Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 3-B Bài 101-140: Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm
------------------------------------------ Phúc Âm: Mc 1, 14-20: “Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Sau khi Gioan bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa, Người nói: “Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm”. Ðang lúc đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy Simon và em là Anrê đang thả lưới xuống biển, vì các ông là những người đánh cá. Chúa Giêsu bảo các ông: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người”. Lập tức các ông bỏ lưới theo Người. Ði xa hơn một chút nữa, Người thấy Giacôbê con ông Giêbêđê và em là Gioan đang xếp lưới trong thuyền, Người liền gọi các ông. Hai ông bỏ cha là Giêbêđê ở lại trên thuyền cùng với các người làm công, và đi theo Người. - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------ Mục lục:
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại hai sự việc Chúa đã làm vào lúc khởi sự cuộc đời công khai của Người TN 3-B101
A. Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại hai sự việc Chúa đã làm vào lúc khởi sự cuộc đời công khai của Người.
1. Tuyên bố về nội dung sứ vụ của Ngài nơi trần thế. 2. Gọi 4 môn đệ đầu tiên.
Nếu chỉ nhìn một cách thoáng qua thì xem ra như hai sự việc này chẳng có liên hệ gì với nhau. Nhưng nếu nhìn kỹ một chút thì chúng ta sẽ thấy chúng có liên hệ rất mật thiết
B. Nếu nghiên cứu Tin Mừng mừng một cách nghiêm chỉnh thì chúng ta sẽ thấy Chúa xuất hiện không như một chuyên viên làm phép lạ.
Những phép lạ được ghi lại trong Tin Mừng của Marcô rất ít nhưng những người được thụ hưởng phép lạ của Chúa thì Marcô nói tới một con số rất nhiều.
Mục đích quan trọng nhất và chính yếu nhất trong cuộc đời của Chúa là loan báo cho con người một Tin mừng. Và Tin Mừng này có một nội dung rất rõ rệt đó là Nước Trời, nước Thiên Chúa.
Với bài Tin Mừng ngày hôm nay Chúa nói: "Nước trời đã gần đến"(Mc 3,2)
Vào khoảng giữa cuộc đời công khai của Chúa thì Chúa lại bảo: "Nước Trời đang ở giữa anh em"(Lc 17,19)
Trong Luca cuối đoạn 17 Chúa lại khẳng định: "Nước Trời ở trong lòng anh em" (Lc 17,21)
Tại sao lại có sự khác biệt trong ba lời loan báo như thế?.
Rõ rệt là Chúa muốn nói đến những kết quả mà lời rao giảng của Chúa đã đạt được. Những người được nghe rao giảng đã dần dần hiểu ra rằng Nước Trời mà Chúa rao giảng không phải là một nước theo kiểu của trần thế mà là một thực tại cao cả hơn, siêu việt hơn. Nước đó sẽ đem lại cho con người công lý, sự an bình - tình thương - và hy vọng...nếu con người trở thành công dân trong nước ấy.
* Nhưng để trở thành một người công dân của Nước Trời thì con người phải làm gì?. Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đưa ra 2 con đường: Sám hối và tin vào Tin Mừng.
+ Sám hối là gì thì trong suốt mùa vọng vừa qua, chúng ta đã nghe Gioan Tẩy giả nói.
- Sám hối đơn thuần không phải chỉ là một tác động đau lòng ăn năn về những lỗi lầm tội lỗi của mình. Nếu chỉ dừng lại ở đó thì việc sám hối mới chỉ là một hành vi có tính cách tiêu cực. Sám hối như thế chưa phải là sám hối của Tin Mừng.
- Sám hối theo tinh thần của Tin Mừng còn phải là một cuộc quay trở về với Thiên Chúa. Tin Mừng dùng chữ metaloia - một sự trở về sau khi đã bỏ ra đi giống như người con hoang đàng trong Tin Mừng của Luca.
+ Thêm vào đó hay xa hơn thế là Tin vào Chúa.
- Tin không chỉ là một hành vi chấp nhận một mớ những chân lý của Chúa. Tin như thế chưa phải là tin đích thực.
- Tin còn phải là một cái gì hơn nữa. Tin là đi theo Chúa. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ I bảo:"Tin là liều mạng theo Chúa"
Con đường theo Chúa không phải là dễ dàng. Chúa Giêsu đã diễn tả con đường khó khăn này bằng một khẳng định làm cho nhiều người cảm thấy phải sợ: "Ai muốn theo Tôi mà không từ bỏ cha mẹ, nhà cửa, vợ con và cả mạng sống mình thì không xứng đáng là môn đệ của Tôi".(Lc 14,26) Đòi hỏi gắt gao thật. Một cách nào đó nó cho chúng ta thấy tích cách nghiêm chỉnh của vấn đề.
+ Chúng ta cứ nhìn vào cuộc đời của 4 môn đệ đầu tiên của Chúa chúng ta sẽ thấy điều đó.
- 4 môn đệ mà Tin Mừng hôm nay kể tên là những môn đệ đặc biệt. Ngoại trừ Andrê, còn thì ba người kia là Phêrô, Gioan và Giacôbê là 3 môn đệ có thể nói là "ruột" của Chúa. Ba người này gần gũi Chúa một cách đặc biệt. Chúa cũng tỏ ra ưu ái cách riêng với bộ ba này.
- Thế nhưng thử hỏi con đường theo Chúa đối với họ có dễ dàng hay không?
Tin Mừng cho chúng ta thấy con đường theo Chúa thực không dễ dàng chút nào cả. Có rất nhiều trường hợp Chúa buồn với bộ ba này.
Lúc đầu khi mới theo Chúa, cái chất "người" trong họ còn rất cao. Chúa phải rất vất vả lắm mới cải tạo được họ. Đôi khi Chúa cũng cảm thấy buồn vì họ.
* Gioan và Giacôbê thì Chúa gán cho họ cái biệt danh là "con của sấm sét".
* Còn Phêrô thì có lần Chúa đã rủa là "Đồ Satan".
- Con đường Chúa chinh phục những con người này quả là một quá trình nhọc mệt và vất vả. Có lần Chúa đã phải than:"không biết Thầy còn phải ở với chúng con cho đến bao giờ nữa?"(Mt 17,17)
- Bằng việc kêu gọi họ Chúa đã làm cho các môn đệ của Chúa dần dần biết lìa xa đầu óc trần thế. Nghiên cứu Tin Mừng chúng ta sẽ thấy rõ điều đó.
- Rồi bằng cuộc sống cũng như lời dậy nhất là bằng chính cái chết và sự phục sinh của Ngài, Ngài đã làm cho họ thuộc hẳn về Ngài để cuối cùng họ đã liều mạng vì Ngài, dám chết cho Ngài.
Như vậy chúng ta thấy con đường mà các môn đệ của Chúa đi vào để trở thành những công dân ưu tú của Nước trời, làm tông đồ của Chúa không phải là con đường nào xa lạ. Đó cũng là con đường có tên là sám hối và Tin vào Chúa. Các Tông đồ đã xoay lưng lại với danh - lợi - thú của của trần gian để tìm đến với Chúa, quay về với Chúa. Và sau khi đã quay về với Chúa họ đã để cho Chúa biến đổi cuộc đời của họ, làm cho họ trở nên những con người mới -những con của Thiên Chúa. Và bằng đời sống dấn thân quảng đại với niềm tin yêu vô hạn vào Chúa họ đã trở thành những chứng nhân sống động cho Ngài....và họ đã được lịch sử ca ngợi là những con người "đã làm thay đổi cả lịch sử nhân loại và làm cho bộ mặt của địa cầu đẹp hơn".
C. Vâng kính thưa anh chị em,
Đó là câu chuyện của ngày xưa...nhưng xưa không có nghĩa là nó chỉ còn tồn tại như một kỷ niệm mà như một tấm gương cho hậu thế. Giáo Hội đã rất có lý khi nói rằng: "Các tông đồ là nền tảng của Giáo Hội". Đây không phải là một nền tảng bằng đá, bằng bêtông cốt sắt mà là bằng cuộc đời và sự nghiệp các Ngài để lại. Cuộc đời của các tông đồ của Chúa Giêsu vẫn còn là tấm gương cho những thế hệ tiếp theo, mai sau và mãi mãi. Cuộc đời các Ngài vẫn còn là tấm gương cho chúng ta. Các Ngài đã cho chúng ta biết thế nào là hy sinh, thế nào là quên mình, thế nào là từ bỏ, thế nào là tin, thế nào là một cuộc đời có ý nghĩa. Các Ngài cũng dạy cho chúng ta biết làm cách nào để "cướp" được Nước trời. Đó chính biết liều mạng để đi theo Chúa.
Vào một buổi chiều năm 1953 các ký giả và một số nhân viên chính phủ tụ tập nhau lại tại một nhà ga xe lửa ở Chicago để chào mừng người vừa được giải thưởng Hòa bình Nobel năm đó trở về quê quán của mình.
Người vừa xuống khỏi xe là một người đàn ông to lớn, tóc ngắn, chòm râu cắt rất gọn ghẽ.
Các máy hình chớp liên hồi. Còn các nhân vật cao cấp của thành phố thì mở rộng vòng tay chuẩn bị đón chào người con yêu quí của quê hương.
Người được giải Nobel đưa tay chào mọi người và rồi ngay lâp tức ông đưa mắt hướng về hướng bên phải của sân ga. Sau đó ông xin kiếu mọi mọi người vài phút rồi đi thẳng về hướng đó. Mọi người đều nghĩ là chắc ông để quên một cái gì chăng.
Ông băng qua đám đông đi thẳng đến chỗ một người đàn bà lớn tuổi đang khệ nệ với hai cái "valises" nặng hai bên. Ông giơ tay đỡ lấy một cái, mỉm cười với bà và dẫn bà ra một chiếc xe búyt gần đó. Sau khi giúp người đàn bà lên xe xong, ông chúc bà thượng lộ bình an. Rồi quay lại với những người đang chờ chào đón ông, ông nói với họ: "Xin lỗi quí vị vì đã bắt quí vị phải chờ đợi"
Người mà tôi vừa nói đó là Bác sĩ Albert Albert Schweitzer, một nhà truyền giáo nổi tiếng đã dành cả cuộc đời của mình để phục vụ những người nghèo tại Phi châu. Chính vì những phục vụ vô vị lợi và cao cả của ông mà ủy ban Nobel đã quyết định trao giải thưởng Nobel Hoà bình năm đó cho Ông.
Chứng kiến cử chỉ bình thường nhưng cũng rất cao thượng đó, một người trong ban tổ chức lễ đón tiếp đã nói với các ký giả như thế này "Đây là lần đầu tiên tôi thấy một bài giảng biết đi".
Con người luôn khao khát đi tìm hạnh phúc. Có người tưởng rằng hạnh phúc là một cái gì đó thật là vĩ đại TN 3-B102
Con người luôn khao khát đi tìm hạnh phúc. Có người tưởng rằng hạnh phúc là một cái gì đó thật là vĩ đại, họ mải mê và gắng tìm nó để rồi xa vào cái vòng luẩn quẩn mà chẳng bao giờ mãn nguyện với những gì mình có.
Thực ra, hạnh phúc luôn tiềm ẩn trong cuộc sống của chúng ta, hạnh phúc có thể ở rất xa nhưng cũng có hạnh phúc đang ở rất gần mà chúng ta lại không biết. Hạnh phúc là chỉ cần ta hài lòng về cuộc sống hiện tại sẽ làm cho tâm hồn hạnh phúc.
Khi tôi yêu tôi thấy mình đang hạnh phúc. Khi tôi cười tôi thấy mình đang hạnh phúc. Khi tôi đói, tôi được ăn thì tôi thấy mình đang hạnh phúc. Khi tôi giúp cho ai đó việc gì tôi thấy mình hạnh phúc. Khi tâm hồn mãn nguyện thì khi đó là hạnh phúc.
Vì thế hạnh phúc không phải tìm ở đâu xa mà hạnh phúc vẫn đang quanh quẩn bên chúng ta.
Hôm nay Chúa Giê-su loan báo cho chúng ta một tin vui như tóm lược tất cả: “Nước Trời đã gần bên. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” (Mc 1:14)
Nước Trời là vườn hạnh phúc đang ở ngay đây, nơi có Chúa hiện diện. Nước Trời là bến bờ hạnh phúc không ở đâu xa mà nằm trong chính bản thân của Con Thiên Chúa làm người. Đón nhận Ngài là đón nhận niềm vui của sám hối, của canh tân, của sự đổi đời lên tốt hơn.
Điều quan yếu là có Chúa cùng đồng hành thì hành trình cuộc đời không lẻ loi, không đơn độc. Có Chúa thì không sợ gian khó, không sợ thất bại vì quyền năng Ngài sẽ nâng đỡ và hộ phù chúng ta. Miễn là chúng ta hãy để cho Ngài làm chủ cuộc đời chúng ta.
Các môn đệ đầu tiên đã cảm nghiệm những giây phút thật ngọt ngào hạnh phúc khi được sống bên Chúa. Các ngài ngất ngây khi thấy biết bao việc lạ lùng mà Thầy Giê-su đã làm. Đi bên Chúa các ngài cảm nhận được tình Chúa dành cho mình thật gần gũi như người bạn có thể tâm sự, chia sẻ, hàn huyên. Đi bên Chúa các ngài học được nhiều bài học của phục vụ, của dấn thân vô vị lợi. Phục vụ đến quên cả bản thân mình là Thầy, là Chúa mà vẫn cúi xuống rửa chân cho các môn đệ.
Năm nay với chủ đề mục vụ “đồng hành cùng gia đình trẻ” vẫn là lời loan báo tin mừng cho các gia đình là “Nước Trời đã đến gần”. Tin mừng nằm trong chính bản thân Chúa Giê-su, thế nên hãy đón nhận Chúa vào gia đình mình. Có Chúa niềm vui sẽ nhân lên. Có Chúa mọi ưu sầu lắng lo sẽ tan biến vì Ngài sẽ giúp chúng ta vượt qua. Có Chúa gia đình sẽ hạnh phúc, vì Ngài sẽ dạy vợ chồng biết phục vụ nhau theo gương Chúa Giê-su là Thầy, là Chúa mà còn rửa chân cho các con thì các con cũng hãy rửa chân cho nhau.
Nhiều người đã quên sự hiện diện của Chúa nên họ vẫn mang tâm trạng thất vọng chán chường khi gặp khó khăn. Nhiều người đã quên sự hiện diện của Chúa nên gia đình vẫn chưa vượt qua những giận hờn, ghen ghét, làm cho cuộc sống chung ngột ngạt và khổ đau. Nhiều người đã cố tình gạt Chúa ra ngoài để tiếp tục sống trong tội lỗi gây nên những khổ đau cho người thân và gia đình.
Chúa Giê-su hôm qua và hôm nay vẫn là niềm vui và hạnh phúc cho cuộc đời chúng ta. Đón nhận Ngài về nhà mình là để từ nay Chúa cùng đồng hành với chúng ta. Có Chúa mọi ưu sầu sẽ tan biến. Vì xưa Chúa đã nói: “Hãy đến với Ta hỡi những ai mang gánh nặng nề Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho”.
Xin Chúa mở con mắt đức tin để chúng ta luôn thấy Chúa trong mọi sự để luôn hạnh phúc bình an, Vì có Chúa là chỗ tựa nương là thành lũy chở che chúng ta. Amen Lm.Jos Tạ duy Tuyền
Cả ba bài đọc trong Thánh Lễ Chúa nhật hôm nay đều mời gọi ta sống tâm tình sám hối. Sám hối TN 3-B103
Cả ba bài đọc trong Thánh Lễ Chúa nhật hôm nay đều mời gọi ta sống tâm tình sám hối. Sám hối bởi lẽ Nước trời đã đến gần rồi.
Thánh Maccô cho ta thấy: Sau khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giêsu đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Người nói: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.”
Mang trong mình thân phận của con người để rồi phạm tội là điều dễ hiểu. Thế nhưng, dù yếu đuối, dù tội lỗi nhưng biết sám hối sẽ đón nhận được ơn tha thứ từ Thiên Chúa.
Nhớ lại hình ảnh của ông Giôna ngày xưa. Giôna được Chúa ban cho ơn làm ngôn sứ, ơn nói lời Thiên Chúa với dân.
Đức Chúa phán với ông Giôna rằng: “Hãy đứng dậy, đi đến Ni-ni-vê, thành phố lớn, và hô cho dân thành biết lời tuyên cáo Ta sẽ truyền cho ngươi.”
Nghe lời Thiên Chúa, ông Giôna đứng dậy và đi Ninivê, như lời Đức Chúa phán. Ninivê là một thành phố cực kỳ rộng lớn, đi ngang qua phải mất ba ngày đường. Ông Giôna bắt đầu vào thành, đi một ngày đường và công bố: “Còn bốn mươi ngày nữa, Ninivê sẽ bị phá đổ.”
Sau khi nghe lời iôna, dân Ninivê tin vào Thiên Chúa, họ công bố lệnh ăn chay và mặc áo vải thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ. Và rồi Thiên Chúa thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường gian ác mà trở lại, Người hối tiếc về tai hoạ Người đã tuyên bố sẽ giáng trên họ, và đã không giáng xuống nữa.
Hiệu quả lời sám hối quá nhãn tiền. Chính nhờ vì sám hối mà dân đã được thoát tai họa.
Lời mời gọi sám hối xưa kia của Giôna cũng như Chúa Giêsu, nhiều người trong chúng ta nghe xong và sẽ nói: "Biết rồi! Khổ lắm! Nói mãi!"
Nghe cũng có lý bởi lẽ nghe nhiều rồi và thậm chí nghe quá nhiều! Khổ quá! Nói mãi đi thôi! Đó chính là tâm trạng thường tình của chúng ta. Thế nhưng, trong lắng đọng của cuộc đời, trong những biến cố của thực tại cuộc đời ta nhìn thấy những cái chết "bất ưng" ngay bên cạnh ta, ngay trong đời thường của ta.
Cách đây không lâu, một Cha dòng Đa minh trên con đường đưa các bạn đi dự đại hội giới trẻ ở Thái Lan khi Ngài đang làm mục vụ tại Thái Lan thì ngài tử nạn. Chuyến đi dự đại hội giới trẻ đó không ai ngờ rằng đó chính là chuyến đi cuối cùng của đời Ngài.
Rồi cha Đa Minh ở Vũng Tàu cũng thế! Không ai ngờ rằng chiều thứ Năm hôm ấy chính là chiều thứ Năm cuối cùng của cuộc đời dương thế của Ngài. Ngài đã ra đi vĩnh viễn giữa dòng nước xoáy. Chuyến đi của Ngài không ai ngờ đến từ gia đình cho đến những người thân thương và giáo dân nơi Ngài đang làm mục vụ.
Và rồi, Cha Giuse ở Thanh Hóa cũng thế! Sau Giáng Sinh vài ngày, Ngài cùng cha bạn đi công việc. Vừa đến ngã tư gần nhà gặp phải một chiếc xe để rồi sau sự va chạm đó Ngài ra đi.
Cuộc đời là như vậy, hành trình sống của con người là như vậy. Có những cái chết bất ngờ mà không ai bao giờ ngờ đến.
Bên cạnh những cái chết "bất ưng" đó còn có những cái chết đến với con người do tuổi già, do bệnh tật.
Trưa ngày 12 tháng 1, cha của một người bạn qua đời sau nhiều ngày chống chọi với căn bệnh ung thư quái ác. Và, trước đó ít ngày, phu quân của ca sĩ Khánh Ly đã ra đi vĩnh viễn cũng vì căn bệnh ung thư.
Theo chương trình, 13 tháng 1 Thánh Lễ hành hương ở Trung Tâm Hành Hương Thánh Mẫu Tà pao ca sĩ Khánh Ly sẽ hát Thánh Ca trong Thánh Lễ đó. Thế nhưng chương trình về lại quê hương của bà và chồng bà phải gác lại vì sự ra đi xem ra là đột ngột nhưng được biết trước do đau bệnh.
Thế đó, trong con người, trong cơ thể của ta có thể là khỏe mạnh đấy nhưng không ai ngờ được căn bệnh và cái chết đến bất ngờ đến mức nào.
Một chàng thanh niên ở Bình Dương đang đi làm bình thường và khỏe mạnh. Và rồi anh đau đầu. Gia đình đưa vào Chợ Rẩy thì anh bị khối u trong não đến giai đoạn cuối. Anh ra đi ở cái tuổi còn quá trẻ.
Cô bé học trò 12 tuổi vì không thuộc bài để rồi cô giáo đánh vài roi nhắc nhở. Không ngờ rằng với cái roi đầu tiên đã làm cho cô bé học trò bị ngất đi và ra đi vĩnh viễn. Tiền sử bệnh án của cô bé học trò theo như gia đình cho biết là cô bé bị động kinh. Sau đó, gia đình hoàn toàn bãi nại cho nguyên nhân gây ra cái chết từ cô giáo.
Tất cả đều không ai muốn và ngoài ý muốn của con người. Thế nhưng dù muốn dù không con người cũng phải đành bất lực trước cái chết. Dù có tiền hay không có tiền, dù ước muốn hay không ước muốn thì đến lúc nào đó con người cũng phải ra đi theo kỳ hạn của vòng sinh tử của cuộc đời. Có một điều là không ai có thể biết trước được ngày nào đó là ngày cuối cùng của cuộc đời mình để rồi Thiên Chúa đến như Chúa nói là như kẻ trộm.
Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta thật chân tình trong thư gửi giáo đoàn Côrintô: Thưa anh em, tôi xin nói với anh em điều này: thời gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ nay những người có vợ hãy sống như không có; ai khóc lóc, hãy làm như không khóc; ai vui mừng, như chẳng mừng vui; ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả; kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng. Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi.
Đúng như vậy vì ngày mỗi ngày ta thêm một tuổi nghĩa là ngày mỗi ngày ta gần đất xa trời hơn, ta gần với cái chết hơn.
Thánh vịnh mời gọi ta rất rõ ràng:
“Xin dạy con biết đếm tháng ngày mình sống Ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan” (Tv 89,12)
Vâng! Xin Chúa cho chúng ta khôn ngoan tỉnh táo để chúng ta đếm tháng ngày chúng ta sống hầu mong tâm trí được khôn ngoan.
Sự khôn ngoan mà Thánh Vịnh nói đó chính là khôn ngoan theo kiểu của Thiên Chúa chứ không phải khôn ngoan theo kiểu người đời. Kiểu người đời khôn ngoan là thu vén cho đầy túi tham, là tích lũy cho thật nhiều của cải vật chất. Khôn ngoan theo kiểu đó không phải là khôn ngoan theo kiểu của con cái Thiên Chúa. Khôn ngoan theo kiểu con cái Thiên Chúa là biết dùng tiền của bất chính để mua bạn hữu, mua Nước Trời. Không phải là Nước Trời mua bằng tiền của nhưng ý Chúa muốn ta là biết dùng tiền của mà Thiên Chúa trao ban để chia sẻ, để làm việc phúc đức, để bố thí ...
Và, khôn ngoan theo kiểu con cái Thiên Chúa đó là thức tỉnh, chuẩn bị dầu và đèn đầy bình như 5 cô trinh nữ khôn ngoan lúc nào cũng có đèn và có dầu đầy bình để khi "chàng rể" đến là có đủ dầu và đèn để cùng dự tiệc cưới Nước Trời cùng "chàng rể". Khôn ngoan theo kiểu con cái Thiên Chúa cũng được hiểu là tỉnh thức như người làm công luôn luôn tỉnh thức đợi chủ đi xa về.
Với cái nhìn cuộc đời là mong manh, phận người là dễ vỡ đó ta xin Chúa thêm ơn cho ta để ta luôn luôn tỉnh thức và đặc biệt là luôn luôn sám hối để chờ Chúa là Chủ của đời ta đến bên đời ta bất cứ lúc nào. Xin Chúa thêm ơn cho ta để ta biết luôn luôn hoán cải và chờ Chúa đến trong từng phút từng giây của cuộc đời.
Sám hối là điều kiện cần thiết để được tha thứ tội lỗi và để được vào Nước Trời. Vì thế, sám hối TN 3-B104
Sám hối là điều kiện cần thiết để được tha thứ tội lỗi và để được vào Nước Trời. Vì thế, sám hối là chủ đề xuyên suốt Kinh Thánh và cũng là chủ đề chính mà Lời Chúa hôm nay đề cập tới.
Bài đọc I, Thiên Chúa mời gọi tiên tri Giona rao giảng về sự sám hối cho thành Ninivê: “Hãy chỗi dậy và đi đến Ninivê, một thành phố lớn, và rao giảng cho nó điều Ta sẽ nói cho ngươi.”(Gn 3,2). Giona đã làm theo lời Chúa dạy, tới Ninivê và rao giảng rằng: “Còn bốn mươi ngày nữa, Ninivê sẽ bị phá huỷ.”(Gn 3,4). Nghe lời Giona rao giảng, dân thành Ninivê đã tin tưởng vào Thiên Chúa và quyết tâm sám hối bằng cách: “Công bố việc ăn chay và mặc áo nhặm, từ người lớn đến trẻ nhỏ.” (Gn 3,5). Thấy được sự sám hối chân thành của họ, vì họ bỏ đời sống xấu xa, nên Thiên Chúa đã bỏ ý định phạt họ (x. Gn 3,10).
Bài đọc II, Thánh Phaolô mời gọi các tín hữu Conrintô phải có thái độ sống siêu thoát, không dính líu với những của cải vật chất và những thực tại trần gian. Ngài nói:“những ai có vợ, hãy ở như không có; những ai than khóc, hãy ăn ở như không than khóc; những kẻ hân hoan, hãy ăn ở như không hân hoan; những người mua sắm, hãy ăn ở như không có gì; những ai dùng sự đời này, hãy ăn ở như không tận hưởng” (1Cr 7,29-31). Lời mời gọi này xem ra nghịch lý với cuộc sống thông thường nhưng đó lại là sự thật. Bởi vì, mọi sự thuộc thế gian này rồi sẽ qua đi, chỉ có Thiên Chúa và những gì thuộc về Ngài mới tồn tại.
Bài Tin mừng được Thánh Marcô ghi lại về những hoạt động của Đức Giêsu trong thời gian khởi đầu sứ vụ công khai của Ngài. Đề tài rao giảng của Ngài là mời gọi mọi người sám hối. Ngài nói: “Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến; Hãy sám hối và tin vào Tin mừng” (Mc 1,15). Đề tài này được Ngài lặp đi lặp lại nhiều lần trong suốt thời gian hoạt động công khai. Tiếp nối sứ mạng của Ngài, suốt hai ngàn năm qua, Giáo hội cũng không ngừng rao giảng và kêu gọi con cái mình thực hành sám hối.
Vậy, sám hối là gì? Công đồng Trentô định nghĩa: “Sám hối là cảm thấy đau buồn, gớm ghét tội đã phạm và quyết chí chừa cải”(DZ.1676). Theo ý công đồng, sám hối không chỉ là thái độ đau buồn, gớm ghét vì tội lỗi đã phạm trong quá khứ, mà còn phải có tâm tình hướng tới tương lai để quyết tâm chừa bỏ tội lỗi, đồng thời phải ra sức làm nhiều việc lành phúc đức. Việc làm này tương tự như người nông dân sau khi làm cỏ ruộng mình. Để cỏ không mọc trở lại, họ cần phải trồng cây khác thế vào đó.
Ai cần phải sám hối? Tất cả mọi người, vì đã là con người thì ai cũng có tội. Ngạn ngữ La tinh có câu: “errare humanum est”, nghĩa là: con người là sai lầm. Thánh Gioan Tông Đồ thì nói: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta.”(1Ga 1,8). Vì thế, để được tha tội, để được vào Nước trời thì cần phải sám hối. Một hôm Satan kêu trách Chúa rằng: “Chúa thật là bất công! Cụ thể là có rất nhiều kẻ phạm đủ thứ tội ác, thế mà Ngài vẫn hay tha tội cho chúng. Có nhiều kẻ sa đi ngã lại nhiều lần cùng một thứ tội, mà khi chúng ăn năn sám hối thì Ngài vẫn tha thứ cho chúng. Còn tôi, tôi chỉ phạm tội không vâng lời Ngài duy chỉ một lần, thế mà Ngài kết án phạt tôi phải hoả ngục đời đời, và không bao giờ tha thứ cho tôi.” Bấy giờ Thiên Chúa ôn tồn nói với Satan rằng: “Sở dĩ Ta tha tội cho con cái loài người tội lỗi vì chúng khiêm tốn nhận mình là kẻ có tội, và hồi tâm sám hối, quyết tâm canh tân đời sống. Còn ngươi, từ ngày ngươi phạm tội kiêu ngạo bất tuân lời Ta và bị phạt trong hoả ngục đến nay, đã có bao giờ ngươi khiêm nhường nhận lỗi và hồi tâm sám hối để xin Ta tha thứ cho ngươi hay chưa?”
Để sám hối cần phải nhận ra tội lỗi của mình: Tội là sự xấu xa làm cho ta mất liên lạc với Chúa và tha nhân. Tội có thể trong tử tưởng, lời nói hoặc việc làm. Để sám hối, hối nhân phải ý thức và chấp nhận mình có tội như nội dung Kinh Thú Nhận:“lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Nhưng trong thực tế, để nhận ra tội lỗi của mình không phải là chuyện dễ dàng. Con người thường có khuynh hướng đổ lỗi cho kẻ khác. Ngày xưa, ông Adong đã đổ tội cho bà Evà. Bà Evà lại đổ tội cho con rắn. Ngày hôm nay, cha mẹ - con cái, vợ - chồng, cấp trên – cấp dưới, ngày này – người khác…thường đổ lỗi cho nhau. Ít khi người ta can đảm để nhận trách nhiệm về mình. Vì cái tôi của người ta lớn quá. Vì người ta mất ý thức về tội. Vì vậy, người ta khó thực hành việc sám hối ăn năn.
Để nhận ra tội lỗi của mình cần phải biết sống khiêm nhường: Khiêm nhường như người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện, ông đứng xa xa, đấm ngực ăn năn và thưa với Chúa: “Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” (x. Lc 18,13); Khiêm nhường như ông Giakêu: đường đường là một thủ lĩnh thu thuế, nhưng ông không ngại “trèo lên” cây sung để được nhìn thấy Đức Giêsu và ông cũng không ngại “tụt xuống” để mong muốn được gặp Ngài. Khi gặp được Đức Giêsu thì ông đã quyết tâm từ bỏ nghề cũ, thực thi bác ái bằng cách chia nữa tài sản của mình cho người nghèo và đền trả gấp bốn những gì ông làm thiệt hại cho kẻ khác (x. Lc 14,1-10); Khiêm nhường như Phêrô, sau khi chối Chúa, nghe tiếng gà gáy, nhớ lại lời Chúa, ông đã ra ngoài khóc lóc thảm thiết (x. Lc 22,60-62). Khiêm nhường như kẻ trộm lành đã nhận ra tội lỗi của mình và xin Chúa thứ tha (x. Lc 23, 40-43); Khiêm nhường như Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Ngài luôn xác nhận rằng: “Tôi là người tội lỗi.”
Vâng, chúng ta là người tội lỗi, nên chúng ta cần phải sám hối để được Chúa tha tội và được vào Thiên đàng. Đồng thời chúng ta cũng được mời gọi tiếp tục đi rao truyền Lời Chúa để cho mọi người được sám hối như lời mời gọi của Đức Giêsu đối với bốn môn đệ đầu tiên: “Hãy theo Tôi, Tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ chài lưới người”(Mc 1,17).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mọi người chúng con biết khiêm nhường nhận ra tội lỗi của mình và hết lòng sám hối ăn năn. Đồng thời, xin Chúa cho chúng con biết noi gương các Tông đồ tiếp tục ra đi rao giảng sự sám hối cho muôn dân. Amen.
Tin Mừng hôm nay kể Chúa Giêsu đang đi dọc biển hồ Galilê, thì thấy 4 anh thanh niên có gia TN 3-B105
Tin Mừng hôm nay kể Chúa Giêsu đang đi dọc biển hồ Galilê, thì thấy 4 anh thanh niên có gia đình, có cha mẹ, lại có nghề đánh cá, Chúa Giêsu mời gọi theo các anh hãy theo Ngài, và các anh đã bỏ lại tất cả rồi theo làm tông đồ cho Chúa. Chắc chắn các anh thanh niên này không phải là chủng sinh hay linh mục nhưng các anh chỉ là giáo dân vì họ đã từng quen biết Thầy Giêsu qua việc ông Gioan Tẩy giả đã giới thiệu tuần trước cho nên hôm nay nghe Chúa Giêsu mời gọi các anh kính nể Ngài, sẵn sàng ra đi theo Chúa một cách nhẹ tênh và quyết liệt.
Điều đáng lưu ý rằng điều gì khiến bốn chàng thanh niên này sau khi nghe tiếng Chúa mời gọi, các ông đáp lại ngay và sẵn sàng từ bỏ mọi sự, kể cả những gì thân thiết nhất trong đời sống: nghề nghiệp và những mối liên hệ ruột thịt tự nhiên để chọn Chúa Giêsu, theo Chúa, gắn bó mật thiết với Chúa và làm tông đồ nhiệt thành cho Tin Mừng cứu độ cho đến hết hơi cho đến trọn đời? Thưa, trở lại Tin Mừng Chúa nhật vừa rồi, chúng ta thấy ông Gioan Tẩy Giả thiệu Chúa Giêsu là Con Chiên Thiên Chúa. Đây Đấng xóa tội trần gian, cho đệ tử của mình là Anrê và Gioan. Hai ông này đã đến xem chỗ ở của Chúa và ở lại với Chúa Giêsu, và cũng từ đó các ông đã thấy tình yêu của Thiên Chúa biểu lộ nơi con người của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, đến trần gian phục vụ cho tình yêu cứu độ của Thiên Chúa: rao giảng Nước Trời, chăm sóc người ốm đau bệnh tật, tha thứ cho người tội lỗi, cho kẻ chết sống lại và chính Ngài hy sinh chịu nạn chịu chết và sống lại để cho con người được sống lại với Người muôn đời.
Chúa Giêsu hôm nay vẫn đi ngang qua đời chúng ta mỗi ngày, Ngài thấy ta trước khi ta thấy Ngài. Ngài thấy ta nhưng ta vẫn không hay biết vì ta vẫn mải mê quăng chài hay vá lưới là lo cơm áo gạo tiền, mải mê tính xác thịt hay ta vẫn tất bật với những lo toan chuyện đời thường, hay đang miệt mài theo đuổi một ước mơ lý tưởng hay chính lúc ta tưởng cuộc sống mình quá ư ổn định, và đời mình đã được định hướng quá rõ ràng rồi, cho nên tiếng gọi của Chúa vang lên, mạnh mẽ, dứt khoát: Hãy theo tôi! Mà tôi không nghe biết. Thế nhưng, Chúa Giêsu vẫn chấp nhận trọn vẹn con người của ta, cả những yếu đuối, thờ ơ và tội lỗi cũng được Ngài kêu gọi và sẵn sàng đón nhận.
Mọi người Kitô hữu đều được mời gọi đi theo Chúa Giêsu. Ngài không mời ta đi theo một lý tưởng, một ý thức hệ. Ngài mời ta theo chính con người Ngài, gắn bó với Ngài, nhận Ngài là nền tảng và chóp đỉnh của cuộc sống đời này và đời sau. Theo Ngài là chia sẻ với Ngài cùng một sứ mạng, là thao thức và đồng cam cộng khổ với Ngài trong công việc cứu độ toàn thế giới. Qủa thế, qua Bí tích Rửa tội, chúng ta đã được Chúa mời gọi theo Chúa. Cho nên đời sống Kitô hữu không phải chỉ là tin những điều Chúa dạy, giữ những điều răn Chúa và Giáo hội truyền để được rỗi linh hồn mình, nhưng người Kitô hữu được kêu gọi theo Chúa, nghĩa là không phải chỉ là người giữ Đạo, đọc kinh, dâng lễ, nhưng phải là những tông đồ cho Chúa nữa: yêu thương, tha thứ, hy sinh và phục vụ mọi người như Chúa. Cho nên, dù ở bậc sống nào, dù ở bất cứ chỗ nào, chúng ta đều làm tông đồ của Chúa, làm tông đồ trước tiên là bằng chính đời sống thánh thiện, hiền lành, khiêm nhường và tốt đẹp của chúng ta. Vì chưng, đời sống tốt đẹp của chúng ta có thể thay đổi được nếp sống của những người chung quanh, vì chưng ông bà ta “Lời nói lung lây, gương bày lôi kéo”. Vì vậy, đời sống tốt đẹp của chúng ta có thể thay đổi được vận mệnh của người khác, từ không biết Chúa đến nhận biết Chúa, tôn thờ, yêu mến Chúa. Đời sống tốt đẹp của chúng ta có thể làm cho mọi người từ tị hiềm ghen ghét, thù hần, tội lỗi đến yêu thương, xây dựng, đùm bọc, nâng đỡ nhau và thánh thiện.
Cụ thể, trong 117 vị Thánh tử Đạo việt nam, có một vị tông đồ Giáo dân, một bà mẹ Công giáo can đảm phi thường, chẳng thua kém các bậc nam nhi, đó là bà thánh Anê Lê Thị Thành, tục gọi là bà thánh Đê. Năm 17 tuổi, cô Lê Thị Thành kết hôn với anh Nguyễn Văn Nhất, người cùng làng. Họ sống với nhau hạnh phúc và sinh được sáu người con. Bà Đê là một người con dâu hiếu thảo, một người vợ hiền thục đảm đang và là một người mẹ rất mực yêu thương con cái. Bà nuôi nấng, dạy dỗ con cái lớn khôn, một lòng sống trung thành với Đạo thánh Chúa. Dưới thời Vua Thiệu Trị, cuộc bách hại Đạo ngày càng quyết liệt, Bà đã bị bắt cùng với cha Galy Lý và một số giáo dân khác. Trong thời gian bị giam giữ, lính tráng đánh đập bà tàn nhẫn, toàn thân bà bầm tím máu. Tuy là phận nữ yếu đuối, nhưng bà đã tỏ ra can đảm cách phi thường, không nao núng, vui vẻ chấp nhận những cực hình tra tấn. Khi con gái vào tù thăm mẹ, khóc lóc khi thấy thân thể bà bầm tím máu, áo bê bết loang lổ vết máu, bà hài hước an ủi: “Con đừng khóc mẹ nữa, mẹ mặc áo hoa hồng thắm đỏ, sao con khóc?” Bà coi những vết máu như vòng hoa khoác lên cổ người chiến sĩ thắng trận khải hoàn. Rồi bà nói với cô: “Con hãy về chuyển lời mẹ bảo anh chị em con săn sóc việc nhà, vững tâm giữ đạo, sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh giá Chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên đàng”.
Chúng ta đang sống trong năm phụng vụ mà Hội Đồng Giám Mục kêu gọi mọi thành viên trong gia đình hãy sống thăng tiến đời sống hôn nhân gia đình. Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết sống Đạo tốt đẹp, nêu gương sáng cho mọi người, trước tiên cho những người thân yêu trong gia đình bằng đời sống hòa thuận yêu thương nhau, tha thứ, hy sinh và xây dựng hạnh phúc cho nhau trong tình yêu mến Chúa, yêu mến nhau và mọi người chung quanh, đấy mới thật sự là tông đồ đích thực của Chúa, thánh hoá trần thế hôm nay. Amen.
Lời Chúa hôm Chúa nhật vừa qua nói về ơn kêu gọi. Lời Chúa hôm nay tiếp tục đề tài đó. Thật TN 3-B106
Lời Chúa hôm Chúa nhật vừa qua nói về ơn kêu gọi. Lời Chúa hôm nay tiếp tục đề tài đó. Thật ra không phải chỉ những kẻ đi tu mới được Chúa kêu gọi, mà tất cả mọi tín hữu đều được Chúa kêu gọi, mỗi người một sứ mạng theo đấng bậc của mình.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta ý thức ơn gọi và sứ mạng của mình.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
Lời đầu tiên của Đức Giêsu khi bắt đầu rao giảng là "Hãy sám hối". Chúng ta hãy ý thức thân phận tội lỗi của mình và sám hối quay về với Chúa.
Đức Giêsu còn kêu gọi chúng ta "Hãy tin vào Tin Mừng". Trên thực tế, chúng ta chưa siêng năng đọc Tin Mừng và sống theo Tin Mừng bao nhiêu.
Nhiều lần Chúa kêu gọi chúng ta làm việc tông đồ, phục vụ Giáo Hội. Nhưng chúng ta cứ giả điếc làm ngơ.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Gn 3,1-5.10)
Trong lịch sử, Ninivê là thủ đô của Đế quốc Assyria, kẻ thù đã nhiều lần tấn công dân Do Thái. Vì vậy, trong đầu óc người Do Thái, Ninivê luôn là một thành phố xấu xa, tội lỗi và đáng bị trừng phạt.
Chính vì thế, khi Thiên Chúa gọi ngôn sứ Giona đi Ninivê rao giảng sự sám hối để được thứ tha, Giona rất khó chịu. Ông cũng đi nhưng cố tình đi lạc đến một nơi khác. Nhưng làm sao mà con người có thể đánh lừa được Thiên Chúa. Thiên Chúa cho tàu chở Giona bị bão, thuỷ thủ quăng ông xuống biển. Một con cá lớn nuốt ông vào bụng rồi nhả ông lên bờ biển Ninivê. Cuối cùng Giona chỉ còn đành theo lệnh Chúa vào thành rao giảng. Kết quả là dân thành đã ăn năn sám hối và được Chúa thứ tha.
Câu chuyện này đề cập - một cách phản diện - đến ơn gọi và sứ mệnh của kẻ được gọi: Chúa gọi ai không phải để người đó làm theo ý mình, mà làm theo ý Chúa cho dù ý Chúa rất trái ngược với ý riêng mình; người được gọi có thể rất bất xứng, như Giona, nhưng đó là một dụng cụ Chúa dùng, và Chúa biết cách dùng để dụng cụ ấy sinh ra hiệu quả.
2. Đáp ca (Tv 24)
Đây là lời van lơn của người tội lỗi, xin Chúa chỉ đường mở lối cho họ theo. Lời van xin này có thể đặt vào miệng dân thành Ninivê tội lỗi, và dĩ nhiên cũng có thể đặt vào môi miệng của chúng ta.
3. Tin Mừng (Mc 1,14-20)
Bài Tin Mừng ngắn này gồm hai phần
Các câu 14-15: Đức Giêsu bắt đầu sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Ngài chọn nơi xuất phát là vùng đất Galilê đa số là lương dân. Nội dung rao giảng chính của Ngài là "Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng".
Các câu 16-20: Đức Giêsu kêu gọi 4 môn đệ đầu tiên là hai cặp anh em Simon và Anrê, Giacôbê và Gioan. Những điểm đáng lưu ý là: a/ Ơn gọi phát xuất từ sáng kiến của Đức Giêsu (chính Ngài gọi 4 người ấy chứ không phải họ xin đi theo Ngài); b/ Ngài gọi họ ngay trong môi trường làm việc của họ (bên bờ biển), trong lúc họ đang làm việc bình thường (vá lưới); c/ Đáp lại, người được gọi phải từ bỏ tất cả để theo Ngài. 4. Bài đọc II (1 Cr 7,29-31) Thánh Phaolô giúp các tín hữu suy nghĩ về giá trị của những thực tại trần thế: hạnh phúc gia đình, những niềm vui nỗi buồn, những của cái vật chất… So với Nước Trời, tất cả những thứ kể trên đều chỉ là những thứ chóng qua chứ không bền vững. Vì thế Thánh nhân kêu gọi: "ai có vợ hãy ăn ở như không có, người than khóc hãy ăn ở như không than khóc, kẻ hân hoan hãy ăn ở như không hân hoan, người mua sắm hãy ăn ở như không có gì". Thật là những lời rất lạ lùng và khó hiểu. Nhưng đó là chân lý. Và chỉ những ai ý thức được chân lý này mới có thể từ bỏ tất cả để đáp lại tiếng Chúa kêu gọi.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Tiếng Chúa kêu gọi
Phụng vụ hôm nay có một chủ đề chính, đó là "Tiếng Chúa kêu gọi". Bài Cựu Ước nói về việc Chúa gọi tiên tri Giona đi rao giảng lòng sám hối cho dân Thành Ninivê. Bài Trích thư gởi giáo dân Côrintô nói về sự cấp bách phải đáp lại tiếng Chúa gọi mà hoán cải đời sống. Còn bài Tin Mừng thì nói về việc Chúa gọi 4 Tông đồ đầu tiên là Anrê, Phêrô, Giacôbê và Gioan.
Người thường hiểu "tiếng Chúa kêu gọi" theo nghĩa hẹp, đó là Chúa gọi một người nào đó từ bỏ thế gian đi tu làm việc tông đồ cho Chúa trong cương vị của một Linh mục, hay một Tu sĩ. Hiểu rộng thêm một chút thì "Tiếng Chúa kêu gọi" cũng có thể là ý Chúa có liên quan đến cuộc sống của mình, hoặc là đi tu, hoặc có gia đình. Nhưng hiểu như thế vẫn còn hẹp nghĩa lắm. Không phải là Chúa chỉ gọi chúng ta đi tu hoặc có gia đình, mà tiếng Chúa còn vang lên kêu gọi chúng ta rất nhiều lần trong cuộc đời.
Mặc dù Chúa vô hình nhưng Chúa vẫn nói chuyện với chúng ta bằng nhiều cách thức khác nhau: Thời Cựu Ước Chúa nói với loài người qua trung gian các ngôn sứ. Trong 33 năm Đức Giêsu sống ở trần gian, Chúa trực tiếp nói chuyện với loài người bằng miệng bằng lưỡi, như Chúa đã kêu gọi 4 tông đồ trong bài Tin Mừng hôm nay. Còn ngày nay, Chúa vẫn nói, vẫn gọi chúng ta bằng nhiều cách thức:
Có khi là trong một lần chúng ta sốt sắng cầu nguyện.
Có khi trong lúc ta đọc một đoạn Tin Mừng, nghe một bài giảng.
Và rất nhiều khi Chúa nói với ta qua những biến cố cuộc đời, nhất là những biến cố buồn, như bệnh tật, thất bại, khổ sở, không được vừa ý.
Chúa vẫn còn nói, còn gọi. Nhưng có người thì nghe, có người thì không nghe; có người làm theo, có người bỏ qua.
Và khi chúng ta đã được nghe tiếng Chúa, đã được biết Chúa muốn mình phải làm gì, thì chúng ta hãy lập tức không chần chừ đáp lại và làm theo tiếng Chúa kêu gọi, như gương 4 tông đồ trong bài Tin Mừng hôm nay.
* 2. Câu chuyện chàng trị trưởng trẻ
Tin tức trên báo chí (theo VietCatholic News ngày 22/9/2000) về chàng thị trưởng đẹp trai của thành phố Ficarra, mới 34 tuổi, đã lặng lẽ từ nhiệm để đi tu, đã gây chấn động toàn nước Ý. Hôm 20/09/2000, Antonio Mancuso đã chính thức đến trình diện tại một dòng tu ở Milan, bắt đầu cuộc đời một tu sĩ. Antonio cho biết anh đã thấy mình có ơn gọi linh mục từ ngày còn là cậu bé giúp lễ, đã suy nghĩ trong bao năm về vấn đề này và trằn trọc rất nhiều sau khi theo dõi các bài thuyết giảng của Đức Thánh Cha trong Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới Lần Thứ 15. Antonio bỏ lại sau mình chức vụ thị trưởng, căn nhà do cha anh để lại, một mẹ già, hai anh em, và thành phố Ficarra xinh đẹp với 2.000 cư dân dưới quyền. Quyền thị trưởng Franco Tumeo đã xác nhận quyết định của Antonio với thông tấn xã ANSA. Ông nói: "Quyết định mà thị trưởng chúng ta đã chọn cần phải được hoàn toàn tôn trọng và hy vọng rằng không ai lợi dụng chuyện đó. Chẳng cần phải nói, chúng ta cầu chúc cho Antonio Mancuso những điều tốt đẹp nhất với xác tín rằng quyết định của anh là hoa trái của những suy nghĩ trong nhiều năm qua". Quyết định từ nhiệm của anh sẽ khiến cho thành phố Ficarra phải bầu cử lại sớm hơn, có lẽ vào tháng 6/2001. Tạm thời một ủy ban đặc biệt sẽ thay thế công việc của nguyên thị trưởng. Với bằng chính trị học ưu hạng, Antonio đang là một ngôi sao sáng chói của đảng Dân Chủ Thiên Chúa giáo Ý. Anh đã là thị trưởng trẻ nhất của quốc gia này, lúc mới 27 tuổi, từ 1992 đến cuối tháng 9 vừa qua. Ngày 14/09/2000, một tháng kể từ Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới Lần Thứ 15, sau nhiều đêm không ngủ, Antonio đã từ giã tòa thị trưởng chẳng nói với ai một lời nào. Thư từ nhiệm đã được gởi đến văn phòng 2 ngày sau đó qua đường bưu điện.
* 3. Chúa cần đến con người
Thiên Chúa là Đấng quyền phép vô cùng, cho nên muốn làm bất cứ điều gì thì Ngài cũng làm được, làm cách dễ dàng, làm cách nhanh gọn, không cần vật liệu và cũng không cần ai giúp đỡ. Việc dựng nên trời đất muôn vật đã chứng mình điều này.
Tuy nhiên, trong việc cứu độ thì Ngài lại cần đến con người: Lịch sử cứu độ thời Cựu Ước bắt đầu bằng việc Thiên Chúa kêu gọi ông Abraham; lịch sử cứu độ thời Tân Ước, như bài Tin Mừng hôm nay tường thuật, bắt đầu bằng việc Chúa kêu gọi 4 môn đệ đầu tiên.
Thánh Augustinô đã suy gẫm và rút ra kết luận: "Khi tạo dựng con, Chúa không cần hỏi ý con. Khi muốn thánh hóa con, Chúa cần con góp sức con".
Công trình tạo dựng của Chúa đã hoàn tất. Nhưng công trình cứu độ vẫn còn phải tiếp tục, vì ngày nay còn rất nhiều người chưa được cứu độ. Như thế, Chúa vẫn còn cần con người. Vì vậy Chúa tiếp tục kêu gọi, và cần có những người đáp lại lời kêu gọi đó để công tác vào công cuộc cứu độ của Chúa.
Công trình cứu độ những người trong nước tôi, trong xóm tôi cũng còn phải tiếp tục. Nếu không có ai đáp lại lời kêu gọi của Chúa thì công trình ấy phải đình trệ.
4. "Hãy sám hối"
Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ bằng lời kêu gọi "Hãy sám hối". Lời này được gửi đến ai? Dĩ nhiên là gửi đến những người tội lỗi trước tiên. Nhưng cũng gửi đến tất cả mọi người nữa, kể cả những người tốt lành.
Nhìn lại cuộc đời Đức Giêsu, chúng ta thấy Ngài gặp rắc rối với người tội lỗi thì ít nhưng với người tốt lành thì nhiều hơn. Tại sao vậy? Thưa vì kêu gọi người tội lỗi sám hối thì dễ, vì họ biết mình tội lỗi; còn kêu người tốt lành sám hối thì rất khó, bởi họ không thấy có gì cần sám hối. Cũng như bảo một người bệnh đi bác sĩ thì dễ hơn bảo một người nghĩ rằng mình không có bệnh.
Bởi thế, để đáp lại lời kêu gọi sám hối thì trước hết ta phải thấy không hài lòng với chính mình và kế đó phải mong muốn cho mình được tốt hơn. Phải ý thức có một cái gì đó sai lạc hoặc ít ra là còn thiếu. Cảm nghiệm sám hối bắt đầu với sự nhận biết rằng mình chưa là điều mình phải là.
Tiếp đến, sám hối còn đòi phải có can đảm: can đảm không tự lừa dối mình nữa, và can đảm đối diện với thực tại phũ phàng của bản thân mình. Can đảm chấp nhận tội lỗi của mình và can đảm thay đổi. Sự can đảm nấy rất cần thiết, bởi vì con người thường thích đi trên những đường xưa lối cũ, con người thường đã lún sâu trong những thói quen đã ăn sâu, cho nên thay đổi rất là khó.
Có người cũng thấy một tương lai tốt lành hơn nhưng không thể thay đổi chính mình để đi đến tương lai đó, bởi vì con đường phía trước thì dài và tiến bộ thì rất chậm chạp khó khăn. Đó là lý do tại sao nhiều người thà tiếp tục sống như cũ.
Có người xem sám hối là một việc cực nhọc, tiêu cực và buồn thảm, bởi vì họ nghĩ rằng sám hối chỉ là cảm thấy mình tội lỗi và cố gắng làm việc đền tội. Thực ra sám hối là việc rất tích cực: đành rằng một mặt phải ý thức mình tội lỗi, nhưng mặt khác người sám hối cũng ý thức mình có khả năng làm điều tốt. Như thế, sám hối là có một cái nhìn mới, tiến bước theo một hướng mới, đặt cho đời mình những mục tiêu mới. Nếu hiểu được như thế thì sám hối trở thành một sức mạnh khuyến khích và luôn dẫn chúng ta tới niềm vui. (Viết theo Flor McCarthy)
5. Sống và chia sẻ niềm tin
Đức Tổng Giám mục Helder Camara của Braxin có lần đã chia sẻ kinh nghiệm như sau:
Tôi có người anh lớn hơn tôi 5 tuổi, đã rửa tội từ lúc mới sinh, và từng theo học nhiều năm trong trường dòng. Nhưng lớn lên anh bắt đầu bê trễ, bỏ đọc kinh, bỏ dự lễ, và cuối cùng bỏ… đạo.
Sau khi tôi thụ phong linh mục, anh cùng với tôi sống chung với người chị độc thân. Mỗi lần biết tôi sắp đi giảng tĩnh tâm, anh lại hỏi:
- Hôm nay chú nói về đề tài gì?
Tôi lại có dịp giải thích cho anh những điều mình sắp giảng. Anh chỉ lắng nghe, không bình luận.
Tám năm sau, anh bị mắc căn bệnh hiểm nghèo. Biết mình sắp chết, anh gọi tôi lại và nói:
- Lâu nay tôi để ý quan sát, thấy không có sự cách biệt giữa lời chú giảng và việc chú làm. Vậy xin hỏi chú, tôi có thể dựa vào Đức tin của Chúa để rước lễ không?
Tôi trả lời: - Em tin là Chúa lòng lành vô cùng sẽ đoái thương anh.
Bấy giờ anh tôi nói trong nỗi xúc động:
- Ngay bây giờ thì chưa được đâu, vì tôi chưa xưng tội.
Tôi định tìm cho anh một linh mục khác nhưng anh đòi xưng tội với tôi. Sau khi rước lễ xong, anh thều thào trong nước mắt.
- Tôi tin, tôi tin, chú ạ. Bây giờ tôi tin không phải dựa vào đức tin của chú, mà tôi thực sự xác tín rằng Chúa yêu thương tôi!
Ít phút sau đó anh đã ra đi trong bình an, thanh thản.
*
Sống và chia sẻ niềm tin, đó là cốt lõi đời sống người tín hữu Kitô. Đó cũng là mối quan tâm hàng đầu của Đức Giêsu khi Người bước vào đời công khai rao giảng: "Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người" (Mc.1,17).
Muốn thu hút tha nhân thì chính mình phải có năng lực hấp dẫn.
Muốn hòa hợp với anh em thì chính mình phải biết chấp nhận mọi người.
Muốn chia sẻ niềm tin thì chính mình phải có niềm tin kiên vững.
Sống và chia sẻ niềm tin, bao giờ cũng đem lại kết quả tốt đẹp. Nhưng kết quả thế nào, nhiều hay ít, vào lúc nào còn do Chúa quyết định. Khi Đức Giêsu bảo Phêrô thả lưới, ông đã thưa: "Lạy Thầy, chúng con vất vả suốt đêm mà chẳng được con cá nào, nhưng vâng lời Thầy, con xin thả lưới" (Lc.5,5). Kết quả thế nào chúng ta đã biết: cũng chiếc lưới đó, cũng ngư phủ đó, nhưng lại kéo lên một mẻ cá bội thu.
Sống và chia sẻ niềm tin, là nhiệm vụ của mỗi người tín hữu Kitô. Nhưng trước tiên phải bắt đầu bằng việc đổi mới tâm hồn, bằng việc "Sám hối và tin vào Tin mừng".
Sống và chia sẻ niềm tin, là đem tin vui đến cho mọi người. Nhưng trước hết tin vui ấy phải là niềm hân hoan đích thực, gây xúc động mãnh liệt trong lòng người đi loan báo. Romano Guardini đã ví von: "Sống niềm tin nghĩa là đơn phương nhường chỗ cho Đức Kitô tự biểu lộ và lớn lên trong cu ộc sống chúng ta".
*
Lạy Chúa, theo Chúa không phải dễ dàng vì Chúa đòi chúng con phải từ bỏ mọi sự, từ bỏ luôn mãi, và từ bỏ chính mình. Nhưng có Chúa cùng đồng hành chúng con vẫn sáng mãi niềm tin. Xin giúp chúng con luôn trung thành theo Chúa cho đến giây phút cuối cuộc đời. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
6. Một câu hỏi bất ngờ
Chuyện này kể về một vị rabbi thánh thiện. Trong tỉnh của ông, những nhà giàu ở một vùng biệt lập nên phải thuê người canh gác ban đêm.
Một đêm kia vị rabbi trên đường về nhà thì gặp một người gác dan đang đi tới đi lui. Vị rabbi hỏi: "Anh đang làm việc cho ai vậy?"
Người gác dan không trả lời mà hỏi lại: "Thế ông đang làm cho ai vậy?"
Câu hỏi quá bất ngờ, xưa nay vị rabbi chưa hề nghĩ đến. Vì thế ông bối rối đáp "Tôi không làm việc cho ai cả". Nhưng trả lời xong ông còn bối rối thêm.
Thế là hai người cứ im lặng đi tới đi lui bên nhau.
Một lúc sau, vị Rabbi hỏi người gác dan: "Anh có muốn làm việc cho tôi không?".
Người gác dan cũng đáp lại bằng một câu hỏi: "Nhưng ông mướn tôi để làm gì?" Vị rabbi trả lời: "Để thỉnh thoảng ông lại hỏi tôi câu hồi này 'Ông đang làm việc cho ai vậy?"'
Đó cũng là câu chúng ta phải thỉnh thoảng hỏi chính mình: "Tôi đang làm việc cho ai vậy?" (Flor McCarthy)
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng là những việc mà người Kitô hữu chúng ta phải thực hiện suốt đời. Chúng ta hãy sốt sắng xin Chúa giúp chúng ta.
1. Hội thánh còn đang hành trình trên trần gian thì còn có nhiều gương xấu / Xin cho những người đang làm gương xấu trong Hội thánh biết ăn năn sám hối.
2. Nhìn trong thế giới và trong xã hội chúng ta hôm nay / có nhiều người xấu và việc xấu / Xin cho họ biết nhận ra những hậu quả tai hại của các việc xấu họ làm / để họ thật lòng ăn năn sám hối
3. Có nhiều người đang là nạn nhân của những người xấu và việc xấu / xin cho họ biết tin tưởng ở Tin mừng để được nâng đỡ và ủi an.
4. Chính trong cộng đồng giáo xứ của chúng ta, còn nhiều người làm những việc xấu / Xin cho họ biết ăn năn sám hối và trở về với Tin mừng của Chúa.
Chủ tế: Lạy Chúa là Cha hay thương xót, Chúa đã đánh động cả một thành lớn để họ ăn năn hối cải, xin Chúa cũng đánh động mỗi người chúng con để chúng con biết thật lòng sám hối. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô...
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha: Hợp lòng hợp ý với tất cả những người được Chúa kêu gọi, chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa là Cha chúng ta lời kinh Lạy Cha.
- Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giúp chúng con lắng nghe những tiếng gọi của Cha, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…"
VII. GIẢI TÁN
Chúa kêu gọi mỗi người chúng ta làm tông đồ của Chúa giữa trần gian. Cũng như Giona, cũng như Simon và Anrê, Giacôbê và Gioan, chúng ta hãy hăng hái vào đời thi hành nhiệm vụ Chúa giao.
Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật tuần trước, thánh Gioan đã thuật lại hành trình của một ơn gọi TN 3-B107
Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật tuần trước, thánh Gioan đã thuật lại hành trình của một ơn gọi là: Chúa gọi, ta đáp trả để đến xem và ở lại rồi ra đi giới thiệu về Chúa cho người khác.
Chúa Nhật hôm nay, thánh Máccô trình bày câu chuyện Đức Giêsu chọn và gọi đích danh 4 môn đệ đầu tiên, đồng thời tác giả cũng ghi lại rất cụ thể về sứ vụ sẽ được trao cho các ngư phủ này là: theo Chúa để trở thành những kẻ lưới người như lưới cá (x. Mc 1, 17)
1. Đi theo Chúa để trở thành môn đệ
Câu chuyện được khởi đi từ bối cảnh sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa trên sông Giođan và chịu ma quỷ cám dỗ trong hoang địa (x. Mc 1,12-13). Hôm nay, tác giả đề cập đến sứ vụ công khai của Đức Giêsu tại Galilêa. Khởi đầu cho một hành trình loan báo Nước Thiên Chúa mà Đức Giêsu, nhà thừa sai vĩ đại đã nhận lãnh từ Chúa Cha.
Cũng trong thời điểm này, Gioan Tẩy Giả đã hoàn thành xuất sắc công việc được trao và ông đã bị bắt. Như vậy, có thể nói, Gioan đã lui vào hậu trường để nhường chỗ cho nhân vật chính là Đức Giêsu xuất hiện. Hai nhân vật, chung sứ vụ. Điều này cho thấy mối giây liên hệ mật thiết, liên tục và quan trọng giữa Đức Giêsu và Gioan Tẩy Giả.
Khi chọn và gọi các môn đệ, Đức Giêsu muốn các ông tin và liều mạng đi theo mình, một cuộc phưu lưu đầy thử thách nhưng chứa chan niềm hy vọng, nên cần các ông phải tin và dứt khoát.
Chính vì vậy, ngay sau lời mời gọi “hãy theo tôi”, ngay lập tức, Đức Giêsu đã loan báo cho các ông biết cụ thể về sứ vụ mà các ông phải thi hành: “Người bảo họ: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá" (Mc 1, 17). Lời mời gọi rõ ràng. Sứ vụ rất cụ thể, nên thái độ của các ông cũng phải dứt khoát, không tính toán nghĩ suy và bỏ lại sau lưng tất cả mọi sự để đi theo Đức Giêsu.
Thái độ dứt khoát ấy được thánh Máccô trình bày như sau: khi nghe thấy Đức Giêsu gọi, Anrê và Simon đã “lập tức bỏ lưới theo Người” (Mc 1, 18). Còn với Gioan và Giacôbê thì “bỏ cha là Giêbêđê ở lại trên thuyền cùng với các người làm công, và đi theo Người” (Mc 1, 20).
2. Sứ mạng đến với dân ngoại
Cuộc gặp gỡ giữa thân tình và đầy ấn tượng ấy được diễn ra tại Galilêa, điều này gợi cho người ta nghĩ ngay đến vùng đất ngoại vi, bên lề, vì đây là: "Miền đất của dân ngoại". Đây cũng còn là vùng đất gần biên giới, nơi ở của những người thập tỉnh từ nhiều nơi tụ về.
Chính vì vậy mà nơi đây bị coi là vùng đất tối tăm, lộn xộn và bị người đương thời khinh miệt. Tuy nhiên, Đức Giêsu lại chọn vùng đất này làm trung tâm truyền giáo, là nơi ưu tiên để Ngài thực thi sứ vụ loan báo Tin Mừng đầu tiên. Từ đó, nơi đây được biết đến như: “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Mt 4, 16).
Như vậy, ơn gọi của các môn đệ đầu tiên được khai mào tại một vùng đất của dân ngoại như tác giả đã thuật lại, điều này cho ta thấy: sứ vụ của các ông phải được ưu tiên tại những vùng bị xã hội loại bỏ, khinh miệt; những nơi thiếu vắng tình thương, mất niềm hy vọng; những nơi nghèo tinh thần và vật chất; vùng sâu vùng xa....
Khung cảnh, sự kiện của vùng đất và con người nơi đây thật gợi cảm, khiến cho ý định của Đức Giêsu được thêm phần rõ nét và lời đáp trả của các môn đệ được tô đậm qua thái độ ra đi, dấn thân và phục vụ.
Đây cũng là sứ vụ và lời mời gọi cho mỗi chúng ta hôm nay.
3. Sứ vụ loan báo Tin Mừng của người Kitô hữu
Trong sứ điệp Truyền Giáo 2017, số 4, Đức Thánh Cha Phanxicô đã lấy lại định hướng của tông huấn Evangelii Gaudium (Niềm Vui Tin Mừng) để nói về tinh thần thực thi sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội ngày nay cần phải có, ngài viết: chúng ta bị thách thức “đi ra ngoài khu vực quen thuộc của mình và can đảm đi đến tất cả những vùng ngoại vi, là những người cần ánh sáng của Tin Mừng” (Evangelii Gaudium, 20).
Tuy nhiên, muốn trở thành nhà truyền giáo, thành kẻ lưới người, tự bản thân chúng ta phải có sự hấp dẫn vì mang trong mình niềm hy vọng được cứu rỗi. Sự hấp dẫn ấy có thể là một nụ dễ thương, một sự cảm thông sâu xa, một thái độ chia sẻ tận tâm; một sự dấn thân không biết mệt mỏi tại những nơi nghèo đói và thiếu vắng tình thương. Nhưng có lẽ, sự hấp dẫn lớn nhất, đó là có Chúa nơi mình và cảm nghiệm được “Niềm Vui Tin Mừng” trong cuộc sống. Từ đó, chúng ta mới có thể chia sẻ về Chúa cho người khác một cách sống động.
Giáo Hội không bao giờ chấp nhận người Kitô hữu chỉ nghĩ cho chính mình, nhưng Giáo Hội cần lắm một người Tín Hữu Kitô hiền lành, khiêm nhường, đơn sơ, phản ánh trung thực về cuộc đời và sứ vụ của Đấng Cứu Thế (x. sứ điệp Truyền Giáo 2017, số 7). Đó là lý do tại sao Đức Thánh Cha Phanxicô trong một lần nói chuyện với các linh mục và giáo dân ở Buenos Aires, ngài nói: “Tôi thà có một Giáo Hội bị bầm dập, mang thương tích và nhơ nhuốc vì đi ra ngoài đường, hơn là một Giáo Hội ốm yếu vì bị giam hãm và bám víu vào sự an toàn của mình. Tôi không muốn một Giáo Hội chỉ lo đặt mình vào trung tâm để rốt cuộc bị mắc kẹt trong một mạng lưới các nỗi ám ảnh và các thủ tục” (Evangelii Gaudium, 49).
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con luôn ý thức sứ mạng của chúng con là phải giới thiệu Chúa cho mọi người, để qua đó, Danh Chúa được rạng rỡ và vinh quang đến tận cùng trái đất. Nhưng trước hết, xin cho chúng con biết sám hối để trở nên khí cụ của Chúa và chỉ làm việc của Chúa muốn mà thôi. Amen.
(Suy niệm của Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CRM)
Thưa anh chị em,
Theo lẽ thường khi “tầm sư học đạo” thì trò đi tìm thầy. Ấy thế mà bài Tin mừng hôm nay trình TN 3-B108
Theo lẽ thường khi “tầm sư học đạo” thì trò đi tìm thầy. Ấy thế mà bài Tin mừng hôm nay trình bày cho chúng ta thấy một điều hết sức nghịch lý đó là: Chính Thầy Giêsu đi chiêu mộ các môn sinh cho mình. Bốn môn đệ đầu tiên mà Thầy Giêsu mời gọi trong Tin mừng hôm nay, nói lên tình thương nhưng không của Thiên Chúa, nghĩa là Thiên Chúa có sáng kiến đi tìm kiếm con người.
“Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con”(Ga. 15,16).
Thật vậy, Ngài không gọi những hạng người chìm đắm cầu nguyện trong đền thờ, nhưng gọi những người đang lao động trên bờ biển.
Ngài không gọi những người có học vị bằng cấp, nhưng gọi những anh thuyền chài quê mùa thất học.
Ngài không gọi những người cao sang quyền quí, nhưng gọi những người gia tài sự nghiệp chỉ có con thuyền và tấm lưới rách.
Qua việc Chúa kêu gọi những môn đệ đầu tiên, chúng ta thấy Chúa gọi họ vô điều kiện. Có nghĩa là không phải vì tài cán cá nhân mà các ông được chọn, nhưng do tình thương nhưng không của Thiên Chúa.
Thánh Phaolô đã cảm nghiệm điều này nên Ngài nói: “ Khi anh em được Chúa kêu gọi, thì trong anh em đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy người quyền thế, mấy người quý phái. Song những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh. Như thế, không có ai dám tự phụ trước mặt Thiên Chúa” (1Cor 1,26-29).
Chúa Giêsu mời gọi: “Hãy theo Ta!” mà không một lời đề nghị hay giải thích, cũng không hứa hẹn gì cho tương lai, không thuyết phục bằng bất cứ điều gì. Vậy mà khi nghe tiếng Chúa gọi, lập tức các ngư phủ đã mau mắn từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa.
Đi theo Chúa, để rồi Chúa sẽ biến đổi các ông. Một cuộc biến đổi lạ lùng, từ lưới cá thành lưới người; từ bắt cá dưới biển trở thành bắt cá người khắp thế giới. Tương lai họ là những tay chài đầu tiên trong con thuyền Hội thánh. Thế nhưng, trước khi Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ đi theo Chúa, thì Ngài đã theo chúng ta trước rồi. Ngài theo chúng ta mãnh liệt lắm. Thật vậy,
Ngài từ bỏ trời cao xuống đất thấp để theo chúng ta.
Ngài từ bỏ thiên đàng hạnh phúc để xuống trần gian theo chúng ta.
Ngài từ bỏ địa vị Thiên Chúa hạ mình xuống đi theo chúng ta là loài thụ tạo thấp hèn.
Ngài là Thiên Chúa thánh thiện nhưng đi theo chúng ta là những kẻ tội lỗi. Chẳng những Ngài đi theo, nhưng còn hứa sẽ ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Anh chị em thân mến,
Ngày lãnh Bí Tích Rửa tội, chúng ta cũng được mời gọi đi theo Chúa, bằng chứng Ngài cho chúng ta tham dự vào chức ngôn sứ của Ngài. Qua đó, Chúa ủy thác cho chúng ta sứ mạng làm tông đồ, để đem Tin Mừng của Chúa đến cho mọi người.
Các tông đồ sau khi nghe tiếng Chúa kêu mời, các ngài sẵn lòng bước đi, dù gian nguy nào sá chi, đi theo Chúa dứt bỏ lợi danh, đi theo Chúa cứu đời lầm than. Các ngài không những trung thành sống với Chúa, nhưng còn tận tâm, tận lực dùng hết năng lực Chúa ban, và ngay cả mạng sống của mình để ra đi gieo rắc tình thương, nên chứng nhân tình yêu, chinh phục các tâm hồn về Giáo Hội Chúa. Sự nghiệp của các ngài thật lớn lao thay, danh thơm tiếng tốt vẫn còn tồn tại trong lòng Giáo Hội cho đến ngày nay.
Vậy thưa anh chị em, ngày nay Chúa vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta đi theo Chúa, Ngài không đòi chúng ta phải bỏ tất cả như các môn đệ năm xưa, nhưng chắc chắn Ngài muốn chúng ta khi bước theo Ngài cũng phải từ bỏ những tính hư tật xấu; từ bỏ những dính bén của cải bất chính; từ bỏ những mối tình vụn trộm; từ bỏ những danh lợi chóng qua…., để đi vào con đường Chúa đã đi, con đường dẫn đến sự sống đời đời.
Ước gì với lòng sám hối chân thành vì những lầm lỗi thiếu sót; mỗi người chúng ta hãy học nơi các môn đệ đầu tiên tinh thần từ bỏ ấy, để theo Chúa mỗi ngày sống khắng khít với Chúa hơn. Amen.
Bài Tin Mừng theo thánh Mác-cô của Thánh Lễ Chúa Nhật III năm B hôm nay, bắt đầu bằng cách TN 3-B109
Bài Tin Mừng theo thánh Mác-cô của Thánh Lễ Chúa Nhật III năm B hôm nay, bắt đầu bằng cách xác định bối cảnh:
Sau khi Gioan bị nộp.
Thánh Gioan “bị nộp”, điều này có nghĩa là bị bắt, bị giam và bị giết một cách bất công. Đó là kế hoạch của con người phát xuất từ lòng ghen ghét đi đôi với bạo lực, không chấp nhận những gì thuộc sự thật và ánh sáng. Nhưng đồng thời đó cũng là, một cách mầu nhiệm, “kế hoạch của Thiên Chúa”, như Thiên Chúa đã hành động trong lịch sử cứu độ, và vẫn còn hành động như thế trong lịch sử loài người và trong chính cuộc đời chúng ta: Ngài nương theo hành trình của sự dữ và tội lỗi để thực hiện kế hoạch của Người. Thật vậy, sự kiện Gioan bị nộp (in divine passive, ở thể thụ động thần linh) lại loan báo mầu nhiệm Thương Khó của Đức Giê-su, như lời truyền phép trên bánh trong Thánh Lễ:
Anh em hãy nhận lấy mà ăn. Đây là mình Thầy, sẽ bị nộp vì anh em”.
Mầu nhiệm Thương Khó vừa mặc khải bộ mặt thật của Sự Dữ để giải thoát chúng ta khỏi Sự Dữ và tất cả những gì liên quan đến Sự Dữ, vừa mặc khải khuôn mặt rạng ngời của Thiên Chúa cũng như sức mạnh và sự khôn ngoan của Người vượt thắng Sự Dữ và sự chết.
Tin Mừng Nước Trời Và ngay sau khi Gioan bị nộp, Đức Giêsu đến Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa:
Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.
Nước Trời mà Đức Giê-su rao giảng mời gọi thực hiện hành trình sám hối. Bởi vì, để đón nhận Nước Trời, chúng ta phải từ bỏ tất cả những gì ngăn cản chúng ta đón nhận Nước Trời, phải giữ khoảng cách với tất cả những gì không thuộc về hay không giúp hướng về Nước Trời. Nhưng đàng khác, Nước Trời cũng lôi kéo chúng ta và làm chúng ta say mê, vì Nước Trời làm cho no thỏa những khát vọng thâm sâu và mạnh mẽ nhất của con người. Loài người chúng ta dựng nên bởi Thiên Chúa và cho Thiên Chúa, vì thế, tự bản chất hướng về Nước của Thiên Chúa.
* * *
Chúng ta có thể nghĩ đến những kinh nghiệm “bị nộp’ nho nhỏ hằng ngày của chúng ta: đó là những lúc chúng ta bị coi thường, không được tôn trọng, bị hiểu lầm, bị phân biệt; và những kinh nghiệm “bị nộp” lớn hơn: bị ghét, bị loại trừ, bị bách hại. Nhưng đó lại là những cơ hội tốt, Chúa mời gọi để chúng ta công bố Tin Mừng của Thiên Chúa, làm chứng cho tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, sống sự “hiền lành và khiêm nhường” của Đức Ki-tô, bày tỏ lòng thương xót và bao dung của Thiên Chúa, như chính Người sẽ nói:
Người ta sẽ nộp anh em…, nhưng đó là cơ hội làm chứng cho họ được biết.
(Mc 13, 9)
Hay đúng hơn và sâu sa hơn, đó là những cơ hội để cho Đức Kitô đến công bố Tin Mừng của Ngài ngay trong những khó khăn và thử thách của chúng ta.
Tin Mừng Nước Trời và ơn gọi
Vẫn chưa hết hoa trái của biến cố “thánh Gioan bị nộp”, vì đó còn là lúc Chúa thực hiện kế hoạch kêu gọi các môn đệ đầu tiên để chia sẻ sự sống và sứ mạng của Ngài một cách nhưng không. Điều này giúp chúng ta hiểu ơn gọi của chúng ta một cách mới mẻ: ơn gọi của chúng ta thuộc về Tin Mừng Nước Trời, là dấu chỉ của Tin Mừng Nước Trời, của “Niềm Vui Tin Mừng”, như Đức Thánh Cha Phan-xi-cô nhấn mạnh cách đặc biệt. Thực vậy, đời dâng hiến, giữa đời hay trong một Hội Dòng, mà Giáo Hội cầu nguyện, suy tư, canh tân và cổ võ trong Năm Đời Sống Thánh Hiến, là dấu chỉ sống động của Nước Trời.
Chiêm ngắm cách Người kêu gọi các môn đệ đầu tiên, chúng ta có thể nhận ra ba đặc điểm, và ba đặc điểm này cũng thuộc về mọi ơn gọi.
a. Đức Giê-su đến tận nơi
Như thánh sử Mác-cô kể lại cho chúng ta trong bài Tin Mừng, Đức Giê-su đến tận nơi, gặp gỡ và kêu gọi hai lần, mỗi lần hai anh em:
Người đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy ông Si-môn với người anh là ông An-rê, đang quăng lưới xuống biển, vì họ làm nghề đánh cá.
Đi xa hơn một chút, Người thấy ông Gia-cô-bê, con ông Dê-bê-đê, và người em là ông Gio-an. Hai ông này đang vá lưới ở trong thuyền.
Trong thực tế, chúng ta bỏ nhà đi theo Chúa trong một ơn gọi, nhưng khi đọc lại hành trình ơn gọi, chúng ta sẽ nhận ra rằng, chính Đức Giê-su đến gặp gỡ tại nơi chúng ta đang sống, đang là, chính Người đi bước trước, đến tận nơi chúng ta đang ở, hiện diện trong hoàn cảnh của chúng ta, gặp gỡ chúng ta khi chúng ta đang loay hoay “với lưới với thuyền” cùng với những người thân yêu… Chính Người gõ cửa lòng chúng ta và mời gọi: “Hãy theo Thầy”. Tương tự như sau đó, Người gọi thánh Mát-thêu:
Đi ngang qua trạm thu thuế, Người thấy ông Lê-vi là con ông An-phê, đang ngồi ở đó. Người bảo ông: “Anh hãy theo tôi! ” Ông đứng dậy đi theo Người.
(Mc 2, 14)
b. Người kêu gọi cách nhưng không
Tiếp đến, chúng ta được mời gọi nhận ra tính nhưng không của ơn gọi. Thật vậy, Đức Giêsu gọi hai anh em Phêrô và Anrê, hai anh em Giacôbê và Gioan, như các ông đang là, đang lay hoay với công việc, với những bận tâm của riêng mình, đang bân rộn với lưới với thuyền cùng với những người thân, khi họ đang bận tâm với những vấn đề của cuộc sống. Ngài dường như không cần chuẩn bị “lâu dài” các ông rồi mới gọi; tiếng gọi của Đức Giêsu thật nhưng không, đặt hết lòng tin nơi người nghe.
Tiếng gọi của Đức Giê-su dành cho mỗi người chúng ta cũng nhưng không như thế, dù trong thực tế đã diễn ra như thế nào và đã trải qua những thăng trầm nào. Bởi vì, tiếng gọi của Chúa tự bản chất là nhưng không. Chúng ta đừng bao giờ để phai nhạt đi sự ngỡ ngàng đối với tiếng gọi nhưng không của Đức Giêsu: tại sao Chúa lại gọi con? Tại sao Chúa lại chọn con? Tại sao lại dẫn con đi trên con đường này? Tại sao Chúa lại sai con? Tại sao Chúa lại trao cho con sứ mạng này? Tại sao Chúa lại trao cho cho “chén” này?… Chúng ta hãy làm mới lại sự ngỡ ngàng đối với tiếng gọi của Đức Giêsu, vì đó là động lực giúp chúng ta làm mới lại lời đáp của chúng ta.
c. Tiếng gọi của Người có sức mạnh
Sau cùng, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm sức mạnh của tiếng gọi. Thật vậy, tiếng gọi của Đức Giê-su mạnh đến độ làm bật tung « lập tức » (c. 18) các môn đệ đầu tiên ngay tại nơi các ông đang làm việc cùng với những người thân yêu, nơi ông gắn bó, nơi nuôi sống các ông và gia đình, nơi là sự nghiệp của ông, là cuộc đời của ông.
Khi nghe tiếng gọi, hai anh em Simon (là thánh Phê-rô sau này) và An-rê “lập tức hai ông bỏ chài lưới mà theo Người”; còn hai anh em Gia-cô-bê và Gioan thì bỏ cha mình là ông Dê-bê-đê ở lại trên thuyền với những người làm công mà đi theo Người. Hai anh em kia bỏ công danh sự nghiệp, còn hai anh em này thì bỏ những người thân yêu, bỏ gia đình êm ấm và khá giả nữa (vì có người làm công). Lời Chúa có sức mạnh như thế đó, mạnh đến độ làm bật tung các môn đệ đầu tiên ra khỏi ra khỏi những người các ông đang gắn bó và yêu mến, ra khỏi các phương tiện nuôi sống các ông và gia đình, ra khỏi sự nghiệp, ra khỏi những dự tính bình thường của các ông.
Chúng ta còn chậm chạp và dây dưa trong cách đáp lại, chính là vì chúng ta chưa thực sự nghe được tiếng Chúa. Vì thế, chúng ta hãy ước ao và quảng đại mở lòng ra để đích thân nghe được tiếng Chúa gọi với tất cả sức mạnh của Lời Chúa, không chỉ một lần, nhưng hằng ngày và suốt đời. Lời Chúa sẽ đụng chạm đến chốn sâu thẳm nhất nơi con người của chúng ta, sẽ biến đổi chúng ta, vì Lời Chúa là Lời tạo dựng nên chúng ta, là Lời tái tạo chúng ta, và là sự sống mới của chúng ta.
Tương tự như dân thành Ni-ni-vê, được kể lại trong bài đọc I của Thánh Lễ hôm nay, Lời Chúa được công bố ngang qua lời rao giảng của ngôn sứ Gio-na, đã biến đổi toàn diện và tặn căn như thế nào cả một thành đô:
Dân Ni-ni-vê tin vào Thiên Chúa, họ công bố lệnh ăn chay và mặc áo vải thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ!
(Gi 3, 1-5)
Và để cho Lời Chúa được gieo và sinh hoa kết quả trong lòng chúng ta, thánh Phao-lô mời gọi chúng ta, trong bài đọc II, sống sự thật này mỗi ngày, một sự thật rất đời thường, nhưng lại hay bị gạt bỏ, vì thế chúng ta thường hay tuyệt đối hóa những điều tương đối:
Thời gian chẳng con bao lâu nữa… Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi.
(1Co 7, 29.31)
* * *
Ơn gọi thiết yếu là một tương quan: Chúa gọi và chúng ta đáp lại, như trường hợp các môn đệ đầu tiên : Đức Giê-su mời gọi : « Các anh hãy đi theo tôi », và « lập tức các ông bỏ chài, bỏ thuyền, bỏ cha mà theo Người”. Vì đây là ơn gọi đầu tiên của mọi ơn gọi trong Giáo Hội mà Đức Giê-su sẽ thiết lập, nên cách Ngài gọi các môn đệ đầu tiên chính là nền tảng của mọi ơn gọi; và nền tảng thì luôn luôn hiện diện trong cuộc đời chúng ta, trong mỗi ngày sống và nhất là mỗi khi chúng ta lựa chọn.
Ơn gọi hiểu như thế, thì không thể chỉ là một biến cố đã qua, nhưng phải được sống và hiện tại hóa hằng ngày, thậm chí phải diễn ra hằng ngày. Ngài đi ngang qua đời ta mỗi ngày, và lúc nào ngài cũng thấy chúng ta đang loay hoay làm cái gì đó, bận tâm chuyện gì đó. Ngài gọi chúng ta thật nhưng không, bao dung và quảng đại; và chúng ta được mời gọi đáp lại cách nhưng không, bao dung và quảng đại như lời đáp đầu tiên của chúng ta trong bước đường tìm hiểu và sống ơn gọi dâng hiến.
Cá nhân có thể làm những công trình nhỏ dễ dàng nhưng khi phải làm những công trình lớn, tự TN 3-B110
Cá nhân có thể làm những công trình nhỏ dễ dàng nhưng khi phải làm những công trình lớn, tự mình không thể và cần có nhiều bàn tay cộng tác. Khi có nhiều người cộng tác cần có người lãnh đạo công trình. Người đó chịu trách nhiệm chung toàn công trình vừa dễ cho điều hành vừa giải quyết nhanh chóng những khác biệt.
Khởi đầu cuộc đời rao giảng công khai Đức Kitô cũng đang tìm kiếm, lựa lọc nhân viên cộng tác với Ngài trong công trình mà Ngài gọi là ‘Ngư phủ chài lưới người’. Đây là công trình vĩ đại, công trình giải thoát toàn thể nhân loại khỏi xiềng xích tội lỗi và ban ơn cứu độ muôn đời. Đức Kitô chọn một số ngư phủ, họ là những ngư phủ chuyên nghiệp trên sông biển nay biến thành ‘ngư phủ chài lưới người’. Đây là một nghề mới chưa từng có trong lịch sử nhân loại.
Khi được mời gọi trở thành ‘ngư phủ chài người’ có lẽ các ông cũng không hiểu rõ sẽ làm gì nhưng chài lưới thì không thành vấn đề. Còn ‘chài người’ ra sao thì các ông không rõ. Tuy nhiên các ông mạnh dạn dấn thân theo Đức Kitô trở thành ‘ngư phủ chài người’. Từ bỏ lưới và chài cũng như thuyền sau lưng dấn bước theo Đức Kitô là thái độ dứt khoát, rõ ràng từ bỏ quá khứ tiến vào tương lai vô định, đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô. Để cho vấn đề trở nên cấp thiết hơn Đức Kitô cho các ông biết ‘thời giờ đã gần’ nên không thể chờ đợi thêm mà phải thi hành ngay vì ‘thời giờ đã gần’ để thay đổi, để bắt đầu cuộc sống mới, để từ bỏ nghề cũ chọn nghề mới: chài người thay vì chài cá. Tất cả những đổi thay trên đều vì con người và cho con người. Đức Kitô sinh xuống trần thế cho chúng ta. Nước trời thiết lập cho chúng ta. Nhóm ‘chài lưới người’ cũng vì chúng ta. Thay đổi để trở thành con người mới cũng cho chúng ta. Lối sống mới Đức Kitô mời gọi cũng cho chúng ta. Thống hối và tin vào Tin Mừng cũng cho chúng ta. Và chính điều này biến chúng ta thành con người mới trong Đức Kitô. Xem ra tất cả mọi sự đều cho chúng ta, cho nhân loại được Chúa yêu thương.
Ngư phủ một khi từ bỏ lưới và thuyền sau lưng là chính thức từ giã quá khứ để tiến vào đời sống mới. Từ giã vì ‘thời giờ đã gần’ để thay đổi: thay đổi cách sống, thay đổi ngành nghề, thay đổi lối suy nghĩ và thay đổi đường lối làm việc của con tim.
Nhiều phen ngư phủ chài lưới suốt đêm sáng ra trắng tay, có lẽ số lượng cá giảm nhiều. Có phải vì thế mà họ từ bỏ nghề cũ để nhận nghề mới chăng? Điều chắc chắn là có nhiều lí do khiến họ đổi tay nghề. Mỗi thứ cộng lại một chút ảnh hưởng nhiều đến tâm tư các ông. Lời Đức Kitô mời gọi đi theo đóng vai trò thay đổi, chài cá khó khăn hơn là một yếu tố khác. Thêm vào đó yếu tố mời đổi tay nghề. Trong các yếu tố đó, quan trọng hơn cả là chính con người Đức Kitô dường như nơi Ngài có ‘châm điện’ khiến các ông quyết tâm từ bỏ đường lối cũ bước theo con đường mới. Từ nơi Ngài phát sinh ra một sức mạnh kì lạ khiến các ông, dù không hiểu rõ cũng đặt trọn tin tưởng, hoàn toàn phó thác đời mình cho Đức Kitô để được giáo dục, huấn luyện trở thành các tay ‘chài lưới người’ chuyên nghiệp. Các ông tự nguyện theo Đức Kitô, khiêm hạ đặt mình dưới sự hướng dẫn của Ngài để sống cuộc đời mới. Cuộc đời cá nhân từ nay được thay thế bằng cuộc sống hợp đoàn, cùng với các anh em khác chia sẻ cuộc sống cộng đoàn dưới sự chỉ bảo, hướng dẫn của Đức Kitô. Họ không phải chỉ sống cộng đoàn mà còn bắt chước, học đòi cách sống của chính Đức Kitô và chính điều này biến họ thành con người mới, sống theo gương Đức Kitô, học suy nghĩ như Ngài và thương mến đồng loại theo cùng nhịp tim của Ngài.
Suốt năm năm qua, không đêm nào là em không tự sám hối về những lỗi lầm mình đã gây TN 3-B111
“…Suốt năm năm qua, không đêm nào là em không tự sám hối về những lỗi lầm mình đã gây ra, vì em tin rằng, sám hối cũng là một cách để nhắc nhở mình không bao giờ được phạm phải sai lầm như thế nữa” và “em tin với những gì mình đã nhận ra, cảm thấy, với quyết tâm trong lao động, cải tạo em sẽ có cơ hội làm lại đời mình, có cơ hội để bù đắp lại những gì mình gây ra cho anh chị, vợ con. Anh chị hãy tha thứ và cho em một cơ hội nữa anh chị nhé”. Một lá thư phạm nhân trại giam Thanh Lâm gửi cho gia đình bị hại, lời sám hối lỗi lầm của mình đã gây ra, mong được tha thứ và quyết tâm sửa đổi và làm lại cuộc đời và đã viết ra những dòng sám hối chân thành này.
Một bức thư khác, phạm nhân đã tâm sự: “…dù cháu có nói thế nào đi nữa, hay có phải chịu hình phạt nghiêm khắc thế nào thì cũng không thể làm vơi đi nỗi đau mà gia đình bác phải trải qua khi phải mất đi người con yêu quý, nhưng trong thâm tâm cháu lúc nào cũng cầu mong nhận được sự tha thứ từ gia đình của bác vì sự việc xảy ra…”.
Lời xin lỗi không bao giờ là muộn. Cho dù, lời đó có được chấp nhận để tha thứ hay không, thì còn phải tùy thuộc vào thời gian vết thương được chữa lành. Nhưng ít ra, phạm nhân nói lên nỗi lòng của mình, và họ sẽ vơi đi nỗi ray rứt, dằn xé của lương tâm, vì tội lỗi mình đã gây ra. Và gia đình bị hại cảm thấy nhẹ đi phần nào sự căm phẫn và oan ức. Sống trên đời cần có một tấm lòng. Một tấm lòng khoan dung, vị tha là tâm hồn cao thượng. Hơn nữa, lời xin lỗi là một tiến trình sám hối của một con người biết nhìn ra sai lầm và tội lỗi của mình. Đây cũng là chủ đề chính trong các bài đọc Lời Chúa hôm nay.
Khởi đi từ sách Giô-na, Thiên Chúa sai ông đến thành Ni-ni-vê, kêu gọi dân chúng bỏ đường gian ác mà trở lại, ăn năn sám hối thì tại họa sẽ không giáng xuống trên họ nữa. Và Chúa Giê-su bắt đầu sứ mạng rao giảng, Ngài kêu gọi: " Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đến gần. Anh em hãy sám hối và tin Tin Mừng." (Mc 1, 15) Tại sao Chúa Giê-su là kêu gọi chúng ta phải sám hối? Sám hối là cách thức giúp chúng ta nhìn ra con người thật của mình, hỗ thẹn vì tội lỗi, ăn năn, sửa đổi và làm lại cuộc đời. Sám hối cũng giống như lời xin lỗi. Người biết xin lỗi thì được tha thứ.
Nhưng nơi thẳm sâu của con người thì chẳng ai muốn phơi bày tội mình ra, họ thường che dấu và phủ nhận tội của mình. Chúa Giê-su đã nhiều lần tố cáo những kẻ giả hình: " Thấy cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong mắt mình thì không thấy". Thật vậy, tội giả hình là hình thức che đậy tội, và họ thường kết án người khác, tự cho mình là người tốt, là hoàn hảo. Đây là một thứ tội phổ biến nhất nơi con người, phơi bày bên ngoài dưới nhiều hình thức để che lấp hố sâu đầy tự kiêu, tham vọng và giả trá. Trước mặt Chúa, mọi người là tội nhân đáng thương vì mang nhiều vết tích tội lỗi. Kết cuộc là một thảm họa cho những ai sống hai mặt, họ phải chịu phán xét trước mặt Chúa vì lẽ công bằng, không có gì có thể che dấu mà không bị lộ ra.
Cuộc sống là một hành trình biến đổi theo thời gian, con người chúng ta không tránh khỏi quy luật của đất trời mà Thiên Chúa sắp đặt. Chúa Giê-su nói: " Thời gian đã đến gần, anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng", đó là kêu gọi khẩn thiết cho những ai thành tâm lắng nghe tiếng Chúa, thì họ sẽ được giải thoát và cứu độ. Thời gian của mỗi người là ngày tận cùng của ta. Ngày đó, chúng ta không biết là ngày nào, nhưng ngày đó sẽ xẩy đến với chúng ta.
Trong thời khắc cuối năm này cũng là dịp cho mỗi người chúng ta nhìn lại một năm đã qua và kiểm điểm lại đời sống của mình với những thành quả cũng như thất bại, đó cũng là cách giúp ta biết tạ ơn Thiên Chúa những gì ta có được nhờ ơn Chúa ban và đồng thời giúp ta biết tỉnh thức, sám hối vì những tội lỗi và thiếu xót trong hành trình sống đức tin và đi theo Chúa.
Lạy Chúa, con xin gởi lời xin lỗi chân thành của con đến Chúa, đến Mẹ Maria, đến những ai con đã xúc phạm, làm họ đau lòng, thì xin Chúa hãy xót thương và tha thứ cho con. Và xin anh chị em cũng hãy tha thứ cho nhau như Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Amen.
Từ chuyện nhỏ tới chuyện to, hành động nào cũng cần có quyết định, điều càng quan trọng càng TN 3-B112
Từ chuyện nhỏ tới chuyện to, hành động nào cũng cần có quyết định, điều càng quan trọng càng khó quyết định. Ai cũng có tự do để quyết định, khi không muốn quyết định mà vẫn phải làm, đó là lúc miễn cưỡng, và khi đã quyết định rồi thì phải chịu trách nhiệm. Tự do và trách nhiệm có hệ lụy với nhau, Thánh TS Tôma Aquinô (1225-1274, lễ ngày 28-1) xác định: “Tự do là khả năng chọn làm điều thiện với một trách nhiệm”.
Thánh Elizabeth Ann Seton (1774-1821, lễ ngày 1-4) có quyết định thật tuyệt vời: “Thứ nhất, tôi muốn công việc hàng ngày của tôi là làm theo Ý Chúa; thứ nhì, tôi làm điều đó theo cách Ngài muốn; thứ ba, tôi làm điều đó vì đó là Thánh Ý Chúa”.
Văn sĩ kiêm triết gia Elbert Green Hubbard (1856–1915, người Mỹ) nhận định: “It does not take much strength to do things, but it requires great strength to decide on what to do – Không cần nhiều sức mạnh để làm điều gì đó, nhưng cần nhiều sức mạnh để quyết định phải làm gì”. Đó là tính quyết đoán rất cần trong cuộc sống, và điều đó chứng tỏ bản lĩnh sống của một con người.
Trong cuộc sống đời thường, đến một thời điểm quan trọng nào đó, người ta thường nói: “Giờ đã điểm” – tức là “lúc phải hành động”. Và người ta gọi thời điểm đó là Giờ G. Có thể Giờ G mang nghĩa tốt hoặc xấu. Đó là lúc “chạy nước rút”, bởi vì nếu nước đến chân rồi mới nhảy thì không kịp nữa. Chúng ta cảm thấy “sốt ruột” khi nhìn chiếc đồng hồ cát chậm rãi chảy, và cứ nghĩ là còn lâu, nhưng rồi bất ngờ nó chảy hết cát. Bom nổ!
Thiên Chúa luôn công bằng, không hề thiên tư, quan phòng và tiền định mọi sự. Thật vậy, Ông Trời sinh ra ai thì đã có kế hoạch rạch ròi cho người đó. Một bậc kỳ tài được sinh ra là để dùng vào một sứ mệnh nào đó, nhưng trước khi trao sứ mệnh đó, họ phải trải qua trăm cay ngàn đắng để tôi luyện tâm tính. Như người ta thường ví von: “Tài mệnh tương đố”, hoặc “Hồng nhan bạc phận”. Chắc hẳn đó là sự công bằng của Thiên Chúa. Khi được trao nhiệm vụ và nếu tự nguyện chấp nhận thì phải chu toàn: Thà hối hận về những điều mình đã làm còn hơn hối tiếc về những điều chưa làm.
Quy trình rõ ràng và hợp lý: Mời gọi, đi theo, rồi hành động. Đó là một chuỗi động từ gắn kết và có hệ lụy với nhau thành một Tam-Giác-Sống, trước khi Giờ G điểm.
Kinh Thánh cho biết rằng Thiên Chúa nói với tiên tri Giôna lần thứ hai: “Hãy đứng dậy, đi đến Ninivê, thành phố lớn, và hô cho dân thành biết lời tuyên cáo Ta sẽ truyền cho ngươi” (Gn 3:2). Ông Giôna mau mắn đứng dậy và đi Ninivê. Kinh Thánh cho biết Ninivê là “một thành phố cực kỳ rộng lớn, đi ngang qua phải mất ba ngày đường”. Ông vào thành và công bố: “Còn bốn mươi ngày nữa, Ninivê sẽ bị phá đổ” (Gn 3:4). Dân thành tin vào Thiên Chúa, họ công bố lệnh ăn chay và mặc áo vải thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ – kể cả súc vật. Thiên Chúa thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường gian ác mà trở lại, thế là Ngài đã không giáng tai họa xuống trên họ nữa. Rõ ràng việc cầu nguyện và canh tân đời sống có thể thay đổi số phận của con người.
Đoạn Kinh Thánh ngắn gọn mà hàm súc, dễ đọc và dễ hình dung. Chính Thiên Chúa là Đấng giàu Lòng Thương Xót, Ngài “không đành bẻ gãy cây lau bị giập và chẳng nỡ tắt tim đèn leo lét” (x. Mt 12:20). Người nào càng tội lỗi thì Ngài càng thương, vì Ngài đến để “TÌM và CỨU những gì đã mất” (Lc 19:10). Đó là điều rất thật mà đôi khi chúng ta không dám tin, vì Ngài đại lượng ngoài sức tưởng tượng và vượt xa trí tuệ của phàm nhân. Suy nghĩ về chính cuộc đời mình thì chúng ta sẽ thấy rõ, không cần dẫn chứng đâu xa.
Thật vậy, lịch sử Giáo hội đã có nhiều chứng nhân về Lòng Chúa Thương Xót: Thánh vương Đa-vít, Thánh giáo hoàng Phêrô, Thánh Phaolô, Thánh Augustinô, người phụ nữ ngoại tình, người phụ nữ tội lỗi,… Đặc biệt nhất là “thánh trộm” Dismas cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu. Tuy Chúa Giêsu có trí nhớ tốt nhưng lại mau quên, vì dù biết tay này là tên trộm cướp khét tiếng, thế nhưng nghe “hắn” năn nỉ mấy tiếng là Ngài đồng ý ngay: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với Tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23:43). Sướng rơn! Không ai “đã” như “thánh trộm” này, bởi vì ông là người đầu tiên được nối gót Chúa Giêsu vào Thiên Đàng ngay đêm hôm đó.
Với tâm tình đó, Tv 25 sử dụng những lời thật tha thiết, từng câu như rót vào tâm trí: “Lạy Chúa, đường nẻo Ngài, xin dạy cho con biết, lối đi của Ngài, xin chỉ bảo con” (Tv 25:4). Xin như vậy thì sao Chúa lắc đầu được. Xin như vậy nghĩa là muốn thực hành theo Ý Chúa, mà Chúa rất thích người ta làm theo Ý Ngài. Đức Mẹ nhờ “xin vâng” mà được nên cao trọng, khiến mọi người mọi thời đều ca tụng Mẹ là “người diễm phúc” (Lc 1:48). Người có niềm tin yêu vẫn kiên trì tiếp tục năn nỉ: “Xin dẫn con đi theo đường chân lý của Ngài và bảo ban dạy dỗ, vì chính Ngài là Thiên Chúa cứu độ con” (Tv 25:5). Đó là một quyết định đúng đắn.
Thế nhưng vẫn chưa thỏa lòng, chúng ta lại kể “chuyện cổ tích” cho Chúa nghe: “Lạy Chúa, xin nhớ lại nghĩa nặng với ân sâu Ngài đã từng biểu lộ từ muôn thuở muôn đời. Tuổi xuân trót dại bao lầm lỗi, xin Ngài đừng nhớ đến, nhưng xin lấy tình thương mà nhớ đến con cùng” (Tv 25:6-7). Tuổi trẻ luôn bồng bột và ngang ngược, càng có tuổi thì người ta càng “ngộ” ra và “khôn” ra. Chúa chỉ chờ chúng ta “nên người” như thế, vì “Chúa là Đấng nhân từ chính trực, chỉ lối cho tội nhân, dẫn kẻ nghèo hèn đi theo đường công chính, dạy cho biết đường lối của Người” (Tv 25:8-9).
Và rồi cũng đến lúc điểm Giờ G. Người ta cứ đồn thổi ngày nọ, tháng kia sẽ tận thế. Đã rất nhiều lần như vậy, người ta đã từng nhốn nháo lo sợ sốt vó, nhưng rồi không thấy “động tĩnh” gì, người ta lại “vô tư”, cứ “xả láng” như chưa hề có chuyện gì. Thật lạ, các “tiên tri giả” cứ thay phiên nhau xuất hiện. Thế nhưng họ chỉ là những “thầy bói mù đoán mò”, chỉ là những kẻ yếu bóng vía, dốt hay nói chữ, muốn “chơi nổi” để tự tôn, chứng tỏ chẳng biết gì về Kinh Thánh. Chúa Giêsu đã nói rạch ròi: “Về ngày và giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay cả người Con cũng không, chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi” (Mt 24:36). Và rồi nay lại thấy có tà giáo “Đức Chúa Trời Mẹ” (*). Đúng là… “chuyện động trời” mà!
Còn nữa, cái gọi là “Sứ Điệp Từ Trời” cũng chỉ lấy danh nghĩa Sự Thật mà nói những lời châm chọc, khích bác, không hề yêu thương như Chúa dạy. Thật buồn khi thấy một số người vẫn tin vào loại “sứ điệp” như vậy (sic!). Người Pháp thật chí lý khi thẳng thắn nói: “Đừng vì kính mến Chúa mà chống đối người khác”. Đức tin rất cần lý trí lành mạnh để không ảo tưởng hoặc cuồng tín. Cuồng tín là phi đức tin, và biến thành mê tín. Thánh TS Tôma Aquinô nói: “Có ba điều cần để con người được cứu độ: biết mình TIN gì, biết mình MUỐN gì, và biết mình LÀM gì”.
Thật là quái gở! Làm không lo làm mà cứ lo… rình mò. Sống không lo sống tốt mà cứ tìm cách phá đám, thọc gậy bánh xe, rồi khoác lác đủ thứ. Tin không lo tin mà cứ dị đoan. Thánh Phaolô cũng đã từng cảm thấy ái ngại nên ân cần nhắn nhủ: “Thời gian chẳng còn bao lâu” (1 Cr 7:29), và giải thích tường tận: “Từ nay, những người có vợ hãy sống như không có; ai khóc lóc, hãy làm như không khóc; ai vui mừng, như chẳng mừng vui; ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả; kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng. Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi” (1 Cr 7:30-31). Thật như thế chứ còn thật như thế nào nữa? Nghe mà vừa thấy “lạ” vừa thấy… rờn rợn, nhưng đó lại là sự thật minh nhiên và tuyệt đối!
Có mà như không, không mà lại có. Đó là điều kỳ lạ, ngay trong đời thường chúng ta cũng khả dĩ cảm nhận được như vậy. Nhưng ai tự quyết định sống như vậy mới là “cao thủ”, bởi vì đó là cách buông bỏ rất cần trong đời sống Kitô hữu, cách sống mà Chúa Giêsu luôn khuyến khích: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16:24-26; x. Mc 8:34-37; Lc 9:23-25).
Một hôm, khi đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa, Chúa Giêsu vừa xác định vừa cảnh báo: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy SÁM HỐI và TIN vào Tin Mừng” (Mc 1:15). Ngài thấy ông Simôn với người anh là ông Anrê đang quăng lưới xuống biển, Ngài bảo: “Các anh hãy theo Tôi, Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mc 1:17). Hai anh em lập tức bỏ chài lưới mà đi theo Ngài. Sau đó, Ngài thấy hai anh em Giacôbê và Gioan, con ông Dêbêđê, đang vá lưới ở trong thuyền, Ngài cũng gọi cả hai, và họ cũng bỏ cha mình ở lại trên thuyền mà đi theo Ngài.
Cả hai cặp tông đồ đầu tiên này đều có điểm chung là mau mắn “đi theo” ngay sau khi “được mời gọi”, nghĩa là họ không hề đắn đo, lần lữa, mà quyết định ngay. Đó là động thái rất quan trọng trong cuộc sống – cả đời và đạo, bởi vì “vâng lời trọng hơn của lễ” (1 Sm 15:22 và Tv 50:8-9). Nhận biết Ý Chúa là điều không dễ, nhưng khả dĩ vui vẻ chấp nhận và hoàn toàn “xin vâng” thì lại càng khó hơn nhiều. Con người rất yếu đuối, nếu không có Chúa thì chúng ta không thể làm gì được (x. Ga 15:5), nói theo ngôn từ ngày nay là “BoTay.com”. Đúng thế thật!
Lạy Thiên Chúa, xin cứ lấy hết tự do và trí nhớ của con, cả sự hiểu biết và ý muốn của con, bởi vì tất cả những gì con có và sở hữu đều do Ngài cho phép con quản lý. Ngài đã ban cho con thì Ngài có quyền lấy lại (x. G 1:21). Mọi sự đều là của Ngài, xin Ngài sử dụng theo Thánh Ý Ngài. Xin thương ban cho con tình yêu và ân sủng của Ngài, vì như thế là đủ cho con rồi.
Lạy Đấng là Chân Lý, nếu con có gì lệch lạc, xin Ngài dập tắt ngay từ khi manh nha, xin dạy con biết đường lối của Chúa, xin giúp con quyết định đúng theo Thánh Ý Ngài và giúp con tuân hành trong suốt cuộc đời con. Xin cho bất kỳ ai gặp con thì cũng đều gặp được Ngài, và con cũng thực sự nhận thấy Ngài nơi họ. Con cũng chỉ xin Ngài như bổn mạng của con là Thánh Tôma Aquinô: “Con chỉ muốn Chúa mà thôi”. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ nhân loại. Amen.
------------------------ (*) World Mission Society Church of God được thành lập bởi Ahnsahnghong (1918-1985) vào năm 1964. Ahnsahnghong (1918-1985, sinh tại Nam Hàn trong một gia đình có truyền thống Phật giáo). Sau khi qua đời, Ahnsahnghongđể lại quyền lãnh đạo giáo hội cho Zahng Gil-Jah (người vợ tâm linh, gọi là “Mẹ Thiên Thượng”) và Kim Joo-Cheol (Mục sư Hội Trưởng).
Trụ sở chính được đặt tại Bundang, thành phố Sungnam, tỉnh Kyunggi. Zahng cũng là Chủ tịch của Quỹ phúc lợi Cuộc Sống Mới (New Life Welfare) và Tổ chức quốc tế Chúng Tôi Yêu Bạn (We Love You).
Tà giáo này tuyên bố đã thành lập hơn 400 nhà thờ tại Hàn Quốc và 2.200 nhà thờ tại 150 quốc gia với gần 2 triệu tín hữu (tính đến tháng 4-2012). Tà giáo này đến Việt Nam vào đầu thế kỷ 21. Tại TPHCM, sự xuất hiện của tà giáo này được ghi nhận lần đầu tiên vào khoảng năm 2007, riêng tại Hà Nội có lẽ nó đã bắt đầu hoạt động từ vài năm trước đó.
Khi 15 tuổi, Margaret Mehren là một thành viên của phong trào thanh thiếu niên Đức Quốc Xã TN 3-B113
Khi 15 tuổi, Margaret Mehren là một thành viên của phong trào thanh thiếu niên Đức Quốc Xã ở Đức.
Sau cuộc chiến, cô tìm hiểu về sự diệt chủng trong các trại tập trung của Đức Quốc Xã. Và cô thật sửng sốt. Bỗng dưng cô nhận ra rằng Hitler không phải là một người lãnh đạo đáng vinh dự như cô nghĩ. Cô thề sẽ không bao giờ tin vào người lớn.
Chính trong tâm trạng này mà Margaret cũng bắt đầu hồ nghi về thái độ vô thần của cô. Một ngày kia cô cầu xin với Thiên Chúa, “Lạy Chúa, nếu Ngài thực sự hiện diện, hãy cho con những dấu hiệu.”
Khoảng thời gian này, tình cờ cô đọc Kinh Thánh. Cô cố gắng đọc một vài lần, nhưng chẳng tìm thấy ý nghĩa gì cả. Và rồi một đêm kia, cô lại cầm quyển sách ấy lên. Lần này, nó thật có ý nghĩa! Sau này cô viết:
Điều gì đó đã xảy đến với tôi khi đọc những lời của Chúa Giêsu. Tôi biết Người đang sống!... Tôi biết Người ở đó, tuy tôi không nghe và thấy gì cả.
Đức Giêsu thì có thật, thật hơn bất cứ gì chung quanh tôi – bàn ghế, sách vở, chậu kiểng. Tôi không còn cô độc. Cuộc đời tôi không còn là một ngõ cụt.
Một vài năm sau, khi 21 tuổi, Margaret trở nên một nữ tu dòng Phanxicô. Ngày nay, 25 năm sau, chị là một nữ tu truyền giáo, dạy học sinh ở Nam Phi Châu.
Câu chuyện của Chị Margaret Mehren nói lên sự kiện là Thiên Chúa vẫn kêu gọi con người ngày nay, cũng như Thiên Chúa đã kêu gọi ông Giôna trong thời Cựu Ước và ông Giacôbê, Gioan trong thời Tân Ước, trong bài phúc âm hôm nay.
Khi chúng ta nói Thiên Chúa kêu gọi người ta trở thành ngôn sứ của Chúa, hoặc Chúa Giêsu kêu gọi người ta trở thành môn đệ của Người, chúng ta thường đề cập đến điều đó là một ơn gọi. Chữ ơn gọi xuất xứ từ chữ Latinh có nghĩa “kêu gọi.”
Chúng ta cũng nghĩ và nói về lời kêu gọi của Thiên Chúa đối với người trẻ. Và điều đó chắc chắn đúng.
Một trong những người lãnh đạo tinh thần vĩ đại trong thời đại chúng ta là linh mục dòng Tên người Ấn là Anthony de Mello. Anthony nói rằng cha cảm thấy lời mời gọi của Chúa khi còn là thanh niên.
Khi Anthony xin cha của mình cho phép đi tu làm linh mục, cha của Anthony trả lời không. Ông chỉ còn lại hai người con gái nên nhiệm vụ của Anthony là nối dõi tông đường.
Sau đó, sau một thời gian 14 năm không sinh nở, mẹ của Anthony lại mang thai. Khi bà được đưa vào bệnh viện để sinh, Anthony đã phải chạy bộ bốn dặm đến nhà thương.
Khi đến nơi, vừa thở hổn hển Anthony vừa hỏi, “Đó là con trai hay con gái?” Khi cha của anh trả lời đó là con trai, Anthony nói, “Hay quá! Thế là con có thể làm linh mục.”
Khi 16 tuổi, Anthony gia nhập một tiểu chủng viện ở Bombay. Sau đó người trở nên nổi tiếng toàn thế giới.
Nhưng người lớn tuổi cũng được mời gọi để theo Chúa. Thật vậy, điều này dường như trở nên một khuôn khổ mới đang ló dạng.
Để minh hoạ, hãy nghĩ đến năm thanh niên từ một danh sách rất đông những người vào dòng Tên năm 1987.
Trước hết, có Vince, 33 tuổi. Anh tốt nghiệp Đại Học Pittsburgh và dậy cũng như huấn luyện thể thao ở cấp trung học cũng như đại học.
Kế đến là Mike, 26 tuổi. Anh tốt nghiệp Đại Học Harvard và làm việc với người vô gia cư ở Baltimore, và là một giáo chức với Đội Tình Nguyện Dòng Tên ở Nam Thái Bình Dương.
Thứ ba là Rene, 27 tuổi. Anh tốt nghiệp Đại Học California và là một kỹ sư của hãng Texas Instruments.
Thứ tư là David, 28 tuổi vừa mới trở lại đạo Công Giáo. Anh tốt nghiệp Đại Học Nam Alabama, trong hải quân bốn năm, và sau này là một trị liệu gia thể lý.
Sau cùng là George, 30 tuổi. Anh tốt nghiệp Đại Học Syracuse, đã năm năm là kiểm tra viên hàng không, và làm việc với Đội Tình Nguyện Dòng Tên ở Alaska tại một đài phát thanh.
Chỉ có năm người được chọn trong một danh sách những người vào dòng năm 1987.
Điểm chính là: Thiên Chúa vẫn kêu gọi người ta hôm nay, cũng như Chúa đã kêu gọi ông Giôna trong thời Cựu Ước và Giacôbê, Gioan trong thời Tân Ước.
Và Thiên Chúa đang kêu gọi người nam cũng như nữ. Và Thiên Chúa đang kêu gọi người trẻ cũng như già.
Điều này đưa chúng ta đến một áp dụng thực tế vào đời sống chúng ta.
Trước hết, nếu chúng ta là cha mẹ, chúng ta có nói con cái hãy cầu xin sự hướng dẫn khi chúng phải chọn lựa công việc trong đời không?
Thứ hai, có bao giờ chúng ta xin Chúa gọi một đứa con của chúng ta để nó tận hiến phục vụ Hội Thánh không?
Và nếu chúng ta là người độc thân – trong tuổi thiếu niên, thanh niên, hay ba mươi – chúng ta có cầu xin Chúa hướng dẫn chúng ta khi phải chọn công việc trong tương lai không?
Hoặc có bao giờ chúng ta xin Chúa giúp chúng ta tận hiến phục vụ Hội Thánh không?
Hoặc có bao giờ chúng ta nghĩ đến việc tình nguyện cả đời để phục vụ Hội Thánh, như Mike, 26 tuổi, làm việc tình nguyện ở Nam Thái Bình Dương, hoặc như George, 30 tuổi, làm việc tình nguyện ở Alaska không?
Làm việc tình nguyện với những người tình nguyện khác – nam cũng như nữ - là một cách để biết có phải một cuộc đời phục vụ Hội Thánh là điều làm chúng ta hạnh phúc hoặc là một loại thành quả mà chúng ta đang tìm kiếm không.
Đây chỉ là một vài điều để suy nghĩ xuất phát từ các bài đọc hôm nay.
Đây chỉ là một vài điều để suy nghĩ mà cha mẹ cũng như người độc thân phải suy nghĩ theo ánh sáng của các bài đọc hôm nay.
Thật vậy, vì Thiên Chúa đang mời gọi người ta trong thời đại chúng ta, cũng như Thiên Chúa đã mời gọi con người trong thời Kinh Thánh. Và Thiên Chúa đang mời gọi người nam cũng như nữ, trẻ cũng như già.
Chúng ta hãy kết thúc với một suy nghĩ của Hồng Y Newman:
Thiên Chúa đã giao cho tôi một số công việc mà Người không giao phó cho người khác. Tôi có một sứ vụ… Do đó, tôi sẽ tín thác vào Người… Người không để nó trở thành vô hiệu… Người biết điều Người thi hành. Ôi lạy Chúa, con không dè dặt phó thác trong tay Ngài.
Ngày xửa ngày xưa, có một vị vua cai quản một vương quốc rộng lớn bao la. Ông muốn đích thân TN 3-B114
Ngày xửa ngày xưa, có một vị vua cai quản một vương quốc rộng lớn bao la. Ông muốn đích thân đi thăm những miền xa xôi của đất nước. Khi về đến nhà, đôi bàn chân ông sưng tấy và đau đớn, vì đường xá gập ghềnh sỏi đá. Ông liền ra lệnh tất cả các con đường trong vương quốc phải trải bằng da lông thú để nếu ông đi thăm vương quốc thì chân ông không còn bị đau. Cả triều đình đều thấy đó là một điều vô lý, nhưng chẳng ai dám lên tiếng. Sau cùng, có một vị quan dũng cảm đã nói với vua: “Tâu bệ hạ, tại sao vương quốc của chúng ta lại phải tiêu tốn ngân khố một cách vô ích như vậy? Tại sao bệ hạ lại không cho cắt những miếng da bò rồi phủ quanh đôi chân trần của mình? Như vậy, chân Người sẽ không còn bị đau khi đi qua những con đường gập ghềnh sỏi đá, mà cả vương quốc sẽ tiết kiệm được thời gian và tiền bạc?”. Nhà vua rất ngạc nhiên trước lời đề nghị của vị quan, và thế là đôi giày da đầu tiên của nhân loại ra đời.
Có nhiều người muốn bắt cả thế giới theo mình, trong khi nếu mình thay đổi cách sống và quan niệm cá nhân, thì sẽ cảm nhận thế giới hoàn toàn khác. Thay đổi bản thân, trong ngôn ngữ của Tin Mừng, là thành tâm sám hối. Ngôn sứ Giona được Chúa sai đến thành Ninivê để kêu gọi dân thành sám hối. Vào thời đó, thành phố này có tiếng là tội lỗi và hung bạo, đến nỗi khi ông Giona nghe thấy Chúa sai mình đến đó thì tìm cách chạy trốn vì sợ hãi. Nhưng lạ thay, khi nghe lời Gioan rao giảng, mọi người, từ vua cho tới dân đã ăn chay sám hối theo lệnh của vua. Nhờ lòng sám hối, dân thành đã không bị án phạt giáng xuống.
Chúa Giêsu khởi đầu sứ mạng loan báo Tin Mừng bằng lời kêu gọi sám hối. Lời kêu gọi này còn được lặp đi lặp lại nhiều lần, ở mọi nơi Người đặt chân tới. Sám hối là một phần quan trọng của giáo huấn Tin Mừng. Lời kêu gọi sám hối của Chúa Giêsu đi liền với lời mời gọi tin vào Tin Mừng Người rao giảng. Tin vào Tin Mừng là nhận biết Chúa Cha, đấng bao dung nhân hậu. Ngài luôn chờ đợi chúng ta trở về để đón nhận sự tha thứ. Tin Mừng kể lại có những người rất tội lỗi, nhưng đã mở lòng đón nhận giáo huấn của Chúa và được ơn thứ tha. Lịch sử Giáo Hội cũng làm chứng cho chúng ta, rất nhiều tội nhân đã sám hối và được nên thánh.
Sám hối là khiêm tốn nhìn nhận những sai sót lỗi lầm của mình, đồng thời hứa với Chúa sẽ thay đổi cuộc sống của mình nên tốt hơn. Một khi chúng ta thay đổi cuộc sống và thay đổi cách nhìn của mình đối với những người xung quanh, chúng ta sẽ nhận ra những điều tốt đẹp nơi người khác. Thay đổi cuộc sống sẽ giúp chúng ta thấy cuộc đời lạc quan đáng yêu hơn, đồng thời thúc đẩy chúng ta đóng góp phần mình để nhân lên những điều thiện hảo trong cuộc sống. Giống như vị vua trong câu chuyện trên đây, khi ông bọc đôi chân bằng miếng da bò, thì đi đâu cũng thấy êm ái và sạch sẽ. Khi trong tâm trí chúng ta có những tâm tình tốt đẹp, chúng ta sẽ khám phá những nét đẹp tiềm ẩn nơi mọi người mọi vật xung quanh.
Sám hối còn là đoạn tuyệt với quá khứ để khởi đầu một hành trình mới theo chân Đức Giêsu. Thánh Máccô kể với chúng ta trong Tin Mừng hôm nay về việc Chúa gọi các môn đệ đầu tiên. Anrê và Simon, Giacôbê và Gioan là những người đã can đảm từ bỏ cuộc sống cũ để khởi đầu một hành trình mới. Tiếng gọi “Hãy theo tôi” có sức thuyết phục kỳ diệu, khiến các ông sẵn sàng từ bỏ những người thân yêu và nghề nghiệp bao năm gắn bó. Sau này, nhiều khi phải đối diện với những khó khăn, chống đối và thiếu thốn, nhưng các ông không hề hối tiếc vì sự lựa chọn này: “Thưa Thày, bỏ Thày thì chúng con biết đến với ai? Thày mới có những lời ban sự sống đời đời” (Ga 6,67)
Cũng như một cỗ máy cần được bảo dưỡng luôn luôn, cũng như những cây nho cần được thường xuyên cắt tỉa, tâm hồn chúng ta phải được thanh tẩy mỗi ngày, để nhờ đó, chúng ta được biến đổi, nên giống Chúa hơn. Lời kêu gọi thay đổi cuộc đời luôn âm vang trong cuộc sống của người tín hữu chúng ta. Đây không phải là một khẩu hiệu, mà là một lời khuyên rất thiết thực, vì “thời gian chắng còn bao lâu”. Thánh Phaolô đã dùng cách nói rất cụ thể để nói với chúng ta hãy lựa chọn những điều tốt nhất và lâu bền cho mình, bởi vì bộ mặt thế gian này đang qua đi, nên “những ai có vợ hãy sống như không có; ai khóc lóc hãy làm như không khóc; ai vui mừng như chẳng mừng vui; ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả…”.
“Mỗi vị thánh đều có một quá khứ; mỗi tội nhân đều có một tương lai”.Đừng có ai mặc cảm về đời sống của mình mà không mạnh dạn thay đổi cuộc đời. Nếu mạnh dạn tiến bước, chúng ta chẳng còn là tội nhân, mà sẽ là những vị thánh, nhờ lòng bao dung thứ tha và ơn phù trợ của Thiên Chúa. “Tâm bình, thế giới bình”, cuộc đời này sẽ thay đổi, khởi đi từ sự thay đổi trong chính con người mỗi chúng ta.
Tôi xin được chia sẻ với ông bà anh chị em về một số linh mục cùng lớp của tôi trong đại chủng TN 3-B115
Tôi xin được chia sẻ với ông bà anh chị em về một số linh mục cùng lớp của tôi trong đại chủng viện thánh Meinrad. Trước hết là anh Vince 33 tuổi. Trước khi vào đại chủng viện, anh đã theo học và ra trường đại học Pittsburgh, sau đó anh là giáo viên dạy học và tình nguyện giúp hội thể thao trung học và đại học. Đến anh Mike 32 tuổi. Anh ra trường đại học Hardvard, sau đó trở thành một luật sư và tình nguyện làm việc cho một trung tâm người vô gia cư tại Baltimore. Tiếp đến là anh George 28 tuổi theo học đại học Syracure, và đã đi làm 5 năm là một người điều khiển hàng không, và tình nguyện giúp nhóm tình nguyện dòng Tên. Sau đó là anh John ra trường đại học California và làm việc cho hãng Texas Instruments trong công việc của một kỹ sư, và tình nguyện giúp các nhóm trẻ trong vùng. Sau cùng là anh David 30 tuổi trở lại đạo Công giáo từ giáo phái Tin lành Baptist. Cha của anh là một mục sư. Anh ra trường đại học Alabama và đã phục vụ trong ngành Hải quân 5 năm, và sau đó trở thành một physical therapist, người tập cử động thân thể và tình nguyện giúp những người già trong các nhà dưỡng lão.
Ông bà anh chị em thân mến. Đây chỉ là 5 người trong số trăm ngàn người nam nữ bình thường trên thế giới mà Thiên Chúa kêu gọi phục vụ trong đời sống linh mục và tu sĩ ngày nay như Ngài đã kêu gọi Giôna trong thời Cựu ước, và An-rê, Phê-rô, Gioan và Gia-cô-bê trong thời Tân ước.
Chúng ta nghe câu chuyện Chúa gọi ngôn sứ Giôna đi rao giảng lời Chúa cho dân thành Ni-ni-vê nhiều lần. Thiên Chúa sai ông Giôna đi kêu gọi mọi người trong thành phố Ni-ni-vê ăn năn thống hối tội lỗi của họ. Thành phố Ni-ni-vê là thủ đô của dân ngoại đạo As-si-ri-a, kẻ thù của dân Do thái. Khi được Chúa kêu mời, Giôna đã thành thật thưa với Chúa “Lạy Chúa, con à, sao Chúa lại kêu con.” Giôna biết mình không có khả năng học hành, không có tài hùng biện, thuyết phục hay giảng dạy. Ông sợ sẽ bị cười chê, nhạo báng, và hơn hết, ông sợ cho tính mạng của mình trong tay quân thù. Vì vậy, Giôna đã xuống thuyền trốn đi, nhưng Thiên Chúa đã cho bão tố nổi lên, những người trên thuyền biết ông chạy trốn Thiên Chúa, sợ bị vạ lây, nên họ đã quăng ông xuống biển và bị cá ông nuốt vào bụng 3 ngày, sau đó, đã nhả ông vào một hoang địa. Bài đọc một hôm nay tiếp tục câu chuyện trên. Giôna biết không thể nào từ khước, trốn chạy trước lời Chúa kêu gọi, nhận biết mình yếu kém, nên đã khiêm nhường vâng lời. Thật là một điều kinh ngạc, lạ lùng và khó tưởng tượng trước thái độ tin nhận, và hành động ăn năn, thống hối của dân chúng khi nghe lời giảng dạy của ông.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu kêu gọi những người yếu kém khác cộng tác với Ngài trong sứ mệnh rao giảng ơn cứu độ của Thiên Chúa Cha, và xây dựng Nước Chúa trần gian. Nếu Chúa Giêsu muốn thực hiện những công việc to lớn và quan trọng này trong vòng 36 tháng hay 3 năm, thì chúng ta nghĩ Chúa Giêsu phải chọn những người có danh vọng, tài giỏi, học thức và có uy tín, hay tìm những người có tài hùng biện, hoặc một người có khả năng lãnh đạo giỏi. Nhưng Chúa không làm như vậy. Chúa bắt đầu bằng 4 người đánh cá không có, hoặc chỉ có một chút học thức giới hạn. Sau đó, Chúa càng làm cho chúng ta sững sờ, chọn thêm 8 người khác, nếu theo cái nhìn, theo tiêu chuẩn của chúng ta, thì họ chẳng giống ai, có nghĩa là, họ không có tài năng gì xuất sắc về lãnh đạo hay không có danh vọng gì để lôi cuốn, thuyết phục người khác.
Thật vậy, chúng ta không xa lạ gì với xuất xứ và nguồn gốc của các tông đồ. Phần đông họ là nông dân và ngư dân, làm nghề đánh cá. Của cải tiền bạc không có nhiều, vốn liếng học vấn chẳng bao nhiêu, địa vị và danh vọng trong xã hội thì cũng không có. Họ được chọn từ đám đông quần chúng, giai cấp của những người lao động chân tay, không được mấy ai kính nể, coi trọng. Nếu nhìn kỹ vào từng con người của các tông đồ, chúng ta thấy họ cũng không thiếu gì các đam mê, tật xấu, nóng nẩy, ích kỷ, tham lam, ghen ghét. Có thể nói đây là nhóm tiêu biểu cho những người thấp kém trong xã hội. Nhiều khi chúng ta thắc mắc tại sao Chúa lại mời gọi những người này? Không biết Chúa có biết, có hiểu và thấy rõ con người của họ không? Chúa thấy và thấy rất rõ, nhưng Người vẫn chọn họ, vì sao? Vì tiêu chuẩn, đường lối của Thiên Chúa thì khác với đường lối và tiêu chuẩn của con người chúng ta. Chúng ta phải lưu ý điểm tối quan trọng này là: điều Thiên Chúa cần ở họ, không phải là quá khứ hay những gì họ đang có, nhưng là những người họ sẽ trở thành và những gì họ sẽ có. Họ kém cỏi và nhiều khuyết điểm thật, nhưng với ơn sủng và sự giáo huấn của Chúa, họ sẽ biến đổi và có khả năng thực hiện và chu toàn được sứ mệnh, công việc của Chúa trao phó.
Ông bà anh chị em thân mến. Câu chuyện ông Giôna và các tông đồ là một sự kích lệ cho chúng ta, những người bình thường trong xã hội, yếu kém và đầy khuyết điểm. Ngày nay Thiên Chúa tiếp tục kêu gọi tất cả mọi người, không phân biệt nam nữ, già trẻ, và trao ban cho chúng ta sứ mệnh rao giảng Tin mừng và xây dựng Nước Chúa. Tuy nhiên, chúng ta thi hành và chu toàn sứ mệnh này theo đời sống của mỗi người khác nhau. Nếu là bậc cha mẹ có bao giờ quí vị chia sẻ hay dạy bảo con cái cầu nguyện để được hướng dẫn khi chọn nghề nghiệp, công việc tương lai không? Có bao giờ quí vị cầu nguyện với Chúa và cố gắng hết sức tạo điều kiện, hay làm một việc gì cụ thể, hay làm gương sáng và giúp cho một đứa cháu, đưa con được Chúa gọi phục vụ Chúa trong đời sống linh mục hay tu sĩ không? Nếu các bạn là thanh thiên nam nữ độc thân, quí bạn có bao giờ cầu nguyện xin Chúa hướng dẫn để chọn đúng nghề nghiệp, công việc và hướng đi cho tương lai của mình không? Hay có bao giờ chúng ta cầu nguyện với Chúa, xin Chúa chỉ bảo chúng ta phải làm gì để cộng tác với Chúa trong sứ mệnh rao giảng Tin mừng không? Chúng ta có cầu nguyện xin Chúa chỉ bảo để biết hy sinh phục vụ Chúa trong những công việc mục vụ trong giáo xứ hay trong giáo hội không? Có bao giờ chúng ta cầu nguyện xin Chúa giúp chúng ta tình nguyện làm một công việc gì hữu ích cho tha nhân không? Hay chúng ta chỉ ích kỷ xin Chúa ban cho chúng ta ơn nọ ơn kia. Hy sinh tình nguyện phục vụ, chúng ta sẽ nhận ra lời kêu gọi, nhận ra ân sủng của Chúa, để cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta khả năng, và cảm nhận được ý nghĩa, giá trị cuộc sống của mình.
Thiên Chúa tiếp tục kêu gọi mọi người không phân biệt nam nữ, già trẻ ngày nay như Ngài đã kêu gọi những môn đệ ngày xưa. Xin Chúa ban cho chúng ta một tâm hồn rộng mở để lắng nghe lời kêu gọi của Chúa, và có tấm lòng hy sinh, nhiệt thành, vui mừng và can đảm trở thành những cánh tay nối dài của Chúa trong công cuộc loan báo Tin mừng và xây dựng Nước Chúa. Thiên Chúa không chú ý đến quá khứ và không cần những gì chúng ta đang có. Chúa cần tấm long chân thành của chúng ta, và Chúa sẽ dùng ân sủng của Chúa biến đổi những gì chúng ta đang có, để chúng ta thực hiện thánh ý của Chúa và chu toàn sứ mệnh của Ngài.
Vào những ngày cuối năm, cho dù bận rộn với việc làm ăn buôn bán, tổng kết công việc, nhưng không TN 3-B116
Vào những ngày cuối năm, cho dù bận rộn với việc làm ăn buôn bán, tổng kết công việc, nhưng không ai trong chúng ta quên được một việc hết sức quan trọng để đón năm mới, đó là dọn dẹp, chỉnh trang nhà cửa và mua sắm những bộ quần áo mới. Ai cũng mong đợi một năm mới sẽ đem đến nhiều điều mới mẻ từ nhà cửa, cảnh vật đến con người đều tốt đẹp hơn năm cũ. Họ hy vọng rằng với sự mới mẻ đó, mọi người sẽ bắt đầu một năm mới, một công việc mới với một tinh thần mới và một kết quả mới hơn.
Nhưng có một thực tế, nhiều người chỉ lo quét dọn, trang hoàng nhà cửa bên ngoài mà không có một thay đổi nào trong suy nghĩ, trong cách sống. Vì thế những ngày tết qua đi, mọi sự lại trở về như cũ. Người ta nói rằng : Thế giới này chỉ thay đổi khi chính mỗi người chịu thay đổi. Thế nên, nếu mỗi người không chấp nhận thay đổi thì cuộc sống và thế giới này sẽ mãi chẳng đổi thay nên tốt hơn được.
Thưa quý OBACE, hôm nay Tin Mừng cho chúng ta thấy Chúa Giêsu đã bắt đầu cuộc sống công khai sau khi Gioan Tiền hô bị nộp. Sứ mạng của Gioan đã kết thúc, thời của Gioan cũng đã chấm dứt để bắt đầu một thời mới. Thời đại mới này là thời đại của Đấng Mesia cứu thế là Đức Giêsu. Ngài đến để khai mở một thời đại mới mà Ngài gọi đó là Nước Trời. Thời đại này là thời đại của lòng Chúa xót thương, thời đại của Tin Mừng cứu độ mà Đức Giêsu là Đấng rao giảng và chính Ngài là Tin Mừng cứu độ cho cả nhân loại. Tin Mừng này là tin vui cho nhân loại vì chính Thiên Chúa đã đến với con người, để giải thoát con người khỏi nô lệ của tội lỗi và sự chết, đem lại cho con người một thời kỳ mới, một cuộc sống mới. Tin vào Tin Mừng là tin vào chính con người của Đức Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng Cứu độ.
Thời kỳ đã mãn và triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Với sự xuất hiện của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa cứu độ từ ngàn xưa. Ngài thiết lập triều đại của Thiên Chúa trên thế gian này. Triều đại của Thiên Chúa là Nước Trời mà Chúa Giêsu loan báo không chỉ là hạnh phúc trong thế giới mai sau, nhưng đã được khởi đầu ngay hôm nay, trong cuộc sống này cho những ai tin và đón nhận Ngài.
Để có thể đón nhận và sống trong Triều đại mới, đòi mỗi người phải sám hối, phải thay đổi cuộc sống từ suy nghĩ đến hành động cho phù hợp với những đòi hỏi của Tin Mừng. Sám hối không chỉ là việc dành cho những kẻ có tội, mà là lời mời gọi được gửi đến hết mọi người. Sám hối không chỉ là hối hận về những tội lỗi của mình, mà còn phải là một quyết tâm thay đổi nếp sống cho tốt hơn, đẹp hơn, xứng đáng hơn.
Thánh Marcô cho thấy đã có những chàng trai đầu tiên đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu một cách nhanh chóng và vô điều kiện. Họ là những ngư phủ đang chài lưới để kiếm sống. Vậy mà khi Chúa Giêsu đi ngang qua, chỉ với một lời mời gọi : Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá. Lập tức các ông bỏ chài lưới mà theo Người. Có lẽ các chàng trai này cũng đã ít nhiều nghe nói về thầy Giêsu vừa mới xuất hiện. Ngài rao giảng một giáo lý hoàn toàn mới mẻ. Ngài dạy một nếp sông mới hoàn toàn khác với nếp sống cũ. Nay có cơ hội gặp Ngài, lại được Ngài mở lời mời : Hãy theo Ta. Các Chàng trai đã chấp nhận một sự thay đổi hoàn toàn, không chỉ bỏ lưới bỏ thuyền, bỏ cha mẹ để theo Chúa Giêsu, mà còn chấp nhận thay đổi hẳn nếp sống, không còn lênh đênh trên biển nữa ; trái lại, các ông đã trở thành những học trò, những mộn đệ đi theo Chúa Giêsu.
Các môn đệ đã bỏ chài lưới mà theo Người. Bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu đó cũng chính là sám hối để bước vào triều đại mới. Vì sống trong thời đại của ơn cứu độ mà Chúa Giêsu mang đến không gì khác hơn là dám chấp nhận bỏ lại quá khứ, bỏ lại nếp sống cũ để bước vào một nếp sống mới, là đi theo Chúa Giêsu, tuân giữ giới răn, lề luật của Người. Vì triều đại mới của Thiên Chúa cũng đồng thời đòi phải có những con người mới.
Thực tế, nhiều người tự cho mình không cần phải sám hối, không cần phải thay đổi. Thiên Chúa mong đợi nơi con người không phải là việc khóc lóc bên ngoài, mà là một thái độ khiêm nhường nhận mình nhỏ bé trước mặt Thiên Chúa và cần đến lòng xót thương của Thiên Chúa. Ngày xưa, khi được Chúa sai đến với dân Ninivê, ông Giôna nghĩ rằng dân Ninivê không thể sám hối và không đáng được hưởng lòng thương xót, nên ông đã từ chối đến với họ. Thế nhưng, khi ông mới mất một ngày kêu gọi mọi người sám hối, thì từ vua đến dân, từ con người đến súc vật đều sám hối. Họ từ bỏ lối sống giàu sang hưởng thụ, từ bỏ những hào nhoáng bên ngoài để mặc áo nhặm, rắc tro trên đầu bày tỏ lòng sám hối, từ bỏ lối sống gian ác để sống đời sống mới. Thiên Chúa đã nhìn thấy sự sám hối chân thành của họ, Ngài đã nguôi giận và không trừng phạt dân Ninivê nữa. Như thế, việc sám hối thành tâm có thể làm “mủi lòng” Thiên Chúa.
Một khi tin Đức Giêsu và đón nhận Tin Mừng của Ngài, chúng ta phải thay đổi lối sống. Thánh Phaolô trong bài đọc hai đã chỉ cho chúng ta một cách sống thích hợp hơn. Đó là sống siêu thoát, không để mình bị lệ thuộc vào thế gian và vật chất. Vì bộ mặt thế gian này đang qua đi : Vì thế, những người có vợ hãy sống như không có vợ ; ai khóc lóc hãy làm như không khóc ; ai mua sắm hãy làm như không có gì cả ; kẻ hưởng dùng của cải đời này hãy làm như không hưởng dùng. Dạy như thế, Thánh Phaolô cho thấy rằng dục vọng, thế gian, vật chất và lối sống hưởng thụ có một sức hút rất mạnh như dòng nước xoáy, nó có thể nhấn chìm tất cả những ai rơi vào vòng xoáy của nó. Vì vậy, trong khi sống và hưởng dùng những của thế gian, cần phải biết sống cho thanh thoát, chừng mực, không để mình bị lệ thuộc hay bị trói buộc bởi dục vọng, của cải và thế gian.
Thưa quý OBACE, lời mời gọi sám hối, thay đổi lối sống là lời mời gọi liên tục của Tin Mừng. Vì sám hối không phải là việc làm một lần trong năm, mà phải là thái độ và hành động kéo dài liên tục mỗi ngày trong suốt cuộc đời. Với mục đích của sám hối là canh tâm đổi mới, thì việc sám hối không dừng lại ở việc tránh tội hoặc hối hận vì tội, mà còn là lời mời gọi mỗi người phải tích cực làm mới cuộc đời mình mỗi ngày, chấp nhận thay đổi, từ bỏ những thói quen và nếp sống cũ để bắt đầu một nếp sống mới tốt hơn.
Hãy làm mới lại tương quan của chúng ta với Chúa. Một khi tin Chúa, được làm con Chúa, chúng ta cần phải sống cho trọn đạo làm con, tức là phải sống thảo hiếu với Chúa bằng việc lắng nghe và chu toàn những gì Chúa truyền dạy. Hãy khiêm tốn nhìn nhận sự yếu đuối, bất toàn của mình để đến xin Chúa nâng đỡ và ban ơn trợ giúp để chúng ta sống tốt hơn mỗi ngày. Hãy đến với Bí tích giải tội để cảm nhận được tình yêu thương tha thứ của Chúa, một Thiên Chúa là Cha và đến với Bí Tích Thánh Thể mỗi ngày để đón nhận sự đỡ nâng và sức sống từ Chúa thông ban cho chúng ta.
Tin vào Tin Mừng là tin vào chính Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng Cứu độ và là Đấng quyền năng. Tin là dám phó thác cuộc đời, gia đình và mọi lo toan cuộc sống trong tay Chúa. Tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa thì không thể để mình theo lối sống của dân ngoại, không thể thực hành lối sống mê tin mù quáng, nhưng biết tin tưởng phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa dù thành công hay thất bại, dù khi vui hay lúc buồn.
Là công dân mới của Nước Trời, của Tin Mừng, mỗi chúng ta phải là chứng nhân cho niềm vui, niềm tin và hy vọng trong xã hội hôm nay. Hãy canh tân đổi mới lại bầu khí của gia đình, hãy làm cho gia đình thực sự êm ấm, vui tươi và hạnh phúc. Hãy loại bỏ những thói quen cũ không thích hợp của gia đình để lập nên một thói qen mới tốt hơn. Hãy tập cho mỗi thành viên có thói quen phó dâng chính mình và công việc cho Chúa mỗi khi bắt đầu ngày mới; và khi chiều về, hãy tập thói quen cùng nhau xum họp, dâng lời kinh tạ ơn Thiên Chúa trước khi kết thúc mỗi ngày. Hãy loại bỏ những thói quen có hại cho gia đình như sự lười biếng, rượu chè, cờ bạc, cãi vã khiến cho các thành viên trong gia đình không thể gần nhau được và tập những thói quen mới như trò chuyện, vui đùa, cùng ăn chung bữa cơm tối xum vầy.
Triều đại mà Chúa Giêsu khai mở đòi phải có những con người mới, với nhiệt tâm mới. Các bạn trẻ hãy noi theo tấm gương của các chàng trai trong Tin Mừng hôm nay. Hãy can đảm đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu, chấp nhận thay đổi nếp sống cũ để bắt đầu một cuộc sống mới. Hãy mạnh dạn bỏ lại đàng sau những lôi kéo, hứa hẹn của thế gian để dám sống theo Tin Mừng của Chúa Giêsu và bước theo Ngài. Hãy bỏ đi những danh vọng hão huyền, nhưng miếng mồi vật chất, những lối sống đẳng cấp mà thế gian đang bày như một tiêu chuẩn cho các bạn để dám sống như Chúa mời gọi và sống cùng với Chúa Giêsu, đi theo Ngài, trở nên những môn đệ tốt của Chúa.
Xin Chúa giúp mỗi chúng ta luôn biết nhìn lại và canh tân chỉnh sửa bản thân và gia đình mỗi ngày, biết tô điểm cho cuộc đời và gia đình bằng những nếp sống và những việc làm tốt theo lời mời gọi của Chúa để mỗi chúng ta có thể được nếm hưởng Nước Trời ngay hôm nay và mai sau. Amen.
Ở đâu được no cơm ấm áo, đó là tổ quốc của tôi. Ở đâu mà mọi người có thể sống vui vẻ, hòa TN 3-B117
Ở đâu được no cơm ấm áo, đó là tổ quốc của tôi. Ở đâu mà mọi người có thể sống vui vẻ, hòa thuận với nhau ? nhiều người sẽ nghĩ nơi đó phải là nơi không có tranh chấp hận thù, ai ai cũng có sự bình đẳng, tự do. Có thể còn nhiều lý tưởng về công danh sự nghiệp khác nữa, nhưng thời đại, hoàn cảnh nào, người ta cũng hướng tới đích điểm hạnh phúc, tuy không rõ, hoặc có khác nhau về khái niệm hạnh phúc.
Lý tưởng nơi các môn đệ theo Đức Giêsu, nơi người Kitô hữu chúng ta hôm nay, hẳn không phải là hướng tới đau khổ tinh thần thể xác, hay chú trọng vào Đức Giêsu hùng biện, một Đức Giêsu ở Nagiarét tài giỏi, khó hiểu ! Lý tưởng của Thầy Giêsu đến trần gian không nhằm qui tụ một số người tài giỏi, Đức Giêsu không “cá tính” tới độ chỉ gọi một số người chài lưới làm đệ tử.
Nếu đọc Kinh Thánh, suy tư một chút, ta sẽ thấy Đức Giêsu không từ chối bất cứ ai, dù giầu nghèo, tội lỗi hay công chính, Ngài đều tìm gặp, kêu gọi…. Bằng tình yêu thương, tận tình tận tâm, chịu chết và sống lại, Đức Giêsu muốn gọi tất cả mọi người, mọi thời, không phân biệt, đến với Ngài tận hưởng niềm vui ơn cứu độ; nghĩa là biết đến lý tưởng hạnh phúc cuộc đời mình trong tình yêu Đức Kitô.
Thông thường để nghe được âm thanh, chỉ cần người ta không điếc tai; để hiểu và phân biệt tín hiệu buồn vui, thật giả, người ta phải có tư duy hợp lý. Muốn thông truyền một kiến thức xã hội, người ta cần có sư phạm, kinh nghiệm của bản thân, mới giúp người khác dễ hiểu và đạt được kết quả…. Cuộc sống thường ngày người ta vẫn gọi nhau đi làm, hay cùng bạn bè “trút bầu tâm sự”. Nhưng đâu thấy tình thầy trò, chiêu sinh theo kiểu mơ hồ…. : không chú ý tới trình độ, chẳng cần dò xét lý lịch…., như “Thầy Trò” Giêsu xưa kia ?
Nếu trở nên nổi tiếng vì chữa được các bệnh tật thể xác thì Đức Giêsu không ham hố, bởi Ngài không lấy “thù lao”, cũng chẳng vô công dồi nghề như thế ! Thật ra bằng những lời giáo huấn áp đặt, Đức Giêsu kêu gọi mọi người tin tưởng, sám hối, kết hiệp với tình yêu Chúa; hầu sẽ được chữa trị phần hồn, được ơn cứu độ, đó mới mục đích, là thực thi sứ mạng của Chúa Cha. Bốn vị chài lưới không phải suy xét hay tò mò, mà xuất phát bởi sự đơn sơ thì đúng hơn, các ông vừa đủ nghe được âm thanh gọi mời của Thầy Giêsu, cho dù lúc ấy có khá nhiều người mến yêu Đức Giêsu.
Theo tự nhiên, Thầy giỏi mà không học trò nào thọ giáo thì vừa uổng phí, vừa không thể minh chứng cho người đời về khả năng, tài trí bản lãnh của mình…. ? Đức Giêsu thực hiện sứ mạng cứu độ trần gian, Ngài cần các cộng sự, cần đến tình yêu, sự đáp trả giữa con người với Thiên Chúa, mà Ngài là trung gian. Vì nơi Đức Giêsu ngập tràn tình yêu thương : dân chài lưới, người công chính, kẻ tội lỗi, hoặc chúng ta hôm nay đều có thể tự tin thưa vâng khi Chúa gọi làm tông đồ, làm chứng nhân tình yêu.
Tuy đau khổ về thân xác, túng thiếu nghèo đói về tinh thần thời nào cũng có, nhưng để nhận ra lý tưởng hạnh phúc, người ta chỉ nghe, hiểu về Chúa Giêsu với điều kiện căn bản : sám hối và tin vào Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Không phải chỉ nơi các môn đệ đầu tiên ở bờ biển Galilêa, mà tất cả những ai được kêu gọi theo Chúa đều phải trải qua cuộc hoán cải sâu thẳm trong tâm hồn. Khi bước theo Thầy Giêsu, các môn đệ năm xưa đã thấy, các ông được biến đổi nên xứng hợp với chiều kích Tin Mừng trong sứ vụ mới, trong triều đại Nước Thiên Chúa đã gần đến.
Có thể mỗi chúng ta hôm nay đều không thích sự rích rắc theo Thầy Giêsu phải từ bỏ nhiều thứ quá, nhất là bỏ mình ! Đúng là vừa ngán vừa sợ, nếu không hiểu biết Tin Mừng Nước Thiên Chúa luôn đi liền với sám hối, canh tân, thì chưa thực sự là tin vào Đức Kitô. Có thể tiền của vật chất, địa vị xã hội gắn liền với con người từ bao thời nay, đến độ nhiều người hiểu lầm đó là lý tưởng cuộc đời mình ! Thầy Giêsu sẽ không kêu gọi ai làm môn sinh theo chiều hướng tìm kiếm danh vọng, bổng lộc trần thế…..
Thiên Chúa là tình yêu, nhân từ với tội nhân, chúng ta sẽ gặp Chúa ở đâu ? Nghe tiếng Thiên Chúa gọi ở nơi nào ? Cũng có thể, là trong công việc làm ăn hàng ngày ! Thiên Chúa diễn tả tình yêu nơi Đức Giêsu hẳn rất phong phú, nhất định không phải lúc nào cũng ở nơi bờ biển Galilêa, hay trong thinh lặng của tu viện, hoặc sự tình cờ nào đó …..Về phạm vi tự nhiên, nếu ta không đọc sách, thì sách có giá trị mấy cũng vô nghĩa mà thôi ! Nếu gọi là thuốc tiên mà ta không dùng thuốc đúng liều lượng, theo chỉ dẫn của y bác sỹ thì làm sao khỏi bệnh được ?
Trong khi Đức Giêsu gọi chọn các ngư phủ làm môn đệ, ít nhiều vẫn để lại nhiều thắc mắc : đâu là tiêu chuẩn theo Chúa, vì ta xứng đáng, tài giỏi, hay do tình yêu thương Chúa muốn. Có thể Chúa Giêsu xưa kia đã nghĩ tới Giáo Hội hôm nay, và nghĩ tới việc chúng ta theo Chúa luôn phải đối diện với khó khăn : dễ chán nản, dễ bỏ cuộc vì chúng ta quá nặng nề tính ích kỷ, phải lo cơm áo gạo tiền, không thể phân biệt đâu phúc thật. Amen.là hạnh phúc thật. Amen.
“Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần… Các anh hãy theo tôi”
1. “Sau khi Gioan bị nộp”
Sau khi Gioan bị nộp”, điều này có nghĩa là, về phương diện lịch sử, ông bị bắt, bị giam và bị TN 3-B118
“Sau khi Gioan bị nộp”, điều này có nghĩa là, về phương diện lịch sử, ông bị bắt, bị giam và bị giết một cách bất công bởi những con người cụ thể. Như thế, đó là kế hoạch của con người phát xuất từ lòng ghen ghét đi đôi với bạo lực, không chấp nhận những gì thuộc sự thật và ánh sáng.
Nhưng đồng thời, đó cũng là, một cách mầu nhiệm, “kế hoạch của Thiên Chúa”, như cách nói “bị nộp” diễn tả về phương diện đức tin, theo khuôn mẫu của cách Thiên Chúa đã hành động trong lịch sử cứu độ, và vẫn còn hành động như thế. Ngài nương theo hành trình của sự dữ và tội lỗi để thực hiện kế hoạch của mình. Thật vậy,
Sự kiện Gioan bị nộp (in divine passive, ở thể thụ động thần linh) lại loan báo mầu nhiệm Thương Khó của Đức Giêsu, như lời truyền phép trên bánh trong Thánh Lễ: “Anh em hãy nhận lấy mà ăn. Đây là mình Thầy, sẽ bị nộp vì anh em”. Và ngay sau khi ông Gioan bị nộp, Đức Giêsu đến Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa.
Chúng ta có thể nghĩ đến những kinh nghiệm “bị nộp’ nho nhỏ hằng ngày của chúng ta: đó là những lúc chúng ta bị coi thường, không được tôn trọng, bị hiểu lầm, bị phân biệt; và những kinh nghiệm “bị nộp” lớn hơn: bị ghét, bị loại trừ, bị bách hại.
Nhưng đó lại là những cơ hội tốt, Chúa mời gọi để chúng ta công bố Tin Mừng của Thiên Chúa, làm chứng cho tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, sống sự “hiền lành và khiêm nhường” của Đức Ki-tô, bày tỏ lòng thương xót và bao dung của Thiên Chúa, như chính Đức Giê-su mời gọi:
Người ta sẽ nộp anh em…,
nhưng đó là cơ hội làm chứng cho họ được biết.
(Mc 13, 9)
Hay đúng hơn, đó là những cơ hội để cho Đức Kitô đến công bố Tin Mừng của Ngài ngay trong những khó khăn và thử thách của chúng ta.
2. “Các anh hãy theo tôi”
Vẫn chưa hết hoa trái của biến cố “thánh Gioan bị nộp”, vì đó còn là lúc Chúa thực hiện kế hoạch kêu gọi các môn đệ đầu tiên để chia sẻ sự sống và sứ mạng của Ngài một cách nhưng không. Điều này giúp chúng ta hiểu ơn gọi đi theo Đức Ki-tô một cách mới mẻ: ơn gọi đi theo Đức Ki-tô của chúng ta thuộc về Tin Mừng Nước Trời, là dấu chỉ của Tin Mừng Nước Trời. Thực vậy, đi theo Đức Ki-tô trong một ơn gọi, gia đình, đời dâng hiến, giữa đời hay trong một Hội Dòng, là dấu chỉ sống động của Nước Trời.
Và cách Ngài kêu gọi các môn đệ đầu tiên phải đánh động chúng ta, bởi vì đó sẽ là khuôn mẫu cho mọi ơn gọi, trong đó có ơn gọi thánh hiến của chúng ta. Vì vậy, chúng ta hãy dành nhiều thời gian để chiêm ngắm cách Đức Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên.
Ngài đi dọc theo bờ hồ Galilê, Ngài nhìn thấy hai anh em Simon và Anrê, họ đang quăng lưới xuống hồ, vì họ là dân chài. Ngài đi xa hơn một chút, thì thấy hai anh em khác, Gia-cô-bê và Gioan đang vá lưới trong thuyền. Đức Giêsu đi ngang qua và gọi họ, khi họ đang lay hoay với công việc, với những bận tâm của riêng mình, và những điều rất đời thường; tiếng gọi của Đức Giêsu thật nhưng không, Ngài đặt hết lòng tin nơi người nghe.
Ngài cũng đi ngang qua cuộc đời của chúng ta một lúc nào đó, và đi ngang qua mỗi ngày, và lúc nào Ngài cũng thấy chúng ta đang loay hoay làm cái gì đó, bận tâm chuyện gì đó. Nhưng Ngài vẫn gọi chúng ta thật bao dung và quảng đại; và chúng ta được mời gọi đáp lại cách bao dung và quảng đại mỗi ngày, giống như lời đáp đầu tiên của chúng ta thủa ban đầu ra đi theo Chúa.
Khi nghe tiếng gọi, hai anh em Simon (là thánh Phê-rô sau này) và An-rê “lập tức bỏ chài lưới mà theo Người”; còn hai anh em Gia-cô-bê và Gioan thì bỏ cha mình là ông Dê-bê-đê ở lại trên thuyền với những người làm công mà đi theo Người. Hai anh em kia bỏ công danh sự nghiệp, còn hai anh em này thì bỏ những người thân yêu, bỏ gia đình êm ấm và khá giả nữa (vì có người làm công). Lời Chúa có sức mạnh như thế đó, mạnh đến độ làm bật tung các môn đệ đầu tiên ra khỏi ra khỏi những người các ông đang gắn bó và yêu mến, ra khỏi các phương tiện nuôi sống các ông và gia đình, ra khỏi sự nghiệp, ra khỏi những dự tính bình thường của các ông.
3. Sức mạnh của Lời Chúa
Chúng ta còn chậm chạp và dây dưa trong cách đáp lại, chính là vì chúng ta chưa thực sự nghe được tiếng Chúa. Vì thế, chúng ta hãy ước ao và quảng đại mở lòng ra để đích thân nghe được tiếng Chúa gọi với tất cả sức mạnh của Lời Chúa, không chỉ một lần, nhưng hằng ngày và suốt đời. Lời Chúa sẽ đụng chạm đến chốn sâu thẳm nhất nơi con người của chúng ta, sẽ biến đổi chúng ta, vì Lời Chúa là Lời tạo dựng nên chúng ta, là Lời tái tạo chúng ta, và là sự sống mới của chúng ta. Tương tự như dân thành Ni-ni-vê, Lời Chúa, được công bố ngang qua lời rao giảng của ngôn sứ Gio-na, đã biến đổi toàn diện và tặn căn như thế nào cả một thành đô: “Dân Ni-ni-vê tin vào Thiên Chúa, họ công bố lệnh ăn chay và mặc áo vải thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ”! (Gi 3, 1-5)
Và để cho Lời Chúa được gieo và sinh hoa kết quả trong lòng chúng ta, thánh Phao-lô mời gọi chúng ta sống sự thật này mỗi ngày, một sự thật rất đời thường, nhưng lại hay bị gạt bỏ, vì thế chúng ta thường hay tuyệt đối hóa những điều tương đối:
Thời gian chẳng con bao lâu nữa… Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi. (1Co 7, 29.31)
Chúa Giêsu bảo họ: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như TN 3-B119
Chúa Giêsu bảo họ: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá. Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người’ (Mc.1,17-18).
John Henry Newman đến Rôma vì muốn minh xác Chúa Giêsu có mời gọi ông theo Ngài như một Kitô hữu hay không?
Một ngày kia trên đường trở về, ông cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin hướng dẫn con. Con không thể tìm được đường đi. Xin hướng dẫn con, ôi Ánh Sáng dịu dàng!”.
Những lời này đem lại cho ông sự an bình, đến nỗi ông lấy bút và bắt đầu viết: Ông đã viết lời cho một thánh ca nổi tiếng: “Xin hướng dẫn con, ôi Ánh Sáng dịu dàng”. Trở về Anh, ông đã gia nhập đạo Công giáo và trở thành một trong những người lãnh đạo vĩ đại nhất. Đó là Đức Hồng Y Newman.
Tôi có thể nhớ lại đã bao giờ tôi đặt tất cả niềm tin vào Chúa, để Ngài dẫn tôi qua tăm tối mịt mùng như Newman chưa?
“Xin hướng dẫn con, ôi Ánh Sáng dịu dàng. Đêm thì tăm tối, mà con lại ở xa quê. Xin hướng dẫn con… Con không đòi hỏi được thấy. Bước đường còn xa, nhưng chỉ một lời hứa đã đủ cho con” (John Henry Newman) (Trích “Viễn tượng 2000”).
2. Hãy đến theo tôi
Tháng 9 năm 1862, cuộc Nam Bắc phân tranh của Hoa Kỳ đã nghiêng thế thuận lợi vế cho quân độ phía Nam. Tinh thần tác chiến của quân đội phía Bắc rơi vào tình trạng thấp nhất. Số lớn các toán quân liên bang rút về Virginia. Các nhà lãnh đạo phương Bắc thấy không thể nào đổi ngược tình thế, không thể nào biến các toán quân đã bị đánh te tua trở lại anh dũng chiến đấu được nữa.
Nhưng có một vị tướng có thể làm được việc lạ này. Đó là tướng Mc Clellan. Ông đã huấn luyện binh lính chiến đấu, họ quý mến và khâm phục ông… Ông gặp lại các lực lượng liên bang và cổ xúy lòng can đảm của họ, ôngl àm cho các binh sĩ mệt mỏi chán nản trở lại khí thế hào hùng.
Sử gia nổi tiếng Bruce Catton đã tả lại cảnh đổi thay lạ lùng đó: “Những toán quân đi đứng chệnh choạng bắt đầu hồi sinh, họ ném mũ nón, túi vải lên không trung, hò hét cho đến khi khan cả cổ… vì họ đã nhìn thấy vị anh hùng lanh lợi nhỏ con ấy đang cởi ngựa xuất hiện dưới ánh sáng sao… Đây là bước ngoặt của cuộc chiến”.
-----------
Câu chuyện của tướng Mc Clellan cho thấy nguời lãnh đạo ảnh hưởng đến tinh thần kẻ dưới mãnh liệt thế nào. Ralph Emerson quả quyết: “Điếu cần thiết cốt yếu trong cuộc sống là gặp được một ai đó có khả năng giúp ta làm những gì ta có thể làm”. Đấy là công việc của Chúa Giêsu qua Tin mừng hôm nay.
Nhưng ảnh hưởng của Chúa Giêsu trên chúng ta khác hẳn. các lãnh tụ thế gian có thể hâm nóng nhiệt tình của chúng ta. Còn Chúa Gêsu, Người có thể đặt tinh thần của Người trong tay chúng ta; Người có thể chia sẻ quyền năng của Người cho chúng ta; Người có thể bước vào tâm hồn chúng ta, giúp chúng ta làm được điều mà tự sức chúng ta không làm được. Chỉ cần chúng ta mở rộng lòng trí cho Người bước vào cuộc đời chúng ta. Đó là điều mà bốn tông đồ đầu tiên đã làm.
Như thế chúng ta cần mở rộng tâm hồn đón Chúa Kitô, để Người biến chúng ta nên thành viên chia sẻ công cuộc cứu rỗi của Người và ban cho đời sống chúng ta một ý nghĩa mới. (Theo “Giảng lễ Chúa Nhật”).
3. Sống và chia sẻ niềm tin
Đức tổng Giám mục Helder Camara của Braxin chia sẻ kinh nghiệm sau đây:
Tôi có người anh đã chịu phép Rửa tội từ lúc nhỏ, đã từng học nhiều năm trong trường dòng. Nhưng lớn lên anh bê trễ, bỏ kinh bỏ lễ và cuối cùng bỏ đạo luôn.
Sau khi tôi thụ phong Linh mục, anh cùng tôi sống chung. Mỗi lần biết tôi sắp giảng tĩnh tâm, anh đều hỏi:
- Chú sẽ giảng về đề tài nào? Tôi có dịp giải thích cho anh điều tôi sắp giảng.
Tám năm sau, anh mắc căn bệnh hiểm nghèo. Biết mình sắp chết, anh gọi tôi đến và nói:
- Lâu nay tôi không để ý thấy không có sự cách biệt giữa lời giảng và việc làm của chú. Vậy tôi có thể dựa vào lòng tin của chú mà rước Chúa không?
- Em tin Chúa lòng lành yêu thương anh. Bấy giờ anh tôi xúc động ói:
- Nhưng tôi chưa xưng tội.
Tôi định tìm một Linh mục cho anh. Nhưng anh đòi xưng tội với tôi, và sau khi rước Chúa, anh thều thào trong nước mắt:
- Bây giờ tôi tin không phải dựa vào lòng tin của chú mà thực sự tôi xác tính Chúa thương tôi.
Ít phút sau anh ra đi bình an…
-----------
Sống là chia sẻ niềm tin, đó là cốt lõi đời sống người Kitô hữu. Đó cũng là mối quan tâm hàng đầu của Đức Giêsu khi Người bắt đầu công khai rao giảng.
Trong Tin mừng hôm nay, Người kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên đi theo Người. Người chia sẻ cho các ông sứ mệnh rao giảng Tin mừng cho mọi người: “Hãy theo Tôi, Tôi sẽ làm cho anh em trở thành những kẻ lưới người” (Lc.17)
Muốn lưới người, tự mình phải có khả năng hấp dẫn, phải biết chấp nhận mọi người, phải có niêm tin vững vàng. Còn kêt quả là do chúa quyết định. Như Phêrô và các tông đồ thả lưới suốt đêm không bắt được con cá nào. Khi vâng lời Chúa, các ông được một mẻ cá lạ lùng. Như thế, muốn chia sẻ niềm tin có kết quả phải sám hối và tin vào tin mừng. Romanô Guandini đã nói: “Sống niềm tin nghĩa là đơn phương nhường chỗ cho Chúa Giêsu tự biểu lộ và lớn lên trong cuộc sống chúng ta.”
(Theo “Như Thây đã yêu”).
4. Chúa quên hết rồi
Một bà đến xưng tội với Linh mục. Lần nào bà cũng khoe: “Đêm qua Chúa đã đến nói chuyện với con”. Vị linh mục bực mình vì lần nào xưng tội bà cũng nói mãi như thế. Vả lại sao Chúa không nói với mình mà đi nói với bà, để rồi bà cứ đi khoe mãi. Linh mục liền nghĩ ra một kế:
- Nếu tối nay Chúa đến nói chuyện với con, con làm ơn giúp Cha một việc. - Dạ. Nhưng Cha nhờ con giúp việc gì? - Con hỏi Chúa xem Cha có tội gì nặng nhất.
Một tuần trôi qua, rồi hai tuần linh mục không thấy bà ta đến. Linh mục cười thích chí: - Bà này mắc kế ta rồi…
Thế nhưng tuần thứ ba bà lại đến. Ông hỏi: - Chúa nói gì về tội Cha? Con có hỏi Chúa giùm cha không? - Dạ có.
Chúa tha hết tội lỗi chúng ta mỗi khi chúng ta ăn năn sám hối. Và Chúa không còn nhớ đến tội chúng ta nữa. Dù tội nặng đến đâu, nhiều bao nhiêu Chúa cũng thương tha: “Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho chúng ta, và sẽ thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính” (1Ga.1,9).
Còn lỗi của anh chị em, chúng ta có tha chăng? Hay cứ nhớ hoài nhớ mãi rồi tìm cách làm hại trả thù? Chúa phán; “Nếu các con không tha cho nhau. Cha trên trời cũng chẳng tha tội các con.
Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta? “Thời kỳ đã mãn, và triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin mừng”.
Câu chuyện trên đây cho chúng ta thấy vị linh mục nhờ biết ăn năn sám hối mà được Chúa tha hết tội lỗi, dù tội nhiều bao nhiêu, nặng nề thế nào Chúa cũng thương tha hết không còn nhớ đến tội chúng ta nữa. Điều đó nhắc chúng ta nhớ đến lòng thương xót vô biên, lượng nhân từ vô cùng của Chúa đối với chúng ta là kẻ tội lỗi, nên chúng ta không ngại chạy đến Chúa mỗi khi lỗi lầm sa ngã.
Vào ngày 30/09/2019 khi cử hành lễ kỷ niệm 1600 năm thánh Giê-rô-ni-mô qua đời, người là TN 3-B120
Vào ngày 30/09/2019 khi cử hành lễ kỷ niệm 1600 năm thánh Giê-rô-ni-mô qua đời, người là dịch giả bản Kinh Thánh La-tin nổi tiếng và là người khẳng định rằng “Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Ki-tô”, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã ban Tông Sắc “Aperuit Illis” (“Ngài đã mở trí cho họ”) để ấn định Chúa Nhật III Thường Niên là “Chúa Nhật Lời Chúa”.
Thật ra, mỗi lần tham dự Thánh Lễ là mỗi lần chúng ta tôn kính Lời Chúa là nguồn sống của các tín hữu. Hiến Chế Mặc Khải viết: “Giáo Hội vẫn luôn tôn kính Thánh Kinh giống như tôn kính chính Thánh Thể Chúa, đặc biệt trong Phụng Vụ Thánh, Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Mình Chúa Ki-tô để trao ban cho các tín hữu” (“Hiến Chế Mặc Khải”, số 22).
Vì thế, khi ấn định Chúa Nhật III Thường Niên là Chúa Nhật Lời Chúa, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu ý thức nhiều hơn về tầm quan trọng của Lời Chúa trong cuộc sống của mình khi đề nghị “các linh mục ở giáo xứ có thể tìm ra hình thức tương xứng nhất để đặt cuốn Kinh Thánh, hay một trong các sách của bộ Kinh Thánh, cho toàn thể cộng đoàn, để làm nổi bật tầm quan trọng của việc tiếp tục đọc bản văn trong đời sống hàng ngày, để đào sâu bản văn và để cầu nguyện với Kinh Thánh, trong khi tham chiếu bằng cách thế đặc biệt theo cách đọc Lectio Divina” ( “Tông Sắc Aperuit Illis, số 3”).
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật III Thương Niên Năm B thuật lại những đáp trả mau mắn không một chút trì hoãn trước Lời Chúa.
Gn 3: 1-5, 10
Dân thành Ni-ni-vê, dù là một thành phố ngoại giáo, đã đáp trả tích cực bằng hành vi ăn năn sám hối trước lời Thiên Chúa phán qua ngôn sứ Giô-na.
1Cr 7: 29-31
Thánh Phao-lô mời gọi các tín hữu Cô-rin-tô hãy sống tận mức ơn gọi Ki-tô hữu của mình vì chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của ơn cứu độ.
Mc 1: 14-20
Các môn đệ tiên khởi đã đáp trả triệt để bằng cách từ bỏ nghề nghiệp và gia đình trước lời Đức Giê-su kêu gọi.
BÀI ĐỌC I (Gn 3: 1-5, 10)
Sách Giô-na được viết theo thể loại ngụ ngôn luân lý, theo đó trí tưởng tượng trộn lẫn với óc khôi hài; nhưng giáo huấn của sách mở ra những viễn cảnh phổ quát.
Ngôn sứ Giô-na không là tác giả, nhưng là nhân vật chính của câu chuyện được kể trong sách. Chúng ta không biết một chút gì về tác giả. Theo lời kể trong sách, ngôn sứ Gio-na được Thiên Chúa sai đi thi hành sứ vụ của mình cho dân thành Ni-ni-vê ngoại giáo vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên. Tuy nhiên, thành đô nầy đã bị phá hủy vào năm 612 trước Công Nguyên, tức là thành đô nầy đã không còn nữa trước đó gần hai thế kỷ. Vì thế, bối cảnh của chuyện kể là hư cấu và nhân vật là tưởng tượng.
1. Bài học của câu chuyện:
Tuy nhiên, điều cốt yếu không phải ở nơi tính lịch sử của câu chuyện nhưng bài học mà câu chuyện muốn gởi gắm. Việc chọn thành đô nầy có một ý nghĩa chính xác: Ni-ni-vê là kinh đô của đế quốc Át-sua vào thời cực thịnh. Đây là thành phố thù địch không đội trời chung với dân Do thái và là biểu tượng tinh hoa của thế giới ngoại giáo.
Ấy vậy, khi vị ngôn sứ cất bước công bố sứ điệp của Thiên Chúa chưa hết một phần ba kinh thành, thì toàn thể dân thành đã ăn năn sám hối, từ vua quan cho đến thường dân. Đây mới thật sự là một bài học nhớ đời cho dân Ít-ra-en. Khi đọc câu chuyện này, làm thế nào dân Do thái không thể không nghĩ đến việc ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã công bố những lời cảnh báo nghiêm khắc như thế cho dân thành Giê-ru-sa-lem để kêu gọi họ ăn năn sám hối? Ấy vậy, triều thần và ngay cả vua đã ra lệnh đốt sách của vị ngôn sứ. Đó là lý do tại sao thành đô Giê-ru-sa-lem đã bị đánh chiếm và bị phá hủy, còn dân thành đã phải chịu cảnh lưu đày ở đất khách quê người.
Chính Đức Giê-su nêu gương sám hối của dân thành Ni-ni-vê như một bài học cho thế hệ của Ngài: “Trong cuộc phán xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ trỗi dậy cùng với thế hệ nầy và sẽ kết án họ, vì xưa dân nầy đã sám hối khi nghe ông Giô-na rao giảng; mà đây thì còn hơn ông Giô-na nữa” (Mt 12: 41).
2. Ơn cứu độ phổ quát:
Thật ra, nhân vật chính của sách không là ngôn sứ Giô-na mà chính là Thiên Chúa, Ngài không chỉ là Thiên Chúa của dân Do thái, nhưng còn là Thiên Chúa của muôn dân nữa. Ngài quan tâm đến những tội lỗi của một dân ngoại giáo; nhưng trước khi trừng phạt dân này, Ngài sai một vị ngôn sứ đến với họ như Ngài đã từng làm đối với dân Ngài chọn. Như vậy, Thiên Chúa ban khả năng cứu độ cho hết mọi người không trừ một ai. Ngài chỉ cốt cảnh báo để đánh thức lương tri và thúc dục lòng ăn năn sám hối, vì thế, tấm lòng từ bi nhân hậu của Ngài trải rộng ra với hết mọi dân nước.
BÀI ĐỌC II (1Cr 7: 28-31)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô. Trong đoạn trích dẫn hôm nay, thánh nhân trả lời những vấn nạn mà cộng đoàn đã nêu lên cho ngài; đoạn ngài loan báo một vấn đề cốt yếu: “Tôi xin nói với anh em điều nầy: thời gian chẳng còn bao lâu nữa”.
1. Lời loan báo gây sững sốt:
Chúng ta lưu ý rằng bản dịch: “thời gian chẳng còn bao lâu nữa” không thể lột tả hết tư tưởng của thánh nhân. Theo nguyên ngữ Hy lạp, lời loan báo nầy gợi lên một hình ảnh rất sống động: “đây là lúc các buồm thuyền đã được cuốn lại” khi con thuyền sắp cập bến. Vì thế, đây là thời gian thuận tiện, các tín hữu phải hành xử như người sắp cập bến đời đời.
2. Phần minh chứng:
Tiếp đó, thánh nhân đưa ra những minh chứng được kết nối vào nhau một cách tự nhiên như một chuỗi các mắc xích: từ nay, những ai sống đời sống vợ chồng, đừng gắn bó với những ham muốn xác thịt; những ai sống trong phiền muộn, đừng than khóc như những người không có niềm hy vọng; những ai sống trong niềm vui, hãy nghĩ rằng hạnh phúc trần thế chỉ là thoáng qua; những ai có nhiều của cải, đừng cho mình là chủ nhân; vân vân.
3. Chủ đích của thánh Phao-lô:
Phải chăng thánh nhân nghĩ rằng ngày Chúa quang lâm sắp đến gần rồi? Cũng có thể lắm, nhưng đó không là điều tất yếu. Thánh nhân đã khai triển chủ đề nầy rồi. Thật ra, trong thư thứ nhất gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, dường như thánh nhân hy vọng rằng ngày Chúa quang lâm sẽ xảy đến vào thế hệ của ngài: “Dựa vào lời của Chúa, chúng tôi nói với anh em điều này, là chúng ta, những người đang sống, những người còn lại vào ngày Chúa quang lâm, chúng ta sẽ chẳng đi trước những người đã an giấc ngàn thu đâu” (1Tx 4: 15). Nhưng trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh nhân nghĩ rằng ngày Chúa quang lâm sẽ đến khi nào toàn thể dân Ít-ra-en ăn năn sám hối (Rm 11: 25-26). Chúng ta có thể nói rằng đối với thánh nhân, cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô đã làm tăng tốc Lịch Sử Cứu Độ. Chúng ta đã bước vào kỷ nguyên cứu độ, nghĩa là sống trong thời kỳ viên mãn. Như vậy, cách ăn nếp ở của những người Ki-tô hữu phải khác với dân ngoại. Chúng ta không được sống nước đôi, bắt cá hai tay, vì chúng ta biết rằng thế giới nầy đang qua đi.
TIN MỪNG (Mc 1: 14-20)
Bài Tin Mừng hôm nay gồm hai phần: phần thứ nhất nói về “khởi đầu sứ vụ công khai của Chúa Giê-su” (1: 14-15) và phần thư hai “Chúa Giê-su kêu gọi bốn môn đệ tiên khởi” (1: 16-20).
1. Khởi đầu sứ vụ công khai của Đức Giê-su (1: 14-15):
Trong phần thứ nhất, với thông tin “sau khi ông Gioan bị nộp”, thánh Mác-cô cho chúng ta biết Chúa Giê-su bắt đầu sứ vụ công khai của Ngài ngay khi sứ vụ của Gioan Tẩy Giả chấm dứt. Hơn nữa, trong Tin Mừng của mình, thánh Mác-cô cũng sử dụng động từ “bị nộp” để nói về cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Đức Giê-su. Như vậy, qua động từ “bị nộp”, thánh ký cho thấy có một mối tương quan mật thiết giữa sứ vụ của hai người: số phận của Gioan Tẩy Giả tiên báo số phận của Đức Giê-su.
Lời rao giảng đầu tiên của Đức Giê-su được tóm lược ở nơi lời công bố này: “Thời đại đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”. Trước hết, Chúa Giê-su loan báo thời kỳ hiện nay đến hồi chấm dứt và một thời đại mới, thời đại cuối cùng, thời cánh chung đã tới. Đó là thời Thiên Chúa đã ấn định để thực hiện và hoàn thành các lời hứa của Người.
Kể từ ngày thoát khỏi cảnh lưu đày tại Ba-by-lon, dân Do thái đặt tất cả mọi niềm hy vọng vào việc Thiên Chúa đích thân ngự đến và thiết lập Vương Quyền của Ngài trên mọi dân nước (Mk 4: 7; Xp 3: 15b; Dcr 14: 9; vân vân). Ở đây, Chúa Giê-su khẳng định rằng với sự hiện diện của Ngài, “Triều Đại Thiên Chúa” đã đến và đang hiện diện ở đây.
Sau cùng, Triều Đại Thiên Chúa đòi hỏi tấm lòng sám hối, tức là thay đổi đời sống. Việc thay đổi đời sống này phải được bày tỏ ra bên ngoài bằng việc tin vào Tin Mừng. Nội dung của Tin Mừng được xác định ngay từ đầu: “Tin Mừng của Thiên Chúa”, nghĩa là Tin Mừng phát xuất từ Thiên Chúa chính là Đức Giê-su Ki-tô, Người là hiện thân Tin Mừng của Thiên Chúa.
2. Chúa Giê-su kêu gọi bốn môn đệ tiên khởi (1: 16-20):
Trong phần thứ hai, thánh Mác-cô soạn thảo hai bài trình thuật ngắn về việc Chúa Giê-su gọi bốn môn đệ đầu tiên (1: 16-18 và 1: 19-20). Hai bài trình thuật tuy có vài điểm khác nhau nhưng bổ túc cho nhau để nêu bật sáng kiến của Đức Giê-su và lời đáp trả mau mắn của các môn đệ. Chính Chúa Giê-su đích thân gặp gỡ các môn đệ đầu tiên này ngay nơi họ đang làm việc và cất tiếng kêu gọi họ đi theo Người, tức là trở thành môn đệ của Người (1: 17 và 1: 20). Sau này trong Tiệc Ly, Chúa Giê-su nói rõ ra: “Không phải anh em đã chọ Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái anh em được tồn tại” (Ga 15: 16). Đối với những ngư phủ biển hồ Ga-li-lê này, Chúa Giê-su dùng chính hình ảnh nghề nghiệp của họ để loan báo sứ mạng sau này của họ: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”.
Hai bài trình thuật về ơn gọi của bốn môn đệ đầu tiên cung cấp một khuôn mẫu cho ơn gọi của tất cả các môn đệ Chúa Giê-su. Sự kiện các môn đệ đầu tiên này chưa được chuẩn bị tinh thần cũng như tâm lý cốt là để nhấn mạnh trọng điểm của câu chuyện: Đức Giê-su và lời kêu gọi của Người hấp dẫn đến độ không bất kỳ sự chuẩn bị nào là cần thiết; các môn đệ đầu tiên đòi buộc dấn thân theo Người với trọn tấm lòng say mê. Họ sẵn sàng đoạn tuyệt với gia đình và nghề nghiệp (1: 18 và 1: 20) và mau mắn đi theo Đức Giê-su mà không một chút đắn đo cân nhắc hơn thiệt.
Khi Thiên Chúa kêu gọi ai, việc đầu tiên là đòi hỏi người đó phải từ bỏ. Ơn gọi đầu tiên trong Cựu Ước cũng theo một khuôn mẫu như thế. Khi Thiên Chúa kêu gọi tổ phụ Áp-ra-ham, Người cũng đòi hỏi ông: "Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi…" (St 12: 1). Ơn gọi đầu tiên trong Tân Ước cũng không ngoại trừ. Câu chuyện ơn gọi đầu tiên này nhấn mạnh cái giá phải trả để trở thành môn đệ của Chúa Giê-su: bỏ lại sau lưng gia đình, tức là tình cảm thiêng liêng và cao quý nhất của một con người, và nghề nghiệp, tức là sự đảm bảo cho mình địa vị và kinh tế trong xã hội để cùng “đồng hội đồng thuyền, đồng sinh đồng tử” với Thầy. Vì thế, đối với những ai mà Người muốn liên kết vào sứ mạng của Người một cách tận mức, Đức Giê-su đòi hỏi một tinh thần siêu thoát triệt để: không có bất cứ cái gì ngăn trở người ấy hoàn toàn thuộc về Ngài. Nhưng ai có thể đòi hỏi tận mức đến như thế nếu không phải là Thiên Chúa?
Sống trong một thế giới có nhiều biến động tiềm ẩn đe dọa, con người cần phải cảnh giác và TN 3-B121
Sống trong một thế giới có nhiều biến động tiềm ẩn đe dọa, con người cần phải cảnh giác và giúp nhau cảnh giác để hạn chế những rủi ro.
Người và nhiệm vụ cảnh báo luôn được đặt lên hàng đầu. Họ là những người canh giữ sự bình yên, thức cho người khác ngủ. Họ đáng được kính trọng, tôn vinh!
Kinh Thánh nói nhiều đến những người canh gác nhà Israel, đó là các ngôn sứ được sai đến với cộng đoàn. Nhiệm vụ của họ cảnh báo dân về những sai lầm, bất công, vi phạm giao ước với Thiên Chúa và mời gọi dân hoán cải, canh tân trở về để được Chúa thứ tha và chúc phúc.
Các ngôn sứ đóng vai trò người cảnh báo trong chân lý.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay phác họa chân dung Chúa Giê-su, Đấng cảnh báo có thẩm quyền: sửa sai, dạy dỗ, hướng dẫn con người bước đi trong chân lý để được sống và sống dồi dào.
Chân dung Giê-su dần được phác họa qua những nhân vật được sai đến suốt dòng lịch sử cứu độ: “Thuở xưa nhiều lần, nhiều cách, Thiên Chúa phán dạy cha ông qua các ngôn sứ, vào thời sau hết, tức là những ngày này, Người đã nói với chúng ta qua Người Con” (Dt 1, 1).
Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Giô-na, kể việc Chúa sai ông đến với dân thành Ninivê, cảnh báo tai họa sắp xảy ra.
Mục đích: kêu gọi dân hoán cải, canh tân để được cứu thoát. Cảnh báo của ngôn sứ đặt nền tảng trên tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa.
Thật và rất thật, Chúa không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn, sám hối và được sống.
Câu chuyện ngôn sứ Giô-na cho một cái kết rất có hậu: “Chúa bỏ ý định phạt họ” (Gn 1, 10): Chúa vui và dân cũng vui, vì tất cả đều hội ngộ trong “tình yêu và sự sống”.
Con đường hòa giải phải bắt đầu bằng sự cảnh báo. Chúa đi bước trước nhắc dân nhận ra tình trạng yếu đuối, tội lỗi. Về phía dân phải biết lắng nghe và dốc lòng hoán cải mới có thể nhận được lòng xót thương.
Câu chuyện Ninivê là bài học hữu ích cho mỗi người trong hành trình đức tin. Chúng ta được nhắc nhở hằng ngày khi nghe Lời Chúa, vấn đề là có sẵn lòng mở lòng đón nhận lời nhắc nhở, cảnh báo hay không.
Ngôn sứ Giô-na là hình ảnh tiền trưng của Chúa Giê-su, Đấng cảnh báo có thẩm quyền: không vị nể con người, nhưng cứ đường lối Chúa mà đi.
Trong bài Tin Mừng, Giê-su hối thúc con người mau hoán cải, vì thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã đến gần.
Thời giờ đã mãn, nghĩa là đã được ấn định cụ thể, không mau hoán cải canh tân sẽ bị bỏ lỡ cơ hội chiếm hữu Nước Trời.
Thời giờ đã mãn còn có nghĩa một lượng lớn nhân loại chưa được nghe loan báo Tin Mừng. Chúa Giê-su đặc biệt lưu tâm tuyển chọn môn đệ cộng tác: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mc 1, 17).
Thưa anh chị em,
Nhiệm vụ cảnh báo là rất cần, nhưng nghe và thực hành việc cảnh báo cũng cần như vậy, vì nếu khi nghe “Lời” mà chỉ để ngoài tai, thì chẳng đem lại lợi ích gì, nó như hạt giống bị gieo vãi bên vệ đường, lập tức bị chim trời ăn mất.
Nghe và thực hành lời đã nghe mới là kẻ khôn ngoan, xây nhà trên đá: mưa sa, gió thổi, sóng vỗ... nhà đó không hề hấn, vì xây trên nền đá vững vàng.
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, lưu ý cộng đoàn hãy luôn sống trong sự tỉnh thức và luôn coi mọi sự trên thế gian này chỉ có tính tương đối, luôn thay đổi. Nó chỉ được tính bằng một khoảng thời gian vắn vỏi.
Vậy phải làm sao ? Thánh Tông đồ khuyên: anh em đừng bám víu, đừng gắn bó với nó như mục đích tối hậu, một hãy biết sử dụng nó như phương tiện Chúa ban.
Đừng quá gắn bó, chỉ lo thu tích, nhưng phải biết buông bỏ, để tâm hồn được thanh thản, siêu thoát, luôn gắn bó với của cải tồn tại muôn đời. Của cải đó là tình yêu và sự sống, công chính thánh thiện, tình liên đới hiệp thông, tinh thần bác ái sẻ chia... Thực hành những điều đó, anh chị em làm phải. Chúc anh chị em vạn an và Thiên Chúa nguồn mạch tình yêu và sự sống sẽ ở cùng chúng ta luôn mãi.
Thưa anh chị em,
Giáo huấn Lời Chúa mời gọi chúng ta luôn tỉnh thức nhận ra tiếng Chúa trong mọi biến cố cuộc đời. Mọi biến cố đều là lời nhắc nhở, cảnh báo, ra hiệu chúng ta đến với Chúa: dầu ăn, dầu uống hay làm bất cứ việc gì, chúng ta làm vì vinh danh Chúa. Điều đó ích lợi cho phần rỗi. Tập đọc ý Chúa qua những biến cố vui, buồn, đau yếu, bệnh tất, tang chế. Tất cả đều có thể dạy khôn và sinh ích lợi cho kẻ có lòng yêu mến Chúa.
Cũng phải luôn tâm niệm như thánh Phao-lô về bổn phận bác ái đối với anh chị em. Bác ái trong sửa lỗi cho nhau. Bác ái trong tình hiệp thông liên đới. Bác ái trong sự sẵn lòng tha thứ cho nhau. Bác ái trong tinh thần quảng đại luôn biết chia vui cùng lòng chân thật.
Thực hành những điều đó, chúng ta làm phải. Thiên Chúa “tình yêu và sự sống” sẽ ở cùng chúng ta luôn mãi.
Lạy Chúa Giê-su, xin ở lại với chúng con. Xin dạy dỗ bảo ban vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe. Có Chúa chúng con sẽ được an vui hạnh phúc bây giờ và luôn mãi. Amen!
Sau khi Gioan Tẩy Giả bị nộp. Gioan là một vị tiên tri mà chính Chúa Giêsu đã gọi là tiên tri TN 3-B122
Sau khi Gioan Tẩy Giả bị nộp. Gioan là một vị tiên tri mà chính Chúa Giêsu đã gọi là tiên tri lớn hơn các tiên tri. Thân phận ông không khác gì thân phận của các tiên tri thời xưa là bị bách hại. Thân phận các tiên tri là thế. Là nhân chứng cho sự thật, phải đương đầu với những thế hệ gian ác và tà vạy. Họ là hình ảnh của Chúa Giêsu, Đấng là sự thật. Ngài đến trong thế gian để làm chứng cho sự thật. Và cái chết của Ngài trên thập giá là bằng chứng cụ thể nhất.
Gioan Tẩy Giả bị nộp. Ông biến khỏi hiện trường để Chúa Giêsu tiếp tục làm chứng và rao giảng Nước Trời. Vai trò dọn đường cho Chúa Giêsu của ông chấm dứt, nhường chỗ cho Đấng ông loan báo: “Ngài phải sáng lên và tôi phải lu mờ đi”.
Chúa Giêsu xuất hiện và tiếp tục rao giảng. Gioan đã đi một con đường ngắn. Ông chỉ là “tiếng kêu trong hoang địa”. Chúa Giêsu mới thực sự là Nước Trời, là Tin Mừng, vì chính Ngài mới là Sự thật và là sự sống”. Tin Mừng là sự sống thật, không tàn phai, là sự sung mãn. Chúng ta chỉ là những con người mong manh, là tro bụi. Không có Ngài, chúng ta là mồi ngon cho sự chết và hư nát, là đàn chiên Tử thần chăn nuôi. Vì thế, phải trở về với Ngài và tin vào Ngài: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Ta sẽ không chết bao giờ”.
Mặc cho ai chối bỏ Thiên Chúa, chúng ta vững tin, vì ngoài Ngài ra, ai có thể cho chúng ta sống lại và sống lại vinh quang?
Đến với Ngài phải đi ngang qua ngưỡng cửa của sám hối, phải thay đổi não trạng xấu xa, quay về với Thiên Chúa Tình Yêu: “Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”. Ngài vẫn thương chúng ta và muốn chúng ta hạnh phúc với Ngài, mặc dù chúng ta vẫn phản bội. Ngài không mệt mõi mời gọi.
Chúa Giêsu công bố Nước Trời, nhưng không chỉ có Ngài. Cuộc đời trần thế của Ngài chỉ là khởi đầu. Việc loan báo Tin Mừng Nước Trời phải được tiếp tục cho đến tận thế, vì ý định của Thiên Chúa là cứu vớt mọi người. Tình thương của Chúa không loại trừ một người nào. Vì thế, Ngài kêu gọi một số người để cộng tác với Ngài, tiếp tục công trình của Ngài.
Tuần trước, chúng ta nghe tường thuật của thánh Gioan về việc Chúa Giêsu gặp hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả và Phêrô cũng được kêu gọi. Hôm nay, chúng ta lại nghe nhắc lại việc Chúa Giêsu kêu gọi những môn đệ đầu tiên, cũng là những người Chúa đã gặp, qua lời tường thuật của thánh Maccô. Hai lời tường thuật xem ra khác nhau, nhưng bổ túc cho nhau. Chúng ta có thể nghĩ rằng, Chúa Giêsu đã gặp những môn đệ của Gioan Tẩy Giả, họ ở lại với Ngài và sau đó đã trở thành môn đệ của Ngài. Họ trở về với công việc của họ là chài lưới. Lần này Chúa Giêsu gặp họ đang làm việc, và Ngài chính thức kêu gọi họ, và họ bỏ mọi sự và theo Ngài.
Như thế hai tường thuật không khác nhau mà chỉ là hai giai đoạn tiếp nối nhau. Mỗi thánh sử có cái nhìn khác nhau. Thánh Gioan nhấn mạnh đến việc gặp gỡ, trao đổi, tìm hiểu. Thánh Maccô nhấn mạnh đến sự đáp trả nhanh chóng và dứt khoát của các môn đệ. Trong tường thuật của Maccô, chúng ta thấy ngài dùng từ lập tức nhiều lần. Thánh sử muốn cho thấy rằng, tiếng gọi của Chúa không thể chấp nhận sự chần chừ, đắn đo.
Nhìn vào Kinh Thánh, chúng ta thấy rằng những người được gọi luôn đáp trả một cách dứt khoát, không trù trừ. Abraham nghe tiếng Chúa gọi: “Hãy bỏ nhà cửa, cha mẹ, ruộng đất anh em. Hãy đi đến vùng đất mà Ta sẽ chỉ cho”. Ông ra đi theo tiếng gọi mà không biết mình đi đâu. Ông đã đi theo tiếng gọi và tin tưởng hoàn toàn vào Đấng đã gọi ông. Chúa gọi Môsê từ nơi ngọn lửa trong bụi gai. Môsê e ngại, tìm cách từ chối, nhưng đã đi theo tiếng gọi, lãnh sứ mệnh cứu thoát dân Do Thái khỏi ách nô lệ Ai Cập.
Các tiên tri Isaia, Giêrêmia đều đã đáp lại tiếng gọi, đưa các ông vào vô định của Chúa, và các ngài đã đáp lại một cách quyết liệt.
Chúng ta cũng thấy rằng Chúa Giêsu kêu gọi những người Chúa muốn, không phải để phục vụ cá nhân Ngài, mà phục vụ Tin Mừng, phục vụ mọi người.
Chúng ta có được kêu gọi không? Mỗi người có một ơn gọi khác nhau, nhưng mọi người đều được gọi. Cánh đồng của Chúa mênh mông, cần nhiều thợ gặt. Phép rửa tội là một ơn gọi, biến chúng ta thành con Thiên Chúa, sáp nhập chúng ta vào gia đình của Chúa. Chúng ta trở thành tạo vật mới. Chúng ta được gọi để sống thân mật với Thiên Chúa. Đó chính là một hồng ân vô giá mà chúng ta không lường được giá trị, và chúng ta đánh mất tất cả những gì Chúa dành cho chúng ta. Có lẽ đa số chúng ta không thể bỏ tất cả mọi sự để theo Chúa như các tông đồ xưa, nhưng chúng ta phải làm sao cho những hồng ân Chúa sinh hoa quả trong cuộc sống chúng ta. Chúng ta được gọi để trở thành gia đình của Thiên Chúa, gia đình của những kẻ được cứu chuộc và chúng ta cũng phải làm cho gia đình đó lớn lên. Mỗi người chúng ta phải mang tới viên gạch của mình để xây nên đền thờ Chúa trong trần gian. Đó là ơn gọi chung cho mọi người tín hữu. Việc loan báo Tin Mừng không chỉ dành cho một số ít người linh mục hay tu sĩ mà là của mọi người. Chúng ta không rao giảng như các tông đồ, như các linh mục, nhưng chúng ta cần làm sao cho thế gian này tốt đẹp hơn, yêu thương hơn.
Thế giới hôm nay gần như đang sống trong một cuộc khủng hoảng liên tục. Con người đang cấu xé nhau một cách không thương tiếc. Chiến tranh, bạo lực, khủng bố, tội ác đang tràn lan khắp thế giới. Chúng ta đang làm gì? Sợ hãi? chạy trốn?
Chúng ta phải can đảm dấn thân sống như những người con Chúa giữa một xã hội vắng bóng Chúa.
Chúng ta hãy là những người mang lấy dấu ấn của người tử tội thần linh là Chúa chúng ta để loan truyền tình yêu của Ngài cho mọi người, với những mệt nhọc hằng ngày, những bệnh tật, những khó khăn trong cuộc sống, những vô định của tương lai.
Chúa Giêsu là một người như chúng ta, nhưng Ngài vẫn là Thiên Chúa, Đấng luôn kêu gọi chúng ta theo Ngài trên con đường cứu thế. Ngài kêu gọi chúng ta trong thực tế mỗi ngày của chúng ta. Với Ngài, chúng ta như các tông đồ, không còn sợ hiến dâng cuộc sống cho Ngài. Theo Ngài triệt để trên mọi nẻo đường. Tin vào Ngài, mọi sự trở nên nhẹ nhàng, vì bộ mặt thế gian này sẽ qua đi, như thánh Phaolô đã nói, chúng ta chỉ có một hy vọng duy nhất là Ngài. Chỉ có Ngài thôi.
Ngài đến và tiếp tục gọi mời, không bằng tiếng nói mà bằng chính bản thân Ngài, trong tấm bánh tình yêu. Thánh Thể vẫn là tiếng gọi âm thầm nhưng mãnh liệt vì nơi đó chúng ta nhận thấy tình yêu của Ngài rõ rệt nhất, sâu đậm nhất. Hãy ăn lấy Ngài và nghe theo tiếng mời gọi của Ngài, chúng ta sẽ thấy cuộc sống chúng ta tươi sáng, niềm hy vọng tràn đầy, vì bỏ Ngài con đi với ai, Thầy có những lời ban sự sống đời đời.
(Suy niệm của Jaime L.Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
Bạn có biết mục đích cuộc sống của bạn không ? Kinh thánh có thể giúp bạn biện phân. Các bài TN 3-B123
Bạn có biết mục đích cuộc sống của bạn không?
Kinh thánh có thể giúp bạn biện phân.
Các bài đọc Chúa nhật III Thường Niên dựa trên các bản văn của Chúa nhật tuần trước về những lời kêu gọi. Bài đọc thứ nhất và bài Tin mừng cho thấy sức mạnh của việc chấp nhận lời kêu gọi, vì nó có thể dẫn đến việc biến đổi của người khác.
Bài đọc thứ nhất trích sách Giôna mô tả vị ngôn sứ truyền rao một sứ điệp lên án chống lại dân thành Ninivê ở Assiri. Khi nghe lời cảnh báo, dân thành đã thay đổi lối sống, hối hận tội lỗi và ăn chay. Thiên Chúa bị đánh động trước những hành động sám hối của họ nên Ngài đã không hủy diệt dân thành Ninivê. Bài trình thuật cho thấy sức mạnh của sự thay đổi và cũng như tầm quan trọng của việc đón nhận lời kêu gọi. Trước đó, vị ngôn sứ đã từ chối ơn gọi của mình. Khi được kêu gọi đi đến Ninivê, thay vì đến đó, Giôna đã lên tàu đi về hướng ngược lại. Chỉ sau một cuộc hành trình đầy biến động, ông mới miễn cưỡng nói tiên tri với dân thành Ninivê, và lời tiên báo ngắn gọn của ông đã có ảnh hưởng lớn.
Tuần trước, chúng ta đã đọc lời kêu gọi các môn đệ theo Tin mừng Gioan. Hôm nay chúng ta nghe tường thuật của Maccô và gặp thấy những khác biệt đáng chú ý trong các truyền thống. Tường thuật của Gioan có sự xuất hiện của Gioan Tẩy Giả, nhưng Maccô cho rằng Gioan Tẩy Giả đã bị bắt. Gioan cho rằng Anrê, Simon Phêrô và một môn đệ giấu tên được kêu gọi trước tiên. Cũng thế, theo Maccô, tiếp theo Anrê và Phêrô là anh em Giacôbê và Gioan. Không giống như tường thuật của Gioan, trong Maccô, các môn đệ đang làm việc, đánh cá hoặc vá lưới, và Chúa Giêsu mời gọi họ dấn thân cho một ơn gọi mới, đó là trở thành những kẻ chài lưới người. Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ để chính họ có thể kêu gọi những người khác.
Bài Tin mừng nhắc nhở chúng ta hãy suy nghĩ kỹ lưỡng về ơn gọi của mình. Như các môn đệ được kêu gọi trong khi “đang làm việc”, thì Tin mừng có thể khuyến khích chúng ta mở rộng ý tưởng về những gì chúng ta nên làm và cách thức chúng ta ảnh hưởng đến cộng đoàn của mình. Ơn gọi có thể xem là nghề nghiệp hoặc có thể hiểu rộng là mục đích của một người. Mặc dù, nghề nghiệp và ơn gọi có thể có nhiều chồng chéo đối với một số người hơn là đối với những người khác, tất cả chúng ta đều được kêu gọi tìm cách sống một cuộc đời đầy ý nghĩa cho bản thân và cho người khác. Trong ánh sáng của hai bài đọc Chúa nhật vừa qua, đây là cơ hội tuyệt vời để suy ngẫm và biện phân những cách thức nhằm thực hiện mục đích của một người.
Trong khi chủ đề không liên kết chặt chẽ với hai bài đọc còn lại, bài đọc hai này có kiểu nói phải xem xét thận trọng trong bối cảnh của nó. Thánh Phaolô viết cho cộng đoàn Côrintô về thời gian hỗn loạn, khi ngài xem việc trở lại của Chúa Kitô, ngày tận thế và sự phán xét cuối cùng sắp xảy đến ngay. Vì thế, ngài khuyến khích cộng đoàn đừng lo lắng về những việc như cưới hỏi, tang chế, thú vui hoặc của cải vì mọi thứ sẽ sớm qua đi. Kiểu nói của thánh Phaolô “những ai có vợ, hãy ở như không có” không nên được hiểu như là những lời mời gọi coi thường, gièm pha hoặc không chung thủy với người vợ hoặc bạn đời nói chung. Thay vào đó, thánh Phaolô chỉ đơn thuần muốn mọi người tập trung vào những vấn đề cấp thiết nhất của ngày tận thế.
Sau hơn một năm dài do ảnh hưởng của dịch bệnh, thiên tai lũ lụt, mọi thứ dường như bị đảo TN 3-B124
Sau hơn một năm dài do ảnh hưởng của dịch bệnh, thiên tai lũ lụt, mọi thứ dường như bị đảo lộn, gây nên không biết bao nhiêu khó khăn, thử thách. Bước vào đầu năm dương lịch 2021 và để chuẩn bị đón Tết Tân Sửu, chắc hẳn ai trong chúng ta cũng có những dự định, chương trình, mong ước làm sao cho nghề nghiệp, công ăn việc làm của mình được ổn định và phát triển tốt đẹp. Giữa những lo toan của cuộc sống ấy, tiếng Chúa cũng đang vang vọng, tha thiết mời gọi chúng ta: “Hãy Theo Ta”. ACE thân mến, đứng trước biết bao nhiêu thách đố của cuộc sống, cùng với những dự tính của bản thân, liệu chúng ta sẽ lựa chọn, đáp trả lại lời mời gọi này của Chúa như thế nào?
Trong bài đọc một, ông Giona được Chúa chọn gọi, sai đi để làm ngôn sứ cho Chúa tại thành Ninivê tội lỗi; trước lời kêu mời này, năm lần bảy lượt ông đã tìm cách để chối từ. Điều thú vị là, càng trốn tránh, càng khước từ thì ông lại càng bị tiếng Chúa thôi thúc, cho tới khi ông đành miễn cưỡng chấp nhận đến rao giảng sứ điệp sám hối của Chúa cho dân. Dù đã đến Ninivê để rao giảng sứ điệp của Chúa cho dân chúng, nhưng ông lại không tin về điều mình rao giảng có giúp gì cho dân này hay không và ông cho rằng thế nào Chúa cũng sẽ cũng tha, không phạt dân. Điều lạ lùng, khi Giona rao giảng, dân chúng đã tin tưởng vào Lời Chúa mà ăn năn hối cải. Và đúng thật, “Chúa thấy việc họ làm, vì họ bỏ đời sống xấu xa, Chúa bỏ ý định phạt họ”. Chúa chỉ cần một sự cộng tác cho dù là miễn cưỡng của Giona, thế mà ơn tha thứ, cứu sống đã được ban cho cả dân thành. Có thể, Chúa cũng đang rất cần một sự đáp trả nào đó từ phía của mỗi người chúng ta chăng? Hãy khám phá và đáp trả rồi để cho Chúa hành động, chính Ngài sẽ thực hiện thánh ý tốt lành cho dân Ngài.
Trái ngược với lời đáp trả của Giona khi được mời gọi, Tin mừng theo Thánh Marcô thuật lại việc Chúa kêu mời bốn môn đệ đầu tiên Phêrô, Anrê, Gioan và Giacôbê, cả bốn người đều là ngư phủ. Trước lời mời gọi của Chúa “Hãy theo Ta”, lập tức họ đã bỏ lại tất cả, bỏ nghề nghiệp, gia đình, người thân để theo Chúa. “Lập tức” là một thái độ hoàn toàn dứt khoát, không do dự hay chần chừ, không so đo tính toán hơn thiệt. Đây chính là thái độ và cung cách sống của người con cái Chúa, người môn đệ của Chúa Giêsu. Vì theo lẽ thông thường, ai trong chúng ta mỗi khi làm bất cứ điều gì, đều cần phải tính toán hơn - thua, lời - lỗ; thế nhưng trước lời kêu gọi của Chúa, chúng ta không thể nào tính toán theo cách của con người. Đây chính là lý do để phần nào có thể giúp chúng ta hiểu, tại sao bốn môn đệ này của Chúa lại có thể từ bỏ cách dứt khoát, thanh thoát, nhẹ nhàng mọi sự để theo Chúa như vậy. Họ là những người đã trưởng thành, có gia đình, nghề nghiệp ổn định, khá giả và có địa vị trong xã hội. Thế thì câu hỏi được đặt ra: Họ có liều lĩnh, sai lầm và lạc lối khi bỏ lại mọi sự để theo Chúa hay không? Chắc chắn là không, vì khi theo Chúa, Ngài chính là nguồn mạch của mọi ân phúc, là Đấng tạo dựng, ban phát và chăm lo cho tất cả mọi người. Chính khi các ông đã dứt bỏ mọi sự như vậy để theo Chúa, là các ông đã chọn một lối đi, chọn con đường đúng, chân thật và đạt đến đích điểm hạnh phúc mà con người khao khát.
“Hãy theo Ta” hôm nay, lời kêu mời này của Chúa cũng đang rỉ tai, vang vọng đến từng tâm hồn và lòng trí chúng ta. Vậy thì, thái độ, cung cách và sự đáp trả của chúng ta sẽ như thế nào? Chúng ta sẽ chần chừ, thoái thác, muốn rút lui với thái độ dửng dưng, không tin tưởng vào Chúa như ông Giona; hay chúng ta sẽ mau mắn đáp trả cách dứt khoát với lòng tin tưởng tuyệt đối như bốn môn đệ của Chúa? Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng muốn theo Chúa, đáp trả lại tiếng kêu mời của Chúa, nhưng lắm lúc chúng ta cũng đang muốn kèo nài với Chúa. “Chúa biết con muốn theo Chúa, nhưng xin Chúa cho con chút thời gian để suy nghĩ kỹ hơn; Chúa hãy cho con cơ hội để con làm một điều này thôi trước khi con theo Chúa; Chúa hãy chờ con xong việc này việc kia, thế nào con cũng theo Chúa và làm cho Chúa…”
Anh chị em thân mến, hôm nay khi Chúa kêu mời chúng ta theo Ngài, xin hãy thưa: Lạy Chúa, Ngài đang muốn con bỏ cái gì, điều gì hay bỏ ai để theo Chúa? Trên hết mọi cái, chúng ta cần phải bỏ đi để theo Chúa đó là, bỏ đi những yếu đuối-tội lỗi, những thói hư-tật xấu, bỏ đi sự nghi ngờ, thiếu lòng tin vào Chúa. Xin Chúa cho chúng con dù đang sống trong bất cứ hoàn cảnh và ơn gọi-sứ vụ nào, dù trong những lao đao, thăng trầm của cuộc sống, vẫn luôn có một tâm hồn quảng đại, tin tưởng và thái độ dứt khoát để theo Chúa, sống trọn vẹn cho Chúa và tha nhân. Amen.
Các bài đọc sách thánh hôm nay đưa chúng ta đến với lời mời gọi của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa TN 3-B125
Các bài đọc sách thánh hôm nay đưa chúng ta đến với lời mời gọi của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã có sáng kiến và mời gọi các môn đệ đi theo Ngài. Việc đi theo Chúa luôn đòi hỏi thái độ từ bỏ trong cuộc sống. Chúng ta chỉ thực sự theo đạo khi chúng ta bước đi theo Chúa Giêsu mỗi ngày, biết thay đổi lối sống của mình cho phù hợp với lời mời gọi của Chúa.
Chúa mời gọi chúng ta
Trong bài đọc một, tiên tri Giona được Thiên Chúa mời gọi đi làm sứ ngôn của Ngài nơi thành Ninive. Giona đã lên đường đi tới Ninive để kêu gọi dân thành Ninive ăn năn sám hối. Dân thành Ninivê đang sống trong sự tội, thế nhưng Chúa vẫn không muốn mất một ai trong thành này. Chúa đã mời gọi họ, mong họ trở lại mà được sống bình an.
Trong thư gửi tín hữu Corinto, chúng ta cũng thấy thánh Phaolo tha thiết mời gọi mọi người hãy thay đổi lối sống vì thời giờ đã sắp kết thúc. Ngài mời gọi mọi thành phần trong cộng đoàn phải thay đối chứ không chỉ riêng thành phần nào nhất định. Thiên Chúa luôn luôn mời gọi chúng ta từ bỏ để đi vào huyền nhiệm của Ngài.
Bài Tin mừng theo thánh Marco hôm nay nổi bật với lời mời gọi của Chúa Giêsu đối với anh em Simôn và Anrê, với anh em Giacôbê và Gioan. Bốn môn đệ đầu tiên được Chúa Giêsu mời gọi đang khi các ông làm việc thường nhật. Chúa đã mời gọi các ông không phải vì các ông có đủ tiêu chuẩn: nhưng chỉ đơn thuần là Chúa muốn các ông đi theo Ngài để loan báo cho muôn dân Tin mừng trọng đại về Nước Trời.
Theo Chúa là sẵn sàng từ bỏ
Tất cả các nhân vật xuất hiện trong ba bài đọc trong Chúa nhật này đều mang cùng một thái độ từ bỏ.
Ông Giôna đã từ bỏ quê hương, công việc, gia đình để lên đường đến với thành Ninivê. Ông không còn là người nói theo ý mình nữa, nhưng là người sống và nói theo Ý Chúa.
Dân thành Ninivê đã từ bỏ lối sống ăn chơi trác táng, rượu chè cờ bạc, gian dâm, hối lộ… để trở về với đời sống thanh đạm, công bình, yêu thương và phục vụ. Họ không còn là dân gian ác rời xa Thiên Chúa nữa nhưng là dân sống trong ân nghĩa với Chúa.
Ông thánh Phaolô đã từ bỏ chức tước, nghề nghiệp, quê hương để lên đường đi đến với những người dân ngoại khắp nơi. Ông không còn là người lùng sục bắt bớ những người theo Giêsu nữa, nhưng là loan báo và mời gọi mọi người tin theo Giêsu.
Bốn môn đệ Simon, Anrê, Giacôbê và Gioan đã từ bỏ gia đình, nghề nghiệp chài lưới để đi theo Giêsu trên hành trình rao giảng Tin mừng. Các ông không còn là những người chài lưới bắt cá nữa, nhưng là những người ra đi kéo người khác về với Chúa.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy sám hối. Sám hối là nhận thật con người mình, từ bỏ thói hư nết xấu và bước vào con đường lành. Việc theo Chúa luôn bao hàm sự từ bỏ.
Lời mời gọi cho mỗi chúng ta
Nói đến ơn kêu gọi, được Thiên Chúa kêu gọi, hay nói đến từ bỏ để theo Chúa chúng ta dễ nghĩ đến những người đi tu. Nhưng không, Chúa mời gọi hết tất cả mọi người từ già đến trẻ, từ nam đến nữ, từ người lương thiện đến người tội lỗi, từ người thành thị đến người thôn quê, từ người Công Giáo đến người không Công Giáo… tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa mời gọi hãy đi theo Ngài.
Bạn có thể giống như các môn đệ trong bài Tin mừng hôm nay được Thiên Chúa mời gọi đi với Ngài trên con đường tu trì để làm linh mục.
Bạn có thể giống như Phaolô hay Giôna được Thiên Chúa mời gọi lên đường đi rao giảng Tin mừng cho dân ngoại.
Bạn có thể giống như những người tốt lành trong cộng đoàn Corinto được Thiên Chúa mời gọi hãy trở nên thánh thiện hơn để đón chờ ngày Chúa đến trong vinh quang.
Bạn có thể là người đang sống tội lỗi đầy mình như dân thành Ninivê năm xưa được Thiên Chúa mời gọi hãy ăn năn sám hối, từ bỏ con đường cũ: thôi rượu chè nhậu nhẹt, thôi cờ bạc cá độ, thôi gian dâm ngoại tình, thôi tham ô hối lộ, thôi kiêu căng hống hách, thôi giả dối điêu ngoa…
Bạn đang được Thiên Chúa mời đi vào cuộc sống trong ân nghĩa với Ngài. Bạn hãy lên đường với quyêt tâm trở về với Ngài. Bạn sẽ có một đời sống mới. Nhưng bạn cũng phải từ bỏ để sống theo lời mời gọi của Thiên Chúa.
Bạn hãy quan tâm đến người khác; hãy bao dung rộng lượng; hãy công bằng với công nhân; hãy thành thật trong thi cử; hãy tận tâm với công việc; hãy nhân ái với tội nhân; hãy biết nói lời yêu thương với mọi người; và trên tất cả, bạn hãy để cho Chúa có chỗ trong ngày sống của bạn. Đó là bạn đang theo Chúa trong cuộc sống thường nhật của mình.
Lạy Chúa, sống giữa một xã hội buông thả luân lý, con muốn theo Chúa nhưng thật khó cho con. Xin Chúa thức tỉnh tâm hồn con để con biết trở về với lòng mình. Xin Chúa gia tăng sức thiêng để con can đảm nhận thật bản thân con. Xin Ngài vực con lên và dìu con tiến bước trong đường lối của Ngài.
Chuyện kể ngày xưa có một vị vua đi thăm những miền xa xôi của đất nước mình, khi về đến TN 3-B126
Chuyện kể ngày xưa có một vị vua đi thăm những miền xa xôi của đất nước mình, khi về đến nhà, đôi bàn chân ông sưng lên đau đớn, vì đường xá gập ghềnh sỏi đá. Ông liền ra lệnh tất cả các con đường trong vương quốc phải trải bằng da lông thú. Cả triều đình bất bình, nhưng chẳng ai dám lên tiếng. Nhưng rồi cũng có một vị quan dũng cảm cho vua biết, không cần phải tiêu tốn ngân khố và khổ công một cách vô ích như vậy. Chỉ cần cắt những miếng da bò rồi phủ quanh đôi chân trần của mình là xong. Nhà vua rất ngạc nhiên trước lời đề nghị của vị quan, và thế là đôi giày da đầu tiên của nhân loại ra đời.
Nhờ biết lắng nghe và thay đổi ý riêng mình mà nhà vua không gây khốn khổ cho dân chúng, trái lại, còn góp phần đem lại ích lợi cho mọi người. Ai cũng mong cuộc sống được thăng hoa, an bình, tốt đẹp, nhưng luôn đòi hỏi người khác phải thay đổi chứ không ý thức mình phải đổi thay. Mình không đổi thì đừng mong người khác đổi. Đời là bể khổ khi ta chưa phá đổ được những vô minh đang vây hãm mình, nghĩa là chưa nhận ra chân lý sống để thay đổi lối sống.
Thay đổi chính mình trong ngôn ngữ của Tin Mừng là thành tâm sám hối. Trong bài đọc thứ nhất, ngôn sứ Giona được Chúa sai đến thành Ninivê để kêu gọi dân sám hối, vì đầy những người xấu xa, tội lỗi, đáng bị trừng phạt. Giona tìm mọi cách để tránh né, nhưng cuối cùng cũng phải đi. Kết quả là dân thành đã ăn năn sám hối và được Chúa thứ tha.
Chúa Giêsu khởi đầu sứ vụ cũng bằng lời kêu gọi sám hối. Sám hối là khiêm tốn nhìn nhận những sai sót lầm lỗi của mình, đồng thời can đảm thay đổi lối sống mới cho phù hợp với ý Chúa. Thánh Phaolô cũng kêu gọi thay đổi đời sống mới, là đừng sống theo tính xác thịt và theo thói người phàm (x. 1Cr 3, 3). Sám hối còn là tin vào Tin Mừng, nghĩa là đoạn tuyệt với quá khứ theo đường xưa lối cũ của mình, để khởi đầu cuộc hành trình mới là bước theo Chúa Giêsu; là xóa bỏ não trạng cũ và thay vào đó tư tưởng và đường hướng của Thiên Chúa.
“Mỗi vị thánh đều có một quá khứ; mỗi tội nhân đều có một tương lai”, nên chúng ta không mặc cảm mà còn mạnh dạn thay đổi bản thân mình. Đừng than trách sao lòng người còn những xấu xa gian tà, hay sao thế giới không thấy được một ngày bình yên? Câu trả lời nơi mỗi người: Tâm bình, thế giới bình. Đời thay đổi khi chúng ta thay đổi.
Bài Tin Mừng hôm nay còn kể về việc Chúa gọi các môn đệ đầu tiên. Họ chính là những người đã can đảm từ bỏ cuộc sống cũ để khởi đầu một cuộc sống mới. Tiếng gọi “Các anh hãy theo tôi” có sức thuyết phục kỳ diệu, khiến các ông sẵn sàng từ bỏ những người thân yêu và nghề nghiệp bao năm gắn bó. Đây không phải là lời kêu gọi dành riêng cho đời sống tu trì, mà dành cho từng Kitô hữu. Giống như các môn đệ xưa trước khi theo Chúa, chúng ta luôn tất bật với những lo toan đời thường, vẫn mãi mê với công ăn việc làm, đang miệt mài theo đuổi những ước mơ. Nhưng tiếng Chúa mời gọi vẫn âm thầm vang lên tự cõi lòng, hay qua những biến cố của cuộc sống. Hãy để cho mình còn biết lắng nghe và đáp trả, đừng quá tiếc nuối và bám víu vào những thành công tạm bợ.
Chúa muốn biến chúng ta “thành những kẻ lưới người”, muốn ta chia sẻ sứ mạng là đồng cam cộng khổ với Ngài trong chương trình cứu độ. Ngài muốn chúng ta can đảm làm một cuộc đổi đời, là định lại hướng đi theo những giá trị mới của Tin Mừng. Và Chúa Giêsu là giá trị trên mọi giá trị, đòi ta dám từ bỏ mọi sự khi cần, để đặt Chúa lên trên tất cả. Sự nghiệp đích thực của chúng ta không phải là sự nghiệp đời này, mà là sự nghiệp đời sau, sự nghiệp Nước Trời. Điều đó tùy thuộc vào mức độ mà ta đã góp phần vào việc xây dựng Nước Chúa từ hôm nay. Hiểu được như vậy, lòng chúng ta mới đầy phấn khởi để bước theo Chúa Giêsu trên mọi nẻo đường đời, và không ngại loan báo Tin Mừng khắp mọi nơi.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu! Chúa mời gọi con đi theo Chúa, một lời nói thật nhẹ nhàng, nhưng tình yêu thật chứa chan, một câu nói thật gọn gàng, nhưng nói lên tất cả những ân ban.
Lời mời gọi làm tim con bỡ ngỡ, Chúa đi vào đời con quá bất ngờ, vì con đang mê say cuộc sống này, nên con phải dây dưa và chọn lựa, bỏ thì thương, vương thì tội.
Nhưng con cũng chẳng thấy là tội, chỉ vì con muốn sống thế mà thôi, nhưng rồi con lại cảm thấy bồi hồi, khi chính Chúa là Tình Yêu bị từ chối, con cảm thấy mình như kẻ phản bội, bỏ đi ơn gọi cao quí nhất của đời mình, là chính cuộc tình ngàn năm một thuở.
Theo Chúa đòi hỏi nơi con lòng sám hối, phải dám can đảm làm một cuộc đổi đời, vì Chúa muốn con thành người mới, phản ảnh tình yêu Chúa sáng ngời.
Dù biết bản thân con nhiều hèn yếu, kém tài kém đức thiếu đủ điều, nhưng con tin Chúa sẽ dắt dìu, chỉ cần con biết tha thiết yêu.
Xin cho con quyết tận tình đáp trả, vì thật ra lỗ lã chẳng bao nhiêu, mà Chúa sẽ cho con lại rất nhiều, nhưng chính Chúa mới là điều con muốn. Amen.
Người xưa có câu: “Tầm sư học đạo”. Những học trò thường tìm kiếm thầy giỏi để theo học với TN 3-B127
Người xưa có câu: “Tầm sư học đạo”. Những học trò thường tìm kiếm thầy giỏi để theo học với mong muốn trong tương lai mình sẽ hữu ích cho đời, cho người. Hôm nay, khi lắng nghe câu chuyện Thầy Giêsu kêu gọi các môn đệ đầu tiên, ta mới chợt nhận ra Chúa đang cần sự cộng tác của ta. Chính ta cũng đã được Thầy Giêsu kêu gọi. Thầy Giêsu đã chủ động mời gọi những ngư phủ cộng tác với mình trong hành trình rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Trước lời mời gọi đầy yêu thương ấy, các môn đệ đầu tiên đã mau mắn đáp lời.
Khởi đầu sứ vụ công khai, Thầy Giêsu đã đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Người nói: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1, 15). Người dành những lời nhắn nhủ đầy yêu thương ấy cho các môn đệ đầu tiên. Đây là lời đáp trả của các ông, những ngư phủ chất phác, thật thà: Đang khi quăng lưới xuống biển, các ông chợt nghe thấy lời mời gọi của ai đó vang lên: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mc 1, 17). Tin Mừng kể lại: “Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người” (Mc 1,18). Không hề do dự hay chần chừ, các ông đã lập tức đáp lại bằng hành động từ bỏ: bỏ chài lưới- một công việc mưu sinh, công việc nuôi sống bản thân và gia đình. Theo Thầy Giêsu, ta cũng được mời gọi từ bỏ một điều gì đó: đó không hẳn chỉ dừng lại ở việc từ bỏ một công việc, một sở thích, một cuộc sống ổn định nhưng điều cốt yếu của việc từ bỏ hệ tại ở “sự từ bỏ chính mình”. Người đã nhiều lần dạy ta: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8, 34). Nhìn vào kinh nghiệm của tông đồ Phêrô, ta được thôi thúc dấn bước vào con đường từ bỏ mình để theo Thầy Giêsu. Những giọt nước mắt sám hối của tông đồ Phêrô sau ba lần chối Chúa là dấu chỉ của tình yêu. Ông nhận ra tình yêu lớn lao mà Thầy dành cho mình và đau đớn vì sự phụ bạc của mình. Bởi yêu Chúa, ông mới sám hối về tội mình đã phạm. Càng yêu ai, ta càng đau đớn khi nhận ra hành động sai lầm của mình khi làm cho tình yêu đổ vỡ. Người môn đệ ấy đã rất may mắn, nói đúng hơn, ông là người hạnh phúc vì đã đem lòng yêu Đấng là Tình yêu. Ông là người làm đổ vỡ tình yêu nhưng chính Đấng bị xúc phạm đã chủ động hàn gắn lại tương quan, chủ động làm hòa, chủ động yêu thương. Tình yêu của Người trước sau như một.
Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, nhận được Thánh Thần, các môn đệ đã bước vào hành trình được biến đổi. Các ông trở thành những người “lưới người như lưới cá” như lời Thầy đã hứa. Chúa Giêsu đã ngỏ lời mời gọi các môn đệ vì Người cần sự cộng tác của các ông, nhưng để trở nên người thợ gặt của Nước Trời, các ông phải sẵn sàng để “Người làm cho các ông thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Cũng vậy, mỗi lần được giao hòa với Chúa nhờ bí tích hòa giải, được ở lại trong Chúa nhờ bí tích Thánh Thể, ta là người được Thiên Chúa đón nhận trong yêu thương. Ta đã sẵn sàng để Chúa thực hiện những điều Người muốn cho ta không? Yêu Chúa luôn đồng nghĩa với việc để Người yêu thương. Người sẽ biến đổi con người ta nếu mỗi ngày ta biết lắng nghe và thi thành Lời Chúa.
Lạy Chúa! Con ngỡ ngàng và hạnh phúc khi biết Chúa cần con. Con cũng nhận ra, con cần Chúa biết bao. Nếu như con không trao phó cuộc đời mình trong tay Chúa, không để Chúa yêu con như ý Người muốn thì tình yêu con dành cho Chúa không thực tiễn chút nào. Xin ban Thánh Thần đến đổi mới tâm hồn con, để khi nhận ra “Chúa đang cần con” nơi những người anh chị em, con biết mau mắn thực thi Lời Ngài mời gọi. Amen.
Để mọi người biết đến mình hay các sản phẩm, các chương trình của mình; đối với người có nhiều TN 3-B128
Để mọi người biết đến mình hay các sản phẩm, các chương trình của mình; đối với người có nhiều vốn, người ta thường dùng chiến dịch quảng cáo, đối vói người có ít vốn hoặc dịch vụ nhỏ, người ta thường phát tờ rơi. Chúng ta thấy rất nhiều bạn sinh viên đi làm thêm bằng việc phát tờ rời tại các ngã tư đường hay bên ngoài các cửa hàng siêu thị để giới thiệu sản phẩm mới. Các sản phẩm được bày bán đẹp mắt, được giới thiệu về nguồn gốc lẫn chất liệu cũng những lời hứa đảm bảo đạt chất lượng. Tuy nhiên, lời giới thiệu đó đôi khi chưa được kiểm chứng. Hôm nay, Chúa Giêsu cũng giới thiệu và mời gọi mọi người tham gia vào chương trình sự sống của Người. Tuy nhiên, Người không nói nhiều mà mời gọi moi người hãy theo Người để cảm nhận về kinh nghiệm về sự sống. Vậy, sự sống đó như thế nào?
Sau khi ông Gioan bị nộp, Chúa Giêsu lên đường đi rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Người nói: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào tin Mừng” (Mc 1, 15). Người đang đi dọc theo biển hồ Galilê. Khi thấy ông Simôn và ông Anrê, Người bảo các ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mc 1, 17). Người giới thiệu và mời gọi mọi người hãy sám hối và tin vào Người. Người đảm bảo sẽ ban cho những ai đi theo Người sẽ trở thành những kẻ lưới người như lưới cá. Chúng ta không lạ gì khi nói đến việc bắt cá. Muốn bắt được mẻ các lớn, chúng ta cần có lưới và lưới phải to. Nhưng đôi lúc, dù có lưới to, chúng ta cũng không bắt được cá. Chúa Giêsu – Người sẽ song hành và làm cho những ai theo Người trở nên những người tông đồ đích thực. Người đã nói: “Khi người ta đưa anh em ra trước hội đường, trước mặt những người lãnh đạo và những người cầm quyền, thì anh em đừng lo phải bào chữa làm sao, hoặc phải nói gì, vì ngay trong giờ đó, Thánh Thần sẽ dạy cho anh em biết những điều phải nói” (Lc 12, 12).
Quả thực, chúng ta biết và tin vào Thiên Chúa. Nhưng đi vào thực tế cuộc sống, chúng ta dễ sa ngã và không đủ sức để vượt qua. Chúng ta yếu sức là vì chúng ta quy về mình, nên chúng ta cảm thấy nặng nề và khó khăn khi phải vượt qua những cám dỗ êm ái. Chúng ta phải chiến đấu để chọn lựa những gì thuộc về Thiên Chúa, những gì cho chúng ta tham dự vào sự sống của Thiên Chúa. Thật sự, để bước vào chương trình sự sống của Thiên Chúa, chúng ta phải từ bỏ những gì thuộc về thế gian để sống cho những điều thuộc về Thiên Chúa.
Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Chúng con cảm tạ Chúa đã không ngừng mời gọi chúng con đi vào chương trình sự sống của Chúa. Mỗi ngày, xin cho chúng con nghe được lời mời gọi của Chúa và mau mắn đáp lời. Để nhờ đó, chúng con can đảm khước từ mọi chương trình của thế gian để đến với Chúa trong Thánh Thể. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Chúa chúng con. Amen.
Ngày 30 tháng 9 năm 2019, Đức Thánh Cha Phanxicô đã thiết lập “Chúa Nhật Lời Chúa” và chọn TN 3-B129
Ngày 30 tháng 9 năm 2019, Đức Thánh Cha Phanxicô đã thiết lập “Chúa Nhật Lời Chúa” và chọn chúa nhật thứ ba thường niên là ngày toàn thể Giáo Hội đặc biệt cử hành, học hỏi, chia sẻ, và loan báo Lời Chúa, với mục đích nhắc nhở các tín hữu : Lời Chúa là nguồn Mạc Khải sống động, có tầm quan trọng như Thánh Thể mà Đức Giêsu đã ban cho Giáo Hội của Ngài. Chúa nhật thứ ba thường niên còn là khởi điểm của Tuần Lễ Cầu Nguyện cho sự Hiệp Nhất giữa những người cùng tin vào Đức Giêsu Kitô.
Trước hết, Lời Thiên Chúa là Lời đem lại sự sống cho những người sắp phải chết hay đáng chết vì tội lỗi của mình, như Thiên Chúa đã tha tội chết cho dân thành Ninivê vì họ đã nghe Lời Ngài, như được kể lại trong sách ngôn sứ Giôna : Có Lời Đức Chúa phán với ông Giôna lần thứ hai rằng : “Hãy đứng dậy, đi đến Ninivê, thành phố lớn, và hô cho dân thành biết lời tuyên cáo Ta sẽ truyền cho ngươi. Ông Giôna đứng dậy và đi Ninivê, như lời Đức Chúa phán” (Gn 3,1-3). Ông Giôna bắt đầu vào thành, đi một ngày đường và công bố : “Còn bốn mươi ngày nữa, Ninivê sẽ bị phá đổ. Dân Ninivê tin vào Thiên Chúa, họ công bố lệnh ăn chay và mặc áo vải thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ” (Gn 3,4-5). “Thiên Chúa thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường gian ác mà trở lại. Người hối tiếc về tai họa Người đã tuyên bố sẽ giáng trên họ, Người đã không giáng xuống nữa” (Gn 3, 10). Và tai họa mà trước đó Thiên Chúa muốn giáng trên Ninivê chính là tất cả mọi người ở trong thành sẽ phải chết (x. Gn 3,9).
Tin Mừng Máccô cũng không ra ngoài mục đích của Lời Chúa, khi công bố chính Lời của Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa : Sau khi ông Gioan bị bắt, Đức Giêsu đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Người nói : “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,14-15).
Trước khi cho biết việc con người phải làm để được cứu sống, Đức Giêsu đã nghiêm khắc cảnh báo : “thời gian không còn dài, thời kỳ đã mãn”, thời điểm đã chín mùi vì Nước Trời, Vương Quốc của Thiên Chúa đã đến gần. Và liền sau đó, Ngài tuyên bố : “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15).
Như thế cả Cựu Ước cũng như Tân Ước, từ miệng các ngôn sứ đến miệng Đức Giêsu, Lời Chúa mãi là Lời cứu độ, Lời ban sự sống, Lời giải thoát khỏi tội lỗi, án tử, và điều kiện để đón nhận Lời hằng sống, Lời cứu sống ấy chính là sám hối, trở về và tin vào Lời Thiên Chúa phán dậy.
Do đó sẽ không có sự sống, không được cứu sống, nếu từ chối sám hối và phủ nhận Tin Mừng là Lời của Thiên Chúa hằng sống.
Tin Mừng Máccô hôm nay còn cho chúng ta thấy cảnh Đức Giêsu gọi bốn môn đệ đầu tiên là hai anh em ông Anrê, Simon, và hai anh em ruột khác là Giacôbê và Gioan. Các vị là những cộng sự viên được Đức Giêsu chọn ở những ngày đầu của công cuộc Cứu Thế, để cùng Ngài loan báo Tin Mừng, rao giảng Lời Thiên Chúa.
Qủa thực, với Lời Chúa, chúng ta không chỉ được cứu thoát, mà còn được sống sự sống của chính Thiên Chúa, nhờ lắng nghe, đón nhận và thực thi Lời hằng sống của Ngài. Cũng với Lời Chúa, mọi hiểu lầm, tị hiềm, đố kỵ giữa những anh em cùng tin vào Đức Giêsu và Lời của Ngài sẽ hiệp nhất với nhau một ngày không xa, nếu mỗi người Kitô hữu thực thi Lời Đức Giêsu năm xưa ở Galilê : “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.
Có một ngày bình thường, một ngày như mọi ngày, trong đời sống của những người đánh cá TN 3-B130
Có một ngày bình thường, một ngày như mọi ngày, trong đời sống của những người đánh cá quanh hồ Galilê. Có hai cặp anh em ruột đang làm việc. Họ sống nhờ cái hồ nước ngọt đầy cá này. Họ đang sống bình an với gia đình, ổn định với nghề nghiệp. Dường như chẳng điều gì có thể làm xáo trộn đời sống của họ. Vậy mà một chuyện bất ngờ đã xảy ra, khi có người mang tên Giêsu đi dọc theo bờ hồ, đến gặp họ, khiến mọi sự đi theo một hướng khác. Người mang tên Giêsu không phải là một vị thầy học thức cao. Ngài đơn giản chỉ là một người thợ ở làng Nadarét. Ngài đã chịu phép rửa của Gioan Tẩy giả, và đã bắt đầu đi rao giảng Tin Mừng ở vùng Galilê. Lời loan báo của Ngài thật ấn tượng, làm mọi người chú ý: Nước Thiên Chúa đã đến gần rồi, không phải chờ đợi nữa. Đây là thời cuối cùng, Thiên Chúa đến để ban ơn cứu độ. Lời loan báo cũng kèm theo một lời mời thiết tha: Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng (Mc 1,15). Chắc các anh đánh cá đã có lần nghe Đức Giêsu giảng, và họ bị thu hút bởi quyền uy của một vị thầy, toát ra từ phong cách, từ chính con người Ngài. Họ có mong được gặp Ngài không? Nhưng không ngờ hôm nay Ngài đến gặp họ. Sáng kiến cho cuộc gặp gỡ này đến từ Thầy Giêsu. Ngài thấy Simôn và Anrê đang quăng lưới xuống biển. Có lẽ Ngài đã đứng ngắm nhìn cảnh tượng này một lúc lâu: hai người cùng làm với nhau để kéo được một mẻ cá. Chính Thầy Giêsu là người mở lời trước tiên. Một lời mời cũng là một mệnh lệnh: Hãy theo tôi ! Hãy gắn bó với tôi như một môn đệ. Và Ngài hứa sẽ làm một cuộc tạo dựng mới: “Tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người ta.” Từ những ngư phủ lưới cá trở thành ngư phủ lưới con người. Bây giờ con người là mối bận tâm, chứ không phải là cá. Thầy Giêsu mời họ chia sẻ mối bận tâm của Ngài về con người. Như thế là phải bỏ nghề đánh cá. Hai ông đã hiểu lời mời đó, nên đã bỏ lưới mà theo Thầy Giêsu. Thầy Giêsu còn muốn đi tiếp và mời thêm môn đệ. Thầy lại một cặp anh em ruột khác là Giacôbê và Gioan. Họ cũng đang làm việc: vá lưới ở trong thuyền với cha. Cảnh tượng cha con cùng làm việc thật dễ thương và ấm áp. Lập tức, Thầy Giêsu gọi hai ông. Tiếng gọi của Thầy đã tạo nên cuộc chia ly xa cách. Hai anh con trai đi theo Thầy Giêsu, bỏ lại người cha và những người làm công trên thuyền. Chính tiếng gọi uy quyền của Thầy Giêsu làm nên người môn đệ. Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng Thầy đã chọn các con. Khi đáp lại tiếng gọi, các ngư phủ đã đi vào một chuyển động. Họ phải bỏ lại sau lưng nhà cửa, nghề nghiệp, cha mẹ, vợ con, để đi theo một vị thầy vô gia cư, rong duổi nay đây mai đó. Họ sẽ theo Thầy đi khắp nước Israen, qua các vùng dân ngoại. Khi theo Thầy Giêsu, họ sẽ mãi mãi là học trò của Thầy. Khác với những môn đệ của các rabbi khác, họ chẳng bao giờ múc cạn hết nơi Thầy sự khôn ngoan. Chẳng bao giờ họ phải chia tay Thầy vì chẳng còn gì để học. Ngay khi bắt đầu sứ vụ, Đức Giêsu đã cần người cộng tác, để cùng với Ngài xây dựng Nước Thiên Chúa đang đến. Ngài không coi đó là việc riêng của mình, và làm một mình. Hôm nay, Thầy Giêsu vẫn cần chúng ta cộng tác, vì thế giới hôm nay bao la hơn nhiều, phức tạp hơn nhiều. Thầy vẫn thấy, vẫn gọi, vẫn chờ chúng ta từ bỏ điều thân thương để theo Thầy trên những nẻo đường xưa Thầy chưa kịp đi.
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới mê đắm bạc tiền, xin được sống nhẹ nhàng thanh thoát. Giữa một thế giới lọc lừa dối trá, xin được sống chân thật đơn sơ. Giữa một thế giới trụy lạc đam mê, xin được sống hồn nhiên thanh khiết. Giữa một thế giới thù hận dửng dưng, xin được chia sẻ yêu thương và hy vọng.
Lạy Chúa Giêsu mến thương, xin dạy chúng con biết cách làm chứng cho Chúa giữa cuộc đời. Xin giúp chúng con tìm ra những cách thức mới để người ta tin và yêu Chúa hơn. Ước gì hơn hai tỉ Kitô hữu giữ được vị mặn của muối và sức biến đổi của men, để chúng con làm cho thế giới này mặn mà tình người, và làm cho trần gian trở thành tấm bánh thơm ngon. Chỉ mong Thiên Chúa Cha được tôn vinh qua những việc tốt đẹp chúng con làm cho những người bé nhỏ.
Các bài đọc Chúa nhật III Thường Niên dựa trên các bản văn của Chúa nhật tuần trước về những TN 3-B131
Các bài đọc Chúa nhật III Thường Niên dựa trên các bản văn của Chúa nhật tuần trước về những lời kêu gọi. Bài đọc thứ nhất và bài Tin mừng cho thấy sức mạnh của việc chấp nhận lời kêu gọi, vì nó có thể dẫn đến việc biến đổi của người khác.
Bài đọc thứ nhất trích sách Giôna mô tả vị ngôn sứ truyền rao một sứ điệp lên án chống lại dân thành Ninivê ở Assiri. Khi nghe lời cảnh báo, dân thành đã thay đổi lối sống, hối hận tội lỗi và ăn chay. Thiên Chúa bị đánh động trước những hành động sám hối của họ nên Ngài đã không hủy diệt dân thành Ninivê. Bài trình thuật cho thấy sức mạnh của sự thay đổi và cũng như tầm quan trọng của việc đón nhận lời kêu gọi. Trước đó, vị ngôn sứ đã từ chối ơn gọi của mình. Khi được kêu gọi đi đến Ninivê, thay vì đến đó, Giôna đã lên tàu đi về hướng ngược lại. Chỉ sau một cuộc hành trình đầy biến động, ông mới miễn cưỡng nói tiên tri với dân thành Ninivê, và lời tiên báo ngắn gọn của ông đã có ảnh hưởng lớn.
Tuần trước, chúng ta đã đọc lời kêu gọi các môn đệ theo Tin mừng Gioan. Hôm nay chúng ta nghe tường thuật của Maccô và gặp thấy những khác biệt đáng chú ý trong các truyền thống. Tường thuật của Gioan có sự xuất hiện của Gioan Tẩy Giả, nhưng Maccô cho rằng Gioan Tẩy Giả đã bị bắt. Gioan cho rằng Anrê, Simon Phêrô và một môn đệ giấu tên được kêu gọi trước tiên. Cũng thế, theo Maccô, tiếp theo Anrê và Phêrô là anh em Giacôbê và Gioan. Không giống như tường thuật của Gioan, trong Maccô, các môn đệ đang làm việc, đánh cá hoặc vá lưới, và Chúa Giêsu mời gọi họ dấn thân cho một ơn gọi mới, đó là trở thành những kẻ chài lưới người. Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ để chính họ có thể kêu gọi những người khác.
Bài Tin mừng nhắc nhở chúng ta hãy suy nghĩ kỹ lưỡng về ơn gọi của mình. Như các môn đệ được kêu gọi trong khi “đang làm việc”, thì Tin mừng có thể khuyến khích chúng ta mở rộng ý tưởng về những gì chúng ta nên làm và cách thức chúng ta ảnh hưởng đến cộng đoàn của mình. Ơn gọi có thể xem là nghề nghiệp hoặc có thể hiểu rộng là mục đích của một người. Mặc dù, nghề nghiệp và ơn gọi có thể có nhiều chồng chéo đối với một số người hơn là đối với những người khác, tất cả chúng ta đều được kêu gọi tìm cách sống một cuộc đời đầy ý nghĩa cho bản thân và cho người khác. Trong ánh sáng của hai bài đọc Chúa nhật vừa qua, đây là cơ hội tuyệt vời để suy ngẫm và biện phân những cách thức nhằm thực hiện mục đích của một người.
Trong khi chủ đề không liên kết chặt chẽ với hai bài đọc còn lại, bài đọc hai này có kiểu nói phải xem xét thận trọng trong bối cảnh của nó. Thánh Phaolô viết cho cộng đoàn Côrintô về thời gian hỗn loạn, khi ngài xem việc trở lại của Chúa Kitô, ngày tận thế và sự phán xét cuối cùng sắp xảy đến ngay. Vì thế, ngài khuyến khích cộng đoàn đừng lo lắng về những việc như cưới hỏi, tang chế, thú vui hoặc của cải vì mọi thứ sẽ sớm qua đi. Kiểu nói của thánh Phaolô “những ai có vợ, hãy ở như không có” không nên được hiểu như là những lời mời gọi coi thường, gièm pha hoặc không chung thủy với người vợ hoặc bạn đời nói chung. Thay vào đó, thánh Phaolô chỉ đơn thuần muốn mọi người tập trung vào những vấn đề cấp thiết nhất của ngày tận thế.
Nhận được sứ điệp rao giảng sám hối cho dân thành Ni-ni-vê ngoại đạo, ngôn sứ Giô-na quyết định TN 3-B132
Nhận được sứ điệp rao giảng sám hối cho dân thành Ni-ni-vê ngoại đạo, ngôn sứ Giô-na quyết định bỏ trốn vì ông cho rằng chỉ có dân Chúa mới cần nghe sứ điệp sám hối.
Ninivê là thủ đô của nước Át-sua, thù địch của Do thái vào thế kỉ thứ tám trước kỉ nguyên. Ninivê nằm bên tả ngạn sông Tigris, bên kia là thành phố Monsul hiện đại của nước I-rắc. Do đó mà Giôna không muốn cho dân thành Ninivê sám hối kẻo Chúa lại động lòng thương xót mà tha thứ cho họ chăng? Lần thứ hai ngôn sứ Giôna nhận lệnh Chúa để rao giảng cho dân thành Ninivê. Và lần này ông đã vâng lệnh Thiên Chúa. Việc Chúa sai Giôna đi rao giảng sứ điệp sám hối cho dân thành Ninivê cho thấy rằng Chúa là Thiên Chúa của mọi dân tộc, chứ không riêng gì cho người Do thái như ông Giôna lầm tưởng lúc đầu khi trí óc còn hẹp hòi và thiển cận.
Vừa thoạt nghe ngôn sứ Giôna báo trước tai hoạ sẽ xẩy đến cho thành Ninivê: Còn bốn mươi ngày nữa, Ninivê sẽ bị phá đổ (Gn 3:4), dân thành Ninivê lập tức ăn chay, mặc áo nhặm. Ðối với họ, việc ăn chay, mặc áo vải thô chưa đủ, họ còn từ bỏ đường tội lỗi. Và điều đó mới đáng kể. Câu chuyện Giôna rao giảng sứ điệp sám hối cho dân ngoại phải làm thức tỉnh thái độ tự mãn của dân được Chúa chọn. Nếu Thiên Chúa cho dân thành ngoại giáo Ninivê cơ hội ăn năn sám hối tội lỗi và họ sẵn sàng lắng nghe, và nếu dân thành Ninivê sẵn sàng trở về cùng Chúa thì tại sao dân được chọn trong Cựu ước cũng như Tân ước lại không làm như vậy mà trở về với Chúa?
Hôm nay trong sứ điệp Phúc âm, chính con Thiên Chúa là Ðức Giêsu kêu gọi loài người sám hối: Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến. Anh em hãy sám hối và tin vào Phúc Âm (Mc1:15. Khi nghe sứ điệp sám hối, các ông thuyền chài Simon Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan đều từ bỏ nghề cũ, cắt đứt những liên hệ quá khứ để đi theo Chúa.
Ngày nay, nhiều người tín hữu cũng bỏ ngoài tai lời kêu gọi sám hối là vì người ta không nghĩ đến chết. Nói đến chết người ta cho rằng sự chết chỉ xẩy đến cho người khác, chứ không xẩy ra cho mình, hay chưa xẩy ra cho mình. Lý do thứ hai khiến nhiều người bỏ qua việc sám hối vì họ cho rằng họ không trộm cướp, không ngoại tình, không giết người, không bỏ lễ Chúa nhật...
Ðể có được tâm tình sám hối, điều thiết yếu là phải nhìn vào đời sống nội tâm để tìm căn nguyên cội rễ của tội như ghen tuông, hận thù, giận ghét, nói hành, nói xấu, bỏ vạ, cáo gian, xuyên tạc, bịa đặt, vu khống, tức bực, kiêu hãnh, gian tham... Ðó là những rác rưởi của tâm hồn. Nếu khi dọn nhà, ta cần cho đổ rác vì không muốn ngửi mùi hôi, thì khi dọn nhà tâm hồn, ta cũng cần đổ rác rưởi trong tâm hồn. Ðể có được tâm tình sám hối, người ta phải xin cho được ơn biết kính sợ Chúa, không phải sợ Chúa mà không dám đến với Người, nhưng là kính sợ Chúa kẻo làm mất lòng Chúa. Kính sợ Chúa là ơn cần thiết cho phần rỗi linh hồn và là ơn quan trọng trong bảy ơn Chúa Thánh thần nếu xét về sự cần thiết cho việc cứu rỗi. Không biết kính sợ Chúa thì khó mà có được tâm tình sám hối.
Công Ðồng Vaticanô II trong Hiến chế về Phụng vụ thánh có khẳng định: Giáo hội loan truyền sứ điệp cứu rỗi cho những kẻ không tin để mọi người nhận biết một Thiên Chúa duy nhất và chân thật cùng Ðấng Ngài sai là Ðức Giêsu Kitô, và thống hối, từ bỏ con đường của họ (PV # 9). Thế rồi Công Ðồng cũng xác định trong cùng một văn kiện là: Còn đối với các tín hữu, Giáo hội phải luôn rao giảng đức tin và sự thống hối (PV # 9).
Sứ điệp thống hối hay sám hối thích hợp cho mọi thời đại, mọi hoàn cảnh và mọi lớp người. Sám hối là từ bỏ đường tội lối cũ, trở về với Chúa. Sám hối không có nghĩa là việc đổi mới bên ngoài, nhưng là việc hoán cải nội tâm, có ảnh hưởng sâu rộng trong tâm hồn. Sám hối khác với mặc cảm tội lỗi và không phải là mặc cảm tội lỗi. Khi xưng thú tội lỗi với lòng chân thành từ bỏ, mà được tha thứ là tội được tha, không cần phải hồ nghi, bối rối, lo lắng xem tội có được tha hay không? Tuy nhiên người tín hữu đạo hạnh nên khơi dậy và duy trì tâm tình sám hối, cần thiết cho việc sống gần gũi với Chúa.
Ðem ý tưởng sám hối đền tội vào việc làm, nhất là việc làm mà mình không thích hay việc chịu đựng những trái ý về lời nói, cử chỉ, hành động, hoàn cảnh .. sẽ giúp cho việc làm hay việc chịu đựng trở nên nhẹ nhàng. Chẳng hạn như cầu nguyện: Lạy Chúa, con xin chịu đựng những lời nói trái ý, những việc làm trái ý, những hoàn cảnh trái ý vì lòng yêu mến Chúa, để đền bù tội lỗi con và tội lỗi nhân loại. Lời cầu nguyện như vậy sẽ giúp ta hạ cơn nóng xuống dễ dàng.
Việc mà thánh nữ Têrêsa hài đồng đã sống, được ghi lại trong chuyện Một Tâm Hồn như sau. Chuyện kể rằng khi ngồi giặt quần áo, có một chị bạn vì ghen tuông gì đó, đã làm bắn bọt sà bông vào quần áo chị Têrêsa, thánh nữ Têrêsa không phản đối, nhưng chịu đựng việc làm trái ý vì yêu mến Chúa, coi bọt sà bông như những cánh hoa hồng dâng lên Chúa, để cầu nguyện cho kẻ tội lỗi được ơn trở lại. Thánh Têrêsa đã biết kết hiệp với Chúa trong công việc làm hằng ngày. Sống trong nhà kín, ít được học đến nơi chốn, khi qua đời mới hai mươi bốn tuổi xuân, chưa thể viết sách để hệ thống hoá một nền thần học kết hiệp, thánh nữ Têrêsa chỉ biết sống và thực hành tinh thần kết hiệp. Việc làm của thánh nữ còn là việc hoạt động truyền giáo, mặc dầu chỉ sống trong nhà kín.
Tâm tình sám hối rất là quan trọng trong đời sống thiêng liêng của người tín hữu. Được tha thứ tội lỗi trong toà cáo giải rồi, người ta không cần mang mặc cảm tội lỗi hoặc hồ nghi xem tội mình có được tha không? Tuy nhiên hối nhân nên khơi dậy tâm tình sám hối. Có được tâm tình sám hối, người ta sẽ nảy sinh ra hai tâm tình khác. Ðó là tâm tình khiêm tốn, coi mình là yếu hèn và tội lỗi. Và chỉ khi nào người ta coi mình là yếu hèn và tội lỗi, người ta mới cảm thấy cần Chúa và đi tìm Chúa. Có được tâm tình sám hối, người ta sẽ nảy sinh ra tâm tình thứ hai là tâm tình biết ơn: biết ơn Chúa đã đoái thương, tha thứ tội lỗi cho mình, và biết ơn Chúa đã đoái thương đến thân phận yếu hèn và tội lỗi của mình. Và có được tâm tình sám hối và những tâm tình đi theo là khiêm tốn và biết ơn rồi, người ta sẽ cảm thấy gần gũi với Chúa trong đời sống hằng ngày và dễ dàng khám phá ra sự hiện diện của Chúa trong đời sống và cảm nghiệm được niềm vui sống đức tin.
Lời cầu nguyện: xin cho được ơn sám hối:
Lạy Chúa, Chúa muốn cho người tội lỗi ăn năn trở lại để được sống. Xin cho tội nhân nhận thức được rằng: tội lỗi họ đã xúc phạm đến Chúa. Cũng xin cho họ biết đáp lại sứ điệp sám hối để họ được nhận lãnh ơn tha thứ. Và xin cho con cũng luôn ý thức được rằng con cũng cần sám hối và lòng thứ tha của Chúa. Amen.
Xã hội hiện nay đang chứng kiến những mâu thuẫn: một đàng, cuộc sống vật chất càng ngày càng TN 3-B133
Xã hội hiện nay đang chứng kiến những mâu thuẫn: một đàng, cuộc sống vật chất càng ngày càng được cải thiện và phát triển; đàng khác, cuộc sống con người lại hết sức mong manh. Người ta sống hôm nay mà không biết ngày mai sẽ ra sao. Cuộc sống bị đe dọa bởi chiến tranh, bạo lực, bởi thức ăn nhiễm độc, bởi tai nạn giao thông và biết bao nỗi sợ khác vây bủa xung quanh. Dường như xã hội phát triển không thể bảo đảm cho một đời sống an bình. Chính trong bối cảnh này mà Chúa Giê-su nói với chúng ta: “Thời kỳ đã mãn… anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.
Cách nói “thời kỳ đã mãn” thường làm chúng ta liên tưởng đến ngày tận thế, tức là ngày thế gian này sẽ bị thiêu rụi và phá hủy hoàn toàn. Tuy vậy, xem ra ngày tận thế là một ảo ảnh, vì hai ngàn năm nay, Chúa Giê-su và Giáo Hội của Người vẫn tiếp tục rao giảng về ngày tận thế, mà ngày ấy đâu có đến! Phải chăng đây chỉ là một lời hù dọa để làm người ta khiếp sợ? Nhiều người vô tín đã khẳng định: khái niệm tận thế chỉ là một chuyện hoang đường!
Tuy vậy, nếu tận thế theo nghĩa ngũ hành sẽ bị thiêu rụi chưa xảy đến, thì ngày tận thế đối với mỗi cá nhân chúng ta lại đang đến dần dần. Quả thật, khi một người nhắm mắt xuôi tay, thì đó chính là giờ tận thế đối với người ấy. Điều đó có nghĩa người ấy sẽ không tiếp tục sống trên trần gian. Mọi dự tính tương lai sẽ chấm dứt. Dưới lăng kính đức tin Ki-tô giáo, đó cũng là thời điểm người vừa qua đời phải trình diện trước nhan Chúa để chịu phán xét. Giáo lý truyền thống gọi cuộc gặp gỡ với Chúa này là cuộc “phán xét riêng”. Đây là lúc con người phải trả lời Chúa về những gì mình đã làm, đã sống và cách thức đối xử với tha nhân khi sống trên trần gian.
Như thế, sám hối không bao giờ là muộn, và cũng không bao giờ là thừa. Sám hối không chỉ giúp chúng ta sẵn sàng gặp Chúa trong niềm vui, khi chúng ta kết thúc cuộc đời dương thế, mà còn giúp chúng ta nhìn lại bản thân, cố gắng sửa chữa những sai lầm, sẵn sàng phục thiện và làm những việc tốt đối với những người xung quanh mình. Người năng sám hối sẽ dễ dàng tha thứ cho người khác, bởi thấy bản thân mình cũng vẫn còn mang nhiều yếu đuối.
Nếu chúng ta chân thành sám hối, là vì chúng ta tin tưởng vào lòng từ bi của Thiên Chúa và ơn tha thứ của Ngài. Bài đọc I trích sách ngôn sứ Giô-na là một chứng từ hùng hồn về lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngài là Đấng “chỉ giận trong giây lát, nhưng yêu thương suốt cả đời” (Tv 29,6). Thời ấy, dân thành Ni-ni-vê ngập tràn trong tội lỗi. Thiên Chúa muốn trừng phạt họ. Ngài sai ngôn sứ Giô-na đến để rao giảng lòng sám hối. Dân thành đã nghe lời kêu gọi này. Họ đã sám hối và Thiên Chúa đã không giáng phạt dân chúng như Ngài dự tính. Tác giả đã sử dụng lối văn “như nhân”, tức là diễn tả Thiên Chúa mang tâm lý giống như con người. Tâm tình sám hối và thiện chí đổi đời là lý do khiến Ngài nguôi giận và hủy bỏ ý định trừng phạt. Ngày hôm nay, Thiên Chúa vẫn mong chờ các tội nhân sám hối trở về với Ngài. Ngài là Cha yêu thương, không nỡ bỏ bất kỳ một ai trong số gia đình nhân loại. Những ai cố tình sống trong tội lỗi, là khước từ lòng thương xót của Chúa.
Trước lời mời gọi sám hối của Chúa Giê-su, hai cặp anh em là Si-mon và An-rê, Gia-cô-bê và Gio-an là những người chài lưới bên bờ hồ Ga-li-lê, đã mau mắn theo Chúa để cộng tác với Người. Ngày hôm nay, qua Giáo Hội, Chúa Giê-su đang mời gọi chúng ta theo Chúa, một đàng để nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa để hoàn thiện bản thân; đàng khác, để cộng tác loan báo thông điệp về lòng bao dung nhân hậu của Ngài.
Lời nhắc nhở “thời kỳ đã mãn” giúp chúng ta ý thức thân phận mỏng giòn của kiếp người, đồng thời sống khiêm nhường, phó thác cậy trông. Ý thức về cuộc đời chóng qua cũng giúp chúng ta sống nhân ái hơn với anh chị em đồng loại. Thánh Phao-lô, trong thư gửi giáo dân Cô-rin-tô đã giáo huấn về tinh thần buông bỏ mà người tín hữu phải có. Vì cuộc sống quá ngắn ngủi, nên đừng có ai làm nô lệ vật chất hoặc những đam mê. Khi biết sử dụng vật chất như phương tiện, chúng ta sẽ dễ dàng nên hoàn thiện. Thánh nhân đã viết: “Kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng. Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi”.
“Hãy theo tôi!”. Đó là lời Chúa Giê-su mời gọi chúng ta. Xin Chúa cho chúng ta can đảm đáp lại mời gọi ấy. Amen.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay gợi lên cho chúng ta sáng kiến nhưng không của Thiên Chúa khi TN 3-B134
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay gợi lên cho chúng ta sáng kiến nhưng không của Thiên Chúa khi chọn, gọi một người và sai đi thi hành ý Chúa. Chính Thiên Chúa đã có sáng kiến và chọn, gọi Giona đi làm sứ ngôn cho Ngài ở thành Ninive để kêu gọi dân thành Ninive ăn năn sám hối. Đến lượt Chúa Giêsu, chính Người cất tiếng gọi mời anh em Simon và Anrê, với anh em Giacôbê và Gioan đi loan báo cho muôn dân Tin mừng trọng đại về Nước Trời. Trong thư gửi tín hữu Côrintô, thánh Phaolô chỉ cho chúng ta biết, Thiên Chúa luôn mời gọi chúng ta.
Chúa chọn, gọi Giona và sai đi
Giona là người Dothái được Chúa kêu gọi đi giảng đạo cho Ninivê, ông không chịu, vì ông ghét thành này. Ninivê không là thủ đô của đế quốc đã xâm chiếm và tàn phá quê hương ông. Giảng đạo cho bọn ấy để họ cũng được ơn của Chúa ư? Không đời nào. Ðàng khác sức mấy mà bọn nghe mà trở lại! Hơn nữa người được sai đi đây lại là Giona, quê mùa của một quốc gia nhỏ.
Giôna không tin ở sứ mệnh Chúa giao phó cho mình. Và ông cũng chẳng muốn thi hành sứ mệnh ấy, kẻo kẻ thù của ông cũng được phúc. Thế nên thay vì đi sang tây, hướng về Ninivê, Giona đã lấy tàu đi Tarsis ở phía đông. Ông chọc tức Chúa, nên Chúa đã nổi lôi đình. Sóng gió nổi dậy. Mọi người trong tàu bắt Giona ném xuống biển. Một con cá lớn lao tới nuốt trửng Giona. Ở trong bụng cá ba ngày, Giona biết tội nên thống hối ăn năn. Ông hứa sẽ vâng lời Chúa. Con cá liền nhả ông ra bờ. Và ông đã đến Ninivê.
Chúa Giêsu chọn, gọi các Tông đồ
Tin Mừng thánh Marcô đã bắt đầu bằng chữ: "Sau khi Gioan bị bắt" (Mc 1,14). Ông là vị tiền hô của Chúa. Cuộc tử nạn của ông báo trước việc Chúa chịu chết. Vì thế, với những chữ trên gợi lên sự kiện "sau khi thụ nạn", Chúa Giêsu đã lui về Galilêa. Người bắt đầu gọi lại các tông đồ. Và như vậy câu truyện Marcô kể bây giờ được bọc trong mầu nhiệm Phục sinh.
Gioan Tẩy giả rao giảng, Chúa Giêsu cũng rao giảng. Sứ điệp của Chúa Giêsu là nội dung các Tông đồ phải đi rao truyền lại. Người giảng ở đất Galilêa (dân ngoại) để Hội Thánh bắt chước Người đi làm việc ở các dân tộc.
"Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm" (Mc 1, 15). Là sứ điệp rất quan trọng và mầu nhiệm. "Thời giờ" ở đây không phải là thời gian năm tháng tính theo các loại đồng hồ, nhưng là lịch sử, là kỷ nguyên. Với việc Ðức Kitô chịu chết và sống lại, lịch sử đã đi vào giai đoạn sung mãn. Thánh Kinh gọi là thời buổi cuối cùng. Từ nay đến tận thế không có gì mới nữa. Chỉ còn việc ơn cứu độ của Ðức Kitô lan rộng ra khắp không gian và thời gian.
Vì thế, "Nước Thiên Chúa đã gần đến" (Mc 1,15). Mọi người phải sám hối "và tin vào Tin Mừng". Tin Mừng ở đây là chính Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa là công bố kế hoạch cứu thế của Chúa trong Ðức Giêsu Kitô.
Vậy đã có Ðức Giêsu Kitô là sứ giả của Thiên Chúa để rao giảng Tin Mừng; Người đã đến đất Galilêa dân ngoại để làm chứng Tin Mừng phải được mang đến cho các dân tộc. Hơn nữa Người đã rao giảng Tin Mừng khi thực hiện việc chịu chết và sống lại để cứu thế; thì không những từ nay người ta phải hối cải và tin vào Tin Mừng, và hơn nữa phải đi rao giảng Tin Mừng ấy.
Vì thế, Chúa Giêsu đã gọi anh em Simon và Anrê, cũng như Giacôbê và Gioan. Họ đang làm nghề bắt cá. Người bảo họ hãy theo Người đi bắt các linh hồn. Lập tức họ bỏ lưới chài và tất cả để đi theo Chúa. Người tiếp tục chọn gọi chúng ta.
Đến lượt chúng ta
Không ai có thể thấy mình ở ngoài sứ điệp trên đây. Tất cả chúng ta đều phải hối cải và tin vào Phúc Âm.
Khi thánh Phaolô nói : "Thời giờ vắn vỏi" nghĩa là lịch sử đã đến hồi kết. Thiên Chúa đã hoàn tất kế hoạch cứu độ cứu thế của Người, không còn gì để chờ đợi nữa. Từ nay, người ta phải tin vào Đức Giêsu Con Một Thiên Chúa giáng sinh làm người, chịu chết và sống lại; Người vẫn ở cùng chúng ta mọi nơi mọi lúc. Người đang rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa cho chúng ta, là chính Con Người. Chúng ta phải bỏ con đường xưa nay vẫn đi, quay mặt lại với Người là hối cải và tin vào Người.
Phải thay đổi đời sống : “Ai có vợ, hãy ở như không có; những ai than khóc, hãy ăn ở như không than khóc; những kẻ hân hoan, hãy ăn ở như không hân hoan; những người mua sắm, hãy ăn ở như không có gì...” (1 Cr 7,29-31) nghĩa là những kẻ ấy sẽ không cư xử như khi chưa biết Chúa Giêsu nữa. Họ sống nhưng không phải họ, mà là Ðức Kitô sống trong họ. Họ ở giữa thế gian nhưng không còn thuộc về thế gian, bởi vì "bộ mặt thế gian này đang qua đi". Thế gian không giữ được họ nữa. Họ đã được Ðức Giêsu Kitô giải phóng. Từ nay họ là con cái tự do của Thiên Chúa. Họ được lại quyền làm chủ vạn vật như Adong trước khi sa ngã. Họ có tự do của tinh thần để không bị sức mạnh cuả sự dữ khống chế.
Ðó là nếp sống mà thánh Phaolô khuyên chúng ta phải đi vào cho phù hợp với ơn gọi của những con người đã tin vào Phúc Âm.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta noi gương Giona, cùng những người được Thiên Chúa chọn, gọi và sai đi truyền đạt thánh ý Chúa xuống cho muôn dân, để họ bước đi và sống theo đường lối Chúa dạy mà được sống. Amen. mục lục
Để hiểu được lời của Chúa Giêsu “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần” (Mc 1:15), trước tiên chúng TN 3-B135
Để hiểu được lời của Chúa Giêsu “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần” (Mc 1:15), trước tiên chúng ta cần hiểu Ngài muốn nói gì khi công bố “Thời kỳ đã mãn.” Hầu hết các nhà chú giải đều nghĩ rằng Chúa Giêsu muốn nói “thời điểm quyết định đã đến”. Nói cách khác, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh vào hiện tại: đây là thời điểm viên mãn. Điều này rất có ý nghĩa, vì nó cho thấy việc Chúa Giêsu đến chấm dứt toàn bộ thời kỳ mong đợi. Cụm từ “Triều Đại Thiên Chúa” không xuất hiện trong Cựu Ước. Tuy nhiên, Thiên Chúa thường được thể hiện như một vị vua. Sách đệ nhị luật viết: “Ở Giơsurun đã có một vua” (Đnl 33:5). Khi dân Israel yêu cầu Samuel chọn một vị vua, Thiên Chúa trả lời rằng “Chúng gạt bỏ Ta, không chịu để Ta làm vua của chúng” (1 Sam 8:7). Khi tuyên bố rằng Ngài sẽ thiết lập một dòng dõi trường tồn, Thiên Chúa hứa sẽ xác lập dòng dõi Đavít “Ta sẽ làm cho nó được kiên vững trong nhà Ta cũng như trong vương quốc của Ta đến muôn đời” (1 Sử biên niên 17:14) . Có lẽ các Thánh vịnh nói về vương quyền của Thiên Chúa nhiều nhất: “Chúa là Vua muôn thuở muôn đời, miền đất Chúa sạch bóng chư dân” (Tv 10:16) và “Chúa ngự trị trên cơn hồng thuỷ, Chúa là Vua ngự trị muôn đời” (Tv 29:10). Các Thánh vịnh đặt vương quyền của Đavít trên nền tảng của một thực tại cơ bản hơn nhiều, đó là vương quyền của Thiên Chúa. Các Thánh vịnh nói về bản chất vĩnh cửu của vương quốc Thiên Chúa và vương quyền tối cao của Ngài: “Triều đại Ngài: thiên niên vĩnh cửu, vương quyền Ngài vạn đại trường tồn” (Tv 145:13). Thực vậy, khi Chúa Giêsu đến, Ngài cho thấy cuộc cách mạng của Thiên Chúa đang diễn ra. Chính nơi Chúa Giêsu mà chúng ta thấy Thiên Chúa đến làm vua.
Việc Chúa Giêsu bắt đầu sứ mệnh loan báo Triều Đại Thiên Chúa diễn ra vào một thời điểm và trong một bối cảnh cụ thể. Gioan Tẩy giả đã làm xong công việc giới thiệu Chúa Giêsu và con đường đã được chuẩn bị cho Đấng Mêsia. Sứ vụ của Gioan Tẩy giả đã hoàn thành vì Chúa Giêsu đã đến rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Giờ đây trung tâm của Tin Mừng là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu bắt đầu lời rao giảng của mình ngay từ chỗ Gioan đã dừng lại. Gioan “rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” (Mc 1:4). Còn Chúa Giêsu nói: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1:15). Tuy nhiên, Gioan Tẩy giả biết lời kêu gọi sám hối của ông chỉ là một sự chuẩn bị theo cách con người: “Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước” (Mc 1:8). Còn Chúa Giêsu cũng kêu gọi “Anh em hãy sám hối”, nhưng Ngài không dừng ở đó, mà Ngài chỉ cho thấy cái đích phải đạt đến là “tin vào Tin Mừng” và lý do của niềm tin ấy là “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.” Tin Mừng là gì? Triều Đại Thiên Chúa ở đâu? Thưa Tin Mừng chính là Chúa Giêsu và chính Ngài là Đấng khai mở Triều Đại Thiên Chúa. Chính Gioan Tẩy giả, khi kêu gọi sám hối và làm phép rửa, cũng đã nhấn mạnh: “Còn Ngài, Ngài sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1:8).
Lời kêu gọi sám hối của Ngài yêu cầu một sự thay đổi trong cuộc sống, nhắc nhở những người nghe quay về với Thiên Chúa, và nhận ra rằng Ngài luôn ở đó, luôn tha thứ, luôn yêu thương, như bài đọc thứ nhất viết: “Thiên Chúa thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường gian ác mà trở lại, Ngài hối tiếc về tai hoạ Ngài đã tuyên bố sẽ giáng trên họ, Ngài đã không giáng xuống nữa… Thật vậy, con biết rằng Ngài là Thiên Chúa từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, và hối tiếc vì đã giáng hoạ” (Giôna 3:10, 4:2). Lời kêu gọi sám hối tương tự cũng dành cho chúng ta bây giờ. Chúng ta có muốn sám hối bằng cách để cho Lời và Triều Đại Thiên Chúa ngự trị trong tâm hồn chúng ta không?
Dứt khoát bước theo Chúa Giêsu
Sau khi chịu phép rửa từ Gioan Tẩy giả, Chúa Giêsu ra đi rao giảng Tin Mừng và kêu gọi mọi người bước theo Ngài. Ngài kêu gọi những người thường dân đang làm công việc kiếm sống chính đáng của họ. Thế mà họ đã sẵn sàng theo Ngài: “Ông Simon với người anh là ông Anrê, đang quăng lưới xuống biển, vì họ làm nghề đánh cá. Ngài bảo họ: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Ngài” (Mc 1:16-18). Ý nghĩa của việc quyết định này sẽ trở nên sáng rõ hơn vào thời điểm thích hợp sau này, nhưng sự quảng đại ban đầu của Simon và Phêrô rất quan trọng. “Các anh hãy theo tôi” (Mc 1:17). Những cách thế đi theo Chúa Giêsu cũng đa dạng như chính sự khác nhau của con người vậy. Nhưng chúng luôn đòi hỏi phải thoát khỏi những gì mình đã có trước đây: “Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Ngài” (Mc 1:18). Đi theo Chúa Giêsu có nghĩa là sắp xếp lại các ưu tiên của chúng ta và sẵn sàng bỏ lại phía sau những điều đã từng dẫn lối chúng ta. Từ bỏ một cuộc sống tội lỗi hoặc những hành vi có hại rõ ràng – nghĩa là đánh đổi một “điều xấu” rành rành để lấy một “điều tốt” rõ ràng, đó là việc hiển nhiên. Lựa chọn cung điện thay vì một túp lều rách nát là điều đương nhiên. Nhưng sự lựa chọn sẽ trở nên khó khăn hơn nhiều - và có lẽ đó là lựa chọn khó khăn nhất - khi phải chọn lựa giữa điều tốt này và điều tốt khác, khi chúng ta được kêu gọi bỏ lại điều có vẻ tốt lành chúng ta đang có để chấp nhận chọn lấy điều tốt lành được hứa cho chúng ta mai sau. Chưa kể đến tình huống không mong muốn này, được gợi ý tinh tế: thời điểm Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai của mình là “Sau khi ông Gioan bị nộp” (Mc 1:14). Nghĩa là việc bị bắt và bị nộp có thể xảy ra với những ai theo Chúa Giêsu, như đã xảy ra cho Gioan Tẩy giả. Những ai muốn theo Chúa Giêsu cần có lòng can đảm để sẵn sàng chịu đựng những gian nguy. Chính Chúa Giêsu sau này tiên báo: “Phần anh em, anh em hãy coi chừng! Người ta sẽ nộp anh em cho các hội đồng và các hội đường; anh em sẽ bị đánh đòn; anh em sẽ phải ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy, để làm chứng cho họ được biết” (Mc 13:9). Sống theo cách này có thể mang lại đau khổ, nhất là khi trách nhiệm của chúng ta đối với Chúa xung đột với trần thế. Nhưng đây cũng là một phần của việc kính sợ và đi theo Chúa như Thánh Phêrô nói: “Thật vậy, Chúa Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Ngài” (1Pr 2:21). Lý do cho việc dõi bước theo Chúa Kitô là: “Bộ mặt thế gian này đang biến đi” (1 Cr 7:31), tương hợp với lời công bố của Ngài: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần” (Mc 1:15). Chính vì thế Thánh Phaolô chỉ ra cách sống cho những ai muốn bước theo Chúa Ktô trong bài đọc thứ hai hôm nay: “Thưa anh em, tôi xin nói với anh em điều này: thời gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ nay những người có vợ hãy sống như không có; ai khóc lóc, hãy làm như không khóc; ai vui mừng, như chẳng mừng vui; ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả; kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng” (1Cr 7:29-31).
Chúng ta có muốn trở thành những môn đệ đích thực của Chúa Giêsu như hai ông Giacôbê và Gioan “bỏ cha mình là ông Dêbêđê ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi theo Ngài” (Mc 1:20) không? Tôi có lòng quảng đại như vậy trong việc lắng nghe và đáp lại lời mời gọi của Chúa dành cho tôi bây giờ không? Làm thế nào tôi có thể đáp lại lời kêu gọi của Chúa ngay ngày hôm nay?
Bước theo Chúa Giêsu là thay đổi tận căn
Trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, Thánh Máccô cho thấy Chúa Giêsu kêu gọi: “Anh em hãy sám hối” (Mc 1:15), nghĩa là Chúa Giêsu yêu cầu những ai bước theo Ngài cần phải có một sự thay đổi căn bản về đời sống, một μετάνοια - metanoia, hoán cải. Hoán cải nghĩa là ăn năn, hối hận vì tội lỗi của mình, vì những thiếu sót của mình. Nhưng sự sám hối thực sự, theo nghĩa Kitô giáo, không thể chỉ dừng lại ở cảm giác đau buồn. Sự sám hối thực sự vượt xa nỗi buồn vì nó mang lại sự thay đổi bên trong chúng ta, thay đổi cách nghĩ của chúng ta. Nhưng không chỉ vậy; sự sám hối còn có một ý nghĩa sâu sắc hơn nhiều. Sẽ thật vô nghĩa nếu Chúa Giêsu nói: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Hãy thay đổi cách nghĩ của bạn.” Trên thực tế, đối lập với metanoia là sự ảo tưởng - suy nghĩ và đánh giá không đúng về giá trị và ý nghĩa của đời mình, của những người khác, và của thế giới. Như thế metanoia là thay đổi hẳn nhân sinh quan và thế giới quan của mình, tức là bỏ đi chính cái tôi của mình với bao định kiến cố chấp, ý thức hệ sắc tộc, phe đảng, chính trị, tôn giáo, giới tính... một sự buông bỏ tận căn và triệt để toàn bộ cách nghĩ. Vì vậy, nếu chúng ta chỉ tập trung vào sự ăn năn như một thứ cảm giác hối hận về những sai trái trong quá khứ mà thôi, thì chúng ta không thực hiện được lời kêu gọi mà Chúa Giêsu đang nói đến: “Tin vào Tin Mừng” (Mc 1: 15). Bước theo Chúa Kitô giờ đây cơ bản không phải là một cuộc hành trình thể lý trong không gian và thời gian nhưng là một tiến trình sám hối, hoán cải để “mặc lấy Chúa Giêsu Kitô” (Rm 13:14) trở nên “đồng thừa kế với Chúa Kitô” (Rm 8:17) “người nhà của Thiên Chúa” (Ep 2:19) “trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1:12) và “nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài” (Rm 8:29).
Chúng ta làm điều đó thế nào? Chúng ta cần nhớ rằng những thay đổi thực sự trong chúng ta không bắt đầu và kết thúc bởi chúng ta. Chúng bắt đầu và kết thúc nhờ ân sủng của Thiên Chúa. Sự hoán cải thực sự không thể diễn ra nếu không có ân sủng của Thiên Chúa. Việc sám hối sẽ dẫn đến sự ăn năn, sự ăn năn sẽ dẫn đến sự thay đổi, và điều đó bắt đầu từ Thiên Chúa. Tuy nhiên, để thực hiện được điều này, chúng ta phải làm phần việc của mình, phải cộng tác với ân sủng của Thánh Thần Thiên Chúa. n sủng không phải là phép thuật, không phải là cây đũa thần theo kiểu Thiên Chúa ban ân sủng cho chúng ta và đột nhiên chúng ta được biến đổi. Sự biến đổi như thế không coi trọng ý chí tự do của con người, bởi vì cuối cùng thì sự biến đổi này là sự lựa chọn của chúng ta vì chúng ta thực lòng mong muốn điều đó.
Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan bước theo Chúa Giêsu mà không biết mình sẽ đi đâu nhưng các ông vẫn tiến bước với lòng tin tưởng hoàn toàn vào Chúa Giêsu. Chúng ta có thể không được mời gọi tham gia vào cùng một cuộc hành trình như thế với Chúa Kitô, nhưng chúng ta được mời gọi tin tưởng vào Chúa Giêsu mỗi ngày mỗi nhiều hơn trong công việc hàng ngày của chúng ta. Bất cứ ai cũng có thể trở thành môn đệ của Chúa Giêsu – bất kể những năng khiếu, tài trí hay trình độ học vấn của họ. Điều quan trọng là sự sẵn sàng và bằng lòng đi đến nơi Chúa Giêsu dẫn dắt, để Ngài thay đổi các giá trị của chúng ta cho đến khi “chúng ta sẽ nên giống như Ngài, vì Ngài thế nào, chúng ta sẽ thấy Ngài như vậy” (1 Ga 3:2). mục lục
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay tiếp tục bổ sung cho chủ đề ơn gọi mà chúng ta đã tìm hiểu trong các TN 3-B136
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay tiếp tục bổ sung cho chủ đề ơn gọi mà chúng ta đã tìm hiểu trong các bài đọc của Chúa Nhật tuần trước. Thiên Chúa không thiên vị, tất cả đều được mời gọi tham dự vào việc xây dựng và thay đổi thế giới mỗi ngày mỗi tốt đẹp hơn. Việc tham dự này không phát sinh từ sáng kiến hay nằm trong chủ đích của con người; nhưng đó là sáng kiến của Thiên Chúa. Chúng ta chỉ có bổn phận đáp trả. Chúa gọi và chúng ta đáp trả. Việc gọi và đáp trả như thế được đặt trên nền tảng của những cuộc gặp gỡ giữa Chúa và ta. Mỗi lần gặp gỡ như thế đều làm ta đổi mới.
Chúng ta có thể nói, cuộc sống và hành trình của người môn đệ được kết nối bởi những cuộc gặp gỡ và đổi mới không ngừng. Muốn đổi mới chúng ta cần nhận ra chính mình mà từ bỏ. Từ bỏ là việc mà các môn đệ của Chúa cần ghi nhớ và thực hiện luôn luôn. Môn đệ của Chúa cần từ bỏ nếp sống cũ và mặc lấy con người mới trong Đức Kitô. Con người mới của Đức Ki-tô là một con người vâng phục và thi hành ý muốn của Cha.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su bắt đầu rao giảng về Nước Thiên Chúa, mời gọi những ai đang nghe Lời Người: Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Tin Mừng là Đức Giê-su, Người đang hiện diện giữa họ. Tiếp theo sau đó là việc Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ đầu tiên tham dự vào việc loan báo Tin Mừng. Điều này cho chúng ta nhận ra sự quan tâm của Chúa trong việc đào tạo các môn đệ. Đây không phải là một đặc ân dành riêng cho ai. Người muốn tất cả mọi người trở thành môn đệ. Bản chất của ơn gọi trở thành môn đệ của Chúa thì giống nhau, không phân biệt giáo sĩ, tu sĩ hay giáo dân. Tất cả đều được mời gọi tham dự vào công cuộc mở mang Nước Chúa.
Chính vì thế trước khi kêu gọi Si-mon, An-rê, Gia-cô-bê và Gio-an trở nên những môn đệ, Chúa đã công bố về sự hiện diện của Triều Đại Nước Thiên Chúa. sau đó Người yêu cầu chúng ta hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Vì thế, xin đề nghị với anh chị em dành đôi phút để tìm hiểu về lệnh truyền sám hối và tin vào Tin Mừng của Chúa trong Chúa nhật hôm nay. Lịnh truyền là sám hối. Sám hối như thế nào?
Thưa anh chị em,
Trong sự tích sa ngã của con người trong sách Sáng Thế. Chúng ta nhận thấy sự tội đã hiện diện trước khi con người bất tuân. Con người không tạo ra tội, nhưng tiếp tục sự hiện hữu của nó bằng việc ưng thuận và để cho quyền lực của sự tội thống trị. Tội có nguồn gốc riêng, luôn luôn đối nghịch với uy quyền của Thiên Chúa, và con người vừa là nạn nhân vừa là tác nhân cho sự hoành hành và phát triển đó.
Bằng kinh nghiệm sống, chúng ta cảm nghiệm được sự thống trị này: con người khó khăn trong việc thiện và dễ dàng chiều theo sự xấu. Chúng ta thường sống theo ý muốn của mình hơn là ý định của Thiên Chúa. Và như vậy tương quan giữa Thiên Chúa và ta cũng bị đứt đoạn. Từ sự đứt đoạn đó, như Adam, chúng ta đi trốn: trốn Thiên Chúa, trốn nhau và trốn chính mình.
Từ sự rạn nứt trong tương quan với Thiên Chúa, con người đi đến sự đổ vỡ khác. Câu nói ngọt ngào “phen này nàng là xương bởi xương tôi thịt bởi thịt tôi” của giây phút thân tình, đã biến thành kiểu nói gay gắt: tại cái người đàn bà mà Chúa đã đặt bên con nên con đã ra nông nỗi này. Con người không dám nhìn nhận việc mình đã làm, lại đổ thừa cho người khác và gián tiếp đổ thừa cho Chúa: giả như không có người đàn bà đó thì đời con đâu có đen đến thế này.
Từ sự rạn nứt nghĩa phu thê kéo đến tình anh em cũng chẳng còn: giết nhau chỉ vì ghen tương như trường hợp của Cain và Abel. Và lối cư xử đó như vết dầu loang, cứ thế lan rộng ra, bao trùm cả xã hội và toàn thế giới.
Trong hoàn cảnh đó, nhất là lúc mà con người nhận ra rằng mình không còn lối thoát thì chúng ta mới thấy được điều mới lạ trong lời công bố của Đức Giêsu hôm nay. Nước Thiên Chúa hiện diện nói lên uy quyền và sức mạnh của Thiên Chúa nơi bản thân Người, Đấng chiến thắng và thống trị quyền lực đó. Đấng ban cho con người niềm vui, sự hoan lạc và ơn cứu độ. Để được hưởng lợi ích này con người đòi buộc phải ăn năn, sám hối và tin vào Tin Mừng.
Nhìn vào cuộc đời của Đức Giêsu, chúng ta thấy đa số những ai thành tâm đi theo Chúa, trở thành bạn hữu của Người là những người tội lỗi, bị áp bức, bị chà đạp, bị tẩy chay bởi những ai có quyền lực. Họ không tạo một khó khăn hay rắc rối nào cho Chúa. Họ quá nghèo về tinh thần lẫn vật chất nên dễ dàng đón nhận lời mời và các thách đố của Đức Giê-su. Trái lại, những người tự nhận mình là công chính thì khác. Họ quá giầu công đức. Công nghiệp đã choán hết chổ trong lòng họ, khiến mắt họ không còn mở ra được và tai họ cũng bị che lấp. Họ đến với Chúa để gài bẫy. Họ thiếu thành tâm khi gặp Chúa. Họ âm mưu khi theo Chúa.
Sự khác biệt của hai nhóm này cũng dễ hiểu: như những nguời đau yếu cần đến thầy thuốc thế nào thì những người tội lỗi cần đến sự tha thứ của Chúa như thế. Còn người công chính, tự nhận mình là kẻ không có tội thì còn cần đến ai nữa.
Tuy nhiên, việc Thiên Chúa yêu thương người tội lỗi không có nghĩa là Người dung thứ tội lỗi. Tình yêu thương của Thiên Chúa không miễn trừ việc nhìn nhận lỗi lầm của con người, cũng không cho phép con người lạm dụng lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã đến để giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi. Người thấu hiểu và thông cảm cho sự yếu đuối của con người và sẵn sàng tha thứ, nhưng con người phải thành thật nhìn nhận tội lỗi của mình và trở lại với Người.
Như vậy, để đáp trả lời kêu gọi và trở nên môn đệ của Chúa, việc đầu tiên chúng ta phải làm là sám hối, phải từ bỏ cuộc sống cũ, xếp lại các tham vọng, ích kỷ và những ước mơ cũ ở lại sau lưng; rồi tin vào Tin Mừng, chấp nhận theo Đức Giêsu và sống theo các huấn lệnh của Người. Các điều đó sẽ làm cho chúng ta xứng đáng trở nên môn đệ, thành viên của Nước Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta không thể tách rời các yếu tố: sám hối, từ bỏ, tin, chấp nhận rồi theo Chúa thành các phần riêng biệt để thực hiện. Các yếu tố này xẩy ra trong lúc chúng ta đưa ra chọn lựa và quyết định. Không ai khác có thể làm thay cho chúng ta. Không có việc từ bỏ trước rồi mới thành môn đệ sau. Không có việc hôm nay quyết định dấn thân, rồi mai này khi gặp hoàn cảnh khó khăn sẽ làm tiêu hao nguồn năng lực, và việc dấn thân cho ơn gọi cũng bị suy giảm.
Nhưng, thực tế cho biết rằng các yếu tố như: thời gian chờ đợi, các thử thách trước mắt, sự yếu hèn của bản thân đều có thể là nguyên nhân khiến cho lời cam kết mang đầy nhiệt huyết của những ngày đầu tiên trong hành trình làm môn đệ của chúng ta bị bóp nghẽn và chết đi. Chỉ có nhờ quyền năng và sống trong sức mạnh của Chúa mới giúp chúng ta vực lại tính năng nổ, bầu nghiệt huyết trong việc sống trung tín với các lời cam kết để hoàn thành sứ mạng của người môn đệ.
Sau cùng, anh chị em nhớ rằng: công việc của chúng ta không chỉ là việc cầu nguyện cho Nước Cha mau đến, nhưng thật ra Nước Thiên Chúa đã hiện diện, đang tìm cách xâm nhập vào trái tim và biến đổi chúng ta thành những người môn đệ của Đức Giêsu. Vì vậy, hãy để cho Chúa biến đổi chúng ta liều lĩnh tin theo Chúa, Đấng hướng dẫn và chỉ đạo cuộc sống chúng ta sao cho phù hợp với các tiêu chuẩn của Nước Thiên Chúa đã được loan báo bởi Đức Giê-su, Amen!
Suy niệm bài đọc 1 của Chúa Nhật hôm nay, tôi tự hỏi, tại sao dân thành Ni-ni-vê lại được Thiên TN 3-B137
Suy niệm bài đọc 1 của Chúa Nhật hôm nay, tôi tự hỏi, tại sao dân thành Ni-ni-vê lại được Thiên Chúa tha thứ một cách dễ dàng như vậy? Thật vậy, tiên tri Giô-na chỉ mới đi được một phần ba đường, thì Thiên Chúa đã tha thứ cho cả thành rồi. Bạn có biết tại sao Đức Chúa lại đổi ý như vậy không? Sách tiên tri Giô-na tường thuật rằng, dân Ni-ni-vê được tha thứ mau lẹ như vậy là bởi vì họ đã mau mắn và thành tâm ĂN NĂN SÁM H ỐI qua hai công việc rất cụ thể này:
* ĂN CHAY & C ẦU NGUYỆN "Do sắc chỉ của đức vua và các quan đại thần, người và súc vật, bò bê và chiên dê không đư ợc nếm bất cứ cái gì, không được ăn cỏ, không được uống nước. Người và súc vật phải khoác áo vải thô và hết sức kêu cầu Thiên Chúa” (3:8).
* THAY Đ ỔI ĐỜI SỐNG. “Thiên Chúa thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường gian ác mà trở lại. Người hối tiếc về tai hoạ Người đã tuyên bố sẽ giáng trên họ, Người đã không giáng xuống nữa” (3:10).
Bạn thấy đấy, nhờ vào sự sám hối, qua việc ăn chay cầu nguyện, và thay đổi lối sống cũ, cho nên toàn bộ dân thành Ni-ni-vê đã được Thiên Chúa thứ tha và bỏ qua tất cả những tội lỗi của họ.
Bạn thân mến, lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta, hãy noi gương bắt chước dân thành Ni-ni-vê, hãy ăn năn sám hối. Sám hối có nghĩa là phải NHẬN RA những lỗi lầm, và quyết tâm THAY ĐỔI để trở nên tốt hơn, thánh thiện hơn và sống đẹp lòng Chúa hơn.
- Ai có tật chửi thề, hay có thói quen xổ tiếng Đan Mạch, xin hãy nhận ra rằng, khi mình văng tục chửi thề, thì những người chung quanh họ sẽ coi thường mình và coi thường cả cha mẹ mình nữa. Tệ hơn nữa, minh lại làm gương mù gương xấu cho con, cho cháu, cho đám trẻ con! Mà “ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây ph ải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn” (Mc 9:42). Tội nặng lắm chứ không nhẹ đâu! Xin hãy thay đổi thói quen này, đừng chửi tục hay lên đèo xuống đèo nữa. Hãy kềm chế miệng lưỡi, hãy nói những lời tốt đẹp thì hay hơn là văng tục.
- Ai đang có tật say sưa rượu chè, xin hãy nhìn ra những hậu quả bi đát do bia rượu gây ra! Lái xe trong tình trạng say xỉn sẽ bị cảnh sát phạt tiền, phạt tù, bị tịch thu bằng lái, bảo hiểm sẽ tăng, tệ hơn nữa, còn gây ra thương tích, và gây ra tử vong nữa. Lúc đó chính mình, cha mẹ, vợ chồng, con cái và thân nhân của bạn sẽ phải đau khổ và bất hạnh vô cùng. Xin hãy thay đổi, đừng say sưa nữa!
- Ai đang nghiện ngập xem những phim ảnh dâm ô và đồi trụy trên internet, xin hãy nhận ra những tai hại khôn lường do những hình ảnh dâm ô gây ra cho mình và cho gia đình của mình. Xin hãy THAY ĐỔI, hãy chạy đến với Chúa qua Bí Tích Giải Tội, xin Chúa thứ tha, hãy ăn chay cầu nguyện liên lỉ, xin Ngài ban ơn giúp sức để bạn thoát khỏi lưới cám dỗ của con quỷ dâm ô giăng ra.
- Ai có tật hay phê bình, hay chỉ trích, hay nói hành nói xấu người khác, hay ăn không nói có, thêm điều đặt chuyện…thì hãy nhớ, gieo gió thì gặt bão, gieo cái gì thì sẽ gặt cái đó. Chính bạn sẽ phải gánh chịu những hậu quả xấu xa do cái miệng bạn gây ra, đó là chia rẽ, hận thù, ghen ghét... Xin hãy THAY ĐỔI, xin hãy có lòng thương xót, bởi vì nhân vô thập toàn, chẳng có ai hoàn thiện ngoại trừ một mình Thiên Chúa. Bạn đừng quên lời của Chúa phán: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án…” (Lc 6:36-37).
Chúng mình hãy cầu nguyện cho nhau, xin Chúa qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria, ban cho bạn và tôi ơn khôn ngoan và ơn can đảm, để mỗi người chúng ta nhận ra những hậu quả xấu xa do những tính hư nết xấu, những thói quen không lành mạnh gây ra, để chúng mình dám THAY ĐỔI. Tôi tin chắc rằng, với ơn Chúa trợ giúp, và với quyết tâm, bạn và tôi sẽ có khả năng để từ bỏ những thói hư tật xấu, và dứt khoát bỏ những thói quen gây tổn hại cho mình và cho gia đình. Qua những sự thay đổi đó, tôi tin rằng những người trong gia đình, nơi làm việc, cộng đoàn dòng tu và giáo xứ của chúng mình, và chính chúng mình sẽ cảm nghiệm được niềm vui, sẽ được sống trong bình an, yêu thương và hạnh phúc.
Xin Chúa ban bình an, gìn giữ và chúc lành cho bạn và cho những người thân yêu của bạn trong tuần lễ mới sắp tới.
Chúa Trời Không Hẹn Nên Cần Canh Thức. Tận Thế Bất Ngờ Phải Sống Đàng Hoàng. Mọi sự TN 3-B138
Chúa Trời Không Hẹn Nên Cần Canh Thức Tận Thế Bất Ngờ Phải Sống Đàng Hoàng.
Mọi sự trên thế gian này đều hữu hạn, chỉ một thời mà thôi. (Gv 3:1-8) Mọi sự Thiên Chúa làm thì “không có gì để thêm, chẳng có gì để bớt. Thiên Chúa đã hành động như thế để phàm nhân biết kính sợ Người. Điều gì đang có, xưa kia đã có, điều gì sẽ có, xưa đã có rồi.” (Gv 3:14-15)
Thời gian cuộc sống này sẽ kết thúc, đó là “ngày tận thế.” Điều đó được đề cập trong trình thuật Mc 1:14-20, nói về sự ngoan ngoãn của hai cặp môn đệ đầu tiên được Chúa Giêsu mời gọi đi theo Ngài, đồng thời nhắc nhở chúng ta đừng bướng bỉnh, mà hãy ngoan ngoãn.
Ông Gioan đã bị bắt, Chúa Giêsu đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa: “THỜI KỲ ĐÃ MÃN, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy SÁM HỐI và TIN VÀO TIN MỪNG.” (Mc 1:15) Chúa Giêsu đã xác định, chắc chắn thời đại chúng ta đang sống là “thời cuối cùng,” chẳng bao giờ có chuyện “đầu thai” hoặc kiếp luân hồi. Chỉ có hai kiếp: Kiếp này và kiếp sau. Kiếp này mau qua, kiếp sau vĩnh hằng, nhưng có hai dạng: Hạnh phúc đời đời hoặc khốn nạn đời đời.
Đi dọc biển hồ Galilê, Chúa Giêsu thấy hai anh em ngư dân là Simôn và Anrê đang thả lưới. Ngài bảo họ theo Ngài để lưới người như lưới cá. Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Ngài. Hai anh em ngư dân này không hề lưỡng lự hoặc tính toán chi cả. Đi là đi ngay, dù đang phải lo kế sinh nhai. Động thái đó chứng tỏ họ ngoan ngoãn chứ không bướng bỉnh như ông Giôna xưa.
Đi xa hơn một chút, Ngài thấy hai anh em ngư dân khác là Giacôbê và Gioan, hai người con của ông Dêbêđê, đang vá lưới ở trên thuyền. Ngài gọi họ, và họ bỏ cha mình ở lại trên thuyền với những người làm công, rồi đi theo Ngài. Hai anh em này cũng sẵn sàng đi ngay, rất dứt khoát.
Con người có hai loại: kẻ bướng bỉnh và người ngoan ngoãn. Hai động thái đó trái ngược nhau, nhưng lại “liên quan” lẫn nhau – bướng bỉnh trở thành ngoan ngoãn hoặc ngược lại. Trong “khoảng giữa” đó phải có sự dứt khoát, phải mạnh mẽ để khả dĩ vượt qua chính mình. Cần có sự dứt khoát mới có thể hành động. Dứt khoát là không đắn đo, cân nhắc hoặc lưỡng lự. Động thái này không dễ thể hiện, vì phải mau chóng phân định và quyết tâm. Người làm được như vậy là người có tâm lý mạnh mẽ và thể hiện tính cương trực, như nói theo kiểu Philatô: “Điều gì đã quyết là đã quyết.” Một là một, nói hai là hai, không “oong đơ” (un, deux) gì hết.
Có thể có chút gì đó trong sự dứt khoát bị người ta cho là tính bướng bỉnh, ngang tàng hoặc “gàn bát sách,” nhưng đó là sự bướng bỉnh cần thiết. Con ngựa chứng là con ngựa giỏi, vì không điều khiển được nó nên người ta cho là “chứng” và ghét nó. Cũng tương tự như vậy khi con người đối xử với nhau: Vì không bằng người ta, thua kém người ta cho nên “không thích” họ.
Thuở xưa, Thiên Chúa sai ông Giôna đi lần thứ nhất: “Hãy đứng dậy, đi đến Ninivê, thành phố lớn, và hô cho dân thành biết rằng sự gian ác của chúng đã lên thấu tới Ta.” (Gn 1:1) Ông vội đứng dậy nhưng không đi theo lệnh mà lại trốn đi Tácsít, tránh mặt Thiên Chúa. Thật bướng bỉnh và ngang ngược! Nhưng kể ra ông cũng “can đảm” vì dám cãi Thiên Lệnh. Ông đã thể hiện tính dứt khoát. Tàu chạy, bỗng dưng sóng gió ầm ầm, người ta gieo quẻ xem rơi trúng ai thì đó là kẻ gây tai họa, và quẻ rơi trúng Giôna. Ông tá hỏa tam tinh, cảm thấy mình sai nên hối hận và bảo người ta ném ông xuống biển. Con cá lớn nuốt ông trong bụng ba ngày rồi nhả ông lên bờ. Kỳ lạ!
Thiên Chúa sai ông Giôna đi lần thứ hai: “Hãy đứng dậy, đi đến Ninivê, thành phố lớn, và hô cho dân thành biết lời tuyên cáo Ta sẽ truyền cho ngươi.” (Gn 3:2) Lần này ông không dám bất tuân nên đứng dậy và đi Ninivê theo lệnh Chúa. Kinh Thánh cho biết Ninivê là một thành phố rộng lớn, đi ngang qua phải mất ba ngày đường. Ông Giôna bắt đầu vào thành, đi một ngày đường và công bố: “Còn bốn mươi ngày nữa, Ninivê sẽ bị phá đổ.” (Gn 3:4) Dân Ninivê tin vào Thiên Chúa, họ công bố lệnh ăn chay và mặc áo vải thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ, kể cả động vật. Dân Ninivê thật ngoan ngoãn, biết phục thiện và biết bảo nhau. Đó là đại phúc!
Thiên Chúa không muốn ai phải hư mất, luôn kiên nhẫn chờ đợi các tội nhân hoán cải, luôn thương xót. Ngài thấy việc họ làm, biết bỏ đường gian ác mà trở lại, Ngài hối tiếc về tai họa sẽ giáng trên họ, Ngài không giáng xuống nữa. (Gn 3:10) Đó là niềm hy vọng cho mỗi chúng ta, dẫu có tội lỗi tới mức nào thì cũng cứ tin tưởng, đừng tuyệt vọng! Thiên Chúa chỉ cần chúng ta chân thành sám hối, rồi mọi thứ sẽ ổn, Ngài sẵn sàng tha thứ hết.
Đó là điều chắc chắn, vì chính Chúa Giêsu đã xác định với Thánh Faustina: “Lòng Thương Xót của Ta lớn hơn cả tội lỗi của con và cả nhân loại.” (Nhật Ký, số 1485) Biết như vậy không phải để ỷ lại, mà để cố gắng củng cố đức tin yếu mềm của chúng ta. Nhưng nói tin thì dễ, mà rất khó thể hiện và sống đức tin. Phàm nhân là thế, chẳng nói hay được. Thánh Vịnh gia vẫn luôn phải cầu xin: “Lạy Chúa, đường nẻo Ngài, xin dạy cho con biết, lối đi của Ngài, xin chỉ bảo con. Xin dẫn con đi theo đường chân lý của Ngài và bảo ban dạy dỗ, vì chính Ngài là Thiên Chúa cứu độ con. Sớm hôm con những cậy trông Ngài, bởi vì Ngài nhân ái.” (Tv 25:4-5)
Thời trẻ, mấy ai không từng sa ngã, mấy ai không phải khốn đốn đôi lần, chính nhờ kinh nghiệm “xương máu” đó mà người ta nên khôn: “Lạy Chúa, xin nhớ lại nghĩa nặng với ân sâu Ngài đã từng biểu lộ từ muôn thuở muôn đời. Tuổi xuân trót dại bao lầm lỗi, xin Ngài đừng nhớ đến, nhưng xin lấy tình thương mà nhớ đến con cùng.” (Tv 25:6-7) Ngựa non háu đá, người trẻ háo thắng, đó là chuyện thường tình. Thiên Chúa không chấp chúng ta, nếu Ngài chấp tội thì chẳng ai được cứu rỗi, (Tv 130:3) nhưng Ngài muốn chúng ta thật lòng sám hối và sửa mình, vì Ngài là Thiên Chúa của tình yêu, của lòng thương xót: “Chúa là Đấng nhân từ chính trực, chỉ lối cho tội nhân, dẫn kẻ nghèo hèn đi theo đường công chính, dạy cho biết đường lối của Người.” (Tv 25:8-9) Sám hối luôn cấp bách, hành động luôn cần thiết – không chỉ trong Mùa Vọng, Mùa Chay, dịp tĩnh tâm,... mà hằng ngày, suốt đời.
Thánh Phaolô nói: “Thưa anh em, tôi xin nói với anh em điều này: THỜI GIAN CHẲNG CÒN BAO LÂU. Vậy từ nay những người có vợ hãy sống như không có; ai khóc lóc, hãy làm như không khóc; ai vui mừng, như chẳng mừng vui; ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả; kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng. Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi.” (1 Cr 7:29-31) Thời gian là của Chúa, dù trẻ hay già thì cũng chẳng ai biết cuộc đời mình còn bao lâu. Có người còn trẻ và đang khỏe mạnh bình thường, thế mà bất ngờ nghe tin người đó từ trần. Thật vậy, giữa tháng 1-2024, tại Gx Đất Đỏ, GP Bà Rịa, một người chuẩn bị đọc sách thánh thì ho một tiếng, rồi xụi lơ luôn. (xem video bên dưới) Vì thế mà phải tỉnh thức và sẵn sàng, không bao giờ chủ quan.
Lằn ranh sinh – tử rất mong manh, không thể đoán định. Thánh Phaolô khuyên chúng ta sống mà đừng “chia trí” hoặc “nặng lòng” với những gì ở thế gian này. Sống như vậy không có nghĩa là hững hờ, vô tâm, vô cảm, bất cần đời hoặc “dở hơi,” mà là ngoan ngoãn vâng phục Ý Chúa. Đó là cách sống của người khôn ngoan: Khôn ngoan để không bướng bỉnh, khôn ngoan để tỉnh thức chờ Chúa đến – chính xác nhất là lúc Ngài đến với cuộc đời riêng, lúc “tận thế” của cuộc đời mình.
Lạy Thiên Chúa, xin thêm sức mạnh để chúng con có thể buông bỏ mọi thứ trần tục, được thanh thản giữa cuộc đời đầy biến động, không nặng lòng với bất cứ thứ gì để có thể vui sống theo Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê và bắt đầu rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Nội dung lời rao TN 3-B139
Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê và bắt đầu rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Nội dung lời rao giảng đó là TC nay can thiệp trong lịch sử của nhân loại nhờ Người. Lời rao giảng của Người (tóm kết nơi c.15) gồm có 3 phần : 1) Thời kỳ đã mãn : các ngôn sứ chia thời gian làm hai : thời kỳ hiện tại và thời kỳ sẽ đến. Đức Giê-su loan báo thời kỳ hiện tại đã kết thúc và một thời mới, thời cánh chung đã khai mạc. Đây là thời kỳ TC hoàn tất các lời Người đã hứa. 2) Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần : Cựu Ước nói đến Vương quyền của Thiên Chúa đối với dân riêng của Người (x. Is 6,1-3; 43,15; Tv 47,93,96,99). Nhưng sau thời Lưu đày, tình trạng vương quyền trần gian vắng bóng làm cho dân Ít-ra-en hy vọng chính TC sẽ bày tỏ Vương quyền của Người tại Xi-on và trải rộng quyền đó trên địa cầu (x. Is 24,23; 52,7; Gr 3,17; 8,19; Ed 20,33…). Ở đây, Đức Giê-su khẳng định : nơi Người, Triều đại Thiên Chúa đã đến, Người là “Triều-đại-Thiên-Chúa-bằng-xương-bằng-thịt” (Origène). 3) Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng : sám hối là thay đổi hướng đi, triệt để quay về với Thiên Chúa của Giao ước và dấn bước vào một cuộc sống mới mẻ.
Để thực hiện đại cuộc này, Đức Giê-su đã kêu gọi các Tông đồ, ban đầu là bốn ông. Nhưng không chỉ từng ấy. Người còn muốn kêu gọi những ai tự nguyện làm môn đệ Người cũng hãy tham gia vào đại cuộc.
1. Kêu gọi các Tông đồ
“Thấy Si-môn và An-rê, Người bảo họ: Các anh hãy đi theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Lập tức hai ông đi theo Người”. Không thể đọc điều này mà không “tưởng tượng”. Bờ hồ, cái nhìn của Đức Giê-su, tiếng gọi của Người, và chữ “lập tức” năng được lập lại nơi Mác-cô, khiến cuốn Tin Mừng của ông thành một lời thôi thúc, gần như dồn dập. Nhờ Tin Mừng Gio-an, ta biết Đức Giê-su đã quen với bốn anh em này từ trước, thành thử ở đây họ không đứng lên đi theo một kẻ xa lạ, nhưng là một Đấng mà họ đã khởi sự đón nhận sứ điệp rồi. Mác-cô nhấn mạnh hai điểm : một là vai trò chủ động của Đức Giê-su trong ơn gọi, hai là tính chất triệt để của lời đáp trả. Người mời bốn anh em “theo Người”, có nghĩa là làm môn đệ, tiếp bước chân Người, dù tới đâu thì tới. Và trong thực tế, họ chỉ thực sự theo Người khi loan truyền Tin Mừng đến với lương dân và hy sinh mạng sống vì Người.
“Lưới người như lưới cá” là một lối chơi chữ rất giàu ý nghĩa. Muốn hiểu nó, phải nhớ rằng đối với dân Do-thái, biển sâu chính là nơi quy tụ các mãnh lực của sự dữ và sự chết. Đức Giê-su ở đây được khẳng định như là Đấng đến để lôi kéo loài người anh em thoát khỏi các mãnh lực nầy. Và nếu Người đã có ý tuyển chọn các ngư phủ làm những môn đệ đầu tiên, là bởi vì Người thấy được mối liên hệ biểu tượng giữa nghề nghiệp hiện tại của họ và sứ mạng Người sẽ giao cho họ sau này : “đánh bắt” những con người để đem họ vào trong Nước Thiên Chúa mà Người đã đến để lập nên, hầu họ đi từ cõi chết sang cõi sống. Các ông thành thử là hạt nhân nảy sinh Giáo Hội và trở thành một thứ đội quân tiên phong của một dân tộc mới mẻ.
Những điều đó khiến ta ước muốn cầu nguyện cho có nhiều người nam nữ đáp lại tiếng Chúa gọi : “Này bạn, hãy đến, bạn sẽ là linh mục ; này bạn, hãy đến, bạn sẽ là tu sĩ”. Chắc chắn đó là một cách đọc bản văn thật đúng, nó đã được viết để đánh thức các ơn gọi chuyên biệt và kêu mời chúng ta suy nghĩ về những lời nói việc làm của chúng ta trong tương quan với ơn thiên triệu linh mục hay tu sĩ.
2. Kêu gọi các môn đệ
Nhưng quả là thiệt hại nếu không thấy đó cũng là tiếng Đức Giê-su gọi môn đệ, nghĩa là mọi Ki-tô hữu. Dấu chỉ thứ nhất của việc mở rộng nhãn quan là vị trí mà Mác-cô dành cho trình thuật kêu gọi môn đệ này. Ông đặt nó ngay đầu Tin Mừng của mình để cho thấy rằng hành vi tiên khởi của Đức Giê-su là quy tụ thiên hạ quanh mình hầu tung ra cái phong trào vĩ đại sẽ trở thành Giáo Hội, dân mới của Thiên Chúa. Cùng tiếng gọi ấy tiếp tục và thấu đến chúng ta hôm nay.
Dấu chỉ thứ hai : hình thức lược đồ của trình thuật ơn gọi này. Đức Giê-su nhìn, gọi, và lập tức người ta đi theo. Điều này có giá trị cho mọi người không phân biệt. Khi nghe kể lại chi tiết ơn gọi của thánh Phan-xi-cô A-xi-di-ô, thánh Bê-na-đet-ta, mẹ Tê-rê-xa hay đơn giản của một linh mục, chúng ta cảm phục từ xa nhưng có thể tự nhủ : đó không phải là cho mình. Nhưng ở đây là cho chúng ta. Chúng ta đứng trước lược đồ kiểu mẫu về tiếng gọi của Đức Giê-su và lời đáp mà bất cứ Ki-tô hữu nào cũng phải đưa ra cả. Hết thảy đều được yêu cầu phải dành ưu tiên tuyệt đối cho Đức Giê-su.
Có lẽ chúng ta còn chưa ý thức rằng làm Ki-tô hữu, đó không chỉ là đọc kinh Tin kính, đi dự lễ và cố gắng sống đạo đức, song còn là theo Đức Ki-tô. Nghe thế chắc có người bảo: “Bạn lại nói đến “ơn gọi” ư? Lắm người đã từ bỏ mọi sự, nghề nghiệp, nhà cửa, gia đình. Tôi thì không thể làm được vậy”. Đừng lo! “Theo Đức Giê-su” cũng có một ý nghĩa khác nữa. Ta thấy điều đó khi Đức Giê-su ngỏ với tất cả đám đông để yêu cầu họ tin vào Người. Theo Người, trước hết là như thế.
Trước khi biết điều Người sắp xin chúng ta, phải tin vào Đức Giê-su, bằng không chúng ta chẳng bao giờ chấp nhận các đòi hỏi của Người. Người có quyền nói, Người có quyền bảo chúng ta tại sao phải nghe và thành thử là theo Người, để cuộc đời chúng ta thành tựu, vì Người là Con Thiên Chúa. Duy mình Người vừa có thể đơn giản hóa cuộc sống chúng ta, vừa làm cho nó trở nên vô cùng đòi hỏi bằng cách chỉ cho ta một mệnh lệnh. Khi Người bảo tôi: “Phần anh, hãy theo Thầy !” tôi biết câu đó có nghĩa: “Phần anh, hãy yêu thương như Thầy đã yêu thương”.
Lúc đó, đúng thế, nếu tôi muốn thật sự sống điều ấy, tôi buộc lòng phải “từ bỏ mọi sự”. Bỏ hoàn cảnh của tôi, nghề nghiệp của tôi, thân nhân của tôi sao? Không, kiểu nói “những kẻ lưới người” muốn nhắn gởi với chúng ta rằng chúng ta không bị bó buộc phải bỏ nghề nghiệp, khả năng của mình, song là hãy tỏ ra thành thạo trong sứ mạng loan báo Nước Thiên Chúa như lúc hành nghề của mình hay qua việc hành nghề của mình. Vấn đề là từ bỏ các tư tưởng thông thường, các cách hành động thông thường chẳng phù hợp với Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Không gì, tuyệt đối không gì được ngăn cản tôi nghe tiếng Đức Ki-tô và mến yêu Người trên hết mọi sự. Rồi làm cho quanh tôi biết Đức Ki-tô, “lưới người” (bắt các linh hồn) cho Đức Ki-tô. Cuộc mạo hiểm khởi sự từ đó và thế đó ! Như đối với Si-môn, An-rê, Gia-cô-bê và Gio-an. Một cuộc mạo hiểm mãnh liệt và sáng ngời : “Ta là sự sống. Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ không phải đi trong bóng tối” (Ga 8,12).
Trong quyển “Chúa Ki-tô trên nẻo đường của con người”, cha Bosco đã thuật lại câu chuyện ngài chứng kiến tận mắt tại Lộ Đức như sau: Hôm ấy, tôi theo sau vị Giám mục kiệu MTC đi qua trước các bệnh nhân nằm trên cáng và ghế lăn. Quang cảnh thật cảm động. Trong số các bệnh nhân, tôi đặc biệt để ý đến một thiếu niên mặt nhợt nhạt nhưng thật hiền từ, hai tay em nắm chặt lại và đôi mắt nhìn về MTC. Sau cuộc rước, tôi đến quán trọ các bệnh nhân để tìm thăm em. Tôi thấy em đang nằm một mình trên cáng, dưới một tàng cây. Tôi hỏi: “Tên con là gì và từ đâu đến?” - “ Thưa Cha, con là Aelio và ở Rôma” - “Cha cũng ở Rôma, cha vui mừng được gặp con. Cha làm tuyên úy cho toán trợ giúp người bệnh.” Nghe thế, cậu bé đáp : “Con cũng muốn giúp các bệnh nhân mà không được, vì từ ba năm nay con bị liệt giường” - “Chính vì thế mà chúng ta đến đây để xin Đức Mẹ ban ơn. Cha sẽ cầu nguyện cho con. Vậy con đã cầu xin Chúa Giê-su và Mẹ Ma-ri-a chữa bệnh cho con chưa?” Nhìn tôi rồi nhìn quanh xem có ai nghe lén không, cậu chậm rãi đáp: “Thưa cha, con không cầu xin ơn khỏi bệnh. Vì có những điều quan trọng hơn con phải xin với Đức Mẹ.” Ngạc nhiên, tôi hỏi: “Những điều đó là gì thế?” Em bé đáp: “Thưa cha, con đã xin Đức Mẹ ba ơn này: trước hết, con cầu xin Đức Mẹ chữa lành những ai đang phải đau khổ nhiều hơn con. Thứ hai, con cầu xin cho các linh mục ngày càng trở nên thánh thiện. Sau cùng, con cầu xin cho kẻ có tội ăn năn trở lại để Chúa Giê-su khỏi đau lòng nữa.” Nghe những lời này của cậu thiếu niên, tôi ngỡ ngàng không nói được lời nào. Sau đó, tôi đến hang đá Đức Mẹ Lộ Đức một mình, và thưa với Mẹ: “Lạy Mẹ Thiên Chúa, con xin cám ơn Mẹ đã cho con mục kích được một phép lạ lớn lao, đó là thấy một em bé 13 tuổi, nhờ sự giúp đỡ và nụ cười của Mẹ, nay đã trở nên một anh hùng và một tông đồ.”
Ai bảo bệnh nhân thiếu niên này không được Chúa kêu gọi?
Nếu so sánh thì bài đọc tiên tri Giona (Gn 3:1-5,10) tương tự như bài Tin Mừng Luca nói về TN 3-B140
Nếu so sánh thì bài đọc tiên tri Giona (Gn 3:1-5,10) tương tự như bài Tin Mừng Luca nói về việc Simon Phêrô nghe lời Chúa thả lưới nên bắt được rất nhiều cá lớn (Lc 5:4-7). Giona đã được Thiên Chúa ủy quyền mang lời cảnh báo đến dân thành Ninivê thuộc miền Assyria và đã thành công. Nói cách khác, những ai đã từng nghe và chứng kiến cảnh tượng này với con mắt đức tin thì phải hiểu câu chuyện Giona này sâu xa hơn. Ý chính không phải là kích thước con cá, cũng không phải diện tích rộng lớn của thị trấn hay số người từ bỏ tội lỗi trở lại đường ngay nẻo chính, mà là phải giữ vững niềm tin khi rao truyền Lời Chúa.
Đối với những người có niềm tin thì câu chuyện Giona có một ý nghĩa sứ điệp rất sâu xa. Dân Ninivê đã ăn năn thống hối và từ bỏ con đường tội lỗi nên Chúa đã nghĩ laị, rút lời chúc dữ, không trừng phạt dân thành nữa. Xem vậy, chẳng có ai, một nơi nào hay tình trạng nào mà không được Chúa đoái thương nhìn đến và chữa lành, tha thứ nếu thực tâm ăn năn thống hối vì tội lỗi của mình.
Kitô giáo đã coi Giona là một hình ảnh tích cực của Chúa Kitô và sứ điệp Tin Mừng của Người. Qua Chúa Kitô, Thiên Chúa tiếp cận với thế giới theo một cách thức mới rõ ràng và nhất định để hoàn thành những mong đợi và hy vọng đã nói trong Cựu Ước.
ĂN NĂN THỐNG HỐI VÀ THỜ LẠY CHÚA
Khi các môn đệ bỏ thuyền, bỏ lưới, bỏ nhà cửa, nghề nghiệp, cha mẹ và bạn bè để theo Chúa (Mc 1:14-20) thì các ngài đã hiểu là sẽ nhận được cái gì. Chúng ta mang Tin Mừng của Thiên Chúa và của Đức Giêsu Kitô đến các thị trấn, làng mạc, cộng đồng của chúng ta thế nào khi mà phạm vi của chúng quá rộng lớn lại không đồng nhất, có khi còn thù nghịch với chúng ta và bận rộn, ồn ào suốt ngày đêm?
Có khi nào chúng ta lại không tìm kiếm “một đường lối khác” để qua sông hay ra khơi mà lại dùng thuyền đò để đến một nơi vắng vẻ yên tịnh ít phiền toái và đối nghịch với sứ mạng của chúng ta không? Làm sao chúng ta có thể trở thành linh hồn, trọng tâm của thị trấn và của cộng đồng chúng ta?
Chúa đã dạy: Hãy thờ lạy Chúa với hết tâm hồn và lòng yêu mến. Hãy cầu nguyện liên lỉ. Hãy tiếp tục ăn chay hãm mình thống hối một cách kín đáo từng ngày và suốt đời trong thinh lặng và vui vẻ. Hãy thực hành tám mối phúc thật hàng ngày, đừng bao giờ bỏ sống Lời Chúa và chia sẻ cho tha nhân bằng lời nói và việc làm.
HÃY GIỮ VỮNG NIỀM TIN
Chúng ta thường nghĩ rằng giảng Lời Chúa quá buồn tẻ, chẳng ai muốn nghe, và người nghe đôi khi lại cho mình là giả hình nhân đức, dở hơi và ghét chúng ta, đe dọa chúng ta! Chúa Giesu đôi lúc chắc cũng có cảm tưởng như vậy. Có ai thực sự lắng nghe Lời Chúa không? Ngày 25 tháng này là ngày Lễ thánh Phaolô trở lại. Ngài là Tông đồ dân ngoại, phải chăng ngài cũng nản chí bỏ cuộc không muốn giảng Tin Mừng cho dân ngoại?
Công Vụ Tông Đồ ghi, khi Phaolô trở lại Côrintô thì nhiều người đã nghe biết và tin ngài rồi tìm đến ngài và xin chịu phép rửa. Ngài đã nói với cộng đồng Côrintô lời Chúa nhắn nhủ ngài qua giấc ngủ: “Đừng sợ, hãy cứ nói, đừng thinh lặng nữa vì Ta luôn luôn ở với ngươi, không ai có thể hãm hại được ngươi, vì trong thành này còn có nhiều dân ta.”(Cv 18:8-10).
NĂM THÁNH PHAOLÔ
Một trong những hy vọng lớn và mục đích của Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI khi ngài tuyên bố Năm Thánh Phaolô vào tháng 6 năm 2008 là mọi người Công Giáo nam cũng như nữ phại tự vấn mình: “Tôi có xác nhận và cương quyết rao truyền Niềm Tin Công Giáo như thánh Phaolô không?”
Niềm tin của chúng ta chỉ có thể lớn mạnh và nảy nở khi chúng ta có ý thức đầy đủ và hết lòng chia sẻ với mọi người. Chúa Kitô sẽ nhìn mỗi chúng ta với ánh mắt khoan dung trìu mến mỗi khi chúng ta xét đoán đúng đồng thời Người sẽ hỏi chúng ta đã làm gì để mời gọi mọi người gia nhập cộng đồng của Chúa Giêsu và Giáo Hội? Cuối cùng Chúa sẽ hỏi chúng ta:“Con có yêu Thầy không? Con đã rao truyền Tin Mừng Chúa cho những ai? Con đã mang lai được bao nhiêu người đi theo với con?”
NHIỆM VỤ TỐI HẬU LÀ RAO TRUYỀN LỜI CHÚA.
Chúa Giêsu Kitô đòi hỏi chúng ta cái gì ở thời đại ngày nay? Ăn năn thống hối, cải tà qui chính, suy nghĩ tìm ra những phương cách điều hành Nước Trời, phải thế này thế nọ. Chưa đủ, hãy tin vào giảng huấn và gương mẫu của Chúa Kitô về vương quốc Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta. Nhiệm vụ tối hậu của chúng ta là rao giảng Lời Chúa.
Chớ gì Lửa Chúa Thánh Thần đổ vào lòng thánh Phaolô hun nóng tâm can chúng ta, biến chúng ta thành những nhà truyền giáo đắc lực sáng ngời trong suốt cuộc đời chúng ta. Chớ gì Chúa Thánh Thần đẩy mạnh niềm tin chúng ta để chúng ta không bao giờ bị khuất phục, nhất là những lúc chẳng có ai muốn lắng nghe chúng ta. Những lúc như vậy, Thiên Chúa sẽ nói với chúng ta: “Đừng sợ! Hãy nói lên, đừng yên lặng nữa. Ta đang ở với con, không ai có thể hãm hại con được, vì trong thành, trong cộng đồng còn có rất nhiều người của ta” (Cv 18:9-11).