Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 4-B Bài 101-150 Chúa Giêsu giảng dạy như đấng có thẩm quyền ------------------------------------------ Phúc Âm: Mc 1, 21-28: “Ngài giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. (Ðến thành Capharnaum) ngày nghỉ lễ, Chúa Giêsu vào giảng dạy trong hội đường. Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ. Ðang lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: “Hỡi ông Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Ðấng Thánh của Thiên Chúa”. Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: “Hãy im đi và ra khỏi người này!” Thần ô uế liền dằn vặt người ấy, thét một tiếng lớn, rồi xuất khỏi người ấy. Mọi người kinh ngạc hỏi nhau rằng: “Cái gì vậy? Ðấy là một giáo lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh Người”. Danh tiếng Người liền đồn ra khắp mọi nơi, và lan tràn khắp vùng lân cận xứ Galilêa. - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------
Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền (Mc 1, 27)
Thánh Marcô và Luca đều ghi lại phép lạ này như nhau. Nhưng thánh Marcô bao giờ cũng đầy TN4-B101
Thánh Marcô và Luca đều ghi lại phép lạ này như nhau. Nhưng thánh Marcô bao giờ cũng đầy đủ chi tiết hơn. Phép lạ này xảy ra tại Capharnaum là một thành phố miền Duyên Hải, cũng là địa cứ trung tâm, nơi truyền giáo của Chúa ở đây. Thành phố này dù nhỏ vẫn có những hội đường để học hỏi về sắc luật và Kinh Thánh. Chúa Giêsu vào một trong những hội đường của Capharnaum, vào một ngày Sabát để giảng dạy. Trong số thính giả ngồi nghe có một nạn nhân bị quỉ ám, lúc ấy anh còn được một chút tỉnh táo bỗng anh cướp lời Chúa, thất thanh kêu lớn tiếng rằng: “Hỡi Giêsu Nadarét, chúng tôi và Ngài có liên hệ gì với nhau, Ngài đến để tiêu diệt chúng tôi ư?” (c.23)
“Ngài đến để tiêu diệt chúng tôi ư?” (c.23). Muốn nói rằng: không phải Chúa chỉ đến với Capharnaum mà còn đến với cả nhân loại nữa. Cũng không phải Chúa chỉ đuổi ma quỉ ra khỏi thân xác bệnh nhân mà còn xua đuổi chúng đến tận đáy hỏa ngục và không cho chúng cái thú làm hại người ta nữa (Cl 2,14). Chúng ta nên lưu ý ở đây, Chúa Giêsu đã không khiêu kích quỉ dữ. Không một nơi nào trong Phúc Âm nói tới trong điều tương tự. Như thế là Chúa tôn trọng mọi tạo vật Ngài đã sáng tạo nên.
Nhưng khi tới lúc tới giờ Chúa đã xua đuổi chúng một cách nghiêm khắc, không biện luận nói năng gì nữa, Chúa phán rõ ràng rằng: “Hãy câm đi và ra khỏi người này” (c.25t) Chúa chỉ truyền một lời vắn tắt như một mệnh lệnh vô điều kiện: “Im đi”.
Tại sao ở đây ma quỉ lại xưng đúng danh tánh Chúa là “Giêsu Nadarét”, là “Đấng Thánh” mà Chúa lại bảo im đi? Thưa, khi ma quỉ nói thế không phải mục đích để tôn vinh Chúa đâu. Nhưng ma quỉ muốn đánh lạc hướng cho thính giả rằng: “Đấng Thánh” theo như người Do Thái mong tưởng phải là người bách chiến bách thắng khuất phục mọi chư dân về đầu hàng Israel. Vậy, ma quỉ nói lên như thế là mục đích làm cho thính giả nhớ tới một Đấng Cứu Thế trần tục, mà quên đi cõi siêu linh tâm hồn mà lúc ấy chúng đang ngự trị an toàn, mà giờ đây Chúa đến, làm chúng bất an, mất đất dụng võ.
Chúng bảo “Im đi” vì lời chúng nói không phải để tuyên xưng Chúa đâu, có khi chỉ là một dịp nhạo cười như kêu tên Chúa vô cớ, hay ít ra cũng không nói lên được chân lý nào, vì từ “bụi gai làm sao tìm được quả vả” nào bao giờ. Cho nên Chúa ra lệnh ngay: “Im đi và ra khỏi người này” (c.25). Ma quỉ tìm cách như là chống cưỡng lại, tỏ vẻ tức tối nên quật ngã nạn nhân giữa đám đông, hét to lên rồi đánh bỏ nạn nhân ra đi (c.26).
Phép lạ này cho thấy Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật. Ngài dạy dỗ với uy quyền của một vị Thiên Chúa, quyền này ngay trong thế giới thiêng liêng cũng phải công nhận và vâng lời tăm tắp. Khi quỉ ra khỏi nạn nhân “mọi người đều biết và kinh ngạc” và công nhận Chúa dạy một “giáo huấn uy quyền mới mẻ” (c.27).
Lời Chúa không bao giờ cũ xưa cả. Lời Chúa luôn mới cho những ai ham chuộng Lời Ngài. Mới ở chỗ sẽ được đổi mới nên hoàn thiện, trong thực hành. Nếu như chúng ta ham đọc Lời Chúa mà tấm lòng chúng ta cứ vẫn cũ rích, thì đó không phải là tại Lời Chúa mà là tại lòng ta là bụi gai, đá sỏi.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin cho uy quyền Thiên Chúa và Lời Chúa thể hiện nơi đời sống chúng con, để Lời Ngài luôn hấp dẫn, luôn lôi cuốn chúng con hướng theo đường thiện, luôn là động lực giúp chúng con đổi mới.
Anh chị em có tin Satan không? Anh chị em có thực sự tin không? Anh chị em không biết phải TN4-B102
Anh chị em có tin Satan không? Anh chị em có thực sự tin không? Anh chị em không biết phải trả lời ra sao nữa. Tôi cũng vậy. Tuy nhiên, ma quỷ đang hợp thời trang. Và anh chị em hãy nhớ lại sự thành công của phim Vị trừ quỷ và những lời của các nhà chính trị: nhà chính trị Mỹ xem nước Nga như là vương quốc của sự dữ và ông Khomeiny xứ Iran xem Hoa kỳ như là Satan vĩ đại.
Hình như có những nhóm nhạc Rock tôn thờ Satan. Một số người nói rằng họ khám phá ra trong đĩa hát của họ những sứ điệp của Satan.
Những mục linh tinh trên báo kể lại cho chúng ta những cuộc chém giết rất khủng khiếp như vụ Mc Donald ở Califonia (hai mươi mốt người bị giết) nên chúng ta có lý mà tự hỏi xem đây có phải là trường hợp quỷ nhập không. Bệnh tâm thần và đam mê có đủ để giải thích những tội phạm dường ấy không? Điều chắc chắn là sự dữ có thật, nhưng thủ lãnh của sự dữ thì sao?
Chúa Giêsu trừ một tên quỷ.
Trước việc trừ quỷ này, ta nên tránh hai thái độ trái ngược. Thái độ thứ nhất là chống đối và phủ nhận sự kiện này vì tính cách lạ lùng của nó. Vào thời Chúa Giêsu, người ta nhìn thấy ma quỷ khắp mọi nơi. Bệnh kinh phong, sốt, bệnh thần kinh đều được xem như bị quỷ nhập cả. Nhưng Chúa Giêsu chắc chắn đã đương đầu với những người bị quỷ nhập thật sự. Đây là trường hợp của bài Tin Mừng hôm nay.
Thái độ thứ hai là thích thú trước tính cách lạ lùng của đoạn Tin Mừng này. Thích thú về hiểu biết của Chúa Giêsu về thần dữ.
Thánh Marcô muốn truyền đạt cho chúng ta sứ điệp nào? Đó mới là điều quan trọng. Ý định của ông là cho chúng ta thấy Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng bằng cách nào: bằng cách dạy dỗ và trừ quỷ, việc trước dẫn đến việc sau.
“Đi vào trong hội đường, Chúa Giêsu giảng dạy”, và những người đã bị đánh động và ngạc nhiên. Thánh Marcô nói điều này hai lần, ở đầu và ở cuối trình thuật, và ông nêu rõ lý do. Đây là một giáo huấn mới mẻ có quyền uy khác hẳn việc dạy dỗ của các ký lục.
Mấy ông này chỉ lập lại những gì họ đã học nơi các vị kinh sư mà thôi. Nhưng Chúa Giêsu đã không theo học trường phái nào cả: Ngài có một cái nhìn mới mẻ và nói những lời chưa bao giờ nghe nói. Không phải là những lời đã học thuộc lòng và với một uy tín mạnh mẽ như các ngôn sứ. Chúa Giêsu giải thích luật theo một nghĩa giải phóng và hợp với ý Thiên Chúa.
Giáo huấn mới mẻ và đanh thép này không chỉ làm cho các thính giả của Ngài kinh ngạc mà thôi. Ngài còn buộc kẻ bị quỷ nhập ẩn giấu giữa họ phải lộ diện. Quỷ dữ cảm thấy bị đe dọa bởi một lời quyền năng như thế nên nó đối đầu với Chúa Giêsu, và Ngài đã vạch mặt nó ngay.
Đồng thời, một khía cạnh quan trọng của Tin Mừng được mặc khải cho chúng ta: Tin Mừng làm cho người ta được tự do. Chúa Giêsu giải thoát các thính giả của Ngài khỏi những xiềng xích mà những giải thích luật Chúa theo cách nhỏ nhen của loài người đã ràng buộc họ. Ngài đến giải phóng con người khỏi sự dữ và Satan. Ngài đấu tranh vì con người, cuộc đấu tranh này sẽ dẫn đưa Ngài đến thập giá. Nơi đó, các lực lượng của sự dữ sẽ bị tiêu diệt.
Được giải thoát đến mức nào?
Cuộc chiến thắng dứt khoát của Chúa Kitô được cụ thể hóa trong thời gian theo cách chúng ta đón nhận Tin Mừng. Một cách nghịch lý, chiến thắng đã đạt rồi nhưng cuộc chiến vẫn tiếp tục.
Hôm nay chúng ta được mời gọi kiểm chứng ảnh hưởng giải phóng của chiến thắng ấy nơi chúng ta. Ta được mời gọi phát hiện những thông đồng của ta với sự dữ và với ma quỷ. Satan là “thủ lãnh của việc giết chóc” và “cha của sự dối trá”. Đối với đồng loại, chúng ta có sử dụng bạo lực và áp chế không, hay chúng ta là đầy tớ của họ? Chúng ta có sống trong sự thật với Thiên Chúa và với anh em chúng ta không?
Nguyện cho thánh lễ này, trong đó chúng ta tham gia vào cử chỉ giải phóng của Chúa Giêsu Kitô, làm cho chúng ta được tự do hơn nữa để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân.
Đây là cuộc chạm trán thứ hai giữa Đức Kitô và "thần ô uế". Chúng ta hẳn không quên Đức Kitô TN4-B103
Đây là cuộc chạm trán thứ hai giữa Đức Kitô và "thần ô uế". Chúng ta hẳn không quên Đức Kitô "ở trong sa mạc bốn mươi ngày chịu satan cám dỗ" (Mc 1,13 và Lc 4,1-13). Lần này Satan nhập vào một người và đối đầu với Người ngay tại hội đường Do Thái, nơi Người đang giảng dạy. Dân chúng đã kinh ngạc về những giáo thuyết của Ngài: điều Ngài giảng dạy không những khác với những điều họ vẫn nghe từ miệng các tư tế và ký lục thời đó, nhưng đặc biệt, Ngài nói với uy quyền: tỏ lộ ra trong cách nói, trong nội dung lời giảng dạy. Đám thính giả hôm nay còn "kinh hoàng" khi được chứng kiến tận mắt uy quyền của Đức Kitô trên thần ô uế: "Ngài truyền khiến được cả các thần ô uế, và chúng vâng lời Người" (Mc 1,27). Lời gào thét của thần ô uế còn vang vọng mãi:
"Giêsu Nazareth, chúng tôi với Ngài nào có việc gì? Ngài đã đến để tiêu diệt chúng tôi ư? Tôi biết Ngài là ai: Đấng Thánh của Thiên Chúa!"
Nước Thiên Chúa đã đến trong thế gian, nước của ánh sáng xua tan bóng tối và sự chết (bài ca mừng lửa mới trong đêm thánh vọng Phục Sinh). Lời tuyên án từ buổi khai nguyên vũ trụ này đã đến lúc thực hiện: "Ta sẽ đặt hận thù giữa ngươi và người đàn bà, giữa dòng giống ngươi và dòng giống nó. Dòng giống nó sẽ đạp đầu ngươi, con ngươi sẽ táp lại gót chân người" (St 3,15). Kể từ giây phút tuyên chiến đó, mãnh lực thù địch Thiên Chúa và loài người hằng tìm mọi phương cách hòng áp đặt quyền lực đen tối trên địa cầu. Nhưng nay thì dòng giống sinh ra bởi người đàn bà sẽ đạp đầu loài rắn độc: "Ngài đến để tiêu diệt chúng tôi ư?"
Nhân loại sẽ thắng loài quỷ đỏ hung tàn với điều kiện là biết tuân nghe lời Đấng Messia vì "Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa", nghĩa là con Thiên Chúa và Đấng Cứu Chuộc loài người Thiên Chúa sai đến (Mc 1,10; Lc 1,35; Ga 6,69). Ngài giảng dạy "một cách quyền uy" vì Người là Ngôn Sứ Thiên Chúa, loan báo trung thực những lời Thiên Chúa: Ta sẽ cho chỗi dậy giữa anh em chúng một Ngôn Sứ như ngươi. Ta sẽ đặt các lời của Ta nơi miệng nó, và nó sẽ nói với chúng mọi điều Ta truyền cho chúng. (Đnl 18,18). Ai tin nghe lời Người sẽ được cứu thoát, ai không nghe sẽ bị luận tội (Đnl 18,19). Chính "Người Đàn Bà" vẫn hằng nhắc nhủ con cái loài người đến cuộc chiến quyết liệt này và đề nghị những phương thế hữu hiệu hầu chiến thắng tà thần. Hãy đọc sứ điệp Fatima, ở Lộ Đức... hay bất cứ nơi nào Đức Mẹ hiện ra, loài người sẽ thấy được những phương thế ấy. Nhưng thế giới hôm nay, và chúng ta những Kitô hữu, những người đã thề "từ bỏ tà thần và mọi việc làm của nó" khi lãnh nhận phép Rửa tội, chúng ta có đem ra thực hiện những lời Mẹ nhắn nhủ không?
"Để anh em sống đoan chính, và được khăng khít với Thiên Chúa không hề lơi" (1 Cr 7,35).
Sau khi đã đề cập đến vấn đề hôn nhân, thánh Phaolô nói đến vấn đề đồng trinh và độc thân. Nếu đọc toàn mạch văn của riêng bài đọc hôm nay chúng ta thấy thánh Phaolô khuyến khích sống độc thân và ở đồng trinh. Câu kết luận đưa chúng ta đến một nhãn quan mới: hôn nhân hay đồng trinh đều được chấp nhận, điều cốt yếu là "để anh em sống đoan chính, và được khăng khít với Chúa không hề ngơi". Đành rằng, khi sống trong bậc gia đình, người ta dễ bị "chia sẻ" vì tình yêu trần thế... nhưng chắc chắn đó không phải là một trở ngại cho tình yêu Thiên Chúa và con đường nên thánh.
Chúng tôi không dám nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi nữa, chúng tôi không dám TN4-B104
"Chúng tôi không dám nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi nữa, chúng tôi không dám nhìn ngọn lửa lớn này nữa, kẻo phải chết" (Đnl 18,16). Thấy dân chúng kêu ca có lý, Thiên Chúa hứa sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ và Người sẽ đặt lời của Người vào miệng ngôn sứ. Như thế, sứ ngôn là người nói thay cho Thiên Chúa, nói nhân danh Thiên Chúa, nói đúng Thánh ý Thiên Chúa. Sự tồn vong của ngôn sứ hệ tại ở sứ mệnh cao cả và lắm cũng gian truân này. Vì ngôn sứ nào cả gan nhân danh Thiên Chúa mà nói lời Người đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết (x. Đnl 18, 20).
Tuy nhiên làm sao để biện phân đâu là ngôn sứ thật và đâu là ngôn sứ giả? Làm thế nào để nhận biết một ngôn sứ thật nhưng không nói lời Thiên Chúa truyền mà chỉ nói lời của mình hay lời của các thần giả trá xui khiến? Một Đại Ngôn sứ, một ngôn sứ trên mọi ngôn sứ đã xuất hiện chính là Đức Kitô. Bài trích Tin mừng thánh Maccô mà Hội Thánh giới thiệu trong thánh Lễ Chúa Nhật IV TN B gợi mở cho chúng ta hai tiêu chí để thẩm định sự chính danh, chính ngôn, chính phận của một ngôn sứ.
Lời có uy quyền: Dân chúng kinh ngạc vì Chúa Giêsu giảng dạy như một Đấng có uy quyền chứ không như các kinh sư. Lời nói của một đấng có uy quyền thì thuyết phục người nghe và làm cho người nghe biết nghe theo. Lời giảng dạy của Chúa Giêsu có uy quyền không chỉ vì nội hàm của chúng mà trên hết vì Người là Ngôi Lời, đồng thời chính Người là người tiên phong sống và thực hiện những gì Người giảng dạy.
Các Kinh sư cũng giảng dạy nhưng họ lại không sống điều mình giảng dạy khiến Chúa Giêsu đã từng nói với dân chúng rằng: "Các kinh sư và các người Pharisêu ngồi trên toà ông Môsê mà giảng dạy. Vậy những gì họ nói thì anh em hãy làm và hãy giữ, nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất trên vai người ta, nhưng chính họ lại không buồn động ngón tay vào." (Mt 23,2-4). Đức cố giáo Hoàng Phaolô VI đã từng nói: ngày nay người ta không thích nghe (nghe theo) những nhà giảng thuyết mà lại nghe theo những chứng nhân. Sở dĩ người ta nghe theo các nhà giảng thuyết vì họ đã là những chứng nhân, tức là đã thực hiện những gì mình giảng dạy.
Lời có sức diệt trừ sự dữ và ban sự sống: Dân chúng sững sờ nói với nhau: "Thế nghĩa là gì? Lời giảng dạy thì mới mẻ, Người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!" (Mc 1,27). Thần ô uế bị trục xuất thì người bị quỷ ám được chữa lành. Lời của Ngôn sứ thật là lời phát xuất từ Thiên Chúa. Xưa Thiên Chúa đã phán với Giêrêmia: "Đây Ta đặt lời Ta vào miệng ngươi. Coi, hôm nay Ta đặt ngươi đứng đầu các dân các nước, để nhổ, để lật, để huỷ, để phá, để xây, để trồng" (Gr 1,9-10).
Cả hai hiệu quả là diệt trừ sự xấu, sự dữ và trao ban sự sống, những điều thiện hảo cùng đi sánh đôi. Nếu chỉ tuyên phán những lời hứa tốt đẹp hay ngược lại chỉ nói những lời quở trách phê phán mà thôi thì hầu hết là do thần dữ xúi khiến. "Đức Chúa các đạo binh phán như sau: 'Đừng nghe lời các ngôn sứ (giả hiệu) tuyên sấm, chúng phỉnh phờ các ngươi; điều chúng nói chỉ là thị kiến do tưởng tượng, chứ không phải do miệng Đức Chúa phán ra. Chúng dám nói với những kẻ khinh miệt Ta: 'Đức Chúa phán: anh em sẽ được bình an!' Và với những kẻ lòng chai dạ đá: 'Tai hoạ chẳng bao giờ ập xuống anh em' (Gr 22,16-17). Vì tuyên bố những lời dối trá phỉnh phờ dân nên ngôn sứ giả Khanangia đã phải bị trừng phạt nhãn tiền (x. Gr 28,1-17).
Sứ mạng ngôn sứ của mọi Kitô hữu: Từ khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, mọi Kitô hữu đều đã được thông phần vào ba chức vụ của Chúa Kitô là ngôn sứ, tư tế và vương giả. Đường lối của Thiên Chúa thì trước sau như một. Xưa nhiều lần, nhiều cách Người đã nói với tổ tiên cha ông chúng ta qua các ngôn sứ, đến thời viên mãn Người đã nói với loài người chúng ta cách trọn vẹn qua chính Người Con Một làm người là Chúa Giêsu Kitô (x. Dt 1,1-2). Và mãi cho đến ngày tân thế, Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục nói với loài người qua những con người. Nhân loại này, thế gian này vẫn mãi cần đến sứ ngôn để nhận biết thánh ý Thiên Chúa. Con người, đặc biệt các Kitô hữu được mời gọi làm ngôn sứ của Thiên Chúa để nhân danh Thiên Chúa, nói lời của Người.
Sứ mạng ngôn sứ thật cao cả và cũng thật lắm gian truân, nguy hiểm. Sự hiểm nguy, gian truân không chỉ đến do người đời bách hại mà còn có thể do bởi chính các ngôn sứ, vì lý do nào đó, đã không nói lời của Thiên Chúa mà chỉ nói lời của mình, thậm chí con nói lời do thần dữ xui khiến. Để tránh những tai hoạ này, không gì hơn, Kitô hữu chúng ta, cách riêng những người chuyên lo việc giảng dạy hãy xét xem mình đã thực hiện ra sao điều mình giảng dạy, hãy xét xem những lời mình giảng dạy có sức thuyết phục như thế nào và đồng thời hãy xét xem các lời tuyên dạy của mình có đủ đầy tính vừa xua trừ sự xấu, sự dũ và vừa làm phát sinh tình yêu, phát sinh sự sống như thế nào?
Ngày xưa, Thiên Chúa đã dùng các tổ phụ và các tiên tri để tuyên sấm lời Chúa, nhắc nhở cho TN4-B105
Ngày xưa, Thiên Chúa đã dùng các tổ phụ và các tiên tri để tuyên sấm lời Chúa, nhắc nhở cho dân Do thái biết thi hành những nhiệm vụ của họ. Nhưng thời sau cùng, Thiên Chúa không dùng các ngài nữa mà dùng chính Con của Ngài mà dạy dỗ. Đó là Đức Giêsu Kitô. Ngài là một Tiên tri tuyệt hảo của Thiên Chúa mà Maisen đã loan báo như trong bài đọc 1 hôm nay.
Ngài trực tiếp đến dạy dỗ loài người như một Đấng uy quyền chứ không như các luật sĩ chỉ nhắc lại những lời dạy của người xưa, không thêm không bớt một chữ. Đức Giêsu đến dạy một giáo lý mới mẻ cùng với phép lạ như trừ qủi, làm cho dân chúng hết sức kinh ngạc. Ngài dạy giáo lý riêng của Ngài, có khi loại bỏ, có khi sửa chữa, có khi hoàn chỉnh những lời dạy của người xưa, khi Ngài nói:”Còn Ta, Ta dạy rằng...”.
Chúng ta đã được biết Ngài qua đức tin, đã được học biết giáo lý của Ngài nên chúng ta phải quyết tâm theo Ngài vì chỉ mới Ngài mới có lời ban sự sống đời đời. Chính Ngài là thủ lãnh của đời ta, là thần tượng của sự chọn lựa của chúng ta, nên chúng ta phải quyết tâm tin theo Ngài và phụng sự Ngài cách triệt để trong mỗi hoàn cảnh sống của mỗi người.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Đnl 18,15-20.
Để đi về đất hứa, dân Do thái đã phải trải qua một thời gian dài 40 năm trong sa mạc. Trước khi vượt qua sông Giorđan để vào đất hứa mà Chúa đã hứa với cha ông họ, ông Maisen thấy mình không được vào đất hứa và thấy mình đã gần đất xa trời, ông yên ủi dân chúng, khuyên họ đừng buồn tiếc về việc ông ra đi. Đàng khác, ông nói tiên tri cho họ rằng Thiên Chúa sẽ cho nổi lên một vị Tiên tri tài danh nhất trong lịch sử, không những không kém gì ông mà còn trổi vượt hơn ông để dẫn dắt họ. Đấng Tiên tri tuyệt hảo đó sẽ là Đấng Kitô, Đấng Trung gian toàn hảo vì Ngài vừa là Con Thiên Chúa và vừa là con loài người.
+ Bài đọc 2: 1Cr 7,32-35.
Thánh Phaolô bày tỏ quan niệm riêng của Ngài về vấn đề hôn nhân và độc thân. Ngài giải thích lý do tại sao ngài thích bậc độc thân hơn vì nó cho phép người ta chuyên lo “việc Chúa” trong lúc ngày tận thế đã gần kề và nhân loại không cần sinh sôi nữa. Trong hoàn cảnh như thế, tốt hơn hết là gắn bó “trọn vẹn” với Chúa.
Một lần nữa, chúng ta thấy vị Tông đồ phán đoán mọi sự vào một sự tuyệt đối duy nhất. Và ngài cũng không hề hạ giá hôn nhân: khi nói đến hôn nhân, ngài cũng sẽ qui chiếu nó về tình yêu của Chúa (x. Ep 5,21-33).
+ Bài Tin mừng: Mc 1,21-28.
Trong đoạn này, thánh Marcô cho thấy Đức Giêsu Kitô là một Tiên tri ngoại hạng mà Maisen đã tiên báo. Ngài là một Tiên tri có uy quyền trong lời nói và hành động.
* Uy quyền trong lời nói: Trong khi những luật sĩ kèn cựa bàn cãi không dứt về những đoạn văn của Kinh thánh, thì Đức Giêsu khẳng định: Ngài không lặp lại học thuyết của người khác, mà trình bầy học thuyết của Ngài, ví dụ Ngài nói:”Còn Ta, Ta dạy rằng...”.
* Uy quyền trong hành động: Ngài chỉ cần nói một lời thì qủi ô uế phải xuất khỏi người bị nó nhập, đến nỗi khán thính giả phải thốt lên:”Ngài dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả các thần ô uế”.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Tin theo Đấng có uy quyền.
I. ĐỨC GIÊSU, ĐẤNG RẤT UY QUYỀN.
Ngay sau khi tới Capharnaum, ngày hưu lễ tiếp theo đó, Đức Giêsu không để mất thì giờ, Ngài hoạt động liền. Hồi bấy giờ xứ Palestine có nhiều hội đường. Những thành phố nhỏ cũng có.
1. Cách tổ chức hội đường.
Hội đường khác với Đền thờ. Hội đường thì có nhiều, còn đền thờ thì chỉ có một ở Giêrusalem. Một buổi họp lại ở hội đường chỉ gồm 3 việc: cầu nguyện, đọc Lời Chúa và giảng giải lời ấy. Không có cử nhạc, hát xướng, cũng không có dâng của lễ. Có thể nói: Đền thờ là nơi thờ phượng và dâng của lễ, còn hội đường là nơi dạy dỗ chỉ bảo.
Luật pháp qui định rằng bất cứ nơi nào có 10 gia đình Do thái, thì phải có một hội đường. Do đó, bất kỳ nơi nào một nhóm người Do thái định cư thì có một hội đường. Nếu ai đó có một thông điệp mới muốn truyền đạt thì hội đường đúng là nơi thuận tiện cho người ấy trình bầy. Đức Giêsu cũng biết lợi dụng tập tục này để giới thiệu giáo thuyết của mình.
2. Sinh hoạt trong hội đường.
Việc phụng vụ trong hội đường chia làm hai phần: phần đầu là phần phụng vụ thực sự. Trong phần này, người ta hát các bài chúc tụng Chúa. Phần thứ hai là phần giáo huấn, người ta đọc sách Luật hoặc các tiên tri. Đọc rồi, ông hội trưởng hoặc chính ông mời vị nào có tiếng, cắt nghĩa đoạn văn đó.
Khi mọi người họp lại trong hội đường và buổi họp bắt đầu thì ông trưởng hội đường có nhiệm vụ chỉ định người có trách nhiệm giảng giải, trình bầy kinh điển hay một thông điệp mới. Không có người chuyên nghiệp làm việc này. Chính vì thế, Đức Giêsu có thể lợi dụng dịp thuận tiện này để trình bầy thông điệp mới mẻ của mình.
Khi Đức Giêsu giảng dạy trong hội đường, cả phương pháp lẫn bầu khí giảng dạy của Ngài đều như một sự mạc khải mới mẻ. Ngài không dạy như các luật sĩ là các chuyên viên về luật pháp. Các luật sĩ này là ai? Theo người Do thái, điều thiêng liêng nhất trên đời là Luật pháp và kinh Torak. Trái tim của luật pháp là Mười điều răn, nhưng người Do thái hiểu luật pháp là 5 quyển đầu của Cựu ước mà ta gọi là Ngũ kinh (Pantateuch). Theo người Do thái, luật pháp ấy đến hoàn toàn từ Thiên Chúa. Họ tin rằng luật pháp vốn được Thiên Chúa trực tiếp trao cho Maisen, nó hoàn toàn thánh khiết và có tính cách ràng buộc tuyệt đối.
3. Đức Giêsu giảng dạy tại hội đường.
Ngày hưu lễ hôm đó, Đức Giêsu được mời chú giải đoạn văn vừa đọc, có lẽ cũng là đoạn văn Ngài đã chú giải ở Nazareth, thánh Luca kể lại (Lc 4,16-22). Ngài đã làm kinh ngạc mọi thính giả.
Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền. Thính giả mỗi ngày một đông, gồm đủ thành phần. Nhưng ai nấy đều nhận định rằng: Ngài không dạy như các luật sĩ. Các ông này thường nại đến thế giá những người xưa. Lý tưởng các ông là trao lại nguyên vẹn giáo lý họ đã lãnh nhận, không thêm mà cũng không bớt. Trái lại, về mọi vấn đề, Đức Giêsu có sẵn mọi cái để giải quyết. Ngài cũng chẳng ngần ngại dạy những điều đi ngược với người xưa, hoặc sửa lại cho hoàn hảo. “Đã nói cho người xưa rằng...Phần Ta, Ta bảo các ngươi”(Mt 5,21t).
Nói tóm lại, các luật sĩ là tiếng nói của tập truyền, còn Đức Giêsu là tiếng nói riêng của Ngài. Ngài có cả quyền chuẩn y hoặc khước từ hoặc sửa sai tập truyền nữa. Lẽ dĩ nhiên kẻ cho mình cái quyền này, trong thời gian mà các luật sĩ và biệt phái dành cho mình độc quyền thiêng liêng, thì tất nhiên là con người hành động “như có uy quyền”.
4. Đức Giêsu chữa người bị qủi nhập.
Đức Giêsu tỏ ra có uy quyền trong lãnh vực giáo thuyết, Ngài còn tỏ ra có uy quyền trên lãnh vực hành động và biểu lộ quyền năng ấy bằng phép lạ chữa khỏi người bị thần ô uế ám để chứng minh giáo lý Ngài dạy.
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Marcô thuật lại: ”Trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên rằng: Ông Giêsu Nazareth, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi”? Thần ô uế đây là ma qủi: chữ “ô uế” trong Tân ước gắn liền với chữ “qủi” tới 23 lần. Ma qủi tỏ ra khổ cực và khiếp đảm khi gặp Đức Giêsu và Ngài đến để tiêu diệt quyền lực của ma qủi, giải thoát nhân loại khỏi quyền lực ấy. Chính vì vậy, mà ma qủi kêu lên như thầm xin với Ngài để mặc chúng. Qủi đang tuyên xưng danh Ngài thì Ngài quát mắng nó:”Câm đi, và ra khỏi người này”. Nó liền vật ngã người đó xuống, thét lên một tiếng rồi xuất ra.
Những khán thính giả đã được nghe và chứng kiến về giáo lý và việc trừ qủi của Đức Giêsu đều kinh ngạc vì họ nhận ra một cái gì mới mẻ nơi Đức Giêsu. Cái mới mẻ đó dẫn được họ tin nhận Chúa là Đấng Cứu thế. Chính vì cái mới mẻ đó mà danh tiếng của Đức Giêsu được lan tràn khắp vùng lân cận xứ Galilêa.
Đức Giêsu đã thực sự trừ qủi trước mặt mọi khán thính giả. Thiết tưởng cũng cần phải phân biệt ma và qủi. Đây là hai loại khác nhau chứ không phải là một mà người Việt nam chúng ta thường gọi chung với nhau là “ma quỉ”.
Ma, theo lối hiểu thông thường, là hồn người chết hiện về để ám ảnh, đe doạ hoặc liên hệ gì đó với người sống. Còn qủi là loại thiên thần hư hỏng, đã bị Thiên Chúa đầy xuống hoả ngục.
Như vậy, ma có không? Nhiều người tin mà cũng nhiều người không tin. Nếu hiểu là một loài vô hình như ma xó, ma trơi hay ma này ma nọ... thì không có. Còn nếu hiểu là hồn người chết hiện về thì có, nhưng cũng chỉ xẩy ra trong một số trường hợp rất họa hiếm, do sự cho phép đặc biệt của Thiên Chúa, để đương sự nhắn nhủ một điều gì đó với người sống, như thỉnh thoảng nghe nói linh hồn này hay linh hồn kia trở về dương gian trong một vài tích truyện. Còn qủi thì sao? Phải công nhận là có, vì Kinh thánh đã nói đến nguồn gốc của chúng. Chúng được nhắc đến nhiều lần trong Tin Mừng. Chính Đức Giêsu cũng đã bị chúng cám dỗ (Phạm văn Phượng, Chia sẻ TM Chúa nhật B, tr 52).
II. THEO ĐỨC GIÊSU, ĐẤNG CÓ UY QUYỀN.
1. Hai vương quốc, hai thủ lãnh.
Trong hội đường hôm nay, khi trông thấy Đức Giêsu đầy uy quyền , ma qủi đã phải thốt lên:”Ông Giêsu Nazareth, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng thánh của Thiên Chúa” ! Nhưng Đức Giêsu quát mắng nó:”Câm đi, hãy xuất khỏi người này”. Điều đó chứng tỏ Đức Giêsu có quyền trên ma qủi, và vương quốc Đức Giêsu thiết lập trên trần gian này cũng trổi vượt trên vương quốc của ma qủi.
Trong cuốn “Linh thao” của thánh Ignace de Loyola, thánh nhân có hướng dẫn suy niệm về hai cờ hiệu (étandard): cờ hiệu của Đức Kitô, vị chỉ huy tối cao và Chúa chúng ta ; cờ hiệu của Lucifer kẻ tử thù của bản tính loài người chúng ta. Đức Kitô kêu gọi và muốn cho mọi người ở dưới bóng cờ Ngài ; và ngược lại, Lucifer (cũng gọi và muốn cho mọi người) ở dưới cờ của nó. Như vậy là có cuộc chiến khốc liệt giữa vương quốc của Đức Kitô và của ma qủi.
Việc Đức Giêsu trừ qủi nói lên rằng vương quốc của Satan từng kìm kẹp nhân loại dưới vòng nô lệ từ khi Adong phạm tội, giờ đây đang nhường chỗ cho vương quốc của Thiên Chúa.
Điều này gợi lên cho chúng ta một vấn nạn: Nếu Đức Giêsu đã khai mạc vương quốc Thiên Chúa 2000 năm trước, thế thì tại sao đến ngày hôm nay điều ác vẫn còn lan rộng? Hoặc nói cách khác: Nếu Đức Giêsu đã khai mạc vương quốc Thiên Chúa khi Ngài còn sinh thời, thì tại sao vương quốc Satan vẫn còn tác oai tác quái trong thời đại chúng ta ngày nay?
Dĩ nhiên câu trả lời sẽ như sau: Vương quốc Thiên Chúa không đến tức khắc. Đó là một bước tiến từ từ. Nó không phải là biến cố xẩy đến chỉ trong một lúc, mà là một chuyển động liên tục suốt dòng lịch sử. Đức Giêsu đã khai mạc vương quốc Thiên Chúa, nhưng Ngài giao phó cho chúng ta công việc hoàn tất . Đó là lý do tại sao trong lời kinh Lạy Cha chúng ta vẫn cầu khẩn:”Xin cho Nước Cha trị đến”. Chúng ta có thể sánh ví vương quốc Thiên Chúa như một cây non. Đức Giêsu trồng cây ấy, tức vương quốc, vào trong đất, nhưng Ngài giao cho chúng ta nhiệm vụ vun xới, bón phân, tưới nước cho nó. Nhiệm vụ chúng ta là chăm sóc làm sao cho vương quốc ấy sinh hoa kết trái theo ý định Thiên Chúa (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật năm B, tr 191).
2. Theo Đức Giêsu là thủ lãnh.
Giới trẻ ngày nay thích tìm những thần tượng để suy tôn, để bắt chước. Thần tượng của họ chỉ là những diễn viên, minh tinh màn bạc, cầu thủ bóng đá, ca sĩ nhạc trẻ hoặc một nhà chính trị lừng danh. Nhưng những thần tượng đó chỉ nhất thời và cũng không đủ tiêu chuẩn để hướng dẫn đời họ, chỉ có một thần tượng tuyệt hảo là Đức Giêsu, có đủ mọi tiêu chuẩn để hướng dẫn cuộc sống của chúng ta một cách bảo đảm.
- Đức Giêsu là thủ lãnh trên đường đời của ta. Một thủ lãnh lôi cuốn bằng đời sống gương mẫu. Tin mừng hôm nay kể ma qủi khen Đức Giêsu qua miệng của đứa nó ám vào: Tôi biết ông là ai, là Đấng thánh của Thiên Chúa. Khen là Đấng thánh của Thiên Chúa thì chẳng còn cách nói nào khác hơn để ca tụng. Đời sống Chúa còn hoàn toàn hơn lời Ngài dạy. Thánh kinh nói:”Chúa bắt đầu làm rồi mới dạy”(Tđcv 1,1).
- Một thủ lãnh dạy một chủ thuyết đưa tới đời sống ấy. Tin Mừng hôm nay nói:”Người ta kinh ngạc về giáo lý của Ngài, vì Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền, chứ không như luật sĩ”(Mc 1,22).
- Một thủ lãnh cho sức mạnh để thực hiện đầy đủ đời sống ấy. Tin Mừng kể Chúa làm phép đuổi qủi. Việc ấy chứng tỏ Ngài có quyền năng của Thiên Chúa.
Truyện: Theo anh là thủ lãnh.
Một nhà thám hiểm xứ Soudan đã tháo xiềng xích cho một tên nô lệ 12 tuổi. Rồi săn sóc dạy dỗ như con, thằng nhỏ đem lòng mến phục vị đại ân nhân.
Giờ thực hiện cuộc mạo hiểm đầy gian nguy đã đến. Nhà thám hiểm không muốn cưỡng bách em bé theo mình. Ông nói:
- Này em, anh sắp lên đường đến miền xa lạ. Cuộc hành trình rất mực cam go: Đường đi xa xôi, hành lý nặng nề, nước uống đồ ăn thiếu thốn, những mũi tên tẩm thuốc độc vù vù bên tai, rừng nhiều thú dữ... Em ở lại hay theo anh? Nếu em theo anh, chúng ta cùng nhau cực nhọc, khi thiếu nước thiếu ăn, anh cũng chịu khát, nhịn đói như em, việc em vẫn nhẹ hơn việc anh. Bây giờ tùy em định đoạt.
Em bé nhìn sâu vào mắt nhà thám hiểm, lúc này đã thành người anh, người bạn và nói:
- Theo anh là thủ lãnh của em.
Thế là em nhỏ theo anh lên đường. Những quãng đường dài cực nhọc, những ngày nắng không nước, em bé lần lượt nếm cả, chân nứt nẻ máu me, nhưng không coi sao, vì lòng vẫn hăng hái khi thấy người thủ lãnh sốt rét bị thương mà vẫn đi hàng đầu. Sức chịu đựng của con người có giới hạn, mà nguy hiểm vất vả lại cứ tăng, nhiều bạn đồng hành bỏ cuộc. Nhà thám hiểm vừa thương hại, vừa để thử lòng, hỏi em bé:
- Em có bỏ không?
Lời thưa đầy hăng hái rằng:
- Em đã chẳng hứa với anh sao?
Sáu tháng trời qua đi, cuộc thám hiểm thành công rực rỡ. Đàng sau người thủ lãnh tươi như hoa nở, em nhỏ đứng hiên ngang đón nhận những lời hoan hô vang dội.
3. Phục vụ cho thủ lãnh của mình
Sau khi đã tìm ra Đức Giêsu là thủ lãnh của đời ta, chắc chắn chúng ta phải tin theo Ngài, làm môn đệ của Ngài cũng như giới thiệu Ngài cho những người khác. Chúng ta theo gương các Tông đồ mà phục vụ Chúa Giêsu và phục vụ cho Nước Ngài lan rộng khắp nơi. Thánh Ignace đã dạy chúng ta cầu nguyện để có tinh thần đó:
“Lạy Chúa Giêsu, xin dạy cho con biết quảng đại, biết phụng sự Chúa cho xứng đáng, biết cho mà không cần tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, biết làm việc mà không cần an nghỉ, biết tận lực mà không chờ phần thưởng nào khác, ngoài sự nhận biết là con đã làm theo thánh ý Chúa thôi”. Amen.
Thánh nữ Têrêsa Hài đồng yêu Chúa rất nồng nàn, thánh nữ chỉ biết yêu trong việc phụng sự Chúa. Không gì làm cho thánh nữ buồn sầu, tất cả những gian lao thử thách chỉ làm cho ngài thêm yêu Chúa. Những ý tưởng ấy được thánh nữ gói ghém trong câu thơ sau đây:
Vâng, con sẽ hát, con còn hát mãi, Dù trăm gai con vẫn hái hoa hồng. Gai càng nhọn, tiếng con hát càng trong Gai càng dài, lời ca càng thánh thót.
Truyện: Phụng sự cho ai?
Trong kho tàng truyền thuyết của Giáo hội, ta thấy cũng có một câu truyện dụ ngôn về một chàng khổng lồ muốn đi tìm một người mạnh mẽ nhất để phục vụ.
Truyện kể rằng: Có một người khổng lồ sống tại vùng đất Canaan chán cuộc sống đơn điệu buồn tẻ, chàng muốn phiêu lưu và quyết tìm cho được một người nào mạnh nhất để phục vụ.
Thoạt đầu chàng nghĩ chẳng ai mạnh bằng tướng cướp, nên xin đi theo hộ vệ cho tướng cướp. Nhưng mỗi lẫn sắp đi cướp, viên tướng cướp này phải nhờ đến thầy phù thủy làm phép xuất quân, thế là chàng rời bỏ tướng cướp mà đi theo thầy phù thủy.
Một hôm, thầy phù thủy đang đi bỗng gặp một cây Thánh giá thì sợ hãi dừng lại không dám đi tiếp. Thế là chàng khổng lồ bỏ rơi thầy phù thủy đến đứng bên cạnh Thánh giá, để chờ chủ nhân đó đến mà xin đi theo. Chàng cứ đứng đó chờ mãi mà chẳng thấy chủ nhân cây Thánh giá.
Tình cờ anh nghe có tiếng gọi thật nhẹ nhàng. Anh quay lại bắt gặp một cậu bé với đôi má phúng phính và mái tóc óng ánh. Cậu bé nhờ anh chàng này đưa cậu qua khúc sống gần đó. Nhận lời, nhắc cậu bé lên vai, người khổng lồ lội xuống dòng sông đang chảy siết. Nhưng kỳ lạ nước mỗi lúc một dâng cao và chảy mạnh. Cậu bé mỗi lúc một đè nặng trên vai, chống chọi với sông nước để cuối cùng đem cậu bé lên bờ bên kia. Người khổng lồ mới thốt lên:
- Này cậu bé, cậu nặng đến độ tôi tưởng chừng mang cả vũ trụ trên vai.
Cậu bé mỉm cười đáp:
- Ngươi mang Đấng còn hơn cả vũ trụ nữa. Bởi vì chính tôi đã tạo nên trời và đất.
Cậu bé còn cho biết thêm mình chính là chủ nhân của cây Thánh giá.
Thế là chàng khổng lồ kia xin phò tá vị Chúa Tể trời đất. Chúa dạy rằng: muốn phụng sự Ta, ngươi cứ đứng ở khúc sông này, mỗi lần có ai muốn sang sông thì ngươi hãy cõng người ấy sang.
Chàng khổng lồ tuân theo. Từ đó trở đi, người ta gọi tên chàng là Christophe, nghĩa là người mang Chúa Kitô trên vai.
Chúng ta đã chọn Đức Kitô là thủ lãnh của đời ta, chúng ta hãy tin theo và phục vụ Ngài. Nếu chúng ta muốn phụng sự Đức Kitô, chúng ta hãy theo gương thánh Christophe, bởi vì trên đời này không còn ai xứng đáng hơn ngoài Đức Kitô để cho ta đi theo phụng sự.
Bài đọc I trích trong sách Đệ nhị luật. Đnl là cuốn cuối trong bộ Ngũ Thư. Năm cuốn sách đầu TN4-B106
Bài đọc I trích trong sách Đệ nhị luật. Đnl là cuốn cuối trong bộ Ngũ Thư. Năm cuốn sách đầu của bộ Kinh Thánh gọi là Ngũ Thư.
Do Thái coi Ngũ Thư là Torah (Luật) vì trong đó gồm tất cả mọi lề luật và định chế chi phối toàn bộ sinh hoạt tôn giáo, phụng tự, đạo đức, xã hội của dân tộc Israel. Nét nổi bật là Luật do chính Chúa truyền qua trung gian Môisen và mọi điều khoản của Luật xuất phát từ những nhận thức tôn giáo của dân. Có thể nói đây là sưu tập và tổng hợp những luật dân sự, hình sự, tôn giáo, tế tự và xã hội được trình bày như hiến chương của Giao ước. Do đó, việc công bố Luật gắn liền với trình thuật các biến cố trong hoang địa, nơi ký kết Giao ước. Luật là cho con người, vì thế cần phải được thích nghi với những điều kiện thay đổi của môi trường và thời đại. Do đó, ta gặp thấy trong bộ luật những yếu tố cổ xưa đan kết với những điều khoản mới phát sinh về sau. Đàng khác, ta còn gặp thấy trong bộ luật những điểm tương tự với luật Lưỡng Hà. Điều ấy là tất nhiên, vì Do Thái sống chung đụng với chư dân; lại nữa một số pháp quy, tục lệ của miền ấy dần biến thành sản nghiệp chung của cả Cận Đông cổ thời. Torah gồm những bộ luật sau đây:
a. Thập điều: Mười Lời được ghi khắc trên bảng đá, làm thành Lề luật căn bản về luân lý và tôn giáo, được coi như điều khoản của Giao ước Sinai. Thập điều được trình bày hai lần (Xh 20,2-17 và Đnl 5,6-18). Chắc chắn hai bản văn đều xuất phát từ một nguồn nguyên thủy mà truyền thống gán cho Môisen.
b. Bộ luật giao ước (truyền thống E): Xh 20,24–23,9. Bộ luật này nằm xen kẻ giữa Thập điều và phần kết của trình thuật giao ước tại Sinai. Luật giao ước đáp ứng hoàn cảnh một xã hội sau thời Môisen, chuyên về canh nông trồng trọt; cho nên quan tâm đến súc vật cày bừa, công việc đồng áng, nghề trồng nho, nhà cửa (giả thiết dân đã định cư). Bộ luật thấm nhuần tinh thần tin vào Giavê, phản ứng lại nền văn minh Canaan.
c. Bộ Luật Đệ Nhị Luật (Đnl 12,1–26,15) làm thành phần chính yếu của sách Đệ Nhị Luật. Bộ luật này lấy lại một phần bộ luật giao ước, nhưng thích nghi với cuộc sống kinh tế và xã hội đã đổi thay. Nét nổi bật trong Luật Đnl là quan tâm bảo vệ người yếu, tuyên xưng uy quyền Thiên Chúa trên đất và trên dân của Người, cổ vũ việc tuân giữ các điều khoản của lề luật.
d. Luật Lêvi. Sách Lêvi được hình thành dứt khoát sau lưu đày, gồm những luật về phụng tự, như của dâng tiến và việc tế lễ (1-7), cấp bậc Tư tế (8), các đại lễ (23), nơi thánh và các vật dụng thánh (25); luật về thức ăn (11), sự trong sạch (13-15), lễ xá tội (Yôm-Kippour) (16); luật về sự Thánh thiện (17-16).
Ngũ Thư vừa là một lịch sử và là luật pháp. Nếu các Thánh Vịnh ca tụng Thiên Chúa và kêu xin Người cứu giúp; các sách Khôn Ngoan nhằm giáo dục cá nhân về tôn giáo và luân lý; các Ngôn Sứ mạnh mẽ tuyên rao lòng thành tín của Chúa và hăng hái vạch trần tội lỗi của Israel … thì Ngũ Thư giới thiệu cho ta một dân tộc, cách thế Thiên Chúa thiết lập dân ấy, bảo vệ và dẫn đưa dân về một định mệnh kỳ diệu. Ý nghĩa của bộ sách này hệ tại mối liên lạc Thiên Chúa nối kết với dân của Người và qua đó với toàn thể nhân loại. Lịch sử mối tương quan ấy được tóm kết trong bốn điểm chính là Lời hứa - Tuyển chọn làm dân riêng - Giao ước - Lề luật. Đây là bốn chủ đề quan trọng được triển khai trong Ngũ Thư và suốt dọc dài Cựu ước. Chính Đức Kitô mới ban cho lịch sử cứu độ ý nghĩa trọn vẹn của nó, như Phaolô trình bày trong Gl 3,15-29. Ngài đến thực hiện các lời hứa của Thiên Chúa, ký kết Giao ước mới với đoàn dân mới là miêu duệ của Abraham trong đức tin. Ngài ban lề luật mới là Tin Mừng và Thần Khí để dẫn đưa mọi kẻ tin về với Thiên Chúa.
Sách Đệ Nhị Luật là một lược tóm lịch sử tôn giáo của Israel khởi từ Sinai, trong đó điều then chốt là phải trung thành phụng sự Giavê, Thiên Chúa duy nhất và chân thật. Nội dung của sách sưu tập lại luật Môisen, đồng thời kể lại một số biến cố xảy ra tại Môáp. Trình thuật mang hình thức ba bài diễn từ của Môisen phát biểu vào cuối đời, với dụng ý quả quyết: tư tưởng chủ yếu trong sách là của Môisen. Đệ Nhị Luật được coi như sách kỷ yếu: nhắc lại để nhớ, nhớ để rút bài học. Bài học chủ yếu của tác giả là: nhắc cho Israel quá khứ lịch sử của nó là một chuỗi hồng ân liên tục Chúa ban cho họ cách nhưng không. Nay ở ranh giới Hứa Địa, họ đừng quên mọi thành công xưa đều nhờ Giavê. Từ nhận thức đó, họ chuẩn bị vào Đất Hứa trước hết bằng lòng tin tuyệt đối vào Giavê.
Dân Do Thái sắp đi vào Đất Hứa, miền đất này nơi nào cũng có tà giáo. Các tôn giáo sơ khai của các dân tộc xung quanh luôn hấp dẫn. Đặc biệt là các thầy bói, bà đồng. Dân chúng mê tín luôn tìm đến với họ để được giao cảm với thần minh, để biết ý trời và hậu vận. Người có óc khoa học ngày nay coi đó là bịp bợm, người có đức tin chân chính nghĩ đó là những việc do ma quỉ bày đặt ra. Bởi đó, tác giả sách Đnl cảnh giác dân chúng, không được tin vào bói quẻ phù chú, lên đồng lên bóng, chiêm tinh chiêu hồn, phải hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa. Bù lại, Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện giữa dân Người một tiên tri như Môisen. Bài sách Đnl còn nói về Đấng Thiên Sai Cứu Thế sẽ đến, Người sẽ là vị tiên tri trổi vượt trên hết mọi tiên tri. Đó chính là Chúa Giêsu sẽ khiến người ta kinh ngạc về cách giảng dạy và đầy quyền năng như câu chuyện kể của Phúc âm Chúa nhật hôm nay.
2. Chúa Giêsu, Đấng ban lề luật mới
Chúa Giêsu vào hội đường Do Thái ngày Sabat. Vì là thành phần của dân giao ước nên mọi người trong hội đường đều có quyền đọc và bình giảng một đoạn sách Thánh nào đó. Chúa Giêsu đọc sách và giảng dạy dân chúng. Thánh Maccô không cho biết Chúa đọc đoạn sách nào, cũng không nhắc đến nội dung giảng dạy hôm ấy. Maccô chỉ kể “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư”. Thiên hạ ngạc nhiên trước một kinh sư trẻ tuổi, phong thái giảng dạy như một Đấng có uy quyền khác với các kinh sư luật sĩ. Thiên hạ còn kinh ngạc về giáo lý của Người. Giáo lý vừa đi vào nội tâm, vừa có một nội dung ưu việt hơn những bài học luân lý Cựu ước. Họ sửng sốt kinh ngạc là phải, bởi lẽ Chúa Giêsu không giải thích truyền thống của cha ông nhưng là giáo huấn của Chúa Cha. Người không công bố lề luật nhưng công bố Nước Thiên Chúa đã đến gần. Người xuất hiện như Đấng mang lấy thẩm quyền của chính Thiên Chúa tối cao. Người ban lề luật mới là Tin Mừng và Thần Khí.
Chúa Giêsu không chỉ dừng lại ở việc giảng dạy, Người còn thiết lập Nước Thiên Chúa bằng hành động thực hiện nội dung lời rao giảng. Trong hội đường hôm ấy có một người bị thần ô uế ám. Thấy Chúa Giêsu, Satan run sợ. Đối diện với Đấng quyền năng, Satan sợ hải: “Ông đến để tiêu diệt chúng tôi chăng?”. Nó tuyên xưng “Tôi biết ông là ai. Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Chúa bắt nó phải im ngay và Người dùng quyền năng trục xuất nó ra khỏi nạn nhân. Satan bị án phạt đời đời vì tội kiêu căng, tội gieo nọc độc cho Nguyên Tổ trong vườn địa đàng. Thiên Chúa không cho Satan có quyền hành gì trên con người, trừ khi con người tự nguyện trở thành nô lệ.
Chúa Giêsu là Đấng đầy uy quyền trong lời nói và nhiều hiệu năng trong hành động. Người đã giải thoát nhân loại khỏi ách thống trị của sự dữ. Con người được giải thoát khỏi ách nô lệ của bản năng và của sự ác để sống trong tự do của con cái Thiên Chúa. Đấng Thánh của Thiên Chúa, Đấng trong sạch vẹn tuyền đã đẩy lui và tiêu diệt sức mạnh Satan.
Ma quỉ là một quyền lực cụ thể đang hoành hành trên thế giới. Người ta có thể gọi tên quyền lực này là Belzebuth, Lucifer, Belial, là con rắn xưa, là tên dối trá, tên cám dỗ… Tất cả đều chỉ thực tại duy nhất muốn phá vỡ kế hoạch Thiên Chúa và đưa con người vào nô lệ.
Nhìn vào thế giới hôm nay, chúng ta thấy biết bao hình thái nô lệ, biết bao xiềng xích của ác thần đang trói buộc con người. Điều kinh khủng là người ta không nhận ra mình đang bị nô lệ. Nô lệ cho quyền lực như Hitler, Pônpôt... Nô lệ cho tình dục, nô lệ cho ma túy, nô lệ cho cờ bạc rượu chè. Nô lệ cho mọi thứ chủ nghĩa cực đoan, mọi thứ cuồng tín tôn giáo. Nô lệ là thứ tự do giả hiệu mà ma quỷ luôn quảng cáo và muốn mời mọc con người. Ma quỷ thường được vẽ như con vật xấu xí đáng sợ, nếu thế thì con người dễ nhận ra nó và nó khó cám dỗ được. Nhưng thực tế, ma quỉ mang dáng dấp xinh đẹp hấp dẫn. Nó tấn công bằng những thủ đoạn tinh tế ngọt ngào. Nó nắm rõ yếu điểm từng cá nhân từng tập thể để tấn công và mong hạ gục. Người ta tin vào những ngôi sao số mệnh, cầu cơ, bói toán, lá số tử vi. Tin vào những cái vô tri dẫn đến mê tín dị đoan sẽ làm nô lệ cho ma quỷ. Ngày nay nhiều người không còn tin vào sự hiện hữu của ma quỉ, đó là thành công lớn của ma quỉ.
Sứ mạng của Chúa Giêsu là giải thoát con người khỏi mọi hình thức vong thân và tha hóa. Cuộc đời Kitô hữu là một cuộc chiến chống lại cám dỗ và loại trừ sự dữ. Sống theo Chúa Giêsu, con người sẽ không bao giờ nô lệ cho bản năng và ma quỉ.
Mỗi ngày, chúng ta vẫn thành tâm nguyện xin: Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng xin cứu chúng con khỏi sự dữ. Amen.
Bài đọc Tin Mừng trong hai Chúa nhật liên tiếp kể lại hoạt động của Đức Giêsu tại Ca-phác-na-um, và TN4-B107
Bài đọc Tin Mừng trong hai Chúa nhật liên tiếp kể lại hoạt động của Đức Giêsu tại Ca-phác-na-um, và cũng là bản tóm tắt sứ vụ của Đức Giêsu tại miền Ga-li-lê.
Cùng với các môn đệ đầu tiên, Đức Giêsu đã trải qua một ngày sa-bát tại Ca-phác-na-um: tại đây, Người bày tỏ uy quyền siêu việt của Người về giáo huấn cũng như việc chữa lành những người bị quỷ ám và các bệnh nhân. Ngay từ những ngày đầu của sứ vụ công khai, danh tiếng của Đức Giêsu đã vang dội ra khắp cả miền Ga-li-lê. Sau biến cố Phục Sinh, miền Ga-li-lê sẽ trở thành điểm xuất phát cho việc loan báo Tin Mừng đi khắp thế giới.
Hội đường
Lúc này Đức Giêsu vào hội đường và giảng dạy. Có ba từ ngữ xác định địa điểm và công việc: Ngày sa-bát, hội đường, giảng dạy. Tất cả đều cho thấy một bối cảnh tôn giáo, theo đúng những thói quen và quy định đã có từ xa xưa. Đây là một khung cảnh giới hạn, quen thuộc và Đức Giêsu đã tham dự vào đó, không phải để phá huỷ nhưng để công bố cho mọi người một lời khác.
Sự đổ vỡ, như đã thấy trong những câu trước (xem Chúa nhật III thường niên), lúc này không chỉ xảy ra ở bình diện bên ngoài, nhưng ở cuộc sống bên trong của con người.
Thẩm quyền
Sự rạn nứt đã diễn ra ngay trong giáo huấn của Đức Giêsu: Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền chứ không như các kinh sư! Đang khi các kinh sư quan tâm trước hết đến việc giải thích từng chữ của bản văn, dựa trên những lời giải thích họ đã học hỏi từ các thầy dạy của họ, thì Đức Giêsu tự diễn tả như một người biết rõ do đâu mình nói, và Người không chỉ bằng lòng với việc lặp lại điều người ta đã chỉ cho Người. Không dựa vào ai khác ngoài chính mình, Người tỏ ra là người tự do đối với Lề Luật.
Người có được thẩm quyền không phải do nhiệm vụ hay các tước hiệu: Người không hề có một bằng cấp nào. Ngược lại, các kinh sư không có thẩm quyền nào khác ngoài y phục: họ không có mặt trong những lời giảng dạy, họ chỉ đọc lại.
Còn Đức Giêsu, Người dấn thân trọn vẹn vào điều Người nói và nhận trách nhiệm về giáo huấn của mình.
Người đã giảng dạy với thẩm quyền là như thế. Người Kitô hữu mở miệng để lặp lại hay là làm chứng?
Hiểu biết của tên quỷ
Tên quỷ biết Đức Giêsu là ai, nhưng nó muốn đóng khung Đức Giêsu vào tước hiệu nó gán cho Người. Hiểu biết của nó có tính cách sở hữu: không hề có lối mở cho một cuộc gặp gỡ.
Nhận ra Đức Giêsu, đó không phải là để chiếm hữu Người. Trái lại, điều này đòi buộc một thái độ từ bỏ, hay nói khác đi là thái độ sẵn sàng đón nhận, tâm tình sám hối. Lời của Đức Giêsu giải thoát người nghe khỏi thái độ chiếm hữu do một hiểu biết đóng kín nơi chính mình.
Quyền mặc khải và giải phóng
Một người đang giảng dạy trong hội đường, đám đông dân chúng thinh lặng lắng nghe. Bỗng nhiên, một câu hỏi bật lên và cả đám đông đều nhao nhao: "Ông là ai? Uy quyền của ông trên tâm hổn chúng tôi có phải là sắp tiêu diệt chúng tôi không? Ông còn muốn lôi kéo chúng tôi đến bao giờ nữa? Ông muốn nói gì về những điều nghiêm trọng và nguy hiểm như thế? Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng tôi nghe lời ông?"
Con người không giống như những người khác ấy giảng dạy điều gì mới để rổi được nhận là Đấng có thẩm quyền.
Thật ra, nội dung của giáo huấn không được nói rõ. Có thể nói rằng, nội dung chính vẫn là Lề Luật và lời rao giảng của các ngôn sứ, tức là mặc khải của Thiên Chúa, thế nhưng được hiểu theo một chiều kích mới, được giải thích theo những đường hướng khác hẳn với cách nghĩ của thói quen xưa nay. Cho nên giáo huấn của Đức Giêsu có đặc tính mới mẻ không phải vì nội dung, nhưng vì phẩm chất.
Hơn nữa, Đức Giêsu giảng dạy giáo huấn với uy quyền "Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng... Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết..." (x. Mt 5,21). Người tự xưng mình ở trên Lề Luật, có quyền giải thích Lề Luật: "Con Người làm chủ luôn cả ngày sa-bát" (Mc 2,28). Người tỏ ra mạnh hơn Lề Luật! Lề Luật chỉ có thể xác nhận và loại trừ, còn Đức Giêsu tẩy sạch và cho gia nhập vào cộng đoàn. Quyền bính Người thi thố là quyền năng giải phóng con người khỏi mọi hình thức nô lệ, kể cả tội lôỵi (Mc 2,10). Thành ra chính là một quyền năng thần linh biểu lộ trong giáo huấn của Đức Giêsu.
Cách Đức Giêsu giảng dạy còn đặt ra vấn đề thân thế của Người nữa. Dân làng Na-da-rét đã nói lên điều này: họ kinh ngạc về nguổn gốc của Đức Giêsu. Họ xầm xì với nhau: "Bởi đâu ông ta được như thế?" Đức Giêsu không phải là một giáo sĩ; đúng hơn, Người có phong thái của một ngôn sứ tiếp xúc trực tiếp với Thiên Chúa, hoàn toàn thông hiệp với Thiên Chúa. Người chính là Đấng Thánh của Thiên Chúa, như tên quỷ đã gọi, và nhận được từ Thiên Chúa nguổn lực tạo nên uy quyền: quyền mặc khải mầu nhiệm Thiên Chúa và giải phóng nhân loại (x. N.Guillemette, Chú giải Phúc Âm Chúa nhật Năm B).
Giáo huấn của Đức Giêsu còn được coi là mới mẻ vì tính hiệu quả đối với tà thần: Người nói một lời, quỷ phải tuân hành.
Như thế, một uy quyền, không chỉ là một giọng nói có uy, nhưng là điều đánh động tâm can, thu hút, thuyết phục, làm hoán cải. Đó là lời sự thật có khả năng chữa lành đổng thời xua đuỗi ác thần.
Nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng có thẩm quyền cũng đổng nghĩa với việc công nhận rằng điều Người loan báo có sức làm cho con người được lớn lên, không phải do việc tuân hành cách cứng ngắc theo một giáo huấn, nhưng là trong Thần Khí, Đấng giải thoát con người khỏi mọi tà thần. Chính vì muốn giải thoát con người khỏi những quan niệm cũ kỹ, khỏi thứ an toàn dễ dãi mà Đức Giêsu đã đến và nói với uy quyền.
Uy quyền là sứ mạng
Ôi Đức Giêsu, Các môn đệ của Ngài đã có lần phải bối rối: "Thầy còn để lòng trí chúng con phải thắc mắc đến bao giờ? Nếu Thầy là Đấng Kitô, thì xin nói rõ cho chúng con biết" (x. Ga 10,24). Để trả lời, Ngài lại đặt một câu hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Người ta có cảm tưởng rằng Ngài được tác động do một ơn gọi bí mật -có thể cũng đáng sợ-. Ngài đặt câu hỏi với các bạn hữu như thể Ngài chờ đợi nơi họ một sự xác nhận: "Theo dư luận quần chúng, thì Thầy là ai?" Và ông Phê-rô đã trả lời: "Thầy là Đấng Kitô" (Mc 8,27-29).
Ngài vẫn ý thức mình là con bác thợ mộc, nhưng đổng thời cũng là một người khác, có năng lực lạ lùng.
Dường như Ngài vẫn luôn bị thúc đẩy bởi một sức mạnh thầm kín. Năng lực này, chính Ngài đã đảm nhận cách can đảm: "Ai tiếp đón Thầy, là đón tiếp Đấng đã sai Thầy" (Mt 10,40). Chính nhờ năng lực này, Ngài đã chữa lành các bệnh nhân và làm cho người chết được chôỵi dậy. Chính năng lực này làm cho lời nói của Ngài có được uy quyền và lòng can đảm làm cho các thính giả đang nghe Ngài phải ngạc nhiên, có khi bất mãn nữa. Ngài đã chẳng qua một trường lớp nào, nhưng Ngài đã giải thích Sách Thánh trong các hội đường và dân chúng đã gọi Ngài là Thầy. Ngài đã giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, vượt hẳn các kinh sư, và họ đã chất vấn Ngài: "Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? hay ai đã cho ông quyền làm các điều ấy?" (Mc 11,28).
Nhưng Ngài đã tránh không trả lời, bởi vì uy quyền của Ngài không có gì là chính thức, uy quyền ấy là một sứ mạng riêng tư luôn thôi thúc, ám ảnh Ngài. Phần Ngài, Ngài cảm nhận được tầm quan trọng của sứ mạng ấy. Ngài vốn là người hiền lành, hiền lành trong lòng, nhưng khi để nói đến sứ mạng ấy, cung giọng của Ngài trở thành long trọng: "Ở đây còn có người hơn cả Sa-lô-môn... Ở đây còn có người hơn cả Giô-na..." (theo Onimus)
Thiên Chúa đầy lòng yêu thương đối với hết mọi loài Chúa đã dựng nên: “Khi Chúa rộng mở TN4-B108
Thiên Chúa đầy lòng yêu thương đối với hết mọi loài Chúa đã dựng nên: “Khi Chúa rộng mở tay ban là muôn sinh vật muôn vàn thoả thuê.” (Tv 145,16). Xuyên suốt hành trình rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu, đi đến đâu Chúa cũng giảng dạy và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân. Đó là bằng chứng nói lên tình yêu thương của Thiên Chúa đối với con người.
Hôm nay, Tin Mừng Thánh Máccô đã thuật lại biến cố Chúa Giêsu đến thành Ca-phác-na-um, tại đây, Người đã khiến cho dân chúng phải ngạc nhiên về lời giảng dạy và hành động trừ quỉ của mình. Họ ngạc nhiên vì thấy Chúa chỉ là người dân bình thương, không có địa vị, không phải là tư tế, luật sĩ, kinh sư… vậy mà Người giảng dạy “như một Đấng có uy quyền”. Có lẽ dân chúng ngạc nhiên bởi từ trước tới nay người ta vẫn quen nghe những kinh sư, biệt phái đứng trên toà cao để giảng dạy. Họ bảo người khác làm, nhưng chính mình lại không buồn làm. Còn Đức Giêsu, lời giảng của Người đi đôi với hành động. Sở dĩ dân chúng chăm chú lắng nghe lời rao giảng của Người là vì họ đã được chứng kiến tận mắt các phép lạ Chúa đã làm.
Thật vậy, Chúa Kitô là Thiên Chúa, Ngài xuống trần gian không phải để biểu dương quyền lực, mà để đem bình an và ơn cứu độ cho con người. Sứ vụ này đã được tiên tri Isaia loan báo thuở xưa rằng: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” Suốt hành trình rao giảng của Người ở trần gian là để hoàn trọn sứ vụ đó.
Thiên Chúa đã thi ân giáng phúc bằng nhiều cách thức khác nhau, Người làm những việc lạ lùng sức con người không thể tưởng tượng nổi: người mù được thấy, kẻ điếc được nghe, người què đi được… Không những thế, Chúa con ban Nước Trời cho người tội lỗi, nghèo hèn, bệnh tật… Chúa muốn tất cả mọi người đều có một cuộc sống yên vui hạnh phúc và bình an: “Thầy đến để anh em được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Mặc dù Chúa đã về trời, nhưng Ngài vẫn đồng hành và ban phát những ơn lành cho chúng ta. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta có thể cảm nghiệm được điều đó. Chúa ban cho tất cả chúng ta có sức khoẻ, công việc làm ăn… Chúa cũng gìn giữ và ban cho chúng ta cuộc sống bình an để chúng ta được sống vui, sống hạnh phúc giữa cuộc đời đầy gian nan và thử thách này. Tóm lại, trong những giây phút của cuộc đời, chúng ta đã lãnh nhận biết bao ân phúc của Thiên Chúa. Từ của cải vật chất để nuôi sống thân xác, đến những của ăn nuôi dưỡng tâm hồn.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Chúa đã nói "Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế". Chúa đã hứa và đã thực hiện lời hứa đó; Chúa còn thực hiện một cách kì diệu biết bao: vì Chúa ở lại với chúng con không những bằng biết bao ân sủng Chúa đổ tràn trên chúng con, mà Chúa còn ở với chúng con qua bí tích Thánh Thể và trở nên của ăn nuôi dưỡng tâm hồn chúng con. Xin đừng để chúng con xa lìa Chúa, nhưng luôn trung thành tuân giữ điều răn của Chúa và sống mãi trong tình yêu Chúa. Amen.
Một số nhà sư ở Thái lan đang di chuyển một bức tượng Phật lớn bằng đất sét sang một ngôi chùa TN4-B109
Một số nhà sư ở Thái lan đang di chuyển một bức tượng Phật lớn bằng đất sét sang một ngôi chùa mới. Chính phủ đã tịch thu ngôi chùa cũ và sẽ phá huỷ để chuẩn bị làm xa lộ mới.
Bỗng dưng, chiếc xe chở bức tượng này bị xụp ổ gà. Chấn động đó làm nứt một đường thật lớn ngay giữa bức tượng. Các nhà sư la lên một cách hoảng hốt và họ rất đau lòng.
Và rồi một điều bất ngờ đã xảy ra. Các nhà sư nhìn thấy có ánh sáng lấp lánh bên trong đường nứt ấy. Họ dò xét và thật bàng hoàng khi thấy rằng lớp đất nung ấy chỉ dày độ hai phân. Bên dưới lớp đất sét là một bức tượng bằng vàng ròng.
Hiển nhiên vàng đã được bọc bằng lớp đất sét trong bao thế kỷ trước đây để quân xâm lăng khỏi lấy mất. Hiển nhiên, nhiều nhà sư đã chết vì cuộc xâm lăng này. Tuy nhiên, bức tượng vàng ròng này – trị giá $200 triệu – vẫn được che giấu bên dưới lớp đất sét trong bao nhiêu thế kỷ.
Trong suốt thời gian này, hàng ngàn nhà sư đã tụng kinh trước bức tượng. Nhưng không một ai dám mơ tưởng rằng bên dưới lớp đất sét ấy là một kho tàng vĩ đại.
Chỉ khi một chấn động tình cờ xảy ra làm nứt lớp đất sét thì người ta mới thấy được điều gì đó còn hơn cả bức tượng đất sét. Nó bao bọc một kho tàng vô giá.
Điều đó đưa chúng ta đến bài Phúc Âm hôm nay. Nó rất giống như bức tượng bọc bằng đất sét. Mới thoạt nhìn, dường như nó chỉ là câu chuyện của một người bị thần dữ ám và ông ta vào hội đường khi Chúa Giêsu đang giảng dạy.
Khi thần dữ bắt đầu la hét, Đức Giêsu ra lệnh nó phải im đi và xuất khỏi người đàn ông này. Trước sự bàng hoàng của tất cả mọi người, thần dữ đã tuân lệnh Đức Giêsu. Khi dân chúng chứng kiến điều ấy, họ hỏi nhau, “Điều này nghĩa là gì?”
Thần dữ vâng phục Đức Giêsu cũng giống như chấn động đã làm nứt bức tượng đất sét. Bỗng dưng, dân chúng trông thấy ở Đức Giêsu một điều gì đó còn hơn cả mắt thấy, cũng như điều gì đó ở bức tượng còn hơn cả vẻ bên ngoài.
Quyền năng của Đức Giêsu trên thần dữ cho thấy rằng bên trong Người là một kho tàng, cũng giống như bức tượng đất sét bao bọc bên trong một kho tàng.
Chúng ta có thể so sánh nhân tính của Đức Giêsu giống như lớp đất sét bao bọc bức tượng – nó che giấu căn tính đích thật của Đức Giêsu. Và vì vậy khi Đức Giêsu cho thấy quyền năng trên các thần dữ, dân chúng hỏi nhau, “Điều này nghĩa là gì?”
Chính Đức Giêsu trả lời câu hỏi ấy trong một dịp khác. Nó xảy ra như sau: Một ngày kia Người lại xua đuổi thần dữ. Một số người kết luận rằng Đức Giêsu làm như vậy là nhờ Satan ban cho quyền lực. Nhưng Đức Giêsu nói:
“Không phải vậy, đúng ra là nhờ quyền năng của Thiên Chúa mà tôi trừ quỷ, và điều này chứng tỏ rằng Vương Quốc Thiên Chúa đã đến với các ông.” Luca 11:20
Qua câu trả lời này, Đức Giêsu cho biết người là ai và đến thế gian để làm gì. Người là Đấng Mêsia được mong đợi từ lâu, và các ngôn sứ đã tiên đoán Đấng Mêsia sẽ thi hành những điều như vậy. Nhưng Đức Giêsu thì còn hơn thế nữa – hơn rất nhiều!
Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Người đến để tiêu diệt vương quốc của Satan mà nó đã cầm giữ thế gian trong sự nô lệ bởi vì tội của ADong.
Nhưng điều này nêu lên một câu hỏi khác, một câu hỏi lớn hơn nữa: Nếu Đức Giêsu đã đến để tiêu diệt vương quốc Satan và khai mở Vương Quốc Thiên Chúa, tại sao vẫn còn sự dữ trong thế gian?
Quả thật, Đức Giêsu đã khai mở Vương Quốc Thiên Chúa, nhưng Người chưa hoàn tất. Người sai Thánh Thần xuống trên các môn đệ, uốn nắn họ trở thành Hội Thánh.
Hội Thánh có thể được so với “hạt giống,” mà sau cùng nó sẽ triển nở thành Vương Quốc Thiên Chúa trong sự trọn vẹn của nó.
Nhiệm vụ của Hội Thánh – dưới quyền thủ lãnh của Đức Kitô và sự dẫn dắt cũng như quyền năng của Chúa Thánh Thần – là công bố và cầu xin cho Vương Quốc được ngự đến trong sự trọn vẹn cho mọi dân tộc. Đây là sự giảng dạy sau cùng của Đức Giêsu cho các môn đệ. Người nói:
“Hãy ra đi, hãy đến với mọi dân tộc ở mọi nơi và hãy làm cho họ trở thành môn đệ của Thầy: hãy rửa tội cho họ nhân danh Cha, Con, và Thánh Thần, và dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy truyền cho các con. Và Thầy sẽ luôn ở với các con cho đến tận thế.” (Mt 29:19)
Là các phần tử của Hội Thánh, Thân Thể Chúa Kitô, tất cả chúng ta cùng chia sẻ trách nhiệm loan truyền tin mừng về Vương Quốc Thiên Chúa cho toàn thế giới.
Chúng ta phải loan truyền vương quốc ấy khi cùng nhau cầu nguyện trong các Chúa Nhật và cùng nhau sống chứng nhân trong những ngày còn lại. Cả hai chiều kích này phải được thấy nếu muốn sự loan truyền của chúng ta có hiệu quả.
Trong Thánh Lễ ngày Chúa Nhật, đọc kinh Lạy Cha, “Xin cho Nước Cha trị đến” thì chưa đủ. Chúng ta còn phải sống lời loan truyền. Một câu chuyện nổi tiếng minh hoạ điểm này: Một ngày kia, một người Bàlamôn nói với nhà truyền giáo Kitô, “Nếu các tín hữu Kitô ở Ấn Độ, ở Anh, hay ở Hoa Kỳ giống như Kinh Thánh kia, quý vị sẽ chinh phục được nước Ấn trong vòng năm năm.”
Điều này đưa chúng ta đến câu trả lời cho câu hỏi, nếu Đức Giêsu đã thiết lập Vương Quốc Thiên Chúa, tại sao vẫn còn nhiều sự dữ trong thế gian?
Đó là vì chúng ta không loan truyền sự hiện diện của Thiên Chúa giữa chúng ta như chúng ta phải thi hành. Chúng ta không tiến hành nhiệm vụ mà Chúa Giêsu đã trao cho chúng ta.
Vậy, tóm lại, Đức Giêsu quả thật đã khai mở Vương Quốc Thiên Chúa. Nhưng Người chưa hoàn tất. Người sai Thánh Thần đến với các môn đệ, để uốn nắn họ trở thành Hội Thánh.
Nhiệm vụ của Hội Thánh là loan truyền bằng sự thờ phượng cũng như trở nên gương mẫu hàng ngày cho sự hiện diện của Vương Quốc giữa chúng ta.
Đây là lời mời gọi mà mỗi người chúng ta được mời. Đây là thách đố hôm nay mà Phúc Âm đặt ra trước mỗi người chúng ta.
Thiên Chúa dựng nên con người và ban cho con người nguồn tài nguyên vô tận. Đó là cảnh thần TN4-B110
Thiên Chúa dựng nên con người và ban cho con người nguồn tài nguyên vô tận. Đó là cảnh thần tiên, vì là tốt đẹp. Thế nhưng nơi trần thế này, thiên đàng thì ít mà địa ngục thì nhiều. Lý do: có quá nhiều cái làm cho con người lo âu sợ sệt. Chính cái sợ làm cho chúng ta mất tự do. Chính nổi sợ làm cho ta mất hạnh phúc. Sợ cái gì? Cái gì thấy ghê là thấy sợ: tai nạn, bệnh hoạn, chết chóc... Có một thứ làm cho người ta khiếp vía hơn là ma quỷ. Đối với người yếu bóng vía, nhắc đến ma quỷ là họ rùng mình sởn gai óc. Đối với người mê tín, ma quỷ là thần linh, vì thế họ cúng kiến, cầu cơ, đồng cốt... Đối với các nhà đạo đức, ma quỷ là những tên cám dỗ để bắt lấy linh hồn con người. Những cơn cám dỗ đến từ nhiều lổ hỏng trong tâm hồn con người: dục vọng, tham lam, ích kỷ, ghen ghét, hưởng thụ... Cám dỗ đi từ ngoài vào trong con người ở lại và làm cho con người ra ô uế, dần dần đánh mất linh hồn mình. Đây mới là điều đáng sợ nhất.
Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hướng về Chúa Giêsu, Đấng có uy quyền trong lời nói và trên cả ma quỷ: "Lời giảng thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh" (Mc1,27). Chúng ta hãy chạy đến với Chúa Giêsu mỗi khi ta yếu đuối để khỏi sa chước cám dỗ. Cách mà Chúa Giêsu truyền lại cho ta để chống lại ma quỷ là: cầu nguyện và ăn chay. Cầu nguyện để gặp gỡ Chúa, để đón nhận quyền năng của Chúa trên ma quỷ, để múc lấy sức mạnh của Ngài mà chiến đấu. Ăn chay là sự hy sinh hãm mình, là tinh thần cộng tác với Chúa để đẩy lui sự dữ ra khỏi thế gian, hầu cho nước Chúa ngày càng lớn hơn. Chúa và chúng ta phải có sự cộng tác. Nhiều khi chúng ta ỷ lại, phó mặc cho quyền năng Chúa, chúng ta cứ nằm ỳ mà chờ đợi. Thiên Chúa không phải đè chúng ta xuống để rồi nhồi nhét ơn cho mình, nhưng Ngài muốn chúng ta mở lòng ra đón nhận. Chúa không cưỡng bức mà Ngài tôn trọng tự do của chúng ta. Ngài cần sự nhiệt tình với Ngài để hành động của Ngài dễ thực hiện hơn. Nhưng thực tế chúng ta thấy mình có nhiệt tâm với Chúa chưa? Thói hư tật xấu, tội lỗi, chúng ta mắc phải như cơm bữa. Chúng ta cũng chẳng nghĩ gì đến sám hối để sửa mình, cứ để mặc cho tội lỗi ngày càng phát triển thêm. như vậy chúng ta đang ủng hộ ma quỷ, chúng ta đang tiếp tay cho sự xấu, để rồi Nước Thiên Chúa ngày càng nhỏ dần.
Ma quỷ thật đáng sợ, không phải sợ nhát, sợ nhập, nhưng là sợ cám dỗ. Vì xưa nay người bị quỷ nhập thật sự không nhiều, nhưng chắc chắn số người bị ma quỷ lèo lái không sao kể xiết. Chính vì vậy mà ngày hôm nay là điểm cực thịnh của tội lỗi và thế lực đen tối. Chúng ta nhìn lại xem mình có nằm trong phe đối lập với Thiên Chúa không?
Chúa Giêsu là Đấng uy quyền trên ma quỷ, tội lỗi và sự chết. Người chiến thắng tất cả. Xin Chúa ban sức mạnh của Ngài cho chúng ta, tăng cường sức sống của Ngài cho chúng ta, để chúng ta nhiệt tâm cộng tác với Ngài chiến đấu và chiến thắng sự ác trong ta và trong thế giới.
Có khi nào anh chị em đặt vấn đề: Thực ra sống đạo chủ yếu là gì không? Lời Chúa hôm nay cho TN4-B111
Có khi nào anh chị em đặt vấn đề: Thực ra sống đạo chủ yếu là gì không? Lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết rằng sống đạo không chỉ là gia nhập tổ chức Giáo Hội, cũng không phải là cố gắng tuân giữ những quy luật và lễ nghi, mà sống đạo chủ yếu là đi theo Chúa. Mà Chúa là người rất đáng được chúng ta đi theo, bởi vì Ngài là Đấng rất uy quyền.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta kiên trì đi theo Ngài.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
Tuy mang danh là tín hữu của Chúa, nhưng chúng ta ít khi chú ý lắng nghe tiếng Ngài.
Chúng ta cố gắng đọc kinh, dự lễ, nhưng không quan tâm học hỏi gương Chúa để sống theo gương Ngài.
Nhiều khi chúng ta không tin tưởng vào uy quyền của Chúa, mà lại cậy dựa vào những uy quyền thế tục như tiền bạc, địa vị, thậm chí có khi mê tín dị đoan nhờ đến quyền lực của ma quỷ.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Đnl 18,15-20)
Dân do thái đã đi trong sa mạc 40 năm dài. Bây giờ họ sắp vào Đất Hứa, Môsê thì sắp từ giã cõi đời.
Trong những lời từ biệt dân chúng, Môsê an ủi bảo họ đừng buồn tiếc, và ông nói tiên tri rằng Thiên Chúa sẽ cho nổi lên một vị Ngôn Sứ chẳng kém gì ông mà còn trổi vượt hơn ông để dẫn dắt họ.
2. Đáp ca (Tv 94)
Thánh vịnh này triển khai ý tưởng của bài đọc I. Vì Thiên Chúa sẽ cho nổi dậy một Ngôn Sứ trổi vượt mọi ngôn sứ, cho nên các tín hữu hãy lắng nghe tiếng Ngài.
Đức Giêsu chính là Vị Ngôn Sứ ưu việt mà Môsê tiên báo. Thánh Marcô trình bày Ngài là một Đấng rất uy quyền:
Uy quyền trong lời nói: "Dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Ngài, vì Ngài giảng dạy người ta như một Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ".
Uy quyền trong hành động: Ngài chỉ cần nói một lời thì quỷ ô uế phải xuất khỏi người bị nó ám: "Ngài dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả các thần ô uế".
4. Bài đọc II (1 Cr 7,32-35) (chủ đề phụ)
Thánh Phaolô đề cập đến các bậc sống: bậc độc thân thì thảnh thơi lo việc Chúa hơn bậc có gia đình.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Đi tìm "minh chủ"
Trong lịch sử nước Trung Hoa, có những thời kỳ hỗn loạn vô chính phủ. Những tay hảo hán nổi lên xưng hùng xưng bá, mỗi người cát cứ một vùng. Có những bậc anh hùng hào kiệt bỏ công chịu khó tìm hiểu và cân nhắc để nhận định ai là minh chủ để dốc sức phò tá.
Trong kho tàng truyền thuyết của Giáo Hội, cũng có một câu chuyện tương tự. Nhân vật chính là một người không tên. Chàng có sức mạnh hơn người và chỉ muốn dùng sức mạnh đó để phục vụ cho kẻ nào mạnh nhất. Thoạt đầu chàng nghĩ chẳng ai mạnh bằng tướng cướp nên xin đi theo hộ vệ cho một tướng cướp. Nhưng mỗi lần sắp đi cướp, viên tướng cướp này phải nhờ một thầy phù thuỷ làm phép xuất quân, thế là chàng rời bỏ tướng cướp để đi theo phù thuỷ. Một hôm, thấy phù thuỷ đang đi bỗng gặp một cây Thánh giá thì sợ hãi dừng lại không dám đi tiếp. Thế là chàng lực sĩ bỏ rơi phù thuỷ đến đứng bên cạnh cây Thánh giá để chờ chủ nhân nó đến mà xin đi theo. Chàng cứ đứng đó chờ mãi mà chẳng thấy chủ nhân cây Thánh Giá. Nơi đó gần một khúc sông cạn. Một hôm, một câu bé đến nhờ chàng cõng minh qua sông, vì không có đò ngang. Chàng lực sĩ sẵn sàng. Nhưng mới bơi được một đoạn ngắn, chàng cảm thấy chú bé quá nặng, liền hỏi lý do. Cậu bé đáp "Ta nâng đỡ cả trái đất trên tay Ta, làm sao mà không nặng cho được" Cậu bé còn cho biết thêm mình chính là chủ nhân của cây Thánh Giá. Thế là chàng lực sĩ xin theo phò tá vị Chúa Tể trái đất ấy. Chúa dạy: muốn phụng sự Ta, ngươi cứ đứng ở khúc sông này, mỗi lần có ai muốn sang sông thì ngươi hãy cõng người ấy sang. Chàng lực sĩ tuân theo. Từ đó trở đi, người ta gọi tên chàng là Chistophe, nghĩa là người đã mang Chúa Kitô trên vai.
Nếu chúng ta muốn tìm một minh chủ để phụng sự, chúng ta cũng hãy làm như thánh Christophe, bởi vì không ai xứng đáng hơn ngoài Đức Giêsu Kitô để cho ta đi theo phụng sự.
* 2. Sức mạnh siêu phàm
Hoàng đế César Augustô của đế quốc La Mã là người đã biến La Mã gạch ngói thành một La Mã nguy nga tráng lệ, với những tòa nhà cẩm thạch. Nhưng trong triều đại của César Augustô, một biến cố đã thay đổi cục diện của thế giới và lịch sử nhân loại, mà ông không hề biết tới.
Ông làm sao có thể biết trẻ Giêsu chào đời trong một tỉnh lẻ xa xôi, sẽ biến La Mã cẩm thạch của ông thành những vương cung thánh đường vĩ đại nhất. Ông đâu có ngờ các thần minh của ông sẽ phải lui bước để nhường chỗ cho một Thiên Chúa duy nhất, thánh thiện và chân thật. Ông cũng không ngờ trẻ Giêsu ấy lại có một sức mạnh siêu phàm đảo lộn mọi giá trị hiện có, và thiết lập một bậc thang giá trị hoàn toàn mới mẻ.
***
Sức mạnh siêu phàm ấy hôm nay đã bắt đầu xuất hiện. Đức Giêsu giải thích Thánh Kinh trong hội đường khiến cho nhiều người phải kinh ngạc, vì: "Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ" (Mc.1,22).
Có uy quyền vì Người dùng quyền mình mà giảng dạy chứ không lệ thuộc vào thế giá của người khác. Quyền này được chứng tỏ khi Người sửa sai các tập tục tiền nhân: "Người xưa đã dạy rằng… Phần Ta, Ta bảo các ngươi" (Mt.5,21).
Khác với các luật sĩ, họ chỉ đọc và giải thích kinh thánh, mà không dám thêm một ý tưởng mới. Họ gò bó con người vào lề luật hơn là dùng luật để giải thoát con người.
Lời Người là "Giáo lý mới mẻ". Cái mới mẻ đó làm cho người ta tin nhận Người là Đấng Cứu Thế. Cái mới mẻ đó làm cho danh tiếng Người lan tràn khắp vùng lân cận Galilê.
Lời Người là: "Lệnh truyền cho cả các thần ô uế và chúng phải vâng theo" (Mc.1,27). Chính thái độ tuân phục của ma quỉ trước uy quyền của Đức Giêsu, đã nói lên thời cứu độ đã tới.
Là tín hữu Kitô, chúng ta cần học hỏi, suy niệm và sống Lời Chúa, để khám phá ra sự mới mẻ của Lời Người, đồng thời nhận ra quyền năng Chúa tỏ bày trong vũ trụ.
G. Courtois khẳng định: "Nếu chúng ta khiêm nhu sống Lời Chúa trong môi trường của mỗi người, chúng ta sẽ âm thầm trở nên "muối men" cho cả nhân loại vì "ánh sáng" của những người sống Lời Chúa chiếu tỏa xa hơn người ta tưởng rất nhiều".
Jacques Delarue viết: "Mọi phần tử trong Giáo hội phải sống Lời Chúa và yêu mến với cùng một tình yêu của Đức Giêsu, chính vì thế mà ngày Chúa Nhật họ đi gặp gỡ Chúa trong Lời Người và trong Thánh Thể trước khi nghe đọc: "Hãy ra đi bình an". Hãy ra đi, đừng ở lại. Các bạn được sai đi cho mọi tạo vật".
Sống Lời Chúa là soi mình vào tấm gương Giêsu để tìm cho mình một phong cách đẹp nhất, vì:
"Lời Chúa là đèn soi cho con bước.
Là ánh sáng chỉ đường cho con đi" (Tv.118,105).
****
Lạy Chúa, qua Kinh thánh, Chúa vẫn giảng dạy cho chúng con ; qua bí tích giải tội Chúa vẫn trừ quỷ cho chúng con ; qua bí tích Thánh thể, Chúa vẫn sống trong chúng con. Xin cho chúng con luôn biết sử dụng những phương tiện Chúa ban để nên giống Chúa hơn và làm sáng danh Chúa nhiều hơn. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 3. "Hãy để tôi yên"
Khi vừa gặp Đức Giêsu, người bị quỷ ám liền la lớn "Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi?" Nói như thế cũng có nghĩa là nói "Hãy để cho tôi yên. Tôi tội lỗi đấy, xấu xa đấy, nhưng mặc kệ tôi, đừng quấy rầy tôi".
Đây không chỉ một lần, mà nhiều lần những người bị quỷ ám trong Tin Mừng đều la lên như vậy. Họ biết là họ đang ở trong tình trạng xấu đó, nhưng họ không muốn thay đổi tình trạng, vì thay đổi thì đau đớn.
Ngày nay cũng có rất nhiều người đang ở trong tình trạng xấu nhưng không muốn thay đổi. Các nhà tâm lý cho biết rằng nhiều người không muốn được chữa trị, vì chữa trị thì phải thay đổi, mà thay đổi thì đau đớn.
Một bà mẹ kia vừa sinh con ra thì khám phá con mình bị mù. Bà gọi tất cả những người nhà đến căn dặn đừng ai cho đứa bé biết nó bị mù, cũng đừng ai bao giờ nói đến ánh sáng hay màu sắc gì cả trước mặt nó. Đứa trẻ cứ thế lớn lên, vẫn tưởng nó cũng bình thường như mọi người khác. Thế nhưng một hôm, một đứa trẻ hàng xóm leo hàng rào vào và gặp đứa bé mù. Do không được căn dặn trước, nó đã nói tất cả những gì mà người mẹ không muốn nó nói. Thế là mọi sự sụp đổ tan tành.
Câu chuyện trên phần nào minh họa cho thái độ của chúng ta. Chúng ta không muốn nhìn nhận những khuyết tật của mình, và cũng không muốn ai chữa trị cho mình, vì nhìn nhận thì đau khổ và chữa trị thì nhọc nhằn.
Nhưng không thể tự lừa dối mình bằng cách trốn tránh sự thật như thế mãi. Hãy can đảm đối diện với sự thật và cầu xin Chúa cứu chữa. Chắc hẳn Ngài sẽ cứu được chúng ta, bởi vì Người là Đấng rất uy quyền (Viết theo Flor Mc Carthy)
4. Bệnh tật
Bài Tin Mừng hôm nay thuật chuyện Đức Giêsu chữa khỏi một người bệnh. Chúng ta hãy suy nghĩ đôi điều về vấn đề bệnh tật và chữa bệnh.
Trong vấn đề này có một sự chuyển biến từ chỗ mù mờ đến chỗ càng ngày càng sáng tỏ hơn nhờ ánh sáng mặc khải soi chiếu:
Các dân quanh Israel xưa coi bệnh tật là hình phạt của thần linh trừng trị một sự xâm phạm đến các Ngài. Vì thế để khỏi bệnh luôn luôn họ kêu cầu đến thần linh. Việc chữa bệnh không phải là việc của thầy thuốc mà là việc của các đạo sĩ.
Dân Israel xưa cũng coi bệnh tật là hậu quả của tội lỗi. Vì người ta phạm tội nên Chúa phạt cho mang bệnh. Muốn khỏi bệnh thì phải xin Chúa tha tội.
Nhưng dần dà người ta thấy có những người hoàn toàn vô tội lại đạo đức mà phải bệnh tật. Cho nên người ta thấy được những ý nghĩa khác của bệnh tật: đó là việc Chúa thử thách lòng trung tín của loài người, hay đó còn là dịp cho người ta chịu khổ mà đền tội cho kẻ khác. Truyện ông Gióp là một bằng chứng rõ ràng nhất về những tư tưởng này.
Đến thời Đức Giêsu, Ngài mặc khải thêm một ý nghĩa nữa cho việc chữa bệnh. Trong khi đi rao giảng ơn cứu độ, Đức Giêsu đã chữa lành rất nhiều bệnh tật, và Ngài coi việc chữa bệnh là một dấu chỉ rằng ơn cứu rỗi đã đến. Bởi lẽ ơn cứu rỗi là ơn giải phóng người ta khỏi mọi sự dữ như tội lỗi, nô lệ, đau khổ, tật bệnh... Ơn cứu rỗi muốn giải phóng con người khỏi tất cả những sự dữ đó. Nhưng trong số những sự dữ đó, tật bệnh là cái dễ thấy nhất và việc chữa bệnh là một bằng chứng rõ ràng nhất, cho nên Đức Giêsu đã chữa bệnh để làm dấu chỉ cho thấy ơn cứu rỗi đã đến.
Như vậy, đối với Đức Giêsu, chữa bệnh không phải là một điều dị đoan, chữa bệnh cũng không phải là mục đích duy nhất và tối hậu của hoạt động cứu rỗi. Chữa bệnh chỉ là một dấu chỉ, là một tiếng kêu mời người ta tiến đến đức tin. Chính vì thế mà mặc dù Đức Giêsu đã chữa bệnh rất nhiều nhưng không phải là chữa tất cả các người bệnh thời đó. Ngài chỉ chữa bệnh để làm cho người ta tin hơn và nhờ tin mà được cứu rỗi. Ngày nay cũng thế, có nhiều phép lạ chữa bệnh xảy ra ở Lộ Đức, ở Fatima, ở nơi này nơi nọ. Nhưng đâu phải tất cả mọi người tới Lộ Đức, Fatima đều được chữa khỏi. Một số phép lạ thôi cũng đủ để cho mọi người tin tưởng hơn.
Có những kẻ rất thờ ơ với việc đạo, chỉ khi gặp bệnh tật, khốn đốn mới biết cầu nguyện nhưng lời cầu nguyện cũng chỉ là xin cho tai qua nạn khỏi. Rồi khi tai đã qua nạn đã khỏi thì lại trở về với nếp sống nguội lạnh.
Có những người khác gặp bệnh tật tai ương đã hết sức sốt sắng cầu nguyện xin Chúa giúp. Nhưng cầu nguyện nhiều mà chưa được ơn thì đâm ra ngã lòng, mất đức tin.
Đó là những người có một đức tin còn ở một trình độ hết sức thấp kém: tin vì một quyền lợi vật chất chứ không phải tin vì yêu. Tin để được ơn chứ không phải tin mà phó thác cả cuộc đời cho Chúa dù khi vui dù lúc buồn, dù khi giàu hay khi nghèo, dù khi mạnh hay khi đau yếu.
Đức tin trưởng thành phải là Đức tin ở trình độ của ông Gióp. Gióp đã thốt lên trong cơn khốn khổ cùng cực: "Chúng ta biết nhận điều lành nơi Thiên Chúa, sao lại không biết nhận sự khổ sở Chúa gởi đến?"
Chúng ta hãy cầu nguyện để tất cả mọi sự dù là sướng dù là khổ đều làm cho đức tin của chúng ta càng vững mạnh hơn. Bởi vì ơn cứu rỗi chính là cái đức tin vững mạnh ấy, đúng như lời Chúa đã nói "Ai tin thì sẽ được rỗi" vậy.
5. Dị đoan
Theo nghĩa chữ, "đoan" là đầu mối, "dị" là kỳ lạ. Tin "dị đoan" là tin vào những việc mà liên hệ giữa chúng với nhau kỳ lạ, không hợp lý ; hay nói cách khác, không có liên hệ nhân quả với nhau rõ ràng. Thí dụ chữa bệnh không bằng y khoa mà bằng bùa ngãi, thần chú ; tìm hiểu sự việc không bằng trí óc, phán đoán mà bằng bói toán v.v. Đạo công giáo bài bác những chuyện dị đoan vì dị đoan vừa ngược với lý trí vừa nghịch với đức tin. Là tín hữu của Chúa, một mặt chúng ta phải biết sử dụng những khả năng Chúa ban để giải quyết những việc khó khăn xảy đến trong đời mình, và mắt khác hãy biết phó thác cuộc đời cho Chúa dẫn dắt. Đừng vì yếu đức tin mà chạy theo những việc mê tín dị đoan khi gặp phải chuyện khó khăn.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, quỉ dữ vẫn đang hoành hành trên trần gian, chúng ta rất cần được Đức Giêsu cứu độ giải thoát khỏi quyền lực của quỉ dữ. Chúng ta hãy sốt sắng kêu xin Người:
Quỉ dữ luôn quyết tâm phá hoại công trình Tin mừng hóa của Hội thánh / Xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh luôn vững tin và can đảm thi hành sứ vụ Chúa đã trao phó.
Quỉ dữ luôn tìm cách lôi cuốn những người có quyền lực chống lại công lý và hòa bình / Xin Chúa cho các nhà cầm quyền trên thế giới biết quan tâm đến công ích và xây dựng hạnh phúc thật cho mọi người.
Quỉ dữ luôn cám dỗ thử thách những người đang gặp đau khổ hoạn nạn / để họ ngã lòng trong bất mãn và tuyệt vọng / Xin Chúa cho họ biết chạy đến cầu cứu Chúa để được giải thoát.
Quỉ dữ luôn cám dỗ thử thách mỗi người chúng ta ham mê vật chất, tiền bạc, danh vọng / để cắt đứt tình hiệp thông với Chúa và với mọi người / Xin Chúa giúp mọi người trong họ đạo chúng ta luôn trung thành thờ phượng một mình Chúa và sẵn sàng phục vụ anh chị em chúng ta.
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, Chúa đã đến trần gian để loại trừ quyền lực của quỉ dữ, xin Chúa đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cưu chúng con cho khỏi quỉ dữ. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
VI. TRONG THÁNH LỄ
Trước kinh Lạy Cha: Trong lời Kinh Lạy Cha sau đây, chúng ta hãy đặc biệt xin Chúa uy quyền giải thoát chúng ta khỏi quyền lực của ma quỷ và các thế lực gian tà.
Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin chữa chúng con khỏi những bệnh tật thể xác và tâm hồn, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…"
Trước lúc rước lễ: Mình Thánh Chúa là thần dược chữa trị những bệnh tật xác hồn. Chúng ta hãy dọn lòng cho xứng đáng để rước lấy thần dược ấy. "Đây Chiên Thiên Chúa….. Lạy Chúa con chẳng đáng… nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành sạch"
VII. GIẢI TÁN
Tuần này chúng ta hãy quyết tâm luôn đi theo Chúa, làm theo ý Chúa trong tất cả mọi biến cố xảy đến.
Đầu năm mới chúng ta tìm đến với ai để nương nhờ cho được lợi cả năm? Lời Chúa là đèn soi TN4-B112
Đầu năm mới chúng ta tìm đến với ai để nương nhờ cho được lợi cả năm?
Lời Chúa là đèn soi bước chân con. Đức Giêsu giảng dạy như người có thẩm quyền. Lời Người dạy như là của mình không như những nguời khác dạy theo sách vở hay truyền thống. Người còn làm nhiều phép lạ để làm chứng. Người truyền lệnh cho quỉ và chúng phải vâng phục mà xuất ra.
Mọi cái tốt đẹp đều bởi Thiên Chúa. Mọi cái xấu xa là do ma quỉ. Vậy thì phải TIN THEO Thiên Chúa.
Vài điểm CHÚ GIẢI
- Người ta sửng sốt vì lời dạy của Người: Có cảm nhận và có cảm giác khi nghe lởi giảng. Nhiều người nghe Lời Chúa cách vô cảm nên nhàm chán, sợ nghe.
- Vì Người giảng dạy như Đấng có thẩm quyền: dạy như của riêng mình, không học với ai, không theo sách vở và truyền thống. Có khi còn đi ngược truyền thống.
- Lập tức, trong hội đường có một người bị thần ô uế nhập: quỉ là thần ô uế vì đôí lại với sự thánh thiện của Thiên Chúa. Mọi cái xấu đều đổ cho quỉ: đồ quỉ, con quỉ.
- Tôi biết ông là ai: Ông là Dấng thánh của Thiên Chúa: Đấng Thánh là đối lại với thần ô uế. Còn có nghĩa là Messia.
- Nhưng Đức Giêsu mắng nó câm đi, hãy xuất ra khỏi người nầy: Đức Giêsu trừ quỉ bằng cách mắng nó và ra lệnh. Lời tạo dựng, là quyền năng của Thiên Chúa.
- Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiềng và xuất khỏi ngưòi ấy: dù có bực tức 'lay mạnh và thét lên' nhưng cũng phải xuất. Không chóng lại nổi.
- Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, lời nói thì có uy quyền: Mới mẻ là không giống như trước. Có uy quyền là khuất phục được thần ô uế. Người ta ngạc nhiên và bị chinh phục.
- Ông ấy ra lệnh cho các thần ô uế và chúng phải vâng phục: Lời là quyền năng của Thiên Chúa làm sao dám không vâng phục.
Người ta ngạc nhiên vì Lời Chúa. Không phải Lời Chúa thì không có khả năng gây ngạc nhiên. Người ta vô cảm hoặc cảm thấy nhàm chán, có khi thấy thích mà không ngạc nhiên vì nghe không phải Lời Chúa mà là lời của người giảng. Nếu là Lời Chúa thì sẽ khuất phục người nghe.
Dân chúng cảm phục vì lời dạy của Đức Giêsu mới mẻ và có thẩm quyền. Mới mẻ thì hấp dẫn. Có thẩm quyền thì chinh phục. Người giảng cần trình bày Lời Chúa cách mới mẻ nhưng phải giữ nguyên Lời Chúa đừng biến thành lời của mình hay của bất cứ người nào. Vì Lời Chúa mới có uy quyền. Nhưng nếu cứ lấy từng câu ra cắt nghĩa thì khô khan và nhàm chán. Nhất là chỉ theo chuyên môn, không thực tế, không áp dụng.
Thiên Chúa toàn năng nhưng hành động bằng Lời. Thiên Chúa yêu thế gian đến nổi ban Con Một là Lời. Lời bây giờ ở trong bốn Phúc Âm. Lời phán ra trong Phúc Âm. Học hiểu và thực hành Lời trong Phúc Âm là được Đức Giêsu dạy dỗ và quyền năng Thiên Chúa được thực hiện. Phúc Âm là Đức Giêsu ra lệnh.
Ma quỉ và nước ma quỉ chỉ bị đẩy lui khi nước Thiên Chúa đến nghĩa là Lời Thiên Chúa được thực hiện. Đức Giêsu ra lệnh các thần ô uế không muốn cũng phải vâng phục. Quỉ là Chúa của mọi cái xấu xa gọi chung là ô uế. Lời của Đức Giêsu mới ra lệnh cho chúng rút lui. Không có quỉ 'thần ô uế' thì không có các thứ xấu xa thì được mọi cái tốt đẹp. Đây là bí quyêt để được mọi điềư tốt đẹp. Muốn được mọi điều tốt đẹp thì hãy làm theo bí quyết nầy. Tuyệt đối chắc chắn.
Muốn tốt đẹp mà làm theo quỉ thì chẳng là mâu thuẩn sao? Không chịu làm Lời Chúa, không chịu theo Chúa thì được cái gì tốt sao?
Người giảng dạy có thẩm quyền thì đáng tin. Người ra lệnh cho quỉ xuất đi thì không còn cái xấu, cái ô uế, cất đi cái ngăn cách ta với quyền năng Thiên Chúa thì quyền năng Thiên Chúa mới thực hiện những điều kỳ diệu cho đời sống chúng.
Trong xã hội loài người nói chung và trong Dân Chúa nói riêng, thời xưa cũng như thời nay, bao TN4-B113
Trong xã hội loài người nói chung và trong Dân Chúa nói riêng, thời xưa cũng như thời nay, bao giờ cũng có những kẻ không muốn nghe Lời Thiên Chúa. Nhưng giữa những con người ấy lại có những người thật sự khát khao nghe Lời Thiên Chúa. Cả hai loại người này đều cần đến những người nói Lời Thiên Chúa. Thời Cựu ước những người được chọn nói Lời Thiên Chúa là các ngôn sứ như A-mốt, I-sai-a, Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en v.v... Thời Tân Ước, Chúa Giê-su Ki-tô là Lời Thiên Chúa đã thành xác phàm và cư ngụ giữa loài người để nói Lời của Thiên Chúa. Nhờ Người chúng ta chẳng những được nghe Lời Thiên Chúa mà còn trở thành những người nói Lời Thiên Chúa, như các ngôn sứ, vì khi được thanh tẩy trong Đức Ki-tô là chúng ta đã được tham dự vào ba chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Người.
Chúng ta hãy đọc kỹ và tìm hiều các bài Sách Thánh để học cùng Chúa Giê-su về cách nói Lời Thiên Chúa cho loài người ngày hôm nay.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Đnl 18,15-20): "Ta sẽ gầy dựng một tiên tri và Ta sẽ đặt lời Ta vào miệng người" Môsê nói với dân chúng rằng: "Chúa là Thiên Chúa các ngươi, sẽ gầy dựng giữa các ngươi và giữa những anh em các ngươi, một tiên tri như ta: các ngươi sẽ nghe lời người, như các nguơi đã xin cùng Chúa là Thiên Chúa các ngươi ở Horeb khi có cuộc đại hội, và các ngươi nói rằng: Tôi không muốn nghe tiếng Chúa là Thiên Chúa tôi nữa, tôi không muốn thấy ngọn lửa vĩ đại này nữa, kẻo tôi phải chết. Và Chúa phán cùng tôi: sự họ đã nói, là tốt. Ta sẽ gầy dựng giữa anh em của họ một tiên tri như ngươi; Ta sẽ đặt vào miệng người những lời của Ta, người sẽ nói cho họ biết tất cả những điều Ta sẽ truyền cho người. Và nếu kẻ nào không nghe lời của Ta mà người sẽ nói nhân danh Ta, chính Ta sẽ xét xử nó. Nhưng tiên tri nào tự phụ, nhân danh Ta mà nói lời Ta không truyền phải nói, hoặc nhân danh các thần khác mà nói, thì sẽ chết"
2.2 Trong bài đọc 2 (1 Cr 7,32-35): "Người nữ đồng trinh lo lắng việc Chúa, để nên thánh" Anh em thân mến, tôi ước mong anh em khỏi phải lo lắng. Người không có vợ thì lo lắng việc Chúa, và tìm cách làm đẹp lòng Chúa. Nhưng người đã có vợ thì lo lắng việc đời này, và tìm cách làm đẹp lòng vợ mình, và họ bị chia xẻ. Cũng thế, người phụ nữ không có chồng và đồng trinh thì lo lắng việc Chúa, để nên thánh phần xác và phần hồn. Còn người phụ nữ đã có chồng thì lo lắng việc đời này, và tìm cách làm đẹp lòng chồng mình. Tôi nói thế vì ích lợi cho anh em, chứ không phải để gài bẫy anh em đâu, nhưng là để hướng dẫn anh em đến đời sống đoan chính và hoàn toàn khắng khít với Chúa.
2.3 Trong Bài Tin Mừng (Mc 1,21-28): "Ngài giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền" (Đến thành Capharnaum) ngày nghỉ lễ, Chúa Giêsu vào giảng dạy trong hội đường. Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ.
Đang lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: "Hỡi ông Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Đấng Thánh của Thiên Chúa". Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: "Hãy im đi và ra khỏi người này!" Thần ô uế liền dằn vặt người ấy, thét một tiếng lớn, rồi xuất khỏi người ấy. Mọi người kinh ngạc hỏi nhau rằng: "Cái gì vậy? Đấy là một giáo lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh Người". Danh tiếng Người liền đồn ra khắp mọi nơi, và lan tràn khắp vùng lân cận xứ Galilêa.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
3.1 Chân dung của Thiên Chúa:
1o) trong Sách Đệ nhị luật là một Đấng Thiên Chúa quan tâm đến nguyện vọng và trình độ của dân Ít-ra-en là dân riêng của Chúa. Thiên Chúa đã dùng Mô-sê mà hướng dẫn, bảo vệ và cứu thoát dân. Rồi Người đã dùng nhiều người khác nữa, cũng xuất thân từ trong hàng ngũ con dân Ít-ra-en làm “phát ngôn viên” hay ngôn sứ cho Người. Nhiệm vụ và cũng là sứ mạng của ngôn sứ là nói lời Thiên Chúa!
Vị ngôn sứ mà đoạn Thánh Kinh này loan báo là chính Đức Giê-su Na-da-rét là Đấng sẽ đến trần gian vào ngày giờ Thiên Chúa đã định. Người chính là Lời Thiên Chúa nên Người là Đại Ngôn Sứ, Ngôn Sứ Số Một của Thiên Chúa!
2o) trong thư 1 Cr 7,32-35 Thánh Phao-lô không nói trực tiếp về Thiên Chúa mà nói về cách tốt nhất mà con người có thể sống với Thiên Chúa là toàn tâm toàn ý với Thiên Chúa, trọn vẹn thuộc về Thiên Chúa! Thánh Phao-lô rút từ kinh nghiệm đời thường: một người có vợ có chồng thì thường khó toàn tâm toàn ý với Thiên Chúa vì người đó phải dành thời giờ và công sức để làm đẹp lòng người phối ngẫu của mình. Còn những người không có vợ có chồng thì dễ toàn tâm toàn ý với Thiên Chúa hơn, dễ thuộc trọn về Thiên Chúa hơn.
3o) trong Tin Mừng Mác-cô 1,21-28 là Chúa Giê-su Na-da-rét, Đấng giảng dậy có uy quyền và dẹp trừ thần ô uế cách hiệu quả, khiến những người chứng kiến phải kinh ngạc và trầm trồ khen ngợi: "Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!"
Sở dĩ Chúa Giê-su Na-da-rét làm được như thế là vì Người là Vị Đại Ngôn Sứ của Thiên Chúa và Người được Thánh Thần ngự trị và xức dầu tấn phong để Người thực hiện sứ mạng nói tiếng nói của Thiên Chúa cũng như rao giảng Tin Mừng cho người nghèo, cứu giúp những người khốn khổ, giải phóng những người bị áp bức, giam cầm và công bồ năm hồng ân của Thiên Chúa (xem Lc 4,18-19).
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa:
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay gồm hai phần:
- Một là tin và lắng nghe Chúa Giê-su nói Lời Thiên Chúa cho mỗi người/cộng đoàn chúng ta và cho toàn nhân loại.
- Hai là đến lượt mình, mỗi người chúng ta cũng phải nói Lời Thiên Chúa với/cho những người xung quanh, cả với những người không muốn và những người muốn nghe tiếng nói của Thiên Chúa.
Muốn nói tiếng nói của Thiên Chúa, ngôn sứ phải có một đời sống kết hiệp mật thiết với Người, chìm sâu trong mầu nhiệm của Người, thấu hiểu tư tưởng của Người như Thánh Phao-lô mà chúng ta hết lòng ngưỡng mộ.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA HÔM NAY
4.1 Sống với Thiên Chúa là Đấng trước đây đã dùng các ngôn sứ và trên hết là chính Con Một là Đức Giê-su Ki-tô, để nói lời của Người cho loài người thời xưa; còn ngày nay Thiên Chúa dùng tất cả mọi Ki-tô hữu, không phân biệt giám mục, linh mục, tu sĩ hay giáo dân, để nói lời của Người cho người thời nay.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa
Để thực thi sứ điệp Lời Chúa Chúa nhật IV Thường Niên Năm B, chúng ta cần thực hiện hai việc sau:
* Một là khám phá ra Chúa Giê-su là tiếng nói của Thiên Chúa + Đón rước Người và lắng nghe Người nói + Để Người đào tạo và hành động nơi/trong chúng ta bằng Thánh Thần để chúng ta trở thành những kẻ nói tiếng nói của Thiên Chúa.
* Hai là tập sống dũng cảm, bất khuất, chấp nhận thua thiệt, mất mát để trở thành tiếng nói của Thiên Chúa trong gia đình, khu xóm và cộng đồng.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 «Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng, Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy» Chúng ta hãy cầu xin cho hết mọi người trên thế gian này được nghe Lời Chúa từ miệng các ngôn sứ của Người mà biết cách sống đẹp lòng Thiên Chúa.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 «Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Ki-tô hữu, nhất là cho Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ, để mọi người biết nói Lời Chúa một cách thuyết phục, nhờ tràn đầy Thần Khí và đời sống chứng nhân.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 «Đức Giê-su vào hội đường và giảng dạy» Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người thuộc giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này được ơn siêng năng và tích cực nghe giảng và tìm học Lời Chúa!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 «Kẻ nào không nghe những lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta, thì chính Ta sẽ hạch tội nó» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các mục tử và các bậc làm cha làm mẹ không dám nói Lời Chúa cho những người không muốn nghe Lời Chúa, để họ ý thức sứ mạng ngôn sứ của mình mà nỗ lực chu toàn.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Cha đố chúng con Chúa Giêsu đã làm gì trong bài Tin Mừng hôm nay ? - Thưa cha, Chúa giảng dạy TN4-B114
Cha đố chúng con Chúa Giêsu đã làm gì trong bài Tin Mừng hôm nay ?
- Thưa cha, Chúa giảng dạy và trừ quỉ.
- Xuất sắc! Đúng như thế.
Tin Mừng thánh Marco hôm nay cho mọi người thấy, Chúa xuất hiện như một đấng đầy uy quyền. Cha nhớ trước đây đã có lần ông Moise tiên báo về Chúa như thế này: “Từ giữa anh em, Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ để giúp anh em”.
Ngôn sứ mà Moise tiên báo đó chính là Chúa Giêsu Đấng đầy uy quyền trong cả lời nói lẫn hành động.
1. Chúa Giêsu là Đấng rất uy quyền trong Lời nói.
Khi Chúa giảng cho dân chúng, họ đã thấy ngay: “Người giảng dạy như Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư” (Mc,1,21).
Quả đúng như thế. Lời Chúa giảng là những lời đầy uy quyền. Lý do vì Lời của Chúa có sức mạnh biến đổi và hoán cải người khác. Nhiều người đã nhờ Lời Chúa mà được biến đổi. Tại sao thế ? Vì Chúa giảng bằng sức mạnh và chính cuộc sống của Chúa.
Chúng con hãy nghe câu chuyện này: Tokichi Ishii, một tên giết người không gớm tay. Y đã đạt kỷ lục về việc giết nhiều người nhất bằng những phương thế dã man không thể tưởng tượng nổi. Y sát hại đàn ông, đàn bà phụ nữ, trẻ em với bàn tay khát máu. Y đã thủ tiêu bất cứ người nào tình cờ y gặp và muốn giết. Nhưng rồi cuối cùng y đã bị bắt và bị kết án tử hình.
Lúc ở trong nhà tù chờ ngày bị hành quyết, có hai phụ nữ công tác tông đồ đã đến khuyên nhủ y. Nhưng tất cả những lời thăm hỏi, trò chuyện của họ đều không làm cho y mảy may xúc đổng. Trái lại y còn nhìn chằm chặp vào họ với một cặp mắt dữ tợn như muốn nuốt sống họ.
Cuối cùng, vì không còn đủ kiên nhẫn nữa, hai phụ ấy nữ ra về. Nhưng trước khi ra khỏi nơi gặp gỡ, họ để lại cho y một cuốn sách Tân Ước với hy vọng mỏng manh rằng y sẽ đọc và rồi Lời Chúa sẽ hoạt động… Và đúng như họ mong ước: Niềm hy vọng của họ đã trở thành sự thật. Ishii đã đọc. Lời Chúa thu hút Ishii khiến anh tiếp tục đọc hết đoạn tường thuật về cuộc tử nạn của Chúa Giêsu… Khi đọc đến câu: “Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”! (Lc 23, 34), anh ta dừng lại và suy nghĩ. Anh tâm sự: “Đọc đến câu này, trái tim tôi bị đánh động, bị đâm thâu bằng một con dao dài. Tôi có thể gọi đó là tình yêu của ông Giêsu, hay là lòng thương xót của Ngài không thì tôi không biết, nhưng điều duy nhất tôi biết là sự hung dữ, tàn bạo nơi tôi đã tan biến và tôi đã tin vào Chúa”.
Khi các nhân viên nhà giam dẫn anh ta đi để hành quyết. Họ rất ngạc nhiên thấy tử tội Ishii hòa nhã, lễ độ, chứ không như một tên giết người hung bạo như trước nữa. Ishii, đã được lời Chúa hoán cải (Trích Lẽ Sống, Radio Veritas).
Đó chúng con thấy: Lời của Chúa đã có sức mạnh như vậy đó. Lời Chúa đã biến đổi một con người như vậy. Đọc trong Lịch sử của Giáo Hội cha còn thấy rất nhiều trường hợp như thế.
2. Tiếp đến, Chúa còn là Đấng đầy uy quyền trong hành động.
Tin Mừng hôm nay ghi lại: Lời giảng của Chúa làm cho “cả các thần ô uế phải vâng theo” (Mc 1,27). Chính thái độ vâng phục của ma quỷ trước uy quyền của Chúa, đã nói lên điều đó: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi ? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Ðấng Thánh của Thiên Chúa!”
Sau đó chỉ một Lời của Chúa là ma quí răm rắp tuân lệnh: Ðức Giêsu quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta. Lạ lùng chưa chúng con ?
Cha hỏi chúng con: Chúng ta có thể tìm được bài học gì qua bài Tin Mừng hôm nay không ?
Nhất định là có. Khi đọc Tin Mừng của Chúa, cha thấy tất cả các những việc Chúa làm cũng như những lời giảng dạy của Chúa đều hướng mọi người về một bài học nào đó. Chúa giảng dạy, Chúa làm phép lạ tất cả đều là để giáo dục và dạy dỗ mọi người chúng ta.
Vậy thì bài học Chúa muốn dạy chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay là gì ?
Thưa là hãy biết tin tưởng vào Chúa. Chúa là Đấng uy quyền nhưng Chúa cũng là Đấng đầy tình thương. Mọi việc Chúa làm đều vì lòng yêu thương của Chúa. Hãy biết luôn tin tưởng vào tình thương của Chúa.
Truyện kể lại rằng: Có một tội nhân kia suốt đời được thiên thần hướng dẫn đi theo con đường hẹp nghĩa là đi theo đường lối Chúa đã dạy bảo, nhưng tất cả đều vô ích. Con người này cứ đắm chìm trong đường tội lỗi. Gần đến ngày ông ta phải về tính sổ trước mặt Chúa, thiên thần bản mệnh của ông chỉ còn biết khóc thầm, thương cho ông. Hơn nữa ma quỉ còn lợi dụng cơ hội này để thúc đẩy con người này tiến thẳng xuống hỏa ngục. Ma quỉ đã đến bên ông và gieo vào tâm hồn ông niềm thất vọng, chán nản. Ma quỷ nói với ông:
- Thôi, ông cứ tiến thẳng tới án phạt của ông đi vì đời sống của ông chỉ toàn là những điều gian ác.
Trong chốc lát, ông như tỉnh ngộ. Ông bước đi nhưng mắt vẫn ngước nhìn về ngai vàng nơi Thiên Chúa ngự trị và tấm lòng vẫn còn hy vọng được Thiên Chúa tha thứ vì lòng nhân từ khoan thứ vô biên của Ngài. Thấy vậy, ma quỉ nói với ông:
- Hỡi người tội lỗi cứng lòng, hãy bước đi chứ đừng hy vọng gì nữa.
Tội nhân vẫn cứ tiếp tục bước. Lòng vẫn cầu nguyện trong sự e thẹn:
- Lạy Chúa, Chúa thật là Đấng công chính. Tội của con thật đáng với án phạt nhưng vì tình thương bao la của Chúa, xin tha tội cho con. Tuy dù con bất xứng trăm bề, nhưng Chúa biết rằng niềm hy vọng trong tâm hồn con chẳng bao giờ tắt, vì con luôn tin tưởng vào lòng khoan dung của Ngài. Lạy Chúa, nỡ nào Chúa lại lên án phạt con. Nỡ nào Chúa lại tuyên phạt con đời đời hay sao ?
Thiên Chúa đã cảm động trước lời cầu xin khiêm tốn của ông ta. Ngài truyền cho các thiên thần:
- Hãy dẫn người đàn ông khiêm tốn ấy đến trước mặt ta. Lửa yêu thương của Ta sẽ thiêu hủy hết tội lỗi của nó. Mặc dù nó phạm tội nhiều nhưng không bao giờ nó hết nghi ngờ lòng nhân từ vô biên của Ta, vì thế Ta muốn nó được sống trong nước vinh quang của Ta, sống bên cạnh ta để nó sẽ ca ngợi lòng nhân từ của Ta mãi mãi. Amen.
“Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: đừng cứng lòng”
Hằng ngày đôi tai và lòng trí của chúng ta nghe, biết được không biết bao nhiêu các loại âm thanh TN4-B115
Hằng ngày đôi tai và lòng trí của chúng ta nghe, biết được không biết bao nhiêu các loại âm thanh, tiếng nói, tin tức từ nhiều nguồn khác nhau. Nhưng điều đáng buồn thay, là trong những nguồn thông tin chúng ta nghe, thu nhận được, chúng ta khó có thể phân biệt đâu là tin thật, đâu là tin giả, đâu là nguồn tin chính thống - bổ ích, vì đa phần là nguồn thông tin không lành mạnh, phe nhóm, cánh này-cánh kia, thuyết âm mưu này nọ..; chính vì vậy, đã làm cho nhiều người bị lầm tưởng, hoang mang, mất lòng tin và bất an. Trong thực tế đau buồn của xã hội loài người, hôm nay Lời Chúa qua Thánh vịnh 94 mời gọi chúng ta và mong ước rằng: trong muôn vàn những âm thanh, tiếng nói ấy, hãy khiêm tốn mở lòng, hãy để tai, hãy chú ý lắng nghe để chúng ta có thể nghe được tiếng của Thiên Chúa, nghe được tiếng của Lời Chúa - Lời Hằng Sống. Nhờ đó, Lời Chúa sẽ uốn nắn lòng dạ và cuộc đời chúng ta, sẽ soi đường dẫn lối giúp chúng ta trở nên những người con ngoan-con thảo, người con sống đẹp lòng Chúa. Nhưng liệu chúng ta có muốn lựa chọn Lời Chúa để nghe, để sống và thực hành?
Bài đọc một từ sách Đệ Nhị Luật minh chứng cho chúng ta lời của Giavê –Thiên Chúa: “Ta sẽ gầy dựng giữa anh em một tiên tri; Ta sẽ đặt vào miệng người này những lời của Ta, người sẽ nói cho họ biết tất cả những điều Ta sẽ truyền cho người”. Chúa đã và đang nói với chúng ta qua muôn vàn cách thế, một trong những cách ấy chính là qua trung gian của những người được tuyển chọn để làm Ngôn sứ - Tiên tri cho Chúa. Những vị này, dẫu là những con người bất toàn nhưng họ là sứ giả của Chúa để tuyên sấm Lời Chúa cho dân. Lời được công bố là Lời của Chúa, chứ không phải là lời của con người. Do đó, nếu những sứ giả này nói lời của mình, nói những lời của người phàm, hay lời của những thần khác thì họ sẽ bị phạt, bị tiêu diệt. Cho nên, những ai nghe được những lời từ miệng của các Tiên tri mà tin theo, thực hành thì chắc chắn Lời Chúa sẽ trở nên ngọn đèn soi rọi cho bước chân, nên ánh sáng dẫn họ đi dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Tin mừng hôm nay chính Chúa đang nói với chúng ta qua một cách thế rất đặc biệt, Lời của Chúa được tuyên bố ra không phải bằng miệng lưỡi của con người, nhưng qua chính Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, Ngôi Lời Hằng Sống, Ngài đang nói với chúng ta. Do đó, khi Chúa Giêsu rao giảng, ai ai cũng ngạc nhiên, sửng sốt về những gì mà Ngài dạy dỗ, loan truyền. “Cái gì vậy? Ðấy là một giáo lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh Người”. Lời Hằng Sống từ nguyên thủy đã phán một lời thì có mọi sự, giờ đây cũng chính Lời Hằng Sống lại phán một lời, thì bệnh hoạn tật nguyền của con người được chữa lành, ma quỷ phải khiếp sợ, rút lui. Nhưng tiếc thay, Lời Chúa và ơn thánh từ Lời Chúa trong cuộc sống hiện tại của nhiều người trong chúng ta đang bị xem nhẹ, lãng quên. Ngay cả, một số người dùng Kinh Thánh để đặt tay lên mà tuyên thệ hay nói lời thề, thế nhưng họ lại không tin vào Lời Chúa, rồi đi ngược lại, làm theo ý riêng tư lợi, ích kỷ của mình. Và hậu quả là, con người đã gây nên không biết bao nhiêu đau khổ, tang thương, hoang mang, lo sợ cho đồng loại của mình. Thật vậy, Lời Chúa có uy quyền, sức mạnh và làm cho nhiều người thán phục vì là đây là Lời Hằng Sống, Lời của yêu thương, Lời của tha thứ, chữa lành.
Đức Thánh Cha Bênêdictô trong Tông Huấn về Lời Chúa “Verbum Domini” đã xác tín và như muốn làm vang vọng lại cho cả Hội Thánh lời tuyên xưng đức tin cùng với tâm tình và kinh nghiệm sống từ hai ngàn năm về trước của Thánh Phêrô: “Lời Chúa đời đời bền vững. Đó chính là Lời Tin Mừng đã được loan báo cho anh em” (1 Pr 1,25). Ngài nói: “Vậy ước gì mỗi một ngày sống của chúng ta được hun đúc bởi cuộc gặp gỡ mới mẻ với Đức Kitô, Ngôi Lời làm người của Chúa Cha: Người ở tại nguồn và ở cuối và “tất cả đều tồn tại trong Người” (Cl 1,17). Hãy thinh lặng để lắng nghe Lời Chúa và để suy ngẫm Lời ấy, hầu nhờ hoạt động hữu hiệu của Chúa Thánh Thần, Lời ấy tiếp tục ở lại, sống và nói với chúng ta mọi ngày trong đời chúng ta”.
Lạy Chúa, xin hãy dùng quyền năng sức mạnh của Lời Ngài mà uốn nắn lòng trí chúng con được nên khiêm tốn, trong sạch ; xin cho chúng con luôn được Lời Chúa soi dẫn, chữa lành và gia tăng ơn thánh hầu cuộc sống chúng con luôn đượm tình bác ái yêu thương. Amen.
Suy niệm Chúa Nhật IV Thường Niên năm B - Lm. Xuân Hy Vọng
Kính thưa quý cộng đoàn Phụng vụ!
Năm mới cũng mới sang, nhưng mọi thứ bất ổn, tai ương vẫn đang rình chờ thế giới nói chung, và TN4-B116
Năm mới cũng mới sang, nhưng mọi thứ bất ổn, tai ương vẫn đang rình chờ thế giới nói chung, và chúng ta nói riêng. Hằng ngày, chúng ta dùng lời ăn, tiếng nói, dùng ngôn từ, lý lẽ để truyền tải suy nghĩ, ý tưởng, hầu liên kết với mọi người. Tuy nhiên, đôi lúc chúng ta chỉ nói mà không làm, hoặc chẳng giữ lời mình nói, “ngôn hành bất nhất”, tất bật hành tung. Thế nhưng, Lời Chúa trong đời sống chúng ta hằng vang vọng, và tác động mạnh mẽ đến chúng ta.
Theo sách Đệ Nhị Luật, Thiên Chúa sẽ gầy dựng và ban cho dân Chúa một ngôn sứ, và vị ngôn sứ này nhân danh Chúa mà nói những gì Ngài truyền. Vì vậy, ngôn sứ còn được gọi là “thiên khẩu” (cái miệng của Thiên Chúa). Tất cả lời lẽ của vị tiên tri đều bắt nguồn từ Thiên Chúa, còn ai tự phụ nhân danh Chúa mà nói lời của riêng mình, hoặc mượn danh các thần khác mà nói, thì hậu quả khôn lường “và nếu kẻ nào không nghe lời của Ta mà ngươi sẽ nói nhân danh Ta, chính Ta sẽ xét xử nó…” (Đnl 18, 19). Tương tự, Thánh Phao-lô cũng dùng lời Chúa khuyên nhủ, răn dạy giáo đoàn Cô-rin-tô về việc hết lòng phục vụ Chúa, sống lo liệu chứ không lo lắng bận tâm, và hướng dẫn họ đến đời sống đoan chính, gắn bó thiết tha với Chúa mà không bị giằng co (x. 1Cr 7, 32.35). Vì lẽ “tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính” (2Tm 3, 16).
Hơn nữa, lời uy quyền này không phải qua trung gian như Mô-sê, hay các tiên tri xưa kia, mà chính từ Ngôi Lời, Con Thiên Chúa xuống thế làm người, là Lời của Thiên Chúa. Do đó, khi Đức Giê-su trở về quê Na-da-rét, Ngài tuân giữ lề luật, vào hội đường lắng nghe và giảng dạy, thì ai nấy đều sửng sốt về Ngài, “người ta kinh ngạc về giáo lý của Ngài, vì Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ” (Mc 1, 22). Thời ấy, dân chúng còn chưa biết rõ thân phận của Ngài, nên họ phản ứng theo lệ thường dễ hiểu. Còn nay, chúng ta đã thông hiểu Đức Giê-su chính là Lời, Đấng trực tiếp thông truyền, chuyển tải, chuyện trò, hướng dẫn, dạy dỗ chúng ta mỗi lúc, đặc biệt khi đọc và suy gẫm Lời Chúa, lúc tham dự Thánh lễ, lãnh nhận các Bí tích và qua các biến cố trong đời sống thường nhật, trong gia đình, trong cộng đoàn, giáo xứ, hội dòng, v.v…, mà chúng ta vẫn là người đứng ngoài, không biết đón nhận sao! Mỗi lúc chúng ta tiếp xúc với Lời Chúa, lắng nghe, học hỏi và sống Lời Chúa qua Giáo hội, qua các thừa tác viên có chức thánh…, thì chính Đức Giê-su Ki-tô là Lời, trực tiếp ‘hàn thuyên’, thông truyền, răn dạy chúng ta. Thay vì chỉ sửng sốt, ngạc nhiên, chúng ta cần biết nhận ra, mở lòng đón nhận, ghi tạc trong tâm trí và thực hành Lời Chúa cách cụ thể trong mọi trạng huống cuộc đời.
Nhờ Lời uy quyền, ma quỷ khiếp run và tuân thủ ngay lập tức, “Chúa Giê-su quát bảo nó rằng: “Hãy im đi và ra khỏi người này! Thần ô uế liền dằn vặt người ấy, thét một tiếng lớn, rồi xuất khỏi người ấy” (Mc 1, 25-26); còn nữa “Ngài dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh Ngài” (Mc 1, 27). Trong đoạn trần thuật bài Tin Mừng hôm nay, thần ô uế (ma quỷ) biết rõ và công bố danh tính của Đức Giê-su, nhưng tại sao Ngài bắt chúng im lặng? “Tôi biết ông là ai, là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (x. Mc 1, 24). Đơn giản vì có lẽ chúng biết Ngài, nhưng chúng chẳng bao giờ thờ lạy, phụng sự Ngài, và hơn thế, chúng còn xúi giục, sai khiên, lôi kéo con người chúng ta theo chúng, mà chẳng chịu tuân phục và vâng theo Thiên Chúa. Do đó, Đức Giê-su là Lời, bắt chúng câm nín, và nhờ Lời uy quyền này mà giải thoát người bị ám nói riêng, và cứu rỗi chúng ta nói chung. Cứ mỗi ngày, trong từng giây phút cuộc sống, Lời Chúa và vô vàn lời khác từ xã hội, từ thế giới, từ các lĩnh vực chuyên môn, lời bạn bè, lời mời mọc, lời người ta, v.v…diễn ra cùng một lúc, đòi hỏi chúng ta phải biện phân và phân định đâu là Lời uy quyền, đâu là Lời cứu độ, hầu tránh được lời lẽ mỹ miều dẫn đến hư vô, lời trần thế dối gian, và lời ‘hương thoảng gió bay’ để lại biết bao điều tổn hại, thương đau v.v…Duy chỉ Lời Chúa mới chính trực, công minh, cứu rỗi con người và giải thoát lời con người chúng ta khỏi cạm bẫy mơ hồ, ‘một dạ hai lòng’, đầy gian dối.
Lạy Chúa, xin cho Lời Ngài Thắm đượm lòng con, lắng tai đón nhận. Mở rộng tâm trí ân cần Biện phân, phân định muôn phần chứa chan. Lời Chúa trao ban bình an Giữa muôn lời nói tràn lan mỗi ngày. Lời Chúa nắm chặt đôi tay Dẫn con về bến lạ thay ân tình. Amen!
Vào Chúa nhật IV Thường niên hôm nay, chúng ta nghe trình bày về sức mạnh của việc giảng dạy TN4-B117
Vào Chúa nhật IV Thường niên hôm nay, chúng ta nghe trình bày về sức mạnh của việc giảng dạy và rao giảng. Trong các bài đọc, ông Môsê, thánh Phaolô và Chúa Giêsu trình bày quan điểm về những vấn đề mà các ngài cho là quan trọng đối với cộng đoàn của mình.
Trong bài đọc thứ nhất trích từ sách Đệ Nhị Luật, ông Môsê nói với dân Israel về sự xuất hiện của một vị ngôn sứ trong tương lai. Môsê nhắc cho cộng đoàn nhớ rằng tại núi Horeb (núi Sinai) họ đã từng yêu cầu có một người trung gian giữa dân và Thiên Chúa, và ông khẳng định trong tương lai sẽ có nhiều vị ngôn sứ giống như ông. Môsê thường được xem là một ngôn sứ lỗi lạc và ông quả quyết với dân Israel là có thể phân biệt các ngôn sứ chính danh với các ngôn sứ giả hiệu. Ông cam đoan với dân Israel là vẫn có người tiếp tục dẫn dắt họ sau khi ông chết.
Những lời huấn giáo của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô tiếp nối bài đọc thứ hai của Chúa nhật tuần trước. Ngài chú tâm đến ngày trở lại của Chúa Kitô, đối nghịch với những lo lắng điển hình của thế giới. Trong bài đọc hôm nay, thánh Phaolô nhấn mạnh các tín hữu Côrintô không nên lo âu. Theo quan điểm của thánh Phaolô cả những người đã kết hôn cũng như những người chưa lập gia đinh cần tập trung chuẩn bị bản thân cho ngày phán xét. Không nên diễn giải sai ý nghĩa của bài đọc này như là sự cổ võ xem thường các vấn đề gia đình. Thay vào đó, bài đọc chỉ đơn giản nhấn mạnh sự dâng hiến cho Thiên Chúa.
Bài Tin mừng hôm nay đưa ra một ví dụ về cách thức Chúa Giêsu rao giảng qua lời nói và hành động. Đoạn văn này diễn ra sau khi Chúa Giêsu kêu gọi những môn đệ đầu tiên. Ngài và các môn đệ vào hội đường, nơi Chúa Giêsu vừa giảng dạy vừa xua trừ ma quỷ. Những hành động này gây ngạc nhiên cũng như có sức thuyết phục đối với nhiều người, vì chúng minh chứng uy quyền thần linh của Chúa Giêsu. Một khi Chúa Giêsu bày tỏ quyền năng thì “danh tiếng Ngài lan rộng khắp cả vùng Galilê.”
Một vấn đề có thể gây thắc mắc nơi bài Tin mừng đó là cuộc trao đổi giữa Chúa Giêsu và thần ô uế. Thần ô uế nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa và Ngài quở trách, buộc nó phải câm lặng. Một vài lý do có thể giải thích cho sự khiển trách này. Có thể Chúa Giêsu không muốn thần ô uế kêu tên của Ngài vì việc sử dụng tên gọi đôi khi được xem là dấu chỉ của uy quyền trên một người hoặc một đồ vật. Cũng vậy, việc giấu kín tên gọi có thể vì Chúa Giêsu vẫn chưa sẵn sàng tỏ lộ cho mọi người biết Ngài là ai. Vấn đề không muốn nêu tên này sẽ được các bài đọc Tin mừng khác nhắc đến trong năm phụng vụ này.
Các bài đọc Chúa nhật IV Thường niên nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng cần có những vị thầy tốt, đáng tin cậy. Lời Chúa tuần này cũng nhắc nhở chúng ta phải chú ý đến những gì chúng ta nhìn, nghe thấy và phải nghiêm túc đánh giá thế giới nhờ đó con người học hỏi và phát triển.
Bài đọc: http://www.vinhsonliem.org/2018/01/22/bai-doc-chua-nhat-iv-thuong-nien-nam-b-28-01-2018/ Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2020/12/17/teaching-239472 Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển
Thánh Kinh cho biết Chính Thiên Chúa đã chọn Ông Abraham chừng 2000 năm trước Công Nguyên TN4-B118
Thánh Kinh cho biết Chính Thiên Chúa đã chọn Ông Abraham chừng 2000 năm trước Công Nguyên, làm tổ phụ dân Irael để dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến trong dân tộc nầy.
Trong tầm chừng 500 – 700 năm đầu, chính Thiên Chúa trực tiếp điều hành và lãnh đạo dân của Ngài cho tới khi Mô sê xuất hiện. Ông được coi là tổ phụ thứ hai sau Abraham, vì Ông đưa dẩn dân từ cảnh tang tóc nô lệ Ai Cập về miền sinh địa Đất Hứa. Ông là Ngôn Sứ đầu tiên thông truyền mệnh lệnh của Chúa cho dân. Chức vụ nầy, ngày nay tương tự như Phát Ngôn Viên của chính phủ.
Hai Chúa Nhật trước, Phụng Vụ lời Chúa tường thuật việc Chúa Giêsu chọn bốn môn đệ đầu tiên cho cuộc đời công khai trực tiếp rao giảng Tin Mừng. Chúa Nhật IV thường niên nầy, Lời Chúa hướng đẩn dân Chúa hôm nay hướng về vị tiên tri cao cả sau cùng kể từ Môsê. Ngài sẽ truyền cho dân những gì mà trong khoãng 1500 -1200 năm trước, Môsê đã nói với dân trên chặng đường 40 năm lang thang trong sa mạc. Khi đến, Ngài sẽ tóm gọn Cựu Ước và nâng lên tầm cao tinh thần qua lời giảng dạy như Đấng có uy quyền. Xin đọc nguyên văn Lời Chúa bên dưới, cùng xin giúp chúng con thấu hiểu Ngài nhiều hơn.
BÀI ĐỌC I: Đnl 18, 15-20 “Ta sẽ gầy dựng một tiên tri và Ta sẽ đặt lời Ta vào miệng người”.
Bài trích sách Đệ Nhị Luật.
Môsê nói với dân chúng rằng: “Chúa là Thiên Chúa các ngươi, sẽ gầy dựng giữa các ngươi và giữa những anh em các ngươi, một tiên tri như ta: các ngươi sẽ nghe lời người, như các nguơi đã xin cùng Chúa là Thiên Chúa các ngươi ở Horeb khi có cuộc đại hội, và các ngươi nói rằng: Tôi không muốn nghe tiếng Chúa là Thiên Chúa tôi nữa, tôi không muốn thấy ngọn lửa vĩ đại này nữa, kẻo tôi phải chết. Và Chúa phán cùng tôi: sự họ đã nói, là tốt. Ta sẽ gầy dựng giữa anh em của họ một tiên tri như ngươi; Ta sẽ đặt vào miệng người những lời của Ta, người sẽ nói cho họ biết tất cả những điều Ta sẽ truyền cho người. Và nếu kẻ nào không nghe lời của Ta mà người sẽ nói nhân danh Ta, chính Ta sẽ xét xử nó. Nhưng tiên tri nào tự phụ, nhân danh Ta mà nói lời Ta không truyền phải nói, hoặc nhân danh các thần khác mà nói, thì sẽ chết”.
BÀI ĐỌC II: 1 Cr 7, 32-35 “Người nữ đồng trinh lo lắng việc Chúa, để nên thánh”.
Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, tôi ước mong anh em khỏi phải lo lắng. Người không có vợ thì lo lắng việc Chúa, và tìm cách làm đẹp lòng Chúa.
Nhưng người đã có vợ thì lo lắng việc đời này, và tìm cách làm đẹp lòng vợ mình, và họ bị chia xẻ. Cũng thế, người phụ nữ không có chồng và đồng trinh thì lo lắng việc Chúa, để nên thánh phần xác và phần hồn. Còn người phụ nữ đã có chồng thì lo lắng việc đời này, và tìm cách làm đẹp lòng chồng mình.
Tôi nói thế vì ích lợi cho anh em, chứ không phải để gài bẫy anh em đâu, nhưng là để hướng dẫn anh em đến đời sống đoan chính và hoàn toàn khắng khít với Chúa.
PHÚC ÂM: Mc 1, 21-28 “Ngài giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
(Đến thành Capharnaum) ngày nghỉ lễ, Chúa Giêsu vào giảng dạy trong hội đường. Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ.
Đang lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: “Hỡi ông Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: “Hãy im đi và ra khỏi người này!” Thần ô uế liền dằn vặt người ấy, thét một tiếng lớn, rồi xuất khỏi người ấy.
Mọi người kinh ngạc hỏi nhau rằng: “Cái gì vậy? Đấy là một giáo lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh Người”. Danh tiếng Người liền đồn ra khắp mọi nơi, và lan tràn khắp vùng lân cận xứ Galilêa.
Vài hàng ghi chú và tâm tình.
Bài đọc I, trích ra từ Sách Đệ Nhị Luật là cuốn cuối trong năm sách đầu của Thánh Kinh Cựu Ước. Năm sách đó còn có tên Việt Nam là Ngũ Thư. Sách Đệ Nhị Luật 34 chương, thì 30 chương đầu đúc kết những lời dạy hay diển từ có tính cách khuyến dụ, cảm hóa và chinh phục của chỉ một mình Môsê cho con cái Israel. Với giọng điệu thiết tha triều mến, lời của Môsê coi như bản di chúc dài về luật lệ trước khi qua đời khi chưa vào Đất Hứa.
Cũng nên biết, Thánh Kinh không có sách “Đệ Nhất Luật” mà sao có sách “Đệ Nhị Luật”? Thưa đó là vì dịch từ tiếng Hy lạp của Thánh Kinh Do Thái là Bản Bảy Mươi, LXX. Bản nầy xuất hiện trong khoãng thế kỷ III – 50 TCN. Và Anh Ngữ ngày nay cũng dịch lại tên sách trên là “Deuteronomy” .
Thêm nữa, tên sách gọi là Đệ Nhị Luật, chính là dựa vào chương 17 câu 18: “Khi lên ngôi vua trị vì, vua phải sao lại cho mình một bản thứ hai của luật nầy vào một cuốn sách, sao y bản các tư tế Lêvi truyền lại”. Nên có khi sách nầy cũng được gọi là “Thứ Luật” hay Thánh Kinh Hội dịch là “Phục Truyền Luật Lệ Ký”.
Thật ra Đệ Nhị Luật là bản sao lại, bản diển giải của bộ luật đã có từ trước, mà không là bộ luật mới.
Sau Ông Môsê, Chúa đã hứa và ãã gởi nhiều tiên tri tới để nói với dân nhân danh Chúa (Gr. 1:7,9). Môsê là công cụ truyền thông(.com ngày nay) Lời Chúa cho Israel.
Những dòng được trích dẩn trong bài đọc I bên trên, cho thấy Dân Do Thái trông chờ một tiên tri quan trọng như Môsê, sẽ xuất hiện. Nên khi Chúa Giêsu đến, dân chúng đặt câu hỏi liên hệ tới niền hi vọng được ghi ra trong bài đọc nầy. Đến thời các tông đồ, lời các ông rao giảng, luôn chứng minh Chúa Giêsu là Đấng đã được Sách Đệ Nhị Luật báo trước cho nhân loại (Cv 3:22, 7:37).
Câu 20 cuối của bài đọc I, Chúa răn đe – cho sợ mà đừng vi phạm – bằng hình phạt cái chết cho tiên tri giả. Câu nầy cho thấy thời Môsê xa xưa đã xuất hiện hạng người nầy. Thời nào cũng có ngôn sứ giả (Ed. 34) không chỉ trong tư cách mà còn trong lời rao giảng không do Chúa truyền ban. Và chúa Giêsu cũng lên án hạng chăn chiên giả nầy (Ga 10: 5, 10).
Tới bài Phúc Âm của Thánh Luca, Chúa Giêsu đi vào và giảng dạy trong hội đường ngày nghỉ lễ tại Capharnaum cùng làm phép lạ đầu tiên, đuổi thần ô uế ra khỏi một người. Việc nầy làm dân chúng sửng sốt.
Ngược dòng Tân Ước chừng 30 năm, trong triều đại của Cêsar Augustô, đã có một biến cố sửng sốt âm như sóng ngầm, đã làm thay đổi thế giới và lịch sử nhân loại. Lý do vì trẻ Giêsu chào đời trong một tỉnh lẻ xa xôi bên Do Thái, đã biến đổ cả Đế Quốc La Mã thù nghịch đạo Chúa, trở thành nước của Chúa năm 313 SCN. Các thần minh của Roma phải lui bước cho một Thiên Chúa chân thật.
Trẻ Giêsu ấy lại có một sức mạnh siêu phàm đảo lộn nhiều giá trị hiện có thời đó, và thiết lập ra hệ thống nhiều giá trị mới mẻ. Như Chúa Giêsu giải thích Thánh Kinh trong hội đường khiến cho nhiều người phải kinh ngạc, vì :“Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ” (Mc.1: 22).
Có uy quyền, vì Người dùng quyền của mình – vì là chính Chúa quyền năng – mà giảng dạy chứ không lệ thuộc vào thế giá của người khác. Quyền này được chứng tỏ khi trừ được quỉ dữ. Trong khi các luật sĩ chỉ đọc và giải thích kinh thánh, mà không dám thêm một ý tưởng mới. Họ bó buộc con người vào luật lệ cũ. Còn Chúa Giêsu đưa ra Giáo lý mới mẻ . Cái mới mẻ đó làm cho con người tin nhận Ngài là Đấng Cứu Thế và tự biến đổi con người của mình từ xấu ra tốt. Thêm cái mới mẻ nữa, từ Lời và phép lạ làm cho danh tiếng Người lan tràn khắp vùng lân cận Galilê trước rồi lan ra khắp nước Do Thái và cả thế giới nữa.
“Lệnh truyền cho cả các thần ô uế và chúng phải vâng theo” (Mc.1: 27). Chính ma quỉ phải phục tùng uy quyền của Chúa Giêsu, đã cho thấy thời cứu độ đã tới.
Những ai tin cậy mến Chúa Kitô, thì cần học hỏi, suy niệm và sống Lời Chúa, để khám phá ra sự đổi mới của Lời Người, đồng thời nhận ra quyền năng của Chúa trên thế giới. Cha Gaston Courtois (1897-1970) cho biết: “Khi khiêm tốn sống Lời Chúa trong môi trường của mình, ta âm thầm trở nên “muối men” cho cả và thiên hạ, vì “ánh sáng” của những ai sống Lời Chúa, tỏa ra xa hơn người ta tưởng rất nhiều“.
Trở lại bài đọc II, Thánh Phalô khuyên nhủ tín hữu đang sống tại Côritô là một thành phố lớn hơn nửa triệu dân, thờ nhiều thần với lối sống xô bố phức tạp kể cả dâm ô và loạn luân. Trong tình cảnh đó, Thánh Phaolô đưa ra quan điểm rõ ràng về luân lý Kitô giáo cho người độc thân chuyên tâm hầu việc Chúa và cho hạng có gia đình. Mỗi bên đều có giá trị đưa đến đời sống đoan chính và khắng khít với Chúa.
Ngài không có ý phân biệt giai cấp tu hành độc thân hoặc người đời lập gia đình. Không bên nào cao bên nào thấp. Vì chưng kẻ tu hành độc thân nào cũng từ Chúa, qua con đường gia đình với cha mẹ mà sinh ra. Mỗi bên đều có giá trị trước Chúa khi biết tận hiến để thi hành việc Chúa theo nghĩa toàn thể trong công trình sáng tạo và cứu chuộc của Người.
Tóm lại rõ hơn, Thánh Phaolô đề cao sự thánh thiện nơi bản thân của mỗi người, trong mỗi ơn gọi với môi trường riêng. Đó là mỗi người tự thánh hiến cho Thiên Chúa cả hồn lẫn xác.
Lời kinh Nguyện
Ngày nay, quỉ dữ lan tràn và hoành hành khắp thế gian, chúng con rất cần Chúa cứu thoát khỏi quyền lực của ác thần.
Xin Chúa cho Hội Thánh gồm mọi thành phần dân Chúa luôn giữ vững niềm tin và can đảm, thi hành sứ vụ Chúa đã tuyền ban.
Dù quỉ dữ luôn tìm mọi cách lôi cuốn kẽ có quyền lực chống lại công lý, hòa bình, xin cho các nhà cầm quyền trên thế gian biết quan tâm đến công ích và hạnh phúc thật của mọi người.
Xin cho chúng con biết chạy đến cầu cứu Chúa, để được giải thoát khỏi quỉ dữ của chán nản và thất vọng.
Ác quỉ luôn cám dỗ con người ham mê vật chất, tiền bạc, danh vọng. Xin giúp họ đạo chúng con biết dùng của cải đời nầy chính đáng để phục vụ anh chị em trong Chúa. Amen.
Sau khi tuyển chọn các môn đệ, Chúa Giêsu đã bắt đầu sứ mạng cứu thế. Ngài giảng dạy trong TN4-B119
Sau khi tuyển chọn các môn đệ, Chúa Giêsu đã bắt đầu sứ mạng cứu thế. Ngài giảng dạy trong hội đường ở Capharnaum vào ngày Sabat khiến “thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người ”. Hành động trừ quỷ làm cho “mọi người kinh ngạc”. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Ngài có quyền năng và có sức mạnh chữa lành bệnh tật, xua đuổi ma quỷ và tẩy trừ tội lỗi để cứu chuộc loài người. Ngài tha tội và chữa lành thương tích trong tâm hồn con người. Dân chúng ngưỡng mộ, sửng sốt, kinh ngạc, thán phục và tuôn đến với Ngài.
Sửng sốt về lời giảng dạy
Chúa Giêsu vào hội đường ngày Sabat. Vì là thành phần của dân giao ước nên mọi người trong hội đường đều có quyền đọc và bình giảng một đoạn sách Thánh nào đó. Chúa Giêsu đọc sách và giảng dạy dân chúng. Thánh Maccô không cho biết Chúa đọc đoạn sách nào, cũng không nhắc đến nội dung giảng dạy hôm ấy. Maccô chỉ kể “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư”. Thiên hạ ngạc nhiên trước một kinh sư trẻ tuổi, phong thái giảng dạy như một Đấng có uy quyền khác với các kinh sư luật sĩ. Các kinh sư, là những người chuyên học hỏi Luật Môsê và dạy dỗ dân chúng, khi giảng dạy luôn dựa vào lời các bậc thầy nổi tiếng, càng ngược lên tới gần Môsê thì càng có giá trị. Còn Chúa Giêsu thì giảng dạy như Đấng có uy quyền: các người đã nghe…còn Tôi, Tôi bảo các ngươi…
Thiên hạ kinh ngạc vì chính quyền năng mà Chúa Giêsu dùng trong lời giảng dạy. Ngài giảng bằng năng quyền. Trong khi đó, các kinh sư thường dựa vào những lời trích dẫn từ các thầy thông luật vĩ đại trong quá khứ để hỗ trợ cho câu nói của mình. Điều này cho thấy có sự phân biệt giữa quyền năng và ảnh hưởng, giữa sức mạnh và sự kiểm soát. Một số người có quyền năng về mặt luân lý, nhưng lại không hề có sức mạnh; có người gây ảnh hưởng nhất, nhưng lại không cần phải kiểm soát những người mà họ gây ảnh hưởng. Một người có thể có tất cả quyền năng trên trần gian, lại vẫn thất bại trong vai trò của một người giảng dạy.
Thiên hạ còn kinh ngạc về giáo lý của Người. Giáo lý vừa đi vào nội tâm, vừa có một nội dung ưu việt hơn những bài học luân lý Cựu ước. Họ sửng sốt kinh ngạc là phải, bởi lẽ Chúa Giêsu không giải thích truyền thống của cha ông nhưng là giáo huấn của Chúa Cha. Người không công bố lề luật nhưng công bố Nước Thiên Chúa đã đến gần. Người xuất hiện như Đấng mang lấy thẩm quyền của chính Thiên Chúa tối cao và là Đấng ban lề luật mới là Tin Mừng và là Thần Khí.
Kinh ngạc vì uy quyền trong hành động Chúa Giêsu giảng dạy và thiết lập Nước Thiên Chúa bằng hành động thực hiện nội dung lời rao giảng. Trong hội đường hôm ấy, có một người bị thần ô uế ám. Thấy Chúa Giêsu, satan run sợ. Đối diện với Đấng quyền năng, satan sợ hãi: “Ông đến để tiêu diệt chúng tôi chăng?”. Nó tuyên xưng “Tôi biết ông là ai. Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Chúa bắt nó phải im ngay và Ngài dùng quyền năng trục xuất nó ra khỏi nạn nhân. Satan bị án phạt đời đời vì tội kiêu căng, tội gieo nọc độc cho Nguyên Tổ trong vườn địa đàng. Thiên Chúa không cho satan có quyền hành gì trên con người, trừ khi con người tự nguyện trở thành nô lệ.
Chúa Giêsu có quyền xoá bỏ tội lỗi cho con người. Ngài có quyền trên quỷ ô uế và thần dữ, bắt chúng vâng phục. Ngài ra lệnh cho chúng và chúng sợ hãi la lớn tiếng. Một uy quyền khác cũng cho biết Ngài có toàn quyền trên thế giới thiên nhiên khi thuyền chìm giữa biển vì sóng to gió lớn, các tông đồ sợ hãi kêu cầu và Ngài truyền lệnh cho sóng gió ngưng lại.
Chúa Giêsu là Đấng đầy uy quyền trong lời nói và nhiều hiệu năng trong hành động. Ngài đã giải thoát nhân loại khỏi ách thống trị của sự dữ. Con người được giải thoát khỏi ách nô lệ của bản năng và của sự ác để sống trong tự do của con cái Thiên Chúa. Đấng Thánh của Thiên Chúa, Đấng trong sạch vẹn tuyền đã đẩy lui và tiêu diệt sức mạnh satan.
Ma quỉ là một quyền lực cụ thể đang hoành hành trên thế giới. Người ta có thể gọi tên quyền lực này là Belzebuth, Lucifer, Belial, là con rắn xưa, là tên dối trá, tên cám dỗ… Tất cả đều chỉ thực tại duy nhất muốn phá vỡ kế hoạch Thiên Chúa và đưa con người vào nô lệ.
Nhìn vào thế giới hôm nay, chúng ta thấy biết bao hình thái nô lệ, biết bao xiềng xích của ác thần đang trói buộc con người. Điều kinh khủng là người ta không nhận ra mình đang bị nô lệ. Nô lệ cho quyền lực như Hitler, Pônpôt… Nô lệ cho tình dục, nô lệ cho ma túy, nô lệ cho cờ bạc rượu chè. Nô lệ cho mọi thứ chủ nghĩa cực đoan, mọi thứ cuồng tín tôn giáo. Nô lệ là thứ tự do giả hiệu mà ma quỷ luôn quảng cáo và muốn mời mọc con người. Ma quỷ thường được vẽ như con vật xấu xí đáng sợ, nếu thế thì con người dễ nhận ra nó và nó khó cám dỗ được. Nhưng thực tế, ma quỉ mang dáng dấp xinh đẹp, hấp dẫn, sang trọng. Nó tấn công bằng những thủ đoạn tinh tế ngọt ngào. Nó nắm rõ yếu điểm từng cá nhân từng tập thể để tấn công và mong hạ gục. Người ta tin vào những ngôi sao số mệnh, cầu cơ, bói toán, lá số tử vi. Tin vào những cái vô tri dẫn đến mê tín dị đoan sẽ làm nô lệ cho ma quỷ. Ngày nay nhiều người không còn tin vào sự hiện hữu của ma quỉ, đó là thành công lớn của ma quỉ.
Sứ mạng của Chúa Giêsu là giải thoát con người khỏi mọi hình thức vong thân và tha hóa. Cuộc đời Kitô hữu là một cuộc chiến chống lại cám dỗ và loại trừ sự dữ. Sống theo Chúa Giêsu, con người sẽ không bao giờ nô lệ cho bản năng và ma quỉ.
Lời Chúa là đèn soi cho con bước Tin mừng hôm nay cho thấy hiệu lực phi thường của Lời Chúa. Lời Chúa giảng dạy làm mọi người sửng sốt thán phục. Lời Chúa uy quyền phán ra khiến thần ô uế phải tuân phục; Lời Chúa khiến thần ô uế phải tuyên xưng Chúa là Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Là Kitô hữu, chúng ta phải đem Lời Chúa vào tâm hồn mình và làm cho nó trổ sinh hoa trái tốt. Là Kitô hữu, chúng ta cần học hỏi, suy niệm và sống Lời Chúa, để khám phá ra sự mới mẻ của Lời Người, đồng thời nhận ra quyền năng Chúa tỏ bày trong vũ trụ. Courtois khẳng định: “Nếu chúng ta khiêm nhu sống Lời Chúa trong môi trường của mỗi người, chúng ta sẽ âm thầm trở nên “muối, men” cho cả nhân loại vì “ánh sáng” của những người sống Lời Chúa chiếu tỏ xa hơn người ta tưởng rất nhiều”.
Sống Lời Chúa chính là soi mình vào tấm gương Chúa Giêsu để tìm cho mình một phong cách đẹp nhất, vì:“Lời Chúa là đèn soi cho con bước, là ánh áng chỉ đường cho con đi” (Tv 118, 105).
“Là Kitô hữu, chúng ta phải luôn dựa vào giáo huấn của Chúa Giêsu qua huấn quyền của Hội Thánh; Chúa Giêsu bảo đảm, chân lý của Ngài được nói qua Hội Thánh. Do đó, Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, cuộc đời các thánh và sự khôn ngoan của Đức Thánh Cha và các Giám Mục phải luôn luôn được sử dụng làm nền tảng cho tất cả những gì chúng ta thụ huấn. Thứ đến, trong mọi đấng bậc, chúng ta là những người rao giảng; chúng ta chịu trách nhiệm về điều mình rao giảng. Lời rao giảng của chúng ta phải đặt nền tảng trên thẩm quyền của Hội Thánh, cụ thể là đấng bản quyền; nội dung chúng ta rao giảng là Chúa Giêsu, Lời Ngài và Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo. Nhờ hiệp thông với Hội Thánh và cầu nguyện, những gì chúng ta rao giảng phải được phân định và chiếu soi bởi Thánh Thần…” (Lm Minh Anh).
Đức cha Matthêu Nguyễn Văn Khôi khuyên các linh mục: “Các con nhận thánh chức linh mục để thi hành chính sứ vụ cứu độ mà Đức Kitô đã thực hiện và ủy thác cho Hội Thánh. Sứ vụ ấy bao gồm ba nhiệm vụ chính, đó là giáo huấn với tư cách là thầy, thánh hóa với tư cách là tư tế và cai quản với tư cách là mục tử và thủ lãnh.Để thi hành nhiệm vụ giáo huấn trong Đức Kitô là Thầy, các con hãy siêng năng đón nhận Lời Chúa bằng việc lắng nghe và suy niệm trong lòng, rồi đem phân phát cho dân Chúa bằng lời giảng dạy. Hãy chuẩn bị bài giảng thánh lễ mỗi ngày thật chu đáo, để có thể làm cho Lời Chúa trở nên lương thực hàng ngày cho dân Chúa. Bài giảng thánh lễ phải ưu tiên tập trung vào Lời Chúa và giáo huấn của Hội Thánh. Không được tục hóa bài giảng bằng những nội dung và lời lẽ không phù hợp với sự thánh thiêng của phụng vụ Lời Chúa. Càng không được dùng tòa giảng để làm nơi phê bình chỉ trích cá nhân. Để cho lời giảng dạy có sức đánh động lòng người, các con cần có gương sáng đời sống thánh thiện đi kèm, vì người ta thích nhìn thấy bài giảng hơn là chỉ nghe bài giảng”.(x.Bài giảng lễ Truyền Chức Linh Mục, ngày 07.01.2021, tại Gp Quy Nhơn).
Chúng ta hãy cầu xin cho các mục tử biết noi gương Chúa Giêsu, vị Tôn sư khả kính đã giảng dạy như một Đấng có uy quyền, uy quyền của tình yêu và sự chữa lành.
Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới năm 2008 mời gọi: “Hãy để Lời Chúa vang lên lúc khởi đầu ngày sống, ngõ hầu Chúa là người nói đầu hết. Hãy để Lời Chúa vang vọng trong anh chị em vào buổi tối, để Chúa là người nói cuối cùng”. Chúng ta hãy ghi nhận và thực hiện lời mời gọi này để mỗi người, gia đình và cộng đoàn được Lời Chúa hướng dẫn mỗi ngày.
Xin Chúa cho chúng con sống tâm niệm lời Thánh Vịnh: “Hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa. Người phán: Anh em đừng cứng lòng nữa”.
Chẳng còn ít ngày nữa thì, chúng ta bước vào một năm mới. Và những ngày này, chúng ta xem TN4-B120
Chẳng còn ít ngày nữa thì, chúng ta bước vào một năm mới. Và những ngày này, chúng ta xem tivi, chúng ta xem báo chí, dường như tất cả, đều vội vã để mà tổng kết xem một năm qua: công ty của mình, doanh nghiệp của mình đã làm được gì và chưa làm được gì để người ta rút kinh nghiệm cho một năm mới được tốt đẹp hơn.
Và rồi, trong đời sống tâm linh, con thiển nghĩ rằng: mỗi người chúng ta cũng nên dừng lại một đôi chút, để kiểm điểm lại cuộc đời của mình, để nhìn lại cuộc đời của mình. Và trang Tin Mừng ngày hôm nay, nó rất là am hợp với mỗi người chúng ta . Thế nhưng mà, nếu mà vội vàng đánh giá, nếu mà vội vàng phán xét thì: bài Tin Mừng này chẳng có gì mà dính dáng đến tôi cả!
Bởi vì ngày hôm nay, nhiều người không tin rằng có ma quỷ. Họ thường giải thích các hiện tượng siêu nhiên do ma quỷ làm nơi con người thuần túy, chỉ là những triệu chứng của những bệnh thần kinh. Đang khi Kinh Thánh thì luôn luôn khẳng định sự hiện diện của ma quỷ. Ở trong Kinh Thánh thì (Kh 20, 2), ( Mc 1 , 23), ma quỷ được gọi là con mãng xà, Satan hay là thần ô uế. Chúng vốn là thiên thần trên trời, nhưng do phản nghịch với Thiên Chúa nên đã bị tống xuống hỏa ngục (Kh 20, 7 - 10). Chúng được Thiên Chúa cho phép thử thách đức tin của chúng ta như trường hợp của ông Gióp (Giop 1, 6; 2, 7 ). Chúng cám dỗ con người ta phạm tội, như là cám dỗ Eva (St 2, 24) . Cám Dỗ Chúa Giêsu ( Lc 4, 2) . Chúng ám hại người ta giết 7 người chồng của bà Sara (Tb 3, 8; 6, 14) chúng trói buộc người ta bằng cách làm cho họ bệnh tật (Lc 13, 16) .
Và rồi sứ mạng của Chúa Giêsu đến là tiêu diệt ma quỷ. Người không nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ (Mc 3, 22 - 26) nhưng mà nhờ quyền năng của Thiên Chúa. Và kết quả là ma quỷ khuất phục (Ga 14, 30) Người cũng ban cho các tông đồ đuợc quyền trừ quỷ (Mc 6, 7) Và giờ tử nạn Phục Sinh của Người là lúc mà ma quỷ bị tống ra ngoài và bị xét xử (Ga 12, 31; 16, 11).
Và rồi tới thời sơ khai chúng ta thấy Philipphê đã nhờ Thánh Thần mà trừ quỷ (Cv 8, 7), thánh Phaolô cũng có khả năng trừ quỷ ở (Cv 19, 11 - 12).
Ngày nay ma quỷ vẫn đang hoàn thành bằng cách nhập vào những người yếu đức tin (Mt 13, 43- 45) . Chúng hành hạ người ta như là sàn gạo vậy ( Lc 22, 31) , và rồi chúng như sư tử luôn rình mồi cắn xé (1 Pr 5 , 8). Và nếu Hội Thánh vững tin sẽ vượt thắng ma quỷ đến ngày tận thế.
Chúng ta thấy, cuộc đời của mỗi người chúng ta: trong cái nội tâm cuộc đời của mỗi người, chúng ta luôn bị giằng co giữa cái tốt và cái xấu: điều mà chúng ta biết là tốt, chúng ta lại không làm, và điều xấu, chúng ta lại cố tình làm.
Và ngày hôm nay, chúng ta thấy, Chúa Giêsu đến như một Đấng có uy quyền và đã quát mắng: Hãy im đi và ra khỏi người này, thần ô uế liền dằn vặt và xuất khỏi người ấy. Thần ô uế ngày hôm nay cũng rình rập mỗi người chúng ta bằng nhiều hình thức lắm! Nhiều khi người ta nói quỷ ám, chúng ta vội vàng xét đoán và suy tính điều này điều kia. Như Chúa Giêsu nói : cái gì ở ngoài vào chưa chắc là sạch và cái gì ở trong ra ngoài là ở ô uế. Những gì mà chúng ta cho ra ngoài là ô uế, chính trong cái nội tâm của chúng ta: từ lời ăn tiếng nói, từ hành động của chúng ta. Nó ô uế bởi vì: ngày hôm nay giữa một cái xã hội mà người ta cổ súy cho một cái lối sống vô thần, và người ta đánh mất Đức Tin. Người ta không còn cảm thức về đức tin nữa, người ta không còn cảm thức về sợ tội nữa.
Ngày hôm nay, chúng ta nhìn thấy gia đình đổ vỡ tương quan, huynh đệ tương tàn, anh chị em gia đình ly tán chia cắt nhau. Chỉ vì cái chủ nghĩa vật chất, chủ nghĩa hưởng thụ nó lên ngôi.
Ngày hôm nay, người ta loại trừ những giá trị đạo đức ra , người ta không còn trân trọng những giá trị đạo đức, những giá trị nhân văn của con người nữa! Và tất cả những cái trào lưu hưởng thụ, chủ nghĩa cá nhân, nó đã làm cho tâm hồn con người ta ra ô uế.
Chúng ta cứ nhớ lại đi, cách đây vài chục năm ở cái thời bao cấp nghèo, người ta sống người ta chia sẻ với nhau từng chút từng chút một. Người ta chia sẻ với nhau bằng cả tấm lòng, có thể đói nhưng người ta chia nhau, nhưng mà ngày hôm nay thì người ta càng dư thì người ta càng khép lòng với nhau. Và người ta tôn sùng cái chủ nghĩa cá nhân đến mức khó hiểu. Giành giật với nhau từng chút một, chụp giật với nhau một tí một. Chúng ta thấy tội nghiệp , những cảnh mà chúng ta thấy nhan nhãn ngoài đường : những anh xe ôm truyền thống và những anh xe ôm Gráp xe ôm thời công nghệ giành nhau chỉ vài chục ngàn đồng bạc, người ta có thể đổ máu ...và nhiều nhiều lắm! Ra đường có thể cọ quẹt nhau một tí xíu, người ta sẵn sàng thượng cẳng chân, hạ cẳng tay. Và trong đời sống gia đình cũng vậy: bạo lực... Bạo lực lên ngôi, không chỉ là bạo lực bằng việc mà vợ chồng đánh đập nhau bằng gậy, bằng dao, nhưng mà bằng lời nói, bằng những hành động, bởi vì họ không còn cảm thức về tình yêu nữa. Ngày hôm nay, thần ô uế nó vẫn ám vào trong cuộc đời của mỗi người chúng ta. Và liệu rằng, chúng ta tìm cách như thế nào để khử trừ cái thần ô uế đó?
Chúa Giêsu ngày xưa cũng đã trao quyền cho các môn đệ, để các môn đệ có quyền trên các thần ô uế và trừ quỷ được, miễn làm sao các môn đệ bám vào Chúa, sống kết hiệp mật thiết với Chúa. Và mỗi một người chúng ta cũng luôn bị giằng co, giữa cái bám vào Chúa hay bám vào cái tôi của mỗi người chúng ta. Chúng ta biết, chúng ta làm điều đó là chúng ta làm hại người khác, làm buồn người khác nhưng chúng ta cố làm! Bởi vì sao ? Bởi vì chúng ta không có một đời sống nội tâm kết hợp mật thiết với Chúa. Nếu chúng ta kết hợp mật thiết với Chúa, chúng ta cũng sẽ có quyền mà Chúa trao cho chúng ta, để chúng ta trừ quỷ chúng ta trừ những thần ô uế ám vào trong cuộc đời của chúng ta . Còn nếu như chúng ta buông cuộc đời của chúng ta để cho cuộc đời chúng ta theo sự hướng dẫn của ma quỷ, thì chắc chắn khi đó Con người của chúng ta từng hành động lời nói của chúng ta, mang dáng dấp của ma quỷ.
Ngày hôm nay cuối năm, những ngày cuối năm, chúng ta có cơ hội để chúng ta dừng lại, để chúng ta kiểm điểm cuộc đời chúng ta, để chúng ta kiểm điểm lại cái lối sống của chúng ta. Nguyên một năm rồi, chúng ta thu nhập được bao nhiêu? Nhưng rồi, cái đời sống tinh thần, cái đời sống đạo đức, cái đời sống thiêng liêng của chúng ta, chúng ta thu nhập được bao nhiêu? chúng ta lần chuỗi Mân Côi được bao nhiêu? chúng ta viếng Chúa đuợc bao nhiêu ? Chúng ta đến với Chúa được bao nhiêu trong Thánh Lễ? Và đến với thánh lễ đó, chúng ta có cầm lòng cầm trí, có đặt mình hoàn toàn trước mặt Chúa, hay là đến với Chúa nhưng lòng chúng ta vẫn còn xao xuyến những chuyện làm ăn bên ngoài.
Chỉ mình ta mới đối diện với Chúa, và chỉ có một mình ta mới tính sổ với Chúa được thôi.
Cuộc đời của mỗi người chúng ta, vẫn mang trong mình những yếu đuối của phận người. Khi và chỉ khi chúng ta bám vào Chúa thì lúc đó cuộc đời của chúng ta mới nhẹ nhàng thanh thản bình an. Còn khi chúng ta sống mà chúng ta buông thả theo những thói hư tật xấu, buông thả theo cái con người vật chất phàm hèn của chúng ta, thì lúc ấy chúng ta để cho thần ô uế và ma quỷ ám.
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta, để chúng ta bám vào Chúa. Để ngày mỗi ngày, chúng ta để cho Thánh Thần hướng dẫn cuộc đời của chúng ta. Xin Chúa thêm ơn và ở lại với mỗi người chúng ta. Amen.
Suốt thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã nói với dân Ngài qua các ngôn sứ là những người được chính TN4-B121
Suốt thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã nói với dân Ngài qua các ngôn sứ là những người được chính Ngài chọn giữa dân. Sách Đệ Nhị Luật đã ghi lại lời ông Môsê nói với dân: “Từ giữa anh em, trong số các anh em của anh em, Đức Chúa, Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh em ; anh em hãy nghe vị ấy”, và Lời của Thiên Chúa nói với Môsê về sứ vụ của ngôn sứ : “Ta sẽ đặt những Lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy.” (Đnl 18,15.18).
Như thế, ngôn sứ là người thuộc về Thiên Chúa, vì được Thiên Chúa chọn, đồng thời thuộc về dân, vì được chọn từ dân để phục vụ dân, khi chuyển đến dân Lời Thiên Chúa muốn nói với họ. Vì thế, ngôn sứ là người đáng được yêu mến, kính trọng và lắng nghe, vì là phát ngôn viên của Thiên Chúa, trung gian giữa Thiên Chúa và con người, gần gũi con người, và được Thiên Chúa bảo đảm, phù giúp, với điều kiện ngôn sứ ấy phải trung tín và trung thực với Lời Ngài, không làm sai lệch Lời Ngài, như chính Ngài đã căn dặn : “Kẻ nào không nghe những Lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta, thì chính Ta sẽ hạch tội nó. Nhưng ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết” (Đnl 18,19-20).
Lịch sử Cứu Độ đã minh chứng sự trung thành, và dũng cảm của các ngôn sứ, khi các vị sẵn sàng chịu chết, chiu mọi nhục hình vì nói Lời Thiên Chúa, như Gioan Tiền Hô, vị “ngôn sứ gạch nối giữa Cựu Ước và Tân Ước” đã bị vua Hêrôđê chém đầu, vì nói sự thật khi ngăn cản vua cưới bà Hêrôđia, vợ ông Philipphê, anh trai mình (x. Mt 14,3-12).
Tin Mừng chúa nhật hôm nay đưa chúng ta đi vào Tân Ước, thời đại của Đức Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa, thời đại mà chính Thiên Chúa xuống thế gian, ở giữa con người để nói với con người. Trong thời Tân Ước, chính Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người nói với con người bằng ngôn ngữ của loài người, qua tiếng nói của con người, như vào những ngày đầu của sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Ngài đã vào hội đường ở Caphácnaum và giảng dậy. Ở đây Ngài đã làm “thiên hạ sửng sốt về lời giảng dậy của Ngài, vì Ngài giảng dậy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư” (Mc 1,22).
Ngài đã làm mọi người sửng sốt về nội dung giáo lý, vì Ngài đề nghị một giáo lý mới, một con đường mới, một giới luật mới là chính Ngài, chứ không như các kinh sư chỉ nhai đi nhai lại luật Môsê một cách giáo điều, khô khan, hay cứng cỏi quy chiếu vào những “bổn cũ” của người đi trước.
Ngài làm toàn thể cử tọa hôm ấy ngạc nhiên, ngưỡng mộ, vì phong cách, thái độ, và lối nói rất đáng kính và thuyết phục của Ngài như Tin Mừng Gioan đã viết : “Xưa nay chưa hề đã có ai nói năng như người ấy!” (Ga 7,45). Điều này chứng tỏ Đức Giêsu không giảng như các kinh sư, cũng không như ngôn sứ của Cựu Ước, nhưng trong cương vị Ngôi Hai Thiên Chúa, trong tư thế Thiên Chúa làm người, với sứ vụ của Ngôi Lời nhập thể nói với và cứu chuộc loài người.
Sự thật Đức Giêsu là Ngôi Lời của Thiên Chúa đang trực tiếp nói với mọi người trong hội đường còn được xác nhận, minh chứng qua sự kiện một người bị qủy ô uế ám có mặt trong hội đường đã thình lình la lớn : “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi : ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (Mc 1,24), và Đức Giêsu đã ra lệnh cho thần ô uế ra khỏi người này trước sự kinh ngạc của mọi người.
Thực vậy, bài học mà chúng ta là những người đang sống trong thời đại của Chúa Thánh Thần có thể tìm thấy trong Tin Mừng Máccô hôm nay, đó là đừng đóng chặt cửa lòng nữa, nhưng biết mở lòng ra để đón nhận tiếng Thiên Chúa nói với lòng mình, qua Giáo Hội, vì Giáo Hội là “công trình hoạt động” của Chúa Thánh Thần. Ngài ở với Giáo Hội, hướng dẫn Giáo Hội như Đức Giêsu đã căn dặn các Tông Đồ trước khi lên đường chịu chết : “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.” (Ga 14,26). Với trách nhiệm gìn giữ, bảo toàn kho tàng chân lý đức tin, và sứ vụ loan báo Tin Mừng là “kho báu Nước Trời” ấy, Giáo Hội tiếp nối sứ mệnh cứu độ của Đức Giêsu, dưới sự trợ giúp của Chúa thánh Thần, và là ngọn hải đăng cho chúng ta không mất hướng, lạc đường.
Sở dĩ chúng ta cần học bài học tin tưởng và lắng nghe Giáo Hội, vì ở thời đại chúng ta hôm nay, người ta đang dồn hết lực lượng để tách Đức Giêsu ra khỏi Giáo Hội, cắt Giáo Hội lìa khỏi Đức Giêsu, vì ma qủy, thế gian biết : bao lâu chúng ta gắn bó với Giáo Hội là Thân Thể mầu nhiệm, Hiền Thê yêu dấu của Đức Giêsu, bấy lâu kho tàng đức tin, “chân lý Đức Giêsu”, và công trình cứu độ nhân loại của Thiên Chúa sẽ không bị suy giảm, rạn nứt.
Quanh ta, nhiều người vẫn mải mê trang điểm cho vẻ bề ngoài thật ấn tượng. Phần mình, cũng có TN4-B122
Quanh ta, nhiều người vẫn mải mê trang điểm cho vẻ bề ngoài thật ấn tượng. Phần mình, cũng có lúc ta muốn được trở nên tốt lành, được người khác biết đến. Có những khi, ta chợt nhận ra bản thân mình cũng mang những mặt nạ để che giấu đi phần xấu xí. Thật tệ hại khi ta bị Satan cầm buộc trong những đam mê xấu và lầm lạc trong con đường tội lỗi. Chúa ở đâu trong trái tim của ta? Ta có để cho Đấng Thánh của Thiên Chúa giải thoát mình khỏi quyền lực của Satan không?
Hôm nay, Chúa Giêsu rao giảng tại Caphácnaum và chữa lành một người bị quỷ ám. Người vừa giảng dạy xong thì một người bị thần ô uế nhập la lên rằng: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (Mc 1, 23-24). Thần ô uế tin Chúa Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa nhưng nó không thực hiện thánh ý của Người. Nó đến để hủy diệt. Còn Chúa Giêsu, Người đến để giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi, khỏi quyền lực tử thần. Người yêu thương người tội lỗi cách đặc biệt. Chúa Giêsu đã mạnh mẽ quát mắng thần ô uế: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” (Mc 1, 25). Người cũng mời gọi ta hãy có thái độ dứt khoát với Satan, không đối thoại với nó. Tự sức mình, làm sao ta có thể chiến thắng được quyền lực của sự dữ. Chúa Giêsu đã mạnh mẽ rao giảng là để ta nhận ra uy quyền của Người, Người cho ta thấy tình thương vô bờ bến của Người qua những việc làm đầy quyền uy. Chính ta cũng đã hơn một lần cảm nhận được Thiên Chúa yêu thương mình. Chúa Giêsu đã nhiều lần hứa với ta: Thầy sẽ không bỏ con mồ côi (x. Ga 14,18). Bởi Người biết rõ sự yếu hèn của ta, Người hiểu rõ những giới hạn của ta. Người sẽ ở trong ta và làm cho ta mạnh sức. Nhưng, ta cần làm gì để được ở trong Chúa đây?
Satan tin Chúa Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa nhưng nó không thực hành lời của Người. Hay nói cách khác, nó tin Chúa nhưng nó không yêu mến Chúa. Bởi đó, nó luôn chờ sẵn, luôn rình rập để lôi kéo mọi người về phe nó. Là môn đệ của Thầy Giêsu, ngoài việc say mê nghe Lời của Người, ta cần phải thi hành những Lời người dạy. Nếu Lời Người làm ta sửng sốt hay cảm động, ta cũng hãy để Lời Người biến đổi trái tim ta. Mỗi khi thực hành những điều Chúa dạy, ta được ở gần Chúa hơn. Mỗi hành động yêu thương mà ta dành cho người khác đều gia tăng lòng yêu mến Chúa trong ta. Ta hãy vươn lên, hãy đứng dậy sau mỗi lần vấp ngã. Đừng chùn bước, đừng lo lắng hay sợ hãi trước khó khăn. Hãy tin tưởng và yêu mến Chúa. Người sẵn sàng mở rộng trái tim đón nhận ta. Hãy nhìn vào trái tim bị đâm thâu của Người, trái tim ấy sẽ không bao giờ khép lại là để ta vào nương náu. Người yêu ta bởi Người là Tình Yêu (x 1 Ga 4,8).
Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã không ngừng yêu thương con. Cảm tạ Chúa đã cho con cảm nhận được tình yêu Chúa đang ở xung quanh con và trong con. Amen.
Muốn có được một tương giao tốt đẹp và bền lâu, chúng ta phải hiểu được mong muốn, nhu cầu TN4-B123
Muốn có được một tương giao tốt đẹp và bền lâu, chúng ta phải hiểu được mong muốn, nhu cầu của đối phương. Nói khác đi, chúng ta phải biết và hiểu về người đó.
Là người Kitô hữu, muốn đến với Chúa, muốn yêu Chúa và yêu người khác, chúng ta cũng phải biết về Chúa, biết về người khác. Vậy làm sao chúng ta biết được Người? Trong Tin Mừng Máccô, thánh sử Máccô đã tường thuật lại việc Chúa Giêsu vào hội đường và giảng dạy. Thiên hạ đã sửng sốt về lời dạy của Người. Vì Người giảng dạy như một Đấng uy quyền, chứ không như các kinh sư. Mọi người còn sững sờ đến nỗi bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì?”, lời dạy thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh. Danh tiếng Người đồn ra khắp cả vùng lân cận miền Galilê (x. Mc 1, 21-28). Mọi người đã nhận biết Người qua việc nghe lời giảng và nhìn thấy việc Người làm.
Phần chúng ta, chúng ta nhận biết, đi theo và yêu Người bằng cách nào? Chúng ta nuôi dưỡng mối tình yêu đó ra sao? Chúng ta có thể nhận ra Chúa qua người khác, qua bài hát, trong đau khổ hay lúc thành công… Chúa Giêsu và Hội Thánh đã không ngừng kêu gọi mọi người nhận biết, đi theo và yêu mến Chúa bằng cách lắng nghe và sống Lời Chúa mỗi ngày, năng lãnh các Bí tích, nhất Bí tích Thánh Thể. Có thế, chúng ta mới đạt đến sự nhận biết và yêu mến Người trọn vẹn. Có người tưởng mình đã nhận biết và yêu Chúa nhiều rồi, nhưng khi đi vào đau khổ, họ mới nhận ra mình chưa nhận biết, chưa theo Chúa và yêu Chúa đủ. Vậy, muốn giữ tình bạn lâu dài, chúng ta phải năng gặp gỡ, trao đổi, cho đi, cùng có sự nhường nhịn. Đối với Chúa, chúng ta càng phải thực hiện những điều ấy thường xuyên hơn và ý thức hơn. Vì Chúa là Đấng uy quyền và vô hình. Thánh Augustinô đã thốt lên: “Con đã yêu Chúa quá muộn màng”. Ước gì chúng ta cũng có được một chút tâm tình như Thánh nhân: nhận biết và yêu mến Người. Thánh Giêrônimô đã quả quyết: “Không biết Kinh Thánh là không biết Đức Kitô”.
Lạy Chúa là Cha nhân lành! Chúng con cảm tạ Chúa đã không ngừng tỏ mình cho chúng con. Xin cho chúng con không ngừng nhận biết, đi theo và yêu mến Chúa mỗi ngày qua việc đọc, lắng nghe Lời Chúa và năng đến với Chúa trong Bí tích Thánh Thể. Chỉ có thế, chúng con mới yêu Chúa trọn vẹn mỗi ngày. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen.
Tại hội đường Caphácnaum, Đức Giêsu dùng lời uy quyền giảng dạy cho dân chúng. Cũng tại TN4-B124
Tại hội đường Caphácnaum, Đức Giêsu dùng lời uy quyền giảng dạy cho dân chúng. Cũng tại đây, Người chữa lành cho một người bị quỷ ám. Những điều Người giảng dạy, những việc Người làm khiến cho dân chúng không khỏi kinh ngạc và sửng sốt: “Thế nghĩa là gì? Lời giảng dạy thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh.” (Mc 1, 27).
“Lời giảng dạy thì mới mẻ”. Hẳn nhiên những người Do Thái đã từng nhiều lần đấn hội đường và đã từng được nghe nhiều kinh sư lỗi lạc giảng dạy. Có khi nào vì họ đã quá quen với cách giảng dạy của các kinh sư và vì quá quen nên dẫn đến nhàm chán? Thường chúng ta sẽ dễ để nói rằng: “nghe rồi, khổ lắm, nói mãi”. Còn hôm nay, trước những gì họ chứng kiến, nghe và thấy, họ vô cùng sửng sốt. Họ nhận thấy có một sự khác biệt rất lớn giữa cách giảng dạy của các kinh sư và Đức Giêsu. Các kinh sư chỉ giảng dạy bằng luật và bám vào luật một cách chi li. Đã rất nhiều lần Đức Giêsu lên tiếng chỉ trích thái độ đạo đức giả của nhóm kinh sư. Bởi họ chỉ giảng dạy nhưng chính họ thì không buồn động ngón tay vào (x. Mt 23, 2-7). Còn Đức Giêsu? Ngài giảng dạy bằng cả cuộc sống, lời nói đi đôi với việc làm. Hơn nữa, chính Người là Ngôi Lời của Thiên Chúa. Ngôi Lời uy quyền. Lật dở những trang Tin Mừng, chúng ta sẽ thấy rõ điều đó. Người dạy tha thứ, trên thánh giá, Người đã xin Cha tha cho những kẻ làm hại mình. Người dạy yêu thương, trên thánh giá Người diễn tả một tình yêu cho đến cùng… trong các giáo huấn của mình, Đức Giê su thường nói rằng, “anh em đã nghe luật xưa dạy rằng, còn Thầy, thầy bảo anh em” (x. Mt 5, 21-22). Đó là sự mới mẻ trong cách giảng dạy của Đức Giêsu.
“Người dạy lại có uy quyền”. Tại hội đường, khi Đức Giêsu lên tiếng quát mắng thần ô uế: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này”, dân chúng nhận thấy sự uy quyền của Ngài (Mc 1, 25). “Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh” (Mc 1, 27). Qua dòng lịch sử, chúng ta nhận thấy sự hiện diện song song củaThiên Chúa và các thần ô uế hay còn gọi là ma quỷ. Các thần ô uế biết rõ xuất thân của Đức Giêsu: “Ông Giê su Nazareth, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi, ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1, 24). Sự xuất hiện của Đức Giêsu khiến cho các thần ô uế phải run sợ. Chúng thuộc về bóng tối. Còn Đức Giêsu thuộc về ánh sáng hay nói đúng hơn, Người chính là ánh sáng. Ánh sáng đến xua tan đêm tối. Ngài cũng là Ngôi Lời của Thiên Chúa, mọi loài nhờ Người mà được tạo thành (x. Ga 1, 3). “Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú” (Tv 33, 6-7).
Chúng ta đã và đang phải đối diện với muôn vàn khó khăn, thử thách. Một trong những thử thách ấy đến từ các thế lực bóng tối. Ngày xưa, các thế lực ấy được gọi là các thần ô uế, ngày nay, chúng được gọi là ma quỷ. Chúng ta không thể phủ nhận sự hiện diện của chúng. Nhưng chúng ta đừng sợ vì chúng ta có Thiên Chúa ở cùng. Ngài ở với chúng ta qua Con Một yêu dấu. Điều chúng ta phải làm là tin nhận Đức Giêsu là Đấng Chúa Cha sai đến, đi theo mọi điều Ngài truyền dạy. Ngài vẫn hiện diện, đồng hành cùng nhân loại chúng ta qua mọi thời và mọi nơi như lời Đức Giêsu đã hứa: Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” ( Mt 28, 20). Hôm nay, Đức Giêsu vẫn tiếp tục dùng Lời uy quyền của Người mà giảng dạy và cứu giúp chúng ta. Chúng ta hãy tin tưởng và phó thác cuộc đời mình cho Ngài. Nhờ đó, chúng ta thoát khỏi sự tấn công của chúng.
Diễn viên Benedict Cumberbatch (sinh năm 1976, đóng vai Sherlock Holmes trong bộ phim Sherlock TN4-B125
Diễn viên Benedict Cumberbatch (sinh năm 1976, đóng vai Sherlock Holmes trong bộ phim Sherlock của đài truyền hình BBC) nhận định: “Sự nổi tiếng là một điều kỳ dị. Bạn phải tách mình ra khỏi nó. Người ta thấy giá trị ở bạn mà chính bạn không thấy.”
Nổi tiếng và nhiều người biết là điều vừa giống nhau vừa khác nhau – có tốt, có xấu. Nổi tiếng là nhiều người biết khi nhân vật nào đó có tài đức, tự lực cánh sinh, hoạt động nghiêm túc chứ không lóm lém, trá hình; nổi tiếng dạng thấp hèn là người lấy của người khác làm của mình, cướp công sức của người khác, tạo ra xì-căng-đan (scandal – vụ bê bối). Dạng này có vẻ xuất hiện nhiều: các văn nghệ sĩ có tiếng mà không có miếng vì bất tài, chỉ lưu manh, “lượm lặt” của người khác và ráp nối một cách khiên cưỡng, các câu lạc bộ thơ nhạc chỉ tâng bốc nhau chứ chẳng có gì đáng hội họp. Thùng càng rỗng thì càng kêu to. Đời đã vậy mà đạo cũng thế, cỏ lùng lúc nào cũng nhiều, triệt chỗ này thì nó trồi chỗ khác, còn lúa trồng hoài không lại cỏ.
Vấn đề nổi cộm trên thế giới hiện nay là Joe Biden, được gọi là đắc cử tổng thống Hoa Kỳ. Chỉ mới vô Tòa Bạch Ốc được 2 ngày mà đã “gay gắt” với hội đồng giám mục Hoa Kỳ. Là người Công giáo mà ủng hộ phá thai thì thật là nguy hiểm. Ông ta “nổi tiếng” vài lĩnh vực, nhưng toàn là lĩnh vực xấu xa!
Có vẻ rất ư bình thường khi cuộc sống hằng ngày cứ trôi đi, trôi đi, chậm mà nhanh… Thế nhưng vẫn có nhiều chuyện lạ với nhiều mức độ khác nhau. Người ta có “máu tò mò” nên thấy cái gì khác thường cũng nhìn ngó, bàn ra tán vào, thêm mắm dặm muối, gia vị nhiều hơn chất liệu chính. Thật đáng sợ! Ít có người đi đường mà không để ý mấy thứ vớ vẩn. Cũng vì lợi dụng tính hiếu kỳ thái quá của con người mà có những kẻ xấu đồn thổi những chuyện không đâu nhằm lừa bịp. Nhẹ dạ cả tin thì “chết” thôi. Nhưng người ta đâu có biết “sợ” là gì. Thế thì “chết” thật!
Thực sự có những thứ kỳ lạ thì người ta lại không để ý, vì cứ cho rằng đó là “tự nhiên.” Thật ra đó là một phép lạ lớn lao, lớn lắm, quen mà lạ, lạ mà quen: Không khí. Thật vậy, nếu thiếu không khí trong một khoảng thời gian rất ngắn thì người ta sẽ ngộp và… chết mà không còn chút hơi thừa để ngáp, mọi sinh vật khác cũng chung số phận như thế, kể cả coronavirus đang hoành hành trên thế giới suốt hơn một năm qua.
Ai cũng thích nổi tiếng, thế nên người ta thường nói nhiều để người khác chú ý, dù chẳng đáng gì giữa một đám tiệc – cưới hỏi hoặc dịp mừng gì đó, thậm chí kể cả ma chay. Giới thiệu nhau đôi khi cũng quá lời, gọi là nịnh hót – vừa nịnh vừa hót!
Có nhiều chuyện lạ phổ biến trong Kinh Thánh, đặc biệt là thời Cựu Ước. Một trong các chuyện lạ đó là sự xuất hiện của các ngôn sứ – tiên tri. Thiên Chúa đã cấm hành nghề bói toán, chiêm tinh, tướng số, phù thuỷ, bỏ bùa, ngồi đồng ngồi cốt, chiêu hồn, (Ðnl 18:10-11) thế mà con người vẫn nhiễm “máu” mê tín, dị đoan, ngay cả những người Công giáo ngày nay vẫn chưa “dứt” nổi kiểu mê tín này. Đó là máu hiếu kỳ, tính tò mò, chạy đua đi tìm… “sự lạ.” Thấy gì khác thường một chút đã cho là “phép lạ.” Đức tin còn ấu trĩ mà cứ tưởng là tín thác.
Kinh Thánh đã xác định: “Từ giữa anh em, trong số các anh em của anh em, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh em; anh em hãy nghe vị ấy.” (Ðnl 18:15) Điều đó xảy ra vì dân chúng đã xin với Đức Chúa tại núi Khôrếp, trong ngày đại hội. Họ chân thật cho biết: “Chúng tôi không dám nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi nữa, chúng tôi không dám nhìn ngọn lửa lớn này nữa, kẻo phải chết.” (Ðnl 18:16)
Và chính Đức Chúa chứng thực: “Chúng nói phải.” (Ðnl 18:17) Rồi Ngài cam kết: “Từ giữa anh em của chúng, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng, Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy. Kẻ nào không nghe những lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta thì chính Ta sẽ hạch tội nó. Nhưng ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết.” (Ðnl 18:18-20) Bịa đặt hoặc cố chấp thì ai cũng sẽ bị trừng phạt, dù là người nói hoặc kẻ nghe.
Tháng ngày cứ đều đặn trôi qua, biết bao điều lạ mà người ta lại không cho là lạ, rồi cứ mơ tưởng “sự lạ” ở đâu đâu, chẳng khác chi là ảo tưởng, thích chuyện hão huyền. Cứng đầu cứng cổ thật chứ đâu khác gì dân Israel xưa. Vậy mà vẫn tự cho mình là “ngoan đạo.” Kể cũng “lạ” thật. Điều đó cho thấy con người rất háo danh, đến độ bất chấp. Đơn giản như những người nợ như chúa chổm, nhưng vẫn sĩ diện, mượn đầu heo nấu cháo rồi nổ bung ta-lông luôn!
Thực sự nhận biết các điều lạ xảy ra ngay bên mình hằng ngày nên Thánh Vịnh gia không thể im lặng, nên đã lên tiếng mời gọi: “Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta, vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn.” (Tv 95:1-2) Không thể trì hoãn sự sung sướng đang trào dâng như bọt bia trào miệng ly vậy.
Là thụ tạo, chúng ta không chỉ phải chúc tụng Chúa mà còn phải thờ lạy Ngài, đó là bổn phận và trách nhiệm của tín nhân, những người luôn được Ngài không ngừng trao ban hồng ân mỗi ngày, đơn giản và cơ bản nhất là hơi thở – liên quan không khí và sự sống. Tục ngữ Việt Nam nói: “Ăn cây nào, rào cây nấy.” Đó là điều hoàn toàn hợp lý. Nhận lãnh thì phải biết ơn. Đồng thời còn phải mời gọi người khác cùng hành động: “Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta. Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt. Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa!” (Tv 95:6-7) Ước gì điều đó luôn được thực hiện với lòng thành kính của mỗi chúng ta để vinh danh Thiên Chúa.
Từ ngàn xưa, thấy dân chúng thoái hóa, lòng chai dạ đá, Thiên Chúa đã nhắc nhở: “Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mơriva, như ngày ở Maxa trong sa mạc, nơi tổ phụ các ngươi đã từng thách thức và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm.” (Tv 95:8-9) Lời nhắc nhở đó cũng là mệnh lệnh. Chắc hẳn đó cũng là lời khuyến cáo dành cho mỗi chúng ta ngày nay, ngay thời điểm này.
Cuộc sống có nhiều dạng xơ cứng – với mức độ khác nhau. Xơ gan là một dạng ung thư bất trị, nhưng xơ cứng tâm linh còn nguy hiểm hơn, vì đó là dạng “ung thư tâm linh,” có thể bất trị cả đời này lẫn đời sau, nhưng nếu chịu điều trị thì lại khả dĩ chữa lành. Đó là một dạng “nổi tiếng” thực sự, nhưng thuộc dạng tiêu cực, xấu xa.
Đề cập một dạng lạ về tâm linh, Thánh Phaolô nói: “Tôi muốn anh chị em KHÔNG phải bận tâm lo lắng điều gì. Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa: họ tìm cách làm đẹp lòng Người. Còn người có vợ thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng vợ, thế là họ bị chia đôi. Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng chồng.” (1 Cr 7:32-34) Gọi là lạ nhưng lại không lạ chi cả. Họ vẫn là những con người bình thường như chúng ta, không có gì khác thường, nhưng không lạ mà lại lạ, bởi vì họ sống giữa đời thường mà lại không thuộc về đời thường, họ không bị hấp dẫn bởi sức hút nào khác ngoài sức hút của Thiên Chúa, họ là fan (người hâm mộ) của Thiên Chúa, vì Ngài quá nổi tiếng, ngoài sức tưởng tượng của chúng ta.
Đó là lời khuyên cụ thể và có thật chứ không mơ hồ hoặc dụ dỗ, chắc chắn rằng nếu không có ơn Chúa thì không thể hiểu được. Dĩ nhiên, tất cả đều là tự nguyện, không bắt buộc, và cũng không thể ép buộc. Thánh Phaolô giải thích: “Tôi nói thế là để mong tìm ích lợi cho anh chị em, tôi không có ý gài bẫy anh chị em đâu, nhưng chỉ muốn đề nghị với anh chị em một điều tốt, để anh chị em được gắn bó cùng Chúa mà không bị giằng co.” (1 Cr 7:35) Rất chi tiết. Rất rạch ròi. Rất minh bạch. Và cũng rất chân thành. Sự thật nào cũng có thể làm người khác được lòng hoặc mất lòng. Tùy.
Và như chúng ta đã biết, cuộc sống luôn có rất nhiều điều lạ – từ nhỏ tới lớn, từ đơn giản tới phức tạp, hoặc có thể là tiêu cực hoặc tích cực. Bất cứ thời nào cũng thế, đất nước nào hoặc dân tộc nào cũng vậy. Bởi vì cũng là con người cả thôi, tính hiếu kỳ luôn chực chờ “nổi dậy.” Nhưng người ta phải lưu ý rằng có điều lạ tốt và cũng có điều lạ xấu. Chúa Giêsu giáng sinh làm người, chịu chết trên Thập Giá, rồi phục sinh vinh quang. Các sự kiện đó vô cùng kỳ lạ, lạ hơn mọi thứ lạ khác. Các bí tích cũng toàn là những chuyện lạ. Cả đời chúng ta chứng kiến biết bao chuyện lạ, nói đúng ra là phép lạ. Chúng ta có thể “nổi tiếng” nếu tin nhận Đức Giêsu là Cứu Chúa, là Đấng Cứu Độ duy nhất. Chúng ta nổi tiếng nhờ Danh Thánh Giêsu. Vô cùng kỳ lạ!
Trình thuật Mc 1:21-28 cho biết rằng Đức Giêsu và các môn đệ đi vào thành Caphácnaum. Hôm đó là ngày sa-bát, Ngài vào hội đường giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Ngài. Họ sửng sốt vì thấy quá đỗi lạ lùng. Tại sao? Vì Ngài giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư. Đó là sự nổi tiếng tốt lành.
Và rồi người ta cứ từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Ngay lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế nhập và la toáng lên: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (Mc 1:24) Còn hơn cả sự lạ lùng, chắc hẳn mọi người càng ngạc nhiên hơn. Nó không phải quỷ thường, mà là quỷ ô uế, nó biết rõ Ông Giêsu là ai, bởi vì Ngài quá nổi tiếng.
Chúa Giêsu quát mắng nó, bắt nó câm miệng và buộc nó phải xuất ra khỏi nạn nhân. Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta. Nạn nhân được tự do, thoát khỏi nanh vuốt kìm kẹp của ma quỷ, đó là nhờ quyền phép của Đức Giêsu, Con-Thiên-Chúa-làm-người, Thiên-Chúa-ở-giữa-chúng-ta, Đấng VIP của mọi thụ tạo – kể cả giới vô thần và ma quỷ.
Thấy vậy, mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” (Mc 1:27) Không lạ sao được khi mà người ta mục kích sở thị chứ chẳng phải nghe đồn hoặc truyền khẩu. Tiếng lành đồn xa. Lập tức danh tiếng Ngài đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Galilê. Xưa thế nào thì nay cũng vậy. Chúa Giêsu thực sự nổi tiếng, vì thế mà người ta ghét cay ghét đắng, ghét cả những ai sống theo giáo huấn của Ngài.
Lạy Thiên Chúa, chúng con không cần gì khác ngoài Ngài. Có Ngài là có tất cả, mất Ngài là trắng tay và trắng đời. Xin giúp chúng con phân định đúng – sai trong mớ hổ lốn “sự lạ” giữa cuộc đời này, để chúng con tin và hành động. Xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ giữa xã hội nhiễu nhương ngày nay. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Bóng tối thì sợ ánh sáng; sự giả dối thì sợ hãi sự thật. Đức Giêsu đến trong thế gian, Ngài là ánh TN4-B126
Bóng tối thì sợ ánh sáng; sự giả dối thì sợ hãi sự thật. Đức Giêsu đến trong thế gian, Ngài là ánh sáng soi chiếu vào bóng tối; là chân lý chiếu soi vào chốn lỗi lầm. Ngài rao giảng về Nước vĩnh cửu trong chân lý và sự thật. Lời của Ngài có uy quyền khiến đến ma quỷ cũng phải kinh hãi. Lời Chúa trong Chúa nhật IV Thường niên B diễn tả uy quyền trong giáo huấn của Đức Giêsu và sự sợ hãi của gian trá, ma quỷ trước uy quyền của Sự Thật.
Uy quyền trong giáo huấn của Đức Giêsu
Ngày Sabát là ngày quan trọng đối với người Dothái, là ngày họ ngồi lại với nhau nơi hội đường để nghe Lời Chúa. Tại hội đường trong thành Capharnaum, người Do thái vẫn thường lắng nghe Lời Chúa qua những trang Kinh thánh. Nhưng dường như những Lời ấy vẫn chưa đụng chạm tới họ, tới con người với cuộc sống cụ thể của họ; Dường như những Lời ấy vẫn chỉ phảng phất đâu đấy chứ chưa đi vào lòng họ. Kinh thánh vẫn là những trang xa vời, dân Dothái chưa thể gặp được chính Lời của Thiên Chúa qua những trang Kinh thánh ấy.
Thế nhưng hôm nay họ đã được lắng nghe chính Lời của Thiên Chúa. Vào hội đường Caphacnaum trong ngày Sabát. Đức Giêsu đã lên tiếng giữa cộng đoàn, giảng giải cho họ điều đã chép trong Kinh thánh, Thánh Marco đã thuật lại: “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Ngài”. Làm sao không sửng sốt được khi mà chính Lời từ Thiên Chúa đến để nói với họ. Chính Đức Giêsu là Lời trọn vẹn của Thiên Chúa đã lên tiếng bên tai họ thì còn lý do gì để họ phải xa cách Thiên Chúa nữa. Dân Do thái đã sửng sốt về giáo huấn của Đức Giêsu vì “Ngài giảng dạy như một Đấng có uy quyền”.
Giáo huấn của Chúa Giêsu không phải là của người phàm, song là của chính Thiên Chúa. Giáo huấn của Ngài chứa đựng uy quyền toàn năng của Thiên Chúa, chứa đựng tình yêu trọn vẹn nơi Thiên Chúa, chứa đựng sự chân thật và tốt lành thánh thiện tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Chính Lời Ngài đến trong thế gian để soi sáng cho nhân loại. Như một tấm gương phải chiếu vào cuộc đời để rồi mọi tội lỗi trong nhân gian đều bị lộ rõ trước sự tinh tuyền thánh thiện đến tột cùng của Thiên Chúa.
Thánh Marco đã để cho chính sự dữ, chính thần ô uế làm chứng về uy quyền trong giáo huấn của Chúa Giêsu.
Sự giao tranh giữa Chân Lý và gian trá
Cũng trong hội đường Capharnaum hôm ấy, thánh Marco đã thuật lại cho chúng ta thấy sự kinh hoàng của bóng tối, của ma quỷ khi đứng trước uy quyền của Chúa Giêsu.
“Lập tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập la lên”. Giữa khung cảnh nghiêm trang của hội đường, Giêsu rao giảng về Chân lý; dân chúng lắng nghe và thán phục. Tất cả mọi người không ai đụng chạm hay lên án kẻ tội lỗi, ô uế kia. Thế nhưng người đó đã la lên cách đột ngột trong sự ngỡ ngàng. Tiếng la như phá tan bầu khí của hội đường, như bùng nổ do sự kìm nén đến mức tối đa.
Vâng, chính ánh sáng và chân lý nơi Thiên Chúa đã chiếu vào góc khuất âm u ấy của người bị thần ô uế nhập. Chính bóng tối không chịu được ánh sáng; Chính ma quỷ không đứng vững được trước sự thánh thiện của Thiên Chúa; Chính sự hiện diện của Đức Giêsu đã tạo nên sự căng thẳng càng lúc càng gia tăng nơi người bị thần ô uế ám. Chính sự sợ hãi đến tột cùng của thần ô uế đã khiến người đó phải thốt nên lời và nài xin sự yên thân.
Tin mừng về Chúa Giêsu theo thánh Marco không bộc lộ ngay tất cả dung nhan của Đức Giêsu cho độc giả. Thánh Marco muốn độc giả từ từ khám phá dung nhan của Đấng Messia, Đấng Cứu Độ nhân loại. Ở đây, lời tuyên bố đột ngột của thần ô uế “Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”, rồi ngay lập tức Đức Giêsu trừ khử cũng chỉ một lời, đã đẩy đọc giả của Tin mừng Marco đi đến chỗ không thể dửng dưng trước con người Đức Giêsu. Họ phải tự hỏi và tìm hiểu về Giêsu.
Và đến lượt chúng ta, chắc chắn khi đụng chạm đến Giêsu, chúng ta cũng tự hỏi Ngài là ai. Sự ngạc nhiên trước Đức Giêsu luôn là thái độ cần thiết cho cuộc tìm kiếm Thiên Chúa của chúng ta. Kinh thánh là Lời Thiên Chúa. Nếu bạn thực sự lắng nghe Lời Chúa, bạn cũng sẽ thấy ngạc nhiên về Giêsu trong đó. Sự ngạc nhiên ấy sẽ là khởi điểm cho bước đường bạn tìm đến với Ngài. Và chính khi bạn mang trong mình Đức Giêsu, bạn cũng sẽ bắt gặp sự phản ứng từ những người xung quanh.
Sự hiện diện của Kitô hữu trong xã hội hôm nay
Xã hội Việt nam hôm nay đang nổi cộm với biết bao vấn nạn. Sự dối trá tràn ngập khắp mọi nơi, mọi môi trường, từ đầu đường xó chợ tới nơi giảng đường; từ gia đình đến xí nghiệp, cơ quan nhà nước; từ người vô học đến người có học vị tiến sỹ. Tất cả tràn ngập sự giả dối khiến cho người ta ra đến đường là phải cảnh giác, về đến nhà cũng phải cảnh giác. Câu chuyện cảnh giác luôn là điều người ta nhắc nhau hàng ngày. Khi sự giả dối trở thành thói quen, thành thông thường; mọi sự gian lận không phải là chuyện ngạc nhiên nữa thì xã hội sẽ thấy lạ trước những con người sống ngay thẳng, thành thật, liêm chính.
Cả cơ quan đều chia nhau số tiền tham ô, tham nhũng, biển lận. Bạn là người Công giáo sống theo Giêsu nên bạn từ chối. Chẳng cần bạn phải lên tiếng phản đối, bạn vẫn là cái gai trong mắt mọi người. Cũng giống như người bị thần ô uế ám trong bài Tin mừng hôm nay, rồi đến lúc họ cũng sẽ hét lên mời bạn đi chỗ khác.
Sự thật thà của con cái Chúa sẽ là cái gai trong một xã hội có quá nhiều sai lầm. Nhưng bạn sẽ lựa chọn thái độ nào đây?
Nếu bạn đồng tình đi theo mọi người xung quanh thì cuộc sống hiện tại của bạn tạm ổn. Nhưng bạn phải chấp nhận mất Giêsu. Bạn phải chuẩn bị nghị lực mà đối diện với lương tâm mình mỗi khi đêm về.
Nếu bạn chọn Thiên Chúa là gia nghiệp và cùng đích của đời bạn thì bạn hãy trao phó mọi sự trong tay Ngài. Có Chúa cùng đồng hành, sự kiên trung bước đi trong đường lối Chúa sẽ là ánh sáng chiếu soi vào những bóng ma trong xã hội hôm nay. Sự hiện diện của bạn sẽ là lời nhắc nhở cho mọi người và cũng là lời mời gọi mọi người gột rửa tâm hồn.
Lạy Chúa, xin giúp sức cho con, xin củng cố đức tin cho con và an ủi con trong lúc bị người đời xa lánh.
Khi Môsê sắp từ giã cõi đời, ông an ủi dân đừng khóc thương, và cho biết Thiên Chúa sẽ cho TN4-B127
Khi Môsê sắp từ giã cõi đời, ông an ủi dân đừng khóc thương, và cho biết Thiên Chúa sẽ cho nổi lên một vị Ngôn Sứ còn trổi vượt hơn ông để dẫn dắt họ. Đức Giêsu chính là Vị Ngôn Sứ ưu việt mà Môsê tiên báo. Thánh Marcô không nói rõ Đức Giêsu đã giảng điều gì, nhưng cho thấy “Dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Ngài, vì Ngài giảng dạy người ta như một Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư”. Sở dĩ thánh Marcô không trình bày nội dung giáo huấn, vì muốn chúng ta hướng tới điều quan trọng hơn là chính con người Đức Giêsu.
Lúc dân chúng đang tự hỏi về Đức Giêsu, thì có một người bị thần ô uế nhập, giận dữ la lên, vì sợ Chúa đến tiêu diệt, nhưng đồng thời cũng xưng nhận Ngài “là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Kẻ bị quỷ ám ở ngay trong hội đường là “nơi thánh”, mà vẫn yên hàn như sống trong nhà nó, và chỉ khi gặp “Đấng Thánh”, quỷ mới sợ hãi hét lên và đi ra khỏi đó. Đức Giêsu không dùng phù chú ma thuật. Ngài chỉ ra lệnh: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!”. Thần ô uế vâng lời. Với lời nói có sức mạnh linh thiêng, Ngài chứng tỏ quyền lực cao cả của Triều Đại Thiên Chúa mà Ngài loan báo, đồng thời dùng quyền lực đó để giải thoát con người, trả lại cho họ sự tự do của con cái Thiên Chúa.
Xưa nay những người bị quỉ nhập không nhiều, nhưng những người bị quỉ lèo lái thì không ít. Quỉ không giống như những hình tượng ma quái xấu xí như trong các hình vẽ, nhưng thường mang dáng vẻ hấp dẫn. Nó tấn công chúng ta bằng những thủ đoạn rất tinh vi, nhẹ nhàng và ngọt ngào. Ai hảo ngọt và thiếu khôn ngoan thì dễ bị mắc bẫy. Cái tinh khôn của quỉ là nắm rõ yếu điểm nhất của từng cá nhân và tập thể. Cái tinh xảo của quỉ là ngụy tạo, nó luôn cho ta cảm tưởng là mình vững vàng, có sa sút hay vấp phạm đôi chút cũng không sao, thường hay biện minh cho những hành động sai trái của mình, và cứ thế lần hồi ta sa vào cạm bẫy, sống dưới sự điều khiển của nó mà vẫn không hay biết.
Quỉ chẳng bao giờ xuất hiện cho ta thấy, nhưng thường nó là những mãnh lực sự dữ, cố hết sức để kéo ta xa Chúa, đó là mục đích duy nhất của nó. Bằng mọi cách nó chống lại Thiên Chúa và hạnh phúc đích thực của con người, nên nó thường lừa bịp con người bằng những thứ hạnh phúc giả tạo. Chúng ta chỉ có thể khám phá ra hành tung của nó qua những đam mê và dục vọng, sợ hãi và ghen ghét, ích kỷ và hưởng thụ, cầu an và lười biếng… Chúng ta tự hào là mình không bị quỉ ám, vì chẳng làm điều gì xấu. Nhưng những điều vốn không xấu vẫn có thể trở thành ngẫu tượng như tiện nghi, chức tước, quyền hành, địa vị, danh giá… Cả những cái tốt cũng có thể làm cho ta trở nên kiêu kỳ và dựa vào đó để đánh bóng bản thân. Cái ám nào cũng làm cho ta bị cắt xén, giảm thiểu tự do, và bớt đi chính mình.
Tinh vi hơn nữa, có một thứ ám xem ra bình thường, như một phong cách làm việc, nhưng nó khiến ta phải suy tư và khuôn đúc theo một lập trình, không thể sống khác đi được, như một thứ bản năng sinh tồn hay một thứ thói quen xơ cứng. Điều đó khiến ta không còn khả năng đổi mới. Ngoài ra, vẫn luôn có những cách suy nghĩ và lối sống tiêu cực nào đó đang len lỏi vào đời sống chúng ta, nhất là khi đứng trước những va chạm và thử thách. Chỉ khi nhận ra những điều đó, ta mới thấy cần Chúa biết bao, để tiếng nói uy quyền của Ngài trục xuất khỏi ta những gì làm ngăn chặn sự sống của Thiên Chúa.
Chúng ta đang sống trong một xã hội nhiễu nhương và nhiều bấn loạn do sự dữ hoành hành. Có bao người bị ám bởi thần ô uế: ô uế bởi tiền bạc, bởi nhục dục và đam mê lợi lộc. Có bao người mang những bệnh trạng nặng nề trong cái nhìn, trong cách nghĩ, trong lối sống, tạo nên một xã hội bệnh hoạn, một xã hội đang hết sức cần đến quyền năng Chúa cứu chữa. Chúng ta cần mang Đức Kitô đến cho họ, nhưng trước hết, bản thân ta cần được tẩy uế hằng ngày để sống an bình và thanh khiết trong ơn cứu độ của Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu! Trong đời sống nhân loại, vẫn luôn có những kẻ lạc loài, chẳng tìm được ai để mình tin tưởng, vẫn có bao người đang vất vưởng, giữa cuộc đời thiếu thốn tình thương.
Có nhiều kẻ lại tôn thờ ngẫu tượng, vì không biết đường biết hướng về đâu, tưởng tiền bạc hay khoái lạc là hạnh phúc, càng tệ hơn nữa khi chạy theo tình dục, khiến tâm hồn bị ma quỉ hành hung, trở thành ô uế cho tà thần sử dụng, thành tai ương kinh khủng cho chính mình.
Lại có những người mang bệnh hoạn, trong lối nhìn, lối sống, lối nghĩ suy, nhất là giới trẻ càng dễ bị hư đi, khi xây dựng đời mình trong hoang tưởng.
Chúng con xin Chúa dủ lòng thương, nhìn đến những người đang lạc hướng, đang sống đa đoan lắm đoạn trường, cứu vớt kẻ sa lầy trong nghiệp chướng, giải thoát ai phải sống cảnh tai ương.
Xin giúp chúng con làm gì đó cho họ, để chứng tỏ lòng con yêu mến Chúa, nhưng trước tiên cho con thấy bản thân, đừng để bị khống chế bởi tà thần, do chuyên cần hy sinh và cầu nguyện, cậy nhờ bàn tay Chúa uy quyền, giữ gìn con khỏi những điều ô uế, để luôn sống trung trinh lời ước thệ, trong cuộc hành trình về bến quê. Amen.
Gặp và tiếp xúc với người vừa tài vừa giỏi, quả là thích thú, được thấy, được nghe người đức độ TN4-B128
Gặp và tiếp xúc với người vừa tài vừa giỏi, quả là thích thú, được thấy, được nghe người đức độ ăn nói lưu loát, truyền cảm, ta đã có kinh nghiệm về niềm vui đó. Tuy nhiên không phải cứ hiền lành là nghèo đói, thông thái là no giầu, chẳng ai nghĩ kẻ có duyên ăn nói là thành công, đồng ý rằng, thán phục người khác bao giờ cũng khó ! Không phải vô tình mà tiền nhân chúng ta nói: một người biết lo, bằng kho người làm. Bậc làm cha mẹ sẽ hạnh phúc lắm, khi các thành viên gia đình, biết lắng nghe, cảm thông, cùng sống đúng, sống đẹp, với những điều kiện mình đang có. Ước mơ được thấy bức tranh sống động, người người biết giúp nhau nghe tốt, hiểu tốt, và sống thật ý nghĩa, như lời khuyên của bậc hiền nhân: nếu bạn không thể làm cho khuôn mặt của mình sáng láng, xin cũng đừng cản trở đám mây che mất điều tốt đẹp.
Tại hội đường năm xưa, “đám đông kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy như Đấng có uy quyền…”. Đám đông hôm đó là những ai, Đấng uy quyền rao giảng bằng thứ ngôn ngữ đặc biệt nào, có phải chúng ta đã từng ước mơ có mặt để nghe, để được thấm nhuần lời yêu thương, khích lệ, một niềm vui tràn đầy trong Thiên Chúa Đấng cứu độ ? Mơ ước được ăn nên làm ra, được “cả chì lẫn chài”, được cả đời này, đời sau, cũng chưa phải là ước mơ sai lầm. Thực ra, giáo lý đức tin đi sâu vào lòng người, lời giải thích hút hồn được đám đông, chính là tình yêu, là niềm vui bình an trong Đức Giêsu Kitô. Cuộc sống là một chuỗi dài những chọn lựa, tình yêu và hạnh phúc cho ta một cơ hội thứ hai, kết quả nhiều hay ít, tròn đầy hay tương đối, vẫn được gọi là ngày mai, là tương lai đầy hy vọng.
Tất cả những “con cá” đánh bắt được dưới sông nước đều tươi tốt, tất cả những ước mơ hướng tới sự thiện, đều đáng trân trọng, cũng như mỗi người đều có những nét đẹp riêng. Tất cả những ai đi lễ chùa, đi tới hội đường, họ đều có mơ ước đẹp, ít nhất họ có “cái tâm”, muốn gặp, muốn được, dù là sự bình an trong phút chốc, hoàn toàn không phải do họ dư tiền, thừa thời gian. Bước vào hội đường cầu nguyện như bao ngày lễ nghỉ, hôm đó mọi người phấn khởi vì cảm nhận được sự ngọt ngào, dễ nghe, dễ hiểu, họ khâm phục kính nể: “Người giảng dạy như Đấng uy quyền”. Rõ ràng không ai đến hội đường, đến nhà thờ, để tìm kiếm địa vị, lợi nhuận kinh tế, có chăng, vì niềm tin, vì khao khát được bình an, được niềm vui tâm hồn.
Mơ ước đẹp và tròn đầy của đám đông hôm đó, được Đức Giêsu phủ kín tâm hồn, họ tâm phục khẩu phục, vì Lời Đức Giêsu có sức mạnh vô biên, tác động đến người nghe tỏ tường, hạnh phúc. Tâm lý chung, ai ai chẳng thích trao đổi với người vui vẻ cởi mở, kính trọng người đức độ, uy tín, nể phục người tài giỏi, không muốn gần kẻ cọc cằn, nóng tính, hoặc sợ kẻ lạnh lùng, thô bạo. Có phải đám đông dân chúng sau khi gặp Đức Giêsu, họ muốn diễn tả, muốn giới thiệu cho các thế hệ về Một Đấng thân thiện, dễ mến, ngọt ngào trong lời chia sẻ, nghiêm túc trong hành động ? Thắc mắc sẽ được lý giải, khi ta được nghe, được thấy, được chứng kiến “Lời quyền năng” và sức mạnh của Đức Giêsu chữa lành người bị quỷ ám.
Mơ ước đẹp, trọn vẹn, và tròn đầy, hôm xưa hôm nay, có lẽ không khác nhau, vì ở hội đường hay ở nhà thờ, thì niềm vui chung vẫn là được gặp Đức Giêsu, được nghe, được hiểu, và được biến đổi tâm hồn của mình nên xứng hợp với tình yêu Chúa. Tại hội đường năm xưa, tại nhà thờ năm nay, Đức Giêsu vẫn là Thầy dạy, vẫn là Chúa, là Đấng cứu độ, Lời rao giảng, Lời quyền năng, tình yêu và sức sống được nối tiếp, trổ sinh bông hạt. Mơ ước của Đấng Kitô thì sao? chắc chắn là Ngài mơ ước mọi người, mọi thời được nghe, được hiểu, và được thấy Thiên Chúa cứu độ. Nếu Đức Giêsu chu toàn được sứ mạng tại trần thế, thì tất cả những ai là môn đệ Đức Kitô, đều đáng được biến đổi, được trở nên chứng nhân của tình yêu. Có thể chúng ta chưa nổi tiếng, hay chưa có tiếng tăm lừng lẫy, hẳn cơ hội để Đức Giêsu thực hiện phép lạ, cơ hội để ta sử dụng nén bạc, đều tùy thuộc con tim và khối óc đang hiệp thông, diễn tả.
Ngày hôm nay, bạn suy nghĩ gì về sự ngọt ngào, và lời đầy quyền năng của Đức Giêsu, khả năng hùng biện, tính thuyết phục, có còn được nghe, được hiểu, để sống tốt không ? Cho dù kinh nghiệm và sự hiểu biết của ta còn giới hạn, thì lời khuyên mạnh mẽ nhất vẫn là: học mà không suy nghĩ thì vô ích, suy nghĩ mà không học thì hiểm nghèo ! (Khổng Tử). Đức Giêsu đã trở nên cần thiết cho đám đông, không phải chỉ vì Ngài nói hay, nói giỏi, hay chữa lành đủ mọi thứ bệnh tật, xua trừ ma quỷ, sự xấu, mà do họ được Chúa yêu thương, được sự cảm thông, được đụng chạm tới trái tim chai cứng của họ. Mơ ước đẹp và trọn vẹn của Đức Giêsu, của mỗi chúng ta chính là: tất cả được nên một trong tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa cứu độ. Amen.
Con người thường hay nói tới Satan. Rất sợ Satan. Bởi vì Satan tượng trưng cho sức mạnh của TN4-B129
Con người thường hay nói tới Satan. Rất sợ Satan. Bởi vì Satan tượng trưng cho sức mạnh của bóng tối. Satan có thể khiến cho chúng ta phải khốn khổ khi nằm trong vòng kiềm tỏa của nó. Cụ thể là với Đại dịch Covid 19, con người ở thời hiện đại vẫn ngạo nghễ, luôn nghĩ mình thông minh, làm được mọi sự nhưng đâu ngờ bóng tối của Satan với tên gọi Covid đã bao trùm toàn thể địa cầu trong sợ hãi bất lực. Satan đã đánh bại sự ngạo nghễ của con người. Con người mãi nhỏ bé trước sự dữ do Satan đưa tới.
Nhưng Satan là ai? Satan có quyền lực gì?
Theo sách khải huyền thì “đó là Con Rắn xưa, mà người ta gọi là ma quỷ hay Satan, tên chuyên mê hoặc toàn thể thiên hạ”. (Kh 12:9). Nó ru ngủ con người bằng trăm phương ngàn kế với những lời thì thầm mật ngọt. Satan không hiện nguyên hình. Satan không tự làm sự dữ. Satan chỉ dẫn dụ con người bày trò tội lỗi hại người. Nó chỉ đứng đằng sau để điều khiển. Thế nên, sự dữ bao trùm nhân loại cũng có phần của con người đã tiếp tay cho Satan để gây nên đau thương cho anh chị em mình.
Vì thế, Satan đôi khi cũng bị nói oan. Vì nhiều chuyện chỉ do con người làm ra mà lại cứ nói tại ma quỷ nó làm. Vợ chồng cãi nhau cũng tại ma quỷ xui khiến. Cộng đoàn chia rẽ cũng bởi ma quỷ cám dỗ. Dịch cúm Tàu cũng do ma quỷ làm ra. . .
Thực ra ma quỷ có thể gieo rắc sự xấu là do con người tiếp tay. Ma quỷ bày trò nhưng nó không khống chế để ép buộc con người làm theo ý nó. Thiên Chúa khi tạo dựng đã ban cho con người sự tự do. Con người hoàn toàn tự quyết định về lời nói và hành vi của mình. Con người có thể quy phục Thiên Chúa để cộng tác với Ngài mà làm cho vũ trụ mỗi ngày hoàn thiện hơn. Và con người cũng có thể nghe theo ma quỷ để phá hủy vũ trụ này ngày một tồi tệ hơn.
Điều đáng buồn là thế giới đầy sự dữ. Sự dữ do con người tiếp tay với ma quỷ để gieo rắc sự dữ cho môi trường sống của mình.
Ở nơi nào đó ta vẫn thấy những ma men say sỉn quậy phá vợ con hay hàng xóm lang giềng.
Ở nơi nào đó ta vẫn thấy những con ma ngáo đá, có cả nam lẫn nữ, nói lăng lảm nhảm, chạy nhảy tung tăng đánh rơi hết nhân phẩm giữa phố phường.
Ở nơi nào đó ta vẫn thấy quỷ dữ lộ nguyên hình khi giết các thai nhi, tẩm chất độc vào đồ ăn, ra đường chạy xe lạng lách, lấn đường, lấn tuyến xem thường tính mạng người khác.
Và ở nơi nào đó ta vẫn thấy ma quỷ xen lẫn giữa đám đông trong các gia đình, các hội đoàn, xứ đạo để rỉ tai nói xấu, gây chia rẽ cho nhau.
Hình như thế giới hôm nay Ma quỷ đã chiến thắng nên sự dữ, sự ác lên ngôi. Công bằng, công lý bị bẻ gẫy. Một thế giới do ma quỷ dẫn dắt nên điêu tàn chết chóc. Cũng vậy, khi một con người sống dưới sự kiềm tỏa của ma quỷ ta thấy họ bạc nhược, suy tàn và bị xa lánh. Nhìn vào thế giới hôm nay ai cũng cảm thấy bất an và lo sợ. Làm sao có thể cứu thế giới khỏi bóng tối sự dữ? Làm sao có thể giải cứu thế giới và con người khỏi sự kiềm tỏa của ma quỷ? Con người chúng ta thật nhỏ bé trước thế lực sự dữ đang bủa vậy!
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy, chỉ cần có sự hiện diện của Chúa Giê-su thì ma quỷ đã khiếp run. Và chỉ cần Chúa phán một lời thì ma quỷ đã phải lui ra để trả lại tự do cho người. Ma quỷ đã làm cho thế giới điêu linh và sự dữ lên ngôi. Người Công Giáo đã làm gì để đẩy lùi sự dữ?
Điều đầu tiên khởi đi từ bản thân hãy để Chúa chiếm trọn con người của chúng ta. Hãy xa lánh tiếng mời gọi bước theo con đường ma quỷ. Và rồi hãy mời Chúa Giê-su đến thống trị gia đình bạn. Hãy để Chúa làm chủ gia đình của bạn thì bóng tối sự dữ sẽ tiêu tan, gia đình sẽ êm ấm hạnh phúc. Là người ky-tô hữu chúng ta còn có bổn phận mang ánh sáng tin mừng Chúa chiếu soi cho thế giới đang đầy tội lỗi. Hãy sống chứng nhân cho tin mừng yêu thương và dám mạnh dạn bảo vệ tiếng nói của lương tâm, của công lý để ngăn chặn bất công và sự dữ lên ngôi.
Đây cũng là điều mà Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã phản đối tân Tổng Thống Joe Biden khi ủng hộ việc cho phép phụ nữ phá thai, các giám mục Hoa Kỳ nhấn mạnh rằng: “Chúng tôi đặc biệt thúc giục tổng thống bác bỏ việc phá thai và cổ vũ việc trợ giúp phò sinh cho các phụ nữ và các cộng đồng đang cần được giúp đỡ.”
Ước mong cho ánh sáng của tin mừng được mọi người tín hữu thắp sáng lên bằng việc cùng nhau sống tinh thần của Phúc âm và còn dám mạnh dạn nói không phải tội lỗi và đẩy lùi sự dữ ra khỏi moi trường sống của chúng a. Amen
Cuộc sống luôn có những điều bất ngờ xảy ra làm chúng ta phải ngạc nhiên. Có những ngạc nhiên TN4-B130
Cuộc sống luôn có những điều bất ngờ xảy ra làm chúng ta phải ngạc nhiên. Có những ngạc nhiên làm chúng ta bối rối thắc mắc. Có những ngạc nhiên làm chúng ta thất vọng. Nhưng cũng có những ngạc nhiên làm chúng ta thú vị, vì nó đưa chúng ta tới những chân trời mới để khám phá những điều mới mẻ và kỳ diệu của cuộc sống. Chính vì thế, triết gia Platôn cho rằng trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cần biết ngạc nhiên và ông gọi đó là sự “ngạc nhiên triết học,” sự ngạc nhiên giúp nhận ra chân lý.
Một cách tương tự, trong đời sống đức tin, chúng ta cũng cần phải biết ngạc nhiên trước mầu nhiệm và tình yêu Thiên Chúa để có thể hiểu biết và yêu mến Người hơn. Tôi gọi đó là sự “ngạc nhiên của đức tin.”
Thánh Máccô trong bài Tin Mừng hôm nay nói nhiều đến thái độ ngạc nhiên của dân chúng trước Con Người, lời giảng dạy và giáo lý của Chúa Giêsu. Máccô kể:
“Tại thành Caphácnaum, ngày Sabát, Đức Giêsu vào hội đường và giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư” (Mc 1,22).
Sau đó Chúa Giêsu thấy một người bị thần ô uế ám, Người truyền lệnh cho nó phải xuất ra khỏi người này. Thần ô uế phải tuân phục Chúa. Thấy thế, mọi người đều sững sờ đến nỗi họ bàn tán với nhau:
“‘Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh.’ Lập tức danh tiếng Người đồn ra mọi nơi” (Mc 1,27-28).
Quả thế, dân chúng ngạc nhiên về Chúa Giêsu bởi vì họ nhận ra Đức Giêsu chính là vị ngôn sứ đã được Môsê tiên báo mà họ chờ đợi. Người là sự thành toàn của các lời hứa. Người là vị Môsê mới, có uy quyền và trỗi vượt hơn các ngôn sứ. Người là Đấng Thiên Sai, Người là Tin Mừng cần tin, tiếp nhận và thông truyền cho mọi người biết để họ cũng được Người cứu độ. Họ nhìn thấy nơi Chúa Giêsu “một niềm hy vọng mới,” bởi vì cách ứng xử và giảng dạy của Người chạm đến con tim của họ, đến tâm hồn họ. Giáo huấn của Người mới mẻ vì là giáo lý đến từ Thiên Chúa, đó là Tin Mừng giải thoát và có sức mạnh của Thánh Thần. Khi mọi người nhìn thấy Chúa Giêsu và nghe giáo huấn của Người, họ cảm thấy một cái gì đó khuấy động bên trong – chính là Chúa Thánh Thần đang khuấy động tâm hồn họ. Họ đi đến gặp Đức Giêsu và tin vào Người.
Để hiểu biết, bước theo và yêu mến Thiên Chúa của Đức Giêsu, chúng ta cần có thái độ ngạc nhiên của đức tin như thái độ của dân Chúa trong Tin Mừng hôm nay. Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI cho rằng: “Trước huyền nhiệm tình yêu của Thiên Chúa, có lẽ là nỗi ngạc nhiên sững sờ là hình thức và lời tuyên xưng đúng nhất về Thiên Chúa.”
Bởi vì, Thiên Chúa của Đức Giêsu là Thiên Chúa của ngạc nhiên. Người luôn có những cách thế, đường lối và ân sủng làm chúng ta phải ngạc nhiên. Vì Người là tình yêu và luôn yêu ta trước nhất. Người chờ đợi chúng ta với một sự ngạc nhiên. Thiên Chúa làm chúng ta ngạc nhiên. Chúng ta hãy để cho mình được Thiên Chúa làm cho ngạc nhiên. Chúng ta cần tránh một thứ “tâm lý tự cho mình là đầy đủ” khi nghĩ rằng chúng ta đã biết hết. Đông thời, chúng ta cũng được mời gọi đừng sống đức tin như một thứ máy móc mà mọi thứ đã được cài đặt sẵn. Theo ý nghĩa đó, Đức Giáo Hoàng Phanxicô gần đây dạy:
“Nếu chúng ta không biết ngạc nhiên, không linh hoạt hồng ân này của Thiên Chúa là đức tin, nhưng cứ để đức tin chúng ta suy yếu, tan loãng, thì kết cục đức tin chỉ còn là một thứ văn hóa. ‘Vâng, tôi là một Kitô hữu, đúng lắm’ – nhưng chỉ là một thứ văn hóa – một kiến thức ngộ đạo thuyết, hay một dạng chuyên biệt của kiến thức. ‘Vâng, tôi biết rõ tất cả các khía cạnh của đức tin, tôi rành rẽ giáo lý.’”
Vì thế, Đức Giáo Hoàng mời gọi chúng ta hãy biết ngạc nhiên. Ngài cho rằng: điều trọng yếu là phải linh hoạt hồng ân này mỗi ngày: phải đưa nó vào cuộc sống.
Xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta vào những đường lối mới mẽ của Thiên Chúa để chúng ta cũng ngạc nhiên, khiêm tốn, chúc tụng và chiêm ngắm huyền nhiệm tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta mỗi ngày. Amen!
Đức Kitô có thói quen tham dự sinh hoạt ngày cuối tuần nơi hội đường. Hội đường là nơi giải TN4-B131
Đức Kitô có thói quen tham dự sinh hoạt ngày cuối tuần nơi hội đường. Hội đường là nơi giải thích về sách Ngũ Kinh. Lãnh đạo hội đường thường mời người tham dự có khả năng, hướng dẫn dân chúng để có tính mới mẻ, sinh động. Đức Kitô được mời giảng giải. Lời giảng của Ngài không chỉ gây xúc động mạnh trong tâm hồn người nghe, mà còn làm thay đổi cách suy nghĩ và ảnh hưỏng tới lối sống của họ. Người ta rất đỗi kinh ngạc. Người ta ca tụng về kiến thức, trí thông hiểu, và sự khôn ngoan, thông thái nơi Ngài.Giáo huấn của Ngài không phải chỉ thuần lập lại những gì các học giả khác đã lí giải, mà chính Ngài đưa ra những giải thích, hướng dẫn mới liên quan trực tiếp đến đời sống dân chúng. Người ta kháo với nhau,
‘Người giảng dậy như kẻ có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư’ Mk1,22.
Kinh sư thường dùng truyền thống làm bảo chứng cho việc giảng dạy. Phong tục và truyền thống nào trở thành gánh nặng cho dân đều được Đức Kitô sửa đổi cho hợp với tình yêu Chúa. Đức Kitô dùng chính uy quyền của Ngài để thay đổi, giảng dậy. Giáo huấn của Ngài cởi trói cho dân chúng, làm cho cuộc sống dễ thở hơn, thanh thản hơn. Có lần Ngài đặt thẳng vấn đề với các kinh sư.
‘Ngày Sabbath được làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi?’ Mk 3,4.
Theo Đức Kitô thì phong tục, tập quán, luật lệ là cho con người, chứ không phải con người làm nô lệ cho phong tục, tập quán
‘Con Người làm chủ ngày Sabbath Mk 2,28.
Đức Kitô giảng dậy như Đấng có uy quyền. Uy quyền của Ngài đến từ Thiên Chúa bởi chính Ngài là Con Thiên Chúa. Nhớ lại ngày Đức Kitô chịu phép rửa, vừa bước lên bờ, Thánh Thần Chúa, dưới hình chim bồ câu, ngự xuống trên Ngài. Trên trời cao có tiếng phán bảo
‘Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người’ Mk 1,10.
Như thế uy quyền của Đức Kitô đến từ nơi Ngài, không phải do truyền thống. Uy quyền của Đức Kitô được thánh Gioan Tẩy Giả nhắc đến là uy quyền từ trời cao ban xuống Mk 1,8. Với Uy quyền đó, Đức Kitô loan báo cho toàn dân là Nước Thiên Chúa đến gần anh em; thực ra nước đó đang ở giữa anh em. Bởi nơi đâu Thiên Chúa hiện diện, nước Thiên Chúa hiển trị nơi đó.
Phúc âm thánh Marcô không nhắc đến điều Đức Kitô rao giảng với dân chúng. Từ những điều người ta ca tụng Ngài, chúng ta có thể đoán biết Người dậy dân chúng những điều liên quan đến cuộc sống của họ, những âu lo họ đang mắc phải, những lo lắng họ ngày đêm lo sợ, và những trông đợi họ đang mong chờ. Một nguồn tài liệu khác cũng giúp ta nhận biết điều Đức Kitô rao giảng. Từ môi miệng những kẻ chống đối Đức Kitô, chúng ta cũng đoán biết Đức Kitô rao giảng những gì? Đức Kitô đón chào những kẻ thu thuế và người tội lỗi. Ngài cho họ biết họ cũng là con cái Thiên Chúa. Đức Kitô giải thoát những sợ hãi nơi dân chúng. Ngài chữa bệnh cho kể đau yếu, bệnh tật. Nhiều lần Ngài ngăn cấm không cho ma quỉ lên tiếng nói về nguồn gốc, xuất xứ, Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Bởi là Đấng Thánh nên Ngài không đối thoại với loài tồi tệ, xấu xa, chuyên gây tội. Ngài ra lệnh cho chúng ‘câm miệng’ và chúng phục tùng Ngài. Như thế Ngài có quyền trên ma quỉ.
Giáo Huấn của Đức Kitô và uy quyền Ngài gắn liền, luôn đi chung với nhau. Có lần Ngài nói với kẻ chống đối Ngài là Ngài có quyền tha tội.
‘Để các ông biết, Con Người có quyền tha tội. Đức Kitô bảo người bại liệt: Ta truyền cho con, hãy đứng dậy, vác chõng đi về nhà. Người bại liệt liền đứng dậy, vãc chõng đi về nhà’ Mk 2,11-12.
Dân chúng thích nghe Ngài giảng dậy bởi giáo huấn Ngài mới mẻ. Ngài nói với họ về tình yêu Chúa, lòng Chúa xót thương bao la, quảng đại hơn là án phạt của Thiên Chúa. Nghe Đức Kitô rao giảng, người ta có cảm tưởng Thiên Chúa đang ở giữa họ và Thiên Chúa là Thiên Chúa của họ. Thiên Chúa chia xẻ những lo âu, lo lắng, sầu khổ của dân Ngài, và Thiên Chúa cùng đồng hành với dân Ngài trong mọi tình huống của cuộc sống. Nghe Đức Kitô rao giảng, dân chúng cảm thấy Nước Thiên Chúa là cho họ, và cho những ai thành tâm đón nhận lời Chúa, và chân thành phục vụ tha nhân vì Danh thiên Chúa.
Thiên Chúa đã chọn Môisê để dẫn dắt dân Chúa ra khỏi Ai-cập. Chúa trao phó cho Môisê quyền giảng TN4-B132
Thiên Chúa đã chọn Môisê để dẫn dắt dân Chúa ra khỏi Ai-cập. Chúa trao phó cho Môisê quyền giảng dạy và quản trị. Chúa phán: Ta sẽ đặt vào miệng ngươi những lời của Ta, ngươi sẽ nói cho họ biết tất cả những điều Ta đã truyền cho ngươi. Môisê được diện kiến Thiên Chúa trong bụi gai cháy mà không bị tàn lụi. Chúa ban cho ông chiếc gậy chăn chiên để làm các sự lạ, biến rẽ biển đỏ và đập đá tuôn trào dòng nước cho dân. Chúa trao cho Môisê quyền hướng dẫn, giảng dạy và thánh hóa. Với sự hiểu biết và sức lực có hạn, Môisê hoàn toàn cậy nhờ vào ơn Chúa giúp. Ông đã thỉnh cầu Thiên Chúa và tuân hành theo ý muốn của Chúa trong mọi hoàn cảnh. Suốt 40 năm Dân Do-thái lưu lạc trong hoang địa, Môisê đã đồng hành với Dân qua mọi thách thức khó khăn và nguy hiểm.
Ngày xưa, Thiên Chúa truyền dạy chúng ta qua các tổ phụ, cha ông và các người đại diện, nay Thiên Chúa sai chính Con Một đến để mạc khải cho chúng ta về chân lý Nước Trời: Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài (Dt 1,1-2). Khi nghe Chúa Giêsu rao giảng, người ta đã kinh ngạc về giáo lý của Người vì Người dạy như Đấng có uy quyền. Qua Ngôi Lời, Thiên Chúa đã tác tạo mọi loài. Lời của Chúa có thể sáng tạo và biến đổi từ thể xác đến tâm hồn. Lời Chúa là lời quyền năng linh thiêng. Tất cả Lời Chúa đều là lời hằng sống, ban sinh lực và giáng phúc. Khi đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã thực hiện những phép lạ kèm theo. Các phép lạ là dấu chỉ để mọi người nhận biết Chúa là Đấng Thiên Sai.
Khi sai các Tông đồ rao giảng, Chúa Giêsu cũng ban quyền chữa lành cho các ngài. Với danh Chúa Giêsu Kitô sống lại từ cõi chết, các tông đồ đã nhiệt tình đem Tin Mừng đến muôn dân qua việc làm chứng, giảng dạy và làm phép lạ. Thánh Phaolô cũng được ơn chữa lành: Có ông thân sinh ông Púpliô đang liệt giường vì bị sốt và kiết lỵ. Ông Phaolô vào thăm, cầu nguyện, đặt tay trên ông và chữa khỏi (Cv 28,8). Thánh Philipphê thực hiện các dấu lạ: Đám đông một lòng chú ý đến những điều ông Philipphê giảng, bởi được nghe đồn và được chứng kiến những dấu lạ ông làm (Cv 8,6).
Trong thư gởi cho tín hữu Côrintô, thánh Phaolô khuyên răn mọi người hãy sống đẹp lòng Chúa qua những ơn gọi riêng. Vì lợi ích của anh chị em, chớ không phải gài bẫy anh em. Mọi ơn lành Chúa ban đều phải sinh hoa trái trong đời sống đạo. Dọc lịch sử Giáo Hội, bàn tay quan phòng của Chúa luôn hiện diện với con cái loài người. Chúng ta nhìn qua một chút những hồng ân từ trời ban xuống cho nhân loại qua các chứng nhân.
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được trao ban cho Ngài. Chúa Giêsu thực hiện tất cả mọi thứ phép lạ qua chính lời nói, ý muốn và quyền năng của Ngài. Chúa có mọi uy quyền sáng tạo, tái tạo và biến đổi trong lời nói và việc làm. Chúa cũng đã ban cho một số vị được những ơn ấy là để giúp củng cố lòng tin của các tín hữu mọi nơi và mọi thời. Các ngài là những vị sống đời chiêm niệm và thần bí kết hợp mật thiết với Chúa và làm sự lạ để sáng danh Chúa.
Các vị thánh không làm phép lạ để khoe khoang, quảng cáo hay đề cao chính mình nhưng các ngài sống trong khiêm nhượng và phó thác. Hữu xạ tự nhiên hương. Thực hiện tất cả các sự lạ là hồng ân nhưng không Thiên Chúa ban tặng. Hầu hết các vị thánh này có một đời sống khổ hạnh, hy sinh hãm mình và sống chìm ngập trong ân sủng của Chúa. Ngay từ sinh thời, các Ngài đã là mẫu mực gương sáng cho mọi người. Sau khi mãn phần, Giáo Hội đã tôn phong nhân đức của các Ngài để mọi người tôn vinh danh Chúa và cầu khẩn. Sự chân thật và thánh thiện đi vào cuộc sống đời đời. Chúng ta hãy đặt niềm tin tưởng nơi Chúa Kitô là đầu và cùng đích. Chúa luôn đồng hành với Giáo Hội qua mọi biến cố thăng trầm. Như Dân xưa đi trong sa mạc, họ đã chịu trăm nghìn thử thách và khổ đau để được thanh luyện. Họ đã trở thành Dân Riêng được Chúa yêu thương và đã chiếm hữu được miền Đất Hứa. Trong cuộc lữ hành trần thế, chúng ta cũng đang đối diện với muôn vàn chông gai thử thách. Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Chúng ta hãy trung thành và kiên trì phấn đấu tới giây phút cuối. Triều thiên vinh thắng đang chờ mỗi người chúng ta nơi cuối cuộc hành trình. Lạy Chúa, xin thêm đức tin để chúng con ra đi làm nhân chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Amen.
Theo nguyên ngữ, “ngôn” là “lời” và “sứ” là “được sai đi”. Vậy, “ngôn sứ” là người “được sai TN4-B133
Theo nguyên ngữ, “ngôn” là “lời” và “sứ” là “được sai đi”. Vậy, “ngôn sứ” là người “được sai đi để nói lời” của Chúa. Trong Cựu ước, có những vị ngôn sứ có ảnh hưởng rất lớn trong triều đình nhà vua, hoặc trong đời sống xã hội cũng như tôn giáo của người Do Thái, như Giêrêmia, Isaia hay Egiêkien. Có những vị ngôn sứ “chuyên nghiệp” và cũng có những vị ngôn sứ “nhất thời”. Dù thuộc loại nào, các ngôn sứ đều là những người được sai đi để nói lời của Chúa. Nhiệm vụ chính yếu của các ngôn sứ là chuyển tải sứ điệp Chúa trao phó. Những sứ điệp này, có thể là lời cảnh báo, đe dọa, khiển trách, nhưng cũng là những lời khen ngợi hay an ủi, khích lệ động viên. Ngôn sứ là một nhiệm vụ khó khăn, vì nhiều khi phải tuyên bố những điều đi ngược lại với suy nghĩ của người đương thời. Có những khi vị ngôn sứ bị mua chuộc và “hối lộ” để nói khác đi điều Thiên Chúa sai nói. Cũng có trường hợp bị hành hạ, thậm chí đe dọa giết chết, như trường hợp ngôn sứ Giêrêmia. Dù trong hoàn cảnh nào, ngôn sứ cũng phải trung thành với sứ mạng, nếu không, ông sẽ bị chính Chúa trừng phạt (x. Bài đọc I). Đức Giêsu là vị ngôn sứ vĩ đại nhất. Những lời trăng trối của ông Môisen đã tiên báo về vị ngôn sứ này. “Ta sẽ gầy dựng giữa anh em của họ một tiên tri như ngươi; Ta sẽ đặt vào miệng người những lời của Ta, người sẽ nói cho họ biết tất cả những điều Ta sẽ truyền cho người” (Bài đọc I). “Vị ngôn sứ như ngươi” mà Chúa nói qua ông Môisen ở đây chính là Đức Giêsu Kitô. Người là Con Thiên Chúa, là Đấng Mesia được Chúa Cha sai đến trần gian để truyền đạt thánh ý của Ngài. Người đến trần gian để xua tan bóng tối, tiêu diệt và đẩy lui quyền lực của Satan. Thánh Máccô kể với chúng ta về trường hợp Chúa Giêsu trừ quỷ ngay trong Hội đường của người Do Thái. Thần ô uế đã tuyên xưng: “Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Bằng một mệnh lệnh, Chúa Giêsu đã bắt nó phải buông tha người bị nó ám. Chắc hẳn lời tuyên xưng của thần ô uế đã làm cho nhiều người tin vào Chúa Giêsu, nhận ra Người là Đấng đến trần gian để xua đuổi thế lực của tối tăm, xây dựng một vương quốc thánh thiện nhằm thánh hóa con người. Trước uy quyền và sự khôn ngoan thông thái của Người, những người có mặt hôm đó tại hội đường, từ tâm trạng sững sờ đến trầm trồ thán phục: “Lời giảng dạy thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh”. Chúa Giêsu cũng có sứ mạng canh tân phụng tự để hướng con người về sự tôn thờ đích thực. Với chi tiết Người trừ thần ô uế trong Hội đường, tác giả muốn nói với chúng ta, ngay trong những không gian thánh thiêng và dành riêng cho việc phụng thờ, vẫn có thể có những thế lực xấu xa, lôi kéo con người đi ngược lại với giới luật của Chúa. Chúa Giêsu cũng dạy: “Không phải những ai nói “Lạy Chúa! Lạy Chúa! đều được vào Thiên đàng, nhưng là những ai thực hiện ý của Cha tôi”. Sự hiện diện của Thiên Chúa không bị giới hạn bởi đền thờ hay hội đường, tình yêu thương của Chúa không phân biệt sắc tộc hay ngôn ngữ, nhưng ở đâu có tình yêu thương thì ở đó có Đức Chúa Trời. Theo giáo huấn của Chúa Giêsu, lời ca tụng tôn vinh Chúa phải xuất phát từ tấm lòng chân thành và phải đi đôi với thiện chí để nên trọn lành. Tại sao ngày nay không còn những vị ngôn sứ như ngày xưa? Bởi lẽ đã có Đức Giêsu là vị ngôn sứ vĩ đại. Tác giả thư Do Thái đã khẳng định: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Con của Ngài” (Dt 1,1). Giáo huấn của Người được các tác giả Tin Mừng ghi lại mang nội dung đầy đủ, tóm lược giáo huấn của các ngôn sứ thời Cựu ước và còn hoàn chính hơn. Nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa Cha đã diễn tả đầy đủ những gì Ngài cần nói với con người. Đức Giêsu cũng là Lời của Thiên Chúa, nên Thiên Chúa Cha không cần trung gian nào nữa để chuyển tải sứ điệp của Ngài. Tại sao ngày nay không còn những vị ngôn sứ như ngày xưa? Bởi nhờ phép Thánh tẩy, mỗi Kitô hữu đều là ngôn sứ. Bí tích Thánh tẩy làm cho chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu. Những ai mang danh Kitô hữu được chia sẻ quyền năng của Người. Quyền năng ấy do Chúa Thánh Thần thông ban. Ngài là Ngôi Ba Thiên Chúa và là Đấng soi sáng phù trợ các tín hữu. Loan báo Đức Giêsu là sứ mạng và vinh dự của mỗi Kitô hữu. Tuy vậy, trước khi nói đến loan truyền Tin Mừng cho người khác, mỗi chúng ta phải cố gắng thanh tẩy chính mình. Trong con người của chúng ta, đang hiện hữu vừa ánh sáng vừa bóng tối, vừa hình ảnh của Thiên Chúa nhưng cũng vừa hình ảnh của Satan. Chính vì thế mà chúng ta phải thanh tẩy bản thân mỗi ngày. Ơn gọi nên thánh không phải là những điều quá sức con người, mà đó là những điều rất bình dị trong cuộc sống. Thánh Phaolô đã cụ thể hóa đời sống Kitô hữu bằng cách khuyên mỗi người trong gia đình và trong cộng đoàn hãy chuyên tâm thực thi bổn phận của mình đối với Chúa và đối với tha nhân. Người lập gia đình thì chăm lo việc gia đình. Người tu hành thì chăm lo việc Chúa. Những công việc đời thường, nếu được chu toàn với thiện ý và với tâm tình Đức tin, thì cũng góp phần làm cho chúng ta nên hoàn thiện (Bài đọc II). Là Kitô hữu, chúng ta là hiện thân của Đức Kitô giữa trần gian, nhờ đó, được chia sẻ chức vụ ngôn sứ của Người. Xin cho chúng ta biết thực thi sứ vụ quan trọng này, trong đời sống cụ thể, để thánh hóa bản thân và giúp nhiều người khác nhận ra sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời.
Thông thường, uy quyền theo nghĩa hiểu của trần thế là người có uy lực trong lời nói hay việc TN4-B134
Thông thường, uy quyền theo nghĩa hiểu của trần thế là người có uy lực trong lời nói hay việc làm nhờ vào sức mạnh từ tài chánh hoặc sức mạnh của kẻ trên. Đấng có uy quyền chỉ về Chúa Giêsu thì khác, uy quyền của Người trên sự dữ, những tên ma quỷ quấy rối, là người chữa lành cac thương tích của con người. Có uy quyền trong lời nói vì lời ấy là Lời chân lý và Lời hằng sống.
Chia sẻ đề tài này theo hai hướng: Uy quyền nhờ vào quyền lực và uy quyền toàn diện của Chúa.
Uy Quyền dựa vào quyền lực:
Người ta thường dạy về ba thứ quyền lực, cứng, mềm và thông minh. Ba quyền lực này nếu biết sử dụng cùng nhau và nhuần nhuyễn, họ là những nhà lãnh đạo đại tài.
Đó là nghệ thuật lãnh đạo. Một nghệ thuật không phục vụ cho phẩm gía con người và thăng tiến toàn diện con người thì quyền lực ấy cũng vô ích.
Không thể chế hay tổ chức nào mà không có quyền lực. Quyền lực có thể làm cho người nắm giữ quyền lực trở nên xấu xa hay được ca tụng tùy theo cách họ dùng quyền lực.
Quyền lực thường được hiểu cần có thế lực về chính trị, kinh tế, quân sự… Những thế lực càng lớn, càng mạnh, thì quyền càng cao. Do hiểu quyền như thế, nên nhiều người hay tổ chức thường chạy theo gia tăng thế lực và gây nên nhiều bất ổn.
Quyền do Thiên Chúa ban.
Quyền cơ bản của mỗi con người là quyền được sống. Trên nguyên tắc cơ bản mỗi người cần tôn trọng quyền sống và phẩm giá của người khác. Chính vì vậy, Chúa mời gọi mọi người tôn trọng và làm cho con người được sống xứng đáng hơn mỗi ngày.
Quyền cá nhân, là một quyền xây dựng trên sống và phẩm giá con người. Mỗi người tự huấn luyện mình và nâng cao học hỏi để trở nên người được tôn trọng trong chức vị và phận vụ. Dù quyền cao, chức trọng hay là một người dân bình thường, đều được mời gọi giữ gìn và gia tăng phẩm cách. Sống với mọi người và sống với chính mình trong công bằng, bác ái, trách nhiệm và yêu thương.
Quyền được giao phó trên người khác, đó là quyền để phục vụ như Chúa dạy: “ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ” (Lc 22, 26).
Những người gặp gỡ Chúa có lý khi nhận định: “”Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh! ” (Mc , 27).
Uy quyền của Chúa khác với mọi quyền uy khác, chính Chúa thực thi uy quyền giải thoát con người khỏi sự dữ, tội lỗi và sự chết. Đó là uy quyền tối thượng, không ai trên trần gian này có thể có. Quyền thống trị sự dữ, buộc sự dữ không làm phương hại đến những người kêu cầu Người cứu giúp. Quyền thống trị trên tội lỗi, khiến những ai sám hối, xin ơn tha tội đều được xót thương và tha thứ. Quyền trên sự chết nên những ai tin vào Người thì được sống.
Các Tông Đồ được mời gọi tham gia vào uy quyền của Chúa, uy quyền đó nhằm phục vụ cộng đoàn. Các ngài đã hiến dâng đời mình bằng hy sinh, bằng máu đổ để gầy dựng một cộng đoàn trong đức tin và đức mến, chúng ta cũng được thừa hưởng đức tin sống đông của các ngài.
Phần mỗi người Kitô hữu cũng được mời gọi tham dự vào vương quyền Chúa Kitô trong phép rửa. Sứ vụ đón nhận: Tư Tế, ngôn sứ và Vương đế. Đó là ba sứ vụ chính yếu để thực hiện đời sống mình trong phục vụ và yêu thương.
Xin Chúa giúp chúng con thi hành theo Thánh ý Chúa trong vương quyền của Chúa. Vương quyền yêu thương và phục vụ Chúa trong mọi người.
Trong các buổi thuyết trình hay một chuyên đề nào đó, có lẽ mọi người sẽ có những ấn tượng điều TN4-B135
Trong các buổi thuyết trình hay một chuyên đề nào đó, có lẽ mọi người sẽ có những ấn tượng điều gì hay một ai đó về lời họ nói. Những ấn tưởng ấy có thể để lại cho chúng ta kinh nghiệm trong cuộc sống và bài học nào đó sau buổi thuyết trình.
Ngày xưa, với thành Caphacnaum, dân chúng rất bất ngờ và sững sốt về lời giảng của Chúa Giêsu. Trong Tin Mừng Thánh Máccô, thành Caphacnaum là nơi đầu tiên người đến giảng dạy. Lời giảng của Ngài đầy thuyết phục và xác tín. Ngài giảng dạy như Đấng có thẩm quyền chứ không như các kinh sư. Được biết, thuở xưa các kinh sư giảng dạy theo khẩu truyền, không sách vở. Họ nói những gì trong trí nhớ của họ được học, được biết. Còn Chúa Giêsu giảng dạy những lời giải thích hoàn toàn khác, rõ ràng và mới mẻ. Những lời Ngài nói ra là chân lý, đúng sự thật và đi thẳng vào những vấn đề luân lý cùng đạo đức thâm sâu không dựa trên uy quyền của ai mà chính Ngài. Ngài chỉ giảng dạy chứ chưa có ý định làm gì với ma quỷ. Thế nhưng, trong số người nghe, có kẻ bị thần ô uế nhập, la lên trách móc Chúa Giêsu. (x. Mc 1,21-29). Chúng ta thường nói “có tật giật mình”. Có thế, thần ô uế mới la lên. Nó sợ Chúa đến tiêu diệt nó hay để làm chia trí những lời giảng dạy của Ngài, cũng có thể để chế diễu uy quyền Ngài. Thật sự về những điều này thì Tin Mừng không viết rõ. Nhưng điều để chúng ta phải quan tâm và biết đến là ma quỷ rất sợ uy quyền Chúa, sợ ánh sáng chân lý và sự thật. Đồng thời cho chúng ta tin rằng Chúa chỉ phán một lời là mọi sự được tốt đẹp. Ngài đã quát mắng thần ô uế rằng: “Câm đi, hãy xuất khỏi người ngày!” (Mc 1, 25). Nó liền lay mạnh người bị nạn rồi thét lên một tiếng sau đó mới chịu xuất ra. Phần dân chúng vừa được nghe những lời dạy mới mẻ vừa được chứng kiến những phép lạ nên không khỏi kinh ngạc và bàn tán với nhau. Danh Ngài lan rộng khắp miền Galilê. Có lẽ, chúng ta không đủ tự tin để nói về Chúa. Quả thực những lời chúng ta nói về Chúa đủ thuyết phục và thu hút cũng bởi bởi nhờ Thần Khí nói trong chúng ta. Chúa Thánh Thần là Đấng bảo trợ và hằng hướng dẫn chúng ta trên đường rao giảng. Ngài sẽ hoạt động và đổ tràn ơn xuống trên mỗi người. Chúng ta đã biết hành trình rao giảng của Chúa Giêsu luôn gặp những khó khăn, gian khổ thì hành trình của chúng ta sẽ không tránh khỏi những gian khó như Thầy. Chúng ta phải chịu đựng những lời chất vấn và gây khó chịu nơi người đời. Điều quan trọng là chúng ta phải có một đức tin vững mạnh, một ý chí, sự can đảm để vượt qua mọi gian nan trên hành trình theo Chúa.
Cậu bé vừa đi lễ về đã được mẹ giao việc. Bà mẹ vội vã:
– Con ơi, mau đi mua đồ ăn sáng cho bố.
– Không phải lo đâu mẹ.
– Không lo cái gì. Con lúc nào cũng chậm chạp. Mau đi mua bánh cho bố kẻo trễ.
– Mẹ yên tâm. Một lời Chúa phán liền có mọi sự.
Nói rồi cậu bé liền đi ra cổng.
Lạy Chúa! Giữa dòng đời lắt lẻo, những lời nói của chúng con không đủ thuyết phục để mọi người nhận ra Chúa. Bên cạnh đó, chúng con cũng gặp bao chông gai. Chúng con nguyện xin Chúa tuôn đổ Thần Khí trên chúng con để chúng con vượt qua bao gian nan thử thách để làm chứng cho Chúa. Amen.
Thiên Chúa không bao giờ khép kín từ tâm. Tình thương của Thiên Chúa thật vô biên và các TN4-B136
Thiên Chúa không bao giờ khép kín từ tâm. Tình thương của Thiên Chúa thật vô biên và các môn đệ đã được cuốn vào tình thương vô biên đó, được mời gọi vượt qua sự mệt mỏi và mọi thứ cản trở để phục vụ, để cho đi, để chia sẻ tình thương. Hôm nay, theo chân thầy Giêsu vào Hội đường, ta được chứng kiến quyền năng và tình thương của Thầy khi Thầy giảng dạy và chữa lành người bị quỷ ám.
Ta hình dung Thầy Giêsu bước vào Hội đường để giảng dạy trong bộ trang phục rất đơn sơ của một anh thợ mộc. Thầy không mặc chiếc áo có tua thật dài, không đeo hộp kinh thật lớn như các kinh sư nhưng lời Thầy giảng dạy thì thật cuốn hút và đầy quyền năng. Nghe Thầy giảng dạy và dùng uy quyền mà trừ quỷ, dân chúng phải sững sờ kinh ngạc và bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Lời giảng dạy thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh.” (Mc 1, 27). Thầy chính là Ngôi Hai Thiên Chúa do đó giáo lý mà Thầy giảng dạy là mạc khải trọn vẹn nhất. Giáo lý mà các kinh sư giảng dạy là mạc khải mà ông Môsê và các ngôn sứ lãnh nhận từ Thiên Chúa. Qua bao thời và bao thế hệ, giáo lý ấy được các ông giữ cẩn thận và tỉ mỉ nhưng lại hạn hẹp bởi cái nhìn và lối sống của phàm nhân. Thầy Giêsu đã từng trách mắng các kinh sư là “đạo đức giả” là “mồ mả tô vôi” vì các ông không sống theo những gì mình giảng dạy. (x. Mt 23, 27-32). Khi Thầy cảm thương và chữa lành cho một anh bại tay trong ngày sabat thì các kinh sư và thượng tế phẫn nộ. Trước thái độ chai cứng của họ, Thầy Giêsu đã giận dữ và buồn bực bao nhiêu. (x. Mc 3, 1-6). Trước quyền năng của Thiên Chúa, ta được mời gọi vững tin để can đảm dơ tay ra cho Thầy chữa lành. Nếu như ngày ấy, anh bại tay không đưa tay ra, cứ nghĩ mình không thể thì chắc hẳn anh đã chẳng được lành. ( x. Mc 3, 1-6). Khi ta trở thành bại tay, ta sẽ cảm nhận được thế nào là sự bất lực, thế nào là sự tủi hổ mà anh đang gánh chịu. Đưa tay ra là chấp nhận thử thách, dám liều mình để được quyền năng Chúa chạm tới.
Từ đây, các môn đệ vui mừng vì danh tiếng Thầy đồn ra khắp cả vùng Galilê. Rồi chẳng mấy chốc, các ông cũng được Thầy truyền cho bí kíp để có thể ra đi rao giảng, tiếp nối sứ mạng của Thầy. Ta sẽ thấy những tâm hồn đầy nhiệt huyết theo sát bên Thầy rong ruổi khắp các ngả đường và làng mạc để làm cho yêu thương lan tỏa. Có những ngày miệt mài giúp Thầy chữa lành bệnh nhân, an ủi và khích lệ họ, các ông cũng quên ăn uống. Vậy mà các ông chẳng hề kêu la mà vẫn cùng Thầy tiếp tục nâng đỡ bao người. Rồi khi Chúa Giêsu Phục Sinh về trời, các ông đã mạnh dạn ra đi rao giảng khắp nơi về Đấng đã chịu khổ hình và sống lại từ cõi chết để giải thoát con người khỏi tội lỗi và ban ơn cứu độ. Nói về mình, các ông đã nói về những lầm lỗi mình đã phạm và được Chúa Giêsu tha thứ như thế nào, yêu thương ra sao. Chính các ông là những chứng nhân phục sinh đã sống và chết trong ơn gọi Chúa ban.
Lạy Chúa! Xin cho con hiểu rằng, Chúa luôn yêu thương chính bản thân con. Chúa là Đấng quyền năng luôn ở cùng con. Xin cho con biết khiêm nhường hạ mình xuống để nhận ra quyền năng và tình thương Chúa bày tỏ nơi những người con gặp gỡ mỗi ngày. Amen.
Đoạn Tin mừng ta vừa nghe, kể lại việc Chúa Giêsu đi rao giảng Tin Mừng. Mọi người đều thán TN4-B137
Đoạn Tin mừng ta vừa nghe, kể lại việc Chúa Giêsu đi rao giảng Tin Mừng. Mọi người đều thán phục về sức mạnh của Lời Chúa. Lời Chúa có sức mạnh khiến cho ma quỷ phải tâm phục khẩu phục. Anh chị em đã thấy người bị quỷ nhập bao giờ chưa? Tôi đã xem trong các băng đĩa, và thấy kinh hãi lắm. Ma quỷ rất dữ tợn. Có khi chúng hành hạ con người một cách không thương tiếc. Thánh Maccô kể: Hôm đó trong Hội Đường có một người bị quỷ ám. Không ai làm gì được nó, ngay cả các thầy Tư Tế cũng bó tay. Tuy nhiên, chỉ mới thấy bóng dáng của Chúa Giêsu xuất hiện thôi, ma quỷ đã sợ hãi la lên. Tại sao vậy? Thưa, vì chúng biết rõ Chúa Giêsu là ai, là Đấng thánh của Thiên Chúa, Đấng đến để tiêu diệt chúng. Ma quỷ sợ sự xuất hiện của Chúa Giêsu sẽ làm cho chúng không còn đất sống. Thực vậy! Lời uy quyền của Chúa đã khiến cho ma quỷ sợ hãi. Chúa nói: “Hãy ra khỏi người này”. Nghe tiếng Chúa Giêsu quát, ma quỷ liền lay mạnh người ấy một cái, hét lên một tiếng, rồi xuất ra khỏi người ấy, khiến cho những người chứng kiến phải sửng sốt.
Ngày nay, ma quỷ vẫn là một quyền lực mạnh mẽ trên thế giới. Ma quỷ đang chi phối và lôi kéo rất nhiều người theo chúng. Thậm chí nhiều người còn lập hẳn một đạo để tôn thờ ma quỷ, gọi là đạo thờ Satan. Các tín đồ của đạo Satan quyết tâm phá hại Hội Thánh Chúa, và triệt hạ lòng đạo đức của các Kitô hữu. Hậu quả là tội lỗi lan tràn khắp nơi: ly dị nhiều hơn, phá thai nhiều hơn, ngoại tình nhiều hơn, thanh thiếu niên phạm pháp nhiều hơn.
Anh chị em đã trông thấy ma quỷ chưa? Có lẽ ta chưa thấy hình thù ma quỷ ra làm sao, nhưng ta chỉ được nghe người này người kia kể lại, hoặc ta chỉ thấy những tấm hình vẽ ma quỉ. Nào là ma quỷ có sừng, có đuôi, mặt mũi nhăn nhở, đen đủi, v.v… Điều đáng sợ là ma quỷ rất khôn khéo. Chúng thường ẩn mặt, ít khi lộ diện, nên nhiều người lầm tưởng là không có ma quỷ. Vì lầm tưởng không có ma quỷ, nên không mấy ai đề phòng chúng. Và khi người ta không đề phòng, thì ma quỷ càng dễ điều khiển con người. Đó là thành công lớn nhất của ma quỷ.
Ta thử nghĩ: Nếu ma quỷ hiện hình xấu xí như các hình vẽ, thì có lẽ ta sẽ dễ nhận ra nó; và nó khó lòng cám dỗ được ta. Nhưng ma quỷ rất ít khi xuất đầu lộ diện. Nó luôn đứng trong bóng tối, và dùng ma lực của chúng để xui khiến người ta phạm tội, giống như ta sử dụng remote để điều khiển màn hình Tivi.
Vậy có cách nào để tiêu diệt ma quỷ không? Liệu ta có thể tưới xăng, đốt ma quỷ được không? Thưa không, vì không có thứ lửa nào có thể đốt cháy được ma quỷ. Ta có thể dùng dao đâm, hay dùng súng bắn cho ma quỷ chết được không? Thưa không, vì ma quỷ không có thể xác. Ta có thể dùng bom nguyên tử để tiêu diệt ma quỷ được không? Cũng không luôn, vì ma quỷ vô hình. Vậy ta phải làm gì để diệt trừ quyền lực của ma quỷ? Thưa, ta chỉ có một phương thế duy nhất để diệt trừ ma quỷ, đó là cậy dựa vào sức mạnh của Chúa. Vì Chúa Giêsu có quyền năng trên ma quỷ; và sứ mạng của Chúa Giêsu khi đến trần gian, là giải thoát con người khỏi mọi sự dữ, trong đó có ma quỷ.
Ước gì ta luôn cầu nguyện và lãnh nhận các Bí tích, để được tiếp thêm sức mạnh thiêng liêng của Chúa. Đặc biệt mỗi khi bị cám dỗ, hãy sốt sắng nguyện xin với Chúa Giêsu: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ”. Nếu ta năng đến với Chúa và cầu xin như thế, thì ma quỷ sẽ không thể làm gì được ta.
Ngôi Lời giáng thế làm người, Rao truyền chân lý, rạng ngời nhân gian. Lời Ngài giảng dạy truyền TN4-B138
Ngôi Lời giáng thế làm người, Rao truyền chân lý, rạng ngời nhân gian. Lời Ngài giảng dạy truyền ban, Cứu nhân độ thế, tỏa lan cõi đời. Quỉ ma lẩn tránh xa rời, Tà thần ô uế, biết thời giáng lâm. Chúa Con quyền phép tự tâm, Xua trừ ma quỉ, lặng câm thói đời. Quỉ thần vâng lệnh Chúa Trời, Tha người trói buộc, cả đời khổ đau. Uy quyền giải thoát hóa mau, Một lời Chúa phán, trước sau hiện thành. Tin mừng tuôn đổ ơn lành, Hy sinh cứu rỗi, ca danh Chúa Trời. Hồng ân phúc đức bởi trời, Nguồn sinh ơn lộc, cho người trần gian.
Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể và cư ngụ giữa chúng ta. Chúa Giêsu chính là Lời của Thiên Chúa. Lời hằng sống có sức cải đổi tâm hồn và thể xác. Lời Ngài là chân lý và là sức sống cứu độ. Qua Ngôi Lời muôn vật được tạo thành. Mọi người đều kinh ngạc về Lời của Chúa giảng dạy.
Chúa Giêsu dùng ngôn ngữ của con người để diễn tả mầu nhiệm Nước Trời. Lời của Ngài thật đơn sơ và thâm thúy qua các ẩn dụ, dụ ngôn hay truyện kể. Nó mang sức thánh hóa và biến đổi tâm hồn. Ngài giảng dạy như Đấng có quyền. Ngài không cần lấy lời của người khác làm bằng chứng. Tự Ngài là nhân chứng của sự thật.
Còn chúng ta thường tìm vinh danh ảo lẫn nhau. Thí dụ: Trong một bài viết hay bài giảng, chúng ta nghĩ rằng chúng ta càng đưa ra được nhiều dẫn chứng từ người khác càng có giá trị. Có khi những dẫn chứng từ những nguồn không chính xác. Đôi khi chúng ta hãnh diện đã trích được lời này hay lời kia từ ngôn ngữ ngoại quốc. Thực vậy, càng có nhiều dẫn chứng, bài viết càng tốt. Nó có những giá trị riêng của nó. Nhưng Lời của Chúa là Lời chân lý và tuyệt đối. Các thứ văn chương đối chiếu, thơ phú, ca dao, ví dụ, kể truyện… chỉ là giúp làm sáng tỏ và áp dụng Lời của Chúa. Nó không thể thay thế.
Trong bài phúc âm, Chúa đã vào Hội Đường và giảng dạy như Đấng có quyền. Không phải chỉ như Đấng có quyền mà là Đấng có thực quyền. Chúa Giêsu thấu tỏ lòng con người. Ngài biết họ cần gì và muốn gì. Với đầy quyền năng, Ngài xua trừ ma qủy. Ngài phán với ma qủy: “Hãy im đi và xuất ra khỏi hắn”. Ma qủy dữ tợn nhưng phải vâng lời Ngài.
Chúng ta tôn kính và mến yêu Lời Chúa. Đừng dùng Lời Chúa áp dụng vào chỗ không đâu để làm trò cười cho thiên hạ. Cũng đừng trích dẫn Lời Chúa để biện minh cho những cách thế suy tư mơ hồ hoặc uốn theo sở thích riêng tư. Ma qủy cũng đã dùng cách trích dẫn Lời Chúa để cám dỗ Ngài. Chúa Giêsu dùng Lời Chân Lý trong ý ngay lành để thắng ma qủy.
Lạy Chúa, xin cho con biết lắng nghe, yêu mến suy gẫm và áp dụng Lời Chúa trong cuộc sống mỗi ngày. Ước chi Lời Chúa là ánh soi cho con lần bước trong hỏa mù của thế gian.
Sau khi thánh Gioan Tẩy Giả bị bắt, Chúa Giêsu trở về Galilê công khai giảng dạy trong Hội đường TN4-B139
Sau khi thánh Gioan Tẩy Giả bị bắt, Chúa Giêsu trở về Galilê công khai giảng dạy trong Hội đường. Cùng với lời giảng, Chúa thực hiện nhiều phép lạ. Hôm nay, Tin mừng theo thánh Marcô cho biết, phép lạ của Chúa là phép lạ trừ quỷ.
I. VÌ SAO CHÚA CẤM MA QUỶ TUYÊN XƯNG?
Chúng ta lấy làm lạ: Chúa Giêsu đến trần thế là để mạc khải cho loài người biết Chúa là Con Thiên Chúa. Vậy tại sao khi ma quỷ tuyên xưng: “Tôi biết Ông là ai: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”, thì Chúa lại quát: “Hãy câm đi”? Vì sao ma quỷ nói đúng về thân thế của Chúa mà Chúa lại cấm? Có hAi lý do:
Lý do 1:
Đây là thời gian đế quốc Rôma đang chiếm đóng Israel. Sống dưới ách nô lệ của người Rôma, dân chúng khao khát một vị anh hùng dân tộc có thể đứng lên lãnh đạo dân, đấu tranh giành lại độc lập cho quê hương.
Trong khi đó, Chúa Giêsu vừa bắt đầu rao giảng, dân chúng chưa hiểu Chúa nhiều. Do đó, Chúa chưa muốn mạc khải về mình. Chúa tránh bị dân chúng hiểu lầm “Đấng Thánh của Thiên Chúa” cũng là thủ lãnh làm chánh trị đảo chánh quân Rôma.
Nếu họ chỉ dừng ở mức độ xem Chúa là vị lãnh đạo như bao nhiêu vị lãnh đạo trần thế, thì việc Chúa đưa họ vào ơn cứu độ, vào tình yêu của Thiên Chúa, sẽ khó khăn.
Lý do 2:
– Chúa cấm ma quỷ tuyên xưng Chúa là Đấng Thánh, vì tự bản chất, ma quỷ là sự dữ, sự xấu, dối trá, đen tối. Nó hoàn toàn đối lập với Đấng Thánh, Đấng là Ánh Sáng, Đấng có quyền trao ban ánh sáng.
Ma quỷ không có tư cách nói về Chúa, không có tư cách tuyên xưng Chúa, càng không có tư cách minh chứng mầu nhiệm Nước Trời. Để rao giảng về Chúa, cần người lành thánh. Ma quỷ không thể là nhân vật đầu tiên nói về Chúa Giêsu trong Tin Mừng. Nó không xứng đáng. Chúng không có sự thật nơi mình. Chúng không có khả năng nói sự thật. Chính Chúa Giêsu từng tuyên bố: “Dối trá là bởi ma quỷ mà ra” (Mt 5, 37).
– Trong bài Tin Mừng, ma quỷ có tên là “thần ô uế”. Nó kiêu ngạo như chính bản chất mà nó vốn có, khi tự cho mình “biết” Chúa Giêsu: “Tôi biết Ông là ai”.
Chỉ có ai thuộc về Thiên Chúa mới “biết” Chúa Giêsu. Thần ô uế không thuộc về Thiên Chúa. Nó nhập vào con người, làm họ bị tha hoá, xa rời Thiên Chúa. Nó phá hoại công trình, chống đối và tách mình khỏi Thiên Chúa. Nó không thể biết Chúa Giêsu, hay không thể biết đầy đủ như chính Chúa là Đấng cần phải biết.
– Chúa cấm ma quỷ nói về Chúa vì nó không thể nói sự thật, không có sự thật để nói. Nó không có phương tiện để nói. Nó phải gây tội ác: Nhập vào con người, biến họ thành dụng cụ và mượn tiếng của họ để nói. Tội ác không thể nói đúng về Đấng Thánh.
II. ẢNH HƯỞNG CỦA MA QUỶ.
Ma quỷ vẫn lộng hành bằng nhiều hình thức: nhập vào con người, nhẹ nhàng lôi kéo hướng về sự dữ, lèo lái con người thực hiện tội ác, dùng mưu mô phá rối trật tự cuộc sống của con người, của thế giới… Người bị quỷ nhập không nhiều. Nhưng chắc chắn ảnh hưởng của ma quỷ trên con người thì không thể nói hết được.
Ma quỷ thường được mô tả xấu xí, đáng sợ. Nếu thế, chúng ta dễ nhận ra và nó cũng khó cám dỗ ta. Thực tế, ma quỷ không hiện nguyên hình để cám dỗ. Nó ẩn nấp dưới những hình dáng xinh đẹp, hấp dẫn. Nó tấn công bằng thủ đoạn tinh vi, ngọt ngào. Nó nắm rõ điểm yếu từng cá nhân cũng như tập thể, từ đó lôi kéo ta xa Chúa. Thúc giục ta chống đối Thiên Chúa, chống đối hạnh phúc đích thực của con người.
Chúng ta tự hào mình không bị quỷ ám. Thực ra, ma quỷ có thể ám bằng cách lừa gạt ta chạy theo hạnh phúc giả tạo như: cuốn hút vào tham vọng, dục vọng, oán thù, ích kỷ, hưởng thụ… Ma quỷ ám ta bằng cách làm cho ta tôn sùng tiền bạc, tiện nghi, thời trang, công việc làm ăn, phim ảnh…
Loại quỷ ám nào cũng làm mất tự do, mất trong trắng, dễ phạm tội, đi ngược đường lối và giáo lý của Chúa. Nó bắt ta phải nghĩ, phải sống theo một lập trình. Ta không thể làm khác, không thắng được bản năng và thói quen.
Ảnh hưởng của ma quỷ vẫn là sức mạnh lớn. Vì thế, Chúng ta cần đến ơn Thiên Chúa phù hộ, chở che, nâng đỡ. Hãy nhớ:
– Đời sống cầu nguyện luôn là điểm mốc quang trọng nhất để ta thoát khỏi ảnh hưởng của ma quỷ. Hãy luôn cầu nguyện. Hãy cầu nguyện chân thành, khiêm tốn.
– Tín thách đời mình trong tay Chúa. Hãy để Chúa làm chủ cuộc đời mình. Hãy để Chúa hướng dẫn bằng cách không để mình hướng chiều về sự tội.
– Làm việc lành phúc đức, sống tinh thần bác ái, sống khiêm nhường và tránh mọi thứ kiêu ngạo, hống hách, cậy mình hơn người…
– Tránh xa mọi dịp gây tội, mọi cám dỗ, mọi nguy cơ vi phạm lề luật của Chúa…
– Không dẫn mình vào những nơi, những hoàn cảnh có thể đưa tới tội lỗi.
– Siêng năng tham dự thánh lễ, chầu và rước Mình Thánh Chúa, xưng tội, lãnh nhận các bí tích cần thiết khác.
– Siêng năng làm việc lành, thực hành các công tác đạo đức, quảng đại dấn thân vì tha nhân, yêu thương đón nhận mọi người vì họ cùng là Con của Chúa như ta.
– Sống đứng đắn, đoan trang, gìn giữ ngũ quan, không khoe khoang, không ham hố, không chiều theo xác thịt.
– Thường xuyên đọc, suy gẫm và cầu nguyện bằng Lời Chúa. suy niệm cuộc khổ nạn của Chúa giêsu.
– Kính mến Thánh tâm Chúa, kính mến Thánh giá, Đức Mẹ và các thánh. Hãy luôn ao ước học đòi bắt chước gương thánh thiện của Chúa Giêsu và các thánh.
Là người Công Giáo Việt Nam, hẳn đa số ai cũng biết đến Đấng Đáng Kính, Đức Hồng Y Phanxicô TN4-B140
Là người Công Giáo Việt Nam, hẳn đa số ai cũng biết đến Đấng Đáng Kính, Đức Hồng Y Phanxicô X. Nguyễn Văn Thuận. Ngài là vị Hồng Y đặc biệt được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II mời giảng tĩnh tâm cho Giáo Triều dịp Mùa Chay năm thánh 2000. Ngoài sự trổi vượt về đời sống đạo đức, ngài còn là một vị giảng thuyết hết sức lôi cuốn đối với rất nhiều thành phần trong Giáo Hội, nhất là giới trẻ. Người ta đã coi ngài như là một người đầy quyền uy trong lời nói và việc làm!
Lý do Đức Hồng Y được người ta ca tụng như vậy, ấy là bởi vì ngài đã luôn sống yêu thương. Ngài sẵn sàng tha thứ cho những người coi ngài là kẻ thù và làm hại mình. Mặt khác, cuộc sống đơn sơ, giản dị, khiêm nhường, ngôn hành như nhất đã làm cho uy tín của ngài ngày càng lan rộng!
Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại câu chuyện Đức Giêsu vào Hội đường Dothái và giảng dạy. Ngài giảng dạy khác hẳn với những Kinh Sư thời bấy giờ, khiến ai nấy trong Hội đường trầm trồ khen ngợi: “Ông này giảng dạy như một Đấng có uy quyền”.
Lý do tại sao Đức Giêsu được người ta khen ngợi như vậy? Đâu là điều làm cho Ngài trở nên Đấng có uy quyền trong lời nói và hành động? Và, chúng ta học được bài học gì qua phụng vụ Lời Chúa hôm nay?
Ngôn hành bất nhất nơi các Kinh sư Tin Mừng hôm nay không nói về việc Đức Giêsu giảng gì. Cũng chẳng nói lời giảng của ngài khác với những lời giảng của những nhà thông luật thời bấy giờ ra sao! Tuy nhiên, muốn hiểu được tại sao: thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Đức Giêsu và không ngớt khen ngợi điều mới lạ nơi Giáo lý của Ngài, đồng thời không ngừng tuyên xưng về quyền uy của Đức Giêsu… (x. Mc 1, 22-28), chúng ta cần hiểu về hai cách sống, hai cung cách, hai lối giảng giữa Đức Giêsu và những Kinh sư.
Vào thời bấy giờ, người Dothái luôn coi trọng các Kinh sư, bởi vì họ là những người nắm luật, là thành phần được ngồi trên “ngai tòa Môsê” để giáo huấn. Chính vì lý do đó, nên những người này được dân chúng coi trọng và tin tưởng.
Tuy nhiên, Đức Giêsu lại không chấp nhận những điều họ làm, bởi vì ngôn hành bất nhất. Thế nên, đã nhiều lần, Ngài lên tiếng thẳng thắn nói với dân chúng về điều trái khuấy của những Kinh sư này, Ngài nói: “… những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm” (Mt 23, 3). Lần khác, Đức Giêsu đã phân tích sự khập khiễng, mâu thuẫn giữa lời nói và hành động của những Kinh sư, bởi vì: “Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy […], nào là đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài, ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “rápbi” (x. Mt 23, 4-7).
Chẳng những thế, chính Đức Giêsu đã chỉ thẳng mặt và vạch trần tội ác của họ khi nói: khốn cho các người, hỡi các Kinh sư giả hình! Các người không muốn vào nhà, nhưng lại khóa cửa không cho ai vào. Nào là sẵn sàng nuốt tài sản của bà góa nghèo. Giả bộ đạo đức…. (x. Mt 23, 13-14). Các ngươi giống như “… mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế, toàn là giả hình và gian ác! (x. Mt 23, 27-28
Như vậy, họ là những người đáng trách và không có uy quyền trong dân, bởi vì tất cả những điều họ làm không xuất phát từ lòng tôn kính Thiên Chúa, mà là muốn được phô trương thanh thế bề ngoài, còn tâm hồn thì rỗng tuếch!
2. Ngôn hành như nhất nơi Đức Giêsu
Ngược lại, nơi Đức Giêsu, khởi đi từ mục đích của Ngài xuống trần gian là để loan báo ơn cứu độ, băng bó những tâm hồn đau thương, an ủi kẻ âu lo, chữa lành bệnh tật, giải thoát con người khỏi tội lỗi, nhất là dạy dỗ dân chúng và vạch ra cho họ con đường đưa đến hạnh phúc đích thực là Nước Trời. Không những thế, Ngài luôn mang trong mình lòng xót thương của Thiên Chúa, nên đã đứng về phía những người đau khổ, nghèo khó, cô thế cô thân, những người bị áp bức, bóc lột để bênh vực họ….
Vì thế, từng lời Ngài dạy, từng việc Ngài làm đều ăn khớp với nhau và toát lên tấm lòng mục tử đầy nhân hậu, luôn “ngửi thấy” và “mang trong mình mùi chiên” để cứu chuộc nhân loại khổ đau.
Điểm khác biệt này chúng ta còn nhận thấy, đó là nơi các Kinh sư, những điều họ dạy, họ nói đều phải “căn cứ theo những lời dạy có sẵn trong luật”, còn nơi Đức Giêsu, tất cả “mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Ngài (x. Mt 28,18) vì Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa.
3. Bài học cho chúng ta hôm nay
Ngày nay, rất nhiều người trong chúng ta đang tìm cách tô vẽ lên con người mình cũng như lựa chọn cung cách ứng xử chẳng khác gì các Kinh sư! Biết bao lần chúng ta loay hoay tìm đủ mọi cách để tô đậm chất tố “kinh sư thời hiện đại” ngay trên con người của mình, để thể hiện uy quyền với anh chị em xung quanh.
Thế nhưng, sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta bài học vô cùng quý giá, đó là: uy tín không hẳn đến từ những lời nói hay, ngon ngọt. Lại càng không phải đến từ những người trong đầu chứa đầy kiến thức, và, hoàn toàn không phải đến từ những kẻ giả hình!
Ngược lại, uy tín và uy quyền lại đến từ những người chân thật, đơn sơ, hiền lành, khiêm nhường. Cuộc đời của Đức Giêsu và câu chuyện về Đức Hồng Y Phanxicô X. Nguyễn Văn Thuận đã chứng minh cho chúng ta thấy rõ điều đó.
Thật vô cùng ảo tưởng khi củng cố quyền lực bằng những chuyện khua chiêng gõ trống bên ngoài hay bằng tiền bạc hoặc bằng việc củng cố quyền lực qua những thói kêu ngạo giả hình….
Quả thật, uy quyền chỉ có thể thực sự hữu ích cho mình và cho tha nhân khi nó được đặt trong tâm thế của người phục vụ cách vô vị lợi chứ không phải để “ăn trên ngồi trốc” như giới Kinh sư.
Mong sao mỗi người chúng ta khi đã hiểu được sức mạnh, uy quyền của sự khiêm nhường, đơn sơ, ngay thật và thẳng thắn, chúng ta luôn sống điều đã thấy, tin điều đã cảm nghiệm và rập đời sống chúng ta theo mẫu gương của Đức Giêsu, để ngang qua cuộc sống và các mối tương quan hằng ngày nơi mỗi người, uy quyền của Thiên Chúa ngày càng được nhiều tôn nhận và Danh Chúa ngày càng được nhiều người biết đến. Amen.
Lạy Chúa, Có người nhân xét tin mừng của Chúa gây phiền nhiễu, Phúc âm của Chúa là một TN4-B141
Lạy Chúa,
Có người nhân xét tin mừng của Chúa gây phiền nhiễu, Phúc âm của Chúa là một sự quấy rầy. Mới nghe xem ra khó chấp nhận. Đã gọi là Tin mừng, là Phúc âm sao lại có thể như thế ? Nhưng qua đoạn trích bài Tin Mừng thánh Maccô hôm nay, con phần nào hiểu được điều này. Quả thật, theo trình thuật thì tại Các- pha- na- um nhân ngày Sa-bát, Chúa đã vào hội đường giảng dạy. “Thiên hạ sửng sốt về lời gỉang dạy của Người, vì Người giảng dạy như một đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư “. Và chính trong bối cảnh đó, một người bị thần ô uế nhập đã lên tiếng phản đối:“chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi”.
Ngày hôm nay, trên thế giới này không ít những người bài bác Giáo lý của Chúa. Nhiều triết gia thuộc nhiều trường phái khác nhau, vô tín hay không, tìm mọi lý lẽ để loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi đời sống xã hội. Đã có người khẳng định “Thiên Chúa đã chết “ để được tự do hành động như các thần ô uế. Lũng đoạn thế giới này, lôi kéo con người rời xa Thiên Chúa, từ khước tình yêu của Người với nhân loại, và thậm chí tìm mọi cách phản bác, tiêu diệt Lời Người. Những chuyện như thế đã có từ thời tạo thiên lập địa, khi con người bày tỏ thái độ thách đố, kiêu căng chống lại Thiên Chúa ngay trong vườn địa đàng.
Sống trong một xã hội với biết bao cạm bẫy của ma quỉ: tiền tài , sắc dục, địa vị, quyền lợi, đam mê thế tục khiến con nhiều phen bị chao đảo. Ma quỉ luôn luôn tìm mọi cách để lôi kéo con rời xa tình yêu thương của Thiên Chúa, chúng cho rằng chuyện trần gian không can chi đến chuyện trên trời. Thiên Chúa không thể can thiệp vào cuộc sống con người vì Người tôn trọng tự do, quyết định của mỗi người. Những lý lẽ như thế ám chặt vào bản thân khiến con, khiến con trở nên ô uế, bị thần ác ám chặt.
Quả thật nhiều lúc cũng muốn loại Chúa ra khỏi cuộc đời con. Không dám đối diện với Lời Chúa, bởi qua lời Chúa con phải biết bỏ những thói xấu, những đam mê tội lỗi. Con phải biết sống xả kỷ, không chỉ nghĩ đến mình, gia đình mình, những người mình yêu mến, mà phải mở lòng ra với hết mọi người như Chúa đòi hỏi: Yêu thương tha nhân như chính mình. Những điều đó quả là khó khăn cho con. Con chỉ muốn thong dong làm điều mình thích bất kể điều đó có hợp đạo lý? Con chỉ muốn thỏa mãn ý riêng mình mà bất chấp Lời Chúa mong muốn con nên trọn lành như Cha trên trời.. . Trong khi đó theo Chúa là phải phấn đấu bước vào cửa hẹp, phải biết từ bỏ mình, vác thập giá hàng ngày mà theo. Đi theo con đường ấy, cánh cửa ấy mỗi người chúng con sẽ được sự bình an của Chúa, được hạnh phúc ngay từ cuộc sống này.
Xin cho con luôn biết tự hối, biết nhận ra Lời Chúa là lời hằng sống, là ngọn đèn soi cho con bước, để con luôn biết lắng nghe Lời Người, sống Lời Người và đem ra thực hiện Lời trong cuộc sống, vì “Lời giảng dạy thì mới mẻ, người giảng dạy lại có uy quyền “.
Xin Chúa chữa lành bệnh tật Linh hồn con, trục thần ô uế ra khỏi con người yếu đuối của con để con mạnh dạn lớn tiếng tung hô Chúa như những người theo Chúa ngày xưa. AMEN.
Lập tức danh tiếng Người đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Ga-li-lê.
I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (1,21-28):
(21) Tại thành Ca-phác-na-um, ngày sa-bát, Đức Giê-su vào hội đường và giảng dạy. (22) Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.
(23) Lập tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên (24) rằng: “Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa !” (25) Nhưng Đức Giê-su quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” (26) Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta. (27) Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” (28) Lập tức danh tiếng Người đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Ga-li-lê.
II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (1,21-28):
2.1 Đức Giê-su giảng dậy có uy quyền:
Đức Giê-su giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư. Các kinh sư TN4-B142
Đức Giê-su giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư. Các kinh sư giảng dậy bằng cách clặp đi lặp lại những lời có sẵn trong sách Luật, không có hồn, không có xác tín, không có đời sống chứng tá đi kèm. Còn Đức Giê-su thì tràn đầy Thần Khí, tràn đầy lòng mến và xác tín cao độ về những lời Người giảng. Vì Người chính là Lời của Thiên Chúa!
2.2 Đức Giê-su trừ quỷ cách hiệu quả:
Các kinh sư không có khả năng trừ quỷ vì họ thiếu cầu nguyện và ăn chay hãm mình. Còn Đức Giê-su thì tràn đầy Thấn Khí, tràn đầy sức mạnh của Thiên Chúa, siêng năng ăn chay và cầu nguyện không ngừng. Người là Con Một của Thiên Chúa, luôn kết hiệp mật thiết với Cha!
2.3 Dân chúng hết sức thán phục Đức Giê-su:
”Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” Lập tức danh tiếng Người đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Ga-li-lê.” Hệ quả ấy là tất yếu. Nhưng Đức Giê-su không lấy đó làm quan trọng. Quan trọng là Thiên Chúa Cha được tôn vinh và nhiều người được cứu độ.
III. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (1,21-28):
3.1 Làm thế nào để lời giảng dậy của chúng ta lôi cuốn, đánh động người nghe?
Các linh mục, các giảng viên các Khóa Thánh Kinh, các giáo lý viên, các bậc cha mẹ và các huynh trưởng cần học với Chúa Giê-su để lời giảng dậy của mình lôi cuốn đánh động người nghe. Nếu chỉ là những lời giảng xuông rỗng tuếch, không có hồn, không sức sống, không xác tín và không đời sống chứng tá đi kèm thì không thuyết phục được giáo dân, học viên, con em mình.
3.2 Làm thế nào để chúng ta chiến thắng ma quỷ?
Ma quỷ chỉ sợ những người sống chay tịnh và cầu nguyện vì những người ấy đầy Thần Khí và sức mạnh của Thiên Chúa. Chính Chúa Giê-su đã khẳng định trong Phúc âm là chỉ có ăn chay và cầu nguyện, các tông đồ mới cò sức chống trả được Sa-tan.
IV. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (1,21-28):
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Thầy dậy và là Đấng khử trừ ác thần. Chúng con rất cần đến Chúa, vì chúng con u-mê tăm tối và luôn bị cám dỗ bởi Sa-tan, thế gian và xác thịt. Xin Chúa đến giúp chúng con và ở với chúng con đêm ngày.
Cũng xin Chúa ban sức mạnh cho những lời giảng dậy của chúng con để những người nghe chúng con được tác động.
Con cầu xin Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn ngàn đời. Amen.
Bài đọc I hôm nay (CN IV/TN-B – Đnl 18, 15-20) nói đến vai trò của ông Mô-sê như một Ngôn TN4-B143
Bài đọc I hôm nay (CN IV/TN-B – Đnl 18, 15-20) nói đến vai trò của ông Mô-sê như một Ngôn sứ lớn đã được Chúa gọi để dẫn dắt Dân Chúa ra khỏi đất Ai Cập, vượt qua Biển Đỏ, đi qua sa mạc gian khổ để trở về quê hương thật của mình là miền đất Chúa đã hứa cho các tổ phụ. Trong cuộc hành trình trở về Đất Hứa, Dân Chúa đã phải trải qua biết bao gian khổ, hy sinh… Trước hết, họ phải từ bỏ nếp sống bình thường ở Ai Cập, phải vượt Biển Đỏ và sau đó vượt qua sa mạc Si-nai mênh mông khô cằn, theo một lộ trình thật dài. Trong cuộc hành trình đó, nhiều lần Dân Chúa chịu đựng không nổi cảnh khổ cực, đã nổi loạn chống lại ông Mô-sê, và đòi trở lại Ai Cập dù phải sống trong cảnh nô lệ, nhưng còn có đủ ăn. Có lần họ đã định bỏ Chúa để “thờ bò vàng” (Xh 32, 1-5). Tuy nhiên, qua ông Mô-sê, Thiên Chúa vẫn đồng hành với họ, nuôi sống họ bằng man-na, ban cho họ “Mười Giới Răn” để hướng dẫn họ sống xứng đáng những con người “đã được dựng nên theo hình ảnh Chúa”. Mô-sê đã được ơn Chúa nâng đỡ, kiên trì lãnh đạo Dân Chúa, cuối cùng Dân Chúa đã về tới Quê Hương thật của mình, đó là miền Đất Hứa.
Đến bài Tin Mừng (Mc 1, 21-28), thánh sử Mac-cô trình thuật Đức Giê-su giảng dạy tại hội đường Ca-phac-na-um, khiến cho “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.” (Mc 1, 22). Làm sao dân Do Thái lại nhận ra được Đức Giê-su giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền? Đó là nhờ họ so sánh Người với các kinh sư. Đối với họ, các kinh sư, luật sĩ là những người có “thẩm quyền” giải thích Lề Luật và sách các ngôn sứ. Nhưng trên thực tế, các kinh sư, luật sĩ chỉ là những người “ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy…Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi” (Mt 23, 2-7).
Đức Giê-su thì không như vậy, Người thường đến với những người nghèo khó, bệnh tật, tội lỗi và những lời giảng dạy của Người luôn luôn biểu lộ tình yêu bao la của Thiên Chúa. Nơi Người giảng dạy và làm phép lạ thường là những nơi rất dân dã gắn với đới sống bình dân: bên vệ đường, bên giếng nước hay bên sườn núi hoặc trong nhà những bênh nhân khó nghèo, cô quạnh. Nhưng lần này Người đến hội đường Ca-phác-na-um, ở đó có cả những người trí thức (các kinh sư) và tầng lớp bình dân. Tại đây, thêm một khía cạnh nổi bật của Lời Chúa, qua chính nhận xét của khán thính giả, kể cả đối thủ lợi hại là tà thần, ma quỷ: Lời Chúa luôn đầy quyền năng và có sức mạnh siêu phàm (“Đức Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngay ngày sa-bát, Người vào hội đường giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư. Lập tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên rằng: “Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa.” – Mc 1, 21-24).
Sống ở đời, chắc chắn không ai là không có lúc gặp phải những vấn đề khó khăn nan giải. Đối tượng gây ra những vấn đề đó có thể do người khác, có thể do chính mình tự gây ra, hoặc bị ảnh hưởng bởi môi trường hay bối cảnh lịch sử. Những khó khăn thử thách do con người gây ra với nhau hoặc do thiên nhiên, lịch sử tác động cũng đã có quá nhiều trường hợp bản thân không thể vượt qua, không thể chống đỡ, thậm chí có thể trở thành nạn nhân. Đó là chưa kể không ít những trường hợp do ma quỷ tác động, ngoài tầm tay với của con người, thì chỉ có nước “bó tay.chấm.com”. Trước những vấn đề nan giải ấy, con người phải làm gì?
Câu trả lời chỉ có một: Hãy đến với Thiên Chúa, vì Người là Đấng có uy quyền, Lời Người có dư đầy mãnh lực xua tan bóng tối tội lỗi, đem lại bình an hạnh phúc cho bất kỳ ai biết chạy đến với Người. Bài đọc I hôm nay (Đnl 18, 15-20) là 1 minh hoạ cụ thể. Đó là thời Cựu Ước, còn ngày nay thì sao? Cứ kể với đà tiến hoá của văn minh nhân loại, với khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển vượt bậc, thì nhiều vụ việc, nhiều vấn đề, nhiều nỗi khó khăn trong cuộc sống xem ra không còn là nan giải nữa, con người có thể giải quyết được. Tuy nhiên, một sự thực hiển nhiên là dù con người có tài giỏi đến đâu, khoa học có tiến bộ đến mấy đi nữa, thì vẫn còn biết bao khó khăn, biết bao vấn đề thuộc lãnh vực tâm lý, tâm linh, vẫn mãi mãi là nỗi ám ảnh khôn nguôi của con người, không sao giải quyết nổi. Ngay đến cả những tác động của thiên nhiên cũng hầu như ngày càng khủng khiếp, khiến con người không sao chống đỡ (bão lụt, động đất, thiên tai nhan nhản khắp nơi và ngày càng dữ dội, cứ như sắp tới ngày tận thế vậy!). Đáp án giải quyết những “bótay.chấm.com” ấy của con người thời đại hiện nay vẫn không khác xưa: “Hôm nay nghe tiếng Chúa, anh em đừng cứng lòng!” (Tv 95), mà “Hãy đến với Thiên Chúa”.
Vâng, hãy đến với Người trong cuộc hành trình đức tin tiến về Đất Hứa là Nước Trời. “Đừng cứng lòng”, cũng đừng ngại gian khổ, hy sinh, bởi Chúa vẫn luôn ở cùng và đồng hành với chúng ta (Mt 28, 20). Cũng bởi vì chúng ta đã được chính Đức Giê-su Thiên Chúa dìu dắt vượt qua Biển Đỏ cuộc đời đầy phong ba bão táp bằng Bí tích Thánh Tẩy. Bây giờ là lúc chúng ta phải can đảm chấp nhận mọi gian lao nguy hiểm, mọi thử thách nghiệt ngã, nhất là những “viên đạn bọc đường” đầy hấp dẫn của ma quỷ, để có thể dũng cảm vượt qua được “sa mạc đời”. Vậy thì còn chần chờ gì nữa, mà không đến với Người đã tha thiết kêu mời: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” (Mt 11, 28-30).
Ôi! Lạy Chúa! ”Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 118, 105). Cúi xin Chúa ban đức tin cho chúng con để chúng con luôn nhận ra uy quyền và sức mạnh của Lời Chúa, xin ban Thần Khí cho con để con đủ sáng suốt vượt qua Biển Đỏ lỗi lầm, và nhất là đủ can đảm vượt qua mọi gian lao thử thách trong sa mạc cuộc đời. Ôi! Lạy Chúa “Xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài gọi con trong đêm tối. Xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài dạy con lúc lẻ loi. Xin cho con cất tiếng lên trả lời và vâng nghe theo Chúa. Xin cho con biết sẵn sàng thực hành Lời Chúa đã truyền ban…” (“Lắng nghe Lời Chúa” – TCCĐ). Amen.
Có ai bao giờ mở máy truyền thanh hoặc truyền hình, nghe người nọ người kia diễn giảng về vấn TN4-B144
Có ai bao giờ mở máy truyền thanh hoặc truyền hình, nghe người nọ người kia diễn giảng về vấn đề chính trị hay đạo giáo nào đó mà người nghe chịu không nổi, liền tắt máy ngay, dùng hộp điều khiển tắt mở từ xa nhấn mạnh về hướng máy cho máy tắt liền không?
Ở đây không ai có ý nói về cá nhân diễn giả nào cũng không nói về đạo nào, mà chỉ nói chung vậy thôi. Tại sao lại có chuyện như thế? Lí do không hẳn là người nói có giọng buồn ngủ, trái lại diễn giả có thể có khoa nói hoạt bát, nhưng làm người nghe chán ngấy vì tính cách giả tạo, bốc thơm hoặc ngụy biện.
Tại hội đường Do thái, thầy tư tế hay người đứng đầu hội đường có quyền mời người diễn giảng trong đám cử tọa. Diễn giả được mời thường là người có học cao hiểu rộng và có ảnh hưởng trong cộng đồng. Như vậy thì những người kinh sư đã phải được mời diễn giảng trong hội đường như Phúc âm đề cập đến sự khác biệt giữa cách giảng dậy của Chúa với người kinh sư. Hôm nay Chúa Giêsu cũng được mời diễn giảng trong hội đường Do thái tại Ca-phác-na-um. Phúc âm ghi lại như sau: Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Ðấng có quyền chứ không như các kinh sư (Mc 1:22). Nếu cử tọa trong Phúc âm hôm nay có dịp nghe Chúa tại Ðền thờ Giêrusalem lúc Chúa mới lên mười hai tuổi, thì họ cũng đã phải: Ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đáp của cậu (Lc 2:47). Hoặc nếu họ đã nghe Chúa tại hội đường Nadarét, họ cũng đã phải: Tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người (Lc 4:22). Phúc âm hôm nay còn ghi thêm: Chúa ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh (Mc 1:27).98
Vậy thì các kinh sư diễn giảng như thế nào? Khi diễn giảng, những người kinh sư thường trích dẫn lời giảng dạy của các thầy ráp-bi và rồi đưa ra một quan niệm và lập trường phổ thông của vấn đề. Họ tự nhận họ chỉ giảng dạy dựa trên quyền thế mà Môsê nhận được nơi Thiên Chúa. Họ thường tránh né việc trả lời dứt khoát trước những câu hỏi của dân chúng. Ngay cả các ngôn sứ cũng bắt đầu giảng dạy bằng câu vào đề: Thiên Chúa phán như thế hoặc Thiên Chúa phán thế nọ thế kia. Ðiều đó chứng tỏ các ngôn sứ cũng không dựa trên quyền thế của họ mà nói, nhưng là dựa vào quyền năng của Thiên Chúa.
Khi Chúa Giêsu đến, Người cắt đứt truyền thống giản dạy kiểu đó. Chúa chứng minh lời Người giảng dạy, không dựa trên quyền thế của ai, nhưng dựa vào quyền năng nội tại của chính Người. Vì thế mà Chúa nói: Anh em đã nghe Luật dạy (người xưa) rằng (Mt 5:21, 27, 31, 33, 38, 43). Còn Thầy bảo anh em biết (Mt 5:22, 28, 32, 34, 39, 44). Khi người ta hỏi Chúa, với dụng ý không phải muốn biết, nhưng để bắt bẻ và gài bẫy Chúa, thì Chúa tỏ ra uy quyền bằng cách trả lời câu hỏi bằng một câu hỏi lại. Chẳng hạn khi Chúa giảng dạy trong Ðền thờ thì các trưởng tế, kinh sư và kỳ lão của dân đến hỏi: Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy (Mc11:28)? Rồi Chúa Giêsu đáp: Tôi cũng hỏi các ông một điều. Các ông trả được, thì tôi sẽ nói cho các ông biết, tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy (Mc 11:29).
Chúa không dựa vào mánh lới hay lời nói khôn khéo của người đời mà vẫn giữ được sự chú ý của người nghe, bởi vì Chúa xác tín về lời Người giảng dạy. Chúa tin điều Người nói và nói những điều Người muốn cho người ta tin. Chúa không cần chứng minh lời Người giảng dạy bằng việc trích dẫn. Chúa trả lời câu hỏi một cách trực tiếp và xác đáng. Chúa sống lời Người giảng dạy và kinh nghiệm những lời Người sống. Và bởi vì Chúa xác tín lời Người giảng dạy, cho nên Chúa không thỏa hiệp. Ðiều đó chứng tỏ những điều gì Chúa nói đều là lời Chúa chứ không phải là ý kiến hay quan niệm của quần chúng.
Từ khi bắt đầu cuộc sống công khai, người ta thấy Chúa giảng dạy và hành động dựa vào chính quyền thế của Người là Ðấng Cứu thế, là con Thiên Chúa và là Thiên Chúa. Vì thế trước khi về trời Chúa truyền cho các môn đệ: Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được trao ban cho Thày. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ: nhân danh Cha và Con, và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều, Thày đã truyền dạy các con (Mt 28:18-20).
Lời Chúa trong sách Ðệ Nhị luật hôm nay, bảo Môsê rằng người ngôn sứ thật thì nhân danh Chúa mà nói và phải nói lời Người truyền dậy (Ðnl 18:20). Tuy nhiên vì vô thức nội tại hay áp lực ngoại lai, người rao giảng lời Chúa có thể cắt nghĩa lời Chúa cách sai lạc hoặc bóp méo lời Chúa, khiến cho giáo lí về đạo giáo trở thành lỏng lẻo để mong thu hút tín đồ nhất thời. Do đó chỉ có lời giảng dạy trung thực với đường lối Phúc âm mới có sức lôi kéo người nghe thực sự đến với Chúa và trở về hiệp nhất với nhau và với Giáo hội mà chính Chúa đã thiết lập. Qua Bí tích Rửa tội và Thêm sức, người tín hữu cũng được gọi để sống và làm chứng cho lời Chúa và quyền năng Chúa bằng lời nói và việc làm.
Ðể áp dụng thực hành, hôm nay ta cầu xin cho được biết yêu mến lời Chúa, tin tưởng vào lời Chúa và quyền năng Chúa trên các thần ô uế (Mc 1:27). Nếu muốn được tham phần vào quyền thế của Chúa trong lời giảng dạy, nói cách khác, nếu muốn được người ta chăm chú đọc hay nghe mình trình bầy, người giảng dạy hay viết sách phải trung thực với lời Chúa và đường lối Phúc âm. Hôm nay ta cầu xin cho được ơn biết phân biệt ngôn sứ thật với ngôn sứ giả. Như được mô tả trong Thánh kinh thì ngôn sứ giả thường thỏa hiệp theo quan niệm riêng hay thị hiếu của quần chúng. Do đó lời họ rao giảng thường nhắm chiều theo sở thích của người nghe hầu làm vừa lòng thính giả. Họ có thể làm khoái tai người nghe, nhưng không đánh động được tâm hồn người nghe hay đọc. Còn ngôn sứ thật thì xác tín rằng họ là sứ giả của Thiên Chúa. Họ dám nói lên sự thật dù có làm mất lòng. Nghe theo sứ điệp chân thật có thể làm ta chột dạ, khiến ta phải suy tư nghĩ ngợi. Chính việc suy tư nghĩ ngợi đó mới là khởi điểm cho những quyết định thay đổi tâm hồn và đời sống người nghe.
Lời nguyện xin cho được ơn biết tuân phục lời Chúa và quyền năng Chúa:
Lậy Chúa, ‘lời Chúa là thần khí và là sự sống’. Hằng ngày có nhiều tiếng nói trên phim ảnh, báo chí, truyền thanh, truyền hình, mạng tin bảo con việc gì phải trái, điều gì phải tin hoặc hồ nghi.
Xin dạy con biết lắng nghe và nhận định hầu có thể phân biệt đâu là sự thật, đâu là hư giả. Và xin ban ơn để con biết đáp trả và thực thi lời Chúa hầu được hưởng nhờ sự sống vĩnh cửu. Amen.
Hôm ấy, Chúa Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngài vào hội đường giảng dạy TN4-B145
Hôm ấy, Chúa Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngài vào hội đường giảng dạy. Lúc ấy, trong hội đường có người bị ma quỷ ám. Thấy Chúa Giê-su, quỷ biết ngay Ngài là Con Thiên Chúa, nên la lên: “Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” Bấy giờ Chúa Giê-su quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!”
Lập tức Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta. Mọi người chứng kiến đều hết sức kinh ngạc trước quyền lực của Chúa Giê-su. Ngài không cần dùng roi vọt hay bạo lực để trục xuất ma quỷ. Ngài chỉ cần phán một lời là quỷ phải vâng lời mà xuất ra ngay (Mc 1, 21-28).
Các tác giả Tin mừng cũng thuật lại tại vùng đất Ghê-ra-xa có một người bị quỷ dữ ám hại, khiến anh ta trở nên hung tợn và có sức mạnh phi thường. Dù người ta có khống chế anh ta bằng bao nhiêu gông cùm xiềng xích thì anh ta cũng bứt tung hết.
Khi Chúa Giê-su gặp người bị quỷ ám và biết là có cả một cơ binh quỷ sứ xâm nhập vào anh, hành hạ anh ngày đêm, khiến anh sống ở trong khu vực mồ mả và trên đồi núi, tru tréo liên hồi và lấy đá đập vào mình, Ngài truyền lệnh “Thần ô uế kia! Hãy xuất khỏi người này!” (Mc 5,8). Lập tức, lũ quỷ liền vâng lệnh Ngài mà xuất ra và nhập vào đàn heo. Sau đó, cả đàn heo đông đảo vừa bị lũ quỷ nhập từ trên sườn núi lao xuống biển chết đuối hết (Mc 5,1-15. Luca 8,27-33. Mt 8,28-32).
Khi giáp mặt với những người bị quỷ thâm nhập và ám hại bằng nhiều cách, Chúa Giê-su dùng lời của Ngài truyền cho quỷ phải xuất ra và chúng tức khắc vâng lệnh, không hề chần chừ hay kháng cự.
Thật lạ lùng, ma quỷ là thứ bị người ta khinh dể nhất đời, bị gọi là đồ quỷ, đồ yêu tinh, đồ quỷ sứ… và người ta cũng thường gán cho những kẻ nào xấu xa, đê tiện, tàn ác nhất trên đời này là “đồ quỷ sứ”… thế mà khi nghe lệnh truyền của Chúa Giê-su, ma quỷ ngoan ngoãn vâng lời ngay. Chúa bảo: “Hãy câm đi!”, chúng liền câm miệng. Chúa bảo “Hãy xuất ra khỏi người này”, chúng liền vâng theo.
Còn loài người thì sao?
Thiên Chúa Cha đã sai Con một của mình là Chúa Giê-su xuống trần gian để trực tiếp dùng lời khôn ngoan dạy cho loài người vâng phục Thiên Chúa, đi theo đường lối Chúa để được cứu rỗi và được sống đời đời.
Thế nhưng khi Chúa Giê-su dùng lời phán bảo con người đừng gian tham, thì người ta tiếp tục gian tham; Chúa bảo đừng trộm cắp, đừng ngoại tình, thì người ta vẫn cứ trộm cướp, cứ ngoại tình; Chúa dạy đừng giận hờn, ghen ghét… thì nhiều người vẫn trơ trơ như đá, chẳng vâng theo lời Chúa dạy.
Khi Chúa truyền cho mọi người: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”, nhiều người vẫn im lìm bất động. Khi Chúa truyền “Hãy tha thứ thì sẽ được thứ tha”, nhưng sự giận hờn ghen ghét vẫn chất chứa trong lòng nhiều người. Khi Chúa truyền hãy quan tâm phục vụ nhau như Ngài đã hiến thân mình phục vụ con người, thì nhiều người vẫn dửng dưng vô cảm với anh em đồng loại…
Ma quỷ bị xếp vào hạng xấu xa, tồi tệ nhất mà còn biết vâng lệnh Chúa, lẽ nào loài người vốn được xem là con cái yêu quý của Chúa mà chẳng màng vâng lệnh Chúa truyền sao!
Không lẽ con người còn cứng đầu, chai đá hơn cả quỷ sứ trước lời Chúa dạy hay sao!
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa cứu rỗi nhân loại bằng lời Chúa. Lời Chúa như hải đăng soi đường trong đêm tối để đưa tàu thuyền vượt biển về bến an toàn. Lời Chúa như kim chỉ nam chỉ lối dẫn đường cho người lạc bước giữa rừng sâu. Chỉ có những ai lắng nghe lời Chúa và mau mắn đem ra thực hành thì mới được hưởng ơn cứu độ.
Từ chối vâng nghe lời Chúa khác nào thuyền trưởng không theo ánh sáng của hải đăng, như người lạc lối giữa rừng sâu không đi theo hướng chỉ của la bàn.
Xin cho chúng đừng gác bỏ lời Chúa ngoài tai kẻo phải khốn khổ muôn đời, nhưng biết mau mắn vâng theo lời Chúa dạy để được sống hạnh phúc đời này và được hưởng hoan lạc muôn đời mai sau.
Bài đọc I và Tin Mừng minh chứng rằng ở nơi con người của Ngài, Đức Giê-su thực hiện một TN4-B146
Bài đọc I và Tin Mừng minh chứng rằng ở nơi con người của Ngài, Đức Giê-su thực hiện một trong những niềm mong đợi của dân Ít-ra-en, đó là một vị Ngôn Sứ tuyệt hảo xuất thân từ họ và ở giữa họ.
Đnl 18: 15-20
Theo sách Đệ Nhị Luật, ông Mô-sê cảnh giác dân Ít-ra-en coi chừng những “ngôn sứ mạo danh”, nhưng đồng thời ông cũng loan báo rằng Thiên Chúa sẽ ban cho dân Ngài một vị ngôn sứ đích thật. Vị Ngôn Sứ này sẽ là “Phát Ngôn Viên của Thiên Chúa” bên cạnh dân Ngài.
1Cr 7: 32-35
Trong đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Cô-rin-tô này, thánh nhân đề cập đến đời sống hôn nhân và đời sống độc thân.
Mc 1: 21-28
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Mác-cô giới thiệu Đức Giê-su, Đấng có quyền năng trong lời nói cũng như việc làm, vừa là phát ngôn viên của Thiên Chúa bên cạnh dân Ngài, đồng thời vừa là phát ngôn viên của dân Ngài bên cạnh Thiên Chúa.
BÀI ĐỌC I (Đnl 18: 15-20)
Sách Đệ Nhị Luật là cuốn sách cuối cùng của bộ Ngũ Thư mà dân Do thái gọi sách “To-ra”, nghĩa là sách “Luật”.
Nhan đề “Đệ Nhị Luật” có nghĩa “luật thứ hai”. Quả thật, sách này được đặt vào trong bối cảnh ông Mô-sê nhắc lại những lời dạy của Đức Chúa cho dân Ít-ra-en như những lời trăn trối sau cùng, bản di chúc của ông, trước khi qua đời. Sách được soạn thảo vào thế kỷ thứ bảy trước Công Nguyên. Như vậy, việc khai triển Luật được định vị vào trong việc nối dài giáo huấn của ông Mô-sê. Điều này muốn nói rằng có một sự liên tục và trung thành với Luật; uy quyền của Luật luôn luôn được đặt dưới sự bảo lãnh của người khởi xướng. Quả thật, sách Đệ Nhị Luật phản ảnh bối cảnh dân Ít-ra-en định cư lập nghiệp ở xứ Ca-na-an hơn năm thế kỷ rồi. Vì thế, bầu khí hăng say nhiệt thành thuở ban đầu đã lắng xuống. Tuy nhiên, nhờ độ nhạy bén của những sấm ngôn, tâm tình tôn giáo lại được hâm nóng trở lại.
Định chế ngôn sứ
Đoạn văn này được trích từ một diễn từ dài của ông Mô-sê trong đó ông tiên báo định chế quân chủ và định chế ngôn sứ. Đoạn trích hôm nay nêu lên vấn đề định chế ngôn sứ. Theo văn mạch, trong một đoạn văn trước đó, ông Mô-sê vừa mới căn dặn rằng nếu dân chúng muốn tôn một người lên làm vua, thì người đó không phải là một người ngoại quốc, nhưng phải là một người trong số họ, được Thiên Chúa chọn (Đnl 17: 14-15).
Trong đoạn trích hôm nay, cũng một cách đề phòng như vậy đối với một ngôn sứ. Dân chúng không được đi tìm kiếm một nhân vật ngoại quốc nào khác thực hành ma thuật, bùa chú, bói toán, hay gieo quẻ xem xăm, vân vân. Chính “từ giữa đồng bào của anh em” mà Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện ngôn sứ của Ngài, người ấy sẽ là phát ngôn viên của Ngài bên cạnh dân Ngài: “Ta sẽ đặt lời Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy”.
Đây không phải là một ngôn sứ độc nhất, nhưng là một vị ngôn sứ mà mỗi lần dân chúng cần đến một người trung gian như ông Mô-sê. Vì thế, ông Mô-sê đã tiên báo trào lưu ngôn sứ một cách khái quát, như câu trích sau cùng nói lên cách rõ ràng hơn: “Ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết”.
Sau này, khi trào lưu ngôn sứ đã biến mất từ lâu, người ta sẽ đọc lại bản văn này theo một cách khác và người ta sẽ hiểu lời tiên báo này về một vị ngôn sứ vĩ đại vào thời đại Thiên Sai, một Mô-sê mới. Đó là lý do tại sao những người được Giáo Quyền Giê-ru-sa-lem cử đến hỏi ông Gioan: “Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?” (Ga 1: 21).
Thấy Thiên Chúa mà vẫn sống
Lời tiên báo này đáp lại nguyện ước của dân chúng, vì tại núi Khô-rép trong ngọn lửa sáng rực chỉ một mình ông Mô-sê mới có thể tiến gần đến Thiên Chúa và đàm đạo diện đối diện với Ngài mà không phải chết: “Xin chính ông nói với chúng tôi, chúng tôi mới dám nghe; nhưng xin Thiên Chúa đừng nói với chúng tôi, kẻo chúng tôi chết mất” (Xh 20: 19).
Đây là sự sợ hãi linh thánh rất phổ biến vào thời đó, vì người ta tin rằng không ai thấy thần linh mà có thể sống được. Giữa thần linh và phàm nhân có một khoảng cách vô tận đến mức con người như bị tan biến vào trong cõi hư vô. Vì thế, khi đặt của dâng cúng trên bàn thờ, tín đồ không được nhìn ngoái lại đằng sau kẻo chẳng may nhìn thấy thần linh đến nhận của lễ mà mình phải chết chăng. Có rất nhiều giai thoại cấm nhìn lại đằng sau như bà vợ của ông Lót vì “ngoái lại đằng sau mà hóa thành cột muối” (St 19: 26) hay ngôn sứ Ê-li-a lấy áo choàng che mặt khi gió hiu hiu thổi báo hiệu sự hiện diện của Đức Chúa; vì thế, ông chỉ nghe tiếng chứ không nhìn thấy hình (1V 19: 12-13).
Được đọc trong ánh sáng Tân Ước, bản văn Đệ Nhật Luật này mặc lấy tất cả mọi chiều kích của nó. Đức Giê-su là vị Ngôn Sứ đã được ông Mô-sê tiên báo. Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa, Phát Ngôn Viên trung thành của Chúa Cha, Đấng Trung Gian tuyệt hảo giữa Thiên Chúa và con người. Ngoài ra, Đức Giê-su chính là Thiên Chúa hữu hình ở giữa loài người mà con người có thể tiến lại gần, chẳng những không phải chết nhưng trái lại được đón nhận “ân này đến ân khác”của Ngài nữa (Ga 1; 16).
BÀI ĐỌC II (1Cr 7: 32-36)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Cô-rin-tô. Trong đoạn trích hôm nay, thánh nhân ca ngợi đời sống độc thân trổi vượt trên đời sống hôn nhân, vì người sống đời độc thân mới có thể tận tâm tận lực “chuyên lo việc Chúa”. Có hai cách giải thích thái độ của thánh nhân trong việc đề cao đời sống độc thân và giảm nhẹ đời sống hôn nhân.
Kinh nghiệm bản thân
Cách giải thích thứ nhất là chính từ kinh nghiệm bản thân của thánh nhân. Thánh nhân là người lữ hành của Thiên Chúa, ngài rong ruỗi trên khắp mọi nẻo đường, tận tâm tận lực chu toàn “sứ mạng loan báo Tin Mừng cho muôn dân”. Vì thế, trong một đoạn văn trước đó, thánh nhân không ngần ngại viện dẫn đời sống độc thân của mình ra làm gương: “Tôi ước muốn mọi người đều như tôi” (1Cr 7: 7).
Quan niệm văn hóa và xã hội
Cách giải thích thứ hai thuộc quan niệm văn hóa vào thời đó, đặc biệt vị thế của người phụ nữ trong xã hội xưa. Thánh nhân vừa mới nói một cách tế nhị về đời sống hôn nhân và những bổn phận hỗ tương giữa chồng và vợ, cũng như nhắc nhở họ mối giây ràng buộc bất khả phân ly của hôn nhân. Từ đó suy ra rằng đời sống độc thân giải phóng chúng ta khỏi những mối dây ràng buộc trong đời sống vợ chồng và con cái, vì thế chúng ta được hoàn toàn tự do trong việc “chuyên lo phục vụ Chúa”.
Chuyện vợ chồng giúp nhau thăng tiến đời sống tâm linh trong việc chuyên lo phụng sự Chúa không thể không nẩy sinh trong tâm trí thánh nhân. Tuy nhiên, theo quan niệm văn hóa và xã hội vào thời thánh nhân, chủ nghĩa thượng tôn nam giới tạo nên rào cản cho một sự phát triển về quyền bình đẳng giữa chồng và vợ trong đời sống gia đình Ki-tô giáo. Thật ra, môi trường Cô-rin-tô thấm nhuần văn hóa Hy lạp, vì thế, những người phụ nữ hưởng được một sự tự do khiến thánh nhân kinh ngạc. Chính trong bức thư này, ngài nhắc nhở các người phụ nữ phải trùm khăn che đầu và không được lên tiếng trong các buổi hội họp cộng đồng, vì người nữ phải giữ thái độ im lặng và phục tùng, vân vân. Về quan điểm này, thánh nhân vẫn chịu ảnh hưởng rất sâu đậm những quan niệm Do thái giáo kém tiến bộ. Tuy nhiên, ngài biết công bố quyền bình đẳng của tất cả con cái Thiên Chúa: “Trong Chúa, không nam thì chẳng có nữ, và không nữ thì chẳng có nam”(1Cr 11: 11).
TIN MỪNG (Mc 1: 21-28)
Sau khi kêu gọi các môn đệ đầu tiên và được họ đáp trả một cách quảng đại và mau mắn (Chúa Nhật vừa qua), Đức Giê-su tiếp tục con đường của mình. Ngài đi dọc theo bờ hồ cho đến tận thành Ca-phác-na-um.
Thành Ca-phác-na-um
Thành Ca-phác-na-um hưởng được một vị thế địa lý đặc biệt: giáp ranh giới với ba nước: Sy-ri, Phê-nê-xi, Pa-lét-tin, và có một đại lộ chạy từ Giê-ru-sa-lem đến Đa-mát. Vì thế, thành phố được mệnh danh là “Ngã Tư Quốc Tế”. Chính thành này Đức Giê-su sẽ thiết lập cứ điểm truyền giáo của Ngài, dấu chỉ ngầm hàm chứa chiều kích phổ quát sứ điệp của Ngài. Tuy nhiên, Đức Giê-su bắt đầu giảng dạy trong các hội đường như sau này các Tông Đồ và cả thánh Phao-lô cũng sẽ theo gương Ngài.
Hội đường là nơi các tín hữu tụ họp và cầu nguyện. Chỉ ở Giê-ru-sa-lem mới có đền thờ và hàng giáo sĩ, ở đó các tín hữu mới có thể dâng hy lễ lên Đức Chúa, Thiên Chúa của dân Ít-ra-en. Vào ngày Sa-bát, các tín hữu tụ họp ở hội đường, luôn luôn vào buổi sáng, để cử hành phụng vụ Lời Chúa (các bản văn Luật và các sách ngôn sứ), hát thánh thi chúc tụng, ngâm thánh vịnh và cầu nguyện. Mọi tín hữu, hoặc tự nguyện hay được chỉ định, có thể công bố và diễn giải những bản văn Kinh Thánh. Chính như vậy mà Đức Giê-su được mời công bố và giải thích Kinh Thánh vào một buổi phụng vụ sa-bát ở hội đường Na-da-rét, nơi Ngài sinh trưởng.
Thánh Mác-cô tường thuật cho chúng ta hai hoạt cảnh diễn ra trong hội đường Ca-phác-na-um. Một mặt, thánh ký bận tâm phác thảo diện mạo của Đức Giê-su, nêu bật uy quyền đặc biệt mà người ta nhận ra ở nơi Ngài: Đức Giê-su xuất hiện không chỉ với uy quyền của Ngôi Lời Thiên Chúa, chủ tể của Kinh Thánh, nhưng cũng với uy quyền của một con người thanh khiết và hoàn hảo đến nổi không bất kỳ sự thâm hiểm gian ác nào có thể chịu đựng nổi sự hiện diện của Ngài. Mặt khác, ngay từ đầu, thánh Mác-cô cũng nêu bật hai phương cách tiến hành thường hằng mà Đức Giê-su sẽ thực hiện trong suốt sứ vụ của Ngài: giảng dạy và dấu chỉ kèm theo, qua đó người ta nhận ra mầu nhiệm của Ngài: Đấng có uy quyền trong lời nói và việc làm.
Cách thức Đức Giê-su giảng dạy
“Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư”. Các kinh sư thường nhất là những người có bằng cấp học vị, được đào tạo trường lớp về những cách thức giải thích Kinh Thánh một cách tinh tế và uyên bác. Vì thế, những giáo huấn của họ dựa trên những truyền thống của các bậc tôn sư danh tiếng của họ. Riêng Đức Giê-su, Ngài không xuất thân từ bất cứ trường lớp nào và cũng không quy chiếu đến bất kỳ “kinh sư” hay “bậc tôn sư” nào. Ngài giải thích và khai triển Kinh Thánh từ uy quyền của riêng Ngài và loan báo rằng mọi điều Kinh Thánh loan báo đều được ứng nghiệm ở nơi Ngài.
Dấu chỉ kèm theo
Không ai có thể buộc tội Ngài về bất cứ điều gì, đây là một sự mới lạ khiến Xa-tan phải tò mò muốn biết. Rồi, trong hoang địa, nó đã thử hiểu mầu nhiệm của con người này; ở Ca-pha-na-um, nó bày tỏ qua một người bị quỷ ám khốn khổ. Đối mặt với Đức Giê-su, tên hiểm ác phải công khai nói lên sự thật và sự thật khiến nó phải nao lòng chột dạ: “Ông đến để tiêu diệt chúng tôi. Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Tuy nhiên, Đức Giê-su buộc nó phải câm lặng.
Hoạt cảnh Ca-pha-na-um không là duy nhất, nhưng còn xảy ra nhiều lần ở những nơi khác nữa. Chính thánh ký nói với chúng ta: “Đức Giê-su chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai” (Mc 1: 34).
Mầu nhiệm của Đức Giê-su
Đức Giê-su vẫn còn muốn giữ riêng bí mật về con người Ngài, vì sợ người ta hiểu lầm sứ mạng của Ngài. Thánh Mác-cô nhấn mạnh nhiều lần Đức Giê-su muốn bảo vệ mầu nhiệm của Ngài. Đó là điều mà các nhà chú giải gọi “bí mật Thiên Sai” theo Tin Mừng Mác-cô. Quả thật, trong suốt Tin Mừng này, Đức Giê-su kiên quyết bắt ma quỷ không được vén mở chân tính của Ngài, cũng như Ngài cấm những người được chữa lành và ngay cả các môn đệ của Ngài không được tuyên xưng phẩm tính Thiên Sai của Ngài.
Thật không khó để hiểu được thái độ này của Đức Giê-su. Đấng Thiên Sai mà dân chúng biết bao mong đợi khác với hình ảnh mà Ngài sắp thể hiện: hình ảnh của một Đấng Thiên Sai “nhân hậu và khiêm hạ tận mức”, hình ảnh của một Người Tôi Trung chịu đau khổ. Mầu nhiệm này chỉ có thể bày tỏ một cách rực rỡ ở nơi biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài.
Thưởng thức bản nhạc vừa ý, xem cuốn phim hay, được nghe bài thuyết trình áp đặt, một bài TN4-B147
Thưởng thức bản nhạc vừa ý, xem cuốn phim hay, được nghe bài thuyết trình áp đặt, một bài viết đặc sắc, đâu còn khó khăn gì đối với thời đại công nghệ hôm nay, khi người ta chỉ cần vài cú “click-chuột”. Để thuyết phục lòng người, xưa hay nay, đều cần đến tính hợp lý: nói có sách, mách có chứng, hoặc xem mặt đặt tên. Trong yêu thương, các đấng bậc vẫn cảnh giác con cháu: “gái tai, trai mắt”, sự thực yêu bằng tai, yêu bằng mắt, hay yêu bằng trái tim nóng bỏng, đều khiếm khuyết, nếu “cái tâm” chưa đủ lý trí và lòng bao dung. Đồng ý rằng điều kiện hoàn cảnh mỗi người mỗi khác, được quý mến được yêu thương không phải là chuyện hên xui, thận trọng quá thì không có bạn, dễ dãi phóng khoáng lại bị coi là vô duyên.
Các nghệ sĩ bằng giọng ca điệu hát, họ thu hút được đám đông, các cầu thủ bằng phong độ trình diễn trên sân cỏ, tên tuổi của họ sớm được giới hâm mộ biết đến. Đức Giêsu không phải là ca sĩ, nhạc sĩ, không phải là cầu thủ đá bóng, người cùng thời lại biết rõ Ngài là con bác thợ mộc. Tại hội đường ở Ca-phac-na-um, người ta hôm đó đi từ ngạc nhiên đến thán phục, người ta được nghe nhìn, rồi tâm phục khẩu phục bởi lời rao giảng và trừ tà của Đức Giêsu. Giáo lý mới ở điểm nào, tại sao Đức Giêsu thuyết phục được người nghe, để lại được ấn tượng tốt cho người có mặt ở hội đường hôm xưa? Câu trả lời là vì Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền, khác với các luật sĩ. Tại “nhà thờ” hôm nay, chúng ta cũng được nghe nhìn, nhưng không ngạc nhiên, không thán phục, là vì bằng mắt thường chúng ta không thấy Đức Giêsu, không thấy phép lạ, hay vì lời Kinh Thánh “quen quá hoá nhàm”?
Một số người vẫn cẩn thận khi nói rằng: đừng tưởng cái gì lóng lánh cũng là vàng, đừng tưởng ai nhìn đàng hoàng cũng là người tử tế. Xã hội thời nào cũng xuất hiện bậc hiền tài đức độ, dư luận cho rằng tài giỏi là do tập luyện, số khác lại cho rằng văn võ song toàn là năng khiếu bẩm sinh, trời cho ai người ấy được. Tại hội đường năm xưa, người ta vui sướng, thích thú, có phải “tướng tá phong độ” của một luật sĩ mới từ nơi xa đến, hay một ông quan đầy kiến thức với nhiều bằng cấp? Mức độ cảm nhận về “tài năng” có thể mỗi người mỗi khác, nhưng cách chung mọi người hôm đó đều bị thuyết phục bởi sự dấn thân, tinh thần phục vụ, lời giảng giải của Đức Giêsu có sức hút rất siêu nhiên.
Theo lý lẽ tự nhiên, kẻ “ăn nên làm ra” từ đôi bàn tay của mình là người chăm chỉ, có tính tự lập, đáng khâm phục. Xuất thân từ con nhà nghèo học giỏi, là người có ý chí, quyết tâm cao, nhưng người thành công phải là người biết mình biết ta, biết làm chủ bản thân. Sứ mạng của mỗi chúng ta hiện tại dù chưa thuyết phục được gia đình, người thân, dù chưa sống mối tương quan tốt nhất để họ tâm phục khẩu phục, ít ra chúng ta vẫn còn cơ hội gặp, nghe Đức Giêsu, Ngài sẽ điều chỉnh và biến đổi ta nên người môn đệ của Ngài. Cha ông chúng ta có câu: gần sông quen tiếng cá, gần núi không lạ tiếng chim. Các môn đệ gần Thầy Giêsu, các ông sớm học được đức yêu thương dạt dào của Thầy ; các tín hữu đến nhà thờ dâng lễ hàng ngày, hàng tuần, cũng sớm được biến đổi nên môn đệ của Đức Giêsu, đó là biết nói đúng, biết cư xử đẹp theo ơn Thánh Thần soi sáng.
Sinh ra làm người, cơ hội để gia đình, người thân tâm phục khẩu phục, để xây dựng một cuộc sống hạnh phúc, đâu phải là xa vời. Vì chưng, thước đo của cuộc đời không phải là dài hay ngắn, mà ở chỗ chúng ta đang sử dụng mức độ hiểu biết của mình như thế nào ? Mang thân phận người, Đức Giêsu đến hội đường cầu nguyện, trong tư cách là ngôn sứ, Ngài giảng giải như Đấng có uy quyền, với sứ mạng Đấng cứu độ, Ngài xua đuổi quỷ thần, giải thoát con người khỏi tội lỗi sự chết. Tâm lý chung, người ta sẽ tâm phục khẩu phục khi được thoả mãn về vật chất về tinh thần, thực tế con người dễ mơ hồ về “cái thích” của mình, để rồi đổ ngã theo thần tượng như xe “tuột dốc không phanh”.
Mỗi người tín hữu chúng ta chỉ có thể sống, và giúp anh chị em mình tâm phục khẩu phục, khi chúng ta cùng Chúa Giêsu kết hiệp cầu nguyện, khi chúng ta biết khiêm tốn để Thánh Thần Chúa tác động, biến đổi, làm mới mọi tương quan với tha nhân. Cuộc đời mỗi người chúng ta có khác gì một dòng sông, dòng sông chảy, nhưng nước thì luôn đổi mới. Ông bà cha mẹ chúng ta không thể tâm phục khẩu phục, khi con cháu chỉ biếu các đấng quà cáp, phong bì, mà gia đình thiếu đức yêu thương, lối xóm thiếu tình người. Tại hội đường hôm xưa, bằng những lời chia sẻ tận tâm, cách dẫn giải sát gần với tình người của Đức Giêsu, đám đông thán phục, quỷ thần thì khiếp sợ, sứ mạng người tông đồ chỉ thế là đủ, là đẹp. Xin tình yêu Giêsu tiếp tục hiện diện, giúp con cái của Ngài nhận ra tiếng nói của Thánh Thần, và bằng việc sống đức tin đức ái, Danh Chúa được sáng mãi cho hôm nay và mai sau. Amen.
Ai cũng có kinh nghiệm về cuộc sống. Khi cuộc sống xuôi chảy, vui vẻ, an hoà ta cho là cuộc TN4-B148
Ai cũng có kinh nghiệm về cuộc sống. Khi cuộc sống xuôi chảy, vui vẻ, an hoà ta cho là cuộc sống rất dễ nhưng khi phải đối mặt với những khắc nghiệt, đau khổ bệnh tật ta coi cuộc đời là bể khổ. Biển mênh mông, bát ngát ai dò cho hết lòng biển vì thế bể khổ cuộc đời là một mầu nhiệm. Nó nhiệm mầu không giải thích nổi nên người xưa dùng ngụ ngôn răn đời, hoặc dùng huyền thoại giải thích sự việc. Ngày nay con người nhờ vào khoa học cố gắng giải thích í nghĩa cuộc sống. Khoa học bắt đầu bằng giả thuyết làm căn bản nghiên cứu. Câu hỏi tôi là ai? sống trên đời với mục đích gì và sau khi lìa đời sẽ đi đâu là những câu hỏi có quá nhiều câu trả lời và nhóm nào cũng cố gắng biện minh cho câu trả lời của mình là đúng. Dù tin vào Thiên Chúa hay chối bỏ Ngài, tất cả đều có điểm chung đó là tôn trọng thân xác và tổ chức giỗ, ngày kị, tưởng niệm người ta qua đời. Cuộc sống rất mỏng dòn và cuộc sống cũng rất bền vững, đối chọi được với bao thử thách vượt quá sức mình. Khối óc con người đi nhanh hơn điện, có lẽ không thua gì tốc độ ánh sáng. Bằng một cái nháy mắt ta có thể hình dung trong đầu hình ảnh cách ta hàng trăm ngày cây số mà cách đây nhiều năm ta đã nhìn thấy. Bằng một cái búng tay cảm xúc của ta có thể đổi từ buồn vời vợi sang vui cười. Chỉ một chữ cũng làm cho con tim sầu héo, cũng chỉ một chữ làm cho khuôn mặt hớn hở, vui tươi. Tất cả cảm xúc, vui buồn, nóng giận đó đều đến rồi đi. Con người cần niềm vui vĩnh cửu, niềm hoan lạc bền lâu. Điều gì thực sự làm cho con tim có được nguồn vui vĩnh cửu là điều có rất nhiều tranh biện. Tranh biện đưa đến bất đồng, từ bất đồng đưa đến chống đối, đả kích, lập phe, tìm phái tạo thế lực lấn át, đè nén nhau, bao gồm cả hãm hại.
Người ta bất lực sửa chữa những gì đã xảy ra hôm trước nhưng quá khứ lại trở thành nền móng xây đắp tương lai cho những ai thành tâm học hỏi. Để trả lời cho thắc mắc mục đích cuộc đời thì có nhiều í kiến.Một số tin vào khả năng chính mình và hy vọng mọi sự sẽ xảy ra như dự tính. Số khác tin vào sức mạnh huyền diệu từ bên ngoài, đưa đến trăm ngàn loại tôn giáo, đủ các loại thần. Thần từ thiên nhiên cũng lắm và thần tự tưởng tượng ra cũng nhiều. Số khác nữa tin vào Thiên Chúa soi sáng, dẫn đường, chỉ lối đi vào chốn trường sinh. Cả hai nhóm Biệt Phái và Pharasiêu đều cố gắng hướng dẫn dân chúng đi theo đường lối Chúa nhưng càng cố gắng họ càng vấp phải nhiều lầm lỗi. Họ làm cho cuộc sống trở thành gánh nặng cho người tin theo Chúa. Đức Kitô xuất hiện mang đến cho nhân loại luồng gió mới, làn gió mát trong lành, làn gió làm cho tình người nở hoa. Cuộc đời không còn là gánh nặng mà mỗi ngày là một niềm vui, niềm hy vọng. Lời Ngài có sức thánh hoá, làm cho người ta tin theo, cải hoá con tim sỏi đá thành con tim biết yêu thương. Giáo huấn của Ngài áp dụng thực tiễn trong đời sống và làm cho cuộc sống trở nên í nghĩa hơn. Ngài lại ban cho những ân sủng mà thế gian chỉ hứa mà không có khả năng làm điều đó.Chính những điều trên dẫn đến dân chúng nhận ra uy quyền nơi Ngài và đón nhận uy quyền đó với tâm tình tạ ơn, cảm mến.
Con cái đặt trọn niềm tin vào cha mẹ một vì là người mang chúng vào đời, bảo bọc, che chở, chăm nom, giáo dục hai là yêu thương với tất cả tấm lòng. Hiểu như thế để biết được tình Chúa yêu ta như cha mẹ yêu thương con cái. Chúa yêu ta với tất cả tấm lòng, cho đi không đòi báo đáp. Ban phát không tính hơn thiệt. Lỗi lầm Chúa chờ ta ăn năn thống hối. Phản bội Chúa tìm cơ hội thứ tha. Chối bỏ Ngài vẫn giang tay ban phát. Gặp nguy hiểm bàn tay Ngài luôn nâng đỡ. Tình Chúa vô biên và ân sủng Ngài ban là nguồn hạnh phúc vĩnh cửu.
Trong những tuần vừa qua, các bài đọc Lời Chúa giới thiệu cho chúng ta: Đức Giêsu là Đấng TN4-B149
Trong những tuần vừa qua, các bài đọc Lời Chúa giới thiệu cho chúng ta: Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế Thiên Chúa đã hứa ban cho nhân loại. Ngài đã đến để khai mở Nước Trời, kêu gọi mọi người sám hối và tin vào Tin Mừng. Chúa nhật hôm nay, Tin Mừng giới thiệu cho chúng ta: Đức Giêsu chính là một vị Thiên Chúa quyền năng. Quyền năng của Ngài khiến cho mọi tà thần, ma quỷ phải khiếp sợ.
Quyền năng của Đức Giêsu hoàn toàn khác với quyền lực của thế gian. Thế gian dùng quyền lực để thống trị, uy hiếp người khác và bảo vệ cho địa vị của mình. Còn quyền năng của Đức Giêsu là uy quyền của một vị Thiên Chúa, Đấng tạo thành và làm chủ mọi loài mọi vật trên vũ trụ này. Ngài dùng quyền năng để xua trừ ma quỷ và tội lỗi, đem lại niềm vui, giải thoát và hạnh phúc cho nhân loại.
Trong ký ức của người Do Thái, ông Mose vừa là một thủ lĩnh tài ba, vừa là một vị đại ngôn sứ uy thế trước mặt Thiên Chúa và mọi người. Mose được coi như một vị anh hùng thay mặt Chúa, đứng ra để lãnh đạo dân thực hiện cuộc xuất hành khỏi Ai Cập. Biến cố xuất hành đã thay đổi hoàn toàn số phận của dân Israel. Từ một dân nô lệ, Israel trở thành dân tự do, từ một dân du mục, trở thành những người được định cư tại miền đất hứa. Không những thế, trong suốt bốn mươi năm vượt sa mạc, Mose còn được coi như là nhà tổ chức và người lập luật cho dân tộc này. Bộ luật của Mose (Ngũ Kinh) vẫn còn ảnh hưởng trên dân Do Thái cho đến ngày hôm nay.
Bài đọc một cho thấy, lúc Mose đang được tôn trọng như một ngôn sứ vĩ đại, ông đã tiên báo rằng: Thiên Chúa hứa, từ giữa anh em, Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một vị ngôn sứ như tôi để giúp anh em. Anh em hãy nghe lời vị ấy. Vị ngôn sứ này sẽ trở thành trung gian nói lời của Thiên Chúa cho dân và chính Ngài sẽ là hình ảnh của Thiên Chúa giữa muôn dân: Ta sẽ đặt lời ta trong miệng người ấy, Vị đó sẽ nói với các ngươi những gì ta truyền cho các ngươi. Vì thế, kẻ nào không nghe lời ta truyền qua miệng của vị đó, kẻ ấy sẽ phải chết. Lời tiên báo của Mose đã được các tác giả Tin Mừng thấy ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Vì thế, Tin Mừng hôm nay muốn giới thiệu cho chúng ta, Đức Giêsu chính là một Mose mới, là một vị ngôn sứ quyền năng đã được Mose cũ tiên báo.
Ngay những ngày đầu tiên xuất hiện công khai rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa tại vùng Caphanaum, Đức Giêsu đã thu hút được sự chú ý của rất nhiều người. Họ tin Ngài như là một ngôn sứ và còn hơn hẳn các ngôn sứ trước đây, kể cả Gioan Tiên Hô, Đức Giêsu đã giảng dạy với uy quyền của một vị Thiên Chúa, khiến cho dân chúng kinh ngạc.
Dân thành Caphanaum không chỉ kinh ngạc về lời và cách thức giảng dạy của Chúa Giêsu, mà các việc làm của Ngài còn khiến dân chúng kinh ngạc hơn. Lúc đó, trong hội đường, có một người bị thần ô uế ám. Khi thấy Đức Giêsu, thần ô uế la lên: Hỡi ông Giêsu Nazareth, chúng tôi có can chi đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Chi tiết này cho thấy, nếu như trước đây, nhân loại bị ràng buộc dưới quyền lực thống trị của ma quỷ và các thần xấu, hôm nay, với sự xuất hiện của Đức Giêsu, ma quỷ phải khiếp sợ, thế lực của nó bị đẩy lui và bị tiêu diệt. Chính ma quỷ đã phải thú nhận điều đó, sự xấu đã phải đầu hàng trước sự thánh thiện, thần ô uế phải trốn chạy trước: Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã không dung tha cho ma quỷ, không thỏa thuận, thỏa hiệp với thế lực sự xấu, Ngài đã quát mắng và ra lệnh cho chúng: Câm miệng, và xuất khỏi người này. Bằng một mệnh lệnh đầy uy quyền của một vị Thiên Chúa, đã khiến cho ma quỷ và tà thần buộc phải câm miệng và xuất ra. Thần ô uế dằn vặn người bị nó ám, thét lên và xuất ra khỏi người bị ám. Việc làm này của Chúa Giêsu chứng tỏ rằng: Nước Trời và quyền năng của Thiên Chúa đã thực sự lan tỏa trên mặt đất, giải thoát và đem đến cho con người sự tự do. Những ai tin vào Đức Giêsu là Đấng quyền năng, thì sẽ được quyền năng của Ngài bảo vệ. Với sự xuất hiện của Đức Giêsu, nhân loại và vũ trụ này sẽ được giải thóat khỏi sự sợ hãi, ràng buộc, nô lệ của ma quỷ và các thế lực bóng tối và được tự do, sống trong ánh sáng.
Tin Mừng Marcô đã ghi nhận phản ứng của dân chúng khi chứng kiến phép lạ Chúa Giêsu thực hiện. Dân chúng sững sờ, ngạc nhiên, họ đặt ra nhiều câu hỏi để tìm hiểu về con người và việc làm của Chúa Giêsu. Họ suy nghĩ về ý nghĩa và lời giảng của Ngài. Họ nhận định: Lời giảng của Ngài thì mới mẻ; người giảng thì có uy quyền. Dân chúng đã đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi hết sức quan trọng: Ngài là ai mà lại ra lệnh cho các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh?
Mặc dù tác giả Tin Mừng đã không ghi nhận câu trả lời của dân thành Caphanaum, nhưng lại cho thấy niềm tin của họ, đó là, những người này đã tin và loan truyền danh tiếng của Ngài cho khắp vùng Galilea. Phải chăng khi không ghi lại câu trả lời của những người dân thành Caphanaum, tác giả Tin Mừng muốn mỗi chúng ta ngày nay tự tìm câu trả lời cho riêng mình: Đức Giêsu là ai đối với tôi ?
Ngày nay chúng nhận biết Chúa Giêsu, từng chứng kiến bao việc lạ lùng Ngài đã thực hiện cho mình và gia đình, nhưng nhiều người vẫn không thán phục và không đặt trọn niềm tin nơi Ngài. Nhờ Bí Tich Rửa tội, chúng ta trở nên công dân Nước Trời, nhưng nhiều người vẫn không suy phục quyền năng của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu. Họ không chạy đến cầu xin Người mỗi khi bị thử thách, bị tội lỗi vây bủa, giam hãm, mà lại tìm kiếm, cậy dựa vào thế lực của ma quỷ, tối tăm như: xem thày- bà, bói- toán. Nhiều người đã không tin Thiên Chúa quyền năng luôn làm mọi điều tốt đẹp, luôn bảo vệ và gìn giữ chúng ta, nên đã thực hành tin kiêng, mê tín, theo kiểu dân ngoại, coi ngày coi giờ, kiêng mồ, kiêng mả.
Nhiều người đã để gia đình mình trống rỗng, không có Chúa, không có việc đạo đức, không có giờ kinh sớm tối, trở thành chỗ cho ma quỷ và các sự xấu xâm nhập. Ma quỷ không thể làm điều tốt, chúng chỉ có thể đem đến sự bất hòa bất thuận, chúng gieo sự hồ nghi vào trong gia đình. Ma quỷ và sự lười biếng là thủ phạm gây ra cãi vã, rạn nứt; sự lười biếng dẫn đến say sưa, nhàn cư vi bất thiện, khiến nhiều gia đình đang đứng trước nguy cơ đổ vỡ, bất hòa.
Để khôi phục lại sự tin tưởng lẫn nhau và sự êm ấm trong gia đình, đòi các thành viên, từ cha mẹ đến con cái, phải suy phục, tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa. Mỗi người phải không ngừng khám phá sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời và gia đình, đặt Chúa Giêsu vào vị trí trung tâm của đời sống cá nhân và gia đình. Thiên Chúa sẽ không thể hiên quyền năng khi chúng ta từ chối không tin Ngài. Vì thế muốn Thiên Chúa làm chủ và xua đuổi sự dữ, sự xấu ra khỏi gia đình và cuộc sống, mỗi người cần khiêm tốn và hoàn toàn đặt trọn niềm tin nới Chúa; để cho Ngài hướng dẫn và vâng theo sự hướng dẫn của Ngài. Siêng năng dâng lễ và rước Chúa vào tâm hồn là cách tốt nhất để mời Chúa về gia đình. Giờ kinh tối là cách để cho Lời Chúa uốn nắn điều khiển gia đình. Khi chuyên chăm như thế, Thiên Chúa sẽ thực hiện quyền năng của Ngài và những điều kỳ diệu trong gia đình.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn ý thức rằng, chúng ta cũng được “chia sẻ vào quyền năng” của Thiên Chúa để đem lại hạnh phúc cho người khác. Vì thế, xin cho chúng ta biết sống tâm tình suy phục, biết ơn Thiên Chúa và dùng khả năng Chúa ban để phục vụ anh em đồng loại, đem lại cuộc sống hạnh phúc cho người chung quanh. Amen.
(21) Đức Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngay ngày Sa-bát, Người vào hội đường giảng dạy. (22) Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư. (23) Lập tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên (24) rằng: “Ông Giê-su Na-gia-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến để tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!”. (25) Nhưng Đức Giê-su quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” (26) Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta. (27) Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!”. (28) Lập tức danh tiếng Người đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Ga-li-lê.
Ý CHÍNH:
Đức Giêsu chính là vị Ngôn Sứ ưu việt đã được Mô-sê tiên báo sẽ đến. Tin mừng Mác-cô hôm nay TN4-B150
Đức Giêsu chính là vị Ngôn Sứ ưu việt đã được Mô-sê tiên báo sẽ đến. Tin mừng Mác-cô hôm nay trình bày Đức Giê-su khởi đầu sứ mạng Thiên Sai vào một ngày Sa-bát tại một hội đường thành Ca-phác-na-um miền Ga-li-lê. Lời giảng dạy và quyền uy của Đức Giê-su khiến mọi người thán phục
CHÚ THÍCH:
– C 21-21: +Thành Ca-phác-na-um: Là một thành nằm về phía Tây Bắc của biển hồ Ga-li-lê. Đức Giê-su chọn thành này làm trung tâm truyền giảng Tin Mừng. Tại thành này, Người đã làm nhiều phép lạ như: trừ quỉ (x. Mc 1,23-28), chữa bệnh (x. Mc 5,25-34), cho kẻ chết sống lại (x. Mc 5,21-43)… Người cũng có lần quở trách thành này vì đã cứng lòng tin (x. Mt 11,23-24). + Hội đường: Là một ngôi nhà hình vuông gồm có ba gian, được xây hướng về Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Nơi gian giữa có đặt một tủ đựng Sách Thánh, và một cái giá dành cho chủ sự. Hội đường là nơi người Do Thái trong làng hội họp để nghe giảng Kinh Thánh và cầu nguyện. Chúa Giê-su thường được mời giảng tại các hội đường khắp nước Do thái.
– C 23-24: +Một người bị thần ô uế ám: Đây là một người bị quỉ nhập vào. Ma quỉ hay Xa-tan có nhiều nghĩa: “kẻ hủy diệt”, “kẻ gian ác”, “người cáo tội” (Tv 109,6)… Ở đây ma quỉ được gọi là “thần ô uế” để đối lập với Đức Giê-su là “Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
– C 25-27: +“Câm đi, hãy xuất khỏi người này”: Việc Đức Giê-su ra lệnh và ma quỷ đã phải im tiếng xuất ra khỏi người bị nó ám, chứng tỏ uy quyền tuyệt đối của Người trên ma quỷ.
CÂU HỎI:
1- Ma quỉ có thực hay chỉ là tưởng tượng của những người mê tín dị đoan? Kinh Thánh nói gì về sự hiện hữu của ma quỉ và các hoạt động của chúng? Đức Giê-su và Giáo Hội sơ khai có thái độ thế nào đối với ma quỉ?
2- Khi thấy một người có biểu hiện bất thường về tâm thần, ta có nên vội kết luận họ bị quỉ ám và tìm cách trừ tà hay không? Ai có quyền cử hành nghi lễ trừ tà?
4- Ngày nay, ngoài việc trừ ma quỉ, giải thoát những người đang bị đàn áp khống chế, Giáo Hội còn có sứ mạng gì liên quan đến ma quỉ?
ĐÁP:
+Ngày nay, nhiều người không tin có ma quỉ. Họ thường giải thích các hiện tượng siêu nhiên do ma quỉ làm nơi con người thuần túy chỉ là những triệu chứng của bệnh thần kinh. Đang khi Kinh Thánh lại luôn khẳng định về sự hiện hữu của ma quỉ..
+Trong Kinh Thánh, ma quỉ được gọi là “Con Mãng Xà”, “Xa-tan” hay “Thần ô uế” (x. Kh 20,2 ; Mc 1,23). Chúng vốn là thiên thần trên trời, nhưng do phản nghịch với Thiên Chúa nên đã bị phạt xuống hỏa ngục (x. Gd 1,6 ; Kh 20,7-10); Chúng được Thiên Chúa cho phép thử thách đức tin của người ta như trường hợp ông Gióp (x. G 1,6-2,7); Chúng cám dỗ người ta phạm tội như cám dỗ bà E-và (x. St 2,24), cám dỗ Đức Giê-su (x. Lc 4,2); Chúng ám hại người ta như đã giết 7 người chồng của bà Xa-ra (x. Tb 3,8 ; 6,14); Chúng trói buộc người ta bằng cách làm cho họ bị bệnh tật (x. Lc 13,16)…
+Sứ mạng của Đức Giê-su là tiêu diệt ma quỉ (x. Mc 1,24). Người không nhờ tướng quỉ mà trừ quỉ (x. Mc 3,22-26), nhưng nhờ quyền năng Thiên Chúa (x. Mt 12,22tt). Kết quả là ma quỉ phải chịu khuất phục (x. Ga 14,30). Người cũng ban cho các Tông đồ được quyền trừ quỉ (x. Mc 6,7). Giờ Tử Nạn và Phục Sinh của Người là lúc ma quỉ bị tống ra ngoài và bị xét xử (x. Ga 12,31; 16,11).
+Đến thời Giáo Hội Sơ Khai, Phi-líp-phê đã nhờ Thánh Thần mà trừ quỉ (x. Cv 8,7); Phao-lô cũng có khả năng trừ quỉ (x. Cv 19,11-12). Ngày nay ma quỉ vẫn đang hoành hành bằng cách nhập vào những người yếu đức tin (x. Mt 13,43-45); Chúng hành hạ người ta như sàng gạo vậy (x. Lc 22,31). Chúng giống như sư tử luôn rình mồi cắn xé người ta (x. 1 Pr 5,8). Hội Thánh vững tin sẽ toàn thắng ma quỉ khi đến ngày tận thế. Bấy giờ ma quỉ cùng những kẻ đi theo chúng sẽ bị giam phạt trong hoả ngục đời đời (x. Mt 25,41; Lc 10,18).
+Không nên vội xác định bệnh nhân đã bị quỉ ám, nhưng trước tiên cần đem đến bác sĩ thần kinh hay bác sĩ phân tâm học để được khám và điều trị bằng thuốc men hay các phương pháp tâm lý tự nhiên. Nếu bệnh không thuyên giảm và có những bằng chứng do ma quỉ làm thực sự, thì phải nhờ Cha Sở hay Linh Mục đặc trách trừ quỉ điều tra xem xét. Các vị này sẽ tiến hành việc trừ quỉ dưới sự chỉ đạo của Đấng Bản Quyền Giáo phận.
+Theo kết quả điều tra thì phần lớn các trường hợp nạn nhân tưởng là bị quỉ ám, thư ếm hay bùa ngải… Thực ra chỉ là hiện tượng suy nhược thần kinh hoặc do ảo giác tưởng tượng mà thôi. Riêng các hiện tượng lạ như bàn ghế tự nhiên xê dịch, giường nằm của bệnh nhân có ai đó dựng lên, hoặc bệnh nhân tự nhiên được nâng cao lên khỏi giường, hoặc có những tiếng gõ bàn hay tiếng nói mỗi khi thày ngải tra hỏi bệnh nhân… có thể do ma quỉ gây ra, mà cũng có thể chỉ là ảo thuật do các thầy pháp hay thầy phù thủy thực hiện, nhằm đánh lừa để người ta tin theo.
+Trong trường hợp chắc chắn các hiện tượng trên do ma quỉ nhập vào và khống chế làm hại một người nào đó, thì Đấng Bản Quyền sẽ chỉ định các linh mục chuyên viên đủ kinh nghiệm chính thức cử hành nghi lễ trừ quỉ.
+Nếu bệnh nhân thực sự bị quỉ ám, thì các chuyên gia chỉ trừ được ma quỉ nếu có đức tin vững mạnh và ý chí kiên quyết (x. Mt 17,20). Phải ăn chay và cầu nguyện trong suốt thời gian trừ quỉ (x. Mt 4,5) ; Phải kết hiệp mật thiết với Chúa Giê-su để nhờ quyền năng của Người mà trừ quỉ (x. Ga 15,5). Họ cũng phải nhờ Thần Khí của Chúa Giê-su (x. Mt 12,28) và nhân danh Người mà trừ quỉ (Mc 9,38). Cuối cùng họ còn phải là người từng trải và có kinh nghiệm để có thể đối phó hữu hiệu với ma quỉ và tránh bị chúng làm hại (x. Cv 19,11-19).
+Ngoài ra, Hội Thánh cũng khuyên các tín hữu phải phòng tránh sự khôn ngoan giả dối của thế gian và ma quỉ (x. Gc 4.14-15), đề phòng các tiên tri giả là tay sai của ma quỉ gửi các thư nặc danh, các tin nhắn mạo danh “Sứ điệp từ trời” để đả kích Đức Thánh Cha, truyền bá một thứ giáo lý sai lạc ngược lại giáo lý tông truyền của Hội Thánh (x. Tm 4,1 ; Kh 16,14).
II. SỐNG LỜI CHÚA
LỜI CHÚA:
Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” (Mc 1,27).
CÂU CHUYỆN:
1) CHRISTOPHER- NGƯỜI BỒNG ẴM CHÚA KI-TÔ
Kho truyện các thánh có ghi lại câu chuyện về một người mang Đức Ki-tô như sau:
Có một chàng thanh niên có sức mạnh phi thường nhưng không ai biết tên thật của chàng. Anh này có tâm nguyện đi tìm một người quyền lực nhất để phụng sự. Đầu tiên anh nghĩ không ai quyền lực hơn viên tướng cướp trong vùng anh đang ở nên đến gia nhập vào băng cướp và anh được phân công làm hộ vệ cho viên tướng cướp. Nhưng mỗi lần băng cướp sắp có vụ làm ăn, anh ta lại thấy viên tướng cướp phải đến nhờ thầy phù thuỷ làm phép cho vụ làm ăn thành công. Thế là anh thanh niên liền bỏ viên tướng cướp để xin theo hầu thầy phù thuỷ. Một hôm, khi theo thầy phù thủy đi hành nghề, anh thấy thầy đang đi trên đường gặp một cây Thánh giá bên vệ đường liền sợ hãi không dám đi tiếp mà vòng lại đi đường khác. Thế là anh chàng lực sĩ liền bỏ thầy phù thuỷ quay trở lại đứng bên cây Thánh giá để mong được gặp chủ nhân cây Thánh giá. Anh ta cứ đứng đó chờ mấy ngày liền mà vẫn không thấy chủ nhân cây Thánh giá xuất hiện.
Nơi đó gần một khúc sông cạn và có nhiều người đã phải mạo hiểm lội bì bõm qua sông để sang bờ bên kia. Một hôm, một chú bé đến nhờ anh lực sĩ cõng qua sông và anh đã lập tức giúp cõng em trên vai lội qua sông. Có điều khi mới được một đoạn ngắn, anh lực sĩ tự nhiên cảm thấy chú bé trở nên quá nặng, liền hỏi lý do và được chú bé trả lời: “Ta nâng đỡ cả trái đất trên tay nên làm sao không nặng cho được”. Cậu bé còn cho biết mình chính là chủ nhân của cây Thánh giá mà chàng lực sĩ đang muốn gặp mặt. Thế là chàng lực sĩ liền xin đi theo vị Chúa Ki-tô Chủ Tể của trái đất này. Chúa Ki-tô dạy anh: “Nếu muốn phụng sự Ta, con hãy dựng một căn lều và luôn ở cạnh cây Thánh giá, để nếu có ai muốn qua sông thì con sẽ cõng họ qua”. Chàng lực sĩ liền làm theo lệnh Chúa truyền. Từ ngày đó, dân chúng trong vùng đã gọi chàng bằng cái tên thân thương là KÍT-TÔ-PHƠ (Christopher), nghĩa là “Người mang vác Chúa Ki-tô”.
2) PHIM “NGƯỜI TRỪ QUỈ”:
Vào năm 1970, cuốn phim “Người trừ quỉ” (Exorcist) được trình chiếu thì lập tức đã phá kỷ lục số vé bán ra. Chuyện phim kể lại một câu chuyện có thật về một thiếu niên 14 tuổi ở vùng Mao-Rai-mơ (Mt. Raimer), thuộc bang Me-ri-len (Maryland) của Hoa Kỳ vào năm 1949. Về sau, tờ “Tuần Tin Tức” (Newsweek) đã tường thuật câu chuyện này như sau: “Theo người cha kể lại thì cậu thiếu niên này thích ở một mình trên gác xép và chơi cầu cơ. Qua trò cầu cơ, cậu ta thường nói chuyện lâu giờ với một người có tên là “Ông Đại Úy”. Lúc đầu người cha cho rằng cầu cơ chỉ là một trò giải trí vô hại. Nhưng về sau, khi thấy con trai có những biểu hiện bất thường, thì cha mẹ cậu bé bắt đầu lo lắng. Nhất là một hôm ông bố nhìn thấy ghế bàn và chiếc giường cậu con đang nằm tự nhiên bị di chuyển trên sàn nhà giống như có bàn tay vô hình nào đó kéo đi. Rồi ban đêm cậu bé bị mất ngủ và hay nói lầu bầu điều gì đó với cái giọng khàn đặc của một gã đàn ông trung niên. Sau đó buộc lòng ông bố phải đưa con đến bệnh viện của trường Gioóc-dơ-tao (Georgetown), một trường đại học danh tiếng. Tại đây bác sĩ điều trị phát hiện ra cậu bé biết nói thành thạo tiếng La-tinh, một thứ cổ ngữ rất khó học mà cậu ta chưa từng biết đến trước đó. Cuối cùng sau một thời gian nằm điều trị vô hiệu, cha mẹ cậu đành đem con về nhà và nhờ hai vị linh mục dòng Tên có lòng đạo đức thánh thiện đến nhà cử hành nghi lễ trừ quỉ.
Cuộc chiến đấu giành linh hồn của cậu bé đã xảy ra rất căng thẳng và quyết liệt, kéo dài suốt 2 tuần lễ. Cuối cùng ma quỉ cũng chịu khuất phục và xuất ra khỏi nạn nhân. Nhưng đồng thời vị linh mục chủ lễ cũng đã gục xuống chết tại chỗ do chứng nhồi máu cơ tim. Hiện nay cậu bé trên vẫn còn sống tại thủ đô Wo-sinh-tơn (Washington). Một trong hai linh mục từng tham gia vào việc trừ quỉ đã thề là không bàn luận gì thêm về công việc nguy hiểm này. Tuy nhiên ông cũng cho biết là chính nhờ tham gia vào việc trừ quỉ mà bản thân ông đã thêm đức tin để luôn trông cậy vào quyền năng và tình thương của Chúa.
3) SỨC MẠNH HOÁN CẢI CỦA LỜI CHÚA:
Tokichi Ishii, một tên sát nhân không gớm tay đã đạt kỷ lục hạ sát nhiều nạn nhân nhất bằng những phương thế dã man không thể tưởng tượng nổi. Hắn tàn sát đàn ông, phụ nữ, trẻ em với bàn tay khát máu, hắn đã thủ tiêu bất cứ người nào tình cờ hắn gặp và muốn giết. Nhưng cuối cùng hắn bị bắt và bị kết án tử hình.
Lúc ở nhà tù chờ ngày hành quyết, hai phụ nữ công tác tông đồ khuyên nhủ hắn, tất cả những lời thăm hỏi, trò chuyện của họ không làm cho hắn mảy may động tâm, trái lại hắn nhìn thẳng vào họ với cặp mắt dữ tợn như một hung thủ.
Cuối cùng, mất hết kiên nhẫn, hai phụ nữ ra về. Họ chỉ để lại cho hắn cuốn Tân ước với hy vọng mỏng manh hắn sẽ đọc và Lời Chúa sẽ hoạt động… Niềm hy vọng đã trở thành sự thật. Ishii đã đọc, Lời Chúa thu hút anh khiến anh tiếp tục đọc trình thuật cuộc tử nạn của Chúa Giêsu… Đọc đến câu: “Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”! (Lc 23, 34), anh dừng lại, suy nghĩ. Anh tâm sự: “Đọc đến câu này, con tim tôi bị đánh động, bị đâm thâu bằng một con dao dài. Tôi có thể gọi đó là tình yêu của ông Giêsu, là lòng thương xót của Ngài. Điều duy nhất tôi biết là sự hung dữ, tàn bạo nơi tôi đã tan biến và tôi đã tin vào Chúa”.
Các nhân viên nhà giam dẫn đưa anh đi hành quyết, họ rất ngạc nhiên thấy tử tôi Ishii hòa nhã, lễ độ, chứ không phải một tên sát nhân hung bạo. Ishii, tên tử tội đã được lời Chúa tái sinh.
(Trích Lẽ Sống, Radio Veritas)
4) SỰ KHÔN LANH VÀ HIỂM ĐỘC CỦA MA QUỶ:
Một tu sĩ kia rất có lòng đạo đức, ngày nào ông cũng thức dậy lúc 5 giờ sáng để đọc kinh thờ phượng Chúa. Xảy ra là có một hôm ông ngủ quên, thấy vậy, tướng quỷ Sa-tan đến đánh thức ông. Khi biết kẻ đánh thức mình là Sa-tan, tu sĩ tỏ dấu thắc mắc, ma quỷ liền nói với ông: “Tôi là ai, điều đó không quan trọng, việc tôi đánh thức ông là một điều tốt. Ông thấy không, ai làm việc lành đều là người tốt cả. Vậy tôi cũng là một người tốt”. Tu sĩ đáp: “Không bao giờ ma quỷ lại làm điều lành, vậy nhân danh Thiên Chúa, mi phải nói rõ vì lý do nào mi đánh thức ta?“ Bấy giờ ma quỷ buộc lòng phải nói thật: “Nếu ngày nào ông ngủ quên không đọc kinh sáng, thì khi thức dậy ông sẽ cảm thấy hối hận, khiêm tốn và quyết tâm sống đạo đức hơn. Còn ngày nào ông thức dậy sớm đọc kinh sáng, thì ông sẽ nghĩ mình đạo đức và không quyết tâm làm các việc lành khác”. Nói xong nó biến mất.
Câu chuyện trên cho thấy ma quỷ thật khôn lanh quỷ quyệt khi cám dỗ loài người chúng ta.
SUY NIỆM:
Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa hằng sống, là Đấng quyền năng trong lời nói và việc làm
1) QUYỀN NĂNG TRONG LỜI NÓI:
Đức Giê-su đã rao giảng Lời Chúa trong hội đường Ca-phác-na-um khiến người nghe phải kinh ngạc, vì : “Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ” (Mc 1,22).
Vì Người là chính Lời Thiên Chúa nhập thể làm người và được Chúa Cha sai đến làm Đấng Thiên Sai, nên Người chỉ nói Lời Thiên Chúa cho loài người chứ không bị lệ thuộc vào thế giá của các ngôn sứ đi trước, kể cả ông Mô-sê. Đức Giê-su đã biểu lộ uy quyền khi thay đổi các tập tục trong Luật Mô-sê: “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình thì phải bị đưa ra tòa…” (Mt 5,21-22).
Người cố ý chữa bệnh trong ngày Sa-bát, và khi bị hạch hỏi Người đã trả lời như sau: “Ngày Sa-bát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày Sa-bát; Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày Sa-bát” (Mc 2,27).
2) QUYỀN NĂNG TRONG HÀNH ĐỘNG:
Đúc Giê-su thể hiện là Đấng Thiên Sai đầy uy quyền như sau:
– Làm chủ các định luật thiên nhiên: Biến nước lã trở thành rượu nho trong bữa tiệc cưới thành Ca-na; Nhân 5 chiếc bánh và 2 con cá ra nhiều cho môn đệ phân phát cho 5 ngàn người được ăn no trong hoang địa; Đi trên mặt nước mà đến với thuyền các môn đệ; Dẹp yên sóng gió giữa biển hồ; Giúp các môn đệ bắt được mẻ cá lạ lùng…
– Chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền: Người cũng dùng lời quyền năng để chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền trong dân như: Cho người mù được sáng mắt; Kẻ câm nói đươc, người điếc được nghe, người què đi được, người phong cùi được sạch…
– Phục sinh kẻ chết: Người còn truyền cho một bé gái mới chết đang nằm trên giường được trỗi dậy; Cho một thanh niên mới chết tại cửa thành Na-im đang được người thân mang đi chôn; Cho anh La-da-rô đã chết được chôn trong mồ 4 ngày được sống lại và ra khỏi mồ; Và chính Người đã từ cõi chết trỗi dậy vào ngày thứ ba đúng như Người đã tiên báo.
3) QUYỀN NĂNG TRÊN MA QUỶ:
Gặp Đức Giê-su, ma quỷ đã nói ra sứ vụ cứu thế của Người như sau: “Ông Giê-su Na-gia-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến để tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (Mc 1,24). Đức Giê-su đã lên tiếng quát nạt ma quỷ: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!”. Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta (Mc 1,25-26). Chính thái độ sợ hãi và vâng phục Đức Giê-su của ma quỷ cho thấy quyền năng của Người như lời đám đông dân chúng đã nói: “Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” (Mt 1,27b).
4) PHỤNG SỰ MỘT MÌNH CHÚA:
– Ngày nay noi gương Tông đồ Phê-rô, chúng ta hãy đặt trọn niềm tin vào Chúa Giê-su: Sau bài giảng về Bánh Hằng Sống, nhiều môn đệ không chấp nhận về bí tích Thánh Thể và đã bỏ đi không muốn theo làm môn đệ Đức Giê-su nữa, chỉ còn Nhóm Mười Hai là vẫn còn ở lại với Người. Đức Giê-su đã không rút lại ý định lập bí tích Thánh Thể và đòi các ông phải xác định: tin hay không tin, bỏ đi hay ở lại qua câu hỏi: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”. Ông Phê-rô đại diện Nhóm Mười Hai đáp lại rằng: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng: Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69).
– Để trung thành tin theo Chúa Giê-su, cần năng học sống Lời Chúa: Mỗi lần hiệp sống Tin Mừng, chúng ta sẽ khám phá thêm sự mới mẻ của Lời Chúa, và nhận ra quyền năng của Chúa thể hiện trong thiên nhiên và qua các dấu chỉ của thời đại như lời thánh vịnh: “Lời Chúa là đèn soi cho con bước. Là ánh sáng chỉ đường cho con đi” (Tv.118,105). Nhờ năng tham dự các buổi Hiệp Sống Tin Mừng hằng tuần tại nhà Sinh Hoạt Mục Vụ hay trong Giờ Kinh Tối Gia Đình hằng ngày… chúng ta hy vọng sẽ từng bước trở thành “muối men”, hòa lẫn vào thúng bột xã hội để làm cho cả xã hội đều dậy lên men tình yêu của Chúa. “Ánh sáng” của các việc lành chúng ta làm sẽ giúp anh em lương dân nhận biết và ca ngợi Chúa Cha trên trời.
– Chúng ta cũng cần phải ý thức sứ mạng của mình là cộng tác với những người thiện chí để đẩy lùi các tệ nạn xã hội ra khỏi môi trường sống: Hiện nay ma quỉ vẫn luôn tìm cách phá hoại công trình cứu độ của Chúa Giê-su là Hội thánh. Chúng ta cần hợp tác xây dựng một môi trường sống an toàn sạch đẹp và văn minh hơn. Cần quan tâm an ủi những người đang gặp hoàn cảnh khó khăn, bằng việc giúp họ vững tin vào lòng Chúa thương xót và giúp họ vượt qua các tai nạn với hết khả năng của mình.
THẢO LUẬN:
1) Kinh nghiệm của các người tham gia trừ quỷ cho biết: những người bị ma quỉ ám là những kẻ đã có lòng tin vào quyền năng của chúng và có quan hệ mật thiết với chúng như: đến xem các buổi lên đồng, chơi trò cầu cơ, đi coi bói toán… Bạn đã bao giờ tò mò chơi thử những trò nguy hại đó chưa?
2) Bạn cần làm gì để thêm đức tin hầu tránh bị ma quỉ xâm nhập và khống chế, bắt bạn trở thành tay sai của chúng?
NGUYỆN CẦU:
– LẠY CHÚA GIÊ-SU là “Đấng Thánh và là Con Thiên Chúa”. Chúa đến để tiêu diệt ma quỉ và thiết lập một Triều Đại Mới Của Thiên Chúa. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa đã bắt ma quỉ phải câm miệng và xuất ra khỏi người bị chúng trói buộc. Xin cho chúng con vững tin vào quyền năng của Chúa, và xin Chúa giúp chúng con chiến thắng ma quỉ, tội lỗi và các thói hư. Xin cho chúng con sẵn sàng cộng tác với Chúa và những người thiện chí đẩy lùi các cám dỗ của ma quỷ là phim ảnh xấu, ma túy, cờ bạc, rượu chè… ra khỏi gia đình và môi trường chúng con đang sống hầu cho Nước Chúa mau hiển trị.
– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin dạy cho con biết sống quảng đại, biết phụng sự Chúa cho xứng đáng, biết cho đi mà không cần tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, biết làm việc mà không tìm an nghỉ, biết tận lực mà không chờ một phần thưởng nào khác, ngoài việc biết mình đã làm theo thánh ý Chúa. Amen. (Thánh I-mha-xi-ô).