Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Kính Mình Máu Chúa Kitô ABC Bài 301-350 Dấu Chỉ của Tình Yêu
(Thứ 6 sau lễ MMTC) --------------------------------------- Năm A:
Phúc Âm: Ga 6, 51-59: "Thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái rằng: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống". Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?" Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Ðấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Ðây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời". - Ðó là lời Chúa.
Năm B:
Phúc Âm: Mc 14, 12-16. 22-26 :“Này là Mình Ta. Này là Máu Ta”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn bánh không men là ngày giết chiên mừng lễ Vượt Qua, các môn đệ thưa Chúa Giêsu rằng: “Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua tại đâu?” Người liền sai hai môn đệ đi và dặn rằng: “Các con hãy vào thành, và nếu gặp một người mang vò nước thì hãy đi theo người đó. Hễ người ấy vào nhà nào thì các con hãy nói với chủ nhà rằng: Thầy sai chúng tôi hỏi: ‘Căn phòng Ta sẽ ăn Lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu?’ Và chủ nhà sẽ chỉ cho các con một căn phòng rộng rãi dọn sẵn sàng và các con hãy sửa soạn cho chúng ta ở đó”. Hai môn đệ đi vào thành và thấy mọi sự như Người đã bảo và hai ông dọn Lễ Vượt Qua. - Ðang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: “Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta”. Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. Và Người bảo các ông: “Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người. Ta bảo thật các con: Ta sẽ chẳng còn uống rượu nho này nữa cho đến ngày Ta sẽ uống rượu mới trong nước Thiên Chúa”. Sau khi hát Thánh Vịnh, Thầy trò đi lên núi Cây Dầu. - Ðó là lời Chúa.
Sau mỗi trận đấu bóng đá, chúng ta thường thấy các cầu thủ đổi áo cho nhau để làm kỷ niệm, hoặc những THÁNHTHỂ-301
Sau mỗi trận đấu bóng đá, chúng ta thường thấy các cầu thủ đổi áo cho nhau để làm kỷ niệm, hoặc những người lính trước khi ra chiến trận, hay tặng cho nhau chiếc lược, cây viết, để sau này còn nhớ đến nhau, nhớ lại thời kỳ oanh liệt đã qua. Lãng mạn hơn nữa, là những người vợ, người chồng hoặc hai người yêu nhau, trước khi đi xa cũng thường trao cho nhau những chiếc nhẫn để khi nhớ đến nhau nhìn vào kỷ vật như đang thấy được người yêu, người vợ bên cạnh, cho dù lúc đó họ đi xa, hay đã mất. Cũng thế, trước khi về trời, trong bữa tiệc ly, Đức Giêsu cũng để lại cho con người một kỷ vật tình yêu, đó là việc Chúa lập phép Thánh Thể để lưu lại cho loài người một bằng chứng tình yêu vĩ đại. Thật vậy, kỷ vật mà Thiên Chúa để lại cho chúng ta không giống như kỷ vật mà con người để lại cho nhau. Kỷ vật của Ngài không phải vàng bạc, cũng chẳng phải tiền của, nhưng kỷ vật mà Đức Giêsu lưu lại cho loài người hết sức đặc biệt, mà từ xưa đến nay tôi chưa thấy ai làm, đó chính là bản thân Ngài, chính Mình Ngài, là một kỷ vật tình yêu huyền nhiệm với hai đặc tính:
Thứ nhất, là kỷ vật được phát xuất từ tình yêu cao thượng
Kỷ vật mà con người trao cho nhau cũng được phát xuất từ tình yêu giữa hai người bạn, hai người thân, hai người yêu hay hai vợ chồng, nói chung tình yêu này được phát xuất giữa con người với con người. Còn kỷ vật mà Đức Giêsu để lại phát xuất từ tình yêu giữa Thiên Chúa với con người, giữa Đấng Tạo Hoá với loài thụ tạo. Vậy có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu khiêm hạ như thế, có ngôn từ nào để diễn tả cho hềt tình yêu đó. Hơn nữa, kỷ vật mà Thiên Chúa trao ban chính bằng xương bằng thịt Ngài, một kỷ vật sống chứ không phải như những kỷ vật chết mà con người trao cho nhau. Thật là một sáng kiến lạ lùng mà chỉ có tình yêu Thiên Chúa mới nghĩ ra được điều đó, là lấy máu thịt Ngài để làm của ăn, của uống nuôi sống chúng ta
Thứ hai, kỷ vật từ trời và hằng sống
Trước khi trao kỷ vật cho con người thiên Chúa đã chuẩn bị từ ngàn xưa và được manh nha khá rõ khi dân Do Thái đi trong sa mạc, đã được Thiên Chúa cho thứ lương thực Manna "bánh từ trời". Đó chính là hình ảnh tiên báo về thứ Bánh Hằng Sống Thiên Chúa sẽ ban chính là Mình và Máu Chúa, Bánh Ngài ban chính là Bánh từ trời, như chính Đức Giêsu đã khẳng định: "Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn và họ đã chết". Đúng vậy, bánh mà Chúa ban chính là Chúa Giêsu, Đấng "từ Chúa Cha mà ra" đã trở thành kỷ vật trường tồn giúp cho con người sống khoẻ, sống mạnh, sống đẹp ở đời này, vừa bảo đảm cho sự sống lại và cuộc sống vĩnh cữu vì "Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì Tôi sống trong người ấy và Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết và được sống đời đời".
Như vậy, kỷ vật mà Thiên Chúa để lại cho loài người không phải là do công trạng của con người, mà là do sáng kiến tình yêu của Thiên Chúa, kỷ vật này không phải ở trần gian mà là từ trời xuống, kỷ vật này cũng không như Manna ăn mà vẫn chết, nhưng được sống đời. Do đó, ai biết đến với Chúa nhận lấy kỷ vật mà Ngài trao ban sẽ thuộc về Chúa ngay từ đời này và mai này sẽ thuộc về Ngài mãi mãi. Vì kỷ vật này là dấu chỉ cho đời sống vĩnh cữu đã khởi sự, và là bảo chứng cho sự sống lại vào ngày sau hết. Đó là ý nghĩa mầu nhiệm Mình máu Thánh Chúa mà chúng ta long trọng cử hành hôm nay.
Vì yêu mà con người trao kỷ vật cho nhau, ngày ngày họ quý trọng và nâng niu kỷ vật như chính người yêu đang sống với họ vậy. Còn Bí Tích Thánh Thể, một kỷ vật tình yêu Thiên Chúa, đã ban cho loài người thì sao? Ngài cũng muốn chúng ta nâng niu quý trọng và sống mật thiết với Ngài, nghĩa là đồng hoá với Ngài, nên giống Ngài trong tư tưởng lời nói và hành động. Để làm dược điều đó cần có đức tin và lòng khao khát, vì thiếu đức tin mà trong bài Tin Mừng hôm nay người Do Thái trở nên bỡ ngỡ không thể chấp nhận điều Đức Giêsu nói, có lẽ vì họ hiểu theo nghĩa qua vật chất, nên không còn thấy cái thiêng liêng nữa. Đúng là: "khi người ta tham lam những cái phù vân, người ta sẽ trở nên lạnh nhạt với những cái vĩnh cữu" hay "quá chăm chú về phần xác sẽ nhếch nhác về phần hồn".
Vậy, để sống tốt với kỷ vật mà Thiên Chúa để lại, chúng ta cần có đức tin và lòng khao khát được thể hiện qua việc năng tham dự Thánh Lễ và Rước Lễ, vì "phúc cho ai được mời đến dự tiệc chiên Thiên Chúa" tất cả chúng ta đều được mời đến dự tiệc Thánh Thể, thế nhưng có khá đông người tham dự Thánh Lễ mà không rước lễ, có khác chi được mời đến dự tiệc mà chẳng ăn uống gì, chỉ ngồi đó "nhìn miệng" người khác ăn rồi ra về sao. Về việc đi lễ, cha mẹ càng phải trở nên tấm gương cho con mình hơn vì "cha nào con nấy", chúng ta không thể làm biếng mà con mình trở nên siêng năng được. Như câu truyện Thầy Thỏ mở lớp dạy học.... Vì thế, cha mẹ phải trở nên gương sáng thì con mình sẽ làm theo.
Ngoài việc đi lễ, rươc lễ còn phải đi tham dự tham lễ cách tích cực, thưa kinh ca hát với cộng đoàn có tâm tình và lòng sốt mến, chứ không phải kiểu đi lễ cho có, đi cho khỏi mắc tội, hoặc ngồi dửng dưng thờ ơ kiểu "hồn con đây mà xác con đâu", hay kiểu:
"khen ai khéo đúc chuông chì dáng thì có dáng, đánh thì không kêu" Chỉ có bề ngoài mà không có bên trong. Nếu chỉ tham dự thánh lễ như thế thì chúng ta quá dửng dưng với kỷ vật mà Thiên Chúa đã ban, nghĩa là chúng ta đang dửng dưng với Chúa, vì kỷ vật là chính Chúa, là Mình Máu Thánh Chúa mà chúng ta đang cử hành trong thánh lễ hôm nay.
Vậy, mỗi người hãy nhìn lại xem mình đến với Chúa bằng tâm tình nào? Đang đi xem một vật triển lãm chăng? Hay đang đi thư giãn vì một tuần làm việc vất vả? Không! Như vậy thì thật sai lầm, vì Chúa để lại kỷ vật cho con người không phải để nhìn, để xem, mà là để sống, sống với Chúa, sống cách chân tình, không những bằng thể xác, tâm hồn, con tim mà bằng cả con người biết kết hiệp mật thiết với Chúa và trở thành một với Ngài như thánh Phaolô đã từng thốt lên: "Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà là Đức kitô sống trong tôi" (Gl 2,20). Amen.
Có những hình ảnh, những vật đã trở thành biểu tượng của tình yêu. Nó giúp cho người đang yêu bày THÁNHTHỂ-302
Có những hình ảnh, những vật đã trở thành biểu tượng của tình yêu. Nó giúp cho người đang yêu bày tỏ tình yêu một cách lãng mạn mà không cần nói bằng lời. Với một trái tim đỏ thắm hoặc hình trái tim bị mũi tên đâm xuyên qua đều là biểu tượng cho tình yêu. Trái tim đỏ thắm nói: tôi xin dâng tặng cả trái tim này! Một trái tim có mũi tên đâm qua như muốn nói: Tôi đã yêu đơn phương! Hai trái tim có mũi tên xuyên qua diễn tả: Chúng mình đã gắn kết với nhau bởi tình yêu!
Hoa hồng cũng là biểu tượng tình yêu. Theo truyền thuyết kể rằng: có một thiếu nữ tên Rodanthe. Nàng đẹp kiều diễm nên rất nhiều chàng trai theo đuổi. Thấy nàng bị dồn ép quá mức, nữ thần săn bắn Diana biến nàng thành một bông hồng rực rỡ và ngát hương, biến những chàng trai yêu cô thành những gai nhọn tua tủa. Một truyền thuyết khác lại cho rằng những bông hoa hồng này sinh ra từ những giọt rượu tiên mà Thần Tình Yêu Cupid đã vô tình đánh rớt xuống mặt đất. Tình yêu đẹp, tình yêu nồng nàn nhưng cũng đầy đau khổ...
Bí tích Thánh Thể cũng là biểu tượng tình yêu mà chính Chúa Giêsu đã thiết lập. Ngài không dùng những hình tượng bên ngoài nên dấu chỉ tình yêu mà Ngài dùng chính Thân Thể Ngài trở thành tình yêu tự hiến cho con người. Thật cụ thể. Thật gần gũi. Qua tấm bánh Chúa ở lại với con người và hiến dâng thân mình nên thần lương nuôi sống cho con người. Thánh Thể Ngài thực sự trở thành một biểu tượng tình yêu tự hiến đến tan biến cho người mình yêu.
Quả thực, không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người tự hiến vì người mình yêu. Tình yêu của Chúa Giêsu không dừng lại ở việc chết cho người mình yêu mà còn hiến ban chính Thánh Thể Ngài nên nguồn sức sống cho con người. Vì yêu con người nên Ngài đã nhỏ những giọt rượu tiên ân phúc xuống cho dương gian. Từ đây “Ai ăn và uống máu Ngài thì sẽ có sự sống đời đời”. Từ đây qua bí tích Thánh Thể Ngài sẽ ở cùng con người mọi ngày cho đến tận thế.
Điều tâm huyết mà Chúa muốn nơi chúng ta thực thi đó chính là “hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Khi Chúa cầm bánh và rượu dâng lên và trao ban cho các môn đệ Ngài đều tha thiết mời gọi: “hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Đó là việc của hiến tế, việc của yêu thương đến trao ban chính máu thịt mình cho anh em. Chúa muốn người môn sinh của Chúa lập lại hằng ngày trên mọi nẻo đường dương gian hành vi của yêu thương và tự hiến cho người mình yêu.
“Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” chính là hãy bẻ đời mình ra như tấm bánh đem lại niềm vui, sức sống, hạnh phúc cho tha nhân. Có lẽ ai cũng đã từng nâng niu chiếc bánh. Ai cũng từng vui sướng khi mẹ trao cho tấm bánh. Tấm bánh nào cũng có những giá trị riêng. Tấm bánh nào cũng mang lại niềm vui cho người được nhận vì tấm bánh tự bản thân là tự hiến cho con người. Do đó, cuộc đời người tín hữu cũng được mời gọi hãy là tấm bánh mang lại niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân. Cuộc đời người tín hữu cũng trở nên tự hiến để yêu thương và phục vụ con người. Không có yêu thương phục vụ thì đời người tín hữu không có giá trị như tấm bánh đã hết date hay đã không còn sử dụng làm của ăn cho con người.
Có lẽ chúng ta còn nhớ tới vụ động đất tại Nhật Bản vào tháng 3 năm 2011 với một câu chuyện thật cảm động về tình mẹ. Chuyện kể rằng: Sau khi động đất qua đi, lực lượng cứu hộ bắt đầu các hoạt động tìm kiếm cứu nạn. Và khi họ tiếp cận đống đổ nát từ ngôi nhà của một phụ nữ trẻ, họ thấy thi thể của cô qua các vết nứt. Nhưng tư thế của cô có gì đó rất lạ, tựa như một người đang quỳ gối cầu nguyện; cơ thể nghiêng về phía trước, và hai tay cô đang đỡ lấy một vật gì đó. Ngôi nhà sập lên lưng và đầu cô.
Đội trưởng đội cứu hộ đã gặp rất nhiều khó khăn khi anh luồn tay mình qua một khe hẹp trên tường để với tới thi thể nạn nhân. Anh hy vọng rằng, người phụ nữ này có thể vẫn còn sống. Thế nhưng cơ thể lạnh và cứng đờ cho thấy cô đã chết.
Cả đội rời đi và tiếp tục cuộc tìm kiếm ở tòa nhà đổ sập bên cạnh. Không hiểu sao, viên đội trưởng cảm thấy như bị một lực hút kéo trở lại ngôi nhà của người phụ nữ. Một lần nữa, anh quỳ xuống và luồn tay qua khe hẹp để tìm kiếm ở khoảng không nhỏ bên dưới xác chết. Bỗng nhiên, anh hét lên với vẻ đầy ngạc nhiên: "Một đứa bé! Có một đứa bé!".
Cả đội đã cùng nhau làm việc; họ cẩn thận dỡ bỏ những cái cọc trong đống đổ nát xung quanh người phụ nữ. Có một cậu bé 3 tháng tuổi được bọc trong một chiếc chăn hoa bên dưới thi thể của người mẹ. Rõ ràng, người phụ nữ đã hy sinh để cứu con mình. Khi ngôi nhà sập, cô đã lấy thân mình làm tấm chắn bảo vệ con trai. Cậu bé vẫn đang ngủ một cách yên bình khi đội cứu hộ nhấc em lên.
Bác sĩ đã nhanh chóng kiểm tra sức khỏe của cậu bé. Sau khi mở tấm chăn, ông nhìn thấy một điện thoại di động bên trong. Có một tin nhắn trên màn hình, viết: "Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con".
Một tin nhắn thật cảm động. Cảm động vì nó nói lên một tình yêu hy sinh cao đẹp mà người mẹ dành cho con. Qua bí tích Thánh Thể Chúa Giêsu cũng để lại cho chúng ta một tin nhắn: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”. Chúa Giêsu không chỉ muốn chúng ta hãy nhớ rằng Ngài rất yêu thương chúng ta mà Ngài còn mời gọi chúng ta hãy tiếp tục thi thố tình yêu ấy đến cho anh em.
Ước gì là người ky-tô hữu chúng ta hãy làm cho tình yêu của Chúa được hiện tại hóa qua đời sống yêu thương phục vụ của mình. Ước gì từng lời nói, từng việc làm của chúng ta cũng để lại một tin nhắn cho anh em chính là tin nhắn của tình yêu tự hiến cho anh em. Amen.
Con người là xác và hồn. Con người gồm có vật chất, tinh thần và những THÁNHTHỂ-303 Dalat
Con người là xác và hồn. Con người gồm có vật chất, tinh thần và những yếu tố thuộc tính linh thiêng. Là con người, chúng ta không thể chỉ sống bằng cơm bánh, chúng ta còn được nuôi dưỡng bằng những của ăn tinh thần như học tập, giải trí, lao động nghệ thuật...Hơn nữa, chúng ta còn phải đón nhận lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng đời sống linh hồn của mình nữa. Thấu hiểu điều đó nên Chúa Giêsu đã nói: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban tặng là thịt Ta đây để cho thế gian được sống" (Ga 6, 51)...Như thế, chính Mình Máu Chúa Giêsu là lương thực thiết yếu nuôi dưỡng con người chúng ta, để cho chúng ta sống, tồn tại và can đảm tiến bước trên đường lữ thứ về quê hương đích thực. Chính Mình Máu Chúa đang làm thỏa mãn niềm khao khát của tâm hồn của chúng ta.
Bởi vì Thiên Chúa yêu thương con người nên Ngài đã dựng nên con người, dựng con người "theo hình ảnh Ngài, theo hoạ ảnh Ngài" (St 1, 27). Thiên Chúa yêu thương con người nên đã cho Ngôi Con xuống trần gian mạc khải cho con người biết tình thương của Thiên Chúa và Ngài đã chết vì yêu thương nhằm để cứu chuộc con người, Ngài đã mang lại phẩm giá cao sang mà con người đã đánh mất vì nguyên tội bất tuân. Hơn nữa, trước khi đi vào cuộc thương khó và phục sinh, Ngài đã lập bí tích Thánh Thể để lại ân huệ của sự sống cho con người, Ngài muốn cho con người đón nhận ngài bằng việc "ăn uống" chính Thịt Máu của Ngài để được hiệp thông với Ngài, hiệp thông với sự sống vĩnh cửu, để con người còn có thể hiệp thông với nhau nhờ "ăn uống" Mình Máu Ngài. Do đó, Ngài cho con người thông dự vào bản tính thần linh của Thiên Chúa nhờ việc đón lấy Mình Máu Chúa, thông dự trước vinh quang Nước Trời, nếm trước nguồn hạnh phúc vĩnh cửu. Nhờ đón lấy Mình Máu Chúa Kitô, con người được kết hợp mật thiết với Ngài và với nhau làm nên Thân Thể Mầu Nhiệm Chúa Kitô mà Chúa Kitô là Đầu và là Thủ lãnh của một dân tộc mới, dân tộc thánh thiện làm nên dân thánh của Ngài.
Bí tích Thánh Thể là bí tích Tình Yêu, là trung tâm của đời sống yêu thương của con người. Vì yêu thương Chúa Kitô đã có sáng kiến thiết lập bí tích Thánh Thể, Ngài dùng chính Thịt Máu Ngài để nuôi dưỡng loài người chúng ta. Ngày xưa dân Do Thái đi trong sa mạc sống nhờ ăn manna từ trời và uống nước từ tảng đá vọt ra nhưng họ vẫn phải chết. Còn hôm nay, con người sống trong thời đại mới, thời đại giao ước mới của Chúa Kitô, người kitô hữu được nuôi dưỡng bằng chính Thịt Máu Chúa Kitô, Thịt Máu con Vua Trời,...nơi bàn tiệc Thánh Thể. Của ăn Thịt Máu Chúa Kitô sẽ làm cho chúng ta được sự sống đời đời như Chúa giêsu đã nói "Ai ăn Thịt Ta sẽ được sự sống đời đời". Chúng ta sẽ sống chứ không phải chết nhờ ăn uống Thịt Máu Ngài. Chính Chúa Kitô đã xác quyết mạnh mẽ: "Thịt Ta thật là của ăn và Máu Ta thật là của uống" (Ga 6, 55). Ngài đã chấp nhận trở thành của ăn và của uống là những thứ thường tình nhất của đời sống con người để đưa con người vào sự sống đời đời.
Từ việc được kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể sẽ đưa chúng ta đến việc hiệp nhất với tha nhân. Nhờ đón rước bí tích Thánh Thể, chúng ta sẽ có thêm tình yêu và nghị lực để sống tinh thần hiệp thông, chia sẻ với tha nhân. Mình Máu Chúa Kitô giúp chúng ta yêu thương Thiên Chúa nhiều hơn và cũng biết yêu thương tha nhân nhiều hơn. Yêu mến Thiên Chúa giúp chúng ta tránh lỗi phạm đến những giao ước, lề luật và tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Yêu thương tha nhân giúp chúng ta dễ gần gũi, dễ thông cảm, dễ sẻ chia và dễ tha thứ cho tha nhân. Khi đó tình yêu của Thiên Chúa nơi Mình Máu Chúa là động lực thúc đẩy chúng ta sống yêu thương một cách trọn vẹn và chân tình, cụ thể và thâm sâu.
Mở rộng tâm hồn đón nhận Mình Máu Chúa, con người sẽ mở rộng trái tim và đôi bàn tay để đón nhận Ngài nơi tha nhân. Chúa Giêsu từ trời xuống thế cũng nhằm mục đích lôi kéo con người trở về với Thiên Chúa Cha. Người Kitô hữu cũng có trách nhiệm lôi kéo anh em mình trở về với Thiên Chúa như vậy. Khi được chia sẻ mình Máu Chúa Kitô, người Kitô hữu cũng đưỡc mời gọi chia sẻ cơm bánh hằng ngày cho tha nhân. Và kỳ diệu thay, chính khi chia sẻ với tha nhân, con người cảm nhận được sự sống và niềm hạnh phúc vĩnh cửu trong tâm hồn ngay trong chính cuộc sống này.
Lạy Chúa Giêsu, cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con lương thực trường sinh chính là Mình Máu Thánh Chúa. Xin cho chúng con siêng năng rước Chúa, thường xuyên tâm sự với Chúa bằng việc viếng Thánh Thể. Chúa đã tự hiến vì yêu thương chúng con, xin giúp chúng con cũng biết sống yêu thương tha nhân bằng việc chia sẻ, giúp đỡ, tha thứ và giúp đỡ tha nhân thăng tiến đời sống con người và đạt được hạnh phúc đời đời. Amen.
Khi thông ban Sự Sống của chính mình cho nhân loại, Thiên Chúa ban cho họ một hồng ân ÁNHTHỂ-304
Khi thông ban Sự Sống của chính mình cho nhân loại, Thiên Chúa ban cho họ một hồng ân cao quý hơn hết mọi hồng ân, một quà tặng tuyệt vời trên tất cả mọi món quà
Không gì trên đời quý bằng sự sống. Dù có bị thiên tai mất hết ruộng vườn, tài sản, nhà cửa, tiền bạc, nhưng chưa phải chết thì vẫn còn may.
Được sống là một hồng phúc lớn nhất, là một ân huệ vượt trên hết mọi ân huệ. Theo nhà văn Jack London thì "thà làm một con chó sống còn hơn làm một con sư tử chết". Làm một con chuột sống còn hơn một con voi chết! Thế nên người ta thường nói: "Mạng sống quý hơn đống vàng".
Vì yêu thương con người trên hết mọi sự, nên Thiên Chúa muốn dành cho họ quà tặng cao quý hơn tất cả mọi quà tặng, đó là sự sống; nhưng Thiên Chúa không chỉ ban sự sống sinh vật mà còn thông ban cả Sự Sống của chính Thiên Chúa cho con người nữa.
Thông ban sự sống thần linh
Thiên Chúa Cha là Cội Nguồn của Sự Sống. Sự Sống bắt nguồn từ Chúa Cha. Người thông ban Sự Sống của Người cho Chúa Con (Chúa Cha nhiệm sinh Chúa Con). Chúa Giêsu xác nhận sự sống của Người từ Chúa Cha mà đến: “Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha” (Ga 6, 57)
Một khi nhận được sự sống từ Chúa Cha, Chúa Giêsu không giữ lại cho riêng mình, nhưng tìm cách thông truyền Sự Sống cao quý ấy cho nhân loại.
Bằng cách nào?
Muốn cho cành nho rừng tiếp nhận được sự sống của cây nho vườn, thì nó phải được tháp nối để nên một với cây nho vườn.
Muốn cho một bàn tay bị cắt lìa thân được tiếp nhận sự sống từ thân thể thì bàn tay đó phải được ghép nối vào thân thể, trở nên một với thân thể. Vậy muốn cho loài người tiếp nhận được Sự Sống của Chúa Giêsu thì phải làm cho họ nên một với Chúa Giêsu.
Thế nên, Chúa Giêsu lập nên bí tích Thánh Thể, hiến ban Thịt và Máu Người, dưới hình bánh rượu, làm của ăn cho nhân loại, để cho những ai lãnh nhận Mình Máu thánh Người thì được nên một với Người, được ở lại trong Người: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy.”
Những ai “ở lại trong Chúa Giêsu và có Chúa Giêsu ở lại trong người ấy”, thì tất nhiên Sự Sống của Chúa Giêsu sẽ được thông ban cho người ấy.
Điều tuyệt vời là Sự Sống mà Chúa Giêsu thông ban, qua việc tiếp nhận Mình Máu Người, không phải là sự sống sinh vật có thể bị lụi tàn theo năm tháng mà là Sự Sống vĩnh cửu không bao giờ tàn phai.
“Đức Giêsu nói với người Do-thái rằng: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6, 51)
“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.” (Ga 6, 54)
Thế là thông qua việc ăn Mình và Máu Chúa Giêsu, con người được nên “cùng một thân mình, cùng một dòng máu” với Chúa Giêsu và do đó, Sự Sống thần linh của Chúa Giêsu sẽ được thông ban cho họ.
Khi thông ban Sự Sống của chính mình cho nhân loại, Thiên Chúa ban cho họ một hồng ân cao quý hơn hết mọi hồng ân, một quà tặng tuyệt vời trên tất cả mọi món quà.
Biến đổi con người thành Chúa Giêsu
Ngoài ra, khi tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa Giêsu trong Bí Tích thánh thể, chúng ta còn được biến đổi để nên một Giêsu khác. Thánh Giáo hoàng Lê-ô Cả khẳng định:
“Thực thế, chúng ta thông phần Mình và Máu Chúa Kitô là để được biến thành Đấng chúng ta rước lấy” (trích bài giảng của thánh Lê-ô cả giáo hoàng, trong bài đọc kinh sách ngày thứ tư, tuần 2 phục sinh)
Giáo huấn của Hội Thánh còn dạy cho biết nhờ tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa Giêsu, chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa:
“Khi bạn ăn uống Mình và Máu Đức Kitô, bạn nên một với Người, cùng một thân mình, cùng một dòng máu. Như thế, chúng ta trở thành những người mang Đức Kitô, có Mình Máu Người thấm nhập khắp toàn thân. Nhờ vậy, theo lời thánh Phê-rô, chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa.” (trích bài giáo huấn cho các tân tòng tại Giê-ru-sa-lem trong bài đọc kinh sách ngày thứ bảy, tuần bát nhật phục sinh)
Lạy Chúa Giêsu, Hồng ân Chúa ban thật vô cùng lớn lao và quý báu nhưng tiếc thay, nhiều người không nhận biết nên tỏ ra hững hờ.
Xin cho tâm hồn chúng con tràn đầy hoan lạc trước hồng phúc vô giá và khao khát tiếp nhận hồng ân nầy với hết lòng cảm tạ tri ân.
Tin Mừng thuật lại một bữa ăn. Đó là bữa ăn cuối cùng của Chúa Giêsu, được gọi là bữa Tiệc Ly, lại THÁNHTHỂ-305
Tin Mừng thuật lại một bữa ăn. Đó là bữa ăn cuối cùng của Chúa Giêsu, được gọi là bữa Tiệc Ly, lại đúng vào tiệc Vượt qua, kỷ niệm biến cố Chúa giải thoát Israel ra khỏi đất Ai Cập. Trong đời thường, chúng ta đã từng ăn uống. Cơm nhà cơm khách, ăn cưới ăn giỗ. Ăn với gia đình hoặc vò võ một mình, cơm hàng cháo chợ. Cỗ bàn thịnh soạn hay dưa mắm cho qua bữa.
Chúa Giêsu cũng đã ăn uống. Ngài dự tiệc cưới tại Cana. Ngài nhận lời đến ăn cơm tại nhà Matthêu và Giakêu. Ngài dùng bữa với chị em Maria, Martha và Lagiarô tại Bêtania. Và chắc chắn Ngài cũng ngồi ăn với dân chúng trong biến cố bánh hoá nhiều. Tất nhiên, Ngài cũng thường xuyên ăn uống với nhóm 12. Và thậm chí, Ngài còn dùng bữa với những kẻ tội lỗi, khiến cho bọn biệt phái phải lên tiếng: Tại sao thầy các ông lại ăn uống với bọn thu thuế và phường tội lỗi như vậy.
Ăn để nuôi thân. Cơm rau cá thịt bồi bổ thân xác, tạo sinh lực. Và hơn thế nữa, bữa ăn còn là dịp để gặp gỡ, cảm thông và chia sẻ tâm tình như ăn cưới, ăn khao hay để tưởng nhớ một người đã khuất như ăn giỗ. Trong bữa ăn, thân xác tiếp nhận thực phẩm, còn tinh thần được hưởng niềm vui hội ngộ: cha mẹ con cái gặp nhau, họ hàng bè bạn gặp nhau. Có thức ăn được bày biện cụ thể trên mâm, nhưng cũng có thức ăn vô hình là những vui buồn được mọi người chia sẻ, cảm thông. Và như thế, bữa ăn nào cũng có hai loại thực phẩm. Hữu hình và vô hình. Hữu hình đó là cơm rau cá thịt. Còn vô hình đó là những nỗi niềm, những cảm xúc, những kỷ niệm.
Trong bữa Tiệc Ly cũng có hai loại thức ăn. Thức ăn hữu hình là một ít rau, một ít bánh không men và một ít rượu. Còn thức ăn vô hình đó là kỷ niệm về cuộc vượt qua khỏi kiếp sống nô lệ của dân Do Thái, là giao ước Thiên Chúa đã ký kết với dân Ngài, là ký ức về những tháng ngày Chúa Giêsu sống với các môn đệ; là niềm cay đắng khi biết có một môn đệ phải bội Ngài, là cuộc vượt qua do chính Ngài thực hiện qua cái chết.
Mọi bữa ăn trước đây, Ngài đã ngồi đồng bàn và trở thành đồng bạn. Đồng bàn vì cùng ăn uống những thực phẩm được dọn ra. Đồng bạn vì Ngài cùng hiệp thông và chia sẻ mọi nỗi vui buồn của họ. Còn trong bữa Tiệc Ly Chúa Giêsu đồng bàn với nhóm 12 và trở nên bạn hữu của họ. Và hơn thế nữa còn trở nên kẻ hầu người hạ khi cúi xuống rửa chân cho họ.
Tình yêu vào giây phút ly biệt này đã thôi thúc Ngài đưa ra lời cam kết bằng chính mạng sống của Ngài, mạng sống của Thiên Chúa làm người. Lời cam kết này được biểu lộ bằng máu sẽ đổ ra ngày hôm sau trên đỉnh đồi Canvê. Đồng thời qua bữa tiệc này Ngài còn bày tỏ ước nguyện của mình: Đó là Ngài sẽ vượt qua mọi giới hạn của thân phận con người để đi vào cõi sâu xa bên trong hầu thông truyền cho con người sự sống của Thiên Chúa bằng cách cho con người được ăn và uống Thiên Chúa.
Như thế con người được nuôi dưỡng bằng chính sự sống của Thiên Chúa. Được Thiên Chúa nuôi dưỡng, con người sẽ đi vào cuộc sống của Thiên Chúa. Ăn uống là để được nuôi dưỡng và gặp gỡ. Cũng vậy nơi bàn tiệc Thánh Thể, Thiên Chúa cũng nuôi dưỡng và gặp gỡ chúng ta, nhờ đó chúng ta được sống bằng chính cuộc sống của Thiên Chúa.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ – Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Trong phòng tiệc ly, Chúa Giêsu đã phán với các môn đệ: “Này là Mình Thầy … Này là Máu Thầy”. THÁNHTHỂ-306
Trong phòng tiệc ly, Chúa Giêsu đã phán với các môn đệ: “Này là Mình Thầy … Này là Máu Thầy”. Các môn đệ đã tin, đã kính cẩn lãnh nhận, dầu các ông không hiểu sự việc sẽ ra sao. Còn Chúa Giêsu, Ngài đã thấy rõ ràng: Trong vườn cây Dầu, Ngài nói với môn đệ: “Này Con Người bị nộp vào tay phường tội lỗi” (Mc. 14, 41). Khi quân dữ đến, Ngài nói với chúng: “Này tôi đây”. Trước lời nói đó, quân dữ và Giuđa đã giật lùi lại và ngã nhào xuống đất. Nếu cứ để chúng sợ hãi, thì hỏng việc cứu độ, nên Ngài đã cho chúng đứng dậy và tự ý nộp mình Ngài cho chúng. Ngài bảo: “Này tôi đây. Các ngươi bắt tôi thì để cho những người này ra đi” (Ga. 18, 5-8). Chúng đã hỗn độn tranh nhau chộp lấy mình Ngài.
Trước quảng trường dinh Philatô, Đức Giêsu bước ra, đầu đội triều thiên gai, khoác áo choàng đỏ. Ngài không nói, Philatô nói thay Ngài: “Này là Người”, các thượng tế, Pharisiêu và dân chúng la hét lên: “Đóng đinh, đóng đinh ngay đi” (Ga. 19, 5-6). Họ đã kéo lôi mình Ngài cách hằn học, dữ tợn, rồi đem đi giết, phanh thây, chọc tiết. Họ đã giết được một người, người đó Gioan tiền hô đã bảo với họ: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”.
Giết xong, họ về nhà giết một con chiên khác, con chiên thú vật, để mừng đại lễ Vượt qua: một lễ quốc khánh của toàn dân Do thái để kỷ niệm hai biến cố lịch sử oai hùng vĩ đại nhất của dân tộc. Một là: Thiên Chúa giải phóng dân tộc thoát ách nô lệ Ai Cập. Ngày đó Thiên Chúa đã truyền cho Môisen và tổ tiên họ: giết con chiên một tuổi, sung sức nhất, trong sạch nhất, lấy máu nó bôi lên cửa nhà dân Do thái để được cứu sống. Còn cửa nhà dân Ai Cập, không có máu chiên thì các con đầu lòng bị giết. Sau đó họ ăn thịt chiên với bánh không men lấy sức mạnh vượt ra khỏi đất Ai Cập để về quê hương đất hứa Thiên Chúa ban.
Hai là biến cố: Thiên Chúa đã lập giao ước với toàn dân ở núi Sinai. Thiên Chúa đã truyền cho ông Môisen xuống núi thuật lại lời giao ước và giới luật của Chúa. “Toàn dân đồng thanh đáp: Mọi lời Chúa phán, chúng tôi sẽ thi hành. Rồi họ ngả chiên bò làm lễ toàn thiêu và lễ hiệp thông.
Họ làm lễ toàn thiêu bằng thiêu đốt tất cả lễ vật dâng lên trước nhan Chúa để tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và làm chủ mọi loài, Ngài đã ban sự sống cho họ, vì thế, họ hoàn toàn phó thác mạng sống mình và dân tộc mình cho Thiên Chúa.
Họ làm lễ hiệp thông để lấy máu thịt chiên bò. Một nửa máu được rẩy trên bàn thờ, tượng trưng phía Thiên Chúa. Một nửa rẩy trên toàn dân, lúc đó Môisen tuyên bố: “Đây là Máu giao ước Chúa lập với anh em”.
Sau đó, họ ăn thịt chiên hy tế trước tôn nhan Thiên Chúa để hiệp thông sự sống của Thiên Chúa.
Hôm nay lễ Mình Máu Chúa Kitô, bài đọc 1 nhắc đến giao ước cũ thời Môisen, bài tin mừng nhắc đến giao ước mới thời Chúa Giêsu và do chính Chúa Giêsu thiết lập bằng Mình Máu Ngài.
Bài đọc 2, thánh Phaolô đã so sánh cho ta thấy giao ước cũ chỉ là hình bóng bề ngoài của giao ước mới.
Giao ước cũ chỉ là máu chiên bò không thể xóa được tội lỗi. Trái lại, năm này qua năm khác, chính những hy lễ đó nhắc cho ta nhớ mình có tội. Vì vậy, Chúa chẳng ưa thích những sinh lễ đó (Dt. 10, 3-5).
Giao ước mới, chính là Đức Kitô vừa làm thượng tế đem phúc lộc của thế giới tương lai trường cửu đến cho loài người, vừa tự hiến tế chính máu mình, chỉ một lần, đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta, thanh tẩy lương tâm khỏi chết, xóa tội muôn người, đền tội nhân loại và đem lại cho những ai được Thiên Chúa kêu gọi mọi quyền lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa đã hứa (Dt. 9, 11-15. 28 và 10, 12).
Lạy Chúa Giêsu nhân ái, Ngài đã thương mến trao mình máu Ngài cho các môn đệ, Ngài đã nhẫn nhục nộp mình cho quân dữ và hy sinh mạng sống mình cho chúng con. Ngài thương xót tất cả, kể cả kẻ thù, đều được máu Ngài thanh tẩy lương tâm khỏi chết rửa sạch mọi tội lỗi, Ngài muốn tất cả đều được đồng huyết nhục với Ngài, được hiệp thông bản tính vinh quang của Thiên Chúa và được hưởng gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa hứa ban. Xin cho chúng con tha thiết kính cẩn đón rước Mình Máu Ngài, nhiệt tình yêu mến Ngài, đồng sinh đồng tử và đồng hành với Ngài luôn mãi. Xin đừng bao giờ để chúng con xô đẩy, đánh đập Ngài, phanh thây, đâm thủng trái tim từ ái của Ngài.
Lễ vượt qua là ngày kỷ niệm một biến cố trọng đại như ngày dân Do Thái thoát khỏi đất Ai Cập THÁNHTHỂ-307
Lễ vượt qua là ngày kỷ niệm một biến cố trọng đại như ngày dân Do Thái thoát khỏi đất Ai Cập, ngày giải phóng dân Do Thái khỏi cảnh nô lệ của người Ai Cập. Cũng giống như ngày di cư của người Việt Nam thoát khỏi cảnh đô hộ của Cộng Sản năm 1954 hay 1975.
Lễ vượt qua của Chúa là gì? Để kỷ niệm ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu ở ngoài thành Giêrusalem, Ngài sai 2 môn đệ là Phêrô và Gioan vào thành để dọn bữa. Nhà được hân hạnh đón mừng lễ là nhà ông thân sinh của Marcô (Act.15:27), một căn phòng rộng rãi chứa được 120 người khách (Act.1:12). Đang khi ăn Ngài làm một việc cả thể: "Ngài Lập Phép Thánh Thể". Nghĩa là đang ăn, Ngài biết đến giờ phải rời bỏ các môn đệ và những người thân tín, Ngài không nỡ rời bỏ họ cô đơn, không biết cách nào ở lại với họ, Ngài đứng dậy khỏi bàn ăn, lấy khăn thắt lưng rồi đổ nước vào chậu, đi rửa chân cho các môn đệ. Rồi trở lại bàn ăn, cầm lấy bánh và rượu mà truyền: "Này là Mình Thầy, này là Máu Thầy sẽ đổ ra vì các con, các con hãy cầm lấy mà ăn, mà uống. Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy".
2. Thánh Thể mầu nhiệm của tình yêu:
Thánh Tôma gọi Thánh Thể là mầu nhiệm của tình yêu vì: Chúa là tình yêu, vì yêu thương nhân loại còn ở thế gian mà Chúa bị sự thúc đẩy quá mức của tình yêu Chúa, Chúa thiết lập Thánh Thể nhiệm mầu. (Chúng ta tưởng tượng hình ảnh con chim đềnh đềnh, vì yêu thương các con nên đã lấy máu mình cho con uống, Chúa cũng thế, vì muốn hiện diện nơi loài người, đến lúc phải lìa bỏ, Ngài đã muốn ngự trong tấm bánh để ở lại với họ). Thánh Thoma đã nói: "Tình yêu đã hóa ra tình yêu".
3. Có chuyện kể rằng:
Ngày 8 tháng 7 năm 1990, vừa qua là ngày kết thúc cuộc đấu bóng đá tại nước Italia. Người ta kẻ thắng người thua đã chảy bao nước mắt.
Cha Antoine De Melo, một linh mục từ nước Ấn độ đã kể chuyện như sau:
Chúa Đức Giêsu nghe thấy người ta than phiền về cuộc đấu bóng gay go giữa 2 đội tuyển Tin Lành và Công Giáo. Khi đội tuyển Công Giáo làm bàn 1-0, thì Đức Giêsu hoan hô vang dội và tung cả mũ lên trời. Vài phút sau, trong 1 cuộc phản công đẹp mắt, đội Tin Lành đã gỡ hòa 1-1. Đức Giêsu cũng reo hò và tung mũ lên trời. Một khán giả ngồi bên cạnh lấy làm khó chịu về thái độ của Chúa, ông lớn tiếng la lên:
- Này ông bạn, ông ủng hộ phe nào vậy? Chúa Đức Giêsu trả lời:
- Tôi à? Tôi không ủng hộ bên nào cả. Tôi tới đây chỉ để 'thưởng thức "Trận đấu mà thôi!"
Ông khán giả tỏ vẻ khó chịu về thái độ của Đức Giêsu, liền ghé qua ông bên cạnh nói nhỏ:
- Hắn ta là tên ba phải đấy!
Trên đường trở về nhà, chúng tôi chất vấn Ngài về tình hình tôn giáo trên thế giới. Chúng tôi nói với Ngài:
- Thưa Ngài, người ta thật buồn cười! Họ tưởng rằng Thiên Chúa đứng về phía họ mà đả phe nghịch kia chứ.
Đức Giêsu gật đầu bảo:
- Thiên Chúa thì không ủng hộ tôn giáo nào cả, mà chỉ ủng hộ con người. Con người cao trọng hơn Tôn Giáo. Chúng con lại chẳng biết là chính những người có Tôn Giáo đó, chúng treo Thiên Chúa lên trên cây thập giá là gì!
Câu chuyện cho ta tư tưởng: Một trong những vết thương lớn nhất của nhân loại trải qua các thời đại, là thái độ bất khoan dung với tôn giáo. Con người chỉ biết nhân danh Thượng Đế, nhân danh Thần Linh và nhân danh quyền lực của mình, để hạ bệ người khác. Thực có Tôn Giáo nào dậy như vậy không?
Câu chuyện cho ta thấy, Chúa yêu thương loài người hơn hết mọi chuyện. Ngài chỉ ủng hộ con người và thiết lập Bí Tích Thánh Thể cũng chỉ vì loài người. Xin cho chúng con biết một lòng sùng kính Bí Tích mến yêu này, để luôn nghiệm thấy hiệu quả của ơn cứu chuộc chúng con.
Hôm nay, tất cả mọi tín hữu Công Giáo trong khắp thế giới đều cùng nhau xuống đường để cầu nguyện THÁNHTHỂ-308
Hôm nay, tất cả mọi tín hữu Công Giáo trong khắp thế giới đều cùng nhau xuống đường để cầu nguyện và ca tụng Thiên Chúa một cách công khai trên trên các đường phố và tại các công viên, v.v… điều mà chúng ta thường chỉ làm trong các nhà thờ hay trong các nguyện đường, sau những cánh cửa khép kín.Tự bản chất, chính sự xuống đường như thế đã là một bài thuyết giáo hùng hồn rồi. Và người ta gọi sự xuống đường-cầu nguyện đó bằng một danh xưng cổ điển rất trang trọng: Rước Kiệu!
Biến cố xuống đường hay rước kiệu của các Kitô hữu chúng ta hôm nay, trong ngày đại lễ kính Mình và Máu Thánh Đức Giêsu, có một khuôn mặt, có một nội dung, hay nói cách khác, nó nói lên một điều gì đó. Đức cố Giám Mục Georg Moser, giáo phận Rottenburg-Stuttgart (CHLB Đức) đã nói một lời, mà nếu chúng ta hiểu rõ, tất cả chúng ta sẽ ý thức được những gì chúng ta muốn bày tỏ và muốn nói lên trong ngày lễ trọng đại này: Chúng ta không biểu tình, không chống đối, không khiêu khích ai cả. Tất cả những người tín hữu công Giáo chúng ta chỉ muốn mang đến cho những người anh em bên lương hay vô tín ngưỡng một sứ điệp rất đáng lắng nghe. Lời của Giám Mục Moser là: “ Trong niềm tin kính Phép Thánh Thể, chúng ta cảm nghiệm được rằng tình yêu của Thiên Chúa đố vớii loài người chúng ta không bao giờ tắt “ (Messbuch ‘77’, trang 418). Với câu nói này, Đức Giám Mục Moser đã tóm tắt được những câu viết có nội dung đầy xúc tích trong bài Sách Thánh và bài Phúc Âm. Vâng, tình yêu Thiên Chúa không bao giờ tắt! Dầu cho mọi sự trên trời dưới đất có đổi thay, dầu cho mỗi ngày con người có thay đi đổi lại gương mặt của mình như người ta thay đổi áo quần, và sau cùng, dầu cho cuộc sống có xoay vần hoán vị như mây trời như nước biển, thì có một điều muôn đời vẫn nguyên vẹn, không hề thay đổi: Đó là tình yêu Thiên Chúa đối với loài người chúng ta!
Để chúng ta có thể tin tưởng vào tình yêu của Người, chứ không hồ nghi hay ngờ vực, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một dấu chỉ. Dấu chỉ đó là Phép Thánh Thể dưới hình thức một bữa ăn: Bánh và rượu. Bữa ăn hay bàn tiệc Thánh Thể là một việc hiện tại hóa cuộc khổ nạn và phục sinh khải hoàn của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ngay chính ở đây và trong giờ phút này. Nhưng dấu chỉ đó không phai tàn và qua mau như một dấu tay trên một đồ vật nào đó. Đó là một dấu chỉ bền vững và trường tồn, bởi vì hôm nay chúng ta công khai tuyên xưng: Thiên Chúa vẫn luôn ở giữa chúng tôi - cả sau Bữa Tiệc Thánh - một cách thực sự và bản thể với Mình và Máu Thánh Người.
Tình yêu Thiên Chúa - một tình yêu không hề tắt - không chỉ là một sự thiện cảm hay một tình cảm trừu tượng suông, nhưng là một nhân vị, là một con người sống động, một con người đã tự “hiến thân”, đã tự ban tặng mình cho chúng ta và cho tất cả mọi người, và không hề đặt câu hỏi: liệu sự hy sinh và tự hiến mình như thế cho nhiều người, có được biết ơn, có được đền bù tương xứng hay không! Một tình yêu như thế thực là một tình yêu vô cùng, một tình hoàn toàn vô vị lợi và không tính toán, một tình yêu tồn tại trong mọi hoàn cảnh – trong khi thăng hoa cũng như khi đổ vỡ thất bại - một tình yêu “cho đến cùng”, một tình yêu “không còn gì nữa” (x. Ga 13,1).
Về tình yêu không hề tắt đó, thánh Phaolô đã nói đến trong bài Sách Thánh, mà chúng ta vừa nghe. Trước hết chúng ta hãy suy niệm lời nói của Chúa: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy!”
Suốt trong giòng cuộc sống người ta thường quên đi rất nhiều điều. Nhưng có lẽ đó lại là một cái hay, là người ta còn có thể quên đi được nhiều chuyện. Ngược lại, thật là cả một điều tiêu cực và bất lợi, nếu như người ta không thể quên đi được nhiều điều trong cuộc sống. Thế nhưng, là cả một đại họa, nếu như chúng ta bỏ quên tình yêu của Thiên Chúa đối với mình. Đúng vậy, nếu như chúng ta quên đi tình yêu Thiên Chúa, thì thế giới và vũ trụ sẽ mất hướng đi và chuẩn độ của mình, thì tất cả mọi sự sẽ bị đảo lộn và trở thành bất an. Vâng, lúc bấy giờ không còn tình yêu, không còn gì là nhân bản nữa, nhưng chỉ có hành động, sự thành công và sức mạnh thống trị, và chỉ còn những gì là “pháp lý”, chứ không còn tình yêu nữa, như thánh Phaolô đã viết: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1Cr 13,13).
Rồi đây, sau Thánh Lễ và Rước Kiệu, tất cả chúng ta lại chia tay nhau ra đi, mỗi người về nhà mình, Nhưng điều nối kết và ràng buộc chúng ta lại với nhau, đó là tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu không bao giờ tắt. Điều nối kết và hiệp nhất chúng ta là tình yêu Thiên Chúa trong một người - Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta - được dấu ẩn dưới hình thức bánh rượu đơn sơ. Và chỉ đức tin mới thấu hiểu được những gì con mắt nhân loại không thể nhìn thấy được, trí khôn nhân loại không thể hiểu được, vâng, chỉ có đức tin mạnh mẽ mới thấu hiểu được.
Chính Đức Kitô, Đấng khiêm tốn ngự giữa chúng ta dưới những hình thức đơn sơ tầm thường, không phải là một ai vô danh nào đó, nhưng chính người là đường, là sự thật và là sự sống của nhân loại. Người là Chúa, là người anh cả và là người bạn của chúng ta. Người là một người bạn tốt giữa một thời đại hận thù, là một người bạn mà các bản Phúc Âm cũng như thánh Phaolô đã nói là đã luôn làm thoả mãn mọi mong đợi khẩn thiết của con người một cách dư tràn.
Người bạn đó, tức tình yêu Thiên Chúa nhập thể - một tình yêu không hề tắt - luôn hằng quan tâm săn sóc và ấp ủ chúng ta. Nếu chúng ta không quên điều đó, thì chúng ta có thể tạo cho mình một nếp sống mới; thì xã hội chúng ta sẽ có được một bộ mặt mới; thì chúng ta sẽ trở nên những con người mới; thì tinh thần trách nhiệm đối nhau trong gia đình cũng ngoài xã hội sẽ triển nở và chúng ta sẽ không còn vô tình và bàng quang để cho những người khác phải đau khổ quằn quại trong định mệnh eo le của họ.
Vào năm 1849, thi sỹ người Nga Dostojewski bị kết án tử hình. Khi ông đã bước lên đoạn đầu đài trước sự chứng kiến của một đám đông dân chúng tò mò, thì lúc bấy giờ trong giây phút cuối cùng mỏng manh làm biên giới phân chia cái chết và sự sống của một con người, trước khi bản án được thi hành, ân xá của nhà vua tha chết cho ông cũng vừa kịp tới. Sau đó cá bạn bè đã hỏi thi sỹ ông dã nghĩ gì khi phải đối diện với cái chết như thế, ông ta đã trả lời: “Một làn sóng của lòng thương xót và tình bao dung đã dâng trào lên trong tôi …”. Tiếp đến nhà thi sỹ đã kết thúc lời tâm sự bằng những tiếng nói phát xuất từ trái tim ông: “Hỡi anh em đồng loại, anh em không còn có thể làm được gì nữa để cho tôi hết có thể yêu quý anh em!”
Đó cũng chính là ý nghĩa của đại lễ Mình Máu Thánh Chúa. Tình yêu đó của Thiên Chúa là “trường dạy” đào tạo tình yêu. Giá như tất cả mọi người cùng cộng tác, thì bộ mặt của giáo xứ chúng ta, bộ mặt của trái đất sẽ được đổi mới. Hận thù, ghen tương, bạo động và sự khốn cùng cũng nhu sự đói rét của nhân loại sẽ bị chấm dứt, và bấy giờ sẽ được hiện thực những gì Phúc Âm dã tường trình: “Tất cả mọi người đều được ăn no nê” (Mt 14, 20)
Ngày thứ Năm sau lễ Chúa Ba Ngôi, tức 60 ngày sau lễ Phục sinh, Giáo hội cử hành lễ của Chúa, kính THÁNHTHỂ-309
Ngày thứ Năm sau lễ Chúa Ba Ngôi, tức 60 ngày sau lễ Phục sinh, Giáo hội cử hành lễ của Chúa, kính Mình Máu Thánh Chúa. Tiếp liền sau lễ là cuộc kiệu trọng thể Mình Thánh Chúa ra khỏi nhà thờ, đi trên các nẻo đường, vừa đi vừa hát bài: “Chúa nuôi dân bằng lúa mì tinh hảo, mật ong rừng, Người cho hưởng thỏa thuê” (Ca nhập lễ - lời của thánh Tôma Aquinô). Để loan truyền cho mọi người biết rằng: Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong Bí tích Thánh Thể và Hy tế của Người là ơn cứu độ cho toàn thế giới. Lễ này có thừ thế kỷ thứ XIII do Đức Ubanô IV thiết lập ngày 11 tháng 8 năm 1264, nhằm nhắc lại việc cử hành đầy ý nghĩa trong Bữa Tiệc Ly của Chúa, giúp các tín hữu sống lại bầu khí trang nghiêm ấy, với lòng biết ơn Thiên Chúa Cha cách sâu xa, có lúc dừng lại trong thinh lặng trước mầu nhiệm Đức Tin để chiêm ngắm sự cao cả của Bí Tích vô cùng cao quí với trọn con người và tình thương của Chúa Giêsu.
Cử hành Thánh Thể
Giáo hội công khai cách long trọng Bí tích Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, mầu nhiệm được thiết lập trong bữa Tiệc Ly và hằng năm được tưởng nhớ vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh, nay được biểu lộ cho hết mọi người, bởi đức tin sốt mến và lòng sùng kính của cộng đoàn Giáo hội.
Trên bàn thờ Chúa, chúng ta đã thấy tận mắt Bánh và Rượu được truyền phép. Nhưng cần phải được soi sáng, chúng ta mới nhận biết và tin rằng Bánh chính là Mình Chúa Kitô và Rượu là Máu Chúa Kitô. Thật không có ngôn ngữ nào có thể diễn tả hết niềm tin của chúng ta: Làm sao Bánh lại có thể là Mình Chúa Kitô và Rượu lại là Máu Chúa Kitô được?
Chúng ta tin Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong Bí Tích Mình Thánh. Bánh thánh trở thành Bí tích cần thiết để nuôi dưỡng linh hồn chúng ta, dẫn chúng ta trên đường về về với Chúa!
Giáo hội quả quyết rằng: Chúa Giêsu hiện diện thật sự giữa chúng ta trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta phải tôn thờ. Tấm Bánh truyền phép được đặt trước mặt chúng ta nói về quyền năng vô cùng của tình yêu được bộc lộ trên Thánh Giá vinh hiển. Bánh Thánh nói cho chúng ta về sự hạ mình khó tin của Đấng đã biến mình, hiện diện khiêm tốn dưới hình bánh và hình rượu.
Theo thánh Tôma Aquinô: Con độc nhất của Thiên Chúa muốn cho chúng ta thông phần vào thiên tính của Chúa, đã làm người. Để cứu chuộc con người, Người đã đổ máu mình ra rửa chúng ta sạch muôn vàn tội lỗi, giao hòa chúng ta với Chúa Cha trên bàn thờ Thập Giá.
Đây không phải là máu chiên, bò, nhưng là Máu Châu Báu của Chúa Kitô, Thiên Chúa thật. Bánh và rượu trở nên Chúa Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Bí tích Thánh Thể là Tình Yêu tột đỉnh của Người đối với chúng ta: “Đang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: “Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta” Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. Và Người bảo các ông: "Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người” (Mc 14, 22-24).
Thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Anh em hãy để tâm suy nghĩ về vinh dự khi anh em được cất nhắc lên đồng bàn tham dự tiệc thánh. Điều mà các thiên thần run sợ khi chiêm ngắm Ánh Huy Hoàng chói lọi, Đức Kitô lại ban cho chúng ta làm của ăn, bằng mọi cách, Người lấy chính máu mình nuôi dưỡng chúng ta, Người kết hợp chúng ta với Người, để chúng ta được hợp cùng Đức Kitô và hiệp nhất cùng nhau như một thân mình và một xác vậy”. (Thánh Gioan Kim Khẩu)
Bí tích Thánh Thể là chóp đỉnh về lòng nhân ái của Thiên Chúa đối với chúng ta: “Chúa Kitô tháp nhập vào mỗi tín hữu nhờ Bí tích này. Những kẻ Người đã sinh ra thì Người nuôi dưỡng bằng chính bản thân Ngài, qua Bí tích Thánh Thể, Người làm cho ta vững tin rằng Người đã mang lấy chính xác thân của ta”. Người tan biến trong chúng ta, “làm một với chúng ta, làm cho chúng ta trở nên thân mình của Ngài” (Thánh Gioan Kim Khẩu).
Việc biến đổi bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô, là nguyên tắc cho việc thần thiêng hoá tạo vật. Vì thế, lễ kính Mình và Máu Thánh Chúa Kitô có đặc điểm hết sức riêng biệt là rước kiệu Mình Thánh Chúa.
Rước kiệu Mình Thánh Chúa
Sau lễ này, Giáo hội kiệu Mình Thánh Chúa và đưa Chúa ra khỏi nhà thờ, tuyên xưng Chúa Giêsu ngự thật trong phép Mình Thánh, mang Chúa vào trong đời ta, với mong ước nhà ta là nhà của Chúa, đường đời ta là đường của Chúa, xin Chúa hiện diện hằng ngày trong đời sống chúng ta! Có Chúa Giêsu là Bánh ban sự sống, Bánh của các thiên thần, Bánh của của kẻ hành hương cùng đi, chúng ta sẽ không cô đơn.
Khi đặt Mình Thánh vào Mặt nhật, dưới dạng mặt trời, ngụ ý rằng Chúa Giêsu là “Mặt Trời”: Ngài là ánh sáng của lòng ta (đó là ý nghĩa của từ “mặt nhật”)
Bình khói hương thơm nghi ngút vừa đi vừa xông, tượng trưng cho lời nguyện cầu của chúng ta tỏa bay lên trước tòa Chúa.
Các em bé rắc hoa trên đường nhắc lại cuộc rước Chúa Giêsu vào Thành Thánh, và những lời tụng ca của các em rất làm Chúa hài lòng.
Qua cuộc rước kiệu, chúng ta thấy Chúa và chắc chắn Chúa thấy tất cả những khổ đau của những bệnh nhân; những nỗi cô đơn của những người trẻ và của những người già; những cám dỗ, những nỗi lo lắng trong cuộc sống của chúng ta. Cuộc rước kiệu này còn có ý nghĩa là xin Chúa chúc lành cho chúng ta và cho toàn thế giới.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự trong phép Mình Thánh, là Bánh đích thực nuôi dưỡng chúng con trên mặt đất này, xin hướng dẫn chúng con đến bàn tiệc trên Trời, trong vinh quang các thánh của Chúa, có Mẹ Maria là Mẹ chúng con.
Lạy Mẹ Maria, Trinh Nữ Chí Thánh, Mẹ của Chúa Giêsu, Đấng đầu thai Vô Nhiễm, từ hai ngàn năm nay, đã chấp nhận, hiến dâng mọi sự, hiến dâng thân xác Mẹ hầu rước lấy thân xác Đấng Sáng Tạo, xin giúp chúng con chiêm ngưỡng, xin giúp chúng con thờ lạy và yêu mến, Đấng đã yêu thương chúng con dường ấy, hầu chúng con được sống đời đời với Người. Amen.
Hôm ấy nhằm ngày thứ nhất trong tuần bánh không men là ngày giết chiên mừng lễ Vượt qua, các môn đệ thưa với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?”.
Đức Giêsu đã bị “hành quyết” vào một ngày thứ sáu, rất có thể năm ba mươi hay ba muơi ba, vào lúc THÁNHTHỂ-310
Đức Giêsu đã bị “hành quyết” vào một ngày thứ sáu, rất có thể năm ba mươi hay ba muơi ba, vào lúc những con chiên được giết để mừng lễ Vượt qua trong khuôn viên đền Thánh (Ga 19,14).
Nhưng người ta không biết rõ Chúa Giêsu đã theo lịch nào để dùng bữa ăn cuối cùng của Người. Điều chắc chắn là Người đã mặc cho bữa ăn này một đặc tính “vượt qua”.
Lễ Vượt Qua là một lễ lớn của người Do Thái: Người ta ăn mừng cuộc “giải phóng”. Trong một bữa ăn cổ truyền được tổ chức tại nhà, trong gia đình, người cha phải giáo huấn con cái mình nhớ lại việc tổ tiên của họ đã được giải thoát khỏi ách nô lệ như thế nào. Vì thế, dân Do Thái luôn ý thức mình là một dân tộc “nguyên là nô lệ” nhưng bấy giờ được “tự do! Chúa đã can thiệp, ủng hộ sự nổi lên của họ chống lại kẻ áp bức, giúp họ ra khỏi đất Ai Cập, để vào miền đất hứa.
Mỗi năm tại Nagiarét, Đức Giêsu cùng với Thánh Giuse và Đức Maria, đã cử hành bữa tiệc mừng lễ này. Người đã thuộc lòng mọi diễn tiến theo nghi thức trong bữa ăn: Bánh miến, rượu nho, thịt chiên, rau đắng, kinh nguyện, thánh vịnh. Nhưng tối hôm đó, Người sẽ cho bữa ăn cổ truyền này một nội dung mới! Hôm nay chính người là đấng giải phóng!
Đó là lễ vượt qua! Công cuộc giải phóng! Một bữa tiệc mừng, một bữa ăn giải thoát dân khỏi ách nô lệ.
Chúng ta quá coi thường điều đó! Các Thánh lễ của chúng ta có nguy cơ bị nhạt nhẽo và nhàm chán lặp đi lặp lại biết bao Thánh lễ xem ra có phần bi thảm! Điều quan trọng là trước hết chúng ta phải lo lắng “cử hành những buổi lễ” và “tôn trọng các nghi thức”! Chúng ta có hay quên rằng mình luôn luôn cần phải được “giải phóng” và “cứu rỗi không”. Thưa quý ông bà, vâng quý ông bà vẫn còn là những “nô lệ”. Quý vị hãy xét kỹ lại cuộc đời của mình và hãy tỏ ra sáng suốt. Hãy ý thức tất cả những gì đang xiềng xích quý vị, lúc bấy giờ quý vị sẽ xin Đức Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy muốn chúng con dọn bữa ăn lễ vượt qua cho Thầy, bữa ăn giải phóng ở đâu?”. Vâng xin Chúa giải phóng chúng con thoát khỏi tội lỗi và sự chết.
Người liền sai hai môn đệ đi mà dặn họ: “Các anh đi vào thành, rồi sẽ gặp một người mang vò nước, cứ đi theo người đó.”
Bầu khí lúc bấy giờ trở nên nặng nề. Đức Giêsu là một người bị săn đuổi. Những lãnh tụ Do Thái đã quyết định giết hại người. Vì thế Đức Giêsu làm như ra tín hiệu cách kín đáo. Ngừơi có bạn hữu, nhưng phải liên hệ cách vụng trộm. Người đã chuẩn bị tất cả – tôi hình dung ra hai môn đệ đang đi theo người mang vò nước – cái chết của đức Giêsu, việc Người rời khỏi thế giới này, phải chăng đối với chính người trước tiên, là một việc vượt qua, một cuộc giải thoát. Đó là “Lễ vượt qua của Chúa”: người sẽ được giải thoát.
Người đó vào nhà nào, các anh đi theo và thưa với chủ: “Thầy hỏi ông dành cho Thầy phòng nào để ăn lễ vượt qua với các môn đệ?”. Ông ấy sẽ chỉ cho các anh một phòng rộng rãi trên lầu, sẵn sàng đầy đủ tiện nghi. Các anh dọn tiệc cho chúng ta ở đó.
Đức Giêsu đã tiên liệu tất cả. Người cảm thấy tầm quan trọng. Chính Người là chủ mời. Dó là “bữa ăn của Người”. Lát nữa, chính Người sẽ là chủ toạ. Những môn đệ là “khách được mời”.
Người dùng quyền sắp đặt và chuẩn bị. Chúng ta ngạc nhiên vì sự quan trọng của chi tiết này. Đúng vậy, ngày nay, bất cứ một buổi lễ nào cũng phải được chuẩn bị. Chúng ta hằng nghĩ đến những buổi lễ tại làng thôn hay trong khu xóm, những bữa ăn mừng rước lễ lần đầu, lễ đính hôn hay kết hôn. Chúng ta rất muốn buổi lễ được thành công, và như thế chúng ta phải rất cực nhọc.
Còn những Thánh lễ của chúng ta thì sao? Chúng ta có chuẩn bị tử tế không? Biết bao Thánh lễ đã được cử hành cách vội vã, đọc cho qua lần, cử hành cho mau xong. Như Đức Giêsu chúng ta cần quyết định biến các Thánh lễ của chúng ta thành buổi lễ thực sự, cần dành thời giờ để “chuẩn bị", và trước hết phải đến đúng giờ và nếu cần, hãy lập lại những bài Thánh ca trước khi cử hành Thánh Thể, như phần cốt yếu của buổi lễ. Đức Giêsu, tối hôm ấy đã chuẩn bị tất cả để cho buổi lễ được tốt đẹp và trang trọng.
Hai môn đệ ra đi - Vào đến thành các ông thấy mọi sự y như người đã nói, và các ông dọn tiệc vượt qua.
Thánh Máccô nhấn mạnh về điểm này. Ngài muốn đề cao uỷ quyền và vẻ nghiêm trọng của Đức Giêsu. Người đã tiên liệu tất cả, Người đã quyết định tất cả. Người là "Chúa”, không ai chối cãi được. Đức Giêsu biết rằng đó là buổi hội họp cuối cùng của Người với các bạn hữu, "giờ" đã nghiêm trọng rồi: Thánh Gioan sẽ nói là "giờ" của Người". Việc gì đã xảy ra? Chúng ta được đưa vào một hồi kịch quan trọng, biến cố sắp xảy ra... sẽ thay đổi lịch sử của hành tinh, của nhân loại. Cái chết và sự Phục sinh của Đức Giêsu là sự giải phóng thế gian tội lỗi.
Khi tôi đi dự lễ Chúa Nhật, tư tưởng của tôi như thế nào? Tôi chuẩn bị tâm hồn ra sao? Đó có phải là một “biến cố" trong tuần sống của tôi không? Tất cả có hội tụ và hướng về đó không? Hay đó chỉ là một thời gian nhỏ bị "đánh cắp" cách lén lút trong những công việc quan trọng khác của tôi? Một thứ "dấu ngoặc"?
Đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy tấm bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra trao cho các môn đệ
Chúng ta có 4 trình thuật về cảnh này. Thánh Maccô, Thánh Luca, Thánh Matthêu và Thánh Phaolô (I Cr 11, 23-25). Bốn trình thuật này đều như nhau về điểm cốt yếu, nhưng trình bày cho chúng ta những công thức khác nhau trước những "lời" Chúa phán. Đức Giêsu đã không quá câu nệ là nghi lễ, và cả Giáo Hội tiên khởi cũng thế. Điều quan trọng là phải lưu ý sự kiện hiển nhiên này để giải thoát chúng ta khỏi một quan niệm, “duy vật" về các bí tích, cứ như là Người dính liền với những từ ngữ, theo kiểu phù thủy - Thực ra người ta không biết rõ "từng chữ" Đức Giêsu đã nói tối hôm đó như thế nào - Bốn trình thuật không phải là những phóng sự, mà là những bản văn phụng vụ khác nhau. Đã được dùng trong những cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên. Người ta có thể đoan chắc rằng những cộng đoàn đó, vì gần với biến cố vừa qua, đã tôn trọng ý định và cả những công thức của Đức Giêsu. Trước tiên chúng ta cần tưởng tượng những "cử chỉ" của Đức Giêsu. Người "cầm lấy" bánh? Tôi thấy tay Người đưa ra với lấy chiếc bánh trên bàn. Tôi nhìn tay của Người, cầm chiếc bánh không men, "một thứ bánh của người nghèo mạt", vì tại Ai Cập, tổ tiên chúng ta đã không có thì giờ để cho lèn men. Người "đọc lời chúc tụng" đó là lời tạ ơn. Về chén rượu Thánh Máccô dùng chữ "Eueharitèsas" có nghĩa là "đang khi tạ ơn", do đó có từ Thánh Thể. Tôi lắng nghe Đức Giêsu cầu nguyện, nói lời "tạ ơn" Chúa Cha, trong thái độ vui mừng. Tôi ngắm nhìn dung nhan Đức Giêsu, khi Người nói chuyện với Chúa Cha. Chúng ta có thể quên được Thánh lễ là một lễ Tạ ơn sao?
Người "bẻ bánh", cử chỉ này không phải là mới lạ. Người cha trong gia đình cũng làm cử chỉ này để phân phát phần cho mỗi người, nhưng cử chỉ tượng trưng này rất đẹp: Mọi người đều ăn cùng một tấm bánh. Điều này nhấn mạnh việc "đồng bàn mà sẽ thành một ý lực trong những cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Thánh lễ là một thách thức muốn bứng tận gốc rễ những khuynh hướng vị kỷ của chúng ta. Nếu ta vẫn giữ những bức tường ngăn cách mà Đức Giêsu đã phá đổ, thì chúng ta đã nhạo báng Mình thánh Chúa vậy (Pr 2,14). Tôi nhìn Đức Giêsu bẻ bánh. Họ đã nhận ra Người qua cách bẻ bánh" Người "trao" bánh này. Khi tôi rước lễ, tôi có ý thức được rằng chính Đức Giêsu đưa miếng bánh cho tôi không? Đó là cử chỉ thánh thiêng và đầy ý nghĩa huyền bí. Lạy Chúa, đây là tay chúng con đưa ra để đón Chúa!
Và Người nói: "Anh em hãy cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy".
Sau nhiều thế kỷ, tranh cãi, mà trong thời gian đó từ trên đã được giải thích theo nhiều cách khác nhau, nhiều cộng đoàn họp lại thành Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội năm 1974, đã đồng ý về bản văn chung sau đây: "Bữa ăn bánh miến và rượu nho này là một bí tích, dấu chỉ hữu hiệu và quả quyết sự hiện diện của chính Đức Kitô, Người đã hy sinh mạng sống mình cho tất cả loài người và đã tự hiến thân mình làm bánh hằng sống. Vì lẽ đó, bữa tiệc Thánh Thể là Bí tích Mình và Máu Thánh của Đức Kitô. Bí tích của sự hiện diện thực sự của Người. Chính Thánh Thần trong Thánh Thể cho Đức Kitô thực sự và hiến thân trong bánh và rượu. Khi đọc lời truyền phép. Dĩ nhiên chúng ta luôn đứng trước một mầu nhiệm. Thánh Thomas Aquino, nhà thần học vĩ đại về Bí tích Thánh Thể ở thời Trung cổ đã viết: "Sự hiện diện thực sự" này không có nghĩa là giới hạn Đức Kitô ở trong bánh và rượu mà thôi hay gây ra một sự biến đổi vật lý hóa học nào của những chất này. Tất cả những vẻ bên ngoài vẫn không thay đổi (Tổng luận thần học cuốn III 76/3-5. 77/5-8).
Con người thời nay cần phải lặp lại những chân lý cổ truyền này. Thánh lễ về "Lễ Mừng kính Thiên Chúa" đã được Thánh Thomas Aquino soạn ở Orvieto vào năm 1264. Cùng với toàn thể Giáo Hội tiên khởi, Thánh Thomas “đã tin” nhưng không theo một cách đơn giản. Thánh Phaolô phải chăng là người đầu tiên đã nói rằng, cần phải có đức tin mới "nhận thấy được Mình và Máu Thánh Chúa sao?" (1 Cr 11,23-29).
Vâng, lạy Chúa, chúng con xin tin!
Người lại cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các môn đệ và tất cả đều uống. Người bảo họ: "Đây là Máu Thầy, Máu để lập Giao ước đổ ra vì muôn người”.
Đó là bản dịch chính xác đoạn văn Hy Lạp của Thánh Maccô. Đức Giêsu biết người sắp chết, và chết cách nào. Người thế chỗ cho con chiên vượt qua (mà người ta không nói đến tí nào trong bữa ăn vượt qua này, trong khi món này là chính trong nghi lễ Israel). Ở đây Đức Giêsu làm cho ta nhớ đến người tôi tớ của Đức Giavê (đã hy sinh mạng sống của mình cho muôn dân) (Is 53,11). Đó là một "Giao ước". Thiên Chúa trở nên một thực tại duy nhất với nhân loại, một người trong "đồng minh". Và điều này đã được định nghĩa với những gì là mật thiết và sống động nhất trong chúng ta; "Máu”.
Thầy bảo thật anh em: "Chẳng bao giờ Thầy còn uống rượu nho này nữa cho đến ngày được uống thứ rượu mới trong nước Thiên Chúa". Hát Thánh Vịnh xong, Đức Giêsu và các môn đệ đi lên núi Ôliu.
Nhớ lại trong lịch sử cứu độ, thì các lễ hy sinh đền tội là việc sát tế, hiến tế và lễ toàn thiêu được THÁNHTHỂ-311
Nhớ lại trong lịch sử cứu độ, thì các lễ hy sinh đền tội là việc sát tế, hiến tế và lễ toàn thiêu được dân dâng lên Thiên Chúa. Tất cả các lễ dân dâng lên Thiên Chúa bằng máu chiên bò chỉ là lễ phẩm chứ không thể nào xóa hết tội lỗi của dân được.
Duy nhất chỉ có sự hiến tế chính Con Một của Thiên Chúa mới thật sự là lễ đẹp lòng Thiên Chúa.
Ta vẫn biết máu chính là nguồn của sự sống. Nếu cơ thể của ta thiếu máu hay máu của ta bị lỗi thì sự sống trong ta sẽ yếu ớt hay sẽ không còn nữa.
Máu của Đức Kitô hiến dâng trên thập giá dù chỉ một lần là đủ cho tất cả công trình cứu độ. Thư gởi tín hữu Do thái viết đã xác tín điều này: Người đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta (Dt 9,12).
Ta còn nhớ của lễ hy sinh mà Thiên Chúa đòi hỏi tổ phụ Abraham là hiến dâng mạng sống chính con một của mình. Của lễ hiến dâng này không phải để đền tội, nhưng để tỏ lòng tin tưởng, lòng tín thác vào Thiên Chúa duy nhất mà ông tin nhận.
Đáp lại lòng tin vào Thiên Chúa, ông Abraham đã tuyệt đối vâng lời và phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Ông Abraham lấy củi dùng để đốt lễ toàn thiêu đặt lên vai Ixaác, con ông. Ông cầm lửa và dao trong tay, rồi cả hai cùng đi (St 22, 6).
Có lẽ, lòng tin của Abraham là một lòng tin hết sức đặc biệt. Đến ngày giờ đã được chỉ định, ông và con trai lên đường dâng tiến lễ hy sinh cho Thiên Chúa. Của lễ dâng chính là đứa con trai duy nhất. Ông đã không từ khước đứa con thừa tự yêu quí. Abraham đã dám hy sinh sát tế con của mình. Tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Abraham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, trói Ixaác con ông lại, và đặt lên bàn thờ, trên đống củi. Rồi ông Abraham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình (St 22, 9-10).
Không còn gì để thử thách lòng tin quá chân thành của ông, Thiên Chúa đã tha chết cho đứa con yêu. Đứng trước lòng tin như vậy, Thiên Chúa đã chọn ông làm tổ phụ của tất cả những kẻ tin.
Nhìn lại những lễ nghi của người Do-thái, các Thượng Tế và Thầy Cả đại diện dân giết các con vật làm lễ hiến dâng để đền tội. Vì giá máu là giá của mạng sống. Mạng sống của các con vật được dùng để thế mạng sống cho con người. Sách Lêvi đã dậy rằng: Vì mạng sống của xác thịt thì ở trong máu, và Ta, Ta đã ban máu cho các ngươi, trên bàn thờ, để cử hành lễ xá tội cho mạng sống các ngươi. Thật vậy, máu xá tội được vì nó là mạng sống (Lv 17, 11).
Thật thế, ta thấy máu là của lễ hiến tế tinh tuyền, nên sách Đệ Nhị Luật dạy rằng không nên ăn tiết cùng với thịt con vật: Tuy nhiên, anh em phải nhất quyết không ăn tiết, vì máu là mạng sống, và anh em không được ăn mạng sống cùng với thịt (Đnl 12, 23).
Và rồi, ta thấy máu là biểu tượng của sự cứu độ và hy sinh.
Trong ngày Lễ Vượt Qua, Thiên Chúa đã cứu dân Do-thái khỏi làm nô lệ cho người Ai-cập. Môisen đã ra lệnh cho mỗi gia đình chuẩn bị một con chiên tinh tuyền để sát tế. Máu của chiên sẽ được bôi lên cửa để làm dấu. Phải nhốt nó cho tới ngày mười bốn tháng này, rồi toàn thể đại hội cộng đồng Ít-ra-en đem sát tế vào lúc xế chiều, lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên (Xh 12,6-7).
Dấu chỉ của sự cứu thoát chính là máu được bôi trên các khung cửa. Khung cửa nhà nào có dấu vết máu, thiên thần của Chúa sẽ vượt qua và không sát hại con trai đầu lòng. Còn vết máu trên nhà các ngươi sẽ là dấu hiệu cho biết có các ngươi ở đó. Thấy máu, Ta sẽ vượt qua, và các ngươi sẽ không bị tai ương tiêu diệt khi Ta giáng họa trên đất Ai Cập (Xh 12, 13). Máu vượt qua là giao ước Chúa đã lập để đánh dấu sự giải thoát.
Ta nhớ lại hành trình trong hoang địa cũng như khi đã về miền Đất hứa, dân Do Thái tiếp tục tưởng nhớ ngày Thiên Chúa đã đoái thương cứu họ khỏi thân phận nô lệ.
Để ghi nhớ ngày được giải thoát, dân đã cử hành nghi thức giết chiên và lấy máu rẩy trên dân chúng để thanh tẩy được truyền lại từ đời này tới đời kia:Bấy giờ, ông Môsê lấy máu rảy lên dân và nói: "Đây là máu giao ước Đức Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời này."(Xh 24, 8).
Và rồi đến thời Chúa Giêsu, các thầy thượng tế vẫn tiếp tục nghi thức giết chiên bò làm hy lễ đền tội. Họ buôn bán chiên bò, đổi chác tiền bạc ngay nơi tiền đình. Họ đã lạm dụng đánh đổi giá cả và làm ô uế nơi cầu nguyện: Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ (Ga 2, 15).
Ta vẫn thấy tiếp nối truyền thống của dân Do-thái, Chúa Giêsu đã lập giao ước mới qua chính máu của Ngài. Chúa không dùng máu chiên bò để hiến tế mà dùng máu thịt của chính mình làm của ăn, của uống và là lễ hy tế đền tội cho nhân loại: Đức Giêsu nói với họ: "Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình (Ga 6,53).
Và, Chúa Giêsu còn hứa ban cho những ai ăn và uống Máu của Ngài sẽ có sự sống đời đời: Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống (Ga. 6,54-55).
Làm thế nào Chúa Giêsu có thể lấy thịt máu mình mà nuôi dưỡng mọi người. Chúa Giêsu đã chọn cách thế tuyệt hảo nhất là dùng bánh và rượu hiến dâng và thánh hiến trở thành Máu và Thịt của Ngài.
Ắt hẳn chúng ta không thể nào quên được rằng Chúa Giêsu chính là Con Thiên Chúa nhập thể.
Trong bữa cuối cùng với các môn đệ, chính Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ hãy làm việc này mà nhớ đến Chúa: Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: "Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội (Mt 26,27-28).
Máu Châu Báu của Chúa không chỉ nuôi dưỡng linh hồn và thần trí của chúng ta, mà còn có hiệu lực tha tội và ban ơn cứu độ. Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Êphêsô đã viết: Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Người (Ep 1,7).
Trong giây phút cầu nguyện trước khi chịu nạn, Chúa Giêsu đã van xin cùng Chúa Cha rằng nếu Cha muốn thì Cha có quyền và có thể cất chén này. Nhưng Chúa Giêsu hoàn toàn vâng theo thánh ý Chúa Cha. Ngài đã lãnh chịu tất cả hình khổ để đi trọn con đường cứu rỗi. Người lại đi cầu nguyện lần thứ hai và nói: "Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha."(Mt 26, 42).
Tuyệt đỉnh của lễ đền tội là Chúa Giêsu đã hiến chính mạng sống mình trên thánh giá. Chúa đã đổ đến giọt máu cuối cùng để hòan tất hy lễ hiến dâng.
Chúa Giêsu hiến mình chịu chết giang tay trên thập giá để đền tội cho nhân loại. Chúa đã hòa giải và nối kết giữa trời và đất. Chúng ta biết tội nguyên tổ đã đánh mất nguồn ân sủng siêu nhiên và biến mọi người thành tội nhân. Chính nhờ máu Châu Báu của Chúa giao hòa giúp chúng ta trở nên con cái của Thiên Chúa. Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính (Rm 5, 19).
Sự hòa giải này phải trả bằng giá máu.
Ta thấy, không ai có thể thay thế của lễ hy sinh đền tội này. Duy chỉ có Con Thiên Chúa nhập thể đền thay tội lỗi của nhân loại.Cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời (Cl 1, 20).
Thư gửi Do Thái đã so sánh rằng máu dê bò rẩy trên mình có thể thánh hóa con người nên trong sạch: Vậy nếu máu các con dê, con bò, nếu nước tro của xác bò cái, đem rảy lên mình những kẻ nhiễm uế còn thánh hoá được họ, nghĩa là cho thân xác họ trở nên trong sạch (Dt 9,13).
Vậy Máu Thánh của Chúa Giêsu đã đổ ra trên thập giá có hiệu lực tuyệt đối, sẽ xóa sạch mọi lỗi lầm và ban cho chúng ta có sự sống đời đời: Thì máu của Đức Kitô càng hiệu lực hơn biết mấy. Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Kitô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống (Dt 9, 14).
Thư gửi tín hữu Do-thái đã tóm tắt tất cả hiệu qủa của lễ toàn thiêu và hiến tế, duy chỉ có hy lễ của Chúa Kitô đem lại ơn cứu độ muôn đời: Thật thế, máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con (Dt 10, 4-7).
Một giao ước tình yêu, một giao ước cứu độ được chính Chúa Giêsu thiết lập để cứu độ con người, để đem con người hư mất về cho Thiên Chúa.
Từ ngày ta lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy, ta được ghi dấu ấn của tình yêu Ba Ngôi trên cuộc đời ta và đặc biệt khi ta được đón nhận Mình và Máu của Chúa vào trong đời ta qua bí tích Thánh Thể. Ước gì dòng máu của Chúa Giêsu - dòng máu của yêu thương đi vào trong cuộc đời ta để ta ngày mỗi ngày kết hiệp mật thiết với Chúa hơn và sống trọn vẹn giao ước tình yêu với Chúa và với anh chị em đồng loại hơn.
Có những sự việc diễn ra quá bình thường đến nỗi người ta chẳng còn để ý đến. Chẳng hạn như: THÁNHTHỂ-312
Có những sự việc diễn ra quá bình thường đến nỗi người ta chẳng còn để ý đến. Chẳng hạn như: ngủ nghỉ, đi lại, nói năng, thở hít... Chỉ khi nào bị tước mất hay không có, người ta mới ý thức được giá trị vô giá của chúng. Khi bị mất ngủ, người ta hiểu được tầm quan trọng của giấc ngủ. Về việc ăn uống cũng thế.
Theo Kinh Thánh, con người ở thời đầu đã dùng sữa của đoàn vật để nuôi thân, như cách thức ông A-ben đã làm. Thế nhưng, sau lụt đại hồng thuỷ, họ bắt đầu giết các con vật để ăn. Điều này được Thiên Chúa cho phép với điều kiện phải làm cho máu chảy hết ra khỏi thịt trước khi ăn. Bởi vì máu chính là sự sống và không ai có quyền trên sự sống. Máu hay sự sống thuộc về Thiên Chúa. Chỉ Người mới có quyền.
Từ ý nghĩa này, con người có bỗn phận phải tôn trọng thụ tạo trong khi ăn uống. Tại một số bộ lạc ở Châu Phi, người thợ săn xin con thú mình sắp giết để nuôi thân tha lỗi cho. Trong một cuốn sách, nhà văn Soljénitsgne đã diễn tả cách tuyệt vời về thái độ này khi nhớ lại bữa ăn duy nhất trong ngày của các tù nhân: "Anh còn nhớ thứ cháo lúa mạch lỏng bỏng, hay thứ xúp chẳng một chút chất béo đó không? Anh có thể gọi đó là ăn không? Hoàn toàn không, anh đang hiệp thông, anh dùng món cháo đó như một thứ bí tích... Anh nhấm nháp chầm chậm đến tận cuối cái thìa gỗ; anh nuốt món cháo đó, nuốt trọn và nghĩ đến hành động ăn... Và hương vị của nó lan ra khắp cơ thể".
Làm sao con người ngày nay có thể hiệp thông theo cách thức như thế. Từ sau khi ra khỏi Vườn Địa Đàng, con người không còn những của ăn đích thực, họ luôn cảm thấy đói khát, và nếu có cảm thấy no nê, cũng chỉ là giả tạo. Toàn bộ cuộc sống và con người của họ đều khao khát lại được dưỡng nuôi nhờ những của ăn đích thực. Do đó Đức Giêsu nhấn mạnh: Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống.
Ngoài ra, Đức Giêsu cũng dạy con người hãy cầu xin Chúa Cha ban cho bánh ăn mỗi ngày, trong khi chờ tới ngày Thiên Chúa sẽ tái tạo con người như vẻ đẹp nguyên thuỷ: Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày. Như vậy, Đức Giêsu cũng cho thấy rằng, các tạo vật, thay vì giết hại lẫn nhau để tự nuôi thân, phải được nuôi dưỡng do chính vị sáng tạo nên mình.
Điều này chẳng có gì lạ. Để có thể nuôi mình nhờ hoa màu ruộng đất, trước hết đứa trẻ cần được nuôi dưỡng 9 tháng nhờ thân thể và máu của người mẹ. Cũng vậy, đối với nhân loại, để vươn tới những lương thực do Thiên Chúa dọn sẵn cho họ từ khởi đầu, trước hết, họ phải chấp nhận được nuôi nhờ thịt và máu Thiên Chúa của mình. Thánh Thể -được chiêm ngưỡng và lãnh nhận- chính là cuống nhau tái tạo nhân loại, làm cho con người cũ thành con người mới. Nhờ Thánh Thể, con người được trả lại đời sống vĩnh cửu.
Tấm bánh hay là một con người
Đức Giêsu vừa mới làm phép lạ hoá bánh ra nhiều tại một nơi khô cằn, tức là tại nơi sự chết đang rình rập. Đức Giêsu đã khơi dậy sự sống, và như vậy Người đã nhắc lại hoạt động xưa kia của Thiên Chúa đã làm cho dân Do-thái thoát khỏi cái đói trong sa mạc. Quả là một sự kiện lạ lùng. Vậy mà những người chứng kiến lại dựa trên phép lạ này để hành động theo cách của mình. Họ định tôn Người làm vua, nhưng Đức Giêsu đã từ chối. Người đưa ra cho họ một cách hiểu mới về sự việc vừa xảy ra. Người tuyên bố: Tôi là bánh trường sinh từ trời xuống.
Thực là một mặc khải mới mẻ, lạ lùng. Lương thực để nuôi sống nhân loại, làm cho nhân loại được sống thực sự và sống vĩnh viễn không còn là những thứ bánh thông thường, nhưng chính là thân thể, là máu của một ngôi vị sống động. Tất cả những thứ bánh của trần gian, kể cả man-na thời sa mạc, chẳng có giá trị gì so với bánh do Đức Giêsu ban. Con người đó chính là con người Đức Giêsu trong mầu nhiệm nhập thể -Ngôi Lời đã làm người-, một con người thực sự với những điều kiện của thân phận làm người.
Tuy vậy, con người này không phải là một hữu thể như bất cứ ai khác, trái lại, đó là Con Người với tất cả ý nghĩa cao cả của nó. Đây là Con Người luôn hiệp thông với trời cao, là Con Người đã đi xuống, sẽ đi xuống tận cùng để được nâng lên (3,14). Đây là Con Người từ trời xuống.
Và hơn thế nữa, Con Người từ trời xuống còn có mục đích rõ ràng và cụ thể là hiến mạng sống mình, nói cách khác là sẽ chịu chết. Điều này có nghĩa là chỉ trong Đức Kitô chịu hiến tế, nhân loại mới có thể hiểu được toàn bộ ý nghĩa vinh quang của Tấm Bánh. Tấm Bánh đó chính là Đức Giêsu, Đấng trở thành lương thực nuôi dưỡng tâm hồn con người và dẫn đưa họ về sự sống vĩnh cửu.
Do đó, ăn thịt và uống máu không phải là hành vi thể lý, nhưng là thái độ chấp nhận cách vô điều kiện về con người đã tự nộp mình, đã đón nhận cái chết để đem ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Đó là đón nhận trong lòng tin mầu nhiệm sự chết được Đức Giêsu nói đến như một hổng ân, bởi vì Đức Giêsu sẽ tự hiến mình chịu chết và sẽ phục sinh.
Như vậy, việc ăn và uống chính là chấp nhận mối tương quan nối kết với Chúa Cha qua Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu là trung tâm của mối tương giao này. Chính Người là trung gian, hay nói đúng hơn, chính nơi Người, mối tương giao giữa Thiên Chúa và nhân loại được thể hiện chặt chẽ, và đó là sự sống.
Đức Giêsu có thể công bố điều lạ lùng này vì Người là Con Thiên Chúa. Nhờ lãnh nhận Mình và Máu Người, nhân loại trở thành con Thiên Chúa. Nhờ Người Con duy nhất, nhân loại được ở gần Thiên Chúa, được quy hướng về Thiên Chúa, và được sống, được sống đích thực.
Với diễn từ về Bánh Trường Sinh, Đức Giêsu trình bày rõ ràng về giao ước mà Thiên Chúa đã hứa. Giao ước này sẽ được thực hiện rõ ràng và trọn vẹn trong cái chết của Đức Giêsu.
Sự thách thức hay là lời mời gọi
Nghe những lời nói của Đức Giêsu, người Do-thái coi đó là một sự thách thức. Họ đã không chấp nhận mầu nhiệm nhập thể. Trước mắt họ, Đức Giêsu chỉ là một con người bình thường như tất cả mọi người, chẳng phải là Đấng từ trời xuống. Họ không hiểu về thái độ dâng hiến của Đức Giêsu nên cũng chẳng nhận cái chết của Đức Giêsu sẽ là nguồn mạch đem lại sự sống. Đó là cớ vấp ngã do Thập giá.
Thành ra, những lời tuyên bố đầy thiết tha của Đức Giêsu, thay vì loan báo sự sống, lại trở thành những lời thách thức. Thế nhưng, ngay khi họ muốn tiêu diệt Đức Giêsu, ngay khi họ giết Người, họ lại đụng phải một thực tại không ngờ từ trời xuống: Người này là Con Thiên Chúa!
Đối với chúng ta, lãnh nhận Mình và Máu Đức Giêsu là chấp nhận để cuộc đời mình tan biến trong Đức Giêsu, trong cái chết của Người. Khi lãnh nhận Mình và Máu Đức Giêsu, chúng ta được tan biến trong Người chứ không phải Người tan biến trong chúng ta. Chính chúng ta được đưa vào trong tiến trình sự sống của Đấng đang được ta đón nhận, và nhờ đó, chúng ta đạt tới tầm nhìn về một sự sống mới. Đây không còn là vấn đề giết lấy mà ăn, nhưng là chia sẻ, là trao đỗi. Điều cốt yếu không phải là thực tại thể lý, nhưng là cử chỉ trao tặng, đón nhận, là tiến trình tạ ơn.
Đó là thực tại đích thực, thực tại duy nhất có thể làm cho con người được sống sâu xa. Thực tại này mở ra một lãnh vực mới không còn dấu vết của thời gian, của sự chết. Thực tại ấy là ân huệ Thánh Thần. Và chúng ta hiểu đây là lời mời gọi chân tình.
Chúng ta có thể quả quyết: Mỗi thánh lễ đều là lễ “Mình Máu Thánh Chúa”. Nhưng ngày lễ trọng THÁNHTHỂ-313
Chúng ta có thể quả quyết: Mỗi thánh lễ đều là lễ “Mình Máu Thánh Chúa”. Nhưng ngày lễ trọng kính Mình Máu Thánh Chúa được Giáo Hội ấn định hằng năm vào ngày Chúa Nhật liền sau Chúa Nhật lễ Chúa Ba Ngôi, phải có lý do. Đúng, đây là cơ hội đặc biệt để chúng ta tìm hiểu và suy niệm cách sâu xa hơn về mầu nhiệm này: một mầu nhiệm đức tin và cũng là mầu nhiệm tình yêu.
Có một đôi vợ chồng trẻ kia mới lấy nhau được hơn hai năm. Trong thời gian đó, họ đã sống với nhau thật hòa hợp hạnh phúc. Mỗi ngày vào buổi sáng trước khi rời nhà đi làm, và chiều tối khi trở về ngôi nhà thân thương, anh chồng không khi nào quên trao cho vợ một cử chỉ âu yếm và một lời nói yêu thương. Nhờ đó tình yêu giữa hai vợ chồng ngày một thêm thắm thiết, hạnh phúc. Nhưng rồi hạnh phúc của đôi vợ chồng đã bị đe dọa. Một hôm, người chồng bị trúng mưa trên đường đi làm về. Sau đó anh bị cảm nặng liệt giường và được người vợ chăm sóc chu đáo. Anh được mang đến bệnh viện khám và điều trị. Bác sĩ chẩn đoán anh bị viêm cuống phổi. Dù được tận tình chữa trị và được chăm sóc chu đáo, nhưng bệnh tình ngày một thêm trầm trọng. Cuối cùng bác sĩ xác định anh bị ung thư màng phổi ác tính vào thời kỳ thứ ba. Khi sắp chết, anh gọi vợ lại gần trăn trối. Anh thều thào nói: “Em yêu quý, có lẽ sắp tới giờ Chúa gọi anh về. Anh đã chuẩn bị tâm hồn và sẵn sàng vâng theo ý Chúa. Anh chỉ tiếc một điều là không được tiếp tục sống bên em nữa. Anh cám ơn em đã đem lại cho anh những ngày chung sống hạnh phúc. Trước khi đi xa, để chứng tỏ tình yêu vĩnh cửu của anh, anh không có gì trối lại cho em ngoài chiếc nhẫn mà hai vợ chồng mình đã trao cho nhau, khi cầm tay kết ước trước bàn thờ Chúa cách đây hơn hai năm. Bây giờ anh xin tặng chiếc nhẫn kỷ vật này cho em, để mỗi lần nhìn chiếc nhẫn này, em biết rằng anh vẫn luôn ở bên em và hằng cầu mong cho em được an vui hạnh phúc”.
Nói xong, anh tháo chiếc nhẫn đang đeo và âu yếm xỏ vào tay vợ, như hai người đã làm cho nhau trong ngày cưới. Sau khi chết, anh được an táng trong một nghĩa trang ở gần nhà. Sau đó, hằng ngày người ta thấy một phụ nữ trẻ, đầu đội khăn tang, tay cầm bó hoa, đi vào nghĩa trang. Chị đứng trước một ngôi mộ cỏ mọc chưa xanh và cầu nguyện cho người chồng quá cố. Trên tay chị ta đeo hai chiếc nhẫn cưới: một chiếc của ngày thành hôn và chiếc kia là kỷ vật của người chồng quá cố để lại cho chị.
Câu chuyện trên có thể giúp chúng ta hình dung một việc làm chứng tỏ tình yêu vô hạn của Thiên Chúa, đó là việc Chúa lập phép Thánh Thể, để lưu lại cho chúng ta một bằng chứng tình yêu vĩ đại. Thực vậy, trước giờ biệt ly, trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ thân yêu, Chúa đã muốn để lại cho con người một kỷ vật, một vật kỷ niệm. Ngài không để lại vàng bạc, vì Ngài biết rằng tiền bạc không nói lên được tình yêu, tiền bạc hay phản lại tình yêu. Ngài không để lại một bức thư từ biệt, vì thư bất tận ngôn, hay một lời nói, vì lời nói như hơi gió, có đó và hay mất đó. Ngài không để lại bất cứ một cái gì, bởi vì đối với Chúa, tất cả mọi thứ ở trần gian này đều tầm thường quá, hời hợt quá, không đủ nói lên tấm lòng yêu thương quá nồng nàn của Ngài đối với nhân loại. Ngài muốn để lại một cái mà thường tình người ta yêu thương hơn cả, kỷ vật Ngài muốn lưu lại cho loài người phải hết sức đặc biệt, đó là chính bản thân Ngài, chính mình Ngài.
Nhưng cái bản thân bằng xương bằng thịt của Chúa lại sắp bị bắt và bị giết chết. Do đó, Chúa phải thực hiện ý muốn trên bằng một thể thức vô cùng linh diệu, là lưu lại bản thân Chúa dưới hình thức nhiệm mầu: Chúa lấy bánh và rượu để biến đổi thành Mình và Máu Chúa, rồi phân phát cho các tông đồ như của ăn của uống thiêng liêng nuôi dưỡng đời sống tâm linh. Đây là một sự việc hàm chứa rất nhiều ý nghĩa yêu thương nhưng cũng mang đầy tính chất đức tin.
Quả thực, đây là mầu nhiệm đức tin. Bởi vì trí khôn chúng ta không hiểu được, giác quan chúng ta không cảm nhận được, chỉ có đức tin dạy cho chúng ta biết: Chúa hiện diện thât sự trong bí tích Thánh Thể. Rước lễ là chúng ta ăn Mình Chúa và uống Máu Chúa, đây là lương thực vừa giúp chúng ta sống khỏe, sống mạnh, sống tốt đẹp ở đời này vừa bảo đảm cho sự sống lại và cuộc sống vĩnh cửu, như Chúa đã quả quyết: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì tôi sống trong người ấy, và tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết và được sống đời đời”. Như vậy, người ăn Mình Chúa và uống Máu Chúa sẽ thuộc về Chúa ngay từ đời này, và mai ngày sẽ thuộc về Ngài mãi mãi. Thánh Thể là dấu chỉ cho đời sống vĩnh cửu đã khởi sự, và là bảo chứng cho sự sống lại ngày sau hết. Đó là ý nghĩa mầu nhiệm Thánh Thể chúng ta long trọng mừng kính hôm nay.
Chúng ta hãy ghi nhớ và thực hành hai điều sau: Thứ nhất, chúng ta hãy siêng năng rước lễ. Mỗi khi tham dự thánh lễ là chúng ta đi dự tiệc, có ai đi dự tiệc mà lại không ăn uống chăng? Thế mà có khá đông người tham dự thánh lễ mà không ăn và uống Mình Máu Chúa. Phải chăng thánh lễ chỉ còn là một nghi thức và bổn phận phải làm, chứ không còn là sự sống được trao ban? Hay phải chăng vì thấy việc rước lễ xem ra không có hiệu quả trong đời sống, nên chúng ta thất vọng và không muốn rước lễ nữa? Những mối bận tâm như thế không đủ để chúng ta khước từ nguồn ơn cứu độ là chính Đức Kitô hiện diện trong bí tích Thánh Thể.
Thứ hai, tất cả chúng ta đều tin rằng khi chúng ta rước lễ là chúng ta được kết hiệp với Chúa Kitô. Nhưng sự kết hiệp đó phải đưa chúng ta đến sự hiệp thông với nhau, tức là yêu thương nhau. Đúng ra phải như thế, nhưng thực tế có được như vậy không? Có lẽ nhiều người Kitô hữu quên mất điều này: hiệp thông với Chúa Kitô phải đưa đến sự hiệp thông với nhau. Đàng khác, thánh lễ là diễn lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, cho nên bằng chính những hy sinh lớn nhỏ vì yêu thương phục vụ tha nhân, chúng ta làm trọn cử chỉ Thánh Thể thực hiện trong thánh lễ, bởi vì đời ta là một thánh lễ nối dài. Xin Chúa cho chúng ta luôn sống được như thế.
Palestine là một vùng đất hiện vẫn còn rất đông người theo đạo Hồi. Ngày nọ có một vị thầy, lãnh đạo THÁNHTHỂ-314
Palestine là một vùng đất hiện vẫn còn rất đông người theo đạo Hồi. Ngày nọ có một vị thầy, lãnh đạo một cộng đoàn Hồi giáo, mời một linh mục Công giáo đến để công khai tranh luận về bí tích Thánh Thể trước sự hiện diện của các tín hữu đôi bên. Vị thầy hỏi:
- Làm sao một miếng bánh nhỏ lại có thể trở thành Đức Kitô được?
Vị linh mục trả lời:
- Được chứ sao lại không? Tôi xin minh chứng cho thầy biết bằng một thí dụ đơn sơ. Nếu thầy ăn cơm, thầy có thể biến cơm thành máu thịt của thầy, có thật thế không nào? Chớ thì tại sao Chúa lại không biến tấm bánh nhỏ trở thành máu thịt Chúa được.
Bậc thầy đó lại hỏi tiếp:
- Làm sao Đức Kitô to lớn như thế lại có thể ở trong miếng bánh nhỏ xíu?
Vị linh mục trả lời:
- Thầy hay nhìn trời, nhìn núi và các thôn làng. Bầu trời thì mênh mông. Ngọn núi thì cao lớn hùng vĩ, còn thôn làng thì rộng rãi bao la, thế mà con mắt nhỏ xíu của thầy có thể chứa được tất cả. Nếu con mắt của Thầy làm được chuyện đó thì tại sao Thiên Chúa lại không thể làm cho miếng bánh nhỏ xíu chứa đựng được Đức Kitô.
Bậc thầy không chịu thua lại hỏi thêm:
- Làm sao có thể cử hành nhiều thánh lễ cùng một lúc tại nhiều nơi trên thế giới, mà mỗi thánh lễ lại có Mình và Máu của Đức Kitô được?
Vị linh mục đáp:
- Đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được.
Rồi để chứng minh cho câu trả lời này, vị linh mục lấy một tấm gương ném xuống đất khiến nó bể tan thành rất nhiều mảnh nhỏ. Tiếp đến, vị linh mục giơ tay chỉ cho bậc thầy đang ngạc nhiên và nói:
- Trước đây trong tấm gương này, thầy trông thấy gương mặt mình có phải không nào. Và bây giờ thầy cũng trông thấy gương mặt mình trong từng mảnh nhỏ. Thế thì tại sao Thiên Chúa lại không thể hiện diện tại nhiều nơi trong cùng một lúc được.
Cuộc tranh luận trên giúp chúng ta hiểu được phần nào mầu nhiệm Mình Máu Thánh Đức Kitô mà Giáo Hội cử hành mỗi ngày trong bí tích Thánh Thể. Vậy chúng ta phải có thái độ nào khi đi tham dự Thánh lễ?
Thánh lễ không phải là nơi trình diễn thời trang hay văn nghệ. Vì thế xén đầu bớt đuôi không tham dự đầy đủ, biến Thánh lễ thành buổi trình diễn chỉ có ca đoàn độc tấu từ đầu đến cuối, còn cộng đoàn thì yên lặng, là tỏ ra không hiểu gì về ý nghĩa phụng vụ và tinh thần cộng đoàn của Thánh lễ.
Nếu thánh lễ là một bữa tiệc, thì chúng ta phải cố gắng để Lời Chúa đúng là một món ăn thừa thãi. Tuy nhiên khi dọc tiệc, Thiên Chúa muốn chúng ta được ăn uống no say ơn thánh của Ngài. Nhưng vì Bí tích Thánh Thể là bàn tiệc thánh, nên muốn, tiếp nhận Chúa vào cõi lòng, thì linh hồn chúng ta cũng phải ở trong tình trạng ơn thánh, nghĩa là sạch tội trọng. Và hơn thế nữa mỗi khi tham dự Thánh lễ chúng ta hãy duyệt xét lại mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của chúng ta xem có phù hợp với Tin Mừng và nhất là chúng ta đã thực sự sống bác ái yêu thương hay không. Bởi vì chúng ta phải làm hoà trước đã, rồi mới đến mà dâng Thánh lễ sau.
Ăn uống là chuyện bình thường của mọi sinh vật.Khi tôi ăn uống, đồ ăn thức uống trở thành tôi. THÁNHTHỂ-315
Ăn uống là chuyện bình thường của mọi sinh vật.
Khi tôi ăn uống, đồ ăn thức uống trở thành tôi.
Tôi sống, tôi hoạt động, tôi lớn lên, nhờ chút rau xanh, cá tươi, đậu trắng.
Tôi được nuôi bằng trời cao, đất rộng và biển cả.
Từ lâu Đức Giêsu mang một khát vọng lớn, đó là nuôi sống linh hồn con người, nuôi mọi tín hữu thuộc mọi thời đại, và nuôi họ bằng chính bản thân Ngài, bằng cái chết và sự sống của Ngài.
Ngài có mắc bệnh hoang tưởng không?
Cái chết trên thập giá và sự phục sinh vinh hiển cho ta thấy Đức Giêsu là con người bình thường khi Ngài cử hành bữa Tiệc Ly tối hôm đó.
Ngài muốn ta tham dự vào cuộc Vượt Qua của Ngài, Ngài muốn trở thành đồ ăn thức uống cho ta; thành đồ ăn bằng cách biến tấm bánh thành Thịt Mình Ngài, thành thức uống bằng cách biến rượu nho thành Máu Ngài.
Như thế ai ăn Tấm Bánh và uống Chén Rượu đã được Ngài biến đổi nhờ quyền năng Thánh Thần, người ấy nên một với Ngài.
Không phải Ngài trở thành người ấy, cho bằng người ấy trở thành Ngài. "Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy."
Mỗi thánh lễ là một lần nhớ đến và làm sống lại hy tế duy nhất năm xưa trên Núi Sọ.
Bí tích Thánh Thể là một sáng kiến của Tình Yêu. Tình Yêu luôn có nhiều sáng kiến bất ngờ và kỳ diệu.
Cần ngắm nhìn cử chỉ bẻ bánh của Đức Giêsu.
Tấm bánh trở thành Tấm Thân Ngài được bẻ ra và trao hiến trên thập giá.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã bẻ bánh để môn đệ phát cho dân.
Bẻ ra và trao đi trở thành phép lạ nhân lên mãi.
"Anh em hãy cho họ ăn đi."
Như các môn đệ, chúng ta cũng lúng túng và bất lực trước cơn đói của con người hôm nay, đói cơm bánh, đói tình thương, đói được tôn trọng.
Nếu chúng ta dám trao cho Đức Giêsu tất cả những gì chúng ta có, dù chỉ là nhỏ nhoi; nếu chúng ta chịu để cho Ngài bẻ ra, và làm vỡ tan mọi tính toán ích kỷ, thì chúng ta có thể nuôi được cả thế giới.
Thỉnh thoảng bạn nên cầu nguyện trước Thánh Thể. Bạn có thể học được nhiều điều.
Con Thiên Chúa vinh quang rất mực, lại khiêm tốn hiện diện dưới dạng tấm bánh mong manh, lặng lẽ, đơn sơ.
Tấm bánh không biết nói, không sống cho mình.
Tấm bánh hiện diện là để cho người ta thưởng thức, và tan biến ngay sau khi được hưởng dùng.
Chúng ta có thể bắt chước lối hiện diện ấy của Chúa Giêsu Thánh Thể không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Thánh lễ có làm thay đổi đời bạn không? Việc rước lấy Đấng đã tự hiến qua cử chỉ bẻ bánh có giúp bạn dám chia sẻ đời mình cho tha nhân không?
Để có một thánh lễ Chúa Nhật đầy ý nghĩa, bạn thấy mình phải chuẩn bị trong cuộc sống ra sao?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, có một ngọn đèn dầu gần Nhà Tạm, ngọn đèn đỏ mời con dừng bước chân, và nhắc con về sự hiện diện của Chúa.
Con mong sự hiện diện ấy lan toả khắp nơi, để đâu đâu cũng thấy những ngọn đèn đỏ. Nơi xóm nghèo mùa mưa nhớp nháp, nơi lớp học tình thương lúc chiều tà, nơi những trung tâm phục hồi nhân phẩm, nơi bảo sanh viện nâng niu sự sống của trẻ thơ, nơi khách sạn năm sao, nơi quán bia đầu ngõ, nơi các tiệm cho mướn băng video, nơi tình yêu trong ngần của đôi bạn trẻ...
Nhưng lạy Chúa, trước hết, xin cho đời con là một ngọn đèn, xin cho chúng con là những ngọn đèn màu đỏ, mời người ta dừng lại, trầm tư, và gặp được Chúa.
Phụng Vụ Lời Chúa của ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa Ki-tô hôm nay nêu bật giá trị của Giao Ước THÁNHTHỂ-316
Phụng Vụ Lời Chúa của ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa Ki-tô hôm nay nêu bật giá trị của Giao Ước được đóng ấn bằng máu tế vật.
Xh 24: 3-8 Sách Xuất Hành trình bày nghi thức Giao Ước được ký kết giữa Đức Chúa và dân Ngài. Giao Ước được đóng ấn bằng máu của tế vật, máu nầy được rảy trên hai phía ký kết: sự hiện diện của Đức Chúa được biểu tượng bởi bàn thờ, còn sự hiện diện của dân Thiên Chúa được biểu tượng bởi mười hai thạch trụ đối diện với bàn thờ.
Dt 9: 11-15 Thư gởi tín hữu Do thái cho thấy hy tế Đức Ki-tô cao vời khôn ví so với các hy tế Giao Ước Cũ, vì Đức Ki-tô đã hiến dâng chính máu của mình để đóng ấn Giao Ước Mới.
Mc 14: 12-16, 22-26 Tin Mừng Mác-cô tường thuật việc Đức Giê-su thiết lập bàn tiệc Thánh Thể, hy tế Giao Ước Mới.
BÀI ĐỌC I (Xh 24: 3-8)
Sách Xuất Hành thuật lại không chỉ cuộc “xuất hành ra khỏi Ai-cập”, nhưng còn kinh nghiệm tôn giáo mà dân Do thái đã kinh qua trong hoang địa. Chắc chắn kinh nghiệm nầy xác minh kinh nghiệm mà tổ tiên xưa kia của họ đã được trải qua. Chính khởi đi từ giây phút nầy, dân Do thái đã không còn cảm thấy mình là một dân không có cội nguồn, nhưng ý thức mình là dân được chính Thiên Chúa đích thân phù trợ. Tất cả những người, sau khi kinh qua một mặc khải huyền nhiệm, sống mặc khải nầy trọn cuộc đời của mình như thế nào, thì dân Ít-ra-en luôn luôn quy chiếu đến những biến cố Xuất Hành để hiểu lịch sử của mình và những mối quan hệ ưu tiên của mình với Thiên Chúa như vậy.
Họ đã ghi lại những mối quan hệ nầy bằng thuật ngữ Giao Ước, theo cách thức mà con người ký kết ở giữa nhau: Thiên Chúa đề nghị che chỡ bảo vệ họ và đòi hỏi họ tuân giữ vài điều khoản của Ngài (những đòi hỏi của Thiên Chúa cốt yếu được chứa đựng trong Thập Giới). Về phần mình, họ phải cam kết tôn trọng những điều khoản nầy. Tất cả những truyền thống liên quan đến Giao Ước Xi-nai đều định vị Giao Ước trong bầu khí uy nghi và trình bày Giao Ước trong khung cảnh cử hành phụng vụ.
Đoạn văn chúng ta đọc hôm nay tường thuật việc ký kết Giao Ước cách long trọng, theo một dị bản được khai triển nhiều nhất trong số những dị bản. Đây chính là dị bản mà Đức Giê-su sẽ quy chiếu khi thiết lập hy tế Giao Ước Mới. Dị bản nầy, thuộc truyền thống Ê-lô-hít (thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên), được tường thuật ở Xh 24: 3-8. Một dị bản khác, thuộc truyền thống Gia-vít (thế kỷ thứ mười và thứ chín trước Công Nguyên), được tường thuật ở Xh 24: 1-2 và 9-11. Trong khi truyền thống Gia-vít gợi lên việc ký kết Giao Ước qua một bữa ăn thánh trên núi Xi-nai trước thánh nhan Đức Chúa cùng với ông Mô-sê, ông A-ha-ron, các con trai của ông A-ha-ron và bảy mươi kỳ mục của dân Ít-ra-en, thì truyền thống Ê-lô-hít được trích dẫn hôm nay nhấn mạnh nghi thức rẩy máu trên bàn thờ và trên dân. Diễn tiến của nghi thức nầy rất đáng chú ý: nó loan báo sơ đồ của việc cử hành Thánh Thể: trước tiên, phụng vụ Lời Chúa, đoạn, phụng vụ Hy Tế.
Phụng vụ Lời Chúa:
Từ trên núi xuống, ông Mô-sê, phát ngôn nhân của Đức Chúa, tường thuật cho toàn thể con cái Ít-ra-en quy tụ ở dưới chân núi Xi-nai biết “mọi lời của Chúa và mọi giới luật”. Dân chúng đồng thanh cam kết: “Mọi lời Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành”. Vì thế, “ông Mô-sê chép lại mọi lời của Chúa”.
“Mọi lời của Chúa” phải được hiểu là “Mười Lời” hay “Thập Giới”. Còn “mọi giới luật” chắc chắn quy chiếu đến các luật luân lý, xã hội và tế tự được trình bày trong các chương 20-23, được gọi dưới tên “Bộ Luật Giao Ước”, nhưng bộ luật nầy rõ ràng không được soạn thảo trong hoang địa nhưng thuộc về thời kỳ đầu tiên khi dân Do thái định cư ở đất Ca-na-an, sau này được tháp nhập vào Thập Giới và đem lại cho Thập Giới những áp dụng thực tiễn.
Như chúng ta đã biết rồi, ông Mô-sê đã lớn lên trong cung điện Pha-ra-on và đã được đào tạo thành các thư lại. Ấy vậy, một trong những chức năng của các thư lại là ghi chép những bản hiệp ước. Một cách nào đó, ông Mô-sê làm như vậy khi xác định bằng văn bản những khoản Giao Ước mà dân Ít-ra-en sẽ phải tôn trọng. Mọi hiệp ước ở Đông Phương xưa đều được viết bằng văn bản và phải được công bố theo định kỳ.
Phụng vụ Hy Tế:
Sáng hôm sau diễn ra hy lễ đóng ấn Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Thiên Chúa. Hai bên ký kết Giao Ước diện đối diện với nhau: sự hiện diện của Đức Chúa được biểu tượng bởi bàn thờ và sự hiện diện của dân Ít-ra-en, vừa hữu hình vừa biểu tượng bởi mười hai thạch trụ đại diện mười hai chi tộc Ít-ra-en.
Như vậy, những thạch trụ nầy sẽ là những chứng nhân muôn đời bền vững cho lời cam kết trung thành của dân Ít-ra-en. Cũng theo một cách như vậy, ở đại hội Si-khem, sau khi dân vào Đất Hứa, khi mà Giao Ước được long trọng cam kết lại, ông Giô-suê sẽ dựng một tảng đá lớn ghi nhớ muôn đời lời thề hứa trung thành của toàn thể con cái Ít-ra-en (Gs 24: 26-27).
“Rồi ông Mô-sê sai các thanh niên trong dân Ít-ra-en tiến dâng những lễ toàn thiêu, và ngả bò tơ làm lễ hiệp thông tế Chúa”. Các thanh niên mà ông Mô-sê chỉ định thực hiện hai loại hy lễ:
-Trước hết, “hy lễ toàn thiêu”. Như thuật ngữ chỉ cho thấy, tế vật được hoàn toàn hỏa tế trọn vẹn dâng tiến Thiên Chúa. Đây là hình thức hy tế cổ xưa nhất ở Ít-ra-en, tự nguồn gốc, mang đặc tính tạ ơn. Sau nầy, hy tế nầy trở nên thông thường: ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, hy lễ toàn thiêu được dâng tiến Đức Chúa hằng ngày.
-Tiếp đó, “hy lễ hiệp thông”. Nét đặc trưng của hy lễ hiệp thông chính là tế vật được làm thành một bữa ăn và mọi người cùng tham dự bữa ăn trước thánh nhan Thiên Chúa. Loại hy tế nầy nhằm tái lập những mối giao hảo giữa Thiên Chúa và các tín hữu của Ngài.
Nghi thức rảy máu:
Nghi thức được mô tả theo sau là duy nhất trong toàn bộ Cựu Ước. Những tế vật bị cắt tiết cho máu hoàn toàn chảy ra hết. Điều nầy rất phù hợp với phong tục đặc biệt của dân Ít-ra-en. Nhưng máu nầy, thay vì được dành riêng cho chỉ mình Thiên Chúa như trong tất cả những hy tế khác, lại được tách riêng thành hai phần, sau đó, được rảy trên hai bên ký kết giao ước. Trước hết, ông Mô-sê rảy phần nữa máu trên bàn thờ đại diện Đức Chúa, phần còn lại ông rảy trên dân chúng. Cuối cùng, ông lập lại lời hứa cam kết trung thành của dân: “Đây là máu giao ước Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời nầy”.
Sự thỏa thuận của hai phía được đóng ấn bằng máu: máu là biểu tượng của sự sống, chung chung được dành riêng cho chỉ mình Thiên Chúa, Đấng là nguồn sống, đem lại cho sự cam kết này một hình thức trang trọng nhất, cực thánh nhất mà người ta có thể tưởng tượng được.
Việc Đức Giê-su ban chính máu của mình để đóng ấn Giao Ước Mới mặc lấy một sự trang trọng còn lớn lao hơn nhiều, vì Đức Giê-su không chỉ đóng vai trò trung gian giao ước như ông Mô-sê, nhưng Ngài còn là tế vật nữa. Không có một sự cam kết nào về phía Thiên Chúa đối với nhân loại lại triệt để tận mức đến như thế. Không một nghi thức hiệp thông nào giữa Thiên Chúa và nhân loại lớn lao hơn nghi thức của Giao Ước Mới được hiện thực trong Bàn Tiệc Thánh Thể.
BÀI ĐỌC II (Dt 9: 11-15)
Thư gởi tín hữu Do thái là bản văn Tân Ước duy nhất giới thiệu Đức Ki-tô là Thượng Tế đích thật. Ngài là Thượng Tế nhưng cũng là tế vật. Vào ngày lễ Mình và Máu Chúa Ki-tô nầy, Phụng Vụ dâng hiến cho chúng ta một đoạn trích thư gởi tín hữu Do thái, ở đó tác giả cho thấy máu của Đức Ki-tô cao vời khôn ví so với máu của tế vật dưới thời Giao Ước Cũ. Nhưng còn hơn nữa, tác giả nhấn mạnh rằng hy tế của Đức Ki-tô thuộc bản chất khác: một của lễ tự nguyện hiến dâng thuộc vào trật tự thần thiêng và tính hiệu lực thần thiêng của nó.
Chúng ta không biết tác giả của bức thư này là ai và ai là người nhận bức thư này (nhan đề: “Thư gởi tín hữu Do thái” được thêm vào sau này). Tuy nhiên, chắc chắn ông là một môn đệ hay một cộng tác viên của thánh Phao-lô; và người nhận phải là những Ki-tô hữu gốc Do thái, kỳ cựu trong đức tin, nhưng mất can đảm bởi những bách hại mà họ đang phải chịu. Dường như họ vẫn ôm ấp những hoài niệm về những nghi lễ uy nghi và trang trọng trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Đối với họ, nghi lễ Thánh Thể xem ra quá đơn giản.
Đức Ki tô, vị Thượng Tế của Giao Ước Mới:
Tác giả đối chiếu chức tư tế của vị Thượng Tế Cựu Ước với chức tư tế của Đức Ki-tô. Những so sánh của ông cốt yếu được vay mượn ở nơi nghi thức lễ Toàn Xá diễn ra một năm một lần. Chỉ một năm một lần vào ngày đại lễ này, vị Thượng Tế bước vào nơi cực thánh của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và với máu của tế vật ông tiến hành các nghi thức xá tội để cầu xin Thiên Chúa tha thứ tội lỗi của chính mình và của toàn dân.
So sánh với sứ vụ của vị Thượng Tế nầy, sứ vụ của Đức Ki-tô thật sự là cao vời khôn sánh, vì Đức Ki-tô là “vị Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai”. Qua những mô tả, tác giả sắp cho thấy những phúc lộc của thế giới tương lai nầy mà Đức Kitô đã đạt được như thế nào: đó là những phúc lộc muôn đời bền vững, đã được hứa ban và từ nay đã đạt được một lần thay cho tất cả; tức là những phúc lộc thần thiêng chứ không vật chất và bên ngoài.
Sự cao cả của sứ vụ Đức Kitô được nêu bật ngay từ đầu bởi sự cao cả của cung thánh. Trái với vị Thượng Tế Giao Ước Cũ, để gặp gỡ Thiên Chúa, Đức Ki-tô không đi qua một đền thờ “do bàn tay con người làm nên, nghĩa là không thuộc về thế giới thọ tạo nầy”.
Dường như tác giả nhắm đến Thân Thể vinh quang của Đức Ki-tô. Cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa như vậy là vĩnh viễn, không cần lập đi lập lại mỗi năm một lần. Đức Kitô đã khai mở chỉ một lần là đủ con đường dẫn đến Chúa Cha, như tác giả viết sau nầy: “Chúng ta được thánh hóa nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ” (Dt 10: 10).
Máu mà Vị Thượng Tế Giao Ước Cũ rảy trên bàn thờ không phải máu của chính ông nhưng máu của những tế vật thụ động. Trái lại, Đức Ki-tô đã tự nguyện dâng hiến chính máu của mình trong một hiến lễ. Vị Thượng Tế Giao Ước Cũ chỉ đạt được ơn tha thứ tội lỗi tạm thời, trong khi Đức Ki-tô đạt được ơn giải thoát vĩnh viễn.
Những tế vật phải là vô tì vết; ấy vậy, Đức Ki-tô là tế vật vẹn toàn, tuyệt mức tinh tuyền và tuyệt đối thánh thiện; vì thế, hy tế của Ngài cũng tác sinh tính hiệu lực vô cùng tận. Việc rảy máu tế vật đem lại sự thanh sạch nghi thức, trong khi máu của Đức Ki-tô đem lại sự thanh sạch nội tâm.
Tính hiệu lực của hy tế Đức Ki tô.
Tại sao hy tế của Đức Ki-tô lại cao vời khôn ví như vậy? Tại sao hy tế của Ngài đem lại tính hiệu lực như vậy? Vì ở nơi Đức Ki-tô có Chúa Thánh Thần. Tác giả nói đến “Thánh Thần hằng hữu” nhằm làm nổi bật sự tương phản đáng kinh ngạc: cái chết của Đức Giê-su đạt được những phúc lộc vĩnh viễn.
Với tư cách là hiến lễ thần linh, hiến lễ thuộc Thánh Thần, hy tế của Đức Giê-su tái sinh nền tảng của đời sống nội tâm. Những ai đã được thanh tẩy như thế mới có thể dâng tiến Thiên Chúa lễ tế xứng với Người.
Hiến lễ của Đức Kitô được gợi lên ở đây không chỉ là hiến lễ đẫm máu trên Thập Giá, nhưng còn là hiến lễ của toàn bộ cuộc sống trần thế của Ngài kể từ khi nhập thể. Tác giả đã áp dụng cho Đức Giê-su Thánh Vịnh 40: “Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa nầy con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10: 5-7).
Tác giả thư gởi tín hữu Do thái gợi lên những nghi lễ Đền Thờ hiện nay, như một nền phụng vụ vẫn còn sống động (điều nầy khiến nghĩ rằng ông viết thư nầy trước năm 70, năm đánh dấu Đền Thờ bị phá hủy). Khi ngỏ lời với người Ki-tô hữu gốc Do thái, ông muốn cho họ thấy rằng những nghi thức Giao Ước Cũ chỉ là tiên trưng; chúng chỉ có giá trị tương đối. Thực tế, chính hy tế của Đức Kitô đã xóa hết “tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ”. Những ai đã nhận lời hứa ban phúc lộc đời đời, từ nay họ đã đạt được nhờ Giao Ước Mới.
TIN MỪNG (Mc 14: 12-16, 22-26)
Đoạn Tin Mừng Mác-cô nầy, được trích dẫn cho chúng ta vào ngày lễ Mình và Máu Thánh Chúa Ki-tô năm B, gồm có hai phần: chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua (14: 12-16) và thiết lập bàn tiệc Thánh Thể (14: 22-26).
Chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua (14: 12-16):
“Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày giết chiên mừng lễ Vượt Qua”. Hai ngày đại lễ nầy: lễ Bánh Không Men và lễ Vượt Qua, từ lâu được cử hành thành một cặp song đối với nhau: lễ Vượt Qua là lễ của những người chăn nuôi theo đó họ giết một con chiên tơ; còn lễ Bánh Không Men là lễ của những người trồng trọt theo đó họ tiến dâng những sản phẩm đầu mùa và bánh không men được làm bằng những hạt lúa mạch đầu tiên. Việc hiệp nhất hai lễ nầy đã trở nên dễ dàng hơn vì bữa ăn Vượt Qua cũng bao gồm bánh không men.
Lễ Vượt Qua buộc phải được cử hành ở Giê-ru-sa-lem; bữa ăn con chiên bị sát tế “phải được ăn ở trong thành”. Điều nầy khiến các môn đệ lo lắng. Đức Giê-su là một bậc tôn sư lưu động không nơi cố định; hơn nữa, Ngài là người thuộc miền Ga-li-lê; ngoài ra, theo sơ đồ của các sách Tin Mừng Nhất Lãm, đây là lần đầu tiên Thầy trò lên Giê-ru-sa-lem. Vì thế, họ hỏi Ngài: “Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?”.
Hoạt cảnh theo sau giống đến kỳ lạ với hoạt cảnh trước đó khi Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem với tư cách là Đấng Mê-si-a: Đức Giê-su sai hai môn đệ đi trước, họ sẽ gặp thấy mọi việc diễn tiến như Ngài đã mô tả cho họ. Trong trường hợp thứ nhất: một con lừa con đang cột sẳn ở đó; còn ở đây, một người mang vò nước đến gặp hai ông. Trong cả hai lần, những sự việc xảy ra đúng như Chúa Giê-su đã tiên liệu: người ta để cho hai ông dắt con lừa đi; người mang vò nước dẫn hai môn đệ vào nhà và chỉ cho hai ông một phòng đã được chuẩn bị sẳn sàng cho Ngài cùng các môn đệ cử hành lễ Vượt Qua. Qua đó, thánh ký muốn nói rằng Đức Giê-su đã dự liệu tất cả, chính Ngài tổ chức lễ Vượt Qua sau cùng nầy như trước đây Ngài đã tổ chức cuộc khải hoàn tiến vào thành Giê-ru-sa-lem.
Thiết lập Bàn Tiệc Thánh Thể (14: 22-26):
Lễ Vượt Qua Do Thái giáo, mà Đức Giê-su cùng các môn đệ cử hành, biến thành lễ Vượt Qua Ki-tô giáo qua việc Chúa Giê-su thiết lập Bàn Tiệc Thánh Thể: vừa nối tiếp vừa đoạn tuyệt, vừa song đối sâu xa nhưng cũng mới mẻ tận căn giữa hai lễ Vượt Qua này.
Lễ Vượt Qua Do Thái giáo tưởng niệm cuộc giải phóng dân Ít-ra-en khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập, nhờ vào máu con chiên được bôi trên cửa nhà của người Do-thái. Nhờ dấu hiệu nầy, Thiên Chúa đã nhận ra dân của Người nên đã tha chết cho họ.
Đức Giê-su loan báo cuộc giải phóng khỏi cảnh đời nô lệ tội lỗi nhờ máu Ngài “đổ ra vì muôn người”. Về phương diện lịch sử, cuộc giải phóng khỏi Ai-cập đã làm dân Ít-ra-en thành dân Thiên Chúa và ơn tuyển chọn này đã được hiến thánh trên núi thánh Xi-nai bởi Giao Ước Cũ.
Nhờ Mình và Máu Thánh của Ngài, được chia sẻ ở giữa mọi người, Đức Giê-su thiết lập một dân Thiên Chúa mới bởi Giao Ước Mới được đóng dấu bằng máu của Ngài. Ở nơi bàn tiệc Thánh Thể, Đức Giê-su tham dự trước cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài.
Nếu khung cảnh lễ Vượt Qua Do Thái giáo soi sáng sự biến đổi kỳ diệu của việc cử hành xưa như thế nào, thì khung cảnh bữa ăn Vượt Qua Ki-tô giáo mặc khải tất cả khía cạnh thống thiết của nó như vậy: Đức Giê-su sắp từ biệt các môn đệ của mình, những người mà Ngài yêu thương đến cùng, những người mà Ngài trao phó sứ mạng thông truyền sứ điệp của Ngài; Ngài không muốn để họ lại một mình; vì thế, Ngài gặp thấy phương tiện để ở lại với họ bằng cách thiết lập quà tặng kỳ diệu này, quà tặng của chính bản thân Ngài, nhờ đó các Tông Đồ cũng như những người kế nghiệp các ngài có thể lưu truyền mãi mãi cách thế hiện diện của Ngài. Chỉ duy một mình Thiên Chúa mới có thể vừa ra đi vừa ở lại.
Thánh Mác-cô cũng nhấn mạnh “giá trị cánh chung” của “bàn tiệc Thánh Thể”. Bàn tiệc này tham dự trước bàn tiệc Thiên Quốc: “Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa”.
Trong nhiều sấm ngôn, cuộc sống tương lai thường được biểu thị như bàn tiệc thời Thiên Sai, còn rượu nho như một trong những dấu chỉ của “niềm vui thời Mê-si-a”, niềm vui muôn đời của thế giới sắp đến. Đây đã là một trong những ý nghĩa của dấu lạ tiệc cưới Ca-na, tự nó là khúc dạo đầu của dấu lạ bàn tiệc Thánh Thể: nước biến thành rượu ở tiệc cưới Ca-na tương ứng với rượu biến thành máu của Ngài ở bàn tiệc Vượt Qua.
Đoạn văn này chứa đựng một chi tiết quý báu: “Hát Thánh vịnh xong…”. Đây chính là thánh thi tạ ơn được gọi “Hallel”, được hát để kết thúc bữa ăn Vượt Qua. Bài thánh thi tạ ơn này được trích từ các thánh vịnh 113-118; như vậy, bữa Tiệc Ly của Đức Giê-su theo Tin Mừng Gioan đích thực là bữa ăn Vượt Qua của Đức Giê-su theo các Tin Mừng Nhất Lãm.
Tuần lễ trước chúng ta đã mừng mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Tình yêu Chúa Ba Ngôi bao trùm trên THÁNHTHỂ-317
Tuần lễ trước chúng ta đã mừng mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Tình yêu Chúa Ba Ngôi bao trùm trên chúng ta bằng việc Ngôi Cha tạo dựng trời đất muôn vật, Chúa Con xuống thế chuộc tội cứu đời và Thánh Thần thánh hoá Hội thánh và các tâm hồn. Do đó, tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa phải là khuôn mẫu của chúng ta. Nhưng thành thực mà nói, sống yêu thương theo khuôn mầu Ba Ngôi không phải là chuyện dễ. Cảm thông được sự giới hạn của chúng ta, trước lúc về trời, Đức Giêsu đã hứa:”Này đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Và để thực hiện lời hứa ấy, Đức Giêsu đã lập bí thích Thánh Thể, để lại Mình Máu Ngài làm lương thực và là nguồn sức mạnh cho chúng ta trong cuộc lữ hành trần gian này. Với bí tích Thánh Thể, Thiên Chúa nơi Đức Giêsu thực sự ở cùng chúng ta “mọi ngày cho đến tận thế”. Như vậy, Thánh Thể chính là dấu chứng của một lời hứa, một giao ước đã thành hiện thực và là bảo chứng của tình yêu.
Thánh Thể là bảo chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Vậy chúng ta hãy đáp lại tình yêu nhưng không và quảng đại ấy. Ước gì, từng người chúng ta hãy ý thức nhiều hơn đến tình yêu Đức Giêsu dành cho chúng ta nơi bí tích Thánh Thể. Đồng thời, chúng ta hãy giữ trọn giao ước tình yêu với Thiên Chúa bằng một quyết tâm năng tham dự Thánh lễ và rước lễ mỗi khi có thể. Và nhờ sức mạnh của Thánh Thể ở trong mình, chúng ta hãy sống yêu thương và chia sẻ cho những người khác.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Xh 24, 3-8.
Sách Xuất hành tường thuật việc Thiên Chúa ký giao ước tình yêu giữa Ngài với dân Israel qua trung gian ông Maisen. Thiên Chúa muốn chọn dân Israel làm dân riêng thuộc quyền sở hữu của Ngài. Nhưng Ngài không ép buộc, con người được hoàn toàn tự do. Ngài muốn một sự dấn thân tự nguyện. Nghi lễ ký kết giao ước gồm:
– Trước hết ông Maisen lặp lại các lệnh Thiên Chúa truyền cho dân phải giữ. Dân chúng đồng ý ký kết và hô lên:”Mọi lời Đức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành”.
– Tiếp đến, Maisen viết các lệnh truyền của Chúa cho dân để lưu truyền mãi về sau.
– Cuối cùng, Maisen truyền giết bò dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an cho Thiên Chúa. Ông rảy máu bò trên bàn thờ và trên dân để ký kết giao ước.
+ Bài đọc 2: Dt 9,11-15.
Trích đoạn thư Do thái cho chúng ta biết: Đức Giêsu đã ký kết Giao uớc mới trong máu của Ngài thay thế cho Giao ước cũ. Trong lễ xá tội của người Do thái, vị Thượng tế một mình bước vào nơi Cực thánh để hiến dâng của lễ đền tội cho dân chúng. Được Đức Giêsu đảm nhận, vai trò này được hoàn toàn đổi mới: Cung thánh mới là nhân tính đã được tôn vinh dứt khoát của Đức Kitô, máu dâng tiến chính là máu của Ngài.
Nhờ máu của Ngài đổ ra, con người được giải thoát khỏi mọi tội lỗi, được dâng lễ thờ phượng Thiên Chúa và nhận gia tài vĩnh cửu đã được hứa ban.
+ Bài Tin mừng: Mc 14,12-16.22-26.
Đoạn Tin mừng theo thánh Marcô tường thuật bữa tiệc Vượt qua cuối cùng của Đức Giêsu. Sau khi đã mô tả chi tiết những chuẩn bị bữa ăn Vượt qua, thánh sử kể lại việc Đức Giêsu thiết lập bí tích Thánh Thể.
Hằng năm người Do thái tổ chức ăn mừng lễ Vượt qua để tưởng niệm cuộc giải phóng dân Chúa ra khỏi ách nô lệ của Ai cập. Đức Giêsu rất tôn trọng lễ Vượt qua này nên đích thân thu xếp mọi chi tiết tổ chức. Chính trong bữa tiệc này Đức Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể. Máu Ngài đổ ra để đóng dấu cho một Giao Ước Mới:”Đây là Máu Thầy, máu giao ước đổ ra vì muôn người”.
Biến cố được cử hành không còn phải là cuộc giải phóng khỏi ách nô lệ Ai cập nữa, mà chính là cuộc giải phóng vĩnh viễn của nhân loại đã được thực hiện trên thập giá. Con Chiên Vượt qua thực sự, chính là Đức Giêsu, Đấng bị kết án tử hình vì đã yêu thương nhân loại đến cùng.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Thánh Thể, bảo chứng tình yêu.
Vào năm 1263, có một linh mục người Đức đang cử hành Thánh lễ tại một nhà thờ kính thánh Christiana, lúc bẻ bánh trước khi rước lễ, vị linh mục này đã trông thấy Mình thánh hình bánh đã biến thành Thân Xác Đức Giêsu tử nạn. Trên thân mình Chúa, máu đang rịn ra qua các vết thương ở tay chân và cạnh sườn Người. Máu chảy ra làm ướt tấm khăn thánh và mấy lớp khăn phủ bàn thờ. Vị linh mục vội gấp các tấm khăn kia lại. Nhưng gấp tới đâu thì máu lại thấm ra tới đó. Cuối cùng máu thấm qua tới 25 lần vải khăn. Vừa cảm động lại vừa sợ hãi đến nỗi vị linh mục không thể tiếp tục dâng hết thánh lễ được. Sau đó, ngài đến xin yết kiến Đức Giáo hoàng Urbanô và tường trình sự kiện lạ lùng ấy. Đức Giáo hoàng liền sai một phái đoàn, đứng đầu là một Giám mục đến điều tra thực hư. Sau khi xác định là phép lạ, vị Giám mục đã cho rước Mình Thánh Chúa cùng các khăn bàn thờ đã thấm Máu Thánh kia về Rôma và đặt tại một nhà thờ dâng kính phép Thánh Thể, và mời gọi giáo dân đến chầu Mình Thánh liên tục. Sau đó, vào ngày mồng 8 thánh 9 năm 1264, Đức Giáo hoàng Urbanô đã ra sắc dụ truyền thiết lập lễ kính Mình Máu thánh Chúa Giêsu và truyền mừng lễ trong toàn thể Hôi thánh.
NHỮNG CHUẨN BỊ TỪ XA.
Hằng năm, người Do thái mừng lễ Vượt Qua rất trọng thể, cuộc lễ kéo dài tới bảy ngày. Khách thập phương trẩy đến Giêrusalem mừng lễ rất đông. Có những người ở xa ước được về Giêrusalem mừng lễ ít là một lần trong đời, giống như người Hồi giáo ngày nay tuốn về La Mecque để mừng lễ của họ.
Người Do thái gọi lễ Vượt Qua này là lễ Quốc khánh của toàn dân để kỷ niệm hai biến cố oai hùng vĩ đại nhất của dân tộc. Hai biến cố ấy là:
Giải phóng dân tộc. Thiên Chúa giải phóng dân tộc thoát ách nô lệ Ai cập. Ngày đó, Thiên Chúa đã truyền cho ông Maisen và tổ tiên họ: giết con chiên một tuổi, sung sức nhất, trong sạch nhất, lấy máu nó bôi lên cửa nhà dân Do thái để được cứu sống. Còn cửa nhà dân Ai cập, không có máu chiên thì các con đầu lòng bị giết. Sau đó họ ăn thịt chiên với bánh không men lấy sức mạnh vượt ra khỏi Ai cập để về đất mà Thiên Chúa đã hứa ban cho tổ tiên họ.
Lập Giao ước Sinai. Thiên Chúa muốn chọn cho mình một dân riêng làm sở hữu, nên Ngài đã lập giao ước với toàn dân ở núi Sinai. Thiên Chúa đã truyền cho ông Maisen xuống núi thuật lại lời giao uớc và giời luật của Chúa: Toàn dân đồng thanh đáp: “Mọi lời Chúa phán, chúng tôi sẽ thi hành”. Rồi họ ngả chiên bò làm lễ toàn thiêu và lễ hiệp thông.
Họ dâng lễ toàn thiêu bằng thiêu đốt tất cả lễ vật dâng lên trước nhan Chúa để tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và làm chủ mọi loài. Ngài đã ban sự sống cho họ, vì thế, họ hoàn toàn phó thác mạng sống mình và dân tộc mình cho Thiên Chúa. Ông Maisen đã ký kết với Thiên Chúa bằng cách lấy máu chiên bò: một nửa số máu được rảy trên bàn thờ, tượng trưng phía Thiên Chúa; một nửa kia được rảy trên toàn dân và Maisen lớn tiếng tuyên bố:”Đây là máu giao ước Chúa lập với anh em”. Sau đó, họ ăn thịt chiên hy tế trước tôn nhan Thiên Chúa để hiệp thông sự sống của Thiên Chúa (Xh 24,3-8).
ĐỨC GIÊSU LẬP PHÉP THÁNH THỂ
Tại bữa Tiệc ly.
Đức Giêsu yêu thương các môn đệ, không để họ sống bơ bơ trên trần thế nên hứa sẽ ở lại với họ mãi mãi:”Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 28,20).Ngài muốn ở cùng các môn đệ mãi mãi bằng cách ban cho họ một tặng phẩm, tặng phẩm thần linh.
Người đời trước khi đi xa thường để lại cho người thân thích một món đồ nào đó để ghi nhớ như một cuốn sách, tấm hình, cái bút, cái khăn tay hay bất cứ một đồ vật gì.
Cách đây không lâu, đám thợ lặn đã tìm ra một chiếc tầu Tây ban nha được chế tạo đã 400 năm nay bị chôn vùi dưới nước ngoài khơi Bắc Ái nhĩ lan. Trong số báu vật tìm được trong tầu, người ta thấy một chiếc nhẫn đàn ông bằng vàng, trên nhẫn có chạm hình một cánh tay đang nắm một trái tim với những dòng chữ chư sau:”Anh không thể cho em điều gì hơn thế nữa”.
Đức Giêsu cũng hành động như vậy, Ngài muốn để lại cho họ một kỷ vật có một không hai, không phải là món đồ vật nào mà chính là bản thân Ngài. Đây chính là lời Đức Giêsu nói với chúng ta: Thầy đã trao ban chính mình Thầy cho các con trọn vẹn đến mức Thầy không còn thể nào cho các con điều gì hơn thế nữa.
Ngài đã thực hiện trong bữa tiệc này mà thánh Marcô đã ghi lại:”Đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các ông mà nói:”Anh em hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy”. Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông và tất cả đều uống chén này, đổ ra vì muôn người”(Mc 14,22-24).
Với những lời ấy, Đức Giêsu đã lập phép Thánh Thể. Rồi Ngài còn truyền cho các môn đệ:”Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” tức là Ngài ban quyền cho các môn đệ được làm việc cao qúi này để tưởng nhớ đến Ngài.
Ý nghĩa bí tích Thánh Thể.
Trong bữa Tiệc ly và cũng là Thánh lễ đầu tiên do Đức Giêsu cử hành, Ngài đã thiết lập bí tích Thánh Thể và ban quyền chức Linh mục cho các tông đồ. Từ đó trở đi, cho tới ngày nay, và cho đến tận thế, trong Thánh lễ, khi Linh mục trịnh trọng lặp lại những lời Đức Giêsu:”Này là mình Thầy, “Này là Máu Thầy”, tức thì bánh không còn là bánh, rượu không còn là rượu nữa mà đã trở thành Mình Máu Chúa Kitô.
Lễ Chúa dâng tại bữa Tiệc ly, trên thánh giá và lễ các Linh mục dâng bây giờ cũng là một vì “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” chỉ khác nhau ở cách thức dâng lễ thôi, nghĩa là trên thánh giá có đổ máu, còn bây giờ thì không.
Như vậy, Đức Giêsu đã tìm ra phương thế để ở lại với các môn đệ; và qua mọi thời gian, ở lại với tất cả những ai tin vào Ngài. Vì thế, Thánh Thể được gọi là bí tích của sự hiện diện. Dưới hình bánh rượu, Đức Giêsu hiện diện luôn mãi với loài người nơi trần gian. Đây là một chân lý cao siêu vượt quá sự hiểu biết của trí khôn loài người. Vì vậy, sau truyền phép, Linh mục xướng lên:”Đây là mầu nhiệm đức tin”. Mọi người đều thưa lên:”Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết, và tuyên xưng Chúa sống lại, cho đến khi Chúa đến”.
Trong bài ca Tiếp liên của Thánh lễ hôm nay, Thánh Tôma tiến sĩ đã ca tụng mầu nhiệm Thánh Thể như sau:”Đây là tín điều dạy người Kitô hữu, rằng Bánh trở nên Thịt Chúa và Rượu trở nên Máu Chúa. Thịt Chúa là của ăn, Máu Ngài là thức uống, nhưng Chúa Kitô vẫn còn đầy đủ dưới mỗi sắc hình. Lạy Chúa Giêsu là mục tử tốt lành, là Bánh thực, xin Ngài thương xót, chăn nuôi và bảo vệ chúng con, xin Ngài ban cho chúng con nhìn thấy những điều thiện hảo trong cõi nhân sinh” (Bài Lauda Sion do thánh Tôma Aquinô soạn tại Orvieto năm 1264).
BÀI HỌC RÚT RA TỪ THÁNH THỂ. Thánh Thể và hiệp thông.
Bí tích Thánh Thể cũng là một dấu chỉ: dấu chỉ của sự hiệp thông. Hiệp thông có nghĩa là nên một. Nói cách khác, bí tích Thánh Thể là dấu chỉ của sự nên một, của sự hiệp nhất, như Hội thánh luôn tuyên xưng và cầu nguyện rằng:”Chúng con cúi xin Cha cho Thánh Thần liên kết chúng con nên một khi chúng con dự tiệc Mình và máu Đức Kitô”(Kinh Tạ ơn II) Hay:”Và khi chúng con được Mình và Máu Con Cha bổ dưỡng, được đầy tràn Thánh Thần của Người, xin cho chúng con trở nên một thân thể và một tinh thần trong Đức Kitô”(Kinh Tạ ơn III).
Chính Đức Giêsu đã từng nói:”Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy”(Ga 6,56). Động từ “ở trong” mà Chúa nói, diễn tả mạnh mẽ ơn hiệp thông. Có ai trong chúng ta dám khẳng định dứt khoát và mạnh mẽ như Đức Giêsu ? Dẫu là tình yêu mặn nồng của đôi lứa yêu nhau hay ngay cả vợ chồng đi nữa, có chắc là họ ở trong nhau như Chúa ở trong ta và ta ở trong Chúa ? Chỉ có bí tích Thánh Thể làm nên sự hiệp thông kỳ diệu, sự hiệp thông toàn vẹn: Chúa với ta và ta với Chúa: một thân thể không thể tách lìa.
Trong bí tích Thánh Thể, ta không chỉ nên một với Chúa mà thôi, nhưng còn với anh chị em của mình nữa. Vì khi cùng chia sẻ một tấm bánh là chính thân mình Chúa Kitô, tất cả mọi người sẽ nên những chi thể của Ngài. Thánh Phaolô đã từng nói: Tất cả chúng ta tuy nhiều nhưng cùng chia sẻ một tấm bánh, vì thế chúng ta làm nên một thân mình. Thân mình mầu nhiệm này sẽ được sống nhờ sức sống của Chúa Kitô là chính Thánh Thần của Chúa Kitô mà Ngài ban cho ta.
Bởi thế, trong Chúa Kitô, nhờ Thánh Thể của Người, tất cả chúng ta thật xứng đáng gọi Thiên Chúa là Cha, còn ta chỉ là một với nhau , cùng làm con một Cha (Lm Ng. minh Hùng).
Thánh Thể và yêu thương.
Con người ta ai cũng có nhu cầu yêu, nghĩa là nhu cầu yêu và được yêu, mà không yêu là chết. Nhưng khi yêu người ta không dựa trên cơ sở lý luận mà chỉ theo cảm tình. Chính vì thế, Blaise Pascal đã nói:”Con tim có những lý lẽ của nó mà lý trí không thể hiểu được”. Tình yêu mạnh hơn sự chết. Với sự thúc đẩy mạnh liệt của tình yêu, người ta có thể làm những việc mà không ai có thể nghĩ tới. Chỉ tình yêu mới có thể cắt nghĩa được những hành động đó.
Thiên Chúa cũng yêu chúng ta bằng tình yêu như vậy đó. Tình yêu mà Thiên Chúa lắm lúc cũng có vẻ “điên khùng” như thế, vượt qua mọi lý luận của lý trí con người như tình yêu đôi lứa. Thật vậy, nhìn lại mối tương quan giữa Thiên Chúa và loài người, chúng ta sẽ thấy trong mối tương quan này, Ngài không nhận lại bất cứ một điều gì. Chỉ vì yêu loài người chúng ta, Ngài đã làm những việc mà trí khôn con người không thể tưởng tượng được, đó là việc Ngài từ bỏ vinh quang của một vì Thiên Chúa, nhập thể làm một con người nghèo hèn ở giữa chúng ta (x. Pl 2,6-7).
Cuộc đời Đức Giêsu, dù xét một cách toàn thể hay từng chi tiết, chúng ta thấy Ngài sống hoàn toàn vị tha, nghĩa là vì tình yêu với Chúa Cha và đối với chúng ta. Cụ thể nhất là cái chết thê thảm và nhục nhã trên thập giá của Ngài. Hơn thế nữa, Ngài còn để lại chính thịt máu Ngài làm của ăn cho từng người chúng ta như Ngài phán:”Ta là Bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta ban, chính là thịt Ta để cho thế gian được sống”(Ga 6,51). Hành vi này là của Đức Giêsu, quả thật đã vượt quá suy luận của con người đến nỗi ngay các môn đệ của Ngài cũng phải thốt lên:”Lời chi mà sống sượng thế, ai nào có thể nghe nổi”(Ga 6,60).
Thiên Chúa cảm thông và thương yêu chúng ta như vậy, lẽ nào chúng ta không cảm thông và yêu thương nhau ? Tình yêu của Đức Giêsu có hai chiều kích: yêu Chúa Cha và yêu con người. Lẽ nào chúng ta là con người với nhau lại chỉ quan tâm đến Thiên Chúa mà không quan tâm đến nhau ?
Là một Thiên Chúa yêu thương, chắc chắn Ngài muốn chúng ta yêu thương nhau, quan tâm đến nhau hơn là quan tâm đến Ngài. Tại sao ? Vì những người chung quanh chúng ta cần tình yêu và sự quan tâm của chúng ta hơn Ngài rất nhiều. Ngài là Thiên Chúa – Đấng không thiếu thốn sự gì và cũng không hề ích kỷ – Ngài không cần tình yêu và sự quan tâm của chúng ta cho bằng những người chung qyanh đang chung sống với chúng ta. Tại sao chúng ta lại quá quan tâm đến Ngài mà bỏ rơi anh chị em mình ? Trong thực tế, chính khi ta yêu thương và quan tâm đến anh chị em mình, là chúng ta yêu mến Chúa. Nếu yêu mến Thiên Chúa thì hãy bắt chước Đức Giêsu: chẳng những chấp nhận chịu khổ để anh chị em mình đỡ khổ, mà còn trở nên “của ăn” cho anh chị em mình nữa.
Thánh Thể và chia sẻ.
Với bí tích Thánh Thể, Đức Giêsu trao ban trọn vẹn và hoàn toàn con người của Ngài cho chúng ta, để nhờ Ngài chúng ta được thông phần vào sự sống của Thiên Chúa và được sống đời đời như Ngài quả quyết:”Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết”(Ga 6,54). Ngài yêu thương chúng ta đến nỗi đã tự hủy mình đi để trở nên tấm bánh và ao ước được chúng ta ăn, để chúng ta được nên một với Ngài. Vì thế, trong một đoạn Tin mừng ngắn hôm nay, động từ “ăn” được lặp lại tới 9 lần.
Như vậy, “ăn và uống máu” Đức Giêsu chính là suy niệm Lời và đời sống của Ngài để dần dần thay thế “chất tôi” thành “chất Ngài”, biến “tôi” thành “Ngài”.
Nói cách khác, đó là được trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, nên giống Đức Kitô mọi đàng để có thể nói như thánh Phaolô:”Tôi sống nhưng không phải tôi mà là chính Đức Kitô sống trong tôi”. Giống Đức Giêsu là giống Thiên Chúa, mà “Thiên Chúa là Tình yêu”(1Ga 4,8.16). Tình yêu ở đây là thứ tình yêu hoàn toàn vị tha nghĩa là trở nên “chiếc bánh bị ăn” (pain mangé) như Đức Giêsu (theo cách nói của cha Antôn Chevrier, tu hội Prado) để rồi mỗi người chúng ta sẽ trở nên “con người bị ăn thịt đi”(homme mangé) để phục vụ những người khác.
Truyện: Giới Tử Thôi cắt thịt đùi mình.
Trên bước đường lưu vong, trốn ra ngoài nước, công tử Trùng Nhĩ và bọn bề tôi trải qua rất nhiều cam go, lầm than, khổ sở, đói khát.
Không tiền bạc, hết lương thực, bọn người này phải đi ăn xin. Một hôm đói quá, đói đến lả người, cả bọn cơ hồ không đi được nữa. Trùng Nhĩ phải kiếm gốc cây có bóng mát gối đầu vào đùi Hồ Mao mà nằm. Bọn bề tôi bảo nhau đi bứt rau sam về luộc ăn. Trùng Nhĩ nuốt không trôi. Bỗng Giới Tử Thôi mang một bát thịt nóng hổi đến dâng. Trùng Nhĩ ăn ngon lành ! Ăn xong, khoẻ khoắn liền hỏi Giới Tử Thôi:
– Nhà ngươi lấy đâu được thịt ngon như thế ?
Giới Tử Thôi chỉ vào đùi mình, thưa:
– Ấy là thịt đùi của tôi đó. Tôi nghe rằng: người hiếu tử bỏ thân thờ cha, người trung thần bỏ thân thờ vua. Nay Công tử đói không có gì ăn nên tôi phải cắt thịt đùi dâng cho Công tử (Thanh Lan Võ ngọc Thành, Nhân vật Đông châu, 1968, tr 324)
Thánh Thể và Thánh lễ
Đức Giêsu ví Thánh Thể như bàn tiệc thịnh soạn đã dọn sẵn, mời chúng ta đến tham dự, hoàn toàn miễn phí. Nhưng có những người đã từ chối lời mời gọi thân tình này, họ viện ra những lý nọ lẽ kia không chịu đến tham dự (x. Lc 14,16-24). Chúa mời gọi ta đến dự tiệc thánh là có ý tìm lợi ích cho linh hồn chúng ta: phép Thánh Thể Chúa lập ra là một bảo đảm ơn cứu chuộc như Ngài nói:”Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho sống lại ngày sau hết” (Ga 6,54).
Chúa thiết tha mời ta tham dự Thánh lễ và rước lễ để được ơn phần rỗi, nhưng ngoài ra Ngài lại con răn đe:”Nếu các ngươi không ăn thịt Con người và uống máu Người, các ngươi không có sự sống nơi mình”(Ga 6,53). Chúa răn đe như vậy không có ý tìm lợi ích cho Ngài vì Ngài không còn thiếu gì nhưng cho chúng ta mà thôi.
Một lần thánh Phanxicô chầu Thánh Thể, được nghe tiếng Chúa hỏi:”Hỡi Phanxicô sao con mê Cha như điên như cuồng như vậy”? Thánh Phanxicô trả lời:”Lạy Chúa, xét về yêu, thì Chúa còn điên hơn con”.
Đức Giêsu đã làm phép lạ hoá bánh ra nhiều để thêm sức cho những người đã theo và nghe Ngài THÁNHTHỂ-318
Đức Giêsu đã làm phép lạ hoá bánh ra nhiều để thêm sức cho những người đã theo và nghe Ngài giảng dạy. Phép lạ hoá bánh ra nhiều, là dấu chỉ của bí tích Thánh Thể sau này.
Đức Giêsu như gương mẫu
Các tông đồ nhắc nhở Đức Giêsu: "xin Thầy cho dân chúng về để họ tìm chỗ trọ quanh đây và kiếm thức ăn vì ngày đã tàn". Dường như dân chúng ham mê nghe Đức Giêsu giảng, và chính Đức Giêsu cũng rất thích giảng dạy dân chúng đến quên cả thời gian.
Điều các tông đồ có thể làm được, là nhắc nhở Đức Giêsu về nhu cầu thể lý của con người. Và Đức Giêsu nói: "Anh em hãy cho họ ăn". Cho dân chúng ăn, đâu phải là nhiệm vụ của các tông đồ, và cũng vượt khả năng của chính các ông: "chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá". Hãy bảo họ ngồi thành nhóm khoảng năm mươi người. Và Đức Giêsu đã cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời tạ ơn rồi bẻ ra trao cho các môn đệ, để họ phân phát cho dân chúng. Đức Giêsu không chỉ quan tâm đến khát vọng thiêng liêng của dân chúng, nhưng Ngài còn thông cảm và để ý đến cả nhu cầu thể xác của con người nữa.
Đức Giêsu: "cầm lấy, ngước mắt lên trời, dâng lời tạ ơn...". Những việc bình thường hằng ngày, ngay cả như "ăn uống", Đức Giêsu cũng vẫn làm với ý thức sâu xa về Thiên Chúa. Và cũng chính thói quen này giúp hai môn đệ Emmau nhận ra Đức Giêsu. Đây là điều mỗi người cần học nơi Đức Giêsu: đối diện với thực tại, hướng lên Thiên Chúa, chúc tụng và xin Ngài giúp để biết phải làm gì và làm như thế nào trong mọi hoàn cảnh.
Đức Giêsu nuôi dưỡng con người bằng chính Mình Máu Ngài
Đức Giêsu trong đêm Ngài bị bắt, Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, bẻ ra trao cho các môn đệ và nói: này là mình thầy, hiến tế vì anh em. Đức Giêsu đã bị trao nộp và bị giết vì tội con người, Ngài trở nên của ăn của uống cho con người của mọi thời đại.
Ngày xưa dân Do Thái đi trong hoang địa được nuôi bằng manna, người thời Đức Giêsu được Ngài hoá bánh ra nhiều để nuôi họ, còn ngày nay Ngài nuôi con người bằng chính thịt máu Ngài. Con người ngày nay còn hạnh phúc hơn cả con người ngày xưa và ngay cả con người thời Đức Giêsu nữa. Tuy vậy, mấy ai nhận ra diễm phúc này?
Qua bí tích Thánh Thể, con người nhận ra tình yêu vô cùng của chính Đức Giêsu đối với con người. Ngài sẵn sàng trở thành của nuôi con người, để được tan biến trong con người, để làm con người được thần hoá, được thông phần bản tính Thiên Chúa. Của ăn vật chất con người dùng, trở thành thịt máu con người; còn bí tích Thánh Thể con người dùng, làm con người được "trở nên thịt máu Đức Giêsu", được "thánh hoá", được thần hoá, được trở nên con Thiên Chúa.
Dâng hiến chính mình
Đức Giêsu đã dâng hiến chính mình cho Thiên Chúa và cho con người qua cái chết trên thập giá và được thể hiện trước cách bí tích qua bí tích Thánh Thể. Và qua điều này Ngài mời gọi con người của mọi thời đại trở nên giống Ngài: yêu thương đến quên mình, đến dâng hiến chính mình cho con người.
Trong lịch sử Giáo Hội, có rất nhiều người đã anh dũng dâng hiến chính mạng sống để làm chứng cho Chúa. Ở Việt Nam đã có cả hơn một trăm ngàn người dám chết để làm chứng cho đức tin, cho Thiên Chúa. Các thánh và chân phước tử đạo là nhân chứng hùng hồn cho tình yêu Thiên Chúa và con người.
Những người dâng mình cho Chúa, cũng là những dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người. Ơn gọi không khởi đầu với con người và cũng không được kết thúc bởi con người. Chính Thiên Chúa là sáng kiến của mọi ơn gọi và đặc biệt của ơn gọi dâng hiến; cũng chính Thiên Chúa là Đấng bảo vệ và phát triển ơn gọi dâng hiến. Ơn gọi dâng hiến là ơn gọi của tình yêu, yêu Chúa và yêu người. Tình yêu không triển nở, sẽ bị chết. Mỗi người sống đời dâng hiến hãy luôn cầu xin, để tình yêu của họ với Thiên Chúa và con người luôn phát triển. "Xin Chúa làm cho con yêu Chúa và yêu con người".
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Bí tích và phép lạ khác nhau như thế nào? 2. Bạn có năng lãnh nhận bí tích Thánh Thể không? Tại sao? 3. Xin bạn chia sẻ tâm tình và kinh nghiệm thiêng liêng của bạn với Đức Giêsu nơi bí tích Thánh Thể.
Thịt và máu là hai yếu tố căn bản làm nên một thân xác con người. Thịt và máu cũng là biểu tượng THÁNHTHỂ-319
Thịt và máu là hai yếu tố căn bản làm nên một thân xác con người. Thịt và máu cũng là biểu tượng của sự gắn bó liên kết. Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Thánh Thể, tức là làm cho bánh trở nên Thịt Người và rượu trở nên Máu Người. Qua bí tích này, Chúa muốn ở lại với nhân loại, để đồng cam cộng khổ với con người của mọi thời đại. Cũng qua bí tích này, Chúa cho phép con người được gắn bó với Chúa, nhờ ăn uống Thịt và Máu Người, là lương thực thần linh. Lương thực này vừa ban sức sống thiêng liêng cho con người khi còn tại thế, vừa là bảo đảm cho họ được sự sống đời đời.
Bí tích Thánh Thể là sự kết hợp thiêng liêng với Chúa Giêsu. Trong cuộc tranh luận với người Do Thái, Chúa Giêsu đã khẳng định: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi và Tôi ở lại trong người ấy”. Nhờ việc rước lễ, người tín hữu được ở trong Chúa Giêsu. Hơn thế nữa, một cách nào đó, họ được trở nên chính Chúa, để rồi họ có thể nói như Thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là chính Chúa Giêsu sống trong tôi” (Gl 2,20). Khi ta ăn uống lương thực và thực phẩm, thì các loại lương thực và thực phẩm ấy được biến hóa trở nên máu thịt làm cho thân xác ta được khỏe mạnh và tràn đầy sức sống. Nhưng khi chúng ta lãnh nhận Mình và Máu Đức Giêsu, chúng ta được biến đổi dần dần để nên giống như lương thực mà chúng ta đã ăn, để trở nên đồng hình đồng dạng với Con Thiên Chúa. Đây là sự khác biệt giữa lương thực vật chất và lương thực thiêng liêng.
Manna trong Cựu ước và phép lạ nhân bánh trong Tân ước chỉ là hình bóng của Bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu thiết lập trong bữa tiệc ly. Nếu người Do Thái vẫn còn in đậm trong trí nhớ phép lạ Manna, thì Chúa Giêsu quả quyết với họ, chính là Chúa Cha ban cho họ lương thực huyền nhiệm đó, đồng thờ Chúa nêu sự khác biệt giữa Manna với Thánh Thể: Manna chỉ là lương thực vật chất để nuôi sống thân xác; Thánh Thể chính là lương thực thần thiêng để nuôi sống tâm hồn. Manna chỉ là lương thực đời này; Thánh Thể là bảo đảm cho con người được hưởng sự sống đời sau.
Khi cử hành trọng thể lễ kính Mình và Máu Đức Kitô, Giáo Hội mời gọi chúng ta đừng quên sự hiện diện huyền nhiệm của Chúa Giêsu trong Bí tích cực trọng này. Trong bảy bí tích Chúa Giêsu đã thiết lập, bí tích Thánh Thể được gọi là “Bí tích rất thánh – Sancti – Saint Sacrement”. Bởi đây là sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu. Trong bí tích Thánh Thể, “có trọn vẹn linh hồn và thể xác, thiên tính và nhân tính của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể” như Công đồng Tridentinô đã xác quyết và định tín. Vì vậy, theo truyền thống của Giáo Hội Công giáo, sau thánh lễ này, thường có cuộc rước trọng thể để tôn vinh sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Hình Bánh và Hình Rượu. Sự hiện diện này không chấm dứt khi thánh lễ kết thúc, như một số giáo phái Kitô khác chủ trương.
Bí tích Thánh Thể cũng là lời mời gọi sống yêu thương và hiệp thông với nhau như máu với thịt. Mối hiệp thông này có hai chiều kích: Hiệp thông chiều dọc và hiệp thông chiều ngang. Hiệp thông chiều dọc là gắn bó với Chúa Giêsu để nhờ Người mà chúng ta được gặp gỡ Chúa Cha. Hiệp thông chiều ngang là tình liên đới cảm thông với anh chị em mình. Thánh Phaolô nhấn mạnh đến sự hiệp thông chiều ngang này khi Ngài viết cho giáo đoàn Côrinhtô: “Bởi vì chí có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một tấm Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (Bài đọc II). Qua hình ảnh một thân thể, vị Tông đồ dân ngoại muốn nhắc chúng ta sống liên kết và yêu thương nhau. Bởi lẽ tất cả đều được nuôi dưỡng bằng một lương thực thần thiêng là Mình và Máu Đức Giêsu. Lương thực ấy liên kết chúng ta thành một thân thể là Giáo Hội. Người Việt Nam chúng ta thường nói: “Máu chảy ruột mềm”. Hình ảnh này muốn nói lên tình tương thân tương ái giữa mọi thành viên trong gia đình với nhau và còn vươn rộng hơn là tình đồng loại, để gia tay cứu giúp những ai hoạn nạn khổ đau và những người bất hạnh.
“Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Đức Chúa phán ra” (Bài đọc I). Ông Môi-sen nhắc nhở dân Do Thái hồi tưởng lại những việc kỳ diệu Chúa đã làm, để tôn vinh quyền năng cao cả của Chúa, cũng là để cảm tạ tình thương bao la của Ngài. Tôn thờ Thánh Thể cũng là tôn thờ quyền năng cao cả của Chúa. Bởi lẽ như chúng ta đọc trong “Kinh Cám ơn thông dụng” của Mùa Chay: “Chúa trọng vô cùng cả và trời đất chứa chẳng đủ, mà rầy muốn ở trong một Hình Bánh nhỏ làm vậy…”. Thiên Chúa cao cả ẩn mình trong bí tích Thánh Thể vì yêu thương con người. Qua Bí tích này, Chúa cũng dạy chúng ta bài học khiêm nhường, sống và hy sinh vì tha nhân, như Chúa đã trở nên của ăn của uống cho con người.
Ngoài sống vui, sống khỏe, sống hạnh phúc, con người ở mọi nơi mọi thời vẫn hằng khao khát sống THÁNHTHỂ-320
Ngoài sống vui, sống khỏe, sống hạnh phúc, con người ở mọi nơi mọi thời vẫn hằng khao khát sống sống trường sinh. Thế nên, người ta ra công tìm mọi cách để kéo dài sự sống bao lâu có thể. Một trong những thứ đó là “Bánh” mà phụng vụ lễ Mình Máu Thánh Chúa năm A đề cập đến: bánh vật chất, bánh Giêsu và bánh Thánh Thể.
Manna của ăn trong sa mạc
Trong sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa đối với dân mà Ngài đã cưu mang và dẫn ra khỏi Ai cập. Trên hành trình về Đất Hứa để chứng tỏ tình thương và lòng thành tín của Chúa đối với dân giữa xa mạc khô cằn, Ngài đã ban cho họ Manna, theo Môsê, “Đó là bánh Thiên Chúa ban… làm của ăn” (Xh 16, 16), không chỉ làm lương thực đi đường mà còn giáo huấn họ về lòng yêu thương vô cùng của Chúa.
Thật đáng ngưỡng mộ, Thiên Chúa đã làm mưa Manna từ trời xuống mỗi ngày cho cha ông chúng họ ăn no thỏa thích. Đó là lý do tại sao người ta nói: “Bánh Thiên Thần phàm nhân được hưởng” (Tv 77, 25). Nhưng cho dù là Manna từ trời xuống nuôi dân Israel trong sa mạc, hay bánh Thiên Thần mang đến cho Êlia nuôi sống người ta 40 ngày cùng lắm là 40 năm đi nữa, thì những thứ bánh đó cũng chỉ nuôi sống con người cách rất tạm bợ, kẻ ăn những thứ bánh ấy vẫn đói, vẫn khát và vẫn phải chết. Hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta bánh bởi trời xuống là chính Chúa, Người đến làm no thỏa cái đói tinh thần con người, ai ăn chính Người sẽ khỏi đói muôn đời, và nhất là khỏi chết đời đời: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời” (Ga 6, 51). Bánh Giêsu
Chúa Giêsu là bánh từ trời xuống, là hồng ân bởi trời, có khả năng duy trì sự sống không phải chỉ trong một lúc hay một đoạn đường, mà luôn mãi. Người là lương thực ban sự sống đời đời, bởi vì Người là Con Một Thiên Chúa, ở cung lòng Thiên Chúa Cha, đến để trao ban cho con người sự sống tràn đầy, dẫn con người vào trong chính sự sống của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã thất bại, gặp phải điều cấm kỵ trong dân Israel khi tuyên bố: “Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống” (Ga 6, 51 ). Người dẫn chứng: “Cha ông các ngươi đã ăn Manna trong sa mạc và đã chết”, khiến họ tranh luận với nhau: “Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được? ” (Ga 6, 52). Họ không vượt qua được nguồn gốc trần thế của Chúa Giêsu, vì thế họ khước từ tiếp nhận Chúa Giêsu như Lời nhập thể của Thiên Chúa. Và như một hệ quả, họ đã mang án tử để đi vào cõi chết vì không tin. Họ còn quá xa bánh bởi trời và không cảm thấy đói bánh ấy.
Thế giới ngày nay có rất nhiều người đói và cần bánh. Có người cam chịu chết đói, chết vì cô đơn, vì thiếu hy vọng, nhưng cũng có nhiều người cần đến Chúa Giêsu. Có ba cái đói và ba phương thế để chuyển hóa ba loại bánh: bánh vật chất, bánh Giêsu và bánh Thánh Thể.
Bánh Giêsu là bánh quan trọng nhất. Nếu không có Chúa Giêsu, chúng ta không thể sống như lời Chúa nói “Không có Thầy, anh em không thể làm gì được” (Ga 15,5). Tuy nhiên, Chúa muốn nuôi dưỡng những người đói khát. Có lẽ Chúa nghĩ rằng đó là một cách tốt để mạc khải và biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa là Đấng Cứu Thế. Nhưng Chúa cũng muốn trở thành bánh cho chúng ta, để nuôi dưỡng chúng ta trong hành trình dương thế, ngõ hầu chúng ta được ở lại trong tình yêu của Chúa mà được sống đời đời. Người khuyên chúng ta phải tìm kiếm và sống trong Người. Khi nuôi dưỡng những kẻ đói khát, Chúa chỉ cho chúng ta tình yêu tự hiến của Chúa trong Bí tích Thánh Thể: “Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời” (Ga 6,58). Theo thánh Augustinô thì “khi chúng ta ăn Chúa Kitô, là chúng ta ăn sự sống (…), thật vậy, giả như, anh em tự tách mình ra không ăn thịt và uống máu Chúa nữa, anh em sẽ không có sự sống”.
Muốn sống đời đời, hãy ăn Bánh Giêsu
Xưa kia Chúa Giêsu mời gọi những người Do thái, giờ đây Chúa bảo chúng ta hãy đến mà ăn cho no uống cho thỏa. Nếu chúng ta khao khát sự sống trường sinh, thì đây là cơ hội tốt để có được mầm sống ấy. Hãy đến gặp Chúa Giêsu và đón nhận Người, bởi chính Người: “Là Bánh Hằng Sống” (Ga 6,51).
Thật hạnh phúc khi được mời gọi ăn thịt và uống máu Chúa Giêsu để được sống đời đời: “Ai ăn thịt và uống máu Ta thì có sự sống đời đời” (Ga 6, 54) và hơn thế nữa còn được Người đến cắm lều ngay nơi lòng kẻ ấy: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy” (Ga 6, 56). Chúa Giêsu là bánh bởi trời xuống làm no thỏa cái đói, cái khát, nhất là cái ước vọng lớn nhất của con người mọi nơi mọi thời là sự sống đời đời.
Thánh Thể thần lương vượt thế trần
Nếu như trong sa mạc, Manna là quà tặng do lòng thương xót của Chúa dành cho dân, lương thực cứu đói tạm thời, nay Mình Máu Thánh Chúa là lương thực giúp người tín hữu có đủ sức, đủ nghị lực vượt qua trần thế về tới quê trời hưởng phúc vinh quang.
Trong sa mạc, manna chứng tỏ Chúa không bỏ dân của Chúa, ngày nay Chúa ở giữa Hội Thánh và trong thế giới bằng chính mình trong bí tích Thánh Thể. Nhờ Bí tích ThánhThể, người cô đơn tìm được nguồn an ủi ; người yếu đuối tìm được sức mạnh; người tội lỗi tìm được ơn tha thứ ; người đau yếu tìm được sự chữa lành ; người bất hạnh tìm được nghị lực tinh thần ; người hấp hối tìm được sự đỡ nâng ; người bị bỏ rơi tìm được nguồn tình yêu chất chứa đầy sự thông cảm và âu yếm… Và còn một ý nghĩa rất quan trọng, manna ngày xưa của ăn trong sa mạc, Thánh Thể thần lương vượt thế trần.
Lạy Chúa Giêsu ngự thật trong phép Mình Thánh, xin cho con biết ra đi tìm kiếm của ăn không hư nát là chính Chúa và đón rước Chúa hầu được sống muôn đời. Amen.
Một anh bạn lần đầu tiên lên thành phố làm việc. Vào một ngày anh được bạn bè trong công ty mời THÁNHTHỂ-321
Một anh bạn lần đầu tiên lên thành phố làm việc. Vào một ngày anh được bạn bè trong công ty mời đi nhậu. Khi món ăn vừa được đưa ra và đặt lên, anh bạn liền nói: “Đây là thịt dê quay, ngon lắm đó, ăn thử đi”. Mọi người cùng ăn và tấm tắc khen ngon.
Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cũng giới thiệu cho người Do thái và cả chúng ta về một món ăn: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”(x. Ga 6, 51). Chúa Giêsu khẳng định mình là bánh hằng sống, bánh đem lại sự sống muôn đời. Bánh không do nguyên liệu nào mà từ chính mình Ngài.
Khi Chúa Giêsu tuyên bố mình là Bánh hằng sống, Ngài muốn nói đến bí tích Thánh Thể mà Ngài sẽ thiết lập. Ngài cũng không cho biết về phương thức thực hiện việc này. Ngài chỉ đòi hỏi người người Do thái một niềm tin cậy và phó thác, nên Ngài chỉ nhấn mạnh đến sự cần thiết và hiệu quả lương thực bởi trời(x. Ga 6, 53- 58).
“Ai ăn thịt và uống máu Tôi” là câu được lặp đi lại nhiều lần để nói lên sự hiện của Ngài trong bí tích Thánh Thể. Phép Thánh Thể là của ăn cần thiết cho sự sống linh hồn cũng như của ăn vật chất cho thể xác. Nếu chúng ta muốn đạt đến sự sống viên mãn của đời sống thiêng liêng thì phải cần phép Thánh Thể là của ăn giúp chúng ta được điều ấy. Khi được ăn Thịt Máu Ngài qua hình bánh và rượu, chúng ta còn được hiệp nhất với Chúa Kitô, được gặp gỡ, trò chuyện, ở lại và được biến đổi nên một với Ngài như Thánh Phaolô nói: “Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà chính Đức Kitô sống trong tôi”.
Xưa kia, người Do thái được trực tiếp thấy Chúa Giêsu làm nhiều phép lạ, nhưng khi nghe lời Ngài nói thì họ cho Ngài là điên và xì xầm với nhau. Trong số các môn đệ đi theo Chúa cũng có những lời nói tỏ lộ không chấp nhận tin lời Ngài và đã rút lui không đi theo Ngài nữa. Còn chúng ta có thái độ nào với Chúa Giêsu đây? Xung quanh chúng ta có rất nhiều loại bánh và rượu ngon. Đó là lương thực chúng ta phải mất rất nhiều thời gian và mất tiền mới có ăn. Nó chỉ cho chúng ta có vị ngon và no tạm thời ngay lúc đó mà thôi. Còn Chúa Giêsu ngự trong hình bánh và rượu mà Hội Thánh luôn kêu gọi chúng ta chỉ cần tham dự và hưởng dùng là đủ. Chúng ta không mất công đi tìm hay mất một đồng xu nào mà còn được nuôi dưỡng phần hồn lẫn phần xác và được sự sống muôn đời.
Bí tích Thanh Tẩy đem lại sự sống thần linh. Nhưng như sự sống của Thiên Chúa trong chúng ta còn non nớt, dễ bị cám dỗ và dễ phai tàn. Chính vì thế, Chúa Giêsu ngự trong Mình Máu để tiếp sức và hồi sinh chúng ta. Ngài củng cố, nuôi dưỡng, gìn giữ đời sống thần linh cho chúng ta mà còn làm tăng trưởng sự sống ấy. Ngài như đặt sự sống của chúng ta lên trên bản thân Ngài.
Chúng ta có suy nghĩ gì với câu chuyện này: một Giáo xứ nọ, cứ đến Lễ Chúa Nhật hay các lễ lớn, cha xứ phải mời gọi mọi người vào nhà thờ ngồi. Những người trong Ban Hành Giáo cũng ra mời vào vì ở trong nhà thờ còn nhiều chỗ trống.
Lạy Chúa Giêsu, chính Ngài là lương thực trường sinh. Xin cho chúng con ý thức, năng tham dữ Thánh Lễ và đón nhận của ăn thiêng liêng mỗi ngày để ở cùng Chúa luôn mãi và luôn mãi. Amen.
Công đồng Vaticanô II trong sắc lệnh về tác vụ và đời sống linh mục (Presbiterorum Ordinis) đã viết: THÁNHTHỂ-322
Công đồng Vaticanô II trong sắc lệnh về tác vụ và đời sống linh mục (Presbiterorum Ordinis) đã viết: “ Mọi bí tích của Giáo hội đều quy nguồn về Thánh Thể, vì Thánh Thể chứa mọi kho tàng thiêng liêng của Giáo hội, là nhiệm thể Đức Kitô. Không có Thánh Thể, không có đời sống cầu nguyện và cũng không có việc rao giảng Tin mừng” (số 8). Lời khẳng quyết của Hội thánh nêu bật nền tảng thiết yếu của bí tích Thánh Thể trong đời sống Đức tin của mọi Kitô hữu.
Chúa nhật hôm nay, Giáo hội mời gọi chúng ta lắng đọng tâm hồn để tiến sâu vào quỹ đạo tình yêu nơi bàn tiệc thánh. Đó là bàn tiệc yêu thương, bàn tiệc đức tin và cũng là bàn tiệc diễn bày sự hiệp thông huynh đệ.
Bàn tiệc tình yêu.
Thánh Gioan đã viết: “ Ngôi Lời đã hóa thành xác phàm”(Ga 1,14). Thân xác Đức Giêsu sau khi sống lại đã đi vào trong vinh quang với Chúa Cha, nhưng thân xác thánh thiêng ấy vẫn còn hiện diện cách nhiệm mầu nơi bí tích Thánh Thể. Đó là sự hiện diện của tình yêu. “Thiên Chúa vui thích ở giữa dân Ngài”. Ngài đã đến cắm lều giữa chúng ta, dọn sẵn cho chúng ta bữa tiệc để tỏ hiện tình yêu nhưng không của Ngài. Đây cũng chính là bữa tiệc mà phụng vụ hôm nay gợi nhắc. Thực đơn của bàn tiệc này chỉ có một món duy nhất, đó chính là tình yêu. Thiên Chúa là Tình yêu, là lương thực được hiến trao, như chính Đức Giêsu đã khẳng định trong bài Tin mừng hôm nay: “ Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”. Không có từ ngữ nào lột tả được cách trọn vẹn mầu nhiệm tình yêu sâu xa này. Chính Đức Giêsu đã khải thị cho các học trò trong bữa tiệc ly trước khi Ngài đi thụ nạn: “ Không ai có tình yêu nào cao cả hơn mối tình của người hiến ban mạng sống mình cho bạn hữu”.
Muốn ngồi vào bàn tiệc tình yêu này, chúng ta phải loại bỏ khỏi mình những gì thuộc ác quỷ, đối kháng với tình yêu mà Thiên Chúa diễn bày. Thánh Augustinô đã nói: “Bánh mì nuôi sống con người, nhưng sẽ giết chết chim diều hâu”. Bao tử con người thích hợp với bánh mì nhưng khi diều hâu ăn vào, bánh mì sẽ trương nở, nó bị ngạt thở và sẽ chết. Bàn tiệc tình yêu sẽ không có chỗ để những con người ác tâm với một trái tim diều hâu ngồi vào. Diều hâu chuyên rúc rỉa xác chết, là một hình tượng ám chỉ những hôi thối và bẩn thỉu của tội lỗi. Ngồi vào bàn tiệc thánh, chúng ta cần phải tinh luyện tâm hồn, loại bỏ đi những gian dối lọc lừa, những hận thù ghét ghen, những tham lam bất chính. Chúa nói “Tôi là Bánh trường sinh”, bánh đem lại sự sống cho những người ngay lành nhưng sẽ giết chết những tâm hồn diều hâu đầy gian ác.
Bàn tiệc đức tin.
Mỗi khi chầu thánh thể, chúng ta mượn lại những vần thơ thánh của thánh Tôma Aquinô để hát lên: “ Đây nhiệm tích vô cùng cao quý. Nếu giác quan không cảm nhận ra, chúng ta hãy lấy đức tin bù lại”. Đức tin là điều kiện tiên quyết để dẫn đưa chúng ta đến bàn tiệc thánh. Chúa Giêsu đã nói: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi sẽ sống muôn đời” (Ga 6,54). Khi đàm đạo với Nicôđêmô, Đức Giêsu cũng đã khải thị: “Ai tin vào Con của Ngài, sẽ được trường sinh” (Ga 3,15-16). Đây là hai cách diễn tả của một thực tại duy nhất: Ăn bánh trường sinh và tin vào Thiên Chúa. Bàn tiệc Thánh Thể chính là bàn tiệc của đức tin. Rất nhiều lần chúng ta đến nhà thờ tham dự thánh lễ nhưng thiếu hẳn cảm thức đức tin cần phải có. Nhiều người coi việc dự lễ mỗi tuần một lần vào Chúa nhật như một bổn phận phải làm để lương tâm được yên ổn, hay để người khác khỏi dị nghị. Thái độ đức tin là điều kiện tất yếu cần phải có, vì nếu không phát xuất từ đức tin, việc đi lễ cách máy móc sẽ trở nên vô nghĩa và phí phạm thì giờ cách vô ích.
Tin không phải là một động thái mang tính suy lý, nhưng trước hết đây là tác động của ơn sủng. Vì thế trong mỗi Thánh lễ, Giáo hội luôn nhắc nhở: “ Đây là mầu nhiệm đức tin”. Qua lăng kính đức tin, chúng ta mới có thể khám phá nguồn sống vô tận từ Bánh Hằng Sống. Chỉ với đức tin soi dẫn, chúng ta mới có thể tiến sâu vào quỹ đạo tình yêu linh thánh được diễn bày nơi bàn tiệc Thánh Thể mà chúng ta được mời tới tham dự.
Bàn tiệc hiệp thông.
Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể trong khung cảnh một bữa ăn. Bữa ăn là dịp để quy tụ, gắn kết mối hiệp thông trong mỗi gia đình hay tại bất cứ một tổ chức, một đoàn thể nào. Cộng đoàn Giêrusalem tiên khởi là gương mẫu cho chúng ta về tinh thần hiệp thông này. Tác gỉa sách Tông đồ Công vụ thuật lại rằng, các tín hữu ‘luôn chuyên cần lắng nghe các tông đồ giảng dạy, luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng. Họ sống hiệp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Tất cả đều đồng tâm nhất trí. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ’ (Cv 3,42-46). Sự hiệp thông này đòi hỏi phải xóa bỏ những hàng rào cách ngăn, dẹp tan mọi toan tính ích kỷ mang tính vụ lợi, và sống gắn kết nên một với nhau như lời ước nguyện của Chúa Giêsu “ Ut unum sint ” (xin cho chúng nên một).
Một tu sĩ nọ khi tham dự một Thánh lễ khá đặc biệt ở Bolivia thuộc Châu Mỹ La tinh đã tả lại quang cảnh buổi lễ đó như sau. Phần đầu lễ, vị linh mục mời gọi mọi người thống hối. Vài giây phút thinh lặng để cầu nguyện, sau đó một hồi trống nổi lên. Bốn thanh niên nam nữ từ cuối nhà thờ tiến lên trước cung thánh, trên tay mỗi người mang một sợi xích thật nặng. Họ cố giơ cao tay lên cùng với lời cầu nguyện: Lạy Chúa, đây là những dây xích biểu tượng sức mạnh tội lỗi đang đè nặng trên chúng con. Chúng con chưa hết lòng yêu mến Chúa và mến thương nhau. Trong cuộc sống hằng ngày, đức ái của chúng con vẫn bị khống chế bởi những sợi xích của tham lam và ích kỷ, những trói buộc của đam mê và dục vọng thấp hèn. Xin Chúa phá đi những dây xích nặng nề này nơi tâm hồn tan nát và bầm dập của chúng con. Lạy Chúa xin thương xót chúng con.” Cả cộng đoàn lập lại: Xin Chúa thương xót chúng con. Đến phần dâng lễ vật, cũng hai cặp thanh niên nam nữ tiến lên dâng bánh và rượu. Đặc biệt họ mang theo một tảng đá lớn cùng với lời cầu nguyện: “ Lạy Chúa, chúng con xin dâng lên Chúa cả tảng đá này, biểu trưng sự chai cứng trong tâm hồn mỗi người. Xin Chúa hãy nhận bánh và rượu để biến nên mình và máu con Chúa. Xin Chúa cũng dang rộng đôi tay đón nhận những con tim lạnh lùng và chai đá của chúng con để biến đổi thành những trái tim thịt mềm. Xin Chúa giúp chúng con biết sống với nhau tử tế hơn, khoan dung hơn và biết quảng đại tha thứ cho nhau hơn”.
Kết luận
Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã viết lại những trang hồi ký trong thời gian Ngài bị biệt giam trong tù. Ngài tóm gọn thành một tập sách nhỏ mang tựa đề ‘Năm chiếc bánh và hai con cá’ để chia sẻ cho giáo triều Rôma trong dịp tĩnh tâm mùa chay vào những năm thập niên 90. Ngài thú nhận, sức mạnh lớn nhất nâng đỡ Ngài trong những năm tháng tù ngục là được cử hành Thánh lễ cho dù lén lút, nhưng rất cảm động và sâu lắng. Thánh lễ Ngài dâng một mình trong bóng tối của nhà tù, không kèn không trống, cũng chẳng có ánh đèn hay một bông hoa trang trí nào. Áo tù Ngài mặc thay cho áo lễ. Đôi bàn tay sần sùi của Ngài đựng những giọt rượu nho thay cho chén thánh. Bánh lễ chứa trong hộp đựng thuốc ho. Những Thánh lễ rất âm thầm và giản đơn, không ồn ào, không một chút hoành tráng bề ngoài, chẳng có ca đoàn hay người giúp lễ.. nhưng sao chép lại gần sát với chính Thánh lễ mà Chúa Giêsu đã cử hành năm xưa trên Thập giá. Đó là những Thánh lễ đẹp nhất trong cuộc đời linh mục của Ngài. Vị Giám mục đáng kính đã dâng những Thánh lễ như thế để kín múc cho mình sức mạnh tâm linh trong những tháng ngày đen tối nhất nơi ngục tù. Còn những Thánh lễ chúng ta tham dự mỗi ngày thì sao? Đặc biệt đối với anh em linh mục là những “Alter Christus”, đã hàng trăm, hàng ngàn lần cử hành Thánh lễ “in personna Christi”, chúng ta đã dâng các Thánh lễ ấy như thế nào? Chúng ta cũng hãy bắt chước tâm tình đơn sơ của một nữ tu dòng Clara khi đến bàn tiệc thánh. Chị chia sẻ với các chị em trong cộng đoàn: “ Các chị hãy xem một người ăn xin nghèo khổ đến gõ cửa nhà một người giàu có, một bệnh nhân gần chết đến với một bác sĩ tài giỏi, một người đang khát cháy đến bên dòng nước mát trong. Họ đến để làm gì, thì em cũng đến với Chúa Giêsu Thánh Thể như thế”.
Xin Chúa khơi dậy nơi tâm hồn chúng ta một ánh lửa đức tin ngời sáng, mỗi khi chúng ta đến ngồi vào bàn tiệc thánh này.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay hướng chúng ta về Bí tích Thánh Thể. Bài đọc I, sách Đệ Nhị Luật thuật THÁNHTHỂ-323
Phụng vụ lời Chúa hôm nay hướng chúng ta về Bí tích Thánh Thể. Bài đọc I, sách Đệ Nhị Luật thuật lại sự việc Thiên Chúa nuôi dân Do Thái trong sa mạc bằng Manna bởi trời và nước từ tảng đá chảy ra, Manna là hình bóng chỉ Bí tích Thánh Thể. Bài đọc II, thánh Phaolô nhắc tín hữu Côrintô ý thức rằng họ cùng ăn một bánh và cùng uống một chén, lãnh nhận Thánh Thể, thì phải đoàn kết yêu thương nhau.
Bài Tin mừng ghi lại bài diễn văn về bánh hằng sống của Chúa Giêsu tại hội đường Caphanaum, sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi 5.000 người trong sa mạc. Chính Chúa Giêsu, từ bánh nuôi thể xác, Ngài hướng mọi người đến một thứ lương thực cao quý hơn, đó chính là Mình và Máu Ngài, là Thánh Thể.
“Tôi là bánh trường sinh… Bánh Tôi sẽ ban chính là thịt Tôi để cho thế gian được sống.. Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi sẽ được sống muôn đời”.
Đức Giêsu vì yêu thương nhân loại, đã thiết lập bí tích Thánh Thể vào Thứ Năm Tuần Thánh trước khi Ngài hy sinh hiến thân trên thập giá để cứu độ muôn người.
Sách Giáo lý Công giáo số 1323 dạy về bí tích Thánh Thể: “Đang khi ăn bữa tiệc ly, trong đêm Người bị nộp. Đấng Cứu Độ chúng ta đã thiết lập hy lễ Thánh Thể bằng Mình và Máu Người, để nhờ đó hy tế thập giá trương tồn qua các thời đại cho tới khi Người đến. Và Chúa Giêsu đã ủy thác cho Hội Thánh việc tưởng nhớ sự chết và sống lại của Người”.
Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch, tột đỉnh của đời sống Giáo hội, của đời sống Kitô giáo, bởi vì tất cả các bí tích đều quy về bí tích Thánh Thể chứa đựng toàn bộ của cải thiêng liêng của Giáo hội và chính Đức Giêsu Kitô.
Các thánh Giáo phụ dạy rằng Bí tích Thánh Thể là bản toát yếu, bản tổng luận của đức tin chúng ta; ai hiểu biết bí tích Thánh Thể là hiểu biết tất cả giáo lý đạo Công Giáo. Ai sống bí tích Thánh Thể là sống tất cả giáo lý của đạo, bởi vì bí tích Thánh Thể là mầu nhiệm của tình thương, đạo Công Giáo là đạo bác ái, đạo tình yêu.
Bí tích Thánh Thể là bí tích tình yêu: Đức Giêsu trong bí tích Thánh Thể người trở nên một với con người, Ngài trở nên thần lương nuôi sống chúng ta để chúng ta được sống muôn đời, Ngài bảo đảm cho ta được sự sống đời đời “Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời”.
Vậy sống bí tích Thánh Thể là phải trở nên tấm bánh cho mọi người như Chúa Giêsu, nghĩa là phục vụ anh em trong yêu thương: cha mẹ trở nên tấm bánh cho con cái, hết tình phục vụ, yêu thương và làm cho con cái được những điều may lành. Con cái yêu thương giúp đỡ cha mẹ. Vợ chồng yêu thương phục vụ nhau. Trong đời sống xã hội, người Kitô hữu phải trở nên tấm bánh cho anh em, cho mọi người, nghĩa là biết hy sinh, giúp đỡ, chia sẻ, thông cảm với anh em, nhất là những anh em đang đau khổ, nghèo đói, bệnh tật.
Hãy siêng năng tham dự thánh lễ, nhất là thánh lễ Chúa nhật, đừng bao giò bỏ lễ Chúa nhật khi không có lý do chính đáng. Trong thánh lễ, chúng ta được nuôi dưỡng bằng hai của ăn thiêng là lời Chúa và Thánh Thể. Về đời sống thể xác, con người cần phải ăn uống, cần thực phẩm mới sống. Đời sống thiêng liêng cũng vậy, cần được nuôi dưỡng bằng lời Chúa và Thánh Thể, chính là lương thần nuôi dưỡng chúng ta, bảo đảm sự sống đời đời.
Thánh Thể liên quan đức tin, bởi vì “đây là mầu nhiệm đức tin”. Giáo Hội đã xác định như vậy, và THÁNHTHỂ-324
Thánh Thể liên quan đức tin, bởi vì “đây là mầu nhiệm đức tin”. Giáo Hội đã xác định như vậy, và mỗi khi lãnh nhận Thánh Thể, mỗi chúng ta có trách nhiệm “loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”.
Có rất nhiều loại bánh. Mặn có, ngọt có, dẻo có, cứng có,… và người ta có cả bánh chay nữa. Thích gì ăn nấy, đủ loại có thể tự chọn theo sở thích. Bánh là một loại thực phẩm, ăn để no một thời gian rồi lại cần ăn nữa, thậm chí mỗi ngày người ta còn phải ăn vài lần mới ổn cái bụng. Và rồi ai cũng phải chết, dù no hay đói, dù ăn bất cứ loại thực phẩm nào.
Nhưng có một loại bánh đặc biệt được mệnh danh là Bánh Trường Sinh, đó là Thánh Thể. Chúa Giêsu đã xác định: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!” (Ga 6:35). Thật vậy, chị Marthe Robin (1902-1981, người Pháp) là người chứng tỏ điều Chúa Giêsu đã nói. Chị Marthe ốm yếu từ nhỏ, đến năm 28 tuổi thì bị liệt, thi thoảng chị được Chúa Giêsu hiện ra, chị không thể ăn hoặc uống được bất cứ thứ gì, chị chỉ sống nhờ Thánh Thể trong suốt 51 năm. Giáo Hội đã tôn phong chị là bậc đáng kính vào ngày 7-11-2014.
Thánh Thể là bằng chứng hùng hồn về Lòng Chúa Thương Xót, và liên quan đức tin, nhưng đức tin lại liên quan cách thể hiện yêu thương, liên quan cuộc sống và con người – đặc biệt là những con người hèn mọn. Mẹ Thánh Teresa Calcutta lý giải: “Bạn không thể thấy Chúa Giêsu trong người nghèo nếu bạn không thấy Ngài trong Thánh Thể”. Vô hình mà hữu hình. Rất thực tế, rất cụ thể!
Cuộc đời được gọi là cuộc sống. Sự sống liên quan việc ăn uống, liên quan ẩm thực. Ăn để sống, chứ không sống để ăn. Lương thực là một phần thiết yếu để duy trì sự sống. Tuy nhiên, ngày nay người ta phải cảnh giác cao độ vì các loại thực phẩm nhiễm độc vì các hóa chất, đặc biệt là thực phẩm của Trung cộng. Do đó, người ta càng văn minh lại càng đáng quan ngại về thực phẩm – kể cả các dụng cụ, nghĩa là người ta càng cần có sự an toàn.
Theo dòng đời, ai cũng biết rằng lương thực và thực phẩm rất cần, người ta cũng chỉ vì “miếng ăn” mà không ngừng gây chiến tranh. Các dạng tội phạm cũng vì đó mà leo thang. Để hỗ trợ dân nghèo vì nhân đạo, Liên Hiệp Quốc đã thành lập tổ chức FAO (Food and Agriculture Organization – Tổ chức Lương Nông) vào ngày 16-10-1945 tại Canada. Tổ chức này nhằm ba mục đích: (1) Nâng cao mức sống và mức dinh dưỡng của nhân dân các nước thành viên; (2) Nâng cao hiệu quả sản xuất lương thực và nông sản; (3) Góp phần vào việc phát triển kinh tế thế giới và giải phóng nhân dân khỏi nạn đói. Trên logo của FAO có dòng chữ bằng La ngữ: “Fiat Panis – Để Có Lương Thực” (Anh ngữ: Let There Be Bread).
Ngày xưa, chính Chúa Giêsu đã vì chạnh lòng thương, sợ người ta đói khát nên Ngài đã hai lần làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho đám người mê Ngài nói mà quên cả cái bụng. Các thánh sử đã ghi lại phép lạ mà Chúa Giêsu đã làm bằng cách hóa bánh ra nhiều: lần một (Mt 14:13-21; Mc 6:30-44; Lc 9:10-17; Ga 6:1-14), với 5 cái bánh và 2 con cá, Ngài đã cho mọi người no nê, số thực khách lên tới 5.000 người, chưa kể phụ nữ và trẻ em, phần dư còn thu được 12 thúng đầy; và lần hai (Mt 15:32-39; Mc 8:1-10), với 7 cái bánh và vài con cá, Ngài cũng đã cho mọi người no nê, phần dư còn thu được 7 thúng đầy. Đó là ngụ ý đề cập Bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu thiết lập trong buổi Dạ Tiệc Vượt Qua, trước khi Ngài chịu tử hình vì tội lỗi của chúng ta. Máu và thịt không thể tách rời. Chính máu và thịt là dấu chứng tỏ của sự sống.
Đối với phàm nhân, chuyện ăn uống là một trong tứ khoái của con người, ăn là hành động đứng đầu, và có thể gọi là “đệ nhất khoái”. Tuy nhiên, miếng ăn cũng có thể làm cho người ta vinh hoặc nhục. Có lẽ vì vậy, nhất là với người có lòng tự trọng, tục ngữ Việt Nam so sánh: “Tiếng chào cao hơn mâm cỗ”. Ăn cũng có nghệ thuật ăn, không phải cứ cho vô miệng là xong. Không chỉ vậy, ăn không chỉ để no bụng mà còn cần ngon miệng: Đồ ăn ngon, chỗ ăn ngon, và người ăn (với mình) cũng ngon. Thế mới đủ “độ” ngon. Có cả chuỗi nghệ thuật liên quan chứ không đơn giản đâu!
Quả thật, chuyện ăn uống cũng đủ kiểu và đủ mức, nhiêu khê lắm! Ngày xưa, khi dân Chúa đi qua sa mạc suốt 40 năm để tới Miền Đất Hứa, lương thực duy nhất là man-na, một món cứ ăn mãi nên dân chán ngán. Chán lắm! Chán ngán đồ ăn nhớ không mùi vị nên thèm đồ ăn ngon ngày xưa thường ăn, đám dân ô hợp sống giữa dân Ít-ra-en bắt đầu cảm thấy không chịu nổi, họ và cả con cái Ít-ra-en đều khóc lóc mà nói: “Ai sẽ cho chúng ta có thịt ăn đây? Nhớ thuở nào ta ăn cá bên Ai-cập mà không phải trả tiền, rồi nào dưa gang, dưa bở, nào hẹ, nào hành, nào tỏi. Còn bây giờ đời ta tàn rồi; mọi thứ đó hết sạch, chỉ còn thấy man-na thôi” (Ds 11:4-6). Mô-sê cũng “nhức đầu” lắm, vì họ đòi thịt thì lấy đâu giữa sa mạc khô cằn và hoang vu như vậy chứ? Căng dữ nghen!
Và Kinh Thánh cho biết rằng man-na là loại “bánh từ trời”, nhìn như hạt ngò và trông như nhựa hương. Lạ lắm. Dân cứ việc chia nhau đi lượm, cho vào cối xay hoặc cối giã mà nghiền tán ra, rồi bỏ vào nồi nấu bánh, và mùi vị của nó như mùi vị bánh chiên dầu. Đêm về, sương rơi trên doanh trại, và man-na cũng rơi xuống (Ds 11:7-9). Cái món man-na lạ nhưng ăn hết ngày này sang tháng nọ thì chịu hết nổi rồi! Mô-sê “cầu cứu” Chúa. Và rồi Ngài cho gió lùa chim cút tới, lớp chim cút dày tới cả mét, dân cứ việc lượm mà xơi cho đã cơn thèm. Nhưng ai cũng tham nên lượm nhiều để dành, thế nên Chúa nổi trận lôi đình (Ds 11:31-33). Đúng là “tham thì thâm”. Đúng là “thần khẩu hại xác phàm”, cái miệng hại cái thân rõ ràng. Có ăn mà không khéo cũng khổ!
Ngày nay chúng ta cũng không hơn gì dân ngày xưa, thế nên Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ vì chúng ta sai trái, đã vậy còn cứng đầu cứng cổ, ngang ngược và bướng bỉnh. Được ăn chưa biết cảm ơn lại dám nổi loạn. Loài người vô ơn bạc nghĩa hết sức! Thế nhưng Ngài vẫn luôn nhân từ, vẫn tha thiết mời gọi tất cả chúng ta: “Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng; đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào” (Is 55:1). Và đó cũng là “lời mời gọi cuối cùng”.
Kinh Thánh nhắc nhở: “Anh em phải nhớ lại tất cả con đường mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã dẫn anh em đi suốt bốn mươi năm nay trong sa mạc, để bắt anh em phải cùng cực; như vậy Người thử thách anh em cho biết lòng dạ anh em, xem anh em có giữ các mệnh lệnh của Người hay không. Người đã bắt anh em phải cùng cực, phải đói, rồi đã cho anh em ăn man-na là của ăn anh em chưa từng biết và cha ông anh em cũng chưa từng biết, ngõ hầu làm cho anh em nhận biết rằng người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Đức Chúa phán ra” (Ðnl 8:2-3). Chính Đức Kitô cũng đã từng nhắc nhở y như vậy (Mt 4:4; Lc 4:4). Xác cần ăn thì hồn cũng cần ăn, có vậy mới sống và phát triển toàn diện. Kinh Thánh tiếp tục giải thích và động viên: “Thiên Chúa của anh em, Đấng đã đưa anh em ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. Người đã dẫn anh em đi trong sa mạc mênh mông khủng khiếp, đầy rắn lửa và bọ cạp, trong miền đất khô cằn không giọt nước. Người đã khiến nước từ tảng đá hoa cương chảy ra cho anh em uống. Trong sa mạc, Người đã cho anh em ăn man-na, thức ăn mà cha ông anh em chưa từng biết, để bắt anh em phải cùng cực và thử thách anh em, hầu làm cho anh em được hạnh phúc trong tương lai” (Ðnl 8:14-16). Thế nhưng trái tim phàm nhân bằng đá hoặc đã xơ cứng, nghe xong rồi quên, hứa xong rồi thôi, cứ tưởng mình là “cái rốn của vũ trụ”, tự nhận mình là “số dzách”, cho nên lúc nào cũng chỉ chực nổi loạn. Lô-gích thôi. Đó là chúng ta có “gen kiêu ngạo” của Ông Bà Nguyên Tổ!
Ôi, phàm nhân chúng ta dễ vô ơn lắm, dù có lãnh nhận đại ân. Và rồi chúng ta cũng rất “chảnh”, luôn nghĩ mình “ngon lành”, tự nhận mình là ân nhân, mặc dù chúng ta chỉ cho người khác những thứ thừa thãi – còn tệ hơn bố thí (thay vì vứt bỏ í mà)! Do đó, tác giả Thánh Vịnh nhắc khéo chúng ta bằng cách mời gọi: “Giêrusalem hỡi, nào tôn vinh Chúa! Này Sion, hãy ca ngợi Thiên Chúa của ngươi! Then cửa nhà ngươi, Chúa làm cho thêm chắc, con cái trong thành, Người giáng phúc thi ân. Cõi biên cương, Người thiết lập hoà bình, và cho ngươi no đầy lúa mì tinh hảo” (Tv 147:12-14).
Dân tộc Ít-ra-en là Dân Riêng của Chúa. Ít-ra-en là hiện thân của chúng ta, vì chúng ta cũng là Dân Thánh của Ngài. Chúng ta cũng được “đặc cách” mà vẫn vô ơn. Thật vậy, tác giả Thánh Vịnh cho biết: “Chúa bày tỏ lời Người cho nhà Gia-cóp, chiếu chỉ luật điều cho Ít-ra-en. Chúa không đối xử với dân nào như vậy, không cho họ biết những điều luật của Người” (Tv 147:19-20).
Với lòng đại lượng bao la, Thiên Chúa ban tặng chúng ta mọi thứ, đặc biệt là chính Con Một Yêu Dấu của Ngài. Đó là hệ quả của “khối tình si” của Thiên Chúa: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Vâng, Ngài yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân kia mà! (x. Rm 5:8). Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Kitô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1 Cr 10:16-17). Và đó cũng là lời nhắc nhở chúng ta phải biết yêu thương nhau – bằng mọi động thái, bằng cả con người của chúng ta. Chữ MỘT rất quan trọng!
Khi Chúa Giêsu đi rao giảng khắp nơi, có lần Ngài nói với người Do Thái: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6:51). Có vẻ họ “chói tai” nên họ liền tranh luận sôi nổi với nhau. Và họ đặt vấn đề: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” (Ga 6:52).
Với trí tuệ loài người, tất nhiên làm sao họ hiểu được. Nếu có chúng ta trực tiếp nghe Chúa Giêsu nói lúc đó, chắc chắn chúng ta cũng phản đối tới cùng chứ chẳng vừa đâu. Tất nhiên Chúa Giêsu biết tỏng, và Ngài nghiêm túc nói với họ, có vẻ “dài dòng” nhưng cần thiết, đồng thời vừa xác định vừa giải thích: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào thì kẻ ăn tôi cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6:53-58). Quả thật, Chúa Giêsu không chỉ làm cho chúng ta sống, vì chính Ngài là Sự Sống (Ga 14:6), mà Ngài còn cho chúng ta được sống dồi dào (Ga 10:10).
Và rồi ngay trong Bữa Tiệc Ly, điều đó đã được Đức Giêsu thực hiện, đồng thời đó cũng là cách Ngài thực hiện lời hứa của Ngài: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Một cách tương tự là Ngài cũng đã hứa: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14:16). Và Chúa Thánh Thần đang ở với chúng ta hằng ngày cùng với Thánh Thể.
Tuy là “bánh từ trời”, nhưng man-na chỉ là lương thực bình thường, là loại bánh ăn để sống phần xác thôi, nghĩa là có ăn bao nhiêu rồi cũng… chết. Ngược lại, Mình và Máu Đức Kitô là lương thực thiêng liêng, vừa là Thần Lương vừa là Thần Dược, ăn để có sự sống và được điều trị phần hồn (kể cả phần xác), đặc biệt là Thánh Thể làm cho chúng ta bất tử và được hưởng vĩnh phúc. Thánh Thể chính là Thần Lương tăng lực để chúng ta đủ sức kiên nhẫn đi hết chặng đường lữ hành trần gian, là Của Ăn Đàng, là Nguồn Trường Sinh của chúng ta.
Đối với Bí tích Thánh Thể, chúng ta phải có đức tin trưởng thành, không thể dựa trên thính thị hoặc cảm giác. Chỉ có đức tin mới thực sự cảm nghiệm được Mình và Máu Thánh của Đức Giêsu Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa.
Hằng ngày, mỗi khi rước lễ là chúng ta đón rước Thiên Vương Giêsu vào lòng, lúc đó Vua Trời Đất vui mừng hòa tan vào chúng ta, nên một với chúng ta, thật là đại phúc đối với phàm nhân chúng ta. Ước gì sau khi rước lễ, chúng ta dành vài phút để cảm nghiệm Chúa Giêsu Thánh Thể, Vua Thương Xót, và tâm sự với Ngài. Thực sự Ngài rất muốn lắng nghe chúng ta về mọi điều buồn vui, đặc biệt là Ngài muốn chúng ta tôn thờ và cảm tạ Ngài. Vài phút ngắn ngủi đó rất cần thiết và sinh nhiều ích lợi cho đời sống của mỗi chúng ta.
Như chúng ta đã biết, Bí tích Thánh Thể “gắn liền” với đức tin. Mà đức tin (nói chung) là điều rất quan trọng trong đời sống Kitô hữu, nhưng cũng phải thận trọng lắm, vì có thể dễ trở thành cuồng tín hoặc tin lệch lạc. Vấn đề tín lý quan trọng lắm. Tương tự, khi nói về Kinh Thánh cũng phải thận trọng, nếu không rất nguy hiểm.
Ngày xưa, có nhiều tà thuyết hoặc dị giáo – chẳng hạn: Albigensianism (thế kỷ XII–XIII), Arianism (thế kỷ IV), Donatism (năm 311), Jansenism (thế kỷ XVII), Macedonianism (khoảng năm 362), Manichaeism (khoảng 216–276), Nestorianism (giữa thế kỷ IV và V), Pelagianism (thế kỷ V), Priscillianism (thế kỷ IV–V), Calvinism (1570),… Đó là do niềm tin sai lạc và suy diễn lệch lạc, đối nghịch với đức tin Công giáo. Có lẽ họ muốn lập một đạo mới chăng? Ngày nay cũng vẫn có các tà thuyết nhưng ở dạng khác, tinh vi hơn nên khó nhận ra. Còn chúng ta, những tín hữu của Đức Kitô Giêsu, hãy cố gắng tâm niệm như Thánh nữ Catharina Senensis (Catarina Siêna, 1347–1380): “Mặc dù tôi u mê yếu đuối, nhưng tôi quyết không thất vọng đem linh hồn của tôi ẩn núp vào trong các vết thương của Chúa Giêsu, xin Máu Thánh của Chúa Giêsu rửa sạch tội lỗi của tôi”.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, con xin tôn vinh và kính thờ Ngài. Xin thêm đức tin cho con người yếu kém của con, xin dùng Lửa Yêu Mến thiêu đốt lòng con và biến trái tim chai cứng của con trở thành trái tim si tình để con chỉ yêu Ngài mà thôi, yêu bằng cả con người của con, yêu qua từng động thái, và xin luôn canh giữ con như con ngươi trong mắt Ngài để con xứng đáng đón rước Ngài vào lòng hằng ngày. Ngài là Đấng hằng sinh và hiển trị cùng với Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (Ga 6.51-58)
51 Khi ấy, Đức Giêsu nói với người Do-thái rằng:“Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”
52 Người Do-thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” 53 Đức Giêsu nói với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình.54 Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, 55 vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. 56 Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. 57 Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. 58 Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.”
II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA
2.1 Chương 6 là chưong khó “nuốt” nhất của Sách Tin Mừng Gio-an, vì Đức Giê-su khẳng định Thịt và THÁNHTHỂ-325
2.1 Chương 6 là chưong khó “nuốt” nhất của Sách Tin Mừng Gio-an, vì Đức Giê-su khẳng định Thịt và Máu Con Người là Bánh từ trời xuống đem lại sự sống muôn đời cho những ai ăn Bánh (Thịt) và uống Chén (Máu) ấy. Với người Do-thái thì khi nói đến bánh từ trời xuống là họ nghĩ ngay đến man-na là thứ bánh mà Thiên Chúa đã ban cho cha ông họ trong hoang địa. Nhưng bánh từ trời xuống mà Đức Giê-su ban cho cac tín hữu thì vượt xa man-na ấy. Ăn man-na người Ít-ra-en vẫn chết. Ăn bánh từ trời Đức Giê-su ban, các tín hữu sẽ có sự sống bất diệt, ở đời này và ở đời sau.
2.2 Không chỉ có thế, ai ăn Bánh (Thịt) và uống Chén (Máu) Đức Giê-su ban sẽ được ở lại trong Người, được kết hiệp với Người, được sống bằng sự sống thần linh, sự sống của Thiên Chúa, được nên một với Người. Đó chẳng là điều thần kỳ sao?
2.3 Suy nghĩ về những điều trên, chúng ta không thể không thán phục quyền năng và tình yêu mà Chúa Giê-su đã dành cho Dân Thánh Chúa. Trước việc thể hiện quyền năng và tình yêu vô biên ấy, chúng ta được mời gọi dâng lên Thiên Chúa và Con của Ngài là Đức Ki-tô Giê-su, lời cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng. Nhờ quyền năng và tình yêu vô biên ấy mà chúng ta được chứng kiến phép lạ phi thường mỗi ngày: Phép Lạ của Tình Yêu!
III. THỰC THI LỜI CHÚA
3.1 Từ ngày rước lễ lần đâu, tôi đã rước Thánh Thể không biết bao nhiêu lần. Tôi đã “chầu” Thánh Thể trong nhiều thời gian. Tôi đã có được những cảm nghiệm sâu sắc về sự hiện diện của Chúa Ki-tô trong Thánh Thể. Chính sự hiện diện này đem lại cho tôi sức mạnh và niềm an ủi trong cuộc sống.
3.2 Qua các Khóa Thánh Kinh (mà tôi hướng dẫn) và qua các Sách Tu Đức, Thần Học, Hạnh các Thánh (mà tôi đọc), tôi đã hiểu sâu hơn ý nghĩa của Thánh Thể. Qua việc dấn thân phục vụ, tôi đã làm cho đời sống của tôi đậm đà ý nghĩa hiến dâng chia sẻ mà Thánh Thể gợi ý.
3.3 Tôi cảm tạ Thiên Chúa và Chúa Giê-su Thánh Thể về những hồng ân mà tôi đã lãnh nhận từ lòng từ bi thương xót của Người.
IV. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể, vì yêu thương nhân loại, Chúa đã xuống thế làm người; vì yêu thương các tín hữu, Chúa đã lập Bí Tích Thánh Thể để trở thành của ăn của uống cho chúng con. Con xin dâng lên Chúa lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ!
Nơi Thánh Thể Chúa mời gọi con sống hiệp nhất với mọi người. Chúa cũng mời gọi con sống hiến dâng cho mọi người và sống chia sẽ với mọi người, nhất là với những người thiếu thốn.
Con quyết không quên những mời gọi ấy của Chúa. Xin Chúa giúp con thực hiện chúng một cách khiêm cung và chân thành. Amen.
Tại sao chúng ta cần mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa? Lễ mừng này cho chúng ta cơ hội để cám tạ Thiên Chúa vì sự hiện diện thường hằng của Đức Giê-su Ki-tô cách hữu hình trong Bí Tích Mình và Máu Thánh Chúa. Đó cũng là cơ hội để chúng ta tìm hiểu sâu hơn ý nghĩa cúa Bí Tích này cũng như có thái độ sống sao cho xứng đáng, vì Bí Tích Thánh Thể là bí tích của sự sống, mà ai ăn uống bất xứng, sẽ lãnh lấy án phạt cho mình như Thánh Phao-lô đã viết trong thư gởi tín hữu thành Cô-rin-tô: “Thật vậy, ai ăn uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình. Vì lẽ đó, trong anh em, có nhiều người ốm đau suy nhược, và cũng có lắm người đã chết” (1Cr 11,29-30).
Để hiểu biết hơn về Bí Tích Thánh Thể, trước hết, chúng ta cần cầu xin Đức Giê-su ban cho chúng ta bí tích này. Bài Tin mừng hôm nay, đúng hơn là cả chương 6 của Tin Mừng Gioan, cho chúng ta câu trả lời. Chúng ta có thể thấy Đức Giê-su đưa ra cho chúng ta 2 lý do:
a) Đức Giê-su hứa sẽ ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế (Mt 28,20). Qua Bí Tích Thánh Thể, Đức Giê-su cho chúng ta một dấu chỉ hữu hình và một phương cách hiệu quả để hiện diện với chúng ta và đưa chúng ta đến với Ngài. Như Đức Giê-su đã nói: “Ai ăn thịt và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong người ấy”.
b) Đức Giê-su nói rằng Ngài đến để cho chúng ta được sống và sống dồi dào (Ga 10,10). Trong Bí tích Thánh Thể, ngài trở thành phương cách hữu hình của sự trao ban sự sống cho chúng ta, để chúng ta có thể sống dồi dào trong thế giới này và trong cuộc sống mai hậu, như lời Ngài đã nói: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6,53-54)
Đức Giê-su nói với người Do thái khi họ cùng nhau đến để xin Ngài ban cho họ bánh ăn một lần nữa. Nhưng lần này, Đức Giê-su muốn ban cho họ thứ bánh và máu một cách bí tích. Trong đầu óc phàm tục của họ, họ không thể hiểu và đánh giá được giá trị của bí tích này. Họ xầm xì với nhau: “Làm sao ông này có thể ban cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” (c. 52). Thế nhưng Đức Giê-su khẳng quyết: “Thịt tôi chính là của ăn, máu tôi thật là của uống” (c. 55). Kết cục, những người Do Thái đã bỏ đi khi nghe về Bí Tích Thánh Thể, vì họ thấy bí tích này quả không có nghĩa gì đối với họ trong cuộc sống vật chất của trần gian.
Vấn nạn mà những người theo Đức Giê-su đặt ra vẫn còn là một vấn đề đối với chúng ta ngày hôm nay. Nếu chúng ta đến với Bí Tích Thánh Thể với một đầu óc duy vật, chúng ta chẳng thể hiểu được, và tất nhiên sẽ đánh mất tất cả những ơn ích của một món quà tuyệt vời của Tình Yêu Thiên Chúa. Bí Tích Thánh Thể thực là của ăn và của uống cho chúng ta, nhưng đồng thời cũng rất khác biệt với những loại đồ ăn thức uống của trần gian. Điều khác biệt lớn nhất hệ tại ở những lời của Đức Ki-tô mà Thánh Âu-Tinh đã được nghe trong lúc cầu nguyện: “Con chẳng thể làm cho Ta đi vào thân xác con trừ khi con đón nhận như một thức ăn cho cơ thể con; và đó cũng là cách con được biến đổi trong Ta”. Hằng ngày, chúng ta biến đổi những thức ăn thành thịt máu chúng ta, thì thức ăn của Bí Tích Thánh Thể cũng biến đổi chúng ta thành thân mình của Đức Ki-tô. Câu nói của Ludwig Feuerbach “chúng ta sẽ trở thành điều mà chúng ta ăn” thì càng đúng hơn nữa trong sự cảm nghiệm về Bí Tích Thánh Thể.
Nhưng tại sao nhiều người trong chúng ta lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể, nhưng không cảm nghiệm được sự biến đổi tận căn này? Có thể câu chuyện sau đây cũng soi sáng việc này: Một nhóm gồm những người Nga và người Hoa Kỳ cùng tham gia vào một cuộc thám hiểm. Trong ngăn chứa lương thực có loại bánh mì đen của người Nga. Vị của nó thật ngon, nhưng lại quá cứng để nhai. Chuyện xảy ra là trong một bữa ăn, một người Hoa Kỳ cắn một miếng bánh và bị gãy một chiếc răng. Anh ta liền quẳng ổ bánh vào trong ngăn và làu bàu: “Đúng là loại bánh mì cộng sản”. Nhưng một người Nga cãi lại: “Chẳng phải vì loại bánh của xã hội chủ nghĩa đâu, mà là do hàm răng hư thối của tư bản đấy”.
Nếu chúng ta không cảm nghiệm được năng lực biến đổi của Bí Tích Thánh Thể, thì có lẽ không phải do Bí Tích Thánh Thể, nhưng chính do việc thiếu niềm tin của chúng ta. Ngày hôm nay, chúng ta hãy đến với Bí Tích Thánh Thể trong một đức tin sống động tin vào sự hiện diện thực sự của Đức Giê-su trong Bí Tích Thánh Thể, và chúng ta sẽ cảm nghiệm quyền năng cứu độ của Thiên Chúa cũng nhưng tình yêu có sức biến đổi của Ngài.
Vâng, thưa quý vị, thưa các bạn, Thiên Chúa tạo thành sự sống cho nhân loại bắt nguồn từ sự sống bởi THÁNHTHỂ-327
Vâng, thưa quý vị, thưa các bạn, Thiên Chúa tạo thành sự sống cho nhân loại bắt nguồn từ sự sống bởi Thiên Chúa. Sự sống Thần Linh duy nhất và vĩnh cửu, vì nơi Thiên Chúa không có sự chết, đó là chân lý muôn đời. Vì, Thiên Chúa không tạo dựng sự chết, đó là bản tính tất yếu và khôn ngoan của Thiên Chúa. Điều nầy không khó suy luận, bởi vì, dù sự hèn kém của thụ tạo cũng chẳng ai “dại” gì tạo ra kẻ thù, hay là sự đối lập với mình, hoặc làm ra vật hủy hại mình, hay chơi với kẻ chống lại mình, phương chi là Thiên Chúa, có nghĩa là Chủ Trời Đất muôn vật.
Vậy, khi có sự sống, hay nói về sự sống , hệ lụy tất yếu phải có “lương thực” là phượng tiện để nuôi sống, có nghĩa là duy trì sự sống, vì không ai dược sống mà không được ăn. Vì vậy, người ta thường nói:ăn để sống, và rõ ràng, muốn sống phải ăn. Việc ăn uống là phương tiện để sinh sống, dù ít, nhiều, ngon , dỡ đều phải có để mà ăn.. Miếng ăn nơi thân xác cũng thánh thiện biết bao, vì nó liên hệ đến sự sinh tồn mà Thiên Chúa đã tạo thành. Miếng ăn tuy nhỏ, nhưng nó đứng ngang hàng với sự sống của nhân loại. Vâng, thưa quý vị, nhưng chỉ dừngg lại nơi miếng ăn của thân xác không thôi, thì sự sống của thân xác không thể sinh tồn và trường tồn được. Vì , thân xác tự nhiên hữu hạn, hữu hình, tất phải có thời gian chấm dứt. Nếu chỉ dừng lại tại nơi hữu hình chỉ vì “ miếng ăn” nuôi thân xác không thôi, thì quả là vô cùng bất hạnh cho nhân loại, vì ,như người ta nói: “ miếng ăn là miếng tồi tàn, mất ăn một miếng lộn gan lên đầu”. vâng, điều nầy nói lên, nhân thế “tranh “ nhau miếng ăn nuôi thân xác, và nếu chỉ có thế thôi, thì sự sống thân xác hữu hạn lại càng “ mỏng manh”, người ta sẵn sàng sát phạt nhau chỉ vì miếng ăn, cái ăn. Từ người thân trong gia đình, đến bạn bè, sơ giao, tâm giao, đến xã hội, giữa nước nầy và nước kia. Các nước xâm lược lẫn nhau, nước lớn đánh nước bé. Hằng ngày, hằng giờ, từng giây, từng phút nhân thế tranh giành và sát phạt nhau chỉ vì miếng ăn, có khi anh em ruột thịt, cha mẹ, con cái, bên chồng, bên vợ, bên nội , bên ngoại đâm chém nhau tất cả chỉ vì miếng ăn.
Từ đó, ra đến xã hội “kim tiền”, chẳng hạn muốn được việc thì phải: “cao lễ dễ thưa”, hay “ đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn” , và dẫn đến bất công xã hội:”nén bạc đâm toặc tờ giấy”. tất cả, nếu đánh mất sự công bằng, bác ái sẽ dẫn đến diệt vong. Như vậy, sự hữu hình nơi thân xác thật mỏng manh, vô nghĩa, sự sống thân xác không có siêu nhiên thì chắc chắn không phải là sự sống vĩnh cửu được. Nên chi, sự sống hữu hình không phải là sự sống thật, dù sống đến già trăm tuổi.
Suy luận chân lý ấy, chúng ta mới hiểu được Lời Chúa hôm nay ( Ga 6, 51 -58) Lễ Mình Và Máu Thánh Chúa Kitô, Lễ hôm nay là đứng đầu mọi Thánh Lễ, Lễ hôm nay có thể nói là Lễ Cả của mọi Lễ Misa. Điều mà người Dothai cho là chói tai, vì họ không hiểu về đời sống vĩnh hằng, nếu chúng ta tin và hiểu về đời sống siêu nhiên, thì Lời nói của Chúa Giêsu hôm nay không khó hiểu, không chói tai như người Dothai đã nghe.
Vì khi Chúa Giêsu nói về “của ăn” nuôi sống sự siêu nhiên, vĩnh hằng, chứ không phải nuôi sống thân xác hữu hạn. Người nói bằng từ ngữ của nghe là trần thế, nhưng ý nghĩa siêu nhiên. Từ đó, chúng ta biết được Bí Tích Thánh Thể là một Mầu Nhiệm vô cùng cao cả, bởi chính Phần Nhân Tính tức mầu nhiệm Nhập Thể và Nhập Thế, tức mầu nhiệm làm Người của Chúa Giêsu, trở nên Hy Tế muôn đời để cứu chuộc nhân thế, nhưng phần Nhân tính ấy lại được một Thiên Tính của một Ngôi Vị Thiên Chúa làm nên. Như vậy, Đoạn Lời Chúa hôm nay ( Ga 6, 51 -58) là một Đoạn nói lên ơn Cứu Độ muôn đời của Đấng Cứu Thế, vì khi được lãnh nhận ơn Cứu Độ ấy, không những chỉ bằng Phép Rửa bởi Nước và Thần Khí, mà còn phải được kết hợp bởi việc “ăn và uống” chính Đấng Cứu Chuộc, vì chính Người đã tự nguyện trao ban. Khi nói đến đây, Chúa Giêsu muốn mời gọi chúng ta đáp lại trọn vẹn sự trao ban của Người. Chúa Giêsu muốn trao ban tuyệt đối, trao ban tất cả, cho đến tận cùng cái cho là Bí Tích Thánh Thể.
Bí Tích Thánh Thể là nguồn sung mãn nhất, nguồn lương thực vĩnh hằng từ Đấng Cứu Thế Giêsu, chính là thần Lương để nuôi sống vĩnh hằng siêu nhiên là linh hồn bất tử đã được cứu chuộc bằng Máu và Nước của Một Ngôi Vị Thiên Chúa làm Người. Chúa Giêsu không ẩn nấp, không quanh co, không che đậy, mà Người nói rõ: “ … Và bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống.” ( c 51c ).
Vâng , khi nghe nói đến “thịt”, người Dothai không khỏi kinh ngạc, vì “thịt” không thể ăn sống. Nhưng, “thịt” của Đấng Cứu Thế là phần nhân tính, siêu nhiên, Người vẫn mang sự hữu hình trong siêu nhiên, Vì vậy, Người vẫn muốn trao ban trọn vẹn “cuộc khổ hình sinh ơn cứu độ” của người trong mầu nhiệm Tử Nạn, để rồi không những từ ý nghĩa siêu nhiện nhiệm mầu, mà còn là sự hữu hình mà Người đã mang và đã gánh lấy vì nhân loại. Từ đó, việc “ăn Thịt và uống Máu” Đấng đã chết vì chúng ta, mặc nhiên chúng ta mới được phục sinh trong Người, có nghĩa là được sống đời đời.
Như vậy, Bí Tích Thánh Thể là được kết hiệp trọn vẹn mầu nhiệm Nhân Tính và Thiên Tính của Đấng Cứu Thế. Vì vậy, việc “ăn và uống” Thịt và Máu của Đức Kitô không phải như cầm “cục thịt” mà ăn, bưng một “chén Máu” mà uống. Mà là mỗi lần cử hành mầu nhiệm Đức Tin, qua thể thức Bánh và Rượu mà chúng ta nhìn thấy, chúng ta được “ăn” tron vẹn mầu nhiệm làm Người, Tử Nạn và Phục Sinh của Con Một Thiên Chúa, như vậy, chúng ta mới được đón nhận ơn cứu độ trọn vẹn. Theo đó, không phải việc ăn và uống Máu Chúa Kitô là một việc theo tự nhiên, mà là việc làm của Đức Tin.
Mỗi lần rước Mình và Máu Thánh Chúa Kitô là mỗi lần được tham dự vào mầu nhiệm Nhân Tính và Thiên Tính của Người. Vì: “… Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi cũng sẽ sống nhờ Tôi như vậy” ( c 57). Vì vậy, dù Manna ngày xưa từ trời mà rơi xuống cho dân riêng của Chúa, nhưng, cũng không thể được gọi là lương thực siêu nhiên, mà chỉ có chính “Thịt và Máu” của Đấng Cứu Thế mới được gọi là Thần Lương. Vì , ai ăn manna thì cũng sẽ chết( ý nói đến chưa được ơn cứu độ của Đấng Cứu Thế.)
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến cho thế gian được sống, và sống dồi dào, nếu thế gian biết kết hợp vào Chúa là sự sống vĩnh cửu, bởi chính Thánh Thể của Chúa, thì họ sẽ được đón nhận sự sống muôn đời, vì sự sống của Thiên Tính là sự sống muôn đời./. Amen.
Nước mắt mồ hôi nói đây không phải nước mắt mồ hôi do sợ hãi, do bệnh tật mà do vất vả, lao công THÁNHTHỂ-328
Nước mắt mồ hôi nói đây không phải nước mắt mồ hôi do sợ hãi, do bệnh tật mà do vất vả, lao công khó nhọc của ngày làm việc cực khổ kiếm miếng cơm, manh áo. Nuớc mắt mồ hôi đôi khi đến từ lo lắng mất công ăn, việc làm. Nước mắt mồ hôi đôi khi đến từ sợ hãi đơn xin việc bị từ chối, không được phỏng vấn. Công ăn việc làm không chỉ giúp ta nhận ra giá trị con người mà còn cung cấp thực phẩm hàng ngày và các phí tổn trong cuộc sống.
Thực phẩm, thức uống chúng ta dùng hàng ngày không những cung cấp dinh dưỡng cho thân xác, mà còn trở thành chính máu huyết thân thể con người. Bánh và rượu dâng tiến trong thánh lễ cũng là của mồ hôi nước mắt do bàn tay con người làm ra. Chúng là hoa qủa của đất trời cộng với công lao của con người được dâng lên Chúa Trời, nói lên tâm tình tạ ơn và lòng yêu mến. Tạ ơn Chúa tạo dựng trái đất; vì yêu mến Chúa dựng nên trái đất cho con người hưởng dùng. Qua lời cầu nguyện và ơn thánh hoá của Thánh Thần bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Đức Kitô. Việc biến đổi tuyệt vời này xảy ra thế nào thì ngoài sự quan sát của con mắt trần thế và cũng vượt khỏi tầm tìm hiểu của khối óc loài người. Kitô hữu tin vào việc biến đổi đó bởi Kitô hữu tin vào chỉ dậy của Đức Kitô. Tin tưởng vào Đức Kitô và yêu mến Ngài giúp chúng ta tin Thánh Thần Chúa biến bánh rượu thành Mình và Máu Thánh Chúa như lời Ngài truyền dậy
Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống Gn 6,51.
Tất cả những gì đến từ trời cao không phải để cho chúng ta tìm hiểu, tranh biện mà chính là để sinh ích cho phần rỗi linh hồn. Vì thế tranh luận về sự biến đổi Mình Máu Thánh Chúa không sinh ích gì cho tâm linh. Tin vào Mình Máu Thánh Chúa mang sự sống trường sinh cho tâm hồn và chính Mình và Máu Thánh đó trở nên một phần máu thịt trong cuộc sống tâm linh của các tín hữu. Đức Kitô tự hiến thân mình vì nhân loại, trao tặng nhân loại chính thân thể Ngài và trao tặng nhân loại chính Thần Khí Ngài để luôn cùng đồng hành với nhân loại. Tất cả đến từ lòng yêu mến Đức Kitô dành cho nhân loại vì thế Kitô hữu học từ Đức Kitô cũng hy sinh cuộc sống mình, yêu tha nhân như yêu mình. Thánh Phaolô trong thư gởi cho tín hữu thành Corintô nhắc nhở mỗi chúng ta là một thành phần của thân thể Đức Kitô, Ngài là đầu chúng ta là phần thân thể và các phần thân thể phải lắng nghe hướng dẫn của đầu.
Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Kitô sao? Và khi ta cùng bẻ bánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, vá tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chung ta cũng chỉ là một thân thể. 1 Cor 10,16-17
Chúng ta có thể trao tặng nhau thực phẩm, nước uống cho thân xác nhưng không có khả năng ban sức mạnh tâm linh. Chúa là Đấng duy nhất có khả năng làm được điều đó. Ai đón nhận với tâm tình yêu mến, tạ ơn, người đó được hưởng cuộc sống trường sinh trong nước Chúa.
Nhiều cha mẹ cảm thấy quá cực nhọc, vất vả kiếm được lương thực hàng ngày và cái cực nhọc lo lắng kia làm lu mờ những sự hy sinh cao quí cha mẹ dành cho con cái; trong khi đó lại có người thực phẩm lúc nào cũng dư thừa chan chứa nên coi thường thực phẩm và đâm ra phí phạm một cách đáng trách. Họ không hề bao giờ nghĩ đến việc phải dâng lời tạ ơn Chúa ban cho thực phầm qua trái đất, khí hậu và lao công. Kitô hữu lúc nào cũng cần nhớ dâng lời tạ ơn Chúa ban cho vũ trụ, thực phẩm bởi không có Chúa chúng ta không thể tồn tại vì thế sống tâm tình tạ ơn là điều không thể thiếu trong cuộc sống của các Kitô hữu.
Ăn uống là nhu cầu để tồn tại, mà ăn để sống, ăn để hưởng thụ, hoàn toàn khác nhau, cho dù người Việt THÁNHTHỂ-329
Ăn uống là nhu cầu để tồn tại, mà ăn để sống, ăn để hưởng thụ, hoàn toàn khác nhau, cho dù người Việt ăn cơm, ăn phở, người Tây ăn bánh, ăn súp. Ăn uống đâu phải chỉ là đưa cơm bánh vào miệng nhai nuốt, nhưng nhờ được giáo dục, mà điều đầu tiên chúng ta đã ý thức: ăn quả nhớ kẻ trồng cây. Khi ăn người ta còn được tự do chọn lựa thứ thực phẩm mang lại sức khỏe, sức sống, có hiệu quả cao nhất. Chắc chắn không phải vô tình mà cha ông chúng ta nói: ăn trông nồi, ngồi trông hướng, cũng không phải vì lắm lời nhiều lẽ, cha ông ta đã sức ưu tư, làm gì để ta không phải bận tâm đến cơm áo gạo tiền.
Ăn như thế nào gọi là đúng, đủ, không lỗi đạo làm người, ăn uống ra sao để không phí phạm đến của trời ban, như câu thành ngữ các đấng bậc nhắc nhớ: khéo ăn thì no, khéo co thì ấm. Chúa Giêsu hôm nay không nói đến “văn hóa ẩm thực”, không chi tiết đến độ “cách ăn nết ở”, Ngài lưu ý chúng ta hãy ăn uống thứ lương thực nào để nuôi sống được linh hồn. Ăn uống thế nào để mỗi người tìm gặp được sự sống đời đời. Ăn tươi nuốt sống, đó là câu thành ngữ chỉ người bạo ăn bạo uống, dám nói, dám làm dám chịu, nghe quả thật là bạo lực. Từ việc ăn uống tự nhiên, Chúa Giêsu mạc khải “ai ăn bánh Ta ban sẽ được sống muôn đời”, Ngài còn quả quyết với đám đông Do-thái: “ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì có sự sống đời đời, và tôi sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết”.
Thực tế ở đời là: người ta ăn rồi lại đói, uống rồi lại khát, người ta “vận sức dụng mưu” hầu có của ăn của để, rồi cũng tới lúc bỏ lại tất cả vì tuổi cao sức yếu. Người khôn ngoan đức độ nhất, cũng “bó tay” trước vận mệnh: sinh lão bệnh tử ; người tài giỏi thông thái tới đâu, cũng không thể chế biến được thứ cơm bánh nuôi xác hồn bất tử. Ăn uống đủ chất, kiêng khem, loại bỏ được thực phẩm bẩn, ăn chín uống sôi, mới chỉ là cách phòng tránh bệnh, tự chăm sóc sức khỏe, chứ nào phải là kiếm tìm được thứ lương thực trường cửu. Ăn cơm bánh để nuôi thân xác, tiếp nhận những lời hay ý đẹp của các đấng bậc mới nuôi sống được lương tâm, được tâm trí sáng suốt.
Xã hội văn minh vẫn thừa nhận là không thiếu cơm bánh, có thiếu là thiếu lòng quảng đại, các gia đình trẻ hôm nay không sợ đói ăn khát uống, nhưng họ sợ không biết cách giáo dục con cháu nên người. Bánh vật chất là lương thực nuôi thân xác, không ai bàn cãi nữa, bánh trường sinh mà Chúa Giêsu ban để nuôi linh hồn, người Do-thái, và cả chúng ta hôm nay, đều phải có niềm tin, nếu không, sự sống đời đời cũng chỉ là vô vọng mà thôi. Của ăn tạm thời và của ăn trường tồn, sẽ không khó để phân biệt, điều hệ trọng là người ta có tin nhận Chúa Giêsu là Bánh tình thương, là Bánh trường sinh từ trời ban tặng không ?
Người xưa dùng nhiều ca dao tục ngữ để răn dạy con cháu, có những câu nghe qua là hiểu: cá không ăn muối cá ươn, con cãi cha mẹ, trăm đường con hư. Có những câu nói, người ta không thể hiểu được hết ý: ăn một mình đau tức, làm một mình cực thân, hay: của thiên trả địa. Nếu bao lâu, chúng ta chưa nhận ra công khó nuôi dạy con cháu, chưa tin cha ông ta phải trải qua nhiều vấp ngã mới để lại cho hậu thế những bài học quí báu, khó mà ta hiểu được tấm lòng mẹ cha của mình. Bao lâu chúng ta còn nhìn nhận Đức Giêsu là một anh thợ mộc con ông Giuse, hẳn không ai đủ hiểu thế nào là Bánh ban sự sống, cùng lắm chỉ hiểu bánh nuôi xác thân.
Có thực mới vực được đạo, nếu hiểu theo nghĩa mặt chữ, cùng lắm người ta chỉ tìm được của ăn vật chất, khó lòng hiểu được đạo làm người, đạo làm con Chúa, cần có Bánh nuôi linh hồn, Bánh Giêsu. Nếu gặp gỡ Đức Giêsu là đủ hạnh phúc, là có ơn cứu độ, Chúa Giêsu đã không phải lập đi lập lại nhiều lần: “ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì được sống muôn đời”. Tin và sống niềm tin, sẽ mãi sống động như chúng ta vẫn hiểu: học phải đi đôi với hành. Người thiếu hiểu biết chỉ nghĩ được không ăn uống sẽ chết, còn người thiếu niềm tin sẽ không phân biệt được thịt máu Chúa Giêsu là của ăn nuôi linh hồn, khác với thịt cá nuôi thân xác.
Nếu người ta cảm nhận được: trên đời này không gì quý bằng sự sống, trong tương quan không gì quý bằng tình yêu, thì người ta sẽ phải công nhận, không gì hạnh phúc bằng có sự sống, có Chúa là gia nghiệp đời đời. Là người tín hữu, chúng ta không chỉ mưu toán tính toán hầu có cơm áo gạo tiền, nhưng còn vương vấn bằng nhiều thứ đam mê khác: sức khỏe, phán đoán, đức ái, đức công bình…. Chúa Giêsu lưu ý chúng ta một của ăn duy nhất đó là Bánh tình thương, là trọn vẹn Đức Ktiô trong ơn gọi khát khao sự sống đời đời. Ngày hôm nay, ăn thịt cá, uống bia rượu, chỉ là khía cạnh nhỏ của cuộc sống, vì ai ai cũng đủ dư sự khôn ngoan để làm gì mà đạt tới hạnh phúc đời đời. Xin tình yêu của Đấng ban phát của ăn thức uống nuôi linh hồn, giúp mỗi người biết sử dụng tự do của mình để mau đón nhận Đức Giêsu là sự sống đời đời. Amen.
Ăn uống là nhu cầu phải có của con người. Việc ăn uống còn mang lại nhiều niềm vui cho con người. THÁNHTHỂ-330
Ăn uống là nhu cầu phải có của con người. Việc ăn uống còn mang lại nhiều niềm vui cho con người. Niềm vui của sự ngon miệng. Niềm vui của sự bồi bổ và được nhân lên thêm sức sống. Vì thế, ăn không chỉ đơn thuần dừng lại ở động tác nhai hay nuốt, nhưng động tác ăn chỉ đạt tới mục tiêu cuối cùng của mình là tiến trình tiêu hóa. Thức ăn được chuyển hóa, được hấp thụ để trở thành sức sống, thành máu thịt cho người tiếp nhận.
Chúa Giê-su khi trao ban Thánh Thể mình qua tấm bánh là Ngài cũng muốn trao ban sự sống thần linh cho chúng ta. Ngài cũng muốn chúng ta tiếp nhận máu thịt Ngài để trở nên một với Ngài. Hấp thụ sức sống thần linh của Chúa con người cũng được tiếp nhận sự sống phục sinh từ Đấng đã từ cõi chết để mai sau cũng được sống lại với Người.
Phúc âm nói rằng: trong bữa tiệc cuối cùng với các môn đệ, Chúa Giê-su đã tự hiến trở nên tấm bánh, tấm bánh được bẻ ra và trao tặng, trao tặng cả cuộc đời, cả con người cho những kẻ mình yêu thương. Tấm bánh yêu thương ấy, ngày hôm nay vẫn không ngừng được ban tặng cho nhân loại. Không chỉ để được cầm lấy mà chúc tụng, cám ơn hay chiêm ngắm ở nơi cao trên bàn thờ, nhưng còn là để đón nhận như Lời Chúa mời gọi: “Anh em cầm lấy mà ăn”, để tình yêu và sức sống của Ngài dâng trào trong từng đường thớ thịt, trong suy nghĩ và việc làm, trong khối óc và con tim của chúng ta, trong mọi lối nẻo của cuộc sống đời thường.
Khi Chúa nói “hãy cầm lấy mà ăn” là Ngài muốn những ai đón rước Thánh Thể Ngài thì cũng phải trở nên giống như Ngài để có thể trao ban tình yêu ấy cho tha nhân. Nên một với Ngài trong suy nghĩ và trong hành động để có thể “yêu như Thầy đã yêu”. Như vậy, Tấm Bánh Đức Kytô, Con Thiên Chúa làm người không chỉ được bẻ ra và trao tặng trong thánh Lễ hay trên bàn thờ, mà còn có thể được bẻ ra và nhân lên nhiều hơn nữa trong cuộc sống của người Kytô hữu. Người ky-tô hữu một khi đã thấm nhuần sức sống của Chúa thì cũng dám sống hết mình vì người khác, dám sống gieo rắc tình yêu và lòng thương xót của Chúa nơi nhân thế.
Dám sống như Ngài là gì, nếu không phải là trở nên hiền lành khiêm nhượng hơn, sống gần gũi và chân tình hơn với mọi người, nhất là những người anh em nhỏ bé, bị bỏ rơi bên lề cuộc sống?
Dám sống như Ngài là gì, nếu không phải là chấp nhận bị hao mòn, chấp nhận những thiệt thòi mất mát khi sống quên mình vì Chúa , vì mọi người, nhất là trong gia đình khi chúng ta dám bào mòn chính mình để mọi người được hạnh phúc?
Dám sống như Ngài là gì, nếu không phải là làm cho đời mình cũng trở nên một Tấm Bánh, luôn là niềm vui, là sức sống cho mọi người?
Đó là lời dặn dò của Con Thiên Chúa, là sứ điệp được công bố trong bữa tiệc của Chúa, và trong mọi cử hành Thánh Thể: “Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, và cũng là điều được gợi lên cho chúng ta hôm nay: hãy bẻ tấm bánh đời mình nên nguồn sống, niềm vui cho tha nhân.
Như vậy, bữa tiệc Thánh thể không chỉ được cử hành trong thánh lễ , mà còn được nối tiếp vào trong cuộc sống, khi con người biết sống với nhau, biết tôn trọng quyền được sống của người khác và biết cùng nhau xây dựng nền văn minh tình thương, nền văn minh sự sống như lòng Chúa hằng mong ước.
Xin Chúa thương biến đổi cuộc đời chúng ta trở nên những tấm bánh của Chúa và để mạnh dạn thưa cùng anh chị em chung quanh bằng chính Lời của Chúa: “Anh em cầm lấy mà ăn” ngõ hầu cuộc đời chúng ta cũng dám bào mòn chính mình để trở nên nguồn sống cho tha nhân. Amen.
Chính Ta là bánh trường sinh,Ai ăn sẽ sống, thiên linh rạng ngời.Bánh từ trời xuống trong đời, THÁNHTHỂ-331
Chính Ta là bánh trường sinh, Ai ăn sẽ sống, thiên linh rạng ngời. Bánh từ trời xuống trong đời, Thịt ban sự sống, cho người trần gian. Nhóm người Do-thái lạm bàn, Làm sao thịt máu, trao ban cho đời? Còn Ta bảo thật các người, Nếu không ăn Thịt, Ngôi Lời Ta đây, Và không uống Máu Thánh nầy, Sẽ không được sống, cùng Thầy mãi đâu. Ai ăn Thịt Máu nhiệm mầu, Muôn đời sự sống, thỉnh cầu phúc ân. Thịt Ta là thật của ăn, Máu Ta nguồn sống, thế nhân gọi mời, Thân Ta lương thực bởi trời, Dưỡng nuôi người thế, sống đời thánh nhân. Man-na ban xuống gian trần, Ăn rồi phải chết, xác thân bụi tàn. Thần lương Thánh Thể Cha ban, Chan hòa sức sống, tràn lan phúc lành.
Chúa Giêsu phán: “Ta là bánh hằng sống, ai ăn, sẽ được sống đời đời.” Đây chính là bánh trường sinh giúp chúng ta chia xẻ cuộc sống đời đời. Bánh trường sinh do từ thân thể trường sinh. Chúa Giêsu muốn ở lại với Giáo Hội và Ngài muốn thân xác của Ngài trở nên của ăn, của uống dưỡng nuôi con người. Bánh miến kết hợp bởi muôn hạt miến và rượu nho ép từ những trái nho được thánh hiến để trở nên của ăn, của uống nuôi dưỡng thân xác và linh hồn.
Không có tình yêu nào cao qúy hơn là hiến mạng sống mình làm của nuôi hồn. Chúa Giêsu muốn chia xẻ chính thiên tính và con người của Ngài cho chúng ta. Mỗi khi chúng ta nhận lãnh Mình và Máu của Chúa là chúng ta được tháp nhập vào đời sống của Chúa. Mình và Máu Chúa đã thấm nhập và hòa tan trong thân xác hay chết của chúng ta. Chúng ta sẽ cùng được chia phần sự sống đời đời với Chúa.
Ai trong chúng ta cũng muốn sống, sống mãi và sống khỏe. Con người đã đang tìm mọi cách để bảo vệ, gìn giữ và kéo dài sự sống. Đã có nhiều người mơ ước được sống trẻ mãi, không già và không chết. Họ đã tìm kiếm những thang thuốc bổ trường sinh và cây sâm ngàn năm để tăng tuổi thọ. Cuối cùng mọi người ai cũng chết thôi.
Chúa Giêsu đã chọn cách thế tuyệt hảo nhất để dưỡng nuôi hồn xác chúng ta. Như hình ảnh người mẹ nuôi con, mẹ cho con bú do chính những giọt sữa là máu thịt của mẹ. Mẹ truyền thụ cho con cái chính sự sống mình. Chúa Giêsu đã dùng Thịt và Máu của Ngài qua Bí Tích Thánh Thể như của ăn không hư nát, dẫn đưa chúng ta đến sự sống đời đời.
Truyện kể: Ngày nọ, đang khi học hỏi về Bí Tích Thánh Thể, anh chị em dự tòng thắc mắc và đã đưa ra câu hỏi. Bí Tích Thánh Thể cao qúi và cần thiết cho đời sống thiêng liêng như thế, tại sao nhiều người bỏ lễ, đứng ở ngoài và phần lớn không lên rước Mình Thánh Chúa. Cũng thật khó trả lời. Vì đây là vấn đề thiêng liêng và riêng tư. Chúng ta có thể góp ý như thế này, thí dụ: Họ có thể yếu kém giáo lý, thiếu hiểu biết về Chúa, yếu đức tin, thiếu ý thức đới sống thiêng liêng, giữ luật dự lễ vì sợ phạt, không muốn làm hơn điều đòi hỏi hoặc vì lười biếng…
Bí Tích Thánh Thể là do chính Chúa Giêsu lập và nhắc nhở rằng các con hãy làm việc này để nhớ đến Ta. Chính Chúa mời gọi: Ai ăn Thịt Ta, sẽ có sự sống đời đời. Nếu chúng ta muốn được tham dự vào sự sống muôn đời hãy tiếp nhận Chúa. Chúa không lừa dối chúng ta đâu.
Con người muôn thời luôn ước mong có một cuộc sống trường sinh bất tử.Do đó, có nhiều Vị Vua đã THÁNHTHỂ-332
Con người muôn thời luôn ước mong có một cuộc sống trường sinh bất tử.Do đó, có nhiều Vị Vua đã tốn rất nhiều công sức, đầu tư cho các nhà bác học, các nhà nghiên cứu y khoa tìm ra thuốc trường thọ. Nhiều Vị Vua đã tàn nhẫn hy sinh biết bao nhiêu sinh mạng để nghiên cứu hầu có thể kéo dài sự sống.Tuy nhiên, tất cả đều vô vọng, tất cả đều mơ hồ. Không có một viên thuốc cải lão hoàn sinh nào được bào chế. Một Tần Thủy Hoàng xưa, một Nursultan Nazarbayev, tổng thống nước Kazakhtan nay, đã truyền lệnh cho các nhà khoa học tìm ra thuốc trường sinh bất lão. Tất cả đều chỉ là một giấc mơ hão huyền…
Trần gian không thể nào tìm được thuốc cải lão hoàn sinh, nhưng Chúa Giêsu đã hứa ban cho chúng ta thứ thuốc, thứ bánh trường sinh. Manna khi xưa, Thiên Chúa ban cho dân Israen trong sa mạc chỉ giúp nuôi họ trong cuộc hành trình tiến vào đất hứa. Nhưng, bánh hằng sống mà Ngài hứa ban sẽ cho chúng ta sự sống đời đời. Thịt của Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống. Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta sẽ có sự sống đời đời . Chúa đã xác định rõ ràng như thế trong Tin mừng thánh Gioan 6,32.51:” Bánh Môisen ban tặng các ngươi chẳng phải là bánh từ trời xuống…Ta là bánh hằng sống từ trời xuống.Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời.Bánh Ta sẽ ban chính là Thịt Ta “.Có nhiều người đã tin vào Ngài, nhưng cũng có môn số môn đệ rút lui không đi theo Ngài vì họ cho rằng lời nói ấy thật chói tai….Chúng ta phải trở lại Nhà Tiệc Ly mới hiểu được điều Chúa hứa ban, thánh Máccô viết:” Đang khi họ đồng bàn với nhau, Chúa Giêsu cầm một miếng bánh tạ ơn, bẻ ra trao cho các môn đệ và nói:” Hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Ta”. Đoạn Ngài cầm lấy chén lên, tạ ơn Chúa, rồi trao cho họ “ Tất cả hãy cầm lấy mà uống. Đây là Máu Ta sẽ đổ ra cho nhiều người. Máu này để ký giao ước với Thiên Chúa “.
Thánh Luca đã diễn tả lại sự kiện trên như sau:” Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho họ “( Lc 24, 30 ). Diễn tiến này xẩy ra y hệt trong bữa Tiệc ly Chúa đã làm. Thực tế, Chúa Giêsu đã cho các Kitô hữu muôn thời cảm nghiệm được chính Mình Máu Chúa ban cho họ sự sống đời đời. “ Bánh mà Ta ban cho là Thịt Ta để cho thế gian được sống “ hoặc “ Thiên Chúa đã không tha Con Một Ngài, nhưng đã trao ban Con Một Ngài “ ( Ga 3,16 ), để cứu độ trần gian, để cứu vớt mọi người, như là Bánh nuôi sống tất cả. Vâng, Chúa đã nuôi nhân loại, nuôi con người bằng “ Bánh trường sinh “, bằng “ Bí Tích Thánh Thể “. Mình Máu của Chúa là lương thực nuôi sống con người, là thuốc trường sinh mà con người, loài người vẫn mong tìm kiếm. Vâng, Bí Tích Thánh Thể là Bí Tích Tình Yêu, Chúa trao ban cho nhân loại, cho mỗi người. Bánh Hằng Sống không chỉ nuôi sống chúng ta đời, nhưng còn là nguồn lực khích lệ, an ủi, động viên chúng ta để chúng ta vượt thắng những thử thách, khó khăn, phong ba bão táp để tiến về Quê trời.
Chúng ta, để được sống sự sống đời đời thì không chỉ tin Chúa, nhưng còn cần phải sống như Chúa, sống bằng sự sống của Chúa. Chúa đã Nhập Thể làm người, đã chết để cứu chuộc chúng ta và đã sống lại để cho chúng ta cũng được sống lại với Người. Nên, Chúa sống lại về trời và ban Thánh Thần cho chúng ta để chúng ta có sức sống mới, để chúng ta được sống nhờ Ngài cũng như Chúa sống nhờ Chúa Cha.
Chính vì thế, mỗi lần chúng ta rước lễ là chúng ta đón nhận chính thân xác sống động của Chúa Giêsu. Đấy cũng chính là Đức Giêsu đã được sinh ra nơi Hang Đá Bêlem. Đấy cũng chính là Đức Giêsu đã chết trên thập giá nơi đồi Canvê và đấy cũng chính là Đức Giêsu sống lại từ cõi chết.
Vâng, Chúa Giêsu đã long trọng cử hành Bí Tích Thánh Thể tại Emmaus mà Ngài đã tiên báo tại Cana, đã hứa ban tại Capharnaum và đã thiết lập tại Giêrusalem. Ngày nay và cho mãi đến muôn đời, Chúa luôn ngự trong Bí Tích Thánh Thể và ở trong Nhà Tạm để chờ đón chúng con.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ban cho chúng con Bánh Bởi Trời, Bánh Hằng Sống để nuôi dưỡng chúng con. Xin cho chúng con luôn biết mến yêu Bí Tích kỳ diệu:” Bí Tích Tình Yêu, Bí Tích Ban Sự Sống vĩnh cửu là chính Mình và Máu Đức Kitô “. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Manna trong sa mạc xưa và Thịt Máu của Chúa Giêsu khác nhau thế nào ?
2.Ai đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể ? Ở đâu ? và vào lúc nào ?
3.Bí Tích Thánh Thể là gì ?
4.Rước Mình Máu Thánh là tiếp nhận ai ?
Bài Tin mừng hôm nay tiếp tục diễn từ Bánh Hằng Sống của Đức Giêsu, với lời khẳng định: “Ai ăn THÁNHTHỂ-333
Bài Tin mừng hôm nay tiếp tục diễn từ Bánh Hằng Sống của Đức Giêsu, với lời khẳng định: “Ai ăn Thịt và uống Máu tôi thì được sống muôn đời”. Bánh Hằng Sống được ban cho con người chính là Thịt Máu của Đức Giêsu, nghĩa là bằng chính thân mình của Ngừơi. Như vậy, con người được nuôi sống, không chỉ bằng cơm bánh, nhưng nhất là bằng sự sống thần linh của Đức Giêsu, qua chính Thịt Máu Ngài.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Những người Do Thái lúc ấy tranh luận với nhau về việc “ Làm sao Ông này có thể cho chúng ta ăn thịt Ông ta được ?”,lời tranh luận ấy đến hôm nay và sau này vẫn còn mãi.
Một vị Linh mục thánh thiện đã kể lại, mỗi lần Cha dâng lễ, khi đưa cao bánh Thánh và công bố lời “Đây Chiên Thiên Chúa, đây đấng xóa tội trần gian “, ông nhận ra Chúa hiện thân khuôn mặt Người trong Bánh Thánh. Lúc thì Chúa Giêsu với khuôn mặt vui tươi, như đang cười với Ông. Ông hiểu rằng Chúa hài lòng về ông. Lúc khác, vị Linh mục lại nhìn ra gương mặt đau khổ, buồn sầu trong Bánh Thánh, ông hiểu ra Chúa đang đau khổ vì tội lỗi con người xúc phạm đến Chúa, trong đó có ông. Ông xin Chúa thứ tha và tha thiết cầu nguyện nhiều hơn. Cũng có lúc với khuôn mặt tư lự trong Bánh Thánh, ông nhận ra Chúa đang ưu phiền vì nhân lọai thờ ơ với Chúa. Số người đón nhận Thánh Thể Chúa sút giảm.
Phần con trong lòng tin, con biết rằng điều ấy không có gì khó hiểu, bởi con được sống trong bầu khí Thánh Kinh từ nhỏ, được học hỏi giáo lý, được Thánh Thần Chúa soi sáng. Con lại vẫn đang sống trong môi trường Xứ Đạo, nói rộng ra là trong lòng Giáo hội Công Giáo. Thế nhưng việc lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa có tác động gì đến cuộc sống của con?
Con rước Mình và Máu Thánh Chúa, nhưng con có Chúa ở trong lòng ? Con có thể hiện mình đang ở lại trong Chúa? hay sau mỗi Thánh Lễ, Chúa tiếp tục ở trong nhà Tạm, trong nhà thờ. Còn con, con ra đi giữa chợ đời. Chúa vẫn là Chúa, con vẫn là con với tất cả hỉ nộ ái ố của cuộc sống trần gian.
Nếu con có Chúa trong lòng, con có minh chứng điều ấy bằng những hành động cụ thể không? Con có mạnh dạn sống niềm tin của mình giữa xã hội hôm nay không ? Tự nhận là con cái Chúa, con có mạnh dạn “Sống Tin Mừng Đức Giêsu giữa dân tộc mình “ như lời Đức Thánh Cha Bênêdictô đã nhắn nhủ ? tại đất nước Việt Nam của con, những người chưa nhận biết Chúa chiếm số đông, trên 90% dân số. Sống Phúc Âm chính là Sống Thánh Thể, sồng có Chúa trong lòng. Sống bác ái thực sự, hy sinh xả kỷ vì anh em. Con có làm được và dám làm ?
Những câu hỏi ấy vẫn theo con mỗi ngày trong cuộc sống này.
Trong bầu khí tục hóa đang lan tràn, lắm khi con cũng trở nên hờ hững với việc đến với Chúa.Bị chi phối bởi các thế lực trần tục, lắm lúccon không dám đặt hết niềm tin nơi Chúa.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Xin Chúa giúp con, mỗi khi tham dự thánh lễ là mỗi lần con ý thức mình đang dự tiệc, với lương thực thần linh mà Đức Giêsu thết đãi và nuôi sống linh hồn con. Xin chocon ao ước và say mê rước Thánh Thể với tất cả lòng tin và sự trân trọng.Dám sống và giới thiệu Chúa cho những người sống bên con, là con đang có Chúa ở cùng.AMEN.
Người Do-thái vì không tin Đức Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, nên khi nghe THÁNHTHỂ-334
Người Do-thái vì không tin Đức Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, nên khi nghe Đức Ki-tô nói: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.” (Ga 6, 51), thì ngay lập tức họ phản ứng: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?” (Ga 6, 52). Không những thế, họ còn “tranh luận sôi nổi với nhau; họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” (Ga 6, 52). Không chỉ những kinh sư luật sĩ Do-thái, đến ngay cả các môn đệ của Đức Giê-su cũng “Nghe rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6, 60).
Cứ tưởng chỉ ở thời đó mới có đám người Do-thái nói như vậy; thật không ngờ ngày nay số người không tin vào Lời Đức Ki-tô còn nhiều gấp bội. Có lẽ con người càng văn minh thì lại càng hoài nghi về những dấu chỉ rất thật, rất đời thường về sự hiện diện của Thiên Chúa chăng? Hoá cho nên khi đọc và suy niệm Kinh Thánh cần phân biệt nghĩa văn tự và nghĩa thiêng liêng. Chính Thiên Chúa đã dùng cái bất toàn của con người để công bố Lời toàn năng, dùng miệng lưỡi nhơ uế của con người để nói Lời Chí Thánh. Cụ thể hơn, Thiên Chúa đã thông qua những vật chất bình thường, rất đời thường, để mạc khải cho con người hiểu những mầu nhiệm ân sủng cực cao cực trọng Người đã ban cho nhân loại. Công việc mạc khải ấy Thiên Chúa không dành cho những người được coi là thông thái (cỡ như các kinh sư Pha-ri-siêu), mà dành cho những kẻ bé mọn, những con người cũng rất bình thường (thậm chí còn bị đám kinh sư coi là tầm thường, tội lỗi nữa). Thật vậy, “Vào lúc ấy, Đức Giê-su cất tiếng nói: Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn.” (Mt 11, 25).
Thử tìm hiểu Lời Chúa vì sao khiến đám người Do-thái tranh luận sôi nổi và không tin. Theo Giáo lý HTCG (các điều 115, 116, 117) thì: “Theo một truyền thống cổ xưa, có thể phân biệt hai nghĩa được dùng trong Kinh Thánh: nghĩa văn tự, nghĩa thiêng liêng. Nghĩa thiêng liêng được chia thành nghĩa ẩn dụ, nghĩa luân lý, nghĩa thần bí. Sự hoà hợp sâu xa của bốn nghĩa này bảo đảm cho vịêc đọc Thánh Kinh được phong phú tối đa… Hai câu thơ trung cổ (“Littera gesta docet, quid credas allegoria, Moralis quid agas, quo tendas anagogia”) tóm tắt ý của bốn nghĩa như sau: Nghĩa văn tự dạy về biến cố; – Nghĩa ẩn dụ dạy điều phải tin, – Nghĩa luân lý dạy điều phải làm, – Nghĩa thần bí dạy điều phải vươn tới” (xin coi thêm Tông huấn “Lời Chúa”, mục “Nghĩa chiểu tự và nghĩa thiêng liêng”, số 37; và “Cần phải vượt quá chữ viết”, số 38). Riêng Thánh Tô-ma A-qui-nô thì cho rằng: “Tất cả các nghĩa trong Thánh Kinh đều dựa vào nghĩa văn tự” (“Tổng luận” 1, 1; 10, 1)
Lời Chúa “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.” (Ga 6, 51) theo nghĩa văn tự thì thật rõ ràng nói về bánh và thịt là những thứ nhìn thấy, cầm nắm, ăn uống được, nhưng “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” (Ga 6, 52). Đó là vì “Nghĩa văn tự dạy về biến cố”, mà biến cố ở đây là biến cố hy tế thập giá, biến cố này chưa xảy ra, nên đám người Do thái không tin. Còn đối với chúng ta ngày nay thì vì không được chứng kiến hoặc trực tiếp tham dự vào biến cố ấy, nên rốt cuộc cũng lại bán tín bán nghi chẳng kém gì đám người Do thái. Vậy thì phải hiểu Lời Chúa theo ý nghĩa nào?
Rõ ràng ở đây Chúa muốn nói đến sứ mạng được Chúa Cha trao phó cho Người: cứu độ nhân loại bằng sự hy sinh chính mạng sống mình trên thập giá. Chúa đã dùng hình ảnh cụ thể (bánh, thịt) để nói về ý nghĩa trừu tượng (mầu nhiệm cứu chuộc). Đó chính là “Nghĩa ẩn dụ dạy điều phải tin”. Tiến tới một bước nữa: Chúa muốn cho con người được ăn bánh hằng sống từ trời xuống là chính Thịt và Máu Chúa, để làm gì? Phải chăng là để đem lại hạnh phúc đích thực, hạnh phúc vĩnh cửu (sự sống vĩnh hằng nơi cõi phúc Thiên đàng) cho con người? Rõ ràng (theo điều 116 Giáo lý HTCG) “các biến cố được Kinh Thánh thuật lại phải dẫn chúng ta đến một cách ăn ở chính trực. Các biến cố đó được viết ra “để răn dạy chúng ta” (1Cr 10, 11)”. Cụ thể hơn, đó là “Nghĩa luân lý dạy điều phải làm”. Với nghĩa này, thì không dừng lại ở việc đọc và suy niệm Kinh Thánh, mà phải là đem những điều mình hiểu biết ra thực hành, bởi vì “Đức tin không có hành động là đức tin chết”. Cuối cùng thì phải hiểu Lời Chúa theo nghĩa thần bí, mà “Nghĩa thần bí dạy điều phải vươn tới”. Chính ý nghĩa cuối cùng này thúc đẩy chúng ta phải củng cố đức tin để kiên trì vươn tới vậy.
Nếu chúng ta tin rằng chính thực Đức Ki-tô là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, thì vấn đề Người truyền phép cho bánh và rượu trở nên Thịt và Máu của Người cũng chỉ là chuyện nhỏ, quá nhỏ đối với Thiên Chúa. Cũng đã có nhiều người cắc cớ đặt câu hỏi “Thế nhưng tại sao hình dáng, màu sắc, mùi vị của bánh và rượu vẫn giữ nguyên, không có gì thay đổi?”. Vấn đề chính ở điểm này. Chỉ xin đưa ra một hình ảnh đặc thù, đó là Thánh Phao-lô. Nếu chỉ nhìn hình dáng, cử chỉ, thái độ, giọng nói của ngài trước và sau biến cố Đa-mát thì chẳng có gì thay đổi, nhưng thần trí thì thay đổi hoàn toàn. Trước đó thì năng nổ nhiệt tình đi lùng bắt những người theo Ki-tô, rồi về sau cũng lại rất nhiệt tình năng nổ, thậm chí hy sinh cả tính mạng vì Ki-tô, làm nhân chứng sống động cho Đức Ki-tô phục sinh. Chính nhân chứng độc đáo này đã khẳng định: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Ki-tô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể.” (1Cr 10, 16-17). Vâng, cái dáng vẻ bên ngoài của Thánh Phao-lô trước và sau biến cố Đa-mát vẫn không có gì thay đổi, nhưng thần trí tiềm ẩn bên trong đã hoàn toàn đổi khác. Cũng vậy, hình dáng và mùi vị bánh rượu vẫn không có gì thay đổi sau khi được truyền phép (kể từ bữa Tiệc Ly cách đây 2000 năm, cho đến mãi muôn đời), nhưng bản tính rượu và bánh đã hoàn toàn đổi khác. Một cách cụ thể, bánh rượu trước khi được truyền phép chỉ là những vật chất bình thường, vô hồn, nhưng sau khi truyền phép thì rượu bánh đã có hồn, tức là có Chúa Ki-tô thực sự hiện diện trong đó vậy.
Thật là rõ ràng “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6, 56-58). Vâng, không còn nghi ngờ gì nữa về nguyên lý bất biến: Giáo hội là một cộng đồng hiệp thông trong mầu nhiệm hiệp thông Thiên Chúa Ba Ngôi. Toàn thể Giáo Hội đều cùng uống chung một chén, cùng ăn chung một tấm bánh, để cùng thi hành chung một sứ vụ Rao giảng Tin Mừng Cứu Độ (“Người đã thiết lập trong Giáo hội của Người nhiệm tích Thánh Thể kỳ diệu, vừa là dấu chỉ vừa thể hiện sự hiệp nhất của Giáo hội. Người ban cho các môn đệ Người một giới răn mới là tình yêu thương nhau, và hứa ban Thánh Thần an ủi, Ðấng vừa là Chúa vừa ban sự sống để ở với họ mãi mãi.” – SL về Hiệp Nhất”, số 2).
Trong mỗi Thánh Lễ – một cuộc tái hiện Hy tế Thập Giá của Chúa Giê-su Ki-tô – thì việc cử hành Bí tích Thánh Thể là trung tâm điểm, là trọng điểm. Cùng với nghi thức Truyền Phép Thánh Thể, vị chủ tế nhắc lại chính Lời của Đấng Cứu Độ: “Đây là Mình Thầy sẽ bị nộp vì anh em” và “Đây là chén Máu Thầy, Máu Giao ước mới, Giao ước vĩnh cửu”. Mình của Đức Giê-su Ki-tô bầm giập, nát bấy vì đòn roi, gai góc, Máu từ Trái Tim Người bị đòng, giáo, gươm, đao tội lỗi loài người đâm thâu, không chỉ ở trên Golgotha năm xưa, mà cho đến tận ngày nay vẫn còn tiếp diễn. Tất cả là tấm bánh huyền diệu nằm trong một trái tim ngút ngàn Máu và Nước (Máu Dưỡng Nuôi + Nước Thanh Tẩy) của suối nguồn Tình Yêu. Mầu nhiệm Thánh Thể cũng là trung tâm của đời sống Giáo hội. Biểu tượng sống động nhất cho mầu nhiệm cứu chuộc luôn luôn và mãi mãi vẫn là: “Thập giá Đức Ki-tô, niềm vinh dự của ta, Thập giá Đức Ki-tô đã khơi nguồn ơn thánh hoá. Nhờ Máu Nước Tim Người từ khổ giá tuôn trào, thành nguồn ơn giải thoát cứu độ ta.” (“Thập giá Đức Ki-tô” – TCCĐ).
Hôm nay lễ trọng kính Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Lễ Mình Máu Thánh CKT được ĐGH Urbanô THÁNHTHỂ-335
Hôm nay lễ trọng kính Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Lễ Mình Máu Thánh CKT được ĐGH Urbanô thứ IV lập ra năm 1264, sau khi cẩn trọng điều tra phép lạ Thánh Thể ‘ MTC chảy máu tại Polsena’. Việc tôn kính Mình Máu Chúa cũng được thánh Tôma Aquinô nghi thức hóa thành nghi lễ tôn kính trọng thể: rước kiệu và chầu Phép Lành với bài thánh ca tự biên bằng tiếng la-tinh dùng cho nghi lễ này, bài hát ‘Pange lingua’.
Mình Máu Thánh CKT đích thực là lương thần để ăn, để uống, là lương thực.
Trong ba bài đọc thánh lễ hôm nay nói đến việc ăn, việc uống. Bài đọc 1, Môsê nhắc nhở dân Do Thái hoài niệm về những công việc vĩ đại mà TC đã làm cho họ, xám hối những bất trung dẫn đến nhiều thử thách khốn đốn 40 năm trong sa mạc, thắm thía những thử thách của TC về lòng trung thành, gắng sức thực thi những điều Chúa dạy. Mặc bao bất tín bất trung, TC hằng yêu thương chăm sóc, tín trung bất chấp tất cả. Khi lâm vào nguy cơ cùng cực, Chúa quay nhìn và thương ban mọi điều khẩn thiết, như thức ăn thiêng manna thừa thải, nước uống vọt ra từ tảng đá thiêng chống khát, cứu khỏi nộc độc rắn cắn nhờ con rắn đồng treo cao trong sa mạc. Môsê kêu gọi hãy vững tin quyền năng TC và hãy phụng thờ TC tín thành.
Bài đọc 2, Phaolô tuy không nói rõ đến việc ăn uống, mà dùng từ mang ý rất tương đồng ‘dự phần mình và máu’ Chúa Kitô. Thiết nghĩ dự phần cũng là ăn uống đồng bàn, chung tiệc, qua đó Phaolô đề cập dến tinh thần sống thông hiệp, tránh những phân biệt bất hòa, phe nhóm chia rẻ.
Bài đọc 3, CGS trong Tin Mừng Gioan nói rõ không úp mở việc ăn và uống. Cụ thể hóa việc ăn uống là ăn thịt và uống máu Người. Ăn và uống Thịt Máu Người là cách để có sự sống.
CGS nói đến thịt máu Người là của ăn của uống cho nhân loại xuất phát từ bài giảng ở thành phố Caphanaum đối diện bên kia biển hồ nơi mà ngày hôm trước đó Chúa đã cho năm ngàn người ăn no nê chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá. Để hiểu Mình Máu Thánh Chúa không chỉ là của ăn của uống nuôi dân Người, mà còn hơn thế, cần thiết ôn lại những gì mà Người đã giảng cho dân? Bên kia Caphanaum, nơi Người đã làm phép lạ hóa bánh cá nuôi dân, để rồi hôm sau đó bên này, ĐGS giàng bài giảng minh bạch chỉ giáo về bánh để ăn, thức để uống, nhu cầu không chỉ cho sự sống thể lý mong manh mà còn cho sự sống trường sinh nữa. Điều này được hiểu từ câu hỏi không thể không có chủ tâm gợi chú ý về mình, khi ĐGS hỏi Philipphê:“Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn”? ( Ga.6,5). Từ ‘ mua đâu’ mang nội dung không thiếu hàm ý. Cặp từ gợi chú ý các tông đồ qui hướng về Người, chú tâm về việc Người sắp làm, và thành quả của việc sắp làm ấy. Sư gợi ý như vậy, có thể là câu hỏi gợi suy, chuẫn bị tâm thế thấu triệt và xác tín những gì mà Người sẽ dạy về cái để ăn để uống mới lạ trong bài giảng ở Caphanaum. Nhưng khi Người nói đến thịt Người là của ăn, máu Người là của uống, phút chốc sự việc thay đổi chóng vánh, nỗi bức xúc hiện ra giữa các môn đệ. Hậu quả thật tai hại. Các môn đệ nghe mà không hiểu, không hiểu nên không tin và kết cục họ rút lui bỏ Người, không theo nữa.
Thịt và máu CGS không chỉ là của ăn, mà còn là chính Người, Ngôi Lời của Chúa Cha, tiếng nói của Chúa Cha, và hình ảnh của Chúa Cha. Sở dĩ tin thật là thế bởi CGS nói: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và tôi ở lại trong người ấy”(Ga.6,56). Là Ngôi Lời của Chúa Cha vì Người mạc khải chúa Cha, là bằng chứng sinh động cho tình yêu Chúa Cha hóa nên nhục thể để ở giữa nhân loại, để mạc khải tình yêu Chúa Cha cho nhân loại. Tình yêu Chúa Cha được biểu lộ không chỉ qua công cuộc tạo dựng mà còn hiện rõ trong công cuộc tái tạo mọi sự trong Con dấu ái của Ngài. Và để làm được cuộc tái tạo đó, Ngôi Lời của Chúa Cha phải trở nên nhục thể, chết trong cuộc hiến tế và phục sinh sau đó. Chính nhờ vậy, mà thịt máu Người đã trở nên lương thực trường sinh cho những ai là kẻ tin vào Người, giữ Lời Người. Thế mới biết: “ Ai ăn thịt và uống máu Tôi thì sẽ được sống muôn đời. vì thịt Tôi thật là của ăn, máu Tôi thật là của uông” (Ga. 6.54,55). Những điều này đã làm sáng tỏ câu hỏi gợi suy dành cho Philipphê của CGS: “Ta mua đâu bánh cho những người này ăn đây?”.
Mọi kitô hữu hôm nay được mời gọi tâm đắc tư tưởng gói gọn trong lời thư 1 mà thánh Phaolô gởi giáo đoàn Côrintô được trích đọc trong thánh lễ này! Phaolô viết: ‘Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ TC, là dự phần vào Máu ĐKT, khi ta cùng bẻ Bánh Thánh là dự phần vào Thân Thể Người. Vì chỉ có một tấm Bánh, tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể’. Mọi người được kêu mời dự tiệt Mình và Máu ĐKT, là để trở nện hiệp nhất với anh em trong ĐKT, nghĩa là chung tâm tình, chung cảm xúc, chung ước muốn, chung ý hướng trong ĐKT. Điều này chỉ đến ĐKT thu tóm mọi người trong Người cho Chúa Cha. Nên việc ăn thịt và uống máu ĐKT không thể là việc lập ra phe phái, chia bè phân nhóm. Mà chỉ có kết hiệp nhau, bất chấp mọi khác biệt, vẫn hãy gắng sức cũng cố mọi người làm nên chi thể, từng phần hiệp nhất trong nhiệm thể ĐKT.
Kính lạy Mình Máu Thánh CGS! Xin làm cho con được nên thánh! Xin biến con nên khí cụ bình an, công cụ hiệp nhất mọi người hầu mang lại an bình cho trần gian vì sự rạng ngợi Danh Chúa!
Nhu cầu thường ngày của cơ thể con người cần phải có đủ ba nhóm dinh dưỡng: nhóm đường hoặc THÁNHTHỂ-336
Nhu cầu thường ngày của cơ thể con người cần phải có đủ ba nhóm dinh dưỡng: nhóm đường hoặc tinh bột, nhóm các vitamin hoặc chất khoáng và một nhóm không thể thiếu là đạm và chất béo. Nguồn đạm và chất béo chủ yếu là từ thịt và cá. Vì thế, thịt vẫn là nguồn cung cấp năng lượng không thể thiếu cho hoạt động của cơ thể con người. Cũng vậy, nước chiếm một phần lớn trong cơ thể con người. Mỗi ngày, một người phải nạp vào cho cơ thể từ hai đến ba lít nước thì cơ thể mới hoạt động tốt được.
1/ Nếu như trong đời sống, thể xác con người cần phải có các chất dinh dưỡng cung cấp đủ năng lượng mới có thể hoạt động và phát triển được, thì đời sống của linh hồn cũng không thể thiếu nguồn dinh dưỡng giúp sống và phát triển. Nguồn dinh dưỡng của linh hồn chính là Máu Thịt Chúa Giêsu được ban tặng cho nhân loại. Ai siêng năng ăn và uống nguồn dinh dưỡng này, không chỉ được tăng lực, trợ lực ngay hôm nay mà còn được bảo đảm cho sự trường sinh bất tử, được sống đời đời.
Manna Chúa ban trong sa mạc năm xưa không chỉ là thứ bánh để cứu đói, mà còn là thứ bánh nuôi dưỡng đức tin của dân Do Thái. Bài đọc Sách Đệ Nhị Luật hôm nay nhìn biến cố Chúa nuôi dân Ngài suốt hành trình sa mạc là biến cố Chúa nuôi dưỡng đức tin cho dân Ngài. Bối cảnh cho thấy, khi dân Do Thái ra khỏi đất Aicập, băng qua sa mạc tiến về Đất Hứa, họ đã phải đối diện với nắng nóng, bão cát, nhất là cái đói và cái khát trong hoang địa. Dân Do Thái đã ngã lòng, thất vọng, họ kêu trách Chúa và Môsê. Thiên Chúa đã không để cho dân Ngài phải thất vọng, Ngài đã cho Manna từ trời rơi xuống để nuôi họ suốt bốn mươi năm. Họ kêu khát, Chúa cho nước từ tảng đá tại Meriba vọt ra cho họ uống. Họ thèm thịt, Chúa đã cho chim trời bay đến ngập đất, cho họ ăn đến chán.
Tác giả sách Đệ Nhị Luật không dừng lại ở đó, mà còn nhắc người Do Thái và con cháu họ hãy nhìn các biến cố đó không phải là do ngẫu nhiên, nhưng là do quyền năng của Thiên Chúa. Thiên Chúa dùng sự thiếu thốn, đói khát trong sa mạc để thanh luyện đời sống đức tin của dân Chúa. Ngài ban cho họ bánh, nước và thịt để cho họ ăn và nhất là để họ thêm tin tưởng hoàn toàn vào Lời của Thiên Chúa. Từ đây, dân Do Thái rút ra được bài học trong đức tin, đó là khi hoàn toàn tin tưởng vào Lời của Thiên Chúa, họ sẽ được Thiên Chúa cứu sống, vì Thiên Chúa hết mực yêu thương con người. Các phép lạ xảy ra trong hành trình sa mạc không chỉ là để đáp ứng hay giải quyết một vấn đề trước mắt, nhưng qua các phép lạ đó, Thiên Chúa giúp cho đức tin của dân Chúa mỗi ngày vững vàng hơn.
2/ Nếu như Thiên Chúa đã nuôi dân Ngài trong hành trình sa mạc bằng manna, bằng nước từ tảng đá thì bước qua thời Tân Ước, Thiên Chúa dưỡng nuôi Dân Mới là chúng ta bằng một thứ lương thực cao quý hơn gấp bội. Lương thực ấy chính là thịt máu Chúa Giêsu được hiến dâng cho Thiên Chúa như một của lễ và được trao tặng cho nhân loại như là lương thực thần linh. Của ăn này sẽ là nguồn năng lượng không chỉ để nuôi dưỡng cơ thể, mà còn là nguồn sức mạnh cho mọi hoạt động và đem đến sự sống đời đời. Như thế, những ai từ chối lương thực này sẽ rơi vào tình trạng suy kiệt và sẽ chết đời đời.
Chúa Giêsu đã quả quyết: Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời. Bánh tôi sẽ ban chính là thịt tôi để cho thế gian được sống. Với khẳng định này, Chúa Giêsu cho thấy bánh Người ban tặng có giá trị trổi vượt hơn gấp bội manna ngày xưa. Vì bánh này chính là Đấng từ trời mà xuống, Người chính là Thiên Chúa, Đấng làm chủ và nắm giữ mọi sự sống trên mặt đất này. Vì thế, ai đón nhận, ai ăn ăn bánh Chúa ban sẽ đón nhận được sự sống thần linh của Thiên Chúa thông chuyển cho người ấy. Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã dùng quyền năng Thiên Chúa để biến bánh và rượu trở nên máu thịt thực sự của Người và đồng thời làm cho máu thịt ấy vẫn con giữ nguyên hình dạng bánh và rượu. Ai ăn bánh là ăn chính thịt Chúa Giêsu, ai uống rượu là uống chính máu Chúa Giêsu.
3/ Người Do Thái ngày xưa và nhiều người ngày nay vẫn không muốn tin và từ chối lãnh nhận thịt và máu của Chúa. Luật Do Thái cấm không được phép uống máu hoặc đụng chạm đến máu, vì máu là sự sống thuộc chủ quyền của Thiên Chúa. Người Do Thái cũng bị cấm không được phép ăn một số loại thịt cá. Do đó, khi nghe Chúa Giêsu nói về việc ăn thịt và uống máu Chúa, những người nghe đã không dễ chấp nhận, họ nghĩ là Chúa nói về việc ăn thịt người. Chúa Giêsu không mời họ ăn thịt người, nhưng mời họ đón nhận thịt và máu Chúa đã được dâng lên Thiên Chúa Cha làm của lễ cứu độ nhân loại, thịt máu ấy lại được giữ trong hình bánh và rượu mà Ngài đã trao tặng trong bữa tiệc ly. Do đó, Chúa Giêsu vẫn quả quyết với họ rằng: Ai từ chối không ăn thịt máu Người ban tặng thì không có sự sống. Chỉ những ai ăn thịt và uống máu Chúa thì được sống và còn được bảo đảm cho sự sống đời đời.
Chúa Giêsu cũng giải thích thêm về sự sống mà những người ăn thịt và uống máu Chúa sẽ được đón nhận. Ai ăn tôi và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong kẻ ấy. Ở lại, không chỉ là ở kế bên, mà là ở trong, ở cùng, ở với Thiên Chúa. Ai đón nhận máu thịt của Chúa, Chúa Giêsu sẽ đi vào trong cơ thể, trong tâm hồn người ấy và trao chuyển cho họ sự sống thần linh của Ngài. Đồng thời, ai ăn thịt và uống máu Chúa Giêsu thì kẻ ấy cũng được đi vào trong tâm hồn, trong trái tim của Người, tức là bước vào trong tình yêu và trong thế giới của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã giải thích thêm: Như Chúa Cha là Đấng Hằng Sống đã sai tôi, tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào thì kẻ ăn tôi cũng nhờ tôi mà được sống như vậy.
4/ Hai phần ba nhân loại ngày hôm nay vẫn phải sống trong nghèo khổ, đói khát, thiếu thốn lương thực. Hàng ngày vẫn có hàng triệu trẻ em và người lớn phải chết vì đói, vì thiếu dinh dưỡng. Nhiều nơi, nhiều người quá dư thừa của ăn vật chất, còn nơi khác lại thiếu đói. Trầm trọng hơn nữa, có thể nói, cả thế giới ngày nay đang rơi vào tình trạng thiếu đói về đời sống tinh thần, suy nhược về đời sống tâm linh.
Nhiều người đang thiếu đói về đời sống tâm linh, suy nhược trong đời sống đức tin, èo uột trong đời sống đạo đức vì họ đã từ chối hoặc lười biếng không ăn, không đón nhận, không cung cấp cho mình lương thực thần linh là Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu. Vì không có sức sống của Thiên Chúa nên họ cũng không đủ sức để làm cho gia đình mình có sự sống của Chúa. Họ để gia đình trở nên rời rạc lạnh lẽo, trở thành môi trường cho ma quỷ và các vi rút như cãi vã, chửi bới, bất hòa có cơ hội tấn công, gặm nhấm các thành viên trong gia đình.
Nhiều bạn trẻ lo chăm sóc cho ngoại hình, cơ bắp của mình, thích uống tăng lực nhưng lại không chăm lo cho linh hồn, tỏ ra coi thường việc bồi bổ tâm hồn. Có nhiều người để tội lỗi lâu ngày trong linh hồn giống như một thứ bệnh mãn tính, không đến với bác sĩ nơi Bí tích Giải tội, khiến cho linh hồn tê liệt, mất khả năng tiếp nhận dinh dưỡng thiêng liêng.
Xin Chúa cho mỗi chúng ta tin tưởng và siêng năng đến đón nhận Mình và Máu Thánh Chúa làm của ăn và là sức sống cho mình cho gia đình, giúp chống lại sự tấn công của ma quỷ, thế gian, xác thịt và tội lỗi, nhất là được bảo đảm cho sự sống đời đời với Chúa Amen.
+ “Ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy”: Câu này nói lên sự kết hiệp mật thiết giữa Chúa Giê-su Thánh Thể với người rước lễ. Sự kết hiệp này giống như sự kết hiệp giữa hai người bạn tâm giao luôn nghĩ đến nhau và sống vì nhau.
– C 57-59:
+ Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi…: Chúa Giê-su được Chúa Cha sai xuống thế gian. Người sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì Người cũng ban cho những ai rước Mình Máu Người được tham phần sự sống siêu nhiên như vậy.
+ Đây là Bánh từ trời xuống…: Sự sống ban cho kẻ rước lễ là sự sống đời đời phát xuất từ Thiên Chúa, khác hẳn sự sống thể xác do man-na. Man-na là bánh từ trên không trung rơi xuống, nên dân Do thái thời Mô-sê, dù đã ăn man-na suốt trong thời gian Xuất Hành 40 măm trong hoang địa, nhưng vẫn phải chết.
+ Ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời: Đây là câu tóm lược bài giảng về Bánh Hằng Sống. Chúa Giê-su tự ví là Bánh từ trời mà xuống. Người mang lại sự sống thiêng liêng cho loài người đang phải chết vì phạm tội, nhờ cuộc Tử nạn và Phục sinh của Người.
+ Hội đường ở Ca-phác-na-um: Nơi Đức Giê-su giảng về Bánh Hằng Sống là một hội đường Do thái ở thành Ca-phác-na-um gần biển hồ Ga-li-lê, nơi Đức có trụ sở truyền giáo của Đức Giê-su (x Ga 6,1).
HỎI ĐÁP:
– HỎI 1: Tại sao người Do thái và nhiều môn đệ Đức Giê-su đã bỏ không đi theo Đức Giê-su và họ đã tranh luận với nhau điều gì? Tại sao ông Phê-rô và Nhóm Mười Hai vẫn chọn ở lại với Đức Giê-su? Ông Phê-rô đã đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin như thế nào?
ĐÁP: + Sở dĩ người Do thái và nhiều môn đệ Đức Giê-su đã bỏ không đi theo Người nữa (x. Ga 6,66), vì đã hiểu lời Đức Giê-su dạy về việc ăn Bánh Thánh Thể theo nghĩa đen, nghĩa là ăn Thịt Máu của Người, giống như ăn thịt các con chiên, bò, gà… Do đó, họ đã tranh cãi với nhau: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được ?”. Cũng như các thân nhân Đức Giê-su ở Na-da-rét có lần đã coi Người bị mất trí (x. Mc 3,21), thì ở đây các đầu mục dân Do thái cũng coi lời Đức Giê-su thật chói tai và không thể chấp nhận được (x. Ga 6,52). Tuy nhiên, thay vì cải chính, Đức Giê-su lại càng nhấn mạnh về điều này hơn: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn Thịt và uống Máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình… Vì Thịt tôi thật là của ăn, và Máu tôi thật là của uống” (Ga 6,53.55). Nghe vậy, một số môn đệ đã hiểu rõ Đức Giê-su nói về bí tích Thánh Thể và đã bỏ đi vì không tin lời Người.
+ Riêng Phê-rô và Nhóm Mười Hai vẫn chọn ở lại, sau khi nghe giảng về Bánh Hằng Sống, vì các ông đã tin Người là Đấng Thiên Sai và Lời Người là sự thật, dù bây giờ chưa hiểu rõ tại sao. Khi được Thầy hỏi, Phê-rô đã đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin như sau: “Bỏ Thầy chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết Thầy chính là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69).
HỎI 2: Luật Mô-sê cấm dân Do thái không được ăn máu và thịt thú chưa cắt tiết (x. Lv 19,26), và nghị quyết của Công Đồng Giê-ru-sa-lem năm 49 cũng yêu cầu các Ki-tô hữu gốc dân ngoại “phải kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết và ăn thịt loài vật không cắt tiết và tránh gian dâm” (x. Cv 15,29). Vậy tại sao Giáo Hội Công Giáo lại cho phép các tín hữu ăn tiết canh là món ăn máu đông ?
ĐÁP: Thời Mô-sê, người ta tin rằng: Máu là sinh khí tụ lại, nên chỉ dành riêng để tế lễ dâng cho Thiên Chúa trong ngày lễ Xá Tội. Vì Chúa chính là chủ tể của sự sống (x. Lv 17,11). Đàng khác, tục uống máu các con vật được sát tế dâng cho thần linh, vẫn có trong nghi lễ tôn giáo của dân ngoại, nên Luật Mô-sê cấm dân Ít-ra-en uống máu và ăn thịt thú chưa cắt tiết giống như dân ngoại (x. Lv 19,26).
Ngày nay Hội Thánh không cấm các tín hữu ăn tiết canh hay thịt thú vật chưa cắt tiết, vì Luật Mô-sê đã được Đức Giê-su kiện toàn (x. Mt 5,17), khi truyền cho các tín hữu “ăn Thịt và uống Máu của Người” (x. Mt 26,26-28).
Còn về việc Công Đồng Giê-ru-sa-lem năm 49 ra nghị quyết không buộc lương dân theo đạo phải chịu phép Cắt Bì theo luật Mô-sê, mà chỉ yêu cầu họ “kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết và tránh gian dâm”. Thực ra những yêu cầu không ăn tiết này không phải vì lý do đức tin mà chỉ là một phương thế để bảo vệ sự hiệp nhất nội bộ của cộng đoàn Hội Thánh, bấy giờ gồm các tín hữu gốc Do Thái và gốc lương dân hiệp nhất và ăn uống chung mâm bàn với nhau, như lời ông Gia-cô-bê đã phát biểu: “Phần tôi, tôi xét là không được gây phiền hà cho những người gốc dân ngoại trở lại với Thiên Chúa. Nhưng chỉ viết thư bảo họ kiêng những thức ăn ô uế vì đã cúng cho ngẫu tượng, tránh gian dâm, kiêng ăn thịt loài vật không cắt tiết, và kiêng ăn tiết, Thật vậy, từ những thế hệ xa xưa, trong mỗi thành ông Mô-sê, đều có những người rao giảng: Họ đọc lời của ông trong các hội đường mỗi ngày Sa-bát” (Cv 15,21). Ngày nay do không còn nguy cơ phân hóa giữa các tín hữu gốc Do thái và gốc lương dân như thời sơ khai, nên Hội Thánh không cấm các tín hữu ăn thịt và uống máu huyết thú vật theo Luật Mô-sê nữa. II. SỐNG LỜI CHÚA
LỜI CHÚA: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời. Và Bánh tôi sẽ ban tặng chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6,51).
CÂU CHUYỆN:
1) CHIẾC NHẪN- KỶ VẬT CỦA TÌNH YÊU.
Có một đôi vợ chồng trẻ kia mới lấy nhau được hơn một năm. Trong thời gian đó họ đã sống rất hạnh phúc. Mỗi buổi sáng trước khi rời nhà đi làm, và buổi chiều khi vừa trở về ngôi nhà thân thương, người chồng không bao giờ quên trao cho vợ một cử chỉ âu yếm và một lời nói thân thương. Nhờ đó tình yêu giữa hai vợ chồng ngày thêm nồng thắm. Nhưng rồi hạnh phúc của họ đã bị đe dọa khi một hôm người chồng bị trúng mưa trên đường từ xưởng làm về nhà. Anh bị cảm nặng phải nằm liệt giường nhiều ngày và trong thời gian này anh đã được chị vợ tận tình săn sóc. Đẩu tiên, anh được vợ mang đến bệnh viện và được bác sĩ chẩn đoán bị sưng màng phổi. Dù đã được các bác sĩ tận tình cứu chữa, nhưng bệnh của anh ngày thêm trầm trọng. Sau đó, bệnh viện kết luận anh đã bị ung thư màng phổi ác tính thời kỳ thứ ba và vô phương cứu chữa. Khi sắp chết, anh chồng đã cầm tay vợ và thều thào nói: “Em yêu quí ! Có lẽ sắp tới giờ Chúa gọi anh về rồi. Anh đã chuẩn bị và sẵn sàng vâng theo thánh ý Chúa muốn. Anh chỉ tiếc một điều là không còn được tiếp tục sống bên em nữa. Trước khi đi xa, anh không có gì trối lại cho em ngoài chiếc nhẫn mà cách đây hơn một năm, hai vợ chồng mình đã tặng cho nhau khi kết ước trước bàn thờ Chúa. Bây giờ anh xin tặng lại chiếc nhẫn kỷ vật này cho em, để mỗi lần nhìn thấy nó, em biết rằng anh vẫn luôn ở bên em và hằng cầu Chúa ban cho em an lành hạnh phúc”. Nói xong, anh tháo chiếc nhẫn đang đeo ở ngón tay ra và âu yếm xỏ vào tay vợ, giống như trước đây anh đã làm trong thánh lễ hôn phối của hai người. Sau khi chết, anh được an táng trong một nghĩa trang gần nhà. Từ ngày đó, mỗi ngày người ta đều thấy một phụ nữ còn rất trẻ, đầu chít khăn tang, tay cầm bó bông đi vào nghĩa trang. Chị đứng hằng giờ trước ngôi mộ cỏ mọc chưa xanh của chồng, để cầu nguyện cho anh. Tay chị đeo hai chiếc nhẫn: Một chiếc của ngày thành hôn và chiếc kia là kỷ vật của người chồng quá cố đã để lại cho chị khi sắp từ giã cuộc đời.
2) CẬU BÉ MÁC-SEN-LI-NÔ SẴN SÀNG CHẾT ĐỂ ĐƯỢC GẶP MẸ ĐÃ QUA ĐỜI:
Tại Tây Ban Nha có một câu chuyện về một cậu bé tên là MAR-XEL-LI-NO. Mẹ cậu đã chết đang khi sinh cậu, và do không còn người thân nên cậu đã bị người ta mang đến đặt trước cửa một tu viện, và cậu đã được các tu sĩ nhận nuôi dưỡng.
Cậu bé vốn tính hiếu động, nên thày đầu bếp đã cấm cậu không được leo trèo hoặc lai vãng đến những nơi không được thầy cho phép. Nhưng vì tính tò mò, một ngày kia Marcellino đã lén leo lên gác lẽ ra cậu không được vào. Cậu rất ngạc nhiên nhìn thấy một người khổng lồ đang bị treo trên cây thập giá. Cho rằng người ấy đang bị đói, nên đêm hôm ấy Marcellino lén vào bếp trộm mấy chiếc bánh mang lên cho ông. Người khổng lồ đã đưa tay ra nhận bánh và mỉm cười cám ơn cậu. Từ đó, ngày nào cậu cũng lén mang bánh lên cho người ấy. Người này không ai khác hơn chính là Chúa Giê-su chịu treo trên thập giá. Một hôm, Người đã âu yếm ôm cậu bé và hỏi:
– Con thích nhất điều gì trên trần gian này? Cậu mau mắn thưa: – Con muốn được gặp mẹ ruột của con. Chúa liền nói với cậu: – Con sẽ được gặp mẹ con sớm nếu con bằng lòng chết đi.
Hôm sau các tu sĩ đã tìm thấy cậu bé nằm chết như đang ngủ say trong vòng tay thương mến của Chúa Giê-su trên cây thập giá. Chính vì yêu mẹ và muốn sớm được gặp mẹ, mà Marcellino đã sẵn sàng chịu chết.
Đức Giêsu cũng vì yêu thương loài người chúng ta nên đã sẵn lòng chịu chết để chúng ta được sống. Người còn lập bí tích Thánh Thể để được ở mãi với loài người chúng ta, trở thành lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng đức tin của chúng ta, hầu ai đón nhận Người sẽ được sống muôn đời như Người đã hứa: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”.
SUY NIỆM:
Hơn hai ngàn năm trước đây, Chúa Giê-su đã thiết lập bí tích Thánh Thể trong sự cảm thông và hiệp nhất yêu thương như Tin Mừng Gio-an viết: Ý thức rằng “Giờ đã đến, Giờ Con Người phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, và Người đã yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Người đã lập phép Thánh Thể trong khung cảnh một bữa ăn, để lại cho Hội Thánh dấu chỉ của một tình yêu vô cùng lớn lao là Mình Máu Thánh Người dưới hình bánh rượu, để nên của ăn của uống cho các tín hữu, hầu ban cho họ sự sống đời đời.
1) BÍ TÍCH THÁNH THỂ – BỮA TIỆC THÁNH YÊU THƯƠNG:
Tin Mừng cho thấy việc chuẩn bị thiết lập và cử hành bí tích Thánh Thể của Đức Giê-su đều diễn ra trong khung cảnh bữa ăn yêu thương như sau:
– Bữa tiệc cưới tại thành Ca-na: Trong tiệc cưới này, Đức Giê-su đã thể hiện tình thương đối với đôi tân hôn, khi nể lời Đức Ma-ri-a cầu bầu, Người đã làm phép lạ biến nước lã trở thành rượu ngon giúp đôi tân hôn, và củng cố đức tin của các môn đệ mới đi theo Người.
– Bữa ăn cho đám đông nơi hoang địa: Cảm thông với đám đông dân chúng bị đói khi theo Người vào hoang địa nghe giảng Tin Mừng, Đức Giê-su đã làm phép lạ nhân năm chiếc bánh và hai con cá ra nhiều để nuôi năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà con trẻ được ăn no và còn dư mười hai giỏ đầy bánh còn lại (x. Mt 14,14-21). Sau đó, Đức Giê-su đã giảng về bí tích Thánh Thể để ban thịt máu mình làm của ăn của uống hầu mang lại sự sống đời đời cho các tín hữu: “Thịt Tôi thật là của ăn, Máu Tôi thật là của uống. Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì sẽ có sự sống đời đời. Và Tôi, Tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày tận thế” (Ga 6,55-56).
– Bữa Tiệc Ly chiều thứ Năm Tuần Thánh: Đức Giê-su đã yêu thương các môn đệ đến cùng nên Người đã thiết lập bí tích Thánh Thể trong bữa ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ, trước khi từ biệt các ông để chịu khổ nạn như sau: “Cũng đang bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: ‘Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy’. Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: ‘Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội’ (Mt 26,26-28).
– Bữa tối của hai môn đệ làng Em-mau: Chúa Phục Sinh dưới dáng vẻ như một khách bộ hành đi chung đường với hai môn đệ đang trong tâm trạng chán nản thất vọng. Người đã dùng Lời Kinh Thánh để cho các ông hiểu về ý nghĩa cái chết và sự phục sinh của Đấng Thiên Sai. Rồi “khi ngồi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất” (Lc 24,30-31). Chính trong khung cảnh bữa ăn yêu thương kèm theo cử chỉ và lời đọc Người đã từng làm, khiến mắt hai môn đệ mở ra và nhận biết người khách bộ hành chính là Thầy Giê-su đã từ cõi chết sống lại.
2) TIN HAY KHÔNG TIN MẦU NHIỆM TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ:
Sau bài giảng về Bánh Hằng Sống, mặc dù biết đám đông đang xầm xì phản đối, vì cho rằng đây là một điều vô lý không thể chấp nhận, nhưng Đức Giê-su vẫn cương quyết khẳng định thêm về mầu nhiệm này (x. Ga 6,60). Về phần các môn đệ sau khi hiểu Đức Giê-su muốn lập bí tích Thánh Thể để biến Thịt Máu Mình làm của ăn của uống, nên đã bảo nhau rằng: “Làm sao ông này có thể lấy Thịt mình mà cho chúng ta ăn được?”. Sau đó, một số đông môn đệ đã bỏ không còn đi theo làm môn đệ Người nữa (x. Ga 6,66). Đức Giê-su cho biết: để tin vào mầu nhiệm này, đòi người ta phải được Chúa Cha ban ơn (x. Ga 6,65). Sau đó, Đức Giê-su đã hỏi nhóm 12 Tông đồ về quyết định tin hay không tin, chọn bỏ đi hay ở lại với Người. Ông Phê-rô đã đại diện Nhóm Mười Hai thưa rằng: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết: Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69). Như vậy, trước mầu nhiệm này, người ta không thể cảm nghiệm bằng giác quan, mà phải nhờ ơn Thiên Chúa ban và thành tâm tin nhận.
3) CẦN THAM DỰ BÍ TÍCH THÁNH THỂ VỚI TÌNH YÊU THƯƠNG HIỆP NHẤT:
Thánh Phao-lô dạy về thái độ phải có của các tín hữu khi tham dự Bữa Tiệc Thánh Thể như sau: “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1 Cr 10,17). Do đó, khi đến dự lễ, chúng ta cần có tình yêu thể hiện qua thái độ cảm thông và hiệp nhất, noi gương cộng đoàn Hội Thánh sơ khai tại Giê-ru-sa-lem như sau: “Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ, Khi làm lễ Bẻ Bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ” (Cv 2,44-47).
4) THAM DỰ THÁNH LỄ THẾ NÀO CHO ĐẸP LÒNG CHÚA?
– “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”: Cần dọn mình lên rước lễ mỗi lần tham dự thánh lễ, vì chẳng có ai đi dự tiệc mà lại không xem người khác ăn, còn mình thì không ăn uống gì ? Cũng cần kéo dài thánh lễ giữa đời thường, như Đức Cha HELDER CAMERA đã nói: “Mỗi sáng, tôi được nuôi dưỡng bằng Đức Ki-tô trong bí tích Thánh Thể, rồi suốt ngày, tôi lại gặp gỡ Đức Ki-tô nơi tha nhân. Vì tôi gặp cũng một Đức Ki-tô trên bàn thờ và ngoài đường phố”. Như vậy: Hiệp nhất với Chúa Giê-su trong thánh lễ phải dẫn chúng ta đến chỗ hiệp nhất với Người đang hiện thân nơi những người đang sống bên chúng ta, nhất là những người nghèo đói bệnh tật và bất hạnh (x.Mt 25).
– Hiệp nhất với Chúa Giê-su Thánh Thể cũng đòi hiệp thông với tha nhân, đòi chúng ta noi gương Chúa quên mình và khiêm tốn phục vụ tha nhân, làm cho tha nhân được hạnh phúc.
– Một khi được nuôi dưỡng bằng Mình Máu Chúa trong bí tích Thánh Thể, chúng ta sẽ ý thức bổn phận chia sẻ cơm áo cho những người nghèo đói, tích cực góp phần cải thiện xã hội là gia đình, khu xóm, trường học, nhà máy, công sở… ngày một an toàn sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn, sớm trở thành “Trời Mới Đất Mới” được sách Khải Huyền tiên báo: Bấy giờ “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt của họ. Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4).
THẢO LUẬN: Để đáp lại tình yêu tột cùng của Đức Giê-su khi lập bí tích Thánh Thể, mỗi tín hữu chúng ta cần dự lễ hay dự các giờ chầu Thánh Thể như thế nào… ?
5.CẦU NGUYỆN:
– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Con muốn ngợi ca lòng từ bi nhân hậu và đầy yêu thương của Chúa khi thiết lập bí tích Thánh Thể. Nhờ bí tích này, Chúa ban Mình Máu Chúa làm của ăn của uống thiêng liêng nuôi dưỡng đức tin của chúng con. Cũng nhờ bí tích ấy, Chúa giúp chúng con tưởng niệm về mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa, để được sống đời đời.
– Lạy Chúa Giê-su. Bàn tiệc Thánh Thể do Chúa thiết lập và mời chúng con tham dự nhằm biểu lộ tình yêu thương và sự hiệp nhất cộng đoàn. Chúa muốn chúng con phải tránh thói ích kỷ và những việc làm gây chia rẽ nội bộ, như Tông đồ Phao-lô đã quở trách giáo đoàn Cô-rin-thô như sau: “Trước tiên tôi nghe rằng khi họp cộng đoàn, anh em chia rẽ nhau… Khi anh em họp nhau, thì không còn phải là ăn bữa tối của Chúa. Thật vậy, mỗi người lo ăn bữa riêng của mình trước. Và như thế kẻ thì bị đói, người lại no say ! Anh em không có nhà để ăn uống sao ? Hay anh em khinh Hội Thánh của Thiên Chúa và làm nhục những người không có của ?… Cho nên thưa anh em, khi họp nhau để dùng bữa, anh em hãy đợi nhau. Ai đói thì ăn ở nhà, kẻo anh em đến họp mà hóa ra để bị kết án !” (1 Cr 11,18-22.33-34). Hôm nay, xin Chúa giúp chúng con biết hiệp thông với tha nhân mỗi khi tham dự thánh lễ: Cho chúng con biết thể hiện tình bác ái huynh đệ bằng việc vào ngồi trong nhà thờ thay vì đứng ở ngoài sân; Cho chúng con biết mở miệng thưa kinh chung với cộng đoàn. Xin cho chúng con luôn biết dấn thân, sẵn sàng đi bước trước bắt chuyện làm quen với những người lạ, sẵn sàng nhường chỗ tốt cho những người già cả tật nguyền… để Thánh Lễ trở thành cơ hội giúp chúng con thể hiện tình yêu thương hiệp nhất với Chúa và hiệp thông với tha nhân.
Vì khâm phục đời sống đức tin của người Công giáo Việt Nam tại Hoa kỳ, cho nên một linh mục trong THÁNHTHỂ-338
Vì khâm phục đời sống đức tin của người Công giáo Việt Nam tại Hoa kỳ, cho nên một linh mục trong ủy ban Di dân và Truyền giáo của Hội đồng Giám mục Hoa kỳ đã được cử sang Việt Nam để học hỏi và tìm hiểu đời sống đức tin của người Công giáo tại Việt Nam. Sau khi trở về, vị linh mục Hoa kỳ này đã làm tờ báo cáo tường trình tình hình Giáo hội và đời sống đức tin của giáo dân Việt Nam bằng 3 câu ngắn gọn: “trẻ trung”, “sinh động” và “nhiệt tâm”, điển hình là một giáo xứ vùng Cao nguyên.
Biểu tượng của giáo xứ quê nghèo này là tháp chuông to và cao để báo cho mọi người giáo dân sống trong làng biết giờ lễ. Khoảng 20 phút trước Thánh lễ, một người trong ban hành giáo đến giật chuông. Vì cái chuông đã cũ cho nên tiếng chuông không được thánh thoát lắm nhưng làm được việc. Trong vòng 15 phút hàng trăm người tuôn đến tham dự Thánh lễ.
Một dấu hiệu đức tin lớn mạnh của người Công giáo Việt Nam là số nam nữ tu sĩ tại các dòng, và các chủng sinh theo ơn gọi làm linh mục tại các đại chủng viện rất đông. Một đại chủng viện có hơn 5 trăm chủng sinh trẻ đang tu học.
Một tuần trước khi linh mục Hoa kỳ trở về nước, tại một giáo phận nhỏ trên vùng Cao nguyên, Đức giám mục địa phận đã truyền chức linh mục cho 11 thày đại chủng sinh. 3 tân linh mục trong số này được gởi sang Hoa kỳ để tiếp tục học ngành Thần học, và 1 tân linh mục cũng được gởi sang Hoa kỳ để làm mục vụ vì trước đó đã theo học ở đây. Và sự kiện này là bằng chứng sống động của Giáo hội Việt Nam trong một giai đoạn mới, gởi các nhà truyền giáo ra nước ngoài.
Một minh họa về sự sống động của Giáo hội tại Việt Nam mà linh mục Hoa kỳ chứng kiến trong ngày lễ kính Mình Máu Chúa Ki-tô tại một giáo xứ. Linh mục này viết rằng: “Trong ngày lễ kính Mình Máu Chúa Ki-tô, giáo xứ đã có một cuộc tuần hành cung nghinh Thánh Thể long trọng và Chúa đã gởi đến một cơn mưa to. Trong con đường khoảng hơn một cây số, đoàn người tuần hành vừa đi vừa lần hạt và vừa hát trong tiếng trống kèn vang những bài hát kính Thánh Thể. Quần áo của mọi người đều ướt sũng nhưng thật khâm phục không một ai bỏ hàng ngũ để tránh mưa và coi như không có chuyện gì xảy ra.” Linh mục Hoa kỳ này thú nhận trong tờ tường trình rằng chưa bao giờ được chứng kiến hình ảnh lạ lùng này bằng chính con mắt của mình ở bất cứ nơi đâu.
Ông bà anh chị em thân mến. Là những người Việt Nam Công giáo sống ở hải ngoại, hay bất cứ người Công giáo nào sống ở đâu, chúng ta cần được nghe nhiều bản báo cáo như vậy để chúng ta biết được sự lớn mạnh của Giáo hội, biết được đời sống đức tin sống động của người Công giáo tại quê hương, và biết được lòng kính thờ và mến yêu, cũng như biết được ý nghĩa của mầu nhiệm Thánh Thể như thế nào trong đời sống của người Việt quê nhà. Những bản báo cáo này không những đánh động vào tâm hồn người Công giáo Việt Nam chúng ta sống tại Hoa kỳ và tại thành phố Tulsa này, mà còn thách đố chúng ta tự hỏi: “Bí tích Thánh Thể có ý nghĩa gì với tôi?”
Chúng ta nhận biết vì bị lôi cuốn vào đời sống vật chất, tiền bạc, hay vì bận rộn với công ăn việc làm, và nhiều khi vì sự lười biếng, cho nên nhiều người dần dần thờ ơ, đánh mất sự tôn kính và tri ân cũng như lòng nhiệt tâm đối với Bí tích Thánh Thể, một hồng ân, một món quà cao quí của Chúa ban. Nhiều người khinh thường hay từ khước tình thần hiệp nhất của người Công giáo Việt Nam.
Những bài Tin Mừng cho chúng ta biết chính Chúa Giêsu đã lập Bí Tích Thánh Thể vào chiều Thứ Năm Tuần Thánh trong bữa tiệc ly. Chúa Giêsu đã ban và để lại cho các môn đệ và cho nhân loại một hồng ân, một món quà cao quí. Tin mừng thánh Mác-cô diễn tả sự kiện này như sau: “Đang khi ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ và phán: ‘Các con hãy cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy. Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn và trao cho các ông và nói: ‘Đây là Máu Ta, sẽ đổ ra cho nhiều người.’’’ Qua lời tuyên bố này, Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Thánh Thể để ở lại với chúng ta cho đến ngày tận thế. Bánh và rượu đã trở nên chính Mình và Máu Thánh Chúa.
Đối với mọi Kitô hữu thời Giáo hội sơ khai, họ đã có một niềm xác tín vào Lời Chúa phán. Sự việc này xảy ra như thế nào đối với họ không thành vấn đề, vì đây không những là một sự việc thuộc về đức tin, mà còn phát xuất từ sự cảm nghiệm sâu xa về tình yêu thương hiệp nhất như những chi thể trong Thân Thể Chúa Kitô. Bởi vậy cho nên chúng ta nghe thánh Phaolô nói: “Anh chị em thân mến. Chén chúc tụng mà chúng ta cầm lên chúc tụng Chúa, chẳng phải là sự thông hiệp với Máu Chúa Kitô sao? Tấm bánh mà chúng ta bẻ ra, chẳng phải là thông phần vào Mình Chúa đó sao? Vì chỉ có một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể, vì hết thảy chúng ta thông phần cùng một tấm bánh.”
Thánh Phao-lô trong bài đọc 2 khẳng định và cho chúng ta biết Thánh Thể chính là mối dây tuyệt hảo của sự hiệp nhất. Và khi chúng ta hiệp thông với Mình và Máu Chúa Kitô, có nghĩa là khi chúng ta cùng ăn một bánh và cùng uống một chén, thì chúng ta cũng phải thể hiện sự hiệp thông ấy ra trong đời sống cộng đoàn bằng tinh thần hiệp nhất, yêu thương, và lòng quảng đại. Cũng như chỉ có một tấm bánh, chúng ta tuy nhiều người nhưng cũng chỉ là một thân thể hiệp nhất.
Ông bà anh chị em thân mến. Là những người Công giáo Việt Nam, chúng ta hãnh diện về đức tin sống động và lòng yêu mến Thánh Thể Chúa của cha ông để lại. Xin Chúa giúp chúng ta luôn xác tín vào sự hiện diện của Chúa Giê-su trong Bí tích Thánh Thể, kết hợp mọi người chúng ta lại trong tình yêu thương để chúng ta thể hiện tinh thần hiệp nhất và sống đức tin làm sáng danh Chúa.
Thân xác bị trao nộp. Máu đã đổ. Hai tâm tình này gợi lên nỗi khốn khổ đang gậm nhấm thế giới THÁNHTHỂ-339
Thân xác bị trao nộp. Máu đã đổ. Hai tâm tình này gợi lên nỗi khốn khổ đang gậm nhấm thế giới chúng ta hôm nay. Nhiều người bị đánh đập, bạo hành, tra tấn và chết chóc vì nhiều lý do khác nhau. Tất cả những cảnh tượng đó gợi lên tiếng kêu thất vọng khủng khiếp, tiếng kêu máu đổ, tiếng kêu oán thù… Đó cũng là một trong những nguyên nhân gây nên một thứ tôn giáo gọi là “Hội Thánh Đức Chúa Trời”.
Tuy nhiên, thân xác bị trao nộp và máu đã đổ… Hai từ ngữ này mang một tầm ảnh hưởng khác nơi con người Chúa Giêsu. Hai từ ngữ này nơi Đức Giêsu Kitô khẳng định một TÌNH YÊU hướng tới tất cả và chống lại tất cả. Đó chính là Tình Yêu Thiên Chúa.
- Máu đổ theo Do-thái giáo, ám chỉ việc sát tế một con vật (chiên hoặc bò) để nhớ lại giao ước mà dân Do-thái ký kết với Thiên Chúa theo Lề Luật trong lịch sử Cứu độ.
- Máu đổ trong Tân Ước, đó là một ân huệ đích thực Thiên Chúa ban cho con người, là được tham dự vào sự sống của chính Thiên Chúa, mà Chúa Giêsu đã thực hiện một cách trọn vẹn. Chính Chúa Giêsu, Đấng lôi kéo chúng ta ra khỏi tầm ảnh hưởng của sự dữ bằng cách đề nghị chúng ta sống bằng chính tình yêu của Ngài. Vì thế, Ngài đã trở nên lễ hy sinh đích thực. Ngài cho phép tất cả mọi người tìm lại được tương quan đích thực của mình với Thiên Chúa: Đó là GIAO ƯỚC mới.
Chúng ta hãy cùng nhau đi vào chi tiết cụ thể qua bài Tin mừng hôm nay:
Chúa Giêsu thiết lập Giao Ước mới trong một bữa ăn. Vì thế các tông đồ nghĩ đến việc chuẩn bị bữa ăn này, bữa ăn vượt qua. Các ông hỏi Chúa định thực hiện bữa ăn đó ở đâu? Ngày lễ ăn bánh không men, người ta chỉ ăn bánh không men để nhắc nhớ ngày dân Do-thái ra khỏi Ai-cập vội vã, bánh không kịp lên men. Bữa ăn này được chuẩn bị cách nhanh chóng. Chúa Giêsu hiểu rõ điều đó.
Vì thế mỗi khi dâng lễ kỷ niệm BỮA ĂN VƯỢT QUA, chúng ta sẽ làm gì?
Có thể có nhiều câu trả lời:
- Cầu nguyện để đức tin được lớn lên
- Để can đảm hơn trong cuộc sống
- Để gặp gỡ anh chị em khác, v.v…
Tuy nhiên, chỉ có một câu trả lời chính xác nhất, là “ĐỂ GẶP GỠ CHÚA GIÊSU KITÔ”. Chỉ mình Chúa Kitô là Đấng chúng ta phải đi tìm. Chỉ mình Ngài là Đấng mà mỗi một ngày chúng ta càng phải khám phá.
Là người kitô, không phải chỉ là chú ý vào một nghi thức phụng vụ, say mê công việc giáo xứ và vâng nghe cha xứ, nhưng điều quan trọng là Thánh Lễ mời gọi chúng ta trung thành với Chúa Giêsu Kitô Đấng yêu mến chúng ta trước và yêu mến chúng ta đến cùng. Ngài quan tâm đến chúng ta và có điều gì đó Ngài muốn nói với chúng ta mỗi thánh lễ..
Ân huệ mà chúng ta muốn xin, chính là Chúa Giêsu Kitô, Ngài luôn đồng hành với chúng ta. Ngài đã nói: “Thầy là ánh sáng, là đường, là sự thật, là hy vọng và là sự sống…Thầy là bánh sự sống, bánh làm cho anh em sống thực sự”. Vì thế, chúng ta hãy sống bí tích Thánh Thể cho tốt hơn trong đời sống hằng ngày:
- Sống mầu nhiệm khổ nạn của Chúa Giêsu, bằng cách cầu xin Đức Mẹ đồng hành với chúng ta để chúng ta hiểu rõ hơn sứ điệp của Chúa Giêsu và lớn lên trong tình yêu. Không ai hơn Đức Mẹ trong mầu nhiệm chia sẻ cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu!
- Mỗi khi cử hành thánh lễ, Ngài hiện tại hóa mọi ơn huệ mà Ngài đã thực hiện trên thập giá.
Mỗi người chúng ta cũng phải chịu trách nhiệm phần nào về cái chết của Chúa Giêsu:
- Có lẽ chúng ta chỉ nghĩ rằng người Do-thái và lính Roma phải chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu. Nhưng phải biết rằng những đao phủ giết Chúa Giêsu chỉ là công cụ tay sai. Tội lỗi chúng ta, tội lỗi thế giới mới là đao phủ đích thực. Chính chúng ta là đao phủ của sự ác đang hiện diện trên thế giới này. Nếu số người tốt sống tốt hơn, thì số người xấu sẽ ít xấu hơn.
- Chúng ta chê trách Philato, chúng ta trách móc tên trộm, chúng ta có thể tiếp tục so sánh người này với người khác…
Cơn giận dữ phải chăng là căn nguyên của tội giết người đó sao? Chúng ta hãy nghe lời Chúa nói qua miệng tiên tri Isaia: “Đó là những nỗi thống khổ của chúng ta mà Người mang lấy, những đau buồn của chúng ta mà Người chuốc vào thân. Chính vì những khuyết điểm của chúng ta mà Người bị đâm thâu, chính vì tội lỗi của chúng ta mà Người bị nghiền nát…Và chính nhờ những thương tích của Người mà chúng ta được chữa lành”.
Vì thế mỗi lần tham dự Thánh Lễ, chúng ta hãy nghĩ lại tình yêu và lương tâm của chúng ta thế nào? Chúng ta đều là con người tội lỗi… Bạo lực đang thống trị thế giới có thể là nguyên nhân làm chúng ta thiếu nhẫn nại và giận dữ. Chúng ta là chi thể của Chúa Kitô và chi thể của nhau. Chúng ta có thể làm được gì để thế giới hôm nay sống tình huynh đệ hơn?
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa vì tình yêu thương vô bờ của Chúa. Sau khi đọc lời chúc tụng, chính Chúa đã cầm lấy bánh và nói: “Này là Mình Thầy. Anh em hãy cầm lấy mà ăn”.
Lạy Chúa Giêsu, con chiên tinh tuyền, Chúa đã cho chúng con của ăn đàng đặc biệt để chúng con khỏi chết trên chặng đường lưu đày của mỗi người chúng con.
Chúng con đói Chúa. Chúng con không thể không ăn Chúa, vì bữa ăn Vượt Qua lôi kéo chúng con khỏi chết và ban cho chúng con sự sống của Chúa!
Lạy Chúa, ngày hôm nay biết bao linh hồn được cứu độ nhờ Thân Xác tinh tuyền đáng tôn thờ của Chúa. Xin gia tăng các linh mục của Chúa để họ ưu tiên cho Chúa trong công việc phục vụ Giáo Hội Chúa trên trần gian này! Amen!
Nếu hôm nay có nguồn tin cho hay: Đức Mẹ hiện ra tại một nơi nào đó, thì sẽ có rất nhiều tín hữu THÁNHTHỂ-340
Nếu hôm nay có nguồn tin cho hay: Đức Mẹ hiện ra tại một nơi nào đó, thì sẽ có rất nhiều tín hữu từ khắp nơi tuôn đến không có chỗ chen chân.
Thế nhưng, có một sự kiện rất quan trọng là Chúa Giêsu thực sự đang hiện diện và hiến dâng thân mình làm lễ tế trên bàn thờ mỗi khi Thánh lễ được cử hành thì rất nhiều tín hữu tỏ ra thờ ơ, hờ hững chẳng chút bận tâm!
Tại sao thế?
Vì phần đông tín hữu lầm tưởng Thánh lễ chỉ là một nghi lễ được lặp đi lặp lại nhiều lần để tưởng nhớ việc Chúa Giêsu chịu chết và sống lại cách đây 2.000 năm, nên họ cho rằng chỉ cần tham dự vài ba lần trong những dịp lễ lớn là đủ.
Hy tế của Chúa Giêsu trên đồi Canvê và Thánh lễ hôm nay chỉ là một
Tuy nhiên, Thánh lễ không chỉ là nghi lễ tưởng niệm cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu mà thôi. Thánh lễ còn là việc Chúa Giêsu đang tiếp tục hiến tế thân mình làm lễ tế, hiến dâng cho Thiên Chúa Cha để cứu độ muôn người.
Hội thánh dạy rằng: Thánh lễ hôm nay “hiện tại hoá hy tế Thập giá của Chúa Giêsu” cách đây 2.000 năm, có nghĩa là hy tế thập giá của Chúa Giêsu đang thực sự diễn ra tại bàn thờ khi Thánh lễ được cử hành. Nói khác đi, “Hy tế của Chúa Giêsu (trên đồi Canvê năm xưa) và Thánh lễ hôm nay chỉ là một” (GLHTCG số 1366, 1367).
Thế là mỗi lần Thánh lễ được cử hành, Chúa Giêsu đang hiện diện thực sự trong vài trò Chủ tế và thực sự dâng hiến chính Mình Ngài làm lễ tế cho Thiên Chúa Cha, để đền tội cho muôn người.
Đây là mầu nhiệm đức tin. Qua Thánh lễ, Chúa Giêsu đang hiện diện giữa cộng đoàn phụng vụ và đang tiếp tục hiến dâng mình làm lễ tế cứu độ cho muôn dân.
Vậy thì Thánh lễ cực kỳ thiêng liêng, cao cả và quý trọng vô cùng chứ không chỉ là một nghi lễ tưởng niệm mà thôi.
Vì thế,
Khi ta tham dự Thánh lễ là đang hiệp thông vào hy tế thập giá của Chúa Giêsu như Mẹ Maria, như thánh Gioan tông đồ năm xưa, nối gót Chúa Giêsu trên đường thương khó và cùng chịu đau khổ với Ngài. Tốt đẹp biết chừng nào!
Khi ta tham dự Thánh lễ là cùng vác thập giá với Chúa Giêsu như ông Si-môn Ky-rê-nê từng vác thập giá với Chúa Giêsu trên chặng đường thương khó, để thông hiệp vào cuộc thương khó của Chúa và góp phần với Chúa để đền tội cho các linh hồn. Cao quý biết bao!
Hồng ân Thánh thể
Khi chúng ta đi hành hương ở nhiều nơi, kể cả những nơi rất xa xôi và tốn kém, cầu mong được lãnh nhận những ơn thiêng do Chúa và Đức Mẹ thông ban, thì chưa chắc chúng ta có nhận được những ơn mà chúng ta mong ước.
Tuy nhiên, khi đến tham dự Thánh Lễ với tâm hồn thành kính, chắc chắn chúng ta sẽ nhận được những hồng ân rất cao quý do Thánh lễ mang lại. Xin đề cập đến 2 hồng ân lớn nhất:
1-Được thứ tha tội lỗi
Khi dâng mình làm lễ tế trên đồi Canvê hôm xưa và cũng là khi dâng mình trong Thánh lễ hôm nay, Chúa Giêsu hiến tế thân mình làm hy lễ đền tội cho muôn người để họ được ơn tha thứ và thoát khỏi án chết đời đời (GLHTCG số 1365, 1366, 1367). Ơn tha tội được trao ban cho những người lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy hay bí tích giải tội cũng đều do hy tế này của Chúa Giêsu mà đến.
2-Được hiệp thông nên một với Chúa Giêsu
Thiên Chúa như đại dương bao la, còn chúng ta như vũng nước nhỏ bên bờ đại dương. Khi ta rước Chúa vào lòng, ngăn cách giữa ta với Chúa không còn nữa: Ta được tan hòa vào Chúa như ao nước nhỏ tan hòa vào đại dương và nên một với đại dương. Chính Chúa Giêsu đã khẳng định điều này: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6, 56).
3-Được tiếp nhận sự sống của Thiên Chúa
Vì được hiệp thông hoàn toàn nên một với Chúa Giêsu như ao nước hoà chung với đại dương, như bàn tay nên một với thân mình, nên Sự Sống đời đời của Chúa Giêsu sẽ được thông truyền qua cho chúng ta, châu lưu trong huyết quản chúng ta. Nhờ đó, chúng ta mới được sống đời đời, như lời Chúa Giêsu xác nhận: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (Ga 6,54).
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa phải trả giá rất đắt, trả giá bằng cả cuộc đời và sinh mạng của Chúa để ban tặng cho chúng con những ân huệ quá đỗi tuyệt vời qua từng Thánh lễ. Lẽ nào chúng con cứ ngoảnh mặt quay lưng hay tỏ ra thờ ơ hững hờ với những hồng ân cao vời như thế!
Xin cho chúng con siêng năng tham dự Thánh lễ hằng ngày để cùng hiến tế cuộc đời với Chúa, đồng thời cũng được tận hưởng muôn vàn ân phúc lớn lao. Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Trước lúc rước lễ và trao Mình Thánh cho giáo dân, linh mục chủ tế nâng cao Mình Thánh và đọc: THÁNHTHỂ-341
Trước lúc rước lễ và trao Mình Thánh cho giáo dân, linh mục chủ tế nâng cao Mình Thánh và đọc: đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa. Lời này gợi lên niềm vui, hạnh phúc cho mọi người tham dự thánh lễ được Chúa mời đến dự tiệc. Nơi bàn tiệc Thánh Thể, mỗi tín hữu là khách mời của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Thánh lễ khởi nguồn từ Tình Yêu Ba Ngôi được mặc khải nơi Thập giá Chúa Kitô. Cử hành Thánh Thể là cử hành mầu nhiệm hy tế thập giá của Chúa Giêsu, hy lễ tình yêu Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha để cứu chuộc nhân loại. Cử hành Công Việc của Chúa Thánh Thần, Đấng đã thúc đẩy Chúa Kitô hiến mình làm Lễ Hy Sinh vô tì tích dâng lên Thiên Chúa (Dt 9,14). Rước lễ là đón nhận Chúa Giêsu Phục Sinh và trở thành chứng nhân cho tình yêu Thiên Chúa.
Hy lễ cứu độ
Cuộc tử nạn của Chúa Giêsu chính là một hy lễ dâng lên Chúa Cha. Trong hy lễ này, Ngài vừa là tư tế vừa là lễ vật. Trên Thập giá, Chúa Giêsu đã đổ máu ra. Bằng cái chết cứu độ, Ngài đã thiết lập giao ước mới. Tự nguyện làm “Con Chiên Vượt Qua” bị sát tế, Chúa Giêsu đã lập phép Thánh Thể để lễ vật bị sát tế ấy trở nên của ăn tâm linh nuôi dưỡng con người. Chúa Giêsu ở giữa nhân loại trong Bí tích Thánh Thể. Để trở nên nguồn sống tâm linh trong Thánh Thể, Chúa Giêsu đã đi qua Tử nạn và Thập giá.
Thánh Thể là Mình Chúa hy sinh bị nộp, bị giết vì chúng ta: “Đây là Mình Thầy hy sinh vì anh em”. Chén Máu của Chúa là Máu giao ước, Máu của Đấng Cứu Thế đổ ra trên thập giá. Bởi đó Thánh thể và Thánh giá là hai mầu nhiệm của một tình yêu tự hiến của Chúa Kitô. Không có Thánh giá, Thánh thể không có ý nghĩa. Không có Thánh thể, Thánh giá chỉ là thất bại.
Thánh thể và Thánh giá Chúa Kitô là hai cớ vấp phạm cho trí tuệ con người hơn hai ngàn năm qua.
Thánh giá Đức Kitô là sự điên rồ đối với người Hy lạp đi tìm sự khôn ngoan, là dại dột đối với người Do thái tìm dấu lạ và mãi mãi là mầu nhiệm thẳm sâu với lý trí.
Thánh Thể, bánh rượu nên Mình và Máu Chúa Kitô. Sự hiện đích thực của Con Thiên Chúa, làm lương thực vĩnh cửu là mầu nhiệm khó hiểu đối với đầu óc con người không có niềm tin. Khi nghe lời tuyên bố của Chúa Giêsu: “Thịt Ta là của ăn, Máu Ta là của uống cho sự sống muôn đời”, người Do thái phản ứng rất mạnh: “Làm sao ông có thể lấy thịt máu của ông cho chúng tôi ăn được?” (Ga 6,52); “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta,chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?” (Ga 6,42). Trước phản ứng dữ dội của họ, Chúa Giêsu không rút lời, không cải chính, nhưng còn giải thích và khẳng định thêm “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại ngày sau hết”(Ga 6,54); sâu xa hơn là con người được đi vào sự kết hiệp mật thiết với Người: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì ở lại trong Tôi và Tôi ở lại trong người ấy”(Ga 6,56). Trước mạc khải này, nhiều môn đệ liền nói: “Lời này chướng tai qua, ai mà nghe nổi?”( Ga 6,60). Từ lúc đó, “Nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa” (Ga 6,66).
Như thế, người ta chỉ nhìn nhận Chúa Giêsu về phương diện con người, phủ nhận bản tính Thiên Chúa của Ngài. Chúa Giêsu cho dân chúng và các môn đệ thấy rõ mầu nhiệm Phục sinh trong Bánh Hằng Sống “Lời Thầy nói với anh em là Thần khí và là sự sống. Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt có ích gì” (Ga 6,63). Quả thật, chúng ta chỉ có thể hiểu được Bí tích Thánh Thể qua mầu nhiệm Nhập Thể, Tử Nạn, Phục Sinh mà thôi.
Vậy có thể nói, cả mầu nhiệm Đức Kitô đều hội tụ trong Bí tích Thánh Thể. Từ công cuộc nhập thể làm người, rao giảng tin mừng, đến khổ hình thập giá, sống lại vinh quang; Đức Kitô đang ngự bên hữu Chúa Cha và ban lương thực thần thiêng đều hàm chứa trong Bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể gói trọn cuộc đời Chúa Kitô và không có gì thuộc về Ngài mà không hội tụ trong Thánh Thể.
Từ Thánh giá đến Thánh thể là hành trình của con đường tình yêu tự hiến. Thánh lễ là cử hành hy tế cứu độ của Chúa Giêsu từ mầu nhiệm Thánh giá đến tình yêu Thánh thể. Bí tích Thánh thể là một sáng kiến của tình thương Thiên Chúa. Của ăn vật chất chỉ dừng lại ở việc nuôi dưỡng, bảo tồn sự sống hữu hạn của con người. Để sống đời đời, con người được mời gọi ăn và uống Thịt Máu Chúa, nguồn ơn cứu độ nhân loại.
Phúc cho ai đến dự tiệc.
“Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Linh mục đọc lời này giới thiệu Mình Thánh Chúa Giêsu cho cộng đoàn tín hữu, trước khi rước lễ.
Khi nói "đây chiên Thiên Chúa" là linh mục chủ tế nhắc lại lời trong sách Khải huyền: Thiên thần bảo tôi, "Hãy viết, Hạnh phúc thay kẻ được mời đến dự tiệc cưới của Con Chiên!". Người lại bảo tôi, "Đó là những lời chân thật của chính Thiên Chúa." (Kh 19,9). Sách khải huyền nhắc tới "con chiên" mà thánh Gioan Tiền Hô đã giới thiệu, "Hôm sau, ông Gioan thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình, liền nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian.." (Ga 1,29). Thánh Gioan tiền hô thì nhớ tới "con chiên" mà tiên tri Isaia đã nói đến trong chương 53.
Trên đường Emmau, chính Chúa Phục Sinh đã đến đồng hành với hai môn đệ, đã dừng lại bẻ bánh trao cho họ, và bấy giờ họ mới nhận ra Ngài. Câu chuyện này đã được Thánh Gioan Phaolô II dùng làm bản văn nền của Tông Huấn “Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con”. Trong năm cuối cùng của sứ vụ Giáo hoàng, Thánh Gioan Phaolô II đã mở ra Năm Thánh Thể, mời gọi cộng đoàn Dân Chúa qui hướng về Thánh Thể, nơi Chúa Giêsu hiện diện thường trực và sống động.
Trong Thánh Lễ, chính Chúa Giêsu đến hiện diện với chúng ta, gặp gỡ chúng ta, qua Phụng vụ Lời Chúa và việc Bẻ Bánh.
Không bí tích nào giúp chúng ta sống “với Chúa, nhờ Chúa và trong Chúa” bằng Bí tích Thánh Thể. Rước lễ là gắn bó với một ngôi vị: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy”. Rước lễ là gặp gỡ Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại: “Như tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, kẻ ăn tôi cũng sẽ sống nhờ tôi như vậy”. Rước lễ là đón lấy sự sống từ Đấng đang sống, cũng là sự sống duy nhất bắt nguồn từ Chúa Cha.
Trong Tông huấn “Bí tích Tình Yêu” năm 2007, Đức Thánh Cha Bênêđictô 16 đã dùng thành ngữ “con người Thánh Thể” để nói về các tín hữu. Con người Thánh Thể là người năng rước Chúa vào lòng, để Thịt và Máu Chúa thấm nhập vào trọn vẹn cuộc sống của họ, nhờ đó, họ có thể nói như Thánh Phaolô Tông đồ: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Con người Thánh Thể là người luôn biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa để nhờ đó mà họ trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô. Con người Thánh Thể còn là người ý thức mình là chi thể của Giáo Hội, chuyên tâm sống và nỗ lực kiến tạo tình hiệp thông giữa những người con cái Chúa, xây dựng một xã hội bình an và nhân ái. Từ mỗi con người Thánh Thể, chúng ta có thể kiến tạo những cộng đoàn Thánh Thể, tức là một cộng đoàn có Thánh Thể là trung tâm, là mối giây liên kết và là ý lực sống cho mọi thành viên của cộng đoàn này. Cộng đoàn Thánh Thể lấy sự hiệp nhất yêu thương làm nền tảng, vì mọi người được nuôi dưỡng bởi cùng một lương thực, như Thánh Phaolô viết: “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta chỉ là một chi thể” (1 Cr 10,17).
Sách Tông đồ Công vụ thuật lại thánh lễ ban đầu của Giáo Hội sơ khai bằng một đoạn văn ngắn: “Các tín hữu hợp nhất với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, ngày ngày chuyên cần đến đền thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ” (Cv 2,42). Họ được toàn dân thương mến, điều đó có nghĩa là cứ sau những nghi thức bẻ bánh như thế, người chung quanh xóm giềng thương nhóm tín hữu này. Và rồi “Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ”, nghĩa là sau các thánh lễ như thế, dân chúng thương nhóm tín hữu này rồi họ xin nhập đạo. Kết quả của Bí tích Thánh Thể là mức độ tăng trưởng về tình yêu.
Đồng bàn và rửa chân.
Đại hội Thánh Thể Quốc tế lần thứ 51 tổ chức tại Cebu, Philippines từ ngày 24 đến 31.01.2016. Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi sứ điệp cho đại hội. Ngài gợi lên hai cử chỉ của Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly và mời gọi suy ngẫm theo chiều kích truyền giáo của Thánh Thể. Đó là việc đồng bàn và rửa chân.
Ngồi vào bàn ăn, Chúa Giêsu có thể lắng nghe người khác, nghe chuyện đời của họ, cảm thông với niềm hy vọng và khao khát của họ, và nói cho họ biết tình yêu của Chúa Cha. Mỗi khi đến với Thánh Thể, bàn Tiệc Ly của Chúa, chúng ta được thúc đẩy noi theo tấm gương của Chúa, bằng cách đến với người khác, trong tinh thần tôn trọng và cởi mở, để chia sẻ với họ ơn huệ chúng ta đã lãnh nhận.
Hình ảnh khác mà Chúa gửi đến chúng ta trong Bữa Tiệc Ly là rửa chân. Hôm trước ngày chịu nạn, Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ của Ngài như là một dấu chỉ của sự phục vụ khiêm hạ, của tình yêu vô điều kiện mà Người đã hiến mạng trên thập giá để cứu rỗi thế giới. Bí tích Thánh Thể là trường dạy phục vụ khiêm hạ. Bí tích Thánh Thể dạy chúng ta sẵn sàng hiện diện vì người khác. Cả điều này cũng phải ở nơi con tim của người môn đệ truyền giáo.
Mình và Máu Chúa Kitô là hồng ân vô giá, chúng ta đón nhận để có sự sống thần linh của Chúa.
Thánh Gioan Phaolô II viết: “Mỗi lần ta dự phần vào Mình và Máu Người, chúng ta đã thực sự gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta không thể giữ lại cho riêng mình niềm hân hoan mình đã cảm nghiệm. Việc gặp gỡ riêng tư với Chúa Kitô cách thường xuyên được tăng triển và đào sâu trong Bí tích Thánh Thể khơi lên trong Giáo Hội và nơi mỗi tín hữu một lời mời gọi khẩn thiết cho việc làm chứng và rao giảng Tin Mừng” (Tông huấn “Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con”, số 24).
Tham dự Thánh Lễ, rước Mình và Máu Chúa, chúng ta được mời gọi sống thánh thiện, trong sạch và thực thi sứ vụ truyền giáo phục vụ tha nhân “đồng hành và rữa chân” theo gương Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin Chúa ban cho chúng con thêm lòng yêu mến Chúa và siêng năng tham dự Thánh lễ, rước Mình và Máu Chúa cách xứng đáng; đồng thời luôn xác tín Bí tích Thánh Thể chính là “nguồn mạch và chóp đỉnh” của đời sống Giáo Hội và nơi mỗi người chúng con. Amen.
Có một vị linh mục, khi được chọn và gọi để tiến lên bàn thánh, ngài đã chọn cho mình câu khẩu THÁNHTHỂ-342
Có một vị linh mục, khi được chọn và gọi để tiến lên bàn thánh, ngài đã chọn cho mình câu khẩu hiệu: “Cầm lấy mà ăn”. Trong bài giảng lễ tạ ơn, vị giảng lễ luôn tập trung vào hành động bẻ ra, trao ban của Chúa Giêsu để muốn nói lên một điều quan trọng, đó là: linh mục là hiện thân của Chúa Kitô, là tấm bánh tình yêu được chia sẻ cho mọi người. Tấm bánh ấy chính là sự cầu nguyện, hy sinh và chấp nhận tiêu hao sức khỏe, khả năng khi thi hành sứ vụ linh mục của mình cho con chiên đã được trao phó.
Hôm nay, Giáo Hội mừng trọng thể lễ Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu, Ngài là vị mục tử nhân lành, đã hiến mạng sống vì đàn chiên, đã trở nên của ăn thiêng liêng nuôi sống con người. Đây là một chân lý vô cùng cao trọng trong đời sống của người Tín Hữu Kitô.
1. Chúa Giêsu trao ban chính sự sống của Ngài
“Này là Mình Thầy....Này là chén Máu Thầy”. Đây là lời thật sự đầy xúc động, tâm huyết trong bữa ăn cuối cùng của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ trước khi trao hiến thân mình trên thập giá để đền tội thay cho nhân loại.
Khi tuyên bố: “Này là Mình Thầy....Này là chén Máu Thầy”. Chúa Giêsu đã thực sự trao ban chính sự sống của Ngài cho nhân loại. Ngài đã cho và cho đi tất cả. Đó là một tình yêu tròn đầy, tuyệt đối, trọn vẹn và dứt khoát của một Vị Thiên Chúa luôn đi bước trước trong tình yêu. Trao ban một lần nhưng đến cùng. Cái "cùng" này của Thiên Chúa chính là “vô cùng”, nên một lần trao ban là ban mãi mãi. Lời tuyên bố: “Này là Mình Thầy....Này là chén Máu Thầy” là một bảo chứng cho một tình yêu vĩ đại bao trùm cả nhân loại, trải dài trong suốt dòng lịch sử.
Nơi Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu đã chấp nhận bị tiêu hao và trở thành thần lương nuôi sống con người. Nói cách khác, khi trao ban chính Thịt và Máu Ngài để trở thành của ăn của uống nuôi linh hồn ta, thì: Chúa Giêsu đã thuộc về chúng ta. Trong ta và Ngài cùng chung nhau một giòng máu- giòng máu Thần Linh.
2. Bí tích Thánh Thể - thần dược tâm linh
Khi nói về nguồn sống của Bí tích Thánh Thể, nhiều nhà tu đức đã liên tưởng như sau:
Nếu trong đời sống, những người đã từng thám hiểm, du khảo trong sa mạc, hẳn họ sẽ hiểu và cảm nghiệm sâu xa hơn ai hết về về lương thực và nước uống! Chỉ có nước và lương thực mới đảm bảo cho họ sống sót trong một hoàn cảnh hết sức khắc nghiệt của khí hậu và môi trường.
Hay, nếu trong cuộc sống thường ngày, chúng ta phải đối diện với nhiều trắc trở cam go, nhiều cám dỗ buông thả theo lối sống hưởng thụ, trụy lạc, khiến con người bị hư thối trong nhận thức, lối sống và hành động.
Thì Thánh Thể Chúa Giêsu thực sự trở thành nguồn sống cho mọi người. Trở thành thần dược chữa trị những tâm hồn hư hoại. Bởi vì chính Chúa Giêsu đã nói: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống […] Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6, 51-54). Thánh Inhaxiô thành Antiokia cũng đã khẳng định:“Thánh Thể là linh dược đem lại sự bất tử, một phương thuốc diệt trừ sự chết”.
3. Sứ điệp ngày lễ
Mỗi khi cử hành Thánh Lễ và tôn thờ Bí tích Thánh Thể, Giáo Hội mời gọi con cái mình hãy cảm nghiệm được tình yêu vô cùng của Thiên Chúa. Cảm thấu lòng thương xót vô biên của Chúa Giêsu qua việc trao hiến thân mình. Thánh Gioan đã viết: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13, 1). Vì thế, chính Ngài đã khẳng định: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Hơn nữa, lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” là một lệnh truyền cho hết mọi người, không chỉ riêng cho các linh mục. Mệnh lệnh ấy mang một sứ điệp quan trọng, bởi vì: Thánh Lễ không thể kết thúc ở nhà thờ, mà Thánh Lễ ấy, linh đạo Thánh Thể ấy còn kéo dài cả đời.
Nên khi tham dự Thánh Lễ, chúng ta đã kín múc được nguồn suối thương xót vô biên qua việc lãnh nhận Thánh Thể, thì khi ra khỏi nhà thờ, mỗi người hãy làm cho lòng thương xót ấy được lan tỏa ngang qua đời sống tràn đầy đức tin và đức ái của chúng ta.
Nói cách khác: khi Thánh Lễ trong nhà thờ đã kết thúc, thì Thánh Lễ cuộc đời ngay lập tức được diễn ra.
Tuy nhiên, trong thực tế, Chúa Giêsu đã không tiếc gì chúng ta, kể cả sự sống của chính Ngài, nhưng với bản tính yếu đuối và bản năng vị kỷ của con người, nhiều khi chúng ta so đo tính toán với Chúa từng chút từng chút một. Nhiều khi chúng ta tham dự Thánh Lễ, tôn thờ Thánh Thể, nhưng lòng còn vương vấn biết bao chuyện như: cơm, áo, gạo, tiền. Hay nhiều khi chia sẻ một chút lương thực, tiền bạc cho người nghèo, hay những nhu cầu của Giáo Hội, chúng ta tính toán thiệt hơn!
Mong sao mỗi khi chúng ta rước lấy Mình và Máu Chúa Giêsu vào trong tâm hồn, chúng ta thuộc về Chúa, nên sẵn sàng biết noi gương Chúa. Sống cho đi, sống khiêm tốn – tự hạ để đem lại hạnh phúc cho anh chị em mình.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, vì yêu thương nhân loại mà Chúa đã chấp nhận trở thành một tù nhân giữa loài người. Xin Chúa ban cho mỗi người chúng con luôn biết cảm tạ Chúa không ngừng. Biết noi gương Chúa để sống yêu thương, khiêm tốn và phục vụ. Amen.
Tin Mừng hôm nay thuật lại bữa tiệc Vượt qua cuối cùng của Thầy Giêsu và các môn đệ. Thầy đã THÁNHTHỂ-343
Tin Mừng hôm nay thuật lại bữa tiệc Vượt qua cuối cùng của Thầy Giêsu và các môn đệ. Thầy đã kín đáo chuẩn bị từ trước, nên các ông thấy diễn tiến lạ lùng, đúng như lời Thầy dặn: “Người sai hai môn đệ đi, và dặn họ: “Các anh đi vào thành, và sẽ có một người mang vò nước đón gặp các anh. Cứ đi theo người đó. Người đó vào nhà nào, các anh hãy thưa với chủ nhà: Thầy nhắn: “Cái phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt qua với các môn đệ của tôi ở đâu?” Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh một phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng: và ở đó, các anh hãy dọn tiệc cho chúng ta”. Hai môn đệ ra đi. Vào đến thành, các môn đệ thấy y như Người đã nói.” (Mc 14,13-16). Trong bữa tiệc cuối cùng này, Thầy cho các ông ăn một lễ Vượt Qua vĩ đại hơn bữa tiệc Vượt Qua hằng năm của người Do Thái. Đây là tiệc Vượt Qua mới, là bữa tiệc ly, tiệc hiến tế, tiệc Giao Ước mới bằng chính Mình và Máu Thầy, chứ không phải máu chiên cừu trong giao ước cũ: “Cũng đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Anh em hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy”. Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các ông: “Đây là Máu Thầy, Máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người”. (Mc 14,22-24).
Từ thời cựu ước đến nay, máu vẫn luôn là sự sống của con người. Có lẽ các môn đệ và hôm ấy và nhiều người chúng con hôm nay, dù tay cầm lấy mà ăn đó, nhưng chưa hiểu và cảm nhận niềm hạnh phúc sung sướng khi được ăn Mình và Máu Thánh Chúa, Đấng là Sự Sống đã trao hiến cho chúng con. Trước cái chết đang chờ ngày hôm sau, Thầy Giêsu không để cái chết ập xuống, chụp lấy, nhưng Thầy chủ động tiến tới, đảm nhận và biến cái chết thành quà tặng cho tình yêu. Qua lời đọc trên cử chỉ dâng bánh và rượu trong bữa ăn Vượt qua cuối cùng này, Người biến đổi nghi lễ kỷ niệm Vượt Qua của dân Do Thái trở thành cuộc Vượt Qua của chính Người. Bữa ăn cuối cùng giữa Đức Giêsu và các môn đệ vừa loan báo, vừa là hình bóng của bữa tiệc Cánh Chung trong Nước Thiên Chúa: “Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa”. (Mc 14,26).
Chúa ơi! Thịt và Máu Chúa thật là của ăn của uống nuôi sống con từng ngày, của ăn mà càng ăn con càng đói, càng uống con lại càng khao khát hơn. Dẫu con đây muôn ngàn bất xứng, nhưng vì Tình Yêu, Chúa còn khao khát con hơn ngàn lần con khao khát đón nhận. Xin cho con luôn luôn đáp tình Chúa mời gọi, để con đến, ở lại với Chúa, trong Chúa, mà tận hưởng no say nguồn sống từ thần lương cao quý này, để nhờ Mình Máu Chúa bổ dưỡng, con được sống hạnh phúc sung mãn hôm nay và mai sau được sống muôn đời.
Trong hồi nhớ về tuổi thơ chúng ta luôn nhớ về những hình ảnh thân thương của mẹ. Những hình ảnh đơn THÁNHTHỂ-344
Trong hồi nhớ về tuổi thơ chúng ta luôn nhớ về những hình ảnh thân thương của mẹ. Những hình ảnh đơn giản của một người mẹ chăm sóc con nhưng lại chứa đựng biết bao ân tình từ mẫu yêu thương. Hình ảnh người mẹ ru con với tiếng hát à ơi. Hình ảnh người mẹ mớm cơm cho con thật kiên nhẫn đầy tình âu yếm dường như rất khó phai trong tâm trí chúng ta.
Hình ảnh ấy thật đẹp qua câu ca dao:
“Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương”.
Chỉ có trong tình thương chúng ta mới thấy sự sáng tạo. Có tình yêu người ta mới sáng tạo ra muôn ngàn cách để biểu lộ tình thương, hay để chăm sóc cho nhau. Tình thương của mẹ là tình thương không nói bằng lời nhưng bày tỏ bằng muôn ngàn cách chăm sóc cho con. Tình mẫu tử cao quý ấy dường như là cách thế chung của muôn loài chứ không chỉ dành riêng cho loài người.
Người ta kể rằng ở Bắc Cực có một loài chim thường sinh con vào mùa tuyết phủ. Không thể kiếm thức ăn cho con trong thời tiết khắc nghiệt, những con chim mẹ đã dũng cảm tự dùng mỏ của mình để rỉa thịt mớm cho con. Thời gian qua đi, cái lạnh giá cũng trôi qua, khi những đứa con lớn dần lên, cũng là lúc những con chim mẹ hiến trọn thân mình nuôi con nên cũng gục ngã, mình bê bết máu.
Ở Việt Nam ai cũng biết về những thiên thần Biển Cả mà người ta thường gọi là Chim Yến. Chim Yến không dùng tới một cọng rác, một chiếc lá. Yến làm tổ cho con bằng chính khí huyết, thể xác của mình. Yến nuôi con không phải bằng sâu, bọ, thóc, đậu, hay thịt các loài khác tìm kiếm được mà bằng chính những gì Yến rút ruột ra, Yến chắt từ cơ thể. Đó là một chất dãi màu trắng đục, được tiết ra từ cái tuyến hạch màu lam ở dưới hầu, mà các cụ gọi là máu sữa, tâm dịch, ngọc dịch…Khi tâm dịch bị khô, yến không khạc thêm được nữa, và lúc ấy nó bắt đầu thổ huyết người ta gọi là huyết nhũ. Cũng chẳng có loài chim nào chăm nuôi con như yến, để chăm sóc cho con những con chim yến bố, chim yến mẹ ngậm lấy mỏ con cho con ăn, không khác gì những người mẹ mớm cho con ăn suốt thời thơ bé…
Thiên Chúa cũng yêu chúng ta bằng một tình yêu nồng say như thế. Chính trong tình yêu mà Ngài đã sáng tạo ra muôn vàn cách thể hiện sự quan tâm trìu mến, sự hy sinh tận hiến cho con người. Tình yêu ấy, hôm nay Ngài thể hiện qua hành vi trao ban chính Mình Máu Thánh Ngài làm của ăn nuôi dưỡng chúng ta. Ngài hiểu rằng không tình yêu nào cao quý hơn tình yêu hiến dâng vì bạn hữu. Ngài không chỉ hiến dâng một lần chết thay cho tội lỗi nhân gian mà còn mỗi ngày dùng chính Máu Thịt mình nuôi dưỡng chúng ta.
Khi nói đến máu thịt mình là Ngài muốn nói đến một tình yêu dám chết cho người mình yêu. Một tình yêu như chim mẹ rỉa chính máu thịt mình nuôi dưỡng chim con. Khi nói đến máu thịt là nói đến trao ban một nguồn sống, một sức sống cho người mình yêu. Thiên Chúa trao ban chính sự sống của mình để nhờ đó, con người được sống sức sống của Thiên Chúa.
Xin cho chúng ta biết nhận ra tình yêu hiền mẫu đầy hy sinh của Chúa để đón nhận tình yêu của Ngài. Xin cho chúng ta biết mở lòng đón nhận sự sống của Chúa để được sống trong ân sủng của Thiên Chúa. Và xin cho chúng ta biết đem tình yêu ấy chia sẻ với tha nhân trong yêu thương và phục vụ như Chúa đã làm cho chúng ta. Amen
Cũng như Mầu nhiệm Phục sinh, mầu nhiệm Mình Máu Thánh Chúa có liên hệ rất mật thiết với THÁNHTHỂ-345
Cũng như Mầu nhiệm Phục sinh, mầu nhiệm Mình Máu Thánh Chúa có liên hệ rất mật thiết với cuộc đời của mỗi người chúng ta
Để chuẩn bị cho các tông đồ đón nhận mầu nhiệm Phục sinh, Chúa đã thực hiện ba phép lạ:
1/ Cho con gái ông Giarô mới chết được sống lại.
2/ Phục sinh chàng thanh niên con bà góa thành Naim, đã chết, người ta đang khiêng đi chôn,
3/ Cuối cùng là phục sinh Lagiarô, người đã chết và đã chôn trong mộ bốn ngày.
Cũng vậy để chuẩn bị cho các tông đồ và những người tin Chúa đón nhận Màu nhiệm Thánh Thể, Chúa đã làm 2 phép lạ thật lớn: Hóa bánh ra nhiều hai lần và cộng thêm vào đó là một bài giảng rất dài và rất quyết liệt về Bánh hằng sống. Chúa nói thật rõ: “Thịt ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống – Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta sẽ được sống đời đời”
Lời Chúa là như thế nhưng tin vào bánh trở thành thịt và rượu trở thành máu Máu Chúa vẫn còn là một khoảng cách rất dài.
Vào thế kỷ thứ 8 tại Lucianô nước Ý, một linh mục dòng thánh Basiliô đang khi cử hành thánh lễ, sau khi truyền phép xong, bỗng đâm ra nghi ngờ sự hiện diện của Chúa dưới hình bánh ruợu thì lập tức Phép lạ đã xẩy ra ngay trong tay vị linh mục đó: Bánh trở nên thịt sống và rượu trở nên máu tươi.
Đây là phép lạ hàng đầu- và có thể coi là phép lạ lớn nhất trong số hơn 40 phép lạ Chúa đã làm trải dài qua dòng thời gian cho đến ngày hôm nay, để củng cố niềm tin của con người trước mầu nhiệm kỳ diệu này.
Phép lạ tại Lucianô còn được lưu giữ cho đến ngày hôm nay tại nhà thờ Thánh Phanxicô bên Ý. Giáo quyền đã cho phép thực hiện nhiều cuộc giảo nghiệm do giáo quyền cùng làm việc với những người chuyên môn:
Năm 1574 do Đức Cha Rodriguez. Năm 1637 do Cha Tổng đại diện Giáo phận Năm 1770 do Đức Cha Cervasone Năm 1886 do Đức Cha Fetrarco
Và gần đây nhất vào thời đại của chúng ta, do nhu cầu cần phải xác minh thêm một lần nữa, giáo quyền đã cho phép thực hiện một cuộc giảo nghiệm mới, với những phương tiện mới hơn để khẳng định một cách khách quan hơn về tính cách lạ lùng của Phép lạ này.
Được giáo quyền cho phép, ngày 18/11/1970 các cha dòng Phanxicô, những người có trách nhiệm bảo lưu đã trao thánh tích cho một nhóm chuyên viên khoa học để họ làm công việc tế nhị và khó khăn này.
Nhóm này do Giáo sư Odoardo Linoli với sự cộng tác của Giáo sư Ruggero Bartelli thuộc đại học nổi tiếng Siena điều khiển.
Công việc được thực hiện một cách hết sức khoa học và nghiêm túc. Đến ngày 4/3/1971 tại nhà thờ Thánh Phanxicô chính Giáo sư Linoli chủ tọa buổi đúc kết công trình nghiên cứu trước sự hiện diện của giáo quyền, chính quyền, đại biểu giới văn học, y học. Các cuộc phân tích được minh họa bằng một loạt các hình ảnh chụp dưới kính hiển vi.
Sau đây là kết luận của công trình nghiên cứu được nhiều tạp chí khoa học trên thế giới đăng tải
Thịt này là thịt thật. Máu này đúng là máu thật. Thịt và máu là thịt và máu của con người Thịt và máu đều thuộc cùng nhóm A-B
Đồ hình của Máu này giống với đồ hình của máu người được trích lấy từ một cơ thể con người trong một ngày.
Thịt được làm thành từ mô cơ tim.
Thịt máu hoàn toàn giống với thịt máu củamột người sống thực sự.
Không hề tìm thấy dấu vết việc tẩm ướp mô tế bào bởi bất cứ một hóa chất nào được dùng trong kỹ thuật bảo trì bằng tẩm ướp.
Miếng thịt này được lấy ra từ phần thịt của trái tim một cách khéo léo tuyệt mỹ như do một nhà phẫu thuật tài ba thực hiện.
Hàm lượng các protéin chứa trong máu được phân phối đều đặn theo tỷ lệ y hệt như trong đồ hình protéin huyết thanh của máu tươi bình thường.
Trong máu có các chất chlorua, photspho, manhêdi, potassium, sodium và calcium.
Việc các di vật thánh này được lưu giữ một cách tự nhiên từ bao thế kỷ, bất chấp ảnh hưởng của những xúc tác vật lý, không khí. sinh vật…là một hiện tượng không sao giải thích được theo phương diện khoa học.
Như vậy chúng ta có thể nói sau khi được mời gọi để thẩm định, Khoa học đã nói lên tiếng nói khách quan của mình về phép lạ Chúa đã làm tại Lancianô.
CHÚA LẬP BÍ TÍCH THÁNH THỂ ĐỂ LÀM GÌ?
a/ Trước hết để thực hiện một lời hứa: “Thầy sẽ ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế”
Thiên Chúa muốn được gần gũi với con người, tạo vật kỳ diệu nhất trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa.
Ngay từ trong Cựu Ước, ý muốn đó đã được nói lên:
* Nói lên bằng lời: “Niềm vui của Ta là được ở giữa loài người.” * Nói lên một cách cụ thể bằng hòm bia thánh. * Nói lên bằng một việc làm cụ thể: Đó là Bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể – nói theo Cha Teilhard de Chardin –là để Chúa có thể hiện diện tràn lan trên khắp địa cầu.
b/ Để tiếp tục bày tỏ cho con người biết là Thiên Chúa luôn luôn yêu thương con người và cho con người được sống sự sống của Ngài.
Về điểm này Cha Teilhard de Chardin diễn tả rất hay: “Nhờ hiệu quả của việc Ngài dấn mình vào giữa lòng thế giới mà những dòng nước lớn của vật chất êm đềm có đầy sức sống. Nhìn bề ngoài thì chẳng có gì xao động dưới cuộc biến dạng khôn tả này. Tuy nhiên khi tiếp xúc với Lời Bản thể thì vũ trụ đã trở thành nhục thể Ngài cách kỳ diệu”.
Con người được sống chính sự sống của Thiên Chúa. Thiên Chúa chia sẻ sự sống của Chúa cho con người. Chẳng có gì hạnh phúc hơn. Chẳng có gì kỳ diệu hơn.
c/ Cuối cùng, Chúa ở trong Bí tích Thánh Thể để giúp cho mọi người nhận ra mình là anh chị em với nhau trong Chúa.
Trong cuộc khủng hoàng con tin xẩy ra ở Pêru cách đây mấy năm. Một cuộc khủng hoảng dai dẳng, nghẹt thở kéo dài nhiều tuần lễ, người ta đã hết lời ca tụng một người. Người đó chính là cha Juan Julio Wicht. Ngài được thả vào ngày nhưng ngài tình nguyện ở lại. Việc Ngài ở lại đã làm nức lòng thủ lãnh của quân khủng bố. Ngày 18/4/1965 nhân ngày sinh nhật của Ngài, Nestor Cerpa Carlotini thũ lãnh quân khủng bố có gửi đến Ngài một điện văn như sau: “Mặc dù giữa chúng ta có những khác biệt nhưng chúng tôi muốn gửi đến cha những lời chúc tốt đẹp nhất nhân ngày sinh nhật của cha cũng như lòng kính trọng của chúng tôi với quyết định ở lại của cha”.
Sau này khi được hỏi về những ngày bị giam giữ, Cha Juan Julio Wicht đã nói: “Các du kích đã không làm gì xúc phạm đến chúng tôi trong lời nói cũng như trong việc làm”
Chính sự hiện diện của Cha đã làm cho mọi người đối xử tốt với nhau hơn.
Đây là tâm sự của Linh Mục Jacques Loew sau khi đã tìm hiểu về Bí Tích Thánh Thể: “Bây giờ tôi có thể nói như hai môn đệ Emmau: Tôi nhận ra Ngài lúc Ngài bẻ bánh. Chính lúc bẻ bánh chúng tôi mới nhận ra chúng ta là anh chị em trong Đức Kitô. Có những người mà trước đó gặp ngoài đường, chúng ta dửng dưng như người xa lạ, nhưng trên bàn tiệc thánh, chúng ta thấy gần gũi với nhau. Tôi gặp Chúa Kitô nơi họ, cũng như họ gặp Chúa Kitô nơi tôi. Bởi chúng tôi cùng tin Phúc Âm, cũng lãnh nhận một của ăn là Mình và Máu Thánh Chúa Kitô”.
Trong các bí tích, Thánh Thể là bí tích cao trọng hơn cả, bởi vì các bí tích khác chỉ chứa ơn thánh, còn THÁNHTHỂ-346
Trong các bí tích, Thánh Thể là bí tích cao trọng hơn cả, bởi vì các bí tích khác chỉ chứa ơn thánh, còn bí tích Thánh Thể chứa chính Thiên Chúa, Đấng ban nguồn ơn thánh.
Trong sách có tựa đề “Tiếng gọi tình yêu”. Chúa Giêsu dạy chị nữ tu Joseppha rằng: “Cha là tình yêu, Trái tim Cha không nén được ngọn lửa hồng, luôn luôn thiêu đốt lòng Cha. Cha yêu dấu các linh hồn đến nỗi đã thí mạng sống Cha vì họ. Vì yêu, Cha đã muốn tự nhốt mình trong Nhà Tạm hơn 20 thế kỷ qua, Cha ở lại đó đêm cũng như ngày, ẩn náu dưới hình bánh, nép thân trong của lễ hèn mọn, vì yêu mà phải chịu bỏ quên, lạnh lẻo, khinh bỉ và xúc phạm”.
Trong Tông Thư về “Bí tích Thánh Thể”, thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II có viết: “Thánh thể là trung tâm sống còn, là nguồn mạch, là đỉnh cao của đời sống Giáo hội. Đồng thời, là nguồn mạch sự sống siêu nhiên cho hết mọi người tín hữu ”.
Vì như mầu nhiệm Giáng sinh, Chúa Giêsu chỉ là một em bé để ở gần chúng ta; Mầu nhiệm tử giá, Chúa Giêsu chịu chết và lấy Máu mình để cứu chuộc chúng ta; Nhưng bí tích Thánh Thể thì gồm tất cả các mầu nhiệm, từ mầu nhiệm Nhập thể, Giáng sinh, Cứu chuộc, Sống lại… cho đến hiến thân thành Mình và Máu để nuôi linh hồn chúng ta. Ngài đích thân đi vào linh hồn, Ngài muốn nên một với chúng ta “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta, thì người đó ở trong Ta và Ta ở trong người ấy ” (Ga 6,54-55). Cho nên, Mầu Nhiệm Thánh Thể là mầu nhiệm cao cả, thân thương và gần gũi chúng ta nhất.
Tin mừng thánh Gioan chương 13, Chúa Giêsu nói trong bữa Tiệc ly: “Người đã yêu thương đến cùng ”. Yêu đến cùng ở đây không phải là thời gian đến cùng, không phải là yêu cho đến chết, nhưng yêu cho đến cùng ở đây là nói đến mức độ yêu của Thiên Chúa, nghĩa là khả năng Ngài có bao nhiêu thì yêu chúng ta hết bấy nhiêu.
Khi suy niệm về bí tích Thánh Thể thánh Âugustinô nói: “Đức Chúa Trời quyền năng vô cùng làm được mọi sự, nhưng Ngài không làm gì hơn nữa cho con người; Đức Chúa Trời khôn ngoan thượng trí vô cùng, nhưng Ngài không nghĩ gì hơn nữa cho con người; Đức Chúa Trời giàu có vô cùng, nhưng Ngài không biết lấy gì hơn nữa cho con người. Ngài chỉ còn cách cuối cùng là lập nên bí tích Thánh Thể để hiến trọn tình yêu cho con người”. Cho nên bí tích Thánh Thể là sáng kiến cuối cùng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người.
Anh chị em thân mến,
Trong bài giảng đầu tiên ngày 20/04/2005, Đức thánh cha Bênêđictô XVI kêu gọi: “Tôi kêu gọi tất cả mọi người, hãy yêu mến và sống Thánh Thể một cách tích cực hơn; hãy can đảm tuyên xưng đức tin vào sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể.
Nói đến tôn thờ Thánh Thể thật sự hình thức bề ngoài tương đối chúng ta làm rất nhiều như: việc tổ chức chầu Thánh Thể, hay rước kiệu… Nhưng mà chiều sâu bên trong chúng ta còn thiếu, chưa đủ.
Chiều sâu theo ý Đức thánh cha yêu cầu là: “Ước gì sự tôn thờ Thánh Thể sẽ là mối quan tâm đặc biệt của các hội đoàn, cộng đoàn Giáo xứ hay Dòng tu! Hãy quỳ gối lâu giờ trước Chúa Giêsu hiện diện trong Thánh Thể, với đức tin và tình yêu, sửa lại những thờ ơ, những quên lãng và cả những xúc phạm, mà Đấng Cứu Chuộc của chúng ta phải chịu trong nhiều phần thế giới. Nhất là cần chấn chỉnh lại khi chúng ta tham dự Thánh lễ”.
Đáp lại lời mời gọi của Đức thánh Cha, mỗi lần đi tham dự thánh lễ chúng ta nên ý thức đi lễ là đi gặp gỡ Chúa. Chúng ta gặp Ngài trong cộng đoàn tín hữu; gặp Ngài qua Lời Chúa; qua vị linh mục tế lễ, gặp Ngài nơi bàn tiệc Thánh Thể khi rước lấy Mình Máu Chúa.
Đi lễ là đi dâng của lễ. Dâng Chúa Kitô lên Cha trên trời, dâng hiến bánh rượu là lao công con người và hoa mầu ruộng đất Chúa ban để trở nên Mình Máu Chúa; dâng hiến cuộc đời chúng ta với mọi niềm vui nỗi buồn, mọi biến cố trong cuộc sống, cùng với những người thân yêu, thù nghịch và dâng cả thế giới chúng ta đang sống…
Đi lễ là đi dự tiệc: Dự tiệc Lời Chúa và dự tiệc Thánh Thể, là bảo đảm cho phúc trường sinh cho chúng ta.
Đồng thời, vì là việc tôn thờ Chúa, cho nên chúng ta cần phải trang nghiêm trong tư thế đứng, ngồi, quì, và trang nghiêm trong cách ăn mặc kín đáo nết na.
Rồi phải linh động, nghĩa là cùng đọc kinh, cùng thưa cùng hát chúc tụng Chúa. Và cuối cùng chúng ta phải tham dự đầy đủ trọn vẹn, không được bỏ bớt phần nào, nếu thiếu thì phải bù, trừ khi có lý do chính đáng.
Mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta chung lời tạ ơn tình yêu vô biên Chúa đã hiến mình trở nên lương thực Thần Linh nuôi sống linh hồn chúng ta.
Xin cho chúng ta biết đáp lại tình yêu vô biên của Chúa, bằng cách siêng năng lãnh nhận bí tích Thánh Thể và năng đến chầu Chúa trong các nhà Tạm trên toàn thế giới. Đồng thời, noi gương Chúa, chúng cũng biết quên mình, hiến thân phục vụ anh chị em đồng loại như Chúa đã hiến mình vì yêu chúng ta. Amen.
Đêm trước khi Chúa chịu chết, Chúa Giêsu ngồi đồng bàn với các môn đệ. Nhóm nhỏ tập họp THÁNHTHỂ-347
Đêm trước khi Chúa chịu chết, Chúa Giêsu ngồi đồng bàn với các môn đệ. Nhóm nhỏ tập họp quanh bàn ám chỉ đến sự gần gũi, thân mật, ấm áp, chân thành, yêu thương. Nhưng nếu sự phản bội xâm nhập vào trong khung cảnh này, nó sẽ gây đau đớn hơn, nó sẽ làm tổn thương nhiều hơn. Khi những vết rạn nứt xuất hiện nơi những người vốn rất thân thiết với nhau, thì khó xử trí hơn là với những người không thân thiết bằng.
Giuđa có mặt. Tại sao trong bữa Tiệc Ly, ông không biết ngượng khi ông đã sắp đặt trong đầu việc nộp Thầy Giêsu. Hầu như chắc chắn ông muốn tạo ấn tượng rằng mọi điều vẫn bình thường, và bởi thế Chúa Giêsu sẽ không nghi ngờ điều gì cả.
Bài tường thuật của thánh Phaolô về bữa Tiệc Ly là bản văn cổ nhất chúng ta có được trong Tân Ước. Ngài nói: "Trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em ; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy."
Một câu nói làm chúng ta sửng sốt. Câu nói: "Trong đêm bị nộp". Vào cái đêm của mọi đêm. Thay vì tách biệt khỏi các tông đồ, Chúa Giêsu ban cho các ông dấu chỉ tình yêu của Người: Người ngồi dự bữa tiệc thân mật với họ. Sau đó Người nói: "Hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy." Đây là cách thức họ nhớ đến Người. Vào đêm này, khi một người trong số họ đã phản bội Người.
Chúng ta đừng nghĩ rằng Chúa Giêsu không đau khổ bởi sự phản bội của Giuđa. Người đau khổ và hết sức đau khổ về điều này. Thánh Gioan nói rằng khi Chúa Giêsu bắt đầu nói về những kẻ phản bội Người, "Người cảm thấy tâm thần xao xuyến". Và không ngạc nhiên. Người đã đích thân chọn và huấn luyện Giuđa. Giuđa đã từng nghe những điều Chúa giảng dạy và đã từng mục kích những phép lạ Người làm. Ông là một thành viên trong nhóm giật dây. Giờ đây ông định đem nộp Thầy. Sự phản bội của một người bạn gây tổn thương nhiều hơn và khó xử trí hơn sự phản bội của một kẻ thù.
Xử trí với sự phản bội quả là gay go. Tuy nhiên, những kẻ đã từng bị phản bội có thể cảm nhận được sự an ủi từ thực tế là Chúa Giêsu biết họ đã phải chịu đựng như thế nào. Họ không có tham vọng rằng sẽ không bị tác động bởi những biến cố đó. Chúa Giêsu cho thấy Người đã đau khổ đến thế nào, và Người đã phải trút cạn tâm sự với các tông đồ. Vấn đề là chúng ta phải xử lý nỗi đau ra sao. Nó có thể khiến chúng ta cay đắng và cám dỗ chúng ta tìm cách trả thù.
Mặc dù cảm thấy đau khổ, Chúa Giêsu đã không giáng trả vào Giuđa. Người từ chối ngay cả việc vạch trần ông ta trước mọi người. Nhưng bằng việc trao cho ông ta miếng bánh (một nghĩa cử của tình bạn), Người để cho ông ta biết rằng Người đã biết rõ điều ông ấy định làm. Từ chối việc chỉ thẳng vào ông, Người đã để cánh cửa mở cho ông để ông trở về với nhóm.
Giuđa cũng làm đau khổ cho các tông đồ khác. Dù sao, ông cũng là một trong số các tông đồ. Các tông đồ đã tin tưởng ông, và đã từng chia sẻ tất cả với ông. Họ nghĩ rằng họ biết ông, và rồi hoá ra ông là kẻ phản bội. Phản bội Chúa Giêsu, đồng thời ông cũng phản bội các tông đồ khác.
Chúng ta không nhớ đêm này vì việc Giuđa phản bội. Chúng ta nhớ đến món quà tặng mà Chúa Giêsu để lại cho chúng ta bất chấp kẻ phản bội đó. Bí tích Thánh Thể sẽ giúp chúng ta phục hồi lại từ bất cứ sự phản bội nào mà chúng ta đã từng chịu đau khổ từ nơi người khác. Và sẽ giúp ta tránh sự phản bội với bất cứ ai.
Chúa Giêsu là Bánh Thánh hằng sống
Người lãnh nhận thỏa linh hồn ấm no
Trong Ga 6, 35, Chúa Giêsu đã xác định điều đó. Người lãnh nhận không còn đói khát nữa, không THÁNHTHỂ-348 Ephata
Trong Ga 6, 35, Chúa Giêsu đã xác định điều đó. Người lãnh nhận không còn đói khát nữa, không chỉ được sống mà còn sống dồi dào, và đặc biệt là “khỏi phải chết” (Ga 6, 50). Ngược lại, nếu không lãnh nhận Mình Máu Ngài, chúng ta sẽ sống èo uột và tất nhiên sẽ không có sự sống đời đời. Thánh Thể vừa là Thần Lương vừa là Thần Dược.
Đối với phàm nhân, việc ăn uống là “cái sự sung sướng” đệ nhất trong tứ khoái. Tuy nhiên, ăn uống không chỉ là khoái khẩu mà còn là nuôi sống thân xác. Ăn uống cũng là nét văn hóa: Văn hóa ẩm thực. Ăn uống không chỉ là đưa ẩm thực vào miệng, nhai, nuốt và tiêu hóa theo sinh lý tự nhiên, mà còn phải học cách ăn để biết cách ăn, như tục ngữ Việt Nam nói: “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”.
Là thụ tạo, thân xác con người cần có lương thực để sống; tương tự, tâm hồn cũng cần loại lương thực đặc trưng để sống. Người Công giáo hạnh phúc có được một loại “siêu ẩm thực” – gọi là Thần Lương, đó chính là Thánh Thể của chính Đức-Kitô-Thiên-Chúa-Nhập-Thể-Làm-Người. Ai ăn Thánh Thể Ngài và uống Bửu Huyết Ngài thì không còn đói khát và được hứa ban sự sống đời đời.
Chúng ta thường thấy chữ IHS (hoặc JHS), nghĩa là Iesus Hominum Salvator – Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ Nhân Loại. Chữ viết tắt này xuất hiện từ thế kỷ thứ 8: DN IHS CHS REX REGNANTIUM. Ba chữ đầu được viết tắt từ câu “DomiNus IHeSus CHristuS” – “Chúa Giêsu Kitô là Vua các vua”. Chân phước Gioan Colombini (qua đời năm 1367) thường viết chữ này trước ngực. Người ta còn thêm mẫu tự V (hình ba dấu đinh) vào chữ IHS thành IHSV. Dạng này được Thánh Inhaxiô dùng làm biểu tượng của các Tu Sĩ Dòng Tên. IHSV là viết tắt câu “In Hoc Signo Vinces” (Nhờ dấu này, bạn sẽ chiến thắng), được coi là ám chỉ chiến thắng mà Hoàng đế Constantine đã đánh bại Maxentius tại Cầu Milvian ngày 28 tháng 10 năm 312.
HUYẾT ƯỚC ĐƯỢC THIẾT LẬP
Cựu Ước cho biết rằng từ ngàn xưa, ông Môsê xuống thuật lại cho dân mọi lời của Đức Chúa và mọi điều luật. Toàn dân đồng thanh đáp: “Mọi lời Đức Chúa đã phán, CHÚNG TÔI SẼ THI HÀNH” (Xh 24, 3). Đó là lời phàm nhân hứa với Đức Chúa. Chính ông Môsê đã chép lại mọi lời của Đức Chúa đã truyền.
Ngay sáng hôm sau, ông dậy sớm, lập một bàn thờ dưới chân núi và dựng mười hai trụ đá cho mười hai chi tộc Israel. Đó chính là Giao Ước và là Thập Giới (Mười Điều Răn). Dâng lễ toàn thiêu, ngả bò làm hy lễ kỳ an tế Đức Chúa rồi ông Môsê lấy cuốn sách giao ước đọc cho dân nghe. Họ thưa: “Tất cả những gì Đức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân theo” (Xh 24, 7). Ông Môsê lấy máu rảy lên dân và nói: “Đây là máu giao ước Đức Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời này” (Xh 24, 8). Một Huyết Ước đã được thiết lập giữa Thiên Chúa và nhân loại – giữa Tạo Hóa (Tạo Vật) với Thụ Tạo.
Được Thiên Chúa tạo dựng nên giống hình ảnh Ngài với bản chất “nhân chi sơ tính bổn thiện”, thế nhưng con người ngang ngược và kiêu căng, tự biến mình thành tội nhân – nghĩa là tất cả chúng ta đều hoàn toàn bất xứng. Tuy vậy, Thiên Chúa không coi chúng ta là tôi tớ và lại thiết lập Giao Ước Mới với nhân loại. Vì thế, chúng ta lại càng phải biết dâng lời tạ ơn. Giáo Hội đã dùng Tv 116 để dâng lời tạ ơn, vì Thánh Vịnh này chính là Lời Kinh Tạ Ơn. Thiên Chúa chí thánh và cao sang vô cùng, chúng ta không có gì đền đáp cho cân xứng: “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ vì mọi ơn lành Ngài đã ban cho?” (Tv 116, 12). Tự vấn như vậy rồi thì cũng nhận ra mình là Con-Số-Không quá lớn, và chỉ còn biết tin cậy vào Thiên Chúa mà tự thề hứa: “Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ và kêu cầu Thánh Danh Ðức Chúa” (Tv 116, 12-13).
Ôi, ân nghĩa Thiên Chúa cao dày khôn ví! Chúng ta phải chân thành khiêm nhường nhìn nhận: “Vâng lạy Chúa, thân này là tôi tớ, tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài, xiềng xích trói buộc con, Ngài đã tháo cởi” (Tv 116, 16), và phải tự hứa: “Lời khấn nguyền với Chúa, tôi xin giữ trọn, trước toàn thể dân Ngài” (Tv 116, 18). Vâng, chính chúng ta tự hứa thì cũng phải tự xử trước khi Thiên Chúa xử.
Liên quan Giao Ước và Máu, Thánh Phaolô cho chúng ta biết qua thư gởi giáo đoàn Do Thái: “Đức Kitô đã đến làm Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai. Để vào cung thánh, Ngài đã đi qua một cái lều lớn hơn và hoàn hảo hơn, không do bàn tay con người làm nên, nghĩa là không thuộc về thế giới thọ tạo này. Ngài đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với CHÍNH MÁU CỦA MÌNH, Ngài vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ƠN CỨU CHUỘC VĨNH VIỄN cho chúng ta” (Dt 9, 11-12). Rồi thánh nhân vừa giải thích vừa kết luận: “Vậy nếu máu các con dê, con bò, nếu nước tro của xác bò cái, đem rảy lên mình những kẻ nhiễm uế còn thánh hoá được họ, nghĩa là cho thân xác họ trở nên trong sạch thì Máu của Đức Kitô càng hiệu lực hơn biết mấy. Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Kitô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Ngài THANH TẨY LƯƠNG TÂM chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống. Trong thời giao ước cũ, và đem lại cho những ai được Thiên Chúa kêu gọi QUYỀN LÃNH NHẬN GIA NGHIỆP VĨNH CỬU Thiên Chúa đã hứa” (Dt 9, 13-15). Thánh Phaolô nói rõ ràng quá chừng!
Máu là loại chất lỏng rất đặc biệt, nó duy trì sự sống trong cơ thể con người – và động vật. Mất máu nhiều thì không thể sống, nghĩa là chết. Ngày xưa, khi thề hứa với nhau điều quan trọng, người ta thường “cắt máu ăn thề” (mỗi người tự lấy chút máu của mình, hòa vào chung rượu, rồi chia nhau uống), nhất là khi kết nghĩa huynh đệ. Và Thiên Chúa cũng đã thiết lập Huyết Ước với nhân loại chúng ta.
HUYẾT ƯỚC ĐƯỢC THỰC HIỆN
Thánh Máccô cho biết: Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, ngày sát tế chiên Vượt Qua, Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi và dặn họ: “Các anh đi vào thành, và sẽ có một người mang vò nước đón gặp các anh. Cứ đi theo người đó. Người đó vào nhà nào, các anh hãy thưa với chủ nhà: Thầy nhắn: “Cái phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu? Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh một phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng. Ở đó, các anh hãy dọn tiệc cho chúng ta” (Mc 14, 13-15). Hai môn đệ ra đi vào thành, các ông thấy mọi sự y như Ngài đã nói. Và các ông dọn dạ tiệc Vượt Qua.
Khi đang bữa ăn, Đức Giêsu CẦM LẤY bánh, dâng lời CHÚC TỤNG, BẺ RA, TRAO CHO các ông và nói: “Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy” (Mc 14, 22). Rồi Ngài cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, trao cho các ông, và nói: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người” (Mc 14, 24). Đây là phép lạ lớn nhất và là mầu nhiệm đức tin, nếu không có đức tin thì không thể nào tin nổi. Bánh và rượu được thánh hóa để trở thành Thánh Thể của Đức Giêsu Kitô, làm Thần Lương nuôi sống chúng ta hằng ngày. Đó cũng là Giao Ước được thực hiện, đúng với lời hứa mà Chúa Giêsu đã hứa trước khi Ngài về cùng Chúa Cha: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Ngài lập Bí Tích Thánh Thể và cũng lập chức Linh Mục kỳ diệu, bởi vì phàm nhân mà được Chúa trao quyền hành động thay mặt Ngài.
Sau khi thiết lập Bí Tích Thánh Thể, Chúa Giêsu ân cần nhắn nhủ: “Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa” (Mc 14, 25). Ngài về Thiên quốc trước để dọn chỗ cho chúng ta, những người tin Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Độ.
Để tỏ lòng kính mến Thánh Thể và đáp lại Tình Ngài, mỗi ngày chúng ta nên RƯỚC LỄ THẬT, rước lễ xong thì hãy đắm mình trong Ngài để hòa tan với Ngài và chuyện trò với Ngài. Mọi lúc khác trong ngày, chúng ta cũng nên RƯỚC LỄ THIÊNG LIÊNG, nếu có thể thì chầu Thánh Thể chung hoặc riêng. Thánh Linh Mục Tiến Sĩ Thomas Aquinas, thần học gia lỗi lạc, cho biết: “Rước lễ thiêng liêng sinh hiệu quả như rước lễ thật, nhưng còn tùy chúng ta dọn mình kỹ hay không, có tha thiết ao ước Chúa hay không, và có yêu mến Chúa nhiều hay không”.
Chúa Giêsu vẫn luôn ở nơi Nhà Tạm chờ đợi chúng ta tâm sự với Ngài, không phải chúng ta an ủi Ngài mà chúng ta được Ngài an ủi. Thánh Thể và Thánh Tâm phải được chúng ta ưu tiên, và đó cũng là tôn kính Lòng Chúa Thương Xót vậy. (Ephata xin lược bớt một câu chuyện…)
Lạy Thánh Tử Giêsu, xin thanh tẩy tâm hồn chúng con để chúng con xứng đáng lãnh nhận Thánh Thể Ngài mỗi ngày, xin Thánh Thể Ngài ban cho chúng con phúc trường sinh, chứ không là cớ khiến chúng con bị án phạt đời đời vì tội bất xứng. Ngài là Đấng cứu độ nhân loại, hiển trị cùng Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, đến muôn thuở muôn đời. Amen.
“Này là Mình Thầy, này là Máu Thầy” (Mc 14, 22-24)
Khi nhìn vào hình ảnh Bữa Tiệc Ly, bạn thấy gì? Có lẽ bạn sẽ nói rằng đó là quang cảnh ăn chia tay THÁNHTHỂ-349
Khi nhìn vào hình ảnh Bữa Tiệc Ly, bạn thấy gì? Có lẽ bạn sẽ nói rằng đó là quang cảnh ăn chia tay chiều Thứ Năm Tuần Thánh, trước khi Chúa Giêsu bị bắt và bị giết. Vâng, hoàn toàn đúng, không có gì sai. Đó là thời điểm Chúa Giêsu thiết lập Bí Tích Thánh Thể, Bí Tích Tình Yêu, Bí Tích Thương Xót, và là Thánh Lễ đầu tiên trong lịch sử Kitô giáo.
Nói như vậy là quá “chuẩn”, đúng giáo lý, là dạng “cao cấp”. Còn riêng tôi lại thấy có điều khác, một điều rất ư bình thường. Bạn có đoán ra chưa?
Đó là một Bữa Ăn thân mật mang tính cách gia đình. Rất bình thường, phải không nào? Việt ngữ gọi là Tiệc Ly vì muốn chứng tỏ lòng tôn kính, chứ ngoại ngữ chỉ nói là Bữa Tối. Bữa ăn gia đình rất quan trọng, vì đó là lúc quây quần bên nhau chia sẻ hạnh phúc thực tế (ăn uống đồ ăn dù ngon hoặc dở) và hạnh phúc tinh thần (chia sẻ vui, buồn), nhưng có lẽ bữa tối là bữa quan trọng nhất. Ngồi cùng ăn với nhau chứng tỏ hạnh phúc của gia đình, ghét nhau không thể ngồi ăn với nhau.
Sau khi chứng tỏ tình yêu dành cho các đệ tử bằng cách rửa chân cho họ (Ga 13, 1-20), Chúa Giêsu muốn trăn trối mọi điều vì Ngài biết Ngài không còn ở bên các đệ tử bao lâu nữa (Ga 13, 31-38), thế nên giây phút cuối này Ngài nói nhiều hơn bao giờ hết, nhắn nhủ mọi điều, ví von đủ thứ,... Tình yêu ấy tiếp tục trào dâng trong “con người sắp chịu chết” nên lại được thể hiện qua lời cầu nguyện tha thiết mà Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha tại Vườn Dầu. Lời cầu nguyện này đã được Thánh Gioan ghi lại trong cả chương 17 (gồm 26 câu) của sách Phúc Âm thứ tư.
Nói về bữa ăn, người ta kể “Chuyện Hai Đồng Bạc” đã xảy ra thật thế này…
Luiz Inácio Lula da Silva sinh tháng 10 năm 1945 trong một gia đình nông dân ở Brazil. Vì nhà nghèo, nên từ lúc mới 4 tuổi, cậu đã phải đi bán đâu phụng ngoài đường, quần áo tả tơi và thiếu ăn. Khi học tiểu học, cậu ở thủ đô Rio de Janeiro. Sau mỗi buổi học, cậu thường hay cùng hai người bạn đồng trang lứa đi đánh giầy ở đầu đường, hôm nào không có khách thì đành nhịn đói.
Năm Lula 12 tuổi, vào một buổi xế chiều, có một người khách là chủ tiệm giặt ủi và nhuộm áo quần đến chiếu cố, cả ba đứa đều chạy lại mời chào. Ông chủ tiệm nhìn vào ba cặp mắt van xin khẩn khoản đó, không biết quyết định chọn đứa nào. Cuối cùng, ông ta nói: “Đứa nào cần tiền nhất thì tôi cho đánh giầy, và sẽ trả công 2 đồng”.
Thời đó, công đánh một đôi giầy chỉ có 20 xu, 2 đồng đúng là một món tiền rất lớn. Cả ba cặp mắt đều sáng lên. Một đứa nói: “Từ sáng đến giờ cháu chưa được ăn gì cả, nếu không kiếm được tiền hôm nay, cháu sẽ chết đói!” Đứa khác nói: “Nhà cháu đã hết thức ăn từ ba ngày nay, mẹ cháu lại đang bệnh, cháu phải mua thức ăn cho cả nhà tối nay, nếu không thì lại bị ăn đòn…”
Lula nhìn vào 2 đồng bạc trong tay ông chủ tiệm, nghĩ ngợi một lúc rồi nói: “Nếu cháu được ông cho kiếm 2 đồng này thì cháu sẽ chia cho hai đứa nó, mỗi đứa 1 đồng!”
Câu nói của Lula làm ông chủ tiệm và hai đứa nhỏ kia rất ngạc nhiên. Lula giải thích: “Tụi nó là bạn thân nhất của cháu, đã nhịn đói hết một ngày rồi, còn cháu thì hồi trưa còn ăn được ít đậu phụng, nên có sức đánh giầy hơn chúng nó. Ông cứ để cháu đánh đi, chắc chắn ông sẽ hài lòng”.
Cảm động trước câu nói của Lula, ông chủ tiệm đã trả cho Lula 2 đồng sau khi đánh bóng đôi giầy. Lula giữ đúng lời hứa nên đã đưa ngay cho mỗi đứa 1 đồng.
Vài ngày sau, ông chủ tiệm đã đến tìm Lula, nhận cậu đến học nghề ở tiệm giặt nhuộm của ông ta sau buổi tan học, ông còn cho Lula ăn bữa tối. Tiền lương lúc học nghề tuy thấp nhưng so với đánh giầy thì còn khá hơn rất nhiều. Lula hiểu rằng: CHÍNH VÌ MÌNH ĐÃ ĐƯA TAY GIÚP ĐỠ NHỮNG NGƯỜI KHỐN ĐỐN, NÊN MỚI ĐEM ĐẾN CHO MÌNH CƠ HỘI LÀM THAY ĐỔI CUỘC ĐỜI.
Từ đó, khi có khả năng, Lula không ngần ngại giúp đỡ những người sống khốn khổ hơn mình. Sau này, Lula nghỉ học, đi làm thợ trong một nhà máy để có cơ hội bênh vực quyền lợi cho những người thợ. Lula tham gia vào công đoàn, và năm 45 tuổi, Lula lập ra Đảng Lao Công.
Năm 2002, trong cuộc ứng cử Tổng Thống, Lula lấy khẩu hiệu: “Ba bữa ăn no cho tất cả những người trước quốc gia này”. Và Lula đã đắc cử Tổng Thống Brazil. Năm 2006, ông tái đắc cử nhiệm kỳ II. Trong 8 năm tại chức, ông đã thực hiện đúng lời hứa: 93% trẻ em và 83% người lớn ở nước này được no ấm. Ông đã thực hành đúng tâm niệm: GIÚP ĐỜI.
Nước Brazil được ông lãnh đạo đã không còn là “con khủng long nhai cỏ” mà đã trở thành “con mãnh sư Mỹ châu”, và xây nền kinh tế Brazil đứng thứ 10 trên thế giới. Tổng Thống tài năng và nhân đạo của Brazil là Luiz Inácio Lula da Silva – cậu bé đánh giày ngày xưa – đã mãn nhiệm Tổng Thống ngày 31.12.2010. Đọc câu chuyện này, chúng ta thấy rằng, ngay từ nhỏ, cựu tổng thống Luiz Inácio Lula da Silva đã có tấm lòng nhân hậu, biết yêu thương và chia sẻ với người nghèo khổ. Từ một cậu bé nghèo khổ tới một nguyên thủ quốc gia Brazil, Lula vẫn sống hướng thiện, chắc hẳn kết quả nhân đạo và nhân bản đó PHẢI BẮT ĐẦU TỪ GIA ĐÌNH.
La Bruyère nói thật chí lý: “Ân huệ không bởi việc cho thật nhiều mà là CHO ĐÚNG LÚC”. Tương tự, Việt Nam cũng có chuyện “Thằng Bờm và Phú Ông”. Thằng Bờm không cần những gì sang trọng mà chỉ cần “nắm xôi”. Cuộc sống đa dạng và phức tạp, nhưng Paul Éluard phân tích: “Sự khôn ngoan khiến người ta tồn tại, nhưng sự đam mê mới khiến người ta sống”.
Và Tổng Thống Lula có nhắc tới “bữa ăn”, điều đó cho thấy bữa cơm gia đình rất quan trọng vậy. Quan trọng không vì của ngon vật lạ, cao lương mỹ vị, mà quan trọng vì “bữa ăn là bữa yêu thương”. Đừng khinh suất! Đã và đang có những gia đình rạn nứt hạnh phúc, và có nguy cơ tan vỡ, là do thiếu những giây phút quây quần bên nhau, điển hình là các bữa ăn – đặc biệt là Bữa Ăn Tối. Tục ngữ Việt Nam cũng nói: “Lỗ nhỏ làm đắm thuyền”. Đừng chỉ lo san lấp những “hố sâu”, những “ổ voi” hoặc “ổ trâu”, mà hãy bắt đầu san lấp những “ổ gà” nho nhỏ. Bữa ăn gia đình nhắc nhở chúng ta về điều gì?
1. NHẮC NHỞ VỀ BỮA TIỆC LY VÀ THÁNH LỄ
Trong Bữa Ăn Tối mừng Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy” (Mt 26, 26). Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: “Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26, 27-28).
Chúa Giêsu đã di chúc cho chúng ta Thánh Thể và Bửu Huyết của Ngài để hoàn tất lời hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Bổn phận của chúng ta là phải yêu mến Ngài hết linh hồn và hết trí khôn. Để chứng tỏ điều đó, chúng ta phải tham dự Thánh Lễ và tiếp nhận Thánh Thể hằng ngày. Đó là cách chúng ta làm theo lời căn dặn của Ngài: “Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22, 19).
Thiết tưởng, mỗi người hãy cố gắng DÀNH VÀI PHÚT IM LẶNG SAU KHI RƯỚC LỄ để suy niệm, kết hiệp, tâm sự và trò chuyện với Chúa Giêsu Thánh Thể, đừng bỏ Ngài cô độc, vì Ngài mới thực sự là Nguồn Sống dồi dào của mỗi chúng ta (x. Ga 10, 10). Những lúc khác, bất kỳ lúc nào, hãy hướng về Chúa Giêsu Thánh Thể và xin Ngài đến với chúng ta. Chắc chắn Ngài rất vui mà đến ngự vào lòng chúng ta. Cách này gọi là “rước lễ thiêng liêng”. Hình như ngay nay người ta ít quan tâm (hoặc không biết, hoặc không được dạy) việc rước lễ thiêng liêng! Cha mẹ nên lưu ý mà nhắc nhở con cái về cách tốt lành này.
Chúng ta hãy nghe Thánh Thomas Aquinas (1225 – 1274), Tiến Sĩ Hội Thánh, giải thích: “Rước lễ thiêng liêng sinh hiệu quả như rước lễ thật, nhưng còn tùy chúng ta dọn mình kỹ hay không, có tha thiết ao ước ơn Chúa hay không, và có yêu mến Chúa nhiều hay không”.
Đến với Chúa Giêsu là việc cần thiết vô cùng, vì chính Ngài cũng đã ân cần nhắn nhủ: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Tôi, Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11, 28). Đừng ngại ngần hoặc mặc cảm, hãy đến với Chúa Giêsu Thánh Thể bất cứ lúc nào, càng nhiều càng tốt – tốt cho chính chúng ta mà thôi. Vả lại, những người yêu nhau thì luôn thích nhìn thấy nhau, ở bên nhau và tâm sự với nhau mọi điều.
2. NHẮC NHỞ VỀ ĐỨC ÁI: SỰ CHIA SẺ, TÌNH YÊU THƯƠNG, LÒNG THƯƠNG XÓT
Chúa Giêsu đã chia sẻ chính Mình và Máu Ngài, không còn gì hơn thế nữa. Tình yêu nào có tiết ra chất hy sinh mới là tình yêu đích thực, nếu không thì chỉ là ích kỷ. Chúa Giêsu đã chia sẻ mọi thứ, chúng ta là những người “đi theo” Ngài thì không thể không chia sẻ: Qua ánh mắt, cử chỉ, lời nói, thái độ, hành động, tinh thần, vật chất, … Đúng vậy, vì Chúa Giêsu đã rất thẳng thắn: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi (Mt 7, 21). Ngài cảnh báo chúng ta về việc “nói ít, làm nhiều”, “đừng háo danh”, “đừng coi trọng hình thức” và “đừng lẻo mép”, nhưng phải thực sự sống yêu thương, thể hiện lòng thương xót. Chúa Giêsu không nói đùa đâu đấy!
Chúa Giêsu rất hào phóng, vì Ngài hứa chắc: “Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ MỘT CHÉN NƯỚC LÃ thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ KHÔNG MẤT PHẦN THƯỞNG đâu” (Mt 10, 42).
Qua đó, chúng ta thấy rõ rằng Thánh Thể và Bữa Ăn Gia Đình có liên đới với nhau rất chặt chẽ. Bí Tích Thánh Thể là tình yêu tột đỉnh Chúa Giêsu dành cho chúng ta, vì Ngài đã xác định với người Do Thái: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông KHÔNG ĂN THỊT VÀ UỐNG MÁU CON NGƯỜI, các ông KHÔNG CÓ SỰ SỐNG nơi mình. Ai ĂN THỊT và UỐNG MÁU TÔI, thì ĐƯỢC SỐNG MUÔN ĐỜI, và Tôi sẽ cho người ấy SỐNG LẠI VÀO NGÀY SAU HẾT, vì Thịt Tôi thật là của ăn, và Máu Tôi thật là của uống. Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, thì Ở LẠI trong Tôi, và Tôi Ở LẠI trong người ấy” (Ga 6, 53-56). Vừa cảnh báo vừa nhắc nhở. Và đó cũng là lời “nói nhỏ” riêng với mỗi người!
Thánh Thể là bằng chứng hùng hồn và minh nhiên về Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa. Hãy bắt đầu từ gia đình, vì gia đình là “chiếc nôi sống động” của mọi con người: Giáo dục về nhân bản, về đạo đức, về cách xử sự, về đức tin, về cách sống đạo,… Đúng như tục ngữ Việt Nam nhắc nhở: “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Cái gì cũng phải học, ngay cả những việc rất nhỏ nhưng lại có thể là nền tảng của cuộc đời chúng ta.
Rất tiếc khi thấy có một số gia đình cứ mạnh ai nấy ăn, ai thích ăn lúc nào thì cứ “vác tô” ăn riêng, như vậy thì thiếu hẳn tinh thần đoàn kết, không coi trọng tình cảm gia đình. Nếu cứ “vô phép” như vậy thì còn gì là tổ ấm? Cha mẹ nào để con cái tự do vô độ như vậy là lỗi của cha mẹ đã thiếu sự quan tâm giáo dục con cái cho đúng gia phong. Nước có quốc pháp, nhà có gia phong. Nhờ đó mà xã hội mới khả dĩ bình an. Hãy chấn chỉnh ngay cho kịp kẻo quá muộn. Đó cũng là Phúc-Âm-hóa gia đình vậy!
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin giúp chúng con biết luôn kết hiệp với Ngài và thể hiện lòng yêu thương như Ngài căn dặn, bắt đầu từ mái ấm gia đình. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
Yêu! Xem ra quá mầu nhiệm bởi lẽ chẳng ai định nghĩa được yêu là gì. Chỉ khi nào người ta yêu THÁNHTHỂ-350
Yêu! Xem ra quá mầu nhiệm bởi lẽ chẳng ai định nghĩa được yêu là gì. Chỉ khi nào người ta yêu nhau người ta mới cảm về nhau, cảm tình yêu họ dành cho nhau như thế nào. Và, rất giản đơn khi ta thấy ai nào đó thương yêu nhau thì người ta sẽ làm mọi cách để biểu lộ tình thương và sự quan tâm của mình và đặc biệt muốn hiện diện, muốn ở mãi bên cạnh người mình yêu.
Trong thực tế, ta thấy những dịp kỷ niệm, người ta thường trao cho nhau những món quà, những cuộc điện thoại hay những tin nhắn qua điện thoại ... Cử chỉ trao nhẫn cho nhau trong nghi thức của Bí tích Hôn phối cũng nói lên dấu chỉ tình yêu giữa hai người phối ngẫu. Dấu chỉ ấy nói lên từ giây phút đó họ sẽ thuộc trọn về nhau cả xác lẫn hồn.
Đặc biệt, với Thiên Chúa, Thiên Chúa là Tình Yêu và chính Thiên Chúa trong cung cách của Ngài, Thiên Chúa đã tỏ ra hàng trăm ngàn dấu chỉ để biểu lộ tình thương của Người dành cho con người. Một trong những cách biểu lộ rõ nét nhất đó chính là dấu chỉ quý báu củaBí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể chính là Bí tích quan trọng nhất trong 7 Bí tích. Vì qua Bí tích này chúng ta đón nhận được chính Chúa Giêsu là nguồn mọi ơn phúc, nguồi mạch của sự sống và đặc biệt nguồn mạch của tình yêu.
Trước khi chịu khổ hình Chúa Giêsu biết mình sẽ không còn hiện diện hữu hình ở trần gian này nữa nên Người đã lập Bí tích Thánh Thể. Ðể rồi qua Bí tích này Người sẽ còn tiếp tục hiện diện với con người. Quan trọng hơn là Người ban cho con người chính bản thân mình qua hình Bánh và hình Rượu.
Lễ kính Mình và Máu Thánh Chúa mời gọi chúng ta chiêm ngắm Mình Thánh Chúa Kitô qua hai biểu hiện. Một là qua Bí tích Thánh Thể, hai là qua Giáo Hội – thân thể mầu nghiệm của Người.
Ngày nay, trong Bí tích Thánh Thể, chính là việc Thiên Chúa tiếp nhận chúng ta vào bàn ăn của Người, và việc Người đón tiếp thì rất cụ thể: trong khung cảnh một bữa ăn để ta có cái ăn.
“Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22, 19). Chúa Kitô đã thiết lập Bí tích cực trọng này để hiện tại hóa mầu nhiệm tử nạn của Người. Người ước ao vô cùng chúng ta lãnh nhận Người. Người mong muốn cháy bỏng trao ban chính mình Người cho chúng ta. Người khát khao nồng cháy kết hiệp thân tình với chúng ta. Tất cả điều đó chỉ vì tình yêu vô bờ bến mà Ngài dành cho chúng ta.
Vì vậy, Người đã không những trao ban chính mạng sống Người để cứu chuộc chúng ta, mà còn trao ban chính mình Người làm của dưỡng nuôi linh hồn chúng ta. Bởi vì tình yêu của Người là một tình yêu “cho đến cùng” (Ga 13,1). Mình và Máu Thánh Chúa chính là bảo chứng cho tình yêu đó. Vì yêu chúng ta, Người đã đổ tràn tình yêu của Người trên chúng ta cùng sự thiện hảo vô biên của Người.
Cả cuộc đời Đức Giêsu là thức ăn cho ta: Ngài hiện hữu không phải vì bản thân Ngài, mà hoàn toàn vì Thiên Chúa và vì con người. Ngài đã chết để con người được sống, đã tự hủy để con người được tồn tại, đã đau khổ để con người hạnh phúc, đã tự hạ để con người được nâng lên, đã chấp nhận bị đối xử như người tội lỗi để làm cho con người trở nên thánh thiện, v.v...
Ngài hiện hữu, Ngài làm mọi sự đều vì người khác, chẳng vì mình một chút nào. Và Ngài đã biểu hiện tính chất “là của ăn” một cách cụ thể và tuyệt vời khi lập bí tích Thánh Thể. Chúng ta ăn Ngài, nhưng chúng ta đừng quên bắt chước Ngài trong tính chất ấy. Ngài đã yêu cầu chúng ta: “Anh em hãy làm như Thầy vừa làm, để tưởng nhớ đến Thầy”. Tưởng nhớ ở đây không gì tốt hơn và ý nghĩa hơn là bắt chước Ngài trong tính chất ấy: Hãy trở nên đồ ăn cho những người chung quanh mình, nhất là những người sống gần mình nhất.
Bí tích Thánh Thể chính là việc Thiên Chúa muốn quy tụ, mời gọi và đón nhận mỗi người chúng ta vào dự Tiệc với Người. Bữa tiệc đó rất cụ thể, rất sinh động và sinh muôn ơn ích. Bàn tiệc mà chúng ta tham dự không đơn thuần là một bữa tiệc thông thường, mà là một bữa Tiệc Sự Sống của Thiên Chúa. Thiên Chúa mời gọi chúng ta đến kín múc nơi bàn tiệc Thánh Thể để toàn thể con người chúng ta qua việc lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, chúng ta được hiệp thông cách trọn vẹn với Thiên Chúa, được sống chính đời sống Thần linh của Thiên Chúa. Bí tích Thánh Thể còn là một lời mời gọi chúng ta can đảm lên đường, đến với thế giới đang chia rẽ, đến với đồng loại đang đói nghèo, đau khổ, bệnh hoạn tù đày để liên kết, an ủi, nâng đỡ và cưu mang họ.
Thánh Lễ là nơi chúng ta tham dự vào bàn tiệc Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Thánh Lễ là một hy tế lặp lại hy tế Núi Sọ. Theo Công Đồng Vaticanô II, hy tế này là "nguồn cội và là chóp đỉnh của toàn bộ đời sống Kitô hữu" (LG 11). Là nguồi cội, vì tất cả đời sống Kitô hữu phát sinh từ đó; là chóp đỉnh, vì tất cả đời sống Kitô hữu phải qui về đó. Ấy thế mà một số giáo dân coi việc tham dự Thánh Lễ như chuyện miễn cưỡng phải giữ. Nhiều giáo dân cảm thấy thánh lễ không có liên quan gì đến cuộc sống của họ ngoài đời, không có ảnh hưởng gì trên đời thường của họ. Rốt cuộc thánh lễ bị họ bỏ rơi, nhà thờ ngày Chúa Nhật cũng vắng người. Đó đã là chuyện của các nước Tây phương, nhưng cũng sẽ là chuyện của chúng ta.
Xin Chúa thánh hoá và biến đổi chúng ta hầu cuộc đời chúng ta mãi mãi là Thánh lễ nối dài giữa lòng nhân loại.