Ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống hôm nay có 2 điểm rất quan trọng liên quan đến đời sống đức tin của chúng ta. Thứ nhất, ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là khởi điểm, đánh dấu một giai đoạn mà Thiên chúa hiện diện giữa nhân loại chúng ta trong một hình thức hoàn toàn mới qua Chúa Thánh Thần. Điểm quan trọng thứ hai ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống không những là ngày khai sinh của Giáo hội, mà còn đánh dấu sự hiện diện của Thiên Chúa trong Giáo hội mà thánh Phaolô gọi là Thân thể Chúa Kitô. Sự kết hợp mật thiết này nhắc nhở chúng ta, là những chi thể về bổn phận hiệp nhất để xây dựng Thân Thể Chúa Ki-tô, và sẵn sàng hy sinh trở thành khí cụ và chứng nhân cho Chúa Kitô, cũng chu toàn sứ vụ rao truyền Tin mừng.
Ông bà anh chị em thân mến. Đối với người Việt hải ngoại chúng ta muốn có một đời sống cao, muốn có việc tốt và chức vụ cao, hay muốn sinh hoạt với những người Mỹ một cách thuận tiện, thì chúng ta phải có ngôn ngữ, phải hiểu, nói được tiếng Mỹ. Càng biết, nghe và nói được nhiều, thì càng làm cho đời sống chúng ta dễ dàng hơn. Cho nên, một số người Việt chúng ta đối diện với một sự khó khăn to lớn đó là ngôn ngữ. Thế nhưng nếu chúng ta không hiểu hay nói được nhiều thì cũng chẳng sao. Chúng ta vẫn có cuộc sống bình thường, vẫn có những nhu cầu cần thiết, vẫn có tiền, vẫn có xe hay có nơi ở như mọi người.
Nhưng đối với những người Ki-tô Công giáo chúng ta, chúng ta phải biết một thứ ngôn ngữ cần thiết. Chúng ta phải biết và phải có một thứ ngôn ngữ sinh tử, đó là ngôn ngữ đức tin, đó là ngôn ngữ lời của Thiên Chúa. Ngôn ngữ này mang đến cho chúng ta ân sủng và sự bình an, mang đến vui mừng và sự hy vọng, và là ngôn ngữ mang đến sự sống hạnh phúc đời đời.
Trong bài Tin mừng Chúa lên trời tuần vừa qua, Chúa Giê-su trao cho các môn đệ và chúng ta một mệnh lệnh “Các con hãy đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân.” Hay nói một cách khác, Chúa nói với chúng ta “Các con hãy đi rao truyền ngôn ngữ đức tin.” Thế nhưng nếu chúng ta không biết, không có hay không sống thì làm sao chúng ta có thể nói hay rao truyền thứ ngôn ngữ đó cho người khác được.
Các bài Kinh thánh hôm nay rất phong phú, nhưng tôi chỉ xin chia sẻ với ông bà anh chị em một điểm trong bài đọc 1 trích sách Tông đồ Công vụ thôi. Bài đọc một cho chúng ta biết “Đến ngày lễ Ngũ Tuần, tất cả các môn đệ đều tề tựu một nơi, bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp. Lại có những lưỡi như thể bằng lửa xuất hiện và rải rác đậu trên từng người. Hết thảy mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác nhau tuỳ theo Thánh Thần ban cho họ nói. Khi ấy, cư ngụ tại Giêrusalem, có những người Do-thái đạo đức từ khắp các nước dưới gầm trời tụ về. Nghe tiếng ấy phát ra thì đoàn lũ tuôn đến, tâm trí bỡ ngỡ, vì mỗi người đều nghe các môn đệ nói tiếng thổ âm của mình.”
Chúng ta phải hiểu đoạn Kinh thánh này làm sao? Cách hiểu thứ nhất, các tông đồ nói được nhiều thứ ngôn ngữ, nói được thổ ngữ của những người sống khắp nơi tuôn đổ về, và cách thứ hai, những người nói thổ ngữ khác nhau, hiểu được ngôn ngữ của các tông đồ, tiếng Do thái, tiếng “Aram.” Hai cách trả lời, giải nghĩa trên đây đều không thỏa mãn, vì thứ nhất, các tông đồ đâu có sống ở những nơi đó đâu, mà nói được thứ thổ ngữ đó một cách trôi chảy, cho họ hiểu được, và thứ hai, những người sống ở những nơi khác, có biết, hay thường thường xuyên nói ngôn ngữ của các tông đồ đâu mà hiểu một cách tường tận.
Tôi nghĩ rằng tất cả người Việt chúng ta đây đều có kinh nghiệm về việc nói, nghe và hiểu tiếng Mỹ. Nói, nghe và hiểu một cách tường tận tiếng Mỹ như người bản xứ thật là khó! Vậy thì làm sao lời giảng dạy của các tông đồ, nói ngôn ngữ của mình, có thể thu hút mọi người nói những thổ âm khác nhau, để họ tin vào Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh? Hay làm sao chúng ta có thể nói và rao giảng ngôn ngữ đức tin, Tin Mừng Lời Chúa cho người khác không hiểu ngôn ngữ của chúng ta được? Có giải nghĩa cách nào chăng nữa thì vào trường hợp của các tông đồ và của những người Việt chúng ta, chúng ta cũng thấy nổi bật lên vai trò và sự tác động của Chúa Thánh Thần. Chúng ta thấy tự khả năng của các tông đồ không thể làm được việc đó, và tự khả năng của chúng ta cũng không thể chu toàn sứ vụ rao truyền Tin mừng Lời Chúa được. Dân chúng bị thu hút bởi sức mạnh Chúa Thánh Thần tác động qua sự nhiệt thành, sốt sắng và can đảm của các tông đồ. Và các tông đồ không để sự sợ hãi và giới hạn của mình cản trở việc rao giảng Tin mừng Chúa Ki-tô. Và dân chúng cũng không để cho sự trở ngại ngôn ngữ vào tiếp nhận ơn sủng đức tin vào Chúa Ki-tô.
Tôi còn nhớ một sự kiện khi còn làm linh mục chính xứ tại giáo xứ thánh Anne ở Broken Arrow. Tôi có quen một đôi vợ chồng tham dự Thánh lễ Chúa nhật hàng tuần. Sau đó tôi biết ông bà là chủ nhân của nhà băng People State Bank. Người vợ có đạo, nhưng người chồng thì không. Một hôm sau Thánh lễ, ông muốn gặp tôi và cho biết muốn được rửa tội, theo đạo. Ông cho cũng cho biết là ông bà quen biết rất nhiều linh mục trong giáo xứ tứ trước tới nay, và nhiều linh mục trong giáo phận, và đã được một số linh mục tốt lành, thánh thiện và rất giỏi người Mỹ hướng dẫn theo đạo nhiều năm trước đây, nhưng ông chưa sẵn sàng. Ông nói bây giờ ông cảm thấy sẵn sàng xin được rửa tội và theo đạo. Điều này làm cho tôi cảm thấy rất khiêm nhường vì tôi biết tôi không thánh thiện, tốt lành như những linh mục ông kể, và tôi không nói tiếng Mỹ giỏi và sâu sắc như các linh mục đó. Nhưng điều này làm cho tôi hiểu sâu sa hơn về Chúa Thánh Thần, là Chúa Thánh Thần luôn tác động trên người nói và cũng như người nghe, và chỉ có Chúa Thánh Thần mới hoán cải được tâm hồn con người. Dù nói hay, nói giỏi hay sâu sắc tới đâu, mà không có sự tác động của Chúa Thánh Thần vào người nói và người nghe thì cũng không thể thay đổi được đời sống con người. Cho nên, cũng như vậy dù tham dự Thánh lễ Mỹ, Mễ hay Việt mà không có sự tác động của Chúa Thánh Thần và không có sự sẵn sàng thì cũng không tiếp nhận được gì. Hiểu hay không hiểu ngôn ngữ mà có Chúa Thánh Thần tác động thì sẽ cảm nhận được, sẽ tiếp nhận được ơn sủng của Chúa. Chúa Thánh Thần tác động và làm việc không tùy thuộc vào con người chúng ta, nhưng cần sự hợp tác, vào thái độ của chúng ta.
Một vị thánh tổ phụ đã dùng hình ảnh một cây sáo để nói lên sự tác động của Chúa Thánh Thần và sự hợp tác, thái độ của chúng ta. Cây sáo là chúng ta, nếu cây sáo đặc, không thông rỗng, thì hơi thổi, là Chúa Thánh Thần, không thể truyền qua và tạo ra âm thanh được. Do đó, chúng ta phải biết mở rộng tâm hồn, có nghĩa là phải biết từ bỏ sự tự cao, tự đại, phải trút bỏ những lo nghĩ về công việc, giờ giấc, và phải vượt qua những trở ngại của ngôn ngữ thì Chúa Thánh Thần mới tác động vào và qua chúng ta được. Chúng ta cũng được ví như cây đàn và nếu dây của cây đàn chùng, không căng, thì có gảy vào thì cây đàn cũng không tạo ra âm thanh. Cho nên, chúng ta cũng phải có tâm hồn, thái độ sẵn sàng để tiếp nhận sự tác động của Chúa Thánh Thần.
Trong ngày kính Chúa Thánh Thần hôm nay, chúng ta tự hỏi chúng ta có là chi thể sống động trong Thân Thể Chúa Ki-tô không? Chúng ta là cây sáo rỗng hay đặc? Chúng ta là cây đàn chùng hay căng? Chúng ta cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta Chúa Thánh Thần, và cầu xin Thánh Thần Chúa ngự đến, biến đổi, thánh hóa, củng cố niềm tin và luôn kết hợp chúng ta trong Thân Thể Chúa Ki-tô, để chúng ta can đảm sống chứng nhân, rao truyền Tin mừng Lời Chúa, và quảng đại xây dựng Nước Chúa. -------------------------------
Cô đơn, buồn chán là nỗi ám ảnh chung, ai cũng ngại khi phải nghĩ tới; phấn khởi, hân hoan, là dấu chỉ người khỏe mạnh, thành đạt; thư thái bình an là phong cách của người có đầy tràn sự tự tin. Khi nói đến tình yêu, người ta thường nghĩ đến vẻ đẹp, nét đẹp đáng yêu ấy vẫn chất chứa đầy bí ẩn, do đó ta khó mà diễn tả được hết ý, nhưng ai cũng trân trọng, dù là tình yêu đôi lứa hay tình yêu quê hương. Sức mạnh, ý chí luôn cần cho người đau yếu, người đang đối diện với những nghịch cảnh; bác sĩ thì luôn thiết thực cho mọi người mọi lúc, còn tình yêu lại hấp dẫn đối với mọi thành phần già, trẻ lớn bé.
Được tặng quà, được niềm vui, ít nhiều gì chúng ta cũng thấy hạnh phúc, dù chúng ta chưa hiểu hết ý nghĩa và giá trị của quà tặng. Sở dĩ chúng ta nói với nhau về quà tặng, về niềm vui, là do Chúa Thánh Thần chính là quà tặng, là trung tâm của mọi sinh hoạt nơi Giáo hội. Chúa Thánh Thần là ơn ban của Chúa Giêsu như Ngài đã hứa, nay đã được thông ban cho các tông đồ, các đấng đang tiếp tục sứ mạng Chúa trao.
Sách Công vụ hôm nay diễn tả “quà tặng Thánh Thần” được ban xuống và hiện diện trên mỗi tông đồ qua hình ảnh của cơn gió mạnh, hình lưỡi lửa, và sự kiện nói tiếng lạ. Trong bài đọc 2, Thánh Phaolô ghi nhận những công việc của Thánh Thần đang hoạt động nơi mỗi cá nhân và toàn thể Giáo hội. Quà tặng Thánh Thần chính là sự hiệp nhất trong cùng một đức tin, một phép rửa, và một tình yêu; tất cả đều cho thấy sự sinh động: không ai có thể nói Đức Giêsu là Chúa nếu không ở trong Thần Khí. Có nhiều thứ ân sủng nhưng chỉ có một Thánh Thần, có nhiều thứ chức vụ nhưng chỉ có một Chúa.
Để nói lên một sự thật, minh chứng về tình yêu của mình không thể không trả giá cho hành động của mình. Chúa Giêsu chia sẻ cho nhân loại: Ngài chính là “Quà Tặng” của Thiên Chúa, Ngài chính là “Sự Thật” được ban cho con người, “Quà Tặng ấy, Sự thật ấy” Đức Giêsu đã diễn tả bằng “cuộc tử nạn và phục sinh”. Ngày hôm nay, các môn đệ, những ai theo Chúa, và tất cả chúng ta đây, nếu ý thức mình được “Quà tặng Giêsu”, tất nhiên tình yêu và quà tặng ấy, cũng được ơn ban thúc đẩy để chúng ta sống và minh chứng Đức Giêsu là ai.
Tục ngữ có câu: cho tiền cho bạc không bằng chỉ đàng đi buôn. Ai cũng cần tình yêu, cần hạnh phúc, nhưng chúng ta cần phương tiện để bằng khối óc, con tim, để bằng đôi chân của mình chúng ta bước tới niềm vui hạnh phúc thật. Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay, Ngài đến giữa các Tông đồ khi mà các ông đang lo sợ đủ điều, và Chúa Phục Sinh không ban thứ “vũ khí” nào khác hơn đó là “ơn bình an” là “quà tặng Thánh Thần”, và chỉ cho các ông biết sứ mạng tông đồ là gì, là tình yêu và ơn ban cần được chia sẻ.
Bóng dáng những tâm hồn yêu nhau không thể thiếu cụm từ xinh đẹp và hạnh phúc, xây dựng phát triển không thể thiếu những cố gắng, hy sinh và đặc biệt là tình yêu hiệp thông. Trăng tròn rồi trăng khuyết, tình đến rồi tình đi; chỉ có tình yêu và lòng trung thành là bền vững, là đẹp mãi trong sứ mạng theo Chúa làm tông đồ. Các Tông đồ nhờ “ơn ban Thánh Thần”, các ông mới hiểu “Quà tặng Giêsu” luôn ở trong tâm hồn và hành trình đức tin của các ông phải được chia sẻ.
Tâm tình mà Đấng Phục Sinh muốn đặt nơi các tông đồ, nơi chúng ta hôm nay, là hãy tin tưởng vào sự hiện diện và quyền năng của Chúa Thánh Thần ở trong Giáo hội cũng như trong tâm hồn mỗi người Kitô hữu. Sống ở đời này, ai ai cũng cần tình yêu, cần đến sự trợ giúp bổ túc cho nhau. Chúng ta tin Chúa Giêsu là “Quà tặng” Thiên Chúa ban, chúng ta cũng được mời gọi để đón nhận và sử dụng “món quà Giêsu” đúng với tinh thần người môn đệ: tin tưởng, cậy trông yêu thương và dấn thân chia sẻ.
Trong “Truyện hay Phương Tây”, người ta có chia sẻ: trên một chuyến xe buýt, có một ông già đăm chiêu với bó hoa hồng tươi thắm trên tay. Phía đối diện ông già là một cô gái trẻ, đang say sưa ngắm nhìn bó hồng ấy vẻ thích thú. Đã đến lúc ông già xuống xe. Như một sự việc bất ngờ, ông già trao tặng cho cô gái trẻ bó hoa và nói: Bác nghĩ cháu sẽ thích bó hoa này, và Bác nghĩ rằng vợ Bác cũng rất vui lòng khi biết Bác trao tặng bó hoa cho cháu.
Ngỡ ngàng vì món quà đến quá nhanh, cô gái trẻ chỉ biết nói lí nhí: cháu cảm ơn Bác, dõi theo ông già xuống xe, đúng là Bác đang bước vào nghĩa trang, và mọi người có thể đoán được là ông đi thăm ngôi mộ của vợ ông, chỉ đơn giản thế thôi, người bạn trăm năm của ông, tấm lòng của ông, quà tặng của ông sẽ nói lên thế nào là tình yêu.Quà tặng Thánh Thần được Chúa Giêsu ban cho các tông đồ, và các ông đã biết trân trọng chia sẻ trong sứ mạng Chúa trao, nói cách khác là các ông được biến đổi để trở nên ngư phủ của Chúa Giêsu. Quà tặng Thánh Thần đã chỉ dẫn ông già tới thăm viếng ngôi mộ của vợ mình, “bó hoa hồng”, quà tặng ấy, nhất định sẽ thúc đẩy cô gái sống tình yêu thương mà cô đã hạnh phúc khi lãnh nhận. Quà tặng Thánh Thần sẽ còn được nói tới nhiều trong đời sống của từng người tin theo Chúa là chúng ta hôm nay. Hy vọng, mỗi chúng ta sẽ là chứng nhân, là Tin Mừng Phục Sinh, là hoa trái thánh thiện mà Chúa Thánh Thần đang hành động nơi cuộc sống này. Amen. -------------------------------
Hàng năm, tại đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, có lễ hội Khao Lề Thế Lính để tưởng nhớ đến Hải Đội Hoàng Sa. Lễ hội này nhắc lại hình ảnh rất quen thuộc của người dân vùng biển, đó là những con thuyền căng buồm no gió vượt sóng ra khơi của những người lính. Họ đi đến những vùng đảo xa xôi nhất của tổ quốc để cắm mốc xác định chủ quyền và thực thi nhiệm vụ bảo vệ biển đảo. Những người lính này ra đi hầu như không ai trở lại, vì vậy, ngày lễ hội này như ngày tiễn chân và cũng là lễ tang dành cho họ.
Căng buồm ra khơi cũng là sứ mạng của Giáo Hội, mà Chúa Giêsu đã nói với các Tông đồ: Các con hãy đưa tuyền ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá. Được gợi hứng từ lệnh truyền này, Giáo Hội vẫn ví mình như con thuyền được làn gió của Chúa Thánh Thần làm cho căng cánh buồm, dẫn thuyền ra khơi để thực thi nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng, mở mang Nước Chúa. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống như là ngày khởi đầu cho sứ vụ này.
Sách Công vụ cho thấy, dù Tin Mừng Phục Sinh đã khơi lên trong các Tông đồ niềm hân hoan vui mừng, nhưng các ông vẫn để mình bị co cụm trong căn phòng cửa đóng then cài. Lúc ấy, một biến cố đặc biệt đã xảy ra: một âm thanh lớn từ trời làm cho mọi sự rung chuyển, các cánh cửa của căn phòng bị mở tung bởi luồng gió mạnh và Thánh Thần ngự đến như những hình lưỡi lửa đậu xuống trên đầu các Tông đồ và họ được đầy tràn Thánh Thần. Nếu như trước đây, các Tông đồ sống trong khép kín và câm nín, thì hôm nay, Thánh Thần đã thay đổi hoàn toàn các ông. Thánh Thần không chỉ mở toang cửa nhà, mà còn mở tâm hồn và mở miệng các Tông đồ. Mở tâm hồn để các ông thêm can đảm mạnh dạn, mở miệng để các ông nói về Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài.
Với sự biến đổi của Chúa Thánh Thần, các Tông đồ đã ra khỏi căn phòng tiệc ly để bắt đầu bước ra với mọi người và với thế giới. Hình ảnh các Tông đồ nói các thứ tiếng khác nhau, các dân tộc cùng tề tựu lại nghe các Tông đồ rao giảng và họ hiểu được các ông, chứng tỏ rằng Thánh Thần là Đấng quy tụ muôn dân nên một. Nếu như ngày xưa do tội lỗi và sự cao ngạo của con người đã khiến loài người chia rẽ, không hiểu nhau, thì hôm nay, Thánh Thần đã quy tụ muôn dân muôn nước nên một. Họ trở thành một cộng đoàn duy nhất, dù khác nhau về ngôn ngữ, chủng tộc, nhưng tất cả họ đều hiểu một ngôn ngữ, đó là ngôn ngữ của Tin Mừng, ngôn ngữ của tình yêu.
Từ đây, ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống đánh dấu ngày Giáo Hội xuất hiện công khai trước thế giới, là ngày căng buồm ra khơi để thực thi mệnh lệnh Chúa Giêsu Phục Sinh trao cho Giáo Hội. Các Tông đồ lên đường trong hân hoan tin tưởng vì Thánh như vị hoa tiêu dẫn đường cho con thuyền Giáo Hội vượt biển khơi. Các ông hân hoan vì được thực thi sứ mệnh cao cả là đem tình yêu thương và tha thứ của Chúa đến cho mọi người, tin tưởng vì Chúa Giêsu luôn hiện diện và đồng hành với các ông.
Thánh Gioan và các Tông đồ xác tín vào sứ mạng Chúa Phục Sinh trao phó trong lần Chúa hiện ra với các ông. Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, Chúa hiện đến đứng giữa các ông, Ngài đã trao cho các Tông đồ món quà cao quý, đó là sự bình an. Ngài nói với các ông: Bình an cho các con ! Kế theo là mệnh lệnh: Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em. Cùng với mệnh lệnh sai đi, Chúa còn ban cho các ông sức mạnh của Thánh Thần. Nói xong, Ngài thổi hơi vào các ông và nói: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.
Như thế, sứ mạng được sai đi của các Tông đồ luôn gắn liền với Chúa Thánh Thần. Kể từ đây, mọi hoạt động của các Tông đồ đều được đặt dưới sự hướng dẫn dạy bảo của Chúa Thánh Thần. Thánh Thần là sức mạnh, là động lực thúc đẩy người tông đồ lên đường rao giảng và là sức mạnh biến đổi những người nghe lời rao giảng của các Tông đồ. Một trong những ơn của Thánh Thần được trao ban qua các Tông đồ là ơn tha thứ: Anh em tha tội cho ai thì tội người ấy được tha, anh em cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại.
Giáo Hội đã không ngừng thi hành sứ mệnh ra khơi loan báo Tin Mừng suốt hơn hai ngàn năm qua, dưới sự hiện diện và hoạt động sống động của Chúa Thánh Thần. Ngày nay, với những thay đổi nhanh chóng của con người và xã hội, con thuyền Giáo Hội dường như phải đối diện với nhiều sóng gió hơn, khiến cho nhiều người bị rơi vào cám dỗ muốn dừng chân cập bến, hoặc ngại ngần khi nói về Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài.
Nhiều người Công Giáo bị mặc cảm vì mình chỉ là số ít trong đại dương mêng mông những người vô thần và các tôn giáo, khiến họ không mạnh dạn nói về Chúa Kitô. Nhiều người khác để mình ngủ quên trong công việc, trong nếp sống khiến họ không còn nhiệt thành nói về Chúa cho mọi người. Nhưng lý do quan trọng hơn, khiến cho nhiều người Công Giáo ngại nói về Chúa Giêsu là vì họ đã để cho ngọn lửa của Chúa Thánh Thần, mà mỗi người đã lãnh nhận, chỉ còn leo lét yếu ớt bởi thiếu sự cộng tác, thiếu lòng nhiệt thành. Nhiều người đã để cho sự ồn ào của cuộc sống và sự cao ngạo làm cản trở hoạt động của Chúa Thành Thần trong cuộc đời. Nhiều người khác không mạnh dạn nói về Chúa Giêsu bởi vì họ biết rất ít về Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài, họ chưa một lần được gặp gỡ, tiếp xúc với Chúa cách riêng tư qua cầu nguyện hay qua việc đọc và suy niệm Kinh Thánh, khiến họ ngại ngần khi phải nói về Chúa Giêsu.
Chúa Thánh Thần đang dùng Đức Thánh Cha Fancis để hướng Giáo Hội vào một lãnh vực truyền giáo mới, đó là cuộc đương đầu với làn sóng đói nghèo và vấn đề ô nhiễm môi trường. Làn sóng này đang tấn công trực tiếp vào con người, làm lu mờ hình ảnh Thiên Chúa và hủy hoại môi trường sống là ngôi nhà chung Thiên Chúa trao tặng cho con người. Ngài mời gọi mọi người cùng với Chúa Thánh Thần, hãy mạnh dạn “đi ra” thực thi sứ mạng loan báo Tin Mừng Tình thương của Chúa Giêsu cho những người ở bên cạnh, những người ở “vùng ven”. Đó là những người nghèo khổ đang bị bỏ rơi, đang cần sự quan tâm, chia sẻ, an ủi của mỗi chúng ta. Khi mạnh dạn ra khỏi sự an toàn của mình, ra khỏi sự êm ấm tiện nghi của mình để bước đến với họ, để an ủi và giúp đỡ họ là chúng ta đang mang tình yêu thương của Chúa đến với họ. Những người chung quanh đang muốn tiếp cận, học biết Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài, không chỉ bằng tai, mà bằng sự cảm nhận, tiếp xúc cụ thể qua đời sống của mỗi chúng ta. Khi khiêm tốn đón nhận sự chỉ dạy của Thánh Thần qua các vị chủ chăn và hăng hái thi hành, là chúng ta đang cùng với Giáo Hội đi ra để bắt đầu cho một hành trình truyền giáo mới.
Việc làm của Đức Thánh Cha đã và đang có tác động trên nhiều người: Tổng thống Cuba, ông Raul Castro, đã viếng thăm Tòa Thánh để cảm ơn Đức Thánh Cha về nỗ lực hòa giải giữa Cuba và Hoa Kỳ. Trong lần gặp tuần qua, trước khi ra về, ông đã thưa với Đức Thánh Cha: Nếu Đức Thánh Cha vẫn tiếp tục con đường hòa giải và hòa bình này cũng như quan tâm đến những người nghèo, tôi sẽ trở lại với việc cầu nguyện và trở lại với Giáo Hội.
Trong bài phát biểu nói về cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha đến hoa Kỳ sắp tới, Tổng thống Obama đã nói: Các Kitô hữu tại Mỹ hãy hành động sao cho giống với Đức Giáo Hoàng Fancis. Ngài là con người “có sức biến đổi” và “quyết tâm” của Giáo Hoàng muốn đương đầu với nạn nghèo đói là trọng tâm đời sống Kitô hữu của ngài và đã làm cho ngài trở nên một biểu tượng toàn cầu.
Cùng với Mẹ Maria, xin cho mỗi chúng ta dám căng cánh buồm cuộc đời, đón nhận làn gió của Thánh Thần để ra khơi đem nhiều linh hồn về cho Chúa. Amen.
Thánh lễ vọng chiều nay đưa chúng về với Chúa Giêsu và chiêm ngắm Người vào ngày cuối cùng và trọng đại của dịp lễ, nghe Chúa giảng: "Ai khát hãy đến cùng Ta và uống; ai tin nơi Ta, thì như lời Thánh Kinh dạy: từ lòng họ nước hằng sống sẽ chảy ra như dòng sông" (Ga 7, 37-38). Người muốn nói điều ấy về Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần là nguyên lý sự hiệp nhất
Nếu như tại Babel, sự ngạo mạn kiêu căng của con người nổi lên chống lại Thiên Chúa tự sức riêng của mình muốn "xây một thành với một cây tháp mà ngọn nó chạm tới trời" (x. St 11,4). Hậu quả của hành động đó là Thiên Chúa làm cho họ phân tán, bất đồng ngôn ngữ với nhau, khiến họ không thể hiểu nhau làm gì nữa. Thì Lễ Hiện Xuống, điều ngược lại đã xảy ra: nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ nói được ngôn ngữ mà tất cả mọi người thuộc các nền văn hóa nghe đều hiểu như tiếng thổ âm của mình (x. Cv 2,6). Mọi chia rẽ bất đồng được vượt thắng, không còn kiêu căng chống lại Thiên Chúa nữa, cũng không còn có sự khép kín đối với nhau, họ mở rộng lòng mình ra cho Thiên Chúa và tha nhân, giao thiệp với nhau bằng một ngôn ngữ mới, ngôn ngữ của tình yêu thương mà Thiên Chúa đã đổ vào lòng họ nhờ Chúa Thánh Thần (x. Rm 5,5). Chúa Thánh Thần thúc đẩy họ làm điều thiện, an ủi họ trong cảnh sầu khổ, hoán cải nội tâm và trao ban sức mạnh và khả năng mới, dẫn đưa họ tới chân lý vẹn toàn, yêu thương và hiệp nhất.
Chúa Thánh Thần là Đấng sáng tạo
Câu đầu tiên trong Thánh Thi Kinh Chiều của ngày lễ Ngũ Tuần có viết: "Xin hãy đến, Lạy Chúa Thánh Thần, Ðấng sáng tạo..." làm cho chúng ta nhớ lại công cuộc tạo dựng vũ trụ thủa ban đầu, Thánh Thần Chúa bay lượn trên mặt nước trong cảnh hỗn mang (x. St 1,2).
Phải khẳng định rằng, thế giới chúng ta đang sống là cộng cuộc của Chúa Thánh Thần, Ðấng sáng tạo. Nên Lễ Ngũ Tuần không chỉ là nguồn gốc của Giáo hội, là lễ của Giáo hội. Nhưng Lễ Ngũ Tuần còn là lễ của tạo vật. Thế giới không tự mình hiện hữu; nhưng đến từ Thánh Thần sáng tạo của Thiên Chúa, đến từ Lời có sức sáng tạo của Thiên Chúa. Và vì vậy, thế giới phản chiếu sự khôn ngoan của Thiên Chúa: "Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự việc tay Ngài làm" (Tv 19,2). Đức nguyên Giáo hoàng Benedicto nói: "Sự khôn ngoan này hé mở cho chúng ta thấy được điều gì đó về Thánh Thần sáng tạo của Thiên Chúa. Chúng ta phải nhìn tạo vật như là hồng ân được trao ban cho chúng ta, không phải để bị hủy diệt, nhưng để trở thành ngôi vườn của Thiên Chúa" (Trích bài giáo lý về Chúa Thánh Thần).
Ðứng trước những hình thức khác nhau của việc lạm dụng trái đất, "mọi tạo vật đang rên siết trong cơn đau đớn như lúc sinh nở. Nhưng không phải chỉ tạo vật mà thôi đâu, mà cả chúng ta nữa, tức là những kẻ đã được hưởng của đầu mùa của Thánh Thần, chúng ta cũng rên rỉ trong mình chúng ta khi mong Thánh Thần nhận làm nghĩa tử, và cứu chuộc thân xác chúng ta". (Rm 8,22-24)
Chúng ta tự hỏi: Chúa Thánh Thần là ai hay là gì? Làm sao chúng ta có thể nhận ra Ngài? Bằng cách nào, chúng ta đến với Ngài và Ngài đến với chúng ta? Ngài tác động điều chi? Câu trả lời cho câu hỏi Chúa Thánh Thần là gì, Ngài làm điều chi và làm sao chúng ta có thể nhận biết Ngài. Chúa Thánh Thần là Ðấng Sáng Tạo, đến trợ giúp chúng ta. Ngài đã buớc vào trong lịch sử, và như thế, Ngài nói với chúng ta trong cách thức mới. Ngài đến gặp chúng ta qua tạo vật. Ngài là Tình Yêu, là sự hiệp nhất. Ngài mang đến cho chúng ta sự sống và sự tự do. Tất cả mọi tạo vật đều khao khát Chúa Thánh Thần.
Từ lòng họ nước hằng sống sẽ chảy ra
Ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là một cuộc thần hiện trong đó gió và lửa nhắc nhở chúng ta về tính siêu việt của Thiên Chúa. Sau khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần, các môn đệ nói mà không sợ hãi. Chúa Thánh Thần được Chúa Giêsu xin Chúa Cha ban xuống cho Giáo hội như là "nước hằng sống chảy ra như giòng sông" (Ga 7,38) vì nước ấy ở trong cung lòng của Thiên Chúa, cùng một lúc, chúng ta khám phá ra rằng, cũng trong Giáo hội, Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống thật. Thường chúng ta đề cập đến vai trò của Chúa Thánh Thần trong phương diện cá nhân, tuy nhiên, Lời Chúa hôm nay hiển nhiên cho thấy tác động Chúa Thánh Thần trong cộng đoàn Kitô hữu: "Thánh Thần mà những kẻ tin Người sẽ lãnh lấy" (Ga 7,39). Thánh Thần duy nhất biến cộng đoàn thành một thân thể duy nhất, thân thể Chúa Kitô. Hơn nữa, Ngài là suối bẩy nguồn đa dạng về các ơn: ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết và ơn thông minh, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn đạo đức và ơn kính sợ Chúa và tài năng như: tông đồ, làm tiên tri, nói tiếng mới lạ… làm cho mỗi người chúng ta trở nên phong phú và đa dạng.
Sự duy nhất là dấu chỉ rõ ràng về sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong cộng đoàn tín hữu. Điều quan trọng nhất của Giáo hội chính là sự hiện diện của Chúa Thánh Thần Đấng ban sự sống. Với con mắt loài người nhìn vào Giáo hội, chúng ta không thể nhận ra sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Trong lời nguyện mở đầu của Thánh lễ vọng chiều nay, chúng ta cầu xin Chúa tuôn đổ Thánh Thần để "các dân tộc chia tuy ngôn ngữ bất đồng, được hiệp nhất cùng nhau mà tuyên xưng danh Chúa." (Lời nguyện nhập lễ)
"Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến! Xin hãy đổ tràn xuống tâm hồn các tín hữu, và đốt lên trong họ ngọn lửa Tình Yêu Chúa!" Amen.
Thiên Chúa có Ba Ngôi: Ngôi Nhất là Cha, Ngôi Hai là Con, Ngôi Ba là Thánh Thần. Trong thực tế, chúng ta thường hay nói về Chúa Con, ít nói tới Chúa Cha, và rất hiếm khi nói về Chúa Thánh Thần.
Hôm nay, ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là dịp thuận tiện để chúng ta nói về Chúa Thánh Thần: Ngài là ai? Hoạt động của Ngài như thế nào? Bổn phận của mỗi người Kitô hữu chúng ta đối với Ngài?
1. Chúa Thánh Thần là ai?
Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi Ba, bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra. Ngài là Thiên Chúa thật, cùng một bản tính và một quyền năng như Chúa Cha và Chúa Con. Ngài còn được gọi là “Đấng ban Sự Sống” (Ga 6, 63), “Đấng Bảo Trợ” (Ga 15,26 ) và “Thần Chân Lý” (Ga 16,13).
Kinh Thánh thường dùng những hình ảnh sau đây để chỉ về Chúa Thánh Thần: Nước, Lửa, Xức dầu, Áng mây và Ánh sáng, Dấu ấn, Bàn tay, Ngón tay và Chim bồ câu.
Mỗi hình ảnh đều mang một ý nghĩa biểu tượng: Nước: Tượng trưng cho sự tái sinh; Lửa: Tượng trưng cho năng lực biến đổi của các hành vi Chúa Thánh Thần; Xức dầu: Đồng nghĩa với danh xưng Chúa Thánh Thần; Áng mây và Ánh sáng: Vừa mạc khải Thiên Chúa vừa che khuất vinh quang siêu việt của Người; Dấu ấn: Đóng ấn ơn Chúa Thánh Thần vào người lãnh nhận bí tích Rửa tội, Thêm sức và Truyền chức thánh; Bàn tay: Tượng trưng cho sự chữa lành; Ngón tay: Tượng trưng cho quyền năng tác động; Chim bồ câu: Tượng trưng cho bình an, hoà bình.
2. Hoạt động của Chúa Thánh Thần
Thời Cựu Ước, Chúa Thánh Thần hiện diện trong mọi hoạt động quan trọng như: Khi Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, khi Thiên Chúa hứa ban Đấng Cứu Độ, trong các cuộc thần hiện và trong niềm mong đợi Đấng Cứu Thế.
Sang Tân Ước, Chúa Thánh Thần hằng hướng dẫn đời sống và hoạt động của Chúa Kitô từ khi nhập thể cho đến phục sinh: Đức Trinh Nữ Maria mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần (x. Lc 1, 35); Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đậu trên đầu Chúa Giêsu khi Ngài chịu phép rửa tại sông Giođan(x. Lc 3,22); Chúa Thánh Thần dẫn Chúa Giêsu vào sa mạc để chịu ma quỷ cám dỗ (Lc 4,1; Mt 4,1; Mc 1,12); Quyền năng của Chúa Thánh Thần đã toả ra trong các hành vi của Chúa Giêsu để chữa lành các bệnh tật và ban ơn cứu độ (x. Lc 6,19; 8,46); Chúa Thánh Thần cũng làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết (x. Rm 1,4).
Chúa Thánh Thần hoạt động cách mạnh mẽ nơi các môn đệ trong ngày lễ Ngũ Tuần (x. Ga 20, 22-23). Ngày lễ Ngũ Tuần cũng là ngày khai sinh của Giáo Hội. Chính trong ngày này, các môn đệ được biến đổi, nói được các thứ tiếng lạ, can đảm loan báo Tin mừng và sẵn sàng làm chứng cho Chúa Kitô. Trong việc xây dựng Hội Thánh và loan báo Tin Mừng, các Tông Đồ đều khẳng đinh rằng: "Thánh Thần và chúng tôi làm chứng" (Cv 5, 32).
Chúa Thánh Thần không những khai sinh nên Giáo Hội mà còn xây dựng và làm cho Giáo Hội được hình thành. Ngài cư ngụ trong Giáo Hội và trang bị cho Giáo Hội bằng Lời Chúa. Nhờ đó, Giáo Hội tin Lời Chúa, thực hành Lời Chúa và dùng Lời Chúa để giáo huấn. Thánh Thần còn trang bị cho Giáo hội bằng các Đặc Sủng, Ngài ban ơn cho các chi thể tuỳ theo ý muốn của Ngài. Thánh Syrilô nói: “Thánh Thần dùng miệng người này để giảng sự khôn ngoan, lấy lời ngôn sứ mà soi trí lòng người kia, ban cho kẻ này quyền xua trừ ma quỷ, cho kẻ kia ơn giải thích Thánh Kinh, thêm sức cho kẻ này sống tiết độ, dạy cho kẻ kia biết thương người, cho người này biết ăn chay và tập sống đời khổ hạnh, cho người kia biết khinh chê những thú vui thể xác, cho kẻ khác nữa ơn chuẩn bị tử đạo. Khác nơi những kẻ khác, còn Người không bao giờ khác với chính mình như có lời chép: Thánh Thần tỏ mình ra cho mỗi người một cách, là vì ích chung”.
Nơi các Kitô hữu, Chúa Thánh Thần là Thần khí Tái Sinh, Thánh Hoá và làm cho họ được Vinh Hiển.
Chúa Thánh Thần là Thần khí Tái Sinh: Vì Ađam, con người trở thành nô lệ tội lỗi, trở nên kẻ thù của Thiên Chúa, bất tuân Thiên Chúa dẫn đến sự hư mất đời đời. Tự con người không thể thay đổi được tình trạng đó. Thánh Thần Thiên Chúa đã can thiệp để thay đổi con người. Trước hết, bằng việc tái sinh qua Bí tích Rửa tội (x. Ga 3, 5-6). Sau đó, bằng việc tái sinh qua bí tích Giao Hoà. Nghĩa là, Chúa Thánh Thần soi sáng để người kitô hữu nhận ra mình là kẻ có tội, cần được thanh tẩy để hưởng ơn cứu độ. Chúa Thánh Thần còn giúp các kitô hữu biết hoán cải để lãnh nhận Bí tích Giao Hoà.
Chúa Thánh Thần là Thần Khí Thánh Hoá: Chúa Thánh Thần giúp chúng ta chiến thắng con người cũ, giết chết việc làm của xác thịt (Rm 8,13) để chúng ta xứng đáng là đền thờ của Ngài. Thánh Phaolô kê khai các việc của xác thịt như: “Dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy” (x. Gl 5, 19-21). Chúng ta không thể chiến thắng được, nếu không nhờ Thần Khí. Khi chúng ta nhờ Thần Khí mà chiến thắng các việc của xác thịt trên, thì chúng ta sẽ thu lượm được những hoa quả dồi dào của Thần Khí, đó là: “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (x. Gl 5,11-23). Chúa Thánh Thần còn cho chúng ta biết sự thật, dạy chúng ta biết cầu nguyện, thúc đẩy chúng ta sống mến Chúa yêu người và làm chứng cho Chúa Kitô.
Chúa Thánh Thần đã làm cho Đức Kitô được phục sinh vinh hiển, thì Ngài cũng sẽ làm cho chúng ta được sống lại vinh quang. Con người và thân xác của chúng ta không còn nô lệ sự hư nát, nhưng sẽ sáng láng vinh hiển, thông phần sự sống bất diệt của Thiên Chúa Ba Ngôi (1Cr 15,42-45).
3. Bổn phận của chúng ta đối với Chúa Thánh Thần
Người Kitô hữu chúng ta cần xa tránh các tội phạm đến Chúa Thánh Thần, có bốn tội phạm đến Chúa Thánh Thần:
Thứ nhất, lộng ngôn chống lại Thánh Thần (Mt 12, 31-32). Đó là tội “Cứng tin”, không chấp nhận hoạt động của Chúa Thánh Thần trong công trình cứu độ của Đức Giêsu Kitô.
Thứ hai, dập tắt Thần Khí (1Tx 5,19-22) thường được giải thích theo nghĩa “không biết tôn trọng các đặc sủng” mà Thánh Thần ban cho để xây dựng Hội Thánh.
Thứ ba, đối đầu với Thần Khí. Đó là chiều theo xác thịt, để các khuynh hướng xấu đưa tới hành vi xấu, nghĩa là phạm tội thực sự. Mỗi lần để cho xác thịt làm động lực chi phối hay làm chủ cuộc sống là một lần đối đầu với Thánh Thần.
Thứ tư, làm phiền lòng Thánh Thần. Khi mọi hành vi và các cư xử không phù hợp với cương vị của người Kitô hữu đều làm mất lòng Thiên Chúa làm phiền lòng Thánh Thần (Ep 4,30).
Tóm lại, Thánh Thần là hồng ân vô giá mà Thiên Chúa ban cho những kẻ tin vào Đức Kitô. Mỗi người Kitô hữu chúng ta đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần trong ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội, đặc biệt là khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Thêm Sức. Vì vậy, chúng ta không những cần phải xa tránh các tội phạm đến Chúa Thánh Thần, mà còn cần phải tin kính, thờ phượng, năng cầu xin Chúa Thánh Thần soi sáng để chúng ta biết sống theo lương tâm ngay thẳng, cùng tôn trọng hồn xác ta là đền thờ của Người (x. 1Cr 6,19).
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến, xin tiếp tục đồng hành với chúng con trong bổn phận xây dựng Giáo Hội và loan báo Tin Mừng. Xin giúp chúng con biết xa tránh tội lỗi tôn trọng thân xác là đền thờ của Người. Amen. --------------------- Tài liệu tham khảo: 1. Khái Quát về Chúa Thánh Thần trong Kinh Thánh, ĐGM Phaolô Bùi Văn Đọc 2. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo số 683-747
Trong sách giáo lý Công Giáo có ghi: "Chúa Cha là Đấng sáng tạo; Chúa Con là Đấng cứu chuộc; và Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa chúng ta." Chúng ta không thể sống nếu không có hoạt động của Chúa Thánh Thần. Vì Chúa Thánh Thần là Thấn Khí ban sự sống cho chúng ta. Ngài có vai trò rất quan trọng trong thế giới này và trong mỗi con người chúng ta. Hôm nay, chúng ta cùng nhau khám phá ra vai trò của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống của chúng ta. Ngay cả Chúa Giêsu,Ngài đã đón nhận ơn Chúa Thánh Thần khi chịu phép rửa tại sông Giođan. Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta về mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần ban cho các tông sức mạnh và ơn can đảm để đi rao giảng Tin Mừng, và Giáo Hội được khai sinh. Tuy nhiên, để hiểu được vai trò hoạt động của Chúa Thánh Thần trong thế giới này, chúng ta có thể thấy ba biểu tượng nổi bậc nói về Chúa Thánh Thần, đó là: Lửa, Nước và Khí.
Trước tiên là Lửa. Lửa mang lại cho chúng ta hơi ấm. Vào mùa đông người ta cần có lửa để sưởi ấm. Nếu mùa đông giá buốt mà không có lửa, thì chúng ta sẽ bị chết lạnh. Lửa rất cần thiết trong đời sống con người. Lửa dùng để nuôi sống con người. Mặc khác, Lửa không chỉ mang lại sự sống và giá trị vật chất mà là còn mang ý nghĩa giá trị tinh thần cho con người. Đó là ngọn lửa của Chúa Thánh Thần cho các tông đồ thuật lại trong tin Mừng hôm nay. Khi Chúa Giêsu chết, các tông đồ sợ hãi không dám ra ngoài, vì người Do-thái. Trong lúc hoang mang sợ hãi đó, Chúa Thánh Thần mang ngọn trên đầu các tông đồ, ngọn lửa Chúa Thánh Thần biến đổi các ông thành những con người mới. Sách Công vụ Tông Đồ thuật lại rằng: "Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào căn nhà nơi mọi người đang tụ họp. Họ thấy xuất hiện những hình lưỡi lửa tản ra đậu trên từng người. Ai nấy lòng tràn ngập ơn Chúa Thánh Thần, họ bắt đầu nói nhiều thứ tiếng lạ khác nhau và trên đầu các ông có hình lưỡi lửa." Đó chính là Chúa Thánh Thần, Ngài đã ban cho các tông đồ ngọn lửa đức tin, ngọn lửa của niềm vui, và ngọn lửa bình an và hoan lạc để các ngài can đảm ra đi rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng khắp nơi trên thế giới.
Kế đến là Nước. Nước mang lại sự sống cho các sinh vật trên trái đất này. Nếu không có nước, con người và sinh vật không thể sống được trên trái đất này. Chúng ta có thể nhịn đói, nhưng không thể nhịn khát được. Cũng vậy trong đời sống thiêng liêng, chúng ta múc lấy nguồn nước ân thiêng từ nơi Chúa Thánh Thần khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Thêm sức. Chính Gioan Tẩy giả dìm Chúa Giê-su xuống dòng sông Gio-dan. Ngài kêu gọi dân chúng rằng: " Ai chịu phép rửa sẽ được ơn cứu độ." Nếu nước là tượng của sư sống, thì tái sinh bắt nguồn từ nơi Đức Kitô. Tại giếng Gia-cóp, Chúa Giê-su nói với người phụ nữ: " Nước tôi cho chị uống thì sẽ không bao giờ khác", đó là Máu và Nước của Ngài chính là nguồn ơn cứu độ cho chúng ta. Thánh Phao-lô đã xác quyết rằng: "Chúng ta đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể." Phép rửa là để thanh tẩy tội lỗi con người, và tái sinh làm con cái Chúa là nhờ lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần. Thánh Gioan nói:" Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em, anh em hãy lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần."
Sau cùng là Khí. Mỗi ngày chúng ta sống được là nhờ hít thở không khí, mà Thánh Thần là Thần Khí ban sự sống cho chúng ta. Trong Kinh Thánh đã diễn tả. Khi Thiên Chúa tạo dựng con người, thì Ngài lấy đất nắn thành hình người, rồi Ngài hà hơi vào lỗ mũi và ban cho con người sự sống. Chúng ta sống được là nhờ hít thở không khí. Chúa Thánh Thần là thần khí dưỡng nuôi chúng ta. Do đó, chúng ta mới nói rằng sự sống hay chết là do Chúa.Một biểu tượng khác, chúng ta có thể cảm nhận được hoạt đông của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống, đó là gió. Con mắt thường chúng ta không nhìn thấy gió, nhưng chúng ta có thể cảm nhận được gió qua sự rung chuyển của cây, hoặc qua cảm giác mát lạnh của gió. Một bài hát chúng ta thường hát nói về Thần Khí Chúa Thánh Thần như sau:
"Thần khí Chúa đã sai tôi đi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng. Thần khí Chúa đã thánh hiến tôi, sai tôi đi Ngài sai tôi đi. Sai tôi đến với người nghèo khó, sai tôi đến với người lao tù, mang Tin Mừng giải thoát. Thiên Chúa đã cứu tôi"
Tóm lại, ba biểu tượng: Lửa, Nước và Khí, chúng ta có thể hiểu được vai trò hoạt động của Chúa Thánh Thần là rất quan trọng trong thế giới này và trong mỗi con người chúng ta. Ba biểu tượng này đã được khắc họa trong Kinh Thánh từ công cuộc tạo dựng vũ trụ. Sách Giáo lý Công Giáo đã dạy: Chúa Cha là Đấng tạo dựng, Chúa Con là Đấng cứu chuộc, và Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa. Khi hiểu như thế thì chúng ta thấy rằng, Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta sự sống, thánh hóa và biến đổi chúng ta trong tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa. Như lời thánh Gioan viết, Giêsu đã thổi hơi và thần khí cho các tông đồ và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ."
Như lời thánh Phaolô dạy: hoa quả của Chúa Thần Khí là bác ái, hoan lạc,bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ. Đó là cách ta sống theo Thần Khí. Còn tính xác thịt gây ra, đó là: dâm ô, phóng đãng, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén và những thứ khác giống như vậy.
Lời Nguyện:
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương.
Xin ban cho chúng con ngọn lửa Thánh Thần, để chúng con xóa tan bóng tối của hận thù, chia rẻ và bất công.
Xin ban cho chúng con nguồn nước Thánh Thần, để chúng con cho những ai đang khát về chân lý và tưới gội những tâm hồn khô khan.
Và xin cho chúng con Thần Khí, để chúng con mạnh dạn ra đi rao giảng Tin Mừng cho những ai đang thất vọng, họ sẽ tìm thấy niềm vui và hạnh phúc trong Chúa. Amen.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Một cách nào đó, chúng ta cũng mừng sinh nhật của Giáo hội. Bởi lẽ, chính biến cố hiện xuống đã đánh dấu chính thức sự hiện diện của Kitô giáo. Biến cố này không chỉ biến đổi các thánh tông đồ thành những nhân chứng kiên dũng của Đức tin Kitô giáo, nó cũng biến đổi thái độ và niềm tin của những ai gặp gỡ họ. Nhờ thế, cộng đồng Kitô giáo đã xuất hiện và phát triển. Chính từ biến cố này, sứ điệp của Tin mừng đã từng bước thẩm thấu và làm thay đổi nền văn minh của nhân loại. Bộ mặt của thế giới đã dần dần được biến đổi (x. Cv 2: 4- 11). Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống thiết nghĩ chúng ta nên nhìn lại đâu là nguồn sức mạnh thực sự đã và đang làm thay đổi bộ mặt của nhân loại và bộ mặt của thế giới này? Làm sao chúng ta có thể sử dụng nguồn sức mạnh này để được thay đổi cũng như để thay đổi lối sống và hoàn cảnh của chúng ta hôm nay?
Đức thượng phụ Ignatius of Laodicea đã nói rằng: không có Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa thật xa lạ, Đức Giêsu chỉ đơn giản là nhân vật độc đáo của lịch sử, Tin mừng chỉ là một cuốn sách cổ, Giáo hội cũng chỉ là một tổ chức như bao tổ chức khác, quyền lực là để thống trị, truyền giáo chỉ là tuyên truyền, phụng vụ chỉ là một hoài cổ, công việc của người kitô hữu chỉ là nô lệ; nhưng với Chúa Thánh Thần, Đức Kitô đã phục sinh và đang hiện diện, Tin mừng là nguồn mạch của sự sống, Giáo hội là sự hiệp nhất trong đời sống của Chúa Ba Ngôi, quyền lực là để phục vụ và giúp con người đạt được sự tự do toàn vẹn nơi Thiên Chúa, sứ mạng truyền giáo được khơi nguồn sức sống nơi chính Chúa Thánh Thần, phụng vụ là tưởng nhớ và nếm thử đời sống sung mãn của ân sủng nơi Thiên Chúa, công việc của người kitô hữu thì được thánh hóa.
Như vậy, chính Chúa Thánh Thần đã thay đổi bộ mặt của nhân loại và bộ mặt của thế giới này. Nếu không có Ngài, công việc của chúng ta trở nên vô ích và chỉ phục vụ cho những mục đích thấp hèn của con người. Tôi nhớ lại cách đây mấy năm, khi mà chúng tôi đang cắp sách tới trường thần học. Khi đề cập đến Chúa Thánh Thần và đời sống của Giáo hội. Thật bất ngờ khi mà một cha bạn của tôi xin đặt một câu hỏi cho cha giáo sư: thưa cha, thế Chúa Thánh Thần đã ở đâu và đang ở đâu, khi mà có biết bao công việc đã đi ngược lại với những đòi hỏi của Tin mừng. Một câu hỏi trời giáng đã làm yên lặng cả lớp học. Mọi người cứ ngỡ rằng Cha sẽ bị đuổi ra khỏi lớp học. Thế nhưng, cha giáo đã trả lời: đây là một vấn đề mà tất cả chúng ta cần tìm hiểu trong hoàn cảnh hiện tại của chúng ta. Chỉ sau khoảng hai tháng chính ngài đã có một bài "đi tìm một câu trả lời cho câu hỏi: Chúa Thánh Thần ở đâu trong thời đại của chúng ta?" Có lẽ hôm nay chúng ta cũng cần một câu trả lời cho chính chúng ta.
Chúng ta không phủ nhận dù chúng ta có nhìn thấy những tia sáng của hy vọng, nhưng tối tăm, khó khăn và những thách thức của cuộc sống luôn bủa vây cuộc đời của chúng ta. Trong hoàn cảnh này, có lẽ biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống sẽ là bài học cần thiết cho chúng ta. Các tông đồ xưa cũng đã từng phải đối mặt với những khó khăn của chết chóc, hiểu lầm, hiểu khác, hiểu sai, hiểu ngược. Và rồi bách hại, chán nản, bỏ cuộc, etc. Thế nhưng, phải nói rằng họ có một niềm tin sâu sắc đủ vào lời hứa của Đức Kitô. Họ đã kiên trì cầu nguyện. Họ đã lãnh nhận chính Chúa Thánh Thần (x. Ga 20: 21- 22). Họ đã được biến đổi và họ đã làm thay đổi thế giới (x. Cv 2: 1- 11). Phải chăng chúng ta đang cần học lại kinh nghiệm này của các thánh tông đồ?
Chúng ta tin tưởng rằng Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và đồng hành với Hội thánh. Ngài hướng dẫn và thánh hóa Giáo hội. Chính vì thế mà Chúa Giêsu dám mạnh mẽ khẳng định rằng: không có quyền lực nào có thể phá đổ Hội thánh. Sẽ luôn luôn có những con người được tuôn đổ đầy tràn ơn Chúa Thánh Thần, để Giáo hội phát triển trong mọi mặt. Những chứng nhân nổi bật trong Giáo hội đã gây ảnh hưởng lớn trên toàn thế giới trong những năm gần đây chúng ta có thể kể đến mẹ Teresa Calcuta và Đức giáo hoàng John Paul II. Có thể chúng ta chưa phát hiện ra còn nhiều những con người đang âm thầm góp sức biến đổi những tiêu cực trong xã hội của chúng ta. Rất có thể một số là chính anh em của chúng ta đây? Chúng ta có thể tin tưởng chắc chắn rằng, Giáo hội sẽ luôn đứng vững, phát triển và trao ban ơn cứu độ cho muôn dân.
Tôi nhớ một câu chuyện khá thú vị. Một ngày kia Napoleon Bonaparte, với đầy uy quyền, nói với một Đức hồng y rằng: Tôi có thể tiêu diệt Giáo hội nếu như các ngài không theo mệnh lệnh của tôi. Vị hồng y khiêm tốn trả lời: Xin chúc mừng ngài, ngài thật uy quyền! Chính chúng tôi, nhiều linh mục của Giáo hội đã cố gắng thực hiện điều đó qua nhiều thế kỷ. Thật đáng tiếc, họ đã thất bại. Giáo hội vẫn tồn tại đầy sức sống. Nhưng Napoleon Bonaparte đã thất bại, bị khổ sai, và chết trong sự nhục nhã! Chúa Thánh Thần có thể biến đổi mọi sự nên tốt đẹp, kể cả tội lỗi của chúng ta.
Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, tôi có vài câu hỏi muốn được đặt ra cho chúng ta. Đã bao nhiêu lễ hiện xuống tôi đã tham dự? Chúa Thánh Thần đã thực hiện những gì trong cuộc đời tôi? Làm sao để lễ Hiện xuống năm nay có những thay đổi thực sự trong cuộc đời tôi?
Chúng ta đã chìm sâu trong lời cầu nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần từ lễ Chúa lên trời. Tôi nghĩ rằng Thiên Chúa không ngừng tuôn đổ ơn Chúa Thánh Thần trên chúng ta. Câu trả lời rất có thể không phải là Chúa Thánh Thần ở một nơi nào đó và Ngài không hoạt động. Ngài luôn hiện diện và thực thi công việc của Ngài trong thế giới này. Vấn đề là ở chính chúng ta! Liệu tôi có nghe tiếng Ngài? Tôi có tìm kiếm Ngài không? Tôi có đón tiếp Ngài không? Tôi có sẵn sàng để Ngài thực hiện công việc thánh hóa của Ngài qua tôi không? Chúa Thánh Thần sẽ không thể thực hiện điều gì, nếu như chúng ta từ chối Ngài! Câu trả lời sẽ là của mỗi người chúng ta.
Để nhận ra Chúa Thánh Thần và để Ngài hoạt động trong cuộc đời chúng ta - chắc chắn chúng ta không thể hơn các thánh tông đồ xưa - chúng ta cần cầu nguyện. Chúng ta không cần nói dài, nhưng đối thoại thường xuyên hơn với Ngài. Chúng ta cũng không cần nói nhiều, nhưng hãy mở lòng ra để đón nhận. Max Handel chia sẻ: cầu nguyện giống như chúng ta bật công tắc điện lên. Chúng ta không là nguồn điện năng. Nhưng chúng ta mở đường cho nguồn điện tuôn chảy qua và trong chúng ta. Đây có phải là cách mà chúng ta thường cầu nguyện? Nếu ngược lại, ai đang hoạt động trong chúng ta?
Có Chúa Thánh Thần, không có gì là không có thể. Nếu chỉ cậy vào tài năng của chúng ta, rất nhiều chuyện sẽ không có thể. Như vậy, nếu chúng ta nghĩ rằng chuyện gì đó không thể, thì rất tiếc rằng chúng ta đang bắt Chúa Thánh Thần phục vụ cho chúng ta. Hãy tin tưởng vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần, như Đức Kitô đã và đang tin tưởng nơi chúng ta. Đây là kinh nghiệm của những người "liều" đã hiến dâng cuộc đời cho sứ điệp của Tin mừng. Chính họ đã làm thay đổi biết bao con người. Chính họ đã làm thay đổi bộ mặt của thế giới. Thật đơn giản, họ tin tưởng nơi Chúa. Họ biết Chúa có thể thực hiện những điều phi thường qua con người mỏng dòn của họ. Chính những con người đơn sơ, thậm chí không may mắn được cắp sách tới trường như hầu hết các môn đệ của Giêsu - mà một bài giảng có thể hoán cải từ 3 đến 5 ngàn người! Đâu là phép lạ? Đâu mới thực sự là sức mạnh? Khi họ chấp nhận để Chúa Thánh Thần hiện diện nơi mình. Khi họ chấp nhận để Chúa Thánh Thần nói qua con người và miệng lưỡi mình. Khi họ chấp nhận để cho "ngôn ngữ" của Chúa Thánh Thần được nói lên. Với "ngôn ngữ" của Chúa Thánh Thần, mọi sự có thể được biến đổi, lòng người có thể thay đổi, tội lỗi sẽ được tha. Chúng ta học được gì qua những kinh nghiệm này?
Có lẽ điều lo lắng lúc này không phải làm sao tôi có thể thay đổi chồng tôi, vợ tôi, bạn tôi, con tôi, kẻ thù tôi, người tội lỗi, etc? Làm sao tôi có thể dạy họ? Làm sao tôi có thể thuyết phục họ? Câu hỏi nào đang trong đầu ban? Không cần quan tâm bao nhiêu câu hỏi. Có một điều đơn giản hơn, chúng ta nên quan tâm - câu khẳng định của Đức Giêsu: Bình an cho anh em...Anh em hãy lấy Thánh Thần (Ga 20: 21- 22). Nếu chúng ta chấp nhân điều này - chính Thánh Thần sẽ là người thực hiện. Không ai trong chúng ta có thể làm phép lạ. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể thực hiện. Đâu là sức mạnh có thể làm thay đổi? Hy vọng đây sẽ là thánh lễ Hiện xuống đặc biệt trong đời chúng ta.
Trong chương trình tình yêu kỳ diệu của Thiên Chúa dành cho nhân loại, Chúa Cha đã yêu thương đến nỗi ban chính Con Một là Chúa Giêsu đến ở cùng và cứu độ chúng ta. Sứ vụ của Chúa Giêsu kết thúc nhưng Người yêu thương các môn đệ và Giáo hội đến cùng. Thế nên Ngôi Ba là Chúa Thánh Thần được sai đến để tiếp nối sứ vụ huấn luyện các môn đệ. Người sẽ dạy dỗ, hướng dẫn, làm cho các môn đệ và tất cả chúng ta nhớ, hiểu, làm những gì Chúa Giêsu đã nói.
Sau biến cố Tử Nạn của Chúa Giêsu, các môn đệ quá sợ hãi! Sợ nên mới đóng kín cửa. Cái sợ tột cùng nhất là sợ mất mạng sống. Biết rõ tâm trạng của môn đệ, sau khi sống lại Chúa đã đến với họ. Chúa không chỉ trấn an mà còn ban cho họ chính bình an của Chúa. Tâm hồn có bình an thì sợ hãi sẽ rời xa. Khi các môn đệ đã tin, nhận ra Chúa thực sự sống lại và được bình an; Chúa tiếp tục trao ban Thánh Thần của Chúa cho môn sinh và sai các ông ra đi tiếp nối sứ mạng của Người nơi trần gian.
Chính Chúa Giêsu đã sai Chúa Thánh Thần đến với các môn đệ "nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em." (Ga 16,7c) Thánh Gioan mô tả Chúa thổi hơi vào các môn đệ và nói: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần." (Ga 20, 22) Vậy từ nay, Chúa Thánh Thần có một sứ vụ đặc biệt trong Giáo Hội, trong mỗi tâm hồn người môn đệ và Kitô hữu.
+ Chúa Thánh Thần là Đấng gợi hứng và hành động. Người hướng dẫn chúng ta cách rõ ràng, mạc khải cho chúng ta biết ý muốn của Thiên Chúa và tất cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa, vì Người là Thần Trí của Thiên Chúa và phát xuất từ Chúa Cha (x. Ga 15,26)
Chính vì thế, khi nói về Thiên Chúa hay Lời của Người, chúng ta không dùng lời lẽ từ trí khôn của mình nhưng là lời do Thánh Thần Chúa soi sáng linh hứng và là những gì ta đã học được từ Chúa.( x. 1Cr 2, 10-16) Thế nên, Thánh Phaolô đã nhắc nhở tín hữu hãy nhớ "Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Chúa ngự trong anh em sao?"( 1Cr 3,16-17). Một khi xác tín chúng ta là Đền Thờ và Chúa Thánh Thần luôn ngự trị, là tôn sư hướng dẫn, chúng ta sẽ tín thác vào Chúa và lắng nghe Người chỉ dạy.
Ma quỉ làm chúng ta bối rối, lo lắng và đưa ta đến thất vọng. Còn Chúa Thánh Thần, Người sẽ hướng dẫn ta cách thực hiện thánh ý Thiên Chúa, biết hy sinh. Người khiển trách ta cách nghiêm nghị nhưng luôn nâng đỡ ta trong dịu êm như người cha, như thầy thuốc. Những tư tưởng tốt lành trong ta đều đến từ Chúa Thánh Thần. Người gợi hứng, chỉ dạy chúng ta mọi điều như lời Chúa Giêsu dặn "Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều."( Ga 14,26)
Khi ta biết bàn hỏi với Chúa Thánh Thần trong những công việc, những quyết định, ta sẽ nhận được ơn bình an và tinh thần sáng suốt. Chính vì thế, Thánh Phaolô đã dặn dò mỗi Kitô hữu chúng ta hãy sống theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và khi ấy ta sẽ được tràn đầy hoa trái của Người là: "Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ." (Gl 5,22) Vậy ta hãy năng trò chuyện với Chúa Thánh Thần và lắng nghe Người.
+ Chúa Thánh Thần là Đấng dạy chúng ta yêu và cầu nguyện. Chúa Thánh Thần luôn ở giữa chúng ta và ở trong chúng ta. (x. Ga 14,17) Người dạy chúng ta biết yêu mến Thiên Chúa, yêu thương nhau và chúng ta yêu bằng tình yêu của chính Người ở trong tim ta. Người biến đổi con tim của chúng ta. Mọi sự thánh thiện, mọi nhân đức và mọi hành động tốt lành của ta đều do Người hình thành và hoàn thiện vì Người là Thánh Thần thánh hóa.
Người còn dạy chúng ta biết cầu nguyện, tôn vinh chúc tung Thiên Chúa thế nào cho phải vì lời lẽ của ta không xứng hợp và chính Người cầu thay nguyện giúp cho ta. (x. Rm 8,26-27) Hơn thế nữa, người biển đổi chúng ta thành con của Thiên Chúa, chứng thực chúng ta có quyền gọi Thiên Chúa là Cha và được quyền đồng thừa kế với Chúa Kitô. (x. Rm 8,15-17)
+ Chúa Thánh Thần là Đấng đào luyện. Người huấn luyện, làm cho chúng ta trở nên những Kitô hữu và là chứng nhân của Chúa Kitô "Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em. Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần." (Ga 20, 21-22) Khi có Chúa Thánh Thần, chúng ta trở nên con người mới và tràn đầy ân sủng.
Chính Chúa Thánh Thần đã biến đổi các môn đệ từ những con người nhút nhát nay dám mở toang cửa ra, vững tin và can đảm hăng say ra đi loan báo Tin Mừng. Chúa Thánh Thần là tác nhân chính trong Giáo Hội, là Đấng không ngừng hướng dẫn đoàn dân Chúa. Người luôn hiện diện và soi dẫn trong từng lời môn đệ rao giảng "Chúng tôi xin làm chứng cùng với Thánh Thần." (Cv 5,32) hay trong những quyết định "Thánh Thần và chúng tôi quyết định."(Cv 15,28) Hơn nữa, Người là Đấng luôn kiện toàn và hiệp nhất Giáo Hội, hiệp nhất chúng ta.
Hôm nay, Chúa Thánh Thần vẫn luôn đào luyện mỗi chúng ta trở nên Kitô hữu thực sự và là sứ giả Tin Mừng giữa lòng đời. Người giúp chúng ta biết nhìn thực tại thế giới này trong ánh sáng của Chúa và Người dạy ta biết phân định, nhận ra những dấu chỉ thời đại. Chúa Thánh Thần cũng không ngừng canh tân chúng ta và ban sức mạnh giúp ta vượt thắng được những khó khăn trong cuộc sống ơn gọi Kitô hữu. Nhưng quan trọng chúng ta cần kết hợp với Người và cộng tác với Người, cách cụ thể là cầu nguyện và thân thưa với Người. Hãy đặt mình dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và chúng ta sẽ biết phải làm gì, sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa.
Ngày Lễ Chúa Thánh Thần được gọi là ngày khai sinh Giáo Hội. Nguyện xin Chúa Thánh Thần ngự đến trong mỗi người chúng ta, trong Giáo Hội và trên toàn Thế giới, như một ngọn gió mới tái tạo trái đất và Giáo Hội Chúa. Để rồi nhờ Chúa Thánh Thần, chúng ta biết sống hiệp nhất, yêu thương và trở nên một thân thể duy nhất trong Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa đã yêu thương chúng con vô bờ bến nên đã gởi Chúa Thánh Thần đến. Xin Chúa Thánh Thần luôn là Tôn Sư ở trong chúng con, dạy dỗ và biến đổi chúng con mỗi ngày thành Kitô hữu đích thực và thành chứng nhân của Chúa Kitô. Amen.
Nó vung tay chụp trước, chụp sau, phải trái xoè bàn tay ra vẫn không có gì. Có người thắc mắc hỏi bắt gì vậy. Nó đáp tỉnh bơ: Bắt gió. Vô hình vô dạng hay thiên hình vạn dạng chính là thực tế của gió. Gió hình thù ra sao không xác định được, không có câu trả lời. Nhìn hàng cây uốn cong rạp ta biết có gió to. Thấy bông hoa lay động ta biết gió thoảng. Nghe tiếng thổi ào ào qua tai ta biết gió lớn. Sóng biển dâng cao ta biết gió lộng. Thấy mát quanh người ta biết có gió. Tất cả những hình ảnh đó không phải là gió mà là ảnh hưởng của gió. Không nhìn thấy, không sờ mó được, không hoạ được nhưng không thể chối cãi gió không có thật. Gió có thật và rất cần cho đời sống, ở bên ta, quanh ta, cảm được nhưng không sờ bắt được.
Lửa Cháy
Nó vẽ ngọn lửa nhưng lửa cháy bập bùng, liên tục hình này nhô lên ngọn kia phụp xuống. Cố vẽ trên hình vẽ thành một biển lửa, vẫn chưa xong còn nhiều hình mới để vẽ. Các hoạ sĩ diễn tả tượng trưng một lưỡi lửa cháy bập bùng thoáng nhìn qua biết là hình của lửa. Nhận biết vì được học như thế, thực tế lửa không mang hình nhất định. Cứ quan sát ngọn đèn cháy trước gió chúng ta thấy hình lửa cháy thay đổi liên tục từng chớp mắt. Mỗi một giây, một tích tắc lửa thay hình đổi dạng nhiều lần. Không lần nào giống lần nào như thế thì hình lưỡi lửa cháy bập bùng chỉ là hình tượng trưng được mọi người công nhận hình của lửa. Thực tế hình lửa cháy thay đổi liên tục, không ngớt cho đến khi tàn mới thôi. Lửa còn có một thực tế vô hình khác đó là khói. Khói thay đổi liên tục, cứ lan ra mãi, lan mãi cho đến khi chìm vào thinh không. Hình ảnh khói bay cũng vậy càng lan rộng càng thay đổi hình và không thể vẽ cho hết được. Có lẽ ngay cả khí nóng do lửa phát ra cũng liên tục thay đổi.
Mây
Nằm ngoài sân ngó lên trời xanh thẳm thấy đám mây hình con gấu, chớp mắt vài lần thấy hình con gấu biến mất. Thay hình đổi dạng liên tục là thực thể của mây. Mây không cánh mây vẫn bay. Mây trời dầy đặc nhưng cũng nhẹ nhàng treo gềnh núi. Mây dầy đặc lại dễ tan. Mỗi đám mây có mầu riêng. Mây thuộc dạng vô hình hay muôn hình vạn sắc.
Thần Khí
Gió, lửa và mây là ba hình ảnh tượng trưng cho ngày lễ chúng ta long trọng mừng kính trong ngày Chúa Nhật Chúa Thánh Thần. Ba hình đó là hình lưỡi lửa, gió thổi và cột mây.
Cả ba thực thể đều gần con người. Cả ba thực thể đều vô hình hay muôn hình. Cả ba thực thể đều cần thiết. Cả ba thực thể đều không thể sờ mó, cầm bắt được. Cả ba thực thể đều có thể cảm nghiệm.
Tinh thần mới
Sống tinh thần mới chính là cảm nhận Lời Chúa Jesu. Sau ngày Chúa về trời Kitô hữu không nhìn thấy Chúa, không nghe tiếng Chúa nhưng cảm nghiệm bằng mắt đức tin, lòng tin. Cảm thấy Chúa hiện diện, đồng hành, cùng sống, cùng hoạt động trong các sinh hoạt thường nhật. Sống dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần chính là những cảm nghiệm ấm áp, gần gũi đó. Cảm nghiệm đến từ trong, từ trong nội tâm và hành động vì lòng mến. Sống và thực hành Lời Chúa trong tâm tình mới, tâm tình yêu thương, phó thác.
Biết Thánh Thần qua Chúa Giêsu
Trước khi về trời Chúa Jêsu hứa ban Thánh Thần. Thánh Thần Chúa đến không mang điều mới mẻ nhưng làm mới lại những điều Chính Chúa Kitô đã giảng dậy, làm sống lại những điều Chúa Kitô đã rao giảng. Giúp các Kitô hữu thấu hiểu sự thật được Chúa giảng dậy, giúp các Kitô hữu nhớ lại điều Chúa đã dậy và sống Phúc Âm theo tinh thần mới trong hoàn cảnh mới.
Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy cho anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em' (Gn 14,26)
Nếu anh em yêu mến Thầy anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy và Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí Sự Thật. (Gn 14,15)
Thần Khí sự thật sẽ dẫn anh em đến sự thật toàn vẹn, Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe Người sẽ nói lại và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến (Gn 16,13)
Thánh Thần
Trong các thực thể kể trên, gió, lửa và mây chúng ta đi vào chi tiết một thực thể là để nhận biết công việc của Thánh Thần.
Lửa, khói và nhiệt đều được liệt kê vào thực thể vô hình vô dạng hay thiên hình vạn dạng. Lửa biến ải khôn lường, sức nóng phát ra khủng khiếp, khói toả lan mọi góc kẽ và ánh sáng lửa đánh tan mọi tối tăm. Hình ảnh Thánh Thần Chúa hứa ban có sức mạnh hơn biển lửa. Sưởi ấm và ban sức mạnh cho mọi tâm hồn, liên kết mọi dân tộc, hiệp nhất người thiện tâm. Ban sức mạnh, sai rao giảng Tin Mừng, giúp thấu hiểu các mầu nhiệm, hướng dẫn đến chân lí, ban sự sống. Bài ca tiếp liên ghi Thánh Thần đổi mới mặt đất, cha kẻ cơ hàn, đấng an ủi tuyệt diệu, thượng khách của tâm hồn, là gió mát, là hào quang, rửa sạch mọi vết nhơ, tưới gội nơi khô cạn, chữa lành mọi vết thương, uốn thẳng lòng cứng cỏi, sưởi ấm chốn lạnh lùng, sửa sang cho ngay thẳng, ban niềm vui muôn thuở trong giờ phút lâm chung.
Hàng năm vài ba tháng trước Giáng Sinh và Phục Sinh, giới thương mại trưng bày hàng hoá, kêu gọi, cổ võ và đếm giật lùi từng ngày cho đến đại lễ. Mục đích nhắc nhở, thúc dục chi tiêu, mua bán để họ thu lợi. Tuy nhiên giới thương mại dường như không biết nhiều về Đại lễ Chúa Thánh Thần. Có lẽ một là không thu được mấy lợi lộc. Hai là không có ngày nghỉ kèm theo dịp lễ trọng này. Đối với Kitô hữu, lễ Chúa Thánh Thần ban muôn ân như lời Đức Kitô hướng dẫn các môn đệ.
Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần, Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em 14,26
Ngài là Đấng bào chữa, trợ giúp, bênh vực, chỉ đường.
Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người Gn 14,16
Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật 15,26
Nghĩa tử
Dường như hai đại lễ Giáng Sinh và Phục Sinh là những lễ lớn chung cho toàn thế giới vui mừng chào đón. Riêng đại lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống dành ưu tiên, trước tiên cho các Tông Đồ và cho các Kitô hữu, những người tin vào Đức Kitô qua lời rao giảng của các Kitô hữu khác. Đây là ơn Chúa ban riêng giúp ta trở nên nghĩa tử Đức Kitô.
Chúng ta nhớ lại lời loan báo của sứ thần Thiên Chúa trong đại lễ Giáng Sinh cho các mục đồng.
Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân. Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em. Lc 2,10
Trước khi tự hiến, nộp mình, vâng lời Chúa Cha, chết trên thập giá, Đức Kitô loan báo Người sẽ chết cho toàn dân được ơn cứu độ.
Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi Gn 12,32
Khi nói về Thánh Thần Đức Kitô dường như nói món quà quí trọng này dành riêng cho những ai thuộc về Ngài.
Những kẻ Cha đã ban họ cho con, con đã cho họ biết danh Cha, Cha đã ban họ cho con, và họ đã tuân giữ lời Cha Gn 17,6
Con cầu nguyện cho họ, con không cầu nguyện cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho con, bởi vì họ thuộc về Cha. 17,10
Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần Gn 17,15
Kinh tiền tụng lễ Chúa Thánh Thần ca tụng Thiên Chúa đã ban Thánh Thần xuống trên con cái Chúa.
Để hoàn thành mầu nhiệm Vượt qua, hôm nay Cha rộng ban Chúa Thánh Thần cho những người đã được Cha nhận làm nghĩa tử, nhờ kết hợp với Con Một Cha.
Điều kiện cần thiết để nhận ơn Chúa Thánh Thần là nhận biết Đức Kitô Con Một Thiên Chúa. Kitô hữu nhận ơn Thánh Thần qua lời cầu xin của chính Đức Kitô. Nhờ lời Ngài cầu xin mà Chúa Cha ban Thánh Thần cho những ai tin vào Ngài, trở thành nghĩa tử. Chỉ những ai trở thành nghĩa tử mới được nhận ơn khôn ngoan của Thánh Thần Thiên Chúa. Nghĩa tử được Đức Kitô cầu cho trước mặt Chúa Cha. Nghĩa tử được kết hợp mật thiết với Ba Ngôi Thiên Chúa.
Biểu tượng
Đại lễ Chúa ThánhThần mừng kính 50 ngày sau khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết và 10 ngày sau khi Đức Kitô về cùng Chúa Cha. Trong ngày lễ Chúa Thánh Thần. Hình lưỡi lửa xuống trên đầu các thánh tông đồ. Các ngài bắt đầu rao giảng, làm chứng về Đức Kitô. Hôm nay cũng được coi là ngày Giáo Hội chính thức khai sinh. Cuộc rao giảng về Đức Kitô bắt đầu, trước khi về trời Ngài chính thức trao sứ mạng rao giảng lại cho các môn đệ.
Qua giòng lịch sử Giáo Hội, Lễ Chúa Thánh Thần mang nhiều biểu tượng, nói lên ý nghĩa linh hoạt khác nhau của Thánh Thần Chúa.
Trước hết là hình lưỡi lửa được sách Công Vụ Tông Đồ ghi nhận. Màu đỏ còn tượng trưng cho màu máu các thánh tử đạo đổ ra làm chứng cho đức tin, do sức mạnh của Thánh Thần thôi thúc.
Màu Trắng hay còn gọi là Chúa Nhật thanh tẩy tượng trưng cho áo màu trắng các tân tòng mang trên mình trong ngày gia nhập Giáo Hội. Màu trắng tượng trưng cho ơn khôn ngoan do Thánh Thần ban, hướng dẫn giúp các tân tòng nhận biết Thiên Chúa.
Thánh Thần Đấng làm thay đổi bộ mặt trái đất, sưởi ấm tâm hồn nguội lạnh, làm sống lại những con tim chai đá và làm cho đời sống Giáo Hội sinh mầm, nảy lộc. Trong ý nghĩa đó cành lá xanh tươi mang dấu chỉ của sự sống mới, tốt lành. Lịch sử Giáo Hội có thời người Kitô hữu thường trang hoàng các cành, lá non, xanh trong thánh đường và tư gia nhắc hở nhau canh tân cuộc sống.
Cầu chúc Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy tâm hồn các tín hữu.
Tương tự nhau không hẳn là giống nhau mà chỉ giống phần nào thôi. Cùng chung hình ảnh nói rõ điều muốn diễn tả. Hình ảnh gợi lên điểm giống nhau. Chúng ta hay nghe ví von hai người giống nhau như hai giọt nước. Ví von như thế diễn tả hình dáng bề ngoài nhiều hơn là nhấn mạnh đến phẩm chất bên trong của nước. Khi diễn tả con người được dựng nên theo hình ảnh Chúa dẫn chúng ta đến việc nhận biết chúng ta bề ngoài tuy nhìn khác nhau nhưng trong nội tâm cùng chung hình ảnh Thiên Chúa. Sách Sáng Thế Kí chương Sáng Tạo nói Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Người. Sau khi tạo dựng Thiên Chúa ban cho con người Thần Khí và con người có sự sống. Nhân loại được khai sinh trong trường hợp đó- mang hình ảnh của Thiên Chúa. Giáo Hội Chúa quy tụ những người tin vào Thiên Chúa vì thế Giáo Hội Chúa cũng mang hình ảnh Thiên Chúa. Hình ảnh này trở nên sống động trong ngày các tông đồ nhận lãnh Chúa Thánh Thần. Đây chính là ngày khai sinh của Giáo Hội.
Giáo Hội và Kitô hữu cùng mang hình ảnh Chúa, nhận chung một Thánh Thần nên có chung một nguồn gốc và chung một sứ mạng rao giảng. Vì thế rao giảng, mang Tin Mừng đến cho muôn dân là sứ mạng chung của Giáo Hội và là sứ mạng riêng của mỗi Kitô hữu. Chúng ta có chung sứ vụ rao giảng, cùng làm chứng cho Tin Mừng nhưng không phải tất cả các Kitô hữu đều tích cực trong việc rao giảng. Kitô hữu nào trung thành trong việc vác thập giá hàng ngày bước theo Đức Kitô mới thực sự là môn đệ trung tín của Đức Kitô. Trong ngày lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy chúng ta được ghi dấu ấn tín đức tin. Ấn chứng đức tin này giúp chúng ta trở thành người mang Đức Kitô trong mình, mang tình yêu Chúa đến cho tha nhân, cho thế giới.
Hãy cảm tạ Chúa vì Ngài đặt tin tưởng nơi ta, trao phó việc rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Rao giảng là sứ mạng của mọi Kitô hữu. Đây không phải là sứ mạng mới mà là sứ mạng chính Đức Kitô làm và chúng ta được mời gọi nối tiếp công việc Đức Kitô bắt đầu. Vì thế chúng ta không rao giảng một mình hay bơ vơ nhưng có Đức Kitô cùng đồng hành trong việc rao giảng. Ngoài ra Ngài còn ban cho Đấng bảo trợ là Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn chúng ta trong việc rao giảng và làm chứng nhân cho Ngài.
Thiên Chúa yêu thương thế gian nên ban Con một Ngài là Đức Kitô cho chúng ta. Đức Kitô yêu thương chúng ta nên hy sinh trên thập giá ban ơn cứu độ và ban Thánh Thần Chúa. Thánh Thần Chúa yêu thương nên đến ở cùng chúng ta, để trở nên tim óc, hướng dẫn chúng ta trong việc rao giảng và làm chứng về Tin Mừng. Thánh Thần là tình yêu nhưng mắt thường không thể nhìn thấy tình yêu mà chỉ nhìn thấy kết quả hay sản phẩm của tình yêu. Sản phẩm tình yêu thường không mang tâm tình của người tạo dựng nên nó. Chúng ta không phải là sản phẩm của tình yêu bởi trong chúng ta có ấn tínThánh Thần Thiên, có sự liên hệ thân thương giữa ta và Đấng tạo dựng vì thế Kitô hữu trở thành dân riêng của Thiên Chúa vì vừa mang hình ảnh Chúa vừa là nơi Chúa ngự, đền thờ Thánh Thần Chúa.
Như thế hình ảnh sau cùng là gì? Bắt đầu bằng hình ảnh tạo dựng con người tiến đến hình ảnh cứu chuộc con người và hình ảnh cuối cùng chính là hình ảnh trở nên giống hình ảnh lúc tạo dựng con người nguyên thuỷ, trong sáng và tràn đầy hạnh phúc. Tội lỗi làm cho hình ảnh chúng ta ra lu mờ. Thánh Thần Chúa đến đánh bóng giúp chúng ta lấy lại hình ảnh trong sáng của ngày sáng tạo vì thế chúng ta là tạo vật mới sinh ra trong tình yêu của Thánh Thần.
Ngày nay, hơn bao giờ hết nhân loại đang mong muốn hoà bình. Nền hoà bình mang lại cho con người sự tự do đích thật, bình an đích thật. Có hoà bình, người ta an tâm học hành, làm việc và phát triển các chiều kích vật chất, tinh thần và tâm linh. Như thế, hoà bình hay bình an đích thật chính là nỗi khát mong tự bao đời của con người.
Hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống là ngày lời hứa của Chúa Giêsu được thự hiện: "Thầy sẽ xin Cha và Cha sẽ ban cho chúng con một Đấng an ủi khác đến ở với các con mãi mãi". Đấng ấy sẽ ban cho chúng ta sự bình an đích thật trong tâm hồn. Đấng ấy sẽ giúp cho chúng ta tìm kiếm và thi hành sự bình an đích thật.
Trong Tin Mừng, sự bình an, đặc biệt sự bình an trong tâm hồn, được coi là một giá trị hết sức quan trọng. Khi Đức Giê-su sinh ra, muôn vàn thiên thần đã hát mừng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương" (Lc 2,14). Khi sai các môn đệ, Đức Giêsu khuyên: "Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy" (Mt 10,12; x. Lc 10,5). Rồi sau khi chữa lành bệnh, Đức Giêsu cũng chúc bình an cho người ấy (x. Mc 5,34; Lc 8,48). Đặc biệt, sau phục sinh, khi hiện ra cho các môn đệ, Đức Giêsu luôn nói: "Bình an cho các con!" (Lc 24, 36; Ga 20, 19; 20, 26).
Còn chính trong cuộc sống đời thường của mình, chúng ta thấy bình an là một điều kiện quan trọng để sống vui tươi hạnh phúc và để phát triển. Hơn hết, trong đời sống thiêng liêng, con người cần sự bình an biết mấy. Bởi vì sự bình an trong tâm hồn là điều kiện quan trọng để đời sống tâm linh được phát triển. Vì thế mà Đức Giêsu đã nói: "Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian" (Ga 14,27). Thật vậy, trong ngày Lễ Ngũ Tuần, mà hôm nay chúng ta nghe Thánh Gioan thuật lại Đức Giêsu Đức Giêsu thổi hơi và ban Thánh Thần cho các tông đồ, Ngài đã nói "Bình an cho anh em!". Như vậy, phải chăng để nhận lãnh Thánh Thần, thì điều kiện quan trọng là phải có tâm hồn bình an? Và đồng thời bình an cũng lại là kết quả của một tâm hồn tràn đầy Thánh Thần (x. Gl 5, 22).
Trong sách Tông đồ Công vụ, thánh Luca đã mô tả quang cảnh ngay lễ Hiện xuống: "Tất cả các tông đồ đều tề tựu một nơi, bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió mạnh thổi đến lùa vào đầy nhà, nơi họ đang tu hợp lại, với những lưỡi như thể hình lửa xuất hiện và đậu trên từng người". Chúa Thánh Thần như Lửa của tình yêu Thiên Chúa nung đốt chúng ta. Trong tình yêu của Chúa, tất cả chúng ta không còn khác biệt nhau nữa mà trở thành con của Chúa, sống trong tình yêu duy nhất của Người.
Do đó, có thể nói để nhận được ơn bình an, ơn Thánh Thần thì chúng ta phải có tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Nhờ sống trong ân nghĩa với Thiên Chúa, ta sẽ có sự bình an trong tâm hồn
"Như Cha sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em". Mỗi người chúng ta đã được lãnh nhận những ơn lành của Chúa một cách nhưng không thì cũng hãy biết cho đi nhưng không. Hãy biết chia sẻ và mang bình an đến cho những người chúng ta gặp gỡ. Chúng ta hãy tự vấn lòng mình, để xem chúng ta có thật sự là "khí cụ bình an của Chúa" để đem đến cho những người mà chúng ta gặp gỡ chưa?
Ngày nay, hơn bao giờ hết, có lẽ con người thật sự cần thiết có được sự bình an. Chúng ta có thể sản xuất để cung ứng cho mình mọi thứ theo ý muốn. Nhưng nếu chúng ta không có bình an, chúng ta sẽ không có gì hết. Để tìm thấy được bình an đích thực, Thánh Phaolô chỉ cho ta: "Đức Giêsu Kitô, Ngài là bình an thật của chúng ta" (Ep 2, 14).
Do đó, để tìm thấy được sự bình an đích thực, chúng ta hãy tránh xa những dịp tội, đừng để mình kéo dài tình trạng sống trong tội, chúng ta hãy mau quay trở về với Chúa, sống trong ân nghĩa với Thiên Chúa. Khi chúng ta có được sự bình an, thì chúng ta cũng hãy biết mang bình an đó lại cho những người mà chúng ta gặp gỡ. Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con bình an, sự bình an đích thật chính là Chúa Thánh Thần. Có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, chúng con sẽ được bình an, phát triển đời sống vật chất, tinh thần và thiêng liêng. Có Chúa Thánh Thần, chúng con sẽ dễ dàng lắng nghe và thi hành điều ngay, lẽ phải, dám sống và làm chứng cho tình yêu Chúa và can đảm đem bình an, tình yêu và niềm hạnh phúc cho tha nhân. Amen.
Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, là Nguồn Trợ Lực. Đời sống của chúng ta không thể thiếu bóng dáng Ngài. Vì thế, nhìn vào đời sống Đức Giêsu trong mối tương quan với Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu sẽ giúp ta hiểu rõ sự cần thiết của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta.
Đức Giêsu Kitô là Đấng tràn đầy Chúa Thánh Thần từ lúc ban đầu đến sau khi phục sinh và mãi mãi.
Thực vậy ngay từ lúc Đức Giêsu thụ thai trong cung lòng Mẹ Maria, chúng ta đã khám phá rất rõ về mối hiệp thông giữa Ngôi Lời nhập thể và Chúa Thánh Thần. Biến cố truyền tin đã dạy chúng ta rằng: Đức Maria cưu mang Đức Giêsu trong lòng là do Chúa Thánh Thần, Chúa Thánh Thần đã đến và bao phủ quyền năng của Ngài nơi bào thai của Đức Maria, nơi sự sống của Ngôi Hai Thiên Chúa là Đức Giêsu sẽ hình thành trong cung lòng của một con người.
Chúa Thánh Thần còn đến với Đức Giêsu khi Ngài chuẩn bị thi hành sứ mạng Messia. Vì sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả tại sông Giođan trước khi rao giảng Tin mừng, khi " vừa lên khỏi nước, Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người" (Mt 3, 16)
Chúa Thánh Thần còn đến với Đức Giêsu trong những giờ phút sống thân tình với Chúa Cha. Chúa Thánh Thần đã tác động nơi Đức Giêsu để Đức Giêsu được hưởng những thời gian chìm đắm trong lời cầu nguyện với Chúa Cha. Tin mừng thánh Mátthêu thuật lại khi Đức Giêsu vào hoang địa ăn chay và cầu nguyện ròng rã bốn mươi đêm ngày, thì đó cũng là do tác đông của Chúa Thánh Thần, Chúa Thánh Thần đã dẫn Đức Giêsu vào tình yêu sâu thẳm với Chúa Cha trong thời gian này (x.Mt 4,12).
Chúa Thánh Thần còn đến với Đức Giêsu trong khi rao giảng tin mừng yêu thương và phục vụ cho mọi ngườ. Phúc âm thánh Luca thuật lai khi bắt đầu rao giảng thì Chúa Giêsu "được quyền năng Thần Khí thúc đẩy" (Lc 4,14). Sự tác động của Chúa Thánh Thần nơi Đức Giêsu như là sức mạnh, nhờ đó Đức Giêsu có thể hoàn thành sứ mạng mà Chúa Cha đã trao phó cho Ngài.
Chúa Thánh Thần còn đến với Đức Giêsu trong những lúc khó khăn nhất của cuộc đời Ngài. Khi Đức Giêsu hấp hối trong vườn cây dầu, mọi sự đối với Đức Giêsu trong lúc này hình như bị bế tắc, bị thất bại, bị tuyệt vọng. Một lần nữa, Chúa Thánh Thần là "Ngón Tay Thiên Chúa" là Sức Mạnh đã đến với Đức Giêsu, đã nâng đỡ bổ sức cho Đức Giêsu trong lúc Đức Giêsu đang bị cô đơn vì sự bỏ rơi của nhiều người, đang phải sắp hứng chịu với cái đau đớn của roi đòn trên thân xác. Thậy vậy, nhờ sức mạnh Chúa Thánh Thần nâng đỡ mà Chúa Giêsu đã chiến thắng được cám dỗ từ bỏ chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Ngài đã can đảm từ bỏ ý riêng để xin vâng theo ý Chúa Cha. Chúa Giêsu xin vâng ý Cha khi đau khổ và còn xin vâng cho đến khi trút hơi thở cuối cùng trên thập giá.
Vai trò của Chúa Thánh Thần rất quan trọng trong đời sống và sứ vụ của Đức Giêsu. Chúa Thánh Thần luôn đồng hành với Đức Giêsu trên mọi nẻo đường rao giảng Tin mừng. Ngài luôn tác động nơi Đức Giêsu trong mọi hoàn cảnh, nhờ vậy mà chương trình của Đức Giêsu luôn được hoàn thành tốt đẹp.
Từ kinh nghiệm sống hiệp thông với Chúa Thánh Thần, nên Đức Giêsu xem việc trao ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ phải là cần thiết. Vì việc ban Chúa Thánh Thần chính là điều kiện để các Tông đồ có khả năng hành động trong khi rao giảng tin mừng như Đức Giêsu. Vì vậy trước khi rời khỏi thế gian để về cùng Chúa Cha, Chúa Giêsu đã từng hứa ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ. Rồi sau khi sống lại, Đức Giêsu đã hiện ra cũng trao ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ, như trong trang Tin mừng hôm nay chúng ta vừa nghe. Đặc biêt sau khi Chúa Giêsu về trời, trong ngày lễ Ngũ tuần thì Chúa Thánh Thần đã được trao ban trên các Tông đồ trong bầu khí thật uy phong trong khi các Ngài đang cầu nguyện. Hình ảnh này chúng ta đã vừa cảm nhận trong bài đọc một hôm nay.
Khi khám phá mối hiệp thông giữa Đức Giêsu và Chúa Thánh Thần, cũng như hình ảnh Chúa Thánh Thần đã được ban cho các Tông đồ trong ngày lễ Ngũ tuần thì đó cũng là bài học Chúa dạy chúng ta: Nếu cuộc sống con người vắng bóng Chúa Thánh Thần, thì cuộc sống đó sức sống tự nhiên và siêu nhiên sẽ không tăng trưởng, sẽ chết dần trong năm tháng, vì Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống. Và nếu cuộc sống con người vắng bóng Chúa Thánh Thần, thì đời sống ấy sẽ không biết yêu thương, vì Chúa Thánh Thần là Tình Yêu để nối kết con người với Thiên Chúa, và nối kết giữa con người với nhau. Hay khi cuộc sống con người vắng bóng Chúa Thánh Thần, thì đời sống ấy sẽ lạc lối, sẽ đi ngược lại với ý định của Thiên Chúa, vì Chúa Thánh Thần là sức mạnh để giúp con người can đảm từ bỏ ý riêng để khiêm tốn luôn thi hành thánh ý Thiên Chúa. Nói chung nếu cuộc sống con người không có Chúa Thánh Thần thì cuộc sống ấy sẽ không giống Đức Giêsu.
Từ những cảm nghiệm trên, chúng ta hãy noi gương Mẹ Maria và các Tông đồ trong bài đọc một hôm nay. Hãy thường xuyên ở lại chung với nhau để cầu nguyện với Đức Giêsu Kitô, là Đấng sinh bởi Thánh Thần, là Đấng đầy tràn Thánh Thần. Xin Chúa Giêsu Kitô ban Chúa Thánh Thần là Hồng Ân của Ngài cho chúng ta, nhờ đó trong mọi hành động chúng ta sẽ trở nên giống Chúa hơn.
Lạy Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, xin ban đầy tràn Chúa Thánh Thần xuống tâm hồn chúng con. Amen.
Không phải tất cả những gì Jean Paul Sartre (1905-1980), một trong những triết gia hiện sinh, viết đếu có thể chấp nhận được đối với những tín hữu đạo đức. Nhưng những gì nhà triết học người Pháp này tưởng tượng về hỏa ngục, rất đáng cho chúng ta lưu ý. Trong vở kịch «Phía sau những cánh cửa khép kín»của ông. Jean Paul Sartre đã nêu lên vấn nạn: Ðiều gì sẽ xảy ra, nếu con người sống hay chết đều gắn bó ràng buộc với nhau, và đều ý thức được rằng họ sẽ không bao giờ tách rời nhau được nữa? Ðiều gì sẽ xảy đến, nếu họ không được phép hay không muốn tiếp xúc với thế giới bên ngoài? Nếu họ không tùy thuộc vào bất cứ điều gì khác ngoài quá khứ, ngoài tội lỗi, ngoài sự cao ngạo, ngoài sự cố chấp, ngoài những điều nhảm nhí và ngoài những trách móc phàn nàn lẫn nhau của họ? Theo Sartre: Ðó chính là hỏa ngục!
Dĩ nhiên, các nhà thần học còn có thể nói cho chúng ta nhiều hơn nữa về những gì mà Thánh Kinh gọi là «hỏa ngục». Nhưng có một điều chắc chắn - và đó cũng là điều Jean Paul Sarte muốn nói tới - đó là: Ngay ở đời này, con người chúng ta đã có thể làm cho cuộc sống của nhau trở thành hỏa ngục.
Cũng thế, người ta có thể tưởng tượng được tình trạng của các môn đệ Ðức Giêsu sau ngày Thứ Sáu Chịu Nạn một cách tương tự như thế! Theo sự tường thuật của Thánh Kinh: Vì sợ người Do-thái, nên họ đã lẩn trốn sau những cánh cửa khép kín. Ðức Giêsu đã chết. Phải chăng họ đã chẳng đặt hết hy vọng vào Người, đã hy sinh tất cả cho Người, đã gắn bó hoàn toàn với Người?
Nhưng giờ đây Người đã chết: Bị đóng đinh nhục nhã vào thập giá, đã tắt thở và đã được an táng! Và Người đã để họ lại trong cảnh bơ vơ, thất vọng và chán nãn, lo âu sợ hãi và hoảng hốt. Họ trở nên bất đồng ý kiến với nhau và bị rơi vào một hoàn cảnh bất ổn, khiến họ không còn đủ khả năng để ngồi lại nói với nhau về sợi dây đầy tình nghĩa từng ràng buộc họ lại với nhau trong ba năm qua. Họ không còn đủ bình tỉnh để có thể tìm ra được câu giải đáp cho những vấn nạn quan trọng: Ðức Giêsu Na-da-rét thực sự là ai? Và chúng ta là ai, khi cùng với Người hay khi không có Người? Những gì thực sự còn nối kết chúng ta lại với nhau? Và trước hết, tình trạng cộng đoàn các Tông đồ xem ra rất bi quan và đang trên bờ của sự tan rã. Các bạn hãy nghĩ đến trường hợp hai môn đệ Em-mau hay trường hợp Thoma cứng lòng: Mỗi người đi mỗi ngã, ai nấy đều trở nên nghi ngờ, tất cả họ đều mất hết mọi hy vọng và tin tưởng!
Các bạn hãy tự xét đoán lấy, hãy tự chất vấn chính những kinh nghiệm sống của mình: Phải chăng tất cả những điều đó đã không quả quyết rằng, một đoàn thể khi phải đứng trước một tình trạng đen tối và tuyệt vọng như thế lại không bị tan rã hay sao?
Tuy nhiên, mọi chuyện lại đã xảy ra hoàn toàn khác hẳn. Các nhà tâm lý và phân tâm học sẽ phải bóp trán nghĩ ngợi nát óc, là: Làm thế nào hoàn cảnh các Tông đồ lại có thể xảy ra ngược lại như vậy được! Thánh Kinh đã trả lời cho vấn nạn đó: Chính Chúa Thánh Thần là Ðấng đã liên kết các Tông đồ lại với nhau, ngược lại với sự hợp lý và sự suy luận nhân loại. Vâng, Chúa Thánh Thần hiện diện giữa các Tông đồ như sợi dây nối kết họ lại với nhau và như động lực giúp cho họ có đủ khả năng để lại cùng nhau nói về chính mình và nói về Sư Phụ. Chính Chúa Thánh Thần là Ðấng ban cho họ có được sự xác tín rằng: Ðức Giêsu vẫn sống! Từ những câu chuyện đó, từ sự tưởng nhớ lại Ðức Giêsu như thế đã làm phát xuất ra điều mà ngày nay chúng ta gọi là Giáo Hội: Cộng đoàn của những người tin vào Ðức Giêsu! Thần Khí Thiên Chúa dẫn đưa và qui tụ họ lại từ bốn phương trời.
Vâng, Thần Khí Thiên Chúa, Thần Khí Ðức Giêsu, đã tác động, để một nhân loại đang trong cảnh chia rẽ và phân hóa lại trở về đoàn tụ với nhau. Và trước hết, điều đó đã được chứng mình nơi chính các Tông đồ: Các ngài đã tìm về với nhau, các ngài lại thông cảm nhau và các ngài lại hiểu được những gì đã xảy ra cho Ðức Giêsu. Nhất là bây giờ các ngài có thể làm cho người khác hiểu được Ðức Giêsu là ai và Người muốn gì nơi họ. Nhân loại thuộc mọi quốc gia, mọi ngôn ngữ, mọi màu da và mọi giai cấp trong xã hội đã tìm về với nhau và qui tụ thành một cộng đồng huynh đệ mới. Và đó là điều chúng ta cùng tưởng niệm lại trong ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống hôm nay.
Thần Khí Thiên Chúa mở tung mọi cánh cửa của sự sợ hãi, của sự nhát đảm và của sự co rúm lại trong thế giới bản thân, một chỗ các Tông đồ dùng làm nơi ẩn trốn! Giờ đây, họ không còn sợ hãi lẩn trốn nữa, nhưng lòng đầy can đảm và phấn khởi đi đến với mọi người và loan báo cho họ biết rằng, cuộc đời Ðức Giêsu Na-da-rét tuy trước mắt người đời xem ra như đã thất bại và đổ vỡ, nhưng trong thực tế lại chính là một cuộc sống đầy hạnh phúc trong vinh thắng. Nó đã được Thiên Chúa chấp nhận và chúc phúc. Bởi vì cuộc sống Ðức Giêsu là một cuộc sống không còn bị ràng buộc bởi sự ích kỷ, nhưng đã được hoàn toàn hiến dâng cho Thiên Chúa và và cho hạnh phúc chân thật của nhân loại. Ðức Giêsu đã mở tung nhiều cánh cửa từng bị khóa kín.
Tuy nhiên, vẫn còn có nhiều cánh cửa đang bị niêm phong khép kín trong cuộc sống xã hội. Qua kinh nghiệm trong cuộc sống cụ thể, nhiều khi chúng ta đã phải ngỡ ngàng và thất vọng đứng trước những cánh cửa bị đồng loại khóa kín để cản đường chúng ta. Nhưng chính chúng ta cũng không ít khi đã đóng chặt bao cánh cửa trong các tư duy và trong cuộc sống mình, tự cô lập mình khỏi đồng loại.
Vâng, còn có bao nhiêu người vẫn chưa có đủ can đảm để tìm cho hoàn cảnh của mình một lối thoát? Còn có biết bao nhiêu cặp vợ chồng đang sống một cuộc sống chồng vợ bất đắc dĩ? Còn có biết bao nhiêu gia đình đang phải sống trong cảnh bất hòa và mỗi người là một tiểu vũ trụ, chứ không ai muốn nói chuyện với ai nữa? Và trong một cộng đoàn giáo xứ cũng còn có bao cánh cửa đang bị khóa kỹ: Giữa các cá nhân với nhau, cũng như giữa gia đình này với gia đình khác? Vâng, đó là những cánh cửa chúng ta đã tự khép kín và khóa chặt đối với nhau: Những cánh cửa dẫn đưa người khác đến với chúng ta, nhưng đã bị chúng ta khóa chặn lại. Hoặc là những cánh cửa đã làm cho chúng ta không thể tự do tiếp xúc với thế giới bên ngoài.
Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống đã chứng minh cho thấy rằng người ta rất có thể mở tung mọi cánh cửa vốn bị đóng kín. Ðiển hình nhất là nơi các Tông đồ: Các ngài đã học được điều đó nơi chính bản thân mình. Các ngài đã có được kinh nghiệm là: Khi bản thân hay gia đình mình rơi vào cảnh khó khăn thử thách, thì tốt nhất là không nên vội đầu hàng bỏ cuộc. Các ngài đã học được là không một ai được phép nghi ngờ người khác, cả khi xem ra có người này kẻ nọ trong họ tỏ ra hoang mang và muốn bỏ cuộc. Các Tông đồ cũng đã cảm nhận được rằng:
Thái độ lẩn trốn và dấu mình sau các cánh cửa đóng kín càng làm tăng sự sợ hãi hoang mang.
Sự nghi ngờ nhau, sự đố kỵ mù quáng đối với thế giới bên ngoài, thường cũng chính là cái hố sâu ngăn cách con người với Thiên Chúa.
Các Tông đồ đã học được là chính Thần Khí Ðức Giêsu đã thúc bách và động viên họ:
Phải mở rộng các cánh cửa.
Phải loại bỏ sự bất động và bám bíu vào các thói quen cũ.
Phải can đảm đi đến với những người xa lạ chưa quen biết, hầu có thể: a) Hiểu biết và thông cảm với họ; b) Tin tưởng và chia sẻ với họ định mệnh khắt khe của họ; c) Giúp họ mở rộng mọi cánh cửa, nhất là cánh cửa dẫn họ tới nguồn hạnh phúc chân thật và vĩnh cửu: Ðức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi!
Phải chăng đó không phài là điều kiện cho tình yêu to lớn đã được mặc khải trong cuộc đời Ðức Giêsu Na-da-rét?
Tôi luôn xác tín rằng: Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống không chỉ là một kỷ niệm biến cố trọng đại đã xảy ra trong buổi khai nguyên Giáo Hội, nhưng là một thực tại luôn sinh động! Bởi vì, Thần Khí Ðức Giêsu không hề chết. Người vẫn sống và vẫn tác động không ngừng trong Giáo Hội, trong vũ trụ và trong cuộc sống mỗi người. Chúng ta có thể mở rộng tâm hồn mình cho Người. Bên ngoài, những người đã từ xa gần đến và đang chờ đợi trước cửa nhà chúng ta. Họ chờ đợi Thần Khí Ðức Giêsu. Họ chờ đợi những người đã biết mở rộng tâm hồn cho Thần Khí đó! Amen.
Báo "Le Figaro" đã đăng câu trả lời phỏng vấn của Tổng Thống Nga Putin, trong đó có mấy sâu đối đáp sau đây:
- Trong một cuộc phỏng vấn báo chí tại Nga, ông cho biết là ông đã đến cầu nguyện tại Mồ Thánh Chúa ở Jeruselem, trong tay cầm Thánh Giá. Nhưng ông lại là một cựu sĩ quan của tình báo KGB. Ông nghĩ thế nào về sự trái ngược đó?
- Cuộc sống được tạo nên bằng những điều trái ngược nhau. Khi không còn những điều trái ngược thì đó là cái chết. Nước Nga không phải là một quốc gia giả tạo mà nó đã có một lịch sử từ lâu đời. Thời kỳ còn là Liên Xô, đã có nhiều ý đồ làm thay đổi truyền thống, nhưng vẫn không sao tách nước Nga khỏi những giá trị văn hóa của dân tộc. Nền văn hóa đó, cũng giống như những cây cỏ mọc trên các đại lộ của thành phố, xuyên thủng nhựa đường để tự tồn tại.
Mẹ tôi là một phụ nữ theo Đạo Chúa, mặc dù đi tham dự Thánh Lễ tại Nhà Thờ không phải là không gặp nguy hiểm trong thời Liên Xô trước đây. Mẹ tôi đã bí mật làm nghi lễ Thánh tẩy cho tôi tại Nhà Thờ. Vậy tại sao các ông lai có vẻ ngạc nhiên khi tôi cầm Thánh Giá đến cầu nguyện tại Mồ Thánh Chúa Giêsu?
Tổng Thống Putin quả là một chứng nhân anh dũng. Ông đã công khai tuyên xưng Niềm Tin, xưng mình là người theo Đạo Chúa, sống Đạo Chúa. Ông đã tuyên bố trước báo chí: "Tôi tự hào là Tín Hữu... Niềm Tin của tôi làm cho tôi thêm tinh thần và sự bình an trong tâm hồn!"
I. CẦN PHẢI CANH TÂN TRÁI ĐẤT
Hôm nay, chúng ta cùng với Giáo Hội hoàn vũ, long trọng mừng Lễ Chúa Thánh Linh hiện xuống, chúng ta thành tâm dâng lên Chúa lời nguyện cầu tha thiết: "Lậy Chúa, xin sai Thánh Thần Chúa đến và xin canh tân bộ mặt thế giới!"
Thế giới chúng ta đang sống, hiện nay có biết bao tệ đoan xuất hiện khắp đó đây làm lũng đoạn đời sống tâm linh, đầu độc trí lòng con người, khiến con người không còn phân biệt được đâu là phải đâu là trái, đâu là tội đâu là phúc, đâu là chân thật đây là giả trá! Các kẻ thù của Chúa đang vận dụng mọi cách để phá hoại những giá trị luân lý đạo đức, chối bỏ những thực tại của đời sống siêu nhiên, đời sống Đức Tin và hạnh phúc vĩnh cửu của đời sống mai hậu. Họ chủ trương chỉ có những thực tại của đời sống vật chất ở đời này. Vì thế, cần phải tận hưởng tất cả các tiện nghi, những phát minh của khoa học tân tiến, những tiền của giầu sang, để được thoải mái tối đa kẻo uổng phí. Tóm lại, họ mong gạt bỏ Thiên Chúa và Tôn giáo ra ngoài đời sống con người, để đời sống thoải mái dễ chịu, khỏi phải gò bó theo luật lệ. Do đó, họ sống buông thả theo thú tính, khiến con người thời đại mất dần ý thức tội lỗi!
II. SỨ MẠNG TUÂN GIỮ VÀ TRUYỀN BÁ TIN MỪNG
Là con cái Chúa, chúng ta có nghĩa vụ phải nỗ lực chống lại những tấn công của kẻ thù, duy trì những giá trị luân lý, những thuần phong mỹ tục, những nền văn minh Kitô Giáo, những truyền thống lành mạnh phù hợp với giáo huấn của Chúa và Giáo hội. Tuyệt đối trung thành với Đức Tin và tinh thần của Chúa Kitô theo sự hướng dẫn của Đức Thánh Cha, đấng đại diện tối cao của Chúa nơi trần gian. Chính Chúa đã truyền dạy chúng ta: "Nếu các con yêu mến Thầy, hãy vâng giữ lời Thầy truyền dạy. Thầy sẽ nài xin Chúa Cha ban Đấng An Ủi khác đến ở cùng các con muôn đời, tức là Thần Chân Lý mà thế gian không thể nhận được, vì họ không thấy cũng chẳng biết Ngài, còn các con, các con sẽ nhận biết Ngài, vì Ngài sẽ ở cùng các con, lại ngự trong tâm hồn các con nữa" (Jn 14:15-17).
Hơn nữa, ngày lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, trở nên con cái Chúa, mỗi người chúng ta đã lãnh sứ mạng truyền bá Đức Tin, rao giảng danh Chúa và Ơn Cứu Độ của Chúa đến cho mọi người. Trước khi Chúa về trời, lệnh Chúa truyền cho các Tông Đồ và các Tín Hữu thời Giáo Hội sơ khai, cũng là lệnh Chúa cho mỗi người chúng ta qua các thời đại là: "Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu Phép Rửa sẽ được cứu độ, ai không tin sẽ bị luận phạt" (Mc 16:15). Thánh Mathêu còn ghi lại minh bạch hơn nữa lệnh truyền đó: "Thầy được toàn quyền trên trời dưới đất: Vậy, các con hãy đi giảng dạy muôn dân, thanh tẩy họ nhân danh Cha và Con, và Thánh Thần. Hãy dạy họ vâng giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con; và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế!" (Mt 28:19-20).
III. THỰC THI SỨ MẠNG TÔNG ĐỒ BẰNG CÁCH NÀO
Công Đồng Vaticanô II nhấn mạnh đến nghĩa vụ của tất cả chúng ta, là phải trở nên chứng nhân cho Chúa giữa trần gian khi truyền dạy: "Tất cả con cái Giáo Hội phải tích cực ý thức trách nhiệm của mình đối với thế giới, phải hun nóng cho mình thực sự có tinh thần Công Giáo, và phải hy sinh góp sức vào công cuộc rao giảng Tin Mừng. Tuy nhiên, mỗi người phải biết rằng bổn phận đầu tiên và quan trọng nhất đối với việc truyền bá Đức Tin là sống sâu xa đời sống Kitô Hữu" (Ad Gentes # 36). Để đời sống chúng ta thực sự trở nên ánh sáng chiếu soi cho mọi người, để mọi người thấy các việc thiện chúng ta làm mà ngợi khen Chúa là Cha chúng ta ngự trên trời, và chúng ta là môn đệ đích thực của Người như Chúa đã truyền dạy.
Đó là lời rao giảng Tin Mừng cách hùng hồn và hữu hiệu nhất. Chúng ta có thể quả quyết chắc chắn rằng: Không có lời rao giảng nào có hiệu lực hơn bằng chính cuộc sống thánh thiện của người tông đồ, là sống trước chính lời mình rao giảng, như lời tiền nhân thường răn dạy: "Lời nói như gió lung lay, gương bày như tay lôi cuốn".
Tuy nhiên, Công Đồng còn nhấn mạnh hơn nữa đến căn tính của sứ mạng cao cả này khi quả quyết với chúng ta: "Người Giáo Dân có bổn phận và quyền lợi làm tông đồ do chính việc kết hợp với Chúa Kitô là Đầu. Họ được Chúa chỉ định làm việc tông đồ, vì Phép Rửa tháp nhập họ vào Nhiệm Thể Chúa Kitô, Phép Thêm Sức làm cho họ thêm mạnh mẽ nhờ quyền năng Chúa Thánh Linh. Họ được thánh hiến vào chức vụ Tư Tế Vương Giả và Dân Thánh Chúa, hầu trong mọi việc họ dâng những lễ vật thiêng liêng và làm chứng cho Chúa Kitô ở mọi nơi trên hoàn cầu" (Apostilicam Actuositatem # 3).
Người ta kể rằng: Một hôm, có một bác nông dân chở gạo lên thành phố Sài gòn bán. Tới giờ ăn trưa, ông vào tiệm gọi một tô phở. Sau khi cô chiêu đãi viên bưng ra cho ông một tô phở thơm phức, ông nghiêm trang làm dấu Thánh Giá trên mình và cúi đầu, miệng lâm râm cầu nguyện. Một tên cán bộ ngồi bàn bên cạnh, trông thấy cử chỉ đạo đức đó lấy làm bực rọc khó chịu, bèn lên tiếng khà khịa với ông: "Thời buổi xã hội chủ nghĩa này mà còn kinh với kệ, lỗi thời lắm rồi lão già kia ơi!" Ông già nghe thấy lời hỗn xược và xúc phạm đó khiến ông không thể nhịn được, nên đã mạnh dạn lên tiếng: "Chỉ có loài chó loài heo mới không biết cầu nguyện cám ơn Chúa trước khi ăn!"
Ngày nay, chúng ta thấy không thiếu những người không dám xưng mình là Kitô Hữu, không dám hãnh diện biểu lộ niềm tin của mình trước mặt tha nhân, không dám dấu Thánh Giá trước bữa ăn tại tiệm, sợ bạn bè chê cười đàm tiếu. Người ta còn kể: Có những tiệc cưới người Công Giáo được tổ chức rất trọng thể tại tiệm ăn, thế mà cũng không dám mời Linh Mục chủ sự lên trước công chúng, để cầu nguyện xin Chúa chúc lành cho các thực khách và thực phẩm trước khi khai mạc bữa tiệc!
Kết luận
Tổng Thống nước Nga Putin và ông nông dân trong hai mẩu truyện trên đây đã có những hành động tuyên xưng niềm tin của mình thật đáng chúng ta khâm phục và noi theo bắt chước. Khi chế độ Cộng Sản Liên Xô mới sụp đổ, theo sự khôn ngoan, hẳn ông cần phải khéo léo uyển chuyển để khỏi mích lòng những phe đối lập, thế nhưng ông đã can đảm tỏ mình là Kitô Hữu theo Đạo Chúa cách hãnh diện khi tuyên bố trước mặt mọi người: "Tôi tự hào là người Tín Hữu... Niềm Tin của tôi cho tôi thêm tinh thần và sự bình an trong tâm hồn!"
Còn ông nông dân của chúng ta cũng thật đáng mọi người phải cảm phục, mặc dầu lời ông nói có thể xảy đến cho ông những nguy hiểm bởi những kẻ có quyền thế, nhưng ông vốn can đảm nói lên sự thật, chứng tỏ Niềm Tin sâu xa của ông. Đó là một tấm gương sáng đáng chúng ta noi theo bắt chước.
Xin Mẹ Maria là Mẹ của Niềm Tin, ban cho chúng ta được can đảm sống Niềm Tin của chúng ta trong đời sống hằng ngày; nhờ việc tuyên xưng và sống Niềm Tin đó, sẽ thánh hóa chúng ta và giúp chúng ta chu toàn sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa trước mặt mọi người như Chúa đã truyền dạy.
Trong phụng vụ của Giáo hội và trong các việc đạo đức hàng ngày, chúng ta thường nghe nhắc tới Chúa Thánh Thần rất nhiều. Khi làm dấu thánh giá, khi bắt đầu một việc đạo đức, khi cử hành các bí tích, chúng ta thường cầu xin Chúa Thánh Thần. Đặc biệt khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Thêm sức là chúng ta lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Vậy Chúa Thánh Thần có vai trò thế nào trong đời sống Giáo hội và trong cuộc đời của mỗi người chúng ta?
Khi học giáo lý chúng ta biết được Chúa Thánh Thần là Ngôi thứ Ba bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, cùng một bản tính và một quyền năng như Hai Ngôi cực trọng ấy. Điều này chứng tỏ Chúa Thánh Thần đã có từ thuở đời đời. Ngay từ đầu lịch sử nhân loại, Chúa Thánh Thần đã có mặt trong công trình sáng tạo. Sách sáng thế nói "Lúc khởi đầu Thiên Chúa đã sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và Thần Khí của Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước" (St 1,1-2). Như vậy ngay từ giây phút đầu tiên Thánh Thần Thiên Chúa đã có mặt để thực hiện việc sáng tạo nên vũ trụ và con người.
Rồi trong thời Tân ước, cũng chính Thánh Thần đó đã có mặt ngay từ lúc Ngôi Hai nhập thể làm người cho đến ngày Giáo hội được khai sinh. Và Ngài tiếp tục hoạt động trong Giáo hội và trong tâm hồn của mỗi người chúng ta cho đến tận thế.
Nhờ sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, các môn đệ mới hiểu được phần nào về con người và sứ mạng của Chúa Giêsu. Mặc dù đã theo Thầy bao năm, nhưng nhiều lần Phúc Âm ghi lại, các tông đồ đã không hiểu những lời nói và việc làm của Thầy. Chẳng hạn, trước khi bước bước vào cuộc Thương khó, Chúa Giêsu đã 3 lần tiên báo "Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta, họ sẽ giết chết Người nhưng ngày thứ 3 Người sẽ sống lại nhưng các ông không hiểu điều Người muốn nói". Cho nên Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ, tự sức các ông sẽ không thể hiểu nổi nhưng phải đợi "Chúa Thánh Thần mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, sẽ dạy cho các con mọi sự và nhắc nhở cho các con mọi điều Thầy đã nói cho các con" (Ga 14,26).
Trong ngày Lễ Hiện Xuống, các tông đồ đã lãnh nhận sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Sức mạnh ấy đã làm biến đổi toàn bộ cuộc sống các ông. Từ những con người nhát đảm, sợ sệt giờ đây các ông công khai rao giảng về một Đức Giêsu đã bị giết chết và đã sống lại. Từ những con người ít học, không biết ăn nói giờ đây lại nói năng đầy thuyết phục và khôn ngoan. Phêrô, một người ngư phủ, học hành không bao nhiêu vậy mà sau bài giảng đầu tiên của ông lại có hơn 3000 người xin chịu phép rửa. Người ta nghĩ rằng những con người tầm thường đó sẽ không làm nên trò trống gì, vậy mà các ông đã làm thay đổi thế giới. Rồi xuyên suốt hơn 2000 năm qua, Giáo hội Chúa đã trải qua biết bao chống đối bách hại thế nhưng con thuyền Giáo hội vẫn đứng vững. Tất cả đều do và nhờ Chúa Thánh Thần.
Ngày hôm nay Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động mạnh mẽ trong lòng Giáo hội và trong tâm hồn của mỗi người chúng ta. Sở dĩ chúng ta có thể tin Chúa, yêu mến Chúa là nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Thánh Phaolô nói "không ai có thể gọi Đức Giêsu là Chúa mà không do tác động của Thánh Thần". Khi chúng ta phạm tội, Chúa Thánh Thần thúc giục lương tâm để chúng ta hoán cải để trở về với Chúa qua bí tích giải tội. Chính sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, biết bao người đã quảng đại hy sinh cuộc đời mình để phục vụ những người nghèo, những kẻ cô thế cô thân, các bậc cha mẹ chu toàn bổn phận săn sóc và làm gương cho con cái, các bạn trẻ can đảm chống lại những cám dỗ trong cuộc sống. Và nhờ Chúa Thánh Thần chúng ta mới có thể yêu thương và tha thứ cho những người xúc phạm đến mình. Bởi vì hoa trái của Thánh Thần đó là yêu thương, bình an, hiền hoà, quảng đại.
Cuộc sống hôm nay có quá nhiều tác động bởi những bon chen, tranh giành bởi hơn thua, còn mất. Những tác động đó có thể làm cho chúng ta không còn nghe được tiếng Chúa, trở nên vô cảm trước những đau khổ của đồng loại mình. Chúng ta hãy để Chúa Thánh Thần hướng dẫn cuộc đời chúng ta. Bởi Ngài sẽ dạy chúng ta cầu nguyện, Ngài sẽ dạy chúng ta biết sống thế nào cho đẹp lòng Chúa. Và Ngài sẽ phù trợ để chúng ta kiên nhẫn trong lúc đau khổ và vui mừng trong các việc lành phúc đức.
Dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa Thánh Thần đổi mới tâm hồn của mỗi người chúng ta, để chúng ta luôn biết sống theo sự hướng dẫn của Thánh Thần. Biết kêu cầu Chúa Thánh Thần trong mọi công việc, nhờ đó chúng ta can đảm làm chứng cho Chúa phục sinh bằng một cuộc sống đầy hy vọng, yêu thương và phục vụ anh chị em mình.
Cao điểm kết thúc cho mùa mừng lễ Vượt Qua là ngày lễ tạ ơn vì Thiên Chúa đã cho mùa màng tốt tươi. Mừng ngày này cũng để kỷ hiệm ngày Chúa công bố lề luật qua Môsê trên đỉnh núi Sinai. Trở về với Cựu Ước, ta thấy Lễ hiện xuống chính là ngày lễ 50 của Cựu Ước.
Hôm nay, cử hành Lễ Hiện Xuống là ta cũng cử hành cao điểm kết thúc cho mầu nhiệm Phục sinh. Hẳn ta còn nhớ ngày Lễ Hiển Linh đối với ngày Giáng Sinh thế nào thì ngày lễ Hiện Xuống cũng vậy đối với lễ Phục Sinh như vậy.
Trở về với Cựu Ước, ta thấy vài hình ảnh thật mù mờ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Khi Đức Kitô, người Con duy nhất của Thiên Chúa đến và mạc khải, chúng ta mới thấy được cái đặc tính cốt yếu của Thiên Chúa đó là một Thiên Chúa của tình yêu.
Chúa Thánh Thần mà ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính là Ngôi Ba Thiên Chúa cũng là Đấng ban sự sống. Chúa Thánh Thần là kết quả của tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Ngài cũng được phụng thờ và tôn vinh với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con, Ngài đã dùng các tiên tri mà phán dạy.
Thiên Chúa Cha đã tỏ lộ tình yêu của Ngài cho chúng qua chính người con duy nhất của Ngài là Chúa Con. Thánh Gioan đã xác quyết: Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để những ai tin nơi Con Một Ngài thì sẽ có sự sống vĩnh cửu. Ngay từ thuở đời đời, Chúa Cha đã sinh ra Chúa Con và sợi dây liên kệ thắm thiết và đầy yêu thương ấy chính là Chúa Thánh Thần.
Qua thật, Chúa Thánh Thần chính là sợi dây yêu thương nối kết Chúa Cha và Chúa Con, chi phối nhịp điệu của đời sống Ba Ngôi Thiên Chúa, cũng như toả lan cho tất cả chúng ta. Như thế, qua Chúa Thánh Thần chúng ta hiểu được bản chất tình yêu của Thiên Chúa. Đồng thời Chúa Thánh Thần cũng đã trực tiếp cộng tác vào công trình cứu độ, một công trình của tình thương yêu mà Thiên Chúa đã ươm mơ từ muôn thuở trước.
Đức Kitô vâng theo thánh ý của Chúa Cha và với sự cộng tác của Chúa Thánh Thần đã chết đi để đem lại sự sống cho trần gian. Kể từ khi được diễm phúc làm con cái Thiên Chúa, chúng ta đã được Ngài yêu thương như lời thánh Phaolô đã xác quyết: Nhờ Chúa Thánh Thần mà tình yêu Thiên Chúa được toả lan trong tâm hồn chúng ta. Chính vì lẽ đó, tất cả những tình yêu trong lành nhất của chúng ta đều là một tia sáng, một phản ánh trung thực cho tình yêu của Thiên Chúa. Bởi vì Thiên Chúa là tình yêu và chúng ta chỉ có thể yêu thương một cách đúng nghĩa khi liên kết với Ngài.
Qua bài trích sách Công Vụ Tông Đồ, ta lại thấy Đức Chúa Thánh Thần là Đấng đổi mới.
Ngài đã đổi mới lòng trí các Tông đồ. Các Tông đồ là những người làm nghề chài lưới, ít học hay còn nữa là quê mùa.
Ròng rã 3 năm dài ở bên cạnh Chúa Giêsu, các ngài đã được Chúa dạy rất nhiều điều nhưng rồi các ngài không hiểu. Thế nhưng, có điều lạ là sau khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, trí hiểu của các ngài như được mở ra. Không những các ngài hiểu biết về Chúa, hiểu biết giáo lý của Chúa, mà còn có thể đi giảng dạy cho người khác nữa. Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến những con người thất học nên hiểu biết. Ngài đã đổi những tâm trí u mê thành sáng suốt.
Thánh Thần là Đấng tiếp tục công trình của Đức Giêsu trong thế giới và Giáo Hội. Ngài luôn luôn thúc đẩy sự đổi mới trong Giáo Hội, để Giáo Hội ảnh hưởng tốt đến thế giới. Nhưng để được làm điều ấy, Thánh Thần luôn luôn phải hoạt động trong mỗi cá nhân. Cá nhân có thay đổi thì Giáo Hội mới thay đổi, cá nhân có nên thánh thì Giáo Hội mới thánh thiện. Tất cả mọi đều bắt đầu từ những cá nhân, và lan truyền từ cá nhân này sang cá nhân khác.
Kế hoạch của Thiên Chúa để xây dựng Nước Trời là chiến lược “men trong bột” (Mt 13, 33), “muối ướp đời” (Mt 5, 13) hay “đèn sáng cho trần gian” (Mt 5, 14).
Men là một chất có hoạt tính, có khả năng biến đổi chất bột tiếp xúc với mình trở nên giống như mình. Mất hoạt tính này, men không còn là men nữa, nó trở thành một thứ bột vô dụng. Muối hay đèn cũng có hoạt tính tương tự. Một hình ảnh khác là lửa, nhưng lửa có tác dụng lan truyền mạnh mẽ và nhanh chóng. Chính vì thế, Thánh Thần khi hiện xuống trên các tông đồ đã lấy hình lưỡi lửa làm biểu trưng cho mình.
Ngài đã đổi mới tâm trí các Tông đồ. Các Tông đồ sống trong sợ hãi từ khi Chúa Giêsu bị bắt và bị kết án. Các ngài đã trốn chạy và có ngài còn chối Chúa. Các ngài đã ẩn nấp trong nhà đóng kín cửa vì sợ người Do Thái. Thế nhưng từ khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, con người các ngài hoàn toàn thay đổi. Các ngài mở tung cửa ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người.
Dẫu rằng mạng sống bị đe doạ nhưng các ngài vẫn không sợ. Bị đánh đòn, các ngài vẫn kiên cường. Không gì có thể ngăn cản các ngài rao giảng, làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh. Sau cùng tất cả các ngài đã chịu đổ máu, hiến mạng sống mình để làm chứng cho Chúa, ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến những con người yếu đuối nên vững mạnh. Ngài đã biến những con người nhút nhát nên can đảm.
Chúa Thánh Thần đã đổi mới con tim các Tông đồ. Trước kia các ngài còn mang nặng những ước mơ trần tục. Theo Chúa để mong được chức trọng quyền cao. Mong được ngồi bên tả bên hữu Chúa. Tranh dành nhau chỗ cao chỗ thấp. Có thể nói, trước kia các ngài theo Chúa vì bản thân, vì chính các ngài. Các ngài chưa yêu mến Chúa bằng yêu mến bản thân. Nhưng từ khi được ơn Chúa Thánh Thần, trái tim của các ngài đã hoàn toàn thay đổi. Từ nay các ngài dành trọn trái tim cho Chúa, yêu mến đến sẵn sàng chịu mọi đau khổ, và nhất là sẵn sàng chết vì Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Đã biến đổi những trái tim chai đá thành những tái tim bằng thịt. Đã biến đổi những trái tim ích kỷ thành trái tim yêu thương.
Khi nói về Chúa Thánh Thần, ta thường nghĩ đến bảy ơn Người ban qua bí tích Thêm Sức. Ta như người lãnh nhận một cách thụ động. Và những ơn Người ban chẳng ảnh hưởng gì đến đời sống ta. Đó thực là một quan niệm sai lầm tai hại. Thực ra, Đức Chúa Thánh Thần là nguồn sự sống mãnh liệt, là sự trẻ trung của Giáo Hội, là năng lực đổi mới thế giới. Hãy đọc lại bài đọc I, ta sẽ thấy sức mạnh đổi mới của Người mãnh liệt như thế nào. Người như luồng gió cường tráng. Người như ngọn lửa bừng bừng. Luồng gió và ngọn lửa ấy đã khơi dậy nguồn năng lực tiềm ẩn nơi những bác thuyền chài thất học, biến họ thành những con người thay đổi thế giới. Nhận lãnh ơn Đức Chúa Thánh Thần là nhận lãnh sứ mạng hành động. Trong ngày lễ Hiện Xuống, Giáo Hội mừng kính Chúa Thánh Thần, Giáo Hội mừng kính tình yêu của Thiên Chúa, được tượng trưng qua hình lưỡi lửa trên đầu các tông đồ. Giáo Hội cũng muốn chúng ta thành khẩn kêu xin: Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến, xin hãy ngập tràn tâm hồn các tín hữu Chúa và xin thắp lên trong chúng con ngọn lửa tình yêu Chúa. Ngài không phải là một vị Thiên Chúa vô danh và bị quên lãng. Trái lại Ngài luôn ở giữa chúng ta và hoạt động.
Hàng năm, Giáo Hội cử hành Lễ Hiện xuống không phải là để nhớ một ký ức, nhớ một kỷ niệm trống rỗng nhưng để nhắc nhớ ta rằng đây là một ngày lễ đổi mới chúng ta trong quyền năng và hoạt động của Thánh Thần. Và rồi, lòng ta có mở ra để đón nhận Ngài hay không ? Những gì Chúa Thánh Thần đã làm nơi các tông đồ xưa kia, bây giờ Ngài cũng thực hiện nơi chúng ta.
Chúa Thánh Thần đem lại đức tin và tình yêu. Chính đức tin và tình yêu sẽ tạo nên nơi chúng ta một cái nhìn mới.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy cộng tác với Ngài bằng cách thắp lên một ngọn lửa yêu thương, bởi vì chỉ có tình yêu mới có thể làm tiêu tan thù hận, thất vọng và tăm tối.
Qua bài Tin mừng chúng ta vừa nghe, thánh Gioan tông đồ tường thuật lại việc Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ và sai các ông đi loan báo Tin Mừng Phục sinh cho muôn dân. Để các ông đủ khả năng để thi hành sứ vụ, thì liền sau đó, Chúa Giêsu đã trao ban Chúa Thánh Thần cho các tông đồ.
Hôm nay là lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, với Lời Chúa chúng ta vừa nghe, nói cho chúng ta biết hai bài học quan trọng về Chúa Thánh Thần: Bài học thứ nhất: Làm cách nào để có được Chúa Thánh Thần hiện diện trong cuộc đời của mình? Bài học thứ hai: Khi đã có Chúa Thánh Thần hiện diện trong đời mình, chúng ta phải làm gì?
1. Bài học thứ nhất: Phải làm gì để được Chúa Thánh Thần hiện diện trong cuộc đời của mình?
Chúng ta vừa nghe bài Phúc âm. Xin được hỏi, trong khi các môn đệ họp với nhau ở phòng tiệc ly, với tâm trạng sợ hãi, thì bất ngờ điều già xảy ra? (Chúa Giêsu hiện ra) Khi Chúa Giêsu hiện đến, Ngài ban bình an cho các môn đệ, ngài sai các ông đi rao giảng, và Ngài còn làm một điều quan trọng nữa là gì? (Ban Chúa Thánh Thần cho các ông). Như vậy, đến đây chúng ta hiểu rằng để có được Chúa Thánh Thần thì cuộc đời chúng ta phải có Chúa Giêsu, Chúa Giêsu là Đấng giới thiệu Chúa Thánh Thần cho chúng ta. Vậy để có Chúa Thánh Thần trong cuộc đời, chúng ta phải năng rước Chúa Giêsu vào lòng. Những ai chưa rước lễ hoặc những người gặp khó khăn trong đời sống đạo không thể rước Chúa được thì năng cầu nguyện với Chúa Giêsu mỗi ngày. Ngoài ra, để có Chúa Thánh Thần trong đời, chúng ta hãy tập thói quen sau khi ngủ một đêm, vừa thức dậy là đọc kinh sáng, dâng một ngày sống cho Chúa Thánh Thần. Bên cạnh đó, bất kỳ làm một điều gì đó cũng đều cầu nguyện với Chúa Thánh Thần để Ngài hướng dẫn. (Tóm lại cách để có Chúa Thánh Thần trong cuộc đời mình: 3 việc)
2. Bài học thứ hai: Khi đã có Chúa Thánh Thần hiện diện trong đời mình, các em phải làm gì?
Chúng ta hãy nhớ lại xem, khi thiên thần đến truyền tin cho Đức Mẹ thì nói rằng: Thánh Thần sẽ rọp bóng trên bà. Đức Mẹ được tràn đầy Chúa Thánh Thần sau khi nhận lời Thiên thần truyền tin. Sau đó, mẹ làm một việc bác ái được ghi trong Phúc âm là đi viếng thăm giúp đỡ bà chị họ là bà Isave. Còn Chúa Giêsu, khi chịu phép rửa, Chúa Thánh Thần với hình chim Bồ câu đậu xuống trên người. Được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, Chúa Giêsu làm nhiều việc bác ái cho mọi người: chữa bệnh, tha tội, cho người chết sống lại, và cao điểm là chết trên Thánh giá chuộc tội nhân loại. Trong bài Tin Mừng hôm nay, các tông đồ được sai đi rao giảng Tin Mừng, rao giảng tình thương cứu chuộc của Chúa cho mọi người. Liền sau đó, Chúa Giêsu trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ để đi thực hiện sứ vụ tình thương.
Đến đây, chúng ta hiểu rõ rằng, có Chúa Thánh Thần hiện diện trong đời, thì điều Ngài hướng dẫn chúng ta là yêu thương người khác. Việc yêu thương đối với chúng ta không phải là gặp người đi xin ngoài đường cho họ vài trăm ngàn. Mà đối với các em, bác ái là là hiếu thảo, vâng lời cha mẹ, giúp đỡ cha mẹ những công việc nhỏ nhặt trong nhà như quét nhà, rửa chén, nấu cơm, lau bà; bác ái là biết nhường nhịn, không dành ăn, không dành chơi với em út mình; bác ái là vô lớp giáo lý không chơi để cho các bạn khác học; bác ái là ra đường gặp người lớn, gặp thầy cô biết chào hỏi;... bác ái là biết quan tâm giúp đỡ bạn bè cùng trường, cùng lớp với mình.
Chúng ta biết, giới răn trọng nhất của người Kitô hữu là sống yêu thương mà Chúa Thánh Thần là Đấng xuất phát từ tình yêu Chúa Cha và Chúa con mà ra. Do vậy, sống giới luật yêu thương trong đời sống đạo thì không thể thiếu Chúa Thánh Thần. Từ nay, xin mọi người hãy cố gắng cầu nguyện nhiều với Chúa Thánh Thần để luôn có Ngài hiện diện trong cuộc đời mình. Ngài sẽ giúp chúng ta hoàn thành tốt bổn phận yêu thương trong đời sống đạo để mai này được về Thiên đàng hưởng phúc với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Chúng ta đang sống trong một thế giới phát triển nhanh chóng về mọi mặt. Nhiều phương tiện hiện đại được phát minh hầu phục vụ cho sự sống con người. Nhiều căn bệnh hiểm nghèo ngày nay đã được chữa khỏi so với thời gian trước đây phải đành chịu. Cũng thế, ngày nay con người ngày càng ý thức hơn về quyền và phẩm giá của nhau.
Dầu vậy, con người ta dường như vẫn chưa thật sự cảm thấy bình an. Bởi lẽ, sự sống của con người vẫn còn là một cái gì đó hẩm hiu. Ngay cả nhiều người hầu như có tất cả những gì của thế gian này nhưng vẫn cảm thấy bất an. Phải chăng lòng họ chưa được Chúa Thánh Thần ngự trị.
Ðoạn Tin mừng được suy niệm lễ hôm nay nằm trong bối cảnh sau khi Chúa Giêsu sống lại. Người đã hiện ra cùng các Tông đồ đang khi các ông trốn trong căn phòng đóng kín cửa vì sợ người Do thái. Hiểu được tâm trạng lo sợ của các ông nên Chúa Giêsu Phục Sinh đã ban cho các ông chính Chúa Thánh Thần với quyền được tha tội cho người khác: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ." (Ga 20, 22b - 23)
Từ khi được đón nhận Chúa Thánh Thần, các Tông đồ đã được biến đổi cách lạ thường. Những con người nhút nhát bấy giờ không còn nữa. Thay vào đó là những con người can đảm và gan dạ lạ thường.
Các Tông đồ đã biết tin và làm theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần nên dù gặp khó khăn thử thách nhưng các ông luôn luôn cảm thấy bình an. Người kitô hữu chúng ta cũng đã được lãnh nhận Chúa Thánh Thần ngày chịu phép Rửa tội và cách đặc biệt hơn ngày lãnh nhận Bí tích Thêm sức. Nhân ngày lễ hôm nay chúng ta hãy nhìn lại xem chúng ta có luôn cảm thấy được bình an thật sự không.
Tiếng nói của Chúa Thánh Thần chắc chắn đã và đang vang lên trong tâm hồn của chúng ta giúp chúng ta biết đâu là điều cần phải làm, đâu là điều cần phải giữ và đâu là điều cần phải tránh. Những điều ấy chúng ta soi sáng để giúp chúng ta sống trọn ơn gọi làm người và làm con Chúa ở trần gian này. Khi chúng ta biết lắng nghe và làm theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần chắc chắn chúng ta sẽ có được sự bình an đích thật trong tâm hồn.
Bốn mươi ngày sau Đại lễ Phục Sinh, Giáo hội long trọng cử hành mầu nhiệm cao cả Chúa về Trời, tiếp đến là cầu nguyện thiết tha: "Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến".
Lời cầu nguyện trên được Giáo hội tha thiết dâng lên Thiên Chúa Cha cùng với Chúa Giêsu để Người đoái thương đổ tràn Thánh Thần xuống trên Giáo hội và trên mỗi người chúng ta.
Đúng 10 ngày sau khi Chúa về Trời, chúng ta cử hành lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống với niềm vui khôn tả, Ngài là Đấng mà Đức Giêsu đã hứa với chúng ta (x. Ga 16, 7). Ngài "hiện diện" trong lịch sử Giáo hội, và hành động không biết mệt mỏi.
Hồi tưởng lại thời điểm "sau khi Chúa Giêsu lên trời, Các Tông đồ xuống khỏi núi … trở về Giêrusalem… các ông lên lầu gác… Mọi người đều đồng tâm kiên trì cầu nguyện, cùng với mấy người phụ nữ, và Bà Maria mẹ Chúa Giêsu, kiên trì cầu nguyện” (x. Cv 1, 12-14). Chuyện gì đã xãy ra khi họ đang cầu nguyện với nhau vậy? Chính lúc "tất cả các môn đệ đều tề tựu một nơi, bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp. Lại có những lưỡi như thể bằng lửa xuất hiện và rải rác đậu trên từng người. Hết thảy mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác nhau tùy theo Thánh Thần ban cho họ nói" (Cv 2, 4).
Ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đã ngự xuống cách uy phong trên các Tông đồ; sứ mạng của Giáo Hội được khai sinh từ đó. Chính Chúa Giêsu đã truyền cho các Tông đồ ở lại chung với nhau trong kinh nguyện cùng với Mẹ Maria trong Phòng Tiệc Ly, để chuẩn bị lãnh nhận hồng ân Chúa Thánh Thần (x. CV 1,14). Họ đã làm như Chúa Giêsu truyền, và hết thảy được đầy Chúa Thánh Thần (x. Cv 2, 4).
Gioan Taulê (1300-1361), tu sĩ dòng Daminh ở Strasbour nói: "Nơi" mà sách Tông đồ Công vụ nói ở đây tượng trưng trước hết cho Hội Thánh, nơi Thiên Chúa ngự, nhưng cũng là biểu tượng của mỗi người chúng ta là đền thờ Chúa Thánh Thần ngự trị. Một ngôi nhà có nhiều tầng, nhiều phòng, nhiều công dụng, cũng như nơi con người có những khả năng, giác quan và nghị lực khác nhau, Chúa Thánh Thần viếng thăm tất cả cách đặc biệt. Khi Chúa Thánh Thần đến, Ngài nhào nặn, cổ vũ và gợi ý nơi con người một số khuynh hướng tốt, Ngài tác động và soi sáng họ. Cuộc viếng thăm và tác động nội tâm này, hết thảy mọi người đều được ơn không ai giống ai. Mặc dù Chúa Thánh Thần là Đấng duy nhất hoạt động nơi con người. (Trích bài giảng số 26, 2 ngày lễ Ngũ Tuần)
Phải khẳng định rằng "Chúa Thánh Thần đến vì chúng ta. Ngài không chỉ đến "để ở với Giáo hội luôn mãi" (Ga 14, 16). Như lời Chúa Giêsu hứa: "Để Người ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế".
Ngày hiện xuống, Chúa Thánh Thần còn đổ tràn đầy ân sủng và ơn đoàn sủng xuống trên Giáo hội thật phong phú dồi dào! Ðức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI nói: Đây là mầu nhiệm của Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống: Chúa Thánh Thần soi sáng tâm trí con người, và qua việc soi sáng cho họ biết về Chúa Kitô chịu đóng đinh, chết và đã sống lại, Chúa Thánh Thần chỉ cho biết con đường để trở nên giống Chúa hơn, nghĩa là trở nên "sự biểu lộ và phương thế" của tình yêu, một tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa (x. Deus Caritas Est, số 33).
Khi nói đến tác động của Chúa Thánh Thần trên người rao giảng Tin Mừng, Đức Phanxicô viết: "Những người rao giảng Tin Mừng đầy Thánh Thần có nghĩa là những nhà truyền giáo mở lòng ra với tác động của Chúa Thánh Thần mà không sợ hãi. Trong Ngày Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đã làm cho các Tông Ðồ ra khỏi chính mình và biến các ngài thành những người loan báo những việc cao cả của Thiên Chúa, mà mỗi thính giả bắt đầu hiểu theo ngôn ngữ riêng của mình. Chúa Thánh Thần cũng đổ vào chúng ta sức mạnh để loan báo sự mới mẻ của Tin Mừng với sự mạnh bạo lớn tiếng, ở mọi nơi và mọi lúc, ngay cả những lúc phải lội ngược dòng. Chúng ta hãy cầu khẩn Ngài hôm nay, để được thiết lập một cách vững chắc trên cầu nguyện, vì nếu không có cầu nguyện thì mọi hoạt động có nguy cơ trở thành trống rỗng và rốt cuộc lời rao giảng cũng trở nên không có hồn. Chúa Giêsu muốn chúng ta trở thành những nhà truyền giáo loan báo Tin Mừng không chỉ bằng lời nói, nhưng trên hết, bằng một cuộc sống được sự hiện diện của Thiên Chúa biến đổi". (Trích Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, số 259)
Đức Phanxicô còn nhấn mạnh: Chúa Thánh Thần là linh hồn của việc truyền giáo " Khi chúng ta nói rằng một điều gì có một "tinh thần", thì thường ám chỉ một số động lực bên trong tạo ra một sự thúc đẩy, động cơ, khích lệ cùng làm cho các hành động cá nhân và cộng đồng có ý nghĩa. Một việc truyền giáo đầy Thánh Thần khác xa với một mớ những công tác bị coi như những nhiệm vụ nặng nề mà chúng ta chỉ đơn thuần phải làm, hoặc việc gì bị coi như mâu thuẫn với những xu hướng và ước muốn của chúng ta. Tôi rất ước ao tìm được những lời để cổ võ một mùa rao giảng Tin Mừng nhiệt thành, vui mừng, quảng đại, táo bạo, tràn đầy tình yêu cho đến cùng và một đời sống truyền cảm! Nhưng tôi biết rằng không có động lực nào có thể đủ nếu không có ngọn lửa của Chúa Thánh Thần đốt cháy trong lòng chúng ta. Cuối cùng, truyền giáo với tinh thần là truyền giáo với Chúa Thánh Thần, vì Ngài là linh hồn của việc truyền giáo của Hội Thánh". (Trích Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, số 261)
Cùng với Mẹ Maria và toàn thể các thánh trên Trời, chúng ta cùng cầu nguyện như sau: "Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến! Xin Ngài đến canh tân, lay động và thúc đẩy Hội Thánh mạnh dạn ra khỏi chính mình để rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc. Xin Ngài đến đổ tràn xuống tâm hồn các tín hữu, và đốt lên trong họ ngọn lửa Tình Yêu Chúa trong lòng họ!" Amen.
Trong suốt tuần chín ngày, chúng ta đã cầu xin tha thiết: Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến; lạy Đấng an ủi tuyệt vời, xin ngự đến.
Giáo hội xin Chúa Thánh Thần đến để làm gì? Thưa, Chúa Thánh Thần đến để rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, và chữa cho lành nơi thương tích. Uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng, chỉnh đốn lại chỗ trật đường… (Ca tiếp liên).
Hôm nay ngày lễ Ngũ Tuần, ngày mà lời Chúa Giêsu hứa với các tông đồ được hoàn tất. "Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Dothái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông… thổi hơi trên các ông và nói: "Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần" (Ga 20,22). Chúa Thánh Thần đã xuống trên các ông và ban đầy đủ các ơn cùng với các sự kiện bên ngoài.
Vì thế, chúng ta cử hành lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống với niềm vui khôn tả. Vui, vì có Chúa Thánh Thần, Giáo hội không bị mồ côi, có Chúa Thánh Thần, Giáo hội sẽ lĩnh hội được tất cả những gì Chúa Giêsu muốn, Chúa Thánh Thần là sức mạnh vô biên, là suối bẩy nguồn.
Giáo hội được Chúa Giêsu sai đến với mọi dân mọi nước và sẽ tiếp tục nói các thứ tiếng cho đến muôn đời, giao tiếp với hết mọi dân tộc trên toàn thế giới, và con người ở mọi nơi mọi thời sẽ còn tiếp tục sửng sốt và bỡ ngỡ, (x. Cv 2, 6), vì những người rao giảng Tin Mừng luôn đầy Thánh Thần. Khắp mọi nơi, người ta sẽ nghe thấy Giáo hội diễn tả cùng một Đức tin trong ngôn ngữ của chính dân tộc ấy (x. Cv 2, 6). Thế nên, phép lạ ngày lễ Ngũ Tuần, chứng tỏ Chúa Thánh Thần luôn đồng hành với Giáo hội để tiếp tục làm nhiệm vụ canh tân mặt đấy đổi mới lòng trí con người và đổi mới lòng trí con người hôm nay. "Thánh Thần Chúa tràn ngâp địa cầu, liên kết hết mọi người, thông thạo mọi ngôn ngữ. Hallêluia." Lời ca nhập lễ chứng tỏ Chúa Thánh Thần đã "nhập thể" trong Hội Thánh.
Điều gì đã xảy ra trong ngày xa xưa ấy, lúc các Tông Ðồ đang tụ họp với nhau ở tầng trên của phòng Tiệc Ly vậy?
Thưa: dấu hiệu đầu tiên là " Tiếng động từ trời phát ra tựa như gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp" (x. Cv 2,1). Tiếng động bất thình lình phát ra và các lưỡi lửa chia ra đậu trên đầu từng Tông Ðồ là các dấu chỉ cụ thể đụng chạm tới các Tông Ðồ, không chỉ bề ngoài, nhưng cả trong nội tâm; trong tâm trí nữa. Kết quả là "tất cả đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác nhau tuỳ theo Thánh Thần ban cho họ nói" (Cv 2, 4).
Ngọn lửa đó là ngọn lửa tình thương đốt cháy mọi cứng cỏi; ngôn ngữ đó là thứ ngôn ngữ mới, ngôn ngữ đại đồng của tình thương mà Chúa Thánh Thần đổ vào lòng các tín hữu (x. Rm 5,5); một ngôn ngữ mà tất cả mọi người đều hiểu, và khi tiếp nhận có thể được diễn tả ra trong mọi cuộc sống và mọi nền văn hóa. Ngôn ngữ ấy là thứ ngôn ngữ của Tin Mừng vượt qua mọi ranh giới do con người đặt ra và đánh động tâm hồn nhiều người, không phân biệt ngôn ngữ, chủng tộc, màu da, tiếng nói hay quốc tịch.
Trong một Thánh Thần, tất cả được chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thẻ. Vì khi Chúa Thánh Thần đến, Ngài nhào nặn, cổ vũ và khơi dậy nơi con người một số khuynh hướng tốt, Ngài tác động và soi sáng họ. Cuộc viếng thăm và tác động nội tâm này, hết thảy mọi người đều được ơn tùy theo lợi ích không ai giống ai. Có một Thánh Thần duy nhất hoạt động trong Hội Thánh, nên có nhiều chức vụ, công việc, những chỉ có một Thánh Thần điều khiển và hướng dẫn thể (x. 1 Cr 12, 3-7. 12-13).
Chúa Thánh Thần ở nơi những con người có lòng ngay thật, cũng như bất cứ ai muốn trở nên dễ uốn nắn bởi Chúa Thánh Thần trong hòa bình và trật tự. Người nào càng nhiệt tâm đón nhận, người ấy càng hiểu biết hơn về sự thể hiện nội tâm này và ngày càng gia tăng ơn của Chúa Thánh Thần, Đấng đã được ban cho con người ngay từ ban đầu.
Chúa Thánh Thần là Thần Chân Lý và tình thương nhắc nhớ chúng ta về tất cả những gì Chúa Kitô đã nói. Ngài dạy dỗ chúng ta và làm cho chúng ta nói với Thiên Chúa, gọi Chúa là Cha, là Abba (Xc Rm 8,15; Gl 4,4); đồng thời làm cho chúng ta đối thoại với nhau trong tình huynh đệ và ngôn sứ.
Chúa Thánh Thần là sức mạnh vô biên đã biển đổi các môn đệ từ những con người nhát đảm sợ sệt trở nên những nhà truyền giáo can đảm phi thường không sợ tù đày, tra tấn và cái chết, vì sức mạnh của Chúa Thánh Thần ở cùng họ. Có Chúa Thánh Thần, sự khép kín nhường chỗ cho sự loan báo và mọi nghi ngờ bị xua tan bằng niềm tin đầy tình thương mến. Bằng chứng là ngày lễ Ngũ Tuần, thánh Phêrô được tràn đầy Thánh Thần, đứng lên "cùng với mười một tông đồ ... lớn tiếng" (Cv 2,14) và "thẳng thắn" (Cv 2, 29) loan báo tin vui của Chúa Giêsu, là Ðấng đã hiến mạng sống mình để cứu độ chúng ta và Thiên Chúa đã cho sống lại từ các kẻ chết.
Ngài là suối bẩy nguồn .Với vẻ bề ngoài, xem ra Chúa Thánh Thần tạo ra sự mất trật tự trong Giáo hội, bởi vì Ngài mang đến sự khác biệt các đặc sủng, các ơn; nhưng dưới hoạt động của Chúa Thánh Thần là Thần Khí của hiệp nhất đã dẫn đưa tất cả tới sự hài hòa. Vì Chúa Thánh Thần "chính là sự hài hòa".
Không có sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần, Giáo hội sẽ không thể sống và thực hiện nhiệm vụ mà Chúa Giêsu phục sinh đã giao phó, là ra đi và làm cho tất cả mọi dân tộc trở thành môn đệ.
Chúng ta hãy xin cùng Chúa Cha, nhờ qua Chúa Giêsu Kitô, trong ân sủng của Chúa Thánh Thần, ngõ hầu việc cử hành Lễ Trọng Kính Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, được trở nên như ngọn lửa sốt mến và như luồng gió mạnh cho đời sống kitô hữu và cho sứ mạng của toàn thể Giáo Hội. Amen.
Khi nhắc đến Chúa Thánh Thần, chúng ta thường nghĩ đến Bí tích Thêm sức. Vậy khi lãnh nhận Bí tích Thêm Sức chúng ta được những ơn nghĩa nào? Hay nói cách khác, sau khi lãnh nhận ấn tín Chúa Thánh Thần, chúng ta được mời gọi sống như thế nào?
Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo dạy rằng: “… Việc tuôn tràn Thánh Thần giúp chúng ta tiến sâu hơn vào ơn làm con cái Thiên Chúa, kết hợp chúng ta chặt chẽ hơn với Ðức Kitô và với Hội thánh của Người. Bí tích này củng cố trong tâm hồn chúng ta các hồng ân của Chúa Thánh Thần và trao ban cho chúng ta một sức mạnh đặc biệt để làm chứng cho đức tin Kitô giáo."
Tin Mừng Chúa nhật Hiện xuống hôm nay thuật lại: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20, 21-22).
Sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các môn đệ được đầy bình an, lòng tràn ngập hân hoan, các ông không còn run sợ, nhút nhát. Với sức mạnh của Thánh Thần, các ông mạnh dạn tung cửa ra ngoài, hiên ngang rao giảng về Đức Giêsu. Các ông đã tuyên xưng về Đức Kitô - Đấng đã bị người đời đóng đinh, giết chết nhưng đã sống lại.
Nhìn lại hành trình Đức tin của mỗi người, từ lúc lãnh nhận Bí tích Thêm sức, khi mà Thánh Thần ngự xuống mỗi chúng ta trong giây phút linh thiêng đó, chúng ta đã sống phẩm giá người Kitô hữu, đã làm chứng cho Đức Kitô như thế nào?
Chúng ta có dám tuyên xưng Đức tin của mình trước những người anh em? Và chúng ta có sống Đức tin đó một thật sự giữa đời thường để làm chứng cho Đức Kitô?
Lễ Hiện xuống một lần nữa nhắc nhở mỗi người tín hữu về một Thánh Thần Tình Yêu - Đấng đã và đang hoạt động trong mỗi chúng ta và trong Hội Thánh. Nhớ lại Bí tích Thêm sức mà chúng ta lãnh nhận, để ý thức lại thân phận Kitô hữu của mình trong hành trình Đức tin giữa dòng đời lắm thăng trầm hôm nay.
Thật không dễ để có thể trở thành những chứng nhân Tin Mừng giữa một cuộc sống đầy thử thách. Sẽ khó thực thi Lời Chúa cách triệt để giữa một xã hội đang đi ngược lại những giá trị đạo đức và luân lý. Sẽ gian nan để chiến đấu chống lại những đam mê giữa một thế giới luôn bị nhiều cám dỗ rình rập và mời mọc.
Tuy nhiên, với sức mạnh của Thần Khí, chúng ta vẫn có thể làm chứng cho Đức tin của mình bằng những bổn phận nhỏ bé nơi cuộc sống thường ngày.
Chúng ta hãy mở tâm hồn mình để Ngọn lửa Thánh Thần được ngự trị. Với sức mạnh đó ta không còn nhát sợ nhưng can đảm chiến đấu với thử thách, khổ đau của dòng đời. Luôn biết trông cậy vào Chúa và vượt thắng những khó khăn. Luôn biết tôn trọng và gìn giữ những giá trị luân lý, đạo đức của con người trong mọi hoàn cảnh.
Chúng ta hãy từ bỏ cái tôi ích kỷ và thờ ơ của mình để Thần Khí dẫn dắt chúng ta đến với người nghèo khổ, bất hạnh, những mảnh đời bị bỏ rơi, để tận tình yêu thương, giúp đỡ và kính trọng họ cho xứng với phẩm giá con người.
Chúng ta hãy trải lòng mình ra để nguồn ơn Thánh Thần thanh tẩy và biến đổi chúng ta trở thành những con người mới, thúc đẩy chúng ta sống môt đời sống yêu thương, hy sinh và phục vụ. Ngang qua đó mọi người nhìn nhận được Đức Kitô đang hiện hữu nơi mỗi người chúng ta.
Nếu mỗi chúng ta biết đón nhận Ngọn lửa Thánh Thần để canh tân, nếu mỗi chúng ta biết lắng đọng tâm hồn để vâng theo sự dìu dắt của Thần Khí, thì mỗi người sẽ trở nên những chứng nhân Tin Mừng đích thực và ánh sáng của Đức Kitô sẽ được lan tỏa đến những góc tối tăm của thế giới.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài hãy đến như ngọn gió mát, thổi vào cuộc đời chúng con luồng sinh khí mới, đốt nóng lên ngọn nến Đức tin để cả địa cầu này được “thay da đổi thịt” trong cùng một Thánh Thần Tình Yêu.
Thánh Gioan Tông đồ đã nói: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4, 16). Thật vậy, từ lòng dạ thương xót của Thiên Chúa, Người yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Người cho nhân loại. Đến lượt Đức Giêsu, qua việc nhập thể và nhập thế, cũng như những lời rao giảng và hành động của Ngài, Ngài đã mặc khải và diễn tả xuất sắc lòng thương xót của Thiên Chúa cho con người. Đường thương xót đó không dừng lại cũng như kết thúc qua việc Đức Giêsu về trời, mà còn tiếp diễn và tồn tại muôn đời. Bởi lẽ, Đức Giêsu đã chuyển trao lòng thương xót ấy nơi Chúa Thánh Thần.
Vì thế, Chúa Thánh Thần chính là quà tặng của lòng thương xót mà Thiên Chúa trao ban cho con người. Nên từ ngày Người hiện xuống, lòng thương thương xót của Thiên Chúa như dòng sông không ngừng chảy đến với mọi người qua các chứng nhân dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
1. Chúa Thánh Thần công khai hóa Giáo Hội bằng lòng xót thương
Khi lần dở các trang Tin Mừng, chúng ta thấy trong suốt hành trình tại thế của Đức Giêsu, Ngài đã ấp ủ, cưu mang công cuộc thiết lập Giáo Hội qua việc dạy dỗ, hướng dẫn các Tông đồ cũng như dân chúng đi trong đường lối thương xót của Thiên Chúa để được cứu độ. Tuy nhiên, con đường đó đã trở nên xa lạ đối với các ông và dân chúng khi họ không hiểu được tâm tư của Thầy Giêsu, bởi vì mục đích của họ không nằm trong chương trình và kế hoạch của Thiên Chúa, mà luôn bám vào những suy tính của trần gian.
Nhưng, đến ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần chính thức công khai hóa Giáo Hội qua ơn ban bình an và lửa mến tràn ngập nơi tâm hồn các Tông đồ, qua đó, các ông đã được biến đổi từ một con người ích kỷ, vụ lợi, kiêu ngạo, sợ hãi, nhát đảm, ham sống sợ chết..., trở nên chứng nhân của lòng thương xót.
Điều này đã được các Tông đồ chứng minh bằng thái độ can đảm, hân hoan, sẵn sàng mở tung cánh cửa đã đóng kín, để ra đi loan báo về lòng thương xót của Thiên Chúa ngang qua Đấng chịu đóng đinh cho mọi người, bất chấp mọi khó nguy, liên lụy và ngay cả cái chết.
Khi nói về mục đích của cuộc đời, thánh Phaolô đã diễn tả: “Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô” (Pl 3,8); “Vì đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi” (Pl 1,21)”; nên “Không có gì tách chúng tôi ra khỏi tình yêu của Đức Kitô”; và thánh Phêrô cũng biểu lộ tâm tình hân hoan khi: “được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5, 41).
Vì thế, các Tông đồ luôn coi việc loan báo Tin Mừng là một điều cấp thiết đến độ không thể không thi hành: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”.
2. Hoa trái lòng thương xót của Chúa Thánh Thần được triển nở trong đời sống Giáo Hội
Như vậy, kể từ ngày Giáo Hội công khai hóa, các Tông đồ đã cảm thấu và đón nhận lòng xót thương của Thiên Chúa thật dồi dào, nên tâm hồn các ông tràn đầy bình an và lửa sốt mến, khiến các ông đã không giữ lại cho riêng mình, nhưng đã chuyển trao cho mọi người, nhất là những người nghèo khó, bất hạnh, bị áp bức, bất công...
Cũng thế, trải qua dòng thời gian hơn 2.000 năm qua, Chúa Thánh Thần vẫn không ngừng hiện diện và hoạt động cũng như làm cho kho tàng lòng thương xót của Thiên Chúa luôn được tỏa sáng như ngọn hải đăng trên con thuyền của Giáo Hội.
Những dấu ấn ghi đậm sự can thiệp của Chúa Thánh Thần như: Giáo Hội luôn gặp nhiều giông tố, bão bùng, nguy khốn; biết bao kẻ đe dọa, chống phá và muốn hủy diệt Giáo Hội ngay trong trứng nước, từ thời sơ khai và cho đến tận hôm nay! Nhưng Giáo Hội Chúa vẫn hiên ngang, đứng vững, lớn mạnh không ngừng và tồn tại muôn đời.
Sự can thiệp của Chúa Thánh Thần còn được thể hiện cụ thể qua việc biến đổi tâm hồn con người. Vì thế, biết bao người nguội lạnh, khô khan, cố chấp... Nhưng qua một biến cố hay sự kiện nào đó, họ được khai trí mở lòng, nên đã ngoan ngùy dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, nhất là cảm nghiệm được lòng thương xót của Thiên Chúa trên cuộc đời, lập tức họ đã trở nên những người yêu mến Giáo Hội hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn.
Hay có những người “dốt đặc cán mai”; “chân lấm tay bùn”; hoặc thuộc hạng “cùng đinh” trong xã hội, nhưng sau khi được Chúa Thánh Thần đổ đầy lòng xót thương trên cuộc đời họ, họ đã trở thành những người lỗi lạc, hàn lâm, uyên bác đến lạ thường khi nói và làm chứng về Chúa cho anh chị em...!
Lại có những kẻ trước đây thuộc về thế giới ma quỷ. Sẵn sàng làm đồ đệ cho chúng và ra tay tàn ác với anh chị em đồng loại, thậm chí ngược đãi, chống phá Giáo Hội... Nhưng sau khi được Chúa Thánh Thần thánh hóa và xót thương, nay lại trở thành những chứng nhân Tin Mừng ngay giữa lòng xã hội...
Đây chính là hoa trái lòng thương xót của Chúa Thánh Thần.
3. Hãy làm cho hoa trái xót thương của Chúa Thánh Thần triển nở
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Thêm Sức, mỗi người được đón nhận Chúa Thánh Thần cách dồi dào và phong phú. Tuy nhiên, ơn thánh của Chúa Thánh Thần không chỉ dừng lại trên cá nhân, mà phải sinh hoa kết trái đến với người khác, để mọi người đều được chung chia niềm vui và hạnh phúc như chúng ta.
Vì thế, mừng lễ Chúa Thánh Thần hôm nay, mỗi người hãy suy nghĩ và tự cật vấn bản thân xem: đã bao lần ta thờ ơ, khước từ ơn Chúa đến với mình; biết bao lần ta đã đóng chặt ơn Chúa cho riêng bản thân và đã vô cảm trước tiếng kêu gào thống thiết của người nghèo khổ, đói khát cơ bần nơi xó chợ, bãi rác, ngoài công viên, nơi bến xe, gầm cầu...?
Biết bao lần ta đã lựa chọn sự hời hợt, hình thức, tham lam, ích kỷ, vụ lợi, ghen tương, vu khống, kiêu ngạo, thù hận, thiếu niềm tin, lòng trông cậy và yêu mến Chúa trong đời sống đạo? Biết bao lần ta đã phớt lờ tiếng nói của Lương Tâm, để lựa chọn những hành vi tội lỗi không phù hợp với bản chất Công Giáo và giá trị Tin Mừng?
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người hãy tha thiết xin Chúa Thánh Thần ban ơn bình an và lòng thương xót của Người cho chúng ta. Khi có được sự an bình thư thái và ngụp lặn trong tình thương của Thiên Chúa, mỗi người sẽ làm cho hoa trái của Chúa Thánh Thần được triển nở trong tâm hồn và đời sống của chúng ta ngang qua những lựa chọn đầy chất Kitô của mình.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy ngự đến để biến đối tâm hồn chúng con cho phù hợp với tư cách người môn đệ của Chúa trong lòng xã hội hôm nay. Amen.
Ngày lễ ngũ tuần có nguồn gốc sâu xa, được cử hành hàng năm của người Do Thái xưa họ mừng 50 ngày sau lễ Vượt Qua, còn gọi là ngày lễ Ngũ Tuần. Lễ này, người ta ăn mừng mùa gặt mới, đồng thời nhớ lại biến cố Thiên Chúa ban hành lề luật qua Môsê trên núi Sinai. Y nghĩa này nói lên tuyển dân là dân giao ước, Thiên Chúa đã chọn và gọi giữa các dân tộc và trong thử thách sa mạc Sin.
Dĩ nhiên trên đây không phải là lịch sử chi tiết của ngày lễ, nhưng để chúng ta có chút khái niệm về nguồn gốc và ngộ ra nội dung súc tích của lễ này đối với tín hữu tiên khởi. Như vậy lễ Năm Nươi có liên hệ trực tiếp với lễ Vượt Qua, kỷ niệm khổ nạn, cái chết, phục sinh và lên trời của Chúa Giêsu. Nó cũng mừng mùa gặt mới. Bởi lẽ các môn đệ tụ họp nhau ở gian phòng trên lầu, nơi Chúa Giêsu ăn bữa tiệc ly cùng các môn đệ, để lãnh nhận "Thánh Thần", nghĩa là mùa gặt mà Chúa Giêsu đã gieo trồng bằng cuộc đời, khổ nạn, cái chết, phục sinh và lên trời của Ngài. Chắc chắn mùa gặt này đầy nước mắt và đau khổ. Trong Công Vụ Tông Đồ có điễn tả những điềm lạ khi Chúa Thánh Thần xuất hiện "Khi đến ngày lễ ngũ tuần... Bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào nhà... Và ai nấy đều được tràn đầy Thánh Thần, họ bắt đầu nói thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho...". Và kết quả là: mọi người từ các nơi quy tụ về Gierusalem: Từ Pacthia, Mêđia, Pontô, Elam... để nghe các tông đồ rao giảng và chứng kiến các điềm thiêng dấu lạ. Nhưng để được điều này cac ong cần phải
1. Để Thánh Thần hướng dẫn.
Chúa Thánh Linh là dấu hiệu của sự hợp nhất Công Vụ khởi đầu bằng việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trên Hội Thánh non trẻ, chẳng mấy chốc sẽ "hành động" một cách rất tích cực, nhờ Thánh Linh, mà loan truyền danh Đức Kitô cho đến tận cùng hành tinh, bất chấp vất vả, khó khăn, bách hại và cái chết. Nhưng ngày nay, những nhà truyền giáo trong nhung lụa, tiện nghi, biện minh rằng để "tiện lợi" cho việc tông đồ. Người ta quen đặt tên cho Công vụ là Phúc Âm của Thánh Linh. Điều đó không hề sai, nếu chúng ta nghiền ngẫm hoạt động của Ngài trong Hội Thánh tiên khởi. Ngày xưa các tông đồ rao giảng bằng sự soi sáng của Thánh Thần. Còn chúng ta ngày nay rao giảng bằng ngôn ngữ gì? Có lẽ tiền bạc, chức quyền, khoái lạc, hứa hẹn? Toàn là mị dân, thảo nào, chẳng ai hiểu được! Vậy thì lễn Năm Mươi vẫn chính xác là lễ "mùa gặt mới". Chúng ta góp công thế nào vào mùa gặt thiêng liêng này?
Chúa Kitô đã gởi Chúa Thánh Thần xuống và chúng ta đã lãnh nhận. Hãy bắt trước các tông đồ, ra đi khắp thế gian rao giảng Đấng phục sinh cho muôn dân, dạy dỗ họ hy vọng lớn lao: thân xác dầu phải chết, cũng sẽ sống lại. Còn sứ vụ nào cao quý và chân thật hơn? Đấu tranh giai cấp, thần học giải phóng, hiện sinh, tiến hoá, Freud, Jung, Karl không thể so sánh bằng. Đốt cháy cả bản thân bằng lửa nhiệt thành truyền giáo vẫn chẳng nhằm nhò gì! Quý vị có cảm nhận như vậy chưa? An hưởng sung sướng, tiện nghi không mang ích lợi cho sứ vụ Chúa trao trong thời gian "đợi chờ" này. Chúng ta là một cộng đồng "chờ đợi" với các môn đệ tiên khởi của Chúa Giêsu, hoặc xa hơn nữa với các tổ phụ Do Thái trong đức tin chân chính.
2. Để Thánh Thần biến đổi
Vì thế giới này chưa phải là thiên đàng để vui hưởng khoái lạc. Một cái nhìn nhang chóng vào tình hình địa cầu ắt sẽ hiểu rõ ràng như vậy: Nghèo khó, chiến tranh, chém giết, biết bai trận khủng bố. Chưa hết, còn trong những đoàn thể Công Giáo, xem ra như đoàn kết với những phương châm lý tưởng, nhưng cũng không ít chia rẽ giáo xứ, tu viện, đoàn thể, ly khai khỏi Giáo Hội hoàn vũ vẫn là vấn đề nhức nhối triền miên của các môn đệ Chúa Kitô. Đáng lý, những sự kiện này phải là nhắc nhớ sống động cho chúng ta, chứ không phải nhởn nhơ như chuyện của thiên hạ, ngày ngày chỉ lo thư giãn, dã ngoại, đình đám, kỷ niệm. Vì thế, điều trước mắt là chúng ta hãy đem ngọn lửa Thánh Thần đến những nơi này và cầu xin cho các đau khổ của thế giới chấm dứt, cho đổ vỡ của Giáo Hội được hàn gắn, cho gia đình và thiên nhiên khỏi bị phá hoại, cho ước mong của Chúa Giêsu mau trở thành hiện thực.
Vậy lễ Hiện Xuống phải nên như biến cố nhắc nhở môn đệ thực sự của Chúa Kitô: Thiên Chúa không hề bỏ rơi Hội Thánh. Chúa Giêsu tuy không còn hiện diện hữu hình nữa, nhưng như Ngài đã hứa không để tín hữu mồ côi, Ngài sẽ sai Thánh Linh xuống dạy dỗ, an ủi, thánh hoá họ. Hôm nay, lời hứa đó đã được thực hiện và Giáo Hội đã ra đời, một cuộc khai sinh đầy hứa hẹn.
Các môn đệ quy tụ ở phòng tiệc ly đã trở nên một cộng đồng, có đầy đủ thân xác và linh hồn. Thân hình này khởi sự một sức sống mới, thở hơi thở của Thần khí vĩnh cửu và toàn năng. Ngoài ra, người ta rao giảng nhiều về hiệp nhất và tình yêu, nhưng chỉ là mông lung tưởng tượng chứ thực chất không hiểu chi về ý nghĩa của lưỡi lửa. Nó cụ thể, hữu hình và đốt cháy. Các môn đệ tiên khởi đã cảm nghiệm đúng thực tại ấy, các kẻ theo Chúa ngày nay thì sao? Nếu như họ được lưỡi lửa thiêu đốt thực thì không còn như hiện trạng, nguội lạnh và ươn lười. Thiên Chúa luôn sẵn sàng gửi Thánh Linh của Ngài xuống, để giúp đỡ họ giao lưu thân thiện với Đức Kitô, bất chấp những sự ác hiện tại: chiến tranh khốc liệt, nghèo đói cùng cực, khai thác tài nguyên cạn kiệt, bạo lực không phân biệt.
Lạy Chúa, xin cho con biết mở rộng lòng đón nhận tất cả dưới "lưỡi lửa" của tình yêu. Không còn chia rẽ, phân tán, thất vọng, bất đồng ý kiến, thương yêu giả hiệu, lừa dối trục lợi. Nhưng hiệp nhất trong mối dây tình yêu chân thành. Amen.
Đức Giêsu đã thổi hơi ban Thánh Thần cho các môn đệ khi Ngài từ cõi chết phục sinh: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga.20, 22-23). Khi Đức Giêsu còn ở dương thế, Ngài đã xin Thiên Chúa Cha để Cha ban Thánh Thần cho các môn đệ (Ga.14, 16); và khi Ngài sống lại từ cõi chết, Ngài đã ban Thánh Thần như Ngài đã hứa trước (Ga.15, 26). Khi tại dương thế, Ngài sống thân phận con người, nên Ngài tùy thuộc tất cả nơi Thiên Chúa. Trong mọi chuyện, Ngài phải xin Thiên Chúa. Ngài tùy thuộc ý Thiên Chúa như con người cần của ăn: “của ăn của thầy là làm theo ý Đấng đã sai thầy” (Ga.4, 34).
Đức Giêsu tùy thuộc Thiên Chúa trong mọi chuyện, đến độ “tất cả những gì con có đều là của Cha, tất cả những gì Cha có đều là của con” (Ga.17, 10). “Ta và Cha là một” (Ga.10, 30). Đức Giêsu đã đồng nhất với Thiên Chúa trong tất cả, nhưng Ngài vẫn là Ngài, khác với Cha. Ngài vẫn cầu nguyện (Mc.1, 35), vẫn luôn tìm ý Thiên Chúa Cha trong mọi lúc, đặc biệt nơi vườn dầu (Lc.22, 42), có lúc Ngài cũng có cảm tưởng Thiên Chúa bỏ rơi Ngài (Mc.15, 34) nhưng Ngài vẫn hoàn toàn phó thác tất cả cho Thiên Chúa (Lc.23, 46). Ngài tùy thuộc Thiên Chúa đến độ Ngài không còn là Ngài nữa, mà là Thiên Chúa hiện diện nơi Ngài (Ga.14, 10-11). Ngài tùy thuộc Thiên Chúa đến độ có thể nói Ngài là Thiên Chúa: “Ông là người mà dám cho mình là Thiên Chúa” (Ga.10, 33).
Thánh Thần cũng tùy thuộc Thiên Chúa Cha, và là Đấng được sai bởi Thiên Chúa Cha (Ga.14, 16). Thánh Thần cũng được chính Đức Giêsu Phục Sinh ban tặng cho các tông đồ (Ga.20, 22). Thánh Thần sẽ nhận lấy những gì của Đức Giêsu mà loan báo cho các tông đồ, vì tất cả những gì Đức Giêsu có đều là của Cha (Ga.16, 13-15). Nơi Thánh Thần cùng Đức Giêsu Phục Sinh và Thiên Chúa Cha, tất cả đều là chung; tuy nhiên vẫn phân biệt Cha, Đức Giêsu Phục Sinh, và Thánh Thần. Đức Giêsu nói với Philíp: “anh không tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy sao?” (Ga.14, 9-10). Đức Giêsu và Thiên Chúa Cha tuy là một nhưng vẫn là hai, là Thiên Chúa Cha và là Đức Giêsu. Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu Phục Sinh, và Thánh Thần tuy là ba nhưng vẫn là một trong mọi sự. Thánh Thần tùy thuộc Thiên Chúa Cha và Đức Giêsu Phục Sinh, đến độ có thể nói Thánh Thần là Thiên Chúa. Khi dùng cụm từ “đến độ có thể nói,” có thể làm cho người ta hiểu rằng Đức Giêsu Phục Sinh và Thánh Thần khác và kém Thiên Chúa Cha, nhưng thực ra không muốn nói như vậy. Cả ba là một trong tất cả, nên không có vấn đề hơn kém nhau ở đây. Thiên Chúa chỉ là một; không có Con thì không có Cha; có Con có Cha thì có Thánh Thần Tình Yêu.
Thánh Thần đã được ban cho con người, để ở mãi với con người (Ga.14, 16). Thánh Thần sẽ dạy con người những gì cần thiết (Ga.14, 26), Ngài sẽ giúp các môn đệ làm chứng cho Đức Giêsu, và chính Ngài cũng làm chứng cho Đức Giêsu Phục Sinh qua những con người (Ga.15, 26). Thánh Thần dẫn con người vào sự thật trọn vẹn (Ga.16, 13). Không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, mà không nhờ bởi Thánh Thần (1Cor.12, 3). Mười tông đồ và các chị phụ nữ loan báo tin mừng phục sinh cho một tông đồ Thomas trong suốt cả một tuần nhưng vẫn không thành công (Ga.20, 24-25) nhưng với ơn của Thánh Thần, các tông đồ đã được biến đổi, các tông đồ đã làm được những điều kỳ diệu.
Thánh Thần biến đổi con người. Là những người ít học, nhát đảm sợ sệt nhưng khi Thánh Thần tỏ hiện quyền năng trong ngày lễ Ngũ Tuần, các tông đồ đã can đảm đứng ra rao giảng làm chứng cho Đức Giêsu Phục Sinh. Chính Thánh Thần đã quy tụ dân chúng lại để cho các tông đồ rao giảng (Cv.2, 5-6), cũng chính Thánh Thần làm cho những người nghe được hiểu và tin nhận lời rao giảng của các tông đồ, giúp họ tin vào Đức Giêsu, và cho họ chịu phép rửa (Cv.2, 37.41). Điều con người không làm được, thì Thánh Thần đã làm một cách tuyệt vời (Ga.14, 12).
Trong suốt dòng lịch sử, Thánh Thần vẫn đã và đang tiếp tục làm những điều kỳ diệu. Bao nhiêu người đã tin vào lời rao giảng của các tông đồ và của những người tin vào Đức Giêsu Phục Sinh. Bị bách hại, các tông đồ và các Kitô hữu tiên khởi đã không hề sợ hãi, sẵn sàng bỏ nhà cửa tài sản để sống niềm tin vào Chúa Phục Sinh. Chính đời sống tự do, hân hoan, và tràn đầy niềm tin sức sống của họ đã trở thành lời rao giảng và là bằng chứng của Chúa Phục Sinh và Thánh Thần của Người, đã làm nhiều người tin vào Đức Giêsu Phục Sinh. Chính Thánh Thần đã làm tất cả những điều này trong dòng lịch sử.
Trong dòng lịch sử, bao nhiêu giáo đoàn của những nơi xa lạ đã được các nhà truyền giáo tới rao giảng. Những nhà truyền giáo là những người của Thánh Thần. Họ sẵn sàng bỏ tất cả để sống theo tác động của Thánh Thần. Họ bỏ cha mẹ, anh chị em họ hàng, bao nhiêu ước vọng của tuổi trẻ, để trở thành tình yêu của Thiên Chúa nơi đất khách quê người, nơi những dân tộc xa lạ. Chính Thánh Thần vẫn tiếp tục làm lời rao giảng của họ được tiếp nhận cho dù họ rao giảng với những giới hạn của ngôn ngữ nơi địa phương xa lạ. Và rồi với những bách hại do hiểu lầm, do những thế lực ác, Thánh Thần vẫn làm các nhà truyền giáo trung kiên sống giữa môi trường nguy hiểm đó, vẫn làm các ngài coi nhẹ cái chết để loan báo Tin Mừng, vẫn làm những tín hữu tiên khởi dám hy sinh mạng sống để trung thành với Thiên Chúa, giữ vững đức tin.
Ngày nay, Thánh Thần vẫn đang hoạt động trong lòng mỗi người, nơi những người sống đời dâng hiến cũng như những người đang sống trong những môi trường khác nhau. Để trở thành những người con ngoan của Thiên Chúa, con người vẫn cần Chúa Thánh Thần một cách đặc biệt, để sống trung thành và yêu mến, cả trong môi trường tu viện và trong môi trường đời. Thánh Thần vẫn đang hiện diện nơi những môi trường bị sự dữ thống trị, để đánh động, để nâng đỡ những người khốn khổ đang quằn quại dưới ách sự ác, để làm bao người tội lỗi ăn năn sám hối trở lại với Thiên Chúa, sống theo đường ngay nẻo chính. Thánh Thần quả là Đấng tuyệt vời, đang ở gần gũi mỗi người, để dạy dỗ, hướng dẫn, thêm sức, và giúp con người tự do hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có kinh nghiệm “bất lực” và cần Thiên Chúa giúp bạn làm điều tốt không? 2. Bạn có ý thức và cầu nguyện với Chúa Thánh Thần không? Theo kinh nghiệm của bạn, Thánh Thần là ai? Ngài có chỗ trong đời bạn không? Xin chia sẻ kinh nghiệm.
Có rất nhiều cách gọi về Chúa Thánh Thần và những tên gọi đó nói lên những công việc mà Chúa Thánh Thần chuyên làm. Ví dụ như Đấng Bảo Trợ, Thần Chân Lý, Đấng An Ủi, Thần Khí Lời Hứa, Thần Khí Đức Chúa, Thần Khí Vinh Hiển. Và chính nhờ những khả năng "bẩm sinh" đó mà Chúa Thánh Thần đã nâng đỡ cho con người trên mọi nẻo đường của cuộc sống cũng như giúp cho con người gắn kết với Thiên Chúa nhiều hơn.
Chính nhờ bàn tay đa tài của Chúa Thánh Thần mà chúng ta được tái sinh và được nhận biết Cha làm con Chúa qua phép rửa bởi Thánh Thần. Ta hãy nghe lời của Thánh Irênê: "Bí Tích Thánh Tẩy ban cho chúng ta ơn tái sinh trong Thiên Chúa Cha, nhờ Chúa Con trong Chúa Thánh Thần. Vì những ai mang trong lòng Thánh thần của Thiên Chúa, họ được dẫn đến Ngôi Lời, nghĩa là Ngôi Cha. Chúa Con dâng họ cho Chúa Cha và Chúa Cha ban cho họ sự sống bất diệt. Vậy không có Thánh Thần thì không thể thấy Thiên Chúa Cha, không có Chúa Con không ai đến gần Chúa Cha, vì chỉ có Chúa Con mới nhận biết Chúa Cha, và nhận biết Chúa Cha là nhờ Chúa Thánh Thần".
Vậy chính Thánh Thần là Đấng khởi sự niềm tin và khơi nguồn sự sống cho chúng ta. Nhờ Thánh Thần mà ta nhận biết Chúa Cha và Đấng Cha đã cử đến là Đức Giêsu Kitô (x. Ga 17,3). Thánh Phaolô đã nhấn mạnh lại điều này: "Nếu không được Thánh Thần giúp sức cho không ai có thể nói rằng: Giêsu là Đức Chúa" (1 Cr 12,3). Rồi cũng phải nói thêm rằng, nếu không có Thánh Thần chúng ta không thể giữ được niềm tin ấy. Đức Giêsu đã hứa cho chúng ta nghị lực của Thánh Thần để bên vực giúp ta "bước đi vững vàng theo thánh chỉ và thi hành những ước muốn của Người", giúp chúng ta đối mặt với kẻ thù. "Anh em đừng sợ phải nói gì vì Thánh Thần sẽ nói trong anh em". Đó là một lời hứa đã có từ trong Cựu Ước - thời mà Thánh Thần còn mù mờ trong con mắt của con người. "Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên hết thảy người phàm" (Ge 3,1). Lời ấy được thực hiện trong ngày lễ Ngũ Tuần. Các tông đồ đầy tràn Thánh Thần, bắt đầu lên đường loan tin mừng Chúa phục sinh mà không sợ hãi bất cứ một thế lực nào. Nếu các ngài không có "lửa" của Thánh Thần thì các ngài không thể làm được việc gì. Như lời Phaolô khẳng định: "Thần Khí mà chúng ta lãnh nhận không phải là Thần Khí nhát sợ".
Thánh Thần còn làm cho cuộc sống chúng ta nên mật thiết với Thiên Chúa hơn. "Nhờ Thánh Thần mà chúng ta sống chứ xác thịt nào có ích gì" (Ga 6, 63). Nhờ thánh Thần mà trong tâm tình nghĩa tử chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha và trờ nên đồng thừa tự. "Cha của Thầy cũng là Cha của Anh em". "Vì đã chịu phép rửa trong cùng một Thánh Thần nên chúng ta đầy tràn một Thánh Thần duy nhất" (1 Cr 12,13). "Chính thánh Thần là nước trường sinh chảy ra từ cạnh sườn Đức Kitô chịu đóng đinh thập giá và chảy thành sự sống đời đời cho chúng ta" (GLHTCG 694). Và trong tư cách là Đấng Bảo Trợ, Thánh Thần sẽ giúp đỡ cho chúng ta là những kẻ yếu hèn. "Chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp bằng những tiếng rên siết khôn tả" (Rm 8, 26). Cũng do Thánh Thần biết rõ chúng ta cần gì và điều gì thì đẹp ý Chúa hơn nên khi Thánh Thần cầu xin thì chúng ta được Chúa dễ dàng được nhậm lời.
Chúa Thánh Thần quan trọng trong cuộc đời chúng ta. Chính Đức Kitô đã phải chết để cho chúng ta nhận lãnh dồi dào Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên, gần như chúng ta ít khi nghĩ về Chúa Thánh Thần và cầu xin cùng Ngài, nghe theo sự hướng dẫn của Ngài. Ngài chính là nội lực dẫn dắt chúng ta về với sự thật và tình yêu. Không nhờ Thánh Thần chúng ta không sinh được hoa trái nào tốt đẹp. Mất Chúa Thánh Thần đời chúng ta như cây không còn nước: khô khan, mệt mõi, lạnh lẽo và sẽ chết dần chết mòn. Vậy chúng ta hãy sám hối để được tha tội và anh em sẽ được ân huệ Thánh Thần (x. Cv 2, 38).
"Lạy Chúa Thánh Thần, xin sự thánh thiện của Người hoạt động trong con, để con có thể nghĩ về Thiên Chúa; đánh động con, để con có thể hành động cho Thiên Chúa; khích lệ con để con có thể yêu mến Người; tăng sức cho con, để con có thể trung tín với Người; xin giữ con để con không bao giờ lìa bỏ Người" (Thánh Augustinô. Trích từ bài giảng số 17 của Thánh Gioan Maria Vianney).
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Hiện Xuống, chúng ta kỷ niệm việc Chúa Thánh Thần Hiện Xuống trên các Thánh Tông Đồ. Mừng lễ hôm nay, chúng ta vui mừng và xác tín vì chúng ta có một chuyên viên toàn năng, thông biết mọi sự, sẵn sàng và có thể hướng dẫn chúng ta trong những nỗi khó khăn.
Bài Phúc Âm hôm nay (Ga 20, 19-23) diễn tả niềm vui và cảm nghiệm quí báu nhất của các Tông Đồ khi xem thấy Chúa, Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín. Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình anh cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con" Rồi Người thổi hơi trên họ và nói: "Hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần" (Ga 20,19-22). Các ông vui mừng vì mình được ơn Chúa Thánh Thần, họ cảm nghiệm được sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa Giêsu ở với họ. Một cảm nghiệm về tình yêu sâu xa của Chúa dành cho họ qua sự chết, và sống lại của Người. Nhờ Chúa Thánh Thần, họ gắn bó trọn vẹn cuộc đời của họ với Chúa Giêsu và trở nên những môn đệ trung thành dấn thân phục vụ Ngài trong việc rao giảng Tin mừng.
Là người Kitô hữu, trong bậc sống là cha mẹ trong gia đình, nếu chúng ta muốn con cái lớn lên trong tình yêu và sự tin tưởng nơi Thiên Chúa, nếu chúng ta muốn chúng yêu thương và tin tưởng nơi chúng ta, nếu chúng ta muốn chúng cũng yêu thương và tự tin nơi chính bản thân mình, điều trước hết là chúng ta phải làm là, thể hiện tình yêu thương thật sự, vì qua tình yêu, nó giúp con cái tự nhận ra được những cảm nghiệm yêu thương sống động này trong cuộc đời của chúng (2 Tx 3, 7). Chẳng hạn, khi cha mẹ dạy dỗ con cái, hãy nói với con cái rằng cha mẹ yêu thương con. Cha Mẹ yêu thương con không phải vì con được điểm cao, học giỏi hay tài năng, cũng không phải vì con đã làm tốt, nhưng yêu thương con chỉ vì con là con của Cha mẹ. Nên nhớ rằng, mặc dù điều này rất đơn giản, nhưng nó có một hiệu quả tốt hơn là những đòi hỏi phải vâng lời dựa trên sự sợ hãi và đe dọa. Con cái trẻ sẽ cảm nghiệm tuyệt vời rằng: "Mình được yêu bởi vì mình là mình" đây là tình cảm có tính cách chữa lành đối với con cái. Một cảm nghiệm về sự hiện diện yêu thương của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống của chúng.
Bằng tình yêu thương tha thiết, Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ, trong thân xác sống lại của Ngài, thân xác Vinh Quang của Thánh Thần để các môn đệ cảm ghiệm được niềm vui và sự an bình mới lạ trong đời sống của họ (Lc 24, 39). Điều quan trọng nhất trong công việc mục vụ của một Kitô hữu là trở nên "khí cụ bình an của Chúa" (Mt 10,12; Rm 12, 18), là cảm nghiệm được tình yêu thương của Thiên Chúa đang ở với chúng ta và chia sẻ tình yêu đó ra cho mọi người xung quanh (1Tx 2, 8; Pl 1, 8; ĐGH Phaolô VI - Evangelii Nuntiandi đoạn 79). Thiên Chúa cũng muốn chúng ta khám phá ra rằng chính chúng ta phải là những nhân chứng đã cảm nghiệmđược sự hiện diện của Đức Kitô qua ThánhThần để mang lại nguồn vui và sự bình an cho mọi người (1Ga 3,16-18). Chúa Giêsu cũng hứa ban Chúa Thánh Thần khi Ngài sai chúng ta đi vào thế giới đang cần đến chúng ta. Chúa Thánh Thần làm cho cuộc sống của chúng ta dường như trống rỗng được biến đổi trở nên đời sống mới trong Chúa Giêsu Kitô (2 Cr 4, 7). Ngài làm cho chúng ta vui tươi và bình an như Tin mừng công bố: "Bình an cho các con" (Ga 20,19) cuộc sống vẫn luôn luôn đẹp vì có Chúa Thánh Thần là món quà vô giá của Thiên Chúa ban cho chúng ta (1 Cr 1, 4-9). Thế giới vẫn luôn được Thánh Thần hướng dẫn và mang chúng ta đến để hoàn thành công trình sáng tạo và cứu rỗi của Người (Ep 1, 3-14; Gl 5, 22-23; Gaudium et Spes đoạn 11). Trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Thánh Thần là Đấng phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con. Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta cảm nghịêm được sự ngọt ngào của tình yêu Thiên Chúa (Ga 14, 16; Cv 7, 55; 1, 8;Ep 1, 14; 1Pr 1, 12).
Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta đứng trước sự lựa chọn: chọn một nghề để sống, chọn một người bạn đời, chọn một cách thức đối xử với nhau. Chúng ta có nhiều lựa chọn. Lựa chọn nào tốt nhất? Chúa Thánh Thần sẽ chỉ cho chúng ta, nếu chúng ta hướng về Ngài và xin Ngài chỉ dẫn. Có lúc chúng ta không có ý tưởng gì về điều chúng ta có thể làm: tình cảnh xem ra vô vọng, vô phương như trước cái chết của một người thân, trước sự thất bại của công việc chúng ta không biết phải làm gì. Hãy xin Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ chỉ dẫn cho bạn. Rẩt may mắn nếu tôi có một người bạn làm luật sư, một bác sỹ, một tâm lý gia, một cố vấn hôn nân, một chuyên viên về mọi lãnh vực, một người bạn biết mọi vấn đề, một người bạn rất thân thiết mà tôi có thể lui tới bất cứ lúc nào, ngày cũng như đêm và giả thiết người ấy sống trong nhà tôi. Đó là Chúa Thánh Thần, Ngài đang sống trong tôi. Ngoài việc chỉ cho chúng ta điều chúng ta phải làm, Chúa Thánh Thần còn giúp chúng ta thực hiện nữa vì Ngài là Thiên Chúa, là Đấng Toàn Năng cũng như thông biết mọi sự. Chúng ta kêu cầu người trong Ca tiếp liên trong thánh lễ hôm nay; " Xin hãy đến, Lạy ánh sáng của tâm hồn'. Nhiều lần trong kinh nguyện Thánh Thể chúng ta cầu xin với Ngôi Ba Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã hứa "Người sẽ dạy chúng con tất cả sự thật"
Lạy Chúa Thánh Thần, xin xuống tràn ngập tâm hồn các tín hữu, và xin nhóm lửa tình yêu Chúa trong lòng chúng con. Amen.
Muốn sống đầy đủ và sống mãi! Đó là tiếng kêu tự phát của con người ngay từ thuở ban đầu. Nhưng tội lỗi đã đóng con người lại trong chính mình và dẫn đưa con người đến thất bại. Cuộc sống đích thực, đó là Thần Khí và Thần Khí đã được ban cho chúng ta. Mặc khải của Kitô giáo khẳng định như vậy. Ngày LỄ NGŨ TUẦN, lễ của THẦN KHÍ, đánh dấu kết quả của Phục Sinh. Từ ngày lễ này và với ngày lễ này mà đi, đó là một cuộc canh tân thế giới được Thiên Chúa tái tạo…
Lễ Ngũ Tuần là một điểm khởi. Toàn bộ công việc tiếp theo của các tông đồ đều có một mục đích, chỉ cho thấy sức mạnh của Chúa Thánh Thần hoạt động trong thế giới. Công việc quy tụ nhân loại và qua dòng lich sử, chỉ có thể thực hiện được nhờ vào những người tin được thấm nhuần Thánh Thần, thấm nhuần Tình Yêu Thiên Chúa.
Thánh Phaolo nói: Những ân huệ và đặc sủng chỉ có ý nghĩa khi giúp cộng đoàn xây dựng trên nền tảng tình yêu. Cũng thế, vai trò khác nhau của mỗi người không phải là đặc quyền đặc lợi hơn người khác. Mỗi người đều có chỗ của mình không thể thay thế được nhờ Chúa Thánh Thần thống nhất quy tụ tất cả mọi người trong tình yêu.
Ở đâu có tình yêu, ở đó có Chúa Giêsu và có bình an. Nơi nào có nghi ngờ và sợ sệt, thì Chúa Giêsu không ở đó. Sau khi sống lại, mỗi lần hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu đều chào họ bằng câu chúc bình an: “Bình an cho anh em”!
Như vậy, bình an của mỗi người chỉ có thể đến từ Chúa Giêsu sống lại. Cuộc sống trần gian này đầy dẫy những bất ngờ và vì thế chúng ta rất dễ bị bối rối và run sợ. Khi hai chị em Mattha và Maria đón Chúa vào nhà mình: Maria tiếp chuyện Chúa và lắng nghe Lời Chúa, còn Mattha nấu nướng để đãi Chúa một bữa ăn ngon miệng. Nhưng hai chị đều thể hiện tình yêu của mình đối với Chúa.... Chắc chắn hai chị em rất bình an và vui mừng!
Đối với chúng ta cũng vậy, chỉ một điều cần thiết là chúng ta hãy dành tình yêu cho Chúa Giêsu. Đó chính là điều kiện đích thực để chúng ta có bình an nội tâm.
Chúng ta choáng váng khi đọc chuyện kể về ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ. Chúng ta thấy sự cao cả và sức mạnh của Chúa Chúa Thánh Thần biến đổi các tông đồ. Nhưng sự cao cả và sức mạnh của Thiên Chúa cũng được thể hiện khi Chúa Giêsu hiện ra và chỉ cho họ thấy vết thương ở cạnh sườn và trái tim Người như là dấu chỉ tình yêu của Người không thể xóa được. Vì chưng Thánh Thần của Thiên Chúa cũng là Thánh Thần của Bình An và Tình Yêu.. Quyền lực của Thiên Chúa được thể hiện trong tình Yêu của Người.
Vì thế mỗi người chúng ta hãy quay về với Thiên Chúa là nguồn mạch tình yêu. Thế giới hôm nay không thể đem bình an nội tâm cho chúng ta được. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể làm được điều này. Khi cảm thấy mình lo lắng và sợ sệt, hãy quay về với Chúa Giêsu và phó thác những lo lắng của chúng ta cho Người, Người sẽ cho chúng ta thấy con tim Người, và lúc đó chúng ta sẽ ngập tràn bình an.
Chính Chúa Giêsu là Đấng đem bình an đến cho các tông đồ. Không những Người làm cho các ông tràn ngập bình an, mà còn ban cho các ông quyền tha tội và đem bình an đến cho những ai thú nhận và từ bỏ tôi lỗi mình.
Bí tích Hòa Giải là bí tích đem lại bình an. Chúng ta tất cả đều là tội nhân và chúng ta nhận biết mình đã phạm tội. Vì thế chúng ta chạy đến lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa. Lòng từ bi thương xót đó được thể hiện cách đặc biệt qua việc Chúa thiết lập bí tích Hòa Giải vào ngày Chúa sống lại hiện ra với các tông đồ. Bài Tin Mừng của ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống hôm nay nhắc lại việc Chúa hiện ra ban cho các ông quyền tha tội. Điều đó muốn nói lên rằng: bí Tích Hòa Giải là phần công việc của Chúa Thánh Thần mời gọi chúng ta cùng với Người để thánh hóa thế giới.
Hoạt động của Chúa Thánh thần đánh thức chúng ta nhìn nhận mình tội lỗi và thành thật ăn năn. Sức mạnh của Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta thú nhận tội lỗi. Tội lỗi đã làm sói mòn con tim chúng ta, sói mòn tình yêu chúng ta đối với Thiên Chúa và anh chị em chúng ta. Hoạt động của Chúa Thánh Thần cũng chính là sự khôn ngoan của Người ban cho chúng ta. Để nhờ đó, chúng ta Tin và Hy vọng vào lòng tha thứ của Thiên Chúa muốn trợ giúp chúng ta qua thừa tác viên chức thánh.
Thật dễ hiểu nếu tôi lỗi là sự xấu xa của thế giới là căn nguyên cho tất cả những gì đối kháng với bình an, thì bí tích Hòa Giải là nguồn suối bình an không bao giờ cạn.
Vì thế chúng ta đừng ngần ngại đến gặp Chúa Giêsu trong bí tích Hòa Giải. Ngày Chúa sống lại cũng như ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là ngày Đại Lễ có thể mang lại niềm vui trọng đại nhờ sự tha thứ mà Chúa ban cho chúng ta, khi chúng ta gặp Người qua thừa tác viên Giáo Hội.
Sứ điệp Đức Mẹ hiện ra tại Mễ-Du (Nam Tư) nói: “Nếu mỗi người xưng tội một tháng một lần, thì bộ mặt thế giới sẽ thay đổi… Bình an của mỗi người sẽ là khởi điểm của bình an thế giới”.
Lạy Chúa Thánh Thần, chúng con kêu cầu Chúa bằng tất cả sức lực chúng con, Chúa là Thần Khí của Chúa Cha, Thần Khí sự Thánh Thiện.
Chúng con xin trao phó cuộc đời chúng con cho Chúa. Xin Chúa làm chủ cuộc đời chúng con. Xin Chúa Chúa rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, chữa lành nơi thương tích, uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng và chỉnh đốn lại chỗ chệch đường.
Xin hãy làm chúng con bừng cháy trong lò lửa vĩ đại Trái Tim Chúa Giêsu, nơi ngọn lửa đang cháy lên và thiêu đốt tất cả những gì là nhơ bẩn khiến chúng con không vào nước trời được. Amen!
Trong suốt tuần chín ngày, chúng ta đã cầu xin tha thiết: Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến; lạy Đấng an ủi tuyệt vời, xin ngự đến.
Giáo hội xin Chúa Thánh Thần đến để làm gì ? Thưa, Chúa Thánh Thần đến để rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, và chữa cho lành nơi thương tích. Uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng, chỉnh đốn lại chỗ trật đường… (Ca tiếp liên).
Hôm nay ngày lễ Ngũ Tuần, ngày mà lời Chúa Giêsu hứa với các tông đồ được hoàn tất. "Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Dothái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông… thổi hơi trên các ông và nói: "Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần" (Ga 20,22). Chúa Thánh Thần đã xuống trên các ông và ban đầy đủ các ơn cùng với các sự kiện bên ngoài.
Vì thế, chúng ta cử hành lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống với niềm vui khôn tả. Vui, vì có Chúa Thánh Thần, Giáo hội không bị mồ côi, có Chúa Thánh Thần, Giáo hội sẽ lĩnh hội được tất cả những gì Chúa Giêsu muốn, Chúa Thánh Thần là sức mạnh vô biên, là suối bẩy nguồn.
Giáo hội được Chúa Giêsu sai đến với mọi dân mọi nước và sẽ tiếp tục nói các thứ tiếng cho đến muôn đời, giao tiếp với hết mọi dân tộc trên toàn thế giới, và con người ở mọi nơi mọi thời sẽ còn tiếp tục sửng sốt và bỡ ngỡ, (x. Cv 2, 6), vì những người rao giảng Tin Mừng luôn đầy Thánh Thần. Khắp mọi nơi, người ta sẽ nghe thấy Giáo hội diễn tả cùng một Đức tin trong ngôn ngữ của chính dân tộc ấy (x. Cv 2, 6). Thế nên, phép lạ ngày lễ Ngũ Tuần, chứng tỏ Chúa Thánh Thần luôn đồng hành với Giáo hội để tiếp tục làm nhiệm vụ canh tân mặt đất và đổi mới lòng trí con người hôm nay. "Thánh Thần Chúa tràn ngâp địa cầu, liên kết hết mọi người, thông thạo mọi ngôn ngữ. Hallêluia." Lời ca nhập lễ chứng tỏ Chúa Thánh Thần đã "nhập thể" trong Hội Thánh.
Điều gì đã xảy ra trong ngày xa xưa ấy, lúc các Tông Ðồ đang tụ họp với nhau ở tầng trên của phòng Tiệc Ly vậy?
Thưa: dấu hiệu đầu tiên là " Tiếng động từ trời phát ra tựa như gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp" (x. Cv 2,1). Tiếng động bất thình lình phát ra và các lưỡi lửa chia ra đậu trên đầu từng Tông Ðồ là các dấu chỉ cụ thể đụng chạm tới các Tông Ðồ, không chỉ bề ngoài, nhưng cả trong nội tâm; trong tâm trí nữa. Kết quả là "tất cả đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác nhau tuỳ theo Thánh Thần ban cho họ nói" (Cv 2, 4).
Ngọn lửa đó là ngọn lửa tình thương đốt cháy mọi cứng cỏi; ngôn ngữ đó là thứ ngôn của tình yêu phổ quát mà Chúa Thánh Thần đổ vào lòng các tín hữu (x. Rm 5,5); một ngôn ngữ mà tất cả mọi người đều hiểu, nên khi tiếp nhận có thể được diễn tả ra trong cuộc sống nơi nền văn hóa. Ngôn ngữ ấy là thứ ngôn ngữ của Tin Mừng vượt qua mọi ranh giới do con người đặt ra và tác động tâm hồn nhiều người, không phân biệt ngôn ngữ, chủng tộc, màu da, tiếng nói hay quốc tịch.
Trong một Thánh Thần, tất cả được chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thẻ. Vì khi Chúa Thánh Thần đến, Ngài nhào nặn, cổ vũ và khơi dậy nơi con người một số khuynh hướng tốt, Ngài tác động và soi sáng họ. Cuộc viếng thăm và tác động nội tâm này, hết thảy mọi người đều được ơn tùy theo lợi ích không ai giống ai. Có một Thánh Thần duy nhất hoạt động trong Hội Thánh, nên có nhiều chức vụ, công việc, những chỉ có một Thánh Thần điều khiển và hướng dẫn toàn thể (x.1 Cr 12, 3-7. 12-13).
Chúa Thánh Thần ở nơi những con người có lòng ngay thật, cũng như bất cứ ai muốn trở nên dễ uốn nắn bởi Chúa Thánh Thần trong hòa bình và trật tự. Người nào càng nhiệt tâm đón nhận, người ấy càng hiểu biết hơn về sự thể hiện nội tâm này và ngày càng gia tăng ơn của Chúa Thánh Thần, Đấng đã được ban cho con người ngay từ ban đầu.
Chúa Thánh Thần là Thần Chân Lý và tình thương nhắc nhớ chúng ta về tất cả những gì Chúa Kitô đã nói. Ngài dạy dỗ chúng ta và làm cho chúng ta nói với Thiên Chúa, gọi Chúa là Cha, là Abba ( x.Rm 8,15; Gl 4,4); đồng thời làm cho chúng ta đối thoại với nhau trong tình huynh đệ và ngôn sứ.
Chúa Thánh Thần là sức mạnh vô biên đã biển đổi các môn đệ từ những con người nhát đảm sợ sệt trở nên những nhà truyền giáo can đảm phi thường không sợ tù đày, tra tấn và cái chết, vì sức mạnh của Chúa Thánh Thần ở cùng họ. Có Chúa Thánh Thần, sự khép kín nhường chỗ cho sự loan báo và mọi nghi ngờ bị xua tan bằng niềm tin đầy tình thương mến. Bằng chứng là ngày lễ Ngũ Tuần, thánh Phêrô được tràn đầy Thánh Thần, đứng lên "cùng với mười một tông đồ ... lớn tiếng" (Cv 2,14) và "thẳng thắn" (Cv 2, 29) loan báo tin vui của Chúa Giêsu, là Ðấng đã hiến mạng sống mình để cứu độ chúng ta và Thiên Chúa đã cho sống lại từ các kẻ chết.
Ngài là suối bẩy nguồn.Với vẻ bề ngoài, xem ra Chúa Thánh Thần tạo ra sự mất trật tự trong Giáo hội, bởi vì Ngài mang đến sự khác biệt các đặc sủng, các ơn; nhưng dưới hoạt động của Chúa Thánh Thần là Thần Khí của hiệp nhất đã dẫn đưa tất cả tới sự hài hòa. Vì Chúa Thánh Thần "chính là sự hài hòa".
Không có sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần, Giáo hội sẽ không thể sống và thực hiện nhiệm vụ mà Chúa Giêsu phục sinh đã giao phó, là ra đi và làm cho tất cả mọi dân tộc trở thành môn đệ.
Chúng ta hãy xin cùng Chúa Cha, nhờ qua Chúa Giêsu Kitô, trong ân sủng của Chúa Thánh Thần, ngõ hầu việc cử hành Lễ Trọng Kính Chúa Thánh Thần hiện xuống, trở nên như ngọn lửa sốt mến và như luồng gió mạnh cho đời sống kitô hữu và sứ mạng của toàn thể Giáo Hội. Amen.
Trong Kinh Tin Kính của Giáo Hội có lời tuyên xưng: "Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống, Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra".
Tin trong tâm hồn và tuyên xưng ra ngoài bằng môi miệng như thế thật là phải đạo và chính đáng.
Nhưng như thế cũng chưa phải là tất cả những gì ta tin, ta xác tín. Ta cần nhận ra Ngài trong chính đời sống con người.
Đức Chúa Thánh Thần không có hình hài cụ thể nhất định. Nhưng là Thiên Chúa, nên Ngài có chiều kích rộng lớn hơn tâm trí ta suy tưởng về Ngài gấp bội.
Đức Chúa Thánh Thần là Đấng sáng tạo ban sự sống. Điều này khó hiểu cho tâm trí con người. Nhưng có thể nhìn vào những sự việc xảy ra trong đời sống con người mà nhận ra kết quả do Ngài làm nên.
Vậy căn cứ vào điều gì để vẽ cùng nhìn nhận ra Đức Chúa Thánh Thần trong đời sống?
Có nhiều câu trả lời cho thắc mắc này.
1. Lễ Hiện Xuống mới
Năm 2000 trong bài giảng tuần tĩnh tâm với Giáo Triều Rô-ma, đức cố Hồng Y Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận ( 1928-2002) đã nói về Đức Chúa Thánh Thần:
"Phải, Chúa Thánh Thần sống và hoạt động trong trái tim những kẻ nghèo nàn và khiêm hạ, trong tâm hồn đạo đức bình dân, trong tình liên đới, trong đau khổ. Ngài ở đó như trạng sư và thông dịch các ước muốn và lời cầu xin của chúng ta.
Tôi còn nhớ câu chuyện này:
Một ngày nọ, một cha sở miền Bắc Việt Nam thấy có một nhóm người dân tộc thiểu số H'mông muốn đến gặp ngài. Cha hỏi họ:
- Anh chị em từ đâu đến?
- Chúng con từ Lai Châu, (nơi quân đội Pháp đã thua trận Điện Biên Phủ năm 1954). Chúng con đã vượt núi rừng đi bộ suốt 6 ngày nay.
- Lạy Chúa tôi! Để làm gì vậy?
- Chúng con muốn được rửa tội ngay bây giờ.
- Không thể được! Không có một linh mục hay giáo lý viên nào cả trong vùng của anh chị em, anh chị em không biết gì về đạo hay kinh nguyện, thì làm sao chịu phép Rửa tội được.
- Chúng con đã học tất cả từ một đài phát thanh phát đi từ Phi-luật-tân.
- Mà đài phát thanh nào? Đâu có đài phát thanh Công giáo nào có chương trình bằng thổ ngữ của anh chị em đâu!"
- Đó là đài phát thanh "Nguồn Sống".
- Một đài phát thanh Tin lành, và bây giờ anh chị em lặn lội dến đây để xin trở thành Công giáo. Thật là điều lạ!
- Vị linh mục thật cảm kích bỗng thốt lên: Đây là một lễ Hiện Xuống mới. Đây chính là tác động của Chúa Thánh Thần! Chúa Thánh Thần!
Rồi cha lại hỏi nhóm người H'mông: Anh chị em có thể ở lại đây lâu hơn không?
- Thưa cha, không thể được. Chúng con chỉ đem theo 14 ngày cơm: 12 ngày đi đường và 2 ngày học hỏi và đọc kinh cầu nguyện.
Cả nhóm đã được rửa tội và chịu phép Thêm sức, rồi được dự Thánh lễ đầu tiên trong đời và được rước Mình Thánh Chúa.
- Anh chị em sẽ không có Thánh Lễ nào nữa, anh chị em không có nhà thờ. Anh chị em sẽ làm thế nào?
- Ban chiều tối, chúng con tụ họp nhau từng hai ba gia đình để nghe đài phát thanh và cầu nguyện chung và cùng nhau học hỏi về đạo. Ngày Chúa Nhật chúng con ra ruộng cày cấy, nhưng đúng 9h30 , chúng con ngưng làm việc, thả trâu tự do ăn cỏ và chúng con dự Thánh Lễ qua đài phát thanh Chân Lý phát từ Manila. Một Lễ Hiện Xuống mới của thế kỷ XX" (Hồng Y Nguyễn văn Thuận, Chứng nhân Hy vọng, trang 233-234).
Đó chẳng phải là phép lạ do Đức Chúa Thánh Thần tác động làm ra đó sao?
2. Phép lạ lễ Hiện Xuống
Năm 1990 (Tông du lần thứ 46 từ 21 – 22/04/1990 đến Tschechoslowakei) Chân phước Giáo hoàng Gioan Phao-lô đệ nhị, lúc còn sinh tiền đã đến thăm viếng mục vụ quốc gia Tiệp Khắc vừa mới thoát ra khỏi chế độ Cộng sản cai trị từ mấy chục năm qua. Tổng Thống Valav Havel đã chào mừng Đức Giáo Hoàng bằng những lời thấm đượm tin tưởng về phép lạ lễ Hiện Xuống đã cùng đang xảy đến cho đất nước của ông ở thủ đô Praha:
"Chúng ta đang trải qua một phép lạ. Tôi không biết có phải và thế nào là một phép lạ, dẫu vậy tôi cũng cả dám nói lên tâm tình rằng, trong giây phút này tôi đang trải qua một phép lạ. Một người trước đây 6 tháng đã bị bắt giam cầm như một kẻ thù của quốc gia, hôm nay trong tư cách là Tổng Thống của đất nước đó đón tiếp chào mừng vị Giáo Hoàng lần đầu tiên trong lịch sử của Giáo Hội Công giáo, bước chân trên phần đất nước này đến thăm viếng quốc gia chúng tôi.
Tôi không biết có phải và thế nào là một phép lạ, dẫu vậy tôi cũng cả dám nói lên tâm tình rằng, trong giây phút này tôi đang trải qua một phép lạ. Trên công trường này, tại chỗ này trước đây 5 tháng tương lai của đất nước chúng tôi đã được quyết định, hôm nay vị Thủ lãnh Giáo Hội Công Giáo cử hành Thánh lễ. Có lẽ nhờ lời bầu cử của Thánh nữ Agnes xứ Bohemen, người mới đây, năm 1989, đã được tôn phong lên bậc hiển thánh trong Giáo Hội Công Giáo, đã giúp cho những sự việc bí ẩn nhiệm mầu được xảy ra tốt đẹp. Xin cám ơn Thánh nữ.
Tôi không biết có phải và thế nào là một phép lạ, dẫu vậy tôi cũng cả dám nói lên tâm tình rằng, trong giây phút này tôi đang trải qua một phép lạ. Đất nước chúng tôi đã bị ý thức hệ hận thù nghi kỵ gây nên thảm trạng tàn phá đổ nát, hôm nay đây được một sứ giả tình yêu thương đến thăm viếng.
Đất nước chúng tôi bị tàn phá đổ nát vì hệ thống cai trị bởi những người thiếu giáo dục, giờ đây bừng lên hình ảnh dấu hiệu sống động của nền giáo dục đào tạo lành mạnh.
Đất nước chúng tôi trước đây không lâu đã bị xâu xé phân tán do ý thức hệ về đối đầu và phân chia , giờ đây một sứ giả hòa bình, sứ giả của đối thoại đến thăm viếng mang lại bầu khí sự khoan dung với nhau, sự kính trọng thông hiểu trong quan hệ thông thương với nhau. Vị sứ giả đó là người loan tin về sự hợp nhất giữa những khác biệt.
Từ hàng chục năm nay Thần Linh bị xua đuổi, loại trừ, không có chỗ đứng trong quê hương đất nước chúng tôi. Thật là một vinh dự cho tôi hôm nay lúc này trở thành một nhân chứng, được đón tiếp chào mừng đầy tình thắm thiết ôm hôn vị Sứ Giả của các Tông Đồ, của Thánh Thần và của các linh hồn."
Diễn văn chào mừng Đức Giáo Hoàng của Tổng Thống Tiệp Khắc Dr. Valav Havel.
(Trong: Klaus Vellguth (Hrsg.), Gedanken Blitze Stolper Steine, Bergmoser+Holler Verlag GMBH Aachen 1997, Pfingsten, Seite 111-112).
Đức Chúa Thánh Thần hoạt động trong những biến cố của đời sống con người. Tuy âm thầm lặng lẽ, không ồn ào, nhưng gây ra hiệu qủa lớn lao, tạo ra sự thay đổi biến chuyển cho mọi sinh hoạt trong đời sống chung cũng như tư nhân giữa lòng xã hội thế giới.
3. Những thay đổi do tác động của Chúa Thánh Thần
Chúa Thánh Thần là sợi dây nối kết tới Chúa Giê-su. Hình ảnh làn sóng phát thanh, phát hình từ trung tâm phát lan truyền qua mọi không gian đi vào tới tận mọi căn phòng ngóc ngách, là hình ảnh diễn tả sự nối liền nơi này với nơi khác mà con mắt thường không thấy có đường dây nào nối với nhau. Cũng vậy, qua nhờ Chúa Thánh Thần, không nhìn thấy bằng con mắt, chúng ta được nối liền với sức sống tình yêu, với ý muốn của Thiên Chúa, vào đại gia đình của Chúa. Trong đó Chúa Thánh Thần là động cơ sống động, một mầu nhiệm thâm sâu ẩn dấu, cho vạn vật cùng con người.
Chúa Thánh Thần là sức mạnh cho đời sống lúc này và nơi đây. Ngài trao tặng con người chúng ta sức sống thần linh của Thiên Chúa. Nhờ sức mạnh đó chúng ta vượt qua những thử thách khó khăn, can đảm chấp nhận sự thay đổi trong đời sống. Kinh nghiệm này, nhiều người đã trải qua, và đều nói lên rằng: nếu không có sức mạnh từ bên trong tâm hồn của Chúa ban cho, chắc tôi không thể nào có đủ sức thắng vượt qua được giai đoạn khó khăn này!
Chúa Thánh Thần có sức thu hút của một nam châm. Một cục nam châm có sức thu góp những cục kim loại sắt thép lại với nhau. Hội Thánh Chúa ở trần gian bao gồm mọi dân tộc khác nhau, mọi lứa tuổi, mọi giai cấp thành phần, mọi giống nòi với những khác biệt về mầu da tiếng nói cùng văn hóa phong tục tập quán, nhưng Chúa Thánh Thần đã thu hút họ lại thành một gia đình Hội Thánh trong cùng một Chúa, một đức tin, một phép rửa.
Nam châm Chúa Thánh Thần thu hút cùng nhắc Giáo Hội nhớ đến giáo lý lời Chúa Giê-su đã truyền lại. Chính nhờ sức thu hút nam châm Chúa Thánh Thần mà Giáo Hội cũng như người tín hữu Chúa Giê-su đã thắng vượt những thử thách cám dỗ chạy trốn khỏi trường học của Thiên Chúa, khỏi bến bờ tình yêu thương của Chúa. Chúa Thánh Thần là thửa đất cấy trồng nuôi dưỡng, là khí hậu cho hoa trái phát triển tươi tốt nơi cây đời sống của con người chúng ta. Cây cối rau cỏ ngoài vườn luôn cần có phân đất mầu mỡ, nước cùng ánh sáng cho phát triển đơm bông sinh sản hoa trái. Cũng vậy âm thầm trong tâm trí, Chúa Thánh Thần khơi động thúc đẩy cho trí khôn ta vươn lên đi học hỏi tìm tòi, phát triển khả năng tiềm tàng luôn ẩn chứa nơi thân thể trí óc của ta.
Chúa Thánh Thần là làn gió gợi hứng ý tưởng mới cho tâm trí. Và vì thế Ngài gìn giữ cho tâm trí con người trước sự cứng nhắc ngủ quên, nhất là trong lãnh vực đức tin. Có những vấn đề, những thắc mắc được đặt ra vào từng giai đoạn đời sống hôm nay cùng tương lai ngày mai, đòi hỏi phải có câu trả lời cho đổi mới, thích ứng. Vì đời sống xã hội như dòng sông luôn biến chuyển thay đổi.
Lẽ tất nhiên Giáo Hội không thể nào, cùng không được phép bỏ quên nền tảng giáo huấn của Chúa Giê-su để lại như kho tàng bảo chứng của đức tin. Giáo Hội và mỗi người cần sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần tìm ra câu trả lời thích hợp cho những thách đố mới của thời đại về lãnh vực bảo vệ sự sống, bảo vệ giá trị luân lý, gia đình, bảo vệ đức tin và lý luận khoa học. Gìn giữ, bảo vệ và mềm dẻo thích ứng là khả năng Chúa Thánh Thần luôn ban cho tâm trí con người trong đời sống.
"Lạy Chúa Thánh Thần, Xin hà hơi vào tâm hồn con, để con suy tư điều chân chính thánh thiện, Xin thúc đẩy tâm trí con, để con làm điều thiện hảo tốt lành, Xin gợi hứng trí khôn con, để con biết yêu mến điều tốt đẹp, Xin ban ân đức cho tâm hồn con, để con biết gìn giữ những gì là chân thiện mỹ, Xin gìn giữ đời sống con, để con đừng bao giờ lạc xa điều chân thiện mỹ."
“Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” (Ga 20,19).
Sau cái chết như một tử tội của Thầy Giêsu, các môn đệ vô cùng khiếp sợ. Ngay cả sau khi Thầy đã sống lại, các ông vẫn chưa hoàn hồn vì nỗi sợ người Do Thái. Vào buổi chiều Chúa nhật, phòng ở của các ông còn đang đóng kín các cửa, bỗng Chúa hiện đến đứng ngay giữa và trấn an: “Bình an cho anh em!” (Ga 20,19b). Vì sợ hãi làm cho tâm hồn các ông bị khép kín, sống co cụm, cách biệt các mối tương quan, không dám gặp gỡ giao tiếp với ai. Nhưng khi có Chúa ở giữa với lời ban bình an, các ông như được cởi bỏ mối lo sợ đang ngập tràn. Để họ an tâm xác nhận, Người cho các ông xem chân tay và cạnh sườn rồi thổi hơi ban Thánh Thần cho các ông. Người còn truyền sai đi và ban quyền tha tội cho các ông.
“Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,22-23).
Có sự hiện diện với sự bình an và ơn của Chúa Thánh Thần, các ông như được mở tung cõi lòng, như tia nắng mới, làn gió mát ùa vào khiến họ tự tin vững vàng để làm chứng cho Thầy mà không sợ hãi. Sự bình an của Chúa là ơn đặc biệt mà “thế gian chẳng thể ban được”. Sự bình an luôn là niềm khát vọng ngàn đời của cả nhân loại.
Bài đọc I hôm nay mô tả sự kiện vô cùng lớn lao trong ngày lễ Ngũ Tuần. Các môn đệ đang tề tựu một nơi, tiếng gió mạnh từ trời ùa vào, xuất hiện những hình như lưỡi lửa trên từng người. Từ những người kém học, nhút nhát sợ sệt, họ bừng lên sức sống mạnh mẽ, như sức bật của lò xo. Với đầy ơn Thánh Thần, họ có thể nói được các thứ tiếng khác khi chưa hề học tới!
Vâng, chỉ có Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống, là Đấng “sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con”, mới nhóm lên ngọn lửa mến cháy trong lòng mọi người. Người tưới gội chỗ khô khan, sưởi ấm chỗ lạnh lùng và chỉnh đốn lại chỗ chật đường. Nhưng chúng con nhiều khi lại quên mất sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, Đấng làm nên và canh tân, đổi mới mọi sự cách lạ lùng. Chúa Thánh Thần xuống trong tâm hồn các tín hữu, nhẹ nhàng như làn gió, thổi sạch những bụi bặm thế trần trong con người, làm cho họ được thay đổi tế bào từ trong ra ngoài và lớn lên bằng một sức sống mới.
Lạy Chúa, xưa Chúa đã cử Thánh Thần xuống trên Đức Mẹ và các Tông đồ, để thánh hóa Giáo Hội ngay từ buổi sơ khai và sai Giáo Hội đi rao giảng Tin Mừng cứu độ. Xin Chúa tiếp tục công trình đã thực hiện, mà tuôn đổ ơn Chúa Thánh Thần cho mọi tín hữu trên khắp cùng thế giới, để chúng con được hiệp nhất nên một cùng nhau, mà tuyên xưng danh Chúa mãi ngàn đời. Amen.
Có một câu chuyện kể về vị Giáo sư Triết Học, từng dạy tại nhiều trường đại học như sau:
Ông là người tôn thờ Đạo Ông Bà. Tuy nhiên, ngay từ khi còn nhỏ đến lúc lấy học hàm tiến sĩ Triết Học và thạc sĩ Thần Học, ông đã được ảnh hưởng rất nhiều từ nền giáo dục cũng như nơi ở của Đạo Công Giáo qua các dòng tu. Vì thế, ông luôn dành tình cảm đặc biệt đối với Giáo Hội Công Giáo nói chung và với giới nhà tu nói riêng.
Trong những lần tiếp xúc với người Công Giáo, ông thường hay kể: trong thời gian đi du học tại nước ngoài, sau khi đã lấy xong học hàm tiến sĩ Triết tại đại học Harvard, ông đã quyết định học thêm để lấy bằng thạc sĩ Thần Học. Tuy nhiên, cái khó của ông, đó là: muốn học Thần Học, phải có Đức Tin. Không có Đức Tin là một điều vô cùng khó khăn nếu không muốn nói là vô lý! Lúc đó, ông cảm thấy bế tắc!
Tuy nhiên, nhớ đến vai trò của Chúa Thánh Thần mà đã nhiều lần ông được nghe biết đến! Nên ông đã quỳ gối để cầu xin Chúa Thánh Thần soi sáng và giúp ông hiểu được những chân lý, mầu nhiệm của Thiên Chúa qua các môn học Thánh Khoa. Quả thật, khi cầu nguyện với Chúa Thánh Thần, mọi vấn đề được khai sáng. Vì thế, ông không ngần ngại xác nghiệm vai trò của Chúa Thánh Thần bằng câu nói rất dí dỏm nhưng đầy xác quyết như sau: “Mỗi khi khó khăn, hãy cầu xin với ‘Đồng Chí Thánh Thần’ là mọi chuyện sáng ra hết”. Ông còn nói thêm: “Tuy nhiên, khi cầu xin ‘Đồng Chí Ý’ là phải quỳ gối”, ý muốn nói về sự khiêm nhường.
Hôm nay, Giáo Hội mừng lễ trọng kính Chúa Thánh Thần. Khi mừng lễ này, Giáo Hội muốn xác tín mạnh mẽ về vai trò tác sinh mọi sự của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội và xã hội mọi thời.
Vì thế, chúng ta cùng nhau tìm hiểu xem Chúa Thánh Thần là Đấng nào?
Khi nói đến Chúa Thánh Thần, Giáo Hội luôn khẳng định Người là: Thiên Chúa Ngôi Ba; Đấng Quyền Năng (x. Lc 1,35; Mt 12,28; Mt 4,23); Tác Sinh; Thánh Hóa và Biến Đổi; Thần Khí Sự Thật của Đức Giêsu Phục Sinh; là Sức Mạnh (x. Mt 4,1-10); Nguồn Bình An (x. Ga 20,19); là Sự Sống Thần Linh (x. Ga 20,22); Đấng An Ủi, Bào Chữa và Tha Tội (x. Ga 20,23).
Với những tước hiệu khác nhau như vậy, chúng ta sẽ hiểu về vai trò Chúa Thánh Thần qua các hoạt động của Người trong Giáo Hội, như:
Khởi đi từ ngày Lễ Ngũ Tuần, “mọi người được tràn đầy ân huệ của Chúa Thánh Thần qua việc đón nhận hình lưỡi giống như lưỡi lửa, tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần” (x. 1 Cr 12,4-11). Khi nhận được ơn sốt mến và biến đổi qua biểu tượng hình lưỡi lửa, Chúa Thánh Thần đã tác động trực tiếp đến các mục tử đầu tiên của Giáo Hội là các Tông đồ qua việc ban cho các ông một sức mạnh phi thường, lòng can đảm vô biên, nên các ông không còn hèn nhát, sợ sệt và tối trí như trước kia nữa (x. Cv 2,14-36); mà ngược lại, các Tông đồ đã mở toang cánh cửa của sự sợ hãi, sẵn sàng ra đi hiên ngang làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh, Đấng mà trước đó, các ông rất lo sợ bị liên lụy!
Với những lời lẽ đầy khôn ngoan và hết sức thuyết phục (x. Ga 16,12-13), các Tông đồ đã loan báo về Đức Giêsu – Đấng đã chết và phục sinh một cách hùng hồn và đầy xác tín. Hơn nữa, ngọn lửa yêu mến đã thâm nhập vào trong tâm trí và con tim các ông, khiến các ông sẵn sàng chấp nhận thí mạng để làm chứng cho những điều mắt thấy, tai nghe. Kết quả: biết bao nhiêu người đã được ơn nhận biết Thiên Chúa (x. Cv 2,41).
Điều đặc biệt ngay trong thời kỳ đầu của Giáo Hội và mãi cho đến ngày nay, vai trò của Chúa Thánh Thần rất quan trọng trong việc quy tụ mọi người thuộc mọi dân nước và ngôn ngữ trong sự hiệp nhất (x. Cv 2,5-8) (x. Cv 2,42-47).
Khi mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống hôm nay, Giáo Hội muốn mời gọi con cái mình không chỉ biết về Chúa Thánh Thần cũng như vai trò của Người không mà thôi, nhưng Giáo Hội còn đi xa hơn nữa khi kêu gọi con cái mình hãy cộng tác với Chúa Thánh Thần để làm cho ơn thánh của Người được lớn mạnh trong lòng mỗi chúng ta cũng như triển nở trong nhân loại hôm nay.
Muốn được vậy, trước tiên, mỗi người hãy trở nên ngoan hiền, khiêm tốn, giống như một dụng cụ vừa tay Chúa Thánh Thần, để Người tự do biến đổi và sử dụng chúng ta, ngõ hầu mỗi người trở thành muối thành men và ánh sáng soi trần gian.
Thành men, thành muối và ánh sáng cho trần gian, đó là: chúng ta phải sống những đặc tính của người thuộc về Thiên Chúa, là lan tỏa nét đẹp của Đạo Công Giáo bằng chính đời sống tốt lành, gương mẫu của mình, một mặt để ướp con người và thế giới này khỏi hư thối bởi sự vô cảm, dửng dưng, bất nhân, ác thú, gian dối, hình thức, lễ nghi, ăn chơi trác táng…. Mặt khác, cần chiếu tỏa nhân đức như: bác ái; vui vẻ; bình an; kiên nhẫn; nhân từ; hòa nhã; nhẫn nại; hiền lành; tin tưởng; tiết độ; trong sạch, khiêm tốn, liên đới, cảm thông….
Làm được điều đó, mỗi người cần bén rễ sâu và đắm chìm mình trong đời sống cầu nguyện với Thiên Chúa, để nhạy bén với tác động của Chúa Thánh Thần ngang qua các dấu chỉ nơi những sự kiện, biến cố trong cuộc sống của riêng ta, cũng như của xã hội và Giáo Hội.
Có thế, chúng ta mới thực sự làm cho ơn của ChúaThánh Thần tác sinh trong ta và nơi mọi người.
Mong sao, lời tuyên tín đầy xác quyết: “Mỗi khi khó khăn, hãy cầu xin với ‘Đồng Chí Thánh Thần’ là mọi chuyện sáng ra hết” của vị Giáo sư trong câu chuyện trên sẽ là nguồn động lực thúc đẩy chúng ta xác tín rằng: Chúa Thánh Thần chính là Chủ Tể mọi sự trong Giáo Hội và nơi từng người chúng ta hôm nay.
Qua đó, xin cho chúng ta thêm lòng yêu mến và gắn bó mật thiết với Người trong sự khiêm tốn, để Người biến đổi và ban ơn cho ta, ngõ hầu mỗi người trở nên chứng nhân của Đức Giêsu trong thế giới hôm nay. Amen.
Bài Tin mừng hôm nay tường thuật lại việc Chúa Giêsu gặp gỡ các tông đồ, trước ngày Chúa chia tay các ông để về lại với Cha, đấng ngự trên trời. Và cũng là lúc Chúa trao ban Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa ngự đến trên các ông và mọi người.
Chúa thấu suốt lòng các đồ đệ của mình, trong lúc các môn đệ lo sợ, Ngài đã lên tiếng trấn an, nâng đỡ để các ông khỏi xao xuyến khi Ngài không còn hiện diện bên cạnh để dạy dỗ, chỉ bảo các ông. “Bình an cho anh em “, một lời cầu chúc khiến các ông thật an lòng. Và còn phấn khởi hơn nữa khi Ngài lặp lại lần thứ hai: “Bình an cho anh em “ cùng với việc tin tưởng giao nhiệm vụ mới:”Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em“. Còn gì sung sướng cho bằng những học trò được Thầy mình tín nhiệm,ủy thác. Mà đâu chỉ là những lời dặn dò, ủy thác. Chúa còn trao ban Thần khí của Ngài :”Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha,; anh em cầm giữ ai , thì người ấy bị cầm giữ “. Chính từ sức mạnh của Ngôi Ba Thiên Chúa đã đổi mới con người các ông, mà còn đổi mới mặt địa cầu.
Ngày hôm nay, Chúa không hiện diện hữu hình nơi trần gian nữa, nhưng trong lòng tin, dưới tác động của Chúa Thánh Thần mà biết bao người đã tin theo Chúa. Biết bao các đấng Thánh, khởi đi từ các Tông đồ ngày ấy, cho đến các Giám Mục, Linh mục, tu sĩ hay giáo dân vì đã tin vào Chúa nên đã thực hiện được những điều Chúa đã từng làm khi còn tại thế: Cứu chữa những người tật bệnh, đói nghèo. . . Đem lại niềm vui cho bao người khốn khổ, thất vọng, ngã lòng . . . Sẵn sàng đổ máu mình để làm bằng chứng cho tình yêu thập giá. Một Mẹ Tê- rê-xa Can-quýt-Ta Ấn Độ , một Linh mục Mac-xi-mi-li-a Kôn- Bê người Ba Lan, một Tổng Giám Mục Rô-Mê-Rô người Braxin, hay một người Việt Nam chúng con đây, Đức Hồng Y Phan-Xi-Cô Xa-vi-ê Nguyễn văn Thuận và mới đây nhất hai Đấng Thánh Giáo hòang Yoan XXIII, Yoan –Phao-Lô II cùng biết bao vị khác đã đón nhận ấn tín Chúa Thánh Thần, nhận bài sai từ Chúa Giêsu, đã làm chứng cho Chúa, đã đưa biết bao người tin nhận Chúa. Giúp xua đi bao khổ đau và đem Tin Mừng cứu độ đến cho họ.
Xin Chúa Thánh Thần luôn củng cố niềm tin cho chúng con, xin Ngài đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con để mỗi người, từng người chúng con trở nên khí cụ bình an của Chúa trong thế giới này.
Xin Thánh Thần Thiên Chúa đốt lên trong con ngọn lửa sốt mến để con biết đáp lại lời “Thầy cũng sai anh em”, biết đem sự bình an của Đức Kitô đến những người còn chưa được đón nhận Tin mừng, góp phần cùng với mọi tín hữu tạo dựng trời mới đất mới ngay từ cuộc sống trần gian và mai ngày con sẽ được hưởng hạnh phúc với Chúa trong nước trời. AMEN.