Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 1-B Bài 101-135 Giêsu chịu phép rửa ở sông Giô-đan

Chủ nhật - 10/01/2021 04:49
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 1-B Bài 101-135 Giêsu chịu phép rửa ở sông Giô-đan
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 1-B Bài 101-135 Giêsu chịu phép rửa ở sông Giô-đan
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 1-B: Bài 101-135 Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giô-đan

------------------------------------------
Phúc Âm: Mc 1, 6b-11

"Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Gioan rao giảng rằng: "Có Ðấng đến sau tôi, nhưng quyền lực hơn tôi, tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người. Phần tôi, tôi đã rửa anh em trong nước, nhưng Người, Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần."
Và đã xảy ra là trong những ngày đó, Chúa Giêsu từ Nadarét xứ Galilêa đến và chịu phép rửa bởi Gioan ở sông Giođan. Khi vừa lên khỏi nước, Người liền thấy trời mở ra, thấy Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Và có tiếng từ trời phán: "Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha". - Ðó là lời Chúa.
------------------------------------------
Mục Lục:

TN 1-B101: Lên khỏi nước. 2
TN 1-B102: Ba sứ vụ. 6
TN 1-B103: Một cuộc đổi mới 7
TN 1-B104: Chúa chịu phép rửa. 15
TN 1-B105: Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa. 18
TN 1-B106: Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux. 19
TN 1-B107: GIOAN LÀM PHÉP RỬA CHO CHÚA GIÊSU.. 21
TN 1-B108: ĐỨC GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA Ở SÔNG GIOĐAN VÀ CUỘC TỎ HIỆN CỦA THIÊN CHÚA.. 26
TN 1-B109: THÔNG ĐIỆP CỦA GIOAN.. 31
TN 1-B110: Suy niệm của Lm Jos. Nguyễn Văn Tuyên. 33
TN 1-B111: Cha Hài Lòng Về Con. 36
TN 1-B112: Để làm Cha trên trời hài lòng. 38
TN 1-B113: Chúa Giêsu chịu phép rửa. 42
TN 1-B114: Chúng ta là con trong Con Thiên Chúa. 45
TN 1-B115: Chúa Giêsu chịu phép rửa. 48
TN 1-B116: Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa. 50
TN 1-B117: Chúa Giêsu chịu phép rửa. 53
TN 1-B118: Chúa Giêsu chịu phép rửa. 56
TN 1-B119: Chúa chịu phép rửa. 64
TN 1-B120: Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa. 66
TN 1-B121: Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa. 68
TN 1-B122:  “Con là Con Yêu Dấu của Cha”. 70
TN 1-B123: Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa. 71
TN 1-B124: MỘT KỶ NGUYÊN MỚI 73
TN 1-B125: TÌNH LIÊN ĐỚI TRONG ĐẠI DỊCH.. 75
TN 1-B126: CHA HÀI LÒNG VỀ CON.. 76
TN 1-B127: CON YÊU DẤU.. 78
TN 1-B128: ĐỂ NÊN GIỐNG NGƯỜI 80
TN 1-B129: NHÌN VỀ PHÉP RỬA.. 81
TN 1-B130: RỬA ĐỜI 82
TN 1-B131: CHÚA CHỊU PHÉP RỬA VÌ TỘI LỖI MUÔN DÂN.. 87
TN 1-B132: DÒNG SÔNG TRUYỀN THỐNG ĐỨC TIN.. 88
TN 1-B133: LỄ CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA. 91
TN 1-B134: Chúa Giêsu chịu phép rửa. 93
TN 1-B135: Người liền thấy trời mở ra. 94

------------------------------------------
 

TN 1-B101: Lên khỏi nước

 
 

Trong cuốn sách “Aqua Church”, Leonard Sweet đã đưa ra một thống kê như sau: “Không có nước TN 1-B101


Trong cuốn sách “Aqua Church”, Leonard Sweet đã đưa ra một thống kê như sau: “Không có nước thì bạn sẽ chết về cả thể lý lẫn tinh thần. Nếu bạn thiếu 1% số lượng nước trong cơ thể sẽ làm bạn khát nước. Nếu thiếu 5% sẽ gây nên sốt nhẹ. Nếu thiếu 8% sẽ làm cho các tuyến hạch ngưng sản xuất nước miếng và da trên cơ thể sẽ tái ngắt. Một người sẽ không thể bước đi nổi nếu thiếu 10% số lượng nước trong cơ thể, và nếu thiếu tới 12% sẽ chết. Mỗi ngày có khoảng 9500 trẻ em chết vì thiếu nước uống hay chết vì những bệnh gây ra do nước bị ô nhiễm”.

Nước mang lại sự sống đời này. Chúa Giêsu cũng dùng nước làm biểu tượng mang lại ơn “tái sinh và được đổi mới trong Chúa Thánh Thần”. Theo linh mục Eugene Laverdiere, trong Phúc âm của Luca và Matthêu, căn tính của Chúa Giêsu được mạc khải qua các biến cố Truyền Tin, Giáng Sinh và các nhà đạo sĩ đến thờ lạy. Thánh Gioan trình bày là Lời Hằng Sống mặc lấy xác thịt để mạc khải về Thiên Chúa Cha. Còn thánh Máccô đã dùng phép rửa của Gioan để nhận Chúa Giêsu là ai: “Khi vừa lên khỏi nước, Người liền thấy trời mở ra, thấy Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Và có tiếng từ trời: Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha”.

Theo cha Laverdiere, Chúa Giêsu không phải là người tội lỗi, Ngài không cần phải chịu phép rửa của Gioan. Nhưng vì Ngài muốn kết hợp chính bản thân của mình với nhân loại tội lỗi để cứu rỗi họ. Phép rửa của Chúa Giêsu đã công bố Ngài, một con người trong sự liên kết với toàn thể loài người, và điều này đã chứng tỏ ý muốn của Ngài mang lấy gánh nặng của tội lỗi chúng ta trên đôi vai vô tội của Ngài. Trong ý nghĩa này, xin dùng hai hình ảnh cụ thể để minh hoạ cho phép rửa của Chúa Giêsu và phép rửa tội của chúng ta: cuộc chạy đua marathon và cây nến sáng.

1. Cuộc chạy đua Marathon:

Tháng 7 năm 1996, những cuộc tranh tài thể thao Olympic được tổ chức tại Atlanta, tiểu bang Georgia, Hoa Kỳ. Khi nghe tiếng súng khởi sự, 25 vận động viên chạy đua marathon bắt đầu khởi động cho cuộc chạy thi 10 ngàn mét. Mười ngàn mét là 10 cây số, tức 6 dặm. Trước khi nói về vận động viên Stefano Baldini, tôi xin nói về một chi tiết đáng lưu ý của cuộc thi này như sau. Trong số 25 vận động viên chạy thi lần này, có 7 người chưa bao giờ hoàn tất được cuộc thi, nghĩa là chưa bao giờ chạy về đến đích cho dù mất bao nhiêu thời gian. Họ bỏ cuộc vì chuột rút bắp vế, vì đau chân, kiệt sức… nên họ có tên là DNF – Did Not Finish – Đã Không Hoàn Tất.

Stefano Baldini trong cuộc thi này đã cố chạy về tới đích điểm, cho dù hết người này tới người khác vượt qua mặt anh. Họ vượt qua mặt anh không những một vòng chạy mà tới những hai vòng chạy! Một người Ethiopy đã về tới đích trước, đoạt hạng nhất. Rồi người khác về nhì, người về ba. Dần dần tất cả thứ hạng nhất nhì ba đã được công bố, họ đang nghỉ mệt, chúc mừng và sẵn sàng leo lên bệ đài lãnh huy chương. Nhưng anh Stefano Baldini vẫn còn đang chạy. Anh không bỏ cuộc, cứ tiếp tục chạy.

Khi anh về đến đích, xướng ngôn viên của ban tổ chức loan báo cho tất cả hội trường biết rằng anh chỉ về sau người hạng nhất có 2 phút, và tốc độ chạy ở dặm cuối cùng nhanh hơn thời gian anh chạy ở dặm thứ nhất. Khi anh về tới đích thì toàn thể hội trường đều đứng lên vỗ tay chúc mừng và hoan hô anh. Anh đã không chỉ hoàn tất cuộc chạy đua cách can trường mà còn kết thúc nó một cách xứng đáng.

Qua phép rửa của Gioan, Chúa Giêsu bắt đầu ba năm mục vụ để rao giảng tình yêu và ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Ngài bắt đầu cuộc chạy đua marathon. Theo thánh Máccô, ngay sau phép rửa, Chúa Giêsu vào sa mạc ăn chay, cầu nguyện và bị ma quỷ cám dỗ. Cuộc hành trình của Ngài là cuộc hành trình gian khổ giống như mọi người. Ngài giảng dạy, chữa lành, kể dụ ngôn, ngay cả khi nhiều người không chịu nghe! Ngài không bao giờ bỏ cuộc. Đang khi chết trên thập giá, Ngài giống như là kẻ thua cuộc nhất trên thế gian này. Nhưng lại là lúc Ngài chiến thắng. Đó là phần tốt nhất của Ngài trong cuộc đua. Vì sự vinh quang của thập giá mà bây giờ các Kitô hữu đang vỗ tay hoan hô nhiệt liệt, chúc mừng Ngài là Đấng Cứu Độ Trần Gian.

Đời sống Kitô hữu cũng giống như một cuộc chạy đua marathon. Nó vừa dài, vừa khó khăn, lại vừa đòi hỏi. Phép rửa tội đưa chúng ta vào khởi động. Đang khi chạy, chúng ta dễ bị nản chí, bỏ cuộc, bởi yếu đuối, cám dỗ… mà quên rằng đích điểm của cuộc chạy đua là sự sống đời đời và sự liên hệ với Chúa Giêsu Kitô. Nhiều khi đích điểm đó đã trở nên mờ nhạt! Chúng ta muốn bỏ cuộc, muốn mang tên DNF – Did Not Finish – Đã Không Hoàn Tất.

Mẹ Têrêsa Calcutta, người đã ăn bánh mì chấm với nước lã, chưa bao giờ cân nặng hơn 100 pounds. Tuy nhiên, hãy nhìn vào cuộc chạy đua marathon Kitô hữu của Mẹ! Vào ngày Mẹ chết, mùng 5 tháng 9, 1997, toàn thể thế giới vỗ tay reo mừng. Xưa kia, một phóng viên đã hỏi Mẹ, “Thưa Mẹ, làm thế nào Mẹ có thể làm được như vậy? Làm thế nào Mẹ có sức mạnh để tiếp tục sống như vậy?” Mẹ đã trả lời: “Tôi nhìn vào khuôn mặt của người nghèo mà thấy mặt Chúa Giêsu”.

Trong Chúa Giêsu, Mẹ Têrêsa đã tìm thấy sức mạnh để tiếp tục cuộc chạy đua đường trường marathon. Tình yêu mến Chúa Giêsu là động lực để phục vụ tha nhân và sống bác ái.

2. Cây nến sáng.

Một hình ảnh khác cũng mang ý nghĩa sâu xa của đời sống Kitô hữu, đó là cây nến sáng. Ngày chúng ta chịu phép rửa tội, người đỡ đầu đã đại diện chúng ta đón nhận lấy ánh sáng của Chúa Kitô từ cây nến Phục Sinh. Cây nến Phục Sinh là biểu tượng của Chúa Kitô: “Ta là ánh sáng thế gian”. Chúng ta chấp nhận bước đi trong ánh sáng của Đức Kitô và làm chứng nhân cho Ngài nên được gọi là người Kitô hữu. Cây nến sáng là hình ảnh cuộc đời của người Kitô hữu.

Cây nến được làm nên bởi sáp ong. Sáp ong là kết quả công trình làm việc rất kiên nhẫn của những con ong thợ. Chúng bay từ bông hoa này sang bông hoa khác để hút lấy phần tinh túy của nhụy hoa, rồi tiết thành sáp ong. Sáp ong giúp cho ngọn lửa cháy sáng. Sáp ong cũng là hình ảnh của thân xác con người. Con người là tinh hoa của công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Một tạo vật hoàn hảo và đẹp đẽ nhất trong vũ trụ. Không có thân xác, con người không thể hiện hữu trên trần gian được.

Cây nến cháy sáng lên với ngọn lửa. Ngọn lửa tạo ra ánh sáng và hơi ấm. Anh sáng và hơi ấm làm cho phần sáp ong của cây nến có ý nghĩa và mục đích. Ngọn lửa là hình ảnh của đời sống tinh thần nơi thân xác, là đức tin của người Kitô hữu, là mục đích và ý nghĩa của cuộc đời. Chính đức tin vào Chúa Giêsu Kitô tạo nên ánh sáng hy vọng và hơi ấm tình người trong cuộc đời của người Kitô hữu.

Ngọn lửa luôn cháy thẳng đứng, bất kể cây nến sáp ong ở vào vị trí nào. Dù nghiêng sang bên trái, bên phải, hay ngã đổ xuống, ngọn lửa vẫn luôn cháy thẳng lên. Đức tin Kitô giáo luôn mang tính cách hướng thượng. Nó phản ảnh lòng khát khao sự sống vĩnh cửu, tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa Toàn Năng. Dù cuộc đời người Kitô hữu có nghiêng ngả, chao đảo, đôi khi đổ ngã, nhưng đức tin và đời sống ân sủng của Chúa Giêsu Kitô vẫn luôn hiện diện.

Ngọn lửa càng cháy sáng và hơi nóng càng ấm áp thì cây nến sáp ong càng bị mất mát, ngắn dần và bị tiêu thụ đi bấy nhiêu. Đời sống đức tin của người Kitô hữu đòi hỏi sự hy sinh, quên mình để làm chứng cho Đức Kitô.

John Ruskin, một văn sĩ người Anh sống vào thế kỷ thứ 18, đã kể lại câu chuyện sau đây. Khi về già, ông thường đến thăm nhà của một người bạn rất thân, và đứng ở cửa sổ phía trước nhà nhìn xuống mặt đường. Vào mỗi buổi chiều tối, người thắp đèn đường phải đi đốt đèn dọc theo hai bên đường. Từ cửa sổ của một ngôi nhà, một người chỉ có thể nhìn thấy những ánh đèn đã được đốt lên rồi, và ngọn lửa mà người thắp đèn đang mang đi đốt từ cột đèn này tới cột đèn khác. Chính người thắp đèn cũng không thể được ai nhìn thấy.

Nhà văn Ruskin đã lưu ý rằng người thắp đèn là một hình ảnh rất đúng của người Kitô hữu chân chính. Con đường của người Kitô hữu bước đi rực sáng ánh đèn mà chính người đó đã thắp lên với ngọn lửa đang cháy sáng trong tay để đốt lên các ngọn đèn khác, mặc dù chính người đó có thể không được ai biết đến hay được ai trông thấy.

Trong cuốn “Như Tiếng Chim Ca” của cha Anthony de Mello, SJ., kể câu chuyện “Thiền Sư Và Kitô Hữu” cũng nói lên lý tưởng của người Kitô hữu như sau:

Một Kitô hữu đến thăm một vị thiền sư và nói: “Xin thầy cho phép tôi đọc thầy nghe Bài Giảng Trên Núi”. Thiền sư đáp: “Tôi rất thích nghe”. Người Kitô hữu đọc một câu rồi ngước mắt lên nhìn. Thiền sư mỉm cười nói: “Đấng đã phán những lời đó chắc chắn phải là một vị Giác Ngộ”. Kitô hữu cảm thấy khoái trá. Ông tiếp tục đọc. Thiền sư ngưng lại rồi nói: “Những lời đó phải phát xuất từ Đấng Cứu Thế của nhân loại”. Người Kitô hữu cảm thấy thích thú. Ông tiếp tục đọc cho đến hết. Lúc bấy giờ thiền sư tuyên bố: “Người đã rao giảng như thế phải là Thiên Chúa”. Nỗi vui mừng của người Kitô hữu thật vô bờ bến. Ông ra về, cương quyết sẽ trở lại một ngày khác để thuyết phục thiền sư trở thành Kitô hữu.

Trên đường về nhà, ông gặp Chúa Giêsu đứng bên vệ đường. Ông đã thưa với Chúa một cách khoái trá: “Lạy Chúa, con đã làm cho người đó xưng ra Chúa là Thiên Chúa!” Chúa Giêsu mỉm cười và nói: “Con đã làm gì hay đâu, ngoại trừ việc con thổi phồng cái tôi Kitô hữu của con mà thôi?”

Đời sống đức tin của người Kitô hữu là một “chứng nhân không nhân chứng” cho Chúa Kitô, vì họ không phải là Chúa Kitô, nên cũng dễ bị phản chứng. Đời sống đức tin của người Kitô hữu là một cuộc chạy đua marathon, vì là cuộc chạy đua chưa về tới đích điểm, nên cũng dễ bị mang tên DNF – Did Not Finish – Đã Không Hoàn Tất.

Hôm nay chúng ta cử hành lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa, noi gương Mẹ Têrêsa, nếu chúng ta luôn giữ vững niềm tin nơi Chúa Giêsu, chúng ta sẽ hoàn tất cuộc đua. Chúng ta có thể sẽ bị người khác vượt qua. Có thể bị đau chân, chạy cà nhắc vài dặm. Nhưng với sự giúp đỡ của Chúa Giêsu Kitô, chúng ta sẽ hoàn tất và có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính”. Và các thiên thần cùng các thánh sẽ vỗ tay hoan hô ngày chúng ta hoàn tất cuộc đua marathon Kitô hữu về tới đích điểm là Nước Thiên đàng.

------------------------------------------
 
 

TN 1-B102: Ba sứ vụ


 - Lm. Vũ Đình Tường
 
 

Đấng Cứu thế sinh xuống trần gian tạo nên mối liên kết đất trời. Bắt đầu bằng việc truyền tin cho TN 1-B102


Đấng Cứu thế sinh xuống trần gian tạo nên mối liên kết đất trời. Bắt đầu bằng việc truyền tin cho Đức Trinh Nữ Maria và hai tiếng xin vâng. Mẹ là người đầu tiên đón nhận Đấng Cứu Thế sinh xuống làm người ở giữa chúng ta. Tiếp theo đó là Thánh Giuse bạn Đức Trinh Nữ. Thánh cả đón nhận hướng dẫn của thần linh qua các giấc chiêm bao, bảo vệ gia đình Thánh Gia qua các ngày đen tối của dã tâm con người tìm giết con trẻ. Kế đến là việc truyền tin cho các mục đồng chăn chiên và ánh sáng từ trời cao soi đường, dẫn lối cho ba vua từ Phương Đông đến đón chào, dâng tiến lễ vật. Sứ thần Thiên Chúa lại truyền tin cho cụ già Simêon và tiên tri Anna đến đón chào tại đền thờ và ngay sau khi Đức Kitô chịu phép rửa tại sông Jordan. Ngài bước lên khỏi bờ bầu trời mở ra có tiếng từ trời cao vang vọng:

“Đây là Con Ta yêu mến, hàng làm đẹp lòng Ta” (Mc 1,11)

Kèm theo tiếng nói còn có thêm Thánh Thần qua hình chim bồ câu đậu xuống trên Đức Kitô. Ngày lễ Đức Kitô chịu phép rửa chính thức chấm dứt mùa Giáng Sinh của Đấng Cứu Thế và nhường bước cho chương trình kế tiếp của Ngài. Chương trình đó chính là chương trình cứu độ nhân loại, giải thoát con người khỏi vòng tội lỗi với những mặc khải kế tiếp.

Những mặc khải từ trời cao về Đấng Cứu Thế đến đây tạm chấm dứt nhường bước cho những mặc khải khác đến từ Đức Kitô. Trước đây sứ thần Thiên Chúa và Chúa Cha nói về Đức Kitô; giờ đây đổi lại Đức Kitô nói về Thiên Chúa Cha. Đức Kitô mặc khải Chúa Cha và chương trình cứu độ nhân loại. Chương trình cứu độ Đức Kitô thực hiện do Chúa Cha hoạch định và Đức Kitô thừa hành, hoàn tất tốt đẹp chương trình đó.

Để mặc khải cho nhân loại về Chúa Cha và chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Đức Kitô xuống thế làm người, sinh bởi Đức Trinh Nữ, mặc dù vô tội Đức Kitô xá tội trần gian bằng cách thay họ chịu khổ hình, bắt đầu bằng việc lãnh nhận phép Thanh Tẩy của Gioan. Nhờ việc Thánh Thần Chúa ngự xuống biến phép rửa chúng ta lãnh nhận trở thành phép rửa do Thánh Thần thánh hoá. Những ai nhận bí tích thanh tẩy và bước theo đường lối Chúa cũng được hưởng tiếng từ trời cao phán: Đây là con Ta yêu mến, hằng làm đẹp lòng ta. Qua bí tích thánh tẩy chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa và chia sẻ ba sứ vụ của Đức Kitô.

Sứ vụ thứ nhất, Đức Kitô là linh mục Tối Cao và chúng ta chia sẻ chức linh mục đó qua việc chuyên cần cầu nguyện. Điều đó sinh ích cho đời sống tâm linh ta. Là linh mục Tối Cao Kitô tự hiến thân mình làm lễ tế chuộc tội thiên hạ. Chúng ta không có khả năng làm điều đó và cũng không cần bởi một mình Đức Kitô hy sinh đủ cứu nhân loại, chúng ta chia sẻ chức linh mục qua việc chia sẻ tài năng và thời gian cũng như tài vật cho những anh em nghèo đói.

Sứ vụ thứ hai, Đức Kitô vua vũ trụ cho phép chúng ta chia sẻ chức vụ lãnh đạo của Ngài. Chúng ta chia sẻ bằng cách sống và cổ võ sống công bằng, thực thi bác ái, yêu thương và tha thứ. Sống như thế là cho thế giới biết Lời Chúa có sức mạnh, có sức thánh hoá và ban sự sống cho thân xác và tâm linh con người.

Sứ vụ thứ ba là chức vụ tiên tri. Đức Kitô dậy chúng ta biết về Thiên Chúa, tình thương Chúa và sự thật về Thiên Chúa. Chia sẻ đời sống tiên tri chúng ta nói cho tha nhân về ức Kitô, rao giảng điều Ngài rao giảng và làm chứng về Đức Kitô.

Thực hành ba chức vụ: Tư tế, tiên tri và vương đế là làm sống điều hứa khi lãnh nhận phép bí tích thanh tẩy. Khi đó linh mục xức dầu và tuyên bố ba sứ vụ cao cả trên.

------------------------------------------
 
 

TN 1-B103: Một cuộc đổi mới


(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

A. DẪN NHẬP.

 

Hôm nay Phụng vụ kết thúc mùa Giáng sinh và bắt đầu mùa thường niên. Lễ Chúa Giêsu chịu phép TN 1-B103


Hôm nay Phụng vụ kết thúc mùa Giáng sinh và bắt đầu mùa thường niên. Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa khởi đầu cho mùa thường niên này.

Việc Chúa Giêsu nài ép Gioan làm phép rửa cho mình khiến chúng ta phải ngạc nhiên. Ngài là Đấng “vô tội” tại sao lại xin chịu phép rửa sám hối như một tội nhân? Ngài làm như vậy là vì ngay từ đầu đời sống công khai, Ngài đã thực hiện trọn vẹn ý Cha, như người “Tôi Tớ vâng phục” mà các tiên tri đã loan báo. Ngài sẵn sàng vâng phục chấp nhận cái chết trên thập giá. Phép Rửa bằng máu này dẫn tới và thánh hiến phép rửa bằng nước.

Việc làm của Chúa Giêsu giúp chúng ta nhận ra ý nghĩa Phép Rửa Tội của chúng ta. Nhờ phép rửa tội, chúng ta được nhận lại làm con Chúa, được thừa hưởng Nước Trời. Do đó, chúng ta phải dấn thân trọn vẹn để sống với Chúa trong tình hiệp nhất yêu thương, sống trọn vẹn tình con đối với Cha, sống sao cho xứng danh Kitô hữu để làm vinh danh Cha trên trời.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1: Is 42,1-4.6-7.

Khi ấy dân Do thái bị thử thách nặng nề, phải đi đầy ở Babylon. Để khích lệ họ, tiên tri Isaia loan báo: họ vinh dự được Thiên Chúa chọn làm đầy tớ lý tưởng của Ngài, có trách nhiệm giới thiệu Thiên Chúa cho dân ngoại.

Đây là bài thứ nhất trong 4 bài ca về Người Tôi Tớ trong sách đệ nhị Isaia. Vì được Thánh Thần ngự trên mình, Người Tôi Tớ của Thiên Chúa là Đấng mạnh mẽ và sẽ chiến thắng mọi kẻ thù. Nhưng Ngài không thích dùng bạo lực, trái lại, Ngài yêu thương cứu vớt những kẻ tội lỗi yếu đuối, “không lớn tiếng, không bẻ gẫy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn leo lét”.

Tất cả những nét Isaia mô tả Người Tôi Tớ đều được thực hiện nơi Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu sẽ đảm nhận vai trò Người Tôi Tớ. Vai trò này, Ngài sẽ hoàn thành khi biến tôn giáo của đức tin thành một sự ưng thuận thắm tình con thảo mà mọi người đều có thể nói lên, dù người ấy thuộc bất cứ nền văn hoá hay quốc gia nào. Theo gương Đức Kitô, các Kitô hữu cũng phải thực hiện nhiệm vụ trên.

+ Bài đọc 2: Cv 10,34-38.

Đây là phần đầu bài giảng của thánh Phêrô ở Cêsarêa cho ông Corneliô, viên sĩ quan Rôma và gia đình của ông để giúp họ hoán cải và chịu phép rửa. Đây là một việc làm có tính cách cách mạng vì từ trước đến nay các tông đồ chưa nghĩ đến việc cho người ngoại gia nhập Giáo hội.

Trong bài nói chuyện với người Do thái, Phêrô cho biết sở dĩ Ngài dám làm như vậy vì “Thiên Chúa không thiên tư tây vị ai, hễ ai thực hành sự công chính, đều được Ngài đón nhận”. Chính Đức Giêsu Nazareth đã được Thiên Chúa dùng Thánh Thần và quyền năng xức dầu tấn phong Ngài và Ngài đã đi khắp nơi để ban phát ơn lành.

+ Bài Tin mừng: Lc 3,15-16.21-22.

Cả 3 bài Tin mừng của lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa có rất nhiều điểm giống nhau. Chúng ta có thể chia bài Tin mừng thành 2 phần:

* Phần một: Ông Gioan thanh minh là mình không phải là Đấng Kitô như người ta tưởng. Có Đấng sẽ đến sau ông và cao trọng hơn ông. Hiện nay ông chỉ rửa họ bằng nước, còn Đấng đến sau sẽ làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần.

* Phần hai: Đức Giêsu nhận phép rửa của ông Gioan và trong nghi lễ này Đức Giêsu được tấn phong làm Đấng Messia, Đấng Cứu thế. Đó chính là ý nghĩa việc Thánh Thần hiện xuống,”các tầng trời mở ra”, cách diễn tả lấy lại của Isaia 63,11-14.19 khi công bố tấn phong một vị giải phóng mới. Có tiếng nói từ trời vang trên Đức Giêsu, tiếng nói ấy cũng thuộc về nghi thức phong vương một vị vua mới:”Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Một cuộc đổi mới.

I. NGÀY LỄ PHONG VƯƠNG.

Phụng vụ hôm nay, nhất là bài Tin mừng, gợi lên cho chúng ta ý tưởng về ngày lễ phong vương. Thánh Marcô cho chúng ta biết Đức Giêsu chịu phép rửa của ông Gioan ở sông Giorđan. Chính khi Đức Giêsu được dìm trong nước và được kéo lên thì trời mở ra và có Thánh Thần hiện xuống dưới hình chim bồ câu và tiếng nói từ trời vang xuống:”Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Đây là tiếng của Thiên Chúa Cha nói với Đức Giêsu để nhận Ngài làm Con. Lời nói ấy khiến chúng ta nghĩ đến một nghi lễ phong vương.

Ngày xưa, khi một người được phong lên làm vua thì phải trải qua một cuộc lễ phong vương với nghi thức gồm 3 phần, và hôm nay Đức Giêsu cũng đã thực hiện 3 phần ấy:

- Phải tắm rửa sạch sẽ.
- Phải được xức dầu.
- Và được tôn xưng làm vua.

1. Phải tắm rửa sạch sẽ.

Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giorđan bởi tay ông Gioan Tẩy giả. Chỉ ai không trong sạch mới cần tắm rửa. Vậy, Đức Giêsu là chiên của Thiên Chúa, một con chiên trong sạch vô tì tích, tại sao lại phải tẩy rửa tội lỗi? Thưa, Ngài làm như vậy là để hòa đồng với con người khiêm nhường để từ đó dạy ta rằng muốn vào Nước Trời, phải ăn năn sám hối, cải thiện đời sống và phải tắm gội tâm hồn cho trong sạch:”Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch vì họ sẽ được xem thấy Chúa”.

2. Phải được xức dầu.

Đức Giêsu được Thánh Thần xức dầu tấn phong. Trong bài đọc 2, thánh Phêrô nói:”Đức Giêsu thành Nazareth được Thiên Chúa dùng Thánh Thần và quyền năng và xức dầu tấn phong cho Ngài”.

Tiên tri Isaia đã nói trước và chính Đức Giêsu đọc đoạn sách của Isaia ở hội đường Do thái:”Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: Vì Chúa đã xức dầu cho tôi, Người đã sai tôi đem Tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đầy, phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa...”(Is 61,1-3). Và Đức Giêsu đã kết luận: hôm nay đã ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói về Ngài.

3. Ngài được phong vương.

Đức Giêsu được tôn phong làm vua, là Đấng Messia, là Chúa Cứu thế.

Trong Tin mừng, Thánh Marcô nói:”Khi Ngài vừa ở dưới nước lên thì Trời mở ra, Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài và có tiếng từ trời phán:”Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Đây là lời tuyên phong long trọng Đức Giêsu là Vua, là Con Thiên Chúa.

II. Ý NGHĨA VIỆC CHỊU PHÉP RỬA.

1. Phép rửa của Gioan và của Đức Giêsu.

Chúng ta thấy có sự khác nhau giữa phép rửa của Gioan và của Chúa Giêsu. Phép rửa của Gioan chỉ là dấu hiệu của sự ăn năn sám hối. Người Do thái đến cho Gioan làm phép rửa là để được ăn năn các tội mình để được ơn tha thứ. Còn Chúa Giêsu Kitô, con người vô tội, không thể lãnh nhận Phép rửa với hướng đó. Vậy Ngài đến xin rửa không phải là cho mình, mà là cho người khác, vì người khác. Ngài chịu phép rửa là nói lên, từ nay, Ngài chung số phận với người tội lỗi và đó là tất cả ý nghĩa đời Ngài và cuộc đời này chỉ hoàn tất với phép rửa cuối cùng, của sự chết (Mc 10,38 ; Lc 12,50) vì chết là cùng chung số phận của con người tội lỗi, con người bị sa ngã, và là số phận bi đát nhất.

Phép rửa của Chúa Giêsu là phép rửa “tái sinh”. Nó ban cho mọi người một đời sống toàn vẹn. Giải thích về đời sống mới này, thánh Phaolô đã viết cho các Kitô hữu vừa mới được rửa tội như sau:”Khi được rửa tội là anh em được mai táng với Đức Kitô, và trong phép rửa tội, anh em cũng được sống lại với Đức Kitô. Anh em đã bị chết về mặt tâm linh nhưng giờ đây Thiên Chúa đã mang anh em đến nguồn sống cùng với Đức Kitô”(Cl 2,12-13).

2. Lý do Đức Giêsu chịu phép rửa.

Việc Đức Giêsu tự nguyện đến xin chịu phép rửa của Gioan không nhằm ăn năn sám hối tội lỗi như bao người khác, vì Ngài là Đấng vô tội (Dt 5,15b ; 7,26). Nhưng qua hành động này, Ngài muốn chia sẻ thân phận yếu hèn và cảm thông với các tội nhân để sau này sẽ chịu chết đền tội thay cho họ. Đàng khác, việc toàn thân Chúa Giêsu được Gioan dìm xuống nước sông Giorđan, chính là hình bóng của phép rửa mà Ngài sẽ phải chịu trong mầu nhiệm tử nạn và phục sinh sau này (x.Rm 6,3-4). Và từ mầu nhiệm phục sinh, Chúa Giêsu thiết lập bí tích rửa tội để nhờ đó tái sinh các tín hữu và đổi mới họ nhờ nước và Thánh Thần. Đây cũng là điều kiện để được gia nhập vào Nước Thiên Chúa (x.Ga 3-6 ; Tt 3,5).

Ngoài ra, việc Đức Giêsu đến xin chịu phép rửa của Gioan còn là cơ hội để ông thi hành sứ mệnh tiền hô đi trước dọn đường và làm chứng cho Ngài. Ngài chịu phép rửa của Gioan để sẽ làm cho phép rửa bằng nước trở thành bí tích rửa tội trong Chúa Thánh Thần (x.Mc 1,8) và lửa (x.Lc 3,16; Cv 2,3-4).

3. Ý nghĩa Bí tích rửa tội.

Trước khi về trời, Đức Giêsu lập bí tích rửa tội khi Ngài nói với các môn đệ:”Các con hãy đi rao giảng cho muôn dân, rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần (Mt 26,20).

Chúng ta xem lại phép rửa của Gioan Tiền hô: phép rửa của Gioan Tiền hô chỉ là một nghi thức tượng trưng, có mục đích nhắc nhở và thúc giục người ta ăn năn sám hối và cải thiện đời sống. Phép rửa này không có khả năng tẩy xóa tội lỗi, không có năng lực ban ơn thánh. Bởi vì phép rửa này không phải là một bí tích, đúng như Gioan đã quả quyết, đồng thời Ngài cũng giới thiệu một phép rửa khác, phép rửa của Chúa Giêsu, là phép rửa bằng Thánh Thần, nghĩa là phép rửa của Chúa Giêsu là một bí tích thông ban Chúa Thánh Thần, mặc dầu cũng dùng tới nước, nhưng nước chỉ là điều kiện, là nghi thức bên ngoài, còn thực sự là được rửa bằng Thánh Thần, biến đổi con người tội lỗi nên con Thiên Chúa, và được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu Nước Trời.

Khi chúng ta lãnh nhận phép rửa tội, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta tham dự vào mầu nhiệm sự chết và sống lại của Ngài. Chúng ta vào đời khi được sinh ra và vào đạo của Thiên Chúa khi được rửa tội. Trong nghi thức rửa tội chúng ta được dìm trong nước hoặc đổ nước trên đầu để chỉ việc tẩy rửa khỏi tội tổ tông và mọi tội riêng, được tái sinh làm con cái của Chúa và gia nhập vào Giáo hội. Vì thế, Giáo hội coi bí tích rửa tội như một cuộc tái sinh, người được rửa tội trở thành một con người mới. Họ thấy đâu là ơn gọi và định mệnh của con người, đâu là ý nghĩa của cuộc đời.

Truyện: Tôi mới có 2 tuổi.

Có một cụ già, mãi tới khi 80 tuổi mới lãnh nhận phép rửa tội. Bắt đầu từ đó cụ sống một đời rất gương mẫu. Hai năm sau, cụ hấp hối. Có người muốn biết cụ bao nhiêu tuổi. Cụ dõng dạc trả lời:”Tôi mới có hai tuổi. Tám mươi năm trước khi rửa tội là những năm chết. Tôi mới bắt đầu sống thật khi tôi chịu phép rửa tội”. Thật là chí lý (Phạm văn Phượng, Chia sẻ TM Chúa nhật, B, tr 38).

III. BÍ TÍCH RỬA TỘI VÀ CHÚNG TA.

Ngày nay, mỗi người chúng ta đã được chịu phép rửa tội để trở thành Kitô hữu, con Thiên Chúa, con của Giáo hội. Bí tích rửa tội là cửa ngõ đưa ta vào trong Giáo hội và Nước Trời. Vậy bí tích rửa tội có tương quan gì với chúng ta không, và chúng ta phải sống thế nào cho xứng với hồng ân ấy?

1. Một cuộc đổi mới.

Chúng ta là những con người tội lỗi, nhờ phép rửa tội chúng ta được tẩy sạch mọi tội lỗi để trở nên con người mới trong trắng, xứng đáng làm con của Đấng đã phán:”Các ngươi hãy nên thánh vì Ta là Đấng thánh”. Tuy thế, sống giữa trần gian đầy cám dỗ, nhiều khi tấm áo tắng trong ngày chịu phép rửa tội đã bị hoen ố vì những hành vi xấu xa của ta, nên phải cố gắng đổi mới cuộc sống của ta theo câu tâm niệm vua Thành Thang đã viết vào trong bồn tắm:”Nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân”: mỗi ngày nên mới, ngày ngày nên mới, ngày tới phải nên mới. Vua cho rằng: người ta phải gột rửa con tim cho sạch tội nhơ như thân xác phải tắm rửa hằng ngày (X. Đại học I,1).

Chúng ta phải làm một cuộc cách mạng bản thân nghĩa là phải lột bỏ con người cũ tội lỗi mà mặc lấy con người mới tốt lành thánh thiện như thánh Phaolô đã dạy. Phương pháp giáo dục của người xưa vẫn còn tính cách thời sự nơi chúng ta: Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.Theo trật tự của cuộc cách mạng, thì cách mạng bản thân là điều tiên quyết.

Truyện: Thay đổi chính mình.

Linh mục Anthony de Mello kể lại tâm sự của một nhà hiền triết như sau:

Nhìn lại cuộc sống đã qua, nhà hiền triết thú nhận: Lúc thiếu thời tôi là một kẻ hiếu động. Trong sự hăng hái của tuổi trẻ tôi thường xin Chúa cho tôi sức mạnh biến đổi trái đất này trở nên tốt hơn.

Khi được nửa đời người, tôi ý thức là mình chưa làm được gì cả, chưa thay đổi được bất cứ người nào. Tôi lại đổi lời cầu nguyện cho thiết thực hơn:”Lạy Chúa, giờ đây con chỉ xin Chúa cho con khả năng thay đổi cuộc sống của những người con tiếp xúc hằng ngày thôi”.

Nhưng rồi khi tuổi đời sắp hết, tôi thấy rằng mình quá cao vọng và ảo tưởng, tôi lại thay đổi lời cầu nguyện như sau:”Lạy Chúa, xin ban cho con ơn thay đổi chính bản thân con”.

Nếu từ tuổi thanh xuân tôi đã cầu nguyện như thế, thì có lẽ tôi không phải hối tiếc vì đã sống một đời sống vô ích.

2. Tập sống khiêm nhường.

Việc Đức Giêsu đến xin ông Gioan làm phép rửa làm cho chúng ta phải suy nghĩ: Đức Giêsu được Gioan giới thiệu là “Con chiên Thiên Chúa”, một con chiên vô tì tích tại sao lại đến chịu phép rửa để xin được ơn tha tội như mọi người tội lỗi đến xin? Thánh Matthêu coi cử chỉ đó như là thực hiện “chương trình khiêm hạ và phục vụ” mà các tiên tri đã báo trước (Mt 3,14-15). Đức Giêsu chịu phép rửa để nêu gương cho ta về sự khiêm nhường, Ngài nhận mình là người có tội như mọi người để hòa đồng với mọi người, để giúp cho con người luôn có tinh thần sám hối, tự hạ trước mặt Chúa:”Trong các con ai làm lớn nhất phải xử như kẻ nhỏ nhất. Ai làm đầu kẻ khác phải coi mình như tôi tớ”(Lc 22,26).

Theo nhà Phật, con người có ba chứng nguy hiểm nhất: tham, sân, si.

- Tham là vì ích kỷ.
- Sân là vì tự ái.
- Si là vì ngu muội.

Trong ba chứng bệnh nói đây thì “Sân” là khó diệt hơn cả. Bởi vì lòng tự ái (kiêu ngạo) là một thói xấu sống dẻo dai bậc nhất, đến nỗi thánh Phanxicô Salêsiô phải nói:”Nó chỉ ngưng hoạt động 15 phút sau khi tôi chết”.

Các bậc hiền nhân quân tử đều coi đức “khiêm tốn” là căn bản trong công việc cải tạo con người. Tính tự ái (kiêu ngạo) buộc con người vào dục vọng, làm cho họ phải đảo điên, thì lòng khiêm tốn sẽ là phương tiện giải thoát, đem lại thế quân bình, tức là sự bằng yên cho tâm hồn.

Truyện: Vừa thì đứng

Một hôm Khổng Tử tới thăm miếu vua Hoàn Công nước Lỗ, thấy một chiếc lọ đứng nghiêng nghiêng, ngài hỏi, thì người giữ miếu cho biết:

- Cái lọ này là một bảo vật, thuở trước nhà vua hằng để bên ngai vàng hầu làm gương.

Ngài nói:

- Ta vốn nghe đồn nhà vua có một bảo vật, bỏ không thì nghiêng, đổ nước vào vừa phải thì đứng thẳng, mà đổ đầy thì lại ngã. Có lẽ là vật này chăng?

Rồi ngài bảo học trò múc nước thí nghiệm thì quả nhiên đúng như thế.

Bấy giờ ngài mới trịnh trọng giảng giải:

- Thông minh thánh trí nên giữ bằng cách ngu muội. Có công to trong thiên hạ nên giữ bằng cách khiêm cung. Sức khỏe hơn người nên giữ bằng cách nhút nhát. Giầu có bốn biển nên giữ bằng cách bố thí và thái độ nhún nhường. Đó là lối san sẻ bớt đi để khỏi đầy tràn mà sụp đổ vậy”.

3. Sống xứng danh Kitô hữu.

Khi được chịu phép rửa tội, chúng ta được gọi là Kitô hữu. Danh xưng Kitô hữu là chỉ một người thuộc về Chúa Kitô, là người được mang danh Chúa Kitô, là Kitô khác, là Chúa Kitô nối dài. Để sống xứng đáng với danh hiệu đó, chúng ta phải có nhiều nỗ lực, nhiều khi phải đau khổ, hy sinh, nhục nhã, chịu nhiều phiền toái, thua thiệt...nhưng đó là giá phải trả để chúng ta đạt được niềm vui đích thực trong cuộc đời làm con Chúa.

Truyện: Tên con là Phliliphê.

Một hôm, người ta đem đến trình vua Philiphê một thanh niên bị bắt quả tang ăn trộm. Vua nhìn thẳng vào mặt hắn và hỏi:

- Tên mày là gì?
Anh ta rụt rè thưa:
- Thưa tên con là Philiphê ạ.
Vua trợn mắt nói tiếp:
- Mày là Philiphê trùng với tên tao mà mày lại đi ăn trộm à? Mày làm ô danh tao. Vậy mày phải làm một trong hai việc: một là phải đổi tên đi, hai là phải thay đổi cách sống...

Chúng ta đã lãnh nhận bí tích rửa tội và đã được trở thành con Thiên Chúa. Được làm con Thiên Chúa là một tước hiệu vô cùng cao quí, một hồng ân lớn lao Chúa ban cho con người. Nhưng chúng ta đã sống thế nào với hồng ân cao qúi ấy? Cha trên trời có hài lòng với chúng ta không?

Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Chúa Cha đã phán:”Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Vậy Cha trên trời có hài lòng với chúng ta không? Chúng ta đã trở thành con Chúa và được mang danh hiệu là Kitô hữu, vì vậy, nỗ lực của cúng ta là phải luôn cố gắng sống xứng đáng với danh hiệu ấy để được Chúa hài lòng với chúng ta.

-------------------------------
 
 

TN 1-B104: Chúa chịu phép rửa


(Đức Thánh Cha Phanxicô Giảng Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa và rửa tội cho 33 em bé ở Nguyện Đường Sistine. Chúa Nhật 11/1/2015 - Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch)
 
 

Những gì sữa làm cho thân xác thế nào thì Lời Chúa làm cho tinh thần như vậy, ở chỗ, Lời Chúa TN 1-B104


"Những gì sữa làm cho thân xác thế nào thì Lời Chúa làm cho tinh thần như vậy, ở chỗ, Lời Chúa làm cho chúng ta lớn lên trong đức tin. Và nhờ đức tin chúng ta được tái sinh bởi Chúa. Và đó là những gì xẩy ra nơi Phép Rửa".

Chúng ta đã nghe thấy trong Bài Đọc Thứ Nhất là Chúa chăm sóc cho con cái của Ngài như cha mẹ: Ngài chăm chút cung cấp cho con cái của mình lương thực chân chính. Qua vị tiên tri Thiên Chúa đã nói rằng: "Tại sao các ngươi lại chi tiền của mình cho những gì không phải là bánh ăn, tiêu xài lương bổng của các ngươi cho những gì không làm thỏa mãn chứ?" (Isaia 55:2). Thiên Chúa, như một người cha thiện hảo và như một người mẹ tốt lành, muốn cống hiến cho con cái của mình những điều tốt lành thiện hảo. Thứ lương thực chân chính Thiên Chúa ban cho chúng ta đây là gì? Đó là chính Lời của Ngài: Lời của Ngài làm cho chúng ta lớn lên, làm cho chúng ta sinh hoa kết trái tốt đẹp trong đời sống, như mưa và tuyết làm cho đất trở nên phì nhiêu cùng sinh hoa trái vậy (xem Isaia 55:10-11).

Cũng thế, anh chị em là cha mẹ, và là cha mẹ đỡ đầu, là ông bà, là cô dì chú bác, cũng giúp cho những con trẻ này lớn lên một cách tốt đẹp nếu anh chị em cống hiến cho chúng Lời Chúa, cống hiến cho chúng Phúc Âm của Chúa Giêsu. Kèm theo Lời Chúa anh chị em đồng thời cũng cống hiến cả gương sống của anh chị em nữa! Hằng ngày anh chị em hãy có thói quen đọc một đoạn Phúc Âm, một đoạn ngắn thôi, và luôn mang theo một cuốn Phúc Âm nhỏ trong túi, trong xách tay của anh chị em để đọc. Đó sẽ là một tấm gương cho những con trẻ đây, khi chúng thấy người cha, người mẹ, bố mẹ đỡ đầu, ông bà, cô dì chú bác, đọc Lời Chúa.

Hỡi các người mẹ, hãy cho con của mình bú sữa - ngay cả lúc này đây, nếu chúng khóc vì đói, hãy cho chúng bú sữa, đừng lo. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa về tặng ân sữa này, và chúng ta cầu cho những người mẹ ấy - tiếc thay lại có rất nhiều - lại không thể cho con cái của mình của ăn. Chúng ta hãy cầu nguyện và cố gắng giúp cho những người mẹ này. Vậy những gì sữa làm cho thân xác thế nào thì Lời Chúa làm cho tinh thần như vậy, ở chỗ, Lời Chúa làm cho chúng ta lớn lên trong đức tin. Và nhờ đức tin chúng ta được tái sinh bởi Chúa. Và đó là những gì xẩy ra nơi Phép Rửa. Chúng ta đã nghe tông đồ Gioan viết: "Ai tin rằng Chúa Giêsu là Đức Kitô thì đều được Thiên Chúa hạ sinh" (1Gioan 5:1).

Bằng đức tin ấy, con cái của anh chị em đến để lãnh nhận phép rửa. Anh chị em phụ huynh, anh chị em đỡ đầu thân mến, đó là đức tin của anh chị em hôm nay đây. Đó là đức tin của Giáo Hội, nhờ đó mà những em bé này sẽ được lãnh nhận Phép Rửa. Thế nhưng ngày mai, nhờ ơn Chúa, đức tin này sẽ trở thành đức tin của chúng, trở thành tiếng "xin vâng" của bản thân chúng với Chúa Giêsu Kitô, Đấng cống hiến cho chúng ta tình yêu của Cha.

Tôi đang nói rằng chính đức tin của Giáo Hội. Điều này rất quan trọng. Phép Rửa tháp nhập chúng ta vào thân mình của Giáo Hội, vào dân thánh của Thiên Chúa. Và trong thân mình này, trong thành phần dân đang tiến bước này, đức tin được truyền đạt từ đời nọ đến đời kia: đó là đức tin của Giáo Hội. Và đức tin của Mẹ Maria, Mẹ của chúng ta, đức tin của Thánh Giuse, của Thánh Phêrô, của Thánh Anrê, của Thánh Gioan, đức tin của các vị Tông Đồ và các vị Tử Đạo, đã được truyền đạt cho chúng ta qua Phép Rửa: một chuỗi giây truyền đạt đức tin. Điều này thật là đẹp! Nó là một việc truyền đạt từ bàn tay này sang bàn tay kia cây nến sáng đức tin: chúng ta sẽ bày tỏ điều này trong ít phút nữa bằng cử chỉ thắp sáng cây nến phục sinh trọng đại. Cây nến phục sinh trọng đại này tiêu biểu cho Chúa Kitô Phục Sinh đang sống giữa chúng ta. Các gia đình lấy ánh sáng đức tin từ Người để truyền đạt cho con cái của mình. Anh chị em có thể lấy ánh sáng này trong Giáo Hội, trong thân mình của Chúa Kitô, trong dân Chúa là thành phần đang bước đi ở mọi thời đại và ở hết mọi nơi. Hãy dạy cho con cái của anh chị em rằng không có Kitô giáo ngoài Giáo Hội, anh chị em không thể nào theo Chúa Giêsu Kitô mà không có Giáo Hội, vì Giáo Hội là một người mẹ làm cho chúng ta lớn lên trong lòng yêu mến Chúa Giêsu Kitô.

Các Bài Đọc hôm nay còn mạnh mẽ cống hiến một khía cạnh cuối cùng nữa, đó là, nơi Phép Rửa chúng ta được Thánh Linh thánh hiến. Chữ "Kitô hữu" mang ý nghĩa ấy, có nghĩa là được thánh hiến như Chúa Giêsu, trong cùng một Thần Linh là Đấng Chúa Giêsu đã trầm ngập cả đời sống trần gian của Người trong Ngài. Người là "Đức Kitô", Đấng Được Xức dầu, Đấng Được Thánh Hiến, chúng ta lãnh nhận phép rửa là "Kitô Hữu", nên đã được thánh hiến, đã được xức dầu. Vậy giờ đây, anh chị em phụ huynh thân mến, anh chị em đỡ đầu thân mến, nếu anh chị em muốn cho con cái của anh chị em trở thành những Kitô hữu đích thực, thì hãy giúp cho chúng càng "được chìm ngập" trong Thánh Linh, tức là trong tình yêu nồng ấm của Thiên Chúa, trong ánh sáng của Lời Ngài. Vì thế, đừng quên thường xuyên cầu khẩn Thánh Linh, cầu nguyện hằng ngày. "Này cô, cô có cầu nguyện không?" - "Có" - "Tôi cầu nguyện với Thiên Chúa" - Thế nhưng nơi cách thức ấy "Thiên Chúa" lại không hiện hữu: "Thiên Chúa là một ngôi vị và Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Linh hiện hữu như là một ngôi vị". Chúng ta thường cầu nguyện cùng Chúa Giêsu. Khi chúng ta cầu "Kinh Lạy Cha" là chúng ta cầu cùng Chúa Cha. Thế nhưng chúng ta rất thường không cầu cùng Thánh Linh. Việc cầu nguyện cùng Thánh Linh rất quan trọng, để Ngài dạy chúng ta làm cho gia đình tiến triển, dạy cho những đức con đây, nhờ đó những con trẻ này có thể lớn lên trong bầu khí Ba Ngôi. Chính Thần Linh sẽ dẫn chúng tiến bước. Do đó đừng quên cầu khẩn cùng Thánh Linh, cầu nguyện hằng ngày. Chẳng hạn anh chị em có thể làm điều này bằng lời nguyện đơn sơ như sau: "Xin Thánh Linh hãy đến tràn đầy lòng tín hữu Chúa và hãy thắp lên ngọn lửa tình yêu của Chúa trong lòng họ". Anh chị em có thể đọc kinh nguyện này với con cái của anh chị em, và dĩ nhiên cho chính bản thân của anh chị em!

Khi đọc kinh nguyện này, anh chị em cảm thấy sự hiện diện từ mẫu của Trinh Nữ Maria. Mẹ dạy chúng ta cầu nguyện cùng Thánh Linh, và sống theo Thần Linh như Chúa Giêsu. Lạy Đức Mẹ là Mẹ của chúng con, xin luôn đồng hành với con cái của Mẹ và các gia đình của Mẹ.

-------------------------------
 
 

TN 1-B105: Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa.


(Đức Thánh Cha Phanxicô - Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa. - Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch)

 

Ôi xin Ngài hãy xé các tầng trời ra mà xuống!" (63:19). Tiếng kêu này đã được đáp ứng nơi biến TN 1-B105


"Ôi xin Ngài hãy xé các tầng trời ra mà xuống!" (63:19). Tiếng kêu này đã được đáp ứng nơi biến cố Chúa Giêsu lãnh nhận Phép Rửa. Như thế là thời gian 'các tầng trời khép kín' đã qua"

Anh chị em thân mến, Chào anh chị em buổi sáng!

Hôm nay chúng ta cử hành lễ Chúa Chịu Phép Rửa, một lễ kết thúc mùa Giáng Sinh. Phúc Âm đã diễn tả những gì xẩy ra ở bờ sông Dược Đăng (Jordan). Trong giây phút Thánh Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho Chúa Giêsu thì các tầng trời đã được mở toang ra. Thánh Marcô viết: "Khi lên khỏi nước, Người đã thấy các tầng trời mở ra" (1:10). Sự kiện này gợi nhớ đến lời cầu khẩn thảm thiết của tiên tri Isaia: "Ôi xin Ngài hãy xé các tầng trời ra mà xuống!" (63:19). Tiếng kêu này đã được đáp ứng nơi biến cố Chúa Giêsu lãnh nhận Phép Rửa. Như thế là thời gian "các tầng trời khép kín" đã qua, thời gian tách biệt Thiên Chúa với loài người do hậu quả của tội lỗi. Tội lỗi là những gì tách chúng ta khỏi Thiên Chúa và làm gián đoạn mối liên hệ giữa đất và trời, khiến chúng ta bị khốn khổ và bại hoại trong đời sống. Các tầng trời đã mở ra cho thấy rằng Thiên Chúa đã ban cho chúng ta ân sủng của Ngài để trái đất được sinh hoa kết trái (xem Sal 85,13). Vậy trái đất đã trở nên nơi cư ngụ của Thiên Chúa giữa loài người, và mỗi người chúng ta có cơ hội gặp gỡ Con Thiên Chúa, cảm nghiệm được tất cả tình yêu và tình thương vô cùng. Chúng ta có thể tìm thấy điều này thực sự hiện diện ở nơi các Bí Tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể. Chúng ta có thể nhận thấy điều ấy nơi dung nhan của anh chị em chúng ta, nhất là nơi người nghèo, nơi bệnh nhân, nơi người bị tù ngục, nơi các người tị nạn: họ là xác thịt sống động của Chúa Kitô khổ nạn và là ảnh tượng hữu hình của vị Thiên Chúa vô hình.

Nhờ Chúa Giêsu lãnh nhận Phép Rửa mà chẳng những các tầng trời được mở toang ra Thiên Chúa còn làm cho tiếng của Ngài được vang vọng một lần nữa: "Con là Con yêu dấu của Cha: Cha hài lòng về Con" (Marcô 1:11). Tiếng nói này của Chúa Cha công bố mầu nhiệm được kín ẩn nơi Con Người lãnh nhận Phép Rửa bởi vị Tiền Hô.

Bấy giờ, Thánh Linh, qua hình thể một con chim bồ câu đã giúp cho Đức Kitô, Đấng Được Xức Dầu của Chúa, bắt đầu sứ vụ của Người đó là việc cứu độ chúng ta. Vị Thánh Linh này: Đấng Trọng Đại này đã bị chúng ta lãng quên nguyện cầu. Chúng ta thường cầu nguyện cùng Chúa Giêsu; chúng ta cầu nguyện cùng Chúa Cha, nhất là bằng "Kinh Lạy Cha"; thế nhưng không thường cầu nguyện cùng Thánh Linh, đúng không? Ngài là Đấng bị lãng quên. Và chúng ta cần xin ơn trợ giúp của Ngài, sức mạnh của Ngài, thần hứng của Ngài. Thánh Linh là Đấng hoàn toàn làm sinh động cuộc đời và thừa tác vụ của Chúa Giêsu, thì cũng Vị Thần Linh này ngày nay đang dẫn dắt đời sống của Kitô hữu, đời sống của con người nam nữ ngỏ ý muốn trở thành Kitô hữu. Việc đặt đời sống Kitô hữu của chúng ta và sứ vụ của chúng ta dưới tác động của Thánh Linh, Đấng tất cả chúng ta đã lãnh nhận nhờ Phép Rửa của chúng ta, là việc nhắm đến chỗ có được lòng can đảm tông đồ để thắng vượt những gì là dễ dãi thoải mái trần tục. Trái lại, người Kitô hữu nào hay cộng đồng nào "bị điếc" trước tiếng của Thánh Linh, Đấng thôi thúc chúng ta mang Phúc Âm đến tận cùng trái đất và xã hội, sẽ trở thành một Kitô hữu hay một cộng đồng "bị câm" không nói năng hay truyền bá phúc âm hóa. Thế nhưng xin hãy nhớ điều này, đó là hãy thường xuyên cầu nguyện cùng Thánh Linh để Ngài có thể trợ giúp chúng ta, ban cho chúng ta sức mạnh, ban cho chúng ta hứng khởi và dẫn chúng ta tiến bước.

Xin Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ Giáo Hội, đồng hành với chúng ta là những người đã lãnh nhận phép rửa. Xin Mẹ giúp chúng ta lớn lên trong tình yêu đối với Thiên Chúa và trong niềm vui phục vụ Phúc Âm, cống hiến cho chúng ta một đời sống trọn vẹn ý nghĩa.

-------------------------------
 
 

TN 1-B106: Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux


CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA
 
 

Maccô đã nói tới Chúa Giêsu. Nhưng ở đây ông cho Ngài nhập cuộc: “Cũng trong ngày ấy, Chúa TN 1-B106


Maccô đã nói tới Chúa Giêsu. Nhưng ở đây ông cho Ngài nhập cuộc: “Cũng trong ngày ấy, Chúa Giêsu từ thành Nadaret miến Galilê đến” (c.9). Maccô không hề nói gì thêm nữa về nơi chốn Chúa Giêsu đã sinh trưởng (Lc 4,16). Nhưng như thế là để nói ngay tới một biến cố lớn (c. 9b). Maccô không nêu rõ lý do khiến Chúa Giêsu nhận phép rửa của Gioan. Điều đó giả thiết rằng, ít ra trong một thời gian, Chúa Giêsu đã là môn đệ của Gioan Tẩy Giả (Ga 3,26). Các Kitô hữu ban đầu biết rất rõ về phép rửa của Gioan. Họ tự hỏi: Phép rửa mà Chúa Giêsu nhận có gì đặc biệt?

Maccô trở lại rất chính xác vấn nạn này. Ông không nói tới việc Chúa Giêsu được dìm xuống nước sông Giođan. Nhưng lưu ý độc giả về điều đã xảy ra ngay sau đó (c.10). Dầu cho có vẻ như thế nhưng cảnh tượng này không phải là một thiên phóng sự giàu hình ảnh. Đây là một cảnh mang màu sắc trí thức, với những hình ảnh Thánh Kinh để minh họa điều mà các tín hữu tiên khởi đã khám phá ra được là độc đáo trong phép rửa Chúa Giêsu lãnh nhận.

Trong sách Isaia ta thấy có lời khẩn khoản nài xin Thiên Chúa lại đến giải thoát dân Ngài như được kể trong sách Xuất hành. Maccô đã cảm hứng theo đoạn văn sau đây: “Đâu rồi Đấng (Thiên Chúa) làm cho mục tử (=Môsê) của đoàn chiên Ngài lên từ biển cả? Đâu rồi Đấng đặt nơi người mục tử ấy Thần Khí của Ngài?” (Is 63,11). Như vậy không phải vô tình mà Maccô nói khi từ nước đi lên Chúa Giêsu đã lãnh nhận Thánh Thần. Đối với Maccô, Chúa Giêsu là Môsê mới. Phép rửa Ngài chịu, một lần nữa là cuộc giải thoát khỏi Hồng Hải. Vị Mục Tử của một dân mới của Thiên Chúa giờ đây được Chúa trao đổ Thánh Thần cho, Đấng sẽ khiến Ngài dẫn đưa đoàn chiên của mình vào Đất Hứa. Trong mạch văn này, câu “Chúa Giêsu thấy các tầng trời mở tung ra” đặc biệt có ý nghĩa. Theo truyền thống Do Thái, các tầng trời đã đóng lại khi các ngôn sứ sau cùng (Agai, Dacaria, Malaki: thế kỷ VI và V trước Chúa Kitô) không còn nữa. Sự giao tiếp giữa Thiên Chúa và con người bị coi như chấm dứt. Trước khi Chúa Giêsu đến thì “Thần Khí đã tắt rồi”, Ngài không xuống để linh hứng những lời tiên tri mới nữa. Trong bầu khí “thiếu vắng” này, một lời cầu xin tha thiết được dâng lên Thiên Chúa: “A! Xin Ngài mở toang các tầng trời mà ngự xuống…” (Is 63,19b). Như vậy là với Chúa Giêsu mọi sự đều thay đổi. Mở toang các tầng trời có nghĩa là mở lại cuộc tương giao giữa Thiên Chúa và con người, chính Đấng Mêsia là người đón nhận biến cố này. Khi ấy Maccô có thể diễn tả “Thánh Thần ngự xuống trên Ngài như một chim bồ câu”. Việc Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu khai mào kỷ nguyên mới của ơn Cứu độ. Với việc ban Thánh Thần, đấng “Mêsia” mang đến cho con người ơn tha thứ tội lỗi (Cv 2,37-38). Người ta đã từng hiểu ý nghĩa của hình ảnh chim bồ câu. Một số người thấy ở đó ám chỉ trực tiếp về con chim hòa bình mà Noê thả ra trên nước đại hồng thủy (St 8,8-11). Có những người khác nghĩ rằng điều đó nhắc nhớ đến cuộc Sáng tạo khi Thần Khí Thiên Chúa bay là trên vực thẳm (St 1,2). Trong thế giới Do Thái thời Chúa Giêsu người ta so sánh các ngôn sứ với những con chim gáy. Như vậy là ở đây, Chúa Giêsu được giới thiệu như “vị ngôn sứ” của thời đại mới.

Phần kết của đoạn văn là một sứ điệp thần linh phải được diễn giải thật đúng (c. 11). Trời đó là Thiên Chúa người mà Do Thái tránh nêu danh. Thiên Chúa lên tiếng. Lời tuyên bố của Ngài thật quan trọng. Lời sấm của Thiên Chúa gồm hai đoạn văn giàu ý nghĩa trong Cựu Ước. Một đàng, “Con là Con Cha” gợi lại Thánh vịnh mô tả ngày nhà vua đăng quang, theo nghĩa “Mêsia”: “Người phán bảo tôi: Con là Con Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Tv 2,7). Rõ ràng Chúa Giêsu được chỉ định như Đấng Mêsia thuộc dòng David. Phẩm tính “yêu dấu” gán cho Chúa Giêsu, nhắc lại điều Thiên Chúa đòi hỏi Abraham liên quan tới Isaac: “Hãy đưa con của ngươi, đứa con duy nhất mà ngươi yêu dấu…” (St 22,2).

Đàng khác, những lời nói với Chúa Giêsu, “Cha hài lòng về Con”, quy chiếu về một bài thơ nổi tiếng của người Tôi tớ Thiên Chúa trong ngôn sứ Isaia: “Này đây tôi tớ của Ta (Thiên Chúa nói) người Ta yêu quý. Ta đặt Thần Khí của Ta nơi Người. Người sẽ đem Lề Luật đến cho các dân” (Is 42,1-2). Ta thấy đây là một nghi thức tấn phong ngôn sứ. Cũng giống như người tôi tớ trên đây, Chúa Giêsu được sai đi thi hành sứ vụ Ngài. Phần tiếp theo của bài thơ thật là ý nghĩa: “Ta (Chúa nói tiếp), Ta gọi con trong công chính. Ta đã làm cho con nên Giao Ước của dân, nên ánh sáng cho mọi sắc tộc để con mở mắt người mù, giải thoát tù nhân, và đưa người trong tối tăm ra khỏi ngục thất” (Is 42,6-4).

Như vậy, chắc chắn đối với Maccô phép rửa Chúa Giêsu lãnh nhận không phải để tha tội, vì Chúa Giêsu không hề phạm tội. Đó là hiệu khởi hành, là lệnh sai đi thi hành sứ vụ mà Thiên Chúa ra cho đấng “Mêsia”, là “Con Thiên Chúa” (theo nghĩa tròn đầy sẽ được khám phá sau này trong niềm tin vào Chúa Phục Sinh).

Chúa Giêsu là Đặc Sứ của Thiên Chúa để thiết lập Vương Quốc Ngài. Bây giờ Ngài có thể lên đường thi hành sứ vụ đó.

-------------------------------
 
 

TN 1-B107: GIOAN LÀM PHÉP RỬA CHO CHÚA GIÊSU


Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

A. Lời rao giảng của Gioan Tẩy giả.
 
 

Máccô đã tóm lược rất nhiều các chi tiết liên quan đến vị Tiền hô mà truyền thống đã mang lại TN 1-B107


Máccô đã tóm lược rất nhiều các chi tiết liên quan đến vị Tiền hô mà truyền thống đã mang lại; đặc biệt ông đã bỏ hẳn lời Gioan Tẩy giả loan báo về Cuộc phán xét cánh chung sắp đến. Cảnh quan trọng đầu tiên của Tin Mừng của ông là cảnh Chúa Giêsu chịu rửa. Những gì ông giữ lại có liên quan đến vị Tẩy giả đặc biệt chỉ muốn "chuẩn bị" (c.3) cho quang cảnh mặc khải này Nơi Máccô, tất cả lời rao giảng của Gioan giản lược thành hai câu chúng ta đang khảo cứu: loan báo Đấng-đang-đến đầy quyền năng và cao cả hơn vị Tẩy giả; loan báo chính phép rửa của Người, phép lửa đối nghịch với phép rửa của vị Tiền hô.

"Gioan rao giảng rằng: Sẽ đến sau tôi Đấng quyền thế hơn tôi; tôi không đáng cúi xuống mà cởi quai dép Người. Phần tôi, tôi đã thanh tẩy anh em bằng nước; còn Người, Người sẽ thanh tẩy anh em bằng Thánh Thần" (cc.6b-8).

Câu đầu cho ta cảm thấy Đấng Messia đã đến gần thật: "Người đến (sát) sau tôi", Người đi tiếp tôi liền. Hình ảnh tên nô lệ dưới chân chủ được tô điểm ở đây bằng một nét đặc biệt thuộc lối văn miêu tả của Máccô ("cúi xuống"), một nét tuy nhiên không thay đổi gì ý nghĩa.

Ngược lại, mệnh đề thứ hai, mệnh đề đưa ra lại (như người bằng cách rút vắn) sự tương phản cổ truyền giữa phép rửa bằng nước và phép rửa bằng Thần khí, thì rõ ràng thay đổi ý nghĩa bản văn. Nó loại bỏ chi tiết "lửa", y như văn mạch loại bỏ mọi ám chỉ về cuộc Phán xét cánh chung. Một việc loại bỏ triệt để như thế bắt buộc ta bây giờ phải hiểu sự tương phản giữa hai phép rửa chỉ trên cơ sở những gì mà thính giả của Gioan Tẩy Giả đã có thể hiểu trước, chứ không theo văn mạch nguyên khởi.

Thế mà những người này hẳn đã biết các sấm ngôn nói về Đấng Messi a mang Thần khí (Is 11, 1-3; 42,1; 61,1) cũng như những sấm ngôn hứa đổ tràn lan Thần khí như một sức mạnh từ trên xuống vào thời thiên sai để canh tân tôn giáo và luân lý của Dân Chúa (Is 32, l5t; 44,3t; 59.21; Ed 11,19; 31.25-29; 37; 39,29; Ge 3, 1tt v.v...). Tuy nhiên cho đến đây. Chưa có gì nói rằng việc tuôn tràn này sẽ là một ân huệ của chính Đấng Messia cả. Lời tuyên bố của vị liền hô thiết lập mối liên hệ này (mối liên hệ mà Tin Mừng thứ tư sẽ khai triển): chính Đấng Messia sắp đến sẽ đổ Thánh Thần tràn ngập.

Ngoài ra, trong các lời của vị Tẩy giả được tách ra khỏi văn mạch đầu tiên của chúng, hạn từ "rửa'' tự nhiên được hiểu theo cùng một nghĩa trong hai vế của lối đối ngẫu. Người ta đối chọi nghi thức với nghi thức: nghi thức xưa có tính cách chuẩn bị và mục đích thanh tẩy với nghi thức mới có tính cách chung quyết và mục đích thánh hóa. Thật ra, khi nói ở đây về phép rửa trong thần khí mà không xác định gì thêm, thánh sử nghĩ tới phép rửa Kitô giáo, nghi thức bí tích quen thuộc với độc giả mình. Thành ra cái ông cho vị Tiền hô hứa, chính là một hoạt động của Đấng Messia, hoạt động tuôn tràn Thần khí (trong phép rửa Kitô giáo), để thực hiện một cách rất cụ thể các lời tiên tt'i xưa về việc đổ Thần khí thánh thiện vào thời cánh chung.

Tóm lại, lời trao giảng của Gioan Tẩy giả, theo như Máccô trình bày, loan báo hai việc: *1) (như trong truyền thống chung): việc giá lâm gần kề của Đấng Messia, Đấng được mặc quyền năng Thiên Chúa và xứng đáng hơn Gioan Tẩy giả bội phần; *2) Việc tuôn đổ Thánh Thần vào thời cánh chung do Chúa Kitô (trong phép rửa Kitô giáo) (riêng của Máccô).

B. Phép rửa cho Chúa Giêsu.

Như chúng ta đã nói, trong trình thuật phép rửa, Máccô đi gần với truyền thống sơ khai nhất, về phương diện bản văn cũng như thần học.

"Và xảy ra là trong những ngày ấy, Chúa Giêsu bỏ Nagiarét xứ Galilê và đã được Gioan thanh tẩy cho trong sông Giođanô. Vừa lên khỏi nước, Người thấy trời xé ra và Thần khí, như chim bồ câu, đáp xuống trên Người. Và một tiếng phán ra từ trời: "Con là Con chí ái Ta, kẻ Ta đã sủng mộ" (cc 9-11).

1. Hành vi tự ý của Chúa Giêsu.

"Và xảy ra trong những ngày ấy": Đây là một ngữ điệu khác thường trong Mc. Kiểu nhập đề như đúc sẵn này, mà thánh sử đã chẳng sửa lại, cho thấy đây là khởi đầu của một đơn vị văn chương" mới có tính cách độc lập ngay từ sơ khai, cho thấy trình thuật này có một nguồn gốc khác với trình thuật trước là trình thuật minh nhiên đặc trưng nghi thức Gioan như một "phép rửa thống hối để được tha tội". Công thức ấy là công thức Cựu ước vẫn dùng để giới thiệu các biến cố xảy ra, theo các sấm ngôn tiên tri, do bởi thánh ý Thiên Chúa. "Chúa Giêsu bỏ Nagiarét xứ Galilê": Máccô cố ý xác định như vậy vì đây là lần đầu tiêu ông nói về Chúa Giêsu; chúng ta đang còn ở ngay đầu Tin mừng.

"Và đã được Gioan thanh tẩy cho trong sông Giođanô": Sự kiện được ghi chú một cách chính xác, nhưng với sự vắn gọn vô cùng; vì sẽ không có lơi chú giải nào khác về phép rửa của Chúa Giêsu ngoài trình thuật thần hiện. Câu văn có vẻ cố ý lấy lại các hạn từ của c.5 vai trò thanh tẩy của Gioan đạt đến đích điểm đích thực khi ông làm phép rửa cho Chúa Giêsu.

2. Thần hiện.

"Và vừa (lên khỏi nước)": Mặc dầu năng gặp nơi Máccô chữ ráp nối này ở đây hẳn đã có từ trước (nó cũng có nơi Matthêu, dầu có hơi vụng về: “và này"). Người ta hiển nhiên muốn nối kết lập tức việc Chúa Giêsu nhận phép rửa với cuộc thần hiện vốn mang lại ý nghĩa cho việc này.

"Và Người thấy": Đây là một chi tiết có từ nguyên khởi. Chính Chúa Giêsu là chứng nhân mục kích việc thần khí đến, cũng như chính Người sẽ được tiếng nói Chúa Cha ngỏ cho. Cuộc thần hiện xảy ra cho Người vậy.

Chúa Giêsu thấy trời "xé ra", "xẻ ra" (Matthêu và Luca nói đơn sơ: “mở ra"). Sở dĩ Máccô chọn tiếng này có lẽ là vì ưa lối văn gợi hình, đầy màu sắc. Dầu sao có thể hạn từ muốn ám chỉ Is 63,19 (bản Hy bá) là bản văn ghi lại một lời cầu nguyện tha thiết người ta dâng lên Thiên Chúa, Cha Israel (nhân danh tình phụ tử của Ngài) để xin Ngài phá tan một sự im lặng quá lâu và từ trời xuống với dân Ngài để cứu họ. Trong phép rửa của Chúa Giêsu là khởi nguyên Tin Mừng cũng vậy, Thiên Chúa chấm dứt một sự im lặng dài lâu, xé thủng màn trời, khai mở thời đại ân sủng chung quyết bằng việc sai Thần khí Ngài đến và bằng cách biểu lộ sự hài lòng của Ngài đối với Con chí ái đang hiện diện giũa dân Ngài.

“Và một tiếng phát ra": Trình thuật mang một giọng điệu thuật sự: các câu vắn gọn nhanh nhẹn nối tiếp nhau, nằm kề nhau cách đơn giản, không văn chương cầu kỳ. Thành thử càng gây được cảm kích.

"Con là Con Ta...": Câu nói được viết lại dưới hình thức có lẽ là sơ khai nhất của nó, như ta đã phân tích trên đây. Sự thâm tình của mối tử hệ thần linh này, thánh sử Máccô sẽ hé mở cho ta thấy qua cung giọng của lời cầu nguyện Chúa Kitô dâng lên Thiên Chúa: "Abba, Cha ơi" (14,36), một công thức đầy tình hiếu thảo và có vẻ như lời âu yếm của trẻ thơ.

Quang cảnh này là quang cảnh đầu tiên của đời Chúa Giêsu theo Mc. Một cảnh mặc khải. Một cảnh tấn phong làm Thiên sai (như chúng ta vừa mới chứng minh trên kìa: thánh hiến và sai đi thực-hiện công trình cứu rỗi bằng quyền lực của Thánh Thần và trong mối thâm tình phụ tử đặc biệt với Thiên Chúa). Đồng thời đây cũng là sự hé mở đầu tiên về mầu nhiệm con người Chúa Giêsu. Tóm lại, đây là sự minh giải đầu tiên và long trọng cái tiêu đề của Tin mừng Máccô: “Khởi nguyên của Tin Mừng Chúa Giêsu, Messia, Con Thiên Chúa" (1,1)

KẾT LUẬN

Ý nghĩa phép rửa Chúa Giêsu chịu được biểu lộ trong cuộc thần hiện tiếp theo sau. Đó chính là cái đã thu hút tất cả sự lưu tâm của truyền thống Tin Mừng và của các soạn giả linh ứng; đó cũng là điều chúng ta phải suy niệm trước tiên.

Hành động công khai đầu tiên của Chúa Giêsu, hành động nối kết Người với vị ngôn sứ cuối cùng và vĩ đại nhất, đã trở thành lễ tấn phong Người làm thiên sai một cách long trọng: Được mặc lấy quyền lực Thánh Thần, được vững chắc trong niềm ý thức đầy dủ về mối thâm tình, đặc biệt là về sự thông hiệp độc nhất giữa Người với Thiên Chúa Cha Người. Chúa Giêsu vĩnh viễn lãnh nhận sứ mạng thi hành ngay bây giờ công cuộc cứu rỗi, theo đường lối thiên ý đã được vạch ra trong Thánh Kinh. Nhưng bên kia công cuộc thiên sai, quang cảnh dẫn vào mầu nhiệm sâu xa hơn nữa, mầu nhiệm con người của Chúa Giêsu Mêssia - Con Thiên Chúa. Đó là ý nghĩa nền tảng mà ngay từ đầu người ta mặc cho biến cố, ý nghĩa đã được lồng vào trong một màng lưới đầy những hoài niệm Thánh Kinh, trong một khung cảnh có tính cách khải huyền (trời mở ra, Thần Khí đến cách hữu hình, tiếng nói từ trên cao: toàn là những yếu tố thích hợp nhất để cho ta biết điều mà ta chỉ có một mặc khải từ trên mới tỏ lộ: sứ mạng cứu rỗi của Chúa Giêsu, cái sứ mạng rốt cục đặt cơ sở trên tư cách Con Thiên Chúa của Người).

Được các thánh sử tường thuật lại ngay ở ngưỡng cửa sứ vụ Cứu Chúa, trình thuật cho thấy từ đây phải hiểu tất cả cuộc đời công khai của Chúa Kitô dưới ánh sáng vừa nói mà ánh sáng đi trước ánh sáng phục sinh. Và ngay trong lần tuôn đổ Thánh Thần đầu tiên này, ngay trong chính việc Con Thiên Chúa xuất hiện giữa nhân loại này, ta thấy thời đại cánh chung đã bắt dầu, nước Thiên Chúa đã khai mạc.

Sau cùng, nhiều chỗ nhuận sắc sửa chữa nhắc ta nhớ mối dây liên kết phép rửa Kitô giáo với phép rửa Chúa chịu. Thật vậy, chính do tương quan nội tại với phép rửa Chúa Giêsu chịu mà bí tích Kitô giáo làm ta thành con cái Thiên Chúa là được mang Thần khí Ngài.

(Bản Pháp ngữ của Edmond Jacquemin Assemhlées du Seigneur số 12.)

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1) Chúa Giêsu là ai? Người từ đâu đến? Đó là những câu hỏi lớn lao? Ai sẽ trả lời? Ai sẽ mặc khải lai lịch của Người ra? Ai, nếu không phải làThiên Chúa. Đấng đã sinh thành và sai Người đến? phép rửa của Chúa Giêsu chính là nói Thiên Chúa mặc khải cho ta lai lịch Người. Ngài cho ta biết Chúa Giêsu là người tôi tớ Giavê (bài đọc I), là Đấng cứu rổi mọi người (bài đọc 2), là Con Thiên Chúa (bài Tin Mừng). Lời rao giảng của Gioan Tẩy giả là để chuẩn bị lòng người đón nhận mặc khải hôm nay. Đối với các Kitô hữu, ngoài Chúa Giêsu Kitô ra, không còn có ơn cứu rỗi nào khác, cuộc giải phóng đích thực nào khác.

2) Hôm nay, Chúa Giêsu được tấn phong làm Đấng Thiên Sai. Người ra đi mang sứ mạng cứu rỗi với uy lực của Thánh Thần và với danh nghĩa Con Thiên Chúa. Nhưng người cứu rỗi nhân loại theo cách người Tôi tớ mà Isaia đã loan báo ngày xưa. Đường lối cứu rỗi của Người là truyền rao chân lý. Tôn trọng tự do, giáo dục lương tâm, kêu gọi cõi lòng. Phương thế của Người là nêu gương và dạy nhân loại hãy từ bỏ chính mình để sống cho Thiên Chúa, là ban ân để mỗi cá nhân tự giải phóng mình khỏi sự vong thân kinh khủng của tội lỗi. Tinh thần của Người là tinh thần Bát Phúc. Kitô hữu chân chính muốn giải phóng thế giới và con người không thể đi con đường nào khác hơn.

3) Sau khi chịu rửa và được công khai tấn phong làm thiên sai. Chúa Giêsu đã được đưa vào hoang địa, chịu đủ cơn cám dỗ để chứng tỏ mình xứng đáng với lòng tin tưởng, mến yêu của Thiên Chúa, đủ vâng phục để theo thánh ý và đường lối Ngài, đủ sức mạnh để thi hành sứ vụ đặc biệt. Và thực sự Người đã chiến thắng sa tan, chiến thắng chính mình. Chúng ta cũng vậy. Sau khi chịu rửa tội và được tấn phong làm con Thiên Chúa, chúng ta đã được đưa vào lòng đời đầy bao thử thách. Hãy cố gắng chứng tỏ mình là Kitô hữu chính danh, đích thực, luôn sống và hành động theo đường lối của Chúa Kitô, của Thiên Chúa, luôn sống xứng đáng với tước hiệu "con chí ái" của Ngài.

4) Phép rửa trong nước và Thánh Thần hướng ta về phép rửa quyết định nào? Lâu lắm sau khi chịu phép rửa của Gioan, Chúa Giêsu tuyên bố: "Có một phép rửa Ta cần phải nhận, và Ta khắc khoải chờ mong cho nó hoàn tất" (Lc 12,50). Người nói tới cái chết trên thập giá như là sự hoàn thành tột bậc đời sống vâng lòi mà Người đã chọn lựa. Chúng ta cũng vậy.Bí tích thanh tẩy chúng ta đã chịu hướng ta về phép rửa quyết định được thể hiện qua tiếng "xin vâng" đối với Chúa mỗi ngày, là qua tiếng "xin vâng" cuối cùng mà, vào thời giờ một mình (Chúa biết, sẽ niêm ấn lời ưng thuận bất di bất dịch của ta trước kế hoạch yêu thương do Chúa đề nghị với ta.

-------------------------------
 
 

TN 1-B108: ĐỨC GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA Ở SÔNG GIOĐAN VÀ CUỘC TỎ HIỆN CỦA THIÊN CHÚA


Chú giải của Fiches Dominicales

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

1. Đọc lại dưới ánh sáng Phục sinh
 
 

Dưới ánh sáng Phục sinh, tác giả Tin Mừng ngược dòng thời gian trở về tới biến cố Đức Giêsu chịu TN 1-B108


Dưới ánh sáng Phục sinh, tác giả Tin Mừng ngược dòng thời gian trở về tới biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa. Cùng với sứ vụ của Vị Tiền Hô, biến cố này làm thành phần "Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa" (1,1).

Ở đây, tác giả cho chúng ta khám phá trong một lúc sự hoàn tất những lời đã hứa cho Israel, cuộc mạc khải về mầu nhiệm bản thân Đức Kitô, khởi đầu và lời loan báo về sứ vụ của Người.

D. Jacquemin viết: "Được các thánh sử Tin Mừng kể lại ngay trước khi Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ, bài tường thuật cho thấy từ nay phải hiểu toàn bộ cuộc đời công khai của Đức Kitô dưới ánh sáng đó (nó chiếu rọi trước hào quang của Phục sinh). Và rồi, trong lần hiển hiện đầu tiên của Thánh Thần này, trong cuộc xuất đầu lộ diện của Con Thiên Chúa đến hiện diện giữa loài người này, người ta được chứng kiến thời buổi cánh chung đă khởi đầu, “triều đại Nước Trời đã khai mở" (Assemblées du Seigneur, số 12, trang 66).

2. Một biến cố hoàn tất những lời hứa xưa

Bài đọc Tin Mừng của ngày lễ Chúa chịu phép rửa hôm nay, được bắt đầu bằng một màn "ra mắt" nhân vật Giêsu:

+ Hoạt động của Người được thuật lại bằng một công thức xem ra xa lạ nơi Máccô, được vay mượn từ Cựu Ước. Nó có thể lấy từ đoạn ra mắt của Môsê, ở đầu sách Xuất Hành: xảy ra là vào những ngày ấy, Môsê lớn rồi, thì..." (Xh 2, 11). Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã được giới thiệu như là Môsê mới. Điều trớ trêu, Đức Giêsu đã không đến từ miền Giuđêa hay từ thành thánh Giêrusalem, nhưng lại từ Nagiaret, miền Galilê, một làng quê hẻo lánh thuộc một vùng vốn bị thiên hạ coi rẻ. Bởi đó mới có câu: “Từ Nagiaret, làm sao có cái gì hay được" (x. Ga 1,46). Và Người đến như bao kẻ khác, để chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả trên sông Giođan.

Máccô bỏ qua không nói đến cuộc trao đổi giữa Đức Giêsu và vị Tẩy Giả, cũng như chi tiết việc Chúa dìm mình xuống sông Giođan. Bù lại, nhờ khả năng vận dụng khéo léo và làm khơi lên phong phú những hình ảnh Kinh Thánh, ông đã minh hoạ được điều mà cộng đoàn Kitô hữu sau này, dưới ánh sáng Phục sinh, xem là đặc thù nơi biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa.

+ Cuộc tỏ hiện của Thiên Chúa xảy ra, tác giả Tin Mừng xác định rõ, "khi Đức Giêsu vừa lên khỏi nước”. Nhận xét này, một lần nữa, có ý trình bày Đức Giêsu như là Môsê mới.

Quả thực, theo J.Hervieux giải thích: người ta tìm thấy nơi sách ngôn sứ Isaia một lời cầu tha thiết xin Thiên Chúa tái diễn lại những hành động cứu thoát như thời Xuất Hành. Máccô được gợi hứng từ một đoạn trong sách đó có câu: "Đâu rồi Đấng (Thiên Chúa) đã từng làm cho bước lên khỏi nước biển vị mục tử (= Môsê) chăn dắt đàn chiên của Người?". Bởi đó chẳng phải ngẫu nhiên mà tác giả Tin Mừng nói rằng chính lúc ‘vừa lên khỏi nước, Đức Giêsu đã được nhận lấy Thánh Thần’. Đối với Máccô, Đức Giêsu chính là Môsê mới. Phép rửa Người chịu là một cuộc vượt qua mới khỏi Biển Đỏ" (L'evangiìe de Marc, Centurion, 1991, trang 20).

+ Khác với Tin Mừng Matthêu, cuộc tỏ hiện ở đây xảy ra nhằm chính Đức Giêsu. Nó gồm hiện tượng: các tầng trời xé ra, Thần Khí ngự xuống, và tiếng từ trời phán.

a) "Đức Giêsu liền thấy các tầng trời xé ra”. Theo truyền thống Do Thái, từ thời các ngôn sứ cuối cùng thì các tầng trời, nơi Thiên Chúa ngự, đã khép lại rồi. Ngôn sứ không còn nữa, nên mối liên lạc giữa Thiên Chúa và loài người cũng đã bị cắt đứt. Bởi thế đến hôm nay, khi Người đáp lại tiếng van nài của vị Ngôn sứ trong cảnh lưu đày khốn khổ: "Ước gì Ngài xé trời và ngự xuống”, thì đúng là một thời mới đã mở màn, mối liên lạc đã được tái lập giữa Thiên Chúa và loài người. Kiểu nói "xé ra" sau này chỉ trở lại dưới ngòi bút của Máccô vào giây phút Đức Giêsu tắt thở trên thánh giá: "Bức màn trương trong đền thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới (15,38). Điều đã được khai mở hôm nay trên dòng sông Giođan rồi đây sẽ được hoàn tất mỹ mãn trên đồi Canvê: Đức Giêsu đã mở ra một lối đi cho hết mọi người được tự do đến với Thiên Chúa.

b) "Và thấy Thần Khí tựa chim bồ câu ngự xuống trên mình”.

Trước khi Đức Giêsu đến, Thần Khí đã như bị dập tắt: Người không còn ngự xuống để tác động thêm những ngôn sứ mới. Ở đây, Đức Giêsu vừa lên khỏi nước sông Giođan liền thấy Thần Khí ngự xuống trên mình, chỉ định Người làm vị Ngôn sứ của thời đại mới.

c) “Lại có tiếng từ Trời phán rằng: Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.

Thiên Chúa (trong thế giới Do Thái, Trời là một cách để gọi Thiên Chúa mà tránh đụng đến Người) chứng thực cho sứ mạng của Đức Giêsu: Người không chỉ là một ngôn sứ như bao ngôn sứ khác, bởi ở đây Thiên Chúa đã nói với Người những lời mà ngoài Người ra chưa từng nói với ai. Những lời này có tầm mức vô cùng quan trọng, chúng hoạ lại và đồng thời làm sáng tỏ ý nghĩa hoàn tất của một số câu nói trong Cựu Ước:

- Họa lại một câu trong Thánh vịnh 2: "Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (c.7), mà truyền thống Do Thái vừa đọc lên như lời sấm về Đấng Mêsia. Ngay từ những trang đầu của Tin Mừng, Đức Giêsu đã được tuyên phong là Vua Cứu Thế thuộc dòng tộc Đavid, là Đấng Kitô của Thiên Chúa: Hoạ lại câu nói được nhắc đi nhắc lại đến 3 lần trong Sách Sáng Thế 22, lúc Abraham vì vâng lệnh truyền của Thiên Chúa, toan hạ tày sát tế Isaac, đứa con của lời hứa, "đứa con yêu dấu" của ông. Đức Giêsu được xem như một Isaac mới, khác chăng là Người đã không thoát khỏi cái chết. Sau cùng, hoạ lại nhiều từ trong Isaia 42,1; Đức Chúa phán bảo cùng Người Tôi Tớ: "Này đây Tôi Tớ của Ta, kẻ Ta nâng đỡ, Người Ta đã chọn và hồn Ta sùng mộ”. Giống như Người Tôi Tớ đó, Đức Giêsu, Đấng Thiên Chúa hằng một niềm dấu ái và Thần Khí ngự xuống dư đầy, nay được sai đi thi hành sứ mạng là trở nên ánh sáng các nước, "mở những mắt mù loà”, "đưa tù nhân ra khỏi nhà lao, khỏi ngục thất dân cư bóng tối" (Is 42,6-7). Và cũng cùng một thân phận với Người Tôi Tớ được vị ngôn sứ loan báo trên, Chúa sẽ phải thực hiện sứ mạng ấy qua con đường tự hạ, và khổ đau.

3. Và mở ra sứ mạng sẽ tới

Như vậy, ngay từ trang đầu tiên của Tin Mừng Máccô, tất cả đã cho thấy một tấn kịch đang được mở màn. Tuy nhiên, mọi sự chỉ mới ở mức độ nói xa nói gần, nói dè dặt, gần như còn cần phải giữ kín đáo để vạch ra một cái hướng cho những gì cần phải được khám phá trong suốt bản văn.

Jacques Hervieux kết luận: "điều hiển nhiên là, đối với Máccô, phép rửa Đức Giêsu chịu không phải nhằm tẩy sạch những tội lỗi mà Người chẳng hề phạm. Đó chính là tín hiệu khởi hành, là trái giao banh cho sứ mạng mà Thiên Chúa ký thác cho Đấng được gọi là "Mêsia”, và là "Con Thiên Chúa" (theo nghĩa mạnh của niềm tin Phục sinh).

Đức Giêsu quả là Sứ Giả đặc biệt của Thiên Chúa để thiết lập vương quốc của Người. Từ giây phút này, người đã có thể vào cuộc để thực hiện sứ mạng ấy.

BÀI ĐỌC THÊM

1. Đức Giêsu, người Con Chí Ái của Chúa Cha.

(Mgr. Daloz, trong "Qui don est-il?", Desclée de Brouwer, tr.11).

"Đức Giêsu, kẻ xuất thân từ làng Nagiarét ấy, là Con Thiên Chúa, đó không chỉ là một định nghĩa hay một danh xưng mà thôi đâu. Đó là một liên hệ tình yêu, một mối dây "gia đình”. Tiếng Chúa Cha đã vang lên trìu mến: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con. Đúng là một khẳng định của tình yêu Đức Giêsu vừa là con người xuất thân từ Nagiarét, vừa đồng thời là Đấng sống mật thiết với Chúa Cha trên trời: Các tầng trời xé ra, và Thần Khí tựa chim bồ câu ngự xuống trên Người. Đây mới thực là "mầu nhiệm của Đức Giêsu, mà người ta chẳng bao giờ khám phá cho cạn, suy cho thấu. Mầu nhiệm của một đời người hoàn toàn cho tình yêu, tràn đầy Thần Khí. Cuộc đời của Đức Giêsu ngay từ ban đầu đã được xác định qua tương quan với Chúa Cha và với Thần Khí. Đó chính là mấu chốt thâm sâu nhất của bản thân Người. Đức Giêsu được giới thiệu cho chúng ta qua lời xác nhận yêu thương của Chúa Cha. Đây là danh thiếp của Người: "Con Chí ái của Cha”.

2. “Hội Thánh và những anh chị em tân tòng hôm nay"

(Guy Cordonnier, trong "Pastorale sacramentelle. Points de repères", Cerf, trang 138-139).

"Kitô giáo, xét như là một hiện tượng xã hội học, ngày nay đang trên đường bị xoá sổ. Trào lưu ngoại giáo cổ lại như đang tìm cách trở lại với khoa chiêm tinh, các giáo phái, ma thuật, bói toán, các thầy gu-ru vv... không còn những khuôn mẫu, mọi cơ chế bị đặt lại vấn đề, nỗi thèm khát để có nhiều, biết nhiều, xu hướng ngày càng nghiêng về những cảm nghiệm tức thời và hời hợt... đó là những dấu đậm nét trên thời đại của chúng ta hôm nay, và người Kitô hữu đôi khi không biết làm sao để tìm thấy lại được chân tính của mình trước nền văn minh hiện đại. Giữa lòng một xã hội như thế, những tín hữu Kitô chúng ta có bổn phận phải làm chứng về các giá trị Tin Mừng. Họ được mời gọi đừng co cụm lại trong thế giới của mình, nhưng hãy tham gia vào số phận chung của nhân loại và khám phá những dấu chỉ của Nước Trời khắp nơi. Những dấu chỉ đó vượt xa biên giới hữu hình của Hội Thánh: Nước Thiên Chúa phải chăng hôm nay đang hiện diện ở bất cứ nơi nào có tình yêu bày tỏ, có công lý ngự trị, có sự quan tâm thương mến những người nghèo?

Thời buổi hiện đại hôm nay là một thời cơ tốt cho Hội Thánh, đang chịu thách đố để trả lời cho những vấn nạn và khát vọng mới. Những người trưởng thành mới chịu phép Rửa Tội, trong lúc gắn bó với môi trường sinh sống của mình, trở nên một thứ nhịp cầu nối liền môi trường ấy với Hội Thánh. Họ đã am hiểu những gì ở trong thế giới chưa-có-đức-tin, nên họ nói với chúng ta: "Xin quí vị đừng bỏ qua những người chưa được rửa tội, những người đã bỏ đạo, những người ở vị trí vòng ngoài của Hội Thánh. Làm sao để loan báo Tin Mừng cho họ bây giờ?”.

Những câu hỏi như thế phải giúp chúng ta trở về với điều được xem là hiển nhiên nơi các hiểu biết và thực hành của chúng ta trong Hội Thánh. Chúng hoà hợp những điều đó nơi các anh chị em mới trở lại, tức là những người quay về lại với Hội Thánh sau một thời gian đoạn tuyệt ít nhiều lâu dài, với nơi một số đông các Kitô hữu nhạy bén với thế giới hôm nay: làm sao để hội nhập đầy đủ vào trong Hội Thánh như hiện nay? Làm sao chất vấn, thậm chí thúc đẩy Hội Thánh đáp ứng được nhiều hơn sứ mạng của mình?

Những anh chị em tân tòng chỉ là số nhỏ, nhưng sự hiện diện của họ mang nặng ý nghĩa. Việc tiếp nhận họ có liên can đến mức độ phong phú thiêng liêng của Hội Thánh. Các giáo đoàn của chúng ta có ý thức đầy đủ điều đó? Sự kiện những người đã lớn ngoài Kitô giáo tìm đến với Đức Tin còn là một hiện tượng quá mới mẻ để chúng ta có được một mục vụ đặc biệt cho. Đây đó đã có vài sáng kiến trong một số giáo phận, nhưng người ta vẫn còn trong giai đoạn nghiên cứu và thử nghiệm".

-------------------------------
 
 

TN 1-B109: THÔNG ĐIỆP CỦA GIOAN


Chú giải của William Barclay

Mc 1, 7-9

 

Thông điệp của ông sở dĩ hiệu nghiệm vì ông hoàn toàn khiêm hạ. Chính ông tự đánh giá là không TN 1-B109


1) Thông điệp của ông sở dĩ hiệu nghiệm vì ông hoàn toàn khiêm hạ. Chính ông tự đánh giá là không xứng đáng với nhiệm vụ làm đầy tớ. Dép (bản Việt văn dịch là ‘giày’) chỉ là một miếng da có xoi lỗ, buộc vào bàn chân bằng mấy sợi dây. Đường đi rất gồ ghề, vào mùa khô, bụi tích tụ thành từng đống, mùa mưa thì đó là những con sông ngập bùn. Cởi dép là bổn phận và việc làm của kẻ tôi tớ. Gioan chẳng mong ước gì hơn là được làm bất cứ việc gì cho Chúa Cứu Thế mà ông đang loan báo. Ông quên mình, sẵn sàng phục tùng, sẵn sàng chịu lu mờ, hoàn toàn xóa bỏ mình trong thông điệp của ông đã thúc đẩy dân chúng nghe ông.

2) Thông điệp của Gioan có hiệu quả vì ông đã hướng dân chúng chú ý đến một điều, một nhân vật cao cả vượt trội. Ông bảo dân chúng rằng qua phép rửa, ông dìm họ xuống nước, nhưng Đấng đến sau ông sẽ dìm họ trong Thánh Thần. Trong khi nước tẩy sạch thân thể thì Thánh Thần thanh lọc cả đời sống, bản ngã và tấm lòng con người. Tiến sĩ G.J Jeffrey có dùng một ví dụ mà ông rất tâm đắc. Khi ông gọi điện thoại qua nhân viên tổng đài mà nếu có sự chậm trễ thì nhân viên tổng đài thường nói: “Tôi sẽ cố gắng bắt liên lạc cho ông”. Khi đã bắt được liên lạc, thì nhân viên tổng đài tự rút lui để đôi bên tiếp xúc với nhau. Mục đích duy nhất của Gioan là không chiếm lấy trung tâm liên lạc điện thoại mà cố gắng giúp người ta bắt liên lạc với Đấng trọng đại và quyền phép hơn ông, và người ta nghe ông vì ông không chỉ vào chính mình nhưng chỉ vào Đấng mà mọi người cần đến.

Mc 1, 9-11

NGÀY QUYẾT ĐỊNH

Với bất cứ ai biết suy nghĩ, thì phép rửa của Chúa Giêsu hẳn phải nêu lên một vấn đề. Phép rửa của Gioan là phép rửa kêu gọi hoán cải, dành cho những người hối tiếc về tội lỗi của mình và muốn bày tỏ quyết định từ bỏ chúng, dứt khoát với chúng. Nhưng một phép rửa như thế thì liên hệ gì đến Chúa Giêsu? Ngài lại không phải là Đấng vô tội, và một phép rửa như thế lại không phải là hoàn toàn không cần thiết, không thích hợp với Ngài hay sao? Với Chúa Giêsu thì phép rửa có bốn ý nghĩa sau đây.

1) Với Ngài đó là khoảnh khắc quyết định. Ba mươi năm qua Ngài ở tại Nagiarét, Ngài trung tín làm bổn phận hàng ngày trong nhà. Từ lâu Ngài đã ý thức rằng sẽ có lúc Ngài phải rời gia đình, chắc Ngài đang chờ một dấu hiệu. Với Ngài, sự xuất hiện của Gioan chính là dấu hiệu đó. Ngài thấy đó chính là khoảnh khắc Ngài phải dấn thân vào sứ vụ. Trong mỗi đời sống đều có những khoảnh khắc quyết định mà người ta có thể chấp nhận hay chối từ. Chấp nhận chúng là thành công, chối bỏ chúng là hụt mất, thất bại. Mỗi người đều có một khoảnh khắc để quyết định mà không bao giờ còn gặp lại. Một đời sống phí hoài, thất vọng, bất đắc chí và thường thường một đời sống đầy thảm kịch là một đời sống không biết quyết định. Một đời sống bỏ mặc, đánh liều nhắm mắt đưa chân chẳng bao giờ là một đời sống có hạnh phúc. Khi Chúa Giêsu biết Gioan xuất hiện là lúc Ngài phải quyết định. Làng Nagiarét vốn bình lặng, gia đình Ngài vốn yên lành, êm đềm, nhưng Ngài phải đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa.

2) Với Ngài, đó là khoảnh khắc để tự hòa mình với mọi người. Chúa Giêsu không cần phải hoán cải, nhưng đây là lúc mà dân chúng cần quay về với Thiên Chúa và với phong trào trở về đó, Ngài quyết định tự hòa mình vào. Có thể có người đang sống thoải mái dư giả, sung túc, nhưng nếu người ấy thấy dấy lên một phong trào có thể đem đến nhiều điều tốt đẹp hơn cho những người nghèo khổ bị chà đạp, phải cư trú trong những ngôi nhà lụp xụp tồi tàn, phải lao động quá sức nhưng lại nhận những đồng lương quá ít ỏi, không có lý do gì để người ấy không chịu đến để hòa mình vào đó. Sự hòa mình thật sự có ý nghĩa khi một người tự hòa mình vào một phong trào không phải vì chính mình nhưng vì kẻ khác. Trong giấc mơ của John Bunyan, Kitô hữu và nhà truyền giáo đến một cung điện được canh giữ cẩn mật, đòi hỏi phải có một chiến trận để tìm đường vào. Tại trước cửa có một người ngồi, tay cầm bút để ghi tên những người dám tấn công. Trong lúc mọi người đang chùn lại thì Kitô hữu thấy một người dung mạo cường tráng, tiến đến bên cạnh người đang cầm bút và nói “thưa ông xin hãy ghi tên tôi”. Khi thấy việc trọng đại trước mắt, Kitô hữu bị buộc phải nói “thưa ông xin hãy ghi tên tôi” vì đó chính là điều Chúa Giêsu đã làm khi Ngài đến xin chịu phép rửa.

3) Với Ngài đó là khoảnh khắc để được chấp thuận. Chẳng có ai lại nhẹ dạ bỏ nhà ra đi mà không biết mình đi đâu. Người ấy phải biết chắc chắn mình đã hành động đúng. Chúa Giêsu đã quyết định bắt đầu hành động và giờ đây, Ngài đang chờ đợi dấu ấn đồng ý tán thành từ Chúa Cha. Vào thời của Chúa Giêsu, dân Do Thái nói về điều họ gọi là Bath Qol có nghĩa là con gái của tiếng gọi. Bấy giờ, họ tin là có nhiều tầng trời, trên tầng cao nhất có Thiên Chúa ngự trong một vùng ánh sáng không một ai đến gần được. Thật là hiếm có những cơ hội mà các tầng trời mở ra và Chúa truyền phán. Theo họ Chúa ở xa đến nỗi người ta chỉ nghe được tiếng phán của Ngài vọng lại từ nơi thật xa mà thôi. Với Chúa Giêsu, tiếng phán của Chúa Cha hoàn toàn trực tiếp. Theo Maccô kể, đây là một kinh nghiệm riêng của Chúa Giêsu chớ không có ý bày tỏ cho quần chúng. Tiếng từ trời không nói “Này là Con yêu dấu của Ta” như Matthêu ghi lại, nhưng phán thẳng với chính Ngài rằng “Con là Con yêu dấu của Cha”. Lúc chịu phép rửa, Chúa Giêsu đã quyết định phục tùng Chúa Cha và rõ ràng quyết định ấy đã được chấp thuận, không có gì phải nghi ngờ cả.

4) Với Ngài, đó là khoảnh khắc để trang bị. Bấy giờ Thánh Thần ngự xuống trên Ngài. Ở đây có ý nghĩa biểu tượng, Thánh Thần đã ngự xuống như chim bồ câu. Hình ảnh dùng so sánh không phải là ngẫu nhiên. Chim bồ câu tượng trưng cho sự nhu mì. Cả Matthêu lẫn Luca đều kể lại cho chúng ta cách rao giảng của Gioan (Mt 3,12; Lc 3,7-13). Thông điệp của Gioan là thông điệp chiếc búa đang đặt gần gốc cây, về việc luyện lọc khủng khiếp, về ngọn lửa thiêu rụi. Đó là một thông điệp cấp báo sự tàn hại, hủy diệt, chứ không phải một thông điệp của những tin tốt lành. Nhưng ngay từ đầu, bức tranh về Thánh Thần được ví sánh với chim bồ câu là một bức tranh nhu mì, hiền dịu. Ngài sẽ chiến thắng nhưng chiến thắng ấy sẽ là chiến thắng của tình yêu.

-------------------------------
 
 

TN 1-B110: Suy niệm của Lm Jos. Nguyễn Văn Tuyên

 
 

Bằng hành động bước xuống dòng nước, Đức Giêsu thực sự muốn đồng cảm với con người, để TN 1-B110


Bằng hành động bước xuống dòng nước, Đức Giêsu thực sự muốn đồng cảm với con người, để

chia sẻ thân phận đói nghèo, khổ đau, bệnh hoạn của con người, để cảm nếm nỗi ray rứt khắc khoải của tội nhân, để thấu hiểu niềm khao khát đổi mới trong lòng người tội lỗi.

Trong truyện cổ dân gian cũng như trong những bộ tiểu thuyết, có biết bao nhiêu câu chuyện tình thật cảm động, khi hai người đến với nhau mà người bạn đời lại không “môn đăng hộ đối”. Thế nhưng, vì tình yêu, họ đã dám chấp nhận tận cả để có được nhau trong đời, như câu chuyện hoàng tử đi cưới một cô bé lọ lem chẳng hạn. Để ca tụng mối tình vượt không gian và thời gian đó, ca dao tục ngữ Việt Nam có câu: “Yêu nhau mấy núi cũng leo, mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua. Yêu nhau chẳng ngại đường xa. Đá vàng cũng quyết, phong ba cũng liều”.

Thế nhưng màu nhiệm Con Thiên Chúa làm người là một câu chuyện tình đẹp hơn thế bội phần. Bởi vì vị hôn phu ở đây không phải là một người phàm, nhưng là một vị Thiên Chúa. Ngài đã từ bỏ ngai vàng ở trên trời cao để đến với nhân loại. Như lời bài thánh ca Philipphê: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).

Hôm nay, Tin Mừng Luca thuật lại việc Đức Giêsu cùng bước xuống dòng nước Giođan để chịu phép rửa bởi tay ông Gioan đã nói lên sự tự hủy đó. Có lẽ đây là biến cố chúng ta đã kỷ niệm nhiều lần, nên thành ra có cảm giác “quen quá hóa nhàm”, mà không thấy được sự cao vời của màu nhiệm tự hủy của Ngôi Hai Thiên Chúa.

Quả vậy, làm sao chúng ta có thể hiểu được việc Đức Giêsu - Con Thiên Chúa - Đấng hoàn toàn vô tội, lại có thể đứng chung với đoàn người tội lỗi, để rồi cùng bước xuống dòng sông như một tội nhân? Làm sao có thể hiểu được khi mà Đấng sẽ làm phép Rửa trong Thánh Thần, nay lại xin được chịu phép rửa sám hối trong nước.

Chính vì thế mà Tin Mừng Matthêu thuật lại rằng: khi thấy Đức Giêsu đến gần mình, thì Gioan tỏ ra bối rối. Ông đã một mực can Người và nói: "Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!" Nhưng Đức Giêsu trả lời: "Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính." (Mt 3,14-15)

Chiêm ngắm Đấng Cứu Thế cúi mình chịu phép rửa, chúng ta hiểu được thế nào là tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người: Một tình yêu đến quên bản thân mình, để cùng sống chết với người mình yêu. Một tình yêu sẵn sàng chia sẻ trọn vẹn, một tình yêu chấp nhận cúi xuống để nâng người mình yêu trỗi dậy.

Thánh Macximô Giám mục Tôrinô đã không ngần ngại gọi ngày hôm nay là một “lễ Giáng Sinh nữa”. Thánh nhân lập luận rằng: lễ Giáng Sinh trước, Đức Giêsu được sinh ra trong thân phận con người bởi cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Còn hôm nay, Người được sinh ra theo mầu nhiệm. Chúa Cha đã âu yếm nói với Người: “Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (Lc 3,22). Xưa kia, Đức Mẹ nâng niu âu yếm trong lòng khi con sinh ra, còn hôm nay, Chúa Cha dùng lời chứng thân thương mà nâng đỡ; xưa kia, Đức Mẹ đưa Chúa Con cho các hiền sĩ bái thờ, còn hôm nay, Chúa Cha mạc khải Chúa Con cho muôn dân thờ kính. Xưa kia, Người được sinh ra để thánh hóa nhân loại, còn hôm nay, Người khởi đầu sứ vụ của mình bằng việc chịu phép rửa, không phải để được nước thánh hóa, nhưng là để chính Người thánh hóa nước, để từ nay ơn thanh tẩy được phân phát cho hậu thế.

Với sự kiện Chúa Giêsu chịu phép Rửa, Người đã khai mạc một giai đoạn mới trong cuộc đời cứu thế của Người. Người kết thúc cuộc sống ẩn dật và bước vào cuộc đời công khai loan báo Tin Mừng. Đồng thời Người mở ra một kỷ nguyên mới, “kỷ nguyên tân tạo” những gì Adong cũ đã làm hư hoại như lời thánh Phaolô xác quyết: “Như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết thế nào, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống như vậy” (1Cr 15,22).

***

Việc Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay, dạy cho chúng ta bài học về sự đồng hành và liên đới.

Muốn đồng hành với người khác đòi chúng ta phải đi chậm lại, đòi chúng ta phải có chung một tâm tình, một lối suy nghĩ giống người khác. Sở dĩ ngày hôm nay, nhiều cặp vợ chồng chưa hiểu được nhau, chưa thể tìm được một tiếng nói chung trong gia đình, là vì họ chưa cùng một lối suy nghĩ. Nếu ai cũng khăng khăng bảo vệ lập trường của mình, thì làm sao mong tìm được một sự đồng thuận! Việc gia đình mà cứ “ông nói gà, bà nói vịt” thì làm sao có thể giải quyết được. Người xưa vẫn nói: “Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn” là vậy.

Trong việc dạy dỗ con cái, nhiều bậc phụ huynh thường giáo dục theo kiểu áp đặt. Theo các chuyên gia tâm lý, muốn giáo dục con cái, cha mẹ trước tiên phải vừa là người thầy để hướng dẫn, nhưng lại vừa là người bạn để có thể lắng nghe và thông cảm.

Để liên đới với người khác, đòi hỏi chúng ta phải nhỏ bé đi, phải khiêm hạ trong lối sống và cung cách cư xử. Hôm nay Đức Giêsu đánh dấu cuộc đời công khai của Ngài bằng một hành vi khiêm hạ, dìm mình, mất hút... Bên bờ sông Giođan, Ngài trở nên một kẻ vô danh bên cạnh một Gioan lúc bấy giờ tiếng tăm đã lẫy lừng. Ngài đã cúi xuống, dìm mình trong dòng sông, để nâng con người lên. Như lời một vị thánh giáo phụ đã từng nói: “Thiên Chúa làm người, để con người được làm con Thiên Chúa”.

Bằng hành động bước xuống dòng nước, Đức Giêsu thực sự muốn đồng cảm với con người, để chia sẻ thân phận đói nghèo, khổ đau, bệnh hoạn của con người, để cảm nếm nỗi ray rứt khắc khoải của tội nhân, để thấu hiểu niềm khao khát đổi mới trong lòng người tội lỗi.

Học nơi Đức Kitô, chúng ta hãy sống một đời sống khiêm hạ. Hãy để cho Chúa lớn lên trong cuộc đời chúng ta, để Ngài dìu dắt và hướng dẫn cuộc đời chúng ta.

Đức Giêsu đã khởi đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng của mình bằng việc dìm mình trong dòng nước. Qua phép rửa của Đức Giêsu trong Thánh Thần, chúng ta cũng được mời gọi lên đường để phục vụ anh chị em quanh ta, nhất là những anh chị em đang cần một tình yêu chia sẻ, nâng đỡ và trao ban trọn vẹn. Amen.

------------------------------------------

 

TN 1-B111: Cha Hài Lòng Về Con


(Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu)

Suy Niệm

 

Người Do-thái rất nhạy cảm về sự ô uế nơi thân xác. Theo sách Lêvi, thân xác con người có thể TN 1-B111


Người Do-thái rất nhạy cảm về sự ô uế nơi thân xác.
Theo sách Lêvi, thân xác con người có thể bị ô uế bởi nhiều lý do.
Chạm vào xác chết hay vào người phong làm ta ra ô uế.
Người phụ nữ sinh con hay có phản ứng sinh lý bình thường
cũng trở thành ô uế và cần được thanh tẩy.
Lẽ ra người phụ nữ bị băng huyết không được chạm vào Đức Giêsu.
Đây không phải là sự ô uế do phạm tội về mặt đạo đức,
mà chỉ là sự ô uế khiến người ta không được phép dự các lễ nghi.
Để sạch trở lại, cần được thanh tẩy.
Nước là cách thanh tẩy dễ dàng nhất.
Sách Lêvi hay dùng câu: “lấy nước mà tắm rửa” (chương 14-17).
Nước dùng để thanh tẩy thường là nước nguồn, nước mưa.
Cho đến nay trong nhánh Do-thái giáo Chính Thống hay Bảo Thủ,
nơi thanh tẩy (mikvah) vẫn chiếm vị trí trung tâm của nhà cộng đoàn.
Chúng ta không lấy làm lạ khi Gioan Tẩy giả mời gọi dân chúng
đến với ông để chuẩn bị cho Đấng Mêsia đang gần tới.
Ông kêu gọi người ta hối cải, xưng thú tội lỗi mình,
rồi chịu phép rửa của ông ở dòng nước sông Giođan.
Đức Giêsu đã nghe tiếng kêu của Gioan và đã đến,
đã đứng chung với các tội nhân, chờ đến phiên mình,
đã dìm toàn thân mình dưới nước, và được Gioan ban phép rửa.
Lúc ấy Ngài đã trên ba mươi tuổi, làm thợ nhiều năm ở Nadarét,
đã lặng lẽ và bình an chờ đợi ngày Cha sai mình.
Nhận phép rửa của Gioan là làm một cử chỉ khiêm hạ.
Đức Giêsu không ngờ chính giây phút dìm mình ở con sông này
lại là giây phút Thiên Chúa ngỏ lời với Ngài,
vén mở cho Ngài biết Ngài là ai trong mắt của Thiên Chúa,
và kín đáo mời gọi Ngài rời Nadarét để lên đường.
“Con là Con yêu dấu của Cha !” đó là lời Thiên Chúa từ trời phán.
Như Isaac là con yêu dấu của Abraham (St 22,2),
Đức Giêsu là Con yêu dấu của Cha.
Ngài là Con như vị vua mới đăng quang thuộc dòng Đavít,
được Thiên Chúa tuyển chọn và bảo:
“Con là con của Cha, hôm nay Cha đã sinh ra con” (Tv 2,7).
Như Người Tôi trung được đầy Thánh Thần để làm sứ mạng,
Ngài được Thiên Chúa tuyên bố: “Cha hài lòng về Con” (Is 42,1).
Thiên Chúa Cha hài lòng về Đức Giêsu là người Con yêu dấu,
người đã vâng ý cha suốt bao năm ở Nadarét,
và sẽ còn vâng ý Cha cho đến nỗi hy sinh chính mạng sống mình.
Những gì xảy ra trên sông Giođan hôm nay
sẽ tiếp diễn mãi trong suốt đời của Đức Giêsu.
Ngài không chỉ xếp hàng với những người tội lỗi,
mà hơn nữa, “Đấng không hề biết đến tội, thì vì chúng ta,
Thiên Chúa đã làm Ngài thành thân tội” (2 Cr 5,21).
Thánh Thần đã xuống trên Ngài ở Giođan,
sau đó sẽ đưa Ngài vào hoang địa để chịu thử thách (Mc 1,12).
Đức Giêsu đã khiêm tốn chịu phép rửa bởi Gioan,
và Ngài sẽ còn đau đáu chờ một phép rửa khác nữa (Lc 12,50).
Ngài đã hỏi hai môn đệ xem họ có dám chịu phép rửa
mà Ngài sắp chịu không (Mc 10,38-39).
Phép rửa ấy không gì khác hơn là cái chết để phục vụ,
và hiến mạng làm giá chuộc cho muôn người (Mc 10,45).
Chúng ta đã được chịu Phép Rửa trong Thánh Thần,
nhân danh Chúa Giêsu, để được ơn tha tội (Cv 2,38).
Ước gì Chúa Cha cũng nói với từng người chúng ta:
“Con là con Cha yêu dấu, Cha hài lòng về con.”

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,
sám hối không phải là điều dễ dàng,
bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn
để nhận mình lầm lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng
khi thấy Chúa là Đấng vô tội
mà lại đứng chung với các tội nhân,
chờ Gioan ban phép rửa.
Chúa đã muốn nên bạn đồng hành
với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con.
Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh
lối nghĩ và lối sống của mình,
tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng,
thành thật để khỏi tự dối mình.
Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải,
dám đi đến những hành động cụ thể,
và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.
Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con
niềm vui của Gia kêu,
hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.

-------------------------------

 

TN 1-B112: Để làm Cha trên trời hài lòng


(Suy niệm của Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế SJ.)

 

Với biến cố Chúa Giê-su chịu phép rửa ở sông Gio-đan, mời bạn cùng tôi dừng bước để “chiêm TN 1-B112


Với biến cố Chúa Giê-su chịu phép rửa ở sông Gio-đan, mời bạn cùng tôi dừng bước để “chiêm niệm” lại chính phép rửa của mình và đời sống của người con cái Thiên Chúa.

“Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1,11). Lời từ trời cao vang dội xuống trần gian. Lời từ Cha Từ Ái gởi đến Người Con Duy Nhất đã vâng phục trong khiêm tốn, để thi hành thánh ý Cha ban. Thánh ý của tình yêu từ trời cao mang ơn cứu độ đến cho muôn người, trong đó có bạn và tôi nữa.

Với Chúa Giê-su và trong ân sủng của Thần Khí, một hồng ân cao quý được ban xuống cho chúng ta. Đó là mỗi người chúng ta, từ khi được Chúa nắn thành hình và làm nên, được Chúa trao ban hơi thở và đưa vào cuộc đời, được trở nên nghĩa tử, trở nên con cái của Cha trên trời. Hồng ân cao quý này luôn mang dấu ấn của tình yêu cao quý, và hồng ân này được hiển lộ rõ rệt hơn nữa qua chính bí tích Thánh Tẩy.

Dù bạn và tôi được đón nhận bí tích Thánh Tẩy khi còn là em bé khóc o oe chẳng biết gì, hay là một người trưởng thành đầy ý thức và tự do nói lời “xin vâng” với Thiên Chúa qua bí tích Thánh Tẩy, thì chúng ta đều được ghi một dấu ấn thật đẹp. Dấu ấn đó là:

“Mỗi người chúng ta đều là người con yêu dấu của Cha trên trời”.

“Là con yêu dấu của Cha”, nên trong đôi mắt Cha mỗi người chúng ta là viên ngọc thật quý giá, thật quan trọng đối với Cha, vì thế Cha luôn trân trọng và mến thương. Dù cuộc đời có đưa ra biết bao chuẩn mực thước đo, để đánh giá và thẩm định một con người, thì với Cha trên trời bạn và tôi luôn quý giá. Cái quý giá của tình yêu từ trời cao ban tặng vượt trên mọi khuôn mẫu của cuộc đời này. Bạn giàu và tôi nghèo, Cha đều yêu thương. Bạn giỏi giang và tôi đơn hèn, Cha đều trân quý. Bạn hạnh phúc đầy đủ và tôi vất vả lầm than, Cha đều ở bên để chia sẻ, để đỡ nâng và để bảo ban dạy dỗ.

Thật vậy, từ ngày được sinh vào đời, từ ngày được trở nên con cái của Cha, được mang căn tính là một Ki-tô hữu, nghĩa là người có Chúa Ki-tô, người thuộc về Chúa Ki-tô, chúng ta trở thành người được Cha yêu thương, một tình yêu không điều kiện, một tình yêu không dựa trên bất cứ chuẩn mực nào mà cuộc đời tự cho mình là thông minh và tự cho mình có quyền đưa ra.

“Là con yêu dấu của Cha” cũng là “em của Chúa Giê-su” nữa. Như vậy, “Anh Giê-su” đã sống thế nào để làm hài lòng Cha, thì chúng ta cũng bước đi trên nẻo đường đó.

Điều đầu tiên mà Anh Giê-su làm Cha hài lòng là gì vậy? Đó là vâng phục thánh ý tốt lành của Cha, là sẵn sàng đón nhận sứ mạng quan trọng. Sứ mạng làm cho người Con Yêu Dấu của Cha trở nên xác phàm, sống trong căn lều ngay giữa góc phố của nhân trần, và chia sẻ mọi điều vất vả lầm than, rồi còn gánh vác tất cả mọi khổ đau kể cả tội lội của nhân trần trên đôi vai của Ngài.

Vâng phục thánh ý, vâng phục Cha trên trời, vâng phục vì yêu thương, vâng phục để sống sứ mạng cứu rỗi những phận người đang sống trong tội lỗi, đang lần bước trong bóng đêm.

Ôi, vâng phục của tình yêu. Một sự vâng phục quá tuyệt vời! Sự vâng phục làm nên ý nghĩa của cuộc sống, sự vâng phục tạo nên giá trị của cuộc đời.

Nhìn Anh Giê-su với tinh thần vâng phục cao quý này, bạn và tôi đã “viết chữ vâng phục” trong đời mình như thế nào? Vẫn biết rằng ai cũng muốn khẳng định bản thân, vẫn biết rằng ai cũng có ý riêng, nhưng nếu cả đời chỉ ôm ấp “cái tôi” của mình, và mỗi hơi thở chỉ hướng về chính mình mà thôi, thì cuộc sống đó sẽ “chật chội” biết bao nhiêu.

Có khi nào chúng ta đã nắn nót viết chữ “vâng phục” thật đẹp trên một góc đường nào đó, chúng ta cảm thấy đời có đáng sống không? Tâm hồn có cảm nhận một niềm vui sâu lắng của người con đơn hèn vâng phục Cha và làm hài lòng Cha không?

Nhưng cũng có nhiều lúc, thật vậy không chỉ một lúc và nhiều lúc lắm, chúng ta đã “lắc đầu” với Cha, đã chẳng màng đến ý Cha và cũng chẳng thèm để ý đến Cha, và rồi hiên ngang kiêu hãnh tiến bước trên đường đời với tâm trạng “thật sảng khoái”, vì tự cho mình là trên hết, ý mình là tuyệt nhất, không có mình chẳng ai có thể làm gì được. Vì thế, không phải là ý Cha được thể hiện, mà là ý tôi cần được mọi người đón nhận và thực thi.

Ôi, cái đầu hiên ngang kiêu hãnh và cứng ngắc của một phận người thấp bé hèn kém có thể gục xuống bất cứ lúc nào!

Như hoa đồng cỏ nội, sáng nở chiều tàn, đời người có thể hôm nay khoẻ mạnh và lành lạnh, mai “được chú virus” nhỏ bé Covid viếng thăm, thì tự động đời phải khép lại, tự mà cách ly, tự mà sống quanh quẩn trong bốn bức tường, chưa kể đến những nỗi đau trên thân xác mà Covid gây ra, và rồi phận người kiêu hãnh đó có dám tự bảo đảm là mình chắc chắn vượt qua được thử thách thật khiếp đảm mà Covid đưa tới?

Sáng mai còn mở mắt là còn biết mình đang sống, là nhận ra sự sống mình là quà tặng. Kiêu hãnh làm gì, khi “tôi có gì mà không phải do Chúa ban”.

Vì thế, vâng phục thật là điều làm làm chúng ta “trở nên” con yêu dấu của Cha và làm hài lòng Cha. Đi với vâng phục chính là khiêm nhường. Anh Giê-su mặc trong mình bản chất khiêm nhường là nền tảng cho sứ mạng cứu rỗi.

“Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.

Lời mời gọi thật quen thuộc của Anh Giê-su luôn vang lên và tiếp tục vang lên để nhắc nhớ chúng ta.

Chính Cha là khiêm nhường, chính Anh Giê-su là khiêm nhường. Vì thương yêu, Cha đã trao ban Người Con Duy Nhất, vì thương yêu Anh Giê-su, phận là Thiên Chúa, đã hạ mình khiêm nhường. Khiêm nhường được mặc vào toàn bộ cuộc sống của Anh Giê-su, Chúa của khiêm nhường.

Nói một cách rõ hơn, khiêm nhường là ngôn ngữ của Cha trên trời, của Thánh Thần Chúa và của Ngôi Hai là chính Anh Giê-su.

Trong khi người dưới thế kiêu ngạo gào lên: “Tôi, tôi, tôi!”;
thì Thiên Chúa Ba Ngôi nhỏ nhẹ nói: “Con, con, con!”

“Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.

Lời mời gọi thật quen thuộc của Anh Giê-su luôn vang lên và tiếp tục vang lên để nhắc nhớ chúng ta: Đừng cứ cố gào lên “tôi, tôi và tôi, rồi lại tôi”, mà cùng trở về lại với phận người rất thật của mình là bụi tro, là bùn đất trước mặt Thiên Chúa.
“Anh em hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa và Người sẽ cất nhắc anh em lên” (Gc 4,10). Tập cúi mình cuống, tập hạ mình xuống là bài học thật cấp thiết biết bao cho những phận người “bùn đất và tro bụi”. Đừng bao giờ tự cho mình lớn hơn Cha, cao hơn anh Giê-su, ngược lại cả đời chỉ mong chẳng còn gì để mà tự mãn, để mà tự cao tự đại, để nhờ đó “Chúa luôn lớn lên và tôi luôn nhỏ lại”.

“Lạy Chúa, xin dạy cho con biết: đời sống con chung cuộc thế nào, ngày tháng con đếm được mấy mươi, để hiểu rằng kiếp phù du là thế” (Tv 38, 5). Đời là kiếp phù du nghĩa là đời là một hành trình sẽ qua đi theo định luật sinh lão bệnh tử. Đôi khi tử còn đến nhanh hơn mình tưởng. Không ít lần, trước khi lão đến tử đã đến rồi. Ôi! “xin cho con đừng xao lãng và kiêu hãnh, ngược lại luôn khôn ngoan và thận trọng và chuẩn bị sẵn sàng, khi Chúa như kẻ trộm đến với nhà con”.

Vì thế, ai dám cao ngạo “xác định” mình sẽ sống đến trăm tuổi, mình sẽ khoẻ mãi và không có nếp nhăn, mình sẽ “make up” mỗi ngày để vẻ đẹp luôn nở tươi, thì người đó đang sống trong thế giới “ảo” của riêng mình. Đó là ảo tưởng của những “bùn đất” thích cao ngạo với “các chữ tôi” không bao giờ kết!

Tập đếm tháng ngày mình sống là biết sống mỗi ngày như là ngày cuối cùng của đời mình, để mà ý thức về phận hèn, để mà biết luôn hướng lòng về với Đấng sinh ra mình, Đấng cầm quyền sinh tử của mình.

Tập đếm tháng ngày mình sống, là biết “gạn đục khơi trong”, là dẹp đi mọi thứ “dư thừa” mà mình đã và đang gom góp, những thứ đối với mình là quan trọng lắm, nhưng những thứ đó lại không làm cho Cha trên trời hài lòng gì cả.

Kiếp người của tôi và của bạn đều phù du cả, không ai có thể quả quyết độ ngắn độ dài của đời mình đâu. Thật vậy, “đời người như thể phù du, sớm còn tối mất, công phu lỡ làng”, vì thế chúng ta cùng cố gắng mỗi ngày sống trong vâng phục, trong khiêm nhường như anh Giê-su để làm hài lòng Cha nhé.

Cuối cùng, với bí tích Thánh Tẩy và trong hồng ân là con cái Cha trên trời, cũng như mang căn tính Ki-tô hữu, Bạn và tôi cùng lên đường trong mỗi ngày sống với sứ mạng thật đẹp. Đó là yêu thương, là gieo và rải hạt giống Tin Mừng của Chúa trên mọi nẻo đường mình qua, là đến với từng Anh Chị Em và nói với họ rằng:

“Anh, Chị, Em và Bạn chính là
người con yêu dấu của Cha trên trời.
Nào chúng ta cùng nắm tay song bước trên đường,
cùng chung sống để làm hài lòng Cha,
Đấng là Nguồn và là Đích, Đấng cầm quyền sinh tử của mỗi chúng ta”.

-------------------------------

 

TN 1-B113: Chúa Giêsu chịu phép rửa


(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc)

“Đức Giê-su… được ông Gio-an làm phép rửa dưới sông Gio-đan”

1. “Đức Giê-su từ Na-da-rét đến miền Ga-li-lê”

 

Đức Giê-su kết thúc thời gian ba mươi năm dài sống bình thường như mọi người chúng ta, thời TN 1-B113


Đức Giê-su kết thúc thời gian ba mươi năm dài sống bình thường như mọi người chúng ta, thời gian mà chúng ta gọi là đời sống ẩn dật của Đức Giê-su, để bắt đầu giai đoạn mới, giai đoạn hoạt động công khai. Chúng ta hãy nhìn ngắm Đức Giêsu rời bỏ làng quê, gia đình, những người thân yêu để lên đường đến sông Gio-đan. Từ một nơi êm ấm, Ngài đến một dòng sông. Dòng sông gợi lên trong chúng ta điều gì? Không an toàn, bỏ ngỏ, nhiều người xa lạ, không ổn định… Đó là một cuộc ra đi sau ba mươi năm sống ẩn dật. Chúng hãy cảm nhận hết sức nặng của ba mươi năm dài này: nặng tình nặng nghĩa, nặng kỉ niệm, nặng kinh nghiệm sống, nặng dấu ấn của các lứa tuổi, tuổi thơ, tuổi thiếu niên…

Đây là một khởi đầu: không chỉ cho một giai đoạn mới trong cuộc đời của Ngài, nhưng còn là một khởi đầu mới trong hành trình Nhập Thể, trong tiến trình Thiên Chúa mặc khải chính mình cho con người nơi Đức Giêsu, trong sứ vụ loan báo Nước Trời và ơn cứu độ của Thiên Chúa, và qua sứ vụ này, Đức Giê-su mặc khải căn tính thần linh của Ngài, là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa. Vì thế, khởi đầu này đã loan báo mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giê-su rồi, giống như mầu nhiệm Giáng Sinh. Vì thế, đây là một khúc quanh trong cuộc đời của Đức Giê-su, một khúc quanh có tính quyết định. Chúng ta hãy dừng lại để khám phá ra tất cả ý nghĩa của tính quyết định liên quan đến biến cố này của cuộc đời Đức Giê-su.

Trong cuộc đời của chúng ta cũng có nhiều khúc quanh; chúng ta có thể nhớ lại. Trong những khúc quanh đó, đã có khúc quanh nào mang tính quyết định chưa? Nếu chưa, bây giờ là lúc, Chúa mời gọi chúng ta, cùng với Chúa, tạo ra một khúc quanh quyết định, nhất là qua kinh nghiệm thiêng liêng “lựa chọn” ơn gọi, hay làm mới lại cho suốt đời.

2. “Và được ông Gioan làm phép rửa”

Chúng ta hãy hình dung khung cảnh Đức Giê-su hòa nhập vào với dòng người nhận mình là tội nhân, đến với Gioan để xin chịu phép rửa (đọc Pl 2, 5-11). Đây là một khởi đầu mới của mầu nhiệm Nhập Thể lớn lao, nhưng Người lại thực hiện ngang qua lựa chọn rất nhỏ bé và khiêm tốn, đó là đến với ông Gioan để được chịu phép rửa. Tương tự như khi đến với loài người chúng ta trong mầu nhiệm Giáng Sinh, Chúa đã sinh ra như một em bé, và hơn nữa, trong một hoàn cảnh thật đơn sơ và khó nghèo. Trong khi đó, Người chính là Đấng mà ông Gioan được mời gọi tôn vinh: “Tôi đây không phải là Đấng Ki-tô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người… Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3, 29-30; là bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm qua). Theo lời kể của Thánh Mát-thêu (x. Mt 3, 13-17), ông Gioan một mực can ngăn và nói rằng, chính loài người tội lỗi chúng ta mới cần được Ngài làm phép rửa.

Như thế, Đức Giê-su muốn đồng hóa mình với các tội nhân là chính chúng ta, như Ngài sẽ làm trong giai đoạn rao giảng Tin Mừng và một cách tận căn trên Thập Giá. Bởi lẽ, Đức Giê-su muốn sống và bày tỏ cho chúng ta một đức công chính khác với sự công chính theo luật mà loài người thường hiểu và sống; đó là đức công chính của chính Thiên Chúa, như ngôn sứ Isaia loan báo:

Người sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân.
Người sẽ không kêu to, không nói lớn,
không để ai nghe tiếng giữa phố phường.
Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gẫy,
tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi.
(Is 42, 1-3)

3. “Ba Ngôi mới”

Chúng ta được mời gọi nhìn ngắm Ba Ngôi để nhận ra đó là “Ba Ngôi Mới”: Chính khi Ngài hạ mình, trong mầu nhiệm phép rửa, và sau này trong mầu nhiệm Thập Giá, lại là lúc Ngài được tôn vinh. Thậy vậy, chính khi Ngài hòa nhập với các tội nhân, để xin chịu phép rửa, như sau này, Ngài sẽ bị bắt, bị lên án và bị đóng đinh như là tội nhân và ở giữa các tội nhân, và chính khi Ngài để mình bị dìm mình xuống dòng nước, như sau này, Ngài không xuống khỏi Thập Giá, nhưng để cho Tội của loài người chúng ta “dìm” đến cùng, vùi dập đến cùng, là giết chết Ngài trên Thập Giá, thì chính lúc đó, khi Ngài lên khỏi nước, và cũng như sau nay, khi Ngài bước ra khỏi cõi chết, Ngài được Chúa Cha và Chúa Thánh Thần nhìn nhận, tôn vinh và mặc khải căn tính đích thật của Ngài:

Con là Con yêu dấu của Cha,
Cha hài lòng về Con.

(c. 11)

Chúng ta hãy nhìn ngắm một lần nữa quang cảnh thật lớn lao, loan báo mầu nhiệm Vượt Qua, nghĩa là sự chết và phục sinh của Đức Ki-tô. Mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Ki-tô và cũng là hành trình của từng người chúng ta:

* Đức Giê-su ở dưới nước lên.
* Các tầng trời mở ra.
* Thần Khí Thiên Chúa như chim bồ câu ngự xuống trên Người; và có tiếng từ trời cao: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.

Hình ảnh “từ dưới nước lên” diễn tả Đức Ki-tô bước ra khỏi sự chết; các tầng trời mở ra diễn tả sáng tạo mới; và trong sáng tạo mới có sự hiệp thông trọn vẹn của Ba Ngôi Thiên Chúa, nhưng là một “Ba Ngôi Thiên Chúa mới”, bởi vì Ngôi Lời Nhập Thể mang trong mình và mang theo mình một “đàn em đông đúc”, là loài người và từng người chúng ta.

Lời của Chúa Cha: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”, là lời nhìn nhận và tuyển chọn của Trời Cao đối với Đức Giê-su. Truyền thống của Giáo Hội hiểu lời này của Chúa Cha về Đức Giê-su như là một “biến cố sinh ra”. Và điều này rất phù hợp với kinh nghiệm sống của chúng ta. Vì khi bố mẹ sinh ra thân thể chúng ta thì vẫn chưa đủ để chúng ta là con của bố mẹ, sau này chúng ta còn cần được bố mẹ nói với chúng ta trước mặt mọi người là: “Đây là con của chúng tôi” và còn phải làm giấy chứng nhận nữa, đó là “giấy khai sinh”. Không có giấy khai sinh, trước mặt mọi người và trên bình diện xã hội, chúng ta không là con của ai hết! Giấy khai sinh, chính là Lời nhìn nhận và tuyển chọn vượt lên trên tương quan máu mủ. Để sống có ý nghĩa ở trên đời, ai trong chúng ta cũng cần được nghe đi nghe lại một lời như thế cách minh nhiên hoặc mặc nhiên từ bố mẹ hay những người thân yêu của chúng ta.

Thánh Giu-se không sinh ra Đức Giê-su, nhưng Ngài dâng hiến cả cuộc đời để “làm giấy khai sinh” cho Đức Giê-su, nhìn nhận Ngài là con của mình; và trong hành trình nhập thể, Đức Giê-su cần một lời “xin vâng” như thế.

*  *  *

Như Đức Giê-su, chúng ta cũng cần được Chúa Cha “sinh ra” như thế, nghĩa là cần được Chúa Cha công bố: “Trong Đức Giêsu Kitô, Thánh Tử Duy Nhất của Cha, con, con là con của Cha, Cha hài lòng về con”. Vì đó là lời tái sinh chúng ta, lời làm chúng ta lớn lên, lời làm nên căn tính Kitô hữu và ơn gọi riêng của chúng ta.

Nhưng chúng ta, cho dù bất xứng, đã nghe được một Lời như vậy từ Thiên Chúa Cha chưa? Bởi lẽ, Đức Giê-su làm tất cả những điều đó, là để diễn tả tình yêu đến cùng, để phục hồi và chia sẻ phẩm giá làm con Thiên Chúa của Ngài cho chúng ta. Và chính khi chúng ta đích thân nghe được lời này của Chúa Cha, chúng ta mới có thể, trong Chúa, nói với nhau: “Em là em yêu dấu của chị (anh), chị (anh) hài lòng về em.”

-------------------------------

 

TN 1-B114: Chúng ta là con trong Con Thiên Chúa


(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)

Kính thưa...

 

Tước vị “con” được nhìn nhận hoặc do việc sinh thành (cha mẹ sinh con), hoặc do luật định (con TN 1-B114


Tước vị “con” được nhìn nhận hoặc do việc sinh thành (cha mẹ sinh con), hoặc do luật định (con theo luật, con nuôi...).

Ý niệm cha/con nói lên mối tương quan rất mật thiết giữa hai con người, đến nỗi niềm vui, hạnh phúc, nỗi buồn, của người này thì cũng là của người kia, và nếu cần phải hy sinh đến chết cho nhau, họ cũng sẵn sàng đón nhận, không hề so đo, tính toán. Đúng là:

“Đi khắp thế gian, không ai tốt bằng mẹ,
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha”.

Bên cạnh mối tương quan cha/con dựa trên những yếu tố tự nhiên, phụng vụ hôm nay còn chỉ cho chúng ta mối tương quan cha/con giữa Thiên Chúa và con người, có được nhờ sự chết và phục sinh của Chúa Giê-su. Mối tương quan này không đặt nền tảng trên những tiêu chí nhân sinh, nhưng trên bình diện ân sủng, được ban tặng do tình yêu và lòng thương xót của Cha trên trời.

Phụng vụ lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa cử hành hôm nay, diễn tả chiều kích ân sủng được ban tặng cho nhân loại cách vô ngần, vô lượng, cốt để nâng con người tới tận trời cao trong phẩm vị được làm con Thiên Chúa.

Bài đọc I, trích từ sách ngôn sứ Isaia, loan báo chân dung người “tôi trung” của Chúa, được ban tặng muôn vàn ân huệ, xứng với phẩm giá “Con Thiên Chúa”. Hồng ân Thánh Thần nâng người tôi trung lên hàng con cái, đồng thời trao ban sứ vụ để người con đó trở thành thừa sai lòng thương xót Chúa Cha: Ta đổ thần khí Ta trên nó, đã gọi tên, đã cầm tay dẫn nó theo đường lối của Ta (cf. Is 42, 1-7).

Thành ngữ: “đổ thần khí Ta trên người” diễn tả hai chiều kích của hoạt động thần linh:

1. Mối tương quan nội tại ba ngôi: nhờ Thánh Thần, Chúa Cha nhiệm sinh Chúa Con đồng bản tính với mình, biểu đạt trong Cha tình phụ tử và tỏ hiện nơi Con tình con thảo. Thánh Thần làm cho chúng ta nghe được tiếng êm ái ngọt ngào đến ngất ngây, kỳ diệu của Chúa Cha nói với Chúa Con: “Con là con của Cha, hôm nay, Cha đã sinh ra con” (Lc 3, 22).

2. Mối tương quan đối với nhân loại: Nhờ Thánh Thần, người tôi trung của Chúa trở nên ngoan hiền, khiêm tốn, dễ dậy, vâng phục trong mọi hoàn cảnh, nhất là kiên tâm, can đảm, làm chứng cho mọi người lòng thương xót Chúa Cha. Isaia viết về người: “cây lau bị giập, không nỡ bẻ, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi” (Is 42, 3), trót cả cuộc đời chỉ lo sao chu toàn ý Chúa và mưu cầu hạnh phúc cho mọi sinh linh.

Người tôi trung ấy là Giê-su, hôm nay bước xuống dòng chảy Jordan để làm một cử chỉ có tính biểu tượng, quen gọi “Chúa Giê-su chịu phép rửa”. Đâu là ý nghĩa đích thực của biến có này ? Giê-su chịu phép rửa không phải vì ngài là tội nhân, nhưng vì liên đới với con người tội lỗi. Người gánh lấy tội lỗi thế gian để đốt cháy nó trên bàn thờ thập giá.

Phép rửa của Chúa Giê-su tiên báo việc tự hiến, tự hủy đến cùng kiệt vì sự sống trần gian. Chịu phép rửa là để cam kết sống vâng phục thánh ý Cha trong mọi sự: của ăn của Ngài là làm theo ý Cha.

Giê-su hòa vào dòng người xuống sông Gio-đan để xin Gio-an làm phép rửa cốt để thần tính Người thánh hóa dòng nước, mà nước là nguồn sự sống, thánh hóa nước là thánh hóa sự sống trần gian. Nước của dòng sông Gio-đan sẽ chảy vào biển cả để tất cả đều được thánh hóa và đổi mới.

Bài Phúc Âm ghi nhận, khi Chúa Giê-su bước ra khỏi dòng nước thì “Trời” bỗng nhiên mở ra và có tiếng Chúa Cha tuyên phán: “Đây là Con Ta yêu dấu, Con đẹp lòng Ta mọi đàng, các ngươi hãy nghe lời Người” (Mc 1, 11).

Trời mở ra diễn tả sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa mà xưa kia vì cớ Adam cửa ấy đã bị đóng lại.

Đức cố giáo hoàng J-P. II giải thích mầu nhiệm hiệp thông được thực hiện trong Chúa Giê-su: Ngôi Lời một khi đã làm người, thì đời đời làm người, ngay cả khi ngự bên hữu Chúa Cha, Ngài cũng là một con người, nên hy vọng có chỗ cho chúng ta trong gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa.

Như vậy, trong tư cách là Ngôi Lời nhập thể, Giê-su trở nên khuôn mẫu cho nhân loại trong việc chuyên chăm lắng nghe và thực thi Lời Chúa. Trở nên giống Giê-su trong mọi sự, người môn đệ cũng trở con yêu của Cha trên trời, vì trong Giê-su, chúng ta thực sự là con Thiên Chúa, xứng đáng thừa hưởng hạnh phúc Nước Trời.

Mừng lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa hôm nay, chúng ta được mời gọi, sống hiệp thông với Chúa.

Dấu chỉ đảm bảo hiệp thông là nghe và tuân giữ giáo huấn của Giê-su: “Ai giữ lời Chúa Giê-su thì quả thật tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người ấy” (Jn 14, 15).

Trong bài đọc II, thánh Gio-an coi tình yêu là yếu tố nền tảng của tình hiệp thông bền vững và phong nhiêu giữa Thiên Chúa và người môn đệ. Ai yêu mến thì sinh ra bởi Thiên Chúa và có thể sống trọn vẹn giới răn của Người.

Thánh Augustinô cũng đồng suy nghĩ như Gio-an khi căn dặn giáo đoàn: hãy có tình yêu, bạn muốn làm gì cũng được.

Tình yêu luôn được cụ thể trong bổn phận hàng ngày. Vậy, hãy chu toàn bổn phận trong vui tươi, hạnh phúc, chúng ta sẽ ở lại trong tình yêu của Chúa.

Đó cũng là cách nên thánh phù hợp thánh ý Chúa nhất.
 
Xin Chúa nâng đỡ và chúc lành cho mỗi người chúng ta trong ngày mừng lễ Chúa chịu phép rửa hôm nay. Amen.

-------------------------------

 

TN 1-B115: Chúa Giêsu chịu phép rửa


(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

 

Gioan Tẩy Giả xuất hiện và giới thiệu: “Có Đấng quyền năng hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không TN 1-B115


Gioan Tẩy Giả xuất hiện và giới thiệu: “Có Đấng quyền năng hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi dép cho Ngài”. Và Đấng ấy đã đến với Gioan ở sông Giođan. Sao lại là sông Giođan? Vì nơi đó Gioan đang giảng và kêu gọi dân ăn năn thống hối và chịu phép rửa. Phép rửa chứ không là phép rửa tội, đừng nhầm. Gioan cũng nói rõ : “Tôi thì đã làm phép rửa cho anh em bằng nước”. Phép rửa của người Do thái là một dấu hiệu chứng tỏ họ thuộc về con cháu Abraham. Những người ngoại theo đạo Do Thái phải được thanh tẩy để thuộc về dân thánh của Thiên Chúa. Muốn chịu phép rửa, phải xưng thú tội lỗi và quyết tâm sống theo Luật Chúa.

Chúa Giêsu đến sông Giođan mang một ý nghĩa quan trọng đối với người Do thái, là con sông lịch sử.

Sau một cuộc du hành dài bốn mươi năm, dưới sự lãnh đạo của ông Môsê và sau cùng dưới sự lãnh đạo của ông Giosuê, dân Do Thái băng qua sông Giođan để chiếm lại Đất Hứa. Đó là một biến cố vĩ đại. Biến cố đó đã ghi vào lịch sử của dân Do thái một kỷ niệm không phai. Vượt qua sông Giođan để vào Đất Hứa nhắc cho họ nhớ cuộc vượt qua Biển Đỏ năm xưa. Vượt qua Biển Đỏ là thoát ách nô lệ Ai Cập, vượt qua sông Giođan là chiếm được phần gia nghiệp, là bước vào lãnh vực của Thiên Chúa.

Gioan Tẩy giả xuất hiện bên bờ con sông lịch sử đó, kêu gọi mọi người chuẩn bị một cuộc vượt qua mới, trở về Đất Hứa mới. Chúa Giêsu cũng xuất hiện bên bờ con sông lịch sử đó, và chính Ngài lại chịu phép rửa của Gioan ở nơi đó. Làm như con sông Giođan là khởi điểm cho một cuộc sống mới. Chúa Giêsu bắt đầu cuộc sống công khai của Ngài bằng việc chịu phép rửa của Gioan. Ngài muốn chứng tỏ rằng Nước Trời phải đi qua ngưỡng cửa của sám hối: “Hãy ăn năn sám hối vì Nước Trời đã gần kề”.

Gioan công nhận ông chỉ rửa trong nước, nhưng khi Chúa Giêsu xuống dòng sông chịu phép rửa trong nước đó, thì Thánh Thần ngự xuống trên Ngài. Ngài bước xuống dòng sông không phải để được thanh tẩy mà để mời gọi mọi người bước xuống dòng sông và được thanh tẩy, để vượt qua sự chết mà vào cõi sống. Gioan giới thiệu Ngài như một Đấng quyền năng, cao cả đến nỗi ông không đáng cúi xuống cởi dép cho Ngài”. Nhưng lạ thay, Ngài lại đến với Gioan và chịu phép rửa.

Ngài chịu phép rửa trong nước, nhưng Ngài sẽ rửa chúng ta trong Thánh Thần. Ngài vừa lên khỏi nước thì trời xé ra và Thánh thần như chim bồ câu ngự xuống trên Ngài. Lại có tiếng từ trời phán: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.

Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu chứng thực rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa. Thánh Thần đến để tấn phong Chúa Giêsu làm Đấng cứu độ được sai đến để cứu vớt nhân loại đang nằm trong bóng tối sự chết. Từ khi Ađam phạm tội, mối liên hệ yêu thương giữa Thiên Chúa và nhân loại đã bị cắt đứt. Hôm nay được nối kết lại, trời xé ra và Thiên Chúa đối thoại với con người qua Người Con yêu dấu.

Có tiếng Chúa Cha từ trời phán: “Con là  Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Ba Ngôi Thiên Chúa hiện diện nơi dòng sông thanh tẩy và Chúa Cha xác nhận Con Một mà Người ban cho trần gian, Chúa Thánh Thần tấn phong Chúa Giêsu làm Đấng cứu độ. Từ nay mọi quyền hành trên trời dưới đất đều được ban cho Ngài.Ngàiđầy ân sủng và sự thật. Nơi Ngài, chúng ta nhận được ơn nầy đến ơn khác từ sự sung mãn của Ngài. Nơi Ngài chúng ta sẽ được rửa trong Thánh Thần, được nhìn nhận: “Nầy là con Ta yêu dấu” và Thánh Thần sẽ giúp chúng ta gọi tiếng Abba, lạy Cha trong ân tình.

Người Con Một là nguồn mọi ơn lành. Trong Ngài chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi, được trở nên con yêu dấu của Chúa Cha. Nhưng muốn được như thế phải đi qua ngưỡng cửa của phép rửa trong Thánh Thần, phải làm như tiên tri Isaia đã nói: “Hãy tìm Đức Chúa khi Người còn cho gặp… Kẻ gian ác là chúng ta, hãy bỏ đường lối mình đang theo, người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có mà trở về với Đức Chúa… vì Người sẽ rộng lòng thứ tha”.

Người Con Một được ban cho chúng ta, là hồng ân không bao giờ vơi cạn. Chúng ta thuộc về Ngài, là “đoàn chiên Chúa chăn nuôi”. Chiên thì nghe tiếng của chủ chăn. Chúng ta có nghe không ? Nghe nhưng không làm. Nếu chúng ta nghe tiếng Chúa, sống theo gương mẫu của Ngài thì nhiều người đã biết Chúa, Giáo Hội đã được phong phú hơn rồi. Nếu chúng ta thực sự yêu mến Chúa thì chúng ta đã chết cho tội lỗi và sống cho Thiên Chúa như Thánh Phaolô đã nói.

Hãy nhìn vào tâm hồn mình để thấy rõ hơn, chúng ta có sống cho Chúa thật không? Nhiều người chỉ giữ đạo ngoài da, nghĩa là giữ những nghi thức mà không có tâm hồn. Pharisêu là như thế đó. Chúng ta được rửa trong Thánh thần chứ không rửa trong nước. Thánh Thần là Tình Yêu. Ngài nhóm lên ngọn lửa tình yêu và giúp chúng ta sống trong tình yêu, sống làm một với Chúa Giêsu như Thánh Phaolô đã nói: “Tôi sống, nhưng không còn là tôi mà là Chúa Kitô sống trong tôi”. Chúng ta chịu phép rửa tội là đã được sáp nhập vào Chúa Kitô, làm một với Ngài, chết với Ngài và sống lại với Ngài. Đó không phải chỉ là một cách nói, mà phải được thực hiện trong cuộc sống hôm nay của mỗi Kitô hữu. Nếu chúng ta chưa đạt đến mức độ đó, chúng ta cần cố gắng hằng ngày để thực hiện.

Nhờ Chúa Giêsu, chúng ta được làm con của Chúa Cha, nhưng chúng ta có thực sự là con của Chúa không? Chúa Cha có thể nhìn chúng ta và nói: “Đây là con Ta yêu dấu Ta hài lòng về con không?”

Chúng ta có biết hạnh phúc được làm con Chúa không? Chúng ta đều biết nhưng sống làm con Chúa giữa trần gian nầy là một điều không mấy người đã sống. Những gì Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta đều vô ích sao? Chúng ta được yêu thương quá nhiều nhưng chúng ta đã bỏ quên hay không chú ý. Chúa không đòi hỏi chúng ta làm gì cho Chúa, Chúa chỉ muốn chúng ta hạnh phúc. Và hạnh phúc của chúng ta không chỉ là có được nhiều tiền của, nhiều danh vọng mà là sống trong tình thương của Ngài. Ngài đã làm tất cả, chúng ta chỉ cần một chút cố gắng. Chúng ta đã làm gì để đáp lại tình thương trời biển của Ngài?

Ngài luôn đến với chúng ta, luôn gần gũi thân cận, thân cận đến nỗi làm một với chúng ta nhờ một tấm bánh. Ngài chứng tỏ tình yêu của Ngài bằng một dấu hiệu hữu hình, một dấu hiệu đáng yêu. Ngài vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta ăn lấy Ngài để thực hiện điều mà thánh Phaolô đã kinh nghiệm là tôi sống, nhưng không còn là tôi mà là Giêsu sống trong tôi. Có tình yêu nào trọn vẹn như thế không? Tại sao chúng ta không hạnh phúc, không nhảy mừng? Chỉ vì chúng ta kém tin. Xin cho niềm tin chúng ta đủ mạnh để nếm hưởng tình yêu của Ngài trọn vẹn hơn.

-------------------------------

 

TN 1-B116: Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa


(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

Tin mừng Mc 1: 7-11 Ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa nhắc nhở chúng ta về ngày chúng ta được lãnh nhận phép Rửa Tội. Ngày mà chúng ta được trở thành con cái của Thiên Chúa. Chúng ta phải cam kết sống trọn vẹn với ơn gọi của phép Rửa Tội mà chúng ta đã lãnh nhận.

 

Khi bước xuống để Gioan làm phép rửa, Chúa Giêsu đã hòa mình vào dòng người tội lỗi, để TN 1-B116


Khi bước xuống để Gioan làm phép rửa, Chúa Giêsu đã hòa mình vào dòng người tội lỗi, để cứu những người tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu không cho mình có quyền đứng trên kẻ tội lỗi. Người đã hạ mình xuống ngang hàng với họ, liên đới với họ và trở nên người anh em với họ. Rồi cũng từ nước đi lên, Người đã rửa chúng ta trong Thánh Thần, để chúng ta trở thành con cái của Thiên Chúa qua bí tích Rửa Tội.

Giờ đây chúng ta có dịp nhìn lại bí tích Rửa Tội chúng ta đã lãnh nhận. Chúng ta không khỏi ngạc nhiên khi nhìn vào thế giới Tây Phương vốn được mệnh danh là Kitô Giáo, hiện nay đã trở thành một vùng truyền giáo mới. Thật thế, trong những nước có con số người theo Kitô Giáo, Phép Rửa thường chỉ còn là một nghi thức xã hội không hơn không kém.

Người ta chỉ có lý khi nói rằng, suốt một đời nhiều người Tây Phương chỉ đến nhà thờ có ba lần:

- Lần đầu khi chịu Phép Rửa để gia nhập vào một xã hội vốn được mệnh danh là Kitô Giáo.
- Lần thứ hai để cử hành hôn phối cho long trọng.
- Lần thứ ba cũng là để cử hành tang lễ cho long trọng.[1]                
         
Đức Hồng Y Suenens, trong cuốn sách “Thánh Thần, hơi thở sống động của Giáo Hội” cho biết: Một cuộc thăm dò những người công giáo Pháp cho thấy một sự kiện báo động:

- 95% muốn có nhà thờ, nhưng phần lớn lại chẳng hề bước chân tới.
- 88% đòi cho con họ chịu phép rửa,nhưng hơn một nửa không biết Đức Giêsu.
- 2/3 không tin Đức Giêsu đã phục sinh.

Những sự kiện này cho thấy cách sống sượng một tình trạng có thật. Vị Giám Mục Pháp cho ngài biết những dữ kiện trên, đã tiếp tục phân tích: “một ngày nào đó chúng ta sẽ quyết định rút ra những hệ quả hợp lý từ những nghiên cứu này; nếu không thì chúng ta sẽ lại tiếp tục ban bí tích cho những kẻ không có đức tin, và tiếp tục cử hành thánh lễ hôn phối hay an táng cho những người đến tham dự mà trong lòng bực bội hay chế diễu

“Sancta Sanctis” (điều thánh thiện phải dành cho những người thánh). Các sự việc của Thiên Chúa phải dành cho những ai có đức tin. Bí tích phải dành cho kẻ nào tin và thực sự lên đường.

Hôm nay kỷ niệm Chúa Giêsu chịu phép rửa, Giáo Hội muốn mời gọi các Kitô hữu hãy đào sâu và ý thức về những cam kết khi chịu phép Rửa Tội. Trái với lối sống đạo cả đời đến nhà thờ chỉ có ba lần của người Tây Phương, các tín hữu Kitô Việt Nam chúng ta lại tập trung đời sống đạo vào nhà thờ và các nhà thờ Việt Nam chúng ta hầu như lúc nào cũng đông nghẹt người.

- Tuy nhiên, biết đâu những đêm chật ních trong các nhà thờ ấy lại không là những con người có lối sống hoàn toàn xa lạ, hay ngược lại với giáo huấn của Giáo Hội và Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô.

- Biết đâu đám đông sốt sắng cầu kinh ra rả trong nhà thờ ấy lại chẳng là những con người không hề biết đến thế nào là công bình, là bác ái, là tình liên đới, là quảng đại, cảm thông và  tha thứ.                         

Nói tắt một lời, nếu chúng ta chưa sống cho ra người Kitô hữu thì sự hiện diện đông đảo trong nhà thờ, những lời cầu kinh ra rả, hay những cuộc biểu dương long trọng chưa hẳn đã là thể hiện đích thực của lòng tin.

Nơi nhiều người, đức tin đã bị sói mòn tận căn. Họ cần phải tái khám phá lại ngay nơi trọng tâm của sứ điệp Kitô Giáo. Chúng ta đã quá chú trọng việc “cử hành bí tích”, mà không chú trọng đủ vấn đề “sống và loan truyền Tin Mừng”. Sự thiếu sót này bùng nổ ở tầm mức lục địa, khắp nơi ai cũng thấy người Kitô hữu không sống phù hợp với đức tin của họ.

Trước tình trạng khẩn cấp này, những tranh cãi nội bộ của chúng ta, dù thiên hữu hay thiên tả, không mang lại một cái gì sáng sủa hơn. Chúng ta cần phải tìm lại những đặc tính của người Kitô hữu. Sứ mạng của chúng ta không phải là phê phán cá nhân ai, mà là can trường bảo toàn lý tưởng Kitô giáo.

Chúng ta phải trình bày Tin Mừng đúng với bản chất của Tin Mừng, là cho thế gian biết Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần, cùng những gì Thiên Chúa đòi hỏi nơi những kẻ tự nhận mang danh Ngài trước mặt thiên hạ.

Chúng ta phải mời gọi các Kitô hữu ngày nay càng ý thức sống động hơn về đức tin của họ, gắn bó với Thiên Chúa ngày càng khắn khít hơn. Phải giúp một số Kitô hữu chuyển từ thứ Kitô giáo ít nhiều mang tính xã hội sang thứ Kitô giáo trọn nghĩa. Thứ Kitô giáo được cha mẹ truyền lại chủ yếu do sinh sản và giáo dục cũng phải trở thành thứ Kitô giáo chính mình lựa chọn, dựa trên quyết định của bản thân và việc nhận thức rõ ràng lý do chọn lựa như thế. Tertulianô đã nói lên điều ấy: “Fiunt, non nascuntur christiani”, nghĩa là không phải mình sinh ra là Kitô hữu, mà mình trở thành Kitô hữu.[2]

Sau khi lãnh bí tích Rửa Tội, chúng ta trở thành con cái của Thiên Chúa. Ơn gọi là người Kitô hữu tạo ra viễn tượng về một cuộc sống cao cả hơn và trong sạch hơn trước mặt chúng ta. Đồng thời, ơn gọi này còn thông truyền cho chúng ta sự hy sinh và phục vụ người khác. Ơn gọi này mở rộng những khả năng yêu thương và can đảm của con người.

Đó không phải là công việc chỉ dành cho cá nhân người Kitô hữu, mà còn dành cho toàn thể cộng đoàn Kitô hữu nữa.

Khi lãnh nhận phép Rửa Tội, chúng ta được đón nhận vào một cộng đoàn những kẻ tin.

Ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa nhắc nhở chúng ta về ngày chúng ta được lãnh nhận phép Rửa Tội. Ngày mà chúng ta được trở thành con cái của Thiên Chúa. Chúng ta phải cam kết sống trọn vẹn với ơn gọi của phép Rửa Tội mà chúng ta đã lãnh nhận. Amen.

-------------------------------

 

TN 1-B117: Chúa Giêsu chịu phép rửa


(Suy niệm của Lm. Giuse Lê Danh Tường)

CON NGƯỜI ĐƯỢC NÂNG LÊN TRONG CHÍNH THÂN PHẬN CỦA MÌNH

 

Cái ước mơ được “đổi đời” trong chốc lát luôn thường trực trong thân phận con người từ khởi TN 1-B117


Cái ước mơ được “đổi đời” trong chốc lát luôn thường trực trong thân phận con người từ khởi thủy đến nay. Càng khốn cùng, cái ước mơ ấy càng mãnh liệt hơn. Người ta mong ước được giải phóng khỏi mọi kìm kẹp, khỏi mọi ràng buộc để được bung mình trong tự do.

Chúa Cả trời đất đã tạo dựng con người và cho nó có tự do. Nhưng con người đã sống tự do cách vô độ để rồi chính mình lại rơi vào sự kìm kẹp của băng hoại, của tội lỗi. Đấng Tạo Hóa đã không vì thế mà hủy bỏ con người để tạo dựng lại một con người mới. Nhưng Ngài đã nâng con người dậy, tái tạo nó và làm cho nó nên xinh đẹp từ chính thân phận dòn mỏng đã đổ vỡ của con người.

Tiên báo về ngày con người được giải phóng

Tiên tri Isaia đệ nhị sống vào thời dân Israel đang bị lưu đày tại Babylon vào thế kỷ thứ VI trước Công nguyên. Ngài đã tiên báo về ngày mà toàn dân được giải phóng bởi một “tôi tớ” của Thiên Chúa. Dù người ta chưa biết Đấng ấy là ai nhưng một điều chắc chắn là “Người không bẻ gẫy cây lau bị giập, không dập tắt tim đèn còn khói” (Is 42,3).

Thiên Chúa không xóa bỏ tất cả để tạo dựng lại từ đầu. Ngài sẽ vực họ dậy dù họ chỉ còn như là “cây lau bị giập” hay như “tim đèn chỉ còn khói”. Ngài sẽ “mở mắt cho người mù, đưa ra khỏi tù những người bị xiềng xích, đưa ra khỏi ngục những người ngồi trong tối tăm” (Is 42,7).

Cái khát vọng thoát khỏi ách lưu đày tại Babylon của dân Do Thái xưa sẽ được thỏa mãn bởi Hoàng đế Kyro của Ba Tư. Nhưng cái khát vọng sâu xa của con người mong được giải phóng khỏi cảnh lưu đày trong tội lỗi chỉ có thể được thỏa mãn bởi Đấng Mê-si-a.

Thiên Chúa xuống làm người để nâng con người lên

Những gì mà Thánh Mac-cô mô tả tại dòng sông Gio-đan cho ta thấy những lời tiên báo của Isaia trước đó không phải là là một lời hứa suông. Quả thực Thiên Chúa đã không ruồng bỏ con người, nhưng Ngài đã đi xuống đến tận cùng thân phận tội lỗi của con người để nâng con người lên, giải phóng con người và đưa nó vào quỹ đạo của Tình Yêu Trời Đất.

Đức Giêsu, Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Ngài đã đi vào giữa dòng người tội lỗi đang ngụp lặn tìm kiếm sự giải thoát. Ngài đã ngụp lặn xuống với họ, cùng họ bước vào sự tăm tối tột cùng của cảnh nô lệ tội lỗi. Ngài không bị nô lệ bởi tội lỗi, nhưng ngài đi vào trong sự tăm tối tột cùng của cảnh nô lệ tội lỗi mà con người đang chịu đựng.

Một cách hình ảnh, nơi mà Chúa Giêsu bước xuống với đoàn dân để lãnh nhận phép rửa của ông Gioan là nơi chẳng còn cách Biển Chết bao xa. Dòng sông Gio-đan chảy từ hồ Galile tới Biển Chết. Biển Chết là một hồ nước mặn sâu nhất thế giới. Nó được gọi là Biển Chết bởi chẳng có sinh vật nào sống được trong độ mặn chát của hồ nước. Hình ảnh này khiến ta liên tưởng đến sự tận cùng của con người. Họ tuốn đến và bước xuống dòng sông Giođan, và chẳng còn bao xa nữa họ sẽ đi đến Biển Chết. Thiên Chúa đã hiện diện tại khúc đường cùng ấy của con người. Chính vào thời điểm cận kề với điểm chết, vào lúc con người đi đến cuối con đường cụt thì Thiên Chúa đã can thiệp và kéo con người lên.

Quả thực, Thiên Chúa đã đến với con người trong chính thân phận của con người để nâng con người dậy. Ngài đi vào cuộc sống của từng người, vào trong chính tâm tư tình cảm và hoàn cảnh sống của mỗi người để nâng ta lên.

Con người được nâng lên trong chính thân phận của mình

Suốt hàng ngàn năm, dân Do Thái suy ngẫm về Ơn Cứu Độ. Đi từ chỗ hiểu rằng Ơn Cứu Độ chỉ dành cho Dân Riêng của Thiên Chúa là dân Do Thái, họ đã dần nhận thấy Ơn Cứu Độ còn dành cho mọi dân tộc. Nhưng dẫu sao thì họ vẫn coi Giê-ru-sa-lem là tâm điểm mà mọi dân tộc phải rời bỏ quê hương của mình để tiến về Giê-ru-sa-lem. Não trạng ấy vẫn ăn sâu trong tiềm thức của dân.

Trong sách Công vụ Tông đồ được trích trong bài đọc thứ hai của ngày lễ này viết lại lời khẳng định của Thánh Phê-rô Tông đồ: “Thiên Chúa không thiên tư tây vị, nhưng ở bất cứ xứ nào, ai kính sợ Người và thực hành sự công chính, đều được Người đón nhận” (Cv 10,34).

Lời khẳng định của Thánh Phêrô diễn ra trong bối cảnh ngài đến làm Phép Rửa cho gia đình một người dân ngoại tên là Cornelio (Cv 10,1-48). Thần Khí Chúa đã dẫn lối cho Phêrô đến gia đình này. Thánh Phêrô đã bỏ qua những tục lệ bắt buộc của người Do Thái để làm Phép Rửa cho gia đình ông Cornelio. Trước đó, chính Thánh Phêrô cũng đã không thể chấp nhận việc đem Ơn Cứu Độ ra ngoài Do Thái giáo. Nhưng với sự can thiệp của Thần Khí qua thị kiến thanh sạch hay nhơ bẩn mà Thánh Phêrô đã thay đổi lập trường (Cv 10,9-16).

Quả thực, không phải mọi dân phải rời bỏ quê hương của mình để đến với Giê-ru-sa-lem mà hưởng Ơn Cứu Độ. Nhưng là Ơn Cứu Độ đến với mọi dân ở trong chính quê hương của họ, trong chính hoàn cảnh sống của họ, trong chính thân phận thực tại của mỗi người, trong lịch sử cuộc đời của bạn, cuộc đời của tôi.

Thiên Chúa đã làm tất cả vì con người. Đấng Tạo Hóa đã muốn ở trong mỗi chúng ta để tái tạo mỗi chúng ta nên một con người xinh đẹp mỹ miều. Ngài muốn mỗi người là một công trình riêng biệt, mỗi người mang một vẻ đẹp rất riêng và mỗi người cũng có mối tình rất riêng tư với Ngài.

Tôi và bạn, mỗi người một vẻ, mỗi người một lịch sử, mỗi người một hoàn cảnh sống đã qua và đang sống. Tôi, một người Việt Nam, không thể vất bỏ lại sau lưng tất cả những gì tôi đã sống, bởi làm thế tôi không còn là tôi, và thực tế tôi cũng chẳng thể làm được. Thiên Chúa cũng không bắt tôi phải làm thế. Nhưng Ngài đến với tôi trong chính những khiếm khuyết và nhơ uế của tôi. Từ chính trong tôi, Ngài tái tạo và nâng tôi lên, cho tôi tiến bước trên con đường thong dong trong Ơn Nghĩa Chúa.

Lạy Chúa, con tin thật Chúa yêu con nhiều. Xin Chúa ở lại trong con dù đôi khi con lãng quên Ngài. Xin Chúa tái tạo con để con được trở nên tạo vật mĩ miều trong Vũ trụ xinh tươi.

-------------------------------

 

TN 1-B118: Chúa Giêsu chịu phép rửa


(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)

 

Hằng năm, vào Chúa Nhật I Thường Niên, chúng ta tưởng niệm biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa TN 1-B118


Hằng năm, vào Chúa Nhật I Thường Niên, chúng ta tưởng niệm biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa. Phép rửa nầy được liên kết với cuộc tấn phong diễn ra trong một cuộc Thần Hiển. Đó là lý do tại sao các Giáo Hội Đông Phương cử hành việc Chúa Giêsu chịu phép rửa như một trong ba cuộc Thần Hiển: lễ Hiển Linh, lễ Đức Giêsu chịu phép rửa và lễ Chúa Giêsu Biến Hình.

Is 42: 1-4, 6-7

Bản văn I-sai-a tường thuật cuộc tấn phong của “người Chúa tuyển chọn” mà “Ngài hết lòng quí mến” và cho Thần Khí của Ngài ngự trên người ấy. Đây là một nhân vật bí ẩn mà vị ngôn sứ gọi là “Người Tôi Trung của Đức Chúa”.

Cv 10: 34-38

Bài Đọc II, được trích từ sách Công Vụ Tông Đồ, thuật lại bài giảng thuyết của thánh Phêrô ngỏ lời với ông Conêliô, viên quan bách quản Rôma, và toàn thể gia quyến của ông. Họ là những lương dân đầu tiên được đón nhận vào cộng đoàn Kitô hữu qua Phép Thánh Tẩy. Nhờ mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su Ki-tô, mọi người, bất kỳ ai, thuộc dân tộc nào, đều được mời gọi gia nhập vào dân Thiên Chúa.

Mc 1: 7-11

Thánh Mác-cô tường thuật biến cố Chúa Giê-su chịu phép rửa, để giới thiệu Ngài là “Người Tôi Trung” mà sấm ngôn I-sai-a đã loan báo.

 BÀI ĐỌC I (Is 42: 1-4, 6-7)

Bản văn này gợi lên một nhân vật mà Thiên Chúa gọi là “Người Tôi Trung của Ngài”, Ngài hết lòng quí mến và đổ tràn đầy Thần Trí của Ngài trên người ấy. Nơi nhân vật này, Thiên Chúa trao gởi một sứ mạng là thực thi công lý, bày tỏ tấm lòng nhân ái và đức khiêm nhu, để là ánh sáng chiếu soi muôn dân.

Đây là bài thơ đầu tiên trong bốn bài thơ về “Người Tôi Trung của Đức Chúa” trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a thời lưu đày (550-540 tCn), được gọi I-sai-a đệ nhị (Is 40-55). Bài thơ nầy được trích từ hai phân đoạn: trong phân đoạn thứ nhất (42: 1-4), Thiên Chúa giới thiệu Người Tôi Trung của Ngài; trong phân đoạn thứ hai (42: 6-7), Thiên Chúa ngỏ lời trực tiếp với nhân vật này.

Nhân vật này là ai? Thật ra, nhân vật bí ẩn nầy trong suốt nhiều thời đại đã được giải thích theo nhiều cách khác nhau: một nhân vật lịch sử là Ky-rô, vua Ba tư; hoặc Ít-ra-en, dân Chúa chọn; hay Đấng Mê-si-a. Đây là nét đặc trưng của các sấm ngôn vừa phát xuất từ những hoàn cảnh lịch sử chính xác vừa vượt qua những viễn cảnh đương thời.

1.Vua Ba Tư là Ky-rô

 “Người Tôi Trung” này được Thiên Chúa ban nhiều đặc ân, nhờ đó ông có thể phân xử muôn dân, sửa sai những lỗi lầm, vực dậy những kẻ bị áp bức, phóng thích những tù nhân, phục hưng Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài, và làm sáng tỏ công lý trước mặt muôn dân.

Hoàn cảnh lịch sử chính xác là cảnh lưu đày ở Ba-by-lon. Vị ngôn sứ ngỏ lời với những người lưu đày này, họ phải chịu một cuộc thử thách dài lâu và mòn mỏi đợi chờ cuộc giải phóng. Ông hứa với họ một nhà giải phóng. Toàn bộ văn mạch hướng về vị vua Ba tư là Kyrô, mà quyền lực của ông mỗi ngày mỗi lớn mạnh trên thế cuộc vùng Trung Đông.

Chương 41 trước đó ám chỉ rõ nét những chiến công lẫy lừng của vua Kyrô:
“Từ Phương Đông, ai đã cho xuất hiện người hùng
đi mở đường cho nền công chính?
….
Đao kiếm của ông làm chúng hóa ra như tro bụi,
cung nỏ của ông khiến chúng tán loạn tựa cọng rơm.
Ông đuổi bắt thù địch, ông tiến bước an toàn

Điều đó, ai đã thực hiện, ai đã làm nên?

….

Chính là Ta. Ta là Đức Chúa, Ta là khởi nguyên,
và giữa những người của thời sau hết, Ta vẫn là Ta” (Is 41: 2-4).
Chương 45 còn rõ ràng hơn:
“Đức Chúa nói với kẻ Người xức dầu, với vua Ky-rô
-Ta đã cầm lấy tay phải nó,
để bắt các dân tộc suy phục nó,
Ta tước khí giới của các vua,
mở toang các cửa thành trước mặt nó,
khiến các cổng không còn đóng kín nữa.

….

Vì lợi ích của tôi tớ Ta là Gia-cóp,
và của người Ta đã chọn là Ít-ra-en,

….

Dù ngươi không biết Ta, Ta đã trang bị cho ngươi đầy đủ,
để từ Đông sang Tây, thiên hạ biết rằng
chẳng có thần nào khác, ngoại trừ Ta.
Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác” (Is 45: 1-6).

Các biến cố sắp đến sẽ khẳng định dự đoán thời cuộc của vị ngôn sứ. Không bao lâu sau, vua Ba tư chiếm kinh thành Ba-by-lon mà không phải gặp bất cứ một kháng cự nào, và cũng không gây bất kỳ thiệt hại nào cho kinh thành. Ông thi hành chính sách “thu phục nhân tâm”. Vua Ky-rô không bao giờ sử dụng bạo lực. Xót thương đối với những người Ít-ra-en bị lưu đày như “cây sậy bị dập nát” và “tim đèn còn leo lét”, vua Ba tư tạo điều kiện thuận tiện cho họ trở về cố hương là Giê-ru-sa-lem.

2. Dân Chúa chọn

Sau này, khi quá khứ mờ nhạt trong tâm trí, bản văn được đọc lại theo cách khác. Vị ngôn sứ chủ ý tặng ban danh hiệu “Người Tôi Trung” cho toàn thể dân Ít-ra-en với tư cách là dân Chúa chọn để là chứng nhân của Ngài cho muôn dân nước. Dung mạo Người Tôi Trung được xem như cá nhân hóa dân Chúa chọn mà Ngài nâng đỡ, sủng ái và ban Thần Trí của Ngài. Ngài đã “nắm tay” dân nhỏ bé này. Ở giữa các dân tộc, họ phải chu toàn sứ mạng của mình là trở nên ánh sáng muôn dân qua việc sống trọn niềm tin của mình vào một Thiên Chúa duy nhất và chân thật.
3. Đấng Mêsia

Việc “Người Tôi Trung” này được nhận dạng ở nơi vua Ky-rô không tát cạn sự phong phú của bản văn, hay được cá nhân hóa ở nơi dân Chúa chọn cũng không hoàn toàn làm thỏa mãn. Quan trọng là đặt sứ điệp này được công bố vào trong những giờ phút nghiêm trọng.

Vào giữa thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên, kinh thành Giê-ru-sa-lem bị đánh chiếm và trở thành hoang phế; Đền Thờ bị thiêu hủy; một phần lớn dân cư bị lưu đày; vương quyền của nhà Đa-vít đã bị vùi dập trong phong ba bảo táp; niềm hy vọng vào Đấng Mê-si-a (Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong) được đặt vào vương quyền nhà Đa-vít đã bị sụp đổ.

Đây là thời điểm thuận tiện để nâng mặc khải lên đến một giai đoạn mới. Thiên Chúa sẽ can thiệp một cách bất ngờ: Ngài sẽ sai phái “Người Tôi Trung” đầy tràn Thần Khí của Ngài. Nhân vật nầy sẽ thực hiện sứ mạng thực thi công lý với tấm lòng khiêm nhu nhân hậu, dù bên ngoài có vẻ thất bại, chịu nhiều đau khổ (bài thơ thứ tư về Người Tôi Trung). Qua trực giác của vị ngôn sứ, khoa sư phạm của Thiên Chúa bước một bước tiến nhảy vọt. Những sấm ngôn xưa liên quan đến một hậu duệ của nhà Đa-vít không hoàn toàn bị bãi bỏ, nhưng những viễn cảnh mới mà sấm ngôn nầy hé mở, không dính dáng gì đến một quyền lực trần thế nhưng một vương quốc tinh thần.

Trong sách Tin Mừng của mình, thánh Mát-thêu trích dẫn sấm ngôn I-sai-a này (x. Mt 12: 18-21) để chứng minh rằng lời sấm được ứng nghiệm ở nơi con người của Đức Giê-su, sứ mạng của Ngài tuy được thực hiện một cách kín đáo nhưng “sẽ đưa công lý đến toàn thắng, và muôn dân đặt niềm hy vọng nơi danh Ngài”.

Khi chịu phép rửa bởi ông Gioan, Đức Giêsu thấy các tầng trời mở ra, Thần Khí ngự xuống trên mình và có tiếng từ trời phán: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Bức tranh này mặc nhiên quy chiếu đến bản văn của I-sai-a. Đức Giê-su bắt đầu sứ mạng của “Người Tôi Trung”. Ngài sẽ chu toàn sứ mạng nầy khi thể hiện dung mạo “Người Tôi Trung chịu đau khổ” trong cuộc Khổ Nạn của mình.

BÀI ĐỌC II (Cv 10: 34-38)

Đoạn trích sách Công Vụ Tông Đồ nầy tường thuật một biến cố đánh dấu một khúc quanh quyết định trong lịch sử của Giáo Hội tiên khởi: đây là lần đầu tiên, một lương dân và toàn thể gia quyến của ông được chấp nhận gia nhập trực tiếp vào cộng đoàn Ki-tô hữu nhờ phép Thánh Tẩy mà không phải ngang qua phép cắt bì của Do thái giáo.

1. Hoàn cảnh Giáo Hội vào lúc đó

Cho đến lúc đó, các Tông Đồ ngỏ lời với dân Do thái nhằm chứng minh cho họ biết rằng Đức Giê-su là Đấng Cứu Độ, ở nơi Ngài mọi lời Kinh Thánh được ứng nghiệm. Ki-tô giáo tiên khởi được định vị ở nơi sự nối dài của Do thái giáo. Chiều kích phổ quát đã được các thị kiến ngôn sứ mặc khải: rồi sẽ đến một ngày, muôn dân sẽ lên Đền Thờ Giê-ru-sa-lem mừng kính Đức Chúa đích thật. Vì thế, các Tông Đồ đã không hề nghĩ đến một tiến trình đảo ngược: chính họ phải đi đến với muôn dân loan báo Tin Mừng cho họ.

Ấy vậy, vị lãnh tụ Giáo Hội, thánh Phê-rô, phải nói là bị Chúa Thánh Thần thúc ép đến nhà một người ngoại giáo. Một viên quan Rô-ma, đồn trú ở Xê-da-rê, sai người đến mời thánh nhân đến nhà mình. Lúc đó, thánh Phê-rô đang ở Gia-phô, cách thành Xê-da-rê khoảng năm mươi cây số. Trong thời gian này, thánh nhân đang thực hiện cuộc kinh lý. Sau cuộc bách hại dữ dội đã giáng xuống cộng đoàn Giê-ru-sa-lem non trẻ vào mùa hè năm 36 hay mùa xuân năm 37 (thánh Tê-pha-nô, vị tử đạo đầu tiên vào thời gian nầy), một thời gian yên bình xảy đến. Thánh Phê-rô lợi dụng thời kỳ yên bình nầy để thăm viếng các cộng đoàn Ki-tô hữu non trẻ này.

2. Một khúc quanh mang tính quyết định của Giáo Hội

Thánh Phê-rô đến nhà viên quan Rô-ma. Đây là lần đầu tiên thánh nhân bước qua ngưỡng của của một người chưa cắt bì, bất chấp những cấm kỵ lâu đời. Lệnh cấm không được tiếp xúc với những người chưa cắt bì không được ghi trong Lề Luật, nhưng từ tập quán và lời giải thích của các kinh sư, nhằm tránh tất cả mọi hình thức lây nhiễm ngoại giáo.

Đây là lần đầu tiên thánh nhân đem sứ điệp Tin Mừng đến một người ngoại giáo và toàn thể gia quyến của ông. Đối với thánh nhân, đây thật sự là một kinh nghiệm cảm động và đáng nhớ. Thánh nhân đã hiểu được ý định của Thiên Chúa là muốn cứu độ hết mọi người. Ngay tức khắc, thánh nhân mặc lấy cho hành động của mình một ý nghĩa thần học. Đây là phần mở đầu bài thuyết giáo của thánh nhân mà Phụng Vụ Lời Chúa đề nghị cho chúng ta suy niệm vào ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay.

3. Chiều kích phổ quát của ơn cứu độ

“Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hể ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì bất cứ họ thuộc dân tộc nào, cũng đều được Chúa tiếp nhận”. Lời khẳng định về sự bình đẳng giữa dân ngoại và dân Do thái này hình thành nên một thay đổi lớn lao. Quả thật, trước đây, thánh Phêrô, vốn là một người Do thái, chỉ nghĩ đến những đặc quyền đặc lợi dành riêng cho dân Chúa chọn; nay, vị lãnh tụ của Giáo Hội, được Thánh Thần thúc đẩy, chấp nhận và công bố sự thay đổi khôn sánh này.

Ông Co-nê-li-ô là một “cảm tình viên” của Do thái giáo, cũng được gọi “người kính sợ Chúa”. Đây là một người “ăn ngay ở lành” như bản văn xác nhận. Chắc chắn Thiên Chúa đã gửi “lời loan báo Tin Mừng trước tiên cho dân Ít-ra-en”. Thánh nhân muốn giải thích cho gia chủ và đồng thời muốn thanh minh quyền ưu tiên này: dân Ít-ra-en đã lãnh nhận một sứ mạng là chuẩn bị bình an giữa dân Do thái và muôn dân. Bình an nầy được hiện thực nhờ trung gian của Đức Giê-su Ki-tô, “Ngài là Chúa Tể muôn dân”.

4. Quyền năng của Phép Rửa Kitô giáo

Tiếp đó, thánh Phê-rô tóm tắt các giai đoạn cuộc đời của Chúa Giêsu, bắt đầu từ việc Ngài được Thánh Thần xức dầu tấn phong khi lãnh nhận phép rửa trên dòng sông Giođan. Thánh Tông Đồ mở ra một viễn cảnh, đó sẽ mãi mãi là viễn cảnh của Giáo Hội: ân ban Thánh Thần không đơn giản là một sự thủ đắc, nhưng thật sự là một sức mạnh bùng nổ, một năng lực giúp hoàn thành sứ mạng: “làm chứng”, “thi ân giáng phúc” và “chữa lành mọi kẻ bị ma quỉ kiềm chế”.

TIN MỪNG (Mc 1: 7-11)

Đoạn Tin Mừng hôm nay gồm hai hoạt cảnh được đan quyện vào nhau: phép rửa trong nước ở nơi dòng sông Gio-đan (1: 7-8) và phép rửa trong Thánh Thần ở nơi cuộc Thần Hiển (1: 9-11). Hai hoạt cảnh nầy tương phản với nhau. Hoạt cảnh thứ nhất là một cảnh tượng về sự khiêm hạ đến tột cùng: Đức Giê-su tự hạ mình xuống đến mức ngang hàng với tội nhân. Hoạt cảnh thứ hai là một cảnh tượng hùng vĩ của cuộc tấn phong.

1. Phép rửa trong nước

Đức Giê-su đến từ làng Na-da-rét miền Ga-li-lê để xin Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho mình. Như vậy, khi muốn lãnh nhận phép rửa sám hối của ông Gioan, Đức Giê-su đã tự đặt mình vào hàng các tội nhân. Cách hành xử này là yếu tố khởi đầu sứ mạng Cứu Độ. Kể từ lúc đó, Đức Giê-su muốn đón nhận ở nơi bản thân mình mọi tội lỗi của con người. Đây là bước đầu tiên sẽ dẫn Ngài đến núi Sọ để chịu một phép rửa khác: phép rửa bằng máu.

Chính Đức Giêsu đã sánh ví cuộc Tử Nạn của Ngài với một phép rửa: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc nầy hoàn tất” (Lc 12: 50). Đức Giê-su công bố với ông Gia-cô-bê và ông Gioan: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10: 38). Động từ “rửa” theo nguyên ngữ là “ngụp lặn”, “nhận chìm”. Đức Giê-su muốn nói rằng Ngài sẽ nhận chìm mình vào trong vực thẳm đau khổ.

Từ phép rửa trong nước đến phép rửa bằng máu, đó là tiến trình cuộc đời của Đức Giê-su Ki-tô. Ở nơi hoạt cảnh phép rửa trong dòng sông Gio-đan ẩn chứa một hậu cảnh bi thảm của thập giá.

2. Phép rửa trong Thánh Thần

Cả bốn sách Tin Mừng đều tường thuật hoạt cảnh này, điều đó nói lên tầm quan trọng mà các ngài đã dành cho giờ phút quyết định nầy về ơn gọi của Đức Giê-su. Cảnh tượng được mô tả thật hùng vĩ: “Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời mở tung ra và thấy Thần Khí tựa như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.

Theo truyền thống Do thái, các tầng trời đóng lại với vị ngôn sứ cuối cùng là Ma-la-khi, nghĩa là chấm dứt mọi giao tiếp giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Trong thời gian này, dân Do thái cất lên lời khẩn nguyện thiết tha: “Lạy Chúa, xin hãy xé trời mà đến”. Như vậy, biến cố “Đức Giê-su chịu phép rửa” đánh dấu một khúc quanh mới: “các tầng trời mở tung ra”, nghĩa là mối tương giao giữa Thiên Chúa và con người được nối lại.

Quả thật, Đức Giê-su được thụ thai và sinh hạ bởi quyền năng Chúa Thánh Thần, nhưng trong cuộc sống ẩn dật, Chúa Thánh Thần đã không công khai tỏ mình ra. Vào ngày Ngài chịu phép rửa của ông Gioan, đánh dấu khởi điểm sứ mạng mình, Đức Giê-su cần sức mạnh của Chúa Thánh Thần: “Thần Khí tựa như chim bồ câu ngự xuống trên Ngài”.

Một số người thấy ở nơi hình ảnh “chim bồ câu” là con chim hòa bình mà ông Nô-ê thả trên nước lũ của trận Đại Hồng Thủy (St 8: 8-11). Những người khác nghĩ rằng hình ảnh nầy nhắc nhớ “Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” trong công trình sáng tạo (St 1: 2). Dù hình ảnh nào thì việc Thần Khí ngự xuống trên Đức Giêsu khai mào một kỷ nguyên mới của Ơn Cứu Độ.

Quả thật, trong Cựu Ước, chúng ta gặp thấy nhiều hình ảnh tiên trưng của phép Thánh Tẩy: từ nước của trận Đại Hồng Thủy, xuất hiện một nhân loại mới khởi đi từ ông Nô-ê; từ nước của Biển Đỏ, một nhân loại mới được khai sinh. Cũng vậy, vừa ra khỏi dòng nước sông Gio-đan, Đức Giê-su khai mạc một nhân loại mà Ngài sẽ tái sinh.

3. Ba cuộc tấn phong đồng lúc

Như vậy, trong biến cố nầy, Đức Giêsu lãnh nhận ba cuộc tấn phong đồng một lúc:

– “Cuộc tấn phong với tư cách Con Thiên Chúa”: Tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con yêu dấu của Cha”. Trước hết, “tiếng từ trời” có nghĩa chính Thiên Chúa, đây là cách thức người Do thái bày tỏ niềm tôn kính đối với Thiên Chúa mà họ không dám nêu tên Ngài. Tiếp đó, “Con yêu dấu” gợi lại I-sa-ác, đứa con duy nhất, đứa con yêu quý của ông Áp-ra-ham mà Thiên Chúa truyền lệnh cho ông ra đi hiến tế trên núi mà Ngài sẽ chỉ cho (St 22: 2).

Chúng ta cũng vậy, vào lúc chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta cũng được Chúa Cha gọi “Con yêu quý” ở nơi người Con Một, Con yêu quý của Ngài là Đức Giê-su Ki-tô.

– “Cuộc tấn phong với tư cách Vua-Mê-si-a”: Chẳng ngẫu nhiên một chút nào khi tiếng phán từ trời cất lên bằng những từ ngữ mà xưa kia một vị vua được phong vương:

“Tân vương lên tiếng: Tôi xin đọc sắc phong của Chúa,

Người phán với tôi rằng: “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Tv 2: 7).

Vị Vua-Mê-si-a mà các ngôn sứ loan báo, hậu duệ của nhà Đa-vít nầy, chính là Đức Giê-su. Nhưng Ngài sẽ công bố mình là vua chỉ khi bị xiềng xích và bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng Do thái (Mc 14: 61-62) và trước tổng trấn Phi-la-tô (Mc 15: 2).

– “Cuộc tấn phong với tư cách người tôi trung”: Những lời “Cha hài lòng về Con” nhắc nhớ sự tuyển chọn của Người Tôi Trung trong bản văn của I-sai-a (Bài Đọc I).

4. Phép rửa trong cuộc Thần Hiển của Ba Ngôi Thiên Chúa:

Phụng Vụ Đông Phương cử hành lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa như ngày lễ Thiên Chúa Ba Ngôi. Quả thật, đây là lần đầu tiên trong Kinh Thánh, Ba Ngôi Thiên Chúa đồng hiện diện trong biến cố nầy. Việc Đức Giê-su chịu phép rửa trong dòng sông Gio-đan được đánh dấu bởi cuộc Thần Hiển của Ba Ngôi Thiên Chúa. Cuộc Thần Hiển này loan báo phép Rửa Ki-tô giáo phù hợp với lời dạy của Đức Giê-su Phục Sinh cho các môn đệ Ngài vào lúc Ngài từ giả các ông mà lên trời: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành muôn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28: 18-20).

Việc nhận chìm vào trong nước và bước ra khỏi nước là biểu tượng của sự chết và sự tái sinh. Hy tế của Đức Giê-su đã đem lại cho biểu tượng nầy tất cả mọi giá trị của nó. Thánh Phao-lô giải thích rõ ràng điều này: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6: 4). Thật ý nghĩa biết bao khi nghi thức Thánh Tẩy được cử hành vào lễ Đêm Vọng Phục Sinh.

-------------------------------

 

TN 1-B119: Chúa chịu phép rửa


(Đức Thánh Cha Phanxicô Giảng Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa và rửa tội cho 33 em bé ở Nguyện Đường Sistine. Chúa Nhật 11/1/2015 - Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch)

"Những gì sữa làm cho thân xác thế nào thì Lời Chúa làm cho tinh thần như vậy, ở chỗ, Lời Chúa làm cho chúng ta lớn lên trong đức tin. Và nhờ đức tin chúng ta được tái sinh bởi Chúa. Và đó là những gì xẩy ra nơi Phép Rửa".

 

Chúng ta đã nghe thấy trong Bài Đọc Thứ Nhất là Chúa chăm sóc cho con cái của Ngài như cha TN 1-B119


Chúng ta đã nghe thấy trong Bài Đọc Thứ Nhất là Chúa chăm sóc cho con cái của Ngài như cha mẹ: Ngài chăm chút cung cấp cho con cái của mình lương thực chân chính. Qua vị tiên tri Thiên Chúa đã nói rằng: "Tại sao các ngươi lại chi tiền của mình cho những gì không phải là bánh ăn, tiêu xài lương bổng của các ngươi cho những gì không làm thỏa mãn chứ?" (Isaia 55:2). Thiên Chúa, như một người cha thiện hảo và như một người mẹ tốt lành, muốn cống hiến cho con cái của mình những điều tốt lành thiện hảo. Thứ lương thực chân chính Thiên Chúa ban cho chúng ta đây là gì? Đó là chính Lời của Ngài: Lời của Ngài làm cho chúng ta lớn lên, làm cho chúng ta sinh hoa kết trái tốt đẹp trong đời sống, như mưa và tuyết làm cho đất trở nên phì nhiêu cùng sinh hoa trái vậy (xem Isaia 55:10-11).

Cũng thế, anh chị em là cha mẹ, và là cha mẹ đỡ đầu, là ông bà, là cô dì chú bác, cũng giúp cho những con trẻ này lớn lên một cách tốt đẹp nếu anh chị em cống hiến cho chúng Lời Chúa, cống hiến cho chúng Phúc Âm của Chúa Giêsu. Kèm theo Lời Chúa anh chị em đồng thời cũng cống hiến cả gương sống của anh chị em nữa! Hằng ngày anh chị em hãy có thói quen đọc một đoạn Phúc Âm, một đoạn ngắn thôi, và luôn mang theo một cuốn Phúc Âm nhỏ trong túi, trong xách tay của anh chị em để đọc. Đó sẽ là một tấm gương cho những con trẻ đây, khi chúng thấy người cha, người mẹ, bố mẹ đỡ đầu, ông bà, cô dì chú bác, đọc Lời Chúa.

Hỡi các người mẹ, hãy cho con của mình bú sữa - ngay cả lúc này đây, nếu chúng khóc vì đói, hãy cho chúng bú sữa, đừng lo. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa về tặng ân sữa này, và chúng ta cầu cho những người mẹ ấy - tiếc thay lại có rất nhiều - lại không thể cho con cái của mình của ăn. Chúng ta hãy cầu nguyện và cố gắng giúp cho những người mẹ này. Vậy những gì sữa làm cho thân xác thế nào thì Lời Chúa làm cho tinh thần như vậy, ở chỗ, Lời Chúa làm cho chúng ta lớn lên trong đức tin. Và nhờ đức tin chúng ta được tái sinh bởi Chúa. Và đó là những gì xẩy ra nơi Phép Rửa. Chúng ta đã nghe tông đồ Gioan viết: "Ai tin rằng Chúa Giêsu là Đức Kitô thì đều được Thiên Chúa hạ sinh" (1Gioan 5:1).

Bằng đức tin ấy, con cái của anh chị em đến để lãnh nhận phép rửa. Anh chị em phụ huynh, anh chị em đỡ đầu thân mến, đó là đức tin của anh chị em hôm nay đây. Đó là đức tin của Giáo Hội, nhờ đó mà những em bé này sẽ được lãnh nhận Phép Rửa. Thế nhưng ngày mai, nhờ ơn Chúa, đức tin này sẽ trở thành đức tin của chúng, trở thành tiếng "xin vâng" của bản thân chúng với Chúa Giêsu Kitô, Đấng cống hiến cho chúng ta tình yêu của Cha.

Tôi đang nói rằng chính đức tin của Giáo Hội. Điều này rất quan trọng. Phép Rửa tháp nhập chúng ta vào thân mình của Giáo Hội, vào dân thánh của Thiên Chúa. Và trong thân mình này, trong thành phần dân đang tiến bước này, đức tin được truyền đạt từ đời nọ đến đời kia: đó là đức tin của Giáo Hội. Và đức tin của Mẹ Maria, Mẹ của chúng ta, đức tin của Thánh Giuse, của Thánh Phêrô, của Thánh Anrê, của Thánh Gioan, đức tin của các vị Tông Đồ và các vị Tử Đạo, đã được truyền đạt cho chúng ta qua Phép Rửa: một chuỗi giây truyền đạt đức tin. Điều này thật là đẹp! Nó là một việc truyền đạt từ bàn tay này sang bàn tay kia cây nến sáng đức tin: chúng ta sẽ bày tỏ điều này trong ít phút nữa bằng cử chỉ thắp sáng cây nến phục sinh trọng đại. Cây nến phục sinh trọng đại này tiêu biểu cho Chúa Kitô Phục Sinh đang sống giữa chúng ta. Các gia đình lấy ánh sáng đức tin từ Người để truyền đạt cho con cái của mình. Anh chị em có thể lấy ánh sáng này trong Giáo Hội, trong thân mình của Chúa Kitô, trong dân Chúa là thành phần đang bước đi ở mọi thời đại và ở hết mọi nơi. Hãy dạy cho con cái của anh chị em rằng không có Kitô giáo ngoài Giáo Hội, anh chị em không thể nào theo Chúa Giêsu Kitô mà không có Giáo Hội, vì Giáo Hội là một người mẹ làm cho chúng ta lớn lên trong lòng yêu mến Chúa Giêsu Kitô.

Các Bài Đọc hôm nay còn mạnh mẽ cống hiến một khía cạnh cuối cùng nữa, đó là, nơi Phép Rửa chúng ta được Thánh Linh thánh hiến. Chữ "Kitô hữu" mang ý nghĩa ấy, có nghĩa là được thánh hiến như Chúa Giêsu, trong cùng một Thần Linh là Đấng Chúa Giêsu đã trầm ngập cả đời sống trần gian của Người trong Ngài. Người là "Đức Kitô", Đấng Được Xức dầu, Đấng Được Thánh Hiến, chúng ta lãnh nhận phép rửa là "Kitô Hữu", nên đã được thánh hiến, đã được xức dầu. Vậy giờ đây, anh chị em phụ huynh thân mến, anh chị em đỡ đầu thân mến, nếu anh chị em muốn cho con cái của anh chị em trở thành những Kitô hữu đích thực, thì hãy giúp cho chúng càng "được chìm ngập" trong Thánh Linh, tức là trong tình yêu nồng ấm của Thiên Chúa, trong ánh sáng của Lời Ngài. Vì thế, đừng quên thường xuyên cầu khẩn Thánh Linh, cầu nguyện hằng ngày. "Này cô, cô có cầu nguyện không?" - "Có" - "Tôi cầu nguyện với Thiên Chúa" - Thế nhưng nơi cách thức ấy "Thiên Chúa" lại không hiện hữu: "Thiên Chúa là một ngôi vị và Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Linh hiện hữu như là một ngôi vị". Chúng ta thường cầu nguyện cùng Chúa Giêsu. Khi chúng ta cầu "Kinh Lạy Cha" là chúng ta cầu cùng Chúa Cha. Thế nhưng chúng ta rất thường không cầu cùng Thánh Linh. Việc cầu nguyện cùng Thánh Linh rất quan trọng, để Ngài dạy chúng ta làm cho gia đình tiến triển, dạy cho những đức con đây, nhờ đó những con trẻ này có thể lớn lên trong bầu khí Ba Ngôi. Chính Thần Linh sẽ dẫn chúng tiến bước. Do đó đừng quên cầu khẩn cùng Thánh Linh, cầu nguyện hằng ngày. Chẳng hạn anh chị em có thể làm điều này bằng lời nguyện đơn sơ như sau: "Xin Thánh Linh hãy đến tràn đầy lòng tín hữu Chúa và hãy thắp lên ngọn lửa tình yêu của Chúa trong lòng họ". Anh chị em có thể đọc kinh nguyện này với con cái của anh chị em, và dĩ nhiên cho chính bản thân của anh chị em!

Khi đọc kinh nguyện này, anh chị em cảm thấy sự hiện diện từ mẫu của Trinh Nữ Maria. Mẹ dạy chúng ta cầu nguyện cùng Thánh Linh, và sống theo Thần Linh như Chúa Giêsu. Lạy Đức Mẹ là Mẹ của chúng con, xin luôn đồng hành với con cái của Mẹ và các gia đình của Mẹ.

-------------------------------

 

TN 1-B120: Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa.


(Đức Thánh Cha Phanxicô - Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa. - Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch)

"Ôi xin Ngài hãy xé các tầng trời ra mà xuống!" (63:19). Tiếng kêu này đã được đáp ứng nơi biến cố Chúa Giêsu lãnh nhận Phép Rửa. Như thế là thời gian 'các tầng trời khép kín' đã qua"

Anh chị em thân mến, Chào anh chị em buổi sáng!

 

Hôm nay chúng ta cử hành lễ Chúa Chịu Phép Rửa, một lễ kết thúc mùa Giáng Sinh. Phúc Âm TN 1-B120


Hôm nay chúng ta cử hành lễ Chúa Chịu Phép Rửa, một lễ kết thúc mùa Giáng Sinh. Phúc Âm đã diễn tả những gì xẩy ra ở bờ sông Dược Đăng (Jordan). Trong giây phút Thánh Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho Chúa Giêsu thì các tầng trời đã được mở toang ra. Thánh Marcô viết: "Khi lên khỏi nước, Người đã thấy các tầng trời mở ra" (1:10). Sự kiện này gợi nhớ đến lời cầu khẩn thảm thiết của tiên tri Isaia: "Ôi xin Ngài hãy xé các tầng trời ra mà xuống!" (63:19). Tiếng kêu này đã được đáp ứng nơi biến cố Chúa Giêsu lãnh nhận Phép Rửa. Như thế là thời gian "các tầng trời khép kín" đã qua, thời gian tách biệt Thiên Chúa với loài người do hậu quả của tội lỗi. Tội lỗi là những gì tách chúng ta khỏi Thiên Chúa và làm gián đoạn mối liên hệ giữa đất và trời, khiến chúng ta bị khốn khổ và bại hoại trong đời sống. Các tầng trời đã mở ra cho thấy rằng Thiên Chúa đã ban cho chúng ta ân sủng của Ngài để trái đất được sinh hoa kết trái (xem Sal 85,13). Vậy trái đất đã trở nên nơi cư ngụ của Thiên Chúa giữa loài người, và mỗi người chúng ta có cơ hội gặp gỡ Con Thiên Chúa, cảm nghiệm được tất cả tình yêu và tình thương vô cùng. Chúng ta có thể tìm thấy điều này thực sự hiện diện ở nơi các Bí Tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể. Chúng ta có thể nhận thấy điều ấy nơi dung nhan của anh chị em chúng ta, nhất là nơi người nghèo, nơi bệnh nhân, nơi người bị tù ngục, nơi các người tị nạn: họ là xác thịt sống động của Chúa Kitô khổ nạn và là ảnh tượng hữu hình của vị Thiên Chúa vô hình.

Nhờ Chúa Giêsu lãnh nhận Phép Rửa mà chẳng những các tầng trời được mở toang ra Thiên Chúa còn làm cho tiếng của Ngài được vang vọng một lần nữa: "Con là Con yêu dấu của Cha: Cha hài lòng về Con" (Marcô 1:11). Tiếng nói này của Chúa Cha công bố mầu nhiệm được kín ẩn nơi Con Người lãnh nhận Phép Rửa bởi vị Tiền Hô.

Bấy giờ, Thánh Linh, qua hình thể một con chim bồ câu đã giúp cho Đức Kitô, Đấng Được Xức Dầu của Chúa, bắt đầu sứ vụ của Người đó là việc cứu độ chúng ta. Vị Thánh Linh này: Đấng Trọng Đại này đã bị chúng ta lãng quên nguyện cầu. Chúng ta thường cầu nguyện cùng Chúa Giêsu; chúng ta cầu nguyện cùng Chúa Cha, nhất là bằng "Kinh Lạy Cha"; thế nhưng không thường cầu nguyện cùng Thánh Linh, đúng không? Ngài là Đấng bị lãng quên. Và chúng ta cần xin ơn trợ giúp của Ngài, sức mạnh của Ngài, thần hứng của Ngài. Thánh Linh là Đấng hoàn toàn làm sinh động cuộc đời và thừa tác vụ của Chúa Giêsu, thì cũng Vị Thần Linh này ngày nay đang dẫn dắt đời sống của Kitô hữu, đời sống của con người nam nữ ngỏ ý muốn trở thành Kitô hữu. Việc đặt đời sống Kitô hữu của chúng ta và sứ vụ của chúng ta dưới tác động của Thánh Linh, Đấng tất cả chúng ta đã lãnh nhận nhờ Phép Rửa của chúng ta, là việc nhắm đến chỗ có được lòng can đảm tông đồ để thắng vượt những gì là dễ dãi thoải mái trần tục. Trái lại, người Kitô hữu nào hay cộng đồng nào "bị điếc" trước tiếng của Thánh Linh, Đấng thôi thúc chúng ta mang Phúc Âm đến tận cùng trái đất và xã hội, sẽ trở thành một Kitô hữu hay một cộng đồng "bị câm" không nói năng hay truyền bá phúc âm hóa. Thế nhưng xin hãy nhớ điều này, đó là hãy thường xuyên cầu nguyện cùng Thánh Linh để Ngài có thể trợ giúp chúng ta, ban cho chúng ta sức mạnh, ban cho chúng ta hứng khởi và dẫn chúng ta tiến bước.

Xin Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ Giáo Hội, đồng hành với chúng ta là những người đã lãnh nhận phép rửa. Xin Mẹ giúp chúng ta lớn lên trong tình yêu đối với Thiên Chúa và trong niềm vui phục vụ Phúc Âm, cống hiến cho chúng ta một đời sống trọn vẹn ý nghĩa.

---------------------------------

 

TN 1-B121: Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa


(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)

NGƯỜI KI-TÔ HỮU: CHỨNG TÁ TUY KHÁC NHAU NHƯNG CHUNG QUY CHO TÌNH YÊU

 

Hôm nay, Hội Thánh hân hoan bước vào Mùa Thường Niên, khởi đầu với lễ Chúa Giê-su chịu Phép TN 1-B121


Hôm nay, Hội Thánh hân hoan bước vào Mùa Thường Niên, khởi đầu với lễ Chúa Giê-su chịu Phép Rửa. Thoạt tiên, khi nghe đến thánh lễ Chúa Giê-su chịu Phép Rửa, có lẽ chúng ta không khỏi thắc mắc: Phép Rửa Chúa Giê-su chịu có khác gì so với bí tích Rửa tội mà chúng ta được lãnh nhận hay không? Phép Rửa Chúa Giê-su chịu có gì liên quan đến bí tích Rửa tội hay chăng? v.v…

Một điều rõ ràng, hiển nhiên mà chúng ta có thể phân biệt được là Chúa Giê-su chịu phép Rửa, còn chúng ta thì chịu phép Rửa tội hoặc Thanh tẩy, vì mặc dù Người hoàn toàn giống với con người yếu đuối, mỏng dòn, nhưng khác với chúng ta là: Người không mang tội, Người không mắc tội. Tuy vậy, Người vẫn tự nguyện mặc lấy thân phận tội lỗi con người hầu gánh tội, cứu độ nhân loại.

Khi cử hành thánh lễ Chúa Giê-su chịu Phép Rửa, chúng ta hồi tưởng thời khắc ân sủng, thời điểm chúng ta được thanh tẩy tội Tổ Tông, được thánh hoá trở nên con của Thiên Chúa, con của Đấng Thánh, và được chung phần vào Mẹ Giáo Hôi – Nhiệm thể của Chúa Ki-tô, mà trong đó, chúng ta là chi thể của Thân thể mầu nhiệm ấy. Có lẽ, nhiều người trong chúng ta không còn nhớ ngày mình được nhận lãnh bí tích cao cả này?!!! Ngày chúng ta được giải thoát gông xiềng tội Tổ Tông, tội lỗi, hầu trở nên con người mới, con của Ánh sáng, con của Thiên Chúa nhân từ; ngày chúng ta được biến đổi từ chốn bùn nhơ, tối tăm bước vào đời sống mới, đời sống chân chính. Ngày chúng ta được cứu độ khỏi cảnh ‘không chốn nựa tương’, ‘không lối thoát thân’ vì bị tội lỗi gông cùm, và được mang vào ‘cung lòng ấm áp, sâu thẳm của Thiên Chúa’ qua lòng của Giáo Hội. Ôi, thời khắc hồng ân! Mầu nhiệm cao vời vượt quá lòng mong mỏi của con người, cao siêu, thẳm sâu hơn tâm hồn con người chúng ta! Chúng ta cùng dâng lời ngợi ca, tán tụng không ngơi lên Thiên Chúa vì ân sủng cao cả này; Người chẳng bỏ mặc con người tội lỗi nhưng đã mời gọi, thánh hoá và trao cho sứ mạng thiêng liêng như lời tiên tri I-sa-ia đã tuyên sấm “Người không bẻ gẫy cây lau bị giập, không dập tắt tim đèn còn khói,…, Ta đã gọi con trong công lý, đã cầm lấy tay con, đã gìn giữ con, đã đặt con thành giao ước của dân, và nên ánh sáng của chư dân...” (Is 42, 3. 6).

Ở điểm này, chúng ta được tháp nhập và liên kết chặt chẽ với sứ vụ của Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, đó là: trở nên tiên tri (người rao truyền Tin mừng), tư tế (thánh hoá, dạy dỗ, khuyến dụ) và vương đế (cộng tác điều hành cộng đoàn). Nói tóm lại, chúng ta được trao sứ mạng làm chứng cho Thiên Chúa, làm chứng cho Đấng đã rộng ban, thương yêu trao tặng cho chúng ta mọi thứ một cách nhưng không, kể cả chính mình Người qua Con Một yêu dấu. Hơn nữa, qua lời xác thật, công bố đầy yêu thương của Chúa Cha đối với Đức Ki-tô “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha” (Mc 1, 11), chúng ta cũng được hiệp thông với Chúa Giê-su trong sứ mạng làm con cái Cha trên trời, Người Cha hằng dủ lòng thương xót đến tất cả mọi người, chứ chẳng thiên vị một ai như lời thánh Phê-rô chứng thực, giảng dạy tại nhà ông Cor-nê-li-ô được thuật lại một cách sống động trong thư Công Vụ Tông Đồ: “Thiên Chúa không thiên tư tây vị, nhưng ở bất cứ xứ nào, ai kính sợ Người và thực hành sự công chính, đều được Người đón nhận” (Cv 10, 34-35). Vì thế, ơn gọi, bậc sống tuy khác nhau, nhưng đều có một sứ mạng; trách nhiệm tuy khác nhau, nhưng cùng chung một sứ vụ; công việc, tính cách khác xa nhau, nhưng cùng chung một mục đích, đó là: đời sống làm chứng cho Tin Mừng, chia san những gì chúng ta được lãnh nhận một cách vô điều kiện từ Thiên Chúa, và nhất là sống làm gương sáng qua lời ăn, tiếng nói, hành vi của người mang danh Thánh Ki-tô (Ki-tô hữu – người thuộc về Chúa Ki-tô).

Để kết thúc bài chia sẻ này, xin quý cộng đoàn cùng tôi lắng đọng, trở về với lòng mình và trong giây phút thinh lặng sâu lắng của tâm hồn, lắng nghe tiếng Chúa thầm thỉ với mình qua câu chuyện làm chứng tá trong thời đại ngày nay như sau: Tờ báo Hoàn Cầu Đêm Khuya xuất bản tại Hoa Kỳ thuật lại gương sống chứng tá Tin Mừng của ông Jewel Pierce tại Tiểu bang Alabama. Trừ ngày Chúa Nhật, mỗi ngày đều đặn một lần, ông đều thả 2 chai không xuống dòng sông Cô-sa; trong 2 chai đó, ông để lại một câu Kinh Thánh nói về tình thương hoặc sứ điệp tương tự, kèm theo lời đề nghị giúp đỡ hết tất cả những ai cần đến ông cả về vật chất cũng như tinh thần. Trong 40 năm ròng rã, ông đã gửi trên 27 ngàn sứ điệp Tin mừng, và hơn 2 ngàn người thuộc 30 quốc gia đã đọc, và liên lạc với ông. Có lẽ chúng ta không có đủ điều kiện, nhuệ khí như ông Jewel Pierce, nhưng thiết nghĩ, mỗi người chúng ta luôn có Chúa ở cùng, đồng hành, nâng đỡ, và cùng ta ra đi chia san những gì chúng ta đã, đang và sẽ được lãnh nhận. Chỉ cần qua cử chỉ thân thiện, yêu thương, lời nói chân thành, góp ý, xây dựng hay một hành động bình thường, nho nhỏ nhưng mang lại niềm khích lệ, động viên anh chị em ta…thì lúc ấy, chúng ta đang sống chứng tá cho Tình yêu rồi.

Xin Chúa đừng để những truân chuyên nơi cuộc sống này làm chúng con nhục chí, thu mình lại mà chẳng dám chia san. Xin đừng để những quyến rũ của trần gian cản lối chúng con dấn thân, làm chứng cho Chúa. Ước gì qua cuộc sống chúng con, mọi người sẽ nhận ra Chúa là nguồn Tình yêu. Amen.

---------------------------------

 

TN 1-B122:  “Con là Con Yêu Dấu của Cha”


(Suy niệm của Lm Gioan Phan Tiến Dũng)

 

Là những người cha-mẹ trong gia đình, khi sinh con, nuôi dưỡng, giáo dục con cái, chắc hẳn ai TN 1-B122


Là những người cha-mẹ trong gia đình, khi sinh con, nuôi dưỡng, giáo dục con cái, chắc hẳn ai cũng đều có những hoài bão, ước nguyện-khẩn cầu, mong sao con mình mau lớn, khỏe mạnh, sớm trưởng thành, để có thể trở nên những người tốt lành-thánh đức, thành đạt trong cuộc sống. Thật vậy, “con ngoan chính là niềm vui và triều thiên của cha mẹ”. Thế nhưng, liệu sự thành đạt của những người con trong xã hội ngày hôm nay, có thực sự làm cho các bậc cha mẹ được an tâm, vui lòng, hạnh phúc? Đối diện với những thực trạng trong các gia đình ngày nay, chúng ta nên làm gì?

Hôm nay trong Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa, chính Chúa Cha đã mạc khải và tuyên bố cho chúng ta biết, Chúa Giêsu chính là Người Con Yêu Dấu của Thiên Chúa: “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha”. Chúa Giêsu qua chính cuộc đời và sứ vụ, Ngài đã khẳng định: Ngài chính là Người Con được Chúa Cha sai đến để minh chứng cho chúng ta biết về Thiên Chúa là Người Cha luôn yêu thương chúng ta và luôn mong muốn chúng ta được hạnh phúc. Không những thế, Chúa Giêsu còn trở nên “gương mẫu Người Con tuyệt vời” để cho chúng ta, những ai muốn trở nên những người con được Chúa yêu thương, chúc phúc, đẹp lòng Thiên Chúa.

Câu hỏi được đặt ra: tại sao Chúa Giêsu, con Thiên Chúa, là Đấng Thánh, không có bất kỳ yếu đuối, tội lỗi nào, thế mà Ngài lại chấp nhận để đi vào hàng ngũ của những người đến để xin Gioan làm phép rửa cho mình? Việc Chúa Giêsu chịu phép rửa rất quan trọng trong giai đoạn khởi đầu đời sống và sứ vụ công khai của Ngài. Do đó, sự kiện này đều được cả bốn tác giả sách Tin mừng tường thuật lại để cho chúng ta thấy tầm quan trọng việc Chúa bước vào hàng ngũ của tội nhân, như là chứng tá, mẫu gương cho chúng ta để trở nên những người con yêu dấu của Thiên Chúa.

Khi Chúa Giêsu khiêm tốn, tự đồng hóa mình chấp nhận trong hàng ngũ với các tội nhân, để khi bị dìm xuống trong dòng nước, Ngài đã cúi xuống để cứu vớt chúng ta, nâng chúng ta lên từ vị trí của những con người yếu đuối tội lỗi, bất xứng, được lãnh nhận ơn tha thứ, thánh hóa, được mặc lấy phẩm giá của con cái Thiên Chúa, được sống trong ân sủng. Đồng thời, qua việc Chúa Giêsu chịu phép rửa, Thánh Thần của Thiên Chúa ngự xuống trên Ngài và cũng chính nguồn ơn Thánh Thần này, Ngài sẽ mở ra, trao ban cho mỗi người chúng ta; Vậy nên, khi lãnh nhận bí tích thánh tẩy, chúng ta cũng được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, với danh xưng là Kitô hữu, là con cái của Thiên Chúa. Hơn thế nữa, khi Chúa Giêsu chịu phép rửa bởi Gioan, Thiên Chúa đã không còn đứng bên ngoài, hay từ trên cao để nhìn xuống chúng ta, Ngài đã cùng đồng hành, để chia sẻ, an ủi, nâng đỡ dân Ngài cách cụ thể hơn. Và từ đây, Thiên Chúa sẽ ban ơn tái sinh đổi mới cho những ai  biết mở lòng, dám chấp nhận cùng bước vào hàng ngũ với Chúa Giêsu, để cho Thánh Thần của Thiên Chúa tác động và cho thánh ý Chúa được thực hiện. Đây cũng chính là điều mà trong bài đọc một mà Tiên tri Isaia nói về “Người Tôi Trung của Thiên Chúa”, người được Chúa yêu thương, hài lòng và ban thần khí cho. Với ơn Chúa, Người Tôi Trung không bao giờ nghĩ đến cho lợi ích cho bản thân, nhưng làm mọi sự vì phần rỗi của tha nhân và làm theo thánh ý của Thiên Chúa.

ACE thân mến, chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đều muốn trở nên những người tốt lành, được hạnh phúc, bình an và cao quý hơn là trở nên người con sống đẹp lòng Thiên Chúa. Thánh Phêrô trong bài đọc hai đã chia sẻ cho chúng ta kinh nghiệm để sống trọn vẹn ơn thánh này. Chúng ta không thể nào sống khác hơn nếu không rập theo mẫu gương của Chúa Giêsu, hay nói khác hơn nếu chúng ta không biết cậy dựa, bám víu vào nguồn ân sủng đã được ban cho chúng ta qua Đức Kitô, Người Con Yêu Dấu, Người được Thánh Thần xức dầu tấn phong và sai đi ban ơn cứu độ thì chúng ta không thể nào trở nên người sống đẹp lòng Chúa.

Thật vậy, Lời Chúa hôm nay đã cho chúng ta một khuôn mẫu tuyệt hảo là chính Đức Giêsu Kitô; hãy học theo và sống như Ngài, hãy luôn khiêm tốn và làm mọi việc theo thánh ý Chúa, để làm vinh danh Thiên Chúa và đem ơn ích cho tha nhân. Lạy Chúa, được trở nên người được Chúa hài lòng-thương yêu chính là thánh ý Chúa cho chúng con và cũng là lý tưởng-lẽ sống của mỗi người chúng con. Xin cho chúng con, hôm nay bắt đầu một chu kỳ mới của năm phụng vụ thường niên, luôn biết khiêm tốn, mở lòng và quyết tâm đến với Chúa mỗi ngày, để với ơn thánh Chúa nâng đỡ, chúng con sẽ quyết tâm sống đẹp lòng Chúa và sống tình tương thân tương ái với anh chị em mình. Amen.

---------------------------------

 

TN 1-B123: Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa


(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)

BÍ TÍCH RỬA TỘI CHỈ LÀ SỰ KHỞI ĐẦU

 

Hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa. Thánh Maccô miêu tả biến cố này với TN 1-B123


Hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa. Thánh Maccô miêu tả biến cố này với một vài chi tiết chính như Chúa Giêsu chịu phép rửa bởi ông Gioan tại sông Giođan; các tầng trời mở ra; Thánh Thần ngự xuống tựa chim bồ câu và có tiếng từ trời khẳng định Chúa Giêsu là Con yêu dấu. Trình thuật mặc khải cách mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi với Cha, Con và Thánh Thần được trình bày cách rõ ràng và riêng biệt trong biến cố này. Mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa là dịp thuận tiện để suy gẫm về những đòi buộc đi kèm khi lãnh nhận phép rửa.

Bài đọc 1 và 2 đều có hai chọn lựa. Bài đọc 1 trích từ Is 55 phù hợp cho ngày lễ hôm nay “Đến cả đi nước đã sẵn đây” khi tiên tri Isaia trình bày việc Thiên Chúa tuân giữ lời kêu gọi con người. Để bổ túc cho bài đọc này thì nên chọn bài đọc 2 trích từ sách Công vụ Tông Đồ, trình bày việc thánh Phêrô nhấn mạnh đến lòng rộng lượng của Thiên Chúa đối với con người “thuộc mọi dân tộc”, trao ban cho họ Thánh Thần qua phép Rửa.

Bài đọc 1 trích từ Is 42 loan báo ý nghĩa việc Thần Khí ngự xuống. Tiên tri Isaia mô tả một nhân vật chịu đau khổ và phục vụ như ánh sáng chiếu soi muôn dân. Tân ước ám chỉ, trích lại những tiên báo về Người tôi trung đau khổ của Isaia và hiểu một cách mới mẻ dưới ánh sáng cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Trong Isaia, khi Thần Khí ngự trên người tôi trung, đó chính là dấu chỉ  ông “sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân”. Khi nhận lãnh Thần Khí, có một lời kêu mời rõ ràng để hành động cho “chiến thắng của công lý”. Bài đọc 2 trích thư thứ nhất của thánh Gioan tông đồ, trình bày các mối tương quan trong Ba Ngôi Thiên Chúa, giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, Đấng thúc đẩy sự thật trên thế giới.

Bài đọc cũng nhấn mạnh chiến thắng nhờ lòng tin vào Đức Kitô là Con Thiên Chúa. Bài Tin mừng hướng chúng ta chú ý đến việc Chúa Giêsu chịu phép rửa. Tin mừng theo thánh Maccô bắt đầu với sự xuất hiện của Gioan Tẩy Giả, và với hành động công khai đầu tiên của Chúa  là chịu phép rửa trước Người khi bắt đầu sứ vụ. Chúa Giêsu nêu gương cho này cho những ai theo Người và  Người được xưng tụng là Con yêu dấu, được Thánh Thần trao quyền năng để thi hành sứ vụ.

Hôm nay chúng ta cần nhìn lại những tác động của bí tích rửa tội và lòng tin vào Chúa Kitô. Các bài đọc và sứ điệp bao quát hơn của bài Tin mừng khẳng định việc lãnh nhận Thánh Thần khi chịu phép rửa chỉ là sự khởi đầu và có sứ vụ quan trọng đi kèm theo sau. Mọi người đều được đón nhận và mời gọi để lãnh nhận bí tích rửa tội, và phép rửa đòi buộc các tín hữu phải thúc đẩy công lý và sự thật. Thần Khí được kết nối trực tiếp với cả hai lý tưởng đó, và việc lãnh nhận Thần Khí là lời mời gọi để hành động. Trong ngày lễ Chúa Kitô chịu phép rửa, chúng ta hãy để mình được truyền cảm hứng tích cực tham gia vào công cuộc tìm kiếm công lý và sự thật.

Nguồn:
https://www.americamagazine.org/faith/2020/12/17/baptism-jesus-gospel-reflection-catholic-scripture-239466

---------------------------------

 

TN 1-B124: MỘT KỶ NGUYÊN MỚI


Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

 

Chúa nhật tuần trước, chúng ta đã cử hành lễ Hiển Linh, Chúa Giêsu được giới thiệu cho muôn TN 1-B124


Chúa nhật tuần trước, chúng ta đã cử hành lễ Hiển Linh, Chúa Giêsu được giới thiệu cho muôn dân mà đại diện là ba nhà đạo sĩ đến từ phương Đông. Hôm nay, Phụng vụ giới thiệu với chúng ta một cuộc “thần hiện” khác qua việc Chúa Giêsu chịu phép rửa. Sự kiện này được trình bày như một nghi thức phong vương long trọng. Qua nghi thức này, chính Chúa Cha giới thiệu với nhân loại về Chúa Con và sứ mạng của Người. Chúa Thánh Thần cũng xuất hiện dưới hình chim bồ câu và đậu trên Chúa Giêsu.

Dưới ngòi bút của thánh sử Maccô, Chúa Giêsu được diễn tả như một Môisen mới. Nếu ông Môisen trong Cựu Ước đã dẫn Dân Thánh đi qua biển đỏ, thì nay, Chúa Giêsu cũng dẫn nhân loại vượt qua tội lỗi đến đạt tới sự thánh thiện. Cách nói “vừa lên khỏi nước” gắn liền với nghi thức thanh tẩy Chúa Giêsu đã lãnh nhận từ tay ông Gioan Tẩy giả, phần nào muốn nhắc tới cuộc vượt qua biển đỏ của dân Do Thái trong lịch sử.

Chi tiết kể lại việc “Chúa Giêsu thấy tầng trời mở ra” có ý nghĩa tượng trưng rất sâu sắc: theo truyền thống Do Thái, cửa trời đã đóng lại sau những vị ngôn sứ cuối cùng (Agê, Giacaria, Malakia) ở thế kỷ thứ V trước Công nguyên. Mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con người cũng vì thế mà gián đoạn. Trước khi Chúa Giêsu đến trần gian, dường như hoạt động của Thần Khí đã bị ngưng lại. Với Chúa Giêsu, mọi sự đã thay đổi. Kỷ nguyên mới đã khai mào. Việc các tầng trời mở ra (nguyên văn tiếng Hy lạp: trời xé toạc ra) chứng minh cho thấy mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con người không còn ngăn cách nữa, mà được nối lại. Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu như dấu hiệu của thời cứu rỗi và của cuộc sáng tạo mới. Hình ảnh Chúa Thánh Thần ngự xuống nơi Chúa Giêsu dường như phác họa lại thời hoang sơ, trước khi Thiên Chúa thực hiện công trình sáng tạo của Người: “Thần Khí Chúa bay là là trên vực thẳm hỗn mang”  (St 1,2). Việc Chúa Thánh Thần dưới hình dạng chim bồ câu giúp chúng ta liên tưởng đến con chim ngậm cành ôliu sau trận Đại hồng thủy trong Cựu Ước. Thần Khí Chúa đến để loan báo cho nhân loại biết thời gian trừng phạt của Chúa đã mãn (x. St 8,8-11). Cũng giống như nước hồng thủy đã rút và một nhân loại mới tinh tuyền thánh thiện đã khởi đầu, thời kỳ cứu độ trong ân sủng đã khai mào trong Chúa Giêsu và nhờ Chúa Giêsu. Vì vậy, từ thời các Giáo phụ, trận lụt Đại hồng thủy, cũnng như cuộc vượt qua Biển Đỏ, đã được chú giải như hình bóng của Bí tích Thanh tẩy của các Kitô hữu.

Một chi tiết nữa rất quan trọng trong trình thuật Chúa Giêsu chịu phép rửa trong Tin Mừng Thánh Máccô, đó là tiếng nói từ trời. “Tiếng nói từ trời” là cách diễn tả Thiên Chúa của người Do Thái, như kiểu người Việt chúng ta kiêng tránh phạm húy. Tiếng nói ấy đã khẳng định: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Đây cũng là một lời giới thiệu Đấng Mêsia cho nhân loại. Những người hiện diện hôm đó ở bờ sông Giođan, khi nghe câu tuyên bố của Chúa Cha, chắc chắn liên tưởng đến những lời của Cựu Ước: “Con là con Ta, hôm nay Ta đã hạ sinh ra con” (Tv 2,7); hoặc: “Đây là tôi tớ mà Ta tuyển chọn. Ta hài lòng về Người” (Is 42,1-2).

Vì những chú giải ở trên, sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa được hiểu như một cuộc “thần hiện”, qua đó, sứ mạng của Chúa Giêsu được giới thiệu công khai cho dân chúng. Người là Đấng Cứu độ trần gian. Người đã khởi đầu sứ mạng một cách rất khiêm tốn, hòa vào dòng người đang nhận mình là tội nhân và sám hối bằng cách dìm mình xuống dòng sông để được ông Gioan thanh tẩy.

Theo giáo huấn của Giáo Hội Công giáo, khi chấp nhận dìm mình xuống dòng sông Giordan và lãnh phép rửa bởi tay ông Gioan, Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Thánh Tẩy, để rồi từ nay, những ai được dòng nước thiêng ấy tẩy rửa, họ sẽ được tha tội Tổ tông và các tội khác đã phạm, trở nên một tạo vật mới tinh tuyền thánh thiện. Thánh sử Maccô đã nhìn thấy bản chất siêu nhiên của bí tích Thanh Tẩy Kitô giáo, khi ghi lại lời của Gioan Tẩy giả: “Tôi thì tôi đã làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần”. Như vậy, trong nghi thức Thanh tẩy, linh mục chủ sự chỉ đóng vai trò như ông Gioan Tẩy giả, còn chính Chúa Giêsu thanh tẩy chúng ta và ban cho chúng ta Chúa Thánh Thần. Nhờ việc ban Chúa Thánh Thần, chúng ta trở nên những người con cái của Thiên Chúa, là người đồng thừa tự với Chúa Giêsu, tức là cùng với Người hưởng gia nghiệp vĩnh cửu mà Chúa hứa ban cho những ai yêu mến Ngài. Nhờ Chúa Giêsu và trong Chúa Giêsu, chúng ta cũng trở nên những người con yêu dấu của Chúa Cha. Nhờ bí tích Thanh tẩy, chúng ta chấm dứt cuộc sống cũ và bước sang thời đại mới, thời đại của ơn cứu rỗi. Huyền nhiệm vinh dự của phép Thanh tẩy chỉ có thể cảm nhận bằng Đức Tin, vì “Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối của các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy” (Bài đọc I).

Nếu Chúa Thánh Thần đã hiện xuống trên Chúa Giêsu dưới hình chim bồ câu, thì vào ngày chúng ta được lãnh nhận Bí tích Thanh Tẩy, chúng ta cũng được lãnh nhận Chúa Thánh Thần như vậy. Chính Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta Đức tin và soi sáng giúp chúng ta nhận biết Đức Giêsu là Đấng Cứu độ nhân loại. Có Đức tin là một ơn Chúa ban. Chúng ta ngỡ ngàng trước mầu nhiệm Thiên Chúa làm người, giống như chúng ta và đã chết trên cây thập giá, đã sống lại vào ngày thứ ba. Đương nhiên chúng ta chưa thể hiểu hết những mầu nhiệm này. Tuy vậy, khi thinh lặng quỳ gối cầu nguyện, chúng ta nhận ra những màu nhiệm ấy là có thật. Khi chiêm ngắm cầu nguyện trước Thánh Thể, là một mầu nhiệm con người không thể hiểu thấu, chúng ta ra về với tâm hồn thanh thản và được tăng thêm sức mạnh.

“Đây là con Ta yêu dấu!”. Chúa Cha đã nói những lời ấy về Chúa Giêsu. Khi được thanh tẩy, Chúa Cha cũng nói về chúng ta như thế. Xin cho chúng ta trở nên hiện thân của Người giữa trần gian, để đem niềm vui và hy vọng đến cho cuộc đời.

-------------------------------

 

TN 1-B125: TÌNH LIÊN ĐỚI TRONG ĐẠI DỊCH


Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

 

Trong năm đại dịch Covid người ta thấy rất nhiều câu, nhiều cách đề xướng tình liên đới để TN 1-B125


Trong năm đại dịch Covid người ta thấy rất nhiều câu, nhiều cách đề xướng tình liên đới để chung tay đẩy lùi dịch bệnh và liên đới chia sẻ cứu giúp nhau trong cơn đại họa này.

Tại một nhà tù bên Ý, các tù nhân đã thực hiện một biểu ngữ: “Chúng tôi ở bên trong, xin các bạn hãy ở nhà”. Những tù nhân đã đau khổ vì phải sống cách ly xã hội, nay do đại dịch các buổi thăm trực tiếp của gia đình và người thân bị đình chỉ. Họ đã nêu cao biểu ngữ này để nhắc nhở người thân hãy ở nhà để chung tay đẩy lùi dịch bệnh.

Khi dịch bệnh bắt đầu xuất hiện vào tháng 12/2019 nhiều người nghĩ rằng chỉ những ai bị nhiễm bệnh mới phải cách ly. Thế rồi, dịch bệnh mỗi ngày một lan rộng trong cộng đồng, thì người ta mới biết đến một sự liên đới của toàn thể xã hội. Người bệnh được cách ly tại bệnh viện. Người không bệnh thì cách ly tại nhà. Đây là sự liên đới trách nhiệm để cùng nhau ngăn chặn sự lây lan dịch bệnh trong cộng đồng.

Với biến cố Chúa Giê-su chịu phép rửa của Gioan tại sông Giordan là một khởi đầu cho một chuỗi những liên đới với tội nhân. Ngài đã chấp nhận đứng chung với tội nhân để gánh lấy hậu quả của tội lỗi nhân gian. Hậu quả của tội lỗi là đau khổ, là sự chết. Chúa Giê-su đã gánh lấy tội nhân loại khi phải sống kiếp người đầy thăng trầm và khổ đau. Ngài gánh lấy tội nhân loại khi bị kết án, tẩy chay loại trừ. Ngài còn gánh lấy tội nhân gian khi bị chết treo trên thập giá để đền thay tội lỗi  nhân gian. Ngài hiến dâng mạng sống mình thành của lễ giao hòa với Thiên Chúa Cha. Qua cuộc Tử Nạn và phục sinh của Ngài mà nhân loại chúng ta được giao hòa với Chúa Cha, được gọi Thiên Chúa là Cha, và được thừa tự phần phúc thiên đàng do công phúc của Chúa Giê-su.

Vâng, Đức Giê-su thành Nagiaret là Thiên Chúa, là Đấng thánh thiện vô cùng đã mặc lấy thân xác con người. Ngài đã trở nên giống con người mọi sự ngoại trừ tội lỗi. Ngài tự nhận mình là tội nhân khi hòa mình vào dòng người tới nhận phép rửa của Gioan. Hành vi này như muốn dạy con người chúng ta hãy biết liên đới trách nhiệm với tha nhân. Liên đới để giúp nhau thăng tiến. Liên đới để sống cảm thông chia sẻ với nhau. Tình liên đới sẽ giúp con người chung sống hòa bình với nhau và cùng nhau xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.
Nếu cuộc đời con người biết sống có tình liên đới thì cuộc đời đẹp biết bao! Người ta sẽ “lá lành đùm lá rách”, “chị ngã em nâng”. . .

Nếu cuộc đời ai cũng có trách nhiệm liên đới với người nghèo, người bệnh tật, người bất hạnh thì cuộc đời hạnh phúc biết bao! Người ta sẽ không có thái độ dửng dưng với nhau nhưng biết chia sẻ giúp đỡ lẫn nhau, và chắc chắn sẽ không có những phận người cô đơn buồn tủi.

Nếu cuộc đời ai cũng cảm thấy có trách nhiệm với cả những lỗi lầm của người khác thì xã hội sẽ thăng tiến biết bao. Vì ai cũng nỗ lực sống chu toàn bổn phận của mình, sống gương mẫu và chắc chắn sẽ không làm gì để gây gương mù gương xấu cho tha nhân.

Ước gì tình liên đới của con người luôn là mối dây hiệp nhất yêu thương để tình người mãi gắn kết và cùng nhau xây dựng một xã hội ngày một tốt đẹp hơn. Amen.

---------------------------------

 

TN 1-B126: CHA HÀI LÒNG VỀ CON


Lm. Jos DĐH.

 

Sinh ra làm người ai cũng như ai: dù là con quan, con bác nông dân, hoặc xuất thân từ dòng tộc TN 1-B126


Sinh ra làm người ai cũng như ai: dù là con quan, con bác nông dân, hoặc xuất thân từ dòng tộc tri thức, tất cả đều có chung mơ ước được hạnh phúc. Bước vào đời: có người khôn, kẻ dại, thành công có, thất bại cũng không ít, hẳn là tùy sự giáo dục, đầu tư, và nỗ lực của bản thân gia đình. Thiên hạ thường mỉa mai hết sức văn vẻ: đầu to mà óc như quả nho ; nhỏ mà có võ, đúng là thực lực, là ý chí quyết tâm, mới là câu trả lời của từng người, cho hiện tại, tương lai. Sẽ không người con nào bị coi là tầm thường khi có cha có mẹ, không ai lo thiếu khả năng, thiếu sự đầu tư công sức khi còn mẹ, còn cha. Khối óc của cha, trái tim của mẹ, luôn đặt để vào cuộc đời các con, các cháu, dù cái biết của chúng chưa đủ thấm, hoặc mức độ hiểu chưa thông, bậc cha mẹ vẫn không quan tâm đến công lý, điều các ngài mong là sự bình an đến với con cháu.

Cha hài lòng về con, mẹ hạnh phúc vì con, có thể còn xa lạ đối với kẻ chưa trưởng thành, bởi lẽ, con cái chỉ hiểu được công ơn sinh thành khi chúng trở thành bố, thành mẹ. Cho dù con cháu có vô ơn bạc nghĩa: tình mẹ yêu con bằng dòng sữa ngọt, tình cha yêu con bằng giọt mặn mồ hôi, sẽ không hề thay đổi. Trong tương quan xã hội, nhiều người phải ray dứt khi nhớ cha thương mẹ bằng một tình yêu rất linh thiêng: tình cha cao như núi thái, nghĩa mẹ sâu tựa biển đông. Trong tình liên đới giữa niềm tin và thực hành, Gioan thật xác tín khi công bố cho mọi người: “có Đấng quyền thế hơn tôi, đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người”. Có phải Thiên Chúa Cha hài lòng vì sự khiêm tốn, vì “tiếng hô” của Gioan, đủ hiệu quả trước sứ mạng được giao phó ?

Gioan trở nên chứng nhân, nối kết tình yêu với sứ mạng của Ngôi Lời, tại sông Gio-đan năm đó, có tiếng phán từ trời: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Thiên Chúa hài lòng về Chúa Con, cũng sẽ vui mừng đối với những ai tin Chúa Con, sống tinh thần khiêm tốn như Chúa Con. Nếu ở đời có câu: cha anh hùng, con hảo hán, nếu cứ tới sông Gio-đan, cứ đến nhà thờ, cứ khoác áo linh mục tu sĩ, tức thì sẽ được gọi là thần thánh, là con chí ái, nếu chỉ thế hẳn cũng chẳng có gì mà đáng tự hào ? Thời tiết thay đổi theo mùa: xuân hạ thu đông, song bổn phận hiếu thảo của con cháu, trách nhiệm, nghĩa vụ của bậc sinh thành, sứ mạng của hàng giáo sĩ, tu sĩ, không bao giờ thay đổi, theo Đức Kitô, nếu dừng lại ở việc muốn hoặc chưa thực hành thì không thể gọi là con chí ái.

Tuân Tử, năm xưa đã để lại những lời trấn an các học trò, đáng để chúng ta suy nghĩ: ai chê ta mà chê phải là thầy ta, ai khen ta mà khen phải là bạn ta, kẻ vuốt ve nịnh bợ ta, ấy là kẻ thù của ta. Kitô giáo chủ trương không chiến tranh, không kỳ thị kẻ thù kẻ xấu, mà tất cả đều được nhắc nhớ: nói thật, sống thật, cử xử với nhau bằng tình yêu thật. Sự kiện Gioan làm phép rửa bằng nước cho dân chúng, cho Đức Giêsu là thật, ông không đắc thắng vì thành quả đã đạt được, với đức khiêm hạ, ông nhận biết Đấng đến sau ông sẽ tẩy rửa tội lỗi nhân loại bằng Thánh Thần. Kinh nghiệm ở đời rất thiết thực, khi cho ta biết: còn điều gì tốt đẹp hơn khi cha mẹ và con cái có thể trao cho nhau ngoài sự quan tâm, tôn trọng, và thấu hiểu ? Hội thánh thật chí lý khi gọi Gioan là TIẾNG, Đức Giêsu là LỜI, Thiên Chúa Cha làm cho TIẾNG và LỜI có sức biến đổi tuyệt vời.

Cha hài lòng về Con, tiếng phán từ trời hôm đó không phải là việc khen thưởng Đấng chịu phép rửa ở sông Gio-đan, đúng hơn vì Gioan, vì đám đông dân chúng, vì nhân loại hôm nay. Hạnh phúc ở đời dù là thoáng qua, ít nhiều người ta vẫn nói: không gì làm cho con vui hơn vinh dự của cha. Tại sông Gio-đan, Đấng cúi mình xin Gioan tẩy rửa chu toàn bổn phận, hành động đó mới chỉ là khởi đầu của việc thực thi thánh ý Chúa Cha, vì chưng, sống đẹp, sống đúng, phải là cả một cuộc đời thưa vâng. Thánh ý Cha thì nhiệm mầu, bản chất con người thì giới hạn, trong khi đâu là đúng, là đẹp, là đủ, để được khen thưởng, để được Chúa Cha hài lòng, vô cùng mông lung khó hiểu ! Dẫu rằng thiên hạ thường khích lệ: dâu dâu rể rể, cũng kể là con. Chúa Giêsu đã sống, đã hoàn thành sứ mạng, đã đẹp lòng Chúa Cha, người tín hữu không thể kể là con yêu dấu, nếu chưa ý thức sống vẹn toàn thánh ý Chúa Cha.

Chúng ta hôm nay phải sống thế nào để đẹp lòng Chúa Cha, người theo Đức Kitô phải thực hành giáo huấn của Đức Giêsu thế nào để được Chúa Cha hài lòng ? Mỗi người theo lý lẽ tự nhiên có thể nói rất hay: hạnh phúc ở đời không phải là bạn có một cuộc sống giầu sang, không phải là khi đạt tới địa vị xã hội cao. Cũng chẳng phải là khi bạn tìm gặp được người yêu hoàn hảo, vinh dự nhất là khi bạn có mẹ, có cha, để nói lời yêu, để thực hành đức yêu thương ở đời này. Vâng, mỗi người phải tự trả lời với tổ tiên, gia đình, với tha nhân: hãy cậy trông, hãy sống thật với Đấng là Thầy, là Chúa, hầu ta có một tâm hồn đẹp, cử chỉ đẹp, đáng hưởng gia nghiệp như thánh ý Chúa Cha hằng mong đợi. Amen.

---------------------------------

 

TN 1-B127: CON YÊU DẤU


Bông hồng nhỏ

 

Trong gia đình, mỗi đứa trẻ đều được cha mẹ chúng yêu thương, săn sóc. Tình yêu của cha mẹ TN 1-B127


Trong gia đình, mỗi đứa trẻ đều được cha mẹ chúng yêu thương, săn sóc. Tình yêu của cha mẹ dành cho con cái luôn lớn lao, cao vời. Dù cho có lúc, họ thể hiện tình yêu của mình cách vụng về hay thái quá. Điều đó làm cho những đứa con tưởng lầm rằng cha mẹ chẳng yêu thương mình. Không phải cha mẹ không yêu thương con cái nhưng chỉ vì con cái luôn muốn cha mẹ yêu thương mình theo cách mình muốn. Khi cha mẹ không chiều theo những ước muốn của những đứa con thì chúng thất vọng, đau khổ và “nổi loạn”. Là cha mẹ, ai cũng mong cho con cái lớn lên, ngoan ngoãn và giỏi giang. Bởi đó, họ đặt thật nhiều kỳ vọng vào con cái. Nhưng những người con có hiểu và cảm nhận được tình thương yêu của cha mẹ hay không? Họ có biết rằng, khi cố gắng trở nên những người con ngoan ngoãn và có hiếu, đó là món quà lớn nhất mà họ dành cho cha mẹ?

Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Người dạy ta biết sống thảo hiếu với cha mẹ trần gian, và một lòng tin kính, mến yêu cùng hết lòng vâng theo thánh ý Cha trên Trời. Hôm nay, theo chân Thầy Giêsu đến sông Giođan, ta mới hiểu, muốn làm một  người con ngoan, ta cũng phải luôn luôn vâng theo thánh ý Cha trên trời.

 Vừa ngại ngùng, vừa xấu hổ nhưng ta cũng đứng vào hàng các tội nhân đang chờ để được ông Gioan làm phép rửa. Thầy Giêsu đang đứng trước ta. Người làm cho ta rất đỗi ngạc nhiên, nhưng có Người, ta được chia sẻ, được nâng đỡ và được cảm thông. Ông Gioan đã phải can ngăn Người mà nói: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!” (Mt 3, 14). Tại sao Thầy Giêsu lại muốn được chịu phép rửa? Mọi người đến đây chịu phép rửa vì họ muốn được thanh tẩy, được tỏ lòng sám hối để đón chờ Đấng Mêsia. Còn Thầy Giêsu, Người là Đấng phải đến. Người đến để được thanh tẩy hay Người đến để thánh hóa nước trong dòng sông này? Hiểu thấu nỗi lòng của ông Gioan, Người liền giải thích rằng: Chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính. Khi vừa ở dưới nước lên, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con” (x. Mc 1, 9-11). Lời của Chúa Cha đã giới thiệu cho ta và tất cả mọi người biết rằng, chính Chúa Giêsu là người con yêu dấu của Chúa Cha. Là môn đệ của Thầy Giêsu, ta cũng được mời gọi trở nên người con yêu dấu của Chúa Cha, luôn biết mở lòng cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn để sống đẹp lòng Chúa Cha mọi đàng. Mỗi ngày, ta có nhận thấy Thần Khí của Thiên Chúa ngự xuống trên mình khi ta được rước Chúa Giêsu Thánh Thể, hay mỗi lần ta vui lòng làm một việc bác ái không? Ta có lắng nghe Thiên Chúa Cha đang ngỏ lời với mình không? Thầy Giêsu đã thực hiện thánh ý Chúa Cha, Người làm hài lòng Chúa Cha bằng chính thái độ hạ mình, khiêm tốn đến cùng tận như thế. Ta có khao khát được nên giống Thầy Giêsu không?

Nhìn lại những tháng ngày ta được sống trong bàn tay yêu thương, bao bọc của cha mẹ, ta thấy mình thật hạnh phúc. Ta được gọi là người con ngoan trong gia đình. Nhưng cũng có nhiều khi, “người con ngoan” ấy đã không vâng lời cha mẹ, đã thầm trách cha mẹ không yêu thương mình. Chỉ vì ta mải tìm kiếm ý riêng, không hết lòng vâng nghe theo lời dạy bảo của cha mẹ nên ta đi lầm đường lạc lối. Là người con của Thiên Chúa, ta cũng được mời gọi trở nên người Kitô hữu tốt lành, thánh thiện. Lòng ta có một khao khát hướng thiện nhưng ý chí ta không đủ mạnh mẽ để lướt thắng bao cám dỗ ngọt ngào, thân xác ta yếu hèn mong manh nên nhiều lần ta vấp ngã. Đã bao lần, Thiên Chúa mời gọi ta hãy bước đến bên bờ sông Giođan của cuộc đời mình, khiêm tốn cúi mình để được thanh tẩy nhưng ta đã chần chừ. Hết lần này đến lần khác, khi được anh chị em sửa dạy, khuyên răn, vì tự ái, tự kiêu, ta đã không nhìn nhận những lỗi lầm của mình. Ta từ chối để được ánh sáng của Chân Lý chiếu soi vào tâm hồn. Thiên Chúa vẫn ngỏ lời mời gọi ta hãy bước đến Người, khiêm tốn cúi mình để được thanh tẩy.

Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã luôn yêu thương con. Xin hãy đốt lên trong lòng con ngọn lửa yêu mến Chúa, lòng khao khát sự thánh thiện, cùng giúp con vượt thắng những cám dỗ trong cuộc đời. Amen.

---------------------------------

 

TN 1-B128: ĐỂ NÊN GIỐNG NGƯỜI


Anna Cỏ may

 

Khi xuống thế làm người, Chúa Giêsu đã đi vào cuộc sống của con người bằng thái độ khiêm tốn TN 1-B128


: sinh ra nơi chuồng lừa, đứng ở giữa những người tội lỗi tại bờ sông Gio-đan.

Lúc bấy giờ, ông Gioan Tẩy Giả đang rao giảng, kêu gọi mọi người hãy dọn đường cho Đấng Kitô. Người người kéo đến với ông để nghe và để được ông làm phép rửa, trong số đó, có Chúa Giêsu. Người là Đấng cao trọng mà ông Gioan đã và đang giới thiệu nhưng Người lại hạ mình đến xin ông làm phép rửa. Người luôn đi bước trước để đến với con người và sống giữa họ.

 Sau khi chịu phép rửa, khi Chúa Giêsu vừa ở dưới nước lên thì tầng trời mở ra và có tiếng phán rằng: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1,11). Lời đó chứng thực Người là Con Thiên Chúa, là Đấng mà ông Gioan đã không ngừng rao giảng với dân chúng. Ông đã nói rằng: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quay dép cho Người: Tôi làm phép rửa cho anh em nhờ nước; còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1,7-8).

Thật vậy, chính Chúa Giêsu là Đấng sẽ làm phép rửa cho mọi người trong Chúa Thánh Thần. Bí tích Rửa tội là phép rửa khai mở dẫn người Kitô hữu vào Hội Thánh để sống hiệp thông với Thiên Chúa. Phép Rửa sẽ thanh tẩy tội tổ tông truyền, giúp con người hướng tới cuộc sống hạnh phúc, được trở thành chi thể của Chúa Kitô và được hiệp thông với Thiên Chúa (x. Youcat số 194). Quả thật, chúng ta đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội, nhưng chúng ta vẫn còn mang khuynh hướng tội nơi mình. Mang thân phận yếu hèn, chúng ta không tránh khỏi những lỗi lầm thường hay vấp phạm trong cuộc sống. Hạnh phúc thay, chúng ta luôn được sống trong tình thương của Chúa, Người luôn tha thứ và chờ đợi chúng ta quay về. Chúa Giêsu đã cho các môn đệ biết về phép rửa mà Ngài sẽ hoàn tất: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!” (Lc 12,50). Người đã dùng chính Thịt và Máu của mình để cứu chuộc nhân loại, để những ai tin, lãnh nhận và sống theo Ngài sẽ được giải thoát khỏi tội lỗi và được sống đời đời. Tình Yêu sẽ ở cùng nhân loại mọi ngày cho đến tận thế (x.Mt 28,20).

Nhìn lại bản thân, chúng ta có ý thức mình đã được lãnh bí tích Rửa tội không? Mỗi khi đến lãnh Bí tích Giải tội và Bí tích Thánh Thể, chúng ta có thái độ nào: sốt sắng hay khô khan, khát khao hay bị ép buộc, hay chỉ là ai sao tôi vậy? Trong cuộc sống, nếu bạn luôn hy vọng hay chờ đợi người khác sẽ đến với mình cách vui vẻ, chân thật và tin tưởng vào mình thì Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài vẫn muốn chúng ta đến với Ngài trong sự tin tưởng phó thác nơi Ngài. Vì vậy, trong Ngày lễ Chúa Giêsu Chịu Phép rửa hôm nay, chúng ta cùng nhớ lại các Bí tích đã nhận lãnh để dâng lên Chúa lời tạ ơn, đồng thời mỗi khi lãnh nhận các Bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể, chúng ta hãy ý thức chuẩn bị tâm hồn và nỗ lực cộng tác với ơn Chúa để sống xứng đáng là con cái của Người.

Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã để lại cho chúng con nguồn mạch sự sống là Bí tích Rửa tội, Bí tích Giải tội và Bí tích Thánh Thể. Xin cho chúng con nhớ lại và ý thức những nguồn mạch chúng con đã hưởng và đang lãnh nhận. Nhờ đó, chúng con đạt tới cuộc sống vĩnh cửu trên Nước Trời. Amen.

---------------------------------

 

TN 1-B129: NHÌN VỀ PHÉP RỬA


Thiên San

 

Sau khi được ông Gioan làm phép rửa, Đức Giêsu vừa lên khỏi nước, các tầng trời mở ra và TN 1-B129


Sau khi được ông Gioan làm phép rửa, Đức Giêsu vừa lên khỏi nước, các tầng trời mở ra và có Thánh Thần tựa chim bồ câu ngự xuống trên Người và có tiếng Chúa Chúa Cha phán rằng: “ Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1, 11). Là Con Một của Chúa Cha, Đức Giêsu luôn là con yêu dấu và luôn đẹp lòng Cha. Nhìn về biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Gio đan, chúng ta học được gì?

Đức Giêsu chính là Đấng mà Gioan tuyên bố rằng ông không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người (x. Mc 1,7). Nay Đấng ấy hòa mình vào đám tội nhân, khiêm tốn đứng xếp hàng, chờ đến lượt được chịu phép rửa. Khi xuống thế làm người, Đức Giêsu đã mặc lấy thân phận con người nhưng ngoại trừ tội lỗi. Vậy mà nay, Đấng ấy làm một việc đến cả Gioan cũng phải bối rối, không dám: “ Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa” (Mt 3, 14). Gioan đã chiều theo yêu cầu của Đức Giêsu. Gioan biết rõ Đấng nhờ mình làm phép rửa là ai, là Đấng mà ông đến để dọn đường trước. Nhìn về biến cố này, chúng ta được mời gọi nhìn về hồng ân làm con Chúa trong ngày chịu phép Rửa tội.

Gioan làm phép rửa để mời gọi người ta tỏ lòng sám hối. Ngày này, phép Rửa tội ta được lãnh nhận không chỉ kêu mời ta tỏ lòng sám hối mà còn tha hết tội lỗi ta phạm từ trước đến nay, tội tổ tông. Trong bài giáo lý về bí tích Rửa Tội được ban hành ngày 11 tháng 4 năm 2018, Đức Thánh Cha Phanxicô diễn giải, qua bí tích Rửa Tội, chúng ta nhận được ơn tha tội và được tái sinh vào cuộc sống mới và vĩnh cửu trong Đức Kitô; đây là bí tích đầu tiên trong các bí tích, vì nó như cánh cửa cho phép Đức Kitô cư ngụ nơi con người mình và cho mình được chìm ngập trong Mầu Nhiệm của Người. Ta cũng biết rằng, Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa chúng ta, dẫn đưa chúng ta đến ơn làm con Chúa. Hơn nữa, bí tích Rửa Tội là “nền tảng của tất cả đời sống Kitô hữu” (Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, 1213).

Có thể, theo truyền thống bao đời, đa số chúng ta được bố mẹ đưa đến nhà thờ từ lúc còn rất nhỏ để chịu phép Rửa tội. Bởi đó, chúng ta chưa có cơ hội để ý thức đầy đủ về ý nghĩa và tầm quan trọng của ơn cao cả ta lãnh nhận. Nhưng bây giờ, khi đã lớn, được học hỏi, được dạy dỗ, được trải nghiệm, chúng ta nghĩ gì về bí tích Rủa tội?  Thật ra, không phải là nghĩ gì về bí tích Rửa tội, nhưng đúng hơn, chúng ta đã sống bí tích đó như thế nào và chúng ta đã làm gì để xứng đáng là con cái Chúa? Đời sống của chúng ta có diễn tả một sự hiện diện đầy sống động của một Thiên Chúa làm người nơi cuộc sống của ta? Mọi người có nhận biết Thiên Chúa qua cách sống của ta? Thiết nghĩ, khi sống theo các giáo huấn của Đức Giêsu cách triệt để, ta sẽ có thể sống xứng đáng là con cái Chúa. Nhờ liên đới với Đức Giêsu Kitô, chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha. Hãy để Đức Giêsu Kitô sống trong ta, khi ấy, Thiên Chúa Cha sẽ nói với ta: “ Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1, 11). Thiết nghĩ, đó cũng là cách ta sống trọn vẹn bí tích Rửa tội.

---------------------------------

 

TN 1-B130: RỬA ĐỜI


Trầm Thiên Thu

 

Đối với phàm nhân, vì bẩn mà phải rửa, rửa để làm sạch những gì ô uế, tẩy uế để tránh bệnh, cụ TN 1-B130


Đối với phàm nhân, vì bẩn mà phải rửa, rửa để làm sạch những gì ô uế, tẩy uế để tránh bệnh, cụ thể và đặc biệt là trong cơn đại dịch ngày nay. Thân xác cần tắm rửa hằng ngày thì tinh thần cũng cần tẩy uế, linh hồn càng sạch thì càng gần Thiên Chúa.

Thánh Teresa Hài Đồng Giêsu cho biết: “Để được ân sủng thì tâm linh con người cần phải đơn độc một mình, trong sạch, và tràn trề hy vọng để tiếp đón Thiên Chúa thì mới kết quả.” Catharina Sinensis chia sẻ: “Mặc dù tôi u mê yếu đuối, nhưng tôi quyết không thất vọng đem linh hồn của tôi ẩn núp vào trong các vết thương của Chúa Giêsu, xin Máu Thánh của Chúa Giêsu rửa sạch tội lỗi của tôi.” Cách “tắm gội” rất khôn ngoan.

Thuở sơ sinh, chúng ta được rửa sạch bằng bí tích Thánh Tẩy. Nhờ đó, chúng ta được trở nên con cái của Thiên Chúa. Rồi chúng ta bị nhiễm uế nên nhiều lần phải tắm rửa linh hồn qua bí tích Hòa Giải. Nhờ đó, chúng ta lại được phục hồi. Đó là những hồng ân lạ lùng, chứng tỏ Thiên Chúa vô cùng nhân từ.

Kinh Thánh cho biết rằng Phép Rửa của ông Gioan là Phép Rửa của sự sám hối, (Mt 3:11) nhưng Chúa Giêsu vô tội nên không cần sám hối. Thánh Gioan nhận biết tội mình và biết mình chỉ là tội nhân, cần sám hối, không đáng xách dép cho Chúa Giêsu, nên ông e ngại và thưa: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!” (Mt 3:14) Chúa Giêsu nói: “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta NÊN làm như vậy để GIỮ TRỌN đức công chính.” (Mt 3:15) Thì ra là vậy. Ông Gioan hiểu ý và làm theo ý Chúa Giêsu. Việc Ngài đến với ông Gioan cho thấy Ngài chấp nhận Phép Rửa của ông. Việc Chúa Giêsu chịu Phép Rửa là cách bày tỏ lòng thương xót.

Ngay từ lúc khởi đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã chứng tỏ Ngài là Đấng Thiên Sai và là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian.” (Ga 1:29) Ông Gioan vừa làm Phép Rửa xong, Thiên Chúa liền cho thấy dấu chỉ tỏ tường là “các tầng trời xé ra, và Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống,” điều đó được chính Chúa Cha xác nhận: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.” (Mt 3:17; x. Mc 1:11) Rất rõ ràng, không thể không tin.

Người Con ấy là Đấng mà Thánh Phaolô cho biết điều kỳ lạ: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người.” (2 Cr 5:21) Chúa Giêsu là Đấng công chính, không cần sám hối, nghĩa là không cần chịu Phép Rửa, nhưng Ngài chịu Phép Rửa để nêu gương, còn phàm nhân chúng ta là thụ tạo, thực sự rất cần Phép Rửa và lòng sám hối, vì chúng ta chỉ là tội nhân từ thuở nên hình hài con người. (Tv 51:7) Bất cứ ai mở lòng tin nhận Đức Giêsu Kitô thì được ơn tha thứ và được hứa ban sự sống đời đời.

Nước bình thường mà kỳ diệu, có thể tẩy rửa cả ngoại tại và nội tại. Vì thế, Phép Rửa là “cửa ngõ” để con người có thể được giải thoát và bước vào Cõi Sống. Trong cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô, một thủ lãnh của người Do Thái, Chúa Giêsu đã xác định: “Không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên; không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí.” (Ga 3:3 và 5) Về sự tái sinh, có ba cái Một được Thánh Phaolô đề cập: “Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa.” (Ep 4:5)

Danh xưng “Người Tôi Trung Đau Khổ” đã được dùng từ xa xưa để nói về Đức Kitô: “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng, Ta cho thần khí Ta ngự trên nó; nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân. Nó sẽ không kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng giữa phố phường. Cây lau bị giập, nó không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý. Nó không yếu hèn, không chịu phục, cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu. Dân các hải đảo xa xăm đều mong được nó chỉ bảo.” (Is 42:1-4) Chính Người Tôi Trung đó chấp nhận đau khổ nhưng không muốn người khác đau khổ, luôn chạnh lòng thương người khác, nhất là đối với những người yếu đuối, hèn mọn, đơn độc,…

Nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền luôn được Thiên Chúa coi trọng, Ngài xác định: “Ta là Đức Chúa, Ta đã gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta. Ta đã nắm tay ngươi, đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước, để mở mắt cho những ai mù loà, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm.” (Is 42:6-7) Mỗi chúng ta cũng được Thiên Chúa gọi đích danh và đặt vào một vị trí theo Thánh Ý Ngài, nhưng không phải để tự tôn hoặc ích kỷ giữ riêng cho mình, mà phải hành động tích cực, dùng những gì mình đã được Ngài trao ban để làm lợi cho tha nhân – đặc biệt là đối với những người bị áp bức, bị bóc lột, bị tước đoạt những quyền cơ bản của con người,… Công ích là ưu tiên hàng đầu.

Cả tinh thần và vật chất, mọi sự chúng ta tận hưởng đều do Thiên Chúa ban, chúng ta chẳng có gì và chẳng đáng gì mà dám vênh vang tự đắc. Thánh Vịnh gia đã nhận thức như vậy, và mời gọi chúng ta: “Hãy dâng Chúa, hỡi chư thần chư thánh, dâng Chúa quyền lực và vinh quang. Hãy dâng Chúa vinh quang xứng danh Người, và thờ lạy Chúa uy nghiêm thánh thiện.” (Tv 29:1-2) Đó là bổn phận và trách nhiệm của mọi người. Chúng ta chúc tụng Ngài thì Ngài cũng chẳng thêm được gì, nhưng chính chúng ta lại hưởng lợi ích từ việc chúc tụng đó. Thiên Chúa luôn tìm mọi cách làm lợi cho chúng ta, thật là kỳ diệu quá!

Thiên Chúa vô hình mà hữu hình, vì Ngài vẫn hiện diện trong mọi sự: “Tiếng Chúa rền vang trên sóng nước, Thiên Chúa hiển vinh cho sấm nổ ầm ầm, Chúa ngự trên nước lũ mênh mông. Tiếng Chúa thật hùng mạnh! Tiếng Chúa thật uy nghiêm!” (Tv 29:3-4) Thiên Chúa toàn năng, và chỉ có Ngài là Thiên Chúa duy nhất. Thật vậy, chính Thiên Chúa đã truyền nghiêm lệnh: “Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta.” (Xh 20:3; Đnl 5:7)

Những gì chúng ta cho là tự nhiên hoặc thiên nhiên thì đó chính là Thiên Chúa: “Tiếng Chúa lay động cả rặng sồi, tuốt trụi lá cây cao rừng rậm. Còn trong thánh điện Người, tất cả cùng hô: Vinh danh Chúa! Chúa ngự trị trên cơn hồng thủy, Chúa là Vua ngự trị muôn đời.” (Tv 29:9-10) Bổn phận của chúng ta là phải tôn thờ, cảm tạ và chúc tụng Ngài, như Đức Giêsu Kitô đã nói: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho.” (Mt 6:33) Chắc chắn Ngài chẳng để ai thua thiệt, vì Ngài rất công bằng – có tội thì sửa phạt, có công thì ban thưởng.

Ông Phêrô lên tiếng tại nhà ông Cornêliô: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa KHÔNG THIÊN VỊ người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận.” (Cv 10:34-35) Đức Giêsu nhập thể và nhập thế để “cứu những gì đã hư mất.” (Mt 18:11) Thánh Phêrô giải thích rất rõ ràng: “Người đã gửi đến cho con cái nhà Israel lời loan báo Tin Mừng bình an, nhờ Đức Giêsu Kitô, là Chúa của mọi người. Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Giuđê, bắt đầu từ miền Galilê, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng. Quý vị biết rõ: Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người.” (Cv 10:36-38)

Theo kế hoạch mầu nhiệm, trước khi Chúa Giêsu đến thế gian, ông Gioan đã được sai đến trước để chuẩn bị. Ông là người được Thiên Chúa sai đến, nhưng phong cách rất bình dân: Mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng. Có lần người ta hỏi ông là ai – Đấng Kitô, Êlia hay ngôn sứ? Cả ba lần ông đều lắc đầu từ chối, ông chỉ dám nhận mình là “tiếng người hô trong hoang địa” mà thôi. (Ga 1:20-23) Ông khiêm hạ bao nhiêu thì chúng ta cảm thấy xấu hổ bấy nhiêu, vì chúng ta chỉ là “con số không to lớn” mà dám mạo nhận mình là “cái rốn của vũ trụ.” Thảo nào người ta ngao ngán: “Điếc không sợ súng, cùi không sợ lở.”

Đề cập Đức Kitô, ông Gioan nói: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần.” (Mc 1:7-8) Ông nói rằng ông cũng không biết Đức Giêsu là ai, nhưng khi ông làm Phép Rửa cho Ngài, rồi thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Ngài, nên ông nhận biết Ngài chính là “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn.” (Ga 1:32-34) Đặc biệt nhất là có tiếng từ trời xác nhận: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.” (Mc 1:11) Thế thì chính xác tuyệt đối rồi.

Kinh Thánh cho biết: “Các việc đó đã xảy ra tại Bêtania, bên kia sông Giođan, nơi ông Gioan làm phép rửa.” (Ga 1:28) Các địa danh trong Kinh Thánh đều có thật. Sông Giođan, nơi Chúa Giêsu chịu phép rửa, (Mc 1:6-11; Mt 3:13-17; Lc 3:21-22) cách trung tâm thành phố Tibêria khoảng 10 km về phía Nam trên sông Giođan, có một địa điểm thu hút khoảng nửa triệu người hằng năm. Theo Khoa Khảo Cổ và Kinh Thánh, nơi thực sự Chúa Giêsu chịu phép rửa cách xa Yardenit cả trăm cây số, ở gần Biển Chết, thuộc lãnh thổ Giođan.

Rất bình thường đối với con sông Giođan, nhưng bỗng trở nên rất khác thường vì đó là nơi Chúa Giêsu đã chọn để ông Gioan làm Phép Rửa cho Ngài.

Nước bình thường mà kỳ diệu, rất mềm mà cũng rất mạnh, đặc biệt là không thể tách hoặc cắt được nước. Ở đâu có nước là có sự sống, người ta có thể nhịn đói chứ không thể nhịn khát, vì cơ thể chúng ta chứa tới 70% là nước, và mỗi ngày cơ thể cần khoảng 2 lít nước. Đúng là nước biểu hiện sự sống.

Đặc biệt hơn, nước biểu hiện sự xuất hiện của Thiên Chúa, chứng tỏ quyền năng của Ngài: “Tiếng Chúa rền vang trên sóng nước, Thiên Chúa hiển vinh cho sấm nổ ầm ầm, Chúa ngự trên nước lũ mênh mông.” (Tv 29:3) Với Thiên Chúa, nước cũng được Ngài coi là chất liệu quan trọng nên Ngài đã dùng nước để chứng tỏ chúng ta được tẩy sạch tội lỗi. Nước rất đặc biệt vì nước còn là chất liệu Chúa Giêsu dùng làm phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới ở Cana, (Ga 2:1-12) và cũng là chất liệu Ngài dùng để dạy “bài học phục vụ” trong Bữa Tiệc Ly – chính Ngài cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, dù biết lát nữa họ chạy trốn vì sợ liên lụy. (Ga 13:1-20) Nước còn quan trọng hơn nữa vì nước là chất liệu biến chúng ta thành con cái Thiên Chúa: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí.” (Ga 3:5) Đó chính là bí tích Thánh Tẩy, ngưỡng của đưa chúng ta vào Giáo Hội của Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu được dìm mình trong dòng nước Giođan để khởi đầu sứ vụ, dòng nước đó trở nên Dòng Tình mà Chúa Giêsu muốn tuôn đổ Lòng Thương Xót cho chúng ta, đồng thời cũng giao trách nhiệm cho mỗi chúng ta phải đắm mình trong dòng đời để phục vụ mọi người, đó cũng là phục vụ chính Ngài vậy: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân.”

Nói về nước, chúng ta thấy có điều lạ: Theo Việt ngữ, quốc gia được gọi là “nước” – nước Việt Nam. Phải chăng Việt ngữ muốn diễn tả nơi mình sống được ví như nước? Mà nước là chất liệu vô cùng cần thiết: Còn nước là còn nơi sống, mất nước là mất nơi sống. Vừa mặc nhiên, vừa minh nhiên.

Lạy Thiên Chúa nhân lành, xin giúp chúng con “biết quên mình để gặp lại chính mình,” (Kinh Hòa Bình – Thánh Phanxicô Assisi) và luôn tin nhận Đức Kitô là Đấng Cứu Độ duy nhất, biết phụng sự Ngài qua việc phục vụ mọi người theo khả năng và hoàn cảnh cụ thể. Xin giúp chúng con luôn tẩy rửa cuộc đời để xứng đáng đến gần Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

---------------------------------

 

TN 1-B131: CHÚA CHỊU PHÉP RỬA VÌ TỘI LỖI MUÔN DÂN


Lm. Inhaxiô Trần Ngà

 

Giờ đây, chúng ta hãy ngược dòng lịch sử, cùng đến bên bờ sông Gio-đan để chiêm ngắm Chúa Giê-su TN 1-B131


Giờ đây, chúng ta hãy ngược dòng lịch sử, cùng đến bên bờ sông Gio-đan để chiêm ngắm Chúa Giê-su chịu phép rửa.

Xin hãy nhìn xem:

Đấng tạo dựng vũ trụ càn khôn cao sang vô lượng, quyền phép vô song, vua chúa trần gian chỉ như cát bụi trước mặt Ngài… đang hòa mình với loài thụ tạo mọn hèn thấp kém để chờ được thanh tẩy trong dòng sông Gio-đan;

Đấng tinh tuyền, thánh thiện và rất đỗi tốt lành… đang đứng chung với những người đê hèn, tội lỗi bày tỏ lòng ăn năn sám hối;

Con Người hoàn toàn vô tội và rất cao cả ấy đã khiêm tốn nài xin một người phàm như Gioan làm phép Rửa cho mình! (Ga 3, 13).

Tại sao Chúa Giê-su lại hạ mình đến thế?

Những người thu thuế, trộm cướp, tội lỗi đến xin Gioan tẩy giả làm phép rửa cho mình vì họ là những người có tội; còn Chúa Giê-su thì có tội gì mà phải chịu phép rửa?

Chúa Giê-su chịu phép rửa không phải vì tội lỗi của Ngài mà vì tội lỗi của muôn người mà Ngài đã mang vào thân; cũng như Chúa Giê-su chịu khổ nạn quá đỗi đau thương và chịu chết thê thảm trên thập giá không phải vì tội lỗi của Ngài mà vì để đền tội thay và chết thay cho muôn người.

Sự kiện Chúa Giê-su chấp nhận chịu phép Rửa nói lên tâm nguyện Ngài sẵn sàng vâng lời Chúa Cha trong mọi sự, chấp nhận mang tội lỗi của nhân loại vào thân, sẵn sàng hy sinh mạng sống để đền tội thay cho muôn người, nhờ đó, nhân loại được giao hòa với Chúa Cha và được sống đời đời trên nơi vinh hiển…

Điều này khiến Chúa Cha rất đỗi hài lòng. Thế là các tầng trời bị đóng lại từ khi nguyên tổ phạm tội giờ được mở ra; Chúa Thánh Thần hiện xuống trên Chúa Giê-su và Chúa Cha bày tỏ niềm hoan lạc của Ngài và long trọng tuyên bố: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Ngài” (Mt 3,17).

Đây là thời khắc lịch sử hết sức trọng đại: Cửa thiên cung từ ngàn xưa đã đóng chặt lại vì tội bất phục tùng của A-đam cũ, cắt đứt mọi tương quan giữa Thiên Chúa và loài người, thì ngay trong giờ phút lịch sử này, nhờ sự vâng phục tuyệt đối của A-đam-mới là Chúa Giê-su mà cửa trời được mở ra, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên giao hoà giữa Thiên Chúa và nhân loại. Từ đây tương quan giữa Thiên Chúa  và con người được nối lại, Trời giao hoà với đất, Thiên Chúa giao hoà với con người, con người được trở về với Thiên Chúa là Nguồn Cội của mình.

Lạy Chúa Giê-su,

Hình ảnh Chúa vô cùng tốt lành thánh thiện mà lại hòa mình với các tội nhân bên bờ sông Gio-đan và khiêm tốn bước xuống dòng nước lãnh nhận phép rửa của Gioan là một lời mời gọi mỗi người chúng con phải xóa bỏ cái tôi kiêu căng tự phụ của mình để biết nhận tội và thành tâm sám hối.

Chúa đã mang lấy tội lỗi chúng con, chịu thanh tẩy và chịu chết vì chúng con thì xin cho chúng con cũng chấp nhận chịu đựng khó khăn gian khổ hằng ngày với Chúa và hợp tác với Chúa trong việc cứu rỗi các linh hồn.

---------------------------------

 

TN 1-B132: DÒNG SÔNG TRUYỀN THỐNG ĐỨC TIN


Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

 

Nổi tiếng trong Kinh Thánh, sông Giodan là dòng sông của truyền thống đức tin. Vì thế, nó trở TN 1-B132


Nổi tiếng trong Kinh Thánh, sông Giodan là dòng sông của truyền thống đức tin. Vì thế, nó trở thành dòng sông quen thuộc đối với các Kitô hữu.

Dòng sông truyền thống đức tin còn như biểu tượng, như phần thân thể của Palestine, gắn liền những sự kiện quan trọng của Kinh Thánh từ đầu lịch sử cứu độ, khi Thiên Chúa tuyển chọn dân Do thái làm dân riêng. Chẳng hạn:

– Trước ngày Sodoma, Gomora bị hủy diệt, tổ phụ Abraham chia tay cháu là ông Lot ở sông Giođan. Ông Lot đi về phía đông sông lập nghiệp (St 13,10).

– Trước khi tiến chiếm đất hứa, Israel vượt sông Giođan. Dòng sông nước lớn đến nỗi nước “tràn ra hai bên bờ”, bỗng ngừng chảy, dựng đứng như tường thành, đoàn dân vượt qua ráo chân (Gs 3,14-17).

– Dòng sông là ranh giới cản người du mục vào Canaan cướp bóc. Để tránh bị quấy nhiễu, Israel nương náu bên kia tả ngạn sông (Tl 6,33; 2Sm 17,22). Sông được xem như sự che chở hiệu quả và cần thiết (Gr 12,5; 49,19; 50,44).

– Tướng quân Naaman người Aran vâng lời tiên tri Êlisê đến Giođan tắm bảy lần. Sau bảy lần, vị tướng khỏi bệnh phong cùi (2V 5,1-19).

– Trong thị kiến, tiên tri Êdêkiel thấy sức sống mãnh liệt của Giođan. Nước sông chảy đến đâu, sự sống ở đó sinh sôi phú túc, dồi dào (Ed 47).
Giodan, sức sống cả vùng đất, đời sống cả dân tộc, biết bao câu chuyện tải đi từ đó. Đúng là dòng sông huyền thoại và thiêng thánh. Dòng sông chuyên chở truyền thống đức tin…
Khởi đầu Tân Ước, chính tại dòng sông truyền thống đức tin, Chúa Kitô khai mạc sứ vụ công khai của mình bằng nhiều nghi thức chưa từng có:

– Đứng chung trong đoàn người muốn tỏ lòng sám hối, chờ đến lượt mình chịu phép rửa, dù bản thân chính là Đấng Thánh, Đấng mà lẽ ra người đang cử hành phép rửa phải đến xin Phép Rửa.

– Không thực hiện hành vi siêu việt như ông Môisen hay ông Giôsua giơ tay rẽ nước, nhưng cùng mọi người dìm mình xuống nước.

– Thực sự đón nhận phép rửa bởi tay thánh Gioan, một người như bao người, đang cần chính mình tẩy rửa.

– Tham dự nghi thức kỳ diệu, quyền linh và ánh sáng chưa từng có: Được Thiên Chúa từ trời công khai giới thiệu và xác nhận uy hùng như tiếng sấm, giữa lúc trời xé ra: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con“.

– Cùng Cha và Thánh Thần, Chúa Kitô hiện diện trong ngày khai mạc sứ vụ trên dòng sông truyền thống đức tin còn là dấu ấn mạc khải mầu nhiệm cao trọng: Thiên Chúa Ba Ngôi Cha – Con – Thánh Thần.

– Qua việc được mạc khải long trọng về thân thế Ngôi Hai, Thiên Chúa cho thấy sứ vụ cứu độ trần thế chỉ một mình Chúa Kitô đảm nhận. Chúa Kitô chính là Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến, gánh tội trần gian và phục sinh những ai tin nhận Người trong sự sống viên mãn nơi chính cung lòng Thiên Chúa.

– Ngôi Lời, một khi trầm mình dưới dòng nước nhận lãnh phép rửa bởi con người, đã thánh hóa nước. Nước thành phương tiện thánh đưa con người qua bí tích thánh tẩy, đồng phận và cùng làm con của Thiên Chúa với Người.

– Dòng sông truyền thống đức tin, giờ đây có sự hiển linh của Ba Ngôi.
Phần những người tin Chúa Kitô, được Chúa Kitô cứu rỗi, hãy học lấy cách thức làm Thiên Chúa hài lòng của Chúa Kitô. Nhờ đó, chúng ta sẽ dễ đạt tới ơn cứu rỗi, dễ được Thiên Chúa hài lòng, dễ bước vào đời sống yêu thương vốn nội tại bền bỉ nơi lòng Thiên Chúa. Xin gợi vài bài học theo gương Chúa Kitô:

– Luôn ghi nhớ, ấp ủ lời Chúa Kitô dạy để mỗi ngày sống là sống với Lời Chúa, mỗi suy nghĩ hay hành động là những phản chiếu của Lời Chúa.

– Tin tưởng, phó thác đời ta trong tay Thiên Chúa như Chúa Kitô, để va vào hoàn cảnh nào, đều được ta đón nhận như lời ca tụng Chúa qua từng ngày sống.

– Đón nhận thánh ý Chúa dù buồn hay vui. Luôn xác nhận, chỉ thánh ý Chúa là chuẩn mực duy nhất để ta dựa vào mà phản ứng, hành động, suy tư.

– Chúa Kitô, không chỉ khiêm hạ dìm mình trong dòng nước truyền thống đức tin, Người chấp nhận đi đến cùng con đường thập giá đớn đau, tủi nhục. Ta tập sống khiêm nhường để thắng thói kiêu ngạo khiến ta xa Thiên Chúa, mất ơn cứu độ, không còn tương quan với anh chị em.

– Luôn xác tín, dòng nước truyền thống đức tin không còn là nước sông Giodan, nhưng là nước thanh tẩy trong bí tích rửa tội. Xác tín đó cho ta hãnh diện mình là con Thiên Chúa, đồng phận với Chúa Kitô. Xác tín như vậy giúp ta biết mình phải làm gì, phải sống thế nào để được Thiên Chúa hài lòng.

Ước mong ngày ta diện kiến với Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ phán bằng lời đã phán với Chúa Kitô: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con“.

---------------------------------

 

TN 1-B133: LỄ CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA.


Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 

Tiên tri Isaia đã loan báo về một người tôi tớ khiêm nhu, hiền lành và đầy lòng xót thương. Thiên Chúa TN 1-B133


Tiên tri Isaia đã loan báo về một người tôi tớ khiêm nhu, hiền lành và đầy lòng xót thương. Thiên Chúa đã chọn và rất hài lòng về người. Hơn 700 năm trước khi Đấng Cứu Thế giáng trần, Thiên Chúa đã mạc khải cho dân chúng với niềm hy vọng đón chờ ơn cứu độ. Mầu nhiệm cứu độ trải dài từ dòng dõi này đến dòng dõi khác. Lời hứa đó được thực hiện một cách tiệm tiến qua lịch sử của một dân tộc. Qua đời cha tới đời con, cho dù nhiều lần họ đã sa ngã và bội phản, Thiên Chúa luôn ưu ái dẫn dắt và hướng dẫn mở đường đưa dẫn vào ngõ hẹp của sự sống vĩnh cửu. Người tôi tớ mà tiên tri Isaia nhắc đến trong bài ca thứ nhất của Người Tôi Trung là hình bóng của Đấng sẽ được sai đến.

Người tôi tớ hiền lành, nhẫn nại và khoan dung: Cây lau bị dập, nó không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý (Is 42,3). Trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa, tiên tri Isaia đã được chọn và gọi làm ngôn sứ. Trải qua bao nhiêu đắng cay, thử thách và khổ đau, ngày giải thoát vẫn như còn trong giấc mộng. Isaia khơi dậy niềm hy vọng cho dân chúng đang sống trong lầm than chán nản. Tiên tri đã ủi an và dẫn dắt dân trở về cùng Chúa trong sự cậy trông và phó thác. Thiên Chúa sẽ không đánh phạt con dân nhưng Ngài ôm ấp yêu thương với lòng từ bi nhân hậu. Niềm hy vọng luôn là điểm tựa cho mọi nỗ lực để đạt tới cùng đích.

Thánh Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu: Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người (Mc 1, 7). Lời Thiên Chúa hứa thuở xưa, nay đã được thực hiện. Đấng Cứu Thế xuất hiện như một con người bình thường nhưng đầy quyền năng. Ngài được sinh ra, lớn lên và trưởng thành. Ngài cùng chia sẻ cuộc sống với mọi người trong xóm làng, cùng đồng bàn với những người bà con thân bằng quyến thuộc và cùng lao động kiếm sống qua ngày. Ngài xuất hiện đó nhưng chẳng mấy ai nhận biết Ngài. Ngài âm thầm đi vào đời và chia sẻ cuộc sống nghèo nàn đạm bạc với mọi người. Ngài kiên nhẫn đợi chờ cho tới tuổi trưởng thành, tuổi tam thập như lập, để xuất hiện rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Gioan Tẩy Giả đã được nhận sứ mệnh làm tiền hô cho Ngài.

Gioan Tẩy Giả khiêm hạ tự nhận thân phận là người dọn đường và sửa đường. Gioan đã làm chứng thật: Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần (Mc 1, 8). Gioan kêu gọi sự sám hối vì Nước Trời đã gần kề. Gioan đã làm nghi thức qua phép rửa thống hối. Nhiều người đã ăn năn cải đổi đời sống và chạy đến với ông để xin lãnh nhận phép rửa. Tại bờ sông Giođan, với một thái độ khiêm nhu tự hạ, Chúa Giêsu xuất hiện xếp hàng chờ đợi nhận lãnh phép rửa của Gioan. Gioan đã nhận biết Ngài qua sự mạc khải từ trời cao: Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1, 10-11).

Chúa Giêsu hạ mình lãnh nhận phép rửa sám hối của Gioan tẩy giả, Chúa đã nêu tấm gương của sự khiêm tốn tới tận cùng. Chính Chúa Giêsu có quyền năng tẩy sạch tâm hồn và biến đổi chúng ta trở nên con cái của Thiên Chúa. Thánh Maccô viết: Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần (Mc 1, 8). Chúa Giêsu đã sai các môn đệ ra đi làm phép rửa cho mọi người: Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (Mt 28, 19).

Qua hai ngàn năm, Giáo hội tiếp tục thi hành lệnh truyền của Chúa Giêsu, đã có hàng hàng lớp lớp con người nhận lãnh ơn phép Rửa tội. Họ đã trở thành các Kitô hữu, được tắm gội trong ân sủng của Thiên Chúa Ba Ngôi. Bí tích Rửa tội là cửa ngõ dẫn chúng ta bước vào con đường cứu độ. Khi được lãnh nhận ơn thánh hóa, được sạch tội tổ tông, các tội riêng và được trở nên thành viên của Nhiệm Thể Chúa Kitô và sau cùng được lãnh ơn cứu độ. Qua Phép Rửa tội, ta được sinh lại làm con Chúa và con Hội Thánh. Chúng ta tôn thờ một Thiên Chúa, giữ một đức tin và cùng một niềm hy vọng.

Khi đã lãnh nhận bí tích Rửa tội, mỗi người chúng ta đều có bổn phận sống đạo và làm nhân chứng cho Chúa Kitô giữa dòng đời. Mang danh là Kitô hữu, chúng ta có Chúa Kitô hiện diện trong đời sống. Chúng ta đặt niềm tin tưởng nơi Chúa Kitô, Ngài là đầu nhiệm thể và chúng ta là các chi thể. Các chi thể phải luôn liên kết với đầu để có được sự sống dồi dào và viên mãn. Xin Chúa Kitô kết hợp chúng con nên một trong Chúa và cùng hợp nhất với nhau trong một Thánh Thần, một phép rửa và một tình yêu. Amen.

---------------------------------

---------------------------------

 

TN 1-B134: Chúa Giêsu chịu phép rửa


--Lm. Ignatiô Trần Ngà

 

Người đời thường chạy tội, đổ lỗi cho người khác, còn Chúa Giêsu lại sẵn sàng gánh tội cho TN 1-B134


Chủ đề: Người đời thường chạy tội, đổ lỗi cho người khác, còn Chúa Giêsu lại sẵn sàng gánh tội cho hết mọi người.

Một trong những thói xấu nghiêm trọng gây thiệt hại không nhỏ cho xã hội là thói đổ lỗi cho người khác, không chịu nhận trách nhiệm về mình.

Căn bệnh nầy đã xuất hiện ngay từ khởi thuỷ loài người.

Sau khi hai ông bà nguyên tổ phạm tội ăn trái cấm bất tuân lệnh Chúa (St 3, 1-18), Thiên Chúa đến hạch tội A-đam: "Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không?"

A-đam bèn đổ lỗi cho cả Thiên Chúa lẫn E-và: Tại vì "người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con mới ăn." Nói như thế, A-đam cho rằng cả Chúa cũng có trách nhiệm trong vụ việc nầy, tại vì Chúa đã trao người đàn bà nhẹ dạ nầy cho ông; giá như Chúa không dựng nên E-và và trao nàng cho Ađam thì đâu đến nỗi nầy).

Bấy giờ Chúa quay ra hỏi tội E-và: "Ngươi đã làm gì?" Người đàn bà liền trút tội cho con rắn: Tại vì "con rắn đã lừa dối con, nên con đã ăn". (St 3, 9-13)

Có vô số dê tế thần để người ta trút hết tội lỗi lên đầu chúng: tại ông, tại bà, tại trời, tại đất, tại gió, tại mưa... Bao nhiêu hậu quả và trách nhiệm đáng phải chịu vì lầm lỗi của mình, người ta đùn đẩy qua cho người khác. Tìm đâu ra con người dũng cảm dám đứng ra nhận lấy phần lỗi của mình và gánh lấy hậu quả do mình gây ra?

Trong khi đó, mặc dầu Chúa Giêsu được Gioan giới thiệu là Đấng quyền thế lớn lao, thậm chí Gioan không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người; là Đấng sẽ cử hành một phép rửa ngàn lần cao trọng hơn phép rửa của Gioan - "Phần tôi, tôi rửa anh em trong nước; còn Người, Người sẽ rửa anh em trong Chúa Thánh Thần" - vậy mà Chúa Giêsu lại đến với Gioan như một người tội lỗi, chăm chú nghe Gioan rao giảng, hoà mình với những người thu thuế, những tên cướp của giết người, những hạng người đàng điếm, côn đồ và với bao nhiêu người tội lỗi khác để chờ đến phiên mình bước xuống dòng sông Gio-đan, nhờ Gioan làm phép rửa cho.

Nhưng, Chúa Giêsu là Đấng không hề vướng tội, thì sao lại phải chịu phép rửa bởi Gioan?

Chúa Giêsu chịu phép rửa không phải vì tội lỗi của Người nhưng vì tội lỗi của nhân loại mà Người đã mang vào thân. Người là "Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta" (2Cr 5, 21). Người đến làm con "Chiên của Thiên Chúa" gánh lấy tội lỗi thế gian (Ga 1,29) thay cho các con chiên đền tội thời Cựu Ước.

Chính vì mang lấy tội lỗi nhân loại vào thân, Chúa Giêsu trở thành tội nhân, nên Người phải hoà mình với những tội nhân khác để cho ngôn sứ Gioan làm phép rửa cho Người.

Chính vì mang lấy tội lỗi nhân loại vào thân, Người đã bị kết án chết thảm thương trên thập giá để đền thay tội lỗi muôn người. "Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá. Để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em được chữa lành". (1 Pr 2, 24).

Cao đẹp thay, quảng đại thay hành vi hạ mình gánh lấy tội lỗi nhân loại của Chúa Giêsu. Người mãi mãi là gương mẫu của chúng ta và đáng cho chúng ta khâm phục tôn thờ.

Lạy Chúa Giêsu,

Biết đến bao giờ con mới chừa bỏ được thói trút tội lên đầu người khác và chối bỏ trách nhiệm của mình?

Biết bao giờ con mới có đủ bản lãnh và can trường để đứng ra chịu trách nhiệm về những thiệt hại mình đã gây ra?

Ước gì tấm gương khiêm nhường của Chúa hạ mình xuống nhận phép rửa dưới dòng sông Gio-đan vì tội lỗi nhân loại sẽ luôn là động cơ giúp con sửa chữa thói chạy tội vô trách nhiệm của mình.

-------------------------------

 

TN 1-B135: Người liền thấy trời mở ra

 

Trong ngày kỷ niệm Chúa chịu phép rửa trở về, đã đến bờ sông Giodan để xin thánh Gioan Tẩy TN 1-B135


Trong ngày kỷ niệm Chúa chịu phép rửa trở về, đã đến bờ sông Giodan để xin thánh Gioan Tẩy giả làm phép rửa cho mình. Bài Tin Mừng hôm nay chính là kể lại câu chuyện Chúa Giêsu chịu phép rửa của Gioan. Thánh Gioan chính là vị đại ngôn sứ được Thiên Chúa sai đi trước dọn đuờng cho Đấng Cứu Thế. Ông đã sẳn sàng lãnh nhận sứ mạng Tiền hô (đi trước để báo – để dọn đường), nên ông làm phép rửa kêu gọi dân chúng ăn năn sám hối. Phép rửa của Gioan không có giá trị thanh tẩy, nghĩa là không xóa được tội lỗi; nó chỉ nói lên tâm tình của người lãnh nhận, lòng chân thành hoán cải, muốn dứt bỏ tội lỗi. Chính vì lẽ đó, khi Gioan thấy Chúa đến xin chịu phép rửa, ông muốn từ chối: “chính tôi là người cần được Ngài rửa cho” (Mt 3, 14). Nhưng Chúa bảo Gioan cứ làm như thế để trọn lẽ công chính. Lúc đó Gioan mới vâng lời. Đang khi Chúa chịu phép rửa, tầng trời mở ra; Chúa Thánh Thần ngự xuống và cả tiếng Chúa Cha phán trong đám mây, như ta vừa nghe. Đây chính là đề tài mà ta cùng suy niệm trong chúa nhật hôm nay…

a/. Câu chuyện của bài Tin Mừng hôm nay có hai điều làm ta phải suy nghĩ:

* Chúa Giêsu vô tội, tại sao phải chịu phép rửa? Giáo lýcông giáo dạy: Chúa Giêsu có hai bản tính: vừa là TC vừa là con người nữa. Chúa sanh ra làm người y như ta, dù vô tội, Chúa vẫn muốn chịu phép rửa của Gioan để tự đồng hóa, để nên ngang hàng như tội nhân, vừa nêu gương khiêm nhường, vừa nhắc nhở ta khiêm tốn ăn năn vì tội lỗi của chính mình. Đây chính là một tấm gương cao cả, vì con người chúng ta tội lỗi ngập tràn, nhưng thường chúng ta lại không khiêm tốn ăn năn, trong khi Chúa Giêsu là Đấng vô tội lại hạ mình ngang hàng với tội nhân. Thánh Phaolô nói: “Chúa Giêsu dù là TC,..đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang TC, mà mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống hệt một người phàm.”(Phil 2, 7). Về điểm này, thực ra, chúng ta không làm sao hiểu nổi tình yêu của TC dành cho con người chúng ta.

* Đang khi Chúa chịu phép rửa, có Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống và có cả tiếng Chúa Cha phán từ trong áng mây:

Chúng ta nên nhớ, đây là lúc khởi đầu cuộc đời công khai rao giảng của Chúa; chính vì thế khi Người chịu phép rửa, Phúc âm ghi lại: có Chúa Cha chứng giám: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”, có cả Chúa Thánh Thần hiện diện nữa. Đây chính là lúc quan trọng. Chúng ta biết Chúa Giêsu không làm bất cứ điều gì mà không theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Người cũng không làm bất cứ điều gì, mà không theo ý Chúa Cha; nghĩa là Chúa luôn vâng phục Chúa Cha, trong sự hợp nhất với Chúa Thánh Thần. Việc Chúa khởi đầu ra đi rao giảng, vẫn luôn có Ba Ngôi hiện diện và chứng giám. Chính Chúa Cha chúc lành, và Chúa Thánh Thần ban sức sống. Đó chính là mầu nhiệm Ba Ngôi hiệp nhất. Thánh Phaolô đã nói: “Người đã vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá.” (Phil 2, 8). Ta thấy trong đời Người, chỉ có một lần Chúa Giêsu nan nỉ Chúa Cha, đó là trong vườn Giếtsêmani: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin Cha cho Con khỏi uống chén này.” Nhưng rồi sau đó Chúa lại nói: “nhưng xin đừng theo ý Con, chỉ xin theo ý Cha mà thôi.” (Mc 14, 36).

b/. Câu chuyện: Thánh Giêrađô, là người Ý, tu sĩ của Dòng Chúa Cứu thế (1726-1755). Thánh nhân được coi là một tấm gương thánh thiện, vâng lời tuyệt hảo. Một hôm cha bề trên có việc sai thầy Giêrađô sang thành lân cận. Vì đường xa, nên cha bề trên bảo thầy: “nhớ dắt lừa theo mà đi”, có ý cho thầy đở mệt nhọc, lại vừa đi mau về mau nữa. Thầy đã ra đi, nhưng mấy hôm sau mới về tới nhà. Cha bề trên liền hỏi: “Bộ thầy không đi bằng lừa sao?” Giêrađô trả lời: “Dạ có.” “Thế sao thầy về trể vậy?” “Dạ vì cha bề trên bảo con dắt lừa theo, nên con dắt mà không có cỡi, nên đi hơi lâu.” Cha bề trên cười xòa, nhưng cũng hiểu ra thầy muốn làm một việc hãm mình, để dâng cho Chúa. (Lm Hồng Phúc, dcct)

Ngày nay, nếu có một tu sĩ nào mà cư xử như thế, ta sẽ cho là điên, là “mát”, có khi còn đuổi không cho ở trong nhà tu nữa; nhưng ta thử nhìn lại: coi chừng Chúa Giêsu có khi còn bị coi là khờ, là “mát” hơn cả thánh Giêrađô nữa. Ở đây, người ta vẫn thắc mắc: Chúa Giêsu đã vô tội, vậy mà “mắc mới” gì phải xin thánh Gioan rửa cho mình? Dưới cái nhìn kiêu căng, không khiêm tốn tự bản chất, người ta khó mà hiểu được việc làm của Chúa Giêsu.

c/. Gợi ý sống và chia sẻ:

Chúa Giêsu, dù vô tội vẫn đến xin thánh Gioan làm phép rửa cho mình, đây là một mẫu gương khiêm nhường cao cả. Phần chúng ta là con người, với muôn tội lỗi ngập tràn, thực ra ta có đủ khiêm tốn nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình, nhất là ta có đủ khiêm tốn đến tòa cáo giảng khi mình có tội không?

-------------------------------
 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây