Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, Chúa Giêsu đã xuống thuyền trở về bờ bên kia, có đám đông dân chúng tụ họp quanh Người, và lúc đó Người đang ở bờ biển. Bỗng có một ông trưởng hội đường tên là Giairô đến. Trông thấy Người, ông sụp lạy và van xin rằng: “Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống”. Chúa Giêsu ra đi với ông ấy, và đám đông dân chúng cũng đi theo chen lấn Người tứ phía. {Vậy có một người đàn bà bị bệnh xuất huyết đã mười hai năm. Bà đã chịu cực khổ, tìm thầy chạy thuốc, tiêu hết tiền của mà không thuyên giảm, trái lại bệnh càng tệ hơn. Khi bà nghe nói về Chúa Giêsu, bà đi lẫn trong đám đông đến phía sau Người, chạm đến áo Người, vì bà tự nhủ: “Miễn sao tôi chạm tới áo Người thì tôi sẽ được lành”. Lập tức, huyết cầm lại và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Ngay lúc ấy, Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh đã xuất phát tự mình, Người liền quay lại đám đông mà hỏi: “Ai đã chạm đến áo Ta?” Các môn đệ thưa Người rằng: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy tứ phía, vậy mà Thầy còn hỏi ‘Ai chạm đến Ta?’!” Nhưng Người cứ nhìn quanh để tìm xem kẻ đã làm điều đó. Bấy giờ người đàn bà run sợ, vì biết rõ sự thể đã xảy ra nơi mình, liền đến sụp lạy Người và thú nhận với Người tất cả sự thật. Người bảo bà: “Hỡi con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh”.} Người còn đang nói, thì người nhà đến nói với ông trưởng hội đường rằng: “Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa?” Nhưng Chúa Giêsu đã thoáng nghe lời họ vừa nói, nên Người bảo ông trưởng hội đường rằng: “Ông đừng sợ, hãy cứ tin”. Và Người không cho ai đi theo, trừ Phêrô, Giacôbê và Gioan, em Giacôbê. Các Ngài đến nhà ông trưởng hội đường và Chúa Giêsu thấy người ta khóc lóc kêu la ồn ào, Người bước vào và bảo họ: “Sao ồn ào và khóc lóc thế? Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó”. Họ liền chế diễu Người. Nhưng Người đuổi họ ra ngoài hết, chỉ đem theo cha mẹ đứa bé và những môn đệ đã theo Người vào chỗ đứa bé nằm. Và Người cầm tay đứa nhỏ nói rằng: “Talitha, Koumi”, nghĩa là: “Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy!” Tức thì em bé đứng dậy và đi được ngay, vì em đã được mười hai tuổi. Họ sửng sốt kinh ngạc. Nhưng Người cấm ngặt họ đừng cho ai biết việc ấy và bảo họ cho em bé ăn. - Ðó là lời Chúa.
Liên đới là sự ràng buộc lẫn nhau về vấn đề gì đó, đặc biệt là về trách nhiệm. Cái gì cũng có sự liên TN 13-B101
Liên đới là sự ràng buộc lẫn nhau về vấn đề gì đó, đặc biệt là về trách nhiệm. Cái gì cũng có sự liên đới, không chỉ điều tốt lành mà cả sự xấu xa cũng có tính liên đới – chẳng hạn “liên đới tội lỗi”. Trong Tông Thư “Sollicitudo rei Socialis” (nói về Mối Quan Tâm Xã Hội), ngày 30.12.1987, Thánh Gioan-Phaolô II xác định: “Tất cả chúng ta đều thực sự chịu trách nhiệm đối với tất cả mọi người” (số 38).
Có tội thì bị phạt, có công thì được thưởng, cũng như có khởi đầu thì có kết thúc, có sinh thì có tử, có nguyên nhân thì có kết quả hoặc hậu quả – gọi là quy luật nhân quả. Và còn nhiều dạng liên đới mang hệ lụy khác nhau trong cuộc sống – đời thường và tâm linh.
I. DƯỠNG ĐỨC TIN
Là Đấng giàu lòng thương xót (Ep 2, 4), Thiên Chúa luôn luôn chạnh lòng trắc ẩn đối với người khác, vì Ngài là tình yêu và là Chúa của sự sống, Ngài chỉ có những ước muốn thánh thiện, và trao ban những gì tốt lành cho mọi người: “Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong” (Kn 1, 13). Tại sao? Câu trả lời có ngay: “Vì Ngài đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu, mọi loài thọ tạo trên thế giới đều hữu ích cho sinh linh, chẳng loài nào mang độc chất huỷ hoại. Âm phủ không thống trị địa cầu” (Kn 1, 14).
Thật vậy, “đức công chính trường sinh bất tử” (Kn 1, 15). Thiên Chúa tạo dựng mọi thứ tốt lành, “chẳng loài nào mang độc chất huỷ hoại”, thế thì độc hại ở đâu ra nếu không bởi ác quỷ và ác nhân? Cụ thể cứ nhìn vào môi trường Việt Nam ngày nay thì biết rõ.
Thiên Chúa tốt lành nên Ngài cũng muốn chia sẻ những điều thiện hảo cho chúng ta: “Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được Ngài dựng nên làm hình ảnh của bản tính Ngài” (Kn 2, 23). Tạo Vật và thụ tạo PHẢI có sự liên đới với nhau. Người ta tạo ra cái kia hay vật nọ, nhưng không ai làm ra cái gì giống mình. Vậy mà Thiên Chúa đã tạo nên chúng ta giống hình ảnh Ngài, và còn phú cho bản chất thiện hảo: Nhân chi sơ tính bổn thiện. Sinh ra ai cũng tốt lành, “nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian” (Kn 2, 24a), và chắc chắn rằng “những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết” (Kn 2, 24b).
Chúng ta đã lây nhiễm điều xấu, càng sống lâu càng tội nhiều, thế nên chúng ta luôn được “cảnh báo” bằng sự chết, vậy mà vẫn không ai sợ. Phàm nhân quá bướng bỉnh và ngang tàng. Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ, quả thật là thế!
Mặc dù chúng ta ngang ngược hết nước hết cái, Thiên Chúa vẫn yêu thương và muốn chúng ta cải tà quy chánh, sớm trở nên những người thực sự tốt lành: “Hãy hoàn thiện như Cha trên Trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5, 48). Thế nhưng chúng ta vẫn cố chấp, ngang nhiên nghe lời xúi giục của ba thù (xác thịt, thế gian, ma quỷ) mà đi vào “con đường đen” với vẻ hào nhoáng của tội lỗi. Mỗi chúng ta đều là “đại thù đệ nhất” của chính mình. Đáng sợ nhất mà cũng khó trị nhất!
Vậy mà Thiên Chúa vẫn xót thương, không nỡ làm ngơ, nên Ngài lại sai Con Một Giêsu nhập thể và chịu chết để cứu độ chúng ta. Ôi, còn hạnh phúc nào hơn nữa? Vì thế, chúng ta phải “mở mắt Đức Tin” mà nhận diện chính mình và thành tâm thân thưa: “Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt, không để quân thù đắc chí nhạo cười con” (Tv 30, 2).
Đừng bao giờ thất vọng, vì Thiên Chúa đã hứa: “Núi có dời có đổi, đồi có chuyển có lay, tình nghĩa của Ta đối với ngươi vẫn không thay đổi, giao ước hoà bình của Ta cũng chẳng chuyển lay, Đức Chúa là Đấng thương xót ngươi phán như vậy” (Is 54, 10).
Tác giả Thánh Vịnh đã cảm nghiệm tâm linh: “Ngài đã kéo chúng ta lên từ âm phủ, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống” (Tv 30, 4). Và rồi không thể nín thinh, tác giả Thánh Vịnh phải lên tiếng: “Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa, cảm tạ thánh danh Ngài” (Tv 30, 5).
Không cảm tạ Ngài sao được, vì Ngài quá tốt lành, vượt ngoài tầm hiểu của phàm nhân chúng ta: “Ngài nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời. Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng hò reo” (Tv 30, 6). Đừng lý luận quanh co kẻo xa rời Thiên Chúa, và chớ ngu đần mà thử thách Ngài (x. Kn 1, 3a).
Không vì lòng thương xót của Thiên Chúa thì chúng ta đừng hòng nhận được chi cả. Vả lại, chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta tôn sùng Thánh Tâm Ngài van xin Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Ngài đã “bật đèn xanh”, thế nên chúng ta đừng cố chấp và cũng đừng ngần ngại cầu xin: “Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con, lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ” (Tv 30, 11). Khúc ai ca được Chúa đổi thành vũ điệu hoan ca, và cởi áo sô mà mặc cho chúng ta lễ phục huy hoàng. Vì thế, chúng ta không thể nín lặng mà không ca ngợi Ngài: “Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu” (Tv 30, 13), đồng thời loan truyền hồng ân thương xót ấy cho mọi người cùng nhận biết.
Với kinh nghiệm bản thân từng trải, Thánh Phaolô đưa ra lời khuyên: “Cũng như anh em từng trổi vượt về mọi mặt: về Đức Tin, lời giảng, sự hiểu biết, lòng nhiệt thành trong mọi lãnh vực, và về lòng bác ái mà anh em đã học được nơi chúng tôi, anh em cũng PHẢI TRỔI VƯỢT VỀ LÒNG QUẢNG ĐẠI” (2Cr 8, 7).
Tốt về lĩnh vực này thì cũng cần tốt về lĩnh vực kia. Có “máu xấu” này cũng dễ “nhiễm” thói hư khác. Mắc bệnh này rồi sẽ dễ mắc bệnh khác. Đó là dạng liên-đới-xấu. Như một hệ lụy tất yếu, người tốt lại càng thêm tốt, người xấu lại càng thêm xấu. Cuộc sống đã và đang cho thấy ai mê đắm cái gì thì sẽ “chết” vì chính cái đó. Sinh nghề, tử nghiệp. Người ta cần có niềm đam mê, nhưng nó có thể tốt hoặc xấu là do chính mình.
Để cứu vãn khỏi sự mê muội, không gì hơn là phải tin theo Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng đã có lòng quảng đại vô cùng. Thật vậy, Thánh Phaolô giải thích: “Ngài vốn giàu sang phú quý nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2Cr 8, 9). Thật kỳ lạ! Nói cặn kẽ hơn, Thánh Phaolô cho biết: “Vấn đề không phải là bắt anh em sống eo hẹp để cho người khác bớt nghèo khổ. Điều cần thiết là phải có sự đồng đều. Trong hoàn cảnh hiện tại, anh em có được dư giả là để giúp đỡ những người đang lâm cảnh túng thiếu, để rồi khi được dư giả, họ cũng sẽ giúp đỡ anh em, lúc anh em lâm cảnh túng thiếu. Như thế, sẽ có sự đồng đều” (2Cr 8, 13-14). Đó là chia sẻ, là tương thân tương ái, là bác ái, y như lời đã chép: “Kẻ được nhiều thì không dư, mà người được ít thì không thiếu” (2Cr 8, 15).
Đó mới là yêu thương thực sự, yêu thương triệt để, không yêu thương bằng lời nói suông mà bằng cả hành động. Hành động mới đủ sức thuyết phục và “nói” to hơn ngôn ngữ. Thể hiện yêu thương để nuôi dưỡng Đức Tin. Thiên Chúa rất thực tế khi Ngài đặt vấn đề: “Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá?” (Mt 7, 9). Câu hỏi của Chúa khiến chúng ta “ái ngại” quá chừng!
II. SỐNG ĐỨC TIN
Yêu thương thì phải thực tế, không thể nói suông, ngay cả Đức Tin cũng cần cụ thể – đó là sống đức tin. Chúa Giêsu thực tế trong từng lời nói, cử chỉ và hành động. Thánh Máccô kể rất tỉ mỉ, rõ ràng, dễ tưởng tượng ra các diễn biến từng chi tiết:
Một lần nọ, Đức Giêsu xuống thuyền trở sang bờ bên kia Biển Hồ. Một đám rất đông tụ lại quanh Ngài. Chợt có một ông trưởng hội đường tên là Giaia đi tới. Vừa thấy Đức Giêsu, ông ta sụp xuống dưới chân Ngài và khẩn khoản nài xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống” (Mc 5, 23). Chúa Giêsu đang vội, không rảnh, nhưng Ngài không do dự, không chần chừ, mà liền đi theo ông.
Thấy vậy, đám đông chen lấn đi theo xem sự thể ra sao. Trong đám đông đó có một phụ nữ bị băng huyết đã 12 năm, bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại sản mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác. Nghe đồn về Đức Giêsu rất kỳ lạ, bà cố lách qua đám đông, tiến đến phía sau Ngài, và sờ vào áo của Ngài, vì bà tự nhủ: “Tôi mà sờ được vào áo Ngài thôi, là sẽ được cứu” (Mc 5, 28). Đức Tin lớn quá! Và rồi lạ lùng thay, máu cầm lại tức khắc, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi ngay chứng băng huyết. Lúc đó, Đức Giêsu thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra, Ngài liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: “Ai đã sờ vào áo tôi?” (Mc 5, 30). Sức mạnh vô hình rất mạnh mẽ. Phụ nữ kia có cách thể hiện Đức Tin cũng rất lạ lùng và mạnh mẽ.
Nghe Thầy mình hỏi ai sờ vào áo mình, chắc là các môn đệ nghĩ Thầy mình quá lẩm cẩm và ngây ngô hết sức, thảo nào họ hỏi lại Ngài: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: Ai đã sờ vào tôi?” (Mc 5, 31). Hỏi thế thì… “bó tay”. Thế nhưng Đức Giêsu vẫn ngó quanh để nhìn người phụ nữ đã làm điều đó khiến bà này sợ phát run lên vì biết cái gì đã xảy đến cho mình. Biết không thể giấu được, bà đến phủ phục trước mặt Ngài và nói hết sự thật. Ngài nhẹ nhàng nói với bà: “Này bà, LÒNG TIN của bà đã CỨU CHỮA bà. Bà hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (Mc 5, 34). Mắc chứng nan y mà được khỏi hẳn, thế thì còn gì bằng. Bà ta sướng rơn, sướng y như người về từ cõi chết vậy. Chính ĐỨC TIN mới là điều quan trọng!
Thật vậy, Chúa Giêsu luôn đề cao Đức Tin. Ngài không nói Ngài chữa lành, mà chính niềm tin của chúng ta khả dĩ chữa lành chúng ta – cả tâm bệnh và thể bệnh. Muốn cơ thể mạnh thì phải nuôi dưỡng nó, tinh thần cũng vậy, và Đức Tin cũng thế. Có cố gắng nuôi dưỡng Đức Tin thì chúng ta mới có đủ sức mạnh để mà sống Đức Tin.
Và cũng ngay lúc đó, có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo: “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?” (Mc 5, 35). Nghe vậy, Đức Giêsu liền trấn an ông trưởng hội đường: “Ông ĐỪNG SỢ, chỉ cần TIN thôi” (Mc 5, 36). Một lần nữa, Chúa Giêsu lại nhấn mạnh về tầm quan trọng của Đức Tin. Rồi Ngài không cho ai đi theo mình trừ ông Phêrô, ông Giacôbê và em ông này là ông Gioan. Đến nhà ông trưởng hội đường, Đức Giêsu thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ. Ngài bước vào nhà và bảo họ: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” (Mc 5, 39). Chết mà bảo ngủ. Lạ thế nhỉ? Ông Giêsu này “tâm thần” chắc! Thế nên người ta xầm xì chế nhạo Ngài. Mà chẳng ai xa lạ, chính thân nhân của Ngài cũng có lần tìm bắt Ngài vì cho rằng Ngài bị mất trí (Mc 3, 21).
Mặc kệ, ai nói gì thì nói, việc Ngài thì Ngài làm. Lúc đó Ngài bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Ngài vào nơi nó đang nằm. Ngài cầm lấy tay nó và nói: “Talitha kum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi!” (Mc 5, 41). Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được. Ai nấy đều kinh ngạc sững sờ. Ai cũng câm như hến, chẳng dám xì xầm chi nữa. Đức Giêsu không trách họ mà chỉ nghiêm cấm họ không được để một ai biết việc ấy. Rồi Ngài còn bảo người nhà cho con bé ăn. Ôi, Thầy Giêsu rất thực tế, rất cụ thể!
Lạy Thiên Chúa, chúng con thật đắc tội với Ngài về lối suy nghĩ thiển cận hão huyền trong trí óc nông cạn của chúng con. Cúi xin Ngài thương xót mà đại lượng ân xá, và thắp Lửa Tin Yêu trong chúng con. Xin thương mở lòng trí chúng con để chúng con cũng biết sống thực tế như Ngài, sẵn sàng hành động cụ thể theo Tôn Ý Ngài, đồng thời cũng biết dứt khoát khước từ những gì trái với Tôn Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Tin Mừng Mc 5: 21-24.35-43 Trang Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đi vào thế giới của những câu hỏi “tại sao” mà lý trí con người không thể lý giải được.
Trang Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đi vào thế giới của những câu hỏi “tại sao” mà TN 13-B102
Trang Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đi vào thế giới của những câu hỏi “tại sao” mà lý trí con người không thể lý giải được.
Cuộc sống vốn là một phép lạ, từng hơi thở con người là một phép lạ, mỗi ngày là một phép lạ, mỗi phút giây là một phép lạ. Chỉ có đôi mắt nội tâm mới cho con người cảm nhận được phép lạ triền miên ấy. Sống đích thực, sống dồi dào, là biết chiêm ngưỡng để đón nhận phép lạ từng ngày ấy.
Phép lạ một người đàn bà bị băng huyết được chữa lành nhờ chỉ chạm đến áo của Chúa Giêsu, và phép lạ một em bé gái chết được Chúa Giêsu cho sống lại; cả hai phép lạ đều phát xuất từ lòng tin của con người.
Niềm tin của người đàn bà được tưởng thưởng. Bà mau chóng được chữa lành. Tuy nhiên ngay khi bà định lẩn vào đám đông vô danh. Đức Giêsu đã tìm thấy bà. Người không ưa chuộng cách chữa bệnh ấy. Một vài người chữa bệnh giản lược đến mức tối thiểu sự tiếp xúc nhân bản. Nhưng Đức Giêsu thì không. Người luôn luôn đối xử với con người trên một bình diện cá nhân. Mặt khác, Đức Giêsu biết có năng lực từ Người phát ra, chứng tỏ có người sờ vào áo Người để được chữa bệnh và lấy năng lực đó từ Người.
Ông trưởng hội đường đã biểu lộ lòng tin bằng cách lặn lội tìm đến với Chúa Giêsu xin Ngài tới đặt tay trên con gái của ông; người đàn bà băng huyết tin một cách mãnh liệt nơi sức mạnh phát xuất từ con người Chúa Giêsu. Nơi ông trưởng hội đường, lòng tin được tuyên xưng tỏ tường; nơi người đàn bà băng huyết, niềm tin rụt rè kín đáo. Nhưng dù tỏ tường hay kín đáo, chính lòng tin đã giúp cho phép lạ xảy ra, như Chúa Giêsu đã nói với người đàn bà: “Lòng tin của con đã cứu chữa con”.
Chính Chúa Giêsu xác nhận lòng tin là chìa khóa thần kỳ mở ra cho người đàn bà kho tàng chứa đựng điều mà bà khao khát: được chữa lành chứng bệnh nan y.
Niềm tin làm cho con người được sống, điều này vẫn thường xảy ra trong đời sống con người. Tất cả những thành công trong cuộc sống đều nhờ ở niềm tin, nhưng niềm tin tôn giáo thì quan trọng hơn, bởi vì chính sự sống tinh thần và tâm linh mới là điều cần thiết cho con người đạt được thành công. Có tất cả, nhưng thiếu đời sống tâm linh, con người vẫn như sống dở. Sống sung mãn, sống dồi dào, chính là sống nội tâm. Chỉ có một đời sống nội tâm sung mãn mới giúp con người thấy được, cảm nhận được những gì mà giác quan và lý trí không thể đạt được.
Tin vào những chuyện dễ dàng, tin khi cuộc sống bình an xuôi thuận thì chưa hẳn là đức tin. Đó chỉ là một chuyện đương nhiên thôi. Đức tin là một nhân đức căn bản của Đạo. Phải là vẫn cứ tin vào những chuyện khó khăn vượt quá sức loài người. Vẫn cứ tin khi cuộc đời gặp lúc cheo leo. Đức tin vững vàng như vậy có thể làm nên những phép lạ. Bởi lẽ, trước một hoàn cảnh quá khó khăn, trong lúc đời sống quá gian nan, nếu ta vẫn tin thì không phải là ta tin vào sức riêng của ta nữa, mà là tin vào sức Chúa, và Chúa quyền năng làm được mọi sự.
Để được chữa lành, Chúa cần lòng tin và chỉ cần lòng tin mà thôi. Lòng tin của người phụ nữ thật đơn sơ, nhưng mạnh mẽ: “tôi chỉ cần đụng được vào áo của Người thôi, là sẽ được cứu”. Ở những nơi hành hương, người ta vẫn thể hiện lòng tin bằng cách đụng vào các bức tượng hay thánh tích.
Đức tin là vị thuốc thần đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Đức tin là bí quyết đem lại hy vọng cho nơi nào không còn gì để hy vọng! Sau khi mọi hy vọng, mọi biện pháp chữa trị của con người đã trở nên vô hiệu quả, thì chỉ còn niềm tin mới có khả năng “cứu độ”. Đức Giêsu đã đem lại niềm vui và bình an cho những ai tuyệt vọng mà vẫn một lòng cậy trông. Có lần Đức Giêsu đã nói: “Nếu bạn có đức tin bằng hạt cải, thì bạn có thể nói với ngọn núi này ‘hãy di chuyển từ đây đến kia’, nó sẽ di chuyển” (Mt 17,20).
Đây không phải là một lời phóng đại, nhưng là một sự thực được chứng minh qua cuộc đời các vị Thánh. Các vị Thánh là những người đã tin và các ngài đã làm được nhiều điều kỳ diệu.
Tin là điều kiện cần thiết để Chúa Giêsu thực hiện các phép lạ. Thế nhưng việc Chúa Giêsu thực hiện các phép lạ cũng không nằm ngoài mục đích là củng cố niềm tin cho những kẻ đi theo Ngài, để họ tin rằng Ngài là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, nhờ đó mà họ được ơn cứu độ. Không bao giờ Chúa Giêsu làm phép lạ để biểu diễn như lời dụ khị của Satan; hay là để cho nhân dân tán thưởng như các võ sĩ, các nhà ảo thuật, hoặc các diễn viên xiếc…
Lòng tin thường phát xuất từ tình yêu. Hiện thực cuộc sống cho ta thấy điều này: tình yêu đến trước rồi đôi nam nữ dần tin nhau chứ không phải vì họ tin nhau trước rồi họ mới yêu nhau. Để xây dựng lòng tin, trước hết ta hãy có một chút tình. Ta hãy đi bước trước trong việc yêu thương như Chúa Giêsu yêu thương. Nguời không chỉ chăm sóc các môn đệ mà còn tìm mọi cách để cho các ông sinh hoa kết trái và tạo điều kiện để các ông “làm được nhiều việc lớn lao hơn cả những việc Người làm” (x.Ga 14,11-12).
Khi Chúa đòi hỏi phải có lòng tin, Người không đòi hỏi quá đáng. Chỉ cần ta thực tâm và cố gắng rồi Chúa sẽ tạo điều kiện cho chúng ta biểu lộ lòng tin và ban thưởng cho lòng kiên trì của ta, dù đó là những phấn đấu nội tâm thầm kín.
Nhìn lại tất cả những biến cố của cuộc đời ta cần phải có một đức tin mạnh mẽ như ông Gia-ia, hiên ngang mà không hổ thẹn, vững chắc chứ không hồ nghi. Đàng khác, chúng ta cũng cần có một đức tin kín đáo nhưng dẻo dai như lòng tin của người phụ nữ trên đây, bà không cần kêu xin nài nẵng như ông Gia-ia, bà chỉ có một thái độ khẩn khoản khiêm nhường và đầy tin tưởng trong tâm hồn, thế là đủ. Chúa cũng đang chờ đợi ở chúng ta những tâm tình như thế.
Tôi mới nghe tin một người quen bị ung thư. Tôi liền điện thoại hỏi thăm. Người bạn đó TN 13-B103
Tôi mới nghe tin một người quen bị ung thư. Tôi liền điện thoại hỏi thăm. Người bạn đó bảo: bác sĩ tây y – đông y đều bó tay rồi. Bây giờ trong người đau nhức lắm. Tôi chỉ mong ra đi sớm cho khỏi chịu sự đau đớn này. Tôi nói với người bạn: còn nước còn tát. Còn một hơi thở cũng đừng bỏ cuộc. Là người ky-tô hữu chúng ta còn có một phương dược diệu kỳ là cậy dựa vào quyền năng Chúa. Hãy cầu nguyện và bám chặt vào Ngài.
Dầu thế nào đi nữa, sinh bệnh lão tử là lẽ thường tình. Con người dường như bất lực với lẽ thường tình ấy. Dù Tần Thủy Hoàng có thuốc linh đan trường sinh rồi cũng chết. Dù văn minh khoa học tiến bộ rồi cũng bất lực trước những bệnh tật khổ đau của con người. Sự bế tắc trong sinh tử cho thấy con người không thể dựa vào khả năng của mình để thoát khỏi dòng sinh mệnh ấy. Con người đành ngậm ngùi tiếc thương cho nhau khi gặp hoạn nạn gian nan. Chúng ta vẫn thường nghe bác sĩ nói nhỏ với bệnh nhân hoặc người nhà bệnh nhân: “tôi rất tiếc vì không có thể làm gì hơn được nữa!”
Xem ra chỉ có Thiên Chúa mới có quyền trên mọi bệnh tật. Chỉ có Ngài mới cầm quyền sinh tử cho con người. Ông hội trưởng trong tin mừng thánh Marco có lẽ đã từng “vái tứ phương” để tìm thầy chạy thuốc cho đứa con cưng của mình. Nhưng đã hoàn toàn thất bại. Chỉ khi ông gặp được Chúa, đặt niềm tin nơi Chúa. Con gái ông mới được cứu. Niềm tin vào Chúa đã được bù đắp bằng ơn lành Chúa ban theo ý ông xin.
Thế nhưng, đôi khi chúng ta không khỏi thắc mắc băn khoăn. Tại sao Chúa nhận lời người này mà lại không nhận lời người kia? Tại sao giữa dòng đời có người vui và có người buồn? Có người khoẻ mạnh. Có người ốm đau. Có những người cả cuộc đời sống trong lụa là gấm vóc. Có những người lại cơ cực lầm than. Có người được yêu thương, có người bị khinh chê ruồng bỏ. Có người hạnh phúc, có người bất hạnh.
Phải chăng Thiên Chúa yêu thương người này và ghét bỏ người kia? Chắc chắn là không. Vì Thiên Chúa là Cha nhân từ. Ngài yêu thương mọi loài mà Ngài đã tạo dựng nên. Hoa cỏ đồng nội. Muôn thú muôn loài đều được Ngài chăm sóc huống chi con người. Sự dữ không phải do Thiên Chúa mang đến. Sự dữ là thế lực thù nghịch với Thiên Chúa. Ma qủy luôn tìm cách phá hủy công trình của Chúa. Trong đó công trình vĩ đại nhất mà Thiên Chúa đã làm nên, đó là tạo dựng con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Chính vì điểm này mà Thiên Chúa luôn đòi hỏi con người dùng tự do để quy phục Thiên Chúa thay vì quay lưng lại với Ngài. Con người có tự do để hành xử. Theo Chúa để chống lại sự dữ, để sống vâng phục theo thánh ý Chúa. Khi con người sử dụng tự do để sống theo thánh ý Chúa là lúc con người chấp nhận những thử thách khó khăn trong cuộc đời, với một niềm tin vào Thiên Chúa tình yêu, Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi những ai trung tín theo Ngài.
Cuộc đời vẫn thường có những trái ngang. Dòng đời không thiếu những bất trắc xảy ra, khiến chúng ta dễ thất vọng về những gì đang diễn ra trong cuộc đời. Hãy tin tưởng vào Thiên Chúa. Hãy chạy đến cùng Thiên Chúa. Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Ngài sẽ làm những điều tốt đẹp nhất cho dân Ngài.
Ước gì chúng ta có đủ đức tin để chạy đến kêu cầu Chúa chữa lành khi gặp những tai ương hoạn nạn. Xin cho chúng ta luôn tín thác vào Chúa dẫu cuộc đời vẫn còn đó những phong ba gió bụi cuộc đời. Amen.
Điều cao qúy nhất của con người không phải là của cải vật chất, là danh vọng, địa vị mà TN 13-B104
Điều cao qúy nhất của con người không phải là của cải vật chất, là danh vọng, địa vị mà là tự do. Tự do để đi lại. Tự do để hành động mà không bị một thế lực nào khống chế hay kềm kẹp. Thế nên, có tự do là có hạnh phúc, ngược lại là đau khổ và bất hạnh.
Con người có thể mất tự do bởi đau ốm bệnh tật. Con người cũng có thể mất tự do bởi những đam mê tội lỗi. Đau ốm bệnh tật giam hãm con người phần xác. Đam mê tội lỗi giam hãm con người phần hồn. Tất cả đều làm cho con người đau khổ và thất vọng. Có những người đau khổ vì đau lâu ốm dài. Có những người đau khổ vì tai nạn hay mắc những căn bệnh hiểm nghèo. Có những người đau khổ vì lỡ nghiện ngập hay sa chân lỡ bước mà không thể tử bỏ và làm lại cuộc đời được. Tất cả những ai đang sống trong tình trạng này đều mong muốn được giải thoát, được cứu chữa. Họ đều cảm thấy mình bất lực với sự dữ đang hoành hành thân xác và tâm hồn mình. Họ cần một phép lạ có thể biến đổi tình trạng của họ nên tốt hơn.
Đó cũng là tâm trạng của ông Hội trưởng có con gái bị bệnh và của người phụ nữ bị bệnh băng huyết trong bài tin mừng hôm nay. Ông hội trưởng có lẽ đã từng đi “vái tứ phương” để tìm thầy chạy thuốc cho đứa con cưng của mình. Người phụ nữ có lẽ đã đi đến đường cùng, nên đánh liều xông thẳng vào Chúa, chỉ mong được chạm vào Chúa, với hy vọng nho nhỏ là được lành bệnh. Họ đã được toại nguyện. Người phụ nữ cảm thấy nhẹ mình. Không còn khổ sở vì căn bệnh đã kéo dài suốt 12 năm. Ông hội trưởng cảm thấy hạnh phúc vì đứa con đã ngồi dạy, ăn uống bình thường. Có lẽ họ rất vui vì được Chúa nhận lời họ. Niềm tin của họ vào Chúa đã được bù đắp bằng ơn lành Chúa ban cho họ. Họ đã được giải thoát khỏi đau khổ bằng sức mạnh và quyền năng của Chúa.
Thế nhưng, đôi khi chúng ta không khỏi thắc mắc băn khoăn. Tại sao Chúa nhận lời người này mà lại không nhận lời người kia? Tại sao giữa dòng đời có người vui và có người buồn? Có người khoẻ mạnh. Có người ốm đau. Có nhũng người cả cuộc đời sống trong lụa là gấm vóc. Có những người lại cơ cực lầm than. Có người được yêu thương, có người bị khinh chê ruồng bỏ. Có người hạnh phúc, có người bất hạnh. Phải chăng Thiên Chúa yêu thương ngừơi này và ghét bỏ người kia? Chắc chắn là không. Vì Thiên Chúa là Cha nhân từ. Ngài yêu thương mọi loài mà Ngài đã tạo dựng nên. Hoa cỏ đồng nội . Muôn thú muôn loài đều được Ngài chăm sóc huống chi con người. Sự dữ không phải do Thiên Chúa mang đến. Sự dữ là thế lực thù nghịch với Thiên Chúa. Ma qủy luôn tìm cách phá hủy công trình của Chúa. Trong đó công trình vĩ đại nhất mà Thiên Chúa đã làm nên, đó là tạo dựng con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Chính vì điểm này mà Thiên Chúa luôn đòi hỏi con người dùng tự do để quy phục Thiên Chúa thay vì quay lưng lại với Ngài. Con người có tự do để hành xử. Theo Chúa để chống lại sự dữ, để sống vâng phục theo thánh ý Chúa. Khi con người sự dụng tự do để sống theo thánh ý Chúa là lúc con người chấp nhận những thử thách khó khăn trong cuộc đời, với một niềm tin vào Thiên Chúa tình yêu, Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi những ai trung tín theo Ngài.
Người ta kể rằng: có một thiếu phụ sống rất bi quan. Cô cảm thấy dường như Chúa đã bỏ rơi mình. Một lần kia, thiếu phụ đang đi trên đường và gặp một linh mục, sau câu chào hỏi, linh mục đã nói với thiếu phụ rằng: Cô có dám buông tay cho đứa bé rớt xuống đất không?
Thiếu phụ nhìn linh mục với sự ngạc nhiên, không hiểu sao ngài lại nói như thế?
Linh mục nói tiếp: Nếu có ai trả cho cô một số tiền lớn để buông đứa bé cho rơi xuống đất, cô có chịu không?
Thiếu phụ trả lời: Dù ai có cho tiền nhiều như sao trên trời tôi cũng không đời nào buông con tôi rơi xuống cách đau đớn như vậy.
Lúc ấy, linh mục ôn tồn bảo: Thiên Chúa là người cha nhân lành, Ngài sẽ không bao giờ để con cái Ngài rơi xuống hố thẳm của đau khổ đâu.
Nghe lời đó, thiếu phụ bừng tỉnh, và dường như cô không còn bi quan trong cuộc sống nữa.
Cuộc đời vẫn thường có những trái ngang. Dòng đời không thiếu những bất trắc xảy ra, khiến chúng ta dễ thất vọng về những gì chúng ta đang có. Hãy tin tưởng vào Thiên Chúa. Hãy chạy đến cùng Thiên Chúa. Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Ngài sẽ làm những điều tốt đẹp nhất cho dân Ngài.
Nguyện xin Thiên Chúa luôn nâng đỡ trợ giúp chúng ta vượt qua khó khăn, thử thách và ban cho chúng ta một đức tin vững vàng, để chúng ta luôn tin rằng: Thiên Chúa là người Cha đầy nhân ái, bao dung, Ngài sẽ làm những điều tốt đẹp nhất cho cuộc đời của chúng ta. Amen.
“Tôi mà sờ vào được áo choàng của Người thôi, là sẽ được cứu chữa” (Mc 5,28)
Đó là xác tín của “người đàn bà bị băng huyết 12 năm khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc, đến tán TN 13-B105
Đó là xác tín của “người đàn bà bị băng huyết 12 năm khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc, đến tán gia bại sản”. Và bà đã thực hiện điều bà đã xác tín.
Cái khẽ chạm của người đàn bà bị băng huyết, chỉ nơi gấu áo choàng của Chúa Giêsu, cũng đủ làm cho Người phát hiện một năng lực đang tiêu hao, đang xuất phát. Vì cái khẽ chạm ấy bắt nguồn từ một ước muốn ngay lành và niềm tin mãnh liệt.
Ước muốn ngay lành
Ước muốn ngay lành là ước muốn được trở nên tinh tuyền, không còn ô uế, không còn phải xấu hổ vì sự ô uế của mình trước mặt thiên hạ. Thánh Marcô cho biết “bao năm chạy thầy chạy thuốc đến tán gia bại sản” đủ cho thấy ước muốn ấy, đã đến mức thành khẩn biết bao! Một ước muốn ngay lành. Một khao khát chính đáng. Ước muốn sống động của một con người khôn ngoan không chấp nhận đầu hàng trước số phận nghiệt ngã. Khao khát cháy bỏng nhưng tế nhị biết người biết ta trong quan hệ tương giao vừa đủ. Bởi bà biết mình là ai, bà biết mình cần gì. Bà cũng biết Đức Giêsu là ai, và bà biết tránh cho Đức Giêsu khỏi bị lây nhiễm cái ô uế oan nghiệt của cuộc đời. Bà biết nghĩ đến Chúa Giêsu, biết giữ gìn cho danh giá Con Thiên Chúa. Từ ước muốn ngay lành và khôn ngoan của bà, đã điều phối mọi cử chỉ, theo với niềm tin mãnh liệt.
Niềm tin mãnh liệt
Niềm tin mãnh liệt là một khẳng định “có một không hai”- không ai khác ngoài Chúa Giêsu mới có thể cứu chữa bà: “Tôi mà sờ vào được áo choàng của Người thôi, là sẽ được cứu chữa”. Niềm tin ấy đơn sơ mộc mạc, không cầu kỳ, không vênh vang, nhưng âm thầm lặng lẽ. Niềm tin của người đau khổ. Niềm tin của người bé nhỏ, thấp kém. Niềm tin mãnh liệt nhưng thể hiện khiêm tốn: “bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người và sờ vào áo choàng của Người”. Giữa một đám đông chen lấn như thế, thì việc đụng chạm vào Chúa Giêsu là điều không tránh khỏi. Có biết bao nhiêu cái chạm vào Chúa Giêsu , nhưng chỉ có cái khẽ chạm phát xuất từ niềm tin và khao khát hoàn thiện của bà băng huyết ấy, mới có sức làm tiêu hao năng lực Chúa Giêsu mà thôi, mới có sức lôi kéo sự sống, sự toàn thiện của Chúa Giêsu về làm sự sống, sự toàn thiện cho mình.
Còn chúng ta? Trong số những người chen lấn, đụng chạm vào Chúa Giêsu có cả tôi và bạn đấy chứ? Có cả chúng ta? Có cả những người đương thời, đương chung sống với chúng ta đấy chứ? Có cả những người mang danh là tín hữu, có cả những người vô thần… Nhưng có năng lực nào đã xuất phát từ Đức Giêsu về phía chúng ta không? Sự sống và sự toàn thiện của Ngài sao không xuất phát ra để chúng ta khỏi trầm mình trong bóng tối sự chết, trong cõi mê lầm, lung lạc?
Hẳn là vì chúng ta đang chen lấn, đụng chạm vào Chúa Giêsu để ghi tên vào danh sách những người đi theo Chúa Giêsu mà không hề có một ước muốn hoàn thiện, một đức tin được chữa lành. Hoặc có người đang đụng chạm vào Chúa Giêsu như một xúc phạm để làm cho danh giá của Ngài bị vùi dập trước mặt người đời.
Nếu chúng ta không thực sự khẽ chạm vào Chúa Giêsu với niềm tin mãnh liệt để chính mình được nên toàn thiện với Ngài, thì việc rao giảng về Chúa Giêsu Kitô, việc dạy giáo lý về Chúa Giêsu Kitô, cũng không khác gì việc truyền bá một mớ vốn liếng kiến thức của các kinh sư ngày ấy. Càng không thể lay chuyển hay mời gọi ai đến chạm vào Chúa Giêsu khi căn bệnh trầm kha trong đời mình chưa chữa khỏi: căn bệnh “không ước muốn hoàn thiện”.
Sự cần thiết của ước muốn hoàn thiện…
Ôi sự cần thiết của ước muốn hoàn thiện đang trở nên cấp bách dường nào trong tình thế, trong môi trường truyền giáo của chúng ta hôm nay.
Chúng ta đang sống trong một đất nước xã hội chủ nghĩa với những người cộng sản vô thần. Họ đang mang căn bệnh trầm kha “không ước muốn hoàn thiện” theo ý của Thiên Chúa. Và tư tưởng ấy, căn bệnh ấy, đang là một chủ trương cuốn hút nhiều người sa đà theo cách sống hoàn thiện vật chất “ăn ngon, mặc đẹp” là đủ ý nghĩa cuộc đời!
Thách thức mới trong thời đại chúng ta là chúng ta phải thực sự trở nên toàn thiện nhờ múc lấy năng lực của Chúa Giêsu mới có thể thực hiện ước mơ biến đổi não trạng của những người vô thần. Họ là bà con, là anh em, là đồng bào của chúng ta. Họ cũng được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Việt Nam thân yêu thắm đẫm máu các thánh Tử Vì Đạo. Họ cũng là những công trình thượng đẳng của Thiên Chúa. Tiếc là, họ không tin nhận Thiên Chúa. Và vì không có «đấng trên đầu trên cổ» nên họ đã sa vào bao lầm lạc. Người công giáo Việt Nam, không xem họ là kẻ thù. Kẻ thù chính yếu là những lầm lạc của satan trong lòng họ. «Kẻ thù ta đâu có phải là người. Giết người đi thì ta ở với ai. Kẻ thù ta tên nó là gian ác…» (Phạm Duy).
Trong những ngày nầy, có thể đang có những giằng xé tận thâm tâm của những người cộng sản nắm giữ vận mạng đất nước, về sự tồn vong của tổ quốc của dân tộc Việt nam! Người công giáo Việt Nam khắp nơi đang thắp nến cầu nguyện công khai, đang âm thầm cầu nguyện nơi các nhà thờ, các gia đình, cầu cho giới lãnh đạo khôn ngoan nhận ra con đường phải đi, việc phải làm vì lợi ích chung cho dân tộc; cầu cho họ «có ước muốn hoàn thiện» để sửa chữa khẩn cấp những chủ trương có thể nguy hại cho vận mệnh đất nước. Việc đạo đức ấy, chính là việc làm phát xuất từ Ước Muốn Hoàn Thiện và Đức Tin Mãnh Liệt của «bà băng huyết 12 năm khổ sở chạy thầy chạy thuốc đến tán gia bại sản». Việc đạo đức ấy chính là việc khẽ chạm vào gấu áo Chúa Giêsu, với lòng tin Ngài sẽ tuôn sức sống nơi Ngài xuống cho mình và cho cả cộng đồng dân tộc
Và việc cần làm ngay là mỗi người phải nhận ra mình đang lâm trọng bệnh, cần có ước muốn hoàn thiện nhờ lòng tin mãnh liệt vào Chúa Giêsu, Đấng duy nhất có thể, không chỉ cứu chữa mà còn tuôn tràn sức sống, sự toàn thiện của Ngài để chúng ta có sức chu toàn ơn gọi yêu thương và giới thiệu Chúa cho mọi người.
Một cái khẽ chạm vào chân lý, sẽ ngộ ra ngay mình lầm lạc bấy nay…
Lạy Chúa Giêsu, không cần phải báo cáo, Chúa cũng đang biết có bao nhiêu người Việt Nam đang thành tâm khẽ chạm vào gấu áo Ngài… Xin tuôn tràn sức sống của Chúa cho chúng con. Amen.
Chúng ta nghĩ, người đàn bà đó sẽ vui mừng như thế nào! Đó là phần thưởng của niềm tin chân thật.
Chúng ta vào tòa giải tội. Có những người sợ sệt, run rẫy, nhưng khi đã xưng thú tội lỗi đã nhận được sự bình an đến nỗi reo lên: “Ô! Tôi nhẹ như cất cả một khối sắt trong tâm hồn! Hồng ân của lòng tin thành thật là sự bình an. Chúa Giêsu vẫn chờ đón chúng ta khi chúng ta gần như thất vọng. Ông Giai-ia và bà băng huyết đã đi đến mức tuyệt vọng như thế và đã không hối tiếc.
Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy lòng tin của người đàn bà băng huyết và hồng ân Ngài ban tặng. Ngài có thể làm như không hay biết, nhưng Ngài muốn cho mọi người thấy kết quả của lòng tin.
Ngài tiếp tục đi tiếp về nhà ông Giai-ia, nhưng một biến cố mới xảy đến. Người nhà ông trưởng Hội đường cho hay: “Em bé đã qua đời, đừng phiền Thầy nữa”. Chúng ta nghĩ ông Giai-ia sẽ như thế nào khi nghe tin đó? Tất cả niềm hy vọng của ông phụt tắt. Ông òa lên khóc. Chúa Giêsu bảo: “Đừng sợ. Tin thôi!” Và Ngài tiếp tục cuộc hành trình.
Giữa bao nhiêu thử thách cam go của cuộc sống, nhiều khi chúng ta nản lòng,mất phương hướng. Chúa Giêsu chỉ bảo chúng ta một điều: tin thôi.
Chúng ta dám tin, Chúa dám làm. Nhưng ngược lại, nếu chúng ta kém tin, Chúa không thể hoạt động. Điều kiện tiên quyết để Chúa hành động chính là niềm tin của chúng ta. Ngay khi chúng ta ở trong những tình trạng bế tắc nhứt, Chúa vẫn chờ đợi chúng ta tin vào Ngài: “Thầy đây! Đừng sợ!”
Đến nhà ông Giaia, người ta đang khóc lóc ồn ào và đợi ông về để quấn khăn liệm cho em bé. Chúa Giêsu bước vào, Ngài nói ngay: “Sao lại khóc ồn ào như thế? Em bé nầy có chết đâu, nó ngủ đó”.
Ai cũng cười nhạo Ngài, và cho Ngài là một tên “xạo” nào đó. Đứa bé đã chết cóng rồi mà ông nói nó ngủ! Thật là buồn cười! Chúa Giêsu làm như cố tình để cho người ta nhạo cười để rồi Ngài cho họ thấy uy quyền của Thiên Chúa.
Ngài bảo mọi người ra khỏi nhà, trả lại sự yên tĩnh cho căn nhà. Ngài chỉ cho ba môn đệ là Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo vào nhà và đến trước nơi em bé đang nằm. Ngài cầm tay em bé và gọi: “Em bé, dậy đi con”. Thế là em bé ngồi dậy…như vừa tỉnh giấc. Những người cười nhạo đâu rồi? Giờ nầy họ mới sáng mắt ra và ngỡ ngàng.
Lòng tin của ông trưởng Hội đường được ân thưởng. Chúng ta thử tưởng tượng nỗi vui mừng của ông và gia nhân của ông.Niềm vui đột ngột đến nỗi không ai có thể hiểu được. Nếu chúng ta có mặt ở đó, chúng ta sẽ nghĩ sao? Có thể nói, chúng ta cũng như những người đang có mặt đó thôi. Ngỡ ngàng và thán phục. Chưa từng thấy ai làm được một việc cả thể như thế! Vậy ông Giêsu nầy là ai? Sao ông có thể làm được một việc kỳ diệu như thế? Nó là kết quả của niềm tin và lòng khiêm tốn. Chúa Giêsu thường nói đến niềm tin và đòi buộc những người đến với Ngài một niềm tin không sứt mẻ. Anh mù ở Giêrikhô,bà góa Xyrô-Phênixi có đứa con gái bị quỉ ám, người đàn ông có đứa con trai bị quỉ ám…đều là những người đã tin vào Chúa vô điều kiện.
Chính Ngài cũng bảo chúng ta: “Nếu đức tin chúng con bằng hạt cải thôi, chúng con cũng có thể chuyển núi dời non”. Thế nhưng chúng ta có ai đã làm được? Tại sao? Chúa nói sai hay sao? Không! Chỉ vì chúng ta kém tin. Niềm tin của chúng ta còn quá xanh xao, không đủ sức mang lại hiệu quả. Chúng ta luôn tưởng rằng chúng ta đã tin vững vàng, nhưng trong thực tế, cần phải xét lại…
Chúng ta đã cố gắng rất nhiều, đã dùng mọi phương tiện tối tân, đã đổ bao công sức để truyền giáo, kết quả như thế nào? Chẳng được bao nhiêu như các môn đệ xưa chài lưới suốt đêm mà không được con cá nào. Vì người ta cứng tin hay vì chính chúng ta cũng không tin? Hay chúng ta chỉ làm việc mà không cần đến Chúa? Chúng ta chỉ tin vào khả năng và phương tiện của chúng ta?
Khi chúng ta nhận thấy được rằng chúng ta không là gì cả, chúng ta hoàn toàn bất lực; Lúc ấy, chúng ta mới chạy đến sấp mình dưới chân Chúa để nói rằng: xin Thầy đến giúp chúng con, vì chúng con không thể làm gì mà không có Thầy. Đa số chúng ta đều mang một thứ bệnh không ai chữa được là bệnh tự phụ. Ai cũng muốn cho cái tôi nổi cộm lên, và như thế, Chúa Giêsu nhỏ lại. Chúng ta che lấp Chúa vì chúng ta lớn quá, che cả mặt trời.
Chúa Giêsu ngược lại, Ngài trở nên nhỏ bé, đến nỗi người ta không thấy Ngài mà chỉ thấy ông thợ mộc Nadaret, con ông Giuse. Ngài nhỏ bé đến nỗi chỉ còn là một tấm bánh và chúng ta nuốt vào trong mình mà không hay. Chúng ta khác Chúa như thế làm sao chúng ta làm công việc của Ngài được? Người đàn bà mắc bệnh băng huyết, và ông trưởng Hội đường đã dạy chúng ta bài học về sự khiêm tốn. Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta một bài học duy nhất đó thôi: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng”. Sự khôn ngoan nằm trong sự khiêm tốn. Thành công vĩ đại không phải là làm những việc to tác mà làm việc cho Chúa tôi, không cầu vinh, không ham mê kết quả thấy được. Chính Chúa mới làm cho con người khỏi bệnh hay sống lại. Chính Chúa mới cầm tay chúng ta kéo chúng ta đứng dậy và cho chúng ta ăn, như em bé kia.
Nầy đây, bàn tiệc của Chúa đang chờ chúng ta đến tham dự. Hãy đến với niềm tin chân thành và khiêm tốn, chúng ta sẽ thấy được quyền năng của Đấng là sự thật và là sự sống.
Tin khi đời sống yên ổn, thuận buồm xuôi gió thì chưa phải là một đức tin đích thực. Đức tin TN 13-B107
Tin khi đời sống yên ổn, thuận buồm xuôi gió thì chưa phải là một đức tin đích thực. Đức tin phải được tôi luyện trong đau khổ. Trong gian nan thử thách mà vẫn kiên trì, thì đức tin ấy mới có thể làm nên những phép lạ.
Chúa Giêsu nói với ông Trưởng Hội Đường: "Đừng sợ, hãy cứ tin”.
Câu chuyện trong Tin Mừng cho chúng ta biết đôi điều về ông Trưởng Hội Đường này. Ông là Chủ Tịch Ban Quản Trị Hội Đường và là Chủ Tịch Hội Đồng Kỳ Mục và có trách nhiệm điều hành mọi công việc trong Hội Đường. Ông có trách nhiệm trong việc chỉ đạo các buổi hội họp, có trách nhiệm phân phối công việc và xem xét mọi việc thực hiện cho đúng như luật định. Ông là nhân vật quan trọng trong cộng đồng, nhưng khi con gái ông ngã bệnh, ông nghĩ ngay đến Chúa Giêsu.
Ông đã quên đi các thành kiến. Trước kia có thể ông đã coi Chúa Giêsu như một người xa lạ, một người giảng tà giáo, bị các hội đường cấm cửa, một người mà bất luận người nào coi trọng chính thống giáo cũng phải xa tránh.
Ông quên đi vị thế của mình. Ông là Trưởng Hội Đường đầy quyền lực thế mà lại đến hạ mình dưới chân Đức Giêsu.
Còn một điều lạ lùng nữa là ông đã đích thân đến với Chúa Giêsu chứ không sai người nhà đi. Có lẽ sở dĩ ông ta phải đi vì không còn ai chịu đi. Người nhà ông đều tỏ ra nghi ngờ và bảo ông rằng đừng đi tìm ông Giêsu làm gì cho mất công. Theo tinh thần câu chuyện, nếu ông không đi tìm Chúa Giêsu để xin Ngài giúp đỡ, họ còn hài lòng hơn, nhưng ông đã bất chấp dư luận và thách đố cả những lời khuyên bảo của người nhà khi ông ta đến kêu cầu Chúa Giêsu.
Ông đã đến với Chúa Giêsu và Chúa Giêsu cùng đi với ông …nhưng đang khi đi đường thì có người nhà đến báo: “Con gái ông chết rồi, còn làm phiền Thầy làm chi nữa!" Nhưng Chúa Giêsu bảo ông: “Đừng sợ, hãy cứ tin”…chính nhờ lòng tin mà ông đã được một điều ngoài cả sự mong ước của mình.
“Đừng sợ, hãy cứ tin”…thế là đứa bé được sống lại. Một người chết rồi mà Chúa còn cho sống lại, phương chi làm cho một người bệnh, dù bệnh nặng như người phụ nữ bị loạn huyết 12 năm thì có gì là khó đối với Chúa Giêsu.
Chúng ta trở lại diễn tiến của câu chuyện: Theo luật Do Thái, người nào mắc chứng bệnh này thì đương nhiên bị liệt vào hàng ô uế, cho nên không được vào Đền Thờ, không được tham dự các lễ nghi phụng tự, và cũng không được đụng tới ai vì hễ ai mà bị người ô uế đụng phải thì cũng trở thành người ô uế luôn.
Trong đau khổ, bà đã nảy ra một ý tưởng táo bạo là tìm cách đụng vào gấu áo Đức Giêsu. Ý định này táo bạo ở chỗ là việc đó trái lề luật, và cũng chẳng ai chịu cho bà ta đụng vào mình vì sợ bị lây nhiễm sự ô uế, vì thế mà bà ta phải làm một cách lén lút. Dù vậy Đức Giêsu vẫn biết.
Khi Đức Giêsu hỏi "Ai đã đụng đến ta?" thì bà ta sợ hãi vì thấy việc làm của mình đã bị bại lộ. Nhưng bà ta ngạc nhiên hết sức vì Đức Giêsu không hề quở trách, trái lại đã chữa bà khỏi bệnh, và còn an ủi bà "con hãy đi bình an".
Chúa chỉ cần đức tin. Đức tin của ông Trưởng Hội Đường: “Đừng sợ, hãy cứ tin”. Chúa chỉ cần đức tin, một đức tin vững mạnh của người phụ nữ bị bệnh loạn huyết: “Hỡi con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an”.
Qua thái độ của người phụ nữ bị bệnh loạn huyết và của ông Trưởng Hội Đường Giairô, ta thử nhìn lại đức tin của chúng ta xem như thế nào.
Tin khi đời sống yên ổn, thuận buồm xuôi gió thì chưa phải là một đức tin đích thực. Đức tin phải được tôi luyện trong đau khổ. Trong gian nan thử thách mà vẫn kiên trì, thì đức tin ấy mới có thể làm nên những phép lạ.
Cuộc đời của chúng ta không bao giờ hết đau khổ. Chúng ta có thể cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa ngay trong đau khổ. Sự hiện diện của Thiên Chúa không nhất thiết lấy đi đau khổ, nhưng là cho chúng ta một năng lực để chuyển hoá đau khổ như ông Francois Mauriac đã phát biểu:”Ngài đến không phải để cất đi sự đau khổ mà để hiện diện với đau khổ”. Nghĩa là Thiên Chúa đến ban đức tin cho chúng ta để chúng ta biết chịu đựng đau khổ, biết chuyển hoá đau khổ, biến nó thành phương tiện để đạt tới ơn cứu độ. Bằng không thì chúng ta chịu đau khổ một cách vô ích và những đau khổ trở nên vô nghĩa.
Những ai không có đức tin thì gặp nhiều bất lợi trước đau khổ. Họ chịu đựng đau khổ gấp ba lần: họ phải chịu đựng bệnh tật, họ phải chịu đựng sự vô nghĩa của bệnh tật và phải chịu đựng đau khổ vì cuộc sống của họ bị ngưng trệ. Trái lại, đối với những người có đức tin thì đau khổ lại là một cơ hội để đức tin lớn mạnh và trưởng thành hơn.
Trường hợp của người phụ nữ bị loạn huyết và của ông Trưởng Hội Đường, cả hai hầu như bị dồn vào đường cùng, nhưng đường cùng có thể làm chúng ta tuyệt vọng nhưng đường cùng cũng có thể là một cơ hội làm cho đức tin của chúng ta nên mạnh mẽ như trong bài Tin Mừng hôm nay:
Chúa chỉ cần đức tin, đức tin của ông Trưởng Hội Đường: “Đừng sợ, hãy cứ tin”.
Chúa chỉ cần đức tin, một đức tin vững mạnh của người phụ nữ bị bệnh loạn huyết: “Hỡi con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an”. Amen.
Tin Mừng Mc 5: 21-24.35-43 Khi tin tưởng vào Ngài, chúng ta sẽ nhận ra Chúa không thờ ơ trước lời kêu cầu đầy lòng tin của người bệnh và không ngừng quan phòng cho chúng ta: “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng...
Mang trong mình kiếp con người từ khi sinh ra đến lúc chết đi, ai cũng trải qua những giai đoạn TN 13-B108
Mang trong mình kiếp con người từ khi sinh ra đến lúc chết đi, ai cũng trải qua những giai đoạn như: sinh, bệnh, lão, tử. Tuy nhiên, trong 4 cái khổ ấy, đệ nhị khổ là thứ khổ dai dẳng nhất.
Khổ về mặt thể lý, con người đã cảm thấy ngán ngẩn. Nhưng cái khổ tâm lý, khổ tinh thần, người đối diện với nó sẽ cảm thấy day rứt khôn nguôi!
Hôm nay, Tin Mừng thuật lại hai phép lạ Đức Giêsu đã làm. Một phép lạ chữa lành bệnh tật. Một phép lạ cứu sống. Phép lạ chữa lành bệnh tật, Ngài đã chữa lành cả thể bệnh lẫn tâm bệnh. Phép lạ cứu sống, Ngài thể hiện uy quyền nhờ lòng tin của người kêu xin.
Qua mạc khải được gợi hứng từ chính bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu thêm những phép lạ khác Đức Giêsu đã làm để thấy được sứ mạng chính yếu của Đức Giêsu ngang qua những phép lạ ấy.
1. Thực thi phép lạ để cứu chuộc
Các sách Tin Mừng ghi lại Đức Giêsu đã làm rất nhiều phép lạ liên quan đến việc chữa lành, chẳng hạn như: chữa hai người bị quỷ ám (x. Mt 8, 29-34; Mc 5,1-20; Lc 8, 26-39); chữa nhạc mẫu ông Phêrô khỏi sốt (x. Mt 8, 14-15; Mc 1, 29-31; Lc 4, 38-39); chữa lành người bại liệt (x. Mt 9,1-8; Mc 2,1-12; Lc 5,17-26); chữa 10 người phong cùi được lành (x. Lc 17, 11-19); chữa hai người mù (x. Mt 9, 27-31); chữa người câm bị quỷ ám (x. Mt 9,32-34); chữa con gái người đàn bà Canaan cũng bị quỷ ám (x. Mt 15,21-28; Mc 7,24-30); chữa nhiều bệnh nhân tại bờ Biển Hồ Galilê (Mt 15,29-31); chữa rất nhiều người ốm đau và mắc đủ thứ bệnh cũng như loại trừ ma quỷ (x. Mt 8,16-17; Mc 1,32-34; Lc 4,40-41); và rồi ngay trước lúc bị bắt, Ngài đã chữa lành tai bị đứt của đầy tớ thầy thượng tế (x. Mt 26,47-55; Mc 14,43-49; Lc 22,47-51; Ga 18,3-11).
Qua một số phép lạ đã liệt kê ở trên, chúng ta thấy có điểm chung, đó là tin thì được lành và được sống.
Điều này cũng được Tin Mừng thánh Máccô ghi lại hôm nay thật rõ:
Phép lạ thứ nhất, Máccô kể lại giữa một đám người ô hợp, họ chen lấn, xô đẩy và à uôm. Vì thế, việc đụng chạm tới Đức Giêsu là chuyện bình thường. Tuy nhiên, có một cái đụng rất ấn tượng khiến Máccô không thể bỏ qua, bởi vì cái đụng này được Đức Giêsu để ý và nhắc tới. Ngài nói: “Ai đã đụng đến ta?”. Cái đụng ấy chính là cái đụng của một phụ nữ bị coi là ô uế suốt nhiều năm. Trong những năm ấy, người phụ nữ Dothái này đã phải tủi nhục, đắng cay và nhiều khi đặt ra cho mình những câu hỏi tại sao? Tại sao? Chính câu hỏi trong đầu và tâm khảm của chị phụ nữ này đã làm cho nàng không còn câu nệ vào luật lệ, bất chấp mọi thứ cấm cản và đã chạy thẳng tới nơi Đức Giêsu và đụng chạm vào Ngài.
12 năm mắc căn bệnh băng huyết. 12 năm đối diện với nhiều tủi nhục. 12 năm tìm thầy chạy thuốc. 12 năm bị cấm không được đụng chạm tới người khác. 12 năm không được đến đền thờ.... Càng đau khổ, tủi nhục bao nhiêu, người phụ nữ này lại càng tăng thêm lòng can đảm bấy nhiêu. Vì thế, bà ta đã quyết tâm và tin tưởng rằng: “Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi”. Bà tin thì bà được. Vì thế, Tức khắc, bà cảm thấy lành bệnh vì máu trong người đã cầm lại. Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi cả bệnh thể xác lẫn tinh thần.
Phép lạ thứ hai, thánh sử Máccô nhấn mạnh đến đức tin của người liên hệ và đề cao tinh thần liên đới giữ người cha và cô con gái xấu số. Từ một người trưởng Hội Đường, không quen biết gì đến Đức Giêsu, chỉ nghe người ta nói về Ngài. Từ một người giàu có và quyền thế trong dân, lẽ ra ông bám víu vào thế gian để đảm bảo cho con gái ông khỏi lưỡi hái tử thần. Tuy nhiên, những thứ vật chất và quyền hành trần thế đã không làm cho điều ông mong muốn được thành hiện thực, vì thế, ông đã can đảm, dốc hết lòng tin vào Đấng xa lạ chưa một lần gặp mà chỉ nghe đồn thổi về Ngài. Nhưng khi gặp, ông đã quỳ mọp dưới chân và năn nỉ Ngài đến chữa lành bệnh tật cho con gái ông.
Gặp được Đức Giêsu, ông giống như cá gặp nước, bởi vì từ lòng dạ xót thương, Đức Giêsu đã an ủi ông: “Đừng sợ, cứ tin“. Nói xong, Ngài đã đích thân tới tận nơi để an ủi những người còn sống: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” và ngay lập tức, Ngài tiến lại gần đứa trẻ và nói: “Này bé, Thầy truyền cho con: chỗi dậy đi!”
Hai phép lạ khởi đi từ lòng tin. Hai phép lạ kết tụ ở sự sống được trao ban.
Sự sống thể lý nơi người đàn bà mất dần bởi chứng loạn kinh tới 12 năm. Khi chữa lành, Đức Giêsu đã trả lại cho bà sự sống sung mãn thủa ban đầu.
Còn đứa trẻ con ông trưởng Hội Đường thì sự sống đã tắt, nhưng Đức Giêsu đã làm cho sự sống ấy được hồi sinh.
Như vậy, phép lạ có được là do lòng tin từ phía con người và do quyền năng của Thiên Chúa cũng như lòng xót thương của Ngài đúng như lời Kinh Thánh đã chép: “Không phải lá cây, chẳng phải thuốc đắp đã chữa họ lành, nhưng chính Lời Ngài chữa lành tất cả” (Kn 16,12).
2. Niềm hy vọng của chúng ta
Lược qua những phép lạ trong cuộc đời sứ vụ Đấng Cứu Thế, nhất là hai phép lạ được thánh Máccô nhắc tới trong bài Tin Mừng hôm nay đã đem lại cho chúng ta bài học quý giá, đó là:
Nếu sự giàu có, quyền hành của ông trưởng Hội Đường đã không thể tự cứu con của mình khỏi chết, hay sự bất lực không thể diễn tả nổi của người phụ nữ đã tìm thầy chạy thuốc suốt 12 năm, tốn biết bao tiền, mất biết bao công sức… đã dẫn đến một đức tin trưởng thành và can trường vào sự hiện diện của Đấng có thể cứu chữa cả xác và hồn.
Thì đức tin của mỗi chúng ta cũng vậy. Nhiều lúc, mỗi người cũng cảm thấy trống trải khi bám víu vào sự giàu có hay quyền cao chức trọng hoặc cậy vào những khả năng của con người mà phớt lờ Thiên Chúa, Vị Thầy Thuốc tuyệt hảo của cuộc sống để bám víu vào nỗ lực trần gian. Những lúc như thế, ấy là chúng ta đã bị phai nhạt đức tin và không xác tín vào Thiên Chúa nữa. Noi gương người đàn bà và ông trưởng Hội Đường, chúng ta hãy tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng của Thiên Chúa, Ngài sẽ ra tay cứu chữa và trao ban cho chúng ta sự sống thần linh. Nói cách khác, bí quyết được chữa lành chính là đức tin. Chìa khóa này sẽ mở được cánh cửa của lòng thương xót Chúa để ta được đắm chìm trong ân sủng và chính sự sống thần linh của Thiên Chúa.
Khi tin tưởng vào Ngài, chúng ta sẽ nhận ra Chúa không thờ ơ trước lời kêu cầu đầy lòng tin của người bệnh và không ngừng quan phòng cho chúng ta: “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. […] Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Salômôn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy.Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em!” (x. Mt 6, 25-30).
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giải thoát chúng con khỏi những căn bệnh thể lý đang dằn vặt thể xác chúng con, đồng thời, xin Chúa cũng chữa lành những căn bệnh tự kiêu, tự mãn, tự ti, tự phụ của chúng con, để thân xác và tâm hồn chúng con được lành mạnh. Amen.
Trong thời cận đại và hiện tại, với những phát minh tân kì về khoa học, y khoa và kĩ thuật TN 13-B109
Trong thời cận đại và hiện tại, với những phát minh tân kì về khoa học, y khoa và kĩ thuật, loài người chứng kiến những việc chữa trị bệnh tật với những cuộc giải phẫu thành công ngoài sức tưởng tượng.
Mặc dầu thế, có những bệnh tật mà y học tân tiến cũng đành bó tay. Lại có những trường hợp khác mà người ta được khỏi bệnh thì y học cũng không cắt nghĩa được tại sao, mà chỉ thấy rằng người ta được khỏi bệnh mà không phải do cách chữa trị của bác sĩ, cũng không phải do thuốc chữa. Tại Lộ Ðức, có toán bác sĩ quốc tế gồm cà người không công giáo đã khám nghiệm, cứu xét và đi đến kết luận rằng có những bệnh nhân được khỏi bệnh một cách ngoại thường.
Phúc âm hôm nay ghi lại một dấu chỉ về quyền năng của Thiên Chúa được thực hiện cho người có đức tin quả quyết và vững mạnh. Ðó là người đàn bà mắc bệnh xuất huyết đã mười hai năm. Bà ta tốn nhiều tiền của đi tìm thầy chạy thuốc mà bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Do đó bà ao ước muốn được gặp Ðức Giêsu để xin Người một ân huệ là cho bà được khỏi bệnh. Không may là phong tục người Do thái thời bấy giờ không cho phép đàn ông nói chuyện với đàn bà nơi công cộng. Cũng theo phong tục Do thái thì người đàn bà không được chạm đến người đàn ông nơi công chúng giống như quan niệm: Nam nữ thụ thụ bất thân của Khổng giáo xưa bên Trung Hoa, có ảnh hưởng sang Viêt Nam vậy.
Còn theo luật Lêvi thì khi người đàn bà trong lúc có kinh nguyệt mà đụng chạm đến ai hay ai đụng chạm đến người đàn bà có kinh thì người đó sẽ ra ô uế (Lv 15:19-28). Thời đó chắc người ta chưa chế tạo băng vệ sinh cho các bà dùng khi có kinh nguyệt. Như vậy bệnh xuất huyết kéo dài mười hai năm của ngưởi đàn bà trong Phúc âm gây ra cả một vấn đề bất tiện và khó khăn cho việc giữ vệ sinh như thế nào! Do đó ước muốn được chửa khỏi càng phải gia tăng cường độ vì bà có thể sợ người đời chê bai là hôi hám khi huyết dính vào quần áo. Vậy thì bà ta phải hành xử thế nào trong trường hợp này để đối diện với Ðức Giêsu?
Ðể tránh việc lỗi luật, bà ta chỉ dám động đến gấu áo của Ðức Giêsu mà thôi. Bà tin rằng chỉ cần động đến gấu áo của Người thì bà cũng được khỏi bệnh. Nếu nhóm người Pharisêu hay bới lông tìm vết có tố cáo bà là đụng đến Đức Giêsu, thì bà có thể cãi hoặc nhờ luật sư cãi phăng đi, là bà đâu có đụng đến thân thể của Đức Giêsu đâu, mà chỉ đụng đến gấu áo của Người mà thôi. Quả thật, đức tin của bà đã cứu chữa bà. Ðức Giêsu đã cảm thấy sức chữa trị xuất phát từ thân mình Người. Người quan tâm đến bà, mà không sợ dư luận quần chúng, nên mới hỏi thử: Ai đã động đến tôi (Mc 5:31). Ðức Giêsu đòi bà phải đối diện với thực chất của việc bà làm. Sau khi bà kể tất cả sự thật, Chúa liền chữa bà khỏi bệnh và còn cho bà được bình an (Mc 5:34).
Ðức tin còn đem đến phép lạ cho người chết sống lại. Viên trưởng hội đường Do thái trong Phúc âm hôm nay cũng đã bầy tỏ đức tin vào quyền năng Ðức Giêsu trong khi nhiều nhà lãnh đạo Do thái nghi ngờ và bất tín Người. Ông bất chấp những nhà lãnh đạo Do thái khác nghĩ thế nào về ông khi ông đến xin Ðức Giêsu một ân huệ. Ông chỉ xin Ðức Giêsu đặt tay trên con gái ông đang hấp hối cho được sống lại. Ðức tin của ông khiến Ðức Giêsu làm phép lạ phục hồi sự sống cho con gái ông: Này bé, Thầy truyền cho con: chỗi dậy đi (Mc 5:41).
Phép lạ vẫn xẩy ra hằng ngày trong thời đại ta đang sống. Chỉ cần dùng con mắt đức tin là ta có thể nhận ra và chứng kiến phép lạ. Hằng ngày ta còn có cơ hội để bầy tỏ đức tin vào quyền năng Chúa, xin Người cứu chữa. Ðiều mà ta cần có là lời cầu xin. Phong trào Thánh linh trong Giáo hội đời nay đã giúp khơi dậy ước muốn cầu nguyện, không hẳn là cầu nguyện xin cho được khỏi bệnh, mà còn cầu nguyện để tạ tội, tạ ơn và ca tụng Thiên Chúa. Và lời cầu nguyện của ta phải đi đôi với đức tin, vì nếu cầu nguyện mà không có đức tin, thì lời cầu nguyện của ta chưa chắc gì được Chúa trả lời. Bằng chứng được ghi lại trong Phúc âm là khi người Pharisêu xin Ðức Giêsu một dấu lạ, Người từ chối việc làm phép lạ vì họ không có lòng tin (Mc 6:5,6) hay chỉ muốn thử Người (Mc 8:11-12). Trái lại ta thấy đức tin của người đàn bà loạn huyết và của viên trưởng hội đường là một đức tin quả quyết, vững mạnh, đơn sơ, chân thành và khiêm tốn. Phúc âm ghi lại: Ông ta sụp xuống dưới chân Người (Mc 5:22); còn bà đến phủ phục trước mặt Người (Mc 5:33). Là người, ta cũng cảm thấy khó từ chối khi có ai kêu cầu đến ta một cách khẩn khoản và khiêm tốn như vậy.
Bất cứ khi nào Chúa làm phép lạ đều do người ta xin với lòng tin. Nếu không có đức tin, sẽ không có phép lạ, cũng không được ơn chữa lành. Tất cả những người được thụ hưởng phép lạ của Chúa đều có một điểm giống nhau là họ được thúc đẩy bởi lòng tin vào quyền năng và lòng thương xót của Chúa.
Ðôi khi ta có thể có thái độ như người Pharisêu, nghĩa là ta ngồi đó há miệng chờ ho, đợi cho Chúa làm phép lạ, trước khi ta có thể đặt tin tưởng vào Chúa. Còn Chúa thì lại muốn ta bầy tỏ niềm tin trước đã, trước khi Người hành động. Chúa biết nhu cầu thiếu thốn của mỗi người. Tuy nhiên nếu ta đóng cửa nhà tâm hồn, thì Chúa cũng đành chịu, vì Chúa đã ban cho loài người được tự do lựa chọn và Chúa tôn trọng tự do của loài người.
Nói như vậy không có nghĩa là khi mắc bệnh, người tín hữu không cần đi bác sĩ, không cần uống thuốc chữa trị. Việc đi bác sĩ hay vào nhà thương nếu cần, ta vẫn tiến hành, nhưng đồng thời ta cũng vẫn cầu xin cho được ơn khỏi bệnh. Cách thế Chúa chữa trị bệnh tật loài người thông thường là dùng bác sĩ và thuốc men để chữa trị. Ðôi khi Chúa không cần dùng đến bác sĩ hay thuốc chữa, nhưng là chữa trực tiếp. Cách thế chữa trị đó được gọi là phép lạ. Có một vài giáo phái Kitô giáo chủ trương không đi bác sĩ và uống thuốc. Họ cho rằng đi bác sĩ và uống thuốc là làm giảm lòng tin vào quyền năng của Chúa. Họ không biết rằng Chúa cũng dùng bác sĩ và thuốc men để chữa trị bệnh tật loài người. Như vậy không có việc xung khắc giữa việc đi bác sĩ, uống thuốc và lời cầu nguyện cho được khỏi bệnh. Cả hai phương pháp: đi bác sĩ/uống thuốc và cầu nguyện cho được khỏi bệnh đều bổ túc cho nhau để phục hồi sức khoẻ.
Tuy nhiên có những trường hợp người ta vừa đi bác sĩ, vừa uống thuốc, vừa cầu nguyện với đầy lòng tin tưởng mà bệnh vẫn không được khỏi. Như vậy thì phải giải thích thế nào? Thưa rằng khi Ðức Giêsu còn tại thế, Người có chữa bệnh tật của một số ít người, nhưng mục đích chính của việc Ðức Giêsu xuống thế là để chữa bệnh tật linh hồn của loài người. Ðược chữa trị khỏi bệnh tật phần xác là một niềm vui và là một hồng ân, ta cần tạ ơn Chúa. Tuy nhiên ta cũng phải nhận thức rằng mỗi người phải đi qua tiến trình của kiếp sống con người: sinh, lão, bệnh, tử, để ta có thể chấp nhận những giai đoạn cuối của cuộc đời. Trước khi Ðức Giêsu xuống thế cứu chuộc, thì tác giả sách Khôn ngoan đã nhận ra vì tội ganh tị của quỉ dữ, mà sự chết về phần linh hồn đã lọt vào thế gian (Kn 1:24). Do đó Ðức Giêsu đến để phục hồi sự sống cho hồn thiêng loài người.
Lời cầu nguyện xin cho được ơn giải thoát khỏi bệnh tật đau khổ: Lậy Chúa Giêsu nhân lành hay thương xót! Cũng như Chúa đã chữa trị bệnh tật của người đàn bà loạn huyết và cho con gái viên trưởng hội đường được sống lại vì họ bầy tỏ lòng tin xác tín vào Chúa. Xin Chúa cũng chữa trị bệnh tật của những người kêu cầu đến Chúa, gồm cả chính con với tất cả lòng chân thành, khiêm tốn và tin tưởng để chúng con được tự do phụng thờ Chúa với lòng an vui thanh thoả. Amen.
Một lần kia, trong cuộc phỏng vấn trên truyền hình, Mẹ Têrêxa Calcutta phải đối diện với TN 13-B110
Một lần kia, trong cuộc phỏng vấn trên truyền hình, Mẹ Têrêxa Calcutta phải đối diện với một phóng viên không mấy thiện cảm đối với Giáo Hội. Mẹ Têrêxa nói với ông: “Tôi nghĩ rằng ông nên có đức tin”. Người phóng viên hỏi: “Tôi phải làm gì để có đức tin?” Mẹ Têrêxa đáp: “Ông hãy cầu nguyện”. Ông chống chế: “Tôi không biết và không thể cầu nguyện”. Mẹ Têrêxa dịu dàng nói: “Tôi sẽ cầu nguyện cho ông. Nhưng về phần ông, ông hãy cố gắng mỉm cười với những người chung quanh ông. Vì một nụ cười có thể đánh động được tâm hồn người khác. Một nụ cười có thể cho chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa hiện diện trong cuộc sống chúng ta”.
Đúng thế, những hành động cụ thể thường hùng hồn hơn, có khả năng thuyết phục hơn những lời nói suông. Trong bài Tin Mừng, người phụ nữ bị hoại huyết được chữa lành hoàn toàn do lòng thương xót Chúa. Người phụ nữ bệnh hoạn này theo luật Môisê, là một người ô uế, không được ra trước công chúng. Ấy thế mà hôm nay dám ra trước đám đông, lách qua đám đông rồi tiến đến gần Chúa Giêsu. Vì quá tin vào Chúa, bà ta đã biểu lộ đức tin của mình, dù có khó khắn cách mấy, bao lâu đến mấy, bất chấp luật cấm phiền phức và khắt khe, người ta xua đuổi khinh chế bà đến với Chúa Giêsu và chỉ cần chạm đến Chúa là chắc chắn được khỏi bệnh. Đức tin của bà quá sống động, cực kỳ vững mạnh cho nên Chúa Giêsu đã xác nhận và ban thưởng cho bà: “Lòng tin của con đã cứu chữa con”.
Rồi đến ông Gia-ia có đứa con gái mắc bệnh nặng thập tử nhất sinh, ông đến xin Chúa cứu chữa con ông. Lòng tin mạnh mẽ của ông được bộc lộ ra qua tất cả con người ông, nghĩa là qua các cử chỉ cũng như lời yêu cầu của ông. Thực vậy, khi đến trước mặt Chúa, ông quì sụp dưới chân Chúa, đây là một cử chỉ dành riêng cho Thiên Chúa trong Cựu ước, cử chỉ này chứng tỏ ông tin và nhận ra Chúa là Đấng Thiên Sai. Cử chỉ thứ hai là ông xin Chúa đến đặt tay trên cháu, để nó được cứu thoát và được sống. Nhận thấy lòng tin mạnh mẽ của ông, Chúa đi tới nhà ông và cho con gái ông sống lại.
Chúng ta hôm nay đã có đức tin, chúng ta đã tin Chúa Giêsu nhờ Phép Rửa Tội. Điều quan trọng là sống lòng tin như thế nào trong cuộc sống hôm nay. Khi vui và hạnh phúc hay khi gặp thử thách, hoạn nạn, đau khổ tinh thần hay thể xác thì sao đây?
Niềm tin, lòng tin hay đức tin thì không thể nhìn thấy, bởi vì nó không phải là vật chất nhưng nó là một cái gì đó có thật, nhưng thuộc về tinh thần. Người ta không thể thấy được nó nhưng người ta có thể biết nó có nhờ khi nó biểu lộ qua hành động bên ngoài. Cũng như không ai nhìn thấy lòng tin của ông Gia-ia và của người đàn bà băng huyết, nhưng qua thái độ, lời nói và cử chỉ của họ đã biểu lộ lòng tin của họ. Cũng vậy, chúng ta có đức tin hay không, chẳng ai biết, nhưng khi thấy chúng ta đi lễ, thấy chúng ta đi vào nhà thờ nghiêm trang, người ta có thể biết được chúng ta là người có đức tin. Như thế, một điều chúng ta có thể ghi nhận là: đức tin chỉ ở trong lòng thôi thì chưa đủ mà còn phải biểu lộ ra bên ngoài bằng hành động. Cho nên, Thánh Giacôbê nói: “Ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2,14.17). Còn thần học gia Arialdo Beni nói rằng: “Đức tin thật sự là đức tin dấn thân. Nó được thể hiện trong chiều kích qui Thiên Chúa và qui tha nhân. Chính trong cuộc sống thực tiễn và trong tương quan với tha nhân mà đức tin trở thành sống động”.
Vì thế, chúng ta cần phải thể hiện đức tin mạnh mẽ qua những hành động như ông Gia-ia vàngười phụ nữ hiên ngang mà không hổ thẹn, vững chắc chứ không hồ nghi, dẻo dai và can đảm nhưng đầy tin tưởng trong tâm hồn, thế là đủ. Chúa cũng đang chờ đợi ở chúng ta những tâm tình như thế trong từng biến cố, hoàn cảnh trong cuộc sống. Đó là cách thẩm định đức tin của chúng ta. Niềm tin ấy, như Mẹ Têrêxa Calcutta đã nói: “Phải được biểu lộ và nuôi dưỡng, dù chỉ bằng một nụ cười hay một ánh mắt cảm thông”.
Cho nên, trong bài đọc 2 Thánh Phaolô dạy chúng ta phải trổi vượt về mọi mặt: về đức tin, lời giảng, sự hiểu biết, lòng nhiệt thành trong mọi lãnh vực, và về lòng bác ái. Ước gì, Lời Chúa hôm nay xin cho mỗi người chúng ta luôn thể hiện đức tin của mình một cách mạnh mẽ qua việc sống thương người: Cho kẻ đói ăn. Cho kẻ khát uống. Cho kẻ rách rưới ăn mặc. Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc. Chôn xác kẻ chết. Rồi, lấy lời lành mà khuyên người. Mở dậy kẻ mê muội. Yên ủi kẻ âu lo. Răn bảo kẻ có tội. Tha kẻ dể ta. Nhịn kẻ mất lòng ta. Cầu cho kẻ sống và kẻ chết. Amen.
Cái gì cũng có hệ lụy riêng. Có khởi đầu thì có kết thúc; có sinh thì có tử; có tội thì bị TN 13-B111
Cái gì cũng có hệ lụy riêng. Có khởi đầu thì có kết thúc; có sinh thì có tử; có tội thì bị phạt; có công thì được thưởng; có nguyên nhân thì có kết quả hoặc hậu quả, gọi là quy luật nhân quả. Và còn nhiều hệ lụy khác. Đó là những hệ lụy tất yếu của cuộc sống.
Thiên Chúa là Chúa của sự sống, Ngài chỉ có những ước muốn thánh thiện, và trao ban mọi điều tốt lành cho mọi người: “Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong” (Kn 1:13). Tại sao? “Vì Ngài đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu, mọi loài thọ tạo trên thế giới đều hữu ích cho sinh linh, chẳng loài nào mang độc chất huỷ hoại. Âm phủ không thống trị địa cầu” (Kn 1:14). Thật vậy, “đức công chính trường sinh bất tử” (Kn 1:13-15).
Ngài tốt lành nên Ngài cũng muốn chia sẻ những điều đó cho chúng ta: “Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được Ngài dựng nên làm hình ảnh của bản tính Ngài” (Kn 2:23). Người ta tạo ra cái kia hay vật nọ, nhưng không ai làm ra cái gì giống mình. Vậy mà Thiên Chúa đã tạo nên chúng ta giống hình ảnh Ngài, và còn phú cho bản chất thiện hảo: Nhân chi sơ tính bổn thiện. Sinh ra ai cũng tốt lành, “nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian” (Kn 2:24a), và chắc chắn rằng “những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết” (Kn 2:24b). Chúng ta đã lây nhiễm điều xấu, càng sống lâu càng tội nhiều, thế nên chúng ta luôn được “cảnh báo” bằng sự chết, vậy mà vẫn không ai sợ. Phàm nhân quá bướng bỉnh và ngang tàng. Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ!
Dù vậy, Thiên Chúa vẫn muốn chúng ta cải tà quy chánh, trở nên những người thực sự tốt lành: “Hãy hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Nhưng chúng ta vẫn cố chấp, ngang nhiên nghe lời xúi giục của ba thù (xác thịt, thế gian, ma quỷ) mà phạm tội. Chính chúng ta là “đại thù đệ nhất” của chính mình. Vậy mà Thiên Chúa vẫn xót thương, không nỡ làm ngơ, nên Ngài lại sai Con Một Giêsu nhập thể và chịu chết để cứu độ chúng ta. Còn hạnh phúc nào hơn! Vì thế, chúng ta phải thành tâm thân thưa: “Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt, không để quân thù đắc chí nhạo cười con” (Tv 30:2).
“Ngài đã kéo chúng ta lên từ âm phủ, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống” (Tv 30:4). Tác giả Thánh vịnh cảm nghiệm như vậy nên kêu gọi: “Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa, cảm tạ thánh danh Ngài” (Tv 30: (Tv 30:5). Không cảm tạ Ngài sao được, vì Ngài quá tốt lành, vượt ngoài tầm hiểu của phàm nhân chúng ta: “Ngài nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời. Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng hò reo” (Tv 30:6). Không vì lòng thương xót của Thiên Chúa thì chúng ta đừng hòng được gì. Vả lại, chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta tôn sùng Thánh Tâm Ngài van xin Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Ngài đã “bật đèn xanh”, thế nên chúng ta đừng cố chấp và cũng đừng ngần ngại cầu xin: “Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con, lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ” (Tv 30:11). Khúc ai ca được Chúa đổi thành vũ điệu hoan ca, và cởi áo sô mà mặc cho chúng ta lễ phục huy hoàng. Vì thế, chúng ta không thể nín lặng mà không ca ngợi Ngài: “Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu” (Tv 30:13), đồng thời loan truyền hồng ân thương xót ấy cho mọi người cùng nhận biết.
Kinh nghiệm đầy mình, Thánh Phaolô khuyên: “Cũng như anh em từng trổi vượt về mọi mặt: về đức tin, lời giảng, sự hiểu biết, lòng nhiệt thành trong mọi lãnh vực, và về lòng bác ái mà anh em đã học được nơi chúng tôi, anh em cũng phải trổi vượt về lòng quảng đại” (2 Cr 8:7). Tốt về lĩnh vực này thì cũng cần tốt về lĩnh vực kia. Có “máu xấu” này cũng dễ “nhiễm” thói xấu khác. Mắc bệnh này rồi sẽ dễ mắc bệnh khác. Người tốt càng thêm tốt, người xấu càng thêm xấu. Cũng là hệ lụy tất yếu vậy. Cuộc sống đã và đang cho thấy ai mê đắm cái gì thì sẽ chết vì chính cái đó. Sinh nghề, tử nghiệp. Để cứu vãn, không gì hơn là phải tin theo Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng đã có lòng quảng đại vô cùng. Thánh Phaolô giải thích: “Ngài vốn giàu sang phú quý nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2 Cr 8:9). Thật lạ!
Thánh Phaolô nói cặn kẽ hơn: “Vấn đề không phải là bắt anh em sống eo hẹp để cho người khác bớt nghèo khổ. Điều cần thiết là phải có sự đồng đều. Trong hoàn cảnh hiện tại, anh em có được dư giả, là để giúp đỡ những người đang lâm cảnh túng thiếu, để rồi khi được dư giả, họ cũng sẽ giúp đỡ anh em, lúc anh em lâm cảnh túng thiếu. Như thế, sẽ có sự đồng đều” (2 Cr 8:13-14), y như lời đã chép: “Kẻ được nhiều thì không dư, mà người được ít thì không thiếu” (2 Cr 8:15). Đó mới là yêu thương thực sự, yêu thương triệt để, không yêu thương bằng lời nói suông mà bằng cả hành động. Hành động mới đủ sức thuyết phục và “nói” to hơn ngôn ngữ. Thiên Chúa rất thực tế khi Ngài đặt vấn đề: “Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá?” (Mt 7:9).
Chúa Giêsu thực tế trong từng lời nói, cử chỉ và hành động. Thánh sử Máccô kể rất tỉ mỉ, rõ ràng, dễ tửng tượng ra các diễn biến từng chi tiết: Một lần nọ, Đức Giêsu xuống thuyền trở sang bờ bên kia Biển Hồ. Một đám rất đông tụ lại quanh Ngài. Chợt có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giêsu, ông ta sụp xuống dưới chân Ngài và khẩn khoản nài xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống” (Mc 5:23). Chúa Giêsu đang vội, không rảnh, nhưng Ngài không do dự, không chần chừ, mà liền đi theo ông.
Khi đó, đám đông chen lấn đi theo xem sự thể ra sao. Trong đám đông đó có một bà kia bị băng huyết đã 12 năm, bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại sản mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác. Bà nghe đồn về Đức Giêsu, bà cố lách qua đám đông, tiến đến phía sau Ngài, và sờ vào áo của Ngài, vì bà tự nhủ: “Tôi mà sờ được vào áo Ngài thôi, là sẽ được cứu” (Mc 5:28). Lạ thay, máu cầm lại tức khắc, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi ngay chứng băng huyết. Lúc đó, Đức Giêsu thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra, Ngài liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: “Ai đã sờ vào áo tôi?” (Mc 5:30).
Nghe Thầy mình hỏi vậy, chắc là các môn đệ nghĩ Thầy mình quá lẩm cẩm và ngây ngô hết sức, nên họ thưa: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: Ai đã sờ vào tôi?” (Mc 5:31). Hỏi thế thì… “bó tay”. Nhưng Đức Giêsu vẫn ngó quanh để nhìn người phụ nữ đã làm điều đó khiến bà này sợ phát run lên vì biết cái gì đã xảy đến cho mình. Biết không thể giấu được, bà đến phủ phục trước mặt Ngài và nói hết sự thật với Ngài. Ngài nhẹ lời: “Này bà, lòng tin của bà đã cứu chữa bà. Bà hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (Mc 5:34). Mắc chứng nan y mà được khỏi hẳn. Bà ta sướng rơn, sướng như người về từ cõi chết!
Chúa Giêsu luôn đề cao đức tin. Ngài không nói Ngài chữa lành mà chính niềm tin của chúng ta khả dĩ chữa lành chúng ta – cả tâm bệnh và thể bệnh.
Đang lúc đó, có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo: “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?” (Mc 5:35). Nghe vậy, Đức Giêsu liền trấn an ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5:36). Một lần nữa, Chúa Giêsu lại nhấn mạnh đức tin. Rồi Ngài không cho ai đi theo mình trừ ông Phêrô, ông Giacôbê và em ông này là ông Gioan. Đến nhà ông trưởng hội đường, Đức Giêsu thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ. Ngài bước vào nhà và bảo họ: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” (Mc 5:39). Chết mà bảo ngủ. Quái lạ! Ông Giêsu này “tâm thần” chắc! Thế nên người ta xầm xì chế nhạo Ngài.
Ngài bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Ngài vào nơi nó đang nằm. Ngài cầm lấy tay nó và nói: “Ta-li-tha kum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi!” (Mc 5:41). Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được. Ai nấy đều kinh ngạc sững sờ. Họ câm họng, hết dám xào xáo. Đức Giêsu không trách họ mà chỉ nghiêm cấm họ không được để một ai biết việc ấy. Ngài còn thực tế đến nỗi bảo người nhà cho con bé ăn.
Lạy Chúa, chúng con thật đắc tội với Ngài ngay từ những ý nghĩ hão huyền của chúng con. Cúi xin Ngài thương xót mà đại lượng ân xá. Xin Chúa mở lòng trí chúng con để chúng con cũng biết sống thực tế như Ngài, biết sẵn sàng hành động theo Ý Ngài và biết cương quyết khước từ những gì trái Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
Bệnh tật và chết là hai thực tại của cuộc sống. Không ai sống mạnh khoẻ suốt đời, ít nhiều TN 13-B112
Bệnh tật và chết là hai thực tại của cuộc sống. Không ai sống mạnh khoẻ suốt đời, ít nhiều gì cũng có bệnh. Có sinh tất có tử, không ai có thể tránh khỏi. Bệnh thể lí dễ nhận ra bởi nó xuất hiện trên khuôn mặt, có thể dò, đo, hỏi, tìm biết nguyên nhân gây mầm bệnh. Bệnh về tâm linh khó nhận ra bởi bệnh tâm linh tiềm ẩn bên trong nên không dễ nhận bằng quan sát. Thinh lặng, cầu nguyện và lắng nghe tiếng lòng là chìa khoá mở tìm kiếm bệnh tâm linh. Cuộc sống nào cũng cần đời sống tâm linh. Không tin Chúa thì tin thần thánh. Chối bỏ thần thánh thì tin vào con người, tin chủ thuyết, trường phái hay chế độ, vì thế phát sinh ra nhiều trường phái linh đạo khác nhau. Phổ thông và có nhiều thành viên hơn cả là trường phái linh đạo đòi ít cố gắng, vừa nhàn lại dễ dãi. Đúng với tên gọi của nó, trường phái linh đạo dễ dãi giúp cuộc sống an bình trong hoàn cảnh dễ dãi. Gặp hoàn cảnh khó khăn trường phái linh đạo dễ dãi không giúp giải quyết vấn nạn cuộc sống. Đây chính là kinh nghiệm của người phụ nữ bệnh loạn huyết và cũng là kinh nghiệm của người cha thương con khi con ông đối diện với cái chết. Cả hai cùng ra đi, dời khỏi nơi nương náu an toàn trước đây đến gặp Đức Kitô. Cả hai xin được cứu giúp và Đức Kitô đã ban cho cả hai được toại nguyện, thoả lòng. Khiêm nhường và chân thành là con đường dẫn đến Đức Kitô.
Cả hai đều đặt tin tưởng vào bác sĩ và cải hai đều nhận biết chính họ cũng có giới hạn. Người phụ nữ theo bác sĩ lòng, hết tiền, hết tài sản, không hết bệnh, đã vậy bệnh còn nặng thêm. Người con gái ông trưởng hội đường cũng không may mắn hơn, bệnh không khỏi, bác sĩ lắc đầu chào thua. Phó mặc em bé cho cái chết tiến gần. Cuối cùng cả hai dấn thân, ra đi, không còn người trần gian nào giúp được nên họ đến gặp Con Thiên Chúa, Đức Kitô. Cả hai đều biểu lộ lòng tin một cách đáng thán phục, đáng ca tụng. Mỗi người biểu lộ lòng tin của mình một cách khác nhau. Người phụ nữ tin là sờ vào gấu áo Đức Kitô sẽ khỏi bệnh. Ông trưởng hội đường không phải chỉ tin 'còn nước, còn tát' theo kiểu nói bình dân. Tin buồn đưa đến là con ông đã chết. Dẫu thế ông vẫn tin Đức Kitô là nguồn ban sự sống. Sự sống Ngài ban làm cho kẻ chết sống lại.
Người phụ nữ thầm cầu mong nếu không được chạm đến Ngài, chỉ cần sờ vào gấu áo Ngài cũng sẽ khỏi bệnh và bà ta được toại nguyện. Sờ vào gấu áo Đức Kitô bà cảm nhận ơn chữa lành tại chỗ. Đức Kitô biết có người âm thầm sờ gấu áo bởi Ngài biết ân sủng lan toả ra nên Ngài hỏi các môn đệ 'ai đã sờ gấu áo tôi' c.30. Các ông ngạc nhiên thưa 'Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: 'ai đã sờ vào tôi' c. 31. Biết không thể giữ kín điều đã làm người phụ nữ sợ hãi đến trước mặt Đức Kitô quì gối nhận chính bà đã sờ gấu áo và xin ơn khỏi bệnh. Đức Kitô nói với bà bởi do lòng tin bà được nguồn sống. Bà cùng lúc nhận được ba ơn Chúa ban đó là ơn chữa lành, ơn bình an và ơn giải thoát c.34.
Ông trưởng hội đường còn đang nói chuyện với Đức Kitô thì gia nhân đến thưa: 'Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa c.35. Đức Kitô an ủi ông: 'Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi' c.36. Vào đến nhà Đức Kitô nói với người đang khóc: 'Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy c.39' và người ta chế nhạo Người. Đức Kitô cầm tay kẻ chết và nguồn sống từ Ngài truyền sang em bé. Em đứng dậy đi lại bình thường. Ngày nay cũng có người chế nhạo khi Kitô hữu tin là Thiên Chúa tạo dựng đất trời, điều khiển mọi sinh hoạt trong trời đất và ban cho chúng sự sống. Chế nhạo lòng tin của Kitô hữu để tin vào khám phá tìm kiếm của khối óc con người, mệnh danh là khoa học. Thủ hỏi nếu Thiên Chúa không tạo dựng vũ trụ khoa học có gì để nghiên cứu không? Chắc chắn môn khoa học đã không ra đời.
Chữa bệnh cho người phụ nữ và cho con gái ông trưởng hội đường cho thấy Đức Kitô không loại trừ bất cứ ai, ân sủng Ngài ban cho bất cứ ai thành tâm. Ân sủng Chúa vượt biên giới, mầu da, sắc tộc và ngay cả chủ thuyết. Những ai thành tâm đến với Ngài đều không phải trở về tay không nhưng nhận được nhiều hơn điều mong ước.
”Đông đảo dân chúng tụ lại quanh Người. Lúc đó Người đang ở trên bờ biển hồ. Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giêsu, ông ta phủ phục dưới chân Người, và năn nỉ: "Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đặt tay lên cháu, để nó qua khỏi và được sống". Đức Giêsu liền ra đi với ông. Đông đảo dân chúng đi theo và chen lấn Người”.
Tôi bắt đầu đọc lại đoạn này, tả một cảnh rất sinh động. Thánh Maccô ghi lại những lời rao TN 13-B113
Tôi bắt đầu đọc lại đoạn này, tả một cảnh rất sinh động. Thánh Maccô ghi lại những lời rao giảng của Thánh Phêrô, một con người thực tế và có óc quan sát đúng đắn. Tôi tưởng tượng khung cảnh; tôi nhìn ngắm con người, tôi ghi nhận những sự kiện như trong một phim xi nê, hay hơn nữa tôi tưởng tượng tôi là một trong những người tham dự, đang ở giữa đám đông.
Có hai chi tiết đáng lưu ý: ông Giairô "khẩn khoản nài xin, khá lâu. Đức Giêsu bề ngoài không đáp tiếng nào, nhưng liền ra đi với ông ấy" và chúng ta thấy hai người cùng sánh vai lên đường với đám đông.
Trong tiếng Hêbdrơ tên Giairô (Yair) có nghĩa là "người soi sáng" hay là "người đánh thức".
Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, bao năm khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác. Được nghe đồn về Đức Giêsu, bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người.
Thánh Maccô nhấn mạnh đến tình trạng tuyệt vọng của người đàn bà này: Bà đã đau đớn “rất nhiều”, chữa trị "lâu rồi", hao tổn "cả tài sản" mà "không thuyên giảm chút nào"; bệnh tình lại có phần "tệ hơn". Điều này muốn nhấn mạnh cho chúng ta rằng, Đức Giêsu có một quyền lực mà không một phương thế nhân loại nào có thế vượt qua được. Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một đức tin sâu xa, ngõ hầu chúng con không bao giờ tuyệt vọng!
Vì bà tự nhủ: "Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ khỏi".
Theo tâm thức người Do Thái thời đó, người đàn bà này bị coi như "ô nhơ" theo luật Môisen (Lv 15,25) và bà có thể làm cho những người khác cũng bị nhơ chỉ vì tiếp xúc với bà. Tôi cố hình dung ra thái độ của người đàn bà đáng thương này, vừa xấu hổ vừa e sợ: Bà sờ vào áo choàng của Đức Giêsu và cảm nghĩ như mình đang làm một việc bị cấm. Người có thể khước từ sự đụng chạm nhơ bẩn này. Và nếu đám đông biết điều này, mọi người sẽ gớm giếc tránh xa bà.
Và tôi ngắm nhìn Đức Giêsu, Đấng "đã đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì bị hư mất". Người đón tiếp những kẻ nghèo nhất. Không có một sự khốn khổ nào, dù dấu kín, xấu hổ đến đâu mà bị Đức Giêsu xua đuổi. Không có một luật nào đứng vững trước Đức Giêsu, khi cần phải cứu một người.
Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi thói quen câu nệ lề luật, khỏi mọi sợ hãi và xấu hổ.
Tức khắc máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Ngay lúc đó, Đức Giêsu thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra. Người liền quay lại đám đông mà hỏi: "Ai sờ vào áo tôi vậy?" Các môn đệ thưa: Thầy coi dân chúng chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: "Ai đụng vào tôi?" Đức Giêsu ngó quanh để xem người phụ nữ nào đã làm điều đó".
Chúa không muốn chỉ tiếp xúc với đám đông vô danh.
Người muốn có một sự tiếp xúc cá biệt, Người cũng muốn cho người đàn bà vượt lên trên sự tin tưởng mang tính ma thuật dị đoan ("nếu tôi sờ được áo Người, tôi sẽ được lành mạnh"), để bước vào một đức tin đích thực là phải nhận biết con người Đức Giêsu - Chúng ta nên nhớ rằng, Đức Giêsu là một nhà sư phạm thật tài ba: Người lưu ý đến đức tin chưa hoàn hảo và hồn nhiên, nhưng Người cũng muốn chúng ta đạt đến một đục tin trưởng thành và hữu lý hơn.
Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì Chúa thương yêu con với thực trạng của con. Xin Chúa giúp chúng con trở nên như Chúa muốn.
Bà này sợ phát run lên, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Người, và trình bày hết sự thật. Người nói với bà ta: "Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy đi về bình an và khỏi hẳn bệnh".
Hai chữ "khỏi bệnh", "được cứu rỗi". Những phép lạ của Đức Giêsu, dưới cái nhìn của người Kitô hữu "Sau biến cố Phục sinh", là những điềm loan báo "sự cứu rỗi do đức tin" mà chúng ta được hưởng nếu ta nhận biết Người.
Vâng, đối với Đức Giêsu, điều cốt yếu không phải là điều "huyền diệu”, phép lạ, nhưng là sự cứu rỗi. Vậy tôi cầu xin Chúa những gì?
Đức Giêsu còn đang nói, thì có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo ông: "Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?". Tình cờ nghe được câu nói đó, Đức Giêsu bảo ông trưởng hội đường: "ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi".
Đối với Đức Giêsu, chính đức tin mới quan trọng: ông Giai-rô đã chứng kiến sự hiện diện trước đó. Thánh Maccô kể lại cho chúng ta hai phép lạ này, như lồng vào nhau để cho chúng ta một cảm tướng về sự tăng trưởng trong đức tin: Tin rằng Đức Giêsu có thể chữa lành bệnh tật, tin rằng Người có thể làm cho kẻ chết sống lại.
“Ông còn phiền Thầy làm gì?". Đối với người đồng thời với Đức Giêsu. Họ không thể nghĩ rằng, xin Chúa làm cho người chết sống lại là một việc có thể được. Chữa bệnh thì được, nhưng hồi sinh kẻ chết thì không phiền Thầy làm gì vì điều đó không thể làm được. Điều này nhấn mạnh đến sự nghịch lý trong đức tin.
Rồi Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phêrô, ông Giacôbê và em ông này là ông Gioan. Các Ngài đến nhà ông trưởng hội đường.
Một lần nữa, Đức Giêsu không muốn làm điều gì bề ngoài dễ gây kích động. Mỗi lần có thể được, Người kín đáo làm phép lạ. Hôm nay, Người chỉ dẫn theo ba nhân chứng có đủ tư cách nhất. Ba vị này cũng sẽ là nhân chứng lúc Người biến hình (Mc 9,12) và lúc Người hấp hối (Mc 14,33). Chúa không muốn quyền lực của Chúa trở thành một quyền lực ma thuật: Chính Người cũng sẽ có kinh nghiệm đau thương về cơn hấp hối và cái chết. Nhưng điều này đã xảy ra cho cô bé gái. Sự cứu rỗi duy nhất và vĩnh viễn đó là cuộc vượt qua cuối cùng, để bước vào cuộc sống vĩnh cửu.
Đức Giêsu thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ. Người bước vào nhà và bảo họ: "Sao lại khóc lóc om sòm như vậy? Con bé có chết đâu nó ngủ đấy?". Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết.
Đức tin của ông Giai-rô và của ba Tông đồ bị thử thách nặng nề do thái độ không tin của đám đông chung quanh, và việc họ nhạo báng Đức Giêsu.
Rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người vào nơi nó đang nằm, Người cầm lấy tay nó.
Ôi bàn tay của Đức Giêsu đang làm những điều kỳ diệu! Bàn tay Người đang nắm một bàn tay đã chết. Sự tiếp xúc với thân thể Chúa cũng thế. Khi chúng ta rước Chúa, mầu nhiệm sống động này được tái thực hiện.
Và Người nói: "Talitha Kum".
Chỉ mình Maccô ghi lại lời này bằng tiếng Aramên, tiếng mẹ đẻ của Đức Giêsu. Maccô biết được chuyện này do Thánh Phêrô, người hiện diện ở đó thuật lại. Chính những chi tiết nhỏ ấy cho thấy Phêrô là người đã mục kích. Những kỷ niệm này được một nhân chứng đã nghe, đã xúc cảm ghi giữ. Thực vậy, suốt đời Thánh Phêrô luôn nhớ hai chữ "Talitha Kum".
Nghĩa là "Này con, Thầy truyền cho con chỗi dậy đi!".
Thực ra, hai chữ tiếng Aramên này có thể dịch ngắn hơn nhiều: "Bé gái, đứng dậy". Nhưng Thánh sử Maccô đã muốn diễn dịch dài hơn và đã dùng một từ chủ yếu của những Kitô hữu đầu tiên. Sau “Phục sinh": "Hãy chỗi dậy", tiếng Hy Lạp là "egeiré", có nghĩa là “thức dậy". Đó là từ đã được dùng để nói về sự Phục sinh của Đức Giêsu. Chữ này có một ý vị Phục sinh. Đó là chữ đối nghĩa với "ngủ” mà Đức Giêsu đã dùng trước đây để nói về cái chết. Vâng, đối với Đức Giêsu, cái chết không còn thật sự là chết nữa, đó là một giấc ngủ.
Một bài Thánh ca rất xưa của những người Kitô hữu đầu tiên được hát trong nghi lễ rửa tội như sau: "Hỡi người đang ngủ thức dậy đi, ngày đã sáng lên rồi. Từ cõi chết hãy đứng lên. Chúa sẽ chiếu sáng trên ngươi". (Chúng ta đã nói là chữ faire, có nghĩa là "người soi sáng", "người đánh thức", đấy là biểu tượng của phép rửa tội) (Ep 5,14).
Đó là Phép rửa của tôi. Đó là sự sống của tôi, người đã được rửa tội. Tôi có tin thực rằng tôi đã nhận được cùng một ơn lành như cô bé này không? Qua phép rửa tội của tôi tôi đã đi từ cái chết đến sự sống. Cuộc sống vĩnh cửu của tôi đã bắt đầu. Phải chăng tôi là một người không ngừng "chỗi dậy", "thức dậy"? Tôi có nghe Đức Giêsu cũng nói lại với tôi: "Đứng lên", "chỗi dậy", "thức dậy", "sống lại" không? Nói những tình trạng chết chóc mà đức tin giải thoát cho tôi là gì?
Con bé liền đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười tuổi. Vừa thấy thế, người ta kinh ngạc sững sờ. Đức Giêsu căn dặn họ đừng cho ai biết việc ấy, và bảo họ cho đứa trẻ ăn.
Sự sống chiến thắng cái chết, đặt những người chứng kiến cảnh này vào trung tâm của huyền nhiệm: Họ bị “xuất hồn" kinh ngạc tột độ. Lệnh Chúa truyền phải im lặng lại càng nhấn mạnh cảm tưởng bí mật mà chúng ta đã có: Mầu nhiệm đích thực của Đức Giêsu không thể hiểu được đối với những người không có đức tin. Cho người ta thấy "phép lạ" bề ngoài là vô ích, người ta sẽ cho đó là "trò ma thuật", và Đức Giêsu không muốn người ta coi Người như một nhà phù thủy. “Người bảo cho cô bé ăn". Đó không chỉ là một sự chăm sóc ưu ái và cảm động. Trong biểu tượng của phép rửa, người "đi từ cõi chết đến cõi sống nhờ phép rửa, được đưa vào bàn Tiệc Thánh Thể: Một người sống thì phải ăn, một người đã được rửa tội phải ăn "Bánh hằng sống", Thánh Thể và Phép rửa tội liên kết mật thiết với nhau. Đó là Mầu nhiệm Đức Tin.
Thế giới của chúng ta đang phải đối mặt với đại dịch Covid-19. Đã gần 2 năm, đại dịch gây TN 13-B114
Thế giới của chúng ta đang phải đối mặt với đại dịch Covid-19. Đã gần 2 năm, đại dịch gây biết bao hậu quả nghiêm trọng trong mọi lãnh vực. Một con virus mắt thường không thấy mà có sức phá huỷ ghê gớm. Số người chết vì Covid-19 tính đến giữa tháng 6-2021 đã lên tới gần 4 triệu người. Một số người đã nhận định đại dịch là hình phạt của Thiên Chúa. Lời Chúa hôm nay khẳng định với chúng ta: không phải vậy. Thiên Chúa không bao giờ là tác giả của sự dữ. Không những thế, Ngài còn là Đấng chữa lành những thương tổn về tinh thần và thể xác của con người.
Thiên Chúa không tạo nên sự ác. Ngài cũng không muốn cho con người phải chết. Tác giả sách Khôn ngoan nói với chúng ta như vậy. Tình yêu thương của Thiên Chúa thể hiện qua việc Ngài tạo dựng vũ trụ trời đất và con người. Một tác giả đã viết: yêu thương tức là muốn cho người khác hiệu hữu (Aimer, c’est vouloir que l’autre soit). Chúng ta được hiện hữu trên đời là do kết quả tình yêu thương của Thiên Chúa. Một câu hỏi được đặt ra: nếu Thiên Chúa không tạo dựng sự chết, vậy sao con người vẫn phải chết? Vì quỷ dữ ghen tỵ nên cái chết đã xuất hiện trên thế gian. Vậy, tại sao sự dữ vẫn hiện hữu: thưa, do con người gây nên. Con người không tuân thủ trật tự Chúa đã xếp đặt, đi ngược lại ý muốn của Đấng Tạo Hoá, phá huỷ công trình sáng tạo của Ngài, nên sự dữ vẫn tồn tại trên thế gian.
Chúa Giêsu là Đấng Thiên sai. Chúa Cha đã sai Con của Ngài đến thế gian để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất (x. Lc 19,10). Trong trình thuật của thánh Máccô hôm nay, chúng ta sẽ thấy có 4 nhân vật chính: Chúa Giêsu, người cha đang đau khổ, bé gái 12 tuổi đã chết và người phụ nữ mắc bệnh đã 12 năm.
Hai nhân vật, ông trưởng Hội đường và người phụ nữ, đều có điểm giống nhau là đức tin, tuy mỗi người thể hiện một cách khác nhau. Ông trưởng Hội đường thì trực tiếp đến gặp Chúa và xin Người chữa lành con gái ông đang đau nặng gần chết. Người đàn bà thì kín đáo tế nhị hơn, vì bệnh của bà không tiện nói ra, nhưng ý chính là bà tin vào quyền năng xuất phát từ Chúa Giêsu. Người phụ nữ chỉ mong sao chạm được vào áo Chúa; viên cai quản Hội đường lại sấp mình nài nỉ van xin. Cả hai hình thức đức tin đều xuất phát từ lòng xác tín và cậy trông. Hai người đều tin chắc chắn rằng Đức Giêsu có thể làm được điều họ đang kêu xin. Tuy vậy, xem ra sự xác tín của người phụ nữ có vẻ mạnh mẽ hơn. Bà không dám được Chúa biết đến hay can thiệp. Bà chỉ cần chạm vào áo Người. Trong khi đó, viên cai quản Hội đường, khi thấy con mình đã chết, đã bị dao động băn khoăn. Trong cả hai trường hợp, Đức Giêsu đều nhắc đến “đức tin”. Nếu Người ngỏ lời với người phụ nữ để khen đức tin của bà, thì với viên cai quản Hội đường, Người lại mời gọi ông hãy vững tin. Người hiểu tâm trạng của ông khi nghe tin con mình đã chết. Người cũng hiểu nỗi khổ đau của người phụ nữ mang bệnh lâu năm cần được chữa lành.
Trước nhu cầu của hai nhân vật này, Chúa Giêsu như một lang y vừa quyền thế vừa luôn sẵn sàng phục vụ. Xin lưu ý: chủ đề chính của Tin Mừng thánh Máccô là trình bày Chúa Giêsu như một người phục vụ. Hai phép lạ được trình bày đan xen, vừa gây sự hấp dẫn vừa diễn tả nhu cầu cấp thiết của các bệnh nhân: bé gái và người đàn bà.
Vì con người được tạo dựng “theo hình ảnh của Thiên Chúa” (x St 1,27), mỗi tín hữu có sứ mạng làm cho sự tốt lành của Chúa lan tỏa nơi lòng cuộc đời. Nếu hôm nay, Đức Giêsu không hiện diện hữu hình bằng xương bằng thịt để chữa lành những bệnh nhân, thì Người lại đang mượn cánh tay và tấm lòng của chúng ta để đem tình thương đến cho người bất hạnh, đem niềm vui cho người sầu khổ và đem tự do cho người bị giam cầm. Thánh Phaolô đã khuyên các tín hữu thành Côrinhtô hãy quảng đại trong cuộc lạc quyên giúp người nghèo. Theo vị Tông đồ dân ngoại, Đức Giêsu là gương mẫu cho chúng ta về lòng quảng đại, vì Người là Đấng “vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em được giàu có” (Bài đọc II). Mọi sự chúng ta có đều do Chúa ban. Hơn nữa, chúng ta giàu có là do Chúa đã trở nên nghèo vì chúng ta. Chính vì thế, san sẻ cho tha nhân là chúng ta làm cho hình ảnh Chúa trở nên rạng ngời nơi cuộc đời này. Sự sẻ chia không làm cho chúng ta nghèo đi, nhưng trái lại, giúp cho chúng ta trở nên phú quý hơn trong cuộc sống.
Người đàn bà bị bệnh đã mười hai năm được Chúa chữa lành. Bé gái con ông trưởng hội đường đã chết được Chúa cho sống lại…. Biết bao điều kỳ diệu hôm nay Chúa vẫn đang thực hiện nơi lòng cuộc đời, nếu chúng ta có đức tin vững vàng và lòng cậy trông sâu xa. Ông Chesterton, văn sĩ, thần học gia và triết gia người Anh (1874-1936) đã viết: “Hãy cầu nguyện như thể mọi sự đều tùy thuộc vào Thiên Chúa. Hãy hành động như thể mọi sự đều tùy thuộc vào chúng ta”. Quả vậy, khi quyền năng của Thiên Chúa và thiện chí của con người gặp gỡ nhau, thì những điều kỳ diệu sẽ xảy đến trong cuộc đời.
Có hay không tất cả những người đau ốm, họ đều biết áp dụng câu thành ngữ: có bệnh thì TN 13-B115
Có hay không tất cả những người đau ốm, họ đều biết áp dụng câu thành ngữ: có bệnh thì vái tứ phương ? Có phải những ai thoát chết trong gang tấc, là do họ chưa “tới số”? Phải chăng những người tài giỏi, đại gia, kẻ có chức có quyền, mới cần sống thọ, sống dài lâu, nhằm mưu cầu lợi ích cho xã hội, đất nước ? Đau bệnh về thể xác hay tinh thần, đều cần được chữa trị, nhiều tiền lắm của cũng phải đi bệnh viện, hoặc đến gặp bác sĩ, nếu họ muốn khỏi bệnh. Thực tế cho thấy, có những quyết định tưởng như vô tình, với việc làm đơn giản, ấy vậy mà lại thành công ngoài sức tưởng tượng. Ông trưởng hội đường không sử dụng uy quyền, ông trực tiếp đến gặp Đức Giêsu, và thưa: “con gái tôi mắc bệnh, xin Ngài đến đặt tay trên nó, để nó được khỏi và được sống”. Người đàn bà bị mắc bệnh 12 năm, bà tự nhủ rằng: “miễn sao tôi được chạm được vào gấu áo Người, tôi sẽ được lành”.
Người xưa nói rằng: tử tế trong lời nói tạo ra sự tự tin, tử tế trong suy nghĩ tạo nên sự sâu sắc, tử tế trong việc cho đi tạo nên tình yêu thương. (Lão Tử). Sống trên đời, không có gì là vô tình cả: gieo gì gặt nấy, ở hiền gặp lành, có đức mặc sức mà ăn. Ông trưởng hội đường, người phụ nữ mắc bệnh, họ tin Đức Giêsu, họ suy nghĩ tích cực về Đức Giêsu, rồi họ nhận ra tình yêu thương, xa hơn nữa, họ còn được biết Đức Giêsu chính là Thầy thuốc chữa những tật bệnh tâm hồn. Sự “tử tế” ở đời, tính kỷ luật của bản thân, làm sáng tỏ nhiều lý lẽ thuyết phục: không phải những đứa con hư hỏng đều là con nhà giầu. Cũng đâu có ai cho rằng con nhà nghèo đều học giỏi, hoặc cứ có địa vị xã hội, có trình độ cao, sẽ biết sống lời răn dạy của người xưa: phòng bệnh hơn chữa bệnh.
Hãy thật lòng đến cùng Thầy Giêsu, có thể không ai biết bạn sẽ được Ngài ban tặng thứ gì, nhưng chắc chắn Ngài sẽ chỉ cho bạn biết: lương y như từ mẫu mà thiên hạ đang tìm kiếm, hiện ở đâu. Nếu nhìn tổng quát về gia đình nhân loại, ta sẽ thấy con người thời đại hôm nay rất thông thái, nhạy bén mọi mặt, đời sống vật chất tinh thần đã dồi dào hơn, mọi người xinh đẹp, vui khỏe, sống thọ hơn. Nếu không có niềm tin, người ta sẽ thắc mắc: tại sao Ông Giêsu chẳng học nghề thầy thuốc, nhưng đám đông vẫn tìm đến xin Ngài cứu chữa. Thầy thuốc tài giỏi, quả thực không phải là hiếm, các thiếu gia, đại gia, ở đâu cũng có, ấy vậy mà người bệnh tật, đói nghèo, vẫn đang là tiếng chuông báo động.
Đúng như các thánh hiền nói: vẽ hổ vẽ được da, nhưng không vẽ được xương, biết người, biết mặt, nhưng khó biết được lòng. Ông trưởng hội đường, người đàn bà mắc bệnh hiểm nghèo, họ nghe được danh tiếng Thầy thuốc Giêsu đã khá rồi, khi đủ chân thành gặp Đức Giêsu, cả hai đã cảm nhận được đâu là gianh giới của niềm tin, và của tình yêu thương. Người phụ nữ được chữa khỏi bệnh tật, ông bố hạnh phúc vì đứa con được cứu sống, trong tình liên đới hiệp thông, nhờ sức mạnh của niềm tin, ít là bạn được bình an. Thầy thuốc Giêsu sẽ còn giải cứu mọi tâm hồn khỏi tội lỗi, ban phúc trường sinh cho những ai thật lòng cậy trông Ngài cứu giúp. Dù ta không có chức quyền, không thập tử nhất sinh, đường đến với Thầy Giêsu vẫn rộng mở, vì con người là đối tượng của lòng Chúa xót thương.
Trong đời sống tự nhiên, nếu không đau ốm bệnh tật, mấy ai nghĩ đến việc đi bệnh viện, đi gặp bác sĩ ? Trong đời sống thiêng liêng, nếu tâm hồn luôn bình an, tất cả mọi người đều sống yêu thương nhau, chắc không ai cần phải ăn năn sám hối, không ai còn nghĩ đến việc tìm gặp Thầy thuốc Giêsu xin Ngài cứu chữa ! Cũng vì con người giới hạn, thích sống an nhàn, hưởng thụ, tâm trí hẹp hòi ích kỷ, nên dễ làm ngơ trước nhu cầu túng thiếu của tha nhân. Có bao giờ ta dừng lại đôi ba phút để suy xét, tự hỏi: liệu tôi có bệnh tật gì không ? Theo Chúa, tin Chúa, tôi đang cậy nhờ kẻ có chức quyền, hay tôi tìm đến Thầy thuốc Giêsu ? Bậc làm cha mẹ dù có khuất bóng, các ngài vẫn đang phù hộ cho con cháu, hãy tin, hãy vận dụng sự khôn ngoan bao nhiêu có thể.
Đâu phải tự nhiên mà bậc sinh thành biết căn dặn hậu thế: làm sự thiện muốn người ta thấy, điều thiện ấy không thực, làm ác sợ người ta biết, điều ác ấy thực to ! Tìm đến Thầy Giêsu hàng ngày, hàng tuần, bằng niềm tin mạnh mẽ như ông trưởng hội đường, như người đàn bà mắc bệnh nan y, sẽ là tự do, là cơ hội của mỗi người tín hữu chúng ta. Dù ít nhiều kinh nghiệm, dù không tài cao trí rộng, chúng ta đều hiểu: chỉ khi ở trên giường bệnh, ai chẳng nhận ra sức khỏe thật cao quý. Những lúc ốm đau, người ta sẽ thức tỉnh: nơi an toàn nhất, được an ủi nhiều hơn cả, chính là gia đình. Hãy đến cùng Thầy Giêsu, hẳn ta cũng sẽ được nghe: “hỡi con, đức tin của con đã cứu chữa con. Ông đừng sợ, hãy vững tin, con bé không chết đâu …”. Đức Giêsu ban thưởng niềm vui cho ông trưởng hội đường, cho người đàn bà hôm đó, và sẽ còn ban hạnh phúc đời đời cho những ai tin tưởng nơi Ngài. Amen.
Chúa Giêsu đến trần gian không phải để làm nghề chữa bệnh, nhưng là để loan báo Tin Mừng TN 13-B116
Chúa Giêsu đến trần gian không phải để làm nghề chữa bệnh, nhưng là để loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho mọi người, để tất cả những ai tin vào Ngài thì được ơn cứu độ. Tuy nhiên, hiệu quả của đức tin không chờ đợi tới đời sau mới trọn vẹn, mà còn hữu hiệu ngay trong hiện tại, như trường hợp người phụ nữ bị băng huyết được chữa lành.
Băng huyết là thứ bệnh mà đối với người Do thái không chỉ ô nhơ về mặt thể lý mà họ còn coi nó là một thứ ô uế luân lý. Vì thế, có luật cấm những kẻ mắc bệnh đó không được chạm tới người khác, vì chạm tới ai thì người ấy cũng bị lây ô uế. Biết thế, nên người phụ nữ không dám công khai xin Đức Giêsu cứu chữa mình, nhưng chị âm thầm len lỏi vào trong đám đông, tìm mọi cách lén chạm vào tua áo Ngài, vì tin rằng chỉ cần như vậy là được khỏi bệnh. Giữa đám đông chen lấn, có bao người chạm vào Đức Giêsu, nhưng cái chạm của người nữ này khiến Ngài cảm thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra. Vì đó là cái chạm của lòng tin mạnh mẽ, cái chạm đã đụng tới sức thiêng, khiến người phụ nữ được giải thoát khỏi cơn bệnh ngặt nghèo đã 12 năm.
Tiếp theo là phép lạ thứ hai khi ông Giairô đến xin Đức Giêsu cứu chữa con gái ông bị bệnh gần chết. Ông là viên chức trưởng hội đường mà sụp xuống dưới chân Đức Giêsu, dù Ngài là một ông thầy giảng thuyết nay đây mai đó. Điều khá lạ lùng là ông đích thân đến với Chúa Giêsu chứ không sai người nhà. Có lẽ ông ta phải đi vì chẳng còn ai khác chịu đi, khi thấy tình trạng cô bé đã vô vọng. Thế nhưng ông vẫn hy vọng và đến cầu cứu Chúa Giêsu. Khi Ngài đến thì cô bé đã chết, nhưng Ngài đã cầm tay cô bé và truyền cho em chỗi dậy.
Hai phép lạ xảy ra nhờ lòng tin. Ðức Giêsu xác nhận lòng tin mạnh mẽ của người phụ nữ: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con”. Sau đó, Ngài nâng đỡ lòng tin đang chao đảo của Giairô:“Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Chính đức tin làm nên phép lạ. Thiếu đức tin, Chúa chẳng thể làm gì cho ta. Đức tin là ơn Chúa ban, nhưng cũng là nỗ lực của ta qua việc nối kết với Chúa từ chính trái tim mình, nhờ việc chạm đến: người phụ nữ chạm đến Chúa, và Chúa chạm đến em bé. Trái tim tạo nên nhịp sống, nên cả hai phép lạ đều khơi dậy sự sống. Sự sống vốn là một phép lạ, từng hơi thở con người là một phép lạ, mỗi ngày là một phép lạ, mỗi phút giây là một phép lạ. Chỉ có đôi mắt tâm hồn mới cho ta cảm nhận được phép lạ liên tục. Ta sống đích thực, sống dồi dào, vì ta biết tiếp nhận sự sống từ nơi Chúa như một phép lạ.
Thông điệp của bài Phúc Âm không chỉ mời gọi ta sống đức tin sâu xa vào Chúa mà còn mời gọi sống như Chúa. Nghĩa là hãy tiếp nối sự hiện diện của Chúa để xoa dịu những nỗi đau khổ cho anh chị em mình. Chúng ta không có quyền năng như Chúa, nhưng nếu chúng ta sống thân thiết với Chúa và có tấm lòng của Chúa, thì chắc chắn chắn Chúa sẽ hành động qua chúng ta để đem lại ơn phúc cho con người. Điều này đòi ta phải dám ra khỏi mình để đi đến, gặp gỡ, chia sẻ, và cứu giúp những ai khốn khổ. Đức Thánh Cha Phanxicô nói với chúng ta rằng: Nếu chúng ta không thể thoát ra khỏi chúng ta để đến vói những người anh em thiếu thốn, những người bệnh tật, dốt nát, nghèo đói, bị khai thác… thì chúng ta sẽ không bao giờ có thể đến với những vết thương của Chúa Giêsu.” (Bài giảng tại nguyện đường thánh Matta, 11/05/13).
Ước chi mỗi ngày chúng ta biết sống đức tin mạnh mẽ hơn, một đức tin sống động cụ thể bằng hành động yêu thương bác ái, bằng sự dấn thân hy sinh quên mình để phục vụ gia đình, cộng đoàn, và môi trường chúng ta đang sống, để Chúa có thể đem lại một sức sống mới cho thế giới hôm nay: một thế giới đang bị ngăm đe bởi sự chết và mỗi ngày bao nhiêu sự dữ đang hoành hành. Hãy cùng với mọi người tỏa sáng đức tin bằng một tình yêu sâu xa, để Chúa có thể thực hiện nơi chúng ta những điều huyền diệu, và nhất là đem lại cho mọi người niềm vui ơn cứu độ ngay từ hôm nay.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu! Nếu con chỉ đặt hy vọng ở đời này, con sẽ là người bất hạnh nhất, vì cuối cùng cũng chỉ là bụi đất hư vô, ngoài Chúa ra chẳng có gì để hy vọng.
Xin ban cho con một đức tin sâu thẳm, để thấy Chúa đang ẩn mình trong con, đang ẩn thân trong mọi người mọi sự.
Xin ban cho con một đức tin sống động, để nhìn thấy Chúa đang hành động đang chữa lành và giải phóng nhân tâm.
Xin ban cho con một đức tin vững vàng, để chuyển thông một sức sống bình an, khiến lo âu sợ hãi sẽ dần biến tan.
Xin ban cho con một đức tin vô chấp, không động lòng cao thấp trước lợi danh, không màng chi địa vị với quyền hành.
Xin ban cho con một đức tin tinh ròng, để thấy được những gì Chúa ước mong, và hiểu được những gì con phải sống.
Xin ban cho con một đức tin sáng suốt, biết phân định và phán đoán khôn ngoan, giữa những thực hư và vàng thau lẫn lộn.
Xin ban cho con một đức tin kiên cường, dám can trường làm chứng tá tình thương, không sợ gì những nhiễu nhương thế sự.
Xin cho con một đức tin lên đường, dám đến với mọi người khắp bốn phương, gieo rắc Tin Mừng trên vạn nẻo hành hương. Amen.
Câu này rất quen thuộc trong cuộc sống xã hội. Người bị lừa đa phần lại là những người nghèo TN 13-B117
Câu này rất quen thuộc trong cuộc sống xã hội. Người bị lừa đa phần lại là những người nghèo, người bất hạnh và dân nhà quê chất phác thật thà. Những điều bị lừa gần đây nổi sóng trên mạng xã hội là những thần y chữa bệnh bằng trừ tà, hầu đồng, hay đơn giản chỉ cần vài động tác vỗ, day, ấn huyệt là khỏi, và nhan nhản lời quảng cáo cam kết khỏi bệnh với phương thuốc gia truyền “nhà tôi 3 đời chữa bệnh…” .
Có lần người bạn hỏi tôi: cha đã mua được sản phẩm nào 3 đời nhà tôi chưa? Tôi bảo rằng :”Ba đời nhà tớ cũng chưa mua thuốc nhà chúng nó”.
Trong các cao thủ về lừa bịp chính là một thần y chữa bệnh câm điếc trong 1 nốt nhạc. Rất dễ tìm thấy trên mạng xã hội có vô số clip ông Võ Hoàng Yên thực hành chữa bệnh bằng những động tác như vỗ vào tai, rút lưỡi, bẻ cổ… Chỉ trong giây lát, người bệnh từ chỗ không nghe, không nói, không đi lại được, rồi bỗng chốc khỏi bệnh trước sự vỗ tay của ông và các diễn viên luôn sát cánh cùng ông.
Từ đó, hàng nghìn người ùn ùn kéo tới những cơ sở chữa bệnh của ông Võ Hoàng Yên. Mọi chuyện chỉ vỡ lở khi chính vợ chồng ông Dũng “Lò vôi” đứng lên tố cáo ông Võ Hoàng Yên lừa đảo, không có khả năng chữa bệnh thực sự. Cơ quan chức năng cũng đã vào cuộc và xác định ông Yên không có giấy phép hành nghề y dược. Việc ông Võ Hoàng Yên chữa hết câm, điếc bẩm sinh một cách “thần thánh” như trong các clip triệu view nổi như cồn khắp MXH chỉ là sản phẩm dàn dựng. Người tạo nên chúng không ai khác, chính là ông Yên cùng ekip truyền thông của ông này.
Sinh bệnh lão tử là lẽ thường tình. Con người dường như bất lực với lẽ thường tình ấy. Dù Tần Thủy Hoàng có thuốc linh đan trường sinh rồi cũng chết. Dù văn minh khoa học tiến bộ rồi cũng bất lực trước những bệnh tật khổ đau của con người. Cụ thể là ngay thời đại văn minh của chúng ta, đâu ai nghĩ rằng con người phải bất lực trước sự lây lan của dịch bệnh Corona. Do đó, sẽ không thể có một thần y hay một phương dược chữa lành mọi bệnh tật cho con người. Con người dù văn minh đến đâu cũng phải bất lực trước sự dữ lộng hành. Con người dù tài giỏi đến đâu cũng có lúc bất lực mà nói với nhau rằng: “Tôi rất tiếc vì không làm gì hơn được nữa!”.
Tin mừng hôm nay mô tả một ngày làm việc của Chúa Giê-su thật kỳ diệu. Ngài rao giảng chỗ này, Ngài chữa bệnh chỗ kia. Dường như mọi bệnh tật Ngài đều xua tan chỉ bằng một lời, một lần chạm vào thân thể người bệnh. Quyền năng Chúa dường như thắng mọi sự dữ, kể cả sự chết. Chính Ngài đã gọi kẻ chết trỗi dậy như Lagiaro, hay cậu thanh niên thành Nain. . . Chính Ngài cũng trỗi dậy sau ba ngày chết chôn trong mồ.
Thế nhưng, không phải người nào Ngài cũng chữa, và càng không phải bệnh nào Ngài cũng chữa. Vì căn nguyên của bệnh tật và sự chết là do tội của con người thỏa hiệp với ma quỷ mà gây ra khổ đau. Ngài chỉ chữa lành một số trường hợp nhằm thể hiện uy quyền của Thiên Chúa để qua đó mời gọi con người hãy trở về với lòng thương xót Chúa. Hãy để Chúa làm chủ cuộc sống bằng lối sống như thánh Phaolo từng nói: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20), và qua thánh nữ Faustina, vị tông đồ của Lòng Thương Xót Chúa đã viết trong nhật ký: “Hiện nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến cho toàn thế giới, Cha không muốn đoán phạt, nhưng muốn chữa lành và ghì chặt nhân loại đau thương vào Trái Tim lân tuất của Cha” (NK 1588).
Chúa Giê-su sẽ chữa lành mọi bệnh tật của chúng ta miễn là chúng ta phải trở về với Lòng Thương xót Chúa. Hãy cầu nguyện cho cả thế giới biết dìm mình vào đại dương mênh của Lòng Thương xót Chúa thì mới chữa lành mọi dịch bệnh cho con người. Ước gì chúng ta có đủ đức tin để chạy đến kêu cầu Chúa chữa lành khi gặp những tai ương hoạn nạn. Xin cho chúng ta luôn tín thác vào Chúa dẫu cuộc đời vẫn còn đó những phong ba gió bụi cuộc đời. Và ước mong cho thế giới một ngày kia đều trở về dìm mình trong đại dương bao la tình Chúa.Amen
Hôm nay, Thầy Giêsu xuống thuyền, trở lại sang bờ bên kia. Một đám rất đông tụ lại quanh TN 13-B118
Hôm nay, Thầy Giêsu xuống thuyền, trở lại sang bờ bên kia. Một đám rất đông tụ lại quanh Người. Lúc đó, Người đang ở trên bờ Biển Hồ. Có một ông trưởng hội đường tên là Giai-a đến xin Người chữa lành cho đứa con gái đang bị bệnh sắp chết. Trên đường đến nhà ông, Người cũng đã chữa lành cho người đàn bà bị băng huyết đã mười hai năm. Cả hai trường hợp đều cần đến một đức tin thật mạnh mẽ.
Thánh Máccô không cho ta biết là ông Giai-a có mấy người con. Ta chỉ biết, ông rất thương yêu đứa con gái nhỏ của mình, nó đang bị bệnh sắp chết. Nghe danh Thầy Giêsu, ông lên đường tìm gặp Người. “Vừa thấy Đức Giêsu, ông ta sụp xuống dưới chân Người, và khẩn khoản nài xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống” (Mc 5, 22-23). Trước lòng tin mạnh mẽ và nỗi đau khổ đang hiện trên khuôn mặt của ông, Thầy Giêsu không hề do dự, Người liền đi với ông. Một đám rất đông đi theo và chen lấn Người. Người ta đi theo Chúa vì tò mò cũng có, vì lòng mến mộ cũng có, và vì tin vào tình thương và quyền năng của Người cũng có. Trong đám đông chen lấn ấy, có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều lần đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, bệnh lại còn thêm nặng là khác (x. Mc 5, 25-26). Theo luật Môsê, những người mắc bệnh như bà bị xem là ô uế, phải tự động tránh xa mọi người để không làm cho họ ô uế, không được tiếp xúc với ai. Thế mà được nghe đồn về Đức Giêsu, bà đã vượt qua mọi sợ hãi, vượt qua đám đông dư luận, vượt qua cả sự xấu hổ vì đã vi phạm Lề Luật cách công khai để mạnh dạn tìm đến với Người, vì bà tin rằng chính Người sẽ cứu chữa bà. Bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người, vì bà tự nhủ: “Tôi mà sờ vào được áo Người thôi, là sẽ được cứu”’ (Mc 5, 28). Dù bị đám đông chen lấn, nhưng khi bà vừa chạm vào áo mình, Thầy Giêsu nhận thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra, Người liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: “Ai đã sờ vào áo Tôi ?”. Các môn đệ thưa: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: “Ai đã sờ vào Tôi ?” (Mc 5, 30-31). Khi bà ra trình diện, phủ phục dưới chân Người mà nói hết sự thật, Người liền bảo bà: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (Mc 5, 34). Mỗi khi nhận được ơn lành của Chúa, ta có dám đứng ra làm chứng cho Người không? Ta có lo sợ người ta sẽ biết về quá khứ lỗi lầm và tình trạng ô uế của mình không? Khi nói hết sự thật với Thầy Giêsu và trước mặt đám đông dân chúng, bà cũng chấp nhận việc người ta sẽ biết về tình trạng bệnh tật của mình, về sự ô uế của mình. Trước mặt mọi người, Chúa Giêsu khẳng định bà đã được chữa lành, khỏi hẳn bệnh và nhất là bà đã trở nên thanh sạch. Từ đây bà được trở lại cuộc sống bình thường như bao người khác.
Đức Giêsu còn đang nói, thì có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo: “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?” (Mc 5,35). Nhưng Đức Giêsu nghe được câu nói đó, liền bảo ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5, 36). Ông trưởng hội đường không nói lời nào. Sự im lặng của ông diễn tả một đức tin kiên vững. Vừa được chứng kiến điều tuyệt vời mà Người đã làm cho người phụ nữ kia, đức tin của ông càng được củng cố. Ông cùng Người về nhà mình. Thầy Giêsu chỉ cho ba môn đệ thân tín và cha mẹ bé gái theo mình vào nơi nó đang nằm. Rồi Người cầm lấy tay em và nói: “Talithakum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: Trỗi dậy đi !”. Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi. Và lập tức, người ta kinh ngạc sững sờ (Mc 5, 41-42).
Tình trạng bệnh tật lâu năm của người đàn bà bị băng huyết cũng giống như những người đã đi vào con đường lầm lạc lâu năm. Họ bị mọi người tẩy chay, họ bị loại ra ngoài. Làm sao để họ có thể làm lại cuộc đời và lại được mọi người đón nhận? Cũng như người đàn bà, họ phải can đảm vượt lên trên mọi nỗi sợ hãi và tìm đến với Thiên Chúa. Theo Chúa, đức tin của ta cũng sẽ được tôi luyện mỗi ngày. Sẽ có những lúc ta thấy mình thật tội lỗi, tình trạng của mình thật tệ, không thể cứu vãn được. Khi phạm một sai lầm nghiêm trọng, ta sẽ hối hận và tự trách móc bản thân. Sẽ có lúc ta can đảm làm lại từ đầu, sửa sai để chuộc lại lỗi lầm, nhưng cũng có nhiều khi đứng trước đám đông dư luận, ta cảm thấy hy vọng như tiêu tan. Bị người ta lên án, ghét bỏ, ta rơi vào nỗi sợ hãi. Ta trốn chạy và dường như tình trạng của ta ngày càng trở nên tồi tệ hơn. Ta có dám lách qua đánh đông dư luận để tìm về với Chúa không? Có người cũng sẽ nói với ta điều tương tự như điều mà ông Giaia đã nghe: “Con gái ông chết rồi, làm phiền thầy chi nữa?” Nghĩa là ta không còn hy vọng gì cả, đừng gắng sức uổng công. Giữa lúc đó, ta hãy lắng nghe Chúa muốn nói với ta điều gì. Người sẽ nói với ta: “Con đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Chỉ cần vững tin vào Chúa, ta sẽ tìm lại được sự sống đã mất, sẽ thấy bình mình của cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu! Giữa những thử thách của cuộc sống, giữa những thất bại và lỗi lầm của mình, tưởng chừng như không còn cơ hội, không thể cứu vãn, xin cho con đặt trọn niềm tín thác vào Chúa, đến với Chúa và để Chúa chạm vào, để Người chữa lành cho con và ban lại cho con một đời sống mới. Mỗi ngày, xin Chúa giúp con nhìn nhận sự thật về mình, sự thật về tình trạng của bản thân và biết tìm về bên Chúa. Để khi được ở với Chúa, con nghe được lời Ngài trấn an con, truyền sức mạnh cho con vượt qua mọi sợ hãi: “Con đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Amen.
Ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển chóng mặt nên nhiều người đặt vấn nạn: Đức tin TN 13-B119
Ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển chóng mặt nên nhiều người đặt vấn nạn: Đức tin còn có ý nghĩa nữa chăng?
Với sự tiến bộ với khoa học kỹ thuật hiện đại, vật chất dư thừa, y học tiên tiến,… người ta có thể tạo ra một cuộc sống sung túc với lắm tiền, nhiều của, muốn gì có đó. Và họ nghĩ, Thiên Chúa chẳng còn cần cho cuộc đời họ, đức tin chỉ còn cần cho những kẻ “thất bại”.
Nhưng, dù cho nhiều người đã đánh mất đức tin, dù cho lắm kẻ nhất quyết không tin, Chúa Giêsu vẫn nói với chúng ta như nói với ông Gia-ia trong bài Tin Mừng hôm nay: “Đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36b).
Chỉ cần tin thôi vì Chúa vẫn luôn có mặt khi chúng ta chạy đến tìm Ngài. Ông Gia-ia trong nỗi lo sợ cùng cực đã chạy đến tìm Chúa như là tia hy vọng cuối cùng để cứu sống con gái yêu dấu của ông. Và Chúa đã không chút chần chừ mà liền đi với ông.
Chỉ cần tin thôi thì ngay cả những nỗi khát khao thầm kín của chúng ta cũng được Chúa cho thỏa mãn. Người đàn bà băng huyết đã chạm đến cái nghèo và cái khổ cùng cực do bệnh tật. Bà như chẳng còn chút hy vọng nào để được chữa lành cho tới lúc bà được nghe biết về Chúa Giêsu. Chỉ vì tin, bà vượt lên trên mọi sợ hãi, mọi nghi kỵ, mọi ngờ vực để lách qua đám đông và tiến đến sờ vào áo choàng của Chúa. Và Ngài đã âu yếm nói với bà: “Lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (Mc 5, 34).
Nhưng, “tin” như Chúa mời gọi mang ý nghĩa đích thực nào? Và chỉ cần tin thôi có phải là điều dễ dàng không?
Chúa Giêsu có vẻ như đã chậm trễ một chút khi dừng lại chữa lành người phụ nữ băng huyết và tử thần có vẻ như đã cướp mất cô con gái nhà ông trưởng hội đường. Chính người nhà của ông đã quả quyết con gái ông chết rồi. Hy vọng chợt tắt. Người ta cười nhạo Chúa Giêsu và sự “cả tin” của ông Gia-ia. Hẳn nhiều người trong chúng ta cũng đã từng rơi vào tình trạng này. Chúng ta tin, chúng ta hy vọng và khẩn cầu tha thiết nhưng chẳng thấy Chúa nhậm lời. Nhìn vào tình hình của thế giới và của đất nước Việt Nam chúng ta hiện nay giữa cơn đại dịch, chúng ta thấy thế nào? Những dự định, những kế hoạch đều tiêu tan. Những cuộc gặp gỡ, những cuộc hội họp đều hủy bỏ. Kinh tế kiệt quệ, nghèo đói và thất nghiệp gia tăng. Ngay cả các cử hành phụng vụ để thờ phượng Chúa, rồi lễ khấn, lễ truyền chức,… cũng phải tạm ngưng. Sao Chúa vẫn chưa nhậm lời kêu cầu của chúng ta? Sao Ngài vẫn để cho dịch bệnh Covid lan tràn? Bao nhiêu người chất vấn đức tin của chúng ta. Chính chúng ta cũng chất vấn Thiên Chúa của mình. Người ta hỏi: “Chúa của bạn có hiện hữu không?”; còn chúng ta thầm trách: “Chúa không biết thương xót sao?”.
Tin có nghĩa là chúng ta chấp nhận đi theo người mình tin trong mọi hoàn cảnh, cho dù phải quay lưng lại với tất cả, từ bỏ tất cả những gì chúng ta nghĩ nó tốt trước đây. Bộ phim “Khe nứt San Andreas” có một phân cảnh cực kỳ gây ấn tượng với tôi. Đó là cảnh cô con gái Blake tin vào lời hẹn với Ray, bố của mình, tìm đến nơi cao nhất để ông có thể nhìn thấy và cứu cô. Blake không ngần ngại đi tới điểm hẹn, nhưng anh bạn Ben của cô thì ngập ngừng. Tất cả mọi người đều đang đi về hướng ngược lại. Nhưng cuối cùng, Blake tin vào bố, hai anh em Ben và Ollie tin vào Blake, cả ba đã quay lưng lại với tất cả mọi người để chạy đến điểm hẹn, và cả ba sau đó đều được cứu. Cũng thế, Chúa mời gọi chúng ta tin vào Ngài, đi theo thánh ý Ngài soi dẫn để biết mình cần phải làm gì trong hoàn cảnh hiện tại, chứ không phải là yêu cầu Chúa làm điều chúng ta muốn. Chúng ta cần phải nhớ điều này: Chỉ có duy một mình Chúa mới biết điều gì là tốt nhất cho chúng ta và cho thế giới, cũng chỉ có Ngài là luôn muốn điều tốt nhất sẽ đến với chúng ta mà thôi. Tin là phải như vậy.
Thiên Chúa vẫn luôn hiện hữu, Ngài vẫn nói với chúng ta: “Đừng sợ! Chỉ cần tin thôi”. Ông Gia-ia tin, Chúa đã làm phép lạ cho con ông sống. Chúng ta tin, và phép lạ vẫn xảy ra hằng ngày giữa cơn đại dịch. Các gia đình Công Giáo vẫn tụ họp nhau lại để đọc kinh, dự lễ online với người thân trong gia đình. Những hình ảnh đẹp của sự hy sinh, sự sẻ chia, sự dấn thân chăm sóc người bệnh; những tấm lòng cao cả của bao người nay được thể hiện thật chân thành và quý báu. Đôi khi giữa cảnh đời yên ấm, chúng ta có thể quên mất cách thực hành tình tương thân tương ái, tương trợ lẫn nhau; những thùng mì, ký gạo, quả trứng, bó rau,… tuy không to lớn nhưng lại rất ý nghĩa khi được chia sẻ với nhau trong lúc khó khăn này. Chúa vẫn luôn đồng hành với chúng ta trong mọi hoàn cảnh và mọi nẻo đường, quan trọng là chúng ta nhận ra và tin Ngài có đó. Blaise Pascal từng nói: “Trong đức tin, có đủ ánh sáng cho người muốn tin, và đủ bóng tối để làm mờ mắt người không tin”, điều này rất đúng. Một hình ảnh khá thú vị mà tôi thấy nhiều người chia sẻ trên mạng, đó là hình ảnh Satan đứng bên cạnh Chúa Giêsu. Satan nói: “Với Covid 19, tôi sẽ làm cho mọi nhà thờ phải đóng cửa”. Và Chúa Giêsu đáp lại: “Còn ta sẽ mở thêm từng căn nơi mỗi gia đình Công Giáo”. Vâng, ước chi mỗi người Kitô hữu chúng ta luôn tin tưởng và hy vọng, để có thể mang đến cho anh chị em bên cạnh chúng ta chút hơi thở sự sống của đức tin và niềm hy vọng ấy.
“Lạy Chúa, chúng con tin vào Chúa, nhưng có nhiều khi và nhiều người trong chúng con đã tin theo cách nghĩ đầy giới hạn của chúng con. Xin Chúa giúp chúng con biết tin theo như Chúa dạy và biết sống đến cùng cho đức tin ấy. Giữa thế sự thăng trầm và đầy thử thách hôm nay, xin cho chúng con không sợ và chỉ tin thôi. Amen”
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta suy tư về một chủ không ai thích, nhưng lại có ích TN 13-B120
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta suy tư về một chủ không ai thích, nhưng lại có ích, đó là sự chết. Trong bài đọc I, chúng ta nghe lời khẳng định này: “Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong… Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt… Nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian. Những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết” (Kn 1,13.2,25).
Những lời này cho chúng ta chìa khóa để hiểu tại sao chết là nỗi ám ảnh và sợ hãi lớn nhất của con người. Lý do chính yếu là chúng ta không được dựng nên để chết, nhưng để sống mãi mãi. Thiên Chúa không muốn con người phải chết. Người cũng không sáng tạo nên cái chết. Nhưng nó là kết quả của “sự ghen tương của ma quỷ.” Vì thế, chúng ta tìm mọi cách để thoát khỏi cái chết và được sống mãi.
Trong bài Tin Mừng, chúng ta tìm thấy một chứng tá cụ thể cho lời khẳng định rằng Thiên Chúa không muốn sự chết và định mệnh cuối cùng của con người là “sự bất tử” hay được sống đời đời. Đó là phép lạ mà Chúa Giêsu thực hiện khi làm cho đứa con gái của ông trưởng hội đường Giaia đã chết được sống lại. Đây là một trình thuật rất đặc biệt với các sự kiện diễn ra một cách tuần tự và liên tục, trong những địa điểm khác nhau.
Trước hết đó là cảnh ở trên mặc biển hồ. Chúa Giêsu xuống thuyền, sang bờ bên kia, đám đông lại tụ lại quanh người. Có một ông tên là Giaia đến sụp xuống dưới chân người và nài xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngày đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống” (Mc 5,23). Nghe thế, Chúa Giêsu liền đi với ông.
Cảnh tượng thứ hai là ở trên đường. Một người đàn bà bị bệnh băng huyết đã mười hai năm. Nghe đồn về Chúa Giêsu, bà tìm cách tới gần Chúa để đụng vào áo của Người. Sau khi sờ vào áo Người, bà được khỏi bệnh. Khi Chúa Giêsu đang nói với bà, người nhà ông Giaia đến đến nói với ông rằng: “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?” (Mc 5,35). Nghe thế, Chúa Giêsu liền nói với viên trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi!” Đây là lời mà Chúa Giêsu thường nhắc lại nhiều lần trên miệng Người. Cả người đã bà vừa được chữa lành khỏi bệnh rong huyết, Người cũng nói: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh.”
Cảnh tượng cuối cùng là một bi kịch, diễn ra tại nhà ông Giaia. Một cảnh tang tóc đè nặng tang quyến, người ta khóc than người chết. Chúa Giêsu vào nhà và bảo họ: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy! Họ chế nhạo Người, nhưng Người bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha, mẹ con đứa trẻ và những ai theo Người vào nơi đứa bé nằm. Chúa cầm lấy tay nó và nói: “Talità kum, nghĩa là: Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi!” Lập tức, đứa bé chỗi dậy và đi lại được. Vì nó đã mười hai tuổi. Mọi người ngạc nhiên và sửng sờ. Chúa Giêsu nghiêm cấm họ không được để ai biết việc ấy, và bảo họ cho con bé ăn. Trình thuật này là một trình thuật “siêu phàm,” vì nó trình thuật với những lời rất đơn giản, bình thường, nhưng nói lên những sự kiện siêu việt, những phép lạ mà Chúa thực hiện để cứu con người khỏi cái chết. Đó là những phép lạ vì con người và minh chứng quyền năng của Người vượt trên cái chết và bệnh tật. Những hành vi và lời nói của Chúa Giêsu quả thực phát xuất từ quyền năng cứu độ của Thiên Chúa.
Trong Tin Mừng, một điều đặc biệt mà chúng ta cần biết đó là Chúa Giêsu là Đấng có quyền năng thực hiện những điềm thiêng dấu lạ, nhưng khi đối diện với đau khổ và cái chết, nhiều lần Người cũng xúc động, đồng cảm và chia sẻ nỗi đau với những ai đang phải than khóc. Chúa Giêsu đã khóc với người khóc. Người đã khóc khi chứng kiến nỗi đau bà góa thành Nain mất đứa con trai duy nhất. Người đã khóc với Mácta và Maria khi họ mất người em Ladarô. Điều này nhắc nhở chúng ta luôn nhớ lời ở trên: “Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong” (Kn 1,13). Thiên Chúa đau khổ khi chúng ta đau khổ. Người không đứng ở đằng xa mà nhìn chúng ta đau khổ. Nhưng Người đã đến làm người, ở với chúng ta, để chia sẻ đau khổ với chúng ta và đã chết vì chúng ta.
Đối diện với đau khổ và cái chết, Lời Chúa hôm nay mang đến cho chúng ta một chìa khóa để trả lời cho những vấn vạn về sự dữ và mang lại ánh sáng khi chúng ta ở trong bóng tối của đau khổ, đó là: “Đức tin.” Đức tin là điều kiện cần thiết để Chúa Giêsu thực hiện phép lạ. Bởi thế, bất cứ ai đến xin Chúa làm phép lạ, Người đều đòi hỏi họ phải có đức tin. Nhưng đức tin ở đây không phải là một thứ đức tin chung chung, nhưng là đức tin vào chính Chúa Giêsu. Tin Mừng phân biệt rõ ràng hai dạng tin: tin cái gì và tin vào ai. Tin vào Ai (viết hoa) chính là tin vào Thiên Chúa. Ở đây, tin vào Thiên Chúa cũng là tin vào Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế.
Cuộc đối thoại giữa Giêsu với người chị của Ladarô là một chứng tá hùng hồn cho những gì vừa nói. Mácta nói với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy” (Ga 11,21-22).
Có lẽ có rất nhiều cha mẹ và vợ chồng của người bệnh cũng cầu nguyện với Chúa Giêsu như thế: “Lạy Chúa, nếu Ngài ở đây, hay nếu chúng con sống ở Palestina, chúng con sẽ chạy đến với Ngài… Nhưng lúc này, chúng con xin Chúa nếu Chúa muốn, xin làm một phép lạ cho con…”
Chúa Giêsu trả lời với Mácta: “Em chị sẽ sống lại!” Nhưng cô Mácta không hài lòng với lời hứu này vì phải chờ lâu quá. “Con viết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết” (Ga 11,24). Như thế không đủ, con muốn ngay bây giờ. Và lời quả quyết của Chúa Giêsu với Mácta và với tất cả chúng ta: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?” (Ga 11,25-26). Ở đây, Chúa Giêsu cho thấy phép lạ lớn nhất là tin vào Người. Với niềm tin đó, mọi sự đều có thể.
Chúng ta cần nói về khía cạnh khác của bài Tin Mừng là Chúa Giêsu không chỉ nói về cái chết thể lý, còn muốn nói đến cái chết của con tim và linh hồn. Chết linh hồn khi chúng ta sống trong tội lỗi, cái chết của con tim khi chúng ta sống trong buồn phiền, thất vọng và chán nãn. Lời Chúa Giêsu: “Talità kum, hỡi con, hãy chỗi dậy!” Những lời không chỉ dành cho đứa trẻ đã chết, nhưng cả những người đang sống.
Như thế, Lời Chúa hôm nay minh chứng cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa không muốn con người phải chết, nhưng được sống mãi. Chúa Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa, Người đến để giải thoát con người khỏi đau khổ và cái chết. Điều kiện để được Chúa Giêsu cứu độ là tin vào Người. Chúng ta hãy làm như thế để được sống đời đời. Amen!
Vị Mục sư và người thợ cắt tóc trong một lần dạo phố đã nói chuyện với nhau. Người thợ cắt TN 13-B121
Vị Mục sư và người thợ cắt tóc trong một lần dạo phố đã nói chuyện với nhau. Người thợ cắt tóc nói:
– “Đây là lý do tại sao tôi không thể tin vào Đấng gọi là Chúa của tình yêu thương. Nếu Chúa tốt như ông nói, Ngài sẽ không để những người nghèo đói, bệnh tật, bẩn thỉu này tồn tại. Ngài sẽ không cho phép những người nghèo khổ phải bị xã hội ruồng rẩy, và những người nghiện ma túy rồi những phần tử xấu xa khác của xã hội nữa. Không, tôi không thể tin vào một Đấng chấp nhận cho sự việc này xảy ra.”
Vị Mục sư không nói gì cứ tiếp tục đi. Đến một lúc, họ gặp người ăn mày nghèo khổ, dơ bẩn lạ thường. Tóc của anh ta bù xù, rũ đến vai, râu mọc đầy trên mặt. Mục sư nói:
– “Thợ hớt tóc à, Anh không phải là người cắt tóc tốt bụng lắm sao?! Sao Anh để cho người ăn mày này sống trong khu phố của Anh mà không hề được cắt tóc và cạo râu”
Hết sức ngạc nhiên, người thợ hớt tóc nói:
– “Tại sao lại trách tôi về tình trạng của ông ấy. Tôi chẳng hại gì ông ta cả. Ông ta chẳng bao giờ đến cửa hàng của tôi cả. Nếu chịu đến thì tôi đã làm cho ông ta sạch sẽ gọn gàng và đẹp trai rồi.”
Đưa mắt nhìn thợ hớt tóc, ông Mục sư cất tiếng: “Vậy thì đừng trách Chúa cho phép con người tiếp tục con đường xấu xa của họ. Ngài vẫn mời gọi họ đến và nhận ơn cứu rỗi đó chứ. Tại họ không chịu đến và tiếp nhận Ngài mà thôi”.
Cuộc sống chúng ta đang đối diện với nhiều điều bất trắc mà tự sức con người không thể giải quyết. Có người đã thất bại vì không biết kêu đến ai; có người đã thành công vì ngoài việc nỗ lực của bản thân, của gia đình, họ còn biết cậy dựa vào đời sống đức tin, nghĩa là biết cậy dựa vào Chúa. Qua các bài đọc của Chúa nhật 13 thường niên B hôm nay giới thiệu cho chúng ta biết rằng niềm tin vào Thiên Chúa ngang qua Đức Giê-su Ki-tô sẽ được giải thoát mọi sự. Tuy nhiên, để được Thiên Chúa thi ân giáng phúc, đòi hỏi con người phải có niềm tin sắt son vào Ngài dầu phải trải qua thử thách gian nan. Hơn nữa, thành quả là sự chữa lành của Thiên Chúa sẽ đến với những ai chạy đến với Ngài và tha thiết khấn xin.
Như chúng ta đã biết điều kiện để được gặp gỡ và đón nhận những phép lạ từ Chúa, là con người phải có đời sống đức tin vững vàng. Trong bài Tin mừng (Mc 5, 21-43) của Chúa nhật hôm nay trình thuật cho chúng ta hai gương mặt đặc biệt về đời sống đức tin. Gương mặt thứ nhất là ông Giairo, trưởng hội đường. Đứng trước cái thập tử nhất sinh của đứa con gái mình, Ông Giairo không biết làm gì được và không ai có thể cứu được nó, ngoài Đức Giê-su mà ông nghe biết. Vì thế với vai trò là trưởng hội đường, được sở hữu chức vụ cao nhưng không màng tới địa vị đó, ông đã khiêm tốn chạy đến với Đức Giê-su qua cử chỉ là sụp lạy và van xin “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu chữa và được sống.”(c.23). Dù là một trưởng hội đường, dù có quyền lực, có danh vọng trong dân, nhưng Ông Giairo đã có thái độ khiêm tốn và tin tưởng vào Đức Giê-su để xin Ngài và chỉ có Ngài mới cứu được đứa con của mình. Ông tin cho nên ông tìm gặp Đức Giê-su. Ông tin nên ông biểu lộ niềm tin đó qua hành vi ‘quỳ lạy và van xin’. Ông tin nên ông ra khỏi bản thân mình, ra khỏi chức vụ, ra khỏi não trạng kỳ thị để tìm gặp Đấng có thể làm được mọi sự. Ông tin vì Đức Giê-su đã minh định cho ông: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi.”(c.36)
Gương mặt thứ hai, đó là người đàn bà bị băng huyết 12 năm. Căn bệnh của bà đã kéo dài, chạy thầy chạy thuốc, tiền mất tật mang, nhưng xem ra bệnh càng ngày càng nặng hơn. Đau thể xác đã đành, bà còn bị coi là ô uế theo luật Do thái. Nỗi đau của bà tăng lên gấp đôi. Hình như bà hết đường chữa chạy, không muốn nói rằng cái chết đang gần kề. Đối với căn bệnh của bà, vật chất cũng như các y bác sĩ đã bỏ tay chấm com. Tuy nhiên, may cho bà là bà đã nghe biết về ông Giê-su, Người có quyền uy trong mọi sự. Vì thế, bà tin rằng ‘chỉ có Ông này mới có thể cứu chữa cho mình. Nhưng làm sao đây, mình bị mang tiếng là ô uế cơ mà. Mình là thân phận đàn bà trong một xã hội đang kỳ thì phụ nữ cơ mà. Thôi, thay vì ra mặt, mình ‘âm thầm hay lén lút’ chạm vào áo Ngài phía sau là được. Vì Ngài có uy quyền nên đụng chạm áo Ngài là chạm vào con người Ngài.’ Nghĩ như vậy, Bà liền làm vì đức tin thôi thúc.“Tôi mà sờ được vào áo Ngài thôi, là sẽ được khỏi bệnh”. (c.28).Vì tin vào sức mạnh của Đức Giê-su nên bà đã can đảm vượt qua những tập quán, mọi nếp suy nghĩ và quan niệm tôn giáo có tính trói buộc và cản trở con người miễn sao bệnh bà được cứu chữa. Quả thật, vì tin vào quyền năng của Đức Giê-su, sau sự đụng chạm vào tua áo của Ngài, người đàn bà bị băng huyết đã cảm nhận được rằng bệnh bà đã được khỏi.Một niềm tin chắc chắn mà không nghi nan nơi bà đã dẫn đến câu nói của Chúa Giê-su đối với bà “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh.”(c.34)
Thật vậy, nhìn qua hai gương mặt vừa phân tích trên, chúng ta có suy nghĩ rằng để đón gặp và nhận được ơn lành từ Thiên Chúa, thiết tưởng mọi người phải có niềm tin kiên vững vào Đức Giê-su, Ngôi Lời nhập thể kèm theo thái độ và hành vi cử chỉ khiêm tốn. Hơn nữa, khi đức tin được biểu lộ rõ ràng và xác tín như vậy, thì thành quả ơn sủng của Thiên Chúa sẽ được trao ban. Điều này, chúng ta đọc thấy rõ ràng qua trình thuật của Thánh Mac-cô hôm nay: chính vì niềm tin của ông Giairo, người cha trong gia đình mà đứa con gái đã được cứu sống sau khi mọi người đã trông thấy nó chết thật. Sự chết đã bị đánh bại nhờ sự xuất hiện của Đức Giê-su Ki-tô, Đấng có uy quyền trên mọi sự. Vì con người được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa, nên Thiên Chúa luôn luôn tìm cách làm cho con người được hạnh phúc và được sống. Tuy nhiên, nơi bài đọc I cho chúng ta thấy ma quỷ là cha của sự dối trá và là kẻ thù không đội trời chung với Thiên Chúa đã ghen tương và muốn lôi kéo con người đi vào con đường sự chết. Cũng vậy, người đàn bà băng huyết đã được chữa lành nhờ quyền năng và sức mạnh của Đức Giê-su. Thật vậy, Đức Giê-su đã có quyền năng trên bệnh tật, trên sự dữ và sự chết. Nơi Ngài, qua Ngài và trong Ngài, những người tin sẽ được giải thoát và đón nhận được ơn cứu độ muôn đời.
Vì vậy, dầu Thiên Chúa luôn yêu thương và là Đấng quyền năng, nhưng Ngài sẽ sẵn sàng trao ban cho con người tất cả mọi sự nếu con người biết đáp trả và cộng tác vào công trình cứu độ của Ngài. Hay nói cách khác, ơn cứu độ hay thành quả chữa lành của Thiên Chúa chỉ đến được với con người nếu con người biết đặt niềm tin sâu thẳm vào Ngài và khiêm tốn đón nhận.“Nầy, ta đứng ngoài cửa mà gõ; nếu ai nghe tiếng ta mà mở cửa cho, thì ta sẽ vào cùng người ấy, ăn bữa tối với người, và người với ta.”(Kh 3, 20). Do đó, sự cộng tác của con người vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa cho con người hết sức cần thiết. Về điều này, Thánh Âu-tinh cũng đã minh định:“Thiên Chúa dựng nên con người không cần con người, nhưng để cứu chuộc con người, thì Ngài cần đến sự cộng tác của con người”. Nhờ vậy, niềm tin chắc chắn của ông Giairo và người đàn bà bị băng huyết vào Đức Giê-su đã sinh lại thành quả là con gái được cứu sống và căn bệnh được chữa lành.
Tóm lại, con người chỉ thật sự được giải thoát và cứu vớt không phải nơi của cải vật chất hay tài năng chức vụ, nhưng nơi Đức Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời nhập thể. Quả thật, đối diện với sự dữ, ngay cả sự chết, con người tự sức chẳng làm được gì nếu thiếu vắng sự hiện diện của Thiên Chúa. Chính vì thế, để Thiên Chúa đi vào trong cuộc đời và để con người thực sự thoát khỏi mọi hoang mang lo sợ, chúng ta cần bén rễ sâu vào Ngài ngang qua Đức Giê-su Ki-tô bằng niềm tin kiên vững và lòng mến sắt son.
Thiên Chúa đã sáng tạo con người, cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được dựng nên làm TN 13-B122
Thiên Chúa đã sáng tạo con người, cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người (Kng 2,23).
Theo Giáo Lý Công Giáo, “Trong tất cả các thụ tạo hữu hình, chỉ con người là “có khả năng hiểu biết và yêu mến Đấng Tạo Hóa”. Con người là “thụ tạo duy nhất trên trái đất, được Thiên Chúa dựng nên cho chính họ”. Chỉ con người, nhờ sự hiểu biết và tình thương, được mời gọi chia sẻ sự sống của Thiên Chúa. Con người được tạo dựng vì mục đích ấy và đó là lý do căn bản của phẩm giá con người”(x. GLCG, số 356).
Qua đó, chúng ta thấy con người chúng ta có hai khả năng cao quí đó là khả năng hiểu biết và khả năng yêu thương. Nhờ sự hiểu biết và yêu thương, chúng ta được mời gọi chia sẻ sự sống của Thiên Chúa. Đó chính là phẩm giá cao quí của con người chúng ta. Bởi đó, chúng ta hãy dùng hai khả năng đó để hiểu biết và yêu mến Thiên Chúa.
Vì sao, Thiên Chúa đã dựng nên con người chúng ta với phẩm giá cao trọng như vậy? Thánh Ca-ta-ri-na thành Si-en-na tự hỏi và câu trả lời của Ngài như sau: “Với tình thương vô biên, Thiên Chúa đã nhìn ngắm thụ tạo nơi chính mình và say mê nó. Vì thương yêu, Ngài đã tạo ra nó; vì yêu thương, Ngài đã cho nó khả năng hưởng phúc vĩnh cửu”.
“Vì con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, nên có một phẩm giá là một nhân vị. Không phải là một sự vật mà là một con người. Con người có khả năng tự biết mình, tự làm chủ mình và tự do tự hiến và hiệp thông với người khác. Do ân sủng, mỗi người được mời để giao ước với Đấng Sáng Tạo, dâng lên Người một lời đáp trả tin yêu mà không ai có thể thay thế được” (x. GLCG, số 357).
Con người chúng ta, chưa có ai thấy Thiên Chúa cả. Chỉ một mình Đức Giê-su Ki-tô mà thôi đã thấy Thiên Chúa. Con người chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, nên qua những gì Thiên Chúa dựng nên, chúng ta có thể hiểu biết và yêu mến Thiên Chúa. Do đó, để hiểu biết và yêu mến Thiên Chúa, chúng ta cần hiểu biết và yêu mến các thụ tạo Thiên Chúa đã dựng nên, trong đó có con người nữa.
Con người chúng ta dùng sự hiểu biết của mình, trước hết để “tự biết mình”; để “tự làm chủ chính mình” và sau đó là “tự do, tự hiến và hiệp thông với người khác”. Do vậy, sự hiểu biết là quan trọng và cần thiết cho mỗi người chúng ta, nên chúng ta phải tập cho mình có một tập tính tốt là luôn luôn biết học hỏi. Có một câu châm ngôn thật chí lý rằng: “học, học nữa, học mãi và học hoài”. Ai không chịu học thì coi như đã già; các kiến thức hay kinh nghiệm cũng sẽ mai một đi. Ai không biết yêu thì cũng vậy. Do đó, chúng ta cũng phải; “yêu, yêu nữa, yêu mãi và yêu hoài”.
Chúng ta học ở trường học; chúng ta học ở trường đời. Cứ thấy cái gì tốt, cái gì hay là chúng ta học. Càng học bao nhiêu thì chúng ta càng hiểu biết bấy nhiêu và càng có nhiều kinh nghiệm sống bấy nhiêu. Nhờ sự hiểu biết và kinh nghiệm đó, chúng ta “làm chủ được chính mình”; biết mình làm cái gì là tốt; cử xử thế nào là hay; xử lý thế nào là đẹp; yêu thương thế nào là hạnh phúc và sống thế nào là thánh thiện.
“Thiên Chúa đã sáng tạo mọi sự cho con người; còn con người được sáng tạo để phụng sự, yêu mến Thiên Chúa và dâng lên Người tất cả thụ tạo” (x. GLCG, số 358).
Thánh Gio-an Kim khẩu nói: “Hữu thể nào trong cõi dương gian được quan tâm dường ấy?
Đó là con người; một khuôn mặt sống động, lớn lao, kỳ diệu, mà dưới mắt Thiên Chúa còn quí giá hơn cả toàn thể vạn vật.
Đó là con người. Vì con người mà trời, đất, biển rộng và toàn thể vạn vật được hiện hữu.
Đó là con người. Vì tha thiết muốn cứu độ con người, Thiên Chúa đã không tiếc ban cả Con duy nhất của Người cho họ.
Và đó là con người. Thiên Chúa không ngừng điều động mọi sự để nâng con người lên tới Thiên Chúa và đặt con người ngồi bên hữu Thiên Chúa.
Sứ mạng cao quí của con người chúng ta như là trung gian giữa Thiên Chúa và vạn vật. Vạn vật –> Con người –> Thiên Chúa.
“Thiên Chúa sáng tạo mọi sự cho con người”, nên con người chúng ta dùng sự hiểu biết và sự yêu thương của mình mà dùng và bảo vệ vạn vật. Chúng ta dùng sao cho có chừng, có mực; đồng thời biết bảo vệ, nuôi dưỡng và làm cho vạn vật phát triển.
“Con người được sáng tạo để phụng sự, yêu mến Thiên Chúa và dâng lên Người tất cả thụ tạo”. Những gì chúng ta ta dùng, chúng ta ăn vào cơ thể chúng ta, chúng trở thành xương, thành thịt của chúng ta, để sau này chúng được phục sinh với chúng ta đó. Bởi đó mà chúng ta phải cố gắng mà nên hoàn thiện mỗi ngày; nên thánh nên thiện mỗi ngày, để sau này khi được phục sinh và được ngồi bên hữu Thiên Chúa, tất cả mọi thụ tạo chúng ta dùng cũng được phục sinh và được ngồi bên hữu Thiên Chúa nữa. Đó chính là cách chúng ta phụng sự , yêu mến và dâng lên Thiên Chúa tất cả thụ tạo.
“Vì cùng xuất từ một nguồn gốc chung, nhân loại tạo thành một thể thống nhất” (x. GLCG, số 360).
Con người chúng ta, sống không chỉ có một mình duy nhất trên đời mà có biết bao con người đang sống với chúng ta. Hiện nay, đã có hơn 8 tỉ người trên hành tinh này. Chúng ta nghĩ sao?
Đức Giáo Hoàng Pi-ô XII nói: “Thật là kỳ diệu, khi nhìn ngắm nhân loại có chung một nguồn gốc nơi Thiên Chúa; cùng có chung một bản tính, được cấu tạo như nhau một thể xác vật chất và một linh hồn thiêng liêng; cùng có chung một mục đích trực tiếp và một sứ mạng trong thế giới; có cùng chung một nơi cư ngụ là trái đất với những của cải, mà mọi người, do quyền tự nhiên của mình đều có quyền sử dụng để nuôi dưỡng và phát triển sự sống; cùng có chung về một cùng đích siêu nhiên là chính Thiên Chúa, mà tất cả phải qui hướng về Người; cùng có chung những phương thế để đạt tới cùng đích đó và cùng có chung ơn cứu độ mà Đức Ki-tô đã thực hiện cho mọi người”.
Vậy, chúng ta cùng với hết thảy mọi người mà tạ ơn Thiên Chúa, vì Người đã dựng nên con người chúng ta và cho con người chúng ta ơn gọi và sứ mạng cao quí như vậy. Đồng thời chúng ta hãy dùng khả năng hiểu biết và khả năng yêu thương của mình mà phụng sự và yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức chúng ta.Chúng ta hãy dùng hai khả năng hiểu biết và yêu thương của mình mà “học, học nữa, học mãi và học hoài” và “yêu, yêu nữa, yêu mãi và yêu hoài”. Chúng ta sẽ trẻ mãi; vui mãi và sẽ hạnh phúc mãi mãi.
Frank Tyger nói: “Lạc quan là liệu pháp chống chán nản hữu hiệu nhất.” Đó là liệu pháp tâm TN 13-B123
Frank Tyger nói: “Lạc quan là liệu pháp chống chán nản hữu hiệu nhất.” Đó là liệu pháp tâm lý. Về thể lý cũng có nhiều liệu pháp để chữa trị bệnh tật. Mỗi khi chữa lành cho ai – khỏi bệnh và khỏi tội, Chúa Giêsu luôn nói rằng chính đức tin đã cứu người đó.
Phúc Âm cho biết rằng chỉ trong ba năm thi hành sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã chữa lành rất nhiều người – cả thể bệnh và tâm bệnh: Chữa nhạc mẫu của Simôn Phêrô, (Mt 8:14-15; Mc 1:29-31; Lc 4:38-39) chữa hai người bị quỷ ám, lũ quỷ xin được nhập vào bầy heo, rồi cả bầy heo lao xuống biển chết đuối hết, (Mt 8:29-34; Mc 5:1-20; Lc 8:26-39) chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ, (Mt 8:16-17; Mc 1:32-34; Lc 4:40-41) chữa lành người bại liệt, (Mt 9:1-8; Mc 2:1-12; Lc 5:17-26) chữa người đàn bà bị băng huyết và phục sinh con gái của một vị thủ lãnh, (Mt 9:18-26; Mc 5:21-43; Lc 8:40-56) chữa hai người mù, (Mt 9:27-31) chữa người câm bị quỷ ám, (Mt 9:32-34) chữa con gái bị quỷ ám của người đàn bà Canaan, (Mt 15:21-28; Mc 7:24-30) chữa nhiều bệnh nhân tại ven Biển Hồ Galilê, (Mt 15:29-31)… và rồi ngay trước lúc bị bắt, Ngài còn chữa lành tai cho tên đầy tớ của thầy thượng tế, (Mt 26: 47-55; Mc 14:43-49; Lc 22:47-51; Ga 18:3-11) cuối cùng là làm sáng mắt cho Longinus, kẻ đã cầm lưỡi giáo đâm thâu trái tim Chúa Giêsu khi Ngài đã chết trên Thập Giá. (Ga 19:34)
Đặc biệt là Ngài chữa cả “bệnh chết” cho Ladarô, (Ga 11:1-44) con trai bà góa ở Nain, (Lc 7:11-17) con gái thủ lãnh Giaia. (Mt 9:18-26; Mc 5:21-43; Lc 8:40-56) Và cho tới tận thế, đang có và sẽ có biết bao trường hợp được Thiên Chúa chữa lành, cụ thể là hàng triệu trường hợp thể bệnh được ghi nhận do phép lạ chữa lành ở Lộ Đức.
Đau khổ như phần cứng được cài mặc định trong “bộ máy” con người. Thật vậy, kiếp phàm nhân có rất nhiều nỗi khổ, đủ kiểu và đủ mức độ, tóm tắt trong bốn lĩnh vực chính: Sinh, Bệnh, Lão, Tử. Trong tứ khổ đó, cái “đệ nhị khổ” là thứ khổ dai dẳng nhất: Bệnh tật. Bệnh thể lý là cái khổ rõ ràng rồi, nhưng còn cái khổ còn “dữ dội” hơn, đó là “tâm bệnh” và “bệnh tâm linh.” Hệ lụy của “bệnh chết” là gì? Kinh Thánh cho biết: “Khi dục vọng đã cưu mang thì đẻ ra tội; còn tội khi đã phạm rồi thì sinh ra cái chết.” (Gc 1:15)
Quả thật, bệnh và tật có liên quan lẫn nhau. Vì mắc bệnh tật nên mới cần được chữa trị, còn có “lành” hay không lại là chuyện khác. Về thể bệnh, cụ thể là dịch bệnh corona với nhiều biến chứng khó lường, chúng ta cần sự hỗ trợ của các y bác sĩ và dược sĩ; về tâm bệnh, chúng ta cần Thần Y Giêsu. vì Kinh Thánh xác định: “Không phải lá cây, chẳng phải thuốc đắp đã chữa họ lành, nhưng chính Lời Ngài chữa lành tất cả.” (Kn 16:12) Các lương y phải như từ mẫu để chứng tỏ Ý Chúa thể hiện qua họ, chứ chính họ không thể chữa lành. Nhiều kẻ nhẹ dạ nên mắc lừa các loại lang băm mạo danh.
Thuở xưa, dân Israel bị rắn độc hoành hành, Thiên Chúa ban cho “liệu pháp rắn đồng” để “hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng thì được sống.” (Ds 21:9) Đến thời Tân Ước, Chúa Giêsu đi tới đâu cũng được người ta tìm đến để được chữa lành – xác và hồn. Người ta “tìm cách sờ vào Ngài, vì từ nơi Ngài phát ra một năng lực chữa lành hết mọi người.” (Lc 6:19) Và Ngài xác định: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.” (Ga 12:32) Ai tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa làm người để cứu độ nhân gian thì sẽ được “chữa lành.” Có thể gọi đó là liệu pháp đức tin – liệu pháp tâm linh.
Thiên Chúa đã xác nhận: “Ta cầm quyền sinh tử, Ta đánh phạt, rồi Ta lại chữa lành, không ai cứu khỏi tay Ta được.” (Đnl 32:39) Trốn trời không khỏi nắng. Phàm nhân chỉ là thụ tạo, không thể không cần đến Thiên Chúa. Ngoan thì được thương, ương thì bị phạt. Đó là hệ lụy tất yếu. Thật vậy, người ta rất tâm linh khi nói: “Chỉ sợ trời hại, chứ không sợ người ta hại.”
Thời đại ngày nay có nhiều chứng ung thư, bất cứ độ tuổi nào cũng có thể phải đối mặt với “cái chết được báo trước” này. Không phải bây giờ mới có bệnh ung thư, thời Cựu Ước cũng đã có đủ thứ bệnh tật rồi: “Đức Chúa sẽ làm cho anh em bị ung nhọt Ai Cập, bị u bướu, ghẻ lở, ngứa ngáy, mà không thể chữa khỏi. Đức Chúa sẽ làm cho anh em bị điên khùng, mù loà, loạn trí. Anh em sẽ mò mẫm giữa trưa, như người mù mò mẫm trong bóng tối, và sẽ không thấy đường mà đi. Đức Chúa sẽ làm cho anh em bị ung độc không thể chữa lành ở đầu gối và ở đùi, từ bàn chân cho tới đỉnh đầu.” (Đnl 28:27-29 và 35) Thật đáng kinh hãi!
Tội lỗi có tính liên đới: Ông Bà Nguyên Tổ bất tuân lệnh Chúa nên con cháu bị “di truyền,” chứng “ung thư” này “di căn” tới tận thế. Thật khốn khổ biết bao! Cũng đáng sợ, bởi vì loài người có “máu” nổi loạn, luôn tìm cơ hội để bạo động, phản trắc, bất tuân. Thế nhưng Thiên Chúa vẫn giàu lòng thương xót, Ngài “tội nghiệp” chúng ta lắm, Ngài “đánh” vì yêu thương chứ không vì ghét bỏ. Chúng ta đau một thì Ngài xót mười: “Người gây thương tích, cũng chính Người băng bó, đánh bầm dập xong, lại ra tay chữa lành.” (G 5:18) Trong “tứ khổ” của phàm nhân, cái “đệ tứ khổ” (chết – tử) là cái khổ lớn nhất, đáng sợ nhất, và là chứng bệnh bất trị.
Mọi phàm nhân đều khổ vì “di truyền” chứng ung-thư-tội-lỗi. Kinh Thánh cho biết rõ ràng: “Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong.” (Kn 1:13) Lý do đơn giản và minh nhiên: “Vì Người đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu, mọi loài thọ tạo trên thế giới đều hữu ích cho sinh linh, chẳng loài nào mang độc chất huỷ hoại. Âm phủ không thống trị địa cầu. Quả vậy, đức công chính thì trường sinh bất tử.” (Kn 1:14-15) Cha mẹ trần gian chỉ là tội nhân, là “người xấu,” (Lc 11:13) mà còn biết yêu thương và muốn điều tốt cho con cái, huống chi Thiên Chúa là Đấng nhân lành, chí thiện.
Với khối tình muôn thuở (Gr 31:3) và rất nhiều, (Gr 31:20) Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô hạn. Kinh Thánh cho biết thêm: “Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người. Nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian. Những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết.” (Kn 2:23-25) Rất rõ ràng, Satan ghen tị với chúng ta nên chúng mới “gài bẫy” chúng ta, chúng muốn kéo chúng ta về phía chúng, chịu cái-chết-đời-đời với chúng nơi vương quốc hỏa ngục của chúng. Vì thế, chúng ta luôn phải cố gắng thoát khỏi vòng vây của chúng bằng mọi giá.
Có câu chuyện kể rằng ma quỷ cám dỗ anh chàng nọ theo phe nó, nhưng anh ta không chịu. Ma quỷ ra ba điều kiện: Một là GIẾT MẸ, hai là GIẾT VỢ, ba là UỐNG RƯỢU. Anh ta cân nhắc: Mẹ là người sinh ra mình, dù chưa đáp đền chữ hiếu thì cũng không thể giết mẹ; vợ là người đồng hành với mình, nên một xương một thịt, đầu ắp tay gối, chưa thể yêu thương đủ thì cũng không thể giết vợ; cuộc đời có nhiều lúc buồn, người ta bảo “nhất túy giải vạn sầu” (rượu có thể giải nhiều nỗi sầu), vả lại uống rượu chẳng hại ai, có chăng chỉ khổ mình, thôi thì chọn cách này. Xem chừng hợp lý lắm.
Một hớp. Một ly. Một xị. Riết đâm nghiện, trở thành đệ tử ruột của Lưu Linh. Thế rồi một lần nọ, anh ta uống rượu say và cố gắng về nhà, anh ta quậy phá, mẹ và vợ can ngăn không được, anh ta lấy dao chém chết cả mẹ và vợ. Mưu mô ma quỷ thâm độc và tinh vi khôn lường, phải luôn cảnh giác cao độ kẻo hối không kịp.
Mặc dù bất xứng nhưng con người thực sự quý giá đối với Thiên Chúa, luôn được Ngài trân trọng và yêu thương. (Is 43:4) Có bệnh thì vái tứ phương, còn nước còn tát. Thể bệnh còn vậy, huống chi tâm bệnh. Thiên Chúa sẽ chữa lành chúng ta ngay nếu chúng ta sám hối. Vua Đavít phạm hai trọng tội một lúc (gián tiếp giết Urigia và cướp vợ của Urigia), nhưng ông đã sám hối nên được Thiên Chúa “chữa lành” – tha thứ và không kết án tử; (2 Sm 12:13) tướng cướp Dismas (tử tội tốt lành) chỉ xin lỗi một lời liền được Ngài “chữa lành” tâm bệnh và cho theo vô Thiên Đàng ngay đêm hôm đó. (Lc 23:42-43) Và còn rất nhiều trường hợp tương tự mà chúng ta không thể biết hết.
Càng sống lâu càng nhiều tội và được chữa lành nhiều. Tất cả chúng ta cũng đã bao lần được Thiên Chúa chữa lành qua Bí Tích Thương Xót – Bí Tích Hòa Giải. Vì thế, chúng ta phải biết chúc tụng và tạ ơn: “Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt, không để quân thù đắc chí nhạo cười con.” (Tv 30:2) Với trí óc phàm nhân, chúng ta không thể nào hiểu nổi hành động của Ngài thương xót chúng ta: “Lạy Chúa, từ âm phủ Ngài đã kéo con lên, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống.” (Tv 30:4)
Chắc hẳn Thánh Vịnh gia đã được chữa lành nhiều nên không thể không nói ra: “Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa, cảm tạ Thánh Danh Người. Người nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời. Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng hò reo.” (Tv 30:5-6) Thiên Chúa ném tội lỗi chúng ta ra xa (Tv 103:12) và không còn nhớ tới nữa. Thật diễm phúc!
Thánh Vịnh gia tạ ơn và thề hứa: “Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con, lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ. Khúc ai ca, Chúa đổi thành vũ điệu, cởi áo sô, mặc cho con lễ phục huy hoàng. Vì thế, tâm hồn con ca ngợi Chúa, và không hề nín lặng. Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu.” (Tv 30:11-13) Tất nhiên chúng ta cũng cần có tâm tình tốt lành như vậy.
Với lòng thương xót ba la, Thiên Chúa yêu thương chúng ta trước (1 Ga 4:19), mặc dù chúng ta bất xứng. Thánh Phaolô nói: “Anh em biết Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có.” (2 Cr 8:9) Và còn hơn thế, Ngài còn chịu đau khổ để chúng ta được chữa lành, chịu chết để chúng ta được sống viên mãn, sống dồi dào, sống đời đời.
Thánh Phaolô giải thích: “Vấn đề không phải là bắt anh em sống eo hẹp để cho người khác bớt nghèo khổ. Điều cần thiết là phải có sự đồng đều. Trong hoàn cảnh hiện tại, anh em có được dư giả, là để giúp đỡ những người đang lâm cảnh túng thiếu, để rồi khi được dư giả, họ cũng sẽ giúp đỡ anh em, lúc anh em lâm cảnh túng thiếu. Như thế, sẽ có sự đồng đều, hợp với lời đã chép: Kẻ được nhiều thì không dư, mà người được ít thì không thiếu.” (2 Cr 8:13-15) Cách chia sẻ đó là sống yêu thương, thể hiện lòng thương xót, thực hành đức ái, và cũng là “chữa lành” lẫn nhau.
Có hai con người, một lớn và một nhỏ, được Chúa Giêsu chữa lành, và đực Thánh Máccô kể lại qua trình thuật Mc 5:21-43 (≈ Mt 9:18-26; Lc 8:40-56): Hôm đó, Đức Giêsu vừa từ thuyền lên bờ Biển Hồ, một đám người rất đông liền tụ lại quanh Ngài. Lúc đó, có một ông trưởng hội đường tên là Giaia tới sụp xuống dưới chân Ngài và khẩn khoản nài xin Ngài đến đặt tay cứu sống con gái nhỏ của ông, vì nó gần chết. Khi Ngài theo ông về nhà ông, một đám rất đông kéo theo và chen lấn Ngài.
Cũng lúc đó, trong đám đông có một bà bị băng huyết đã mười hai năm, khổ sở đeo đẳng vì bà chạy thầy chạy thuốc đã nhiều, đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, thậm chí bệnh còn thêm nặng. Bà nghe người ta nói về Đức Giêsu nên cố lách qua đám đông để đến phía sau, mong sờ được vào vạt áo Ngài thì sẽ được chữa lành. Thật vậy, bà vừa chạm vào áo Ngài thì máu trong bà liền cầm lại, và bà cảm thấy trong mình được khỏi bệnh. Bà đã toại nguyện. Một phép lạ nhãn tiền cho người có niềm tin mãnh liệt.
Thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra, Chúa Giêsu liền quay lại giữa đám đông mà hỏi xem ai đã sờ vào áo Ngài. Các môn đệ vừa ngạc nhiên, bởi vì đông người chen lấn như thế mà Ngài lại hỏi đã sờ vào Ngài. Phàm nhân không thể biết, nhưng Thiên Chúa biết. Đúng như chúng ta thường nói: “Có trời mới biết.” Trời là Thiên Chúa, mà Thiên Chúa chính là Thầy Giêsu đấy thôi. Vâng, Ngài biết rõ nên Ngài ngó quanh để nhìn người phụ nữ đã làm điều đó. Có tật giật mình. Bà này sợ phát run lên vì bà biết cái gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Ngài, và thú thật ngọn nguồn. Ngài cười và nhẹ nhàng nói: “Này bà Hai, chính LÒNG TIN của bà đã cứu chữa bà đấy. Bà hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh. An tâm nhé, bà Hai!” Đức tin là “điểm nhấn” mà Chúa Giêsu thường đề cập.
Khi đó có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo rằng con gái ông chết rồi, không nên làm phiền Thầy nữa. Chúa Giêsu nghe nói vậy liền bảo ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần TIN thôi!” Rồi Ngài không cho ai đi theo mình, trừ ba đệ tử ruột – Phêrô, Giacôbê và Gioan. Đến nơi, Chúa Giêsu thấy người ta khóc lóc thảm thiết, Ngài ôn tồn: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” Người ta đã xì xầm chế nhạo Ngài. Đúng là người trần, mắt thịt. Chẳng biết gì mà vẫn chảnh, ra vẻ ta đây.
Chúa Giêsu không quan tâm, nhưng Ngài bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi vào nơi con bé đang nằm. Ngài cầm lấy tay nó và nói: “Talitha Kum.” (Ταλιθά κούμ[ι]) – “Bé ơi, trỗi dậy đi!” (talitha – con bé hoặc bé gái.) Con bé liền đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi. Ai nấy kinh ngạc sững sờ. Tuy nhiên, Chúa Giêsu nghiêm cấm họ không được cho ai biết, và bảo họ cho con bé ăn. Tiếng khóc trở thành tiếng cười, nỗi buồn biến thành niềm vui, đau khổ hóa thành hạnh phúc.
Chúa Giêsu chữa lành thể bệnh, nhưng Ngài muốn chúng ta quan tâm tâm bệnh. Được yêu thương thì phải biết yêu thương, được chữa lành thì cũng phải biết chữa lành: “Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha. Người với người cứ nuôi lòng hờn giận, thế mà lại xin Đức Chúa chữa lành! Nó chẳng biết thương người đồng loại, mà lại dám xin tha tội cho mình! Nó chỉ là người phàm mà để tâm thù hận thì ai sẽ xin tha tội cho nó? Hãy nhớ đến ngày tận số mà chấm dứt hận thù, nhớ mình sẽ phải hao mòn và phải chết mà trung thành giữ các điều răn.” (Hc 28:2-6) Đọc lời cảnh cáo này thấy “nhột gáy” lắm. Có thể người ta “ngại” nhắc tới đoạn Kinh Thánh này vì cảm thấy… sợ!
Để được chữa lành, chúng ta cùng chữa lành lẫn nhau bằng cách noi gương tác giả Thiên Chúa cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin đoái thương, này con đang kiệt sức, chữa lành cho, vì gân cốt rã rời; (Tv 6:3) xin thương xót và chữa lành con, quả thật con đắc tội với Ngài.” (Tv 41:5) Kinh Thánh nói: “Lành dữ, sống chết, giàu nghèo, tất cả đều do Đức Chúa.” (Hc 11:14) Câu này rất đáng khắc cốt ghi tâm.
Như một định mệnh bất biến, chắc chắn ai cũng bị bệnh, dù đó là ai, vì Thiên Chúa đã nói: “Ta đã quyết định GIỜ TẬN SỐ của mọi xác phàm, vì tại chúng mà đất đầy bạo lực: này Ta sắp tiêu diệt chúng cùng với đất.” (St 6:13) Tất nhiên ai cũng muốn được chữa lành – cả thể bệnh và tâm bệnh, cần phải thành tín xin ơn chữa lành.
Thánh Cyril Jerusalem nói: “Tội lỗi là sự dữ đáng kinh sợ, nhưng với người biết sám hối thì rất dễ chữa lành.” Thánh Thomas Aquino nói: “Ân sủng có năm hiệu quả nơi chúng ta: thứ nhất, linh hồn chúng ta được chữa lành; thứ hai, chúng ta được nên hoàn thiện; thứ ba, chúng ta sẽ hoạt động hiệu quả; thứ tư, chúng ta sẽ bền vững; và thứ năm, chúng ta sẽ mau đạt đến vinh quang.”
Lạy Thiên Chúa, xin che chở chúng con khỏi mọi sự dữ, đặc biệt là đại dịch corona đang tàn phá thế giới, xin chữa lành hồn xác chúng con, và xin thêm đức tin cho chúng con trong mọi hoàn cảnh. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Tác giả Mác-cô đã lồng ghép hai sự kiện vào với nhau. Cả hai đều nhằm kể về những phép lạ Đức TN 13-B124
Tác giả Mác-cô đã lồng ghép hai sự kiện vào với nhau. Cả hai đều nhằm kể về những phép lạ Đức Giêsu đã làm. Một phép lạ để chữa người đàn bà bệnh tật lâu năm và phép lạ kia làm cho em bé đã chết được sống lại.
Hai người được lãnh nhận ơn ban qua phép lạ có hai thể loại đức tin khác nhau. Người phụ nữ có đức tin âm thầm; viên cai quản Hội đường lại có đức tin được công khai tuyên xưng mạnh mẽ. Người phụ nữ chỉ mong sao chạm được vào áo Chúa; viên cai quản Hội đường lại sấp mình nài nỉ van xin.
Cả hai hình thức đức tin đều xuất phát từ lòng xác tín và cậy trông. Hai người đều tin chắc chắn rằng Đức Giêsu có thể làm được điều họ đang kêu xin. Tuy vậy, xem ra sự xác tín của người phụ nữ có vẻ mạnh mẽ hơn. Bà không dám được Chúa biết đến hay can thiệp. Bà chỉ cần chạm vào áo Người. Trong khi đó, viên cai quản Hội đường, khi thấy con mình đã chết, đã bị dao động băn khoăn. Trong cả hai trường hợp, Đức Giêsu đều nhắc đến “đức tin”. Nếu Người ngỏ lời với người phụ nữ để khen đức tin của bà, thì với viên cai quản Hội đường, Người lại mời gọi ông hãy vững tin. Người hiểu tâm trạng của ông khi nghe tin con mình đã chết.
Dù với hình thức nào chăng nữa, đức tin luôn luôn là điều kiện để được lĩnh nhận ơn Chúa. Nếu có đức tin, thì ngay cả sự chết cũng không còn là một điều đáng sợ. Ý tưởng “sự chết – sự sống” được nhấn mạnh trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay. Đây cũng là nỗi băn khoăn của con người ở mọi thời đại. Người ta không ngừng đặt câu hỏi về ý nghĩa của sự chết và đâu là lối thoát của con người khỏi nỗi ám ảnh này. Thiên Chúa làm chủ sự sống. Ngài là Đấng tạo dựng sự sống. Sự sống đến từ Thiên Chúa. Sự chết do ma quỷ đem lại. Như thế, đức tin đem lại sự sống và khước từ niềm tin là nguyên nhân sự chết. Khi mời gọi các tín hữu hãy củng cố đức tin vào quyền năng Thiên Chúa, Phụng vụ hôm nay cũng nhắc nhở chúng ta về tình thương bao la của Ngài. Quả thật, “Thiên Chúa không làm ra cái chết, Ngài chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong” (Bài đọc I). Ngài không bao giờ là tác giả của điều ác, vì bản chất của Ngài là tốt lành và thánh thiện. Như thế, tin vào Chúa sẽ giúp con người vượt qua nỗi sợ của sự chết. Bởi lẽ họ tìm thấy cánh cửa của hy vọng và ngõ lối vào tương lai.
Vì con người được tạo dựng “theo hình ảnh của Thiên Chúa” (x St 1,27), mỗi tín hữu có sứ mạng làm cho sự tốt lành của Chúa lan tỏa nơi lòng cuộc đời. Nếu hôm nay, Đức Giêsu không hiện diện hữu hình bằng xương bằng thịt để chữa lành những bệnh nhân, thì Người lại đang mượn cánh tay và tấm lòng của chúng ta để đem tình thương đến cho người bất hạnh, đem niềm vui cho người sầu khổ và đem tự do cho người bị giam cầm. Thánh Phaolô đã khuyên các tín hữu thành Côrinhtô hãy quảng đại trong cuộc lạc quyên giúp người nghèo. Theo vị Tông đồ dân ngoại, Đức Giêsu là gương mẫu cho chúng ta về lòng quảng đại, vì Người là Đấng “vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em được giàu có” (Bài đọc II). Mọi sự chúng ta có đều do Chúa ban. Hơn nữa, chúng ta giàu có là do Chúa đã trở nên nghèo vì chúng ta. Chính vì thế, san sẻ cho tha nhân là chúng ta làm cho hình ảnh Chúa trở nên rạng ngời nơi cuộc đời này. Sự sẻ chia không làm cho chúng ta nghèo đi, nhưng trái lại, giúp cho chúng ta trở nên phú quý hơn trong cuộc sống.
Người đàn bà bị bệnh đã mười hai năm được Chúa chữa lành. Bé gái con ông trưởng hội đường đã chết được Chúa cho sống lại…. Biết bao điều kỳ diệu hôm nay Chúa vẫn đang thực hiện nơi lòng cuộc đời, nếu chúng ta có đức tin vững vàng và lòng cậy trông sâu xa.
Giữa những thử thách phong ba của cuộc đời, nhiều khi đức tin của chúng ta bị chao đảo, như chiếc thuyền tròng trành giữa đại dương. Xung quanh chúng ta, mỗi ngày có biết bao điều xảy đến, như sự chết, tai nạn, bệnh tật. Trước những “vấn nạn” này về cuộc sống, nhiều người đã bị dao động đức tin vào một Thiên Chúa tốt lành và yêu thương. Lời Chúa giúp chúng ta xác tín: Ngài không bao giờ là nguyên nhân của sự dữ. Giữa thử thách đau thương, Thiên Chúa luôn nâng đỡ và thêm sức cho chúng ta. Nếu biết cậy dựa vào Ngài, chúng ta sẽ có đủ nghị lực vươn lên và tìm được niềm vui giữa những khó khăn trắc trở trên đường đời. Chesterton, văn sĩ, thần học gia và triết gia người Anh (1874-1936) đã viết: “Hãy cầu nguyện như thể mọi sự đều tùy thuộc vào Thiên Chúa. Hãy hành động như thể mọi sự đều tùy thuộc vào chúng ta”. Quả vậy, khi quyền năng của Thiên Chúa và nghị lực của con người gặp gỡ nhau, thì những điều kỳ diệu sẽ xảy đến trong cuộc đời.
Thiên Chúa ban cho con người sự tự do để quyết định những dự phóng, những dự tính của TN 13-B125
Thiên Chúa ban cho con người sự tự do để quyết định những dự phóng, những dự tính của mình. Ngạn ngữ Tây Phương có một câu rất ấn tượng :” Hãy tự giúp mình trước, rồi Trời sẽ giúp sau “. Thiên muốn con người sử dụng hết các khả năng của mình, rồi Ngài sẵn sàng can thiệp giúp con người chúng ta khi cần thiết…
Đọc Tin mừng của thánh Máccô hôm nay, chúng ta nhận ra điều này là Chúa luôn làm phép lạ với sự cộng tác của con người. Quả thật, Ngài không làm phép lạ một cách máy móc hoặc làm những việc lạ lùng như người ta ngồi chờ sung rụng vv…Chúa luôn luôn chờ đợi sự cộng tác của con người. Người phụ nữ xuất huyết trong Tin mừng của Thánh Máccô 5,21-43 tin tưởng vào Chúa.Niềm tin của người phụ nữ được củng cố bằng việc tin không chỉ tin suông, tin ngoài môi miệng, bà đến với Chúa chứ không chờ Ngài đến với bà. Niềm tin của bà là niềm tin kín đáo nhưng cương quyết thật vì tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng của Chúa Giêsu. Bà nghĩ bà chỉ cần tới gần đụng vào Chúa hay sờ vào Ngài, bà cũng sẽ được khỏi, được chữa lành. Đúng niềm tin của bà thật mạnh mẽ.Bà không chỉ cầu nguyện, ước mong suông mà thôi.Nhưng bà đã hết lòng tin vào quyền năng tuyệt đối của Thiên Chúa. Bà biết và nghĩ trong lòng Thiên Chúa sáng tạo nên vũ trụ và dựng nên con người, nên Ngài có quyền năng tuyệt đối trên vũ trụ và có quyền trên sự sống và sự chết của con người. Niềm tin của bà kín đáo thật, nhưng vững chắc, quả cảm và tin tưởng biết bao ! Ông Giairô cũng có lòng tin tưởng thật sự Chúa có thể cứu sống con gái ông. Ông đã làm mọi cách, làm hết sức mình vì gia đình ông có tiền, có của, có thế giá. Nhưng ông ta tin chỉ có Chúa mới cứu sống được con của mình. Con gái ông hấp hối không có thể đến với Chúa Giêsu, nên ông đã xin Ngài đến chữa cho con gái ông.
Tự do Thiên Chúa ban cho con người là sự tự do hoàn toàn tinh tuyền vì Ngài không áp đặt con người, không bó buộc con người phải làm theo điều này điều nọ trái với ý của con người. Thiên Chúa muốn con người cộng tác với ơn Chúa. Bởi vì, cộng tác với ơn Chúa là điều kiện căn bản, cốt yếu để Thiên Chúa ban ơn. Con người không thể ngồi chờ cách thụ động để Thiên Chúa tự ý làm phép lạ, nhưng đòi hỏi con người phải cộng tác, sử dụng hết các khả năng, các phương tiện Chúa ban, phần còn lại Ngài sẽ định liệu cho chúng ta. Thiên Chúa hoàn toàn tôn trọng tự do của chúng ta, Ngài không bó buộc chúng ta, không bắt ép chúng ta, nhưng Ngài coi trọng từng người, tôn trọng mọi người, Ngài không coi chúng ta, coi con người như những chú bù nhìn, những con số, nhưng Ngài biết tên từng con người chúng ta. Phép lạ làm cho nước lã hóa thành rượu ngon hảo hạng, cần đến sự cộng tác của con người là đổ nước lã vào chum theo lời Chúa dạy bảo. Phép lạ, Chúa làm cho cá và bánh hóa nhiều để nuôi sống nhiều ngàn người dân cũng cần đến sự cộng tác của con người. Với 5 chiếc bánh và 2 con cá, Chúa Giêsu đã làm phép lạ lớn lao nuôi sống dân chúng đi theo nghe Ngài giảng dạy. Con bà góa thành Naim được Chúa làm cho sống lại do bà khóc lóc, van nài Chúa…Chúa đã chạnh lòng thương và làm cho con bà được sống lại. Người mù được chữa lành khi anh cộng tác với Chúa là đi rửa mắt ở hồ Siloe.
Thiên Chúa quả thực yêu thương con người, yêu thương chúng ta, Ngài biết từng con người chúng ta. Ngài sẽ giúp chúng ta nếu chúng ta biết cộng tác với Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con luôn biết cộng tác với ơn Chúa, để được Chúa yêu thương, nâng đỡ và phù giúp trong mọi trạng huống của cuộc đời chúng con.Amen.
CÂU HỎI ĐỂ GỢI Ý :
1.Tự do là gì theo ÔBACE nghĩ ? 2. Phép lạ là gì ? 3.Chúa có cần con người cộng tác để Ngài làm phép lạ ? 4.Lòng tin của người phụ nữ băng huyết ? 5.Lòng tin của ông Giairô ?
Đức tin của người thường đi từ kinh nghiệm đến đức tin. Chạm vào Chúa để rôi nhận ra TN 13-B126
Đức tin của người thường đi từ kinh nghiệm đến đức tin. Chạm vào Chúa để rôi nhận ra được ơn Chúa chữa lành và từ đó nhận thức được về đức tin. Đó là hành trình của bà góa đụng vào áo Chúa để được chữa lành trong Tin Mừng (Mc 5, 21 -31).
Trái tim nói với trái tim.
Có nhiều con đưiờng kinh nghiệm để đến gặp gỡ Chúa và nhận ra đức tin của mình đặt vào ai? Con đường thường gặp hơn cả với là con đường tình yêu gặp gỡ Tình yêu.
Hans Urs von Balthasar viết: “Chỉ có tình yêu mới đáng tin”. Người đàn bà góa theo Chúa có lẽ đã quan sát nhiều trong hành vi và lời nói của Chúa giữa đám đông và trên con đường đến nhà ông Gia ia, bà đã phần nào nhận ra lòng thương xót của Chúa. Bà mạnh dạn bước tới để chạm vào Chúa.
Chạm vào Chúa để được chữa lành, bà góa đã thầm nghĩ: “”Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu.” (Mc 5, 28). Có một thúc đẩy từ tâm hồn của con người đến để gặp Chúa. Sức mạnh thúc đầy đó, có thể đến từ nhiều phía, nhưng một điều chắc chắn luôn là sự thúc đẩy từ Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh thần là Đấng khai mở Tình Yêu Thiên Chúa cho con người và cũng là Đấng mở lòng con người ra để đến gặp gỡ Thiên Chúa.
Tiếng nói của Chúa Thánh Thần sâu thẳm từ trái tim, làm cho trái tim đến gặp gỡ trái tim. Bởi thế để kinh nghiệm về tình yêu và sống tình yêu luôn đòi hỏi một thực tập thường xuyên bài ca đức ái, bài ca hoa trái của Chúa Thánh Thần: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cor 13, 4 – 7). Và hoa trái “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ.” (Gl 5, 22 – 23)
Chạm vào lòng thương xót của Chúa là một hành trình khởi đi từ kinh nghiệm sống với tình yêu thương của nhau. Không có kinh nghiệm sống yêu thương nhau trong thực tế, người ta cũng khó có thể chạm đến tình thương của Chúa. Chính bởi vậy, Chúa luôn mời gọi: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương các con” (Ga 9, 12) và “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 9, 13).
Chạm vào để được đối thoại.
Kinh nghiệm không chỉ dừng lại ở cảm xúc, như người đàn bà góa chạm vào áo Chúa và được chữa lành thôi chưa đủ, Chúa mời gọi một cuộc đối thoại. Chúa muốn nghe bà nói về hoàn cảnh của bà, những điều bà nghĩ, những trăn trở của bà. Đối thoại trong tình yêu là tự bộc lộ chính mình cho người mình yêu. Chúa đã bộc lộ như thế trong Lời của Người. Người tự bộc lộ chính mình để con người được nhận biết và cũng thế Chúa muốn con người bộc lộ về mình cho Chúa biết, dù rằng: “Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả.” (Tv 139, 1 – 3).
Đức tin là một bước nhảy từ kinh nghiệm sang điều xác tín hoặc có thể nói đó là bước nhảy của lòng tin. Gọi là bước nhảy nhưng bước nhảy ấy là nhảy ra khỏi lòng tự kiêu hãnh của mình, đến quỳ gối để xin đức tin, nhận ra mình yếu kém và tội lỗi. Từ việc nhận ra mình được chữa lành, người đàn bà góa đã đến quỳ gối và xin được đức tin. Cha của đứa bé bị động kinh xin Chúa chữa lành, ông đã quỳ gối để xin thêm đức tin (Xem Mc 9, 14 – 29). Các tông đồ theo Chúa cũng xin đức tin (Lc 17, 5). Thánh Phêrô sau khi nhận ra Chúa cho mẻ cá đầy đã quỳ gối và thưa: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi! “ (Lc 5, 8)
Tin không chỉ một mình xác tín mà giờ đây nhận ra những người đang theo Chúa cũng đã xác tín cùng một niềm tin. Đức tin không riêng lẻ, mà đức tin còn là sự đúc kết trải qua bao nhiêu thăng trầm lịch sử, các biến cố, những điều đã được chứng nghiệm trong cộng đoàn Hội Thánh. Đức tin không chỉ trong quá khứ đã xa và rơi vào quên lãng. Đức tin ấy dựa trên sự thật, tình yêu và sống động của Ba Ngôi Thiên Chúa hằng hữu.
Như người đàn bà góa, xin cho chúng con can đảm bước tới chạm vào áo Chúa để được chữa lành. Được nói chuyện với Chúa về những lo âu, muộn phiền hoặc cả những vui mừng hạnh phúc của chúng con. Cuối cùng nhận ra Chúa luôn đồng hành với chúng con trong cả lúc con yếu đuối và ngã sa, thua kém về đức tin. Chính lúc ấy, chúng con được quỳ gối để xin Chúa ban thêm niềm tin!
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại hai phép lạ Chúa Giêsu làm: Một cho con gái ông Giarô sống TN 13-B127
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại hai phép lạ Chúa Giêsu làm:
Một cho con gái ông Giarô sống lại.
Và một Chúa làm cho một người đàn bà đáng thương bị bệnh loạn huyết suốt 12 năm được khỏi.
Ông Giarô là một người giầu có, có địa vị, có thế lực trong xã hội. Con gái của ông ở trong một tình trạng hết sức nguy hiểm có thể đưa đến tử vong. Trái lại người đàn bà thì rất nghèo, chẳng có địa vị gì trong xã hội. Thậm chí còn bị xã hội coi khinh. Bà bị bệnh tật. Cơn bệnh đã kéo dài suốt 12 năm. Suốt 12 năm trời như thế, bao nhiêu tiền bạc bà đã dốc cả ra để chạy chữa những bệnh tật vẫn còn nguyên đó. Thật là một hoàn cảnh rất đáng thương.
Tâm trạng của hai người gống nhau: Cảm thấy mình hoàn toàn bất lực trước hiện trạng của mình. Với ông Giairô thì đứa con ông sắp chết. Với người đàn bà thì tiền bạc đã cạn kiệt mà kết quả thì chưa thấy gì, không những thế bệnh tình có vẻ còn nặng thêm.
Cả hai đều có chung một niềm hy vọng: Hy vọng được Chúa cứu. – Ông Giairô: Đứa con tối sắp chết, xin Thầy đến cứu nó.
– Người đàn bà nghĩ ở trong lòng: Nếu tôi được động đến áo của Người.
Cách thức họ đến với Chúa có hơi khác nhau: – Với ông Giairô: Ông đến một cách công khai trước mặt mọi người.
– Còn người đàn bà thì đến một cách bí mật kín đáo, không muốn cho ai biết.
Kết quả: Rất phấn khởi, ngoài sự tưởng tượng. – Với con ông Giairô: được Chúa cho sống lại.
– Với người đàn bà: được hoàn toàn khỏi bệnh.
BÀI HỌC
Như vậy qua những sự việc bài Tin Mừng hôm nay ghi lại, thử hỏi Chúa muốn gì nơi chúng ta? Thưa tôi tưởng Chúa muốn: * Trước hết là phải có một đức tin mạnh mẽ.
Đức tin là một yếu tố rất cần thiết để Chúa thực hiện những việc lạ lùng cho chúng ta. Nhưng đức tin chỉ có khi chúng ta hoàn toàn biết ký thác cuộc đời của chúng ta cho Chúa.
Khi quân đội Nga tiến vào thủ đô Budapest nước Hungary để trấn áp một cuộc bạo động, có một viên sĩ quan trẻ hung hăng trong tư thế một kẻ chiến thăng, đã tìm đến nhà một vị mục sư.
Bước vào phòng, đóng xập cửa lại, anh ta chỉ lên cây thánh giá treo trên tường và bảo ông mục sư:
– Này, ông có biết không, cái đó là một sự dối trá, mê hoặc dân nghèo để bọn người giàu có thể kìm hãm họ trong sự ngu dốt. Bây giờ chỉ có ông và tôi ông hãy thú nhận là không hề tin vào ông Giêsu nào đó là Con của Thiên Chúa.
Vị mục sư điềm tĩnh nhỏ nhẹ trả lời:
– Không thể được, tôi thật sự tin vào Người!
Viên sĩ quan rút súng ra và bảo:
– Ông đừng có đùa với tôi! Nếu ông không khẳng định đó là sự dốt trá, tôi sẽ nổ súng giết ông ngay!
Vị mục sư đứng thẳng người, nhìn sâu vào đôi mắt anh ta và dõng dạc trả lời:
– Tôi không thể nói khác được. Đức Giêsu thật sự là Con Thiên Chúa!
Thật không ngờ, nghe đến đây, viên sĩ quan buông tay để rơi khẩu súng xuống nền nhà, chạy lại ôm chầm lấy vị mục sư vừa khóc vừa nói :
– Xin lỗi ông, tôi chỉ muốn thử xem ông có trung thực hay không! Đúng thế, tôi cũng đã âm thầm lặng lẽ tin trong suốt nhiều năm qua như ông đã tin! Nhưng giờ đây, tôi đã khám phá ra rằng: Có ít nhất một người dám chết cho Đức Tin của mình, chính ông đã củng cố Đức Tin cho tôi!
Ông trưởng hội đường trong bài Tin Mừng hôm nay đã tin nhưng chưa đủ mạnh. Mặc dầu ông đã can đảm tìm đến với Chúa. Chúng ta biết hội đường Do thái vốn không ủng hộ Đức Giêsu, trái lại còn chống đối và tìm cách giết Người. Thế mà ông trưởng hội đường này vẫn đến cầu cứu Người, chứng tỏ lòng tin của ông đã mạnh. Chính Đức Giêsu đã bảo ông:”Chỉ cần tin thôi!”.
Còn người phụ nữ tuy sợ hãi nhưng cũng đã can đảm vượt qua những nỗi sợ hãi đó để đến với Chúa, sờ vào gấu áo Người. Đức Giêsu đã khen ngợi đức tin đó: “Lòng tin của con đã chữa con”.
* Thứ đến là phải có một lòng khiêm tốn thẳm sâu.
Người khiêm tốn là người biết sống với chân cái thật của mình. Mình có thế nào thì mình quyết sống như vậy.
Vào thời Minh Trị (1786-1912), Nam-in, một thiền sư Nhật, tiếp một giáo sư đại học đến hỏi về thiền.
Nam-in mời trà. Ông đã rót đầy tách của khách nhưng vẫn tiếp tục rót thêm!
Vị giáo sư ngồi nhìn nước trong tách tràn ra cho đến khi không kềm mình được nữa:
– Đầy quá rồi, xin đừng rót nữa.
– Giống như cái tách này. Nam-in nói ông cũng đầy ắp những quan niệm, những tư tương của ông, làm sao tôi có thể bày tỏ Thiền cho ông được, trừ phi ông cạn cái tách của ông trước?
Vâng! Phải khiêm tốn thì mới có thể thấy được tình trạng bất lực của mình để biết tìm đến Chúa.
Một hôm, hoàng tử gọi vào đền vua một người lái buôn chuyên nghề bán ngựa. Ông ta dẫn đến trước mặt hoàng tử hai con ngựa bạch đã được huấn luyện rất kỹ để hoàng tử kén chọn. Bề ngoài, hai con ngựa trông giống hệt nhau, nhưng người lái buôn lại đòi hai giá khác nhau, con này gấp đôi giá con kia. Hoàng tử liền gọi các quan cận thần đến mà bảo:
-Ta có thể tặng hai con ngựa này cho ai giải thích cho ta biết tại sao con ngựa này gấp đôi giá con ngựa kia?
Các quan cận thần đến gần hai con ngựa và quan sát thật kỹ càng, nhưng không một ai nhận ra có điều gì khác biệt. Thấy vậy, hoàng tử cho gọi hai người lính hầu cận đến và sai họ cưỡi trên hai con ngựa, hy vọng rằng các quan cận thần sẽ nhận ra giá trị của mỗi con. Sau mấy vòng phóng ngựa chung quanh sân, không ai trong các quan nhận ra sự khác biệt về giá trị của hai con ngựa. Cuối cùng, hoàng tử phải lên tiếng giải thích cho họ:
– Chắc các ngươi đã nhận ra rằng: trong khi ngựa chạy quanh sân, con ngựa thứ nhất không để lại dấu gì đằng sau, nó chạy cách nhẹ nhàng như bay. Trái lại con ngựa thứ hai để lại lớp bụi bay ngập trời. Chính vì lý do đó mà con ngựa thứ nhất có giá gấp đôi con ngựa thứ hai.
Chẳng cần phải dài lời, chúng ta cũng thấy được kết quả của lòng khiêm tốn đối với ông trưởng hội đường và người đàn bàn bệnh tật ngày hôm nay như thế nào. Chúng ta thấy sự khiêm tốn của hai người không những đã được biểu lộ qua sự nhận biết thân phận thiếu thốn, bất lực của bản thân, mà còn được diễn tả qua thái độ bên ngoài. Với ông trưởng hội đường Tin Mừng ghi: “Vừa thấy Đức Giêsu, ông sụp lạy dưới chân Người”. Còn với người đàn bà Tin Mừng cho biết: Sau khi bị phát giác, Người phụ nữ cũng đến phủ phục dưới chân Người và tỏ bày tất cả mọi sự. Chính thái độ khiêm tốn ấy đã được Chúa thương.
Hôm nay, chúng ta hãy noi gương ông trưởng hội đường và người phụ nữ bị bệnh băng huyết, đến với Chúa bằng một đức tin mãnh liệt và bằng sự khiêm tốn thẳm sâu. Với đức tin và sự khiêm tốn như thế, ta sẽ nhận được tình thương của Chúa. Chỉ cần một lần nếm cảm được tình yêu Chúa, được thấy ánh mắt nhân từ của Chúa, được lắng nghe những lời êm dịu, khích lệ của Chúa, chúng ta sẽ chẳng còn muốn làm gì khác hơn là đền đáp tình yêu thương của Người.
“Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong”(Kng 1,13).
Quả vậy, “Thiên Chúa đã sáng tạo con người, cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được dựng TN 13-B128
Quả vậy, “Thiên Chúa đã sáng tạo con người, cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người”(x.Kng 2,23). Thế nhưng “Chính vì quỉ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian. Những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết” (x.Kng 2,24).
Cái chết này gọi là “Cái chết thứ hai”(x. Kh 20,6). Cái chết thứ nhất là cái chết của thân xác ta. Còn “Cái chết thứ hai” là “cái chết của linh hồn”. Linh hồn ta dù không chết, nhưng nếu ta mà theo quỉ dữ thì ta sẽ vào hỏa ngục với nó. Sự vào hỏa ngục với ma quỉ , chính là “Cái chết thứ hai” theo như sách Khải huyền nói. Nói“chết” mà không chết mới khốn nạn. Thà chết đi thì chẳng còn biết đau khổ là chi. Đằng này linh hồn không bao giờ chết mà phải vào hỏa ngục với ma quỉ thì khốn nạn biết chừng nào !!!!!! Ở đó lửa không hề tắt; ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng(x.Mt 25,30).
Tại sao ma quỉ lại ghen tị ? Như ta biết, ma quỉ chính là Thiên Thần Chúa đã dựng nên, nhưng vì nó chống lại Chúa, không muốn theo ý Chúa, không nghe Lời Chúa, nên bị Chúa phạt, phải rời thiên đàng mà xuống hỏa ngục. Vì là Thiên Thần thông minh sáng láng, nên sự chống đối là triệt để, một lần duy nhất, không có lần thứ hai, nên không có sự ăn năn hối cải. Cám ơn Chúa, vì ta không được dựng nên là Thiên Thần !!!!
Vì ma quỉ không được ở thiên đàng và không có cơ hội ăn năn hối cải, nên nó ghen tị với con người. Con người chúng ta, vì là “xác đất vật hèn”, yếu đuối, lầm lỡ, nên có được cơ hội ăn năn hối cải và nếu sống tốt sẽ được lên thiên đàng. Chính vì thế mà ma quỉ ghen tị với con người. Nó tìm mọi cách để cám dỗ con người chống lại Thiên Chúa, không nghe lời Chúa, không theo ý Chúa để về phe với nó, để xuống hỏa ngục với nó.
Vả lại, chắc chắn ở thiên đàng thì sướng hơn ở hỏa ngục rồi, nên ma quỉ mới ghen tị. Nếu mà ở hỏa ngục sướng hơn thì nó sẽ không ghen tị bao giờ. Ở hỏa ngục chỉ có khóc lóc và nghiến răng thôi thì sung sướng nỗi gì cơ chứ.
Con người chúng ta ngu muội, yếu đối dễ sai lầm, dễ phạm tội, dễ nổi loạn chống lại Thiên Chúa; dễ chiều theo ma quỉ mà không nghe Lời Chúa, nhưng ta có thể ăn năn hối cải khi lầm lỡ và xin Chúa thứ tha. Thế nhưng cơ hội “ngàn năm có một” này, ta chỉ có khi ta đang sống trên trần gian này thôi, khi ta chết là ta mất cơ hội này đấy.
Bởi đó, ta phải cố gắng, nếu có lầm lỡ hay phạm tội thì ăn năn sám hối ngay, kẻo chết rồi là ta không làm được nữa. Vả lại, ta cũng không biết ta chết lúc nào nữa, nên cứ làm ngay là chắc ăn, không phải lo âu gì cả. Ngày nào xào ngày đó; lần nào xào lần đó là OK, là ta an tâm. Biết mình làm lỗi thì xin lỗi ngay; xin Chúa tha thứ ngay. Chậm nhất thì cuối ngày, trước khi ngủ, ta hãy xin Chúa tha thứ những lầm lỗi ta đã phạm trong ngày, để ta an bình mà ngủ, nếu ngày mai ta có không dậy được nữa thì ta cũng “an bình ra đi”. Vì đã có người ngủ nhưng không bao giờ dậy nữa.
Ma quỉ nó sẽ cám dỗ ta ở chỗ này. “Có chết ngay đâu mà sợ; còn xa ruột chán; còn sống nhăn răng đấy thôi; cứ từ từ xưng tội; từ từ xin lỗi; Chúa lòng lành vô cùng mà”. Ai mà nghe lời ma quỉ thì coi chừng có ngày “chết không kịp ngáp”.
Ngày nay ta thấy, nào là tai nạn giao thông, trên bộ, trên biển và cả trên trời nữa: đi tàu cũng chết, đi máy bay cũng chết, đi xe hơi, xe máy cũng chết. Nào là đột quỵ, ở nhà cũng chết, đi bộ cũng chết, đang đá banh cũng chết. Rồi nào là động đất, sóng thần, mưa bão, lũ lụt,….già trẻ lớn bé đều có thể chết bất cứ lúc nào, không có gì bảo đảm tuyệt đối 100% cả. Nên ta chớ nghe lời ma quỉ cám dỗ, chết nhăn răng ra đấy !!!
Lời Chúa nói: “Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong. Thiên Chúa đã sáng tạo con người, cho họ được trường tồn bất diệt”. Có đúng như vậy không ? Ta có xác tín không ? Nếu đúng thì tại sao ta lại phải chết ? Có ai thoát khỏi cái chết bao giờ đâu.
Thực vậy, ta có chết là chết về phần xác thôi, chứ không chết về phần hồn. Thân xác đó, vì là “xác đất vật hèn” nên theo định luật tự nhiên, sẽ già đi và chết. Thế nhưng thân xác đó sẽ được phục sinh vào ngày sau hết và cùng với linh hồn lên thiên đàng sống với Chúa mãi mãi.
Lời Chúa có nói: “Đức công chính thì trường sinh bất tử”(x.Kng 1,15). Vậy ai sống công chính, ai là người công chính cũng sẽ được trường sinh bất tử. Như thế, ta phải sống sao cho nên người công chính, thánh thiện thì ta sẽ được trường sinh bất tử. Dù thân xác ta có bị “phá hủy”, linh hồn ta sẽ được sống muôn đời. Nhưng làm sao ta nên người công chính được đây?
Thưa ta phải nghe và thực hành Lời Chúa, không có cách nào khác.Ta mà theo ma quỉ, không vâng nghe lời Chúa dạy, ta sẽ theo nó xuống hỏa ngục đấy. Tất nhiên Chúa chẳng vui gì khi thấy ta xuống đó, nhưng Chúa tôn trọng sự tự do của ta. Ta có xuống đó là do ta chọn chứ Chúa không quyết định. Khi ta xuống hỏa ngục là ta làm cho Chúa buồn, “buồn lắm luôn”. Có người cha người mẹ nào vui khi thấy con mình đau khổ bao giờ chưa?
Chúa cũng vậy. Chúa đâu có vui gì khi thấy ta xuống hỏa ngục đâu. Chính vì Chúa không muốn ta xuống hỏa ngục, nên đã sai Con Một Ngài đến để cứu độ chúng ta. Ta mà cứng đầu cứng cổ, triệt để chống lại Chúa và cố tình không vâng nghe Lời Người thì ta sẽ vào đấy chứ không còn cách nào khác.
Chúa cũng “hơi buồn” khi ta phải vào luyện ngục. Thế nhưng ở luyện ngục thì còn có ngày ra; có ngày ta được lên thiên đàng. Nên Chúa “hơi buồn” một chút thôi.
Bởi đó, ta đừng làm cho Chúa buồn, cũng đừng làm cho ma quỉ vui, nhưng hãy cố gắng sống nên người công chính và thánh thiện trên trần gian này, bằng cách nghe và sống Lời Chúa; để khi thân xác ta có chết, thì linh hồn ta cũng về với Chúa, được lên thiên đàng. Có quá lắm thì cũng vào luyện ngục thôi; đừng có gian xảo, ác độc quá mà phải vào hỏa ngục. Rồi ngày sau hết, thân xác của ta sẽ được phục sinh và cùng với linh hồn lên thiên đàng hưởng phúc mãi mãi.
Ta đừng sợ cái chết thứ nhất nhưng hãy sợ “cái chết thứ hai”. Cái chết thứ nhất sẽ đưa ta về với Chúa, chứ không làm hại gì ta cả. “Cái chết thứ hai” mới là đáng sợ. Vì một khi ta theo phe ma quỉ thì ta sống đời đời kiếp kiếp với nó, không có ngày ra đâu. Ta hãy cương quyết rằng: ta chỉ có “Cái chết thứ nhất” chứ không có “cái chết thứ hai”.
Thuyết định mệnh thường quan niệm tất cả những gì con người được hưởng cũng như phải TN 13-B129
Thuyết định mệnh thường quan niệm tất cả những gì con người được hưởng cũng như phải gánh chịu đều do ông Trời định đoạt. Một phần lớn người Ki-tô hữu cũng có quan niệm: “Chúa phạt, Chúa bắt tội, Chúa làm mưa bão, sấm sét, Chúa làm lụt lội, hạn hán, Chúa gây ra bịnh tật để trừng phạt kẻ tội lỗi…”. Quan niệm đó chẳng khác quan điểm của người Do Thái từ thời Cựu Ước, họ cho rằng bệnh hoạn là do tội lỗi gây ra, bệnh càng nặng càng chứng tỏ là người có tội nặng (Ví dụ: Người mắc bệnh phong hủi là người bị Chúa phạt, Chúa nguyền rủa bởi vì họ quá tội lỗi. “Người có bệnh phong phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: “Ô uế! ô uế!” Bao lâu còn mắc bệnh, người ấy sẽ còn là ô uế. Người ấy phải ở riêng ra, chỗ ở của họ là một nơi bên ngoài trại.” – Lv 13, 45-46).
Bệnh tật là điều bình thường của kiếp nhân sinh. Con người bị bệnh tật là do định luật tự nhiên (sinh – lão – bệnh – tử). Ai cũng có bệnh, không bệnh nặng thì bệnh nhẹ, chẳng ai thoát khỏi cái vòng kim cô ấy. Không phải có tội là bị bệnh, có người bị bệnh nhưng không có tội (Ga 9, 2-3), nhưng cũng không thiếu những trường hợp khoẻ như voi mà tội lỗi đầy mình. Tội lỗi cũng như bệnh tật, chẳng ai là không có tội. Ấy cũng bởi vì “Lầm lỗi là bản tính của con người” (“errare humanum est” – châm ngôn La ngữ). Quan niệm người có bệnh là người tội lỗi bị Thiên Chúa trừng phạt là một quan điểm quá thiển cận. Khi dựng nên con người, Thiên Chúa ban cho họ được tự do tuyệt đối, và vì thế nên khi nghe lời cám dỗ của ma quỷ, nguyên tổ mới phạm tội. Nguyên tổ tự ý vi phạm điều răn của Chúa nên tự bản thân gánh chịu, Thiên Chúa không hề bắt nguyên tổ ăn trái cấm để rồi sau đó lại trừng phạt.
Quả thật khi con người phạm tội hoặc chết, Thiên Chúa cũng chẳng vui gì. Bài đọc 1 hôm nay (CN XIII/TN-B) là một ví dụ: “Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong. Vì Người đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu, mọi loài thọ tạo trên thế giới đều hữu ích cho sinh linh, chẳng loài nào mang độc chất huỷ hoại. Âm phủ không thống trị địa cầu. Quả vậy, đức công chính thì trường sinh bất tử… Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người. Nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian. Những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết.” (Kn 1, 13-15; 2, 23-24).
Thêm một điểm chủ yếu chứng minh Thiên Chúa không hề trừng phạt con người tội lỗi: Khi con người vì tội kiêu ngạo đã chống lại các giới răn của Chúa, đã đi vào con đường tội lỗi, bị tội lỗi thống trị; thì Thiên Chúa đã sai chính Con Một xuống thế làm người để cứu chuộc. Người đã giáng sinh trong hoàn cảnh khó nghèo, sống đời sống khó nghèo để chia sẻ những đau khổ của con người. Trong thời gian rao giảng Tin Mừng, Chúa Giê-su đã luôn chú ý giúp đỡ những người bé mọn, khiêm tốn, tin tưởng cầu xin Chúa khi gặp những hoàn cảnh khổ đau: hoạn nạn, khó nghèo, bệnh tật (Đức Giê-su nói: “người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” – Mc 2, 17).
Các môn đệ hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” Đức Giê-su trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.” – Ga 9, 2-3). Nếu chỉ đọc thoáng qua câu trả lời của Đức Ki-tô, sẽ cho rằng “công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh” chính là bệnh mù của anh ta (bị Thiên Chúa phạt). Như vậy thì chẳng hóa ra Thiên Chúa đã định cho anh ta phải mù hay sao? Tuy nhiên, nếu suy nghĩ cho chín chắn sẽ thấy câu “công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh” chính là phép lạ Đức Giê-su Thiên Chúa chữa cho anh ta khỏi bệnh. Khi anh ta khỏi bệnh chính là lúc công trình Thiên Chúa được tỏ hiện.
Bài Tin Mừng hôm nay (CN.XIII – Mc 4, 21-43) trình thuật việc “Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giê-su, ông ta sụp xuống dưới chân Người, và khẩn khoản nài xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống.” (Mc 5, 22-23). Chúa Giê-su đã thương an ủi và chữa lành con của ông ta, đồng thời Người cũng chữa lành người phụ nữ bị bệnh băng huyết 12 năm, đã “tán gia bại sản” vì tìm thầy chạy thuốc mà bệnh ngày càng nặng thêm; bà vừa phải chịu nỗi đau thể xác vì bệnh hoạn, lại vừa phải chịu nỗi đau tinh thần vì mọi người coi bà như kẻ dơ bẩn, có tội nên bị trừng phạt, và ai cũng muốn xa lánh. Trong cả 2 trường hợp, Đức Ki-tô đã nhấn mạnh đến liều thuốc chữa bệnh tuyệt vời có ngay ở nơi người bệnh, chớ không phải nơi người thầy thuốc. Với người phụ nữ bị bệnh băng huyết thì “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh.” (Mc 5, 34); còn với con gái ông trưởng hội đường thì: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi.” (Mc 5, 36).
Nói đến đức tin là nói đến vấn đề cốt tủy của tôn giáo nói chung và cách riêng của Ki-tô giáo. Ở đây xin không đề cập đến những tình huống tin mù quáng hay tin a dua, a tòng, hoặc mê tín dị đoan. Chỉ xin nói đến những trường hợp tin vì được chứng kiến tận mắt (“thực mục sở thị”), hoặc do học hỏi tìm hiểu những chứng liệu, những dấu chỉ có giá trị lịch sử. Với niềm tin tôn giáo (tức là tin vào thần linh) thì làm thế nào để có thể trông thấy nhãn tiền? Đây là trường hợp rất hi hữu đã xảy ra với các ngôn sứ trong Cựu Ước. Chỉ bước sang Tân Ước, các Thánh Tông đồ mới được chứng kiến tận mắt Thiên Chúa mặc xác phàm. Tuy được “thực mục sở thị” nhưng cũng còn không ít trường hợp bán tín bán nghi, khi thì tuyên xưng niềm tin rằng Thầy mình là Thiên Chúa, khi thì lại tưởng Thầy là ma. Tin rằng Thầy là Thiên Chúa, nhưng vì thấy nhãn tiền Thầy đã chết treo khổ nhục trên thập giá, được chính tay mình liệm xác và táng trong hang đá, nên không tin Thầy đã sống lại khi chưa được “xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào cạnh sườn Thầy” (Ga 20, 24-25). Được thực mục sở thị mà còn vậy, huống hồ là chỉ được biết qua dấu chỉ, chứng liệu. Khó thật!
Khó, nhưng không bao giờ vượt quá sức của con người, bởi “những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua công trình của Người.” (Rm 1, 20). Thiên Chúa luôn luôn muốn đến với con người bằng mọi cách để an ủi, để cứu vớt. Người luôn luôn “dùng sự bất toàn của con người để công bố Lời Toàn Năng, dùng miệng lưỡi nhơ uế của con người để nói Lời Chí Thánh”. Vâng, và để thực sự hiểu được chân lý, con người không thể chỉ ỷ vào sức mình, mà còn cần – rất cần – cậy dựa vào Chúa Thánh Thần (“Dân Thiên Chúa, nhờ đức tin mà tin rằng mình được Thánh Thần Thiên Chúa là Ðấng bao phủ mặt đất hướng dẫn, cố gắng nhận định đâu là những dấu chỉ thực về sự hiện diện hoặc ý định của Thiên Chúa trong mọi biến cố, mọi yêu sách và ước vọng mà họ dự phần với những người đương thời.” – Hiến chế về Mục vụ “Gaudium et Spes”, số 11).
Trong cuộc sống hằng ngày, mối quan hệ của con người với con người cũng được dệt bằng sự tin tưởng lẫn nhau; nếu không, cuộc sống sẽ rất nặng nề vì ngờ vực và đố ky. Xa hơn nữa, trong tình bạn và trong cuộc sống gia đình, người ta còn đến với nhau bằng niềm tin sâu xa hơn, niềm tin bao hàm cả tình yêu và lòng trung thực, niềm tin khiến con người cởi mở cõi lòng cho nhau và nâng đỡ nhau trong mọi thăng trầm của cuộc sống. Như thế, niềm tin đã là một yếu tố căn bản và cần thiết cho cuộc sống con người. Đông Phương học đã xác định niềm tin có một vị thế đặc biệt trong cuộc sống cá vị của con nguời đối với cộng đồng, đối với quốc gia (人無信不立 “Nhân vô tín bất lập”: người không có niềm tin (lòng tin) thì không đứng được ở đời – Khổng Tử; 信為國之寶 “Tín vì quốc chi bảo”: trung tín là báu vật của quốc gia – Tấn Văn Công).
Quả nhiên, trong xã hội, những người luôn sống trorng ngờ vực, đố kỵ, thì không thể hoà nhập với cộng đồng, họ sống co cụm trong một ốc đảo ích kỷ, nhỏ nhen. Nếu một quốc gia, từ các cấp chính quyền đến mọi tầng lớp nhân dân đều sống với nhau bằng sự trung thực và tin tưởng lẫn nhau thì chắc chắn quốc gia đó sẽ là Bồng lai tiên cảnh, là Thiên đường tại thế. Đối với tôn giáo cũng vậy, không một tôn giáo nào không được xây dựng trên nền tảng đức tin. Với Ki-tô Giáo thì “đức tin là con đường con người đến với Thiên Chúa, là sự đáp trả của con người trước tiếng nói của Thiên Chúa” (Thánh Au-gus-ti-nô). “Với tình thương chan chứa, Thiên Chúa vô hình đã ngỏ lời với loài người như với bạn hữu. Ngài đối thoại với họ để mời gọi và đón nhận họ hiệp nhất với Ngài.” (Hiến chế Tín Lý về Mạc Khải của Thiên Chúa “Dei Verbum”, số.2).
Chính là “nhờ đức tin, các tiền nhân đã được Thiên Chúa chứng giám. Nhờ đức tin, ông A-ben đã dâng lên Thiên Chúa một hy lễ cao quý hơn hy lễ của ông Ca-in. Nhờ đức tin, ông Kha-nốc được đem đi nơi khác để khỏi chết. Nhờ đức tin, ông Nô-ê được Thiên Chúa báo cho biết những gì người ta chưa thấy. Nhờ đức tin, ông Áp-ra-ham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, khi bị thử thách, ông Áp-ra-ham đã sẵn sàng hiến tế I-xa-ác, con một của mình. Nhờ đức tin, các ông I-xa-ac, Gia cóp, Giu-se, Mô-sê, Ghít-ôn, Ba-rắc, Sam-sôn, Gíp-tác, Đa-vít, Sa-mu-en và các ngôn sứ; kể cả cô kỹ nữ Ra-kháp và các phụ nữ khác, cũng như dân Do Thái khi vượt qua Biển Đỏ.” (Dt 11, 1-40). Quả thật nhờ đức tin mà tất cả đều được Thiên Chúa ban ân sủng tuỳ theo từng trường hợp của mỗi người. Bước sang Tân Ước và trải dài theo lịch sử Giáo hội cho đến hiện nay, thì không bút mực nào có thể liệt kê cho hết được những chứng liệu về một đức tin vững mạnh, trung kiên của mọi phần tử trong Hội Thánh Chúa.
Vì đức tin là sự đáp trả của con người đối với Thiên Chúa, nên nói đến đức tin là nói đến sự vâng phục, mà chính Tổ phụ Ap-ra-ham và Mẹ Maria là những mẫu gương tuyệt hảo. Vì tin, tổ phụ Ap-ra-ham đã vâng lời “ra đi mà không biết mình đi đâu” (Dt 11, 8), ngài cũng vâng lời và sẵn sàng sát tế con một của mình làm hy lễ. Vì tin, Mẹ Maria đã thưa với sứ thần: “Vâng, tôi đây là nữ tì của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc.1,38) và trong suốt cuộc hành trình đồng công cứu chuộc với Đấng Cứu Độ, Mẹ luôn luôn “xin vâng” trong mọi tình huống. Rõ ràng đức tin sẽ giúp con người vui sống, phấn khởi và hạnh phúc. Không có đức tin thì không có niềm hy vọng, mà con người sống không hy vọng thì sẽ đau khổ, thất vọng ê chề (“Ðức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” – Dt 11,1).
Tâm lý thông thường của con người vẫn quan niệm sự quyết định cho một người bệnh khỏi hay không là ở thầy thuốc, thầy thuốc càng giỏi thì bệnh càng chóng khỏi, nhất là khi thầy thuốc đó lại là một thần nhân, một vĩ nhân. Vì thế, nên mới “có bệnh thì vái tứ phương” và không thiếu những trường hợp “tiền mất tật mang” khi gặp phải lang băm, thầy rờ, thầy vuốt… Ấy là chưa kể còn biết bao trường hợp núp dưới bóng thần linh, dựa vào hơi ma mị quỷ quái, các ông thầy, bà mụ tung ra những chiêu thức lừa đảo khiến bệnh nhân tán gia bại sản mà bệnh vẫn hoàn bệnh. Trở lại với bài Tin Mừng, rõ ràng là Đức Ki-tô đã dạy một bài học ngược lại với tâm lý chung của con người: Được chữa khỏi hay không là ở chính bệnh nhân tin hay không tin. Người Thầy Thuốc Chí Thánh không thể chữa được căn bệnh trầm kha của con người (do bị tội lỗi thống trị) nếu con người bất hợp tác vì không tin. Quả thật “Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài.” (Thánh Au-gus-ti-nô).
Xem thế thì đủ biết: Bệnh nhân chỉ có thể được chữa khỏi nếu thực lòng tin vào thầy thuốc. Tuy nhiên, sẽ nảy ra một vấn nạn: Nhưng nếu thầy thuốc là những lang băm, thầy rờ, thầy vuốt, hoặc những ông đồng bà cốt lừa mị, thì sao? Mấu chốt vấn đề chính ở điểm này. Tin vào thầy thuốc nhưng thầy thuốc ấy phải là Thầy Thuốc chí nhân chí lành đã khẳng định: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần (Lc 5, 31); Thầy Thuốc chinh là Đấng Ban Sự Sống, là Thần Chân Lý, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu. Đồng thời, “Niềm tin vào Thiên Chúa phải là sự gắn bó toàn diện và tuyệt đối trong mọi hoàn cảnh và không một tạo vật nào có thể đòi hỏi nơi ta niềm tin như thế. Với người Ki-tô hữu, niềm tin vào Thiên Chúa không thể tách ra khỏi niềm tin vào Ðấng được Ngài sai đến là Ðức Giê-su Ki-tô. Chỉ một mình Người biết Thiên Chúa và có thể chỉ cho ta thấy Thiên Chúa đích thực “Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ, nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Ðấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.” (Ga 1, 18).
Vì thế, tin là tin vào Thiên Chúa được tỏ hiện trong Ðức Giê-su Ki-tô. Niềm tin ấy, chúng ta không thể có nếu không được chia sẻ Thánh Thần của Ðức Giê-su vì “Không ai có thể nói rằng: Ðức Giê-su là Chúa, nếu người ấy không ở trong Thần Khí” (1 Cr 12, 3). Người là Ðấng “thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa … Không ai biết được những gì nơi Thiên Chúa nếu không phải là Thần Khí của Thiên Chúa.” (1 Cr 2, 10-11). Vấn đề có thể quy kết: Con ông trưởng hội đồng, người phụ nữ bị bệnh băng huyết đã được chữa lành vì đã có được một thần dược đặc trị: ĐỨC TIN. Vậy thì tại sao người Ki-tô hữu lại không thể thông qua lời cầu nguyện để có thể sống một cuộc sống trên nền tảng đức tin như lời dạy của thánh Giu-đa: “Hãy xây dựng đời mình trên nền tảng đức tin rất thánh của anh em, hãy cầu nguyện nhờ Thánh Thần.” (Gđ 1, 20).
Vâng, bệnh thì cần thuốc, bệnh nặng thì cần thuốc hay, đến như bệnh trầm kha thì phải có thần dược đặc trị. Với thần dược đặc trị Đức Tin, người tín hữu sẽ được chữa khỏi mọi bệnh tật, có thể vượt qua mọi sóng gió, thậm chí có thể chiến thắng mọi kẻ thù hung ác. Và để có thể có được thần dược đó, hãy học sống theo gương Tổ phụ Ap-ra-ham và nhất là Đức Mẹ (“Tổ phụ Ap-ra-ham và Mẹ Maria là những mẫu mực của đức tin. Vì tin, tổ phụ Ap-ra-ham đã vâng lời “ra đi mà không biết mình đi đâu” (Dt 11, 8). Vì tin, Mẹ Maria đã thưa với sứ thần: “Vâng, tôi đây là nữ tì của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1, 38), vì “Ðối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1, 37). Tổ phụ Ap-ra-ham và Mẹ Maria đã vì tin tưởng mà trao phó trọn vẹn cuộc đời cho Thiên Chúa và trở thành những người cộng tác tích cực vào chương trình của Thiên Chúa.
Ôi! Lạy Chúa! Con vẫn biết là nếu con có một đức tin vững mạnh thì con sẽ được chữa lành mọi bệnh tật; nhưng để có một “thần dược đặc trị” như thế, con không thể dựa vào sức mình, mà phải biết cậy dựa vào Chúa Thánh Thần. Ôi! Lạy Chúa! Cúi xin Chúa đừng bỏ rơi con, vì “CHÚA là thành che chở người bị áp bức, là thành che chở trong những lúc ngặt nghèo. Người nhận biết Thánh Danh, sẽ một niềm tin cậy, vì lạy Chúa, Chúa chẳng bỏ rơi những ai kiếm tìm Ngài. Đàn ca lên mừng CHÚA, Đấng ngự giữa Si-on, tường thuật cho muôn nước những kỳ công của Người.” (Tv 9, 10-12). Ôi! Lạy Chúa! Cúi xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ được lành mạnh. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.
Hôm 20/6/2018, ông Nguyễn Thiện Nhân chia sẻ với cử tri Thủ Thiêm rằng “Thành phố không TN 13-B130
Hôm 20/6/2018, ông Nguyễn Thiện Nhân chia sẻ với cử tri Thủ Thiêm rằng “Thành phố không gạt bà con.Thành ủy này không gạt bà con”. Ai nghe cũng nhận ra trong lời nói của ông bí thư thành ủy ấy có vị chát đắng! Đó là không phải Dân không muốn tin, mà Dân không dám tin chính quyền nữa. Vì sao? Những lời vấn an của ông Nhân “không gạt bà con” cho thấy niềm tin của Dân lúc này, bị gạt quá nhiều nên hết tin rồi! Những giọt nước mắt muộn màng, giọng nghèn nghẹn với những lời hứa của ông Nhân có vực lại được lòng tin của người dân? Có làm dịu được nỗi bất hạnh, những mất mát mà họ đã phải tự gặm nhấm từ nhiều năm qua? Muốn lấy lại lòng tin của Dân thì đừng lo mất quyền lực mà hãy lo làm sao để Tổ quốc cường thịnh, Dân được ấm no.
Đức tin là một món quà quý giá mà Thiên Chúa ban cho mỗi tín hữu. Đức tin không phải là thành quả của những công lao mệt nhọc, đổ mồ hôi sôi nước mắt mới tạo nên được. Đức tin cũng không nhờ mua bán, tiền bạc đổi chác mà có. Đức tin là món quà do lòng yêu thương quảng đại vô biên của Thiên Chúa ban tặng cách nhưng không. Phần còn lại tuỳ thuộc vào cách mỗi tín hữu đón nhận món quà ấy.
Chúa Giêsu đã quả quyết: “Mọi sự đều có thể đối với người có lòng tin” (Mc 9, 23); “Nếu anh em có lòng tin bằng hạt cải, anh em có thể khiến núi dời non” (Mt 17, 20).
Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay nói đến lòng tin và phép lạ. Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin. Chúa Giêsu xác nhận lòng tin vững vàng của người phụ nữ: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con”. Ngài nâng đỡ lòng tin đang chao đảo của Giairô: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Chúa Giêsu ban tặng sự sống cho những ai vững tin và biết cộng tác với Ơn Thánh.
Chúa ban sự sống, con người có lòng tin.
Phép lạ thứ nhất, Máccô kể rằng, giữa đám đông chen lấn chung quanh Ðức Giêsu, có những người đụng vào áo Người. Nhưng chỉ có một cái đụng cố ý, đụng lén như sợ bị bắt quả tang. Ðó là cái đụng của một người phụ nữ, bất chấp lệnh cấm theo lề luật Do thái. Mười hai năm mắc bệnh băng huyết. Mười hai năm tìm thầy chạy thuốc mà không khỏi. Mười hai năm bị coi là ô nhơ, không được đụng đến người khác, không được tham dự nghi lễ ở Ðền thờ. Người phụ nữ thận trọng và đầy can đảm đã đụng vào áo Ðức Giêsu bằng tay và bằng lòng tin, một lòng tin đơn sơ mà mạnh mẽ “Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi.“. Tức khắc, bà cảm thấy lành bệnh vì máu trong người đã cầm lại. Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh.
Phép lạ thứ hai, Máccô kể, ông Giairô đến xin Đức Giêsu chữa lành cho con gái ông đã mười hai tuổi. Ông là viên chức trưởng hội đường. Tình yêu của người cha đối với đứa con gái đã làm cho ông can đảm. Ông sẵn sàng tin cậy vào một người xa lạ. Ông tín nhiệm vào một người từ nơi khác đến. Ông chỉ mới nghe danh tiếng về người ấy. Ông đến gặp Chúa và “phủ phục dưới chân Đức Giêsu và năn nỉ“. Đức Giêsu đã chấp thuận, nhưng khi hai người đang trên đường về nhà ông thì được tin con gái đã chết. Vậy là hết, vô phương cứu chữa nữa! Đức Giêsu động viên ông “Đừng sợ, cứ tin“. Khi đến nhà, thấy đông đảo bà con xóm làng đến, Người nói: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy ? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!”. Cô bé đã chết rồi, nhưng đối với Đức Giêsu, cái chết chẳng có tính chung cuộc mà chỉ là một giấc ngủ thôi. Người có quyền năng đưa kẻ chết ra khỏi giấc ngủ ấy. Với cử chỉ đơn sơ cầm tay đứa bé và nói “Talithakum”, nghĩa là “Này bé, Thầy truyền cho con: chỗi dậy đi !”, Đức Giêsu đã khiến cho đứa bé đứng dậy và đi lại được. Người còn bảo họ cho đứa bé ăn để chứng thực là nó đã sống lại thật.
Hai phép lạ đều liên quan đến sự sống. Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết đang mất dần sự sống: máu là nguyên lý sự sống, mà bà này đã bị mất máu liên tục mười hai năm, nghĩa là sức sống đang dần dần rời xa bà. Vì thế khi Đức Giêsu làm cho bà hết bệnh, là Người trả lại sức sống cho bà. Đứa con gái ông Giairô thì đã chết, sự sống đã hoàn toàn rời khỏi nó. Nhưng Đức Giêsu đã làm cho nó sống lại.
Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin.Tin vào những chuyện dễ dàng, tin khi cuộc sống bình an xuôi thuận thì chưa hẳn là đức tin. Đó chỉ là một chuyện đương nhiên thôi. Đức tin là một nhân đức căn bản của Đạo. Phải là vẫn cứ tin vào những chuyện khó khăn vượt quá sức loài người. Vẫn cứ tin khi cuộc đời gặp lúc cheo leo. Đức tin vững vàng như vậy có thể làm nên những phép lạ. Bởi lẽ, trước một hoàn cảnh quá khó khăn, trong lúc đời sống quá gian nan, nếu ta vẫn tin thì không phải là ta tin vào sức riêng của ta nữa, mà là tin vào sức Chúa, và Chúa quyền năng làm được mọi sự.
– Như Abraham đã 90 tuổi mới có được một đứa con trai. Vâng lệnh Chúa, ông đưa con yêu quý lên núi sát tế mà lòng đau như cắt. Ông tin rằng, Chúa sẽ thực hiện lời hứa ban cho ông thành tổ phụ một dân đông đảo. Ông vẫn tin và Chúa đã làm ông thành tổ phụ những người tin.
– Như Phêrô dám bước đi trên mặt nước. Ông đã đi khi vững tin vào Chúa. Nhưng khi bắt đầu hoài nghi thì cũng là lúc ông bắt đầu chìm xuống.
Đức Giêsu bày tỏ quyền năng trên thiên nhiên, trên ma quỷ, trên bệnh tật và trên sự chết, vì Người là Đấng ban sự sống. Tin vào Người, chúng ta luôn có được sự sống dồi dào.
Cộng tác với ơn Chúa Chuyện kể rằng một bà già bị đau răng, bà đã làm Tuần chín ngày để kính thánh Antôn, vì người ta nói: Thánh Antôn “chuyên trách” về bệnh này.
Hết tuần chín ngày bà vẫn còn đau. Lúc đó một vị linh mục đến thăm. Bà liền hỏi:
– Xin Cha nói cho con biết: có phải thánh Antôn chuyên trách bệnh đau răng không?
Vị linh mục nói:
– Bà hãy nghe tôi: Đây là địa chỉ của nha sĩ. Hãy đến đó và nói là tôi giới thiệu, họ sẽ làm không công cho bà.
Bà già la lên:
– Trời đất ơi, một ông linh mục vô thần.
Thánh Antôn tự nhủ:
– Kể ra cũng đau lòng, để nhận lời cầu nguyện của bà, chính ta đã gởi cho bà vị linh mục này. Thế mà!
Người phụ nữ xuất huyết và bà già đau răng đều tin tưởng vào Chúa. Nhưng niềm tin của họ có sự khác biệt rất lớn. Người phụ nữ xuất huyết nghĩ mình phải làm điều gì đó chứ không chỉ tin suông. Bà đến với Chúa chứ không chờ Chúa đến với mình. Bà già đau răng thì cầu nguyện rồi chờ phép lạ. Bà không chịu làm gì nữa.
Ông Giairô cũng tin rằng Chúa có thể cứu sống con gái ông. Ông đã làm hết sức mình. Con gái ông hấp hối không thể đến với Chúa được, nên ông đã xin Chúa đến chữa cho con gái ông.
Cộng tác với ơn Chúa là điều kiện để Chúa ban ơn. Chúng ta không thể chỉ thụ động chờ Chúa làm phép lạ, nhưng hãy sử dụng hết những phương tiện bình thường Chúa ban. Phần còn lại tùy Chúa định liệu cho ta. Thánh Ignatio de Loyola đã cho chúng ta lời khuyên bất hủ này: “Hãy làm như thể mọi việc tùy thuộc chúng ta và hãy cầu nguyện như thể mọi việc tùy thuộc Thiên Chúa”. Mc.Kenzie nói: “Khi ta cố gắng làm những gì có thể, Thiên Chúa sẽ làm những điều ta không thể”.
Thiên Chúa ban cho chúng ta quyền tự do, Người không thúc ép, nhưng để chúng ta toàn quyền sử dụng tự do của mình. Thiên Chúa không đối xử với chúng ta như những con bù nhìn, nhưng luôn coi trọng chúng ta như những cộng tác viên của Người.
Trong các phép lạ Chúa làm, Người đều cần sự cộng tác của con người. Trong tiệc cưới Cana, Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta đã “múc nước đổ đầy các chum” (Ga 2,7)
Trong phép lạ về bánh, Người chỉ làm cho bánh hóa nhiều khi “có 5 chiếc bánh và 2 con cá” (Mc 6,35-43).
Khi chữa mắt cho người mù, Người chỉ thoa bùn vào mắt anh, còn phần anh phải đi rửa ở hồ Silôê mới được sáng mắt (Ga 9,1-40).
Thiên Chúa muốn chúng ta sử dụng hết các khả năng của mình, và Người sẵn sàng can thiệp khi cần. Cộng tác với Ơn Chúa bằng lòng tin là con đường của hy vọng.
Niềm tin thắp sáng hy vọng Các phép lạ Đức Giêsu đã làm thường là điểm giao tiếp giữa quyền năng đầy tình yêu của Thiên Chúa và niềm tin của con người. Thiên Chúa giàu lòng xót thương nên ở đâu có niềm tin, ở đó có phép lạ. Chúa nói với người phụ nữ: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con”; và nói với ông trưởng hội đường : “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”.
Đức tin là vị thuốc thần đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Đức tin là bí quyết đem lại hy vọng cho nơi nào không còn gì để hy vọng! Sau khi mọi hy vọng, mọi biện pháp chữa trị của con người đã trở nên vô hiệu quả, thì chỉ còn niềm tin mới có khả năng “cứu độ”.Đức Giêsu đã đem lại niềm vui và bình an cho những ai tuyệt vọng mà vẫn một lòng cậy trông. Có lần Đức Giêsu đã nói: “Nếu bạn có đức tin bằng hạt cải, thì bạn có thể nói với ngọn núi này ‘hãy di chuyển từ đây đến kia’, nó sẽ di chuyển” (Mt 17,20). Đây không phải là một lời phóng đại, nhưng là một sự thực được chứng minh qua cuộc đời các vị Thánh. Các vị Thánh là những người đã tin và các ngài đã làm được nhiều điều kỳ diệu.
Một lần kia, trong cuộc phỏng vấn trên truyền hình, Mẹ Têrêxa phải đối diện với một phóng viên không mấy thiện cảm đối với Giáo Hội.
Mẹ Têrêxa nói với ông : Tôi nghĩ rằng ông nên có đức tin.
Người phóng viên hỏi : Tôi phải làm gì để có đức tin?.
Mẹ Têrêxa đáp : Ông hãy cầu nguyện.
Ông chống chế : Tôi không biết và không thể cầu nguyện.
Mẹ Têrêxa dịu dàng nói : Tôi sẽ cầu nguyện cho ông. Nhưng về phần ông, ông hãy cố gắng mỉm cười với những người chung quanh ông. Một nụ cười có thể đánh động được tâm hồn người khác. Một nụ cười có thể cho chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa hiện diện trong cuộc sống chúng ta.
Đức tin thắp sáng niềm hy vọng và trổ sinh hoa trái bằng việc làm.
Chủ đề Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này là “Thiên Chúa không làm ra sự chết, nhưng là TN 13-B131
Chủ đề Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này là “Thiên Chúa không làm ra sự chết, nhưng là Đấng ban sự sống”.
Kn 1: 13-15; 2: 23-25
Trong Bài Đọc I, tác giả sách Khôn Ngoan cho thấy rằng Thiên Chúa đã không làm ra sự chết; Ngài đã sáng tạo con người theo hình ảnh của Ngài để họ được trường tồn bất diệt.
2Cr 8: 7, 9, 13-15
Trong đoạn trích thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng Đức Ki-tô đã hào phóng ban chính mạng sống của Ngài để giải thoát muôn người, vì thế, người Ki-tô hữu phải biết chia sẻ với anh chị em nghèo khổ bằng sự quảng đại và huynh đệ.
Mc 5: 21-43
Tin Mừng khẳng định: Đức Giê-su phục sinh bé gái mười hai tuổi. Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống; Ngài nắm giữ quyền năng sự sống, tiêu diệt sự chết và thu tóm nó vào chỉ trong một giấc ngủ chốc lát.
BÀI ĐỌC I (Kn 1: 13-15; 2: 23-25)
Sách Khôn Ngoan là tác phẩm muộn thời nhất của bộ Cựu Ước. Sách được biên soạn vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, ở A-lê-xan-ri-a, trong môi trường Do thái chịu ảnh hưởng văn hóa Hy lạp. Vào thời đại nàythành phố A-lê-xan-ri-a là thủ đô của văn hóa Hy lạp, nhưng cũng là thành phố lớn nhất của Do thái Hải Ngoại (người ta ước lượng khoảng vài trăm ngàn người Do thái sinh sống ở thành phố này).
Bối cảnh Chúng ta không biết tên tuổi của tác giả sách Khôn Ngoan. Ông viết bằng tiếng tiếng Hy lạp cho đồng bào Do thái Hải Ngoại của ông, họ không còn biết tiếng Hy bá nữa. Sách Khôn Ngoan đã được soạn thảo trong bối cảnh văn hóa Hy-lạp đã quyến rũ người Do thái và đang làm cho nhiều người lung lay niềm tin truyền thống của dân tộc mình. Tác giả đã muốn ngăn ngừa những nguy cơ bội giáo. Ông cực lực công kích ngoại giáo và tội thờ ngẫu tượng.
Tác giả là một con người đạo hạnh, rất gắn bó với truyền thống Do Thái giáo. Tuy nhiên, tư tưởng thần học của ông đã tiếp xúc với triết lý Hy-lạp. Việc tiếp xúc này rất có lợi: ngôn từ mà ông sử dụng trong sách Khôn Ngoan thì thâm thúy hơn, suy luận hơn, rộng mở với siêu hình học hơn so với các sách minh triết trước đó (sách Gióp, Châm Ngôn, Giảng Viên, Huấn Ca). Thánh Phao-lô và thánh Gioan, hai nhà thần học Tân Ước, sẽ gặp thấy ở nơi tác phẩm nàynhững trực giác cho Ki-tô học của mình.
Tác giả mượn vài tư tưởng của văn hóa Hy lạp như quan niệm về sự bất tử của linh hồn. Nhưng tác giả không chấp nhận quan niệm về con người của văn hóa Hy lạp: ông tháp nhập viễn cảnh này vào trong chiều sâu của tư tưởng Do Thái giáo truyền thống.
Thiên Chúa không làm ra cái chết Tác giả khẳng định: “Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất tử”. Tác giả còn xác quyết xa hơn nữa: “Những ai trông cậy vào Người, sẽ am tường sự thật; những ai trung thành, sẽ được Người yêu thương và cho ở gần Người” (3: 9). Đây là lần đầu tiên trong Cựu Ước xuất hiện lời khẳng định về cuộc sống sau cái chết, trong mối thân tình với Thiên Chúa. Thật ra, niềm hy vọng về cuộc sống bên kia nấm mồ đã được phát biểu nhiều lần, nhất là trong các Thánh Vịnh, trong số đó Thánh Vịnh nổi tiếng nhất là Tv 16, Thánh Vịnh về Đấng Mê-si-a. Niềm hy vọng này à tiếng kêu vang lên của người vô tội, họ xin Thiên Chúa xét xử ngõ hầu người công chính không cùng chịu chung số phận như quân vô đạo.
Nhưng vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, tác giả sách Khôn Ngoan nêu lên niềm tin vào cuộc sống mai hậu này với một niềm xác tín thanh thản. Vấn đề thưởng phạt đã làm bận lòng các nhà ưu tú Ít-ra-en từ lâu, nay đã gặp thấy giải pháp. Trong phần thứ nhất của tác phẩm, tác giả đối lập cách sống của quân vô đạo và cách sống của những người công chính ở dưới thế, và số phận khác nhau của họ sau khi chết. Người công chính chỉ chịu một cái chết bên ngoài, số phận của họ thì bất tử. Quân vô đạo phải chịu cả cái chết thể lý lẫn cái chết tinh thần, nghĩa là không được hưởng nhan thánh Chúa.
Quan niệm con người theo Kinh Thánh Tác giả sách Khôn Ngoan không đơn giản chuyển quan niệm Hy lạp về sự bất tử của linh hồn sang tư tưởng Do thái, vì quan niệm về con người của hai nền văn hóa này rất khác nhau.
Trước tiên, chúng ta hãy ghi nhận rằng có vài điểm tương đồng về cuộc sống bên kia sự chết giữa quan niệm Do thái và quan niệm Hy lạp. Theo quan niệm Do thái cũng như Hy lạp, những vong nhân sống trong cõi âm ti buồn phiền tăm tối mà người Do thái gọi “shéol” và người Hy lạp gọi “hadès”. Họ có chung một niềm tin với các dân tộc khác theo đó Mẹ Đất đã sinh ra con người và sẽ tiếp nhận con người vào trong lòng đất mẹ của mình.
Trong huyền thoại Hy lạp, vài vị anh hùng ưu việt đạt đến một cuộc sống tốt hơn, được cất lên bên cạnh các thần linh như Ménelas và Héraclès, hay được mang vào Đảo Hạnh Phúc, như Achille, trong sử thi hậu Homère. Cũng vậy, trong truyền thống kinh thánh, ông Kha-nốc (St 5: 24), ngôn sứ Ê-li-a (2V 2: 11) là những người được cất lên trên trời và đang sống.
Trong tư tưởng Hy lạp, vào thế kỷ thứ năm trước Công Nguyên, Socrate khẳng định công khai sự bất tử của linh hồn, và cuộc sống trường cửu bên cạnh các thần linh. Platon sẽ khai triển những bằng chứng về sự bất tử của linh hồn trong tác phẩm Phédon. Tuy nhiên, theo quan niệm “nhị nguyên” của Platon, linh hồn khác với thân xác; linh hồn có trước thân xác; thân xác chỉ là tù ngục giam hãm linh hồn.
Quan niệm Do thái về linh hồn thì rất khác. Con người được tạo thành một thực thể duy nhất gồm linh hồn và thân xác. Linh hồn là nguyên lý sự sống. Nguồn sống này đến từ hơi thở của Thiên Chúa, tức là thần khí. Nếu Thiên Chúa rút lại hơi thở của Ngài, con người chết. Ảnh hưởng quan niệm Hy-lạp về sự bất tử của linh hồn không làm thay đổi, nhưng củng cố quan niệm của Kinh Thánh về con người. Sách Khôn Ngoan nói: “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa” (3: 1). Linh hồn đón nhận phẩm chất, nhân cách, và có khả năng thấy Thiên Chúa.
Người Do thái có một cơ hội lớn lao để đạt tới quan niệm về “sự sống lại của thân xác” trước khi mở lòng ra trước quan niệm về sự bất tử của linh hồn. Như vậy, những nhà tư tưởng của người Do thái có thể cưỡng kháng lại nhị nguyên thuyết của người Hy-lạp. Thân xác, do bàn tay của Đấng Tạo Hóa tạo nên, không bị khinh chê nhưng duy trì chiều kích cao cả của nó: cuộc sáng tạo nguyên thủy là tốt đẹp.
Cái nhìn lạc quan về con người “Vì Người đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu” (nghĩa là cho chúng có một cuộc sống bền vững). “Mọi loài thọ tạo trên thế giới đều hữu ích cho sinh linh”. Tư tưởng lạc quan này quy chiếu về chương đầu tiên của sách Sáng Thế. “Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp” là điệp khúc tiếp liền sau mỗi một hành vi sáng tạo trong suốt “sáu ngày tạo dựng”.
Niềm lạc quan của tác giả còn đi xa hơn nữa và được diễn tả ở nơi một lời khẳng định táo bạo: “Âm phủ (quyền lực của tử thần) không thống trị trên mặt đất, vì đức công chính thì trường sinh bất tử”. Vì thế, những sức mạnh của sự dữ và sự chết xem ra hoành hành trên cõi thế và thường chiến thắng, nhưng người công chính đánh bại sự chết vì họ được bảo đảm một cuộc sống bất tử.
Tác giả hoàn tất sự chứng minh của mình bởi hai lập luận quan trọng: trước hết, con người được trường tồn bất diệt vì được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa; sau nữa, tác nhân của sự chết là quỷ dữ.
Lập luận thứ nhất dựa trên chuyện tích thứ nhất của sách Sáng Thế: “Thiên Chúa phán: Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta” (St 1: 26). Sách Khôn Ngoan nói: “Họ được Thiên Chúa dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người”. Lập luận chủ yếu về sự bất tử của con người như vậy rõ ràng thuần túy Kinh Thánh, không chịu ảnh hưởng của văn hóa Hy-lạp.
Lập luận thứ hai ám chỉ đến ám chỉ đến chuyện tích thứ hai của sách Sáng Thế về sự thử thách và sa ngã khi tác giả viết: “Chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian”. Ở đây, cái chết mà tác giả nhắm đến trước hết là cái chết thần thiêng, cái chết thực sự. Cái chết thể lý được liên kết với con người, nhưng chỉ dẫn quân vô đạo đến cái chết thần thiêng.
Tác giả sách Khôn Ngoan là người đầu tiên cho chuyện tích sa ngã một giá trị tôn giáo. Đức Giê-su sẽ củng cố quan điểm nầy: “Ngay từ đầu, nó là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó” (Ga 8: 44).
BÀI ĐỌC II (2Cr 8: 7, 9, 13-15)
Thánh Phao-lô đã thực hiện một cuộc lạc quyên giúp Giáo Đoàn Giê-ru-sa-lem: Giáo Đoàn này đang lâm cảnh túng thiếu. Sử gia Gio-sê-phút (cuối thế kỷ thứ nhất) kể ra một nạn đói kém dài lâu đã hoành hành xứ Pa-lết-tin, dưới thời các quan tổng trấn Cút-pi-út Fa-đút và Ti-be A-lê-xan-đê, tức giữa những năm 44-48. Sách Công Vụ Tông Đồ nói với chúng ta về một nạn đói lớn đã xảy ra dưới thời hoàng đế Cơ-lau-đi-ô (41-45 trước Công Nguyên). “Các môn đệ mới quyết định là mỗi người tùy theo khả năng của mình, sẽ gởi quà giúp đỡ anh em ở miền Giu-đê. Và họ đã làm việc ấy: gởi đến cho hàng kỳ mục qua tay ông Ba-na-ba và ông Sao-lô” (Cv 11: 28-30).
Vì thế, trong thư gởi cho các tín hữu Ga-lát, thánh Phao-lô nhắc lại việc thánh nhân lên Giê-ru-sa-lem vào thời kỳ này (chắc chắn vào năm 46); chính vào thời điểm này thánh Phê-rô, thánh Gioan và thánh Gia-cô-bê, lãnh đạo Giáo Đoàn Giê-ru-sa-lem, vẫn tiếp tục đảm nhận trách nhiệm loan báo Tin Mừng cho “những người được cắt bì”; còn thánh Ba-na-ba và thánh Phao-lô thì được ủy quyền giao nhiệm vụ loan báo Tin Mừng cho “các dân ngoại” với một điều kiện là họ phải lo cho những tín hữu túng thiếu tại Giê-ru-sa-lem.
Thánh Phao-lô không bao giờ quên lời hứa của ngài: “chúng tôi phải nhớ đến những người túng thiếu, điều mà tôi vẫn gắng làm” (Gl 2: 10), thậm chí cho dù các Ki tô hữu Giê-ru-sa-lem không còn phải lâm vào cảnh quá túng quẫn đi nữa.
Ý nghĩa của lạc quyên Việc lạc quyên giúp đỡ Giáo Đoàn Giê-ru-sa-lem chiếm một chỗ quan trọng trong những hoạt động của thánh nhân. Thánh nhân đã đặt bầu nhiệt huyết vào công việc này, vì ngài thấy ở đó một cơ hội cho những người tân tòng, dù xuất thân từ Do thái giáo hay lương dân, thực hành đức ái huynh đệ và chia sẻ những của cải; cũng như chứng tỏ sự gắn bó của họ với Giáo Hội-Mẹ. Đây là cử chỉ hiệp nhất, lòng biết ơn đối với Giáo Hội Mẹ từ đó Lời Chúa được tỏa lan và những ân phúc đức tin được trao ban.
Quả thật, trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh nhân viết: “Nhưng bây giờ tôi còn phải đi Giê-ru-sa-lem để phục vụ dân thánh ở đó, vì miền Ma-kê-đô-ni-a và miền A-khai-a đã có nhã ý đóng góp để giúp những người nghèo trong số dân thánh ở Giê-ru-sa-lem. Họ đã có nhã ý làm như vậy, nhưng thật ra họ cũng có bổn phận đối với dân thánh ở đó. Bởi vì dân ngoại đã được chia sẻ các phúc lộc thiêng liêng của dân thánh ở Giê-ru-sa-lem, thì họ cũng có bổn phận dùng của cải vật chất mà giúp đỡ lại…” (Rm 15: 16-28). Trong thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân ám chỉ đặc biệt đến điều này: “Về điều này…vì anh em là những người đầu tiên, chẳng những đã thực hiện công cuộc đó, mà còn đã quyết định làm ngay từ năm ngoái” (2Cr 8: 10).
Trong đoạn trích thư hôm nay, thánh Phao-lô mời gọi các tín hữu Cô-rin-tô hãy mở rộng tấm lòng mà giúp đỡ giúp đỡ các anh chị em đang lâm cảnh túng thiếu.
Mở rộng tấm lòng Thánh Phao-lô khéo léo kể ra những đức tính trổi vượt của các tín hữu Cô-rin-tô: đức tin, lời Chúa, sự hiểu biết, lòng hăng say trong mọi lãnh vực, vì thế họ phải bổ sung vào đây tấm lòng quảng đại trong dịp lạc quyên này nữa.
Nếu họ nhiệt tâm thực hành đức ái, chính vì thánh nhân đã chuyển lửa của ngài cho họ. Nhưng động lực chính yếu là mẫu gương của Đức Ki tô (trọng tâm của đoạn văn này). Trong một biểu thức gây ấn tượng mạnh, thánh Phao-lô gợi lên rằng Đức Ki tô “vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó, vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có”.
“Lá lành đùm lá rách” Tuy nhiên, thánh nhân biết rằng các tín hữu Cô-rin-tô không phải là những người giàu có. Vì thế, thánh nhân tự đặt mình vào hoàn cảnh của họ khi đòi hỏi họ chia sẻ với những người túng thiếu không phải những gì cần thiết cho sự sống của mình, nhưng sự dư giả của mình: “Trong hoàn cảnh hiện tại, anh em có được dư giả, là để giúp đỡ những người đang lâm cảnh túng thiếu; để rồi khi được dư giả, họ cũng sẽ giúp đỡ anh em. Lúc anh em lâm cảnh túng thiếu. Như thế, sẽ có sự đồng đều, hợp với lời đã chép: Kẻ được nhiều thì không dư, mà người được ít thì không thiếu”.
TIN MỪNG (Mc 5: 21-43)
Đoạn văn nàykết hợp hai câu chuyện phép lạ: phục sinh con gái ông Gia-ia (5: 21-24, 35-43) và chữa lành người phụ nữ băng huyết (5: 25-34). Đây là một ví dụ nữa về cách thức tháp nhập “hai câu chuyện khác nhau vào trong một bài trình thuật” (x. 1: 21-28; 2: 1-12; 6: 7-30; 11: 12-21). Hai câu chuyện có nhiều điểm chung: hai bệnh nhân là phái nữ; con số mười hai: người phụ nữ bị bệnh đã mười hai năm, còn cô gái đã mười hai tuổi (5: 25, 42); hai phép lạ được thực hiện một cách kín đáo: phép lạ chữa lành bệnh xuất huyết nan y của một phụ nữ không thể kiểm chứng được; còn phép lạ cho một bé gái sống lại chỉ có vài nhân chứng và với lệnh truyền không được kể cho ai biết chuyện này; trong cả hai trường hợp, đức tin vẫn đóng một vai trò quan trọng trong tiến trình tiếp cận với Chúa Giê-su.
Việc đan kết hai câu chuyện vào trong một bài trình thuật cũng được gặp thấy tại Mt 9: 18-26 và tại Lc 8: 40-56, nhưng câu chuyện của Mác-cô có nhiều tình tiết sinh động nhất. Toàn bộ bài trình thuật bày tỏ nhiều chi tiết sống động của một chứng nhân mắt thấy tai nghe mà thánh ký nhận được từ nguồn của mình hay từ những kỷ niệm của thánh Phê-rô mà thánh ký chuyển tải: ví dụ như câu trả lời của các môn đệ mà thánh ký đã xây dựng thành ngôn ngữ nói: “Thầy coi, dân chúng chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: ‘Ai đụng vào tôi?’”; hay thánh ký đặt trên miệng Chúa Giê-su lệnh truyền bằng ngôn ngữ A-ram, ngôn ngữ nói của Ngài: “Ta-li-tha-kum”. Nhờ những chi tiết sống động này, chúng ta dễ dàng nhận thấy ở đây diễn tiến và ý nghĩa của những sự kiện. Đức Giê-su không vội vàng đến nhà ông trưởng hội đường; thời gian trôi qua giữa Đức Giê-su và người phụ nữ mắc bệnh xuất huyết dẫn đến đứa bé gái thật sự chết. Cũng như trong câu chuyện cho anh La-da-rô sống lại (Ga 11), Đức Giê-su không vội vã ra đi khi nghe tin anh La-da-rô đau nặng; Ngài đến sau khi bạn Ngài đã qua đời bốn ngày rồi. Như vậy, trong câu chuyện này, Chúa Giê-su loan báo một dấu hiệu còn lớn hơn dấu hiệu chữa lành bệnh tật: Ngài có quyền trên cả sự chết.
Bối cảnh và các nhân vật Đức Giê-su đã ở vùng đất của dân Ghê-ra-sa, vùng đất dân ngoại, ở đó Ngài đã chữa lành một người bị quỷ ám nguy hiểm; dân làng sợ hãi xin Ngài rời khỏi vùng đất của họ. Vì thế, Ngài xuống thuyền, trở sang bờ bên kia Biển Hồ, vùng đất Ít-ra-en. Tức khắc “một đám rất đông tụ lại chung quanh Ngài”. Đây là nét tiêu biểu của Tin Mừng Mác-cô, thánh ký thích ghi lại những chuyển động của dân chúng: “đám đông tuôn đến với Ngài”, “họ đến với Ngài”, “họ đi theo và chen lấn Ngài”, “họ thích thú lắng nghe Ngài”, vân vân.
Và này, một viên trưởng hội đường rẽ đám đông đến gặp Ngài. Viên chức sắc Do thái này bày tỏ lòng kính trọng và niềm tin tưởng vào Đức Giê-su: ông phủ phục dưới chân Ngài và khẩn thiết nài xin Ngài đến cứu giúp đứa con gái thập tử nhất sinh của ông. Phải ghi nhận rằng bản văn của Mác-cô có nhiều sắc thái sinh động hơn bản văn của Mát-thêu và Lu-ca. Viên trưởng hội đường nói lên ước nguyện của mình: “Xin Ngài đến đặt tay trên cháu”. Ông đã chứng kiến nhiều lần Đức Giê-su chữa lành bệnh tật bằng cách đặt tay. Đáp lại niềm tin tưởng đầy cảm động của ông, Đức Giê-su liền ra đi với ông. Nhưng trên đường đi, trong đoàn người chen chúc nầy, xuất hiện một người phụ nữ mắc bệnh băng huyết từ mười hai năm rồi vẫn vô phương cứu chữa.
Chúa Giê-su với người phụ nữ mắc bệnh nan y Thánh Mác-cô thường giữ cung giọng trực tiếp và bình dân cho câu chuyện của mình: “Có một người phụ nữ kia bị băng huyết đã mười hai năm, bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều lần đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác”. Thánh Lu-ca, thầy thuốc, sẽ giữ chừng mực hơn trong ngôn từ của mình: “Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, không ai có thể chữa được” (Lc 8: 43).
Theo văn hóa Do thái, bệnh tình của bà là trường hợp nghiêm trọng về luật thanh sạch, vì máu là điều cấm kỵ. Vì thế, tuyệt đối cấm không ai được đụng chạm đến bà để khỏi làm cho mình ra ô uế (Lv 15: 19-30). Đó là lý do tại sao bà lẫn mình vào trong đám đông để không ai nhận ra và rón rén tiến lại phía sau Ngài vì bà không thể công khai cầu xin Ngài chữa bà. Bà hy vọng mình được chữa lành một cách vụng trộm. Cử chỉ của bà thật khiêm tốn: không tìm kiếm bất cứ điều gì ngoài một ước nguyện đơn giản: “Tôi mà sờ được áo Người thôi, là sẽ được cứu”.
“Ngay lúc đó, Đức Giê-su thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra”. Đừng hiểu những từ ngữ này theo mặt chữ. Thật ra, Đức Giê-su biết người phụ nữ này là ai và bà đang nghĩ gì trong lòng. Thánh Mác-cô đề cao quyền năng của Đức Giê-su được xem như một loại năng lực có thể phát huy tác động một cách riêng biệt và hầu như độc lập, vì thế thánh ký diễn tả theo quan niệm dân gian về các danh y thời đó. Chúng ta không gặp thấy tư tưởng như thế tại thánh Mát-thêu: trong câu chuyện của mình, Đức Giê-su liền quay lại thấy bà, và nói với bà mà không cần chờ đợi lời giải thích của bà: “Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con” (Mt 8: 22). Trái lại. thánh Lu-ca bày tỏ cùng một cách thức như thánh Mác-cô. Nhiều lần thánh Lu-ca viết: “Tất cả đám đông tìm cách sờ vào Người, vì có một năng lực tự nơi Người phát ra, chữa lành hết mọi người” (Lc 6: 19). Trong câu chuyện nầy, thánh Lu-ca diễn tả như thánh Mác-cô: “Đức Giê-su thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra” (Lc 8: 47).
Những ghi nhận của Mác-cô và Lu-ca này đã làm tốn không biết bao giấy mực, thậm chí có người tự hỏi phải chăng những chi tiết này phát xuất từ các sách tin mừng ngụy thư. Riêng cử chỉ của người phụ nữ còn thúc đẩy các nhà chú giải đề xuất biết bao lời giải thích. Ông Calvin phát hiện ở nơi cử chỉ của người phụ nữ này thái độ tương tự như thái độ tôn thờ các thánh tích mà ông kết án. Theo cùng một tinh thần, các nhà phê bình khác so sánh câu chuyện này với các câu chuyện được tường thuật trong sách Công Vụ: bệnh nhân được chữa lành nhờ khăn và áo đã chạm đến da thịt của thánh Phao-lô (Cv 19: 11) hay nhờ cái bóng của thánh Phê-rô chạm đến (Cv 5: 15).
Vấn đề vẫn luôn luôn được đặt ra. Tất cả việc chữa lành nhờ đụng chạm đến thánh tích nào đó được định vị trên một đỉnh núi nguy hiểm mà triền dốc này là lòng mộ đạo hay triền dốc kia là mê tín dị đoan. Tuy nhiên, chúng ta phải cẩn trọng khi đọc bản văn Tin Mừng; bài học rất sáng tỏ. Rõ ràng Đức Giê-su giúp người phụ nữ hiểu: bà không được chữa lành vì bà đã chạm đến áo của Ngài, nhưng vì bà đã có niềm tin: “Này bà, đức tin của bà đã chữa bà”. Quả thật, trong đám đông chen lấn quanh Ngài, không thiếu những người đã chạm đến áo của Ngài, nhưng không nhận được bất cứ ân ban nào. Để đón nhận ân sủng của Đức Giê-su, cần thiết phải có một thái độ sẵn sàng bên trong. Cũng xảy ra như vậy đối với việc phục sinh con gái viên trưởng hội đường: cô bé được sống lại là nhờ lời đáp trả của Đức Giê-su cho đức tin của người cha.
Đức Giê-su với viên trưởng hội đường Người nhà viên trưởng hội đường thông báo cho ông: “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?”. Đối với họ, quyền năng của Đức Giê-su cũng chỉ là quyền năng chiến thắng bệnh tật. Chắc chắn viên trưởng hội đường cũng đồng quan điểm với họ. Nghe thế, Đức Giê-su nói với ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Nếu chúng ta muốn nắm bắt nét nghĩa của động từ được Mác-cô dùng ở đây, phải dịch: “Hãy kiên vững trong đức tin của ông”, có nghĩa ông có đức tin rồi và phải tiếp tục tin. Như vậy, Ngài mở cho người cha đau khổ nàymột con đường hy vọng. Vì thế, ông không ngăn cản Đức Giê-su nhưng để Ngài vào nhà ông.
Chúng ta sẽ tham dự vào một hoạt cảnh tương tự ở Bê-ta-ni trong câu chuyện phục sinh La-da-rô, em trai của hai chị em Mác-ta và Ma-ri-a. Cô Mác-ta nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày”(Ga 11: 39). Đức Giê-su trả lời bằng cách đòi hỏi chị phải tin vào Ngài: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” (Ga 11: 40).
Ý nghĩa của cái chết
“Con bé có chết đâu, nó ngủ đấy!”. Ngài cũng sẽ nói với các môn đề về cái chết của anh La-da-rô như vậy: “La-da-rô, bạn của chúng ta đang yên giấc” (Ga 11: 11). Đây không là một hình bóng, nhưng là một sự khẳng định mang tính mặc khải: cái chết chỉ là một giấc ngủ khai mở sự sống, như chúng ta đã gặp thấy nhiều lần trong văn chương Kinh Thánh cũng như ngoài Kinh Thánh. Tất cả chi tiết của hoạt cảnh đều tuân theo chiều hướng này.
Sau khi vào nhà viên trưởng hội đường, Đức Giê-su truyền lệnh cho mọi người ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ và ba người môn đệ cùng đi với Ngài, Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan, vào nơi đứa bé đang nằm. Đức Giê-su cầm lấy tay đứa bé và nói: “Ta-li-tha-kum” (“Ta-li-tha”: “cô bé”, và “kum”: “hãy chỗi dậy”). Mác-cô đã bảo tồn từ A-ram, ngôn ngữ nói của Đức Giê-su, trong bản văn của mình.
“Hỡi cô bé, hãy chỗi dậy”, động từ “chỗi dậy” sẽ trở thành thuật ngữ để chỉ biến cố Phục Sinh của Đức Ki-tô. Cô bé liền chỗi dậy và đi lại được. Đức Giê-su bảo họ cho đứa bé ăn. Lời dặn dò này có một mục đích tức thời, nhằm cho cha mẹ của cô bé hiểu rằng cô bé thật sự sống lại chứ không là một bóng ma. Cũng vậy, sau khi sống lại, Đức Giê-su cũng hỏi các môn đệ còn nghi nan ngờ vực: “Ở đây anh em có gì ăn không?” (Lc 24: 41). Tuy nhiên, lời dặn dò này còn mặc khải một ý nghĩa sâu xa hơn nữa, cử chỉ này mang tính biểu tượng và ngôn sứ: việc chỗi dậy bên kia cái chết mở ra những thực tại thần thiêng mà các ngôn sứ đã diễn tả bằng những hình ảnh về bàn tiệc Thiên Chúa: bữa ăn cánh chung.
“Cô bé đã mười hai tuổi”. Con số “mười hai” cũng có giá trị dấu chỉ: con số của sự tuyển chọn. Thánh Mác-cô đã dùng con số này rồi đối với người phụ nữ mắc bệnh băng huyết đã “mười hai” năm. “Mười hai” Tông Đồ, nối nghiệp mười hai chi tộc Ít-ra-en, là dấu chỉ của Vương Quốc Thiên Chúa. Trong sách Khải Huyền, con số người được tuyển chọn là “một trăm bốn mươi bốn ngàn” người, tức là gấp ngàn lần của 12 x 12 (Kh 7: 4).
Những nhân chứng
Ngoài cha mẹ của đứa bé ra, những nhân chứng về cuộc phục sinh bé gái là ba Tông Đồ, Phê-rô, Gia-cô-bê, và Gioan. Chính ba vị Tông Đồ nàysẽ được Đức Giê-su dẫn lên núi để chứng kiến cuộc Biến Hình của Ngài. Trong câu chuyện Biến Hình, khi “các ông kinh hoàng ngã sấp mình xuống đất”, Đức Giê-su lại gần, chạm vào các ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ” (Mt 17: 7). Cũng là cử chỉ và lời nói mà Ngài đã làm và nói với con gái của viên trưởng hội đường. Có một mối liên hệ giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Biến Hình; đây là hai khía cạnh bất khả phân sau cái chết.
Gai-rô ông trưởng hội đường, Vái xin phục lạy, tựa nương bên Thầy. Con tôi hấp hối giờ TN 13-B132
Gai-rô ông trưởng hội đường, Vái xin phục lạy, tựa nương bên Thầy. Con tôi hấp hối giờ đây, Đặt tay cứu chữa, ơn này tôi mang. Trên đường đi đến quê làng, Đàn bà loạn huyết, xếp hàng theo sau. Tin rằng quyền phép ẩn sâu, Đến gần chạm áo, biết đâu chữa lành. Quyền năng xuất phát tự căn, Quay đầu Chúa hỏi, bà đành thú xưng. Nói lên sự thật vui mừng, Chúa ban khỏi bệnh, huyết ngưng cấp thời. Báo tin con gái qua đời. Chúa rằng đừng sợ, gọi mời đức tin. Cầm tay bé gái nguyện xin, Truyền cho chỗi dậy, con tin vào Ngài.
Với trái tim nhân lành, Chúa Giêsu đã rong ruổi khắp nơi để rao giảng, chữa lành các bệnh nhân và an ủi kẻ âu lo sầu muộn. Chúa đã đem lại niềm tin và sự an bình cho nhiều người. Nhìn qua thế giới chung quanh, chúng ta chứng kiến biết bao sự đau khổ trong đời sống con người. Đau khổ cuộc đời, chúng ta gọi là thánh giá.
Mỗi người và mỗi gia đình, Chúa trao cho những thánh giá khác nhau. Có những thánh giá được coi như trong tầm tay và chúng ta có thể mang vác dễ dàng. Có những thánh giá nặng nề mà nhiều người phải lãnh nhận như bệnh tật liệt lào, bất toại, mù lòa, câm điếc và cùi hủi. Có những bà mẹ sinh ra những quái thai dị dạng. Quái thai là con người nên cần được thương yêu và chăm sóc.
Làm sao chúng ta có thể tìm được niềm an ủi khi đối diện với những thánh giá nặng nề như thế. Thánh giá đeo đẳng ngày này qua ngày khác và có khi kéo dài suốt cả cuộc đời. Chúa Giêsu đến giúp làm vơi nhẹ đi những gánh nặng trên vai con người. Chúa hiện diện đó với lòng nhân hậu chia xẻ những đớn đau của họ. Ngài đã chữa họ bằng mọi cách nhưng điều cần thiết nhất là họ phải có lòng tin. Hãy tin vào quyền năng của Thiên Chúa.
John Killinger kể một câu truyện thương tâm. Gia đình sinh được một con trai, nhưng con trẻ bị bệnh tâm thần. Lúc đầu ba mẹ bị kích động mạnh nhưng họ rất yêu thương con. Họ xây một phòng bằng kính để bất cứ lúc nào họ cũng có thể nhìn thấy con. Trong vòng 17 năm, người mẹ luôn bên cạnh con và đặt tay cạnh trái tim con. Nếu con có vấn đề gì, bà có thể thức dậy và giúp con thở. Suốt 17 năm trời, bà sống như thế. Vào một ngày vắng mẹ, cậu lên cơn đau và đã ra đi trong an bình. Ôm xác con, bà mẹ cám ơn Chúa đã ban cho họ một người con. Người mẹ nói rằng: Cháu đã dậy cho chúng tôi thế nào là yêu.
Tình yêu Chúa dành cho nhân loại cũng thế. Chúa không chối từ bất cứ người nào chạy đến xin Chúa chữa lành. Với trái tim đầy lòng thương xót, Chúa đã ở lại với chúng ta qua Bí Tích Thánh Thể để chúng ta tìm nơi ẩn náu và là nguồn linh thiêng chữa lành tất cả bệnh hoạn xác hồn.
Mời gọi chúng ta hãy tin tưởng vào quyền năng và lòng nhân lành của Chúa. Chúa đã cho con gái ông Zairô sống lại và đã chữa lành cho người đàn bà loạn huyết. Chúng ta cũng hãy đến với trái tim nhân lành và cực thánh Chúa. Xin Chúa tuôn đổ muôn hồng ân trên chúng ta.
Lời Chúa mặc khải cho chúng ta biết cách Thiên Chúa, ngang qua Đức Giêsu-Kitô, liên đới TN 13-B133
Lời Chúa mặc khải cho chúng ta biết cách Thiên Chúa, ngang qua Đức Giêsu-Kitô, liên đới với đau khổ và cả sự chết thuộc về thân phận con người như thế nào.
Thân phận con người Đức Giêsu thực hiện hai phép lạ: phép lạ chữa bệnh và phép lạ làm cho sống lại. Hai phép lạ này liên quan đến hai nghịch cảnh của đời sống con người, trong đó có những người thân yêu của chúng ta và có khi, có cả chúng ta nữa.
– Người cha có đứa con gái mới 12 tuổi đã chết. Sự bất hạnh của em bé, nhưng cũng là nỗi đau của bố, của mẹ, của cả nhà. Theo sách Tin Mừng của thánh Mát-thêu, em bé đã chết rồi, còn theo thánh Mác-cô và thánh Luca, lúc người bố đến kêu xin Đức Giêsu, thì em bé chưa chết; nhưng lúc Ngài đang trên đường tới nhà, cháu bé mới chết. Chi tiết này làm bật lên nỗi đau của người bố và của cả gia đình là một nỗi đau kéo dài.
– Người phụ nữ, có lẽ đã lớn tuổi, mang một thứ bệnh kín đáo trong người đã 12 năm. Có những thứ bệnh ai cũng biết, nhưng cũng có những thứ bệnh chỉ có một mình biết, kéo dài, nỗi đau triền miên.
Hai nghịch cảnh của hai lứa tuổi nói cho chúng ta thật nhiều về thân phận và những vấn đề muôn thủa của con người: bệnh tật và cuối cùng là cái chết, có thể xẩy ra ở bất cứ lứa tuổi nào; bệnh tật và sự chết làm bật lên sự liên đới của nhiều người; bệnh tật và sự chết tất yếu đặt ra con con người vấn đề Thiên Chúa và buộc phải lựa chọn tin hay không tin.
Và Lời Chúa cũng mặc khải cho chúng ta biết cách Thiên Chúa, ngang qua Đức Giêsu-Kitô, liên đới với đau khổ và cả sự chết thuộc về thân phận con người như thế nào.
Lòng tin
2.1.Để được chữa lành, Chúa cần lòng tin và chỉ cần lòng tin mà thôi. Lòng tin của người phụ nữ thật đơn sơ, nhưng mạnh mẽ: “tôi chỉ cần đụng được vào áo của Người thôi, là sẽ được cứu”. Ở những nơi hành hương, người ta vẫn thể hiện lòng tin bằng cách đụng vào các bức tượng hay thánh tích.
Nhưng để được chữa lành thực sự, nghĩa là trọn vẹn, chúng ta được mời gọi đi vào tương quan mãi mãi với một ngôi vị, Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Và đó chính là điều mà người phụ nữ được ban tặng, vượt xa nhu cầu chữa bệnh của bà. Được khỏe là một nhu cầu quan trọng, nhưng điều này vẫn chưa giải quyết được hết những vấn đề liên quan đến “sự sống” của một con người. Đời sống con người cần sức khỏe, nhưng khỏe thôi vẫn chưa đủ. Hơn nữa, xét cho cùng, người ta đâu có khỏe được mãi, và có rất nhiều phận người, sinh ra đã tật nguyền. Hơn nữa, Đức Giêsu còn nói: “lòng tin của con đã cứu con”. “Cứu” ở đây vượt xa vô hạn phép lạ hết bệnh.
2.2. Cái chết của đứa con, nhưng lòng tin lại là lòng tin của người cha: “con gái tôi mới chết, nhưng xin Ngài đến đặt tay trên cháu, là nó sẽ sống”. Lòng tin của bố cứu được con mình. Điều kì diệu này được ghi lại khắp nơi trong các Tin Mừng. Chính vì thế mà chúng ta được mời gọi cầu nguyện cho nhau, cho người sống và kẻ chết. Vì Chúa cũng yêu thương những người chúng ta thương yêu trong Chúa.
Đức Giêsu không quan tâm đến tiếng tăm của mình, nhưng quan tâm đến sức khỏe và sự sống của em bé: “Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm” (c. 40). Sau này trong cuộc Thương Khó, Ngài sẵn sàng mang vào mình cái chết đau đớn và sỉ nhục tận cùng, để hiện diện, cảm thông với mọi đau khổ và mọi cách chết của con người, để bày tỏ lòng thương xót và dẫn chúng ta vào niềm Hi Vọng. Biến cố cá biệt, nhưng đem lại cho nhân loại chúng ta niềm hi vọng thật lớn: tất cả người chết sẽ sống lại, nếu Đấng Phục Sinh “cầm lấy tay”.
Niềm hi vọng
Cách Đức Giêsu đến với mỗi người mỗi khác. Với người phụ nữ, bà cố để đụng được vào gấu áo của Đức Giêsu; nhưng với em bé, Ngài đến tận nơi: “Người đi vào, cầm lấy tay em bé, nó liền trỗi dậy”. Đó chính cũng là cách Chúa ban ơn cứu độ cho từng người, luôn luôn đích thân và duy nhất. Bởi lẽ người ta không thể công thức hóa ơn cứu độ, lề luật hóa lòng tốt của Thiên Chúa được.
Đức Giêsu quan tâm đến sự sống của mỗi người, của cả loài người. Những gì Ngài làm, thật lạ lùng, nhưng cũng thật giới hạn. Vì người phụ nữ cũng sẽ bệnh lại và chết; em bé lớn lên và cũng qua đi. Nhưng đó là những dấu chỉ làm cho chúng ta hướng tới và đặt hi vọng nơi ơn huệ còn lạ lùng hơn: đó ơn huệ sự sống vô hạn trong Chúa và cùng nhau, mà Đức Giêsu Kitô chết và phục sinh hứa ban cho chúng ta.
Chính niềm hi vọng đặt nơi ngôi vị của Đức Kitô phục sinh, làm cho chúng ta bình an và can đảm đảm nhận hôm nay phận người của mình và thân phận của cả những người khác nữa, nhất là những người thân yêu của chúng ta trong Gia Đình và trong ơn gọi dâng hiến.
Bài đọc 1 hôm nay (Wis 1:13-15; 2:23-24) nhắc cho chúng ta tư tưởng lạc quan về cuộc sống TN 13-B134
Bài đọc 1 hôm nay (Wis 1:13-15; 2:23-24) nhắc cho chúng ta tư tưởng lạc quan về cuộc sống. Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài, để con người được tham dự vào sự sống vĩnh cửu, được hạnh phúc đời đời, nhưng con người đã phá vỡ kế hoạch của Thiên Chúa vì phạm tội. Tuy nhiên, Thiên Chúa giầu lòng thương xót sẽ nhận lời những ai thành khẩn kêu xin Ngài (Đáp ca:Tv 29). Tư tưởng này được minh chứng bằng hai phép lạ dưới đây:
Ông Giairô, trưởng hội đường có đứa con gái bệnh nặng gần chết. Ông đến xin Ngài đến chữa cho con ông. Ngài nhận lời đi ngay. Đang trên đường đi đến nhà ông Giairô thì dọc đường có một người đàn bà bị bệnh băng huyết đã 12 năm, bà đã sờ vào được gấu áo Chúa nên bà cảm thấy lập tức trong mình đã được khỏi bệnh. Đức Giêsu đã yên ủi và khích lệ bà: ”Hỡi con, đức tin của con đã chữa con” (Mk 5:34).
Đức Giêsu đi tới nhà ông Giairô, người nhà ông đến báo tin con ông đã chết rồi, đừng phiền đến Thầy nữa. Nhưng Đức Giêsu khích lệ ông: ”Đừng sợ, hãy cứ tin” (Mk 5:36).
Quang cảnh nhà đứa bé thật nhộn nhịp: tiếng khóc của thân nhân cũng như của những người khóc mướn, tiếng trống tiếng kèn, cùng với lời báo tin của người nhà cũng như thái độ cười nhạo của những người chung quanh không tin vào quyền năng của Đức Giêsu cho thấy cô bé đã chết thật. Nhưng ở đây Đức Giêsu lại bảo: ”Cô bé không chết đâu, nó ngủ đấy” (Mk 5:39). Ngài nói thế là vì Ngài muốn tỏ ra rằng Ngài làm cho kẻ chết sống lại dễ dàng như người ngủ thức dậy, để người khó tin được dễ hiểu. Đức Giêsu cầm lấy tay cô bé và nói: ”Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy” (Mk 5:41). Và em bé chỗi dậy mạnh khỏe. Ở đây Đức Giêsu tỏ ra có quyền trên sự chết và sự sống. Ngài làm chủ của kẻ sống và kẻ chết (Jn 5:21, 25).
Người đàn bà bị băng huyết tự nhủ: ”Tôi chỉ cần sờ vào gấu áo Ngài thì tôi sẽ được khỏi” (Mk 5:28). Nghĩ thế và bà đã dám làm, bất chấp luật lệ cấm đoán phiền phức và khắt khe. Điều đó chứng tỏ bà đã có đức tin vững mạnh, và thúc đẩy Chúa làm phép lạ. Kết quả là bà đã được như ý.
Trường hợp ông trưởng hội đường Giairô cũng thế. Ông là một người có địa vị và thế giá trong dân. Điều này nói lên việc ông làm có ý thức và có thế giá. Thái độ khiêm nhường của ông trước mặt Đức Giêsu diễn tả niềm tin sâu xa của ông, ông đã quì xuống dưới chân Chúa và khẩn khoản van xin: ”Con bé nhà tôi gần chết rồi, xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu chữa và được sống” (Mk 5:21). Như vậy ông này phải tin Đức Giêsu là ai, có quyền phép thế nào ông ta mới có cử chỉ và thái độ khiêm nhường và kêu xin như thế. Qua thái độ tin tưởng và lời cầu xin ấy, ông đã được toại nguyện.
Đứng trước những dữ kiện “phép lạ” Chúa làm mà Tin Mừng kể lại, chúng ta thấy ngày nay có hai khuynh hướng trái ngược nhau. Một số khoa học gia cho rằng phép lạ chỉ gây rắc rối cho đức tin, dần dần khoa học sẽ giải quyết nhiều bệnh lý. Trái lại, ngày nay, phong trào Thánh Linh đang phát triển mạnh làm cho người ta tin tưởng rằng trong một cộng đoàn có Chúa Thánh Thần hoạt động, phép lạ không còn là một sự phi thường. Kinh nghiệm bản thân và sự quan sát khách quan đã minh chứng điều đó (Theo Sr Briege Mckenna, O.S.C, Des Miracles d’Aujourd’hui).
Sống trong không khí thực nghiệm và duy vật, người ngày nay có khuynh hướng muốn phủ nhận phép lạ và chối bỏ các điều mầu nhiệm của đạo. Họ cho phép lạ là nghịch công lệ tự nhiên, trái với sự bất di dịch của Thiên Chúa. Không nghịch, không trái gì hết. Tin phép lạ là tin Thiên Chúa có thể làm được những việc mà không loài thọ tạo nào tự sức mình có thể làm được (Mk 10:27). Ta hãy nghe nhà văn hào J. J.Rousseau nói: ”Thiên Chúa có làm được phép lạ không? Nghĩa là Ngài có thể làm khác với các định luật Ngài lập không? Câu hỏi ấy mà có ý đặt ra thực, thì quả là ngạo mạn, nếu không là vô lý. Đối với kẻ trả lời rằng không, thì phạt nó còn là quá hân hạnh cho nó, hạng ấy cứ giam vào ngục là xong.”
Họ bảo người tin có mầu nhiệm nghĩa là tin cái không hiểu được, là mê tín. Không phải là mê tín. Tin mầu nhiệm chỉ là công nhận rằng sự thông minh của Thiên Chúa vượt hẳn trí khôn ta (I Cor 1:25). Ông Charles Nicolle, một bác học có hạng, khi trở lại Công Giáo nói: ”May mà còn có những mầu nhiệm của tôn giáo! Nếu không, thì thật là khả nghi, vì tôi sợ rằng đó chỉ là sản phẩm giả tạo của trí óc loài người. Mầu nhiệm của tôn giáo làm tôi an tâm. Nó là biểu hiệu của Thiên Chúa” (Trần văn Khả, Phúc âm Chúa nhật năm B, tr 151-152).
Trong chương trình “The Extraordinary” có kể câu chuyện lạ, xẩy ra tại Melbourne, Australia vào năm 1987. Buổi sáng đẹp trời, một bà bẹ chở đứa con gái 7 tuổi đến trường. Đang lúc mẹ con trò chuyện vui vẻ, bất chợt một chiếc xe trọng tải đâm thẳng vào hông xe, nơi em bé ngồi. Em bé bị ngất xỉu. Sau khi cứu sống, hội đồng bác sĩ cho biết là em sẽ không bao giờ có thể đi lại được nữa! Em sống, nhưng mất nhiều khả năng tri giác và cảm xúc. Thật là tin buồn cho người mẹ. Tuy nhiên bà ngoại vẫn điềm tĩnh và có linh cảm rằng cháu của bà sẽ được ơn đặc biệt. Bà thường đến bệnh viện thăm và giúp cháu đọc kinh và cầu nguyện. Những ai thấy bệnh trạng của em bé đều thương hại cho em. Nhiều người ngạc nhiên là trên khuôn mặt của em luôn hiện lên sự bình an từ trong tâm hồn và niềm vui siêu nhiên. Sau khi rời bệnh viện, dần dần em đi học lại và theo kịp các bạn cùng lớp (Hà ngọc Đoài).
Câu chuyện em bé hôm nay và con gái ông trưởng hội đường hôm xưa cũng tương tự. Xưa và nay cũng chỉ là một Thiên Chúa (Hr 13:8). Ngài luôn tươi trẻ với thời gian và luôn gần gũi trong không gian để an ủi và nâng đỡ những ai tìm đến Ngài.
Thánh Giacôbê đã khẳng định về sự cần thiết của việc làm song song với đức tin: ”Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết. Đàng khác, có người sẽ bảo: “Bạn, bạn có đức tin; còn tôi, tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không có hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin” (Gc 2,17-18).
Tin là cộng tác với ơn Chúa. Người đàn bà băng huyết nghĩ mình phải làm cái gì đó chứ không chỉ tin suông, nên bà đã đến với Chúa chớ không chờ Chúa đến với mình. Ông Giairô cũng vậy, ông tin Đức Giêsu có thể cứu sống con ông, ông vội vã đến với Chúa. Cả hai đều tin tưởng vào Chúa và nỗ lực cộng tác với Ngài. Vì thế, chúng ta không thể cứ thụ động chờ Chúa làm phép lạ, nhưng hãy xử dụng hết những phương tiện Chúa ban, còn phần kia tùy Chúa định liệu.
Câu chuyện xẩy ra vào mùa xuân, có một vùng quê bị một trận lụt dữ dội tàn phá, khiến cho một bà già bị kẹt trong căn nhà bà. Đang khi bà ta đứng tựa cửa sổ nhà bếp nhìn ra thì một chiếc thuyền xuất hiện, người lái thuyền bảo bà: ”Hãy leo lên thuyền để thoát nạn.” Bà lão đáp lại: ”Không, cám ơn, tôi tin vào Chúa, Ngài sẽ cứu tôi.” Người lái thuyền lắc đầu rồi bỏ đi.
Ngày hôm sau, cơn lụt dâng cao đến tầng hai của căn nhà. Đang lúc bà lão đứng tựa cửa sổ tầng hai ngắm nhìn con nước thì một chiếc thuyền khác lại xuất hiện. Người lái thuyền bảo bà: ”Hãy lên thuyền để thoát nạn.” Bà già đáp lại: ”Không, cảm ơn, tôi tin vào Chúa. Ngài sẽ cứu tôi.” Người lái thuyền lắc đầu rồi bỏ đi.
Ngày kế tiếp cơn nước dâng lên tận nóc nhà. Đang khi bà lão ngồi trên nóc nhà nhìn con nước dâng, một chiếc trực thăng lại hiện ra. Viên phi công dùng loa gọi vọng xuống: ”Tôi sẽ thả một chiếc thang dây cho bà, hãy leo lên và bà sẽ thoát nạn.” Bà già lại nói: ”Không, cảm ơn, tôi tin vào Chúa, Ngài sẽ cứu thoát tôi.” Viên phi công nhìn bà lắc đầu, rồi bỏ đi.
Ngày sau đó, cơn lụt nhận chìm ngôi nhà và bà lão bị chết đuối. Khi được đưa về trời, bà ta nói với Thánh Phêrô: ”Trước khi vào đây, tôi xin được phàn nàn một điều. Tôi đã tin chắc Chúa sẽ cứu tôi thoát khỏi trận lụt, thế mà Ngài lại để tôi bị chết chìm.” Thánh Phêrô bối rối nhìn bà lão đoạn lên tiếng: ”Tôi chả hiểu Chúa có thể làm thêm điều gì được cho bà nữa, vì Ngài đã gửi tới cho bà những hai chiếc thuyền và một chiếc trực thăng rồi còn gì” (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm B, tr 254-255)?
Bà lão trong trận lụt này quá lầm lẫn. Bà quên rằng Chúa thường hoạt động trong đời sống chúng ta xuyên qua những phương tiện bình thường. Bà quên rằng chúng ta phải làm hết phận vụ mình và hợp tác với Chúa bằng cách xử dụng những phương tiện bình thường Ngài ban cho ta. Nói cách khác, chúng ta không thể ngồi thụ động chờ Chúa làm phép lạ, mà phải dùng tất cả mọi phương tiện thông thường Chúa ban để tự giúp mình trước đã.
Tục ngữ Việt nam đã nói lên chân lý này: ”Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”: Con người phải bắt đầu làm đã, còn thành bại thế nào thì sẽ do Trời định liệu. Nhưng về phía Trời thì chắc chắn sẽ giúp cho những ai biết cố gắng dùng mọi phương tiện Chúa đã ban cho. Đúng như tục ngữ Pháp nói: Aide-toi, le Ciel t’aidera: Anh hãy giúp mình trước, Trời sẽ giúp mình sau.
Tin khi đời sống bình an, thuận buồm xuôi gió thì chưa hẳn là đức tin thật, nó phải được tôi luyện trong đau khổ, trong khó khăn, trong gian nan thử thách mà vẫn kiên trì, thì đức tin ấy mới có thể làm nên phép lạ. Hay nói đúng hơn, lúc ấy Thiên Chúa mới trợ giúp, mới cứu chữa, vì khi đó chúng ta không tin vào sức riêng mình mà tin vào Chúa, thì Chúa phải thực hiện thôi.
Cuộc đời của chúng ta không bao giờ hết đau khổ. Chúng ta có thể cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa cả trong đau khổ. Sự hiện diện của Thiên Chúa không nhất thiết lấy đi đau khổ, nhưng cho chúng ta năng lực chuyển hoá đau khổ. Thấu hiểu chân lý này, ông Francois Mauriac đã phát biểu: ”Ngài đến không phải để cất sự đau khổ mà để hiện diện với đau khổ.” Như vậy nghĩa là Ngài đến ban đức tin cho chúng ta để chúng ta biết chịu đựng đau khổ, biết chuyển hoá đau khổ, biến nó thành phương tiện để đạt tới ơn cứu độ. Bằng không thì chúng ta chịu đau khổ một cách vô ích và những đau khổ trở nên vô nghĩa.
Những ai không có đức tin thì gặp nhiều bất lợi trước đau khổ. Họ chịu đựng đau khổ gấp ba lần: họ chịu đựng bệnh tật; họ chịu đựng sự vô nghĩa của bệnh tật vì đối với họ, bệnh tật chỉ là kết quả của một số phận mù quáng, và họ chịu đựng đau khổ vì cuộc sống của họ bị ngưng trệ. Họ coi bệnh tật của họ như một việc phải chịu đựng thay vì một việc phải sống. Đời sống của họ như bị giữ chặt lại vì họ chờ đợi thụ động cho đến khi mọi việc trở lại bình thường để họ có thể bắt đầu cuộc sống trở lại.
Mặt khác, các bệnh nhân có đức tin ở trong một tình thế tốt hơn. Dù đức tin không giải thoát họ khỏi bệnh tật, hoặc làm giảm bớt đau khổ do bệnh tật gây ra, người có đức tin tiếp tục sống một cách mãnh liệt như trước đây, có khi còn mãnh liệt hơn. Họ có thể tìm thấy Thiên Chúa trong bệnh tật cũng như trong lúc khỏe mạnh, và bệnh tật của họ có thể sinh ra kinh nghiệm có lợi là họ sẽ xin Chúa chữa lành cho bệnh tật ấy (Flor McCarthy).
Không có thừa tác viên nào có thể gần gũi được với một người mà chính thừa tác viên đó TN 13-B135
“Không có thừa tác viên nào có thể gần gũi được với một người mà chính thừa tác viên đó không muốn đụng chạm vào họ. Nếu bạn không muốn đụng đến một người vô gia cư, nghiện rượu, hay một người ăn mặc dơ dáy bẩn thỉu, xét về khía cạnh tâm lý thì chính bạn cũng không muốn phục vụ và chăm sóc cho họ.” Đây là những lời khuyên của bác sĩ tâm lý gia nổi tiếng Charles Gerkin. Năm 1988, mục sư được mời đến bệnh viện để thăm viếng và hỗ trợ tinh thần cho một thành viên trong cộng đoàn của ông. Khi đến bệnh viện, trước khi vào phòng bệnh nhân, cô y tá khuyên ông nên mang bao tay vào. Ông đã làm theo lời đề nghị của y tá. Thoạt tiên bệnh nhân rất sung sướng được gặp gỡ vị chủ chăn. Nhưng ngay sau khi chủ chăn đưa đôi tay được bao bọc ra, thì lập tức những cảm giác vui mừng, an ủi đã tan biến mất. Thay vào đó, một cảm giác thật ngượng ngùng, lúng túng và bối rối cho cả hai người, bệnh nhân và mục sư. Vị mục sư đã xin lỗi. Và từ đó trở đi, khi vào thăm bệnh nhân ở bệnh viện, ông đã không bao giờ dám mang những đôi bao tay nữa. Sau này, ông chia sẻ: “Tôi đã cảm thấy rằng tôi không thể nào là đại diện của Chúa Kitô được trong hoàn cảnh như thế, trừ khi có một sự đụng chạm trực tiếp với bệnh nhân.”
Trong cuốn Mark’s Gospel, linh mục Eugene LaVerdiere đã viết: “Trong thế giới văn hóa của Thánh Kinh, như nhiều văn hóa ngày nay, quần áo của một người là một sự diễn tả quan trọng để nhận dạng cũng như là một phương tiện để che chở khỏi những thành phần khác. Quần áo là một biểu tượng cá thể của một người, cũng như tên để gọi một người. Đó là lý do tại sao Thánh Phaolô đã có thể nói về Phép Rửa tội và việc trở nên một người Kitô hữu như mặc lấy Chúa Kitô (Gl 3:27). Trong Phúc Âm của Máccô, chúng ta đã nhìn thấy việc mặc quần áo được sử dụng để nhận dạng Gioan Tẩy Giả như một Elijah mới (Mc 1:6), để nhấn mạnh đến sự mới mẻ của cách sống và sứ điệp của Chúa Giêsu (Mc 2:21), và để nói về một sự nhận dạng mới của kẻ bị thần ô uế ám sống trần truồng trong mồ mả (Mc 5:15). Áo của Chúa Giêsu là một sự diễn tả biểu tượng tuyệt vời về con người của Ngài. Bằng việc chạm đến áo Ngài, một người có thể tiếp xúc với chính con người của Ngài.”
Theo luật lệ Do Thái, người phụ nữ bị băng huyết ở trong một tình trạng không trong sạch. Người đàn bà đó không được phép đụng đến ai, và không có ai được đụng đến bà. Người đó mất quyền tiếp xúc với xã hội vì bị coi là ô uế, dơ bẩn! Cũng thế, các thầy tư tế không được phép đụng đến xác chết (Lv 21: 1-12). Trong bài Phúc Âm hôm nay, Mc 5: 21-43, Chúa Giêsu đã vi phạm cả hai trường hợp. Ngài chữa lành người phụ nữ bị băng huyết đã đụng đến áo của Ngài. Ngài cầm tay đứa bé gái 12 tuổi đã chết và làm cho sống lại. Chúa biết cả hai điều cấm kỵ đó. Nhưng Thiên Chúa là Chúa của sự sống (Ga 11:25). Ngài không những chữa lành bệnh tật cho con người, mà còn nối kết sự sống của con người với sự sống đời đời của Thiên Chúa.
Trước hết, Thiên Chúa là Chúa của sự sống (Ga 1:4). “Sự sống” là bản tính của Thiên Chúa. Khi Thiên Chúa hiện ra với Môsê từ bụi gai đang cháy, Môsê đã không biết chắc chắn ông đang nói chuyện với ai. Do đó ông đã hỏi tên của Ngài. Đối với người Do Thái, họ không hỏi nghề nghiệp hay nơi sinh, mà hỏi tên; vì tên nói lên một cách chính xác người đó là ai. Câu trả lời của Thiên Chúa là: “Ta là Đấng Hiện Hữu” (Xh 3: 14). Một điều ý nghĩa nhất Thiên Chúa mặc khải cho Môsê là Ngài hằng sống, Ngài hiện hữu. Ngài đã, đang và sẽ sống. Chính Ngài là sự sống. “Ta là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11:25).
Tiếp đến, Thiên Chúa ban sự sống (Ga 5:26). Bài đọc thứ nhất trích từ sách Khôn Ngoan: “Vì Người đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu” (Kn 1: 14). “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2: 7). Sự sống của con người là món quà đầu tiên và quý giá nhất trong tất cả mọi sự Thiên Chúa đã ban. Đá, đất, cát đều hiện hữu, nhưng chúng không có sự sống. Chỉ có con người mới có sự sống. Vì thế chúng ta phải bảo vệ sự sống của con người bằng mọi giá, trong mọi giai đoạn. Đó là lý do tại sao Giáo Hội lên tiếng bảo vệ các thai nhi, người già lão, ốm đau, bệnh nhân AIDS, và chống lại án tử hình, hay vấn đề an tử. Hãy chú ý tới những điều Chúa Giêsu đã nói và đã làm sau khi Ngài sống lại, và hiện ra với các tông đồ: “Bình an cho các con…. Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: Các con hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20: 22). Giống như Thiên Chúa Cha đã thổi hơi ban sự sống trên nhân loại, Chúa Giêsu cũng thổi hơi ban sự sống mới cho Giáo Hội.
Và Thiên Chúa ban sự sống đời đời (Ga 6:40; 58; 68). Cũng trích từ sách Khôn Ngoan: “Thiên Chúa không tạo dựng sự chết… Vì chưng, công chính thì vĩnh cửu và bất tử. Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, để sống vĩnh viễn” (Kn 1: 3 ; 2: 23). Ngài không muốn con người phải chết. Sự chết đến là do ma quỷ và tội lỗi (Kn 2: 25). Kẻ thù của chúng ta là sự chết. Chúa Giêsu đến để chiến thắng sự chết. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Ngài đã làm cho con gái của ông trưởng hội đường tên là Gia-ia sống lại từ cõi chết: “Hỡi em bé, Ta bảo em hãy chỗi dậy” (Mc 5: 41).
Thiên Chúa chia sẻ sự sống đời đời cho chúng ta, bởi vì Ngài yêu thương chúng ta. Chúng ta là con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa (Cl 3:10; Ep 4:24), một Thiên Chúa Hằng Sống và Yêu Thương. Không thể nói đến yêu thương nếu chúng ta bị người khác loại trừ. Sống là sống với. Cho nên, các nhà xã hội học đã dịnh nghĩa con người là con vật xã hội. Người phụ nữ được chữa lành bệnh qua sự đụng chạm, đối thoại với Thiên Chúa và được đưa trở về với các tương quan yêu thương của một con người sống trong xã hội.
Cha LaVerdiere đã giải thích như sau trong bài Women in The New Israel: “Những người Kitô sơ khai đã đối diện với nhiều thứ vấn đề xã hội có liên quan sâu xa dựa trên bản chất của Kitô Giáo và đức tin của họ vào Thiên Chúa đã sống lại. Một trong những vấn đề đó là việc cho phép đầy đủ những người phụ nữ tham gia vào đời sống và sự thờ phượng của người Kitô hữu. Phúc Âm của Máccô đã bắt đầu đối chất với vấn đề này trong 5: 21-43.”
Sức khỏe, tính tình, và sự phát triển của một em bé tùy thuộc vào xã hội tính. Một em bé được người mẹ ôm ấp, yêu thương, vỗ về sẽ khác với một em bị bỏ rơi và nuôi ở viện mồ côi. Leo Buscaglia đã nhận xét rằng sự ôm ấp yêu thương giúp cho con người sống lâu hơn, bảo vệ khỏi bệnh tật, củng cố những liên hệ gia đình, và giúp giải tỏa sự buồn bực, căng thẳng.
Trong Anh ngữ chữ “touch” vừa có nghĩa là “đụng, chạm, sờ, mó” về thể lý, lại vừa có nghĩa “làm cho xúc động, cảm động, thương tâm” xét về tình cảm và tinh thần. “Your music touched me”,”Bản nhạc của bạn đã làm cho tôi xúc động.”
Trong các môn thể thao, ở Mỹ có môn Football rất phổ thông và hấp dẫn. Mỗi khi cầu thủ ôm banh chạy vào được vùng cuối sân, “end zone”, ghi điểm thì gọi là “touch-down”. Khi đội banh nhà “touch-down” thì toàn thể cầu trường, sáu bẩy chục ngàn người nhẩy nhỏm lên reo hò mừng rỡ. Ban nhạc sẽ trổi kèn. Các cô “cheer-leaders” nhẩy nhót ca múa. Một cái “touch-down” về thể lý gây nên một sự xúc động tình cảm vô cùng lớn lao cho các cổ động viên không những trong cầu trường mà còn hàng triệu khán giả ủng hộ xem TV trên toàn thể nước Mỹ. Phải tốn kém hàng triệu đô la mới mua được cầu thủ đó, và giây phút đó. Những người thắng cuộc mừng rỡ reo hò, còn kẻ thua có thể mất tiền, thua độ, có khi thiệt cả mạng sống không chừng! “Touch-down” có ảnh hưởng lớn lao đến thế!
Theo Helen Colton, tác giả cuốn The Gift of Touch, thì số lượng của chất hemoglobin trong máu của một người sẽ gia tăng một cách đáng kể khi người đó được tiếp xúc, đụng chạm, hay được ôm ấp yêu thương. Chất hemoglobin giúp cho sức khỏe được gia tăng, ngăn ngừa bệnh tật, và làm cho mau phục hồi, chữa lành bệnh tật.
Tháng 6 năm 1997, trên tờ báo The Dayton Daily News, có một bài nói về bệnh cảm lạnh. Qua những cuộc nghiên cứu, người ta đã chứng tỏ rằng những người có sự tiếp xúc xã hội mật thiết với bạn bè và gia đình một cách rộng rãi và cởi mở thì ít bị cảm lạnh hơn là những người sống ẩn dật một mình, cách biệt với xã hội. Bác sĩ Ronald Glaser, một chuyên viên về vi khuẩn học ở tiểu bang Ohio, cũng đã tường thuật lại rằng phản ứng về tính miễn nhiễm của một người gia tăng theo sức mạnh của người đó trong những sinh hoạt xã hội.
Trong quá trình đấu tranh cho dân chủ, tự do, hay xây dựng một quốc gia, cộng đoàn, chúng ta cũng đã có những kinh nghiệm về sự tiếp xúc, gặp gỡ, và nối kết giữa những người cùng chí hướng lại với nhau. Sự tiếp xúc tạo nên tình đoàn kết liên đới. Đoàn kết gây sức mạnh và gia tăng lòng ái quốc, yêu thương dân tộc, bảo vệ giống nòi, và duy trì sự sống của con người trên trái đất, đồng thời cùng đưa nhau về với Chân Thiện Mỹ, với Thượng Đế.
Cuộc đấu tranh của cộng đoàn “Đoàn Kết” do Lech Walesa hướng dẫn thành công vào tháng 6 năm 1989. Sau đó hàng triệu người biểu tình nắm tay nhau dành lại tự do dân chủ khắp các nước Đông Âu. Sau cùng đã kết thúc ngay tại Liên Sô vào ngày 19-21/8/1991.
Sự gặp gỡ tiếp xúc giữa con người với nhau cũng đã tạo nên những hiệu quả và lợi ích như vậy, huống chi là sự tiếp xúc và đụng chạm giữa con người với Thiên Chúa. Phúc Âm diễn tả sức mạnh của Thiên Chúa đã đến qua sự tiếp xúc đụng chạm với Đức Giêsu Kitô: “Ngay lúc ấy, Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh đã phát xuất tự mình” (Mc 5: 30).
Lạy Chúa, mỗi lần con rước Chúa thì không chỉ là đụng chạm đến Chúa, mà là kết hợp nên một với Chúa, trở nên một xương thịt với Chúa như Thánh Phaolô đã nói: “Không phải con sống mà là Chúa sống trong con” (Gl 2:20). Xin Chúa chữa lành tâm hồn thương tích của con và ban cho con sự sống đời đời. Xin giúp con biết chia sẻ tình yêu và sức mạnh của Chúa với các anh chị em mà con sẽ gặp gỡ và tiếp xúc trong đời sống hằng ngày.
Nếu chúng ta đã từng chứng kiến cái chết của một người thân, chúng ta sẽ cảm thấy đau đớn TN 13-B136
Nếu chúng ta đã từng chứng kiến cái chết của một người thân, chúng ta sẽ cảm thấy đau đớn là dường nào. Mất mát cha mẹ, vợ chồng, bạn bè… và có thể mất mát đau đớn nhất là mất mát con cái. Và sự đau đớn này nhiều khi cảm thấy hầu như không chịu nổi. Nó có thể làm cho thân xác kiệt quệ, thất đảm tâm hồn, và chẳng còn thiết tha bất cứ niềm vui nào khác nữa. Vâng, nỗi buồn chúng ta cảm nhận khi mất đi một người mà chúng ta yêu thương có thể là một điều vô cùng mãnh liệt không thể diễn tả được.
Tuy nhiên, tôi thiết nghĩ đó không phải là điều mãnh liệt nhất. Không, đối với nhiều người trong chúng ta, vẫn còn có một cái gì đó mãnh liệt hơn, giúp chúng ta vượt qua những giờ phút tối tăm nhất của cuộc đời, giúp chúng ta giữ vững niềm hy vọng trước nỗi tuyệt vọng, giúp chúng ta có can đảm và sức mạnh để chỗi dậy và đối diện thêm một ngày mới. Đó là, đức tin của chúng ta.
Đối với tất cả các tín hữu, đặc biệt là đối với Kitô hữu, đức tin chính là điều tạo ra sự khác biệt hơn cả – chúng ta tin một Thiên Chúa yêu thương chúng ta trọn vẹn và mãi mãi, tin Thiên Chúa đã tạo dựng nên tất cả mọi loài và ôm ấp chúng ta trong lòng bàn tay của Ngài, tin Thiên Chúa đã thực sự trở thành một người như chúng ta, sẵn sàng đến để chỉ cho chúng ta biết cách sống, và nhất là tin một Thiên Chúa thậm chí đã tiêu diệt sự chết bằng chính việc hy hiến mạng sống mình cho chúng ta, do đó làm cho cái chết hoàn toàn bất lực.
Đó là đức tin của Kitô hữu. Đó là đức tin giúp duy trì con người chúng ta, và cho chúng ta niềm hy vọng khi người thân của chúng ta đã chết. Tin tưởng rằng “chết không phải là hết” có thể là một tia sáng hy vọng ủi an chúng ta lúc đau buồn, một tia sáng có sức mạnh để sưởi ấm tâm hồn, làm dịu đi nỗi đau. Một khi chúng ta chấp nhận chân lý đó là “cái chết của thể xác được thay đổi chứ không tận tuyệt” thì rất nhiều điều khác cũng sẽ được thay đổi và được biến đổi – thái độ, nỗi sợ hãi, sự thất vọng, và thậm chí cả nỗi đau của chúng ta… cũng sẽ được biến đổi. Đó là những gì mà đức tin có thể làm.
Trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy rõ nỗi đau khi mất người thân yêu. Ông Giairô, trưởng hội đường, đến với Chúa Giêsu và cầu xin Ngài giúp con gái của ông bị ốm. Nhưng trước khi họ đến nhà thì đứa bé được thông báo là đã chết. Và khi họ đến nơi thì thấy những người hiện diện đang khóc. Có lẽ, ở trong trường hợp đó, chúng ta cũng sẽ như vậy.
Chúa Giêsu cầm lấy tay em bé và nói: “Hỡi em bé, ta truyền cho em, hãy chỗi dậy!”
Và tất nhiên, em bé và mọi người hiện diện ở đó đều kinh ngạc… đều cảm thấy nhẹ nhõm, vui mừng và biết ơn. Cái chết của em bé không phải là kết thúc của câu chuyện. Và chúng ta, hai ngàn năm sau, cũng tin y như vậy. Khi chúng ta phải chịu đau khổ về sự mất mát của người thân, thì chính niềm tin có thể tạo ra sự khác biệt trên thế giới – cái không chịu nổi trở nên dễ chịu hơn một chút, điều thất vọng trở nên tràn đầy hy vọng, sự giận dữ và nỗi buồn bắt đầu biến đổi thành một loại an bình chỉ có thể đến từ một Thiên Chúa yêu thương chúng ta bằng những cách thức và với chiều sâu mà chúng ta không thể tưởng tượng được.
Tuy nhiên, phép lạ mà chúng ta vừa nghe, đặc biệt là sự phục sinh của chính Chúa Giêsu, có ý nghĩa rất nhiều. Đó là, “khi chúng ta chết là chúng ta sẽ tiếp tục sống.” Và “chết” ở đây không chỉ hiểu trong ý nghĩa chết thể xác mà thôi. Không, khi chúng ta nói rằng sức mạnh của sự phục sinh đã tiêu diệt cái chết mãi mãi, chúng ta không có ý nói nó trong một nghĩa hẹp. Chúng ta muốn nói nó theo một nghĩa rộng.
Như chúng ta thấy, công cuộc cứu rỗi của Chúa có thể mang lại sự sống cho “cái chết” duy nhất mà chúng ta trải nghiệm. Và chắc chắn Chúa sẽ ban một cuộc sống mới khi cuộc sống trần thế của chúng ta chấm dứt. Tuy nhiên, ngài cũng làm điều tương tự như vậy mỗi lần chúng ta bị “chết” dưới bất cứ hình thức nào – thất vọng, buồn phiền, bi thương, hoặc đau khổ dưới bất kỳ hình thức nào. Chúa có quyền năng và hằng muốn nắm lấy bàn tay của chúng ta nâng lên khỏi tất cả những điều này, nâng chúng ta lên một con đường mới để sống – sống hy vọng, sống vui, sống tin tưởng, và sống an bình.
“Ta truyền cho em, hãy chỗi dậy!”
Ước mong sao mỗi người chúng ta nghe Chúa nói những lời đó trực tiếp với chúng ta. Và ước mong sao đức tin của chúng ta sẽ giúp những lời đó trở thành hiện thực.
Tin mừng hôm nay thuật lại hai phép lạ của Chúa Giê-su. Phép lạ một em bé gái vừa mới TN 13-B137
Tin mừng hôm nay thuật lại hai phép lạ của Chúa Giê-su. Phép lạ một em bé gái vừa mới chết được Chúa cho sống lại, và phép lạ một người đàn bà bị bệnh lâu năm được Chúa chữa khỏi. Cả hai phép lạ đều là kết quả của lòng tin, hay cả hai phép lạ đều được Chúa Giêsu thực hiện do lòng tin của con người. Ông trưởng hội đường đã biểu lộ lòng tin bằng cách lặn lội tìm đến Chúa, khiêm nhường xin Ngài cứu chữa con gái ông. Còn người đàn bà bị bệnh lâu năm đã tin một cách mãnh liệt vào sức mạnh xuất phát từ con người của Chúa. Lòng tin nơi ông trưởng hội đường được bày tỏ, thể hiện một cách rỏ ràng, còn lòng tin của người đàn bà thì khiêm nhường kín đáo. Nhưng dù rõ ràng hay kín đáo, chính lòng tin của họ đã giúp cho phép lạ xảy ra. Đây là một điều hết sức quan trọng cũng là một bằng chứng cho chúng ta thấy: lòng tin hay niềm tin hay đức tin là yếu tố chủ yếu quyết định trong các phép lạ Chúa Giêsu làm, nghĩa là mỗi khi làm phép lạ, Chúa luôn luôn đòi hỏi người ta phải có một lòng tin.
Niềm tin hay đức tin cũng là một yếu tố rất quan trọng trong đời sống Kitô hữu của chúng ta. Niềm tin giúp chúng ta sống trong bình an, phấn khởi, vui mừng và hy vọng. Ngược lại, không có niềm tin chúng ta dễ rơi vào thái độ sầu buồn, chán nản và thất vọng. Kinh thánh luôn nhắc nhở chúng ta, như trong bài đọc 1, chính con người chúng ta tự tạo cho mình sự đau khổ và buồn sầu vì từ chối không tin và sống những lời Chúa phán bảo chúng ta. Và chính Chúa Giê-su đã dạy và cho chúng ta biết một cách rõ ràng, Ngài nói: “Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.”
Một câu nói của Chúa Giê-su trong bài Tin mừng mà chúng ta có thể cảm thấy toát ra một sức mạnh mãnh liệt và hy vọng tràn đầy sau khi ông trưởng hội trường báo cho Chúa biết là con ông đã chết: “Ông đừng sợ, hãy cứ tin.” Có nghĩa là thực tế bên ngoài con ông đã chết, nhưng Chúa nói với ông hãy vững tin vào Ngài. Ngài sẽ cứu giúp ông.
Cuộc sống Ki-tô hữu của chúng ta ở trần gian là cuộc hành trình bằng đức tin. Chúng ta sống và phấn khởi tiến bước vào ngày mai bằng đức tin chứ không phải bằng những dấu hiệu bên ngoài. Tiếng Mỹ có câu: “We walk by faith not by sign.” Có nghĩa là chúng ta sống bằng đức tin. Đức tin dẫn lối chỉ đường cho chúng ta đi. Chúng ta không sống hay bước đi bằng dấu hiệu bên ngoài hay hoàn cảnh.
Như chúng ta đã biết cuộc sống có những lúc vui, có lúc buồn, khi sung sướng, thoải mái và có lúc khổ đau. Nếu chúng ta chỉ dựa vào hoàn cảnh của những lúc vui, lúc sướng mới tin vào Chúa, vậy khi hết vui, hết sướng thì làm sao? Đức tin của chúng ta với Chúa như thế nào? Lòng tin của chúng ta sẽ suy giảm không? Hay khi đau khổ, buồn sầu thì chúng ta không tin Chúa hay sao? Nếu đức tin của chúng ta mà tùy thuộc vào hoàn cảnh hay tình cảm, nhất là những tình cảm nhất thời, thì đức tin của chúng ta không phải là đức tin chân chính. Hoàn cảnh và nhất là tình cảm của chúng ta luôn thay đổi, chúng ta không thể để đức tin của chúng ta lên xuống theo tình cảm. Chúng ta thấy có những người có người khi buồn khổ, khó khăn thì tin Chúa, khi vui, sướng thì bỏ Chúa, bỏ đức tin. Và cũng có những người khi vui, sướng thì tin Chúa, còn khi buồn khổ, khó khăn thì bỏ đức tin, bỏ Chúa. Đức tin của chúng ta thì không như vậy. Đức tin của chúng ta hôm qua, hôm nay cũng như ngày mai, vững chắc, không thay đổi theo thời hay theo tình cảm. Chúng ta phải xây dựng một đức tin vững chắc vào Chúa, không lệ thuộc vào người khác, không tùy thuộc vào tình cảm, không tùy thuộc vào hoàn cảnh hay thời thế.
Vậy thì chúng ta phải xây đức tin chân chính và vững bền bằng cách nào? Thứ nhất, chúng ta phải hiểu rỏ cuộc sống đức tin hiện tại của chúng ta như thế nào. Cuộc sống đang sống như thế nào? Bài đọc 2 trích sách Khôn ngoan cho chúng ta biết Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh Chúa để được bình an và hạnh phúc đời này và đời sau. Nhưng tội lỗi và sự dữ đã làm cho con người phải đau khổ và chết. Cho nên chúng ta phải luôn luôn tỉnh thức và chuẩn bị. Thứ hai, chúng ta phải sống lời Chúa dạy và can đảm làm chứng cho Chúa. Nếu chúng ta chỉ nghe, suy niệm mà thôi thì chưa đủ. Chúng ta phải sống lời Chúa. Sống lời Chúa đem lại cho chúng ta ơn sủng, bình an, vui mừng và hy vọng. Và thứ ba là phải can đảm sống thánh ý Chúa, chịu thiệt thòi, chấp nhận khó khăn vì đức tin, vì đạo, vì Chúa, và có tấm lòng hy sinh phục vụ, bác ái và quảng đại.
Đức tin của ông trưởng hội trường và người đàn bà bị bệnh trong bài Tin mừng mời gọi chúng ta kiểm điểm lại đức tin của chúng ta. Chúng ta xác tín Chúa hiện diện giữa chúng ta nơi đây, trong lời cầu nguyện, trong Lời Chúa và trong Thánh Thể. Xin Chúa mở rộng tâm hồn mỗi người chúng ta để đón nhận những lời Chúa nói với ông trưởng hội trường: “Đừng sợ, hãy cứ tin.” Hay với người đàn bà bị bệnh: “Hỡi con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an.”
Chúng ta cần nhớ: tình yêu chân thành và lòng xác tín vào Chúa là những chiếc chìa khóa để mở cửa lòng nhân hậu và thương xót của Ngài.
Sống như thế nào để được nổi danh nổi tiếng, làm gì để được giầu sang phú quý, ăn uống TN 13-B138
Sống như thế nào để được nổi danh nổi tiếng, làm gì để được giầu sang phú quý, ăn uống thứ gì mà đủ chất, đủ lượng, hầu đem lại cuộc sống trường thọ, đó vẫn luôn là thao thức của con người qua các thời đại. Khi nhắc tới thân phận con người mong manh, ốm đau, già lão, rồi chết là sự thật, có phải vô tình chúng ta đang gieo bi quan vào cuộc sống đầy hứa hẹn này không ? Được tiền tài danh vọng mà không hạnh phúc, hẳn “cái được” đó chưa thật ; được con cháu ngoan hiền, mà gia đình thiếu trước hụt sau, đó có gọi là cái được lý tưởng chưa ? Quan niệm được và mất, chúng thường luẩn quẩn nơi cuộc sống này, làm ảnh hưởng nhiều đến cách sống của chúng ta, còn nếu gọi là được yêu thương, đôi khi chúng ta lại vô tâm, vô tình, chưa đủ quan tâm.
Thầy thuốc giỏi, bác sĩ chữa được bệnh hiểm nghèo, thời nào cũng quý hiếm ; được cha mẹ yêu thương, được xã hội ưu ái, rất có thể chúng ta từng mơ ước. Đức Giêsu đã xuất hiện đặc biệt hơn cả thầy thuốc, hơn bậc sinh thành, Ngài là Thiên Chúa, Đấng đã đến và đang tới, nhằm giải thoát con người khỏi đau khổ và sự chết, đó chính là phép lạ tình yêu thương. Một em bé đã chết được cứu sống, một người phụ nữ mắc bệnh nan y được chữa khỏi, và cả nhân loại tội lỗi đáng phải chết đời đời, nhưng Đấng cứu độ nhân loại, vẫn ban phát tình yêu thương, Ngài chỉ cần chúng ta tin và sống niềm tin. Chính vì nhận ra mình được yêu thương, ông trưởng hội đường và người phụ nữ hôm xưa, họ không ngần ngại bày tỏ niềm tin, sau đó họ có lại được niềm vui, bình an, là thấy được phép lạ.
Còn gì thoải mái hơn khi buồn ngủ gặp được chiếu manh, còn gì vui hơn khi đói nghèo khi tìm được công ăn việc làm lợi nhuận như ý, có gì đáng nói hơn khi người thân đau bệnh, chết rồi, song gặp được thầy gặp được thuốc “cải tử hoàn sinh” ? Xã hội hôm nay vẫn báo động về một tình trạng: dư thầy, thiếu thợ, đủ người tài giỏi, nhưng thiếu người đức độ, dư người ham thích được nhìn xem phép lạ, nhưng lại thiều người dám bày tỏ niềm tin vào Đấng họ tin thờ. Các chuyên viên xã hội luôn khẳng định, thế giới không thiếu lương thực, thế mà người nghèo, người thiếu ăn thiếu mặc quanh ta không phải là ít ! Phải chăng vì số học trò của Thầy Giêsu quá nhỏ bé, hay vì môn đệ của Đức Kitô không biết làm phép lạ, hoặc vì người khôn của khó, nên người ta không thể hiện được lòng bao dung từ ái.
Thế giới chúng ta đang sống không hề thiếu y bác sĩ giỏi, nhưng đội ngũ bác sĩ có tâm, có tầm: lương y như từ mẫu, tận tâm tận lực chữa được ung thư, làm cho kẻ chết sống lại thì không có ! Ngày hôm nay, người tìm Đức Giêsu cầu xin vật chất, cầu xin được tiền tài địa vị, nhiều hơn là người xin đươc yêu thương, được chữa lành vết thương tội lỗi. Kinh nghiệm cho thấy, người ta nói được tiền, được bạc, được niềm vui có bằng cấp, được làm quan ; nhưng mấy ai nói: được yêu thương, được sống đời đời là quan trọng đâu ? Được yêu thương, được chữa lành bệnh tật, nhất định đã mở ra không chỉ cho gia đình viên đại đội trưởng, cho người phụ nữ 12 năm mắc bệnh hiểm nghèo. Chắc chắn sẽ còn khơi dậy nơi sâu thẳm tâm hồn mọi người, mọi thời, một xác tín là chúng ta luôn được hạnh phúc, được cứu độ, nhờ biết đặt niềm tin nơi Đức Giêsu kitô.
Kinh nghiệm người xưa nói rằng: đươc đằng chân, lân đằng đầu, đúng là phải có, phải được một hy vọng gì đó, người ta mới đủ thao thức để tiến sát gần với cái được vĩnh viễn. Người kitô hữu hôm nay dù sống xa thời Chúa Giêsu, chúng ta vẫn được mời gọi để khám ra ngọn nguồn yêu thương cứu độ, Đấng đã làm cho kẻ chết sống lại, Đấng sẽ còn làm cho tâm hồn người tội lỗi được thanh sạch nhờ tin vào Đức Kitô. Dù hạnh phúc theo quan niệm người đời là cầu được ước thấy, hạnh phúc của người kitô hữu là có Đức Giêsu sống trong mọi hoạt động của mình, thì giữa gặp và thấy, tin và sống niềm tin, bao giờ cũng là một nỗ lực để con người nhận ra phép lạ của Chúa.
Được nổi tiếng hay được khen thưởng, hoặc được yêu thương, rất có thể đang là chọn lựa vô cùng tự do của từng người theo Chúa hôm nay. Hiểu biết lòng tin, hay sống đức tin không hề đơn giản với sự suy xét cân đo đóng đếm, tin không phải dễ dàng như người ta thấy miếng vàng hay gặp bó tiền. Tin là chấp nhận đc biến đổi, được tự do nói tôi không bao giờ phải hối tiếc những gì tôi đã tin, và đang sống niềm tin. Người thời nào cũng mong được trường sinh bất tử, người thời nào mà chẳng mong thấy được phép lạ, Chúa Giêsu hướng người trưởng hội đường và người phụ nữ mắc bệnh nan y gặp được tình yêu và hạnh phúc. Chúa Giêsu sẽ còn cho từng hoàn cảnh, cho từng tâm hồn của chúng ta gặp được niềm vui, được ơn bình an và đặc biệt là được yêu thương cứu độ, trước nén bạc mỗi người chúng ta đang sống đang chia sẻ. Amen.
Tuần trước, chúng ta chứng kiến tác động của Thiên Chúa trên sức mạnh thiên nhiên (Mc 4:37-41) TN 13-B139
Tuần trước, chúng ta chứng kiến tác động của Thiên Chúa trên sức mạnh thiên nhiên (Mc 4:37-41). Tuần này, Thiên Chúa tác động trên tử thần và bệnh tật.
Bằng những sự kiện này, Chúa Giesu muốn chúng ta hiểu Niềm Tin là quan trọng. Làm bất cứ cái gì cũng cần phải tin.Trên đường đi đến nhà ông Gia Ia (Mc 5), chúa Giesu đã gặp nhiều điều bất thường. Người ta quăng đồ “dơ bẩn” vào Chúa. Nhưng Chúa lại biến những thứ dơ đó thành trong sạch và có một ý nghĩa đặc biệt.
NGƯỜI ĐÀN BÀ BỊ BĂNG HUYẾT
Cả 3 thánh sử Mathieu, Matco và Luca đều nói về chuyện Chúa Giesu chữa lành người đàn bà bị bệnh băng huyết đã 12 năm (Mt 9:20-22; Mc 5:25-34; Lc 8:43-48). Luật Do Thái coi ba loại bệnh như cùi hủi, băng huyết và chạm vào người chết là dơ bẩn (Ds 5:2-4). Ai mắc phải một trong ba bệnh đó sẽ bị loại ra khỏi cộng đồng. Người đàn bà bị bệnh mà Marco nói trong bài Tin Mừng hôm nay (Mc 5) dĩ nhiên là bị loại ra khỏi xã hội, không được tiếp xúc với ai, không được tham dự các nghi thức thờ phượng trong đền thánh (Lv 15:25-27). Bà ta ước ao được Chúa Giesu chữa lành cho bà, nhưng bà lại sợ vì bà mà Chúa bị lây bẩn theo luật Do Thái.
Bị dơ bẩn thì đau khổ vì không được tiếp xúc với người khác và cả với Thiên Chúa. Muốn trở lại sinh hoạt bình thường trong xã hội và trước mặt Chúa, họ phải qua những nghi thức thanh tẩy.
Người đàn bà bị bệnh đã vi phạm khoảng cấm khi đụng vào áo chúa Giesu khiến cho Chúa cũng bị dơ bẩn, do đó Chúa cũng bị loại ra khỏi xã hội. Nhưng ngược lại, Chúa đã chữa lành bệnh cho bà, đồng thời điều chỉnh tình trạng xã hội của bà. Chúa Giesu gọi bà ta là “con” hẳn Chúa đã tái lập mối liên hệ giữa bà với những người khác mà khi bị bệnh bà không được tiếp xúc.
CON GÁI ÔNG GIA IA
Chuyện người con gái ông Gia ia được xen vào giữa câu chuyện người đàn bà bị bệnh băng huyết. Gia Ia là hội trưởng một hội đường địa phương, có trách nhiệm lo việc thờ phượng hàng tuần, coi sóc trường học, chăm nom cả khu vực. Một số hội trưởng bị áp lực không được yểm trợ chúa Giesu, nhưng Gia ia thì không. Ông quì lạy Chúa Giesu và xin Người giúp đỡ: “Con gái tôi sắp chết rồi, xin Ngài đến và đặt tay trên nó để nó khỏi bệnh và được sống.” Cử chỉ của Gia ia nói lên lòng chân thành, tôn kính và thờ phượng Chúa.
Chuyện kể tiếp, chúa Giesu “cầm tay đứa bé và nói ‘Talitha cum’, nghĩa là ‘Bé gái ơi, hãy dậy đi!’ Ngay lập tức đứa bé ngồi dậy và bắt đầu đi” (Mc 5:41-42). Khi gọi con nhỏ là bé gái, Chúa giesu cũng đã thiết lập mối liên hệ giữa Chúa và nó giống như giữa bố nó là ông Giairo với nó vậy.
Trong mỗi trường hợp đều do sự Thánh Thiêng của Chúa Giesu biến đổi dơ bẩn thành trong sạch. Máu ngừng chảy, người đàn bà lành bệnh. Chết thành sống, bé gái bước ra khỏi giường. Chúa Giesu nâng mỗi người lên, đem trở lại cấp bậc cũ của họ, làm cho họ xứng đáng được diện kiến Thiên Chúa.
CHÚA GIESU LÀ THẦY THUỐC
Khi chữa người bệnh được khỏi, người chết sống lại, Chúa Giesu đã chứng tỏ quyền lực của Chúa. Trong chuyện người thanh niên thành Nain đã chết, Chúa Giesu nói: “Này anh ơi, anh hãy dậy đi!” Tức thì người thanh niên ngồi dậy và bắt đầu nói.”(Lc 7)
Chúa Giesu đáp ứng tiếng kêu cầu của người cùi “Nếu ngài muốn, xin ngài hãy làm cho tôi lành sạch!” Chạnh lòng thương cảm, chúa Giesu ra lệnh như là Thiên Chúa không phải loài người: “Ta muốn. Ngươi hãy sạch! Ngay lập tức, bệnh cùi biến mất và anh ta sạch sẽ trở lại”(Mc 1:42). Trường hợp một người bị bại liệt được thả xuống giữa nhà qua một lỗ thủng trên mái nhà để được gặp Chúa, Chúa Giesu nói: “Ta nói, ngươi hãy đứng dậy, mang giường chiếu và đi về nhà” (Mc 2:1-12).
Những câu chuyện Chúa Giesu làm phép lạ như vậy còn thấy tiếp tục xẩy ra như thấy trong Công Vụ Tông Đồ. “Người ta mang những con bệnh ra đường phố, đặt nằm trên chiếu, trên võng, hy vọng khi ông Phero đi qua, cái bóng của ông phủ lên người bệnh thì bệnh sẽ khỏi” (Cv 5:15). Những công việc kỳ lạ với dấu chỉ phi thường đã được các tông đồ làm là nhân danh Chúa Giesu Kito, quyền năng của Thiên Chúa.
TALITHA CUM
Câu chuyện con gái ông Gia ia chết được sống lại không chỉ là chết thể xác mà còn có ý nghĩa chết tâm hồn và trí khôn, tình trạng hiện đang xẩy ra nơi giới trẻ ngày nay.
Lời nói đầy quyền lực –Talitha cum (Hỡi bé gái, hãy chỗi dậy)- không chỉ nói với bé gái trong câu chuyên Marco, mà cũng nói về nhiều người trẻ, về mỗi một người chúng ta. Biết bao nhiêu đứa trẻ hiện đang sống trong hoàn cảnh không cha không mẹ vì cảnh gia đình phân cách với đầy thảm trạng và mất mát, không mái ấm giaa đình! Biết bao người trẻ đang xa vào bẫy phóng đãng của nghiện ngập, xì ke ma túy, phá thai, hình ảnh khiêu dâm, băng đảng, bạo động, tự sát….
Sống ở những thành phố lớn như Jacksonville, Miami, San Francisco, Los Angeles… hay đọc tin tức trên báo chí, truyền hình, mạng lưới trong nước và hải ngoại…, chúng ta thấy đầy dẫy trước mặt những câu chuyện đổ vỡ, thất vọng, buồn nản của giới trẻ. Đây là những việc mà Giáo Hội địa phương phải làm. Nó đa đoan và cấp bách biết mấy để đem giới trẻ trở lại với cuộc sống bình thường và đạo đức.
Ngày nay chúa Giesu còn tiếp tục làm cho những người trẻ đã chết được sống lại. Người nói lời của Người và gửi các môn đệ đến với họ nhân danh Người và với chính tình yêu của Người, đồng thời nhắc lại cho những người trẻ ngày nay tiếng kêu của Người: “Talitha cum” / hỡi các bạn trẻ nam và nữ! Hãy thức dậy! Hãy sống trở lại! Hãy yêu trở lại! Cha vẫn yêu thương các con!”
ĐÔI LỜI KẾT: SỐNG SÓT TRONG DARLINGHURST
Suy niệm bài Phúc Âm hôm nay và những lời đầy uy quyền của chúa Giesu: “Talitha cum”, chúng ta cũng nhớ lại bài giảng rất đặc biệt và sống động của Biển Đức XVI ngày giới trẻ thế giới 2008 ở Úc Châu.
Hôm đó ở nhà nguyện Sacred Heart của đại học Notre Dame ở Darlinghurst, Sydney. ĐTC gặp những bạn trẻ có tiền sử nghiện ngập và nhiều vấn đề nan giải khác mà họ đang trong thời gian cai để chữa trị. ĐTC nhắc lại lời ông Maisen trong Cựu Ước: “Ta đặt trước ngươi Sống hoặc Chết, Chúc Lành hoặc Chúc Dữ. Hãy chọn sống, để ngươi và con cháu ngươi có thể sống trong tình thương yêu của Chúa là Thiên Chúa ngươi, (….) vì trong đó có mạng sống của ngươi.”
“Rõ ràng điều họ phải làm là -ĐTC cắt nghĩa- họ phải xa lìa các thần dữ và chỉ tôn thờ Thiên Chúa thật là đấng đã tỏ mình cho ông Maisen, và họ đã phải nghe theo giới răn của Người. Các con có thể nghĩ rằng, trong thế giới ngày nay người ta không còn thờ các thần dữ nữa. Nhưng đôi khi người ta tôn thờ “những thần dữ” mà không nhận ra điều đó. Thần ‘dữ’ thần ‘giả’(….) thì hầu như luôn luôn kết hợp với ba điều sau: Ham mê vật chất, chiếm hữu tình yêu hoặc quyền lực.”
“Tình yêu thực hiển nhiên là cái gì tốt, -ĐTC tiếp tục nói- Khi chúng ta yêu, chúng ta hoàn toàn trở thành và coi chúng ta là nhất. Nhưng (…) con người thường thường nghĩ rằng họ yêu khi họ đang làm chủ và hoàn toàn điều khiển nó. Người ta đôi khi đối sử với tha nhân như là đồ vật vô tri giác hầu thỏa mãn những nhu cầu của họ. (…) Quả là quá dễ dàng bị phỉnh gạt bởi nhiều tiếng gọi trong xã hội luôn luôn bao che, biện hộ cho những hành động sắc dục mà không biết tự trọng, danh dự hay giá trị luân lý vẫn mang lại phẩm cách cho tình liên đới của con người!”
“Các bạn thân mến, cha coi các bạn như những sứ thần của hy vọng cũng giống như những người khác trong những hoàn cảnh tương tự. Các bạn có thể thuyết phục họ cần phải chọn cho mình bước đường sự sống và tránh con đường tử thần, bởi vì các bạn nói lên cái kinh nghiệm sống của các bạn. Qua những bài Tin Mừng, tất cả những ai đã từng bước lạc đường thì đều đặc biệt được Chúa Giesu thương yêu, bởi lẽ một khi họ nhận ra được lỗi lầm của họ thì họ đều mở rộng tâm hồn hơn để đón nhận sứ điệp chữa lành của Chúa.
“Đúng vậy, Chúa Giesu đã thường bị chỉ trích bởi những thành phần ích kỷ giả hình trong xã hội là đã mất quá nhiều thời giờ với những người không cần thiết. “Tại sao thầy của các ngươi -họ hỏi- lại ngồi ăn với những kẻ thu thuế và tội lỗi?” Chúa đáp lại họ: “Người khỏe mạnh thì không cần bác sĩ, nhưng người bệnh hoạn thì cần….Ta đến không để kêu gọi người công chính mà là người tội lỗi” (Mt 9:11-13).
“Những kẻ muốn làm lại cuộc đời là những kẻ rất muốn nghe lời chúa Giesu và trở thành môn đệ của người. Các bạn có thể đi theo bước chân của các môn đệ, các bạn cũng có thể phát triển, lớn lên đặc biệt gần với chúa Giesu, bởi vì các bạn đã chọn trở lại với người. Các bạn có thể chắc chắn rằng, giống như người cha trong câu chuyện đứa con hoang đàng, chúa Giesu sẽ hân hoan đón nhận các bạn với hai cánh tay rộng mở. Người sẽ yêu thương các bạn với một tình yêu vô điều kiện. Và, trong tình bạn trìu mến ấy, một cuộc sống mới đầy ắp yêu thương đã xuất hiện.”
Sau khi nghe bài giảng huấn này, chắc chắn chúa Giesu sẽ mỉm cười với Biển Đức XVI và cuộc tập họp kỳ diệu ở Sidney của giới trẻ tháng 7, 2008. Lời Chúa Giesu –Talitha cum- một lần nữa được nghe thấy ở xứ Down Under khi ĐTC mời gọi giới trẻ Hãy Đứng Dậy, Hảy Sống và Hãy Yêu Thương Trở Lại..
“Con gái tôi sắp chết. Xin đến đặt tay trên con tôi…”
”nếu tôi chỉ đụng chạm tới áo Người, tôi sẽ được khỏi bệnh.”
Qua hai câu chuyện của bài Phúc Âm hôm nay nói về người đàn bà và em bé gái con của TN 13-B140
Qua hai câu chuyện của bài Phúc Âm hôm nay nói về người đàn bà và em bé gái con của người trưởng hội đường, chúng ta học được một bài học quan trọng vệ sự tin tưởng vào lòng thương xót, ân sủng, và uy quyền của Thiên Chúa. Chúng ta có thể đoán được là người đàn bà đã mang căn bịnh trong mình từ nhiều năm nay, có thể cũng bằng như số tuổi đời của em bé trong bài Phúc Âm. Cả bà ta và ông bố của cô bé gái đã nuôi hy vọng rằng sẽ có một ai đó nghe được và đáp trả lại lời kêu cứu khẩn thiết của họ. Một ai đó chính là Chúa GIêsu ở làng Na-da-rét. Qua bài Phúc Âm thánh sử Mát-Cô cho chúng ta thấy Chúa Giêsu điễn tả việc săn sóc của Thiên Chúa dành cho những người nghèo khổ qua việc chữa lành căn bệnh lâu năm của người đàn bà và nâng dậy từ cỏi chết đứa con gái bé nhỏ của người trưởng hội đường
Thiên Chúa qua con người của Đức Kitô nghe được những tiếng kêu khóc trong đớn đau và Ngài động lòng với nối thống khổ gian nan của con ngươi. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Thánh Mát-Cô cho chúng ta thấy rằng Thiên Chúa mà tôi và bạn tin là một Thiên Chúa mà chúng ta có thể cảm nghiệm được Ngài ngay lúc này trong cuộc sống, bằng nhiều cách thức thí dụ như là sự chăm sóc cho đứa con nhỏ đang đau ốm hoặc lo lắng cho bố mẹ già yếu; trong sự kỳ diệu của ơn gọi làm cha mẹ, trong niềm hạnh phúc với việc đứa con trẻ mới được sính ra đời; trong sự ăn mừng của những năm dài sống đời sống ơn gọi hôn nhân, trong sự phục hồi của những sự nghiệm ngập về cờ bạc, hút sách, v.v… và còn vô số những cách khác để chúng ta có thể cảm nghiệm và nhận ra được sự đồng hành của Thiên Chúa trong cuộc sống.
Ân sủng của Thiên Chúa luôn hiện hữu ở mọi nơi. Thiên Chúa ở với chúng ta, cho chúng ta, ở giữa chúng ta và ở ngay bên cạnh chúng ta.Ngài thật sự là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Còn hơn thế nữa, Thiên Chúa hiện diện trong những hoàn cảnh khốn cùng nhất để Ngài có thể làm những phép lạ cóảnh hưởng đến đời sống của chúng ta như phép lạ của lòng can đảm, của niềm hy vọng, của đức tin, lòng ăn năn thống hổi và một sự khởi đầu, một cuộc sống mới.
Khi cuộc sống đang từ từ thoát ra khỏi thân thể của người đàn bà vàcủa cô bé gái, thì chỉ có vững tìn vào Chúa Giêsu mới có thể phục hồi lại sự sống bằng sức mạnh của Ngài . Sức mạnh đó đến qua việc đụng chạm vào Thiên Chúa. Người đàn bà đã chạm vào áo Chúa Giêsu, trong khi đó Chúa Giêsu nắm tay cô bé nhỏ. Những nhà nghiên cứu về y khoa nhận ra rằng, sức mạnh của việc chữa lànhcho những người đau ốm phụ thuộc rất nhiều vào lòng tin và ước muốn được hoàn toàn khỏi bệnh và khỏe trở lại của họ. Chúng ta có đức tin như người đàn bà hay người cha của cô bé trong bài Phúc Âm để chạm đến hoặc được bàn tay Chúa Giêsu chạm đến, ngõ hầu bất cứ điều gì đã chết trong con người của chúng ta sẽ được phục hồi lại, sống lại không?
Chúng ta biết rằng người đàn bà trong bài Phúc Âm là một người mà bị xã hội và tôn giáo loại bỏ vì căn bệnh mà bà ta đang cưu mang. Theo quan niệm thời đó, thì ba ta bị liệt vào hạng người dơ bẩn. Bà ta không được đụng vào ai hay được bất cứ một ai đụng chạm đến. Tuy nhiên, ba ta đã đánh liều, vương tay ra để đụng vào áo của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã không từ chối bà, trái lại Ngài con chữa lành và gọi bà ta bằng hai chữ thân thương “con gái.”Từ lúc đó, bà ta không còn là người bị xã hội loại bỏ nữa, bà bà ta đã được phục hồi vị trí là con trong nhà của Thiên Chúa như mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu Kitô đã đến và đang đến để xây dựng lại những gì đã hư mất, và kêu gọi những người cô đơn, đang ở bên lề cuộc sống trở lại với cộng đoàn. Điều gì trong lối sống và suy nghĩ khiến mỗi người chúng ta cảm thấy mình bị lạc loài với Giáo Hội, với cộng đoàn giáo xứ? Làm cách nào để mỗi người chúng ta có thể vương tay ra chạm đến Chúa Giêsu như ngươi đàn bà trong bài Phúc Âm, để Ngài cứu và chữa lành cho chúng ta.
Tin Mừng Mc 5: 21-24.35-43 Tin khi đời sống yên ổn, thuận buồm xuôi gió thì chưa phải là một đức tin đích thực. Đức tin phải được tôi luyện trong đau khổ. Trong gian nan thử thách mà vẫn kiên trì, thì đức tin ấy mới có thể làm nên những phép lạ.
Chúa Giêsu nói với ông Trưởng Hội Đường: "Đừng sợ, hãy cứ tin”. Câu chuyện trong Tin Mừng TN 13-B141
Chúa Giêsu nói với ông Trưởng Hội Đường: "Đừng sợ, hãy cứ tin”.
Câu chuyện trong Tin Mừng cho chúng ta biết đôi điều về ông Trưởng Hội Đường này. Ông là Chủ Tịch Ban Quản Trị Hội Đường và là Chủ Tịch Hội Đồng Kỳ Mục và có trách nhiệm điều hành mọi công việc trong Hội Đường. Ông có trách nhiệm trong việc chỉ đạo các buổi hội họp, có trách nhiệm phân phối công việc và xem xét mọi việc thực hiện cho đúng như luật định. Ông là nhân vật quan trọng trong cộng đồng, nhưng khi con gái ông ngã bệnh, ông nghĩ ngay đến Chúa Giêsu.
Ông đã quên đi các thành kiến. Trước kia có thể ông đã coi Chúa Giêsu như một người xa lạ, một người giảng tà giáo, bị các hội đường cấm cửa, một người mà bất luận người nào coi trọng chính thống giáo cũng phải xa tránh.
Ông quên đi vị thế của mình. Ông là Trưởng Hội Đường đầy quyền lực thế mà lại đến hạ mình dưới chân Đức Giêsu.
Còn một điều lạ lùng nữa là ông đã đích thân đến với Chúa Giêsu chứ không sai người nhà đi. Có lẽ sở dĩ ông ta phải đi vì không còn ai chịu đi. Người nhà ông đều tỏ ra nghi ngờ và bảo ông rằng đừng đi tìm ông Giêsu làm gì cho mất công. Theo tinh thần câu chuyện, nếu ông không đi tìm Chúa Giêsu để xin Ngài giúp đỡ, họ còn hài lòng hơn, nhưng ông đã bất chấp dư luận và thách đố cả những lời khuyên bảo của người nhà khi ông ta đến kêu cầu Chúa Giêsu.
Ông đã đến với Chúa Giêsu và Chúa Giêsu cùng đi với ông …nhưng đang khi đi đường thì có người nhà đến báo: “Con gái ông chết rồi, còn làm phiền Thầy làm chi nữa!" Nhưng Chúa Giêsu bảo ông: “Đừng sợ, hãy cứ tin”…chính nhờ lòng tin mà ông đã được một điều ngoài cả sự mong ước của mình.
“Đừng sợ, hãy cứ tin”…thế là đứa bé được sống lại. Một người chết rồi mà Chúa còn cho sống lại, phương chi làm cho một người bệnh, dù bệnh nặng như người phụ nữ bị loạn huyết 12 năm thì có gì là khó đối với Chúa Giêsu.
Chúng ta trở lại diễn tiến của câu chuyện: Theo luật Do Thái, người nào mắc chứng bệnh này thì đương nhiên bị liệt vào hàng ô uế, cho nên không được vào Đền Thờ, không được tham dự các lễ nghi phụng tự, và cũng không được đụng tới ai vì hễ ai mà bị người ô uế đụng phải thì cũng trở thành người ô uế luôn.
Trong đau khổ, bà đã nảy ra một ý tưởng táo bạo là tìm cách đụng vào gấu áo Đức Giêsu. Ý định này táo bạo ở chỗ là việc đó trái lề luật, và cũng chẳng ai chịu cho bà ta đụng vào mình vì sợ bị lây nhiễm sự ô uế, vì thế mà bà ta phải làm một cách lén lút. Dù vậy Đức Giêsu vẫn biết.
Khi Đức Giêsu hỏi "Ai đã đụng đến ta?" thì bà ta sợ hãi vì thấy việc làm của mình đã bị bại lộ. Nhưng bà ta ngạc nhiên hết sức vì Đức Giêsu không hề quở trách, trái lại đã chữa bà khỏi bệnh, và còn an ủi bà "con hãy đi bình an".
Chúa chỉ cần đức tin. Đức tin của ông Trưởng Hội Đường: “Đừng sợ, hãy cứ tin”.
Chúa chỉ cần đức tin, một đức tin vững mạnh của người phụ nữ bị bệnh loạn huyết: “Hỡi con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an”.
Qua thái độ của người phụ nữ bị bệnh loạn huyết và của ông Trưởng Hội Đường Giairô, ta thử nhìn lại đức tin của chúng ta xem như thế nào.
Tin khi đời sống yên ổn, thuận buồm xuôi gió thì chưa phải là một đức tin đích thực. Đức tin phải được tôi luyện trong đau khổ. Trong gian nan thử thách mà vẫn kiên trì, thì đức tin ấy mới có thể làm nên những phép lạ.
Cuộc đời của chúng ta không bao giờ hết đau khổ. Chúng ta có thể cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa ngay trong đau khổ. Sự hiện diện của Thiên Chúa không nhất thiết lấy đi đau khổ, nhưng là cho chúng ta một năng lực để chuyển hoá đau khổ như ông Francois Mauriac đã phát biểu:”Ngài đến không phải để cất đi sự đau khổ mà để hiện diện với đau khổ”. Nghĩa là Thiên Chúa đến ban đức tin cho chúng ta để chúng ta biết chịu đựng đau khổ, biết chuyển hoá đau khổ, biến nó thành phương tiện để đạt tới ơn cứu độ. Bằng không thì chúng ta chịu đau khổ một cách vô ích và những đau khổ trở nên vô nghĩa.
Những ai không có đức tin thì gặp nhiều bất lợi trước đau khổ. Họ chịu đựng đau khổ gấp ba lần: họ phải chịu đựng bệnh tật, họ phải chịu đựng sự vô nghĩa của bệnh tật và phải chịu đựng đau khổ vì cuộc sống của họ bị ngưng trệ. Trái lại, đối với những người có đức tin thì đau khổ lại là một cơ hội để đức tin lớn mạnh và trưởng thành hơn.
Trường hợp của người phụ nữ bị loạn huyết và của ông Trưởng Hội Đường, cả hai hầu như bị dồn vào đường cùng, nhưng đường cùng có thể làm chúng ta tuyệt vọng nhưng đường cùng cũng có thể là một cơ hội làm cho đức tin của chúng ta nên mạnh mẽ như trong bài Tin Mừng hôm nay:
Chúa chỉ cần đức tin, đức tin của ông Trưởng Hội Đường: “Đừng sợ, hãy cứ tin”.
Chúa chỉ cần đức tin, một đức tin vững mạnh của người phụ nữ bị bệnh loạn huyết: “Hỡi con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an”. Amen.
(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Chủ đề Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XIII Thường Niên năm B đó là: “Thiên Chúa không làm TN 13-B142
Chủ đề Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XIII Thường Niên năm B đó là: “Thiên Chúa không làm ra sự chết, nhưng ban sự sống”.
Kn 1: 13-15; 2: 23-25.
Trong Bài Đọc I, tác giả sách Khôn Ngoan cho thấy rằng Thiên Chúa đã không làm ra sự chết; Ngài đã sáng tạo con người theo hình ảnh của Ngài để họ được trường tồn bất diệt.
2Cr 8: 7, 9, 13-15
Trong đoạn trích thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng Đức Ki-tô đã quảng đại ban chính mạng sống của Ngài để giải thoát muôn người, vì thế, người Ki-tô hữu phải biết chia sẻ với anh chị em nghèo khổ với tấm lòng quảng đại và tình huynh đệ.
Mc 5: 21-43
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Mác-cô kể cho chúng ta hai câu chuyện phép lạ trong một bài trình thuật, qua đó cho thấy Đức Giê-su không chỉ có quyền năng chữa lành bệnh hoạn tật nguyền khi cho một người đàn bà bị bệnh nan y được lành; nhưng trên hết, Ngài còn nắm giữ quyền ban sự sống, tiêu diệt sự chết khi cho một cô bé đã thật sự chết được sống lại.
BÀI ĐỌC I (Kn 1: 13-15; 2: 23-25)
Sách Khôn Ngoan là tác phẩm muộn thời nhất của bộ Cựu Ước. Sách được biên soạn vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, ở A-lê-xan-ri-a, trong môi trường Do thái chịu ảnh hưởng văn hóa Hy lạp. Vào thời đại nầy, thành phố A-lê-xan-ri-a là thủ đô của văn hóa Hy lạp, nhưng cũng là thành phố lớn nhất của Do thái Hải Ngoại (người ta ước lượng khoảng vài trăm ngàn người Do thái sinh sống ở thành phố nầy).
Chúng ta không biết tên tuổi của tác giả sách Khôn Ngoan. Ông viết tác phẩm của mình bằng tiếng tiếng Hy lạp cho đồng bào Do thái Hải Ngoại của ông, họ không còn biết tiếng Hy bá nữa. Sách Khôn Ngoan đã được soạn thảo trong bối cảnh văn hóa Hy-lạp có sức lôi cuốn người Do thái và làm cho nhiều người lung lay niềm tin truyền thống của dân tộc mình. Tác giả đã muốn ngăn ngừa những nguy cơ bội giáo. Ông cực lực công kích ngoại giáo và tội thờ ngẫu tượng.
Tác giả là một con người đạo hạnh, rất gắn bó với truyền thống Do Thái giáo. Tuy nhiên, tư tưởng thần học của ông tiếp xúc với triết lý Hy-lạp. Việc tiếp xúc nầy rất có lợi: ngôn từ mà ông sử dụng trong sách Khôn Ngoan thì thâm thúy hơn, suy luận sâu sắc hơn, rộng mở với siêu hình học hơn so với các sách minh triết trước đó (sách Gióp, Châm Ngôn, Giảng Viên, Huấn Ca). Thánh Phao-lô và thánh Gioan sẽ gặp thấy ở nơi tác phẩm nầy những trực giác cho Ki-tô học của mình.
Tác giả mượn vài tư tưởng của văn hóa Hy lạp như quan niệm về sự bất tử của linh hồn. Nhưng tác giả không chấp nhận quan niệm về con người của văn hóa Hy lạp: ông tháp nhập viễn cảnh nầy vào trong chiều sâu tư tưởng Do Thái giáo truyền thống.
1. Thiên Chúa không làm ra cái chết.
Tác giả khẳng định:
“Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong (1: 13)
Tác giả còn quả quyết xa hơn nữa:
“Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt (2: 23).
Đây là lần đầu tiên trong Cựu Ước xuất hiện lời khẳng định về cuộc sống sau cái chết trong mối thân tình với Thiên Chúa. Thật ra, niềm hy vọng về cuộc sống bên kia nấm mồ đã được phát biểu nhiều lần, nhất là các Thánh Vịnh, trong đó Thánh Vịnh Tv 16 nổi tiếng hơn cả:
“Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ. Chúa dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!” (Tv 16: 10-11).
Niềm hy vọng nầy là tiếng kêu vang lên của người vô tội, họ xin Thiên Chúa xét xử ngõ hầu người công chính không cùng chịu chung số phận với quân vô đạo. Nhưng vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, tác giả sách Khôn Ngoan nêu lên niềm tin vào cuộc sống mai hậu nầy với một niềm xác tín thanh thản. Vấn đề thưởng phạt đã làm bận lòng các nhà ưu tú Ít-ra-en từ lâu, nay đã gặp thấy giải pháp. Trong phần thứ nhất của tác phẩm, tác giả sách Khôn Ngoan đối lập cách sống của quân vô đạo với cách sống của những người công chính ở dưới thế, cũng như số phận khác nhau giữa họ sau khi chết. Người công chính chỉ chịu một cái chết bên ngoài, số phận của họ thì bất tử. Quân vô đạo phải chịu cả cái chết thể lý lẫn cái chết thần thiêng, nghĩa là không được hưởng niềm hoan lạc trong Thánh Nhan Thiên Chúa.
2. Quan niệm về con người theo Kinh Thánh:
Tác giả sách Khôn Ngoan không đơn giản chuyển quan niệm Hy lạp về sự bất tử của linh hồn sang tư tưởng Do thái, vì quan niệm về con người của hai nền văn hóa nầy rất khác nhau.
Trước tiên, chúng ta hãy ghi nhận rằng có vài điểm tương đồng về cuộc sống bên kia cái chết giữa quan niệm Do thái và quan niệm Hy lạp. Theo quan niệm Do thái cũng như Hy lạp, những vong nhân sống trong cõi âm ty buồn phiền tăm tối mà người Do thái gọi là “shéol” và người Hy lạp gọi là “hadès”. Cả hai đều có chung một niềm tin với các dân tộc khác theo đó đất đã sinh ra con người và sẽ tiếp nhận con người vào trong lòng đất sau khi chết.
Trong huyền thoại Hy lạp, vài vị anh hùng ưu việt đạt đến một cuộc sống tốt hơn, được cất lên bên cạnh các thần linh như Ménelas và Héraclès, hay được mang vào Đảo Hạnh Phúc, như Achille, trong sử thi Homère. Cũng vậy, trong truyền thống Kinh Thánh, ông Kha-nốc (St 5: 24), ngôn sứ Ê-li-a (2V 2: 11) là những người được cất lên trời và đang sống.
Trong tư tưởng Hy lạp, vào thế kỷ thứ năm trước Công Nguyên, hiền nhân Socrate khẳng định công khai sự bất tử của linh hồn và cuộc sống trường cửu bên cạnh các thần linh. Platon sẽ khai triển những bằng chứng về sự bất tử của linh hồn trong tác phẩm Phédon. Tuy nhiên, theo quan niệm “nhị nguyên” của Platon, linh hồn khác với thân xác: linh hồn bất tử trong thân xác hư hoại.
Quan niệm Do thái về linh hồn thì rất khác. Con người được tạo thành một thực thể duy nhất gồm cả linh hồn lẫn thân xác. Linh hồn là nguyên lý sự sống. Nguồn sống nầy đến từ hơi thở của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa rút lại hơi thở của Ngài, con người chết. Quan niệm Hy-lạp về sự bất tử của linh hồn không làm thay đổi, nhưng củng cố quan niệm của Kinh Thánh về con người. Sách Khôn Ngoan viết:
“Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa” (3: 1).
Ở đây, linh hồn đón nhận phẩm chất, nhân cách và có khả năng thấy Thiên Chúa. Người Do thái có cơ hội thuận tiện đạt tới quan niệm về “sự sống lại của thân xác” trước khi mở lòng ra trước quan niệm về sự bất tử của linh hồn. Như vậy, những nhà tư tưởng của người Do thái có thể cưỡng kháng lại nhị nguyên thuyết của người Hy-lạp. Thân xác, do bàn tay của Thiên Chúa tạo nên, không thể bị khinh chê được, nhưng duy trì chiều kích cao cả của nó: cuộc sáng tạo nguyên thủy là tốt đẹp.
3. Cái nhìn lạc quan về con người.
Tác giả sách Khôn Ngoan có một cái nhìn rất lạc quan về sự hiện hữu của con người khi viết:
“Vì Người đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu, mọi loài thọ tạo trên thế giới đều hữu ích cho sinh linh, chẳng loài nào mang độc chất hủy hoại” (1: 14a)
Tư tưởng lạc quan nầy quy chiếu về câu chuyện đầu tiên của sách Sáng Thế: “Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp”. Đây là điệp khúc được lập đi lập lại sau mỗi hành vi sáng tạo trong suốt “sáu ngày tạo dựng”. Niềm lạc quan của tác giả còn đi xa hơn nữa khi được diễn tả ở nơi lời khẳng định táo bạo này:
“Âm phủ không thống trị địa cầu”. Quả vậy, đức công chính thì trường sinh bất tử” (1: 14b-15).
Dù sức mạnh của sự dữ và sự chết xem ra hoành hành trên cõi thế và thường chiến thắng, nhưng người công chính đánh bại sự chết vì họ được bảo đảm một cuộc sống trường sinh bất tử. Tác giả hoàn tất sự chứng minh của mình bởi hai lập luận quan trọng như sau:
Lập luận thứ nhất dựa trên chuyện tích thứ nhất của sách Sáng Thế: “Thiên Chúa phán: Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta” (St 1: 26).
Sách Khôn Ngoan khẳng định:
“Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người” (2: 23).
Rõ ràng ở đây lập luận của tác giả về sự bất tử của cả linh hồn lẫn thân xác (tính toàn vẹn của con người) chủ yếu dựa trên Kinh Thánh, vì thế không chịu ảnh hưởng của văn hóa Hy-lạp theo đó chỉ có linh hồn là bất tử.
Lập luận thứ hai ám chỉ đến chuyện tích thứ hai của sách Sáng Thế về sự thử thách và sa ngã khi tác giả viết:
“Nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian. Nhưng ai về phe nó đều nếm mùi cái chết” (2: 24).
Ở đây, cái chết mà tác giả nhắm đến trước hết là cái chết thần thiêng, cái chết thực sự. Cái chết thể lý được liên kết với số phận con người, nhưng chỉ dẫn quân vô đạo đến cái chết thần thiêng. Tác giả sách Khôn Ngoan là người đầu tiên cho chuyện tích về thử thách và sa ngã một giá trị tôn giáo. Đức Giê-su sẽ củng cố quan điểm nầy khi công bố “Ngay từ đầu, nó là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó” (Ga 8: 44).
BÀI ĐỌC II (2Cr 8: 7, 9, 13-15)
Thánh Phao-lô thực hiện một cuộc lạc quyên giúp Hội Thánh Giê-ru-sa-lem: Hội Thánh nầy đang lâm cảnh túng thiếu. Sách Công Vụ Tông Đồ nói với chúng ta về một nạn đói lớn đã xảy ra dưới thời hoàng đế Cơ-lau-đi-ô: “Các môn đệ mới quyết định là mỗi người tùy theo khả năng của mình, sẽ gởi quà giúp đỡ anh em ở miền Giu-đê. Và họ đã làm việc ấy: gởi đến cho hàng kỳ mục qua tay ông Ba-na-ba và ông Sao-lô” (Cv 11: 28-30).
Vì thế, trong thư gởi tín hữu Ga-lát, thánh Phao-lô nhắc lại việc thánh nhân lên Giê-ru-sa-lem vào thời kỳ nầy (chắc chắn vào năm 46). Chính vào thời điểm này, thánh Phê-rô, thánh Gioan và thánh Gia-cô-bê, lãnh đạo Hội Thánh Giê-ru-sa-lem, vẫn tiếp tục đảm nhận trách nhiệm loan báo Tin Mừng cho “những người được cắt bì”; còn thánh Ba-na-ba và thánh Phao-lô thì được ủy quyền giao nhiệm vụ loan báo Tin Mừng cho “các dân ngoại” với một điều kiện là họ phải lo cho những Ki-tô hữu túng thiếu tại Giê-ru-sa-lem.
Thánh Phao-lô không bao giờ quên lời hứa của ngài: “chúng tôi phải nhớ đến những người túng thiếu, điều mà tôi vẫn gắng làm” (Gl 2: 10), thậm chí cho dù các Ki-tô hữu Giê-ru-sa-lem không còn phải lâm vào cảnh quá túng quẫn đi nữa.
1. Ý nghĩa của lạc quyên:
Việc lạc quyên giúp đỡ Hội Thánh Giê-ru-sa-lem chiếm một chỗ quan trọng trong những hoạt động của thánh Phao-lô. Thánh nhân đã đặt bầu nhiệt huyết vào công việc nầy, vì ngài thấy ở đó một cơ hội cho những người tân tòng, dù xuất thân từ Do thái giáo hay lương dân, thực hành đức ái huynh đệ và chia sẻ những của cải, cũng như chứng tỏ sự gắn bó của họ với Hội Thánh-Mẹ. Đây là cử chỉ hiệp nhất, lòng biết ơn đối với Hội Thánh Mẹ, từ đó Lời Chúa được tỏa lan và những ân phúc đức tin được trao ban.
Quả thật, trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh nhân viết: “Nhưng bây giờ tôi còn phải đi Giê-ru-sa-lem để phục vụ dân thánh ở đó, vì miền Ma-kê-đô-ni-a và miền A-khai-a đã có nhã ý đóng góp để giúp những người nghèo trong số dân thánh ở Giê-ru-sa-lem. Họ đã có nhã ý làm như vậy, nhưng thật ra họ cũng có bổn phận đối với dân thánh ở đó. Bởi vì dân ngoại đã được chia sẻ các phúc lộc thiêng liêng của dân thánh ở Giê-ru-sa-lem, thì họ cũng có bổn phận dùng của cải vật chất mà giúp đỡ lại…” (Rm 15: 16-28). Trong thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân ám chỉ đặc biệt đến điều nầy: “Về điều nầy… vì anh em là những người đầu tiên, chẳng những đã thực hiện công cuộc đó, mà còn đã quyết định làm ngay từ năm ngoái” (2Cr 8: 10).
Trong đoạn trích thư hôm nay, thánh Phao-lô mời gọi các tín hữu Cô-rin-tô hãy mở rộng tấm lòng mà giúp đỡ các anh chị em đang lâm cảnh túng thiếu.
2. Mở rộng tấm lòng.
Thánh Phao-lô khéo léo kể ra những đức tính trổi vượt của các tín hữu Cô-rin-tô: đức tin, lời giảng, sự hiểu biết, lòng nhiệt thành trong mọi lãnh vực, vì thế họ cũng phải trổi vượt “lòng quảng đại trong dịp lạc quyên nầy nữa” (8: 7).
Nếu họ nhiệt thành thực hành đức ái, chính vì thánh Phao-lô đã chuyển lửa của ngài cho họ: “Lòng bác ái mà anh em đã học được nơi chúng tôi”. Nhưng động lực chính yếu là mẫu gương của Đức Ki tô (trọng tâm của đoạn văn này). Trong một biểu thức gây ấn tượng mạnh, thánh Phao-lô gợi lên rằng Đức Ki tô “vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó, vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (8: 9).
3. “Lá lành đùm lá rách”:
Tuy nhiên, thánh Phao-lô biết rằng các tín hữu Cô-rin-tô không phải là những người giàu có. Vì thế, thánh nhân tự đặt mình vào hoàn cảnh của họ khi đòi hỏi họ chia sẻ với những người túng thiếu không phải những gì cần thiết cho sự sống của mình, nhưng sự dư giả của mình: “Trong hoàn cảnh hiện tại, anh em có được dư giả, là để giúp đỡ những người đang lâm cảnh túng thiếu; để rồi khi được dư giả, họ cũng sẽ giúp đỡ anh em. Lúc anh em lâm cảnh túng thiếu. Như thế, sẽ có sự đồng đều, hợp với lời đã chép: Kẻ được nhiều thì không dư, mà người được ít thì không thiếu” (8: 14).
TIN MỪNG (Mc 5: 21-43)
Tin Mừng hôm nay kết hợp hai câu chuyện phép lạ: phục sinh con gái ông Gia-ia (5: 21-24, 35-43) và chữa lành người phụ nữ bị bệnh nan y (5: 25-34). Bản văn này được gọi là “Hai câu chuyện trong một bài trình thuật” với điều kiện là câu chuyện thứ hai xen vào giữa câu chuyện thứ nhất làm gián đoạn câu truyện thứ nhất. Theo hình thức này, hai câu chuyện có nhiều điểm chung: hai thụ nhân đều là phái nữ; con số mười hai: người phụ nữ bị bệnh đã mười hai năm, còn cô gái thì đã mười hai tuổi (5: 25, 42); hai phép lạ được thực hiện một cách kín đáo: phép lạ chữa lành bệnh nan y của một phụ nữ không thể kiểm chứng được; còn phép lạ cho một bé gái sống lại chỉ có vài nhân chứng với lệnh truyền không được kể cho ai biết chuyện nầy; trong cả hai trường hợp, đức tin đóng một vai trò quan trọng trong tiến trình tiếp cận với Chúa Giê-su: niềm tin công khai của người cha và niềm tin kín đáo của người phụ nữ bị bệnh nan y.
Việc đan kết hai câu chuyện vào trong một bài trình thuật cũng được gặp thấy trong bài trình thuật của Mt 9: 18-26 và của Lc 8: 40-56, nhưng bài trình thuật của thánh Mác-cô có nhiều tình tiết sinh động nhất. Toàn bộ bài trình thuật bày tỏ nhiều chi tiết sống động của một chứng nhân mắt thấy tai nghe mà thánh Mác-cô nhận được từ nguồn của mình hay từ những kỷ niệm của thánh Phê-rô mà thánh ký chuyển tải. Nhờ những tình tiết sống động này, chúng ta dễ dàng nhận thấy diễn tiến và ý nghĩa của những sự kiện: Đức Giê-su không vội vàng đến nhà ông trưởng hội đường; thời gian trôi qua giữa Đức Giê-su và người phụ nữ mắc bệnh nan y dẫn đến cô bé thật sự chết. Cũng như trong câu chuyện cho anh La-da-rô sống lại (Ga 11), Đức Giê-su không vội vã ra đi khi nghe tin anh La-da-rô đau nặng; Ngài đến sau khi bạn Ngài đã qua đời bốn ngày rồi. Như vậy, trong câu chuyện của Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su loan báo một dấu hiệu còn lớn hơn dấu hiệu chữa lành bệnh tật: Ngài có quyền ban sự sống trên cả sự chết.
1. Chúa Giê-su với viên trưởng Hội Đường (5: 21-24):
Trước đây, Đức Giê-su đã ở vùng đất dân Ghê-ra-sa, vùng đất dân ngoại, ở đó Ngài đã chữa lành một người bị quỷ ám nguy hiểm khiến dân làng sợ hãi xin Ngài rời khỏi vùng đất của họ. Vì thế, Ngài xuống thuyền, trở lại sang bờ bên kia Biển Hồ, vùng đất Ít-ra-en. Lập tức, “một đám rất đông tụ lại chung quanh Người” (5: 21). Đây là nét tiêu biểu của Tin Mừng Mác-cô, thánh ký thích ghi lại những tình cảm dân chúng dành cho sự hiện diện của Đức Giê-su: “đám đông tuôn đến với Người”, “họ đến với Người”, “họ đi theo và chen lấn Người”, “họ thích thú lắng nghe Người”.
Và nầy, một viên trưởng hội đường rẻ đám đông đến gặp Ngài. Vị chức sắc Do thái nầy bày tỏ lòng kính trọng và niềm tin tưởng vào Đức Giê-su: ông phủ phục dưới chân Ngài và khẩn thiết nài xin Ngài đến cứu giúp đứa con gái đang trong tình trạng thập tử nhất sinh của ông. Viên trưởng hội đường nói lên ước nguyện của mình: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay trên cháu, để nó được cứu thoát và được sống” (5: 25). Đáp lại niềm tin tưởng đầy cảm động của ông, Đức Giê-su liền ra đi với ông. Trên đường đi, giữa đám đông chen lấn Ngài, xuất hiện một người phụ nữ mắc bệnh nan y.
2. Chúa Giê-su với người phụ nữ mắc bệnh nan y (5: 25-34):
Thánh Mác-cô thường giữ lối nói trực tiếp và bình dân cho câu chuyện của mình: “Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều lần đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác” (5: 25-26). Thánh Lu-ca, thầy thuốc, giữ chừng mực hơn trong ngôn từ của mình: “Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, không ai có thể chữa được” (Lc 8: 43).
Theo văn hóa Do thái, bệnh tình của bà là trường hợp nghiêm trọng về luật thanh sạch, vì máu là điều cấm kỵ. Vì thế, tuyệt đối cấm bà không được đụng chạm đến bất kỳ ai để khỏi làm cho người ấy ra ô uế (Lv 15: 19-30). Đó là lý do tại sao bà lẫn mình vào trong đám đông để không ai nhận ra và rón rén tiến lại phía sau Đức Giê-su, vì bà không thể công khai cầu xin Ngài chữa cho bà. Cử chỉ của bà thật khiêm tốn: không tìm kiếm bất cứ điều gì ngoài một ước nguyện đơn giản: “Tôi mà sờ được áo Người thôi, là sẽ được cứu” (5: 28). Điều bà nghỉ trong lòng nay được ứng nghiệm: “Tức khắc, máu bà cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh” (5: 29).
“Ngay lúc đó, Đức Giê-su thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra” (5: 30). Đây là cách thức qua đó thánh Mác-cô muốn nói rằng quyền năng này không phải do Đức Giê-su nhận được, nhưng vốn có nơi chính con người của Ngài. Vì thế, Ngài liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: “Ai đã sờ vào tôi?” (6: 30). Câu hỏi của Đức Giê-su tạo cơ hội cho các môn đệ lên tiếng: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy đến như thế mà Thầy còn hỏi: ‘Ai đã sờ vào tôi?’” (5: 31).
Sự kiện: “đám đông chen lấn Đức Giê-su”, đóng một vai trò quan trọng trong bài trình thuật này. Việc “đám đông chen lấn” không chỉ nối kết hai câu chuyện thành một bài trình thuật, nhưng còn làm sống động cho hai câu chuyện này. Ngoài ra, nhờ đám đông chen lấn này, lời giải thích của Đức Giê-su về hành động kín đáo của người đàn bà thật rõ ràng: bà được chữa lành không phải vì bà chạm vào gấu áo của Ngài, nhưng vì bà có niềm tin: “Nầy con, lòng tin của con đã cứu chữa con” (5: 34). Chúng ta có thể gọi niềm tin của người phụ nữ này vào Đức Giê-su là một niềm tin kín đáo, nhưng mãnh liệt đến mức liều lỉnh. Quả thật, trong đám đông chen lấn Ngài, không thiếu những người đã đụng chạm vào Ngài, nhưng không ai nhận được bất cứ ân ban nào. Để đón nhận ân sủng của Đức Giê-su, cần thiết phải có một đức tin sẵn sàng ở trong lòng.
3. Chúa Giê-su với con gái của viên trưởng hội đường (5: 35-45):
Khi đoàn người sắp đến nhà viên trưởng Hội Đường, người nhà viên trưởng hội đường thông báo cho ông: “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?” (5: 35). Đối với họ, quyền năng của Đức Giê-su cũng chỉ là quyền năng chiến thắng bệnh tật. Chắc chắn viên trưởng hội đường cũng đồng quan điểm với họ. Nghe thế, Đức Giê-su nói với ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (5: 36). Nếu chúng ta muốn nắm bắt nét nghĩa của động từ được thánh Mác-cô dùng ở đây, phải dịch: “Hãy kiên vững trong đức tin của ông”, có nghĩa ông có đức tin rồi và phải tiếp tục tin như thế. Như vậy, Ngài mở cho người cha đau khổ nầy một con đường hy vọng. Vì thế, ông không ngăn cản Đức Giê-su, nhưng để Ngài vào nhà ông.
Chúng ta sẽ tham dự một hoạt cảnh tương tự ở Bê-ta-ni-a trong câu chuyện của thánh Gioan về việc phục sinh anh La-da-rô, em trai của hai chị em cô Mác-ta và cô Ma-ri-a. Cô Mác-ta nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày” (Ga 11: 39). Đức Giê-su trả lời bằng cách đòi hỏi chị phải tin vào Ngài: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” (Ga 11: 40).
“Con bé có chết đâu, nó ngủ đấy!”. Ngài sẽ nói với các môn đề về cái chết của anh La-da-rô cũng như vậy: “La-da-rô, bạn của chúng ta đang yên giấc” (Ga 11: 11). Đây không là một hình bóng, nhưng là một lời khẳng định mang tính mặc khải: cái chết chỉ là một giấc ngủ khai mở sự sống, như chúng ta đã gặp thấy nhiều lần trong văn chương Kinh Thánh cũng như ngoài Kinh Thánh. Tất cả tình tiết của hoạt cảnh đều tuân theo chiều hướng nầy.
Sau khi vào nhà viên trưởng hội đường, Đức Giê-su truyền lệnh cho mọi người ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ và ba người môn đệ cùng đi với Ngài, Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan, vào nơi đứa bé đang nằm. Đức Giê-su cầm lấy tay đứa bé và nói: “Ta-li-tha-kum” (“Ta-li-tha”: “cô bé”, và “kum”: “hãy chỗi dậy”). Thánh Mác-cô đã bảo tồn từ A-ram, ngôn ngữ nói của Đức Giê-su, trong bản văn của mình, điều này gây ấn tượng cho người đọc về một chứng nhân nhãn tiền. Đồng thời, tác giả lập tức dịch sang ngôn ngữ Hy-lạp, ngôn ngữ phổ thông vào thời đó: “Này bé, Thầy truyền cho con: chỗi dậy đi!”, điều này cho thấy tác giả gởi sách Tin Mừng của mình đến các Ki-tô không xuất thân từ Do thái, nhưng từ lương dân.
“Hỡi cô bé, hãy chỗi dậy”, động từ “chỗi dậy” sẽ trở thành thuật ngữ để chỉ biến cố Phục Sinh của Đức Ki-tô. Cô bé liền chỗi dậy và đi lại được. Đức Giê-su bảo họ cho đứa bé ăn. Lời dặn dò nầy có một mục đích tức thời, nhằm cho cha mẹ của cô bé hiểu rằng cô bé thật sự sống lại chứ không là một bóng ma. Cũng vậy, sau khi sống lại, Đức Giê-su cũng hỏi các môn đệ vẫn còn nghi nan ngờ vực: “Ở đây anh em có gì ăn không?” (Lc 24: 41). Tuy nhiên, lời dặn dò nầy còn mặc khải một ý nghĩa sâu xa hơn nữa, vì nó mang tính biểu tượng và ngôn sứ: việc chỗi dậy bên kia cái chết mở ra những thực tại thần thiêng mà các ngôn sứ đã diễn tả bằng những hình ảnh về bàn tiệc cánh chung mà Thiên Chúa mở ra để khoản đãi muôn dân nước.
“Cô bé đã mười hai tuổi”. Con số “mười hai” cũng có giá trị dấu chỉ: con số của sự tuyển chọn. Thánh Mác-cô đã dùng con số nầy rồi đối với người phụ nữ mắc bệnh băng huyết đã “mười hai” năm. “Mười hai Tông Đồ” tiếp nối “mười hai chi tộc Ít-ra-en”, là dấu chỉ của Vương Quốc Thiên Chúa. Trong sách Khải Huyền, số người được tuyển chọn là “một trăm bốn mươi bốn ngàn” người, tức là gấp ngàn lần của 12 x 12 (Kh 7: 4).
Ngoài cha mẹ, những nhân chứng về cuộc phục sinh cô bé là ba Tông Đồ, Phê-rô, Gia-cô-bê, và Gioan. Chính ba vị Tông Đồ nầy sẽ được Đức Giê-su dẫn lên núi để chứng kiến cuộc Biến Hình của Ngài. Trong câu chuyện Biến Hình, khi “các ông kinh hoàng ngã sấp mình xuống đất”, Đức Giê-su lại gần, chạm vào các ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ” (Mt 17: 7). Cũng là cử chỉ và lời nói mà Đức Giê-su đã làm và đã nói với con gái của viên trưởng hội đường. Có một mối liên hệ của biến cố Phục Sinh với biến cố Biến Hình, đây là hai khía cạnh bất khả phân lý của cuộc sống sau cái chết.
Tôi đã, đang và sẽ làm gì trước những nỗi đau khổ của anh chị em tôi”? Đây là câu hỏi đang được TN 13-B143
“Tôi đã, đang và sẽ làm gì trước những nỗi đau khổ của anh chị em tôi”? Đây là câu hỏi đang được đặt ra để tự vấn lương tâm và lòng trí của mỗi người chúng ta. Là những người con cái Chúa, là những Kitô hữu, là đồng bào ruột thịt với nhau, khi chứng kiến những nỗi đau khổ của anh chị em mình, có điều gì từ thâm tâm đã thôi thúc, đánh động chúng ta? Thú thật, ngay cả chính bản thân là mục tử, mỗi khi vào bệnh viện đi thăm người bệnh, đi xức dầu, hay đem Mình Thánh Chúa cho bệnh nhân…, những lần chứng kiến và tiếp xúc với những người nghèo, người bệnh, người có hoàn cảnh khó khăn cần được giúp đỡ... và càng bi đát hơn, giờ đây, khi phải đối diện với những khó khăn, đau khổ từ dịch bệnh gây ra cho tha nhân…, trước những hoàn cảnh thương tâm như vậy, làm sao mà tôi không khỏi xúc động-chạnh lòng, nhưng tôi phải làm gì đây? Vì với thân phận và giới hạn của con người, nhiều lúc chúng ta cảm thấy “bó tay-bất lực” và không biết phải làm gì.
Thánh vịnh 29 trong bài đáp ca cho chúng ta một bí quyết: “Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con, lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ”.(Tv 29,11) Thật vậy, cách hữu ích duy nhất trong nguy khốn là: hãy chạy đến với Thiên Chúa với lòng tin, hãy cậy trông và phó thác vào Chúa, vì chính Ngài là Đấng sẽ ban ơn giúp sức, chính Chúa sẽ hướng dẫn, chỉ bảo cho chúng ta phải hành động, ứng xử và làm những gì, như thế nào trong từng hoàn cảnh cụ thể của chúng ta. Thế nhưng, liệu rằng chúng ta có thể tin cậy và phó thác mọi sự cho Chúa?
Bài đọc một từ sách Khôn ngoan cho chúng ta biết rằng: Thiên Chúa chính là Người Cha yêu thương, Đấng đã dựng nên mọi sự trong vũ trụ này, đều tốt lành và đem lại ơn ích cho chúng ta. Chúa đã không tạo nên sự dữ, đau khổ và chết chóc. Thế nhưng những hậu quả của đau khổ mà con người đang phải gánh chịu là do bởi sự ích kỷ, hẹp hòi và tội ác của con người gây nên cho nhau. Một khi con người không chấp nhận Chúa, khước từ và không tin vào Chúa, thì con người đã mở cửa lòng trí mình cho ma quỷ, thế gian, xác thịt xúi giục, chiều theo và hậu quả là sự đau khổ và sự chết đã xảy ra. Thế thì, trước nỗi đau khổ và cái chết, con người có còn được Thiên Chúa đoái thương, ban ơn cứu chữa và cho chúng ta cơ hội, cho con đường sống tốt lành không?
Tin mừng theo Thánh Marco, cho chúng ta hai mẫu gương của những con người biết chạy đến kêu xin Chúa trong lúc khó khăn, đau khổ và đang đối diện với cái chết. Mẫu gương của ông trưởng hội đường, một người cha có đứa con bị bệnh gần chết và mẫu gương của người đàn bà bị bệnh nan y không thể nào cứu chữa. Hai con người này, cũng đang đại diện cho tất cả chúng ta trong hoàn cảnh hiện nay, khi bản thân chúng ta đang phải chứng kiến sự đau khổ và cái chết của tha nhân vì dịch bệnh, đồng thời cũng chính bản thân chúng ta đang phải gánh chịu biết bao sự đau khổ, khó khăn, bệnh tật trong cuộc sống. Điều tuyệt vời nơi mẫu gương này là: trong cơn tuyệt vọng, hai con người này đã biết chạy đến với Chúa Giêsu, vì họ tin Ngài là cứu cánh duy nhất của họ. Người cha đã chạy đến quỳ dưới chân Chúa, sụp lạy, van xin Chúa: “Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống”. Còn người đàn bà cũng chạy đến với Chúa, vì sợ không dám kêu xin, nhưng đã nghĩ thầm: “Miễn sao tôi chạm tới áo Người thì tôi sẽ được lành”. Hai con người với hai hoàn cảnh, hai nỗi khó khăn, cùng cực khác nhau, nhưng họ lại có chung một lòng tin rất mạnh vào Chúa. Nhờ vào lòng tin của chính mình mà Chúa đã cứu chữa khỏi căn bệnh nan y của người đàn bà và cũng nhờ vào lòng tin người cha mà đứa con gái của ông sắp chết, đúng ra đã chết được Chúa cứu sống.
Thưa ACE, ai trong chúng ta mà không phải đối diện với những khó khăn, đau khổ và sự chết, đặc biệt trong hoàn cảnh của dịch bệnh hiện nay; càng tệ hại hơn khi chứng kiến hậu quả đau thương của những cách sống, thái độ sống băng hoại trong đời sống xã hội hiện tại. Vậy thì, trong cơn nguy nan, cùng cực như vậy, Chúa có phải là điểm tựa, là cứu cánh, là Đấng mà chúng ta tin tưởng, phó thác, cậy trông để chạy đến van xin Ngài thương cứu giúp. Đồng thời, với lòng tín thác vào Chúa và tình liên đới với ACE, chúng ta đã, đang và sẽ làm gì cho tha nhân đặc biệt cho những con người đau khổ, phận nhỏ, những con người bị lãng quên và bị bỏ rơi?
Bài đọc hai trong thư của Thánh Phaolô gởi tín hữu Côrintô mời gọi chúng ta dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, hãy sống tâm tình cảm tạ, tri ân, hãy đến với ACE mình với tấm lòng quảng đại yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau. Vì tất cả những gì mà chúng ta đang có ngay từ mạng sống, từ sức khỏe, đến công ăn việc làm…mọi sự chính là ơn phúc mà Chúa thương ban, phù trì và che chở. Do đó, cách sống tín thác vào Chúa và tâm tình tạ ơn chính là cách sống quảng đại để trao ban, chia sẻ và giúp đỡ những gì chúng ta đã và đang lãnh nhận cho ACE mình. Thật ra, không phải chúng ta là người trao ban, chia sẻ, nhưng khi chúng ta khiêm tốn, mở lòng, thì chính Chúa là Đấng đang dùng chúng ta mà trao ban ơn thánh của Ngài cho người khác.
Lạy Chúa, Chúa đã chạm vào em bé dù đã chết, nhưng em đã được cứu sống nhờ lòng tin và sự van xin kêu cứu của người cha; Chúa cũng đã tạo cơ hội để cho người đàn bà bị bệnh chạm đến Chúa để được chữa lành nhờ vào lòng tin mạnh của bà. Giờ đây, với lòng tín thác, chúng con xin Chúa cũng hãy đến chạm vào những nỗi đau khổ, bệnh tật cả về thể lý và tinh thần của chúng con. Xin vì lòng thương xót Chúa mà ban cho chúng con được ơn chữa lành. Xin Chúa cũng hãy dùng chính chúng con, xin ban ơn soi sáng, giúp sức để với tình thương và sức mạnh của Chúa, chúng con mới có những sáng kiến tốt lành để đến với tha nhân, nhờ đó ơn thánh tình thương của Chúa được thực hiện. Amen.
Trong đời sống, chúng ta thường tự hỏi một số câu hỏi căn tính như: Sống để làm gì? Sự chết TN 13-B144
Trong đời sống, chúng ta thường tự hỏi một số câu hỏi căn tính như: Sống để làm gì? Sự chết từ đâu mà ra? Chết rồi sẽ ra sao? Tại sao phải gian nan khốn khó?…Và nhất là ngay thời điểm dịch bệnh cô-vi còn đang hoành hành khắp nơi, mọi nghi vấn, vấn nạn lại trở nên gay gắt hơn!
Lắm lúc, là người Công Giáo, chúng ta cũng hiểu sai, hiểu lầm rằng: sự chết cũng được Thiên Chúa tạo dựng chăng? Mọi bất trắc, đau khổ do Thiên Chúa làm ra để thử thách chúng ta?…Tuy nhiên, khi đọc bài đọc I trích sách Khôn Ngoan, chúng ta dám khẳng định: “Thiên Chúa không tạo dựng sự chết, chẳng vui mừng khi người sống phải chết” (Kn 1, 13). Ý định nguyên thuỷ của Ngài chẳng phải những gì đang diễn ra, vì “Ngài tạo dựng mọi sự trên mặt đất đều lành mạnh, chúng không có nọc độc sự chết, và không có địa ngục ở trần gian” (Kn 1, 14). Tác giả sách Khôn Ngoan đã xác tín, chỉ ra cho tất cả chúng ta thấy được Thánh ý của Chúa từ khởi nguyên: “Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, để sống vĩnh viễn” (Kn 2, 23). Dù là Thiên Chúa quyền năng, cao cả, giàu sang phú quý, nhưng Ngài muốn chia san chân-thiện-mỹ nơi mình cho con người, và đã tạo dựng phàm nhân theo hình ảnh của Ngài, đồng thời giống như Ngài, cụ thể: con người có tự do, mọi quyền căn bản, lý trí để truy tầm sự thật, tìm ra Chân lý tối thượng chính là Thiên Chúa; và con người được ban cho ý chí, ngõ hầu biết yêu thương, cảm nhận được yêu thương, để ôm trọn chính Tình yêu tuyệt đối (là Thiên Chúa).
Thế nhưng, hạnh phúc nguyên thuỷ ấy bị tan vỡ do sự khước từ, bất trung, tính kiêu ngạo muốn trở thành chúa của bản thân để quyết định thiện-ác, tốt-xấu, sống-chết,…vốn là quyền hạn của Thiên Chúa mà thôi. Do đó, tội lỗi đã xâm nhập vào thế giới thiện lành, con người tốt lành thuở ban đầu, và sự chết, đau khổ, bệnh tật…cũng không nằm ngoài hậu quả của tội lỗi, “bởi ác quỷ ghen tương, nên tử thần đột nhập vào thế gian: kẻ nào thuộc về nó thì bắt chước nó” (Kn 2, 24). Thiên Chúa thấu hiểu sự yếu đuối, hay sa ngã của con người, nhưng Ngài vẫn tin tưởng con người vốn là hình ảnh của mình, nên đã không bỏ mặc họ, hoặc trao án phạt nhãn tiền muôn đời, như Ngài đã trừng phạt Lu-ci-phe và các thiên thần sa ngã một lần mãi mãi. Thiên Chúa trung thành với lời hứa ban Đấng Cứu Độ, và Ngài chuẩn bị một cách công phu chu đáo cho chương trình yêu thương, cứu rỗi con người, bằng cách “…vào thời ấn định, Ngài đã sai Con Một đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài mà được cứu độ…” (x. Ga 3, 17). Với sứ mệnh đó, dù đi tới đâu, Đức Giê-su luôn mang niềm vui giải thoát khỏi tội lỗi, khỏi bệnh tật, khỏi khổ đau, khỏi những gì con người phải chịu do tội lỗi gây ra: già cỗi, bệnh tật, đau khổ, cái chết. Vì vậy, khi Đức Giê-su làm phép lạ chữa lành, không vì mục đích cho bản thân nổi tiếng, hoặc mọi người biết tới, nhưng qua giáo huấn và phép lạ, Ngài muốn cho tất cả biết rằng: Thiên Chúa hằng yêu thương, hằng nâng đỡ, chở che, tha thứ, giải thoát, cứu độ con người, dù họ chẳng xứng đáng với tình yêu ấy, “vì tôi tự trời mà xuống không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi…Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy Người Con và tin vào Người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (x. Ga 6, 38. 40).
Thưa anh chị em, hôm nay, điều này được minh chứng rõ ràng trong bài Tin Mừng: trên đoạn đường đến nhà ông trưởng hội đường Giai-rô, để chữa lành cho con gái ông đang nguy tử, Đức Giê-su chứng kiến lòng tin mạnh mẽ của một người đàn bà bị bệnh băng huyết mười hai năm, và Ngài đã chữa lành cho cả hai, mang lại sự sống cho họ, mang lại niềm vui khôn tả cho họ. Mở ra con đường biết tin tưởng, phó thác vào Thiên Chúa, thì mọi việc, dù vô vọng đối với con người, nhưng “không có gì là không thể đối với Chúa” (x. Lc 1, 37). Con người chúng ta dường như tuyệt vọng khi đứng trước giới hạn của mình, của khoa học dù phát triển vượt bậc tới đâu! Tuy nhiên, nếu chúng ta biết tín thác, ký thác đường đời cho Chúa, thì vẫn hy vọng, cậy trông, chờ mong thực thi theo Thánh ý, theo thời điểm của Ngài. Cụ thể, ông trưởng hội đường Giai-rô chẳng tuyệt vọng như những người xung quanh tụ họp nơi nhà ông thốt lên rằng: “Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa” (Mc 5, 35), và còn tệ hơn “họ chế giễu Ngài” (Mc 5, 40) khi nghe Đức Giê-su nói: “Sao ồn ào và khóc lóc thế? Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó” (Mc 5, 39). Ông đặt niềm tin tuyệt đối nơi Đức Giê-su, “trông thấy Ngài, ông sụp lay và van xin: “Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống” (Mc 5, 22-23). Còn bà bị bệnh xuất huyết ròng rã mười hai năm, tin chắc khi tự nhủ với bản thân rằng: “Miễn sao tôi chạm tới áo Ngài thì tôi sẽ được lành” (Mc 5, 28). Dù phải chịu cực khổ đến nỗi thất vọng, tìm thầy thuốc chữa trị, tiền hết mà bệnh chẳng thuyên giảm chút nào, trái lại càng trầm trọng, nhưng bà vẫn một lòng tin tưởng vào Đức Giê-su. Khi nghe nói về Ngài, bà liền hoà mình trong đám đông, thầm ước chạm tay đến gấu áo Ngài thì sẽ được chữa lành. Đức tin vào Đức Giê-su đã khiến hai con người này vượt thắng tuyệt vọng, vốn dễ bị rơi vào khi đối diện với sự đau khổ tột cùng, bệnh tật hiểm nghèo và cái chết. Hơn nữa, lời xác quyết của Đức Giê-su khi nói với bà: “Hỡi con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh” (Mc 5, 34), và tiếng Ngài gọi khi chữa lành con gái ông Giai-rô đang hấp hối: “Talithakum", nghĩa là: "Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy trỗi dậy!” (Mc 5, 41) cho chúng ta thấy, khi chữa lành, Đức Giê-su không đòi hỏi bất cứ điều gì ngoài niềm tín thác và lòng cậy trông vào Ngài, đồng thời phải trở nên nhân chứng bác ái-tha thứ-chia san với tha nhân.
Hành động yêu thương này phải được chứng thực cụ thể qua việc sống quảng đại, thực thi phúc đức trong dịp lạc quyên như Thánh Phao-lô nhắc nhở giáo đoàn Cô-rin-tô: “…anh em vượt trổi về mọi mặt: về lòng tin, về hùng biện, về sự hiểu biết, về mọi hình thức nhiệt thành, cũng như về lòng bác ái của anh em, thì anh em cũng phải vượt trổi trong dịp lạc quyên này nữa” (2Cr 8, 7). Chẳng phải do sáng kiến rộng lượng của chúng ta mà thôi, nhưng tiên vàn vì Đức Giê-su, Chúa chúng ta đã nên thân phận nghèo khó, mặc dù giàu sang, để nhờ việc nghèo khó của Ngài, chúng ta nên giàu có, ngõ hầu chia sẻ với anh chị em khác. Sau cùng, “kẻ được nhiều, thì cũng không dư; mà kẻ có ít, cũng không thiếu” (2Cr 8, 15) bắt nguồn từ bản chất ân ban-chia sẻ của Thiên Chúa đối với nhân loại, chứ chẳng giống như bao khẩu ngữ sáo rỗng của một số triết thuyết xã hội rêu rao. Thiên Chúa - Đấng rộng lượng, khoan nhân, Ngài hướng đến và chia san với con người; vì vậy, là những người tin vào Ngài, chúng ta cũng trở nên quảng đại cho đi với cả tấm lòng, và không mong đền đáp, vì “ai lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho đi nhưng không” (Mt 10, 8b). Ước gì, đức tin được lớn lên dựa trên đức cậy, và được biểu lộ sống động qua đức ái nơi đời sống thường nhật.
Cảm tạ Chúa với lòng tín trung Cảm tạ Chúa với niềm trông cậy Cảm tạ Chúa với cả yêu thương Cảm tạ Chúa tận sâu thẳm hồn con. Amen!
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta nghe hai phép lạ của Chúa Giêsu: Phép lạ Chúa làm cho một TN 13-B145
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta nghe hai phép lạ của Chúa Giêsu: Phép lạ Chúa làm cho một người phụ nữ bị bệnh băng huyết 12 năm được khỏi và phép lạ cho em bé gái 12 tuổi chết được sống lại: hai con số 12: 12 năm bệnh và 12 năm tuổi - Cả hai phép lạ Chúa thực hiện đều do lòng tin. Tuy là hai phép lạ lớn nhưng Chúa cố gắng thực hiện cách kín đáo. Xin nói rõ hơn về lòng tin của họ như sau:
- Ông Trưởng hội đường: Ông tới gặp Chúa Giêsu và sụp lạy dưới chân Chúa đồng thời nói lên lời van xin: "Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay lên nó để nó được khỏi và được sống". Chúng ta thấy ông xưng ra lòng tin Chúa Giêsu một cách công khai trước mặt mọi người đồng thời chúng ta cũng thấy lòng khiêm tốn của ông khi ông sụp lạy dưới chân Chúa Giêsu - Nhưng khi người nhà tới bá cáo: "Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa". Lúc này lòng tin của ông bị thử thách trở nên nao núng chới với, nhưng Chúa Giêsu an ủi ông: "Ông đừng sợ, hãy cứ tin" Nhờ đó mà điều ông xin vẫn được như lòng ông tin tưởng. Cũng như sau này Chúa Giêsu an ủi bà Matta vì Lazarô chết, trước khi Chúa cho Lazarô sống lại thì Chúa cũng nói với Matta: "Nếu con tin thì con sẽ được thấy vinh quang Thiên Chúa" (Ga 11, 40).
- Người đàn bà bệnh rong huyết. Theo luật Do thái, đàn bà mắc bệnh này bị coi là ô uế, do đó bà chen lấn vào đám đông và không dám đụng chạm tới Chúa, chỉ mong sao được rờ đến gấu áo Chúa cách kín đáo thôi thì bà tin mình sẽ được khỏi và bà đã làm được điều bà mong muốn là chạm được gấu áo từ phía sau lưng Chúa. Đám đông chen lấn Chúa chắc chắn có nhiều người đụng vào Chúa như các tông đồ nêu lên nhận xét đó nhưng chỉ có đàn bà này được khỏi chứng bệnh nan y bà đã phải chịu suốt 12 năm vì bà có lòng tin. Khi bà đụng vào gấu áo Chúa thì Chúa Giêsu thấy có sức mạnh phát xuất từ Chúa, nên Chúa quay lại hỏi: "Ai đã chạm tới Ta?". Bà run sợ vì biết rõ sự thể đã xảy ra nơi mình. Chắc chắn bà đã sẵn sàng nhận lời quở trách của Chúa Giêsu, nhưng: không những Chúa không mắng bà mà Chúa còn đề cao đức tin của bà, an ủi bà khi Chúa nói với bà: "Hỡi con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh". Như vậy bà được chữa lành không phải vì đã sờ gấu áo Chúa mà vì đức tin của bà vào Chúa Giêsu khi Chúa nói: "Đức tin của con đã cứu chữa con".
Như thế chúng ta thấy cả ông Giarô trưởng hội đường và người đàn bà bị bệnh nan y đều có lòng tin chân thành đối với Chúa và cũng có lòng khiêm nhượng nữa khi làm cử chỉ sụp lạy trước chân Chúa, người đàn bà thì sụp lạy sau lưng Chúa.
Có lẽ chúng ta thắc mắc tại sao Chúa Giêsu lại nói: "Con bé không chết đâu, nó ngủ đó" trong khi bà con mọi người đều biết nó đã chết nên họ mới kêu la khóc lóc om sòm và khi nghe CG nói nó ngủ đó thì họ cười nhạo Chúa. Cũng như sau này khi Chúa Giêsu nghe tin Lazarô chết, thì Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Lazarô, bạn chúng ta đang ngủ tuy vậy Ta sẽ đi đánh thức anh ấy dậy"(Ga 11,5). Các môn đệ thưa: "Nếu anh ấy ngủ thì anh ta sẽ khỏe lại" vì các môn đệ không hiểu ý Chúa nói nên Chúa phải nói rõ: "Lazarô đã chết rồi"(Ga 11, 14) Như vậy theo quan niệm của Chúa Giêsu thì cái chết được coi như là giấc ngủ và ngủ thì sẽ có ngày chỗi dậy. Con người chúng ta ai nấy đều phải chết. CG cũng phải chịu chết nhưng đến ngày thứ ba Chúa chỗi dậy, chúng ta chết nhưng sẽ có ngày Chúa cho sống lại đó là ngày sau hết, ngày tận thế khi Chúa cho xác loài người được sống lại như chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: "Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại". Khi Chúa Giêsu cho bé gái sống lại: Chúa làm một cử chỉ đơn giản là cầm tay em và nói: "Talitha Koumi nghĩa là: Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy". Thánh sử Maccô ghi lại tiếng Aram là chính ngôn ngữ Chúa Giêsu nói khi đó rồi mới dịch ra tiếng Hi lạp.
Qua hai phép lạ này, chúng ta thấy CG có quyền ban sự sống và chữa lành bệnh tật. Chết chóc bệnh tật là hậu quả của tội lỗi và kiếp sống con người, Chúa nâng đỡ chúng ta chứ Chúa không phá hủy chết chóc bệnh tật khỏi cuộc sống nhân thế. Chúng ta đến với Chúa để được Chúa nâng đỡ bổ sức cho nhưng điều cần thiết Chúa đòi là ta phải có lòng tin và khiêm nhường như ông Giarô trưởng Hội đường và người đàn bà bị bệnh băng huyết hôm nay đã bày tỏ trước mặt Chúa.
Mẹ Têrêsa Calcutta được giải thưởng Nobel về Hòa bình nên có những nhà báo tìm đến phỏng vấn Mẹ. Có một phóng viên vô thần và không có cảm tình với giáo hội Công giáo đến gặp Mẹ. Mẹ mở đầu nói ngay với ông: - Ông nên có đức tin - Ông đáp: tôi phải làm gì để có đức tin - Mẹ đáp: Ông hãy cầu nguyện - Tôi không biết cầu nguyện và không thể cầu nguyện - Tôi sẽ cầu nguyện cho ông nhưng ông phải cố gắng mỉm cười với những người xung quanh ông. Nụ cười sẽ đánh động được tâm hồn người khác và điều này sẽ giúp người ta cảm nghiệm được Thiên Chúa hiện diện trong cuộc đời chúng ta.
Ông phóng viên đón nhận những lời chân tình Mẹ Têrêsa nói và có lẽ sẽ có sự chuyển biến trong cuộc sống của ông.
Nguyện xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết đến với Chúa với lòng tin và khiêm tốn để chúng ta nhận được nhiều hồng ân phần hồn phần xác Chúa ban như Chúa đã ban cho người đàn bà bị bệnh nan y và ông Giairô trong Tin Mừng hôm nay. Amen.
(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
MỐI LIÊN HỆ GIỮA ĐỨC TIN VÀ VIỆC CHỮA LÀNH
Sách Bài đọc đề nghị một bài ngắn và một bài dài cho bài Tin mừng Maccô của Chúa nhật XIII quanh TN 13-B146
Sách Bài đọc đề nghị một bài ngắn và một bài dài cho bài Tin mừng Maccô của Chúa nhật XIII quanh năm. Bài ngắn tập trung vào việc chữa lành cho một bé gái. Nếu chọn đọc bài dài thì chúng ta sẽ nghe thêm việc chữa lành cho người phụ nữ. Nên ưu tiên chọn bài dài để thấy được sự nối kết giữa hai lần chữa lành.
Thánh Maccô thường sử dụng một kỹ thuật viết văn là khi đã kể một câu chuyện, ngài lại thêm vào một câu chuyện khác rồi mới kết thúc câu chuyện đầu tiên. Phương pháp kể chuyện này báo trước cho người đọc mối liên hệ cũng như việc cung cấp thông tin giữa hai trình thuật.
Trình thuật đầu tiên nói về con gái của ông trưởng hội đường. Ông Giairô kể cho Chúa Giêsu về đứa con gái đang đau nặng, mà sau đó chúng ta biết em này được 12 tuổi, và ông nài xin Chúa Giêsu đến đặt tay chữa lành cho con gái mình. Đang trên đường đến chữa con ông Giairô thì một người phụ nữ bị băng huyết 12 năm chạm vào áo của Đức Giêsu với hy vọng bệnh của bà được thuyên giảm. Hành động này liền có hiệu quả, bà được lành bệnh ngay lập tức. Khi đến nhà ông Giairô, dù nghe nói đứa bé đã chết, thế nhưng Đức Giêsu vẫn bước vào nhà cùng với Phêrô, Giacôbê, Gioan và cha mẹ của em. Ngài hồi sinh đứa bé khi chạm vào tay và truyền cho em chỗi dậy.
Tại sao Maccô lại gộp đọc chung hai việc chữa lành với nhau? Một trong những nét tương đồng là cả hai câu chuyện đều liên quan đến người nữ đang mắc bệnh. Bé gái được chữa lành nhờ vào đức tin của cha mẹ, và người phụ nữ được chữa lành nhờ vào chính đức tin của bà. Một điểm chung khác đó là thời gian. Người phụ nữ bị bệnh băng huyết trong khoảng thời gian tương đương với tuổi của cô bé, điều này nhấn mạnh đến nỗi thống khổ cùng cực của người phụ nữ này. Em bé gái đang trong tình trạng nguy kịch, gần kề cái chết, nhưng bài đọc không cho biết chi tiết bệnh tật của em.
Phương pháp chữa bệnh của Chúa Giêsu cũng rất đáng lưu ý. Ông Giairô nài xin Đức Giêsu đến đặt tay trên con gái mình, nhưng khi chữa lành, Ngài nắm lấy tay em và tuyên bố em sẽ sống lại. Việc chữa lành này hoàn toàn nằm ngoài sự kiểm soát của em, vì cha mẹ em đã xin chữa lành thay cho em. Còn phép lạ với người phụ nữ thì xảy ra theo chiều hướng ngược lại. Bà ta bắt đầu tự nhủ: “Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu” và việc lành bệnh xảy ra ngay lập tức. Đức Giêsu không hề chạm vào bà ấy và dường như cũng không biết chuyện gì đã xảy ra, vì Ngài hỏi ai đã chạm vào mình. Khi nhận ra hành động của người phụ nữ, Đức Giêsu ca ngợi bà, cho rằng phép lạ xảy ra không chỉ do quyền năng của chính Ngài, mà còn là nhờ vào chính đức tin của bà.
Những câu chuyện chữa lành trong các sách Tin mừng có nhiều mục đích. Chúng biểu lộ cách hiển nhiên và rõ ràng quyền năng của Đức Giêsu. Các ngôn sứ trong thời Cựu ước như Êlia và Êlisa cũng thường được mô tả làm những hành động phi thường chữa lành tương tự như là dấu hiệu của việc được nối kết với quyền năng thần linh. Ngoài chức năng trên, những câu chuyện chữa lành này còn truyền đạt các chân lý thiết yếu để hiểu Tin mừng.
Trong cả hai phép lạ này, Chúa Giêsu nhắc lại tầm quan trọng của đức tin. Ngài khen ngợi lòng tin của người phụ nữ. Tương tự, khi đám đông nói với ông Giairô rằng con gái ông đã chết, Đức Giêsu đáp: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi.” Hãy nhớ lại bài Tin mừng Chúa nhật tuần trước. Khi các tông đồ kinh hãi đang lúc thuyền gặp sóng gió, Chúa Giêsu bảo các ông: “Sao nhát thế ? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” (Mc 4,40). Những câu chuyện như thế tỏ bày quyền năng của Chúa Giêsu cũng như những hành động cần có nơi những kẻ đi theo Ngài. Hai câu chuyện của Chúa nhật này là lời nhắc nhớ quan trọng về sức mạnh của đức tin để vượt qua cả những hoàn cảnh khó khăn nhất.
(Suy niệm của Lm. Jude Siciliano, OP - Chuyển ngữ: FX. Trọng Yên, OP)
ĐỨC TIN ĐEM CHÚNG TA ĐẾN GẦN CHÚA
Anh chị em thân mến,
Bài đọc 2 hôm nay không tiếp tục trích tuần tự theo thư thánh Phaolô đọc trong Chúa Nhật tuần TN 13-B147
Bài đọc 2 hôm nay không tiếp tục trích tuần tự theo thư thánh Phaolô đọc trong Chúa Nhật tuần trước. Mà nhảy qua cách bài tuần trước 3 chương. Để anh chị em dễ hiểu, tôi sẽ sử dụng vài từ cũ trong bài đọc tuần trước để diễn giảng bài hôm nay.
Thánh Phaolô khen giáo hữu thành Cô-rin-tô, vì, tuy họ vừa đủ sống, nhưng họ cũng rộng rãi giúp đỡ những Kitô hữu thiếu thốn. Thánh Phaolô không phải là người dùng lời ngoại giao để lạc quyên, trái lại, ông khen đức tin của họ. Giáo hữu thành Cô-rin-tô được nhiều ơn qua đức tin của họ. Ai cũng biết được những ơn như: tài ăn nói, chữa lành bệnh tật, khôn ngoan và hiểu biết v.v...
Và bây giờ, Phaolô muốn họ dùng những ân sủng đang có để giúp các anh em giáo hữu khác. Phaolô dựa vào sự tự hiến của Chúa Giêsu để khuyến khích họ: “anh em biết Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2Cr,9). Chúng ta đã trở nên giàu có với những ân thánh sủng. Vì thế, Thánh Phaolô khuyến khích giáo hữu thành Cô-rin-tô nên theo gương Chúa Giêsu để chia sẻ những gì họ có nhiều hơn cho kẻ túng thiếu.
Giáo Hội không gồm những cộng đoàn độc lập, giữ đức tin riêng biệt cho cộng đoàn mình. Trái lại, máu thánh Chúa Giêsu hòa hợp chúng ta lại với nhau, vì vậy, chúng ta không thể quên sự thiếu thốn của anh em trong các cộng đoàn khác. Bởi thế, bên nước El Salvador, các cộng đoàn ở thành phố nhận giúp đỡ các cộng đoàn ở vùng quê. Họ không những gom tiền cho cộng đoàn họ giúp đỡ, mà còn kêu gọi người tình nguyện đến giúp đỡ trực tiếp vào mỗi mùa xuân như đến để sửa sang nhà thờ, sửa sang các nhà bị ngập lụt, và đào giếng cho dân chúng cả vùng.
Phaolô nói, giúp đỡ người nghèo không chỉ có một chiều, chính người nghèo cũng giúp đỡ lại chúng ta. Một nhóm sinh viên đến nước Honduras ở Trung Mỹ đã nhận thấy như vậy khi họ giúp đỡ một làng ở Honduras trong mười ngày vào dịp lễ Phục Sinh. Họ đã xác nhận điều đó với cộng đoàn Giáo Hội trong đại học hôm Chúa Nhật sau khi họ ở Honduras về. Họ đã học hỏi được nhiều điều trong lúc giúp đỡ: Học cách đón tiếp của người trong làng, về giá trị của gia đình, về sự làm ăn cần mẫn, về lòng hy sinh và về đức tin của dân làng.
Hôm nay có thể là Chúa Nhật mà ban tổ chức công tác xã hội trong cộng đoàn Giáo Hội chúng ta có thể làm bảng tổng kết về những việc đã làm, như hô hào các sinh viên, học sinh giúp xây nhà ở; chương trình phát của ăn cho người thiếu thốn v.v… “Trong hoàn cảnh hiện tại, anh em có được dư giả, là để giúp đỡ những người đang lâm cảnh túng thiếu, để rồi khi được dư giả, họ cũng sẽ giúp đỡ anh em, lúc anh em lâm cảnh túng thiếu. Như thế, sẽ có sự quân bình.” (2Cr 8,14)
Trong Phúc Âm hôm nay, người phụ nữ bị bệnh băng huyết lâu năm không còn hy vọng gì nữa. Thánh Mác-cô đã cho biết, bà ta đã bị bệnh từ 12 năm rồi “…chạy thầy chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại sản,…” Bệnh đã làm cho bà trở nên người không sạch, và bị loại ra khỏi cộng đoàn. Bà ta đau đớn về thể xác, và khó nghèo do bị khánh kiệt, lại còn bị loại ra khỏi cộng đoàn tôn giáo nữa. Và hơn thế nữa là nếu bà sờ vào ai thì người đó cũng trở nên không sạch sẽ, vậy nếu bà sờ và Chúa Giêsu, bà sẽ làm cho Ngài không sạch sẽ. Như thế cả hai người sẽ cùng bị cộng đoàn, tôn giáo và xã hội ruồng bỏ.
Câu chuyện người phụ nữ này rất nổi bật trong Phúc âm thánh Mác-cô. Thường một phép lạ xảy ra nhấn mạnh vào Chúa Giêsu. Nhưng phép lạ này nhấn mạnh đến người phụ nữ “Có một bà kia…” Rồi Thánh Mác-cô kể chi tiết bệnh tình của người phụ nữ ấy. Trong Phúc âm, có chuyện một người phụ nữ khác, người gốc Phê-ni-xi (Mc7:24-30) có đứa con gái nhỏ bị quỷ ám. Thánh Mác-cô tả danh tính hai người phụ nữa ấy và câu chuyện của họ liên quan đến Chúa Giêsu. Cả hai đều rất cần sự giúp đỡ. Trong câu chuyện người phụ nữ hôm nay, bà ta “nói hết sự thật với Chúa Giêsu”.
Trong Kinh Thánh, chỉ toàn chuyện của nam giới. Mỗi khi người phụ nữ lập gia đình, thì người đó rời gia đình họ, gia nhập vào gia đình nhà chồng và sống dưới quyền nhà chồng. Người đàn ông có toàn quyền trong gia đình, trên vợ và con cái. Nhưng cũng có nhiều câu chuyện nhắc đến phụ nữđó là những người phụ nữ theo Chúa Giêsu, và trong các cộng đoàn giáo hữu đầu tiên cũng có nhiều phụ nữ giúp đỡ. Như trong thơ Phaolô gởi giáo hữu thành Roma, có chị Pơ-rít-ca (Rm 16:3), chị Phê-bê nữ trợ tá Hội Thánh Ken-khơ-rê(Rm 16:1) và Maria (Rm 16:6)
Người phụ nữ trong Phúc Âm hôm nay đã trở nên gương mẫu cho các phụ nữ trong các cộng đoàn giáo hữu đầu tiên. Bà ta bước ra khỏi sự áp chế của xã hội thời bấy giờ. Bà đã tự động chen qua đám đông quần chúng để đến sờ vào áo Chúa Giêsu. Bà ta ở trong tình huống ngặt nghèo chỉ hy vọng duy nhất vào sự giúp đỡ của Chúa Giêsu. Bà ta không những vượt qua sự ngăn cản của xã hội mà cả sự ngăn cản của tôn giáo nữa. Bà tin Chúa Giêsu sẽ giúp cho bà, mặc dù những người khác không suy nghĩ như vậy.
Người phụ nữ ấy không những là gương mẫu cho các phụ nữ khác đang bị ràng buộc bởi giai cấp xã hội, bởi giới doanh nhân, mà còn là gương mẫu cho các phụ nữ đã bị tôn giáo khai trừ, hay coi thường những tài năng của họ. Nhưng họ vẫn dấn thân trong cộng đoàn để lãnh nhận những phần việc phục vụ gia đình và cộng đoàn, dạy dỗ con trẻ, làm việc trong cộng đoàn, giúp những gia đình thiếu thốn, đọc sách và kiệu Mình Thánh Chúa, cố vấn những người khác v.v…
Sau khi người phụ nữ trong Phúc Âm được chữa lành, Chúa Giêsu gọi bà ta là ‘con’. “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con…” Bà được trở lại với cộng đoàn con cái Chúa, không còn bị xã hội và tôn giáo ruồng bỏ nữa. “Lòng tin của con đã cứu chữa con” nghĩa là gì? Bà đã bị ruồng bỏ, nhưng bây giờ Chúa Giêsu thấy bà cần được giúp đỡ nên đã chữa lành cho bà. Lời của Giêsu dẫn đưa người ngoại vào cộng đoàn và được Chúa chữa lành. Điều gì đưa chúng ta đến Thánh lễ ngày hôm nay? Có phải chúng ta đến đây để sờ vào Chúa Giêsu và để được Chúa sờ vào chúng ta chăng? Nếu quả thật như vậy, thì đời sống chúng ta sẽ được thay đổi như thế nào? Sự liên kết trong cộng đoàn chúng ta có khắng khít hơn không? Và chúng ta có mời gọi nhau cùng đến để sờ và được sờ về thể xác và về tâm hồn không?
Câu chuyện người Gia-ia có con gái gần chết, bị gián đoạn vì câu chuyện người phụ nữ bị bệnh băng huyết. Thật ra, hai câu chuyện đều nói về hai người phụ nữ cần được giúp đỡ. Con của ông Gia-ia chỉ có 12 tuổi, nhưng đó là tuổi có thể được lập gia đình. Vừa đến tuổi trưởng thành, lập gia đình, thì sự chết của cô ta làm cho cha mẹ muốn chết theo.
Khi Chúa Giêsu vào phòng người con gái đã chết, thì đó là lúc Chúa Giêsu bước qua bên kia bờ, không phải là bước lên thuyền để qua bờ bên kia, nhưng là Chúa Giêsu bước qua bên phía người bị loại bỏ, không sạch nữa. Lòng thương yêu của Chúa Giêsu làm cho Ngài bước qua sự cấm đoán của xã hội và tôn giáo để giúp những trường hợp cần đến Ngài. Khi Chúa đã truyền người con gái đứng dậy, Ngài bảo phải cho cô đồ ăn. Cô gái đó và cả gia đình đều được chữa lành. Chúa Giêsu đã thắng sự chết, và cộng đoàn đã được bình ổn. Đó là việc xảy ra mỗi khi chúng ta đến dự Tiệc Thánh nhờ đó chúng ta được lành lại, vì Chúa Giêsu đã đưa tay kéo chúng ta đứng dậy và Ngài nói “Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi”. (Mc 5,41).
(Suy niệm của Lm. Jude Siciliano, OP) SIÊNG NĂNG ĐỤNG VÀO CHÚA GIÊSU QUA BÍ TÍCH THÁNH THỂ SẼ ĐƯỢC CỨU RỖI
Anh Ladarô và đủ́a bé gái con ông Jairus sau này đều chết. Không ai biết đủ́a bé gái sau này lỏ́n TN 13-B148
Anh Ladarô và đủ́a bé gái con ông Jairus sau này đều chết. Không ai biết đủ́a bé gái sau này lỏ́n lên chết vì sinh đẻ hay vì bệnh tật. Cô ta có thể sống lâu, có con và cháu. Có thể khi cô ta nằm trên giường chết có thân nhân đứng chung quanh đó. Và sau đó lễ an táng như thường lệ. Chắc có thuê người chơi nhạc, và khóc mướn. Hàng xóm chắc nghe tiếng đám ma và biết con ông Jairus chết một lần nữa.
Chắc có người lớn tuổi nhớ cô ta chết một lần khi được 12 tuổi. Chắc họ kể cho con cái về ông hội trưởng hội đường cha cô ta đã bất kể những chống đối đối với thầy giảng Giêsu để đến quỳ gối xuống xin Chúa Giêsu chữa con ông ta. Bệnh hoạn và sự chết đã len lỏi vào cả những người có địa vị trong xã hội. Hai điều đó đến với chúng ta trong lúc chúng ta yếu đuối, làm mất cả các ảo tưởng, và nhắc chúng ta là mặc dù chúng ta có đía vị quan trọng đi nữa, chúng ta vẫn là phàm nhân - sống tạm thời trên trần thế mà thôi. Rồi con gái ông Jairus chết một lần nữa, nhưng Chúa Giêsu không có đó để giúp đở gia đình trong lúc đau khổ buồn phiền. Vậy có phải Chúa Giêsu chỉ làm phép lạ cho con gái ông Jairus một lần hay sao, một phếp lạ lớn chứng tỏ quyền năng của Ngài hay sao?
Cộng đoàn tín hữu tiên khởi kể lại câu chuyện này cho chúng ta không nghĩ như vậy. Họ nhìn thấy Chúa Giêsu làm phép lạ nhiều lần cho người chết sống lại qua phép lạ Ngài làm cho con gái ông Jairus. Thật ra họ thấy trong câu chuyện đó điều quan trọng cho chúng ta là những người đã nhiều lần chứng kiến cái chết của người thân thương. Thêm vào đó, chúng ta cũng sẽ gặp sự chết của chúng ta. Phép lạ Chúa Giêsu làm cho đứa bé gái ấy có ý nghĩa gi cho chúng ta hôm nay? Tiền nhân chúng ta trong đức tin nghĩ là có, vì chúng ta thấy qua cách họ kể câu chuyện. Họ cho thấy dấu chỉ về sự sống lại trong khi kể câu chuyện.
Giá như: ông Jairus xin Chúa Giêsu đặt tay trên bé gái để cháu được "cứu thoát" và được “sống". Hai lời đó đều có ý nghĩa đặc biệt. Trong Giáo Hội tiên khởi người ta thường dùng hai lời đó để nói về "sự cứu rỗi" và về "sự sống đời đời". Các tiền nhân chúng ta trong đức tin nghĩ rằng trong phép lạ đó, Chúa Giêsu đã cứu rổi và ban sự sống đời đời cho kẻ chết.
Trong một bủ̉a tiệc sinh nhật, một bà mẹ nói vỏ́i tôi trong lúc ăn bánh và uống cà phê là con trai bà ta bị bệnh nghiện ma túy. Anh ta ra vô nhà điều dưỡng nhiều lần. Hiện giỏ̀ anh ta không ỏ̉ trong nhà điều dưỡng, không dùng ma túy, nhủng không có việc làm. Bà ta sọ̉ anh ta sẽ trỏ̉ lại dùng ma túy và vỏ́i các bạn cũ. Bà ta xin cầu nguyện. Bà ta cũng đã nói chuyện vỏ́i cố vấn con bà ta, để hỏi xem cách nào bà ta có thể giúp ngủỏ̀i con trai. Cũng nhủ ông Jairus, bà ta cầu xin cho con bà ta đủọ̉c "mạnh và sống lại". Bà ta muốn giúp ngủỏ̀i con không nhủ̃ng bỏ ma túy mà tìm đủọ̉̀c ý nghĩa sâu đậm của cuộc đỏ̀i. Bà ta hy vọng ngủỏ̀i con đó có thể đủọ̉c niềm tin vào Chúa Giêsu nhủ bà ta và cảm nghiệm tình thủỏng yêu và sụ̉ giúp đỏ̉ mà bà ta hủỏng đủọ̉c trong cộng đoàn đủ́c tin. Cũng nhủ ông Jairus, bà ta muốn nắm tay Chúa Giêsu và dẩn Ngài đến sỏ̀ vào con bà ta. Bà ta hy vọng là qua bà ta, Chúa Giêsu sẽ đưa tay đến ngủỏ̀i con, đánh thủ́c anh ta dậy trong lúc anh ta ngủ, để anh ta có thể "sống".
Ở Trung Đông có một hiện tượng tâm linh gọi là "tỉnh thủ́c". Điều đó xảy ra như sau: chúng ta bận rộn làm từ việc này qua việc nọ trong ngày, đến chiều tối chúng ta chìm đắm trong việc xem ti vi, rồi đi ngủ chút ít, Hôm sau lại vội vàng bận rộn làm việc. Chúng ta không có thì giờ chiêm nghiệm nhìn vào căn bản cuộc sống hằng ngày. Lại còn ít thời gian lo cho đời sống nội tâm. Có lúc, có thể nhiều sự việc xảy ra cắt đứt các tập tục thông thủỏ̀ng. Nhủ khi trong đời sống nội tâm có điều gì không khải cần được sửa chửa; có thể nhờ người gần gủi qua đời hay lâm bệnh nặng; hay sức lực của mình bị sút kém vì lớn tuổi; hay chúng ta trải qua cuộc ly dị do thiếu lo lắng cho đời sống gia đình v.v... Cho đến khi những sự việc đó xảy ra chúng ta chưa "thức tỉnh". Chúng ta nhìn vào nơi nào đó, vào những điều chúng ta nghĩ làm cho đời sống "có ý nghĩa", "hào hứng", đáng “chú ý", và "quan trọng". Những điều gì đã xảy ra cho chúng ta làm chúng ta tỉnh thủ́c qua một giấc ngủ trièn miên trong sự chết. Có người nào đã đưa bàn tay sờ vào chúng ta và đánh thức chúng ta dậy. Chúng ta được "cứu rổi" và được trông thấy rõ ràng hơn hoàn cảnh hiện tại, và Đấng đó là ai đã ban cho chúng ta sự sống.
Chúng ta đủọ̉c thủ́c tỉnh một cách khác nủ̃a: điều rõ ràng trong câu chuyện bé gái con ông Jairus là bé đó đã chết, nhiều người khóc lóc kêu la ầm ỉ chứng tỏ điều đó. Nhưng Chúa Giêsu bảo họ là đứa bé đang "ngủ", có chết đâu, làm các người đó chế nhạo Ngài. Thánh Máccô nói rõ với chúng ta là cộng đoàn tín hữu tuyên xưng Chúa Giêsu. Sự chết như là “giấc ngủ" đối với Chúa Giêsu. Và điều gì Ngài làm cho đứa bé; Ngài sẽ làm cho chúng ta và làm cho chúng ta tỉnh thức qua giấc ngủ. Với niềm tin là Chúa Giêsu có quyền làm điều này, mỗi người trong chúng ta có thể can đảm nhìn vào sự chết của chúng ta với đức tin Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta. Chúng ta sống trong một văn hoá không chấp nhận sự chết, và tôn thờ tuổi trẻ, sự thành công. Kiểm soát được sức khoẻ và quyền lực. Sự chết mở màng cho chúng ta thấy những điều chúng ta tôn thờ đó và bày tỏ những hứa hẹn hảo huyền của chúng. Chúng ta ngủ, nhắm mắt lại như chúng ta điều khiển sự việc, nhưng cuối cùng sự chết có quyền uy.
Hình nhủ sụ̉ chết cũng có quyền uy cuối cùng trên Chúa Giêsu. Sụ̉ sống lại của Chúa Giêsu nhắc chúng ta là chính Ngài mới là ngủỏ̀i có quyền uy cuối cùng chứ không phải sụ̉ chết. Bây giỏ̀ chúng ta có thể nhìn vào đỏ̀i sống vỏ́i một quan niệm khác và tin là sụ̉ chết thật ra chỉ là một "giấc ngủ" mà Chúa Giêsu đã đánh thủ́c chúng ta dậy. Niềm tin vào sụ̉ sống lại sẽ làm chúng ta tụ̉ do hỏn để chống chọi vỏ́i nhủ̃ng thách thức của cuộc sống. Chúng ta không cần giả vờ là chúng ta không già; chúng ta có thể nhìn vào nhủ̃ng thất bại của chúng ta theo quan điểm xuyên suốt đỏ̀i sống; chúng ta có thể bỏ ý định điều khiển cuộc sống để tuân theo thánh ý Thiên Chúa; chúng ta không cần phải lo sọ̉ hải khi đỏ̀i sống chúng ta không còn nủ̃a, và sủ́c khỏe chúng ta yếu dần; và chúng ta không cảm thấy cô đỏn trong lúc chúng ta phải chiến đấu vỏ́i sụ̉ dủ̉ dủỏ́i mọi hình thủ́c của sụ̉ chết trong thế gian.
Chúa Giêsu bảo nên cho em bé ăn. Có điều gì chủ́ng tỏ mạnh hỏn là đủ́a bé đã sống lại không? Việc ăn uống không nhủ̃ng là dấu chỉ là cỏ thể em bé đã hoạt động bình thủỏ̀ng. Trong văn hóa thỏ̀i đó, ăn uống vỏ́i gia đình là dấu chỉ mạnh mẻ chủ́ng tỏ có sụ̉ sống để thuộc về gia đình. Ngủòi có sụ̉ sống không chỉ là cá nhân, nhủng là thành phần của cộng đoàn. Gia đình cho em bé ăn và rồi em bé đủọ̉c trỏ̉ lại sụ̉ sống hoàn toàn. Không ai biết em bé đau bao lâu và đã không ngồi vào bàn ăn vỏ́i gia đình. Bây giỏ̀ em bé trỏ̉ lại bàn ăn chung quanh có ngủỏ̀i thân thủỏng. Vị giảng thuyết có thể so sánh việc đó tủỏng đủỏng vỏ́i bàn tiệc Thánh Thể. Khi chúng ta "ngủ", hay "chết" vì tội lỗi, Chúa Kitô sống lại "đánh thủ́c" chúng ta qua việc tha thủ́ tội lỗi chúng ta. Chúng ta đủọ̉c sụ̉ sống trỏ̉ lại nhủ một thành phần của gia đình tín hủ̃u. Chúng ta có thể trỏ̉ lại bàn ăn gia đình, và ăn uống Mình thánh và Máu thánh Chúa Kitô.
Về câu chuyện người phụ nữ bị băng huyết chận Chúa Giêsu trên đường đi về nhà ông Jairus: Bà ta như là một người có tiền của. Trong một xã hội nghèo nàn như thế, làm sao bà ta có tiền đi "nhiều thầy thuốc" như thế? Và bây giờ người bị băng huyết là người không trong sạch theo lề luật xã hội. Bà ta không đươc phép thờ phượng trong hội đường, và phải tránh xa cộng đoàn vì sợ lây cho người khác. Thật buồn cười, có thể trong quá khứ bà ta biết ông Jairus, và có thể cũng cùng một nhóm xã hội với nhau. Và bây giờ người phụ nữ đó lại không được thờ phượng trong hội đường. Dù vậy sự cần giúp đở trong lúc rối rắm, cả hai người cùng gặp nhau. Bây giờ cả hai người cùng cần được giúp đở, và cùng có đức tin vào Chúa Giêsu, cùng thuôc về một cộng đoàn. Cũng như chúng ta cần đức tin vào Chúa Giêsu trong việc phụng vụ hôm nay. Những sự khác biệt giữa chúng ta đều được bỏ qua một bên, và chúng ta cùng nhau đến với Chúa Giêsu. Nhưng, chính Ngài, qua Lời Kinh Thánh và phép Thánh Thể đến với chúng ta sờ tay vào chúng ta và đánh thức chúng ta dậy.
Những vấn nạn lớn nhất của con người mọi thời đại, đó là sự dữ và sự chết. Kể từ khi hiện hữu TN 13-B149
Những vấn nạn lớn nhất của con người mọi thời đại, đó là sự dữ và sự chết. Kể từ khi hiện hữu, con người không ngừng tìm kiếm câu trả lời cho vấn nạn này. Tại sao có sự dữ? Tại sao con người phải đau khổ và phải chết? Sau khi chết con người sẽ về đâu? Bên kia sự chết là gì? Người ta tìm mọi cách can thiệp cho con người thoát khỏi cái chết, nhưng vô hiệu. Đối diện với đau khổ và sự dữ, nhiều người đã mất niềm tin vào Thiên Chúa, thậm chí phủ nhận sự hiện hữu của Ngài.
Thiên Chúa không làm ra cái chết. Ngài chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong. Thiên Chúa cũng không là tác giả của sự dữ. Sách Khôn Ngoan khẳng định với chúng ta như thế (Bài đọc I). Sách Khôn Ngoan được viết khá muộn, khoảng thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, tức là rất gần với Chúa Giê-su. Nội dung cuốn sách này là những suy tư về thân phận con người, khuyến khích lòng hiếu thảo và nhất là nhằm củng cố đức tin nơi người Do Thái. Ngài luôn yêu thương con người, và đã thể hiện tình yêu ấy bằng công cuộc sáng tạo cũng như bằng những điềm thiêng dấu lạ trong lịch sử. Khi khẳng định: Thiên Chúa không làm ra cái chết và sự dữ, tác giả nói với chúng ta: cái chết là nguyên nhân của quỷ dữ ghen tỵ; đau khổ nhiều khi đến từ chính con người.
Sự chết cũng gắn liền với kiếp sống nhân sinh. Con người đã có ngày sinh ắt có ngày tử. Chẳng ai sống mãi trên thế gian này. Nhìn theo khía cạnh nhân sinh, cái chết cũng là điều may mắn đối với con người. Bởi lẽ nếu mọi người từ tạo thiên lập địa mà không chết thì không biết thế giới sẽ ra sao?
Đã là con người hiện hữu trên trần gian, không ai tránh khỏi đau khổ. Con Thiên Chúa nhập thể làm người cũng đã trải qua đau khổ như chúng ta và đã phải chết. Chúa Giê-su đón nhận đau khổ trong tình yêu thương nhân loại. Tình yêu sẽ hóa giải đau khổ, hoặc ít ra sẽ giúp chúng ta nghị lực để vượt lên đau khổ. Một số người đã tự tìm đến cái chết khi đối diện với đau khổ. Họ đã không tìm được niềm hy vọng và ý nghĩa cuộc đời.
Đức Giê-su đến trần gian để khẳng định: Thiên Chúa làm chủ sự sống. Ngài là Thiên Chúa của kẻ sống chứ không phải là của kẻ chết. Ngài tạo dựng con người không phải để trở về với cát bụi, nhưng để sống hạnh phúc mãi mãi. Như thế, nếu quỷ dữ ghen tương gây nên cái chết, thì Thiên Chúa tình yêu sẽ ban cho con người được sống. Để chứng minh Thiên Chúa có quyền năng trên sự chết, Chúa Giê-su đã làm cho bé gái 12 tuổi, con ông trưởng hội đường tên là Gai-ô, đã chết được sống lại. Thân nhân gia đình và hàng xóm của ông khi thấy bé gái đã chết, liền khuyên can đừng mời Chúa Giê-su đến nữa, vì họ không tin một người đã chết có thể sống lại. Đức Giê-su đã làm cho bé gái sống lại trước sự ngỡ ngàng của mọi người.
Thánh Mác-cô diễn tả ông trưởng hội đường như một người có đức tin vững vàng, qua lời van xin: “Con bé nhà tôi sắp chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu chữa và được sống”. Lời van xin này cho thấy, ông tin chắc vào quyền năng của Chúa Giê-su, và dù con ông có chết, cũng sẽ được hồi sinh. Cùng một chủ đề đức tin, tác giả đan xen hai phép lạ trong một trình thuật. Đó là người phụ nữ bị bệnh đã mười hai năm, các thầy thuốc đều đã bó tay. Trong tình trạng đó, bà tin chắc rằng nếu bà chạm tới áo Chúa Giê-su, thì bà sẽ được chữa lành. Sự thể đã xảy ra như vậy. Bà đã được chữa lành ngay tức khắc. Cả hai người – ông trưởng hội đường và người phụ nữ – đều là những gương mẫu về đức tin cho chúng ta.
“Lòng tin của con đã chữa con”. Lời Chúa Giê-su cho thấy điều kiện duy nhất để đón nhận ơn Chúa là lòng tin. Liền sau đó, Chúa cũng nói với ông trưởng hội đường, khi người ta báo tin con ông đã chết: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Đức tin luôn là điều kiện cần thiết để ta đón nhận ơn Chúa, kể cả trong những lúc gian nan nhất của cuộc đời. Đức tin Ki-tô giáo khẳng định với chúng ta: sự chết thực ra chỉ là sự biến đổi trạng thái hiện hữu. Sự chết cũng là cánh cửa mở ra để ta bước vào thế giới mới. Những ai sống tốt lành thánh thiện, sau khi chết sẽ được hưởng vinh quang Chúa hứa cho những người công chính. Chỉ có hạnh phúc đời sau mới lý giải được sự công bằng trong đời sống con người. Như thế, dưới lăng kính Ki-tô giáo, sự dữ và sự chết bớt đi màu sắc ảm đạm thê lương, và bừng lên niềm hy vọng nơi tình thương nhiệm màu của Thiên Chúa.
Dù cắt nghĩa thế nào đi nữa, đau khổ và sự chết vẫn đè nặng trên mỗi chúng ta. Sự chết đến từ ghen tương của quỷ dữ, nhưng sự chết cũng đến từ chính chúng ta, hoặc do chính bản thân hoặc do người khác gây ra. Quả vậy, khi gieo rắc hận thù, bạo lực, chiến tranh là gieo rắc đau khổ sự chết. Thánh Phao-lô đưa ra lời khuyên: mỗi người góp phần giảm thiểu đau khổ bằng những nghĩa cử chia sẻ bác ái (Bài đọc II). Ngài khuyên giáo dân Cô-rin-tô, lúc đó khá ổn định về vật chất, hãy quan tâm đến những người đang lâm cảnh túng thiếu. Khi cùng nhau cổ võ những việc thiện, chắc chắn cái ác sẽ bị đẩy lui.
Hai biến cố lồng vào nhau hôm nay làm nên một câu chuyện thật sống động, được Mác-cô tường TN 13-B150
Hai biến cố lồng vào nhau hôm nay làm nên một câu chuyện thật sống động, được Mác-cô tường thuật theo lời kể của Phê-rô, con người cụ thể, quan sát viên chính xác. Khung cảnh, các nhân vật, các hành vi, tất cả xảy ra như trong một cuốn phim.
Từ Niềm Tin Ma Thuật Đến Đức Tin Chân Chính
Mở đầu với việc ông Gia-ia “khẩn khoản nài xin”, trong khi Đức Giê-su chẳng nói gì, chỉ “ra đi với ông”, câu chuyện chuyển ngay sang người đàn bà bị băng huyết. Mác-cô nhấn mạnh đến tình trạng tuyệt vọng của bà: “bao phen khổ sở”... “chạy thuốc đã nhiều”... “tán gia bại sản”... “bệnh vẫn không thuyên giảm, lại còn nặng thêm”... Kiểu nhấn mạnh ấy muốn nói với ta rằng khi mọi phương sách loài người đã cạn, Đức Giê-su sẽ là chỗ nương tựa cuối cùng.
Trong não trạng Do-thái đương thời, người phụ nữ ấy bị xem như “ô uế” chiếu luật Mô-sê (x. Lv 15,25), thậm chí còn làm cho kẻ khác ra ô uế chỉ bằng việc đụng chạm. Bà khốn khổ chẳng những vì cơn bệnh hành hạ, mà còn vì bị xã hội và tôn giáo loại ra khỏi cộng đoàn. Hãy cố tưởng tượng nỗi ô nhục và e sợ của kẻ bất hạnh này: sờ vào Đức Giê-su là bà làm một việc cấm kỵ, rồi biết đâu Người lại phản đối sự đụng chạm gây ô uế đó! Nhưng ước vọng sống, ước vọng được giải thoát, được hội nhập lại vào xã hội đã khiến bà phải liều. Thiên hạ đã chẳng đồn ngôn sứ Giê-su là Đấng “đến để tìm và cứu những gì đã hư mất”, Đấng đón tiếp những kẻ nghèo hèn nhất đó sao? Họ đã chẳng nói không một nỗi khổ nào, dẫu kín ẩn nhất, dẫu xấu hổ nhất, lại bị Người xua đuổi; không một Lề luật nào đứng vững trước Người khi có chuyện “giải cứu” ai đó sao?
Thế là bà nhất định sờ vào Người, để thần lực của Người chuyển sang thân thể của bà đang bệnh hoạn yếu nhược. Nhưng có lẽ sợ bất kính, bà đã chỉ chạm đến gấu áo của Người, với niềm tin tưởng vô biên. Việc lạ lùng đã xảy tới: bà được khỏi. Nhưng một chuyện cũng lạ lùng không kém: giữa bao kẻ chen lấn mình, Đức Giê-su đã như trực giác một đụng chạm đặc biệt.
Không muốn dừng lại ở tính vô danh của đám đông, Người tìm một tiếp xúc cá nhân. Người cũng muốn bà băng huyết vượt quá niềm tin tưởng nhuốm màu ma thuật mê tín của bà (“tôi mà sờ vào... là sẽ được cứu...”), để đi vào một đức tin chân thực, là thừa nhận bản thân Người. Chúng ta nhận thấy Đức Giê-su quả là một nhà giáo dục: Người lưu ý đến niềm tin tưởng bất toàn và ngây ngô, nhưng cũng tìm cách đưa tới một đức tin trưởng thành, có lý do, có động lực. Người yêu chúng ta đúng như chúng ta đang là, song vẫn muốn đưa chúng ta lên cao mãi.
Kinh hãi, người phụ nữ phủ phục, nói hết sự thực và chờ đợi sự trừng phạt. Nhưng Đấng Thánh của Thiên Chúa lại thốt lên một câu bất ngờ và vô cùng khiêm tốn: “Lòng tin con đã cứu chữa con. Con hãy về bằng an và khỏi hẳn bệnh”. “Khỏi bệnh”! “Cứu chữa”! Trong cái nhìn của Ki-tô hữu sau Phục sinh, các phép lạ của Đức Giêsu đều là lời loan báo “ơn cứu rỗi nhờ đức tin” mà chúng ta sẽ hưởng được nếu thừa nhận Người. Vâng, đối với Đức Giêsu, điều chủ yếu không phải là “chuyện lạ lùng”, song là ơn cứu rỗi.
Từ Niềm Tin Vào Sự Cứu Chữa Đến Niềm Tin Vào Sự Hồi Sinh
Biến cố thứ hai cũng nhấn mạnh đến niềm tin. Đó là nội dung câu đầu tiên Đức Giê-su nói với ông trưởng hội đường khi thân nhân xin ông thôi làm phiền Người vì con gái ông đã chết. Chính “đức tin” mới đáng kể đối với Đức Giê-su. Mác-cô kể lại với chúng ta hai phép lạ lồng vào nhau để cho thấy một đức tin tăng dần: tin rằng Đức Giê-su có thể chữa lành một người bệnh, tin rằng Đức Giê-su có thể hồi sinh một kẻ chết.
Vì đối với kẻ đương thời Đức Giê-su, xin ơn hồi sinh từ Người là điều khó tưởng tượng. Chữa lành một bệnh nhân thì còn có thể. Hồi sinh một kẻ chết chỉ tổ quấy rầy Thầy. Điều này nêu bật sự nghịch lý, ngược đời của đức tin.
Một lần nữa, Đức Giê-su không muốn làm điều giật gân. Mỗi khi có thể, Người thích thực hiện các phép lạ trong kín đáo, để qua vài chứng nhân có thẩm quyền, Người nêu bật ý nghĩa đích thực của phép lạ. Hôm nay, Người chỉ mang theo ba chứng nhân đặc tuyển, vốn cũng sẽ chứng kiến cuộc biến hình (x. Mc 9,2) và cơn hấp hối của Người (x. Mc 14,33). Đức Giê-su chẳng muốn quyền lực của mình là một quyền lực ma thuật, phá bỏ vĩnh viễn luật tự nhiên: Người sẽ đích thân cảm nghiệm cách bi thảm về cơn hấp hối và cái chết... vốn đã động tới cô con gái của ông Gia-ia hôm nay! Sự cứu rỗi duy nhất và chung quyết (mà phép lạ này chỉ là hình ảnh tiên báo), đó là cuộc Vượt qua cuối cùng, việc đi vào Sự Sống vĩnh cửu.
Và Đức Giê-su đã làm tất cả đám đông kinh ngạc, thậm chí chế giễu, qua câu nói: “Đứa bé có chết đâu! Nó ngủ đấy!” Rồi đây Người cũng sẽ bảo thế trên đường đến mộ La-da-rô (x. Ga 11,11). Và để lô-gích với lời mình vừa phán, Đức Giê-su đã cầm lấy tay cô bé và bảo: “Này bé, Thầy truyền cho con, trỗi dậy đi.”
Câu nói trước hết được trích dẫn bằng ngôn ngữ A-ram, tiếng mẹ đẻ của Đức Giê-su (chi tiết này cho thấy một chứng nhân tận mắt), và Mác-cô đã dịch ngay bằng tiếng Hy-lạp. Thật ra, hai từ A-ram ấy được dịch gọn hơn nhiều: “Này bé, đứng dậy!” Nhưng tác giả cảm thấy phải nói dài, và ông đã sử dụng một từ chủ chốt nơi cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi: “Trỗi dậy đi” (Hy ngữ là “égeiré”). Đây là từ được dùng để nói việc Đức Giê-su sống lại. Nó có một hương vị phục sinh, đối nghịch với từ “ngủ” mà Đức Giê-su đã sử dụng trên kia để nói về cái chết. Vâng, đối với Đức Giê-su, cái chết chẳng còn hoàn toàn là cái chết, mà chỉ là một giấc ngủ trước khi thức dậy. Một thánh ca rất cổ của các Ki-tô hữu đầu tiên, được hát trong lễ nghi rửa tội, đã viết thế này: “Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Ki-tô sẽ chiếu sáng ngươi” (Ep 5,14).
Nếu lưu ý rằng tên “Gia-ia” có nghĩa là “người chiếu sáng”, “người đánh thức” và phép rửa đã từng được gọi là “sự tái sinh” và “ơn soi sáng” (x. Giáo lý HTCG số 1215-1216), thì có thể cho rằng phép lạ đang nói đây chính là biểu tượng phép rửa.
Phải chăng chúng ta thật sự tin rằng mình đã nhận cùng ân huệ như cô bé? Nhờ phép rửa, chúng ta đã đi từ sự chết sang sự sống, sự sống vĩnh cửu, một sự sống vốn đã bắt đầu rồi. Phải chăng chúng ta luôn nhớ rằng mình là một kẻ không ngừng “đứng dậy”, “thức dậy”, “trỗi dậy”, để chờ ngày phục sinh mãi mãi, luôn ý thức những hoàn cảnh chết người mà đức tin và phép rửa đã cứu chúng ta ra khỏi?
Một người vô thần nghe một Ki-tô hữu nói về ơn cứu rỗi của Chúa Giê-su. Khi hay rằng ai nấy có thể được ban sự sống vĩnh cửu nhờ tiếp nhận cái chết đền tội của Con Thiên Chúa trên thập giá, người ấy bèn nói: “Tôi không tin! Chết là hết, chằng còn gì nữa cả!” Tín hữu Ki-tô đáp lại: “Tôi đồng ý với bạn, cái chết là kết cuộc của mọi sự!” Người kia hơi ngạc nhiên: “Sao? Bây giờ ông đồng ý với tôi à?” - “Phải, cái chết là chấm dứt cơ hội để bạn được cứu, là chấm dứt tất cả thú vui của bạn, tất cả những dự tính, những tham vọng của bạn, cũng như những giao tình thân hữu của bạn. Cái chết chấm dứt mọi sự đối với bạn, nhưng nó bắt đầu những dày vò đời đời của bạn.” Rồi tín hữu Ki-tô nói tiếp: “Đối với tôi, cái chết cũng là kết cuộc của mọi sự. Nó chấm dứt những giọt lệ của tôi, những nỗi đau đớn của tôi, cũng như những cuộc chiến đấu của tôi. Đối với những thống khổ của tôi, cái chết làm tiêu tan tất cả, nhưng nó là khởi điểm điều kỳ diệu cho tôi, vì sau cái chết, mà niềm tin cho tôi thấy chỉ là một giấc ngủ, tôi sẽ về cùng Thiên Chúa của tôi trong vinh quang và hạnh phúc muôn đời.”