Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi, Người ban cho các ông có quyền trên các thần ô uế. Và Người truyền các ông đi đường, đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo. Người lại bảo: “Ðến đâu, các con vào nhà nào, thì ở lại đó cho đến khi ra đi. Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ”. Các ông ra đi rao giảng sự thống hối. Các ông trừ nhiều quỷ, xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân. - Ðó là lời Chúa.
Trong sinh hoạt của giáo phận hoặc các nhà dòng, cứ vào dịp hè, các cha các thầy, các sơ thường TN 15-B151
Trong sinh hoạt của giáo phận hoặc các nhà dòng, cứ vào dịp hè, các cha các thầy, các sơ thường quan tâm đến việc bổ nhiệm, thuyên chuyển. Có những người từ thành thị về thôn quê, có người từ vùng sâu ra thành thị, có người mới chuyển được một hai năm nay lại tiếp tục lên đường. Ngược lại, có những người đã làm việc nhiều năm nhưng vẫn chưa được thuyên chuyển. Có những người lên đường trong vui vẻ vâng lời, nhưng cũng không ít người ra đi trong tiếc nuối ngại ngùng; Và, cũng có một vài trường hợp, tìm cách níu kéo, chần chừ, không muốn ra đi.
Thưa quý OBACE, căn cốt người môn đệ là người được tuyển chọn và sứ mạng của người môn đệ là làm theo lệnh sai đi. Vì nếu không làm theo lệnh sai đi, thì việc làm của người đó chỉ là việc làm mang tính cá nhân, thỏa mãn sở thích của mình, không còn phải là việc của Giáo Hội nữa. Vì được gọi và được sai đi, nên dù công việc của người môn đệ thành công hay thất bại đều là việc của Chúa và của Giáo Hội, “thành công không kiêu, thất bại không nản”.
Trong thực tế, người môn đệ khi được sai đến một môi trường mới, không phải lúc nào cũng thành công, trái lại có nhiều lúc thất bại ê chề, nhưng người đó vẫn bằng an vì biết mình đang làm việc của Chúa, làm theo ý Chúa. Cũng có thể trong mắt của người đời, người môn đệ dường như bị thất bại, nhưng đối với Thiên Chúa, Ngài có thể biến sự thất bại của người này thành ích lợi cho người khác.
Lần đầu tiên khi thi hành sứ mệnh được trao, rao giảng, kêu gọi dân Israel sám hối, tiên tri Amos đã không thành công. Ông không chỉ bị từ chối, mà còn bị dân chúng xua đuổi, mỉa mai. Tiên tri Amos là người miền Nam xứ Giuđêa. Ông được Chúa gọi đi làm ngôn sứ, cảnh báo về lối sống sai lệch của người miền bắc là Israel. Vương quốc Israel lúc đó phát triển về xã hội, kinh tế, cuộc sống giàu có xa hoa. Cùng với sự phát triển kinh tế là sự suy thoái về đời sống đạo đức, sống gian dối, làm ăn bất công lươn lẹo, bỏ rơi người nghèo khổ. Người dân đã từ bỏ giới răn lề luật của Thiên Chúa và sống theo những thói tục dân ngoại. Tiên tri Amos được Chúa gọi và sai đến để cảnh tỉnh nhà vua, các tư tế và dân chúng về lối sống sa đọa đó. Dân Israel đã không nghe mà còn tìm cách trục xuất Amos. Họ nói với ông: “Này thầy chiêm ơi, mau chạy về đất Giuđa, quê ông mà kiếm ăn và giảng dạy ở đó. Đừng hòng mà hoạt động ở đất Bêthel này”.Tiên tri Amos đã trả lời: “Tôi không phải là nhà ngôn sứ, gia đình tôi cũng không thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn cừu và hái lá sung. Nhưng Chúa bắt lấy tôi và nói với tôi: ‘Hãy đi tuyên sấm cho Israel dân Ta’. Và tôi đã đi. Câu trả lời của Amos cho thấy ông được sai đi là để nói lời của Chúa và ý của Chúa cho dân. Vì thế, ông đi theo lệnh của Chúa và nói là nói những gì Chúa muốn. Chúa dùng ông như một dụng cụ của Chúa và ông chỉ như một đầy tớ hoàn toàn vâng phục ý Chúa. Đó chính là thái độ mà người ngôn sứ phải có, là sẵn sàng để cho Chúa sử dụng môi miệng, cả con người, sức lực và khả năng của mình theo ý Chúa.
Tin Mừng Marcô cho thấy, khi sai các môn đệ đi rao giảng, Chúa Giêsu còn đòi hỏi gắt gao hơn nữa. Chúa sai từng hai người một và dặn các ông: “Không mang gì, trừ cây gậy, không mang lương thực, bao bị, tiền bạc”. Sai từng hai người làm thành một nhóm để cho thấy lời các ông rao giảng là lời đáng tin và việc làm của các ông có người làm chứng là chân thật. Sai từng hai người đi, để cho thấy các ông không ra đi trong lẻ loi đơn độc, nhưng làm việc với những anh em cùng chung sứ mạng. Như thế, cho dù các ông thành công hay thất bại, các ông sẽ không nản lòng cũng không kiêu ngạo, không tìm kiếm thành công hay vinh dự cho cá nhân, mà là của tập thể. Các ông cũng không phải mang lương thực bao bị tiền bạc, không mang hai áo, vì các ông ra đi trong sự quan phòng phó thác cho Chúa. Các ông không phải bận tâm về nhu cầu cuộc sống cá nhân vì Chúa sẽ lo liệu cho các ông. Như thế, Chúa muốn những kẻ được sai đi phải dám sống trong sự tin tưởng phó thác hoàn toàn cho Chúa, không cậy dựa vào các thế lực hay tham lam vật chất, danh vọng trần gian và phải dám sống khó nghèo.
Chúa cũng dặn các ông: “Khi vào nhà nào, anh em hãy ở lại đó cho đến khi ra đi. Nơi nào người ta không đón tiếp anh em, thì hãy ra khỏi đó và giũ bụi chân trả lại cho họ”. Lời dặn này có nghĩa là người tông đồ được sai đến với những con người và với các hoàn cảnh sống của gia đình và xã hội. “Hãy ở lại đó cho đến khi ra đi”, là để có thể thực sự hiểu và chia sẻ với cuộc sống của các gia đình. “Ở lại nơi đó”, còn có nghĩa là vui lòng đón nhận các hoàn cảnh khác nhau của nơi mình được sai đến, không chọn lựa hay tìm kiếm sự thoải mái tiện nghi, không đứng núi này nhìn núi khác. Nơi nào người ta không đón tiếp thì hãy ra khỏi đó và giũ bụi chân trả lại. Như vậy, Chúa cũng muốn nói trước với các tông đồ, khi thi hành sứ mạng không phải lúc nào các ông cũng thành công hoặc được mọi người đón tiếp, trọng kính. Nhưng sẽ có khi các ông gặp thất bại, bị từ chối hoặc chống đối. Trong những trường hợp đó, các ông vẫn giữ được sự bình an và niềm vui trong tâm hồn vì mình đã làm việc của người được sai đi. Tin Mừng cũng cho thấy sự thành công bước đầu của các môn đệ: “Các ông đi rao giảng, kêu gọi mọi người ăn năn sám hối. Các ông trừ nhiều quỷ và xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh”. Câu kết luận này cho thấy, những người được Chúa sai đi đã làm những việc Chúa Giêsu đã làm và kêu gọi những điều Chúa Giêsu kêu gọi. Nói khác hơn, những người được sai đi đã trở thành hiện thân của Chúa Giêsu, là cánh tay nối dài và là trái tim mở rộng của Chúa.
Thưa quý OBACE, qua Bí Tích Rửa Tội và Thêm Sức, chúng ta được Chúa gọi và sai đi như các môn đệ ngày xưa. Chúa muốn chúng ta nhiệt tâm ra đi nói về Chúa cho anh em trong mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh. Chúa cũng muốn chúng ta dám sống tâm tình phó thác cho Chúa, miệt mài với sứ mạng, không tìm kiếm thành công, danh vọng địa vị hay vật chất theo kiểu của thế gian, nhưng mang trong mình niềm tự hào vì được cộng tác với Chúa và là cánh tay nối dài của Chúa. Chúng ta được mời dám sống trong sự tin tưởng vào Chúa dù lúc thuận lợi hoặc khi gặp khó khăn, lúc người ta nghe và đón tiếp hoặc khi bị từ chối, xua đuổi. Chúng ta cũng được mời gọi đón nhận mọi trở ngại với tâm hồn bình an và tin rằng Chúa luôn ở với ta và trợ giúp ta trong sứ mạng lớn lao này.
Chúa đang sai các bậc cha mẹ vào trong các gia đình để yêu thương, rao giảng, kêu gọi mọi thành viên sám hối. Chúa cũng trao cho cha mẹ trách nhiệm xua trừ ma quỷ và sự xấu trong gia đình, đồng thời chữa lành bệnh tật của gia đình và trong tâm hồn các thành viên. Vì thế, chúng ta đừng chỉ mải mê tìm kiếm vật chất cho gia đình, mà hãy chuyên tâm vào việc canh tân biến đổi các thành viên trong gia đình nên tốt hơn, sống đúng với Tin Mừng hơn, làm cho gia đình trở nên yêu thương ấm cúng hơn
Các anh em Tin Lành rất nhiệt thành trong việc giới thiệu về Chúa cho người khác. Họ nói về Chúa ở khắp nơi, khi đi đường, lúc trên xe, lúc ngồi quán, dù bị từ chối hay được đón nhận. Còn những người Công Giáo lại không mạnh dạn nói về Chúa như họ. Phải chăng chúng ta không biết về Chúa Kitô và Tin Mừng của Người hay chúng ta còn bận vướng nhiều thứ khiến không thể nói về Chúa cách xác tín được? Qua Bí Tích Rửa Tội, mỗi người được Chúa sai đi làm chứng nhân cho Chúa. Chúng ta phải loan báo Tin Mừng Tình Yêu, sự tha thứ và ơn giải thoát cho thế giới này. Cho dù được thế giới đón nhận hay từ chối, chúng ta vẫn phải không ngừng nói về Chúa và đem tình yêu thương, lòng bao dung tha thứ vào trong xã hội hôm nay.
Có một người thắp một ngọn đèn và từng bước lên một ngọn tháp cao. Càng lên cao gió càng mạnh, khiến cho ngọn đèn run rẩy. Ngọn đèn thưa với ông chủ: “Thưa ông, ông đem con đi đâu?” Ông chủ đáp: “Ta đem con lên ngọn tháp”. Ngọn đèn đáp: “Thưa ông con bé nhỏ làm sao có thể đương đầu được với gió bão”. Ông chủ đáp: “Việc đó để ta lo”. Ngọn đèn lại năn nỉ: “Mình con làm sao có thể làm gì được?” Ông chủ lại trả lời: “Việc đó để ta lo”. Một lần nữa ngọn đèn lại năn nỉ: “Thưa ông con không thể làm được việc đó”. Ông nói với ngọn đèn: “Chỉ cần ngươi cứ cháy sáng hết mình, còn việc khác để ta lo”. Lên đến đỉnh tháp, ông chủ đặt ngọn đèn vào giữa những tấm kiếng. Kỳ diệu thay, từ một ngọn đèn nhỏ khi được đặt vào giữa những tấm kiếng, nó trở thành một ngọn hải đăng chiếu ánh sáng để dẫn lối cho tàu bè đi lại.
Chúa cũng muốn chúng ta cứ cháy sáng hết mình. Còn các việc khác Chúa sẽ lo liệu. Amen.
Quê hương mỗi người chỉ một như là chỉ một mẹ thôi. Quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không TN 15-B152
Quê hương mỗi người chỉ một như là chỉ một mẹ thôi. Quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nỗi thành người. ( thơ Đỗ Trung Quân).
Trong trái tim của mỗi con người, tình yêu quê hương là điều thiêng liêng. Khi đi xa quê hương, ta nhớ về lũy tre làng, nhớ dòng sông, cánh đồng, vì nó được gắn liền với tuổi thơ. Khi xa quê hương lòng người càng thêm nhớ thương. Xa quê hương nhớ mẹ hiền, nhớ cha, nhớ anh chị, nhớ mái trường, thời cắp sách đến trường, nhớ tình làng nghĩa xóm. Quê hương được ví như dòng sữa mẹ nuôi ta khôn lớn. Quê hương được khắc ghi trong trái tim mọi người khi đi xa, ta càng nhớ quê hương. Nếu ai không nhớ thì không lớn nỗi thành người.
Theo dòng chảy tình yêu quê hương dạt dào, nó gợi lại cho ta bao nhớ thương quê nhà. Chúa Giêsu cũng có những tâm trạng nhớ thương quê hương của mình, Ngài đã trở lại làng Nazaret nơi Ngài lớn lên. Đó là nỗi niềm của mỗi con người khi xa quê hương. Nhưng lần trở về này, Chúa Giêsu bị thất bại. Ngài bị người anh em đồng hương từ chối. Chúng ta thắc mắc tại sao họ lại khước từ đón tiếp Chúa Giê-su, mặc dù Ngài đã làm nhiều phép lạ cho họ.
Lý do thứ nhất là vì gia thế của Chúa Giêsu. Khi nhìn thấy Chúa Giêsu giảng dạy một cách khôn ngoan, thì dân chúng lại bảo: “ Ông ấy không phải là con ông bác thợ mộc và bà Maria.” Lời họ nói mang tính mỉa mai, coi thường gia thế của Chúa Giê-su. Một gia đình nghèo khó, chẳng có tiếng tăm. Người Việt Nam có câu: “Bụt nhà thông thiêng là vậy.” Họ biết gia thế của Chúa Giê-su nên họ chẳng có gì là ngạc nhiên bởi lời giảng dạy khôn ngoan của Ngài. Chúa Giêsu không có học vị cao như các tiến sĩ luật, các kinh sư, hàng tư tế trong đền thờ.
Chúa Giê-su đã thấu hiểu lòng họ, Ngài nói: “ Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình. Thật là đau lòng, một con người yêu quê hương tha thiết, ấy thế mà Ngài không làm được gì tại quê hương mình. Đáng lẽ họ được hưởng phúc lộc từ các phép lạ nơi Chúa Giê-su. Con mắt thị phi làm cho họ trở nên mù lòa khi đánh giá nhau qua dáng vẻ bên ngoài, qua gia thế và địa vị. Đó là một sự sai lầm mà nhiều mắc phải. Điều sâu xa của sự đánh giá đó, nó nói lên sự kiêu ngạo, xem thường người khác, coi mình trọng hơn người khác. Người ấy có gì hay đâu. Họ tự đề cao chính mình nên họ không đón nhận tài năng của người khác và cũng không muốn người khác hơn mình vì tính ghen tỵ.
Lý do thứ hai họ loại trừ Chúa Giêsu là vì thành kiến. Khi Ngài nói thẳng mặt với các tư tế, kinh sư và dân chúng biết lý do tại sao các phép lạ chỉ xẩy ra cho dân ngoại tại Ca-phác-na-um mà không xẩy ra cho dân It-ra-el. Chúa Giê-su đã vạch trần sự thật điều họ làm trong thời các tiên tri. Bởi vì, họ cố chấp, tự cao tự cho mình là người đạo đức thánh thiện hơn người, đúng hơn là do tội kiêu ngạo. Khi Chúa nói lời này, nó đã đụng chạm đến lòng tự ái dân tộc, họ phẫn nộ, tìm cách trục xuất Chúa Giêsu ra khỏi thành.
Thành kiến đã có sẵn trong họ, họ đã có ác cảm và đối nghịch với Chúa Giêsu về đường lối giảng dạy, về cách giữ đạo. Đó là lý do để họ loại trừ Chúa Giê-su ra khỏi quê hương của họ. Một khi chúng ta dán cho ai vào cái nhãn hiệu, thì ta đóng khung họ trong cái suy nghĩ hạn hẹp của mình. Nó đánh mất đi mối tương quan với người khác, dù họ có làm điều tốt, ta cũng không đón nhận hay đánh giá khách quan về họ. Định kiến là mối nguy hiểm có thể giết chết tài năng của một người nào đó. Vì ta đóng đinh họ vào cách suy nghĩ của mình. Cũng vậy dân chúng có thành kiến với Chúa Giê-su khi Ngài nói lên sự thật. Sự thật thì dễ mất lòng. Từ thành kiến với việc làm của Chúa Giêsu, họ nói rằng: “Ông ta khôn ngoan như vậy nghĩa là sao? Họ chưa hiểu được Chúa Giê-su là ai, đang làm gì cho họ.” Ông ta không phải là người hàng xóm của chúng ta sao?. Người ta thường nói, “Quen quá hóa nhàm” “ Gần Chùa gọi bụt bằng anh” nên Chúa Giêsu bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở quê hương của mình.”
Tóm lại, trong cuộc sống trần gian này có nhiều nơi để cho chúng ta đi, nhưng đi đâu rồi chúng ta cũng phải trở về: về với gia đình, về với chính mình, về với căn tính của mình, về với Thiên Chúa của mình. Trở về để biết mình đang đi đâu và về đâu. Mỗi người có thể đi nhiều nơi, nhưng quê hương chỉ có một. Đó là quê hương trên trời, mỗi người chúng ta mong chờ khi kết thúc hành trình cuộc sống tại thế. Thế gian là quán trọ dừng chân, để cho ta bước về quê hương vĩnh cửu. Chỉ có quê hương Chúa Giê-su giới thiệu cho chúng ta mới là quê hương thật. Nếu chúng ta không nhớ, thì sẽ không trở thành người con dân Nước Chúa.
Vậy chúng ta đón tiếp Chúa Giêsu gia đình, nơi tâm hồn chúng ta hay chối từ Ngài. Một chút thinh lặng hồi tâm để ta nhìn lại, chúng ta đang thuộc về ai?.
Bài tin mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu “gọi 12 Tông đồ và sai từng người một, Người trao TN 15-B153
Bài tin mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu “gọi 12 Tông đồ và sai từng người một, Người trao cho các ông quyền trừ quỉ” với sứ mạng “ Đi rao giảng và kêu gọi người ta sám hối”. Đức Giêsu truyền cho các ông: “Không được mang gì đi đường, trừ cây gậy. Không được mang bao, mang bị, mang tiền; thắt lưng. Được đi dép nhưng không được mặc hai áo. . .”’
Ngày hôm nay, Sứ mạng ấy vẫn đang thôi thúc từng người tín hữu và cả Giáo hội Chúa nơi trần gian này. Ngay tại quê hương Việt Nam chúng con, với hơn 90 triệu dân, nhưng những người tin nhận Chúa mới chỉ chiếm trên dưới 7 triệu người. Cả một vùng đất Châu Á rộng lớn trên 2 tỷ người, những người tin vào Đức Kytô chỉ là một con số rất nhỏ. Điều đó cho thấy chúng con phải tiếp tục công việc Chúa đã trao một cách mạnh mẽ hơn, tích cực hơn. Thế nhưng phải loan báo thế nào để có nhiều người tin nhận Chúa là điều không dễ dàng.
Không được mang gì đi đường. . . phải chăng là mỗi người chúng con phải tuyệt đối tin tưởng và cậy dựa vào ơn của Chúa, không thể cậy dựa vào của cải vật chất và những phương tiện thế gian ?
Nếu con chỉ loan báo bằng cách nói về đạo, tổ chức những buổi nói chuyện, hội thảo, thậm chí tổ chức những ngày lễ thật long trọng, hoành tráng, sầm uất, rồi mời gọi những anh chị em chưa tin vào Chúa đến nghe, đến tham dự hẳn là chưa đủ để họ nhận biết Thiên Chúa là Cha.
Nếu con chỉ dừng lại ở việc chu tòan lề luật hay sinh họat đạo đức gói gọn trong khuôn khổ đòan thể, xóm đạo, xứ họ thôi, để nhắm “Quảng bá đạo” thì hẳn là chưa thực thi điều Chúa truyền dạy.
Chúa không đòi hỏi con trong tư cách là người giáo dân, đang sống trong ơn gọi gia đình, phải đi đây đi đó loan báo Tin Mừng, hay từ bỏ trách nhiệm, bổn phận Chúa trao cho mỗi người, để đi đến những nơi xa xôi rao giảng. Chúa đã chỉ cho con cách sống tin mừng, qua các vị chủ chăn :“Sống Đức Kitô giữa dân tộc mình”(Đức Giáo Hòang Benedicto XVI) bằng những lời nói tốt, những giáo lý của Chúa (1); bằng gương sáng, can đảm phục vụ Chúa nơi những người nghèo hèn, góp phần xây dựng một xã hội công bằng, trung thực, nhân ái (2); bằng việc cầu nguyện liên lỉcho công cuộc loan báo tin mừng(3) và bằng cả việc hy sinh, đóng góp ít nhiều về vật chất cho việc rao giảng của Hội Thánh Chúa nơi trần gian (4)
Xin cho con biết sống lời Chúa dạy, như người Samari trong tin mừng, trở thành người thân cận với những người sống bên con mỗi ngày. Đó chính là con cũng đang thực hiện sứ mạng “Rao giảng “. Con tin vào Lời Chúa “Này đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. AMEN.
Thông thường khi một người lãnh đạo sai nhân viên đi công tác có tính tập thể, thì tập trung nhân TN 15-B154
Thông thường khi một người lãnh đạo sai nhân viên đi công tác có tính tập thể, thì tập trung nhân viên thành một tốp hoặc một nhóm người, chớ không bao giờ để đi riêng lẻ một hay hai người. Cùng với quyết định ấy, sẽ kèm theo chương trình hành động, phân công phân nhiệm; thậm chí còn lo chu tất cả tiền xe cộ, tiền ăn uống, nơi nghỉ ngơi… Bài Tin Mừng hôm nay (CN XV/TN-B – Mc 6, 7-13) trình thuật việc Đức Giê-su sai 12 Tông đồ đi rao giảng Tin Mừng, có nhiều điểm thật lạ lùng: Đó là “không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng, không được mặc hai áo.” Thêm một điểm lạ nữa là “vào nhà nào thì cứ ở lại nhà đó cho đến lúc ra đi. Nếu ở đó họ không đón tiếp thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.” Ngoài ra, Đức Giê-su không sai tất cả đi thành một nhóm, cũng không sai đi riêng lẻ từng người, mà là “từng hai người một”. Sự kiện này có ý nghĩa gì?
Nếu tập trung tất cả thành một đoàn thì đi được rất ít nơi, số người tiếp xúc bị hạn chế; không những thế, các môn đệ đi chung với nhau dễ bị chia bè phái, phe nhóm (câu chuyện 2 người con ông Dê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gio-an là một ví dụ: Hai ông “xin được ngồi bên tả và bên hữu Đức Giê-su khi Người được vinh quang” đã làm “mười môn đệ kia đâm ra tức tối” (Mt 20, 20-28); thậm chí còn có thể tranh nhau làm lãnh đạo vì không có Thầy cùng đi (“Các môn đệ hỏi Đức Ki-tô xem ai là người lớn nhất trong các môn đệ” – Mt 18, 1-5; Mc 9, 33-37; Lc 9, 40-50). Còn nếu đi riêng lẻ từng người thì chắc chắn các môn đệ sẽ đi được nhiều nơi hơn, tiếp xúc được nhiều người hơn, nhưng hiệu quả sẽ kém hơn, vì đi một mình thì khi gặp khó khăn – chẳng hạn khi bị người khác từ chối không tiếp, hoặc phản bác một vấn đề nào đó – các ông sẽ không biết bàn hỏi với ai, không được ai khích lệ, nên sẽ dễ nản lòng và bỏ cuộc.
Khi sai đi “từng hai người một”, Đức Giê-su muốn các Tông đồ hợp tác và liên đới trách nhiệm với nhau, khích lệ và bàn hỏi nhau khi gặp khó khăn, nhất là biểu lộ tình yêu thương nhau như một dấu chỉ đặc trưng của môn đệ Người (“Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này là anh em có lòng yêu thương nhau.” – Ga 13, 35). Dấu chỉ này là một chứng từ hết sức sống động và lôi cuốn tha nhân. Lời rao giảng luôn đi đôi với hành động và nhất là được biểu lộ rõ ràng trong sinh hoạt đời thường, sẽ mang tính thuyết phục rất cao.
Xét theo tâm lý chung, khi phải rời xa nơi cư trú một thời gian dài – dù là đi công tác, đi du lịch, hay chuyển đổi chỗ ở – con người thường tỏ ra lưu luyến, bịn rịn khung cảnh, nhân vật, sự sinh hoạt nơi chốn cũ, và cũng chính vì tâm trạng ấy, nên nhiều khi cuộc đi xa bị đình chỉ hoặc gặp trở ngại không thực hiện được nữa. Đó là về mặt tinh thần. Ngoài ra, khi ra đi thì ai cũng phải chuẩn bị cho mình những nhu cầu cần thiết (áo quần, tiền bạc, lương thực…); nhưng Đức Giê-su lại “chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo.” (Mc 6, 8-9). Chỉ mới nghe qua đã thấy là mâu thuẫn, vì như thế thì làm sao mà thi hành sứ vụ? Tục ngữ Việt Nam có câu “Có thực mới vực được Đạo”, vậy mà ở đây không có “thực” (có ăn) thì làm sao mà “vực được Đạo” (thực thi sứ vụ rao giảng Tin Mừng)?
Không những chỉ dạy các môn đệ không lưu ý đến vấn đề ăn mặc, tiền bạc, Đức Ki-tô còn khuyên ai muốn đi theo Người thì phải dứt bỏ cả người thân ruột thịt, kể cả mạng sống mình nữa (“Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.” – Lc 14, 26-27; “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.” – Lc 9, 23). Nếu chỉ hiểu theo nghĩa đen thì sẽ thấy Lời dạy này của Đức Giê-su mâu thuẫn với Lời dạy về “Điều răn quan trọng nhất”, đó là: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi… Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào điều răn ấy.” (Mt 23, 37-40).
Nếu “Dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa” thì sao gọi là “yêu người thân cận như yêu chính mình” được? Vấn đề là phải hiểu theo nghĩa bóng (nghĩa ẩn dụ): “Dứt bỏ” không có nghĩa là tuyệt tình tuyệt nghĩa, mà chỉ là sẵn sàng rời xa cha mẹ, anh em, họ hàng, không lưu luyến, bịn rịn, để lên đường theo Chúa thi hành sứ vụ Người trao. Và nếu hoàn tất được sứ mạng thì “Thầy bảo thật anh em: chẳng hề có ai bỏ nhà, bỏ vợ, anh em, cha mẹ hay con cái vì Nước Thiên Chúa mà lại không được gấp bội ở đòi này và sự sống vĩnh cửu ở đời sau.” (Lc 18, 29-30). Vâng, “Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.” (Ga 12, 25). Lời chí thánh thật rõ ràng: Nếu yêu chiều xác thịt trần thế, buông theo những dục vọng thấp hèn, sẽ mất tất cả. Còn nếu sẵn sàng coi thường tất cả, xa lánh mọi cám dỗ, sẵn sàng hy sinh mạng sống mình cho lý tưởng đi theo Thầy chí thánh, thì sẽ tìm lại “được gấp bội ở đời này và sự sống vĩnh cửu ở đời sau”.
Chung quy, Đức Ki-tô chỉ muốn những ai đi theo Người không nên lưu luyến những gì thuộc về thế gian, về xác thịt nặng nề, bởi “thân xác dễ hư nát này khiến linh hồn ra nặng, cái vỏ bằng đất này làm tinh thần trĩu xuống” (Kn 9, 15). Rõ ràng Lời dạy của Người không có gì là mâu thuẫn, khó hiểu cả. Đến như những người xa lạ gặp trên đường đời, Người còn dạy phải coi họ như những người thân cận mà sẵn sàng giúp đỡ (câu chuyện “Người Sa-ma-ri nhân lành” – Lc 10, 29-37), huống hồ là những bậc sinh thành ra mình (cha mẹ), những người có quan hệ huyết thống ruột thịt với mình (anh em), những người cùng “một xương một thịt” (vợ con) với mình. Dứt bỏ hay từ bỏ là đối với những cám dỗ, những mời mọc hấp dẫn của tính xác thịt trần gian, của ma quỷ và sự dữ chúng đem đến mà thôi.
Chưa hết đâu, sẵn sàng từ bỏ tất cả để đi theo Người Thầy Chí Thánh mới chỉ là điều kiện tiên quyết, nhưng tiếp theo còn phải biết can đảm đối diện với những thử thách nghiệt ngã, vì “Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói” (Mt 10, 18). Trở ngại lớn nhất đối với việc đi theo Đức Giê-su chính là cái quyết tâm từ bỏ tất cả mọi sự, rồi còn phải vác thập giá mình (những hy sinh, mất mát, đau khổ…) mà đi theo Người. Cũng không phải chỉ một lần này, mà rất nhiều lần Đức Ki-tô kêu gọi mọi người muốn đi theo Người thì phải từ bỏ tất cả (kể cả chính bản thân mình), từ bỏ một cách dứt khoát (“Ai muốn theo Thầy phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” – Mt 16, 24). Dứt khoát từ bỏ mọi sự đã là một trở lực khó lòng vượt qua; vậy mà còn phải vác thập giá mình nữa thì quả thật vượt quá sức con người, không dễ gì thực hiện nổi.
Và cũng vì thế nên không thiếu những trường hợp tuyên bố rất hùng hồn sẵn sàng từ bỏ tất cả (như trong đêm Vọng Phục Sinh 3 lần được hỏi ”Có từ bỏ ma quỷ không? Có từ bỏ mọi việc của ma quỷ không? Có từ bỏ mọi sự sang trọng của ma quỷ không?” thì cả 3 lần đều hô lớn một cách rất trịnh trọng “Thưa, từ bỏ”); nhưng lúc đối diện với thực tế thì lại quên đi một cách rất ư là… vô tư! Chính vì thế, muốn có được quyết tâm từ bỏ trần tục và đủ dũng khí chấp nhận thử thách, thì cũng chớ ỷ vào sức mình, mà phải biết cầu nguyện, cậy nhờ sự soi sáng, hướng dẫn và nhất là thêm sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Ấy cũng bởi vì ”Thánh Thần là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc, để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa.” (Ep 1, 14).
Tóm lại, khi sai môn đệ đi rao giảng, Đức Ki-tô muốn các Tông đồ phải có một thái độ dứt khoát, không bị ràng buộc bởi những nhu cầu không cần thiết, không lệ thuộc vào những ảnh hưởng ngoại tại (tác động từ bên ngoài), để có thể từ bỏ chúng bất kỳ lúc nào, trong bất kỳ trường hợp nào mà sứ mạng và lương tâm đòi buộc. Người Ki-tô hữu ngày hôm nay khi được tham dự vào 3 chức vụ Tư tế – Ngôn sứ – Vương giả của Đức Giê-su, thì cũng có nghĩa là được sai đi loan báo Tin Mừng. Đó chính là sứ vụ Phúc Âm hóa, mà muốn thi hành sứ vụ cách tốt đẹp thì phải biết Tân Phúc-Âm-hóa như Thư Chung 2013 của Hội đồng Giám mục Việt Nam giải thích:
“Tân Phúc-Âm-hoá” không phải là rao giảng một Phúc Âm mới vì “Đức Giê-su Ki-tô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời.” (Dt 13, 8), nhưng là “mới về lòng nhiệt thành, mới trong phương pháp, và mới trong cách diễn tả”. Mới về lòng nhiệt thành là làm mới lại tương quan giữa bản thân chúng ta với Đức Giê-su Ki-tô, để mối tương quan ấy hướng dẫn toàn bộ đời sống chúng ta. Mới trong phương pháp là biết vận dụng những phương pháp thích hợp để đáp ứng sự thay đổi nhanh chóng của thời đại về nhiều mặt, văn hoá, xã hội cũng như kỹ thuật. Mới trong cách diễn tả là cố gắng nghiên cứu và sử dụng những cách diễn tả phù hợp, để con người hôm nay có thể hiểu và lĩnh hội được sứ điệp Phúc Âm.”
Như vậy “Tân Phúc-Âm-hoá” phải là đổi mới phương cách rao giảng Tin Mừng. Cũng đã có phản biện: “Lời hướng dẫn của HĐGMVN chỉ dành riêng cho giáo sĩ và giáo lý viên, còn đại đa số Giáo dân chỉ là tầng lớp bình dân, đâu có thể đứng trên bục giảng để rao giảng Lời Chúa, như vậy thì làm sao mà “đổi mới phương pháp, đổi mới cách diễn tà”. Mới thoạt nghe thì thấy có vẻ như vậy, nhưng nếu hiểu công cuộc loan báo Tin Mừng không chỉ là “đứng trên bục giảng”, mà quan trọng hơn cả phải là rao giảng bằng phương cách sống, bằng cả đời sống chứng tá. Ấy cũng bởi vì “Người thời nay sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy và người ta có nghe theo thầy dạy là vì thầy dạy cũng là chứng nhân.” (Thông điệp Loan báo Tin Mừng Evangelii Nuntiandi”, số 41). Vậy thì “đổi mới phương pháp, đổi mới cách diễn tả” tức là đổi mới phương cách sống sao cho luôn thích nghi với thời đại, mà vẫn “đem được Lời Chúa đến cho mọi người, ở mọi nơi, trong mọi lúc”.
Tóm lại, muốn rao giảng Tin Mừng bằng đời sống chứng tá thì đừng bao giờ quên: “Thánh Thần là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta” (Ep 1, 14)”. Xin hãy cầu nguyện: Lạy Chúa! Cúi xin Chúa ban Thánh Thần thêm sức mạnh cho con để con có đủ can đảm “không lưu luyến CÁI VỎ BẰNG ĐẤT” (Kn 9, 15) là cái thân xác nặng nề của con với biết bao cám dỗ mê đắm của trần thế. Con không dám cao vọng làm một phát ngôn viên rao giảng Lời Chúa, mà chỉ cầu xin cho con sống một cuộc sống khiêm tốn trong yêu thương để làm chứng nhân cho Tin Mừng Cứu Độ. Ôi! Lạy Chúa! Xin cho con sống những điều con tin và sẵn sàng chia sẻ cho anh em những điều con sống. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.
Tuần trước, trong lần về thăm cố hương Nadarét, Đức Giêsu đã không nhận được nhiều thuận lợi TN 15-B155
Tuần trước, trong lần về thăm cố hương Nadarét, Đức Giêsu đã không nhận được nhiều thuận lợi như tại các nơi khác. Họ chào đón Người bằng môi miệng, nhưng tâm can của họ không hề bị đánh động bởi Lời giảng của Người. Trái lại, họ còn không tin. Đức Giê-su rất đỗi kinh ngạc về thái độ không tin của họ, nhưng thái độ bất cộng tác và không tin của họ không thể ngăn cản Người thực thi sứ mạng.
Hôm nay, Đức Giêsu rời Nadarét, tiếp tục lên đường để hoàn tất nhiệm vụ mà Cha đã trao phó cho Người. Trong lần ra đi này, Đức Giêsu đã làm một việc mà cho đến lúc này Người chưa làm, đó là bắt đầu sai các Tông đồ ra đi làm nhân chứng, thay mặt Người kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Còn phần các ông thì được trao ban cho quyền trừ quỷ và chữa lành bịnh nhân.
Vì đây là chuyến đi đầu tiên của các Tông đồ, cho nên Đức Giêsu đã ban cho các ông những lời hướng dẫn rất cụ thể như không mang gì đi đường, ngoại trừ cây gậy; không mang của ăn thức uống, không mang tiền trong túi; chân được đi dép nhưng không được mang hai áo. Nói chung, chỉ thị của Đức Giêsu ban cho các Tông đồ và các môn đệ sau này là phải sống nghèo, ra đi cũng nghèo; cuộc sống và hành trang của người môn đệ chỉ lệ thuộc vào sự giầu sang và phong phú của Thiên Chúa, Đấng sai các ông ra đi. Muốn được như thế, các môn đệ cần ghi nhớ rằng chúng ta được sai đi để tiếp nối sứ vụ của Chúa, chứ không hẳn là của chúng ta.
Thật vậy, Chúa là Đấng được Chúa Cha sai đến; và chúng ta, giống như các Tông đồ và các môn đệ khi xưa, là những người được sai. Người đuợc sai không thể cao trọng hơn kẻ sai phái, và những ai được sai đi cũng không thể tiếm quyền kẻ sai mình.
Hãy nhìn vào lịch sử cứu độ, trong những ngày đầu tiên và trải dài theo dòng lịch sử, Thiên Chúa đã không ngừng sai các sứ giả của Người đến với chúng ta; và sau cùng qua Mầu Nhiệm Nhập Thể, Thiên Chúa đã mặc lấy thân phận con người mà lưu ngụ giữa chúng ta. Vì thế, chúng ta có thể xác tín rằng Thiên Chúa không hề bỏ rơi con người, dù hành vi và cách ứng xử của chúng ta có như thế nào vẫn không làm lay chuyển lòng thương xót của Người. Và, giống như Đức Giêsu, Đấng đã được Chúa Cha sai đến như thế nào, thì hôm nay Người cũng muốn sai các Tông đồ ra đi như vậy. Vì thế, hiệu quả sứ vụ của các Tông Đồ nói riêng và chúng ta nói chung hoàn toàn tuỳ thuộc vào sự gắn bó vào Chúa.
Có Chúa trên hành trang là có tất cả, và đó cũng là điều mà Đức Giêsu căn dặn các Tông đồ hôm nay. Để nhẹ nhàng mà lo việc Chúa, các Tông đồ tuy sống vào lòng hiếu khách và rộng rãi của tha nhân, nhưng không được dính bén với bất kỳ môt ai. Các ông cũng không để cho bất kỳ một quyền lực nào ảnh hưởng trên hành trang của người môn đệ. Ngay cả cơm ăn, áo mặc và nơi cư trú là những điều cần thiết cho cuộc sống, nhưng các ông cũng không nên lo lắng thái quá. Mọi sự đó Chúa sẽ ban tặng. Phần các ông, hãy trao hết mọi sự cho Người và chỉ cần ra đi với một lòng tín thác vào Người là đủ.
Nói khác đi, yêu cầu mà Chúa mời gọi các môn đệ hôm nay là biết chấp nhận thân phận nghèo của mình. Nghèo ở đây không chỉ thu tóm vào đời sống vật chất hay tinh thần cho bằng nhấn mạnh đến việc chúng ta phải lệ thuộc vào Chúa như thế nào! Điều này có nghĩa là người được Chúa sai đi luôn luôn ở trong tư thế sẵn sàng, bằng lòng từ bỏ dần dần và trọn vẹn để cho sự giầu có và phong phú của Thiên Chúa được biểu lộ.
Như vậy, sống nghèo là sống dựa vào Chúa chứ không dưạ vào bất cứ một thứ quyền lực nào, cho dù đó là thứ thần quyền của một tổ chức, ngay cả tổ chức đó là Giáo hội. Sống nghèo là mệnh lệnh mà Chúa dành cho ai muốn trở thành môn đệ đích thực của Người. Với lối sống như thế thì lời rao giảng của người môn đệ sẽ trở thành Tin Vui cho mọi người. Đó đích thực là lối rao giảng của Chúa.
Trái với các điều ấy có thể là sự giàu có của Giáo hội; lòng tham lam thích vơ vét của hàng giáo sĩ; sự bủn xỉn, thiếu đại lượng, không đủ bao dung của những ai làm môn đệ… tất cả đều làm cho lời rao giảng trở nên cằn cỗi, nghèo nàn, thiếu sức thuyết phục và không đủ sức để chữa lành các vết hằn hoặc không đủ hấp lực để thu hút tâm hồn người nghe.
Tuy nhiên, có một sự thật mà chúng ta không thể chối cãi đó là thân phận mỏng dòn với muôn ngàn yếu đuối đã là nguyên nhân khiến các môn đệ của Chúa muốn tháo lui. Thật ra thân phận và ơn gọi của chúng ta, xuất phát từ Chúa, cho nên cũng sẽ bị khước từ. Trong hoàn cảnh đó, chúng ta hãy nhớ lại chính Đức Giêsu đã bị ruồng rẫy trước. Người đã bị khước từ. Nhưng không vì sự khước từ đón nhận của họ lại có thể ngăn cản Người chu toàn sứ mạng. Chúng ta, các môn đệ của Chúa cũng thế, cần được đổi mới và chính tâm tình đổi mới này sẽ là nguồn động lực giúp chúng ta tiếp tục tiến bước vượt qua mọi khó khăn, ngay cả việc chấp nhận thất bại, miễn sao sứ vụ được chu toàn.
Muốn được như vậy, người môn đệ cần sống điều mình sẽ công bố. Đức Kitô phải là tin vui cho người môn đệ trước khi họ giới thiệu và chia sẻ cho người khác. Triều đại Thiên Chúa mà Đức Giêsu đã rao giảng phải là vương quốc của người môn đệ trước khi họ ra đi loan báo cho người khác.
Đây cũng chẳng phải là điều gì mới lạ, vì chính Đức Giê-su, khi bắt đầu sứ vụ đã kêu gọi các Tông đồ và các môn đệ tham gia vào sứ mạng của Người. Lời mời gọi đó vẫn còn khẩn thiết và có thể đuợc minh hoạ trong câu chuyện sau đây.
Số là, trong cuộc chiến tại Hàn Quốc, có một ngôi làng nhỏ nằm ngay trên làn mưa đạn của các trận pháo kích. Trong làng, có một ngôi nhà thờ. Bên ngoài nhà thờ, có một bức tượng Chúa Giêsu Kitô đuợc đặt trên một cái bệ. Và, sau cuộc chiến, người ta chỉ thấy cảnh tang hoang và đổ nát. Bức tượng cũng không ngoại lệ. Nó nằm chung số phận, bị đổ xuống và vỡ thành từng mảnh vụn tung tóe trên nền nhà thờ.
Xảy ra là có một nhóm lính Mỹ đến thu dọn. Thấy cảnh tượng như thế, một cách thận trọng, họ đã thu thập các mảnh vụn rồi ráp lại thành gần như một pho tượng, chỉ thiếu đôi tay. Họ đề nghị với cha sở của họ đạo đó cho phép họ đem pho tượng về Mỹ để gắn thêm đôi tay vào cho hoàn chỉnh. Nhưng vị linh mục đó đã từ chối. Người nói: Tôi nghĩ chúng ta cứ để nguyên pho tượng thiếu hai tay như thế, rồi ghi dưới bệ của bức tượng hàng chữ “bạn ơi, làm ơn cho Tôi mượn đôi tay của bạn”. Với cách thức đó, pho tượng thiếu đôi tay của Chúa sẽ loan báo cho những ai đi qua nơi này nhớ lại rằng giờ đây Chúa đang cần đôi tay của bạn để nâng dậy những ai bị vấp ngã, những ai đang cần bạn ôm ấp để bớt cô đơn và vơi đi nỗi phiền sầu.
Không chỉ có thế, Chúa còn cần đôi chân bạn để đi tìm những ai bị lạc lối. Chúa lại cần bờ vai của bạn để làm chỗ dựa cho những ai lao đao và vất vả. Chúa cần đôi mắt của bạn để nhìn ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi những con người bé mọn và bị coi thuờng. Chúa cần con tim của bạn để cảm thông nỗi thất vọng của người tội lỗi. Sau cùng, Chúa rất cần mọi chi thể của bạn để nối kết những nguời mà bạn đã gặp và cùng nhau xây dựng Nước Trời, nơi đó chỉ có bình an, hoan lạc, niềm vui và tất cả những gì Chúa muốn dựng xây.
Quả thật, đó là niềm vinh dự dành cho những ai đuợc tham gia vào việc rao giảng của Đức Giê-su, kiến tạo trời mới đất mới! Và, hạnh phúc thay cho ai đã được Thiên Chúa trao ban cho nhiệm vụ cao quí như thế!
Trong tâm tình đó, hãy dâng lời ngợi khen với tâm tình cảm tạ vì lòng tín thác của Đức Giê-su, khi Người trao ban cho chúng ta được phép tham gia vào sứ mạng của Người, dù chúng ta bất xứng. Amen! mục lục
Lm. Giuse Mai Văn Thịnh, DCCT Nguồn: https://legiomariaevn.com/chi-tiet-tin-tuc/1456/suy-niem-chua-nhat-15-thuong-nien-b.html
Thiên Chúa thì khác, khi chọn và sai Nhóm Mười - những con người “võ biền, thất học, lao động TN 15-B156
Thiên Chúa thì khác, khi chọn và sai Nhóm Mười - những con người “võ biền, thất học, lao động tay chân”, nhưng trao sứ vụ cao quý và nặng nề: “Loan báo Tin Mừng”. Xem ra Ân sủng Thiên Chúa sẽ biến đổi những con người hèn kém, trở nên mạnh mẽ và can đảm cho sứ vụ: “Ân sủng được xây dựng trên tự nhiên”.
Thiên Chúa thì khác, khi chỉ thị cho Nhóm Mười Hai: Hành trang lên đường cần nhẹ nhàng, không cồng kềnh; Tâm hồn cần thanh thoát, tự do, để không gì có thể trói buộc được, đồng thời: Tin tưởng và phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa. Hơn nữa, hai người thì chứng tá mới có giá trị: "Hai người có giá trị hơn một, nếu họ ngã, người này đỡ người kia dậy, nhưng khốn cho kẻ đi một mình" (Gv 4,9; x.Ds 17,6; 19,5).
Thiên Chúa thì khác, khi sai Nhóm Mười Hai đi kêu gọi người ta ăn năn sám hối- một công tác không dễ dàng chút nào. Có nhiều người dễ cảm thấy bị “tổn thương” ít nhiều, hoặc không thích “bị kêu gọi sám hối”, vì họ hài lòng về cuộc sống hiện tại của bản thân họ. Các môn đệ rao giảng sám hối như một Tin Mừng của Thiên Chúa mang lại bình an nội tâm, chứ không làm vừa lòng mọi người và, nhất là, không phải vì lợi ích của các vị: “Nếu tôi còn muốn làm đẹp lòng người đời, thì tôi không phải là tôi tớ của Đức Kitô”. (Gl 1, 10).
Thiên Chúa thì khác, khi kêu gọi mỗi người với những “tự nhiên” - kể cả những giới hạn, thiếu sót và tội lỗi của họ, để cộng tác vào công trình Cứu Độ nhân loại- một công trình “siêu nhiên”, vì Phép Rửa Tội sát nhập họ vào Nhiệm Thể Chúa Kitô, phép Thêm Sức làm cho họ nên mạnh mẽ nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Ðàng khác, đức ái như là linh hồn của tất cả việc tông đồ, được chuyển thông và nuôi dưỡng nhờ các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể. Việc tông đồ được thực thi nhờ đức tin, Đức Cậy, đức ái vậy!.
Hơn nữa, “Trong Đức Ki-tô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người. Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô” (Ep 1, 4-5)
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Trong tấm bánh nhỏ, Chúa trở thành “tấm bánh bẻ ra” cho nhân loại. Xin Chúa cho chúng con, khi được đón tiếp Chúa vào trong tâm hồn, thì cũng biết lên đường, đến với những người chung quanh và làm chứng cho tình yêu của Chúa. mục lục
Bạn có biết tại sao Chúa Giê-su lại ra chỉ thị, bắt các môn đệ không được mang lương thực, bao TN 15-B157
Bạn có biết tại sao Chúa Giê-su lại ra chỉ thị, bắt các môn đệ không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng, không được mặc hai áo, và đã vào nhà nào, thì hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi... không? Tôi nghĩ, có lẽ là vì hai lý do sau đây:
• Thứ nhất, khi mang theo lương thực, tiền bạc, túi bị, áo quần…thì các ông sẽ bị phân tâm, sẽ bị sao nhãng trong sứ vụ mà Ngài trao phó. Thật vậy, nếu các ông đem theo lương thực thì các ông phải lo bảo quản để khỏi bị hư thối, mang theo tiền bạc thì dễ bị nguy hiểm đến tính mạng, bị trộm, bị cướp...Còn mang theo bao bị thì thế nào cũng lo kiếm chác bỏ vào cho đầy. Càng mang theo nhiều thử lỉnh kỉnh bao nhiêu, thì càng khó khăn trong việc di chuyển bấy nhiêu, và chắc chắn các ông sẽ không thể nào chú tâm vào những sứ vụ mà Chúa giao phó.
• Thứ hai, Ngài muốn các ông biết, công việc rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối, việc trừ quỷ, việc chữa lành cho các bệnh nhân làviệc CHÍNH còn những nhu cầu vật chất, về chuyện ăn uống chỉ là chuyện PHỤ mà thôi. Chính Chúa đã dạy các ông rằng: “Tiên vàn hãy đi tìm kiếm nước Thiên Chúa, còn mọi sự khác Ta sẽ ban cho sau!” (Mt 6:33).
Qua bài Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay, bạn học được gì, riêng tôi, tôi học được hai bài học rất quan trọng này:
Thứ nhất, là môn đệ của Chúa Kitô, đừng dính bén quá nhiều đến của cải vật chất. Càng có nhiều của cải vật chất bao nhiêu, thì tôi càng lo lắng, càng sợ hãi và tâm hồn càng bất an nhiều bấy nhiêu. Tệ hơn nữa, tôi sẽ không thể nào chu toàn những trách nhiệm bổn phận mà Chúa đã giao phó cho tôi, và tôi sẽ không thể nào hướng nhìn lên thượng giới, nơi Đức Giê-su ngự trị được, bởi vì Chúa Giê-su đã cảnh báo: “Kho tàng của anh em ở đâu thì lòng anh em ở đó!” (Lc 12:34)
Thứ hai, tôi phải có khả năng phân biệt được cái gì là CHÍNH, và cái gì là Phụ. Trong thực tế, có nhiều người, kể cả hàng giáo sĩ chúng tôi nữa, không phân biệt được đâu là cái chính và đâu là cái phụ. Ví dụ:
• Đối với những môn đệ được Chúa tuyển chọn, thì VIỆC CHÍNH là đọc kinh Thần Vụ, cầu nguyện, Chầu Thánh Thể, suy niệm lời Chúa, đọc sách thiêng liêng, học hỏi, nghiên cứu Kinh Thánh, soạn bài giảng, giải tội, xức dầu bệnh nhân... Còn tiệc tùng, giải trí, chơi tennis, đánh golf, đi câu, làm MC cho các buổi tiệc gây quỹ, đi chạy show trình diễn văn nghệ, đi làm linh hướng cho các đoàn hành hương…CHỈ LÀ PHỤ thôi!
Đối với cha mẹ Công Giáo, việc CHÍNH là chăm lo cho phần linh hồn của con cái mình được no thỏa, đưa chúng đi dự lễ, học Giáo Lý, lãnh nhận các phép bí tích, sống đạo đức, siêng năng đọc kinh cầu nguyện. Còn những việc như lo cho con cái trở thành ông này bà nọ, có bằng, có cấp, có địa vị cao trong xã hội, trở thành bác sĩ, dược sĩ, nha sĩ, luật sư...chỉ là PHỤ!
• Là những Kitô hữu, thì chu toàn bổn phận tham dự thánh lễ ngày Chúa Nhật là việc CHÍNH. Còn tiệc sinh nhật, tiệc kỷ niệm hôn phối, giỗ chạp, đi camping, di du thuyền, đi du lịch, coi super bowl, world cup, đi câu cá, đi hiking… tất cả chỉ là PHỤ!
Hy vọng bây giờ bạn đã hiểu tại sao Chúa Giê-su lại ra chỉ thị, bắt các môn đệ không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng, không được mặc hai áo, và đã vào nhà nào, thì hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi... rồi! Nếu bạn hiểu, thì xin bạn cầu nguyện thật nhiều cho các môn đệ của Chúa Kitô, nhất là cầu nguyện cho hàng Giáo Phẩm và hàng Giáo Sĩ, những người đã được Chúa tuyển chọn và sai đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối, trừ quỷ, chữa bệnh ...
• Xin cầu nguyện cho chúng tôi, những người được Chúa mời gọi sống đời thánh hiến được ơn trung thành, và xin cho chúng tôi đừng ai đam mê, ham hố tiền tài, danh vọng, chức quyền; không lo tìm kiếm những lời khen tặng & những sự tán dương của người đời, nhưng chỉ đi tìm kiếm lời khen tặng của Thiên Chúa mà thôi.
• Xin cầu nguyện cho các bậc làm cha mẹ, xin Chúa ban cho họ ơn khôn ngoan, để họ có khả năng phân biệt được cái gì chính và cái gì là phụ. Nhờ vậy, họ mới có thể hướng dẫn và giáo dục con cái của họ chú tâm vào những cái chính, những gì có lợi cho phần linh hồn của chúng.
• Cầu nguyện xin Chúa gìn giữ bạn và tôi, cùng tất cả mọi Kitô hữu, để chúng mình không bị của cải, danh vọng, chức quyền và địa vị lôi kéo chúng mình ra khỏi quỹ đạo yêu thương của Thiên Chúa. Nhưng luôn biết chú tâm vào việc CHÍNH, đó là tôn thờ Chúa trên hết mọi sự, và làm mọi cách để cho phần linh hồn của chúng mình được no thỏa ân tình của Chúa.
Xin Chúa ban cho bạn những ơn cần thiết, để bạn biết tin tưởng, phó thác, được thoát khỏi những lo âu trong cuộc sống hằng ngày, biết phân biệt giữa cái chính và phụ, chú tâm lo cho đời sau qua việc siêng năng tham dự thánh lễ, xưng tội, rước Mình Thánh Chúa, quảng đại và hăng hái làm việc bác ái bố thí.
Cầu chúc bạn một tuần lễ mới tràn ngập niềm vui, sự bình an, luôn là môn đệ trung tín của Chúa. mục lục
Đúng nghĩa của cắm trại, nhất là trại huấn luyện, là hòa hợp cùng thiên nhiên, sống hết mình cho TN 15-B158
Đúng nghĩa của cắm trại, nhất là trại huấn luyện, là hòa hợp cùng thiên nhiên, sống hết mình cho thụ tạo, thở hơi thở của hoang dã, sống sức sống của ngàn xanh, đi vào lòng tự nhiên khám phá siêu nhiên, đắm mình với tự nhiên để vươn hồn tới siêu nhiên, gọi về lòng biết ơn thụ tạo đã cho nhau sự sống và dâng muôn muôn lời cảm tạ Tạo Hóa ân ban cho muôn loài sự sống…
Cắm trại đồng nghĩa với trút bỏ một cách tự nguyện mọi ràng buộc không cần thiết. Càng trút bỏ bao nhiêu có thể và giữ lại những gì cần thiết đúng mức, người ta càng thanh thoát, nhẹ nhõm, không vướng bận, lo toan điều gì.
Hành trang trại viên càng nhẹ, tinh thần khiêm nhường, nghèo khó càng lớn, ta càng dễ hết mình với phút hiện tại, với không gian, thời gian… Nhất là dễ hòa với tự nhiên, dễ trở về Nguồn Cội Vĩnh Cửu, Đấng tác sinh mọi loài.
Hiểu “trút bỏ” cần cho trại sinh, ta sẽ hiểu hơn mệnh lệnh lên đường Chúa Giêsu trao cho môn đệ. Mệnh lệnh ấy cũng đồng thời với mệnh lệnh trút bỏ.
Còn hơn sự “trút bỏ” của trại sinh, môn đệ của Chúa phải trút bỏ đến trở nên nghèo khó, một cái nghèo đúng mức, nghèo trọn nghĩa: “Ngài truyền cho các ông lên đường, đừng mang gì ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép và đừng mặc hai áo”.
Tin Mừng của Chúa Giêsu là Tin Mừng cho người nghèo, Tin Mừng của người nghèo. Do đó chỉ có người nghèo mới có thể nên chứng nhân cho Tin Mừng ấy, mới có thể loan báo Tin Mừng ấy hữu hiệu.
Chúa Giêsu không dạy gì mà Chúa đã không sống lời dạy ấy. Cả cuộc đời trần thế của Chúa là bài học lớn cho người môn đệ về sự nghèo khó.
Chúa Giêsu trút bỏ hoàn toàn. Sự trút bỏ đúng nghĩa (nghĩa đen lẫn nghĩa bóng). Chúa không tự dành riêng điều gì: Mang phận Thiên Chúa, nhưng trở nên người phàm, một sự trút bỏ không thể tưởng tượng. Vậy mà Đấng Thiên Chúa làm người lại chấp nhận sống nghèo, nghèo đến không còn gì.
Chúng ta không giàu, nhưng khi sinh ra, chắc không sinh nơi chuồng thú, nằm trên rơm rạ xót xa. Dẫu nghèo, ta vẫn còn mái nhà ấm áp, chiếc nôi xinh… Nếu mai này, ta có chết, chắc cũng chết trong điều kiện tươm tất.
Nhưng Chúa Giêsu, cả một đời, từ lúc bắt đầu sinh ra tới khi trưởng thành, chối từ sự sang giàu đã vậy, đến lúc sinh thì, ngay đến manh áo cuối cùng cũng không có, chết trần treo giữa trời giữa đất, chết chung với kẻ trộm cướp, cùng chịu một hình khổ ngang hàng với kẻ trộm cướp...
Chúa Giêsu trút bỏ hoàn toàn. Trút bỏ cả cuộc đời, trút bỏ cả mạng sống vẫn chưa làm đủ. Đến khi trao hơi thở sau cùng, Chúa lại còn tiếp tục trao dâng cả đến giọt máu cuối cùng.
Trái Tim của Thiên Chúa làm người không đòi cho mình bất cứ điều gì, bây giờ lại thuộc về chúng ta tất cả. Chúa Kitô, nhà truyền giáo đại tài, đã trút bỏ để Tin Mừng Tình yêu lớn lên. Chúa chính là bài học lớn lao cho những ai là môn đệ của Chúa.
“Đừng mang gì ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép và đừng mặc hai áo”. Hôm nay khi nghe lại lời dạy ấy của Chúa Giêsu, bạn và tôi nghĩ gì?
Chúa cũng đang mời gọi ta trút bỏ những gì cồng kềnh, cản trở, khiến lời rao giảng Tin Mừng thiếu chứng tá, công cuộc rao giảng bị khựng lại.
Như người cắm trại, trút bỏ mọi cái không cần thiết, họ sống hết mình cho ý nghĩa cắm trại. Cũng vậy, người gieo Lời Chúa, để Lời cắm sâu trong lòng người, càng phải trút bỏ mọi vướng bận để việc phục vụ Lời đạt kết quả.
Bởi thế, Chúa sai chúng ta ra đi, nhưng hành trang của người môn đệ không là gì khác ngoài đức tin dâng hiến và lòng phó thác. Dâng hiến đến trút bỏ hoàn toàn. Phó thác đến mức trở nên nghèo khó, đến không còn gì.
Chỉ có thế, người rao giảng Lời mới trở nên chứng tá cho Lời. Vì chứng tá cho Lời quan trọng hơn nói về Lời. Chỉ có một lối đường duy nhất là sự trút bỏ: mặc lấy tinh thần nghèo khó, sống lối sống nghèo của Chúa Kitô, chúng ta mới hy vọng nên chứng tá gieo Lời đạt kết quả.
Thánh Phaolô đã có lần đúc kết bài học trút bỏ của người môn đệ Chúa Kitô bằng những lời rất chân thành và lạc quan: “Bị coi là bịp bợm nhưng kỳ thực chúng tôi chân thành; bị coi là vô danh tiểu tốt, nhưng kỳ thực chúng tôi bị mọi người biết đến; bị coi là sắp chết, nhưng kỳ thực chúng tôi vẫn sống; coi như bị trừng phạt, nhưng kỳ thực không bị giết chết; coi như phải ưu phiền, nhưng kỳ thực chúng tôi luôn vui vẻ; coi như nghèo túng, nhưng kỳ thực chúng tôi làm cho bao người trở nên giàu có; coi như không có gì, nhưng kỳ thực chúng tôi có tất cả” (2Cr 7, 8 – 10).
Nếu đồng cảm với thánh Phaolô, ta cũng sẽ hiểu rằng trút bỏ là đánh mất, nhưng kỳ thực, không hề mất mát bất cứ điều gì.
Chúa Giêsu biết rằng Ngài chỉ sống ở trần gian một thời gian ngắn và sứ mệnh của Ngài phải được TN 15-B159
Chúa Giêsu biết rằng Ngài chỉ sống ở trần gian một thời gian ngắn và sứ mệnh của Ngài phải được tiếp tục cho đến tận thế. Vì thế, Ngài đã kêu gọi một số người mà các thánh sử gọi là Nhóm Mười Hai và cả nhóm bảy mươi hai.
Ngài huấn luyện họ sống như Ngài, thâm hiểu giáo thuyết của Ngài và chỉ dẫn cho họ đi rao giảng Tin Mừng của Ngài.
Lần này ra quân, Ngài chỉ thị cho họ rõ ràng như một vị tướng trước khi ra trận. Công việc Ngài giao cho họ là rao giảng, vì thế, họ phải sống sứ mệnh cách triệt để.
Không bận tâm về những gì khác. Chỉ mang theo những gì cần thiết mà thôi. Họ phải đi đường xa, cây gậy là không thể thiếu. Đi đường đôi khi cũng có thể gặp chó sói, cây gậy cũng là vũ khí tự vệ. Đi đường xa cũng cần đi dép. Đa số dân đi chân không. Không được mang theo tiền bạc áo xống hay lương thực, vì đến nơi nào sẽ được nuôi ăn. Chỉ mang theo Lời Chúa mà thôi.
Đến nơi nào, vào nhà nào người ta đón tiếp phải ở đó cho đến khi ra đi vì không ở lâu. Không được đi từ nhà này sang nhà khác tìm nhà nào vừa ý. Thời bấy giờ, việc đón tiếp khách là một bổn phận của người Do Thái.
Thời bấy giờ, người ta có thể ngủ mà không cần phải đóng cửa nhà, vì không sợ trộm cướp. Hôm nay không còn được như thế. Cửa đóng then gài mà vẫn còn bị trộm cướp. Không ai dám đón tiếp một người khách lạ lỡ đường.
Người rao giảng Tin Mừng luôn là một lữ khách. Không bám trụ. Các tiên tri thời xưa vẫn là những lữ khách. Lời Chúa không chỉ dành cho một nơi nào. Phải loan truyền trên mọi mái nhà.
Chúa Giêsu chính là vị lữ hành. Ngài rảo khắp nơi và không mõi mệt, đến nỗi có lúc không có giờ dùng bữa. Người rao giảng Tin Mừng lắm khi cũng gặp sự từ chối. Chúa bảo hãy phủi bụi chân cảnh cáo họ. Tin Mừng là một hồng ân nhưng không. Chúng ta có quyền đón nhận và cũng có quyền từ chối, nhưng từ chối sẽ là một tai hại. Dân Nadaret đã từ chối và không được hưởng nhờ hồng ân của Chúa.
Chúa Giêsu không bảo phải giảng những gì. Thánh Maccô chỉ ghi lại: “Các ông ra đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối”.
Có thể đó là nội dung đầu tiên và là một điểm quan trọng của cuộc rao giảng.
Lúc mới bước ra rao giảng, Chúa Giêsu cũng không rao giảng điều gì mới lạ, Ngài cũng kêu gọi: “Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng, vì Nước Trời đã gần đến”.
Thánh Gioan Tẩy Giả cũng kêu gọi mọi người ăn năn sám hối. Thánh Phêrô, sau khi được đầy tràn Thánh Thần, ngày lễ Ngũ Tuần, trong bài giảng đầu tiên, cũng kêu gọi mọi người sám hối.
Các tiên tri thời xưa luôn kêu gọi dân Israen trở về với Chúa, từ bỏ tà thần để được sống.
Thiên Chúa là cùng đích của cuộc đời. Phải trở về với Chúa mới được sống, vì chỉ có Chúa mới ban cho chúng ta sự sống thật, sự sống vĩnh cửu. Dân Do Thái nhiều lần đã bỏ Chúa và chỉ gặt hái được sự khốn khổ.
Hôm nay, chúng ta cũng cần trở về với Chúa, vì ít nhiều, chúng ta bị chi phối bởi đời sống vật chất và lãng quên nguồn sống của chúng ta. Nhiều người tưởng rằng tiền bạc của cải là bảo đảm cần thiết, nhưng thực tế cho chúng ta thấy, không có gì bảo đảm cả. Mọi sự đều mong manh, mọi sự đều qua. Tai nạn vẫn không ở trong tầm kiểm soát của chúng ta. Những người giàu cũng bị tai nạn máy bay. Những cuộc vui đầy hứa hẹn nhiều lúc kết thúc trong nước mắt. Chiếc tàu Titanic, đẹp nhất thế giới, mang theo hàng ngàn người giàu có đã đụng vào một tảng đá ngầm. Cuộc vui hứa hẹn đã kết thúc thảm hại.
Con người hôm nay càng cảm thấy mình nhỏ bé trước sự tàn phá của bạo lực. Cái gì có thể bảo đảm cho chúng ta nếu xảy ra thế chiến thứ ba?
Khoa học càng tân tiến, con người càng bị đe dọa. Đó là một thực tế trước mắt chúng ta.
Con người càng xa Chúa thì chỉ tiêu diệt lẫn nhau thôi. Những tranh chấp quyền lợi sẽ là tai họa ghê gớm nhất cho thế giới hôm nay.
Chúng ta hãy nghe lời Chúa mời gọi: Hãy trở về với Chúa là Tình Yêu, chúng ta mới mong thoát khỏi lo sợ và tuyệt vọng.
Có lẽ chúng ta không làm được gì. Chúng ta không thể ngăn cản sự gian ác đang lan tràn trên thế giới, nhưng chúng ta có thể tìm được sự bình an của Chúa khi trở về với Ngài. Đức Thánh Gioan-Phaolô II mời gọi mọi người thiện chí hãy xây dựng một nền văn minh hòa giải. Đó mới là con đường đưa đến bình an.
Sứ điệp của Chúa Giêsu là sứ điệp bình an. Ngài là sự bình an của chúng ta, khi chúng ta không còn một tham vọng nào khác mà chỉ còn một tham vọng duy nhất là được biết Ngài, và yêu mến Ngài mà thôi.
Các môn đệ đi rao giảng, trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho bệnh nhân và chữa lành họ. Như Chúa Giêsu, với quyền bính Ngài trao ban, các môn đệ xua trừ ma quỷ, chữa lành các bệnh nhân. Phải chăng đây là dấu hiệu của Nước Trời đang đến?
Giáo hội hôm nay cũng đi theo đường lối của Chúa, kêu gọi mọi người, nhất là giới trẻ bước theo Chúa, huấn luyện họ nhiều năm và sai đi rao giảng.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho Giáo hội có nhiều ơn gọi linh mục và tu sĩ để đáp ứng như cầu của các linh hồn. Chúng ta cũng vui mừng thấy nở rộ nhiều tu hội, nhiều sáng kiến truyền giáo trên thế giới, và rất nhiều tâm hồn quảng đại đã bỏ mọi sự theo Thầy Chí thánh.
Mỗi Kitô hữu cũng là một người được sai đi rao giảng Nước Trời, trong phạm vi của mình, trong mọi môi trường. Chúa vẫn cần nhiều tay thợ để làm vườn nho cho Chúa, dù ban sáng hay ban chiều. Mỗi người chúng ta cần đóng góp phần của chúng ta vào công việc của Giáo hội cho danh Cha cả sáng.
Chúa Giêsu luôn ở với Giáo hội, trong từng người vì Ngài vẫn mãi là của ăn cho mọi tâm hồn. Ngài vẫn tiếp tục loan báo Tin Mừng bằng cuộc sống của mỗi người chúng ta. Đừng tưởng chúng ta vô dụng. Chúa có thể biến những hòn đá thành con cái Abraham, nhưng Ngài muốn chúng ta đem thiện chí của mình, cộng tác với Ngài để cứu rỗi thế gian.
Hơn bao giờ hết, thế giới hôm nay cần được nghe Tin Mừng bình an của Chúa. Đừng có ai trong chúng ta ngồi không và nói rằng không ai thuê mướn chúng tôi. Lời kêu gọi của Chúa luôn vang vọng hằng ngày qua mọi biến cố: “Hãy vào làm vườn nho cho Ta”.
Linh mục Anto Kudukkamthadam là Cha Sở giáo xứ Piploda bên Ấn Độ. Vốn liếng kiến thức về TN 15-B160
Linh mục Anto Kudukkamthadam là Cha Sở giáo xứ Piploda bên Ấn Độ. Vốn liếng kiến thức về xã hội học đã giúp Cha Anto biết rõ địa hình địa thế của xứ đạo. Theo Cha, có từ 5-7% dân làng là người giàu, 10% là giới trung lưu, còn lại 80% là người nghèo. Thế nhưng, Cha Anto nói:” Vị Linh Mục tu sĩ nào dám công khai lên tiếng tố giác hố sâu bất công này thì tính mạng bị lâm nguy. Nữ tu Rani Maria bị ám sát cách dã man, chỉ vì Chị hoạt động xã hội, khuyến khích các bà các cô biết tự tổ chức, phân định các hoàn cảnh và làm việc chung với nhau. Hoạt động của Chị Rani Maria mang lại kết quả tốt đẹp. Nhưng kết quả tốt đẹp lại gây khó chịu cho giới giàu có trong làng và họ thuê người giết Chị.”
Thời gian đầu vô cùng khó khăn. Một ngày, tôi tưởng như giờ cuối cùng đã điểm. Một nhóm thanh niên thuộc phong trào chính trị Ấn giáo đến giáo xứ gặp tôi. Họ chất vấn tôi đủ điều:” Ông là ai mà dám ở đây? Rồi ông đến đây để làm gì? Ông không phải dân địa phương, như thế có nghĩa ông nhận tiền viện trợ của Anh hoặc của Mỹ! May mắn thay, tôi nói được tiếng Hindi địa phương. Sau khi giải thích việc đang làm, tôi kết thúc: “ Các anh có thể giết tôi, tôi sẵn sàng chết vì Đức Chúa GIÊSU KITÔ!
Dần dần, họ dịu lại. Một thời gian sau, khi họ thấy chúng tôi thật sự giúp dân làng, đặc biệt mở các lớp học bình dân, thì chính những người từng dọa giết tôi, lại gửi con cái họ đến học trường chúng tôi! Cha Anto lấy lại bình tĩnh nhờ cầu nguyện và suy gẫm mỗi ngày. Rồi từ sau vụ khỏi bệnh lạ lùng, uy tín của Cha Anto càng gia tăng thêm. Số là, một ngày kia, một dân làng bị bò húc gãy xương sống. Họ mang người bị nạn đến, xin Cha chữa vì nghĩ Cha là thầy thuốc. Cha Anto nói với người bệnh: ”Tôi không có thuốc, nhưng chỉ duy nhất Đức Chúa GIÊSU KITÔ có thể chữa ông lành.” Nói xong, Cha đặt tay trên ông và sốt sắng cầu nguyện. Bỗng chốc người bị nạn đứng lên và đi đứng như thường.
Từ đó, Cha Anto điều động một nhóm cầu nguyện và tiếp tục làm việc tông đồ trong an bình, không còn bị quấy nhiễu nữa! (Nữ tu Jean Berchmans Minh Nguyệt, “Missions Étrangères de Paris”, n.315, Janvier/1997, trang 12-17)
Theo Tin Mừng Máccô hôm nay, Đức Giêsu bắt đầu sai các Tông Đồ đi rao giảng. Ban cho các ông có quyền trên các thần ô uế, sự dữ, ma quỷ. Nhưng dặn các ông không được mang theo tiền của, lương thực, hành trang nào khác ngoài Lời Chúa. Linh mục Anto Kudukkamthadam đã áp dụng chuẩn xác những điều Đức Giêsu răn dạy khi đi rao giảng.
Sống đơn sơ
Thoát khỏi cám dỗ vật chất, tiện nghi, không lương thực, bao bì, tiền bạc, không áo quần rườm rà, kiểu cọ, thời trang, mà sống đạm bạc, đơn sơ, thanh đạm, Tông Đồ mới có thể can đảm dấn thân đi rao giảng kết quả hữu hiệu. Bao lâu còn bị những ràng buộc vật chất, của cải, danh lợi, chức tước, quyền lực khuynh đảo, quản lý và trói buộc, thì chẳng còn hồn Tông Đồ, mà chỉ còn hồn Trương Ba, da hàng thịt, là kẻ cơ hội, mưu lợi cá nhân, vinh thân phì gia, cúc cung bái thần tài, nô lệ cho thân xác, thế gian và ma quỷ. “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được.” (Mt 6, 24).
Đức Thánh Cha Phanxicô hẳn phải rất băn khoăn, lo lắng cho tiền đồ Hội Thánh mới công khai nhắc nhở các Linh mục: "Tôi yêu cầu anh em hãy là những mục tử mang nặng mùi con chiên của mình." Khi ngài cử hành Thánh Lễ Làm Phép Dầu tại Đền thờ Thánh Phêrô,vào lúc 9 giờ 30, ngày Thứ Năm Tuần Thánh, 28.3.2013.
Sống phục vụ
"Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi." Không theo ý riêng, không đòi hỏi được phục vụ như thế nào, mà hoàn toàn vâng theo Thánh ý Chúa, bằng lòng với môi trường được trao, chấp nhận mọi thách đố, khó khăn, thi hành đầy đủ chức năng, bổn phận và Ơn Gọi. Vì Đi Gieo là phục vụ chứ không phải được phục vụ, mà kén cá chọn canh, là sẵn sàng đón nhận gian lao, khó khăn, hy sinh và hiểm nguy đến tánh mạng. "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống mình.” (Mc 8, 34-35)
“Mỗi dịp hiến mình trong ngày không phải là một khổ đau, mất mát, nhưng là một đề nghị của Chúa, để con được lớn lên.” (Đường Hy Vọng, số 610)
Sống công chính
“Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ." Không thỏa hiệp với sự dữ, cái ác, với thế gian và với ma quỷ, Tông Đồ luôn khẳng định là chứng nhân đích thực của Đức Kitô, không cần mỵ dân, không a dua bầy đàn theo xã hội, theo khuynh hướng thế tục, ham danh háo lợi, khoa trương, kiêu căng, kiêu hãnh.
Khôn ngoan thế gian hay cám dỗ hòa hợp, thỏa hiệp để tồn tại, để phát triển, để xây nhà thờ, nhà xứ cho đồ sộ, nguy nga, để sinh hoạt giáo xứ sầm uất, rầm rộ, xôm tụ, danh tiếng, mà bỏ bê tâm hồn giáo dân nguội lạnh, xa Chúa thì phỏng được ích gì?
Thánh Phaolô chỉ duy nhất lấy làm hãnh diện về Thập Giá Đức Giêsu: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian.” (Gl 6, 14)
“Ánh sáng tông đồ của con phải chuyển sang những lớp tông đồ khác, cho đến lúc thế gian từ u tối tràn ngập hào quang. Làm tông đồ cho tông đồ.” (Đường Hy Vọng, số 305)
Lạy Chúa Giêsu, chúng con được Chúa mời gọi ra đi rao giảng Tin Mừng, nhưng chúng con còn mãi bận rộn, tất bật với đủ chuyện thế gian, lo toan giành giật làm ăn, kiếm tiền, kiếm chức, kiếm danh, lại còn đam mê những thứ phù phiếm hư ảo chóng qua. Xin Chúa thức tỉnh chúng con, biết dần bỏ đi mọi sự phù vân, mà can đảm lên đường theo Chúa làm chứng nhân.
Mẹ Maria ơi, xin Mẹ cầu bầu cứu giúp chúng con bừng tỉnh, thoát ra khỏi thung lũng nước mắt này, để chúng con biết lắng nghe tiếng Chúa mời gọi, sám hối, ăn năn, tái sinh trong Chúa Thánh Thần, trở nên người Đi Gieo Lời Chúa cho muôn người. Amen.
GIÊ-SU, NGÔN SỨ ĐẾN TỪ THIÊN CHÚA, LOAN BÁO TIN MỪNG CHÚA CHA
Kính thưa quý anh chị em,
Mở đầu thư Do Thái viết: “Thuở xưa, nhiều lần, nhiều cách, Thiên Chúa đã nói với cha ông qua TN 15-B161
Mở đầu thư Do Thái viết: “Thuở xưa, nhiều lần, nhiều cách, Thiên Chúa đã nói với cha ông qua các ngôn sứ, nhưng trong thời sau hết, nghĩa là trong những ngày này, Người đã nói với chúng ta qua Người Con” (Dt 1, 1- 2).
Nói như thế ám chỉ, các vị ngôn sứ thời Cựu Ước chỉ là hình bóng cho Đức Giê-su, Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, nhờ Người tất cả được cứu độ, được giải thoát.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày căn tính Đức Giê-su, Ngôn sứ quyền năng trong lời nói, việc làm, họa lại chân dung trung thực nhất của Cha, Đấng giầu lòng xót thương, Đấng duy nhất tốt lành: “Ai thấy Thầy là xem thấy Cha” (Jn 14, 9).
Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Amos, đề cập nguồn gốc ngôn sứ: nhất thiết phải do Thiên Chúa tuyển chọn và sai đi loan báo cho dân ý muốn của Chúa.
Amos tâm niệm: đã là ngôn sứ thì phải luôn vâng lời Chúa trong mọi hoàn cảnh. Ông sống ở miền nam Giuđa, nghề nghiệp: trồng trọt, chăn nuôi, là người thuộc tầng lớp bình dân, ít học, không phù hợp với sứ vụ ngôn sứ, nhưng Thiên Chúa lại sai ông đến với dân miền Bắc đang thù nghịch với dân miền nam.
Ông luôn tỏ ra ngoan ngoãn, dịu dàng, hiền lành, khiêm tốn thi hành sứ vụ. Câu chuyện giữa Amos và Amasia cho thấy đặc tính đơn sơ chất phác, đầy lòng phó thác cậy trông của một đầy tớ lo chu toàn công việc thuộc đấng bậc mình.
Ông thú nhận: “tôi không phải là ngôn sứ, cũng không phải người thuộc nhóm ngôn sứ, tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung” (Am 7, 14). Vấn đề là, Chúa bắt chợt tôi khi đang theo sau đàn vật và sai đi tuyên sấm cho dân miền bắc Israel.
Cái dũng của Amos là vâng lời, lên đường trong niềm hy vọng có Chúa cùng đồng hành, chỉ bảo cho biết việc phải làm.
Ơn gọi của Amos là bài học cho mỗi người chúng ta trong sự vâng phục đức tin, sẵn sàng bỏ lại phía sau tất cả, để lên đường thi hành sứ vụ khi được Chúa tuyển chọn và sai đi. So kè, tính toán quá sẽ làm nhụt ý chí phấn đấu, sẽ dễ dàng thoái thác việc tông đồ. Tính toán theo kiểu thế gian là kẻ cậy vào sức mình hơn cậy trông ơn Chúa.
Hãy phấn khởi lên đường, nhảy liều trong niềm hy vọng có Chúa cùng hoạt động và củng cố lời giảng bằng những phép lạ đi kèm.
Chúa Giê-su, trong bài Tin Mừng, thể hiện uy quyền tối thượng nhận được từ nơi Cha trong việc cắt đặt sai phái các tông đồ thi hành sứ vụ. Ngài ban cho họ quyền xua trừ ma quỷ, tha thứ tội lỗi, chữa lành bệnh nhân, phục sinh kẻ chết, những quyền năng vốn chỉ dành cho một mình Thiên Chúa. Khi nói điều đó, Marco muốn tuyên xưng Giê-su là Chúa, bình đẳng với Cha, bởi đã nhận mọi quyền năng trên trời dưới đất.
Do vậy, nếu Cha sai Người thi hành sứ vụ trong uy quyền Thiên Chúa thế nào, thì người cũng ban quyền ấy cho các tông đồ: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai chúng con. Các con hãy nhận lấy Thánh Thần” (Jn 20, 21 – 22).
Đối với Chúa Giê-su, cốt lõi sứ vụ tông đồ hệ tại tấm lòng biết lắng nghe và thái độ sẵn sàng bước theo sự hướng dẫn của Thánh Thần.
Chỉ thị: không mang gì đi đường, không mang lương thực, bao bị, tiền bạc..., nhằm giải phóng người môn đệ khỏi những áp lực thế gian, khỏi dính bén của cải trần thế, lợi lộc thấp hèn, mà toàn tâm, toàn ý lo việc mở mang Nước Chúa, phục vụ lợi ích các linh hồn, mọi nhu cầu cuộc sống Chúa sẽ ban cho, vì làm thợ thì đáng được trả công.
Người môn đệ đích thực của Chúa Giê-su là người mang bình an, hòa thuận, nhân ái, đoàn kết hiệp thông, luôn lấy yêu thương làm dây ràng buộc mọi điều thiện hảo, nghĩa là: sống đẹp văn hóa toàn thể, nhiệt tâm bồi đắp nền văn minh tình thương.
Thưa anh chị em,
Chỉ thị của Chúa cho các tông đồ có quá khó để thi hành ? Đúng là những đòi hỏi gắt gao, nặng nề vượt sức tự nhiên, nhưng không phải đối với Chúa, vì “Ơn Ta đủ cho con” (2C 12, 9).
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, chỉ ra sức mạnh của ơn Chúa, giúp người môn đệ làm được mọi việc trong Đấng ban sức mạnh cho họ.
Chúa Cha, nhờ Đức Kitô, tuôn đổ muôn vàn ân phúc Thánh Thần trên cuộc đời chúng ta. Ơn làm con Thiên Chúa là phẩm vị cao quý nhất, người môn đệ có quyền kêu lên “Abba”, để Thiên Chúa được tôn vinh.
Nhờ hy tế thập giá, máu Chúa Kitô tẩy sạch lương tâm khỏi hành vi sự chết, ban tặng sự sống mà phụng thờ Thiên Chúa hằng sống.
Trong Đức Kitô, chúng ta được niêm ấn Thánh Thần, là bảo chứng phần gia nghiệp muôn đời chờ đợi ngày Chúa đến trong vinh quang.
Bài sách thánh vừa tuyên đọc là bản tuyên xưng đức tin vào Chúa Ba Ngôi, vừa đồng hoạt động, lại vừa biểu lộ tính cách đặc thù dành riêng cho Cha – Con – Thánh Thần trong nhiệm cục cứu chuộc thế gian.
Như vậy, ngôn sứ của thời đại sau cùng này phải thi hành sứ vụ theo mô hình Ba Ngôi Thiên Chúa: hướng dẫn nhân loại đạt tới Cha, nhờ gắn bó mật thiết, nên một với Đức Kitô, trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần, mới có thể đem lại hiệu quả cứu độ, mới thực sự góp phần làm cho danh Cha vinh hiển, cho Nước Cha trị đến.
Xin Chúa nâng đỡ và chúc lành cho mỗi người chúng ta. Amen.
(Suy niệm Chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Chủ đề Chúa Nhật XV Thường Niên năm B này là Sứ Vụ. Sứ vụ đem lại cho các vị thừa sai sự TN 15-B162
Chủ đề Chúa Nhật XV Thường Niên năm B này là Sứ Vụ. Sứ vụ đem lại cho các vị thừa sai sự cao cả, niềm hân hoan, nhưng cũng không thiếu nỗi buồn phiền, vị đắng cay.
Am 7: 12-15
Trong Bài Đọc I, ngôn sứ A-mốt, vốn xuất thân từ vương quốc miền Nam, vương quốc Giu-đa, được Thiên Chúa sai đi truyền đạt sứ điệp của Ngài cho vương quốc miền Bắc, vương quốc Ít-ra-en. Hoàn cảnh thật khó khăn, nhưng ngôn sứ A-mốt cũng đã hoàn thành sứ vụ ngôn sứ của mình.
Ep 1: 3-14
Trong phần mở đầu thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô cho biết ý định muôn thuở của Thiên Chúa là cứu độ nhân loại. Sứ vụ này được Đức Ki-tô hoàn thành và chuyển giao cho Giáo Hội.
Mc 6: 7-13
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su sai nhóm Mười Hai ra đi thi hành sứ vụ với lời căn dặn phải có tinh thần siêu thoát triệt để, cũng như báo trước những thất bại có thể có.
BÀI ĐỌC I (Am 7: 12-15)
Các sự việc được trình thuật trong đoạn trích hôm nay diễn ra ở vương quốc miền Bắc, dưới triều đại của vua Gia-róp-am II (787-747 tCN). Để hiểu rõ hoàn cảnh lịch sử ở đó ngôn sứ A-mốt được Thiên Chúa sai đi thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình, xin được nhắc lại, sau khi vua Sa-lô-môn băng hà, vào năm 931 trước Công Nguyên, mười hai chi tộc Ít-ra-en chia rẽ nhau. Hai chi tộc vẫn trung thành với vương triều Đa-vít, tức vương quốc miền Nam, còn gọi là vương quốc Giu-đa. Mười chi tộc còn lại tách ra khỏi vương triều Đa-vít, tự chọn cho mình một vị vua mới, vua Gia-róp-am, và thiết lập vương quốc miền Bắc, còn gọi là vương quốc Ít-ra-en.
Vương quốc miền Nam có lợi thế là Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Đối lại, vương quốc miền Bắc phục hồi tính thánh thiêng của hai thánh địa xưa: đền thánh Ghin-gan nằm ở cực bắc xứ Pa-lê-tin, và đền thánh Bết Ên nằm ở cực nam cách Giê-ru-sa-lem khoảng chừng 15 cây số, để mà dân chúng miền Bắc quên đi Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Quả thật, khi Đền Thờ Giê-ru-sa-lem đã được xây dựng và được coi như Đền Thờ quốc gia, thì những đại lễ Do thái đều được tập trung cử hành tại đó. Do đó, các thánh địa mất đi vị thế của mình. Đền thánh Bết Ên, nơi mà A-mốt thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình, có ưu điểm là nhắc nhớ tổ phụ Gia-cóp. Chính ở nơi đây mà ông Gia-cóp đã có một giấc mơ trong đó ông thấy một chiếc thang nối liền trời với đất. Vì thế, vị tổ phụ đã gọi nơi nầy là Bết-Ên, nghĩa là “Nhà Thiên Chúa” (St 28: 19).
Hai đền thánh nầy, cũng như các tư tế phục vụ chúng, hoàn toàn phụ thuộc vào vương triều, như ông A-mát-gia, tư tế đền thánh Bết Ên, nói với ngôn sứ A-mốt: “Đây là thánh điện của quân vương, đây là đền thờ của vương triều” (7: 13).
1. Sứ vụ của ngôn sứ A-mốt:
Vốn là người sinh trưởng ở vương quốc miền Nam, ông A-mốt được Thiên Chúa sai đến vương quốc miền Bắc để thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình. Ông xuất thân từ một thị trấn Bết-lê-hem, làm nghề chăn nuôi súc vật và chăm sóc những cây sung để chúng sinh ra những trái sung ngon ngọt (phải chăng đây cũng chính là ý nghĩa sứ vụ ngôn sứ của ông?).
Sứ mạng của vị ngôn sứ gặp nhiều khó khăn. Ông phải ngỏ lời với dân chúng đang sống trong cảnh thanh bình, thịnh vượng và phú túc. Tuy nhiên, xã hội đầy dẫy những chuyện bất công. Những kẻ “lắm tiền nhiều của” liên kết với những kẻ “có thế có quyền” áp bức bốc lột những người nghèo hèn trong xứ. Sứ điệp của ngôn sứ gởi đến vương quốc miền Bắc thịnh vượng nầy thật nghiêm khắc:
“Chúng ghét người sửa trị nơi cửa công và thù oán kẻ ăn ngay nói thật. Vậy, bởi các ngươi chà đạp kẻ yếu hèn và đánh thuế lúa mì của họ, nên những ngôi nhà bằng đá đẻo các ngươi đã xây, các ngươi sẽ không được ở; những gốc nho ngon ngọt các ngươi đã trồng, các ngươi sẽ không được uống rượu của chúng. Bởi Ta biết tội ác các ngươi nhiều vô kể, tội lỗi các ngươi nặng tầy trời: nào áp bức người công chính, lại đòi quà hối lộ, nào áp bức kẻ nghèo hèn tại cửa công” (5: 10-12).
Vị ngôn sứ phẩn uất trước những lễ hội xa hoa, những đám rước linh đình do tiền đóng góp của những kẻ làm giàu trên xương máu đồng bào của mình. Ông nhận thấy ở nơi những lớp vỏ thịnh vượng vật chất giả tạo là thực chất của một xã hội bất công thối nát. Vì thế, vào thời buổi nầy, cách đối nhân xử thế khôn ngoan nhất là “Dĩ hòa vi quý”, nhắm mắt làm ngơ trước hiện trạng bất công xã hội mà mình đang sống:
“Bởi thế thời buổi nầy, ai cẩn trọng thì làm thinh, vì đây là một thời khốn quẩn” (5: 13).
Tuy nhiên, ngôn sứ A-mốt không như thế, ông đã nhân danh Thiên Chúa tuyên sấm tố cáo lối sống giả tạo của vương quốc nầy:
“Vào ngày Ta trị tội Ít-ra-en Ta sẽ triệt hạ các bàn thờ của Bết-Ên: các sừng của bàn thờ sẽ bị bẻ gãy và quăng xuống đất. Biệt thự mùa đông, biệt thự mùa hè, Ta sẽ triệt phá; điện ngọc đền ngà sẽ sụp đổ, lâu đài dinh thự cũng tan hoang” (3: 14-15).
2. Sấm ngôn của A-mốt: Thật ra, khi thấy hiểm họa xâm lăng của các đạo quân Át-sua, ngôn sứ A-mốt ra sức cảnh báo ngăm đe ngõ để mà vương quốc Ít-ra-en, vương quốc miền Bắc, có thể hồi tâm trở lại cùng Thiên Chúa của mình, thay đổi đời sống mà tránh khỏi án phạt:
“Hãy tìm điều lành chứ đừng tìm điều dữ, rồi các ngươi sẽ được sống, và như vậy Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh sẽ ở cùng các ngươi, như lời các ngươi nói” (5: 14).
Khi cảnh báo cuộc xâm lăng của đế quốc Át-sua sắp đến, ngôn sứ A-mốt không nêu đích danh, nhưng đơn giản chỉ gọi là “quân thù”:
“Quân thù sẽ bao vây lãnh thổ, sẽ triệt hạ sức mạnh của ngươi, và đền đài của ngươi sẽ bị cướp phá” (3: 11).
Rảo khắp các thành thị và các đền thánh, vị ngôn sứ nêu lên câu hỏi với dân chúng: liệu Thiên Chúa sẽ gìn giữ dân của Ngài, nếu dân vẫn cứ ngoan cố trong tội ác của mình? Sấm ngôn của ông càng lúc càng vang dội lời cảnh báo nghiêm khắc:
“Quả thế, Đức Chúa phán thế này với nhà Ít-ra-en: Hãy tìm Ta thì các ngươi sẽ được sống. Nhưng đừng tìm đến Bết Ên, đừng đi vào Ghin-gan, chớ qua Bơ-e Se-va! Vì Ghin-gan sẽ bị đày biệt xứ, và Bết Ên sẽ thành chốn không người” (5: 4-5).
Sấm ngôn của ông được ứng nghiệm. Vương quốc miền Bắc bị tiêu diệt dưới những cuộc tấn công của đế quốc Át-sua và biến mất vĩnh viễn khỏi lịch sử vào năm 721 trước Công Nguyên.
3. Phẩm chất của ngôn sứ A-mốt:
Trước đó, tư tế A-mát-gia đã tố cáo ngôn sứ A-mốt với vua Gia-róp-am: “A-mốt âm mưu chống đức vua ngay trên lãnh thổ Ít-ra-en, và đất nước nầy không còn chịu nổi bất cứ lời nào của ông ta nữa. Vì A-mốt nói như thế nầy: Gia-róp-am sẽ chết vì gươm, và Ít-ra-en sẽ bị đày biệt xứ” (7: 10-11). Trong đoạn trích hôm nay, tư tế A-mát-gia, hoặc thừa hành lệnh vua, hoặc nhân danh quyền lãnh đạo của mình là tư tế của thánh địa Bết-Ên, ra lệnh cho ngôn sứ A-mốt: “Nầy thầy chiêm ơi, mau chạy về đất Giu-đa, về đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm!” (7: 12).
Tư tế A-mát-gia vu khống ngôn sứ A-mốt khi đồng hóa ông với các ngôn sứ mạo danh, những kẻ xem việc tuyên sấm như một nghề để làm ăn, để kiếm tiền. Trước lời vu khống nầy, ngôn sứ A-mốt đáp lại: ông không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải xuất thân từ trường lớp ngôn sứ, nhưng chỉ là người chăn súc vật và chăm sóc vườn cây. Chính Đức Chúa “đã bắt lấy” ông khi ông đang làm công việc thường ngày của mình, nghĩa là, chính Thiên Chúa đã gọi ông và trao gởi sứ mạng cho ông: “Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân Ta” (7: 15). Đó là cứu thoát dân Ít-ra-en khỏi án phạt của Thiên Chúa sắp đến (7: 14-15).
4. Sự nghiệp của ngôn sứ A-mốt:
Phải chăng lệnh truyền của tư tế A-mát-gia đã chấm dứt sự vụ của ngôn sứ A-mốt? Chúng ta không biết chính xác; nhưng xem ra sứ vụ ngôn sứ của A-mốt chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, sứ điệp của ông vẫn được lưu truyền muôn thuở.
Ngôn sứ A-mốt là vị ngôn sứ bút ký sớm nhất mà sứ điệp của ông vẫn còn được bảo tồn bằng văn tự cho đến ngày nay. Ông đã khai sáng “độc thần giáo luân lý”, đây là nét đặc trưng của truyền thống ngôn sứ Ít-ra-en: “đưa đạo vào đời”. Ở nơi sứ điệp của ông, chúng ta gặp thấy âm vang lời dạy của Công Đồng Va-ti-can II: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Ki-tô, và không có gì thật sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ. Thật vậy, cộng đoàn của họ được cấu tạo bằng những con người đã được quy tụ trong Chúa Ki-tô, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong cuộc lữ hành về Nước Cha và đã đón nhận Tin Mừng cứu rỗi đem đến cho mọi người. Vì thế, cộng đoàn ấy mới nhận thấy mình thực sự liên đới mật thiết với loài người và lịch sử loài người” (Vui Mừng và Hy Vọng, số 1).
BÀI ĐỌC II (Ep 1: 3-14)
Thánh Phao-lô viết thư nầy khi ngài bị giam cầm ở Rô-ma vào những năm 61-63. Thư nêu bật ý định muôn thuở của Thiên Chúa không gì khác hơn là cứu độ nhân loại. Thiên ý này được Đức Giê-su mặc khải, hoàn thành và chuyển giao cho Giáo Hội.
1. “Chúc tụng Thiên Chúa…”
Đoạn văn mà chúng ta đọc là phần đầu của thư ngay sau lời chào hỏi mở đầu. Thánh Phao-lô diễn tả tâm tình tạ ơn theo cách thức cầu nguyện của truyền thống Do thái, được gọi “berakah”: “Chúc tụng Thiên Chúa”. Dù với tư cách cá nhân hay cộng đoàn, lời nguyện nầy bày tỏ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa, không trừu tượng, nhưng luôn luôn vì những ân phúc rõ ràng. “Lời chúc tụng” nầy có thể là lời cầu nguyện tự phát cá nhân, điển hình như những lời kinh nguyện của bà An-na, mẹ ông Sa-mu-en, của ông Tô-bi-a, của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Đây cũng là lời kinh nguyện gia đình trước bữa ăn và đặc biệt long trọng vào bữa ăn Vượt Qua. Đức Giê-su đã đọc “lời chúc tụng” trên bánh và rượu. Sau cùng, lời chúc tụng là hình thức tuyệt vời nhất của kinh nguyện hội đường.
Thánh Phao-lô, trước đây là một Pha-ri-sêu, vẫn trung thành với hình thức chúc tụng nầy. Toàn bộ bài thánh thi nầy kể ra muôn phúc lộc mà Thiên Chúa đã tuôn đổ trên nhân loại. Thánh nhân cũng bắt đầu thư thứ hai gởi các tín hữu Cô-rin-tô theo cùng một cách như vậy: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki tô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi nhân ái, và là Thiên Chúa hằng sẳn lòng ủi an những ai lâm cảnh gian nan khốn khó…” (2Cr 1: 3).
2. Ý định muôn thuở của Thiên Chúa:
Trước tiên, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng Thiên Chúa, nguyên lý và nguồn mạch của muôn phúc lộc, đã chuẩn bị kế hoạch muôn thuở của Ngài cho nhân loại.
Chúng ta ghi nhận rằng “bài ca chúc tụng” này được xây dựng theo kỷ thuật đóng khung rất quen thuộc với thánh Phao-lô, bắt đầu: “Trong Đức Ki-tô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần” (1: 3) và kết thúc: “Trong Đức Ki-tô, cả anh em nữa, anh em đã nghe chân lý là Tin Mừng cứu độ anh em; vẫn trong Đức Ki-tô, một khi đã tin, anh em đã được đóng ấn Thánh Thần, Đấng Thiên Chúa đã hứa. Thánh Thần là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc, để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa” (1: 13-14).
Như vậy, bài ca chúc tụng này bắt đầu trong Đức Ki-tô, trong Ngài Thiên Chúa ban xuống muôn vàn phúc lộc của Thánh Thần cho chúng ta, để rồi kết thúc cũng trong Đức Ki-tô mà chúng ta nghe được Tin Mừng cứu độ và cũng trong Đức Ki-tô mà Thiên Chúa đóng ấn chúng ta bằng Thánh Thần, là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta. Nói theo ngôn ngữ của Tin Mừng Gioan:
“Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1: 16).
3. Đức Ki-tô và kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa:
Trong nhiệm cục xưa, mọi sự đều nhằm chuẩn bị cho cuộc giáng trần của Đức Ki-tô; trong nhiệm cục mới, mọi sự đều khởi đi từ Đức Ki-tô. Thánh Phao-lô đặt ở trung tâm lời chúc tụng của mình là công trình cứu độ của Đức Ki-tô. Chính nhờ Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, mà kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa đã được thực hiện. Việc mặc khải thiên ý mầu nhiệm nầy là một sự khai mở diệu kỳ, cao vời khôn ví, vượt quá sự khôn ngoan thông hiểu của loài người (chúng ta nhận ra ở đây một đề tài rất tâm đắc của thánh nhân).
Sau cùng, thánh Phao-lô gợi lên vai trò của Đức Giê-su, “Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô” (1: 10). Ở đây, động từ Hy lạp “quy tụ” được thánh Phao-lô dùng một lần khác trong thư gởi tín hữu Rô-ma để nói lên rằng Đức Ái “thâu tóm” tất cả mọi giới luật khác (Rm 13: 9). Trong đoạn trích này, Đức Giê-su “thâu tóm” toàn thể vũ trụ vì ở nơi Người mà muôn loài trên trời dưới đất đều quy hướng về để gặp thấy sự hiện hữu của chính mình và ý nghĩa sự hiện hữu của mình. Theo sau thánh Phao-lô, động từ “thâu tóm” đã đi vào trong từ vựng thần học, nhất là với thánh I-rê-nê, và trở thành đối tượng của biết bao sự khai triển.
Nói một cách chính xác, thánh Phao-lô không gán cho Đức Ki-tô vai trò vũ trụ, nhưng triển khai khái niệm “Nhiệm Thể”. Theo cách nầy, thánh nhân chống lại vũ trụ quan của Do thái như trong thư gởi các tín hữu Cô-lô-xê, đồng thời cũng chống lại vũ trụ quan của phái khắc kỷ. Quả thật, trong vài môi trường Do thái, người ta gán cho các thiên thần một vai trò đặc biệt và xem các ngài là những người tổ chức và điều hành vũ trụ. Các Ki-tô hữu xuất thân từ Do thái giáo duy trì những niềm tin như thế có nguy cơ giảm nhẹ vai trò của Đức Ki-tô. Thánh Phao-lô sửa sai vũ trụ quan này. Đối với phái khắc kỷ, họ thấy sự hòa điệu và trật tự của vũ trụ qua tác động của các thần thiêng. Những cách nói của thánh Phao-lô rất gần với phái khắc kỷ, nhưng thánh nhân loại bỏ tất cả khuynh hướng phiếm thần. Về điểm nầy, thánh nhân định vị tư tưởng của mình vào trong truyền thống minh triết Cựu Ước, nghĩa là thánh nhân mượn vài đề tài ở nơi trường phái khắc kỷ, nhưng định vị chúng vào trong viễn cảnh của Đức Chúa cao siêu mầu nhiệm (x. Hc 43: 26-28; Kn 1: 7; 7: 22-23; 12: 1, vân vân).
4. Kế hoạch của Thiên Chúa được diễn tiến trong lịch sử:
Lúc đó, thánh Phao-lô nhắm đến kế hoạch của Thiên Chúa đối với nhân loại diễn tiến trong lịch sử, được gọi là “Lịch Sử Cứu Độ”. Lịch sử cứu độ này được bày tỏ qua ba giai đoạn: Chúa Cha hoạch định, Chúa Con thi hành, Chúa Thánh Thần tác động.
Trước tiên, thánh nhân gợi lên ơn gọi của Ít-ra-en: Ít-ra-en được Thiên Chúa tuyển chọn là để làm nhân chứng về việc trông đợi cuộc giáng trần của Con Ngài. Ở đây, thánh nhân ngỏ lời với các tín hữu gốc Do thái mà ngài kể mình vào trong số họ với đại từ “chúng tôi”: “Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Ngài, đã tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của Người…” (1: 11-12). Tiếp đến, thánh nhân ngỏ lời với các Ki-tô hữu gốc lương dân bằng đại từ “anh em”: “Trong Đức Ki-tô cả anh em nữa, anh em đã được nghe lời chân lý là Tin Mừng cứu độ anh em…” (1: 13-13). Sau cùng, thánh Phao-lô hiệp nhất hai nhóm Ki-tô hữu xuất thân khác nhau này lại với nhau qua đại từ chung: “chúng ta” khi thánh nhân đề cập việc Chúa Cha sai phái Chúa Thánh Thần một cách nào đó như là thực hiện lời cam kết theo đó Ngài đã hứa ban gia nghiệp, nghĩa là được sống bên Ngài để “ngợi khen vinh quang Thiên Chúa” (1: 14). Diễn ngữ “ngợi khen vinh quang Thiên Chúa” lập lại đến ba lần (1: 6, 12, 14) như một điệp khúc trong bài ca chúc tụng nầy. Đó là mục đích tối hậu của kế hoạch Thiên Chúa và đó cũng là cứu cánh của nhân loại.
TIN MỪNG (Mc 6: 7-13)
Trong chương trước, thánh Mác-cô đã tường thuật việc Đức Giê-su “thiết lập nhóm Mười Hai” với hai mục đích: “để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng” (3: 14).
1. Nguồn gốc sứ vụ của các môn đệ:
Sau một thời gian chuẩn bị: “nhóm Mười Hai” đã sống với Người, đã nghe giáo huấn của Người và được Người giải thích mọi điều, đã thấy quyền năng của Người qua các phép lạ, cũng như những thất bại của Người như ở Na-da-rét, Đức Giê-su cho rằng đã đến lúc đặt các ông vào trong thử thách khi sai các ông đi thi hành sứ vụ.
Việc sai các môn đệ đi thi hành sứ vụ thật sự là điều mới mẽ. Vào thời của Người, các kinh sư quy tụ chung quanh mình một nhóm môn đệ để chia sẻ cuộc sống của thầy; tuy nhiên, họ không bao giờ nghĩ đến việc sai các môn đệ ra đi và ủy quyền cho họ thi hành sứ vụ. Chính Đức Giê-su đích thân sai các ông đi và ủy quyền cho các ông thi hành sứ vụ, như sau nầy Người sẽ lập lại với họ trước khi từ giả các ông: “Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20: 21).
2. “Từng hai người một”:
Chúa Giê-su bắt đầu sai các ông đi “từng hai người một” (6: 7). Thánh Mát-thêu đã bảo tồn cho chúng ta nhóm từng hai người một nầy khi kể tên nhóm Mười Hai theo từng cặp: Phê-rô và An-rê, Gia-cô-bê và Gioan, Phi-líp-phê và Ba-tô-lô-mê-ô, Tô-ma và Mát-thêu, Gia-cô-bê và Ta-đê-ô, Si-mon và Giu-đa (x. Mt 10: 2-4).
Có phải ở đây Đức Giê-su quan tâm đến tâm lý? Chắc chắn, công việc dễ dàng hơn nếu có hai người cùng nhau bàn bạc, bổ túc cho nhau và giúp đỡ nhau trên dặm đường truyền giáo. Nhưng con số “hai” cũng là biểu tượng cộng đoàn, nghĩa là các vị thừa sai không làm việc đơn lẻ một mình, nhưng làm việc cùng nhau theo từng nhóm. Ngoài ra, theo quy định của Lề Luật, một lời chứng chỉ có giá trị nếu có hai nhân chứng (x. Đnl 17: 6; 19: 15; Ds 35: 30). Các môn đệ sẽ làm chứng từng hai người một về những dấu chỉ của Vương Quốc Thiên Chúa: trước hết, qua quyền năng trên những thế lực sự Dữ; thứ nữa, qua cuộc sống siêu thoát khỏi những bận lòng trần thế để nhắm đến những của cải tinh thần.
3. Hành trang của vị thừa sai.
Những căn dặn của Đức Giê-su cho các vị thừa sai nhắm đến hành trang thật gọn nhẹ, hay đúng hơn không trang bị gì cả: không lương thực, không bao bị, không tiền giắc lưng, không áo để thay đổi. Có vài chi tiết khác biệt giữa các Tin Mừng Nhất Lãm, tuy nhiên bài học thì rõ ràng: đức khó nghèo và sự phó thác hoàn toàn vào ơn Quan Phòng của Chúa phải là những dấu ấn mà các vị thừa sai để lại trong lòng mọi người. Phong thái của họ cực kỳ đơn giản giống như những lữ khách lòng không vương vấn bất cứ điều gì cả. Họ được mô tả như những lữ khách luôn luôn sống trong tư thế lên đường, không tìm cách định cư ở một nơi nào nhất định, bởi vì còn có những nơi khác nữa cần đến sứ điệp của họ. Chỉ thị của Đức Giê-su ở câu 8 và câu 9 gợi nhớ chỉ thị của Đức Chúa cho Ít-ra-en trong tư thế sẵn sàng lên đường khi ăn lễ Vượt Qua tại Ai-cập: “Các ngươi phải ăn thế này: lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy” (Xh 12: 11). Vào lúc dùng bữa sau cùng với các môn đệ, Đức Giê-su sẽ hỏi các ông: “Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không bao bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì không?”. Mọi người đồng thanh đáp:
“Thưa không” (Lc 22: 35).
Quả thật, truyền thống hiếu khách của người Đông Phương tạo cơ hội thuận tiện cho việc thi hành sứ vụ của các các vị thừa sai lữ hành. Tuy nhiên, Đức Giê-su căn dặn họ: “Khi anh em vào nhà nào mà người ta đón tiếp, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi”. Vị thừa sai phụ thuộc vào lòng hiếu khách của các cộng đồng địa phương, vì thế tránh mất thời gian và năng lực không cần thiết vào việc tìm kiếm nơi ở tốt hơn. Phải trân trọng lòng hiếu khách hơn nơi lưu trú.
4. Giũ bụi chân:
Vì là những người được sai đi rao truyền sứ điệp một cách vô vị lợi, nên họ được tiếp đón một cách vô vị lợi từ những gia đình mà họ viếng thăm. Nhưng Đức Giê-su cũng tiên liệu sứ điệp kêu gọi hoán cải mà họ rao giảng có thể có những người khước từ: “Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ” (6: 11).
Đây là tập tục của người Do thái sau cuộc hành trình trở về từ nước ngoài. Khi đặt chân lên đất thánh, họ giũ bụi đường khỏi giày dép để không đưa bụi phàm trần vào đất thánh của mình. Trong lời căn dặn của Đức Giê-su, không có bất kỳ một sự khinh bỉ nào đối với những người khước từ sứ điệp, nhưng hành động “giũ bụi chân” nói lên lời cảnh cáo mạnh mẽ đối với những ai khước từ Tin Mừng cứu độ.
Lời rao giảng của các môn đệ chưa trọn vẹn vì họ chưa rao giảng con người của Đức Giê-su. Vả lại vào giây phút này họ chưa có thể hiểu đầy đủ về Ngài, nhưng chỉ chuẩn bị các tâm hồn: kêu gọi hoán cải. Như Đức Giê-su, lời rao giảng của họ kèm theo những dấu chỉ: trừ quỷ, xức dầu bệnh nhân và chữa lành bệnh tật.
5. Xức dầu bệnh nhân:
Vào thời Cựu Ước, người ta xức dầu để làm dịu vết thương. Các Tông Đồ xức dầu, không như một phương thuốc, nhưng như một dấu chỉ biểu tượng cho một tác động siêu nhiên. Công Đồng Tren-tô đã thấy trong cử chỉ của các Tông Đồ một trực giác, một phác thảo bí tích xức dầu bệnh nhân. Thánh Gia-cô-bê chứng thực rằng bí tích nầy đã được thực hành ngay từ thời các Tông Đồ: “Ai trong anh em đau yếu ư? Người ấy hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh; người ấy được Chúa nâng dậy, và nếu người ấy đã phạm tội , thì sẽ được Chúa tha thứ” (Gc 5: 14-15).
Bệnh nhân được chữa lành, ma quỷ bị trục xuất, những cử chỉ này của các thừa sai được ghi khắc trên cùng bình diện với các cử chỉ của Đức Giê-su. Các sự dữ được gán cho tội lỗi, vì thế, việc chúng bị khai trừ loan báo thời đại lòng xót thương của Chúa.
6. Ý nghĩa:
Bài diễn từ sai các môn đệ lên đường nầy rất cổ kính vì mang đậm nét các phong tục tập quán thời xưa. Tuy nhiên, sứ điệp của nó rất hiện thực. Tin Mừng được truyền bá bằng những cuộc sống đơn sơ giản dị và trao ban một cách vô vị lợi, vì thế, mời gọi mọi người đón nhận nó cũng một cách vô vị lợi. Sứ điệp kèm theo các dấu chỉ cho thấy chiến thắng của Đức Ki-tô trên sự Ác và Tử Thần là sứ điệp muôn thuở của bài trình thuật cổ kính nầy.
Nhìn lại thời khắc được thụ phong chức linh mục hay thời gian được khấn trọn, chắc hẳn ai TN 15-B163
Nhìn lại thời khắc được thụ phong chức linh mục hay thời gian được khấn trọn, chắc hẳn ai trong chúng ta đều cảm nghiệm sự bất toàn, không xứng đáng của bản thân trước ơn cao cả, nhưng không của Thiên Chúa. Hơn nữa, anh chị giáo dân, gia đình, bạn bè còn trầm trồ khen tặng hết lời, và ra công cầu nguyện liên lỉ cho ứng viên luôn được trung tín với ơn gọi sứ mạng thánh hiến.
Tuy vậy, quả thật Thiên Chúa không chỉ mời gọi một số người ‘đi làm vườn nho truyền giáo cho Ngài mà thôi, nhưng Ngài còn kêu mời mọi người – những người mang danh Ki-tô hữu, được lãnh nhận Bí tích Thanh Tẩy – dấn thân lên đường, ra đi trở nên sứ giả của Niềm hoan lạc, của sự bình an đã được Thiên Chúa ban tặng, như thánh Phao-lô xác tín trong thư gửi giáo đoàn Ê-phê-sô “...Đấng đã chúc lành cho chúng ta bằng mọi phúc lành thiêng liêng trên trời, trong Đức Kitô. Như Ngài đã chọn chúng ta trong Người trước khi tạo dựng thế gian, để chúng ta được nên thánh thiện và tinh tuyền trước mặt Ngài trong tình yêu thương” (Ep 1, 4). Với lòng cảm tạ ơn Chúa sâu xa, và quyết tâm trở nên sứ giả của Người, chúng ta nên có ít nhất ba tâm tình: Tín thác, Đơn sơ, và Trung thành (TĐT) được rút ra từ đoạn Phúc Âm ngày hôm nay (x. Mc 6, 7-13)
Đầu tiên, tâm tình Tín thác được diễn tả rõ rệt qua đời sống đức tin, niềm cậy trông, lòng phó thác vào Chúa, và vào chương trình của Người, “…không mang lương thực, túi tiền, hai áo, mang bị…” (x. Mc 6, 8-9). Nhưng thử hỏi: Sao Chúa lại quá khắt khe như vậy? Những thứ này không mang theo thì làm sao mà sống, làm sao mà an tâm để chia sẻ niềm vui được? Dĩ nhiên, những gì cần thiết cho cuộc sống của con người thì không thể thiếu; nhưng dù có như vậy đi nữa, người hoàn toàn tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa thì cho dẫu một lời than phiền, ỉ ôi hay trách móc cũng không đọng lại trên môi miệng họ. Người mà biết cậy trông, tín thác hoàn toàn vào Chúa thì chẳng bao giờ bồn chồn, lo lắng quá mức như câu danh ngôn này chỉ ra: ‘Nếu đã tin tưởng thì không lo âu, than phiền; nhưng nếu lo âu, phiền muộn thì không thể tin tưởng vào ai’. Mặc khác, người sứ giả có tâm tình Tín thác, biết phân định những gì cần thiết, không thể thiếu với những gì mình muốn sở hữu nhưng chưa hẳn là cần kiếp! Là con người, chúng ta có vô vàn ước vọng ‘bất thành văn’ và mong muốn ‘miễn bàn luận’! Vì thế, để rõ ràng nhận ra điều này, chúng ta phải chìm sâu trong đời sống thân mật với Chúa, và qua tâm tình cầu nguyện, phó dâng, Người sẽ gạn đục khơi trong tâm hồn, ước vọng chồng chéo, chất chồng nơi cùng lòng sâu thẳm của ta.
Thứ đến, người sứ giả Tin mừng phải mặc lấy tâm tình Đơn sơ, chân thành, giản dị khi ra đi rao truyền, sống chứng tá, “…đi dép…đến đâu các con vào nhà nào thì ở lại nhà đó cho đến khi ra đi” (x. Mc 6, 9-10). Ở đây, chúng ta không nên nhìn theo nghĩa từ ngữ mà so sánh như: thời nay, các Dì, các Thầy, các Cha, v.v… toàn là mang giày thời trang, giày cao cấp, hàng đắt tiền, chứ chẳng thấy họ ‘mang dép’!? Hình ảnh ‘đi dép’ này lột tả sự giản dị, lối sống giản đơn, không cầu kỳ, yêu sách, đòi hỏi được trả công. Và khi đi rao truyền, thăm viếng tha nhân thì hãy ân cần, chăm chú gia cảnh, trạng huống, môi trường sống, v.v… của họ, chứ không ‘đứng đồng xanh này, mà trông bên đồng xanh rì kia’, vì “những ai lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không” (x. Mt 10, 8)
Sau cùng, tâm tình Trung thành được diễn tả qua việc đáp trả lời mời gọi, ghi khắc lời dạy, và rao truyền sứ điệp Chúa trao. Là người sứ giả Tin Mừng, không ai trong chúng ta phủ nhận tầm quan trọng của việc đào sâu, trải nghiệm, nếm mùi vị của Tin Mừng. Và khi gặp gỡ Chúa, đọc Kinh Thánh, chúng ta biết để Lời Chúa biến đổi con người yếu đuối, mỏng dòn của ta; chứ đừng chỉ lấy thông tin để loan truyền, hay uốn nắn Lời Chúa theo ý riêng ta! Hơn nữa, lòng trung thành với sứ điệp loan truyền này đòi hỏi sứ giả của Niềm Vui khắc ghi, sống trọn cốt lõi của lời mời gọi “rao giảng sự thống hối, trừ quỷ, xức dầu bệnh nhân” (x. Mc 6, 12-13), nghĩa là trở nên sứ giả của niềm hoan lạc, bình an, an ủi đích thực từ chính Chúa. Trong bậc sống thánh hiến, đời sống hôn nhân gia đình, nhiều lần chúng ta trở nên sứ giả của sự ganh ghét, thay vì trở nên sứ giả của lòng yêu thương; nhiều lần chúng ta trở nên sứ giả của tin buồn, thay vì tin mừng vui; nhiều lần chúng ta trở nên sứ giả của sự hiềm tị, ganh đua, thay vì xây dựng tình hiệp nhất, đỡ nâng; nhiều lần chúng ta trở nên sứ giả của sự chia rẽ, bất an, thay vì vun trồng tình huynh đệ, mang lại sự bình an, v.v…
Để kết thúc bài chia sẻ này, con kính mời tất cả quý cộng đoàn cùng con dâng lên Chúa lời nguyện ước chân thành sau: (Ra Đi Rao Truyền, thơ Lm. Xuân Hy Vọng)
Chúa mời con lên đường san sẻ Đáp lời Người, nhanh nhẹn bước đi Đơn sơ, chân thành, con phó thác Giữ trọn câu thề, mãi sắt son. Bình an cõi lòng con xin nhận Nung nấu tâm hồn người khắc ghi Trần đời này chỉ tựa bóng câu Vùn vụt trôi, tháng ngày xa vắng. Ra đi gieo rắc lòng hoan hỉ Người người tề tựu ngợi khen Cha Tâm hồn ngập tràn bao hạnh phúc Lòng thành này, ngàn lời tán dương. Chặng đường dài dẫu ngàn nguy khó Chúa cùng con nên chẳng ngại chi Vai mang thập tự, lòng suy gẫm Triều thiên vinh phúc lấp lánh chào. Lm. Xuân Hy Vọng
ĐẶT NIỀM XÁC TÍN VÀO ĐẤNG HẰNG TRUNG TÍN VÀ YÊU THƯƠNG CHÚNG TA
Quý ông bà, anh chị em rất thân mến! Hôm nay, Giáo hội mời gọi mỗi người chúng ta nhớ lại giao ước được Thiên Chúa ký kết với chúng ta trong Máu Đức Ki-tô. Giao ước mới này được diễn tả một cách tuyệt diệu và cụ thể nhất qua bí tích Tình yêu, bí tích Thánh thể mà chúng ta được tham dự mỗi ngày. Hơn nữa, nơi giao ước mới này, chúng ta được múc lấy ân sủng dồi dào từ nguồn thánh ân vô biên và ước mong sao đời sống đức tin của mỗi người ngày càng trưởng thành, kiên định vào Đấng hằng trung tín, yêu thương chúng ta vô bờ bến.
Thật ra, chúng ta chẳng phải là người chọn Thiên Chúa, yêu Ngài và đặt hết niềm tin nơi Ngài trước tiên; ngược lại, chính Thiên Chúa đã đi bước trước, Ngài yêu thương, tin tưởng vào chúng ta và mời gọi chúng ta thông phần vào sứ mạng loan truyền Tin mừng cho mọi dân nước. Lòng thành tín này được diễn tả thật hùng hồn qua gương chứng tá của tiên tri A-mốt trong bài đọc I. Dưới thời vua Giê-rô-bô-am đệ nhị (k. 786-746 TCN), Thiên Chúa sai một người chăn chiên thành Tê-kô-a tại Giu-đê-a tên là A-mốt (theo tiếng Híp-ri, A-mốt có nghĩa là “vô danh”) đến cùng dân Is-ra-en, nhắc nhở họ hãy sống vâng phục, thực thi giao ước đã ký kết với Thiên Chúa. Mặc dù, A-mốt đơn thuần là một kẻ chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung; A-mốt cũng chẳng phải là một tiên tri “chuyên nghiệp” theo đúng nghĩa ngôn sứ; mà A-mốt đơn giản chỉ là một người vô danh, tiểu tốt; nhưng Thiên Chúa đã để mắt tới ông, yêu thương ông, đặt niềm tin nơi ông và mời gọi ông trở nên “sứ giả” của Ngài. Và để đáp lại lòng thành tín vô biên ấy, A-mốt đã vâng phục, tín thác vào Thiên Chúa, ra đi thực hiện sứ vụ ngôn sứ, nhắn nhủ dân Is-ra-en lời cam kết đã được ghi tạc trong tâm khảm họ, đó là: Thiên Chúa - Đấng tín trung và công bình.
Hơn nữa, lòng từ bi của Thiên Chúa vượt trên sự chờ mong của con người, thậm chí vượt trội hơn đức công bình của Ngài. Chính vì lòng nhân ái, yêu thương nhân loại không thể diễn tả hết bằng ngôn từ, mà thánh Phao-lô đã vận dụng nét đặc trưng ngợi ca của thánh thi mà tán tụng Thiên Chúa qua dòng lịch sử cứu độ nhân loại (x. Ep 1, 3-14): Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa đã tạo dựng nên ta,
Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa hứa ban Đấng Cứu Thế hầu giải thoát con người đắm chìm trong vòng tội lỗi, nô lệ của sự chết; Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa rộng lòng từ bi đón nhận và cho ta làm con cái của Ngài; Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa tha thứ tội lỗi chúng ta; Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa ban cho ta ân sủng, sự khôn ngoan hầu biết thiên ý và kế hoạch yêu thương của Ngài trong Đức Ki-tô; Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa quy tụ mọi loài dưới quyền thủ lãnh của Đức Ki-tô, qua sứ vụ của Mẹ Giáo Hội; Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa loan báo Tin Mừng cứu độ cho muôn dân; Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa ban Thánh Thần xuống ngõ hầu chúng ta được sống trong ân tín với Ngài; Và vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa luôn ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.
Qua hình ảnh tiên tri A-mốt và lời ngợi khen Thiên Chúa mà thánh Phao-lô mời gọi giáo đoàn Ê-phê-sô cùng với thánh nhân chung lời tán tụng Đấng hằng trung tín, công bình và hết mực yêu thương nhân loại. Hơn hết, lòng thành tín này được diễn tả cụ thể trong bài Phúc Âm hôm nay. Đức Giê-su gọi Mười hai Tông đồ, và sai từng hai người một ra đi rao truyền nước Thiên Chúa, giới thiệu khuôn mặt yêu thương của Thiên Chúa, chương trình cứu độ của Ngài cho mọi loài thụ tạo khắp cùng bờ cõi trái đất. Mười hai Tông Đồ được mời gọi, được chọn, được Đức Giê-su đặt niềm tin và được sai đi tiếp tục sứ vụ “sứ giả”, sứ vụ "môn đệ”. Vì vậy, bước theo chân Giê-su, giống như các Tông đồ, mỗi người trong chúng ta được Người căn dặn chớ lo lắng nhiều sự trần đời, xao xuyến với cuộc sống bon chen từng ngày. Chớ mang nhiều thứ mà quên đi phần cốt yếu của sứ mạng làm người môn đệ của Thiên Chúa, đó là: đặt hết niềm tin tưởng nơi Ngài — Đấng luôn luôn thành tín, trung tín với sứ vụ loan truyền Tin mừng Cứu độ, sống trong bình an của Thiên Chúa và sẵn sàng chia san bình an ấy cho hết mọi người, mọi dân nước.
Để kết thúc bài chia sẻ này, con xin kể một câu chuyện thực sự đã xảy ra tại thành phố Ta-gay-tay, nước Phi-luật-tân. Được biết dòng họ của quý bà này rất được kính nể, và được trọng vọng từ thời Nhật Hoàng đô hộ Phi-luật-tân, kể cả đến bây giờ. Được biết quý bà này hết mực lo cho công cuộc truyền giáo, đặc biệt cho trẻ mồ côi và các bà góa bụa. Khi bà nhận được tin từ Đức Giám Mục Giáo Phận I-mus (hiện tại là Hồng Y, Chủ tịch Thánh Bộ Truyền Giảng Tin Mừng cho Các Dân tộc) hoan nghênh đón tiếp các sơ dòng Nữ Tử Bác Ái Truyền Giáo (dòng do Thánh Tê-rê-sa Cal-cu-ta sáng lập) đến giáo phận làm việc và các sơ đang tìm cơ sở để có thể phục vụ, hầu đóng góp vào công cuộc xây dựng Giáo hội nói chung và giáo phận I-mus nói riêng; bà đã không ngần ngại dâng hiến hết gia sản, đất đai cho quý sơ dòng Nữ Tử Bác Ái Truyền Giáo, không kèm theo điều kiện nào cả. Còn phần bà, bà chỉ giữ lại cho mình một phòng nhỏ để sinh hoạt như bao nhiêu nữ tu khác. Thưa quý cộng đoàn, khi được nghe câu chuyện này, chúng ta có thể đồng ý với nhau rằng: thật không dễ dàng chút nào để đi đến một quyết định táo bạo như vậy. Nhưng thiết nghĩ, quý bà này đã cảm nghiệm được lòng thành tín, tin tưởng và yêu thương của Thiên Chúa trong đời sống thường nhật. Và chính vì thế, bà đã không ngần ngại dâng hiến tất cả cho công cuộc truyền giáo; bà đã đặt hết niềm thành tín vào Đấng hằng yêu thương, đồng hành với bà. Trong sự trung tín ấy, bà đã sẵn sàng đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, là: hãy trở nên môn đệ tín thác vào Ngài, trở nên sứ giả của Đấng yêu thương và khí cụ bình an cho hết mọi người, đặc biệt những ai đang trải qua với muôn vàn bất an trong cuộc sống ngày nay.
Chúa Giêsu chọn 12 tông đồ có mục đích như thánh Marcô nói là để các ông ở với Chúa và để TN 15-B164
Chúa Giêsu chọn 12 tông đồ có mục đích như thánh Marcô nói là để các ông ở với Chúa và để Chúa sai các ông đi truyền giáo (Mc 3, 14).
Một thời gian khá lâu, các ông đã được ở với Chúa, được nghe Chúa giảng, được Chúa giải thích riêng cho những gì các ông chưa hiểu, cũng như được chứng kiến các phép lạ Chúa làm. Các ông đã đồng hành với Chúa cả khi Chúa trở về Nazaret, chứng kiến người đồng hương không đón nhận Chúa, bây giờ tới lúc Chúa sai các ông đi thực tập truyền giáo như sau này Chúa nói với các ông: " Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con (Ga 20, 4). Nhưng trước khi sai các ông đi, Chúa có những lời tâm huyết căn dặn các ông:
Trước hết về hành trang phải gọn nhẹ tối đa nói lên việc các ông phải sống khó nghèo, phó thác cho Chúa và sống nhờ vào lòng tốt cùng tinh thần hiếu khách của dân chúng. Điều này khiến các ông không vướng bận về vật chất, siêu thoát về của cải trần thế và có được tâm hồn nhẹ nhàng để chu toàn sứ vụ. Chúa cũng dạy các ông phải có tâm thế sẵn sàng nếu người ta khước từ không đón tiếp các ông.
Tin Mừng cũng nói rõ Chúa sai các ông từng hai người: hai người để nâng đỡ nhau và theo xã hội Do thái, chứng tá chỉ có giá trị khi cả hai người cùng nhất trí với nhau như lời sách Đnl 6, 19: "Một lời chứng chỉ có giá trị nếu có hai nhân chứng". Hai người họp lại thành một cộng đoàn để có dịp tỏ lòng yêu thương hiệp nhất với nhau và đó cũng chính là lời rao giảng sống động. Sau này khi các môn đệ Chúa đi truyền giáo, ta thấy họ cũng chia thành từng cặp đôi như ông Phêrô với ông Gioan, ông Phaolô với ông Barnaba, ông Giuđa với Sila... Chúa cũng trao cho các ông: quyền rao giảng sự thống hối, quyền trừ quỉ và quyền xức dầu chữa lành bệnh nhân.
Chính vì các tông đồ đã Xức Dầu cho nhiều người đau ốm, nên sau này thánh Giacôbê viết trong thư của ngài như sau: "Ai trong anh em đau yếu ư? Người ấy hãy mời các linh mục của Hội Thánh đến; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh ... và nếu người ấy đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha" (Gc 5, 14-15). Chúa Giêsu khi đi rao giảng Tin Mừng đã chữa lành bệnh tật cho rất nhiều người, các tông đồ cũng được Chúa ban quyền ấy khi các ông xức dầu và chữa lành bệnh tật cho dân.
Các tông đồ cũng được Chúa ban cho quyền trừ quỉ như Tin Mừng nói các ông trừ được nhiều quỉ vì thế sau khi đi truyền giáo về, các ông vui mừng bá cáo cho Chúa: "Nhân danh Thầy thì ma quỉ cũng phải vâng phục chúng con (Lc 10,17)". Việc Chúa Giêsu và các tông đồ trừ quỉ nói lên dấu chỉ của Nước Thiên Chúa đến có quyền trên ma quỉ và sự dữ.
Chúa Giêsu cũng cho biết không phải mọi người đều hoan hỉ đón tiếp các ông, nhưng có những nơi họ không đón tiếp và còn khước từ sứ điệp, thì Chúa dạy hãy "Giũ bụi chân" trả lại họ, theo thói quen người Do thái khi từ vùng đất dân ngoại trở về, họ giũ bụi chân trả lại cho vùng dân ngoại trước khi về nhà vì thế "Giũ bụi chân" được coi như là dấu chỉ tuyệt giao tuy nhiên người môn đệ Chúa vẫn không bỏ rơi họ mà tiếp tục cầu nguyện cho họ để hi vọng có một ngày họ sẽ mở lòng đón nhận Tin Mừng để không bị phạt vì cứng lòng tin như lời Chúa: "Ai tin và chịu phép Rửa tội sẽ được cứu độ, còn ai không tin thì sẽ bị kết án" (Mc 16,16).
Chúa Giêsu dạy các tông đồ rao giảng sự thống hối cũng như chính Chúa đã rao giảng: "Anh em hãy thống hối và tin vào Tin Mừng" (Mc 1,15). Vậy chúng ta hãy đón nhận sứ điệp này của Chúa. Hiện nay tình hình dịch bệnh Covid đang lây lan mạnh phải chăng đó cũng là dấu chỉ nhắc nhở chúng ta phải ăn năn thống hối. Mệnh lệnh Đức Mẹ Fatima nhắc cho thời đại chúng ta: là ăn năn và cải thiện đời sống. Chúa đã cho các tông đồ được xức dầu chữa lành người đau ốm, Chúa cũng sẽ cho người tín hữu được ơn chữa lành, đặc biệt là thoát khỏi dịch bệnh nếu điều đầu tiên Chúa dạy là sám hối và tin vào Tin Mừng mà chúng ta đã quan tâm thực hiện.
Câu chuyện minh họa: Đức Hồng Y GB Phạm minh Mẫn đã thuật lại như sau: Khi Ngài đang ở chủng viện Cần Thơ thì nhận được sắc phong của Tòa Thánh chọn Ngài làm Giám mục Tổng Giáo Phận Sài Gòn, Ngài hết sức lo sợ và nói rằng: "Tôi chỉ là cây đước, cây bần ở vùng nước mặn Cà Mau, bây giờ bứng tôi lên trồng ở thành phố thì làm sao tôi có thể làm việc được? Trong lúc còn băn khoăn như thế, thì Ngài nhận được một lá thư từ một người bạn là một Sr gửi từ nước ngoài về và nói với Ngài rằng: "Ngày xưa khi Thiên Chúa cần một người cha cho dân riêng của Ngài thì Ngài đã chọn Apbraham, và Apbraham đã đứng lên; khi Thiên Chúa cần một vị lãnh đạo dân riêng của Ngài, Chúa đã gọi một anh chàng nói ngọng, và thế là Mosê đã đứng lên, và khi Chúa cần một người đứng đầu Giáo Hội của Ngài, Chúa đã chọn một anh thuyền chài và cũng là con người đã chối Chúa và thế là Phêrô đã đứng lên. Và bây giờ Chúa cũng muốn chọn cha để làm một người lãnh đạo và phục vụ Dân Chúa, chẳng lẽ Cha không đứng dậy hay sao?" Những lời này đã tiếp thêm sức mạnh cho Đức Hồng Y để Ngài sẵn sàng đón nhận nhiệm vụ mới.
Tiếp nối các tông đồ, chúng ta cũng ra đi rao giảng sự thống hối nhưng trước hết, mỗi người trong chúng ta phải thực hành sự thống hối này nơi bản thân mình để Nước Chúa trị đến thắng vượt được sự dữ và quyền lực ma quỉ đang hoành trong thời đại chúng ta. Amen.
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay nói lên căn tính, sứ vụ, ơn gọi của mỗi người chúng ta là những TN 15-B165
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay nói lên căn tính, sứ vụ, ơn gọi của mỗi người chúng ta là những người con cái Chúa, người môn đệ của Chúa Giêsu, những người được Chúa tuyển chọn, được sai đi để làm tông đồ, làm ngôn sứ, làm người chuyển trao và làm lan tỏa ơn thánh Chúa cho anh chị em mình. Thế nhưng, đứng trước một thực trạng đáng buồn và đang báo động tại các Giáo xứ ngày hôm nay, trong khi những người có trách nhiệm phục vụ trong HĐMV và các ban ngành đoàn thể đã lớn tuổi, nhưng lại không có những người trẻ để tiếp nối và kế thừa. Khi được hỏi về những lý do và nguyên nhân thì: “Tôi không có thời giờ, tôi không có khả năng, tôi không biết làm, tôi nhận thấy đó không phải là đặc sủng, sứ vụ, lý tưởng hay công việc của mình…người khác làm thì chắc sẽ tốt hơn tôi…”
Cũng giống như Amos khi được Chúa tuyển chọn để sai ông đi làm Tiên tri thì ông đã trả lời: “Tôi không phải là tiên tri, cũng không phải là con của tiên tri, nhưng là đứa chăn bò và chuyên đi hái trái sung”. Thế nhưng, Chúa đã tuyển chọn, hướng dẫn và sai ông đi để thay mặt Chúa nói Lời của Chúa cho dân. “Ngươi hãy đi nói tiên tri cho dân Israel của Ta”. Thật vậy, với những con người được tuyển chọn để làm những công việc cho Chúa, suy cho cùng, họ chẳng có khả năng, tài cán gì đặc biệt khi xét theo tiêu chuẩn, theo đánh giá, định lượng của con người và thế gian. Nhưng với Thiên Chúa, họ là những con người đặc biệt vì họ được trao cho một sứ vụ, một ơn gọi cao cả đến từ Thiên Chúa. Đồng thời, họ là những con người luôn sống quảng đại, khiêm tốn để dấn thân phục vụ một khi đã được Chúa chọn và sai đi.
Thật vậy, để có thể thi hành trọn vẹn với những sứ vụ được trao ban này, Chúa Giêsu đã ban ơn thánh cho các môn đệ, đồng thời Ngài cũng đưa ra những tiêu chuẩn, nguyên tắc, hướng dẫn cho các ông hầu giúp họ có thể làm tốt sứ vụ mà Chúa đã ủy thác cho. Tin mừng theo Thánh Marco thuật lại việc Chúa Giêsu chọn và sai mười hai người mà Ngài gọi là tông đồ, để các ông ra đi thi hành những gì mà Chúa muốn. Khi chọn và sai các môn đệ đi làm sứ vụ, chúng ta nhận ra hai điều rất quan trọng mà Chúa Giêsu vừa trao ban và vừa hướng dẫn, dạy bảo các ông. Về việc trao ơn thánh, để các Tông đồ có thể cộng tác vào trong sứ vụ của Chúa là rao giảng tin mừng, chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ, Chúa Giêsu đã ban cho các ông những năng quyền của Thiên Chúa, vì những quyền năng, sức mạnh này con người không thể tự mình mà có được nếu không được Chúa ban ơn cho. “Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi, Người ban cho các ông có quyền trên các thần ô uế”. Chúa Giêsu cũng rất thấu hiểu những nhu cầu và giới hạn của các môn đệ, nên Ngài đã có những dạy bảo, chỉ dẫn rất cụ thể cho các ông: “Đi đường, đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo”. Đây chính là cung cách, thái độ sống thanh thoát, đơn sơ, nhẹ nhàng, sống không bám víu và không bị vướng bận bởi những của cải vật chất hay những điều kiện bên ngoài. Chúng ta có thể tự hỏi: Tại sao Chúa Giêsu lại quá nghiêm khắc với các môn đệ của Ngài như vậy? Có phải chăng vì tiền bạc-của cải hay những vật dụng như áo quần…không cần thiết cho việc đi làm tông đồ chăng? Thật ra, nó cần thiết, nhưng không phải nó là điều kiện đầu tiên cần phải có. Điều mà các môn đệ cần phải có và cần phải trang bị cho, chính là ơn thánh, sự bình an của Chúa. Họ phải bám víu, cậy dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa chứ không phải vào bất cứ một sức mạnh, quyền lực nào của thế gian. Và trên hết, Thiên Chúa mới là Đấng ban ơn, do đó, nếu các ông không nương tựa, cậy trông vào Chúa thì dù có mang theo bao nhiêu thứ của cải của trần gian này thì nó cũng sẽ ra vô ích, không có giá trị trước mặt Chúa.
Điều này trong bài đọc hai, thánh Phaolo cũng đã chia sẻ kinh nghiệm này cho chúng ta đó là: Tất cả những điều tốt lành mà chúng ta nhận được chính là ân sủng Thiên Chúa đã trao ban qua Đức Giêsu Kitô. Nhờ công nghiệp và giá máu mà Đức Kitô đã đổ ra trên thập giá, đem lại ơn ích cho chúng ta, để chúng ta được thông phần vào trong sứ vụ là tông đồ, là người được sai đi mà Thiên Chúa đã ủy thác. “Thiên Chúa…Ðấng đã chúc lành cho chúng ta bằng mọi phúc lành thiêng liêng trên trời, trong Ðức Kitô. Ngài đã chọn chúng ta trong Người trước khi tạo dựng thế gian, để chúng ta được nên thánh thiện và tinh tuyền trước mặt Ngài trong tình yêu thương”. Do đó, thật hạnh phúc cho ai biết khiêm tốn mở rộng tâm hồn với lòng tin, để chấp nhận sống sứ vụ tông đồ mà Chúa tuyển chọn, trao ban, nhờ đó, chúng ta sẽ được nên trọn vẹn trong tình yêu thương với Đức Kitô hầu đem lại ơn ích cho anh chị em của mình.
ACE rất thân mến, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại trong đời sống sứ vụ và ơn gọi riêng biệt của mỗi người, mỗi gia đình và giáo xứ; chúng ta cần ý thức hơn với những ơn thánh mà Chúa đã ban, trong tâm tình cảm tạ tri ân, hãy cố gắng nỗ lực để sống bác ái-yêu thương-phục vụ. Vì ai trong chúng ta một khi đã lãnh nhận bí tích thánh tẩy và các bí tích ban ân sủng, chúng ta đều được Chúa tuyển chọn, mời gọi và sai đi để làm tông đồ cho Ngài. Dẫu rằng, chúng ta đang phải vất vả, bôn ba lo lắng cho những nhu cầu sống hằng ngày của bản thân và gia đình, nhưng mong ước rằng những lo lắng sự đời về cơm-áo-gạo-tiền không làm cho chúng ta quên mất căn tính chúng ta là người tông đồ của Chúa. Hãy đến với Chúa với lòng tin, hãy tích cực dấn thân hơn trong các công tác mục vụ của Giáo xứ, của Giáo hội, để chính qua tấm lòng mở rộng-quảng đại, chúng ta luôn được Chúa dùng và cho trở nên khí cụ yêu thương, làm lan tỏa ơn thánh Chúa cho tha nhân. Amen.
(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
Tin mừng hôm nay đưa ra những chi tiết về Đức Giêsu - một chiến lược gia. Chúng ta chứng kiến TN 15-B166
Tin mừng hôm nay đưa ra những chi tiết về Đức Giêsu - một chiến lược gia. Chúng ta chứng kiến cách Đức Giêsu chuẩn bị cho Mười hai Tông đồ thi hành sứ vụ truyền giáo. Những chỉ dẫn này vừa cho thấy một số trở ngại đã xuất hiện vào thời đầu của Kitô giáo, vừa có thể truyền cảm hứng cho chúng ta khi thi hành nhiệm vụ mà gặp phải chống đối.
Bài Tin mừng Máccô tuy ngắn nhưng lại đầy những thông tin đáng giá về công việc truyền giáo vào thời đầu Kitô giáo. Trước tiên, Đức Giêsu khuyên các môn đệ đi từng hai người một, cho thấy trước việc rao giảng Tin mừng như một nỗ lực của tập thể chứ không phải là công việc làm một mình. Khi đi cùng với một người khác, các tông đồ có bạn đồng hành và cảm giác an toàn, đặc biệt là khi đi đến những vùng đất xa lạ.
Các môn đệ cũng được trao ban quyền năng để xua trừ các thần ô uế và xức dầu chữa lành bệnh nhân. Quyền năng này liên kết việc chúc lành và chữa lành vào sứ vụ của các môn đệ, bắt chước theo hành động của chính Đức Kitô. Hãy nhớ lại phần đầu của Tin mừng Máccô. Khi Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ tại Galilê, Ngài kêu gọi các môn đệ và sau đó giảng dạy trong hội đường như “Đấng có uy quyền” thông qua lời nói và hành động. Dấu chỉ quyền năng đầu tiên của Đức Giêsu là quát mắng thần ô uế. Sau đó, Ngài chữa khỏi bệnh cho mẹ vợ của Simon, tiếp theo là chữa lành nhiều bệnh khác (Mc 1,21-34). Sứ mạng mà Đức Giêsu trao cho nhóm Mười hai họa lại sứ vụ ban đầu của Ngài.
Ngoài ra, các tông đồ được hướng dẫn không mang theo những vật dụng thiết yếu như lương thực, bao bị, tiền bạc hoặc nhiều quần áo. Tại sao vậy? Lẽ nào Đức Giêsu không muốn các tông đồ chuẩn bị cho cuộc hành trình? Dường như Đức Giêsu có hai mục đích muốn trình bày: thứ nhất, phân biệt các tông đồ với những nhà giảng thuyết lưu động khác vào thời đó; và thứ hai là khuyến khích các tông đồ sống dựa vào lòng hiếu khách. Đức Giêsu đã xác định mục tiêu này khi bảo các ông hãy ở tại nhà dân chúng trong khi đi rao giảng.
Viễn cảnh của Đức Giêsu dành cho các tông đồ không quá lý tưởng. Trong khi hướng dẫn họ rao giảng sứ điệp về sự ăn năn, Ngài cảnh báo rằng họ sẽ bị từ chối. Không phải ai cũng mở rộng vòng tay chào đón những Kitô hữu sơ khai, và Đức Giêsu bảo các môn đệ hãy lường trước sự từ chối và tiếp tục công việc: “Bất cứ nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy phủi bụi chân để tỏ ý phản đối họ.” Nhìn bề ngoài, cử chỉ này lên án sự từ chối Tin mừng và thiếu lòng hiếu khách. Hơn nữa, hành động này cũng có ý nghĩa tượng trưng nhằm giúp các tông đồ tiếp tục công việc của mình một cách nhanh chóng, không nản lòng vì bị từ chối. Đức Giêsu nói rất rõ ràng rằng các môn đệ không cần chú ý đến những người khước từ Tin mừng.
Bài đọc một từ sách ngôn sứ Amốt cũng âm vang tâm tình này. Khi vị ngôn sứ đi từ Giuđa sang Israel để lên án sự thối nát của các nhà lãnh đạo tôn giáo và chính trị của đất nước này, ông đã bị từ chối: “Này thầy chiêm ơi, mau chạy về đất Giuđa!” Nhiều nhà lãnh đạo của Israel đã khép kín hoặc không đón nhận những lời chỉ trích của Amốt, nhưng ông vẫn kiên trì nói tiên tri.
Bài Tin mừng hôm nay và bài đọc thứ nhất đưa ra những ví dụ về cách thế tiếp cận một sứ vụ quan trọng. Các bài đọc nhắc nhở chúng ta phải có óc thực tế để nhận ra rằng không phải ai cũng sẽ có những phản ứng tích cực, nhất là nếu họ đang bị phê phán hoặc yêu cầu thay đổi hành vi. Mặc dù vậy, sứ vụ vẫn phải tiếp tục, và thái độ kiên trì có thể giúp ích khi chúng ta biết trước sự từ chối nhưng vẫn không nản lòng.
Tin Mừng Mc 6: 7-13: Chúa sai các ông đi từng hai người, như vậy, Chúa đã thiết lập những cộng đoàn nhỏ. Các ông là những chứng nhân, và chứng nhân càng nhiều thì càng có giá trị. Một cộng đoàn, bao giờ cũng có lợi hơn là một người đơn độc....
Chúa đã sai các ông đi để thực tập truyền giáo. Và trước khi các ông lên đường, Ngài đã căn TN 15-B167
Chúa đã sai các ông đi để thực tập truyền giáo. Và trước khi các ông lên đường, Ngài đã căn dặn: Đừng mang theo bao bị, đừng mang theo cơm bánh, đừng mang theo tiền bạc và đừng mặc hai áo, nghĩa là Ngài bảo các ông phải ra đi trong một hoàn cảnh bấp bênh nhất, để tập trung vào việc rao giảng Tin Mừng, cũng như luôn phó thác vào tình thương và quyền năng của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu muốn huấn luyện nhóm 12 về điểm bất vụ lợi tuyệt đối, thật cần thiết cho việc tông đồ đích thật. Cho nên Ngài đòi hỏi phải từ bỏ tất cả những gì không cần thiết cho đời sống. Nhất là Ngài muốn cho họ được cái kinh nghiệm này là: sự từ bỏ chắc chắn sẽ lôi kéo sự quan phòng của Chúa Cha. Con người tự hạn chế về của cải vật chất vì tình yêu đối với Thiên Chúa và để sẵn sàng phục vụ ơn cứu rỗi sẽ không thiếu điều cần thiết.
Chúa Giêsu dạy cho các ông biết thái độ phải có khi đến với dân chúng. Nếu được đón tiếp thì hãy ở lại, không tìm một nhà khác tiện nghi hơn. Người tông đồ cần có đời sống nghèo, đón nhận những gì được trao cho mình với lòng biết ơn. Nếu không được đón tiếp thì cũng không nên nản lòng. Cử chỉ giũ chân ra đi cho thấy người tông đồ chẳng hề muốn lấy đi điều gì ở nơi đã từ chối đón tiếp mình.
Ra đi mà không có một chút bảo đảm. Các môn đệ đã đi từ nơi nọ đến nơi kia, lê gót qua các làng mạc và thành phố. Họ không đóng đô ở một nơi, dù gặp thành công, vì họ nhớ lời của Thầy: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa" (Mc 1,38)
Hành trang của người môn đệ là sự gắn bó mật thiết với Đức Giêsu. Các môn đệ chỉ được sai đi sau khi đã có một thời gian sống bên cạnh Người. Thời gian sống bên Đức Giêsu cần thiết để các môn đệ hiểu biết, cảm thông và nhất là yêu mến, gắn bó mật thiết với Người. Đây chính là hành trang quan trọng nhất. Người được sai đi phải gắn bó mật thiết với Đấng đã sai mình.
Sự gắn bó mật thiết là nguồn mạch, bảo đảm tính trung thực, là chìa khoá thành công của sứ vụ. Đức Giêsu đã nêu gương về điểm này khi luôn gắn bó mật thiết với Đức Chúa Cha, Đấng đã sai Người. Sự gắn bó ấy giúp Người hoàn toàn kết hiệp với Đức Chúa Cha, trở nên một lòng một ý với Đức Chúa Cha, luôn cầu nguyện, luôn từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha. Chính vì thế, sứ vụ của Người đã thành công tốt đẹp.
Lời căn dặn thứ hai là đừng đi lăng xăng khắp nơi. Chúa Giêsu đã nói: "Khi các con được đón tiếp vào nhà nào thì ở lại đó cho đến lúc ra đi!". Điều này có vẻ ngộ nghĩnh. Hiển nhiên là phải ở nơi nào đó trước khi ra đi. Nhưng, suy nghĩ một chút, ta thấy rằng ta có thể ở nơi nào đó mà không hiện diện, không bao giờ ở với ai cả. Điều này cũng có nghĩa là chỉ có một cách để tạo nên những mối liên hệ thực sự với kẻ khác: Đó là dừng lại, đừng bỏ đi ngay khi vừa gặp sự khó chịu nào đó và đừng sợ làm quen. Chúa Giêsu bảo: Với thái độ ấy làm sao các con có thể loan báo Thầy.
Chúa sai các ông đi từng hai người, như vậy, Chúa đã thiết lập những cộng đoàn nhỏ. Các ông là những chứng nhân, và chứng nhân càng nhiều thì càng có giá trị. Một cộng đoàn, bao giờ cũng có lợi hơn là một người đơn độc. Trong cộng đoàn người ta nhắc nhở nhau, nâng đỡ nhau sống trung thành với luật Chúa, nhất là việc làm chứng tình thương của Chúa ngay trong cộng đoàn. Chúa đòi hỏi các Tông đồ phải nhất thiết trở nên mẫu mực về tình bác ái huynh đệ. Và làm sao thực thi bác ái được, nếu mỗi người chỉ sống một mình. Dân chúng thời các tông đồ đã nhận ra dấu chứng này nơi cộng đoàn tín hữu đầu tiên: "Coi kìa, họ yêu thương nhau biết bao!".
Và đó cũng là định hướng của chính Đức Kitô: "Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là thấy các con yêu thương nhau". Cuộc sống yêu thương trong cộng đoàn vừa là dấu hiệu của người môn đệ Chúa, vừa là lời rao giảng sống động, hùng hồn nhất về Tin Mừng của Chúa.
Câu chuyện bám víu vật chất tiền của khá quen thuộc với chúng ta: có một đệ tử muốn từ bỏ mọi sự của thế gian để sống tu trì. Anh quyết định vào rừng vắng sống ẩn tu. Hành trang duy nhất anh mang là chiếc áo ăn mày để khất thực sống qua ngày. Ngày kia, anh đau đớn vô cùng khi thấy chiếc áo phơi ở bờ sông đã bị chuột cắn nát tả tơi. Không còn cách nào khác, anh phải vào trong làng xin một chiếc áo khác. Chiếc áo thứ hai này cũng bị cùng chung số phận, nát tả tơi vì chuột cắn. Anh nghĩ rằng chỉ có nuôi mèo mới giữ được chiếc áo. Anh quyết định nuôi mèo. Thế nhưng, khi có mèo anh lại phải lo kiếm thêm phần ăn cho con mèo được nuôi để đuổi chuột.
Ngày ngày vác bị đi khất thực, anh cảm thấy mình như một gánh nặng đối với dân làng. Nghĩ thế, anh cố gắng chắt chiu để kiếm tiền nuôi một con bò để thêm phần thu nhập. Nhưng có bò lại phải kiếm cỏ cho bò ăn. Chăn nuôi gia súc khiến anh không thể có thời giờ cầu nguyện, tối mặt vì công việc, anh lại phải thuê người cắt cỏ nuôi bò. Càng ngày bò càng sinh sản, người cắt cỏ cũng phải gia tăng. Thời gian trôi qua, mảnh đất hoang sơ đã biến thành một trang trại rộng lớn. Gia súc và người làm ngày càng thêm đông. Con người đã một thời muốn từ bỏ mọi sự để trở thành một tu sĩ, nay nghiễm nhiên trở thành một ông chủ trang trại.
Có tiền của và tài sản to lớn, anh lại muốn có người chia sẻ công việc của mình. Anh cưới vợ và sinh con. Anh trở thành một người chồng, người cha trong một gia đình hạnh phúc. Thế là lý tưởng ban đầu đã hết. Anh đã đánh mất lý tưởng chỉ vì mải lo gìn giữ một cái áo rách. Chuyện có vẻ hoang đường nhưng lại là thật. Ma qủy thường cám dỗ từng bước. Ma qủy thường gợi lên những điều rất hấp dẫn để dẵn dắt con người đi theo chương trình của nó. Adam - Evà đã nhìn thấy trái táo thơm ngon mà quên đi thân phận phải vâng lời Thiên Chúa. Khi tỉnh lại chỉ còn thất vọng và hổ thẹn lương tâm. Người tu sĩ đã lạc bước khi quá bận tâm đến nhu cầu vật chất, đến đồng tiền bát gạo, khiến tâm hồn anh không còn thời giờ để vun đắp, định hướng cho hướng đi của mình. Cái thất bại của anh thật tẻ nhạt, chỉ vì mải lo gìn giữ một chiếc áo rách.
Thực vậy, vì tiền bạc, mà người ta có thể đánh mất lý tưởng cuộc đời.Vì tiền mà cái tính bổn thiện của con người ban đầu đã không còn. Vì tiền mà người ta có thể chối bỏ niềm tin. Đó là nguy cơ mà bất cứ ai cũng có thể rơi vào.
Chúng ta không thể viện cớ mình nghèo nàn, ít học, yếu đuối để từ khước sứ mạng Chúa giao, vì mười hai môn đệ đầu tiên được Chúa sai đi cũng không có nhiều khả năng, nhiều điều kiện hơn chúng ta hôm nay. Các vị lên đường theo lệnh Chúa Giê-su dù không mang lương thực, không tiền bạc, không bao bị, không cả chiếc áo thứ hai mà vẫn đạt được thành quả tốt đẹp khác thường. Chúng ta cũng có thể đạt được hiệu quả như thế nếu chúng ta hiến mình cho Chúa Giê-su sử dụng.
Thế giới hôm nay cũng là một thế giới bị thương tích, cần được chữa lành. Bệnh tật của thân xác và bệnh tật của tinh thần vẫn hoành hành trên thế giới. Con người đau khổ vì mất lòng tin, lo âu, tuyệt vọng. Con người nô lệ cho chính những sản phẩm của mình. Tiến bộ khoa học kỹ thuật lại đặt ra những vấn đề mới mà tự sức con người không giải quyết được. Kitô hữu là người tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, băng bó vết thương của thế giới bằng sự hiện diện đầy yêu thương.
Chúng ta khi đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Bí tích Thêm sức, chúng ta cũng được Chúa kêu mời cộng tác với Ngài trong công cuộc truyền bá đức tin, để rồi chúng ta cũng sẽ là những môn đệ của Ngài. Và cách thức để chúng ta thể hiện ơn gọi và sứ mạng của mình một cách hiệu quả nhất vẫn là đời sống gương mẫu của chúng ta.
Đức Giêsu sai 12 Tông đồ đi thực tập truyền giáo. Người chỉ thị cho các ông phải rao giảng Tin mừng TN 15-B168
Ý CHÍNH: Đức Giêsu sai 12 Tông đồ đi thực tập truyền giáo. Người chỉ thị cho các ông phải rao giảng Tin mừng bằng lời nói và gương sáng: Phải liên kết từng hai ngừơi thành một nhóm, siêu thoát khó nghèo và đầy lòng cậy trông phó thác. Các ông đã vâng lời ra đi thi hành sứ vụ rao giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa, xua trừ ma quỷ và xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân.
CHÚ THÍCH:
- C 7: + Người gọi nhóm Mười Hai lại: Trước đây Đức Giêsu đã tuyển chọn Nhóm Mười Hai, để các ông “ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ” (x. Mc 3, 13-14). + Sai đi từng hai người một: Tông đồ (A-pos-to-lus) nghĩa là “người được sai đi”. Đức Giêsu sai Nhóm Mười Hai đi từng hai người để nâng đỡ nhau và biểu lộ sự hiệp nhất yêu thương là dấu hiệu môn đệ đích thực của Người (x. Ga 13,35).+ Ban cho các ông quyền trừ quỷ: Quỷ (diabolos - nghĩa là kẻ vu khống), hoặc Xa-tan (nghĩa là địch thủ), thường được dùng để chỉ về một nhân vật vô hình, chuyên nói dối và xúi giục loài người phạm tội chống lại Thiên Chúa. Sứ mệnh của Đức Giêsu là “tiêu diệt ma quỷ” (x. Dt 2,14), xua trừ chúng ra khỏi người bị nhập (x. Mc 5,8.13). Hôm nay Người cũng ban cho các môn đệ quyền trừ quỷ (c 13) và báo cáo với Đức Giêsu như Tin mừng Lu-ca ghi lại: “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy thì cả ma quỷ cũng phải chịu khuất phục chúng con” (x. Lc 10,17).
- C 8-9: + Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đuờng: Nghĩa là các ông phải có phong cách đơn giản khi đi truyền giáo. + Chỉ trừ cây gậy: Được mang gậy là biểu tượng quyền mục tử và là vật hộ thân trong lúc đi đường. + Không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng: Không mang theo lương thực, bao bị, tiền bạc vật chất để biểu lộ lòng tín thác vào Chúa quan phòng. + Được đi dép: Tin mừng Mác-cô cho đi dép (x Mc 6,9) đang khi Tin Mừng Mát-thêu lại cấm đi giày hay cầm gậy theo (x. Mt 10,10). Sở dĩ có sự khác nhau về một vài chi tiết phụ này là tùy theo tác giả đứng trên quan điểm văn hóa Hy Lạp hay Do Thái khi viết Tin Mừng. + Không được mặc hai áo: Người Do Thái khi đi đường thường mặc hai áo: Áo trong và áo choàng ngoài. Áo choàng là áo mặc ngoài che nắng nóng ban ngày và làm mền đắp cho ấm ban đêm. Đức Giêsu không cho các Tông đồ mặc hai áo trong cuộc hành trình truyền giáo ngắn hạn và vì việc mang hai áo không thực sự cần thiết.
- C 10-11: + Đã vào nhà nào thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi: Theo phong tục Đông Phương, dân chúng rất hiếu khách. Do đó khi các Tông đồ đã đến ở trọ trong nhà nào, thì phải ở đó cho đến lúc ra đi. Nếu tự ý đổi chỗ ở sẽ làm cho chủ nhà buồn lòng và các ông sẽ bị đánh giá là người “chuộng phú khinh bần”. + Nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ: Giũ bụi chân là một cử chỉ người Do Thái thường làm khi đi từ miền đất của dân ngoại về miền đất Do thái. Cử chỉ giũ bụi chân này biểu lộ sự tuyệt giao vì dân Do Thái bị cấm tiếp xúc với dân ngoại. Ở đây giũ bụi chân để làm bằng chứng họ đã từ chối Tin Mừng được loan báo.
- C 12-13: + Đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối: Sám hối là việc phải làm trước tiên để dọn tâm hồn đón nhận ơn cứu độ. Khi đi thực tập truyền giáo, các Tông đồ mới chỉ được Đức Giêsu trao nhiệm vụ kêu gọi người ta ăn năn sám hối, giống như Gio-an Tẩy Giả đã làm (x Mt 3,2). + Các ông trừ được nhiều quỷ: Các Tông đồ đã trừ được nhiều quỷ nhân danh Đức Giêsu và nhờ quyền năng của Người. Tuy nhiên có lần các ông không trừ được quỷ vì các ông không mạnh bằng lòai quỷ dữ đó (x. Mc 9,17-18). Các ông chỉ trừ được chúng do quyền năng của Đức Giêsu ban cho khi cầu nguyện và ăn chay (x. Mt 17,21). + Xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh: Xức dầu là cách chữa bệnh vào thời Đức Giêsu. Có những loại dầu trị bá chứng được dùng để chữa mọi thứ bệnh thông thường. Dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu cho thấy người này đã dùng dầu và rượu để chữa trị vết thương cho người gặp nạn (x. Lc 10,34). Ở đây, việc xức dầu mang tính bí tích như lời thánh Gia-cô-bê: “Ai trong anh em ốm yếu ư? Người ấy hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến. Họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh. Người ấy được Chúa nâng dậy, và nếu đã phạm tôi, thì sẽ được Chúa thứ tha” (x. Gc 5,14-15).
CÂU HỎI: 1) Đức Giêsu tuyển chọn Nhóm Mười Hai nhằm mục đích gì? 2) Tại sao Đức Giêsu lại sai từng hai người đi truyền giáo? 3) Quỷ hay Xatan ám chỉ ai? Đức Giêsu có sứ vụ gì đối với ma quỷ? 4) Đức Giêsu đã ra lệnh cho các Tông đồ phải làm gì ma quỷ và các ông đã thi hành thế nào? 5) Đức Giêsu chỉ thị cho các Tông đồ được mang va không được mang theo những gì khi đi truyền giáo? Tại sao? 6) Tại sao lại có sự khác biệt trong các chỉ thị của Đức Giêsu giữa Tin Mừng Mác-cô và Mát-thêu? 7) Tại sao các ông chỉ nên ở trọ trong một nhà và không được dời từ nhà này sang nhà khác? 8) Việc giũ bụi chân lại khi gặp nơi không chịu tiếp nhận lời các Tông đồ giảng dạy có ý nghĩa thế nào? 9) Tại sao trước hết các ông phải kêu gọi ngừơi ta ăn năn sám hối? 10) Do đâu mà các Tông đồ khử trừ được nhiều quỷ? 11) Tại sao có lần các ông không trừ được một quỷ câm? Muốn trừ được lọai quỷ này cần điều kiện nào? 12) Tại sao Đức Giêsu truyền cho các Tông đồ xức dầu để chữa bệnh? Thánh Giacôbê dạy thế nào về bí tích Xức Dầu bệnh nhân?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh (Mc 6,13).
2. CÂU CHUYỆN VÀ SUY NIỆM:
1) Tại sao môn đệ phải sống siêu thoát khi đi truyền giáo?
Người ta kể rằng: có một thanh niên muốn từ bỏ mọi sự thế gian để sống cuộc đời tu trì. Anh quyết định vào trong một khu rừng vắng để sống ẩn tu trong một chiếc lều tạm. Hành trang duy nhất anh mang theo là chiếc áo vải thô dùng để mặc khi đi khất thực hằng ngày như các tu sĩ thời đó.
Một ngày kia, anh rất buồn khi thấy chiếc áo thô được phơi ở bờ sông đã bị lũ chuột đến cắn nát. Anh đành phải vào trong làng xin một chiếc áo thô khác. Nhưng rồi chiếc áo thứ hai này cũng cùng chung số phận do bị chuột cắn. Anh liền nghĩ ra cách phải nuôi mèo để bảo vệ cho chiếc áo. Thế nhưng, khi có mèo hằng ngày anh lại phải lo thêm phần ăn cho mèo để nó đuổi chuột.
Ngày ngày đeo bị đi khất thực, anh cảm thấy mình như một gánh nặng cho dân làng. Nghĩ thế, anh đã cố gắng tiết kiệm tối đa để dành tiền mua thêm một con bò để khỏi đi xin ăn. Nhưng có bò rồi hằng ngày thay vì đi khất thực anh lại phải đi kiếm cỏ cho bò ăn. Việc chăn nuôi bò ngày một phát triển khiến anh không còn thời giờ để cầu nguyện tối sớm như trước. Rồi anh lại phải thuê thêm người đi cắt cỏ để nuôi đàn bò. Thời gian trôi qua, mảnh đất hoang sơ đã dần biến thành một trang trại rộng lớn. Do đàn bò ngày một sinh sôi nảy nở nên anh phải thuê thêm nhân công cho trang trại. Con người ban đầu muốn từ bỏ mọi sự để trở thành một tu sĩ, nay đã trở thành một ông chủ của trang trại nuôi bò sữa lớn.
Có tiền của và tài sản to lớn, anh lại muốn có thêm người để chia sẻ gánh vác công việc. Anh giờ đây đã lấy vợ sinh con trở thành một người chồng, người cha trong một gia đình. Thế là anh đã đánh mất lý tưởng ban đầu chỉ vì muốn bảo vệ một chiếc áo vải thô.
** Ba kẻ thù nguy hiểm cho loài người.
Ma quỷ thường khôn ngoan khi cám dỗ loài người từng bước giống như nó đã cám dỗ nguyên tổ A-đam E-và khi xưa. Cũng vậy, câu chuyện trên cho thấy một tu sĩ ban đầu muốn đi theo lý tưởng cao đẹp, nhưng khi phải bận tâm làm ăn kinh tế, sẽ không còn dành thời giờ cho việc cầu nguyện và suy niệm là yếu tố giúp anh ta trung thành với lý tưởng tu trì truyền giáo. Rồi xác thịt có đặc điển “được đằng chân lân đàng đầu”: Một khi thân xác đã được hưởng thụ các tiện nghi vật chất thì sẽ ngày một gia tăng nhu cầu muốn được thỏa mãn thêm những tiện nghi khác. Như vậy lòng tham lam tiền bạc của cải là nguyên nhân khiến người ta ham hưởng thụ tiện nghi và dần dần đánh mất lý tưởng cao đẹp phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Vì thế Đức Giê-su đã chỉ thị cho các tông đồ phải sống siêu thoát để các ông có thể chu toàn được sứ vụ truyền giáo là đi loan báo Tin Mừng Nước Trời.
2) Thiên Chúa thường hành động qua trung gian loài người:
Một ngày mùa đông một người đàn ông đi ngang qua một ông lão đang ngồi ăn xin trên vỉa hè tuyết rơi lất phất. Ông lão run lên từng cơn vì trời lạnh và đói. Nhìn thấy ông lão ăn xin, người đàn ông cảm thấy thương hại liền thưa với Thiên Chúa: “Lạy Chúa, tại sao Chúa lại không làm gì để giúp đỡ cho lão ăn mày đáng thương này?” Và ông ta đã nghe Thiên Chúa trả lời: “Ta đã làm rồi”.
Ông ta lại thưa với Chúa: “Phải chăng những việc Chúa làm đều có vẻ như không làm?”.
“Đúng thế”, Chúa đáp.
Ông ta lại hỏi: “Nhưng Chúa sẽ giúp lão ăn mày này bằng cách nào?”
Chúa đáp: “Ta đã tạo dựng nên con và Ta muốn con hãy thay Ta mà giúp đỡ cụ thể cho người anh em này đó”.
** Tin Mừng hôm nay cho thấy:
- Chúa Giê-su đã chọn lựa các môn đệ, huấn luyện họ trong một thời gian và sai họ đi thực tập công việc truyền giáo noi gương Người.
- Người đòi các ông phải có nếp sống siêu thoát: “Không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy”. Gậy là biểu tượng của người mục tử và là vật hộ thân khi đi đường; “Không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng” để biểu lộ lòng tín thác vào Chúa quan phòng; “Được đi dép” là nhu cầu tối thiểu, “nhưng không được mặc hai áo” do không cần thiết, vì việc truyền giáo chỉ kéo dài vài ba ngày.
- Người muốn các ông thể hiện dấu chỉ của người môn đệ đích thực là sống yêu thương hiệp nhất khi sai các ông đi từng hai người một (x. Mc 6,7) và đi đến với mọi người không phân biệt Do thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do, giàu có hay nghèo khó…
- Các ông đã đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối (x. Mc 6,12) và đã làm chứng cho Chúa bằng việc: xua trừ nhiều quỷ, xức dầu chữa bệnh cho nhiều người đau ốm (x. Mc 6,13).
3) Bạn chính là đôi tay của Chúa:
Cuộc chiến tranh trên bán đảo Triều tiên trước đây là một cuộc chiến tranh tàn khốc. Một ngôi làng nhỏ rơi vào dưới làn đạn của trọng pháo. Trong làng, có một ngôi nhà thờ Công giáo. Bên ngoài nhà thờ có một bệ cao, bên trên có đặt một bức tượng Trái Tim Chúa Giê-su. Tuy nhiên, sau cuộc chiến thì bức tượng đã bị bom đạn phá phá hủy thành nhiều mảnh vung vãi trên mặt đất và bàn tay bức tượng thì hoàn toàn bị biến mất.
Một nhóm lính Mỹ đã giúp vị linh mục thu thập những mảnh vụn của bức tượng và cẩn thận lắp ráp lại pho tượng như cũ. Riêng hai bàn tay bức tượng bị biến mất thì họ đề nghị sẽ nhờ thợ điêu khắc đến làm lại. Nhưng vị linh mục đã từ chối và nói: “Tôi chợt nảy ra ý này là: Chúng ta hãy cứ để pho tượng không có bàn tay, và dưới chân đế của bức tượng sẽ để hàng chữ như sau: “Chính bạn là đôi tay của Chúa”.
** Chính bạn là đôi tay của Chúa:
Quả thật, nhiều khách đến viếng thăm ngôi nhà thờ đổ và bức tượng không tay đã hiểu được ý nghĩa của câu nói trên: Giờ đây tuy Đức Giê-su không có tay nhưng Người muốn mỗi tín hữu hãy cho Người mượn đôi bàn tay để nâng đỡ những anh em tội lỗi được đứng dậy, băng bó những vết thương đau, chia sẻ cơm áo vật chất cho người nghèo đói; Người muốn dùng bàn chân của chúng ta để đi tìm những con chiên lạc và mang về đoàn chiên Hội Thánh; Người muốn chúng ta dùng đôi tai để lắng nghe và cảm thông với những người bất hạnh; Người muốn chúng ta dùng miệng lưỡi để động viên những kẻ khốn cùng, giúp họ luôn tín thác vào sự quan phòng đầy yêu thương của Chúa.
4) Sức mạnh tiềm ẩn của cuộc sống chứng nhân:
Cô So-Phi Béc-Đăng-Ca (Sophie Berdanska) là một tín hữu Công giáo vừa có tài giáo dục trẻ em lại vừa có đức tin mạnh mẽ. Một hôm cô được nhận vào làm gia sư trong gia đình Méc-tơn (Merston) giàu có nhưng lại theo Do thái giáo. Công việc chính của cô là dạy kèm cho năm đứa con mới bị mồ côi mẹ. Ngày đầu tiên, khi biết So-phie là người Công giáo, ông Méc-tơn đã cấm cô giảng đạo cho mấy đứa con của ông và cô đành miễn cưỡng chấp nhận. Buổi tối hôm ấy, trong căn phòng riêng dưới tầng hầm, sau khi đọc kinh tối xong, So-phie đã viết lời cầu vào một mảnh giấy nhỏ, xếp gọn rồi nhét vào trong cái hộp nhỏ xíu phía sau chiếc huy chương hình thánh giá. Đây là kỷ vật mà người cha thân yêu đã tặng cô trước khi ông chết, với lời trăn trối cô phải chu toàn sứ vụ làm chứng cho Chúa mọi lúc mọi nơi. Từ ngày cha chết, So-phie luôn đeo chiếc huy chương để nhắc cô về sứ vụ truyền giáo phải thực hiện dù trong hòan cảnh không thuận lợi.
Nhờ được cô giáo So-phie chăm sóc dạy dỗ, lũ trẻ nhà Méc-tơn ngày càng trở nên ngoan ngoãn và chăm chỉ học hành khác hẳn lúc trước. Chúng quí mến và coi cô như bà mẹ thứ hai. Rồi một ngày kia, tai nạn đã dồn dập đổ xuống nhà Méc-tơn: Trước tiên là cô bé út Na-ta-cha bị sốt cao khiến ông Méc-tơn rất lo lắng. Ông vội mang con đến bệnh viện cấp cứu. Trong thời gian này, cô So-phie đã luôn túc trực bên giường bệnh để chăm sóc đứa bé. Rồi đến lượt hai đứa khác cũng bị lây bệnh và cũng được cô giáo tận tình chăm lo đến khi cả ba anh em hoàn toàn bình phục. Sau cùng chính cô So-phie lại bị ngã bệnh! Đây là hậu quả của những ngày vất vả chăm sóc bệnh nhân. Sau hai tuần lễ liệt giường, các bác sĩ đành bó tay không thể chữa cô khỏi bệnh. So-phie đã từ giã cuộc đời trong sự tiếc thương vô hạn của cả gia đình Méc-tơn. Trước khi lìa đời, Sophie đã tặng chiếc huy chương hình thánh giá cho Na-ta-cha là cô học trò bé nhỏ của cô.
Thấm thoát đã đến ngày giỗ đầy năm của So-phie. Hôm ấy cả gia đình Méc-tơn dậy sớm và cùng đi nhà thờ dự lễ cầu nguyện cho cô. Tại sao có sự kiện lạ lùng này? Số là sau khi So-phie chết được một tuần, ông Méc-tơn đến thăm các con lúc đó vẫn đang ưu sầu thương nhớ cô gia sư mới chết. Tình cờ ông thấy chiếc huy chương trong tủ kính. Tò mò cầm lên xem, ông mở hộp nhỏ phía sau chiếc huy chương, lấy ra một mẩu giấy và đọc thấy hàng chữ như sau: “Lạy Chúa, trong nhà Méc-tơn này, con đã bị cấm nói về Chúa với lũ trẻ. Vậy xin Chúa giúp con nói với chúng bằng hành động khiêm nhường yêu thương và phục vụ. Con hy vọng gia đình này có ngày sẽ tin vào Chúa và cũng được hưởng ơn cứu độ giống như con”. Ông Méc-tơn rất xúc động khi đọc những hàng chữ này. Ông trao cho các con cùng đọc và chúng cũng xúc động giống như ông. Rồi cả gia đình Méc-tơn đã đến xin học giáo lý tại một nhà thờ công giáo gần nhà và đã được lãnh nhận phép Rửa Tội để gia nhập vào Hội Thánh vào lễ Đêm Vọng Phục Sinh năm đó.
** Chứng nhân có giá trị thuyết phục hơn là thầy dạy:
Đức Thánh Cha Phaolô VI đã nhấn mạnh giá trị của đời sống chứng nhân trong việc loan báo Tin Mừng như sau: “Người thời nay tin vào các chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có tin vào thầy dạy là vì các thầy dạy ấy đã là những chứng nhân”. Chỉ các hành động yêu thương kèm theo lời giảng mới có sức thuyết phục con người thời nay tin theo Đức Giêsu.
Các tín hữu cần gắn bó với Chúa Giêsu như cành nho tháp nhập vào thân cây nho. Vì nếu không có ơn Chúa giúp, chúng ta sẽ không thể chu tòan sứ vụ làm chứng cho Chúa được (x Ga 15,5). Cần tập nhẫn nhịn chịu đựng và quảng đại tha thứ các xúc phạm của tha nhân, luôn nghĩ đến người khác và phục vụ mọi người trong tinh thần khiêm tốn và yêu thương, sẵn sàng chấp nhận thua thiệt để được mối lợi là đưa được nhiều linh hồn về làm con Chúa như thánh Phaolô đã viết: “Vì vậy tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, họan nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,10).
3.THẢO LUẬN:
1) Bạn có kinh nghiệm gì về việc truyền giáo bằng đời sống chứng nhân bác ái không? 2) Trong những ngày này, mỗi người chúng ta sẽ giới thiệu Chúa cho bạn bè và người thân chưa biết Chúa như thế nào?
4. LỜI CẦU
Lạy Chúa Giêsu, Xin cho chúng con trở thành khí cụ bình an của Chúa, cho chúng con luôn chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa bằng một lối sống quên mình vị tha, dấn thân hy sinh và khiêm nhường phục vụ tha nhân cách chân thành. Nhờ đó, người ngòai sẽ nhận biết tôn thờ và tin theo Chúa để được hưởng ơn cứu độ đời đời cùng với chúng con.- Amen.