Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, các tông đồ hội lại bên Chúa Giêsu và thuật lại với Người mọi việc các ông đã làm và đã giảng dạy. Người liền bảo các ông: “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút”. Vì lúc ấy dân chúng kẻ đến người đi tấp nập, đến nỗi các tông đồ không có thì giờ ăn uống. Vậy các ngài xuống thuyền, chèo tới một nơi vắng vẻ hẻo lánh. Thấy các ngài đi, nhiều người hiểu ý, và từ các thành phố, người ta đi bộ kéo đến nơi đó và tới nơi trước các ngài. Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều. - Ðó là lời Chúa.
CHÚA CHẠNH LÒNG THƯƠNG DÂN CHÚNG, VÌ HỌ NHƯ BẦY CHIÊN KHÔNG NGƯỜI CHĂN
Tin Mừng theo thánh Mác-cô, chúng ta vừa nghe họa lên chân dung Đức Giêsu nhân lành. Người TN 16-B151
Tin Mừng theo thánh Mác-cô, chúng ta vừa nghe họa lên chân dung Đức Giêsu nhân lành. Người nhạy cảm trước những nhu cầu của con người. Người biết điều gì cần nhất đối với những ai đến cùng Người.
Với các tông đồ , sau chuỗi công việc rao giảng vất vả thì điều trên hết là cần nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi để lấy lại sức, nghỉ ngơi để nhìn xem lại công việc mình làm và để tiếp tục phục vụ con người. Về điều này, Chúa Giêsu vô cùng tinh ý và nhạy bén trong khi các môn đồ chưa nhận ra, khi các ông đang hồ hởi thuật lại những thành quả mình làm, Người nói: “ Anh em hãy lánh riêng ra, đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” (MC 6,31). Người biết nhu cầu của các môn đệ ngay khi các ông chưa nhận ra nhu cầu thực của mình và người đã lo cho các ông!
Với dân chúng, “Người chạnh lòng thương vì họ như đàn chiên không người chăn dắt”(Mc 6,34). Người thấu hiểu sự bơ vơ, khát khao của dân chúng. Người biết họ cần gì vào bây giờ, ngay lúc này, ngay khi dân chúng đến với Người và “Người đã bắt đầu dạy họ nhiều điều” (MC 6,34b). Đó là nhu cầu cấp thiết bây giờ cũng như khi về chiều, Người mời gọi các môn đệ cộng tác với mình về việc cho dân chúng ăn uống, như trong biến cố phép lạ hóa bánh ra nhiều.
Đó là chân dung Đức Giêsu yêu thương, luôn làm những gì tốt nhất cho con người, cho tất cả những ai đến với Người. Và đó chính là chân dung vị mục tử. Vị mục tử này được thánh Gioan họa lại một cách hết sức sinh động và đầy đủ khi chính Chúa Giêsu nói: “ Tôi chính là mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống vì đoàn chiên” ( Ga 10,11). Và vị “mục tử đến cho chiên được sống và sống dồi dào”( Ga 10,10).
Ngày nay, Chúa không còn hiện diện cách hữu hình nữa, nhưng vẫn còn đó những cộng tác viên của Người trong tác vụ mục tử. Đó có thể là linh mục, là cha mẹ, là thầy cô giáo, là nhà hoạt động xã hôi,… tất cả đều họa lại chân dung mục tử Giêsu nhân lành, khi chăm lo nhu cầu của con người, những người được trao phó cho mình.
Nhờ những con người đó, Thiên Chúa tiếp tục thi ân giáng phúc mỗi ngày qua chính họ. Nhờ vậy, Ngài vẫn có thể rao giảng chân lý, nói những lời an ủi mọi người qua miệng các mục tử ấy. Ngài vẫn có thể lắng nghe mọi người bằng đôi tai của các mục tử. Ngài vẫn yêu thương bằng con tim của họ. Ngài vẫn phục vụ bằng đôi tay họ. Ngài vẫn đến với mọi người bằng đôi chân của họ. Ngài làm tất cả những điều tốt đẹp cho mọi người bằng bản thân của họ. Các mục tử chính là hiện thân của Ngài giữa lòng thế giới đầy đau khổ này.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã lăn xả xuống trần gian, đi tìm đàn chiên tản lạc và soi sáng dạy dỗ họ bằng lời hằng sống, cứu chữa hồn xác họ được lành mạnh. Họ được no thỏa nằm nghỉ ngơi trong đồng cỏ tình yêu xanh tươi êm ái của Người. Còn bao nhiêu tâm hồn bơ vơ lạc lõng trên thế giới này, xin Chúa cho họ được thấy và biết Người, biết đường của Người mà chạy đến gặp gỡ Người để được sống và sống dồi dào. Amen.
Các môn đệ Chúa Giêsu, sau chuyến đi rao giảng, trở về trong hân hoan, báo cáo lại cho Ngài những TN 16-B152
Các môn đệ Chúa Giêsu, sau chuyến đi rao giảng, trở về trong hân hoan, báo cáo lại cho Ngài những công việc đã làm, và những kết quả thu được.
Chúng ta có thể tưởng tượng quang cảnh câu chuyện hàn huyên giữa các môn đệ với Chúa Giêsu. Các ông vui mừng vì những kết quả thu được, những người quỷ ám được khỏi, những người bệnh được chữa lành…
Nhưng Chúa Giêsu đã nhìn thấy những dấu hiệu mệt mỏi hằn lên những khuôn mặt hao gầy của các môn đệ. Ngài bảo họ: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút”.
Ngài cho họ cảm nghiệm nỗi nhọc nhằn của công việc rao giảng suốt bao nhiêu ngày. Ngài biết rõ nhu cầu của họ là phải được nghỉ ngơi, và thánh Máccô ghi nhận: dân chúng vây quanh các Ngài đến nỗi không có giờ dùng bữa. Chúa Giêsu mãi là miếng mồi ngon cho dân chúng. Ngài hoàn toàn thuộc về họ và sẵn sàng lo cho họ, kể cả vấn đề vật chất. Ngài là một vị lãnh đạo hoàn hảo và sau này, chính Ngài tuyên bố:
“Ta là Mục Tử nhân lành…” Ngài tỏ lộ cho chúng ta tình yêu của Cha trên trời như tiên tri Hôsê đã viết: “Hỡi Ep-ra-im, Ta trao nộp ngươi sao đành!... trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi…”
“Ta đã tập đi cho Ep-ra-im, đã đỡ cánh tay nó… Ta xử với nó như người nựng trẻ thơ, nâng lên áp vào má, Ta cúi xuống gần nó, đút cho nó ăn”…
Tình thương ngọt ngào đó, chúng ta thấy thể hiện nơi con người Chúa Giêsu.
Thiên Chúa, qua lời tiên tri Giêrêmia mà chúng ta vừa nghe, đã lên án gắt gao những mục tử của dân Chúa, vì họ đã làm tản mát đoàn chiên của Ngài và chính Ngài sẽ đến quy tụ đàn chiên và đưa chúng đến đồng cỏ của chúng.
Chúa Giêsu vừa đến nơi thanh vắng Ngài muốn tới, thì đám đông dân chúng đã đến đó trước. Họ phải đi bộ một khoảng rất xa. Chúa Giêsu nhìn thấy đoàn dân tìm kiếm Ngài, thánh Maccô nói: “Ngài chạnh lòng thương vì họ như một bầy chiên không có chủ chăn, bơ vơ vất vưởng…” Ngài không còn nghĩ đến việc nghỉ ngơi gì nữa và Ngài lại “giảng dạy họ nhiều điều…”
Chúng ta có khao khát Ngài như đám dân xưa kia không? Chúng ta có say mê lời Ngài như họ không? Hình như Lời Chúa không còn sức hấp dẫn như xưa kia. Chúng ta đã quá nhàm chán những lời ban sự sống đời đời, như dân Do Thái xưa trong sa mạc đã nhàm chán manna, là thức ăn mà Chúa ban cho họ hằng ngày, họ thèm thịt, củ hành củ tỏi Ai Cập hơn. Chúng ta cũng thế, chúng ta chỉ thích những trận bóng đá hay những tuồng cải lương hơn những lời Kinh Thánh. Điều đó không có gì lạ. Con người tự nhiên của chúng ta chỉ thích những gì hợp với sở thích tự nhiên của chúng ta hơn. Điều đáng chú ý là chúng ta không chỉ cần bao nhiêu đó. Con người chúng ta không chỉ bằng lòng với những gì có thể thỏa mãn xác thịt chúng ta mà thôi. Con người cần một cái gì cao quý hơn. Nhưng cái gì cao quý hơn? Phải chăng là Lời Chúa?
Hãy cầu xin cho chúng ta ham mê Lời Chúa, yêu thích thánh ý Chúa hơn tất cả những gì vật chất, chúng ta mới có thể đạt tới miền đất thanh trong của Tình Yêu Chúa. Nói như thế, chúng ta có thể cho là quá “siêu”, nhưng kỳ thực, chính Lời Chúa mới là sự sống thật và là niềm hạnh phúc tuyệt diệu mà chúng ta khao khát.
Chúng ta mãi mãi là những con người nghèo khó. Dù chúng ta có dư thừa tiền bạc, của cải, chúng ta vẫn mang trong tâm hồn ước mong được hạnh phúc mà chúng ta vẫn không tìm thấy nơi nào khác ngoài Chúa. Thánh Âu Tinh đã nói rất chính xác: “Lạy Chúa, Chúa đã tạo nên chúng con cho Chúa và tâm hồn chúng con luôn khắc khoải cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa”.
Hãy cầu xin cho chúng ta mang trong tâm hồn niềm khao khát khôn nguôi là tìm được Chúa, như dân làng miền Tibêria, để Chúa thương đoái đến chúng ta và “giảng dạy chúng ta nhiều điều”. “Chỉ có Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”. Phúc cho chúng ta khi chúng ta không thể bằng lòng với những gì trần gian mang lại cho chúng ta! “Lạy Cha, Con xin tạ ơn Cha vì Cha đã không ban cho những người khôn ngoan biết những điều ấy, mà chỉ mạc khải cho những kẻ bé mọn…”
Hãy trở thành những con người bé mọn để được yêu thương hơn, để được biết những mầu nhiệm Nước Trời, là kho tàng không mối mọt đục khoét. Trần gian, với tất cả những công trình đồ sộ của nó chỉ là bọt bèo. Thời gian sẽ bôi xóa những gì con người tạo nên như sóng biển bôi xóa những lâu đài xây trên cát. Con người chúng ta mong manh một cách đáng sợ. Chúng ta cậy nhờ vào cái gì để tồn tại? Chỉ có Chúa thôi. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì đã cho chúng ta biết và tin Chúa: “Ai theo Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống”. Những lời hứa đó vững chắc hơn bất cứ những gì trên trần gian này.
Chúng ta có một vị lãnh đạo toàn năng chứ không như những người trần gian, có đó rồi biến tan, nằm xuống xuôi tay, đầu hàng thời gian. Thiên Chúa của chúng ta là Chủ Tể thời gian, là Vị Mục Tử nhân lành, dám hiến mạng sống vì đàn chiên. Ngài chăn nuôi chúng ta, dẫn chúng ta vào đồng cỏ xanh tươi… “Ngài là sự sống và là sự sống lại. Ai tin vào Ngài sẽ không chết…”
“Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta sẽ được sống đời đời”. Ngài thực hiện lời hứa đó nơi bàn thánh này, nơi Ngài dám cho chúng ta tất cả bản thân Ngài, cho chúng ta tất cả kho tàng sự sống của Ngài. Hãy để cho Ngài thấm vào da thịt chúng ta để chúng ta được đổi mới trong Ngài.
Truyện cổ tích Việt Nam có câu chuyện "Hồn Trương Ba da hàng thịt" kể rằng: Anh Trương Ba TN 16-B153
Truyện cổ tích Việt Nam có câu chuyện "Hồn Trương Ba da hàng thịt" kể rằng: Anh Trương Ba là 1 người đánh cờ tướng rất giỏi nổi tiếng, lao động cần cù, có vợ không có con nhưng vẫn hạnh phúc. Còn gia đình anh Hàng thịt thì giàu có, có con nhưng không hạnh phúc vì mãi lo làm ăn, tranh dành hơn thua với người đời và thậm chí thường xuyên đánh vợ con. Có người tên là Như Kỵ ở bên nước Tàu nghe tiếng Trương Ba đánh cờ xuất chúng, bèn sang nước Nam, đến nhà Trương Ba tranh kỳ hùng địch thủ. Trương Ba dồn Như Kỵ vào thế bí, Như kỵ vò đầu bức tóc suy nghĩ. Trong lúc đó Anh Trương Ba nói: "Nước cờ này dù có Đế Thích xuống đây cũng không gỡ nổi (Đế thích là thần cờ trên thiên đình). Đế Thích nghe thấy liền giáng trần để chơi cùng với Trương Ba và tặng 1 nén nhang để khi nào muốn chơi cờ với ông thì cứ đốt nhang thì ông xuống. Thình lình, Trương Ba chết thì vợ của Trương Ba rất buồn và thắp nhang cho ông. Đế Thích giáng trần thì thấy Trương Ba đã chết 1 tháng. Vì thương bạn mình mất sớm nên ông hứa với vợ Trương Ba sẽ làm cho ông sống lại. Hôm đó có ông Hàng Thịt chết. Đế Thích cho hồn Trương Ba nhập vào xác ông Hàng Thịt sống lại. Khổ thay, khi sống lại thì vợ Trương Ba cho là chồng bà, và Vợ ông Hàng thịt cũng cho đó là chồng bà. Hai bên cải vả nhau đánh đập um củ tỏi, rồi kiện ra Quan. Quan hỏi cách làm heo bán thịt thế nào? Anh ta nói không biết, hỏi đến cách đánh cờ tướng, anh ta trả lời rất thạo. Quan cho anh về ở với vợ mình là Trương Ba. Còn người vợ anh bán thịt đành phải chịu mất chồng cả hồn lẫn xác.
Hồn luôn đi với xác, hồn nào xác nấy, ai ai cũng muốn hồn an xác mạnh. Cho nên, nhịp sống của con người là nhịp động và tĩnh. Động là lao động, hoạt động, tĩnh là nghỉ ngơi, cầu nguyện. Hai nhịp này chi phối đời sống vật chất cũng những tinh thần của người Kitô hữu chúng ta. Bài Tin Mừng Chúa nhật tuần trước, ta thấy Đức Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, hoạt động cứu độ con người. Hôm nay, khi các ông về tường trình lại những việc đã làm. Người bảo các ông tìm chỗ vắng vẻ mà nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi để xác mạnh hồn an nhàn và lắng động nhờ nghỉ ngơi với Chúa, bên Chúa và trong Chúa. Vì vậy, Thánh vịnh đáp ca chúng ta vừa ca lên rằng: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm” (Tv 23,4).
Con người gồm có hai phần: phần hồn và phần xác. Đã là người đòi hỏi chúng ta phải thăng tiến thân xác này, gia đình và xã hội, ta phải học hành, lao động hết sức vất vả, phải tìm kiếm miếng cơm manh áo, đó là nhiệm vụ bắt buộc vì “lao động là vinh quang lang thang là chết đói”. Tuy nhiên, sẽ là thất bại lớn nếu con người chỉ dừng lại đời sống thể xác mà quên phần hồn, tức tâm linh. Rõ ràng, Anh Hàng thịt kia chỉ biết tối ngày lao động, kiếm tiền giàu có thật nhưng bất hạnh phúc, mất cái tâm: đánh vợ đánh con, mất tha nhân, cuối cùng mất hồn mất xác. Cuộc sống hưởng thụ hôm nay đang lôi cuốn con người lao vào việc làm giàu đến nỗi quên ngày, quên đêm, làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm; làm ngày thường chưa đủ làm luôn ngày nghỉ (Chúa nhật); làm luôn giờ đọc kinh, thậm chí cắt bớt giờ lễ, thậm chí bỏ luôn. Thử hỏi lao động như thế được gì, mất gì? Chắc chắn được tiền nhưng mất Chúa, mất bà con, bạn bè, và tha nhân. Cụ thể, chúng ta thấy ngày xưa tổ chức họp hội hay đám cưới, đám giỗ, chạp mả trúng ngày nào làm ngày đó lúc nào cũng đông đủ. Bây giờ phải chọn ngày Chúa nhật nếu làm ngày thường không ai đi dù biết làm như vậy thì mất lòng mất tình nghĩa, nhưng cũng coi như pha.
Thân xác cần có lương thực để sống, thì tâm hồn cần phải được nuôi dưỡng bồi bổ bởi Thánh Thể và Lời Chúa nhờ nghỉ ngơi trong Chúa bằng thăm viếng tha nhân hay tham dự kinh nguyện thánh lễ. Vì vậy, thấy các tông đồ đã làm việc vất vả, Chúa Giêsu bảo các ông hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút. Nghỉ ngơi vừa lấy lại sức lực vừa làm cho tâm hồn an bình sống tình thầy trò, tình bạn hữu nhờ Chúa và Lời Ngài là nguồn an ủi, sức mạnh và bình an cho chúng ta. Vì vậy, trong bài đọc 2, Thánh Phaolô quả quyết: “Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Ki-tô Giê-su, nhờ máu Đức Ki-tô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần. chính Người là bình an của chúng ta”.
Chúng ta hôm nay dù phải bon chen, đầu tắt mặt tối lo cơm áo gạo tiền, dù phải ngược xuôi vất vả trong sinh hoạt hằng ngày, chúng ta cũng phải biết dành thời giờ để nghỉ ngơi, để hồi tâm và cầu nguyện với Chúa. Vì có nghỉ ngơi có lấy lại sức, có hồi tâm và cầu nguyện thì mới ơn Chúa, có sức mạnh của Lời Chúa soi sáng tâm hồn đồng thời Ngài tiếp tục giúp ta thi thố tài sức cho chính mình và cho tha nhân đặc biệt, Chúa sẽ giúp ta nên thánh thiện hơn.
Ước gì Lời Chúa hôm nay, xin Chúa dạy chúng ta biết giữ quân bình giữa hai nhịp của đời sống: lao động và cầu nguyện. Lao động khỏe và có kết quả tốt và chân thiện là nhờ những giờ nghỉ ngơi và cầu nguyện. Nhờ có những giờ nghỉ ngơi bên Chúa qua kinh cầu nguyện hay Thánh lễ ngõ hầu Chúa giúp sức, soi sáng và dẫn chúng ta sống quân bình và phát triển con người ta toàn diện: HỒN AN XÁC MẠNH. Amen.
Tôi đã từng đọc Lời kinh đẹp nhất thiên niên kỷ. Đó là cuốn sách nhỏ, ghi lại 50 lời cầu nguyện của TN 16-B154
Tôi đã từng đọc Lời kinh đẹp nhất thiên niên kỷ. Đó là cuốn sách nhỏ, ghi lại 50 lời cầu nguyện của nhiều người. Mỗi lời nguyện đều chất chứa nỗi lòng, tình yêu, sự tha thiết của những con người thích chìm trong cầu nguyện.
Chẳng hạn, lời cầu nguyện số 4 gây trong tôi nhiều cảm động và ấn tượng. Đó là lời cầu nguyện bộc lộ lòng yêu mến Chúa lớn lao, lòng yêu mến chất chứa đầy nghị lực. Tác giả của lời cầu nguyện ấy là bà Vérônique, một phụ nữ Pháp sống ở Cameroun. Tính đến năm 1979, bà đã 58 tuổi, nhưng phải sống và làm bạn với căn bệnh cùi đến 55 năm, và 20 năm đui mù. Lời cầu nguyện của bà như sau:
“Lạy Chúa, Chúa đã đến và đã xin con tất cả. Và con, con cũng đã hiến dâng cho Chúa tất cả. Xưa kia con ưa thích đọc sách, và Chúa đã muốn mượn đôi mắt của con. Ngày trước con thích chạy nhảy trong những khu rừng thưa, và Chúa đã muốn mượn đôi chân của con. Mỗi độ xuân về, con tung tăng hái lượm những cánh hoa tươi, và Chúa lại xin con đôi tay. Bởi con là một phụ nữ, con ưa ngắm nhìn suối tóc óng ả của con, ưa ngắm nhìn những ngón tay thon nuột xinh xắn của con, thế mà giờ đây, đầu con hầu như chẳng còn sợi tóc nào, cũng chẳng còn đâu những ngón tay hồng xinh xinh nữa, chỉ còn lại một vài que củi khô queo nham nhúa. Chúa ơi, Chúa hãy nhìn xem: cái thân thể diễm kiều của con đã bị hủy hoại đến độ nào. Thế nhưng, con không hề muốn nổi loạn, con lại muốn dâng lên Chúa lời tạ ơn… Ôi lạy Cha, Tình Yêu của con, con xin dâng Cha căn bệnh phong cùi thân xác của con, để cho những người thân yêu kia đừng bao giờ biết đến nữa, cái đắng cay, cái lạnh lẽo kinh hồn của căn bệnh cùi tâm hồn…”
Và còn nữa…, còn nữa những lời tâm sự với Thiên Chúa của một con người bị coi là bất hạnh tột cùng, bị coi là tàn tạ không còn gì để đáng sống. Ấy vậy mà từ trong nội tâm của bà Vérônique, lại tỏ lộ một sức mạnh lớn lao của sự sống, một tình yêu và lòng tín thác dũng mãnh, mà không phải bất cứ một người bình thường nào cũng có thể có được, đừng nói chi đến một người tàn tật như bà. Bà Vérônique đã cầu nguyện, một lời cầu nguyện cho thấy một lòng mến Chúa mạnh đến nỗi không một bất hạnh nào có thể làm lung lay.
Hôm nay, đọc lại đoạn Tin Mừng Chúa nhật 16 thường niên này, tôi cảm thấy cần phả tự nhủ với chính mình rằng: Hãy tin Chúa giống như bà Vérônique, và cũng hãy yêu Chúa như bà.
Bài Tin Mừng này tiếp nối bài Tin Mừng tuần trước. Tuần trước, thánh Marcô cho biết Chúa sai các tông đồ ra đi giảng đạo cho dân chúng. Tuần này, thánh Marcô cho biết các tông đồ trở về phúc trình lại những gì mình đã làm. Thánh Marcô viết: “Khi ấy, các tông đồ hội lại bên Chúa Giêsu và thuật lại với Người mọi việc các ông đã làm và đã giảng dạy”. Nếu các tông đồ tụ về bên Chúa báo cáo lại cả một cuộc hành trình truyền giáo mà các ngài đã thực hiện, thì chúng ta cũng thế. Tất cả mọi người không trừ ai, không chỉ là hành trình truyền giáo của từng người mà thôi, tất cả đều có lúc phải ra trước tòa Chúa để báo cáo về chính cuộc đời của mình.
Nếu trong hành trình truyền giáo của mình, các tông đồ đã làm được nhiều việc, đã giảng dạy nhiều điều, cuộc đời của mỗi người cũng là một hành trình dài. Không biết khi đến tòa phán xét, chúng ta sẽ mang gì để phúc trình? Có phải đã làm được nhiều điều như các tông đồ hay không? Điều ta phúc trình có phải là lòng yêu mến Chúa, hay lúc đó phơi bày cả một lối sống trong đời toàn là nhữ bê tha, vô trách nhiệm? Không! Bạn và tôi đừng như thế. Ta là người Công giáo, đời sống của ta phải là một cuộc đời được ấp ủ trong tình yêu và trao ban tình yêu.
Bà Vérônique suốt đời không làm được chuyện gì hết, làm sao bà làm được cái gì khi mà những ngón tay co quắp như que củi, đôi chân cũng không còn, đôi mắt cũng chẳng nhìn thấy, cái đầu cũng nhẵn nhụi, không có lấy một sợi tóc. Đúng, bà không làm được cái gì hết, trừ một điều rất quý giá, không có bất cứ cái gì đánh đổi được: đó chính là TÌNH YÊU! Chính vì trao hết tình cho Chúa, yêu hết mình với Chúa, bà đã có thật nhiều điều để kể cho Chúa nghe. Chính vì yêu mến Chúa, bà lấy làm hạnh phúc khi chấp nhận tất cả nỗi bất hạnh lớn lao trên thân xác mình.
Cũng thế, bạn và tôi hãy yêu mến Chúa để cảm nhận hạnh phúc trong cuộc đời. Có yêu, ta mới đủ can đảm, đủ nghị lực chấp nhận mọi nghịch cảnh. Mỗi một ngày sống, nhờ lòng yêu mến Chúa, ta sẽ nhận ra đó chính là một chuỗi ơn lành Thiên Chúa tặng ban. Chính vì tình yêu, ta sẽ dâng lên Chúa nỗi lo âu, vất vả, mồ hôi và nước mắt. Tình yêu mến Chúa sẽ dạy ta biết phó thác khi thương đau và biết cảm tạ khi hạnh phúc. Chỉ có tình yêu, ta mới thấy Chúa thuộc về ta và ta thuộc về Chúa. Chỉ có tình yêu mời giúp ta có thật nhiều cái hay, cái tốt để phúc trình cho Chúa nghe.
Sau khi được sai đi, và ra đi, các tông đồ trở về thuật lại cho Chúa nghe về những thành quả và TN 16-B155
Sau khi được sai đi, và ra đi, các tông đồ trở về thuật lại cho Chúa nghe về những thành quả và niềm vui đạt được. Các ông tưởng là Chúa Giêsu sẽ một câu khích lệ cho khoái chí, thì Ngài lại bảo: "Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút".
“Nghỉ ngơi một chút”. Thiết tưởng đây là cách khích lệ đầy ưu ái của Chúa Giêsu dành cho các tông đồ. Ngài mời gọi các tông đồ hãy tìm một trạng thái “tĩnh” sau một thời gian “động”. Tình trạng “tĩnh” ấy là
- Thoát ra khỏi cái ồn ào của thành công
- Không bị cuốn vào sức hút của thành công - Không nối dài kế hoạch nào nữa, mà là buông bỏ tất cả để nghỉ ngơi
Trạng thái tĩnh này có thể gọi được là một sự nghỉ ngơi an bình trong Chúa, nơi ấy, không còn chút bận tâm, ưu phiền và không còn cả niềm hãnh diện thường tình của những người thành đạt. Đôi khi chúng ta lầm tưởng rằng nỗi buồn của thất bại làm chúng ta mất bình an và niềm vui của sự thành công mang lại cho chúng ta hạnh phúc. Nhưng thật ra, cả hai, niềm vui và nỗi buồn theo tính loài người ấy đều phản ảnh một trạng thái tự ti hay tự mãn do cái tôi của lòng kiêu ngạo.
Việc cần làm ngay
Tôi không dám nghĩ là may mắn nhưng “tạ ơn Chúa cho còn sống” sau lần nhồi máu cơ tim tháng 9 năm 2010. Những ngày nằm ở bệnh viện, có một bác sĩ khuyên tôi: “Có một việc cần làm ngay là không làm gì cả”. Tôi mới hiểu ra: “không làm gì cả” cũng là một việc cần thiết và cấp bách trong đời hiểu theo nghĩa: “nghỉ ngơi một chút”
Nếu về mặt thể lý, trạng thái tĩnh giúp phục hồi sức khỏe, thì về mặt thiêng liêng, việc nghỉ ngơi một chút, để lòng không xao động bởi buồn hay vui, thất bại hay thành công, vừa nói lên niềm tín thác cậy trông, vừa là niềm bình an trong Chúa và đem lại cho chúng ta nguồn sinh lực dồi dào hơn.
Quả vậy, là người yêu mến Chúa và thi hành việc của Chúa, cần có những phút tĩnh hay “phút lắng cách tự nguyện trong cuộc đời, dẫu đau thương đã đầy hay niềm vui bỗng vơi. Vẫn cứ lắng vì rất rất cần phải lắng. Lắng chỉ để nghe mà không nói một lời.
Cần có những phút vắng tự nguyện trong cuộc đời, dẫu niềm thương nỗi nhớ cứ khôn nguôi. Vẫn cứ vắng vì rất cần phải vắng. Vắng để ngộ ra bên ta có một người.
Cũng cần có những phút trắng tự nguyện trong cuộc đời, dẫu vạn sắc màu vàng xanh đỏ tím đương lên ngôi. Vẫn cứ trắng vì rất cần phải trắng. Trắng để thương thân một kiếp đời.
Hẳn là trong cuộc đời, sẽ có hồi không tự nguyện lắng cũng phải lắng, không tự nguyện trống vắng cũng phải đành rất vắng, không tự nguyện trắng tay cũng đành còn tay trắng. Vậy nếu ngay hôm nay, tôi không tự nguyện tập trầm mình tĩnh tại trầm lắng trong khiêm hạ, không tự nguyện cô đơn một mình đối diện với Chúa trong phút tương giao huyền nhiệm, không buông bỏ tất cả trong thoáng tan biến cả ý thức lẫn tấm thân mình thì sẽ khó lòng mà chấp nhận chuyện gì sẽ xảy đến trong đời.
Một linh mục về hưu, một bà phước xế bóng, một giáo dân liệt lào hẳn đã cảm nghiệm được phút lắng, vắng, trắng không ước ao vẫn xảy đến. Nhưng nếu đã được chuẩn bị bằng cách “nghỉ ngơi một chút” trong Chúa từng ngày, từng phút trong đời, thì phút về hưu hay xế bóng, phút bệnh hoạn hay lâm chung vẫn là phút tuyệt vời trong cuộc tình huyền nhiệm giữa Thiên Chúa và con người. Gần nhất, cuộc sống của những người bị giam cầm, cụ thể Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn văn Thuận, cho thấy việc nghỉ ngơi một chút bằng cách tự nguyện lắng, vắng, trắng trong Chúa hằng ngày là cần thiết đến mức nào để chấp nhận được Chúa huấn luyện khi Chúa muốn.
“Nghỉ ngơi một chút” hẳn đã là kim chỉ nam cho nhiều vị thánh sống kết hiệp với Chúa, múc lấy nguồn sinh lực của Chúa, mặc lấy ý thức và ước muốn của Chúa, và thực hiện cuộc sống của mình theo thánh ý Chúa.
“Nghỉ ngơi một chút” là cần thiết, nhưng một chút là bao nhiêu thời gian? Bởi trong chúng ta cũng không thiếu cảnh một chút nghỉ ngơi mà kéo dài năm này qua năm kia.
Tin mừng cho thấy một chút nghỉ ngơi của các tông đồ được tính bằng thời gian quá ngắn trên thuyền với Chúa Giêsu thôi.
“Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều”.
Công việc của Chúa Giêsu cũng liên tục, nhưng Ngài vẫn dành những phút lắng để kết hiệp với Chúa Cha, để lắng nghe Cha, và múc lấy nguồn sinh lực nơi Cha. Nguồn sinh lực mới nơi Chúa Cha giúp Chúa Giêsu thấy “việc cần làm ngay” sau phút nghỉ ngơi ngắn ngủi: “thương đoàn chiên không người chăn” và Chúa đã bắt tay vào việc cần làm ngay mới là “dạy dỗ họ nhiều điều”.
Nguyện xin ban cho chúng con những mục tử yêu mến Chúa, sống bằng sinh lực của Chúa Giêsu và sẵn sàng thí mạng mình vì đoàn chiên Ngài.
Xin cho các tín hữu Chúa biết nghỉ ngơi một chút trong Chúa hằng ngày để được mặc lấy ý muốn, tấm lòng của Chúa mà tiếp tục sứ mạng loan báo Tin Mừng cho tha nhân. Amen.
Có lời hát viết rằng: “Hãy cho nhau thời gian nhé Hãy cho nhau bình yên nhé, Để biết ta còn TN 16-B156
Có lời hát viết rằng:
“Hãy cho nhau thời gian nhé Hãy cho nhau bình yên nhé Để biết ta còn gần nhau dẫu mai về đâu Hãy vững tin người ơi đường dài còn mãi những nỗi đau Thì vẫn tin, tương lai mình sẽ có nhau..... "
Người ta nói khi còn yêu nhau thì thời gian luôn là của nhau. Đôi trẻ yêu nhau thì họ dành toàn bộ thời gian bên nhau, nếu vì công việc thì họ vẫn luôn nghĩ tới nhau rồi tranh thủ điện thoại, nhắn tin cho nhau. Cặp vợ chồng yêu nhau thì luôn quan tâm tới công việc của nhau và sẵn lòng dành thời gian để chia sẻ giúp đỡ nhau. Con cái yêu cha mẹ thì dù ở phương xa vẫn tranh thủ về thăm khi có dịp hay ít ra cũng thăm hỏi thường xuyên qua điện thoại, email.
Đúng như lời bài hát khẳng định: “Hãy cho nhau thời gian nhé, để biết ta còn gần nhau dẫu mai về đâu”. Và cho dù đường dài có những nỗi đau thì người yêu nhau vẫn có nhau để chia sẻ ngọt bùi, nhục vinh.
Trong “Ngày hội gia đình và tuổi thơ” tại Sài gòn ban tổ chức đã hỏi các gia đình: “Theo anh (chị), vấn đề lớn nhất ảnh hưởng đến hạnh phúc của mỗi gia đình hiện nay là gì?”. Kết quả, có đến 50 % cho rằng các thành viên quá ít thời gian dành cho nhau, và 50 % còn lại là vấn đề kinh tế, giáo dục con cái hoặc người thứ 3 xen vào.
Có một chị là giáo viên kể rằng: Khi mới lấy nhau, chị dành rất nhiều thời gian để đi chợ, nấu nướng, háo hức chờ chồng về ăn cùng. Nhưng ngày nào cũng thế, chồng chị đi đến nửa đêm mới về, mặc cho vợ dùng hết “vũ khí” từ khóc lóc đến bỏ nhà đi và đòi ly dị nhưng anh chồng vẫn không thay đổi. Đến khi chị có thai, rồi sinh con, chị đàm phán: “Giờ có con rồi, anh phải ở nhà nhiều hơn để lỡ có chuyện gì xảy ra còn kịp xử lý”.
Nhưng chỉ được vài bữa anh lại “ngựa quen đường cũ”, tiếp tục những ngày vắng nhà triền miên với đủ lý do. Chị vừa buồn vừa tiếc công sức mình bỏ ra. Chị nghĩ: “Thời gian đó để làm việc khác chắc sẽ có ý nghĩa hơn”. Rồi từ đó, khi chị sinh con, chị liền gửi con ở nhà ngoại. Còn chị, hết giờ dạy ở trường, chị tìm chỗ dạy thêm. Khi không còn việc gì để làm, chị chạy về nhà mẹ ruột ăn vội chén cơm rồi đón con về nhà. Chồng chị một vài tiếng sau mới về, họ cũng chẳng có thời gian, tâm trí để hỏi han hay tâm sự...
Điều đáng báo động là nhiều gia đình trẻ hôm nay khi cưới nhau về là bỏ rơi nhau. Họ dành thời gian cho công việc sinh sống và quảng đại dành thời gian với bạn bè mà rất ít khi dành thời gian cho nhau. Họ đâu hiểu được rằng trong đời sống vợ chồng việc không có thời giờ cho nhau chính là nguyên nhân đưa đến những hiểu lầm, xích mích, tranh cãi, lạnh nhạt, và nếu không được giải quyết kịp thời nó có thể đưa đến đổ vỡ hạnh phúc vợ chồng.
Nói về thời gian có lẽ không ai là hoàn toàn rảnh rỗi, nhưng nếu còn yêu thì luôn dành thời gian cho người mình yêu. Khi không có yêu thương thì người ta sẽ dành thời gian cho nghỉ ngơi, cho hạnh phúc riêng mình.
Bài phúc âm hôm nay kể rằng sau một ngày vất vả cứu chữa những mảnh đời khổ đau, Chúa Giê-su cũng muốn cùng các môn đệ nghỉ ngơi đôi chút. Các ngài lên thuyền lánh riêng ra nơi khác. Nhưng khi vừa lên tới bờ, các Ngài đã thấy một đoàn người đang khao khát để được Ngài thi ân, giúp đỡ. Ngài chạnh lòng thương và tiếp tục dành thời gian dấn thân phục vụ cho họ.
Là người ky-tô hữu chúng ta hãy biết chạnh lòng thương anh em mình. Chạnh lòng thương là biết dành thời gian cho nhau. Khi ai đó đang cần chúng ta quan tâm hãy dành thời gian cho họ. Khi ai đó đang yếu đau hãy dành thời gian viếng thăm họ. Khi ai đó đang cô đơn hãy an ủi họ. Đặc biệt trong đời sống gia đình đừng bao giờ bỏ rơi người thân khi chúng ta vô tâm đi qua cuộc đời họ mà thiếu chăm sóc, hỏi han đến nhau. Đừng nại vào công việc để rồi quên đi mái gia đình là nơi có những con người đang chờ đón sự ân cần chăm sóc của chúng ta.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết hoạ lại chân dung tình yêu của Chúa cho anh em. Biết hy sinh cho anh em. Biết sống quảng đại vì anh em. Biết dành thời gian cho con người hơn là công việc hay tiền tài. Xin cho đời sống chúng ta luôn là một lời chứng hùng hồn về tình yêu và lòng quảng đại luôn yêu thương và phục vụ tha nhân. Amen.
“Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác, sấm ngôn của Đức Chúa” (Gr 23,1)…
“Này Ta để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi…”(c.3).
Các hành vi gian ác của các mục tử đã rõ ràng với lời nguyền rủa của Giavê qua miệng tiên tri TN 16-B157
Các hành vi gian ác của các mục tử đã rõ ràng với lời nguyền rủa của Giavê qua miệng tiên tri Giêrêmia. Đó là những mục tử làm cho đàn chiên tan tác vì chẳng lưu tâm gì đến đàn chiên. Đó là những mục tử chỉ biết lo cho bản thân, mãi mê kiếm tìm quyền lực, thu tích của cải. Và chuyện gì sẽ đến, rồi sẽ đến, đó là sự vinh thân phì da và sự sa đoạ cách này kiểu khác của những người mang danh mục tử. Các hậu quả mà chính vị mục tử gánh lấy có thể không xảy ra ở đời này nhưng chắc chắn không thể tránh được ở đời sau. Tuy nhiên, với chính đàn chiên thì hậu quả như nhãn tiền ở đời này. Đàn chiên tan tác, con thì gầy yếu, con thì bệnh tật, con thì bỏ mạng dưới móng vuốt của thú dữ rừng hoang… Chính vì lợi ích của đàn chiên nên Thiên Chúa không thể không ra tay đúng lúc, đúng thời. Người sẽ loại bỏ các mục tử vô tâm và bất nhân ấy để rồi “sẽ cho xuất hiện các mục tử tốt lành”(c.4).
Vị mục tử tốt lành “chính danh” đã xuất hiện. Có thể nói rằng một người duy nhất trong nhân loại đã tự giới thiệu: “Ta là mục tử tốt lành” (Ga 10,11) đó là Chúa Giêsu Kitô, Cứu Chúa của chúng ta. Đây là một sự tự khẳng định không phải liều lĩnh hay khoa trương, nhưng rất có căn cứ. Chính con người và cuộc đời của Chúa Giêsu mà Tin Mừng tường thuật xác nhận cho ta căn cứ này. Tin mừng Thánh Gioan trình bày khá đấy đủ về hình ảnh vị mục tử nhân lành. Đó là người biết chiên, sẵn sàng hiến mạng sống mình vì đàn chiên, là người luôn đi trước đàn chiên để dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi và dòng suối mát, để bảo vệ đàn chiên trước nanh vuốt của sói dữ và ác thù. Chúa Nhật XVI TN B, Mẹ Hội Thánh giới thiệu cho chúng ta đoạn Tin Mừng thánh Maccô mô tả một vài nét về vị mục tử ấy, đó là người biết quan tâm đến đàn chiên cách cá thể và cụ thể, toàn diện và đến cùng.
1. Yêu thương cách cá thể và cụ thể: Giêsu không chỉ yêu thương đàn chiên cách tổng thể nhưng còn với tính cách cá thể từng chiên một. Người sẵn sàng bỏ 99 con chiên để tìm cho đựơc một con chiên lạc bầy. Đó là người phụ nữ bị bệnh băng huyết đã 12 năm. Đó là người bại tay trong một Hội Đường nhân ngày hưu lễ. Đó là hai người bị quỷ ám ở vùng Ghêrada, là em bé con ông Giairô, trưởng Hội đường đựơc chỗi dậy từ cõi chết. Và giờ đây, đó là nhóm Mười Hai tông đồ đang mệt nhoài vì chuyến đi truyền giáo vất vả.
Tình yêu của mục tử Giêsu không dừng lại ở tình cảm xuông, nhưng luôn được thể hiện bằng hành động cụ thể, thiết thực, thấy được, cảm đựợc và chứng nghiệm được. Không phải chúng ta cổ võ chủ nghĩa duy hiệu năng nhưng lắm khi việc coi thường các kết quả bên ngoài cũng là một trong những cách thế che đậy sự thiếu dấn thân tích cực hoặc biện minh cho một thứ tình cảm hời hợt trên môi miệng.
2. Yêu thương cách toàn diện: Vị mục tử Giêsu không phải yêu thương đàn chiên cách phiếm diện hoặc chỉ có linh hồn hay chỉ có thể xác. Người chăm sóc đàn chiên cách toàn diện cả xác lẫn hồn. Không chỉ rao giảng tin mừng cho dân chúng, nhưng khi thấy họ đang cồn cào vì bụng đói thì Người đã cho họ no nê bằng bánh và cá. Người không chỉ chữa lành bệnh tật cho chiên mà còn xua trừ ma quỷ ra khỏi chiên. Người không chỉ nhắm đến chuyện tâm linh mà còn lo lắng cả phương diện thể lý của các môn đệ. “Các con hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6,31). Một lời chỉ dạy vừa thân tình vừa thiết thực. Giữa một thế giới đầy tiếng động, lắm tất bật do bởi công việc, nhiều căng thẳng vì các kế hoạch, chương trình chồng chất… thì một vài giây phút nghỉ ngơi, thư giãn quả là rất cần thiết cho thể lý và tâm hồn. Ai không biết nghỉ ngơi thì cũng khờ dại không kém gì người lười biếng không chịu làm việc. Một vị thầy vừa lo lắng cho các môn sinh việc làm là sai đi truyền giáo sau khi đã ban cho họ quyền trên bệnh tật và ma quỷ, nay lại còn lo cho họ cả chuyện nghỉ ngơi, đích thật là vị mục tử tốt lành.
3. Yêu thương cho đến cùng: Nói đến tính đến cùng trong tình yêu của vị mục tử Giêsu, chúng ta dễ dàng liên tưởng đến việc Người hiến dâng mạng sống vì đàn chiên. Tuy nhiên bài Tin Mừng Chúa Nhật này lại cho ta thấy một nét trong tình yêu đến cùng của Người đó là sẵn sàng từ bỏ nhu cầu chính đáng của mình vì nhu cầu cấp thiết của đàn chiên. “Ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều” (c.34).
Hơn bao giờ hết, ngày nay, chúng ta không chỉ mong mà còn khao khát có được nhiều mục tử tốt lành. Chúng ta cầu nguyện. Quả không sai. Thế nhưng, chúng ta đừng quên Chúa muốn thánh ý của Người được thể hiện qua những con người, qua chúng ta. Hãy nỗ lực cộng tác với Chúa để loại ra khỏi cộng đoàn những mục tử gian ác, những mục tử chỉ biết mưu cầu lợi ích bản thân, những mục tử làm đàn chiên tan tác, những mục tử không có tấm lòng với chiên, không lo lắng cho đàn chiên cách cá thể từng chiên một, cách cụ thể bằng hành động. Hãy loại ra khỏi cộng đoàn những mục tử không biết yêu thương đàn chiên cách toàn diện cả xác lẫn hồn, cả chuyện tâm linh lẫn đời sống thể lý, kinh tế văn hoá… Và hãy loại đi cả những mục tử chỉ biết đặt nhu cầu của mình, cho dù là chính đáng, lên trên nhu cầu cấp thiết của đàn chiên.
Nghe hai từ loại bỏ thì có vẻ nhẫn tâm và bất hiếu hay vô đạo. Cách riêng với tâm lý Á đông thì thường không nỡ “cạn tào ráo máng”. Hơn nữa, tín hữu chúng ta vốn sợ mang tai mang tiếng khi có chuyện đụng chạm đến các đấng bậc bề trên. Hình như bà con người dân Vinh, người dân xứ Nghệ rất sợ mang tiếng chống cha, chống cụ, và lại còn sợ Chúa phạt, khiến cả gia đình ngóc đầu lên không nỗi. Dĩ nhiên, nếu chúng ta loại bỏ các mục tử gian ác bằng các phương thế tiêu cực thì quả là đáng trách và không phải phép. Không ai là không thể đổi thay. Vậy cách thế tích cực hơn là hãy tìm cách xây dựng các chủ chăn vô tình, tắc trách, thành những mục tử nhân hậu, tốt lành theo khả năng và hoàn cảnh của chúng ta. Các phương thế xây dựng thì đủ kiểu, nhiều cách, miễn sao chúng được thực thi trong đức ái.
Năm linh mục đã mở ra. Không riêng gì các linh mục phải nỗ lực thánh hóa bản thân mà cả cộng đoàn dân Chúa phải tích cực dệt xây cho chiên trong đàn lẫn ngoài đàn có thêm nhiều mục tử tốt lành, chính danh, chính hiệu.
Tin Mừng Mt 6: 30-34: Các xã hội văn minh, các đô thị luôn chạy theo nhịp sống hối hả của kỹ thuật hiện đại. Con người thời nay dễ bị căng thẳng. Do đó, người ta thường tìm đến với Yoga, Thiền, với các phương pháp dưỡng sinh để tìm sự quân bình, tìm yên tĩnh, muốn trầm lắng nội tâm...
Chúa Giêsu đã kêu mời các môn đệ đến với Chúa và các môn đệ đã ở lại với Chúa và Chúa đã TN 16-B158
Chúa Giêsu đã kêu mời các môn đệ đến với Chúa và các môn đệ đã ở lại với Chúa và Chúa đã ân cần dạy dỗ các môn đệ và sai các ông đi truyền giáo.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô cho thấy, các ông trở về vui mừng báo cáo cho Chúa biết những việc đã làm và những lời đã giảng dạy. Có lẽ lúc này các môn đệ đã mệt mỏi, thêm vào đó, Tin Mừng cho biết các ông không còn thời giờ ăn uống, vì có rất nhiều người đến xin các ông dạy dỗ và chữa bệnh. Thấy thế, Chúa bảo các ông tạm lánh đi để khỏi bị quấy rầy và nghỉ ngơi một chút.
Chúng ta thấy Chúa quan tâm đến các môn đệ và cảm thông với những vất vả của các ông. Chúa quan tâm đến con người hơn là công việc. Chúa muốn các ông hãy dành một chút nghỉ ngơi cho thân xác, một chút lắng đọng cho tâm hồn, tách mình ra khỏi đám đông, để sống tình thầy trò, tương giao mật thiết với nhau. Tức là Chúa khuyên các môn đệ cần phải có thời gian yên tĩnh nghỉ ngơi và được bồi dưỡng để có thể duy trì hoạt động được lâu bền như Ernest Hello quả quyết: “tâm hồn càng nhận được nhiều trong thinh lặng thì càng ban phát nhiều trong hoạt động.” Vì có hồi tâm, có thinh lặng chúng ta mới đối diện với chính mình và đối diện với Thiên Chúa. Sự hồi tâm, sự thinh lặng như thế thật quan trọng, cần thiết và ích lợi cho đời sống thiêng liêng của chúng ta. Chính P. Doncoeur đã quả quyết: “không một vĩ nhân nào đã thành công mà không đắm mình trong thinh lặng để hồi tâm và cầu nguyện”.
Lời khuyên của Chúa Giêsu hôm nay vẫn còn được những bậc tu hành, các giám mục, linh mục, tu sĩ, đặc biệt coi trọng. Hằng năm, hàng tháng các vị đó vẫn có những cuộc tĩnh tâm, có khi kéo dài một tháng, có khi một tuần, có khi một ngày, hay ít ra cũng một buổi. Trong thời gian đó, các ngài cầu nguyện, kiểm điểm đời sống và định hướng hoạt động cho những ngày sắp tới.
Còn đối với giáo dân, cuộc sống với miếng cơm manh áo khiến chúng ta không có nhiều thời giờ để làm những cuộc tĩnh tâm như vậy. Tuy nhiên chúng ta cũng đừng quên rằng yên tĩnh là một nhu cầu cần thiết cho cuộc sống. Cuộc sống càng ồn ào thì nhu cầu yên tĩnh càng cần thiết chứng ấy, cho nên dù bận rộn, thỉnh thoảng chúng ta cũng hãy cố gắng đi tìm một chút yên tĩnh cho tâm hồn.
Và sau đây là một số những mẫu gương cụ thể trong cuộc sống đời thường:
- Ông Uynliam Phinlơ, một doanh nhân thành đạt, lúc đầu sống rất chật vật và nghèo khổ, sau làm nghề viết báo, rồi mở nhà in, lợi nhuận hàng năm thu vào rất nhiều. Ông viết một quyển sách kể về những kinh nghiệm của đời ông. Ngay trang đầu tiên có những dòng chữ sau: “Có bao giờ các bạn đã thử sống một mình trong căn phòng, không đọc sách báo, không nghe radiô hay ca nhạc, không xem tivi, không làm gì hết, một mình với những ý tưởng để suy nghĩ. Các bạn cứ thử xem, một chiều im lặng, mình với mình thôi, sẽ giúp cho các bạn biết mình, biết người, và chắc chắn các bạn sẽ thành công”.
- Trong tờ báo New York Times gần đây đã viết về những thương gia trong thành phố New York như sau: "Các doanh nhân đã xoay sang việc cầu nguyện bởi vì họ mong muốn xây dựng một tình bằng hữu với những người đồng nghiệp và qua đó, họ có thể chia sẻ những khó khăn với nhau trong công việc hằng ngày."
- Cũng trong một ý hướng như bài báo trên, một nhân viên ban chấp hành đã nói lên trong một cuộc họp hằng tuần tại Chase Manhattan Plaza: "Đây là chỗ để tôi đến và lấy lại nguồn sống. Nếu tôi không thể đến đây được thì tôi không biết tôi sẽ có thể làm được gì không."
- Khi được hỏi bí quyết nào khiến George Washigton Carver thành công trong thành tựu khoa học của mình với trên 300 sản phẩm hữu dụng, ông đã trả lời: “Tôi thức dậy lúc 4 giờ sáng, và trong sự yên tĩnh của buổi sớm mai, tôi lắng nghe tiếng Chúa và chương trình của Người xếp đặt cho tôi”.
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ, tiếp nối những dòng tư tưởng trên, có câu chuyện kể rằng: “Một nhà thám hiểm nọ đi lạc trong sa mạc, chuyển từ nơi này đến nơi kia, nhìn hết hướng nay đến hướng khác, ở đâu ông cũng chỉ thấy toàn cát với cát. Ông lê gót trong tình trạng tuyệt vọng, tình cờ chân ông vấp phải một gốc cây khô. Ông không còn đủ sức đứng lên, ông không còn đủ sức chiến đấu và cũng không còn một chút hy vọng sống sót nào. Trong tư thế bất động ấy, nhà thám hiểm bỗng ý thức được về sự thinh lặng của sa mạc. Bốn bề chỉ có thinh lặng. Thình lình ông ngẩng đầu lên. Trong thinh lặng tuyệt đối của sa mạc, ông bỗng nghe được như có tiếng thì thào yếu ớt vọng lại bên tai. Dồn tất cả sự chú ý, nhà thám hiểm mới nhận ra được đó là tiếng chảy róc rách của một con suối từ xa vọng ại. Như sống lại từ cõi chết, ông xác định nơi xuất phát của tiếng suối, ông dùng hết nguồn năng lực còn lại, ông cố gắng lê lết cho đến khi gặp được dòng suối.
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Cuộc sống chúng ta thật quả bận rộn và ồn ào, khiến chúng ta không nghe được tiếng nói và không nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa. Có thinh lặng trong cõi lòng, chúng ta mới nghe được tiếng thì thầm mời gọi của Chúa trong từng giây phút của cuộc sống. Chính sự thinh lặng giúp chúng ta nhận ra được tiếng của Thiên Chúa như "dòng suối róc rách" trong cảnh ồn ào của cuộc sống hôm nay”. Đó chính là điều Chúa Giêsu nhắc nhở các môn đệ và cũng nhắc nhở chính chúng ta, những người đang hiện diện trong thánh đường này: "Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút." Amen.
Sống trong một xã hội đa dạng, người ta có nhiều thái độ, quan niệm cái nhìn khác nhau về vấn TN 16-B159
Sống trong một xã hội đa dạng, người ta có nhiều thái độ, quan niệm cái nhìn khác nhau về vấn đề làm việc.
Một cha xứ mới được chuyển đến thay thế cha xứ cũ đã trông coi một giáo xứ trong nhiều năm. Trong phiên họp, cha xứ mới ngỏ ý với Hội Đồng Mục Vụ và Hội Đồng Tài Chánh của giáo xứ là nên thuê một người lo cắt cỏ chăm sóc vườn tược chung quanh nhà thờ. Một vị trong Hội đồng tỏ vẻ khó chịu nói: "Xin cha nhớ cho rằng, cha xứ cũ chính ngài đã tự tay cắt cỏ chăm sóc vườn tược, không thuê ai cả." Cha xứ mới mỉm cười trả lời: "Tôi biết điều đó, và tôi đã hỏi cha xứ cũ rồi, nhưng ngài trả lời là bây giờ ngài không còn muốn cắt cỏ chăm sóc vườn tược nữa."
Chuyện khác kể rằng một công ty nọ chẳng may thuê phải một người thư ký lười biếng, suốt ngày chỉ lang bang cho hết giờ. Ông chủ tức giận khó chịu bảo: "Trong một tháng trời mà anh làm việc không tới được một giờ đồng hồ. Anh thử nghĩ xem công ty có lợi được một cái gì khi thuê mướn anh làm việc không?" Anh thư ký trả lời: "Dạ thưa ông chủ có chứ. Vì khi tôi đi nghỉ hè, thì không một ai trong công ty phải làm thêm gánh đỡ công việc của tôi."
Chúng ta không rõ thái độ và quan niệm của các tông đồ ra sao đối với vấn đề hoạt động làm việc, nhưng qua bài tin mừng hôm nay Chúa nhắc nhở các ngài: "Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút", đã bảo cho hay rằng, giữa những công việc vất vả bận rộn của cuộc sống, các tông đồ cũng như chúng ta có bổn phận và trách nhiệm dành thời giờ nghỉ ngơi. Có lẽ điều này nghe hơi lạ nhưng là một sự thật. Sự thật này đã được ghi lại trong chương đầu của sách Sáng thế ký, cuốn sách đầu tiên trong bộ Kinh thánh: Thiên Chúa làm việc trong 6 ngày và ngày thứ 7 ngài nghỉ ngơi.
Thiên Chúa không tạo dựng chúng ta như là những con ong luôn bận rộn suốt thời gian. Xe chạy thỉnh thoảng cần dừng lại để đổ xăng và nghỉ cho máy mát. Chiếc cung giương mãi cũng sẽ có ngày đứt dây. Thân xác con người cần nghỉ, cần ngủ, ai thử thức một hai đêm sẽ biết kết quả liền.
Hơn nữa, chúng ta cần dành thời giờ nghỉ ngơi là vì sống ở đất nước này, càng ngày càng thấy các công ty vì phải cạnh tranh và muốn kiếm lời nên đòi gia tăng mức sản xuất trong khi đó lại cắt giảm số nhân viên, nên các người làm việc đã bị áp lực bị stress, bị pressure do công việc đòi hỏi rất nhiều.
Ngoài thời giờ dành ra nghỉ ngơi với gia đình, bạn bè, dành cho Thiên Chúa, chúng ta còn được mời gọi dành thời giờ để suy nghĩ về giá trị đích thực của cuộc sống? Phải chăng giá trị con người hệ tại sự có: Càng có nhiều của cải tiền bạc vật chất, con người càng có giá trị nhiều, hay ở tại sự thanh thản bình an của tâm hồn?
Theo tài liệu nghiên cứu, trung bình một người Mỹ hàng ngày đối diện với 560 quảng cáo, và hầu hết các quảng cáo này đều muốn gây ảnh hưởng làm cho con người không thỏa mãn với những gì mình đã đang có và mời gọi con người ham muốn những cái mới hơn, lớn hơn, tốt hơn, tiện lợi hơn. Chúng ta đang sống trong xã hội đó, dù muốn hay không cũng bị ảnh hưởng, muốn có nhà to hơn, lớn hơn, đẹp hơn, một nhà một Tivi chưa đủ, bây giờ mỗi phòng cần một cái, rồi nào là iPhone, iPad, iPod... Muốn có nhiều sự phải có nhiều tiền để mà iPaid..., và muốn có nhiều tiền phải đi làm nhiều. Đơn giản là như thế. Tuy nhiên, câu hỏi mỗi người chúng ta cần đặt ra cho mình là bao giờ thì mới đủ, mới làm chúng ta hài lòng thỏa mãn, bao giờ chúng ta mới có một cuộc sống đơn giản, mới được sống thanh thản an bình hạnh phúc?
Cha ông đã bảo: "Tri túc tiện túc, đãi túc, hà thời túc. Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn?" Có nghĩa là: Biết đủ là đủ, đợi cho đủ thì bao giờ mới đủ. Biết nhàn là nhàn, đợi cho nhàn thì bao giờ mới nhàn?
Phillip Parham thuật câu chuyện về một thương gia giàu có khó chịu mất bình an khi thấy một ngư phủ đang ngồi nhàn hạ biếng nhác bên cạnh thuyền của ông. Ông hỏi: "Tại sao anh không ra ngoài khơi đánh cá?" Ngư phủ đáp: "Vì tôi đã đánh đủ số cá cho ngày hôm nay?" Thương gia hỏi: "Tại sao anh lại không bắt nhiều cá hơn số mình cần?" Ngư phủ hỏi lại: "Tôi sẽ dùng chúng để làm gì?"
Vị thương gia trả lời: "Anh có thể kiếm thêm tiền và mua được thuyền tốt hơn, lớn hơn để có thể đi ra ngoài khơi xa hơn, bắt nhiều cá hơn và kiếm thêm tiền. Chẳng bao lâu anh sẽ có cả một đoàn thuyền và giàu có như tôi." Ngư phủ hỏi: "Rồi tôi biết làm gì với sự giàu có đó?"
Vị thương gia nói: "Lúc đó anh có thể ngồi xuống vui hưởng cuộc đời."
Ngư phủ đáp trong lúc đôi mắt bình thản nhìn ra biển cả: "Thế ông nghĩ tôi đang làm gì bây giờ?"
Khi tạo dựng nên con người và cho vào đời, Thiên Chúa trao cho mỗi người một sứ mệnh. Không ai có sứ mạng quan trọng như của Chúa Giêsu, nhưng Ngài biết những điều quan trọng không thể thành đạt được nếu không có tâm hồn an bình trong thinh lặng yên tĩnh nghỉ ngơi cầu nguyện: "Hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút." Mỗi người chúng ta có trách nhiệm và bổn phận dành thời giờ nghỉ ngơi suy nghĩ tìm ra sứ mệnh của mình và điều cần để ý đó là đời sống này quá ngắn ngủi, hãy sống cuộc sống này đầy ý nghĩa.
Mỗi lần soi gương có hai hình ảnh trong gương. Hình ảnh thứ nhất rõ ràng là hình ảnh của chính TN 16-B160
Mỗi lần soi gương có hai hình ảnh trong gương. Hình ảnh thứ nhất rõ ràng là hình ảnh của chính ta; hình ảnh khác không rõ là hình ảnh thần tượng ta ái mộ, mến tài trí của họ. Hình ảnh thần tượng thể hiện qua cùng kiểu tóc hay cách trang điểm hoặc y phục. Có người ái mộ thần tượng đến độ bắt chước ngay cả cách đi đứng, ăn nói của thần tượng thành của riêng mình. Phúc Âm hôm nay thuật lại việc Đức Kitô nói dân chúng thời đại Ngài bị mất thần tượng khi Ngài dùng hình ảnh chủ chăn và đàn chiên. Ngài thương họ bởi họ là đàn chiên không có chủ. Điều Đức Kitô nói không phải là đám đông không có người lãnh đạo mà chính là người lãnh đạo không làm công việc lãnh đạo. Lãnh đạo theo đường hướng của Đức Kitô là phục vụ. Có lần Ngài nói rõ:
'Ta đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ.' Mc 10,45.
Như thế nhiệm vụ chính của người lãnh đạo là phục vụ. Khi yếu tố phục vụ biến thể; việc lãnh đạo cũng biến thể. Khi nhóm lãnh đạo coi đám đông là kẻ hầu, biến họ thành kẻ phục vụ. Thay vì nâng đỡ hỗ trợ đám đông người lãnh đạo đòi nhiều đặc quyền, đòi được chăm sóc, đòi được coi trọng, đòi được quyền sai bảo kẻ khác. Lúc đó phẩm chất lãnh đạo biến chất. Bởi biến chất nên người lãnh đạo là lãnh đạo giả hình. Nói là lãnh đạo nhưng không làm đúng điều mình nói, tự lừa dối mình và lừa dối công chúng. Đức Kitô dùng hình ảnh chủ chiên và đàn chiên để nói lên điều trên. Chủ chiên chân chính ảnh hưởng rất nhiều đến đàn chiên, ảnh hưởng đến cuộc sống và đời sống đạo đức của đàn chiên. Đàn chiên được chăm sóc, nuôi nấng, đau bệnh được thăm hỏi, chữa lành, đói khát được cho ăn uống, cô đơn được vỗ về, bị áp bức được nâng đỡ. Đó mới là phục vụ, là người lãnh đạo chân chính. Thời Đức Kitô đám đông có người lãnh đạo là các bậc trưởng thượng trong dân, có Biệt Phái và Tư Tế. Đám đông từng nghe theo lời họ hướng dẫn, chỉ bảo nhưng đến thời Đức Kitô thì họ không nghe theo nữa bởi nhóm lãnh đạo không những đã làm mất tư cách lãnh đạo mà còn đòi nhiều đặc quyền, đặc lợi nên dân chúng chán ghét họ, không quan tâm đến nhu cầu của dân chúng là thiếu tư cách lãnh đạo. Điều này không phải xảy ra một sớm một chiều mà trải qua nhiều năm tháng, nhiều lần thất hứa, làm sai đổ thừa, không dám chấp nhận điều sai trái dẫn đến tình trạng mất niềm tin nơi dân chúng. Thay vì quy tụ đàn chiên, chăm sóc, bảo vệ chiên, họ để cho đàn chiên tan nát, để chiên chạy tán loạn. May mắn thay đàn chiên gặp Đức Kitô và các tông đồ. Đức Kitô đến với đàn chiên, chăm sóc chúng, vỗ về con đau yếu, chữa lành con thương tật, đói cho ăn, mệt cho nghỉ nơi suối mát và ở giữa đàn chiên chăm sóc chúng vì thế đàn chiên theo Ngài. Theo giáo huấn của Đức Kitô lãnh đạo là phục vụ. Chính Đức Kitô thi hành điều đó khi Ngài nói Mc 10,45. Ngoài việc phục vụ Đức Kitô còn chỉ đường dẫn lối cho đàn chiên đến vùng đất sống, vùng đất an toàn vùng đất dồi dào tình yêu, dẫn đàn chiên đến với Chúa Cha.
'Thầy là đường là sự thật và là sự sống' Gn 14,6
Đức Kitô đứng với chiên con, yêu mến chúng, vỗ về chúng, nghe tiếng chúng và chúng nghe tiếng Ngài.
Ngày nay Giáo Hội có cùng kinh nghiệm như đám đông thời Đức Kitô họ cũng đang mất niềm tin nơi người lãnh đạo. Họ không còn âm thầm nhưng mạnh miệng lên tiếng tố cáo người lãnh đạo làm điều sai trái, chủ chiên biến thành sói đội lốt chiên tiêu diệt đàn chiên. Người ta tìm đủ cách để biện minh hoặc giải thích hỗ trợ cho việc chủ chiên làm. Điều không thể chối cãi là đàn chiên đang tản mát khắp nơi đi tìm sức sống nội tâm mới. Điều này cho biết con người luôn cần sức mạnh nội tâm họ không tìm được sức mạnh đó nơi niềm tin họ đang theo nên bỏ đi theo niềm tin khác. Chủ chiên thời Cựu Ước có nhiều tiên tri và họ có thể dựa vào đó để đưa ra những giải thích khác nhau. Hiện nay chủ chiên chỉ có Đức Kitô Đấng đến trần gian loan báo Tin Mừng cứu độ và chết trên thập giá để cứu độ chúng sinh. Ngài là đầu của Hội Thánh và tất cả chúng ta là chi thể trong cùng một thân xác Đức Kitô. Giáo lí của Ngài tóm gọn trong câu 'mến Chúa, yêu tha nhân như chính mình'. Giáo lí này không còn chỗ cho hiểu lầm. Giải thích lệch lạc là cố tình đi ngược tình yêu Chúa. Không phục vụ tha nhân là đi trái đường lối Chúa. Không tha thứ là cố tình chia rẽ thân xác Đức Kitô. Chủ chiên cần suy gẫm xem việc coi sóc đàn chiên được bao nhiêu phần trăm như điều Đức Kitô giáo huấn.
Sau hơn 150 năm, di tích nhà xứ Cha thánh Gioan Maria Vianney vẫn nguyên vẹn, từ khi ngài TN 16-B161
Sau hơn 150 năm, di tích nhà xứ Cha thánh Gioan Maria Vianney vẫn nguyên vẹn, từ khi ngài qua đời. Căn phòng ngủ vẫn còn bày biện những đồ đạc cá nhân bình dị, thô kệch. Tuy căn nhà bếp nghèo nàn, chén bát, nồi niêu soong chảo xoàng xĩnh, lại đặc biệt sắp đặt một tòa cáo giải trong góc bếp. Dù ngài đã giải tội 17 giờ mỗi ngày, mà vẫn chưa đủ nhu cầu, người ta vẫn kéo đến xưng tội, cả khi ngài đang dùng cơm.
Thánh nhân noi gương Chúa Giêsu tận tâm tận tụy, khi thấy con chiên tìm đến hòa giải với Thiên Chúa, ngài không từ nan vào bất kỳ giờ giấc nào, kể cả lúc nghỉ ngơi.
Chăm sóc môn đệ
Khi các Tông đồ trở về với Chúa Giêsu, báo cáo thành quả đạt được, từ lời nói đến việc làm, cùng cả những khó khăn trở ngại, Người vui mừng, khuyên nhủ các đấng vào nơi thanh vắng nghỉ ngơi. Mục Tử nhân lành luôn biết chăm sóc cộng sự viên. “Người bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” (Mc 6, 31) Cũng như hằng ngày, mỗi chiều tối, sau khi bận rộn, mệt mỏi giảng dạy, Chúa Giêsu cũng luôn tìm nơi hoang vắng để nghỉ ngơi, tâm tình, cầu nguyện với Đức Chúa Cha.Do vậy “thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng.”(Mc 6, 32) Những buổi kinh nguyện, lễ chầu, tĩnh tâm, của các cộng đoàn, con chiên ngày nay cũng mang ý nghĩa nghỉ ngơi như vậy.
Chăm sóc đoàn chiên
Tuy nhiên, không phải chỉ lo cho môn đệ, Chúa Giêsu vẫn luôn luôn sẵn sàng phục vụ dân chúng, những người chạy đến Người dạy bảo, chữa lành thể xác và tâm hồn, bất cứ lúc nào, nơi nào, chẳng kể giờ giấc, như chương trình ấn định. “Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.” (Mc 6, 34). Lời Chúa chính là Bánh Hằng Sống dành cho những người muốn được vui sống đời đời.
Chăm sóc toàn diện
Không chỉ lo giảng dạy, cứu giúp kẻ khó, Chúa Giêsu còn siêng năng cầu nguyện, kết hợp mật thiết với Đức Chúa Cha. Người cũng dạy bảo các Tông Đồ noi theo, từ hoạt động rao giảng đến cầu nguyện. Hai việc luôn kết hợp chặt chẽ, bổ sung hỗ tương cho nhau, mới mong đạt hiệu quả cao nhất. Mặt khác, Người đôi khi còn phải lo cho dân chúng ăn uống, hóa bánh ra nhiều cho hàng ngàn người no nê.”Thì chính anh em hãy cho họ ăn đi”(Mc 6, 37). Như thế không chỉ nuôi dưỡng tinh thần mà Người còn ân cần chăm lo cả thể xác, dấu chỉ cho bữa tiệc Lời Chúa và bữa tiêc Thánh Thể phong phú sau này.
Hơn nữa, Người còn dạy các Tông Đồ Lòng Thương Xót vô biên của Người. Biết nhạy cảm, sẵn sàng phục vụ trước những nhu cầu thiết yếu của con chiên, để tận tụy chia sẻ, an ủi và giúp đỡ. Bởi vì “Ai tiếp nhận anh em là tiếp nhận Thầy, và ai tiếp nhận Thầy là tiếp nhận Đấng đã sai Thầy” (Mt 10, 40). Ngày nay, Người cũng chẳng nỡ ngoảnh mặt làm ngơ, giả đui, giả câm, giả điếc, khi con chiên bị bách hại trắng trợn, giữa thanh thiên bạch nhật!
“Con phải là “món quà” trong tay Chúa, sẵn sàng để Chúa tặng cho bất kỳ ai. Một món quà mà ai cũng quý yêu thèm muốn.”(ĐHV, số 768)
Lạy Chúa Giêsu vô cùng nhân lành, xin nhắc nhở con luôn biết nghỉ ngơi, luôn dành thì giờ giữa cuộc sống bề bộn, để chuyên tâm cầu nguyện, tâm sự với Chúa luôn, hầu nhận lãnh những hồng ân, dưỡng nuôi linh hồn.
Lạy Mẹ Maria, xin luôn dẫn con đến suối nguồn Hồng Ân, để con múc lấy dồi dào Tình Yêu Chúa Giêsu, để có thễ chia sẻ lại mọi người. Amen.
Xin nhớ nằm lòng rằng, mỗi khi nghe đọc Phúc âm thánh Maccô kể về việc Chúa Giêsu đặt chương TN 16-B162
Xin nhớ nằm lòng rằng, mỗi khi nghe đọc Phúc âm thánh Maccô kể về việc Chúa Giêsu đặt chương trình cho các môn đệ một vài giây phút thinh lặng nghỉ ngơi, thì y như rằng Ngài thất bại. Dân chúng sẽ tuôn đến xin thoả mãn các nhu cầu của mình, đến nỗi các ngài chẳng còn thời giờ ăn uống. Phúc Âm hôm nay ký thuật: “Người bảo các ông: Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Quả thế, kẻ lui người tới quá đông nên các ông chẳng còn thời giờ ăn uống nữa. Sự kiện này tiếp theo Phúa Âm tuần trước: “Khi ấy, Đức Giêsu gọi nhóm 12 lại và bắt đầu sai đi từng hai người một, ban cho các ông quyền trên các thần ô uế”. Như vậy các tông đồ thành công lớn khi làm theo chỉ thị của Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng Nước Trời trong nghèo khó và khiêm nhường. Chẳng hiểu ngày nay chúng ta có thể gặt hái kết quả tốt đẹp như các ông khi dùng những sa hoa nhung lụa mà công bố Nước Thiên Chúa? Xin nhớ, nội dung các ông rao giảng là lòng ăn năn sám hối vì Nước Trời đang đến gần. Nếu Nước Trời là bản thân Chúa Giêsu thì việc sám hối để đón tiếp Ngài quả là cần thiết. Chẳng hiểu quí vị giảng thuyết tân thời ý thức được điều đó? Và nhận ra tầm quan trọng của khổ chế để tiếp nhận Chúa Giêsu?
Thực tế, Tin Mừng Marco không phải là Tin Mừng của nghỉ ngơi. Chúa và các tông đồ luôn luôn bận rộn tiếp đón thiên hạ và thoả mãn các đòi hỏi của họ. Xem ra Phúc Âm mới được viết cách nay không lâu. Có lẽ ngày hôm qua, vì nghe như Phúa Âm tân thời về các môn đệ tân thời! Nhu cầu thì quá nhiều mà khả năng có giới hạn, không đủ để giải quyết mọi chi tiết. Ngoài ra, cuộc sống quá nhiều cám dỗ khiến chúng ta phân tán nghị lực, phân tán tài năng, trí tuệ, không nhận định nổi đâu thực quan trọng, đâu không. Chúng ta vùi đầu vào công việc, quên mất ơn gọi thực của mình. Đúng vậy, dù là chủ chăn, người giúp việc, hội đồng Giáo xứ, tình nguyện viên đều rất bận rộn, rất lu bu. Hoàn cảnh giống như của Chúa Giêsu và các môn đệ trong Phúc Âm hôm nay. Nếu vậy thì xin đọc và suy gẫm Phúa Âm Marco để tìm ra phương hướng cho cuộc đời mình.
Khi đọc kỹ Tin Mừng theo thánh Marco người ta nhận ra những luận đề và đặc tính văn chương trong đó. Nó là Phúc Âm ngắn nhất, nhiều hành động nhất, cho nên người ta đoán là Phúc Âm được viết sớm nhất. Nó có một dàn bài rõ ràng. Tức Chúa Giêsu và các môn đệ làm một cuộc hành trình lên thành thánh Giêrusalem. Ơ đấy, Ngài sẽ gặp chống đối, hành xích, khổ nạn, chịu chết và sống lại. Nhưng hiện thời, các ngài còn đang trên đường đi. Chúa Giêsu dạy dỗ các môn đệ, chỉ thị cho các ông những việc phải làm, những điều nên giữ. Ngài được đám đông hồ hởi đón tiếp vì giáo lý và các phép lạ. Tin Mừng hôm nay ở vào giai đoạn này. Ngài chưa vào thành thánh Giêrusalem. Như vậy số phận Chúa Giêsu đã được hoạch định sẵn.
Trên đường đi, Ngài sai các môn đệ thực hiện những công việc mà Ngài đang làm, tức rao giảng Nước Trời, chữa lành mọi bệnh tật, và khu trừ ma quỉ. Đọc Tin Mừng người ta nhận ra việc này nối tiếp việc khác rất mau lẹ. Người ta có cảm tưởng như công việc xô đẩy nhau dồn dập và sự hiện diện của Chúa Giêsu là cần thiết. Các môn đệ bận rộn với những sứ vụ Chúa sai khiến. Cho nên các ông cần chút nghỉ ngơi và thư giãn. Người ta cũng có thể đoán ra Chúa muốn tụ họp các ông để ban thêm giáo huấn và kiểm tra công việc. Ngài cũng muốn cho họ, bằng kinh nghiệm, nhận ra những bổn phận làm môn đệ Ngài, chứ không phải sự chấp nhận của đám đông. Đó là rao giảng, thánh giá, đau khổ, hy sinh. An nhàn, danh tiếng, địa vị, tiền bạc không thuộc phạm trù của chức vụ này. Những ai theo đuổi con đường đó là hoàn toàn sai lầm.
Cho nên từ chối Thánh Giá trong sứ vụ rao giảng là từ chối làm môn đệ Chúa. Mặc dầu tự phong danh nghĩa nào đi nữa: linh mục, tu sĩ, giáo dân. Chúng ta đừng lừa dối thiên hạ, nhưng nên sống thực với ơn gọi của mình. Các tông đồ ngày xưa cũng đã thất bại. Khi Chúa gặp gian nan khốn khó, gặp Thập giá và cái chết, họ đã trốn đi hết thảy, ngoại trừ một mình Gioan. Nếu không xin ơn Chúa trợ giúp làm sao chúng ta đứng vững? Thánh Marco viết Phúa Âm để nhắn nhủ cộng đoàn của ông cũng đang phải đối mặt với bách hại. Chúng ta ngày nay, đừng cậy nhờ vào sức riêng. Nhưng vào sức mạnh của Thiên Chúa. Đừng lượng định thành công hay thất bại theo tiêu chuẩn nhân loại, nhưng của Đức Chúa Trời. Có lẽ cũng vì lý do này, mà Chúa Giêsu kéo các môn đệ ra khỏi vinh quang thế tục, đẩy họ vào suy gẫm chức vụ làm môn đệ Ngài. Đây cũng là bài học cho chúng ta. Nên chăng chúng ta cũng cần rút lui khỏi những bận rộn, những náo nhiệt của công việc để định giá lại chức vụ làm môn đệ Chúa? Chúng ta đã chu toàn ơn gọi ra sao? Chăm lo những bổn phận tông đồ thế nào? Phải chăng chúng ta đã bỏ bê công việc chính yếu, lo toan những chuyện phụ thuộc? Sao lãng đời sống siêu nhiên và dồn tâm trí, nghị lực vào hoạt động trần thế? Phải chăng chúng ta đã bỏ quên các kẻ cần săn sóc mà ngao du với giàu sang phú quí? Những nhu cầu của Giáo hội mà lo toan sự đời? Những địa chỉ cần đến để rong chơi thoả tình? Những học hành cầu nguyện để dán mắt vào vi tính, ti vi? Nhiều câu hỏi tương tự cần chúng ta nghiêm chỉnh trả lời để bày tỏ chức vụ làm môn đệ của mình. Nếu không chúng ta chẳng thua kém các kẻ giả hình? Những chức sắc của Satan? Những Pharisêu tân thời? Lúc đó, đáng phàn nàn biết mấy?
Đối với những ai tự mãn cho rằng mình đi đúng hướng, phục vụ Giáo hội đúng nơi, đúng chỗ và sẽ tiếp tục làm như vậy, thì xin nhớ rằng Chúa Giêsu đã gom các tông đồ lại như chủ chiên coi sóc đoàn chiên để bồi dưỡng các ông, ban cho cơ hội nghỉ ngơi, dưỡng sức và suy tư về ơn gọi. Ngài cũng muốn những kẻ theo Ngài hành động tương tự. Nghĩa là chúng ta phải có những giây phút nhàn rỗi, lánh riêng ra nơi cô tịch, những hoang địa của cõi lòng. Nơi đó không còn bị phân tán vì những công việc hành ngày. Chúng ta có đủ khả năng và thời gian hội tụ vào điều Chúa muốn. Bữa ăn Thánh Thể và Lời Chúa là những thứ mà Ngài cần chúng ta chú ý. Chắc chắn trong địa phận, nhà xứ có những trung tâm tĩnh huấn và bồi bổ tâm linh. Những ai có điều kiện thì đến những địa điểm chuyên môn, ở đấy đủ để thăng tiến đời sống thiêng liêng. Đó là điều cần thiết cho mỗi linh hồn theo chân Chúa.
Hôm nay Chúa trông thấy đám đông lớn và Ngài quyết định nuôi dưỡng họ bằng Lời Hằng Sống. Phúc Âm kể: “Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”. Bằng mấy câu này, thánh Marco cho hay Chúa có thể thoả mãn họ. Tuần tới Phụng vụ thuật lại việc Chúa nuôi sống năm ngàn đàn ông với hai con cá nhỏ và năm ổ bánh. Như vậy, Chúa nuôi dưỡng chúng ta cả phần hồn lẫn phần xác. Rõ ràng Chúa nhận ra đám đông đói khát và bơ vơ như chiên cừu không có người chăn. Ngài đứng ra đảm nhận nhiệm vụ và truyền lại cho chúng ta ngày nay. Chúng ta phải bắt chước Ngài lo tròn bổn phận. Nếu không chúng ta chẳng xứng đáng danh nghiã của mình. Thực ra, đám đông này vào thời buổi ấy là những dân quê mùa, dốt nát, nghèo khổ, bị nhiều tầng lớp áp bức, quyền đời cai trị, quyền đạo cho là nhơ bẩn. Họ chẳng biết cậy dựa vào đâu. Thánh Marco mô tả: “Họ như bầy chiên không người chăn dắt”. Cho nên họ ùa nhau theo Chúa Giêsu. Hy vọng Ngài sẽ giải thoát khỏi tình trạng bơ vơ và áp bức này.
Nhìn kỹ vào Phúc Âm, chúng ta nhận ra: lòng thương cảm của Chúa Giêsu luôn hướng về những hạng người bất hạnh, đui mù, què quặt, yếu đau, bệnh hoạn, bất lực không cứu nỗi mình. Ngài sẵn sàng giơ tay nâng đỡ và chữa lành. Nhưng tình trạng của đám đông hôm nay khốn đốn hơn là đớn đau phần xác. Họ cần nhận biết Chúa Giêsu và luôn ở với Ngài như một sức mạnh che chở. Chúng ta nghĩ thế nào về các giáo dân nghèo nàn trong các giáo xứ. Liệu chúng ta có tâm hồn như Chúa Giêsu bênh đỡ chở che họ? Hay vùi dập, cấm đoán, uy quyền trên họ? Thực tế thì vế thứ hai của câu văn là phổ biến. Xin nghĩ lại thái độ của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay: Ngài đích thân dạy dỗ và nuôi dưỡng đám đông.
Cho nên lời hứa của tiên tri Giêrêmia trong bài đọc một được ứng nghiệm từng chữ: “Chính Ta sẽ qui tụ đàn chiên Ta còn sót lại từ mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng. Chúng sẽ sinh sôi nảy nở thật nhiều. Ta sẽ cho xuất hiện mục tử để chăn dắt chúng. Họ sẽ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn phải hãi hùng, kinh khiếp và bị bỏ rơi nữa”. Thiên Chúa đã gởi vị mục tử Giêsu Kitô mà trái tim luôn thương cảm những ai nghèo khổ tan tác như thánh Marco mô tả hôm nay. Người mục tử này không hề bỏ mặc ai mồ côi, nhưng luôn giơ tay nâng đỡ, ủi an và cứu thoát. Không hiểu từ tạo thiên lập địa đến nay có ai bị Ngài xua đuổi? Hơn nữa, Ngài còn hành động qua các môn đệ. Trước đoạn Phúc Âm này là việc ông Gioan bị vua Hêrôđê chém đầu. Đây là mối đe doạ trực tiếp cho Chúa Giêsu và báo trước Ngài cũng sẽ chung số phận. Các môn đệ sẽ tiếp tục công việc của Ngài. Họ sẽ chẳng thể hành động cậy nhờ vào sức riêng, bởi họ sẽ chạy trốn tan tác trước cái chết của Ngài. Chỉ sau khi sống lại, Ngài ban Thánh Thần cho, họ mới đủ can đảm làm chứng về Ngài. Lịch sử đã chứng minh chân lý ấy. Vậy chúng ta nên suy gẫm thấu đáo bài học, đừng nông nỗi tự cao tự đại, kẻo ra vẻ ngốc ngếch.
Khi chứng kiến đám đông tuôn đến làm vỡ kế hoạch nghỉ ngơi bồi dưỡng, Chúa Giêsu không phản ứng giận dữ. Trái lại Phúc Âm kể: “Ngài chạnh lòng thương”. Bởi thấy rõ tâm tư nguyện vọng và hoàn cảnh của họ. Phần tôi, tôi không thích cụm từ: “Chạnh lòng thương”. Nó xem ra là thái độ kẻ cả. Chắc chắn Chúa không có thái độ ấy. Không hiểu nguyên văn là chữ gì. Chúng ta chỉ có bản dịch nên tạm chấp nhận. Nhưng khi đọc mấy dòng kế tiếp, chúng ta cảm tưởng Ngài chăm sóc đám đông chứ không trịch thượng: “Họ chẳng phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn”. Đúng là giọng điệu quan tâm đến nhu cầu đám đông giống như chúng ta xúc động bởi các khó khăn của hàng xóm láng giềng. Khi nghe hay xem thấy các khốn đốn ấy, chúng ta cảm thấy xót xa mà xả thân cứu giúp. Sự giúp đỡ này hoàn toàn vô tư, không vì động lực ích kỷ nào. Nó bẻ gãy mọi rào cản giai cấp, sắc tộc, ngôn ngữ, giới tính, văn hoá, kinh tế. Chúng ta cảm thấy mủi lòng mà giơ tay cứu giúp. Tuy nhiên như vậy chúng ta liên kết với Thiên Chúa, Đấng là tình thương vươn tới mọi loài, mọi vật. Ngài dựng nên vũ trụ không phải để ghét bỏ, nhưng săn sóc, giữ gìn. Chính trong công việc này mà vinh quang Thiên Chúa tỏ hiện. Cứ như chương trình ban đầu, các môn đệ tụ họp là để nghỉ ngơi giải trí sau cuộc hành trình rao giảng mệt nhọc. Thầy trò ngồi lại ở nơi vắng về mà nghe Chúa dạy bảo. Nhưng các môn đệ lại học một bài học hoàn toàn ngoài dự định. Họ mục kích Thầy mình tự phát đáp ứng nhu cầu của đám đông, không ta thán, không phiền lòng. Chắc chắn, họ sẽ nhận được bài học phục vụ bằng hành động chứ không phải lời nói. Họ nhớ lại bài học này mỗi khi thi hành sứ vụ. Đừng rao giảng suông bằng lời nói vu vơ. Nhưng bằng gương sáng đời mình.
Điều cuối cùng của bài Phúc Âm hôm nay khá tế nhị. Suốt trong mạch văn, từ khởi thuỷ đến bây giờ, các người theo Chúa Giêsu, chỉ được thánh sử gọi là “môn đệ”. Lúc này, lần đầu tiên ông gọi họ là “tông đồ” và cũng là lần sau hết. Tên mới gói ghém ý nghĩa mới, tương quan mới với Chúa Giêsu. Họ sẽ được Chúa sai đi rao giảng Nước Trời trong phong cách mới như Phúc Âm mô tả. Liệu chúng ta chịu đựng được phong cách ấy không? Xin trả lời cho minh bạch xem thế nào! Amen.
Một lần nữa, Lời Chúa hôm nay lại nói với chúng ta về mục tử. Trước hết là những mục tử lãnh TN 16-B163
Một lần nữa, Lời Chúa hôm nay lại nói với chúng ta về mục tử. Trước hết là những mục tử lãnh đạo dân Israen. Một số trong họ bị Thiên Chúa lên án, vì vô cảm và thiếu trách nhiệm với công việc được trao. Họ là những người ích kỷ, chỉ biết lo cho bản thân mình, trong khi đó nhiều người đói khát và bị bỏ rơi không được quan tâm. Khi đề cập đến các mục tử, Lời Chúa hôm nay chất vấn những người có trách nhiệm trong Giáo Hội, nhất là những người có thái độ dửng dưng, sống ích kỷ và chỉ lo bản thân mình.
Thiên Chúa mới là Mục tử đích thực của Dân Ngài. Nếu những người được trao phó trách nhiệm bất trung, thì chính Ngài can thiệp và bù đắp. Chính Chúa quy tụ Dân Ngài, băng bó những vết thương, khôi phục những đổ vỡ, đem lại niềm hy vọng cho những người đang đứng trước ngõ cụt của cuộc đời. Chúa là vị Thẩm phán chí công. Ngài trừng phạt những mục tử vô lương tâm, yêu thương chăm sóc những con chiên yếu thế.
Thiên Chúa yêu thương nhân loại. Tình yêu thương ấy được thể hiện qua việc Thiên Chúa sai con của Ngài đến thế gian, là Đức Giêsu Kitô. Tin mừng Thánh Máccô diễn tả Đức Giêsu với trái tim mục tử. Người chạnh lòng thương đám đông dân chúng, vị họ như bầy chiên không người chăn dắt. Nếu ông Môisen và vua Đavít thường được tôn vinh như những vị lãnh đạo trung thành, thì Đức Giêsu được các tác giả Phúc Âm trình bày như một Môisen mới, như một Đavít đến trần gian để lãnh đạo Dân Chúa. Đàn chiên của vị Mục tử này không còn đóng khung trong dân tộc Do Thái, mà đã vượt ra khỏi ranh giới để đến với các dân tộc. Như thế, những ai nghe tiếng vị Mục tử Giêsu, bất luận họ thuộc nền văn hoá hay chủng tộc ngôn ngữ nào, đều thuộc về đàn chiên của Ngài. Thánh Phaolô (Bài đọc II) đã trình bày Đức Giêsu là sự bình an của chúng ta. Qua giáo huấn của Người và nhất là qua hy tế thập giá, Người đã phá đổ bức tường ngăn cách dân Do Thái với các dân ngoại. Không chỉ dừng ở đó, Chúa Giêsu còn hoà giải Thiên Chúa với con người. Người tiêu diệt sự thù ghét, nối kết muôn người nên một trong tình thương mến chan hoà.
Trước một đám đông đang đói khát chân lý, Đức Giêsu đã “chạnh lòng thương”, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Sứ mạng của Đức Giêsu là đem cho nhân loại tình thương của Thiên Chúa. Giáo huấn của Người nhằm giúp cho con người tìm được chân lý vĩnh cửu, đồng thời tìm được ý nghĩa trong cuộc sống hiện tại.
Để tiếp nối sứ vụ mục tử, Chúa Giêsu đã chọn các môn đệ. Thánh Máccô khởi đầu trình thuật bằng việc gọi các ông là “Tông đồ”. Đây là lần sử dụng duy nhất thuật ngữ này trong Tác phẩm Tin Mừng của thánh Máccô. Tông đồ là người được sai đi. Đức Giêsu đã huấn luyện các ông và sai đi truyền giảng những gì Người đã dạy. Các ông rất vui mừng vì thấy lời giảng dạy của mình mang lại nhiều hiệu quả nhãn tiền. Chính trong lúc các ông đang say sưa với thành quả đã đạt được, Chúa lại bảo các ông dành thời gian nghỉ ngơi và cầu nguyện. Đời sống của người tông đồ phải tạo được sự quân bình giữa “động” và “tĩnh”. Nếu chỉ “động” mà thôi, lời chứng của họ sẽ rỗng tuếch. Nếu chỉ dừng lại ở “tĩnh” cuộc đời họ sẽ vô nghĩa đối với tha nhân.
Nhờ bí tích Thánh tẩy, mối người tín hữu đều trở nên tông đồ của Chúa. Được xức dầu và được sai đi, họ nhân danh Chúa Giêsu để đem tình thương đến cho con người bất hạnh, ở mọi nơi và mọi thời. Như vậy, người Kitô hữu đích thực vừa là người gắn bó với Mục tử của mình, vừa là người có trái tim “chạnh lòng thương” như Chúa Giêsu, để đem tình thương cho những ai đang cần.
Trong những ngày này, cả nước đang hướng về các tỉnh thành phía Nam, nhất là thành phố Sài Gòn, vì ở đó dịch Covid-19 đang bùng phát. Số những người nhiễm bệnh gia tăng nhanh chóng. Người dân phải giãn cách xã hội. Biết bao người nghèo lâm cảnh thiếu thốn khó khăn. Trong cơn hoạn nạn, chúng ta vui mừng chứng kiến những tấm lòng quảng đại san sẻ tinh thần vật chất. Đây là những nghĩa cử đáng trân trọng và làm lan toả yêu thương nơi cuộc sống và trong hoàn cảnh cụ thể của thời dịch bệnh. Chúng ta cám ơn những người đang xả thân phục vụ bất chấp mọi nguy hiểm. Họ là hình ảnh của Chúa Giêsu, đấng chạnh lòng thương xót đối với những người nghèo khổ và đói khát tinh thần cũng như vật chất. Họ đang góp phần làm lan toả giáo huấn yêu thương của Người giữa cuộc sống hôm nay.
“Con người chỉ giống hình ảnh Chúa khi hiến mình liên lỉ, như mỗi Ngôi trong Thiên Chúa là: hoàn toàn hiến dâng, hoàn toàn tương quan, hoàn toàn yêu thương” (Đức Hồng y Nguyễn Văn Thuận ĐHV 606).
Sau một chuyến đi thực tập truyền giáo, các tông đồ trở về tụ họp chung quanh Đức Giêsu. Các ông TN 16-B164
Sau một chuyến đi thực tập truyền giáo, các tông đồ trở về tụ họp chung quanh Đức Giêsu. Các ông hồ hởi kể lại những điều các ông đã làm và đã dạy. Với con tim mục tử, Chúa Giêsu quan tâm đến con người hơn công việc. Ngài biết các ông rất vui nhưng cũng đã mệt, nên dịu dàng nhủ bảo: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Ðức Giêsu muốn các ông tạm dừng lại công việc, để có đôi chút nghỉ ngơi cho thân xác, đôi chút yên tĩnh cho tâm hồn, để hưởng nếm những giây phút thư thái và ấm áp trong tình nghĩa thầy trò, để có thêm năng lực và sự hăng hái cho ngày mai.
Số người mắc bệnh thần kinh ngày nay càng gia tăng. Nguyên nhân chính do là áp lực của công việc, lúc nào người ta cũng phải lo toan tính toán để đạt mục tiêu, đạt kế hoạch… Áp lực công việc gắn liền với những nỗi lo sợ khác: sợ thất bại, sợ thua lỗ, sợ mất danh giá, sợ bị khiển trách, sợ mất việc… Ngoài những nỗi lo sợ đó còn là những ham mê lợi lộc và ham muốn trổi vượt. Tâm trạng đó khiến người ta không dám nghỉ ngơi, cứ phải làm việc liên tục, khiến sức khỏe mau suy kiệt, trí não suy thoái, tinh thần suy giảm, và nhiều thứ suy nhược khác. Hoặc nghỉ ngơi bằng cách tìm đến những cuộc vui chơi, tổ chức ăn uống, hưởng lạc… Làm thế càng mệt mỏi, căng thẳng và tai hại hơn.
Chúng ta cần một chút yên tĩnh mỗi ngày để nghỉ ngơi thật sự, để tìm lại một cõi riêng tư của tâm hồn mình, để trở lại chỗ sâu nhất của lòng mình, để phục hồi và gia tăng sức sống. Cần tìm một chỗ thật yên tĩnh để tôi có thể ngồi lại với tôi, ngồi lại với Chúa, nhất là mỗi tối khi đêm về, mỗi sáng sớm trước khi đi vào ngày sống. Thứ yên tĩnh ta cần là thứ yên tĩnh bên trong, không còn bồn chồn, lo lắng, xôn xao; thứ yên tĩnh tràn đầy hương vị ngọt ngào của tình Chúa tình người.
Khi thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng, thì không ngờ dân chúng đã kéo nhau đến trước nơi mà các ngài định đến. Nhìn thấy đám đông như đoàn chiên bơ vơ không người chăn dắt, khiến Chúa Giêsu cảm động tận cõi lòng. Vì yêu thương nên Ngài đã nhủ bảo họ nhiều điều. Dân chúng đã quá ngán trước những lời giảng dạy của các tư tế và luật sĩ, vì quá khô khan và nặng hình thức, nay gặp thấy Tin Mừng của Chúa vừa đơn sơ dễ hiểu, vừa gần gũi thực tế, vừa chan chứa tình thương nên họ say sưa đón nhận.
Cho dù đang sống giữa một thế giới đầy những lôi cuốn của danh, lợi, thú, con người vẫn cảm thấy cô đơn trống vắng và bơ vơ lạc loài. Bên trong sâu thẳm của lòng người vẫn còn một khao khát vô biên mà không có gì có thể lấp đầy ngoài một mình Thiên Chúa. Chỉ khi trở về trong sự yên tĩnh của lòng mình, người ta mới cảm thấy sự khao khát đó dâng lên. Augustinô sau một thời gian chạy theo danh vọng, tiền tài, khoái lạc, rồi cũng đến lúc chán chường. Một hôm anh chàng cầm theo một quyển sách vào trong khu vườn vắng vẻ, chẳng để ý là sách gì. Đột nhiên, anh nghe vang lên tiếng trẻ con “Hãy cầm lấy mà đọc”. Augustinô ngó xuống thì thấy tay mình đang cầm quyển Thánh Kinh. Chàng mở ra và đọc thấy ngay câu:“Hãy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thoả mãn đam mê của tính xác thịt nữa.” (Gl 5, 16). Câu nói ấy đã khởi đầu cho một cuộc sống mới của thánh Augustinô. Tất cả khởi đầu từ một giây phút yên tĩnh của tâm hồn.
Ước chi các bạn trẻ tìm được cho mình những giây phút yên tĩnh, để từ đó được khơi dậy ước muốn gặp gỡ Chúa Giêsu và khao khát lắng nghe Lời Ngài, nhất là cảm nhận được tình thương Chúa dành rất riêng biệt cho đời mình. Nhờ vậy mà các bạn lấy lại niềm tin, tìm được hướng sống, đồng thời nhận ra vai trò và sứ mạng của mình trong cuộc sống hôm nay. Mỗi ngày cần có những giây phút kề cận bên Chúa, cần tận dụng mọi cơ hội để sống với Chúa một cách thân tình hơn. Ta phải gặp được Chúa từ chính tâm hồn mình, nếu không, có thể mọi việc sẽ trở thành vô nghĩa, cuộc sống sẽ trở nên vô vị, mọi nỗ lực và giải pháp hóa ra vô ích. Gần gũi với Chúa Giêsu, ta trở thành một Giêsu khác cho anh chị em mình, để đem lại an bình và sức sống cho nhau, nhất là an ủi và nâng đỡ những ai đang bơ vơ vất vưởng trên đường đời.
Cầu nguyện
Lạy Chúa! Cuộc sống con vẫn ồn ào náo nhiệt, con vẫn bị mê hoặc bởi cái “tôi”, với những sục sôi nhiều ham muốn.
Con cần trở về trong thinh lặng, để sống với Chúa trong yên bình, để thấy rõ chính mình trong yên tĩnh.
Thiếu thinh lặng để gặp Chúa, tâm con sẽ bồn chồn manh động, và bung xung theo những thói thị phi.
Thiếu yên lặng để nghe Chúa, con sẽ bị cuốn theo phù du thế tục, cũng ham mê những điều phàm tục.
Thiếu trầm lặng để nghỉ ngơi bên Chúa, con sẽ sống như bao người đang sống, dễ vong thân xa lạc với chính mình.
Thiếu tĩnh lặng để kín múc thần lực, con sẽ như muối không còn mặn, như men không còn nồng, như hạt giống vẫn trơ trơ.
Thiếu bình lặng để quy hướng về Chúa, con sẽ luôn hối hả và đon đả, lo chạy tìm những cái trong thiên hạ, cứ ngỡ là vinh hoa, ai ngờ bả phù hoa.
Xin cho con biết quí chuộng thinh lặng, là sự đều đặn mỗi ngày kề bên Chúa, đem lại cho đời con sức sống mới, để thể hiện tình thương với mọi người. nhất là nghững người đang khốn khó.
Con phải làm gì đó cho họ, dù không to nhưng thật lòng biết chăm lo, biết sớt chia những gì mình đang có, là món quà nho nhỏ con cho Chúa mỗi ngày. Amen.
Nhiều người nói rằng: “Dịch bệnh phải ở nhà chán quá!”. Nhưng đại đa số lại vui mừng vì đây TN 16-B165
Nhiều người nói rằng: “Dịch bệnh phải ở nhà chán quá!”. Nhưng đại đa số lại vui mừng vì đây là cơ hội để gia đình gắn kết với nhau, hiểu nhau hơn và chia sẻ công việc với nhau.
Lâu nay người ta coi ngôi nhà như là quán trọ. Quán trọ nghỉ qua đêm hay chỉ ngủ tạm chờ giờ tăng ca. . . Thời gian và công việc vất vả khiến chẳng còn hơi sức hay thời gian quan tâm chăm sóc cho nhau. Mạnh ai nấy sống. Việc ai nấy làm.
Giờ đây, họ có thể cùng làm việc chung với nhau dọn dẹp nhà cửa, cùng nấu ăn, cùng dọn và còn nhiều thời gian hỏi han chia sẻ với nhau.
Đó cũng là lý do nhiều người đang ở giữa tâm dịch nên không được về quê mới thấy nhớ nhà biết bao! Nhiều bạn trẻ hay nhắc nhau câu nói cửa miệng của cha mẹ rằng: “Về nhà có cơm ăn cơm, có rau ăn rau”. Cha mẹ nào cũng sẵn lòng giang rộng đôi tay để mỗi khi cánh chim non lỡ chẳng may gặp khó khăn trên đường đời có phương hướng, có nơi để quay về. Cửa nhà và vòng tay cha mẹ luôn rộng mở là thế.
Bởi dịch Vũ Hán, không còn những cuộc giã ngoại vui chơi hay những lúc ngồi “đồng” bên ly cà phê, những buổi chiều lai rai cùng chúng bạn… nhưng lại là cơ hội thần tiên cho gia đình sum vầy, để qua đó, mỗi người sẽ biết trân quý hơn cuộc sống hiện tại, với những bình yên đang có. Đơn sơ như việc bố mẹ mình còn khỏe. Mẹ mình còn nấu cơm chờ mình mỗi tối đi làm về hay chỉ như một lời nhắc của mẹ: “Nhớ ghép mùng kỹ không muỗi nghe con…”.
Và có lẽ, đây cũng là dịp để chúng ta biết sống chậm, lắng đọng hơn, bình tâm lại… để tình cảm từ đó có dịp chan hòa với những người thân trong gia đình. Sống hun đúc tình thân để mãi gắn kết với nhau và xác tín hơn về gia đình, về một tình yêu chân thành, một động lực cho cuộc sống mà ai cũng cần có để lớn lên thành người.
Bên cạnh tình cảm gia đình mà chúng ta cần hun đúc lại, còn có một mối dây thân tình hơn mà có lẽ lâu nay chúng ta cũng đang sống vội đến nỗi vội đến, vội đi. Đó chính là thời gian riêng tư của chúng ta với Chúa. Một mình ta, một mình Chúa hình như lâu nay không có thời gian, có chăng những cuộc gặp gỡ cũng chóng vánh và không trọn vẹn, vì bản thân chúng ta còn qúa nhiều những bận tâm khác.
Tin mừng hôm nay kể rằng: sau khi các tông đồ ra đi truyền giáo và nay trở về tường trình lại những việc đã làm, Chúa Giê-su đã bảo các ông tìm chỗ vắng vẻ mà nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi trong cầu nguyện. Sống riêng tư thân mật với Chúa. Bởi vì lúc đó người ra kẻ vào rất đông, dân chúng cứ ùn ùn kéo tới nên Chúa Giê-su đã nói với các Tông đồ: “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút”. Và rồi, các ngài đã lên thuyền cùng đi với Chúa để tìm một nơi riêng tư cho tình thầy trò.
Cuộc sống của người tín hữu là sống và làm theo thánh ý Chúa. Thánh ý Chúa thể hiện trong từng công việc, trong từng biến cố xảy ra. Thánh ý Chúa nói qua Lời Chúa và nhất là qua đời sống cầu nguyện riêng tư một mình ta với Chúa. Khi còn một mình ta với Chúa ta mới thấy Chúa đang nói với ta, Chúa đang kêu mời ta dấn thân hay đón nhận những chuyện đang xảy ra.
Như vậy, chúng ta chỉ có thể đón nhận thánh ý Chúa khi chúng ta dành thời gian riêng tư với Chúa, đồng thời, phải trở về với Chúa thì chúng ta sẽ được Chúa bao bọc, nâng đỡ, chở che và giúp sức cho chúng ta vượt qua. Trở về với Chúa ta sẽ thêm sức mạng để đón nhận mọi sóng gió trong cuộc đời.
Như người con trở về với mái ấm gia đình mới cảm nhận được sự bình yên ấm áp trong vòng tay yêu thương của cha mẹ. Xin cho chúng ta đang sống trong môi trường dịch bệnh đầy lo âu, hãy biết tận dụng thời gian này để ở bên Chúa, để cầu nguyện với Chúa, để qua đó ta tìm được giây phút bình an được ở bên nhà Chúa, dầu ngoài kia còn đầy những sóng gió nghi nan nhưng ở bên Chúa ta sẽ mãi mãi bình an, và nhất là sẽ được thêm sức mạnh của Chúa giúp vượt qua.
Xin cho mỗi người chúng ta nhận ra đây là thời gian hồng ân được ở bên gia đình và ở bên Chúa nhờ đó chúng ta được tận hưởng giây phút yên bình bên gia đình và bên lòng Chúa xót thương. Amen
Nghỉ ngơi không phải là xa xỉ, vô bổ, phí thời gian, mà chính là nhu cầu cần thiết cho cơ thể TN 16-B166
Nghỉ ngơi không phải là xa xỉ, vô bổ, phí thời gian, mà chính là nhu cầu cần thiết cho cơ thể con người. Nghỉ ngơi cho cơ thể lại sức, tốt cho sức khỏe và là thời gian cần thiết cho cơ thể xả độc tố trong người. Cơ thể làm việc tái tạo đó trong lúc chúng ta nghỉ xả hơi, và ngay cả trong lúc chúng ta ngủ.
Cuộc sống tâm linh cũng cần nghỉ ngơi. Khác với cơ thể, lúc tâm linh nghỉ ngơi chính là lúc tâm linh liên kết với tình yêu Chúa. Tự tâm linh không thể tái tạo tình yêu mà tâm linh nhận tình yêu từ Thiên Chúa. Vì thế tâm linh nghỉ chính là lúc tâm linh liên kết với Thiên Chúa. Liên kết với Thiên Chúa qua cầu nguyện. Nhờ vào tình yêu Chúa mà tâm linh bài trừ được các dịp tội, đủ sức mạnh chống lại cám dỗ, sửa sai, chỉnh đốn lại con đường tâm linh. Cách đẹp nhất cho một ngày là bắt đầu bằng việc cầu nguyện. Cảm tạ Chúa cho một đêm ngủ yên lành và phó dâng ngày mới cho Thiên Chúa. Xin Chúa cùng đồng hành với ta trong cuộc sống, hướng dẫn tư tưởng, hành động để ta sống, sinh hoạt, làm đẹp lòng Chúa. Cuối ngày làm việc, cần nhìn lại. Xét mình xem ta liên kết với Chúa, với tha nhân ra sao?. Lần này chúng ta không xin ơn gì ngoài ơn thinh lặng. Xin cho tâm hồn lắng đọng để nhìn lại sự việc trong ngày. Nhìn đến mối giây liên kết giữa ta với Chúa, giữa ta với tha nhân. Trước khi ngủ dâng trọn đêm cho Chúa coi sóc, bảo vệ.
Môn đệ Đức Kitô luôn liên tưởng đến hướng dẫn Đức Kitô dặn các ông. Các ông tin tưởng, trung thành với giáo huấn Đức Kitô. Dù Đức Kitô không hiện diện bằng xương thịt, các ông không nhìn thấy Ngài, nhưng các ông tin Ngài hiện diện cách vô hình giữa các ông. Điều này ban cho các ông tâm hồn bình an. Các ông nhận biết Thánh Thần Chúa hoạt động trong đời sống các ông và trong đời sống những ai thành tâm đón nhận lời các ông rao giảng.
Trở về từ cánh đồng truyền giáo, các ông rất mệt nhưng đồng thời rất vui. Vui vì gặp lại Thầy Chí Thánh, vui vì gặp lại các anh em, ai cũng mạnh khoẻ, vui vì công việc truyền giáo thành công rực rỡ. Đức Kitô biết các ông rất mệt, nên Ngài khuyên các ông đi tìm vơi hoang vắng, nghỉ ngơi, lại sức.
Các ông xuống thuyền, đám đông đoán biết nơi các ông sẽ đến, họ đi bộ tới trước các ông. Tông đồ đi thuyền đến chậm có lẽ do mệt mỏi và đói khát làm chuyến hải hành chậm chạp. Đến nơi Thầy trò thấy đám đông dân chúng chờ sẵn trên bờ. Đám đông chào đón Thầy trò cho biết họ có cảm tình nồng hậu với các ông. Đám đông yêu quí các ngài và các ngài yêu mến đám đông. Họ muốn nghe thêm các ông giảng dậy. Phục vụ tha nhân đòi hỏi tinh thần cởi mở, mềm dẻo và uyển chuyển khi cần. Nhiều khi phải đặt thứ tự ưu tiên phục vụ tha nhân trên nhu cầu riêng của cá nhân. Đây chính là một phần của việc tông đồ.
Đức Kitô tỏ lòng thương xót đám đông vì ‘họ như những chiên không chủ chăn’. c.34.
Ngài giảng dậy họ bởi tâm tư Ngài rất yêu mến những ai thành tâm, cởi mở, rộng lòng đón nhận Lời Chúa.
Chúng ta nhận biết Đức Kitô bởi chính Ngài tỏ lòng thương đến chúng ta, và chúng ta chân thành đáp lại lời Ngài mời gọi trở thành con cái Chúa. Chúng ta học từ Đức Trinh Nữ Maria thưa ‘xin vâng’, trung thành bước theo Chúa.
Hôm nay, các tông đồ trở về bên Thầy Giêsu và kể cho Người nghe về hành trình ra đi rao giảng TN 16-B167
Hôm nay, các tông đồ trở về bên Thầy Giêsu và kể cho Người nghe về hành trình ra đi rao giảng Tin Mừng. Thầy lắng nghe từng người trong các ông thuật lại mọi điều các ông đã dạy, mọi việc các ông đã làm. Người bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6, 31).
Thánh sử Máccô cho ta thấy, các tông đồ đã rất bận rộn, đến cả việc ăn uống cũng không có thời gian, vì kẻ lui người tới quá đông. Dù trong lòng rất phấn khởi vì đạt được những thành công ban đầu nhưng các ông đều đã thấm mệt. Thầy trò cùng nhau lên thuyền lánh riêng ra một nơi hoang vắng. Các ông được Thầy quan tâm săn sóc, cùng nhau tìm nơi thanh vắng để lấy lại sức. “Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài” (Mc 6, 33). Thầy trò đã lên thuyền mà người ta vẫn tìm mọi cách để đi theo, dù phải chạy bộ đến mệt lả. Nhìn đám đông dân chúng kéo nhau đi tìm Thầy Giêsu, lòng ta cũng được thôi thúc tìm về bên Người. Lòng yêu mến Chúa thật tâm sẽ giúp ta vượt qua mọi khó khăn.
“Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều” (Mc 6, 34). Dù đã lên chương trình để Thầy trò có thời gian riêng để nghỉ ngơi nhưng vừa nhìn thấy đám đông dân chúng, Thầy Giêsu đã không thể cầm lòng. Người là mục tử nhân lành luôn yêu thương, trái tim Người luôn thổn thức và lo lắng cho từng người. Hiểu được lòng mọi người đang khao khát được nghe những lời giảng dạy, Người dạy dỗ họ nhiều điều. Các môn đệ cũng được mời gọi cộng tác với Thầy trong sứ vụ. Một tình yêu được đong đầy trong trái tim sẽ phải tràn ra để trao ban cho người khác bằng hành động. Yêu thương ai, ta cũng được mời gọi quên mình đi như thế. Có nhiều lúc, ta sốt sắng cầu nguyện, chuyện trò bên Chúa Giêsu Thánh Thể, ta thấy lòng bình an và ngập tràn niềm vui. Khi đứng trước một người đang cần ta giúp đỡ, dù lúc ấy ta có giờ cầu nguyện riêng, ta có vui vẻ để giúp người anh chị em của ta không? Ta có nhận ra cơ hội để trở nên một người Samari nhân hậu ngay lúc ấy không hay ta chỉ muốn nghĩ cho mình, rằng bản thân tôi đang cần được nghỉ ngơi, cần phải cầu nguyện đủ giờ? Nếu không sống từng giây phút đời mình với một con tim tràn đầy tình yêu và biết mở ra với người khác, liệu ta có đến và ở lại với Chúa thật sự không? Ta không chỉ đi vào tương quan với Thiên Chúa bằng việc cầu nguyện nhưng còn phải cùng với Người đến với anh em. Mỗi lần ta để cho Chúa hành động trong ta ngay trong chính những giây phút của ngày sống, đời ta sẽ tràn đầy tình yêu, trái tim và trí tuệ của ta dần được uốn nắm để nên giống Chúa nhiều hơn.
Lạy Chúa Giêsu! Bài học Chúa dạy con thật cụ thể và mạnh mẽ. Chúa lên tiếng mời gọi con hãy yêu thương từ trái tim và biết làm theo sự thôi thúc mãnh liệt của con tim. Chính Chúa đã yêu thương con và dạy dỗ con, chăm sóc và bảo vệ con. Mỗi lần con rước Chúa, xin hãy mở trái tim con để con biết chạnh lòng thật sự, xin thanh luyện tâm trí con để con biết hành động như Chúa: yêu thương đến quên đi chính bản thân mình, coi người khác trọng hơn mình. Chính lúc con yêu thương, con mới trở nên người môn đệ của Chúa. Amen.
Sau khi nghe các học trò hăm hở kể về những thành công của mình trong công việc tông đồ, Đức TN 16-B168
Sau khi nghe các học trò hăm hở kể về những thành công của mình trong công việc tông đồ, Đức Giêsu ôn tồn mời gọi các môn đệ yêu quý của mình: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6, 31). Thầy trò cùng nhau lên thuyền, đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng để nghỉ ngơi. Quả thực, kẻ lui người tới quá đông nên các ngài không còn thời gian ăn uống. Mọi người thấy Thầy trò ra đi thì hiểu ý nên từ khắp các thành, họ theo đường bộ chạy đến trước cả các ngài. Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy đám đông thì chạnh lòng thương. Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều (x Mc 6, 30- 34).
Chúng ta hãy tưởng tượng cảnh đám đông dân chúng lũ lượt chạy đến với Chúa. Họ chạy. Có thể họ sợ mất dấu của Người. Trong cuộc sống, đã bao giờ chúng ta sợ mất dấu của Chúa không? Nếu chúng ta không tìm kiếm Chúa, không đến với Người nhưng để cho bao đam mê kéo ghì mình xuống và đánh mất cảm thức về tội, thì chúng ta sẽ mất dấu của Chúa dù Người vẫn đồng hành cùng chúng ta. Con người luôn có những nhu cầu về vật chất cũng như tinh thần. Thầy Giêsu và các môn đệ cũng vậy. Các ngài có nhu cầu nghỉ ngơi, cầu nguyện cùng Chúa Cha sau những ngày làm việc vất vả. Đã đến lúc các ngài cần quan tâm, dành một chút thời gian cho bản thân. Đám đông dân chúng cần đến Thầy Giêsu và các môn đệ. Họ cần được quan tâm, được trừ quỷ, chữa lành, và được giảng dạy. Dường như nhu cầu của ai cũng cần thiết và quan trọng. Trong cuộc sống, có thể có những lúc chúng ta sẽ chọn cách thỏa mãn nhu cầu của bản thân, của nhóm mình hơn là nghĩ đến nhu cầu của người bên cạnh. Đức Giêsu là mục tử đích thực khi Ngài chạnh lòng thương lo cho đám đông dân chúng khi họ chạy đến với mình. Các môn đệ cũng theo Thầy mà làm như vậy.
Đối với Thầy trò Đức Giêsu, lúc này, các ngài không còn nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, để nghĩ đến mình nữa nhưng là một con tim mở rộng đến với mọi người. Không ai trong các môn đệ hỏi Thầy về chuyện “nghỉ ngơi đôi chút”. Thực ra ban đầu, không phải tất cả các môn đệ đều cảm thấy dễ chịu khi nhìn thấy đám đông dân chúng. Nếu đọc tiếp Tin Mừng, chúng ta sẽ thấy thánh sử Máccô còn kể cho chúng ta về phản ứng của các môn đệ khi Thầy Giêsu yêu cầu các ông: “Chính anh em hãy cho họ ăn đi” (Mc 6,37). Các ông trả lời: “Chúng con phải đi mua tới hai trăm quan tiền bánh mà cho họ ăn sao?” (Mc 6,37). Trong hoàn cảnh đó, có thể chúng ta cũng sẽ có những phản ứng như các môn đệ. Thầy bảo chúng con đi nghỉ ngơi đôi chút nhưng sao bây giờ chúng con lại phải lo cho đám dân này? Sau đó, các ông cộng tác với Thầy để lo cho đám đông dân chúng.
Cơn đại dịch Covid không những không kết thúc mà ngày càng lan rộng. Cuộc sống của chúng ta bị đảo lộn. Ngay cả những nhu cầu về lương thực thực phẩm của chúng ta cũng bị giới hạn. Không phải chúng ta không có tiền để mua những nhu yếu phẩm ấy nhưng vì nhiều lý do như giãn cách xã hội, không có thực phẩm để mua bán… Trong hoàn cảnh đó, khi “lướt” trên những trang mạng, chúng ta không khỏi cảm động khi bắt gặp những hình ảnh của các y bác sĩ, các nhân viên y tế, của các tình nguyện viên và của biết bao tấm lòng đẹp mỗi ngày đang gồng mình và có khi kiệt sức để lo cho các bệnh nhân, cho mọi người đang cần được giúp đỡ. Vẫn còn đó những con người biết quên mình để lo cho người khác. Thiết nghĩ, họ là những Giêsu hữu của ngày hôm nay. Có thể có những người trong số họ chưa được rửa tội nhưng lối sống của họ cách nào đó phản ảnh sự hiện diện của Thiên Chúa tình yêu. Họ cần được nghỉ ngơi đôi chút nhưng khi thấy đám đông dân chúng đang quằn quại trong dịch bệnh, họ đứng lên và tiếp tục phục vụ đến quên mình.
Lạy Chúa! Chúng con cám ơn Chúa đã luôn đồng hành cùng chúng con. Xin Chúa đoái thương nhìn đến nhân loại chúng con đang trong cơn khủng hoảng của dịch bệnh. Xin Chúa ban ơn giúp sức cho chúng con để dù trong những khó khăn thử thách, chúng con luôn biết sống yêu thương, quên mình, biết nghĩ đến người khác. Để chúng con cùng dìu dắt nhau bước qua mọi khó khăn thử thách trong niềm tin trong vào Chúa. Amen.
Lúc này đây, trên toàn thế giới, nhất là tại Việt Nam, mọi người đang phải oằn mình và mệt TN 16-B169
Lúc này đây, trên toàn thế giới, nhất là tại Việt Nam, mọi người đang phải oằn mình và mệt mỏi để chống chọi với Đại Dịch Vũ Hán. Tình hình diễn biến Đại dịch ngày càng gia tăng con số nhiễm bệnh và tử vong. Điều này làm cho con người không những thiếu thốn đủ mọi thứ: ngoài việc phải ngưng nghỉ công việc, nhu yếu phẩm ít ỏi, bệnh viện hết chỗ cho các bệnh nhân F0, lương thực thực phẩm sẽ thiếu hụt trong nay mai,…mà mỗi người đang phải sống trong trạng huống hoang mang, lo sợ, chán nản và mất hết tinh thần. Trong bối cảnh này, là người tín hữu, chúng ta chỉ biết chạy đến với lòng thương xót của Thiên Chúa để xin Ngài thương đến nhân loại, nhất là những nơi đang bị dịch bệnh hoành hành và nếu đẹp ý Ngài, xin Ngài mau chấm dứt cơn Đại dịch gớm giếc này hầu mọi người trở lại cuộc sống bình an và hạnh phúc. Trong nhãn quan đức tin, chúng ta tin rằng hơn bao giờ hết Thiên Chúa ngang qua Đức Giê-su Ki-tô cũng đang nhìn thấy cảnh lầm than khốn khổ của con người và Ngài cũng đang chạnh lòng thương tới hết thảy chúng sinh. Chúa nhật 16 thường niên B hôm nay như lời trấn an cho mỗi chúng ta đang sống trong bối cảnh này. Chính Đức Giê-su đã chạnh lòng thương khi thấy dân chúng đông đúc như đàn chiên không có người chăm sóc. Hôm nay, Ngài cũng đang chạnh lòng thương mỗi chúng ta khi chúng ta đang đối diện với gian nan khốn khổ bởi Đại dịch Covid-19 này.
Quả thật, Thiên Chúa là tình yêu. Là Thiên Chúa toàn năng, toàn thiện, toàn mỹ, Ngài luôn mong muốn cho con người được sống và được hạnh phúc luôn mãi. Nên, Ngài đã có nhiều phương cách để giúp con người đạt tới ơn cứu độ, qua việc dùng các trung gian đến an ủi, chăm sóc, và nâng đỡ con người khi con người gặp tai ương hoạn nạn. Ngài là Mục tử nhân lành luôn mong cho đàn chiên của mình luôn được ấm no và đông đủ. Nơi Bài đọc I đã minh định điều đó: “Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng; chúng sẽ sinh sôi nảy nở thật nhiều. Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng; họ sẽ chăn dắt chúng.” (Gr 23, 3-4). Chính Thiên Chúa ngang qua Đức Giê-su đã thi thố tình yêu kỳ diệu của Ngài trên dân Ngài. Thiên Chúa vô hình được hiện diện hữu hình nơi Ngôi Lời Nhập Thể để chạnh lòng thương trong mọi hoàn cảnh và đối với tất cả mọi người. Ngài gặp người mù, người mù được sáng vì Ngài yêu thương. Ngài gặp kẻ bại liệt, kẻ ấy liền đứng dậy vác chọng mà đi nhờ quyền năng yêu thương của Thiên Chúa nơi Đức Giê-su. Ngài gặp người phong cùi, vì yêu thương, Ngài không xa lánh nhưng gần gũi và đụng chạm lấy anh ta, cuối cùng anh ấy được khỏi bệnh. Ngài yêu thương người cha của đứa con gái vừa mới chết và xác nhận niềm tin chắc chắn của người cha để rồi đứa con được cứu sống. Vì tin vào quyền năng của Đức Giê-su và tình yêu chữa lành của Thiên Chúa, người đàn bà bị băng huyết 12 năm đã được khỏi bệnh.
Hơn nữa, chạnh lòng thương nơi Đức Giê-su khi Ngài thực sự nhìn thấy đám đông như bầy chiên không người chăm sóc. (Mc 6, 34). Sự lưu tâm và để ý đến thân phận con người, vì con người là hình ảnh của Thiên Chúa. Không thể không chạnh lòng thương đối với con người được, vì bản chất của Thiên Chúa là Tình yêu. Mà vì yêu nên “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Một khi đã được ban cho con người vì tình yêu, Đức Giê-su không thể không thực thi tình yêu, không thể không chạnh lòng thương đối với con người. Vì thế, nhìn thấy con người gặp đau khổ và gian nan, là đương nhiên Đức Giê-su phải biểu lộ sự cảm thông và sự quan tâm ngay mà không chần chừ và lưỡng lự.
Đặc biệt đối với những kẻ bé mọn, những kẻ khiêm nhường, những kẻ nghèo đói, bệnh hoạn tật nguyền, những kẻ bị loại ra khỏi lề xã hội, những người tội lỗi, Chúa Giêsu càng phải chạnh lòng thương họ hơn bao giờ hết. Vì Ngài đã phán: “Ta đến không phải để kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn.”(Lc 5,32). Ngài chạnh lòng thương khi thấy họ vất vả, mang gắng nặng nề. Ngài chạnh lòng thương họ khi mời họ hãy mang lấy ách của Ngài và hãy học lấy sự hiền lành cũng như sự khiêm nhường của Ngài. (x. Mt 11,28-30). Ngài chạnh lòng thương khi dân chúng sai đường lạc lối và mong muốn họ hãy đi theo Ngài vì Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. (x.Ga 14,6). Ngài chạnh lòng thương khi thấy các môn đệ buồn bã, thất vọng sau khi mất Thầy, Ngài đến đồng hành, an ủi, trấn an, giải thích Lời Chúa và cùng bẻ bánh với họ. (x.Lc 24,13-35). Ngài chạnh lòng thương các môn đệ khi các ông vất vả cả đêm mà không bắt được con cá nào và Ngài đã cho thu được những mẻ cá lạ lùng. (x.Lc 5,1-11). Ngài chạnh lòng thương khi các môn đệ phải đi ngược gió khi lái thuyền và Ngài đã làm cho gió yên biển lặng. (x.Mt 8,23-27). Ngài chạnh lòng thương khi các môn đệ bỏ thầy mà đi khi thầy bị bắt. Ngài chạnh lòng thương đối với Phêrô, khi chối thầy ba lần và ánh mắt nhân từ cũng như tha thứ của Ngài đã làm cho Phêrô khóc lóc ăn năn. (x.Lc 23,61-62)
Ngoài ra, Đức Giê-su còn chạnh lòng thương đối với những thành đã được nghe lời giảng cũng như chứng kiến các phép lạ mà không chịu ăn năn hối cải.(x.Mt 11,20-24). Ngài chạnh lòng thương đối với dân làng, quê hương khi không đón nhận Ngài.(x.Lc 4,24-30). Ngài chạnh lòng thương đối với những người cứng đầu cứng cổ không chịu tin vào Ngài. Ngài chạnh lòng thương và sẵn sàng tha thứ cho những kẻ đóng đinh Ngài. (x.Lc 23,34) Ngài chạnh lòng thương khi trao ban Đức Mẹ cho thánh Gioan và trao Gioan cho Đức Mẹ.(x.Ga 19,25-27). Ngài chạnh lòng thương đối với nhân loại khi sẵn sàng chịu chết trên cây Thập giá. (x.Mt 26,36-46). Ngài chạnh lòng thương khi trao ban Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ cho nhân loại. (x.Ga 14,15-21). Ngài chạnh lòng thương khi trao Mình Máu của Ngài cho con người để con người được sống đời đời. (x.Ga 6,41-51). Ngài chạnh lòng thương nên không muốn cho nhân loại mồ côi. Ngài chạnh lòng thương nên Ngài sẵn sàng dạy dỗ họ trong mọi nơi mọi lúc. Ngài chạnh lòng thương nên Ngài không nghĩ cho riêng mình nhưng trao ban tất cả cho muôn người.
Thật vậy, thay vì tìm nơi để Thầy trò nghỉ ngơi nhưng không, vì thương đám đông như đoàn chiên không người chăn dắt nên Thầy trò lại tiếp tục giảng dạy Lời Chúa cho họ. (x.Mc 6,34). Họ tìm đến với Chúa Giê-su vì họ đang khát Lời Chúa và sự bình an. Tình yêu nơi Thầy Giê-su không ngưng nghỉ nhưng là luôn luôn sẵn sàng trao ban ở mọi nơi mọi lúc miễn sao cho con người được sống và sống dồi dào.(x.Ga 10,10). Ngài chạnh lòng thương khi biết nối kết sự hiệp nhất như Thánh Phaolô đã khẳng định trong Bài đọc 2: “Thật vậy, chính Người là bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do-thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét. Người đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật. Như vậy, khi thiết lập hoà bình, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người. Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét.” (Ep 2,14-16).
Quả thật, cho dù Đức Giê-su là hình ảnh chạnh lòng thương của Thiên Chúa ở với nhân loại, nhưng Ngài vẫn chờ đợi sự đáp trả của con người. Vì thế, Thiên Chúa luôn luôn tôn trọng tự do của con người. Ngài luôn chạnh lòng thương nhưng con người có đón nhận được hay không là tuỳ thuộc vào sự cộng tác của con người. Như dân chúng trong Tin mừng hôm nay đã tìm gặp Đức Giê-su bằng mọi cách mà không ngại khó ngại khổ, kết quả là họ đã được Đức Giê-su tiếp nhận và được lắng nghe những lời giảng dạy đầy bình an của Ngài. Như vậy, ân sủng và lòng thương xót của Thiên Chúa ngang qua Đức Giê-su chỉ đến được với con người khi con người khiêm tốn nhận ra sự thiếu thốn của mình và nỗ lực tìm kiếm. Tôi có thực sự được Chúa chạnh lòng thương không? Tôi đang ở trong tình trạng nào để đón nhận tình yêu của Thiên Chúa: khiêm tốn tìm gặp Chúa hay kiêu căng loại trừ Chúa ra khỏi cuộc đời?
Nhóm thứ nhất gồm những người chỉ hấp thụ các loại thực phẩm vật chất như cơm bánh, rượu bia TN 16-B170
Nhóm thứ nhất gồm những người chỉ hấp thụ các loại thực phẩm vật chất như cơm bánh, rượu bia… mà không tiếp nhận lương thực tinh thần lành mạnh như sách báo tốt, những lời khuyên dạy khôn ngoan…
Nhóm thứ hai gồm những người thường xuyên hấp thụ lương thực tinh thần lành mạnh như là học hỏi điều hay điều tốt, trau dồi nhân đức và thực hành những giáo huấn của Chúa Giê-su và các bậc thánh hiền.
Kết quả là trong số những người thuộc nhóm người thứ nhất, vì chỉ hấp thụ lương thực vật chất mà không biết đến lương thực tinh thần lành mạnh, nên họ ứng xử như những người thiếu văn hóa, phẩm chất của họ xuống cấp, tư cách của họ sa sút… vì thế, họ thường bị người đời xem thường, khinh dể; còn nhóm thứ hai, nhờ hấp thụ lương thực tinh thần cao quý nên họ tạo cho mình tư cách đáng trọng, tác phong đáng nể và có nhiều phẩm chất cao đẹp được mọi người quý trọng và yêu thương.
Các loài thú chỉ cần thức ăn vật chất: trâu, bò, dê, cừu … chỉ cần ăn rơm, rạ, cỏ, lá; con heo cần cám; gà vịt chỉ cần bắp lúa là xong…
Trong khi đó, con người thì khác. Ngoài thực phẩm thông thường là cơm bánh, con người còn cần đến thức ăn thứ hai, rất cần thiết, rất quan trọng… Đó là những lời răn dạy khôn ngoan, những giáo huấn lành mạnh… có khả năng làm cho họ ngày càng văn minh, tiến bộ, tốt lành. Như thế, lương thực tinh thần lành mạnh là điều tối cần mà mỗi người phải tiếp nhận không thể bỏ qua.
Nếu con người chỉ dùng lương thực vật chất mà thôi thì con người không hơn gì thú vật và sẽ gây ra nhiều thảm họa cho thế giới.
Do đó, Chúa Giê-su dạy rằng: “Người ta không chỉ sống bằng cơm bánh mà còn bằng Lời Chúa nữa.[1]”
Chính vì thế, khi “Chúa Giê-su thấy một đám người rất đông tuôn đến với Ngài, thì Ngài chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt” và Ngài tỏ lòng thương xót bằng cách “dạy dỗ họ nhiều điều.[2]”
Tiếc thay, nhiều người không màng đến lương thực tinh thần mà chỉ quan tâm đến lương thực vật chất. Nếu các nhà hảo tâm hoặc các tổ chức từ thiện phân phát cơm bánh, thực phẩm miễn phí mỗi ngày thì sẽ có rất đông người đến nhận, còn nếu chỉ trao tặng sách quý, báo chí lành mạnh, sách dạy làm người hay dạy sống đạo mà thôi… thì chỉ có ít người quan tâm.
Noi gương Chúa Giê-su, nếu chúng ta thực lòng yêu mến người khác, thì không chỉ giúp họ lương thực nuôi xác mà còn trao tặng cho họ lương thực nuôi hồn, đó là những lời khuyên dạy khôn ngoan, là những hướng dẫn đạo đức, là những gương lành việc tốt… vì đây là thứ làm cho họ trở nên những người có phẩm chất cao hơn, văn minh và tiến bộ hơn.
Cha mẹ thương con thì không chỉ lo cho con được no cơm, ấm áo… mà còn lo khuyên dạy con cái nên người trưởng thành, giúp cho con được học tập tốt và trau dồi nhân đức.
Bạn bè thương nhau thì không quên trao tặng cho nhau những lời khuyên mang lại lợi ích thiết thực, giúp nhau thăng tiến trên đường nhân đức.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho chúng con đừng mải mê kiếm tìm lương thực nuôi xác mà không dành thời giờ tìm kiếm lương thực nuôi hồn. Xin cho chúng con thường xuyên hấp thụ Lời Chúa là kho tàng lương thực tinh thần phong phú mang lại niềm vui, sự sống và hạnh phúc đời đời cho chúng con. Amen.
---------------------- [1] Mát-thêu 4,4 [2] Mc 6,34
Tin Mừng Chúa nhật tuần trước kể chuyện: Chúa Giêsu sai các môn đệ ra đi truyền giáo. Trang Tin TN 16-B171
Tin Mừng Chúa nhật tuần trước kể chuyện: Chúa Giêsu sai các môn đệ ra đi truyền giáo. Trang Tin Mừng hôm nay kể tiếp: các học trò trở về. Anh em vui mừng kể cho Thầy nghe kết quả những việc đã làm. Ngài chia sẻ niềm vui với các môn sinh và khuyên nhủ : “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Tập nói rồi bây giờ phải tập im lặng. Để duy trì mức độ thăng bằng trong cuộc sống, Đức Giêsu dạy các tông đồ về sự cần thiết của việc nghỉ ngơi. Đó là nhịp sống của Đức Giêsu từ ngày đầu ở Caphanaum (x.Mc 1,35-38).
Chúa Giêsu mẫu gương thinh lặng
Chúa Giêsu khuyên các môn sinh hãy sống theo gương của Người. Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu với khởi đầu là cầu nguyện và kết thúc trong tĩnh lặng riêng tư với Chúa Cha.Sáng sớm tinh mơ, Người dành thời gian đẹp nhất một ngày mới để cầu nguyện cùng Chúa Cha. Sau đó bận rộn với biết bao công việc: rao giảng và chữa lành thể xác tâm hồn cho con người. Chúa Giêsu thích sự cô tịch và tránh xa đám đông. Người chọn những nơi hiện diện: “Một ngọn núi cao riêng biệt” (Mc 9,2); những bờ dốc thẳng bao quanh hồ phía đồi Gôlăng (Mc 5,1); những bãi biển Phênixi xứ Xyria hay xứ Libăng (Mc 7,24-31); đôi bờ của con thác miền núi gần nguồn sông Giođan dưới chân núi Hécmon (Mc 8,27)…
Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu tạo nên khuôn mẫu cho tất cả các môn sinh trong cuộc sống thường ngày.
Các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, hoạt động cứu độ con người. Các môn đệ trở về, Chúa khuyên nên nghỉ ngơi trong cầu nguyện. Làm việc và cầu nguyện, sống “nội tâm” và hoạt động “bên ngoài”, đó là nhịp sống mỗi ngày của người môn đệ Chúa Giêsu.
Môn đệ nghỉ ngơi bên Chúa
Thiên Chúa sau sáu ngày làm việc để tạo dựng trời đất và con người, ngày thứ bảy Ngài cũng nghỉ ngơi và còn “ban phúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hoá ngày đó, vì ngày đó Người đã nghỉ, ngưng làm mọi việc sáng tạo”( St 2,3)
Con người làm việc để mưu sinh cho mình và mưu ích cho xã hội. Nghỉ ngơi là một nhu cầu cần thiết cho cuộc sống của mỗi người. Nhưng phải nghỉ ngơi như thế nào? Có phải là chè chén say sưa, là hưởng thụ cho thỏa thích?
Thấy các môn đệ vất vả mệt nhọc sau những ngày làm việc, Chúa Giêsu muốn cho các ông “nghỉ ngơi đôi chút”; và thế là “thầy trò đã xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng”. Nghỉ ngơi nơi thanh vắng để cầu nguyện và suy gẫm, bồi bổ tâm hồn, bồi dưỡng thân xác.
Những giây phút bên Chúa giúp chúng ta trút bỏ những mệt mỏi và lo toan trong cuộc sống.Nghỉ ngơi bên Chúa để chúng ta biết vươn tới những giá trị cao cả, để khỏi bị cuốn theo dòng chảy của cuộc sống.Nghỉ ngơi bên Chúa để đón nhận được tình thương của Người vì có những giờ phút thinh lặng con người mới nhìn thấy được những sai lầm, thiếu sót của bản thân mình. Nghỉ ngơi bên Chúa như chiếc xe sau chặng mỗi chặng đường cần dừng lại để tiếp nhiên liệu.
Như Chúa Giêsu khuyên các tông đồ tìm nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, các giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân thời nay cũng cần tìm thời giờ yên tĩnh, tìm bầu khí thanh tịnh – ngưng nói, ngưng làm – để ở một mình, hầu có thể lắng nghe tiếng Chúa và cũng lắng nghe tiếng lòng mình. Chúa thường nói với ta trong thinh lặng. Và chỉ trong thinh lặng ta mới có thể dễ dàng nghe tiếng Chúa hầu có thể thẩm định và đánh giá xem công việc đạo đức ta làm có bị Chúa dùng lời ngôn sứ Giêrêmia trong bài đọc một hôm nay mà cảnh giác chăng (Gr 23,1-6)?
“Nghỉ ngơi bên Chúa”, qua lời khuyên ấy, Chúa cho chúng ta biết sự cần thiết và ích lợi của hồi tâm, thinh lặng suy nghĩ để tâm hồn bình an. Chúa Giêsu chính là sự bình an của chúng ta. Thánh Phaolô đã nói về chân lý này trong bài đọc hai: “Người đã đến loan Tin Mừng bình an: Bình an cho anh em là những kẻ ở xa và bình an cho những kẻ ở gần”. Chúng ta chỉ có thể kiến tạo cho mình sự bình an chân thật, khi biết lui vào trong thanh vắng để nghỉ ngơi. Đó không chỉ là sự nghỉ ngơi thân xác, mà còn là sự tĩnh lặng tâm hồn để sống kết hiệp với Chúa luôn mãi.
Thinh lặng để sống nội tâm
Lắm khi trong cuộc sống xô bồ, bận rộn vì cơm áo gạo tiền, bận rộn trong việc đạo đức, lo tập hát, lo đoàn thể, lo các công việc bác ái, xã hội…chúng ta quên đi việc “nạp năng lượng” từ Thiên Chúa.
Ðời sống tâm linh phải được nuôi dưỡng bồi bổ để phát triển. Chúa chính là nguồn mạch đời sống thiêng liêng. Những giờ phút riêng tư thân mật bên Chúa sẽ giúp cho đời sống tâm linh phát triển. Nhờ cầu nguyện, con người mới phát triển quân bình.
Làm việc và cầu nguyện đó là hai nhu cầu của con người. Làm việc để nuôi thân, nuôi gia đình và góp phần xây dựng xã hội.Ðời sống cầu nguyện hỗ trợ cho hoạt động bên ngoài. Nếu chỉ hoạt động bên ngoài, con người sẽ không khác gì máy móc. Nếu chỉ biết phát triển đời sống thân xác, con người sẽ trở thành nô lệ cho vật chất. Nếu chỉ quan tâm tới những nhu cầu vật chất, con người sẽ dễ bị tha hoá, đuổi theo tiền bạc, chạy theo chức quyền. Cầu nguyện giúp nâng tâm hồn lên khỏi nô lệ vật chất. Những giây phút yên lặng bên Chúa giúp ta định hướng cuộc đời. Ánh sáng Lời Chúa giúp ta nhìn rõ tâm hồn mình, biết rõ những sai sót của mình mà sửa đổi. Những lời chỉ dạy của Chúa là những chuẩn mực đạo đức giúp ta sống ngay thẳng, thật thà, lương thiện. Ơn Chúa ban sẽ cho ta sức mạnh để hoạt động tích cực hữu hiệu hơn, để hăng hái dấn thân hơn nữa trên đường phục vụ anh em.
Các xã hội văn minh, các đô thị luôn chạy theo nhịp sống hối hả của kỹ thuật hiện đại. Con người thời nay dễ bị căng thẳng. Do đó, người ta thường tìm đến với Yoga,Thiền, với các phương pháp dưỡng sinh để tìm sự quân bình, tìm yên tĩnh, muốn trầm lắng nội tâm.
Vào mùa hè, người ta thường tạm nghĩ công việc, rời nếp sống đô thị náo nhiệt tìm đến nghĩ ngơi nơi vùng quê, miền biển, miền núi. Nô đùa cùng sóng biển cát vàng, hít thở khí trời dịu mát của cao nguyên lộng gió hay hoà vào khung cảnh thanh bình êm ả của đồng quê bát ngát lúa chín vàng… Bầu khí yên tĩnh, thời gian trầm lắng là điều rất cần thiết cho con người. Thân xác nghĩ ngơi, tinh thần thư giãn, trí óc sáng suốt. Từ đó, nhìn lại cuộc sống mình, kiểm điểm, rút ưu khuyết, định hướng cho cuộc sống sắp tới.
Trong lãnh vực tông đồ, thinh lặng cầu nguyện thật cần thiết. Làm việc tông đồ là làm việc của Chúa. Cầu nguyện để biết rõ ý Chúa, biết việc phải làm. Cầu nguyện để múc lấy sức mạnh của Chúa giúp chu toàn công việc. Cầu nguyện để biết khiêm nhường luôn coi mình là dụng cụ trong bàn tay Chúa. Chỉ khi làm việc trong Chúa, với Chúa và vì Chúa, việc tông đồ mới có kết quả tốt đẹp theo ý Chúa muốn.
Làm việc phải là kết quả của những giờ suy nghĩ và cầu nguyện. Điều kiện tiên quyết để thành công chính là sự thinh lặng. Từ thinh lặng ta mới có thể nuôi dưỡng những suy tư của mình một cách lâu dài được. Bầu khí thinh lặng giúp ta hồi tâm xét mình thực thi sám hối cách đúng mức. Bầu khí thinh lặng còn giúp cho người khác sống tinh thần cầu nguyện.
Người Kitô hữu yêu quý những giây phút thinh lặng trong tâm hồn, yên tĩnh ngọt ngào bên Chúa. Người Kitô hữu tìm thấy sự thinh lặng thánh ấy trong nhà thờ, trong những giây phút cầu nguyện và ngay trong tâm hồn mình. “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2). Thinh lặng, cầu nguyện chiêm niệm, hồi tâm luôn mang lại sức sống thiêng liêng cho mỗi người.
Sau một tuần lao động vất vả, chúng ta có ngày Chúa nhật để nghỉ ngơi thể xác và tâm hồn. Đến Nhà thờ để gặp gỡ Chúa Giêsu trong Thánh lễ mà “nghỉ ngơi đôi chút”, đón nhận giáo huấn của Ngài, được “nâng đỡ bổ sức” cho năng lượng tâm linh một tuần lễ mới. “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Ngài thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi. Ngài hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi, Ngài lo bồi dưỡng” (Tv 22,1)
Trong Tông thư về ngày Chúa nhật gửi toàn thế giới ban hành 31-5-1998, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II nhắc lại: Chúa nhật là ‘ngày của Chúa’; Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày và Chúa nghỉ ngơi một ngày. Chương hai bàn về ngày Chúa nhật là ngày của Đức Kitô, ngày Chúa phục sinh, ngày vui mừng. Chương ba nói về ‘ngày của Giáo hội’. Giáo hội có bổn phận thánh hoá ngày Chúa nhật bằng cách nhắc nhở và khuyến khích giáo dân đi dâng lễ thờ phượng, làm việc từ thiện bác ái và nghỉ ngơi.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy các tông đồ về sự cần thiết của việc nghỉ ngơi sau những ngày giờ làm việc vất vả. Xin giúp thánh hoá công việc con làm và dạy con biết tìm giờ nghỉ ngơi hầu cho thể xác và tinh thần được thanh thoả và cũng dành thời giờ cầu nguyện với Chúa để cho tâm hồn được thư thái lắng đọng. Amen.
Thế giới thực sự mệt mỏi ròng rã gần hai năm trời với con virus Covid-19. Nó đã cướp đi biết TN 16-B172
Thế giới thực sự mệt mỏi ròng rã gần hai năm trời với con virus Covid-19. Nó đã cướp đi biết bao sinh mạng, để lại hậu quả nặng nề trên mọi lãnh vực. Đây thực sự là cuộc khủng hoảng toàn cầu. Tạ ơn Thiên Chúa đã cho các nhà khoa học tìm ra được nhiều loại vaccine để chống lại con virus khủng khiếp này. Khi tiêm vaccine này, người ta hy vọng cuộc sống của con người sớm trở lại bình thường mới. Đó là giải pháp duy nhất trong lần đại dịch này.
Trong đời sống thiêng liêng thì sao? Nếu bệnh tật, tội lỗi và thế lực ma quỷ không mệt mỏi tấn công đời sống tâm linh của mỗi người, thì mỗi người chúng ta cũng cần được nhận “vaccine” để chống lại chúng. Vaccine này chúng ta tạm gọi là “vaccine thiêng liêng”. Khi được tiêm chủng vaccine Covid-19, cơ thể sẽ được cung cấp tế bào lympho T “ghi nhớ”, cũng như tế bào lympho B sẽ ghi nhớ cách chống lại virus Covid trong tương lai. Nhờ khả năng ghi nhớ này, nếu virus Covid xâm nhập vào cơ thể, hệ miễn dịch của chúng ta sẽ nhận ra và chống lại tác nhân gây bệnh nhanh chóng và hiệu quả để bảo vệ cơ thể. Cũng vậy, để chống lại mầm bệnh trong đời sống thiêng liêng, người ta cũng cần khả năng nhận diện và ghi nhớ để chống trả lại mưu mô của ma quỷ.
Thực ra bài Tin Mừng Chúa Nhật 16 thường niên hôm nay[1] có thể cho chúng ta những chỉ dẫn để nhận được vaccine thiêng liêng một cách hiệu quả. Vaccine này đòi người ta phải lánh riêng ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi. Đây không phải là cách ly hoặc giãn cách xã hội. Thay vào đó, khi một mình với sự thinh lặng, thư thái và nguyện cầu, tâm hồn người ta dễ gặp được Thiên Chúa hơn. Chính trong bầu không khí này, người cầu nguyện cũng nhận được những kinh nghiệm thiêng liêng quý giá. Từ kinh nghiệm thiêng liêng này, người ta có khả năng ghi nhớ những ân huệ Chúa ban, nhớ những bài học Chúa dạy để chống lại nhiều cám dỗ của phận người. Kinh nghiệm ấy thực sự là vũ khí mạnh mẽ để khi về lại với cuộc sống xô bồ, người ta biết cách để tâm hồn mình không mắc những thứ bệnh thường có, cũng dễ lây lan, chẳng hạn như: căng thẳng, lo âu, tức giận, sợ hãi, thất vọng, nóng nảy, kém tin, trầm cảm, cô đơn, vô vọng, v.v.
Cụ thể, chúng ta thấy bài Tin Mừng hôm nay kể về câu chuyện các môn đệ vất vả trở về sau nhiều ngày giúp đỡ người dân. Đức Giêsu rất tâm lý khi đề nghị họ nghỉ ngơi để lấy lại sức. Trong lúc nghỉ ngơi, họ có giờ để hồi tưởng lại những gì mình đã làm, đã dạy. Họ cũng có thể rút ra được những kinh nghiệm, bài học bổ ích cho những việc làm tiếp theo. Thế là họ lên đường từ bờ bên này của hồ Galilê sang bờ bên kia. Dân chúng thấy thầy trò lên đường, thì chạy dọc theo đường bộ để mong nhận được trợ giúp. Lý do là dân chúng rất háo hức được gặp thầy Giêsu và các môn đệ. Phải chăng họ đang cần một loại vaccine là Lời Chúa và sự yêu thương của Ngài? Dẫu sao chúng ta thấy họ chạy trước, đón đầu để mong gặp bằng được Đức Giêsu!
Vậy là con thuyền nhẹ nhàng tiến về phía bên kia bờ hồ. Đang định bước lên bờ tìm chỗ nghỉ ngơi, chính Đức Giêsu thấy đoàn người đông đảo đang chờ ở trên bờ. Lúc này Đức Giêsu chạnh lòng thương xót họ, nghĩa là Ngài xót xa trước nỗi bất hạnh của người ta, và chính Ngài muốn làm điều gì đó giúp họ. Thực vậy, những người trên kia đang bơ vơ, họ như bầy chiên không người chăm sóc. Câu chuyện Tin mừng cho thấy Đức Giêsu ở với họ trong nhiều giờ, giảng dạy cho họ nhiều điều, đưa vào tâm hồn họ những “vaccine” của sự sống, tình yêu và tình người. Dĩ nhiên, các môn đệ cũng ở lại chốn này. Dẫu sao nơi đâu có Đức Giêsu ở đấy cũng là chốn nghỉ ngơi an toàn và bổ ích.
Trở lại cuộc sống hiện nay, tiếc là rất nhiều người chưa để tâm đến kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa[2]. Thật thú vị khi Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI chia sẻ rằng: “Khởi đầu cho cuộc sống Kitô hữu không phải là một quyết định đạo đức hay một tư tưởng vĩ đại, nhưng là sự gặp gỡ với một biến cố với một Con Người, Đấng đem lại cho đời sống chúng ta một chân trời mới và từ đó một định hướng dứt khoát.”[3] Nếu thiếu trải nghiệm gặp gỡ này, khi khủng hoảng hoặc cám dỗ đến, nhiều người không có “vaccine” của Chúa để chống lại. Vì lý do nào đó mà họ ngại ngùng không đón nhận tin Mừng, hững hờ với những bài học của Thiên Chúa. Tệ hơn, họ loại Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời mình. Khi những con virus của tội lỗi, của hận thù và sự chết ập đến, họ choáng váng không biết chống đỡ làm sao. Trong ý hướng này, thật tốt để chúng ta làm bạn với Thiên Chúa, cố gắng am tường những bài học và chỉ dẫn của Chúa. Từ đó, tâm hồn của người này có “hệ thống miễn dịch” tốt để nhận diện những nguy cơ nào gây tổn hại đến đời sống thiêng liêng. Nhờ vậy họ có khả năng chống lại chúng, nhờ ơn Thiên Chúa nữa.
Thử lấy một ví dụ cho những giải thích trên đây. Tôi nhớ khi làn sóng Virus lan nhanh trên toàn thế giới, rất nhiều người chạy đến với tôn giáo, với Thiên Chúa. Ai ai cũng cầu nguyện để Thiên Chúa cho đại dịch sớm qua đi. Về mặt tâm lý, rất nhiều người tìm được bình an nhờ vào cầu nguyện và chạy đến với Thiên Chúa. Họ lan tỏa bình an này cho người khác. Về mặt tâm linh, họ tin tưởng Thiên Chúa luôn quan phòng và luôn ở với con người, trong mọi hoàn cảnh. Đây thực sự là kinh nghiệm quý để họ tin tưởng vào Thiên Chúa nhiều hơn. Rồi với kinh nghiệm đặc biệt này, mỗi người có khả năng kinh nghiệm và khắc ghi những hồng ân của Chúa. Để từ đó về sau, kể cả trong làn sóng nguy hiểm hiện nay, ước mong nhờ ơn Chúa, mỗi người tiếp tục bình tĩnh, cầu nguyện để lướt thắng những gian nan của kiếp người.
Lạy Chúa Giêsu, nhiều lần chúng con không thể nhìn thấy sự hiện diện của Ngài, nhất là trong những giây phút mờ mịt tối tăm. Lúc ấy, xin Chúa đánh thức con, đánh thức hệ miễn dịch trong tâm hồn con. Để nhờ đó, chúng con nhớ lại biết bao ân huệ Chúa đã làm cho con. Và chúng con cũng xác tín như tổ phụ Gia-cóp: “Chắc chắn, Đức Chúa ở nơi này mà tôi không hề biết” (St 28,16). Nhờ những kinh nghiệm thiêng liêng, chúng con biết mình không cô độc, vì Chúa Giêsu đã ở với chúng con ở đây và lúc này. Amen
……………… [1] Mc 6,30-34
[2] “Ngày nay ta ở trong một thế giới “vô cảm”, một hình thức lãnh đạm lười biếng thiêng liêng mà các giáo phụ ở sa mạc xưa gọi tên là “acedia”. Lãnh đạm với Thiên Chúa là vấn đề lớn của đời sống thiêng liêng. Tâm tính con người ngày nay coi cầu nguyện không có nghĩa lý gì, và sổ nhật ký dày đặc không còn chỗ cho cầu nguyện. Cũng cần chiến đấu chống lại Tên Cám dỗ, luôn tìm mọi cách để ngăn cản con người hiến thân cho Chúa. Nếu Chúa không muốn ta đến với Chúa trong cầu nguyện, ta sẽ không thắng trận được.” (Youcat 505)
[3] Thông điệp Deus Caritas Est (Thiên Chúa là Tình Yêu), số 1
Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài đã tạo dựng và chăm sóc con người, nhất là luôn muốn con người TN 16-B173
Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài đã tạo dựng và chăm sóc con người, nhất là luôn muốn con người không những sống mà còn sống dồi dào trong tình yêu hỗ tương giữa Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần. Ngài không muốn con người phải hư mất hay bị diệt vọng, nhưng muốn con người đạt tới cùng đích là sống viên mãn tràn đầy.
Chúa là mục tử chúng ta là chiên
Lời Chúa qua miệng tiên tri Isaia nói: “Các ngươi là chiên của Ta. Các ngươi, những phàm nhân kia, các ngươi là chiên trong đồng cỏ của Ta. Và Ta là Thiên Chúa của các ngươi” (Ed 34,31). Thiên Chúa tự ví mình là “mục tử, người chăn chiên” và dân Israel được Chúa chọn là chiên của Chúa. Hình ảnh thật là đẹp.
Thánh Vịnh 22 tán tụng Thiên Chúa, Mục Tử nhân lành, lo cho đoàn chiên có cỏ non, nước ngọt và bóng mát, che chở chiên khỏi sói dữ và quân trộm cướp. Tác giả Thánh Vịnh cảm nghiệm rằng, được sống dưới sự chăn dắt của Chúa thì sẽ không thiếu chi và không còn phải sợ gì: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi. Trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng” (Tv 22, 1-3). Ðiều này có nghĩa là Thiên Chúa muốn hướng dẫn chúng ta tới các đồng cỏ tốt tươi, nơi chúng ta có thể được nghỉ ngơi bồi dưỡng.
Chúa là Mục Tử tốt lành, đầy yêu thương và trách nhiệm. Ngài luôn chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ và làm cho đàn chiên ngày càng phát triển. Tình mục tử của Thiên Chúa không đơn giản là thương cảm đối với sự khó khăn của con người, nhưng là thái độ của một Vì Thiên Chúa đối với con người và lịch sử của loài người.
Chúng ta được Chúa chăm sóc và bảo vệ
Thiên Chúa không chỉ là Đấng dẫn dắt dân, hơn thế nữa còn là Đấng trao ban sự sống cho dân: “Ta sẽ quy tụ phần còn lại của đoàn chiên Ta từ khắp các xứ mà Ta đã phân tán chúng, Ta sẽ lùa chúng về đồng cỏ, để chúng lớn lên và tăng số” (Gr 23, 3). Chúa luôn bảo vệ giữ gìn. Chúa đặt một số người gọi là mục tử để trực tiếp thay Chúa chăn dắt đoàn chiên. Những người này sống nhờ đoàn chiên cho sữa, thịt, len, nên bổn phận đầu tiên là phải biết chăm lo cho chiên khỏe mạnh, có đủ đồng cỏ xanh tươi và nước mát, cũng như những điều kiện cần thiết cho chiên. Họ thừa lệnh của Chúa lo cho dân Chúa, và phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa, chứ không phải là kẻ có toàn quyền muốn làm gì thì làm, tác oai tác quái thế nào cũng được.
Thực tế, có những người không chu toàn nhiệm vụ cao quý này nên Chúa mới mạnh mẽ quở trách: “Khốn cho các mục tử Israel, những kẻ chỉ biết lo cho mình! Nào mục tử không phải chăn dắt đàn chiên sao? Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, còn đàn chiên lại không lo chăn dắt. Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc. Chiên của Ta tán loạn vì thiếu mục tử và biến thành mồi cho mọi dã thú, chúng tán loạn. Chiên của Ta tản mác trên các ngọn núi, trên mọi đỉnh đồi…” (Ed 34,2-7).
Vì muốn bảo vệ đoàn chiên, Chúa phán thế này: “Đây Ta chống lại các mục tử. Ta sẽ đòi lại chiên của Ta; Ta sẽ không để chúng chăn dắt chiên, và các mục tử sẽ không còn lo cho mình. Ta sẽ giải thoát các chiên của Ta khỏi miệng chúng, để chiên của Ta không còn làm mồi cho chúng nữa” (Ed 34,8-10).
Tình mục tử ấp ủ đoàn chiên. Thiên Chúa không đành để chiên tan tác, chính Ngài gửi Đấng Cứu Thế đến trực tiếp chăm sóc chiên: “Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng; chúng sẽ sinh sôi nảy nở thật nhiều…Ta sẽ làm nẩy sinh cho nhà Đa-vít một chồi non chính trực…Chồi non của nhà Đavít ấy là Đức Giêsu Kitô”, Ngôi Lời Con Thiên Chúa nhập thể làm người, là Mục Tử Nhân Lành hiến mạng sống cho đàn chiên, chịu sát tế để cứu chuộc nhân loại.
Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành
“Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều” (Mc 6, 34).
Cảnh đàn chiên không người chăn giống như “rắn mất đầu” là tình trạng khủng hoảng, nô lệ cho những lạc thuyết, làm mồi ngon cho những xu hướng xấu và tệ nạn. Không có Chúa Kitô, Vị Mục Tử dẫn đầu, Giáo Hội sẽ mất phương hướng, dễ lầm lạc, sợ hãi, kinh hoàng, thiếu sự chăm sóc, yêu thương, bị đe dọa bởi nanh vuốt của sói dữ, kẻ thù. Không được chăn dắt, điều đó cũng đồng nghĩa với việc “không được giáo dục” và trở thành mồi ngon cho những thù địch. Ma quỷ, thế gian, xác thịt luôn là những kẻ thù nhạy bén, chắc chắn sẽ không buông tha đàn chiên và chúng sẽ tìm mọi cách để xâu xé, hãm hại đoàn chiên.
Chúa Giêsu xuất hiện như hiện thân của sự quan tâm, ân cần của Thiên Chúa đối với nhân loại. Người hiểu rõ tình trạng khốn khổ của đàn chiên không có chủ chăn “Chúa động lòng thương”. Chúa dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi, gần bên suối mát để chiên được no thỏa uống tận nguồn suối nước trường sinh.
Không có Chúa Kitô hướng dẫn, chúng ta không thể tìm được hướng đi đúng. Xa Chúa Giêsu và lìa khỏi tình yêu của Người, chúng ta sẽ đánh mất chính mình. Có Chúa Giêsu ở bên, chúng ta có thể tiến bước một cách chắc chắn, vượt qua các thử thách, tiến lên trong tình yêu. Hãy an tâm, vì Chúa luôn chăm sóc giữ gìn, không đành để mất một ai, miễn sao chúng ta biết luôn lắng nghe theo tiếng Chúa.
Kẻ hảo ngọt không thích người thẳng tính, xưa nay vẫn vậy. Kinh Thánh nói: “Chúng ghét người TN 16-B174
Kẻ hảo ngọt không thích người thẳng tính, xưa nay vẫn vậy. Kinh Thánh nói: “Chúng ghét người sửa trị nơi cửa công và thù oán kẻ ăn ngay nói thật.” (Am 5:10) Thuận ngôn nghịch nhĩ – Lời thật mất lòng. Đó là một sự thật phũ phàng nhưng rất cần thiết cho cuộc sống, đặc biệt là đời sống Kitô hữu.
Thiên Chúa có nghiêm lệnh: “Đây là những điều các ngươi phải thi hành: Hãy nói thật với nhau; nơi cổng thành của các ngươi, hãy theo lẽ thật, lẽ công minh và sự ôn hoà mà xét xử. Chớ để lòng mưu điều ác hại nhau; đừng ưa chuộng thề gian, vì Ta ghét tất cả những điều đó.” (Dcr 8:16-17) Sách Huấn Ca khuyên: “Dù phải chết, con hãy phấn đấu cho sự thật, và Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ bênh vực con.” (Hc 4:28)
Trong thời gian khổ sở vì dịch bệnh này, các phương tiện truyền thông “nóng lên” về chuyện những người có “máu lạnh” và vô cảm. Họ đã không giúp đỡ thì thôi, mà họ lại nhẫn tâm tìm tư lợi bằng cách cướp phần của những người nghèo khó. Vô cùng bất nhân. Những người có tật rất dễ giật mình bất cứ lúc nào, vì họ “yếu tim” lắm.
Chắc chắn rằng dù là ai thì cũng phải yêu thương, giữ Đạo Làm Người. Là Kitô hữu thì càng phải yêu thương nhiều hơn vì đã được Thiên Chúa xót thương. Không yêu thương là ích kỷ, là chống lại chính Thiên Chúa. Người đời cũng vẫn nói: “Không sợ người hại, mà chỉ sợ Trời hại.” Bất cứ ai không biết chạnh lòng trước cảnh khổ của người khác thì đều là kẻ bất hạnh. Càng bất hạnh hơn nếu người đó là người được giao trách nhiệm chăm sóc tha nhân.
Thời Cựu Ước, ngôn sứ Giêrêmia cho biết lời nguyền rủa của Thiên Chúa: “Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác.” (Gr 23:1) Mục tử PHẢI chăm sóc đoàn chiên. Đã không chu toàn trách nhiệm mà chỉ tìm cách “vỗ béo” mình, bằng cách này hay cách nọ, thì không chỉ bất xứng mà chỉ là mục tử giả, đáng nguyền rủa hơn nếu họ còn làm tản mác đoàn chiên của Chúa.
Trong bài “Cầu Nguyện với Chúa về Tình Hình Quỷ Dữ Lộng Hành Ngày Nay,” ĐGM G.B. Bùi Tuần chia sẻ: “Kinh nghiệm cho tôi thấy những gì Chúa phán đều đã xảy ra nhiều cách khác nhau. Có một số ít người được lãnh nhận chức thánh, do tranh đấu, do vận động, do mưu lược. Có nghĩa là đã có sự lừa dối trong việc trở thành mục tử. Mục tử giả bị Chúa gọi là kẻ trộm, kẻ cướp. Cũng có một số ít người vào chuồng chiên một cách đàng hoàng, nhưng không hy sinh cho đoàn chiên thì bị Chúa gọi là kẻ làm thuê. (x. Ga 10:12) Nghĩa là họ cũng có sự lừa dối trong trách nhiệm, một trách nhiệm đòi nhiều từ bỏ chính mình, vác thánh giá mà theo Chúa.” Sự thật vẫn thường hay phũ phàng như thế. Ai dám thay đổi, dám chấn chỉnh, dám nói thẳng nói thật? Người đó phải thực sự can đảm lắm mới dám. Không thiếu những kẻ tránh né, nịnh hót và phe cánh.
Thế kỷ I đã có vị mục tử đích thực là Thánh GH Grêgôriô (540?-604). Chính ngài đã thẳng thắn và cương quyết CÁCH CHỨC các linh mục bất xứng, CẤM lấy tiền từ nhiều loại lễ. Ngài lấy tiền của Tòa Thánh để giúp các tù nhân của Lombard, chăm sóc những người Do Thái bị hành hạ, giúp đỡ các nạn nhân bị dịch bệnh và nạn đói. Ngài nổi tiếng là nhà cải cách phụng vụ và củng cố tín lý. Khi Rôma bị tấn công, chính ngài đã dám đi đối chất với vua Lombard.
Sự thật thường gây mất lòng, vì nó chạm vào những gì nhạy bén nhất. Kẻ yếu bóng vía rất sợ sự thật. Thật đáng quan ngại về lời xác nhận của Thánh Phaolô: “Chính Satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng! Vậy có gì là khác thường khi kẻ phục vụ đội lốt người phục vụ sự công chính.” (2 Cr 11:14-15)
Có những chữ bắt đầu bằng mẫu tự T rất kỳ diệu: Thật Thà, Thanh Thản, Từ Từ Truy Tìm, Thẳng Thắn Trách Tới Tấp, Triệt Tiêu Tụi Tà Tâm,… Thật vậy, chính Thiên Chúa đã tuyên án rạch ròi đối với các mục tử dỏm: “Chính các ngươi đã làm cho đoàn chiên của Ta phải tan tác; các ngươi đã XUA ĐUỔI và CHẲNG LƯU TAM gì đến chúng. Này Ta sẽ để ý đến các HANH VI GIAN AC của các ngươi mà TRỪNG PHẠT các ngươi. Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng; chúng sẽ sinh sôi nảy nở thật nhiều. Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng; họ sẽ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn phải hãi hùng, kinh khiếp và bị bỏ rơi nữa.” (Gr 23:2-4)
Tối sợ sáng. Xấu sợ tốt. Dốt sợ giỏi. Lỏi sợ đầy. Giả sợ thật. Người nói thẳng sẽ khiến người nghe rát tai, thế nên người chói tai sẽ ghét người nói thật và tìm cách xa lánh, trù dập. Thường thì người ta thích “che chắn” cho nhau bằng nhiều kiểu tinh vi lắm – gọi là phe cánh, vây cánh, đồng bọn,… Rất khó phát hiện. Thời nay, những cái giả nhìn còn đẹp hơn cái thật – từ hàng hóa đến con người, chuyên gia còn khó phân biệt, huống chi người không chuyên. Nhưng rồi điều gì đến cũng đến, công lý mãi là công lý, sự thật mãi là sự thật: “Này, sẽ tới những ngày Ta làm nẩy sinh cho nhà Đa-vít một chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều chính trực công minh. Thời bấy giờ, Giuđa sẽ được cứu thoát, Israel được sống yên hàn. Danh hiệu người ta tặng vua ấy sẽ là: ‘Đức Chúa, sự công chính của chúng ta’.” (Gr 23:5-6)
Theo bí quyết của Chúa Giêsu, chúng ta rất cần xin ơn khôn ngoan để tỉnh táo và có thể “xem quả mà biết cây.” (x. Mt 12:33) Cuộc sống quá nhiêu khê, cả xã hội và Giáo Hội, chúng ta chỉ còn biết tín thác vào Thiên Chúa: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.” (Tv 23:1-3) Miệng nói là một chuyện, tay làm hay không là chuyện khác. Kiểu Biệt Phái ở đâu cũng có.
Ai cũng sợ “hàng giả” – người và vật. Nhưng chúng ta có thể an tâm nếu chân thành tín thác vào Thiên Chúa: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên.” (Tv 23:4-6) Có được Chúa không phải dễ, vì phải từ bỏ chính mình, từ bỏ những gì phù phiếm, xa hoa, ích kỷ, thực dụng…
Cháy nhà mới ra mặt chuột. Trong thời buổi dịch bệnh hiện nay, chúng ta dễ nhận thấy “đồ giả” hơn lúc bình thường: Những kẻ có chức quyền luôn khoác lác về đủ thứ, nhưng khi dân chúng gặp hoạn nạn thì không thấy kẻ nào lên tiếng hoặc bỏ ra 1 đồng nào để giúp đỡ, thậm chí họ còn ăn chặn đồ từ thiện và ngăn cản người khác làm từ thiện. Rồi còn tăng giá xăng, giá điện, trong khi dân đang khốn khổ vì dịch bệnh. Hệ lụy tất yếu: Dân khốn đốn vì quan khốn nạn. Đừng nghe, hãy mở to mắt để nhìn cho rõ, đừng mê muội hoặc nhẹ dạ cả tin nữa!
Thánh Phaolô nói: “Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Kitô Giêsu, nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần.” (Ep 2:13) Thật vậy, thánh nhân xác nhận chính Đức Kitô là bình an của chúng ta. Ông giải thích: “Người đã liên kết đôi bên, dân Do Thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét; Người đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật. Như vậy, khi thiết lập hoà bình, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người.” (Ep 2:14-15) Phải can đảm mới có thể từ bỏ mọi thứ. Từ bỏ để có Chúa, được là thân nhân của Ngài.
Thập Giá Đức Kitô là “dấu cộng” để nối lại những gì tách rời: “Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét. Người đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. Thật vậy, nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha.” (Ep 2:16-18) Đó là sự no thỏa tinh thần giúp chúng ta phát triển và trưởng thành tâm linh, tương tự thân xác cần được no thỏa để duy trì sự sống thể lý vậy.
Chúa Giêsu đã làm vì chạnh lòng thương dân chúng, những người vì mê say Ngài “nói chuyện” mà bỏ ăn quên uống. Ngài biết họ đang đói lắm, nên Ngài hành động cụ thể chứ không nói suông. Trình thuật Mc 6:30-44 (≈ Mt 14:13-21; Lc 9:10-17; Ga 6:1-13) cho biết phép lạ bánh hoá nhiều lần thứ nhất.
Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, kể lại cho Người biết mọi việc họ đã làm và mọi điều họ đã dạy. Nhưng Ngài bảo họ: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” Ngài biết công việc mục vụ vất vả nên mệt mỏi lắm, Ngài thương họ lắm, vì làm những việc cần mà không có giờ ăn lót dạ. Thế nên Ngài bảo các ông cứ nghỉ ngơi cho lại sức rồi “chiến đấu” tiếp.
Thầy trò không kịp ăn uống vì người ta quá đông. Phải hy sinh thôi. Sau đó, thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. Thấy vậy, người ta từ khắp các thành cùng nhau theo đường bộ chạy theo, họ còn đến trước các ngài. Đúng là Chúa Giêsu có sức thu hút rất mạnh, mặc dù nhìn Ngài rất “bụi,” không gì đặc biệt.
Vừa bước ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Chạnh lòng thương là điều kiện tiên quyết để có thể dẫn tới hành động cụ thể. Rồi Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều, dạy cả bí quyết sống tốt. Ngài thương xót họ nên muốn cứu họ.
Đề cập vấn đề mục vụ, chắc hẳn ai cũng nhớ ngay tới Thánh LM Jean-Marie Vianney (1786-1859), người Pháp. Cuộc đời ngài thể hiện rõ nét một mục tử đích thực, thực sự hành động theo đúng Thánh Ý Chúa, chính xác như lời Chúa Giêsu đã xác định: “Con Người đến KHÔNG phải để ĐƯỢC người ta phục vụ, nhưng là ĐỂ phục vụ, và HIẾN MẠNG SỐNG làm giá chuộc muôn người.” (Mt 20:28; Mc 10:45) Thánh Vianney lo mục vụ giải tội mà bỏ cả ăn uống, ngủ ít, hy sinh cả những thứ cơ bản nhất của mình, đói thì chỉ ăn mấy củ khoai lót dạ mà thôi. Suốt đời linh mục, ngài rất coi trọng việc giải tội vì ngài muốn mọi tội nhân được giải hòa với Thiên Chúa, thậm chí ngài không hề nghĩ tới chuyện nghỉ hưu.
Người ta đưa ra “chuỗi” này: Linh mục là thánh nhân thì giáo dân sẽ thánh thiện, linh mục thánh thiện thì giáo dân tốt lành, linh mục tốt lành thì giáo dân tử tế, linh mục tử tế thì giáo dân vô tín ngưỡng. Thánh Vianney đã và đang nhắc nhở chúng ta nhiều điều lắm. Đừng biện hộ bằng những cái NẾU, VÌ, BỞI, TẠI, GIÁ MÀ,… Đừng ảo tưởng mà vỗ ngực, bởi vì ảo tưởng rồi sẽ há ảo giác, ảo giác rồi thì bất trị.
Thánh GH Piô X là gương sáng mục tử. Ngài xác định: “Tôi sinh ra nghèo hèn, tôi sống nghèo hèn, tôi sẽ chết nghèo hèn.” Ngài đã tỏ ra lúng túng vì một số nghi thức long trọng dành cho ngài trong lễ đăng quang giáo hoàng. Ngài nói trong nước mắt: “Nhìn kìa! Người ta cho tôi mặc đẹp biết bao!” Rồi ngài nói thêm: “Phải chấp nhận như thế là việc đền tội. Họ dẫn tôi đi với lính tráng vây quanh như Chúa Giêsu khi Ngài bị bắt tại Vườn Dầu vậy.” Nhân đức tuyệt vời quá!
Thánh GH Gioan XXIII cũng là gương sáng mục tử thật. Ngày nhận chức thượng phụ Venezia năm 1953, ngài viết trong chúc thư: “Sinh trưởng trong sự nghèo nàn, ở một gia đình giản dị nhưng được trọng kính, tôi rất sung sướng được chết trong sự nghèo nàn, vì theo sự đòi hỏi và các trường hợp sinh sống của đời giản dị và hèn mọn của tôi, tôi đã phân phát cho người nghèo và Giáo Hội đã nuôi dưỡng tôi, những gì ít ỏi của tôi đã có, trong những năm làm linh mục và giám mục. Đời Giám mục mà cứ phải ngồi bàn giấy và làm ngoại giao thì tội nghiệp quá. Tôi bắt đầu sứ vụ trực tiếp vào tuổi mà người khác kết thúc hoạt động của mình (72 tuổi). Từ nay tôi nghèo hơn trước, một vị hồng y nghèo lo giúp người nghèo… Tôi thấy mình như một bà mẹ nghèo, phải nuôi một đoàn con đông đảo. Tôi xuất thân từ giới bình dân. Cha mẹ tôi là người nghèo. Chúa đã đưa tôi ra khỏi xóm làng quê hương, cho tôi chung đường và kề vai sát cánh với những người có tín ngưỡng khác nhau. Bây giờ cũng vậy, tôi không quan tâm đến những gì gây chia rẽ mà chỉ quan tâm đến những gì gây tình đoàn kết. Xin anh chị em hãy coi tôi như một tôi tớ của Chúa.”
Hiện nay, hình ảnh GH Phanxicô cũng cho chúng ta thấy rõ nét chân dung Đức Kitô: Nghèo khó, khiêm nhường, giản dị, hòa nhã, tươi cười,… nhưng vẫn cương trực, thẳng thắn và dứt khoát.
Cuộc sống luôn phải can đảm và dứt khoát – nghĩa là không sợ gì hoặc sợ ai. Thiên Chúa động viên chúng ta “Đừng sợ!” tới 365 lần. Con số “kỷ lục” này chia đủ cho số ngày của một năm, điều đó chứng tỏ rằng ngày nào Thiên Chúa cũng động viên chúng ta can đảm sống khôn như con rắn, hiền như bồ câu, như chiên giữa bầy sói, nhưng vẫn cương quyết bảo vệ sự thật để làm chứng về Đấng duy nhất – Thiên Chúa Ba Ngôi.
Lạy Thiên Chúa nhân lành, chính trực và công minh, xin thêm can đảm để chúng con hành động theo ý Ngài, xin giải thoát chúng con khỏi tay người áp bức, (Nkm 9:27) giúp chúng con chân thành thương xót nhau, luôn sống xứng đáng là tín nhân mọi nơi và mọi lúc, nhất là trong lúc khó khăn vì dịch bệnh này. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Cuộc sống xung quanh ta đầy rẫy những bon chen tính toán. Những quay cuồng vật lộn, những lo TN 16-B175
Cuộc sống xung quanh ta đầy rẫy những bon chen tính toán. Những quay cuồng vật lộn, những lo toan cơm áo gạo tiền dễ làm ta lạc đường mất hướng. Có những lúc giật mình nhìn lại, ngỡ ngàng không biết mình sống cho ai, để làm gì và sẽ đi về đâu. Giữa mớ hỗn độn của cuộc sống đời thường, Lời Chúa hôm nay nhắc chúng ta: hãy tìm định hướng cho cuộc đời mình. Hãy chọn lựa và đi theo Chúa vì Ngài là Mục tử của đời ta. Hình ảnh người mục tử chăm sóc đàn chiên giúp chúng ta tìm thấy ý nghĩa cuộc sống, thêm an tâm tin tưởng và phó thác nơi Ngài, vì Ngài là Cha nhân hậu và là Đấng giàu lòng xót thương.
Người mục tử là một hình ảnh rất thân thương và gần gũi đối với dân tộc Do Thái, là dân chuyên sống bằng nghề du mục. Ảnh hưởng của người mục tử rất quan trọng, liên quan đến sự tồn vong của đàn chiên. Qua lời ngôn sứ Giêrêmia, Thiên Chúa khẳng định, chính Ngài là mục tử của vương quốc Israen, cũng là Vua lãnh đạo dân tộc này. Ngài chăm sóc, hướng dẫn và chúc lành cho dân. Lịch sử nhân loại cũng là lịch sử cứu độ. Từng trang sử đều in đậm dấu ấn do quyền năng và tình yêu thương của Chúa đối với nhân loại, đặc biệt đối với dân riêng Ngài đã chọn, tức là dân Do Thái. Dầu vậy, Thiên Chúa vẫn hứa ban cho dân Israen một vị vua trong tương lai. Vị vua này sẽ dẫn dắt dân trong sự công chính. Người sẽ là vị Vua Hòa Bình. Nhờ Người, Thiên Chúa và con người sẽ giao hòa, muôn nước sẽ sống trong bình an. Người ta không còn dùng gươm giáo để tiêu diệt nhau nữa, nhưng cùng nắm tay nhau xây dựng một thế giới nhân ái yêu thương.
Vị vua tương lai mà ngôn sứ Giêrêmia loan báo là chính Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể và Đấng Cứu độ trần gian. Tiếp nối giáo huấn của Cựu ước, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh người mục tử và đàn chiên, để nói về quyền năng của Người. “Ta là Mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành hiến mạng sống mình vì đàn chiên”, Chúa Giêsu đã khẳng định như thế. Người là Mục tử tốt và cũng là Mục tử đích thực. Hai đặc tính này đi đôi với nhau và diễn tả sứ mạng Thiên sai của Người. Trong lịch sử cũng như ngày hôm nay, đã và đang có những mục tử giả hiệu, những mục tử không tốt. Những mục tử này, thay vì phục vụ đàn chiên, lại hành hạ và giết chết đàn chiên. Chúa Giêsu là Mục tử tốt và thật. Vị Mục tử Giêsu vừa quan tâm đến những người cộng tác là các môn đệ, vừa lo lắng cho đám đông dân chúng. Khi thấy các môn đệ mệt mỏi, Người đã bảo họ đi nghỉ ngơi cầu nguyện tĩnh dưỡng. Khi thấy dân chúng đông đảo đi theo Người, Người chạnh lòng thương trước nỗi khốn cùng về thể xác cũng như tinh thần của họ. Không chỉ những người đi theo Chúa vào tận nơi hẻo lánh, mà còn cả nhân loại đang đói khát tình thương, cũng đang rất cần sự nâng đỡ của Chúa, vì chỉ có Chúa mới có thể lấp đầy những khát vọng thâm sâu của con người.
Trước nỗi khốn cùng của cuộc sống, nhiều người đã chọn những giải pháp trần gian mà họ quên chạy đến với Chúa để xin Ngài hướng dẫn, chỉ lối đưa đường. Cũng có những người mù quáng đi theo những mục tử giả, tức là những cá nhân hoặc những trào lưu buông thả, vô thần, chủ trương lối sống duy vật chất và phủ nhận những giá trị thiêng liêng. “Chúa là Mục tử chăn dắt tôi”, đó vừa là lời tuyên xưng đức tin, vừa là tâm tình phó thác của chúng ta, với tư cách là Kitô hữu. Trải qua hai mươi thế kỷ, biết bao sói dữ đã trở thành chiên lành, nhờ chuyên tâm đi theo vị Mục tử nhân lành dẫn dắt. Biết bao con chiên lạc đã trở về chính lộ nhờ thiện chí đón nhận lời giáo huấn của Người. Ý thức mình là con chiên trong đàn chiên đông đảo của Chúa, chúng ta hãy chân thành lắng nghe lời Người dạy và thực hiện lời Người nhủ khuyên. “Đường đi có Chúa chông gai con có sợ chi”, tin vào sự dẫn dắt của Chúa giúp chúng ta vượt thắng mọi gian khó trên đường đời.
Hình ảnh vị Mục tử nhân lành cũng nhắc nhở những ai được Chúa trao nhiệm vụ lãnh đạo các cộng đoàn tín hữu, tức là Giám mục, linh mục, phải noi gương Đức Giêsu, Đấng đã đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống vì tha nhân. Bất kể thời nào và ở đâu, Giáo Hội luôn cần những mục tử tài đức, khiêm tốn và sẵn sàng phục vụ đàn chiên Chúa đã trao phó. Những vị lãnh đạo này rất cần đến sự nâng đỡ, cộng tác và cầu nguyện của các tín hữu.
Ngôn sứ Giêrêmia đã loan báo một vị Vua công chính đến để kiến tạo hòa bình, đó là Đức Giêsu Kitô. Thánh Phaolô tiếp tục quảng diễn sứ vụ thiên sai của Đức Giêsu, tức là giao hòa thế gian với Thiên Chúa và giao hòa con người với nhau. Người đã phá đổ bức tường ngăn cách giữa dân Do Thái với các dân, tiêu diệt mối thù nghịch, liên kết mọi người và làm thành gia đình của Thiên Chúa (Bài đọc II). Gia đình này là đàn chiên đông đảo, không còn phân biệt nguồn gốc, ngôn ngữ hay mọi dị biệt. Mỗi cộng đoàn đều là hình ảnh của gia đình ấy. Sự hiệp thông gắn bó, tình đoàn kết yêu thương giữa mọi cá nhân trong một cộng đoàn, chính là lời chứng hùng hồn cho sự dẫn dắt yêu thương của vị Mục tử nhân lành, luôn chạnh lòng thương và chúc lành cho những ai tin tưởng phó thác nơi Người.
Cậu bé vừa đi học về chạy ngay vào trong bếp ríu ra ríu rít với mẹ về điểm mười. Nó kể vì TN 16-B176
Cậu bé vừa đi học về chạy ngay vào trong bếp ríu ra ríu rít với mẹ về điểm mười. Nó kể vì sao được điểm mười và cô giáo khen nó như thế nào? Bà mẹ gật đầu và cười cho tới lúc nó nói hết. Sau khi nói xong, nó mong chờ Mẹ sẽ nói gì với mình. Hiểu ý con, bà mẹ liền nói: “Con của mẹ giỏi quá! Con muốn mẹ thưởng gì nào?”. Nó vừa nhảy lên vừa la: “Con muốn đi siêu thị mua đồ chơi”. Thế là cậu bé được như ý muốn.
Chúng ta cũng thế, sau khi làm được việc gì thành công, chúng ta liền muốn chia sẻ cho một ai đó biết để chung vui với mình. Và các Tông đồ cũng vậy, sau những ngày ra đi rao giảng Tin Mừng và được các làm phép lạ, họ đã “tụ họp quanh Đức Giê-su, và kể lại cho Người biết mọi công việc các ông đã làm và mọi điều các ông đã dạy.” (Mc 6,30). Đức Giê-su biết rõ trong lòng các ông như thế nào. Ngài rất muốn khen sự nhiệt tình hy sinh của các Tông đồ, nhưng Ngài vẫn muốn điều gì đó tốt hơn cho các Tông đồ. Bởi đó, ngài đã nói: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” (Mc 6,31)
Sau khi nghe các tông đồ kể chuyện của họ xong, Chúa Giêsu muốn các Tông đồ nghỉ ngơi để lấy lại sức vì Ngài muốn cho họ biết niềm vui đích thật và tron vẹn hệ tại nơi điều gì. Niềm vui mà các Tông đồ chia sẻ là niềm vui thật nhưng chỉ là niềm vui chóng qua. Niềm vui ấy có thể khiến các Tông đồ lạc đường hay không còn là chính mình nữa. Do đó, Ngài mời gọi các Tông đồ hãy tìm một nơi “thanh vắng” để nghỉ ngơi. Nơi ấy, các Tông đồ sẽ nhìn lại được chính bản thân mình, nhìn lại những lời nói và việc làm của mình với người khác. Cũng chính nơi thanh vắng ấy, các Tông đồ sẽ thấy và vui trong niềm vui của Thiên Chúa. Sâu xa hơn, Ngài muốn tập cho các Tông đồ đi vào cuộc sống của Ngài, đi vào cuộc tử nạn với Ngài. Tình yêu của Ngài là thế đó, một tình yêu tận hiến và tuyệt vời. Tình yêu tuyệt vời ấy vẫn luôn nối dài cho đến hôm nay và mãi mãi.
Là những người mang danh Kitô hữu, là những môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta có muốn được cảm nếm và hưởng tình yêu của Ngài không? Cuộc sống của chúng ta quả thật rất nhộn nhịp, chúng ta luôn luôn bận rộn và chạy theo hạnh phúc “ảo”, nên chúng ta rất khó trong việc nhận ra tình yêu và hạnh phúc thật. Nếu chúng ta cứ chạy theo nhịp sống hiện đại và bận rộn của thế gian thì chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết mình là ai, mục đích của đời mình là gì, hạnh phúc thạt của đời mình hệ tại điều gì? Chúng ta hãy luôn cân bằng cuộc sống, đừng để niềm vui bên ngoài lôi chúng ta vào vòng xoáy tối tăm. Chúng ta hãy tìm cho mình một nơi “thanh vắng,” chỉ có mình ta với ta và có Thiên Chúa ở cùng vì đó mới lành hạnh phúc thật. Và hãy luôn tạo cho mình một sự thanh vắng bên trong tâm hồn để Chúa đến.
Lạy Chúa, xin giúp con hạ màn che thế gian xuống khỏi tầm mắt chúng con, để chúng con được nhìn thấy ánh sáng của Chúa, xin lấp đầy tâm hồn bằng tình yêu của Chúa để con chỉ sống cho mình Chúa và anh anh chị và và cũng để con được vui trong Chúa và trong anh chị em con. Amen!
Người mẹ trẻ sai đứa con tám tuổi của mình mang chục quả trứng sang biếu bà ngoại. Đã khá TN 16-B177
muộn mà cô con gái chưa về, lòng mẹ lo lắng. Cô bé thấy mẹ đang thái rau liền chạy đến bên thưa:
Mẹ ơi, con xin lỗi mẹ…
Sao vậy con?
Con làm bể mất hai quả trứng mẹ ạ. Con xin lỗi ông bà rồi, mẹ cũng tha lỗi cho con nha mẹ.
Ôm con vào lòng, người mẹ thủ thỉ:
Con biết xin lỗi là giỏi lắm. Lần sao con nhớ cẩn thận hơn là được. Bố sắp về rồi, mẹ con mình dọn cơm ăn tối nha.
Dạ, con cám ơn mẹ!
Khi được giao cho một nhiệm vụ, ta cũng mong muốn hoàn thành cho thật tốt. Hoàn thành nhiệm vụ rồi, lòng ta phấn khởi, hân hoan và muốn được giao cho nhiệm vụ khác nữa. Ta càng giao được cho nhiều nhiệm vụ càng chứng tỏ ta được tín nhiệm. Thế nhưng khi không hoàn thành được nhiệm vụ, ta sẽ ứng xử thế nào? Giấu nhẹm đi hay đơn sơ bày tỏ như bé gái trong câu chuyện trên?
Hôm nay, các Tông đồ trở về tụ họp quanh Đức Giê-su. Các ông được sai đi từng hai người một để rao giảng Tin Mừng. Bây giờ nhiệm vụ đã hoàn thành, các ông đến bên Thầy “kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm và mọi điều các ông đã dạy.” (Mc 6,30b). Điều đó có nghĩa là các ông kể cho Thầy mình nghe cả những thành công lẫn thất bại của mình. Trên hành trình rao giảng Tin Mừng, có lẽ các ông cũng gặp kẻ cứng lòng tin, những người chối từ sự bình an các ông mang đến. Cũng như kinh nghiệm thất bại của Thầy khi trở về quê hương Caphacnaum, lúc đó có lẽ các ông cũng tự hỏi: “Tại sao họ không tin?” Thầy lắng nghe hết mọi điều rồi ân cần bảo ban: “Chính anh em cũng lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” (Mc 6,31). Thầy không khen ngợi hay chê trách các ông sau một hành trình được sai đi nhưng điều Thầy quan tâm là tình trạng hiện tại của các ông: đói, khát và rất mệt bởi “kẻ lui người tới quá đông khiến các ông chẳng có thì giờ mà ăn uống.” (Mc 6,31b). Thầy chính là người cha và cũng là người mẹ nữa. Đã bao lần, ta hăng hái ra đi trong sứ vụ của mình, khi trở về dù thành công hay thất bại, ta đều đến với thầy Giê-su trong Bí tích Thánh Thể để tâm sự, và hơn hết là được bổ sức. Mỗi lần như thế, ta có cơ hội được nghỉ ngơi, tâm hồn được lắng đọng để cho lời Thầy Giê-su vang vọng trong tâm hồn. Ta được có cơ hội phản tỉnh: “Tôi đã làm gì?” “Tại sao tôi làm thế?” “Bởi đâu tôi làm được như vậy?” Để nhờ đó, ta sẽ nhận ra được tất cả những gì ta đã cống hiến là vì bản thân hay để vinh Danh Chúa hơn. Chúa sẽ thánh hóa tất cả trong công nghiệp của Chúa khi ta biết dâng lên Chúa tất cả những gì ta đã thực thi. Nhờ đó, ta sẽ tìm được thánh ý Chúa và thực thi.
Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì Chúa vẫn luôn lắng nghe mọi điều con thầm thĩ, luôn quan tâm đến tình trạng của con. Xin Chúa cho con hiểu rằng, dù con dấn thân trong bất việc gì, con đều làm nhờ ân sủng Chúa và vì lòng yêu mến Chúa. Thành công hay thất bại thì không quan trọng cho bằng lòng yêu mến Chúa con đặt để mọi nơi mọi việc. Xin cho con biết chạnh lòng thương và sẵn sàng dấn thân phục vụ, bởi trong con tim con có tình yêu ĐỨC Ki-tô thúc bách”(2Cr 5,14) và nếu con có tự hào thì cũng tự hào trong Chúa (x.1Cr 1,31). Amen.
Vui xuân không quên nhiệm vụ, phải chăng đó là lời nhắc khéo giữa người trên kẻ dưới, hoặc tự TN 16-B178
Vui xuân không quên nhiệm vụ, phải chăng đó là lời nhắc khéo giữa người trên kẻ dưới, hoặc tự nơi người trưởng thành đang ý thức về trọng trách mình phải chu toàn. Theo nho giáo: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, là 4 bước quan trọng, nhằm đưa dẫn người ta đến đỉnh cao hạnh phúc nhất. Người bình dân thường triết lý: làm việc, nghỉ ngơi, chính là quy trình tạo lập cho cuộc sống đầy ý nghĩa, luôn tuỳ tự do nơi mỗi người. Đại văn hào Voltaire cho rằng, lao động, làm việc, xua tan được 3 mối hoạ lớn: nghèo túng, nhàn rỗi, và thói hư. Người ta sống đâu phải chỉ có cật lực “làm việc”, cổ nhân chúng ta cũng có câu nhẹ nhàng đầy ẩn ý: làm lắm ăn cơm mắm với cà, làm tà tà ăn cơm cà với mắm. Làm việc có nghỉ ngơi, làm việc điều độ có chừng mực, chắc không phải do vụng chèo khéo chống, đúng hơn, nghỉ ngơi làm việc cách hợp lý, năng suất lao động, hiệu quả công việc sẽ phải tốt hơn.
Vị Thầy Giêsu nhắc bảo các đệ tử tìm chỗ nghỉ ngơi, sau một thời gian các ông đi thực tập việc tông đồ, thân xác được nghỉ ngơi hay tinh thần được bổ dưỡng, đều nói lên tính hợp lý giúp xác hồn được ổn định. “Các con hãy lui vào nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”, đó là tình yêu, là sự quan tâm của Đức Giêsu đối với các học trò. Với đám đông tấp nập tìm đến bên thầy trò Đức Giêsu hôm đó, Vị Thầy lại một lần nữa “chạnh lòng thương bởi họ bơ vơ như đàn chiên không người chăn dắt”. Sống trong xã hội, làm việc, nghỉ ngơi, là chuyện bình thường, làm việc lao động, vất vả mà không ăn không nghỉ ngơi, sẽ là bất thường. Mang danh phận là kitô hữu, chúng ta được nghỉ ngơi trong một ý nghĩa cao hơn, đó là gặp Chúa, thưa chuyện cùng Chúa, tiếp tục nhạy bén hơn, và trong nghỉ ngơi cầu nguyện, thánh ý Chúa dễ phần thực thi.
Thông thường, người ta vẫn quan niệm nghỉ ngơi là bồi bổ sức khoẻ cho thể xác, là tìm thư giãn cho tâm hồn được thoải mái, hầu nâng cao năng suất lao động, tự tin hơn cho hành trình phía trước. Ngày hôm nay, người trẻ còn lý lẽ khá thuyết phục: học không chơi, phí đời tuổi trẻ, chơi không học, bán rẻ tương lai. Người tín hữu kitô hôm nay, làm việc, nghỉ ngơi, giải trí, sẽ không phải là hưởng thụ, bồi bổ thân xác bởi những bữa ăn nhậu, nghỉ ngơi là dành cho mình những phút giây thinh lặng cầu nguyện bên Chúa, là lắng nghe được tiếng Chúa phán bảo. Thầy Giêsu cần các học trò khoẻ mạnh về tinh thần thể xác, có sức làm việc lâu dài, không những vậy, Ngài còn cần những ai theo Thầy đều phải có nhiệt huyết tông đồ, phải có trái tim bén nhạy yêu thương.
Nếu người nông dân mong có được thời tiết ưu đãi: mưa thuận gió hoà, cùng với sự cần cù chăm chỉ, họ sẽ tận hưởng mùa màng bội thu. Nếu hành trình đời người, có lưu ý sống mực thước: làm việc tận tâm tận lực, nghỉ ngơi bổ dưỡng cho sức khoẻ, đúng là họ đáng được phần thưởng rồi. Sứ mạng làm con Chúa, chăm chỉ làm việc, nghỉ ngơi theo tinh thần người môn đệ, hẳn người ta đang sống tình liên đới hiệp thông, cầu nguyện, là đang làm sống động cả một chuỗi dài sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa Kitô. Lao động, cầu nguyện, không phải chỉ là “linh đạo” của ơn gọi Đan viện Dòng tu, làm việc, cầu nguyện, là cách tô vẽ sự bình an cho tâm hồn, là khôn ngoan để một chút lắng đọng trong tình Chúa và tiếp tục cho hành trình phía trước.
Sau những ngày bôn ba thực tập việc truyền giáo thật phấn khởi bên Thầy Giêsu, chính là lúc các môn đệ đang trở về trong cầu nguyện, thưa chuyện, tạ ơn Chúa. Vị Thầy không khen thưởng, cho dù những học trò hôm đó có báo cáo nhiều thành quả tốt đẹp, Thầy ân cần tỏ dấu hiệu yêu thương: “các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút”. Hành trình đời người môn đệ có dài ngắn khác nhau, và điểm chung vẫn là làm việc, nghỉ ngơi, trong tinh thần cầu nguyện, hầu được tiếp sức, được thấu hiểu thánh ý Chúa, và sống hoàn hảo hơn ơn gọi theo Thầy Giêsu của mình. Kết quả làm việc tuỳ mức độ nghỉ ngơi có khoa học, sứ mạng người tông đồ đẹp, đúng thánh ý Chúa, là tuỳ người môn đệ có cầu nguyện trong Chúa nghiêm túc hay không.
Tục ngữ có câu: tốt khoe, xấu che, vì đó là danh dự của gia đình, của đất nước. Người kitô hữu ở trong cầu nguyện, ở trong Thầy Giêsu, người ta sẽ được biến đổi để trở nên chân thành, tín thác, dám bày tỏ những yếu đuối tội lỗi của mình. Người tín hữu tất bật với trách nhiệm là cha mẹ, và cha mẹ chỉ bình an, đủ năng lực sống, đủ sức mạnh khi có Thầy Giêsu, có cả cuộc đời nghỉ ngơi cầu nguyện chuẩn mực. Người linh mục tu sĩ, ngoài việc “ăn cơm Chúa, múa tối ngày”, tất nhiên phải có lúc ngừng việc “múa hát” để gặp Chúa, thưa chuyện với Chúa, và rút kinh nghiệm phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân cách hữu hiệu hơn. Phận làm con Chúa và Hội thánh, ngoài việc chu toàn trọng trách với gia đình, ai cũng được lưu ý tới phương thế có hiệu quả cao, đó là biết nghỉ ngơi cầu nguyện để đủ sức, đủ ơn Chúa, mà sống ơn gọi của mình cách trọn vẹn hơn. Amen.
Tông đồ đón nhận tin vui, Ra khơi tung lưới, chiều lui trở về. Vui mừng chiến thắng mọi bề, TN 16-B179
Tông đồ đón nhận tin vui, Ra khơi tung lưới, chiều lui trở về. Vui mừng chiến thắng mọi bề, Nghỉ ngơi tĩnh dưỡng, cận kề bên nhau. Thấy dân vất vả sầu đau, Chúa thương cứu chữa, xóa lau giọt sầu. Môn đồ mỏi mệt đêm thâu, Xuống thuyền sang bến, ngõ hầu tránh xa. Tìm nơi hẻo lánh xa nhà, Sườn đồi vắng vẻ, dần dà luyện tâm. Nhóm người tìm đến âm thầm, Như chiên xa lạc, dẫn lầm lối đi. Động lòng thương xót từ bi, Chúa thương an ủi, những khi đau buồn. Ban ơn phúc lộc mưa tuôn, Dưỡng hồn nuôi xác, ban nguồn ân thiêng
Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: Các con hãy vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút. Chúa dùng những lời âu yếm thân thương đối với các môn đệ. Chúa quan tâm đến sự cực nhọc vất vả của các ông. Sau một hành trình rao giảng, các tông đồ cần có sự nghỉ ngơi. Sự nghỉ ngơi giúp thư giãn tâm hồn và dễ chịu thể xác. Trong chương trình sáng tạo, Thiên Chúa cũng dùng ngày thứ bảy để nghỉ ngơi. Không phải Thiên Chúa mệt nhọc hay đuối sức cần nghỉ ngơi bồi dưỡng, nhưng đây là một tiến trình tự nhiên cần có cho các loài thụ tạo.
Thiên nhiên cũng hòa trong một nhịp điệu tuần tự qua bốn mùa Xuân, Hạ, Thu và Đông hoặc hai mùa mưa nắng. Cây cối có mùa đâm chồi nẩy lộc, có mùa sinh hoa kết trái và có mùa lá rụng trơ cành. Thiên nhiên phát triển không ngừng. Nơi rừng hoang không cần con người chăm sóc, rừng vẫn xanh và cây cối vẫn đua nhau trổ sinh hoa lá đời này qua đời khác. Luật thiên nhiên là thế, con người sống trong thiên nhiên cũng không thể đi ra ngoài luật tự nhiên. Con người cần phải lao động và cũng cần có những giây phút nghỉ ngơi.
Ngày giờ nghỉ ngơi sẽ giúp bồi dưỡng sức lực cho thân xác và sự tinh anh của tâm hồn. Chúng ta cần có những giây phút thư giãn để giúp tâm hồn thanh thản. Hơn nữa, chúng ta cần có thời gian để thờ phượng Thiên Chúa và phục vụ anh chị em trong các sinh hoạt của cộng đoàn, giáo xứ và xã hội.
Các Tông đồ ra đi rao giảng Tin Mừng. Các ông đã lăn xả vào các nhu cầu của cuộc sống. Chia xẻ những khốn cùng của dân chúng. Cảm thông những nỗi bất hạnh, lo sợ và khổ đau. Các Tông đồ cũng mệt mỏi và cần sự nghỉ ngơi. Chúa Giêsu biết rõ các nhu cầu tâm linh của các môn đệ. Khuyên các ông lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi. Nơi vắng vẻ là nơi thanh tịnh và dễ dàng cầu nguyện.
Dân chúng thì khao khát lắng nghe lời Chúa. Kẻ đến người đi tấp nập, có người thì thành tâm đến với Chúa, có kẻ đi tìm ân huệ chữa lành và cũng có người thì tò mò đến xem. Chúa đã săn sóc họ như mục tử săn sóc đàn chiên. Chúa chữa trị họ bằng tình thương. Chúa đón tiếp họ không loại trừ ai. Dân chúng bám sát và quây quần bên Chúa. Chúa động lòng thương và nhìn họ bơ vơ như đàn chiên không người chăn.
Mẹ Têrêxa nói rằng không có gì nghèo hơn và đau khổ hơn là nghèo vì sự bỏ rơi và không được yêu thương. Nếu chúng ta có dịp vào trong các Viện Dưỡng Lão, ngày này qua ngày khác, các cụ ông cụ bà ra ngồi ngoài hành lang chờ đợi con cháu đến thăm. Họ buồn đau khi bị quên lãng. Sự quan tâm lo lắng là một trong những nguồn ủi an cho mọi người.
Chúa quan tâm lo cho các môn đệ. Chúa chạnh lòng thương đến dân chúng. Chúa thấu tỏ tâm can của chúng ta. Hãy dừng đôi phút mỗi ngày chạy đến bên Chúa nơi Nhà Tạm, nơi thanh tịnh vắng vẻ và xin Chúa thêm sức bồi dưỡng cho chúng ta.
Một cha xứ được mời đi ban phép xức dầu cho kẻ liệt. Ông ta là một tội phạm khét tiếng không chút TN 16-B180
Một cha xứ được mời đi ban phép xức dầu cho kẻ liệt. Ông ta là một tội phạm khét tiếng không chút quan tâm đến Thiên Chúa hoặc trời cao đất thấp gì. Đến nơi Cha xứ rất ngạc nhiên khi thấy kẻ hấp hối đang luống cuống lật những trang sách Kinh Thánh. Nghĩ mình có thể giúp được kẻ hấp hối Cha xứ hỏi, “Ông đang kiếm đoạn nào?” Và kẻ liệt lạnh nhạt trả lời, “Tôi đang tìm lối thoát.”
Tin Mừng hôm nay rất thích hợp cho những Kitô hữu đang tìm lối thoát. Thánh Marcô trình bầy hai hình ảnh mâu thuẫn rõ ràng về Chúa Giêsu. Hình ảnh thứ nhất là một Chúa Giêsu nghiêm khắc thiếu tế nhị đã trở mặt với đám đông đang cần đến sự giúp đỡ của Ngài để đi tìm chỗ nghỉ ngơi. Hình ảnh thứ hai là một Chúa Giêsu nhân từ, cảm thông và có lòng xót thương đã không ngần ngại gạt bỏ chương trình nghỉ ngơi để dạy dỗ đám đông dân chúng như chiên không chủ. Vậy thì Chúa Giêsu là một người nghiêm khắc thiếu tế nhị hay là một người nhân từ có lòng xót thương?
Theo thông thường, một người đọc Kinh Thánh ở mức trung bình khi gặp phải tình trạng khó xử này sẽ dễ nhận ra nơi Chúa Giêsu những đức tính thích hợp nhất với chính đức tính của họ. Những người giữ kỷ luật khắt khe sẽ nhìn thấy Chúa Giêsu là một người giữ kỷ luật rất khắt khe và những kẻ có lòng nhân từ yêu người sẽ thấy Chúa Giêsu là một người nhân từ yêu tha nhân. Nếu vậy thì có phải Kính Thánh chỉ là một chiếc gương phản chiếu khuôn mặt của người đọc? Có phải Kinh Thánh chỉ để cung cấp lý lẽ chính đáng cho những lối sống kỳ thị và buông thả mà con người tự chọn? Nếu thật sự là vậy, thì chúng ta chẳng hơn gì kẻ tù tội sắp chết lật mở những trang Kinh Thánh để tìm lối thoát.
Sự thật thì Kinh Thánh là phương tiện để khẳng định và đồng thời thách đố người đọc. Nếu chúng ta đọc Kinh Thánh mong rằng Lời Chúa sẽ thách thức cuộc sống tầm thường thiếu quan tâm đến tha nhân của chúng ta, thì chúng ta rất dễ nhận ra điểm chính của Tin Mừng hôm nay là hình ảnh một Chúa Giêsu hiền từ và xót thương. Điểm này được nêu rõ trong câu 34, “Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều” (Mc 6:34). Mặc dù Chúa Giêsu đến đây tìm sự thanh vắng để nghỉ ngơi với các môn đệ, mặc dù dân chúng không có lý lẽ để đến quấy rầy Ngài; nhưng, Ngài vẫn có thể nhìn vào những khuôn mặt mệt nhọc và nhận ra những sự cần thiệt của họ. Ngài liền thay đổi chương trình và đáp ứng nhu cầu của họ. Dĩ nhiên Chúa Giêsu có quyền đi nghỉ ngơi, và dĩ nhiên dân chúng không có quyền để quấy nhiễu Ngài. Nhưng Chúa Giêsu không chú trọng đến quyền lợi của Ngài. Ngài biết đám đông tìm đến Ngài trong cơn tuyệt vọng và Ngài đã sẵn sàng tìm mọi cách để giúp họ khỏi cơn tuyệt vọng đó.
Phần chúng ta, chúng ta sẽ phản ứng hoặc xử thế nào khi phải gặp trường hợp tương tự? Chắc có lẽ chúng ta sẽ trách móc đám đông thiếu tế nhị và truyền cho các môn đệ đuổi họ đi và nếu cần sẽ mời luật pháp đến can thiệp. Cũng có thể chúng ta sẽ nổi nóng, bực tức và đoán xét họ thay vì thông cảm và tìm hiểu sự cần thiết của họ. Nhưng, với một người có lòng xót thương thì họ sẽ đặt mình vào địa vị của người khác để có thể hiểu được những nỗi thống khổ và túng thiếu của kẻ túng thiếu. Một câu châm ngôn thích hợp với người có lòng thương xót là, “Đừng chỉ trích tha nhân trừ khi bạn đã đi được một dặm trong đôi giầy của họ.”
Vậy, nếu Chúa Giêsu là một người giầu lòng xót thương thì tại sao ngay từ đầu Ngài lại tìm cách tránh xa đám đông dân chúng? Thưa, nếu đọc kỹ lại đoạn Kinh Thánh thì chúng ta sẽ thấy hành động đó không phải là một hành động thiếu tế nhị, nhưng cũng là một hành động đầy xót thương; không phải xót thương đối với đám đông dân chúng nhưng thương xót đối với các môn đệ là những người đang cần thời giờ nghỉ ngơi sau một chuyến đi rao giảng mệt nhọc, “Ngài liền bảo các ông: ‘Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút.’ Vì lúc ấy dân chúng kẻ đến người đi tấp nập đến nỗi các tông đồ không có thì giờ ăn uống” (Mc 6:31). Qua đó, chúng ta thấy cả hai quyết định của Chúa Giêsu là đều do lòng xót thương thúc đẩy. Quyết định thứ nhất là do lòng xót thương các tông đồ và quyết định thứ hai là do lòng thương xót đám đông dân chúng. Không quyết định nào được thúc đẩy bởi lòng ích kỷ nhưng chỉ do lòng thương xót. Quả thật, bài Phúc Âm hôm nay rất ngắn, chỉ trong vỏn vẹn có 5 câu vắn tắt nhưng đã hai lần (hay ba lần) nói lòng thương xót của Chúa Giêsu.
Xin Chúa Giêsu ban cho mỗi người chúng ta tinh thần xót thương của Ngài để có thể trở nên nhậy cảm và sẵn sàng đáp ứng những nhu cầu cần thiết của những người chung quanh, như Chúa Giêsu đã thể hiện. Và mỗi người hãy sẵn sàng sống cuộc sống cảm thương cho dù có phải thay đổi chương trình của mùa nghỉ hè hoặc chương trình của cả cuộc sống.
Xin Mẹ Maria là Mẹ đầy lòng yêu thương, giúp chúng ta vượt qua những khó khăn trong cuộc sống để dễ cảm thông với những người đang cần đến sự thông cảm.
Bạn có một nơi nào thật đặc biệt, bí mật, chỉ dành riêng cho một mình bạn lui tới thôi không? Khi TN 16-B181
Bạn có một nơi nào thật đặc biệt, bí mật, chỉ dành riêng cho một mình bạn lui tới thôi không? Khi tôi còn nhỏ, tôi thích thơ thẩn, chơi một mình đằng sau nhà, dưới những lùm cây. Những lùm cây này làm thành một cái hang trống rỗng, không có một ngọn cỏ nào có thể mọc lên nổi. Tôi thích chơi dưới đó, bày biện đồ chơi ra, nào là máy bay, xe tăng, tàu thủy, quân lính đủ loại binh chủng… mà người lớn không ai nhìn thấy tôi chơi.
Thế rồi khi lớn hơn một chút, gia đình tôi dọn về lập nghiệp trên bờ Sông Bé tỉnh Đồng Nai. Bố tôi có cả một nông trại lớn, với bao nhiêu mẫu ruộng. Đằng trước nhà có một cây đa cổ thụ mọc bên bờ sông, phía sau nhà là rừng và suối. Vào những buổi trưa hè sau khi đi học về, tôi thả bộ dọc theo con đường mòn dẫn vào ven rừng. Gần ven rừng có một cái ao và mảnh đất trống trên đó có cây cổ thụ cao khoảng 30 thước. Cành lá nó che rộng ra như một cái dù lớn, tạo thành một bóng mát tuyệt vời. Những buổi trưa hè nóng nực, tôi thường một mình nằm trên đám lá cây rải trên đất như một chiếc chiếu: nhìn ánh mặt trời xuyên qua những kẽ lá, thưởng thức những ngọn gió mát và lắng nghe tiếng chim ca thánh thót xung quanh. Từ nơi này tôi đã biết suy nghĩ, biết thưởng thức cái đẹp của thiên nhiên xung quanh và hiểu ra ý nghĩa của cuộc đời.
Mỗi người đều có một nơi nào đó rất riêng tư cho mình. Nơi đó có thể là một chỗ rất đặc biệt, ngay trong nhà bạn, nơi nhà nguyện, trên rừng hoang, ngoài bãi biển… một chỗ cô tịch, một nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi, tĩnh tâm và cầu nguyện.
Chúa Giêsu cũng cảm thấy cần phải quân bình giữa đời sống nội tâm và đáp ứng những nhu cầu mục vụ của dân chúng. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Mc 6:30-34, chúng ta thấy Chúa Giêsu gọi các môn đệ của Ngài đi đến một nơi vắng vẻ, hẻo lánh để nghỉ ngơi: “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút. Vậy các ngài xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng… người ta đi bộ kéo đến nơi đó…” (Mc 6:31-33).
Chỉ trong một đoạn Phúc Âm ngắn, từ ngữ “nơi vắng vẻ” được nhắc đến ba lần. Trong Thánh Kinh có rất nhiều đoạn nhắc đến nơi hoang vu, vắng vẻ. Mô-sê và Êlia đã đi vào nơi hoang địa để gặp gỡ Thiên Chúa (Xh 3:1; 1 V 17:3). Dân Do Thái phải đi trong sa mạc 40 năm trước khi vào đất hứa. Thánh Gioan Tẩy Giả đã đi vào nơi hoang địa để rao giảng sự sám hối và dân chúng kéo nhau theo ngài (Mt 3:1). Chúa Giêsu hay rút lui vào nơi thanh vắng trên núi, thường vào ban đêm để cầu nguyện (Mc 1:35; 6:46; Mt 4:1). Và hôm nay chúng ta thấy Chúa Giêsu và các môn đệ nuôi 5000 người ăn uống no nê trong hoang địa.
Trong cuốn chú giải Thánh Kinh, “The Gospel of Mark”, William Barclay đã có những lời giải thích rất phong phú về đoạn Thánh Kinh này như sau: “Ở đây chúng ta nhìn thấy điều có thể gọi là sự nhịp nhàng của đời sống Kitô hữu. Đời sống Kitô hữu là một cuộc hành trình liên tục đi từ sự hiện diện của con người vào sự hiện diện của Thiên Chúa, rồi lại bước ra, đi từ sự hiện diện của Thiên Chúa vào sự hiện diện của con người. Nhịp điệu này giống như sự nhịp nhàng của giấc ngủ và sự làm việc. Chúng ta không thể làm việc được trừ khi chúng ta có thời giờ nghỉ ngơi; và giấc ngủ sẽ không đến trừ khi chúng ta đã làm việc cho đến khi mệt mỏi.
Có hai điều nguy hiểm trong đời sống. Trước hết, nguy hiểm vì hoạt động quá mức. Không ai có thể chỉ mải mê làm việc mà không cần sự nghỉ ngơi; và cũng không có ai có thể sống đời sống Kitô hữu hoàn hảo trừ khi người đó tự dành thời giờ của mình cầu nguyện với Thiên Chúa. Tất cả những xáo trộn trong đời sống sở dĩ có thể xảy ra vì chúng ta đã không cho Thiên Chúa cơ hội để trò chuyện với chúng ta; chúng ta không biết im lặng và lắng nghe. Chúng ta đã không cho Thiên Chúa thời gian để ban lại cho chúng ta nghị lực và sức mạnh tinh thần. Làm thế nào chúng ta có thể vác được những gánh nặng của cuộc sống nếu chúng ta không tiếp xúc với Ngài, Thiên Chúa của tất cả mọi sự tốt lành trong cuộc đời? Làm thế nào chúng ta có thể thi hành được công việc của Thiên Chúa trừ khi bằng chính sức mạnh của Ngài? Và làm thế nào chúng ta có thể đón nhận được sức mạnh của Ngài trừ khi chúng ta kiếm tìm trong cô đơn thinh lặng và trong sự hiện diện của Thiên Chúa? Điểm thứ hai, nguy hiểm vì quá thụ động. Lòng nhiệt thành sùng đạo mà không có hành động thì không phải là sự sùng đạo thực sự. Cầu nguyện mà không có hành động thì không phải là sự cầu nguyện thực sự. Chúng ta không được phép tìm kiếm sự thân tình với Thiên Chúa để tránh né tình bạn hữu với con người, vì tình nghĩa với Thiên Chúa là để giúp chúng ta cải thiện tình người trở nên tốt đẹp hơn. Sự nhịp nhàng của đời sống Kitô hữu là sự gặp gỡ luân phiên với Thiên Chúa ở nơi vắng vẻ và sự phục vụ con người giữa phố chợ.
Sự nghỉ ngơi mà Chúa Giêsu đi tìm cho chính Ngài và cho các môn đệ của Ngài không phải là loại nghỉ ngơi thụ động. Đám đông đã trông thấy Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài tránh né họ, tới một chỗ đặc biệt. Chỗ này, nếu dùng thuyền bơi ngang qua hồ thì xa khoảng 4 dặm, và nếu đi bộ vòng quanh hồ thì 10 dặm. Vào một ngày không có gió, hay gió ngược, một con thuyền phải mất một thời gian khá lâu để vượt qua khoảng cách này, và một người đầy nghị lực, khỏe mạnh có thể bước đi bộ xung quanh hồ và tới đó trước khi con thuyền đến. Đây chính là điều đã xảy ra. Và khi Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài vừa bước ra khỏi thuyền thì họ đã trông thấy đám đông đi bộ đến đó trước rồi.
“Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng, vì họ như đàn chiên không người chăn” (Mc 6:34). Nguyên tắc mục vụ của Chúa Giêsu dựa trên đời sống cầu nguyện kết hợp với Đức Chúa Cha và lòng thương yêu dân chúng.
Kết hợp đời sống cầu nguyện, cử hành Phụng Vụ Thánh của Giáo Hội, nhất là Bí tích Thánh Thể, và hoạt động trong sự hiệp thông cùng một tâm hồn với nhau theo gương các tín hữu của Giáo Hội sơ khai (Cv 4:32), các Kitô hữu đã sống và cử hành đức tin một cách sống động (GLCG #3, 15).
Người xưa có một chú bé muốn gặp gỡ Thiên Chúa. Chú nghĩ chắc phải vượt qua một đoạn đường dài lắm mới tới được chỗ Thiên Chúa ngụ, nên chú gói ghém đầy đủ lương thực, gồm bánh và nước ngọt trong cái túi sách. Rồi chú bắt đầu cuộc hành trình. Khi vừa ra đi được 3 khu phố, chú gặp một ông lão đang ngồi ở ghế công viên ngắm nhìn những con chim bồ câu. Chú bé đến ngồi bên cạnh ông lão và mở túi sách ra. Khi chú bé sắp sửa khui một lon nước ngọt ra uống, chú thấy ông lão có vẻ đói bụng; chú bé bèn lấy cho ông một cái bánh. Ông lão đón nhận cái bánh một cách rất biết ơn, và nhìn chú bé mỉm cười. Nụ cười của ông lão tươi đẹp làm sao! Chú bé cứ muốn nhìn nó mãi. Chú bé cho ông lão một lon nước ngọt. Một lần nữa, ông lại nhìn chú bé mỉm cười.
Chú bé sung sướng quá! Họ ngồi với nhau suốt buổi trưa ăn bánh, uống nước ngọt, và mỉm cười với nhau mà không nói với nhau câu nào. Đến chiều tối, chú bé nhận ra mình đã mỏi mệt và phải trở về nhà; nhưng trước khi rời gót, chú bé quay lại, ôm lấy ông lão từ giã. Ông lão lại nở một nụ cười rất tươi chưa từng có.
Khi chú bé vừa mở cửa bước vào nhà, mẹ chú rất đỗi ngạc nhiên vì niềm vui không thể che giấu được trên khuôn mặt của nó, bèn hỏi: “Hôm nay con làm gì mà sao con vui quá vậy?” Nó trả lời: “Con ăn trưa với Chúa.” Trước khi mẹ nó đáp lại, nó nói tiếp, “Mẹ biết gì không? Ngài có nụ cười thật đẹp mà con chưa bao giờ thấy!”
Trong khi đó, ông lão cũng trở về nhà với nguồn vui rạng rỡ trên khuôn mặt. Người con trai ông thấy vậy liền hỏi: “Ba à, hôm nay sao ba vui quá chừng vậy?” Ông lão đáp: “Ba đã ăn donut trong công viên với Chúa.” Ông nói thêm: “Con biết không, Chúa trẻ trung hơn là ba nghĩ nhiều!”
Sống kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, yêu thương tha nhân và hài hòa với chính cuộc sống riêng tư của mình là lý tưởng của người môn đệ Chúa Giêsu. Một tác giả nào đó đã cho ta những lời khuyên như sau: “Hãy dành thời giờ để VUI CƯỜI, vì đó là tiếng nhạc của tâm hồn. Hãy dành thời giờ để SUY NGHĨ, vì đó là nguồn sức mạnh. Hãy dành thời giờ để CHƠI ĐÙA, vì đó là bí mật để trẻ mãi không già. Hãy dành thời giờ để ĐỌC SÁCH, vì đó là nền tảng của sự khôn ngoan. Hãy dành thời giờ để CẦU NGUYỆN, vì đó là sức mạnh lớn nhất của con người. Hãy dành thời giờ để YÊU VÀ ĐƯỢC YÊU, vì đó là món quà vĩ đại nhất của Thiên Chúa. Hãy dành thời giờ để KẾT BẠN, vì đó là con đường dẫn tới hạnh phúc. Hãy dành thời giờ để MƠ ƯỚC, vì nó sẽ làm nên tương lai. Hãy dành thời giờ để LÀM VIỆC, vì đó là cái giá phải trả cho sự thành công. Hãy dành thời giờ cho THIÊN CHÚA, vì đó là cách ta phải sống.”
Bài Tin Mừng tuần trước (CN XV/TN-B – Mc 6, 7-13) trinh thuật Đức Giê-su Ki-tô sai các TN 16-B182
Bài Tin Mừng tuần trước (CN XV/TN-B – Mc 6, 7-13) trinh thuật Đức Giê-su Ki-tô sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng. Sau một thời gian, các môn đệ trở về “kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy. Người bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa.” Bài Tin Mừng hôm nay (CN XVI/TN-B – Mc 6, 7-13) trình thuật tiếp việc “thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng”. Tuy nhiên, đám đông “hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài.” Đó là lý do khiến Thầy “chạnh lòng thương” và lại “bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”.
Không gì hạnh phúc bằng những thành quả gặt hái được sau chuyến “được sai đi” của các Tông đồ; đó là được người ta đón nhận và đi theo các ngài rất đông, đông đến độ không còn thì giờ để các ngài ăn uống (Mc 6, 31). Chính vì thế, các môn đệ đã rất phấn khởi thuật lại những kết quả tốt đẹp đó cho Thầy nghe. Đức Ki-tô hiểu tường tận những thành quả của các môn đệ, nhưng Người lưu tâm đến Lời Người đã hứa từ trước khi sai các môn đệ đi rao giảng. Đó là “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” (Mt 11, 28-30).
Sau một chuyến công tác vất vả nhưng đạt hiệu quả cao, thì vấn đề nghỉ ngơi bồi dưỡng chính là phần thưởng phù hợp nhất. Sự nghỉ ngơi không chỉ đơn thuần mang tính cách bồi dưỡng sức khoẻ thể chất, mà chính là bồi dưỡng về mặt tâm linh. Thật thế, được nghỉ ngơi là một dịp tìm lại khoảng lặng của tâm hồn để từ đó rút ra được những bài học bổ ích: rút ưu khuyết điểm để có thế phát huy những ưu điểm, sửa chữa những khuyết điểm, bổ sung những điều còn thiếu sót. Quả thực “CHÚA là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi.” (Tv 23, số 1-3).
Khi cho các môn đệ “hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”, Đức Ki-tô đã “bổ sức” cho các ngài để các ngài tiếp tục công việc trên hành trinh loan báo Tin Mừng. Như vậy, vấn đề nghỉ ngơi ở đây không phải là hưởng thụ mà chính là dịp tìm lại cái tâm an bình (“tĩnh tâm”). Nói cách khác, đây là dịp tìm lại sự bình an – bình an cho tâm hồn, bình an trong cuộc sống và nhất là bình an trong sứ vụ. Thực thế, điều chính yếu cần quan tâm trong sứ vụ mục tử của Chúa Ki-tô được Thánh Phao-lô lưu ý không phải là vấn đề cơm bánh, mà là sự bình an (“Thật vậy, chính Người là bình an của chúng ta… Người đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. Thật vậy, nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha.” – Ep 2, 14-18; “Vì Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.” – Rm 14, 17).
Với các môn đệ thì như vậy, nhưng với bản thân thì Chúa có nghỉ ngơi được không? Vừa mới tới nơi chỉ định cho các môn đệ nghỉ ngơi, thì “Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.” (Mc 6, 34). Đức Ki-tô khi thấy đám đông – mà đám đông này là thành quả của một quá trình rao giảng của cả Thầy lẫn trò – thì Người “chạnh lòng thương” vì thấy họ “như bầy chiên không người chăn dắt”. Sở dĩ vậy, vì chính Người là vị Mục Tử Nhân Lành (“Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” – Ga 10, 14-15). Là Chúa Chiên, nên cùng lúc Đức Ki-tô đã quan tâm tới tất cả đàn chiên (đám đông người đi theo, kể cả các Tông đồ).
Sự nhạy cảm trước nhu cầu cần thiết của đàn chiên, bộc lộ một tình thương bao la nơi Chúa Chiên. Tình thương ấy đòi buộc Người phải làm cho họ một cái gì, mà cái gì đó phải chăng chính là sự nghỉ ngơi bồi dưỡng? Các Tông đồ được “nghỉ ngơi đôi chút” và đám đông được “dạy dỗ nhiều điều”, đó chính là sự bồi dưỡng về mặt tâm linh. Nói cách khác thì đó là Đức Ki-tô đã cụ thể hoá việc “sống Lời Chúa” cho mọi người. Tuy nhiên, việc làm trên của Đức Giê-su mới chỉ thể hiện được vế 2 của Lời Người từng dạy dỗ “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt 4, 4); còn vế 1 “vấn đề cơm bánh” bồi dưỡng thể xác thì sao?
Mấu chốt vấn đề chính ở điểm này: Đức Giê-su đã dùng cách nói “Không những…, mà còn…” để nêu bật nhu cầu sống của loài người về cả hai mặt: Thể chất và tâm linh, cả 2 đan quyện vào nhau, bổ túc cho nhau. Người ta sống trên đời không chỉ bằng cơm bánh không thôi, vì như thế sẽ chẳng khác chi loài thực vật vô tri vô giác. Nhưng Chúa cũng không yêu cầu sống hoàn toàn bằng Lời Chúa, vì dù sao con người sống trên trần gian này vốn chỉ là một thụ tạo, có nhu cầu về thể chất thì cũng có nhu cầu về tinh thần. Vì vậy, ngay sau khi ban lương thực tinh thần cho các Tông đồ và đám đông, thì Đức Ki-tô đã lưu ý tới nhu cầu cần bồi dưỡng thể chất cho mọi người. Và chỉ với 5 chiếc bánh và 2 con cá, Người đã bồi dưỡng cho đám đông tới 5000 người không kể đàn bà và trẻ con (tất nhiên trong đó có các Tông đồ) được no nê thoải mái, mà vụn bánh còn dư tới 12 thúng đầy (Mc 6, 37-44).
Trong xã hội loài người hiện nay, những người thiếu cơm ăn áo mặc, lầm than, cực khổ về thể xác vẫn là con số quá đông; nhưng đến như những người thiếu lương thực tinh thần cũng không phải là ít. Tuy rằng cũng đã có thật nhiều những cá nhân, đoàn thể biết “chạnh lòng thương” những người xấu số ấy, nhưng xem ra cũng chưa đáp ứng được nhu cầu của thời đại. Ấy mới chi là những nạn nhân của thiên nhiên, chưa nói tới những nạn nhân của chính con người với con người. Quả thật đời là bể khổ, đời là bể trầm luân, mà trong đó con người triền miên ngụp lặn với biết bao sóng gió bão bùng. Chính vì thế, nên vẫn cần – rất cần – có những mục tử kế vị Mục Tử Nhân Lành Giê-su Ki-tô, có một trái tim thật nhạy bén “chạnh lòng thương” những “bầy chiên không người chăn dắt” (cả chiên nội và chiên ngoại – cả ràn chiên được tuyển chọn và những ràn chiên khác).
Trong xã hội hiện nay có rất nhiều mục tử, nhiều nơi thậm chí dư thừa, nhưng mục tử tốt biết “chạnh lòng thương” và biết hy sinh cho đàn chiên thì vẫn luôn luôn thiếu. Đàn chiên đau khổ rất cần những mục tử biết “chạnh lòng thương”. Nói như vậy, không có nghĩa là chỉ có những mục tử mới có trách nhiệm, mà cả những con chiên chính hiệu (“chiên nội”, nhãn hiệu trình toà – marque déposée – đàng hoàng) cũng phải có bổn phận cộng tác với các mục tử trong sứ vụ cao trọng này; bởi đến như Thiên Chúa cũng rất cần sự cộng tác của con người mới thực hiện được công trình cứu độ (“Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài” – Thánh Au-gus-ti-nô).
Tóm lại, trách nhiệm bồi dưỡng đàn chiên của Chúa về cả 2 mặt thể xác và tâm linh là trách nhiệm chung của Hội Thánh Chúa bao gồm cả tư tế thừa tác (linh mục) và tư tế cộng đồng (giáo dân). Ấy cũng bởi vì “Thánh Au-gus-ti-nô viết: ‘Cũng như chúng ta tất cả được gọi là Kitô-hữu (Christiani) vì đã được xức dầu (Chrisma) một cách thiêng liêng, do đó tất cả được gọi là linh mục, bởi vì chúng ta là thành phần thân thể của Linh Mục Duy Nhất’ (De Civitate Dei – XX, 10).” (Tông huấn Ki-tô hữu Giáo dân “Christi Fideles Laici”, số 14). Nói cụ thể, người Ki-tô hữu không chỉ rao giảng Tin Mừng bằng cách đem lương thực tinh thần (Lời Chúa) đến cho mọi người, ở mọi nơi, trong mọi lúc; mà còn có nhiệm vụ đem lương thực vật chất (cơm áo, gạo tiền) đế cho những người nghèo đói, tật bệnh… Ước được như vậy.
Ôi! Lạy Chúa! Xin Chúa ban Thần Khí soi sáng cho chúng con, để chúng con hiểu rằng khi Chúa thương gọi con làm Ki-tô hữu, Chúa đã cho con được tham dự vào chức vụ mục tử của Ngài (tư tế cộng đồng). Cùng với sự hiểu biết ấy, con sẽ nhận ra trách nhiệm của chính bản thân con là phải cộng tác – đồng trách nhiệm – với các vị mục tử Chúa đã chọn trong Bí tích Truyền Chức (tư tế thừa tác), “Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm. Để con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng. Để con rọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu…” (“Kinh hoà bình” – TCCĐ).
“Người đã đến loan Tin Mừng Bình An: bình an cho anh em là những kẻ ở xa và bình an cho những kẻ ở gần” (Ep 2,17).
Đức Giê-su Ki-tô đến loan Tin Mừng Bình an, vì “chính Người là sự bình an của chúng ta”(x.Ep 2,14) TN 16-B183
Đức Giê-su Ki-tô đến loan Tin Mừng Bình an, vì “chính Người là sự bình an của chúng ta”(x.Ep 2,14). Bình an cho những người ở xa và bình an cho những người ở gần. Người ở xa là ai và người ở gần là ai ? Người ở xa là dân ngoại và người ở gần là dân Do Thái.
Người ở xa cũng là chính chúng ta, những người Tín Hữu Ki-tô. Vì xưa chúng ta là dân ngoại, chúng ta không phải là người Do Thái, nhưng nay “Trong Đức Ki-tô, nhờ Máu Đức Ki-tô đổ ra, chúng ta đã trở nên người ở gần” (x.Ep 2,13). Còn người Do Thái, xưa họ là người ở gần, nay họ lại là người ở xa, vì họ không tin vào Đức Giê-su Ki-tô.
Bây giờ, đối với Giáo Hội Công Giáo, thì những người Do Thái, lại trở thành “dân ngoại” và đối với Do Thái Giáo, thì chúng ta, những người Tín Hữu Ki-tô cũng vẫn là dân ngoại. Theo thánh Phao-lô, người ở gần chính là những người Do Thái đã tin vào Chúa Giê-su và những người ở xa chính là những người không là Do Thái, là dân ngoại nhưng đã chịu phép rửa tội.
Xưa kia, dân Do Thái cho mình là dân Thiên Chúa và coi những người không là dân Do Thái là dân ngoại, là dân của ma quỉ, nên có sự thù ghét nhau. Thế nhưng, Đức Giê-su đã đến và trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét. Người làm cho đôi bên được hòa giải với Thiên Chúa trong một Thân Thể duy nhất (x.Ep 2,16).
Thân thể duy nhất này chính là Giáo Hội. Đức Giê-su đã xây dựng Giáo Hội. Giáo Hội này chính là Thân Mình mầu nhiệm của Đức Ki-tô. Trong Giáo Hội này không có sự thù ghét, chỉ có sự yêu thương mà thôi. Điều răn trọng nhất và duy nhất là MẾN CHÚA và YÊU NGƯỜI. “Yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình” (x.Mt 22, 37-39).
Trên bình diện quốc tế, Giáo Hội Công Giáo chúng ta cũng là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới, nên bình an cho những người ở xa tức là bình an cho những người ở tôn giáo khác và bình an cho những người ở gần, chính là bình an cho chúng ta, những người thuộc về Giáo Hội Công Giáo.
Hơn nữa, không những bình an cho những người đến nhà thờ đọc kinh, dâng lễ mà còn bình an cho những người không còn giữ đạo, bỏ đọc kinh, bỏ dâng lễ nữa. Nghĩa là sự bình an của Đức Ki-tô; bình an của Thiên Chúa đến cho hết mọi người. Nhưng, người ta có được hưởng sự bình an đó không lại còn phải tùy thuộc vào mỗi người nữa. Đức Giê-su đã đến để loan báo Tin Mừng Bình An, mà ta có đón nhận sự Bình Anđó và thực hành Tin Mừng đó không ?
Quả thật, bất cứ ai đón nhận và thực hành Tin Mừng Bình an đó thì mới có sự bình an trong tâm hồn. Người ở xa cũng như người ở gần; người có đạo cũng như người không có đạo. Đương nhiên người ở gần, người có đạo sẽ có cơ may đón nhận Tin Mừng Bình An đó hơn.
Trên Thập Giá, Đức Giê-su đã tiêu diệt sự thù ghét, thì chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng hãy tiêu diệt sự thù ghét với Đức Giê-su Ki-tô trong chúng ta. Đó chính là cách thức ta đón nhận và thực hành Tin Mừng Bình An của Đức Ki-tô Giê-su. Nghĩa là trong tâm hồn ta, trong đầu óc của ta không có sự thù ghét ai; ai cũng là anh chị em của ta, không ai là kẻ thù của ta cả. Bây giờ cũng vậy và ta sẽ cố gắng giữ như vậy cho đến hết đời.
Quả thực khi không có thù ghét ai; khi không có ai là kẻ thù thì tâm hồn ta sẽ tràn đầy sự bình an. Đó chính là Tin Mừng Bình An; đó chính là sự Bình An của Tin Mừng. Nếu ai cũng làm như vậy thì chắc chắc thế giới này sẽ không có chiến tranh; thế giới sẽ có hòa bình. Đây là mấu chốt của vấn đề. Muốn có hòa bình, không chỉ cầu nguyện cho hòa bình; không chỉ đi bộ vì hòa bình mà làm sao loại bỏ sự ghen ghét, loại bỏ sự thù ghét; tức là làm sao cho người ta yêu thương lẫn nhau.
Tin Mừng Bình An là Tin Mừng Yêu Thương. Nhiều khi người ta nhiệt thành cầu nguyện cho hòa bình lắm; hăng say, chịu khó đi bộ vì hòa bình lắm, nhưng trong lòng lại đầy những cao ngạo, đầy những hận thù, đầy những ghen ghét thì cũng như không thôi, đâu có mang lại lợi ích gì. Nó mang tính phong trào thì có.
Thực tế cho thấy, những người đầy lòng phẫn nộ, đầy lòng ghen ghét thì thường tích cực tham gia các phong trào đó. Nó như cái bình phong che đậy cái bên trong. Những người thực sự thiện chí, thiện tâm e rằng không có bao nhiêu. Có cái ngọn mà không có cái gốc. Cái gốc là sự yêu thương, phải có cái gốc này thì mới sinh Hòa Bình; mới phát sinh Bình An.
Yêu thương thậtthì yêu thương người ở gần cũng như người ở xa; yêu người cùng dân tộc cũng như yêu thương người ngoại quốc; yêu thương lúc ở xa cũng như lúc ở gần; yêu thương lúc nghèo cũng như lúc có của. Nghĩa là xa cũng thương mà gần cũng thương, người như thế thì lúc nào cũng bình an và hạnh phúc.
Còn yêu thương giả thì gần thì thương, xa thì thôi. Thấy “người ngoại”, có quyền, có thế, có của thì xum xoe, khúm na khúm núm; thấy “người nội” thì làm ngơ, phớt tỉnh ăng-lê; lúc nghèo thì chia sẻ, lúc có của thì ăn một mình. Nghĩa là ích kỷ, cơ hội và giả hình. Người như thế thì lúc nào cũng bất an và bất hạnh.
Bình an cho Em, bình an cho Anh. Bình an cho Em khi gần Anh cũng như khi xa Anh. Bình an cho Anh, khi xa Em cũng như gần Em.“Thật vậy, Nhờ Đức Ki-tô, cả đôi bên được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha” (x.Ep 2,18). Sự yêu thương bắt đầu từ hai con người đó; sự bình an cũng bắt đầu từ hai con người đó, để rồi lan tỏa khắp mọi nơi và khắp mọi người.
Để từ nay không còn là Em, không còn là Anh nữa mà chúng ta là một. Từ nay không còn phe phái, không còn tranh giành, không còn hơn thua, không còn ghen ghét nữa mà chúng ta là một; là anh em một nhà; là con cùng một Cha, để cùng nhau làm, cùng nhau giúp đỡ, cùng nhau tiến, cùng nhau xây dựng hòa bình; cùng nhau xây dựng hạnh phúc.
Quả thật, về con người xác thịt thì có sự xa cách, có ở nơi này thì không có ở nơi kia; nhưng về tinh thần thì không có khoảng cách. Yêu thương rồi thì có xa cũng như gần thôi; xa về địa lý nhưng gần về tâm lý; nó ở trong tâm hồn, trong trái tim và trong khối óc của ta. Để khi nhớ đến là có đó, dào dạt bao ân tình, bao yêu thương; nó ở trong tâm, trong trí ta rồi, thì có gì có thể ngăn cách; có gì có thể làm ta mất bình an, mất hạnh phúc chăng !!!! Còn không yêu hay ghen ghét thì có gần cũng như xa mà thôi.
Yêu thương thì có bình an và hạnh phúc. Ghen tương thì chỉ có bất an và bất hạnh mà thôi. Yêu thương chính là Tin Mừng mà Đức Giê-su mang đến và loan báo. Đó chính là Tin Mừng Bình An.
Vậy ta hãy đón nhận và thực hành Tin Mừng đó trong cuộc sống của ta, ta sẽ luôn luôn có bình an trong tâm hồn và yêu thương mọi người. Trong yêu thương mọi người chắc chắn sẽ có người yêu thương đặc biệt, mà người ta gọi là “người yêu” hay “người tình”, lòng ta sẽ tràn ngập hạnh phúc.
Tin Mừng của Đức Giê-su Ki-tô là Tin Mừng Bình An; là Tin Mừng Hạnh Phúc. Ai mà thực hành Tin Mừng đó sẽ có bình an và hạnh phúc
Lòng nhân từ của Đức Kitô, vị mục tử được biểu lộ qua việc quan tâm, chăm sóc các tông đồ TN 16-B184
Lòng nhân từ của Đức Kitô, vị mục tử được biểu lộ qua việc quan tâm, chăm sóc các tông đồ đi truyền giáo về và nhất là qua lòng trắc ẩn xót thương dân chúng đi theo Ngài: “Họ như bầy chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều”.
Mục tử và đàn chiên là một hình ảnh rất quen thuộc đối với dân Do Thái là dân du mục. Trong cựu ước, các ngôn sứ thường dùng hình ảnh người mục tử để diễn tả mối liên hệ giữa Thiên Chúa và dân Do Thái.
Trong bài đọc I, ngôn sứ Giêrêmia cho thấy Thiên Chúa hết lòng yêu thương chăm sóc dân, Ngài lên án những mục tử xấu và hứa ban cho dân những mục tử tốt lành để lãnh đạo dân: “Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng, họ sẽ chăn dắt chúng”. Hơn nữa, Thiên Chúa còn hứa ban cho dân một vị mục tử xuất thân từ dòng tộc David, để lãnh đạo dân Ngài trong công bình chính trực, đem lại cảnh thái bình thịnh vượng. Đó làĐức Giêsu, vị mục tử nhân lành mà các tiên tri đã loan báo. Lời hứa của Thiên Chúa đã được thực hiện nơi Đức Giêsu.
Bài Tin mừng hôm nay biểu lộ tâm tình của Đức Kitô mục tử:
– Ngài quan tâm, chăm sóc tới cuộc sống của các tông đồ. Sau cuộc hành trình truyền giáo mỏi mệt, vất vả, trở về với những thành công phấn khởi, Đức Giêsu truyền cho các ông phải đi nghỉ để bồi dưỡng sức khỏe, tìm nơi yên tĩnh để khỏi bị dân chúng quấy rầy, cần có thời giờ để cầu nguyện, để tĩnh tâm: “Anh em hãy lánh riêng ra đến nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Với con tim mục tử, Chúa Giêsu chia sẻ, cảm thông những vất vả quan tâm đến sức khỏe con người của các ông hơn là công việc làm. Thầy trò cần có thời gian bên nhau, cho nhau để sống tình thầy trò, tâm sự, trao đổi với nhau những kinh nghiệm truyền giáo. Nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng để làm việc hữu hiệu hơn, lâu dài hơn. Muốn đi xa, phải luôn dừng lại để nghỉ ngơi lấy sức. Muốn hoạt động tông đồ tốt, cũng phải năng tĩnh tâm, tĩnh dưỡng tâm hồn. Thời gian hồi tâm, thinh lặng, suy nghĩ rất cần thiết, hữu ích và quan trọng.
– “Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn”. Tâm tình mục tử nơi Đức Giêsu biểu lộ qua lòng thương xót trong khi Chúa rao giảng Tin Mừng cứu độ cho mọi người. Cảm thương số phận của đàn chiên không người chăn. Mạng sống đàn chiên tùy thuộc vào người chăn. Chiên mà không có người chăn thì mạng sống sẽ bị đe dọa, nguy hiểm, không biết đi về đâu, không ai hướng dẫn, không ai tựa nương.
Chúa Giêsu rất nhạy cảm trước khổ đau của con người. Thấy đám dan bơ vơ, đói khát lời Chúa, không ai quan tâm. Chúa Giêsu đã hy sinh không đi nghỉ chung với các tông đồ, Ngài đích thân ở lại với họ và tiếp tục giảng dạy cho họ nhiều điều. Ở đây thánh sử Marcô không ghi lại những điều Chúa Giêsu dạy. Nhưng thánh sử Luca 9, 10-11 ghi rõ: Ngài tiếp đón họ, nói cho họ về nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được cứu chữa. Chính việc giảng dạy “nhiều điều này” đã chứng thực Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay muốn biểu lộ lòng thương xót của Chúa để dạy chúng ta biết cảm thông, động lòng trắc ẩn trước nhu cầu của anh em như Chúa Giêsu, chúng ta biết hy sinh ý riêng để phục vụ mọi người, lo cho việc chung, lo cho phần rỗi của anh em.
Tìm nơi thanh vắng để cầu nguyên, thinh lặng là điều cần thiết cho người tông đồ, cho người tu sĩ. Thời gian tĩnh dưỡng, tĩnh tâm cầu nguyện và suy nghĩ, thẩm định lại những biến cố, những công việc đã làm để sống việc tông đồ đạt kết quả tốt hơn và đời sống đạo đức tiến bộ hơn. P. Doncour đã quả quyết: “Không một vĩ nhân nào đã thành công mà không đắm mình trong thinh lặng và cầu nguyện”.
Chúng ta vừa nghe một trong những đoạn Tin Mừng đẹp nhất trong Kinh Thánh. Đẹp trong hình TN 16-B185
Chúng ta vừa nghe một trong những đoạn Tin Mừng đẹp nhất trong Kinh Thánh. Đẹp trong hình ảnh và đẹp cả trong ý nghĩa. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy một hình ảnh rất cảm động: Chúa ở giữa dân của Người. Đồng thời cũng cho chúng ta thấy lý do tại sao Chúa lại làm như thế: Vì Chúa thương. Vì yêu thương cho nên Chúa luôn ở giữa dân của Người.
A. Thiên Chúa luôn yêu thương những ai tin ở Người. Tình thương ấy rất cụ thể, được biểu lộ qua việc Người luôn lưu tâm lo lắng cho những người đó. Bài sách Thánh thứ nhất chúng ta vừa nghe chứng minh một phần nào điều đó.
Như một mục tử tốt luôn biết lo lắng, bảo vệ cũng như săn sóc cho đoàn chiên thế nào thì Chúa cũng bảo vệ, săn sóc, lo lắng cho những ai biết tin tưởng vào Chúa như thế…và có thể nói là còn hơn thế. Chúa biết thật rõ:
a) Một con chiên không có người chăn, sẽ không tìm được đường đi.
Nếu bị bỏ mặc một mình, chúng ta cũng có thể bị lạc lõng trong cuộc sống như thế. Thi sỹ Dante có lần đã nói: “Tôi tỉnh dậy giữa rừng và trời tối đen, trước mặt tôi chẳng thấy có con đường nào trống trải cả”. Cuộc đời có thể có những lúc khiến chúng ta bối rối lạc lõng như vậy. Chúng ta có thể gặp những ngã tư đường mà không biết phải đi lối nào. Chỉ khi được Chúa hướng dẫn, chúng ta mới biết rõ con đường phải đi.
b) Một con chiên khôngngười chăn sẽ không tìm được đồng cỏ và thức ăn.
Sống trên đời này chúng ta phải tìm kế mưu sinh. Nếu chúng ta tìm nó ở một nơi nào đó ngoài Chúa, tâm trí chúng ta sẽ không bao giờ được thoả mãn, tấm lòng chúng ta sẽ không được yên nghỉ, và linh hồn chúng sẽ không bao giờ được no thoả. Chúng ta chỉ có thể tìm được sức lực của đời sống thật từ nơi Đấng vốn là Bánh Hằng Sống của chúng ta.
c) Một con chiên không có người chăn sẽ không được ai bảo vệ chống lại với những nguy hiểm đang đe dọa nó. Nó không thể một mình tự vệ chống lại với bọn trộm cướp và đám thú rừng.
Chúng ta cũng vậy. Chúng ta không thể sống một mình, không thể tự mình sống. Không ai có đủ sức để có thể tự vệ với những cám dỗ luôn tìm đủ cách tấn công ta. Chỉ khi nào chúng ta cùng đi với Chúa Giêsu, chúng ta mới có thể bước đi trong thế gian mà vẫn giữ được áo xống mình khỏi sự ô uế của đời này. Không có Ngài chúng ta sẽ không thể tự vệ, với Ngài chúng ta được an toàn. Đó là chân lý.
Sự săn sóc của Chúa thật chu đáo. Tắt một điều là Chúa muốn cho những ai theo Chúa luôn có được sự bình an và hạnh phúc. Nhưng tiếc một điều là nhiều khi con người không nhận ra được điều đó. Và chính vì thế mà nhiều khi họ cảm thấy dường như Thiên Chúa chẳng lưu tâm gì đến mình.
Đức Cha Tihamer Toth có kể một câu chuyện như thế này trong cuốn sách Ngài viết gửi cho các bạn trẻ. “Một hôm kia có một chàng thanh niên vô rừng đốn củi. Đến trưa anh ta tìm đến một gốc đa cổ thụ thật lớn để nằm nghỉ cho đỡ mệt. Nằm dưới gốc cây nhìn lên anh thấy những cành lá thì thật là rườm rà nhưng những quả đa thì trái nhỏ, anh phải cố gắng lắm mới nhìn thấy. Thấy như vậy nên anh ta nghó thầm:
“Lạ thật. Cây thì khổng lồ. Lá thì lớn mà trái thì lại nhỏ xíu! Thật là chẳng cân xứng tí nào”.
Rồi anh ta tự nghĩ:
– Nếu tôi mà là Chúa thì tôi sẽ cho cây đa mang trái to như trái bí, lá to như lá chuối. Như thế mới cân xứng. Tội cho cây bí! Thân thì yếu ớt mà lại phải đeo những trái lớn. Cây chuối mảnh khảnh mà lại phải mang những tấm lá to như tấm phản. Quả thật là Chúa chẳng công bằng tí nào…Hay là không có Chúa…mọi loài mọi vật đều tự nhiên mà có!.
Suy nghĩ miên man như vậy được một lát thì anh thiếp ngủ đi lúc nào mà anh cũng chẳng hay. Giữa lúc anh ngủ say như thế thì vô tình có một cơn gió lốc thổi rất mạnh làm rớt xuống giữa sống mũi của anh một trái đa. Anh giật mình tỉnh dậy vừa xít xoa vừa suy nghĩ:
– May quá, phải mà trái đa lớn như trái bí thì kể như là bữa nay mình tận số rồi. Thế ra Đức Chúa Trời khôn ngoan thật. Ngài xếp đặt tất cả rồi đấy chứ. Thảo nào mà người ta thường nói: “Trái dừa rớt bao giờ cũng tránh người”.”Quả sầu riêng bao giờ cũng rơi vào ban đêm”. Công việc của Chúa thật là kỳ diệu.” Bằng tình yêu thương Người luôn lo lắng cho chúng ta.
B. Bước qua Bài Tin Mừng, Tình thương của Chúa được biểu lộ dưới một khía cạnh khác. Người dạy dỗ chúng ta. Chúa thực sự quan tâm đến nhu cầu của chúng ta.
Sau những ngày thực tập truyền giáo mệt nhọc, Chúa Giêsu với các môn đệ Ngài quả đã không tìm được sự nghỉ ngơi như mình mong muốn.
Đám đông thấy Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài ra đi. Từ chỗ Chúa Giêsu xuất phát đến nơi mà Chúa Giêsu với các môn đệ định tới cách xa khoảng chừng 6km nếu vượt biển bằng thuyền, nhưng nếu phải đi bộ vòng bờ hồ thì đường đi đến hơn 16km. Vào ngày lặng gió hay có gió ngược thì một chiếc thuyền vượt quãng đường này phải tốn khá nhiều thời gian, còn người khoẻ chân có thể đi bộ vòng bờ hồ và đến nơi trước khi thuyền cập bến. Sự việc đã xảy ra ngay ở điểm này. Lúc Chúa Giêsu và các môn đệ vừa bước ra khỏi thuyền, thì chính đoàn dân mà Chúa và các môn đệ của Ngài muốn lánh mặt để tìm thời giờ nghỉ ngơi đã chờ sẵn ở đó rồi. Họ đang nóng lòng chờ đợi những điều Ngài có thể ban cho họ.
Thật là rất dễ bực bội với đám đông, dễ cảm thấy họ đã gây phiền toái cho Ngài. Họ đâu có quyền xâm phạm vào đời sống riêng tư của Ngài bằng những đòi hỏi triền miên như vậy? Ngài không có quyền được nghỉ ngơi yên tịnh và có thời giờ dành riêng cho mình sao? Nhưng Chúa Giêsu đã không màng tới điều đó, chẳng những Ngài không thấy họ gây phiền hà mà còn động lòng trắc ẩn xót thương họ.
Chúng ta hãy cám ơn Chúa. Vì nhờ Lời Người dạy dỗ mà bao nhiêu con người trên thế giới từ trước cho đến hôm nay đã tìm ra cho đời mình một ý nghĩa, một hướng đi, giúp cho họ biết sống một cuộc đời cao cả và tốt đẹp hơn.
Tôi nhớ một câu chuyện trong cuộc đời của Augustinô. Hôm ấy Augustinô vừa thực hiện xong một cuộc tranh luận. Trở về nhà bạn của mình là Alpius, ông cảm thấy tâm hồn vô cùng trống rỗng. Lúc đó tự nhiên ông nghĩ tới Chúa, ông buột miệng thưa với Ngài: “Lạy Chúa, đến bây giờ, đến bây giờ Chúa còn nổi giận sao? Chúa không xóa đi những lỗi lầm quá khứ của con ư? Bao lâu nữa? Bao lâu nữa? Ngày mai ư? Đến mãi ngày mai sao? Tại sao không lập tức ngay bây giờ.” Thế rồi ông khóc, khóc như một đứa trẻ. Một ông tiến sĩ giáo sư đại học khóc…khóc như một đứa trẻ. Tâm hồn ông bị dày vò. Bỗng nhiên ông nghe thấy từ ngôi nhà bên cạnh, tiếng nói của một em bé nói vọng sang: “Hãy cầm lấy và đọc đi. Hãy cầm lấy và đọc đi.” Nét mặt ông đổi sắc. Ông không khóc nữa. Ông chạy thẳng lại chỗ Alpius cầm lấy cuốn thư của Phaolô gửi cho giáo đoàn Roma. Im lặng. Ông từ từ mở ra và đọc thấy ngay ở đầu trang những lời như thế này: “Anh em chớ sống trong say sưa, trong lạc thú dâm ô, trong cãi cọ và phân bì nữa – Nhưng hãy mặc lấy Chúa Kitô và đừng quá chăm lo về xác thịt và làm phỉ lòng nó.”
Ông gấp lại, không đọc thêm nữa. Bằng ấy thôi cũng đã đủ để ông nhận ra được ánh sáng và con đường. Ông quyết định làm lại cuộc đời. Ông cho Mẹ ông biết quyết định đó. Và bà nói đây là ngày đẹp nhất trong cuộc đời của Bà.
Vâng Augustinô đã trở lại thực sự. Ông quay hẳn một góc 180 độ. Sự trở lại của Ông đã đem lại không biết bao nhiêu lợi ích cho các linh hồn. Bằng cương vị của một Linh mục rồi một Giám mục, Augustinô đã giúp cho rất nhiều người tìm về với Chúa. Và ngày nay trên Thiên đàng với vai trò một vị Thánh, Thánh tiến sĩ Augustinô của Hội Thánh hẳn là sự trợ lực lớn lao cho Giáo Hội và chúng ta hữu hiệu hơn.
Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta khám phá ra được những giá trị cao cả của Lời Chúa để Lời của Chúa giúp chúng ta biết sống một cuộc sống tốt đẹp xứng đáng với danh nghĩa là con Thiên Chúa hơn. Amen.
Chủ đề của Chúa Nhật XVI Thường Niên năm B này có thể được gọi là “Tấm Lòng của Vị Mục TN 16-B186
Chủ đề của Chúa Nhật XVI Thường Niên năm B này có thể được gọi là “Tấm Lòng của Vị Mục Tử đích thật”.
Gr 23: 1-6
Lên án các vị mục tử vô trách nhiệm khiến dân Ít-ra-en phải lâm vào cảnh nước mất nhà tan, ngôn sứ Giê-rê-mi-a loan báo rằng Thiên Chúa sẽ đích thân nắm giữ vận mệnh dân Ngài và sẽ ban cho họ một vị mục tử đích thật, thuộc dòng dõi Đa-vít, Đấng ấy sẽ chăn dắt dân trong công minh chính trực.
Ep 2: 13-18
Trong thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô cho thấy Đức Ki-tô chính là Đấng quy tụ dân Do thái và lương dân trong bình an và hòa giải để chỉ có một dân duy nhất và một thân thể duy nhất.
Mc 6: 30-34
Trong bài trình thuật của thánh Mác-cô, Đức Giê-su hành xử như một vị mục tử đích thật, vị mục tử Mê-si-a được loan báo trong Bài Đọc I. Thương đám đông dân chúng “bơ vơ như đàn chiên không có người chăn dắt”, Đức Giê-su quy tụ họ, trước tiên nuôi dưỡng họ bằng lời hằng sống của Ngài, và sau đó cho họ được no thỏa bằng hóa bánh ra nhiều, tượng trưng bàn tiệc Thánh Thể.
BÀI ĐỌC I (Gr 23: 1-6)
Như ngôn sứ Ê-dê-ki-en, ngôn sứ Giê-rê-mi-a sống vào giai đoạn bi thảm nhất của vương quốc Giu-đa, dưới những cuộc tấn công của đạo quân Ba-by-lon, vào đầu thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên.
Sấm ngôn của chương 23 này được định vị giữa hai cuộc tấn công của quân Ba-by-lon vào Giê-ru-sa-lem. Cuộc tấn công thứ nhất vào năm 597, thành đô Giê-ru-sa-lem bị chiếm lần thứ nhất và cuộc lưu đày lần thứ nhất; cuộc tấn công thứ hai vào năm 587, thành đô Giê-ru-sa-lem bị tàn phá, Đền Thờ bị phá hủy và những cuộc lưu đày mới.
Trái với ngôn sứ Ê-dê-ki-en, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã không bị lưu đày; ông vẫn ở Giê-ru-sa-lem và cực lực tố cáo các vị lãnh đạo, đời cũng như đạo, phải chịu trách nhiệm về tai họa bi thảm này. Tuy nhiên, ngay ở giữa lòng thành đô tang thương này, vị ngôn sứ thắp lên ngọn lửa hy vọng: Thiên Chúa vẫn trung tín, Người không bỏ rơi dân Người; đến thời đến buổi, Người sẽ sai phái một vị Mục Tử đích thật đến chăn dắt họ.
Những mục tử vô trách nhiệm
Đó là các vua vương quốc Giu-đa mà vị ngôn sứ nhắm đến trước tiên (tước hiệu mục tử được ban cho các vị vua ở Đông Phương xưa). Ông trách cứ họ là đã không trung thành với sứ mạng của mình, đã “hành xử như những nhà chính trị chứ không như những con người của Thiên Chúa”. Đoạn văn mà chúng ta đọc hôm nay là phần đầu của chương 23, chương kết thúc “sách chống lại các vua”.
Nhưng bên kia các vua, Giê-rê-mi-a ngỏ lời với toàn thể tầng lớp lãnh đạo, đời cũng như đạo, những người mà nhiều lần vị ngôn sứ gọi họ tước hiệu mục tử này (2: 8; 10: 21; 25: 34). Như ngôn sứ đã nói trước đó, những vị lãnh đạo dân đã coi thường quyền lợi và công bình; họ đã sống một cuộc sống hưởng thụ phù phiếm; họ đã xây cho mình những dinh thự đền đài tráng lệ mà không ngó ngàng gì đến cuộc sống của dân chúng (22: 3, 13; vân vân). Cuối cùng, họ đã đưa dân chúng lâm vào cảnh lầm than nước mất nhà tan và phải tản mác khắp nơi: “Khốn thay những mục tử đã làm cho đàn chiên trong đồng cỏ của Ta phải tản lạc chết chóc”. Không chỉ những người phải bị lưu đày ở đất khách quê người, nhưng cũng biết bao người đã phải rời Giê-ru-sa-lem tỵ nạn ở miền quê hẻo lánh, vài người trốn chạy sang tận bên Ai-cập.
“Ta sẽ hỏi thăm các ngươi về những hành vi ngang trái của các ngươi”. Quả thật án phạt đã không chậm trễ. Vua Giơ-hô-gia-khin bị dẫn đi giam cầm ở Ba-by-lon. Thành phần ưu tú bị lưu đày lần thứ nhất vào năm 597 trước Công Nguyên (2V 24: 10-16).
Sứ điệp tràn đầy hy vọng: vị Mục Tử Mê-si-a
Sau bản cáo trạng nghiêm khắc này, vị ngôn sứ công bố một sứ điệp tràn đầy hy vọng. Bởi vì các vị mục tử đã không chu toàn sứ mạng của mình, Thiên Chúa sẽ can thiệp: Người sẽ đích thân đảm nhận việc chăn dắt dân Người; Người sẽ tập hợp đàn chiên của Người bị phân tán khắp nơi và đưa chúng về đồng cỏ của chúng.
Đây là một trong những giấc mơ lớn lao đã làm nức lòng dân chúng; họ mong chờ thời Mê-si-a đến để thống nhất quốc gia Ít-ra-en. Việc phân tranh giữa các chi tộc miền Bắc và các chi tộc miền Nam, mặc dầu đã xa xưa, nhưng vẫn còn để lại nỗi đau trong lòng mọi người. Cuộc sụp đổ của vương quốc miền Bắc đã kéo theo một cuộc tản mác đầu tiên, hoặc do phải trốn chạy hoặc do bị lưu đày ở Át-sua. Cuộc sụp đổ vương quốc miền Nam gây nên những hậu quả còn thậm tệ hơn.
Trong lời sấm của vị ngôn sứ, chính Đức Chúa sẽ đảm nhận vai trò của vị mục tử nhân lành, Người sẽ tập hợp đàn chiên của Người vào trong đồng cỏ của chúng. Sấm ngôn loan báo viễn cảnh của cuộc hồi hương trở về từ chốn lưu đày và từ những nơi dân phải lưu lạc tha hương. Đức Chúa sẽ đem lại cho dân Người niềm vui hưởng cảnh thái bình thịnh trị.
Chân dung của vị mục tử lý tưởng
Sau cùng, sấm ngôn loan báo vị mục tử lý tưởng: “Này đây sẽ đến thời kỳ Ta khiến mọc lên cho nhà Đa-vít một Mầm Non công chính”. Biểu thức: “Này đây sẽ đến những thời kỳ” mà ngôn sứ Giê-rê-mi-a rất tâm đắc được dùng để giới thiệu một thị kiến tương lai. Có thể ông mượn biểu thức này từ ngôn sứ A-mốt (Am 4: 2; 8: 11; 9: 13). Tước hiệu “Mầm Non” đã trở thành tước hiệu Mê-si-a. Tước hiệu này đã xuất hiện trước tiên tại I-sai-a (4: 2); Giê-rê-mi-a đã trích dẫn tước hiệu này hai lần (một ở đây và một nơi khác: 33: 15); chúng ta sẽ gặp lại tước hiệu này ở ngôn sứ Da-ca-ri-a (3: 8; 6: 12).
Dưới triều đại vua Mê-si-a thuộc dòng dõi Đa-vít này, “miền Giu-đa sẽ được cứu thoát, miền Ít-ra-en sẽ an cư lạc nghiệp”. Giu-đa và Ít-ra-en được nêu lên như hai miền của chỉ một vương quốc, như vào thời vua Đa-vít, dân Thiên Chúa chỉ là một dân tộc duy nhất. Người ta sẽ gọi vị mục tử Mê-si-a này là: “Đức Chúa, sự công chính của chúng ta”. Ngài sẽ phân xử toàn dân trong công minh chính trực.
BÀI ĐỌC II (Ep 2: 13-18)
Chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Phao-lô gửi tín hữu Ê-phê-xô. Trong đoạn trích của Chúa Nhật trước, thánh Phao-lô đã trình bày kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện qua Đức Ki-tô. Trong đoạn trích hôm nay, thánh nhân mô tả sự hòa giải mà Đức Ki-tô thực hiện: chết cho mọi người, cả người Do thái lẫn lương dân. Như vậy, Đức Ki-tô muốn kiến tạo một nhân loại mới và quy tụ họ vào trong Giáo Hội của Ngài.
Người Ki-tô hữu gốc lương dân
Trước tiên, thánh Phao-lô ngỏ lời với những người Ki-tô hữu gốc lương dân, họ chiếm đa số trong các cộng đoàn Ki-tô hữu miền Tiểu Á. Thánh nhân dùng thành ngữ “xa-gần” đã được I-sai-a đệ tam, vị ngôn sứ hậu lưu đày, sử dụng rồi (Is 57: 19). Dụng ngữ này đã trở nên phổ biến trong Do thái giáo. Qua dụng ngữ “xa-gần” này, thánh nhân muốn nói rằng những người Ki-tô hữu gốc lương dân, trước kia là những người xa lạ, bây giờ trở thành những người nhà của Thiên Chúa, vì từ nay họ được dự phần vào những lời hứa của Giao Ước, bởi vì chính họ cũng được ban ơn tha thứ tội lỗi.
Một dân duy nhất
Vì thế, những người Ki-tô hữu, dù gốc lương dân hay gốc Do thái, đều có thể nói: Đức Ki-tô “là sự bình an của chúng ta”. Chúng ta khó mà đo lường được việc liên kết giữa những người Ki-tô hữu gốc lương dân và những người Ki-tô hữu gốc Do thái đã đem lại tính cách mạng đến mức độ nào cho các cộng đoàn Ki-tô hữu, ở đó vốn nảy sinh biết bao sự ngộ nhận và lời qua tiếng lại ở giữa đôi bên.
Những Ki-tô hữu gốc Do thái ý thức mình là một dân được tuyển chọn và được tách riêng ra, dân cưu mang Mặc Khải. Họ tự hào về nét đặc thù tôn giáo của họ, việc tuân giữ lề luật giúp họ khỏi những uế nhiễm của dân ngoại; họ tránh giao tiếp với những kẻ không chịu cắt bì chừng nào có thể. Trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, có một lan can bằng đá cẩm thạch ngăn chia khuôn viên dân ngoại khỏi khuôn viên dân Ít-ra-en. Khi nói: “Bức tường ngăn cách là sự thù ghét”, thánh Phao-lô ám chỉ đến bức lan can phân cách này. Chắc chắn thánh nhân đã nghĩ đến những kẻ xách động đồng bào Do thái bắt ngài được tường thuật trong sách Công Vụ 21: 28: “Hỡi đồng bào Ít-ra-en, giúp một tay nào! Nó kia kìa, tên vẫn đi mọi nơi dạy cho mọi người những điều phản dân, phạm đến Lề Luật và Nơi Thánh này! Nó còn đem cả mấy người Hy lạp vào cả Đền Thờ mà làm cho Nơi Thánh này ra ô uế”.
Ngược lại, những thái độ bài Do thái thường xảy ra, như được chứng thực trong nhiều thành phố chịu ảnh hưởng văn hóa Hy lạp, kể cả thành phố A-lê-xan-ri-a. Chúng ta đừng quên sách Khôn Ngoan được soạn thảo vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, thời kỳ những người Do thái bị chính quyền quấy nhiễu. Thái độ bài Do thái này cũng gặp thấy trong thế giới Rô-ma, ở đó người ta không ưa những người Do thái vốn không làm việc vào ngày thứ bảy, cũng như không chỉ đường cho những ai không chịu cắt bì hỏi đường (như thi sĩ Junéval kể ra vài ví dụ trong bài thơ châm biếm của ông vào cuối thế kỷ thứ nhất và đầu thế kỷ thứ hai sau Công Nguyên).
Đức Ki-tô đã hủy bỏ bức tường ngăn cách này: tinh thần duy luật khiến những kẻ thực hành tỉ mỉ Lề Luật tự thu mình lại vào trong thế giới của riêng mình. Luật Mới không còn chia cách nữa, nhưng hòa giải.
Một thân thể duy nhất
Thánh Phao-lô thật táo bạo khi khẳng định rằng: đôi bên, người Ki-tô gốc lương dân và người Ki-tô hữu gốc Do thái, hình thành nên chỉ một con người duy nhất, một người mới. Người Ki-tô hữu là một con người được tái tạo và tất cả những người Ki-tô hữu được quy tụ hình thành nên những chi thể của một thân thể duy nhất, thân thể của Đức Ki tô.
Thánh Phao-lô đã sử dụng từ vựng thần học này rồi trong các thư gửi các tín hữu Cô-rin-tô và Cô-lô-sê. Đây là đề tài chủ đạo của thư gửi tín hữu Ê-phê-sô này, diễn tả ơn gọi phổ quát của Giáo hội.
Bình an và hiệp nhất, công trình của Thiên Chúa Ba Ngôi
Cuối cùng, thánh Phao lô cho thấy rằng nhờ Đức Ki tô, “cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha”. Nhờ Đức Ki-tô, con đường đến cùng Chúa Cha rộng mở cho tất cả mọi người. Chúa Thánh Thần, Đấng hiệp nhất Chúa Cha và Chúa Con, dẫn đưa các tín hữu vào trong cung lòng cuộc sống Ba Ngôi.
TIN MỪNG (Mc 6: 30-34)
Chúa Nhật tuần trước tường thuật cho chúng ta Đức Giê-su đã sai các tông đồ ra đi thi hành sứ vụ khắp miền Ga-li-lê. Bây giờ, thánh Mác-cô tường thuật những diễn biến khi họ trở về. Thánh Mác-cô cho chúng ta bài tường thuật đầy tình tiết sống động. Vị thánh ký này luôn luôn cho chúng ta những đường nét nêu bật con người của Đức Giê-su.
Các tông đồ tụ họp quanh Đức Giê-su
Danh xưng “tông đồ” được dùng để chỉ nhóm Mười Hai chỉ xuất hiện ở đây trong Tin Mừng của ông. Cách dùng này được biện minh: các tông đồ đã “được Đức Giê-su sai đi”. Xin được nhắc lại điều đã được nói trước đây, các tác giả Tin Mừng chung tránh dùng danh xưng “tông đồ” này cho nhóm Mười Hai, bởi vì chỉ mình Đức Giê-su xứng với tước hiệu này: Đấng được Chúa Cha sai đi thi hành sứ vụ.
Nhóm Mười Hai quy tụ lại chung quanh Đức Giê-su, chắc chắn ở Ca-phác-na-um, thành phố mà Đức Giê-su chọn làm bản doanh cho sứ vụ của Ngài. “Các ông kể lại cho Ngài biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã giảng dạy”. Đây là hai khía cạnh của một sứ vụ đã được trao gửi cho các ông: lời giảng dạy kèm theo các dấu chỉ, theo gương Thầy mình. Vào ngày hôm ấy, Đức Giê-su sắp đưa ra cho các ông một mẫu gương: sau khi đã giảng dạy đám đông dân chúng nhiều điều, Ngài sẽ cho họ được ăn no nê, khi làm phép lạ bánh hóa nhiều, một trong những dấu chỉ quan trọng bậc nhất của thừa tác vụ của Ngài.
“Kẻ lui người tới quá đông”, trong số đó có những kẻ hiếu kỳ còn muốn hỏi các ông thêm nhiều điều nữa. Trong bối cảnh đó, các ông khó thuật lại cho Đức Giê-su sứ vụ mà họ vừa mới thi hành theo lệnh của Ngài. Thánh Mác-cô không xác định khung cảnh, nhưng chỉ ghi lại một chi tiết theo ông có ý nghĩa nhất “nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa”.
Ấy vậy, các tông đồ mệt mỏi. Đức Giê-su lưu ý sự mệt mỏi của các ông, vì thế, nếu cứ ở lại đây, họ không tài nào thoát khỏi đám đông quấy nhiễu này: “Anh em hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Thái độ của Đức Giê-su nói lên tấm lòng của một vị thầy ân cần quan tâm đến các môn đệ mình. Các môn đệ đồng thuận và xuống thuyền lánh xa một nơi hoang vắng.
Lánh xa một nơi khác
Đây không là lần đầu tiên Đức Giê-su tìm cách lánh xa đám đông để được ở lại một mình với các môn đệ và dạy riêng cho họ. Trước đây, thánh Mác-cô ghi nhận, sau khi giảng dạy cho đám đông nhiều dụ ngôn, “khi chỉ có Thầy trò với nhau, thì Ngài giải thích hết cho họ” (4: 34). Nhưng việc thầy trò lánh đi như vậy không phải luôn luôn là dễ dàng. Thánh Mác-cô cũng đã viết: “Đức Giê-su cùng với các môn đệ của Ngài lánh về phía Biển Hồ. Từ miền Ga-li-lê người ta lũ lượt đi theo Ngài” (3: 7). Cũng xảy ra đúng y như vậy trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay.
Tấm lòng của đám đông dân chúng
Việc dân chúng lũ lượt kéo nhau đến với Đức Giê-su là một trong những nét tiêu biểu của Tin Mừng Mác-cô, như chúng ta đã ghi nhận rồi. Sự kiện này không phải là không có liên hệ với sự thành công sứ vụ của Ngài.
Thánh Mác-cô không cho chúng ta biết địa danh, nơi diễn ra cuộc gặp gỡ của đám đông với Đức Giê-su và các môn đệ của Ngài. Theo Lu-ca, Đức Giê-su “đem các ông đi riêng ra với mình, lui về thành kia gọi là Bết-xai-đa” (Lc 9: 10), đây là thành phố ở phía đông nam Biển Hồ, bên kia sông Giô-đan, dòng sông đổ nước vào Biển Hồ. Từ thành Ca-phác-na-um đến thành Bết-xai-đa khoảng 12 cây số, vì thế có lẽ đám đông cùng nhau theo đường bộ vượt qua một quảng đường như vậy đến trước cả các ngài. Cách diễn tả: “nhiều người hiểu ý” gợi lên một mối tương quan gần gũi thân thiết giữa đám đông dân chúng với Đức Giê-su như theo cách nói của Tin Mừng Gioan: “Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10: 14).
Tấm lòng của vị Mục Tử Mê-si-a
Lòng nhiệt thành này của đám đông dân chúng trái với ý muốn của Đức Giê-su và các môn đệ là được lánh riêng một nơi thanh vắng. Ấy vậy, thay vì bực mình, Đức Giê-su “chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt”. Ở đây phảng phất chủ đề căn bản của Cựu Ước. Dân Ít-ra-en là đoàn chiên thương mến của Đức Chúa. Người đã trao gửi đoàn chiên của mình cho các vị mục tử Ít-ra-en chăn dắt. Nhưng những vị mục tử vô trách nhiệm này chỉ nghĩ đến tư lợi của riêng mình mà không quan tâm đến cảnh sống của đàn chiên Người, khiến đàn chiên của Người phải bơ vơ lạc lõng. Đức Giê-su sẽ ân cần săn sóc họ và chứng tỏ mình là vị Mục Tử Mê-si-a được ngôn sứ Giê-rê-mi-a loan báo. Công việc của người mục tử là tìm kiếm cho đàn chiên của mình cánh đồng cỏ tốt tươi. Lương thực mà Ngài trao ban cho đám đông này trước hết là Lời Ngài. Chính cái đói này phải được đáp ứng trước tiên: “Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”. Phép lại bánh hóa nhiều nối tiếp theo sau. Từ xưa Giáo Hội đã ghi nhận điều này là luôn luôn nối kết “hai bàn tiệc” với nhau: trước hết là Lời Chúa, tiếp đó là Thánh Thể.
Khi ngỏ lời với đám đông suốt ngày hôm ấy quên cả nghĩ ngơi, Đức Giê-su cho các môn đệ của Ngài một giáo huấn rõ ràng: “người mục tử nhân lành là người hiến dâng trọn vẹn bản thân của mình cho đàn chiên”.
Bài tường thuật của Mác-cô chứng tỏ Đức Giê-su ân cần săn sóc các môn đệ mệt mỏi của Ngài sau khi họ hoàn thành sứ vụ, cũng như đám đông dân chúng sau khi họ đi một quảng đường xa đến gặp Ngài. Đây là một trong số các bài tường thuật cho thấy ở nơi Đức Giê-su một tấm lòng từ bi nhân hậu: vừa có độ nhạy cảm sâu xa của con tim nhân loại vừa có tấm lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa trước nỗi khốn khổ của đám đông dân chúng bơ vơ lạc lõng, tìm nương tựa ở nơi Ngài. Đó cũng là mẫu gương cho tất cả các vị mục tử của Giáo Hội Ngài, không tìm cách trốn tránh dưới chiêu bài này hay chiêu bài khác, nhưng tìm cách đáp trả nỗi khốn khổ đau của đoàn chiên, bởi vì: “Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên” (Ga 10: 11).
Khởi đầu phần Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật XVI TN B, Giáo hội cho chúng ta nghe những lời TN 16-B187
Khởi đầu phần Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật XVI TN B, Giáo hội cho chúng ta nghe những lời đanh thép thật đáng sợ: “Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác, sấm ngôn của Đức Chúa” (Gr 23,1)… “Này Ta để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi…”(c.3). Các hành vi gian ác của các mục tử đã rõ ràng với lời nguyền rủa của Thiên Chúa qua miệng ngôn sứ Giêrêmia. Đó là những mục tử làm cho đàn chiên tan tác vì chẳng lưu tâm gì đến đàn chiên. Đó là những mục tử chỉ biết lo cho bản thân, mãi mê kiếm tìm quyền lực, thu tích của cải. Và chuyện gì sẽ đến, rồi sẽ đến, đó là sự vinh thân phì da và sự sa đoạ cách này kiểu khác của những người mang danh là mục tử. Các hậu quả mà chính vị mục tử gánh lấy có thể không xảy ra ở đời này nhưng chắc chắn không thể tránh được ở đời sau. Tuy nhiên, với chính đàn chiên thì hậu quả như nhãn tiền ở đời này. Đàn chiên tan tác, con thì gầy yếu, con thì bệnh tật, con thì bỏ mạng dưới móng vuốt của thú dữ rừng hoang… Chính vì lợi ích của đàn chiên do đó Thiên Chúa không thể không ra tay đúng lúc, đúng thời. Người sẽ loại bỏ các mục tử vô tâm và bất nhân ấy để rồi “sẽ cho xuất hiện các mục tử tốt lành”(c.4).
Vị mục tử tốt lành “chính danh” đã xuất hiện. Có thể nói rằng một người duy nhất trong nhân loại đã tự giới thiệu: “Ta là mục tử tốt lành” (Ga 10,11), đó là Chúa Giêsu Kitô, Cứu Chúa của chúng ta. Đây là một sự tự khẳng định không phải liều lĩnh hay khoa trương, nhưng rất có căn cứ. Chính con người và cuộc đời của Chúa Giêsu mà Tin Mừng tường thuật xác nhận cho ta căn cứ này. Tin mừng Thánh Gioan trình bày khá đầy đủ về hình ảnh vị mục tử nhân lành. Đó là người biết chiên, sẵn sàng hiến mạng sống mình vì đàn chiên, là người luôn đi trước đàn chiên để dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi và dòng suối mát, để bảo vệ đàn chiên trước nanh vuốt của sói dữ và ác thù. Chúa Nhật XVI TN B, Mẹ Hội Thánh giới thiệu cho chúng ta đoạn Tin Mừng thánh Maccô mô tả một vài nét về vị mục tử ấy, đó là người biết quan tâm đến đàn chiên cách cá thể và cụ thể, toàn diện và đến cùng.
1.Yêu thương cách cá thể và cụ thể: Giêsu không chỉ yêu thương đàn chiên cách tổng thể nhưng còn với tính cách cá thể từng chiên một. Người sẵn sàng bỏ 99 con chiên để tìm cho đựơc một con chiên lạc bầy. Đó là người phụ nữ bị bệnh băng huyết đã 12 năm. Đó là người bại tay trong một Hội Đường nhân ngày hưu lễ. Đó là hai người bị quỷ ám ở vùng Ghêrada, là em bé con ông Giairô, trưởng Hội đường đựơc chỗi dậy từ cõi chết. Và giờ đây, đó là nhóm Mười Hai tông đồ đang mệt nhoài vì chuyến đi truyền giáo vất vả.
Tình yêu của mục tử Giêsu không dừng lại ở tình cảm suông, nhưng luôn được thể hiện bằng hành động cụ thể, thiết thực, thấy được, cảm đựợc và chứng nghiệm được. Không phải chúng ta cổ võ chủ nghĩa duy hiệu năng nhưng lắm khi việc xem thường các kết quả bên ngoài cũng là một trong những cách thế che đậy sự thiếu dấn thân tích cực hoặc biện minh cho một thứ tình cảm hời hợt trên môi miệng.
2.Yêu thương cách toàn diện: Vị mục tử Giêsu không phải yêu thương đàn chiên cách phiếm diện hoặc chỉ có linh hồn hay chỉ có thể xác. Người chăm sóc đàn chiên cách toàn diện cả xác lẫn hồn. Không chỉ rao giảng tin mừng cho dân chúng, nhưng khi thấy họ đang cồn cào vì bụng đói thì Người đã cho họ no nê bằng bánh và cá. Người không chỉ chữa lành bệnh tật cho chiên mà còn xua trừ ma quỷ ra khỏi chiên. Người không chỉ nhắm đến chuyện tâm linh mà còn lo lắng cả phương diện thể lý của các môn đệ. “Các con hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6,31). Một lời chỉ dạy vừa thân tình vừa thiết thực. Giữa một thế giới đầy tiếng động, lắm tất bật do bởi công việc, nhiều căng thẳng vì các kế hoạch, chương trình chồng chất… thì một vài giây phút nghỉ ngơi, thư giãn quả là rất cần thiết cho thể lý và tâm hồn. Ai không biết nghỉ ngơi thì cũng khờ dại không kém gì người lười biếng không chịu làm việc. Một vị thầy vừa lo lắng cho các môn sinh về việc làm là sai đi truyền giáo sau khi đã ban cho họ quyền trên bệnh tật và ma quỷ, nay lại còn lo cho họ cả chuyện nghỉ ngơi, đích thật là vị mục tử tốt lành.
3.Yêu thương cho đến cùng: Nói đến tính đến cùng trong tình yêu của vị mục tử Giêsu, chúng ta dễ dàng liên tưởng đến việc Người hiến dâng mạng sống vì đàn chiên. Tuy nhiên bài Tin Mừng Chúa Nhật này lại cho ta thấy một nét trong tình yêu đến cùng của Người đó là sẵn sàng từ bỏ nhu cầu chính đáng của mình vì nhu cầu cấp thiết của đàn chiên. “Ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều” (c.34).
Hơn bao giờ hết, ngày nay, chúng ta không chỉ mong mà còn khao khát có được nhiều mục tử tốt lành. Chúng ta cầu nguyện. Quả không sai. Thế nhưng, chúng ta đừng quên Chúa muốn thánh ý của Người được thể hiện qua những con người, qua chúng ta. Hãy nỗ lực cộng tác với Chúa để loại ra khỏi cộng đoàn những mục tử gian ác, những mục tử chỉ biết mưu cầu lợi ích bản thân, những mục tử làm đàn chiên tan tác, những mục tử không có tấm lòng với chiên, không lo lắng cho đàn chiên cách cá thể từng chiên một, cách cụ thể bằng hành động. Hãy loại ra khỏi cộng đoàn những mục tử không biết yêu thương đàn chiên cách toàn diện cả xác lẫn hồn, cả chuyện tâm linh lẫn đời sống thể lý, kinh tế văn hoá… Và hãy loại đi cả những mục tử chỉ biết đặt nhu cầu của mình, cho dù là chính đáng, lên trên nhu cầu cấp thiết của đàn chiên.
Nghe hai từ loại bỏ thì có vẻ nhẫn tâm và bất hiếu hay vô đạo. Cách riêng với tâm lý Á Đông thì thường không nỡ “cạn tào ráo máng”. Hơn nữa, tín hữu Kitô chúng ta vốn sợ mang tai mang tiếng khi có chuyện đụng chạm đến các đấng bậc bề trên. Tín hữu giáo dân vốn rất sợ mang tiếng chống cha, chống cụ, và lại còn sợ Chúa phạt, khiến cả gia đình ngóc đầu lên không nỗi. Dĩ nhiên, nếu chúng ta loại bỏ các mục tử gian ác bằng các phương thế tiêu cực thì quả là đáng trách và không phải phép. Không ai là không thể đổi thay. Vậy cách thế tích cực hơn là hãy tìm cách xây dựng các chủ chăn vô tình, tắc trách, thành những mục tử nhân hậu, tốt lành theo khả năng và hoàn cảnh của chúng ta. Các phương thế xây dựng thì đủ kiểu, nhiều cách, miễn sao chúng được thực thi trong đức ái.
Chủ đề “mục tử” (trong Giáo Hội) và “người lãnh đạo” (ngoài xã hội) luôn có tính thời sự. Tất vì một lẽ thường tình: “mạnh ở tướng chứ mạnh gì ở quân”.
Trong vài tháng qua, nhiều Linh mục ở Philippines và Mexico bị giết chết cách dã man khi đang TN 16-B188
Trong vài tháng qua, nhiều Linh mục ở Philippines và Mexico bị giết chết cách dã man khi đang thi hành sứ vụ mục tử của mình. Mới đây, hôm 09/07/2018, 1 Hồng y và 2 Giám mục đã bị hành hung khi cố gắng giải thoát cho một số người đang bị cảnh sát và du đãng thân chính quyền bao vây tại Nicaragua. Nhiều những Giám mục, Linh mục khác ở khắp nơi trên thế giới gặp khó khăn, chống đối, kể cả đe dọa đến tính mạng khi đang thi hành nhiệm vụ của mình… Dù như thế nào, những mục tử này vẫn hết mình vì đoàn chiên. Từ đó tôi nghĩ ngay đến hình ảnh Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay.
Ngài cư xử rất nhân bản với các Tông đồ, các cộng sự viên được Ngài sai đi rao giảng Tin mừng. Sau khi trở về họ quây quần chung quanh thầy Giêsu, tíu tít kể lại những chuyện diễn ra trong chuyến đi của họ. Ngài lắng nghe tất cả rồi truyền cho các ông:“Hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6, 31). Ngài chạnh lòng thương đám đông vì “họ như bầy chiên không người chăn dắt” nên Ngài đã sẵn sàng “dạy dỗ họ nhiều điều” (Mc 16, 34), dù Ngài cũng rất cần thời giờ để nghỉ ngơi.
Ngài xứng đáng là vị mục tử được tiên báo trong bài đọc I: “Ta sẽ làm cho nhà Đa vít một chồi non chính trực” (Gr 23, 5). Chồi non này sẽ thay thế “các mục tử đã làm cho đoàn chiên phải thất lạc và tan tác”, là các vua và các tư tế được đặt lên theo truyền thống gia đình và dân tộc của họ, nghĩa là theo những gì là tự nhiên, phàm tục. Từ đây những mục tử sẽ do chính Chúa tuyển chọn để đoàn chiên “không còn phải hãi hùng, kinh khiếp và bị bỏ rơi nữa.” (Gr 23, 4)
Thời nào cũng cần những con người có trái tim mục tử như Đức Giêsu, đặc biệt là các linh mục của Chúa: vừa cư xử nhân bản với người khác, lại vừa biết “chạnh lòng thương” với hết mọi người ; “vừa sốt sắng phục vụ bàn thờ, lại vừa hăng say rao giảng Tin Mừng cứu độ” ; “vừa cương nghị, vừa khiêm tốn”… Nghĩa là biết vượt qua tự nhiên để hành xử theo lối siêu nhiên.
Trước hết đối với các mục tử, chắc hẳn rằng khi đã chọn dấn thân trên con đường phụng sự Chúa, ban đầu họ đều có quyết tâm hết mình để phục vụ đoàn chiên mình được trao phó. Tuy nhiên những quyết tâm đó thường bị cản trở bởi tính tự nhiên của con người linh mục mà tập trung ở nét chung là cư xử thiếu nhân bản, vì vậy mà họ đã vô tình làm cho chiên “thất lạc và tan tác”. Lời Chúa hôm nay trước hết để nhắc cho các mục tử của Chúa hãy biết bắt chước Đức Giêsu để thấu hiểu dân chúng, nhất là những người cộng tác với mình, nghĩa là phải có trái tim mục tử. Điều cần thiết nơi một linh mục không phải là tài năng hay những việc họ làm, vì giáo dân sẽ có chuyên môn và kinh nghiệm nhiều hơn, nhưng là sự hiện diện của một Giêsu, Đấng giàu lòng thương xót.
Kế đến cũng để nhắc nhở đoàn chiên hãy biết cộng tác với các mục tử của mình trong tinh thần hiệp thông, xây dựng. Mục tử này đi rồi mục tử khác đến. Người này chăn chiên giỏi, người kia chăn chiên dở. Cha này được lòng giáo dân về điểm này, cha kia được lòng giáo dân về điểm nọ… Điểm chung là không ai hoàn hảo và cũng không mục tử nào muốn làm cho đoàn chiên Chúa phải tan tác, phải đói khát và sâu xa hơn cả là Họ đạo này là của chúng ta, cánh đồng này là của đoàn chiên chúng ta.
Dù không phải là mục tử, nhưng mỗi người cũng được mời gọi giống Đức Giêsu để cư xử hiền lành, nhân hậu với hết mọi người, nhất là có trái tim biết “chạnh lòng thương” để mở lòng ra trước những nhu cầu, những thiếu thốn của người khác. Trong đời sống gia đình, nhiều khi chúng ta cư xử thiếu nhân bản, thiếu hiểu nhau làm cho người bạn chúng ta bị tổn thương. Lắm lúc trái tim chúng ta khép kín không mở ra trước những nhu cầu chính đáng của người khác. Ví dụ người vợ than chồng con suốt ngày cứ la cà ở quán café, người chồng thì nói vợ con suốt ngày cằn nhằn mệt cả óc… Mỗi người phải hiểu nhau 1 chút: người phụ nữ trái tim có 1 ngăn, trong khi trái tim đàn ông có 4 ngăn trong đó có 1 ngăn dành cho sự nghiệp và 1 ngăn dành cho việc giải trí lành mạnh… Rồi gia đình, cha mẹ nhiều khi cũng không hiểu con cái cho đủ. Thương con ngày hôm nay không phải chỉ là giữ để con không làm điều xấu, nhưng là hướng nó đến với những giá trị tốt đẹp hơn…
Tất cả mọi người trong bậc sống của mình đều được mời gọi có trái tim mục tử giống như Đức Giêsu biết “chạnh lòng thương”. Để có thể làm được điều đó, giống như Thiên Chúa ngày xưa đã loại bỏ những mục tử “tự nhiên” (cha truyền con nối, hoặc truyền thống của dân tộc) để chính Ngài sẽ chọn và ban cho dân những mục tử như Ngài mong ước, nghĩa là những con người mang tính “siêu nhiên” ; thì mỗi người cũng phải biết loại bỏ những giá trị tự nhiên để đối xử với nhau theo lối siêu nhiên. Muốn hành xử theo lối siêu nhiên thì mỗi người phải tập tiếp cận với những giá trị siêu nhiên, đó là việc siêng năng cầu nguyện, tham dự thánh lễ, năng lãnh nhận các Bí tích để có được sự linh thánh trong chính con người chúng ta. Đức Giêsu đã muốn các môn đệ tìm nơi thanh vắng không phải chỉ để nghỉ ngơi về phần xác, mà còn để nghỉ ngơi về phần hồn, nghĩa là việc cầu nguyện với Thiên Chúa Cha.
Mẹ Têrêxa Calcutta đã nói: “Cầu nguyện là hoa trái của đức tin. Đức tin là hoa trái của tình yêu. Tình yêu là hoa trái của phục vụ. Phục vụ là hoa trái của bình an”. Mỗi người chúng ta hãy tha thiết nài xin Chúa ban cho mình được sự bình an đích thực để từ đó chúng ta có thể phục vụ nhau trong tình yêu thương chân thành, giống như mục tử Giêsu.
Trong dịp dự lễ tấn phong Giám mục Giáo phận Thánh Hóa, chúng tôi được nghe kể về hoàn TN 16-B189
Trong dịp dự lễ tấn phong Giám mục Giáo phận Thánh Hóa, chúng tôi được nghe kể về hoàn cảnh hết sức khó khăn của giáo phận này. Sau năm 1954 phần lớn các linh mục và giáo dân di cư vào miền Nam. Con số những người còn ở lại rất ít, số linh mục chỉ chừng mười cha. Với tình hình như thế, các cơ sở tôn giáo bị lấn chiếm, các sinh hoạt tôn giáo bị ngưng trệ, dân chúng sống trong sợ hãi vì tù đày, nên tản mác khắp nơi. Đức Cha Phêrô Phạm Tần lúc đó được Tòa Thánh bổ nhiệm làm giám mục từ năm 1960, nhưng vì bị chính quyền quản thúc nên cho đến năm 1975 Ngài mới được tấn phong Giám mục. Vì không thường xuyên có linh mục và thánh lễ, vì hoàn cảnh xã hội, đời sống đức tin mai một, có nhiều người được rửa tội nhưng không biết gì về đạo và các bí tích. Cho đến nay, đoàn chiên Giáo phận Thanh Hóa đã được quy tụ lại và phục hồi sau những ngày bị tản mác, nhưng vẫn còn mười xứ đạo chưa phục hồi lại được, vì mất nhà thờ, vì sự khó khăn của chính quyền địa phương. Tình hình đất nước, xã hội có phần dễ chịu hơn, các chủ chăn được liên tục sai đến với đoàn chiên Thanh Hóa, giúp cho giáo phận này đang từng bước hồi sinh và lớn mạnh.
Thưa quý OBACE, Chính Thiên Chúa là chủ đoàn chiên, Ngài không nỡ để cho đoàn chiên của mình bị bơ vơ tản lạc. Qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã chạnh lòng thương trước cảnh nghèo đói, thiếu thốn, bơ vơ, Ngài quy tụ họ lại và chăm sóc cho đoàn chiên mình. Thiên Chúa còn liên tục sai nhiều chủ chăn đến với đoàn chiên, để những mục tử này nhân danh Thiên Chúa yêu thương phục vụ và hướng dẫn đoàn chiên đi theo con đường Chúa muốn.
Thời cựu ước, Israel là đoàn chiên của Chúa, được Chúa yêu thương chăm sóc. Thiên Chúa đã dùng cánh tay hùng mạnh để bảo vệ và dẫn dắt Israel khỏi cảnh nô lệ của Ai Cập và đưa họ vào đất hứa. Chúa đã đặt lên trong Israel những người thay mặt Chúa để hướng dẫn dân Chúa. Tuy nhiên, những người này đã không chu toàn trách nhiệm. Họ để cho đoàn chiên Israel thường xuyên bị lôi kéo bởi lối sống dễ dãi, cúng bái các thần linh của dân ngoại. Các đế quốc chung quanh đến đánh phá và bắt dân Israel phải đi lưu đày bên Babylon. Từ Babylon, Thiên Chúa lại quy tụ Israel và dẫn họ trở về. Qua lời ngôn sứ Giêrêmia hôm nay, Thiên Chúa đã lên án các mục tử không chu toàn trách nhiệm khiến cho đàn chiên tản mác: “Chính các ngươi đã làm cho đoàn chiên Ta phải tán mác; Các ngươi xua đuổi và chẳng lưu tâm đến chúng. Ta sẽ để ý đến hành vi của các ngươi và trừng phạt các ngươi”.
Cũng qua Giêrêmia, Thiên Chúa hứa sẽ quy tụ đoàn chiên Israel sau thời kỳ bị phân tán, sẽ phục hồi đoàn chiên và làm cho đoàn chiên nảy nở và gia tăng. Hơn nữa, Thiên Chúa còn hứa ban cho đoàn chiên các mục tử để lãnh đạo, dẫn dắt chiên đi theo con đường của Chúa và hết lòng xả thân để bênh vực, bảo vệ đàn chiên khi bị tấn công. Từ đó, chiên không còn phải sợ hãi, không bị tán loạn và không bị bỏ rơi nữa. Sấm ngôn này của Thiên Chúa đã được ứng nghiệm qua con người và cuộc đời của Chúa Giêsu.
Tin Mừng Marcô cho thấy, Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu Thế mà các tổ phụ và các tiên tri mong đợi. Ngài chính là vị mục tử Thiên Chúa sai đến để cứu thoát nhân loại và dẫn đưa đoàn chiên nhân loại đến đồng cỏ Nước Trời. Chúa Giêsu chính là vị Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Ngài đã chạnh lòng thương trước cảnh đói khổ cả thể xác và tinh thần của dân chúng. Câu chuyện hôm nay cho thấy, Chúa Giêsu và các môn đệ đã có một ngày đầy ắp công việc giảng dạy và phục vụ đám đông dân chúng đang đi theo Ngài. Họ quy tụ quanh Chúa Giêsu để được nghe giảng dạy, để được yêu thương chăm sóc, chữa lành các đau khổ thể xác và tâm hồn. Chúa Giêsu rất cảm thông với sự vất vả của các tông đồ, Chúa quan tâm đến các ông là những cộng tác viên của Ngài. Thấy các ông quá vất vả, Chúa đã đề nghị các ông: “Các con hãy tìm nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Thánh Marcô cho biết các ông bận rộn đến độ không có giờ ăn và giờ nghỉ.
Chúa Giêsu và các môn đệ xuống thuyền ra đi. Thấy vậy, dân chúng đi bộ vòng bờ hồ đến nơi trước các Ngài. Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương vì họ như bầy chiên không người chăn dắt, và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều. Mặc dù đã mệt mỏi vì cả ngày phục vụ đám đông, dù nhu cầu nghỉ ngơi một chút là chính đáng, nhưng khi thấy đám đông như đoàn chiên bơ vơ, Chúa Giêsu lại tiếp tục phục vụ họ. Ngài không quan tâm đến bản thân và việc nghỉ ngơi, nhưng Ngài chạnh lòng thương trước sự đói khát cả tinh thần lẫn vật chất của họ. Quả thật, dân Do Thái lúc đó như một đoàn chiên không người hướng dẫn. Các luật sĩ và các thượng tế là những người lãnh đạo trong dân, họ có bổn phận chỉ cho dân biết sống theo lề luật của Thiên Chúa, nhưng những người này đã không chu toàn nhiệm vụ. Các vị lãnh đạo Do Thái lúc đó chỉ biết tìm kiếm lợi ích cho bản thân, họ bị lôi cuốn vào của cải vật chất và lối sống hình thức bên ngoài, bỏ bê dân chúng.
Thánh Marcô dùng một câu ngắn gọn để diễn tả tấm lòng của vị mục tử Giêsu: “Đức Giêsu trông thấy đám đông thì chạnh lòng thương”. Ngài đến với nhân loại bằng tấm lòng chạnh thương. Cả cuộc đời của chúa Giêsu là tìm kiếm những người tội lỗi đưa họ trở về với Thiên Chúa, chữa lành những tâm hồn đau yếu và băng bó, an ủi những tâm hồn bị thương tích. Chúa Giêsu chăm sóc cho con người như người mẹ chăm lo cho con cái. Ngài chỉ cho mọi người biết sống sao cho đẹp lòng Thiên Chúa và dẫn mọi người tiến về quê trời. Đức Giêsu không chỉ chăm lo cho đoàn chiên Do Thái, nhưng thánh Phaolô cho biết, Chúa Giêsu đã liên kết tất cả chúng ta nên một nhờ cái chết và sự sống lại của Người. Đức Giêsu đã phá đổ bức tường ngăn cách, nhờ cái chết và sự sống lại, Ngài liên kết muôn dân nên một. Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Giêsu Kitô, nhờ máu Đức Kitô anh em đã trở nên những người ở gần.
Thưa quý OBACE, Thiên Chúa hằng yêu thương, quy tụ, dẫn dắt và bảo vệ chúng ta là đoàn chiên của Người. Chúng ta tạ ơn Chúa, vì dù khó khăn từ bên ngoài vẫn còn, nhưng Chúa vẫn cho chúng ta được quy tụ với nhau để thờ phượng Chúa. Qua Giáo Hội, Chúa vẫn luôn chăm sóc yêu thương ta nuôi dưỡng ta bằng Thánh Thể của Chúa và hướng dẫn ta bằng Lời của Ngài.
Việt Nam được coi là xã hội cộng sản, vô thần, đời sống tâm linh không được coi trọng. Từ đó, xã hội đang tạo ra những khoảng trống tâm linh trong đời sống. Trong khi đó, nhu cầu tôn giáo, tâm linh là một nhu cầu không thể thiếu của con người, dù là người sơ khai hoặc người văn minh hiện đại. Để bù đắp cho sự thiếu hụt trong đời sống tâm linh của người dân, người ta đã cố tình tạo ra những thứ thần linh. Họ tôn ông này bà nọ lên như thể là những vị thần, họ lập đền thờ cho dân thờ cúng, tạo ra những giai thoại cho dân chúng học hỏi tìm hiểu về những nhân vật đó. Bên cạnh việc tạo ra thần linh, những người quản lý xã hội dường như đang khuyến khích hoặc làm ngơ để cho các hình thức tín ngưỡng dân gian được phục hồi. Hàng năm tại Việt nam có đến 8 ngàn lễ hội, trong đó có những lễ hội mang tính bạo lực, dung tục. Vì sống trong tình trạng vô thần, con người cảm thấy mình chơi vơi, nên dẫn đến việc tin kiêng, cúng bái vớ vẩn, thêu dệt nên huyền thoại để tin kiêng. Ví dụ: Hàng ngàn người cúng bái, cắm nhang cho hai con rắn nằm trên ngôi mộ.
Chúng ta cầu xin Chúa cho chúng ta có được trái tim và lòng trắc ẩn của Chúa Giêsu để chúng ta cũng biết chạnh thương khi nhiều người chung quanh chúng ta chưa được biết Chúa. Họ chưa được ánh sáng Tin Mừng dẫn lối nên đã phải sống và bước đi trong tối tăm mù mờ như vậy. Xin cho mỗi người Công Giáo biết nhiệt tâm giới thiệu Chúa và Tin Mừng cho anh em, đưa nhiều anh chị em chung quanh đến với Chúa, để họ cũng được quy tụ với chúng ta mà ca tụng Chúa.
Xin cho công cuộc loan báo Tin Mừng trên đất nước chúng ta đạt nhiều kết quả, cho có nhiều người biết mở tâm hồn đón nhận hạt giống Tin Mừng và Đức Giêsu là Thầy là mục tử hằng yêu thương dẫn lối chúng ta đến đồng cỏ hạnh phúc nước trời. Amen.
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa (Gr 23:1-6; Ep 2:13-18; Mc 6:30-34)
Thiên Chúa là mục tử nhà Ít-ra-en và Chúa Giê-su là Mục Tử nhân lành, đó là những đề tài TN 16-B190
Thiên Chúa là mục tử nhà Ít-ra-en và Chúa Giê-su là Mục Tử nhân lành, đó là những đề tài lớn trong Kinh Thánh. Hình ảnh mục tử có thể nói lên thật nhiều điều Thiên Chúa đã làm cho Ít-ra-en cũng như Chúa Giê-su đã làm cho chúng ta và Giáo Hội Người. Tuy nhiên Phụng vụ Lời Chúa hôm nay dường như muốn nhấn mạnh đến tình trạng khốn khổ của đàn chiên cần được chăm sóc chở che. Cho nên vì tình yêu và lòng thương xót, Thiên Chúa trong vai trò mục tử đã “quy tụ đoàn chiên còn sót lại từ khắp mọi miền” lại, để Người chăm sóc họ. Đó cũng là hình ảnh báo trước Chúa Giê-su, vị Mục Tử Nhân Lành, sẽ được sai đến để quy tụ mọi người vào trong Giáo Hội là ràn chiên của Người.
Trước hết chúng ta hãy trở lại bối cảnh lịch sử Ít-ra-en để hiểu lời Thiên Chúa hứa rằng chính Người sẽ quy tụ đoàn chiên còn sót lại của Người. Lời Thiên Chúa lên án các người có trách nhiệm chăn dắt dân Ít-ra-en đã cho thấy tại sao dân Chúa, một dân tộc hùng mạnh, nay chỉ là đám người còn sót lại. Từ năm 931 trước công nguyên, nước Ít-ra-en bị phân chia làm hai, miền bắc là nước Ít-ra-en và miền nam là nước Giu-đa. Các vua cai trị hai nước là những mục tử “đã làm cho đoàn chiên Chúa phải thất lạc và tan tác, đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng”. Bởi thế, năm 721 nước Ít-ra-en rơi vào tay vua Át-sua, vì con cái Ít-ra-en đã đắc tội với Đức Chúa, Thiên Chúa của họ. Đến năm 587, vua Ba-by-lon là Na-bu-cô-đô-no-xo đã tàn phá Giê-ru-sa-lem và bắt dân nước Giu-đa đem đi đày. Thế là nước Ít-ra-en cả hai miền bắc và nam đều kết thúc, đa số dân sống kiếp lưu đày khốn khổ hoặc bị đồng hóa với dân ngoại. Tuy nhiên một số người còn sót lại ở Giê-ru-sa-lem. Chính trong bối cảnh này, qua ngôn sứ Giê-rê-mi-a Thiên Chúa hứa rằng: “Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng…, cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng”. Chúng ta hãy lưu ý đến phần cuối cùng của lời Thiên Chúa hứa: “Ta sẽ làm nẩy sinh cho nhà Đa-vít một chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi…, thi hành điều chính trực công minh”. Vậy “chồi non chính trực” và “vị vua khôn ngoan tài giỏi” ấy là ai? Là Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng Cứu Độ, sẽ được Thiên Chúa Cha sai đến. Trong bối cảnh lịch sử đen tối của Ít-ra-en, Thiên Chúa hứa sẽ quy tụ dân Người lại và sẽ tận tình chăm sóc họ. Thực ra lời tiên tri của Giê-rê-mi-a còn nhắm đến tình trạng khốn khổ thiêng liêng của nhân loại sau này và sự xuất hiện của Chúa Giê-su, Mục Tử Nhân Lành, sẽ đến để đem mọi người về hiệp nhất với Thiên Chúa trong nước Ít-ra-en Mới. Bài Tin Mừng Mác-cô hôm nay kể lại một ít hoạt động của vị Mục Tử Nhân Lành. Đoạn sách thánh đề cao việc Chúa Giê-su chạnh lòng thương đối với đoàn chiên của Người. Mặc dù đã mệt nhọc với việc giảng dạy, chữa lành, huấn luyện các tông đồ và cần được nghỉ ngơi, Chúa Giê-su vẫn hy sinh sự nghỉ ngơi ấy để chăm sóc cho những nhu cầu của dân chúng. Thánh Mác-cô kể: “Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”. Vì lòng thương xót, Chúa Giê-su đã đặt nhu cầu được dạy dỗ của dân chúng lên trên nhu cầu cần nghỉ ngơi của Người. Trong khi các mục tử chăn dắt dân Ít-ra-en “xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng”, thì Chúa Giê-su vừa trông thấy đám đông dân chúng, Người đã “chạnh lòng thương” và “bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”.
Bài Tin Mừng đã trình bày Mục Tử Nhân Lành chăm sóc các con chiên của Người. Nhưng hôm nay qua đoạn thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô giúp chúng ta hiểu Chúa Ki-tô đã làm thế nào để quy tụ mọi người, không phân biệt chủng tộc, làm thành một Giáo Hội. Trong thư gửi tín hữu Ê-phê-xô là những người dân ngoại trở lại Ki-tô giáo, thánh Phao-lô viết: “Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Ki-tô Giê-su, nhờ máu Đức Ki-tô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần”. Thật là cảm động và tuyệt vời! “Những người ở xa” trở thành “những người ở gần” là “nhờ máu Đức Ki-tô đổ ra”. Kẻ xưa kia ở ngoài Giáo Hội nay được ở trong Giáo Hội là nhờ tình yêu tuyệt đối và hy sinh của Con Một Thiên Chúa! Như thế, cách Chúa Giê-su quy tụ mọi người chính là “Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét”. Người ta thù ghét nhau và thù ghét Thiên Chúa. Giờ đây Chúa Giê-su đến để giải hòa chúng ta với Thiên Chúa và giải hòa chúng ta với nhau, để “sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (Gio-an 10:16).
Sống sứ điệp Lời Chúa
Bạn cảm thấy thế nào khi suy nghĩ về việc Thiên Chúa quy tụ chúng ta vào trong gia đình của Người và để Chúa Giê-su, vị Mục Tử Nhân Lành, chăm sóc chúng ta? Thật là cảm động và an ủi phải không? Với những suy nghĩ ấy, hôm nay bạn hãy đọc đi đọc lại nhiều lần hoặc hát lên bài Thánh Vịnh Đáp Ca “Chúa chăn nuôi tôi”, từng chữ từng câu, dừng lại ở những chữ hoặc câu nào đánh động bạn, để bạn “nếm cho biết Chúa tốt lành biết bao”! Hình ảnh thật cảm động Chúa Giê-su vác con chiên trên vai cũng có thể giúp bạn cầu nguyện sốt sắng nữa. Cảm tạ Chúa và hãy tận hưởng tình thương của Mục Tử Nhân Lành.
Ông Abraham Lincoln là vị tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ. Ông nhậm chức vào Tháng Ba năm TN 16-B191
Ông Abraham Lincoln là vị tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ. Ông nhậm chức vào Tháng Ba năm 1861 cho đến khi bị ám sát chết vào Tháng Tư năm 1865. Trong thời gian nhiệm chức, ông đã phải đương đầu với cuộc nội chiến tang thương nhất trong lịch sử đất nước. Ngày nọ, ông cảm thấy căng thẳng gần như điên cuồng, cho nên ông đã nhờ một người về nơi sinh quán của mình là thành phố Hodgenville, tiểu bang Kentucky, mời cho bằng được người bạn thân già đến thủ đô Washington để ông tham khảo ý kiến. Hai người bạn rất vui mừng khi gặp lại nhau. Sau những giờ phút tâm sự, tổng thống Lincoln cảm thấy tươi vui hẳn lên.
Về sau một phóng viên hỏi ông đã làm gì để tổng thống vui tươi phấn khởi hẳn lên như thế, người bạn thân gìa của tổng thống cho biết: tổng thống không bàn hỏi bất cứ chuyện gì có liên quan đến chính trị hay chiến tranh đất nước. Ông cũng cho biết là ông chỉ ngồi thinh lặng, để lắng nghe tổng thống trút hết nỗi lòng của mình.
Tổng thống Abraham Lincoln khi căng thẳng đã tìm đến người bạn của mình để tâm sự, và người bạn kia chỉ thinh lặng để lắng nghe thôi, nhưng đã làm cho tinh thần của Abraham Lincoln vui tươi hẳn lên. Sau khi làm việc mệt nhọc thì chúng ta có quyền nghỉ ngơi, vì thế, sau khi trở về từ chuyến đi rao giảng, Chúa Giêsu cũng đã kêu gọi các môn đệ tìm nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi. Chúa nói: “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút.”
Chúng ta cũng vậy, không ai làm việc suốt mà không cần phải nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi để bồi dưỡng sức khỏe, để gìn giữ và xây dựng tình liên hệ vợ chồng, con cái trong gia đình, nhưng quan trọng hơn là bồi dưỡng tinh thần. Nếu chúng ta làm việc liên tục, bận rộn với công việc suốt ngày thì thứ nhất thân thể sẽ mệt mỏi hôm nay và ảnh hưởng tới sức khỏe ngày mai, thứ hai không còn thời giờ cho gia đình vợ chồng, con cái, tình liên hệ sẽ bị ảnh hưởng, và thứ ba không còn có thời giờ cho Chúa, cho đời sống tâm linh, đức tin. Mỗi một con người có ba phần: thể xác, tình cảm và tâm linh, vì vậy cũng cần có những thức ăn để bồi dưỡng thể xác, cảm tình và tâm linh.
Chúng ta đang sống trong một xã hội giàu có, văn minh và tân tiến nhất thế giới. Hầu hết mọi người đều có cuộc sống tương đối đầy đủ, khá giả. Nhưng nếu chúng ta thành thật nhìn vào đời sống, thì có những lúc chúng ta cảm thấy cô đơn, lo lắng vì hoàn cảnh gia đình con cái, hay không biết tương lai sẽ ra sao. Hàng ngày qua TV hay những nguồn thông tin xã hội, facebook, internet, chúng ta nghe biết những tin tức trộm cướp, phạm pháp, giết người làm cho chúng ta lo sợ. Có những lúc chúng ta phải đối diện với những sự khó khăn trong tình liên hệ gia đình làm cho tâm trạng của chúng ta trở nên căng thẳng và buồn sầu.
Mỗi người Kitô hữu hàng ngày cần phải có những giờ phút tĩnh lặng để kết hiệp với Chúa. Bên Chúa chúng ta có thể chia sẻ nỗi niềm, nói lên những lo lắng, ước vọng và cũng chỉ có thể thinh lặng thôi để chiêm ngắm tình yêu và lòng thương xót Chúa cũng là đủ.
Bài Tin mừng còn cho chúng ta biết, “Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều.” Chúa dùng hình ảnh bầy chiên không người dẫn dắt để đề cập tới phạm vi siêu nhiên, có nghĩa là, nếu chúng ta không có thời giờ với Chúa, tâm hồn chúng ta bơ vơ, không có Chúa hiện diện và không có Chúa chăn dắt thì thật đáng thương vô cùng.
Có câu truyện về hai người bạn thân quen lâu năm, nhưng một người đã gia nhập đạo Công giáo, từ ngày đó hai người ít gặp lại nhau. Một hôm trong một buổi tiệc, hai người gặp lại tâm sự hỏi han về gia đình. Người bạn cho người kia biết gia đình anh gặp cảnh khó khăn, không được hòa thuận, vợ chồng đã ly dị, con cái hư hỏng. Sau đó, hỏi người bạn cũ bây giờ theo đạo Công giáo cuộc sống bây giờ ra sao? Đây là những câu họ trao đổi với nhau.
“Thế nào? Anh đã vào đạo Công giáo và tin Chúa Giêsu rồi à?”
“Phải, tôi đã tin vào Chúa Giêsu.”
“Vậy là anh biết Ngài rõ lắm phải không? Anh cho tôi biết Ngài sinh ra ở nước nào?”
“Rất tiếc tôi không biết điều đó.”
“Vậy Ngài chết hồi mấy tuổi?”
“Rất tiếc tôi cũng không biết điều đó.”
“Anh không biết về thân thế Ngài, vậy cho tôi hỏi, Ngài giảng được mấy bài giảng?”
“Cái đó, xin lỗi, tôi lại càng không biết nữa.”
“Như thế anh biết rất ít về Chúa Giêsu, mà anh bảo anh tin vào Ngài và theo Ngài.”
“Anh nói đúng, tôi cũng cảm thấy xấu hổ khi tôi biết rất ít về Ngài. Nhưng có điều này tôi nhận thấy một cách rõ ràng là ba năm trước khi còn gặp anh thường xuyên, tôi rượu chè say sưa, nghiện ngập cờ bạc mắc nợ đủ chỗ, vì thế gia đình không được hòa thuận, vợ con tôi buồn và không muốn thấy mặt tôi khi tôi mang thân thể đầy rượu về nhà. Nhưng bây giờ tôi đã bỏ rượu và cờ bạc, trả xong nợ, gia đình tôi bây giờ hòa thuận, hạnh phúc. Tất cả những cái đó tôi xác tín Chúa Giêsu đã làm cho tôi. Tôi biết và tin chắc điều đó.”
Đứng trước cảnh đông đảo dân chúng, Chúa Giê-su chạnh lòng thương vì họ bơ vơ, lạc lõng như chiên không người chăn dắt, như những tâm hồn không có Chúa hiện diện, dẫn dắt và làm chủ. Và như chúng ta biết nếu làm việc quá nhiều, quá sức, không còn thời giờ cho tâm linh, cho Chúa, thì tâm hồn cũng sẽ dễ dàng rơi vào tình trạng trống vắng, bơ vơ và sẽ bị sự dữ, tội lỗi đến chiếm giữ, như tình trạng cuộc sống của người bạn trước khi gia nhập đạo Công giáo ở câu truyện trên.
Ước gì hôm nay chúng ta nghe tiếng Chúa dạy bảo, biết hy sinh dành thời giờ tìm đến với Chúa, tham dự Thánh lễ vì tình yêu mến Chúa, để chúng ta được kết hiệp mật thiết với Chúa, cảm nghiệm được tình yêu, lòng thương xót của Chúa, để được Chúa bồi dưỡng bằng sự an bình, ơn lành và sức sống của Chúa và tạ ơn Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một hình ảnh rất đẹp: “các tông đồ tụ họp xung quanh Đức TN 16-B192
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một hình ảnh rất đẹp: “các tông đồ tụ họp xung quanh Đức Yêsu, và kể cho Người biết mọi việc các ông đã làm cũng như mọi điều các ông đã dạy” (c.30). Các tông đồ đã làm điều ngày nay chúng ta gọi là chia sẻ: nói cho nhau nghe những gì mình đã nói đã làm, kể cho nhau nghe những vui buồn sướng khổ, để được chia sẻ khi thành công, để được trân trọng và nâng đỡ khi thất bại, để Thiên Chúa được tôn vinh và chính mình cũng được triển nở hơn.
Các tông đồ không chỉ kể những điều các ngài đã làm, nhưng cả những điều các ngài đã dạy, để nếu cần sẽ được Thầy chỉ bảo. Nhiều khi chúng ta không dám chia sẻ, vì sợ người ta thấy những sai lầm của mình, sợ người ta đánh giá mình. Trong cuộc sống, dù ai dở như thế nào chăng nữa, họ cũng có những điều hay hơn chúng ta, và trong lãnh vực đó họ có thể làm thầy chúng ta; thế nên chúng ta không được mặc cảm khi thấy mình thường dở hơn người khác. Trong cuộc sống, thành công hay thất bại là những chuyện thường. Điều quan trọng không phải là “thành công”, nhưng là “thành nhân”. Một danh nhân Việt Nam đã nói: “Không thành công cũng thành nhân”. Như vậy, nếu chúng ta sống đúng, thế nào chúng ta cũng “được” trong cuộc sống của mỗi người chúng ta.
Kể cho nhau nghe những gì xảy ra, đó là tin tưởng, là chia sẻ. Các tông đồ cũng cần chia sẻ, và Đức Yêsu đã lắng nghe. Chia sẻ là mặc khải, là cởi mở tấm lòng, để người khác hiểu biết mình hơn, để họ cũng như chính mình được hạnh phúc hơn.
II. Nghỉ ngơi nơi thanh vắng
Anh em hãy lánh ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút (c. 31). Đức Yêsu quan tâm đến các tông đồ như thế nào. Sau một thời gian làm việc, tông đồ cần được nghỉ ngơi về thể xác cũng như về tinh thần. Về tinh thần, các tông đồ đã được nghỉ ngơi khi tụ họp lại với nhau bên Đức Yêsu; nhưng Đức Yêsu vẫn thấy việc nghỉ ngơi thể xác là cần thiết, nên Ngài đã nói: “anh em hãy lánh vào nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”.
Con người là tinh thần và thân xác; tinh thần ảnh hưởng trên thân xác, và thể xác cũng ảnh hưởng đến tinh thần. Không nên coi thường thân xác, nhưng cũng không nên qúa lo cho thân xác.
III. Đức Yêsu thương và giảng dạy họ nhiều điều
Dân chúng thông minh hơn thầy trò tưởng, họ đã tới nơi Đức Yêsu và các tông đồ định tới. Dân chúng muốn gì, đi tìm điều gì? Họ không phải là những người chỉ lo tìm của ăn hay tiền bạc, nhưng họ còn mong ước điều gì khác mà họ tưởng rằng Đức Yêsu có thể mang đến cho họ, chính vì thế họ không quản ngại đường xa mỏi mệt, cũng không qúa để ý đến cái đói. Họ đã đến đón Đức Yêsu và các tông đồ ở nơi các Ngài muốn đến, và chính điều này đánh động Đức Yêsu. “Ngài chạnh lòng thương, và bắt đầu giảng dạy họ nhiều điều” (c.34).
Thiên Chúa là Đấng hay thương xót, Ngài thương cảm con người đau khổ, và Ngài sẵn sàng tiếp cứu con người. Thương cảm con người thời đó, Đức Yêsu đã làm gì? Trong Tin Mừng Đức Yêsu đã hai lần hóa bánh ra nhiều, nhưng những lần khác và đặc biệt trong lần này Đức Yêsu đã làm gì? Ngài giảng dạy họ nhiều điều! Tiền bạc là cần thiết, của ăn là quan trọng, nhưng không phải là tất cả đối với con người. Con người không chỉ sống nhờ cơm bánh, nhưng còn sống bởi Lời Thiên Chúa nữa (Mt.4, 4). Lời dạy của Đức Yêsu, trở thành kim chỉ nam, là những điều cần thiết giúp con người sống hạnh phúc. Nếu không có Lời Thiên Chúa hướng dẫn, con người vẫn không thể sống hạnh phúc, ngay cả khi con người đầy đủ về vật chất tiền bạc, kiến thức và địa vị nữa. Kiến thức người ta có thể tích lũy bằng học hỏi, nhưng tất cả những điều đó chưa phải là điều kiện đủ để giúp người ta sống hạnh phúc. Ngay cả khi ít kiến thức, một người vẫn có thể là người khôn ngoan và có sự hiểu biết “thật” mà một người nhiều kiến thức và bằng cấp không thể có được. “Lời Chúa là đường dọi bước chân con, là ánh sáng chỉ đường con đi”.
Xin cho chúng ta được luôn luôn lắng nghe Lời Chúa, để chúng ta được Lời Chúa dạy dỗ và được bình an hạnh phúc từng ngày.
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II lập lễ kính Lòng Thương xót Chúa vào năm 2000, rồi Đức giáo TN 16-B193
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II lập lễ kính Lòng Thương xót Chúa vào năm 2000, rồi Đức giáo hoàng Fanxicô đã chọn năm 2015 làm năm thánh ngoại thường về Lòng Thương xót, Ngài nói: "Lòng Thương xót Chúa là Sứ điệp cần loan báo hằng ngày". Chúng ta không cần tìm ở đâu xa mà có thể thấy ngay trong Tin Mừng hôm nay: khi Chúa tỏ Lòng Thương xót đối với các tông đồ và Lòng Thương Xót cho cả dân chúng nữa.
- Các tông đồ: sau chuyến đi truyền giáo đầu tiên, các ông vui mừng tụ lại bên Chúa để tường trình lên Chúa kết quả rất đáng khích lệ, Chúa lắng nghe các ông rồi Chúa nói: "Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút". Qua lời này, chúng ta thấy Chúa Giêsu quan tâm tới sức khỏe của các tông đồ. Các ông cần được tĩnh dưỡng nghỉ ngơi. Làm việc và nghỉ ngơi là hai nhịp của đời sống con người chúng ta. Nghỉ ngơi cho thân xác và cũng là dịp để bồi dưỡng tâm hồn khi các ông được ở bên Chúa. Vì thế Chúa và các môn đệ xuống thuyền, chèo tới một nơi vắng vẻ để thực hiện dự định này.
- Dân chúng: thấy các ngài đi, nhiều người hiểu ý, và từ các thành phố, người ta đi bộ kéo đến nơi đó và tới trước các ngài. Tin Mừng kể tiếp: Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông thì động lòng thương vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều. Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ được nghỉ ngơi và chính Chúa cũng cần nghỉ ngơi nữa, nhưng khi thấy dân chúng thật đông: họ đã vất vả đi đường xa tìm tới Chúa nên Chúa Giêsu không có la rầy dân vì làm hỏng chương trình nghỉ ngơi của Chúa và các tông đồ, mà Chúa động lòng thương họ rồi Chúa sẵn sàng bỏ chương trình nghỉ ngơi để giảng dạy cho họ nhiều điều, và như thánh Luca cho biết là Chúa tiếp đón dân, rao giảng Nước Thiên Chúa cho dân và còn chữa lành bệnh tật cho họ nữa (Lc 9, 11). Lòng Thương Xót của Chúa Giêsu biểu lộ trước hết qua ánh mắt, qua cái nhìn của Chúa: Chúa nhìn thấy họ bơ vơ như đàn chiên không người chăn dắt. Khi đó dân Do thái có vua quan, có đền thờ, có hàng tư tế, có các kinh sư, luật sĩ nhưng dân vẫn cảm thấy bơ vơ vì những giới chức này không quan tâm tới họ mà chỉ lợi dụng họ. Chúa Giêsu hơn giới lãnh đạo Do thái là Chúa có tấm lòng, có tình thương và sự quan tâm tới đời sống tinh thần và vật chất của dân hay nói tóm lại là Chúa có Lòng thương xót. Lòng Thương xót là động lực thúc đẩy Chúa Giêsu hi sinh cho dân, như người mục tử tốt lành hiến mạng sống mình vì đàn chiên (Ga 10,11) và như vậy các tông đồ cũng học được gương sáng đó ở nơi Chúa nên họ cũng vui lòng bỏ qua chuyện nghỉ ngơi để cùng với Chúa đón tiếp dân.
Trịnh công Sơn trong bài ca "Để gió cuốn đi"có viết: "Sống trong đời sống cần một tấm lòng". Căn bệnh của xã hội ngày nay là sự vô cảm, là thiếu lòng thương xót nhiều khi gặp thấy người bị nạn như trường hợp người Samari nhân hậu gặp thấy thì đã cứu giúp còn tư tế và Lê vi cứ vô tâm bỏ đi.
Đức Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Chí Linh, chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt nam trong thư gởi cho cộng đồng dân Chúa với đề tài: "Thương lắm Sàigòn ơi!' đã kêu gọi lòng thương của mọi người đối với dân Saigon đang phải đối phó với dịch bệnh ngày một gia tăng. Chúng ta hãy hưởng ứng bằng lời cầu nguyện và lòng quảng đại giúp đỡ vật chất nữa. Tuy nhiên hiện tại chúng ta thấy nhiều người có lòng giúp đỡ các gia đình bị đói khổ trong thời gian dịch bệnh bằng những sáng kiến rất đáng trân trọng như làm những cây ATM gạo, như đoàn xe honda tình nguyện đem các bữa ăn tới những địa điểm cần sự giúp đỡ hoặc có những bàn để các gói thực phẩm ghi hàng chữ: ai cần thì lấy ai dư thì cho...
Câu chuyện minh họa: Một nhà dưỡng lão ở Thụy điển được tổ chức khá tốt, có nhà cửa tiện nghi, phong cảnh đẹp, thức ăn ngon và sự chăm sóc chu đáo của các nhân viên. Có thể nói đây là một nơi lí tưởng cho các người già về hưu. Một bữa kia Mẹ Têrêsa tới thăm, mẹ đi một vòng, thăm hết 40 người già hưu tại đó, Mẹ thấy không có ai mỉm cười và thấy họ cứ nhìn ra ngoài cổng. Mẹ hỏi một chị điều dưỡng, chị này trả lời: Họ nhìn ra ngoài cổng vì họ mong có người nhà đến thăm. Họ nghĩ có lẽ hôm nay con trai, hay con gái, hoặc một người thân nào đó sẽ tới thăm họ nhưng rồi không có ai đến và ngày nào họ cũng mong như vậy. Mẹ Têrêsa kết luận: "Cảm giác bị bỏ rơi là nỗi đau khổ nhất của họ".
Chúng ta noi gương Chúa Giêsu, học nơi Chúa có một tấm lòng như lời Chúa dạy: "Phúc thay ai xót thương người vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương" (Mt 5, 7) để môi trường chúng ta đang sống dù trong thời gian dịch bệnh cũng có được niềm vui và trở nên đáng sống hơn. Amen.
Chúa Giê-su, Mục Tử tốt lành, đến để chiên được sống và sống dồi dào.
Kính thưa quý anh chị em,
Đại dịch Covid-19 tấn công nước Ý, rất nhiều bệnh nhân nhờ máy trợ thở được cứu sống. Báo Tuổi TN 16-B194
Đại dịch Covid-19 tấn công nước Ý, rất nhiều bệnh nhân nhờ máy trợ thở được cứu sống.
Báo Tuổi Trẻ đưa tin: cha Giuseppe Berardelli (72 tuổi) bị nhiễm bệnh, phải dùng đến máy trợ thở. Cạnh giường bệnh của cha, một thanh niên bị bệnh cũng đang trong tình trạng nguy kịch và rất cần máy trợ thở, nếu không có máy trợ thở, bệnh nhân sẽ chết vì phổi bị đông đặc.
Cha yêu cầu được nhường máy trợ thở cho thanh niên đó. Các bác sỹ không dám quyết định, nhưng vì sự cương quyết của cha, họ đã lấy máy cha đang thở đặt cho anh thanh niên và anh được cứu sống.
Phổi của cha bắt đầu bị đông đặc, sau 3 ngày, cha đã tắt thở trong bình an. Đám tang của cha không người đưa tiễn, vì phải cách ly tránh lây lan dịch bệnh. Tin này được loan đi, và mọi người cảm phục tinh thần hy sinh cao cả, cha đã vui lòng chịu chết để cứu sống người anh em. Cha đã áp dụng cho đời mình thân phận hạt lúa mì: thối rữa, mục nát, để hạt giống đâm chồi, nảy lộc, trổ sinh hoa trái cho đời.
Cha là mục tử tốt của đoàn chiên, khi dám hy sinh lợi ích cá nhân, cứu sống người anh em. Quyền lực của tình yêu thật là đặt thiện ích lên trên tư lợi bản thân. Quyền lực yêu thương đó nhất thiết phải phát xuất từ Thiên Chúa, cội nguồn tình yêu và sự sống. Trong quyền lực này, Thiên Chúa đã thực hiện những công trình kỳ diệu: cứu độ/ban sự sống thật cho nhân loại.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày chân dung vị mục tử nhân lành, Chúa Giê-su được sai đến, để chiên được sống và sống dồi dào.
Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a, gióng lên hồi chuông cảnh báo các mục tử nhà Israel, đã không chăm lo đến lợi ích đàn chiên, lại làm tan tác, thất lạc, suy yếu, giết chết những con chiên trong đàn.
Nguyên nhân phá hoại phải kể là những gương xấu họ đã làm gây hậu quả tiêu cực trên đoàn chiên. Lối sống bất công, ganh tỵ, vô cảm, hiếu chiến, gây chia rẽ, kích động hận thù, trục lợi..., đã làm mù mắt kẻ dẫn đường. Hậu quả: “Mù dắt mù cả hai sẽ lăn cù xuống hố” (Mt 15, 14).
Tuy nhiên, bài sách thánh cũng mở ra một viễn tượng huy hoàng cho đoàn chiên Chúa chăn nuôi. Chúa sẽ đến, cứu thoát, chăn dắt đàn chiên qua tấm lòng của vị mục tử nhân lành. Vị mục tử được chờ đợi, xuất thân từ dòng dõi vua Đavid, sẽ đem lại cho Israel ơn cứu độ và bình an bền vững.
Chúa Giê-su hội đủ mọi phẩm tính của vị mục tử nhân lành như lòng Chúa mong ước, đến để chiên được sống và sống dồi dào.
Bài Tin Mừng vừa tuyên đọc mô tả Chúa Giê-su là nguyên lý của sự hiệp thông phổ quát. Người quy tụ, dạy dỗ, huấn luyện và sai các môn đệ cứ từng hai người đi loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa với uy quyền của “Lời”.
Hôm nay tụ họp lại bên Chúa, các ông trình bày những việc đã làm, những điều đã giảng dạy, những phép lạ đã thực hiện, nhất là hân hoan vì thấy rằng ma quỷ cũng phải khiếp sợ, vâng phục.
Giê-su không muốn người tông đồ chỉ mãn nguyện với những thành công bề ngoài, những thứ có thể cướp mất lòng khiêm tốn, cậy trông, phó thác, vốn là những dụng cụ xấu phá hoại sự hiệp thông trong Hội Thánh.
Các Tông Đồ cần chăm chút đời nội tâm. Tìm kiếm sự thinh lặng, hồi tâm, gẫm suy Lời Chúa, nhằm làm mới lại mối tương quan với Chúa và tha nhân, mới hy vọng luôn ở lại trong Chúa. Giê-su hối thúc các môn đệ: “Hãy lánh vào nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6, 31).
Kinh nghiệm tu đức dạy bài học rất thiết thực: cần phải có sự quân bình giữa hoạt động và cầu nguyện, bất cập hoặc thái quá, đều vương hại đến sự trọn lành kitô hữu.
Sau khi Thầy trò xuống thuyền, rút lui vào nơi hoang vắng. Nơi đây là trường Giê-su, ngôi trường hiền lành và khiêm nhường, ngôi trường đào luyện theo phong cách Giê-su. Bởi có được tâm tư của Chúa, nên khi thấy đoàn lũ dân chúng như bầy chiên không người chăn dắt, họ cũng biết chạnh lòng thương xót và muốn loan báo “Lời” cho họ.
Thưa anh chị em,
Người môn đệ Giê-su phải luôn mặc lấy tâm tư của Chúa mới có cái nhìn tích cực và đầy hy vọng vào một tương lai nhân loại đang dần tốt đẹp hơn, mặc dầu hiện tại thế giới này đang đầy dẫy tiêu cực và bóng tối. Họ ngập tràn hy vọng khi chủ động thắp lên một ngọn nến giữa bóng đên dầy đặc, dẫu chỉ một đốm sáng cũng còn hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối.
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, bộc bạch một tâm hồn tông đồ chan chứa niềm hy vọng, nhìn sự vật và mọi người trong ân sủng của Đức Kitô phục sinh: tất cả hiệp nhất nên một trong máu cứu chuộc của Chúa. Không có chuyện phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều là thụ tạo mới trong Đức Kitô.
Vậy chúng ta phải làm gì để sống tình hiệp thông trong Chúa ?
* Một là: Môn đệ phải có tâm tư của Chúa, nên cần phải thường xuyên gặp gỡ Chúa: cầu nguyện liên lỉ, siêng năng đọc và gẫm suy Lời Chúa, nhất là sống và thực hành lời Chúa dạy. Đó là chất liệu để loan báo “Lời”, cũng là gia sản ơn thánh để sẻ chia cho người muốn nghe loan báo Tin Mừng.
* Hai là: Người môn đệ không được phép từ chối làm việc lành khi có thể. Không được sống vô cảm trước hoàn cảnh của người anh em, trái lại, nhiệt tâm làm việc thiện không nao núng, sẵn sàng làm chứng cho Chúa khi thuận lợi cũng như trong nghịch cảnh, góp phần rất tích cực làm cho danh Cha vinh hiển, cho Nước Cha trị đến.
Xin Chúa thương nâng đỡ và chúc lành cho mỗi người chúng ta. Amen.
Trong cuộc sống hiện tại trên trần gian này, thật là khó để giúp chúng ta biện phân và nhận ra TN 16-B195
Trong cuộc sống hiện tại trên trần gian này, thật là khó để giúp chúng ta biện phân và nhận ra đâu là thật, đâu là giả vì “Thật Thật, Giả Giả” đang đan xen lẫn lộn với nhau. Trong mấy ngày qua, trong cơn nguy khốn của dịch bệnh, thật là thương tâm, đau khổ cho tất cả đồng bào ruột thịt của chúng ta. Thế mà, lợi dụng hoàn cảnh đau thương này, một số người độc ác, vô tâm lại mạo danh là nhân viên y tế để đi lừa đảo chiếm đoạt tiền bạc của cải của anh chị em mình. Họ mang trên mình bộ trang phục của nhân viên y tế, rồi giả đi phun thuốc khử trùng bằng cách phun thuốc mê để cướp của, họ lợi dụng tâm lý sợ bệnh, họ đi rao bán vacin, nhưng lại là vacin giả…ACE rất thân mến, làm sao giúp chúng ta biện phân và nhận ra đâu là điều thật, đâu là điều giả đây? Các bài đọc Lời Chúa hôm nay, soi sáng và giúp cho chúng ta ý thức hơn về căn tính của sự thật. Cái gì, điều gì xuất phát từ Thiên Chúa, xuất phát từ tình yêu thương, lòng bao dung-quảng đại, tha thứ thì luôn là điều thật. Trái lại điều gì xuất phát từ lương tâm hẹp hòi ích kỷ, vụ lợi, mưu mô gian ác của con người thì luôn là điều giả, vì nó luôn chối bỏ điều thiện và khước từ Thiên Chúa.
Bài đọc một từ sách Tiên tri Giêrêmia, Thiên Chúa đã lên án, tố cáo các mục tử giả, vì họ đã không còn là người đại diện, thay mặt cho Chúa, để chăm sóc, nuôi dưỡng cho đoàn chiên. Thay vì đem lại sự ấm no, bình an và hiệp nhất cho dân, thì họ đã mâu tâm lợi dụng dân để trục lợi cho bản thân mình và kết cục đó là: sự hoảng loạn, ly tán và tản mát của đoàn chiên. “Khốn cho các mục tử làm tản mát và xâu xé đoàn chiên Ta… Các ngươi đã phân tán xua đuổi và không trông nom đoàn chiên Ta”. Chính vì lẽ đó, Chúa đã lên án, loại trừ các mục tử giả này, Chúa đã lấy tước đi quyền mục tử của họ, để từ đây, chính Thiên Chúa là Mục Tử đích thực của dân Ngài. Đồng thời, Ngài cũng sẽ thay thế bằng những mục tử tốt lành như lòng Chúa mong ước. “Ta sẽ quy tụ phần còn lại của đoàn chiên Ta… Ta sẽ lùa chúng về đồng cỏ, để chúng lớn lên và tăng số. Ta sẽ cho chúng có những chủ chăn để họ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn sợ hãi và kinh hoàng và chúng không còn thiếu thốn gì nữa”. Thật vậy, Thiên Chúa trong những cách thế khác nhau, vẫn luôn tạo mọi cơ hội để yêu thương, chăm sóc và nuôi dưỡng dân Ngài.
Tin mừng theo Thánh Marco hôm nay, dẫu ngắn gọn, nhưng đã diễn tả, minh chứng cho chúng ta thấy được lòng Chúa yêu thương chúng ta biết là dường nào: “Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều.” Chúa Giêsu chính là Mục Tử Nhân Lành, chính nhờ qua Đức Giêsu mà ơn ban của Thiên Chúa được trao ban và lan tỏa đến cho nhân loại cách cụ thể. Thật vậy, từ đây, Chúa Giêsu sẽ là mục tử đích thực của chúng ta, những ai tin nhận Ngài là Chúa, là mục tử của mình, thì sẽ được chính Ngài yêu thương, chăm sóc và nuôi dưỡng.
Thật đúng và ứng nghiệm như lời của Thánh Vịnh trong Đáp ca: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi”. (Tv 22.1) Chúa không phải chỉ yêu thương chúng ta trong một khoảng thời gian hay trong một thời điểm nhất định nào đó, nhưng “Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống” miễn là chúng ta chấp nhận làm con chiên của Chúa, chấp nhận để ở trong nhà Ngài, dưới sự hướng dẫn-dạy dỗ, che chở và nuôi sống của Ngài. Bài đọc hai trong thư Thánh Phaolo gởi tín hữu Êphêsô cũng đã chia sẻ cho chúng ta kinh nghiệm về sự quan phòng, yêu thương của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua Đức Giêsu Kitô. “Nay trong Ðức Giêsu Kitô, anh em đã nên gần nhờ bửu huyết của Người. Chính Người là sự bình an của chúng ta”. Thật vậy, với sự dẫn dắt, nuôi dưỡng của Chúa Giêsu-Mục tử nhân lành, là đầu, là thủ lãnh, là nguồn mạch mọi ân sủng, chúng ta như được sự bảo đảm, chắc chắn và đây là sự thật mà hôm nay Lời Chúa soi sáng, mạc khải để an ủi, nâng đỡ chúng ta là đoàn chiên của Chúa, ngay cả trong cơn nguy khốn, thử thách và đau khổ này.
Một điều thú vị trong Tin mừng hôm nay đó là: qua Chúa Giêsu-Mục Tử Nhân Lành, Chúa vẫn đang gởi đến những mục tử như lòng Chúa mong muốn cho dân Ngài. Các tông đồ được Chúa tuyển chọn, sai đi, sau khi đã rao giảng và làm những việc Chúa truyền dạy, các ông trở về thuật lại cho Chúa tất cả mọi sự. Đây chính là căn tính đích thực của những “mục tử thật” của Chúa trong xã hội hôm nay. Hay nói khác hơn, dấu chỉ thật để nhận ra nơi đời sống của những người được sai đi là phải luôn có sự gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu. Một trong những cách thức gắn bó, liên kết đó chính là đời sống chiêm niệm, cầu nguyện. “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút”. Chúa Giêsu đã khuyên các môn đệ hãy nghỉ ngơi để lấy thêm sức mạnh cho cả về thể xác và nhất là cho có sức mạnh của tâm hồn. Chính trong mối tương quan từ đời sống cầu nguyện và gắn bó mật thiết với Chúa, ơn thánh và sức mạnh từ Chúa được trao ban cho các môn đệ, nhờ đó, họ luôn tìm được sự bình an đích thực hầu có thể cộng tác với Chúa, có thể chu toàn thánh ý, sứ vụ Chúa trao, để ơn thánh Chúa được trao ban và lan tỏa đến cho mọi người.
Lạy Chúa Giêsu, mục tử nhân lành, xin chạnh lòng thương nhìn đến những nỗi lầm than khốn khổ mà dân Chúa đang gánh chịu vì dịch bệnh. Vì dân Chúa, xin thương gởi đến cho chúng con những mục tử như lòng Chúa mong ước, xin Chúa cũng dùng chúng con và giúp chúng con trở nên những chứng nhân của tình yêu và lòng thương xót Chúa, để nhờ đó mà dân Chúa được chữa lành và được nuôi dưỡng. Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, Nữ Vương của những người đau khổ, xin ban ơn chữa lành, cứu sống và ban bình an cho tất cả chúng con. Amen.
(Suy niệm Chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Chủ đề của Chúa Nhật XVI Thường Niên năm B có thể được gọi là “Tấm Lòng của Vị Mục Tử đích thật”.
Gr 23: 1-6
Lên án các vị mục tử vô trách nhiệm khiến dân Ít-ra-en phải lâm vào cảnh nước mất nhà tan, ngôn TN 16-B196
Lên án các vị mục tử vô trách nhiệm khiến dân Ít-ra-en phải lâm vào cảnh nước mất nhà tan, ngôn sứ Giê-rê-mi-a loan báo rằng Thiên Chúa sẽ đích thân nắm giữ vận mệnh dân Ngài và sẽ ban cho họ một vị mục tử đích thật, thuộc dòng dõi Đa-vít, Đấng ấy sẽ chăn dắt dân trong công minh chính trực.
Ep 2: 13-18
Trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô cho thấy Đức Ki-tô chính là Đấng quy tụ dân Do thái và lương dân trong bình an và hòa giải để chỉ có một dân duy nhất và một thân thể duy nhất.
Mc 6: 30-34
Trong bài trình thuật của thánh Mác-cô, Đức Giê-su hành xử như một vị mục tử đích thật, vị mục tử Mê-si-a được loan báo trong Bài Đọc I. Thương đám đông dân chúng “bơ vơ như đàn chiên không có người chăn dắt”, Đức Giê-su quy tụ họ, trước tiên nuôi dưỡng họ bằng lời hằng sống của Ngài, và sau đó cho họ được no thỏa bằng bánh hóa nhiều, tiên trưng bàn tiệc Thánh Thể.
BÀI ĐỌC I (Gr 23: 1-6)
Như ngôn sứ Ê-dê-ki-en, ngôn sứ Giê-rê-mi-a sống vào giai đoạn bi thảm nhất của vương quốc Giu-đa, dưới những cuộc tấn công của đạo quân Ba-by-lon, vào đầu thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên.
Sấm ngôn của chương 23 nầy được định vị giữa hai cuộc tấn công của quân Ba-by-lon vào Giê-ru-sa-lem. Cuộc tấn công thứ nhất vào năm 597, thành đô Giê-ru-sa-lem bị chiếm lần thứ nhất và cuộc lưu đày lần thứ nhất; cuộc tấn công thứ hai vào năm 587, thành đô Giê-ru-sa-lem bị tàn phá, Đền Thờ bị phá hủy và những cuộc lưu đày mới.
Trái với ngôn sứ Ê-dê-ki-en, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã không bị lưu đày; ông vẫn ở Giê-ru-sa-lem và cực lực tố cáo các vị lãnh đạo phải chịu trách nhiệm về tai họa bi thảm này. Tuy nhiên, ngay ở giữa lòng thành đô tang thương nầy, vị ngôn sứ thắp lên ngọn lửa hy vọng: Thiên Chúa vẫn trung tín, Người không bỏ rơi dân Người; đến thời đến buổi, Người sẽ sai phái một vị Mục Tử đích thật đến chăn dắt họ.
1. Những mục tử vô trách nhiệm (23: 1-2):
Đó là các vua vương quốc Giu-đa mà vị ngôn sứ nhắm đến trước tiên (tước hiệu mục tử thường được ban cho các vị vua ở Đông Phương xưa). Ông trách cứ họ là đã không trung thành với sứ mạng của mình, đã “hành xử như những nhà chính trị chứ không như những con người của Thiên Chúa”. Đoạn văn mà chúng ta đọc hôm nay là phần đầu của chương 23, chương kết thúc “sách chống lại các vua”.
Giê-rê-mi-a ngỏ lời với tầng lớp lãnh đạo cao nhất là các vua, những người mà nhiều lần vị ngôn sứ gọi họ là mục tử (2: 8; 10: 21; 25: 34). Như vị ngôn sứ đã nói trước đó, những vị lãnh đạo dân đã coi thường quyền lợi và công bình; họ đã sống một cuộc sống hưởng thụ phù phiếm; họ đã xây cho mình những dinh thự đền đài tráng lệ mà không ngó ngàng gì đến cuộc sống của dân chúng (22: 3, 13; vân vân). Cuối cùng, họ đã đưa dân chúng lâm vào cảnh lầm than nước mất nhà tan và phải tản mác khắp nơi: “Khốn thay những mục tử đã làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác” (23: 1). Không chỉ những người phải bị lưu đày ở đất khách quê người, nhưng cũng biết bao người đã phải rời Giê-ru-sa-lem tỵ nạn ở miền quê hẻo lánh, vài người trốn chạy sang tận bên Ai-cập.
“Này Ta sẽ để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi” (23: 2). Quả thật, án phạt đã không chậm trể. Vua Giơ-hô-gia-khin bị dẫn đi giam cầm ở Ba-by-lon. Thành phần ưu tú bị lưu đày lần thứ nhất vào năm 597 trước Công Nguyên (2V 24: 10-16).
2. Sứ điệp tràn đầy hy vọng (23: 3-4):
Sau bản cáo trạng nghiêm khắc nầy, vị ngôn sứ công bố một sứ điệp tràn đầy hy vọng. Bởi vì các vị mục tử đã không chu toàn sứ mạng của mình, Thiên Chúa sẽ can thiệp: Người sẽ đích thân đảm nhận việc chăn dắt dân Người: “Chính Ta sẽ quy tụ đoàn đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng; chúng sẽ sinh sôi nảy nở thật nhiều” (23: 3). Trong lời sấm của vị ngôn sứ, chính Đức Chúa sẽ đảm nhận vai trò của vị mục tử nhân lành, Người sẽ tập hợp đoàn chiên của Người vào trong đồng cỏ của chúng.
Sấm ngôn loan báo viễn cảnh của cuộc hồi hương trở về từ chốn lưu đày và từ những nơi dân phải lưu lạc tha hương. Đức Chúa sẽ đem lại cho dân Người niềm vui hưởng cảnh thái bình thịnh trị. Chính Ngài sẽ ban cho dân những mục tử tốt lành hết lòng với dân: “Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng; họ sẽ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn phải hãi hùng, kinh khiếp và bị bỏ rơi nữa” (23: 4)
3. Chân dung của vị mục tử lý tưởng (23: 5-6):
Sau cùng, sấm ngôn loan báo vị mục tử lý tưởng. Đây là một trong những giấc mơ lớn lao đã làm nức lòng dân chúng; họ mong chờ Đấng Mê-si-a đến để thống nhất quốc gia. Việc phân tranh giữa các chi tộc miền Bắc và các chi tộc miền Nam, mặc dầu đã xa xưa, nhưng vẫn còn để lại vết thương trong lòng mọi người. Cuộc sụp đổ của vương quốc miền Bắc đã kéo theo một cuộc tản mác đầu tiên, hoặc do phải trốn chạy hoặc do bị lưu đày ở Át-sua. Cuộc sụp đổ vương quốc miền Nam gây nên những hậu quả còn thậm tệ hơn.
“Nầy, sẽ tới những ngày – sấm ngôn của Đức Chúa –
Ta sẽ làm nẩy sinh cho nhà Đa-vít một chồi non chính trực” (23: 5).
Biểu thức: “Nầy, sẽ tới những ngày” mà ngôn sứ Giê-rê-mi-a rất tâm đắc được dùng để giới thiệu một thị kiến tương lai. Có thể ông mượn biểu thức nầy từ ngôn sứ A-mốt (Am 4: 2; 8: 11; 9: 13). Tước hiệu “chồi non” đã trở thành tước hiệu của Đấng Mê-si-a. Tước hiệu nầy đã xuất hiện trước tiên tại I-sai-a (4: 2); Giê-rê-mi-a đã trích dẫn tước hiệu nầy hai lần (một ở đây và một nơi khác: 33: 15); chúng ta sẽ gặp lại tước hiệu nầy ở ngôn sứ Da-ca-ri-a (3: 8; 6: 12).
Dưới triều đại vua Mê-si-a thuộc dòng dõi Đa-vít nầy:
“Thời bấy giờ, Giu-đa sẽ được cứu thoát,
Ít-ra-en sẽ được sống yên hàn” (23: 6).
Ở đây, Giu-đa và Ít-ra-en được nêu lên như hai miền của chỉ một vương quốc, như vào thời vua Đa-vít, dân Thiên Chúa chỉ là một dân tộc duy nhất. Người ta sẽ gọi vị mục tử Mê-si-a nầy là: “Đức Chúa, sự công chính của chúng ta”, vì “trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều chính trực công minh”.
BÀI ĐỌC II (Ep 2: 13-18)
Chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Ê-phê-xô. Trong đoạn trích của Chúa Nhật trước, thánh Phao-lô đã trình bày kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện qua Đức Ki-tô. Trong đoạn trích hôm nay, thánh nhân mô tả sự hòa giải mà Đức Ki-tô thực hiện: chết cho mọi người, cả dân Do thái lẫn lương dân. Như vậy, Đức Ki-tô muốn kiến tạo một nhân loại mới và quy tụ họ vào trong Giáo Hội của Ngài.
1. Người Ki-tô hữu gốc lương dân (2: 13):
Trước tiên, thánh Phao-lô ngỏ lời với những người Ki-tô hữu gốc lương dân, họ chiếm đa số trong các cộng đoàn Ki-tô hữu miền Tiểu Á. Thánh nhân dùng thành ngữ “xa-gần” để chỉ người Ki-tô gốc lương dân (ở xa) và người Ki-tô hữu gốc Do thái (ở gần). Thành ngữ này đã được I-sai-a đệ tam, vị ngôn sứ hậu lưu đày, sử dụng rồi: “Bình an! Bình an cho khắp xa gần” (Is 57: 19). Thành ngữ nầy đã trở nên phổ biến trong Do thái giáo. Qua thành ngữ “xa-gần” nầy, thánh nhân muốn nói rằng những người Ki-tô hữu gốc lương dân, trước kia là những người xa lạ, bây giờ trở thành những người nhà của Thiên Chúa, vì từ nay họ được dự phần vào những lời hứa của Giao Ước, bởi vì chính họ, nhờ máu của Đức Giê-su Ki-tô đổ ra, cũng được ban ơn tha thứ tội lỗi:
2. Một dân duy nhất (2: 14):
Vì thế, những người Ki-tô hữu, dù gốc lương dân hay gốc Do thái, đều có thể nói: Đức Ki-tô “là sự bình an của chúng ta”, vì “Người đã liên kết đôi bên, dân Do thái và dân ngoại thành một”. Chúng ta khó mà đo lường được việc liên kết giữa những người Ki-tô hữu gốc lương dân và những người Ki-tô hữu gốc Do thái đã đem lại tính cách mạng đến mức độ nào cho các cộng đoàn Ki-tô hữu, ở đó vốn nảy sinh biết bao sự ngộ nhận và lời qua tiếng lại ở giữa đôi bên.
Những Ki-tô hữu gốc Do thái ý thức mình là một dân được tuyển chọn và được tách riêng ra, dân cưu mang Mặc Khải. Họ tự hào về nét đặc thù tôn giáo của họ, việc tuân giữ lề luật giúp họ khỏi những uế nhiễm của dân ngoại; họ tránh giao tiếp với những kẻ không chịu cắt bì chừng nào có thể. Trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, có một lan can bằng đá cẩm thạch ngăn chia khuôn viên dân ngoại khỏi khuôn viên dân Ít-ra-en. Khi nói: “Bức tường ngăn cách là sự thù ghét”, thánh Phao-lô ám chỉ đến bức lan can phân cách nầy. Hẳn là thánh nhân đã nghĩ đến những kẻ xách động đồng bào Do thái bắt ngài được tường thuật trong sách Công Vụ 21: 28: “Hỡi đồng bào Ít-ra-en, giúp một tay nào! Nó kia kìa, tên vẫn đi mọi nơi dạy cho mọi người những điều phản dân, phạm đến Lề Luật và Nơi Thánh nầy! Nó còn đem cả mấy người Hy lạp vào cả Đền Thờ mà làm cho Nơi Thánh nầy ra ô uế”.
Ngược lại, những thái độ bài Do thái thường xảy ra, như được chứng thực trong nhiều thành phố chịu ảnh hưởng văn hóa Hy lạp, kể cả thành phố A-lê-xan-ri-a. Chúng ta đừng quên sách Khôn Ngoan được soạn thảo vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, thời kỳ những người Do thái bị chính quyền quấy nhiễu. Thái độ bài Do thái nầy cũng gặp thấy trong thế giới Rô-ma, ở đó người ta không ưa những người Do thái vốn không làm việc vào ngày thứ bảy, cũng như không chỉ đường cho những ai không chịu cắt bì hỏi đường (như thi sĩ Junéval kể ra vài ví dụ trong bài thơ châm biếm của ông vào cuối thế kỷ thứ nhất và đầu thế kỷ thứ hai sau Công Nguyên).
Đức Ki-tô đã hủy bỏ bức tường ngăn cách nầy: “Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét”. Tinh thần duy luật khiến những kẻ thực hành tỉ mỉ Lề Luật tự thu mình lại vào trong thế giới của riêng mình. Luật Mới không còn chia cách nữa, nhưng hòa giải.
3. Một thân thể duy nhất (2: 15-16):
Thánh Phao-lô thật táo bạo khi khẳng định rằng: “Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người” (2: 15). Người Ki-tô hữu, dù là gốc lương dân hay là gốc Do thái, đều được tái tạo để hình thành nên một người mới duy nhất nơi chính bản thân Đức Ki tô.
Ngoài ra, trong một thân thể duy nhất của Đức Ki-tô, người Ki-tô hữu gốc lương dân và người Ki-tô hữu gốc Do thái không chỉ được hòa giải với nhau, không còn coi nhau là thù địch nhưng là anh em, nhưng còn được hòa giải với chính Thiên Chúa: “Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hòa giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá , Người đã tiêu diệt sự thù ghét” (2: 16).
Thánh Phao-lô đã sử dụng từ vựng thần học nầy rồi trong các thư gởi tín hữu Cô-rin-tô và tín hữu Cô-lô-sê. Đây là đề tài chủ đạo trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô nầy, diễn tả ơn gọi phổ quát của Giáo hội.
4. Bình an và hiệp nhất, công trình của Thiên Chúa Ba Ngôi (2: 17-18):
Chính Đức Giê-su là Tin Mừng bình an cho cả người Ki-tô hữu gốc Do thái lẫn người Ki-tô hữu gốc lương dân: “Bình an cho anh em là kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần” (2: 17). Cuối cùng, thánh Phao lô cho thấy rằng nhờ Đức Ki tô, “cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha”. Nhờ Đức Ki-tô, con đường đến cùng Chúa Cha rộng mở cho tất cả mọi người. Chúa Thánh Thần, Đấng hiệp nhất Chúa Cha và Chúa Con, dẫn đưa các tín hữu vào trong cung lòng cuộc sống Ba Ngôi.
TIN MỪNG (Mc 6: 30-34)
Trong Chúa Nhật tuần trước, thánh Mác-cô đã tường thuật cho chúng ta sự kiện Đức Giê-su sai các môn đệ ra đi thi hành sứ vụ khắp miền Ga-li-lê. Giờ đây, thánh Mác-cô tường thuật những diễn biến khi họ trở về. Thánh Mác-cô cho chúng ta một bài trình thuật với nhiều tình tiết sống động. Vị thánh ký nầy luôn luôn cho chúng ta những đường nét nêu bật con người của Đức Giê-su.
1. Các tông đồ quy tụ quanh Đức Giê-su:
“Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giê-su”. Danh xưng “tông đồ” được dùng để chỉ nhóm Mười Hai chỉ xuất hiện ở đây trong Tin Mừng của thánh Mác-cô. Chung chung, các tác giả Tin Mừng tránh dùng danh xưng “tông đồ” nầy cho nhóm Mười Hai, bởi vì danh xưng “tông đồ” theo nguyên ngữ Hy-lạp là “apostolos” có nghĩa là “người được sai đi”. Đối với các thánh ký, chỉ mình Đức Giê-su xứng với tước hiệu nầy: Đấng được Chúa Cha sai đi thi hành sứ vụ. Cách áp dụng danh xưng tông đồ cho nhóm Mười Hai ở đây được biện minh: họ đã “được Đức Giê-su sai đi”. Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su Phục Sinh phân biệt nguồn gốc sai đi của Ngài là từ Chúa Cha và nguồn gốc sai đi của các môn đệ là từ Ngài khi nói với các ông: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20: 21).
Các ông “kể lại cho Ngài biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã giảng dạy”. Đây là hai khía cạnh của một sứ vụ đã được trao gởi cho các ông: lời giảng dạy phải đi đôi với việc làm, hay lời giảng dạy phải được minh chứng bằng việc làm. Vào ngày hôm ấy, Đức Giê-su sắp đưa ra cho các ông một mẫu gương: sau khi đã giảng dạy đám đông dân chúng nhiều điều, Ngài sẽ cho họ được ăn no nê khi hóa bánh ra nhiều, một trong những dấu chỉ quan trọng bậc nhất trong thừa tác vụ của Ngài.
“Kẻ lui người tới quá đông”, trong số đó có những kẻ hiếu kỳ còn muốn hỏi các ông thêm nhiều điều nữa. Trong bối cảnh đó, các ông khó có được thời gian nghỉ ngơi. Thánh Mác-cô không xác định khung cảnh, nhưng chỉ ghi lại một chi tiết mà theo ông có ý nghĩa nhất: “nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa”.
Ấy vậy, các tông đồ mệt mõi. Đức Giê-su lưu ý sự mệt mõi của các ông, vì thế, nếu cứ ở lại đây, họ không tài nào thoát khỏi đám đông quấy nhiễu nầy: “Anh em hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Thái độ của Đức Giê-su nói lên tấm lòng của một vị thầy ân cần quan tâm đến các môn đệ mình. Các môn đệ đồng thuận và xuống thuyền lánh xa một nơi hoang vắng.
2. Thầy trò muốn được lánh riêng ra một nơi thanh vắng:
Đây không là lần đầu tiên Đức Giê-su tìm cách lánh xa đám đông để được ở lại một mình với các môn đệ và dạy riêng cho họ. Trước đây, thánh Mác-cô ghi nhận, sau khi giảng dạy cho đám đông nhiều dụ ngôn, “khi chỉ có Thầy trò với nhau, thì Ngài giải thích hết cho họ” (4: 34). Nhưng việc thầy trò lánh đi như vậy không phải luôn luôn là dễ dàng. Thánh Mác-cô cũng đã viết: “Đức Giê-su cùng với các môn đệ của Ngài lánh về phía Biển Hồ. Từ miền Ga-li-lê người ta lũ lượt đi theo Ngài” (3: 7). Cũng xảy ra đúng y như vậy trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay.
3. Tấm lòng của đám đông dân chúng:
Việc dân chúng lũ lượt kéo nhau đến với Đức Giê-su là một trong những nét tiêu biểu của Tin Mừng Mác-cô, như chúng ta đã ghi nhận rồi. Sự kiện nầy tự nó nói lên sự thành công sứ vụ của Ngài.
Thánh Mác-cô không cho chúng ta biết địa danh, nơi diễn ra cuộc gặp gỡ của đám đông với Đức Giê-su và các môn đệ của Ngài. Theo Lu-ca, Đức Giê-su “đem các ông đi riêng ra với mình, lui về thành kia gọi là Bết-xai-đa” (Lc 9: 10), đây là thành phố ở phía đông nam Biển Hồ, bên kia sông Giô-đan, dòng sông đổ nước vào Biển Hồ. Từ thành Ca-phác-na-um đến thành Bết-xai-đa khoảng 12 cây số, vì thế có lẽ đám đông cùng nhau theo đường bộ vượt qua một quảng đường như vậy đến trước cả các ngài. Cách diễn tả: “nhiều người hiểu ý” gợi lên một mối tương quan gần gũi thân thiết giữa đám đông dân chúng với Đức Giê-su như theo cách nói của Tin Mừng Gioan: “Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10: 14).
4. Tấm lòng của vị Mục Tử Mê-si-a:
Lòng nhiệt thành nầy của đám đông dân chúng trái với ý muốn của Đức Giê-su và các môn đệ là được lánh riêng một nơi thanh vắng. Ấy vậy, thay vì bực mình, Đức Giê-su “chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt”. Ở đây phảng phất chủ đề căn bản của Cựu Ước. Dân Ít-ra-en là đoàn chiên thương mến của Đức Chúa. Người đã trao gởi đoàn chiên của mình cho các vị mục tử Ít-ra-en chăn dắt. Nhưng những vị mục tử vô trách nhiệm nầy chỉ nghĩ đến tư lợi của riêng mình mà không quan tâm đến cảnh sống của đàn chiên Người, khiến đàn chiên của Người phải bơ vơ lạc lõng. Đức Giê-su sẽ ân cần săn sóc họ và chứng tỏ mình là vị Mục Tử Mê-si-a được ngôn sứ Giê-rê-mi-a loan báo. Công việc của người mục tử là tìm kiếm cho đàn chiên của mình cánh đồng cỏ tốt tươi. Lương thực mà Ngài trao ban cho đám đông nầy trước hết là Lời Ngài. Chính cái đói nầy phải được đáp ứng trước tiên: “Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”. Phép lại hóa bánh nhiều nối tiếp theo sau. Từ xưa Giáo Hội đã luôn luôn nối kết “hai bàn tiệc” với nhau: trước hết là Lời Chúa, tiếp đó là Thánh Thể.
Khi ngỏ lời với đám đông suốt ngày hôm ấy quên cả nghỉ ngơi, Đức Giê-su cho các môn đệ của Ngài một giáo huấn rõ ràng: “người mục tử nhân lành là người hiến dâng trọn vẹn bản thân của mình cho đoàn chiên”.
Bài trình thuật của Mác-cô chứng tỏ Đức Giê-su ân cần săn sóc các môn đệ mệt mõi của Ngài sau khi họ hoàn thành sứ vụ, cũng như đám đông dân chúng sau khi họ đi một quảng đường xa đến gặp Ngài. Đây là một trong số các bài tường thuật cho thấy ở nơi Đức Giê-su tấm lòng từ bi nhân hậu: vừa có độ nhạy cảm sâu xa của con tim nhân loại vừa có tấm lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa trước nỗi khốn khổ của đám đông dân chúng bơ vơ lạc lõng, tìm nương tựa ở nơi Ngài. Đó cũng là mẫu gương cho tất cả các vị mục tử của Giáo Hội Ngài, không tìm cách trốn tránh dưới chiêu bài nầy hay chiêu bài khác, nhưng tìm cách đáp trả nỗi khốn khổ đau của đoàn chiên, bởi vì: “Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10: 11).
Thế giới ngày nay dường như chai sạn, khô cứng tình người. Có lẽ đang co rúm vào bản thân, mà TN 16-B197
Thế giới ngày nay dường như chai sạn, khô cứng tình người. Có lẽ đang co rúm vào bản thân, mà chẳng dám nhìn, vươn tới tha nhân! Dĩ nhiên, đâu đó vẫn còn lòng mến, đâu đó vẫn còn những cánh tay dám dang ra cứu lấy người khác, biết tương thân tương ái, hỗ trợ anh chị em đang gặp cảnh túng thiếu. Nhờ lòng trắc ẩn nơi họ, mà biết bao nhiêu nghĩa cử đầy sáng tạo không ngừng nghỉ, được thực hiện, nhằm giúp đỡ tha nhân, đặc biệt trong thời kỳ đại dịch, nhiễu nhương này.
Kính thưa quý ông bà và anh chị em! Qua thư gửi giáo đoàn Ê-phê-sô, Thánh Phao-lô đã nêu lên thực trạng của mỗi người chúng ta: “trước kia, chúng ta là những kẻ xa lạ…” (Ep 2, 13). Xa lạ với Thiên Chúa, và xa cách anh chị em. Tuy nhiên, nhờ bửu thuyết của Đức Giê-su Ki-tô, mà Ngài chính là sự bình an, đã đưa chúng ta đến gần với Thiên Chúa, gần với nhau. Ngài gắn kết chúng ta lại với nhau, phá vỡ bức tường ngăn cách, tiêu diệt hận thù trong tâm tư, cõi lòng của mỗi chúng ta. Qua thập giá, Ngài hoà giải chúng ta với Thiên Chúa Cha, hoà giải chúng ta với nhau. Hơn nữa, Ngài còn sai chúng ta đi loan báo Tin Mừng bình an, và ban ân sủng ngõ hầu tiến gần tới Chúa Cha trong cùng một Thần Trí (x. Ep 2, 13-18). Tất cả đều nhờ Chúa mà ra. Chính vì vậy, sứ vụ “mục tử” không gì khác hơn cũng là ơn cao quý thánh thiêng. Chẳng phải vậy mà người tín hữu không được thông phần tham dự vào! Nhớ lại, khi chịu phép Rửa tội, chúng ta được lãnh nhận sứ vụ ngôn sứ-tư tế-vương đế của Đức Giê-su Ki-tô. Và sứ vụ “mục tử” này được biểu lộ rõ rệt qua việc chăm sóc đoàn chiên, cộng đoàn đối với thừa tác viên có chức Thánh, cũng như được diễn tả qua việc tham gia, đóng góp, cộng tác của thành phần giáo dân trong việc điều hành, trông nom đàn chiên. Đôi lúc, trong thực tế, chúng ta thường lãng quên, mà nghĩ rằng: ai có khả năng cộng tác, lo cho giáo xứ thì cứ làm, còn tôi thì chẳng lo được! Lắm lúc, chúng ta còn chỉ trích thái quá, cứ than phiền trách móc chủ chăn, và người khác, còn về phần mình thì chẳng muốn thực hiện sứ mệnh của bản thân!
Ngoài ra, với vai trò của người mục tử đầy lòng trắc ẩn, dĩ nhiên, chúng ta phải noi gương Đức Giê-su Ki-tô là vị Chủ chăn đích thật, là người Mục tử nhân lành. Cụ thể như lời ngôn sứ Giê-rê-mi-a trong bài đọc I: quy tụ đoàn chiên đang bị phân tán, lùa chúng về đồng cỏ xanh tươi, nuôi dưỡng chúng, cho chúng lớn lên và tăng số, chăn dắt chúng, đừng để chúng sợ hãi, kinh hoàng, và không còn thiếu thốn gì nữa (x. Gr 23, 3-4). Ngược lại với những kẻ xưng danh là mục tử, nhưng chỉ là mục tử giả, thì chỉ biết lo cho tư lợi, thay vì chăm lo cho đàn chiên. Tệ hơn, họ khiến đoàn chiên tản mát, xâu xé chúng, xua đuổi và chẳng biết trông nom chúng (x. Gr 23, 1-2). Nhìn vào thực tế, chúng ta cũng phải đấm ngực mình vì biết bao lần chúng ta không làm tròn trách vụ của một người mục tử được Thiên Chúa mời gọi, tuyển chọn và sai đi. Nhiều phen, thay vì trở nên mục tử đầy lòng xót thương, chúng ta lại trở nên gương mù gương xấu cho sự chia rẽ, ganh đua, bè phái…trong cộng đoàn. Còn với vai trò người giáo dân, biết bao lần, chúng ta phớt lờ lời kêu mời cộng tác với chủ chăn, chưa nhiệt tâm trong việc hỗ trợ người mục tử.
Sau cùng, lòng trắc ẩn nơi người mục tử chính chuyên không dừng lại ở giới hạn: bồi bổ, tìm giờ giấc nghỉ ngơi cho bản thân, hoặc kiếm mọi cách để mình được thoải mái, tiện lợi, với lối sống tiện nghi! Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ: sau khi được Chúa sai đi từng hai người một để loan báo Tin Mừng, trở nên sứ giả bình an, các Tông đồ trở về, thuật lại mọi việc đã làm và đã giảng dạy (x. Mc 6, 30); thì Đức Giê-su hiểu rõ các Tông đồ, thấu tỏ người mục tử cần nghỉ ngơi, dưỡng sức, nên Ngài khuyến khích các ông: “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút” (Mc 6, 31). Tuy nhiên, Ngài không cổ suý việc mưu cầu giải trí, nghỉ ngơi, hoặc tìm những tiện lợi cho bản thân, mà quên đi sứ mệnh “mục vụ” đoàn dân với cả tấm lòng của người mục tử, đầy lòng trắc ẩn xót thương, vì “họ như đàn chiên không người chăn” (x. Mc 6, 34). Người mục tử tốt lành, đích thật là vậy! Họ cũng cần nghỉ ngơi, lấy lại sức lực sau bao việc mệt nhọc, nhiều điều phải nghĩ suy, quyết định, v.v…, nhưng chẳng bao giờ quên nhu cầu, lợi ích của đoàn chiên, vốn được giao phó cho mình. Mẫu gương nơi Đức Giê-su khiến chúng ta cần suy gẫm, và nỗ lực bước theo: Có lẽ Ngài cũng muốn được nghỉ ngơi chút ít, nhưng khi thấy đám đông người người cứ lũ lượt bước theo, thì Ngài chạnh lòng thương, vì họ như thể đàn chiên không chủ chăn vậy. Người mục tử nào mà không biết khóc cơ chứ? Người mục tử nào mà chẳng biết cảm thương trước sự khốn cùng của đàn chiên của mình? Người mục tử nào mà chỉ biết khép kín, mặc kể cho đàn chiên bị xâu xé cơ chứ?
Với tâm tình phó dâng, chúng ta cùng chạy đến khẩn cầu cùng Vị Mục tử nhân lành Giê-su:
Lạy Đức Giê-su Ki-tô, Là người Mục tử tỏ lộ xót thương. Dẫn đoàn chiên đến náu nương Nơi có suối nước, cỏ hương ngạt ngào Nghỉ ngơi giữa chốn cần lao Dưỡng nuôi hồn xác, thanh tao muôn phần. Xin thương tuôn đổ hồng ân Chăm lo, săn sóc ân cần đàn chiên. Chẳng tìm nơi chốn bình yên Lãng quên tình Chúa, đứng yên lặng nhìn Nhìn ràn chiên phải hy sinh Vô tâm chỉ biết thân mình chủ chăn Giờ này sám hối ăn năn Khoan nhân trắc ẩn, vạn lần bao dung. Amen!
(Suy niệm của Jaime L.Waiters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
ĐỨC GIÊSU, VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH, KHUÔN MẪU CỦA NHÀ LÃNH ĐẠO GIÀU LÒNG NHÂN ÁI
Trong các Chúa nhật trước, chúng ta đã được nghe kể về vai trò của việc giảng dạy, rao giảng và TN 16-B198
Trong các Chúa nhật trước, chúng ta đã được nghe kể về vai trò của việc giảng dạy, rao giảng và chữa lành trong sứ vụ của Đức Giêsu. Các bài đọc hôm nay tập trung vào việc đào tạo người lãnh đạo, vốn cũng là một yếu tố cần thiết của việc rao giảng Tin mừng.
Đoạn Tin mừng theo thánh Máccô hôm nay chính là phần dẫn nhập cho câu chuyện Đức Giêsu nuôi đám đông dân chúng mà chúng ta sẽ nghe vào Chúa nhật tới. Các tông đồ trở về gặp Đức Giêsu để thuật lại những gì họ đã rao giảng và đã thực hiện. Đáp lại những nỗ lực này, Đức Giêsu nhấn mạnh rằng các ông phải tách mình ra khỏi đám đông để nghỉ ngơi, giúp những người lãnh đạo “tương lai” có thời gian hồi tâm và hồi phục trong hành trình truyền giáo. Bài Tin mừng gắn thêm việc chăm sóc bản thân và tái tạo năng lượng như là điều cần thiết cho các nhà lãnh đạo tốt. Sau đó, cả nhóm chèo thuyền đến một nơi thanh vắng để ở đó một mình.
Bởi vì sứ vụ của Đức Giêsu đã được nhiều người biết đến nên dân chúng đã nhận ra thầy trò Đức Giêsu và vội vã đến gặp họ. Mặc dù cần có thời gian ở một mình, nhưng Đức Giêsu sẵn sàng thay đổi kế hoạch khi có người cần gặp, vì Ngài xót thương họ. Ngài “chạnh lòng thương” và nhận ra họ khao khát được ở với Ngài. Đức Giêsu còn đưa ra một mô hình lãnh đạo khác, đó là quan tâm và luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác. Ngài chọn việc giảng dạy đám đông vì thấy được nhu cầu cần có người lãnh đạo, bởi họ như “bầy chiên không có người chăn dắt.”
Lời này cũng vang vọng nơi bài đọc một trích sách ngôn sứ Giêrêmia. Trong bài giảng, vị ngôn sứ phê phán việc thiếu vắng người lãnh đạo trong cộng đoàn của ông, với những người cầm quyền (các mục tử) đã góp phần trong việc tàn phá và lưu đày dân Giuđa (đàn chiên). Ngôn sứ Giêrêmia đã lên án những mục tử xấu xa này nhưng đồng thời ông cũng hy vọng rằng sau cuộc lưu đày ở Babylon, số sót lại của đàn chiên sẽ hồi hương và xây dựng lại cộng đoàn. Ông loan báo về một nhà lãnh đạo tương lai từ dòng dõi vua Đavít sẽ cai trị cộng đoàn hồi hương này cách khôn ngoan, thực hiện “công lý và đức công bình trên đất nước.” Vị lãnh đạo tương lai này có thể được hình dung như là Zêđêkia hoặc Zêrubaben, vì văn bản tiếng Do Thái dùng lối chơi chữ ám chỉ đến một hay cả hai nhà lãnh đạo này. Sau đó nhiều thế kỷ, các tác giả Tin mừng đã liên kết vị lãnh đạo công chính từ dòng tộc Đavít này với Đức Giêsu.
Các bài đọc hôm nay hướng dẫn vài yếu tố quan trọng về lãnh đạo. Bài Tin mừng đưa việc nghỉ ngơi, tĩnh tâm và tái tạo năng lượng vào công việc truyền giáo. Hơn thế nữa, Lời Chúa cũng đòi việc lãnh đạo phải được thấm nhuần lòng thương xót. Đức Giêsu nhận ra việc thiếu vắng người lãnh đạo và nhu cầu của dân chúng nên Ngài bước lên để dẫn dắt họ. Về điểm này, Đức Giêsu là hiện thân cho niềm hy vọng của ngôn sứ Giêrêmia về những nhà lãnh đạo gương mẫu, những người sẽ là hiện thân cho công lý và công bình. Những mục tử tốt lành sẽ cai quản cách công minh và khôn ngoan vì lợi ích của toàn dân.
Chúa nhật tới, chúng ta sẽ nghe trình thuật của thánh Gioan về việc nuôi đám đông dân chúng, và bài Tin mừng hôm nay là phần dẫn nhập của thánh Máccô về câu chuyện phép lạ quan trọng này. Khi chạnh lòng thương, Đức Giêsu không chỉ dừng lại, kết nối với dân chúng và giảng dạy họ, nhưng còn cho họ ăn khi đói. Lãnh đạo là một cuộc gặp gỡ và cam kết thiết thực để có thể nuôi dưỡng mọi người về tinh thần lẫn thể chất.
Tin Mừng Mt 6: 30-34: Các xã hội văn minh, các đô thị luôn chạy theo nhịp sống hối hả của kỹ thuật hiện đại. Con người thời nay dễ bị căng thẳng. Do đó, người ta thường tìm đến với Yoga, Thiền, với các phương pháp dưỡng sinh để tìm sự quân bình, tìm yên tĩnh, muốn trầm lắng nội tâm...
Các xã hội văn minh, các đô thị luôn chạy theo nhịp sống hối hả của kỹ thuật hiện đại. Con người TN 16-B199
Các xã hội văn minh, các đô thị luôn chạy theo nhịp sống hối hả của kỹ thuật hiện đại. Con người thời nay dễ bị căng thẳng. Do đó, người ta thường tìm đến với Yoga, Thiền, với các phương pháp dưỡng sinh để tìm sự quân bình, tìm yên tĩnh, muốn trầm lắng nội tâm.
Vào mùa hè, người ta thường tạm nghỉ công việc, rời nếp sống đô thị náo nhiệt tìm đến nghĩ ngơi nơi vùng quê, miền biển, miền núi.Nô đùa cùng sóng biển cát vàng, hít thở khí trời dịu mát của cao nguyên lộng gió hay hoà vào khung cảnh thanh bình êm ả của đồng quê bát ngát lúa chín vàng… Bầu khí yên tĩnh, thời gian trầm lắng là điều rất cần thiết cho con người. Thân xác nghĩ ngơi, tinh thần thư giãn, trí óc sáng suốt. Từ đó, nhìn lại cuộc sống mình, kiểm điểm, rút ưu khuyết, định hướng cho cuộc sống sắp tới.
Sau hơn một tháng trời vâng lời Chúa ra đi truyền giáo, các môn đệ trở về vui mừng báo cáo cho Chúa biết kết quả những việc đã làm. Chúa chia sẻ niềm vui với các môn đệ và nhận thấy các ông có vẻ thấm mệt, nên Chúa bảo: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Một lời khuyên thật ý nghĩa và cần thiết.
Chúa Giêsu khuyên các môn sinh hãy sống theo gương của Người. Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu với khởi đầu là cầu nguyện và kết thúc trong tĩnh lặng riêng tư với Cha.Sáng sớm tinh mơ, Người dành thời gian đẹp nhất một ngày mới để cầu nguyện cùng Chúa Cha. Sau đó bận rộn với biết bao công việc: rao giảng và chữa lành thể xác tâm hồn cho con người. Chúa Giêsu thích sự cô tịch và tránh xa đám đông. Người chọn những nơi hiện diện: “Một ngọn núi cao riêng biệt” (Mc 9,2); những bờ dốc thẳng bao quanh hồ phía đồi Gôlăng (Mc 5,1); những bãi biển Phênixi xứ Xyria hay xứ Libăng (Mc 7,24-31); đôi bờ của con thác miền núi gần nguồn sông Giođan dưới chân núi Hécmon (Mc 8,27)…
Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu tạo nên khuôn mẫu cho tất cả các môn sinh trong cuộc sống thường ngày.
Các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, hoạt động cứu độ con người. Các môn đệ trở về, Chúa khuyên nên nghỉ ngơi trong cầu nguyện. Làm việc và cầu nguyện, sống “nội tâm” và hoạt động “bên ngoài”, đó là nhịp sống mỗi ngày của người môn đệ Chúa Giêsu.
Đời sống tâm linh phải được nuôi dưỡng bồi bổ để phát triển. Chúa chính là nguồn mạch đời sống thiêng liêng. Những giờ phút riêng tư thân mật bên Chúa sẽ giúp cho đời sống tâm linh phát triển. Nhờ cầu nguyện, con người mới phát triển quân bình.
Làm việc và cầu nguyện đó là hai nhu cầu của con người. Làm việc để nuôi thân, nuôi gia đình và góp phần xây dựng xã hội. Đời sống cầu nguyện hỗ trợ cho hoạt động bên ngoài. Nếu chỉ hoạt động bên ngoài, con người sẽ không khác gì máy móc. Nếu chỉ biết phát triển đời sống thân xác, con người sẽ trở thành nô lệ cho vật chất.
Nếu chỉ quan tâm tới những nhu cầu vật chất, con người sẽ dễ bị tha hoá, đuổi theo tiền bạc, chạy theo chức quyền. Cầu nguyện giúp nâng tâm hồn lên khỏi nô lệ vật chất. Những giây phút yên lặng bên Chúa giúp ta định hướng cuộc đời. Ánh sáng Lời Chúa giúp ta nhìn rõ tâm hồn mình, biết rõ những sai sót của mình mà sửa đổi. Những lời chỉ dạy của Chúa là những chuẩn mực đạo đức giúp ta sống ngay thẳng, thật thà, lương thiện. Ơn Chúa ban sẽ cho ta sức mạnh để hoạt động tích cực hữu hiệu hơn, để hăng hái dấn thân hơn nữa trên đường phục vụ anh em.
Trong cuộc sống phục vụ các tâm hồn, người ta chỉ có thể thu lượm kết quả, một khi biết trau dồi đời sống nội tâm, và kết hiệp mật thiết với Chúa. Chính vì thế mà ngay sau khi nghe các Tông đồ báo cáo về những việc họ đã làm, Chúa truyền cho họ phải tìm chốn nghỉ ngơi, mặc dù đó là lúc người ta lui tới với các Tông đồ rất đông. Việc nghỉ ngơi nói đây không phải chỉ là việc giải lao bình thường, nhưng còn là một thời gian dành cho việc bồi dưỡng tinh thần. Trong thanh vắng, Chúa cho các Tông đồ hiểu: việc rao giảng Tin Mừng là chia sẻ cho người ta những gì mình ôm ấp trong tâm hồn.
Nếu mình không học hỏi thêm, không suy nghĩ, không kiểm điểm về những điều mình biết và tin, thì vốn liếng niềm tin của mình sẽ nghèo đi. Còn gì để chia sẻ cho người khác nữa? Thời gian nghỉ ngơi là lúc các Tông đồ kiểm điểm đời sống để thấy điều gì cần sửa đổi, điều gì cần phải làm thêm cho sinh hoạt truyền giáo đạt kết quả. Đó chính là thời giờ tĩnh tâm của các Tông đồ vậy. Nơi vắng vẻ cũng là nơi thuận tiện cho các Tông đồ cầu nguyện. Vì cầu nguyện cũng là trau dồi đời sống nội tâm. Cầu nguyện để được ơn Thánh Thần trợ giúp. Cầu nguyện để xin Chúa tác động vào các tâm hồn đã đón nghe Tin Mừng. Đó mới là phần chính yếu để việc truyền giảng Tin Mừng phát sinh hiệu quả.
Các Tông đồ trở về, cùng với Chúa đi vào nơi thanh vắng để học hỏi, để suy tư, để cầu nguyện. Cũng như sau thời gian phân phát lương thực cho người khác, các Tông đồ trở về nguồn để lấy thêm chất liệu, hầu có thể tiếp tục lên đường phục vụ.
Trở về với Chúa để học hỏi, suy tư và cầu nguyện là việc cần thiết, mọi người tín hữu phải làm trong cuộc sống Kitô hữu hôm nay. Vì chúng ta cũng được sai đi như các Tông đồ xưa. Sau một ngày, sau một tuần, chúng ta cũng cần có thời gian trở về với Chúa để kiểm điểm lại sinh hoạt tôn giáo, học hỏi lời Chúa và cầu nguyện. Cụ thể là ngày Chúa nhật, chúng ta có dịp thuận tiện để sống với cộng đoàn, được bồi dưỡng tinh thần và được Chúa sai đi chia sẻ cho anh chị em những gì mình đã lãnh nhận.
Trong lãnh vực tông đồ, thinh lặng cầu nguyện thật cần thiết. Làm việc tông đồ là làm việc của Chúa. Cầu nguyện để biết rõ ý Chúa, biết việc phải làm. Cầu nguyện để múc lấy sức mạnh của Chúa giúp chu toàn công việc. Cầu nguyện để biết khiêm nhường luôn coi mình là dụng cụ trong bàn tay Chúa. Chỉ khi làm việc trong Chúa, với Chúa và vì Chúa, việc tông đồ mới có kết quả tốt đẹp theo ý Chúa muốn.
Làm việc phải là kết quả của những giờ suy nghĩ và cầu nguyện. Điều kiện tiên quyết để thành công chính là sự thinh lặng. Từ thinh lặng ta mới có thể nuôi dưỡng những suy tư của mình một cách lâu dài được. Bầu khí thinh lặng giúp ta hồi tâm xét mình thực thi sám hối cách đúng mức. Bầu khí thinh lặng còn giúp cho người khác sống tinh thần cầu nguyện.
Người Kitô hữu yêu quý những giây phút thinh lặng trong tâm hồn, yên tĩnh ngọt ngào bên Chúa. Người Kitô hữu tìm thấy sự thinh lặng thánh ấy trong nhà thờ, trong những giây phút cầu nguyện và ngay trong tâm hồn mình. “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2). Thinh lặng, cầu nguyện chiêm niệm, hồi tâm luôn mang lại sức sống thiêng liêng cho mỗi người.
Chúa Giêsu dạy bảo chúng ta: không những chúng ta phải hăng say làm việc, làm việc hết mình, nhưng cũng phải biết dành thời giờ để nghỉ ngơi nữa. Như thế, chúng ta sẽ được khỏe mạnh hơn, phấn khởi hơn, yêu đời hơn. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhớ rằng: đã đành làm việc rồi thì cũng phải có lúc nghỉ. Nhưng giờ nghỉ đi sau giờ làm việc chứ không đi sau sự lười biếng. Chỉ có những người đã làm việc mới cần nghỉ. Ai không làm việc mà cũng nghỉ là một người lười.
Chúng ta thử quan sát 2 nhóm người: Nhóm thứ nhất gồm những người chỉ hấp thụ các loại thực TN 16-B200
Chúng ta thử quan sát 2 nhóm người:
Nhóm thứ nhất gồm những người chỉ hấp thụ các loại thực phẩm vật chất như cơm bánh, rượu bia… mà không tiếp nhận lương thực tinh thần lành mạnh như sách báo tốt, những lời khuyên dạy khôn ngoan…
Nhóm thứ hai gồm những người thường xuyên hấp thụ lương thực tinh thần lành mạnh như là học hỏi điều hay điều tốt, trau dồi nhân đức và thực hành những giáo huấn của Chúa Giê-su và các bậc thánh hiền.
Kết quả là trong số những người thuộc nhóm người thứ nhất, vì chỉ hấp thụ lương thực vật chất mà không biết đến lương thực tinh thần lành mạnh, nên họ ứng xử như những người thiếu văn hóa, phẩm chất của họ xuống cấp, tư cách của họ sa sút… vì thế, họ thường bị người đời xem thường, khinh dể; còn nhóm thứ hai, nhờ hấp thụ lương thực tinh thần cao quý nên họ tạo cho mình tư cách đáng trọng, tác phong đáng nể và có nhiều phẩm chất cao đẹp được mọi người quý trọng và yêu thương.
Các loài thú chỉ cần thức ăn vật chất: trâu, bò, dê, cừu … chỉ cần ăn rơm, rạ, cỏ, lá; con heo cần cám; gà vịt chỉ cần bắp lúa là xong…
Trong khi đó, con người thì khác. Ngoài thực phẩm thông thường là cơm bánh, con người còn cần đến thức ăn thứ hai, rất cần thiết, rất quan trọng… Đó là những lời răn dạy khôn ngoan, những giáo huấn lành mạnh… có khả năng làm cho họ ngày càng văn minh, tiến bộ, tốt lành. Như thế, lương thực tinh thần lành mạnh là điều tối cần mà mỗi người phải tiếp nhận không thể bỏ qua.
Nếu con người chỉ dùng lương thực vật chất mà thôi thì con người không hơn gì thú vật và sẽ gây ra nhiều thảm họa cho thế giới.
Do đó, Chúa Giê-su dạy rằng: “Người ta không chỉ sống bằng cơm bánh mà còn bằng Lời Chúa nữa.[1]”
Chính vì thế, khi “Chúa Giê-su thấy một đám người rất đông tuôn đến với Ngài, thì Ngài chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt” và Ngài tỏ lòng thương xót bằng cách “dạy dỗ họ nhiều điều.[2]”
Tiếc thay, nhiều người không màng đến lương thực tinh thần mà chỉ quan tâm đến lương thực vật chất. Nếu các nhà hảo tâm hoặc các tổ chức từ thiện phân phát cơm bánh, thực phẩm miễn phí mỗi ngày thì sẽ có rất đông người đến nhận, còn nếu chỉ trao tặng sách quý, báo chí lành mạnh, sách dạy làm người hay dạy sống đạo mà thôi… thì chỉ có ít người quan tâm.
Noi gương Chúa Giê-su, nếu chúng ta thực lòng yêu mến người khác, thì không chỉ giúp họ lương thực nuôi xác mà còn trao tặng cho họ lương thực nuôi hồn, đó là những lời khuyên dạy khôn ngoan, là những hướng dẫn đạo đức, là những gương lành việc tốt… vì đây là thứ làm cho họ trở nên những người có phẩm chất cao hơn, văn minh và tiến bộ hơn.
Cha mẹ thương con thì không chỉ lo cho con được no cơm, ấm áo… mà còn lo khuyên dạy con cái nên người trưởng thành, giúp cho con được học tập tốt và trau dồi nhân đức.
Bạn bè thương nhau thì không quên trao tặng cho nhau những lời khuyên mang lại lợi ích thiết thực, giúp nhau thăng tiến trên đường nhân đức.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho chúng con đừng mải mê kiếm tìm lương thực nuôi xác mà không dành thời giờ tìm kiếm lương thực nuôi hồn. Xin cho chúng con thường xuyên hấp thụ Lời Chúa là kho tàng lương thực tinh thần phong phú mang lại niềm vui, sự sống và hạnh phúc đời đời cho chúng con. Amen.