Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 17-C Bài 151-193 Anh em cứ xin thì sẽ được --------------------------------------- Phúc Âm: Lc 11, 1-13: "Các ngươi hãy xin thì sẽ được".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Ngày kia, Chúa Giêsu cầu nguyện ở một nơi kia. Khi Người cầu nguyện xong, có một môn đệ thưa Người rằng: "Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông". Người nói với các ông: "Khi các con cầu nguyện, hãy nói: 'Lạy Cha, nguyện xin danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ'". Và Người còn bảo các ông rằng: "Nếu ai trong các con có người bạn, giữa đêm khuya đến nói với người ấy rằng: 'Anh ơi, xin cho tôi vay ba chiếc bánh, vì tôi có anh bạn đi đường ghé lại nhà tôi, mà tôi không có gì thết đãi anh ấy'. Và từ trong nhà có tiếng người ấy đáp: 'Xin đừng quấy rầy tôi, vì cửa đã đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm rồi, tôi không thể chỗi dậy lấy bánh cho anh được'. Thầy bảo các con, dù người đó không dậy vì tình bạn để lấy bánh cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự quấy rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần. "Và Thầy bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho. "Người cha nào trong các con có đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá ư? Hay nó xin cá, lại cho nó con rắn thay vì cá sao? Hay nó xin quả trứng, lại cho nó con bọ cạp ư? Vậy, nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người". - Ðó là lời Chúa. --------------------------------------
Có lẽ mọi người đã được nghe về sự tích thành Sôđôma và Gômôra. Hai thành cổ xưa đứng biểu TN 17-C151
Có lẽ mọi người đã được nghe về sự tích thành Sôđôma và Gômôra. Hai thành cổ xưa đứng biểu tượng cho mọi giống tội lỗi. Những người còn tư cách, còn lương tâm chẳng bao giờ muốn đến cư ngụ hoặc tham quan hai thành ấy. Ngày nay muốn nguyền rủa phần đất nào hay thành phố nào người ta so sánh nó với Sôđoma và Gômôra và chúc dữ cho nó bị tàn phá bình địa như hai thành ấy. Có điều lạ là trong bài đọc sách Khở? nguyên hôm nay, Chúa không đòi hỏi hai thành ấy phải xám hối, mặc áo nhặm và rắc tro trên đầu mà chỉ cần ông Abraham tìm ra 10 người công chính. Nếu ông tìm được, toàn dân cư của thành sẽ được tha, thành không bị tàn phá nữa. Liệu những người công chính sống giữa chúng ta có cứu chúng ta khỏi bị tiêu diệt không? Có lẽ là khỏi bàn tay báo oán của Thiên Chúa, nhưng không thể khỏi chính những bàn tay của chúng ta! Những tiếng kêu của những nhà thức thời trên đất nước này có cứu chúng ta khỏi những vô độ về bạo lực, về thù oán giang hồ, về hưởng lạc, về tai họa môi sinh?.Liệu những tiếng dai dẳng của lương tâm mời gọi chúng ta bỏ đường tội lỗi, đường tự hủy để quay về với Thiên Chúa có được mọi người lắng nghe? Một số ít người Do thái sống rải rác trên khắp các đế quốc lúc bấy giờ đã nhận ra mình có nhiệm vụ thức tỉnh mọi người quay về thờ phượng Thiên Chúa. Mặc dù chỉ là thiểu số nhỏ bé, chẳng có ý nghĩa gì trước đại dương mênh mông các dân tộc chung quanh nhưng họ đã là ánh sáng soi chiếu vào bóng tối của một thế giới thờ hàng ngàn thần tượng gỗ đá hoặc thờ chính mình trong các dục vọng thấp hèn.
Như thế thì câu chuyện hôm nay thật là hấp dẫn, Abraham và Sara đã được Thiên Chúa viếng thăm dưới dạng ba người lữ khách (Giavê và 2 người bạn?) Abraham đã tiếp đãi các vị nồng hậu, và sau đó Chúa đã báo cho Sara có con trai trong vòng một năm, mặc dù cả hai đã gìa, qúa tuổi sinh nở. Abraham đã tiễn chân ba vị đi về phía thành Sôdôma, và sau mấy phút suy tư Chúa quyết định cho ông biết chương trình phá hủy thành phố. Abraham can thiệp, cầu xin cho các thành phố, chỉ một vài người công chính là đủ để cứu nguy cho dân chúng trong thành, nhưng chẳng có, thế là thành bị phá hủy, dân cư bị tiêu diệt! Ai sẽ cứu chúng ta, cứu Giáo hội khỏi số phận tương tự?
Khi nghe câu hỏi tự dưng bạn sẽ mỉm cười trả lời: thì còn ai nữa , những người công chính! Nhưng chính xác là ai thì bạn lại chẳng biết. Người Do thái sẽ trả lời rõ cho bạn. Hậu duệ của Abraham. Trong bài đọc thứ nhất Abraham đứng ra can thiệp cho thành Sôđôma, trong bài đọc thứ hai đó là chính Chúa Giêsu. Theo Th.Luca, thì Chúa Giêsu đã cầu nguyện rất nhiều, và cầu nguyện một cách lạ lùng đến độ các tông đồ phấn khởi, xin Chúa dậy cho mình cũng cầu nguyện được như thế.
Tuy nhiên để nắm bắt phần nào cách cầu nguyện của Chúa Giêsu chúng ta hãy trở lại câu chuyện của ông Abraham. Ông đi song đôi với Chúa như một người bạn hữu, mặc cả với Chúa cho dân thành Sôđôma như chúng ta mặc cảmột món hàng giữa chợ và ông đã được nhận lời , Chúa đã nhân nhượng ông chứ không phải ông nhân nhượng Chúa. Cử chỉ can đảm thương lượng của ông làm Chúa mềm lòng và chúng ta thán phục. Chẳng có thần thánh nào trên thế gian này giống như thần thánh của ông Abraham, thân mật và rộng lượng. Ông đứng trước mặt Chúa như một tiên tri, cầu khẩn cho những người công chính khỏi chết và Chúa đã cho gia đình ông sống sót một cách lạ lùng. Bất cứ thần linh nào trên mặt đất cũng phải ngạc nhiên trước cảnh nài nỉ của Abraham.
Chúa Giêsu cũng cầu nguyện như vậy trên con đường Ngài lên Giêrusalem: Ngài đã cầu nguyện liên tục trong mỗi chặng đường đi. Có nhiều kẻ theo Ngài và Ngài không rời xa các môn đệ. Chắc chắn là họ đã từng cầu nguyện theo thói tục Do thái, nhưng nơi Chúa Giêsu họ khám phá ra có cái chi đó đặc biệt, một mối liên hệ thân mật và khăng khít giữa Ngài và Thiên Chúa. Họ mạnh dạn tiến lại:"Xin Thầy dậy chúng con cầu nguyện."Thánh sử Luca đa thu thập những lời cầu nguyện của Ngài trong một kinh duy nhất:"Lạy Cha chúng con ở trên trời.". Nhưng ở đây chúng ta thấy khác với kinh của thánh Matthêu? Vậy thì ai đúng ai sai?
Hình như các tác gỉa viết sách tin mừng chẳng để ý mấy đến công thức chính xác của lời kinh, các ngài chú ý nhiều hơn đến tinh thần mà lời kinh chứa đựng. Có lẽ đây là điều họ học được từ Chúa Giêsu. Họ xin Ngài dậy cho họ biết cầu nguyện, chứ không xin dậy cầu nguyện cái chi, cho nên Ngài dậy ngay họ tâm tình cầu nguyện thân mật với Chúa Cha:"Lạy Cha chúng con ở trên trời.". "Abba" là tiếng của con trẻ gọi cha mình, chẳng còn chi hiếu thảo và thân mật hơn. Ðó là phương thức chúng ta phải cầu nguyện. Abraham cầu nguyện như nói chuyện với một người bạn chí thân. Chúa Giêsu cầu nguyện như thưa gởi với một người cha yêu dấu. Ngài giữ mãi tâm tình này trong suốt cuộc hành trình lên Giêrusalem và ngay cả trên cây thánh gía: Cha ơi, sao Cha bỏ con!
Hằng ngày chúng ta ký thác vào tay cha mẹ để được cơm ăn, áo mặc và chúng ta chẳng bao giờ thất vọng. Hằng ngày người môn đệ Chúa phải tỏ bày sự lệ thuộc và tin tưởng vào Ngài để có bánh ăn. Như thế thì đói khát thế nào được! Chúa chẳng thể thua lòng quảng đại của các bậc cha mẹ nhân loại! Có chăng, là do bởi chúng ta yếu lòng tin cậy, nghi ngờ quyền phép Chúa. Cô Patricia D.Sanchez nói với các thính gỉa của cô thế này:"Bánh này được luôn luôn phân phát và mỗi khi chúng ta xin là chúng ta liên tục tỏ bày sự lệ thuộc của chúng ta vào Chúa để được sống, chúng ta được chúc lành, được nâng đỡ, hôm nay, ngày mai và cho đến muôn đời". (Cử hành thánh lễ tháng 7 năm 2001).
Có hai dụ ngôn để minh họa cho lời giảng dậy của Chúa Giêsu. Dụ ngôn thứ nhất là người bạn có nhu cầu vào lúc nửa đêm. Ông biểu trưng cho sự kiên trì, bền chí.Chẳng phải rằng chúng ta cần nói cho Chúa biết những nhu cầu của chúng ta. Ngài đã vững trong lời kêu xin. Cầu nguyện là lợi ích cho chúng ta hơn lợi ích cho Chúa. Nếu không kiên trì thì tính nhẹ dạ sẽ đưa chúng ta đến van xin hết ông bụt này đến bà chúa kia, đi lang thang khắp cùng trời đất để thỏa mãn những nhu cầu của mình. Trái với người đàn ông nằm ngủ trên giừơng. Thiên Chúa không hề làm ngơ trước những nhu cầu của chúng ta, người nhậy cảm với những thiếu thốn của con cái Ngài hơn cả các cha mẹ thế gian, vấn đề là cầu nguyện không giống như tắt mở công tắc điện mà phải liên tục kêu xin, gõ cửa để dậy cho mình tính lệ thuộc Thiên Chúa trong hết mọi sự. Bàn tay yêu thương của Ngài sẽ ban phát cho chúng ta những ơn lành chúng ta cần đến. Xin luôn luôn nhớ là Chúa biết phải ban ơn gì và ban lúc nào và như thế là tốt nhất cho chúng ta, không cần phải sai khiến Ngài.
Dụ ngôn thứ hai nói rõ hơn về lòng nhân lành của Chúa. Cha mẹ thế gian không đời nào lấy rắn thay vì con cá, bọ cạp thay vì qủa trứng mà cho con cái khi nó van xin, cũng vậy Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta những ơn lành tốt nhất từ kho tàng tình thương của Ngài. Bà Elizabeth A.Johnson liệt kê ba ơn thiêng chúng ta thường được qua cầu nguyện.
1/. Sự gần gũi với Thiên Chúa. Khi không cầu nguyện chúng ta tưởng tượng Thiên Chúa ngự nơi xa tắp, trên trời xanh hay trên những ngọn núi cao. Thực sự, Ngài ngự nơi tâm hồn chúng ta là chính,Ngài là Thiên Chúa hằng sồng, chúng ta sống ở trong Ngài, hiện hữu ở trong Ngài, ý thức sự hiện diện của Ngài trong tâm hồn.
2/. Thiên Chúa không dửng dưng trước những đau khổ của loài người, Ngài luôn bênh đỡ, ủi an các tù nhân, người bị áp bức, ban cho họ sự tự do nội tại mà không một ai có thể cướp đi được, sự giải cứu của họ chỉ có thể được nơi cánh tay dũng mãnh của TC như dân tộc Israel đã từng kinh nghiệm xưa.
3/. Nhịp cầu liên kết giữa Thiên Chúa với chúng ta. Nhịp cầu thường bị tỗi lỗi, thói hư nết xấu bẻ gẫy, nhưng qua cầu nguyện Chúa Thánh Thần sẽ hàn gắn lại, Ngài ban cho nhân loại lòng thống hối ăn năn, biết nhận lỗi mình mà kêu xin lòng thương xót Chúa. Chúa Thánh Thần sẽ hoạt động giúp chúng ta thắng vượt mọi chia rẽ, mọi nghi nan để đoàn kết nên một trong công bình và bác ái.
Tóm lại, các bài đọc thánh lễ hôm nay nêu lên trước mắt chúng ta những mẫu gương cầu nguyện. Ông Abraham nài nỉ trược nhan Chúa cho thành Sôdôma và Chúa Giêsu dạy các môn đệ Ngài phải cầu nguyện thế nào cho được nhận lời. Ngài bảo đảm với nhân loại có một lời cầu xin luôn được chấp nhận. Ðó là Chúa Thánh Thần. Nếu chúng ta đầy lòng trông cậy mà kêu xin, Chúa Thánh Thần luôn ngự xuống linh hồn, dậy chúng ta biết xin gì, xin thế nào và khi nào vì Ngài chính là một ân huệ luôn được ban phát. Ngài chẳng làm thất vọng một ai. Amen.
Tin mừng Lc 11: 1-13: Cầu nguyện là ý thức về tầm chính xác của mình trước mặt Thiên Chúa. Thế mà đối với Thiên Chúa toàn thể vũ trụ nhỏ hơn một giọt nước trong lòng đại dương.
Thiên Chúa luôn yêu thương con người, dù con người không biết Ngài, dù con người có khước TN 17-C152
Thiên Chúa luôn yêu thương con người, dù con người không biết Ngài, dù con người có khước từ và phản bội tình yêu của Ngài, Ngài vẫn một mực yêu thương. Đó là tất cả những gì Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta qua cuộc sống của Ngài. Cách cư xử và cái chết của Ngài đã cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Cha yêu thương chúng ta.
Đồng thời Chúa Giêsu cũng dạy cho chúng ta cách thức đáp trả tình yêu của Thiên Chúa, đó là hãy chu toàn thánh ý của Thiên Chúa. Lời kinh Lạy Cha Ngài để lại cho Giáo Hội chính là chương trình sống của Ngài, chính là tiếng xin vâng của Ngài đối với Chúa Cha. Từ sáng đến chiều, xuyên qua những giao tiếp và giảng dạy, Ngài luôn để lộ một cử chỉ duy nhất, đó là thuộc trọn về Chúa Cha, tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu của Chúa Cha. Để lại cho chúng ta kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu không chỉ truyền lại một công thức, mà là cả cuộc sống xin vâng của Ngài.
Thiên Chúa là một người Cha nhân từ, hằng yêu thương chăm sóc chúng ta. Nhờ Ngài, chúng ta mới có được những phương tiện vật chất; nhờ Ngài, chúng ta mới có được những khả năng phần hồn; nhờ Ngài, chúng ta mới có được ơn cứu độ... Vậy tại sao chúng ta lại không biết ơn và cảm tạ Ngài? Thiên Chúa lạ vị ân nhân vĩ đại. Ngài chờ đón nơi chúng ta một câu nói tuyệt vời: Lạy Chúa con yêu mến Chúa. Như vậy khi cầu nguyện, chúng ta bày tỏ niềm biết ơn cũng như tình yêu đậm đà của chúng ta đối với Ngài.
Cầu nguyện của người Kitô hữu là tự đặt mình vào trong mối tương quan này, coi Thiên Chúa như là Cha hoặc Mẹ, thưa chuyện với Ngài, kể chúng ta là con cái. Khi con trẻ thưa chuyện với cha mẹ, việc quan trọng không phải là đúng cách hay sai cách, chúng chỉ đơn thuần tập trung vào một điều là dùng tất cả lời nói, cử chỉ để diễn tả lòng mình. Cũng vậy, trước mặt Chúa, người Cha nhân từ khi chúng ta cầu nguyện mà công thức, thủ tục đều là chuyện thứ yếu, nếu chúng ta không muốn nói là thường. Con cái tin tưởng rằng, cha mẹ luôn luôn làm những gì là tốt nhất cho mình.
Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay cũng nói: "Ai trong anh em là một người cha mà khi con xin cá thay vì cá lại lấy con rắn mà cho nó, hoặc nó xin trứng lại cho nó con bọ cạp". Cũng vậy, con cái Thiên Chúa đến với Ngài với thái độ tin tưởng, hy vọng, biết rằng Ngài sẽ dành cho họ tất cả những gì là tốt nhất.
Lời cầu nguyện của Chúa mà chúng ta nghe trong Tin Mừng theo Thánh Luca có một điểm khác với lời kinh chúng ta dùng trong Thánh Lễ, lời kinh này chúng ta đọc theo đoạn Tin Mừng của Thánh Mathêu (6, 9-12) chúng ta sẽ không ngạc nhiên về sự khác nhau này. Thứ nhất, cầu nguyện thì rất quan trọng nên chúng ta giả thiết là Chúa Giêsu đã dạy nó trong nhiều dịp và không luôn luôn chính xác cùng một lời đó. Thứ hai lời nguyện đó đã là một phần của phụng vụ cho hơn một thế hệ trước khi những cuốn Tin Mừng được viết ra. Lời cầu nguyện đó đã được ghi lại theo trí nhớ và kết quả là có những sự khác nhau không đáng kể cho đến khi Thánh Luca và Thánh Mathêu đã viết ra lời kinh chung được đọc trong những cộng đoàn riêng biệt của các ngài.
Ta hãy kiên nhẫn và trông cậy mà cầu nguyện.
Phải kiên nhẫn trong khi cầu nguyện là để tăng thêm ước muốn của chúng ta, và cũng là để tăng thêm giá trị ơn Người sẽ ban. Nếu chúng ta không nhận được điều mình xin, thì không phải là Chúa không sẵn sàng ban ơn, nhưng có thể điều cầu xin ấy không mang lại ích lợi cho linh hồn chúng ta, hoặc Người muốn dành cho chúng ta một ơn lớn lao hơn. Cho dù sự đáp trả của Chúa không như lòng chúng ta mong ước hay không đúng lúc chúng ta mong đợi, thì đó cũng là bởi sự khôn ngoan và lòng yêu thương của một người Cha đầy tình nhân ái.
Phải trông cậy trong khi cầu nguyện vì Chúa đã hứa: "Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ thì sẽ mở cho" (Lc 11, 9). Mẹ Têrêxa Calcutta đã chia sẻ kinh nghiệm này như sau: "Chúng tôi có hơn một ngàn tu sĩ, và còn phải nuôi ăn hàng chục ngàn người. Thế mà, chưa bao giờ chúng tôi phải từ chối bất cứ một ai đến xin giúp đỡ. Chúa luôn can thiệp kịp thời để cho chúng tôi thấy rằng Người không bao giờ làm ngơ trước lời cầu nguyện của chúng ta".
Cầu nguyện là ý thức về tầm chính xác của mình trước mặt Thiên Chúa. Thế mà đối với Thiên Chúa toàn thể vũ trụ nhỏ hơn một giọt nước trong lòng đại dương. Kẻ thờ phụng dành tất cả tâm hồn mình cho Thiên Chúa. Điều gì biện minh cho thái độ ấy? Thật ra con người ý thức rất rõ mình có khả năng suy nghĩ, hành động, có cả quyền năng nữa. Lẽ nào chỉ vì Thiên Chúa quyền năng vô cùng mà chúng ta phải nhượng bộ tất cả cho Thiên Chúa ư? Thờ phụng, trước hết không phải là sự quy phục của lương tri trước Đấng có quyền năng hơn con người. Thờ phụng là thái độ lương tri tự do muốn nhìn nhận sự thật. Vậy mà sự thật chính là Thiên Chúa hằng hữu, quyền năng vô biên, Đấng vô cùng tận. Thờ phụng là nhìn nhận sự thật ấy. Điều biện minh cho thờ phụng chỉ xuất phát từ sự thật mà thôi. Vì lẽ có nhìn nhận sự thật, con người mới có được phẩm giá; trong sự thờ phụng, tức là trong sự nhìn nhận sự thật, con người tìm ra tầm mức phẩm giá của mình.
Ta phải cầu xin những gì phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Ý muốn của Thiên Chúa trước hết là cho mọi người nhận biết Ngài là Cha của tất cả mọi người, và trong Ngài, tất cả mọi người đều nhận ra nhau là anh em. Những gì là chia rẽ, hận thù, bóc lột, chém giết nhau đều đi ngược lại ý muốn của Cha trên trời. Bởi vì, làm sao có thể mở miệng gọi Thiên Chúa là Cha của chúng ta được khi chúng ta không muốn yêu thương người khác như anh chị em của mình; và ngược lại, khi chúng ta không nhìn nhận có một Cha chung của chúng ta ở trên trời: "Lạy Cha, con là Đấng ngự trên trời".
Ý muốn của Thiên Chúa còn là "cho chúng ta hôm nay lương thực hằng ngày", có nghĩa là Thiên Chúa muốn cho mọi người trên trái đất, không phân biệt chủng tộc, màu sau, tiếng nói đều có đủ cơm ăn áo mặc, cũng như được hưởng tiện nghi của nền văn minh hiện đại, chứ không phải chỉ một số rất ít người chiếm hữu hết tài sản trên thế giới, đang khi đại đa số còn lại chỉ được hưởng một phần quá nhỏ trong cảnh lệ thuộc. Ngài cũng chẳng muốn cho một thiểu số sống xa hoa lãng phí, trong khi đồng loại phải thiếu nhà ở, thiếu cơm bánh, áo quần, thuốc men; phải đói khát, dốt nát, ăn xin, nằm đường xó chợ... Nói chung là thiếu những điều kiện tối thiểu để sống cho ra con người.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống trong tình con thảo với Cha trên trời. Một người con thảo hiếu luôn sống với Cha trong tình phó thác và với anh em trong tình bác ái. Chính Chúa Giêsu đã sống điều đó. Ngài đã phó thác cuộc đời trong tay Cha đến nỗi chỉ mong ước một điều là tim kiếm ý Cha và làm vinh danh Cha. Ngài đã sống với nhân loại trong tình bao dung và độ lượng. Ngài đã đi đến tận cùng của tình yêu là chết cho người mình yêu. Ngài đã đi đến tận cùng của việc quên mình là tha thứ cho kẻ đã hành hạ và kết án mình. Ngài đã dùng tình yêu để đẩy lùi sự dữ. Ngài đã dùng tình yêu để hoán cải những người lầm lỗi và tạo điều kiện cho kẻ lầm đường lạc lối trở về.
Cầu nguyện là một việc mà con người khó thực hiện. Vì thế phải luyện tập. Chính Thánh Gioan Tẩy giả đã dạy các đồ đệ cầu nguyện. Nhưng Giáo huấn của Chúa Kitô thật khác lạ; Chỉ bằng vài lời, đã nói lên được tất cả, một sự sung mãn phong phú qui kết vào 5 lời nguyện xin chi phối toàn bộ đời sống và hướng về Thiên Chúa Duy Nhất, là Cha hết mọi người.
Vì có chung một Cha, nên chúng ta chung một tâm tình cầu nguyện cho “Danh thánh Cha cả TN 17-C153
TMĐP- Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” (Mt 6,9-10) với lòng khiêm nhường và bền tâm tín thác, trông cậy ở tình thương của Cha chúng ta trên trời.
Tôn giáo nào cũng dạy cầu nguyện, vì cầu nguyện là thực hiện tuơng quan với Đấng Thiêng Liêng mà người tín hữu tôn thờ. Cầu nguyện để chúc tụng, tạ tội, xin ơn… và sự gắn bó giữa Đấng Vô Hình với con người hữu hình, giữa Đấng Tối Cao, Toàn Năng, Tuyệt Đối với phàm nhân tương đối, yếu đuối, mỏng dòn được lớn lên qua cầu nguyện.
Sở dĩ xin Đức Giêsu dạy cầu nguyện, vì các tông đồ nhìn thấy chung quanh mình nhiều người cầu nguyện, đặc biệt các môn đệ của Gioan Tẩy Giả và các ông muốn bắt chước họ cầu nguyện. Nhưng nguyên nhân sâu thẳm hơn, đó là từ đáy sâu tâm hồn, các ông cảm nhận cầu nguyện là một nhu cầu không thể thiếu.
Và Đức Giêsu đã dạy các ông cầu nguyện. Nhưng khi dạy các ông cầu nguyện: “Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, Triều Đại Cha mau đến, xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy; xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con, và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ” (Lc 11,2-4), Đức Giêsu đã không dạy các ông một công thức cầu nguyện khô khan, cứng nhắc, kiểu bấm nút tự động thì ơn lành sẽ tuôn ra; cũng không dạy các ông cầu nguyện như người ta lải nhải một cách vô hồn những lời thần chú mê tín, ma mị, mù qúang, nhưng mặc khải cho các ông Tên của Thiên Chúa.
Tên ấy là “Cha”. Với Tên này Đức Giêsu đã “hớn hở vui mừng và nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bận khôn ngoan, thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn..” (Lc 10,21); với Tên này, trong vườn Cây Dầu trước giờ bị bắt, Ngài đã bồi hồi khẩn khoản: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con …” (Lc 22,42), vì sứ vụ mặc khải Tên Thiên Chúa là Cha chính là mục đích của đời Ngài, như Tin Mừng Gioan đã ghi lại trong lời cầu nguyện của Ngài với Chúa Cha: “Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã giao cho con làm”, và “những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho con, con đã cho họ biết danh Cha…” (Ga 17, 4. 6).
Vì thế, người môn đệ cũng được mời gọi chung tâm tình cầu nguyện với Đức Giêsu, được chia sẻ hạnh phúc gọi Thiên Chúa là Cha và ký thác nơi Ngài mọi tâm tư, ước nguyện như Ápraham đã nài xin Thiên Chúa tha thứ cho dân thành Xơđôm, “vì tội lỗi của chúng quá nặng nề” (St 18,20), khi ông năn nỉ Chúa rút số người lành từ năm mươi xuống còn mười người (x. St 18,22-33).
Để làm chứng tình thương bao la, cao vời của người cha Thiên Chúa đối với con cái mình, sau khi dạy các tông đồ cầu nguyện khi thưa với Thiên Chúa: “Lạy Cha chúng con”, Đức Giêsu khẳng định với các ông: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11, 9-10) khi quả quyết tình yêu tuyệt đối và vô cùng quảng đại của người Cha Thiên Chúa: “Ai trong anh em là một ngưòi cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Lc 11, 11-13).
Quả thực, mặc khải quan trọng nhất chúng ta nhận được từ Đức Giêsu chính là được biết tên Thiên Chúa là “Cha chúng ta”, và Người thương chúng ta bằng tình cha tuyệt đối của người Cha Thiên Chúa.
Có Thiên Chúa là Cha, chúng ta biết mình được yêu thương, gìn giữ, bao che, bênh vực, nhất là được tự do đến với Ngài, tự do ca tụng Ngài, tự do cầu xin Ngài thương xót, ban ơn, tự do tạ tội với Ngài khi lầm lỗi, mà không sợ hãi, vì “ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn đều là con cái Thiên Chúa” (Rm 8,14), mà con cái thì không sợ sệt, chỉ nô lệ mới phải sợ sệt thôi (x. Rm 8, 15). Nói cách khác, chúng ta có tất cả quyền làm con, vì “chính Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4,10), “hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” ( Gl 4,5), được gọi Thiên Chúa “Ápba! Cha ơi!”(Gl 4, 6).
Xin Chúa cho chúng ta đừng bao giờ quên Ngài là Cha chúng ta, người Cha yêu thương con mình bằng một tình yêu toàn năng tuyệt đối. Và vì có chung một Cha, nên chúng ta là anh em của nhau, và chung nhau một tâm tình cầu nguyện cho “Danh thánh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” (Mt 6,9-10) với lòng khiêm nhường và bền tâm tín thác, trông cậy ở tình thương của Cha chúng ta trên trời.
Trong cuộc sống thực tế, người cha thường hay nghiêm khắc đối với con cái, nhưng lại dạt dào TN 17-C154
Trong cuộc sống thực tế, người cha thường hay nghiêm khắc đối với con cái, nhưng lại dạt dào tình thương. Nói đúng hơn, cách thể hiện tình cảm của người cha khác với người mẹ. Tuy vậy, tình cha không kém gì tình mẹ, vừa rộng mở, vừa bao dung. Nếu có nghiêm khắc, là vì muốn cho con nên người, bởi lẽ “thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”. Cũng trong quan niệm thông thường của người Việt Nam, chữ “tình” rất quan trọng. “Trăm cái lý không bằng một tý cái tình”. Vì tình nghĩa, người ta dễ dàng bỏ qua những thiếu sót, “chín bỏ làm mười”, để quên đi quá khứ và sống hài hoà với nhau trong một làng, một xóm hoặc một đại gia đình.
Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa được xưng tụng là Cha. Ngài rất khiêm khắc đối với tội nhân, nhưng lại bao dung đối với những ai thành tâm sám hối. Ngài là Đấng “nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời. Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng hò reo” (Tv 30,6). Câu chuyện ông Abraham “mặc cả” với Chúa đã diễn tả lòng nhân từ của Ngài. Thời đó, dân thành Xơ-đôm và Gô-mô-ra sống trong tội lỗi và sa đọa, khiến Thiên Chúa bừng bừng nổi giận. Ngài quyết định sẽ trừng phạt họ. Ông Abraham đã “năn nỉ” với Chúa và dần dần từng bước hạ thấp điều kiện. Từ con số năm mươi người công chính, ông đã hạ xuống chỉ còn mười người, nhờ đó mà Chúa thay đổi ý định trừng phạt. Thiên Chúa đã bớt giận trước lời nài xin của ông Abraham và Ngài đã đồng ý: nếu có được mười người công chính thì Ngài sẽ không tru diệt hai thành này. Tác giả sách Sáng thế đã dùng lối văn “như nhân” để diễn tả Thiên Chúa. Ngài nguôi giận trước sự van xin của con người. Nếu đọc tiếp đoạn Sách thánh này, chúng ta sẽ thấy, điều kiện có mười người công chính cũng không đạt được. Thành Xơ-đôm và Gô-mô-ra đã bị lửa diêm sinh từ trời thiêu rụi. Tất cả đã bị tru diệt, chỉ trừ gia đình ông Lót, là người kính sợ Chúa. Khi vừa chạy khỏi thành, bà vợ ông Lót, vì tiếc của quay lại, bỗng hoá thành tượng muối.
Nếu Thiên Chúa kiên nhẫn trước sự xúc phạm của con người, thì con người cũng phải kiên nhẫn cậy trông để thoát khỏi trừng phạt. Người hàng xóm trong Tin Mừng thánh Luca đã kiên trì nhẫn nại để vay bánh vào lúc nửa đêm. Sự kiên trì đã làm thay đổi lòng chai đá của chủ nhà, mà trỗi dậy lấy bánh cho người hàng xóm. Chúa Giêsu đã dùng một tình huống đời thường để liên hệ đến lòng thương xót của Thiên Chúa. Nếu người thường còn làm thế, huống chi Cha trên trời. Hãy kiên trì cầu nguyện. Hãy phó thác nơi Thiên Chúa những lo lắng của cuộc đời. Ba động từ được Chúa Giêsu nhắc tới, đó là: xin, tìm, gõ cửa. Cả ba hành động này đều diễn tả sự kiên nhẫn, lòng cậy trông và tin tưởng phó thác. Thiên Chúa là Cha nhân từ. Ngài luôn lắng nghe những ước nguyện chân thành của chúng ta.
Cầu nguyện làm nên cốt lõi đời sống người tin Chúa. Vì cầu nguyện chính là than thở với Ngài, để trình bày với Ngài về nỗi niềm nhân thế. Cầu nguyện cũng là xin Chúa đỡ nâng trên đường đời còn mang nhiều truân chuyên. Đức Giêsu đã dạy các môn đệ cầu nguyện. Lời Kinh “Lạy Cha” diễn tả mối dây thiêng liêng giữa Thiên Chúa và người tín hữu. Chỉ có Chúa Giêsu mới được gọi Thiên Chúa là Cha, vì Người là Con của Chúa Cha, như Người nhiều lần khẳng định. Lời cầu nguyện mà Người dạy các môn đệ khởi đầu bằng hai chữ “Lạy Cha”, hoặc “Thưa Cha”, hoặc “Cha ơi”. Như vậy, Chúa Giêsu đã cho phép chúng ta gọi Chúa là Cha, giống như bản thân Người. Nói cách khác, nhờ Chúa Giêsu, trong Chúa Giêsu, và với Chúa Giêsu mà chúng ta được gọi Chúa là Cha với tâm tình thân thương trìu mến.
Nếu chúng ta mạnh dạn đến với Chúa và thân thưa với Ngài: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”, là nhờ cái chết của Đức Giêsu trên thập giá. Thánh Phaolô nói với chúng ta: trong Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã tha thứ mọi sa ngã lỗi lầm của chúng ta. Đức Giêsu đã giải phóng chúng ta khỏi mọi chướng ngại ngăn bước chúng ta đến gần Thiên Chúa.
Khác với lối cầu nguyện kể lể dài dòng và nhằm phô trương nơi những người biệt phái đã bị Chúa Giêsu kịch liệt lên án, kinh Lạy Cha ngắn gọn, đơn sơ mà lại mang nội dung rất phong phú. Đây là tâm tình đơn sơ của người con thảo thân thưa với Chúa. Điều cầu nguyện ưu tiên là ước mong cho vinh quang Chúa tỏ hiện giữa lòng nhân thế, để mọi người trên thế giới nhận biết Chúa là Cha vinh hiển quyền năng. Tiếp đó là những ý cầu nguyện xin cho bản thân và cho những người anh chị em bạn hữu. “Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con”. Lời kinh khiêm tốn nhẹ nhàng, vừa hướng chúng ta về Chúa, vừa liên kết chúng ta với tha nhân. Lời kinh cũng thể hiện thiện chí sống hài hoà với mọi người nhờ ơn Chúa, để có được trái tim bao dung như Ngài.
Với tâm tình yêu mến, phó thác và cậy trông, chúng ta cùng thưa với Chúa; “Lạy Cha chúng con ở trên trời…”. Chắc chắn lời kinh sẽ đem lại cho chúng ta niềm vui và sự bình an, trong mọi tình huống của cuộc đời.
Người xưa có câu: phải cầu xin là nhục, phải khuất phục là hèn. (Khổng Tử). Thực tế mỗi người TN 17-C155
Người xưa có câu: phải cầu xin là nhục, phải khuất phục là hèn. (Khổng Tử). Thực tế mỗi người phải đi bằng chính đôi chân của mình, phải sống bằng thực lực của mình, không ai chấp nhận bạn đầu hàng số phận. Nếu đường đi lối lại thuộc về bạn, bạn phải bước đi, người khác chỉ có thể cùng đồng hành với bạn. Sống trong cơ chế xin cho: người nghèo xin người giầu, kẻ dưới xin cấp trên, qua sông phải luỵ đò là thế. Vâng, cứ đi đi, cứ ngã đi, rồi bạn sẽ biết cách phải tự đứng dạy. Đồng ý rằng: cuộc sống quá phức tạp, vấp ngã, không phải là khó hiểu, người tình có thể bỏ rơi ta, bạn thân có thể nghi ngờ lòng tốt của ta, nhưng đứng lên là do sức mạnh nội tâm của ta. Ví như các vận động viên chuyên chăm tập luyện, các ca sĩ kiêng khem, luyện giọng, ít là vì danh hiệu, vì nghệ sĩ cần phải sống mãi với các “fan” hâm mộ của mình.
Cứ theo suy nghĩ tự nhiên: kẻ đói xin ăn, người giầu xin danh tiếng, ốm đau bệnh tật thì xin gặp thầy gặp thuốc, vậy những người tài giỏi, khoẻ mạnh, có phải họ không cần nói lời xin bao giờ ? Theo diễn tiến của đoạn tin mừng hôm nay, ngoài cơm bánh vật chất, địa vị danh vọng, người ta còn có nhu cầu tâm linh thật quan trọng. “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy các môn đệ ông”. Không xin bạc vàng, công danh, nhưng xin biết cầu nguyện, xin cho biết thân thưa với Thiên Chúa, đúng và đẹp, xin như thế, có phải người đời sẽ cho là khờ dại, vớ vẩn không ? Trò tin Thầy tài giỏi đức độ, con cái tin cha mẹ yêu thương, hẳn họ sẽ bày tỏ lòng mến và xin điều cần xin. Cũng vì hết sức thiết thực, Thầy Giêsu chỉ dạy các học trò cầu nguyện, xin ơn, Thầy còn đưa ra một minh hoạ về câu chuyện xin bánh giữa đêm khuya.
Hãy tin và hãy xin, hãy yêu và đừng hỏi tại sao phải sống yêu thương, hãy tin Thiên Chúa là Cha giầu lòng xót thương, qua đó ta không phải “lăn tăn” việc thành bại, tại sao lại có câu: cho vàng cho bạc không bằng chỉ đàng đi buôn. Chỉ những ai thật sự khôn ngoan mới đủ thấm lời dạy: người không học như ngọc không mài. Chỉ những ai tự mãn kiêu căng, không thành ý, không tham vấn, không cầu xin ai bao giờ mới nói: nhịn thì nhục mà cự thì gục. Hãy tin, hãy xin, vì “không người cha nào khi con cái mình xin bánh, mà cho nó hòn đá, xin trứng, lại cho nó con bọ cạp” ? Tin tưởng, xin ơn, chắc không đấng bậc nào đòi hỏi con cái phải dồi dào kỹ thuật, nhất là khi chúng đã biết đặt mình trước sự khiêm tốn thành khẩn. Xưa, người ta nói con người chỉ đẹp khi là trẻ thơ, trong hình ảnh thiên thần. Nay, người ta nói con người chỉ đẹp khi ở trên mạng xã hội, với những thủ thuật tẩy xoá, giả tạo …
Cổ nhân có câu: dịu dàng mà không nhu nhược, dịu dàng mà vẫn cương quyết, đó là bí ẩn của phụ nữ. Thánh nữ Rosalima năm xưa vừa dịu hiền vừa quyết đoán, Thánh nhân thường hãm mình, ăn ít, ngủ ít, để có nhiều thời giờ tâm sự, cầu nguyện với Chúa. Lời tâm sự của thánh nữ rất chân thành: ôi Chúa Giêsu đáng mến biết bao, cho đến khi nào con mới biết yêu mến Ngài cho đủ ? Kẻ nào không yêu mến Chúa, thì hoặc vì họ chưa biết Ngài, hoặc họ là người không có trái tim bằng thịt. Vì xót thương dân thành Sôđôma, Abraham cầu xin, thương lượng cùng Thiên Chúa: giả như tìm được mười người công chính trong thành Chúa có tha cho họ không ? Chính niềm tín thác trọn vẹn vào Thiên Chúa quyền năng và giầu lòng xót thương, ông Abraham và nhân loại được nghe: “vì mười đó, Ta sẽ không phá huỷ thành Sôđôma”.
Hãy tin, hãy xin, không phải đó là dấu chỉ kẻ nhu nhược yếu mềm, mà là nét đẹp của bậc hiền nhân quân tử: người có đức là vua, người có tài là nô bộc. Người có phúc có đức, vẫn được xem là dễ dàng hơn trong việc sống thảo sống hiếu với bậc sinh thành, ít ra vì niềm tin: có đức ắt có phúc, có phúc ắt có phần. Hình ảnh người bạn xin bánh vào đêm khuya, được đáp ứng, hình ảnh bậc làm cha mẹ, không từ chối khi con mình xin trứng xin cá, tất cả là vì yêu vì thương. Đức Giêsu còn dẫn người môn đệ đi xa hơn: “nếu các con là những kẻ gian ác còn biết cho con cái mình của tốt, phương chi Cha các con trên trời lẽ nào lại không ban Thánh Thần cho kẻ kêu xin Người”. Vấn đề tin, không thể chuẩn và đẹp khi chưa sống, chưa thực hành, vấn đề xin không thể hợp lý và có lý, nếu chỉ dừng lại trên môi miệng, hình thức.
Người xưa thật tinh tế và dồi dào kinh nghiệm: mẹ yêu con bằng trái tim, cha yêu con bằng bờ vai vững chắc. Đức Giêsu yêu các học trò không hệ tại roi vọt hay ngọt bùi, mà bằng chính gương sáng của niềm tin Thiên Chúa là Cha và hãy nhẫn nại trong nguyện xin. Hãy tin Đức Giêsu là Thầy, là Thiên Chúa cứu độ, hãy nài xin tình yêu của Chúa hiện diện, ở mãi trong các tương quan gia đình và xã hội. Tiền nhân chỉ dạy chúng ta: ở chọn nơi chơi chọn bạn. Một người bạn tốt là người bạn luôn mỉm cười khi ta cười, vui khi ta vui, nhưng sẽ không khóc khi ta khóc, bởi lúc đó họ phải nắm tay và bảo vệ ta, người bạn tốt đó, nhất định phải là tình Thầy Giêsu. Hãy tin, hãy xin, vì chính Thầy truyền dạy: “ai xin sẽ được, ai tìm sẽ gặp, ai gõ sẽ mở cho”. Amen.
Khi thấy Đức Giêsu cầu nguyện, các môn đệ cũng xin Thầy dạy cho biết cách cầu nguyện. Ngài TN 17-C156
Khi thấy Đức Giêsu cầu nguyện, các môn đệ cũng xin Thầy dạy cho biết cách cầu nguyện. Ngài đã dạy các ông kinh Lạy Cha, là lời kinh tuyệt vời, vì đó chính tâm tình sống ngập tràn tình yêu mến của Ngài đối với Chúa Cha. Theo thánh Luca, phần đầu của lời nguyện là cầu cho danh thánh Cha vinh hiển và Triều Đại Cha mau đến, nghĩa là cho mọi người được nhận biết quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Thật ra, Thiên Chúa là Đấng sung mãn và đầy tràn vinh quang, không ai thêm bớt gì được nơi Người; Người là sự sống vô biên và là nguồn mạch mọi ơn lành, nên khi con người được nhận biết, thì đó là diễm phúc cho cuộc đời họ. Hơn nữa, khát vọng sâu thẳm của con người chính là Thiên Chúa, Đấng là khởi nguyên và là cùng đích của mọi loài mọi vật. Tiếp theo là xin cho lương thực hằng ngày; xin ơn tha thứ và biết thứ tha, nhất là xin đừng bị sa chước cám dỗ.
Trong lời kinh này, điều lạ lùng và hết sức ngạc nhiên là Đức Giêsu dạy chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha: “Ba ơi!”. Tiếng gọi đó làm rúng động trái tim loài người chúng ta trước tình thương bao la của Thiên Chúa. Tiếng “Cha” ở đây không chỉ là nguồn cội phát sinh nhưng còn là vòng tay nâng đỡ, là mái ấm chở che, là động lực thúc đẩy, là lý tưởng mời gọi. Từ ngữ “Cha” gợi lên cả một trời yêu thương vừa thân thiết vừa thâm sâu và mầu nhiệm. Khi mạc khải cho biết Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu đã đưa ra một hình ảnh về Thiên Chúa hoàn toàn khác với hình ảnh các vị thần của các tôn giáo khác. Không những Ngài cho ta thấy Thiên Chúa Cha yêu thương ta vô cùng, mà còn muốn ta đi vào tình nghĩa rất riêng tư và thân thiết với Cha.
Qua Kinh Lạy Cha, chúng ta còn khám phá ra mọi người đều là anh em có cùng một Thiên Chúa là Cha: “Lạy Cha chúng con” chứ không Lạy Cha của con. Vì là anh em với nhau trong một gia đình của Thiên Chúa, nên mọi người phải sống tình liên đới và có trách nhiệm với nhau trên mọi phương diện, cả trong lời cầu nguyện. Từ nền tảng này, câu “Tứ hải giai huynh đệ” mới có một ý nghĩa thiêng liêng cao vượt, chứ không chỉ là một liên hệ bề ngoài mang tính xã hội. Tổ phụ Abraham đã thực hiện tình liên đới đó khi tha thiết cầu xin cho thành Sôđôma khỏi bị phạt vì tội lỗi của họ quá nặng nề. Ông đã mặc cả với Chúa rằng, nếu trong thành có 50 người công chính thì xin Chúa tha cho cả thành. Chúa đồng ý, nhưng rồi ông phải hạ xuống dần dần còn 10 người. Rất tiếc là Abraham đã dừng lại ở con số đó, không dám tiến xa hơn vào lòng thương xót của Thiên Chúa (x. St 18, 20-32).
Sau kinh Lạy Cha, Đức Giêsu khuyến khích chúng ta hãy xin, hãy tìm và hãy gõ cửa. Ngài mời gọi ta hãy hành động tích cực chứ không thụ động ngồi chờ. Nhưng có khi vì tự phụ mà ta không xin nên không được; có khi vì ta lười biếng mà không tìm nên ta không gặp; có khi vì ta nhút nhát không gõ cửa nên không được mở cho.
Qua dụ ngôn người bạn bị quấy rầy, Đức Giêsu còn dạy phải kiên trì khi cầu xin, để tăng thêm ước muốn của ta, và cũng là để tăng thêm giá trị ơn Chúa ban. Nếu ta không nhận được điều mình xin, không phải là Chúa không ban, nhưng có thể điều cầu xin ấy không có lợi mà còn có hại cho tâm hồn ta, hoặc Ngài muốn dành cho ta một ơn lớn lao hơn. Trong sự khôn ngoan vô cùng của Thiên Chúa là Cha từ ái, Ngài biết phải ban ơn gì và ban như thế nào để làm triển nở cuộc đời ta.
Cầu xin không phải để cho được điều mình mong ước, mà còn để đạt tới những gì Chúa ước mong. Cầu xin chủ yếu là để nối kết thân tình với Chúa, Đấng thấu suốt mọi sự trong ta, Đấng đang kết dệt nên cuộc đời ta và đưa ta vào chương trình tình yêu cứu độ của Ngài. Hiểu như thế để ta ra khỏi những bận tâm chật hẹp của bản thân, để thấy những nhu cầu lớn lao của tha nhân và Giáo hội. Cũng đừng quên rằng, ơn cao cả nhất mà Cha muốn ban cho ta là Chúa Thánh Thần. Có Thánh Thần là có niềm vui, có sức mạnh, có ánh sáng và sự sống mới. Đó là sự sống của Đức Kitô đang hình thành nơi mỗi người chúng ta cho tới khi đạt tới tầm mức viên mãn trong Thiên Chúa.
Cần lắng sâu trong cầu nguyện, ta mới biết điều mình phải xin, vì những điều ta xin còn mang nhiều cặn bẩn. Lắm khi ta xin rắn mà không hay. Cũng có khi ta tưởng Chúa cho chúng ta bọ cạp. Chỉ với con mắt đức tin, ta mới biết Chúa đã nhận lời mình rồi, nhưng theo một kiểu khác với kiểu ta muốn. Với tình yêu mến, thì mọi biến cố trong đời đều là quà tặng yêu thương của Chúa dành cho ta.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giê-su! thách đố lớn của đời Ki-tô hữu, chính là sự thinh lặng của Thiên Chúa, vì con kêu cầu mà chẳng thấy đâu, khi gặp khổ đau tinh thần thân xác, khi thấy người lành gặp bao điều ác, kẻ vô tội lại bị những hàm oan, bao người phải than van và nổi loạn, có thật chăng một Thiên Chúa toàn năng?
Chính Chúa cũng quằn quại trên thập giá, cảm thấy sự thinh lặng của Chúa Cha, trước sự gian tà mà không đáp trả, xem như muốn bỏ cả người Con yêu.
Nhưng Ngài vẫn phó thác trong tay Cha, biết Cha không hành động như người ta, Cha không đưa Con xuống khỏi thập giá, nhưng đã đưa Con ra khỏi nấm mồ, đó mới là quyền năng Cha thi thố, để nhờ Con muôn người được cứu độ.
Hôm nay Chúa dạy con cứ việc xin, và hãy tin chắc rằng Chúa sẽ cho, không hẳn thỏa mãn điều con cần có, nhưng lớn lao hơn những gì con nghĩ, người cha trần thế không cho điều xấu, huống chi Thiên Chúa là Cha nhân hậu.
Xin cho con cứ tin tưởng thật nhiều, nhưng hãy để cho Thiên Chúa định liệu, vì Người biết những gì là tốt nhất, Người còn ban cho con cả Thánh Thần, là Đấng thánh hóa suối nguồn hồng ân. Amen.
Tôn giáo nào cũng dạy cầu nguyện, vì cầu nguyện là thực hiện tuơng quan với Đấng Thiêng Liêng TN 17-C157
Tôn giáo nào cũng dạy cầu nguyện, vì cầu nguyện là thực hiện tuơng quan với Đấng Thiêng Liêng mà người tín hữu tôn thờ. Cầu nguyện để chúc tụng, tạ tội, xin ơn… và sự gắn bó giữa Đấng Vô Hình với con người hữu hình, giữa Đấng Tối Cao, Toàn Năng, Tuyệt Đối với phàm nhân tương đối, yếu đuối, mỏng dòn được lớn lên qua cầu nguyện.
Sở dĩ xin Đức Giêsu dạy cầu nguyện, vì các tông đồ nhìn thấy chung quanh mình nhiều người cầu nguyện, đặc biệt các môn đệ của Gioan Tẩy Giả và các ông muốn bắt chước họ cầu nguyện. Nhưng nguyên nhân sâu thẳm hơn, đó là từ đáy sâu tâm hồn, các ông cảm nhận cầu nguyện là một nhu cầu không thể thiếu.
Và Đức Giêsu đã dạy các ông cầu nguyện. Nhưng khi dạy các ông cầu nguyện: “Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, Triều Đại Cha mau đến, xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy; xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con, và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ” (Lc 11,2-4), Đức Giêsu đã không dạy các ông một công thức cầu nguyện khô khan, cứng nhắc, kiểu bấm nút tự động thì ơn lành sẽ tuôn ra; cũng không dạy các ông cầu nguyện như người ta lải nhải một cách vô hồn những lời thần chú mê tín, ma mị, mù qúang, nhưng mặc khải cho các ông Tên của Thiên Chúa.
Tên ấy là “Cha”. Với Tên này Đức Giêsu đã “hớn hở vui mừng và nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bận khôn ngoan, thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn..” (Lc 10,21); với Tên này, trong vườn Cây Dầu trước giờ bị bắt, Ngài đã bồi hồi khẩn khoản: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con …” (Lc 22,42), vì sứ vụ mặc khải Tên Thiên Chúa là Cha chính là mục đích của đời Ngài, như Tin Mừng Gioan đã ghi lại trong lời cầu nguyện của Ngài với Chúa Cha: “Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã giao cho con làm”, và “những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho con, con đã cho họ biết danh Cha…” (Ga 17, 4. 6).
Vì thế, người môn đệ cũng được mời gọi chung tâm tình cầu nguyện với Đức Giêsu, được chia sẻ hạnh phúc gọi Thiên Chúa là Cha và ký thác nơi Ngài mọi tâm tư, ước nguyện như Ápraham đã nài xin Thiên Chúa tha thứ cho dân thành Xơđôm, “vì tội lỗi của chúng quá nặng nề” (St 18,20), khi ông năn nỉ Chúa rút số người lành từ năm mươi xuống còn mười người (x. St 18,22-33).
Để làm chứng tình thương bao la, cao vời của người cha Thiên Chúa đối với con cái mình, sau khi dạy các tông đồ cầu nguyện khi thưa với Thiên Chúa: “Lạy Cha chúng con”, Đức Giêsu khẳng định với các ông: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11, 9-10) khi quả quyết tình yêu tuyệt đối và vô cùng quảng đại của người Cha Thiên Chúa: “Ai trong anh em là một ngưòi cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Lc 11, 11-13).
Quả thực, mặc khải quan trọng nhất chúng ta nhận được từ Đức Giêsu chính là được biết tên Thiên Chúa là “Cha chúng ta”, và Người thương chúng ta bằng tình cha tuyệt đối của người Cha Thiên Chúa.
Có Thiên Chúa là Cha, chúng ta biết mình được yêu thương, gìn giữ, bao che, bênh vực, nhất là được tự do đến với Ngài, tự do ca tụng Ngài, tự do cầu xin Ngài thương xót, ban ơn, tự do tạ tội với Ngài khi lầm lỗi, mà không sợ hãi, vì “ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn đều là con cái Thiên Chúa” (Rm 8,14), mà con cái thì không sợ sệt, chỉ nô lệ mới phải sợ sệt thôi (x. Rm 8, 15). Nói cách khác, chúng ta có tất cả quyền làm con, vì “chính Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4,10), “hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” ( Gl 4,5), được gọi Thiên Chúa “Ápba! Cha ơi!”(Gl 4, 6).
Xin Chúa cho chúng ta đừng bao giờ quên Ngài là Cha chúng ta, người Cha yêu thương con mình bằng một tình yêu toàn năng tuyệt đối. Và vì có chung một Cha, nên chúng ta là anh em của nhau, và chung nhau một tâm tình cầu nguyện cho “Danh thánh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” (Mt 6,9-10) với lòng khiêm nhường và bền tâm tín thác, trông cậy ở tình thương của Cha chúng ta trên trời.
Cuộc sống là vô thường. Không có gì là tồn tại mãi. Có những điều mất đi ta mới thấy hụt hẫng TN 17-C158
Cuộc sống là vô thường. Không có gì là tồn tại mãi. Có những điều mất đi ta mới thấy hụt hẫng như tình yêu thương của cha, của mẹ dành cho con cái. Khi ở trong vòng tay của mẹ cha ta luôn cảm thấy ấm áp hạnh phúc. Mất đi rồi ta mới thấy nhớ nhung, nuối tiếc không nguôi.
Tôi nhớ có đoạn status viết rằng:
“Bố à! con ước gì bố vẫn ở đây với con. Có nhiều thứ làm con mệt, làm con muốn khóc. Con của bố nhiều khi không mạnh mẽ được như lời bố dặn. Ở một mình con hay khóc lắm vì nhớ bố, vì tủi thân
Con nhớ Bố, Bố ơi” Và có bạn còn viết rằng:
“Trái đất cứ xoay vòng, thời gian thì cứ trôi, nhưng một điều sẽ mãi mãi không thay đổi, đó là tình thương của cha trong trái tim con. Dù ngần ấy năm trôi qua, con vẫn nhớ về cha mỗi ngày như vậy
Quả thực người cha luôn là điểm tựa vững chắc nhất cho ta mỗi khi ta thấy mình yếu đuối, va vấp trong cuộc đời; là khung trời cho ta tung cánh bay thật cao…thật xa…với những ước mơ đong đầy….
Thật hạnh phúc cho những ai có một người cha tốt lành. Một người cha luôn ở bên con, lo lắng mọi điều cho con. Một người cha bao dung luôn tha thứ và kiên nhẫn với lỗi lầm của con.
Hôm nay Chúa Giê-su cũng mạc khải cho nhân loại về một Thiên Chúa với danh xưng là Cha. Một người Cha quyền năng và cũng thật tốt lành. Một người cha yêu thương con đến nỗi đã trao tặng cho con người toàn bộ gia sản mà Ngài đã tạo dựng nên. Một người cha chậm bất bình và rất mực từ bi. Ngài có giận trong giây lát nhưng yêu thương thì suốt đời, cho dù con cái có vong ân bội nghĩa, cha vẫn ngày ngày ngóng con trở về và luôn rộng lòng tha thứ khi con quay gót trở về.
Thật hạnh phúc cho chúng ta được làm con Thiên Chúa. Hãy đặt niềm tín thác nơi Chúa. Thiên Chúa như người Cha sẽ luôn lo lắng mọi sự cho con cái. Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta vì chính Ngài đã nói: “hãy xin thì sẽ được, hãy gõ thì sẽ mở cho”.
Chúng ta hãy nhớ tới biết bao người đang đói khổ do mất mùa, do dịch bệnh gây nên.
Chúng ta hãy nhớ tới biết bao người đang thất nghiệp, nhưng còn gánh trên vai nợ nần chồng chất.
Chúng ta hãy nhớ tới biết bao người đang đau yếu bệnh tật, đang thiếu mọi phương tiên cứu sống.
Xin Cha ban lương thực và gìn giữ họ khỏi mọi sự dữ. Xin Cha đoái nhìn đến những thiếu thốn của họ và rộng tay ban phát.
Nguyện xin cho danh Chúa được cả sáng khi con người biết tín thác vào.
Khi cầu nguyện chúng ta dâng lên Chúa tâm tình tạ ơn, đồng thời cởi mở tấm lòng, tâm sự cùng TN 17-C159
Khi cầu nguyện chúng ta dâng lên Chúa tâm tình tạ ơn, đồng thời cởi mở tấm lòng, tâm sự cùng Chúa. Đôi khi tấm lòng đó là mớ bòng bong rối bời, bao gồm lo lắng, buồn phiền, lo sợ, pha trộn với đau thương, đen tối, thất vọng, ê chề, chan chứa niềm đau của chính mình hoặc của người thân thương. Chúng ta dâng lên Chúa mối bận tâm đó, bởi chúng ta tự nhận mình yếu đuối, không đủ khả năng giúp mình và cần đến ơn Chúa trợ giúp. Chúng ta định thời gian cầu nguyện, nơi chốn và ngay cả cách cầu nguyện. Tuy nhiên kết quả cầu nguyện, nằm ngoài tầm tay ta; điều này hoàn toàn thuộc về Chúa và do Chúa quyết định. Cầu nguyện thường rập khuân theo thói quen, có nghĩa là lập đi, lập lại cùng phong cách, lời cầu. Cuộc sống tâm linh và cuộc sống thường ngày giống nhau ở điểm lập đi, lập lại. Mỗi ngày chúng ta thức dậy đúng giờ, làm cùng một công việc cần làm cho bản thân trước khi bắt đầu một ngày mới. Khi cầu nguyện, chúng ta bắt đầu bằng tâm tình tạ ơn, sau đó chúng ta cởi mở tấm lòng, tâm sự cùng Chúa điều chúng ta cần, bởi chúng rất gần, liên quan đến cuộc sống.
Kinh Lậy Cha, Đức Kitô dậy xin cho lương thực hàng ngày bởi chúng ta cần thực phẩm mỗi ngày. Chúng ta xin Chúa thứ tha tội lỗi bởi con người vừa bất toàn, vừa yếu đuối lại hay chiều theo thân xác. Học từ Thiên Chúa chúng ta cũng cần bỏ qua lỗi lầm thiếu sót của anh em. Đây không phải là một lựa chọn mà là điều phải làm bởi chính chúng ta được Chúa yêu thương, tha thứ. Chúng ta cần thể hiện điều đó với tha nhân. Chúng ta cũng cầu nguyện cho í Chúa được thể hiện để mọi người được sống an vui, hạnh phúc. Í tha nhân thường thay đổi, trong khi í Chúa không bao giờ thay đổi, trước sau như một. Đức Kitô dùng hình ảnh cha mẹ trần thế dù bất toàn còn biết cho con cái điều tốt đẹp. Chúa Cha sẽ ban cho những ai kêu cầu Danh Ngài điều trọn lành, thiện hảo, bởi Ngài là Đấng Thánh. Ngay cả Danh Ngài cũng Chí Thánh vì thế mọi sự đến từ Ngài đều tuyệt vời.
Đức Kitô kể chuyện ba người bạn để nói lên lòng nhân ái Chúa. Người bạn đi đường xa đến nhà anh bạn vào lúc đêm khuya. Chủ nhà không có chi đãi bạn đường xa, anh đến nhà người bạn cùng xóm hỏi mượn của ăn vào giữa đêm khuya. Người bạn đó chính là anh và tôi. Chúng ta được mời gọi dâng lời cầu lên Thiên Chúa bất cứ khi nào chúng ta nhớ đến Chúa, chập tối, giữa đêm hay hoàng hôn. Bất cứ khi nào chúng ta thấy nhu cầu cần cầu nguyện, chúng ta có thể dâng lời cầu xin. Bạn bị thức giấc, lo sợ, phiền muộn giữa đêm, bạn dâng lời cầu xin. Chúa không phiền trách. Đức Kitô còn dậy:
Ai xin sẽ được, tìm sẽ thấy và gõ sẽ mở cho Lc 11,9.
Đây không phải là kinh nghiệm của Kitô hữu bởi ai cũng có kinh nghiệm xin hoài, xin mãi vẫn không nhận được điều mình xin. Điều chắc chắn, rõ ràng là những gì đến từ Chúa đều trọn lành, tốt đẹp, bởi Ngài là Đấng Thánh. Có thể Chúa không ban đúng điều chúng ta xin nhưng ban cho điều khác tốt lành cho ta hơn. Có thể Chúa ban cho sức mạnh nội tâm để vững tin vào Chúa. Có thể Chúa ban ơn khôn ngoan để giải quyết vấn đề. Có thể Chúa ban cho ơn can đảm để chấp nhận sự thật trong đời. Chúng ta xin ơn khôn ngoan biết nhận ra món quà Chúa trao ban.
Chú trọng quá nhiều đến thành quả của cầu nguyện là đặt sai trọng tâm trong cầu nguyện. Trọng tâm của cầu nguyện không phải là nhìn đến kết quả của cầu xin. Trọng tâm của cầu nguyện là liên kết cuộc sống ta với Thiên Chúa; nhận biết Thiên Chúa cùng đồng hành với ta trong mọi hoàn cảnh, tình huống của cuộc sống. Đức Kitô cho biết Chúa Cha biết ta cần những gì ngay cả trước khi chúng ta xin.
Khi cảm thấy điều ta xin bị từ chối, hãy đọc lại dụ ngôn người kia tổ chức tiệc cưới cho con. Ông gởi thiệp mời đến các thân hữu. Mọi người đều viện lí do từ chối. Người thì cần đi xem ruộng định mua, kẻ khác coi nhà bán, kẻ khác nữa đi mua súc vật Lc 14:16-19. Dụ ngôn đặt vấn đề ai từ chối ai? có bao giờ bạn từ chối lời Đức Kitô mời gọi: Hãy theo ta.
Đức kitô không thiếu kinh nghiệm bị người ta loại bỏ, từ chối, trách móc, nhục mạ. Đức Kitô có lần nói, ‘Ta đứng gõ cửa. Ai ra mở cửa, Ta sẽ vào nhà người ấy, và sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta’. K H 3:20.
Cuối bài giảng Đức Kitô cho biết, ‘Cha trên trời ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người’ Lk 11,13 Có Thánh Thần Chúa là có tất cả bởi Thánh Thần sẽ đáp lại lời ta tâm sự.
Trong suốt hành trình rao giảng, Thầy Giêsu luôn dành thời gian để cầu nguyện cùng Cha. Hình TN 17-C160
Trong suốt hành trình rao giảng, Thầy Giêsu luôn dành thời gian để cầu nguyện cùng Cha. Hình ảnh Thầy Giêsu cầu nguyện đã trở nên thật quen thuộc và đầy lôi cuốn. Người thường cầu nguyện một mình. Từ trước đến nay, Thầy Giêsu chỉ âm thầm làm gương cho các ông, và hôm nay một người môn đệ mới đại diện các anh em ngỏ lời xin Thầy dạy cầu nguyện. Người đã dạy các ông lời cầu nguyện đẹp nhất và khuyên các ông hãy kiên trì trong cầu nguyện.
Lời cầu nguyện mà Thầy Giêsu dạy chính là lời kinh “Lạy Cha” mà ta vẫn thường đọc hằng ngày. Lời ấy hướng tâm hồn ta về Thiên Chúa là Cha, đặt ta trước sứ mạng làm chứng cho Nước Chúa hiển trị ngay ở trần gian bằng chính đời sống yêu thương và tha thứ. Khi cầu xin như thế, người Kitô hữu tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa và bày tỏ lòng tín thác nơi tình yêu quan phòng của Người. Cầu nguyện là sự sống của mỗi người Kitô hữu và cũng là một hành động xuất phát từ một trái tim tràn đầy lòng mến và một đức tin trưởng thành mỗi ngày. Đây không chỉ là một hành động cầu xin đơn thuần nhưng là một sứ mạng thiêng liêng liên quan đến ân sủng. Nghĩa là khi cầu nguyện, ta không dựa vào sức lực và ước muốn riêng nhưng cần mở ra trước ân sủng của Chúa và trung thành dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Thầy Giêsu dạy cầu nguyện cho tất cả những ai đang khao khát cầu nguyện. Thánh Luca không nêu rõ danh tính của người ngỏ lời xin Thầy Giêsu dạy cầu nguyện. Người ấy là ai?
Hôm nay, người ấy có thể là một người mẹ quê nghèo khổ đang mắc bệnh nặng. Chị đến với Chúa chỉ đơn giản thưa lên Chúa tâm tình phó thác của mình, bằng sự đơn sơ chân thành, chị đọc lời kinh “Lạy Cha” mà chị đã thuộc lòng từ tấm bé. Ngày này qua ngày khác, chị kiên trì cầu nguyện với Chúa Giêsu. Chị bày tỏ lòng yêu mến Đức Mẹ, chị lần hạt mỗi ngày để nhờ Mẹ chuyển cầu lên Chúa. Người ấy cũng có thể là một nhà bác học đang cặm cụi với những thí nghiệm, những nghiên cứu của mình. Người ta vẫn có thể bắt gặp ông đang quỳ gối cầu nguyện trong ngôi nhà nguyện nhỏ. Đó cũng có thể là một bác nông dân đang mong chờ cơn mưa đầu mùa. Sau những ngày nắng hạn, cơn mưa tưới mát cả cánh đồng. Nhìn cơn mưa, lòng đầy phấn khởi và hy vọng, bác thầm dâng lên Chúa lời tạ ơn. Người ấy có thể là bất cứ ai – những người khao khát được gặp gỡ Chúa và dâng lên Chúa tâm tình tri ân. Cũng như người kia đến nhà người bạn để xin sự giúp đỡ, anh ta đã nhận được sự giúp đỡ sau khi đã đứng lì ra đó để mà nài xin. Anh không xin cho mình nhưng cho một người bạn lỡ đường. Cầu nguyện đòi hỏi sự kiên trì và hạ mình thẳm sâu.
Cầu nguyện là hành động của người đang cầu xin sự giúp đỡ, của tâm hồn đang tìm kiếm chân lý, của đôi chân đang ngập ngừng đứng trước cửa và đưa đôi tay gầy guộc để gõ lên cánh cửa đang đóng với hy vọng nó sẽ mở ra. Thầy Giêsu khẳng định: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho (Lc 11, 9-10).
Lạy Thiên Chúa là Cha nhân lành! Cha biết rõ con cần gì trước khi con cầu xin. Cha hằng ban Thánh Thần cho những kẻ cầu xin. Xin cho con biết cầu nguyện với tâm tình của một người con thảo theo gương thầy Giêsu, để lời cầu nguyện của con thống nhất với cả đời sống, một đời sống tràn đầy tình bác ái yêu thương. Amen.
Cầu nguyện là cách để con người đến gần Thiên Chúa. Qua cầu nguyện, con người đi tìm gặp TN 17-C161
Cầu nguyện là cách để con người đến gần Thiên Chúa. Qua cầu nguyện, con người đi tìm gặp Thiên Chúa cũng như chính Thiên Chúa đến gặp gỡ con người. Lịch sử cứu độ cho chúng ta thấy các cuộc gặp gỡ ấy. Chẳng hạn như cuộc gặp gỡ của tổ phụ Ápraham với Thiên Chúa, Giacóp với sứ thần của Chúa, của Môsê với Thiên Chúa… Bài Tin mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta câu chuyện của Thầy trò Đức Giêsu. Một lần kia, sau khi Thầy Giêsu cầu nguyện xong, có một môn đệ đến xin Người dạy cho cách cầu nguyện. Đức Giêsu đã dạy cho các ông.
Điều đầu tiên khi cầu nguyện đó là xin cho danh thánh Cha được vinh hiển, tiếp sau đó mới đến các nhu cầu của ta. Chúa Giêsu hướng chúng ta đến tương quan với Chúa Cha, hướng đến Đấng mà ta cầu xin và mong cho triều đại của Cha mau đến hơn là nói về điều ta muốn xin cho mình. Sau đó là hướng đến các nhu cầu của ta, của mọi người và cũng không quên xin cho mình khỏi sa chước cám dỗ. Để nói rõ và cụ thể hơn về lời dạy của mình, Đức Giêsu kể cho các ông nghe câu chuyện anh bạn lỡ đường. Người khẳng định rằng dù người bạn đó không dậy để lấy cho anh bạn của mình những gì anh ta cần vì tình bạn thì cũng sẽ dậy vì sự kiên trì của anh ta. Người còn tha thiết, mời gọi các ông hãy cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì ngay cả một người cha vốn là kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành thì Cha trên trời sẽ còn ban cả Thánh Thần cho những kẻ kêu xin (x. Lc 11, 5-13).
Đọc lại câu chuyện của tổ phụ Ápraham, chúng ta sẽ thấy được sự kiên nhẫn và tình thương bao la của Thiên Chúa. Đồng thời, chúng ta cũng học được nơi tổ phụ Ápraham một thái độ cần thiết khi cầu nguyện. Để nài xin Chúa tha thứ cho dân thành, ông Ápraham đã không ngần ngại hết lần này đến lần khác thưa lên với Chúa lời van nài để xin Chúa thương xót dân thành. Quả thực, theo dõi diễn tiến của gặp gỡ, trao đổi của ông với Đức Chúa, chúng ta sẽ phải nín thở, thán phục sự mạnh bạo của ông và đồng thời hết lòng ngợi khen lòng thương xót, khoan dung của Chúa bao la vô ngần. Con số những người lành được tìm thấy dường như ít dần đi nhưng với hết cả tấm lòng và sự tin tưởng, ông vẫn thưa lên cùng Đức Chúa. Ông rất khéo léo, khiêm tốn và hết sức tin tưởng vào Chúa. Nhờ ông mà bao nhiêu người được cứu thoát khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.
Khi cầu nguyện, chúng ta không chỉ dừng lại ở tương quan cá vị với Chúa mà còn được thực thi một nghĩa vụ cao cả là trung gian chuyển cầu. Ông Ápraham đã thực hiện một cuộc thương lượng để dân thành khỏi chết vì lửa (x. St 18, 20-32), ông Môsê đã cố gắng làm cho nét mặt của Chúa dịu lại (x. Xh 32, 7-14). Ngày hôm nay, chúng ta cũng hãy đến với Chúa, thưa lên cùng Chúa lời nguyện cầu thay cho bao người, có khi vì chúng ta nài xin mà Chúa sẽ không giáng phạt như Ngài định làm; hay vì chúng ta, Ngài sẽ ban cho người này người kia điều họ mong ước. Chúng ta có thể trở thành trung gian chuyển cầu khi biết tìm đến với Chúa, thân thưa với Ngài, sống thân tình với Chúa. Vì là chỗ thân tình, là bạn tâm giao, là người yêu dấu, chúng ta sẽ được Chúa nhậm lời. Trong cầu nguyện, khi làm trung gian chuyển cầu, chúng ta cần lắm sự trung thành, kiên trì dù gặp khó khăn và một thái độ chân thành, khiêm tốn.
Cầu nguyện không phải là việc của riêng ai, không phải là của tu sĩ, linh mục nhưng là của tất cả mọi người. Có tương quan là có cầu nguyện. Mỗi người tương quan với Chúa thế nào một phần là ở việc cầu nguyện. Cầu nguyện là điều không thể thiếu trong đời sống của người Kitô hữu nói chung và là nền tảng của đời sống tu trì. Mỗi người sẽ có cách cầu nguyện khác nhau, sẽ có tương quan thân gần hay xa cách, mặn nồng hay hờ hững, thân thiết hay quen biết xã giao với Chúa. Chúa luôn mở rộng cửa đón chờ chúng ta, đến hay không là ở sự tự do của mỗi người. Đừng để thời gian qua đi mà không thiết lập tương quan với Thiên Chúa là Đấng tối cao. Ngài là kho báu, là bể tình thương cho ta kín múc. Hãy đến với Ngài, đừng ngần ngại.
Kinh Lạy Cha được ghi lại ở hai Phúc âm: Matthêu và Luca. Sau khi Chúa dạy đừng khua chiêng TN 17-C162
Kinh Lạy Cha được ghi lại ở hai Phúc âm: Matthêu và Luca.
Sau khi Chúa dạy đừng khua chiêng đánh trống như người giả hình. Đừng cho tay trái biết việc tay phải phải làm. Khi cầu nguyện đừng lải nhải, họ cứ nghĩ rằng cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha trên trời biết rõ anh em cần gì. Đừng như người giả hình thích đứng cầu nguyện trong hội đường. Rồi Matthêu kết luận: Vậy anh em hãy cầu nguyện như thế này: “Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển” (Mt 6,7-9).
Luca xếp hoàn cảnh Kinh Lạy Cha ngay sau trình thuật bữa ăn ở nhà Macta, Maria và Ladarô. Câu chuyện xảy ra ở vùng núi Ôliu. Nơi chốn và thời gian của Kinh Lạy Cha là: “Mọi người trở về nhà mình, còn Chúa thì đến và qua đêm ở núi Ôliu”. Cả ngày Chúa giảng trong đền thờ. Đêm đến Thầy trò kéo nhau về núi Ôliu. Bấy giờ các môn đệ hỏi Chúa cách cầu nguyện. Chúa đã dạy Kinh Lạy Cha: “Thưa thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện,cũng như ông Gioan đã dạy môn đệ của ông.Người bảo các ông:‘Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, Triều Đại Cha mau đến’” (Lc 11,1-2).
Kinh Lạy Cha, một lời kinh tuyệt vời và phong phú vì chất chứa bao điều huyền nhiệm.
Đọc xuôi, Kinh Lạy Cha bao gồm: một lời thân thưa (Lạy Cha), hai lời nguyện ước (xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển triều đại Cha mau đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời) và ba lời cầu xin (xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày, xin tha tội cho chúng con, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ). Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện là xin cho mình được sống trọn tình con thảo đối với Thiên Chúa. Làm con thảo của Chúa là làm sao để mọi người được nhận biết, thờ phượng và thực thi ý Chúa, tuân giữ lề luật của Ngài và yêu thương tha nhân.
I. Đọc ngược Kinh Lạy Cha
Đọc ngược kinh Lạy Cha để đi lại lộ trình đức tin của dân Do thái ngày xưa và để bày tỏ niềm xác tín mới đối với Thiên Chúa vì những gì Người ban cho chúng ta qua kinh Lạy Cha. Vậy chúng ta hãy cùng nhau tuyên xưng:
Thiên Chúa là Cha quyền năng đã cứu chúng ta cho khỏi sự dữ. Cũng như ngày xưa Thiên Chúa đã cứu dân Israel ra khỏi ách nô lệ bên Ai cập, thì nay qua bí tích rửa tội, mỗi người chúng ta cũng đã được Thiên Chúa cứu khỏi quyền lực của Satan là đầu mối của mọi sự dữ.
Thiên Chúa là Cha yêu thương không để chúng ta sa chước cám dỗ. Sau khi được Chúa giải thoát khỏi ách nô lệ Ai cập, dân Do thái đã đi qua hoang địa tiến về đất hứa, đã gặp rất nhiều cám dỗ và thử thách. Sau khi chịu phép rửa tội, cuộc đời chúng ta cũng là một hành trình xuyên qua hoang địa trần gian để tiến về đất hứa đích thực là thiên đàng. Chúng ta cũng gặp phải những chước cám dỗ như người Do thái ngày xưa. Nhận ra sự yếu đuối của mình, chúng ta tha thiết khẩn cầu Chúa gìn giữ và Người đã gìn giữ chúng ta.
Thiên Chúa là Cha nhân từ luôn sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta. Mặc dù đã nhiều lần phản bội, quay lưng lại với Thiên Chúa, thử thách Thiên Chúa, cứng đầu cứng cổ bất tuân lệnh Chúa, nhưng dân Do thái đã được Chúa tha thứ, nhờ lời chuyển cầu của ông Môsê. Cũng vậy, nhờ công nghiệp của Đức Kitô, chúng ta luôn được Thiên Chúa thứ tha những lỗi lầm thiếu sót và những xúc phạm đến Thiên Chúa và anh chị em là hình ảnh của Người. Được Thiên Chúa tha thứ, chúng ta cũng tha thứ cho nhau, để cùng nhau tiến bước trên con đường của Chúa.
Thiên Chúa là Cha quan phòng luôn chăm sóc và nuôi dưỡng chúng ta. Trong suốt hành trình 40 năm trước khi tiến vào đất hứa là nơi chảy sữa và mật, mỗi ngày dân Do thái đã được Thiên Chúa ân cần ưu ái ban cho manna, thịt chim cút và nước sạch từ tảng đá chảy ra. Ngày nay Thiên Chúa quan phòng cũng luôn lo liệu cho chúng ta mọi nhu cầu vật chất, để chúng ta có thể sống xứng đáng và phát triển các khả năng. Hơn nữa Người còn ban cho chúng ta bánh hằng sống là Lời Chúa và bí tích Thánh Thể để nuôi dưỡng linh hồn chúng ta, cùng với dòng nước ơn thánh vọt ra từ tảng đá là Đức Kitô đang hoạt động qua các bí tích, giúp chúng ta có sức đạt đến đất hứa đích thực là nước thiên đàng, nơi tràn trề sữa và mật thiêng liêng, khiến cho chúng ta không bao giờ đói khát.
Thiên Chúa là Cha khôn ngoan đã mạc khải cho chúng ta thánh ý của Người và giúp chúng ta thực hiện. Cùng với manna, chim cút và nước từ tảng đá vọt ra, Thiên Chúa còn ban cho dân Do thái các huấn lệnh bày tỏ ý muốn của Người, để họ tuân giữ và được sống. Ngày nay, chúng ta cũng nhận được thánh ý của Thiên Chúa biểu lộ qua Thánh Kinh, qua giáo huấn của Giáo Hội. Đời sống của mỗi người chúng ta hệ tại việc thực thi ý Chúa. Khi kết hiệp sự vâng phục của chúng ta với sự vâng phục của Chúa Giêsu đối với thánh ý Cha, tức là chúng ta làm cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
Thiên Chúa là Vua uy quyền đã làm cho Nước Chúa trị đến nơi chúng ta. Sau khi hoàn tất cuộc hành trình xuyên qua sa mạc, Thiên Chúa đã ban cho dân Israel đất hứa làm gia nghiệp, ở đó họ sống hạnh phúc dưới quyền cai trị của Người. Sau khi hoàn tất cuộc hành trình nơi dương thế, chúng ta cũng sẽ được đưa vào Nước Trời, nơi Thiên Chúa hiển trị, để Người mãi mãi là Vua của chúng ta và chúng ta sẽ là dân của Người đến thiên thu vạn đại, và trong Nước Người không còn đau khổ, khóc than và tang tóc, nhưng chỉ có sự sống dồi dào trong hạnh phúc vô biên.
Thiên Chúa là Cha, đó là thánh danh mà chúng ta ca tụng đến muôn ngàn đời. Sống trong đất hứa Thiên Chúa đã ban, những người Do thái đạo đức không ngừng tôn vinh danh Chúa, vì chính nhờ danh Người họ đã được cứu thoát khỏi ách nô lệ Ai cập, được giúp đỡ để vượt qua các chước cám dỗ, được tha thứ mọi tội lỗi, được nuôi dưỡng chăm sóc, được biết thánh ý của Thiên Chúa, được sống dưới quyền cai trị của Chúa. Mai ngày trên thiên đàng, chúng ta cũng sẽ không ngừng ca tụng thánh danh Thiên Chúa và chúng ta có thể khởi đầu kinh Lạy Cha như sau: “Lạy Cha, giờ đây chúng con được ở với Cha trên trời”. (trích từ: Kinh Lạy Cha của Linh Mục trong Năm Đức Tin, ĐGM Matthêô Nguyễn Văn Khôi; Gpquinhon.org).
II. Kinh Lạy Cha, lời kinh tuyệt vời
Kinh Lạy Cha là lời kinh của chính Chúa Giêsu. Thánh Tôma Aquinô gọi Kinh Lạy Cha là “lời cầu nguyện tuyệt hảo nhất”. Còn Tertulianô nói đây là “Bản tóm tắt toàn bộ Tin Mừng”. Tin Mừng về Thiên Chúa là Cha và chúng ta có thể nài xin cùng Ngài trong tư cách là những người con.
Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời. Vinh danh và thánh ý Chúa được đặt trên hết. Các nhu cầu của con người được đặt sau.
Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời. Con người được gọi Thiên Chúa là Cha. Mỗi người là con cái của Thiên Chúa.
Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời. Xin Cha ban ơn không những phần xác mà cả phần hồn; xin Cha không chỉ tha tội trong quá khứ mà còn gìn giữ cho khỏi sa chước cám dỗ ở tương lai.
Kinh Lạy Cha là lời kinh tuyệt vời và huyền nhiệm nối kết con người với Thiên Chúa. Đây là lời kinh đến từ Thiên Chúa, là quà tặng của Thiên Chúa trao ban cho con người. Chính vì thế, Thiên Chúa ưa thích và không ngừng ban muôn ơn cho con người thông qua lời kinh thân thương, đơn giản và dễ hiểu này.
III. Đọc Kinh Lạy Cha với tâm tình yêu mến
Trong Thánh Lễ, trước khi đọc Kinh Lạy Cha, chủ tế mời gọi: “Vâng lệnh Chúa Cứu Thế và theo lời Người dạy, chúng ta dám nguyện rằng”. Động từ “dám” diễn tả một thái độ kính sợ đối với Chúa. Thái độ này bắt nguồn từ truyền thống lâu đời trong Kinh Thánh, được minh họa trong cảnh Môsê gặp Thiên Chúa nơi bụi gai bốc cháy mà không bị thiêu rụi: “Chớ lại gần. Cởi dép ra, bởi đất ngươi đang đứng là đất Thánh” (Xh 3,5). Chỉ nhờ Đức Giêsu Kitô – Thiên Chúa làm người, chúng ta mới dám đến gần Thiên Chúa là Cha, trong niềm tin yêu thảo hiếu: “Trong Ngài, ta được tự do dạn dĩ và được đến cùng Cha, đầy lòng tín thác vì đã tin vào Ngài” (Ep 3,12).
Kinh Lạy Cha là bản kinh tóm lược toàn bộ Tin Mừng, là lời kinh của Chúa Giêsu, lời kinh duy nhất mà Chúa Giêsu đã trực tiếp dạy các môn đệ. Kinh Lạy Cha còn là lời kinh của Hội Thánh, trong Phụng vụ, Kinh Lạy Cha luôn chiếm ưu thế đặc biệt trong các Giờ kinh Nhật tụng, trong Thánh lễ và trong các Bí tích gia nhập Kitô giáo.
Chính vì thế, khi đọc Kinh Lạy Cha, thái độ nền tảng chúng ta phải có là khiêm tốn và biết ơn: khiêm tốn vì nhận ra sự thật về con người bất xứng của mình, tạ ơn vì biết rằng tất cả là ân huệ Thiên Chúa ban. Đồng thời, phải noi gương Chúa Giêsu, sống tư cách người con hiếu thảo, luôn tín thác vào Cha, và thực thi thánh ý Cha. Cầu nguyện là thân thưa với Thiên Chúa như con với cha.
Chúa Giêsu là Đấng đã thi hành ý muốn của Cha ở dưới đất cũng như ở trên trời. Lời cầu nguyện Chúa Giêsu dạy chúng ta cũng là lời tóm kết những gì Chúa đã sống. Lời cầu nguyện và đời sống của Chúa đi đôi với nhau. Kinh Lạy Cha, nhờ Chúa Giêsu mà chúng ta “dám” thân thưa lời cầu nguyện hàng ngày với Cha trên trời. Trong thánh lễ, trước khi đọc Kinh Lạy Cha, vị chủ tế nâng cao Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, tuyên xưng rằng: Chính nhờ Ðức Kitô,cùng với Ðức Kitô,và trong Ðức Kitô, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, mọi vinh quang và danh dự đều thuộc về Cha,là Thiên Chúa toàn năng, đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Bài Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay là trích đoạn từ chương 11,1-13, trong đó tác giả ghi TN 17-C163
Bài Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay là trích đoạn từ chương 11,1-13, trong đó tác giả ghi lại cho chúng ta Kinh Lạy Cha, là lời kinh đẹp nhất và ý nghĩa nhất trong kinh nguyện Kitô giáo. Bởi lẽ, lời cầu nguyện này trực tiếp đến từ môi miệng của Chúa Giêsu, do Người dạy. Chúng ta hãy tưởng tượng mỗi ngày trên thế giới có biết bao nhiêu triệu người đọc Kinh này để cầu nguyện.
Hơn nữa, lời Kinh này ra đời trong bối cảnh đặc biệt sau khi Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha và sống thân mật với Người. Điều đó cho thấy Chúa Giêsu là con người cầu nguyện và là thầy dạy cầu nguyện. Vì thế, các môn đệ đến xin Chúa dạy cho biết phải cầu nguyện thế nào như họ đã thấy Gioan Tẩy Giả dạy các môn đệ ông cầu nguyện. Ở đây, chúng ta cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của Kinh Lạy Cha.
1- Thiên Chúa là Cha chúng ta
Trước hết, Chúa bảo họ rằng: “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói rằng: Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển.”
Ở đây, Chúa Giêsu dạy chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha khi cầu nguyện, chứ không gọi là Thiên Chúa, là Vua, là Đấng quyền năng, dẫu đó là những danh hiệu dành cho Thiên Chúa. Điều này có nghĩa là gì? Chúa Giêsu muốn chúng ta đi vào tương quan trước hết với Thiên Chúa như là Cha – con với Người. Đây chính là tương quan nền tảng và là niềm vui của chúng ta với Thiên Chúa. Thiên Chúa là Cha chúng ta bởi vì Người đã tạo dựng và cứu độ chúng ta. Người muốn chúng ta được chia sẻ sự sống và hạnh phúc của Thiên Chúa. Chúng ta hình dung Thiên Chúa của mình theo hình ảnh nào? Có phải như là một ông chủ và chúng ta là đầy tớ? Ở đây, Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy thưa với Thiên Chúa là Cha, hãy đi vào tương quan với Thiên Chúa như là Cha của mình. Thật là vinh dự khi được gọi Thiên Chúa là Cha!
2- Vì Danh và Nước Chúa
Thứ đến, “xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển.” Danh Thiên Chúa là thánh. Theo Cựu Ước, thánh có nghĩa là tách biệt khỏi mọi sự trần tục.
Ở đây, Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện trước hết cho Danh Cha. Nghĩa là Danh Chúa được ưu tiên trước hết. Điều này có nghĩa là Chúa phải là ở chỗ nhất trong ý nguyện và trong đời sống của chúng ta.
Quả thế, tiền bạc, nghề nghiệp, gia đình, tương quan bạn bè vv… tất cả là tốt và cần thiết cho cuộc sống, nhưng chúng không phải là chỗ nhất trong đời sống của người Kitô hữu. Thiên Chúa phải ở chỗ nhất. Như thế, chúng ta cầu xin cho “Danh Cha vinh hiển” có nghĩa là xin cho mọi người biết đặt Thiên Chúa ở chỗ nhất trong cuộc sống mình, chúng ta ước mong và khát khao cho mọi người được biết Danh Cha và tôn thờ Danh đó.
Lời cầu thứ hai: “Triều Đại Cha mau đến.” Triều Đại Thiên Chúa là gì và tại sao chúng ta phải xin cho Triều Đại đó mau đến?
Theo một số Giáo Phụ như Origene và các nhà thần học, Triều Đại Thiên Chúa không phải là một nơi chốn, hay là một điều gì nhưng trước hết chính là Chúa Kitô, hiện diện trong chính con người Đức Giêsu. Trong tiếng Hy Lạp, từ autobasilia có nghĩa là chính trong con người Chúa Giêsu. Như thế, Chúa Giêsu chính là Triều Đại Thiên Chúa đến và hiện diện giữa trần gian. Người chính là Nước Trời ở giữa chúng ta. Nước đó được thiết lập cách hữu hình qua việc Chúa Giêsu thiết lập Giáo Hội như là dấu chỉ và phương tiện của Nước Trời.
Triều Đại Thiên Chúa còn có ý nghĩa khác theo thánh Phaolô: “Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự bình an, hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17). Chúa Giêsu mang đến cho chúng ta chân lý, sự thật và quà tặng Thánh Thần. Chúng ta cầu nguyện cho Nước đó được mau đến trong lòng của mỗi người, mỗi gia đình và mọi dân tộc. Chúng ta xin cho chân lý, tình yêu và hoan lạc của Chúa ngự trị, lan rộng và phát triển khắp mọi nơi, trong mỗi người trên thế giới.
3- Lương thực và ơn tha thứ
Lời cầu xin thứ ba mà Chúa Giêsu dạy là “xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày.” Ở đây Chúa dạy chúng ta cầu xin Chúa Cha ban cho chúng ta có đủ lương thực hằng ngày. Nghĩa là chúng ta xin Chúa ban của cải vật chất để sinh sống. Lương thực hằng ngày là cái ăn, cái mặc, nhà cửa, phương tiện đi lại… Những thứ này là cần thiết cho đời sống con người. Xin Chúa ban những thứ đó để chúng ta có đủ điều kiện sống xứng đáng với nhân phẩm con người và làm con cái Chúa.
Tuy nhiên, theo chú giải của các Giáo Phụ, lương thực hằng ngày còn có ý nghĩa sâu xa hơn, không chỉ dừng lại ở lương thực vật chất, mà còn là lương thực tinh thần. Quả vậy, con người không chỉ sống nhờ cơm bánh nhưng còn sống bởi tình yêu và giá trị tinh thần, tôn giáo. Theo ý nghĩa đó, lương thực hằng ngày đây chính là Thánh Thể và Lời Chúa. Nơi Thánh Thể, Chúa Giêsu hiến mình và trở thành Bánh Thánh để nuôi sống chúng ta. Nơi Thánh Thể, Chúa Giêsu tiếp tục ban Lời hằng sống để nuôi dưỡng đời sống tâm linh con người. Như thế, trong lời xin này, chúng ta xin Chúa Cha cho chúng ta lương thực hằng ngày cả vật chất lẫn tinh thần.
Lời cầu nguyện cuối cùng: “Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người.”
Trong ý nguyện này, Chúa Giêsu dạy chúng ta xin Chúa Cha tha thứ tội lỗi của chúng ta. Bởi lẽ, ai trong chúng ta cũng đã phạm tội, ai trong chúng ta đều là tội nhân. Chúng ta cần được Thiên Chúa tha thứ. Thiên Chúa đã sai Con Một Người đến nhập thể, chết và phục sinh để tha tội cho chúng ta. Người là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian. Chúng ta xin Chúa tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta. Nhưng để được Thiên Chúa tha thứ, chúng ta cũng phải biết tha thứ cho những ai có lỗi với chúng ta. Chúa dạy chúng ta cũng phải có lòng tha thứ, bao dung và thương xót đối với anh chị em như chính Thiên Chúa đã tha thứ và thương xót chúng ta.
Như thế, Kinh Lạy Cha là lời cầu nguyện đẹp nhất, ý nghĩa nhất của Kitô giáo do chính Chúa Giêsu dạy chúng ta. Mỗi lần chúng ta cầu nguyện, hãy cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha, đồng thời chúng ta cũng xin Chúa cho những ý nguyện đó được thực hiện trong đời sống mỗi người, trong gia đình và xã hội. Amen!
Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su dùng dụ ngôn người bạn vay bánh giữa đêm khuya cũng như TN 17-C164
Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su dùng dụ ngôn người bạn vay bánh giữa đêm khuya cũng như chuyện người cha sẵn sàng cho con cái mình những gì tốt nhất để khẳng định với chúng ta rằng nếu chúng ta liên lỉ nài xin thì chắc chắn sẽ được Thiên Chúa nhận lời. Ngài dạy: “Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho…”
Thiên Chúa là Cha nhân lành, luôn yêu thương chăm sóc nuôi dưỡng đoàn con trên dương thế. Không có ơn Chúa ban, con người không thể tồn tại. Ngài ban cho ta vô vàn ân huệ mà lắm khi chúng ta không ngờ tới.
– Có nhiều ân huệ Chúa ban trước khi ta cầu xin, đó là Ngài cho ta được sinh ra làm người, được ân cần chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ ngay từ ấu thơ… Ngoài ra, từng hơi ta thở, từng hớp nước ta uống, từng tia nắng soi đường và sưởi ấm cho ta… đều là ân huệ Chúa rộng ban cho ta được sống trên đời.
– Còn rất nhiều ân huệ khác Chúa ban qua tay những người chung quanh: Chúa cho ta cơm ăn, áo mặc, đồ dùng… qua trung gian cha mẹ ; Chúa giáo dục ta nên người nhờ thầy cô ; Chúa cứu chữa ta khỏi bệnh nhờ các y bác sĩ…
Tuy nhiên, có những lúc chúng ta cầu xin mà dường như Chúa chẳng nhận lời, rồi đâm ra thất vọng, oán trách Chúa. Nên hiểu rằng : Trong những trường hợp đó, vì muốn đào tạo ta nên người trưởng thành, Chúa “không cho cá mà lại cho cần câu.”
Người cha khôn ngoan không tự mình đi câu cá, đem về nấu nướng, dọn sẵn lên bàn cho con ăn, bởi vì nếu ngày nào ông cũng làm như thế thì đứa con sẽ cậy dựa vào cha mẹ mà không tự lo cho mình, sẽ trở thành lười biếng và suốt đời chỉ muốn người khác ban phát mọi thứ cho mình.
Nhưng thay vì trao cá cho con ăn từng bữa, ông sẽ trao cho nó một chiếc cần câu. Nhờ sử dụng phương tiện nầy, người con có thể kiếm được rất nhiều cá mà không phải ngửa tay xin.
Tương tự như thế, Thiên Chúa là Cha khôn ngoan. Ngài không ban hết mọi thứ ta xin, vì nếu làm như thế, Ngài sẽ làm hỏng đời ta. Khi đó, không ai còn muốn học tập, lao động, sản xuất nữa… vì đã có Chúa lo cả rồi.
Trái lại, thay vì cho cá, Ngài trao cho ta những “chiếc cần câu”, nghĩa là ban cho ta đôi tay để lao động, ban cho ta trí tuệ để tìm tòi, phát minh và sáng chế, ban đủ thứ phương tiện để ta hoạt động hằng ngày…
Nhờ vận dụng những thứ “cần câu” nầy, trí tuệ chúng ta được mở mang, thân xác được khoẻ mạnh, con người được phát triển vẹn toàn.
Chúa không cho cá nhưng lại cho chiếc cần câu
Ý tưởng này đã được một tác giả diễn tả cách chí lý như sau:
“Tôi xin sức mạnh… Và Ngài đã cho tôi gặp khó khăn để trui rèn tôi nên mạnh mẽ. Tôi xin khôn ngoan…
Và Ngài cho tôi những vấn đề – tựa như những bài toán khó – để giải quyết, nhờ đó tôi trở thành người khôn ngoan.
Tôi xin tiền của… Và Ngài cho tôi khối óc và bắp thịt để làm việc, nhờ đó tôi trở nên giàu có. (…)
Thế là, tuy không trực tiếp lãnh nhận những gì tôi xin… Nhưng tôi có được tất cả những thứ tôi cần” (Khuyết danh).
Lạy Chúa Giê-su, Nhờ tình thương và muôn vàn ân sủng Chúa, chúng con mới được sống đến ngày hôm nay. Xin cho chúng con biết đền đáp tình thương Chúa bằng cách sử dụng ân huệ Chúa ban để phụng sự Chúa và phục vụ mọi người. Amen.
Phải chân nhận rằng: Cầu nguyện là nhu cầu cần thiết cho đời sống con người chúng ta. Có TN 17-C165
Phải chân nhận rằng: Cầu nguyện là nhu cầu cần thiết cho đời sống con người chúng ta. Có ai mà không có những lúc cầu nguyện? Chúa Giêsu là gương mẫu của đời sống cầu nguyện nên các môn đệ đã xin Chúa dạy về cầu nguyện. Chúa cũng cho biết là Thiên Chúa sẵn sàng và thích nghe lời chúng ta cầu nguyện cho nên Chúa dạy ta đừng ngại quấy rầy Thiên Chúa bằng lời cầu nguyện của mình. Vì thế chúng ta hãy cầu nguyện cho mình và tiến thêm bước nữa là cầu nguyện cho tha nhân.
Kitô giáo chúng ta có kinh Lạy Cha là kinh nguyện do chính Chúa Giêsu dạy. Có hai bản văn về kinh Lạy Cha: một trong Tin Mừng Matthêô (6, 7-15) và một trong Tin Mừng Luca (11, 2-4): trong Tin Mừng Matthêô có 7 lời cầu, còn Tin Mừng Luca có 5 lời cầu: hôm nay chúng ta đọc trong Tin mừng Luca.
Có một chút khác biệt trong cách dịch Việt ngữ với nhiều bản dịch khác, thí dụ tiếng la tinh thì dịch là Pater Noster: “Cha chúng con” còn Việt ngữ là “Lạy Cha chúng con”. Cha ông chúng ta đã thêm chữ “Lạy” để tỏ sự kính trọng nhưng có lẽ nó cũng làm giảm đi phần nào sự thân thiết vì có nơi Chúa Giêsu còn dạy ta thưa với Thiên Chúa là “Abba: Cha ơi! (Rm 8, 15)” nữa cơ. Qua lời kinh này, chúng ta được thưa với Thiên Chúa là Cha và xưng mình là con.
Trước hết là hai lời xin thuộc về Chúa:
– “Nguyện xin Danh Cha cả sáng”. Dùng từ Danh để tránh gọi tên cực thánh của Thiên Chúa. Chúa Giêsu có lần cầu nguyện tương tự: “Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha (Ga 12,28)”
– “Nước Cha trị đến”: Nước hay triều đại có ý nghĩa như nhau vì thế lời rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu là: “Thời kì đã mãn và Triều đại Thiên Chúa đã gần đến … (Mc 1,14)”. Lời nguyện mà mọi Kitô hữu phải cầu xin là lời nguyện cuối cùng ghi trong sách Khải Huyền: “Manaratha “Lạy Giêsu xin ngự đến (Kh 22,20)”
Ba lời xin liên can đến chúng ta là :
– “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”: tức là xin ngày nào đủ lương thực cho ngày đó không xin để tích trữ nhưng để dùng đủ. Lương thực đây không những là cơm bánh vật chất mà trước hết phải hiểu là lương thực thần thiêng: Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh thể
– “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con”. Nợ đây trước hết chỉ những tội lỗi ta xúc phạm đến Chúa nhưng điều kiện để được Chúa tha là ta cũng phải tha cho anh em. Chúa Giêsu cũng dạy ta: “Anh em hãy tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha (Lc 6, 37)”
– “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”. Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu dặn các môn đệ: “Hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ (Mc 14,38)”. Satan chính là tác giả các chước cám dỗ.
Tiếp đến qua dụ ngôn “Người bạn bị quấy rầy”, Chúa Giêsu dạy ta phải có lòng kiên trì khi cầu nguyện. Chúa nhận định: “Dù người ấy không dậy vì tình bạn để lấy bánh cho bạn, ít nữa là vì sự quấy rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần”. Kiên trì xin ơn để tăng lòng ước muốn nơi tâm hồn ta và để thêm giá trị ơn Chúa ban.
Tiếp đến là lời Chúa Giêsu: “Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho”. Qua lời này, Chúa khuyến khích chúng ta tích cực cầu nguyện: đừng có thái độ dửng dưng, bất cần, lơ là không muốn cầu nguyện. Nhưng hãy luôn có tâm tình là chúng ta cần đến Chúa như con cái cần đến cha mẹ mình.
Vậy khi ta xin mà không được thì sao? Có thể là ta xin Chúa những ơn không có ích mà có thể còn có hại cho phần rỗi linh hồn mình và nhiều khi Chúa đổi cho ta ơn khác có lợi cho ta hơn vì thế mà Chúa Giêsu nói: “Phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những ai xin Người”. Chúa khuyến khích chúng ta cầu nguyện với tấm lòng khiêm tốn, nhưng bạo dạn, siêng năng và không trễ nải, kiên trì và không nản lòng.
Noi gương tổ phụ Abraham, chúng ta cũng cầu nguyện cho tha nhân nữa. Ông Abraham đã cầu xin cho thành Sôđôma bằng cách mặc cả so kè với Chúa từ con số: nếu có 50 người công chính, ông rút xuống 45, 40, 30, 20 rồi 10. Ông dừng lại ở con số 10 không dám rút xuống thêm nữa. Nếu ông có lòng tin mạnh hơn nữa vào Lòng Thương xót Chúa thì thậm chí ông có thể rút xuống con số 1 vì như lời sách tiên tri Isaia: người Tôi Trung của Thiên Chúa (Is 53, 4-12) có thể cầu thay nguyện giúp cho toàn dân và đó là hình ảnh về Chúa Giêsu bầu chữa và đền thay tội lỗi cho cả nhân loại.
Mẹ Têrêsa Calcutta nói: “Chúng tôi có trên 1.000 nữ tu và mỗi ngày phải nuôi hơn 10.000 người nữa. Thế mà Chúa không để chúng tôi phải thiếu đói: Chúa luôn ban lương thực hằng ngày như chúng tôi tin tưởng cầu xin trong kinh Lạy Cha. Chúng tôi cũng chưa bao giờ phải từ chối bất cứ ai túng cực tới xin giúp đỡ vì Chúa luôn can thiệp kịp thời và Ngài không làm lơ trước lời cầu nguyện của chúng tôi”.
Được lời Chúa dạy về cầu nguyện hôm nay, chúng ta hãy sống tâm tình người con hiếu thảo đối với Cha trên trời và siêng năng cầu nguyện cùng Chúa mọi nơi mọi lúc trong đời sống chúng ta. Amen.
Ngôn ngữ dễ hiểu, cụ thể, không quanh co nửa chừng, liệu đã đủ làm cho tương quan tình người TN 17-C166
Ngôn ngữ dễ hiểu, cụ thể, không quanh co nửa chừng, liệu đã đủ làm cho tương quan tình người sáng rõ, theo một xu hướng chung là đôi bên cùng có lợi: người có công, người có của ? Lý lẽ và chân tình, hẳn đang cho thấy một thực tế: khéo nói hơn liều mạng, ngoại giao tốt, bao giờ cũng là phương thế hữu hiệu hơn cả. Thực ra mỗi ngày sống, mỗi người đều có cơ hội thực thi bài học lý thuyết hay bài học rút từ kinh nghiệm bản thân, ít nhiều vẫn mang lại sự giầu sang phong phú cho hành trình tiến lên hạnh phúc ở phía trước. Cuộc sống đầy sắc mầu long lanh, nhưng không thiếu những ảo ảnh huyền bí, người ta không thể nhầm lẫn khi phân biệt “cục tiền với cục giấy”. Người ta không khó ghi nhận nét đẹp khả ái của một khuôn mặt, nhưng lại bất lực chịu thua, giữa thật giả, đúng sai hay độ lượng và ích kỷ !
Người xưa có câu: sang trọng đâu phải đợi khi có chức tước, giầu có đâu phải đợi khi có tiền. Theo Đức Giêsu làm môn đệ, đâu phải đợi khi túng thiếu sức khoẻ, mới kêu cầu khẩn, xin ban gấp. Đức Giêsu đã từng cầu nguyện, gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa là Cha, nhưng đến khi tình yêu của Chúa đủ thấm và thao thức của các học trò đủ dậy mùi, chúng ta mới thấy các ông xin Thầy dạy cầu nguyện cho xứng hợp với tình yêu của Chúa Cha. Bằng đời sống bác ái thân tình, Đức Giêsu còn hướng các học trò đi sâu vào mầu nhiệm Thiên Chúa, các ông được sống tình hiệp thông với Chúa là Cha, dù tính chuẩn mực và ý thức về lời cầu nguyện của các học trò lúc ấy còn nhiều tiêu cực. “Xin Thầy dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy các môn đệ của ông”.
Kinh nghiệm đời thường nơi mỗi chúng ta vẫn gặp: đâu phải cứ con cái khóc là cho bú cho ăn, sẽ đúng nhu cầu của chúng. Đâu phải cái “vương miện” đẹp, ta mang, ta đội, cho ai cũng xứng hợp ; không phải tâm tình cầu nguyện và lời cầu xin đúng, đẹp, là khi chúng ta thân thưa sẽ được Chúa đáp ứng ! Đúng ý Chúa và đẹp ý Chúa, không bao giờ là dễ dàng, nếu như cách sống của chúng ta chưa xác thực với lời chúng ta cầu nguyện. Chúa Giêsu đã minh chứng về tình yêu giữa Thiên Chúa và con người là một tình yêu không tính toán, hơn thiệt. Câu chuyện minh hoạ về người bạn vay mượn bánh giữa đêm khuya, hay ví dụ về người cha không nỡ cho con cái mình “con rắn”, khi nó đang thành khẩn xin cá ; nó xin trứng, không lẽ lại cho nó con bọ cạp, lần lượt đang lý giải nơi cuộc đời chúng ta !
Nếu như tập luyện, hy sinh hãm mình, là phương thế căn bản của các vận động viên muốn đoạt giải, hẳn người tín hữu, người môn đệ của Đức Kitô phải cầu nguyện đúng, cầu nguyện đẹp ý Cha trên trời, sẽ mãi là nhu cầu thiết thực. Người môn đệ, người tin theo Đức Giêsu, có thể chưa biết cầu nguyện sốt sáng, chưa biết đặt niềm tin thế nào là đúng là đẹp, là đủ, khi thông hiệp với Thiên Chúa, nhưng Chúa Giêsu hằng lo liệu, hướng dẫn cho chúng ta. Dù chúng ta mù mờ không hiểu tường tận về Chúa Cha, nhưng bằng mẫu gương cầu nguyện, Đức Giêsu hằng thôi thúc để chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Đấng giầu lòng xót thương. Mỗi chúng ta có thể gọi ba gọi bố, thưa má thưa mẹ, dễ dàng, vì ta là con ; nhưng chúng ta chỉ có thể gọi Thiên Chúa là Cha trong tình yêu Đức Kitô, vì Chúa biết ta giới hạn, bất xứng với Ngài.
Cầu nguyện đúng, cầu nguyện đẹp ý Chúa, không phải là lúc chúng ta thành đạt, có nhiều tài nhiều đức, cũng không phải lúc ta rảnh rỗi, đã dư thừa của ăn của để, thực ra là khi ta biết khiêm tốn để Chúa tẩy rửa tâm hồn của ta xứng hợp với Thiên Chúa là Cha hay thương xót. Thành công ở đời có thể do ta gặp thời gặp thế, ăn nên làm ra ; nhưng thành công trong đời sống siêu nhiên, là do biết kết hiệp cầu nguyện, biết sống đúng, sống đẹp ý Chúa từng giây phút trong đời. Cầu nguyện sao cho đúng, cho đủ và đẹp ý Chúa, chính là lời mời gọi ta liên đới với tình yêu Chúa, biết sống, biết chia sẻ, biết ý thức ơn gọi làm môn đệ Chúa và thích nghi mọi hoàn cảnh cuộc sống. Chúa Giêsu quả quyết: “chúng ta là kẻ xấu còn biết cho con cái mình của tốt, phương chi Cha chúng ta trên trời lại không ban Thánh Thần cho kẻ kêu xin Người sao ?”
Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện, đồng hành, và cho chúng ta nghe nhiều lời động viên: “hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ sẽ mở cho.” Chính vì thế mà lời cầu nguyện của chúng ta dù có vụng về nhất, Chúa vẫn hiểu, Ngài không nỡ từ chối lời kêu cầu chân thành của con cái. Cầu nguyện đúng, đẹp, là cầu nguyện trong tín thác, trưởng thành, là cầu nguyện để biết sự giới hạn tội lỗi của mình, bởi Thiên Chúa biết nhu cầu của con người, Ngài sẽ ban thứ tốt nhất, ban cơ hội rõ ràng nhất, hầu ta thật sự được hạnh phúc, được ơn cứu độ. Xin Chúa Giêsu tiếp tục đồng hành và giúp chúng con biết tin tưởng, kiên nhẫn cầu nguyện, dù chúng con chưa hiểu, chưa rõ đâu là phương thế tốt nhất Chúa dành cho chúng con. Amen.
Nước Cha không như một hệ thống chính trị nào, mà cũng chẳng như quốc gia nào. Nước Cha đón TN 17-C167
Nước Cha không như một hệ thống chính trị nào, mà cũng chẳng như quốc gia nào. Nước Cha đón nhận tất cả mọi người, mọi dân tộc và tồn tại đến muôn đời. Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời, đó là ý định yêu thương của Chúa Cha. Chúa Cha nguồn mạch yêu thương, Chúa Thánh Thần là Đấng yêu thương và Chúa Con là Đấng tỏ bày yêu thương.
Chúa Cha nguồn mạch yêu thương.
Chúa Giêsu dạy lời kinh Lạy Cha, khi Chúa Giê su muốn cho con người được biết Chúa Cha là nguồn mạch của yêu thương. Chúa Cha đã yêu thương ngay cả trước khi con người được dựng nên. Trong tình yêu của Chúa Cha, con người được tạo dựng để tình yêu của Chúa Cha ở trong những người con nhân loại. Một tình yêu như Thánh Gioan diễn tả: “Thiên Chúa là tình yêu’ (1Ga 4, 16).
Cầu nguyện với Chúa Cha như một người con đến với cha thưa cha về những câu chuyện đời mình hoặc nghe lời cha dạy bảo. Tình yêu của Chúa Cha dành cho con người hơn cả những gì con người mong ước, bởi Cha là nguồn mạch yêu thương, đôi khi lại thấy tình Cha ấm áp yêu thương như tình yêu người mẹ dành cho nhân loại: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau ? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ. Hãy xem, Ta đã ghi khắc ngươi trong lòng bàn tay Ta” (Is 49, 15-16).
Trong tình yêu của đôi lứa, người ta hay khắc hình ảnh người mình yêu trên cánh tay hay bên trái tim để bày tỏ một tình yêu bền chặt, nhưng dẫu sao vẫn là tình yêu dễ đổ vỡ. Tình yêu Thiên Chúa yêu thương luôn yêu thương, dù nhân loại như thế nào chỉ một điều Thiên Chúa là tình yêu.
Cầu nguyện là diễn tả tâm tình người con kết nối tình yêu của Cha, cảm nhận được tình Cha yêu con, suy nghĩ tích cực về yêu thương như cách Cha mong muốn, để nước Cha trị đến trong từng tâm hồn mỗi con người trong nhân thế. Cầu nguyện như thế dẫn đến một thành tựu con người biết yêu thương nhau.
Chúa Thánh Thần Đấng yêu thương.
Ca tiếp liên ngày lễ kính Chúa Thánh Thần, gợi lên rất nhiều hoạt động của Chúa Thánh Thần nội tâm hoá nhân loại, đốt lửa yêu thương để xây dựng đời sống thương yêu. “Đấng an ủi tuyệt diệu, Đấng soi dẫn nhân tâm, hết những gì nhơ bẩn, rửa cho sạch trong”.
Trong Chúa Thánh Thần nhân loại được thưa lên: “Abba, lạy Cha” (Gl 4, 6). Tương quan trong cầu nguyện được thiết lập trong thời gian dành cho Chúa, như Chúa đã dành hết thời gian cho ta. Giống như một gia đình, cha mẹ, con cái dành thời gian nói chuyện, tâm sự với nhau, dành thời gian để thư giãn, nghỉ ngơi, vui chơi bên nhau, giữ sợi dây tình yêu bền chặt hơn theo thời gian. Cầu nguyện trong Chúa Thánh Thần, chính Ngài thánh hoá thời gian của con người kết nối với tình yêu Chúa Cha, được ở lại bên Cha.
Chúa Thánh Thần không những chỉ hoạt động trong từng cá nhân mà còn hợp muôn tâm hồn, cùng toàn thể Giáo Hội dâng lên Chúa Cha lời kinh nguyện dồi dào phong phú. Đức Maria tràn đầy Chúa Thánh Thần trong kinh nguyện, là Mẹ Giáo hội cùng dâng lên lời kinhh “Magnificat” chúc tụng hông ân yêu thương của Chúa Cha.
Chúa Giêsu dạy cầu nguyện.
Nhờ Con Thiên Chúa xuống thế làm người, kinh nghiệm mọi mặt về con người nhân thế, dạy cho con người quy hướng về Chúa Cha mà dâng lên lời kinh “Lạy Cha”. Lời kinh của một nhân loại khát khao hoà bình, yêu thương được triển nở. Với tất cả những người thực hiện cho công lý, đấu tranh xoá bỏ bất công, nâng đỡ cô nhi, quả phụ, băng bó chữa lành vết thương tâm lý, thể xác, những người xây dựng, kiến tạo, vun đắp yêu thương, để công bố “Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”.
Con đường kinh nguyện “Lạy Cha” còn kéo dài trong thời gian, cùng Chúa Giêsu, một lời kinh lâu ngày thấm dần trong lịch sử, cũng thấm dần vào từng tâm hồn theo thời gian. Thánh Gioan Kim Khẩu nói: “người cầu nguyện là người lèo lái lịch sử”.
Chúa Giê su là người trực tiếp ngự bên Chúa Cha trình bày tất cả những gìn con người kêu xin cùng Chúa Cha. Chúa Giê su là Đấng trung gian duy nhất giữa Chúa Cha và nhân loại. Chúa Thánh Thần là Đấng tháp nhập nhân loại vào trong Chúa Kitô, nhờ đó kinh nguyện trở nên kinh nguyện ca tụng, tạ ơn, cầu xin cùng Ba Ngôi Thiên Chúa.
Với lời kinh “Xin nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời, một nhân loại không ngừng được đổi mới, cho dù sự dữ càng ngày càng thấy bùng phát, nhưng đó là dấu chỉ bùng phát trước khi tắt.
Xin cho Ý Cha được thực hiện nơi chúng con và chúng con luôn được can đảm, bền lòng thực hiện yêu thương để Nước Cha trị đến.
Chúa Giêsu là mẫu gương tuyệt vời nhất về đời sống cầu nguyện. Ngài cầu nguyện ở mọi nơi TN 17-C168
Chúa Giêsu là mẫu gương tuyệt vời nhất về đời sống cầu nguyện. Ngài cầu nguyện ở mọi nơi mọi lúc: khi chữa lành bệnh tật, khi hóa bánh ra nhiều, Ngài đã cầu nguyện suốt đêm để tuyển chọn các Tông đồ… Ngài luôn luôn sống tâm tình con thảo đối với Chúa Cha. Ngài cũng mời gọi ta sống tâm tình hiếu thảo đối với Cha trên Trời.
Hôm nay, sau khi Thầy Giêsu cầu nguyện xong, có một người môn đệ đến thưa với Ngài: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy môn đệ của ông” (Lc 11, 1b). Chắc chắn rằng, chính Thầy Giêsu đã gợi hứng lên trong lòng người môn đệ khao khát thánh thiện này. Chính Ngài làm cho tâm hồn họ đầy thao thức muốn được trở nên giống Thầy của mình. Đáp lại lòng khao khát của người môn đệ, Thầy Giêsu đã dạy cho các ông những lời cầu nguyện rất tuyệt vời, những lời ấy chính là kinh Lạy Cha mà đến hôm nay ta vẫn đọc mỗi khi cầu nguyện.
Từ tấm bé, ta đã cầu nguyện nhưng ngày ấy ta chưa ý thức rằng mình đang cầu nguyện. Thế nhưng, chính Thánh Thần của Thiên Chúa vẫn hoạt động trong tâm hồn trẻ thơ. Khi đã lớn khôn rồi, ta được đi vào trong quan rất cá vị với Chúa. Chúa Thánh Thần đã mở trái tim ta, mở tâm trí cho ta cảm nhận và hiểu được phần nào tình yêu cao vời của Thiên Chúa. Lòng ta dần lớn lên, trưởng thành hơn trong những chọn lựa. Với ước ao được làm vui lòng Thiên Chúa và được ở trong tình yêu của Ngài, ta sống tương quan rất thiết thân với Thiên Chúa Ba Ngôi. Đó là hồng ân Thiên Chúa đã ban tặng cách nhưng không cho ta. Đã không ít lần, ta ở trong cuộc chiến đấu cam go giữa những chọn lựa. Đâu là chọn lựa đẹp lòng Thiên Chúa? Phải chăng, ta đã chỉ sống theo ý riêng ta? Rất nhiều khi, ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải. Lời cầu xin tha thiết của một tấm lòng khiêm cung và chân thành sẽ được đền đáp cân xứng. Chính Thiên Chúa sẽ làm cho ta những điều Ngài muốn. Thiên Chúa không thua lòng quảng đại của ta. Chúa Giêsu đã đảm bảo cho ta: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc11, 9-10). Đừng ngạc nhiên khi ta xin mà không nhận được điều mình muốn và cũng đừng thất vọng để rồi không cầu nguyện nữa. Thánh Giacôbê Tông đồ đã nhắn nhủ rằng: “Anh em không có, là vì anh em không xin; anh em xin mà không được, là vì anh em xin với tà ý, để lãng phí trong việc hưởng lạc” (Gc 4,3).
Nếu ta đang cầu nguyện, hãy ở lại trong Chúa với sự hiện diện của trái tim và toàn thể con người ta. Nếu ta đang làm việc, hãy mời Chúa Giêsu cùng làm việc với ta. Chính Ngài sẽ thánh hóa mọi công ăn việc làm của ta. Nếu ta đang buồn sầu đau khổ, hãy nhìn lên Chúa Giêsu trên thập giá, chính Ngài đang đổ đến giọt máu cuối cùng vì ta và chính Ngài đang ở bên ta, trong nỗi đau khổ cùng cực để an ủi ta, chia sẻ với ta. Nếu ta đang yêu, hãy đặt tình yêu ấy vào trong tình yêu Thiên Chúa để Ngài hướng dẫn ta, để Ngài dạy ta hiểu thế nào là yêu. Trong tất cả mọi việc, hãy sống tương quan mật thiết với Thiên Chúa, Ngài ở rất gần ta, ngay trong chính con người ta và ở nơi người anh em ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con cầu nguyện. Nguyện xin Chúa cho con được lòng kiên trì và bền bỉ trong cầu nguyện, cầu nguyện với cả tình yêu mọn hèn của con. Con tin rằng Thiên Chúa là Cha đầy lòng thương xót hằng ghé mắt nhìn đến người con bé nhỏ của Chúa. Xin giúp chúng con biết chiêm ngắm mẫu gương tuyệt vời của Chúa Giêsu để chúng con biết chuyên cần cầu nguyện, sống tâm tình con thảo với Cha trên Trời. Amen.
Có những ngày đẹp trời, lại có những ngày xấu trời. Có ngày có mây xanh, nắng ấm, gió phe TN 17-C169
Có những ngày đẹp trời, lại có những ngày xấu trời. Có ngày có mây xanh, nắng ấm, gió phe phẩy; lại có ngày lạnh lẽo, trời u ám, gió thốc từng cơn. Điều này cho thấy thế giới thiên nhiên có những đổi thay, từ trời cao đến biển xanh. Có lúc biển lặng yêu, gió đùa nuớc; lại có ngày gió to, sóng lớn, biển như lên cơn giận dữ, gầm thét. Con người là thành phần của thiên nhiên nên cuộc sống cũng có những ngày êm đềm, vui tươi lại cũng có ngày u sầm, ảm đạm, đất trời quay cuồng đến rợn người. Khi cuộc sống trở nên khó khăn, khủng hoảng, thì giây phút yên lặng, bình tâm, là điều cần thiết, bởi giây phút đó mang lại hy vọng và ban phát sự sống nội tâm. Để tìm giây phút an bình cho tâm trí, xã hội chế biến những phương pháp thiền, hay Yoga hay Tai Chi. Mục đích là đi tìm giây phút an bình cho con tim và giải toả tâm trí đang lo lắng đến khủng hoảng. Những điều này rất tốt và cần thiết cho cuộc sống. Một số khác lầm tưởng khi gặp u buồn, khó khăn, khủng hoảng, thuốc thang, rượu chè, ăn uống giúp an bình. Thực ra tất cả những hoá chất đó đều gây thiệt hại, con người trở nên nghiện ngập và cuối cùng trở thành nạn nhân của những thứ mà họ tin là giúp mang lại thoải mái.
Trong tôn giáo, phút giây yên tĩnh qua cầu nguyện, hoặc thiền nguyện, là cái khôn của người xưa. Cầu nguyện có lịch sử lâu dài và phương pháp này được người xưa áp dụng triệt để và họ đã thành công. Một số người sẵn sàng từ bỏ những gì đang có đi sâu vào sa mạc, rừng thẳm tìm nơi trú ẩn, sống cuộc sống thinh lặng, nguyện gẫm, âm thầm. Họ sống cuộc đời huyền bí và để lại những điều khôn ngoan cho hậu thế. Họ không sống cô đơn nhưng có Chúa là tri kỉ trong đời. Gioan Tiền Hô dùng chính kinh nghiệm sa mạc của ông để dậy các môn đệ. Một trong những điều đó là dậy các ông cầu nguyện, tìm giây phút yên lặng trong cầu nguyện. Môn đệ Đức Kitô biết thế, các ông xin Đức Kitô dậy cách cầu nguyện. Chính Đức Kitô sáng sớm thường tìm nơi thanh vắng, một mình cầu nguyện. Do các môn đệ yêu cầu, ngày nay Giáo Hội có kinh Lậy Cha được biết đến như là kinh nguyện của Đức Kitô. Yoga và Tai Chi hoặc các cách khác có chung mục đích là tìm an bình cho con tim, thoải mái, thư giãn cho cơ thể. Kitô hữu không ngưng ở chỗ tìm an bình cho con tim và thoải mái, thư giãn cho cơ thể. Kitô hữu còn đi xa hơn nữa. Khi cầu nguyện, linh đạo có Thánh Thần Chúa hướng dẫn. Chúng ta phó thác phút giây đó trong đời, giao phó con người ta cho Thánh Thần Chúa hướng dẫn. Như thế khi cầu nguyện, con người được tự do hoàn toàn, do Thánh Thần hướng dẫn, chỉ bảo và dắt ta đi sâu vào tình yêu huyền bí, vô biên của Thiên Chúa. Thánh Phaolô còn dậy Thánh Thần biến đổi tâm tình bình thường của ta thành tâm tình hiến dâng cho Thiên Chúa (Rom 8,26). Chúng ta bước đi trong tin tưởng, tin yêu và phó thác vào tình yêu Chúa để cảm nghiệm được tình Chúa bao la, ngọt ngào. Giây phút này chính là giây phút ngắm nhìn, thả hồn ta vào cõi thinh không, bao la, hùng vĩ, của đất trời. Đây chính là lúc chúng ta nhìn thấy mục đích của cuộc sống và từ đó chúng ta đáp trả lại tình yêu Chúa.
Kinh Lậy Cha chính là mẫu mực của các kinh cầu. Kinh này dậy chúng ta biết Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và làm chủ vũ trụ, làm chủ đất trời. Tiếp theo chúng ta xin Thiên Chúa làm chủ đời ta bởi ta là tạo vật do Chúa tạo thành nên ca tụng Đấng dựng nên mình, ban cho sự sống, coi sóc, bảo vệ là điều chính đáng, cần phải làm và làm thường xuyên. Không những chúng ta ca tụng Danh Chúa và còn phải tôn kính Thánh Danh Ngài. Tiếp theo chúng ta xin sống sao cho mọi người nhận biết ta là con Thiên Chúa. Phần thứ hai của Kinh Lậy Cha, chúng ta xin cho đủ lương thực hàng ngày, xin những điều cần, không phải những điều muốn. Tiếp theo là lời ca tụng sâu thẳm từ tâm hồn bởi Thiên Chúa xoá bỏ tội, lỗi lầm của ta, tha chết và ban cho sự sống trường sinh. Xin học từ Ngài biết thứ tha cho anh em, người gây cho ta đau khổ, sầu thương. Ai không biết thứ tha, người đó không đáng nhận ơn tha thứ. Điều kiện để nhận ơn tha thứ là phải biết tha thứ. Sau hết chúng ta xin ơn tránh các cơn cám dỗ. Cơn cám dỗ mạnh nhất chính là cám dỗ làm biếng cầu nguyện, viện lí do này nọ tránh cầu nguyện, hay làm qua loa là một cám dỗ hàng ngày.
Van xin cầu khấn ơn trên, Trời thương ban phước, đáp đền tri ân. Tông đồ học hỏi bao lần, Xin TN 17-C170
Van xin cầu khấn ơn trên, Trời thương ban phước, đáp đền tri ân. Tông đồ học hỏi bao lần, Xin Thầy chỉ dậy, đôi phần khấn van. Nguyện xin chúc tụng thiên nhan, Nước Trời mau đến, tỏa lan cõi bờ. Ý Cha thể hiện mong chờ, Trên trời dưới đất, hưởng nhờ ân thiêng. Xin Cha lương thực phần riêng, Hằng ngày dùng đủ, nên siêng thực hành. Chúng con tha nợ làm lành, Như Cha tha thứ, sáng danh Chúa Trời. Ban ơn thắng vượt sự đời, Những cơn cám dỗ, gọi mời cuồng si. Bạn bè thân hữu xin gì, Rộng tay cứu giúp, ngại gì bóng đêm. Chúa Cha rộng rãi ban thêm, Những ai cầu cứu, êm đềm Chúa ban. Ai xin sẽ được dư tràn, Thánh Thần soi sáng, chứa chan phúc lành.
Kinh Lậy Cha là kinh cầu nguyện đẹp lòng Chúa nhất, chính Chúa Giêsu đã dậy cho các môn đệ của Ngài. Kinh gồm có ba lời chúc tụng, ngợi khen danh Chúa và bốn lời cầu xin dành cho chúng ta. Cầu cho danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý của Cha được thể hiện. Cầu cho chúng ta có lương thực mỗi ngày, cầu ơn tha tội và cầu ơn thắng vượt các cơn cám dỗ. Lời cầu nguyện này đẹp lòng Chúa vô cùng.
Chúng ta thường cầu nguyện hằng ngày, nhưng lời cầu nguyện của chúng ta có phần cầu xin nhiều hơn là lời nguyện. Chúng ta chạy đến với Chúa khi chúng ta cảm thấy cần thiếu điều gì hay để xin một điều gì. Đôi khi chúng ta nghĩ Chúa như ông chủ ngồi ban phát ơn lành. Nếu xin vài lần không được, chúng ta chán nản và bỏ cuộc. Thực sự việc cầu nguyện mang một ý nghĩa tích cực hơn. Cầu nguyện là hướng tâm hồn lên cùng Chúa, để thưa truyện với Chúa, để chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ hồng ân của Chúa, sau đó đền tội, xin Chúa thứ tha và sau cùng là xin ơn Chúa trợ giúp. Cầu nguyện như chiếc cầu nối giữa Chúa và chúng ta qua lời nguyện của Chúng ta và Chúa sẽ ban ơn.
Cầu nguyện cần sự kiên trì đừng chán nản. Chúa nói với các tông đồ rằng: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Câu truyện người bạn kiên nhẫn trông mong xin bánh trong bài Phúc âm là một hình thức cầu nguyện. Anh đã năn nỉ và chờ đợi lòng hảo tâm của người chủ nhà. Anh đã đạt được điều anh mong muốn. Chúa là Cha nhân lành chẳng lẽ Ngài không ban ơn cho con cái Ngài khi họ van xin sao. Điều quan trọng là xin Chúa ơn huệ có lợi ích cho đời sống và hằng tuân theo thánh ý Chúa.
Truyện kể: Có một bà cụ chứng kiến cảnh tù đầy, sát hại và đổ máu tang thương do lãnh chúa bạo quyền mê đắm danh lợi thú gây khổ đau cho rất nhiều người. Bà rất tin tưởng vào lời cầu nguyện. Bà nghĩ không có gì là không có thể làm được. Ngày ngày bà lên đền thờ cầu nguyện cho các nhà bạo chúa. Lúc đầu, bà cầu cho họ mau chết để nhân dân bớt khổ, nhưng rồi người này chết người khác lên kế vị còn tàn bạo hơn. Với kinh nghiệm, bà đổi lại lời cầu nguyện cho những bạo chúa sống lâu hơn để họ có thời gian thay lòng đổi dạ. Bà kể lại về kinh nghiệm mà người bạo chúa đã đích thân tra vấn bà, ông hỏi: Tại sao ngày ngày bà lên đền thờ cầu nguyện. Chính tâm sự của bà đã giúp mở đường biến đổi đời ông.
Chính Chúa Giêsu đã cầu nguyện hằng ngày cùng Chúa Cha. Chúa dậy các môn đệ hãy cầu nguyện luôn để khỏi xa chước cám dỗ. Chúa cũng dạy chúng ta hãy kiên trì cầu nguyện: Các con xin thì sẽ được. Lạy Chúa, xin cho lời cầu của chúng con bay lên trước nhan thánh Chúa. Chúng con dâng lời cảm tạ, tôn vinh danh Chúa đến muôn ngàn đời.
Nếu chỉ đọc nguyên một bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta sẽ nghĩ rằng đề tài Phụng vụ Lời Chúa TN 17-C171
Nếu chỉ đọc nguyên một bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta sẽ nghĩ rằng đề tài Phụng vụ Lời Chúa nói về việc Chúa Giê-su dạy ta cầu nguyện hoặc về ý nghĩa kinh Lạy Cha. Nhưng nếu kết hợp cả ba bài đọc lại, chúng ta nhận thấy có lẽ lời Chúa hôm nay nhấn mạnh nhiều hơn đến việc cầu xin ơn tha thứ. Như thế cũng phải. Vì chúng ta được kêu gọi trở nên hoàn thiện như Cha chúng ta trên trời là Đấng hoàn thiện; nhưng trên đường trở nên hoàn thiện, chúng ta lại phạm lỗi lầm quá nhiều đối với Chúa và với anh chị em. Cho nên xin ơn tha thứ là điều cần thiết. Bài trích sách Sáng thế kể lại việc ông Áp-ra-ham xin Thiên Chúa đừng tiêu diệt dân thành Xơ-đôm; thánh Phao-lô thì quả quyết rằng nếu chúng ta cùng sống chết với Chúa Ki-tô, Thiên Chúa sẽ tha thứ cho ta mọi lỗi phạm; còn chính Chúa Giê-su khi dạy ta cầu nguyện lại muốn nhấn mạnh đến việc cầu xin Thiên Chúa tha tội cho chúng ta.
Trước hết sách Sáng thế kể lại việc ông Áp-ra-ham “mặc cả” với Thiên Chúa khi ông cầu xin Người đừng hủy diệt thành Xơ-đôm vì tội lỗi của dân chúng. Chúng ta cảm phục ông Áp-ra-ham vì ông to gan, dám mặc cả với Thiên Chúa về việc tha thứ! Sở dĩ ông to gan là vì ông rất thân mật với Thiên Chúa như đứa con vòi vĩnh cha mẹ. Mặc cả mà không có tình yêu đích thực thì khác nào buôn bán. Nhưng rõ ràng ông Áp-ra-ham đã dựa vào lòng yêu mến Chúa của ông và vào lòng yêu thương nhân từ của Chúa mà cò kè bớt một thêm hai với Chúa. Có lẽ chúng ta phải bật cười, không ngờ Cha chúng ta lại dễ thương như vậy. Nếu muốn diễn tả sự dễ thương này của Chúa, chúng ta cứ tưởng tượng ra hình ảnh một người cha âu yếm nhìn đứa con với ánh mắt hiền từ và mỉm cười vì nó ngây ngô đưa ra con số những người lành trong thành Xơ-đôm làm điều kiện cho sự tha thứ của Chúa! Đầu tiên ông đưa ra con số năm mươi người lành, để nhân danh họ ông xin Chúa tha cho thành Xơ-đôm. Ông tin chắc một thành đông dân như vậy, thế nào cũng kiếm đủ năm mươi người lành. Vậy mà kiếm mãi chẳng đủ, ông rút con số xuống 45, rồi 40…, sau hết là 10 người lành. Cuối cùng chỉ còn một mình ông Lót, cháu của ông Áp-ra-ham. Ông Lót đem vợ và hai con gái trốn khỏi Xơ-đôm. Nhưng bà vợ vì không nghe lời thiên sứ, ngoái nhìn lại đằng sau trong khi thành bị đốt cháy, nên bà biến thành cột muối mà chết. Câu chuyện nói lên lòng nhân từ của Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ.
Vậy mà bao nhiêu thế hệ sau đó, người ta vẫn không muốn nhận ra Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót và luôn tha thứ lỗi lầm của họ. Có thể đó chính là lý do Chúa Giê-su nhấn mạnh đến việc xin Thiên Chúa là Cha tha tội cho chúng ta khi chúng ta cầu nguyện. Xét về cấu trúc của kinh Lạy Cha, chúng ta thấy một nửa kinh đã đề cập tới việc xin ơn tha thứ rồi! Thêm vào đó, trong sách Tin Mừng Mát-thêu (6:14-15), ngay sau kinh Lạy Cha, Chúa Giê-su còn giải thích thêm việc chúng ta phải tha thứ cho những người xúc phạm đến chúng ta. Điều này chứng tỏ Người muốn ta lưu ý nhiều hơn đến việc xin Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta và hệ quả chúng ta phải tha thứ cho anh chị em. Câu chuyện Chúa kể về một người đã bị người bạn quấy rầy, nửa đêm đến xin ông ta giúp đỡ và đã được ông ta nhận lời, không vì tình bạn thì cũng vì muốn tránh khỏi bị phiền hà. Chúng ta không khác nào “kẻ quấy rầy”, phạm tội làm phiền lòng Chúa. Nhưng Chúa sẵn sàng tha thứ cho chúng ta vì Người là Cha nhân từ. Ở đây, dường như Chúa Giê-su muốn dạy rằng: anh em cứ xin “sự tha thứ” thì sẽ được tha thứ, cứ tìm “sự tha thứ” thì sẽ thấy được tha thứ, cứ gõ cửa lòng Chúa thương xót thì sẽ được Chúa xót thương tha thứ tội lỗi cho anh em.
Với câu chuyện Áp-ra-ham và lời Chúa Giê-su dạy chúng ta kinh Lạy Cha, chúng ta đã hiểu được sự cần thiết xin ơn tha thứ khi chúng ta cầu nguyện. Tuy nhiên thánh Phao-lô giới thiệu cho chúng ta một cách xin ơn tha thứ rất hữu hiệu, đó là hãy kết hợp với Chúa Giê-su Ki-tô. Ngài dạy rằng Ki-tô hữu chúng ta dù là gốc Do-thái, dù là gốc dân ngoại, thì Thiên Chúa vẫn ban cho hết thảy chúng ta “được cùng sống với Đức Ki-tô”. Tại sao phải được cùng sống với Đức Ki-tô? Bởi vì nhờ Đức Ki-tô chịu chết trên thập giá, “Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ mọi sa ngã lỗi lầm của chúng ta”. Thánh tông đồ muốn nhắc nhở chúng ta về một chân lý căn bản trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, đó là vai trò trung gian của Chúa Ki-tô để Thiên Chúa tha tội cho chúng ta. Chúa Ki-tô là sự tha thứ của Thiên Chúa biến thành người phàm ở giữa chúng ta. Cho nên “được cùng sống với Đức Ki-tô” có nghĩa là được tiếp xúc và lãnh nhận sự tha thứ của Thiên Chúa.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Chúng ta thắc mắc mình sẽ học được điều gì từ câu chuyện ông Áp-ra-ham cầu xin Chúa tha thứ cho thành Xơ-đôm và kinh Lạy Cha nhấn mạnh việc xin ơn tha thứ tội lỗi. Chắc chắn câu chuyện Áp-ra-ham giúp ta nhận biết hình ảnh Thiên Chúa là Cha nhân từ và lời dạy của Chúa Giê-su cũng khẳng định lòng nhân từ của Cha trên trời. Biết rõ như thế mà chúng ta không xin ơn tha thứ tội lỗi, thì quả thực chúng ta kiêu căng không nhận mình tội lỗi hoặc phụ lòng Chúa thương xót chúng ta vậy!
Không chỉ là một thái độ, nhưng là một tình trạng Không xác định nơi chốn, thánh Lu-ca mô tả TN 17-C172
Không chỉ là một thái độ, nhưng là một tình trạng
Không xác định nơi chốn, thánh Lu-ca mô tả Ðức Giêsu đang cầu nguyện, có các môn đệ vây quanh. Ðâu là lời cầu nguyện đích thực của Vị Thầy? Khác với lời cầu nguyện của nhà khỗ chế Gio-an Tẩy Giả trong sa mạc, vị ngôn sứ rao giảng sự sám hối, lời cầu nguyện của Ðức Giêsu bày tỏ bí mật thâm sâu trong mối tương giao thân mật của Người với Chúa Cha. Ngoài việc tuân thủ nghi thức và thói quen của người Do-thái, Ðức Giêsu cho thấy lời cầu nguyện còn có ý nghĩa sâu xa hơn nhiều.
Ðức Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha rất lâu giờ và cũng tràn đầy tình yêu mến. Sau cả ngày mệt nhọc với những hành trình rao giảng, chữa bệnh, Ðức Giêsu vẫn thường rút lui vào chốn thinh lặng để cầu nguyện. Dường như Người có thể bỏ việc này việc khác, nhưng không thể bỏ việc cầu nguyện. Ðó là những thời khắc Người tiếp xúc thân mật, tiếp xúc rất riêng tư với Chúa Cha; trong đó Người thông hiệp trọn vẹn với Chúa Cha, đi sâu vào chương trình huyền nhiệm, và gắn bó trọn vẹn với thánh ý của Chúa Cha. Có lần, dân chúng và cả các môn đệ, đi tìm Ðức Giêsu. Các ông gặp thấy Người trong trạng thái đầy vui mừng, hân hoan… Các ông không dám đến gần, không dám lên tiếng… nhưng cuối cùng các ông cũng xin Người chỉ cho cách thức cầu nguyện.
Một tư cách mới, một ý nghĩa mới
Lời cầu nguyện Ðức Giêsu đưa các ông vượt khỏi suy nghĩ bình thường của các ông. Lời cầu nguyện có vẻ như cao ngạo, gây gương mù: Ðức Giêsu truyền cho các ông gọi Thiên Chúa là Cha, Ðấng mà xưa nay họ vẫn hết mực tôn kính, ngay cả việc gọi tên, các ông cũng không dám.
Từ nay trở đi, người nào liên kết với tiếng kêu đầy yêu thương của Ðức Giêsu, hướng về Chúa Cha, người đó đã làm cho Nước Thiên Chúa được thực hiện. Họ cũng làm cho danh Thiên Chúa được hiển thánh khi họ biết trao đổi với Thiên Chúa trong tình yêu, một cuộc trao đổi đưa họ vào chính trung tâm của lòng thương xót được tặng ban cho hết mọi người.
Bài suy niệm này không đề cập đến các lời cầu xin trong lời kinh Ðức Giêsu dạy cho các môn đệ, mặc dù những lời cầu xin ấy có nhiều ý nghĩa. Ðiều muốn nói đến ở đây là một mối tương giao, một tinh thần mới giữa con người và Thiên Chúa. Trong Ðức Giêsu, con người được biết Thiên Chúa là Cha của mình, và họ phải đến với Thiên Chúa trong tâm tình của một người con. Trong Ðức Giêsu, Ðấng nhập thể làm người, nhân loại được gọi Thiên Chúa là Cha, Cha của tất cả mọi người. Ðầy cũng là mặc khải mấu chốt trong sứ điệp của Ðức Giêsu, là chìa khoá cho tất cả cuộc đời và hoạt động của Người. Trong mặc khải này, lề luật của Ít-ra-en được hoàn tất và nảy sinh một giao ước mới: Thiên Chúa trở thành người Cha thân yêu của tất cả mọi người.
Như vậy, so với Cựu Ước, lời kinh của Ðức Giêsu mở ra một viễn tượng lớn lao, hoàn toàn mới mẻ. Thiên Chúa đến với con người không phải để dò xét, để trừng phạt, nhưng là để đem ơn cứu độ, đem ơn tha thứ và tình yêu thương. Ngược lại, con người đến với Thiên Chúa không phải với tâm tình sợ hãi, e dè, cũng không phải là để tìm lợi ích cho riêng cá nhân mình, nhưng là hiện diện trước Thiên Chúa với tâm tình của một người con, sẵn sàng trình bày với người Cha tất cả những gì liên quan đến mình. Và hơn thế nữa, con người hiện diện trước Thiên Chúa để tìm hiểu chương trình của Người, sẵn sàng tuân phục và cộng tác để thánh ý của Thiên Chúa được thể hiện. Sự hiện diện như thế vượt lên trên mọi suy tính cá nhân, ích kỷ, để thở thành một sự hiện diện trong quan điểm của lịch sử cứu độ, trong tương quan mật thiết với Thiên Chúa đang muốn cứu độ tất cả mọi người.
Ngày nay, sau hai mươi thế kỷ, vẫn có những người quan niệm Thiên Chúa theo kiểu Cựu Ước, vẫn có những người tìm đến Thiên Chúa mà chỉ mong tìm lợi cho mình. Lời kinh Lạy Cha vẫn được đọc lên nhưng không thấm sâu, không làm thay đổi cái nhìn của con người về Thiên Chúa. Người ta không cảm thấy vinh hạnh, không cảm thấy sung sướng khi mình được gọi Thiên Chúa là Cha, khi mình là con Thiên Chúa. Thiên Chúa là Cha – loài người là con: đó không phải là kiêu ngạo, nhưng là ý nghĩa đích thực và sâu xa nhất của Ki-tô giáo.
Trong kiên trì và tín thác
Tiếp đó, Ðức Giêsu nói lên điều cốt yếu của việc cầu nguyện. Người nhấn mạnh những đặc tính hết sức quan trọng là kiên trì và tín thác.
Thiên Chúa biết rõ mọi nhu cầu của con người. Không cần họ phải lên tiếng, Thiên Chúa cũng đã thấu suốt mọi điều họ xin. Nhưng tại sao Thiên Chúa lại để cho người ta phải cầu nguyện, phải năn nỉ?
Thật ra, dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay chỉ là một hình ảnh. Việc cầu nguyện liên lỉ nối kết con người với Thiên Chúa cách sâu xa hơn, khiến họ ý thức rõ hơn về sự thiếu thốn, sự bất lực của mình. Khi đó họ sẵn sàng dâng hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa và sau khi được Thiên Chúa nhận lời, họ nhận biết Người cách rõ ràng hơn. Bởi đó, việc cầu nguyện liên lỉ, việc chờ đợi không phải là điều đau khỗ, nhưng lại là một hổng ân lớn lao, một sự vươn tới Thiên Chúa cách quyết liệt và cũng là một tâm tình đích thực.
Ngoài ra, Thiên Chúa là Ðấng thông suốt, Người cũng biết con người cần gì. Lòng thương xót của Người thật vô biên, nhưng Người lại muốn con người phải hoàn toàn tín thác, trông cậy nơi Người. Tại sao vậy?
Thiên Chúa không chỉ đáp ứng những nhu cầu vật chất của con người – trong thực tế, lời cầu nguyện của con người thường chỉ có những điều này. Nếu con người hiện diện trước Thiên Chúa một cách đích thực, nếu mối tương giao của họ với Thiên Chúa không phải để tìm lợi ích cá nhân, thì hẳn việc cầu nguyện chân thành sẽ phải là để cho Thiên Chúa hoạt động, là mở lòng đón nhận Thiên Chúa, hơn là buộc Thiên Chúa phải chiều theo những suy nghĩ, những tính toán tầm thường của mình. Nếu Người có làm thinh như không nghe thấy, chính là để con người đạt tới một điều rất cần thiết, một hổng ân lớn lao mà Ðức Giêsu hứa ban, đó là Chúa Thánh Thần. Hổng ân này vượt lên trên cả nhu cầu về bánh ăn cũng như mọi nhu cầu tinh thần khác.
Mở rộng tâm hồn và sẵn sàng
Hãy xin thì sẽ được – không phải lúc nào cũng như thế.
Việc cầu nguyện khởi đi từ những nhu cầu cụ thể, nhưng sẽ hướng tới điều bất ngờ, hướng tới sự vô biên của Thiên Chúa. Theo thánh Augustino, “Việc cầu xin không nhằm thông báo cho Thiên Chúa, nhưng là huấn luyện con người.” Khi cầu xin, chúng ta thú nhận sự bất lực của mình và công nhận Thiên Chúa là Ðấng Toàn Năng, là Ðấng Chí Ái. Một lời cầu xin với Chúa Cha bao hàm hai cuộc hoán cải.
Thứ nhất, với lời cầu xin cho lợi ích của Nước Thiên Chúa, chúng ta thấy rằng không thể xem xét những điều đó theo quan điểm của mình. Vậy, khi cầu xin, tức là để cho thánh ý Thiên Chúa được thể hiện.
Thứ hai, vì ý thức rõ ràng về lời cầu xin của mình với Thiên Chúa, người Ki-tô hữu khám phá ra một khát vọng nền tảng: gặp gỡ Thiên Chúa tình yêu. Lúc ấy, từ những nhu cầu, chúng ta chuyển sang khát vọng, một cuộc chuyển dịch dần dần và đau đớn.
Người cầu xin là người có thái độ của “kẻ đứng trên con tàu, nắm chắc sợi dây cột tàu vào bờ. Họ không kéo tảng đá về phía mình, nhưng mình tiến dần tới tảng đá, họ và con tàu” (Denys l’Arépagite).
Cầu nguyện, đó không phải là áp đặt ý muốn của mình trên Thiên Chúa, nhưng là xin Thiên Chúa cho chúng ta sẵn sàng tuân theo thánh ý, theo kế hoạch cứu độ của Người đối với thế giới.
Cầu nguyện, đó không phải là làm Thiên Chúa thay đổi, nhưng là xin Thiên Chúa thay đổi chúng ta, và biến tâm hổn chúng ta thành tâm hổn của người con.
Nếu chúng ta kiên trì, chúng ta sẽ được, sẽ tìm thấy và cánh cửa sẽ mở ra. Vì thế, chúng ta không được quyền nản chí. Cầu nguyện, trước hết là kiên trì.
Chúng ta vừa được nghe những lời dạy của Chúa Giêsu về sự cầu nguyện. Có rất nhiều đề tài TN 17-C173
Chúng ta vừa được nghe những lời dạy của Chúa Giêsu về sự cầu nguyện. Có rất nhiều đề tài chúng ta có thể khái thác qua bài Tin Mừng hôm nay. Nhưng ở đây tôi chỉ xin được dừng lại một vài điều tôi muốn chia sẻ với anh chị em.
1. Trước hết khi cầu nguyện Chúa dạy chúng ta phải nói với Thiên Chúa như thế nào?
Chúa bảo phải thưa với Thiên Chúa là Cha.
Thiên Chúa là Cha. Chúa Giêsu muốn chúng ta gọi Thiên Chúa như thế.
+ Thế nhưng có nhiều người đã không có được một quan niệm như thế về Thiên Chúa.
+ Trong một lá thư gửi cho các tín hữu thuộc tổng giáo phận Saint Étiene bên Pháp, các Đức Giam mục trong giáo phận này đã phải phàn nàn là: “Có nhiều người ngày nay đã biến Thiên Chúa thành một nhà phù thủy hay một người giữ kho”
Biến thành phù thủy với hy vọng có thể được thỏa mãn những gì mình mong muốn nhưng không được thỏa mãn
Biến thành người giữ kho để khai thác kiếm chác.
Nếu quan niệm về một Thiên Chúa như thế thì việc nói chuyện với Ngài sẽ chẳng khác gì một cuộc săn lùng, trả giá hay xin xỏ.
Điều đó chắc chắn không làm Chúa bằng lòng.
+ Trong bài Tin Mừng hôm nay một cách gián tiếp Chúa bảo chúng ta không được coi Thiên Chúa như vậy. Người dạy chúng ta gọi Thiên Chúa là “Ab-ba! Cha”.
+ Danh từ Abba mà Chúa dùng trong bài Tin Mừng hôm nay cũng có một ý nghĩa rất đặc biệt. Thường thì trong ngôn ngữ thông thường, người ta thường dùng từ Pater, tiếng Latinh – tiếng Père trong Pháp ngữ để xưng với một người có phúc được gọi là Cha. Còn trong bài Tin Mừng hôm nay dùng tiếng Abba – Abba là Cha hay tương tự như Im-ma là Má. Đây là từ ngữ của một đứa trẻ Do thái mới tập nói gọi Cha hay Mẹ của mình.
Trong tiếng Việt chúng ta cũng thấy tương tự như thế. Một đứa trẻ khi mới bắt đầu tập nói muốn gọi tên Cha hay Má của nó thì thường nó phải bụm môi lại rồi mới có thể phát âm tiếng Ba và Má. Ừm-ba, Ừm-má: Ba – Má.
+ Vậy thì khi xử dụng kiểu nói như vậy rõ ràng là Chúa Giêsu cố dạy cho chúng ta biết khi đến với Thiên Chúa chúng ta phải đến với tâm tình nào: Đó là tâm tình của một trẻ thơ.
+ Khi Thánh Phanxicô khó khăn trình lên Đức Thánh Cha Honnriô II bản qui luật của Dòng để xin Ngài phê chuẩn thì Đức Thánh Cha có hỏi thánh nhân:
– Có bao giờ con thấy Chúa chưa?
Phanxicô:
– Dạ thưa có. Con vừa thấy đêm hôm qua.
Đức Thánh Cha:
– Người có nói gì với con không?
Phanxicô:
– Người và con ở bên nhau suốt đêm mà không nói được gì. Tuy nhiên mỗi lần con nói “AB-BA” với Người thì Người lại trả lời với con: “CON TA”. Cứ thế …chẳng có gì hơn cho tới sáng.
Hãy đến với Thiên Chúa trong tâm tình của một người con và Thiên Chúa là Cha của mình.
2. Thế như thế nào là tâm tình của một người con còn trẻ?
Thánh nữ Têrêxa trả lời thay cho tôi: Đó là luôn tin tưởng vào tình thương và sự tốt lành của Thiên Chúa.
Cũng trong buổi yết kiến Đức Thánh Cha ở trên, sau khi Đức Thánh Cha đã xem lướt qua bản qui luật, Ngài dừng lại hơi lâu một chút ở chỗ nói về sự nghèo khó, Đức Thánh Cha rất lấy làm ngạc nhiên vì những khoản luật ấy khắt khe quá. Ngài thắc mắc hỏi Phanxicô:
– Con ơi! Anh em con sẽ lấy gì mà sống?
Phanxicô trả lời:
– Dòng tu của con là một bà mẹ nghèo nhưng Thiên Chúa là một người Cha giầu có. Sau cuộc sống này Người đã hứa cho chúng con cả Thiên đàng- Vậy lẽ nào Người lại có thể có thể từ chối chúng con, những con người đang ở dưới thế này, những gì nhỏ bé theo nhu cầu của chúng con.
Qua thí dụ hai người bạn trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cũng muốn nói với chúng ta tương tự như thế. Con người với con người mà còn biết đối xử với nhau như vậy, chẳng lẽ Thiên Chúa là Cha mà lại thua con người hay sao. Chính vì thế mà Chúa bảo: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mới cho” và Chúa còn nhấn mạnh: “Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ thì sẽ mở cho” (Lc 10,9-10)
Phải biết tin tưởng vào tình thương và sự tốt lành của Thiên Chúa mỗi khi chúng ta đến với Ngài.
3. Đó là nguyên tắc nhưng trong thực tế có nhiều khi chúng ta không thấy hay chưa thấy được tình thương cũng như sự tốt lành của Thiên Chúa.
Có nhiều anh chị em phàn nàn với tôi: “Con xin hoài mà chẳng thấy Chúa cho. Con đi tìm đến mỏi cả mắt mà con cũng chẳng tìm ra; gõ đến mỏi cả tay mà cũng chẳng thấy cửa mở ra đâu”.
Quả thực là nhiều lúc cũng có như vậy thật.
Tại sao thế?
Thay vì đi tìm một câu trả lời ở đâu đâu thì chúng ta hãy bình tĩnh đọc tiếp lời Của Chúa Giêsu: “Ai trong anh em là một người Cha, khi con của mình xin bánh mà lại cho nó đá sao? Khi con mình xin cá..lại lấy rắn thay vì cá mà cho nó sao? Hoặc nó xin trứng mà lại cho nó con bò cạp sao?”
Chắc chắn những người làm cha sẽ không bao giờ làm như thế. Nếu con người còn biết đối xứ tốt với con cái của mình như thế thì không lẽ Chúa là Cha mà lại đối xử tệ hơn con người sao. Chắc là không thể. Tôi tin như thế.
Trong cuốn sách Giáo Lý Mới tôi đọc thấy những lời rất hay như thế này: “Bạn đừng buồn nếu bạn không được Thiên Chúa ban ngay điều bạn xin, vì Người muốn cho bạn được nhiều lợi ích hơn nữa, nhờ bạn kiên trì kết hợp với Người trong cầu nguyện. Người muốn tôi luyện những ước muốn của chúng ta trong cầu nguyện, để chúng ta có khả năng đón nhận những gì Người sẵn lòng ban” (GLM số 2737).
Thiên Chúa là Cha, Người sẽ làm những gì tốt nhất cho chúng ta. Hãy tin tưởng vào Người.
Trong truyện tích của Thánh Thomas More, một trong những vị thánh rất nổi tiếng về lòng trung thành đối với Chúa, người ta có đọc được một mẩu truyện nhỏ này:
Có một người mù kia là một người rất đạo đức thường khi cầu nguyện người đó luôn kết thúc ý nguyện bằng một câu như thế này: “Nếu điều đó có ích cho phần rỗi của con.”
Một hôm kia người đó được dẫn đến trước mộ thánh Thomas More thành Cantobury. Trước mộ thánh nhân, người mù cầu xin cho mình được nhìn thấy. Lời cầu nguyện của anh được nhậm lời ngay. Anh được sáng mắt, nhìn thấy tất cả. Anh vô cùng sung sướng thế nhưng khi về đến nhà anh sực nhớ ra là mình quên câu kết thúc lời cầu nguyện như anh vẫn luôn làm. Anh cảm thấy hối hận về việc đó. Sau đó anh lại ra trước mộ thánh Thomas More để cầu nguyện lại. Lần này anh cầu xin để anh mù trở lại và không quên kết thúc lời cầu nguyện của mình bằng câu: “Nếu điều đó có ích cho Linh hồn của con”. Vừa kết thúc lời cầu nguyện đó anh bị mù trở lại thật. Mù trở lại nhưng anh lại rất vui. Khác hẳn với trước kia nhiều khi anh buồn anh nản về số phận hẩm hiu của mình. Bây giờ thì khác hẳn, anh sống can đảm, yêu đời, vui tươi vì anh biết rằng Chúa luôn làm những gì tốt đẹp nhất cho anh.
Khi xuống trần gian, Đức Giêsu không dạy điều gì mà Ngài không làm gương trước cho chúng ta TN 17-C174
Khi xuống trần gian, Đức Giêsu không dạy điều gì mà Ngài không làm gương trước cho chúng ta. Cả cuộc đời Đức Giêsu là một chuỗi cầu nguyện liên lỉ không ngừng. Ngài cầu nguyện mọi lúc, mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh.
Nhìn Thầy Giêsu cầu nguyện, các môn đệ cũng muốn học cách cầu nguyện của Thầy: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ của ông”. Và Đức Giêsu chỉ dạy một lời kinh duy nhất, đó là kinh Lạy Cha. Kinh Lạy Cha là lời cầu nguyện kiểu mẫu, để giúp chúng ta biết cầu nguyện thế nào cho đúng ý Chúa. Bởi vì đến với Chúa, nhiều khi chúng ta cầu xin hơn là cầu nguyện.
Vậy thế nào là cầu nguyện và thế nào là cầu xin? Nếu chúng ta để ý thì trong kinh Lạy Cha có hai phần: phần đầu là cầu nguyện, còn phần hai là cầu xin.
Cầu nguyện là chúng ta dâng lên Chúa những tâm tình thờ lạy, chúc tụng, cảm tạ, ngợi khen. Chúng ta đọc “Lạy Cha, chúng con ở trên trời”, là chúng ta nói lên mối tương quan tình nghĩa Cha con. Chúa là Cha còn chúng ta là con của Ngài. Thế thì, chúng ta có cảm thấy hạnh phúc vì được gọi Chúa là Cha, và chúng ta là con của Ngài không?. Đồng thời, người con hiếu thảo là người con cầu mong cho danh Cha mình được cả sáng, có nghĩa là được mọi người nhận biết Chúa là Cha, và tất cả mọi người đều là anh em với nhau. “Tứ hải giai huynh đệ”.
Thật vậy, Đức Giêsu dạy: Lạy Cha chúng con… Xin Cha cho chúng con… Chứ Chúa không dạy: Lạy Cha của con…Xin Cha cho con… Nghĩa là tất cả mọi người có cùng một Cha. Mọi người đều thuộc về gia đình Thiên Chúa Ba Ngôi. Là anh em con cùng một Cha, nên phải sống hiệp nhất yêu thương, liên đới với nhau trong đời sống, và liên đới với nhau trong cả lời cầu nguyện. Như trong bài đọc I, tổ phụ Abraham đã nêu gương sống tình liên đới khi tha thiết cầu nguyện cho thành Sôđôma khỏi bị phạt.
Phần thứ hai Chúa dạy chúng ta cầu xin: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”. Có nghĩa là xin Chúa ban cho lương thực phần hồn, phần xác. Xin Chúa cho mọi người trên trái đất này có công ăn việc làm, nghề nghiệp ổn định. Biết chạnh lòng thương chia cơm xẻ áo cho những người kém may mắn. Chúa không muốn một số người cứ phòng cơ tích trữ, hay sống xa hoa lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, trong khi đồng loại còn thiếu nhà ở, còn phải đói khát ăn xin, nằm đầu đường xó chợ…
Có những người xin Chúa ban lương thực hằng ngày mà cứ mãi mê ăn chơi, hoặc nằm ngửa chờ sung rụng, thì làm sao có lương thực được?.
Rồi có những lời cầu xin hết sức vụ lợi. Chẳng hạn như: xin cho con trúng số; xin cho con mua may bán đắc, bạc cắc không cần nhưng cần đôla. Xin cho con cái này, xin cho con cái nọ, xin vài lần mà không thấy Chúa nhúc nhích, thì đâm ra chán nản thất vọng bỏ Chúa đi coi thầy xem bói.
Cuối cùng, với tâm tình sám hối, chúng ta xin Chúa giúp chúng ta sẵn sàng tha thứ để được Chúa thứ tha. Và xin ban Thánh Thần xuống để Người cầu nguyện trong chúng ta và giúp chúng ta luôn sống theo lời của Chúa.
Anh chị em thân mến,
Ngoài kinh Lạy Cha, Chúa còn dạy chúng ta cầu nguyện phải kiên trì tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương. Thiên Chúa là Cha đầy quyền năng sẽ ban cho chúng ta những gì tốt đẹp nhất, và Ngài còn là Người Cha khôn ngoan, biết những gì cần thiết ích lợi cho chúng ta. Người cha ở đời mà còn biết cho con cái mình những cái tốt lành, huống chi là Thiên Chúa. Ngài là người Cha giàu lòng thương xót sẽ rộng ban những điều hữu ích cho chúng ta. Vì Chúa hứa: “Hãy xin, sẽ được; hãy tìm, sẽ thấy; hãy gõ, sẽ mở”.
Chúa là Cha nhân lành luôn làm điều tốt lành cho con cái. Nhưng điều chúng ta cầu xin phải phù hợp với thánh ý Chúa, vì Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta “bánh” chứ không cho “hòn đá”; muốn ban “cá” chứ không cho “con rắn”, muốn ban “trứng” chứ không cho “bọ cạp”.
Cử hành Thánh lễ là dịp tốt nhất giúp chúng ta cầu nguyện đẹp lòng Chúa. Vì chúng ta cầu nguyện chung với cả Giáo Hội. Cầu nguyện nhờ công nghiệp của Chúa Kitô, chính nhờ Người với Người và trong Người.
Xin cho chúng ta biết cầu nguyện theo tinh thần Chúa dạy, và xin Chúa nhận lời cầu xin của chúng con dâng lên Chúa hôm nay. Amen.
Đấng đáng kính GM Aloysius Schwartz (1930-1992, Hoa Kỳ) khuyên: “Khi cầu nguyện, hãy cầu TN 17-C175
Đấng đáng kính GM Aloysius Schwartz (1930-1992, Hoa Kỳ) khuyên: “Khi cầu nguyện, hãy cầu xin hai điều: xin soi sáng để nhận biết ý Chúa, và xin can đảm để làm theo ý Chúa”. Thế thôi, không cần lải nhải lắm lời, nhiều chuyện, bởi vì Thiên Chúa thấu suốt mọi sự nên Ngài biết hết rồi!
Cuộc sống rất cần cầu nguyện, người nào cũng cần – kể cả người vô thần, dù chỉ là “tĩnh lặng” trong “khoảng sa mạc” của tâm hồn. Cầu nguyện là hướng tâm hồn lên Chúa, tâm sự thân mật với Ngài về mọi sự, cả điều to lẫn điều nhỏ, cả niềm vui lẫn nỗi buồn. Cầu nguyện làm cho con người hèn mọn trở nên vĩ đại, vì được trực tiếp nói chuyện với Thiên Chúa. Nhưng cần lưu ý “phong cách cầu nguyện”, điển hình là hai động thái của hai người cùng cầu nguyện tại Đền Thờ: Người Pharisêu và người thu thuế (x. Lc 18:9-14). Người Pharisêu ỷ mình được “biệt phái” nên khinh người khác, đó là “phạm tội ngay trong lúc cầu nguyện”. Thật đáng sợ!
Chắc chắn rằng cầu nguyện là thời gian tốt lành, thế nhưng đôi khi người ta lại kỷ hoặc bất nhân trong “giờ vàng” đó. Thật vậy, người ta ích kỷ vì chỉ cầu cho mình chứ không cầu cho người khác, và rồi còn có thể bất nhân – bởi vì lải nhải với Chúa về tội người khác để tự biện minh cho mình là chân chính. Tinh vi lắm!
Con người có xu hướng trọng hình thức, ưa bề ngoài – tức là dạng giả hình. Giả hình là giả dối. Thánh Gioan tông đồ cảnh báo: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta. Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho chúng ta, và sẽ thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính. Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội, thì chúng ta coi Người là kẻ nói dối, và lời của Người không ở trong chúng ta” (1 Ga 1:8-10). Giả dối với người khác là mù quáng, giả dối với chính mình là tự lừa mình, rõ ràng là ngu xuẩn.
Thực sự rất quan trọng về “thái độ cầu nguyện”, bởi vì hiệu quả hay không hoàn toàn tùy thuộc phong cách cầu nguyện của mỗi người. Con người đầy tham-sân-si, thế nên phải vượt lên chính mình. Vì tà tâm nên khi thấy kẻ ác lộng hành, có người đã từng nói: “Sao Chúa không cho nó chết đi, phạt nhãn tiền cho cuộc sống bình yên”. Ý tốt đó có thực sự tốt chưa, hay chính là sự bất nhân? Thử hỏi: “Nếu Chúa áp dụng thẳng thắn nghiêm luật thì chúng ta còn sống tới hôm nay?”. Giữa sự thiện và sự ác chỉ có một khe nhỏ bé lắm. Tưởng như vậy mà không như vậy, tưởng không như thế mà lại như thế!
Càng ưa bề ngoài thì càng dễ giả hình, càng giả hình thì càng mù quáng. Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã phải nói thẳng với nhóm người Biệt Phái: “Nếu các ông hiểu được ý nghĩa của câu này:Ta muốn LÒNG NHÂN chứ đâu cần LỄ TẾ, ắt các ông đã chẳng lên án kẻ vô tội” (Mt 12:8). Con người rất dễ ảo tưởng, thế nên ngay khi chính mình là “Pharisêu chính hiệu” (được biệt phái, được đặc cách, được may mắn,…) mà cứ tưởng mình đang hành động vì Chúa. Sự mù quáng đáng cảnh giác, vì Kinh Thánh nói rõ: “Kẻ thiếu lương tri mới khinh khi người khác, người giàu hiểu biết thì ngậm miệng làm thinh” (Cn 11:12).
Thiên Chúa chí thánh, cực lành, Ngài không thể chấp nhận vết hoen ố nào, và Ngài đã quyết định: “Tiếng kêu trách Xơđôm và Gômôra thật quá lớn! Tội lỗi của chúng quá nặng nề! Ta phải xuống xem thật sự chúng có làm như tiếng kêu trách đã thấu đến Ta không. Có hay không, Ta sẽ biết” (St 18:20-21). Đó là cách thể hiện sự công minh và chính trực của Thiên Chúa – Thẩm Phán tối cao và duy nhất. Ông Bao Công đã khiến người ta tâm phục khẩu phục về cách xử án công minh chính trực, không thiên vị bất cứ ai. Nhưng như thế cũng chẳng là gì đối với Thiên Chúa, Ngài còn vượt trội hơn hẳn, còn nghiêm minh hơn Bao Công nhiều.
Kinh Thánh cho biết: Khi hai người kia bỏ nơi đó mà đi về phía Xơđôm, Đức Chúa còn đứng lại với ông Ápraham. Ông lại gần và “đặt vấn đề” với Chúa: “Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao? Giả như trong thành có năm mươi người lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ thật sao? Chẳng lẽ Ngài không dung thứ cho thành đó, vì năm mươi người lành trong đó sao? Ngài làm như vậy, chắc không được đâu! Giết chết người lành một trật với kẻ dữ, coi người lành cũng như kẻ dữ, chắc không được đâu! Đấng xét xử cả trần gian lại không xét xử công minh sao?” (St 18:23-25). Tổ phụ Ápraham cầu nguyện mà như “mặc cả” với Chúa, nhưng ông không mặc cả để tự biện hộ mà ông mặc cả vì công ích, vì lợi ích của người khác. Đó là sự mặc cả được Thiên Chúa cho phép. Và rồi Đức Chúa đáp: “Nếu Ta tìm được trong thành Xơđôm năm mươi người lành, thì vì họ, Ta sẽ dung thứ cho tất cả thành đó” (St 18:26). Ôi, Thiên Chúa vô cùng nhân từ và dạt dào thương xót!
Thế thì tốt quá. Nhưng ông Ápraham chưa an tâm, vẫn áy náy, ông lại nói: “Mặc dầu con chỉ là thân tro bụi, con cũng xin mạn phép thưa với Chúa: Giả như trong số năm mươi người lành lại thiếu mất năm, vì năm người đó, Ngài sẽ phá huỷ cả thành sao?” (St 18:27-28a). Ôi, giả thuyết của ông rất độc đáo. Và Chúa lại thản nhiên đáp: “Không! Ta sẽ không phá huỷ, nếu Ta tìm được bốn mươi lăm người” (St 18:28b). Thật tuyệt vời biết bao! Nhưng rồi ông vẫn chưa an tâm, ông lại mạnh dạn thưa thêm lần nữa: “Giả như trong thành tìm được bốn mươi người thì sao?”. Thiên Chúa vẫn không nổi nóng, mà lại cười hiền và đáp: “Vì bốn mươi người đó, Ta sẽ không làm” (St 18:29). Ôi chao, Chúa thật là hiền, hiền ơi là hiền, nhân hậu quá chừng luôn!
Thấy Chúa nhân từ quá nên ông Ápraham có vẻ hơi ngại, dù ông có ý “làm tới”, và rồi ông khép nép thưa: “Xin Chúa đừng giận, cho con nói tiếp: Giả như ở đó có ba mươi người thì sao?” (St 18:30a). Chúa vẫn thản nhiên, bình tĩnh và xác định: “Nếu Ta tìm được ba mươi người, Ta sẽ không làm” (St 18:30b). Ông vẫn cố mặc cả, ông giả định còn hai mươi người, rồi chỉ còn mười người, nhưng Chúa vẫn nói: “Vì mười người đó, Ta sẽ không phá huỷ Xơđôm” (St 18:32b). Ông Ápraham không dám mặc cả gì thêm nữa. Thiên Chúa biến đi, còn ông trở về nhà.
Quả thật, chẳng ai có thể nhân từ và “mát tính” như Chúa, người ta có tốt chăng thì cũng chỉ “quá tam ba bận”. Thiên Chúa là tình yêu nên Ngài yêu điên cuồng đến nỗi chết vì chính những người xúc phạm và giết chết Ngài, con người có tốt thì cũng chỉ dám chết cho người mình yêu mà thôi. Vì thế, chúng ta chỉ còn biết ngước nhìn Ngài, rồi dang tay lên và thân thưa: “Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ, Ngài đã nghe lời miệng con xin. Giữa chư vị thiên thần, xin đàn ca kính Chúa, hướng về đền thánh, con phủ phục tôn thờ. Xin cảm tạ danh Chúa, vì Ngài vẫn thành tín yêu thương, đã đề cao danh thánh và lời hứa của Ngài trên tất cả mọi sự” (Tv 138:1-2). Lòng Chúa Thương Xót vượt lên khỏi trí tuệ của phàm nhân chúng ta, đúng như Thánh Vịnh gia đã cảm nghiệm: “Ngày con kêu cứu, Chúa đã thương đáp lại, đã gia tăng nghị lực cho tâm hồn” (Tv 138:3). Thật vậy, nếu Ngài không kịp thời cứu chữa thì chúng ta không còn hiện hữu tới hôm nay.
Là tình yêu và giàu lòng thương xót, Thiên Chúa cũng cho phép chúng ta mặc cả vì tình yêu, vì sám hối, và dù “Chúa thật cao cả, nhưng vẫn nhìn đến kẻ thấp hèn; còn ai ngạo mạn ngông nghênh, từ xa Ngài đã biết” (Tv 138:6). Đừng ảo tưởng mà đối nghịch với Ngài. Thánh Vịnh gia đã bày tỏ thay cho chúng ta: “Cho dù con gặp bước ngặt nghèo, Chúa vẫn bảo toàn mạng sống con. Địch thù đang hằm hằm giận dữ, Ngài ra tay chận đứng, lấy tay uy quyền giải thoát con” (Tv 138:7). Do đó, chúng ta phải tự hứa với Ngài và xưng tụng: “Việc Chúa làm cho con, Ngài sẽ hoàn tất; lạy Chúa, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Công trình do tay Ngài thực hiện, xin đừng bỏ dở dang” (Tv 138:8).
Có thể nói rằng cuộc đời con người có hai cột mốc, như sợi dây có hai đầu: Khởi sự và kết thúc – khi sinh và lúc chết. Thiên Chúa là Nguồn Sống, là Alpha và Omega, là Đầu và là Cuối, là Khởi Nguyên và Tận Cùng (Kh 1:17; 2:8; 22:13). Thánh Phaolô giải thích: “Anh em đã cùng được mai táng với Đức Kitô khi chịu phép rửa, lại cùng được trỗi dậy với Người, vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết. Trước kia, anh em là những kẻ chết vì anh em đã sa ngã, và vì thân xác anh em không được cắt bì, nay Thiên Chúa đã cho anh em được cùng sống với Đức Kitô: Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ mọi sa ngã lỗi lầm của chúng ta” (Cl 2:12-13).
Không phàm nhân nào tinh tuyền, nghĩa là ai cũng sai lầm, ngay cả người tốt cũng sai lỗi mỗi ngày bảy lần (x. Cn 24:16), vì đã mang tội ngay khi hình thành trong bụng mẹ (x. Tv 51:7). Thế nhưng Thiên Chúa vẫn đại lượng tha thứ, nếu tội nhân biết sám hối chân thành. Điều rất quan trọng là đừng mất niềm tin vào Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, dù chúng ta có tội lỗi lút cổ ngập đầu: “Dù tội đỏ như son cũng ra trắng như tuyết, có thẫm tựa vải điều cũng hoá trắng như bông” (Is 1:18). Mỗi khi chúng ta sám hối là chúng ta lại “mặc cả” với Chúa, nhưng Ngài cho phép vì lợi ích của chúng ta. Quả thật, chúng ta không thể nào hiểu thấu!
Thánh Phaolô cho biết: “Người đã xoá sổ nợ bất lợi cho chúng ta, sổ nợ mà các giới luật đã đưa ra chống lại chúng ta. Người đã huỷ bỏ nó đi, bằng cách đóng đinh nó vào thập giá” (Cl 2:14). Và Thánh Phêrô nói: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành” (1 Pr 2:24). Còn Thánh Mark khổ tu khuyên: “Ai đã phạm tội thì đừng bao giờ thất vọng. Chúng ta không bị đoán phạt vì số lượng tội lỗi đã phạm, nhưng vì chúng ta không muốn sám hối và không nhận biết các phép lạ của Chúa Kitô”.
Thánh Gioan Eudes (1601–1680) phân tích: “Không khí chúng ta thở, cơm bánh chúng ta ăn, trái tim đập trong lồng ngực chúng ta cũng không cần thiết để giúp chúng ta có thể sống đúng là một con người cho bằng lời cầu nguyện, vì cầu nguyện giúp chúng ta có thể sống đúng là một tín hữu”. Còn nhà vật lý André-Marie Ampère (1775–1836, Pháp) nói: “Chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện”. Rõ ràng và chắc chắn rằng cầu nguyện là việc làm quan trọng, nhưng phong cách cầu nguyện còn quan trọng hơn nhiều.
Một lần nọ, Chúa Giêsu vừa cầu nguyện xong thì có một người trong nhóm môn đệ nói: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy môn đệ của ông” (Lc 11:1). Đây cũng là điều cần thiết mà chúng ta phải biết xin Chúa mỗi khi chúng ta cầu nguyện – dù chung hay riêng. Cầu nguyện là hơi thở của tín nhân, không cầu nguyện là “chết tâm linh” mặc dù thân xác còn sống.
Nghe các trò hỏi, Sư Phụ Chúa Giêsu ân cần hướng dẫn: “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, Triều Đại Cha mau đến, xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy; xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con, và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ” (Lc 11:2-4). Đó là Đệ Nhất Kinh. Mỗi ngày chúng ta đọc Kinh Lạy Cha nhiều lần, nhưng có thể quen quá hóa thường, đôi khi không khác kiểu đọc vẹt. Nếu xét sâu và sát theo lời kinh thì thấy mình còn thiếu sót nhiều lắm. Đọc là một chuyện, hiểu đúng và thực hành là chuyện khác.
Sau đó Ngài còn nói với các ông một chuyện rất đời thường: “Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói: ‘Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả’; mà người kia từ trong nhà lại đáp: ‘Xin anh đừng quấy rầy tôi, cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được?’. Thầy nói cho anh em biết: dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ lì ra đó” (Lc 11:5-8). Ví dụ rất cụ thể, rạch ròi, dễ hiểu. Nhưng Ngài muốn dạy chúng ta phải biết kiên trì chứ đừng lải nhải (Mt 6:7). Chúa Giêsu rất trầm tính, không thích những người nói nhiều, lắm chuyện, lẻo mép!
Đọc kinh là cầu nguyện, nhưng cầu nguyện không hẳn là cứ phải đọc kinh. Cầu nguyện không là trình bày cho xong lần, cũng không là “ra lệnh” cho Chúa, mà phải cầu nguyện bằng cả niềm tin tưởng và phó thác. Ngài trọng chữ tín, không bao giờ sai lời hứa: “Cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11:9-10). Xin chưa được, tìm chưa thấy, gõ chưa mở, đó là do lỗi của chúng ta, vì có thể lời cầu xin của chúng ta còn ích kỷ hoặc thực dụng.
Thật vậy, Thánh Gioan Eudes cho biết: “Có những ân sủng của Thiên Chúa toàn năng KHÔNG ĐƯỢC BAN khi anh em ngỏ lời xin lần thứ nhất, lần thứ hai, hoặc lần thứ ba, bởi vì Người muốn anh em PHẢI CẦU NGUYỆN trong một thời gian lâu dài và thường xuyên. Người muốn trì hoãn để giữ anh em trong tình trạng KHIÊM CUNG và TỰ HẠ, đồng thời làm cho anh em NHẬN THỨC được giá trị những ân sủng của Người”. Ý Chúa mầu nhiệm, không thể hiểu, nhưng người ta lại chỉ muốn xin “như ý” của mình mà thôi.
Về việc cầu nguyện, chính Chúa Giêsu cũng đã phân tích rất cụ thể rằng không cha mẹ nào lại lấy rắn cho con khi nó xin cá, hoặc lấy bò cạp cho con khi nó xin trứng. Rồi Ngài kết luận: “Nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Lc 11:13). Một câu nghi vấn để nhấn mạnh điều xác định. Thiên Chúa tốt lành nên Ngài chỉ làm điều ích lợi cho chúng ta, Ngài không thể muốn điều xấu cho ai hoặc cám dỗ ai.
Người ta nói: “Vô tri bất mộ”. Yêu thì phải biết – biết rõ chứ không mơ hồ, không biết thì không thể yêu. Biết rõ rồi cảm thấy yêu mến, yêu mến nên mới tin tưởng, tin tưởng nên muốn cầu nguyện. Cầu nguyện không chỉ là lẽ sống mà còn thể hiện Đức Tin và Đức Mến (bao hàm cả Đức Cậy). Thánh Gioan Tông Đồ lý luận: “Nếu ai nói ‘tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20). Rất lô-gích và chí lý!
Lạy Thiên Chúa, xin ban Thần Khí đốt Lửa Mến trong lòng chúng con, để chúng con nói với Ngài và nói về Ngài, đồng thời càng ngày càng hoàn thiện mà nên giống Ngài hơn. Xin cho mọi người sống đúng bổn phận và trách nhiệm của mình để vinh danh Ngài và sinh ích lợi cho tha nhân. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Có câu chuyện về một em bé được cha mẹ dạy đọc kinh trước khi đi ngủ, và đã trở thành thói quen TN 17-C176
Có câu chuyện về một em bé được cha mẹ dạy đọc kinh trước khi đi ngủ, và đã trở thành thói quen của em. Ngày kia em bị bệnh nặng và phải vào nhà thương. Các bác sĩ cho biết em phải qua một cuộc giải phẫu. Trước khi cho thuốc mê, các bác sĩ cho em biết em sẽ ngủ một giấc ngủ dài. Nghe đến ngủ, em vội vàng quỳ gối cầu nguyện: “Xin Chúa cho con được chóng lành bệnh. Sau đó em nằm xuống và xin bác sĩ tiến hành cuộc giải phẫu. Hôm sau khi thức dậy câu hỏi đầu tiên của em là: “Thưa bác sĩ, cháu có lành bệnh không?” Bác sĩ nhìn em cảm động và mỉm cười nói : “Cháu hãy để cho Chúa lo liệu. Bác tin chắc là lời cầu nguyện của cháu có hiệu nghiệm, vì cháu đã cứu được một người là chính bác. Vì từ lâu bác không còn đến nhà thờ, không nhớ đến Chúa. Nhưng hôm qua khi cháu quì cầu nguyện sốt sắng và nhiệt thành, Chúa đã đánh động tâm hồn bác. Sáng nay bác đã đến nhà thờ xưng tội và tham dự Thánh lễ.
Câu chuyện em bé có thói quen cầu nguyện trước khi đi ngủ trên đây là một sự khích lệ cho chúng ta, và cho chúng ta biết ảnh hưởng tốt đẹp của sự cầu nguyện như thế nào. Cầu nguyện rất cần thiết cho đời sống tinh thần Kitô hữu, như thân thể cần thức ăn, nước uống để sống.
Tin mừng cho chúng ta biết Chúa Giêsu luôn đặt sự cầu nguyện ưu tiên trên hết trong đời sống của Ngài. Trước khi thi hành sứ vụ công rao giảng tin mừng, Chúa Giêsu đã vào sa mạc 40 đêm ngày để ăn chay, cầu nguyện. Chúa đã dành nhiều giờ để cầu nguyện với Cha của Ngài sau mỗi lần rao giảng và làm phép lạ. Chúa đã thức thâu đêm cầu nguyện và hỏi ý Chúa Cha trước khi tuyển chọn các môn đệ. Trước khi chịu chết, Chúa đã vào vườn cây dầu để cầu nguyện. Chúng ta thấy trong ba năm rao giảng, Chúa Giêsu đã dành rất nhiều thời giờ để cầu nguyện tâm sự với Thiên Chúa Cha. Có lẽ các môn đệ đã cảm nghiệm được lòng sốt sắng và cần thiết cầu nguyện của Thầy, cho nên sau khi thấy Chúa cầu nguyện, các ông đã mạnh dạn xin Chúa dậy các ông cầu nguyện. Và như chúng ta vừa được nghe trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu đã dậy các môn đệ cầu nguyện bằng những lời kinh mà chúng ta gọi là Kinh Lạy Cha. Thật vậy, ngoại trừ Kinh Lạy Cha, Chúa không dậy bất cứ một lời cầu nguyện nào khác nữa, vì thế chúng ta tin Kinh Lạy Cha rất quan trọng và thiết yếu.
Qua Kinh Lạy Cha, Chúa dạy chúng ta cách tâm tình với Chúa Cha, cách sống thế nào cho đáng là con cái và xin điều gì. Phân tích ra chúng ta thấy trong Kinh Lạy Cha gồm có một lời mở đầu, ba lời ước nguyện và 4 điều cầu xin. Mở đầu, Chúa Giê-su dạy chúng ta thưa “Lạy Cha” với Thiên Chúa. Đây là một điều tự nhiên mà con người chúng ta thường làm khi thưa hay xin gì cùng ai. Thí dụ như khi con cái xin sự gì cùng cha mẹ, thì thường bắt đầu bằng câu nói: “Thưa ba hay thưa má.” Hay khi chúng ta đối thoại hay muốn xin sự gì cùng ai thì thường nói rằng: “Thưa ông, thưa bà hay thưa cha.” Ở đây chúng ta thấy câu: “Lạy Cha chúng con” đặt chúng ta vào tâm tình tôn kính và yêu mến vì Chúa là cha chúng ta, chúng ta là con cái Chúa và chúng ta là anh chị em với nhau.
Tiếp đến là 3 lời ước nguyện. Trước hết, chúng ta mong ước cho mọi người nhận biết danh Chúa, nhìn nhận Chúa là Đấng tạo dựng và là người cha nhân từ. Thứ hai, chúng ta cầu nguyện Danh Cha luôn được vinh hiển và Nước Cha trị đến, lan rộng ra khắp nơi. Có nghĩa là chúng ta nguyện xin cho số người nhận biết và tin vào Chúa tăng lên đông đảo. Và thứ ba, chúng ta xin cho mọi người trong đó dĩ nhiên là có cả chúng ta biết vâng theo ý Chúa, có nghĩa là sống những điều Chúa dạy bảo, để qua cuộc sống của chúng ta những ước nguyện được thể hiện.
Ở phần cuối của Kinh Lạy Cha, Chúa dạy chúng ta cầu xin với Chúa Cha những điều cần thiết cho chúng ta và cho mọi người: xin lương thực hằng ngày, xin ơn tha thứ và xin sức mạnh tránh xa điều tội lỗi.
Sau khi dạy các môn đệ Kinh Lạy Cha, Chúa đã dùng dụ ngôn “Xin Bánh Ban Đêm” để nhắc nhở chúng ta về sự kiên trì và nhẫn nại trong sự cầu nguyện. Có thể nói nhiều người chúng ta thiếu kiên trì, tin tưởng và kiên nhẫn trong khi cầu nguyện. Nhiều khi chúng ta đợi đến những lúc gặp khó khăn, trở ngại trong cuộc sống, mới chạy đến Chúa hay Mẹ Maria để cầu nguyện và xin ơn và muốn Chúa, muốn Mẹ phải trả lời và ban cho chúng ta những điều chúng ta xin ngay tức khắc. Nhiều khi chúng ta cầu nguyện nhưng thiếu tin tưởng và phó thác vào sự quan phòng và yêu thương của Chúa. Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện với thái độ kiên trì và nhẫn nại như vậy, không phải là Chúa không nghe hay biết chúng ta kêu xin, hay làm ngơ hay không muốn ban cho chúng ta, nhưng Chúa muốn tăng thêm đức tin, muốn đức tin của chúng ta trở nên trưởng thành hơn. Chúng ta cần phải phân biệt 2 điều quan trọng này trong sự cầu nguyện, đó là: “Chúa nghe lời chúng ta” và “Chúa cho điều chúng ta xin.” Chúa có thể không ban điều chúng ta xin, mà vẫn nghe lời chúng ta. Bởi vì khi chúng ta cầu xin, Chúa đáp ứng bằng nhiều cách: hoặc ban điều chúng ta xin, hoặc chúng ta xin một ơn, Chúa ban cho chúng ta một ơn khác. Vì lẽ điều chúng ta xin sẽ không đem lại lợi ích thiêng liêng, nhiều khi còn có hại cho cuộc sống bây giờ hay trong tương lai. Cũng có khi chúng ta không xin điều gì đó mà chúng ta cảm thấy xảy ra trong cuộc sống. Chúa biết chúng ta cần gì và Người nhìn xa trong cuộc sống. Chúa ban cho chúng ta nhiều ơn lành hồn xác cần thiết mà chính chúng ta không nghĩ tới hay không xin. Cũng có thể chúng ta cầu hoài mà Chúa chưa cho, là vì Chúa muốn tăng thêm đức tin và dạy chúng ta biết phó thác.
Bởi thế khi cầu nguyện điều quan trọng là luôn tin tưởng, cậy trông, phó thác vào tình thương và sự quan phòng của Cha chúng ta. Chúa yêu thương và muốn chúng ta có cuộc sống tràn đầy vui mừng và hy vọng, trở thành những khí cụ làm Danh Chúa cả sáng, và Nước Chúa trị đến. Đây là tin mừng. Đây là lý do và ý nghĩa của Thánh lễ chúng ta cử hành hôm nay. Xin Chúa chúc lành và ban nhiều ơn lành cho tất cả chúng ta để chúng ta sống xứng đáng là con của Chúa, sinh nhiều hoa trái tốt đẹp, làm sáng danh Chúa.
Đức Thánh Cha Benêđictô XVI, khi nói về cầu nguyện, đã viết: “Nếu không còn ai lắng nghe tôi TN 17-C177
Đức Thánh Cha Benêđictô XVI, khi nói về cầu nguyện, đã viết: “Nếu không còn ai lắng nghe tôi nữa, thì vẫn còn Chúa lắng nghe tôi. Nếu tôi không còn có thể nói chuyện với ai, nếu tôi không còn có thể kêu cầu đến bất cứ người nào, tôi vẫn luôn có thể thưa chuyện cùng Chúa. Nếu không còn ai giúp đỡ, khi nhu cầu hay mong đợi vượt quá khả năng hy vọng của con người, thì Thiên Chúa vẫn có thể giúp tôi” (Thông điệp Spe salvi, số 32).
Cầu nguyện đem lại cho chúng ta những điều kỳ diệu. Con người phàm hèn có thể ngỏ lời với Đấng Tối cao và có thể lắng nghe Lời của Ngài. Cầu nguyện bắc một nhịp cầu nối liền trời với đất, xóa tan khoảng cách xa xôi và làm cho con người được nên một với Thiên Chúa trong những dòng tâm sự thân thương.
Sự “mặc cả” của ông Abraham với Đức Chúa được diễn tả rất “con người”. Điều đó cho ta thấy mục đích của lời cầu nguyện là làm nguôi cơn giận của Thiên Chúa. Sự năn nỉ của ông cũng diễn tả một quan niệm bình dân về Thiên Chúa. Ngài cũng giống như một con người. Ngài mềm lòng trước lời than van và dường như Ngài nhượng bộ họ.
Một Thiên Chúa “không vui khi thấy tội nhân phải chết”, “chậm bất bình và hết sức khoan dung” là Thiên Chúa mà Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta. Ngài là Cha yêu thương và muốn cho chúng ta được những điều tốt lành. Chúng ta không còn phải ngần ngại e dè khi đến với Chúa. Chúa Giêsu đã cho chúng ta quyền được thân thưa “Lạy Cha” với Đấng Tối cao. Kinh Lạy Cha là lời nguyện hoàn hảo, cũng là lời nguyện duy nhất mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta. Đó là lời tâm sự rất thân tình như con thảo nói với cha mẹ. Mặc dù ngắn gọn, nhưng Kinh Lạy Cha đã gồm tóm tất cả giới răn của Chúa là mến Chúa yêu người. Kinh Lạy Cha không nặng về lý thuyết, nhưng rất cụ thể và là phương châm sống cho mỗi tín hữu để nối kết với tình Cha, cảm thông với tình người.
Kiên trì nhẫn nại là một điều kiện cần thiết khi cầu nguyện. Với cách diễn tả bình dân và dễ hiểu, Chúa Giêsu đã dùng một dụ ngôn để khẳng định điều này. Người cha thế gian mà còn biết thương con cái và chọn lựa những điều tốt cho con mình, huống chi là Thiên Chúa, Đấng quyền năng và nhân hậu vô cùng.
Một tác giả tu đức đã giải thích về lời cầu nguyện như sau: “Mỗi khi bạn cầu nguyện, Chúa sẽ trả lời bằng một trong ba cách này: -OK, Ta đồng ý ban cho con điều con xin ngay lập tức. -OK, Ta đồng ý ban cho con điều con xin, nhưng hãy thư thả chờ đợi một chút. -OK, Ta biết rằng điều con xin là hợp lý, nhưng Ta có điều này tốt hơn cho con, và ta muốn ban cho con điều tốt hơn ấy. Bạn thấy không, bao giờ Chúa cũng trả lời bằng sự đồng ý – OK”. Mẹ Têrêsa Calcuta đã chia sẻ về cầu nguyện như sau: “Có những lúc bạn cảm thấy phân tâm không thể cầu nguyện được, đơn giản thôi: bạn hãy để Chúa Giêsu cầu nguyện cùng với Chúa Cha trong sự tĩnh lặng của tâm hồn bạn. Nếu tôi không thể nói, Chúa Giêsu sẽ nói thay tôi. Nếu tôi không thể cầu nguyện, Chúa Giêsu sẽ cầu nguyện thay tôi” (Trích từ La prière, fraicheur d’une source, tr. 15). “Cầu nguyện là thứ rượu làm vui thỏa tâm hồn con người” (Thánh Bernard). Phải chăng nhiều người tín hữu không thiết tha với việc cầu nguyện là vì họ không cảm thấy sự dịu ngọt khi nghe Chúa nói và tâm sự với Ngài. Mỗi chúng ta khi đến với Chúa hãy giữ tâm hồn thinh lặng để cảm nghiệm hạnh phúc nơi sâu thẳm tâm hồn. Chính trong thinh lặng mà ta khám phá ra Thánh ý của Chúa và thực hiện ý Ngài trong đời. Với lối so sánh rất đơn sơ mà sâu sắc, Thánh Gioan Maria Vianay chia sẻ kinh nghiệm với chúng ta: “Càng cầu nguyện, chúng ta càng ước muốn cầu nguyện. Như một con cá lúc đầu bơi trên mặt nước, sau đó, lặn xuống và càng lặn sâu hơn nữa thế nào, thì linh hồn cũng bơi, lặn và mất hút trong hương vị ngọt ngào của cuộc chuyện vãn với Thiên Chúa như vậy”. Cầu nguyện là kiếm tìm và cảm nghiệm sự ngọt ngào của ân sủng cho đời sống tín hữu. Cầu nguyện còn hướng tới tha nhân, mang lại cho họ những điều tốt đẹp và giúp họ tránh những tai ương có nguy cơ xảy đến. Tác giả sách Sáng thế kể với chúng ta, nếu có mười người công chính trong thành Xơđôm, là những người biết cầu nguyện và sống đẹp lòng Chúa, thì thành ấy không bị tiêu diệt. Tiếc thay, một điều kiện rất đơn giản mà không có được. Thành Xơđôm đã bị lửa thiêu thành đống tro tàn. Thế giới hôm nay cũng rất đang cần đến những người cầu nguyện và sống đạo đức công chính để nhờ đó mà Thiên Chúa không giáng phạt, nhưng chúc lành và cứu rỗi thế gian.
Khi tổng thống Washington của nước Mỹ còn là một cậu bé 15 tuổi đang chạy chơi trong nông trại TN 17-C178
Khi tổng thống Washington của nước Mỹ còn là một cậu bé 15 tuổi đang chạy chơi trong nông trại của cha thì bị vấp ngã.
Vết thương lúc đầu không nặng lắm, nhưng vì bất cẩn nên 2 ngày sau bị nhiễm trùng. Chân cậu bé sưng vù lên, phải đưa đến bác sĩ. Bác sĩ thất vọng nói:
Vết thương đã trở nên quá trầm trọng. Nếu muốn cứu cậu bé thì phải cưa chân thôi.
Washington sốt dữ dội. Bác sĩ cho biết chỉ có phép lạ mới cứu nổi. Nghe vậy cả nhà hoảng sợ. Nhưng tin vào lời cầu nguyện như Chúa đã hứa: “Xin thì sẽ được”. Thế là bố mẹ và mấy người chị bắt đầu cầu nguyện. Họ cầu nguyện sốt sắng và liên lỉ. Họ tha thiết vững tin vào tình thương Chúa.
Hai ngày sau mấy cậu con trai theo gương bố mẹ và các chị cũng quỳ gối cầu nguyện cho em.
Sáng ngày thứ 3 bác sĩ đến thăm, ông ngạc nhiên khi thấy vết thương bớt hẳn. Cậu bé đã ăn được, ngủ được.
Người ta tiếp tục cầu nguyện. Vài ngày sau đó cậu bé lành bệnh hẳn.
Khi bác sĩ tỏ ra hết sức ngạc nhiên về loại thần dược đã cứu sống bệnh nhân cách lạ lùng như thế thì được gia đình cho hay:
Chúng tôi cầu nguyện và vững tin vào lời Chúa:
“Hãy xin thì sẽ được.” Con người thường có xu hướng “có bệnh vái tứ phương”,
nhưng thường họ thất bại vì thiếu kiên trì. Thầy thuốc có giỏi cũng cần thời gian. Nhất là trong lời cầu nguyện với Chúa. Con người cũng có xu hướng nhanh – gọn – lẹ. Họ muốn Chúa làm ngay điều họ xin. Họ xem Chúa như một ngân hàng cần là có thể lấy ra ngay để dùng. Thế nên, họ thường thất vọng khi thấy lời cầu của mình chưa được nhận lời. Đôi khi họ còn trách móc Chúa vì không đáp ứng ngay điều họ xin.
Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta. Thiên Chúa là Đấng quan phòng giầu tình thương và rất mực từ bi. Đây phải là một xác quyết của chúng ta. Khi tin tưởng phó thác vào Chúa thì dầu việc ta xin chưa được, điều ta muốn chưa thành thì vẫn tin tưởng vào Chúa. Xác tín rằng Thiên Chúa có muôn ngàn cách để hỗ trợ chúng ta, để ban ơn tuỳ thuộc hoàn cảnh sống của từng người chúng ta. Chắc chắn Thiên Chúa sẽ cứu giúp vì Ngài đã là Cha giầu lòng xót thương. Một người Cha sẽ không bao giờ bỏ rơi con cái đang trong tình trạng nguy nan.
Quả thực, chúng ta thật hạnh phúc vì có một Thiên Chúa được gọi là Cha. Thiên Chúa không xa lạ. Thiên Chúa trở nên gần gũi với chúng ta. Gần gũi như một người cha luôn ở gần con cái mình, luôn gìn giữ bảo vệ con cái mình. Thiên Chúa như một người cha luôn làm mọi sự để con cái được ấm êm, được hạnh phúc. Thiên Chúa là một người cha hết lòng yêu thương con người. Vì yêu thương con người Ngài đã tạo dựng chúng ta giống hình ảnh Ngài. Ngài còn ban tặng mọi gia sản trên trái đất cho con người hưởng dùng. Ngài còn dùng tình thương qua việc cứu chuộc con người dù con người có cố tình quay lưng lại với tình yêu của Thiên Chúa.
Vì thế, hãy tin tưởng chạy đến với Chúa trong mọi nỗi khổ đau. Hãy tin tưởng để cầu xin cùng Chúa. Lời cầu xin thiết yếu vẫn phải là kiên nhẫn và hết lòng tin tưởng cậy trông. Kiên nhẫn để không nản lòng trước thử thách. Kiên nhẫn cùng với lòng phó thác sẽ giúp chúng ta an vui sống trong sự che chở của Ngài.
Ước gì chúng ta luôn biết cầu nguyện cùng Chúa, luôn biết tín thác vào Chúa như con thơ luôn tin tưởng phó thác nơi cha mình. Xin Chúa giúp chúng ta luôn kiên nhẫn trong lời cầu xin, vì xưa Chúa đã nói : “Hãy xin sẽ được” chắc chắn Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Amen.
Muốn ôtô tăng tuổi thọ, tham gia giao thông hiệu quả nhất, các “bác tài” cần thường xuyên đưa TN 17-C179
Muốn ôtô tăng tuổi thọ, tham gia giao thông hiệu quả nhất, các “bác tài” cần thường xuyên đưa xe tới trung tâm bảo dưỡng, để các chuyên viên kỹ thuật kiểm tra máy định kỳ. Là ca sĩ, diễn viên, họ thừa biết, muốn giữ chất giọng, vẻ đẹp duyên dáng trước công chúng, họ phải chuyên chăm tập luyện, kiêng khem. Sự thành công của bậc cha mẹ không hệ tại là giầu sang địa vị, mà chính là các thành viên gia đình hiện tại có hạnh phúc không, liệu con cháu của tôi có nên người hữu ích không ? Người ta có thể dựa vào câu tục ngữ làm thước đo: trên thuận dưới hòa là nhà có phúc.
Những kiến thức mà Đức Giêsu truyền dạy các học trò là cần thiết, song niềm tin yêu cũng rất quan trọng, nghĩa là để trở nên môn đệ, các ông phải đủ tâm, đủ đức. Cây có thể gẫy đổ vì gió bão, người có thể vấp ngã, hư hỏng, vì những lạc thú của thế gian, nếu thiếu sự che chắn, liên lạc thường xuyên với “sư phụ”. Những khái niệm mà con người mơ ước bao giờ cũng là chất lượng cao, hiệu quả nhất, an toàn là trên hết. Để có sức thuyết phục người nghe, các ca sĩ không chỉ hát đúng cao độ, mà họ còn phải hát có hồn, mới áp đặt được các “fan” hâm mộ.
Rất đáng nể cho số học trò của Đức Giêsu, các ông không ảo tưởng, không xin được giảng dạy hay, giỏi, như Thầy mình, các ông thật khôn ngoan khi nói : “xin Thầy dạy chúng con biết cầu nguyện…”. Để đáp ứng nhu cầu thiết thực mà người học trò cần phải được trang bị, Thầy Giêsu đã chia sẻ với các môn đệ một kinh nghiệm : đơn giản, chân thành, hiệu quả, đó là cầu nguyện. Để tăng thêm chiều sâu cho sự kết hiệp với thánh ý Cha, Đức Giêsu kể câu chuyện về một người kêu xin không ngừng giữa đêm hôm, hầu như là “lì lợm”, miễn sao có được thứ bánh cần dùng.
Người thời nào cũng chú trọng đến hiệu quả, bằng cách nào để học giỏi, ra trường làm việc ở đâu có thu nhập cao, phải cân nhắc lập gia đình với mẫu người nào, hầu hôn nhân có được hạnh phúc ? Chúa Giêsu cũng hướng các môn đệ tới hiệu quả, nhưng không phải chỉ dạy các học trò tìm kiếm cái được của thế gian, hiệu quả của cầu nguyện là biết đặt tình yêu trong tương quan với Thiên Chúa là Cha.
Trong ca dao có câu : chữ nhẫn là chữ tượng vàng, ai mà nhẫn được thì càng hiển vinh. Nhẫn để đạt đạo, nhẫn để thành công; hoặc nhẫn một chút sóng yên biển lặng, lùi một bước biển rộng trời cao. Nói chung, kiên nhẫn luôn là yếu tố cần thiết của một thiên tài. Xa hơn “cái được” của thế giới tự nhiên, Đức Giêsu chỉ cho các học trò một cảm nhận sâu rộng hơn về chữ nhẫn, nhẫn để minh chứng lời tạ ơn, biết ơn, và sống trọn vẹn ý Chúa Cha. Chăm chỉ cầu nguyện là có phúc rồi, mà cầu nguyện đúng, đẹp, thánh ý Cha trên trời, sẽ thật là hiệu quả biết bao, khi “danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến”.
Mang thân phận con người, chúng ta xin “trời phật” ban ơn vật chất, vì đó là nhu cầu; chỉ người môn đệ Đức Giêsu mới hiểu, nên cầu ơn bình an để đi đúng đường Chúa, sống yêu thương và tín thác. Xin ơn biết cầu nguyện, cũng là xin ơn nên hoàn thiện, xin cho tình yêu của Thiên Chúa Cha được lan tỏa. Những người làm con, không lạ gì khi thưa ba gọi má, không phải chưa được dạy về cụm từ : ơn cha nghĩa mẹ, nhưng chúng ta có tin mẹ dạy con khéo, bố dạy con khôn ? Chúng ta có ý thức sống hiếu, sống thảo, là sống tình làng nghĩa xóm, là biết sống như cây có cội, như nước có nguồn không ?
Người học trò luôn ý thức : không thầy đố mày làm nên, người Kitô hữu hàng ngày vẫn đọc “Kinh Lạy Cha”, nhưng tin yêu thầy, và đọc với tâm tình cầu nguyện, lại mang một ý nghĩa khác. Làm việc hiệu quả, sống niềm tin chắc chắn, để lời “Kinh Lạy Cha” sẽ đúng, đủ, đẹp, có lực, có tầm hơn, nhất định không thể thiếu Thầy Giêsu. Biết cách cầu nguyện, sẽ có ngày đạt đến tầm mức như Chúa Giêsu yêu, cầu nguyện trong tín thác kiên trì, để biết sống đức ái trọn vẹn giống Chúa Giêsu.
Cổ nhân có câu : vải tốt xem biên, người hiền xem mặt. Nhờ khả năng chuyên môn, người ta phân biệt được tốt xấu, thật giả. Hiệu quả công việc không đến từ thông minh sáng suốt, nhưng còn đến từ người có tài có đức. Các bậc khôn ngoan cho rằng : tiền bạc có thể mở được mọi cánh cửa, nhưng trừ cửa thiên đàng. Chính tình yêu thương, mới mang lại bình an, mở cho người ta được cánh cửa hạnh phúc. Chúa Giêsu dạy cầu nguyện, Ngài còn chi tiết hơn khi chúng ta phải kiên nhẫn, tín thác vào tình yêu của Chúa Cha : “ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ sẽ mở cho”. Amen.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tin tưởng vào Chúa và tha thiết nguyện cầu. Bài TN 17-C180
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tin tưởng vào Chúa và tha thiết nguyện cầu. Bài đọc I (St 18, 20-32) là một minh họa đầy đủ ý nghĩa nhất. Khi tội lỗi tràn ngập xứ Sôđôma, Abraham đã van nài Chúa, thậm trí mạc cả với Chúa cho đến khi có được lời Chúa hứa là không tiêu diệt thành Sôđôma nữa nếu như tìm thấy mười người công chính, Abraham đã tìm thấy tột đỉnh của lòng thương xót Chúa là tha thứ. Tin Mừng (Lc 11, 1-13) thuật lại cho chúng ta lời nguyện cầu của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa dạy các môn đệ. Người không dạy họ một công thức cầu nguyện cho bằng dạy họ hướng về Thiên Chúa là Cha bằng tình con thảo với trọn niềm tin vì : “Kẻ cô thân Thiên Chúa cho nhà cửa, chính Người ban tặng cho dân dũng lực uy quyền.”( Ca nhập lễ).
Gương của tổ phụ Abraham
Từ cây sồi ở Mambrê Thiên Chúa tỏ ý định của Ngài cho Abraham (x. St 18,1), và Abraham nhận ra lòng thương xót Chúa. Khi tội lỗi tràn ngập xứ Sôđôma, Abraham đã dám thưa cùng Chúa : “Chớ thì Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao? Nếu có năm mươi người công chính trong thành, họ cũng chết chung hay sao? Chúa không tha thứ cho cả thành vì năm chục người công chính đang ở trong đó sao?” (St 18, 24-25) Và ông tiếp tục mạc cả với Thiên Chúa cho đến khi có được lời Chúa hứa là không tiêu diệt thành Sôđôma nữa nếu như tìm thấy mười người công chính. Vấn đề là Thiên Chúa không bao giờ muốn tiêu diệt thành Sôđôma. Abraham sợ chứng kiến cảnh Thiên Chúa trừng phạt Sôđôma và Gômôrrha. Với lòng thương dân sẵn có, Abraham đã nguyện cầu, đến nỗi táo bạo can thiệp cả Thiên Chúa. Ông tin vào Thiên Chúa, nhưng giờ đây niềm tin đó đang bị thử thách, ông tự hỏi : Liệu Thiên Chúa có trung thành với lời Giao ước tình thương với dân Ngài không? Lòng Chúa cao cả hơn lòng chúng ta, nếu nói rằng Abraham mặc cả với Chúa, không có sai, vì ông đã giảm giá dần, từ năm mươi người xuống còn mười người. Chúa phán: “Vì mười người đó, Ta sẽ không tàn phá”. Abraham thấy các thành rơi vào cảnh bi đát, sắp bị Chúa tàn phá và ông tìm kiếm một con đường giải thoát cho hai thành. Ông kêu van, mặc cả nhưng không nói lộng ngôn phạm đến Chúa, Chúa lắng nghe, và nhận lời ông cầu xin.
Cầu nguyện như Đức Giêsu dạy
Niềm tin vào Thiên Chúa của Abraham bị thử thách, đó cũng là niềm tin của chúng ta nói chung. Vì nhiều khi chúng ta xin mãi mà không được, nên chán nản. Chúng ta cùng xem Chúa Giêsu cầu nguyện thế nào và dạy các môn đệ ra làm sao (x. Lc 11, 1-13).
Chuyện là khi các môn đệ chiêm ngắm Thầy cầu nguyện thì một trong số họ thưa: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã đã dạy các môn đệ ông”. Chúa Giêsu đáp ứng lời xin và dạy : “Khi anh em cầu nguyện, thì hãy cầu nguyện như thế này : ‘Lạy cha…”. Người mời gọi các môn đệ hướng về Cha, Người không dạy họ một công thức cầu nguyện cho bằng dạy họ cầu nguyện. Cầu nguyện trước hết phải đi vào trong tương quan thân tình với Thiên Chúa là Cha. Bởi lịch sử cứu độ con người là một chuỗi dài của tình phụ tử giữa Thiên Chúa với lòng hiếu thảo của con người. Thiên Chúa cất tiếng gọi con người đáp trả và tìm thấy lòng tốt hảo của Thiên Chúa là Cha. Con người khát khao Thiên Chúa gặp gỡ lòng trùi mến của Thiên Chúa đối với con người, con người được Chúa ban ơn.
Chúa Giêsu dạy chúng ta thưa cùng Thiên Chúa “Lạy Cha” là Người đưa chúng ta vào trong tương quan diện đối diện với Thiên Chúa, khiêm tốn, tin tưởng bước vào với tình con thảo. Tuy lời cầu nguyện tạ ơn dài trong Thánh Vịnh thể hiện niềm tin vào Thiên Chúa: “Lạy Chúa, con tạ ơn danh Chúa vì tình thương và chân lý” ; “Nếu tôi đi giữa cảnh gian truân, Chúa giữ gìn tôi sống” ; “Chúa ra tay phản đối quân thù tôi giận giữ” ; “Chúa sẽ hoàn tất cho tôi những điều Ngài đã khởi sự! Lạy Chúa, lòng nhân hậu Chúa tồn tại đến muôn đời” (Tv 137, 1-8)… Nhưng, thánh vịnh gia còn phải đương đầu với quân thù và những cám dỗ đang rình rập, lúc mà Thiên Chúa trung thành hình như vắng mặt.
Thiên Chúa luôn giữ lời hứa, muôn đời không hề thay đổi. Vậy, tại sao ta lại nghi ngờ về tình phụ tử của Thiên Chúa? Chúa Giêsu bảo đảm rằng những lời nguyện cầu mà chúng ta dâng lên Chúa Cha sẽ luôn được nhận lời : “Và Thầy bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,10). Người lưu ý chúng ta : “Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho.” (Lc 11,10) Người làm cho chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, Đấng không chỉ sẽ nhận lời mà còn trao ban cho chúng ta những điều tốt hơn điều chúng ta cầu xin.
Chúng ta đã chẳng đọc những lời của Chúa Giêsu rằng, Đấng trao ban còn quí trọng hơn những gì là ân huệ Ngài trao ban sao ? Chính Chúa, là kho tàng quí giá nhất mà chúng ta nhận được trong lời cầu nguyện ; Lời cầu nguyện đưa chúng ta vào trong sự hiệp thông với Chúa, đặt mình trước mặt Chúa là Đấng ba lần Thánh và hiệp thông với Ngài. Cầu nguyện, là để Thiên Chúa đến ở với chúng ta và biến đổi chúng ta. Dần dà, chúng ta tìm thấy những gì tội lỗi đã làm hư mất. Và khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta làm cho mình trở lên trung gian của tình yêu Thiên Chúa giữa anh em.
Để trở nên môn đệ đích thực của Chúa, chúng ta không chỉ cầu nguyện trong tình con thảo mà lời cầu nguyện còn đưa chúng ta vào trong niềm tin hòa giải : “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha, kẻ có nợ chúng con”.
Lấy lại những lời nguyện cầu của Chúa Giêsu, chúng ta thưa: “Lạy Cha xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. Lúc đó, chúng ta sẽ thực sự trở nên môn đệ Đức Giêsu, trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần, và nên những sứ giả mang lòng thương xót của Chúa Cha đến với muôn người. Amen.
Thời buổi buôn bán cạnh tranh, các công ty không chỉ chú ý đến chất lượng hàng hóa mà còn TN 17-C181
Thời buổi buôn bán cạnh tranh, các công ty không chỉ chú ý đến chất lượng hàng hóa mà còn phải chú ý đến các dịch vụ để đáp ứng nhu cầu khách hàng cách nhanh chóng nhất. Phía người tiêu dùng, họ cho mình có quyền tối thượng ra lệnh, muốn là phải được đáp ứng ngay, dẫn đến dễ mất kiên nhẫn khi không được đáp ứng nhanh chóng các yêu cầu. Biểu hiện này không chỉ có trong cuộc sống thường ngày, nhưng nó cũng đang ảnh hưởng trong đời sống đức tin. Người ta nhìn Thiên Chúa như một nhà cung cấp dịch vụ, hàng hóa. Khi cần, họ gọi điện đặt hàng và muốn Thiên Chúa phải đáp ứng ngay cho họ. Vì thế, nhiều người tín hữu theo đạo nhưng không có thói quen cầu nguyện hoặc không kiên nhẫn khi cầu xin cùng Thiên Chúa, họ chỉ đến với Thiên Chúa giống như một khách hàng khi có nhu cầu, chứ không có tâm tình của một người con đến với Cha, một thụ tạo đến với Thiên Chúa của mình.
Lời Chúa hôm nay nhắc chúng ta một thực hành không thể thiếu, như con người không thể thiếu hơi thở, đó là cầu nguyện ; đồng Thời, Chúa Giêsu cũng chỉ cho chúng ta cách cầu nguyện và thái độ phải có khi cầu nguyện.
Bài đọc một cho thấy Apbraham đã cầu xin với Chúa như nói chuyện, trao đổi với một người bạn và Chúa cũng coi ông như một người bạn thân. Khi tội lỗi của dân thành Sodoma và Gomora đã lan tràn, Thiên Chúa muốn hủy diệt cả dân đó. Trước khi thực hiện việc này, Chúa đã kể cho Apbraham nghe về ý định của mình như bạn hữu kể chuyện cho nhau. Lợi dụng tình bạn này, Apbraham đã lên tiếng cầu xin Chúa dung tha cho dân thành Sodoma. Chuyện kể cho thấy, Apbraham đã mặc cả với Chúa : Chẳng lẽ Chúa muốn tiêu diệt kẻ lành chung với kẻ dữ sao ? Giả như trong thành có năm mươi người công chính, họ cũng phải chết cùng kẻ dữ sao ? Chúa có vì họ mà tha cho cả thành không ? Chúa trả lời : Nếu Ta tìm được năm mươi người công chính, Ta sẽ tha cho cả thành.
Ông Apbraham lại trả giá lần thứ hai : Nếu năm mươi người mà thiếu năm người thì sao ? Ông lại trả giá tiếp : Xin Chúa đừng giận, cho con nói thêm một lần nữa thôi, nếu chỉ tìm được ba mươi người, hoặc được mười người thì sao ? Chúa trả lời : Vì mười người đó, Ta cũng không phá hủy thành. Câu chuyện cho thấy giữa Thiên Chúa và Apbraham vừa có sự thân tình, vừa có sự kính sợ. Vì thân tình, ông năn nỉ như trả giá với Chúa. Vì kính sợ, ông xin Chúa đừng nổi giận với ông. Về phía Thiên Chúa, Ngài coi Apbraham như một người con nhõng nhẽo và như một người bạn để tâm sự trò chuyện. Hơn nữa, Apbraham đã không xin điều gì cho mình, nhưng ông cầu xin điều có ích cho người khác.
Cầu xin Thiên Chúa với thái độ con cái đến với cha mẹ, đó là thái độ Thiên Chúa mong đợi. Thiên Chúa không muốn biến mình thành một vị thần oai phong hung dữ, nhưng Ngài luôn muốn thể hiện mình như một người cha yêu thương con cái. Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu đã sống tâm tình con thảo với Thiên Chúa Cha, Ngài gặp gỡ với Chúa Cha mỗi ngày trong cầu nguyện. Ngài khởi đầu ngày mới bằng việc gặp gỡ Thiên Chúa và kết thúc mọi công việc và ngày sống với Thiên Chúa Cha.
Từ kinh nghiệm bản thân, khi các tông đồ đề nghị : Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, Chúa đã dạy các ông thưa chuyện với Thiên Chúa qua kinh Lạy Cha. Trong lời kinh này, Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta đi vào một tương quan đặc biệt với Thiên Chúa, đó là tương quan Cha-Con. Chúa Giêsu đã chỉ cho các môn đệ xưng hô với Thiên Chúa một cách thân tình như chính Ngài đã sống thân tình với Thiên Chúa : Lạy Cha chúng con ở trên trời. Với lời thân thưa này, chúng ta được bước vào cung lòng của Thiên Chúa như người con gieo mình vào lòng cha mẹ để thỏ thẻ, thân thưa. Lời thưa này còn nâng chúng ta lên một phẩm giá cao trọng, một tư cách đặc biệt vượt trên tất cả mọi vật mọi loài, đó là được trở nên con Thiên Chúa, gọi Chúa là “Bố ơi !”. Giống như cha mẹ ở trần gian không thể từ chối những lời kêu xin của con cái, thì Thiên Chúa là Cha toàn năng, Ngài không những không thể từ chối lời cầu xin của những đứa con nhỏ bé, mà Ngài còn làm tất cả những gì tốt đẹp nhất cho con của Ngài.
Kế đến, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta biết phải đặt thứ tự ưu tiên trong việc cầu xin cùng Thiên Chúa. Trước hết, chúng ta phải cầu xin cho Danh Cha được rạng sáng, Nước Cha hiển trị, Ý Cha được thực hiện dưới đất cũng như trên trời. Tại sao phải dành thứ tự trước tiên cho những lời cầu xin này ? Giống như Apbraham ngày xưa đã cầu xin Chúa khoan dung với dân Sodoma, với lời xin cho Danh Cha được rạng sáng, tức là xin cho mọi người, mọi dân tộc được biết Thiên Chúa là Cha, được đón nhận tình yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa. Danh Chúa được tỏa sáng khắp nơi nghĩa là Thiên Chúa được mọi người nhận biết, tôn thờ và tình yêu thương, quyền năng của Ngài được đón nhận và sinh hiệu quả tốt đẹp cho cả vũ trụ. Cũng vậy, lời cầu xin cho Nước Chúa hiển trị, Ý Chúa được thực hiện có nghĩa là tình yêu của Chúa sẽ phủ kín vũ trụ này, ma quỷ và sự dữ, kẻ gây ra đau khổ, chết chóc, sẽ không còn làm gì được con người và vũ trụ nữa.
Kế đó là những lời cầu xin cho các nhu cầu chung và riêng, của linh hồn và thể xác mỗi người và cộng đoàn. Xin Cha cho chúng con lương thực hàng ngày, xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có lỗi với chúng con, xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ. Ở bốn lời cầu xin này, trước hết là xin cơm bánh no đủ hàng ngày. Với nhu cầu hàng ngày này, Chúa Giêsu không dạy chúng ta xin nhiều đến dư thừa, cũng không xin “trúng quả, trúng kèo” để thỏa mãn sự tham lam của con người, nhưng chỉ xin để chúng ta biết sử dụng vừa đủ cho mình và cho anh chị em. Xin no đủ hằng ngày giúp cho mỗi người có thể sống thanh thoát với vật chất, sống phù hợp với phẩm giá con người và còn biết sống sẻ chia khi gặp những anh chị em thiếu thốn.
Kế đến là xin Thiên Chúa tha thứ tội lỗi chúng con như chúng con cũng tha kẻ có lỗi với chúng con. Lời cầu xin này thể hiện thái độ khiêm tốn nhìn nhận sự bất toàn của thân phận con người đã xúc phạm đến Thiên Chúa và làm tổn thương lẫn nhau. Hơn thế nữa, lời cầu xin tha thứ này còn là quyết tâm của mỗi người sẽ tha thứ khi có anh em xúc phạm đến mình và lấy sự tha thứ của mình dành cho anh em là vạch mực để cầu xin sự tha thứ của Thiên Chúa. Như thế, lời cầu xin này đặt thái độ tha thứ của mỗi người như một chuẩn mẫu, chúng ta sẽ chỉ nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa khi chúng ta biết tha thứ cho anh chị em. Chúng ta được Thiên Chúa tha thứ nhiều hay ít tùy thuộc việc chúng ta có thật lòng tha thứ cho anh chị em hay không.
Như đã nhắc ở trên, con người ngày nay tự cao tự mãn, nghĩ rằng mình có thể làm được tất cả mà không cần đến Thiên Chúa, vì thế, họ không quan tâm đến việc cầu xin. Có những người rơi vào tình trạng ích kỷ không chỉ trong đời sống tự nhiên mà còn ích kỷ trong đời sống đạo. Những người này chỉ đến với Thiên Chúa khi gặp khó khăn thử thách, họ chỉ cầu xin Thiên Chúa cho những nhu cầu vật chất trước mắt, muốn Chúa giải quyết ngay những khó khăn, mà không mấy khi cầu nguyện cho các nhu cầu của Thiên Chúa, của linh hồn, của anh em và của thế giới.
Cũng từ thái độ cao ngạo, nhiều người tự cho mình là thượng đế và tự đặt mình ngang hàng với Thiên Chúa. Nhiều người tin Chúa, nhưng lại không có tâm tình của người con thảo đối với Cha như Thiên Chúa mong đợi, cũng không có thái độ khiêm tốn cầu xin và không đủ kiên nhẫn để tin tưởng, phó thác cho Chúa các khó khăn và cả cuộc sống của mình.
Lời Chúa hôm nay tái khẳng định cho chúng ta : Thiên Chúa là Cha yêu thương và chúng ta là con của Ngài. Chúng ta được mời gọi sống thân tình với Chúa như con với cha và như bạn hữu với nhau, để trong mọi hoàn cảnh, chúng ta luôn chạy đến sà vào lòng thương xót của Thiên Chúa, Ngài không bao giờ có thể từ chối lời cầu xin của ta. Xin cho chúng ta luôn sống xứng đáng là con của Chúa và luôn tự hào thể hiện mình là những người con ngoan của Thiên Chúa. Amen.
Năm Thánh Lòng Thương Xót, ngẫu nhiên chăng khi Hội Thánh cho người tín hữu được đón nhận TN 17-C182
Năm Thánh Lòng Thương Xót, ngẫu nhiên chăng khi Hội Thánh cho người tín hữu được đón nhận Tin Mừng Thánh Luca, trong suốt những Chúa nhật thường niên, để mỗi người càng cảm nhận được Lòng thương xót của Thiên Chúa với con người qua Đức Gie6su Kitô.
Chúa nhật XVII Thường niên, Thánh Luca ghi lại những đối thoại của Thầy Giêsu với các môn đệ sau khi Người vừa cầu nguyện xong. Chắc hẳn người môn đệ đã chứng kiến những giây phút Thầy mình đang cầu nguyện. Một sự sốt sắng, thánh thiện, một cung cách khiêm tốn, nhẫn nại; một lòng cậy trông tin tưởng tuyệt đối tưởng chừng như Thầy làm một với Cha mình. Có được điều đó hẳn không dễ dàng. Người môn đệ cũng ao ước có những giây phút như thế, cũng muốn được lần nào đó nhận biết được Thiên Chúa là Cha một cách thân mật, thân tình như Thầy vừa nói chuyện với Cha trên trời. Ông không kìm hãm nổi cảm xúc của mình nên đã thốt lên :” Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện , như ông Gioan đã dạy các môn đệ của ông “ .Câu nói phát xuất từ một thái độ chân thành , một lời cầu xin” thứ thiệt”. Đức Giêsu hẳn đã thấy được tấm lòng của ông, Người đã dạy cho các ông điều Người vẫn thưa với Cha.
“Khi cầu nguyện anh em hãy nói :
“ Lạy Cha, xin làm cha Danh Thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến. Xin Cha cho chúng con, ngày nào có lương thực ngày ấy.
Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con,
Và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ” (Bản dịch của nhóm CGKPV ).
Những lời cầu nguyện ấy không dài lê thê nhưng chất chứa tất cả những gì người con muốn thưa với Cha của mình.Đức Giêsu cũng nhân lúc này cho các ông thấy thái độ cần có khi cầu nguyện, đó là cần có sự tin tưởng tuyệt đối vào Lòng Thương Xót của Cha, Ngài luôn luôn lắng nghe những thỉnh cầu của con cái mình.Cha trên trời thấu suốt mọi nhu cầu của người con vả sẽ ban Thánh Thần của Ngài cho những người xin. Thái độ thứ hai cần có đó là cầu nguyện luôn, liên lỉ trong khiêm cung nhẫn nhục. Sở dĩ như thế vì con người dễ sa chước cám dỗ, nản chí, nản lòng.
Lạy Chúa,
Cầu nguyện như Chúa dạy không khó khăn gì, nhưng bấy lâu nay con vẫn không thấm nhuần được bài học Chúa dạy con. Con chỉ biết kêu xin, đòi hỏi là chính. Con chưa biết tìm xem ý Chúa muốn con điều gì, con chưa biết ngợi khen và tôn vinh Danh Chúa cùng ước mong cho Thánh ý Chúa thực hiện nơi con. Cầu nguyện như con vẫn đang làm mới chỉ là mong muốn cho ý con được Chúa đáp lời, được toại nguyện mà không thấy được điều con cầu xin có đẹp lòng Chúa ? Con chưa tin vững nơi Người.
“Con tưởng rằng con vững tin, tin vào Chúa là Cha nhân hiền,khi đời sống nhẹ trôi êm đềm, với tháng ngày lặng lẽ bình yên. Nhưng khi đường đời gieo nguy khó, bên trời ngập tràn cơn giông tố, con lo âu lạc bến xa bờ, con mới biết rằng con chưa vững tin
Thì lạy Chúa, Chúa biết con yếu đuối và đổi thay, con luôn cần đến Chúa từng phút giây Nhờ ơn Chúa con kiên trì tín thác kể từ đây, khi an vui cũng như khi sầu đầy.( Cho con vững tin- Nguyễn Duy )
Xin Chúa giúp con cũng biết thưa lên cùng Chúa như người môn đệ: “Thưa Thầy,Xin dạy con biết cầu nguyện “. Đức tin của con còn non yếu, xin cho con biết vững tin vào Người, để mỗi khi con cầu nguyện, con biết tín thác vào Chúa, con biết đón nhận ý Chúa hơn là ý con và như thế con sẽ được Chúa thương nhận lời . AMEN.
Trên đời có nhiều giá trị vật chất hoặc tinh thần rất cao đẹp và quý báu khiến lòng người ước mơ TN 17-C183
Trên đời có nhiều giá trị vật chất hoặc tinh thần rất cao đẹp và quý báu khiến lòng người ước mơ khao khát. Ai cũng mong ước chiếm hữu chúng nhưng rồi mỗi người cảm thấy khả năng của mình có giới hạn, phương tiện của mình còn thiếu thốn, nên người ta đành chào thua. Thế là những giá trị cao quý đó chỉ xuất hiện trong ước mơ của mọi người một thời gian rồi tan biến. Thật đáng tiếc!
Vậy thì tìm đâu ra bí quyết để đạt được ước mơ của mình?
Trong câu chuyện cổ Ali Baba và bốn mươi tên cướp, chàng Ali Baba nghèo khổ vào rừng lượm củi kiếm sống qua ngày, vô tình phát hiện bốn mươi tên cướp mang tài sản cướp được về cất giấu trong kho tàng bí mật nằm sâu trong rừng. Lối vào kho tàng được che chắn bằng một phiến đá khổng lồ. Khi tên tướng cướp đứng trước khối đá ấy và đọc câu: “Vừng ơi! mở ra”, thì lạ lùng thay, một cánh cửa bí mật mở ra dẫn lối cho lũ cướp đem của cải cướp được vào kho báu nằm bên trong hang.
Khi bọn cướp đi ra, chúng lại đọc câu thần chú: “Vừng ơi! đóng lại!” thì cánh cửa đá từ từ đóng lại che khuất lối vào kho tàng bí mật.
Chờ cho bọn cướp ra đi, Ali Baba tiến lại khung cửa bí mật và đọc lại câu thần chú đó. Thật nhiệm mầu, tấm cửa đá nặng nề mở ra, đưa anh vào một kho tàng chứa đầy báu vật và nhờ đó, Ali Baba chiếm hữu được nhiều châu báu trong kho tàng và trở nên giàu có.
Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su dạy chúng ta một một bí quyết quan trọng giúp chiếm hữu những kho báu lớn lao. Đây không phải là câu “Vừng ơi! Mở ra!” để đưa chúng ta vào kho báu huyền thoại, nhưng là câu: “Xin thì sẽ được, tìm thì sẽ thấy, gõ cửa thì sẽ mở cho.”
Bí quyết nầy giúp mở ra nhiều kho tàng vật chất cũng như tinh thần, tự nhiên cũng như siêu nhiên. Bí quyết được tóm lại trong ba điều rất đơn giản: “xin – tìm – gõ.”
Thật là điều khó tin! Làm sao mà chỉ cần ba việc đơn giản là xin, tìm, gõ lại có thể giúp người ta đạt được những giá trị lớn lao và cao quý?
Chúa Giê-su biết các thính giả của Ngài đầy ngờ vực khi nghe những lời dạy ấy nên Ngài mới thuyết phục như sau:
Có người kia đến gõ cửa nhà người bạn láng giềng giữa đêm đen và lên tiếng nài xin : “Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả.” Từ trong nhà có tiếng đáp: “Xin anh đừng quấy rầy tôi: cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được?”
Thế rồi Chúa Giê-su kết luận: “Dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ lì ra đó.”
Với những lời trên đây, Chúa Giê-su nhấn mạnh với chúng ta rằng: Người phàm còn biết đáp ứng lời kêu xin của bạn bè, cho dù trong lòng chẳng muốn, thì huống gì Thiên Chúa là Cha nhân lành, tốt lành gấp trăm lần người cha trên thế gian, lẽ nào Ngài lại không đáp ứng lời con cái nài van.
Theo dòng tư tưởng ấy, Chúa Giê-su nói tiếp: “Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó ư? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp sao? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Ngài sao?”
Thế ra lâu nay chúng ta không chiếm hữu được những giá trị cao quý là vì chúng ta chưa tin tưởng nài xin, chưa bền chí kiếm tìm và chưa nhẫn nại gõ cửa đó thôi. Còn ai liên lỉ xin, kiên quyết tìm, nhẫn nại gõ thì thế nào cũng đạt được giá trị cao đẹp mình mong muốn.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúng con cảm tạ Chúa đã dạy chúng con bí quyết quan trọng để đạt được những giá trị cao quý trên đời. Với bí quyết nầy, chúng con có thể biến những ước mơ thành hiện thực.
Vậy thì từ đây, xin cho chúng con đừng dại khờ ngồi ước mơ suông, nhưng phải áp dụng bí quyết này để đạt được những ơn phúc chúng con hằng khao khát, nhất là liên lỉ cầu xin Chúa Cha ban cho chúng con Chúa Thánh Thần là ân huệ quý báu nhất trong cuộc đời. Amen.
Các bài đọc Kinh Thánh hôm nay (CN XVII/TN-C) nói đến sức mạnh của sự cầu nguyện, đặc biệt TN 17-C184
Các bài đọc Kinh Thánh hôm nay (CN XVII/TN-C) nói đến sức mạnh của sự cầu nguyện, đặc biệt của những người công chính, của những tâm hồn thiện chí, chân thật. Bài Đọc I (St 18, 20-32) trình thuật: Ông Ap-ra-ham cầu nguyện cùng Đức Chúa, can thiệp cho thành Xơ-đôm và Gô-mô-ra để khỏi bị thiêu hủy vì “Tội lỗi của chúng quá nặng nề” và được Đức Chúa hứa chỉ cần có ít ra là 10 người công chính trong thành, Người sẽ không thiêu hủy thành. Bài đọc II (Cl 2, 12-14) tuy không nói trực tiếp vào cầu nguyện, nhưng đề cập đến mầu nhiệm Tử nạn Chúa Giê-su đã thực hiện trên Thập giá để cứu chuộc nhân loại. Trước khi bước vào cuộc khổ nạn và ngay khi đã bị treo trên thập giá, Đức Ki-tô vẫn luôn là mẫu gương cực thánh về cầu nguyện: Người cầu nguyện cùng Chúa Cha cho tất cả mọi người, kể cả kẻ thù (những kẻ đã lên án rồi bắt trói, đánh đập, đóng đinh Người vào thập giá cho đến chết). Bài Tin Mừng (Lc 11, 1-13) trình thuật: Sau khi Người cầu nguyện thì có một môn đệ xin Người dạy về cầu nguyện. Đức Giê-su liền dạy các môn đệ cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha. Đồng thời Người còn kể thêm các dụ ngôn để nhấn mạnh: “Hãy kiên trì cầu xin thì sẽ được”.
Để vấn đề được sáng tỏ, xin cùng tìm hiểu xem cầu nguyện là gì và vì sao Đức Giê-su Ki-tô lại dạy cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha?
1- Cầu nguyện là gì? Giáo Lý HTCG (số 2557-2647) đã giải thích: Cầu nguyện là hồng ân của Thiên Chúa. Cầu nguyện là giao ước: Khi cầu nguyện, người Ki-tô hữu sống tương quan giao ước với Thiên Chúa trong Đức Ki-tô. Cầu nguyện là hiệp thông: Trong Giao Ước Mới, khi cầu nguyện, người tín hữu sống tương quan sinh động của con cái Thiên Chúa với Người Cha nhân lành vô cùng của mình, với Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô và với Chúa Thánh Thần. Sống đời cầu nguyện là luôn hiện diện trước tôn nhan Thiên Chúa Chí Thánh và hiệp thông với Người. Sự hiệp thông đời sống này lúc nào cũng có thể thực hiện được, vì chính nhờ bí tích Thánh Tẩy chúng ta đã được nên một với Đức Ki-tô (x. Rm 6, 5). Lời cầu nguyện mang đặc tính Ki-tô giáo khi được hiệp thông với lời nguyện của Chúa Ki-tô và được triển khai trong Hội Thánh là Thân Thể Người. Cầu nguyện có cùng kích thước như tình yêu Chúa Ki-tô (Ep 3,18-21).
Như thế, cầu nguyện được gắn liền với lịch sử loài người, và là tương quan giữa con người với Thiên Chúa trong các biến cố lịch sử. Truyền thống linh đạo của Hội Thánh, xem biểu tượng của cầu nguyện như một cuộc chiến đức tin và chiến thắng dành cho người kiên trì ( x. St 32, 25-31; Lc 18, 1-8). Thiên Chúa không ngừng kêu gọi mỗi người đến gặp Người cách huyền nhiệm trong cầu nguyện. Suốt dòng lịch sử cứu độ, chúng ta thấy cầu nguyện như Lời Thiên Chúa và con người mời gọi nhau. Chúa Thánh Thần là Đấng dạy dỗ và nhắc lại cho Hội Thánh tất cả những gì Đức Giê-su đã nói, chính Người dạy Hội Thánh cầu nguyện bằng cách khơi lên những cách diễn tả mới cho các hình thức kinh nguyện quen thuộc: chúc tụng, khẩn cầu, chuyển cầu, tạ ơn và ca ngợi. Chuyển cầu là cầu xin cho người khác. Lời cầu nguyện của Ki-tô hữu không có biên giới: chúng ta cầu nguyện cho mọi người, kể cả kẻ thù.
2- Cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha: Còn vì sao Đức Ki-tô lại dạy môn đệ cầu nguỵên bằng kinh Lạy Cha? Trước khi dạy cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha, Đức Giê-su đã dạy: “Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.” (Mt 6, 6). Ấy cũng bởi vì: “bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi Người Con. Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó.” (Ga 14, 13-14). Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, vâng lệnh Chúa Cha xuống thế thực thi sứ vụ cứu độ nhân loại, nên bất cứ việc gì Người thực hiện nơi trần thế đều vâng theo Thánh ý Chúa Cha. Cứ nghe Lời Người cầu nguỵên nơi vườn Ghết-sê-ma-ni thì đủ rõ: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.” (Mt 26, 39). Thậm chí trước khi chết treo trên thập giá, Người còn cầu nguyện cùng Chúa Cha để xin tha cho những kẻ đã làm khốn mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ; vì họ không biết việc họ làm.” (Lc 23:43).
Trong Thông điệp Ánh sáng Đức tin “Lumen Fidei” (số 46), ĐGH Phan-xi-cô viết: “Trước hết là Kinh Nguyện của Chúa, kinh “Lạy Cha”. Trong kinh này các Ki-tô hữu học cách thông phần vào cảm nghiệm tâm linh của Đức Ki-tô và nhìn mọi sự bằng cặp mắt của Người. Từ Người, Đấng là Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Con Một Đức Chúa Cha, chúng ta biết Thiên Chúa và do đó có thể làm dấy lên trong những người khác ao ước đến gần Người.” Quả thế, khi cầu nguyện chính là lúc người tín hữu giao tiếp, giao hòa với Thiên Chúa, là trực tiếp thông phần vào cảm nghiệm tâm linh của chính Con Người đã dạy phương thức “cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha”, để có thể “nhìn mọi sự bằng cặp mắt của Người” (cũng tức là “được Đấng Toàn Năng cho nhìn linh thị, của người ngủ mà mắt vẫn mở trong lúc xuất thần.” – Ds 24, 16); ngõ hầu “được biết chính Đức Ki-tô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết.” (Pl 3, 10-11).
Nội dung kinh Lạy Cha bao hàm điều răn trọng nhất của Ki-tô Giáo là “Mến Chúa + yêu người”. Khi người tín hữu đã thật sự “yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực” thì đương nhiên “có tin thật trong lòng mới xưng ra ngoài miệng” (Rm 10, 10) lời chúc tụng, ngợi khen “danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Và nếu quả thật người tín hữu “yêu người thân cận như yêu chính mình”, thì những lời khấn xin Thiên Chúa ban cho bản thân thế nào thì cũng cầu xin Người ban cho tha nhân (là những “người thân cận” của mình) như vậy. Xin luơng thực hàng ngày cho mình, chẳng lẽ lại để cho anh em đói hay sao? Như thế thì có còn là yêu người như yêu mình (“ái nhân như ái thân”) nữa không? Xin tha nợ cho chúng con thì chúng con cũng phải tha kẻ có nợ chúng con mới là phải lẽ. Cuối cùng thì xin không chỉ cứu “một mình con” mà là cứu tất cả “chúng con” cho khỏi sự dữ.
Như vậy là đã rõ vì sao Đức Giê-su lại dạy môn đệ cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha. Duy có một điều cần lưu ý là khi cầu nguyện, người tín hữu cần thực hiện việc cầu nguỵên theo đúng nội dung Người Thầy Chí Thánh đã truyền dạy; chớ không chỉ là đọc thuộc lòng kinh Lạy Cha như cái máy, hoặc lải nhải tràng giang đại hải xin hết ơn này tới ơn khác (“Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin.” (Mt 6, 7-8). Và nhất là “khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy. Thầy bảo thật anh em: chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.” (Mt 6, 5-6). Khi đã toàn tâm toàn ý “tâm sự với Chúa” thì những cử điệu bên ngoài – nếu có – cũng phải xuất phát từ trong thằm sâu tâm hồn của tín hữu, chớ không phải là a dua, bắt chước người này, người khác (bặm môi, méo miệng, nhăn mặt, chau mày, sùi sụt … cho “ra vẻ”).
Để khỏi sa vào thói quen máy móc khi cầu nguyện, hãy lắng nghe Lời Chúa: Đức Giê-su đã dạy chúng ta phải nói gì khi cầu nguyện, nhưng Người cũng chỉ cho ta một phương thức cầu nguỵên đặc biệt là: “quấy rầy Thiên Chúa”. Vâng, xin hãy cầu nguyện như “người bạn quấy rầy”. Lần giở lại từ đầu bài Tin Mừng, Đức Giê-su dạy chúng ta cầu nguyện, mà ở đây là cầu nguyện cùng Đức Chúa Cha. Tiếp liền đó, Người kể câu chuyện một người bạn đến xin bạn bánh vào nửa đêm. Từ chối, nhưng ngưới bạn ấy cứ lì ra đó, chắc chắn cuối cùng cũng phải cho bạn bánh. Sau câu chuyện này, Đức Ki-tô khẳng định chắc nịch: ”Cứ xin thì sẽ được”. Mấu chốt vấn đề chính là ở điểm này. Rõ ràng Người muốn dạy chúng ta cứ xin, xin mãi, xin đến độ “lì” ra đó, thì dù Chúa Cha có không muốn cho chăng nữa, nhưng rồi Người cũng phải cho vì cái đức “lì” của chúng ta. Ấy là nói cho vui vậy, chớ Chúa Cha thương chúng ta như con cái, thì dù có tội lỗi thế nào mặc lòng, Người cũng vẫn thương. Người đã thương chúng ta như vậy, thì chẳng lẽ chúng ta xin mà Người lại không cho, chẳng lẽ khi chúng ta “xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho” (Lc 11, 12) hay sao?
Ăn thua là người xin có thực sự tin rằng những điều họ xin sẽ được Thiên Chúa ban cho hay không, nhất là mục đích nhắm tới của việc xin đó (xin cho bản thân cũng như tha nhân sống Lời Chúa một cách chân thành, hay chỉ xin cho bản thân được “vinh thân phì gia”?). Cũng cứ theo thường tình mà nói thì mục đích nhắm tới của việc xin, chắc chắn phải là xin cho bản thân. Xin cho bản thân thì chẳng nói làm gì, vì bản thân vốn chỉ thích chọn cho mình phần tốt nhất, mà khi đã ao ước được phần tốt nhất, lẽ tự nhiên là sẽ “lì có hạng” được ngay. Nhưng ở đây, Đức Ki-tô kể câu chuyện “người bạn quấy rầy” không phải xin bánh cho bản thân anh ta, mà là xin cho một người bạn khác nữa. Thế thái nhân tình xưa cũng như nay, xin cho mình, cầu cho bản thân, thì khó khăn cách mấy, cực nhọc thế nào cũng chẳng ngại, nhưng xin cho người khác, dù cho người đó có là người thân cận ruột thịt của mình đi chăng nữa, thì cũng xin… hãy đợi đấy! Nói ra thì có vẻ chua chát, nhưng thực tình nếu có phải xin cho ai khác, thì cũng chỉ “được chăng hay chớ”, “cho cũng tốt mà không cho cũng chẳng sao, có thiệt hại gì đến mình đâu”! Có lẽ cũng chính vì thế, nên Đức Ki-tô mới khuyên dạy là cứ “lì” thì sẽ có kết quả.
Cuối cùng thì chắc ai cũng đồng ý là – thông qua dụ ngôn “Người bạn quấy rầy” – Chúa dạy chúng ta đức tính kiên trì và nhẫn nại (“cứ lì ra đó” – Lc 11, 8). Kiên trì và nhẫn nại như tổ phụ Ap-ra-ham xin cho thành Xơ-đôm (St 18, 20-32), như chính Người Thầy Chí Thánh đã vì tội lỗi loài người mà kiên nhẫn đến độ bị đánh đòn, tra tấn, bị treo trên thập tự, đến gần tắt thở mà vẫn xin cùng Chúa Cha tha tội cho kẻ đóng đinh mình; kiên nhẫn đến độ đã tắt thở còn tiếp tục bị lưỡi đòng đâm thấu con tim. Kiên nhẫn ư? Từ Hán Việt “kiên nhẫn” ( 堅忍 ) có nghĩa: Vững vàng, bền bỉ (kiên) chịu đựng (nhẫn). Riêng chữ “nhẫn” (忍) gồm 2 chữ: chữ “đao” (刀) ở trên và chữ “tâm” (心) ở dưới, ngụ ý: nhẫn nại là chịu đựng như bị dao đâm vào tim. Lì chịu đòn, chịu dao đâm vào tim – như xưa Đức Giê-su Thiên Chúa đã chịu vì tội lỗi loài người – để xin Chúa Cha “tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con, xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ”. Ấy mới là người môn đệ đích thực của Đấng Cứu Thế, và chỉ có như vậy thì việc xin mới có kết quả, “Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11, 10).
Ôi! “Lạy Chúa! Mũi đòng nào đâm thấu con tim, đinh nhọn nào còn loang máu đào, sỉ nhục nào còn vương trên mắt. Lạy Chúa! Những buớc nào gục ngã đau thương, bao roi đòn hằn vết thê lương, đường tình đó Ngài dành cho con. Lạy Chúa! Xin cho con bước đi với Ngài, xin cho con cùng vác với Ngài thập giá trên đường đời con đi. Lạy Chúa! Xin cho con đóng đinh với Ngài, xin cho con cùng chết với Ngài, để được sống với Ngài vinh quang.” (Văn Chi – “Con đường Chúa đã đi”). Amen.
Chúng ta nhận thấy rõ ràng Lời Chúa của Chúa nhật tuần thứ 17 hôm nay muốn dạy chúng ta không TN 17-C185
Chúng ta nhận thấy rõ ràng Lời Chúa của Chúa nhật tuần thứ 17 hôm nay muốn dạy chúng ta không những về cầu nguyện, mà còn phải kiên trì, nhẫn nại trong sự cầu nguyện.
Xin kể câu truyện vui. Một người đàn ông lái xe loanh quanh tìm một chỗ trong bãi đậu xe. Mồ hôi tóat ra ướt đẫm vì gần đến giờ của buổi họp rất quan trọng mà chưa tìm được một chỗ đậu. Nhìn lên trời ông cầu nguyện “Lạy Chúa xin giúp con tìm được một chỗ đậu xe, con hứa sẽ đi tham dự Thánh lễ Chúa nhật hàng tuần ở nhà thờ thánh Giuse suốt đời con.” Lạ lùng thay, ông nhìn thấy một chỗ ngay trước tòa nhà của buổi họp. Người đàn ông ngước mắt lên trời và nói “Thưa Chúa, thôi con không muốn làm phiền Chúa nữa, con đã tìm ra một chỗ.”
Trước hết, để hiểu rõ thánh ý Chúa muốn nói và dạy chúng ta điều gì, chúng ta trở lại bài Tin mừng Chúa nhật 2 tuần trước đây. Một người thông luật đến hỏi Chúa Giê-su: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được đời sống đời đời?” Chúa đã dạy ông “Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình.” Sau đó Chúa đã dùng câu truyện người Samarita nhân từ, tốt lành và quảng đại để dạy cho ông biết anh chị em mình là ai. Trong bài Tin mừng tuần trước, chúng ta nghe câu truyện hai chị em Mát-ta và Maria đón mời Chúa vào nhà. Bà Maria dành thời giờ ngồi dưới chân Chúa chú ý lắng nghe lời Chúa dạy. Có lẽ 2 bài Tin mừng này muốn cho chúng ta biết là Ki-tô hữu muốn có sự sống đời đời, chúng ta phải thứ nhất làm việc tốt, có lòng bác ái và quảng đại với tha nhân, và thứ hai phải trở nên tốt lành, có một sự liên hệ mật thiết với Chúa qua sự lắng nghe Lời Chúa.
Bài Tin mừng hôm nay tiếp theo ngay sau bài Tin mừng tuần trước, vì vậy thánh Luca muốn nhấn mạnh cho chúng ta biết tầm quan trọng và cần thiết của việc hy sinh dành thời giờ lắng nghe Lời Chúa, cho nên thánh Luca muốn dạy chúng ta một bài học về cầu nguyện, bởi vì cầu nguyện là nền tảng đời sống KI-tô hữu. Nếu không có đời sống cầu nguyện, thì không phải là Ki-tô hữu chân chính, không biết Chúa là ai. / Tin mừng cho chúng ta biết hôm ấy, Chúa Giêsu vừa cầu nguyện xong, Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa mà còn cầu nguyện để làm gương cho chúng ta, các môn đệ đến hỏi Ngài: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện.” Chúa đã dạy các môn đệ cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha. Chúng ta rất quen thuộc với Kinh Lạy Cha trong Tin mừng của thánh Mát-thêu mà chúng ta thường đọc. Kinh Lạy Cha trong Tin mừng thánh Lu-ca hôm nay ngắn gọn hơn. Trước hết, Chúa dạy các môn đệ cầu nguyện để biết chủ đích sống đời sống đức tin của mình làm sáng danh Chúa và làm cho Nước Cha trị đến, cộng tác với Chúa trong kế hoạch cứu độ nhân loại như chính Chúa đang thực hiện. Thứ hai, cầu nguyện để xin Chúa Cha ban cho những nhu cầu cần thiết cho thân xác, mà còn nhận ra và “ăn” những nhu cầu cần thiết cho đời sống tinh thần, đó là, Lời Chúa dạy và siêng năng, sốt sắng lãnh nhận Thánh Thể. Thứ ba, biết sống nhân từ, tha thứ những lỗi lầm cho người khác như Chúa đã thương xót tha thứ tội lỗi chúng ta. Và sau cùng, cầu nguyện để có can đảm và sức mạnh tránh xa những sự dữ, gian dối và cám dỗ của ma quỉ, thế gian và bởi cái tôi của mình. Sau khi đã dạy các môn đệ cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu còn đưa ra dụ ngôn “Xin bánh ban đêm” để dậy chúng ta phải có niềm tin vững chắc vào tình yêu thương của Chúa Cha cho chúng ta, do đó phải có thái độ kiên trì, nhẫn nại trong cầu nguyện.
Ông bà anh chị em thân mến. Kiên trì và nhẫn nại cũng là ý nghĩa của bài đọc một hôm nay. Bài đọc 1 Chúa nhật tuần trước cho chúng ta biết ông Abraham đã tiếp đón 3 người khách lạ một cách thân tình. Sau đó, Abrahan biết 1 trong 3 người khách lạ là chính Thiên Chúa đang trên đường tới 2 thành phố gần Biển Chết. Sau đó Chúa đã mời ông cùng đi và trên đường đi, Chúa cho ông biết 2 thánh phố Sô-đô-ma và Gô-mô-ra sẽ bị tiêu diệt vì đời sống sa đọa, vô luân lý và tội lỗi quá nặng nề. Chúng ta nhận thấy Abraham kiên trì nài nỉ cầu xin Chúa tha thứ nếu ông tìm thấy chỉ có mấy người công chính trong thành. Chúng ta hãy tưởng tượng Chúa sẽ làm gì, hay 2 thành phố đó sẽ ra sao nếu ông Abraham không dừng lại ở con số 10, mà còn kiên trì nài nỉ xuống những con số thấp hơn!
Kiên trì cầu nguyện là một bài học rất quan trọng mà chúng ta cần phải học để trưởng thành trong đời sống tinh thần. Trong đời sống hàng ngày, chúng ta học bài học kiên nhẫn chờ đợi tại ngã tư đường, tại văn phòng bác sĩ, tại các chỗ buôn bán, shopping centers hay tại các tiệm ăn. Chúng ta biết trong nhiều công việc hay nhiều hoàn cảnh, nếu muốn thành công hay đạt được những gì chúng ta mong ước phải có sự kiên nhẫn chờ đợi. Hơn nữa kiên nhẫn tăng phẩm giá con người và giúp chúng ta trở thành những người văn minh. Thế nhưng nhiều khi trong đời sống tinh thần, chúng ta lại không có đức tính kiên trì trong sự cầu nguyện, hay cầu xin. Chúng ta cho rằng chúng ta không cần phải kiên trì cầu nguyện “thông báo” cho Chúa biết những gì chúng ta muốn, cần, hay không phải đánh thức Chúa dậy vì Chúa biết tất cả mọi sự trong đời sống chúng ta. Chúng ta muốn Chúa phải trả lời những gì chúng ta thắc mắc, hay phải ban ngay cho chúng ta những gì chúng ta muốn hay cầu xin.
Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện với thái độ kiên trì và nhẫn nại, không phải là Chúa không yêu thương, hay không biết, hay không nghe những lời chúng ta cầu nguyện hay kêu xin, cũng không phải Chúa làm ngơ hay không muốn ban, nhưng Chúa muốn tăng thêm và muốn đức tin của chúng ta trưởng thành hơn. Chúng ta cần phải biết 2 điều quan trọng. Một là phải có niềm tin vững chắc vào tình yêu, lòng thương xót và sự quan phòng của Chúa cho chúng ta, và thứ hai là điều chúng ta cầu xin. Chúa có thể không ban điều chúng ta xin, mà vẫn nghe lời chúng ta và ban cho chúng ta một ơn khác. Vì lẽ điều chúng ta xin có thể sẽ không đem lại lợi ích thiêng liêng, nhiều khi còn hại cho cuộc sống hiện tại, hay tương lai, hay cuộc sống đời đời của chúng ta. Ngoài ra, Chúa biết chúng ta cần gì và ban cho chúng ta những ơn chúng ta không nghĩ tới hay không xin. Chúng ta phải luôn ý thức Chúa yêu thương và quảng đại với chúng ta như người chủ vườn gieo giống ban ơn một cách rộng rãi.
Phần cuối bài Tin mừng, Chúa nói “Các con hãy xin thì sẽ được”, có nghĩa là chúng ta sẽ nhận được điều chúng ta xin. Chúng ta Cầu xin Chúa giúp chúng ta biết lắng nghe và sống Lời Chúa dạy, cũng như nhận ra sự quan trọng và cần thiết của sự cầu nguyện trong đời sống đức tin, trong đời sống Ki-tô hữu, để chúng ta sống mật thiết với Chúa đời này, và được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu đời sau như lời Chúa hứa.
Khi tội lỗi tràn ngập xứ Sôđôma, Abraham đã van nài Chúa, thậm trí mạc cả với Chúa cho đến TN 17-C186
Khi tội lỗi tràn ngập xứ Sôđôma, Abraham đã van nài Chúa, thậm trí mạc cả với Chúa cho đến khi có được lời Chúa hứa là không tiêu diệt thành Sôđôma nữa nếu như tìm thấy mười người công chính, Abraham đã tìm thấy tột đỉnh của lòng thương xót Chúa là tha thứ.
Xin như Abraham xin
Từ cây sồi ở Mambrê Chúa tỏ cho Abraham biết ý định của Chúa (x. St 18,1), Abraham nhận ra lòng thương xót Chúa, nên khi tội lỗi tràn ngập xứ Sôđôma, Abraham đã dám thưa cùng Chúa : “Chớ thì Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao? Nếu có năm mươi người công chính trong thành, họ cũng chết chung hay sao? Chúa không tha thứ cho cả thành vì năm chục người công chính đang ở trong đó sao?” (St 18, 24-25) Và ông ỷ nại vào lòng nhân từ Chúa, ông tiếp tục mạc cả với Thiên Chúa cho đến khi có được lời Chúa hứa là không tiêu diệt thành Sôđôma nữa nếu như tìm thấy mười người công chính. Vấn đề là Thiên Chúa nhân từ không bao giờ muốn tiêu diệt thành Sôđôma. Abraham sợ chứng kiến cảnh Thiên Chúa trừng phạt Sôđôma và Gômôrrha. Với lòng thương dân sẵn có, Abraham đã năn nỉ nài van, đến nỗi táo bạo can thiệp cả Thiên Chúa. Lòng Chúa cao cả hơn lòng chúng ta, nếu nói rằng Abraham mặc cả với Chúa, không có sai, vì ông đã giảm giá dần, từ năm mươi người xuống còn mười người. Chúa phán: “Vì mười người đó, Ta sẽ không tàn phá”. Abraham thấy các thành rơi vào cảnh bi đát, sắp bị Chúa tàn phá và ông tìm kiếm một con đường giải thoát cho hai thành. Ông cầu xin tha thiết và đã được Chúa nhận lời.
Xin như Chúa Giêsu dạy xin
Niềm tin vào Thiên Chúa của Abraham bị thử thách, đó cũng là niềm tin của chúng ta nói chung. Vì nhiều khi chúng ta xin mãi mà không được, nên chán nản. Chúa Giêsu dạy chúng ta. : “Khi anh em cầu nguyện, thì hãy cầu nguyện như thế này : ‘Lạy cha…”. Người dạy chúng ta thưa cùng Thiên Chúa là “Cha” nhân từ. Người cũng bảo đả rằng những lời nguyện cầu mà chúng ta dâng lên Chúa Cha sẽ luôn được nhận lời, nghĩa là chẳng những xin mà còn phải tin nữa : “Và Thầy bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,10). Người lưu ý chúng ta : “Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,10). Tin rằng Chúa không chỉ sẽ nhận lời mà còn trao ban cho chúng ta những điều tốt hơn điều chúng ta cầu xin.
Người bảo chúng ta khi xin cùng Thiên Chúa, như người cha thấy con mình đói, cần bánh ăn, cho dù phải năn nỉ, nài van, thậm trí bị từ chối cũng cứ xin: " Xin đừng quấy rầy tôi, vì cửa đã đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm rồi". Nhưng khi đã nghe rõ tiếng van nài của người cha vì còn cái mình, ông bạn ấy sẽ trỗi dậy đáp lời !
Các con ông có được bánh ăn nhờ người cha van xin. Thiên Chúa đã ngưng trừng phạt Sođôma nhờ số ít những người công chính vì Abraham nài xin (x. St 18,23-32).
Cứ xin, vì Chúa là Cha nhân từ
Dẫu biết trước rằng con người yếu đuối, luôn phạm tội nhưng Thiên Chúa là Cha nhân từ luôn hết mực tha thứ và dẫy lòng thương xót đối với tội nhân. Chúa là Đấng Vĩ Đại, có quyền trên muôn loài vạn vật nhưng lòng nhân từ Chúa vượt lên trên cả sự vĩ đại của Chúa. Chúa thương xót con người ngay cả khi con người không xứng đáng với điều đó.
Chúa tốt bụng đối với những người không xứng đáng, an ủi những người đau khổ và nâng đỡ những người bị áp bức, ban ơn và chúc phúc nhiều hơn những gì con người đáng được hưởng; nếu hành vi cá nhân của một người được cân bằng đồng đều giữa phẩm hạnh và tội lỗi, thì Thiên Chúa hướng thang công lý về phía điều thiện. Chúa giữ lòng nhân từ tới ngàn đời và không bao giờ rút lời. Chúa ghi nhớ những việc làm của người công chính vì lợi ích của thế hệ con cháu, tha thứ cho kẻ có tội dù làm điều ác do bất cẩn, thiếu suy nghĩ hoặc thờ ơ nhưng biết ăn năn. Chúa nhân từ, nhân từ và tha thứ, xóa sạch tội lỗi của những ai thật lòng ăn năn; tuy nhiên, nếu một người không ăn năn thì họ sẽ bị sự trừng phạt theo điều họ vi phạm.
Abba, Cha ơi, lạy Chúa Thánh Thần, xin cầu thay nguyện giúp chúng con và toàn thế giới. Amen.
Bài đọc 1 sách Sáng Thế (St 18:20-32) nói về việc Thiên Chúa sẽ hủy giệt hai thị trấn Sodom và TN 17-C187
Bài đọc 1 sách Sáng Thế (St 18:20-32) nói về việc Thiên Chúa sẽ hủy giệt hai thị trấn Sodom và Gomorrah vì dân chúng ở đó tội lỗi quá nhiều. Nhưng Abraham đã cầu khẩn Chúa tha thứ vì trong đó cũng có những người công chính. Chúng ta hãy coi cách Abraham cầu xin Chúa và Chúa Giesu dạy chúng ta phải cầu nguyện thế nào.
CẦU NGUYỆN CỦA ABRAHAM
Khi Abraham nghe biết Thiên Chúa sẽ sử phạt hai thành Sodom và Gomorrah trong đó có ông Lot là cháu ông đang cư ngụ, ông bèn cầu xin Chúa tha bằng cách đặt vấn đề thương lượng với Chúa: Vậy Chúa sẽ hủy giệt cả những kẻ vô tội cùng với những kẻ tội lỗi sao? (18:23). Abraham van nài tình thương của Chúa xin đừng hủy giệt cả hai thị trấn này!
Thiên Chúa ra điều kiện nếu trong tỉnh có được 50 người công chính thì Chúa tha cho cả tỉnh. Abraham đã từ từ giảm số người công chính xuống còn 10 người. Sự khác biệt này vẫn còn phù hợp với điều kiện Thiên Chúa đã đưa ra để tha không hủy giệt cả thàng (18:28-32). Sau khi Abraham nắm được điều kiện 50 người công chính thì Thiên Chúa đã phán: “Vì chúng mà ta sẽ tha cho tất cả” (18:26).
Câu chuyện Abraham cứu được thành Sodom không phải là ván bài con số nhưng là ý nghĩa của ơn cứu độ cho những người công chính trong một cộng đồng tha hóa đầy dẫy tội lỗi. Abraham đã can thiệp là vì niềm tin: Yêu Chúa nồng nhiệt thì nhất định không thể thất bại, ngay cả trong những môi trường xã hội tội lỗi, vô luân, đồi bại.
CẦU NGUYỆN LÀM SAO ĐỂ THÀNH CÔNG
Làm sao để cuộc cầu nguyện thành công? Trước tiên phải rõ ràng và dễ hiểu. Thứ đến phải hữu lý và trình bày một cách thuyết phục. Thứ ba, đòi hỏi phải cương quyết và bền chí. Tóm lại phải rõ ràng, hữu lý và kiên quyết, nhất định không bỏ cuộc.
Abraham đã có đầy đủ cả 3 yếu tố căn bản đó. Ông làm nổi bật niềm tin và những đức tính tốt của ông Lot, không phải ông Lot có họ hàng với ông. Dù không nói rõ đòi hỏi của mình, Abraham đã trình bày cho Chúa ước mong của mình làm sao đánh động lòng thương xót của Chúa: Xin hãy cứu những kẻ thờ phượng Chúa và ăn ngay ở lành! Xin hãy tin những người tin tưởng nơi Chúa; xin hãy thương xót những người biết xót thương người. Abraham kiên trì cầu xin cho đến khi Chúa đồng ý với con số 10 người công chính (18:26-32).
Con số 10 không phải là số người trong gia đình ông Lot mà là số người tối thiểu có niềm tin cần thiết để tạo thành một cộng đồng tín hữu, cũng là lý do để có một cộng đồng cầu nguyện theo truyền thống. Con số 10 cũng là số tối thiểu cấn thiết để có cuộc cầu nguyện chung, và số tối thiểu phải có để thi hành việc tế tự trong hội đường.
Khi cầu nguyện, chúng ta nên bắt chước Abraham. Cầu nguyện với một ước muốn rõ ràng, kiên trì và theo ý hướng của Chúa, ngay cả khi chúng ta xin một điều rất nhỏ.
CẦU NGUYỆN LÀ TRỌNG TÂM ĐỜI SỐNG KITÔ GIÁO
Luca đã trình bày cách Chúa Giesu cầu nguyện như là khuôn mẫu để chúng ta noi theo. Cầu nguyện là nói chuyện với Thiên Chúa, đối thoại giữa Thiên Chúa và gia đình nhân loại với tâm hồn cởi mở. Cầu nguyện phải liên tục, vì đó là dấu chỉ của niềm tin đối với Thiên Chúa. Cầu nguyện không phải là gây áp lực để đạt được ước muốn của mình. Cầu nguyện đúng nghĩa là mở rộng tâm hồn mình để cho Chúa Thánh Thần hoạt động, dẫn đưa chúng ta vào đường hướng của Chúa, và làm cho chúng ta trở thành môn đệ Chúa, biết vâng lời chúa Giesu và Chúa Cha là đấng đã sai Người xuống thế. Cầu nguyện để trở nên một với Chúa, nhờ đó chúng ta bước theo Chúa sống đời Kito giáo.
BA GIAI ĐOẠN CỦA CẦU NGUYỆN
Luca trình bày trong bài Phúc Âm hôm nay 3 giai đoạn cầu nguyện. Thứ nhất, Chúa Giêsu dạy các môn đệ và cả cộng đồng Kitô Giáo “kinh Lạy Cha” (11:1-40). Thứ hai phải bền bỉ (11:5-8). Thứ ba hiệu quả của cầu nguyện (11:9-13).
Trong Mátthêu, kinh “Lạy Cha” (6:9-15) nằm trong diễn trình của “bài giảng trên núi”. Luca kể lại khi thấy Chúa Giêsu cầu nguyện thì các môn đệ xin Người dạy các ông cầu nguyện như Gioan đã dạy các đệ tử (11:1-4). Chúa Giêsu đã đáp ứng và dạy các ông kinh “Lạy Cha”. Chúa trình bày cho các ông dưới hình thức một cộng đồng Kitô hữu cầu nguyện chung và nhấn mạnh đến tình cha con mà Thiên Chúa là Cha và là đấng mà người môn đệ Kitô Giáo cần phải có như của ăn hằng ngày (11:3), lòng tha thứ (11:4), và được cứu thoát trong giờ phán xét sau cùng (11:4).
CẦU NGUYỆN CỘNG ĐỒNG
Chúa Giêsu dạy 12 môn đệ kinh “LẠY CHA” với tư cách là Tông đồ, đồng thời cũng là những người đồng trách nhiệm đối với cộng đồng. Đây là kinh cầu nguyện của các Tông đồ, không nhắm vào cá nhân mà là tập thể đồng trách nhiệm và tình liên đới.
Khi cầu nguyện cho “Nước Chúa Trị Đến”, chúng ta tỏ lòng ước muốn được nhìn thấy ngày Chúa khải hoàn, nước Chúa thống trị vinh quang thực sự, không còn là hy vọng mơ hồ mà là một thực tế hiển nhiên. Linh hồn chúng tôi không bao giờ thõa mãn cho đến khi Thiên Chúa được vinh danh và tung hô trước muôn loài. Phải chăng cũng là lời ước nguyện xuất phát tự đáy lòng, khi nào thì thế giới ma quỉ, tội ác và tử thần bị hủy diệt?
Khi chúng ta cầu có đủ cơm ăn, là chúng ta xin điều gì hơn cả cơm gạo và lương thực.
Chúng ta cầu xin Đấng Sáng Tạo sự sống những nhu cầu đời sống: “Lạy Chúa, xin ban cho chúng con những thứ cấn thiết để chúng con vui hưởng tặng phẩm Chúa ban là sự sống –cơm gạo hôm nay và ngày mai để chúng con sống là một cộng đồng”
Chúng ta cầu xin: “Xin Chúa tha tội cho chúng con cũng như chúng con tha nợ cho những kẻ nợ chúng con”. Câu này phản ảnh nỗi ưu tư của Luca vì của cải sẽ cản trở tình thân hữu trong cộng đồng. Thỉnh nguyện sau cùng rất có thể là ngày cánh chung: Xin đừng phán xét chúng tôi. Đây là thử thách lớn lao cuối cùng và một hấp hối của ác quỉ trước ngày tận thế.
Kinh “Lạy Cha” cũng là kinh của người nghèo, của những người đau khổ cơ cực. Đây có thể là kinh đầu tiên và cũng là kinh cuối cùng mà chúng ta chưa bao giờ đọc trước khi nhắm mắt trong cuộc đời .
TẶNG PHẨM BẢO ĐẢM CỦA CHÚA
Dụ ngôn người bạn gõ cửa mượn bánh vào nửa đêm cũng đưa ra một sứ điệp như một lời cầu nguyện. Ông chủ nhà khó tính nói “tôi đang ngủ, anh đừng quấy rầy tôi, …” so với Thiên Chúa nhân từ thì Thiên Chúa có ban cho chúng ta nước trời không? (Lc 12:32).
Phần kết luận “cứ xin thì sẽ được” (Lc 11:9-13) là để trả lời cho phần của người bạn khó tính bị quấy rầy giữa đêm. Tương tự như vậy, nếu cha mẹ cho con quà tặng tốt thì Thiên Chúa là đấng tốt lành hơn sẽ cho nhiều đến đâu. Kết quả tặng phẩm Chúa ban sẽ vô cùng lớn lao hơn nhiều, hơn cả quà tặng của cha mẹ. Chúa sẽ mở lòng chúng ta để cho Chúa Thánh Thần họat động, mang chúng ta vào đường hướng và mong ước của Chúa, làm cho chúng ta thành những môn đệ thực sự, biết vâng lời Chúa Giesu và Đức Chúa Cha.
Để kết luận, xin trích câu #239 sách Giáo Lý Công Giáo nói về ý tưởng cầu nguyện Thiên Chúa là CHA mà Luca đã nói trong bài Phúc Âm hôm nay:
Khi gọi Thiên Chúa là Cha, ngôn ngữ của đức tin đã chủ yếu nêu rõ hai phương diện: Ngài là nguồn gốc trên hết của vạn vật và có ưu quyền siêu việt –đồng thời Ngài là Đấng nhân hậu và thương yêu lo lắng cho tất cả các con cái mình. Sự dịu hiền phụ mẫu của Thiên Chúa cũng có thể được biểu lộ bằng hình ảnh của người mẹ (Is 66:13; Tv 131:2) và tình mẫu tử nói rõ hơn về tính nội tại của Thiên Chúa, về tình thân mật giữa Thiên Chúa và tạo vật của Ngài. Như vậy ngôn ngữ của đức tin đã lấy trong kinh nghiệm của con người về cha mẹ mình, vì một cách nào đó, cha mẹ là những vị đại diện đầu tiên của Thiên Chúa đối với con người. Nhưng kinh nghiệm cho thấy cha mẹ là những người có thể sai lầm và làm méo mó hình ảnh của tình mẫu tử. Bởi vậy nên nhắc lại rằng Thiên Chúa vượt trên sự phân biệt nam nữ của con người. Ngài không phải người nam cũng chẳng phải người nữ, Ngài là Thiên Chúa. Ngài cũng siêu việt trên tình phụ tử và tình mẫu tử của con người (Tv 27:10), mặc dù Ngài là nguồn gốc và thước đo của hai tình đó (Ep 3:14; Is49:15): không ai là cha như Thiên Chúa.
Lần ấy thánh I-nha-xi-ô và vài người bạn thực hiện một cuộc hành trình dài. Họ theo một thời TN 17-C188
Lần ấy thánh I-nha-xi-ô và vài người bạn thực hiện một cuộc hành trình dài. Họ theo một thời khóa biểu bao hàm việc dừng lại ở những khoảng cách đều đặn để cầu nguyện với nhau. Một phu khuân vác, được mướn theo để mang hành lý, quan sát nghi thức đó trong nhiều ngày. Ông thấy việc này tác động lên nhóm tu sĩ, và vì hành trình kéo dài lâu, ông bắt đầu ao ước cầu nguyện với họ. Khi thánh I-nha-xi-ô biết được ước muốn này, ngài mời người khuân vác gia nhập nhóm. Thánh nhân cũng dần dần thấy ước muốn -ngày qua ngày- của người khuân vác được cầu nguyện với họ tự nó là một lời cầu nguyện rất hay. Văn hào Victor Hugo từng bảo: “Một vài tư tưởng là lời cầu nguyện. Có những lúc mà dù cử chỉ thân xác thế nào đi nữa, linh hồn vẫn đang quỳ xuống”.
1. Cho các kế hoạch của Thiên Chúa
Một sự thu hút tương tự như thế đã xảy ra trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay. “Một hôm, thấy Đức Giê-su cầu nguyện…”, môn đệ đã xin Người dạy họ làm việc ấy như Gio-an Tẩy giả đã dạy môn đồ của ông.
Ngày nay, việc cầu nguyện lại được phục hồi cách nào đó. Tuy nhiên, phần lớn loài người bây giờ đều gặp khó khăn khi cầu nguyện. Tất cả chúng ta đều bị ảnh hưởng cách vô thức bởi vô số phê bình của não trạng hiện thời: cầu nguyện là đào ngũ, chớ xin Thiên Chúa làm thế cho bạn, hãy xắn tay áo lên… cầu nguyện là một hành vi ma thuật của người sơ khai không biết các định luật chặt chẽ của thiên nhiên… cầu nguyện là tha hóa, hãy mặc lấy chiều kích con người của mình… không có Chúa cũng chẳng có chủ… hãy từ bỏ những mê tín tối tăm của bạn…
“Người bảo các ông: Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: Lạy Cha…” Dân Do-thái đã từng gọi Thiên Chúa là “Cha”… như nhiều tôn giáo khác (x. Hs 11,3; Gr 3,19; Is 63,16; Kn 5,5 v.v...). Tuy nhiên Đức Giê-su đã canh tân từ này, khi mạnh dạn xưng với Thiên Chúa: “Ab-ba” (Ba ơi !)… từ thân mật chưa sử dụng trước Người. Chính từ những gì họ đã nhận thấy về kinh nghiệm độc nhất vô nhị của Đức Giê-su mà các môn đệ đã quả quyết Người là “Con Thiên Chúa” theo một nghĩa hoàn toàn đặc biệt. Khi lấy lại “lời cầu nguyện của Đức Giê-su” là đến phiên mình, chúng ta bạo dạn nghĩ rằng “chúng ta được yêu bởi chính tình yêu mà Chúa Cha đã dùng để yêu Con Một” (Ga 20,17).
“Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển…” Trong Thánh Kinh, “danh” (tên) biểu lộ con người… “thánh thiện” là cái khiến Thiên Chúa nên hoàn toàn khác nhờ sự siêu việt của tình yêu và của quyền năng Người… Trước khi ngỏ với Thiên Chúa các nhu cầu riêng của mình, chúng ta phải nghe lời Đức Giê-su mà cầu xin theo ý Chúa Cha. Không gì ma thuật, không gì tha hóa trong lối cầu nguyện tuyệt đối vô vị lợi này. “Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển” là xin bày tỏ sự toàn năng của Cha vốn là đức toàn nhân toàn ái, là tình hiền phụ toàn hảo… xin tỏ cho thấy Cha là Cha… vô cùng tuyệt đối là “cha”… một người cha hoàn toàn khác chúng con, vô cùng là “cha” hơn chúng con. Nếu đặt trong cùng một trái tim tình yêu vốn đã hết sức kỳ diệu của mọi người cha và mọi người mẹ trên trái đất, ta vẫn chỉ mới có một phần rất nhỏ của tình yêu nơi vị Cha ấy, “nguồn gốc mọi chức làm cha, mọi tình hiền phụ” (Ep 3,15).
“Triều Đại Cha mau đến…” Lời cầu thứ hai này gần như đồng nghĩa với lời cầu thứ nhất. Xin Thiên Chúa thống trị! Xin Thiên Chúa, vốn là Tình Yêu (x. 1Ga 4,7-21), sinh động từ bên trong tất cả tạo vật của Người. Chớ gì Tình yêu lên ngôi! Chớ gì Tình yêu làm chủ! Chủ đề “Triều Đại Thiên Chúa” trong Cựu Ước thường xuất hiện (x. 1Sbn 16,30-33; Tb 13,1; Tv 21,28; 28; 67,33-36; 97; 102,19; Is 11,1-9; 33,17-24; 52,7-12; Đn 8,23). Trong tư tưởng Ít-ra-en, vua chúa trần gian chỉ là những “đại diện”: vương quyền thuộc một mình Thiên Chúa. Và chính khi giữ Lề luật Người mà Ít-ra-en làm cho Người hiển trị thật sự.
Vào thời Đức Giê-su, đã từ lâu chẳng còn vua tại Giê-ru-sa-lem như thời Đa-vít và Sa-lo-mon nữa. Do đó nỗi mong chờ Đấng Mê-si-a, bị kích phát bởi cuộc xâm chiếm của ngoại bang, được diễn tả trong kinh cầu nguyện Qaddish của dân Do-thái thế này: “Ước chi Danh vĩ đại của Người được cả sáng trong thế giới Người đã tạo dựng theo tôn ý, ước chi Người làm cho Triều đại Người hiển trị và ơn cứu rỗi (giải thoát) của Người mọc lên, ước chi Đấng Mê-si-a của Người gần đến”. Đức Giê-su công bố Triều Đại Thiên Chúa đến gần, đang hoạt động đó rồi, nhưng không phải cách lừng lẫy… mà như muối men, như hạt giống âm thầm chôn giấu trong lòng người (x. Mt 3,2; 4,17; 10,7; 13,24.31.36.50). Thành thử hiển nhiên là chúng ta không thể dâng lên lời cầu này mà chẳng đích thân hành động để giúp Triều Đại ấy lớn mạnh, trong niềm xác tín về Ngày Cánh chung, lúc sẽ biểu trọn vẹn sự thành công, sự hoàn tất chương trình tình yêu của Thiên Chúa.
Tiện đây xin lưu ý rằng kinh “Lạy Cha” của Lu-ca hơi khác kinh của Mát-thêu. Ông đã thu ngắn, bỏ bớt hai lời cầu (ý Cha thể hiện và cứu chúng con khỏi mọi sự dữ). Chẳng thánh sử nào đã coi mặt chữ các lời của Đức Giê-su nhận từ truyền thống là bất khả xâm phạm. Họ xem kinh Lạy Cha như một hướng cầu nguyện chung hơn như một công thức bất biến. Đức Giê-su đã chẳng cố định hay nghi thức hóa cái gì cả. Và Giáo Hội, ngay từ khởi thủy, đã luôn sử dụng nhiều công thức khác nhau trong phụng vụ của mình… trên một nền tảng duy nhất.
2. Cho các mong ước của chúng ta
“Xin cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy…” Sau khi đã lấy các “kế hoạch của Chúa Cha” làm của mình, chúng ta bây giờ mới bày tỏ các mong ước của chúng ta. Đức Giê-su gợi lên cho chúng ta ba điều ước: cơm bánh… ơn tha thứ… tự do trước sự dữ…
Ở đây cũng vậy, Lu-ca đã thay đổi bản văn của Mát-thêu. Ông này nói: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực cần dùng (TOB, hằng ngày: BJ)”, còn Lu-ca, với một cộng đoàn Ki-tô hữu chắc hẳn rất nghèo, đã thêm một tiểu dị và nhấn mạnh: “Xin cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy”. Lời cầu này thật khiêm tốn, và dẫu chẳng nói rõ, nó cũng đặt lại vấn đề não trạng ưa giàu của chúng ta. Đức Giê-su đã không ngớt nhấn mạnh rằng chúng ta chớ có lo âu về ngày mai (x. Lc 12,22-32; Mt 6,34). Ngay trong hoang địa thời ra khỏi Ai-cập, dân Chúa đã không thể dự trữ man-na trước cho nhiều ngày (x. Xh 16,4). Từ Hy-lạp “épiousios”, dịch là “cần dùng”, xét trong toàn bộ Kinh thánh, đã chỉ được sử dụng ở đây thôi. Nó nhắc nhớ một từ Hip-ri, cũng hiếm hoi, được dùng tại Cn 30, 8: “Xin đừng để con nghèo túng, cũng đừng cho con giàu có; chỉ xin cho con cơm bánh cần dùng!” Một lời cầu nguyện khó đọc trong các xã hội thừa mứa, song lại là lời cầu nguyện của hết thảy những ai khắp thế giới chỉ sống độ nhật. Nhưng từ “chúng con” mà ta đọc theo Đức Giê-su, buộc ta phải gồm vào lời cầu nguyện của ta hết mọi kẻ thiếu bánh hằng ngày. Tôi không có quyền đọc kinh “Lạy Cha” cho mình tôi thôi. Và nếu lời cầu nguyện của tôi chân thật, nó sẽ thúc đẩy tôi chia sẻ cơm bánh cho những người đói.
“Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con…”. So với công thức của Mt, Lc đã xác định chữ “nợ” bằng cách dịch ra là “tội”: thực thế, chính tội là cản trở lớn nhất đối với Triều đại Thiên Chúa cũng như đối với việc chia sẻ cơm bánh cho anh em! Hơn nữa, Lu-ca còn thêm chữ “mọi/tất cả” để nói chúng ta phải tha thứ cho hết mọi người, nếu muốn chính mình được Thiên Chúa thứ tha. Việc này thiết yếu đối với các Ki-tô hữu đến nỗi Đức Giê-su phải luôn nhắc đi nhắc lại! (x. Lc 6,36; 23,34; Mt 11,19; 26,28; 6,14; 18,23.35; Mc 11,25; Gc 2,13). Niềm vui Thiên Chúa cảm thấy khi tha thứ cho tội nhân do đó trở nên như đá thử vàng đối với hành động của Ki-tô hữu. “Ki-tô hữu là người tha thứ”, một bé gái từng nói với giảng viên giáo lý của mình như vậy. Trước khi đi xa hơn trong lời cầu nguyện của mình, ta hãy dừng lại một chút… để tha thứ tận đáy lòng cho tất cả những ai đã làm hại ta. Và đừng bao giờ bảo việc cầu nguyện là ma thuật, vụ lợi, đào thoát nữa. Đúng hơn, nó là một sự dấn thân bao la, một đòi hỏi khủng khiếp, gần như siêu phàm.
“Và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ…”. Nhiều nhà chú giải nghĩ rằng ở đây nói về cơn cám dỗ lớn, cơn cám dỗ rất đáng sợ là “bỏ Thiên Chúa”, “mất niềm tin”. Thử thách lớn lao này đã từng khiến Đức Giê-su tự hỏi: “Khi Con Người ngự đến, liệu còn thấy lòng tin trên mặt đất này nữa chăng?” (Lc 18,8). Trong trình thuật về cơn chiến đấu tại vườn Ghết-sê-ma-ni theo Lu-ca, hai lần Đức Giê-su khuyên bảo môn đệ “cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (22,40 và 46). Vâng, cám dỗ lớn nhất, đó là từ bỏ Người. Nhưng mọi cám dỗ của chúng ta, mọi yếu đuối của chúng ta, thậm chí những yếu đuối nhỏ nhất, cũng làm chúng ta bỏ Đức Giê-su chút ít. Trong dụ ngôn người gieo giống, Đức Giê-su đã cảnh giác: có những kẻ tin trong một thời gian, rồi bỏ khi gặp thử thách, cám dỗ (x. Lc 8,13). Thành thử mỗi ngày chúng ta cần phải chiến đấu chống lại sự dữ, chinh phục tự do của mình… và khiêm tốn cầu xin Thiên Chúa ơn chẳng đầu hàng, chịu tội lỗi trói buộc.
3. Với lòng kiên trì lì lợm
Qua dụ ngôn tiếp theo vốn chỉ ông có, Lu-ca nêu bật một khía cạnh trong lời cầu nguyện của Đức Giê-su: cầu nguyện xin ơn. Thế mà trong lãnh vực này, cần phải chứng tỏ sự kiên trì đối với Thiên Chúa; điều ấy hết sức quan trọng trước mắt Lu-ca đến nỗi ông sẽ lặp lại giáo huấn này tại chương 18,1-5 với một dụ ngôn khác.
Câu hỏi mở đầu buộc thính giả phải lôi mình vào, phải đưa ra một phán đoán cá nhân, đang khi chính Đức Giê-su sẽ minh nhiên cung cấp cách áp dụng (x. câu 8). Chính toàn bộ câu chuyện dụ ngôn soi sáng các tương quan giữa Thiên Chúa với con người trong lời cầu nguyện. Sẽ sai lầm nếu tách mỗi một yếu tố của nó ra và tưởng tượng rằng lời cầu nguyện sẽ đánh thức Thiên Chúa hay Thiên Chúa đáp lại chỉ để thoát khỏi những kẻ quấy rầy. Này là 3 nhân vật: tay trâng tráo lì lợm có 2 người bạn không biết nhau. Sở dĩ anh ta đến nhà một trong hai người giữa khuya là vì người kia, ở xa, vừa tới nhà anh cách đột xuất, xin ở lại. Lữ khách này du hành ban chiều và một phần ban đêm để tránh cái nóng của ban ngày. Xin lưu ý: người bạn mà kẻ đang ngủ bị lôi dậy muốn đuổi khéo chẳng xin gì cho mình; và chính anh ta mới bị ông khách đến bất ngờ gây phiền nhiễu hơn cả! Anh nại đến tình bạn giữa họ để vay 3 cái bánh, nhưng kẻ kia từ chối theo anh trên bước đường tình cảm này; y chẳng gọi anh là “bạn” và từ chối đánh thức con cái vì phải chỗi dậy. Kết luận của Đức Giê-su đi tự chính việc từ chối hành động vì tình bạn ấy; một động cơ khác sẽ khiến kẻ đang ngủ cho những gì người kia cần: tính lì lợm của sự vận động ban đêm. Lòng kiên trì đã “được trả tiền”, đã mang lại kết quả, như được chứng minh qua cuộc đời các thánh, vốn là những tay đại lỳ trong việc cầu nguyện.
Kết quả đó, theo Lu-ca sau hai minh họa về cha dưới đất và Cha trên trời (cc. 11-13), ấy là chính Thánh Thần, ơn huệ tối cao tối đại mà Thiên Chúa ban cho con cái Người. Thật thế, Thánh Thần sẽ xuất hiện trong sách Công vụ như hồng ân đặc biệt từ trời cao trong thời của Giáo hội (x. Cv 2,33.38). Vì chỉ ánh sáng và sức mạnh của Thánh Thần, được ban qua Lời Chúa và các Bí tích, mới giúp ta sống như con cái Thiên Chúa.
Chính Chúa Giêsu xác định: “Anh em cứ XIN thì sẽ ĐƯỢC, cứ TÌM thì sẽ THẤY, cứ GÕ cửa TN 17-C189
Chính Chúa Giêsu xác định: “Anh em cứ XIN thì sẽ ĐƯỢC, cứ TÌM thì sẽ THẤY, cứ GÕ cửa thì sẽ MỞ cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho.” Nhưng Ngài cũng nhắc nhở thẳng thắn: Đừng lải nhải, chớ lẻo mép, cấm nói nhiều! (x. Mt 6:7)
Như để tái xác nhận, Ngài còn nói thêm: “Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?” Tin sao thì được vậy. (x. Mt 8:13; Mt 9:29) Đó là hệ lụy tất yếu, đúng như Thánh Don Bosco (1815-1888) nói: “Chính đức tin hoàn thành tất cả mọi sự.”
Có tin thì mới dám “gõ cửa” để cầu xin, vì nhận thấy mình thiếu thốn hoặc không có. Chúng ta không gõ cửa bình thường mà gõ cửa đặc biệt: Cửa Tình Yêu của Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, trong đời thường, nhiều khi chúng ta có mà vẫn phải xin: Xin lỗi. Thật vậy, văn sĩ Stephen Gosson cho biết: “Một lời xin lỗi vụng về vẫn tốt hơn là im lặng.” Nói đến chuyện xin lỗi thì phải nhắc tới việc tha thứ. Xin lỗi và tha thứ là hai động thái luôn cần thiết và cấp bách, vì đó là động thái của tình yêu thương, lòng trắc ẩn, lòng thương xót.
Năn nỉ hoặc mặc cả cũng là một cách cầu xin. Trình thuật St 18:20-32 cho biết về việc Tổ Phụ Ápraham đã vì người khác mà “mặc cả” với Thiên Chúa.
Chính Thiên Chúa đã xác định: “Tiếng kêu trách Sôđôm và Gômôra thật quá lớn! Tội lỗi của chúng quá nặng nề! Ta phải xuống xem thật sự chúng có làm như tiếng kêu trách đã thấu đến Ta không. Có hay không, Ta sẽ biết.” Ông Ápraham thưa với Đức Chúa: “Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao? Giả như trong thành có năm mươi người lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ thật sao? Chẳng lẽ Ngài không dung thứ cho thành đó, vì năm mươi người lành trong đó sao? Ngài làm như vậy, chắc không được đâu! Giết chết người lành một trật với kẻ dữ, coi người lành cũng như kẻ dữ, chắc không được đâu! Đấng xét xử cả trần gian lại không xét xử công minh sao?” Đức Chúa đáp: “Nếu Ta tìm được trong thành Sôđôm năm mươi người lành, thì vì họ, Ta sẽ dung thứ cho tất cả thành đó.”
Để “mặc cả” với Thiên Chúa, ông Ápraham hạ từ 50 người lành xuống còn 45 người, rồi 40 người, 30 người, 20 người, thậm chí chỉ còn 10 người. Mặc dù đó là con số quá ít, Thiên Chúa vẫn chấp nhận mà không nỡ phá huỷ thành Sôđôm. Quả thật, Thiên Chúa luôn nhẫn nại và chỉ muốn tha thứ. Thế nhưng cả thành phố đó cũng không có được 10 người lành. Nhân loại vẫn bướng bỉnh, cố chấp, ỷ lại và làm ngơ với lòng thương xót của Ngài. Làn ranh giữa “mặc cả” và “lợi dụng” rất mong manh. Chắc chắn ông Ápraham không có ý lợi dụng Lòng Chúa Thương Xót, thế nên chúng ta phải cẩn trọng, chớ ảo tưởng mà hóa ra lợi dụng Lòng Chúa Thương Xót.
Ai cũng biết ma quỷ rất ranh mãnh, đáng sợ nhất là nó cám dỗ chúng ta tưởng là mình thánh thiện. Thật vậy, Thánh Tiến sĩ Têrêsa Hài Đồng (1873-1897) cho biết: “Ma quỷ thường hay đánh lừa những linh hồn quảng đại bằng cách thúc đẩy họ bước vào những hy sinh thái quá, vừa làm hại sức khỏe vừa khiến họ không thể chu toàn bổn phận, đồng thời lại lấy đó làm tự mãn.” Thật kinh khủng! Thảo nào Thánh Phaolô cảnh báo: “Đừng để ma quỷ thừa cơ lợi dụng!” (Ep 4:27)
Ngài biết chúng ta vốn dĩ xấu xa, (x. Lc 11:13) nhưng Ngài vẫn đại lượng: “Chúa tuy thật cao cả, nhưng vẫn nhìn đến kẻ thấp hèn; đứa ngạo mạn ngông nghênh, từ xa Ngài đã biết. Cho dù con gặp bước ngặt nghèo, Chúa vẫn bảo toàn mạng sống con. Địch thù đang hằm hằm giận dữ, Ngài ra tay chận đứng, lấy tay uy quyền giải thoát con.” (Tv 138:6-7) Ngài luôn quan phòng, che chở, giữ gìn chúng ta dù có lúc chúng ta không nhớ đến Ngài. Nếu Ngài nhắm mắt làm ngơ chúng ta chỉ trong giây lát thì chúng ta cũng sẽ chết ngay.
Thiên Chúa thấu suốt mọi sự, (1 Sb 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6) không gì có thể che giấu Ngài, dù là điều nhỏ nhoi nhất và tinh vi nhất.
Ước gì chúng ta khả dĩ cảm nghiệm được Thiên Chúa như tác giả Thánh Vịnh để có thể thân thưa chân thành: “Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ, Ngài đã nghe lời miệng con xin. Giữa chư vị thiên thần, xin đàn ca kính Chúa, hướng về đền thánh, con phủ phục tôn thờ. Xin cảm tạ danh Chúa, vì Ngài vẫn thành tín yêu thương, đã đề cao danh thánh và lời hứa của Ngài trên tất cả mọi sự. Ngày con kêu cứu, Chúa đã thương đáp lại, đã gia tăng nghị lực cho tâm hồn.” (Tv 138:1-3)
Hơn bao giờ hết, chúng ta hãy cùng nhau thân thưa với Ngài: “Việc Chúa làm cho con, Ngài sẽ hoàn tất; lạy Chúa, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Công trình do tay Ngài thực hiện, xin đừng bỏ dở dang.” (Tv 138:8)
Nói về loài người chúng ta, Thánh Phaolô cho biết: “Anh em đã cùng được mai táng với Đức Kitô khi chịu phép rửa, lại cùng được trỗi dậy với Người, vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết. Trước kia, anh em là những kẻ chết vì anh em đã sa ngã, và vì thân xác anh em không được cắt bì, nay Thiên Chúa đã cho anh em được cùng sống với Đức Kitô: Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ mọi sa ngã lỗi lầm của chúng ta.” (Cl 2:12-13)
Quả thật, Thiên Chúa vô cùng đại lượng, cao thượng, từ bi và nhân hậu. Mặc dù chỉ là những “con nợ,” chúng ta chưa mở miệng cầu xin mà Ngài đã tha thứ vô điều kiện: “Người đã xóa sổ nợ bất lợi cho chúng ta, sổ nợ mà các giới luật đã đưa ra chống lại chúng ta. Người đã huỷ bỏ nó đi, bằng cách đóng đinh nó vào thập giá.” (Cl 2:14) Vì thế, chắc chắn chúng ta cũng phải sẵn sàng tha thứ cho nhau, không còn cách nào khác. Đó cũng là loại “đấu” mà Thiên Chúa căn cứ theo đó để “đong” cho chúng ta.
Cầu xin là điều cần thiết, cầu nguyện vừa là hơi thở vừa là lương thực hằng ngày của tín nhân. Có lần một môn đệ xin Ngài dạy cách cầu nguyện, Ngài đã dạy lời cầu tiêu chuẩn nhất: Kinh Lạy Cha. (Lc 11:2-4; Mt 6:9-13) Thật diễm phúc cho chúng ta, bởi vì chỉ là tội nhân bất xứng mà hằng ngày chúng ta vẫn được gọi Thiên Chúa là Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên trời…”
Chúa Giêsu kể câu chuyện về “người bạn quấy rầy và việc cầu xin” để minh họa lòng thương xót. Ngài nói: “Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói: ‘Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả,’ mà người kia từ trong nhà lại đáp: ‘Xin anh đừng quấy rầy tôi: cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được. Thầy nói cho anh em biết: dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ lì ra đó.”
Là con người, ai cũng bất túc, thế nên luôn cần giúp đỡ nhau. Không ai đầy đủ tới mức không cần nhờ vả người khác. Tương tự, ai cũng là tội nhân, thế nên ai cũng cần xin lỗi – tất nhiên cũng cần kèm theo sự tha thứ. Tất cả đều là anh chị em trong Đại Gia Đình của Thiên Chúa, chắc chắn phải yêu thương và tha thứ cho nhau.
Người ta đưa ra 10 lý do mà chúng ta phải xin lỗi nhau:
1. Vì mình hứa mà không thực hiện cho tha nhân. 2. Vì mình thờ ơ, vô cảm với nỗi đau của tha nhân. 3. Vì mình ích kỷ, vụng về, hiểu lầm nên làm phiền tha nhân. 4. Vì lời nói, hành động của mình, dù vô tình hay cố ý, đã làm tổn thương tha nhân. 5. Vì mình không giúp đỡ tha nhân, và vì những gì mình muốn mà không dám làm. 6. Vì những mối bất hòa, cãi vã, mâu thuẫn,... với tha nhân. 7. Vì mình làm cho chính mình đau khổ và nghĩ xấu về tha nhân. 8. Vì mình cố gắng mà vẫn chưa làm được điều tốt đẹp cho người khác, cho xã hội và giáo hội. 9. Vì mình làm cho tha nhân thất vọng, hụt hẫng, mệt mỏi,... 10. Vì mình thay đổi thất thường, đòi hỏi người khác phải theo ý mình.
Và người ta cũng đưa ra 10 lý do mà chúng ta phải tha thứ cho nhau:
1. Tha thứ người khác về điều dối gian mà họ dành cho mình. 2. Tha thứ người khác về những gì xấu xa nhất mà họ nghĩ về mình. 3. Tha thứ người khác vì họ đã làm mình phải khóc, đau lòng. 4. Tha thứ người khác về sự không chân thành, lãnh đạm, xa lánh,… mà họ dành cho mình. 5. Tha thứ người khác về sự vô tâm của họ trước những nỗi khó khăn của mình. 6. Tha thứ người khác về sự giả dối, chỉ giả vờ quý mến, bằng mặt mà không bằng lòng. 7. Tha thứ người khác về mọi lỗi lầm để cùng nhau sống tích cực và hướng tới điều tốt đẹp hơn. 8. Tha thứ người làm mình tổn thương là tự giải thoát mình để có thể sống thanh thản. 9. Tha thứ chính mình, vì đôi khi mình cũng tồi tệ, cảm thấy ghét chính mình. 10. Tha thứ mọi người về bất cứ lỗi lầm gì, dù nhỏ hay to.
Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII, mệnh danh “cụ già nhân từ,” chia sẻ: “Sinh ra nghèo, do cha mẹ nghèo nhưng khả kính, tôi đặc biệt sung sướng khi được chết nghèo. Bất luận tôi đi đâu, nếu ban đêm có người nào lỡ đường trước cửa nhà tôi, họ sẽ thấy cửa sổ tôi luôn có ngọn đèn sáng. Xin đừng ngại, HÃY CỨ GÕ CỬA. Tôi sẽ không hỏi anh em là Công Giáo hay không, nhưng chỉ xin người anh em CỨ VÀO, sẽ có đôi tay thân ái đón tiếp và TẤM LÒNG THÂN THIỆN NỒNG HẬU RỘNG MỞ.” Ước gì chúng ta cũng sống như ngài!
Lạy Thiên Chúa từ bi và nhân hậu, xin giúp chúng con nhận biết chính mình và đủ vững tin để gõ cửa Thánh Tâm Ngài và gõ cửa lòng nhau, xin ban ơn biến đổi để chúng con phân định đúng đắn, luôn biết làm những gì cần thiết và sinh ích theo ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận TN 17-C190
“Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho.” Có thật vậy không?
• Anh Bắc cầu xin với Chúa rất chân thành. Anh xin Chúa cho anh được trúng lô độc đắc Mega Ball. Có tiền rồi, anh sẽ về Việt Nam xây trường học, xây nhà thương, giúp cho các trẻ em nghèo, mồ côi và bất hạnh… Nhưng cầu hoài, cầu mãi, tốn bao nhiêu tiền mua vé số rồi, mà vẫn chưa trúng, dù chỉ là một giải nho nhỏ.
• Chị Trung đi cầu khấn ở khắp mọi nơi, chị lái xe qua Đền Thánh Giuse bên Canada, rồi bay qua Đền Đức Mẹ Fatima, tới Đức Mẹ Lộ Đức, về Thánh Địa Lavang, xuôi xuống Cà Mau kêu xin với Cha Trương Bửu Diệp... ngày nào chị cũng cầu nguyện, và đi đâu chị cũng chỉ xin Chúa có một điều, là cho con trai của chị đi tu làm linh mục. Vậy mà đã hơn mười năm nay, Chúa chẳng nhậm lời cầu xin của chị tí nào cả. Riết rồi chị đâm nản, bỏ cầu nguyện, bỏ không khấn xin nữa, bởi vì chị thấy con trai của chị nay thì cặp với cô này, mai lại bồ với cô khác...
• Anh Nam là một người rất hiền lành, siêng năng lao động, và rất đạo đức. Anh đi lễ, đi nhà thờ cầu nguyện, và cả ăn chay hãm mình nữa, anh chỉ xin Chúa có một điều nho nhỏ, là xin cho anh gặp một người con gái thùy mị, nết na, duyên dáng, hiền lành, xinh đẹp, đầy đủ công dung ngôn hạnh... để nên duyên vợ chồng. Vậy mà mấy chục năm đã trôi qua, Chúa cứ làm ngơ, không trả lời trả vốn, cũng chẳng đoái hoài gì đến lời cầu xin của anh.
Có khi nào bạn rơi vào tình trạng giống như anh Bắc, chị Trung và anh Nam, tức là cầu nguyện hoài mà không được, xin hoài mà Chúa chẳng cho, và gõ miết mà cửa vẫn đóng kín mít không? Chúa hứa rõ ràng: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho," vậy sao Chúa không ban như lòng mình mong ước? Không lẽ Chúa lại hứa lèo? Làm gì có chuyện đó! Ngài là Đấng trung tín, không bao giờ hứa lèo với ai cả! Vậy thì tại sao? Theo tôi, rất có thể, Thiên Chúa không nhậm lời, hay chưa nhận lời khẩn cầu của anh Bắc, chị Trung và anh Nam là bởi vì:
• Thiên Chúa yêu thương anh Bắc lắm! Ngài thấy trước, và biết rất rõ, nếu cho anh Bắc trúng Powerball, có bạc triệu trong tay thì anh ta sẽ gặp nhiều bất hạnh và khốn khổ, sẽ bị cướp viếng, bị trộm thăm, gia đình anh sẽ tan nát và ly tán, bởi vì có lắm tiền rồi thì anh ta sẽ vướng vào cờ bạc, rượu chè, trai gái, thuốc sái… như vậy thì anh Bắc sẽ mất cả phần xác lẫn phần hồn. Vì thế cho nên Ngài không bao giờ cho anh trúng số cả!
• Trong trường hợp của chị Trung thì sao? Chị rất thành tâm, và lời cầu xin của chị chính đáng lắm. Thế nhưng ý muốn và lòng ước ao của chị có thể không phải, hay chưa phải là ý của Chúa. Có lẽ Chúa muốn con trai của chị sống đời sống hôn nhân chăng? Hay Chúa đang để cho con trai của chị có được những kinh nghiệm ngoài đời, rồi sau này mới gọi nó đi theo Chúa thì sao? Con của chị chưa cưới cô nào cả mà!
• Còn trường hợp của anh Nam, Chúa không nhậm lời anh ta, là bởi vì Chúa biết rất rõ, anh ở độc thân như vậy thì tốt hơn cho anh ta, bởi vì làm gì có người phụ nữ nào vừa thùy mị, nết na, duyên dáng, hiền lành, xinh đẹp, đầy đủ công dung ngôn hạnh ... như anh ta ao ước? Nếu có thì chỉ có người đẹp ở trong tranh hay ở trong những quyển tiểu thuyết lãng mạn mà thôi!
Bạn thân mến, nếu bạn đồng ý với tôi rằng lời cầu xin của chúng mình chưa được, hay không được Thiên Chúa chấp nhận, là vì bởi vì Ngài rất yêu thương bạn và tôi. Và bạn tin rằng, Ngài biết sẽ có nguy hiểm gây tổn hại cho phần xác và phần hồn của chúng mình, cho nên Ngài không ban cho chúng mình những điều chúng ta khấn xin... thì bạn và tôi hãy cố gắng ghi nhớ ba điều này:
• Thứ nhất, chúng mình phải xác tín rằng Thiên Chúa là Đấng toàn năng, Ngài thấu hiểu và nhìn thấy hết mọi sự, kể cả những nhu cầu nhỏ nhất của chúng mình. Và khi khấn xin bất cứ điều gì, dù lớn dù nhỏ, thì bạn và tôi hãy chịu khó thêm câu này vào trong lời cầu xin: “Nếu đẹp lòng Chúa, nếu Chúa muốn, thì xin cho con ơn này… ơn kia…”
• Thứ hai, tin chắc rằng Thiên Chúa không bao giờ hứa lèo, Ngài cũng không bao giờ hứa cuội. Ngài đã hứa cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho (Mt 7:7), thì điều đó chắc chắn là có.
• Thứ ba, phải kiên nhẫn khi cầu nguyện. Bạn hãy nhớ lời của Thánh Phê-rô: "Đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày. Chúa không chậm trễ thực hiện lời hứa, như có kẻ cho là Người chậm trễ” (2 Pt 3:9). Và đừng quên lời khuyên dạy của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay là phải cầu nguyện luôn, không được nản chí (Lc 18:1)!
Chúng mình cầu nguyện cho nhau, xin Chúa ban cho bạn và cho tôi ơn kiên trì và nhẫn nại trong khi cầu xin, và xác tín rằng, Thiên Chúa là Cha rất nhân hậu, Ngài luôn luôn ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người. (Mt 7:11).
Cầu chúc bạn, và những người thân yêu của bạn một tuần lễ mới tràn ngập niềm vui và bình an của Chúa.
Lời cầu nguyện mà Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ bắt đầu bằng lời kêu cầu: “Lạy Cha chúng con TN 17-C191
Lời cầu nguyện mà Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ bắt đầu bằng lời kêu cầu: “Lạy Cha chúng con" (như chúng ta thường cầu nguyện theo bản văn Tin mừng Mátthêu) hay đơn giản là “Lạy Cha” (trong bản văn Tin mừng Luca). Đó là một cách xưng hô đơn giản, trực tiếp, đầy tình cảm và dịu dàng: ngay lập tức cho thấy khuôn mặt của Thiên Chúa mà các tín hữu xưng hô với Ngài. Thiên Chúa chắc chắn là Thánh, Đấng Sáng Tạo và Đấng Cứu Độ, nhưng Ngài cũng có thể được gọi là Abba - Cha, trong tiếng Aram của Chúa Giêsu, có nghĩa là “cha, người cha yêu dấu”. Tiếng kêu này xác định Thiên Chúa của chúng ta, nhưng nó cũng có ý nghĩa đối với chúng ta, là những người cất lên tiếng kêu đó. Trong tiếng kêu đó, chúng ta bày tỏ mong muốn mãnh liệt của mình trong mối tương quan với Thiên Chúa là Cha an ủi đích thực. Và trên hết, chúng ta thú nhận cội nguồn của chúng ta ở đó. Bởi vì trong số những câu hỏi lớn thường trực trong trái tim chúng ta, có một câu hỏi liên tục vang lên: “Chúng ta đến từ đâu?”. Bằng cách gọi Thiên Chúa là Cha, chúng ta khẳng định rằng cội nguồn hiện hữu của chúng ta là ở trong Ngài, rằng chúng ta đã được ý muốn của “Cha ở trên trời” cho hiện hữu, được Ngài nghĩ đến, được yêu thương và được kêu gọi vào sự sống. Sự chắc chắn này mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của chúng ta và cho phép chúng ta thể hiện đức tin của mình trong các hành vi hàng ngày. Tuy nhiên, Thiên Chúa “ở trên trời” này không phải là một người cha dưới đất: chúng ta nhận ra sự khác biệt hoàn toàn của Ngài với chúng ta, sự khác biệt này Kinh thánh gọi là sự thánh thiện của Ngài.
1. “Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển”
Đây là ý nghĩa của lời xin đầu tiên trong Kinh Lạy Cha: “Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển”. Nếu tên gọi chỉ danh tính, nghĩa là nói lên sự thật sâu xa của một con người, thì giữa Danh và người có sự tương đương. Và nếu Thiên Chúa là thánh, thì Danh của Ngài phải được tôn thánh. Khi chúng ta cầu xin Thiên Chúa “tôn thánh danh Ngài”, là chúng ta kêu xin Ngài làm cho mọi người công nhận bản tính thật của Ngài, thể hiện qua hành động hữu hiệu của Ngài trong lịch sử. Và đồng thời chúng ta chuẩn bị cho chính mình được Ngài linh hứng để làm chứng cho sự hiện diện và sự thánh thiện của Ngài giữa mọi người, nam và nữ, của thời đại chúng ta.
2. “Triều Đại Cha mau đến”
Lời thỉnh cầu thứ hai này chiếm vị trí trung tâm trong số ba lời cầu xin đầu tiên, liên quan đến Thiên Chúa; điều này cho thấy tầm quan trọng của nó. Hơn nữa, trong khi Chúa Giêsu rao giảng, việc loan báo về Triều đại Thiên Chúa cũng chiếm một vị trí cơ bản. Nước Thiên Chúa đã thực sự được bày tỏ nơi Chúa Giêsu, bởi vì Ngài là người duy nhất mà Thiên Chúa - và chỉ một mình Thiên Chúa – ngự trị hoàn toàn, một cách triệt để. Do đó, điều chúng ta cầu xin ở đây là Triều đại của Thiên Chúa, do Chúa Giêsu sống và thể hiện, sẽ được mở rộng trọn vẹn.
Cầu xin cho Triều đại này trị đến có nghĩa là cầu xin Thiên Chúa thực sự ngự trị trên mỗi người và trên toàn thể nhân loại, bắt đầu với chúng ta là những người kêu cầu. Điều đó có nghĩa là chúng ta, với tư cách cá nhân, cộng đoàn, như một Giáo hội, hãy để cho Thiên Chúa ngự trị tối cao trên chúng ta. Nhưng khi Thiên Chúa ngự trị, Ngài không thống trị và không thiết lập chế độ nô lệ: Ngài thể hiện vương quyền của mình bằng một hành động giải thoát chúng ta khỏi những ngẫu tượng lầm lạc, một hành động cứu độ đối mặt với sự dữ, một hành động kết hợp những đứa con bị tản mác lại với nhau. Vì vậy, Ngài mặc khải tương quan cha con của mình. Triều đại này của Thiên Chúa là một thực tế cần phải mong chờ, phải kêu xin, nhưng cũng cần phải chuẩn bị chính mình sẵn sàng cho Triều đại đó.
Vì Nước trời đã bắt đầu hiện diện giữa chúng ta trong Chúa Giêsu; hướng tới sự hoàn thành cuối cùng khi thời gian kết thúc, Nước trời đó từ trời, từ Thiên Chúa mà đến; nhưng chúng ta vẫn có trách nhiệm đối với việc đó: là chào đón Nước trời và đáp lại ơn ban này bằng cả cuộc đời của chúng ta.
3. “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”
Lời cầu xin này, chính Chúa Giêsu đã tuyên bố trong cuộc đời của Ngài. Thật vậy, vào giờ phút hấp hối, vào lúc đau khổ trước cái chết sắp xảy ra, Ngài đã ngỏ lời với Cha lời cầu nguyện này: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha” (Luca 22,42). Về mặt con người, Chúa Giêsu muốn tiếp tục phục vụ loài người mà không phải đối mặt với thử thách của cái chết; nhưng rồi Ngài cầu xin sức mạnh để thực hiện ý muốn của Cha cho đến cùng, để luôn vâng lời, ngay cả khi phải trả giá bằng cái chết. Do đó đối với người môn đệ, lời kêu gọi này đặc biệt đòi hỏi; nó đòi hỏi chúng ta phải trả giá cao.
“Xin cho Ý Cha thể hiện”: lời thỉnh cầu này một mặt thể hiện sự kêu cầu Thiên Chúa thực hiện kế hoạch Cứu độ của Ngài. Mặt khác, lời cầu nguyện này kêu gọi người ta hoàn toàn chấp nhận ý muốn Cứu độ này và làm cho ý muốn đó thành hiện thực, hay đúng hơn: chuẩn bị trước mọi thứ để ý muốn đó có thể thành hiện thực. Sẽ là rủi ro rất lớn đối với các tín hữu khi biết ý muốn của Thiên Chúa, nhưng không thực hành và không tuân theo ý muốn đó… Các tiên tri trong Cựu Ước rất thường nhắc lại điều này. Là Kitô hữu, chúng ta phải xin cho lời thỉnh cầu này trước hết như một trận chiến chống lại những kháng cự mà chúng ta có nơi mình để hoàn thành ý muốn của Thiên Chúa. Và chúng ta phải nhận ra rằng chúng ta chỉ có thể cáng đáng việc đó một cách sâu sắc sau một trận chiến lâu dài, trong đó ý chí của chúng ta thường phản kháng lại những gì Thiên Chúa đang yêu cầu nơi chúng ta. Đó là trậnchiến gian khổ giữa tư tưởng của chúng ta và ý muốn của Thiên Chúa!
4. “Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày”
Ở trung tâm của “Kinh Lạy Cha”, trung tâm của bảy lời cầu xin là lời cầu xin cơm bánh, được bày tỏ với sự tin cậy vào Chúa Cha. Sau những yêu cầu lớn lao liên quan đến Thiên Chúa, đây là một yêu cầu rất đơn giản, hằng ngày, liên quan đến thân phận con người của chúng ta với tư cách là thụ tạo và nhu cầu căn bản là chúng ta phải tự nuôi sống mình. Người ta có thể ngạc nhiên về sự khiêm tốn của yêu cầu này. Bây giờ ta tin rằng chính điều này đã chiếu sáng tất cả những thứ khác. Vì xin Chúa cho cơm bánh hàng ngày là một hành động đáng suy ngẫm: đó là cách người tín hữu khẳng định quyền chúa tể của Thiên Chúa trên các thực tại được tạo dựng; đó là thái độ của một người nhận ra rằng mình không định đoạt sự sống của mình, nhưng người đó luôn nhận sự sống đó trong một mối tương quan; đó là cách để người cầu nguyện đặt nhu cầu của mình trước mặt Thiên Chúa, để cho nhu cầu đó trở thành nỗi khát khao, và khước từ cơn cám dỗ chiếm hữu.
Xin cơm bánh hằng ngày có nghĩa là trở nên ý thức về thực tại cụ thể của chúng ta, xưng mình là thụ tạo và là con cái của Thiên Chúa, bình tâm biết rằng chúng ta luôn được ban cho sự sống... Tuy nhiên, tính từ tiếng Hy Lạp epioûsios mà chúng ta dịch là “của ngày hôm nay” cũng có thể có nghĩa là “trên trời”. Do đó, khi cầu xin cơm bánh cần thiết cho sự sống của chúng ta, chúng ta cũng cầu xin thứ lương thực mà nhờ đó người Kitô hữu sống không chỉ nhờ cơm bánh: đó là Lời Chúa và Thánh Thể. Việc xin Chúa Cha ban cơm bánh hằng ngày cho phép người tín hữu học cách khám phá ra nhu cầu hàng đầu của mình chính là Lời hằng sống của Chúa Giêsu Kitô, “bánh hằng sống từ trời xuống” (Gioan 6:51), để tiến bước trong đức tin.
5. “Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con”
Kitô hữu là một người “đã từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa thế nào, để phụng sự Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa thật” (1Thessalonica 1,9). Nhưng trong cuộc hành trình trở về với Cha, Kitô hữu không đạt được mục tiêu chỉ một lần rồi thôi: mỗi ngày Kitô hữu phải đổi mới sự hoán cải để tiếp tục con đường dẫn đến Nước Trời và đừng đóng cửa lòng mình trước tình yêu. Trong công việc hàng ngày này, người tín hữu khám phá ra mình là một con nợ: người ấy biết mình phải chịu trách nhiệm về những suy nghĩ, lời nói, hành động và những thiếu sót mà qua đó mình đã lấy cắp của anh chị em mình những gì mà mình mắc nợ họ. Bởi vì trong sâu xa, chúng ta đã nhận được mọi thứ từ người khác và từ Thiên Chúa: chúng ta không bao giờ có thể giữ lại bất cứ thứ gì cho riêng mình.
Nhưng tất cả những gì chúng ta lấy cắp từ anh chị em của mình là một sự xúc phạm, một tội lỗi mà chúng ta phạm trước mặt Thiên Chúa. Thật vậy, mọi điều làm tổn thương đến đồng loại của chúng ta cũng liên quan đến Chúa Cha. Đây là lý do tại sao chúng ta cầu xin Thiên Chúa tha thứ cho những lỗi lầm của chúng ta. Chỉ có sự tha thứ mới cho phép chúng ta bắt đầu lại, mới hoàn toàn đổi mới chúng ta, chỉ có sự tha thứ vô hạn và luôn ân cần của Thiên Chúa mới thúc đẩy chúng ta hoán cải.
Nhưng sự tha thứ chúng ta kêu cầu từ Thiên Chúa lại tùy vào sự tha thứ mà chúng ta dành cho nhau.
Dĩ nhiên, sự tha thứ của Thiên Chúa luôn đi trước sự tha thứ có đi có lại của chúng ta; tuy nhiên, chính sự tha thứ của chúng ta đối với anh chị em của chúng ta mở ra cho chúng ta sự tha thứ của Thiên Chúa. Do đó, Kitô hữu được mời gọi sống phù hợp với Thiên Chúa của mình, Đấng yêu thương và tha thứ vô điều kiện, vì biết rằng sự tha thứ mà họ trao ban hoặc từ chối cho người khác ảnh hưởng đến sự tha thứ mà họ nhận được từ Thiên Chúa.
6. “Và xin đừng để chúng con phải hàng phục cơn cám dỗ”
Đó là lời cầu xin duy nhất trong lời kinh của Chúa Giêsu được nêu lên một cách tiêu cực. Đó là điều tế nhị, vì trước hết cần phải loại bỏ ý nghĩ rằng Thiên Chúa là tác giả của sự cám dỗ. Không, Thiên Chúa không bao giờ cám dỗ ai cả! Vậy thì chắc chắn tốt hơn ta nên nói: “Xin đừng để chúng con sa vào cơn cám dỗ”. Người ta có thể diễn giải: “Xin đừng làm cho chúng con chịu thua giờ thử thách.”
Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ cầu xin sự giúp đỡ, sự che chở, sự gần gũi, tình yêu thương của Thiên Chúa khi họ gặp thử thách. Thật vậy, con người thường xuyên bị cám dỗ làm trái với tình yêu thương của Thiên Chúa, sống không cần người khác, thậm chí chống lại người khác. Bị cám dỗ là một phần của việc bước theo Chúa. Khi bị cám dỗ như vậy, chúng ta bị dụ dỗ bởi các thứ ngẫu tượng, bởi những lời bào chữa cho chính mình, bởi nỗi sợ hãi đau khổ: khi đó chúng ta phải chiến đấu để giữ mình vững vàng. Trong cuộc chiến chống lại cơn cám dỗ này, hơn bao giờ hết chúng ta cảm thấy Chúa luôn ở bên cạnh chúng ta. Chính Ngài là người chiến đấu vì chúng ta và trong chúng ta. Nhưng ngoài những cám dỗ hàng ngày, còn có một thử thách lớn lao: đó là sự không tin, không có đức tin. Đó là cơn cám dỗ lớn nhất, đẩy chúng ta đến chỗ không còn biết rằng Thiên Chúa đang ở với chúng ta. Vâng, trong chúng ta, luôn có đức tin và sự không tin.
Trong thử thách này, chúng ta phải mở lòng ra với Thiên Chúa, ngay cả trong bóng tối, để tin cậy vào sự giúp đỡ của Ngài và cầu khẩn Ngài, để Ngài đến cứu giúp chúng ta và để chúng ta không bị khuất phục.
7. “Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ”
Thiên Chúa là Cha chúng ta, là Thiên Chúa Cứu Độ, Đấng cứu độ và giải thoát: do đó Ngài có quyền giải thoát chúng ta khỏi sự dữ. Đây chắc chắn là điều tuyệt vời của tác giả Thánh vịnh, vẫn thường xuyên kêu lên khi đối mặt với những kẻ áp bức mình: “Lạy Chúa, xin trở lại mà giải thoát con, cứu độ con, bởi vì Ngài nhân hậu!” (Thánh vịnh 6.5, 7.2; 140.2). Sự giải thoát lớn lao nhất trong mọi giải thoát là giải thoát khỏi sự dữ, khỏi những việc làm của Ác thần, vốn luôn dẫn đến bạo lực, đau khổ, chết chóc.
Đúng vậy, trên sân khấu thế giới, chúng ta nhận ra sự hiện diện của Ác thần: và nếu chúng ta tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, thì không cần phải tin chút nào vào ma quỷ;
Chỉ cần nhận ra nó đang hoành hành trong cuộc sống của chúng ta. Sự hiện diện chứa đầy hậu quả của nó luôn cám dỗ, lôi kéo và đàn áp những người đón nhận những đề nghị của nó. Nó “như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Phêrô 5,8). Đây là lý do tại sao lời kêu xin đầy ám ảnh này nảy sinh: “Xin hãy giải thoát chúng tôi khỏi ác thần và khỏi hành động của nó!” Lời cầu nguyện của chúng ta, ở đây một lần nữa, bắt nguồn từ lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: đây là niềm an ủi và là sức mạnh của chúng ta.
Thật vậy, chính Ngài đã cầu nguyện: “Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần” (Gioan 17,15). Đúng vậy, Chúa Giêsu cùng chúng ta chiến đấu chống lại ma quỷ; chính Ngài là người chiến đấu trong chúng ta! Chúa Giêsu xuống địa ngục, nơi Satan tấn công mạnh mẽ nhất, để ôm lấy chúng ta và đưa tiếng kêu của chúng ta vào lời cầu nguyện của chính Ngài với Chúa Cha. Bước theo Chúa Giêsu Kitô và với Ngài, chúng ta cũng có thể thoát khỏi sự dữ, nhờ sự cầu nguyện kiên trì, ngay bây giờ vì sự sống đời đời!
Mathias Wirz, tu sĩ xứ Bose, catechese.catholique.fr Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung.
Bài Tin Mừng Chúa Nhật 17 Thường Niên, năm C hôm nay xoay quanh chủ đề cầu nguyện và phân TN 17-C192
Bài Tin Mừng Chúa Nhật 17 Thường Niên, năm C hôm nay xoay quanh chủ đề cầu nguyện và phân chia thành ba phần: Phần thứ nhất nói về tâm tư của Đức Giê-su khi Người cầu nguyện trong thể thức mà chúng ta hay gọi là ‘Kinh Lậy Cha’, sau đó là dụ ngôn nói về việc kiên định trong kinh nguyện và sau cùng là hiệu lực của lời cầu nguyện theo đúng ý Chúa.
Trong phần mở đầu của trình thuật, Thánh Lu-ca đã xếp các lời kinh này sau đoạn nói về việc Đức Giê-su cầu nguyện. Chi tiết này có thể giúp chúng ta suy đoán rằng các môn đệ vừa chứng kiến cách Người cầu nguyện với Chúa Cha, quá thân mật, rất đơn sơ và thật sốt sắng cho nên các ông muốn noi gương và xin Thầy dậy họ cách cầu nguyện.
Kinh Lậy Cha là bản toát yếu của toàn bộ Tin Mừng, là bản tóm tắt chương trình của Đức Giê-su. Trong bản kinh này, Đức Giê-su đã xưng với Thiên Chúa là ‘Abba’, có nghĩa là ‘Cha, Bố, Ba ơi’. Thời Chúa Giê-su, không mấy người xưng với Thiên Chúa như thế. Đó là cách gọi của trẻ con, thiếu kính trọng. Như vậy khi dùng danh xưng này để thân thưa với Thiên Chúa, Đức Giê-su cố ý nhấn mạnh đến mối tương quan thân mật, gắn bó, nhất là sự lệ thuộc của Người với Chúa Cha.
Với tâm tư như thế, như Đức Giê-su, khi dùng bản kinh này để cầu nguyện, chúng ta cũng không chỉ ước nguyên cho Vương quyền của Thiên Chúa ngự đến, mà còn nói lên lòng quyết tâm thể hiện sự hiện diện của Vương quốc nơi cuộc sống của chúng ta nữa.
Phần kế tiếp là những lời cầu xin xem ra liên quan đến nhu cầu và ước muốn của người môn đệ. Nhưng thật ra những ước nguyện này không quy hướng về bản thân cho bằng nói lên ý muốn xin cho được những điều như thế để những ai là môn đệ sẽ được tự do, không còn bận tâm lo chuyên cơm ăn áo mặc, không bị cám dỗ bởi quyền lực, rồi thanh thản giống như Đức Giê-su dành trọn thời gian và năng lực cho công cuộc rao giảng Nước Chúa.
Sau đó đến lời nguyện ước mà theo tôi cảm thấy là rất khó thực hiện. Chúng ta xin Chúa tha thứ cho các lỗi phạm của chúng ta không biết bao nhiêu lần; thế mà có bao giờ chúng ta đã tha thứ cho những ai xúc phạm đến mình chưa? Làm sao chúng ta dám xin Chúa ban cho chúng ta điều mà mình rất khó thực hiện!
Việc chúng ta xin ơn tha thứ để thứ tha cho kẻ khác là mục tiêu mà chúng ta sẽ thực hiện trong suốt cuộc sống. Việc xin Chúa tha thứ để thứ tha cho người khác thì giống như việc ăn năn tội mà chúng ta thường làm khi đón nhận bí tích giao hòa. Trong giây phút ‘ăn năn’ đó, chúng ta hết sức thành khẩn để bộc lộ tâm tình thống hối cho các sai phạm của mình, thế mà sau đó chúng ta có thể sẽ tái phạm. Nhưng Thiên Chúa biết và thấu hiểu lòng mình; Chúa cũng biết rõ thân phận yếu đuối của mình. Mỗi lần cầu xin Chúa tha thứ là lúc chúng ta nói lên sự quyết tâm cải thiện của mình. Chúa muốn chúng ta làm hết sức mình, và Người sẵn sàng tha thứ nếu chúng ta tiếp tục thất bại.
Sau đó là dụ ngôn ‘người bạn quấy rầy’ mà trong phần cuối, Đức Giê-su đã nói người bị quấy rầy đã không dậy vì tình bạn; nhưng vì sự kiên trì của anh bạn đang khẩn thiết van xin lòng đại lượng của mình. Và, trong thân phận con người, chúng ta còn biết cư xử với nhau như thế phương chi Thiên Chúa là Tình Yêu. Người sẽ làm ngơ trước sự van xin trong các nỗi khó khăn của chúng ta hay sao? Người sẽ ban cho chúng ta những gì tốt đẹp nhất, ngay cả sự sống của Người.
Phần cuối của bài Tin Mừng hôm nay quá khó. Bởi vì căn cứ vào kinh nghiệm trong cuộc sống, chúng ta nhận ra rằng không phải mọi lời chúng ta xin đều được, không phải khi nào chúng ta gõ cửa thì Người sẽ mở cho và không phải lúc nào chúng ta tìm kiếm Người thì Người sẽ xuất hiện.
Thí dụ, chúng ta đã làm gì sai khi cầu nguyện cho người thân được khỏe mạnh và bình an; chúng ta không cầu xin cho bản thân; nhưng cầu xin cho người thân mà. Thế mà họ lại cứ lần lượt ra đi. Già mà ra đi thì còn có thể hiểu được; nhưng nhiều gia đình đã mất những người thân yêu khi còn quá trẻ. Rồi còn bao nhiêu lời cầu xin cho nền hòa bình trên thế giới, thế mà chúng ta vẫn nghe thấy những thảm kịch của chiến tranh, khủng bố, bạo lực, đói khát, bệnh tật và thiên tai.
Nếu Thiên Chúa đã được ví như một bậc cha mẹ luôn yêu thương, mong muốn cho đi những gì tốt đẹp nhất cho con cái mình thì tại sao những lời cầu nguyện chính đáng như thế lại dường như không được trả lời?
Không có câu trả lời đơn giản cho câu hỏi này!
Có những lúc, có lẽ, lời cầu xin của chúng ta chưa phải là lời yêu cầu chính đáng; và Thiên Chúa, vì yêu thương nên đã phải từ chối yêu cầu của chúng ta. Tuy nhiên, lời giải thích này không thể giải thích cho nhiều trường hợp trong đó các yêu cầu của chúng ta chắc chắn phù hợp với ý muốn của Chúa.
Một lời giải thích khác thường được đưa ra là Chúa có chương trình của Người, và việc mà chúng ta xin không được xẩy ra vì kết quả của sự việc sẽ không đem lại lợi ích lâu dài cho người xin. Tuy nhiên, lối giải thích này cũng tạo nhiều rắc rối. Bởi vì, như vậy chúng ta giả thiết mọi sự xẩy ra đều là ý Chúa. Như vậy, con người sẽ phủi tay, và đổ thừa cho Chúa về mọi sự - như bạo lực, tra tấn, chết đói hay chết yểu - là ý muốn của Thiên Chúa hay sao? Trong khi đó, chúng ta cần có can đảm để thừa nhận những việc đó xẩy ra một phần là do tội lỗi của mình.
Thế thì chúng ta có thể nói gì về lời cầu nguyện chưa được trả lời? Chúng ta có thể tin rằng Thiên Chúa toàn năng, nhưng Thiên Chúa không phải là quyền lực duy nhất trên thế giới. Có những sức mạnh khác, sức mạnh của Satan và những quyền lực thuộc về nó, sức mạnh của ác quỷ và cái chết, thường được con người chấp nhận và làm cho nó phát triển. Mặc dù, chúng ta tin rằng Thiên Chúa đã chiến thắng trước những quyền lực này qua cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu; nhưng trận chiến vẫn còn tiếp diễn, chờ ngày chung cục, ngày Đức Ki-tô ngự đến lần thứ hai trong quang lâm. Vì thế, trong giai đoạn hiện tại, ý định của Thiên Chúa vẫn bị cản trở bởi sự cộng tác của chúng ta với quyền lực của Satan. Chúng ta xử dụng tự do để ngăn trở ý định và chương trình của Thiên Chúa; rồi quì xuống cầu xin cho Nước Cha trị đến thì sao có thể xẩy ra được!
Tại sao phải cầu nguyện?
Chúa không bảo chúng ta cầu xin cho bằng được những gì chúng ta cần, nhưng cầu nguyện là đi vào mối quan hệ với Thiên Chúa, Đấng yêu thương chúng ta vô vàn. Và để minh họa cho ý tưởng này, xin anh chị em đón nhận tâm tình của một người bạn khi anh cầu nguyện Kinh Lậy Cha, anh đã chia sẻ như sau:
“Trong lúc suy gẫm về Kinh Lậy Cha, tôi bị đánh động nhất với cụm từ “Abba, Cha ơi!” Cụm từ này mang đến cho tôi một ý nghĩa rất sâu sắc, không chỉ về mặt cảm xúc, nhưng nói lên mối thân tình với Chúa. Thiên Chúa là Cha và tôi chỉ dám gọi Người là Cha nếu tôi thực sự trở nên một trong những người con của Người. Tức là, tôi phải từ bỏ ý riêng và hoàn toàn tùy thuộc vào Người như đứa trẻ tùy thuộc vào bàn tay yêu thương săn sóc của cha mẹ. Tôi cần phải khiêm tốn và tử tế nhiều hơn nữa. Tôi cần được Người thương yêu và yêu thương Người thêm nữa. Amen!”
Ở quê tôi, người ta đọc kinh rất nhiều. Mỗi giờ kinh (nên gọi là "giờ kinh" thay vì gọi là "giờ TN 17-C193
Ở quê tôi, người ta đọc kinh rất nhiều. Mỗi giờ kinh (nên gọi là "giờ kinh" thay vì gọi là "giờ cầu nguyện"), tôi không thể nhớ bao nhiêu kinh được đọc. Đọc tràng giang. Đọc rất nhanh. Chưa "amen" kinh này thì đã gắn vào kinh khác... Nhanh đến nỗi, chỉ cần vài cái chớp mắt là đã xong kinh Lạy Cha.
Tôi không gọi đó là buổi cầu nguyện. Hình như người ta không cầu nguyện. Chẳng ai chú ý đến lời kinh mình đọc. Không ai cần hiểu nội dung lời kinh. Đọc từ đầu đến hết kinh thì thuộc, nhưng cắt ngang và bảo đọc phần cắt ngang, không thuộc. Thậm chí đọc sai từ ngữ, sai nội dung vẫn... vui vẻ đọc từ thế hệ này đến thế hệ khác...
Dù kinh Lạy Cha là lời kinh có một không hai, lời kinh độc đáo, quan trọng, gồm tóm mọi lời cầu nguyện, được rút ra từ chính kinh nghiệm cầu nguyện của Chúa Giêsu..., người ta vẫn đọc... cái vèo, chẳng khác mọi lời kinh.
Vì thế, từ đọc thuộc lòng đến thực hành lời kinh không là điều dễ. Nhất là lời kinh của Chúa - kinh Lạy Cha - tôi càngtâm niệm, đó là lời kinh mà chính tôi phải thận trọng, phải ý thức để thánh ý Chúa phải được thể hiện trong cuộc đời mình, nếu không nhiều thì cũng ở mức tối thiểu.
Nơi kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu tỏ bày một mạc khải quan trọng chưa từng có: THIÊN CHÚA LÀ CHA. Thiên chúa là một Người CHA không hơn, không kém. Trên mọi danh hiệu, "CHA" là danh hiệu đậm đà, trìu mến, ý nghĩa, chất chứa đầy niềm hy vọng.
Thiên Chúa không là thần minh xa vời, nghiêm nghị, ưa trừng phạt, ưa thể hiện uy quyền, ưa những kiểu sai khiến để phân biệt hai chiều kích luôn đối lập nhau: thần minh và thụ tạo.
Nhưng Thiên Chúa lại là CHA. Thiên Chúa bước vào đời sống thụ tạo nhẹ nhàng và kính trọng, nâng niu và gần gũi. Thiên Chúa gìn giữ loài thụ tạo như chính bản thân mình.
Thiên Chúa thân mật với thụ tạo đến độ phá bỏ mọi khoảng cách, không còn bất cứ ranh giới nào, dù nhỏ nhất. Từ nay, Thiên Chúa chỉ đơn giản là CHA, loài thụ tạo này là con. Từ nay, loài người đến với Thiên Chúa trở nên nhẹ và tự nhiên đến mức: người con đến với CHA mình. Từ nay, chúng ta gọi Thiên Chúa là CHA với tất cả niềm yêu, sự trìu mến, lòng thảo hiếu và đơn sơ.
Mạc khải về CHA cũng là mạc khải thuộc về chiều sâu nói lên mối liên hệ thâm sâu, ân tình giữa Chúa Giêsu với Chúa Cha. Đó cũng là lời diễn tả chiều kích thiêng liêng mà thụ tạo được tham dự vào, để sống thân mật và liên kết nên một với Chúa Cha trong Chúa Giêsu, nhờ Chúa Giêsu.
CHA không chỉ là nguồn cội phát sinh nhưng còn là vòng tay nâng đỡ, là mái ấm chở che, là động lực thúc đẩy, là lý tưởng mời gọi. Gọi tiếng CHA triều mến gợi lên cả một trời yêu thương vừa thân thiết vừa hạnh phúc, vừa cho thấy sự an bình nhưng cũng huyền nhiệm vô cùng.
Được làm con của CHA, đó là phẩm giá siêu phẩm giá của những người con. Đó là hồng ân cao quý trên mọi thứ cao quý. Bởi ơn gọi làm con là ơn gọi căn bản, cao trọng nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta qua Chúa Con.
Đó là tư cách rất riêng thuộc về môn đệ của Chúa Con. Không có Chúa Con là đầu, không làm môn đệ của Chúa Con, ta không thể lãnh hội ơn gọi này, không thể đạt tới lối sống hiếu thảo với CHA và huynh đệ với tha nhân.
Chúng ta là con cùng một Cha, Chúng ta là anh em. Tình Cha con và tình em được Chúa Giêsu mạc khải hài hòa qua kinh lạy Cha. Không bao giờ chúng ta thưa "Lạy CHA" mà lại xưng là "con", nhưng luôn xưng là "chúng con". Cả nhân loại chỉ có một Cha, tất cả đều là anh chị em của nhau.
Hãy học lấy thái độ của thánh Phaolô để đến với CHA mình: "Tôi quỳ gối trước mặt Thiên Chúa là CHA, là nguồn gốc mọi tình phụ tử trên Trời dưới đất. Tôi nguyện xin Thiên Chúa CHA, thể theo sự phong phú của vinh quang Người, ban cho anh em được củng cố mạnh mẽ nhờ Thần Khí của Người, để con người nội tâm nơi anh em được vững vàng. Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Đức KITÔ ngự trong tâm hồn. Xin cho anh em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, để cùng toàn thể các thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của Đức KITÔ, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy, anh em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa" (Êph 3,14-19).
Thánh Phaol cho thấy, dù gắn chặt trong tình phụ tử của Thiên Chúa CHA, tương quan của chúng ta không chỉ là tương quan mãnh liệt với Ngôi Thứ Nhất, nhưng luôn được "củng cố mạnh mẽ" nhờ Chúa Thánh Thần trong lòng tin vào Chúa Kitô và "được Đức Kitô ngự trong tâm hồn".
Do đó, khi nói đến tình phụ tử của Thiên Chúa CHA, ta phải hiểu cả tình phụ tử của Thiên Chúa Con và Đấng là mối dây làm nên sự bền chặt, sự nên một tuyệt đối là Thiên Chúa Ngôi Ba.
Bởi không có tương quan nào, không có kỳ công nào, không có công trình nào mà không là quyền năng của Ba Ngôi: Cha - Con - Thánh Thần. Bởi lẽ Ba Ngôi, dù phân biệt thế nào, thì đó vẫn chỉ là MỘT THIÊN CHÚA DUY NHẤT.
Vậy, từ đây, mỗi lần đọc kinh Lạy Cha, dù trong thánh lễ, trước bữa ăn, khi lần chuỗi, khi khấn nguyện, hay bất cứ trường hợp nào, trong hoàn cảnh nào, thời điểm nào, với bất cứ lý do gì, chúng ta hãy đọc khoan thai, chú ý từng lời cầu nguyện của mình. Hãy để tâm hướng về Thiên Chúa mà nâng hồn, nâng lòng yêu mến, nâng tình yêu thảo hiếu của mình lên Thiên Chúa.
Nói cách khác, chúng ta hãy cầu nguyện khi đọc kinh. Hãy biến giờ kinh của mình thành giờ cầu nguyện đúng nghĩa. mục lục