Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 1-B Bài 51-100 Giêsu chịu phép rửa ở sông Giô-đan
------------------------------------------ Phúc Âm: Mc 1, 6b-11
"Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha". Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, Gioan rao giảng rằng: "Có Ðấng đến sau tôi, nhưng quyền lực hơn tôi, tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người. Phần tôi, tôi đã rửa anh em trong nước, nhưng Người, Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần." Và đã xảy ra là trong những ngày đó, Chúa Giêsu từ Nadarét xứ Galilêa đến và chịu phép rửa bởi Gioan ở sông Giođan. Khi vừa lên khỏi nước, Người liền thấy trời mở ra, thấy Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Và có tiếng từ trời phán: "Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha". - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------
Trong khi dân Do Thái mong chờ một Đấng Cứu Thế oai phong lẫm liệt, thì Đức Giêsu xuất hiện công khai lần đầu tiên trong sự khiêm nhường thống hối. Lúc ấy, Gioan rao giảng sự ăn năn sám hối. Đoàn lũ dân chúng đông đảo kéo đến với ông để xin chịu phép rửa thống hối. Hòa mình vào đoàn lũ những con người tự nhận mình tội lỗi ấy, Đức Giêsu âm thầm khiêm tốn xếp hàng chờ được rửa tội. Thật là lạ lùng.Chính Đấng đã thánh hóa Gioan khi ông còn trong bụng mẹ giờ đây lại đến xin ông làm phép rửa cho.Chính Đấng đến để chuộc tội loài người giờ đây lại xin người khác rửa tội cho mình.Thật là khiêm nhường thẳm sâu.Trong khi loài người tội lỗi luôn kiêu ngạo tìm cách nâng mình lên thì Thiên Chúa thánh thiện lại tìm hạ mình xuống.Trong khi loài người tội lỗi luôn che dấu, không nhận tội thì Thiên Chúa vô tội lại công khai nhận mình tội lỗi. Trong khi loài người tội lỗi tìm tránh hình phạt do tội lỗi họ gây nên thì Thiên Chúa lại ghé vai gánh lấy hết tội lỗi và mọi hình phạt mà loài người đáng phải chịu. Sự khiêm nhường ấy phát xuất từ lòng Thiên Chúa yêu thương con người, muốn chia sẻ kiếp người, muốn cứu chuộc tội đời, muốn thăng tiến nhân loại.
2) Hình ảnh về cuộc giao hòa đất trời
Chính lúc Đức Giêsu tự nguyện gánh lấy tội lỗi nhân loại, tầng trời bị xé ra.Khi loài người phạm tội, cửa trời đóng lại, đất trời phân ly, ân phúc thôi tuôn đổ. Khi phạm tội, loài người tự giam mình trong bóng tối.Bóng tối tội lỗi giam kín con người trong thân phận bụi đất, không còn hy vọng vươn lên. Hôm nay, tầng trời xé ra có nghĩa là từ nay con người đã có lối thoát.Thân phận con người thay đổi, địa vị con người được nâng lên, vì có ơn Thiên Chúa đổ xuống, có Thiên Chúa đến gieo mầm trường sinh vào kiếp người phàm hèn. Trời đất giao hòa.Thiên giới cúi xuống hạ giới. Thiên Chúa đến ở với con người. Ân phúc tuôn đổ xuống cõi đời nhơ uế.
3) Hình ảnh về sự kết hiệp mật thiết giữa Ba Ngôi Thiên Chúa.
Trong giây phút cảm động ấy, cả Ba Ngôi Thiên Chúa cùng xuất hiện.Chúa Thánh Thần như chim bồ câu đáp xuống.Chúa Thánh Thần là tình yêu.Chúa Thánh Thần ngự xuống trên ai là dấu chỉ Thiên Chúa ưu ái người ấy. Đức Chúa Cha công khai xác nhận sự ưu ái ấy với Đức Giêsu khi lên tiếng: “Đây là Con Ta yêu dấu.”Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.Đây không phải là một danh xưng, một tước vị, nhưng là một liên hệ sâu xa mật thiết: Ba Ngôi liên kết trong một tình yêu hiệp thông. Đức Giêsu hoạt động dưới tác động của Chúa Thánh Thần để thi hành thánh ý Chúa Cha.Có thể nói cả Ba Ngôi đều hoạt động trong Đức Giêsu Kitô.Cả Ba Ngôi đều tham gia vào công trình cứu chuộc con người.
4) Hình ảnh về sứ mệnh người được sai đi.
Từ xưa trong Cựu Ước, Chúa Thánh Thần ngự xuống là để trao ban một sứ mệnh.Hôm nay, Đức Giêsu cũng đã nhận lãnh một sứ mệnh, đó là cứu nhân độ thế.Là “mở mắt cho người mù”, là “đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ”, là “dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong bóng tối tăm.”Người không đến trong thái độ phô trương quyền lực, nhưng đến trong sự hiền lành khiêm nhường.Người đến không phải để lên án nhưng để tha thứ. Người đến không phải để giết chết nhưng để cứu sống như lời tiên tri Isaia: “Cây lau bị dập, Người không bẻ gẫy. Tim đèn leo lét, Người chẳng nỡ tắt đi”.
Phép rửa của Đức Giêsu mời gọi ta nhớ lại ơn phép rửa tội của mình. Ngày ta được lãnh nhận bí tích Rửa Tội, màn đêm tội lỗi vây phủ ta bị xé ra, Ba Ngôi Thiên Chúa đã đến với ta, ban cho ta cuộc sống thần linh, cho ta được vinh dự làm con Thiên Chúa, cho ta được kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Ngày ta được lãnh nhận bí tích Rửa Tội, Chúa Thánh Thần cũng đã trao cho ta một sứ mệnh, đó là sống xứng đáng một người con hiếu thảo của Chúa, là tiếp tục công việc của Đức Giêsu trong công cuộc cứu nhân độ thế.Đức Giêsu là gương mẫu một người con hiếu thảo, vì Người luôn sống thân mật với Chúa Cha, luôn kết hiệp với Chúa Cha trong kinh nguyện hằng ngày, và nhất là Người luôn tìm thi hành thánh ý Chúa Cha, Người đã vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá. Ta hãy noi gương Đức Giêsu, luôn kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi, luôn tìm thi hành thánh ý Thiên Chúa, luôn sống một cuộc sống tốt đẹp, luôn tích cực góp phần xây dựng xã hội, tạo hạnh phúc cho những anh em sống chung quanh ta.
Lạy Đức Giêsu Kitô, xin dạy con biết sống ơn bí tích Rửa Tội như Chúa, để con xứng đáng được làm con yêu dấu của Đức Chúa Cha.
Vào thế kỷ thứ IV, Ario truyền bá một lạc thuyết vô cùng nguy hại. Ario chủ trương rằng Đức Kitô không thực sự là Con Thiên Chúa. Hoàng đế Theôđôsiô đỡ đầu cho lạc thuyết này. Cũng vào lúc ấy hoàng đế phong cho hoàng tử mới 16 tuổi của ông được cùng trị vì trên ngai vàng với ông. Trong những khách được mời đến dự buổi lễ phong vương, có Đức Giám mục Amphilôcô. Đức Giám mục chỉ nói vài lời chúc mừng rồi chuẩn bị ra về. Hoàng đế giận dữ hỏi: Ngài không quan tâm đến hoàng tử sao? Ngài không biết rằng ta phong cho hoàng tử cùng trị vì với ta hay sao? Vị Giám mục bình tĩnh trả lời: Tâu hoàng thượng, hoàng thượng phật ý trước sự giả bộ thờ ơ của tôi đối với hoàng tử, vì tôi đã tỏ ra không tôn kính hoàng tử như bệ hạ mong muốn. Vậy Thiên Chúa sẽ nghĩ sao về hoàng thượng, khi hoàng thượng giáng cấp Người Con ngang hàng và cùng hiện hữu với Ngài dưới danh hiệu Con Thiên Chúa.
Từ câu chuyện trên chúng ta thấy: Ngày nay có nhiều người, kể cả một số người mệnh danh là Kitô hữu, đã chối bỏ hoặc nghi ngờ thiên tính của Đức Kitô. Thiết tưởng những người ấy hãy lắng nghe lời Chúa Cha tuyên phong trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay: Con là Con yêu quý của Cha, Cha hài lòng về Con.
Việc Đức Kitô chịu phép Rửa bởi Gioan đánh dấu bước khởi đầu công cuộc cứu độ của Ngài. Công cuộc trọng đại này là hành động của cả Ba Ngôi, vì chúng ta thấy Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống, đồng thời Chúa Cha phán bảo. Biến cố này rất quan trọng, nên Giáo Hội muốn chúng ta mừng kính riêng trong Chúa nhật hôm nay, tựa như ngày đăng quang của Đức Giáo Hoàng hay ngày nhận chức của một tổng thống.
Đặc điểm chúng ta cần nhấn mạnh đó là Chúa Cha trên trời hài lòng về Người Con yêu quý của Ngài, là Đức Kitô. Có người cha nào lại không vui mừng khi người con của mình khởi sự một chức vụ quan trọng: người cha của một bác sĩ, người cha của một tân linh mục, người cha của chú rể trong ngày cưới. Niềm vui ấy càng lớn lao hơn khi người con ấy vâng phục và tôn kính cha mình.
Đức Kitô là một người con yêu mến và vâng phục Chúa Cha. Đồng thời Ngài luôn khoan dung và khiêm tốn như một kẻ tôi tớ, vì thế, Chúa Cha luôn hài lòng về Ngài. Còn chúng ta thì sao?
Với bí tích Rửa Tội đã lãnh nhận, chúng ta được mời gọi để nhận biết, yêu mến và phụng sự Cha trên trời, khi chúng ta cố gắng chu toàn thánh ý Ngài giữa lòng cuộc đời, khi chúng ta cố gắng sống mầu nhiệm của bí tích Rửa Tội, khi chúng ta cố gắng noi theo Người Con Chí Thánh trong sự khiêm tốn và vâng phục, thì chúng ta cũng làm hài lòng Cha trên trời, để rồi trong ngày cuối cùng, chúng ta cũng sẽ được Chúa Cha tuyên phong, như ngày xưa Ngài đã tuyên phong Đức Kitô bên bờ sông Giođan: Con là Con yêu quý của Cha, Cha hài lòng về Con.
Ngày xưa người ta có một quan niệm rất ngộ nghĩnh về vũ trụ. Họ chia vũ trụ thành ba tầng chồng lên nhau. Tầng trên cùng là trời hay thiên đàng, nơi Thiên Chúa cư ngụ. Tầng giữa là đất, nơi loài người và muôn vật sinh sống. Tầng chót là âm phủ, nơi con người sẽ đến sau khi chết.
Từ khi Adong Eva phạm tội, thì tầng giữa, tức thế giới sinh vật ngày càng trở nên tồi tệ. Vì thế, các thánh luôn cầu xin Chúa từ trời ngự xuống để cứu giúp nhân trần. Chẳng hạn tiên tri Isaia đã nài van: Sao Ngài không xé bầu trời mà ngự xuống với chúng con.
Từ quan niệm trên, chúng ta đi vào đoạn Tin mừng sáng hôm nay, chúng ta sẽ dừng lại ở ba sự kiện:
Sự kiện thứ nhất, đó là bầu trời mở ra. Và như thế lời cầu xin của các vị thánh ngày xưa đã được chấp nhận. Thiên Chúa đã đến với nhân loại, khởi đầu cho một kỷ nguyên mới trong lịch sử.
Sự kiện thứ hai, đó là Thần khí Chúa dưới hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài. Sự kiện này nhắc cho chúng ta nhớ lại lúc bắt đầu công cuộc tạo dựng. Thần khí Chúa cũng đã bay lượn trên nước. Và như thế, cùng với Đức Kitô, Thiên Chúa thực hiện việc tái tạo, việc canh tân thế giới hay nói cách khác, Ngài thực hiện một công cuộc tạo dựng mới.
Và sau cùng, sự kiện thứ ba, đó là tiếng nói từ trời: Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng. Sự kiện này muốn xác quyết rằng: Đức Kitô là Con Thiên Chúa, là Adong mới, là trưởng tử của công cuộc tạo dựng mới này, như lời thánh Phaolô đã viết: Người thứ nhất là Adong từ đất mà ra nên thuộc về đất. Còn người thứ hai là Đức Kitô từ trời mà đến. Chúng ta đã mang trong mình hình ảnh con người bởi đất, tức Adong cũ thế nào, thì chúng ta cũng phải mang lấy hình ảnh con người bởi trời, tức Adong mới như vậy.
Từ đó chúng ta đi tới kết luận: Chúng ta là công dân của hai thế giới, bởi vì chúng ta mang trong mình hình ảnh của Adong thứ nhất cũng như của Adong thứ hai. Chúng ta chia sẻ sự sống với cả hai vị này. Kinh nghiệm cho thấy: Chúng ta đã từng bị lôi cuốn về mặt xác thịt của Adong thứ nhất, nhưng đồng thời cũng được sự thôi thúc về tinh thần của Adong thứ hai. Chúng ta thường bị xâu xé giữa sự thiện và sự ác, để rồi sự thiện chúng ta muốn thì chúng ta lại không làm, còn điều ác chúng ta ghét thì chúng ta lại làm.
Ý thức được như vậy, chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta luôn bước đi trên đường nẻo của Ngài, thực thi những điều Ngài truyền dạy, để nhờ đó chúng ta cũng sẽ được Ngài tuyên phong vào ngày sau hết: Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.
Biến cố ngày hôm nay quả thực đã làm cho chúng ta ngỡ ngàng không ít. Thực vậy, Chúa Giêsu đã chịu phép rửa nơi một kẻ tội lỗi, trong khi Ngài là người con yêu dấu của Chúa Cha và chính Ngài cũng đã có lần tuyên bố: Ai trong các ngươi bắt lỗi Ta được về sự gì? Thế nhưng, Chúa Giêsu lại là Đấng chuộc tội thiên hạ như có lần Gioan đã giới thiệu: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian. Ngài xoá tội trần gian bằng cách gánh lấy tội ấy.
Hành động chịu phép rửa phải chăng là một sự mở đầu cho sứ vụ của Ngài, đồng thời cũng là một dấu chỉ báo hiệu những gì sẽ xảy đến.
Có một lần, các con của Giêbêđê, bày tỏ ước vọng với Ngài là muốn được ngồi bên tả bên hữu Ngài. Và Chúa Giêsu đã trả lời các ông: Các con không ý thức được điều các con xin. Các con có thể uống được chén Ta phải uống và chịu thanh tẩy, thứ thanh tẩy mà Ta phải chịu hay không?
Như thế là còn một cuộc thanh tẩy khác nữa đang chờ đợi Chúa Giêsu. Cuộc thanh tẩy ấy chính là cuộc thống khổ, kết thúc bằng cái chết trên thập giá. Cuộc thanh tẩy ấy được thực hiện không phải chỉ bằng nước sông Giođan và từ tay của Gioan, mà là bằng máu của chính Ngài. Chúa Giêsu chịu thanh tẩy tại sông Giođan là hình ảnh của nhân loại được thanh tẩy trong cái chết của Ngài, được sống lại trong sự phục sinh của Ngài và trở thành những người con của Thiên Chúa.
Nơi Đức Kitô, phép rửa hay phép thanh tẩy đã không còn là một nghi lễ, mà đã trở thành một cuộc sống. Tội lỗi đã bị đánh bại không phải bằng nước của phép rửa mà là bằng máu của sự sống. Bí tích thanh tẩy làm cho Kitô hữu trở thành con Thiên Chúa cũng không thể chỉ là một nghi lễ được lãnh một lần rồi thôi, mà phải là chính cuộc sống làm con Thiên Chúa, cuộc sống từ bỏ và đẩy lui mọi tội lỗi. Không phải chỉ là đẩy lui tội lỗi ra khỏi cuộc sống của cá nhân mình, mà còn là ra khỏi nhân loại.
Vì thế, thờ ơ trước những tội ác diễn ra chung quanh, trước những bất công xã hội, trước những vi phạm quyền con người, trước những gian dối và thù hận, người Kitô hữu không còn là người Kitô hữu đích thật nữa vì đã không chu toàn lời cam kết khi lãnh nhận bí tích Rửa tội. Chính qua cuộc sống dứt khoát với tội lỗi mà người Kitô hữu bày tỏ được ý thức của mình về địa vị cao cả mà bí tích Rửa tội đã đem lại, đồng thời làm chứng về tình thương của Thiên Chúa đối với con người. Người Kitô hữu có trách nhiệm phải làm sao để tiếng từ trời cũng được lặp lại với từng người trong nhân loại: Này là con Ta yêu dấu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Đức Giêsu chịu phép rửa. Thêm một lần nữa Kitô-hữu nhận ra Đức Giêsu sống trọn thân phận con người, khi Ngài nhận mình đồng hàng với con người cần lòng thương xót của Thiên Chúa. Mặt khác, chính khi Ngài yêu thương và đồng hóa mình với anh em, thì Thiên Chúa xác chuẩn Ngài là Con Yêu Dấu của Thiên Chúa. Ngài tỏ lộ chân tướng của Ngài qua hành vi và cung cách cư xử của Ngài.
1) Đức Giêsu chịu phép rửa
Đức Giêsu được sinh ra trong chuồng chiên cừu, lớn lên và làm việc tại Nazaret. Ngài ăn cùng thức ăn như họ, cùng hưởng bầu không khí như họ, hưởng một nền giáo dục như bao trẻ em làng Nazaret thời đó, đặc biệt nền giáo dục về tôn giáo. Đức Giêsu đã trưởng thành từ làng quê Nazaret, và là người Do Thái hoàn toàn. Khi nghe tin Gioan xuất hiện như một tiên tri, rao giảng mời gọi toàn dân nhận lãnh phép rửa diễn tả lòng sám hối để đón chờ Thiên Chúa can thiệp cứu dân Người, có lẽ Đức Giêsu đã xin phép mẹ Người, tới với Gioan xin ông thanh tẩy cho.
Đức Giêsu đã cùng với bao người Do Thái khác, lắng nghe Gioan giảng dạy, và lần lượt tới để được thanh tẩy trong dòng sông Giordan. Đức Giêsu đã sống như bao người trẻ khác ở Nazarét, và giây phút ở sông Giordan này, Đức Giêsu cho thấy Ngài chia sẻ thân phận con người hoàn toàn, Ngài là người giữa bao người, Ngài hành xử như tất cả mọi người.
Con người, với thể xác và linh hồn, là thực tại vô cùng cao quý. Con người được mời gọi vươn lên thành con người trọn vẹn, thành thánh, chia sẻ sự sống và hạnh phúc với Thiên Chúa. Con người hình thành chính mình qua cung cách cư xử và chọn lựa của mình. Qua hành vi “xin vâng,” Đức Maria trở nên con người tuyệt vời; qua cách hành xử “của ăn của Ta là làm theo Đấng đã sai Ta,” Đức Giêsu cho thấy Ngài là một với Thiên Chúa trong tất cả.
2) Ngài vượt trên tôi, sao Ngài lại đến với tôi?
Theo đức tin của Kitô-hữu, Đức Giêsu là Ngôi Lời nhập thể, là Con Thiên Chúa giáng trần, là Đấng vô tội, vậy tại sao Ngài lại chịu phép rửa? Nếu bảo rằng Ngài chịu phép rửa để làm gương cho con người khi Ngài không cần phải chịu phép rửa, phải chăng hàm chứa nói Ngài “giả hình”, “làm bộ.” Khiêm nhường là sự thật, giả hình hay làm bộ, chẳng làm gương sáng cho ai, mà chỉ là gương xấu.
Đức Giêsu chịu phép rửa thống hối, vì Ngài cần phải chịu phép rửa. Đức Giêsu không làm bộ hay giả hình. Ngài chịu phép rửa, vì Ngài đại diện con người, Ngài mang nơi mình tội của tất cả con người, nên Ngài thống hối nhân danh tất cả con người: “đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian.” Ngài chịu phép rửa thống hối không phải vì Ngài, nhưng vì Ngài “gánh tội trần gian,” Ngài đại diện con người xin Thiên Chúa tha thứ lỗi lầm của tất cả con người.
Gioan đã nói: “Sao Ngài lại đến với tôi? Tôi mới là người phải đến với Ngài chứ.” Gioan tiền hô đã nhận ra Đức Giêsu là con người đặc biệt, trổi vượt trên mình. Ngày nay, người ta nhận biết chân tính của Đức Giêsu nhờ ánh sáng biến cố phục sinh, nhưng ở thời điểm của Gioan tiền hô, người ta chưa biết điều này. Khi Gioan nhận ra mình “không đáng cởi dây giầy” cho Ngài, Gioan đang làm chứng cho thấy phần nào chân tướng của Đức Giêsu. Đức Giêsu là con người rất đặc biệt.
3) Này là Con Ta rất yêu dấu
Đa số người ta hiểu rằng, Đức Giêsu biết mình là Ngôi Lời Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể, nên Ngài biết hết mọi sự. Tuy nhiên có một số nhà thần học, và ngay cả một số tác giả tin mừng cho thấy Đức Giêsu chia sẻ trọn vẹn thân phận con người, nghĩa là, Ngài không biết trước mọi chuyện, có nhiều điều Ngài không biết. Những người này chủ trương, là người thì không ai biết tất cả tương lai mình, nếu Đức Giêsu biết trước hết mọi chuyện thì Đức Giêsu không chia sẻ trọn thân phận con người. Mà theo đức tin Kitô, Đức Giêsu là người trọn vẹn, nên có nhiều điều Đức Giêsu không biết khi Ngài đang sống tại trần gian.
Là người, là chấp nhận đi trong đêm tối của đức tin. Như Abraham ra đi trong niềm tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa, cho dù không biết tương lai mình như thế nào, chỉ tin vào Thiên Chúa và lời hứa của Ngài mà cất bước ra đi. Đức Maria thưa tiếng “xin vâng,” cũng không biết rõ tương lai đời mình, chỉ tin tưởng rằng những gì Thiên Chúa phán với mình sẽ được thành sự. Đức Giêsu cũng không biết rõ tương lai đời mình, nên cũng phải sống trong niềm tin tưởng phó thác như bất cứ con người nào khác. Khi Đức Giêsu chịu phép rửa, là Ngài hành xử theo tiếng gọi của tình yêu, Ngài yêu thương con người đến độ muốn mang vác tất cả tội lỗi cho con người. Đây là một hành vi yêu thương và đẹp tuyệt vời, yêu thương con người ngay khi người tội lỗi: bất toàn và gian ác.
Thiên Chúa đã chuẩn nhận hành vi của Đức Giêsu: “Con là Con Ta rất yêu dấu, Ta hài lòng vì Con.” Theo tin mừng Mác-cô, tiếng này nói cho chính Đức Giêsu. Là người, Đức Giêsu cũng cần một lời chuẩn nhận của Thiên Chúa như bao người khác cần Thiên Chúa chuẩn nhận khi họ được sai gởi thi hành ý định của Thiên Chúa. Hành vi của con người diễn tả chân tướng của họ. Qua hành vi “chịu phép rửa” này, Đức Giêsu biểu lộ chân tính của Ngài: Con Yêu Quý của Thiên Chúa. Đức Giêsu tiếp tục sống, và qua chính cung cách hành xử “yêu thương đến hiến dâng chính mạng sống mình,” Đức Giêsu cho thấy tình yêu của Ngài đối với con người, và cũng mặc khải tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn nghĩ sao về quan điểm: con người hình thành chính mình qua cung cách hành xử và chọn lựa của mình? 2. Bạn có thể trở thành người tuyệt vời không? Bằng cách nào?
Một trong những thói xấu nghiêm trọng gây thiệt hại không nhỏ cho xã hội là thói đổ lỗi cho người khác, không chịu nhận trách nhiệm về mình. Căn bệnh nầy đã xuất hiện ngay từ khởi thuỷ loài người.
Sau khi hai ông bà nguyên tổ phạm tội ăn trái cấm bất tuân lệnh Chúa (St 3, 1-18), Thiên Chúa đến hạch tội A-đam: "Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không?"
A-đam bèn đổ lỗi cho cả Thiên Chúa lẫn E-và: Tại vì "người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con mới ăn." Nói như thế, A-đam cho rằng cả Chúa cũng có trách nhiệm trong vụ việc nầy, tại vì Chúa đã trao người đàn bà nhẹ dạ nầy cho ông; giá như Chúa không dựng nên E-và và trao nàng cho Ađam thì đâu đến nỗi nầy).
Bấy giờ Chúa quay ra hỏi tội E-và: "Ngươi đã làm gì?" Người đàn bà liền trút tội cho con rắn: Tại vì "con rắn đã lừa dối con, nên con đã ăn". (St 3, 9-13)
Có vô số dê tế thần để người ta trút hết tội lỗi lên đầu chúng: tại ông, tại bà, tại trời, tại đất, tại gió, tại mưa... Bao nhiêu hậu quả và trách nhiệm đáng phải chịu vì lầm lỗi của mình, người ta đùn đẩy qua cho người khác. Tìm đâu ra con người dũng cảm dám đứng ra nhận lấy phần lỗi của mình và gánh lấy hậu quả do mình gây ra?
Trong khi đó, mặc dầu Chúa Giêsu được Gioan giới thiệu là Đấng quyền thế lớn lao, thậm chí Gioan không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người; là Đấng sẽ cử hành một phép rửa ngàn lần cao trọng hơn phép rửa của Gioan - "Phần tôi, tôi rửa anh em trong nước; còn Người, Người sẽ rửa anh em trong Chúa Thánh Thần" - vậy mà Chúa Giêsu lại đến với Gioan như một người tội lỗi, chăm chú nghe Gioan rao giảng, hoà mình với những người thu thuế, những tên cướp của giết người, những hạng người đàng điếm, côn đồ và với bao nhiêu người tội lỗi khác để chờ đến phiên mình bước xuống dòng sông Gio-đan, nhờ Gioan làm phép rửa cho. Nhưng, Chúa Giêsu là Đấng không hề vướng tội, thì sao lại phải chịu phép rửa bởi Gioan?
Chúa Giêsu chịu phép rửa không phải vì tội lỗi của Người nhưng vì tội lỗi của nhân loại mà Người đã mang vào thân. Người là "Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta" (2Cr 5, 21). Người đến làm con "Chiên của Thiên Chúa" gánh lấy tội lỗi thế gian (Ga 1,29) thay cho các con chiên đền tội thời Cựu Ước.
Chính vì mang lấy tội lỗi nhân loại vào thân, Chúa Giêsu trở thành tội nhân, nên Người phải hoà mình với những tội nhân khác để cho ngôn sứ Gioan làm phép rửa cho Người.
Chính vì mang lấy tội lỗi nhân loại vào thân, Người đã bị kết án chết thảm thương trên thập giá để đền thay tội lỗi muôn người. "Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá. Để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em được chữa lành". (1 Pr 2, 24).
Cao đẹp thay, quảng đại thay hành vi hạ mình gánh lấy tội lỗi nhân loại của Chúa Giêsu. Người mãi mãi là gương mẫu của chúng ta và đáng cho chúng ta khâm phục tôn thờ.
Lạy Chúa Giêsu, Biết đến bao giờ con mới chừa bỏ được thói trút tội lên đầu người khác và chối bỏ trách nhiệm của mình?
Biết bao giờ con mới có đủ bản lãnh và can trường để đứng ra chịu trách nhiệm về những thiệt hại mình đã gây ra?
Ước gì tấm gương khiêm nhường của Chúa hạ mình xuống nhận phép rửa dưới dòng sông Gio-đan vì tội lỗi nhân loại sẽ luôn là động cơ giúp con sửa chữa thói chạy tội vô trách nhiệm của mình.
Nhân dịp một số biến cố, chúng ta đã khám phá được tình yêu Thiên Chúa. Với Chúa Giêsu chúng ta nhắc lại những biến cố này và tạ ơn Chúa.
Lịch sử cuộc đời chúng ta.
Khi người ta yêu cầu ai đó kể lịch sử đời họ trong một cuộc phỏng vấn hoặc để viết một tiểu sử, người ấy sẽ kể những giai đoạn nổi bật và nối kết những bước ngoặt quyết định với một số biến cố, một số gặp gỡ, một số nơi chốn.
Đôi khi chỉ cần một điệu nhạc ngắn đã đủ khơi dậy một niềm say mê đối với Beethoven hoặc Pink Floyd. Một quyển sách có thể làm cho ta ham thích địa lý hoặc lịch sử. Một cuộc gặp gỡ, một bài diễn thuyết có thể là khởi điểm của một sự nghiệp nghệ sĩ hoặc khoa học. Những biến cố này chúng ta có thể gọi là “biến cố cơ bản”.
Trong một cuộc đời, những biến cố như thế không nhiều lắm và trong số những biến cố ấy, một số sẽ tác động nhiều hơn, nhất là những biến cố đã quyết định những mối liên hệ của chúng ta: bước đầu của một tình bạn, việc lựa chọn người phối ngẫu. Những nơi chốn hoặc giờ giấc đã xảy ra những cuộc gặp gỡ đó ghi dấu sâu đậm nơi ký ức đến nỗi chúng trở thành những biểu tượng thiêng liêng của người yêu hoặc của tình yêu.
Tin Mừng mô tả một biến cố cơ bản như thế đối với Chúa Giêsu: việc Chúa chịu phép rửa trên bờ sông Giođan từ tay Gioan.
“Con là Con Ta yêu dấu”
Không gì có vẻ báo trước sẽ xảy ra một điều đặc biệt khi Chúa tiến đến để hoàn thành nghi lễ thanh tẩy. Bản văn Tin Mừng chỉ kể lại rằng “Vào thời ấy, Chúa Giêsu chịu phép rửa trong sông Giođan”. Không có dàn cảnh, người ta không trải thảm để Chúa Giêsu đi xuống nước. Gioan Tẩy Giả không có vẻ nhận ra Chúa ngay tức khắc. Mọi sự xảy ra nơi Chúa Giêsu là người muốn sống chân thành một kinh nghiệm tôn giáo, muốn thể hiện việc hoán cải theo lời mời gọi của Gioan. Chỉ lúc ra khỏi nước Chúa Giêsu mới ý thức về tầm quan trọng của cử chỉ này. Những gì Ngài vừa mới sống sẽ có một ảnh hưởng rất lớn trên cuộc đời của Ngài. Ngài khám phá rằng Ngài được Thiên Chúa yêu như một người con một, một người con ưu ái: “Cha đã đặt nơi con tất cả tình yêu của Cha”.
Để hiểu rõ hơn kinh nghiệm mà Chúa Giêsu đang sống đây, ta nên nghĩ đến một tiếng sét ái tình. Chính trong bối cảnh này mà ta có thể tưởng tượng Chúa Giêsu ra khỏi nước, trầm lặng, lòng sốt mến, rồi ngẩng đầu lên nhìn thấy một chim bồ câu đang bay. Lúc đó chim bồ câu trở thành biểu tượng thiêng liêng của kinh nghiệm nội tâm của Ngài, của điều Ngài vừa khám phá. Sứ vụ và sự dấn thân của Chúa Giêsu sẽ phát xuất từ khám phá này, từ tiếng sét này. Chim bồ câu sẽ là biểu tượng nhắc nhở Ngài về sứ vụ ấy.
Sống lại phép rửa của chúng ta.
Đi từ phép rửa của Chúa Giêsu, việc Bí tích thánh tẩy được coi như biến cố cơ bản của đời sống Kitô, nghĩa là của sự dấn thân của chúng ta đối với Thiên Chúa và sự cam kết của Thiên Chúa đối với chúng ta. Đó là khởi điểm cuộc mạo hiểm làm con cái Chúa của chúng ta. Nếu ý thức điều này cha mẹ chúng ta sẽ yêu thương chúng ta bằng một tình yêu hoàn hảo nhất khi giới thiệu với chúng ta một người “Cha” khác, một người Cha lớn hơn các ngài. Rủi thay chúng ta đã không biết gì về biến cố thánh tẩy của mình.
Chỉ dần dần, nhờ những biến cố khác, những sự việc ngẫu nhiên khác chúng ta mới có thể khám phá tình yêu của Thiên Chúa.
Hôm nay Tin Mừng cho chúng ta dịp ôn lại lịch sử tôn giáo của chúng ta và nhắc lại với chúng ta những xúc động mạnh, những lễ hội, những tang chế là những dịp đã mặc khải cho chúng ta tình yêu Chúa. Tôi chắc chắn rằng nhiều người trong anh chị em đang có trong ký ức của mình kỷ niệm về một dịp nào đó đã giúp mình “gặp gỡ” Thiên Chúa.
Kinh nguyện Thánh Thể trong đó lịch sử cứu độ thế giới được tóm tắt lại sẽ giúp chúng ta nhớ lại những biến cố cơ bản của cuộc đời chúng ta trong niềm tri ân.
Có hai anh bạn đi mua đồ phế thải. Sau khi xem xét một hồi, anh thứ nhất nói: - Toàn là đồ “năm vố” không à.
Còn anh kia thì nhặt lên một cây thánh giá cũ kỹ đã han dỉ và nói:
- Thật là khó mà tin được, tôi đã tìm thấy một món đồ quý. Cây thánh giá này được làm bằng chất bạc ngày xưa.
Anh ta mang cây thánh giá về nhà, lau chùi, rồi đưa cho đứa con mới đi học giáo lý về. Nó kính cẩn cầm trong tay, ngắm nghía một hồi rồi bật khóc. Thấy vậy anh liền hỏi:
- Tại sao con khóc.
Nó trả lời:
- Con không thể cầm lòng được khi nhìn vào Chúa Giêsu bị treo trên thập giá.
Và như thế, cả ba người đều nhìn vào cây thập giá, thế mà người thứ nhất chỉ thấy đó là đồ ve chai mủ bể, người thứ hai thì thấy đó là một đồ vật có giá trị. Còn người thứ ba thì nhận ra Chúa Giêsu trên đó. Cách nhìn cây thập giá trên cũng tương tự như cách chúng ta nhìn Phúc âm.
Tất cả chúng ta đều nghe cùng một đoạn Phúc âm, thế nhưng mỗi người lại hiểu và phản ứng một cách khác nhau. Có thể chúng ta chỉ nghe như nghe một câu chuyện bình thường, chẳng có chi đặc sắc. Có thể chúng ta đã lắng nghe và tiến thêm một bước nữa, đó là tìm hiểu ý nghĩa của câu chuyện. Có thể ngoài việc học hỏi ý nghĩa, chúng ta còn cố gắng áp dụng vào cuộc sống. Đó là ba bước tiếp nhận Phúc âm: lắng nghe, học hỏi và áp dụng.
Đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay về sự việc Chúa Giêsu chịu phép rửa:
Bước thứ nhất, chúng ta lắng nghe câu chuyện và biết rằng: sau khi Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu thì tầng trời mở ra, Chúa Thánh Thần ngự xuống và có tiếng từ trời phán ra. Và cũng chỉ có vậy mà thôi.
Bước thứ hai, chúng ta đi xa hơn một chút, bằng cách cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của những sự kiện trên. Chẳng hạn hình ảnh trời mở ra cho ta thấy Thiên Chúa đã nghe lời cầu nguyện của dân Ngài và Ngài đang đến để cứu vớt họ. Hình ảnh Chúa Thánh Thần ngự xuống gợi lên cho chúng ta về một kỷ nguyên mới, vũ trụ này được tái tạo để trở nên tốt đẹp hơn, như ngày xưa, khi tạo dựng trời đất, Thánh Thần Chúa cũng đã bay lượn trên nước. Còn hình ảnh thứ ba, có tiếng nói từ trời phán ra:
- Đây là con Ta rất yêu dấu.
Những lời này cho thấy Đức Kitô là Con Thiên Chúa, là Adong mới của cuộc tạo dựng mới, như lời thánh Phaolô:
- Người thứ nhất tức Adong được tạo dựng là con người sống. Nhưng Adong cuối cùng là Đức Kitô, lại là thần khí ban sự sống. Adong thứ nhất bởi đất mà ra. Còn Adong thứ hai thì từ trời mà đến. Như chúng ta đã mang ảnh hưởng của con người bởi đất, tức Adong thứ nhất thế nào thì chúng ta cũng sẽ mang hình tượng con người bởi trời, tức Adong thứ hai là Đức Kitô như vậy.
Ngoài việc lắng nghe, tìm hiểu ý nghĩa, chúng ta còn phải áp dụng ý nghĩa câu chuyện ấy vào cuộc sống chúng ta. Chẳng hạn, chúng ta có thể nhớ lại rằng: Cuộc sáng tạo mới bắt đầu với phép rửa của Chúa Giêsu và đã trở thành một thực tại gắn bó với mỗi người chúng ta. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, thì một cách nào đó, bầu trời cũng mở ra, Chúa Thánh Thần ngự xuống trên chúng ta và chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa.
Và như thế chúng ta phải sống thế nào cho xứng đáng với tước vị cao cả ấy. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã khuyên chúng ta: - Anh em đã sống lại cùng Đức Kitô, vậy anh em hãy hướng tâm hồn vào những sự trên trời chứ đừng vào những sự vật của trần thế này.
Cả ba bài đọc hôm nay đều qui chiếu về Đức Giêsu. Tất cả ba bài đều trình bày cho ta những hình ảnh đẹp về cuộc đời và sứ mạng của Người.
1. Hình ảnh về một Đấng Cứu Thế khiêm nhường tự hạ.
Trong khi dân Do Thái mong chờ một Đấng Cứu Thế oai phong lẫm liệt, thì Đức Giêsu xuất hiện công khai lần đầu tiên trong sự khiêm nhường thống hối. Lúc ấy, Gioan rao giảng sự ăn năn sám hối. Đoàn lũ dân chúng đông đảo kéo đến với ông để xin chịu phép rửa thống hối. Hòa mình vào đoàn lũ những con người tự nhận mình tội lỗi ấy, Đức Giêsu âm thầm khiêm tốn xếp hàng chờ được rửa tội. Thật là lạ lùng. Chính Đấng đã thánh hóa Gioan khi ông còn trong bụng mẹ giờ đây lại đến xin ông làm phép rửa cho. Chính Đấng đến để chuộc tội loài người giờ đây lại xin người khác rửa tội cho mình. Thật là khiêm nhường thẳm sâu. Trong khi loài người tội lỗi luôn kiêu ngạo tìm nâng mình lên thì Thiên Chúa thánh thiện lại tìm hạ mình xuống. Trong khi loài người tội lỗi luôn che dấu, chối không nhận tội thì Thiên Chúa vô tội lại công khai nhận mình tội lỗi. Trong khi loài người tội lỗi tìm tránh hình phạt do tội lỗi họ gây nên thì Thiên Chúa lại ghé vai gánh lấy hết tội lỗi và mọi hình phạt mà loài người đáng phải chịu. Sự khiêm nhường ấy phát xuất từ lòng Thiên Chúa yêu thương con người, muốn chia sẻ kiếp người, muốn cứu chuộc tội đời, muốn thăng tiến nhân loại.
2. Hình ảnh về cuộc giao hòa đất trời.
Chính lúc Đức Giêsu tự nguyện gánh lấy tội lỗi nhân loại, tầng trời bị xé ra. Khi loài người phạm tội, cửa trời đóng lại, đất trời phân ly, ân phúc thôi tuôn đổ. Khi phạm tội, loài người tự giam mình trong bóng tối. Bóng tối tội lỗi giam kín con người trong thân phận bụi đất, không còn hy vọng vươn lên. Hôm nay, tầng trời xé ra có nghĩa là từ nay con người đã có lối thoát. Thân phận con người thay đổi, địa vị con người được nâng lên, vì có ơn Thiên Chúa đổ xuống, có Thiên Chúa đến gieo mầm trường sinh vào kiếp người phàm hèn. Trời đất giao hòa. Thiên giới cúi xuống hạ giới. Thiên Chúa đến ở với con người. Ân phúc tuôn đổ xuống cõi đời nhơ uế.
3. Hình ảnh về sự kết hiệp mật thiết giữa Ba Ngôi Thiên Chúa.
Trong giây phút cảm động ấy, cả Ba Ngôi Thiên Chúa cùng xuất hiện. Chúa Thánh Thần như chim bồ câu đáp xuống. Chúa Thánh Thần là tình yêu. Chúa Thánh Thần ngự xuống trên ai là dấu chỉ Thiên Chúa ưu ái người ấy. Đức Chúa Cha công khai xác nhận sự ưu ái ấy với Đức Giêsu khi lên tiếng: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Đây không phải là một danh xưng, một tước vị, nhưng là một liên hệ sâu xa mật thiết: Ba Ngôi liên kết trong một tình yêu hiệp thông. Đức Giêsu hoạt động dưới tác động của Chúa Thánh Thần để thi hành thánh ý Chúa Cha. Có thể nói cả Ba Ngôi đều hoạt động trong Đức Giêsu Kitô. Cả Ba Ngôi đều tham gia vào công trình cứu chuộc con người.
4. Hình ảnh về sứ mệnh người được sai đi.
Từ xưa trong Cựu ước, Chúa Thánh Thần ngự xuống là để trao ban một sứ mệnh. Hôm nay, Đức Giêsu cũng đã nhận lãnh một sứ mệnh, đó là cứu nhân độ thế. Là “mở mắt cho người mù”, là “đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ”, là “dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong bóng tối tăm”. Người không đến trong thái độ phô trương quyền lực, nhưng đến trong sự hiền lành khiêm nhường. Người đến không phải để lên án nhưng để tha thứ. Người đến không phải để giết chết nhưng để cứu sống như lời tiên tri Isaia: “Cây lau bị dập, Người không bẻ gẫy. Tim đèn leo lét, Người chẳng nỡ tắt đi”.
Phép rửa của Đức Giêsu mời gọi ta nhớ lại ơn phép rửa tội của mình. Ngày ta được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, màn đêm tội lỗi vây phủ ta bị xé ra, Ba Ngôi Thiên Chúa đã đến với ta, ban cho ta cuộc sống thần linh, cho ta được vinh dự làm con Thiên Chúa, cho ta được kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Ngày ta được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, Chúa Thánh Thần cũng đã trao cho ta một sứ mệnh, đó là sống xứng đáng một người con hiếu thảo của Chúa, là tiếp tục công việc của Đức Giêsu trong công cuộc cứu nhân độ thế. Đức Giêsu là gương mẫu một người con hiếu thảo, vì Người luôn sống thân mật với Chúa Cha, luôn kết hiệp với Chúa Cha trong kinh nguyện hằng ngày, và nhất là Người luôn tìm thi hành thánh ý Chúa Cha, Người đã vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá. Ta hãy noi gương Đức Giêsu, luôn kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi, luôn tìm thi hành thánh ý Thiên Chúa, luôn sống một cuộc sống tốt đẹp, luôn tích cực góp phần xây dựng xã hội, tạo hạnh phúc cho những anh em sống chung quanh ta.
Lạy Đức Giêsu Kitô, xin dạy con biết sống ơn Bí tích Rửa tội như Chúa, để con xứng đáng được làm con yêu dấu của Đức Chúa Cha.
Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan mà Giáo hội mừng kính hôm nay kết thúc mùa Giáng Sinh và hướng chúng ta về đời sống công khai của Chúa Giêsu. Phụng vụ Lời Chúa trình bày Đức Giêsu là con yêu dấu của Chúa Cha, được Chúa Thánh Thần tấn phong làm Đấng Messia, Đấng Cứu Thế, Ngài muốn chia sẻ thân phận con người và muốn liên đới với loài người tội lỗi, mặc dù Ngài là Con Thiên Chúa: “Con là Con yêu dấu của Cha”.
Biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa đã được Tin mừng Nhất lãm Mát thêu, Mác cô, Luca thuật lại. Điều này nói lên sự quan trọng của biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa sám hối của Gioan Tẩy Giả.
Đây là một cuộc thần hiện mạc khải rõ nét nhất về Mầu nhiệm một Thiên Chúa Ba Ngôi. Đức Giêsu chịu phép rửa xong, thì trời mở ra. Trời mở ra nói lên sự hiện diện uy nghi của Thiên Chúa. Từ trời có tiếng Chúa Cha tuyên phán: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng vì Con”, và Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đậu trên vai Đức Giêsu.
Cuộc thần hiện này cũng xác nhận thiên tính của Đức Giêsu và mạc khải Ngài là Đấng Cứu Độ muôn dân: “Này là Con ta yêu dấu”.
Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là Mầu nhiệm quan trọng nhất trong đạo Công giáo và là nền tảng của niềm tin Kitô giáo. Mầu nhiệm này biểu lộ tình thương của Thiên Chúa: Chúa Cha tạo dựng nên vạn vật vũ trụ. Chúa Con giáng trần cứu độ nhân loại “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một của Ngài”. Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa và ban sức mạnh cho chúng ta.
Qua biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa, Giáo hội hướng người Kitô hữu về hồng ân làm con Chúa qua bí tích Rửa tội và kêu gọi con cái mình sống ơn làm con Chúa với tâm tình hiếu thảo đối với Thiên Chúa là Cha như người con đối với ông bà cha mẹ:
- Luôn theo Thánh ý Thiên Chúa Cha, tuân giữ các điều răn của Chúa: “Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ lời Thầy”.
- Luôn nói có với Thiên Chúa và nói không với ma quỷ, tội lỗi, điều xấu…
- Tương quan tốt với Chúa và với mọi người để chúng ta trở nên những người con hiếu thảo, những người con yêu dấu của Thiên Chúa như Đức Giêsu: “Này là Con Ta yêu dấu đẹp lòng Ta mọi đàng”.
- Tham gia sứ mạng loan báo Tin mừng của Chúa giêsu và chu toàn bổn phận Chúa giao phó: Người Kitô hữu phải chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa và bổn phận của một người công dân đối với xã hội trần thế “Người Kitô hữu tốt phải là người công dân tốt” (ĐGH Bênêđictô XVI).
Trong cuốn “Người Lữ Hành” có một câu chuyện rất hay. Chuyện kể về một gia đình sống ở Luân Đôn thủ đô nước Anh. Một gia đình công nhân vừa nghèo lại vừa đông con với mười ba người con. Bố của chúng phải đi làm suốt ngày tại xí nghiệp. Bà mẹ ở nhà làm nghề phụ và là nội trợ. Dù bận bịu đầu tắt mặt tối suốt ngày đêm, nhưng bà Vaughan vẫn vui vẻ thay chồng dạy dỗ con cái và nhất là trưa nào bà cũng thay cho cả gia đình đến với Chúa Giêsu Thánh Thể trong Nhà Tạm. Láng giềng bà quen biết hỏi bà: “Một bầy con mười ba đứa, bận rộn từ sáng đến tối vậy mà làm sao trưa nào chị cũng đi chầu Thánh Thể như thế”. Bà tươi cười trả lời: “Thấy một bầy con lúc nhúc trưa ăn bữa mai đã phải nghĩ đến việc chạy gạo bữa hôm, tôi lo lắm. Hơn thế chúng nó còn phải đi học. Ở trường thiếu gì những bạn bè xấu rủ rê chúng đi chơi hoặc giữa đường giữa chợ thiếu gì cảnh nguy hiểm, tôi lại càng thao thức hơn. Chính vì thế mà mỗi ngày dù bận bịu đến đâu tôi cũng bỏ ra một giờ để chầu Mình Thánh Chúa, sốt sáng xin Người ban ơn cho vợ chồng tôi nuôi nấng các cháu hàng ngày dùng đủ và dạy dỗ chúng nên người đạo đức”.
Kết quả thật tốt đẹp. Chúa đã nhận lời và ân thưởng cho lòng tin cùng sự hy sinh của bà Vaughan. Trong mười ba người con, một người sau này làm Hồng Y tổng giáo phận Luân Đôn, một người khác làm Tổng Giám Mục, hai người làm Linh mục, hai nam tu sĩ, hai nữ tu sĩ, còn năm người nữa ở thế gian lập gia đình, nhưng tất cả đều sống một đời sống rất tốt lành, thánh thiện.
Người Kitô hữu được hai hồng ân vĩ đại là được ơn sự sống, được sinh ra và hiện hữu trên đời này qua trung gian cha mẹ. Được làm người là ân ban vĩ đại của Thiên Chúa. Hồng ân quan trọng và vĩ đại hơn là được làm con Chúa qua bí tích Rửa Tội, được sống sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, sự sống thần linh. Người Kitô hữu thường quên và lãnh đạm trước ân ban cao quý này. Nên họ không sống đạo tốt, không sống hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha, nghĩa là chưa sống ơn làm con Chúa qua bí tích Rửa Tội.
Chúng ta cầu nguyện với Chúa:
“Xin cho con biết luôn tín thác vào Chúa, Luôn tìm và thi hành ý Chúa là điểm tứ của đời con. Xin giúp con sống trọn tình con thảo với Chúa là Cha, Sống vẹn nghĩa huynh đệ với nhau là anh em một nhà, Mở rộng lòng bao dung đồng cảm với mọi người. Chia sẻ mọi nỗi vui buồn, lo âu và hy vọng”. (Kinh Năm Đức Tin)
Vào các ngày Chúa nhật, chúng ta vẫn có thói quen rảy nước thánh trong phần thống hối đầu lễ. Việc rảy nước thánh này nhắc nhở mỗi người bí tích rửa tội mà chúng ta đã lãnh nhận, lời cam kết của chúng ta muốn thuộc về Chúa, và việc chúng ta được trở nên con Thiên Chúa nhờ người Con một duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô. Hơn nữa, ở các nhà thờ người ta vẫn để ở nơi cửa nước thánh để mỗi khi ra vào, chúng ta đặt ngón tay vào đó và làm dấu thánh giá tuyên xưng mầu nhiệm Ba ngôi, để nhắc nhở chúng ta bí tích rửa tội mà chúng ta đã được dìm mình vào sự chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Ngay cả mỗi khi chúng ta tuyên xưng kinh tin kính trong thành lễ, đó cũng là lúc chúng ta tuyên xưng lại lời tuyên xưng trong bí tích rửa tội.
Phép rửa là một Bí tích khai tâm, bí tích này dẫn người tín hữu vào tương quan sự sống với Thiên Chúa và với Giáo hội. Phép rửa vừa là một cử hành tuyên xưng và cam kết long trọng, được cử hành với sự chứng kiến của những người thân yêu. Trong cử hành này, chúng ta tuyên xưng lời tuyên xưng nguyên thủy: Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa. Lời tuyên xưng nguyên thủy này càng lúc càng được khai triển thành lời tuyên xưng Ba ngôi, bởi vì Đức Giêsu Kitô là người Con một của Thiên Chúa, được Chúa Cha sai đến cùng với sức mạnh Thánh Thần luôn hoạt động nơi Đức Giêsu Kitô. Đồng thời phép rửa luôn được cử hành cùng với nước. Nước là một yếu tố trong thiên nhiên vũ trụ, nước có dồi dào trên địa cầu,và chúng ta dùng nước cho đời sống hằng ngày, để tắm rửa cho cơ thể sạch sẽ lành mạnh, để uống bồi dưỡng cơ thể chúng ta. Và nước cần thiết cho mọi sinh vật chung quanh chúng ta, nước để tưới cho đồng ruộng và cây cối, trong nước có biết bao nhiêu loài cá sinh sống là nguồn lương thực dồi dào cho con người. Nước cần thiết cho tàu thuyền đi lại, nối liền các bờ đại dương, cho con người có thể buôn bán và đi lại từ những lục địa xa xôi.
Vào thời Chúa Giêsu, nước đã được dùng trong những nghi thức của các tôn giáo, bởi vì nước được dùng làm nghi lễ thanh tẩy. Người ta tin rằng khi làm những nghi thức thanh tẩy bằng nước, người ta được sạch những ô uế mà họ có thể bị lây nhiễm do bởi những tiếp xúc hằng ngày với những người khác. Thánh Gioan đã rao giảng mời gọi mọi người thống hối vì Đấng cứu độ gần đến và ông làm phép rửa thống hối bằng nước để mời gọi mọi người chuẩn bị tâm hồn xứng đáng đón tiếp Đấng cứu độ. Chúa Giêsu cũng gia nhập vào dòng người để đến lãnh phép rửa của Gioan ở sông Giorđan. Khi cử hành phép rửa, Gioan cũng giải thích cho mọi người ý nghĩa và tầm vóc của phép rửa của mình và hướng mọi người đến Đấng quyền năng sẽ đến sau ông và sẽ ban phép rửa trong Thánh Thần. Như thế, khi cử hành phép rửa trong nước, Gioan đã ý thức phép rửa ông cử hành chỉ là hình bóng tạm để báo trước một thực tại toàn vẹn hơn là phép rửa trong Thánh Thần của Đức Giêsu mà mọi người cần phải hướng về để đón nhận.
Quả đúng như Gioan tẩy giả dự đoán, Đức Giêsu đã hòa vào dòng người đến xin lãnh phép rửa của Gioan.Tin mừng theo Mác-cô tường thuật rất vắn tắt việc Đức Giêsu lãnh phép rửa. Mác-cô không ghi lời đối thoại nào giữa Đức Giêsu và Gioan, chỉ vắn tắt nói rằng Đức Giêsu đã từ Nazarét xứ Galilê giữa nhiều người và đến xin lãnh phép rửa của Gioan ở sông Giorđan. Đức Giêsu muốn đón nhận những gì mà Gioan làm, như thế cũng là đón nhận truyền thống và nhịp sống của do thái giáo, bởi vì Gioan là hình ảnh của tiên tri Êlia của do thái giáo, những con người hoạt động mạnh mẽ bởi tác động của Thánh Thần. Và sự kiện trọng đại đã diễn ra, khi Đức Giêsu vừa bước lên khỏi nước, thì trời mở ra, Thánh Thần dưới hình chim bồ câu ngự xuống trên người, và có tiếng từ trời tuyên phán Con là Con Cha yêu dấu, con đẹp lòng Cha. Các Tin mừng rất nhấn mạnh đến phép rửa của Chúa Giêsu như là khởi đầu cho cuộc đời truyền giảng công khai của Chúa Giêsu. Người được Chúa Cha xác nhận và giới thiệu cho mọi người cũng như người Con rất yêu dấu, đầy tràn Thánh Thần, người là Đấng Kitô, được xức dầu để thực hiện công trình cứu thế cho nhân loại. Sự kiện Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giorđan mạc khải căn tính thần linh của Đức Giêsu. Người là Con một yêu dấu của Chúa Cha mà Chúa Cha rất hài lòng. Việc người lãnh nhận phép rửa không hề thay đổi căn tính thần linh của người mà còn mạc khải rõ cho mọi người căn tính thần linh này mà Gioan tẩy giả đã báo trước là người sẽ làm một phép rửa hoàn toàn khác, chính là phép rửa trong Thánh Thần.
Truyền thống các tiên tri, đặc biệt tiên tri Isaia (chương 42) đã báo trước về một người tôi tớ đặc biệt của Thiên Chúa mà Thiên Chúa sẽ ban tặng cho nhân loại, ngay cả nói rõ người tôi tớ này là người con của Thiên Chúa, được đầy tràn Thánh Thần và làm đẹp lòng Thiên Chúa trong mọi sự, Người sẽ thi hành việc xét xử muôn dân và thực thi công trình cứu độ. Mặt khác, người con này rất “hiền lành và khiêm tốn, không bẻ gãy cây lau đã giập, không dập tắt tim đèn còn khói” nhưng mang lại “ơn cứu độ và giải thoát cho những người bị giam cầm vì bệnh tật và tù tội, đem lại công lý trên địa cầu”. Giờ đây, những hình ảnh đã báo trước trở nên hiện thực một cách rõ rệt nơi Đức Giêsu, người sẽ thực hiện giao ước cứu độ bằng chính cái chết của người trên thập giá.
Sau khi Chúa Giêsu Phục sinh, Thánh Phêrô, với những chứng từ trung thực và quan trong mà ông lãnh nhận, đã bắt đầu rao giảng cho những người do thái và cho mọi người những biến cố cứu độ mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi Đức Giêsu. Đây là những cảm nghiệm chân thực và sống động muốn được chia sẻ và rao giảng cho hết mọi người thành tâm thiện chí để họ tin và đón nhận Đức Giêsu, người con một Thiên Chúa ban tặng. Thiên Chúa đã thực hiện ơn cứu độ, không chỉ dành riêng cho người do thái, không thiên tư tây vị cho riêng ai, nhưng là một tình yêu dành cho hết mọi người không phân biệt màu da chủng tộc. Hết mọi người sống đời ngay thẳng, thực hành sự công chính đều được Thiên Chúa đón nhận khi sai người Con một Thiên Chúa đến sống và rao giảng giữa mọi người. Đây cũng là điều mới mẽ mà thánh Phêrô cũng chia sẽ giống với thánh Phaolô qua cách nói của Phaolô, là mầu nhiệm được giữ kín từ muôn thuở, và giờ đây được mạc khải cho mọi người, tức là các dân ngoại được trở nên đồng thừa tự, được cùng chung phần vào một lời hứa. Phần thánh Phêrô, người làm chứng rằng Đức Giêsu, Đấng đã được xức dầu Thánh Thần tấn phong, đã đi qua mọi nơi mà làm những phép lạ ban bố mọi ơn lành cho mọi người.
Phép rửa là khởi đầu, khai mào đời sống nghĩa tử của người tín hữu chúng ta. Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta được trở nên con Thiên Chúa. Phép rửa dẫn chúng ta vào tương quan nghĩa tử với Thiên Chúa làm cho cuộc đời chúng ta được tràn ngập những quà tặng của Thánh Thần nâng đỡ cuộc đời trần thế của mình. Cuộc đời của người tín hữu là một hành trình thực hiện ơn gọi cao cả này, đó là được kết hợp với Đức Giêsu để sống ngay từ bây giờ tương quan con thảo của Thiên Chúa. Đây là hành trình cao cả và cũng rất đòi hỏi bởi vì chúng ta được mời gọi kết hợp với mầu nhiệm thập giá để được cùng chết và cùng phục sinh với Chúa Giêsu. Chúng ta thường nghĩ rằng phép rửa chỉ là một nghi thức đã qua, một nghi thức thực hiện xong rồi không cần phải nhớ lại những cam kết này làm gì nữa. Thực ra, phép rửa xác định căn tính của người kitô hữu, và họ phải cố gắng thực hiện hằng ngày căn tính này. Phép rửa là một sự dìm mình liên tục và sự đổi mới liên tục để càng lúc chúng ta càng được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu. Có thể nói rằng chúng ta dùng cả cuộc đời của mình để thực hành sống mầu nhiệm này cũng là căn tính của cuộc đời kitô hữu của chúng ta. Cả cuộc đời, chúng ta không ngừng được mời gọi sống trung tín với Thiên Chúa bằng việc không ngừng kết hợp với Chúa Giêsu nhờ sự thúc đẩy của Thánh Thần mà chúng ta đã lãnh nhận trong phép Rửa. Phẩm giá của mỗi người thực là cao cả và chúng ta được mời gọi khám phá và sống căn tính này của mình theo bước chân của Chúa Giêsu.
Từ khi xuất hiện trong hoang địa, Thánh Gioan Tẩy Giả đã gây được một phong trào sám hối trong xứ Do thái. Đời sống và lời giảng của ông có sức lôi cuốn người ta đến với sông Giođan để được ông làm phép rửa. Phép rửa của Gioan nhằm giúp con người bày tỏ lòng hoán cải, để chuẩn bị đón Đấng Mêsia sắp đến (x. Mt 3, 7-12).
Vấn đề là ở chỗ, trong số những người đến “xưng thú tội lỗi” (Mc 1,5) và chịu “phép rửa sám hối để được ơn tha tội” (Mc 1,4), lại có Đức Giêsu. Làm sao Đấng thánh thiện, Đấng quyền thế mà Gioan không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người, lại có thể đứng chung với đám đông người tội lỗi, chờ đến phiên mình được chịu thanh tẩy? Đó là một câu hỏi mà Gioan khó trả lời.
Khi suy niệm về mầu nhiệm Đức Giêsu chịu phép rửa của Gioan, các giáo phụ đã đưa ra một số lý do để soi sáng. Đức Giêsu đã lãnh nhận phép rửa trong nước vì:
- Người muốn kêu gọi những người khác noi theo gương Người mà đến chịu phép rửa do Người thiết lập sau này. - Người muốn làm một hành vi khiêm tốn cho ta noi theo. - Người muốn công nhận giá trị phép rửa của Gioan. - Người muốn lần đầu tiên ra mắt trước công chúng, để chuẩn bị cho họ nghe Người và theo Người. - Người muốn thánh hóa dòng nước sông Giođan và mọi dòng nước khác, để nhờ sự hiện diện và tác động của Người mà mọi dòng nước có thể trở nên nguồn cứu độ.
Chúa Giêsu chịu phép rửa thống hối cho thấy Người liên đới với tội nhân, với dân tộc mình, với cả nhân loại đang cần ơn cứu độ. Con Thiên Chúa không ngại che khuất cái cao sang, siêu việt và cả sự thánh thiện ngàn trùng của mình để nhờ thái độ tự hạ, tự hủy này mà Đấng Thánh của Thiên Chúa có thể đứng chung với người tội lỗi, dìm mình xuống cùng một dòng nước như họ. Điều đó có nghĩa là Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa khiêm hạ, vì Ngài muốn đi xuống tận đáy vực thẳm nơi chúng ta đang sống, để nâng chúng ta lên. Chỉ tình yêu mới làm chúng ta hiểu được hành động của Ngài. Thiên Chúa Nhập thể chính là để liên đới với từng người chúng ta trong mọi cảnh ngộ của cuộc sống.
Hành động của Chúa Giêsu hôm nay cho thấy hướng đi cả một cuộc đời của Đức Giêsu. Người bị mang tiếng là “tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi” (Lc 7, 34). Người đến với những người sống bên lề xã hội và tôn giáo để đưa họ trở về với thế giới của con người và thế giới của Thiên Chúa. “Tôi đến để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9, 13).
Thánh Phaolô đã viết một câu cho thấy Đức Giêsu đã thực sự đồng hóa với thân phận tội nhân đến mức nào: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã làm cho Người thành tội vì chúng ta” (2C 5, 21). Đức Giêsu đã chết như một người phạm trọng tội, bị đóng đinh giữa hai tử tội. Người đã đem đến niềm hy vọng cho người trộm lành: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23, 43). Khi gắn bó với những người không còn được yêu mến và kính trọng, Đức Giêsu đã đem đến cho họ một thế giới nồng nàn tình yêu. Trong thế giới này không còn có hàng rào ngăn cách nhưng chỉ có những tội nhân được Thiên Chúa yêu thương cứu độ bởi vì Chúa Giêsu là Đấng thánh, Chúa Giêsu không đội trời chung với tội lỗi, nhưng ngài lại cúi xuống trên tội nhân, và biến đổi họ.
Hành động của Chúa Giêsu cho thấy rằng nếu chúng ta sợ mình vấy bẩn vì tiếp xúc với người tội lỗi đó là bởi vì chúng ta chưa thánh thiện thực sự. Ánh sáng không sợ bóng tối làm mình ra u tối. Ngược lại ánh sáng len lỏi vào mọi ngõ tối của cuộc đời, để làm cho bóng tối được sáng ngời lên.
Một chi tiết nữa của bài Phúc âm cũng gợi cho chúng ta sự chú ý là sau khi Đức Giêsu dìm mình trong dòng nước, thì Người nhận được một thị kiến: các tầng trời xé ra, Thánh thần ngự xuống, và tiếng phán từ trời. Các tầng trời xé ra là dấu hiệu cho thấy Thiên Chúa muốn tiếp xúc với con người và thông truyền cho con người một mạc khải. Đức Giêsu cũng thấy trời mở ra và qua đó thần khí ngự xuống trên mình như chim bồ câu.
Đức Giêsu được đầy Thánh Thần. Thánh Thần chính là sự hiện diện của Thiên Chúa xâm nhập vào người được tuyển chọn, ban cho người ấy dồi dào mọi ơn cần thiết để có thể làm tròn sứ mạng quan trọng đặc biệt. Được ban Thánh Thần nghĩa là được sai đi. Khi Đức Giêsu cảm nghiệm được Thánh Thần nơi mình, thì cũng là lúc Người được sai đi để loan báo Tin Mừng và làm những dấu chỉ cứu độ. Tiếng nói từ trời phản ánh niềm tin của Hội Thánh nơi của Đức Giêsu. “Con là Con yêu dấu của Cha”. Với câu đó, Thiên Chúa Cha giới thiệu công khai Chúa Giêsu cho nhân loại và kết thúc luôn ba mươi năm âm thầm ở Nadarét.
Đức Giêsu chịu phép Rửa nhưng Người vẫn hướng đến một phép Rửa khác, đó là cuộc khổ nạn Ngài phải chịu: “Thầy còn một phép Rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất” (Lc 12, 50). Như thế mầu nhiệm Chúa Giêsu chịu Phép Rửa hôm nay nhắc cho chúng ta nhớ đến mầu nhiệm chết và phục sinh. Chúa Giêsu làm công việc nầy để tỏ lộ công việc cứu thế của Người, tỏ lộ cho nhân loại thấy bản chất cao cả của Người là con rất yêu dấu của Thiên Chúa, là Người con luôn sẳn sàng vâng lời thánh ý Thiên Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá.
Phép Rửa trên thập giá là nguồn sống cho mọi phép rửa của các Kitô hữu. Nhờ phép Rửa đó, chúng ta được trở nên con cái yêu dấu của Thiên Chúa và được tràn đầy Thánh Thần. Chúng ta nhớ rằng mình là người đã được xức dầu, được mang nến sáng, được mặc áo trắng, được dìm mình trong nước để rồi được sai ra đi làm chứng cho mọi người nghĩa sống thực sự như người con được Thiên Chúa yêu mến. Xin cho chúng ta biết sống thực sự lý tưởng đó.
Tiếp theo lễ Chúa Hiển Linh, Phụng vụ của Giáo Hội mời gọi chúng ta cử hành lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, kết thúc mùa Giáng sinh. Lễ này đã được các Giáo phụ quan tâm đặc biệt ngay từ những thời kỳ đầu, vì tầm quan trọng đặc biệt có tính cổ thời của nó. Đây là lễ được mừng sớm nhất, chỉ sau lễ Phục sinh, vì nó bao hàm lời rao giảng của các Tông Đồ, là điểm khởi hành cho tất cả những việc mà các Tông Đồ phải làm chứng cho (x. Tđcv 1, 21-22; 10, 37-41).
Thứ đến, đây là lần đầu tiên, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được mạc khải một cách đầy đủ và rõ ràng. Lý do nữa là phép rửa của Chúa Giêsu nơi sông Giordan loan báo trước cho phép rửa bằng Máu của Chúa trên Thập Giá, và tượng trưng cho toàn bộ những hoạt động có tính cách bí tích của Đấng Cứu Thế. Để thực hiện ơn cứu rỗi nhân loại, Ngài đặt mình vào hàng ngũ các tội nhân, mặc dù Ngài là Đấng vô tội, nhưng Ngài đã mang trên mình tất cả tội lỗi của nhân loại. Hành động khiêm nhường và tự hủy này, đã được Chúa Cha chứng dám: “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha” (Mc 1, 11). Cùng với Đức Giêsu, Chúa Thánh Thần xuất hiện dưới hình chim bồ câu đậu xuống trên Người, để chỉ cho chúng ta tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh mà chúng ta sẽ thấy diễn ra tương tự nơi biến cố Chúa Biến Hình.
Câu hỏi được đặt ra trước hết là tại sao Chúa Giêsu là Đấng vô tội sao lại đến xin Gioan làm phép rửa?
Thánh Ghê-gô-ri-ô, giám mục Na-di-en cho biết: “Có thể là Chúa muốn thánh hoá kẻ sắp làm phép rửa cho Chúa, nhưng chắc chắn để chôn vùi trọn vẹn con người A-đam cũ trong dòng nước. Thật vậy, trước khi thanh tẩy ta và để thanh tẩy ta, Chúa thánh hoá sông Gio-đan; vì Người vừa là thần khí vừa là xác phàm, nên Người cũng muốn nhờ Thần Khí và nước để đưa chúng ta vào đạo”. Nên dù Gioan làm phép rửa, ông cũng chỉ là đèn đối với Mặt Trời, tiếng nói với Lời, phù rể đối với Chàng Rể, người cao trọng nhất trong số những người sinh bởi đàn bà với Trưởng Tử mọi loài thọ sinh, người nhảy mừng trong dạ mẹ với Đấng được thờ lạy ngay khi còn trong lòng mẹ, người tiền hô hiện tại và tương lai với Đấng vừa xuất hiện và sẽ xuất hiện. Quả thật, Gioan biết rằng mình sẽ được thanh tẩy bằng cuộc tử đạo. (Trích bài giảng của thánh Grêgôriô, giám mục Na-di-en).
Thánh Phêrô Kim Ngôn giải thích rằng, khi Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu thì: “Tôi tớ đóng vai chủ, con người đóng vai Thiên Chúa, ông Gio-an đóng vai Đức Kitô; ông đóng vai đó để lãnh ơn thứ tha chứ không phải để ban phát“. Nên Gioan giảng: “Phần tôi, tôi đã rửa anh em trong nước, nhưng Người, Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần“ (Mc 1, 8). Đây là phép lạ vĩ đại đã xảy ra sau khi Đấng Cứu Thế chịu phép rửa; phép lạ này là khúc dạo đầu cho những gì sẽ xảy ra. Đây không phải là Thiên Đàng khi xưa đóng lại vì tội của Ađam nay mở ra, mà chính trời mở ra: “Khi vừa lên khỏi nước, Người liền thấy trời mở ra, thấy Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên mình” (Mc 1,10).
Tại sao khi Chúa Giêsu vừa lên khỏi nước, trời lại mở ra?
Chúa Giêsu vừa bước lên khỏi nước lúc ấy trời mở ra là Chúa Giêsu nâng thế gian lên cao với Ngài. Vì xưa kia, khi bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng và bị lưỡi gươm lửa cấm đoán, chính A-đam đã đóng cửa trời lại, không cho mình mà cũng không cho con cháu vào. Nay nhờ Chúa Giêsu mà cửa trời được mở ra.
Trời mở ra, còn mạc khải cho Gioan Tẩy Giả và những người Do Thái biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Theo thánh Gioan Kim Khẩu, điều này muốn dạy chúng ta rằng, một sự tương tự vô hình cũng xảy ra khi chúng ta chịu Phép Rửa Tội: Chúa Thánh Thần cũng ngự vào tâm hồn của chúng ta. Ngài không ngự đến một cách hữu hình, bởi vì chúng ta không cần: đức tin hiện nay là đủ… Thiên Chúa mở cửa trời để kêu gọi chúng ta hướng về trời, vì quê hương chúng ta là quê trời, và mách bảo chúng ta rằng, chúng ta không có gì ở dưới đất.
Tại sao Chúa Thánh Thần lại lấy hình một con chim bồ câu mà hiện xuống?
Lý do là vì chim bồ câu rất dịu dàng và trong sạch, và Chúa Thánh Thần là thần khí dịu êm và an bình. Chim bồ câu cũng nhắc cho chúng ta nhớ lại một sự kiện chúng ta đọc thấy trong Cựu Ước khi trái đất bị ngập do lũ lụt và toàn thể loài người trong nguy cơ hư mất, chim bồ câu ngậm cành ôlui xuất hiện để báo sự chấm dứt của cơn đại hồng thủy, tin vui hòa bình cho toàn thế giới. Giờ đây, tất cả những điều này cũng tiên báo về tương lai. Khi tất cả đã hư mất, nay được giải thoát và đổi mới, điều gì đã xảy ra khi nước lũ đến ngày hôm nay như là một lũ lụt của ân sủng và lòng thương xót Chúa… Chim bồ câu, thay vì ngậm một cành ô liu báo cho Noe là người duy nhất bước ra khỏi tầu để đặt chân lên mặt đất. Nay Chim bồ câu báo tin trận hồng thuỷ tràn ngập thế gian đã lui đi, thế gian không còn phải chìm ngập trong cảnh trầm luân muôn đời nữa, phẩm giá ơn gọi làm con Thiên Chúa của chúng ta được phục hồi, và lôi kéo hết thảy mọi người lên Thiên Đàng.
Lời ngôn sứ nói: “Tiếng Chúa vang rền trên nước… Tiếng Chúa uy linh tung sấm sét“ (Tv 28). Tiếng nào vậy? “Này là tôi tớ Ta mà Ta nâng đỡ, là người Ta chọn, Ta hài lòng về người. Ta ban Thần trí Ta trên người” (Is 42, 1). Đây là tiếng từ trời vọng xuống để làm chứng cho Đấng từ trời mà đến. Tiếng đó bày tỏ lòng tôn trọng thân xác dưới hình chim bồ câu, vì thân xác đã được thần hoá, khi Thiên Chúa tự tỏ mình ra trong thân xác: “Con là Con yêu dấu của Cha; Con đẹp lòng Cha” (Mc 1, 11).
Vậy, phép rửa của Chúa Giêsu và phép rửa của chúng ta có liên kết chặt chẽ với nhau. Phụng Vụ của ngày lễ này đã hát lên như sau: “Đức Kitô chịu phép rửa, cả trần gian được thánh hoá, chúng ta được tha thứ tội lỗi, được thanh tẩy nhờ nước và Thánh Thần” (Tiền xướng của Kinh Bênêdictus, của Giờ Kinh Sáng). Chúng ta hãy thanh tẩy mình cho thanh sạch, hãy tiếp tục thanh tẩy cho thanh sạch hoàn toàn và đem lòng tôn kính mà tưởng niệm ngày Đức Kitô chịu phép rửa, và hãy mừng lễ cách xứng đáng. Amen.
Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa chấm dứt mùa Giáng Sinh, bước vào Mùa Thường Niên phần I. Mùa Thường Niên là thời kỳ kính mầu nhiệm Chúa Giêsu ở trần gian. Mùa Thường Niên gồm có 34 Chúa nhật, chia làm hai phần, phần I trước Mùa Chay và phần II sau Mùa Phục Sinh. Sau chu kỳ lễ Giáng Sinh, Chúa Giêsu công khai đi vào đời sống họat động rao giảng tin mừng. Để lời Người rao giảng được thiên hạ chấp nhận, Đức Giêsu được Chúa Cha giới thiệu về thân thế và sự nghiệp. Lời giới thiệu này đánh dấu khởi đầu Nước Trời đã khai mở. Khung cảnh ra mắt Đức Giêsu là sông Giođan. Chúng ta tìm hiểu về thân thế và sự nghiệp của Người.
Khung cảnh được chọn để giới thiệu Con Thiên Chúa là thiên nhiên hùng vỹ có núi đồi bao la có con sông duy nhất chảy từ Bắc xuống Nam. Hiện tượng xảy ra vắn gọn, sau cuộc trao đổi ngắn giữa Vị tiền hô và Đức Giêsu, Gioan Tẩy Giả thi hành sứ mệnh làm phép rửa cho Đức Giêsu nơi sông Giođan, và nầy điều kỳ diệu xảy ra: “Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên Người. Lại có tiếng từ trời phán: ‘Con là Con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về Con’” (x. Bài Tin Mừng. Mc 1, 7-11). Những lời nói nầy rất cô đọng, súc tích, đượm suy tư thần học Cựu Ước. Các nhân vật chính trong buổi lễ ra mắt đó: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần, trước sự chứng kiến của đông đảo nhân chứng và Vị tiền hô, nơi thiên nhiên hoang vắng trời cao, sông dài, núi đồi hùng vỹ, tất cả cho thấy sự hoà điệu giữa thiên, địa, nhân hòa hợp. Chúng ta ta lưu ý đến cụm từ:
“Trời xé ra”, theo người Do thái thì trời là nơi Thiên Chúa ngự, đã khép lại vì tiên tri không còn nữa, không còn sự liên hệ giữa trời và đất nữa, nhịp cầu đã gãy giữa Thiên Chúa và lòai người. Nay thì trời mở ra, sự liên lạc giữa Thiên Chúa và con người được nối lại nơi bản thân của Đức Giêsu, việc này đáp lại lời cầu xin của Isaia trong thời lưu đày, ông cảm thấy Đức Chúa xa cách con người, nên ông lên tiếng nói: “Ước gì Đức Chúa xé trời và ngự xuống”. Chúng ta nhớ lại sự kiện khi Chúa chết: “Màn trong đền thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới” (Mc 15, 38). Một sự khai mở thông lưu giữa Thiên Chúa và nhân loại. Con Thiên Chúa đến với trần gian và chính Ngài mở một lối đi cho hết mọi người thành tâm đến với Thiên Chúa. Sự kiện này được tiên báo nơi sông Giođan: “Trời xé ra”, Thiên Chúa ngự xuống với con người. Nhịp cầu gãy vì tội nguyên tổ được nối lại. Đức Giêsu là trung gian duy nhất mang ý nghĩa tròn đầy.
“Thần khí như chim bồ câu ngự xuống trên người ”. Thần Khí ngự xuống trên ai thì người đó được chọn làm người của Thiên Chúa. Ngôn sứ sống dưới tác động của Thần Khí. Ở đây Đức Giêsu được chỉ định làm Ngôn Sứ cho thời đại mới mà truyền thống Do thái hằng mong đợi.
“Lại có tiếng từ trời phán: ‘Con là Con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về Con’”. Tiếng từ trời là tiếng của Thiên Chúa, nghĩa là Thiên Chúa chứng thực sứ mạng cứu độ của Đức Giêsu. Một câu nói tương tự trong Thánh vịnh 2, 7: “Con là Con của Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con”, câu này được được hiểu về Đấng Mêsia, tức là Đấng Cứu tinh. “Con yêu dấu” là cách gọi của ông Ápraham đối với con mình là Ixaác, khi ông định sát tế con để hiến dâng cho Thiên Chúa, Thiên Chúa đã tha mạng cho Ixaác. Danh xưng này được dùng cho Đức Giêsu, như là Ixaác Mới sẽ bị sát tế sau này trên thập giá.
Thân thế và sự nghiệp của Đức Giêsu được ám tàng nói đến trong lời giới thiệu ngày Chúa chịu phép rửa nơi sông Giođan, một tấn kịch đang được khai mở và dần dần sẽ được thực hiện trong năm phụng vụ. Về thân thế, Đức Giêsu là Con yêu dấu của Thiên Chúa, được Cha tuyển chọn dưới tác động của Thần Khí để trở thành Ixaác-Mới; và sự nghiệp của Người là cứu độ trần gian bằng chịu sát tế trên thập giá, làm lễ vật hy sinh dâng cho Thiên Chúa, nối lại nhịp cầu gãy đổ do tội lỗi của nhân lọai gây ra. Lời giới thiệu trân trọng này của Chúa Cha dưới sự chứng giám của Thánh Thần giúp chúng ta xác tín mạnh mẽ những lời Chúa nói và những việc Chúa làm, được Giáo Hội tuyên dương trong suốt Mùa Thường Niên.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã mặc lấy thân phận tội lỗi của nhân loại để cứu độ nhân lọai, chúng con tri ân cảm tạ Chúa. Xin cho con biết giới thiệu Chúa cho tha nhân qua cuộc sống của chúng con. Amen.
Chúng ta không còn ở trong những trang Tin Mừng nói được là “thơ mộng” của thời thơ ấu Chúa Giêsu, vì có những vì sao và tiếng hát các thiên thần. Chúa Giêsu đã chấm dứt 30 năm cuộc sống ẩn dật của Ngài tại Nagiarét. Hôm nay, chúng ta được thấy Ngài xuất hiện trước công chúng trong tư thế sẵn sàng khởi đầu sứ vụ Chúa Cha đã trao cho Ngài.
Cả ba bài đọc của Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa hôm nay đều nhằm giới thiệu với cộng đoàn: Chúa Giêsu chính là Người Con được Chúa Cha quý mến. Bài đọc 1 trình bày Chúa Giêsu là người được Thiên Chúa nâng đỡ, tuyển chọn và quý mến. Trong bài đọc 2, Thánh Phêrô làm chứng Thiên Chúa luôn ở với Ngài và trong bài Tin Mừng, chúng ta được nghe tiếng từ trời phán về Ngài: “Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.
Những khẳng định trên đây về Chúa Giêsu lại càng làm cho chúng ta ngỡ ngàng trước việc Ngài để cho ông Gioan làm Phép Rửa cho Ngài tại sông Giođan. Chúa Giêsu chịu Phép Rửa như một người tội lỗi, trong khi Ngài là Người Con yêu dấu của Chúa Cha và chính Ngài cũng có lần tuyên bố: “Ai trong các ông bắt tội lỗi tôi được về tội gì?”… Nhưng Chúa Giêsu lại là Đấng chuộc tội thiên hạ. Gioan Tẩy Giả cũng có lần giới thiệu Ngài là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”. Ngài xóa tội trần gian bằng cách gánh lấy tội trần gian, một cử chỉ mở đầu sứ vụ công khai của Chúa Giêsu, đồng thời cũng là dấu báo hiệu những gì sẽ xảy ra. Có một lần, các con ông Giêbêđê bày tỏ ước vọng với Chúa Giêsu là một người ngồi bên tả, một người ngồi bên hữu của Ngài. Và Chúa Giêsu đã trả lời các ông: “Các ông không ý thức được điều các ông xin. Các ông có thể uống được chén tôi phải uống và chịu thanh tẩy, thứ thanh tẩy tôi phải chịu không?”. Như vậy là còn một cuộc thanh tẩy khác nữa đang chờ đợi Chúa Giêsu. Cuộc thanh tẩy ấy không chỉ còn là bằng nước của sông Giođan và từ tay ông Gioan Tẩy Giả mà là bằng Máu của chính Ngài, được sống lại trong Phục Sinh của Ngài và trở thành người con của Thiên Chúa.
Nếu Đức Kitô đến để thanh tẩy loài người bằng Thánh Thần, thì điều đó đã được thực hiện cho người Kitô hữu trong bí tích Thanh Tẩy. Khi được Rửa Tội, chúng ta cũng được Chúa Cha tấn phong và giới thiệu với thế gian rằng: “Đây là Con Ta rất yêu dấu”. Ơn gọi làm con Thiên Chúa không những không phủ nhận hay loại trừ ơn gọi làm người, nhưng còn giúp chúng ta đảm nhận ơn gọi ấy nữa. Được phúc làm con Thiên Chúa, chúng ta không được đưa ra khỏi thế gian hay được miễn khỏi mọi bổn phận trần thế. Ngược lại, chính trong thế giới và nhân loại này mà chúng ta phải thể hiện ơn gọi làm con Thiên Chúa, chính thế giới và nhân loại này mà chúng ta được tuyển chọn làm con Thiên Chúa.
Nhờ Thánh Thần được ban trong bí tích Thanh Tẩy, mỗi người chúng ta trở nên giống Chúa Kitô, nên một với Ngài và cùng mang trách nhiệm của Ngài. Sứ mạng của Ngài trở thành của chúng ta và công việc của Ngài phải là công việc của mọi Kitô hữu. Nếu Chúa Giêsu đã liên kết với con người tội lỗi, để giải thoát con người khỏi tội lỗi, thì chính người được Rửa Tội vẫn phải tiếp tục sống giữa anh em mình, và không được quên trách nhiệm đấu tranh chống lại tội lỗi và chiến thắng sự dữ. Bí tích Thanh Tẩy không thể chỉ là một nghi lễ lãnh một lần rồi thôi mà phải là chính cuộc sống từ bỏ và đẩy lui mọi tội lỗi. Bản thân người Kitô hữu phải chiến thắng tội lỗi để thực sự là một trong “những kẻ được sáng”, hầu có thể trở thành ánh sáng chiếu soi muôn dân.
Qua Bí tích Thanh Tẩy, chúng ta đã là Kitô hữu và là con Thiên Chúa. Thế nhưng chúng ta còn phải trở thành Kitô hữu, nghĩa là mỗi ngày trong cuộc đời còn phải nên giống Chúa Kitô hơn cho tới khi được đồng hình đồng dạng với Ngài.
Muốn trở thành Kitô hữu như thế, phải tin tưởng và gắn bó với Đức Kitô, luôn sống thân tình với Ngài, lắng nghe và tuân giữ lời Ngài như Chúa Cha đã long trọng và ân cần nhắn nhủ.
Thánh Thần, Đấng đã hiện diện nơi con người Đức Giêsu để biến Đức Giêsu thành Con Chí Ái của Chúa Cha, sẽ hoạt động nơi tâm hồn mỗi người để làm cho mỗi người nên giống Đức Kitô, dạy chúng ta biết thế nào để trở nên Con Thiên Chúa trong Đức Kitô. Nhờ Thánh Thần, lời cầu nguyện của người Kitô hữu trở thành lời kêu lên của người con đối với Cha mình và kết hợp sâu xa với lời cầu nguyện của Đức Giêsu. Nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, người tín hữu can đảm để tha thứ cho kẻ thù, thích thú khi sống đời yêu thương và phục vụ như Đức Giêsu đã sống.
Thánh Thần được ban cho chúng ta trong Bí tích Thánh Tẩy còn giúp chúng ta trung thành với Đức Kitô, nhất là trong trách nhiệm thiết lập công lý khắp nơi và trở thành ánh sáng muôn dân.
Chúng ta là con Thiên Chúa và muốn luôn làm con Thiên Chúa bằng việc chiến thắng tội lỗi và làm sáng tỏ công lý. Nhưng hoàn cảnh khắc nghiệt về vật chất cũng như tinh thần, có thể sẽ đè bẹp chúng ta, lôi cuốn chúng ta đồng lõa với sự bất công, hoặc có thể làm cho chúng ta nhụt chí, buông xuôi, đầu hàng sự ác.
Lúc đó, chúng ta hãy nhớ rằng, ngay giữa cuộc đời, Đức Giêsu vẫn hiện diện ở đó giống như xưa Ngài đã từng hòa lẫn với giòng người tội lỗi ở bờ sông Giođan. Đức Giêsu hiện diện ở đó để giữa tăm tối của cuộc sống, trời vẫn xé ra, hồng ân Thánh Thần vẫn đổ xuống, và Chúa Cha vẫn vui mừng nói với từng người trong chúng ta như đã nói với Chúa Giêsu rằng:
“Đây là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.
Những lời chú giải thông thái về đoạn Phúc âm này ám chỉ những giai đoạn trong Cựu Ước nói đến nước và Thần trí. Một trong những lời chú giải nhấn mạnh rằng nước biểu tượng cho khả năng tiếp thu của loài người đối với tác động của thần trí. Phép rửa bằng nước do Gioan Tẩy Giả tượng trưng cố gắng của con người tiến đến Thiên Chúa, nhưng cố gắng ấy không thể tự nó tới được đích Con người chỉ gặp được Thiên Chúa, nếu Thiên Chúa đến với con người. Đấy là ý nghĩa phép rửa trong Chúa Thánh Thần. Đức Giêsu muốn thực hiện trong nhân vị mình sự chuyển động con người đến với Thiên Chúa (Phép rửa do Gioan Tẩy Giả) và sự chuyển động Thiên Chúa đến với con người (Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giêsu) phép rửa bằng nước biểu tượng cho cố gắng con người dọn mình chịu phép Rửa trong Thần Trí, mà Thần Trí là sự Chúa đến. Thiên Chúa là nguồn gốc cảm hứng và sức hậu thuẫn cho sự trở lại của con người, và bởi ơn Chúa Thánh Thần linh ứng chỉ đạt tới đích nếu Thiên Chúa đến với con người và dẫn dắt con người từ bình diện nhân tính tiến lên bình diện thần tính. Ta có thể nói rằng trong nhân vị Đức Giêsu, con người hướng đến Thiên Chúa, và Thiên Chúa đến gặp con người. Đức Giêsu thực hiện điều ấy với một sức sống và một sự viên mãn vượt khỏi trí tưởng tượng của chúng ta. Tuy nhiên chúng ta có thể kết luận: Do sự tham gia sống động của ta vào mầu nhiệm Đức Giêsu mà ta hướng về Thiên Chúa và Thiên Chúa đến với ta. Đoạn Phúc âm hôm nay có thể gợi ý vài suy niệm về giá trị cố gắng trở lại và ý nghĩa hoạt động tông đồ của chúng ta.
1) Giá trị cuộc đời Kitô hữu là ở sự gặp gỡ của chúng ta với Thiên Chúa trong Đức Kitô.
Một sự trở lại mang tính chất Kitô giáo mà tự hạn chế trong những việc lành phúc đức dù cao cả tới đâu cũng không đủ giúp người ta đạt tới phẩm giá làm con Thiên Chúa. Thế mà tất cả ý nghĩa sứ điệp Phúc âm là ở chỗ loan báo cho con người thiên chức làm con Thiên Chúa. Người Kitô hữu đích thật là người tìm kiếm sự gặp gỡ sống động với Đức Kitô, mà người Kitô hữu đến lượt mình trở nên con Thiên Chúa và gặp Thiên Chúa như thể gặp người cha vậy. Thực tế, biết tìm Đức Kitô ở đâu? Gặp Người nhiều nhất là trong Phúc âm, trong Giáo Hội, trong các bí tích, trong niềm thương yêu anh em. Đời sống luân lý mà vắng thiếu sự đi tìm tâm điểm để gặp Đức Kitô, thì không phát huy hết giá trị, lại có thể xuống giá nữa. Trong cố gắng tham dự đời sống Đức Giêsu, người Kitô hữu tìm được cho đời mình ý nghĩa và giá trị thật sự.
2) Hoạt động tông đồ có tham vọng giúp người ta chuẩn bị gặp gỡ Đức Kitô.
Bất cứ người làm việc tông đồ nào cũng giống Gioan Tẩy Giả, đều đóng vai tiền hô. Nhiệm vụ người ấy là dọn dẹp, khai quang, soi sáng, hướng dẫn. Niềm xác tin cơ bản của người tông đồ phải là làm thế nào để kết quả chung cục rời khỏi tay mình, vì lẽ kết quả sau hết đó là sự Thiên Chúa ngự đến trong một con người. Điều đó tuỳ thuộc Thiên Chúa. Để biểu lộ thái độ khiêm nhường, bằng một sự nhận thức về thực tại, người tông đồ hoạt động, hy sinh, cầu nguyện, hiến dâng tất cả sức lực, tất cả thân mình cho một công việc của Thiên Chúa. Do đó người ta hiểu rằng chiến sĩ Kitô hữu không hoạt động cho Đấng thần hoá những gì thuộc về nhân thế. Điều này đem đến cho cố gắng tất cả ý nghĩa và đặt cố gắng lên trên cái điều xét bề ngoài có thể coi là thất bại hoặc thành công. Một điều chắc là việc tông đồ mà linh hồn và tâm điểm là Đức Giêsu Kitô – luôn luôn đem về cho người hoạt động tông đồ một thành công hiển nhiên hoặc giấu kín.
Tại một xứ cùng quê nước Pháp, có một người đàn ông khoảng 50 tuổi tên là Alix. Ông bị bại liệt. Mỗi buổi sáng bà vợ đặt ông vào một ghế bành ngoài hiên nhà rồi đi làm. Ông bà không con, không cháu.
Ông Alix không phải là người công giáo, nhưng thỉnh thoảng cha sở vẫn tới thăm, cha còn khuyên giáo dân tới giúp đỡ ông. Các em nhỏ tới chơi quanh ông, đem sách cho ông đọc và giúp ông mở sách. Mỗi tuần có một bác sĩ tình nguyện tới chăm sóc ông.
Giáng sinh năm đó, ông Alix đột ngột thưa cha sở:
- Thưa cha, xin cha cho con rước lễ.
Cha sở ngạc nhiên vì ông chưa là tín hữu. Nhưng ông thưa:
- Trước đây con không tin gì vào Thiên Chúa, nhưng ít lâu nay cha và anh em giáo hữu quá tốt với con nên con thấy hạnh phúc như mình được gặp Chúa vậy. Chỉ có Chúa mới làm cho cha, bác sĩ và anh chị em bỏ công sức giúp đỡ một người xa lạ như thế này.
Có lẽ chúng ta cũng nhận ra cha sở và các anh chị em giáo hữu Pháp đó, không phải đã làm một việc truyền giáo vĩ đại, nhưng họ chỉ thi hành những bổn phận mà Chúa đòi buộc mọi môn đệ Chúa, khi đã tự nguyện sống theo giáo lý của Ngài. Ngược lại nếu không thi hành những nghĩa vụ nhỏ bé đó thì họ không thể là môn đệ Chúa được.
Tin Mừng hôm nay kể chuyện Chúa chịu phép rửa. Dĩ nhiên Chúa không cần chịu phép rửa vì Ngài hoàn toàn trong sạch. Nhưng Chúa chịu phép rửa để làm gương cho chúng ta. Để chúng ta thấy một khi chúng ta biết chuẩn bị tâm hồn và lãnh nhận bí tích Rửa Tội, bí tích Thêm Sức, thì các bí tích đó sẽ cho ta ân sủng đặc biệt, đặt ta vào địa vị môn đệ Chúa với những nghĩa vụ nặng nề.
Khi Chúa chịu phép rửa, bầu trời đã mở ra. Thánh Thần hiện xuống dưới hình chim câu, có tiếng từ trời: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Cha đặt cả tình yêu nơi Con. Từ giờ phút đó Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai. Chúa xuôi ngược khắp nơi trên toàn cõi Israel, rao giảng Tin Mừng cứu độ, chữa lành bệnh nhân, tuyển chọn và huấn luyện các tông đồ, đặt nền tảng cho Giáo Hội tiếp nối sứ mệnh Chúa nơi trần gian, để bảo toàn và làm triển nở hạt giống Tin Mừng. Cuối cùng Chúa tạo dựng kho tàng Ơn Cứu Độ bằng cái chết vô cùng đau khổ như một bằng chứng tình yêu cao cả và nồng thắm của Thiên Chúa đối với người thế qua mọi thời đại.
Những hiện tượng lạ xảy ra khi Chúa chịu phép rửa ở sông Giođan, chúng ta không thấy nữa khi một tân tòng lãnh nhận phép rửa hay một Kitô hữu lãnh bí tích Thêm Sức, nhưng phép Rửa Tội và bí tích Thêm Sức chúng ta cử hành ngày nay là những bí tích đã được Đức Kitô thiết lập và củng cố, những bí tích đó phát sinh cùng một công hiệu như xưa, và cũng trao cho chúng ta sứ mệnh như xưa. Đó là Ơn Thánh Thần và sứ mệnh truyền giáo.
Văn sĩ Anrê Manrô (André Malraux) viết: “Thế kỷ 21 là thế kỷ Kitô giáo hoặc sẽ bị tiêu vong”. Sứ mệnh đó trao phó cho chúng ta, cho mỗi Kitô hữu. Chỉ khi nào chu toàn sứ mệnh đó chúng ta mới xứng đáng là môn đệ Đức Kitô.
Lạy Chúa, xin tràn đổ Thánh Thần trên chúng con, đổi mới chúng con, nhờ Ngài chúng con trở nên chứng nhân của Chúa.
Sau một cuộc đột nhập vào Tin Mừng của Luca và Matthêu, để khám phá những mầu nhiệm về Giáng sinh và Hiển Linh, vì chỉ có hai Tin Mừng đó mới nói cho chúng ta về thời thơ ấu của Đức Giêsu... giờ đây ta gặp lại Tin Mừng Máccô. Chính Máccô bắt đầu trình thuật của mình lúc khởi sự đời sống công khai của Đức Giêsu. Và như thế chúng ta được dẫn ngay vào giai đoạn trưởng thành của Đức Giêsu. Lúc đó Ngài khoảng ba mươi tuổi.
Gioan Tẩy Giả loan báo trong hoang địa rằng: “Có một Đấng quyền thế hơn tôi, đến sau tôi"
Trong các Tin Mừng của Matthêu và Luca, lời loan truyền của Gioan Tẩy Giả mang một nội dung mãnh liệt, nhằm báo động ngày chung thẩm sắp tới gần: "Loài người rắn độc kia... Hãy tỏ lòng ăn năn sám hối... cái rìu đã đặt sát gốc cây" (Mt 3,7-10; Lc 3,7-9) Máccô hoàn toàn bỏ qua kiểu giảng truyền trên, để chỉ ghi lại lời loan báo Phép rửa của Người... Gioan Tẩy Giả chỉ nhằm giới thiệu Đức Giêsu "Đây là Đấng đến sau tôi mà các ông đang ngóng đợi" Người đã đến nơi rồi. Các ông hãy sẵn sàng!
Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dép cho Người.
Như thế, ngay từ đầu trình thuật, Máccô đã lưu ý ta: Đức Giêsu mà ông sắp nói đến mang một mầu nhiệm. Đấng chưa biết rõ này, trước khi công khai xuất hiện, đã được người ta mong chờ. Điều đó muốn làm nổi bất nhân cách phi thường của Người: Vậy ông ta là ai? Gioan Tẩy Giả còn không dám "cúi xuống trước Người"!
Tôi, thì tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần".
Trong chương đầu tiên này. Máccô đã đề cập đến Thánh Thần tới ba lần. (Mc 1,8.10.12). Sự nhấn mạnh của ông hẳn là không để ta cứ vô tâm được. Chính các thính giả của Gioan Tẩy Giả cũng không thể nhầm lẫn. Như chúng ta họ phải biết lời tiên báo liên hệ đến Đấng Mêsia vị mang Thần Khí. (Is 11, 1-3; 42,1; 61,1) và truyền thống dồi dào Thần Khí trên nhân loại vào thời cứu độ (Is 32,15; 44,3; 59,21; Dt 11,19; 36,25; 2.9,37; 39,29 Ge 3,l...) Do đó, lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả chính là nhằm loan báo Đấng Mêsia đã đến gần kề, Người sắp đổ tràn Thần khí, để làm phát sinh một nhân loại mới.
“Người làm phép rửa, nhận dìm anh em trong Thần khí”
Chúng ta có ý thức rằng, phép rửa Kitô giáo của chúng ta: cũng như thế không? Nói chung, chúng ta còn chưa sống thực sự ý nghĩa thâm sâu của phép rửa mình lãnh nhận. Vì bị nhận chìm trong môi trường vô thần hiện nay, tất cả chúng ta thường dễ cho rằng, việc "cứu độ" nhân loại là do hậu quả những nỗ lực, những thái độ nhân bản đầy giá trị của ta. Quan điểm về khoa học kỹ thuật cũng tạo cho ta quen nghĩ rằng, việc cứu độ con người nằm ngay trong con người: chúng ta phải trở nên liên đới hơn, hãy làm chủ thiên nhiên hơn, hãy sống chia sẻ nhiều hơn. Điều đó không sai. Nhưng tất cả "Mạc khải Kinh Thánh" (và kinh nghiệm chính thức nhất của con người) cũng nói cho ta hay, ý nghĩa sự sống của con người không nằm trong con người: vũ trụ dù lớn lao cách mấy, cũng không tự mình có "cứu cánh” được con người chỉ có thể hoàn tất trọn vẹn, khi mơ tới một thực tại siêu việt: Đó là Thần khí của Thiên Chúa! Như thế, câu trả lời cuối cùng cho tất cả các vấn nạn lớn, không nằm trong con người. Có ích lợi gì khi lên vũ trụ và lên tới mặt trăng, mà vì thế mà lại tự sát? Chiều kích "siêu việt" càng ngày càng khẩn thiết. André Malraux viết: "Thế kỷ XXI sẽ là kỷ nguyên Kitô giáo, hay nó không là gì cả!"
Cũng trong những ngày ấy, Đức Giêsu từ thành Nagiarét miền Galilê đến, và được ông Gioan làm phép rửa cho tại sông Giođan.
Đây là lần xuất hiện đầu tiên của Đức Giêsu trong trình thuật Máccô.
Đấng "chưa được nhận biết" này đã âm thầm sống ba mươi năm trong bóng tối của một càng quê nhỏ bé, mà cả Kinh Thánh, các sách Talmud, lịch sử hay địa lý cũng chưa khi nào nhắc đến... trước khi con người Giêsu chưa làm cho nó nổi danh trên thế giới, Vào thời đó, theo những khai quật khảo cổ Nagiarét chỉ gồm 20 nóc gia, và như thế khoảng độ một trăm dân cư. Chính từ vẻ tối tăm lạ thường đó, lại phát sinh một trong những biến động lịch sử lớn lao nhất, làm thay đổi bộ mặt địa cầu. Vậy con người Giêsu đó là ai? Lúc này đây, Người vẫn giữ vẻ bề ngoài như một người bình thường: Người cũng đến nhận phép rửa sám hối.
Vừa lên khỏi nước, Đức Giêsu liền thấy các tầng trời mở ra.
Mô tả cảnh này, Luca và Matthêu dùng một từ êm dịu hơn: "Trời mở ra". Còn Máccô viết: Tầng trời "mở tung ra".
Vừa rồi, khi bàn đến Phép rửa, ta đã gợi lên một thế giới mà trong đó con người có khuynh hướng tự đóng khung mình vào. Giờ đây Đức Giêsu chọc thủng một lỗ hổng trong vũ trụ đã đóng kín đó. Kể từ giờ trở đi trong con người của Đức Giêsu, nhân loại sẽ có một "kẽ hở" để thông hiệp với thế giới Thần linh.
Qua cách dùng từ gợi hình trên, ta có thể nhận ra lối viết thực tế của Máccô. Nhưng ta cũng có thể coi đây là một ám chỉ tới Isaia; vào thời lưu đày đau khổ, trong khi mệt mỏi và âu lo vì Thiên Chúa vân lặng thinh, một vị ngôn sứ đã khẩn cầu Thiên Chúa hãy phá tan sự thinh lặng như thời kỳ giải phóng khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, và lời cầu nguyện của ông đã trở thành tiếng kêu van: "A! ước gì Người xé trời mà xuống..." (Is 63,19).
Đức Giêsu liền thấy các tầng trời mở tung ra, và thấy Thần khí tựa như chim bồ câu ngự xuống trên mình.
Cảnh này là cảnh đầu tiên trong cuộc đời của Đức Giêsu, theo Máccô. Theo vị thánh sử này, thì tác động đầu tiên của Đức Giêsu là "một cái nhìn", chỉ mình Đức Giêsu đã chứng kiến trời "xẻ mở" như trên, nhờ đó, Thần khí mới đáp xuống. Như vậy, chúng ta đang đứng trước một biến cố siêu nhiên, mà những người mục kích khác không nhận ra. Đó là cái nhìn nội tâm, chắc chắn diễn tả cách đào sâu lương tâm mà Đức Giêsu có được là do tư thế làm con Thiên Chúa và do sứ vụ của Người. Chúng ta cũng cần nỗ lực để hình dung ra sinh hoạt tâm lý của Đức Giêsu: Người đã không "trở nên" con Thiên Chúa nhờ tiến hóa bởi vì Người luôn luôn là con... Nhưng, xét là một người đích thực, cần phải có một tình trạng tiến triển nào đó trong lương tâm Người, phù hợp theo độ tuổi và theo những kinh nghiệm của Người: Ngày nay, ta có thể nói đó là một thứ "trực giác" hơn là một cái nhìn. Nhưng ngôn từ cửa chúng ta còn quá yếu kém để diễn tả những thực tại của Thiên Chúa.
Cựu Ước thường minh chứng cho ta, cách Thần khí xâm chiếm một người để trao cho một sứ vụ rõ ràng (Is 11,2; Tt 6,34; 14,19; 15,14). Và thực sự ta có thể hình dung ra được, Đức Giêsu bị xâm chiếm bất ngờ trong toàn thân Người, để xác tín về "vai trò" phi thường Người sẽ đảm nhận.
Thần khí đã tự "tỏ hiện" dưới dáng vẻ nào? Ta thấy bản văn dùng từ “như”- “như một chim bồ câu”. Trong ngôn ngữ Khải huyền, hình ảnh đặc thù này được sử dụng có ý gợi lên điều gì không thấy được: “Ao người trắng như tuyết, tóc đầu người như len trắng" (Đnl 7,9).
Nếu ta được dịp hiện diện trong một cuộc "thần hiện", nghĩa là một cuộc "tỏ hiện của Thiên Chúa", ta sẽ thấy không thể dùng lý trí để đi sâu vào mầu nhiệm được: Thiên Chúa không bao giờ xuất hiện như một thứ "thách đố” đối với con người... từ mọi phía Người vượt qua mọi khả năng cảm nhận và tưởng tượng của ta. Cần phải chấp nhận sự "xé mở", và để mình chìm trong lỗ hở đó như rơi vào trong một vức thẳm.
Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con".
Đây là kinh nghiệm độc nhất về tình âu yếm. Đức Giêsu biết mình được yêu. Hiển nhiên một ít người đã có dịp gần Đức Giêsu, khám phá ra nơi Người một kiểu tương quan hết sức đặc biệt với Thiên Chúa. Trong lúc cầu nguyện Người nói với Đấng vô hình trong một mối thâm tình mà trước Người không ai dám sống như vậy. Người thưa lên: “Abba!" có nghĩa như "Ba ơi!" (Mc 14,36).
Từ nhiều năm, trong thôn làng Nagiarét nhỏ bé và tăm tối của mình, Người vẫn âm thầm sống cách diệu kỳ mối tình con thảo đó. Và giờ đây mới có dịp vang lên như tiếng chuông ngân vui trong trái tim Người: "Con là tình yêu của Cha. Con là con độc nhất của Cha. Cha hài lòng về con". Chắc chắn, những lời đó đã được rút ra từ Kinh Thánh. Tốt hơn ta nên đọc lại những câu trên mà Đức Giêsu hẳn đã suy niệm, thưởng nếm nhiều năm trong khi cầu nguyện tại Hội đường, hay trong nếp sống hàng ngày tại căn nhà bé nhỏ, với Đức Maria, trong khi làm việc. Có lúc nào bạn cảm nghiệm như thế không? Bạn có cảm thấy mình được yêu chưa? Có đáp trả tình yêu đó? Tình yêu như một cái vừa mạnh mẽ, vừa dịu êm, đem lại cho mọi giây phút đời bạn tràn ngập bình an và hạnh phúc.
Ta sẽ là Cha nó, và nó sẽ là con Ta (2 Sm 7,14).
Đức Giêsu đã phán với tôi rằng: "Người là con Ta, chính hôm nay, Ta đã sinh ra người". (Tv 2,7)
"Này đây tôi tớ của Ta, kẻ Ta đã chọn và hồn Ta sủng mộ" (Is 42,1).
"Hỡi Giêrusalem, người ta sẽ gọi ngươi tên mới: Ngươi sẽ không còn bị người ta nói: "Đồ bỏ!”, thiên hạ sẽ gọi ngươi "Sủng ái của Ta" (Is 62,4)
Theo sách Xuất Hành, Môsê là con trai của Amram, thuộc chi tộc Lêvi, mẹ là Giôsêbét. Môsê có: TN1-B69
Theo sách Xuất Hành, Môsê là con trai của Amram, thuộc chi tộc Lêvi, mẹ là Giôsêbét.Môsê có một chị gái lớn hơn 7 tuổi tên Miriam, và một anh trai lớn hơn 3 tuổi tên Aaron. Theo sách Sáng Thế ( x. St 46, 11 ). Thân phụ của Amram, ông Kêhát, ở trong số 70 người thuộc gia đình Giacóp vào ngụ cư ở Ai Cập. Như thế, Môsê là thế hệ thứ hai sinh trưởng tại Ai Cập.
Môsê chào đời khi vua Pharaô ra lệnh sát hại tất cả bé trai Do Thái bằng cách trấn nước chúng tại sông Nile. Cả kinh Torah và sử gia Flavius Josephus đều không nói gì đến tên tuổi và thân thế của Pharaô này. Người ta không rõ đây là vị Pharaô nào trong lịch sử Ai Cập cổ đại, và có những quan điểm cho rằng đây là vua Seti I hoặc là vua Rameses II của Vương triều thứ 19.
Jochebed, sau khi sinh hạ một con trai, đã tìm cách giấu đứa bé trong ba tháng. Khi biết không thể bảo vệ đứa bé lâu hơn nữa, Jochebed đặt đứa bé vào một cái nôi và thả trôi theo dòng sông Nile. Miriam, chị của cậu bé, dõi theo canh chừng chiếc thuyền con bé tí này cho đến khi nó trôi giạt vào nơi công chúa Thermuthis ( Bithiah ) đang tắm cùng các nữ tì. Công chúa thấy đứa bé nằm trong nôi bèn ra lệnh vớt lên. Miriam tìm đến và xin công chúa nhận cô làm vú nuôi chăm sóc đứa bé. Về sau, Jochebed thay thế con gái trở thành vú nuôi của đứa bé. Khi lớn lên, Môsê được đem vào cung và được công chúa nhận làm con nuôi. Công chúa đặt tên đứa bé là Môsê, tiếng Do Thái là mashah nghĩa là được "cứu khỏi nước."
Ông Môsê, ngôn sứ lãnh đạo dân Do Thái thoát khỏi kiếp nô lệ Ai Cập, lưu lạc suốt 40 năm trong sa mạc, đến miền Đất Hứa. Hình ảnh được cứu khỏi nước, ông Môsê thoát chết, khiến tín hữu Kitô liên tưởng đến phép thanh tẩy của Đức Giêsu giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết. Hôm nay, Giáo Hội mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa bời ngôn sứ Gioan Tiền Hô. Có thể nhiều người cũng giống thái độ của Gioan, kinh ngạc thấy Đức Giêsu nằng nặc đòi ông Gioan làm phép rửa cho Người, vốn tinh tuyền, trong sạch, hoàn toàn vô tội.
Làm người
Làm sao thấu hiểu được mầu nhiệm Nhập Thể, Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta, nếu không xác tín vào Kinh Thánh, Lời Chúa ? Thánh Phaolô đã tóm lược công trình cứu độ con người: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hủy mình ra không, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng phục cho đến chết, chết trên cây thập tự” ( Pl 2, 6-7 ).
Đức Giêsu sẵn sàng rời bỏ địa vị cao quý tột cùng, mặc lấy xác phàm, để cùng sống thân phận yếu đuối, mỏng dòn như nhân loại. Chẳng bao giờ có thần thánh nào khác dám tự hạ làm tiện dân bần cùng đến vậy. Chỉ vì tình yêu nhân loại, mà Người bất chấp gian lao, nguy khó, đe dọa và tước đi cả chính sinh mệnh.
Nghèo khó
Đường lối của Thiên Chúa hoàn toàn khác với đường lối con người, vốn ưa chuộng những điều phù phiếm hư ảo. Đức Giêsu không sinh trong gia đình giàu sang, phú quý, danh giá, nhưng trong cảnh nghèo khó mà công chính, đạo đức, thánh thiện. Máng cỏ Bêlem thô kệch, ngứa ngáy thay cho cái nôi ấm áp, êm ái. Thiếu thốn, bần cùng thay cho dư giả, sung túc tiện nghi. “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” ( Mt 5, 3 ). Trong Bát Phúc, thì tinh thần nghèo khó được Đức Giêsu đặt lên hàng đầu.
“Xin Chúa cho con được khó nghèo như Chúa”. Thường con hay cầu nguyện ngược lại. ( Đường Hy Vọng, số 419 ).
Gian truân
Nhờ hơi ấm bò lừa, Hài Nhi bớt run rẩy trong tiết Đông giá lạnh. Hơn nữa, Hài Nhi hiền hòa còn chịu cảnh bôn ba, vất vả vượt biên Ai Cập, trong khi Mẹ Người và Cha nuôi âu sầu, lo lắng đem Người chạy trốn bạo quyền Hêrôđê lăm le sát hại. “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Hứa làm gia nghiệp. Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an" ( Mt 5, 4 – 5 ). Người đã nêu gương đích thật về Bát Phúc, tỏa sáng chan hòa cho những ai muốn bước theo Người.
Trong gian khổ có ba điều con nên tránh:
- Đừng điều tra ‘Tại ai ?” Hãy cám ơn dụng cụ nào đó, Chúa dùng thánh hóa con. - Đừng than thở với bất cứ ai. Chúa Thánh Thế, Đức Mẹ là nơi con tâm sự trước hết. - Khi đã qua, đừng nhắc lại trách móc, hận thù. Hãy quên đi, đừng nhắc lại bao giờ và nói: "Alleluia !” ( Đường Hy Vọng, số 700 ).
Khiêm hạ
Thánh Gioan kinh ngạc thấy Đức Giêsu xếp hàng cùng với tội nhân khắp nơi tuôn đến, xin ngài ban phép rửa. Ai cũng đều không khỏi ngạc nhiên thấy vậy. Đấng Cứu Thế chí tôn, chí nhân, chí thánh lại tự hạ cùng cực, khi hòa mình vào đám đông tội lỗi. Bởi vì Người yêu thương con người, gánh trên mình tất cả tội lỗi gian trần, chịu phép rửa, đồng thời tiên báo cuộc tử nạn và phục sinh hầu cứu độ loài người.
“Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” ( Lc 1, 52 ). Đức Mẹ Maria đã cảm nghiệm sâu sắc đức khiêm nhường, mà Chúa hằng yêu chuộng.
“Trong cuộc đời Chúa Giêsu, Người yêu thương cách riêng những kẻ khiêm nhường, và quên hết tội lỗi của họ, không bao giờ nhắc lại: Phêrô, Maria Mađalêna, Dakêu… Chúa thân hành đến nhà họ, và đành chịu mang tiếng: “Bạn với quân thu thuế và tội lỗi.” ( Đường Hy Vọng, số 521 ).
Vâng phục
“Người đi cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài.” ( Lc 2, 51 ). Ba mươi năm sau, Đức Giêsu vẫn tiếp tục vâng theo Thánh Ý Cha, khiêm nhường cúi đầu chịu phép rửa của ông Gioan, toàn tâm, toàn ý trung thành với sứ vụ cứu độ loài người. Người đã làm đẹp lòng Thiên Chúa Cha: “Con là Con yếu dấu của Cha, Cha hài lòng về con” ( Mc 1, 11 ).
“Vâng phục trong thinh lặng, sự thật sẽ giải thoát con. Thinh lặng trong năm năm, mười năm, cả đời con. Thinh lặng trong sự chết… Chúa biết con đủ rồi, và ngày tận thế nhân loại cũng sẽ biết. ( Đường Hy Vọng, số 405 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin thức tỉnh chúng con trở về với Chúa, chừa thói kiêu căng, tự cao tự đắc, tự mãn, mà biết cúi mình, đấm ngực, ăn năn, sám hối, ý thức thân phận tội lỗi, mà canh tân đổi mới cuộc đời, hầu được Chúa giải thoát cứu rỗi.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con sống tự hạ, khiêm tốn, khó nghèo và vâng phục theo Mẹ, để được Chúa thương dẫn về sự sống. Amen.
Sự kiện Chúa Giêsu chịu Phép Rửa là gạch nối giữa giai đoạn quan trọng: sống ẩn dật và rao giảng công khai. Sau 30 năm sống âm thầm với gia đình tại Nadarét, Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa cũng là gạch nối giữa hai mùa: Giáng Sinh và Thường niên. Giáo Hội đã cùng sống với Chúa Giêsu qua các biến cố Giáng Sinh và Hiển Linh. Hôm nay Chúa Nhật I thường niên, Giáo Hội sẽ cùng đồng hành với Người qua các biến cố của đời rao giảng.
1. Chúa Giêsu chịu Phép Rửa
Khởi đầu cuộc sống công khai, lúc đã 30 tuổi, tức là đã trưởng thành trọn vẹn như người Á Đông vẫn quan niệm "tam thập nhi lập", Chúa Giêsu tìm đến sông Giođan để xin Gioan Tẩy Giả cử hành phép rửa cho mình. Thật lạ lùng, trong số những người đến "xưng thú tội lỗi" ( Mc 1, 5 ) và chịu "phép rửa sám hối để đước ơn tha tội" ( Mc 1, 4 ) lại có Chúa Giêsu. Người là Đấng Thánh, là Thiên Chúa, siêu việt tuyệt đối, tại sao lại đến xin Gioan làm phép rửa sám hối ? Người là Đấng mà Gioan "không đáng cúi xuống cởi quai dép" lại có thể đứng chung với đám đông người tội lỗi chờ đến lượt mình được chịu thanh tẩy ?
Đây là động thái gây kinh ngạc cho con người thời nay, vì khó hiểu: Đấng không có tội lại đi nhận phép rửa làm gì ? Nhưng người ta cũng sớm hiểu ra rằng: phép rửa của Gioan Tẩy Giả chỉ là nghi thức mang tính tẩy trần, nếu có giá trị thì chỉ theo quy định của lề luật thôi, còn chưa có hiệu quả đích thực tôn giáo. Chính Gioan Tẩy Giả đã minh định: "Tôi rửa anh em trong nước, nhưng Đấng đến sau tôi sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và trong lửa". Khi Chúa Giêsu nhận phép rửa này, ngoài việc "nhập thế đến cùng", khiêm tốn xếp hàng đứng chung với các tội nhân đợi chờ đến phiên, Người còn hữu ý qua động thái có một không hai đó, công khai khởi đầu cuộc sống mới: cuộc rao giảng Tin Mừng cho mọi người.
Tất cả các tiên trưng trong Cựu Ước đều được thực hiện trong Đức Kitô Giêsu. Để "chu toàn thánh ý Thiên Chúa" ( Mt 3, 15 ), Chúa Giêsu tự nguyện chịu phép rửa của Thánh Gioan, dành cho những người tội lỗi. Cử chỉ này cho thấy Chúa Giêsu đã đi vào mầu nhiệm "tự hạ" ( x. Pl 2, 7 ). Chúa Thánh Thần xưa kia đã bay là là trên mặt nước trong cuộc sáng tạo thứ nhất, nay ngự xuống trên Đức Kitô như khúc nhạc dạo đầu của bản giao hưởng sáng tạo mới, và Chúa Cha giới thiệu Chúa Giêsu là "Con Chí Ái" của Ngài ( Mt 3, 16-17 ).
Trong cuộc Vượt Qua, Đức Kitô đã khơi nguồn Bí Tích Rửa Tội cho mọi người. Người nói về cuộc tử nạn sẽ phải chịu tại Giêrusalem như "một Phép Rửa" Người phải lãnh nhận ( x. Mc 10, 38; Lc 12, 50 ). Máu và nước chảy ra từ cạnh sườn Người bị đâm thâu trên thập giá ( Ga 19, 34 ) tiên trưng cho Bí Tích Rửa Tội và Bí Tích Thánh Thể là những Bí Tích ban sự sống mới ( x. 1Ga 5, 6-8 ); từ giây phút ấy, chúng ta có thể "sinh ra nhờ nước và Thánh Thần" để được vào Nước Thiên Chúa ( Ga 3, 5 ).
Bí Tích Rửa Tội là cánh cửa phân chia tách bạch đời sống, một đàng là khép lại quá khứ của bóng tối, tội lỗi, chết chóc, và đàng khác là mở ra tương lai của ánh sáng, thánh ân, sự sống. Bí Tích Rửa Tội cần thiết cho ơn cứu rỗi, nên Bí Tích này cũng là khởi đầu cho một sự hiện diện mới: từ kẻ ngoại đạo trở thành người đã tòng giáo; từ một lương dân trở nên tín hữu; từ kẻ xa lạ trở thành người nhà của Thiên Chúa. Quả là một hồng ân vô cùng lớn lao cho những ai đón nhận trong lòng tin.
2. Ân Sủng của Bí Tích Rửa Tội
Khi ban Bí Tích Rửa Tội, Thừa tác viên Giáo Hội đổ nước trên đầu thụ nhân và đọc công thức "Cha rửa con nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần". Đơn giản trong cung cách cử hành, nhưng hiệu quả ơn thánh lại phong phú bội phần. Bằng những hình ảnh do Thánh Kinh gợi ý, người ta trở thành thành viên trong Dân của Chúa Cha, chi thể trong Thân Mình Chúa Kitô và viên đá sống động kiến tạo Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Con người mới chính là con cái Thiên Chúa và được thông phần vào sự sống của Thiên Chúa hằng sống.
Bí Tích Rửa Tội là nền tảng của toàn bộ đời sống Kitô hữu, là cửa ngõ dẫn vào đời sống thần linh và mọi bí tích khác. Nhờ bí tích này chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi và tái sinh làm con cái Thiên Chúa, thành chi thể của Đức Kitô, được gia nhập và tham dự sứ mạng của Hội Thánh ( GLCG 1213 ).
Bí Tích Rửa Tội tha thứ nguyên tội, mọi tội cá nhân và các hình phạt do tội. Bí Tích Rửa tội cho tham dự vào đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi nhờ ơn thánh hoá, nhờ ơn công chính hoá giúp tháp nhập vào Đức Kitô và Hội Thánh. Bí Tích này cho tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô và tạo nền tảng cho sự hiệp thông với tất cả các Kitô hữu. Bí Tích này trao ban các nhân đức đối thần và các hồng ân của Chúa Thánh Thần. Người lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội thuộc về Đức Kitô luôn mãi: họ được đóng ấn không thể xóa được của Đức Kitô ( GLCG 263 ).
Như vậy, có hai hiệu quả chính yếu của Bí Tích Rửa Tội là thanh luyện tội lỗi và tái sinh trong Chúa Thánh Thần ( x. Cv 2, 38; Gl 3, 5 ) sau đây:
Được tha thứ tội lỗi
Nhờ Bí Tích Rửa Tội, mọi tội lỗi đều được tha: nguyên tội, mọi tội riêng cũng như mọi hình phạt do tội ( x. DS 1316 ). Những người đã được tái sinh sẽ được vào Nước Thiên Chúa và không còn gì ngăn cản họ, dù là tội Ađam, tội riêng của họ, những hậu quả của tội, kể cả hậu quả trầm trọng nhất là xa lìa Thiên Chúa.
Tuy nhiên, người đã được rửa tội còn phải chịu một số hậu quả tạm thời của tội như: đau khổ, bệnh tật, chết chóc hay những bất toàn trong cuộc sống như tính tình yếu đuối... và một sự hướng chiều về tội mà Truyền Thống quen gọi là vật dục hay nói bóng bẩy là "cái nôi của tội". "Thiên Chúa để vật dục lại cho chúng ta chiến đấu. Vật dục không có khả năng làm hại những ai không đồng tình mà còn can đảm chống lại nó nhờ ân sủng của Đức Kitô. Hơn nữa, "không đoạt giải nếu không thi đấu theo luật lệ" ( 2 Tm 2, 5 ) ( x. CĐ. Trentô: DS 1515 ).
Trở nên thụ tạo mới
Bí Tích Rửa Tội không chỉ rửa sạch mọi tội lỗi, mà còn làm cho người tân tòng trở nên "một thụ tạo mới" ( 2Cr 5, 17 ), thành nghĩa tử của Thiên Chúa ( x. Gl 4, 5-7 ), "được thông phần bản tính Thiên Chúa" ( 2Pr 1, 4 ), thành chi thể Đức Kitô ( x. 1Cr 6, 15; 12, 27 ) và đồng thừa tự với Người ( Rm 8, 17 ), thành đền thờ Chúa Thánh Thần ( x. 1Cr 6, 19 ).
Chúa Ba Ngôi Chí Thánh ban cho người được rửa tội ơn thánh hóa, ơn công chính hóa, để người đó:
- Có khả năng tin tưởng, trông cậy và yêu mến Người nhờ các nhân đức đối thần. - Có thể sống và hành động dưới tác động của Chúa Thánh Thần nhờ các hồng ân. - Ngày càng hoàn thiện hơn nhờ các nhân đức luân lý.
Toàn bộ đời sống siêu nhiên của người Kitô hữu đều bắt nguồn từ Bí Tích Rửa Tội.
Bí Tích Rửa Tội làm cho chúng ta thành chi thể trong Thân Thể Chúa Kitô, "bởi thế, chúng ta là phần thân thể của nhau" ( Ep 4, 25 ). Bí Tích Rửa Tội tháp nhập chúng ta vào Hội Thánh. Dân Thiên Chúa của Giao Ước Mới phát sinh từ giếng rửa tội. Dân này vượt trên mọi ranh giới tự nhiên hay nhân trần, quốc gia, văn hóa, chủng tộc và giới tính. "Tất cả chúng ta đều đã chịu Phép Rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể" ( 1 Cr 12, 13 ).
Những người đã được rửa tội trở nên "những viên đá sống động... để xây nên ngôi đền thờ của Thánh Thần, xây dựng hàng tư tế thánh" ( 1 Pr 2, 5 ). Nhờ Bí Tích Rửa Tội , họ tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô, vào sứ mạng ngôn sứ và vương đế của Người: "Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hoàng tộc chuyên lo tế tự, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công vĩ đại của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối vào nơi đầy ánh sáng dịu huyền" ( 2Pr 2, 9 ).
Bí Tích Rửa Tội cho các tín hữu tham dự vào chức tư tế cộng đồng của Dân Chúa. Người đã được rửa tội trở thành phần tử của Hội Thánh, họ "không còn thuộc về mình, nhưng thuộc về Đấng đã chết và sống lại vì chúng ta" ( 1Cr 6, 19 ). Do đó, họ được mời gọi để phục tùng nhau ( x. Ep 5, 21; 1Cr 16, 15-16 ) và phục vụ nhau ( x. Ga 13, 12-15 ) trong tình hiệp thông của Hội Thánh. Họ được mời gọi vâng lời và phục tùng các vị lãnh đạo của Hội Thánh ( x. Dt 13, 17 ) với lòng kính trọng và quý mến ( x. 1Tx 5, 12-13 ). Bí Tích Rửa Tội đã trao cho người lãnh nhận những trách nhiệm và bổn phận, đồng thời cũng cho họ được hưởng những quyền lợi trong lòng Hội Thánh: được lãnh nhận các Bí Tích, được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và được Hội Thánh nâng đỡ bằng các trợ giúp thiêng liêng. ( x. LG 37 ).
Bí Tích Rửa Tội, hồng ân cao đẹp và kỳ diệu
Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Gioan là lúc Tân – Cựu Ước giao duyên, là lễ bàn giao giữa hai niên đại cũ và mới mà Chúa Giêsu và Gioan là đại biểu. Gioan, ngôn sứ cuối cùng của Cựu Ước gặp gỡ trao đổi bàn giao với Đức Kitô, vị ngôn sứ của thời kỳ mới. Nơi cuộc gặp gỡ lịch sử này, Thiên Chúa đã xuất hiện và chứng nhận. Lúc ấy các tầng trời mở ra, Thánh Thần đáp xuống như chim bồ câu và có tiếng Chúa Cha tuyên phán: Con là Con Ta yêu dấu. Ba Ngôi Thiên Chúa tỏ hiện vào chính lúc lịch sử của hai niên đại mới và cũ chuyển giao. Từ nay Chúa Giêsu sẽ lên đường vào sứ vụ mới với cuộc sống công khai, chính thức rao giảng Tin Mừng và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân chúng. Lời Người nói là Lời chân lý khai quang tâm hồn, dẫn người người về đường ngay nẻo chính Nước Trời, và việc Người làm là việc giải thoát đem lại ơn cứu rỗi, đưa toàn thể nhân loại vào trong tình nghĩa thiết ngàn đời với Thiên Chúa tình thương. Chúa Giêsu khai mở kỷ nguyên cứu rỗi.
Theo Thánh Phaolô, nhận Bí Tích Rửa Tội chính là được tắm trong Chúa Thánh Thần, để được tái sinh và đổi mới ( x. Tt 3, 5 ). Được tái sinh làm con Thiên Chúa, những người đã được rửa tội có bổn phận tuyên xưng trước mặt mọi người Đức Tin mà họ nhận lãnh từ Thiên Chúa qua Hội Thánh ( x. LG 10 ), tham dự vào hoạt động tông đồ và truyền giáo của Dân Thiên Chúa ( x. LG 17; AG 7, 23 ).
Thánh Giustinô gọi Bí Tích Rửa Tội là ơn soi sáng, vì những người được đạo lý giáo huấn thì tâm trí được soi sáng. Người chịu phép rửa, vì đón nhận Ngôi Lời là "ánh sáng đích thực chiếu soi mọi người" ( Ga 1, 9 ), nên sau khi "đã được soi sáng" ( Dt 10, 32 ), họ trở thành "con cái sự sáng" ( 1Tx 5, 5 ) và là "ánh sáng" ( Ep 5, 8 ).
"Bí Tích Rửa Tội là hồng ân cao đẹp nhất và kỳ diệu nhất trong các hồng ân của Thiên Chúa... Chúng ta gọi là hồng ân, ân sủng, xức dầu, soi sáng, mặc lấy sự bất tử, tắm để tái sinh, ấn tín và tất cả những gì quý giá nhất. Là hồng ân, vì được ban cho những người trắng tay. Là ân sủng, vì được ban cho cả những người có lỗi. Dìm xuống, vì tội lỗi bị nhận chìm trong nước. Xức dầu, vì có tính cách linh thiêng và vương giả ( như những người được xức dầu ). Soi sáng, vì đó là ánh sáng chói lọi. Mặc, vì che đi nỗi tủi nhục của chúng ta. Tắm, vì làm cho chúng ta sạch. Ấn tín, vì gìn giữ chúng ta và là dấu chỉ về quyền tối cao của Thiên Chúa" ( Thánh Grêgôriô Nadien, Bài giảng 40, 3-4 ).
Nhờ Bí Tích Rửa Tội, trong tư cách là "Kitô hữu thuộc về Chúa Kitô", chúng ta được nhắc nhớ về sứ mạng phải làm triển nở sự sống của Chúa Kitô nơi mình và nơi những người lân cận bằng lòng tin và bằng tình yêu chân thành và trung tín.
Trong tư cách "Kitô hữu hướng về Chúa Kitô", chúng ta cũng được hun đúc để luôn biết sống bằng niềm hy vọng và bằng lời kinh phó thác, nhất là trong lúc gặp thử thách gian truân.
Trong tư cách "Kitô hữu tìm về Chúa Kitô", chúng ta còn biết sẵn sàng thanh tẩy đời sống qua việc sám hối hòa giải để đón nhận lòng thương xót của Chúa một cách dồi dào hơn.
Trong phép lần hạt Năm Sự Sáng, gẫm thứ nhất, chúng ta vẫn đọc: "Thứ nhất thì ngắm, Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan. Ta hãy xin cho được sống xứng đáng là con cái Chúa". Theo gương Mẹ Maria, chúng ta xin được sống gắn bó với Chúa Giêsu mật thiết hơn, để xứng đáng là những người con yêu dấu của Thiên Chúa.
Lãnh nhận Phép Rửa là "dấu chỉ bề ngoài" chứng tỏ chúng ta đã đón nhận Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ. Từ khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa, một hồng ân quá lớn !
Phép Rửa của Ông Gioan là Phép Rửa của sự sám hối ( Mt 3, 11 ), nhưng Chúa Giêsu vô tội nên không cần sám hối. Thánh Gioan nhân biết tội mình và biết mình chỉ là tội nhân, cần sám hối, không đáng xách dép cho Chúa Giêsu, nên ông ngại mà nói với Chúa Giêsu: "Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi !" ( Mt 3, 14 ). Nhưng Đức Giêsu trả lời: "Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính" ( Mt 3, 15 ). Nghe nói vậy ông Gioan mới chiều theo ý Ngài. Chúa Giêsu đến với Thánh Gioan Tẩy Giả cho thấy Ngài chấp nhận Phép Rửa của ông. Lòng thương xót của Thiên Chúa được tỏ hiện qua việc Chúa Giêsu chịu Phép Rửa.
Nói cách khác, ngay từ lúc khởi đầu sứ vụ, Chúa Giêsu đã chứng tỏ Ngài là Đấng Mêsia và là "Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian" ( Ga 1, 29 ). Ông Gioan vừa làm Phép Rửa xong, Thiên Chúa liền tỏ ra dấu chỉ tỏ tường là "các tầng trời xé ra, và Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống", sự thật minh nhiên đó đã được chính Chúa Cha xác nhận: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người" ( Mt 3, 17; x. Mc 1, 11 ).
Thật kỳ diệu, "Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người" ( 2 Cr 5, 21 ). Chúa Giêsu là Đấng công chính, không cần sám hối, nghĩa là không cần chịu Phép Rửa, nhưng Ngài chịu Phép Rửa để làm gương cho chúng ta, còn chúng ta thực sự cần Phép Rửa và cần sám hối, vì chúng ta là các tội nhân. Hãy mở lòng để đón nhận ơn tha thứ !
Phép Rửa là "cửa ngõ" để chúng ta bước vào miền cứu độ. Trong cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô, một thủ lãnh của người Do Thái, Chúa Giêsu nói với ông: "Không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên; không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí" ( Ga 3, 3 và 5 ). Và Thánh Phaolô xác định: "Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa" ( Ep 4, 5 ).
Từ ngàn xưa, Đấng Kitô đã được đề cập với danh xưng Người-Tôi-Trung-Đau-Khổ: "Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng, Ta cho thần khí Ta ngự trên nó; nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân. Nó sẽ không kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng giữa phố phường. Cây lau bị giập, nó không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý. Nó không yếu hèn, không chịu phục, cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu. Dân các hải đảo xa xăm đều mong được nó chỉ bảo" ( Is 42, 1-4 ). Người-Tôi-Trung đó chấp nhận đau khổ nhưng không muốn người khác chịu đau khổ, luôn chạnh lòng thương người khác, nhất là đối với những người yếu đuối, hèn mọn.
Thiên Chúa xác nhận rạch ròi: "Ta là Đức Chúa, Ta đã gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta. Ta đã nắm tay ngươi, đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước, để mở mắt cho những ai mù loà, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm" ( Is 42, 6-7 ). Mỗi chúng ta cũng được Thiên Chúa gọi đích danh và đặt vào một vị trí theo Thánh Ý Ngài, nhưng không phải để tự tôn hoặc ích kỷ giữ riêng cho mình, mà phải hành động tích cực, dùng những gì mình đã được Ngài trao ban để làm lợi cho tha nhân – đặc biệt là đối với những người bị áp bức, bị bóc lột, bị tước đoạt những quyền cơ bản của con người...
Tất cả mọi sự chúng ta tận hưởng, cả tinh thần và vật chất, đều do Thiên Chúa ban, chúng ta chẳng có gì và chẳng đáng gì mà dám vênh vang tự đắc. Tác giả Thánh Vịnh đã nhận thức như vậy, và mời gọi chúng ta: "Hãy dâng Chúa, hỡi chư thần chư thánh, dâng Chúa quyền lực và vinh quang. Hãy dâng Chúa vinh quang xứng danh Người, và thờ lạy Chúa uy nghiêm thánh thiện" ( Tv 29, 1-2 ). Đó là bổn phận và trách nhiệm của mọi người. Chúng ta chúc tụng Ngài thì Ngài cũng chẳng thêm được gì, nhưng chính chúng ta lại hưởng lợi ích từ việc chúc tụng đó. Thiên Chúa luôn tìm mọi cách làm lợi cho chúng ta, thật là kỳ diệu quá !
Ngài là Đấng vô hình mà lại hữu hình, vì Ngài vẫn hiện diện trong mọi thứ: "Tiếng Chúa rền vang trên sóng nước, Thiên Chúa hiển vinh cho sấm nổ ầm ầm, Chúa ngự trên nước lũ mênh mông. Tiếng Chúa thật hùng mạnh ! Tiếng Chúa thật uy nghiêm !" ( Tv 29, 3-4 ). Thiên Chúa toàn năng, và chỉ có Ngài là Thiên Chúa duy nhất. Thật vậy, chính Thiên Chúa đã truyền lệnh: "Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta" ( Xh 20, 3; Đnl 5, 7 ).
Thiên Chúa xuất hiện trong mọi vật và mọi sự. Những gì chúng ta gọi là tự nhiên hoặc thiên nhiên thì chính là Thiên Chúa: "Tiếng Chúa lay động cả rặng sồi, tuốt trụi lá cây cao rừng rậm. Còn trong thánh điện Người, tất cả cùng hô: Vinh danh Chúa ! Chúa ngự trị trên cơn hồng thủy, Chúa là Vua ngự trị muôn đời" ( Tv 29, 9-10 ). Bổn phận của chúng ta là phải tôn thờ, cảm tạ và chúc tụng Ngài, như Đức Giêsu Kitô đã nói: "Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho" ( Mt 6, 33 ).
Tại nhà ông Conêliô, ông Phêrô lên tiếng nói: "Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận" ( Cv 10, 34-35 ). Đức Giêsu nhập thể và nhập thế để "cứu cái gì đã hư mất" ( Mt 18, 11 ). Thánh Phêrô giải thích rạch ròi: "Người đã gửi đến cho con cái nhà Ítraen lời loan báo Tin Mừng bình an, nhờ Đức Giêsu Kitô, là Chúa của mọi người. Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Giu-đê, bắt đầu từ miền Galilê, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng. Quý vị biết rõ: Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người" ( Cv 10, 36-38 ).
Trước khi Chúa Giêsu đến thế gian theo Kế hoạch Cứu độ của Thiên Chúa, ông Gioan đã được sai đến trước để dọn đường. Ông là người được Thiên Chúa sai đến, nhưng phong cách rất bình dân: Mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng. Có lần người ta hỏi ông là ai – Đấng Kitô, Êlia hay ngôn sứ ? Cả ba lần ông đều trả lời "không", ông chỉ dám nhận mình là "tiếng người hô trong hoang địa" ( Ga 1, 20-23 ). Ông khiêm nhường bao nhiêu thì chúng ta cảm thấy xấu hổ bấy nhiêu, vì chúng ta chỉ là "số không" thật lớn mà lại mạo nhận mình là "cái rốn của vũ trụ". Lạy Chúa tôi !
Ông rao giảng về Đức Kitô: "Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần" ( Mc 1, 7-8 ). Ông Gioan cho biết rằng ông cũng không biết Đức Giêsu là ai, nhưng khi ông làm Phép Rửa cho Ngài, rồi thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Ngài, nên ông nhận biết Ngài chính là "Đấng Thiên Chúa tuyển chọn" ( Ga 1, 32-34 ). Đặc biệt nhất là có tiếng từ trời xác nhận: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con" ( Mc 1, 11 ).
Di tích sông Giođan, nơi Chúa Giêsu chịu phép rửa ( Mc 1, 6-11; Mt 3, 13-17; Lc 3, 21-22 ), cách trung tâm thành phố Tibêria khoảng 10 km về phía Nam trên sông Giođan, có một địa điểm thu hút khoảng nửa triệu người hằng năm. Theo khoa khảo cổ và Kinh Thánh, nơi thực sự Chúa Giêsu chịp phép rửa cách xa Yardenit cả trăm cây số, ở gần Biển Chết, thuộc về lãnh thổ Giođan: "Các việc đó đã xảy ra tại Bêtania, bên kia sông Giođan, nơi ông Gioan làm phép rửa" ( Ga 1, 28 ).
Dòng sông Giođan bình thường, nhưng bỗng trở nên vô thường vì là nơi Chúa Giêsu chọn để ông Gioan làm Phép Rửa. Nước thật kỳ diệu. Nước rất mềm mà cũng rất mạnh, đặc biệt là không thể tách hoặc cắt được nước. Ở đâu có nước là có sự sống, người ta có thể nhịn đói chứ không thể nhịn khát, vì cơ thể chúng ta chứa tới 70% là nước, mỗi ngày cơ thể cần khoảng 2 lít nước. Có điều lạ là quốc gia cũng được chúng ta gọi là "nước" – nước Việt Nam. Phải chăng Việt ngữ muốn diễn tả nơi mình sống được ví như nước ? Còn nước là còn nơi sống, mất nước là mất nơi sống !
Nước biểu hiện sự xuất hiện của Thiên Chúa, chứng tỏ quyền năng của Ngài: "Tiếng Chúa rền vang trên sóng nước, Thiên Chúa hiển vinh cho sấm nổ ầm ầm, Chúa ngự trên nước lũ mênh mông" ( Tv 29, 3 ). Với Thiên Chúa, nước cũng được Ngài coi là chất liệu quan trọng nên Ngài đã dùng nước để chứng tỏ chúng ta được tẩy sạch tội lỗi. Nước rất đặc biệt vì nước còn là chất liệu Chúa Giêsu dùng làm phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới ở Cana ( Ga 2, 1-12 ), và cũng là chất liệu Ngài dùng để dạy "bài học phục vụ" khi Ngài rửa chân cho các môn đệ ( Ga 13, 1-20 ). Nước còn quan trọng hơn nữa vì nước là chất liệu biến chúng ta thành con cái Thiên Chúa: "Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí" ( Ga 3, 5).
Chúa Giêsu được dìm mình trong dòng nước Giođan để khởi đầu sứ vụ, dòng nước đó trở nên Dòng Tình mà Chúa Giêsu muốn tuôn đổ Lòng Thương Xót cho chúng ta, đồng thời cũng giao trách nhiệm cho mỗi chúng ta phải đắm mình trong dòng đời để phục vụ mọi người, đó cũng là phục vụ chính Ngài vậy: "Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân" ( Kinh Hòa Bình – Thánh Phanxicô Assisi ).
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết đón nhậ Đức Kitô là Đấng cứu độ và hết lòng phụng sự Ngài qua việc phục vụ tha nhân, nhất là phục vụ những con người hèn mọn ở mọi ngõ ngách của cuộc đời này. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
Chúa Giêsu sau khi chay tịnh trong sa mạc trở về, đã đến bờ sông Giodan để xin thánh Gioan Tẩy giả làm phép rửa cho mình. Bài TM hôm nay chính là kể lại câu chuyện Chúa Giêsu chịu phép rửa của Gioan. Thánh Gioan chính là vị đại ngôn sứ được TC sai đi trước dọn đuờng cho Đấng Cứu Thế. Ông đã sẳn sàng lãnh nhận sứ mạng Tiền hô (đi trước để báo – để dọn đường), nên ông làm phép rửa kêu gọi dân chúng ăn năn sám hối. Phép rửa của Gioan không có giá trị thanh tẩy, nghĩa là không xóa được tội lỗi; nó chỉ nói lên tâm tình của người lãnh nhận, lòng chân thành hoán cải, muốn dứt bỏ tội lỗi. Chính vì lẽ đó, khi Gioan thấy Chúa đến xin chịu phép rửa, ông muốn từ chối: “chính tôi là người cần được Ngài rửa cho” (Mt 3, 14). Nhưng Chúa bảo Gioan cứ làm như thế để trọn lẽ công chính. Lúc đó Gioan mới vâng lời. Đang khi Chúa chịu phép rửa, tầng trời mở ra; Chúa Thánh Thần ngự xuống và cả tiếng Chúa Cha phán trong đám mây, như ta vừa nghe. Đây chính là đề tài mà ta cùng suy niệm trong chúa nhật hôm nay…
a/. Câu chuyện của bài TM hôm nay có hai điều làm ta phải suy nghĩ:
* Chúa Giêsu vô tội, tại sao phải chịu phép rửa? Giáo lýcông giáo dạy: Chúa Giêsu có hai bản tính: vừa là TC vừa là con người nữa. Chúa sanh ra làm người y như ta, dù vô tội, Chúa vẫn muốn chịu phép rửa của Gioan để tự đồng hóa, để nên ngang hàng như tội nhân, vừa nêu gương khiêm nhường, vừa nhắc nhở ta khiêm tốn ăn năn vì tội lỗi của chính mình. Đây chính là một tấm gương cao cả, vì con người chúng ta tội lỗi ngập tràn, nhưng thường chúng ta lại không khiêm tốn ăn năn, trong khi Chúa Giêsu là Đấng vô tội lại hạ mình ngang hàng với tội nhân. Thánh Phaolô nói: “Chúa Giêsu dù là TC,..đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang TC, mà mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống hệt một người phàm.”(Phil 2, 7). Về điểm này, thực ra, chúng ta không làm sao hiểu nổi tình yêu của TC dành cho con người chúng ta.
* Đang khi Chúa chịu phép rửa, có Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống và có cả tiếng Chúa Cha phán từ trong áng mây:
Chúng ta nên nhớ, đây là lúc khởi đầu cuộc đời công khai rao giảng của Chúa; chính vì thế khi Người chịu phép rửa, Phúc âm ghi lại: có Chúa Cha chứng giám: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”, có cả Chúa Thánh Thần hiện diện nữa. Đây chính là lúc quan trọng. Chúng ta biết Chúa Giêsu không làm bất cứ điều gì mà không theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Người cũng không làm bất cứ điều gì, mà không theo ý Chúa Cha; nghĩa là Chúa luôn vâng phục Chúa Cha, trong sự hợp nhất với Chúa Thánh Thần. Việc Chúa khởi đầu ra đi rao giảng, vẫn luôn có Ba Ngôi hiện diện và chứng giám. Chính Chúa Cha chúc lành, và Chúa Thánh Thần ban sức sống. Đó chính là mầu nhiệm Ba Ngôi hiệp nhất. Thánh Phaolô đã nói: “Người đã vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá.” (Phil 2, 8). Ta thấy trong đời Người, chỉ có một lần Chúa Giêsu nan nỉ Chúa Cha, đó là trong vườn Giếtsêmani: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin Cha cho Con khỏi uống chén này.” Nhưng rồi sau đó Chúa lại nói: “nhưng xin đừng theo ý Con, chỉ xin theo ý Cha mà thôi.” (Mc 14, 36).
b/. Câu chuyện: Thánh Giêrađô, là người Ý, tu sĩ của Dòng Chúa Cứu thế (1726-1755). Thánh nhân được coi là một tấm gương thánh thiện, vâng lời tuyệt hảo. Một hôm cha bề trên có việc sai thầy Giêrađô sang thành lân cận. Vì đường xa, nên cha bề trên bảo thầy: “nhớ dắt lừa theo mà đi”, có ý cho thầy đở mệt nhọc, lại vừa đi mau về mau nữa. Thầy đã ra đi, nhưng mấy hôm sau mới về tới nhà. Cha bề trên liền hỏi: “Bộ thầy không đi bằng lừa sao?” Giêrađô trả lời: “Dạ có.” “Thế sao thầy về trể vậy?” “Dạ vì cha bề trên bảo con dắt lừa theo, nên con dắt mà không có cỡi, nên đi hơi lâu.” Cha bề trên cười xòa, nhưng cũng hiểu ra thầy muốn làm một việc hãm mình, để dâng cho Chúa. (Lm Hồng Phúc, dcct)
Ngày nay, nếu có một tu sĩ nào mà cư xử như thế, ta sẽ cho là điên, là “mát”, có khi còn đuổi không cho ở trong nhà tu nữa; nhưng ta thử nhìn lại: coi chừng Chúa Giêsu có khi còn bị coi là khờ, là “mát” hơn cả thánh Giêrađô nữa. Ở đây, người ta vẫn thắc mắc: Chúa Giêsu đã vô tội, vậy mà “mắc mới” gì phải xin thánh Gioan rửa cho mình? Dưới cái nhìn kiêu căng, không khiêm tốn tự bản chất, người ta khó mà hiểu được việc làm của Chúa Giêsu.
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Chúa Giêsu, dù vô tội vẫn đến xin thánh Gioan làm phép rửa cho mình, đây là một mẫu gương khiêm nhường cao cả. Phần chúng ta là con người, với muôn tội lỗi ngập tràn, thực ra ta có đủ khiêm tốn nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình, nhất là ta có đủ khiêm tốn đến tòa cáo giảng khi mình có tội không?
Nói đến tình bạn tri kỷ thắm thiết, người VN chúng ta không bao giờ quên được đôi bạn tri kỷ Lưu Bình , Dương Lễ. Họ đã yêu thương nhau thật sự, không phải chỉ bằng lời nói, nhưng còn bằng những việc làm trong suốt cả cuộc đời.
Trong những ngày đầu mới gặp nhau; Lưu Bình là một công tử nhà giàu, phong lưu, tốt bụng. Nhưng vì của cải, tài sản quá nhiều, anh ta chỉ biết lo hưởng thụ mà không nghĩ đến tương lai. Còn Dương Lễ là một sĩ tử nghèo lại hiếu học. Đôi bạn tri kỷ gặp nhau, mặc dù tài sản bên ngoài chênh lệch, nhưng họ có được điểm chung đó là lòng nhân. Lưu Bình lo cho Dương Lễ thành tài, còn chính mình thì không biết lo cho bản thân. Dương Lễ rất đau xót nhưng đành chịu.
Thời cơ đã đến. Lưu Bình sa cơ thất thế, tài sản khánh kiệt, chạy tìm đến người bạn nghèo năm xưa mà mình đã giúp đở. Nhưng anh ta đã thất vọng và bị đuổi ra khỏi nhà. Cô đơn, chán nãn vì thế thái nhân tình. Anh gặp được một người con gái xa lạ giúp đở. Anh quyết lập nên công danh để trả thù người bạn bạt ơn đã đuổi anh ra khỏi nhà.
Có chí thì nên. Lưu Bình đã công thành danh toại. Anh trở về tạ ơn người đã giúp đở mình, nhưng tìm hoài chẵng thấy. Anh đến nhà người bạn để đòi lại sự công bằng. Nhưng anh không thể nào đòi được, vì anh nhận thấy tình thương quá lớn lao, so với khổ nhục kế mà người bạn đã xử dụng để biểu lộ tình thương đối với anh. Vì yêu thương mà người bạn đã hy sinh người vợ yêu quí của mình, cho đến để giúp đở, cứu vớt, bằng cách: cùng chịu gian khổ, chia sẻ những vất vả, và đem anh về con đường ngay chính. Tình yêu đã làm cho người bạn sáng mắt, và tình yêu đã làm cho tình yêu của họ càng thêm vững bền.
“Không có tình yêu nào cao quí hơn tình yêu của người dám chết vì người mình yêu”.
Thiên Chúa đã yêu thương loài người, Ngài đã ban người con yêu quí nhất của Ngài cho loài người. Người Con yêu quí đó đã đến trần gian sống chung với loài người, chịu những cực nhọc đau khổ với loài người. Còn gì nữa ? Cuối cùng đã hy sinh mạng sống vì loài người. Còn tình yêu nào cao quí hơn, và có mối tình tri kỷ nào vượt xa hơn được ? Đến đỗi Thiên Chúa Cha không thể lặng thinh được nên Ngài phải tuyên bố công khai cho mọi người biết: “Con là Con Yêu Dấu Của Cha, Cha Hài Lòng Về Con” .
Tình yêu thương vĩ đại đó đã cải hóa không biết bao nhiêu người. Trải qua 2000 năm lịch sử, Tình yêu đó mỗi ngày một lớn mạnh hơn, cũng mở mắt được nhiều người hơn, làm cho nhiều người nhận thấy được Tình Yêu bao la tuyệt vời để quay trở về với Tình Yêu.
Mỗi người trong chúng ta đều được hưởng trọn vẹn tình yêu đó. Thiên Chúa mời gọi, giúp đở, dẫn dắt và khuyên nhủ chúng ta trở về với Tình Yêu, và Ngài cũng đã dùng tất cả mọi phương cách có thể được, kể cả khổ nhục kế để mời gọi chúng ta thức tỉnh. Đó là qua những thành công và thất bại của cuộc sống, những lần chúng ta cầu xin mà không được như ý. Chúng ta ngở rằng Thiên Chúa không còn yêu thương mình nữa. Nhưng nếu chúng ta chịu mở mắt ra nhìn thì Thiên Chúa đã ban cho chúng ta điều tốt đẹp hơn cái mà chúng ta cầu xin. Bao nhiêu lần gặp thất bại, chúng ta có rút ra bài học gì không ? Những lần chúng ta được thành công, được may mắn: chúng ta có biết tạ ơn Thiên Chúa, để nhìn thấy tình yêu thương bao la của Ngài trong những sự tốt đẹp đó. Nếu nhìn thấy được tình yêu, mỗi người nhìn lại xem đời sống của mình đã biến đỗi như thế nào ? Tình yêu của Dương Lễ thể hiện qua người vợ yêu quí đã cảm hóa được chàng lãng tử Lưu Bình. Còn Tình Yêu bao la tuyệt vời của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, không ảnh hưởng gì đến chúng ta sao ? Con Thiên Chúa đã sống kề cận với chúng ta, Ngài dùng tất cả mọi phương tiện đã ban cho, để mời gọi chúng ta quây trở về với con đường ngay chính. Chẵng lẽ trải qua bao nhiêu năm của cuộc đời, qua bao nhiêu năm mang danh nghĩa là người công giáo, chúng ta không thể động lòng trước tình yêu bao la tuyệt vời của Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta nhìn lại xem: đời sống hiện tại như thế nào? Có tốt hơn trước hay tệ hơn? Chúng ta có tìm cách thay đỗi cuộc sống cho xứng đáng với tình yêu của Người Bạn Tri Kỷ đã hy sinh vì chúng ta chưa ?
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết lắng nghe Tiếng Chúa, và biết đáp lại Tình Yêu Chúa cho xứng đáng bằng đời sống tốt đẹp hơn.
“Có Đấng đến sau tôi, nhưng quyền lực hơn tôi... Người sẽ rửa anh chị em trong Thánh Thần.”( Mk 1:7) Khi đề cập đến Bí Tích Rửa Tội, ngườii Công Giáo cũng như người không thuộc về Giáo Hộii Công Giáo vẫn có những thắc mắc. Người ngoài Công Giáo thì hỏi tại sao lại rửa tội cho trẻ em lúc chúng đang còn nhỏ, đơn sơ và vô tội ? Còn người Công Giáo bằng lòng làm cha mẹ đỡ đầu cho con thiêng liêng, nhưng lại không biết giải thích! Hôm nay Lễ Đức Giêsu chịu Phép Rửa giúp chúng ta nhận ra ơn phúc được làm con Thiên Chúa. Có 2 điểm cần tìm hiểu.
1) Đức Giêsu tự bản tính là thánh, nhưng Ngài nhận phép rửa của Gioan là để chứng tỏ rằng Ngài chấp nhận và thông cảm với nhân loại yếu đuối để cứu họ khỏi sự tối tăm do tội lỗi gây nên. Một đứa trẻ tuy đơn sơ nhưng được sinh bởi cha mẹ bất toàn và tội lỗi. Con sinh ra từ cha mẹ tội lỗi, thì làm sao mà con tránh khỏi bị ảnh hưởng bởi tội mà ra ? Cha mẹ nào tự xưng là vô tội, thì chính họ đang ở trong tình trạng của tội kiêu ngạo mà ông bà nguyên tổ đã phạm! Do đó không một người nào, không một đứa trẻ nào là vô tội.
2) Gioan Tẩy Gỉa xác định rằng ÀĐấng đến sau tôi có uy quyền hơn tôi. Ngài sẽ rửa anh em bằng Thánh Thần À. Nói đến Thánh Thần là nói đến sự can thiệp cách đặc biệt của Thiên Chúa, cách hữu hình qua các Bí Tích. Giáo Hội hiểu được nguồn ơn cứu rỗi tuôn trào từ cạnh sườn Đức Giêsu chịu chết trên thánh gía. Máu và nước chảy ra để tha tội. Ai không chịu Phép Rửa Tội, sẽ không được tham dự các Bí Tích cần thiết khác. Đức Kitô đã chịu chết, nhưng được sống lạii vinh quang, chiến thắng thần dữ. Ngài ban sự chiến thắng và sự sống đó qua bí tích Rửa Tội.
“Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong cho Người. ” (Act 10:38) Khi Đức Giêsu chịu phép rửa của Gioan Tẩy Gỉa, thì Đức Chúa Cha hài lòng và chúc phúc trong việc ban Thánh Thần. Xin cho con biết nhận ra và duy trì ơn phúc được làm con Chúa khi nhận bí tích Rửa Tội.
Trong bài Tin Mừng, ta thấy có hai nhân vật chính: Gio-an Tẩy giả và Đức Giê-su. Trong hai người, Gio-an Tẩy giả là người phàm, đến trước để loan báo; còn Đức Giê-su là Thiên Chúa, là con người thần linh, đến sau để giải phóng nhân loại. Như thế ta thấy: người phàm đến trước loan báo cho con người thần linh đến sau.
Để chu toàn nhiệm vụ loan báo, Gio-an Tẩy giả phải thực hiện tinh thần tự hủy hoàn toàn, nghĩa là hoàn toàn xóa mình đi, coi mình không là gì cả, có như thế vai trò của người mình loan báo mới được nổi bật lên: «Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người»; «Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi» (Ga 3,30).
Người loan báo hay rao giảng được kêu gọi và lên tiếng không phải vì mình, nhưng vì Đấng mà mình loan báo hay rao giảng. Vì thế, muốn loan báo hay rao giảng thật sự đúng nghĩa, chúng ta cần phải sống tinh thần tự hủy, tự xóa mình khi thực hiện công việc này. Tuy nhiên, trong thực tế, chúng ta dễ bị cám dỗ coi việc loan báo hay rao giảng Tin Mừng như một phương tiện để làm cho mình nổi bật lên, được mọi người ca tụng là mình đạo đức, viết hay, giảng hay. Tới một lúc nào đó, chúng ta bắt đầu có khuynh hướng vì mình nhiều hơn vì Chúa. Lúc ấy, một cách nào đó, ta biến Chúa trở thành người loan báo cho ta, làm ta nổi bật lên.
Có thể ban đầu ta hoàn toàn vì Chúa, nhờ đó ta rao giảng về Ngài rất hay, mọi người ca tụng ta là người đạo đức, là «có lửa». Từ khi có danh thơm tiếng tốt ấy, ta bắt đầu bị cám dỗ bảo vệ danh tiếng ấy, và làm cho danh tiếng ấy ngày càng mạnh lên. Danh tiếng ấy có thể giúp ta dễ «thăng quan tiến chức» trong Giáo Hội hay ngoài xã hội. Ta bắt đầu ngày càng trở nên «vì mình» hơn và bớt «vì Chúa» đi. Dần dần ta trở nên kẻ háo danh lúc nào không hay. Từ háo danh đến ham quyền, từ ham quyền đến cố vị chỉ là những bước rất ngắn. Một khi đã ham quyền cố vị rồi, ta dễ dàng bị cám dỗ làm những điều tán tận lương tâm. Vì quyền bính là một con dao hai lưỡi, tuy cần thiết để phục vụ đại chúng, nhưng lại có khả năng tha hóa rất mạnh. Vì thế, những người loan báo hay rao giảng Tin Mừng - nhất là những người đã thành công trong lãnh vực này và đang nắm những địa vị quan trọng trong Giáo Hội hay xã hội - rất cần tinh thần phản tỉnh để luôn luôn tỉnh táo đối với chính mình: «Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn» (Mt 26,41; Mc 14,38). Thực tế cho thấy nhiều người khi chưa nắm quyền bính thì tinh thần phục vụ rất cao, nhưng khi đã nắm được quyền bính thì trở nên khác hẳn. Nhiều anh hùng dân tộc, nhiều chức sắc tôn giáo đã bị tha hóa vì quyền lực.
2. Phàm nhân và thánh nhân trong mỗi người
Bài Tin Mừng hôm nay còn có thể hiểu theo một chiều kích khác rất sâu xa: chiều kích tâm linh. Trong đó, Gio-an Tẩy giả và Đức Giê-su tượng trưng cho hai khía cạnh trong cùng một con người: Gio-an Tẩy giả tượng trưng cho con người phàm của ta, và Đức Giê-su tượng trưng cho con người thánh, con người thần linh, siêu phàm ở trong ta. Chính con người thần linh này trong mỗi người là yếu tố cốt yếu khiến con người là «hình ảnh của Thiên Chúa» (St 1,26-27; 9,6), «giống như Thiên Chúa» (St 1,26b). Đó là chính bản tính Thiên Chúa của Ngài được thông ban cho chúng ta: «Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa» (2Pr 1,4). Chính nhờ có bản tính thần linh thánh thiện này trong bản thân mà Đức Giê-su mới có thể mời gọi ta nên thánh: «Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện» (Mt 5,48).
Giữa con người với con chó, khoảng cách hữu thể tuy không xa, vì cùng là tạo vật, nhưng con chó không bao giờ có thể trở thành người như con người dù có cố gắng luyện tập đến đâu, vì trong con chó không có bản tính con người. Còn giữa con người với Thiên Chúa tuy là một khoảng cách vô tận, nhưng con người có thể nên hoàn thiện, nên thánh như chính Thiên Chúa, vì trong con người đã có sẵn bản tính Thiên Chúa mà Ngài thông truyền cho. Nếu bản thân con người không có bản tính Thiên Chúa thì lời Đức Giê-su mời gọi con người nên hoàn thiện như Thiên Chúa là tuyệt đối bất khả thi, và câu nói đó trở thành vô nghĩa.
Tuy nhiên, sống hoàn thiện như Thiên Chúa không phải dễ, vì bên cạnh con người thánh ấy luôn luôn có một con người phàm. Một danh nhân nào đó nói: «Trong lòng mỗi người, vừa có một vị thánh vừa có một con thú». Thật vậy, có những lúc ta suy nghĩ và hành động như một vị thánh, nhưng cũng có rất nhiều lúc ta lại hành động như một con thú. Và dường như vị thánh và con thú trong bản thân ta phải luôn luôn tranh đấu với nhau để dành thắng thế hầu làm chủ bản thân ta. Có người thì vị thánh thường thắng thế và làm chủ, còn lắm người thì bị con thú thường khống chế toàn bộ con người. Thánh Kinh có nói đến tình trạng trái ngược giữa hai con người này: «Tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn» (Gl 5,17); «Những ai sống theo tính xác thịt, thì hướng về những gì thuộc tính xác thịt; còn những ai sống theo Thần Khí, thì hướng về những gì thuộc Thần Khí» (Rm 8,5). Kết quả của hai cách sống đối nghịch ấy là: «Nếu anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống» (Rm 8,13)
a) Con người phàm thì sống theo xác thịt:
Bản chất của con người phàm là chỉ biết sống cho mình, sống ích kỷ, có khuynh hướng «phình to bản ngã». Vì thế, chỉ quan tâm tới những tham vọng hay lợi lộc ích kỷ của mình, tự coi mình là cái rốn của vũ trụ, muốn mọi người phải phục vụ mình, luôn luôn coi ý riêng của mình là quan trọng, thích lèo lái mọi người theo ý riêng của mình... Kinh Thánh nói về tính cách của phàm nhân: «Những kẻ sống theo xác phàm thì hay mơ ước những gì xác phàm đòi hỏi» (Rm 8,5); «Họ khoe mình khôn sáng nhưng đã nên điên dại» (Rm 1,22); «Ý tưởng họ hóa ra tối tăm, vì họ lìa xa sự sống Chúa Trời» (Ep 4,18); «Lòng trí họ miên man theo điều phù phiếm, họ ngu muội đắm chìm trong bóng tối tăm» (Rm 1,21).
b) Con người thánh sống theo Thần Khí:
Con người thánh là con người sống vị tha, sống theo Thần Khí, theo sự hướng dẫn của lẽ phải, của chân lý, công lý và tình thương. Hành động không bị chi phối bởi những động lực vị kỷ, dục vọng, ý muốn riêng tư, mà bởi tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Khi không còn sống cho bản thân mình nữa, con người thánh trở nên có nhiều sức mạnh tinh thần, luôn khôn ngoan, sáng suốt, can đảm, tâm hồn luôn bình an hạnh phúc, thứ bình an hạnh phúc nội tâm không ai ban được mà cũng không ai lấy mất được, ngoại cảnh không còn làm họ làm đảo điên, đau khổ nữa.
3. Phàm nhân có nhỏ lại thì thần nhân mới lớn lên được
Nơi mỗi con người, phàm nhân được khám phá và ý thức trước tiên. Dần dần con người khám phá ra một tiếng nói, một khuynh hướng, một lực lượng thầm kín - nhiều khi rất mạnh mẽ - lôi kéo mình lên khỏi những ích kỷ cá nhân của phàm ngã. Đó là thần ngã hay con người thánh. Vấn đề là làm sao để thần ngã này lớn lên? Bài Tin Mừng cho ta một bí quyết: Gio-an Tẩy giả - tượng trưng cho phàm ngã - để tự hạ, tự hủy để làm cho Đức Giê-su - tượng trưng cho thần ngã - nổi bật lên. Chỗ khác Gio-an nói: «Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi» (Ga 3,30).
Phàm nhân lúc nào cũng muốn được nổi bật, được phình to lên, nhưng nếu ta chiều theo phàm ngã, thì phàm ngã sẽ lớn mạnh và lấn át thần ngã, làm thần ngã trở nên yếu ớt. Nhưng nếu ta sống tinh thần tự hủy, làm phàm ngã nhỏ lại, thì tự nhiên thần ngã sẽ lớn và mạnh lên. Hai lực lượng ấy luôn luôn tỷ lệ nghịch với nhau: lực này lớn thì lực kia nhỏ lại, lực này yếu thì lực kia mạnh lên. Vì thế, muốn thần ngã lớn lên, thì phải làm cho phàm ngã nhỏ đi. Không gì làm phàm ngã nhỏ đi bằng sống tinh thần tự hủy, tự xóa mình: coi mình chẳng là gì cả, như một người nhỏ bé không có gì là quan trọng, không cố ý làm gì để lôi kéo sự chú ý của người khác. Nhất là không bao giờ đòi hỏi ý riêng của mình phải được thực hiện, mà trái lại sẵn sàng thực hiện thánh ý Thiên Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin hãy biến cải con thành một con người mới, con người sống theo Thần Khí chứ không theo những đòi hỏi của phàm ngã. Nhờ đó bản tính thần linh mà Cha đã gieo mầm vào trong bản thân con nẩy mầm và phát triển. Và hy vọng một ngày kia Cha có thể nói với con như xưa Cha đã nói với Đức Giê-su: «Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con». Xin giúp con đạt được điều ấy.
TN1-B76: ĐỨC GIÊSU ĐƯỢC THẦN KHÍ XỨC DẦU THIÊNG LIÊNG
+ MỘT TÀI XẾ xe tải kia không dám cho xe chạy qua cầu, vì theo suy nghĩ của anh thì nóc chiếc xe tải cao hơn thành cầu tới một tấc. Trong lúc tiến thoái lưỡng nan, không biết phải giải quyết thế nào thì có người đề nghị: xì các bánh xe cho bớt hơi xuống. Người ta làm theo và cuối cùng chiếc xe đã có thể đi qua cây cầu một cách an toàn. Xì hơi cho bánh xe xẹp bớt xuống cũng tương tự như thái độ nhún nhường. Trong giao tiếp với tha nhân, nếu "biết mình biết người, thì trăm trận trăm thắng !". Chính nhờ cư xử cách nhún nhường mà chắc chắn chúng ta sẽ dễ dàng đạt được kết quả trong mọi công việc.
+ ĐỨC GIÊSU phán: "Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng" (Mt 11,29). Ngài dạy: "Anh em gọi Thầy là "Thầy" là "Chúa", điều đó phải lắm. Vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em" (x. Ga 13,14-15). Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã khiêm nhường đến xin Gioan làm phép rửa cho mình, dù Người là Đấng vô tội không cần thanh tẩy (x.Mc 1,9). Còn Gioan Tiền Hô cũng biểu lộ sự khiêm nhường khi tuyên bố rằng: "Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người" (Mc 1,7). Ong cũng khẳng định mình không phải là Đấng Ki-tô, mà chỉ là tiếng kêu trong hoang địa để dọn đường cho người ta đón Đấng Ki-tô sắp đến (x. Ga 1,20.23).
Ông còn nói về Đức Giê-su với các môn đồ rằng: "Người cần được nổi bật lên, còn tôi thì phải lu mờ đi" (x. Ga 3,30)
+ KHIÊM NHƯỜNG là một nhân đức nền tảng của Ki-tô giáo: Trước hết, khiêm nhường là thái độ tôn trông tha nhân. Nói ít nghe nhiều, tránh ba hoa khoe khoang thành tích, tránh phê bình người vắng mặt, kiên nhẫn lắng nghe người khác phê bình góp ý những khuyết điểm của mình, tránh đổ lỗi cho tha nhân nhưng biết nhận lãnh trách nhiệm: "Tiên trách kỷ, hậu trách nhân", sẵn sàng nói lời xin lỗi, luôn biết cảm tạ hồng ân Thiên Chúa, biết cám ơn những ai giúp đỡ làm ơn cho mình, luôn ăn ở hiền lành và nhường nhịn tha nhân. Biết kiềm chế tính nóng giận và tránh to tiếng la rầy người dưới, luôn "Dĩ hoà vi quý", tránh "Bé xé ra to" hay "Chuyện không đáng gì mà làm cho ầm ĩ ". Sẵn sàng đi bước trước đến với tha nhân, tận tình phục vụ hết khả năng nhưng tránh để bị kẻ khác lợi dụng. Tránh thái độ "Thượng tôn hạ đạp", can đảm bênh vực những người yếu thế thân cô thế cô, dám chống lại cường quyền áp bức bóc lột, sẵn sàng bỏ ý riêng để vâng phục ý Chúa qua ý của Bề Trên và ý chung của tập thể.
2) CON LÀ CON YÊU DẤU CỦA TA:
+ SỨC MẠNH CỦA TÌNH THƯƠNG: Tại một giáo xứ thuộc miền quê nước Pháp có hai vợ chồng kia làm nghề nông. Người chồng tên là A-lix và bà vợ là I-sa-ben và hai người hiếm muộn không có con. A-lix từ lâu đã không đến nhà thờ và còn mắc tật nghiện rượu. Nhiều lần say xỉn, A-lix còn phát ngôn bừa bãi, khích bác Chúa và các vị chủ chăn trong đạo. Rồi một ngày kia, sau một chầu rượu, A-lix đã bị té ngã và bán thân bất toại. Hoàn cảnh của hai vợ chồng thật là bi đát: Từ trước đến nay họ sống nhờ việc canh tác vườn cam tại cánh đồng cách nhà khoảng một cây số. Từ ngày A-lix bị liệt phải ngồi một chỗ, thì bà I-sa-ben phải gánh vác toàn bộ công việc: vừa lo chăm sóc cho chồng, lại vừa phải ra đồng làm việc. Mỗi sáng, sau khi giúp A-lix các việc vệ sinh cá nhân và ăn sáng, bà dìu ông ngồi vào chiếc xe lăn, rồi vội vã ra đồng làm việc đến tối mới trở về nhà. Biết được hoàn cảnh của đôi vợ chồng này, Cha Sở đã ghé thăm và kêu gọi giáo dân trong giáo xứ quan tâm giúp đỡ. Các em thiếu nhi giáo lý thì phân công nhau đến đọc báo cho ông nghe, đẩy xe đưa ông đi dạo tại công viên gần nhà.. . Hàng tuần một bác sĩ là giáo dân trong xứ tình nguyện đến khám bệnh và giúp ông tập vật lý trị liệu để mau hồi phục. Vào lễ Giáng Sinh năm đó, khi Cha Sở đến thăm thì đột nhiên A-lix nói với Cha rằng: "Thưa Cha, con muốn xưng tội để được rước lễ vào lễ đêm hôm nay". Cha Sở còn chưa hết ngạc nhiên, thì ông lại nói tiếp: "Thưa Cha, đã 30 năm nay con không còn tin vào Chúa và cũng không đến nhà thờ. Nhiều lần con còn mượn chén rượu để khích bác nói xấu Cha. Thế mà khi con bị bệnh, Cha và bà con trong xứ không những không bỏ mặc con, mà lại còn tận tình giúp đỡ. Con cảm thấy Chúa đang hiện diện qua Cha và mọi người trong giáo xứ. Chính tình yêu mến Chúa mới có thể làm cho Cha, cho ông bác sĩ và bà con trong xứ sẵn sàng hy sinh bỏ ra nhiều thời giờ sức lực để đến thăm và giúp đỡ con, một kẻ tội lỗi đã bỏ Chúa và nhiều lần xúc phạm đến Ngài !. Do đó, giống như đứa con hoang đàng, hôm nay con quyết tâm trở về làm con cái Chúa. Xin Cha thương giúp con". Giáng Sinh năm ấy cả giáo xứ đều vui mừng đón nhận một người lạc xa Chúa trở về sinh hoạt trong cộng đoàn. Chính tình yêu mến Chúa, thể hiện qua việc làm hy sinh phục vụ người bất hạnh của cha sở và của giáo dân trong xứ, đã biến đổi một con người vô tín thù ghét Chúa trở thành một con chiên ngoan ngoãn trong đoàn chiên của Ngài.
+ NGÀY NAY, khi chịu phép Rửa Tội, mỗi tín hữu chúng ta sẽ được ơn tái sinh làm con Thiên Chúa. Vậy ta phải ăn ở thế nào để Thiên Chúa cũng được hài lòng và có thể hãnh diện giới thiệu ta giống như đã nói về Chúa Giê-su sau khi chịu phép rửa của Gio-an rằng: "Con là con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về con".
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) LẠY CHÚA GIÊSU, thật là dễ hiểu khi người ta kéo đến sông Gio-đan để nghe lời Gio-an rao giảng và xin ông làm phép rửa để chuẩn bị tâm hồn chờ đon Đấng Thiên Sai. Nhưng con lại cảm thấy thật khó chấp nhận được việc Chúa mà cũng đến để xếp hàng chung với đám đông kia để xin chịu phép rửa giống như họ.
Nhưng hôm nay, nhờ Giáo Hội dạy bảo nên con mới hiểu được rằng: Chúa là đấng vô tội và thánh thiện tuyệt đối, nhưng đã đến xin Gio-an thanh tẩy là để ông thi hành sứ mệnh tiền hô, làm chứng Chúa là Đấng Thiên Sai trước mặt môn đồ của ông và toàn thể dân chúng. Chúa cũng muốn dạy chúng con bài học về khiêm nhường, một nhân đức nền tảng của các tín hữu chúng con.
Về phần con: Con đầy dẫy tội lỗi và khuyết điểm, thế mà con lại cảm thấy ngại ngùng khi đi xưng tội. Con thật là một người vô tài, thế mà con lại thích được nổi danh, được ca ngợi về tài năng và sự thánh thiện. Con thiếu khả năng, thế mà cứ muốn được nắm giữ các chức vụ then chốt trong cộng đoàn.. .
Lạy Chúa Giê-su, qua việc đến xin chịu phép rửa của Gio-an, Chúa muốn dạy chúng con bài học về đức khiêm nhường. Con xin dâng lên Chúa mọi tâm tư, tình cảm và con người con, xin Chúa thương đổ ơn Thánh Thần thánh hoá và biến đổi con ngày một nên giống Chúa hơn, Lạy Chúa Giê-su, "Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng", xin thanh tẩy con sạch mọi tội lỗi. Xin giúp con hoán cải để ngày một khiêm tốn hơn, xứng đáng được Chúa thứ tha tội lỗi và sẽ tôn vinh con trước toà Chúa Cha sau này.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. -Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
2) LẠY THÁNH MẪU MA-RI-A, nhờ phép Rửa Tội, con đã được trở thành một tạo vật mới và nên con nuôi của Chúa Cha, thành môn đệ của Chúa Giê-su. Con luôn xác tín rằng: Chúa Cha hằng yêu thương con và muốn con được hưởng hạnh phúc.
Xin Mẹ thương giúp con biết noi gương Mẹ: Luôn sống hiếu thảo với Chúa Cha bằng việc năng thưa chuyện với Cha, sẵn sàng lắng nghe lời Cha phán dạy mỗi khi tham dự Thánh Lễ, qua lời chỉ dạy của các bậc Bề Trên và qua các biến cố may rủi xảy tới trong cuốc sống.. . Cho con tìm hiểu Thánh Ý Cha, và sẵn sàng "Xin Vâng” Ý Cha (x. Lc 1,38). Mỗi khi gặp phải điều gì trái ý, xin cho con biết cầu nguyện với Chúa Cha, như Chúa Giê-su đã thưa với Cha Ngài trước giờ khổ nạn: "Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin tha cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha" (Lc 22,41-42)
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
Sông Giođan không chỉ là cảnh quan thiên nhiên kỳ thú mà còn là địa danh chứng kiến nhiều sự kiện quan trọng trong lịch sử Cứu độ. Hôm nay cũng vậy. Chính dòng sông này chứng kiến việc Chúa Giêsu đi vào dòng nước, cúi mình nhận lấy phép rửa từ chính tay Gioan nhằm chuẩn bị cho sứ vụ rao giảng Người sẽ thực hiện. Thấy gì qua sự kiện trọng đại này?
Trước hết, trong Tin mừng, chúng ta thấy, Chúa Giêsu đã không đến từ miền Giuđê hay từ thành Giêrusalem mà lại đến từ Nazarét, miền Galilê- một làng quê hẻo lánh vốn bị thiên hạ xem chả ra gì: “Từ Nazaret, làm sao có gì hay?” (Ga 1, 46). Danh tính của “Đấng quyền năng” xuất thân từ một làng quê “khỉ ho cò gáy”, không trống kèn, không cờ lọng, không người đón rước, cũng chẳng ai tung hô, cứ âm thầm đến bên dòng sông, xếp hàng như bao người khác để xin chịu phép rửa từ tay Gioan- vị tiền hô của mình.
Thế nhưng, chỉ từ khi dưới dòng sông Giođan đi lên, khi con người này thấy “các tầng trời xé ra”, thì mọi việc đã hoàn toàn đổi khác. Theo truyền thống Dothái, từ thời các Ngôn sứ cuối cùng thì các tầng trời, nơi Thiên Chúa ngự, đã khép lại. Ngôn sứ không còn nữa, nên mối liên lạc giữa Thiên Chúa và loài người cũng bị cắt đứt. Bởi thế cho đến hôm nay, khi Chúa Giêsu đáp lại tiếng van nài của vị Ngôn sứ trong cảnh lưu đày khốn khổ: “Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống” (Is 63, 19b) thì đúng là một thời mới đã mở màn, mối liên lạc đã được tái lập giữa Thiên Chúa và loài người.
Mặt khác, chúng ta thấy kiểu nói “xé ra” còn một lần nữa xuất hiện trong tin mừng Máccô khi thánh sử miêu tả Chúa Giêsu tắt thở trên Thánh giá: “Bức màn trướng trong đền thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới” (Mc 15, 38). Điều này cho thấy những gì khai mở của ngày hôm nay sẽ được hoàn tất mỹ mãn trên đồi Canvê. Chúa Giêsu mở một lối đi cho hết tất cả mọi người được tự do đến với Thiên Chúa.
Bên dòng sông Giođan hôm nay, chúng ta không những được chiêm ngắm cảnh “các tầng trời xé ra” mở ra một trang sử mới trong mối liên hệ giữa Thiên Chúa và nhân loại mà còn được chiêm ngưỡng Thần Khí tựa chim bồ câu ngự xuống trên mình Chúa Giêsu. Nói đến chim bồ câu, chúng ta thường hay nghĩ đến biểu tượng của hoà bình, còn ở đây, không chỉ có vậy, đó còn là biểu tượng cho Tình yêu của Thiên Chúa đến trần gian (x. Dc 2,14; 5,2). Biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay là khởi đầu cuộc tạo thành mới. Và vì thế, hình ảnh chim bồ câu ngự xuống như gợi nhớ đến sách Sáng thế khi mà Thần Khí Giavê Thiên Chúa bay là là trên mặt nước trong cuộc tạo thành (x. St 1,2). Không dừng lại ở đó, biến cố này còn để đánh dấu ngày Chúa Giêsu được xức dầu tấn phong bởi Chúa Thánh Thần và minh nhiên xác nhận Người chính là Đấng Cứu độ mà Thiên Chúa đã hứa từ ngàn xưa cho nhân loại.
Chưa hết, ngày hôm nay, dòng sông Giođan còn chứng kiến tiếng vọng từ trời cao chứng thực cho biến cố trọng đại này. “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Được trích dẫn từ ba câu Kinh thánh khác nhau trong Cựu ước, tiếng vọng đó không gì khác hơn nhằm minh định rằng chính Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, là quân vương và là người Tôi trung của Thiên Chúa. (x. Tv 2, 7; St 22, 2; Is 42,1). Người Tôi Trung đó hôm nay được Thần Khí Giavê Thiên Chúa ngự xuống, xức dầu phong vương và sai đi rao giảng Tin mừng giữa lòng nhân loại. Chính Người là nguồn mạch bình an, là ơn cứu rỗi cho toàn thể nhân loại.
Mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa là dịp để mỗi người chúng ta tạ ơn Thiên Chúa vì đã ban cho chúng ta được làm con cái Chúa qua bí tích rửa tội. Có thể nói, chính Chúa Kytô đã đi vào dòng sông Giođan để thánh hiến dòng sông, thánh hiến nguồn suối mát hầu đem đến cho chúng ta sự sống trường sinh. Sông Giođan thật có phúc vì được Thiên Chúa ghé thăm, chúc lành và thánh hoá. Ước gì mỗi Kytô hữu cũng sẽ trở nên những dòng sông Giođan để đem ơn Chúa, đem nguồn suối hoan lạc của tình yêu Thiên Chúa thấm đẫm thế giới này.
Cả ba Tin Mừng Nhất lãm đều kết thúc thuật trình Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan bằng lời tuyên phán của Chúa Cha: “ Đây là Con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về Con” hoặc “ Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” ( x.Mt 3,17; Mc 1,11; Lc 3,22 ). Chúa Cha hài lòng với Chúa Chúa Giêsu về chuyện gì đây ? Dĩ nhiên là về chuyện Chúa Giêsu tự nguyện xếp mình vào hàng đoàn người tội lỗi đang đến để cho Gioan Tẩy Giả làm phép rửa bày tỏ lòng sám hối ăn năn. Thế nhưng Chúa Giêsu vốn là Thiên Chúa dù đã mặc lấy xác phàm nhân loại như chúng ta mọi đàng nhưng chẳng hề vương bẩn tội nhơ ( x.Dt 4,15 ). Là Đấng Thánh của Thiên Chúa, Người hoàn toàn thanh sạch thế mà Người xếp hàng giữa đám người tội lỗi để làm gì ? Chắc chắn không phải là để nhờ Gioan làm phép thanh tẩy hầu được nên thanh sạch. Cũng chắc chắn rằng không phải Người cố tình làm gương cho chúng ta về việc hoán cải ăn năn như đã từng có nhiều nhà tu đức từng suy diễn. Không ai có thể làm gương một việc mà chính mình không thực làm. Như thế chìa khoá vấn đề phải nằm ở chỗ khác.
Mang lấy xác phàm, trở nên giống loài người ta mọi đàng, thì Chúa Giêsu vẫn phải cần có thời gian để hiểu biết ý Chúa Cha cũng như tự nhận thức về căn tính của mình. Các nhà Kitô học đồng thuận với nhau rằng khi còn nằm trong nôi, còn ôm lấy bầu sữa mẹ, thì trẻ Giêsu chưa thể nhận thức được căn tính Thiên Chúa của mình. Và một điều ít ai chối cải đó là năm lên mười hai tuổi, khi lưu lại Đền thờ Giêrusalem ba ngày nhân chuyến cùng cha mẹ hành hương, thì thiếu niên Giêsu đã ý thức về căn tính Thên Chúa của mình. Biết mình là Thiên Chúa, thế nhưng để biết sứ vụ của mình là cứu độ nhân loại và cứu độ nhân loại như thế nào thì Chúa Giêsu cũng cần phải có thời gian cần thiết để tìm hiểu thánh ý Chúa Cha.
Nhiều nhà Kitô học nhìn nhận rằng khi Chúa Giêsu đến chịu phép rửa tại bờ sông Giođan chính là lúc Người tìm ra con đường cứu độ. Nói đến sự ơn cứu độ, các nhà thần học lẫn tu đức thường dùng hình ảnh cứu vớt người đang chìm dưới sông nước. Không biết bơi mà rơi xuống hố nước sâu thì sự sống như không còn thuộc vào chính bản thân mình. Cần phải có một ai đó độ trì, cứu vớt, may ra mới được sống.
Để cứu độ nhân loại khỏi vùng lầy tội lỗi, Chúa Kitô không đứng bên trên mà kéo. Người đã tự nguyện đi xuống tận đáy sâu kiếp người khi vào trần gian. Đồng thân với con người trong kiếp phàm hèn chưa đủ, Chúa Kitô còn muốn đồng phận với loài người trong kiếp tội nhân, dù Người hoàn toàn vô tội. Tình yêu lên đến đỉnh cao khi người ta tự nguyện đồng thân, đồng phận với nhau. Đồng thân đồng phận với nhau là một trong những hình thức liên đới đến cùng. Là con chiên tinh tuyền, là người tôi tớ trung thành và nhân hậu, Chúa Kitô đã nhận lấy mọi hậu quả tội lỗi của loài người vào chính bản thân Người. Điều đã được Ngôn sứ Isaia loan báo xưa về “Người Tôi Trung” nay ứng nghiệm nơi chính Chúa Kitô ( x. Is 42,1-9; 49,1-7; 50,4-11 ).
Chọn con đường đi xuống để nâng loài người sa ngã lên, sự chọn lựa của Chúa Giêsu đã làm hài lòng Chúa Cha. Đây là một sự chọn lựa phát xuất bởi tình yêu sung mãn. Chúa Thánh Thần với hình chim bồ câu ngự xuống trên Người là một dấu chỉ. Và các tầng trời mở ra, nghĩa là con đường cứu độ nay đã khai mở cho con người. Việc Chúa Giêsu chọn con đường đi xuống giúp chúng ta xác tín những chân lý sau:
1.Không một ai là không có thể được cứu rỗi: Các cứu hộ viên đứng trên bờ sông mà đưa tay ra thì những người ở xa bờ hay đang chìm dưới nước quả là khó có cơ may được cứu. Trái lại khi các cứu hộ viên đã lặn sâu xuống đáy sông thì mọi người đều có thể được cứu sống. Chúa Giêsu đã cúi xuống dưới chân các tông đồ, Người đã cúi xuống dưới chân Giuđa, kẻ đã rắp tâm phản bội Người và Người sẵn sàng cúi xuống dưới chân hết mọi người, trong mọi hoàn cảnh. Chỉ cần chúng ta đồng thuận thì Người sẽ nâng chúng ta lên cùng Chúa Cha.
Mọi người đều có thể được cứu rỗi. Một chân lý của niềm tin và của niềm hy vọng. Bất cứ ai, dù trong hoàn cảnh tồi tệ nào đi nữa, thì vẫn luôn có Giêsu Kitô đứng dưới chân để sẵn sàng nâng lên. Chính vì thế mà thất vọng về chính mình là một sự tồi tệ thật đáng trách không kém gì khi ta thất vọng về tha nhân.
2.Trước tiên hãy trách mình, đừng trách tha nhân hay phàn nàn Chúa, nếu giả như chúng ta vẫn mãi mê trong tội. Một trong những thói xấu của người đắm chìm trong tội đó là tìm đủ lý do để bào chữa. Để làm giảm nhẹ trách nhiệm của mình, khi phạm tội, chúng ta thường hay đổ lỗi cho hoàn cảnh, cho tha nhân, cho ma quỷ và có khi cho cả Thiên Chúa. Phải tiên thiên loại trừ việc gán cho Thiên Chúa là tác nhân gây sự xấu vì Thiên Chúa không hề, đúng hơn là không thể cám dỗ một ai. Chúng ta cũng cần chân nhận rằng thần dữ, người xấu hay ngoại cảnh cũng có góp phần nào đó trong tội của chúng ta. Tuy nhiên, các tác nhân ấy chỉ có thể làm tăng giảm mức độ trách nhiệm của chúng ta trên tội của mình. Nhưng không ai khác, chính chúng ta phải là người trực tiếp chịu trách nhiệm mọi hành vi tội lỗi của mình.
Mừng mầu nhiệm Chúa Giêsu chịu phép rửa, mở đầu cuộc đời công khai rao giảng Tin Mừng, hãy cùng cảm tạ và ngợi khen Thiên Chúa vì đã yêu thương loài người đến cùng. Không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, trong Đức Giêsu Kitô, Đấng đã tự nguyện đồng hàng với chúng ta trong kiếp tội nhân. Cúi mình để cho Gioan làm phép rửa là điểm khởi đầu và điểm kết thúc là thân phận một tội nhân trên thập giá.
Cách đây đã khá lâu, xuất hiện ở Pháp một cuốn sách: «Các thánh đi xuống hỏa ngục». Cuốn sách diễn tả các hoạt động của những Linh Mục thợ thuyền đã rời bỏ Giáo Hội để sống liên đới hoàn toàn với giới thợ thuyền, nghĩa là họ đã đi con đường mà Giáo Hội công khai phê bình và phủ nhận.
Con đường của những vị Linh Mục thợ thuyền này đi sâu vào tất cả các lãnh vực của cuộc sống con người, những kẻ được ghi dấu bởi sự đói nghèo, bởi sự khốn cùng và cả những đen tối khác.
Kinh nghiệm sống của những Linh Mục thợ thuyền cuối cùng đã bị Giáo quyền Pháp phủ nhận. Chắc chắn là đã có nhiều vị trong số các Linh Mục thợ thuyền đó đã lệch lạc trên con đường đi tới với người nghèo, nhưng đàng khác, người ta cũng phải công nhận là cộng đồng thợ thuyền người Pháp luôn biết ơn ghi nhớ con đường dẫn vào «hỏa ngục» của đời họ mà các Linh Mục thợ thuyền đã đi. Chính tôi đã hơn một lần nghe người ta phàn nàn: «Trước kia Giáo Hội đã đến với chúng tôi. Ngày nay chúng tôi đã bị xa tránh!»
Và trong bài Tin Mừng hôm nay chúng ta đã nghe Ðức Giêsu đã đi trên con đường nào! Người đã không hề xa tránh những người nghèo khổ và những người tội lỗi.
Phép Rửa của Ðức Giêsu ở sông Gio-đan đã cho chúng ta thấy rằng Con Thiên Chúa cao cả đã hoàn toàn dấn thân sống hòa mình và chìm đắm mình vào kiếp sống gian khổ hèn yếu của phàm nhân. Vâng, qua cuộc sống cụ thể của Người với từng lớp người thấp kém và hèn hạ nhất trong xã hội, Ðức Giêsu đã hiện thực đúng nghĩa của chữ «chìm đắm.» Nhưng khi chúng ta nghe nói đến chữ «chìm đắm», tự nhiên chúng ta sẽ có ngay một cảm giác tiêu cực nào đó. Vì ai để mình «chìm đắm», thì phải hiểu là người đó đã nhập bọn với những người chẳng những là thiếu đứng đắn, mà nhiều khi còn là những kẻ tội phạm, những kẻ tội lỗi và rồi cùng họ làm những điều phạm pháp.
Phúc Âm đã tường thuật là Ðức Giêsu đã vào nhà của những kẻ tội lỗi và cùng đồng bàn với họ (x. Lc 19,7). Thực vậy, Ðức Giêsu đã không ngại ngùng đi vào tận đáy tất cả những chiều sâu của cuộc sống con người. Người đã đi xa đến nỗi Người đã không còn phân biệt mình với những kẻ tội lỗi nữa. Quả thực Ðức Giêsu đã nhập bọn với những kẻ tội lỗi, với những tội phạm và với những kẻ bị khinh bỉ, nhưng không phải để cùng họ làm điều xằng bậy phạm pháp, nhưng để yêu thương, che chở và cứu vớt họ Và cái chết của Người trên thập giá như một tên tội phạm là điểm chấm tận của con đường Người đã đi đó!
Tuy nhiên, trên con đường của Người trong một thế giới vô đạo và bất luân, Ðức Giêsu đã không hề lẻ loi một mình. Từ khởi đầu, Ðức Chúa Cha luôn ở bên Người và đã cho Người hay là Người đang bước đi trên chính lộ, trên con đường tương ứng với thánh ý Thiên Chúa, mặc dù nhiều người khác lại phê bình, chỉ trích và kết án. «Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con». Nói cách khác: Cha rất hài lòng, là Con đã chọn đi con đường hoàn toàn liên đới với những kẻ đã hư mất, với những người đau khổ và bị coi khinh. Con hãy cứ tiếp tục bước đi trên con đường đó, cả khi nó sẽ bị chấm tận trong một thảm họa chóng qua. Con đừng sợ: Cha luôn ở bên Con với tất cả tình yêu thương của Cha!
Cả những lời Ðức Giêsu thốt lên trong khi hấp hối trên thánh giá: «Lạy Chúa, lạy Chúa, sao Chúa bỏ rơi con?», cũng không thể làm cho chúng ta hiểu sai về Cha trên Trời. Những lời đó là câu mở đầu của Thánh Vịnh Ai Ca (Tv 22), mà một trong những câu cuối Thánh Vịnh đã ca ngợi lòng nhân hậu của Thiên Chúa đối với những người công chính biết kính sợ Người: «Bởi vì Thiên Chúa chẳng coi thường, chẳng khinh miệt kẻ nghèo hèn khốn khổ, cũng không đành ngoảnh mặt làm ngơ, nhưng đã thương nghe lời cầu cứu» (Tv 22,25). Người ta có thể quả quyết được rằng Ðức Giêsu cũng đã nói lên cho mình những lời đó khi người còn thoi thóp trên Thánh giá.
Hình ảnh con chim câu đậu xuống trên Người sau khi chịu phép rửa cũng đã chứng minh rằng con đường Ðức Giêsu chọn đi về phía những người tội lỗi đã không hề bị Thần Khí bỏ rơi. Trái lại, Chúa Thánh Thần đã cho Người sức mạnh để có thể chữa lành tất cả những kẻ đang «bị giam cầm trong quyền lực của ma quỉ» (Cv 10,38).
Nếu Phép Rửa của Chúa là tượng trưng cho sự dấn thân của Người vào cuộc sống nhân loại chúng ta và ám chỉ đến cái chết và sự sống lại của Người, thì chúng ta cần phải xét lại con đường sống của chúng ta: Chúng ta đang đi trên con đường nào? Chúng ta có can đảm đi tới những người sống ngoài lề xã hội? Chúng ta cư xử thế nào với những người đã không thành công trong cuộc sống, với những kẻ phạm pháp tù đày, với những người nghiện ngập tứ độ tường, với những người lang thang đầu đường xó chợ? Chúng ta đối xử thế nào với những người ngã sa và sống trong vòng tội lỗi?
Vâng, chúng ta là những người đã được rửa tội nhân danh Thiên Chúa. Liệu chúng ta có thể sống hòa mình, sống chìm đắm theo kiểu cách của Ðức Giêsu không? Liệu chúng ta có can đảm tiếp cận với xã hội xấu để có thể mang lại cho nó một bộ mặt mới mẻ không? «Các thánh đi xuống hỏa ngục» muốn ám chỉ các Linh Mục thợ thuyền ở Pháp, những người muốn bắt chước Ðức Giêsu dấn thân sống cho những kẻ bị thua thiệt mất mát trong cuộc sống. Có phải chúng ta muốn có được Thiên đàng trên trái đất, còn thế gian chúng ta lại giao mặc cho ma quỉ?
Ước gì Thánh Lễ hôm nay có thể dẫn đưa chúng ta vào con đường của Ðức Giêsu, tức con đường dẫn tới mọi anh em đồng loại của chúng ta, cách riêng những người nghèo đói, những người đau khổ và những người bị khinh khi miệt thị.
Ðức Giêsu, Người Anh Cả của chúng ta, đã dấn thân trọn vẹn cho loài người tội lỗi đến nỗi phải hy sinh mạng sống mình. Tình yêu của Người thật quá bao la! Nhưng Người đã phục sinh để sống trong một cuộc sống đầy sung mãn.
Con đường Ðức Giêsu đi thật khó khăn, nhưng cuối đường là sự sống thật, là hạnh phúc viên mãn! Chúng ta cũng sẽ đi theo con đường đó?
Người ta vẫn thường nói hay đúng hơn là người ta vẫn thường thích cái gì là mới, còn những gì là cũ người ta lại ít trân trọng. Thử hỏi trong nhân gian được mấy người chơi đồ cổ. Chưa chắc chơi đồ cổ vì đã thích đồ cổ vì có thể thích được nổi tiếng hay nắm giữ trong tay tài sản quý chứ thật sự để mà quý mến, để mà trân trọng chắc được mấy người ? Người ta vẫn thường ví cho những cái mới được trân trọng bằng câu nói: “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy !”. Vậy thì sau “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy” con người sẽ ra sao ? Thường thì phai dần và nhạt dần theo năm tháng nếu như ta không dừng lại để nhìn, để xem lại vấn đề để mà trân trọng, để mà quý mến.
Một người tu sĩ, ngày khấn dòng với biết bao nhiệt huyết, biết bao nhiêu ơn Thánh, đặc biệt là Thần Khí Chúa sẽ rất quyết tâm, rất cương quyết với lời tuyên khấn của mình. Đơn giản nhất một lời khấn mà người tu thường khấn đó là sự khó nghèo. Sau ngày khấn là những ngày hội nhập với cộng đoàn, cộng đồng vì mãn thời gian Tập Viện. Những ngày ấy riêng về khoản khó nghèo thôi, thử hỏi được mấy người sống được cái thuở ban đầu đơn sơ của đời tu hay là cứ vun vén về cho mình đầy phòng. Nếu thi thoảng không đặt mình xem lại mình về những lời mà mình tuyên khấn thì cũng sẽ quên và lại vun vén, vơ vét cho mình đầy vật chất.
Một linh mục, trong cái ngày được đặt tay để nhận ơn Thánh trong sứ vụ của mình sao mà hay quá ! “Con có hứa vâng phục Giám mục và bề trên hợp pháp của con không ?” khi nghe Giám mục chủ sự Thánh lễ truyền chức hỏi thì tất cả các ứng sinh nhanh nhảu đáp “Thưa con hứa !”. Và nữa, “con hãy nhận lấy lễ vật này mà dâng lên Thiên Chúa, con hãy rập đời sống con theo Mầu Nhiệm Mình và Máu Thánh Chúa”. Khi ấy, lòng trào dâng ơn Thánh và niềm vui, ứng sinh phấn khởi thưa vâng để lãnh nhận sứ vụ linh mục cao cả mà Thiên Chúa thương ban. Thế nhưng, cuộc đời vị linh mục đâu đơn giản như mọi người nghĩ, đâu thanh thản như mọi người thấy. Những lúc bình lặng của cuộc đời thì không sao nhưng thử hỏi những lúc gặp gian nan thử thách thì cái thuở ban đầu, cái mối tình giữa vị Thiên Chúa mà bao lâu nay vị linh mục theo đuổi còn được bao nhiêu ?
Hai vợ chồng trẻ cũng thế ! Những ngày đầu đến với nhau, cưới nhau sao mà vui quá, sao mà hạnh phúc quá, sao mà quấn quýt bên nhau thế nhưng rồi những ngày sau đó ra sao ? Những ngày chồng ốm, vợ bệnh, con đau còn có còn chăng cái thuở ban đầu, cái vẻ đẹp của ngày mới cưới, cái hồn thiêng của lời thề hứa khi cử hành bí tích Hôn phối chăng ? Những ngày mới quen nhau, những ngày mới yêu nhau, những ngày mới cưới sao mà nó hay quá nhưng khi cưới rồi nó như thế nào ?
Và rồi, trước khi tuyên lời khấn dòng, hứa sống sứ vụ linh mục hay thề hứa sống đến ngày “răng long đầu bạc” tuỳ theo ơn gọi của mình mỗi kitô hữu phải sống cái Bí Tích Thanh Tẩy hay còn gọi là Phép Rửa mà mỗi người lãnh nhận. Phép Rửa mà chúng ta khi lãnh nhận, căn cốt nhất của Phép Rửa ai ai cũng biết đó là lòng tin, tin nhận vào Đức Giêsu Kitô là Chúa. Như Thánh Gioan trong thư của Ngài vừa nhắc nhở chúng ta:
“Phàm ai tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô,
kẻ ấy đã được Thiên Chúa sinh ra.
Và ai yêu mến Đấng sinh thành,
thì cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra.
Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được
mình yêu thương con cái Thiên Chúa:
đó là chúng ta yêu mến Thiên Chúa
và thi hành các điều răn của Người.
Quả thật, yêu mến Thiên Chúa
là tuân giữ các điều răn của Người.
Mà các điều răn của Người có nặng nề gì đâu,
vì mọi kẻ đã được Thiên Chúa sinh ra đều thắng được thế gian.
Và điều làm cho chúng ta thắng được thế gian,
đó là lòng tin của chúng ta”. (1 Ga 5, 1-4)
Thánh Gioan nói rất rõ ràng chứ không mập mờ, không hai ý. Ngài nói rõ ràng: Tin là yêu mến ! Đơn giản có thế thôi !
Thật ra mà nói, không đơn giản và không dễ chút nào cả.
Như người tu sĩ, linh mục cũng thế, thuở ban đầu quá tin nên quá yêu mến ! Đơn giản quá sức nhưng dần dà, thời gian trôi theo năm tháng có còn tin, có còn yêu mến như ngày đầu như đã nói không mới là chuyện quan trọng.
Như hai vợ chồng, ban đầu cũng tin, cũng yêu mến nhưng thời gian dần trôi có còn tin, có còn yêu mến hay không mới là chuyện cần bàn.
Hôm nay, nhân cái ngày mà Chúa Giêsu ra sông Giođan để cho ông Gioan để lãnh nhận Phép Rửa cũng là dịp, là duyên để mỗi người chúng ta nhìn lại Phép Rửa mà chúng ta tin nhận. Cái thuở ban đầu, cái mối tình đẹp giữa ta và anh Hai Giêsu mà ta tin theo còn được bao nhiêu hay là nó cũng nhạt dần, nó cũng phai dần.
Ngày hôm nay, không chỉ ở thành thị, đời sống tôn giáo, lòng tin - cậy - mến vào Thiên Chúa bị giảm sút mà cả ở thôn quê. Điều này gợi lên cho ta nhiều suy nghĩ. Một thực trạng hết sức đau lòng đó là ở những vùng quê nghèo, ban đầu họ theo Chúa, họ tin Chúa rất dễ thương. Sau bao năm tháng, vị linh mục đặc trách cùng với giáo dân miệt mài xây cho cộng đoàn giáo xứ ngôi Thánh Đường thật to, thật lộng lẫy, thật khang trang nhưng lượng giáo dân đến tham dự Thánh Lễ, cử hành các Bí Tích nó cứ giảm dần theo năm tháng. Được biết một ngôi nhà thờ thật là to, tốn không biết bao nhiêu công sức mới tạo dựng. Tưởng chừng ngôi nhà thờ ấy sẽ đáp ứng, sẽ thoả mãn nhu cầu Phụng Vụ nhưng nào ngờ, ngày thường chỉ có loe ngoe vài mạng nên phải dùng tầng hầm của ngôi Thánh Đường đó để dâng lễ ! Không chỉ một mà cũng có nhiều Thánh Đường bây giờ rơi vào tình trạng đáng buồn này.
Nguyên nhân của tình trạng này có lẽ là mỗi người chúng ta đã không còn đi đúng đường lối mà Thiên Chúa chỉ dạy, lòng tin mà lòng mến mà Thánh Gioan đã nói. Ngôn sứ Isaia đã nói với chúng ta qua bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe: “Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta sấm ngôn của Đức Chúa. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy. Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó”. (Is 55, 8-11)
Chúng ta, thường rơi vào căn bệnh của chúng ta, rơi vào cái lý luận cùn của chúng ta chứ chúng ta không đi theo đường lối của Thiên Chúa. Tư tưởng của ta lúc nào cũng khác xa tư tưởng của Thiên Chúa vậy mà chúng ta cứ tưởng chúng ta hơn Chúa mới là lạ !
Isia đã không nhắc nhớ chúng ta sao ?
Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống,
tốn công lao vất vả vào thứ chẳng làm cho chắc dạ no lòng?
Hãy chăm chú nghe Ta, thì các ngươi sẽ được ăn ngon,
được thưởng thức cao lương mỹ vị.
Hãy lắng tai và đến với Ta, hãy nghe thì các ngươi sẽ được sống.
Ta sẽ lập với các ngươi một giao ước vĩnh cửu,
để trọn bề nhân nghĩa với Đa-vít. (Is 5, 2-3)
Chúng ta vẫn cứ mãi cắm cúi đi tìm những cái gì mà không làm cho chúng ta được sống như Chúa nói. Chúng ta vẫn đi tìm cho chúng ta những thứ gì mà sẽ mất ngày mai.
Nhà thơ Tuý Linh đã để lại cho chúng ta câu thơ rất hay:
“Sống trong cuộc đời này không phải để giành giật
Những gì mà ta sẽ mất ngày mai”.
Vâng ! Chúng ta nhận Phép Rửa nhiều năm nhưng chúng ta vì lý do này lý do khác đã nhạt nhẽo với tình yêu thuở ban đầu của Thiên Chúa. “Cái thuở ban đầu lưu luyến” giữa ta và Chúa còn đơn sơ, còn mộc mạc, còn dễ thương, còn chân thành như cái ngày mới nhận Phép Rửa hay không ? Điều này chỉ có ta và Chúa biết mà thôi.
Hôm nay, xin Chúa nhắc nhớ chúng ta về Phép Rửa mà ta đã tin nhận. Nhận Phép Rửa là Tin, Tin ấy lại biểu lộ ở Tình Yêu. Xin Chúa là Vua Tình Yêu đến và ở lại với mỗi người chúng ta để ngày mỗi ngày chúng ta yêu Chúa và yêu anh chị em đồng loại hơn.
Nếu phép rửa của ông Gioan tẩy giả không có công hiệu tha tội thì tại sao Ðức Giêsu là Ðấng vô tội lại đến xin chịu phép rửa ở sông Gio-đan? Ðây chính ông Gioan đã trả lời cho câu hỏi này:
Tôi chỉ làm phép rửa bằng nước, còn Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần (Mc 1:8). Như vậy phép rửa của Gioan chỉ là nghi thức, một tác động sám hối để sửa soạn cho người ta đón nhận Ðấng Cứu thế. Bằng việc chịu phép rửa, Ðức Giêsu muốn xác nhận sứ mệnh và phê chuẩn việc làm của ông Gioan. Chúa còn tỏ cho nhân loại thấy tầm quan trọng của Bí tích Rửa tội mà Người sẽ thiết lập sau này.
Mặc dù không phải là bí tích rửa tội, phép rửa mà Ðức Giêsu lãnh nhận bởi ông Gioan cũng đánh dấu quyết liệt trong đời sống của Người. Khi Chúa chịu phép rửa, có tiếng phê chuẩn từ trời: Con là Con yêu dấu của Cha; Cha hài lòng về Con (Mc 1:11). Với tiếng phán từ trời, Chúa Giêsu được Thiên Chúa Cha công nhận là người đến để cứu chuộc nhân loại. Tiếng từ trời phán có liên hệ rất gần gũi với lời ngôn sứ Isaia về người đầy tớ đau khổ: Ðây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người ta tuyển chọn và quí mến (Is 42:1). Từ ngữ Con trong Phúc âm thánh Mác-cô được thay thế vào từ ngữ tôi trung trong sách ngôn sứ Isaia ám chỉ Chúa Giêsu là tôi tớ đau khổ của Ðức Giavê. Và đó là điều mà Gioan Tẩy giả đã giới thiệu Ðức Kitô: Ðây chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xoá tội trần gian (Ga 1:29).
Phép rửa mà Đức Giêsu lãnh nhận nhắc nhở cho ta về phép Rửa tội của mỗi người, đánh dấu việc khởi đầu của đời sống đức tin. Ðời sống đức tin của người tín hữu bắt đầu khi ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Trong nước rửa tội, ta trở nên người mới với đời sống mới. Bí tích Rửa tội vừa là việc kết thúc vừa là việc khởi đầu. Bí tích Rửa tội kết thúc đời sống trong bóng tối tội lỗi và bắt đầu đời sống mới trong ơn nghĩa với Chúa. Bí tích Rửa tội là việc tham dự vào cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa, nghĩa là người chịu phép Rửa tội phải chết đi cho tội lỗi, để được sống lại với Chúa trong ơn thánh. Ðó là ý nghĩa của lời Chúa nói với ông Nicôđêmô: Không ai có thể thấy nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra bởi nước và Thánh thần (Ga 3:5). Và rồi Chúa thiết lập Bí tích Rửa tội: Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha, và Con và Thánh thần (Mt 28:19).
Bí tích Rửa tội không phải là giấy thông hành để được vào nước Trời. Người ta có thể chứng minh có tất cả các giấy chứng chỉ về đạo giáo như: chứng chỉ rửa tội, rước lễ lần đầu, thêm sức, cưới hỏi.. Tuy nhiên chưa chắc người ta đã sống đức tin và trưởng thành trong đức tin. Người ta có thể chịu Phép rửa tội lâu năm, nhưng đời sống vẫn không có gì thay đổi, vẫn khô khan, nguội lạnh và làm biếng việc lành. Tại sao lại như vậy? Có lẽ tại vì người ta làm việc đạo một cách máy móc cho qua lần chiếu lệ, hay mặc cả với Chúa để được hưởng giá rẻ trong việc giữ đạo.
Khi chịu Phép Rửa tội, người tín hữu phải tỏ ra tâm tình sám hối đi kèm. Tuy nhiên làm sao trẻ thơ có thể giục lòng sám hối? Ở đây, cha mẹ và người đỡ đầu và toàn thể dân Chúa thay thế cho con trẻ khi chịu phép rửa tội để giục lòng sám hối mà nhận lãnh đức tin. Để nhắc nhở cho người tín hữu về những ơn ích của Bí tích Rửa tội, hằng năm vào lễ Phục sinh, Giáo hội cho ôn lại lời hứa khi chịu Phép Rủa tội là: từ bỏ tội lỗi, từ bỏ Xatan và những quyến rũ gian tà. Giáo hội còn nhắc nhở cho người tín hữu tin vào Thiên Chúa là Cha, tin Chúa Giêsu Kitô và tin Chúa Thánh thần. Ngươòi tín hữu còn được nhắc nhở để đặt niềm tin vào Giáo hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền, tin phép tha tội, tin xác sống lại và sự sống vĩnh cửu nữa.
Bí tích Rửa tội là một biến cố lớn trong đời sống người tín hữu. Hoặc được rửa tội khi còn tuổi măng sữa, hay khi đã lớn khôn, người ta cần đem ý nghĩa vào việc rửa tội. Nếu được rửa tội khi đã khôn lớn, người ta phải xác tín về đức tin và về đạo. Nếu được rửa tội lúc còn nhỏ dại, khi lớn lên, người ta phải tự phê chuẩn đức tin mà ta đã lãnh nhận khi chịu phép Rửa tội. Ta không thể cậy dựa và tuỳ thuộc vào đức tin của cha mẹ và người đỡ đầu mãi mãi. Ta phải tập đi tập đứng trong đức tin. Khi mà hạt giống đức tin được vun trồng trong đời sống, ta phải nuôi dưỡng, chăm sóc, nếu muốn cho đức tin được tăng trưởng và sinh hoa kết quả thiêng liêng.
Lời nguyện xin cho được ơn nhận ra tầm quan trọng của Bí tích Rửa tội.
Lạy Chúa Giêsu! Đấng thiết lập Bí tích Rửa tội.
Bằng việc chịu phép rửa sám hối,
Chúa đã muốn phê chuận sứ mệnh của thánh Gioan.
Chúng con cầu nguyện cho những người tin Chúa
mà không nhận phép rửa tội.
Xin cho họ nhận thức được
tầm quan trọng của Bí tích Rửa tội.
Còn những người đã được sinh lại trong nước và Thánh thần,
xin cho họ được tiếp tục đi tìm kiếm nước Chúa. Amen. Nguồn vietcatholic.org
Sau Lễ Hiển Linh, Hội Thánh mừng Lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa. Lể Hiển Linh kết thúc thời TN1-B82
Sau Lễ Hiển Linh, Hội Thánh mừng Lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa. Lể Hiển Linh kết thúc thời thơ ấu (cả thời thiếu niên) của Chúa Giêsu. Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa mở đầu giai đoạn đời sống công khai của Người. Sự kiện Chúa Giêsu nhận phép rửa từ tay Gioan trong dòng sông Giócđan mang một ý nghĩa tôn giáo hết sức đặc biệt.
Chúng ta hãy chăm chú lắng nghe Lời Chúa và tự hỏi và tự trả lời: Việc Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa, Đấng Mêsia của Thiên Chúa chịu phép rửa trong sông Gióc-đan có ý nghĩa gì, đối với chính Chúa Giê-su và đối với chúng ta?
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI KINH THÁNH
2.1. Bài đọc 1 (Is 42,1-4.6-7): "Này là tôi tớ Ta, Ta hài lòng về người" Đây là lời Chúa phán: "Này là tôi tớ Ta mà Ta nâng đỡ, là người Ta chọn, Ta hài lòng về người. Ta ban Thần trí Ta trên người. Người sẽ xét xử chư dân. Người sẽ không lớn tiếng, không thiên vị ai; không ai nghe tiếng người ở công trường. Người không bẻ gẫy cây lau bị giập, không dập tắt tim đèn còn khói. Người trung thành đem lại lẽ công bình. Người sẽ không buồn phiền, không nao núng, chỉ lo đặt công lý trên địa cầu, vì trăm đảo mong đợi lề luật người.
Ta là Chúa, Ta đã gọi con trong công lý, đã cầm lấy tay con, đã gìn giữ con, đã đặt con thành giao ước của dân, và nên ánh sáng của chư dân, để con mở mắt cho người mù, đưa ra khỏi tù những người bị xiềng xích, đưa ra khỏi ngục những người ngồi trong tối tăm".
2.2 Bài đọc 2 (Cv 10,34-38): "Chúa dùng Thánh Thần mà xức dầu tấn phong cho Người" Trong những ngày ấy, Phêrô mở miệng nói rằng: "Quả thật, tôi nghiệm biết rằng Thiên Chúa không thiên tư tây vị, nhưng ở bất cứ xứ nào, ai kính sợ Người và thực hành sự công chính, đều được Người đón nhận. Thiên Chúa đã sai Lời Người đến cùng con cái Israel, loan tin bình an, nhờ Chúa Giêsu Kitô là Chúa muôn loài. Như anh em biết, điều đã xảy ra trong toàn cõi Giuđa, khởi đầu từ Galilêa, sau khi Gioan đã rao giảng phép rửa: ấy là Chúa Giêsu thành Nadarét. Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong cho Người. Người đi qua mọi nơi, ban bố ơn lành và chữa mọi người bị quỷ ám, bởi vì Thiên Chúa ở với Người".
2.3 Bài Tin Mừng (Mc 1,6b-11): "Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha" Khi ấy, Gioan rao giảng rằng: "Có Đấng đến sau tôi, nhưng quyền lực hơn tôi, tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người. Phần tôi, tôi đã rửa anh em trong nước, nhưng Người, Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần."
Và đã xảy ra là trong những ngày đó, Chúa Giêsu từ Nadarét xứ Galilêa đến và chịu phép rửa bởi Gioan ở sông Giođan. Khi vừa lên khỏi nước, Người liền thấy trời mở ra, thấy Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Và có tiếng từ trời phán: "Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha".
III. TÌM HIỂU Ý NGHĨA CỦA SỰ KIỆN CHÚA GIÊU CHỊU PHÉP RỬA BỞI TAY GIOAN TRONG DÒNG SỐNG GIOCĐAN
3.1 Ý nghĩa đầu tiên của việc Chúa Giê-su chịu phép rửa trong dòng sông Gióc-đan: bộc lộ chân dung của Chúa Giê-su và mối tương quan của Người với Thiên Chúa.
Cao điểm của biến cố phép rửa không phải là lúc Gio-an dìm Đức Giê-su xuống dòng sông mà là những việc xảy ra khi Đức Giê-su bước ra khỏi nước. Phúc âm theo Thánh Mác-cô viết: "Vừa lên khỏi nước, Người (Đức Giê-su) liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên Người. Lại có tiếng từ trời phán: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con" (Mc 1,10-11).
Ở đây Thánh Mác-cô dùng cách diễn tả của người Do Thái xưa để tường thuật những gì mới xảy ra cho Đức Giê-su. Các kiểu nói "tầng trời xé ra" hoặc "có tiếng nói từ trời phán" đều có nghĩa là Thiên Chúa từ cõi siêu hình, cao xa đã đi vào thế giới con người, hiện diện trong biến cố.
Trong ngôn ngữ thần học người ta gọi đó là cuộc thần hiện, tức cuộc xuất hiện của thần linh, của Thiên Chúa.
Như thế việc Chúa Giê-su chịu phép rửa trong dòng sông Gióc-đan cho chúng ta thấy Chúa Giê-su là Đấng xuất phát từ thế giới thần linh, từ Thiên Chúa và có mối tương quan mật thiết với Thiên Chúa. Người là Con yêu dấu của Thiên Chúa (Con là Con yêu dấu của Cha), đang thi hành Kế hoạch của Thiên Chúa, được Thiên Chúa ở cùng (bồ câu ngự xuống trên Người) và rất đẹp lòng Thiên Chúa (Cha hài lòng về Con).
Sau này thần học khai triển sâu rộng và giải thích rằng: tiếng nói từ trời phán là tiếng nói của Chúa Cha; Thần Khí dưới hình bồ câu ngự xuống trên Người là Chúa Thánh Thần, Còn Chúa Giê-su là Con Một Thiên Chúa, là Ngôi Hai hay Ngôi Lời Thiên Chúa. Vậy trong biến cố Chúa Giê-su Na-da-rét chịu phép rửa, chúng ta thấy xuất hiện Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần, thông hiệp mật thiết với nhau trong thế giới siêu việt của Thiên Chúa và trong Công Trình Cứu Chuộc loài người của Chúa Giê-su.
3.2 Ý nghĩa thứ hai của việc Chúa Giê-su chịu phép rửa trong dòng sông Gióc-đan: Chúa Giê-su thể hiện tình liên đới với những con người ăn năn sám hối chờ mong Đấng Cứu Thế.
Việc Chúa Giê-su chịu phép rửa trong dòng sông Gióc-đan còn có một ý nghĩa khác, cũng là cho thấy rõ Chúa Giê-su: Chắc chắn khi để cho Gio-an Tẩy Giả dìm mình xuống dòng sông, Chúa Giê-su không đóng kịch. Người biết rõ rằng phép rửa của Gio-an chỉ là một nghi thức tỏ lòng sám hối chứ không có khả năng tha tội. Đấng có quyền tha tội là Thiên Chúa và chỉ có một mình Người mới có quyền tha tội. Cũng chắc chắn Chúa Giê-su biết mình là Đấng vô tội (vì là Thiên Chúa cực thánh) nên không cần phải sám hối cũng như không cần phải tỏ lòng sám hối. Thế tại sao Chúa Giê-su lại hành động như thế? Chỉ có một cách giải thích sự việc là như thế này: Vì Chúa Giê-su muốn sống hòa nhịp với dân tộc mình và muốn thể hiện tình liên đới chặt chẽ với họ cũng như với loài người tội lỗi chúng ta. Vì là một người Do-thái đích thực, Chúa Giê-su sống niềm trông đợi, chờ mong, hy vọng của toàn dân đang hướng về Đấng Cứu Tinh mà các ngôn sứ đã loan báo từ bao thế hệ trước. Mà muốn cho ngày Đấng Cứu Tinh ấy mau tới và muốn cho mình không bị Thiên Chúa loại bỏ trong ngày quan trọng ấy thì chỉ có một cách là sám hối ăn năn về những tội lỗi thiếu sót của bản thân và của dân tộc mình. Vì thế các người Do-thái đạo đức đã hưởng ứng lời "rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội" của Gio-an. Và Chúa Giê-su đã làm y như họ: Người đã đứng vào hàng những người sám hối để chờ được Gio-an Tẩy Giả làm phép rửa cho.
Ghi chú: Phép rửa của Gioan khác xa phép rửa của Chúa Giêsu ở chỗ phép rửa của Gioan chỉ là một nghi thức thể hiện lòng sám hối, không có năng lực tha tội và cứu độ trong khi phép rửa của Chúa Giêsu có năng lực tha tội và ban ơn đức tin và ơn cứu độ, vì được thực hiện nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi, Cha Con và Thánh Thần.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA
Trong tuần, mỗi ngày tôi đọc đi đọc lại đoạn Phúc âm Mc 1,7-11 trên, để học cùng Chúa Giê-su Ki-tô và tập sống theo Người, cụ thể là:
4.1 Sống khiêm nhường, tự hạ và tự hủy: Về Đức Giê-su, Gio-an Tẩy Giả đã tuyên bố: "Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần" (Mc 1,7-8). Thế mà Đức Giê-su đã tự mình tìm đến với Gio-an, xin Gio-an làm phép rửa cho mình. Nếu là chúng ta, nhất là khi chúng ta có chức, có quyền và có tiền, chắc chúng ta sẽ ngồi chờ những ai cần chúng ta đến với chúng ta, cầu cạnh, xin xỏ chúng ta, vì chúng ta cho rằng như thế mới phù hợp với chức vị của chúng ta.
4.2 Sống liên đới và tự đồng hóa mình với tội nhân, với con người: Đức Giê-su là Đấng vô tội, là Con yêu dấu của Chúa Cha, là Đấng đầy Thánh Thần mà đã tự xếp vào hàng các tội nhân và các hối nhân để được Gio-an dìm xuống dòng sông. Nếu là chúng ta, nhất là khi chúng ta có chức vụ trong cộng đoàn hay được coi là người đạo đức, chắc chúng ta sẽ đứng tách ra một bên, ngồi riêng ra một bàn, xếp riêng vào một dẫy, để mọi người thấy chúng ta là hạng người khác và không "lẫn lộn" chúng ta với những người thấp kém, tầm thường, tội lỗi.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 «Dân các hải đảo xa xăm đều mong được nó chỉ bảo!» Chúng ta hãy cầu nguyện cho hết mọi người nghe được lời chỉ bảo của Chúa Giê-su, Con Một Thiên Chúa, Đấng đã đến chịu phép rửa bởi tay ông Gioan trong dòng sống Gióc-đan!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 «Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Ki-tô hữu, nhất là cho Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, cho các Giám Mục, Linh Mục và Phó Tế, để mọi Ki-tô hữu nhận được ân huệ dồi dào của Chúa Giê-su Ki-tô và sống theo gương Người.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 «Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người trong giáo xứ/cộng đoàn chúng ta ngày một xác tín hơn vào bản tính thần linh của Đức Giêsu Kitô mà hoàn toàn tin cậy phó thác vào Người và sống theo Người.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 «Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần» Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người chưa được Thánh Thần Thiên Chúa thanh tẩy và hướng dẫn!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Sàigon ngày 03 tháng 01 năm 2021 Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Khi chịu Phép Rửa, Chúa Giêsu dìm ngụp trong nước, nước bao phủ Người như bóng tối bao TN1-B83
Khi chịu Phép Rửa, Chúa Giêsu dìm ngụp trong nước, nước bao phủ Người như bóng tối bao trùm vực thẳm. Khi Người bước lên thì Thánh Thần ngự xuống, tiếng Chúa Cha vang lên, lần này không phải để tạo dựng ánh sáng, nhưng để xác nhận con người vừa dìm ngụp trong nước chính là Con Thiên Chúa và Thiên Chúa hài lòng về Người.
Sự kiện Chúa Giêsu chịu Phép Rửa là gạch nối giữa hai giai đoạn quan trọng: sống ẩn dật 30 năm âm thầm với gia đình tại Nadarét và rao giảng công khai sứ vụ loan báo Tin Mừng. Đây cũng là gạch nối giữa hai Mùa Phụng Vụ: Giáng Sinh và Thường Niên.
Hôm nay Chúa Nhật I Thường Niên, Giáo Hội sẽ cùng đồng hành với Chúa Giêsu qua các biến cố của đời rao giảng, khởi đầu là sự kiện Chúa chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả tại sông Giođan. Ông Gioan làm Phép Rửa thì dìm người ta vào trong nước. Đấng đến sau ông làm Phép Rửa thì dìm người ta vào trong Thánh Thần, là quyền năng tạo dựng và ban sự sống của Thiên Chúa, vì Thánh Thần đã ngự xuống trên Người.
Tin Mừng nói đến ba dạng Phép Rửa.
Phép Rửa sám hối Đây là Phép Rửa bằng nước do Gioan thực hiện tại sông Giođan “Tôi làm phép rửa bằng nước để làm dấu hiệu cho thấy anh em đã ăn năn sám hối ” (Mt 3, 11). Ai chịu Phép Rửa đều phải có một thái độ nội tâm cũng như bên ngoài, phải tin vào sứ điệp của Gioan, phải trở lại thực lòng, phải quay về với Thiên Chúa. Tuy nhiên, Phép Rửa của Gioan chỉ có tính cách tượng trưng, tự nó không có sức xóa bỏ được tội lỗi mà chỉ là nghi thức nhắc nhở cho mọi người phải ăn năn sám hối và cải thiện đời sống. Phép Rửa sám hối chỉ là nghi thức mang tính tẩy trần, nếu có giá trị thì chỉ theo quy định của lề luật thôi, còn chưa có hiệu quả đích thực tôn giáo. Chính Gioan Tẩy Giả đã minh định: “Đấng cao trọng hơn tôi đang đến, Ngài quyền phép hơn tôi, chính Ngài sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và bằng lửa” (Mt 3, 11). Gioan làm Phép Rửa sám hối để dọn lòng dân chúng đón chờ Đấng Cứu Thế.
Phép Rửa mạc khải Khởi đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu tìm đến sông Giođan để xin Gioan Tẩy Giả cử hành phép rửa cho mình. Phép rửa Chúa Giêsu chịu là Phép Rửa mạc khải về một kỷ nguyên mới đã bắt đầu. Chính khung cảnh thần hiển của bài Tin Mừng kể là một mạc khải sống động về Ba Ngôi: Chúa Giêsu cúi mình trên dòng nước, Chúa Thánh Thần ngự xuống dưới hình bồ câu và tiếng Chúa Cha xác nhận “Này là Con Ta yêu dấu”.
Thật lạ lùng, trong số những người đến “xưng thú tội lỗi” ( Mc 1, 5) và chịu “phép rửa sám hối để đước ơn tha tội” (Mc 1, 4) lại có Chúa Giêsu. Người là Đấng Thánh, là Thiên Chúa, siêu việt tuyệt đối, tại sao lại đến xin Gioan làm Phép Rửa sám hối ? Người là Đấng mà Gioan “không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài ” lại có thể đứng chung với đám đông người tội lỗi chờ đến lượt mình được chịu thanh tẩy? Đây là động thái gây kinh ngạc cho con người thời nay, vì khó hiểu: Đấng không có tội lại đi nhận phép rửa làm gì? Nhưng người ta cũng sớm hiểu ra rằng: phép rửa của Gioan Tẩy Giả chỉ là nghi thức mang tính tẩy trần, nếu có giá trị thì chỉ theo quy định của lề luật thôi, còn chưa có hiệu quả đích thực tôn giáo.
Chính Gioan Tẩy Giả đã minh định: “Tôi rửa anh em trong nước, nhưng Đấng đến sau tôi sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và trong lửa”. Khi Chúa Giêsu nhận phép rửa này, ngoài việc “nhập thế đến cùng”, khiêm tốn xếp hàng đứng chung với các tội nhân đợi chờ đến phiên, Người còn hữu ý qua động thái có một không hai đó, công khai khởi đầu cuộc sống mới: cuộc rao giảng Tin Mừng cho mọi người.
Có ba dấu hiệu bài Tin Mừng mạc khải không những tiên báo sự sống lại vinh hiển của Đức Kitô mà còn tiên báo thời đại ân sủng mà Người mang đến cho loài người.
Dấu hiệu 1: Trời mở ra.
Sách Sáng Thế đã nói: Ađam và Evà phạm tội, cửa Thiên Đàng đóng lại (St 3, 23-24). Qua biết bao thế kỷ, Dân Thiên Chúa đã thiết tha cầu nguyện “Ôi ước chi Ngài xé rách các tầng trời và ngự xuống” (Is 64, 1). Nhờ Chúa Kitô, từ nay trời mở ra, một kiểu nói của Thánh Kinh ngụ ý là con người từ nay được sống thông hiệp với Thiên Chúa.
Dấu hiệu 2: Thánh thần ngự xuống như chim bồ câu.
Sách Sáng Thế có nói:Trước khi tạo dựng trời đất thì “Thánh Thần Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1, 2) như để thông truyền sức sống. Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Chúa Thánh Thần ngự xuống dưới hình chim bồ câu thì ngụ ý: Chúa Giêsu là con người mới và trong Người nhân loại sẽ được tạo dựng lại, sẽ được đổi mới. Chính Thánh Phaolô xác định: “Điều quan trọng chẳng phải là việc cắt bì hay không cắt bì, nhưng là trở thành thọ tạo mới” (Gl 6, 15)
Dấu hiệu 3: Lời của Chúa Cha: “Con là con yêu dấu của Ta”.
Qua lời tuyên bố này chúng ta nhận biết Đức Giêsu là con thật của Thiên Chúa, và sau này Đức Giêsu dạy cho biết: những ai tin vào Người và nhận phép rửa nhân danh Người thì cũng được thông phần vào địa vị làm con Thiên Chúa.
Phép Rửa tái sinh Phép Rửa của Gioan là Phép Rửa bằng nước mời gọi sám hối. Phép rửa của Chúa Giêsu là Phép Rửa tái sinh. Phép rửa này ban cho người được rửa một đời sống mới. Thánh Phaolô đã giải thích về đời sống này cho những người vừa được rửa tội như sau: “Khi được rửa tội, anh em được an táng với Đức Kitô và trong phép rửa anh em cũng được sống lại với Đức Kitô. Anh em đã từng bị chết về mặt tâm linh nhưng giờ đây Thiên Chúa đã mang anh em đến nguồn sống cùng với Đức Kitô.” (Cl 2, 12-13).
Như vậy qua Phép Rửa tái sinh, Chúa Giêsu chia sẻ cho những người được rửa tội đời sống thần linh của Ngài. Đó là sự sống trong Chúa Ba Ngôi. Người tín hữu trở thành thành viên trong Dân Chúa Cha, chi thể trong Thân Mình Chúa Kitô và viên đá sống động kiến tạo Đền Thờ Chúa Thánh Thần, nghĩa là trở nên con cái Thiên Chúa và được thông phần vào Sự Sống của chính Thiên Chúa hằng sống.
Bí Tích Thánh Tẩy chính là một phép lạ cả thể tác động trên một cá thể trong suốt chiều dài cuộc sống. Người ta được tắm gội trong sự chết và phục sinh của Đức Kitô và được thần hóa một cách nhiệm mầu, để từ đó có thể phát biểu ngất ngây như Thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi”, hay đầy xác quyết như thánh Augustinô: “Chúa đã tạo dưng con người cách lạ lùng và còn tái tạo con người cách lạ lùng hơn nữa”.
Bí Tích Thánh Tẩy là nền tảng của toàn bộ đời sống Kitô hữu, là cửa ngõ dẫn vào đời sống thần linh và mọi bí tích khác. Nhờ bí tích này chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi và tái sinh làm con cái Thiên Chúa, thành chi thể của Đức Kitô, được gia nhập và tham dự sứ mạng của Hội Thánh (GLCG #1213).
Bí Tích Thánh Tẩy tha thứ nguyên tội, mọi tội cá nhân và các hình phạt do tội. Bí Tích Thánh Tẩy cho tham dự vào đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi nhờ ơn thánh hoá, nhờ ơn công chính hoá giúp tháp nhập vào Đức Kitô và Hội Thánh. Bí Tích này cho tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô và tạo nền tảng cho sự hiệp thông với tất cả các Kitô hữu. Bí Tích này trao ban các nhân đức đối thần và các hồng ân của Chúa Thánh Thần. Người lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy thuộc về Đức Kitô luôn mãi: họ được đóng ấn không thể xóa được của Đức Kitô (GLCG #263).
Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Gioan tại sông Giođan đã làm nên lịch sử và đã được Giáo Hội chọn làm khởi điểm cho Mùa Thường Niên là Mùa Phụng Vụ cử hành các mầu nhiệm cuộc đời rao giảng tin mừng của Chúa Giêsu. Biến cố này không chỉ là cuộc bàn giao cũ mới mà còn là điểm giao duyên giữa trời và đất, giữa Thần Khí và nước, giữa Tân Ước và Cựu Ước. Từ nay nhân loại được tái sinh trong đời sống mới. Qua Bí Tích Thánh Tẩy, chúng ta được tái sinh trong của Chúa Giêsu nhờ ghi dấu ấn tín của Chúa Thánh Thần và được trở nên con cái Thiên Chúa.
Nhờ Bí Tích Thánh Tẩy, trong tư cách là “Kitô hữu thuộc về Chúa Kitô”, chúng ta được nhắc nhớ về sứ mạng phải làm triển nở sự sống của Chúa Kitô nơi mình và nơi những người lân cận bằng lòng tin và bằng tình yêu chân thành và trung tín.
Trong tư cách “Kitô hữu hướng về Chúa Kitô”, chúng ta cũng được hun đúc để luôn biết sống bằng niềm hy vọng và bằng lời kinh phó thác, nhất là trong lúc gặp thử thách gian truân.
Trong tư cách “Kitô hữu tìm về Chúa Kitô”, chúng ta còn biết sẵn sàng thanh tẩy đời sống qua việc sám hối hòa giải để đón nhận lòng thương xót của Chúa một cách dồi dào hơn.
Trong phép lần hạt Năm Sự Sáng, gẫm thứ nhất, chúng ta vẫn đọc: “Thứ nhất thì ngắm, Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan. Ta hãy xin cho được sống xứng đáng là con cái Chúa”. Theo gương Mẹ Maria, chúng ta xin được sống gắn bó với Chúa Giêsu mật thiết hơn, để xứng đáng là những người con yêu dấu của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là gương mẫu một người con hiếu thảo. Người luôn sống thân mật với Chúa Cha, luôn kết hiệp với Chúa Cha trong kinh nguyện hằng ngày, luôn thi hành thánh ý Chúa Cha. Người đã vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá.
Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta luôn kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi, luôn thi hành thánh ý Thiên Chúa, luôn sống một cuộc sống tốt đẹp, luôn tích cực góp phần xây dựng xã hội, tạo hạnh phúc cho tha nhân.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin dạy chúng con biết sống ơn Bí Tích Thánh Tẩy để chúng con được xứng đáng được làm con yêu dấu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Amen.
Chúa nhật tuần trước, chúng ta đã cử hành lễ Hiển Linh, Chúa Giêsu hài nhi được giới thiệu cho TN1-B84
Chúa nhật tuần trước, chúng ta đã cử hành lễ Hiển Linh, Chúa Giêsu hài nhi được giới thiệu cho muôn dân mà đại diện là ba nhà đạo sĩ. Hôm nay, chúng ta cử hành một cuộc « thần hiện » khác qua việc Chúa Giêsu chịu phép rửa. Sự kiện này được trình bày như một nghi thức phong vương long trọng. Qua nghi thức này, chính Chúa Cha giới thiệu với nhân loại về Chúa Con và sứ mạng của Người.
Dưới ngòi bút của thánh sử Maccô, Chúa Giêsu được diễn tả như một Môisen mới. Nếu ông Môisen trong Cựu Ước đã dẫn Dân Thánh đi qua biển đỏ, thì nay, Chúa Giêsu cũng dẫn nhân loại vượt qua tội lỗi đến đạt tới sự thánh thiện. Cách nói « Vừa lên khỏi nước » gắn liền với nghi thức thanh tẩy Chúa Giêsu đã lãnh nhận từ tay ông Gioan Tẩy giả, phần nào muốn nhấn mạnh đến cuộc vượt qua biển đỏ của dân Do Thái trong lịch sử.
Chi tiết kể lại việc « Chúa Giêsu thấy tầng trời mở ra » có ý nghĩa tượng trưng rất sâu sắc : theo truyền thống Do Thái, cửa trời đã đóng lại sau những vị ngôn sứ cuối cùng (Agê, Giacaria, Malakia) ở thế kỷ thứ V trước Công nguyên. Mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con người cũng vì thế mà gián đoạn. Trước khi Chúa Giêsu đến trần gian, dường như hoạt động của Thần Khí đã bị ngưng lại. Với Chúa Giêsu, mọi sự đã thay đổi. Kỷ nguyên mới đã khai mào. Việc các tầng trời mở ra (nguyên văn tiếng Hy lạp: trời xé toạc ra) chứng minh cho thấy mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con người được nối lại. Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu như dấu hiệu của thời cứu rỗi và của cuộc sáng tạo mới. Hình ảnh Chúa Thánh Thần ngự xuống nơi Chúa Giêsu dường như phác họa lại thời hoang sơ, trước khi Thiên Chúa thực hiện công trình sáng tạo của Người : « Thần Khí Chúa bay là là trên vực thẳm hỗn mang » (St 1,2). Việc Chúa Thánh Thần dưới hình dạng chim bồ câu giúp chúng ta liên tưởng đến con chim ngậm cành ôliu sau trận Đại hồng thủy trong Cựu Ước. Thần Khí Chúa đến để loan báo cho nhân loại biết thời gian trừng phạt của Chúa đã mãn (x.St 8,8-11). Cũng giống như nước hồng thủy đã rút và một nhân loại mới tinh tuyền thánh thiện đã khởi đầu, thời kỳ cứu độ trong ân sủng đã khai mào trong Chúa Giêsu và nhờ Chúa Giêsu. Vì vậy, từ thời các Giáo phụ, trận lụt Đại hồng thủy, cũng như cuộc vượt qua Biển Đỏ, đã được chú giải như hình bóng của bí tích Thanh tẩy của các Kitô hữu.
Một chi tiết rất quan trọng trong trình thuật Chúa Giêsu chịu phép rửa, đó là tiếng nói từ trời. « Tiếng nói từ trời » là cách diễn tả Thiên Chúa của người Do Thái, như kiểu người Việt chúng ta tránh phạm húy. « Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con ». Những người hiện diện hôm đó ở bờ sông Giođan, khi nghe câu tuyên bố của Chúa Cha, chắc chắn liên tưởng đến những lời của Cựu Ước : « Con là con Ta, hôm nay Ta đã hạ sinh ra con » (Tv 2,7) ; hoặc : « Đây là tôi tớ mà Ta tuyển chọn. Ta hài lòng về Người » (Is 42,1-2).
Vì những chú giải ở trên, sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa được hiểu như một cuộc « thần hiện », qua đó, sứ mạng của Chúa Giêsu được giới thiệu cho cả nhân loại. Người là Đấng Cứu độ trần gian. Người đã khởi đầu sứ mạng một cách rất khiêm tốn, hòa vào dòng người đang nhận mình là tội nhân và sám hối bằng cách dìm mình xuống dòng sông để được thanh tẩy.
Thánh sử Maccô cũng đã nhìn thấy bản chất siêu nhiên của bí tích Thanh Tẩy Kitô giáo, khi ghi lại lời của Gioan Tẩy giả : « Tôi thì tôi đã làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần ». Như vậy, trong nghi thức Thanh tẩy, linh mục chủ sự chỉ đóng vai trò như ông Gioan Tẩy giả, còn chính Chúa Giêsu thanh tẩy chúng ta và ban cho chúng ta Chúa Thánh Thần. Nhờ việc ban Chúa Thánh Thần, chúng ta trở nên những người con cái của Thiên Chúa, là người đồng thừa tự với Chúa Giêsu, tức là cùng với Người hưởng gia nghiệp vĩnh cửu mà Chúa hứa ban cho những ai yêu mến Ngài. Nhờ Chúa Giêsu và trong Chúa Giêsu, chúng ta cũng trở nên những người con yêu dấu của Chúa Cha. Nhờ bí tích Thanh tẩy, chúng ta chấm dứt cuộc sống cũ và bước sang thời đại mới, thời đại của ơn cứu rỗi. Huyền nhiệm vinh dự của phép Thanh tẩy chỉ có thể cảm nhận bằng Đức Tin, vì « Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối của các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy » (Bài đọc I).
Là Kitô hữu, chúng ta là những người tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu ở trần gian. Bí tích Thanh tẩy ban cho chúng ta danh dự vinh quang, đồng thời cũng trao cho chúng ta trách nhiệm hãy sống xứng đáng với danh hiệu Kitô hữu. Bởi nhờ được thanh tẩy trong Thánh Thần, chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, trở nên hiện thân của Người giữa trần gian, để đem niềm vui và hy vọng đến cho cuộc đời.
Sông Gio-đăng, tiếng Do Thái là “yarad” có nghĩa là đi xuống. Sông Gio-đăng phát nguồn từ ngọn TN1-B85
Sông Gio-đăng, tiếng Do Thái là “yarad” có nghĩa là đi xuống. Sông Gio-đăng phát nguồn từ ngọn núi Héc-mon ở độ cao 520m. suốt 220km đường dài dòng sông không ngừng đi xuống. Thoạt tiên sông chảy vào hồ Hu-lê chỉ còn 68m trên mực nước biển. Kế đó sông chảy vào biển hồ Galilê, nơi Chúa Giêsu thường qua lại, và các tông đồ thường chài lưới. Ở đây lòng hồ sâu 212m dưới mực nước biển. Sông tiếp tục chảy xuống miền Nam, đổ vào Biển Chết. Ở đây độ sâu là 394m dưới mức nước biển. Có thể nói đây là điểm thấp nhất của địa cầu.
Khi Chúa Giêsu bước xuống sông Gio-đăng để chịu phép rửa, Người đã xuống chỗ thấp nhất không chỉ về chiều sâu theo không gian địa lý mà còn về chiều sâu tâm lý xã hội. Bước xuống để Gioan Baotixita làm phép rửa tội, Chúa Giêsu đã hoà mình vào dòng thác người tội lỗi, cần thống hối ăn năn. Tuy đến để cứu độ người tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu không cho mình quyền đứng trên kẻ tội lỗi. Người đã hạ mình xuống ngang hàng với họ, liên đới với họ và trở nên anh em của họ. Không ai nhận ra Người. Mọi người đều cho rằng Người là một trong những kẻ tội lỗi.
Trong đêm Giáng Sinh, ta được chứng kiến một Thiên Chúa hạ mình xuống làm người. Làm một người bé nhỏ nghèo hèn như chưa đủ đối với tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa, nên hôm nay người lại hạ mình xuống thêm một bậc nữa, xuống tận đáy xã hội nhân loại khi nhận mình tội lỗi.
Hôm nay, bắt đầu cuộc đời công khai của Chúa Giêsu. Người bắt đầu xuất hiện để rao giảng Tin Mừng. Trước khi tiến ra gặp gỡ quần chúng, Chúa Giêsu đã tới gìm mình trong dòng sông Gio-đăng. Để chuẩn bị ra gặp loài người Chúa Giêsu cảm thấy cần phải thanh tẩy. Mặc lấy xác phàm, Chúa Giêsu chưa cảm thấy mình gần với nhân loại cho đủ. Người còn hạ mình xuống làm một người tội lỗi. Người gìm mình xuống lòng sông Gio-đăng, dường như muốn mượn làn nước trong xanh tẩy sạch đi tất cả dáng vẻ cao quý của Thiên Chúa còn vương vấn nơi thân xác nhân loại của Người. Tẩy sạch đi tất cả những gì ngăn cách, để Người được thực sự là một người anh em của mọi người.
Dòng nước sông Gio-đăng có trong xanh đến mấy cũng đâu đủ sức rửa Thiên Chúa làm người. Thực ra chính Người tự rửa mình bằng sự khiêm nhường thẳm sâu. Khiêm nhướng là một phép rửa. Vì khiêm nhường là sự quên mình, là chết đi một chút. Gìm mình vào dòng sông là chấp nhận đau khổ và chết đi. Cái chết chính là phép rửa như Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thầy còn phải chịu một phép rửa, và Thầy những bồn chồn chờ đến lúc hoàn tất” (Lc 12,50). Người còn hỏi hai ông Gioan và Giacôbê khi hai ông này đến xin được ngồi bên tả, bên hữu trong nước Người: “Các ngươi có thể uống chén Ta uống và chịu thanh tẩy thứ thanh tẩy Ta phải chịu không?” (Mc 10,38). Khi nói thế Chúa Giêsu có ý nói đến cái chết Người sẽ phải chịu.
Một câu châm ngôn nói; Không ai thấy được tình yêu. Người ta chỉ thấy được những bằng chứng của tình yêu. Bằng chứng tình yêu của Chúa Giêsu đối với ta đó là sự hạ sinh làm một em bé nghèo hèn yếu ớt. Đó là sự khiêm nhường hoà mình vào đoàn lũ những tội nhân tới gìm mình trong dòng sông Gio-đăng. Tình yêu đã thúc đẩy Người đi những bước táo bạo, bất ngờ. Mượn dòng nước sám hối xoá đi mọi khoảng cách còn lại giữa Thiên Chúa và con người.
Cử chỉ khiêm nhường của Người là một lời mời gọi ta. Nếu ta cảm thấy mình còn xa cách Chúa. Nếu ta cảm thấy mình cần được thanh tẩy. Đừng ngần ngại thay đổi đời sống. Hãy mạnh dạn tiến đến lãnh nhận phép rửa của Chúa Giêsu để trở nên gần gũi với Người. Nếu ta chưa thể lãnh nhận phép rửa trong cái chết tủi nhục như Chúa Giêsu, ta vẫn có thể được thanh tẩy trong phép rửa khiêm nhường. Hãy rửa mình trong dòng lệ sám hối. Hãy tắm mình trong dòng nước khiêm cung. Như lời vua Đavit nói: “Lễ dâng Chúa là tâm hồn sám hối. Một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50)/
Khiêm nhường sám hối là bước khởi đầu để ta đón nhận Phúc Âm. Khiêm nhường sám hối là quay trở về nhà Cha, sống trọn tâm tình của người con thảo hiếu. Khi khiêm nhường trở về, ta sẽ gặp được người Cha nhân hậu đang đứng chờ ta. Người sẽ nói về ta như nói về Chúa Giêsu: “Đây là con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về con”.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con biết đến với Chúa và đến với anh em bằng sự khiêm nhường sám hối. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1/ Chúa Giêsu không ngừng đi xuống. Còn bạn, bạn có tự hạ, hay là lúc nào bạn cũng muốn gìm người khác xuống?
2/ Làm thế nào để trở nên “Con yêu dấu” của Đức Chúa Cha?
3/ Hằng ngày, bạn có cảm thấy cần phải chịu phép rửa khiêm nhường của Chúa Giêsu không?
Lễ Chúa Giê-su chịu Phép rửa hôm nay kết thúc mùa Giáng sinh, bắt đầu cho phần đầu của mùa TN1-B86
Lễ Chúa Giê-su chịu Phép rửa hôm nay kết thúc mùa Giáng sinh, bắt đầu cho phần đầu của mùa thường niên, và đánh dấu cho thời điểm khởi đầu thi hành sứ mạng của Chúa Giê-su mà Thiên Chúa Cha đã giao phó cho Người. Thời điểm và phép rửa của Chúa có một tầm quan trọng đặc biệt vì chúng ta biết được căn tính Người là ai, cũng như biết được sứ mệnh và chủ đích những hoạt động tương lai của Ngài.
Khác với những bài Tin mừng trong mùa Giáng sinh giới thiệu Chúa Giê-su là con của Đức Maria và thánh Giuse, bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa. Thật vậy, sau khi chịu phép rửa trời mở ra, Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên Người và có tiếng từ trời phán: “Con là con yêu dấu của ta. Con đẹp lòng Cha.” Lời phán này khẳng định cho chúng ta biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa được sai đến trần gian cứu chuộc loài người, và những ai tin vào Người cũng sẽ được “rửa” bằng Chúa Thánh Thần, lãnh nhận tình yêu và ơn cứu độ của Người mang đến.
Khi chịu phép rửa, Chúa Giêsu lại một lần nữa tỏ cho chúng ta biết tình yêu cao quí của Thiên Chúa Cha bằng một sự khiêm nhường sâu thẳm, Người tự hạ mình xuống đồng nhận sự liên đới với loài người chúng ta, trở thành một phần tử của thế giới con người tội lỗi, một thế giới mà thánh vịnh đã diễn tả rằng “Người người đã lìa xa chính lộ, chỉ biết theo nhau làm điều suy đồi, chẳng có một ai làm điều thiện, dẫu một người cũng không.” (Tv. 14, 3) Đó là lý do tại sao Chúa khiêm nhường sinh xuống trần nơi máng cỏ khó nghèo, và giờ đây tự hạ mình đi xuống dòng sông Gio-đan, đứng xếp hàng hòa mình vào đoàn lũ những người có tội chờ đợi để được chịu phép rửa của Gioan. Không phải vì Chúa là một người tội lỗi và cần sự thanh tẩy, nhưng vì giờ đây, Chúa hiện diện là một phần tử giữa thế giới tội lỗi, Người liên đới với và tự hòa mình với loài người tội lỗi cần thanh tẩy. Người đã thực sự trở nên một người như chúng ta, giống chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi như thánh Gioan cho chúng ta biết, Ngôi Lời đã làm Người và đã nên giống loài người ngoại trừ tội lỗi. Thật vậy, qua phép rửa, Chúa chấp nhận liên kết với chúng ta là những kẻ có tội. Và hơn nữa, nhờ sự liên kết với Người mà chúng ta được thanh tẩy và trở nên con cái Chúa.
Chúng ta biết trong Cựu ước, Chúa Thánh Thần ngự xuống là để trao ban một sứ mệnh. Hôm nay khi chịu phép rửa và được Chúa Thánh Thần ngự xuống, Chúa Giêsu cũng đã nhận lãnh một sứ mệnh như Người tuyên bố trong Tin mừng thánh Lu-ca “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng.” (Lc. 4, 16-21
Ông bà anh chị em thân mến. Phép rửa của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta về Bí tích Thanh tẩy hay Rửa tội của mỗi người chúng ta, một hồng ân cao quí mà Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta. Bí tích Rửa tội biến đổi chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa. Trong nước và Chúa Thánh Thần, chúng ta trở thành một tạo vật mới, trở thành một chi thể trong Thân Thể Chúa Ki-tô, là một phần tử trong Giáo hội Chúa, và được liên kết, kết hợp trong ơn sủng tình yêu của Chúa. Bí tích Rửa tội còn cho chúng ta được tham dự vào cuộc tử nạn và phục sinh vinh quang của Chúa Kitô, có nghĩa là chúng ta được biến đổi để sống trong ân sủng cứu độ, sống trong ánh sáng phục sinh của Chúa Giê-su Ki-tô. Do đó, chúng ta được kêu gọi có cuộc sống tốt lành, yêu thương, nhân từ, bác ái, hy sinh, quảng đại và ngay thẳng. Như Chúa Giê-su Ki-tô, chúng ta cũng nhận được một sứ mệnh và được sai đi rao giảng Tin mừng, làm chứng cho Chúa Ki-tô và hiệp nhất xây dựng Nước Chúa và làm sáng danh Chúa ở trần gian.
Tuy nhiên, ơn sủng của Bí tích Rửa tội này, chỉ sinh những kết quả tốt đẹp và hạnh phúc cho chúng ta khi chúng ta tích cực cộng tác với Chúa, và làm cho những ơn này trổ sinh hoa trái trong cuộc đời mỗi người. Trở nên con cái Thiên Chúa đòi chúng ta phải sống cho xứng đáng với vinh dự ấy. Chúng ta phải luôn quan tâm đến sự kiện đã nhận được ơn cứu chuộc, tức là phải cố gắng loại trừ những cách sống, cách suy nghĩ và hành động trái ngược với giáo huấn của Chúa, và phải có lòng bác ái, quảng đại, cũng như tích cực làm nhiều việc thiện, việc tốt cho mình và cho mọi người. Là những người đã được cứu chuộc, chúng ta không thể có cuộc sống thụ động, hay cố ý, tự để mình bị rơi lại vào sự ràng buộc của tội lỗi, sự dữ và tật xấu. Chúng ta phải từ bỏ, tránh xa những sự gian dối, ganh ghét, thù hằn, kiêu căng và tự cao. Thiên Chúa đã ban cho ta sức mạnh Thánh Thần của Ngài để giúp chúng ta chiến đấu và chiến thắng trước những ràng buộc, lôi kéo, cám dỗ và tấn công của tội lỗi và ma quỉ. Chúng ta hãy dựa vào sức mạnh của Thánh Thần để đối phó và chống trả lại những cuộc tấn công của ma quỷ và cám dỗ.
Chúng ta phải luôn ý thức rằng Bí tích Rửa tội không phải là giấy thông hành tự động để vào Nước Trời. Và chúng ta có thể trình cho Chúa mẫu ghi danh vào giáo xứ, hay chứng chỉ những Bí tích khác đã nhận được như rước lễ lần đầu, thêm sức, hôn phối hay thánh hiến, nhưng những chứng chỉ này phải kèm theo đời sống đức tin, sống lời Chúa và chu toàn sứ mệnh của Bí tích Rửa tội, thì chúng ta mới được vào Nước Trời. Do đó chúng ta hãy nhìn vào đời sống đức tin hiện nay của chúng ta như thế nào? Chúng ta có thực sự đi theo con đường và giáo huấn của Chúa Kitô hay không? Chúng ta có sống xứng đáng là con Thiên Chúa không? Chúng ta đã chịu Bí tích Rửa tội lâu năm, nhưng đời sống đức tin của chúng ta có lớn lên và sinh hoa trái không? Đời sống đức tin của chúng ta có sống động hay thay đổi gì không, hay vẫn thụ động, khô khan và nguội lạnh. Chúng ta hãy tự hỏi vì lý do gì chúng ta theo đạo một cách hình thức hay chỉ có cái vỏ bề ngoài? Chúng ta có thực sự sống liên kết như những chi thể trong Thân Thể Chúa Ki-tô, hay chu toàn sứ mệnh xây dựng một gia đình giáo xứ trong yêu thương và hiệp nhất mà tất cả chúng ta cùng gọi Chúa là Cha hay không? Chúng ta có cuộc sống bác ái, yêu thương, quảng đại và nhân từ không? Nếu chúng ta thành thực nhìn vào đời sống hiện tại, chắc chắn chúng ta sẽ tìm ra những câu trả lời chính xác cho những câu hỏi trên.
Trong ngày mừng kính lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa hôm nay, chúng ta cầu xin Chúa ban ơn, hướng dẫn và giúp chúng ta sống xứng đáng là con cái Chúa và đẹp lòng Cha chúng ta trên trời. Xin Chúa Thánh Thần tiếp tục biến đổi, đổi mới tâm hồn chúng ta. Chúng ta biết rằng chúng ta còn phải đối diện với những khó khăn, thử thách và cám dỗ trong cuộc hành trình đức tin nơi dương thế, nhưng chúng ta tin có sức mạnh của Chúa Thánh Thần hướng dẫn và trợ giúp chúng ta để chúng ta có đời sống tốt lành, thánh thiện và sinh nhiều kết quả hơn, và để chúng ta cũng được Chúa Cha nói với chúng ta như đã nói với Chúa Giêsu “Con là con yêu dấu của Cha, con đẹp lòng Cha.”
Ngày hôm nay người ta đi nghe và coi ca nhạc, đi xem đá bóng, đi du lịch ở nước ngoài nhằm giải TN1-B87
Ngày hôm nay người ta đi nghe và coi ca nhạc, đi xem đá bóng, đi du lịch ở nước ngoài nhằm giải trí, thư giãn mà chẳng ngại tốn kém. Tùy theo địa vị, công việc, người ta vẫn đang tụ họp để “rửa bằng cấp”, “rửa xe”, “rửa nhà mới”…; nhưng mấy ai nói đến “rửa tâm hồn”, hay nghe các đệ tử của Đức Giêsu thuyết giảng gì nữa đâu ! Con người đầy mâu thuẫn là thế, bỏ tiền mua sắm tiêu xài bao nhiêu cũng không tiếc, nhưng khi cần phải giúp đỡ một người anh chị em đau khổ túng thiếu, thường dễ than van kể lể….
Cha ông chúng ta có câu : “được voi đòi tiên” hay “được đằng chân lân đằng đầu”, ước muốn của con người thường không bao giờ cùng ! Ở ngoài xã hội người ta nói bị lừa, bị thua lỗ trong buôn bán ; đúng ra phải nói “cám ơn” xã hội, tôi được mở rộng tầm nhìn, được khôn ngoan trưởng thành hơn từ những thất bại nho nhỏ. Giống như Gioan Tiền hô, nhiều người sẽ thắc mắc rằng : Đức Giêsu đâu cần đến sông Gio-đan làm gì ? Cần chi phải cúi mình chịu phép rửa, thực chất vì Ngài chẳng bao giờ phạm tội ! Và câu trả lời sẽ là : Đức Giêsu đến với Gio-an là chu toàn lề luật, để kết hợp, liên đới với loài người, vì Đức Giêsu luôn tha thiết Chúa là một thành viên trong gia đình nhân loại.
Mang thân phận bất toàn, đầy thiếu sót, chúng ta cần khiêm tốn lắng nghe, nhằm sửa chữa để rồi được lớn khôn hơn ; nhất là về phạm vi thiêng liêng, ai mà chẳng cần được tẩy rửa tâm hồn, hầu mỗi ngày một nên giống Đấng đã yêu thương ta. Đức Giêsu chịu phép rửa là hành động thuần túy của thân phận người, là sự liên đới nghĩa vụ tin yêu trong tình anh em với ta với Chúa Cha ; là mở đầu cho sứ vụ Đấng Cứu Thế, là dấu chỉ báo hiệu đau khổ sẽ xảy đến cho chính Ngài.
Đã là người, tắm rửa hàng ngày là chuyện bình thường, nếu là Kitô hữu mà tắm rửa đời sống thiêng liêng hàng ngày, hẳn ta đã thực sự thành chánh quả, là thánh nhân rồi. Bầu khí của sông Gio-đan năm xưa như muốn nói với tất cả chúng ta : có một người không thích được trọng vọng, luôn khiêm tốn, chỉ mong sao có thể chu toàn bổn phận đó là ông Gioan. Nơi Đức Giêsu, Đấng không có lỗi tội, nhưng vì muốn đứng về phía tội nhân, muốn thực sự được chu toàn lề luật của một người Do-thái, sẵn sàng hòa mình với nhân loại ở sông Gio-đan. Người Kitô hữu chúng ta hôm nay nếu ý thức mình được Máu Đức Giêsu tẩy rửa, ta mới hy vọng nghe được tiếng từ trời tiếp tục vang lên : Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha.
Mỗi chúng ta hôm nay không cần phải chu toàn bổn phận bằng việc đến sông Gio-đan dìm mình xuống nước để tỏ lòng sám hối, nhưng ai trong chúng ta cũng cần khiêm tốn để được tẩy rửa về phần thiêng liêng cho xứng đáng với ơn gọi làm con chí ái của Cha trên trời. Mỗi chúng ta hôm nay không được nghe mạc khải trực tiếp như Gioan, hay một số dân chúng ở sông Gio-đan hôm đó, nhưng chúng ta vẫn hiểu thế nào là con yêu dấu, con đẹp lòng Cha. Kinh nghiệm của Gioan làm chứng là đã nghe, đã thấy trời mở ra, Thánh Thần ngự xuống ; và sống niềm tin của chúng ta là biết cậy dựa vào Chúa Giêsu đồng hành hầu, giúp chúng ta đây sớm được nên giống Con yêu dấu, con đẹp lòng Chúa Cha…..
Nhiều người ở trần gian hôm nay không quan trọng về đẹp hay xấu, nhưng luôn ý thức miễn sao mình có hạnh phúc, điều ấy đúng ; nhưng với những ai thuộc về Đức Kitô, tâm hồn luôn cần phải đẹp không thể có hạnh phúc hay cái đẹp nào khác. Việc tẩy rửa hay cần cọ rửa đã trở nên thiết thực với nếp sống văn minh sạch đẹp nói lên những con người sành điệu ! khác với biến cố tẩy rửa mà Tin Mừng hôm nay đề cập đến tẩy rửa tâm hồn. Rửa thân xác, hay rửa tâm hồn sẽ không bao giờ là cổ xưa, dù cách thức dìm mình vào dòng sông và cách thức sám hối, nhận ơn tha thứ từ tòa giải tội…..
Đúng, việc thanh tẩy không chỉ đơn giản là dội nước, là dìm mình nơi giếng rửa tội ; tẩy rửa trong Bí tích, trong Thánh Thần sẽ thấm sâu và có khả năng loại bỏ tất cả những gì là cặn bã dơ bẩn ra khỏi tâm hồn con người. Cũng từ phép rửa chết và sống lại của Đức Kitô, ơn gọi làm con yêu quí của Cha trên trời thật rõ ràng nơi chúng ta hôm nay. “Con là con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha”, ngày hôm nay vẫn đang vang lên mỗi khi ta khiêm tốn xét mình, sám hối, bước ra khỏi tòa giải tội. Kinh nghiệm của tiền nhân cho ta biết : trong cuộc vui, không biết ai là bạn, lúc hoạn nạn mới biết bạn là ai ! Với Chúa Giêsu, không phải Ngài chỉ là Thầy là Chúa….., nhưng lúc ta là thánh nhân hay lúc ta sa ngã lỗi phạm, Ngài vẫn là bạn, là Thiên Chúa đồng hành với ta.
Văn minh của thời đại công nghệ hôm nay, người ta có thể tẩy da đen thành da trắng, tẩy rửa những đồ dùng từ cũ thành mới, rửa được tiền bẩn thành tiền sạch. Tuy nhiên tẩy rửa được tâm hồn nên sạch, mỗi người phải qua Đức Kitô, phải thể hiện niềm tin bằng đời sống Bí tích, không thể nhờ công nghệ nào can thiệp được. Cứ coi như dòng sông Gio-đan là một thứ dung dịch để tẩy rửa thân xác dơ bẩn nên tinh sạch ; nhưng vấn đề tội lỗi riêng của mỗi người nhất định phải nhờ nguồn ơn Bí tích mới tẩy sạch tâm hồn ta được.
Vì sao mà Gioan nói đến tẩy rửa trong Thánh thần là quan trọng ? Thưa bởi vì nhờ Phép Rửa Chúa Giêsu đã chịu mà chúng ta thực sự trở thành người Kitô hữu, hoặc nên môn đệ của Đức Giêsu. Sau hết, thao thức sống hạnh phúc, ước muốn được nhìn thấy con cháu, người thân ta được biến đổi nên người hữu ích là tốt, nhưng chưa đủ ! Chúa Giêsu còn cần ta ý thức làm gì để được tẩy rửa tâm hồn, để thực sự được gọi là con yêu dấu và là Con Cha trên trời. Amen.
Trong dịp Tuần Thánh năm ngoái, tại đền thờ Thánh Phêrô, có một nghi thức sám hối chung và TN1-B88
Trong dịp Tuần Thánh năm ngoái, tại đền thờ Thánh Phêrô, có một nghi thức sám hối chung và ban Bí Tich Giải tội. Người ta thấy Đức Giáo Hoàng Phanxicô rất sốt sắng tham dự nghi thức này. Đến phần cử hành Bí tích Giải tội, ngài cũng mặc áo alba và ngồi tòa để giải tội cho mọi người khiến cộng đoàn hết sức ngạc nhiên. Nhưng điều gây ngạc nhiên hơn nữa là trước khi ngồi vào tòa giải tội, ngài đã đến quỳ gối để xưng tội với một linh mục trẻ đang ngồi giải tội gần đấy. Việc làm này của Đức Giáo Hoàng cho thấy sự khiêm tốn của ngài và cũng để cho mọi người thấy rằng : tất cả chúng ta đều là tội nhân trước mặt Chúa và cần được Thiên Chúa thứ tha.
Hôm nay, mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, nhiều người trong chúng ta cũng thắc mắc : Tại sao một Thiên Chúa mà lại cúi mình xin chịu phép rửa bởi Gioan ? Chúa Giêsu có tội gì không ? Thưa – Phép rửa của Gioan không phải để thanh tẩy tội lỗi, mà chỉ là một nghi thức bày tỏ sự sám hối. Đức Giêsu là Thiên Chúa, mang thân phận con người giống như chúng ta mọi đàng, chỉ trừ tội lỗi. Mặc dù tội lỗi không thể làm gì được Chúa Giêsu, thế nhưng hôm nay, Ngài vẫn cùng với mọi người xếp hàng chờ đợi đến lượt mình bước xuống dòng sông Giodan để xin Gioan thanh tẩy. Việc làm này thể hiện sự khiêm nhường của Chúa Giêsu, dù không phải là tội nhân, nhưng Ngài đã chấp nhận chung hàng với tội nhân để chia sẻ và chịu tội thay cho mọi tội nhân.
Các tác giả Tin Mừng nhìn thấy sự kiện Chúa chịu phép rửa tại sông Giodan mang nhiều ý nghĩa sâu xa. Trước hết, đó là việc Chúa bắt đầu một thời kỳ mới, thời kỳ công khai thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Khởi đầu sứ vụ này, Chúa Giêsu đã được Chúa Thánh Thần xức dầu và được Thiên Chúa Cha long trọng giới thiệu công khai cho mọi người : Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con. Điều này chứng tỏ rằng, Thiên Chúa Cha đã hài lòng về sự vâng phục của Chúa Giêsu đối với Ngài, vâng phục đến nỗi chấp nhận trở nên đồng hàng với con người và mang lấy thân phận giòn mỏng, giới hạn của con người.
Thánh Marcô cũng cho thấy một chi tiết : Chúa Giêsu vừa lên khỏi mặt nước thì các tầng trời xé ra và Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên Người. Điều này cho thấy rằng, với sự xuất hiện của Chúa Giêsu, từ nay, cửa trời không còn bị đóng kín nữa, nhưng đã được xé ra, được mở toang và Thánh Thần là Tình yêu, là sự sống được trao ban cho Chúa Giêsu và qua Chúa Giêsu được trao ban cho cả nhân loại. Chi tiết này cũng cho thấy, Thánh Thần của Thiên Chúa luôn cùng hoạt động với Chúa Giêsu trong suốt cuộc đời dương thế của Ngài và như lời Gioan đã chỉ cho mọi người biết Chúa Giêsu sẽ dùng quyền năng của Thánh Thần để thanh tẩy nhân loại : Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần.
Đức Giêsu đã làm vui lòng Chúa Cha bằng tình yêu mến và sự vâng phục trọn vẹn thì hôm nay, một cách công khai, Thiên Chúa Cha đã bày tỏ tình yêu của Ngài đối với Chúa Giêsu. Những ai gắn bó với Chúa Giêsu và được lãnh nhận phép rửa bởi quyền năng của Thánh Thần, cũng sẽ trở thành những người con được Thiên Chúa Cha yêu mến, được cùng chia sẻ niềm vui, hạnh phúc và gia nghiệp với Chúa Giêsu.
Tiên tri Isaia đã mô tả niềm vui và hạnh phúc của thời đại Chúa Giêsu mang đến giống như khung cảnh an bình của một ngôi làng mà mọi người sống thân tình, hòa hợp với nhau. Đó là thời đại sẽ không còn đói khổ vì Thiên Chúa sẽ làm cho họ no thỏa, không còn thiếu thốn, đói khát nữa : Dù không có tiền, cứ đến mà mua rượu, mua sữa mà không phải trả tiền. Không chỉ no lòng chắc dạ, thời của Thiên Chúa đến còn là thời Thiên Chúa sẽ dẫn dắt dân Người đi theo đường lối của Chúa, ai để tâm lắng nghe thì sẽ được sống.
Thời đại mà Chúa Giêsu mang đến còn được mô tả như là thời của sự tha thứ. Thiên Chúa đã đến để tìm kiếm, gặp gỡ con người, kêu gọi mọi người từ bỏ con đường gian ác để quay trở lại với đường lối của Thiên Chúa. Thiên Chúa không muốn kết án con người, nhưng luôn cho con người có cơ hội để làm lại cuộc đời, vì Ngài luôn là Thiên Chúa xót thương.
Tất cả những điều tiên tri Isaia loan báo đã ứng nghiệm nơi con người và sứ vụ của Chúa Giêsu. Ngài chính là Thiên Chúa, là hiện thân tình yêu của Thiên Chúa đến với con người. Kể từ cuộc giáng sinh của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã mở ra một thời đại mới cho nhân loại. Thiên Chúa đã bước vào lịch sử loài người, đã biến đổi và điều khiển lịch sử thế giới đi theo con đường Chúa muốn. Đức Giêsu chính là Thiên Chúa đến ở với con người, cùng chung chia thân phận con người và biến đổi nhân loại này nên con của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, Thánh Gioan cho thấy, chúng ta chỉ thực sự được tham dự, được chung hưởng sự chăm sóc và ơn cứu độ của Chúa Giêsu khi chúng ta tin Ngài là Đấng Kitô, là Đấng được xức dầu, là Đấng cứu thế. Một khi tin nhận Đức Giêsu Kitô thì chúng ta sẽ là những người được Thiên Chúa sinh ra, được Thiên Chúa yêu mến. Yêu mến Thiên Chúa và được Thiên Chúa yêu mến thúc đẩy chúng ta tuân giữ giới răn, lề luật của Thiên Chúa. Vì chúng ta không thể yêu mến Thiên Chúa mà lại không tuân giữ những điều Ngài dạy. Một khi đã yêu mến Thiên Chúa thì đồng thời cũng thúc đẩy chúng ta yêu mến nhau, vì tất cả chúng ta đều là con cái Thiên Chúa.
Qua Bí tích Rửa tội, chúng ta đã được cứu chuộc, được tái sinh và trở nên con cái Thiên Chúa. Đó là một ân phúc cao quý Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta. Tuy nhiên, ân phúc này sẽ chỉ sinh hiệu quả và đem lại hạnh phúc cho chúng ta khi chúng ta tích cực cộng tác và làm cho những ơn này trổ sinh hoa trái trong cuộc đời mỗi người. Trở nên con cái Thiên Chúa đòi chúng ta phải sống cho xứng đáng với vinh dự ấy, tức là phải loại trừ những gì là phàm tục, tầm thường ra khỏi cách sống, cách suy nghĩ và hành động của chúng ta ; đồng thời, phải tích cực làm nhiều việc thiện, việc tốt cho mình và cho mọi người. Là những người được cứu chuộc, chúng ta không thể để mình bị rơi lại vào sự ràng buộc của tội lỗi, dục vọng và tật xấu, vì Thiên Chúa đã ban cho ta sức mạnh Thánh Thần của Ngài để giúp ta chiến đấu và chiến thắng trước những ràng buộc, lôi kéo đó. Hãy dựa vào sức mạnh của Thánh Thần để chống trả những tấn công của ma quỷ và cám dỗ.
Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay nhắc cho mỗi người nhớ đến sứ mạng của mình trong đời sống thường ngày. Là những bậc cha mẹ, chúng ta cần tẩy rửa bản thân mình khỏi những đam mê như rượu chè, cờ bạc, cá độ, lô đề… vì những điều đó bôi bẩn hạnh phúc và sự bình an của gia đình. Hãy thanh tẩy khỏi gia đình mình sự gian dối, chửi bới, cãi vã, mà thay vào đó là sự quan tâm, thông cảm, chia sẻ với nhau nhiều hơn. Hãy góp phần làm cho gia đình nên ấm cúng, thuận hòa, cùng nhau vun đắp cho hạnh phúc gia đình bằng những giờ kinh, những giờ cầu nguyện sớm tối. Sống như thế là chúng ta đang chung tay đổi mới gia đình và con cái nên những con người được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc.
Ngày lễ này cũng nhắc cho mỗi người nhớ rằng, chúng ta đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội và thuộc về Đức Kitô. Vì thế, chúng ta không thể để mình thuộc tay của ma quỷ và sự xấu. Hãy dám sống cho xứng đáng là một người Kitô hữu trong xã hội hôm nay và tự hào vì mang danh là Kitô hữu. Vì đã thuộc về Đức Kitô nên chúng ta cũng phải thi hành sứ mạng mà Chúa trao phó cho mỗi người, tùy theo hoàn cảnh môi trường sống của mình. Sứ mạng ấy là tiếp tục đem tình yêu thương đến cho thế giới, cùng nhau xây dựng một môi trường sống tốt đẹp, hòa bình ; cùng nhau làm cho tinh thần của Tin Mừng lan tỏa trong xã hội hôm nay : nơi nhà trường, nơi xí nghiệp, nơi gia đình của mỗi người.
Khi mỗi người chúng ta cố gắng sống quyết tâm đổi mới bản thân, gia đình và xã hội, hoàn thành tốt sứ mạng Chúa đang trao phó, thì Nước Trời cũng sẽ mở ra cho chúng ta, cho mọi người, và chính Thiên Chúa cũng sẽ nói với ta rằng : Con là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về con. Amen.
Có một lần dạy giáo lý tôi hỏi các em: Thông thường khi phạm tội điều đầu tiên mình phải làm TN1-B89
Có một lần dạy giáo lý tôi hỏi các em: Thông thường khi phạm tội điều đầu tiên mình phải làm gì?
Một em trả lời : thưa cha bỏ chạy ạh!
Nghe qua tưởng là chuyện đùa nhưng điều đó mới là lẽ thường tình. Ai phạm tội mà không bỏ chạy? Ai có tội mà không che dấu tội? Con người trước khi phạm tội thì rất hung hăng nhưng sau khi phạm tội thì lại hoảng loạn sợ hãi như cha ông ta bảo rằng: “Chưa đánh được người, mặt xanh mày tía. Đánh được người rồi hồn vía lên mây”.
Có một đứa bé đang kiễng chân lên trước cổng của một ngôi nhà to lớn để nhấn chuông, nhưng mãi không nhấn được. Cha sở đi ngang qua thấy vậy liền nói: Để cha giúp con. Thế là cha sở bế thằng bé lên cho nó nhấn chuông. Nhấn chuông xong thả nó xuống đất, cha sở mới hỏi: Con còn cần ta giúp gì nữa không? Thằng bé liền nói: Bỏ chạy ạh! Thế là nó ba chân bốn cẳng bỏ chạy, cha sở ngớ người ra chẳng biết nói gì! Hóa ra thằng nhỏ đến nghịch chuông nhà người ta mà cha sở lại tưởng nó có việc nên nhấn chuông!
Ở đời người ta thường chạy tội, đổ tội cho người khác để giảm khinh cho lỗi của mình. Khi phạm tội ông bà nguyên tổ đã chạy trốn trong bụi cây. Trốn không được nên Adam đã đổ tội cho Eva. Eva đổ tội cho con rắn. Cain thì chối tội. Cuộc đời quanh ta cũng có biết bao người sợ tội, sợ liên lụy nên không dám nhận lỗi lầm về mình, càng không dám để lộ tội lỗi của mình cho người khác biết.
Ở Việt Nam có biết bao con đường chưa xong đã hư, và cũng có biết bao cây cầu chưa khánh thành đã đổ xập. Thế nhưng, điều đáng tiếc là chúng ta cũng chỉ nghe họ đổ tội cho nhau dù đã gây nên biết bao thiệt hại cho xã hội về vật chất, về tiền, có khi cả về mạng sống con người.
Ở gia đình cũng có biết bao cha mẹ thiếu trách nhiệm giáo dục con cái, thiếu cả gương sáng nên con cái hư hỏng, nhưng điều đáng tiếc là họ chỉ đổ tội cho nhau và không bao giờ sám hối về tội của mình.
Có biết bao thanh thiếu niên phạm pháp và xì ke ma túy khi bị bắt họ cũng không nhận lỗi lầm của mình mà còn đổ tội cho cha mẹ vì quá nuông chiều.
Có biết bao mối tình bất chính đã gây nên hậu quả là những cái thai ngoài ý muốn. Điều đáng tiếc là họ cố tình che dấu tội của mình bằng việc tàn sát các thai nhi vô tội.
Chúa Giê-su là Đấng hoàn toàn vô tội. Ngài là Đấng cao cả đến nỗi Gioan bảo không đáng cúi xuống cởi quai dép cho người. Thế mà Ngài lại đến với Gioan như một tội nhân. Ngài hòa mình giữa bao tội nhân để nhận lãnh phép rửa sám hối của Gioan.
Biến cố Chúa Giê-su chịu phép rửa của Gioan là một khởi đầu cho một chuỗi những liên đới với tội nhân. Ngài đã chấp nhận đứng chung với tội nhân để gánh lấy hậu quả của tội lỗi nhân gian. Hậu quả của tội lỗi là đau khổ, là sự chết. Chúa Giê-su đã gánh lấy tội nhân loại khi phải sống kiếp người đầy thăng trầm và khổ đau. Ngài gánh lấy tội nhân loại khi bị kết án, tẩy chay loại trừ. Ngài còn gánh lấy tội nhân gian khi bị chết treo trên thập giá để đền thay tội lỗi nhân gian. Ngài hiến dâng mạng sống mình thành của lễ giao hòa với Thiên Chúa Cha. Qua cuộc Tử Nạn và phục sinh của Ngài mà nhân loại chúng ta được giao hòa với Chúa Cha, được gọi Thiên Chúa là Cha, và được thừa tự phần phúc thiên đàng do công phúc của Chúa Giê-su.
Cuộc đời sẽ hạnh phúc biết bao khi con người biết nhận trách nhiệm về mình, không đổ lỗi, không chạy tội nhưng luôn khiêm tốn nhìn nhận cái sai để sửa, để rút kinh nghiệm, để canh tân. Cuộc đời sẽ không còn nước mắt của sự bỏ rơi, thất vọng khi ai cũng can đảm liên đới với mảnh đời bất hạnh để cảm thông, để an ủi và giúp họ vượt qua những khổ đau. Cuộc đời sẽ công bằng hơn khi ai cũng dám làm dám chịu mà không chạy tội hay đổi tội cho người khác.
Ước gì chúng ta đừng bao giờ chối tội, chạy tội mà luôn biết nhìn nhận những khuyết điểm, những sai lỗi của mình để ăn năn sám hối và canh tân đời sống. Ước gì chúng ta cũng biết liên đới với tội nhân như Chúa Giê-su để dâng những việc lành phúc đức, những lời kinh nguyện, những hy sinh lên Thiên Chúa để đền bù tội lỗi nhân gian. Amen
Chúa chịu Phép Rửa tại sông Giođan mở ra một thời đại ân sủng cho nhân loại. 1/ Sông Giođan TN1-B90
Chúa chịu Phép Rửa tại sông Giođan mở ra một thời đại ân sủng cho nhân loại.
1/ Sông Giođan
Trong các dòng sông nổi tiếng khắp thế giới thì Giođan bé nhỏ là dòng sông quen thuộc nhất đối với người Kitô hữu. Dòng sông ấy gắn liền với những sự kiện quan trọng của Thánh Kinh.
Như một thân thể của xứ Palestine, sông Giođan góp phần quan trọng trong lịch sử Israel ngay từ những ngày đầu Thiên Chúa chọn dân Do thái. Từ Giođan chuyển từ tiếng Do thái là “hayyarden” có nghĩa “chảy xuôi dòng thời gian”. Bắt nguồn từ Syria, do ba phụ lưu hợp thành. Sông dài 300km, rất nhiều chỗ cạn, nhiều chỗ uốn khúc; chảy vào biển hồ Galilê, ở đây lòng hồ sâu 212m dưới mực nước biển; rồi tiếp tục chảy xuống miền Nam, đổ vào Biển Chết, ở đây độ sâu là 394m dưới mức nước biển, có thể nói đây là điểm thấp nhất của địa cầu. Lòng sông rất dốc, thượng lưu ở độ cao 45 mét, đến cửa sông là 390 mét so với mặt nước biển, lưu vực 93 mét khối/s. Mặc dù là con sông rộng nhất của Palestine, nhưng Giođan khác với những con sông của nhiều nước ở chỗ: khúc sông từ Biển Hồ Galilê đến Biển Chết có đến 27 ghềnh thác khó lưu thông, lắm chỗ nước chảy qua tạo thành những thung lũng như đầm lầy, nhiều nơi có thú dữ, cây cối hai bên dòng sông mọc tươi tốt, không có thành phố lớn nào được thành lập dọc theo dòng sông.
Kinh Thánh nói nhiều đến dòng sông này. Khởi đầu là việc liên hệ giữa Abraham và ông Lot ở sông Giođan (St 13,10). Giacob từ Kharan trở về đã vượt qua sông Giođan. Các chi tộc vượt sông Giođan cách kỳ diệu dưới sự hướng dân của Giosuê (Gs 3,14-17). Con sông là ranh giới vì dân du mục vượt qua sông vào Cannaan để cướp bóc. Người Israel tìm nơi nương náu bên kia tản ngạn sông Giođan (Tl 6,33; 2Sm 17,22) và được xem như sự che chở: “Trong bụi rậm sông Giođan…” (Gr 12,5; 49,19; 50,44). Tướng quân Naaman nước Aran nghe lời ngôn sứ Êlisa xuống sông tắm 7 lần nên được khỏi bệnh phong hủi (2V 5,1-19). Ngôn sứ Êdêkiel diễn tả sức sống sung túc của sông Giođan, nước sông chảy đến đâu thì trao ban sự sống đến đó (Ed 47).
2/ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa
Chính tại dòng sông Giođan bé nhỏ, Chúa Giêsu đã đến khai mạc sứ vụ công khai bằng cách đón nhận phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả. Ngôi Lời Thiên Chúa từng bước xuống dòng nước ấy, chỗ thấp nhất không chỉ về địa lý không gian nhưng còn thấp cả chiều sâu tâm lý và chiều kích tương quan xã hội.
Nếu đem so sánh với sông Cửu Long mênh mang thuyền qua lại thì dòng nước Giođan nơi Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu có thể gọi là con kênh nhỏ. Nếu đặt bên cạnh sông Hồng cuồn cuộn xiết chảy thì dòng Giođan chỉ là con lạch. Nếu đứng kề bên sông Hương thơ mộng lững lờ trôi thì Giođan chỉ là con suối nhỏ. Đứng bên bờ này sông Giođan ném hòn đá qua bờ kia, nó có thể đi xa hơn.
Thế mà Chúa Giêsu đã chọn dòng nước bé nhỏ này, không phải như Môisen hay Giôsua giơ tay cho dòng nước rẽ đôi, nhưng để dìm mình xuống dòng nước nhỏ cùng với đoàn người chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả.
Thiên Chúa, Đấng cho Cửu long giang tuôn chảy tưới mát đồng bằng miền Nam; Đấng cho sông Hồng tuôn nước lũ bồi đắp phù sa cho đồng bằng miền Bắc; Đấng cho Hương giang lững lờ lãng mạn gợi hồn thơ đã chọn dìm mình vào dòng nước Giođan bé nhỏ.
Thật lạ lùng, trong số những người đến “xưng thú tội lỗi” ( Mc 1,5) và chịu “ phép rửa sám hối để đước ơn tha tội” (Mc 1,4) lại có Chúa Giêsu. Người là Đấng Thánh, là Thiên Chúa, siêu việt tuyệt đối, tại sao lại đến xin Gioan làm phép rửa sám hối ? Người là Đấng mà Gioan “không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài ” lại có thể đứng chung với đám đông người tội lỗi chờ đến lượt mình được chịu thanh tẩy ?
Trong đêm Giáng sinh chúng ta đã chứng kiến một Thiên Chúa hạ mình xuống làm người, sinh ra nơi hang đá máng cỏ, làm một người nghèo hèn bé nhỏ, dường như chưa đủ đối với tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa. Hôm nay, Người lại hạ mình xuống thêm một bậc nữa, xuống tận cùng xã hội nhân loại khi đến xin Gioan làm phép rửa cho mình như một người dân tầm thường và tội lỗi. Và đã xuống bậc tận cùng khi Chúa hạ mình thẳm sâu chấp nhận chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại.
Biết nói gì về Người bây giờ nếu không phải là cúi đầu cảm phục và tôn thờ sự khiêm hạ thẳm sâu đó của Ngôi Hai làm người !
3/ Thời đại ân sủng
Trước sự hạ mình thẳm sâu của Chúa Giêsu, Chúa Cha đã tôn vinh Người bằng lời tuyên bố : “Đây là con Ta yêu dấu” và sai phái Thánh Thần hiện xuống dười hình chim bồ câu.
Ba dấu hiệu mà Phúc Âm nêu lên không những tiên báo sự sống lại vinh hiển của Đức Kitô mà còn tiên báo thời đại ân sủng mà Người mang đến cho loài người.
a/ Dấu hiệu 1 : Trời mở ra.
Sách Sáng Thế viết: Ađam và Evà phạm tội, cửa thiên đàng đóng lại ( St 3,23-24). Qua biết bao thế kỷ, Dân Chúa đã thiết tha cầu nguyện “Ôi ước chi Ngài xé rách các tầng trời và ngự xuống” ( Is 64,1). Nhờ Chúa Kitô, từ nay trời mở ra, một kiểu nói của Thánh Kinh ngụ ý là, con người từ nay được sống thông hiệp với Thiên Chúa.
b/ Dấu hiệu 2 : Thánh Thần ngự xuống như chim bồ câu.
Sách Sáng Thế viết :Trước khi tạo dựng trời đất, thì “Thánh Thần Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1,2) như để thông truyền sức sống. Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Chúa Thánh Thần ngự xuống dưới hình chim bồ câu với ngụ ý: Chúa Giêsu là con người mới và trong Người nhân loại sẽ được tạo dựng lại, sẽ được đổi mới. Chính Thánh Phaolô xác định : “ Điều quan trọng chẳng phải là việc cắt bì hay không cắt bì, nhưng là trở thành tạo vật mới” (Gal 6,15).
c/ Dấu hiệu 3 : Lời của Chúa Cha : “ Con là con yêu dấu của Ta…”.
Qua lời tuyên bố này, chúng ta nhận biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Trong lời giảng dạy, Chúa Giêsu cho biết : những ai tin vào Người và nhận phép rửa nhân danh Người thì cũng được thông phần vào địa vị làm con Thiên Chúa.
Khi Chúa Giêsu chịu Phép rửa, trong giờ phút cảm động ấy, cả Ba Ngôi Thiên Chúa cùng xuất hiện. Phép rửa của Chúa Giêsu là mặc khải đầu tiên về Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây là lần đầu tiên trong Kinh Thánh Ba Ngôi Thiên Chúa đồng hiện diện. Các Giáo Hội Đông Phương cử hành phép rửa của Chúa Giêsu như một ngày Lễ Ba Ngôi; và chính dưới dấu chỉ Ba Ngôi mà phép rửa Kitô giáo được ban“Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
Chúa Thánh Thần như chim bồ câu đáp xuống. Chúa Thánh Thần là tình yêu. Chúa Thánh Thần ngự xuống trên ai là dấu chỉ Thiên Chúa ưu ái người ấy. Chúa Cha công khai xác nhận sự ưu ái với Chúa Con: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Ba Ngôi liên kết trong một tình yêu hiệp thông. Chúa Giêsu hoạt động dưới tác động của Chúa Thánh Thần để thi hành thánh ý Chúa Cha. Có thể nói cả Ba Ngôi đều hoạt động trong Chúa Giêsu Kitô. Cả Ba Ngôi đều tham gia vào công trình cứu độ con người.
Từ xưa trong Cựu ước, Chúa Thánh Thần ngự xuống là để trao ban một sứ mệnh. Hôm nay, Chúa Giêsu cũng nhận lãnh một sứ mệnh, đó là cứu độ nhân loại, là “mở mắt cho người mù”, là “đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ”, là “dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong bóng tối tăm”.
Chúa Giêsu không đến trong thái độ phô trương quyền lực, nhưng đến trong sự hiền lành khiêm nhường. Người đến không phải để lên án nhưng để tha thứ. Người đến không phải để giết chết nhưng để cứu sống như lời tiên tri Isaia: “Cây lau bị dập, Người không bẻ gãy. Tim đèn leo lét, Người chẳng nỡ tắt đi”.
Phép rửa trong nước mà Chúa Giêsu đón nhận bởi thánh Gioan Tẩy Giả trở nên phép rửa trong Chúa Thánh Thần, khuôn mẫu và nguyên mẫu phép rửa Kitô giáo.
Ngày chúng ta được lãnh nhận bí tích Rửa Tội, màn đêm tội lỗi vây phủ bị xé ra, Ba Ngôi Thiên Chúa đến với mỗi người, ban cho chúng ta cuộc sống thần linh, cho chúng ta được vinh dự làm con Thiên Chúa, được kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Ngày chúng ta được lãnh nhận bí tích Rửa tội, Chúa Thánh Thần cũng đã trao cho chúng ta một sứ mệnh, đó là sống xứng đáng một người con hiếu thảo của Thiên Chúa, là tiếp tục công việc của Chúa Giêsu trong công trình cứu độ.
Chúa Giêsu là gương mẫu một người con hiếu thảo. Người luôn sống thân mật với Chúa Cha, luôn kết hiệp với Chúa Cha trong kinh nguyện hằng ngày, luôn thi hành thánh ý Chúa Cha. Người đã vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá.
Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta luôn kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi, luôn thi hành thánh ý Thiên Chúa, luôn sống một cuộc sống tốt đẹp, luôn tích cực góp phần xây dựng xã hội, tạo hạnh phúc cho tha nhân.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin dạy chúng con biết sống ơn Bí tích Rửa Tội để chúng con được xứng đáng được làm con yêu dấu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Amen.
Biến cố Đức Giê-su hòa nhập cùng đám đông dân chúng bước xuống sông Gióc-đan để được TN1-B91
Biến cố Đức Giê-su hòa nhập cùng đám đông dân chúng bước xuống sông Gióc-đan để được Gio-an rửa, theo nghi thức sám hối thịnh hành vào thời đó, đã được cả ba Phúc Âm Nhất Lãm đồng tường thuật. Chắc chắn đối với các tín hữu thời Giáo Hội sơ khai sự kiện này phải có một ý nghĩa trọng đại lắm, căn cứ vào sứ điệp mà Người dùng để khởi sự sứ vụ rao giảng công khai: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng!” Và tầm quan trọng của nó càng được phô diễn khi chính Chúa Cha đã cho xuất hiện các ấn dấu để làm bắng chứng: ‘trời mở ra… Thần Khí ngự xuống… tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”.
Đối với Gio-an cũng như dân chúng thời đó, thì nghi thức xuống dòng sông dìm mình chỉ đơn thuần là một dấu hiệu của thống hối tội lỗi, của cải tà qui chính. Đối với phần đa người Do Thái thì việc tẩy rửa này không chỉ mang nội dung mang tính luân lý mà còn cả tôn giáo nữa, vì nó biểu hiện việc tái lập lòng trung thành với giao ước Si-nai. Còn riêng đối với Đức Giê-su thì sao, khi chính người chủ động tìm đến để dìm mình xuống dòng nước Gióc-đan? Đối với Người, tôi thiết nghĩ, thì việc chịu phép rửa bởi tay Gio-an không đơn thuần chỉ là một hành vi tự hạ, mà còn hàm chứa một nội dung hết sức lớn lao. Sau này khi đặt câu hỏi với Gia-cô-bê và Gio-an: “các anh có chịu nổi phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10:38), xem ra Người muốn gợi ý về cái nội dung này.
Như thế, đối với Đức Giê-su, phép rửa chính là hành vi đón nhận trọn vẹn tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, là đưa lòng thương xót của Thiên Chúa vào thân phận thấp hèn của con người tội lỗi (cũng như đối với tất cả những ai tin theo Người sau này, “phép rửa Thầy sắp chịu anh em cũng sẽ chịu”). Đức Giê-su không vướng tội, nhưng một khi đã mặc lấy thân phận con người, Người cũng phải thực hiện nơi mình chính điều mà Người hằng rao giảng: hãy ném mình vào Tin Mừng thương xót của Thiên Chúa như điều kiện để lãnh nhận được ơn cứu độ. Phép rửa mà Người sẽ đạt tới cao điểm và thể hiện cách hoàn hảo trên thập giá, lúc mà, trong tư cách người phàm, Người đã trọn vẹn phó thác mình cho lòng thương xót từ bi của Thiên Chúa “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23:46). Và hành vi này chính là tâm điểm của Tin Mừng nên nó là kết quả trung thực nhất của Thần Khí (Thần Khí ngự xuống), nó mở rộng cửa trời (Trời mở ra), và nó biến con người tội lỗi thấp hèn thành ‘con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con’. Đức Giê-su Ki-tô, trưởng tử trong các anh em sống kiếp con người, đã tự nguyện bước xuống dòng sông Gióc-đan và tắm rửa là để nói lên sự hoàn toàn chấp nhận lòng thương xót từ ái của Cha.
Như vậy phép rửa của Giao Ước Mới, được thể hiện nơi Đức Giê-su – A-đam mới, là hành vi cần thiết mà bất cứ kẻ tin nào đón nhận Tin Mừng của tình yêu tha thứ đều phải thực hiện. Chẳng thế mà việc đón nhận Tin Mừng Cứu Độ đã được Đức Giê-su và các tông đồ đồng hóa với việc chấp nhận lòng thương xót nhiệm mầu qua biểu tượng bên ngoài là lãnh nhận ‘Phép Rửa’: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28:19). Hành vi thanh tẩy của Phép Rửa từ đó trở thành một bí tích của giao ước mới do Đức Ki-tô Giê-su thiết lập (và có thể nói, chính Người trong tư thế ‘con người giống chúng ta mọi đàng’, đã là người đầu tiên lãnh nhận tại sông Gióc-đan). Tất cả những ai muốn được cứu rỗi đều cần thực hiện ‘Phép Rửa’ đó trong thẳm sâu con người mình. Cũng như Đức Giê-su, nó được khởi sự thực hiện trong ngày đầu của niềm tin vào ơn cứu độ, tức ngày người Ki-tô hữu lãnh bí tích rửa tội, và sẽ chỉ thành toàn trong tiếp nhận trọn vẹn ngày ‘con phó linh hồn con trong tay Cha’.
Như vậy hôm nay quả là ngày chúng ta ghi nhớ sự Hiển Linh trọng đại nhất của con người Giê-su, không chỉ trong thần tính, mà nhất là trong nhân tính của niềm tin. Và cùng với Người, mỗi Ki-tô hữu chúng ta cũng mừng ngày hiển linh của con người được cứu chuộc qua bí tích Rửa Tội chúng ta lãnh nhận, hiển linh lòng từ ái cứu vớt của Thiên Chúa, và hiển linh ơn cứu độ Chúa đã trao ban cho chúng ta cách nhưng không. Và cùng với mừng sự hiển linh rực rỡ này, cũng như Giê-su gục chết trên thập giá, chúng ta cũng ôm ấp và thề nguyền đưa việc hiển linh này tới thành toàn trong giờ phút quyết liệt nhất của cuộc đời: giờ phút chúng ta đi vào cõi vĩnh hằng trong vòng thay nhân ái của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con biết dìm mình trong lòng từ bi thương xót vô biên của Chúa, qua việc con thành tâm sám hối, tức là chân thành nhìn nhận sự yếu hèn tột cùng của mình. Nếu từ ngày được rửa tội cho tới nay con đã không làm điều này cho đủ, thì thời gian còn lại của cuộc đời, xin cho con dành trọn để đón nhận và tri ân lòng thương xót Chúa; làm như thế con mới thật sự sống bí tích Rửa Tội suốt đời con. A-men.
Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa là thời gian kết thúc Mùa Giáng sinh và bắt đầu bước vào mùa Thường TN1-B92
Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa là thời gian kết thúc Mùa Giáng sinh và bắt đầu bước vào mùa Thường niên hay còn gọi là Mùa quanh năm. Đây cũng là thời điểm Đức Giêsu được tấn phong làm Đấng Messia, Đấng Cứu Thế, Ngài bắt đầu bước vào đời sống công khai, thi hành sứ mạng mà Chúa Cha giao phó. Mở đầu bài Tin mừng hôm nay, Thánh Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu về Đức Giêsu và cho biết sự khác biệt giữa phép rửa của ông và phép rửa của Đức Giêsu như thế nào. Thánh Gioan Tẩy Giả cho biết: “Có Ðấng đến sau tôi, nhưng quyền lực hơn tôi, tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người. Phần tôi, tôi đã rửa anh em trong nước, nhưng Người, Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần.”(Mc 1,7-8). Đồng thời, bài Tin mừng hôm nay cũng cho biết những việc lạ lùng xảy ra sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa: “Khi vừa lên khỏi nước, Người liền thấy trời mở ra, thấy Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Và có tiếng từ trời phán: ‘Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha.’”(Mc 1,10-11).
Từ lời chứng của Gioan Tẩy Giả và lời chứng của Chúa Cha, cùng với sự hiện diện của Chúa Thánh Thần xác minh cho chúng ta thấy sứ mạng của Đức Giêsu là sứ mạng từ trời, sứ mạng từ Chúa Cha. Thật vậy, sau biến cố chịu phép rửa, Tin mừng Thánh Marcô cho biết, Đức Giêsu vào sa mạc chịu ma quỷ cám dỗ (x. Mc 1,12-13) và sau thời gian đó, Ngài bắt đầu thi hành sứ mạng mà Ngài đã nhận lãnh từ Chúa Cha: Rao giảng (x. Mc 1,14-15); kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên (x. Mc 1, 16-20); chữa lành bệnh tật và trừ quỷ (x. Mc 1, 21-45)… Sau đó, Ngài đi khắp nơi tiếp tục rao giảng, làm phép lạ để hoàn thành lời sách ngôn sứ Isaia đã nói về Ngài rằng:“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” (Lc 4, 18-19). Đó cũng là lời xác minh của Thánh Phêrô trong bài đọc II hôm nay: “Đức Giê-su xuất thân từ Na-da-rét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người.” (Cv 10,38).
Trước khi về trời, Ngài đã thiết lập Giáo hội, thiết lập các Bí tích, nhất là Bí tích Rửa tội để tha tội Tổ tông và tội riêng cho con người, giúp họ trở nên Con Thiên Chúa. Ngài còn ra lệnh cho các Tông đồ rằng: “Các con hãy đi rao giảng cho muôn dân, rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.” (Mt 26,20).
Vâng nghe lời Đức Giêsu, các Tông đồ đã ra đi thi hành sứ mạng trên. Sách Công vụ tông đồ cho biết, bài giảng đầu tiên của Thánh Phêrô đã thu hút trên 3 ngàn người trở lại đạo. Cuối cùng, các Tông đồ cũng đã chết để làm chứng cho lời mình rao giảng. Tiếp tục sứ mạng của các Tông đồ, Giáo hội suốt hai ngàn năm qua đã cố gắng không mệt mỏi để đi khắp nơi rao giảng Tin mừng và giúp vô số người lãnh nhận Phép rửa. Dầu vậy, số người chưa biết Đức Kitô, chưa trở thành người công giáo vẫn còn chiếm khoảng 83%. Vì thế, lời mời gọi của Đức Giêsu vẫn luôn là sứ mạng hàng đầu của Giáo hội. Đó cũng là sứ mạng của mỗi người chúng ta khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội.
Một trong những sứ mạng mà Bí tích Rửa tội mời gọi chúng ta chu toàn, đó là sứ mạng ngôn sứ. Với sứ mạng ngôn sứ, người kitô hữu phải rao giảng Lời Chúa không chỉ bằng lời nói mà bằng chính đời sống của mình để giúp người khác tin yêu Chúa. Nghĩa là, trong khi người đời họ ăn gian nói dối, gian tham, cờ bạc, rượu chè, buôn gian bán lận, thù ghét nhau, thay vợ đổi chồng, phá thai, ly dị…thì người kitô hữu phải sống thật thà, công bằng, bác ái yêu thương, một vợ một chồng, tôn trọng sự sống…để như lời Đức Giêsu nói: “Họ thấy những việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên Trời.” (Mt 5,16) hay “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.” (Ga 13,35).
Bí tích Rửa tội còn mời gọi chúng ta sống xứng danh là con cái của Thiên Chúa. Thật vậy, khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội là chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa, mang danh là Kitô hữu. Kitô hữu là có Chúa. Muốn có Chúa trong tâm hồn thì phải sạch tội trọng. Vì thế, mỗi người kitô hữu cần phải tránh xa tội lỗi: những tội phạm đến Mười điều răn của Chúa, Sáu điều răn Hội thánh và Bảy mối tội đầu. Mặt khác, mỗi người cần phải tránh xa các tệ nạn như cờ bạc, rượu chè, đề đóm, hút xách, xì ke ma túy, buôn gian bán lận. Các bậc cha mẹ hãy sống gương mẫu trong lời ăn tiếng nói và hành động việc làm, không cãi vã, xung đột, tránh xa những nguyên nhân làm mất hạnh phúc gia đình. Các thanh thiếu niên hãy tránh xa phim ảnh và sách báo xấu, những trò chơi thiếu lành mạnh, nhất là đừng giết chết thời gian bằng Game Online…Thay vào đó, hãy quyết tâm siêng năng học giáo lý, học văn hóa, lãnh nhận các Bí tích nhất là Bí tích Giao hòa và Thánh Thể. Trong mọi hoàn cảnh, hãy dùng lời nói và việc làm để giúp người khác nhận biết Chúa. Hãy cố gắng sống tốt để được Chúa Cha giới thiệu về mình như Ngài đã từng giới thiệu về Chúa Con: “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha.”
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp mỗi người chúng con biết chu toàn sứ mạng mà Bí tích Rửa tội đòi buộc, đó là sống xứng đáng làm con cái Chúa và luôn ý thức giới thiệu Chúa cho anh chị em xung quanh bằng chính lời nói và việc làm của chúng con. Amen.
Thánh Phaolô xác tín: “Chỉ có một Thiên Chúa, một niềm tin, một phép rửa” (Ep 4:5). Đó là sự thật bất biến TN1-B93
Thánh Phaolô xác tín: “Chỉ có một Thiên Chúa, một niềm tin, một phép rửa” (Ep 4:5). Đó là sự thật bất biến, vừa mặc nhiên vừa minh nhiên.
Từ xa xưa, Thánh Vịnh gia đã cho biết lời tuyên phán của Thiên Chúa: “Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con” (Tv 2:7). Người Con đó là Đức Giêsu Kitô, là Ngôi Lời có từ khởi đầu, vẫn hướng về Thiên Chúa và là Thiên Chúa (Ga 1:1), ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại (Ga 1:4).
Trên núi Tabor, khi được chứng kiến Chúa Giêsu biến hình, chính các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan cũng được nghe tiếng phán vọng ra từ đám mây: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9:7).
Tình yêu thương luôn kỳ diệu, đặc biệt là Tình Cha Mẹ – bao gồm Tình Mẫu Tử và Tình Phụ Tử. Khi nói đến người con, người ta mặc nhiên hiểu là có Tình Phụ Tử ẩn chứa trong đó rồi. Nhưng ở đây, Tình Phụ Tử không đơn thuần như tình cha con bình thường về nhân tính, mà là Tình Phụ Tử về thần tính của ngôi vị Thiên Chúa, mối tương quan mầu nhiệm. Tình Phụ Tử của con người đã có cái gì đó thiêng liêng lắm rồi, Tình Phụ Tử của Thiên Chúa còn thiêng liêng hơn nữa.
Giáo hội cho chúng ta biết rằng việc lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy là “dấu chỉ bề ngoài” chứng tỏ chúng ta đã đón nhận Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ. Và kể từ lúc đó, chúng ta được trở nên con cái của Thiên Chúa. Ôi, hồng ân lớn lao biết bao!
Kinh Thánh cho biết rằng Phép Rửa của Ông Gioan là Phép Rửa của sự sám hối (Mt 3:11), nhưng Chúa Giêsu vô tội nên không cần sám hối. Thánh Gioan nhận biết tội mình và biết mình chỉ là tội nhân, cần sám hối, không đáng xách dép cho Chúa Giêsu, ông cảm thấy ngần ngại nên thưa với Chúa Giêsu: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!” (Mt 3:14). Nhưng Chúa Giêsu trả lời: “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính” (Mt 3:15). Nghe vậy, ông Gioan an tâm và làm theo ý Ngài. Chúa Giêsu đến với Thánh Gioan Tẩy Giả cho thấy rằng Ngài khiêm nhường chấp nhận Phép Rửa của ông, và Lòng Thương Xót của Thiên Chúa cũng được tỏ hiện qua việc Chúa Giêsu chịu Phép Rửa.
Nói một cách khác, ngay từ lúc khởi đầu sứ vụ, Chúa Giêsu đã chứng tỏ Ngài là Đấng Mêsia và là “Chiên Thiên Chúa, là Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1:29). Ông Gioan vừa làm Phép Rửa xong, Thiên Chúa liền tỏ ra dấu chỉ tỏ tường là “các tầng trời xé ra, và Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống”, sự thật minh nhiên đó đã được chính Chúa Cha xác nhận: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3:17; x. Mc 1:11).
Phàm nhân không thể hiểu nổi bởi vì quá kỳ diệu, nghe rất nghịch lý mà lại thuận lý, gọi là nghịch-lý-thuận: “Đấng CHẲNG HỀ biết tội là gì thì Thiên Chúa đã biến Người thành HIỆN THÂN của tội lỗi VÌ chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2 Cr 5:21). Chúa Giêsu là Đấng công chính, không cần sám hối, nghĩa là không cần chịu Phép Rửa, nhưng Ngài chịu Phép Rửa để làm gương cho chúng ta, còn chúng ta mới thực sự cần chịu Phép Rửa và cần sám hối – sám hối không ngừng, bởi vì “nguồn gốc” của chúng ta vốn dĩ là các tội nhân. Do đó, chúng ta chẳng có gì để tự hào, rất cần mở lòng để đón nhận ơn tha thứ!
Thật kỳ diệu, chính Phép Rửa trở thành “ngưỡng cửa” để chúng ta bước vào Miền Cứu Độ. Trong cuộc đối thoại với ông Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh của người Do-thái, Chúa Giêsu đã xác định với ông: “KHÔNG AI có thể THẤY Nước Thiên Chúa, NẾU không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên; KHÔNG AI có thể vào Nước Thiên Chúa, NẾU không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3:3 và 5). Và Thánh Phaolô nói rạch ròi và chắc chắn: “Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa” (Ep 4:5).
Từ ngàn xưa, Đấng Kitô đã được đề cập với danh xưng Người-Tôi-Trung-Đau-Khổ: “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng, Ta cho thần khí Ta ngự trên nó; nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân. Nó sẽ không kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng giữa phố phường. Cây lau bị giập, nó không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý. Nó không yếu hèn, không chịu phục, cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu. Dân các hải đảo xa xăm đều mong được nó chỉ bảo” (Is 42:1-4). Người-Tôi-Trung đó chấp nhận đau khổ nhưng không muốn người khác chịu đau khổ, và luôn chạnh lòng thương người khác, nhất là đối với những người yếu đuối, hèn mọn.
Qua ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa đã minh định: “Ta là Đức Chúa, Ta đã gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta. Ta đã nắm tay ngươi, đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước, để mở mắt cho những ai mù loà, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm” (Is 42:6-7). Mỗi chúng ta cũng được Thiên Chúa gọi đích danh và đặt vào một vị trí theo Thánh Ý Ngài, nhưng không phải để tự tôn hoặc ích kỷ chỉ giữ riêng cho mình, mà phải hành động tích cực, dùng những gì mình đã được Ngài trao ban để làm lợi cho tha nhân – đặc biệt là đối với những người bị áp bức, bị bóc lột, bị tước đoạt những quyền cơ bản của con người,… Công lý luôn cần thiết, thời nay còn cần hơn bao giờ hết!
Tất cả mọi sự chúng ta tận hưởng, cả tinh thần và vật chất, đều do Thiên Chúa ban, chúng ta chẳng có gì và chẳng đáng gì mà dám vênh vang tự đắc. Thánh Vịnh gia đã nhận thức như vậy, và tha thiết mời gọi: “Hãy dâng Chúa, hỡi chư thần chư thánh, dâng Chúa quyền lực và vinh quang. Hãy dâng Chúa vinh quang xứng danh Người, và thờ lạy Chúa uy nghiêm thánh thiện” (Tv 29:1-2). Đó là bổn phận và trách nhiệm của mọi người. Chúng ta chúc tụng Ngài thì Ngài cũng chẳng được thêm gì, thế nhưng chính chúng ta lại được hưởng lợi ích từ việc chúc tụng đó. Thiên Chúa luôn tìm mọi cách làm lợi cho chúng ta, thật là kỳ diệu quá!
Thiên Chúa là Đấng vô hình mà lại hữu hình, vì Ngài vẫn hiện diện trong mọi thứ: “Tiếng Chúa rền vang trên sóng nước, Thiên Chúa hiển vinh cho sấm nổ ầm ầm, Chúa ngự trên nước lũ mênh mông. Tiếng Chúa thật hùng mạnh! Tiếng Chúa thật uy nghiêm!” (Tv 29:3-4). Thiên Chúa là Đấng toàn năng, và chỉ có Ngài là Thiên Chúa duy nhất. Thật vậy, chính Thiên Chúa đã truyền lệnh: “Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta” (Xh 20:3; Đnl 5:7).
Ngài hiện hữu trong mọi vật và mọi sự – vô hình và hữu hình. Những gì chúng ta gọi là tự nhiên hoặc thiên nhiên thì đó chính là Thiên Chúa: “Tiếng Chúa lay động cả rặng sồi, tuốt trụi lá cây cao rừng rậm. Còn trong thánh điện Người, tất cả cùng hô: Vinh danh Chúa! Chúa ngự trị trên cơn hồng thủy, Chúa là Vua ngự trị muôn đời” (Tv 29:9-10). Bổn phận của chúng ta là phải tôn thờ, cảm tạ và chúc tụng Ngài, như Đức Giêsu Kitô đã nói: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6:33). Buông thế gian để chỉ bám vào Thiên Chúa là điều không dễ dàng, phải cố gắng nhiều lắm, nhất là trong thời đại đề cao bề ngoài và vật chất ngày nay!
Một lần nọ, ông Phêrô đã lên tiếng tại nhà ông Co-nê-li-ô: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận” (Cv 10:34-35). Đức Giêsu nhập thể và nhập thế để “TÌM và CỨU những gì đã hư mất” (Mt 18:11). Thánh Phêrô giải thích rạch ròi: “Người đã gửi đến cho con cái nhà Ít-ra-en lời loan báo Tin Mừng bình an, nhờ Đức Giêsu Kitô, là Chúa của mọi người. Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Giu-đê, bắt đầu từ miền Galilê, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng. Quý vị biết rõ: Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10:36-38). Tội nhân chúng ta đã được tìm thấy và được cứu vớt khỏi vũng lầy tội lỗi u tối.
Ông Gioan đã được sai đến trước để dọn đường trước khi Chúa Giêsu đến thế gian theo Kế hoạch Cứu độ của Thiên Chúa. Ông là người được Thiên Chúa sai đến, nhưng phong cách rất giản dị và bình dân: Mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng. Có lần người ta hỏi ông là ai – Đấng Kitô, Ê-li-a hay ngôn sứ? Cả ba lần ông đều trả lời “không”, ông chỉ dám nhận mình là “tiếng người hô trong hoang địa” (Ga 1:20-23). Ông không dám nhận mình là ngôn sứ, nhưng thực ra ông lại là một ngôn sứ quan trọng – ngôn sứ “bản lề” của Cựu Ước và Tân Ước. Ông khiêm nhường bao nhiêu thì chúng ta cảm thấy xấu hổ bấy nhiêu, bởi vì chúng ta chỉ là “con số không” to lớn mà lại muốn mạo nhận mình là “cái rốn của vũ trụ”. Ôi, lạy Chúa!
Chính ông đã xác định về Đức Kitô: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1:7-8). Và rồi chính ông cũng “thú nhận” rằng ông không biết Đức Giêsu là ai, nhưng khi ông làm Phép Rửa cho Ngài, rồi thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Ngài, nên ông nhận biết Ngài chính là “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1:32-34). Chứng cớ đặc biệt nhất là có tiếng từ trời xác nhận: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1:11).
Tổ chức UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên Hiệp Quốc) đã công nhận địa điểm “Bê-ta-ni-a bên kia sông Gio-đan” (Ga 1:28; Ga 10:40-42), phía bờ Đông của sông Gio-đan là địa điểm di sản thế giới, nơi Chúa Giêsu chịu phép rửa (Mc 1:6-11; Mt 3:13-17; Lc 3:21-22), cách trung tâm thành phố Ti-bê-ri-a khoảng 10 km về phía Nam trên sông Gio-đan, có một địa điểm thu hút khoảng nửa triệu người hằng năm.
Theo khoa khảo cổ và Kinh Thánh, nơi thực sự Chúa Giêsu chịp phép rửa cách xa Yardenit cả trăm cây số, ở gần Biển Chết, thuộc về lãnh thổ Gio-đan: “Các việc đó đã xảy ra tại Bê-ta-ni-a, bên kia sông Gio-đan, nơi ông Gio-an làm phép rửa” (Ga 1:28). Tất cả những gi có trong Kinh Thánh đều là thật, càng ngày người ta càng phát hiện nhiều điều thú vị và phải công nhận. Sự thật mãi mãi là sự thật, không thể chối cãi!
Xét về địa lý, dòng sông Gio-đan rất bình thường, thế nhưng bỗng trở nên khác thường vì là nơi Chúa Giêsu chọn để ông Gioan làm Phép Rửa cho Ngài bằng nước. Ôi, nước thật kỳ diệu! Nước rất mềm mà cũng rất mạnh, đặc biệt là không thể tách hoặc cắt được nước. Ở đâu có nước là có sự sống, người ta có thể nhịn đói chứ không thể nhịn khát, vì cơ thể chúng ta chứa tới 70% là nước, mỗi ngày cơ thể cần khoảng 2 lít nước. Có điều lạ là quốc gia cũng được chúng ta gọi là “nước” – nước Việt Nam. Phải chăng Việt ngữ muốn diễn tả nơi mình sống được ví như nước? Còn nước là còn nơi sống, mất nước là mất nơi sống!
Thiên Chúa toàn năng nhưng Ngài lại dùng những thứ bình thường để thực hiện điều kỳ diệu – chẳng hạn như “nước”. Nước biểu hiện sự xuất hiện của Thiên Chúa, chứng tỏ quyền năng của Ngài: “Tiếng Chúa rền vang trên sóng nước, Thiên Chúa hiển vinh cho sấm nổ ầm ầm, Chúa ngự trên nước lũ mênh mông” (Tv 29:3). Với Thiên Chúa, nước cũng được Ngài coi là chất liệu quan trọng nên Ngài đã dùng nước để chứng tỏ chúng ta được tẩy sạch tội lỗi. Nước rất đặc biệt vì nước còn là chất liệu Chúa Giêsu dùng làm phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới ở Cana (Ga 2:1-12), và cũng là chất liệu Ngài dùng để dạy “bài học phục vụ” khi Ngài rửa chân cho các môn đệ (Ga 13:1-20). Nước còn quan trọng hơn nữa vì nước là chất liệu biến chúng ta thành con cái Thiên Chúa: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3:5). Tuyệt vời quá!
Khi Chúa Giêsu được dìm mình trong dòng nước Gio-đan để khởi đầu sứ vụ, dòng nước đó trở nên Dòng Tình mà Chúa Giêsu muốn tuôn đổ Lòng Thương Xót cho chúng ta, đồng thời Ngài cũng giao trách nhiệm cho mỗi chúng ta phải “đắm mình” trong dòng đời để phục vụ mọi người – chứ không để hưởng thụ, và đó cũng là cách chúng ta phục vụ chính Ngài. Thật vậy, Thánh Phanxicô Assisi đã xác nhận: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân” (Kinh Hòa Bình). Tâm tình thật tha thiết, thánh thiện!
Lạy Thiên Chúa, “xin rửa con sạch hết lỗi lầm; tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy” (Tv 51:4), xin giúp con biết đón nhận Đức Kitô là Đấng cứu độ duy nhất và hết lòng phụng sự Ngài qua việc phục vụ tha nhân, nhất là phục vụ những con người hèn mọn ở mọi ngõ ngách của cuộc đời này. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TN1-B94: SỐNG HIỀN HÒA VÀ KHIÊM HẠ NOI GƯƠNG ĐỨC GIÊSU
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
TIN MỪNG: Mc 1,6b-11
(c 7) Khi ấy, Gio-an rao giảng rằng : “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quay dép cho Người: (c 8) Tôi làm phép rửa cho anh em nhờ nước; Còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần. (c 9) Và đã xảy ra là trong những ngày đó, Đức Giê-su từ Na-da-rét miền Ga-li-lê đến, và được ông Gio-an làm phép rửa dưới sông Gio-đan. (c 10) Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí tựa chim bồ câu ngự xuống trên mình. (c 11) Lại có tiếng từ trời phán rằng : “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.
Ý CHÍNH : ĐỨC GIÊ-SU ĐƯỢC TẤN PHONG LÀM VUA MÊ-SI-A
Tin mừng Mác-cô trình bày việc Đức Giê-su được tấn phong làm Vua Mê-si-a tương tự như TN1-B94
Tin mừng Mác-cô trình bày việc Đức Giê-su được tấn phong làm Vua Mê-si-a tương tự như một lễ phong vương gồm 3 nghi thức như sau :
– Một là thanh tẩy : Đức Giê-su được Gio-an Tẩy Giả dìm trong nước sông Gio-đan.
– Hai là xức dầu : Đức Giê-su được Thần Khí, qua hình ảnh chim câu, từ trời đáp xuống trên mình để xức dầu thiêng liêng tấn phong làm Vua Mê-si-a.
– Ba là tung hô: Đức Giê-su cũng được Chúa Cha công khai thừa nhận là “Con rất yêu dấu” luôn làm mọi việc theo thánh ý Cha.
CHÚ THÍCH :
– C 7-8: +Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi : Gio-an là “Sứ giả của Giao Ước”, có nhiệm vụ như Ê-li-a ngày xưa : đến trước để chấn hưng mọi sự, hầu dọn đường cho Đức Chúa ngự đến (x. Ml 3,1-3.23-24). Mọi lời Gio-an rao giảng đều liên quan tới Đấng Thiên Sai. Tuy Đấng Thiên Sai đến sau Gio-an nhưng Người lại có đầy sức mạnh và Thần Khí của Đức Chúa để chiến thắng kẻ thù (x. Is 11,2), cụ thể là chiến thắng Xa-tan cám dỗ (x. Mc 1,12-13). +Tôi không đáng cúi xuống cởi quay dép cho Người : Cởi quai dép là việc làm của người nô lệ. Gio-an khiêm tốn nhận mình không đáng làm nô lệ cho Đấng Thiên Sai sắp đến. +Phép rửa nhờ nước: Khi chịu phép rửa này, người chịu phép được Gio-an dìm xuống sông Gio-đan như dấu hiệu“tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” (x. Mc 1,4). Từ đây họ được gia nhập vào nhóm những người chuẩn bị đón Đấng Mê-si-a. +“Phép rửa trong Thánh Thần”: Phép Rửa này ám chỉ toàn bộ công trình cứu độ của Đức Giê-su. Những kẻ chịu phép rửa do Đức Giê-su thực hiện sẽ nhận được Thần Khí tuôn đổ vào lòng. Nhờ đó họ được tẩy sạch mọi vết nhơ tội lỗi. Họ sẽ được tặng một quả tim mới bằng thịt biết yêu thương, thay cho quả tim đã hóa ra chai đá (x. Is 44,3).
– C 9-10: +Đức Giê-su từ Na-da-rét miền Ga-li-lê đến, và được ông Gio-an làm phép rửa dưới sông Gio-đan : Đúng như lời Gio-an loan báo, Đức Giê-su đã xuất hiện và trước hết Người đến với ông Gio-an. Gio-an đã thi hành sứ mạng tiền hô khi làm phép rửa cho Người trong nước sông Gio-đan .+Người liền thấy: Mác-cô tường thuật cuộc Thần Hiện của Đức Giê-su lúc chịu phép rửa như một thị kiến mà chỉ riêng mình Người trông thấy, đang khi các Tin Mừng còn lại như Mát-thêu, Lu-ca và Gio-an lại tường thuật đúng như đã xảy ra (x. Mt 3,13-17; Lc 3,21-22; Ga 1,32-34). +Các tầng trời xé ra: Đây là sự đáp ứng của Thiên Chúa cho lòng khát vọng của dân Ít-ra-en và của nhân loại. Người ta chờ mong “trời mở ra và Thiên Chúa sẽ xuống cứu độ dân Người”. Hôm nay qua hiện tượng các tầng trời xé ra, Thiên Chúa bắt đầu thực hiện những lời Ngài đã hứa qua các ngôn sứ (x. Is 63,19b). Ngài sai Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giê-su, giống như Đức Chúa trong cuộc Xuất hành đã ngự xuống trên con dân Ít-ra-en (x. Xh 19,11.18). Với việc trời xé ra, Đức Giê-su bắt đầu ra khỏi Na-da-rét để công khai thi hành sứ mạng cứu độ loài người, đối lập với A-đam ngày xưa (x. Rm 5,12-19). +Người liền thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình: Câu này nhắc tới sự kiện Thần Khí của Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước khi Chúa sáng tạo nên trời đất muôn vật (x. St 1,2), nhằm diễn tả một một cuộc sáng tạo mới được thực hiện nơi Đức Giê-su sau khi chịu phép Rửa. Thánh Thần xức dầu thiêng liêng tấn phong và giới thiệu Người là Đấng Thiên Sai, qua hình ảnh một con chim câu đậu xuống trên mình Người (x. Is 11,2 ; 42,1).
– C 11: +“Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”: Qua câu này, Mác-cô muốn làm nổi bật dung mạo của Đức Giê-su : Người chính là Vua Thiên Sai, được xức dầu tấn phong để cai trị muôn dân (x. Tv 2,7) ; Người là Con Một yêu dấu của Chúa Cha, trở thành của lễ hiến tế trên bàn thờ thập giá (x. St 22,2); Người là Tôi Trung của Thiên Chúa, được sai đến rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chịu chết để đền tội thay cho loài người và sống lại để phục hồi sự sống đời đời cho loài người (x. Is 42,1).
CÂU HỎI: Tại sao Đức Giê-su là “Đấng quyền thế hơn” mà lại xuất hiện như một tội nhân đứng xếp hàng để được Gio-an làm phép rửa tại sông Gio-đan?
ĐÁP : Việc Đức Giê-su tự nguyện đến xin chịu phép Rửa của Gio-an không phải để sám hối tội lỗi như bao người khác, vì Người vô tội (x. Dt 5,15b; 7,26). Nhưng qua hành động này, Người muốn chia sẻ thân phận yếu hèn với các tội nhân và cảm thông với họ (x. Pl 2,6) và sau này Người sẽ còn chịu chết trên cây thập giá để đền tội thay cho họ.
Đàng khác, việc toàn thân Đức Giê-su được Gio-an dìm xuống nước sông Gio-đan, chính là hình ảnh của phép rửa sẽ phải trải qua trong cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sau này (x. Rm 6,3-4). Từ mầu nhiệm Phục Sinh, Đức Giê-su sẽ thiết lập bí tích Rửa Tội, để tái sinh các tín hữu trở nên con Thiên Chúa và canh tân họ nhờ nước và Thần Khí. Đây là điều kiện cần có để được gia nhập vào Nước Thiên Chúa (x. Ga 3,3-6). Ngoài ra, đây còn là cơ hội để Gio-an Tẩy Giả thi hành sứ mạng tiền hô đi trước dọn đường và làm chứng Người thực là Đấng Thiên Sai với dân Do thái. Cuối cùng, Đức Giê-su chịu phép rửa của Gio-an để biến đổi phép rửa bằng nước trở thành bí tích Rửa Tội trong Thánh Thần (x Mc 1,8) và lửa (x Lc 3,16;Cv 2,3-4), để ban ơn cứu độ cho các tín hữu.
II. SỐNG LỜI CHÚA
LỜI CHÚA: Khi ấy, Gio-an rao giảng rằng : “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quay dép cho Người” (Mc 1,7).
2. CÂU CHUYỆN:
1) GIÁ TRỊ CỦA SỰ KHIÊM HẠ GIỮA ĐỜI THƯỜNG :
Một tài xế xe tải kia không dám cho xe tải chạy qua cầu, vì theo anh nghĩ chiếc xe tải có mui xe cao hơn thành cầu tới 10 phân. Trong lúc tiến thoái lưỡng nan, không biết nên giải quyết thế nào, thì có người đề nghị : Hãy xì bớt hơi cho các bánh xe xẹp xuống. Anh tài xế liền làm theo lời khuyên này và cuối cùng chiếc xe của anh đã có thể an toàn đi qua cầu.
Xì hơi cho bánh xe xẹp bớt cũng giống như thái độ khiêm nhường. Trong giao tiếp với tha nhân, nếu “biết mình biết người, thì trăm trận trăm thắng !”. Cũng nhờ biết ứng xử khiêm tốn nhún nhường với tha nhân mà chúng ta sẽ dễ dàng thành công trong mọi việc.
2) KHIÊM TỐN LÀ LUÔN TRONG TƯ THẾ QUÂN BÌNH:
Một hôm Khổng Tử tới thăm miếu vua Hoàn Công nước Lỗ, thấy một chiếc lọ đứng nghiêng thì hỏi thăm và được người giữ miếu cho biết :
– Cái lọ này là một bảo vật, thuở trước nhà vua luôn để gần ngai vàng để nhắc nhở mình.
Khổng Tử nói :
– Ta nghe đồn nhà vua có một bảo vật : không cho nước vào thì lọ sẽ đứng nghiêng ; Đổ nước vào vừa phải thì lọ sẽ đứng thẳng. Còn nếu đổ nước đầy tới miệng thì lọ lại sẽ bị đổ ngã. Có lẽ đó là chiếc lọ này chăng ?
Rồi ngài bảo học trò múc nước để kiểm tra thì kết quả đúng như thế.
Bấy giờ Khổng Tử mới dạy bài học về sự trung dung như sau:
– Người thông minh thánh trí thì hãy giữ quân bình bằng cách làm việc như một người tầm thường chứ không muốn được nổi bật hơn người khác. Kẻ lập được công to thì hãy giữ quân bình bằng thái độ và lời nói khiêm hạ chứ không khoe mình. Kẻ có sức khỏe vô địch thì nên giữ quân bình bằng thái độ ứng xử nhún nhường chịu đựng tha nhân. Nếu đang là một người giầu có thì hãy giữ quân bình bằng sự quảng đại chia sẻ cơm áo cho người nghèo khổ. Cái lọ của vua Hoàn Công chính là bài học giúp thực hành lối sống quân bình để khỏi bị sụp đổ vậy”.
3) TÔI MỚI ĐƯỢC 2 TUỔI :
Một ông cụ mãi đến năm 80 tuổi mới có điều kiện tin theo Chúa và được lãnh bí tích rửa tội để được tái sinh làm con Thiên Chúa. Từ ngày theo đạo, ông cụ đã thay đổi hẳn trở thành một người mới, ông đã bỏ được sở thích uống rượu say xỉn và không còn chơi bài bạc. Ông đi dự lễ nhà thờ hằng ngày và có lối ứng xử khiêm tốn và bác ái với mọi người chung quanh. Hai năm sau cụ lâm trọng bệnh và bị thày thuốc khám bệnh cho biết cụ sắp chết. Nhiều bạn bè đến thăm và có người thắc mắc hỏi cụ được bao nhiêu tuổi. Ông cụ trả lời :”Tôi mới được hai tuổi. Tám mươi năm trước tôi có sống cũng như chết. Chỉ từ ngày theo đạo tôi mới trở nên một người mới và đến nay mới được hai tuổi”.
3.SUY NIỆM :
Tin mừng lễ Đức Giê-su chịu phép rửa hôm nay dạy chúng ta bài học về mầu nhiệm nhập thể của Chúa Giê-su. Người chính là Con Thiên Chúa đã đến lập cư giữa loài người và trở thành người phàm giống như chúng ta mọi đàng ngoại trừ không có tội. Khi đứng xếp hàng để được Gio-an dìm xuống dòng sông để chịu thanh tẩy bằng nước, Đức Giê-su đã thiết lập bí tích rửa tội để thanh tẩy các tín hữu chúng ta bằng Nước và Thánh Thần hầu ban ơn thánh biến hóa chúng ta trở nên con Thiên Chúa giống như Người. Từ nay chúng ta không còn phải là kẻ xa lạ, nhưng là người nhà của Thiên Chúa. Qua bí tích Thánh Tẩy chúng ta đã được tháp nhập làm chi thể của đầu nhiệm thể là Đức Giê-su. Hơn nữa, chúng ta còn được tham phần vào ba chức vụ của Người là ngôn sứ, tư tế và vương đế. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất chúng ta cần học tập noi gương Chúa hôm nay là ăn ở khiêm hạ trong lời nói và việc làm như sau :
1) SỐNG KHIÊM HẠ NOI GƯƠNG ĐỨC GIÊ-SU VÀ ÔNG GIO-AN TẨY GIẢ:
– Đức Giê-su đã dạy các môn đệ học tập noi gương khiêm nhường của Người như sau: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29). Người đã nêu gương khiêm nhường khi rửa chân hầu hạ các môn đệ và dạy bài học khiêm nhường: “Anh em gọi Thầy là “Thầy” là “Chúa”, điều đó phải lắm. Vì quả thật, Thầy là “Thầy” là “Chúa”. Vậy nếu Thầy là “Chúa” là “Thầy”, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (x. Ga 13,13-15). Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã thể hiện sự khiêm nhường qua việc đến xếp hàng xin ông Gio-an làm phép rửa, mặc dù Người hoàn toàn vô tội (x. Mc 1,9).
– Còn Gio-an Tẩy Giả cũng thể hiện sự khiêm nhường khi nói mình không đáng làm đầy tớ cho Đấng Thiên Sai như sau: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người” (Mc 1,7). Ông cũng khẳng định mình không phải là Đấng Ki-tô Thiên Sai mà chỉ là tiếng người nói trong hoang địa mời người ta chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Ki-tô sắp đến (x. Ga 1,20.23). Gio-an còn chứng tỏ có đức khiêm nhường qua việc đề cao Đức Giê-su trước mặt các môn đồ: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (x.Ga 3,30).
2) Chúng ta cần làm gì để thực hành nhân đức khiêm nhường? :
– Khiêm nhường trong lời nói: Hãy nói ít nghe nhiều; Không khoe khoang thành tích của mình; Không phê bình nói xấu người vắng mặt; Sẵn sàng xin lỗi khi mắc phải sai sót khiến tha nhân buồn lòng; Kịp thời khen thưởng người cộng tác để động viên những cố gắng của họ; Can đảm bênh vực những người yếu đuối thân cô thế cô bị kẻ khác đàn áp bóc lột.
– Khiêm nhường trong thái độ: Năng dâng lời cảm tạ hồng ân Thiên Chúa và cám ơn những ai làm ơn cho mình; Luôn có thái độ hiền hòa và nhẫn nhịn tha nhân; Biết làm chủ tính nóng giận và không to tiếng la mắng người dưới; Luôn sống “dĩ hoà vi quí”, không “Bé xé ra to”, hoặc “chuyện không đáng gì mà làm cho ầm ĩ”; Sẵn sàng đi bước trước đến với tha nhân; Biết bỏ ý riêng mình để làm theo ý Chúa muốn thể hiện qua ý bề trên hay ý chung của tập thể.
– Khiêm nhường trong cách ứng xử: Không đổ lỗi cho người khác, nhưng “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân”; Kiên nhẫn lắng nghe lời phê bình góp ý của người khác; Tận tình phục vụ tha nhân vô vụ lợi kèm theo sự khôn ngoan để tránh bị lợi dụng; Tránh thái độ “Thượng tôn hạ đạp”; Can đảm đứng ra bênh vực những người “thân cô thế cô”; Khi công việc bị thất bại sẽ không đổ lỗi cho người khác, mà nhận phần trách nhiệm của mình; Khi thành công thì nhận là do ơn Chúa ban và là công của tập thể. Khi làm được điều gì tốt thì hãy khiêm tốn tự nhủ: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10).
THẢO LUẬN: Tuần này bạn sẽ làm gì để tập sống đức khiêm nhường noi gương Chúa Giê-su và ông Gio-an Tẩy Giả?
5. NGUYỆN CẦU:
– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Qua việc tình nguyện xếp hàng xin Gio-an làm phép rửa, Chúa muốn dạy chúng con thực thi đức khiêm nhường, là nền tảng của sự thánh thiện. Về phần con, con mang đầy những tội lỗi khuyết điểm, thế mà con lại thường ngại ngùng khi phải thú tội trong tòa giải tội. Con chỉ là một kẻ bất tài vô đức, thế mà con lại thích được nổi tiếng, được người đời khen ngợi về tài năng và lòng đạo đức của mình. Con thiếu khả năng lãnh đạo, thế mà con lại muốn nắm giữ những chức vụ quan trọng trong tập thể…
– Lạy Chúa Giê-su, “Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng”, xin thanh tẩy con sạch mọi thói hư tật xấu, nhất là thói tự ái cao và tự mãn. Xin giúp con thành tâm hoán cải để luôn ứng xử hiền lành và khiêm tốn hơn, để con đáng được Chúa thứ tha tội lỗi và được hưởng hạnh phúc Nước Trời đời sau.
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Chúng ta vừa trải qua một thời gian thật đẹp trong năm Phụng vụ: Thời gian chúng ta mừng kính mầu nhiệm nhập thể của Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Trong suốt thời gian vừa qua, chúng ta đã đi hết từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Từ việc Con Một Thiên Chúa được sinh ra làm người trong một khung cảnh quá nghèo khó đến việc các nhà đạo sĩ sang trọng giàu có mãi từ một phương trời thật xa tìm đến để thờ lạy và dâng cho Người những lễ vật cao quí nhất. Tất cả những sự kiện đó làm cho chúng ta phải ngạc nhiên.
Hôm nay chúng ta lại phải ngạc nhiên một lần nữa. Có thể nói những sự việc xảy ra trong bài Tin Mừng hôm nay là những sự việc ít ai có thể ngờ tới.
1. Bất ngờ thứ nhất là Gioan Tẩy Giả
Cả trong Mùa Vọng vừa qua chúng ta đã thấy Gioan Tẩy Giả là người như thế nào. Có lúc dân chúng đã tưởng ông chính là đấng Kitô - Đấng Cứu thế.
Công bằng mà nói trong thâm tâm Gioan không thể ngờ được rằng dân chúng lại có thể nghĩ về ông cao như thế. Ông chỉ là một con người, một con người bình thường nhưng Thiên Chúa yêu thương ông chọn ông và trao cho ông một sứ mệnh đặc biệt: Sứ mệnh dọn đường cho Đấng Cứu thế khi Ngài xuất hiện. Chính vì thế mà khi nói về mình:
Ông bảo ông chỉ là cát hoang trải dài sa mạc còn Chúa mới là nẻo đường thênh thang đi tới.
Ông bảo ông là người dẫu đến trước nhưng lại có sau - Còn Chúa thì dầu có đến sau nhưng Ngài lại hằng có từ trước đời đời.
Ông bảo phép rửa của ông chỉ là phép rửa trong nước - Còn Chúa mới là Đấng sẽ rửa chính thức trong nước và Thánh thần.
Tóm lại ông chỉ là tiếng kêu bên ngoài - Còn Chúa mới là Lời làm nên ý nghĩa.
Gioan còn tự hạ hơn khi cho mình là người không xứng đáng cúi xuống cởi dây dép cho Chúa.
Vậy mà bất ngờ thay: Chúa Giêsu một Đấng mà Gioan hết lời ca tụng lại đến với ông và đòi cho bằng được là ông phải làm phép rửa cho mình: Chủ sự bước xuống làm thụ nhân. Thụ nhân thì miễn cưỡng đóng vai chủ sự.
2. Sự bất ngờ thứ hai còn kỳ lạ hơn.
Hãy nhìn Chúa Giêsu khi Ngài bước xuống dòng sông để chịu phép rửa từ tay ông Gioan.
Tại sao Ngài lại làm thế nếu không phải là để cho con người hiểu rõ hơn về chương trình cứu độ của Ngài. Ngài đã đến để cùng sống giữa con người, sống với con người trong cuọäc sống làm người của họ. Nhưng sống như thế Ngài cũng vẫn chưa cảm thấy là đủ. Ngài còn muốn sống cho con người một cách trọn vẹn hơn nữa bằng cách sẵn sàng đón nhận vào đời sống của mình những gì là bi đát nhất trong cuộc sống của con người. Đó là cái thân phận tội lỗi của họ.
Khi Chúa Giêsu vừa bước lên từ dòng sông Giordan đục ngàu thì Ngài lại tỏ mình ra một lần nữa: rất công khai. Đức Giêsu bỗng nhiên trở thành một Người Con tuyệt diệu: Ngài được tiếng từ trời xác nhận là Con chí ái - được Thánh thần tấn phong làm đấng qui tụ tất cả nhân loại về một đầu mối cứu độ. Đất bỗng được gặp Trời. Người tôi tớ đau khổ bỗng hóa nên Người con chí ái và người tự hạ xóa mình ra không lại bất ngờ trở nên Đấng vừa làm đẹp lòng Cha vừa làm thỏa lòng mong ước của bao thế hệ đợi chờ.
Như vậy chúng ta thấy dòng sông nơi Chúa được chịu Phép rửa đã trở nên điểm hẹn bất ngờ để Chúa Giêsu tỏ mình ra cho nhân loại
3. Bài học
Chúng ta học được bài học gì qua biến cố hôm nay. Có nhiều bài học nhưng tôi chỉ xin nói đến một bài học này: Đó là việc thi hành một cách trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa.
a- Nơi Chúa Giêsu thì sự việc đã quá rõ. Mục đích của Ngài ở nơi trần gian là để chu toàn thánh ý của Thiên Chúa “Lạy Cha này con đến để thi hành thánh ý của Cha”.
Việc thi hành này được thể hiện qua thái độ Ngài sẵn sàng làm mọi điều Thiên Chúa Cha mong muốn.
b- Gioan cũng vậy. Gioan được Thiên Chúa trao cho một sứ mạng và Gioan đã hoàn thành thật tốt đẹp sứ mạng cao cả đó. Rõ ràng Gioan không có một tham vọng gì cho riêng mình. Tất cả những gì ông làm đều chỉ nhắm đến một điều duy nhất này là dọn đường cho Chúa Cứu thế và khi nhiệm vụ dọn đường đã xong ông sẵn sàng lui vào bóng tối.
Sau khi ông làm phép rửa cho Chúa Giêsu, ông thấy nhiệm vụ của mình đã hoàn tất, ông dần dần khôn khéo tế nhị chuyển giao các môn đệ của ông cho Chúa và ông sau đó ông sẵn sàng lui vào trong bóng tối như lời ông nói với mọi người: “Người cần phải lớn lên còn tôi cần phải nhỏ đi”. Và như Tin Mừng thuật lại khi danh tiếng của Chúa lên tới tột đỉnh thì Gioan kết thúc cuộc đời của mình trong chốn lao tù. Thế là chấm dứt cuộc đời của một con người. Cái chết của Gioan là cái chết thật đớn đau nhưng là cái chết cao cả vì là cái chết sau khi đã hoàn thành được trọn vẹn sứ mạng cao cả của mình.
c- Và bây giờ đến lượt mỗi người chúng ta kính thưa anh chị em. Tôi cũng như anh chị em đều được Thiên Chúa ban cho mỗi người một cuộc sống với hai chiều kích. Vừa phải sống cuộc sống nơi trần thế với tất cả bổn phận của một sinh vật sống trên đất vừa phải sống cuộc sống của một người công dân trong nước trời. Đó là sứ mệnh Chúa trao cho của mỗi người chúng ta.
Vấn đề đặt ra ở đây là làm sao chu toàn được cả hai.
Trong cuốn “Người lữ hành” có một câu chuyện tôi rất thích. Truyện kể về một gia đình sống ở Luân đôn thủ đô của nước Anh. Một gia đình công nhân kia vừa nghèo khó mà lại vừa dông con: Cả thảy 13 đứa. Bố của chúng phải đi làm suốt ngày tại xí nghiệp. Bà mẹ ở nhà làm nghề phụ và lo nội trợ. Dù bận bịu đầu tắt mặt tối suốt ngày đêm nhưng bà Vaughan vẫn vui vẻ thay chồng dạy dỗ con cái và nhất là trưa nào bà cũng thay cho cả gia đình đến với Chúa Giêsu Thánh Thể trong nhà tạm. Láng giềng bà con quen biết hỏi bà: “Một bầy con 13 đứa, bận rộn từ sáng đến tối vậy mà làm sao trưa nào chị cũng phải đi chầu Thánh thể như thế” Bà tươi cười trả lời: “Thấy một bày con lúc nhúc, chưa ăn bữa mai đã phải nghĩ đến việc chạy gạo bữa hôm, tôi lo lắm. Hơn thế chúng nó còn phải đi học. Ở trường thiếu gì những bạn bè xấu rủ rê chúng nó đi chơi hoặc giữa đường giữa chợ thiếu gì cảnh nguy hiểm, tôi lại càng thao thức hơn. Chính vì thế mà mỗi ngày dù bận bịu đến đâu tôi cũng bỏ ra một giờ để chầu Mình Thánh Chúa, sốt sắng xin Người ban ơn cho vợ chồng tôi nuôi nấng các cháu hằng ngày đủ và dạy dỗ chúng nên người đạo đức”.
Kết quả thật tốt đẹp. Chúa đã nhậm lời và ân thưởng cho lòng tin cùng sự hy sinh của bà Vaughan. Trong 13 người con, một người sau này làm hồng y Tổng Giáo phận Luân đôn, một người khác làm Tổng Giám mục, hai người làm Linh mục, hai nam tu sĩ, hai nữ tu sĩ còn 5 người nữa ở thế gian lập gia đình để lưu truyền nòi giống nhưng tất cả đều sống một đời sống rất tốt lành thánh thiện.
Từ ngày Con Thiên Chúa giáng sinh đến nay, chưa bao giờ Đức Giêsu tỏ mình ra dáng kẻ thấp hèn như lúc Ngài chịu phép rửa. Thực vậy: - Ngày Sinh Nhật, tuy Ngài là Chúa Tể vũ trụ, nhưng Ngài tỏ mình ra là một Hài Nhi nghèo khó, dễ thương, cho mấy chú mục đồng, rồi cho ba vị đạo sĩ ngoại giáo (x Lc 2, 12: Mt 2, 1-12). - Sau 40 ngày Ngài được sinh ra, cha mẹ dâng Ngài vào Đền Thờ, Ngài lại tỏ vinh quang của Đấng muôn dân hằng mong đợi cho hai cụ già là ông Simêon và bà Anna (x Lc 2, 22t). - Vào tuổi 12, nơi đền thờ Giêrusalem, Ngài tỏ mình ra là một cậu bé đầy khôn ngoan ngồi giữa các bậc thầy trong dân Israel, trao đổi Giáo Lý (x Lc 2, 41t). - Và đặc biệt, lúc trạc 30 tuổi, Ngài tỏ mình ra cho muôn dân như một tội nhân ngoan ngoãn xếp hàng với những kẻ tội lỗi và lội xuống sông Giođan xin ông Gioan làm phép rửa! (x Mc 1, 7-11: Tin Mừng). Nhưng chính lúc Ngài tỏ ra thấp hèn nhất, lại chính là lúc Ngài bộc lộ quyền năng cứu độ muôn dân. Hôm ấy, Ngài thông cho nước sức thiêng cứu độ loài người, để những ai tin vào Ngài khởi đi từ việc lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy bằng nước và Thần Khí (x Ga 3, 5), thì được thoát án tử bởi tội đã gây ra, nhất là được tái sinh trở nên con Thiên Chúa. Nơi sông Giođan, ông Gioan Bt không dám làm phép rửa cho Ngài, vì ông biết chính Ngài mới là Đấng rửa người ta bằng nước và Thánh Thần (x Ga 3, 5), thể hiện Ngài là “Chiên Thiên Chúa xóa bỏ tội trần gian” (x Ga 1, 29), thì Ngài bảo ông: “Bây giờ chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính” (Mt 3, 15). Rõ ràng là Đức Giêsu đã kết án kiểu “công chính” của Biệt phái và Luật sĩ chỉ dựa vào Luật dạy làm. Vì chỉ có ai được kết hợp với Chúa Giêsu qua Bí tích Khai Tâm (Thánh Tẩy, Thêm Sức, Thánh Thể) mới thực sự là người công chính. Để làm nổi bật giá trị Phép Rửa của Đức Giêsu (1), ta hãy so sánh với phép rửa của ông Gioan Bt (2) và phép rửa truyền thống của người Do Thái (3): (3) Phép rửa của Biệt phái và nhóm Essenio là nghi thức dân ngoại nhập quốc tịch Do Thái, thì người tân tòng sau khi chịu cắt bì, tự lấy nước rửa cho mình (theo nhóm Biệt phái), hoặc người tân tòng tự rửa trước và sau khi chịu cắt bì (theo nhóm Essenio). (2) Phép rửa của ông Gioan Bt làm cho hết mọi loại người đến xưng thú tội mình để hướng về Phép Rửa của Đức Kitô bằng nước và Thánh Thần (x Ga 3, 5). Nhưng tất cả những ai chịu phép rửa của Biệt phái hay Essenio, kể cả phép rửa của ông Gioan Bt, cũng còn ở trong cõi chết. Chỉ những người lãnh nhận Phép Rửa của Chúa Giêsu, nhờ nước và Máu Ngài đổ ra trên Thập Giá mới được ơn tha tội và được tái sinh làm con Thiên Chúa. Chính vì thế mà Đức Giêsu nói: “Tôi còn phải chịu một thanh tẩy khác (Máu), và tôi bồn chồn cho đến lúc hoàn tất” (Lc 12, 50). Vậy: (1) Phép Rửa của Chúa Giêsu là một cuộc đời tự hạ mình phục vụ cho đến chết trên thập giá. Phép Rửa này cuốn hút tất cả những ai có lòng sám hối tội mình và tin vào Chúa Giêsu là Đấng giải thoát khỏi án sự chết, như lời thánh Phaolô nói: “Anh em không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6, 3-4). Sự sống này khởi đi từ lúc “Đức Giêsu vừa lên khỏi nước, Ngài thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí tựa như chim bồ câu ngự xuống trên mình” (Mc 1, 10: Tin Mừng). Ở đây Mạc Khải muốn nhắc lại những hình ảnh trong thời Cựu Ước nói về lịch sử Chúa cứu dân Israel: - “Đức Giêsu vừa lên khỏi nước”: Ngài chính là ông Môsê Mới được Chúa Cha tuyển chọn vớt lên từ nước sông Giođan, để cứu cả loài người thoát nô lệ Satan, hơn xưa ông Môsê được vớt lên từ nước Chúa đã dùng ông để cứu dân Do Thái thoát nô lệ Ai Cập. - “Ngài thấy các tầng TRỜI XÉ ra”: Làm cho ta nhớ đến cảnh lầm than khốn nạn của dân Israel, vì dân này không nghe lời các ngôn sứ, nên Chúa để cho đế quốc Babylon bắt làm nô lệ, trong cảnh tủi nhục đau khổ này, ngôn sứ Isaia lên tiếng an ủi họ, ông thưa cùng Chúa: “Từ lâu rồi, chúng con là những kẻ không còn được Ngài cai trị, không còn được cầu khẩn danh Ngài. Phải chi Ngài XÉ TRỜI mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước Thánh Nhan. Người ta chưa nghe nói đến bao giờ, tai chưa hề nghe, mắt chưa hề thấy có vị thần nào, ngoài Chúa ra, đã hành động như thế đối với ai tin cậy nơi Ngài. Ngài đón gặp kẻ sống đời công chính mà lấy làm vui và nhớ đến Ngài khi theo đường lối Ngài chỉ dạy. Kìa, Ngài phẫn nộ vì tội lỗi chúng con, nhưng khi mải đi theo các đường lối của Ngài, chúng con sẽ được cứu thoát. Tất cả chúng con đã trở nên như người nhiễm uế, mọi việc lành của chúng con khác nào chiếc áo dơ. Tất cả chúng con héo tàn như lá úa, và tội ác chúng con đã phạm, tựa cơn gió, cuốn chúng con đi. Không có ai cầu khẩn danh Chúa, cũng chẳng ai tỉnh dậy mà níu lấy Ngài, vì Ngài đã ngoảnh mặt không nhìn đến, và để cho tội ác chúng con phạm mặc sức hành hạ chúng con. Thế nhưng, lạy ĐỨC CHÚA, Ngài là Cha chúng con; chúng con là đất sét, còn thợ gốm là Ngài, chính tay Ngài đã làm ra tất cả chúng con” (Is 63, 19; 64, 2b-7). Như thế Phép Rửa của Đức Giêsu thiết lập làm ứng nghiệm và hoàn hảo lời ngôn sứ Isaia nói về ơn giải phóng cho dân tộc Do Thái trong thời lưu đày ở Babylon. Thực vậy, * Chúa nói qua miệng ngôn sứ Isaia: “Đây là người tôi trung của Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng, Ta cho Thần Khí Ta ngự trên nó, nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân” (Is 42, 1: Bài đọc I): Người tôi tớ này chính là ông Cyros, vua Ba Tư, được Chúa Thánh Thần ở cùng, để ông đòi công lý cho dân Do Thái thoát nô lệ Babylon. Nhưng vào thời Tân Ước, Người Tôi Trung của Thiên Chúa lại là chính Con Thiên Chúa được sai vào đời còn uy quyền và trổi vượt hơn vua Cyros, vì Ngài có sứ mệnh giải phóng cả loài người thoát nô lệ Satan, thoát tay tử thần. * “Nó sẽ không kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng giữa phố phường. Cây lau bị giập, nó không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý” (Is 42, 2-3: Bài đọc I). “Cây lau bị giập, tim đèn leo lét” nói lên thân phận dân Do Thái thời lưu đày Babylon. Đây là một dân tộc kiệt quệ, vô phương tự cứu mình để thoát ách nô lệ. Nhưng “Ngài không nỡ bẻ gãy, không giập tắt”, tức là Chúa không nỡ để họ bị tiêu diệt, vì Ngài đã dùng vua Cyros giải phóng và cho hồi hương tái thiết thánh địa Giêrusalem để tôn thờ Chúa. Niềm vui ấy thua xa khi Con Thiên Chúa được Chúa Cha tuyển chọn từ dòng sông Giođan. Tuy dáng dấp Ngài hèn hạ như một tội nhân, vì Ngài gánh lấy tội loài người. Nhưng Ngài là Tôi Trung của Thiên Chúa, Ngài nhân từ không nhu nhược, không chịu để cho sự ác khuất phục, Ngài có sức mạnh đánh gục tử thần. Chính Ngài mới thực sự là Đấng giải phóng hồn xác của mọi người, đối với những ai có trái tim nghe Lời Ngài, vì “Ngài không kêu to, không nói lớn, không ai nghe được tiếng Ngài giữa phố phường” (Is 42, 2: Bài đọc I). Nói rõ hơn, chỉ có những người thành tâm thiện chí đi tìm kiếm chân lý nơi Phụng Vụ của Hội Thánh Công Giáo, mới gặp được Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của loài người (x Cv 4, 12). Đúng như lời ngôn sứ Isaia đã nói: “Nó không yếu hèn, không chịu phục, cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu. Dân các hải đảo xa xăm đều mong được nó chỉ bảo” (Is 42, 4: Bài đọc I). Thực vậy, “Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và sống ngay lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận. Vì chỉ nhờ Đức Giêsu Kitô là Chúa của mọi người, Ngài xuất thân từ Nazareth, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu, Người cũng thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10, 34-38: Bài đọc II). Như thế là để làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia đã nói: “Người phán thế này: "Ta là Đức Chúa, Ta đã gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta. Ta đã nắm tay ngươi, đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước, để mở mắt cho những ai mù loà, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm.” (Is 42, 6-7: Bài đọc I). Ơn giải thoát này chỉ bắt đầu được thực hiện khi “các tầng trời mở ra, và có tiếng Chúa Cha phán dạy: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe Lời Người” (Mc 9, 7: Tung Hô Tin Mừng). Có nghe và thực hành Lời Chúa, ta mới có thể cất lời cầu nguyện: “Xin Chúa tuôn đổ phúc lành cho dân hưởng bình an” (Tv 29/28, 11b: Đáp ca). Hội Thánh đã đặt lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa là Chúa nhật I quanh năm, để từ đây, các Chúa nhật liên tiếp diễn tả các mầu nhiệm về Chúa Kitô, người Kitô hữu được nuôi dưỡng và lớn lên trong ơn thánh các mầu nhiệm ấy, để rồi đến Chúa nhật 34, kết thúc năm Phụng vụ: Lễ Chúa Kitô Vua, kẻ đã sống theo Chúa cho đến cùng, họ như một Hiền thê của Vua Giêsu Kitô, được chung hưởng vinh quang và quyền uy với Ngài. Vậy khi Con Thiên Chúa lãnh nhận Thánh Thần lần I, Ngài nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, Đức Maria bế Con Thiên Chúa vào trần gian; cũng thế, ngày Con Thiên Chúa chịu phép rửa, để khai mào Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được lãnh nhận Thánh Thần lần I là ngày sinh nhật của chúng ta, Chúa Cha bế ta trong Con Một Ngài vào Hội Thánh, và Ngài nói: “Trong Con yêu dấu của Ta, hôm nay Ta sinh ra Con.” (Thánh Maximô Giám mục Turinô: Bài đọc II Giờ Kinh Sách. ) Khi Con Thiên Chúa chịu phép rửa, là Ngài lãnh nhận Thánh Thần lần II để khai mào cuộc đời rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa cách công khai; cũng thế, người Kitô hữu cũng còn được lãnh nhận Thánh Thần lần II trong Bí tích Thêm Sức, để chính thức trở nên chứng nhân cho Chúa qua sứ mệnh tư tế, ngôn sứ và vương đế, không biết ta có được Chúa Cha hài lòng về ta như Chúa Giêsu được Cha giới thiệu với mọi người: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Con đẹp lòng Ta mọi đàng” (Mc 1, 11). Hay Ngài phải đau lòng vì ta mà thốt lên: “Con làm phiền lòng Cha mọi đàng?” THUỘC LÒNG. Ai nói rằng mình ở lại trong Chúa, thì phải đi trên con đường Đức Giêsu đã đi (1Ga 2, 6). http://phaolomoi. net Lm GIUSE ĐINH QUANG THỊNH
Hôm nay, mở trang Tin Mừng ra ta không chỉ thấy hình ảnh "lạ" mà còn "độc" theo ngôn ngữ của các bạn trẻ ngày nay.
Đúng vậy! Không chỉ "lạ" mà còn "độc" bởi lẽ nhân vật chính trong trang Tin mừng hôm nay không ai khác ngoài cái nhân vật "lạ" mang tên Giêsu xuất hiện. Trước đó, mọi người đều thấy Gioan xuất hiện và Gioan "to còi".
Ngày hôm ấy, tại cái bờ sông Giođan, có thêm "người ấy" xuất hiện nữa. Và, như thường ngày, người ta vẫn chú tâm đến Gioan bởi lẽ đã quá quen với hình ảnh Gioan và nghe tiếng của Gioan rồi. Nhưng, ngạc nhiên rằng hôm ấy Gioan lại cất tiếng nói: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi đã làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần.”
Hóa ra người quan trọng mà mọi người lầm tưởng không phải là Gioan mà là "người ấy", cái "người" mà xếp hàng đi theo đám người hôm nay nhận phép dìm của Gioan nơi dòng sông Giođan. Không còn gì để giấu diếm, Gioan đã nói rằng: "Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần.” Vấn đề là chỗ đó bởi lẽ Gioan chỉ làm phép rửa bằng nước thôi.
Người "lạ" mà "độc" hôm nay chính là người mà Thiên Chúa hứa từ ngàn xưa, từ ngày mà Ađam đã phản nghịch cùng Thiên Chúa.
Nhớ lại, ở vườn địa đàng, ngày hôm ấy Ađam cũ đã bước vào cuộc đời này và đã bước quá "mạnh" để rồi phạm tội. Tội của Ađam cũ là bất tuân thì Ađam mới đến để sửa lại cái cũ, sửa lại tội nguyên tô cho con người như sách Isaia nói:
Đức Chúa phán:
“Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và hết lòng quý mến, Ta cho thần khí Ta ngự trên người ; người sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân. Người sẽ không kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng giữa phố phường. Cây lau bị giập, người không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. Người sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý. Người không yếu hèn, không chịu phục, cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu. Dân các hải đảo xa xăm đều mong được người chỉ bảo. Ta là Đức Chúa, Ta đã gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta. Ta đã nắm tay ngươi, đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước, để mở mắt cho những ai mù loà, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm.”
Ađam mới là như thế! Chúa Giêsu - Đấng Cứu Độ trần gian là như thế! Ngài đã đến trong thế gian này trong thân phận làm người như mọi người chỉ trừ tội lỗi. Chúa Giêsu đã bước một bước rất đẹp vào cõi đời này nhưng không như Ađam là bước vào để dính vào tội lỗi nhưng bước vào và bước thêm bước nữa xuống dòng sông Giođan để cùng lãnh nhận phép rửa như con người để đồng hóa với con người trong thân phận con người để cứu con người.
Rất quen thuộc hình ảnh trong đời thường của chúng ta. Những ai vì lý do nào đó mà rơi xuống nước thì buộc lòng người khác muốn cứu phải nhảy xuống dòng nước để đưa con người kém may mắn đó lên.
Chúa Giêsu cũng đã "nhảy" xuống trần gian để cứu con người như vậy.
Ta thấy ân sủng mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta không như chúng ta nghĩa. Là con người tội lỗi nhưng rồi Chúa đã đưa con người tội lỗi lên được làm con Thiên Chúa và không những thế những ai lãnh phép rửa thì được tham dự vào chức vụ tư tế - vương đế - ngôn sứ của Thiên Chúa nữa.
Ân huệ, hồng ân của bí tích Thánh Tẩy là một hồng ân tuyệt vời và hồng ân cao cả nhất của đời chúng ta. Thánh Phaolô nói: "Anh em không biết rằng tất cả chúng ta là những người đã được lãnh nhận phép rửa trong Ðức Giêsu Kitô hay sao? Thế nên, chúng ta đã được chôn táng với Người trong sự chết bởi bí tích rửa tội, để như Chúa Kitô nhờ vinh quang của Chúa Cha mà sống lại từ trong kẻ chết thế nào, chúng ta cũng bước đi trong cuộc sống mới như vậy" (Rm 6, 3-4).
Vì phép rửa là một việc trầm mình vào mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitô mà phép rửa Kitô giáo đã có một giá trị cao cả hơn rất nhiều những lễ nghi làm phép rửa của Do Thái và của dân ngoại, những lễ nghi gột rửa tượng trưng cho việc thanh tẩy song không có khả năng xóa bỏ tội lỗi. Trong khi đó phép rửa Kitô giáo là một dấu hiệu thực sự thanh tẩy lương tâm và thứ tha tội lỗi. Phép rửa Kitô giáo còn phát sinh một tặng ân cao cả hơn nữa, đó là một sự sống mới của Chúa Kitô phục sinh, là tặng ân biến đổi tội nhân đến tận gốc rễ.
Thánh Maccô thì đã ghi lại lời sau hết Chúa Giêsu truyền dạy các môn đệ của Người cho thấy cả đức tin lẫn bí tích rửa tội là đường lối duy nhất dẫn đến ơn cứu độ: "Ai tin và lãnh nhận phép rửa sẽ được cứu độ; còn kẻ không tin sẽ bị luận phạt" (Mc 16, 16). Và để ghi lại lệnh truyền giáo Chúa Giêsu đã bảo các Tông Ðồ, thánh Mathêu nhấn mạnh đến sự liên hệ giữa phép rửa và việc rao giảng Phúc Âm: "Các con hãy đi tuyển mộ môn đồ khắp mọi dân nước, rửa tội cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần" (Mt 28, 19).
Thánh Phaolô đã cho thấy hiệu qủa chính yếu của bí tích rửa tội khi thánh nhân viết cho Kitô hữu giáo đoàn Galata: "Tất cả anh em đã lãnh nhận phép rửa trong Ðức Kitô thì anh em đã mặc lấy Người" (Gl 3, 27). Kitô hữu mang sâu xa nơi mình hình ảnh Chúa Kitô, ở tại tặng ân họ được trở thành những đứa con thừa nhận thần linh. Chính là vì đã "rửa trong Chúa Kitô" mà Kitô hữu là "những người con cái của Thiên Chúa" một cách đặc biệt. Bí tích rửa tội làm nên một cuộc "tái sinh" thực sự.
Chúa Giêsu đã gánh tội trần gian trên cuộc đời của mình như Chiên Thiên Chúa như Thánh Gioan đã nói. Ngài đã đi vào đời để nhận lãnh tất cả tội lỗi cho con người được cứu. Tình yêu của Chúa Giêsu là một tình yêu bao la, tình yêu vô bờ bến đề rồi Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi, vì chúng tôi nghĩ rằng: nếu một người đã chết thay cho mọi người… Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” (2Cr 5, 14tt).
Thật sự không phải dễ sống như lời Thánh Phaolô mời gọi. Nếu sống được như thế quả là điều tuyệt vời. Thế nhưng, con người của chúng ta vẫn mang trong mình vết tích của Ađam cũ là dễ quay lưng lại với Thiên Chúa và khước từ Thiên Chúa dẫu rằng chúng ta đã nhận phép rửa có khi là vài chục năm rồi.
Hôm nay, mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa nhắc nhớ chúng ta bí tích Thanh Tẩy mà chúng ta nhận bao nhiêu năm qua và chúng ta sống bí tích Thanh Tẩy như thế nào trong cuộc đời chúng ta. Chúng ta có can đảm dìm mình như Chúa Giêsu đã dìm mình trong Thánh Thần để chúng ta được tinh tuyền hay không?
Chúa Giêsu đã đến trong thế gian này và đã sống trọn cuộc đời vâng phục. Kim chỉ nam của đời sống là lời vâng phục. Chỉ có lời vâng phục mới làm cho ta sống tròn vẹn phép rửa. Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để chúng ta luôn luôn biết sống vâng phục để ta được Thiên Chúa nói với chúng ta như nói với Chúa Giêsu xưa bên bờ sông Giođan: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.”
“Nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân” – Mỗi ngày nên mới, ngày ngày nên mới, ngày tới phải nên mới. Đây là câu tâm niệm của vua Thành Thang khắc trên bồn tắm. Vua cho rằng: Người ta phải gội rửa con tim cho sạch tội nhơ như thân xác phải tắm rửa hàng ngày (Sách Đại Học, I, 1).
Bất cứ ai lương thiện đều cần thiết phải gột rửa tâm hồn hàng ngày. Chẳng ngày nào mà không có lỗi.
Gioan Tẩy giả dù sống trong rừng vắng cũng thấy rõ đời sống con người chồng chất tội nhơ. Sao con người dám đón mừng Đấng Cứu Thế đến! Ông đã quyết tâm từ giã hoang địa, đi rảo khắp miền sông Hòa Giang, hô hào dân chúng sám hối, xuống sông thanh tẩy mình dưới giòng nước trong lành. Từ tẩy sạch thân xác cho mát mẻ, họ sẽ thấm sâu ý nghĩa thanh tẩy tâm hồn để được ơn lành mạnh, thánh thiện của Đấng Cứu Thế đến ban cho họ. Gioan đang làm phép rửa và hô hào như thế, không ngờ, Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế đã khiêm tốn ẩn mình trong đám đông dân chúng đến dìm mình dưới sông cho ông thanh tẩy. “Khi Người vừa lên khỏi nước, các tầng trời mở tung ra, Thánh Thần tựa như chim câu ngự xuống trên Người và từ trời có tiếng phán rằng: “Con là Con chí ái của Cha, Cha rất hài lòng về Con”.
Thật kinh ngạc, hôm nay Người đến thánh hóa giòng nước nhờ thân xác chí thánh của Người và nhờ Thánh Thần từ trời xuống trên Người. Chính nước thánh Người ban mới có sức thiêng liêng thanh tẩy tâm hồn vô hình được hoàn toàn trở nên trong sạch, tẩy trừ mọi vết nhơ tội lỗi, cho ta xứng đáng trở nên con yêu dấu của Chúa Cha.
Thế nhưng, người nông nổi bảo: Nước nào cũng thế thôi. Đại tướng Naaman cũng nghĩ thế khi tiên tri Êlisê bảo ông đến tắm nước sông Hòa Giang bảy lần thì khỏi bệnh phong cùi. Ông đã tức giận nói: Nước sông ở nước ta không sạch hơn nước sông ở Israel sao? Ông giận dữ đã bỏ về. Thuộc hạ đã can ông rằng: “Nếu tiên tri bảo đại tướng làm những kỳ công để khỏi bệnh, đại tướng còn làm. Huống chi một việc dễ như vậy, sao đại tướng không làm?”. Naaman đã nghe và xuống sông tắm, da ông được sạch và đẹp đẽ như da trẻ thơ. (2V. 5).
Nước suối Lộ Đức đã làm cho hàng ngàn bác sĩ phải kinh ngạc. Nước đó cũng giống như bao nhiêu nước suối khác. Nhưng với lòng tin, ơn Chúa đã ban cho bao nhiêu bệnh nhân được khỏi bệnh thân xác và tâm hồn một cách lạ lùng, như trường hợp cơn bệnh của nhà bác học nổi tiếng: Bác sĩ Alexis Carrel. Năm 1947, cô Marie Ferrand bị bệnh lao ruột, cả Hội đồng bác sĩ ở Paris khám bệnh đều chắc chắn cô sắp chết. Nhưng cô đã xin được đến tắm suối Lộ Đức. Bác sĩ Carrel đã đi theo để xem xét cô cẩn thận và khuyên không nên cho cô tắm suối vì sẽ chết khi chưa xuống tới suối. Tuy nhiên, để làm vui lòng bệnh nhân, người ta đưa cô xuống tắm nước suối. Thật lạ lùng, cô Marie đã khỏi. Bác sĩ Carrel lấy bút ghi ngay vào tay áo: “2g40 thật bất ngờ, một phép lạ mới xảy ra”. Nước suối với lòng tin mạnh mẽ của cô, cô được khỏi bệnh đã làm cho nhà khoa học vô thần Carrel trở lại, chịu phép Rửa tội Công giáo. Còn bao nhiêu nhà vô thần vị vọng khác đã được khỏi chết đời đời, nhờ một thứ nước thiêng, lạ lùng hơn nước suối Lộ Đức là nước thánh Rửa tội, nước bởi nguồn yêu thương của Thánh Thần chảy ra từ cạnh sườn và trái tim Đức Giêsu Kitô. “Ai không sinh bởi nước và Thánh Thần thì chẳng được vào nước Trời” (Ga. 3, 5).
Mỗi người chúng ta đều được nước thánh ấy đổ trên đầu nhân danh Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Đấy là một công trình tạo dựng mới, một cuộc phục sinh trong Chúa Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại để sống trong sự sống của Chúa Ba Ngôi. Sự sống ấy đầy tràn sức mạnh của Chúa Thánh Thần qua việc xức dầu thánh. Sự sống ấy được bao phủ bằng tấm áo trắng thánh thiện tinh tuyền của Đức Kitô. Sự sống ấy còn được ánh sáng nến phục sinh đốt sáng lên, cho ta xứng đáng là con cái của ánh sáng muôn đời chiếu tỏa trên những kẻ còn ngồi trong tối tăm sự chết.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đến thánh hóa giòng nước trần gian, cho thế nhân nguồn nước trường sinh. Nguồn nước thanh tẩy tội lỗi, nguồn nước tạo dựng con người mới biến đổi con người tội lỗi trở nên con chí ái của Thiên Chúa, trong thân thể phục sinh sáng láng của Đức Kitô, trong nguồn sống vinh quang muôn đời của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Xin cho chúng con biết trung thành sống trong nguồn nước Thần Linh chí thánh ấy, cho thân xác chúng con được mạnh khỏe, cho tâm hồn chúng con được tươi mát, cho đời sống chúng con thành ánh sáng thế gian. Amen.
TN1-B99: Phép Rửa của Chúa Giêsu thanh luyện chúng ta
Chúa nhật lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay khép lại mùa Giáng sinh và cũng là một “sự hiển linh khác” của Đức Chúa. Hôm nay không phải cảnh lặng lẽ trong hang lừa với vài chàng mục đồng chứng kiến. Nhưng, Phép rửa được cử hành như một nghi lễ công cộng với nhiều người xung quanh. Những người này ý thức rằng cuộc đời họ tội lỗi hôm nay đến đón nhận phép rửa của ông Gio-an trong dòng sông Giođan để tỏ lòng sám hối.
Đức Giêsu hôm nay đến cũng bước vào dòng nước ấy, và nhận phép rửa bởi ông Gioan nhưng không phải là cho mình, mà là cho người khác, vì người khác. Vì chưng Chúa Giêsu đâu có tội làm chịu phép rửa của ông Gioan để tỏ lòng sám hối. Chúa Giêsu chịu phép rửa là có ý nói lên: từ nay, Người chung số phận với người tội lỗi. Ngài dìm xuống để vớt mọi người lên và đó là tất cả ý nghĩa đời Người. Cuộc đời của Chúa Giêsu hoàn tất với Phép Rửa cuối cùng, của sự chết (Lc 12,50) vì chết là cùng chung số phận của con người tội lỗi. Cho nên hôm nay Chúa Giêsu để cho Gioan dìm mình có ý loan báo cái chết và sự phục sinh của Người: dìm mình xuống nước là biểu hiệu cái chết, trồi lên khỏi nước là loan báo sự sống lại. Cho nên, bài đọc 2, Thánh Gioan đã khẳng định rằng: “Chính Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến, nhờ nước và máu; không phải chỉ trong nước mà thôi, nhưng trong nước và trong máu Chính Thần Khí là chứng nhân, và Thần Khí là sự thật”. Vì vậy, Giáo lý Hội Thánh dạy:
“Trong cuộc Vượt Qua của mình, Ðức Ki-tô đã khai mở nguồn mạch của bí tích Rửa Tội cho tât cả mọi người. Qủa thật, Người đã nói về cuộc tử nạn sẽ phải chịu tại Giê-ru-sa-lem như "một Phép Rửa" mà Người phải lãnh nhận (x. Mc 10,38; Lc 12,50). Máu và nước chảy ra từ cạnh sườn bị bị đâm thâu của Chúa Giêsu chịu đóng đinh (Ga 19,34) là những điển hình của bí tích Rửa Tội và Thánh Thể, là những bí tích của đời sống mới (x.1Ga 5,6-8): từ lúc đó, người ta có thể được "sinh ra bởi nước vàThần khí " để được vào Nước Thiên Chúa (Ga 3,5)” (số 1225).
Khi chúng ta nhận lãnh bí tích Rửa tội, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta tham dự vào sự chết và sống lại của Người. Chúng ta vào đời khi được sinh ra, và vào đạo Thiên Chúa khi được rửa tội. Trong phép rửa tội chúng ta được thanh tẩy mọi tội lỗi, tội tổ tông và tội riêng. Do đó, nó biến chúng ta thành “một tạo vật mới” (2Cr 5,17), một nghĩa tử của Thiên Chúa (Gl 4,5-7), được thông phần vào sự sống thần linh (2Pr 1,4), trở nên chi thể của Chúa Kitô (Rm 8,17) và được gọi là đền thờ của Chúa Thánh Thần (1Cr 6,15). Tóm lại, “toàn bộ cơ thể của sự sống siêu nhiên của người Kitô hữu bắt nguồn nơi bí tích Rửa tội (Giáo lý Công giáo, số 1266).
Như vậy, khi được Rửa Tội, chúng ta dĩ nhiên cũng được mời gọi tiếp nối sứ mạng liên đới của Chúa Giê-su trong hoàn cảnh của bạn nơi giáo xứ, gia đình, xóm phố, nơi học hành, nơi làm việc... Sứ mạng này không phải là việc tuỳ ý để mình thích làm hoặc không, mà là một bổn phận được lãnh nhận từ Thiên Chúa. Thiên Chúa chờ đợi bạn thi hành bổn phận này là làm cho Nước Chúa trị đến ý Chúa thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Đó là:
Trước hết, chúng ta hãy siêng năng tham gia tích cực các hoạt động trong việc phục vụ Giáo xứ của mình dù có cực nhọc hay khó khăn vì chính những dòng nước khó khăn và cực nhọc ấy sẽ thanh luyện chúng ta khỏi những gì biến nhác và vô dụng trong việc mở mang Nước Đức Chúa Trời. Thứ hai khiêm tốn, cảm thông và tha thứ là những dòng nước của Chúa Giêsu giúp thanh luyện đời sống gia đình mình vượt khổ trong hạnh phúc và bình an đồng thời xây dựng mọi thành viên trong gia đình lớn lên trong ân nghĩa với Chúa và đầy nhân đức trước mặt mọi người. Cho nên, trong bài giảng thuyết về Bí Tích Rửa Tội, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói rằng: “Nhờ Bí Tích Rửa Tội, chúng ta có khả năng tha thứ và yêu thương ngay cả những người xúc phạm đến mình và làm tổn thương mình, chúng ta có thể nhận ra trong những người rốt hết và những người nghèo khổ nhất khuôn mặt của Chúa là Đấng đến thăm và gần gũi chúng ta.” Thứ ba, thật thà, lương thiện và công bằng là những dòng nước rửa và thanh luyện ta đồng thời làm cho ta sống với anh chị em trong khu phố, trường học hay nơi làm việc như thế người ta mới nhận ra Nước Chúa đang hiện diện ở giữa họ. Cuối cùng, tình yêu và bình an là những dòng nước của Chúa Giêsu tới gội đời ta khiến ta cảm nghiệm được sự ấm áp và tươi sáng của cuộc đời dù cuộc đời ta có gian nan khốn khó.
Ước gì, Lời Chúa trong Bài đọc 1 sẽ là điều Chúa muốn chúng ta thực hiện hôm nay rằng: “Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó”. Allêluia.
Có ai đó đã nói rằng: “Thà thắp lên một ánh nến còn hơn ngồi nguyền rủa bóng tối”. Lời này thật đúng vào thời Chúa Giêsu tại thế. Lúc đó dân tộc Israel đang sống trong bóng tối lầm than, đoạ đầy. Họ ao ước Đấng cứu tinh sẽ tới để giải thoát họ khỏi kiếp nôlệ cho ngoại bang. Họ chờ mong Đấng cứu tinh sẽ đến để xoay chuyển vận mạng cho dân tộc và cho chính ban thân của từng người khỏi kiếp sống lầm than. Và một tia hy vọng đã bừng sáng lên khi Gioan xuất hiện. Ông xuất hiện như một nguời hùng của dân tộc, như một nhà cách mạng giải cứu cho dân tộc. Ông đưa ra một phương thế có thể thay đổi vận mạng dân tộc: đó là hãy ăn năn sám hối, hãy trở về với Thiên Chúa Giavê và hãy trung thành với giao ước của Người. Đó cũng là cách để tránh khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa vì: “cái rìu đã kề sẵn gốc cây, cây nào không sinh trái sẽ bị đốn chặt đi”. Vì ngày thanh luyện trần gian đã đến. Thiên Chúa sẽ dùng nia mà sàn lọc, phân loại tốt xấu. Kẻ tốt sẽ được trọng thưởng, kẻ xấu sẽ bị quăng vào lửa trầm luân muôn đời.
Lời rao giảng của Gioan đã thức tỉnh lương tâm hàng vạn, hàng vạn người. Người ta thấy trong số đông lũ lượt kéo xuống dòng sông Gioađan năm ấy để lãnh phép rửa có đủ mọi thành phần. Từ anh chàng cù bất cù bơ không cửa không nhà đến hạng quyền qúy cao sang, nhà cao cửa rộng. Từ những con người có chức có quyền đến hạng dân đen thấp cổ bé miệng đều cảm thấy mình cần phải sám hối hầu tránh khỏi cơn thịnh nộ của trời đất, của Đấng tạo thành.
Dòng sông hôm ấy dường như náo nhiệt hơn mọi ngày, vì dòng người tấp lập, vì những lời bàn tán xôn sao về ngày thanh luyện trần gian đã tới. Nhưng một sự kiện còn làm họ bàng hoàng kinh ngạc hơn nữa, khi bầu trời trong sáng lạ thường hơn, cửa trời như được mở toang. Ánh sáng từ trời đã tập trung vào một con người đang nài xin Gioan làm phép rửa cho mình.
Gioan đã lưỡng lự, phân vân, vì ông biết đây chính là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội gian trần. Ông không hiểu nổi tại sao Con Thiên Chúa, Đấng thánh thiện vô cùng lại cần đến phép rửa của ông. Ông tự biết mình đâu xứng đang cởi dây dầy cho người thì làm sao ông có diễm phúc đổ nước trên đầu một con chiên không tỳ vết, chính là Thiên Chúa của ông. Nhưng rồi, ông đã vâng lời để đổ nước cho Đấng mà bản thân ông không đáng cởi dây dầy cho người. Tức thì ông nghe một tiếng nói từ trời phán ra. Không phải là tiếng xót xa tìm kiếm ngày nào của Giavê khi Adam lẩn trốn vì phạm tội. “Ađam – Ađam ngươi đang ở đâu?”. Đó cũng không phải là lời luận tội vì tội Ađam mà luỵ đến con cháu muôn đời. Nhưng đó là lời giao hoà của Thiên Chúa với con người: “Đây là con Ta yêu qúy, hãy nghe lời Người”.
Kính thưa,
Ngày chúng ta lãnh nhận phép rửa tội, là ngày chúng ta được nhận làm con yêu qúy của Thiên Chúa. Qua cha mẹ và những người đỡ đầu, ánh sáng của đức tin đã được thắp lên trong cuộc đời chúng ta. Nhưng liệu với tuổi đời chồng chất theo thời gian năm tháng. Ta có còn là con yêu qúy của Thiên Chúa và Thiên Chúa có hài lòng về cuộc sống của ta hay không? Hay ta đã bán đi tất cả gia sản của cha mình để buông mình trong những đam mê lầm lạc, trong bóng tối của sa đoạ, tội lỗi, trong những hư danh của trần gian và khước từ ân huệ là con của Thiên Chúa.
Lời Chúa hôm nay không chỉ mời gọi chúng ta gìn giữ ân huệ cao cả được làm con Thiên Chúa mà còn mời gọi chúng ta hãy trở thành một Gioan cho thời đại hôm nay.
Thế giới hôm nay rất cần một con người như Gioan để thức tỉnh nhân loại hãy ăn năn sám hối, hãy trở về với Thiên Chúa hòng tránh cơn thịnh nộ của Đấng tạo hoá chí công.
Thế giới hôm nay rất cần một con người như Gioan dám hy sinh vì chân lý, vì tin mừng cho dù phải trả giá bằng sự nghèo đói, đoạ đầy và cả tính mạng của mình. Thế giới hôm nay rất cần một con người như Gioan để giới thiệu Chúa cho tha nhân, ngõ hầu muôn dân khắp mặt đất cùng một tâm tình, một ước nguyện, một lời kinh dâng lên Đấng tạo thành trời đất và muôn vật. Xin cho mỗi người chúng ta luôn biết khiêm tốn để Chúa được tỏ hiện trong đời sống của chúng ta. Amen.