Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 14-B: Bài 151-170 Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương ------------------------------------------ Mục Lục:
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người. Ðến ngày Sabbat, Người vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Người, nên nói rằng: “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?” Và họ vấp phạm vì Người. Chúa Giêsu liền bảo họ: “Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình”. Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy. - Ðó là lời Chúa.
Chúa cùng môn đệ về làng, Nơi Na-za-rét, họ hàng thân quen. Thân bằng quyến thuộc chúc khen, TN 14-B151
Chúa cùng môn đệ về làng, Nơi Na-za-rét, họ hàng thân quen. Thân bằng quyến thuộc chúc khen, Hội đường nhỏ bé, bon chen nhóm người. Kẻ thương người ghét kẻ cười, Chúa vào giảng dạy, vui tươi đón chào. Ngạc nhiên thái độ đồng bào, Khôn ngoan lời lẽ, làm giao động lòng. Ghen tương thái độ bên trong, Nghi ngờ sứ mệnh, trông mong cứu đời. Mẹ cha chú bác cùng thời, Dân làng biết rõ, cuộc đời Thầy đây. Khinh khi vấp phạm lời này, Con ông thợ mộc, hằng ngày lao công. Ma-ry, mẹ Chúa ngắm trông, Tiên tri ẩn dấu, họ không hiểu gì.
Chúa Giêsu trở về quê nhà, nơi Ngài đã sinh sống suốt gần ba mươi năm trời. Chúa Giêsu vào giảng trong Hội đường, nhiều người đã sửng sốt về lời giảng của Ngài. Họ ngưỡng mộ nhưng không tránh khỏi những dị nghị và dèm pha. Họ nghĩ là họ quá biết Ngài. Bà con kháo láo với nhau rằng: Bởi đâu ông này được như vậy. Đúng vậy, họ đâu có xa lạ gì, hằng ngày Ngài cùng lao động và cùng chia xẻ mọi biến cố trong xóm làng với họ. Gia đình của Ngài gần đây và cha mẹ của Ngài là những người hàng xóm tốt lành. Thế sao hôm nay Ngài giảng dạy và làm nhiều phép lạ như thế. Thế là họ tỏ thái độ khinh thường Ngài.
Chúng ta thường chứng kiến những tài tử thần tượng đi tới đâu cũng được người ta đón chào và ngưỡng mộ. Nhất là các tài tử thể thao, điện ảnh và cả các chính khách cũng được nhiếu người quí mến. Người ta không đánh giá hay nhìn họ ở khía cạnh luân lý. Nói chung, họ nhìn ở tài năng diễn đạt và thuyết phục. Người ta được thong dong không bị lương tâm đặt nghi vấn.
Sứ mệnh tiên tri thì khác, tiên tri nói lên sự thật. Tiên tri vạch trần cuộc sống giả dối, kêu gọi từ bỏ đường tà và dẫn dắt trở về nẻo chính đường ngay. Dĩ nhiên họ không ưa thích, vì không am hợp với cách sống của họ. Chúa về lại quê cũ. Chúa không phải là một tài tử. Chúa về quê như một vị tiên tri có các môn đệ theo sau.
Dân làng truy tìm nguồn gốc của Chúa và họ tỏ ra không vui. Họ thiển cận không biết được chân tướng thật của Chúa Giêsu. Họ đã bị lầm. Chúa Giêsu bị kẻ xấu xuyên tạc và nhiều người nhẹ dạ bị họ giật giây. Chúa Giêsu ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Niềm tin không phải là phép bùa hay lừa đảo nhưng là một lối sống đạo.
Truyện kể vào năm 1960, khi đạo giáo bị bách hại ở Sudan. Một thanh niên tên là Taban đã trốn nguy hiểm chạy sang Uganda tị nạn. Tại Uganda, anh đã nhập Dòng Tu và sau trở thành linh mục. Khi hòa bình trở lại, linh mục trở về quê hương và được bài sai đến xứ Palotake. Giáo dân nơi đây khó chấp nhận và không tin Taban là một linh mục. Cha nói rằng người ta đã nghi ngờ tôi và họ hỏi tôi: Ông có thật là linh mục không? Ông là người da đen. Họ không thể tin. Vì người ta chưa bao giờ thấy linh mục da đen. Họ chỉ gặp linh mục da trắng cho họ quần áo và thuốc thang.
Xét đoán diện mạo bên ngoài dễ bị lầm. Hãy quảng đại để đón nhận nhiều sự lạ chung quanh. Chúa ban cho mỗi người một kho tàng và một ơn gọi riêng để phục vụ. Chúng ta hãy đón nhận mọi người như hình ảnh của Chúa.
Trở về quê Nazareth, nơi Chúa Giêsu sinh trưởng, Người không làm được phép lạ nào, vì họ TN 14-B152
Trở về quê Nazareth, nơi Chúa Giêsu sinh trưởng, Người không làm được phép lạ nào, vì họ không tin (Mc 6, 1 -6).
Tại sao họ không tin?
Người cùng quê với Chúa Giê su họ có lý do để không tìn vào Chúa Giê su. Lý do làm sao trả lời câu hỏi:”Một Thiên Chúa siêu việt, vô biên, làm sao lại trở thành con người thực tại và giới hạn được?’
Không trả lời trực tiếp câu hỏi này, nhưng con người vẫn tìn: con người có hồn có xác, hồn bất tử và xác hay chết! làm sao dung hòa được cả hai yếu tố này trong một con người?. Người ta vẫn tin nhiều cặp đôi tồn tại trong một: “vật chất – tinh thần; tự nhiên và siêu nhiên; hình và bóng..”
Chỉ có thể hiểu được như thời đại của chúng ta vì căn bệnh GATO. Người làng một số người không thể chấp nhận được con người này hơn con người kia. Con mình bao giờ cũng là số một và con ai giỏi hơn, tài năng hơn thì buông lời gièm pha, chỉ trích, tìm cớ để khinh thường. Người ta thường hay mắc bệnh khoe, khoe nhà, khoe của, khoe đẹp, khoe con… Giữa những con người Gato thì cũng chẳng có phép lạ cuộc sống nào vì không có chỗ cho bác ái, yêu thương, hiệp nhất.
Bệnh khoe khoang là một trong nhóm của lòng kiêu căng, tự mãn. Không thấy giới hạn của mình, nhất là những giới hạn của con người không thể vươn tới vô biên. Con người tiến tới phía trước luôn là con người nhận biết rằng phía trước còn là mênh mông, nếu không con người sẽ chẳng tiến bước được gì ngoài giới hạn của mình.
Chúa Giê su chấp nhận, vì phép lạ không phải là để chinh phục người ta mà chỉ là một trong dấu chỉ để người ta biết là có Chúa hiện diện. Điều cần thiết Chúa mời gọi sau những phép lạ và trong tất cả bài giảng huấn của Người là: Sám hối và tin vào Tin Mừng là chính Chúa.
Để tin vào Chúa, con gười cần đi trên một lộ trình của lòng khiêm nhường tìm kiếm, gặp gỡ và hoán cải. Bởi niềm tin vừa là một ân ban Chúa mở ra cho con người và đáp lại bằng ý chí vâng phục của con người trước Chúa.
Thực tại dẫn về Chúa
Buồn lòng trước sự cứng tin của con người. Chúa đến để giải thoát con người khỏi tội lỗi, nhưng con người lại thích trong tội lỗi hơn ánh sáng. Cứ mãi lẩn quẩn trong vòng vây của bóng tối và giữa những đau khổ, chán chường mà không muốn thoát.
Con người tự thân là một mâu thuẫn giữa quyến luyến và dứt bỏ, giữa cầm nắm và cho đi, giữa cái tôi và cái chúng ta… Sống trong mâu thuẫn giữa thực tại và lý tưởng, sống ảo và sống thật. Trong vòng mâu thuẫn đó con người bị đưa đẩy hết bờ này sang bờ kia.
Ngay ở trong những thảm trạng của con người trải qua, người ta kinh nghiệm về cuộc đời của mình, càng muốn nắm giữ lại càng dễ mất. Kinh nghiệm này đi đến tận cùng vào giờ chết. Thế nên, càng giải quyết sớm tình trạng quyến luyến lại càng sống thấy ý nghĩa hơn cho cuộc đời. Tìm ra lý lẽ của cuộc sống mỗi người: sống với, sống cho và sống vì người khác. Đó là kinh nghiệm của con đường dứt bỏ.
Chúa lên tiếng mời gọi “Hãy theo Ta!” Theo Chúa, đón nhận tin mừng giải thoát khỏi cái tôi của mình, khỏi sự tha hóa bởi thế tục, tìm ra ý nghĩa cuộc đời của mình ở trong Thiên Chúa. Thánh Phao lô kinh nghiệm sau khi dứt bỏ coi như mọi sự là rác, để được biết Chúa Kitô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống trong xác phàm, là sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi. (Gal 2, 20).
Có một niềm tin chắc chắn, tương lai sẽ mở ra và hiện tại được chiếu sáng, ý nghĩa cuộc đời sẽ gặp. Vậy còn chờ gì nữa không đặt niềm tin vào Chúa.
Thật dễ hiểu, đối với dân làng Na-da-rét vốn tò mò, vấn đề được họ quan tâm hơn hết nơi ông TN 14-B153
Thật dễ hiểu, đối với dân làng Na-da-rét vốn tò mò, vấn đề được họ quan tâm hơn hết nơi ông Giê-su mới nổi danh trở về thăm quê quán chính là xác định được quyền năng thần linh ông có được từ đâu mà đến; “Bởi đâu ông ta được như thế?”. Cụ thể, trước mặt họ là ông Giê-su trăm phần quá quen thuộc, một đồng hương từng chia sẻ với họ cuộc sống thường nhật; “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Gio-xép, Giu-đa và Si-mon sao?” Ông Giê-su này thì họ đã quá nhẵn mặt qua những gì là tầm thường, là đời thường, là cơm áo gạo tiền. Điều mà họ không quen hoặc khó chấp nhận chính là quyền năng ‘đột xuất’ của bác thợ mộc trẻ Giê-su. Tác giả Mác-cô cho chúng ta thấy họ khó thoát ra khỏi lối suy nghĩ cố chấp này biết bao, ông này có gì mà làm nên chuyện? Đức Giê-su nhận ra ngay họ bị thái độ rẻ rúng ngăn cản để không thể chấp nhận Người, ngay cả khi Người xuất hiện trịnh trọng, đứng trước mặt họ trên bục sách trong hội đường. Tình trạng này được tác giả sách Tin Mừng gọi là bị ‘vấp ngã’, ‘họ vấp ngã vì Người’.
Đối với các tín hữu thời các tông đồ, vấn đề nặng nề nhất lại là cái chết tức tưởi và khổ nhục của thầy Giê-su trên cây thập tự; “Chúng tôi rao giảng một Đấng Ki-tô chịu đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại coi là điên rồ” (1 Cr 1:23). Dầu có quen thuộc phần nào với cuộc sống trần gian của Ráp-bi Giê-su, các tông đồ vẫn thâm tín, qua các phép lạ Thầy thực hiện, rằng quyền năng Thiên Chúa hằng ngự nơi Thầy. Chính vì thế mà, đối với các ông, cái chết thập giá Thầy chịu là điều không thể chấp nhận được (xem Lc 24:19-24). Sau này, việc Thầy chỗi dậy từ cõi chết do quyền năng Thiên Chúa đã là cả một cái phao cứu sinh giúp họ vượt qua được cái ‘vấp ngã’ ê chề của thập giá. Chính vì thế mà niềm tin phục sinh đối với cộng đoàn Ki-tô tiên khởi là vấn đề hệ trọng bậc nhất; ‘Nếu Đức Ki-tô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng’ (1 Cr 15:14).
Còn đối với chúng ta, các tín hữu của thế kỷ XX – XXI này, cái ‘vấp ngã’ trong niềm tin có thể là gì đây? Đời thường của Đức Giê-su, đối với chúng ta, không phải là nỗi ám ảnh, vì chúng ta có bao giờ được nếm cái cảm nghiệm một ông Giê-su quá gần gũi, quá cụ thể đó đâu. Cảm nhận cái chết khổ nhục của Người trên thập giá như một nỗi thất vọng ê chề, chúng ta cũng không có nốt, vì đã biết và tin rằng Người sống lại vinh hiển từ cõi chết. Ngược hẳn với các bậc tiền bối, chúng ta sẽ rất lấy làm vinh hạnh nếu được biết đôi chút về đời thường của Đức Giê-su tại Na-da-rét, và chúng ta thậm chí còn thấy hãnh diện về cuộc tử nạn của Người (phải chăng đó là lý do người ta dựng, và ùn ùn kéo nhau đi xem cuốn phim ‘The Passion of Christ’). Tuy nhiên tôi trộm nghĩ, điều mà ngày nay đã trở thành quen thuộc đối với niềm tin của chúng ta, có lẽ quá quen thuộc nữa là đàng khác, lại chính là thần tính của Đức Giê-su và quyền năng siêu phàm của Người. Mỗi khi nói về Đức Giê-su Ki-tô là tâm trí chúng ta lại hình dung ra một vị Thánh Tử, phục sinh khải hoàn vinh quang, sẽ uy nghi ngự đến để công thẳng phán xét kẻ sống và kẻ chết, và vương quốc Ngài sẽ uy hùng bất tận. Không như các đồng hương Na-da-rét, ngày nay chúng ta chắc chắn không hề rẻ rúng Ngài, rất kính sợ nữa là đàng khác. Không như các môn đệ đầu tiên, ngày nay chúng ta không hề hoảng sợ về thập giá, ngược lại còn rất hãnh diện nữa là đàng khác. Thế thì – tôi xin phép được lặp lại vấn nạn – cái ‘vấp ngã’ trong niềm tin hôm nay thực chất có thể là điều gì? Thưa – tôi lại xin mạn phép được tự trả lời – có thể là lòng nhân từ thương xót, quá nhân từ xót thương của Người có thể làm cho chúng ta bị vấp phạm chăng?
Kể từ thời Thánh Phan-xi-cô Sa-lê (cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII) cho tới Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II (cuối thế kỷ XX tới đầu thế kỷ XXI), sự hiểu biết về Đức Giê-su Ki-tô như hiện thân và mạc khải tình yêu nhân hậu và xót thương của Thiên Chúa đã tiến triển chậm chạp đến thế nào trong Giáo Hội. Như một quan niệm, người ta đã thấy nó khó được chấp nhận như thế nào; còn việc tiếp nhận điều này như nền tảng của đức tin Công Giáo thì còn trì trệ hơn nữa nhiều, nhất là đối với số đông các chư vị trong các cấp phẩm trật. Phải chăng Đức Giê-su lại phải lên tiếng một lần nữa trong trường hợp này: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng (bị hiểu lầm) thì cũng chính… giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”? Do đó, tôi thật sự cầu mong cho Hội Thánh, được mệnh danh là một tổ chức mang mục đích rao giảng Tin Mừng tình thương, sẽ sớm là nơi mà sự nhận thức về tình yêu thương xót của Thiên Chúa hoàn toàn thống trị trong mọi lãnh vực…, và trong đó mọi cơ cấu luật lệ đều diễn đạt lòng nhân ái thần linh này mà thôi!
Riêng với chính mình, vì thuộc hàng linh mục – phẩm trật của Giáo Hội, tôi thấy mình có một phần lỗi trước tình trạng này. Tôi đã khám phá ra, và loan truyền lòng thương xót Chúa quá ít và quá trễ chăng?
Lạy Chúa Giê-su, xin trở lại viếng thăm Hội Thánh Chúa, không phải với quyền phép hay dấu lạ, nhưng với mạc khải nhân từ và xót thương vô biên. Sau nhiều thế kỷ lạ lẫm hoặc có phần sợ hãi, giờ đây xin thức tỉnh Hội Thánh Chúa, nhất là các vị trong phẩm trật, được thâm tín hơn về Tin Mừng nhân ái và yêu thương, nhờ đó Hội Thánh sẽ rao giảng cho người tội lỗi sứ điệp cao đẹp nhất mà họ hằng mong mỏi được nghe, đó là “Chúa Cha yêu mến trần gian tới nỗi…” A-men.
Đức Giêsu trở về quê hương mình là Nazareth. Theo thời gian vào ngày sa-bát, Ngài vào hội TN 14-B154
Đức Giêsu trở về quê hương mình là Nazareth. Theo thời gian vào ngày sa-bát, Ngài vào hội đường và rao giảng lời Chúa. Những người đồng hương rất ngạc nhiên về lời rao giảng của Ngài, sự khôn ngoan của Ngài và nhất là những phép lạ Ngài làm ở khắp nơi mà họ đã nghe biết và họ đã thán phục Ngài: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan như vậy? Ông ta làm được những phép lạ như thế?”.
Nhưng khi nhớ đến nguồn gốc của Ngài là một bác thợ mộc tầm thường bà con với những dân làng nghèo miền Nazareth… Họ không tin Ngài, không đón nhận gióa lý của Ngài, họ coi thường Ngài. Chính vì thái độ không tin ấy, Đức Giêsu không làm phép lạ ở Nazareth. Đức Giêsu đã thất bại hoàn toàn đối với người đồng hương. Ngài đã nói lên một thân phận người ngôn sứ ở trong xã hội thời xưa cũng như hôm nay: “Không có một tiên tri nào được kính trọng nơi quê hương của mình”.
Ngôn sứ là một người nói thay cho Thiên Chúa, nói lời của Thiên Chúa. Tiếng nói của những ngôn sứ rất lạ thường, bởi nói lên những chân lý về Thiên Chúa. Loài người thường “lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Còn lời của Thiên Chúa mà các ngôn sứ loan truyền thì luôn nói thẳng nói thật để dạy dỗ, răn đe, sửa lỗi. Sự thật mất lòng, cho nên tiếng nói của Thiên Chúa nhiều khi chói tai, khó chấp nhận. Trường hợp của Chúa Giêsu tại hội đường Nazareth là một điển hình.
Ngôn sứ nói lời của Thiên Chúa, nên nhiều khi chẳng những không được người ta nghe mà còn bị người ta ghét, loại trừ, bách hại. Ngôn sứ Êdêkien thay mặt Chúa kêu gọi dân Do Thái sám hối tội lỗi, đừng ỷ lại vào sự kiện họ có đền thờ Giêrusalem và cũng đừng nương tựa vào thế lực ngoại bang. Những lời nói này đã khiến dân Do Thái kết tội ông phạm thánh và phản quốc. Họ đã nhiều lần bách hại ông, ông chỉ thoát chết trong đường dây kẽ tóc. Gioan Tẩy Giả bị vua Hêrôđê chém đầu vì nói lên sự thật, tố cáo sự loạn luân của vua. Rất nhiều ngôn sứ cũng không thoát khỏi cảnh bách hại do sứ mạng nói lời của Thiên Chúa. Thân phận của người ngôn sứ là như thế!
Ngày hôm nay trong một xã hôi duy vật vô thần, nền đạo đức xuống cấp trầm trọng ở gia đình, học đường, xã hội… Biết bao nhiêu sự thật đau lòng, bất công, tham nhũng hối lộ, người có quyền đàn áp chiếm đoạt đất đai, tài sản của nhân dân, nạn cướp của giết người ở khắp nơi… trong Giáo hội cũng xảy ra nhiều vấn đề đau buồn: linh mục, tu sĩ lạm dụng tình dục trẻ em, đánh cắp những tài liệu mật ở Vatican, nhiều tiêu cực. Thiên Chúa cần những ngôn sứ can đảm nói lên sự thật để làm cho xã hội và Giáo hội được phục hồi, được thăng tiến về mọi mặt. Nhưng đáng buồn, đa số Kitô hữu, các cán bộ tin mừng, những linh mục tu sĩ đã chọn thái độ làm ngơ, im lặng. chỉ vì muốn được yên thân, an phận. Như thế là không thi hành chức năng ngôn sứ của mình.
Nhiều Kitô hữu không ý thức chức năng ngôn sứ của mình khi lãnh nhận bí tích Rửa tội được làm con Chúa, được tham dự vào 3 chức năng của Đức Giêsu Kitô là Ngôn sứ – Tư tế – Vương đế. Đáng buồn có những tín hữu chối bỏ đức tin khi làm lý lịch khai là không tôn giáo, không dám xưng mình là người có đạo, không dám làm dấu Thánh giá khi ăn cơm chung với nhiều người, đối xử thiếu nhân đạo, thiếu bác ái với anh em, bất công với người khác… Đó là những biểu hiện không thi hành chức vụ ngôn sứ trong xã hội.
Sống đạo là sống chứng nhân cho Chúa giữa đời: Sống đạo đức, lương thiện, bác ái, hy sinh phục vụ… để anh em lương dân nhìn thấy những việc làm tốt lành mà ngợi khen Thiên Chúa.
Thái độ thiên kiến, định kiến “Bụt nhà không thiêng”. “gần chùa gọi bụt bằng anh, thấy bụt hiền lành cõng bụt đi chơi”. Chỉ nhìn quá khứ với con mắt chủ quan của người đồng hương đối với Chúa làm cho chúng ta phải suy nghĩ. Khi đánh giá một sự kiện, nhất là một con người cần phải có thái độ khách quan, trung thực nhìn nhận sự kiện, con người như hôm nay, bây giờ, hiện thực thì mới chính xác. Không nên nhìn quá khứ với những khuyết điểm nơi con người mà phải nhìn con người hôm nay với cái nhìn lạc quan hướng về một tương lai tốt đẹp, dĩ nhiên ai cũng có khuyết điểm, giới hạn của mình “nhân vô thập toàn”. Người đồng hương Nazareth không có cái nhìn này mà chỉ nghĩ về quá khứ: Ông Giêsu, một bác thợ mộc nghèo, tầm thường, vô danh tiểu tốt, cha mẹ Ngài cùng xóm ấp với mình. Vì thế họ không thấy được những điều hay, việc làm tốt, phi thường của Đức Giêsu nên họ không tin, mặc dù họ khâm phục Ngài. Trước thái độ của người Nazareth, Đức Giêsu đã phải thốt lên: “Không một tiên tri nào được đón nhận nơi quê hương mình”.
Khách quan nhìn nhận sự thật về mình, về người khác và công nhận con người có thể biến đổi trở nên tốt mới có thể tạo được niềm tin giữa con người trong xã hội và giúp nhau thăng tiến về đạo cũng như đời. Hãy bỏ qua quá khứ và nhìn về tương lai tốt đẹp!
Cách đây khá lâu, trong mục Tuổi Biết Buồn ở tờ Nguyệt San Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp có đăng TN 14-B155
Cách đây khá lâu, trong mục Tuổi Biết Buồn ở tờ Nguyệt San Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp có đăng tâm sự của hai chàng thanh niên bị chối từ tình yêu. Anh thứ nhất viết: Lệ Vũ mến, em rơi vào vùng cấm địa này đã 2 năm tròn. Em có thương một người, chẳng may cho em vì người ta chỉ thương hại em trong cơn sầu khổ. Khi em hỏi: “Có thương anh không?” Cô ấy thành thật trả lời: “Không và trăm ngàn lần không”. Một tháng qua hồn em như chết đi và ngớ ngẩn như gà nuốt dây thun. Đi ra cũng nhớ, trốn xa để khỏi gặp thì “nàng” cũng hiện hình; đêm về cũng nhớ. Có cách nào quên đi hình bóng “nàng” đã đến với mình. Ký tên: Hàn Băng Giá, Lincoln, Nebraska.
Anh thứ hai tâm sự: Em năm nay 30 tuổi và quen T được 5 năm thì chúng em tính đến chuyện kết hôn. Tuy nhiên T nói là chờ ba mẹ qua để làm đám cưới cho lớn. Ngờ đâu, khi cha mẹ T qua thì nhất quyết không chấp nhận và chê nào là em chân què rồi học không cao. Thế là chúng em đành chia tay. Theo Lệ Vũ, em đã học lấy Ph. D rồi mà còn bị chê là học không cao, nghĩa là làm sao? Cuộc đời em khổ nhiều hơn vui: Một tuổi thì mồ côi cả cha lẫn mẹ, về sống với ông bà nội được mười mấy năm thì cho em đi vượt biên. Qua đến Mỹ, không có người thân, em phải một mình tranh đấu để học hành. Thế mà sau khi “thành tài”, không hiểu tại sao Chúa lại trao thánh giá cho em như vậy. Ký tên: Người em phiền não, TX.
Xin nhắc nhỏ với các cô là cố gắng thương yêu các anh, đừng nỡ tâm phụ lòng các anh kẻo các anh phải phiền não, phải là hàn băng giá thì quả thật là tội nghiệp cho các anh nhiều lắm đó.
Điều chúng ta cần để ý là không phải chỉ có các anh trên mới bị chối từ tình yêu. Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại Chúa về quê thăm nhà bị dân chúng khinh thường, coi rẻ vì biết rõ thân phận quá khứ của Chúa.
Nếu hai anh thanh niên đau khổ vì bị chối từ, thì có lẽ Chúa cũng vậy. Không thể hoài nghi đây là một trong những kinh nghiệm đau đớn trong cuộc sống. Tuy nhiên, đối diện với việc bị chối từ, chúng ta nên làm gì và phải làm gì? Các anh thanh niên đã viết thư cho Lệ Vũ xin nhờ giúp đỡ tìm phương thức giải quyết. Nếu là Lệ Vũ, xin đề nghị với các anh là theo gương Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay.
Trước hết thành thật. Chúng ta nên kiểm điểm lại cuộc sống một cách thành thật với lòng mình để tìm hiểu nguyên do tại sao mình bị chối từ, phải chăng vì lỗi của mình hay vì một vài lý do nào đó khiến mình không được chấp nhận. Có thể có người nêu lên thắc mắc: Phải chăng Chúa Giêsu cũng kiểm điểm lại cuộc sống? Chúng ta không thể minh chứng bằng việc trích dẫn những câu Kinh Thánh, nhưng theo thiển ý, Chúa đã làm vì chúng ta đang nói với nhau về sự thành thật, và không ai có thể thành thật với Thiên Chúa và tha nhân nếu trước hết họ không thành thật với chính mình. Chúa Giêsu đã từng xác quyết Ngài là đường, là sự thật, và là sự sống, chắc hẳn Ngài không ngại đối diện với sự thật, ngay cả sự thật về chính mình.
Tuy nhiên, tự kiểm điểm không phải là chuyện dễ dàng, nó đòi hỏi sự khôn ngoan. Nếu tự kiểm điểm thái quá, chúng ta sẽ bị rơi vào tình trạng tự chỉ trích mình quá đáng. Còn nếu không kiểm điểm, chúng ta lại dễ mắc vào lầm lỗi là khiển trách người khác những lỗi lầm mà thực sự của chính chúng ta. Nếu người ta chối từ chúng ta vì chúng ta nóng nảy, kiêu ngạo, ăn nói cộc cằn hay thường xuyên phàn nàn kêu ca…, thì chúng ta cần nhận diện và thay đổi. Nếu không, chúng ta đã không đối diện với việc bị chối từ một cách thành thật.
Thứ đến, Chúa bình tĩnh chấp nhận. Không thể hoài nghi là Ngài muốn được dân làng của Ngài tiếp nhận Ngài. Đây là quê làng, nhà của Ngài, là những người thân quen mà Ngài sống chung gần như cả cuộc đời Ngài. Cũng là con người nên bị chối từ chắc hẳn làm Ngài đau khổ nhiều. Nhưng Ngài chấp nhận sự kiện bị chối từ và tiếp tục sống. Phải chăng đó là điều chúng ta cần học khi cảm nghiệm sự chối từ? Bị chối từ chưa chắc có nghĩa chúng ta là người xấu, người không xứng đáng. Mỗi người đã từng sống đều từng bị một số người chối từ. Vì thế nên bình tĩnh và tiếp tục sống.
Sau cùng, điều Chúa làm là tránh nơi bị chối từ và kiếm tìm chỗ được chấp nhận. Tin Mừng ghi lại: “Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy.” Bị chối từ bởi một người hay một số người không có nghĩa là bị cả thế giới chối từ. Do đó chúng ta không được phép thất vọng và trùm chăn, không tiếp tục dấn thân đến với những người khác, bởi vì rất có thể ở một nơi nào đó có người cũng đang cần những người như chúng ta.
Xin mượn lời của Lệ Vũ như lời kết cho bài chia sẻ Tin Mừng hôm nay: “Không nên trách Chúa về những khó khăn, thử thách mình phải trải qua trong cuộc đời. Chính Con Một Chúa khi xuống thế làm người còn phải uống chén đắng, trải qua khó khăn, thử thách vì tội loài người. Chỉ khác nhau ở điểm, có người tìm đủ mọi cách để khuất phục mọi khó khăn tiến lên, trong khi đó có người xuôi tay đầu hàng vô điều kiện, tự biến mình thành nạn nhân đáng thương trong nhiều chuyện nhiều khi không đáng. Trong đời sống, con người chỉ biết giá trị thực của nụ cười khi đã biết giá trị của nước mắt. Sông có khúc, người có lúc. Mong sớm qua được cơn phiền não và tìm lại niềm vui trong đời sống.”
Trưng hoa hồng trên bàn thờ vừa đẹp, lại vừa có hương thơm. Nhưng việc trồng tỉa nó lại là TN 14-B156
Trưng hoa hồng trên bàn thờ vừa đẹp, lại vừa có hương thơm. Nhưng việc trồng tỉa nó lại là việc không mấy dễ dàng, nhất là bị những chiếc gai nhọn cào xước trên phần da thịt non nớt, để lại những vết trầy trụa xót xa!
Ở tiểu chủng viện, tôi trong ban phụng vụ, đã phải chăm sóc vườn hoa hồng của nhà trường. Khi loay hoay làm việc, đào xới, tỉa cành, vun gốc, bón phân thì chẳng thấy chuyện gì xảy ra. Nhưng sau đó vài ngày, tự nhiên thấy nhói đau ở một điểm nào đó nơi tay chân, thường thì ngay những ngón tay và cánh tay. Khi xem xét kỹ lại, thì ra là một cái gai nhọn của cây hồng đã nằm sâu bên dưới da thịt. Phải lấy nó ra cho bằng được mới hết đau!
Chỉ vài ngày sau khi làm công tác vun xới vườn hồng, cánh tay của tôi trông giống như đã vật lộn với một con mèo hoang hung dữ và bị cào cấu thê thảm. Không những gai nhọn đâm vào da thịt, gây thương tích trên người, mà ngay cả những chiếc lá hồng cũng có khả năng xước da xẻ thịt nữa. Đó là vũ khí phòng vệ của cây hoa hồng mà Thượng Đế đã ban tặng cho chúng. Những vết trầy trụa thường rất đau đớn và dễ gây nhiễm độc vì những cành lá đã được xịt thuốc diệt trừ sâu rầy pesticide.
Những bông hoa hồng sẽ không đẹp nếu thân cây không được chăm sóc bằng cách bón phân, vun xới xung quanh gốc, và cắt tỉa những cành lá mọc rối trật tự. Người ta phải tỉa những cành yếu để gia tăng sức mạnh vào những nhánh lớn hơn; do đấy, những nụ hoa đẫy đà mới nẩy sinh và trổ ra những bông hoa đẹp đẽ. Người ta phải chịu đau đớn làm một công việc gây thương tích dưới những bụi gai hồng; nhưng chỉ có cách này, mới có một vườn hồng đầy hoa thơm.
Bài Phúc Âm hôm nay (Mc 6:1-6) diễn tả một nghịch cảnh tương tự khi Chúa Giêsu và các môn đệ trở về quê quán của Ngài và giảng dạy trong hội đường vào ngày Sabbát. Chúa Giêsu là bông hoa hồng thơm ngát. Còn những người đồng hương của Ngài là những chiếc gai nhọn với những lời phê bình, chỉ trích, và gièm pha thật xót xa: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Gio-xê, Giuđa và Si-mon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao? Và họ vấp ngã vì Người” (Mc 6:3).
Những người đồng hương đã nhìn vào nghề nghiệp, gia đình, bà con họ hàng của Chúa Giêsu để đánh giá về Con Người của Ngài. Họ đã nhận ra giá trị nơi những lời Ngài rao giảng: “Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Bởi đâu ông ta được như thế?” (Mc 6:2). Nhưng họ lại không thể tin vào Con Người của Ngài được!
Có một vị giáo sĩ đi du hành khắp nơi để rao giảng đạo lý. Một ngày nọ ngài đi vào một thị xã xa lạ, và hỏi thăm cậu bé con đường đi tới bưu điện. Sau khi cậu bé đã cho ngài những hướng dẫn cần thiết, vị giảng thuyết đã cám ơn cậu và nói, “Con có vẻ là một cậu bé sáng sủa và thông minh đấy. Con có muốn đến nghe bài giảng thuyết của ta tối nay để ta chỉ cho con con đường đi lên trời không?” Cậu bé sững sờ hỏi lại, “Ngài chỉ cho con đường đi lên trời, thế tại sao con đường đi đến bưu điện ngài lại không biết!”
Thánh Mác-cô đã phải nói lên một câu rất nặng nề đối với những người đồng hương của Chúa Giêsu: “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin” (Mc 6:5).
“Mọi sự đều có thể cho người tin” (Mc 9:23). Đối với Chúa Giêsu, Ngài đã không làm một phép lạ nào khi không có niềm tin. Ngài muốn làm tất cả mọi sự cho dân chúng của Ngài, nhất là những người đồng hương, nhưng Ngài cần đức tin của họ để xuất phát ra sức mạnh của Ngài. Hãy nhớ đến câu chuyện Phúc Âm tuần vừa qua (Mc 5: 21-43) nói về người phụ nữ bị loạn huyết. Nhiều người đã xô đẩy, đụng chạm vào người Chúa, nhưng không có gì xảy ra, vì họ đã không đụng chạm bằng lòng tin. Khi người phụ nữ có đức tin chạm vào Ngài (Hr 11:6), sức mạnh chữa lành liền phát xuất ra. Chúa Giêsu đầy quyền năng, nhưng chúng ta có thể làm tê liệt quyền năng của Chúa bằng sự “cứng lòng tin” hay thiếu lòng tin của chúng ta. Tại sao những người đồng hương đã không tin vào Chúa Giêsu?
Chúa Giêsu đã trả lời: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6:4). Tục ngữ ca dao Việt Nam cũng có những câu tương tự, “Bụt nhà không thiêng!” hay “Gần chùa gọi Bụt bằng anh. Thấy Bụt hiền lành bế Bụt đi chơi.” Và người Tây Phương cũng nói: “Familiarity breeds contempt, Sự quen thuộc sinh ra khinh bỉ.” Dân chúng trong vùng Ca-phác-na-um đã nghĩ rằng họ biết mọi sự về Chúa Giêsu rồi: tên tuổi, gia đình, nghề nghiệp, học vấn, Ngài đâu còn xa lạ gì đối với họ nữa!
Một vấn đề dễ gây ngộ nhận qua bài Phúc Âm hôm nay, khi đề cập đến anh em của Chúa Giêsu. Đối với người Công Giáo và những Kitô hữu tin tưởng vào sự đồng trinh của Đức Maria trước và sau khi sanh Chúa Giêsu đã lập luận rằng, trong ngôn ngữ cổ Aramaic, chữ “anh em” được sử dụng với một nghĩa rất rộng. Nó được dùng không những để chỉ anh em ruột, nhưng còn anh em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha, anh em bà con, hay những liên hệ máu mủ họ hàng khác nữa. Trong Phúc Âm, không có chỗ nào nói đến những người anh em của Chúa Giêsu như là những người con của Đức Maria cả. Nếu Đức Maria có những người con khác nữa thì tại sao khi Chúa Giêsu hấp hối trên thập giá lại phải trao phó Bà cho Gioan, môn đệ yêu quý của Ngài? (Ga 19: 26-27).
Một số người đã đề cập đến những người anh em của Chúa Giêsu là Giacôbê và Giuse (Mc 3:31-35; 6:3; 1 Cr 9:5; Gl 1:19). Về vấn đề này, sách Giáo Lý Công Giáo số 500 nói rằng: “Giáo Hội luôn hiểu các đoạn sách này không nói đến những người con khác nữa của Mẹ Maria: đúng thế, Giacôbê và Giuse ‘những người anh em của Chúa Giêsu’ (Mt 13:55) là con của một bà Maria khác, môn đệ của Chúa Kitô (Mt 27:56), và Thánh Kinh nói rõ đó là ‘một Maria khác’ (Mt 28:1). Đó là những anh em gần của Chúa Giêsu, theo kiểu nói quen thuộc của Cựu Ước (St 13:8; 14:16; 29:15)”.
Qua chính vấn đề đang tranh luận này, Thánh Sử Mác-cô đã cố gắng chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng dân chúng Ca-phác-na-um đã tự nghĩ là họ biết mọi sự về Chúa Giêsu, nhưng thật ra họ đã không biết gì về Ngài cả, hoặc là biết mà biết sai!
Một vị truyền giáo ở Ấn Độ đang giảng đạo cho một nhóm người thợ lặn đi tìm ngọc trai. Ngài nói cho họ nghe về việc Chúa Giêsu đã so sánh Vương Quốc Thiên Chúa như là một hạt giống được gieo xuống ruộng, một kho tàng ẩn dấu trong cánh đồng, một mẻ cá gồm đủ mọi thứ cá, và như một viên ngọc quý mà một người đã phải bán tất cả mọi của cải để mua lấy viên ngọc quý đó. Nghe vậy, một trong những người thợ lặn tìm ngọc trai đã quen biết rất thân tình với vị truyền giáo từ lâu, tỏ vẻ rất xúc động. Ông đã mời ngài về nhà. Khi ngài đến nhà, nguời thợ lặn đưa ra một cái hộp to lớn vững chắc. “Con đã có cái hộp này nhiều năm rồi,” ông nói. Rồi ông cẩn thận mở các lớp vải nhung bao bọc ra. Sau cùng còn lại một viên ngọc trai óng ánh, ông đặt nó vào tay vị truyền giáo. Viên ngọc sáng chói! Rõ ràng, nó đáng giá một món tiền rất lớn trên thị trường.
“Thưa cha,” ông thợ lặn tìm ngọc trai nói, “xưa kia, con đã có một người con trai. Nó là người thợ lặn ngọc trai giỏi nhất vùng bờ biển Ấn Độ này. Nó là nguồn vui của con. Và nó luôn mơ ước tìm được một viên ngọc trai nổi tiếng như thế này. Một ngày kia, nó đã tìm thấy. Nhưng viên ngọc trai đang nằm trong bàn tay ngài đây đã lấy đi mạng sống của nó. Nó đã chết vì viên ngọc trai này. Bao nhiêu năm qua, con đã giữ viên ngọc trai này, và bây giờ có một sự thúc đẩy nào nó nói với con rằng con phải trao nó cho ngài.”
“Không được!” vị truyền giáo phản đối, “ông không thể cho đi được.” “Làm thế nào tôi có thể đón nhận món quà vô giá này được?” Ông thợ lặn có vẻ kinh ngạc. “Ngài nói gì?” ông hỏi. “Thưa cha, cha không hiểu rằng người con trai của con đã phải hy sinh mạng sống vì viên ngọc trai này, nên con không thể nào bán nó được. Nhưng con muốn trao lại cho ngài bởi vì tình yêu của con dành cho ngài!” Sau đó, với những giọt nước mắt chảy xuống trên mặt, người thợ lặn đã nói với tất cả sự xúc động, “Thưa cha, đây không phải là những điều cha đã nói với con và những người khác về món quà vô giá của Thiên Chúa ban cho nhân loại, là chính Người Con Trai duy nhất của Ngài sao?”
Tin Mừng hôm nay không phải là câu chuyện buồn của những người đồng hương đã gặp Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa mà không nhận ra. Họ đã bỏ ra đi mà không lãnh nhận được một ơn lành nào vì sự cứng lòng tin của họ!
Tin Mừng hôm nay là sự bắt đầu rao giảng trong hội đường của Chúa Giêsu, Thánh Mác-cô nói với chúng ta rằng, “Nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Người” (Mc 6:2). Hôm nay chúng ta đến đây để cử hành sự hiện diện của Con Thiên Chúa trong Bí Tích Thánh Thể. Món quà vô giá là Người Con yêu quý của Thiên Chúa đã hiệp nhất chúng ta lại trong tình yêu thương của Người. Có bao giờ chúng ta kinh ngạc và sửng sốt về thực tại này chưa? Chúng ta có phải là những thính giả sửng sốt và ngạc nhiên về sự khôn ngoan và giáo lý của Người không?
Tôi còn nhớ cách đây mấy năm có một câu chuyện đã được báo chí và truyền hình đề cập, bàn TN 14-B157
Tôi còn nhớ cách đây mấy năm có một câu chuyện đã được báo chí và truyền hình đề cập, bàn tán và bình luận rất nhiều. Đó là câu chuyện của ông Bernard Madoff, người đã gian lận hàng tỉ đô la. Ông đã bị bắt và hiện đang bị giam trong tù. Nhưng điều làm cho mọi người ngạc nhiên là câu nói của người vợ sau khi ông này bị kết án, bà nói: “Người đàn ông phạm tội gian lận không phải là người đàn ông mà tôi đã sống chung với bao nhiêu năm qua.” Có nghĩa là bà ngạc nhiên về hành động của người chồng mà bà đã sống chung bao nhiêu năm trời.
Thật vậy, trong rất nhiều trường hợp, chúng ta ngạc nhiên về hành động của một người nào đó mà chúng ta nghĩ rằng chúng ta biết người đó một cách rõ ràng, nhưng hoàn cảnh trái ngược, thật sự ra chúng ta không biết rõ người đó.
Trong trường hợp của Chúa Giê-su mà chúng ta vừa nghe trong bài Tin mừng hôm nay, những người thân trong gia đình, bạn bè và hàng xóm nghĩ rằng họ biết rõ về Người. Đối với họ, Chúa chỉ là một người lao động tầm thường trở thành một người rao giảng. Người không thuộc về dòng dõi thượng phẩm hay linh mục, hay có sự học vấn cao siêu như những người biệt phái hay kinh sư. Có lẽ có một số ít người cảm phục nhưng hầu hết không tin Người có cái gì đặc biệt, mặc dầu họ đã nghe đồn về công việc và một số phép lạ Người đã làm ở nơi khác.
Cho nên như chúng ta vừa nghe khi Chúa về quê hương và giảng dạy trong hội đường thì họ ngạc nhiên nhưng sau đó có thái độ khi thường: “Ông là ai? Bởi đâu ông ta đã làm được những chuyện lạ lùng như thế? Ông ta không phải là con ông Giuse và bà Maria sao? Họ hàng anh chị em của ông ta không phải là những người láng giềng của chúng ta sao? Ông ta không phải là người đã sinh sống và làm nghề thợ mộc ở đây với chúng ta sao?”
Thật sự ra thì trước khi về thăm dân làng, dân chúng đã nghe về những lời giảng dạy mới lạ đầy uy quyền của Chúa, cũng như đã nghe dân chúng bàn tán xôn xao về những phép lạ Chúa đã làm ở nơi này nơi kia. Đó là những công việc, những phép lạ Chúa Giêsu đã làm trước khi Người về Na-da-rét, quê hương của Người. Nhưng những người đồng hương của Người ngạc nhiên đến độ không tin, không thể tin và có một thái độ như khi thường. Tin làm sao được ông Giêsu đang đứng trước mặt họ đây có thể làm được những điều lạ lùng như thế, tin làm sao được ông Giêsu đây là Thiên Sai, Đấng Cứu Chuộc, là Đấng mà dân tộc họ đang trông đợi cả ngàn năm!
Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su muốn dạy chúng ta nhiều bài học thực tế trong đời sống Ki-tô hữu. Nhưng tôi chỉ muốn chú ý đến 2 bài học quan trọng. Bài học thứ nhất là thành kiến. Nhu chúng ta biết thành kiến là một tâm trạng, thái độ lệch lạc, sai lầm rất tai hại, là một sự in sẵn, cố định trong tâm trí một đường lối, một quan niệm và một lối suy nghĩ. Bởi vậy, những người có thành kiến suy diễn, phán đoán mọi người mọi vật theo những quan niệm có sẵn trong đầu óc. Nhất là khi những tư tưởng, quan niệm hay những sự hiểu biết sai lạc đó có thể đưa đến những hậu quả không hay, gây ra những sự hiểu lầm, tranh chấp, chia rẽ nguy hại. Thật vậy như chúng ta đã hiểu biết ai đeo kính đen thì nhìn cái gì cũng tối hết, lưỡi đắng thì ăn gì cũng đắng, lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Chúng ta thường nghe: “yêu nên tốt, ghét nên xấu,” và “khi yêu nhau thì yêu cả đường đi, yêu cả những tật xấu. Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng.” Lòng chúng ta có khuynh hướng mạnh về điều gì, thì mắt chúng ta hay tìm, trí chúng ta hay tưởng, và rồi chúng ta phán đoán, nhận xét người khác theo khuynh hướng đó của chúng ta. Ít khi hay không bao giờ chúng ta tìm hay để ý đến những cái hay, cái tốt, hữu ích của họ, mà cảm nhận ra hay cám ơn về những ảnh hưởng đến đời sống của chính mình.
Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của loài người không ai thoát khỏi ngày xưa hay ngày nay cũng vậy. Chúng ta thường to tiếng chỉ trích hay kết án lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hay căn cứ vào những cái bên ngoài đó mà đánh giá người khác. Sự thực thì đánh giá một người theo phương diện bên ngoài có thể đúng nhưng cũng có thể sai lầm. Chúng ta có câu nói: “Trông mặt mà bắt hình dong.” Và ngược lại chúng ta cũng thường nghe câu nói: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn,” hay “Xanh vỏ mà đỏ lòng.” Cho nên, nhận xét đánh giá một người mà chỉ căn cứ vào thành kiến và bề ngoài có thể là nông nổi, thiển cận, nhiều khi phạm tội mất đức công bằng và bác ái, và gây ra những hậu quả chia rẽ, nghi ngờ trầm trọng, nguy hiểm và tai hại mà chúng ta thấy xảy ra trong nhiều cộng đoàn tôn giáo.
Tóm lại, thành kiến đã làm cho dân làng Na-da-rét nhận xét và phán đoán sai lầm về Chúa Giêsu. Họ đã không nhận ra Ngài là Đấng Cứu Thế. Đối với chúng ta cũng vậy, thành kiến có thể làm chúng ta mù quáng, không nhận định và phán đoán một cách khách quan, đúng đắn được. Thành kiến làm chúng ta không thể đối thoại, cởi mở với người khác và không nhìn thấy cái hay cái tốt nơi người khác, nhiều khi, vì thiển cận và sai lầm chúng ta còn tìm cách bới móc để xuyên tạc, vu oan, giá hoạ cho người khác. Chúng ta nghe Chúa Giê-su đã nhiều lần khiển trách người Pharisêu, biệt phái và kinh sư về thành kiến của họ.
Vì thế, là những Kitô hữu có đức tin vào Chúa, chúng ta phải cố gắng loại bỏ tất cả những thành kiến, để thứ nhất đối với cá nhân bản thân, khỏi sự tự ti mặc cảm; khỏi bị thu hẹp và nhất là tự hạ thấp giá trị con người của mình. Và thứ nhì đối với những người chung quanh, có được một cái nhìn đúng đắn hơn, trung thực hơn, có một nhận xét chân thành hơn, một phán đoán khách quan hơn, và có một đời sống yêu thương cởi mở thân mật hơn.
Bài học thứ hai là chúng ta cầu xin Chúa giúp chúng ta đừng bao giờ tự phụ là đã biết rõ Chúa. Chúng ta đi nhà thờ, chúng ta nghe về Chúa trong Tin mừng, tuyên xưng Chúa trong kinh Tin Kính, chúng ta đã học một số giáo lý và về Chúa ở lớp học, chúng ta nghe hay đọc về Chúa trong các kinh, và tự xưng là biết Chúa rõ rồi. Các thánh và các người có đời sống liên hệ mật thiết thánh thiện với Chúa luôn nhắc nhở chúng ta: mọi ngày từng giây phút trong đời sống phải có tấm lòng khao khát muốn biết rõ hơn Chúa Giê-su là ai. Vậy chúng ta phải làm sao để biết Chúa hơn? Bằng bốn điều thiết yếu sau: thứ nhất cầu nguyện, thứ hai năng chịu các Bí tích, thứ ba hy sinh khiêm nhường phục vụ và thứ bốn có tấm lòng quảng đại bác ái chân thật. Chỉ có một hay chỉ có 3 không đủ.
Tôi cũng phải thú nhận với mọi người, tôi cũng chưa biết Chúa đủ hay một cách rõ ràng, nhưng tôi cố gắng và cố gắng từng giờ, từng ngày, và tôi cũng biết tất cả ông bà anh chị em cũng đang cố gắng như vậy, đó là lý do tại sao chúng ta hiện diện trong Thánh lễ hôm nay.
Vì thành kiến và lòng tự phụ mà người dân tại làng Na-za-rét đã không nhận được những ơn sủng của Chúa. Xin Chúa khích động chúng ta có lòng khao khát muốn biết Chúa rõ hơn, biết loại bỏ những thành kiến, có tâm hồn chân thành và quảng đại để hứng nhận ân sủng của Chúa tuôn đổ xuống cuộc sống chúng ta.
Người Do Thái có quan niệm giống người Việt, một người làm quan cả họ được nhờ, một người TN 14-B158
Người Do Thái có quan niệm giống người Việt, một người làm quan cả họ được nhờ, một người thành công cả làng hãnh diện. Thế nhưng, Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu sau khi đã thành công, nổi tiếng khắp vùng, khi trở về Nazareth, dân làng không những không hãnh diện, lại còn tỏ ra coi thường khinh bỉ. Tại sao vậy?
Có một sự thật trong cuộc sống, đó là, con người thích nghe những điều ngọt ngào, những lời khen tặng, khó chấp nhận những lời thẳng thắn phê bình góp ý. Càng làm lớn, càng khó để nghe những lời góp ý, càng có quyền càng khó chấp nhận nghe lời phê bình. Ví dụ: Vua Hêrôđê thích nghe những lời rao giảng của Gioan Tiền Hô, thế nhưng khi Gioan phê bình vua về việc vua đã cướp vợ của anh mình, thì liền sau đó, Gioan bị tống giam và chém đầu. Xã hội ngày nay cũng vậy, ai lên tiếng phê bình lãnh đạo, liền bị kết vào tội nói xấu lãnh tụ. Ai chân thành góp ý, thì bị quy vào tội làm chia rẽ nội bộ. Cuối cùng trong bộ máy lãnh đạo chỉ còn lại những người nịnh hót, bảo sao nghe vậy, không dám nói thật, không dám bênh vực sự thật.
Từ Cựu Ước cho đến ngày nay, các ngôn sứ luôn bị chối từ, bị coi thường, bởi vì các Ngài luôn nói lên sự thật, các Ngài dám chỉ ra những cái sai và kêu gọi phải đi theo đường lối của Thiên Chúa. Vì vậy, các ngôn sứ luôn bị chối từ, bị bách hại và có khi phải thiệt mạng vì những điều các ông nói ra. Bài đọc một, tiên tri Êzêkiel chia sẻ về ơn gọi của ông. Ông nhận được lời Chúa mời gọi và sai đến với dân Israel. Ông cảm thấy vô cùng lo lắng, sợ hãi, nhưng Thiên Chúa đã khuyến khích ông: “Ta sẽ làm cho chân ngươi đứng vững. Ta sẽ sai ngươi đến với nhà Israel”. Như thế ông xác tín rằng ông là kẻ được sai đi; và vì được sai đi, nên ông có nhiệm vụ phải nói và làm theo ý Đấng đã sai mình. Chúa cũng cho Êzêkiel biết trước: “Israel là một dân phản nghịch đang nổi lên chống lại Ta…Chúng như những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá, chính Ta sai ngươi đến với chúng”. Dù biết trước sứ mệnh khó khăn, biết trước sẽ bị phản đối, nhưng vì lệnh truyền của Chúa, vị tiên tri vẫn can đảm vâng theo. Vị tiên tri cũng ý thức rằng, cho dù dân có nghe hay không nghe, thì việc ông đến với họ là vì Chúa, do Chúa, nói lời của Chúa. Nếu dân nghe lời vị ngôn sứ và điều chỉnh lại đời sống, họ lại đón nhận được tình thương của Chúa. Nếu từ chối, họ phải chịu trách nhiệm trước mặt Chúa về thái độ của họ.
Chúa Giêsu là Ngôn Sứ Chúa Cha sai đến trần gian để nói Lời và ý định của Chúa cho dân. Tuy nhiên, Tin Mừng cho thấy, khi Chúa trở về Nazareth, dân làng đã tỏ ra dửng dưng và khinh bỉ Ngài. Lúc bấy giờ Chúa Giêsu đã có một nhóm môn đệ đi theo, Ngài đã giảng dạy và thu hút được nhiều người tin tại các vùng lân cận như Caphacnaum. Khi trở về Nazareth, Chúa vào giảng trong hội đường. Mọi người ngạc nhiên về sự khôn ngoan thông thái của Chúa và về các phép lạ Chúa Giêsu đã làm. Tuy nhiên sự ngạc nhiên này lại không dẫn đến sự cảm phục và tin kính, trái lại, các người Nazareth đã để cho thành kiến, nếp nghĩ coi thường người khác cản trở, khiến họ không đi xa hơn được trong việc tin Chúa Giêsu.
Họ bị cản trở bởi nghĩ rằng vùng Nazaret chẳng thể nào có được một ngôn sứ, vì Kinh Thánh không hề nói đến tên làng Nazareth bao giờ. Suy nghĩ này cũng ảnh hưởng trên ông Nathanael khi được Philipphê nói về Đức Giêsu, vị ngôn sứ thành Nazareth, ông đã trả lời: Ở Nazareth nào có cái chi hay? Ngôn sứ làm gì có ở Nazareth! Hơn nữa, người Nazareth còn mang một cái nhìn hẹp hòi thành kiến và khinh thường thế giá gia đình của Chúa Giêsu. Họ nói rằng: Con anh thợ mộc có gì đâu mà thông thái? Anh em nhà bà Maria có gì đâu đặc biệt? Chính những suy nghĩ này đã cản trở những người Nazareth đón nhận Chúa Giêsu và lời giảng dạy của Ngài. Cũng từ đó họ không thể chấp nhhận Đức Giêsu là một ngôn sứ được Chúa sai đến.
Nếu những người Nazareth có một tâm hồn khiêm nhường, họ đã có thể nhận ra ý Chúa qua lời của Vị Ngôn Sứ Giêsu; Nếu họ bỏ qua được thành kiến, họ đã có thể nhận ra Chúa Giêsu là niềm vinh dự cho cả dân làng và dân tộc của họ; Nếu họ đừng có cái nhìn khinh miệt về gốc gác, nghề nghiệp của gia đình Ngài, thì họ đã nhìn thấy nơi Đức Giêsu là ngôn sứ được sai đến; Nếu họ đừng có thái độ coi thường người khác, họ đã nhận ra việc Chúa làm qua con người của Đức Giêsu. Chúa Giêsu lấy làm tiếc cho những người Nazareth vì họ đã cố tình bỏ qua cơ hội Thiên Chúa dành cho họ: Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương của mình, hay bà con thân thuộc và trong gia đình mà thôi.
Chính vì họ khép lòng trước lời mời gọi của Thiên Chúa, họ từ chối sứ giả của Thiên Chúa, nên Tin Mừng ghi lại: “Chúa Giêsu không thể làm được phép lạ nào tại đó…vì họ không có lòng tin”. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Ngài có thể làm được mọi sự. Tuy nhiên, ở Nazareth Ngài không thể thể hiện quyền năng Thiên Chúa qua các phép lạ được vì những người ở đó thiếu một điều kiện tiên quyết đó là lòng tin. Lòng tin là chìa khóa để ta đi vào trong trái tim và khai mở lòng thương xót của Chúa. Trái lại sự cứng lòng không tin hoặc cố tình từ chối Thiên Chúa sẽ khiến cho lòng thương xót của Chúa không thể đổ vào lòng chúng ta được. Thiên Chúa chỉ có thể đổ tình yêu vào lòng chúng ta khi chúng ta mở lòng đón nhận. Ngài chỉ có thể cứu chúng ta khi chúng ta đưa tay cho Ngài nâng ta chỗi dậy. Thiên Chúa chỉ có thể ôm chúng ta vào lòng khi chúng ta như một đứa trẻ sà vào vòng tay Chúa.
Thái độ từ chối Chúa Giêsu vẫn đang diễn ra trong thế giới và xã hội hôm nay. Các nhà cầm quyền đang muốn tìm cách loại trừ Chúa Giêsu và ảnh hưởng của Ngài trong xã hội, vì họ sợ Giáo lý và Tin Mừng của Chúa chạm đến lương tâm của họ. Họ sợ Chúa có ảnh hưởng trên cộng đồng, sợ nhiều người tin theo, do đó họ tìm nhiều cách đề đàn áp, kìm hãm, gây khó khăn cho những người tin theo Chúa. Nhìn chung, vì xã hội đầy những gian dối và bóng tối, vì thế họ sợ ánh sáng và sự thật của Chúa. Không chỉ ở những quốc gia độc tài, Chúa Giêsu cũng đang bị loại trừ nơi các quốc gia có truyền thống Kitô giáo như tại Châu Âu. Các nhà lập pháp Châu âu đã từng đòi loại bỏ dấu hiệu Kitô Giáo như tượng đài, thánh giá ra khỏi nơi công cộng nhân danh sự tự do tôn giáo.
Nguyên nhân sâu xa của tình trạng này là vì con người ngày nay đã loại trừ Chúa ra khỏi lòng mình hoặc tách biệt giữa đức tin và đời sống. Khi trong lòng chứa đầy tội lỗi, vật chất, sự gian dối và hành động bất chính, thì không thể có Chúa trong lòng. Những người khác tuy vẫn còn tin Chúa, nhưng Chúa không còn ảnh hưởng gì trên cuộc sống của họ. Đời sống đạo của những người này chỉ còn là một thói quen vô hồn, hoặc Chúa chỉ còn là vật trang trí hoặc khi gặp khó khăn họ khấn vái như khấn các thần linh khác.
Trước đây, người công giáo mạnh dạn hiên ngang mang thánh giá Chúa hoặc tràng hạt trên cổ để thể hiện mình là người có đạo; vào quán ăn, họ không ngại ngùng khi làm dấu thánh giá. Nhưng nay, thánh giá chỉ được đeo trên tai như đồ trang sức, nhiều người không còn cảm thấy tự hào vì mình thuộc về Chúa Kitô. Nhiều người còn tìm cách làm mờ nhạt dấu vết của Chúa trong cuộc sống của mình, không dám khai mình là công giáo trong giấy tờ, lý lịch để có thể thăng tiến trong xã hội. Có người lý luận: “Tôi chỉ khai như thế nhưng tôi có bỏ đạo đâu?” Hành động như thế cho thấy sự gian dối trong suy nghĩ là dấu hiệu cho thấy có sự khác biệt hoàn toàn giữa lối sống bên ngoài và đời sống đạo. Nhiều người, trong đó các bạn trẻ từ chối Chúa Giêsu qua việc từ chối hoặc lười biếng học hỏi giáo lý, Tin Mừng để biết về Chúa Giêsu và những đòi hỏi của Tin Mừng. Vì thế, Chúa Giêsu vẫn mãi như người xa lạ đối với họ.
Xin Chúa thêm đức tin để chúng ta tin chắc chắn vào Chúa Giêsu, đón nhận giáo lý Tin Mừng của Ngài và mạnh dạn sống những đòi hỏi của Tin Mừng trong xã hội hôm nay. Amen
Hiện nay, không ít các lễ hội, các không gian văn hóa tâm linh bị xâm hại một cách vô thức do TN 14-B159
Hiện nay, không ít các lễ hội, các không gian văn hóa tâm linh bị xâm hại một cách vô thức do sự thiếu ý thức của khách hành hương. Không ít điều chướng tai gai mắt xảy ra như cơm bữa ở nhiều lễ hội, hay các khu di tích văn hóa là nơi cần sự tôn nghiêm, trân trọng. Ấy cũng bởi vì đa số khách hành hương đều là những người chỉ đến viếng những nơi tôn nghiêm vì tò mò hoặc vì muốn khoe bộ vó sang trọng, cái vỏ bề ngoài lòe loẹt, chưng diện như một người giàu có, thế lực. Họ không đến những nơi thờ phương Thiên Chúa với một lòng tin. Họ chính là những kẻ được ngôn sứ Ê-dê-ki-en mô tả: “Bấy giờ Đức Chúa phán với tôi: Hỡi con người, hãy đi đến với nhà It-ra-en và nói với chúng những lời của Ta… Nhưng nhà It-ra-en không muốn nghe lời ngươi, bởi vì chúng không muốn nghe lời Ta: quả thật cả nhà It-ra-en đều mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá… Ngươi đừng sợ chúng, có phải giáp mặt chúng cũng đừng khiếp, bỏi vì chúng là nòi phản loạn.” (Ed 3, 4-8).
Họ là những kẻ “lòng chai dạ đá, mở miệng ra là ngạo mạn khinh đời. Rầm rập tới, kìa chúng đã bao quanh, mắt trừng trừng, như muốn quật con xuống đất, thật giống loài sư tử chực nuốt sống ăn tươi, hệt như con mãnh thú rình rập ở bụi bờ.” (Tv 17, 9-12). Quả thật họ “lòng chai dạ đá không chịu hối cải, và như vậy họ càng làm cho cơn thịnh nộ của Thiên Chúa chồng chất trên đầu, trong ngày Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ và biểu lộ phán quyết công minh.” (Rm 2, 5). Chính Đức Giê-su đã nói thẳng vào mặt họ là những kẻ “lòng chai dạ đá” (“Có mấy người Pha-ri-sêu đến gần Đức Giê-su và hỏi rằng: “Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?” Họ hỏi thế là để thử Người. Người đáp: “Thế ông Mô-sê đã truyền dạy các ông điều gì?” Họ trả lời: “Ông Mô-sê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ”. Đức Giê-su nói với họ: “Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê mới viết điều răn đó cho các ông.” – Mc 10, 2-5).
Tâm lý chung của con người là cứ “trông mặt mà bắt hình dong, con lợn có béo miếng lòng mới ngon”, truy tìm lý lịch dòng dõi “con nhà tông không giống lông cũng giống cánh” để mà … làm quen, bắt mánh, kết thân này nọ. Cái bản tính chuộng vẻ bề ngoài ở đâu thì không biết, chớ còn ở Việt Nam thì thấy rõ lắm. Hễ mở miệng ra là “miếng giữa làng hơn sàng xó bếp”, “một kẻ làm quan, cả họ được nhờ”. Cứ thấy “sang” là y như “bắt quàng làm họ”. Từ đó sinh tật cố tô vẽ cái vẻ bề ngoài cho hào nhoáng để che bớt đi cái “tẩy” bên trong (“Tốt phô ra, xấu xa đậy lại”). Chưa hết! Chẳng những chuộng vẻ bề ngoài, mà còn ‘vọng ngoại’ nữa kia! Anh em trong nhà chia sẻ, bảo ban nhau, thì chẳng ai nghe ai, chẳng ai nhường ai, và anh nào cũng muốn “ăn trên ngồi trốc, quyền lực đầy mình”; đến khi hữu sự phải nhờ người ngoài, nhờ hàng xóm phân xử, thậm chí đưa nhau ra toà, lúc bấy giờ mới bừng tỉnh thấy mình “trắng tay” (“Giấc Nam Kha khéo bất bình, bừng con mắt dậy thấy mình tay không!” – “Cung Oán Ngâm Khúc” – Nguyễn Gia Thiều).
Cũng xuất phát từ tâm lý đó nên mới nảy sinh quan niệm “Gần chùa gọi bụt bằng anh”, “Bụt chùa nhà không thiêng”. Điều này có thể nhìn thấy nơi Chúa Giê-su trong một lần về thăm Na-da-ret (CN XIV/TN-B – Mc 6, 1-6). Người đã đi rao giảng khắp nơi (từ Ga-li-lê tới Giê-ru-sa-lem, Pa-let-tin, Ca-phac-na-um và nhiều nơi khác), nơi nào đặt chân đến, Chúa Giê-su cũng được công chúng đón tiếp nồng nhiệt, trầm trồ khen ngợi vì những lời giảng dạy hết sức ấn tượng, những phép lạ hết sức thuyết phục của Người. Nhưng đến khi về quê hương bản quán thì sự tình lại đổi khác hẳn. Dân làng Na-da-rét, quê hương của Chúa Giê-su, đã có thái độ hết sức thờ ơ, lãnh đạm. Họ không thèm để ý đến cách giảng dạy khôn ngoan, thông thái của Người, mà chỉ chú ý đến dáng vẻ bề ngoài của một chàng thanh niên bình thường con bác thợ mộc Giu-se và bà nội trợ Maria chất phác hiền lành.
Họ bộc lộ bản tính “trông mặt mà bắt hình dong” bằng những lời lẽ khinh bỉ: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?” (Mc 6, 2-3). Cái tâm lý chuộng vẻ bề ngoài bước đầu hình thành một “thiên kiến”, đó là một cách nhìn lệch lạc, không đúng, thiếu khách quan. Từ thiên kiến dần dần trở thành một lăng kính cố hữu (“định kiến”) để nhận xét, đánh giá nhân vật, sự kiện. Lăng kính đó chính là một “thành kiến” bất di bất dịch, khó lòng gột rửa (Theo từ nguyên, “định kiến” hay “thành kiến” có nghĩa là: Ý nghĩ cố định về người hay vật, xuất phát từ cách nhìn sai lệch hoặc dựa trên cảm tính và thường xuyên có chiều hướng đánh giá thấp).
Một khi đã có thành kiến về một vấn đề, một sự kịên hay một nhân vật nào đó, thì khó lòng “xoay cái nhìn ra khỏi cái tôi” cho được. Nó bám chặt vào tâm trí đến gần như trở thành bản năng. Cũng chính vì cái thành kiến đè nặng trên lương tri dân làng Na-da-ret làm cho họ không tin vào những lời giảng dạy hết sức thuyết phục của một Đấng có thẩm quyền, khiến cho “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó” (Mc 6, 5). Mới thoạt nghe tới đây, chắc ai cũng nghĩ rằng với quyền năng của Thiên Chúa thì điều “không thể” cũng sẽ trở thành “có thể”, chẳng có việc gì Người không làm được. Vậy tại sao Đức Giê-su Thiên Chúa lại không làm được phép lạ tại đó? Vấn đề cũng không đến nỗi khó trả lời. Thực ra, Đức Ki-tô đã “giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền” thì Người cũng làm được phép lạ ở bất cứ nơi nào, trong bất cứ trường hợp nào. Sở dĩ Người không làm phép lạ nào tại Na-da-ret, bởi vì Người thấy rõ là “họ không tin”, mà một khi họ đã cứng lòng không tin thì dù Người có làm bao nhiêu phép lạ cũng vô ích mà thôi.
Mấu chốt vấn đề chính là ở điểm này: Người bệnh – nhất là những chứng bệnh thụôc lãnh vực tâm linh – dù có tìm được những thầy thuốc siêu đẳng, cũng không thể khỏi bệnh nếu không có lòng tin vào thầy thuốc đó. Khi người thầy thuốc đó là Thiên Chúa thì cũng vậy thôi. Không thiếu những trường hợp vì yếu (hoặc không có) lòng tin, đến khi vấp ngã thì đã muộn. Nhìn vào gương các Tông đồ tiên khởi thì đủ rõ: Các ngài tin Thầy mình là Đấng quyền năng có thể làm cho các ngài “trở thành những kẻ lưới người như lưới cá” nên mới theo Người. Theo Người và tuyên xưng Người là Đấng Mê-si-a – là Thiên Chúa thật – nhưng trong lòng vẫn bán tín bán nghi, và phải chờ đến khi được Thầy ban Thần Khi (vào ngày Lễ Ngũ Tuần) mới trở thành những người sẵn sàng chết cho đức tin của mình. Trong 12 môn đệ tiên khởi thì lại có một Giu-đa It-ca-ri-ốt vấp ngã vì không có lòng tin; chẳng những thế, khi phạm tội đã được Thầy “nhìn lại” mà vẫn không hối cải, để cuối cùng lại phạm thêm một tội tày trời: Huỷ hoại công trình tạo dựng của Thiên Chúa (treo cổ tự tử – Mt 27, 1-5).
Vấn đề đã sáng tỏ như lời dạy của Thánh Au-gus-ti-nô: “Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài”. Vì thế cho nên “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. Người lấy làm lạ vì họ không tin.” (Mc 6, 5-6). Với những người dân làng bình thường không tin vào Đức Ki-tô thì còn có thể hiểu được, nhưng đến cả những người bệnh được chữa khỏi mà cũng không tin thì quả thật… hết biết! Và vì thế mới khiến cho một vị Thiên sai là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật phải “lấy làm lạ” và cuối cùng chua chát thốt lên: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.” (Mc 6, 4). Thế đấy!
Thực ra, cũng không phải chỉ riêng dân làng Na-da-rét mới có cái nhìn sai lệch về Thiên Chúa; mà kể cả dân tộc Do Thái từ trước đó hàng mấy thế kỷ cũng nổi loạn chống lại Thiên Chúa vì cái thành kiến đè nặng trên lương tri họ (“Người phán với tôi: “Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay. Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá.” – Ed 2, 3-4). Ôi chao! Cứ tưởng đó chỉ là truyện cổ tích xảy ra cách đây hơn 20 thế kỷ, nào ngờ ở cái thời đại văn minh tiến bộ vượt bậc ngày nay vẫn còn không ít cảnh “Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá” vì cái thành kiến “made in Nazareth, made in Israel” sống nhởn nhơ trên khắp địa cầu.
Ôi! Lạy Chúa! Con biết rằng cái bản tính cố chấp hẹp hòi của loài người đã định vị trong con một cách nhìn lệch lạc, không đúng đắn, thiếu khách quan về con người, sự vật hay sự kịên. Cái thành kiến ấy khiến con nhìn một công trình bằng gỗ thì chỉ chú ý đến nước sơn choáng lộn bên ngoài, mà không cần biết đến chất lượng gỗ bên trong; con đã quên mất rằng “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Hơn thế nữa, khi nhìn anh em, con chỉ chú ý đến vẻ đẹp tô son trét phấn, áo quần loè loẹt bên ngoài, mà quên mất rằng “cái nết đánh chết cái đẹp”, quên mất rằng con người cũng chẳng khác một bông hoa “hữu xạ tự nhiên hương” (có mùi thơm thì tự nhiên có hương toả bay, còn nếu đã không có hương thơm thì cái sắc hoa bên ngoài cũng trở thành vô vị mà thôi). Cái thành kiến ấy đã khiến con gặp không ít trường hợp “tốt mã dẻ cùi” (ví kẻ chỉ có cái đẹp trau chuốt bề ngoài giống như loài chim “dẻ cùi tốt mã, dài đuôi” ), và chỉ đến lúc đó, con mới thấy sáng mắt, mới thấy “bừng con mắt dậy, thấy mình… vô duyên!”
Ôi! Lạy Chúa! Khi nhìn ra được những sai lầm, con rất muốn tẩy rửa tâm hồn cho sạch mọi vết nhơ của những thành kiến đã trở thành định kiến trong con, con rất muốn thay đổi cách nhìn, cách suy nghĩ, nhận định thiển cận của con. Nhưng, lạy Chúa ! Con lại cũng biết rằng con người của con thật mỏng giòn yếu đuối nhưng lại rất bảo thủ, khó lòng mà “xoay cái nhìn ra khỏi cái tôi” cố hữu được. Vì thế, cúi xin Chúa ban Thần Khí khơi dậy Lửa Mến trong lòng con, soi sáng và hướng dẫn con tẩy rửa con người trong Nước và Thánh Thần như Lời Chúa đã hứa năm xưa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.
(Suy niệm của Lm. Chris Collins, SJ. - Chuyển ngữ: JB. Đào Ngọc Điệp)
ĐƯỢC MỞ RA ĐỂ ĐÓN NHẬN NGÔI LỜI ĐƯỢC HÓA THÀNH XÁC PHÀM TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ
Trong truyền thống Do Thái và Kytô giáo, một trong những hình ảnh mạnh mẽ nhất được sử dụng TN 14-B160
Trong truyền thống Do Thái và Kytô giáo, một trong những hình ảnh mạnh mẽ nhất được sử dụng giúp chúng ta hiểu được mối quan hệ giữa Thiên Chúa với dân Người là Thiên Chúa ban Lời Người cho chúng ta theo cách gây hiệu quả có hệ thống. Lời Chúa thường được ví như hạt giống gieo vào đất. Dĩ nhiên chính Chúa Giê-su đã sử dụng “Dụ ngôn về người gieo giống”. Người gieo giống hăng say gieo hạt. Người ấy không dè sẻn hạt giống vì nguồn cung cấp vô hạn. Nhưng việc gieo giống phụ thuộc rất nhiều vào phẩm chất của đất, liệu hạt giống đó có thể bén rễ xuống đất được không. Trên thực tế, sự thiếu khả năng tiếp nhận lắng nghe Lời Chúa của Dân Chúa là một nét đặc trưng trong phần lớn lịch sử ơn cứu độ. Con người thiếu khả năng tiếp nhận, trái tim chai đá. Đất mà hạt giống Lời Chúa được gieo xuống thường quá khô cằn và nhiều sỏi đá, nên không gì có thể mọc lên được. Khi Thiên Chúa sai các ngôn sứ ra đi, họ nhận ra ngay những gì họ phải đương đầu. Trường hợp Ê-dê-ki-en, trong bài đọc 1 phụng vụ hôm nay, Chúa cảnh cáo kẻ Người ra lệnh hãy công bố Lời Người. “Những đứa con mặt dầy mày dạn, lòng chai dạ đá, chính Ta sai người đến với chúng… Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này'. Hoặc chúng nghe, hoặc chúng không nghe, vì đây là bọn phản loạn, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng ". Ngay cả khi đất có nhiều sỏi đá, và dường như không thể tiếp nhận hạt giống Lời Chúa, thì người gieo vẫn tiếp tục gieo hạt.
Bằng cách này hay cách khác, ý của Chúa là Lời Người phải được lắng nghe, hạt giống Lời Chúa phải đâm rễ để sinh hoa kết trái. Nhưng cách duy nhất để điều này có thể xảy ra, là nếu đất được mở ra, có một vết nứt trên bề mặt chai đá của trái tim con người, để hạt giống có thể lọt vào, được bao phủ và bắt đầu mọc lên. Thánh Phao-lô nói về thực tại này bằng ngôn từ trực tiếp hơn trong các bài đọc hôm nay. Ngài lưu ý, " sức mạnh được tỏ bày trong sự yếu đuối." Theo cái nhìn của Đức Kytô, Thiên Chúa rất khác biệt, và sự hoàn hảo của con người cũng vậy. Quyền lực và sự thành công không phải do những gì chúng ta nghĩ là sức mạnh, những gì được coi là khả năng cá nhân để tự mình đảm đương mọi việc. Khi chúng ta nhìn vào con người Chúa Giê-su, điều tưởng chừng như yếu đuối lại trở thành sức mạnh. Điều tưởng như thất bại trên thập giá lại là chiến thắng. Đó chính là sự thể hiện đầy đủ quyền năng của Thiên Chúa. Bởi vì cội nguồn sức mạnh của Thiên Chúa là tình yêu và chỉ có thế.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy có sự lẫn lộn. Trong lúc dân chúng lắng nghe Chúa Giê-su đang rao giảng với uy quyền, thì người ta đặt một câu hỏi: “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria…” Nhưng ngược lại, người rao giảng không gây được ấn tượng lại đang nói những lời đầy uy quyền cao cả và sức mạnh lớn lao. Chính vì dáng vẻ bề ngoài thiếu đạo mạo của người nói, nên nhiều kẻ đã “vấp phạm vì Người." Đồng thời, đám đông dân chúng vừa tẩy chay Chúa Giêsu lại vừa bị Người đe dọa.
Do dân chúng bối rối và lừng khừng không muốn đón nhận lời của Chúa Giê-su, nên “ Ở đó Người không làm phép lạ nào được,…” Chỉ những người thiếu thốn mới nhận được những gì Người đã ban phát. Còn những kẻ cố chấp sẽ không nhận được gì cả. Dường như đây là cốt lõi của lời mời gọi chúng ta trong phụng vụ hôm nay, đặc biệt lúc này khi chúng ta đến để lắng nghe Lời Chúa. Nếu chúng ta lắng nghe bằng đôi tai tâm hồn rộng mở, thì tâm hồn chúng ta được chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận trọn vẹn Ngôi Lời đã hóa thành xác phàm trong Bí tích Thánh Thể. Lời hy vọng của Thiên Chúa trở thành hành động yêu thương của Thiên Chúa. Chúng ta chỉ cần nhận biết niềm hy vọng của chúng ta và tình yêu chỉ có Chúa mới có thể ban cho, tiến đến với đôi tay và trái tim rộng mở để nói với Chúa trong tâm tình biết ơn sâu xa. "A-men”.
Nguồn: The Homiletic & Pastoral Review – (hprweb.com)
(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV. Sao Biển)
Sự khước từ là một thực tế của cuộc sống. Đến một lúc nào đó, mọi người đều sẽ trải nghiệm về TN 14-B161
Sự khước từ là một thực tế của cuộc sống. Đến một lúc nào đó, mọi người đều sẽ trải nghiệm về tiếng “không” ở công sở, nơi gia đình hay ngoài xã hội. Bài đọc Chúa nhật hôm nay đưa ra những thí dụ trong Kinh thánh về việc đoán trước và chấp nhận sự khước từ cũng như sự kiên trì bất chấp những trở ngại.
Êdêkien, Phaolô và Đức Giêsu đều cảm nghiệm thái độ thù nghịch, nhất là khi đưa ra những sứ điệp phê phán và khó chấp nhận đối với dân chúng. Trong bài đọc một, Thiên Chúa đã gọi tiên tri Êdêkien trong thời kỳ lưu đày ở Babylon. Ngài bảo ông hãy sẵn sàng mang sứ điệp đến với dân đã nổi loạn, và cảnh bảo với ông rằng dân chúng sẽ “mặt dày và cứng lòng.” Dù có thể bị khước từ, Êdêkien vẫn được kêu gọi để rao giảng và dạy dỗ.
Thiên Chúa đã sai Êdêkien dẫu biết rằng ông sẽ phải đối mặt với sự khước từ, và Êdêkien cũng biết con đường gian nan phía trước khi ông nói tiên tri. Trong bài đọc hai trích thư thứ hai gửi tín hữu Côrintô, Phaolô cũng nói về những thử thách mà ngài đã gặp phải, nhắc đến “một cái dằm đâm vào thịt... một thủ hạ của Satan.” Gian khổ này có thể ám chỉ đến những đối thủ hay những kẻ thù khác nhau mà Phaolô đã gặp hoặc có thể là những thử thách về thể lý hay tinh thần. Phaolô coi những gian khổ này là đáng phải chịu trong sứ vụ vì Đức Kitô. Giống như Êdêkien, Phaolô chấp nhận và nhìn nhận công việc đầy thử thách nhưng quan trọng mà ngài được kêu gọi để thực hiện. Ngày nay, khi nhiều người phải vật lộn với những gánh nặng và rào cản khác nhau, chúng ta có thể gặp thấy những mẫu gương về sự kiên trì trong các bài đọc hôm nay.
Tương tự, bài Tin mừng theo thánh Máccô thuật lại việc Đức Giêsu bị khước từ ở Nadarét. Khi Đức Giêsu giảng dạy trong hội đường, dân chúng lớn tiếng thắc mắc về năng lực và thẩm quyền của Ngài. Họ biết gia cảnh, và một số người chất vấn về sứ vụ của Ngài, cho rằng những việc Ngài làm trái ngược với việc giáo dục và bà con dòng họ của gia đình Ngài. Đáp lại những người phản đối này, Đức Giêsu đưa ra câu phương ngôn khôn ngoan là các tiên tri không được chấp nhận tại quê hương mình. Đây không phải là lần đầu tiên Đức Giêsu đối mặt với sự soi mói và chống đối khi ở quê nhà. Trước đó, trong Tin mừng, người ta nghĩ rằng Ngài mất trí (Mc 3,21). Trong bài đọc hôm nay, Đức Giêsu tỏ ra bình an khi những lời giảng dạy của mình có thể bị khước từ nhưng Ngài vẫn ngạc nhiên trước sự cứng tin của cộng đoàn.
Bài Tin mừng có một chi tiết đáng chú ý về ý nghĩa của sự cứng lòng tin của dân chúng đối với cuộc sống – họ đã không đón nhận được nhiều lợi ích như các cộng đoàn khác. Khi ở Nadarét, Đức Giêsu chỉ chữa lành cho một vài bệnh nhân. Tin mừng Mátthêu nói rõ hơn lý do của sự việc này: “Ngài không làm được nhiều phép lạ tại đó vì họ không tin” (Mt 13,58). Cả hai thánh sử đều nhấn mạnh rằng cần phải có đức tin để đón nhận ơn lành. Khẳng định này dựa trên các bài Tin mừng mà chúng ta đã nghe trong vài tuần vừa qua, trong đó nêu bật đức tin được kết nối với những phép lạ của Đức Giêsu.
Vì chắc chắn phải đối mặt với sự khước từ, hôm nay chúng ta được nhắc nhở hãy duy trì sự bền bỉ và kiên trì. Các bài đọc kêu gọi chúng ta suy xét và tập trung vào những vấn đề mà chúng ta có thể kiểm soát.
Hơn nữa, các bài đọc hôm nay có thể thôi thúc chúng ta để ý đến lời nói của người khác, ngay cả khi chúng thách thức hiện trạng cuộc sống chúng ta.
Truyện cổ Trung hoa có kể rằng: Dương Phủ lúc còn nhỏ nhà nghèo nên ra lao động để phụng TN 14-B162
Truyện cổ Trung hoa có kể rằng: Dương Phủ lúc còn nhỏ nhà nghèo nên ra lao động để phụng dưỡng cha mẹ. Một hôm ông nghe bên đất Thục có ông Võ Tề đại sư rất nổi tiếng, ông xin song thân đến tầm sư học đạo. Đi được nửa đường, ông gặp một lão tăng bảo ông rằng: - Được gặp Võ Tề đại sư chẳng bằng gặp Phật. Dương phủ hỏi: Phật ở đâu? Lão tăng nói: ngươi cứ quay trở về, gặp người nào quấn vải trên người, đi dép ngược là chính Đức Phật đó. Dương phủ nghe lời quay về, chẳng gặp ai cả. Về tới nhà, ông gọi cửa. Mẹ ông chạy vội ra, quấn vội chiếc mền vào người, đi đôi dép ngược ra mở cửa. Ông nhìn kỹ, giống như hình dáng Đức Phật mà lão tăng đã mô tả. Từ đó, ông mới hiểu ra rằng: Phật chẳng ở đâu xa mà là chính cha mẹ ở trong nhà. Đúng như cha ông ta vẫn nói: “Tu đâu cho bằng tu nhà – Thờ cha kính mẹ mới là đạo con”. Thế nhưng, thói đời thường cho rằng “Bụt nhà không thiêng". Có nghĩa là người ta xem thường những con người đang chung sống với mình và ít ai nhận ra rằng điều hay, cái đẹp mà những người thân cận đang cống hiến cho mình. Có khi còn dửng dưng, xem thường những tài năng của họ và cư xử thiếu kính trọng với họ.
Quen quá hóa nhàm đó là thái độ thường thấy nơi con người. Nói đâu xa, trong bài đọc 1 Ngôn sứ Ê-dê-ki-en kể rằng Ngài được Thiên Chúa sai đến nói cho dân Ít-ra-en biết họ đã phạm tội phản nghịch và không nghe Lời Chúa, hãy sám hối và quay về với Chúa nhưng vì định kiến quen quá hóa thường này mà dân Ít-ra-en không nghe lời Ngôn sứ. Rồi đến bài Tin Mừng, vì định kiến quen quá đã làm ngăn cản người trong làng Na-da-rét nhận ra căn tính đích thực của Chúa Giêsu. Rõ ràng, Tin Mừng mô tả Chúa Giêsu vào hội đường vào ngày sabát để giảng dạy. Phản ứng của dân làng hết sức ngạc nhiên và thán phục trước lời lẽ khôn ngoan của Ngài. Lẽ ra thái độ ngạc nhiên, thán phục đó đưa dẫn họ đến đức tin, thì ngược lại, họ trở nên thù nghịch với Người. Óc định kiến của họ đã đóng khung một Giêsu Na-da-rét theo nhãn giới của họ. Trong đầu óc của họ luôn ám ảnh bởi lí lịch của Người: Con một bác thợ âm thầm, khiêm tốn, sống 30 năm ở làng Na-da-rét không một chút hào quang. Rồi con bà Maria và các anh em, chị em của ông, tất cả vẫn đang sống rất đổi bình thường, như bao người láng giềng khác. Vì vậy, họ cho rằng gia thế của Chúa Giêsu không sáng giá gì chỉ là một con người bình thường. Cho nên, Chúa Giêsu làm sao có thể làm phép lạ, làm sao có thể giảng dạy khôn ngoan và uy quyền được? Chính định kiến đưa họ đến thái độ không tin, không thấy Ngài là một Ngôn Sứ, là Đấng Mêsia, là Ngôi Hai, Con Thiên Chúa.
Chúng ta không trách dân Ít-re-en và dân làng Na-da-rét, bởi không chắc chúng ta có thái độ khá hơn họ. Vì chưng, chúng ta vẫn còn đóng khung Đức Giêsu, Lời của Ngài nên coi thường quyền năng của Lời Chúa. Cho nên, chẳng lạ gì khi chúng ta nghe Lời Chúa nhiều, kết hiệp với Chúa Giêsu Thánh Thể hoài mà chẳng có cải thiện đời sống tí nào vì “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Chúa” (Mc 7,6). Thái độ định kiến đóng khung này, Chúa Giêsu đã lên án, bởi nó gây ra bao tai hại trong tương quan giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Định kiến bóp ngặt con tim đón nhận Thiên Chúa và hướng tới tha nhân qua việc thi hành Lời Chúa. Cho nên, Chúa Giêsu khẳng định: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa, Lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).
Vậy, chỉ khi nào xóa bỏ được định kiến quen quá hóa nhàm này, thì chúng ta mới khám phá ra sự hiệu nghiệm của Lời Chúa và sự quý giá của những người thân cận chúng ta. Nhưng để xóa được thành kiến là điều không dễ. Nói như nhà vật lý học Albert Einstein: “Đập vỡ một thành kiến còn khó hơn đập vỡ một hạt nhân nguyên tử”. Nhưng Lời Chúa trong bài đọc 2 khẳng định rằng: “Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối của con”.
Vì vậy, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy xóa bỏ óc định kiến của ta, nhất là thái độ vô ơn và bất cập của chúng ta đối với Chúa và người thân cận. Chúng ta hãy khuyến khích nhau vươn lên thay vì kèn cựa và nói hành nói xấu lẫn nhau. Hãy có cái nhìn tốt về nhau để sống vui tươi lạc quan, thay cho cái nhìn thiển cận và thiếu yêu thương chỉ dẫn đến đau buồn và thất vọng?
Xin Chúa giúp chúng con đủ khôn ngoan nhận ra giá trị lớn lao của nhau để tôn trọng và tri ân nhau. Xin Chúa ban cho chúng con có một tâm hồn rộng mở và giầu lòng quảng đại để chúng con đón nhận nhau trong yêu thương, và nhất là biết đối xử tốt với nhau trong đời thường. Lạy Chúa Giêsu, xưa kia chính định kiến mà dân làng Na-da-rét không nhận ra Chúa, ngày nay cũng vì định kiến mà chúng con thường không thấy được Chúa tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống, xin cho chúng con xóa bỏ mọi định kiến quen quá hóa nhàm nơi Chúa Giêsu Thánh Thể và quyền năng của Lời Chúa, để nhờ đó chúng con mỗi ngày nên hoàn thiện như Chúa qua việc sống triệt để Lời Ngài trong cuộc sống đồng thời siêng năng tham dự Thánh lễ và rước Mình Thánh Ngài nhờ đó chúng con giống Chúa trong cách đối nhân xử thế với mọi người trong Giáo xứ chúng con. Amen.
Các tân linh mục năm nay vì lí do dịch bệnh nên sau khi được thụ phong, về lại giáo xứ hay TN 14-B163
Các tân linh mục năm nay vì lí do dịch bệnh nên sau khi được thụ phong, về lại giáo xứ hay làng quê của mình trong âm thầm không có tổ chức lễ tạ ơn trọng thể, không đón rước linh đình và tiệc tùng như trước đây, điều này chắc chắc làm cho gia đình cũng như bản thân tân linh mục rất buồn, nhưng vì dịch bệnh nên phải hi sinh chấp nhận thôi!
Chúa Giêsu ra rao giảng Tin mừng. Chúa chọn thành Capharnaum làm nơi đầu tiên để hoạt động. Không bao lâu nhiều người biết tới danh Chúa vì lời rao giảng và những phép lạ Chúa làm. Nhưng Chúa Giêsu không quên quê hương của Ngài là thành Nazareth nơi mà Chúa đã sống tới 30 năm với biết bao nhiêu là kỉ niệm vui buồn. Nên lần này Chúa trở về quê hương. Ngày Sa-bat Chúa cũng vào hội đường tham gia cầu nguyện cùng với bà con. Do thái giáo có đền thờ ở Giêrusalem nơi người Do thái tới để dự những cuộc lễ lớn và để dâng của lễ chiên bò lên Thiên Chúa, còn các hội đường ở tại địa phương, họ tới để cầu nguyện, nghe lời Chúa trong kinh thánh, hát thánh vịnh...
Trong mỗi buổi cầu nguyện như vậy, thường vị trưởng hội đường mời một người lên đọc sách thánh và diễn giảng Lời Chúa. Chúa Giêsu được mời lên đọc sách thánh và diễn giảng. Theo Tin Mừng Luca, người ta trao cho Chúa cuốn sách ngôn sứ Isaia, Chúa mở ra và gặp đoạn chép rằng: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức và công bố năm hồng ân của Chúa" (Lc 4, 17-19)
Khi diễn giải, Chúa Giêsu cho biết lời sách tiên tri Isaia quí vị vừa nghe giờ đây được ứng nghiện nơi chính Chúa. Dân thành Nazareth đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Họ không dè ông Giêsu, người đồng hương với mình giờ đây lại giỏi giang và giảng hay đến thế! Nhưng họ lại tự hào là biết rõ nguồn gốc của Chúa, nên họ nói: "Ông này chẳng phải là bác thợ mộc con bà Maria, anh em ông và chị em ông lại không ở với chúng ta đây sao?" Thánh Marcô nói họ vấp phạm vì Người. Họ nhận thấy Chúa Giêsu giảng lời Thiên Chúa rất đặc biệt và họ cũng nghe biết Chúa thực hiện nhiều phép lạ ở Capharnaum không có xa đây nhưng họ vẫn vấp phạm vì Chúa vì họ không thể mở lòng đón nhận Chúa Giêsu là Vị Ngôn sứ chứ chưa nói là Đấng Thiên sai Cứu thế. Nếu nhận Chúa Giêsu là vị Ngôn sứ nói lời Thiên Chúa cho họ thì họ phải có lòng tin mà Chúa Giêsu lại phải ngạc nhiên và buồn vì thấy họ cứng lòng tin. Vì thế dù Chúa muốn làm phép lạ ở Nazaret để giúp ích cho bà con quê hương cũng không được vì phép lạ Chúa chỉ thực hiện được khi người ta có lòng tin, đúng như lời Tin Mừng Gioan đã nói ngay từ chương đầu khi suy niệm về mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể: "Người đã đến nhà mình nhưng người nhà lại chẳng chịu đón nhận" (Ga 1,11).
Chúng ta có thể bào chữa cho người Nazaret vì tâm lí như người Việt nam thường nói "Gần chùa gọi Bụt bằng anh" và "quen quá hóa nhàm" nhưng dầu sao đó chính là mấu chốt và là tượng trưng cho tình trạng chung dân Do thái khước từ Chúa Giêsu để sau này trong cuộc Philatô xử án Chúa, họ còn kêu lên: "Đóng đinh nó vào Thập giá!"(Mt 27, 22) Chính thánh Phaolô khi đi truyền giáo cũng rất bức súc và Ngài nói với đồng bào của mình như sau: "Anh em là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa nhưng vì anh em khước từ Lời ấy và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại" (Tđcv 13,46)
Chúng ta thấy người Nazaret nói Chúa Giêsu là con Bà Maria, qua lời này có người kết luận: Ông Giuse đã từ trần trước khi CG ra rao giảng Tin Mừng nhưng thiết tưởng chỉ với chi tiết này thì chưa đủ để nói như vậy vì cho dù thánh Giuse có qua đời thì theo thói quen thời đó, người ta vẫn gọi một người là con cha chứ không gọi là con bà mẹ. Vậy gọi Chúa Giêsu là con bà góa Maria có lẽ họ ngầm ý khinh bỉ Chúa đồng thời dù sao cũng là phản ảnh niềm tin của kitô hữu ngay từ ban đầu: Chúa Giêsu là con Đức Mẹ Maria đồng trinh, còn những anh em và chị em họ nói đó là anh em con chú bác, con cô cậu trong đó có Giacôbê sau này là giám mục tiên khởi giáo đoàn Giêrusalem và Gioxép là con bà Maria, vợ ông Cleopas, bà cùng đứng dưới chân Thánh giá Chúa Giêsu với Đức Mẹ Maria
Câu chuyện: Dương Phủ từ nhỏ nhà nghèo, phải cầy cấy để phụng dưỡng cha mẹ. Ngày kia anh nghe nói ở đất Thục có ông Võ Tề là đại sư, nên xin phép cha mẹ cho qua học. Đi nửa đường thì Dương Phủ gặp vị lão tăng nói: Gặp Võ Tề không bằng gặp Phật. Anh hỏi lại: Phật ở đâu? Lão tăng đáp: Ngươi hãy trở về và gặp người nào quấn vải trên mình và đi dép ngược đó là Phật. Dương Phủ trở về tới nhà lúc đêm tối gọi cửa, mẹ chàng vội chạy ra và quấn mền lên người, xỏ dép ngược mở cửa cho chàng. Anh nhìn mẹ đúng như Đức Phật mà vị lão tăng mô tả. Từ đó Dương Phủ nghiệm ra rằng: "Tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ mới là chân tu"
Chúng ta xưng ra lòng tin Chúa Giêsu là tiên tri, là vị ngôn sứ của Thiên Chúa xuống thế để giảng dạy lời Chúa và nói chân lý cho chúng ta, dẫn đường cho chúng ta về Nước Trời để được sự sống đời đời. Amen.
Hầu hết chúng ta đọc biết nhiều trình thuật kể lại việc Chúa Giê-su làm vô số phép lạ, nào là: cho TN 14-B164
Hầu hết chúng ta đọc biết nhiều trình thuật kể lại việc Chúa Giê-su làm vô số phép lạ, nào là: cho kẻ chết sống lại, chữa lành bệnh phong hủi và các bệnh nhân, trừ quỷ, đồng thời dạy dân chúng biết bao điều về Thiên Chúa Cha, về Nước Trời, v.v…Tuy nhiên, Tin Mừng hôm nay cho thấy: khi Ngài trở về làng Na-da-rét, gặp gỡ đồng hương, họ hàng, làng xóm thân thuộc, Ngài không làm phép lạ nào cả! Thông thường, lúc ‘vinh quy bái tổ’ hay dịp trở về quê hương, ai mà chẳng muốn làm những điều tốt đẹp, tuyệt vời cho gia đình, họ hàng, làng xóm cơ chứ! Nhưng vì sao Đức Giê-su lại không làm dấu lạ nơi quê hương Ngài, chúng ta cùng nhau tìm hiểu qua một số gợi ý suy niệm sau.
Trước hết, chúng ta có thể khẳng định rằng: Chẳng phải Đức Giê-su không muốn hoặc không thể làm phép lạ chữa lành, giải thoát bà con đồng hương của mình khỏi đau khổ bệnh tật, như Ngài đã từng thực hiện những dấu lạ phi thường cho dân chúng ngoài làng mạc quê hương của Ngài. Hơn nữa, dân làng Na-da-rét có thể cũng đã được nghe đến tiếng tăm của Đức Giê-su; nhưng thật lạ lùng, họ chỉ ngạc nhiên sửng sốt về lời giảng huấn của Ngài, và chỉ dừng lại ở đấy “… nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Ngài, nên nói rằng: "Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Ngài làm được những sự lạ thể ấy?…” (x. Mc 6, 2), đến nỗi “…họ vấp phạm vì Ngài” (x. Mc 6, 3). Thế lí do gì mà Đức Giê-su không thực hiện những sự thể phi thường nơi quê hương mình?
Đọc thật kỹ đoạn Tin Mừng theo Thánh Mác-cô hôm nay, chúng ta sẽ thấy ngay sự cứng lòng tin của người làng Na-da-rét, “Ngài ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin” (Mc 6, 6). Họ không tín thác vào quyền năng của Đức Giê-su, mà có lẽ họ đã từng được chứng kiến đâu đó những việc phi thường và lời giảng dạy khôn ngoan của Ngài, hoặc cũng nghe về tiếng tăm của Ngài như một vị tiên tri, hay Đấng Cứu Độ rồi. Tuy nhiên, vì tâm hồn họ khép kín, chỉ dừng lại ở điểm ngạc nhiên, mà chưa vươn lên tìm hiểu, ra khỏi bản năng thành kiến trong cách nghĩ suy, trong tư tưởng của bản thân, nên họ chỉ thấy con người Giê-su ‘bình dân học vụ’ như bao nhiêu người đồng trang lứa thời đó mà thôi. Soi rọi vào đời sống đạo của mỗi người chúng ta, phần lớn tương tự như thế. Chúng ta khen tặng những lời giảng hay, sửng sốt, ngạc nhiên, tán thưởng câu chuyện biến đổi cuộc sống, các ơn lành lớn lao mà Chúa ban tặng cho chúng ta qua Giáo Hội, qua cộng đoàn, v.v…, nhưng nếu chỉ dừng lại ở điểm này, thì chúng ta cũng chẳng khác gì những người dân làng Na-da-rét. Hơn nữa, nghe giảng hay, chẳng ngần ngại chúc tụng, trầm trồ khen ngợi, nhưng tiếc thay chúng ta không sống, không chịu đào sâu Lời Chúa, vốn được thông truyền qua Giáo Hội, qua Thừa tác viên có chức Thánh. Thật sự tự hào là Ki-tô hữu, là người được trao ban đức tin, nhưng nếu đức tin trong chúng ta chỉ còn là ngọn đèn leo lét, chỉ là thân cây mất nhựa sống chờ ngày gãy đổ, thì chẳng khác gì thứ niềm tin mà cố Đức Hồng Y Phan-xi-cô, tác giả cuốn sách “Đường Hy Vọng” đã nhắc nhở: “Nhiều người nói tôi có đức tin, tôi còn đức tin, có lẽ đức tin của giấy khai sinh, không phải đức tin của đời sống. Ít người sống theo đức tin. Đừng bao giờ mãn nguyện với một đức tin lý thuyết, hình thức, nhưng phải sống một đức tin chân thực, thiết ái, và trung thành”.
Bởi lẽ ‘họ cứng lòng tin’, nên chắc hẳn họ không thể nào vượt ra khỏi lối suy nghĩ, cách nhận định mang tính định kiến như họ tự hỏi: “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Ngài làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Ma-ri-a, anh em với Gia-cô-bê, Giu-se, Giu-đa và Si-mon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?” (Mc 6, 2-3). Nói cách khác, họ cho rằng họ biết rõ thân thế, gia đình và họ hàng của Đức Giê-su, vốn chỉ là những người tầm thường, bình dị gần gũi với họ như tình làng nghĩa xóm, chứ đâu có gì nổi bật hay nổi trội chi đâu. Chính lối suy nghĩ đậm đặc định kiến thế này mà khiến đôi mắt thân xác cũng như tâm hồn họ bị đóng kín, khép chặt, khiến họ không thể nhận ra những gì người khác cảm nhận và được lãnh nhận vô vàn ơn lành cao siêu từ Đức Giê-su. Với cách nhìn nhận và tiếp cận thế này của người dân làng Na-da-rét vô hình chung “đóng khung” Đức Giê-su, đồng thời tự nhốt họ trong định kiến hẹp hòi, ẩm thấp và ngột ngạt, còn đâu khoảng trống cho mình và cho người khác, còn đâu không khí thoáng mát để cảm nhận, để hít lấy hơi thở thánh ân qua con người Giê-su Ki-tô! Trong cuộc sống thực tế, chúng ta cảm nhận điều này rõ ràng hơn ai hết: định kiến giam hãm chúng ta mở lòng, đón nhận, chấp nhận người khác, và đồng thời cấm cửa tha nhân đi vào thế giới của bản thân ta. Hơn thế, trong đời sống đạo, lối suy nghĩ đậm đặc định kiến ấy sẽ khiến cõi lòng chúng ta rỉ sét, vì cánh cửa tâm hồn bị đóng chặt then cài lâu ngày rồi. Bản thân vừa không muốn bước ra khỏi đó, và tệ hơn Thiên Chúa, anh chị em chúng ta chẳng thể nào tiến vào được!!!
Tâm hồn khép kín, tư tưởng đầy ‘bùn lầy’ định kiến, quá tự tin vào những gì mình biết, dẫn tới tính tự mãn. Từ đó sinh ra thái độ xem thường “người của Thiên Chúa” (ngôn sứ) như lời bất hủ của Đức Giê-su: “không một tiên tri nào được chấp nhận nơi quê hương mình” (Lc 4, 24), và thảm hại hơn, thái độ không tôn kính “Con Thiên Chúa mặc lấy xác phàm”. Ngôn sứ là người được Thiên Chúa sai đến loan truyền cho dân sứ điệp, chương trình, ý định của Ngài, chứ không phải thực hiện nghị trình riêng của mình; thế nhưng, thân phận “người của Thiên Chúa” thật hẩm hiu như các câu chuyện của tiên tri Ê-li-ah, Ê-li-sa và các ngôn sứ khác vào thời Cựu Ước. Chúng ta nên tránh rơi vào lối mòn “gần chùa gọi Bụt bằng anh” hoặc “bụt nhà không thiêng”. Đành rành sự gần gũi xoá đi ngăn cách, khoảng cách, xua tan hàng rào vô hình, hầu trở nên thân tình, trở thành người hiểu chuyện và nên người bạn thân đúng nghĩa; chứ không dẫn tới thái độ đánh đồng, tệ hơn xem thường, không có thái độ đúng đắn với “người của Chúa”. Như thế, thái độ này có thể dẫn tới thói cao ngạo, ta đây, đặt mình trên người khác, ấy là chúng ta đang đi vào vết xe đổ của những người đồng hương Na-da-rét. Thái độ này trái ngược hẳn với cảm nghiệm nơi Thánh Phao-lô “...sức mạnh của Chúa tỏ bày trong sự yếu đuối..., vì khi tôi yếu đuối chính là lúc tôi mạnh mẽ” (2Cr 12, 9-10). Chẳng phải mạnh mẽ nhờ sự yếu đuối, yếu hèn, hay tính ương ngạnh của bản thân, mà chính là nhờ thái độ biết nhận mình yếu đuối, cần được đỡ nâng, đồng thời tin tưởng vào Chúa, Đấng thực hiện những sự phi thường trong điều tầm thường, Đấng làm nên việc vĩ đại trong những thứ vụn vặt, Đấng biến sự yếu hèn nơi con người thành sức mạnh trong Ngài.
Tóm lại, xuyên suốt câu chuyện Tin Mừng cho chúng ta thấy, người Do Thái "thích sự thật khi sự thật tán tụng họ, nhưng họ căm ghét sự thật khi sự thật lên án họ" (theo Thánh Âu-gus-ti-nô). Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta ‘đừng đi vào lối mòn’ ấy, trên hết luôn biết mở lòng, tín thác, loại bỏ mọi thành kiến hoặc định kiến, và hết tình cảm kích điều thiện lành nơi tha nhân, chứ không xem thường. Amen!
Tin mừng Mc 6: 1-6: Từ thuở tạo thành, Kinh Thánh đã chứng minh nỗi đau, sự nghiệt ngã do lòng người cao ngạo gây ra: Tổ tông loài người đã cao ngạo đến mức không thể hiểu nổi....
Từ thuở tạo thành, Kinh Thánh đã chứng minh nỗi đau, sự nghiệt ngã do lòng người cao ngạo gây TN 14-B165
Từ thuở tạo thành, Kinh Thánh đã chứng minh nỗi đau, sự nghiệt ngã do lòng người cao ngạo gây ra: Tổ tông loài người đã cao ngạo đến mức không thể hiểu nổi.
Đang được làm người hạnh phúc, tự do, và thấm đẫm tình yêu Thiên Chúa đã là một ân phúc tuyệt vời, vậy mà tổ tông đã không coi đó làm đủ, lại dám nuôi một giấc mộng tầm cỡ thiên đàng: đòi bằng Thiên Chúa, Đấng mà mình phải phát xuất từ đó. Tổ tông không ngờ giấc mộng của mình lại chính là ảo vọng và tội lỗi.
Bởi cao ngạo quá đỗi, tổ tông đã kéo theo những mất mát cũng lớn không kém: mất Thiên Chúa. Bằng chứng là tổ tông đã tìm cách trốn Thiên Chúa. Mất cả tương quan với đồng loại. Mới ngày nào Ađam còn reo to vui mừng khi được Eva làm bạn: “Đây xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”. Nhưng sau khi phạm tội, tình nghĩa thắm thiết đã không còn. Nguyên tổ bắt đầu đổ lỗi cho nhau: “Người đàn bà Chúa ban cho con đã hại con”. Và trong tội, nguyên tổ đã đánh mất chính mình, trở thành những kẻ vong thân, sống trong lầm lũi, sợ hãi và tủi nhục.
Vì yêu thương con người, Thiên Chúa đã chọn và gọi những sứ giả để nói với con người về tình thương mà Thiên Chúa dành cho con người. Sứ giả là người được chọn lựa và được sai đi để loan truyền Tin Mừng cho muôn dân, là người nói nhân danh Thiên Chúa.
Đức Kitô là vị Thiên Sai đến mạc khải cho chúng ta biết về Thiên Chúa và những ý định của Ngài, nhờ đó chúng ta được cứu độ. Trong đời sống công khai, Ngài đã bị chống đối và khinh miệt, như lời thánh Gioan đã viết: Ngài đã đến nhà Ngài, nhưng gia nhân đã không tiếp nhận Ngài.
Qua trang tin mừng này, ta thấy lòng ghen tị đã làm mù quáng những kẻ mà đáng lẽ có thể tin theo Ngài. Vậy chúng ta có thái độ nào đối với lòng ghen tị. Khi người khác được thành công, được may mắn, được kính nể, chúng ta có biết cảm tạ Chúa cho họ hay không? Còn nếu như chúng ta bị người khác ghen tị, chúng ta có biết xin Chúa giúp họ chế ngự và sửa đổi lầm lỗi ấy hay không? Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho những kẻ chống đối Ngài, thì giờ đây chúng ta hãy xin Ngài giúp đỡ chúng ta biết vượt thắng sự thèm khát và lòng ghen tị nơi bản thân chúng ta, cũng như nơi những người chung quanh chúng ta.
Đồng hương của Chúa đã sai lầm vì cao ngạo. Chính cái lý lịch xem ra rất tầm thường của Chúa mà họ đã xúc phạm nặng nề với Chúa: “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao?”. Cũng chính cái lý lịch ấy, làm cho họ, thay vì được nhiều ơn lành từ Chúa Giêsu, thì ngược lại, họ đánh mất tất cả.
Dân làng Nagiarét mang nặng thành kiến về Đức Giêsu. Dưới mắt họ, Người chỉ là một anh thợ mộc tầm thường, nghèo nàn và chẳng có gì đặc biệt. Người xuất thân trong một gia đình nghèo hèn, không danh giá. Họ biết rõ cha mẹ, họ hàng của Người. Thấy Người làm được những việc kỳ lạ. Nghe miệng Người giảng những điều khôn ngoan. Họ ngạc nhiên, nhưng không tin. Đối với họ, Đấng Cứu Thế phải là một Đấng phi thường, không ai biết rõ nguồn gốc. Hơn nữa, Đấng Cứu Thế phải oai phong lẫm liệt, đánh đông dẹp bắc rồi lên ngôi vua trị vì thiên hạ. Đàng này, Đức Giêsu thì họ biết rõ nguồn gốc. Người lại quá hiền lành khiêm nhường.
Tướng mạo không giống như hình ảnh Đấng Cứu Thế mà họ nuôi trong đầu óc. Vì thế, họ không tin. Vì họ không tin, nên Đức Giêsu không thể làm phép lạ nào ở đó. Người bỏ họ mà đi. Không bao giờ Người trở lại Nagiarét nữa. Thật là thiệt hại cho làng quê Nagiarét. Họ đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Họ đã để lỡ cơ hội đón nhận ơn cứu chuộc. Đây là cơ hội ngàn năm một thuở. Chỉ đến một lần trong đời. Rồi thôi. Ai để lỡ sẽ không bao giờ có cơ hội chuộc lại. Thiên kiến đã làm hại họ.
“Người đã không làm phép lạ nào được”. Có Thiên Chúa ở với mình, nhưng không biết đón nhận, vì thế, họ đã đánh mất cả Thiên Chúa: Không những không thể làm phép lạ, Chúa Giêsu còn bỏ ra đi. Người “qua các làng chung quanh mà giảng dạy”. Khi cố tình đẩy Chúa Giêsu ra khỏi cuộc đời mình, những người đồng hương của Chúa đã làm tổn thương mối liên hệ với Chúa Giêsu xét như một con người: tổn thương mối tương quan giữa người với người.
Mãi đến tận bây giờ, vì không nhìn nhận Chúa Kitô là Thiên Chúa, sự cao ngạo quá mức ấy, đã làm cho người Dothái, là những đồng hương của Chúa Giêsu, đã qua hai mươi thế kỷ, vẫn cứ vuột mất ơn cứu độ, vẫn là những người mỏi mòn trông chờ Đấng Cứu Thế của lời hứa. Ngày xưa, vì cao ngạo, tổ tông đã thất bại thảm hại. Bây giờ, cũng vì cao ngạo, quê hương của người Dothái, cũng chính là quê hương của Chúa Giêsu, đã tự mình tách khỏi ơn cứu độ. Đó quả là một thất bại thảm hại còn lớn gấp ngàn lần thất bại của tổ tông.
Dù bị ngược đãi khinh khi, dù phải đối diện với lòng chai dạ đá, Đức Giêsu vẫn không ngã lòng từ bỏ sứ vụ. Thánh kinh ghi nhận: lúc đám đông không tin phục thì Ngài đi đến với “một vài bệnh nhân;” khi thành này từ khước Tin Mừng thì Chúa Giêsu lại đi rao giảng cho “các làng chung quanh.” Đây phải là thái độ không thể thiếu được nơi các ngôn sứ, những người được mời gọi rao truyền Lời Chúa cho muôn dân.
Có nhiều người ở ngoài đời thì nhẹ nhàng, tao nhã, lịch sự, về nhà lại gắt gỏng, chửi chồng đánh con hay đánh vợ chửi con. Có nhiều người thì dễ dàng mở miệng khen ngợi hàng xóm láng giếng, kể cả người dưng nước lã, thế mà, người trong gia đình, lại suốt ngày cau có, phàn nàn. Có nhiều người luôn nghĩ cách làm vui lòng hàng xóm nhưng lại tàn bạo thô thiển với gia đình dòng tộc. Có nhiều người luôn tỏ ra đáng yêu trước người dưng nước lã, nhưng lại đáng ghét với người thân họ hàng.Họ chính là những người dại khờ mà cha ông ta bảo rằng: “khôn nhà dại chợ”, hay “làm phúc nơi nao để cầu cao rách nát”.
Đó cũng là thái độ của những người đồng hương với Chúa Giêsu. Họ đã vấp phạm với Chúa. Vì họ quá biết về gốc gác, gia cảnh của Chúa. Con bác thợ mộc và bà Maria đang chung sống giữa họ. Đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Chúa Giêsu. Dù rằng họ thán phục về tài ăn nói lưu loát của Chúa. Dù rằng họ thán phục vì sự hiểu biết Kinh Thánh của Chúa. Dù rằng họ đã chứng kiến biết bao phép lạ mà Chúa đã làm để cứu chữa các bệnh nhân khỏi đau khổ bệnh tật và khỏi cái chết đã định. Nhưng vì sự kiêu ngạo, cố chấp, dân Do Thái đã không chấp nhận một vì Thiên Chúa quá giản dị như Giêsu con của bác thợ mộc thành Nagiarét.
Đối với một dân tộc đã từng tự hào có Thiên Chúa ở cùng. Có cánh tay quyền năng của Chúa đã giúp họ đánh bại quân thù. Tâm trí họ chỉ trông đợi một Đấng Messia oai hùng, Đấng sẽ đến trị vì muôn nước và sẽ giúp họ làm bá chủ hoàn cầu. Chính vì lẽ đó, người đồng hương đã không nhận ra Chúa là Đấng Messia và còn có những lời nói, cử chỉ bất kính. Với thái độ cực đoan đó, Chúa Giêsu đã vạch trần tâm ý của họ với một lời thật xót xa “Không một tiên tri nào được kính trọng tại quê hương mình”.
Rất nhiều khi ta cũng mang nặng thành kiến. Thành kiến đối với anh em. Thành kiến đối với Chúa. Hôm nay, rút kinh nghiệm của những người dân làng Nagiarét, ta hãy tránh thành kiến bằng cách tìm học hỏi để biết Chúa, biết giáo lý của Chúa hơn. Nhất là có tâm hồn mở rộng và khiêm nhường để biết đón nhận Chúa, đón nhận thánh ý Chúa. Nếu ta khiêm tốn đón nhận, Chúa sẽ dạy dỗ ta những chân lý nước trời đem lại hạnh phúc cho ta.
Thành kiến làm chúng ta không thể đối thoại, cởi mở với người khác và không nhìn thấy cái hay cái tốt nơi người. Vì thế, chúng ta phải loại bỏ tất cả những gì là thành kiến về bản thân để khỏi tự ti mặc cảm; cũng như thành kiến về những người chung quanh, để có được một cái nhìn đúng đắn hơn, một nhận xét chân thành hơn, một phán đoán khách quan hơn, và một đời sống yêu thương cởi mở hơn.
Mọi người rất tự do để nhận biết, ai là người tài giỏi, khôn ngoan, ai tri thức, hoặc vô cùng chủ TN 14-B166
Mọi người rất tự do để nhận biết, ai là người tài giỏi, khôn ngoan, ai tri thức, hoặc vô cùng chủ quan khi nhận định tốt xấu, thật giả ! Tâm lý tự nhiên, ai chẳng thích thực tế, đơn giản, vắn gọn đủ điều, sợ dài dòng lý thuyết, dù mơ ước chung là làm gì để có hạnh phúc. Cuộc sống đâu phải chỉ có thích hay sợ, trải qua kinh nghiệm, cha ông chúng ta rất sòng phẳng với quan niệm: có vay có trả, có được có mất, đó là sự thật. Khao khát được hạnh phúc, ước muốn thành tài, là chính đáng, tuy nhiên, phải nỗ lực, cố gắng tập luyện, sẽ không có gì quá đáng, như chúng ta đã nghe biết: có công mài sắt có ngày nên kim. Tại hội đường Nagiaret, Đức Giêsu nói hay, làm rung động lòng người: “nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Người” ! “Sao ông này được khôn ngoan như vậy” ?
Chỉ nghe thôi chưa đủ, chỉ được khen, được vỗ tay, có gì là thú vị, dù tay bắt mặt mừng, dù được cụ thể “cái nhìn” trăm nghe không bằng một thấy ! Đám đông xưa kia đã tự thốt lên: “bởi đâu ông này được như vậy, bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy” ? Nghe cho vui tai, nghe để thoả mãn tính hiếu kỳ, liệu có ổn không, hẳn chỉ là chỉ sự trống rỗng sau vài phút giây thích thú. Ăn uống phải lịch sự, làm việc cần có phương pháp, học hỏi không bao giờ thừa đối với mọi lứa tuổi, lắng nghe chính là cơ hội để nắm bắt về mình, về cái nhìn hạn hẹp về mình. Học đi đôi với hành, nhờ học hành người ta mới cảm nhận được thời gian trôi qua là khoảnh khắc hạnh phúc vụt tắt, tình yêu cứ tan vỡ người ta mới ngộ ra mình đã từng yêu.
Không gì quý hơn độc lập tự do, không gì hạnh phúc hơn được gặp thần tượng của mình, và không gì đáng tiếc hơn khi gặp Đức Giêsu vừa tài vừa đức mà trở về cuộc sống với sự “trắng tay” ! Vâng, nghe để hiểu, để biết, mình giới hạn, cần được yêu thương, cần được lớn khôn và trưởng thành. Từ kinh nghiệm bản thân, các đấng bậc chao rằng: nói hay không bằng nghe giỏi. Nghe để hiểu, để biết rõ hơn: hạnh phúc là một thực tế đơn giản, lúc vui có người chia sẻ, lúc buồn có bạn lắng nghe, lúc khổ đau có người đồng hành. Nghe để hiểu, để biết: không ai có thể làm được tất cả, nhưng mọi người cùng nhau sẽ làm được mọi điều tốt đẹp. Nghe để hiểu, để sống tinh thần chung: muốn ăn quả ngọt, hãy gieo trồng giống tốt.
Người xưa có câu: sảy chân gượng lại còn được, sảy miệng biết nói làm sao bây giờ. Đúng, sảy chân, sảy miệng, đều có thể để lại hậu quả xấu: “ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao ? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao” ? Nghe để hiểu, sự gắn kết giữa các thành viên gia đình là nụ cười của đứa trẻ, là tình yêu thương của người mẹ và là niềm vui nơi người cha. Nghe để hiểu, để biết và tự tin hơn: sống thọ hay chết yểu không quan trọng, miễn sao ta có cuộc sống bình an, niềm vui, thế là đủ. Cơ hội để gặp, để được nghe, để được hiểu biết, người ta cần phải có khao khát sống tốt, sống chuẩn hơn: chỉ cần bạn tin, mọi thứ sẽ ổn thoả.
Tại hội đường năm xưa, đám đông dân làng Nagiaret đã gặp, đã nghe, đã thấy, họ thích thú bởi phong cách giảng dạy của Đức Giêsu, nhưng đón nhận và sống giáo huấn của Đấng là Thầy là Chúa mới quan trọng. Đâu phải tự nhiên mà các đấng lại nói: cái đẹp mà không kết hợp với cái nết, có khác gì một bông hoa chẳng hương, chẳng sắc ? Khôn ngoan, tài giỏi mà “tâm phật khẩu xà”, kết quả tốt cho mình, cho đời không thấy, hẳn còn để lại tai hoạ xấu cho anh chị em. Đồng ý rằng, sứ mạng chung của các ngôn sứ không bao giờ xuôi thuận, các ngài luôn phải đối diện với nghịch cảnh, khổ đau và cái chết ! Đức Giêsu cho thấy, tài năng, lời nói việc làm, chưa thể thuyết phục được người cứng lòng tin, rất cần đến tinh thần cầu nguyện, gọi là thời gian, là kiên nhẫn.
Có 3 con trâu đang cùng ăn cỏ trên một ngọn đồi, bỗng một chú tỏ ra buồn phiền, chỉ loáng thoáng gặp một vài ngọn cỏ, hai chú trâu bạn nhận biết tình thế, liền chân thành hỏi bạn lý do ? Lắng nghe chú trâu bạn chia sẻ: thời đại văn minh, con người làm ra máy móc để thay trâu bò, chúng ta sẽ vô dụng, ăn cho béo tốt làm chi rồi cũng sớm trở thành trâu nhúng mẻ cho bọn nhậu mà thôi. Hai chú trâu lạc quan nói: cho dù chúng ta sẽ không cày ruộc, không kéo xe, chúng ta hãy cứ vui vẻ ăn cỏ, tung tăng trên cánh đồng, rồi cuối cùng trở thành thực phẩm tốt cho chủ, có sao đâu ! Ai chẳng phải chết, đừng làm tổn hại đến danh dự họ nhà trâu. Trâu chăm chỉ, trâu mãi mãi là một thành viên của bác nông dân tốt lành. Là kitô hữu, là thành viên của Đại gia đình Hội Thánh, chúng ta có cơ hội để nghe, để hiểu, và để sống tinh thần người môn đệ Đức Kitô: nhanh nhạy trước sứ vụ và ơn gọi riêng của mình.
Nhiều người thường nghĩ rằng chúng ta chỉ có thể gặp gỡ Thiên Chúa trong những gì là vĩ đại TN 14-B167
Nhiều người thường nghĩ rằng chúng ta chỉ có thể gặp gỡ Thiên Chúa trong những gì là vĩ đại hoặc ngoại thường. Còn những gì bình thường dễ làm cho nhiều người trong chúng ta nhàm chán. Điều này có một ảnh hưởng rất lớn trên đời sống thiêng liêng của chúng ta. Nhiều lần trong ngày sống, Thiên Chúa đến với chúng ta trong những gì là bình thường nhất – trong những công việc phục vụ nhỏ bé mà không ai muốn làm hoặc trong những người mà không ai muốn chăm sóc yêu thương – nhưng chúng ta không mấy quan tâm. Điều này không chỉ xảy ra cho chúng ta bây giờ. Ngay cả trong thời của Ngôn sứ Êdêkien và trong thời của Chúa Giêsu, người Do Thái đã không nhận ra vị ngôn sứ được Chúa sai đến và không nhận ra Con Một Thiên Chúa sai đến. Trong bài đọc 1, Ngôn sứ Êdêkien được Đức Chúa sai đến với dân Israel, “dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại” Đức Chúa (Ed 2:3). Vì là dân phản loạn, nên Chúa Giêsu cũng khuyến cáo Êdêkien rằng, họ “có thể nghe hoặc không nghe” ông (Ed 2:5). Điều quan trọng ở đây là dù dân Israel có nghe hoặc không nghe, Êdêkien phải chu toàn sứ mệnh của mình, đó là sống trọn vẹn ơn gọi làm ngôn sứ của mình ở giữa “dân phản loạn.” Chi tiết này nhắc nhở chúng ta về việc làm chứng cho Chúa trong đời sống thường ngày. Nhiều khi chúng ta trở nên kiêu ngạo khi được nhiều người ngưỡng mộ; nhưng rồi, khi bị chống đối hoặc không được nghe theo, chúng ta trở nên nản chí và bỏ cuộc. Hãy sống trọn vẹn ơn gọi của mình hơn là để ý đến kết quả mà chúng ta để lại trên người khác. Điều đó là do ân sủng của Chúa!
Khi đối diện với những yếu đuối của thân xác, nhiều người trong chúng ta thường có cảm giác mặc cảm hoặc thất vọng về chính mình. Nhưng chúng ta cần ý thức rằng, những yếu đuối của thân xác giúp chúng ta khiêm nhường và ý thức hơn sự nương tựa Chúa, cần đến ân sủng của Người. Thánh Phaolô trong bài đọc 2 hôm nay quả quyết rằng: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2 Cr 12:9). Trong yếu đuối của mình, chúng ta lại làm được những điều mà tự sức chúng ta không làm được. Đây là điều làm cho chúng ta vui mừng và tự hào, vì trong những việc như thế, chúng ta nhận ra là chính Chúa đang hành động trong chúng ta chứ không phải chúng ta đang làm: “Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12:9-10). Những lời này mang lại cho chúng ta sự an ủi trong khi thất bại và yếu đuối. Bên cạnh đó, những lời này cũng nhắc nhở chúng ta về thái độ khiêm nhường cần phải có khi sống trong thân phận con người.
Thánh Máccô trong bài Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta câu chuyện Chúa Giêsu trở về quê quán mình. Mỗi khi đi xa, chúng ta thường mong ước trở về quê quán mình vì ở đó chúng ta sẽ gặp được những người thân của mình. Chúa Giêsu cũng thế. Sau một thời gian xa nhà, Ngài về thăm Mẹ Maria và những người thân. Nhưng lần này, Ngài về với các môn đệ của Ngài: “Khi ấy, Đức Giêsu trở về quê quán của Người, có các môn đệ đi theo” (Mc 6:1). Điều chúng ta lưu ý ở đây là Chúa Giêsu đã “nổi tiếng.” Đây chính là lăng kính để chúng ta hiểu phản ứng của dân chúng ở quê quán của Ngài. Nhìn trong bối cảnh chung của Tin Mừng, trình thuật Tin Mừng hôm nay kết thúc phần gồm ba hành động ngoại thường của Chúa Giêsu (làm biển lặng, trừ quỷ, chữa lành bệnh nhân). Phần kết thúc này nói về việc Chúa Giêsu bị loại trừ bởi những người thân, những người nơi quê quán mình. Chi tiết này rất quan trọng vì nó đưa những đề tài đang được thánh sử phát triển như ơn gọi người môn đệ và đức tin đến cùng đích. Nói cách khác, trình thuật này ám chỉ đến vận mệnh của những người môn đệ Chúa Giêsu, những người đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa. Họ sẽ bị loại trừ vì lối sống khác biệt, lối sống theo ân sủng chứ không theo tính xác thịt của mình.
Câu chuyện được đặt trong bối cảnh ngày sabát: “Đến ngày sabát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường” (Mc 6:2). Những lời này tiếp tục trình bày Chúa Giêsu như là thầy dạy và người chữa lành, điều đã được đề cập đến trong chương 1 (21-28). Chính những lời dạy và việc chữa lành của Chúa Giêsu trong ngày sabát là nguyên nhân những người Do Thái loại trừ và kết án Ngài. Tuy nhiên, điều chúng ta suy gẫm ở đây là thái độ của thính giả của Ngài. Khi nghe Ngài giảng “nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên” (Mc 6:2). Nhưng sau đó, họ đổi thái độ qua nghi ngờ, chất vấn, rồi vấp ngã: “Họ nói: ‘Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria và là anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simôn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?’ Và họ vấp ngã vì Người” (Mc 6:2-3). Những câu hỏi trên liên quan đến nguồn gốc của sự khôn ngoan, nguồn gốc của quyền năng làm phép lạ và cuối cùng là nguồn gốc của chính Ngài. Chính những vấn nạn về nguồn gốc này đã làm họ thay đổi thái độ với Chúa Giêsu vì họ không thể vượt qua nguồn gốc con người của Chúa Giêsu. Sự thay đổi trong thái độ này cũng đươc phản chiếu trong đời sống mỗi người chúng ta. Nhiều khi chúng ta cũng thay đổi thái độ trong tương quan với Thiên Chúa và anh chị em mình từ ngạc nhiên, vui mừng đến chối bỏ, buồn sầu vì chúng ta không có cái nhìn vượt lên “nguồn gốc con người” của mọi sự. Để sống mãi trong thái độ kinh ngạc, thán phục, yêu thương và tôn vinh, chúng ta cần nhìn mọi sự với ánh mắt của Thiên Chúa; chúng ta cần đọc mọi sự dưới lăng kính của ân sủng hơn là dưới lăng kính của bản tính tự nhiên con người. Mọi sự xảy ra trong cuộc đời chúng ta đều có mục đích mang tính thiêng liêng. Chỉ những ai hiểu được ý nghĩa của ngày sabát, đó là nghỉ ngơi trong Chúa và với Chúa, mới có thể nhận ra mục đích thiêng liêng đó.
Trước thái độ loại bỏ của những người thân, những người ở quê quán mình, Chúa Giêsu sử dụng câu ngạn ngữ sau để trả lời: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6:4). Những lời này ám chỉ thái độ “quen thuộc thường là nguồn gốc của sự xem thường.” Nhưng điều giải thích cho những lời này là hành động đi kèm theo của Chúa Giêsu: “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. Người lấy làm lạ vì họ không tin. Rồi Người đi các làng chung quanh mà giảng dạy” (Mc 6:5-6). Những lời này cho thấy, Chúa Giêsu “không thể” làm phép lạ nào, không phải là vì Ngài bị loại trừ hoặc xem thường, nhưng vì họ “không tin.” Như chúng ta biết, trong Kinh Thánh, đức tin luôn là điều kiện cần thiết cho phép lạ được thực hiện. Đức tin ở đây chính là “biết nhìn qua những gì mang tính con người để nhận ra nguồn gốc thần thiêng của mọi sự và mọi người.” Ở đây, chi tiết chúng ta lưu ý để suy gẫm là: không phải Chúa Giêsu “không thể” làm phép nào vì Ngài có đặt tay và chữa lành một vài bệnh nhân [“trong ngày sabát”]. Ngài vẫn làm việc tốt dù có bị khinh khi hoặc xem thường. Chúng ta thế nào: Khi bị anh chị em mình loại trừ hoặc xem thường, chúng ta có ngưng làm việc tốt hoặc tìm cách loại trừ và xem thường lại anh chị em mình không?
Thánh Lu-ca kể lại: khi nghe Chúa Giê-su làm phép lạ cho hồi sinh người con trai duy nhất của TN 14-B168
Thánh Lu-ca kể lại: khi nghe Chúa Giê-su làm phép lạ cho hồi sinh người con trai duy nhất của người đàn bà góa, dân chúng cảm phục và thốt lên: “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người” (Lc 7, 16). Những người Do Thái thông thạo truyền thống Cựu ước sẽ hiểu khái niệm “ngôn sứ” mà họ dùng để xưng tụng Chúa Giê-su.
Danh xưng ngôn sứ, trước đây chúng ta thường dịch là “tiên tri”, và được giải thích là “biết trước”. Thực ra, ngôn sứ là người được Chúa sai đi để chuyển tải giáo huấn và thông điệp của Ngài (ngôn là lời và sứ là được sai đi). Có thể người sai đi là một người uyên bác, những cũng có thể là một người nông dân bình thường, như trường hợp ngôn sứ A-mốt. Chính ông này đã nói: “Tôi không phải là tiên tri, cũng không phải là con của tiên tri, nhưng là đứa chăn bò (và chuyên) đi hái trái sung. Khi tôi đang đi theo đàn chiên, thì Chúa dẫn tôi đi và nói cùng tôi rằng: “Ngươi hãy đi nói tiên tri cho dân Ít-ra-en của Ta” (Am 7,14-15). Chi tiết này chứng minh: việc loan báo thông điệp của Chúa không hề lệ thuộc vào sự khôn ngoan của con người, nhưng là chính hành động của Thiên Chúa. Chính Ngài soi sáng và làm cho vị ngôn sứ trở nên mạnh mẽ can trường, nhiệt thành loan báo giáo huấn của Ngài. Qua các ngôn sứ, lịch sử Ít-ra-en chứng minh rằng: chính Thiên Chúa mới là Đấng giáo huấn và điều khiển dân tộc được tuyển lựa. Các vua hay những người lãnh đạo chỉ là những dụng cụ Ngài dùng mà thôi.
Trong khi dân chúng tung hô Đức Giê-su là Vị Ngôn Sứ vĩ đại, thì đồng hương của Người lại không nhận ra điều ấy. Phúc âm hôm nay kể lại một chuyến thăm quê hương của Chúa Giê-su. Thay vì đón nhận lời giáo huấn của Người, họ lại “tỉa tót” những chi tiết liên quan đến tuổi thơ, về gia đình và họ hàng của Người. Những người đồng hương mang nặng thành kiến về Chúa Giê-su, và họ dựa vào đó để từ chối những gì Người giảng dạy. Sự thành kiến và kiêu ngạo là những vật cản không cho họ nhận ra Người là Đấng Thiên Sai. Mặc dù ghi nhận những việc Người làm là phi thường, họ cũng chỉ coi Người là một người xuất thân từ nghề thợ mộc. Chúa Giê-su đã nhắc lại câu ngạn ngữ dân gian: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”. Câu ngạn ngữ này cũng giống như chúng ta thường nói: “Bụt chùa nhà không thiêng”. Cuộc viếng thăm quê hương của Người xem ra không có cái kết đẹp. Cũng trong trình thuật song song, thánh Lu-ca còn cho chúng ta biết thêm: sau khi Đức Giê-su trưng dẫn hai nhân vật là Ê-li-a và Ê-li-sa để ngầm trách họ, những người đồng hương đã kéo Người lên đỉnh núi với ý định xô Người xuống vực (x. Lc 4,16-30).
Xã hội thời nay cũng vẫn có nhiều người mang nặng thành kiến, như thời của Chúa Giê-su. Khi nói về giáo huấn của Phúc âm và của Giáo hội, họ thường dựa và những sự kiện tiêu cực của Giáo hội trong lịch sử để đánh giá không đúng về Đạo của chúng ta. Họ chỉ quan sát và đánh giá Giáo hội theo cái nhìn thuần tuý trần tục, thậm chí bằng sự ghen tương hiềm thù. Chính Chúa Giê-su đã thành lập Giáo hội, và Giáo hội lại bao gồm những thành viên. Trong số các thành viên, có người tốt và có người chưa tốt. Có người lợi dụng Giáo hội để làm những điều không đúng. Ánh sáng và bóng tối luôn đan xen trong từng trang của lịch sử Giáo hội cũng như lịch sử xã hội. Người tín hữu chân chính cần biết sàng lọc và phân định để đón nhận và sống như con cái của sự sáng.
Người tín hữu không chỉ đón nhận đức tin, mà còn là những người rao giảng đức tin. Bí tích Thanh tẩy trao cho chúng ta ba chức năng: ngôn sứ, tư tế và vương đế. Đức Giê-su cũng có ba chức năng này. Những ai được xức dầu trong Bí tích Thanh tẩy đều được gọi là Ki-tô, tức là người được xức dầu. Như thế, mỗi Ki-tô hữu là một ngôn sứ, tức là người được Chúa sai đi để nói Lời của Người. “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21). Đây là lời của Đức Giê-su phục sinh nói với các môn đệ. Vâng, hôm nay Chúa Giê-su vẫn sai chúng ta vào lòng cuộc đời, để trở nên muối và ánh sáng. Với nỗ lực cố gắng, chúng ta sẽ góp phần làm lan tỏa những giá trị Tin Mừng trong môi trường cuộc sống.
Chúa Giê-su là vị Ngôn sứ đang sống giữa chúng ta. Người ban cho chúng ta Thần Khí của Người, tức là Chúa Thánh Thần, như thánh Phao-lô quả quyết: “Anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em” (Bài đọc II). Nhờ Thần Khí hướng dẫn, chúng ta sẽ trở nên con người hoàn hảo, trong mối tương quan với Chúa và với anh chị em.
Ơn gọi ngôn sứ là một vinh dự lớn lao, nhưng cũng phải trải qua nhiều thử thách. Cuộc đời các ngôn sứ trong lịch sử Cứu độ đã chứng minh điều đó. Chúa Giê-su, vị Ngôn sứ vĩ đại cũng đã bị chống đối và bị giết chết. Để thực thi sứ vụ cao cả này, Ki-tô hữu cũng phải đối diện với nhiều khó khăn, nhưng Chúa luôn ở với chúng ta, và Người trấn an chúng ta như Người đã nói với thánh Phao-lô: “Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối.” (2 Cô-rin-tô 12,9).
Chúa Giêsu trở về quê quán Nadarét của Ngài, có các môn đệ đi theo. Đến ngày sabát, Ngài bắt TN 14-B169
Chúa Giêsu trở về quê quán Nadarét của Ngài, có các môn đệ đi theo. Đến ngày sabát, Ngài bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Ngài gặp phải sự hoài nghi của dân làng mặc dù họ đã nghe biết tất cả các dấu lạ Ngài đã thực hiện. Chính sự khôn ngoan và những việc làm lớn lao của Chúa Giêsu đã làm bối rối những người thân và người dân quê hương của Ngài. Thật là một việc động trời! Họ tự hỏi và hỏi nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simôn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?” (Mc 6:2-3).
1. Thành kiến ẩn chứa sự kiêu hãnh, đóng chặt tâm trí và con tim
Chắc chắn có nhiều người Nadarét đến hội đường lắng nghe người con xuất thân từ làng quê của họ. Họ biết Chúa Giêsu quá rõ, hoặc ít nhất là họ nghĩ như vậy. Thật khó hiểu, trong suốt ba mươi năm, ông Giêsu này không có gì khác một con người bình thường. Họ đã từng ăn uống với gia đình và người thân của Ngài. Họ đã từng thấy Ngài dọn bàn ghế ra mời họ ngồi. Bây giờ Ngài không còn như xưa, không còn như họ tưởng nghĩ nữa. Họ bắt đầu thắc mắc. u đó cũng là chuyện thường tình. Chúng ta có thể thông cảm với họ. Đối với những người dân làng Nadarét, Chúa Giêsu không ai khác hơn “bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simôn…Chị em của ông là bà con lối xóm với chúng ta” (Mc 6:3). Và đột nhiên, người thợ mộc trong làng rời bỏ công việc và gia đình để bắt đầu rao giảng khắp vùng.
Hai ngàn năm trước cũng như ngày nay, thật khó để thừa nhận rằng một người đã sống thầm lặng bên cạnh chúng ta trước đây, một thời gian sau quay lại dạy dỗ chúng ta. Nếu một ngày nào đó những sự việc như vậy xảy ra ở làng quê của chúng ta, có lẽ chúng ta sẽ không phản ứng khác mấy. Nhưng vấn đề là dân làng Nadarét này, dù công nhận sự khôn ngoan của Chúa Giêsu, đồng hương của họ: “Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao?” (Mc 6:2), họ vẫn bám chặt vào những suy nghĩ cố hữu, những định kiến về Ngài, vốn hằn sâu trong tâm tưởng của họ. Chính vì thế sự hiện diện và lời rao giảng của Chúa Giêsu trong hội đường đã làm cho họ xáo động, nghi hoặc. nhưng họ không vượt quá giai đoạn ngạc nhiên hoài nghi, mà nhanh chóng biến thành thái độ chối bỏ, thậm chí phản bác: “Và họ vấp ngã vì Ngài” (Mc 6:3).
Suy cho cùng, đó là chuyện tâm lý học ngày nay gọi là mặc cảm tự tôn, pha thêm yếu tố huyết tộc, trở thành vấn đề kiêu hãnh. Sự cao ngạo có liên quan gì đến việc thiếu đức tin? Nhiều lắm. Vì chính đức tin cho chúng thấy bàn tay của Thiên Chúa hoạt động khi ai đó nói sự thật. Dù ai đó là một đứa trẻ, hay một người lớn, một vị thánh hay một tội nhân, điều đó không thành vấn đề, vì chính Thiên Chúa mới là Đấng chọn nơi nào, khi nào và cách nào để dạy dỗ chúng ta. Sự tự hãnh đến độ kiêu ngạo khiến chúng ta tin rằng chúng ta không cần phải học từ bất cứ ai, rằng chúng ta có kinh nghiệm và kiến thức của riêng mình, rằng chúng ta đủ hiểu biết, đủ chín chắn, khôn ngoan để quyết định sống và hành động theo ý mình. Chúng ta dễ dàng nghĩ rằng để người khác dạy dỗ mình là hạ thấp phẩm giá của chính mình. Không ai có quyền “lên mặt” dạy bảo chúng ta.
Thật vậy, trong ánh sáng Tin Mừng, kiêu ngạo và đức tin là hai thái độ đối lập nhau. Trái lại, khiêm tốn có nghĩa là có thái độ đúng mực, biết rõ và thừa nhận những yếu kém bất toàn của mình, không cố bác bỏ bằng mọi giá, cũng như đơn sơ nhận ra những mặt mạnh của mình, với lòng chân thành, cảm tạ Thiên Chúa. Khiêm tốn là biết từ bỏ tất cả cái sai lớn nhỏ của mình, không chống lại chân lý. Khiêm tốn như thế giúp chúng ta mở rộng tâm trí và cõi lòng để sửa sai, hoán cải và biết lắng nghe, nhận ra sự thật từ lời nói của mọi người, bất kể họ là ai, nhất là biết lắng nghe và đón nhận sự khôn ngoan của Thiên Chúa, qua Lời Chúa Giêsu Kitô, như trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Êdêkiel đã nói: “Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng” (Êdêkiel 2:5).
2. Nhận ra và công nhận vị ngôn sứ đang ở giữa chúng ta
Vị ngôn sứ đang ở giữa những người Nadarét là ai? Là Chúa Giêsu. Trong Sách Thánh, ngôn sứ hay tiên tri không chỉ là người báo trước tương lai. Tiên tri là người nói rằng Thiên Chúa đang ở gần, rằng Thiên Chúa yêu thương mọi người, đặc biệt là tất cả những ai ở xa Ngài: “Nào thiếu nữ Xion, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng” (Dacaria 9:9), hoặc “Hãy tìm Chúa khi Ngài còn cho gặp, kêu cầu Ngài lúc Ngài ở kề bên. Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo, người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có mà trở về với Chúa - và Ngài sẽ xót thương, về với Thiên Chúa chúng ta, vì Ngài sẽ rộng lòng tha thứ” (Is 55:6-7). Có lẽ nhiều người trong chúng ta, giống những người Nadarét, không thực sự tin rằng, giữa loài người, có vị tiên tri này. Hoặc chúng ta vẫn tin, nhưng trong cuộc sống thực tế, chúng ta không xác tín trọn vẹn vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, trở thành một người trong chúng ta, yêu thương chúng ta đến độ hiến thân trọn vẹn, chịu khổ hình, chết trên Thập Giá, và Phục Sinh. Chúng ta không thực sự xác tín rằng tình yêu này dành cho hết mọi người, 2000 năm trôi qua, và còn mỗi ngày trong Bí tích Thánh Thể, để chúng ta “nên đồng hình đồng dạng với Con Thiên Chúa” (Rm 8:29).
Đó có phải là thực tế đức tin của chúng ta không? Điều gì đang xảy ra với đức tin mà chúng ta tuyên xưng bấy lâu nay, ngày này qua ngày khác, Chúa nhật này đến Chúa nhật khác? Có bao nhiêu người là Kitô hữu nhưng vẫn không xác tín mình là con cái Thiên Chúa?
Vì vậy, có lẽ bằng cách nhìn vào chính mình, vào những nỗi sợ hãi của chúng ta, nhìn vào tất cả những khó khăn mà chúng ta gặp phải khi sống và làm chứng cho đức tin của mình trong thế giới này, có lẽ chúng ta có thể được đánh thức bởi những lời này của Chúa Giêsu: “Người lấy làm lạ vì họ không tin” (Mc 6:6). Vâng, tất nhiên, có được đức tin không phải là việc dễ dàng. Tôi không biết phải nói gì, tôi không biết phải làm gì, tôi không biết phải nói với ai, sẽ không có ai lắng nghe tôi. Đức tin cho phép chúng ta thấy bàn tay của Chúa trong cuộc sống của chúng ta. Nhờ đức tin, Thiên Chúa sẽ xuất hiện một lần nữa. Chúa Giêsu nói với Thánh Phaolô: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2 Cr 12:9). Và Thánh Phaolô tiếp tục: “Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Chúa Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12: 9-10).
Chúa Giêsu sẵn sàng thực hiện các phép lạ, chữa lành ngay cả một số người bệnh, nếu chúng ta đồng ý bắt tay vào làm và biến đức tin của mình, vốn là một món quà được Thiên Chúa trao ban, thành đức tin sống động, một đức tin phục vụ anh chị em chúng ta, những người rất cần sự gần gũi của Thiên Chúa.
3. Đón nhận Chúa Giêsu với lòng biết ơn và mọi người với lòng khiêm nhường
Khi ai đó nói với chúng ta về một người nào đó, chúng ta thường có phản ứng muốn nói: tôi biết người ấy. Điều đó không hoàn toàn đúng. Chúng ta không bao giờ biết đầy đủ về một con người. Một phần nào đó, họ luôn là một bí ẩn nằm ngoài khả năng hiểu biết của chúng ta. Chúng ta có thể mô tả ngoại hình của người khác, xác định nghề nghiệp, hoàn cảnh xã hội và gia đình của họ, biết thói quen, phẩm chất và lỗi lầm của họ; tất cả những điều này chỉ là bề ngoài của nhân cách. Chúng ta biết tường tận cõi lòng của họ không? Không, chúng ta chỉ tưởng rằng chúng ta biết.
“Chúa ơi, con biết Chúa.” Chẳng phải chúng ta đã có lần nghĩ như vậy sao? Chúng ta đi học giáo lý, chúng ta đã nghe về Chúa, về Chúa Giêsu thành Nadarét từ khi còn nhỏ. Chúng ta đọc các sách Tin Mừng, chúng ta đi dự thánh lễ, chúng ta cầu nguyện với Chúa Giêsu…Vì vậy, chúng ta nghĩ rằng chúng ta biết Ngài. Nhưng chúng ta đã thực sự gặp Ngài chưa? Chúng ta có tìm cách hiểu Ngài nhiều hơn, kết hợp với Ngài trong lời cầu nguyện và trong việc gặp gỡ anh em không? Chúng ta có muốn trở thành người bạn thân thiết của Chúa Giêsu không? Trong cõi lòng người khác luôn có một đại dương mà chúng ta sẽ không bao giờ khám phá hết. Điều này tuyệt đối đúng với Chúa Giêsu, vì Ngài luôn là tình yêu kỳ diệu và luôn mới mẻ.
Qua phép rửa chúng ta đã trở thành anh chị em của Ngài, gia đình, họ hàng của Ngài. Chúng ta đừng khóa chặt Ngài, và cả những người chúng ta gặp gỡ, vào những ý tưởng đã có sẵn, vốn không thiếu những định kiến ít nhiều chủ quan lệch lạc và hạn hẹp của chúng ta. Chúng ta hãy giữ khả năng ngạc nhiên trước Chúa Giêsu cũng như trước mỗi anh chị em chúng ta, với cách nhìn được đổi mới bằng quyền năng của Chúa Kitô. Chúng ta đón nhận Chúa Giêsu với lòng biết ơn và mọi người với lòng khiêm nhường, như Thánh Phaolô tự nhận trong bài đọc thứ hai: “Tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Chúa Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Chúa Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12:9-10). Phêrô Phạm Văn Trung
Phụng vụ lời Chúa hôm nay giúp chúng ta khám phá những cảm xúc của ngôn sứ Ê-dê-ki-en đối với TN 14-B170
Phụng vụ lời Chúa hôm nay giúp chúng ta khám phá những cảm xúc của ngôn sứ Ê-dê-ki-en đối với dân Chúa tuyển chọn và yêu thương (x.Ed 4,2-5), đặc biệt là cảm xúc của Chúa Giê-su đối với những người đồng hương của mình khi Chúa vào hội đường rao giảng cho họ (x. Mc 6, 1-6). Trường hợp của dân thành Cô-rin-tô đối với thánh Phao-lô cũng không ngoại lệ. Nếu Chúa Giê-su “ngỡ ngàng về sự cứng lòng tin của họ” (Mc 6, 6), thì Ê-dê-ki-en hay thánh Phao-lô cũng thế (x. 2Cr 12, 7-10).
Con người vẫn tiếp tục làm Chúa ngạc nhiên. Cụ thể, vì thương xót dân Chúa mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en được Chúa sai đến với dân Chúa, những người bị Thiên Chúa coi là những kẻ phản loạn, không tuân giữ Giao Ước mà cha ông họ đã ký kết với Thiên Chúa, họ lòng chai dạ đá, mặt chẳng những cứ trơ trơ lại còn phản loạn cùng Thiên Chúa, khước từ tình thương của Ngài, khiến Ê-dê-ki-en rất ngạc nhiên.
Đến thời Chúa Giê-su chẳng phải dân xa lạ, mà chính đồng hương của Chúa cũng khước từ sứ điệp tình thương ấy. Đúng là, “Người đã đến nhà các gia nhân Người, mà các gia nhân đã không tiếp nhận Người” (Ga 1, 11).
Trong thời gian thi hành sứ vụ công khai, Chúa Giê-su đã chữa lành nhiều người khi họ có lòng tin, đang khi những người khác cứng lòng. Chúa Giê-su ngạc nhiên về thái độ của người đồng hương: thấy giáo lý và các phép lạ Người làm mà họ không mềm lòng ra. Nhưng với cái nhìn của Thiên Chúa hay của đức tin, thì điều này cũng không lạ, bởi vì cả lịch sử thánh cho thấy loài người luôn luôn cưỡng lại tình thương của Thiên Chúa. Trừ một số ít. Số ít này là những kẻ được cứu vớt. Họ sẽ làm thành đàn chiên nhỏ. Họ sẽ thừa tự Nước Trời vì họ tin rằng: có nhà tiên tri của Chúa ở giữa họ, mặc dù bề ngoài có nhiều điều cản trở niềm tin này.
Chúa Giê-su ngạc nhiên vì thành kiến của họ về lý lịch của Chúa: cha mẹ, gia đình và nghề nghiệp: “Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Ma-ri-a, anh em với Gia-cô-bê, Giu-se, Giu-đa và Si-mon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?” (Mc 6, 3). Họ không thể đi vào mầu nhiệm Thiên Chúa làm người.
Thánh Phao-lô cũng không nằm ngoài ơn gọi và cuộc đời sứ ngôn của Đức Chúa. Ông được chọn gọi và sai đến với dân ngoại, cụ thể với giáo dân Cô-rin-tô yêu quý của người. Phao-lô cũng gặp những người gièm pha đủ điều, cốt để tín hữu Cô-rin-tô đừng tin vào giáo lý cứu độ của Phao-lô nữa. Nhưng nếu bỏ niềm tin này, thì làm sao được cứu độ? Phao-lô phải can thiệp ngay. Người gửi thư không phải để chữa mình hay để lấy lại uy tín, nhưng là để thi hành sứ vụ tiên tri, rao giảng ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Ngày hôm nay có người nói rằng: Nếu chúng ta sống vào thời ngôn sứ Ê-dê-ki-en, hay thời các tông đồ, và chứng kiến Chúa Giê-su như họ, chắc chúng ta cũng giống họ. Họ biết quê hương mình có người tên là Giê-su nhưng không biết người đang nói với họ là Chúa Giê-su, Chúa Cả trời đất…… Thực tế ngày hôm nay khác với ngày xa xưa ấy, vì nhiều người hạnh phúc hơn, tin tưởng vào những điều đã đã nghe và đã thấy.
Quả thật, ở giữa những người ẫu trĩ có một người khiêm nhường; là Thiên Chúa thật đến dạy dỗ chúng dân. Người đến với những thu thuế và tội lỗi, đồng bàn ăn uống với họ (x. Mt 9,11); Vì thế, có người miệt thị nói rằng: “Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Ma-ri-a, anh em với Gia-cô-bê, Giu-se, Giu-đa và Si-mon sao?” (Mc 6,3; Ga 6,42) Nhưng Chúa Giê-su vẫn là Thiên Chúa thật và là người thật, các vua chúa trần gian phải phụng thời Người … Người hoàn toàn là con người như chúng ta: ăn, uống, ngủ, nghỉ, đổ mồ hôi và mệt mỏi như chúng ta, giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi. Người được gìn giữ khỏi hư nát và khỏi chết giữa muôn người. Giờ đây Người ngự bên hữu Đức Chúa Cha (Mc 16,19), không gì có thể tách Người với Chúa Cha.
Thật là kỳ diệu, để có thể nhận biết và tin rằng một người thế là Thiên Chúa, Đấng tạo thành trời đất và mọi sự trên trời dưới đất … Vì thế, hàng ngày chúng ta nghe Chúa Giêsu thông truyền thánh ý Chúa Cha qua các tác giả Tin Mừng, chúng ta phải vâng nghe, tuân giữ các giới răn của Người và tin vào Người.
Chúa đã đòi dân Dothái thời Ê-dê-ki-en phải tin vào Lời Chúa và vào vị tiên tri khi họ không còn quê hương, đền thờ. Người đã đòi bà con thân thuộc của Chúa Giê-su lướt thắng những cản trở bên ngoài thuộc gia thế và địa vị xã hội của nhà tiên tri thành Na-da-rét để đón nhận ơn cứu độ. Hằng ngày Chúa vẫn đòi chúng ta phải có niềm tin như vậy qua mọi thử thách trần gian. Hơn nữa Chúa lại muốn chúng ta trở nên các tiên tri của Chúa để giúp anh em đồng loại nhận ra Tin Mừng cứu độ. Chúng ta hãy sẵn lòng tin tưởng vào kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, cho dù có bao nét bề ngoài của kế hoạch đó dường như muốn làm chúng ta nản lòng.
Lạy Chúa Giê-su, con tin Chúa là Thiên Chúa thật và là người thật, là Đấng cứu độ chúng con. Amen. Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ.