Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 21-C Bài 151-186 Hãy đi vào cửa hẹp:
------------------------------------- Phúc Âm: Lc 13, 22-30: "Người ta sẽ từ đông chí tây đến dự tiệc trong nước Chúa".
Đa số chúng ta nghĩ rằng lòng bác ái là phải quảng đại giúp đỡ tha nhân. Gặp ăn xin thì phải cho TN 21-C151
Đa số chúng ta nghĩ rằng lòng bác ái là phải quảng đại giúp đỡ tha nhân. Gặp ăn xin thì phải cho tiền, gặp kẻ bệnh tật thì giúp trị bệnh, gặp kẻ khốn khó thì phải bảo trợ, càng làm nhiều việcthiện thì các có đức về sau.
Tôi đã từng làm thế, bởi đơn giản tôi muốn tạo công phúc cho đời sau. Nhưng giờ ngồi nghĩ lại, những người tôi giúp, họ vẫn thế, vẫn ăn xin, vẫn nghèo đói, vẫn ốm yếu. Thậm chí, sau này tôi mới biết, đứng sau lưng họ là cả đường dây bảo kê, cưỡng ép họ phải đi ăn xin, bán vé số. Họ trở thành con rối, để những kẻ bặm trợn, giang hồ giật dây, điều khiển. Tôi ân hận khi nhận ra, suy nghĩ ngây thơ, hành vi tưởng chừng là tốt đẹp kia của tôi lại tiếp tay và dung dưỡng cho cái ác hiện hữu.
Có một lần gặp một bé gái ăn xin. Tôi hỏi con quê quán ở đâu? Cha mẹ thế nào? Sao lại đi xin? Con bé khá kiên nhẫn trả lời, cuối cùng tôi nói: chú mua cốc nước cho con uống, chú nghĩ rằng con nên quay về nhà và tiếp tục đi học, không học được thì làm việc, cháu sẽ vất vả hơn, nhưng sẽ thấy vui hơn vì không phải sống dựa vào tình thương của người khác. Nhưng nó lắc đầu và bỏ đi, vì đàng xa bên kia đường có người phụ nữ đang theo dõi nó . . .!
Ở đời rất nhiều loại người thích giầu có nhưng lại lười đầu tư. Điều này nhà tỷ phú giàu nhất thế giới Bill Gates từng nói rằng: “Sinh ra trong nghèo đói không phải là tội của bạn; nhưng nếu chết trong nghèo đói thì đó hoàn toàn là lỗi của bạn”.
Vì thế, không có lý do gì để chúng ta cứ mãi sống trong sự nghèo đói. Tiền bạc và sự giàu có vẫn đang chờ đợi mỗi người ở phía trước chỉ cần chúng ta có đủ quyết tâm và thực hiện vẫn có thể thay đổi cuộc đời chúng ta.
Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy, nên thánh không thể đi theo con đường dễ dãi cho bản thân mà là con đường hẹp, con đường hy sinh, con đường phấn đấu từng ngày mới có thể vượt qua cám dỗ cưng chiều thân xác để sống hưởng thụ và sa đoạ.
Nhưng tiếc thay, nhân loại hôm nay vẫn tìm kiếm khoái lạc và hưởng thụ. Thích tìm sự dễ dãi hơn là những hy sinh từ bỏ. Có những bạn trẻ thích hưởng thụ nhưng không muốn làm, chỉ lêu lổng dẫn đến trở thành một gánh nặng cho gia đình và xã hội. Có những bạn trẻ tìm sự dễ dãi trong quan hệ nam nữ mà đánh mất lòng tự trọng, sự trong sạch tâm hồn. Có những người luôn tìm sự dễ dãi cho bản thân, nuông chiều theo tính xác thịt dẫn đến ngoại tình, dâm ô, trộm cắp . . .; Có những người đang mang trong mình những căn bệnh thời đại là hậu quả của lối sống dễ dãi, thiếu tự chủ bản năng.
Người ta vẫn nói: “Hãy dừng lại trước khi qúa muộn”. Sự khôn ngoan mời gọi chúng ta đừng tìm sự dễ dãi đến mức độ nuông chiều theo bản năng. Hãy tự chủ. Hãy tỉnh thức. Hãy canh tân sửa đổi để trau dồi nhân đức cho bản thân hầu diệt trừ những tính hư nết xấu. Hãy sống cho cao thượng đúng với phẩm giá con người là “nhân chi sơ tính bản thiện”. Hãy sống công bình bác ái và yêu thương để khỏi bị luận phạt ở đời sau. Hãy sống đời này cho nghiêm túc để đời sau chúng ta được hạnh phúc muôn đời. Hãy vì sự sống vĩnh cửu mà can đảm từ bỏ những lối đường tội lỗi hôm nay.
Nguyện xin Chúa là Đường là Sự Thật và là Sự Sống dẫn dắt chúng ta đi trong chân lý vẹn toàn. Amen.
Sống trên đời là một cuộc chiến đấu không ngừng. Con người từ lúc sinh ra cho đến khi nhắm mắt TN 21-C152
Sống trên đời là một cuộc chiến đấu không ngừng. Con người từ lúc sinh ra cho đến khi nhắm mắt xuôi tay là một cuộc phiêu lưu, một cuộc vượt thắng liên lỉ để sinh tồn.Do đó, chiến đấu không ngừng có nghĩa là chiến đấu liên lỉ, mãi mãi không nghỉ ngơi. Nói một cách siêu nhiên như Chúa dạy hôm nay trong đoạn Tin Mừng của thánh Luca 13,22-30 :” Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào “ ( Lc 13,24 ). Cửa hẹp là cửa khó lách, khó vào. Người ta đã có nhiều lần ví von khi vẽ hình tượng của một anh khổng lồ định chui qua cửa hẹp nhỏ xíu, giống như hình ảnh con lạc đà và lỗ kim. Cửa hẹp đòi hỏi con người phải phấn đấu, phải cố gắng, vượt thắng nhiều, liên lỉ và mãi mãi. Cửa càng hẹp mà vào được mới quý. Chúa Giêsu đã nói :” Phấn đấu bước qua cửa hẹp mà vào “. Chữ “vào” ở đây là vào Nước Thiên Chúa. Cửa hẹp dẫn đến sự sống (Mt 7,14 ).
Chữ phấn đấu mà Chúa dùng ở đây là chiến đấu với cái tôi to lớn của mình, cái tôi cồng kềnh, ích kỷ, cái tôi tham vọng, cái tôi tự hào, tự mãn của bản thân con người. Chính vì thế, càng làm cho cái tôi nhỏ bé đi như trẻ thơ, Nước Trời mới thuộc về mình được. Cái tôi càng trở nên khiêm hạ trước mặt Thiên Chúa, trước mặt anh em.Thật ra, con người luôn có khuynh hướng làm cho cái tôi của mình phình ra, to lên. Đó là sự kiêu ngạo, tự mãn về tiền bạc, của cải, danh vọng, địa vị, danh dự vv…Cái tôi của con người càng to thì càng xa rời Thiên Chúa.
Ơn cứu độ không dành riêng cho bất cứ một ai dẫu là dân Do Thái được Thiên Chúa truyển chọn. Người Do Thái xưa cứ tưởng rằng Chúa đã chọn họ, họ đương nhiên được cứu độ. Mặc dầu Thiên Chúa tuyển chọn lựa Dân Do Thái, nhưng nhiều người đã phản nghịch, đi theo tà thần, thờ bò vàng, do đó, họ mất phần phúc Nước Trời…Đức Giêsu đã nêu gương cho nhân loại, cho con người, cho chúng ta bằng việc “ tự hủy “. Ngài tự hủy mình ra không để sống kiếp loài người ngoại trừ tội lỗi ( Philip 2, 6-11 ). Chúa Giêsu tự hủy không đòi ngang với Thiên Chúa, Cha của Người. Đây là sự tự hạ thẩm sâu làm cho Người được tôn vinh. Chính cái chết trên thập giá theo ý định của Thiên Chúa Cha là lời nói yêu thương cao vời nhất vì “ Ơn cứu độ chứa chan nơi thập giá”.
Con đường dẫn vào sự sống, vào Thiên Đàng là do mỗi người định đoạt vì Chúa ban sự tự do chọn lựa đi qua cửa rộng hay đi qua cửa hẹp. Con đường rộng thênh thanh là con đường dẫn tới sự chết.Con đường hẹp là dẫn con người tới sự sống đời đời. Chúa không nới rộng cửa ra cho chúng ta mà chính mỗi ngườu phải nỗ lực nới cửa rộng ra. Trở nên trẻ thơ như Chúa nói vì Nước Trời thuộc về chúng. Trở nên trẻ thơ là luôn biết phó thác, cậy dựa vào Thiên Chúa.
Vâng, Nước Trời không phải là một phần thưởng đương nhiên chúng ta có được. Phần thưởng chỉ được trao ban co những ai trung thành, tin tưởng, tín thác vào Chúa, đồng thời thực thi luật bác ái yêu thương “ mến Chúa yêu người “ trong suốt cuộc đời của mình va nói như Đức Thánh Cha Phanxicô :” …Sống tình yêu của Chúa và chấp nhận nói lời “ xin vâng “ như Đức Mẹ là chúng ta đang bước vào con đường hẹp, bước vào cửa Nước Trời “.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết mau mắn cởi bỏ con người cũ, mặc lấy Đức Kitô, sẵn sàng nỗ lực phấn đấu, vượt thắng bản thân, để đi vào cxon đường hẹp, tiến tới sự sống đời đời.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Tại sao Chúa lại nói :” Hãy phấn đấu bước qua cửa hẹp ? “. 2.Cửa hẹp theo ý Chúa nghĩa là gì ? 3.Cái tôi cồng kềnh là gì ? 4.Làm sao có thể làm nhỏ cái tôi lại được ? 5.Nước Thiên Chúa là gì ?
Hình ảnh Thầy Giêsu lên đường trở nên rất quen thuộc với những ai miệt mài bước theo Người. Trên TN 21-C153
Hình ảnh Thầy Giêsu lên đường trở nên rất quen thuộc với những ai miệt mài bước theo Người. Trên đường lên Giêrusalem, Người đi qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy. Người còn có một đích điểm cuối cùng khác, và Người rất muốn chỉ đường cho những ai đang theo Người đạt đến: được ở trong Nước Thiên Chúa.
Có kẻ hỏi Người rằng: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” (Lc 13,23). Đó là bận tâm của riêng anh hay của những ai đang bước theo Thầy Giêsu? Anh muốn biết rõ con số cụ thể, còn Thầy, Thầy sẽ chỉ cho anh cách thế để được ở trong Nước Thiên Chúa. “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được” (Lc 13, 24).
Con đường dẫn đến sự sống là con đường hẹp, đường thênh thang thì đưa đến sự diệt vong (x. Mt 7, 13-14). Có nhiều người muốn vào nhưng không vào được, vì phải chiến đấu rất quyết liệt mà nhiều người đã không chiến đấu đến cùng. Thầy Giêsu cho ta biết rõ rằng, ta không được chậm trễ, vì một khi chủ nhà đã đóng cửa thì dù ta có gõ cửa thì cũng chẳng làm được gì nữa. Ngay hôm nay, nếu ta được Chúa sửa dạy, ta hãy đón nhận, vì có thương ai Chúa mới sửa dạy kẻ ấy. Quả thật, “ngay lúc bị sửa dạy, thì chẳng ai lấy làm vui thú mà chỉ thấy buồn phiền. Nhưng sau đó, những người chịu rèn luyện như thế sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính” (Dt 12,11). Lòng sám hối là điều kiện cần thiết để ta có thể bền bỉ theo Chúa. Vì biết những giới hạn, yếu đuối của bản thân mà ta cần có lòng sám hối. Mỗi một chặng đường đã qua, khi nhìn lại ta sẽ nhận ra mình đang ở đâu, có đi lạc không để tìm đường trở về. Lòng khiêm tốn thẳm sâu và một khao khát cháy bỏng được đi trên đường lối Chúa sẽ giúp ta có thể tiến xa hơn nữa. Đi trên con đường hẹp, chẳng ai có thể mang vác nhiều thứ, vì cồng kềnh khó đi; nhưng ngược lại, càng nhẹ nhàng, càng từ bỏ thì càng dễ đi. Ta vẫn thường bị cản trở bởi biết bao nỗi lo toan. Yêu Chúa là đi trên con đường Chúa đã đi, là sống như Người đã sống; như thế, những cản trở sẽ làm cho nỗ lực nhiều hơn nữa, chiến đấu can trường hơn nữa để vượt qua chúng.
“Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót” (Lc 13, 30). Muốn vào được Nước Trời, người ta phải qua của hẹp mà vào. Phải chăng cửa hẹp ở đây là trở thành một Kitô hữu qua bí tích Rửa tội? Là một Kitô hữu mà không sống điều Chúa dạy thì khó vào Nước Trời hơn. Ta là một Kitô hữu thực thụ khi ta sống theo giáo huấn của Chúa. Ta tha thiết cầu nguyện, xin Chúa thay đổi bản thân mình nhưng nếu ta không nỗ lực cộng tác bằng những hành động cụ thể thì ta sẽ chẳng thể thay đổi được gì. Thiên Chúa quyền năng và giàu tình thương nhưng Người đòi ta phải nỗ lực cộng tác để được lớn lên. Điều ấy đòi ta phải chiến đấu không ngừng, kẻ thù nguy hiểm nhất lại là chính cái tôi của mình. Bởi nếu chỉ sống cho ý riêng thì làm sao ta sống theo ý Chúa được; nếu chẳng bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Chúa, ta đâu có thể đi theo Chúa được.
Lạy Chúa! Chúa mời gọi con hãy qua cửa hẹp mà đến với Chúa. Cảm tạ Chúa đã cho con được ở lại trong tình thương của Chúa. Xin giúp con can đảm chiến đấu và bước theo Chúa trên con đường Chúa đã đi. Chúa đã chiến đấu, đã đổ cả máu mình ra để dẫn con vào cõi sống. Trong cuộc chiến đấu với tội lỗi, con thấy mình vẫn chưa chiến đấu đến mức phải đổ máu. Xin cho con biết yêu mến Đấng đã cam chịu để cho những người tội lỗi chống đối mình như thế, để con khỏi sờn lòng nản chí trong cuộc chiến đấu của bản thân. Amen.
Hạnh phúc và đau khổ luôn đi cùng nhau. Nếu chúng ta không vượt qua những đau khổ và thử TN 21-C154
Hạnh phúc và đau khổ luôn đi cùng nhau. Nếu chúng ta không vượt qua những đau khổ và thử thách, chúng ta sẽ không có hạnh phúc. Nếu chúng ta không ra sức bảo vệ hạnh phúc, nó sẽ vụt mất đi. Có những người sống trong hạnh phúc, nhưng theo thời gian, họ đã lạc mất hạnh phúc mà không hay biết. Hạnh phúc không tự nó mà có cũng không bền vững nếu chúng ta không ra sức đi tìm và chiến đấu bảo vệ. Nước Trời cũng vậy, ai muốn được cứu thoát, được vào Nước Trời cần có sự chiến đấu để qua được cửa hẹp mới vào được (x. Lc 13,24).
Trong cuộc sống, chúng ta luôn có những lựa chọn quyết định cho gia đình, trong công việc và cho bản thân. Vậy, chúng ta nghĩ sao trong trường hợp này: cùng một công việc là đi lễ Chúa Nhật, có người chọn đi lễ sớm để được ngồi trong nhà nguyện, để gần Chúa; người kia đi lễ muộn để ngồi ngoài, về cho nhanh? Trong hai hành động, chúng ta sẽ chọn hành động nào?
Tin Mừng Luca cho ta nhìn thấy rõ về cửa Nước Trời. Khi chủ nhà đứng dậy và khóa cửa lại, nhiều người còn đứng ở ngoài bắt đầu gõ cửa xin vào. Họ nhớ lại và nói với chủ nhà: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi” (Lc 13,27). Họ ‘đã từng’ được ăn uống, đã được nghe giảng nhưng tình thần sống của họ ra sao? Cuộc sống hiện tại của họ thế nào để rồi chủ nhà đã phải nói: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!” (Lc 13,27). Nếu lúc đó, họ có một thái độ sám hối và lời van xin chân thành thì có lẽ họ sẽ được chủ nhà mở cửa. Người tội lỗi bị treo trên thập giá, trong giờ phút cuối cùng đã sám hối và kêu xin Chúa Giêsu rằng: “Ông Giêsu ơi, khi nào vào nước của ông, xin nhớ đến tôi” (Lc 23,42). Chỉ một lời thành tâm mà ông được ở với Chúa trên thiên đàng.
Thật sự, chúng ta không biết mình chết lúc nào, chết vào tuổi nào nên chúng ta còn một cách duy nhất là mỗi ngày chọn cho mình một lối sống đem lại hạnh phúc trong Nước Trời ngay từ bây giờ. Hạnh phúc đích thực là khi chúng ta từ bỏ được các đam mê sai lạc, danh vọng và tiền tài. Tất cả thứ đó làm ngăn cản chân chúng ta bước đi và bước vào cửa Nước Trời. Cửa Nước Trời đón chào những ai xứng đáng và sẵn sàng bước vào. Nước Trời, Nước vĩnh hằng.
Lạy Chúa, phần chúng con có được cứu thoát không? Xin cho mọi người chúng con ý thức chọn Chúa là lẽ sống để mau mắn thực thi ý Chúa và cùng với Ngài dự tiệc trên Nước Trời. Amen.
Nước Trời cửa hẹp bước vào, Lãnh ơn cứu độ, thiên cao rạng ngời. Bao người mong ước lên TN 21-C155
Nước Trời cửa hẹp bước vào, Lãnh ơn cứu độ, thiên cao rạng ngời. Bao người mong ước lên trời, Thực hành sống đạo, vâng lời dậy khôn. Thênh thang thỏa chí dập dồn, Ngang qua cửa rộng, dủ hồn về đâu. Cửa trời đóng lại đêm thâu, Đứng ngoài mà gõ, biết đâu thăm dò. Thưa rằng ăn uống đầy no, Trước thềm nhảy múa, hát hò có hay. Công trường giảng dạy hằng ngày, Nào Ta có biết, dân này là ai? Hỡi người gian ác ngoại lai, Lui ra tránh mặt, họa tai tới gần. Sầu đau khóc lóc cơ bần, Nghiến răng nghiến lợi, tinh thần xót xa. Những người khách lạ phương xa, Đông Tây Nam Bắc, thật là thần dân. Được mời dự tiệc ân cần, Cửa Trời rộng mở, dự phần phúc ân.
Chúa Giêsu nói cùng dân chúng rằng: Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp. Muốn vào bất cứ nơi nào, chúng ta phải đi qua cửa. Cửa dẫn lối chúng ta vào nơi chúng ta ưa thích. Có cửa dẫn đến sự sống và có cửa dẫn vào sự chết. Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy vào cửa hẹp, có nghĩa là chúng ta phải chấp nhận đi vào cửa với nhiều cố gắng hy sinh. Vì qua cửa hẹp, nên chúng ta phải vứt bỏ lại những lỉnh kỉnh và rườm rà của cuộc sống.
Nơi đâu cũng có cửa để đi qua và bước vào. Muốn vào một quốc gia hay một nước nào, chúng ta phải đi qua cửa khẩu. Vào trong một tòa nhà chúng ta cũng phải qua cổng và rồi qua cửa. Nhà của chúng ta cũng có cửa ra vào. Muốn gia nhập vào một tôn giáo nào, chúng ta cũng phải qua nghi thức nhập đạo, gọi là qua cửa. Vào cửa chúng ta phải chấp nhận những thủ tục, luật lệ và đường lối của nơi đó. Người ta nói nhập gia tùy tục là thế.
Gia nhập vào đoàn chiên của Chúa, chúng ta phải qua cổng chuồng chiên. Chúa Giêsu chính là cửa. Qua Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được gia nhập vào đoàn chiên của Chúa. Chúng ta được dìm xuống nước, chết đi cho tội và được sống lại cùng với Chúa Kitô. Theo Chúa Kitô, chúng ta đang đi vào cửa hẹp. Vào cửa hẹp là chấp nhận đau khổ và thập giá. Cửa hẹp khó đi và có giới hạn, nhưng sẽ dẫn chúng ta tới nguồn ban sự sống.
Cửa rộng thênh thang sẽ đưa dẫn chúng ta dần xa Chúa. Cửa rộng mở cho chúng ta tới mọi thứ hưởng lạc và thú vui trần thế. Cửa rộng sẽ đưa chúng ta đi quanh quẩn không có cùng đích. Đó là nơi của sự dữ và bóng đêm của ma qủy. Cửa rộng rãi là nơi làm việc và hưởng lạc của qủy dữ.
Truyện kể: Có ba anh qủy thực tập xuống trần gian để cám dỗ con người. Qủy cả hỏi: Có kỹ thuật nào các anh dùng để đưa con người vào đường tội lỗi. Anh thứ nhất nói: Tôi dùng phương pháp cổ điển. Tôi sẽ nói với họ: Không có Thiên Chúa và cứ việc phạm tội như họ muốn. Anh qủy thứ hai nói: Tôi muốn dùng sự ảnh hưởng của trí khôn suy nghĩ. Tôi sẽ nói với người ta: Không có hỏa ngục đâu. Cứ phạm tội đi, không sao cả. Anh qủy thứ ba nói: Tôi muốn dùng cách đơn giản hơn và tế nhị. Tôi sẽ nói rằng: Đừng vội chi cả, cứ phạm tội đi. Bạn có thể sám hối và trở nên tốt sau này, bạn còn nhiều thời gian mà.
Theo Chúa là bước vào cửa hẹp. Chúng ta có Chúa dẫn đường, chúng ta không sợ bị lầm lạc. Chúa nói rằng: Hãy gõ thì sẽ mở cho. Gõ cửa nhà Chúa, Chúa sẽ mở cho chúng ta, nơi đó chúng ta sẽ tìm thấy niềm vui hoan lạc muôn đời.
Lời Chúa hôm nay mời gọi những ai muốn vào Nước trời thì “Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp, vì TN 21-C156
Lời Chúa hôm nay mời gọi những ai muốn vào Nước trời thì “Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp, vì cửa rộng và đường thênh thang là lối đưa đến hư mất, và có nhiều người đi lối ấy. Còn cửa và đường đưa tới sự sống đời đời thì hẹp, nên chỉ có một số ít người được vào” (Lc, 13, 24).
Khi giảng dạy, Đức Giêsu thường dùng những hình ảnh rất quen thuộc trong đời sống, để minh họa cho dân chúng dễ hiểu. Chẳng hạn như: Nước Trời ví như một ngôi nhà, ai muốn đi vào ngôi nhà đó, thì phải đi qua một cánh cửa duy nhất là chính Đức Kitô.
Cửa Nước Trời là cửa hẹp: cho nên những ai muốn đi vào, phải sống thật nhỏ bé. Dĩ nhiên ở đây là nhỏ theo nghĩa tinh thần. Như Đức Giêsu là Đấng cao cả vô cùng, vĩ đại dường bao, nhưng Ngài đã đi con đường bé nhỏ, để làm gương cho chúng ta.
Thánh Phaolô tóm gọn con đường Chúa đi như sau: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Trái lại, Người đã trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và chết trên cây thập tự”(Pl 2,6-8).
Cửa Nước Trời là cửa hẹp: để dễ dàng đi vào, thì hành trang phải gọn nhẹ, muốn gọn nhẹ thì phải bỏ đi những thứ cồng kềnh trong con người, đó là lòng ích kỷ, hẹp hòi, những đam mê bất chính, dục vọng thấp hèn và đừng dín bén với của cải. Nói tóm lại, là can đảm bỏ đi những gì làm cản trở ta đến với Chúa và liên đới với tha nhân.
Cửa Nước Trời là cửa hẹp: ai muốn vào phải có sức mạnh. Sức mạnh của cá thân chưa đủ, nhưng cần nhất là sức mạnh của ơn thánh Chúa. Vì Đức Giêsu khẳng định: “Nếu không có Thầy các con không thể làm gì được”. Vậy để có ơn Chúa, chúng ta phải sống gắn bó với Chúa qua đời sống cầu nguyện, và siêng năng lãnh nhận các Bí tích, để có đủ sức đi vào nước trời.
Cửa Nước Trời là cửa hẹp: Tuy hẹp, nhưng Chúa mời gọi mọi người từ Đông chí Tây, từ Nam đến Bắc, đến tham dự bàn tiệc Nước Trời, nhưng với một điều kiện duy nhất, là tin vào Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.
Để được như thế, chúng ta còn phải nhiều nổ lực, hy sinh và chiến đấu. Chiến đấu với chính mình, với cái tôi cồng kềnh, ích kỷ, chỉ lo vun đắp cho mình. Cái tôi phình to tự hào về khả năng. Thật ra, cửa Nước trời không hẹp, nhưng hẹp vì cái tôi của mình quá to nên khó vào là như thế.
Vì thế, Chúa mời gọi chúng ta mỗi ngày hãy sống tinh thần bé nhỏ. Sống khiêm nhường với Chúa và khiêm tốn với nhau trong cung cách ứng xử, vì tất cả những gì chúng ta có là do hồng ân Chúa cho mà thôi.
Thánh Phaolô nói trong bài đọc II, như khuyên bảo những người con: “Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Ngài khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và nhận ai làm con thì Ngài mới cho roi cho vọt”.
Anh chị em thân mến,
Thánh Augustinô nói rằng: “Khi Thiên Chúa tạo dựng con người, Ngài không cần hỏi ý kiến, nhưng để cứu chuộc, Ngài cần chúng ta cộng tác”, vì Chúa ban cho chúng ta tự do. Nếu chúng ta muốn vào nước trời, thì hãy bước theo con đường Chúa đi, đó là con đường bé nhỏ; con đường khiêm tốn phục vụ; con đường vác thánh giá theo Chúa mỗi ngày. Đồng thời siêng năng đến nhà thờ đọc kinh dâng lễ. Còn nếu chúng ta đi những xa lộ thênh thang, sống hưởng thụ tối đa, chìu chuộng thân xác quá mức, thì sẽ đi đến diệt vong.
Chúng ta, đừng quá an tâm vì mình đã được rửa tội, đi lễ ngày Chúa nhật, tham gia các việc đạo đức, làm những việc bác ái … và coi đó là đủ vé để vào Nước Trời, nhưng thật ra, còn phải cố gắng nhiều hơn nữa bước theo Chúa mỗi ngày trên con đường hẹp, như thế ngày mai đây, khi chúng ta nhắm mắt lìa đời, hi vọng được Chúa dẫn đưa vào Nước trời vinh phúc. Amen.
Thưa Thầy, phải chăng chỉ có một số người ... Một câu hỏi do một người hỏi Chúa và có lẽ TN 21-C157
“Thưa Thầy, phải chăng chỉ có một số người được cứu độ?” Một câu hỏi do một người hỏi Chúa và có lẽ đây cũng là thắc mắc của nhiều người trong chúng ta.
I. Tại sao họ hỏi Chúa như vậy?
Thưa là bởi vì lúc đó người ta không thể có được một sự nhất trí khi nhìn về tương lai cuộc sống của mình. Quan niệm về tương lai nơi người Do thái lúc đó rất khác nhau.
+ Những người Biệt phái thời Chúa Giêsu thì cho rằng tất cả những người Israel sẽ được dự phần vào thế giới mai hậu.
+ Sách Esdra (IV Esdra 5,47) bi quan hơn: chỉ có một số ít được an ủi trong thế giới mai hậu. Còn đa phần thì sẽ phải đau khổ cùng cực.
+ Nhóm Essenien, một trong những cộng đoàn đạo đức nổi tiếng thời đó lại cho rằng chỉ có các thành viên của họ mới được cứu rỗi.
Đứng trước những chủ trương khác nhau như thế, quả nhiên là có nhiều người cảm thấy bối rối. Ai sẽ là người được cứu rỗi? Chính vì thế mà họ mới đưa vấn đề ra để hỏi Chúa: “Thưa Thầy, phải chăng chỉ có một số người được cứu độ?”
II. Chúa sẽ trả lời thế nào?
+ Trước hết qua cách trả lời của Chúa chúng ta thấy rõ rệt Chúa không muốn xác định con số những người được chọn hay xác định ai sẽ là người được cứu rỗi.
Vì xác định như thế sẽ thật là nguy hiểm. Đạo của Chúa không phải là một thứ tất định hiểu theo nghĩa hẹp.
+ Đàng khác ở đây khi phải giải đáp những thắc mắc do người ta đặt ra, chúng ta thấy Chúa đã không muốn trả lời theo kiểu một đáp án có sẵn nhưng Ngài đã dùng cách trả lời mà các nhà chú giải gọi là trả lời “bản lề” Đây là kiểu trả lời theo cách “râu ông nọ cắm cằm bà kia”. Trả lời như thế không phải Chúa là lẩn trốn hay tránh né vấn đề nhưng bắt người đặt vấn đề phải trở về với chính mình để tự mình tìm ra câu trả lời cho mình dưới sự gợi ý, góp ý, giúp đỡ của Chúa.
Chúa không xác định số người được tuyển chọn hay ai là người được cứu rỗi, nhưng Ngài mời gọi tất cả hãy phấn đấu để được vào số những người được cứu rỗi này.
“Hãy cố gắng đi vào cửa hẹp vì ta bảo các ngươi có nhiều kẻ tìm cách vào mà không vào được” Đó là cách thức Chúa chỉ để mỗi người để có thể tìm lấy sự cứu rỗi cho mình dưới sự nâng đỡ và hướng đẫn của Chúa.
Mathêo quảng diễn một cách rõ rệt hơn: “Các ngươi hãy vào qua cửa hẹp vì cửa rộng và đường thênh thang là lối đưa đến sự hư mất và có nhiều người qua lối ấy – Còn cửa và đường đưa tới sự sống thì hẹp và ít kẻ tìm thấy” (Mt 7,13-14).
Như vậy thì chúng ta thấy lời hứa đã rõ ràng và phương thế cũng đã được vạch ra- Còn việc được cứu rỗi hay không là tùy ở mỗi người. Thiên Chúa không ép buộc một ai. Người mời gọi và chỉ lối. Thành hay bại là tùy ở ta chứ không phải ở Người.
Ơn cứu độ không dành riêng cho một dân tộc nào, không đương nhiên ưu đãi cho một ai nhưng theo Công đồng VaticanôII: thì đó là những người “trung thành thực hiện những giáo huấn của Chúa Giêsu – Giáo huấn mà họ biết được một cách rõ ràng hay qua trung gian của Giáo Hội hoặc thậm chí chỉ biết được một cách mù mờ và phiếm diện qua một hình thức tôn giáo nào đó hay qua lương tâm ngay thẳng của họ”.
Như vậy việc quyết định số phận cuộc đời của mỗi người là do nỗ lực của họ có biết đáp trả lại lời mời gọi của Chúa hay không chứ không phải là một thứ tất định máy móc mù quáng như nhiều người vẫn tưởng. Đó là ý của bài Tin Mừng hôm nay.
III. Bài học
“Hãy vào qua cửa hẹp”
Vì con đường đưa tới nước trời là con đường hẹp.
Sẽ không có phần thưởng cho những kẻ ươn lười. Sẽ không có sự cứu độ cho những ai không cố gắng đi theo đường lối của Chúa.
Người ta kể lại rằng: Một ngày kia Chúa Giêsu và thánh Phê-rô đi dạo trong một khu xóm lao động nghèo khó. Đi được một lúc thì Ngài thấy ở phái trước có một người đàn ông đang hì hục đẩy chiếc xe gỗ chất đầy hàng hóa của ông ta. Chiếc xe đang tiến về phía trước thì bỗng nhiên vấp phải một hòn đá ở giữa đường làm cho chiếc xe bị lật nằm chênh vênh giơ cả các bánh xe lên trời. Hàng hóa đổ ra tung tóe. Thấy vậy Ngài bảo Phê-rô cùng lánh qua một bên.
Ngài để ý quan sát xem trước sự việc đó, người đàn ông kia sẽ xử trí như thế nào. Qua cử chỉ của ông ta Chúa thấy ông như đang muốn tìm người giúp đỡ. Ông đưa mắt nhìn chung quanh nhưng chẳng gặp được một người nào. Kẹt quá, ông đành quì xuống đưa hai tay lên trời và tha thiết cầu nguyện:
– Lạy Chúa, Chúa luôn cứu giúp những người hoạn nạn. Xe của con bị lật ngửa giữa đường mà chẳng thấy có một ma nào đi qua để giúp đỡ con một tay. Chúa chỉ cần đụng một ngón tay thì phép lạ sẽ xẩy ra. Xin Chúa giúp con.
Phê-rô nghe thấy thế thì cảm thấy rất xúc động vì lời lẽ của ông chân thành quá. Thế nhưng Phê-rô lại vô cùng ngạc nhiên vì xem ra Chúa chẳng để ý gì đến những lời cầu khẩn của ông ta. Ngài tỏ ra rất lạnh lùng, không một chút xúc cảm đối với những lời cầu nguyện đó và sau đó thì Ngài rẽ qua một bên và cứ thẳng đường mà tiến bước về phía trước, trước sự ngỡ ngàng của người đàn ông kia.
Một lát sau cả hai đến gần một cái chợ. Một cảnh tương tự lại xảy ra. Một chiếc xe chất đầy hàng hóa cũng bị lật ngửa giữa đường. Người lài xe thay vì quì gối cầu nguyện thì lại hì hục cố gắng để lật chiếc xe lên. Mồ hôi mồ kê nhễ nhãi ướt đẫm cả người mà chiếc xe vẫn không nhúc nhích. Mặc dầu vậy, người đàn ông ấy vẫn kiên trì dùng hết sức của mình để kéo chiếc xe lên….vừa đẩy, vừa kéo, và nhiều lúc còn văng ra những câu chửi thề.
Thấy thế Chúa Giêsu quay lại nói với Phê-rô:
– Nào chúng ta hãy đến giúp ông ta một tay.
Phê-rô không thể hiểu nổi thái độ của Chúa. Ông liền bạo miệng hỏi Chúa:
– Thưa Thầy, lúc nãy người nông dân đã quì xuống cầu nguyện với tất cả lòng chân thành của mình…tại sao Thầy không đếm xỉa gì đến lời van xin của ông ta. Còn tên này chửi bới rủa xả đủ điều mà Thầy lại muốn giúp đỡ hắn?”
Chúa giải thích:
– Con không thấy hai trường hợp khác nhau rất xa sao? Lúc nãy người kia chỉ biết quì gối cầu nguyện và chờ đợi sự giúp đỡ của Thầy, còn tự người đó, người đó không hề làm một cái gì để tự cứu lấy mình, dù một ngón tay cũng không đụng tới. Ngược lại người lái buôn đang ở trước mắt chúng ta, dù có nó nói những lời thô tục nhưng con có thấy không, nó vẫn cố gắng xoay sở hết sức để tự cứu lấy mình. Hắn cần phải được chúng ta giúp đỡ”.
Người Pháp có một câu châm ngôn này: “Bạn hãy tự cứu lấy mình trước và trời sẽ giúp bạn sau ” (Aide toi, le ciel t’ aidera)
Thánh Augustinô cũng nói một câu tương tự như thế: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con không cần có con nhưng để cứu chuộc con Chúa không thể không có con” (Creasti me sine me – Non salvasti me sine me).
Vâng hãy cố mà vào qua cửa hẹp.
Bao nhiêu tấm gương trên đời để lại đã cho chúng ta thấy rằng: Muốn có vinh quang thì phải trả giá. Vinh quang càng cao thì cái gía phải trả càng lớn.
Để hoàn thành tác phẩm nổi tiếng Éneade Virgile đã phải để ra gần 30 năm trời.
Để hoàn thành tác phẩm “Những kể khốn cùng” (Les miserables) Victor Hugo cũng đã phải mất gần 40 năm.
Để có được một người con là Augustinô trở lại bà mẹ Monica đã phải ròng rã cầu nguyện suốt 30 năm trời.
Nước trời phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy.
Hãy cố mà vào qua cửa hẹp.
Làm thế nào để vào được cửa hẹp thì tuần sau chúng ta sẽ suy niệm tiếp.
Hôm nay chúng ta phải ghi khắc trong lòng điều này: Đường vào Nước Trời là con đường hẹp. Phải can đảm và cố gắng mà đi vào.
Một nhà văn Pháp đã nói một câu rất hay: Đồi Calvario ở đầu đường và vinh quang cũng xuất hiện tại đó. Hãy can đảm lên. Chúa luôn chờ đợi chúng ta. Amen.
Được sinh ra làm người, tất cả đều có cơ hội gieo trồng và gặt hái hạnh phúc, dù khả năng, sức TN 21-C158
Được sinh ra làm người, tất cả đều có cơ hội gieo trồng và gặt hái hạnh phúc, dù khả năng, sức khoẻ, hoàn cảnh không giống nhau: đội cũng vào chợ, gánh cũng vào chợ. Điểm hẹn của đời người dù muốn hay không, sang giầu hay bần cùng, ai ai chẳng hai bàn tay trắng đi vào “giấc ngủ triền miên”. Bạn đang làm gì khi nguồn năng lực dồi dào ? Có bao giờ bạn cân nhắc về khối thời gian hiện đang có không ? Bạn đang tự tin hay chán nản trước những mơ ước hạnh phúc mà ngay từ khi có trí khôn bạn đã suy nghĩ tới ? Quan trọng hơn, bạn có ý thức sống thật với lòng mình không, hay chỉ vu vơ để ngày tháng trôi qua cách phí phạm ? Sống thật với con người thật, sống đúng với ước mơ đẹp, nếu thiếu thực hành, bao nhiêu khôn ngoan tài đức, hẳn mới chỉ nằm trên “bàn giấy” lý thuyết mà thôi !
Năm xưa Đức Giêsu không trả lời có nhiều hay có ít số người được vào Nước Thiên Chúa, Ngài đã gợi lên một ước mơ thật cho mọi người, mọi thời về hạnh phúc Nước trời: “các ngươi hay chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào”. Gia đình huyết tộc, hay gia đình nhân loại nói chung, thời nào cũng có những phức tạp: sức khoẻ, sự hiểu biết, địa vị, công bằng, sẽ mang lại thành quả tốt đẹp, “nếu như” người ta sử dụng khối tài sản ấy một cách nghiêm túc, đúng mực. Có những người con thương yêu cha mẹ mình vì nghĩ rằng, số của cải to lớn kia sẽ thuộc về tôi, kẻ biết vâng dạ, chiều ý các ngài nhằm đạt mục đích, lại được gọi là đứa con ngoan. Cũng không thiếu những người con thương yêu bậc sinh thành, chỉ vì sợ người đời cười chê, ít nhiều họ cũng bị tiếng xấu là giả dối, không thật lòng.
Đi qua cửa hẹp, hãy vào qua cửa hẹp, chỉ dẫn đó, Đức Giêu đã nói hết sức chân thành, như một lời mời gọi rất tự do, nhưng không kém phần nghiêm túc, dứt khoát. Kinh nghiệm cho thấy: cửa hẹp, đường chật, nhà nhỏ, địa danh bé, chúng được tạo nên, được hình thành, đều mang một ý nghĩa, một giá trị riêng. Khi lấy hình ảnh cửa hẹp, và mời gọi đám đông hãy đi qua để vào Nước trời, hẳn Đức Giêsu có ý nói đường đến Nước trời không rộng rãi thênh thang, đường đến Nước trời không ai tự sức mình đạt tới mơ ước đó. Không sống thật, sao thấy được mình được yêu thương, nâng đỡ để trưởng thành trong đức tin và đức ái. Không mơ ước “quê hương” thật, sao đủ mạnh mẽ chọn lựa đi con đường “thánh nhân” đã đi, đã tới bến bờ hạnh phúc.
Các thánh hiền bằng nhiều nỗ lực, đã đánh thức con cháu bằng nhiều tâm tư đáng nể phục: con đường hạnh phúc dài lâu, đi tìm lối tắt dễ đâu mà thành. Dẫu biết rằng, cửa rộng, đường thông thoáng, bao giờ cũng dễ đi, nhiều người thích và chọn lựa, tiền nhân chúng ta có ý nói không thể có lối rẽ đường tắt để đạt tới hạnh phúc. Đức Giêsu lại quả quyết: đường nhỏ, cửa hẹp, mới dẫn đưa tới Nước trời ; tại sao Ngài muốn các môn đệ và chúng ta đi con đường chật hẹp đó ? Một khi sống thật với ước mơ thật, người ta đủ khôn ngoan để hiểu, để biết, hạnh phúc Nước trời chỉ tìm gặp được nơi Đức Giêsu. Đường chật hẹp là đường Chúa đã đi, ai theo Chúa thật, người ấy sẽ hiểu tại sao có kẻ trước người sau vào Nước trời, thưa vì họ nắm bắt được cơ hội, họ tin và sống niềm tin Đức Giêsu là đường dẫn tới hạnh phúc.
Đường chật, cửa hẹp, do đó người ta không thể mang vác những thứ cồng kềnh vướng víu, càng nhỏ bé gọn gàng, khiêm tốn, càng dễ qua. Đằng sau cánh cửa hẹp là “phần thưởng”, đằng sau con đường nhỏ hẹp là hạnh phúc Nước trời, phần thưởng và hạnh phúc thật đó chỉ dành cho những ai tin tưởng, cậy trông, tín thác vào Đức Giêsu là tình yêu Thiên Chúa mới đang lãnh nhận. Sống trên đời, ai cũng có quyền ước mơ điều tốt đẹp, ai chẳng có cơ hội đầu tư, làm giầu tình nghĩa, phát triển tài năng đức độ, dù thời gian là 80 năm, hay vài chục “xuân xanh”, tất cả chỉ thành đạt khi có Đức Giêsu. Cửa rộng đường thênh thang của trần gian vẫn mở đón chào những người giầu sang phú quý, người đói nghèo dốt nát quê mùa có thể bị từ chối. Đường chật cửa hẹp mà Đức Giêsu mời gọi, sẽ không phân biệt kỳ thị ai, miễn sao người ta sống thật, tin thật, và quyết tâm theo Chúa, sống thánh ý Chúa thật lòng.
Người thời nào cũng khao khát một sự thật công minh: ơn đền oán trả, có thưởng, có phạt, có việc làm tốt, nên khen, có hành vi xấu, nên quở trách. Con người giới hạn, hay tìm cách để chữa mình, đổ lỗi vì hoàn cảnh: đời tôi đúng là khổ nhất, đáng thương nhất, thực ra, chỉ vì mình không cảm nhận đủ đến câu chuyện của người khác. Không phải tất cả mọi cánh cửa đều mở ra hạnh phúc cho ta, không phải tất cả con đường chật hẹp đều dẫn đến bế tắc, sầu khổ ! Chính đời sống kết hiệp, cầu nguyện, chính việc sống thật, tin thật, là cơ hội để giúp mỗi người phát hiện ra niềm vui hạnh phúc: Chúa Giêsu ở cửa hẹp đường chật, Ngài sẽ giúp chúng ta tiến vào quê hương thật, là Nước trời thật. Amen.
Tháng 7 theo truyền thống người ta gọi là tháng cô hồn. Các linh hồn bơ vơ không có bến đậu TN 21-C159
Tháng 7 theo truyền thống người ta gọi là tháng cô hồn. Các linh hồn bơ vơ không có bến đậu. Các linh hồn còn chưa được giải thoát, chưa được cứu độ. Làm sao mà sinh ra nông nỗi như vậy? Các cô hồn, họ là ai?
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay đưa ta đến một nhận thức: Tất cả mọi người trên thế gian này đều có thể được cứu thoát, được lãnh nhận ơn cứu độ của Chúa. Nhưng kèm theo đó, Chúa Giê-su nói đến điều kiện mà người ta phải có để có thể bước vào nơi vĩnh hằng trong an vui, để không phải bơ vơ, khổ cực.
Cuộc đời Đức Giê-su trên dương thế được thánh sử Luca trình bày là một con đường tiến về Giê-ru-sa-lem. Trên đường đi tiến về Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đã giảng dạy, chỉ dẫn cho dân chúng về Nước Trời, về ơn cứu độ. Trong bài Tin Mừng theo thánh Luca (Lc 13, 22-30) kể “Chúa Giêsu rảo qua các đô thị và làng mạc, vừa giảng dạy vừa đi về Giêrusalem” (22). Dọc đường đi, có người hỏi “Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ” (23). Câu hỏi có ý nói đến số lượng những người được cứu độ. Nhưng Chúa Giê-su đã kéo người đối thoại ra khỏi não trạng về số lượng để đưa họ đến cái chất lượng cần phải có để được cứu độ. Tất cả mọi người đều có thể được vào Nước Trời.
Não trạng “nhóm của mình mới xứng đáng” chẳng phải là chuyện ngày xưa mà nó hiện diện đầy dẫy trong xã hội ngày nay. Dường như thời này người ta chán với những cộng đoàn số đông và thích hoạt động trong một nhóm nhỏ. Con người muốn thoát khỏi những định giá bởi số đông và muốn tạo lập cái tôi của mình trong những nhóm nhỏ ít bị chi phối. Cơn cám dỗ coi “nhóm của mình mới xứng đáng” càng trở nên hấp dẫn.
Trong bài đọc 1 (Is 66, 18-21), tiên tri Isaia đã nói các đây hơn 2500 năm với dân chúng về một viễn ảnh phổ quát trên mọi dân tộc. Không phải chỉ có những người còn sót lại sau cuộc lưu đày trở về mà thôi, nhưng rồi đây mọi dân tộc từ đông tây nam bắc trên khắp hoàn cầu sẽ tiến về Giê-ru-sa-lem để thờ phượng Thiên Chúa. Một nhóm nhỏ còn sót lại sau khi cả dân tộc đã trải qua cuộc lưu đày đầy gian nan khổ cực. Họ buồn chán và bi quan. Tiên tri Isaia đã cho họ thấy, chính sự hiện diện của họ nơi đất khách quê người đã làm cho các dân tộc nhận biết Thiên Chúa và rồi mọi người sẽ tìm đến thành đô muôn thủa, nơi Thiên Chúa ngự trị.
Chiều kích phổ quát ấy được diễn tả rõ nét và sống động hơn trong lời nói của Chúa Giê-su hôm nay: “Và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa” (Lc 13,29). Thiên Chúa không loại trừ bất cứ ai trên thế gian này, cho dù tôi là ai, là người có đạo hay không có đạo, người quyền quý hay nghèo hèn, người lớn hay trẻ nhỏ, Thiên Chúa luôn mời gọi tha thiết hãy vào dự tiệc cưới trong Nước Trời.
Nhưng có điều, con đường dẫn tới Nước Trời là con đường hẹp, cánh cửa để vào dự tiệc cưới trong Nước Trời là cánh cửa hẹp. “Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp” (13,23).
Vì cánh cửa hẹp nên ai muốn qua thì phải chấp nhận từ bỏ. Người ta không thể vác tất cả mọi sự để đi qua cánh cửa ấy. Chỉ những ai đã khiêm nhường hạ mình xuống, chỉ những ai từ bỏ mọi quyến rũ, chỉ những ai chấp nhận bị gọt tỉa trở nên thanh thoát nhẹ nhàng mới có thể đi qua cửa hẹp.
Ở thế gian này thì những người quyền quý cao sang thường được ưu tiên đứng hàng đầu. Nhưng đứng trước cánh cửa Nước Trời, chỉ những ai chấp nhận từ bỏ quyền lực, giũ bỏ những dan díu, từ bỏ những bám víu tội lỗi mới có thể bước qua. Chính những người nhỏ bé sẽ đi qua trước mà vào dự tiệc trong Nước Trời: “Phải, có những người sau hết sẽ trở nên trước hết và những người trước hết sẽ nên sau hết” (Lc 13,30).
Cánh cửa vào Nước Trời chỉ vừa đủ cho con người đi qua. Một con người hoàn toàn chỉ có người mà thôi. Mọi thứ bên ngoài sẽ chỉ làm cho nó bị vướng mắc. Đức Giê-su trên thập giá là hình ảnh rõ nét của một con người hoàn toàn trần trụi, buông bỏ tất cả, đến cả chân cũng không còn bám vào đất. Chính Thiên Chúa làm người đã băng qua cửa hẹp trong tư thế trần trụi ấy để tiến vào vinh quang.
Lạy Chúa, vì yêu thương mà Chúa đã tìm mọi cách để kéo con về Trời. Xin Chúa luôn thức tỉnh con mỗi khi con mải mê với những giá trị mau qua của trần thế. Xin Người ban ơn giúp sức để con can đảm chấp nhận mình bị gọt rũa hầu có thể tiến bước qua con đường hẹp mà vào chốn vinh quang.
Những ngày qua, Độ ta không độ nàng nhận được sự quan tâm của giới trẻ và trở thành một hiện TN 21-C160
Những ngày qua, Độ ta không độ nàng nhận được sự quan tâm của giới trẻ và trở thành một hiện tượng trên thị trường nhạc Việt. Giai điệu bắt tai, câu chuyện ngôn tình khác lạ kèm theo những ồn ào liên quan đến tôn giáo là những yếu tố giúp cho Độ ta không độ nàng trở thành một hiện tượng trên thị trường âm nhạc hiện nay.
“Phật ở trên kia cao quá, mãi mãi không độ tới nàng, vạn dặm tương tư vì ai, tiếng mõ vang lên phũ phàng… Vài độ xuân thu vừa qua, có lẽ không còn thấy nàng, hỏi Phật trong kiếp này, ngày ngày gõ mõ tụng kinh, vì sao độ ta không độ nàng?”
Hình như tác giả có một cái nhìn trách móc tại sao ta được hạnh phúc, còn nàng thì không? Phải chăng ơn trên chỉ ban cho ta mà không ban cho nàng? Phải chăng Phật chỉ “độ ta mà không độ nàng” ?
Độ ta không độ nàng chỉ là tác phẩm nghệ thuật. Vì vậy nó không nói lên sự thật về bất cứ tôn giáo nào. Riêng đối với Kitô giáo, câu hỏi ai sẽ được cứu độ cũng là câu hỏi của nhiều người tự ngàn xưa cho đến hôm nay. Phụng vụ lời Chúa hôm nay sẽ trả lời cho chúng ta câu hỏi đó.
Trong bài đọc thứ nhất (Is 66, 18 – 21), Đức Chúa phán: “Ta sẽ tập họp mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ; họ sẽ đến và sẽ được thấy vinh quang của Ta.” Đây là đoạn cuối cùng trong sách tiên tri Isaia về diễn từ cánh chung. Ngày cánh chung, Thiên Chúa sẽ tập họp mọi người, mọi dân tộc, mọi ngôn ngữ chứ không riêng một nhóm nào, một dân tộc nào. Điều đó cho chúng ta thấy trong chương trình của Thiên Chúa tự ngàn đời, ơn cứu độ đã được dành cho mọi người. Đó là sự thật về một Thiên Chúa yêu thương, muốn cứu độ tất cả. Tuy nhiên, điều Thiên Chúa muốn là như vậy, nhưng để được cứu độ lại là chuyện khác, chứ không phải “độ ta không độ nàng”. Do ta không đón nhận ơn cứu độ, chứ ơn cứu độ vẫn dành cho ta.
Bài Tin mừng (Lc 13, 22 – 30) hôm nay kể câu chuyện bữa nọ Chúa Giêsu đang giảng, có nhiều người nghe lắm, trong số đó có những người Do Thái đạo gốc, có những người Do Thái ở miền Trung Samaria, đa số là dân ngoại. Người Do Thái đạo gốc tự hào vì nghĩ rằng dân tộc mình được Thiên Chúa yêu thương một cách đặc biệt, nên chỉ có họ mới được cứu độ, và chỉ cần họ có đạo là họ được cứu độ chứ không cần gì nữa. Họ quay qua, thấy những người dân ngoại cũng đi nghe giảng nên xầm xì với nhau: “Dân ngoại cũng bày đặt đi nghe giảng, uổng công, xuống hỏa ngục hết rồi, nghe giảng chi cho mệt!”
Những người dân ngoại mặc cảm vì định kiến này nên họ nói nhỏ xíu: “Hỏng dám đâu, Thầy Giêsu mới nói kìa, ai tin thì được cứu hết chứ đâu phải chỉ mấy chú mới được, còn tụi tui thì không!”.
Những người đạo gốc cười ha hả: “Để tụi tui hỏi Thầy, rồi Thầy nói cho mà nghe”: “Thưa Thầy, có phải chỉ có một số người được cứu độ phải không Thầy?” Ý họ muốn nói là chỉ có tụi con mới được cứu, còn mấy đứa dân ngoại chết xuống hỏa ngục ráo hết phải không?
Thầy Giêsu không trả lời trực tiếp câu hỏi của họ, nhưng chỉ cho họ cách làm sao để được cứu độ, đó là: “Hãy vào qua cửa hẹp”. Như vậy trong cách nói của Đức Giêsu, ai cũng được cứu độ, miễn làm sao họ chấp nhận vào qua cửa hẹp.
Khi đọc bài Tin mừng hôm nay, tôi viết vội vài câu thơ: “Cửa thênh thang nhưng lòng người chật hẹp. Chật hẹp vì những ích kỷ kiêu căng, những so đo tính toán kiểu người trần, và như thế cửa trời đã khép lại”. Cửa trời luôn rộng mở như vòng tay yêu thương của Thiên Chúa, chỉ có điều lòng người quá chật hẹp nên không thể vào. Vì thế Đức Giêsu nói với những người đang nghe Ngài: “Hãy vào qua cửa hẹp”, nghĩa là hãy thoát khỏi sự chật hẹp.
Cha Anthony De Mello kể câu chuyện về một ni cô sùng Phật nên quyết tâm đi tìm giác ngộ. Ni cô đặt làm cho mình một pho tượng gỗ dát vàng rất đẹp, đi đâu cũng mang theo mình. Sau thời gian vân du khắp nơi, ni cô đến trụ trì trong một ngôi chùa. Ngôi chùa này có rất nhiều tượng Phật cổ. Ni cô làm một bệ thật đẹp đặt tượng Phật dát vàng của mình ở giữa những tượng Phật còn lại và hằng ngày thành kính thắp nhang niệm Phật. Nhưng có điều ni cô không được hài lòng là khói hương thắp cho tượng Phật của ni cô cũng lan tỏa sang cả những tượng Phật khác. Thế là ni cô thiết kế cho mình một chiếc phễu bằng giấy đặt ngay trước làn khói, để khói hương chỉ bay đến trước tượng Phật của ni cô, mấy ông Phật khác không được hưởng. Đó là lý do tại sao tượng Phật dát vàng của ni cô tuy quý, nhưng mặt mũi đen sì.
Cuối cùng cha Anthony kết luận: “Tưởng rằng theo Phật hóa theo mình, từ bỏ sân si lại vướng tình. Những muốn vân du tìm giác ngộ, vẫn còn trôi nổi khiếp phù sinh.”
Vì thế khi cõi lòng ta còn ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân mình thì ta chưa thể vào Nước Trời. Khi ta còn những tính toán thiệt hơn cho bản thân thì ta chưa thể đến nơi gọi là hạnh phúc. Làm sao ta có thể hạnh phúc khi muốn làm công tác chung, mà lại so đo với nhà bên cạnh rằng nó không chịu đi. Làm sao ta có thể vào thiên đàng khi kể công mình góp phần nhiều hơn những người khác. Làm sao ta có thể trở thành hình ảnh của Thiên Chúa khi làm việc gì cũng nghĩ đến việc người khác sẽ trả công cho mình ra sao. Làm sao ta có thể trở thành môn đệ Đức Kitô khi giúp đỡ mà muốn người khác phải lệ thuộc mình… Làm sao và làm sao??? Lòng ta còn chập hẹp thì đường vào thiên đàng còn quá xa xôi.
Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được khai mở dần dần, bắt đầu từ lời hứa trong vườn địa đàng TN 21-C161
Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được khai mở dần dần, bắt đầu từ lời hứa trong vườn địa đàng tới việc kêu gọi Áp-ra-ham và thiết lập một dân tộc đặc biệt để Người thực hiện lời hứa. Đó là dân tộc Ít-ra-en. Rồi “khi thời gian tới hồi viên mãn”, Thiên Chúa đã sai Con Một đến cư ngụ giữa nhân loại để dạy dỗ họ và dẫn họ về với Người. Chúa Giê-su đã khởi sự một triều đại mới, Triều Đại Thiên Chúa, để mọi người bước vào và cùng với Người cũng như nhờ Chúa Thánh Thần mà hành trình về quê hương trên trời. Tất cả những điều này đã xảy ra đều là do lòng thương xót và tình yêu bao la của Thiên Chúa. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nói với chúng ta về lòng quảng đại ấy, để chúng ta ý thức đáp lại lời kêu gọi cứu độ của Thiên Chúa.
Trước hết chúng ta xem Thiên Chúa đã quảng đại đối với dân Ít-ra-en của Người như thế nào. Sau khi vương quốc Ít-ra-en phía bắc bị tiêu diệt, đến lượt vương quốc Giu-đa miền Nam bị chiếm đóng và dân chúng bị lưu đày tại Ba-by-lon. Qua ngôn sứ I-sai-a, Thiên Chúa hứa không những khôi phục Ít-ra-en, mà Người còn “đưa tất cả những anh em các ngươi thuộc mọi dân tộc về làm lễ phẩm tiến dâng Đức Chúa, về trên núi thánh của Ta là Giê-ru-sa-lem”. Ở đây, lời hứa của Thiên Chúa không chỉ dành cho dân riêng Người mà thôi, nhưng cho toàn thể nhân loại nữa. Đó chính là lời hứa áp dụng cho việc thiết lập Nước Trời mà Chúa Giê-su sẽ khởi sự khi Người được sai đến thi hành sứ mệnh rao giảng Tin Mừng. Tại sao Thiên Chúa thiết lập Nước Trời? Bởi vì Người “biết rõ việc làm và ý định” của con người, những việc làm và ý định xấu xa khiến cho họ phải xa cách Chúa và mất đi tương lai là được cứu độ. Trước tình trạng tội lỗi với những việc làm và ý định ấy của nhân loại, Chúa không quay mặt đi, để mặc họ chết trong tội lỗi, nhưng Người có sẵn kế hoạch để chiến thắng tội lỗi và đưa họ về lại trong mối tương quan với Người. Nói khác đi, Thiên Chúa đã thiết lập “Nước Trời” đặt nền móng trên lời giảng dạy và lối sống của Chúa Giê-su, để giúp mọi người thay đổi và sống đúng chức phận làm con cái Thiên Chúa. Chính vì lòng quảng đại đầy thương xót và yêu thương, Thiên Chúa đã dang rộng cánh tay đón nhận chúng ta trở về từ đàng tội lỗi, như Người đã cứu Ít-ra-en trở về từ chốn lưu đày.
Khi giảng dạy về Nước Trời hoặc Triều Đại Thiên Chúa, Chúa Giê-su sử dụng nhiều câu chuyện dụ ngôn, nhất là tiệc cưới. Nhưng hôm nay, nhân dịp có người hỏi Chúa rằng có phải chỉ một ít người được cứu thoát hay không, Chúa đã khẳng định về việc vào Nước Trời như sau: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được”. Liệu những lời này của Chúa có làm chúng ta nản lòng hay không? Mặc dù Thiên Chúa Cha giàu lòng thương xót đã mở rộng cửa Nước Trời đón nhận mọi người, nhưng với điều kiện là họ phải tin vào Con Một Người, nghĩa là tin vào tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Chính điều kiện này trở thành “cửa hẹp” khiến cho nhiều người tìm cách vào mà không vào được. Để qua cửa hẹp, người ta phải có một thân hình gọn ghẽ chứ không phì nộn, hoặc người ta phải bỏ lại bên ngoài những hành trang cồng kềnh. Quả thực Chúa Giê-su đã dùng một hình ảnh thật giản dị là cửa hẹp để mô tả lối sống của một Ki-tô hữu chân chính. Ai đã có dịp đến thánh đường Bê-lem sẽ hiểu được tại sao cửa nhà thờ lại quá thấp như vậy. Lý do là người ta cố tình xây thật thấp để ngăn lính Hồi giáo ngày xưa cưỡi ngựa nghênh ngang tiến vào. Cũng vậy, nếu người ta không biến đổi đời sống thiêng liêng của mình theo kích thước cuộc đời Đức Ki-tô, thì họ không thể tìm cách nào khác để qua cửa hẹp được. Danh nghĩa Ki-tô hữu không phải là giấy thông hành để qua được cửa hẹp, nhưng lối sống của Ki-tô hữu rập theo khuôn mẫu Đức Ki-tô mới là chìa khóa để ta có thể qua được cửa hẹp mà vào. Do đó, những ai vỗ ngực xưng mình là Ki-tô hữu mà không sống như một Ki-tô hữu chân chính, thì họ cũng giống như những kẻ đứng trước cửa đã đóng lại mà kêu gào: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi”. Chúng ta không thể vào Nước Trời chỉ vì đã từng được dự bàn tiệc Thánh Thể (nhiều khi dự cho có lệ hoặc để giữ luật ngày Chúa Nhật!), hoặc được nghe giảng dạy trong Thánh lễ hoặc lớp giáo lý (nhiều khi nghe tai này qua tai kia hoặc nghe mà chẳng thực hành!). Nhưng hơn tất cả những việc bề ngoài ấy, chúng ta còn phải sống mối tương quan sống động với Chúa qua việc cầu nguyện và thực hành đức bác ái yêu thương.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Qua cửa hẹp mà vào không hẳn là một hành động, mà là một lối sống. Đoạn thư Do-thái hôm nay đã cho chúng ta một phương thức tốt nhất để giúp ta được thon gọn mà vào cửa hẹp, đó là hãy để cho tình thương của Chúa “sửa dạy” chúng ta.
a) Được Chúa sửa dạy, đó là một hồng phúc, một ân huệ của tình yêu Thiên Chúa. Chúa có thương ta thì Người mới “cho roi cho vọt”. Khuôn vàng thước ngọc là: Chúa sửa dạy vì yêu thương, chứ không phải vì bất cứ lý do nào khác.
b) Hãy kiên trì để cho Chúa sửa dạy. Chúa còn kiên trì hơn cả chúng ta khi chờ đợi ta thay đổi.
c) Dó đó, được Chúa sửa dạy, ta phải vui cho mình và giúp người khác vui khi Chúa sửa dạy họ. Qua cửa hẹp là Chúa Giê-su, ta sẽ đến với Cha trên trời!
Ai sẽ được cứu độ và bao nhiêu người được cứu? Đó là câu hỏi rất được nhiều người quan tâm TN 21-C162
Ai sẽ được cứu độ và bao nhiêu người được cứu? Đó là câu hỏi rất được nhiều người quan tâm, thường được đặt ra vào thời Chúa Giêsu và ngay cả ngày hôm nay.
1- Extra ecclesiam nulla salus?
Đối với những người Do Thái, họ quan niệm rằng: Để được cứu độ, phải thuộc về dân Do Thái, theo đạo Do Thái, nói tiếng Do Thái và sống trên đất Do Thái.
Ngày xưa, Giáo Hội Công Giáo chúng ta cũng có quan niệm rằng: “Extra ecclesiam nulla salus: ngoài Giáo Hội thì không có ơn cứu độ” (thánh Ciprianô). Một thời, quan niệm này đã bị hiểu một cách méo mó và nó cũng đã tồn tại trong Giáo Hội rất lâu dài hàng thế kỷ. Phải chờ đến Công Đồng Vaticanô II mới cho chúng ta một cái nhìn quân bình và mới mẻ về ơn cứu độ của những người ngoài Giáo Hội.
Theo đó, trong hiến chế Lumen Gentium, Ánh Sáng Muôn Dân, số 16 nói đến những người sau đây dù không thuộc về Giáo Hội một cách hữu hình nhưng vẫn hy vọng được cứu độ: trước hết phải kể đến những người tin nhận Thượng Đế và tôn thờ Người là Đấng Tạo Hóa của đời mình, họ là những người Do Thái và Hồi Giáo. Kế đến là những người vô tình không biết Tin Mừng Đức Kitô và Giáo Hội, nhưng thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa và sống theo tiếng lương tâm ngay thẳng, thì có thể được cứu độ. Một cách vô hình họ cũng thuộc về Giáo Hội. Có thể gọi họ là “những Kitô hữu vô danh” (theo ngôn ngữ của nhà thần học Karl Rahner).
Cái nhìn này có nền tảng Kinh Thánh và thần học rất vững chắc: Thiên Chúa muốn tất cả mọi người nhận biết chân lý và được cứu độ (x. 1 Tm 2,4). Thiên Chúa có những cách thế riêng để cứu độ họ. Ơn cứu độ của Đức Kitô mang đến không giới hạn bởi khu vực, chủng tộc, quốc gia, nhưng mang tính phổ quát, cho hết mọi người. Đức Kitô chết cho hết mọi người không loại trừ ai.
Một cách thú vị, Lời Chúa hôm nay đề cập đến chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Ở bài đọc I, tiên tri Isaia loan báo về viễn tượng cánh chung trời mới đất mới của nhân loại, trong ngày đó Thiên Chúa quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ về với Người (x. Is 66,18-21). Theo đó, ơn cứu độ của Thiên Chúa là phổ quát, dành cho hết mọi người. Cũng theo hướng này, bài Tin Mừng loan báo: “Người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa.” Vâng, ý định của Thiên Chúa là cứu độ hết mọi người, đó là niềm hy vọng lớn lao nhất cho tất cả chúng ta và cho những ai không thuộc về Giáo Hội.
2- Nhưng làm sao để được cứu độ?
Nói như thế không có nghĩa là ơn cứu độ chỉ tùy thuộc vào Thiên Chúa thôi, nhưng để được cứu độ, con người cần sự cộng tác với Thiên Chúa. Thánh Augustinô có một câu nói rất nổi tiếng: “Để dựng nên con, thì Thiên Chúa không cần đến con, nhưng để cứu độ con, thì Thiên Chúa cần đến con.”
Đức Kitô trong bài Tin Mừng hôm nay không trực tiếp trả lời có bao nhiêu người được cứu, nhưng Người chỉ cho chúng ta làm sao để được cứu độ khi nói: “Các ngươi hãy cố gắng vào cửa hẹp.” Người đang nói tới sự cộng tác của con người. Đó là nét đẹp của Thiên Chúa của Kitô giáo. Người không tự làm hết mọi sự, không “bao sân” nhưng Người mời gọi chúng ta cộng tác với Người để cứu độ mình. Nếu Người làm hết thì không còn công trạng của chúng ta nữa.
Giống như muốn thi đậu thì phải ôn luyện kỹ càng. Muốn chơi bóng giỏi thì phải tập luyện mỗi ngày. Muốn tránh cao mỡ và cao máu thì phải kiêng dầu mỡ và muối. Muốn có thân hình đẹp, phải luyện tập và ăn kiêng. Cũng vậy, muốn vào thiên đàng thì phải làm gì? Phải “khổ chế,” phải bước “vào cửa hẹp” để đạt tới ơn cứu độ và hạnh phúc.
3- Vào cửa hẹp
Vậy, vào cửa hẹp có nghĩa là gì? Xin thưa là bước vào con đường của hy sinh, khổ luyện, hay nói cách khác, đó là bước theo con đường thập giá mà Chúa Kitô đã đi. “Vào cửa hẹp” là nói không với những cám dỗ của những phim ảnh đồi trụy, những cuộc tình trộm vụng; nói không với những cách kiếm tiền phi đạo đức và phi nhân bản; nói không với những thái độ tự cao tự đại, gây chia rẽ hận thù…
“Vào cửa hẹp” là sống các giá trị của Tin Mừng, sống thật thà và trong sạch, sống bác ái và giúp đỡ tha nhân, nhất là đối với những người nghèo khổ. Mẹ Têrêxa Calcuta nói rằng: “Chúng ta sẽ bị xét xử dựa trên lòng bác ái. Bác ái là thẻ căn cước đích thực cho phép chúng ta bước qua cửa hẹp vào Thiên Đàng.”
“Vào cửa hẹp” là để cho Chúa “quở trách… sửa dạy… và đánh đòn” (Dt 12,5-6) khi chúng ta sai lỗi. Bởi vì, Chúa thương mới “cho roi cho vọt,” nghĩa là để Người sửa dạy chúng ta.
Khi nói có như thế với Chúa, chúng ta đang đi vào cửa hẹp, cửa dẫn chúng ta tới hạnh phúc, tới ơn cứu độ, tới Thiên Chúa là hạnh phúc vĩnh cửu của chúng ta. Hạnh phúc đó, ơn cứu độ đó đã bắt đầu từ ngày hôm nay rồi. Amen!
Từ ngày 6-8-2016, trò chơi điện tử có tên là Pokémon Go đã xuất hiện tại Việt Nam sau khi đã TN 21-C163
Từ ngày 6-8-2016, trò chơi điện tử có tên là Pokémon Go đã xuất hiện tại Việt Nam sau khi đã được thu hút rất nhiều “game thủ” tại các nước trên thế giới. Rất nhanh chóng, trò chơi này đã gây sốt nơi các bạn trẻ người Việt. Đây là một trò chơi mà người chơi phải đi ra khỏi nhà theo hướng dẫn của chương trình để tìm kiếm những hình ảnh ảo trên mạng. Trò chơi này cho phép người chơi bắt, huấn luyện và trao đổi các Pokémon ảo dựa trên thế giới thực. Cách chơi của game Pokémon Go cũng tương tự như nội dung trong phim truyện cùng tên miêu tả: Người chơi sẽ đi khắp nơi, dùng quả cầu Poké Ball để tìm và thu phục những chú Pokémon trên đường đi. Pokémon Go có sức hấp dẫn lạ kỳ: nhiều người bỏ công việc, bỏ học hành để đi “bắt” pokémon. Họ ra đường phố, vào công viên, đến những nơi công cộng. Mắt họ dán vào màn hình của điện thoại, hầu như quên hết những gì xung quanh, bất kể đêm hay ngày. Đã có nhiều cảnh báo về nguy hiểm do trò chơi này, nhất là tai nạn giao thông xảy đến bất ngờ. Rất nhiều quốc gia trên thế giới đã thực hiện chiến dịch kêu gọi người dân nâng cao nhận thức về những mối nguy hiểm mà Pokemon Go có thể gây ra, đồng thời, áp dụng những luật cấm nghiêm ngặt để hạn chế tối đa các vụ tai nạn đáng tiếc liên quan đến trò chơi này.
Sức hấp dẫn của Pokémon Go cho thấy người thời nay ham thích tìm kiếm những giá trị ảo, trong khi những giá trị tinh thần hoặc những giá trị đạo đức bị lãng quên hoặc coi thường. Những thông tin trên các trang mạng cho chúng ta thấy tình trạng tham nhũng càng ngày càng nghiêm trọng. Đây là phát biểu của Trung tướng Trần Văn Độ, nguyên phó chánh án TAN tối cao, được đăng trên mạng Dân Trí ngày 16-8-2016: “10 năm qua, tham nhũng ngày càng “phát triển”, hầu như lĩnh vực nào cũng có, quy mô rất lớn khi có những vụ lên tới cả nghìn tỷ, chục nghìn tỷ, còn tính chất cực kỳ nghiêm trọng”. Rồi những thông tin về chạy chức, về gian lận trong việc thi cử, kể các các cuộc thi hoa hậu… cho thấy người ta coi nhẹ lương tâm và đạo đức con người”.
Cuộc sống con người là một hành trình hoàn thiện bản thân và tìm kiếm cho mình những giá trị vĩnh cửu. Chúa Giêsu đã khẳng định như thế. Trả lời một vấn nạn được đặt ra về số người được cứu thoát sẽ nhiều hay ít, Chúa khẳng định: “Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào”. “Cửa hẹp” mà Chúa nói tới chính là sự tôi luyện bản thân, chấp nhận mọi thử thách và thiệt thòi để giữ cái tâm trong sáng trước những cám dỗ của những khuynh hướng xấu. Cuộc sống đời này chỉ là hữu hạn tạm thời, sẽ có lúc chấm dứt. Đạo đức hay tội lỗi của con người sẽ có lúc phải chịu xét xử để phân biệt vàng với thau, thánh thiện với tội lỗi, ánh sáng với tối tăm, chân thành với gian giảo. Những người chỉ tìm kiếm cho mình những giá trị ảo, một ngày nào đó sẽ tỉnh ngộ và thấy rằng những gì mình đã gắn bó điều vô bổ chóng qua. Tin Mừng hôm nay cũng nói đến những người suốt đời làm điều bất chính, cuối cùng rồi cũng đến thời đến buổi phải trình diện trước nhan Thiên Chúa. Thay vì được đón tiếp, họ sẽ bị loại trừ, bởi suốt đời họ, đã tự chọn cho mình những ảo ảnh của trần gian.
Người tín hữu luôn ý thức mình sống trước nhan Chúa. Mọi tư tưởng và hành động của họ, Chúa luôn thấu hiểu. Ngài luôn mời gọi và tập họp mọi dân để làm thành một dân thánh, tức là dân của những người mến yêu và thực thi ý Chúa. Khi chuyên tâm cầu nguyện và cố gắng sống cuộc đời thanh sạch thánh thiện, chúng ta thuộc về dân thánh của Chúa, vì Chúa là Vua của mọi dân tộc trên trần gian. Ngài luôn yêu thương, nâng đỡ, quy tụ và chúc lành cho những ai thành tâm lầm điều thiện (Bài đọc I). Tin cậy vào tình thương của Chúa, mỗi chúng ta hãy kiên trì, đừng nản lòng khi Chúa sửa dạy. Khi chấp nhận để cho Chúa sửa dạy, chúng ta dù có hy sinh thiệt thòi chút ít, nhưng chắc chắc sự sửa dạy của Chúa sẽ giúp chúng ta nên hoàn thiện, như cây nho cần được cắt tỉa để sinh hoa kết trái (Bài đọc II).
Đức tin và lòng trông cậy nơi Chúa sẽ giúp chúng ta vượt lên những thử thách của cuộc đời để chọn lựa cho mình những giá trị đích thực của cuộc sống hôm nay, là bảo đảm cho nước trời mai sau. Nhờ nỗ lực cố gắng của bản thân, với ơn phù trợ và quyền năng của Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ được Chúa đón tiếp trong ngay sau hết với những lời lẽ ngọt ngào yêu thương: “Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi” (Mt 25,21).
Con người ngày nay thích dễ dãi và luôn chiều theo tính xác thịt của mình. Nhất là sự dễ dãi TN 21-C164
Con người ngày nay thích dễ dãi và luôn chiều theo tính xác thịt của mình. Nhất là sự dễ dãi trong luân thường đạo lý, nam nữ quan hệ bừa bãi chẳng cần tình yêu, đôi khi còn công khai trước đám đông. Không chỉ trai chưa vợ, gái chưa chồng mà hiện tượng chồng nọ vợ kia cũng bùng phát ngay cả trong những xứ đạo lâu năm! Người ta nhân danh tình yêu để rồi cố tình bỏ qua luân thường đạo lý. Người ta cũng đi tìm một tôn giáo dễ dãi luôn chiều theo họ, luôn ủng hộ họ. Và một khi họ thấy tôn giáo quá khắc khe là họ sẵn sàng bỏ đạo để sống theo ý thích của mình.
Theo tạp chí Newsweek cho biết: “Hàng giáo phẩm hôm nay cũng đang phải cạnh tranh trong một thế giới có nhiều sự lựa chọn, nếu không thích nghi sẽ làm cho các tín hữu rời khỏi Giáo Hội”.
Vì thế, nhiều giáo hội chấp nhận điều mà tạp chí Chicago Sun-Times gọi là “thông điệp dễ nghe, trục lợi, thậm chí vị kỷ… của Ki-tô giáo [và] bỏ qua Phúc âm”.
Điều này dẫn đến một loại tư tưởng trong tôn giáo mà người ta định nghĩa về Thiên Chúa theo ý riêng của họ, như luôn quảng bá “đạo nào cũng là đạo” để xem nhẹ Thiên Chúa và đồng hóa Ngài với thụ tạo. Giáo hội không còn chú tâm vào Thiên Chúa và những điều Ngài đòi hỏi con người, mà lấy con người làm trung tâm để đưa tôn giáo thích ứng với nhu cầu con người. Có thời người ta đề cao mục đích để ủng hộ mọi phương tiện như “có quyền lấy của người giầu để cho người nghèo”.
Mục tiêu duy nhất của họ là đáp ứng nhu cầu của con người, bất chấp thỏa hiệp với thế gian và xa rời giáo lý của Thiên Chúa. Kết quả là tôn giáo của họ thành ra trống rỗng, không có giáo lý.
Những điều này khiến chúng ta nhớ tới lời của thánh Phaolo tông đồ đã viết: “Thật vậy, sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo lý lành mạnh, nhưng theo những dục vọng của mình mà kiếm hết thầy này đến thầy nọ, bởi ngứa tai muốn nghe. Họ sẽ ngoảnh tai đi không nghe chân lý, nhưng hướng về những chuyện hoang đường.”. 2Tm 4: 3,4.
Xem ra những lời này đang ứng nghiệm trong thời đại hôm nay. Một thời đại con người tìm kiếm sự dễ dãi để bỏ qua hy sinh khổ chế, bỏ qua những tập tục truyền thống để sống theo tính xác thịt của mình. Con người ngày nay “có thể theo bất kỳ tôn giáo nào, nếu không bị bắt phải làm theo tiêu chuẩn đạo đức, tức họ cần một tôn giáo an ủi nhưng không đoán xét”. Ky-tô giáo vẫn được xem là cổ hũ khi không thích nghi với lối sống thoải mái của con người ngày nay. Khi Giáo hội vẫn đòi hôn nhân bất khả phân ly, vẫn đòi hỏi một vợ một chồng, không chấp nhận đồng tính và nghiêm cấm phá thai . . .
Giáo hội luôn bắt con người đi theo luật Chúa để sống công bằng với mọi người và có trách nhiệm với bản thân và xã hội. Nếu một xã hội đề cao tính cá nhân thì sẽ không còn tôn trọng người khác đôi khi vì quyền lợi , thú vui cá nhân mà làm những chuyện hại đời hại người. . .
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy đi vào con đường hẹp. Con đường của hy sinh vì phải bỏ lại những thú vui mau qua, những đam mê tội lỗi để sống đúng với phẩm giá con người là “nhân linh ư vạn vật”. Con đường ấy mới dẫn ta tới chân trời hạnh phúc đời này và đời sau.
Người ta vẫn nói: “không có sự thành công nào xây dựng trên sự dễ dãi”, thế nên muốn đạt được Nước trời cũng phải đi vào con đường hy sinh để tránh xa những mời mọc dễ dãi trong hưởng thụ, trong đam mê xác thịt. Xin cho mỗi người chúng ta biết sống đời này cho nghiêm túc để đời sau được hạnh phúc muôn đời. Hãy vì sự sống vĩnh cửu mà can đảm từ bỏ những lối đường tội lỗi hôm nay.
Nguyện xin Chúa là Đường là Sự Thật và là Sự Sống dẫn dắt chúng ta đi trong chân lý vẹn toàn. Amen.
“Ta đến quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ: chúng sẽ đến và nhìn thấy vinh quang của Ta“. (Is 66,18). Những lời trên của tiên tri Isaia, được vang lên trong phụng vụ, làm nổi bật chủ đề về ơn cứu độ phổ quát. Quả thật, bước vào Chúa nhật thứ XXI thường niên C, Phụng vụ Lời Chúa mời gọi chúng ta can đảm đi vào cửa hẹp là cửa dẫn tới ơn cứu độ phổ quát đời đời, đúng như Tin Mừng Luca loan báo: “Và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa“ ( Lc 13, 30)
Hiến chế Ánh sáng muôn dân số 1-2 của Công Đồng Vaticanô II khẳng định: Ánh sáng muôn dân TN 21-C165
Hiến chế Ánh sáng muôn dân số 1-2 của Công Đồng Vaticanô II khẳng định: Ánh sáng muôn dân chính là Chúa Kitô, nên Thánh Công Ðồng đang nhóm họp trong Chúa Thánh Thần hết lòng mong ước soi dẫn mọi người bằng ánh sáng của Chúa phản chiếu trên dung nhan Giáo Hội, bằng việc rao truyền Phúc Âm cho mọi tạo vật (x. Mc 16,15). Vì Giáo hội ở trong Chúa Kitô như bí tích hoặc dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại… Những hoàn cảnh hiện tại làm cho nhiệm vụ của Giáo Hội thêm khẩn thiết hơn, để ngày nay mọi người liên hệ chặt chẽ hơn bởi nhiều ràng buộc xã hội, kỹ thuật, văn hóa, cũng được hiệp nhất trọn vẹn trong Chúa Kitô.
Bởi ý định khôn ngoan nhân lành, hoàn toàn tự do và mầu nhiệm, Chúa Cha hằng hữu đã tạo dựng vũ trụ; Ngài đã quyết định nâng loài người lên tham dự đời sống thần linh, và Ngài đã không từ bỏ con người sa ngã trong Adam, nhưng luôn ban sự trợ giúp để họ được cứu rỗi, nhờ Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, “là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, Con đầu lòng của tạo vật“ (Col 1,15). Thực vậy, từ muôn thuở tất cả mọi người được tuyển chọn, Chúa Cha “đó được trở nên Trưởng Tử trong nhiều anh em“ (Rm 8,29). Thế nên Chúa Cha muốn qui tụ những ai tin kính Chúa Kitô vào trong Giáo Hội. Từ nguyên thủy, Giáo Hội được phác thảo bằng hình bóng, được chuẩn bị kỳ diệu trong lịch sử dân Israel và trong giao ước cũ, được thành lập trong thời cuối cùng, và được biểu hiện lúc Chúa Thánh Thần ngự xuống, rồi đến ngày tận thế sẽ kết thúc trong vinh quang. Bấy giờ, như chúng ta đọc thấy nơi thánh Grêrôriô I, mọi người công chính từ Adam, “từ Abel công chính đến người được tuyển chọn cuối cùng“ sẽ được tập họp trong Giáo Hội phổ quát bên Chúa Cha. Hiến chế Giáo hội “Lumen Gentium“, 1-2
Bài đọc I, Isaia khuyến khích dân chúng lưu đầy trở về, đây là điều cần thiết. Trên đường hồi hương, phải nhiệt thành không trễ nải, vì Đền thờ bị phá hủy, vua bị truất ngôi, đất đai bị người ngoài chiếm đóng. Giữa lúc đó, dân ngoại sống trà trộn với dân Do thái không đi đày, và dân Do thai tự hỏi nhau : Thiên Chúa mà cha ông họ ở Giêrusalem tin có còn không ? Isaia cho biết Thiên Chúa vẫn giữ với lời hứa: “Ta đến quy tụ mọi dân tộc…sẽ dẫn tất cả anh em các ngươi từ mọi dân tộc đến như của lễ dâng cho Chúa, họ cưỡi ngựa, đi xe, đi võng, cưỡi la, cưỡi lạc đà, đến núi thánh của Ta là Giêrusalem“. (Is 66, 18-21)
Về phần mình, Thiên Chúa sẽ hoàn tất lời hứa. Trên thực tế, kiểu nói, “sẽ dẫn tất cả anh em các ngươi từ mọi dân tộc“ dân ngoại, nhưng cũng có thể hiểu theo nghĩa rộng là lời hứa tất cả mọi dân trên toàn cõi địa cầu. Ở đây, lời hứa : ơn cứu độ phổ quát cho toàn dân. Từ nay, anh em sẽ được hiểu là dân ở giữa dân ngoại. Quả thật, Thiên Chúa loan báo: “Ta đến quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ“, và Ngài kết luận: “Trong những dân đó, Ta sẽ chọn các tư tế, các thầy Lêvi“.
Vậy là Thiên Chúa tự mạc khải mình là Đấng trung thành, giữ trọn điều đã loan báo. “Vì tình thương Chúa dành cho chúng tôi thực là mãnh liệt, và lòng trung thành của Chúa tồn tại muôn đời“ (Tv 116,2).
Thư gửi tín hữu Do thái nói với chúng ta rằng “Khi Thiên Chúa yêu ai, thì Ngài sửa dạy người ấy, vì Chúa sửa dạy ai là kẻ Người yêu mến, và đánh đòn kẻ mà Người chọn làm con. Trong khi được sửa dạy, anh em hãy bền chí. Thiên Chúa xử sự với anh em như con cái: vì có người con nào mà cha không sửa phạt“ (Dt 12, 5-7.11-13).
Thiên Chúa không muốn cứu chúng ta mà không cần chúng ta! Và đây chính là lý do Đức Giêsu mời gọi chúng ta đi vào cửa hẹp. Các bản văn Chúa nhật tuần này gợi lên câu hỏi về tương quan giữa ta với Thiên Chúa. Nghe lời Đức Giêsu dạy mà thôi chưa đủ, cần phải sẻ chia cùng tấm bánh là chính Đức Giêsu, để được cứu chuộc. Chúng ta cam kết với nhau hoán cái, không ngừng đào sâu tương quan của chúng ta với Thiên Chúa khi đổi mới cách nghĩ của chúng ta và từ bỏ gắn bó với những thứ không cần thiết ở thế giới chóng qua này. Nói cách khác, chúng ta ngoảnh mặt trước cái tôi vụ lợi, lôi kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa. Chính Ngài là cửa hẹp (x. Ga 10). Chỉ có nơi Thiên Chúa, chúng ta mới có thể được cứu độ và được phục sinh, vượt qua cái chết với tất cả những quan niệm hạ giới để bước vào thượng giới của Thiên Chúa.
Lạy Chúa là Thiên Chúa trung thành, xin ban ơn sức mạnh cho chúng con, để với ơn Chúa, chúng con có được Chúa là Đấng mang lại cho chúng con gia nghiệp muôn đời Chúa hứa. Amen.
Trong truyền thống Á Đông, bữa ăn là dịp để sum họp gia đình hay bày tỏ tình liên đới xã hội TN 21-C166
Trong truyền thống Á Đông, bữa ăn là dịp để sum họp gia đình hay bày tỏ tình liên đới xã hội. Các tác giả Tin Mừng cũng nhiều lần đề cập đến việc Chúa Giêsu đi dùng bữa, như tại nhà ông Lêvi, tại Bêtania hoặc Chúa đi ăn cưới ở Cana. Ngài đồng bàn với những người thu thuế và tội lỗi. Đặc biệt, Chúa thiết lập Bí Tích Thánh Thể cũng trong khung cảnh một bữa ăn. Trong những lời giáo huấn, Chúa vẫn hay vay mượn hình ảnh bữa tiệc để mạc khải về mầu nhiệm Nước Trời. Bài Tin Mừng hôm nay là một ví dụ cụ thể.
Chúa Giêsu so sánh Nước Trời giống như một bữa tiệc và chúng ta là những thực khách được mời. Nhưng trong bữa tiệc này, Chúa muốn cảnh giác chúng ta ba điều. Trước hết cánh cửa dẫn vào bàn tiệc thì chật hẹp và chúng ta phải cố gắng phấn đấu để đi qua. Thứ đến, chúng ta phải nhanh chân vì sẽ đến lúc chủ nhà đứng dậy và khóa cửa lại. Sau cùng, bàn tiệc Nước Trời không phải là nơi chỉ dành cho những ai có lý lịch tốt, vì sẽ có nhiều người bị đuổi ra ngoài còn thiên hạ từ đông tây nam bắc sẽ được ngồi vào bàn tiệc. Đó là những huấn thị để nhắc nhở mỗi người chúng ta.
Bàn tiệc nước trời: Cùng đích mà chúng ta phải vươn tới
Nước Trời hay thiên đàng là phần thưởng tối hậu cho mọi Kitô hữu. Ngày xưa, Nữ hoàng Elizabeth của nước Anh đã ngạo nghễ tuyên bố: “Tôi chỉ xin Chúa cho tôi được trị vì trên ngai báu 40 năm, còn ngoài ra tôi không cần đến thiên đàng”. Chúa cho bà được làm nữ hoàng suốt 42 năm. Vàogiây phút cuối đời, khi sắp sửa đối diện trước cái chết, bà đã sợ hãi và hối tiếc vì lời thề thốt năm xưa. Đứng trước sự chết, người ta mới thấm thía được đâu là ý nghĩa cuộc đời với những câu hỏi đặt ra :‘Tôi từ đâu đến, tôi sống để làm gì và cuộc sống tôi sẽ đi về đâu?’. Trong cuộc sống hôm nay, chúng ta dễ rơi vào tình trạng vô thần mang sắc thái hiện sinh, chỉ biết hưởng thụ trong giây phút hiện tại. Sau biến cố năm 1975, một vị cán bộ đã đứng lớp dạy chính trị và nói với các linh mục: “Thôi các vị hãy hợp tác với chúng tôi để xây dựng một xã hội phồn vinh, giàu có. Còn nếu mai sau có thiên đàng thì chúng tôi mừng cho các vị. Còn nếu không có, thì cũng chẳng sao!”. Nghe nói thế, nhiều linh mục lắc đầu và bụm miệng tủm tỉm cười. Quan niệm hiện sinh này ngày nay vẫn còn khá phổ biến, khi người ta chỉ lo hưởng thụ mà không nghĩ đến cùng đích mai sau.
Con đường chật hẹp và đầy chông gai
Con đường dẫn đến ơn cứu độ không phải là con đường rộng mở thênh thang, được đan dệt bằng những bông hoa và nụ cười. Đây là con đường gian nan đầy sỏi đá gai chông. Thánh Phaolô đã từng sánh ví cuộc lữ hành đức tin như một cuộc chạy đua trên thao trường. Chỉ những ai biết phấn đấu, kiên trì mới dành được chiến thắng sau hết. Thánh nữ Catarina đã nói: “Không bao giờ có ân huệ mà không mang chở Thập giá kèm theo. Có mây mù mới có mưa. Mưa ân sủng tuôn đổ xuống trên ta khởi đầu bằng lớp mây mù của những thử thách giăng kín”.
Chúa nói hôm nay: “Hãy chiến đấu qua cửa hẹp mà vào. Nhiều người tìm cách vào mà không thể được” (c.24). Cửa hẹp cần phải luồn, phải lách, phải qua gian khổ, phải biết đi vào sự tự hủy để được sống. ‘Chính lúc chết đi, là khi vui sống muôn đời’ (lời kinh Hòa bình của Thánh Phanxicô Assisi)
Thiên đàng không theo chủ nghĩa lý lịch
Đây là điều Chúa Giêsu nhấn mạnh trong dụ ngôn hôm nay. Nhiều người thưa lên: “Chúng tôi đã từng ăn uống trước mặt Ngài”, nhưng Chúa trả lời họ : “Tôi không biết các anh từ đâu tới”.. Khi chúng ta đến trình diện trước mặt Chúa, Ngài không thích ngắm những bộ huy chương chúng ta đeo trên ngực để khoe những thành tích đạo đức. Ngài cũng chẳng bao giờ hỏi đến những bằng khen hoặc giấy khen để chứng nhận chúng ta là những Kitô hữucó lý lịch tốt. Bởi vì những thực khách trong bữa tiệc không phải được xét tuyển theo chủ nghĩa lý lịch. Chúa Giêsu đã từng nói với đám đông :“Không phải những ai cứ mở miệng nói “Lạy Chúa, Lạy Chúa, là được vào Nước Trời cả đâu”. Vì thế, trong phần kết của dụ ngôn hôm nay, Chúa nhắc lại tiêu chí căn bản để được cứu độ là phải khiêm tốn và tín thác vào Lòng Thương xót của Ngài: “Những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu và những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót”. Sự khiêm hạ là điều kiện tối cần thiết để lãnh nhận ơn cứu độ. Người trộm bị đóng đinh bên phải Chúa đã có một quá khứ đặc kín tội ác, nhưng do khiêm tốn nhìn nhận tội lỗi mình và tín thác vào lòng thương xót Chúa,ông đã trở thành vị thánh đầu tiên được Chúa Giêsu mở cửa thiên đàng đưa dẫn vào. Khiêm tốn và tin vào tình yêu Chúa là chìa khóa giúp chúng ta đạt đến ơn cứu độ và được đưa vào bàn tiệc Nước Trời mai sau.
Kết luận:
Trong năm thánh Lòng Thương xót, chúng ta được mời gọi hướng cuộc sống về với Chúa là Cha nhân hậu. Cánh cửa thiên đàng luôn mở rộng chờ đón chúng ta, nhưng con đường dẫn vào lại rất chật hẹp. Ơn cứu độ là một ơn nhưng không, do lòng thương xót của Chúa, song chỉ những ai bền đỗ đến cùng người đó mới được cứu thoát. Cửa hẹp vào thiên đàng chính là con đường Thập giá, con đường dẫn đến cái chết nhuốc khổ của Đức Giêsu, nhưng đây lại là con đường độc đạo duy nhất mà chúng ta phải dấn bước vào.
Đường hẹp là đường không rộng, đường nhỏ, có thể khó đi hoặc dễ đi. Đường hẹp sao lại dễ TN 21-C167
Đường hẹp là đường không rộng, đường nhỏ, có thể khó đi hoặc dễ đi. Đường hẹp sao lại dễ đi? Thông thường, đường hẹp không dễ đi, nhưng đường hẹp dễ đi vì ít người đi, không chen lấn. Đường hẹp muốn nói ở đây là đường tâm linh, dài thăm thẳm, hun hút, có lúc dễ đi, có lúc khó đi, thậm chí còn quanh co và gồ ghề. Người ta cũng không thích đi vào loại đường hẹp này, nhưng dễ đi hay khó đi còn tùy cách đi của người đi vào.
Cuộc đời của mỗi người như một con đường, nhưng với các dạng khác nhau. Cuộc đời là đường chạy marathon dài vô tận, nếu không cố gắng thì chúng ta sẽ bị bỏ lại ở phía sau và không bao giờ tới đích; cuộc đời là đường chạy vượt rào, nếu không cố gắng thì chúng ta không thể vượt qua bất kỳ rào cản nào; cuộc đời là đường chạy nước rút, nếu không cố gắng thì chúng ta sẽ là người chạy cuối cùng; cuộc đời là đường chạy tiếp sức, biết giúp đỡ nhau thì chúng ta sẽ chiến thắng. Kể ra cũng nhiêu khê dữ nghen!
Không nhiêu khê thì đâu có là cuộc đời. Khó, khổ, thế mới đáng khen. Trong bài “Ngục Trung Thư”, danh sĩ Phan Bội Châu (1867-1940) đã đặt vấn đề: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai?”. Hơn nhau là thế! Thật vậy, Henry David Thoreau (1817-1862, văn sĩ, thi sĩ, sử gia và triết gia người Mỹ) cũng đã chân thành nhắn nhủ và động viên: “Hãy theo đuổi con đường mà bạn có thể đi với tình yêu và lòng tôn kính, dù nó có HẸP và QUANH CO đến mức nào”.
Trình thuật Is 66:18-21 là phần đầu của “Diễn Từ Cánh Chung”, nhưng là phần cuối của sách Isaia. Thiên Chúa tuyên phán: “Còn Ta, Ta BIẾT RÕ việc làm và ý định của chúng, Ta sẽ đến tập họp mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ; họ sẽ đến và được thấy vinh quang của Ta. Ta sẽ đặt giữa họ một dấu hiệu và sai những kẻ sống sót của họ đến các dân tộc: Tác-sít, Pút, Lút, là những dân thạo nghề cung nỏ, đến dân Tu-van, Gia-van, đến những hải đảo xa xăm chưa hề được nghe nói đến Ta và chưa hề thấy vinh quang của Ta. Họ sẽ loan báo vinh quang của Ta giữa các dân tộc”.
Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Đấng Thánh duy nhất (Lv 11:44-45; Lv 19:2; Lv 20:26; Lv 21:8; Tv 89:36; Tv 99:5 & 9; Is 6:3; Br 4:22; Hs 11:9; Am 4:2; 1 Pr 1:16), Ngài cũng là Đấng thấu suốt mọi sự (Sbn 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6). Ngài không thể bị cám dỗ làm điều xấu, và chính Ngài cũng không cám dỗ ai (Gc 1:13). Chúng ta không thể hiểu thấu sự tốt lành của Ngài.
Như lời mặc khải, Đức Chúa tiếp tục tuyên phán: “Giống như con cái Ít-ra-en mang lễ phẩm trên chén dĩa thanh sạch đến Nhà Đức Chúa, người ta cũng sẽ đưa tất cả những anh em các ngươi thuộc mọi dân tộc về làm lễ phẩm tiến dâng Đức Chúa – đưa bằng ngựa, xe, võng cáng, lừa và lạc đà – về trên núi thánh của Ta là Giêrusalem. Và cả trong bọn họ, Ta sẽ chọn lấy một số làm tư tế, làm thầy Lê-vi”. Đó là quá trình Thiên Chúa biến đổi mọi thứ để tạo nên trời mới, đất mới – nơi chỉ có những thánh nhân vì chính Ngài là Đấng Thánh.
Thật vậy, nếu không tinh tuyền, chúng ta không thể nhìn thấy Thiên Chúa, sức phàm nhân không thể chịu nổi – tức là phải chết, như Ngài đã có lần nói với ông Môsê: “Ngươi không thể xem thấy tôn nhan Ta, vì con người không thể thấy Ta mà vẫn sống” (Xh 33:20).
Thế nhưng, nếu kiên trì đi hết con đường hẹp, phàm nhân sẽ trở thành thánh nhân và có thể chiêm ngắm Tôn Nhan Thiên Chúa mà không phải chết – tức là được trường sinh bất tử. Tác giả Thánh Vịnh kêu gọi mọi người cùng ca tụng Thiên Chúa: “Muôn nước hỡi, nào ca ngợi Chúa, ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Người! Vì tình Chúa thương ta thật là mãnh liệt, lòng thành tín của Người bền vững muôn năm. Alleluia” (Tv 117:1-2).
Thánh Phaolô xác định: “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta” (Ep 2:4). Đó là chân lý. Thánh Vịnh 117 cũng đề cập điều này. Đây là Thánh Vịnh ngắn nhất trong số 150 Thánh Vịnh, chỉ có hai câu ngắn. Tuy nhiên, trong đó lại chứa đựng cả Đại dương Lòng Thương Xót bao la của Thiên Chúa.
Đường hẹp dẫn tới đường rộng thênh thang. Thuốc đắng lại khả dĩ trị bệnh. Thánh công nào cũng phải trải qua nhiều khổ luyện. Hạnh phúc nào cũng cần phải có vị đắng của hy sinh và vị mặn của nước mắt. Cái khó ló cái khôn, chứ không “bó” cái khôn. Đó là tiêu chuẩn tuyệt đối. Thánh Phaolô nhắc nhở: “Anh em đã quên lời khuyên nhủ được nói với anh em như với những người con: Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt. Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không sửa dạy?” (Dt 12:5-7).
Về việc giáo dục trong gia đình, người Việt cũng có câu nói tương tự: “Thương con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi”. Tất nhiên câu này phải được hiểu ở nghĩa tương đối, không thể hiểu theo nghĩa đen và tuyệt đối. Không ai muốn bị sửa trị, nhưng có vậy mới thành nhân. Thánh Phaolô giải thích thêm: “Ngay lúc bị sửa dạy thì chẳng ai lấy làm vui thú mà chỉ thấy buồn phiền. Nhưng sau đó, những người chịu rèn luyện như thế sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính. Bởi vậy, hãy làm cho những bàn tay bủn rủn, những đầu gối rã rời, nên mạnh mẽ. Hãy sửa đường cho thẳng mà đi, để người què khỏi trật bước và hơn nữa, còn được chữa lành” (Dt 12:11-13).
Trình thuật Lc 13:22-30 cho biết rằng, đang khi trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy. Có kẻ hỏi Ngài: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?”. Người bảo họ: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được”. Chúa Giêsu luôn “chơi sốc”, ai cũng thích đi đường rộng, đường thoáng, đường trải hoa, đường trải thảm, thế mà Ngài lại bảo phải đi đường hẹp. Ui da, “căng” thật đấy!
Căng thì căng thật đấy, có căng mới thẳng, nhưng không bị đứt. Chúa Giêsu giải thích rằng khi chủ nhà đã khoá cửa mà chúng ta còn đứng ở ngoài, gõ cửa, xin vào, thì chủ nhà sẽ bảo là không biết ai từ đâu đến. Lúc đó, chúng ta dẫn chứng là từng được ăn uống trước mặt chủ nhà và cũng đã từng được nghe chủ nhà giảng dạy trên các đường phố. Nhưng chủ nhà vẫn nhất quyết là không biết chúng ta từ đâu đến. Chủ nhà chính là Thiên Chúa. Nếu chúng ta là người không thích đi vào đường hẹp, chính Ngài sẽ nói thẳng với chúng ta: “Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!”. Ôi, thật là đáng kinh sợ biết bao!
Mọi người đều có loại thập giá riêng của mình, Chúa biết sức ai thế nào thì trao cho loại thập giá vừa sức ngưới ấy: “Không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức loài người. Thiên Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ không để anh em bị thử thách quá sức; nhưng khi để anh em bị thử thách, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng” (1 Cr 10:13). Chắc chắn là vậy, vì Thiên Chúa thấu suốt mọi sự, biết trước cả những gì chúng ta chưa nghĩ tới.
Có một đoàn người đi qua một khu rừng rậm, có nhiều thú dữ, mà đường đi khó khăn lắm. Ai cũng cố gắng vác thập giá của mình mà đi, người nhanh kẻ chậm, nhưng không một ai than thở điều gì. Trong số đó có một người cảm thấy thập giá của mình vừa dài vừa nặng, chỗ thì trơn, chỗ thì ráp, kê vai vào chỗ nào cũng khó, thế là anh ta quyết định cưa bớt cho khỏi dài, rồi lại đẽo bớt cho nhẹ hơn. Khi đến một thung lũng, mọi người đều dùng thập giá của mình làm cầu để đi qua. Ai cũng qua được hết, chỉ còn lại anh ta cứ loay hoay mãi mà không thể nào bắc thập giá qua thung thũng để làm cầu đi qua. Cuối cùng, đêm tối phủ xuống, tiếng thú dữ bắt đầu gầm rống vang cả khu rừng…
Số phận anh ta thế nào thì không nói cũng biết. Thật vậy, Chúa Giêsu đã nói về số phận đời đời của những người chiều xác thịt như anh chàng kia: “Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”.
Cuối trình thuật Tin Mừng hôm nay là một câu quan trọng và đáng lưu ý: “Có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót” (Lc 13:30). Kiểu hoán vị như thế này thực sự đáng để mỗi chúng ta phải “giật mình” mà xét mình một cách nghiêm túc – ít nhất là từ hôm nay, ngay lúc này!
Đề cập con-đường-hẹp-đau-khổ, văn thi sĩ Clive Staples Lewis (Anh quốc) chia sẻ cảm nhận: “Thiên Chúa thầm thì với chúng ta khi chúng ta vui, nhưng Ngài nói to trong lương tâm của chúng ta khi chúng ta đau khổ”. Như vậy, chúng ta không nghe thấy tiếng Chúa chỉ vì chúng ta không muốn nghe hoặc cố ý làm ngơ mà thôi.
Các thánh là những người “ngược đời” nên các ngài yêu quý đau khổ và nói nhiều về đau khổ, nghĩa là các ngài thích đi vào Đường Hẹp. Thánh Phanxicô Assisi lý giải: “Tôi hy vọng rất nhiều về cái hay, cái tốt. Vì vậy mà tất cả đau khổ đều là dễ thương”. Thánh Vinh-sơn Phaolô (Vincent de Paul) so sánh: “Một người càng tấn tới trong việc yêu mến Thiên Chúa thì nhất định càng yêu thích đau khổ, chịu bị khinh thường, đó chính là dấu hiệu của lửa tình ái, những thứ khác đều là mây khói”. Thánh Aloisiô Gonzaga: “Người nào muốn yêu mến Thiên Chúa nhưng lại không muốn vì Ngài mà chịu đau khổ thì không thể yêu Ngài cách chân chính”.
Còn Thánh Teresa Hài Đồng (Thérèse Martin de Lisieux) can đảm xác định: “Tôi thích sự đơn điệu của sự hy sinh vô danh tới mức xuất thần. Nhặt một cây kim vì yêu mến cũng có thể hoán cải một linh hồn. Tôi thích hy sinh thầm lặng để cứu các linh hồn. Tôi thấy được trong nỗi đau khổ thầm lặng có sự đau khổ cứu độ, chính đau khổ là việc tông đồ của tôi. Tôi đi tu Dòng Kín để cứu các linh hồn và cầu nguyện cho các linh mục. Tôi muốn dùng Nước Trời của tôi để làm những điều tốt lành trên thế gian”.
Nhờ ơn Chúa, Đường Hẹp sẽ trở nên Đại Lộ cho những người can đảm vượt qua chính mình. Đặc biệt là khi người ta đi vào đường hẹp, tâm hồn được mở rộng. Đức tin được chứng tỏ rõ nét trong nỗi đau khổ tột cùng, chứ không thể chứng minh bằng lời nói suông. Thánh nhân điển hình là Thánh Gióp, trong đau khổ tột cùng mà “ông Gióp không hề phạm tội cũng không buông lời trách móc phạm đến Thiên Chúa” (Gióp 1:22). Đó mới là đức tin đích thực, đức tin có hành động cụ thể, nếu không thì đó chỉ là đức tin “chết” (Gc 2:17 và 16).
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết đón nhận mọi sự với cả sự ý thức và niềm tín thác vào Ngài, xin cũng giúp con hành động vì yêu mến Ngài để sinh ích lợi cho các linh hồn và cho chính con nữa. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Khi suy niệm Lời Chúa CN XXI/TN-C (Lc 13, 22-30), mới đọc tiêu đề bài Tin Mừng, tự nhiên TN 21-C168
Khi suy niệm Lời Chúa CN XXI/TN-C (Lc 13, 22-30), mới đọc tiêu đề bài Tin Mừng, tự nhiên nảy sinh thắc mắc: Tại sao lại là “Cửa hẹp. Thiên Chúa ruồng bỏ người Do-thái bất trung và kêu mời dân ngoại”? Người It-ra-en bất trung bị ruồng bỏ và thay vào đó, Thiên Chúa kêu mời dân ngoại là điều dĩ nhiên; nhưng như thế thì có liên quan gì đến “cửa hẹp”? Bình tĩnh đọc tiếp mới thấy mối liên hệ giữa cửa hẹp và sự “ruồng bỏ người Do-thái bất trung”. Đó là câu chuyện “Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy. Có kẻ hỏi Người: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” Người bảo họ: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.” Những người được cứu thoát tất nhiên là những người đã phải chiến đấu hết mình – thậm chí hy sinh cả tính mạng – để qua được cửa dẫn vào Nước Trời. Điều đó cho thấy cửa Nước Trời là cửa hẹp.
Đọc Tin Mừng Mat-thêu có cùng chủ đề thỉ vấn đề sáng tỏ hơn: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.” (Mt 7, 13-14). Khi phải đi theo đường chật và phải tìm phương cách để vào được cửa hẹp thì tất nhiên sẽ “có nhiều người tìm cách vào mà không thể được”. Những người đó không ai khác hơn là những “người Do-thái bất trung”. Chỉ những người bất trung, không nghe và không tin vào Lời Ông Chủ, mới bị Ông Chủ đuổi: “Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính”. Riêng những người như “các ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả các ngôn sứ” đã kiên cường chiến đấu chống lại kẻ thù gian ác, một lòng trung tín với Ông Chủ, nên đã vượt qua được đường chật mà vào cửa hẹp để “được ở trong Nước Thiên Chúa”.
Hình ảnh cửa hẹp khiến người đọc hình dung ra ngay một sự khó khăn để có thể vượt qua được cửa đó, mà cửa đó lại là cửa vào Nước Thiên Chúa. Nói về Nước Thiên Chúa ai chẳng nghĩ rằng đó là một Nước, một Vương Quốc mênh mông không biên giới, vô hạn định. Đã không có giới hạn rõ rệt thì tại sao lại có cửa hẹp? Một lần nữa, Đức Giê-su lại dùng cách nói “ẩn dụ” với những “ý tại ngôn ngoại” (ý ở ngoài lời) trái ngược nhau nhằm gây ấn tượng sâu sắc trong lòng người nghe. Trong Tin Mừng Mat-thêu, Lời dạy trên được diễn tả rõ hơn (như đã dẫn trên – Mt 7, 13-14). Cùng một ý, còn thấy “Bấy giờ Đức Giê-su nói với các môn đệ của Người: “Thầy bảo thật anh em, người giàu có khó vào Nước Trời. Thầy còn nói cho anh em biết: con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” (Mt 19, 23-26). Con lạc đà chui qua lỗ kim là một chuyện không tưởng, vậy mà còn dễ hơn người giàu có vào được Nước Thiên Chúa. Phải chăng cái lỗ kim ấy chính là cửa hẹp?
Cửa hẹp mà không phải cửa hẹp. Cửa hẹp là cửa khó vào. Muốn vượt qua được cửa hẹp phải biết thu nhỏ mình lại, mà thu nhỏ mình lại thì tức là phải ăn kiêng để giảm béo, bớt cân, còn phải trui rèn ý chí, tập luyện thể lực. Nói khác hơn là phải hãm mình ép xác, khiêm nhường chịu lụy. Thu nhỏ mình là “ai muốn đoạt áo trong của mình thì hãy cho họ luôn cả áo ngoài”, là “ai vả má bên trái thì hãy đưa cả má phải cho họ vả tiếp” (Mt 5, 38-44). Thu nhỏ mình là hành động của chính Người đã dạy về cửa hẹp, đó là: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2, 6-8). Song song với đức tính khiêm nhường chịu lụy, còn phải biết mở rộng trái tim, thực hành bác ái. Cũng vì thế, nên cửa hẹp chẳng ai muốn vào dù đã được mách bảo qua được cửa hẹp là vào được cõi phúc. Người ta chỉ thích đi tìm những cửa rộng, bởi đó là lối đi có những mời gọi ngọt ngào, những cuốn hút mê đắm.
Vào cửa hẹp phải như vậy, nên số người vào được cửa hẹp chỉ là thiểu số, còn đa số vẫn là những kẻ không vào được. Họ là ai? Đó là những người đã ăn uống ở trước mặt Chúa và đã thấy Người đi lại giảng dạy nơi phố xá của họ, nhưng vẫn làm điều phi nhân bạc nghĩa. Ðó là những người Na-da-ret đồng hương, những người Do-thái đồng thời với Ðức Giê-su – nhất là những kinh sư, luật sĩ, tư tế chỉ thích “ngồi trên toà ông Mô-sê” mà giảng dạy – đã không tin thì chớ, mà còn âm mưu giết hại cả Đấng Cứu Độ mình. Họ sẽ bị xua đuổi ra khỏi nhà đang có các tổ phụ và các tiên tri vui hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa. Họ sẽ bị tống ra ngoài, nơi sẽ có khóc lóc và nghiến răng; trong khi có nhiều người từ khắp nơi Ðông, Tây, Nam, Bắc (tức là dân ngoại) lại được vào dự tiệc Nước Trời. Tiêu đề bài Tin Mừng hôm nay đã nói lên tất cả: “Cửa hẹp. Thiên Chúa ruồng bỏ người Do-thái bất trung và kêu mời dân ngoại”.
Dân chính hiệu (được tuyển chọn) là những người đứng hàng đầu thì bị tống ra ngoài, để dân ngoại là những kẻ tới sau đứng ở hàng cuối lại được vào dự tiệc Nước Trời. Chuyện khó tin nhưng có thật 100% (“Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót.” – Lc 13, 30). Thế đó! Cũng cần nói rõ Đức Giê-su chỉ nói “Có những kẻ…”, chớ không phải tất cả. Vậy thì không phải tất cả những kẻ “đứng hàng đầu” đều xuống cuối và tất cả những kẻ “đứng hàng cuối” sẽ được lên hàng đầu. Chung quy thì chỉ có những ai tin nghe và sốt sắng hành động theo Lời dạy của Đấng Cứu Thế, thì dù có tới sau, đứng cuối, cũng sẽ được lên hàng đầu. Và chỉ những kẻ bất lương mới bị tống ra ngoài mà thôi.
Nếu chỉ được mời gọi chọn đường chật, cửa hẹp để đạt được ước nguyện, thì chắc chắn đa phần đều ngán ngại. Tiền bán thế kỷ XX, học giả Nguyễn Bá Học viết một câu thật chí lý: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi, e sông”. Chúng ta cũng có thể nói: “Hành trình chiếm hữu Nước Trời khó vượt qua không phải vì cửa hẹp, mà khó vì lòng người ngán ngại cửa hẹp mà thôi”. Trải qua 2000 năm, những tấm gương chọn cửa hẹp để vào được Nước Thiên Chúa có rất nhiều, nhiều không kể xiết. Từ các thánh hiển tu, ẩn tu, các thánh đồng trinh, đến các thánh nam cùng các thánh nữ, đặc biệt hơn cả là các thánh tử vì đạo đã chọn cách vượt qua cửa hẹp bằng chính sinh mạng của mình.
Tóm lại, để vào được Nước Thiên Chúa, để chiếm hữu được Nước Trời, không phải chuyện dễ dàng. Nó đòi hỏi quyết tâm đã đành, nhưng còn phải có được đức nhẫn nại, vượt khó, dám hy sinh, chấp nhận gian khổ thử thách, và nhất là phải bền lòng với Đức MẾN, kiên trung với Đức TIN mà mình đã phó dâng trọn cả cuộc đời; đồng thời phải biết CẬY nhờ vào Lửa Thánh Linh soi sáng hướng dẫn, hun đúc tâm can cho thêm dũng cảm vượt qua thử thách. Chỉ “những người chịu rèn luyện như thế sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính. Bởi vậy, hãy làm cho những bàn tay bủn rủn, những đầu gối rã rời, nên mạnh mẽ. Hãy sửa đường cho thẳng mà đi, để người què khỏi trật bước và hơn nữa, còn được chữa lành.” (Dt 12, 11-13). Ước được như vậy.
Ôi! Lạy Chúa! Xin cho con được trở nên đơn sơ bé nhỏ, biết sống khiêm nhu tự hạ trong tâm tình hiền hậu “Mến Chúa yêu người”. Cúi xin Chúa thương ban Thần Chân Lý hướng dẫn dạy dỗ con biết đâu là cửa hẹp đường chật, đồng thời thêm sức cho con có đủ nghị lực và can đảm vượt qua mọi thử thách nghiệt ngã trên con đường chật đầy cạm bẫy chông gai, để vào được cửa hẹp và nghỉ an trong Trái Tim Chúa. Ôi! Lạy Chúa! “Trong Trái Tim Chúa yêu muôn đời, con xin được một chỗ nghỉ ngơi, nhỏ bé thôi, nhỏ bé thôi, như nước mưa tan trong biển khơi. Nhỏ bé thôi, nhỏ bé thôi, trái tim con trong Trái Tim Người, nhỏ bé thôi, nhò bé thôi, là tình con trong khối Tình Người.” (TCCĐ “Trong Tim Chúa”).
Lời Chúa là Cửa Hẹp, sống theo Lời Chúa là đi qua cửa hẹp. Vâng, thưa quý vị, thưa các bạn TN 21-C169
Lời Chúa là Cửa Hẹp, sống theo Lời Chúa là đi qua cửa hẹp. Vâng, thưa quý vị, thưa các bạn, vậy “ cửa hẹp” là gì? Thưa, đó là “chiến đấu nội tâm”. Ngày nay , chúng ta thấy , càng mở rộng đường, thì đường càng hẹp. Chúng ta thấy, có con đường rộng nào mà không bị hẹp, nạn kẹt xe cũng không “bỏ qua” những con đường rộng. Đường rộng “thênh thang” theo nhãn quan con mắt trần thế, chưa chắc là ”đường rộng”. Bởi vì, những con đường đi của trần thế vẫn luôn bị chật hẹp. Theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng thì thế gian “cần” đường rộng, đường càng rộng càng tốt. Nhưng, thực tế những con đường rộng để đi của trần thế, thì không hẳn là những “con đường an toàn “ Thực tế, chúng ta nhìn thấy , những con đường chật hẹp, gồ ghề khó đi, lại là những con đường “ an toàn “ cho người đi từ cổ chí kim là như thế . Theo đó, thế gian luôn cần những con đường rộng, đi trên con đường rộng, nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Nhưng, Chúa Giêsu thì khác với thế gian, Người kêu gọi những ai bước theo Người, thì phải đi trên con đường hẹp, vì đường rộng sẽ dẫn đến diệt vong.
Vâng, từ thực tế nêu trên, Chúa Giêsu, đã đưa một dẫn chứng cụ thể về “ con đường tâm linh”. Con đường tâm linh, phải là ”con đường hẹp ”, có thể nói càng hẹp càng tốt. Con đường hẹp mà Chúa Giêsu nói chính là Lời Tin Mừng được gieo vào mảnh đất tâm hồn chúng ta.. Con đường hẹp của Tin Mừng chỉ đủ “lọt” một người đi. Nó không như con đường rộng thênh thang của thế gian. Vì chính Chúa Giêsu nói : “ Hãy chiến đấu để qua được của hẹp mà vào…” , vì Tôi nói cho anh em biết : có nhiều kẻ muốn tìm cách vào mà không được.” ( c 24)
Cửa hẹp, đường hẹp thì mặc nhiên khó vào, khó đi, tuy nhiên cũng có nhiều kẻ muốn vào mà không được. Điều nầy có nghĩa là, Nước Trời rộng thêng thang, nhưng “cửa” vào Nước Trời rất khó qua lọt. Đoan Lời Chúa hôm nay cũng có thể nói là đoan Lời Chúa : Quy chế nên thánh. Vì tất cả các thánh đều đi qua cửa hẹp, không có vị thánh nào đi cửa rộng mà vào được.
Tất cả những ai vào được Nước Trời đều là thánh, tuy nhiên, những vị thánh được tuyên phong bởi giáo hội là những vị thánh “xuất sắc”, ưu tuyển . Như, Mẹ Teresa Calcutta, mà ngày 04/09/2016 sắp tới đây, Giáo hội sẽ tuyên phong Mẹ cách công khai Mẹ là “ thánh ”, sau một thời gian là chân phước,. Chân Phước có nghĩa là cái Phúc Thật, theo Lời của Chúa Giêsu, trong tám mối Phúc Thật. Vâng, một tấm gương “Cửa Hẹp”, mà hôm nay , cũng chính nhờ Lời của Chúa Giêsu mà Mẹ đã phấn đấu suốt cuộc đời .
Khởi đi từ bài đọc I ( Is 66, 18 -21) hôm nay, chúng ta thấy đọan ( Is 66, 18 -21) là đoạn cuối của Sách Isaia. Thiên Chúa sẽ quy tụ, sẽ tập hợp mọi dân, mọi nước, tức sự kêu gọi và tuyển chọn ngoài dân Dothai . Vì, dân Dothai luôn ngộ nhận rằng Thiên Chúa sẽ ban cho họ một thiên đường trần gian. Hôm nay, chính Chúa Giêsu nói rõ cho họ biết. “ Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu. Còn những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót ” (c30)
Bài đọc II, ( Dt 12, 5 -7 : 11 -13), thánh Phaolo hôm nay cho chúng ta một ý nghĩa về “cửa hẹp“ đó là sự sửa dạy của Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu ai, thì mới sửa dạy kẻ ấy. Như, chúng ta biết Nước Trời là Vương Quốc Tình Yêu. Vì vậy, ai muốn vào Nước Trời, thì phải được Thiên Chúa sửa dạy, chứ không phải ai muốn vào thì vào. Rõ ràng, thế gian là một mớ hỗn độn, tuy nhiên, trong sự hỗn độ ấy, không phải là mất hết trật tự, theo nghĩa đen, nhưng, về nghĩa bóng thì không ai có thể khống chế được. Như vậy, lúc đó chúng ta mới thấy Lời Chúa hôm nay giá trị biết bao.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã giáo huấn cho chúng con một công thức tuyệt vời đó là “ Cửa Hẹp”, vì nếu muốn vào Nước Trời, mà không qua cửa hẹp, thì thật là phí công. Vì cửa hẹp chính là lối đi chắc chắn để vào Nước Trời, vì ,Nước Trời chì duy nhất có một đường đi, đó là: “ÉP mình theo Chúa”. Xin cho mọi người nhận ra chân lý nầy hầu đến được bến bờ yêu thương là chính Chúa ./. Amen
Xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài dạy con trong đêm tối, xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài dạy con lúc lẽ loi./. Amen.
Nhiều người khi được hỏi tại sao theo đạo Công Giáo? Tại sao lại tin vào Chúa? Họ trả lời thật TN 21-C170
Nhiều người khi được hỏi tại sao theo đạo Công Giáo? Tại sao lại tin vào Chúa? Họ trả lời thật dễ dàng : Để khi chết được vào nước Thiên đàng. Câu trả lời xem ra đơn giản, dễ dàng. Bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Luca cho thấy Đức Giêsu cảnh báo về điều ấy, khi trả lời một người phỏng vấn Người :”Thưa Ngài, người được cứu thóat thì ít, có phải không ? “. Chúa không trả lời thẳng là ít hay nhiều, hay tất cả. Chúa bảo họ: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: Có nhiều kẻ sẽ tìm cách vào mà không thể được “.
Vào Thiên đàng để được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu sau cuộc sống trần gian, ai cũng mong được như vậy. Tất nhiên cửa đến không rộng mở để ai cũng thảnh thơi tiến vào. Con đường đạt đến hạnh phúc, như lời Đức Kitô là một con đường đi qua cửa hẹp, không phải vì Chúa hạn chế. Nhưng vì muốn đi con đường ấy thì phải chấp nhận đi vào khuôn khổ. Cũng vì phải theo một khuôn khổ ,nên cửa vào chỉ vừa đủ cho những người biết chấp nhận chiến đấu mỗi ngày mà vào. Chiến đấu ở đây không phải là chiến đấu chống lại nhau để giành chỗ vào, mà là chiến đấu với chính bản thân mình. Con đường dẫn đến cửa vào đó là con đường nào? Chính là con đường Chúa đã đi qua để đem chính mình Người làm của lễ hiến tế Thiên Chúa Cha trên đồi Can-vê. Con đường thương khó đó dẫn chúng ta đến cửa nước Trời. Cửa hẹp nhưng lần lượt từng người, từng người được Chúa đón tiếp.
Nhiều người khi biết hạnh phúc nước trời Chúa hứa ban thì tìm mọi cách để vào, theo cách nghĩ của mình. Tưởng rằng với công trạng nào đó nơi trần gian, tự cho mình có nhiều việc đạo đức nên chắc chắn sẽ được đền bù khi đến trước tòa Chúa. Một số khác thì cho rằng mình đã từng bao lần tham dự những cuộc lễ lớn trong đạo, đã từng cầu kinh, khấn khứa; dâng cúng lắm của, nhiều tiền. Tham gia những buổi hành hương dài ngày với biết bao tốn phí, trong lúc những người khác không dám làm như họ, hay không làm được như họ. Các vị ấy chắc mẩm Chúa sẽ cho vào qua cửa một cách thong dong, hoặc giả sử, cửa có đóng lại rồi thì khi gõ, Chúa sẽ ra đón và mời vào.
Nhìn lại mình, con cũng đã từng nghĩ như thế. Con đã từng tự hào là yêu mến Chúa nhiều hơn người khác. Con tham gia nhiều hội đoàn, sẵn sàng có mặt trong các buổi sinh hoạt đạo đức xa gần. Kinh hạt con thuộc, thánh ca con thông thạo, đến chỗ nào con cũng được tiếng là người mộ đạo, sốt sắng, nhưng còn những người khác bên con, con chẳng hề quan tâm đến. Tính mê nết xấu vẩn tồn tại trong con, con chưa dám rũ bỏ để nhẹ gánh mà đi qua cửa hẹp. Con vẫn chạy theo những đam mê, ích kỷ cá nhân, vẫn tin Chúa ngòai môi miệng, với những họat động mang tính khoe khoang, hơn người . Xin Chúa giúp con sửa chữa bản thân mình.
“ Lạy Chúa ! Con đường nào Chúa đã đi qua, con đường nào Ngài ra pháp trường?
“ Lạy Chúa ! Xin cho con bước đi theo Ngài, xin cho con cùng vác với Ngài, thập giá trên đường đời con đi. Lạy Chúa ! Xin cho con đóng đinh với Ngài, xin cho con cùng chết với Ngài, đễ được sống với Ngài vinh quang “. AMEN. ( con đường Chúa đi –Văn Chi ).
Trong kinh thường đọc của hội Hiền mẫu mỗi Thứ Bảy đầu tháng có câu “Lạy Chúa, xin cho TN 21-C171
Trong kinh thường đọc của hội Hiền mẫu mỗi Thứ Bảy đầu tháng có câu “Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu biết con cái để giáo dục chúng như ý Chúa muốn. Xin cho chúng con được mềm mại mà không nhu nhược, cương quyết mà không cứng cỏi, được khôn ngoan và nhẫn nại trong việc giáo dục con cái. Xin cho chúng con biết tùy lúc yên ủi hay quở trách để hướng dẫn con cái đi trong đường lành, và kịp thời ngăn chặn những nguy hiểm hồn xác xâm nhập vào đời chúng.” Câu này nói lên lòng ao ước của phụ huynh cha mẹ nhận biết khi nào phải cương quyết và khi nào mềm mại trong việc giáo dục và hướng dẫn con cái. Cha mẹ cố gắng hết sức vì muốn con cái làm những việc phải và lành, tránh những việc sai trái và sự dữ, để có đời sống tốt lành hiện tại và thành công cũng như có đời sống hữu ích khi trưởng thành trong cuộc sống.
Ông bà anh chị em thân mến. Tin hay không tin, đó cũng chính là điều Chúa muốn dạy chúng ta. Trên hết, Chúa muốn chúng ta sống trong bình an và ân sủng của Chúa đời này và sau đó là hưởng hạnh phúc vĩnh cửu đời sau. Vì vậy Lời Chúa trong bài đọc hai hôm nay dạy chúng ta “Hỡi con, con chớ khinh thường việc Chúa sửa dạy, và đừng nản chí khi Người quở trách con; vì Chúa sửa dạy ai là kẻ Người yêu mến, và đánh đòn kẻ mà Người chọn làm con.” Có lẽ chúng ta thường nghĩ giới răn hay luật lệ của Chúa lấy đi sự tự do và vui mừng trong đời sống của chúng ta. Hãy giữ ngày Chúa nhật, phải thảo kính cha mẹ, không được ngoại tình, không làm chứng dối, không được không lấy vợ chồng người, phải hy sinh phục vụ, có đời sống ngay thẳng, công bằng và có lòng bác ái quảng đại là những giới luật và lời của Chúa. Chúa dạy chúng ta phải tuân giữ, cũng như sẽ phải chịu trách nhiệm về thái độ và cách sống của chúng ta, không phải là Chúa muốn lấy đi hạnh phúc cuộc sống của chúng ta, nhưng như một cha mẹ yêu thương, Chúa muốn chúng ta được hạnh phúc muôn đời. Ngài còn sai ban cho chúng ta chính Con Một Người là Chúa Giê-su Ki-tô xuống trần để tiếp tục dạy dỗ, và đảm bảo cho chúng ta được một phần, một chỗ trên Nước Trời, nơi đó sẽ không còn đau khổ, gian truân và sự chết, mà chỉ còn hạnh phúc, tình yêu và vui mừng.
Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết Chúa Giê-su đang trên con đường lên Giê-ru-sa-lem, nơi mà sự giảng dạy không những sẽ đem đến cho Người sự đau khổ và cái chết trên thập giá, mà còn là nơi khơi nguồn vinh quang hạnh phúc Nước Trời. Một người đến hỏi Chúa Giê-su “Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?” Chúa Giê-su không trả lời thẳng vào câu hỏi, Người cũng không cho chúng ta biết ai hay bao nhiêu người sẽ vào Nước Trời. Nhưng cũng như tiên tri I-sa-i-a trong bài đọc một, Chúa Giê-su làm cho những người nghe Người sửng sốt, và cho họ cũng như chúng ta biết một điều thật rõ ràng: Nước Trời được ban tặng cho tất cả mọi người, mọi quốc gia, mọi dân tộc từ Nam chí Bắc và từ Đông sang Tây.
Ông bà anh chị em thân mến. Tôi thường tự hỏi và tôi cũng nghĩ chính ông bà anh chị em cũng có thể hỏi tại sao Chúa không trực tiếp trả lời câu hỏi “Phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?” Tôi thường ngẫm nghĩ và lấy làm lạ tại sao Chúa lại không trả lời trực tiếp vào câu hỏi của những người hỏi Người thí dụ như: “Các bạn là dân riêng được tuyển chọn và có sự liên hệ với Thiên Chúa, các bạn bảo đảm chắc chắn sẽ được cứu độ, sẽ được hạnh phúc Nước Trời.” Tôi tin rằng những người được nghe Chúa nói như vậy sẽ bằng lòng tự mãn, khoái chí và ỷ y, trở nên lười biếng và tự do sống theo ý mình, muốn làm và muốn sống như thế nào tùy ý, hay tự nhủ đã được bảo đảm cứu rỗi, vào Nước Trời thì cần gì phải cố gắng làm gì nữa, như thế là đủ rồi. Và nếu thí dụ như Chúa nói “Chỉ có một số ít được cứu độ vào Nước Trời thôi” thì sẽ làm cho người khác bất mãn, giận dữ, và có phản ứng không tốt hay có những thái độ bất cần như nếu không được cứu độ vào Nước Trời thì thôi, tại sao phải cố gắng trở nên tốt, phải làm việc tốt. Chắc chắn Chúa Giê-su không muốn tạo nên những thực cảnh như thế, và Chúa cũng không muốn chúng ta khinh thường, ỷ y và tự mãn về được cứu độ. Chúa muốn khuyên dạy chúng ta đừng bao giờ có những tư tưởng chủ quan được bảo đảm cứu độ hay vào Nước Trời, nếu chúng ta chỉ có sự liên hệ bên ngoài với Chúa hay thuộc về nhóm, hay đạo, hay thuộc về một quốc gia, dân tộc nào đó mà thôi, mà phải cố gắng vào Nước Trời qua cửa hẹp, vì vậy Chúa tuyên bố cho chúng ta biết “Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp.”
“Cố gắng vào qua cửa hẹp.” Lời này của Chúa làm cho tôi liên tưởng đến cửa của một nơi chốn có giới hạn thước tấc rõ ràng, và như thế cũng cho chúng ta biết giới hạn rõ ràng về cuộc sống của chúng ta theo như ý Chúa muốn, theo như lời Chúa dạy. Cửa hẹp biểu hiệu cho cuộc sống theo thánh ý Chúa, theo lời và giới răn Chúa dạy như: giữ ngày Chúa nhật, thảo kính cha mẹ, không được ngoại tình, không làm chứng dối, không được không lấy vợ chồng người, phải hy sinh phục vụ, có đời sống ngay thẳng và có lòng bác ái quảng đại. Hay nói rõ hơn Nước Trời không thuộc về những ai chỉ tin bề ngoài, mà phải có lòng xác tín vào Chúa, biết lắng nghe và nhất là thực hành lời Chúa dạy bảo.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta không biết bao nhiêu người cố gắng và vào được Nước Trời qua cửa hẹp, đó là một sự bí ẩn, nhưng Chúa nói rõ cho chúng ta biết “Ta bảo các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được.” Vì vậy, Lời Chúa cho tôi biết và tôi tin rằng cũng cho ông bà anh chị em biết, không phải tất cả mọi người đều được cứu rỗi, hay tất cả mọi người đều được vào Nước Trời khi họ qua đời. Tin hay không tin, nhưng đó không phải là điều Chúa nói với chúng ta. Nhưng tôi cũng hy vọng điều đó không làm cho ông bà anh chị em và tôi, tất cả chúng ta chán nản và thất vọng, nghĩ rằng mình không có cơ hội. Chúng ta đừng quên sách Khải huyền của thánh Gioan cho chúng ta biết một hình ảnh Nước Trời trong đó có vô số người, không đếm nổi, đứng bên cạnh ngài vàng của Thiên Chúa ca vang lời tôn vinh Ngài. Cho nên cho dù Chúa Giê-su tuyên bố nhiều người cố gắng mà không vào được, nhưng sẽ có nhiều người cũng chia sẻ vinh quang hạnh phúc với Chúa trên Nước Trời: những người xác tín vào Chúa và quyết định một sự cố gắng để đi qua cửa hẹp, thì sẽ vào được. Xin Chúa ban ơn, thêm sức để chúng ta quyết tâm cố gắng sống lời Chúa dạy.
Tục ngữ có câu : cúng quanh năm không bằng rằm tháng bảy. Trăm lời nói yêu, vạn lần khóc lóc TN 21-C172
Tục ngữ có câu : cúng quanh năm không bằng rằm tháng bảy. Trăm lời nói yêu, vạn lần khóc lóc nhớ thương, hẳn không bằng một lần hiếu thảo lúc cha mẹ đang hiện hữu trong gia đình. Cánh cửa mắc tiền, chưa chắc đã là cánh cửa vững vàng, cánh cửa vĩ đại nhất, chắc gì đã phải là cánh cửa hạnh phúc ? Làm người phải đắn phải đo, phải cân nặng nhẹ, phải dò sông sâu. Các học trò biết hỏi, biết thắc mắc là dấu hiệu tốt, người khôn ngoan luôn tìm trang bị cho mình kiến thức, nhưng chỉ những ai một lòng tìm kiếm sự sống đời đời, người ấy sẽ có cơ hội gặp được “cánh cửa Giêsu”.
Tại cuộc sống trần thế, người ta nói tới nhiều cánh cửa : cánh cửa đại học, cánh cửa quyền lực, cánh cửa tự do…., tất cả đều mở ra một hy vọng, dù xác xuất hạnh phúc chỉ tương đối. Đức Giêsu hôm xưa Ngài đã hướng đám đông tới “cửa hẹp”, hãy chiến đấu “qua cửa hẹp”, bí mật cánh cửa ấy sẽ rộng mở cho ta. Hôm nay đây, kẻ trước người sau tiếp tục khám phá cửa hẹp, chiến đấu vượt qua để đến với “vương quốc hạnh phúc”. Cửa hẹp là gì, đằng sau cửa hẹp được mô tả thế nào, từng người, từng tâm hồn, đang có nhiều phát hiện mới trong tương quan với Đức Giêsu và Nước Trời.
Ở đời người ta vẫn quan niệm : nhà cao, cửa rộng, vừa thông thoáng, vừa cho thấy sự sang trọng và đẳng cấp. Chúa Giêsu không đề cao chật hẹp theo nghĩa vật chất, Ngài đi con đường nhỏ hẹp, và mời gọi những ai theo Ngài hãy chiến đấu để cùng vượt qua cửa hẹp. Thực ra, Đức Giêsu chính là cánh cửa mở ra để những ai ở trong Ngài sẽ thấy được tình yêu, tìm được sự đỡ nâng. Đức Giêsu là quà tặng của những tâm hồn đang khao khát được bồi bổ tâm linh, Đức Giêsu là niềm vui cho những học trò đã từng được giải gỡ nhiều bài toán khó nơi tâm hồn.
Cha ông chúng ta để lại cho con cháu một kinh nghiệm : sông sâu chớ lội, đò đầy chớ đi. Chúa Giêsu đi qua cửa hẹp, Ngài gián tiếp nói con đường rộng rãi thênh thang là con đường dẫn đến sự chết, không có sự sống. Con đường nhỏ hẹp là con đường khó đi, do đó người ta sẽ bớt tự mãn, không cậy dựa vào mình, đồng thời biết khiêm tốn cần đến Chúa và anh chị em. Đi qua cửa hẹp là đi qua “cánh cửa Giêsu” để ta thấy được kế hoạch của tình yêu Chúa đang biến đổi tâm hồn ta nên xứng hợp với Nước Thiên Chúa. Dù nhiều vẫn tỏ ra mình khôn ngoan đã từng đọc, hiểu, được câu thành ngữ : ôm rơm rặm bụng, nhưng lại không bỏ bớt những cồng kềnh để qua cửa hẹp, hưởng hạnh phúc Nước Trời !
Để trả lời cho những thắc mắc về “ơn cứu độ”, Đức Giêsu đã gợi lên ý thức ai cũng phải qua cửa hẹp, phải chiến đấu, từ bỏ, hy sinh, sống tiết độ chừng mực với của cải, những đam mê trần thế. Chính vì nhiều người phát hiện ra đằng sau “cánh cửa Giêsu” là niềm vui, hạnh phúc, là vinh dự, tuy nhiên họ không phấn đấu, không sống từ bỏ, do đó họ muốn vào mà thể vào được. Các đấng bậc sinh thành đã từng phải thốt lên : nước đổ đầu vịt, một nỗi thất vọng vì con cái không đón nhận lời hay ý đẹp của cha mẹ.
Trong đời sống thiêng liêng, tìm đến Chúa Giêsu, nhưng không muốn lắng nghe, không muốn hiểu, để khỏi phải sống giáo huấn của Chúa thì đúng là : tư tưởng không thông, vác bình tông cũng nặng. Đi con đường chật hẹp, hay sống từ bỏ, để qua “cánh cửa Giêsu” tiến vào hưởng hạnh phúc, luôn là cơ hội cho tất cả đông tây nam bắc đến dự tiệc Nước Thiên Chúa. Cánh cửa Giêsu có ý nhắc nhớ : người ta phải chịu gian lao khốn khó để được nên chín chắn ; người ta muốn thành danh phải tu luyện, và muốn nên thánh nhất định phải sống từ bỏ. Đối với người Kitô hữu trưởng thành, hạnh phúc là được cứu độ, vì thế phải cùng Chúa Giêsu để chiến đấu với những vướng bận của mình mà qua cửa hẹp.
Không phải chỉ vì sĩ diện, nhưng còn là nguy cơ mất hạnh phúc đời đời đối với người chưa dám sống từ bỏ, chưa thành khẩn đến với Chúa Giêsu và mong được tâm hồn biến đổi nên thánh đức. Đức Giêsu sẽ không vui gì khi chúng ta đặt câu hỏi ngớ ngẩn : phải chăng chỉ có ít người được cứu rỗi, hay mai sau con có được lên thiên đàng không ? Vì Chúa là tình yêu, nên thiết nghĩ ta nên đặt câu hỏi : linh hồn tôi ơi, bạn có muốn được hưởng phúc thiên đàng không ?
Tất nhiên, để trả lời là có, ai cũng phải cùng Chúa Giêsu đi qua cửa hẹp, ai cũng phải phấn đấu, chu toàn bổn phận như nén bạc ta đã lãnh nhận. Tìm gặp người hiền tài đâu phải dễ, còn thọ giáo và lĩnh hội được những nét tinh túy của bậc thánh hiền bao giờ cũng khó hơn cả ! Nếu đọc hiểu được gian truân vất vả, thất bại là mẹ của thành công, gian nan rèn luyện nhân cách, luôn cần phải có ý chí, để thành đạt, hay thành nhân, đều phải có khổ luyện, có kinh nghiệm. Bàn tiệc Nước Trời luôn đón nhận tất cả những ai thành tâm thiện chí, nếu chúng ta đi con đường hẹp của Chúa Giêsu. Amen.
Phúc âm cho thấy; kẻ đặt vấn nạn cho Đức Giê-su có thể là một người Do Thái bất kỳ, vì Cựu TN 21-C173
Phúc âm cho thấy; kẻ đặt vấn nạn cho Đức Giê-su có thể là một người Do Thái bất kỳ, vì Cựu Ước đã dạy cho toàn dân xác tín rằng: vương quốc vẻ vang của Đấng Thiên Sai (Messiah) sẽ chỉ dành cho những ai trung thành nắm giữ lề luật. Trước nội dung những lời rao giảng của Đức Giê-su về một Tin Mừng cứu độ phổ quát, mọi người Do Thái chân chính đều cảm thấy khó chịu; học thuyết mới này có nguy cơ tiêu diệt mọi nỗ lực giữ cặn kẽ luật pháp Mô-sê, mở đường cho lối sống buông thả về mặt chính trị cũng như tôn giáo. Chính câu hỏi được đặt ra tự nó đã hàm ý khảng định con đường luật pháp truyền thống mới thực sự là đúng đắn, là đáng khích lệ.
Câu trả lời của Đức Giê-su có vẻ chủ yếu nhắm thẳng vào tư duy này của người Do thái, vì Người cho thấy: họ đã không nắm bắt được tư tưởng nòng cốt của Cựu Ước, cũng như niềm tin đích thực của Áp-ra-ham, I-xa-ác, Gia-cóp và tất cả các ngôn sứ: toàn bộ nội dung Cựu Ước phải hướng tới việc đón nhận Tình Yêu cứu độ của đấng Mê-si-a. Đơn giản là người Do Thái đã hiểu sai, khi đồng hóa sự cứu rỗi với trung thành giữ lề luật; “Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài”; nếu quả là như thế, nếu không phải những kẻ giữ lề luật được vào thiên đàng, thì ‘ai’ mới là những người được vào thiêng đàng? Câu hỏi này, cũng như các câu hỏi tương tự: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không? “Thưa Thầy, vậy thì ai mới được cứu rỗi?”; cho tới nay câu hỏi này vẫn còn là vấn nạn rất phổ thông của nhiều Ki-tô hữu chúng ta; và nó sẽ còn tiếp tục tiềm tàng trong thâm tâm của hầu hết mọi người.
Về vấn nạn này, câu trả lời của Đức Giê-su cũng rất thẳng thắn: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào!” Hình ảnh tuy đã rõ ràng, nhưng nội dung thì chưa mấy sáng tỏ. Ta phải hiểu‘cửa hẹp’ theo nghĩa nào đây, cửa hẹp là cửa nào?
Ta vẫn thường nghe giải thích: cửa hẹp là ăn ngay ở lành, là sống lương thiện, là tuân giữ cặn kẽ các qui định luân lý đạo đức… Một nếp sống như thế chắc chắn đòi phải phấn đấu, phải chế ngự các tính mê nết xấu v.v…, và vì vậy chỉ những ai cặn kẽ giữ các điều đó mới xứng đáng được vào qua ‘cửa hẹp’ này, tức là được vào thiên đàng. Nói như thế nghe rất có vẻ hợp lý theo lý luận thông thường. Tuy nhiên ta vẫn cần khảng định rằng: Đức Giê-su đang đầ cập tới Tin Mừng cữu rỗi. Tương tự, nếu ta giải thích cửa hẹp là: trung thành giữ đạo, là năng đi nhà thờ, là đọc kinh tối sớm…, thì làm sao giải thích được điều Đức Giê-su không ngừng khảng định: ‘cửa hẹp’ này không hề khép lại để ngăn cản nhiều người muốn được vào: “Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa”. Ngược lại, cửa hẹp này lại đóng lại trước nhiều người đã từng lên tiếng: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt Ngài, và Ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi”. Họ chưa chắc sẽ được lọt vào! Theo Đức Giê-su thì chính hạng người sau này lại rất dễ bị gạt ra ngoài: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta!”
Dựa trên toàn bộ nội dung Tin Mừng thì khiêm cung thống hối để đón nhận lòng thương xót thứ tha của Thiên Chúa mới đích thực là cánh của hẹp và thấp mà mọi người cần phấn đấu vào cho bằng được. Gio-an Tiền Hô đã kêu gọi dân chúng thống hối như điều kiện thiết yếu để chuẩn bị đón đấng Mê-si-a…, nhưng nhiều người Do thái đã không chấp nhận lời rao giảng của Gio-an, cho dầu không ít người trong số họ thực tình mong đợi đấng Thiên Sai đến; “Có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được”. Đức Giê-su khi rao giảng nội dung này cách quyết liệt, thì chính nhóm Biệt Phái, luật sĩ, Sa-đốc và Hê-rốt đã tìm cách chống lại. Họ là những hạng người vốn tự coi mình có địa vị cao trọng trong xã hội hơn nhiều kẻ khác, kể cả về diện vật chất như giầu sang chức quyền, lẫn về diện tinh thần – tôn giáo như công chính đạo đức. Ngược lại, những người vốn dĩ bị coi là tội lỗi, thấp hèn (hạng thu thuế, gái điếm, tật nguyền…) mới là những kẻ thực thi lời mời gọi sám hối của Gio-an, và rộng mở đón nhận Tin Mừng thương xót của Đức Giê-su. Toàn bộ các tường thuật Tin mừng đều đã không ngừng xác minh thực tế này; do đó, thật dễ hiểu khi Đức Giê-su đưa ra kết luận: “Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng hàng đầu sẽ xuống hàng chót”.
Như vậy ‘cửa hẹp’ đối với Tin Mừng phải là: lòng khiêm nhường thống hối; điều này Ki-tô hữu chúng ta luôn xác tín: không ai sẽ được cứu rỗi nếu không vào Nước Trời qua cánh cửa hẹp này, đơn giản là vì không một ai là cao trọng, là trong sạch trước mặt Thiên Chúa. Ki-tô hữu chúng ta đã chính thức bước qua cửa hẹp này ngày chịu phép Thánh Tẩy, ngày mà mỗi người chúng ta chân thành thống hối và xưng thú các tội lỗi mình trước toàn thể cộng đoàn Giáo Hội; rồi chúng ta còn tiếp tục bước qua ngưỡng cửa đó trong suốt đời sống mình mỗi khi đi xưng tội, để khiêm tốn nhìn nhận những yếu hèn của mình và rộng mở cõi lòng đón nhận ơn cứu rỗi; bước qua ‘cửa hẹp’ này là điều kiện thiết yếu mà tất cả mọi người chúng ta – không trừ một ai, cho dầu có được nâng lên tới địa vị cao trọng tới mấy – đều phải thực hiện.
Lạy Chúa, xin cho con luôn mãi duy trì được nơi mình lòng khiêm cung thống hối; đó chính là điều kiện tiên quyết để con đón nhận hồng ân thương xót cứu độ của Chúa. Cho dầu con có đạt được bất cứ điều tốt lành, thánh thiện nào trong cuộc sống, xin hãy cho con vẫn cứ khiêm nhường cúi mình chui qua cửa hẹp Tin Mừng. Xin Mẹ Maria, người nữ tì khiêm hạ của Gia-vê, gìn giữ xác hồn con luôn thấp hèn, để như Mẹ, con biết luôn rộng mở tâm hồn đón lấy lòng từ nhân của Thiên Chúa cứu độ. A-men .
Trong cuộc đời con người, cơ hội thuận lợi có khi chỉ đến một lần, ai nắm bắt được sẽ thành công TN 21-C174
Trong cuộc đời con người, cơ hội thuận lợi có khi chỉ đến một lần, ai nắm bắt được sẽ thành công, ai bỏ lỡ sẽ không còn cơ hội khác. Ước mơ của học sinh là bước chân vào đị, nhưng không phải tất cả đều có cơ hội vượt qua vòng thi tuyển nếu không chuyên chăm; Tại các phiên tòa, sau khi tuyên án, các bị cáo thường xin tòa một cơ hội để chuộc lại lỗi lầm, nhưng đã quá trễ; Thời điểm này là cơ hội tốt nhất để Việt Nam khởi kiện đòi lại chủ quyền Biển Đông. Bỏ qua cơ hội này, việc giành lại chủ quyền sẽ càng khó khăn hơn nữa cho các thế hệ mai sau.
Lời Chúa cho thấy, để bước vào Nước Trời, mỗi người phải biết nhanh chóng tận dụng hết mọi cơ hội, mọi khả năng hiện tại để giành lấy mục tiêu chung cuộc cho đời mình. Để lỡ cơ hội này, chúng ta sẽ không còn bất cứ một cơ hội nào khác và sẽ phải ân hận hối tiếc cả đời.
Sau khi nghe Chúa Giêsu rao giảng và những đòi buộc của Nước Trời, nhiều người nghe nghĩ rằng, như thế thì cơ hội vào Nước Trời chỉ dành cho số ít người. Vì vậy, họ đã đặt vấn đề với Chúa Giêsu : Thưa Ngài, phải chăng những người được cứu thoát chỉ là số ít ? Chúa Giêsu trả lời : Vấn đề không phải là nhiều hay ít, nhưng vấn đề ở chỗ ai vượt qua cửa hẹp, kẻ ấy sẽ được cứu độ.
Nước Trời luôn đủ chỗ cho tất cả mọi người và Thiên Chúa là Cha luôn mở rộng vòng tay để chờ đón mọi con cái của Ngài. Thiên Chúa đã nói qua tiên tri Isaia rằng : Ta sẽ đến tập họp mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ, họ sẽ đến và được thấy vinh quang của Ta. Thiên Chúa cho thấy, Ngài không bao giờ giới hạn tình yêu và tình thương cứu độ, nhưng trao ban và mời gọi tất cả mọi người, mọi dân tộc chung hưởng. Tất cả các dân, bất cứ ai mở lòng ra đón nhận Chúa và giới răn lề luật của Ngài thì được cứu độ.
Chúa Giêsu dùng hình ảnh cửa hẹp để mời gọi mọi người phải không ngừng chiến đấu để bước vào Nước Trời. Cửa hẹp Chúa Giêsu nói tới không phải là cửa hậu, cũng không phải là cánh cửa đút lót theo kiểu thế gian, nhưng là một con đường chiến đấu liên tục với bản thân và với ngoại cảnh. Cửa rộng là sự dễ dãi, tự do buông thả, là lối sống buông chiều theo bản năng và những lôi kéo của cám dỗ, xã hội. Trái lại, cửa hẹp đòi phải hy sinh, tiết chế, làm chủ bản thân. Bước qua cửa hẹp, chúng ta không thể mang những hành lý cồng kềnh, những bận vướng là những gai góc trên mỗi người, những tính hư tật xấu, ích kỷ nhỏ nhen, nhưng phải có một tâm hồn nhẹ nhàng thanh thoát.
Thiên Chúa không loại trừ ai. Tuy nhiên, Thiên Chúa lại cho mỗi người có một khoảng thời gian nhất định, ai tận dụng được thời gian của mình để sống theo lời dạy của Chúa, người ấy sẽ thành công ; ai không tận dụng được, sẽ là người trễ hẹn. Trễ một chuyến bay, một chuyến tàu, người ta có thể đón chuyến tàu khác, nhưng ai để trễ chuyến tàu cuộc đời, sẽ vĩnh viễn bị loại trừ.
Chúa Giêsu cho thấy, người ta sẽ không thể nại vào lý do gì để có thể thay đổi tình thế. Dù có gõ cửa, có năn nỉ, cũng sẽ bị nghe những lời từ chối : Ta không biết các người là ai. Trong xã hội ngày nay, người ta thường dựa vào quyền thế, con ông cháu cha, chạy chức chạy quyền bằng quyền lực, lót tay để đạt được địa vị. Tấm vé vào được Nước Trời không thể đút lót hối lộ, cũng không thể cậy thân, cậy thế. Người ta cũng không thể nại vào lý do gốc gác hay thân quen như kiểu thế gian, cũng không thể dựa vào lý lịch gia đình để vào Nước Trời. Để có thể được chọn vào số những người được hưởng ơn cứu độ, đòi mỗi người phải nỗ lực bằng chính nghị lực bản thân.
Ta không biết các ngươi từ đâu mà tới là lời từ chối thật đau đớn dành cho những kẻ biến mình trở nên xa lạ với Thiên Chúa. Chắc chắn Chúa biết rõ mỗi người và tâm trí của mỗi người. Những kẻ để mình trở thành xa lạ, là những người từ chối Thiên Chúa, không muốn để Thiên Chúa trở thành bạn thân của mình thì bị từ chối. Lí lẽ mà những kẻ bị từ chối đưa ra : Chúng tôi đã từng ăn uống trước mặt Ngài và Ngài từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi, không chứng minh được tương quan cá nhân của họ với Thiên Chúa, họ đã tỏ ra dửng dưng với lời giảng dạy của Chúa. Vì thế, họ bị xếp vào số những kẻ làm điều bất chính.
Những kẻ bỏ lỡ cơ hội được cứu độ sẽ hối hận, nuối tiếc, họ phải khóc lóc nghiến răng. Đau khổ lớn nhất cho những kẻ này là sự tuyệt vọng vĩnh viễn. Trong khi Apbraham, Isaac, Giacop, các ngôn sứ và các người công chính từ Đông sang Tây được vào dự tiệc cưới Nước Trời, còn mình thì bị loại ra ngoài. Lời này, Chúa nhắm đến những người Do Thái thường tự hào mình là con cháu các tổ phụ Abraham, Isaac. Họ nghĩ mình đương nhiên được hưởng ơn cứu độ mà không cần phải cố gắng. Lời cảnh báo của Chúa Giêsu cho thấy, dù là con cháu Ambraham, dù là bổn đạo gốc cũng có thể bị loại ra ngoài nếu mỗi người không cố gắng giành cơ hội vào dự tiệc Nước Trời.
Một số người trong xã hội đang sống trong tình trạng ỷ nại, ỷ nại vào thế giá của gia đình, của tiền bạc và các mối quan hệ xã hội. Có nhiều người nghĩ rằng, có tiền là mua được quyền lực địa vị, cái gì không mua được bằng tiền thì mua được bằng nhiều tiền. Từ đó tạo ra một lối sống coi thường luật pháp và các quy chuẩn xã hội cũng như tạo ra bất công xã hội. Lối sống ỷ nại này cũng đang thể hiện trong đời sống đức tin của nhiều tín hữu. Nhiều người an phận với một vài việc đạo đức hời hợt bên ngoài mà không gặp gỡ riêng tư với Chúa. Có người sống đạo không cố gắng, ngại hy sinh, chỉ giữ đạo cách thụ động cho khỏi vi phạm luật. Nhiều người đến với Chúa mỗi ngày Chúa nhật như một việc bắt buộc, cho hết giờ, hơn là đến để ca tụng tạ ơn Chúa.
Một số Kitô hữu chỉ biết đòi hỏi quyền lợi nhưng lại không có trách nhiệm. Giống như những kẻ bị từ chối trong câu chuyện hôm nay, nhiều người kể lể công trạng của mình. Họ sống trong giáo xứ một cách hời hợt, trốn tránh trách nhiệm, như những kẻ xa lạ, khi chạm đến quyền lợi, họ kể lể công trạng : bố tôi đã từng làm việc, tôi đã từng đóng góp, tôi là ân nhân, tôi phải được thế này, thế kia…
Là con của Thiên Chúa, muốn được vào chung hưởng ơn cứu độ, mỗi người được mời gọi phải cố gắng hết mình, sống hết tình với Chúa và Giáo Hội. Con đường theo Chúa không thể là một giai đoạn, mà phải là trọn cả cuộc đời bước theo giáo huấn của Chúa với lòng tin tưởng và yêu mến. Chúng ta không thể đi tắt đón đầu, cũng không thể là kẻ cơ hội nhất thời, nhưng phải bước đi trên con đường hẹp mỗi ngày. Chúng ta phải chấp nhận loại bỏ những hành trang cồng kềnh, những gai góc vướng mắc trong cuộc sống để mỗi ngày trở nên thanh thoát nhẹ nhàng hơn. Bước qua cửa hẹp, đòi chúng ta phải hy sinh từ bỏ mỗi ngày và uốn mình theo khuôn mẫu của Tin Mừng.
Là con của Giáo Hội, mỗi người phải thể hiện cách cụ thể mình là một thành viên tích cực trong việc xây dựng Giáo Hội. Giáo Hội thu nhỏ là giáo xứ, là gia đình. Chính từ Giáo Hội và qua Giáo Hội, ơn cứu độ của Thiên Chúa được trao ban cho mọi người. Vì thế, hãy hết mình gắn bó với Giáo Hội là mẹ và là thầy của chúng ta. Hãy cùng với mọi thành phần Giáo Hội chung tay góp sức làm cho gương mặt của Chúa ngày càng rạng rỡ hơn.
Sau cùng là thành viên trong gia đình, chúng ta được mời gọi tận dụng mọi cơ hội để làm cho gia đình mình nên hạnh phúc hơn, êm ấm thuận hòa hơn, đạo đức, thánh thiện hơn. Mỗi người phải chấp nhận hy sinh, từ bỏ tự ái nóng nảy và những thú vui cá nhân, để vun đắp cho cái chung của gia đình.
Xin Chúa cho chúng ta biết tận dụng thời gian Chúa ban để sống thánh giây phút hiện tại, sống tốt tương quan cá nhân với Chúa và với anh em, nhờ đó chúng ta có thể đạt được ơn cứu độ đời đời. Amen.
Sự thường ở đời là nhà cao cửa rộng, ai cũng thích, ai cũng muốn xây nhà như vậy. Trang Tin Mừng TN 21-C175
Sự thường ở đời là nhà cao cửa rộng, ai cũng thích, ai cũng muốn xây nhà như vậy. Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu lại nói về ngôi nhà rộng mênh mông mà cửa vào lại quá nhỏ, ngôi nhà ấy muôn dân đông tây lũ lượt tìm đến, nhưng chừng như lối vào lại bị giới hạn. Chúa Giêsu gọi đó là “khung cửa hẹp” và nhắn nhủ môn đệ cần phấn đấu đi qua cửa hẹp, vì cửa hẹp dẫn vào sự sống, còn cửa rộng chỉ dẫn tới hư mất. Nhưng thế nào là phấn đấu đi qua cửa hẹp?
Cửa hẹp là cửa khó đi qua, chỉ dành cho ít người, những ai thực sự muốn đi qua, những ai thực sự cố gắng, dù phải chấp nhận nhiều hy sinh, bỏ bớt hành lý, hoặc con người phải nhỏ lại mới qua lọt. Kinh Thánh dùng hình ảnh cửa hẹp để chỉ những đòi hỏi của Nước trời, của Ơn Cứu độ, của Hạnh phúc thần linh mà Thiên Chúa mời gọi chúng ta chia sẻ.
Hẹp ở đây không có nghĩa là hẹp hòi, là kém giá trị, nhưng ám chỉ sự khó khăn, sự phấn đấu quyết liệt cần phải có, nhất là sự phấn đấu với chính mình, sự lao nhọc vất vả, sự hy sinh từ bỏ. Chúa Giêsu nói rất rõ: hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào…vì có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được. Lời Chúa Giêsu dành cho mọi môn đệ của Chúa. Ai muốn làm môn đệ, phải đi qua cửa hẹp.
Cửa hẹp mà không chật
Cửa vào Nước Trời tuy hẹp, nhưng không chật. Trong bài đọc, Tiên tri Isaia với những lời văn rõ ràng, trình bày ý định của Thiên Chúa muốn qui tụ mọi dân tộc, mọi quốc gia thành một dân duy nhất sẽ tin vào Ngài, đến với Ngài và hưởng hạnh phúc muôn đời với Ngài. Tuy nhiên, cũng phải có điều kiện, đó là lễ phẩm tiến dâng Đức Chúa.
Cửa vào Nước Trời tuy hẹp, nhưng không chật. Tác giả thư Do thái trong bài đọc 2 viết rằng: vì những ai được Chúa thương thì Ngài sẽ nhận làm con, và Cha ở đâu thì con cũng sẽ ở đó. Tuy nhiên, cũng phải có điều kiện, đó là vâng nghe lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Ngài khiển trách.
Cửa vào Nước Trời tuy hẹp, nhưng không chật. Bài Tin Mừng nói đến sự nỗ lực suốt hành trình đức tin. Vì tất cả mọi người đều được mời gọi vào nhà Chúa Cha và được tham dự Bàn tiệc Thiên quốc. Nhưng không có nghĩa là muốn vào là được. Cánh cửa thì hẹp, muốn vào cần phải nỗ lực. Nỗ lực sống thực thi ý Chúa; nỗ lực trung thành với niềm tin của mình và nỗ lực sống tình bác ái yêu thương.
Cả ba bài đọc Thánh Kinh cho thấy: Bất luận là ai cũng có thể được vào Nước Trời, miễn là phải cố gắng. Người ta sẽ từ Đông sang Tây, từ Bắc chí Nam vào dự tiệc Nước Trời. Tất cả là do nỗ lực và thành tâm thiện chí của mỗi cá nhân; không do định mệnh, không do đặc quyền đặc lợi, cũng không có chế độ ưu tiên nào, chỉ có sự tự do và quyết tâm đi vào của mỗi người trong đức tin mà thôi.
2. Cửa hẹp không phải vì Nước Trời chật hẹp.
Nước Trời rộng mênh mông, có thể đón tiếp tất cả mọi người. Cánh cửa vào Nước Trời dầu có hẹp nhưng vẫn đủ rộng để đón mọi người và từng người đi vào, vì Chúa Giêsu đã từng nói: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”. Nhưng không phải tất cả mọi người vào được, vì vào Nước Trời đòi có những điều kiện cần thiết. Cửa hẹp chính là để tuyển lựa những người có phẩm chất thích hợp với Nước Trời. Ai muốn vào Nước Trời phải phấn đấu.
a. Trước hết phải phấn đấu hạ mình xuống.
Ở đời người ta thường phấn đấu để vươn lên. Người ở địa vị thấp phấn đấu để được địa vị cao. Người hèn kém phấn đấu để được trọng vọng. Người phải phục vụ phấn đấu để được người khác phục vụ mình. Nhưng trong Nước Trời thì ngược lại. Phải phấn đấu để đi xuống. Phải phấn đấu để tìm chỗ thấp hèn nhất. Phải phấn đấu để phục vụ anh em. Như lời Chúa dậy: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống. Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Lc 14, 11). “Khi anh được mời, hãy ngồi vào chỗ cuối” (Lc 14, 10). “Ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ” (Lc 22, 26). “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào” (Mc 10, 15).
Sau đó phải phấn đấu để bé nhỏ lại.
Thông thường ở đời người ta phấn đấu để to ra. Ai đang có chức nhỏ thì phấn đấu để có chức to hơn. Ai có nhà nhỏ phấn đấu để có nhà lớn hơn. Ai có ruộng vườn nhỏ cũng phấn đấu để vườn ruộng lớn rộng thêm. Ai cũng phấn đấu để có nhiều của cải hơn, có nhiều bằng cấp hơn, có nhiều đặc quyền đặc lợi hơn. Trái lại, người muốn vào Nước Trời phải phấn đấu để trở nên bé nhỏ. Phải phấn đấu để trở nên nghèo. Phải phấn đấu để bỏ bớt của cải đi. “Hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mt 19, 21). “Phúc thay ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5, 3).
Cửa vào Nước Trời hẹp vì được làm theo kích thước của Ðức Giêsu. Theo suy niệm của Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt, kích thước của Đức Giêsu thấp và bé.
a. Cửa này thấp vì Ðức Giêsu đã hạ mình thẳm sâu.
Là Thiên Chúa, Người đã tự nguyện trở nên người phàm. Từ trời cao, Người đã tự nguyện xuống nơi đất thấp. Là Thầy, nhưng Người đã tự nguyện trở nên người phục vụ. Vô cùng thánh thiện nhưng Người đã để bị đối xử như một đại tội phạm. Người đã bị vùi dập xuống tận bùn đen.
b. Cửa này bé vì Ðức Giêsu đã trở nên bé nhỏ.
Người đã sinh ra nghèo, sống nghèo và chết nghèo. Người đã bị bóc lột hết, không phải chỉ quần áo mà cả uy tín và danh dự.
Ðức Giêsu đã mở đường về Nước Trời. Muốn vào Nước Trời chẳng có con đường nào khác ngoài con đường Ðức Giêsu đã đi. Chẳng có cửa nào khác ngoài khung cửa hẹp mà Ðức Giêsu đã qua. Ai muốn qua đó cũng phải noi gương Ðức Giêsu phấn đấu hạ mình thẳm sâu và thu mình thành bé nhỏ nghèo hàn. Chỉ những ai hạ mình khiêm tốn và từ bỏ hết cái tôi cồng kềnh ích kỷ mới qua được khung cửa hẹp mà vào Nước Thiên Chúa.
Trong thực tế của Nước Trời, cửa không làm bằng vật chất, nhưng là Lề Luật và các phương tiện nên thánh, đúng hơn là các phương tiện dẫn vào Nước Trời. Nước Trời đây phải hiểu theo nghĩa trong Phúc Âm mà Chúa Giêsu nói qua các dụ ngôn; do đó, Nước Trời vừa mang tính hữu hình, vừa tồn tại vĩnh cửu, và vì thế, nó vẫn tiếp tục cho đến ngày tận thế trong ý nghĩa loan báo Tin Mừng về Nước Trời. Người ta sẽ nhận ra ngay tính cách hẹp và rộng của Nước Trời nếu hiểu rõ ràng và chính xác ý nghĩa các Lề Luật, các phương tiện nên thánh và các giáo huấn của Chúa Giêsu.
Khung cửa hẹp, con đường hẹp là con đường tu đức mà Chúa dạy, nhưng đó không phải là mục tiêu. Mục tiêu là ơn cứu độ, là hạnh phúc, là niềm vui, là Nước Trời, là tình yêu và sự sống mà Chúa dành cho ta. Mục tiêu ấy ta chưa đạt được cách trọn vẹn ở đời này, nhưng cũng đã đạt được một phần nào ngay trong hành trình của cuộc sống.
Hãy bước theo Đức Kitô. Hãy trở nên giống Ngài bằng cách chấp nhận những khổ đau, những thập giá. Vì đó chính là khung cửa hẹp, chúng ta cần phải bước qua để tiến vào cõi sống vĩnh cửu, để chiếm lấy vinh quang phục sinh.
TIN MỪNG : Lc 13,22-30 (22) Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy. (23) Có kẻ hỏi Người : “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không ?” Người bảo họ : (24) “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào. Vì tôi nói cho anh em biết: Có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được”. (25) Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khóa cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa mà nói : “Thưa Ngài, xin mở cho chúng tôi vào !”, thì ông sẽ bảo anh em : “Các anh đấy ư ? Ta không biết các anh từ đâu đến !” (26) Bấy giờ anh em mới nói : “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt Ngài, và Ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi”. (27) Nhưng ông sẽ đáp với anh em : “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt Ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính !” (28) “Ở đó anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Ápraham, Ixaác và Giacóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. (29) Thiên hạ sẽ từ Đông Tây Nam Bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. (30) Và kìa, có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót”.
Ý CHÍNH :
Trong Tin mừng hôm nay, Luca ghi lại Lời Đức Giêsu trả lời cho hai câu hỏi: Câu hỏi một : Ai TN 21-C176
Trong Tin mừng hôm nay, Luca ghi lại Lời Đức Giêsu trả lời cho hai câu hỏi: Câu hỏi một : Ai sẽ được ơn cứu độ ? Thưa hết mọi người đều được hưởng ơn cứu độ với các tổ phụ của dân Do thái, đang khi chính dân này lại bị loại ra ngoài. Câu hỏi hai : Muốn được hưởng ơn cứu độ đòi người ta phải làm gì ? Thưa đòi người ta phải chiến đấu để vào qua cửa hẹp.
CHÚ THÍCH :
– C 22-24 :
+ Đức Giêsu ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy : Trên đường từ miền Galilê (Bắc), theo đường bộ về Thủ đô Giêrusalem thuộc miền Giuđê (Nam), Đức Giêsu đã đi ngang qua nhiều thành thị làng mạc.
+ Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không ? : Thời Đức Giêsu có hai quan niệm về ơn cứu độ trái ngược nhau: Phe lạc quan thì cho rằng bất cứ ai gốc Do thái, tuân giữ Luật pháp Môsê, thì đương nhiên sẽ được ơn cứu độ. Còn phe bi quan, chịu ảnh hưởng của sách mạo thư (4 Esdra) thì chỉ có rất ít người được ơn cứu độ mà thôi.
+ Có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được : Không vào được vì đã quá muộn (x. c. 25), hoặc vì muốn đi con đường rộng thênh thang là đường dẫn tới diệt vong (x. Mt 7,13-14), hay vì khổ người quá to, vì tham lam tiền bạc thú vui nên không thể đi lọt qua được cửa hẹp.
– 25-27 :
+ Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khóa cửa lại : “Cửa khóa lại” là biểu tượng của ngày tận thế chung toàn thể nhân loại hay giờ chết riêng của mỗi người. Những kẻ không sống theo ý Chúa, khi phải ra trước tòa Chúa phán xét thì đã muộn, vì bấy giờ cửa đã khóa lại.
+ “Thưa Ngài xin mở cửa cho chúng tôi vào !” : Đợi đến lúc chết hay lúc tận thế mới chịu hồi tâm sám hối và nài xin vị Thẩm phán mở cửa cho vào thì đã muộn.
+ “Ta không biết các anh từ đâu đến !” : Đây là kiểu nói Do thái, tương đương với câu: “Ta không biết các ngươi là ai”. Vị Thẩm phán không nhận những người Do thái xấu xa làm gia nhân. Để được làm dân Thiên Chúa thì nguyên việc thuộc dòng giống Áp-ra-ham không đủ (x. Lc 3,8 ; Ga 8,33-41), mà còn phải biết đón nhận Đức Giêsu, nghĩa là phải được vị Thẩm phán cánh chung nhận biết nữa (x. Lc 13,25-27).
+ “Ta không biết các anh từ đâu đến” : Lời tuyên bố được lặp lại hai lần nói lên sự dứt khoát từ chối những kẻ cố chấp không tin Đức Giêsu và không chịu ăn năn sám hối được vào Nước Thiên Chúa.
+ “Cút đi cho khuất mắt Ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính !” : Hình phạt đau khổ nhất trong hỏa ngục là không được chiêm ngưỡng thánh nhan Thiên Chúa, không được nhận Người là Cha của mình.
– C 28-30:
+ Ở đó anh em sẽ khóc lóc nghiến răng: Kiểu nói này diễn tả hình phạt hỏa ngục, dành cho những kẻ làm điều gian ác. Trong hỏa ngục, chúng sẽ phải khóc lóc đau khổ và nghiến răng tức giận.
+ Khi thấy các ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa: Những ai đi qua cửa hẹp nghĩa là sống công chính sẽ được về với các Tổ phụ dân Do thái là Áp-ra-ham, I-sa-ác, Gia-cóp và các Ngôn sứ, nghĩa là sẽ được hưởng ơn cứu độ. Giống như trường hợp Ladarô nghèo khổ khi chết được thiên thần đem vào lòng Tổ phụ Áp-ra-ham (x. Lc 16,22).
+ Còn mình lại bị đuổi ra bên ngoài: Những người Do thái cố chấp không chịu đón nhận Tin mừng Đức Giêsu rao giảng sẽ bị loại ra ngoài và chịu hình phạt. + Những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót: Người Do thái luôn được ưu tiên đón nhận ơn cứu độ (x. Cv 3,26). Nhưng họ đã từ chối, nên Tin mừng đã được rao giảng cho dân ngoại (x. Cv 13,46; 18,6). Như vậy là có sự thay đổi thứ tự trước sau giữa dân Do thái và dân ngoại.
CÂU HỎI :
1) Đức Giêsu dạy phải đi con đường nào để được ơn cứu độ ? 2) Hành động của ông chủ khóa cửa lại diễn tả điều gì ? 3) Muốn được ơn cứu độ thì nguyên việc thuộc dòng giống Do thái, và được sống đồng thời với Đức Giêsu đã đủ chưa ? Đòi người ta phải có những điều kiện quan trọng nào khác ? 4) Điểm nổi bật nhất giúp phân biệt giữa thiên đàng với hỏa ngục là gì và những ai sẽ bị loại ra khỏi Nước Thiên Chúa ?
Một đôi vợ chồng trẻ kia đều là công nhân trong xí nghiệp may. Họ mới lấy nhau và sống hòa hợp hạnh phúc trong một căn phòng chật hẹp. Họ bàn nhau phải kiếm nhiều tiền để mua một căn nhà khang trang đầy đủ tiện nghi hơn. Nhưng với đồng lương công nhân như hiện nay thì đủ sống được cũng còn là may. Rồi một hôm cô vợ được một người quen giới thiệu chỗ làm mới là làm chiêu đãi viên trong một quán bia ôm. Công việc này lại được tiền “bo” của khách cao gấp chục lần so với đồng lương công nhân trước đó. Anh chồng vì muốn sớm đổi đời nên đã đồng ý cho vợ đi làm. Anh hy vọng sau một thời gian vài ba năm ăn nhịn để dành, hai vợ chồng sẽ mua được ngôi nhà ưng ý và sẽ cho vợ nghỉ làm. Nhưng sự việc xảy ra lại không đơn giản như họ nghĩ. Từ khi đi bán bia ôm, cô vợ làm ra nhiều tiền và được nhiều người vừa giàu có lại vừa có địa vị theo đuổi tán tỉnh, dần dần cô đã thay đổi tính nết trở thành một con người khác hẳn. Cô không còn mặn nồng với người chồng mà cô đánh giá là bất tài, lười biếng và chỉ biết ăn bám vào vợ. Từ suy nghĩ trên, cô thường tỏ ra khinh thường chồng và ăn nói chua ngoa. Cô cũng hay gắt gỏng và la lối chồng bằng những lời nói thô tục, khiến anh cảm thấy buồn bực. Anh ta chỉ còn biết bầu bạn với rượu bia để giải sầu. Cuộc sống chung của hai người không còn nồng ấm và vui vẻ như trước kia. Cuối cùng họ đã nộp đơn ra tòa xin ly hôn. Thật đúng như lời Chúa phán: “Con đường rộng rãi là đường dẫn tới hư mất” (Mt 7,13), và người đời cũng có câu “sự thành công không đến ngẫu nhiên, nhưng chính là kết quả của những cố gắng liên tục kèm theo sự kiên trì lâu dài” hoặc “Có công mài sắt có ngày nên kim”.
2) “CÓ NHỮNG KẺ ĐỨNG CHÓT SẼ LÊN HÀNG ĐẦU…” :
Một buổi trưa hè yên tĩnh, thánh Phêrô đang nghỉ trưa thì nghe thấy có tiếng kèn kêu “pin pin” trước cổng thiên đàng, rồi một người đàn bà sang trọng đeo nhiều vàng bạc trang sức từ trong chiếc xe hơi sang trọng đi cùng anh tài xế đến xin vào thiên đàng. Thánh Phêrô liền ra mở cổng dẫn vào. Khi đi tới khu nhà biệt thự sang trọng, thánh Phêrô liền lấy chìa khóa trao cho anh tài xế vào ở trong một ngôi nhà đồ sộ. Bà chủ nghĩ thầm : “Gã tài xế của mình mà còn được ở trong ngôi nhà khang trang như thế, thì chắc mình sẽ được ở một dinh thự đẳng cấp đến chừng nào”. Nhưng sau đó thánh Phêrô lại dẫn bà chủ đến một túp lều lụp xụp ở góc vườn và nói :
– Cái chòi kia chính là nhà của bà.
Bà nhà giàu liền tỏ thái độ bất bình và nói :
– Ngài có bị lộn không đó ? Tôi mà lại phải ở trong cái chòi tồi tàn kia hay sao ?
Thánh Phêrô liền trả lời :
– Thưa bà, ta không bị lộn đâu. Vì với số vật liệu ít oi mà bà đã gởi lên thiên đàng, ta chỉ có thể làm được một cái chòi như vậy mà thôi !
Đó thật là một bất ngờ cho “những kẻ đứng đầu”. Họ là những người được Chúa ban cho danh vọng giàu có, nhưng lại có lối sống ích kỷ, chỉ biết lo cho bản thân, mà không biết chia sẻ cho người đau khổ bất hạnh như Lời Chúa dạy. Chính thói tham lam ích kỷ đã biến họ từ một người đứng hàng đầu trở thành người đứng hàng chót trong Nước Trời.
3) VIỆC BÁC ÁI CHỈ CÓ GIÁ TRỊ NẾU ĐƯỢC THỰC HIỆN NGAY KHI CÒN SỐNG :
“Một ông nhà giàu đã than phiền với một người bạn thân : “Nhiều người không thích tôi. Họ cho rằng tôi là một người ích kỷ và keo kiệt. Nhưng họ đâu biết rằng tôi đã nhờ luật sư làm chúc thư, trong đó tôi hứa sau khi chết, tôi sẽ tặng tất cả tài sản để làm việc bác ái từ thiện”.
Ông bạn kia liền nói: “Ồ, câu chuyện của ông làm tôi liên tưởng đến cuộc trò chuyện giữa hai con bò và heo. Heo phàn nàn với bò: “Cả hai chúng ta đều cho loài người những gì thuộc về mình: Bạn chỉ cho họ sữa tươi để uống, còn tôi còn cho họ nhiều hơn thế: nào là thịt để làm dăm bông, tiết canh, lòng heo và cả giò heo nữa… Thế mà loài người lại khinh thường tôi, mà lại tỏ ra âu yếm vuốt ve bạn. Tại sao họ lại cư xử bất công với loài heo chúng tôi như thế ?’
Bò suy nghĩ một lát rồi chậm rãi cho heo biết nguyên nhân : “Bạn nói đúng lắm. Nhưng có sự khác biệt giữa lòng tốt của tôi và lòng tốt của bạn là : bạn chỉ cho loài người các món ăn ngon sau khi bạn chết; còn tôi, tôi đã cho họ sữa uống hằng ngày ngay lúc tôi đang sống !”
THẢO LUẬN :
1) Đối với các tín hữu hôm nay : Cửa hẹp là gì ? 2) Tôi hiện đang mắc thói hư nào nghiêm trọng nhất ? 3) Trong những ngày này, tôi sẽ làm gì cụ thể để tu sửa thói hư ấy hầu xứng đáng được Chúa đón nhận vào Nước Trời đời sau ?
SUY NIỆM :
Tin mừng hôm nay trình bày về những điều kiện để được gia nhập vào trong Nước Thiên Chúa do Đức Giêsu thiết lập là: Phải vào qua cửa hẹp, phải vào kịp thời trước khi cửa đóng, và phải đủ các điều kiện để được vào trong Nước Thiên Chúa.
1) PHẢI BƯỚC VÀO NƯỚC THIÊN CHÚA NGANG QUA CỬA HẸP :
– Đức Giêsu đã tự ví mình là cửa chuồng chiên : “Tôi là cửa cho chiên ra vào” (Ga 10,7). Người đòi những ai muốn vào Nước Thiên Chúa phải bước qua cửa hẹp : “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”. Theo thánh Phaolô : “Bước qua cửa hẹp” là phải chiến đấu đến cùng, phải đi con đường hẹp của thập giá, phải can đảm chống lại sự cám dỗ của ma quỷ, thế gian và xác thịt, đồng thời luôn làm theo thánh ý Chúa Cha như lời Chúa Giêsu : ”Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : “Lạy Chúa ! Lạy Chúa !” là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).
– Bước qua cửa hẹp là chọn sống theo các đòi hỏi của Tin Mừng : là đi con đường chật hẹp, leo dốc ít người muốn theo, là đường thánh giá mà Đức Giêsu đã xin bỏ ý riêng để vâng phục ý Chúa Cha (x Lc 22,41). Người cũng đòi các môn đệ phải chọn cửa hẹp noi gương Người : “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo (Lc 9,23).
– Bước qua cửa hẹp đòi phải loại trừ “cái tôi” : Ở đây là chiến đấu với “cái tôi” ích kỷ của mình, cái tôi nặng nề vì những vun quén cá nhân, “cái tôi” phình to ra vì sự tự mãn tự kiêu và tham vọng cao. Thật ra cửa vào sự sống không hẹp bao nhiêu, nhưng đã trở nên hẹp vì “cái tôi” quá to. Cần phải làm cho “cái tôi” ấy nhỏ lại mới được vào Nước Trời (x. Mt 18,3). “Cái tôi” của chúng ta luôn có khuynh hướng bành trướng do sự thu tích tri thức, tiền bạc, khả năng. Cả kinh nghiệm, tuổi tác, chức vụ cũng có thể làm cho “cái tôi” ấy bị xơ cứng và phình to ra. Để trở nên như trẻ nhỏ, chúng ta cần phải đươc ơn Chúa dần dần biến đổi nên khiêm nhường tự hạ hơn (x. Mt 18,3-7). Đây là một cuộc chiến đấu với chính mình. Khi huỷ mình ra không, ta sẽ dễ đi qua cửa hẹp và dễ vào trong Nước Trời. Hãy noi gương khiêm hạ của Gioan Tẩy giả khi trả lời các môn đệ về tương quan giữa ông với Đấng Thiên Sai Giêsu : “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3,30).
2) PHẢI NHANH CHÂN ĐỂ KỊP THỜI BƯỚC VÀO NƯỚC THIÊN CHÚA :
Thời gian rất cấp bách, đòi mỗi người phải mau chóng quyết định bước vào Nước Thiên Chúa ngay hôm nay, vì để sang ngày mai sẽ là quá trễ. Phải bắt đầu ngay từ bây giờ và ở đây (hic et nunc) : Vì mỗi giây phút, mỗi biến cố trong cuộc đời chúng ta đều có giá trị đưa ta vào hay ngăn chặn ta lại. Tránh đừng để “khi chủ nhà đã đứng dậy và khóa cửa lại” ta mới đến gõ cửa nài van : “Thưa Ngài, xin mở cho chúng tôi vào !” thì đã quá muộn. Vì bấy giờ chủ sẽ bảo : “Các anh đấy ư ? Ta không biết các anh từ đâu đến !” (Lc 13,25).
3) ĐIỀU KIỆN PHẢI CÓ ĐỂ ĐƯỢC VÀO NƯỚC THIÊN CHÚA :
– Phải chiến đấu mới vào được Nước Trời : Đời sống Kitô hữu là một cuộc chiến đấu liên tục để vượt qua “cái tôi” ích kỷ và phải nhanh chân chiến đấu để vào Nước Trời trước khi quá muộn. Ơn Cứu độ là của Chúa ban cho, nhưng đòi ta phải kiên trì cầu xin và biết giơ tay đón nhận. Ước gì đừng bao giờ chúng ta tự hào vì mình đã biết Chúa, nhưng phải luôn khiêm hạ, đơn sơ như trẻ thơ để Chúa biết và thừa nhận ta khi nói với chúng ta : “Khá lắm ! Hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành ! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh !” (Mt 25,21).
– “Ta không biết các ngươi” : Nhiều người Do thái đã đến chậm khi cửa Nước Trời đã đóng lại. Họ gõ cửa đòi vào. Họ tưởng mình chắc sẽ có một chỗ nơi bàn tiệc Nước Trời, vì họ đã từng ngồi đồng bàn với Đức Giêsu, và đã nhiều lần nghe Người giảng dạy, đã chứng kiến các phép lạ Người làm. Thế nhưng họ đã bị Chúa từ chối : “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt Ta, hỡi những quân làm điều bất chính !” (Lc 13,27). Chúa cũng có thể nói với mỗi người chúng ta như vậy, nếu chúng ta dù có chăm chỉ học hỏi Kinh thánh và cầu nguyện, có siêng năng xưng tội rước lễ, nhưng lại không thực hành theo Lời Chúa dạy, không chịu mở cửa tâm hồn để mời Chúa vào làm chủ cuộc đời của ta.
– Sống sứ điệp Tin Mừng hôm nay :
Có khi nào chúng ta nghĩ rằng mình cũng ở trong số những người bị đuổi đi cho khuất mắt Chúa và trong số những quân làm điều bất chính nói trên hay không ? Lời chữa mình của người Do thái cũng có thể là của nhiều tín hữu chúng ta hôm nay : Vì chúng ta đã từng năng dự thánh lễ và nghe giảng lời Chúa, từng là thành viên Hội đồng Mục vụ hay Ban Chấp Hành các hội đoàn công giáo tiến hành… Nhưng điều quan trọng Chúa đòi phải có là phẩm chất đức tin chứ không phải chỉ là danh hiệu tín hữu. Phẩm chất của người Kitô hữu là sống theo Lời Chúa dạy và luôn chiến đấu loại bỏ các thói hư để có thể vào được Nước Trời ngang qua cửa hẹp.
Để bước qua một cánh cửa hẹp, chúng ta phải tập thói quen bác ái : luôn quên mình để sống khiêm nhường phục vụ tha nhân, quyết tâm loại trừ các thói hư cồng kềnh không thể lọt vào Nước Trời là tham lam tiền bạc, tranh giành nhau địa vị cao thấp, ham hưởng thụ các lạc thú bất chính: nhậu nhẹt thâu đêm suốt sáng, cờ bạc cá độ gây tán gia bại sản… Những thói hư cồng kềnh đó còn là thói ích kỷ, làm ngơ trước nỗi đau của tha nhân bên cạnh…
Vất bỏ những thói hư nói trên quả thật không dễ dàng, vì đây là một cuộc “chiến đấu” nội tâm trường kỳ đầy khó khăn. Tuy vậy, chúng ta không được nản lòng, vì xác tín rằng : có Chúa Kitô luôn đồng hành với chúng ta. Người sẽ cử Thánh Thần đến ở lại với chúng ta nếu chúng ta biết cầu xin và sẵn sàng đón nhận ơn Thánh Thần. Vào giờ chết của chúng ta, Chúa Giêsu sẽ đón nhận chúng ta vào dự bàn tiệc Nước Trời với tổ phụ Ápraham là “Cha các tín hữu”.
LỜI CẦU :
LẠY CHÚA GIÊSU. Cửa hẹp ít người muốn bước vào, nhưng Chúa lại chọn đi qua cửa hẹp và đòi chúng con cũng phải qua cửa ấy để vào Nước Trời. Cửa hẹp chúng con phải qua chính là những đau khổ thập giá, là sự hy sinh từ bỏ các đam mê lạc thú bất chính… Xin cho chúng con luôn biết chọn đi con đường hẹp, dám hành động theo những đòi hỏi khắt khe của Tin Mừng. Ước gì khi dâng lên Chúa những lời cầu nguyện, kèm theo sự hãm mình cùng những đau khổ gặp phải trong cuộc sống hằng ngày, chúng con sẽ cảm nghiệm được niềm vui có Chúa và hy vọng chắc sẽ được Chúa đón nhận vào hưởng hạnh phúc muôn đời trong Nước Trời đời sau.
Thiên Chúa là Đấng quy tụ muôn dân. Đó là một trong những hình ảnh về Thiên Chúa trong Kinh TN 21-C177
Thiên Chúa là Đấng quy tụ muôn dân. Đó là một trong những hình ảnh về Thiên Chúa trong Kinh Thánh Cựu Ước. Thiên Chúa là Cha chung của mọi dân tộc. Ngài muốn cho mọi người được cứu rỗi. Ngài không muốn ai phải chết và phải đau khổ. Như gà mẹ ấp ủ đàn con dưới cánh, Thiên Chúa luôn ấp ủ mọi tạo vật bằng tình yêu quan phòng của Ngài. Là người Mục tử, Thiên Chúa quy tụ và chăm sóc đàn chiên. Chúa biết từng con chiên, để chữa lành và nâng đỡ. Hình ảnh mục tử và đàn chiên còn được Chúa Giêsu tiếp nối trong giáo huấn của Người (x. Ga,10).
Nếu Thiên Chúa là Đấng quy tụ muôn dân, thì con người lại thích ly tán. Trước sự khước từ, thậm chí là đe doạ của quận vương Hêrôđê, Chúa Giêsu đã rơi lệ và than trách: “Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến với ngươi! Đã bao lần ta muốn tập họp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu.” (Lc 13,34). Ngay từ khởi đầu lịch sử, con người đã muốn vùng thoát khỏi sự dìu dắt yêu thương của Thiên Chúa để tự chọn lối đi cho mình, như câu chuyện ông Ađam và bà Evà. Con người muốn khước từ Chúa để được “tự do”, nhưng thay vì tự do thì họ lại rơi vào cảnh nô lệ. Ađam và Evà đã nghe theo lời dụ dỗ của con rắn, với hy vọng nên ngang hàng với Thiên Chúa. Họ đã thất bại ê chề.
Isaia (đệ nhị) là một vị ngôn sứ của niềm hy vọng. Vào lúc dân Do Thái đang chán chường và đau khổ trong cảnh lưu đày ở Babilon, vị Ngôn sứ được Chúa trao cho việc loan báo ngày họ sẽ được giải phóng. Còn gì sung sướng hơn là được thoát cảnh lưu đày để về quê cha đất tổ. Lời hứa của Chúa không chỉ nhằm đến việc giải phóng dân khỏi ách lưu đày, mà còn cho thấy một tương lai sán lạn. Vào thời đó, các dân ngoại bang sẽ được biết đến danh Thiên Chúa. Họ sẽ được chiêm ngưỡng vinh quang của Ngài. Các dân tộc cùng tiến về nhà Chúa, mang theo những lễ phẩm thanh sạch, để tôn nhận Ngài là Thiên Chúa duy nhất. Giêrusalem sẽ được khôi phục và trở về với cảnh sầm uất khi xưa (Bài đọc I).
Ngôn sứ Isaia đã loan báo sứ điệp cho dân đang bị lưu đày. Sứ điệp hy vọng ấy cũng được loan báo cho chúng ta trong thời đại hôm nay. Quả vậy, chúng ta tôn thờ Thiên Chúa mà chưa từng gặp gỡ Ngài. Đôi lúc chúng ta băn khoăn tự đặt những câu hỏi về tương lai hậu vận đời mình. Những khó khăn thử thách trong cuộc sống nhiều khi làm chúng ta dao động đức tin. Trong Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, có người đặt câu hỏi với Chúa Giêsu về số lượng những người được cứu thoát nhiều hay ít. Câu trả lời của Chúa dường như không ăn nhập logic với câu hỏi. Người không khẳng định số người được cứu rỗi nhiều hay ít, nhưng người nhắc đến bổn phận của mỗi người là phải chuyên chăm tu luyện và lập công tích đức cho mình. Như vây, Chúa muốn giáo huấn chúng ta: thay vì quan tâm tìm hiểu xem số người được cứu thoát, thì hãy lo lắng đến phần rỗi của chính mình. Lời khuyên cụ thể của Chúa Giêsu, đó là hãy qua cửa hẹp. Lời mời gọi bước qua cửa hẹp cũng được Chúa nói tới trong Tin Mừng Thánh Mátthêu với những cắt nghĩa chi tiết hơn: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.” (Mt 7,13-14).
Vào thời Chúa Giêsu, nơi một số đông những người Do Thái, vẫn tồn tại tư tưởng tự tôn dân tộc. Họ cho rằng Thiên Chúa chỉ cứu rỗi người Do Thái. Họ coi thường, kỳ thị các dân tộc xung quanh, và cho rằng những dân tộc này phải trầm luân khốn khổ. Chúa Giêsu phê phán lối suy nghĩ sai lầm này. Ngài quả quyết, Thiên Chúa là Cha chung của gia đình nhân loại. Những ai tự hào về nguồn gốc của mình, mà không chịu sửa mình và không sống tốt, thì sẽ bị khai trừ và không được chung hưởng hạnh phúc với Chúa. Là dân Do Thái không phải một nhãn hiệu đương nhiên được cứu thoát. Những người đợi ở cửa phòng tiệc sau khi cánh cửa đã đóng lại cố tìm cách trưng dẫn những bằng chứng cho thấy mối thân thiện của họ với ông chủ, nhưng ông đã tuyên bố dứt khoát: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khỏi mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính”. Trong bối cảnh này, việc trưng ra những hành động được coi là đạo đức hay kỷ niệm đẹp với ông đều chỉ là che đậy một lối sống bất nhân.
“Cửa hẹp” đối với tác giả thư Do Thái là sự kiên nhẫn trong thử thách. “Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không sửa dạy?” Những gian khó mà chúng ta gặp phải trên đường đời, nếu được đón nhận bằng cái nhìn đức tin, sẽ được coi như sự sửa dạy của Chúa, hoặc như sự thử thách lòng trung thành của chúng ta. Nếu Chúa sửa dạy ai, là vì Ngài yêu thương người đó và muốn kéo người đó lên kẻo chìm sâu trong bùn lầy. Một khi chấp nhận để Ngài sửa dạy, chúng ta sẽ tiến bước trên con đường trọn hảo.
Bạn nghĩ gì khi nghe đến hai chữ CHIẾN ĐẤU? Đối với tôi, nói đến CHIẾN ĐẤU là tôi liên TN 21-C178
Bạn nghĩ gì khi nghe đến hai chữ CHIẾN ĐẤU? Đối với tôi, nói đến CHIẾN ĐẤU là tôi liên tưởng ngay đến KẺ THÙ! Không có kẻ thù thì đâu cần phải chiến đấu, đúng không? Còn nữa, hai chữ CHIẾN ĐẤU đồng nghĩa với vất vả, gian nan, đau khổ, hy sinh và mất mát!
Trong chiến tranh, cứ sự thường mà nói, để có thể CHIẾN ĐẤU và để có thể CHIẾN THẮNG kẻ thù, người ta cần phải để ý đến ít nhất 3 điều rất quan trọng sau đây:
1. Phải BIẾT THẬT RÕ VỀ KẺ THÙ: Điều này quan trọng lắm, cho nên Tôn Tử mới nói: "Biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng." Phải biết kẻ thù của mình là ai, nó dùng loại võ khí nào, nó có những điểm yếu, điểm mạnh nào, tài lực, hậu cần của nó ra sao ...không biết gì, hay chỉ biết sơ sài về kẻ thù thì không thể đánh bại nó được.
2. Phải CỐ GẮNG LUYỆN TẬP: "Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu" phải chịu khó tập luyện, phải chịu vất vả, chịu khổ chịu khó, phải nằm gai nếm mật, phải khép mình vào kỷ luật... không rèn luyện, không khép mình vào kỷ luật, không khổ nhục luyện tập ở quân trường, thì khi ra trận, đánh đấm làm sao được?
3. Phải TUÂN PHỤC CẤP TRÊN: Quân số đông, hỏa lực mạnh, hậu cần phong phú...mà quân lính không tuân phục thượng cấp, không tuân lệnh các cấp chỉ huy, không tùng phục các vị cố vấn quân sự ...thì khi lâm trận, đội quân đó sẽ không thể nào đánh bại được kẻ thù của mình cả!
Trong trận chiến đấu thiêng liêng với kẻ thù của chúng mình là Xatan, để có thể thắng được Xatan, bạn và tôi cũng cần phải để ý đến 3 điều ở bên trên.
1. PHẢI BIẾT THẬT RÕ VỀ XATAN: Xatan là ai? Xin thưa, nó là cha của sự gian dối, là kẻ kiêu ngạo nhất trên đời, là tên chuyên gieo rắc chia rẽ và hận thù ở khắp mọi nơi, nó là kẻ chuyên xúi giục người ta ăn chơi trác táng, cờ bạc, rượu chè, trai gái, xì ke ma túy, phá thai, trợ tử, cướp của giết người, ly dị ly thân, ngoại tình...
2. Phải CỐ GẮNG LUYỆN TẬP: Luyện tập cái gì? Thưa, phải luyện tập đức khiêm nhường, đức bác ái, đức trong sạch, tập sống thật thà, sống ngay thẳng, sống tiết độ & luôn tỉnh thức, khép mình vào kỷ luật, ăn chay hãm mình, vâng phục...Khi luyện tập thành thạo những nhân đức khiêm nhường, bác ái, tiết đọ, trong sạch, thật thà…rồi thì bạn và tôi mới có đủ sức để chiến thắng được Xatan.
3. Phải TUÂN PHỤC: Tuân phục ai? Xin thưa, trước hết, chúng mình phải tuân phục vị chỉ huy tối cao là Đức Giê-su Kito, Ngài là con đường, là sự thật và là sự sống, là sức mạnh và là vị chỉ huy tối cao đầy khôn ngoan, giàu lòng từ bi và nhân ái. Khi tuân phục và làm theo những lời chỉ dạy của Ngài thì chúng mình chắc chắn sẽ chiến đấu can trường và sẽ chiến thắng được kẻ thù là Satan một cách vẻ vang. Ví dụ như ăn chay và cầu nguyện liên lỉ (Mc 9:29); (2) phải cậy dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, bởi chính Ngài đã khẳng định: "Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được" (Ga 15:5). Kế đến, bạn và tôi phải tuân phục những vị đại diện của Chúa đặt để trên trần gian, đó là ông bà, cha mẹ, là Đức Giáo Hoàng, là các vị trong hàng Giáo Phẩm, Giáo Sĩ, những vị được Chúa giao phó cho trách nhiệm dạy dỗ, giáo huấn, và hướng dẫn chúng mình về những vấn đề liên quan đến luân lý, đạo đức và tín lý.
Ngoài ba điều quan trọng trên, thánh Phaolô còn khuyên rằng, chúng mình cần phải có thanh gươm của Thần Khí, đó chính là Lời Chúa (Ep 6:17). Thật vậy, trong trận chiến với Xatan trong sa mạc, Chúa Giê-su đã dùng chính Lời Chúa để tấn công Xatan, và Ngài đã chiến thắng nó một cách mỹ mãn. "Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra... Xatan kia xéo đi, vì có Lời chép rằng: 'Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi" (Lc 4: 4, 7, 10). Nếu bạn và tôi trung thành đọc Kinh Thánh mỗi ngày, hoặc đọc qua các bài đọc trước khi đến tham dự thánh lễ, hay ghi nhớ một câu Lời Chúa ngăn ngắn khi tan lễ...thì lúc đó, chúng mình đang sở hữu thanh gươm của Thần Khí đấy!
Bạn thân mến, tôi tin chắc rằng, khi bạn và tôi biết rõ về Satan, thường xuyên và siêng năng tập luyện những nhân đức như khiêm nhường, bác ái, trong sạch, tiết độ & tỉnh thức, khép mình vào kỷ luật, không ăn chơi trác táng, không sống phóng túng và buông theo những dục vọng, biết tuân phục Thiên Chúa cùng những vị đại diện của Ngài trên thế gian này, và siêng năng đọc, học hỏi và suy niệm Kinh Thánh, thì lúc đó, bạn và tôi sẽ đủ sức chiến đấu và chắc chắn sẽ chiến thắng Xatan, kẻ luôn dụ dỗ người ta từ chối đi qua cánh cửa hẹp để vào cõi sống, nhưng lại lôi kéo người ta đi tìm những cánh cửa rộng thênh thang đi đến chỗ diệt vong.
Chúng mình cầu nguyện cho nhau, xin cho bạn và cho tôi luôn tỉnh thức trước những mưu chước của Xatan và luôn cố gắng chiến đấu mỗi ngày để lách vào cánh cửa hẹp, nơi đó là cửa ngõ dẫn đưa chúng mình đến sự sống vĩnh cửu. Cầu chúc bạn và những người thân yêu của bạn một tuần lễ mới tràn đầy ơn Chúa, vui vẻ, khỏe mạnh và bình an. mục lục
Thiên Đàng Vinh Phúc Đường Lên Chật Hẹp Hỏa Ngục Khổ Đau Lối Xuống Thênh Thang.
Có câu nói đơn giản mà thâm thúy: “Hãy khó với chính mình nhưng đừng khó với người khác.” Cuộc TN 21-C179
Có câu nói đơn giản mà thâm thúy: “Hãy khó với chính mình nhưng đừng khó với người khác.” Cuộc sống bình thường mà không hề đơn giản, thậm chí là nhiêu khê ngoài sức tưởng tượng, đôi khi con người cảm thấy bất lực, không bỏ cuộc mà như thúc thủ. Chắc hẳn ai cũng có kinh nghiệm đau khổ vì dịch bệnh trong khoảng thời gian này của năm 2021.
Vì quá đau khổ, ông Gióp đã nguyền rủa ngày ông chào đời: “Phải chi đừng xuất hiện ngày tôi đã chào đời.” (G 3:3a) Thật buồn khi cảm thấy mình sinh nhằm “ngôi sao xấu.” Tuy nhiên, Thánh Rosa Lima xác định: “Thiếu gánh nặng đau khổ thì không thể đạt đến đỉnh cao ơn thánh. Những tặng phẩm ơn thánh gia tăng khi các cuộc giao chiến gia tăng.” Đó là niềm an ủi đối với những người có niềm tin vào Đức Giêsu Kitô.
Qua trình thuật Lc 13:22-30, Thánh Luca cho biết rằng Đức Giêsu trên đường lên Giêrusalem, đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy. Lúc đó có kẻ hỏi Ngài: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” Ngài bảo họ: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.” Chúa Giêsu luôn “thản nhiên” như vậy. Theo lẽ thường, ai cũng thích đi đường rộng rãi, thông thoáng, có hoa thơm cỏ lạ, cảnh quan mãn nhãn, thế mà Ngài lại bảo phải đi đường hẹp.
Đúng là căng thẳng thật! Nhưng phải CĂNG thì mới THẲNG được, vấn đề là KHÔNG ĐỨT. Chính Chúa Giêsu giải thích rằng khi chủ nhà đã khóa cửa mà chúng ta còn đứng ở ngoài, gõ cửa và xin vào, chủ nhà sẽ không biết bất cứ người nào. Lúc đó, họ viện cớ đã từng được ăn uống trước mặt chủ nhà và cũng đã từng được nghe chủ nhà giảng dạy trên các đường phố. Nhưng chủ nhà vẫn nhất quyết là không biết họ từ đâu đến. Nếu chúng ta không muốn đi đường hẹp, Chúa sẽ nói thẳng: “Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!”
Bất cứ ai cũng có loại thập giá riêng, Chúa biết sức ai thế nào thì trao cho loại thập giá vừa sức: “Không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức loài người. Thiên Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ không để anh em bị thử thách quá sức; nhưng khi để anh em bị thử thách, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng.” (1 Cr 10:13) Chắc chắn là vậy, vì Thiên Chúa thấu suốt mọi sự, biết trước cả những gì phàm nhân chưa nghĩ tới. Ngài không bắt ai chịu đựng quá sức họ.
Chuyện kể rằng một đoàn người đi qua khu rừng rậm, nhiều thú dữ, đường khó đi lắm. Ai cũng cố gắng vừa đi vừa vác thập giá của mình, người nhanh kẻ chậm, nhưng không ai than thở gì. Trong đó có một người cảm thấy thập giá của mình vừa dài vừa nặng, chỗ thì trơn, chỗ thì ráp, kê vai vào chỗ nào cũng khó. Anh ta quyết định chặt bớt cho ngắn, rồi lại đẽo bớt cho nhẹ hơn. Khi đến một thung lũng, mọi người đều dùng thập giá của mình làm cầu để đi qua. Ai cũng qua được, chỉ còn lại anh ta cứ loay hoay mãi mà không thể nào bắc thập giá qua thung thũng để làm cầu đi qua. Cuối cùng, đêm tối phủ xuống, tiếng thú dữ bắt đầu gầm rống vang cả khu rừng…
Chắc hẳn ai cũng biết số phận anh ta như thế nào. Thật vậy, Chúa Giêsu đã nói về số phận đời đời của những người chiều xác thịt như anh chàng kia: “Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Ápraham, Isaác và Giacóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa.” Có điều quan trọng và đáng sợ: “Có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót.” Kiểu hoán vị như thế rất đáng quan ngại!
Cuộc đời các thánh không êm ả như chúng ta tưởng, họ đau khổ vô cùng vì bị nghi ngờ, chịu oan ức,... nhiều năm chứ không chỉ vài ngày. Nhưng họ vẫn chịu đựng vì yêu mến Chúa. Thánh Phanxicô Assisi nói: “Tôi hy vọng rất nhiều về cái hay, cái tốt. Vì vậy mà tất cả đau khổ đều là dễ thương.” Thánh Vincent de Paul cho biết: “Một người càng tấn tới trong việc yêu mến Thiên Chúa thì nhất định càng yêu thích đau khổ, chịu bị khinh thường, đó chính là dấu hiệu của lửa tình ái, những thứ khác đều là mây khói.” Thánh Aloisiô Gonzaga nói: “Người nào muốn yêu mến Thiên Chúa nhưng lại không muốn vì Ngài mà chịu đau khổ thì không thể yêu Ngài cách chân chính.”
Là nữ nhi nhưng Thánh Têrêsa Lisieux can đảm xác định: “Tôi thích sự đơn điệu của sự hy sinh vô danh tới mức xuất thần. Nhặt một cây kim vì yêu mến cũng có thể hoán cải một linh hồn. Tôi thích hy sinh thầm lặng để cứu các linh hồn. Tôi thấy được trong nỗi đau khổ thầm lặng có sự đau khổ cứu độ, chính đau khổ là việc tông đồ của tôi. Tôi đi tu Dòng Kín để cứu các linh hồn và cầu nguyện cho các linh mục. Tôi muốn dùng Nước Trời của tôi để làm những điều tốt lành trên thế gian.”
Các thánh tự khó với mình và yêu đau khổ là điều không khó hiểu, nhưng người đời mà quý đau khổ thì lạ lùng lắm. Văn thi sĩ Clive Staples Lewis (Anh quốc) cảm nhận: “Thiên Chúa thầm thì với chúng ta khi chúng ta vui, nhưng Ngài nói to trong lương tâm của chúng ta khi chúng ta đau khổ.” Như vậy thì không phải chúng ta không nghe được tiếng Chúa mà vì chúng ta không muốn nghe hoặc cố ý làm ngơ.
Trái cam, trái quýt, khúc mía,… phải chịu bị ép thì mới cho ly nước ngon lành, bổ dưỡng. Con người cũng vậy, phải biết ép mình đi vào lối hẹp thì mới đến được nơi mình muốn, như những người leo núi hoặc khám phá những nơi lạ. Chắc chắn đường tới đó không dễ đi chút nào, nhưng họ phải tự khó với mình. Đường hẹp nhưng lại dễ đi. Tại sao? Đường hẹp dễ đi vì ít người đi, không chen lấn. Đường hẹp tâm linh còn khó đi hơn, vì thăm thẳm và hun hút, thậm chí còn quanh co và gập ghềnh lắm. Nói chúng, dù đường rộng hay hẹp, có dễ đi hay khó đi tùy vào cách đi của mỗi người. Đường rộng mà tai nạn vẫn xảy ra hằng ngày là tại sao?
Mỗi người chỉ có một cuộc đời, mỗi cuộc đời là một con đường – với các dạng khác nhau. Cuộc đời là cuộc chạy marathon miệt mài, nếu không cố gắng thì sẽ bị bỏ lại phía sau và không thể tới đích. Cuộc đời cũng là cuộc chạy vượt rào, nếu không cố gắng thì không thể vượt qua bất kỳ rào cản nào. Cuộc đời là cuộc chạy nước rút, nếu không cố gắng thì sẽ là kẻ cuối cùng. Cuộc đời là cuộc chạy tiếp sức, phải biết giúp đỡ nhau thì mới có thể chiến thắng. Thật khó! Nhưng có khó, có khổ thì mới đáng khen.
Trong bài “Ngục Trung Thư,” chí sĩ Phan Bội Châu (1867-1940) đặt vấn đề: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai?” Hơn nhau là vượt lên chính mình. Thật vậy, Henry David Thoreau (1817-1862, văn thi sĩ, sử gia và triết gia) động viên: “Hãy theo đuổi con đường mà bạn có thể đi với tình yêu và lòng tôn kính, dù nó có hẹp và quanh co tới mức nào.” Kinh Thánh nhắc nhở: “Chớ phân bì với ai tàn bạo, đừng chọn bất cứ con đường nào nó đã đi.” (Cn 3:31) Và phải nhìn thẳng để có thể đi thẳng: “Đừng quanh bên phải, chớ quẹo bên trái, cố giữ chân con khỏi điều xấu xa.” (Cn 4:27)
Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã tuyên phán: “Còn Ta, Ta biết rõ việc làm và ý định của chúng, Ta sẽ đến tập họp mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ; họ sẽ đến và được thấy vinh quang của Ta. Ta sẽ đặt giữa họ một dấu hiệu và sai những kẻ sống sót của họ đến các dân tộc: Tácsít, Pút, Lút, là những dân thạo nghề cung nỏ, đến dân Tuvan, Giavan, đến những hải đảo xa xăm chưa hề được nghe nói đến Ta và chưa hề thấy vinh quang của Ta. Họ sẽ loan báo vinh quang của Ta giữa các dân tộc.” (Is 66:18-19)
Kinh Thánh xác định Thiên Chúa là Đấng Thánh duy nhất, (Lv 11:44-45; Lv 19:2; Lv 20:26; Lv 21:8; Tv 89:36; Tv 99:5 & 9; Is 6:3; Br 4:22; Hs 11:9; Am 4:2; 1 Pr 1:16) và là Đấng thấu suốt mọi sự. (1 Sb 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6) Ngài không thể bị cám dỗ làm điều xấu, và chính Ngài cũng không cám dỗ ai. (Gc 1:13)
Thiên Chúa tiếp tục tuyên phán: “Giống như con cái Israel mang lễ phẩm trên chén dĩa thanh sạch đến Nhà Đức Chúa, người ta cũng sẽ đưa tất cả những anh em các ngươi thuộc mọi dân tộc về làm lễ phẩm tiến dâng Đức Chúa – đưa bằng ngựa, xe, võng cáng, lừa và lạc đà – về trên núi thánh của Ta là Giêrusalem. Và cả trong bọn họ, Ta sẽ chọn lấy một số làm tư tế, làm thầy Lêvi.” (Is 66:20-21)
Đó là quá trình Thiên Chúa biến đổi mọi thứ để tạo nên trời mới, đất mới – nơi chỉ có những thánh nhân vì chính Ngài là Đấng Thánh. Ai không hoàn hảo thì không thể diện kiến Ngài. Thật vậy, nếu không tinh tuyền, chúng ta không thể nhìn thấy Thiên Chúa, bởi vì sức phàm nhân không thể chịu nổi – tức là phải chết, như có lần chính Ngài nói với ông Môsê: “Ngươi không thể xem thấy tôn nhan Ta, vì con người không thể thấy Ta mà vẫn sống.” (Xh 33:20)
Tuy nhiên, nếu biết ép mình mà kiên trì đi hết đường hẹp, phàm nhân sẽ thành thánh nhân, có thể chiêm ngắm Tôn Nhan Thiên Chúa mà không phải chết, và được trường sinh bất tử. Thánh Vịnh gia kêu gọi mọi người cùng ca tụng Thiên Chúa: “Muôn nước hỡi, nào ca ngợi Chúa, ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Người! Vì tình Chúa thương ta thật là mãnh liệt, lòng thành tín của Người bền vững muôn năm. Alleluia.” (Tv 117:1-2) Không thể không vui mừng tưng bừng vì trường sinh là phúc đức quá lớn lao.
Thánh Vịnh 117 chỉ có hai câu ngắn gọn, nhưng chứa cả Đại Dương bao la của Lòng Thương Xót. Thánh Phaolô xác định một chân lý tuyệt đối: “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta.” (Ep 2:4)
Thuốc đắng khả dĩ trị bệnh. Đường hẹp dẫn tới đại lộ. Thành công nào cũng bởi đã khổ luyện. Hạnh phúc nào cũng cần phải có vị đắng của hy sinh và vị mặn của nước mắt. Thánh Phaolô nói: “Anh em đã quên lời khuyên nhủ được nói với anh em như với những người con: Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt. Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không sửa dạy?” (Dt 12:5-7) Cái khó “ló” cái khôn chứ không hề “bó” cái khôn, nhưng “ló” hay “bó” còn tùy người.
Tương tự, người Việt nói: “Thương con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi.” Tất nhiên câu này phải được hiểu ở nghĩa tương đối, không thể hiểu theo nghĩa đen và tuyệt đối. Không ai muốn bị sửa trị, nhưng có vậy mới thành nhân. Thánh Phaolô giải thích thêm: “Ngay lúc bị sửa dạy thì chẳng ai lấy làm vui thú mà chỉ thấy buồn phiền. Nhưng sau đó, những người chịu rèn luyện như thế sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính. Bởi vậy, hãy làm cho những bàn tay bủn rủn, những đầu gối rã rời, nên mạnh mẽ. Hãy sửa đường cho thẳng mà đi, để người què khỏi trật bước và hơn nữa, còn được chữa lành.” (Dt 12:11-13) Việc giáo dục nào cũng phải nghiêm túc, không thể gặp chăng hay chớ, trồng người không như trồng cây.
Đức tin được chứng tỏ rõ nét trong những lúc khó khăn, đau khổ. Đó là đức tin sống động chứ không là lời nói suông hoặc “đức tin chết.” (Gc 2:17 & 16) Vị thánh điển hình là Thánh Gióp, trong đau khổ tột cùng mà “ông Gióp không hề phạm tội cũng không buông lời trách móc phạm đến Thiên Chúa.” (G 1:22) Đó là đức tin đích thực, sâu sắc và mạnh mẽ.
Nói về người lạc lối, Kinh Thánh cho biết: “Đôi chân nó đi vào cõi chết, nó thẳng đường bước tới âm ty. Đường dẫn vào sự sống, nó không theo, nó lạc lối, mà không hay biết.” (Cn 5:5-6)
Lạy Thiên Chúa chính trực, xin giúp chúng con không chiều xác thịt, không tìm cách thỏa mãn, biết ép mình trong mọi hoàn cảnh, để tôi luyện chính mình theo ý Ngài, nhờ đó mà sinh ích cho chính chúng con và làm lợi cho các linh hồn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp” (Lc 13, 24) là lời khuyên của Chúa Giêsu gửi đến chúng ta ngày TN 21-C180
“Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp” (Lc 13, 24) là lời khuyên của Chúa Giêsu gửi đến chúng ta ngày hôm nay. Ơn cứu độ là phổ quát. Lời Chúa trong sách tiên tri Isaia là bằng chứng “Ta đến quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ:Chúng sẽ đến và nhìn thấy vinh quang của Ta” (Is 66,18). Chúa Giêsu cũng mạc khải cho chúng ta: “Người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa” ( Lc 13, 30).
“Từ muôn thuở tất cả mọi người được tuyển chọn. Thế nên Chúa Cha muốn qui tụ những ai tin kính Chúa Kitô vào trong Giáo Hội, để “từ Abel công chính đến người được tuyển chọn cuối cùng” sẽ được tập họp trong Giáo hội phổ quát bên Chúa Cha. Thánh Công đồng Vaticano II khẳng định như thế (x. Hiến chế Giáo hội Lumen Gentium, số 1-2).
Cửa Nước trời luôn rộng mở, ơn cứu độ là phổ quát, nhưng phải đi cửa hẹp mà vào. Chúa Giêsu khuyên chúng ta : “Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp” (Lc 13, 24). Lời trên đây đặt ra cho chúng ta nhiều câu hỏi.
Cứ sự thường ai chẳng thích cửa rộng mà đi. Vì cửa rộng, đường to thì tự do, thoải mái. Nhưng vì sao Chúa Giêsu lại bảo chúng ta “cố gắng vào qua cửa hẹp”? Hẹp nhưng lại có: “Nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được” (Lc 13,24). Tại sao vậy? Có phải vì một số ít người gặp may mắn mà tìm thấy cửa hẹp và được sự sống đời đời. Còn đa số người không may, cửa hẹp tìm mà không gặp, nên đành đi cửa rộng, và rốt cuộc, số phận hẩm hiu, hư mất trong lửa địa ngục? Hoặc là cửa hẹp ở một nơi bí mật nào đó khó tìm, Thiên Chúa chỉ mạc khải cho một số ít người Chúa yêu, nên rất ít người tìm được để vào, có phải như vậy không?
Câu trả lời thì hẳn là không! Thiên Chúa đầy lòng nhân từ thương xót, không thiên vị ai. Ngài không muốn một ai bị hư mất. Ngài muốn cho mọi người ăn năn hối cải để được cứu. Rất ít người tìm được cửa hẹp là lỗi tại loài người chúng ta, chứ không phải tại Thiên Chúa. Ít người tìm được là vì đa phần không thích cửa hẹp, chẳng những không muốn tìm mà còn tránh khỏi cửa hẹp, cho dù có tình cờ gặp được cửa hẹp, thì cũng không muốn đi vào, cứ cửa rộng đi, dẫn đến sự diệt vong.
Chúa Giêsu tuyên bố: “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6). Cửa hẹp là đường lối của Chúa. Nhưng phần đông người đời không muốn vâng theo lời Chúa dạy, tại vì khó quá. Mến Chúa thì dễ mà yêu người thì khó. Chúng ta muốn đạt được sự sống đời đời bằng con đường tự mình tạo ra với lối đi rộng rãi dễ đi, trái với ý Chúa. Chúa chỉ rõ hai con đường, một đường có cánh cửa rộng, tự do sống theo ý mình, với thú vui xác thịt. Chúng ta chọn con đường nào? Con đường rộng thênh thang có thật nhiều người đang đi trong thế gian, hay bên con đường hẹp, cổng chật của Chúa là nơi chỉ có ít người tìm đến? Tiếc thay, “nhiều người” sẽ chọn con đường này, đường rộng dẫn đến sự huỷ diệt đời đời.
Đi vào cửa hẹp đồng nghĩa với việc thu mình lại, từ bỏ mình và những lối sống tội lỗi kia sao cho vừa ý Chúa. Buông bỏ những gì chúng ta cho là hấp dẫn, quyến rũ, đẹp đẽ thuộc về thế gian, lòng kiêu ngạo, ích kỷ và tham lam để sống khiêm nhường, yêu thương, tha thứ, hy sinh, cầu nguyện cho người khác, ngay cả cho kẻ thù nghịch của mình. Thật khó để mà buông và từ bỏ.
Nhưng mến Chúa và yêu người là đường hẹp để vào Thiên đàng. Ðiều này có nghĩa là gì? Thưa: Để được cứu độ cần mến Chúa và yêu tha nhân. Việc làm này cũng không dễ dàng thoải mái! Ðó là “cửa hẹp” bởi vì tình yêu luôn đòi hỏi, dấn thân, ngay cả “nỗ lực”, cương quyết sống những giá trị của Tin Mừng.
Ngày nay có nhiều người nói rằng chúng ta chỉ cần tin Chúa Giêsu là đủ, còn vâng phục lời dạy của Chúa là không cần thiết cho sự cứu chuộc. Còn lời dạy chân chính của Chúa Giêsu là cửa hẹp và đường chật, khó vào và khó đi. Chúng ta không thích cái này, ít người lựa chọn. Nhưng Chúa nói rằng con đường chật này sẽ dẫn đến sự sống.
Chúa Giêsu không chỉ kêu gọi chúng ta vào qua cửa hẹp, chính Người đã làm gương cho chúng ta noi theo khi từ bỏ nơi cao quý, xuống thấp, đi vào cửa hẹp vì chúng ta. “Cửa Giêsu” so với thế gian hiện nay là con đường hẹp và cổng chật, nhưng thật ra lại chính là con đường của sự tự do, bình an và vui thoả đích thực, dẫn đến sự sống sung mãn ngay trong đời này lẫn cõi đời đời mà ngày sau sẽ có nhiều người tìm cách vào mà không được, vì đối với họ đã quá trễ khi cánh cửa tình yêu, lòng thương xót và ân điển của Chúa đã đóng lại. Không ai trong chúng ta muốn nhận câu trả lời: “Ta không biết các ngươi tự đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt ta” (Lc 13,27).
Chúa Giêsu là cánh cửa mà qua đó tất cả những ai muốn hưởng sự sống đời đời thì lựa chọn tìm kiếm bước vào. Con đường dẫn đến sự sống đời đời bị giới hạn chỉ là một con đường có tên là Giêsu Kitô. Theo nghĩa này, con đường hẹp vì đó là cách duy nhất (con đường duy nhất). Cần lặp lại lời khuyên của Chúa Giêsu: “Hãy cố gắng” để vào qua cửa hẹp (x. Lc 13,24). Theo tiếng Hy Lạp, cụm từ “hãy cố gắng” được dịch là làm hết sức có thể – agonizomai. Hàm ý ở đây là những người tìm cách vào cổng hẹp thì phải dùng sức mạnh để mà vào.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ mệnh danh là Cửa Thiên Đàng, chúng con nài xin Mẹ dẫn chúng con bước qua cánh cửa của đức tin mà tiến vào một con đường rộng rãi thênh thang, con đường của ơn cứu rỗi. Amen. mục lục
Những ý tưởng, những câu văn của Tin Mừng hôm nay là tổng hợp của nhiều đoạn Tin Mừng theo TN 21-C181
Những ý tưởng, những câu văn của Tin Mừng hôm nay là tổng hợp của nhiều đoạn Tin Mừng theo thánh Matthêô. Chẳng hạn:
- "Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp" trong bài giảng trên núi (Mt 7, 13).
- "Thưa ngài, xin mở cửa cho chúng tôi" là kết luận của dụ ngôn năm trinh nữ khôn ngoan, năm trinh nữ khờ dại (Mt 25, 11).
- "Ta không biết các ngươi" là một giáo huấn về cầu nguyện (Mt 7, 22).
- "Nhiều người từ đông sang tây đến dự tiệc" là kết luận trong câu chuyện chữa lành đầy tớ của ông đại đội trưởng (Mt 8,11).
- "Những người sau hết sẽ nên trước hết" là kết luận cho lời dạy về sự từ bỏ để theo Chúa (Mt 19, 30) và dụ ngôn thợ làm vườn nho (Mt 20, 16).
Từ phát hiện trên, nhiều người cho rằng, dụ ngôn hôm nay phát triển từ lời Chúa Giêsu dạy mà hình thành. Đúng hơn, Hội Thánh sơ khai dựa trên chính lời Chúa dạy để giáo huấn mọi người về nỗ lực cần phải có để đi tới ơn cứu độ.
1. THỨ TỰ MÃN NGUY HIỂM.
Từ xưa, hình thành sự tự mãn nơi các Kitô hữu. Họ cho rằng, họ là người của Chúa, là đoàn dân thuộc về Chúa. Chúa tiền định cho ai thuộc về Chúa sẽ đạt tới ơn cứu độ. Còn dân ngoại, vì không thờ Chúa, không sống trong Hội Thánh, không thừa hưởng máu cứu độ của Chúa, sẽ đứng ngoài ơn cứu độ.
Thái độ tự mãn khiến Kitô hữu không nỗ lực sống đức tin, không phấn đấu để ơn gọi của mình trưởng thành. Họ dần xa đời sống cầu nguyện, rời những chỉ thị của luân lý, mà chỉ ỷ lại vào tình thương cứu độ của Thiên Chúa.
Tự mãn sẽ biến Kitô hữu thành gương mù cho dân ngoại, khiến họ không còn thấy gương đức tin, không còn lòng tin, không còn hy vọng và ước ao trở nên Kitô hữu. Do hậu quả của tự mãn, công cuộc truyền giáo đình trệ. Bởi khi dân ngoại không còn nhìn các Kitô hữu như lý tưởng để họ phấn đấu, là cuộc tấn công có thể phá đổ nền tảng truyền giáo mà Chúa Giêsu hằng mong muốn.
Tự mãn khiến các Kitô hữu kiêu ngạo. Họ xem thường, thậm chí khinh thị người không cùng lòng tin. Dù thờ Chúa là chính đạo, nhưng một khi tín hữu xem mình là chính đạo rồi thiếu tôn trọng anh chị em, cho rằng họ thờ "bụt thần"..., Hội Thánh không còn cơ hội, chí ít là giảm cơ hội đến với muôn dân.
Vì thế, giáo huấn "Hãy vào qua cửa hẹp" của Hội Thánh tiên khởi nhằm dạy Kitô hữu đừng quên lãng trách nhiệm với Thiên Chúa, và với Đấng từng mời gọi: "Hãy nên thánh thiện như Cha trên trời là Đấng thánh".
Giáo huấn về cửa hẹp còn đòi tín hữu không ỷ y, không lơ là, càng không tự mãn cách ngông cuồng, kiêu ngạo đến nỗi sai lạc đức tin, sai lạc đường lối và giáo lý của Chúa. Họ không được nghĩ, ơn cứu độ đi liền với sự tiền định. Vì Chúa không bao giờ ban ơn mà không cần đến nỗ lực của chính bản thân ta.
Vậy thế nào là qua cửa hẹp hay nỗ lực của bản thân để đạt tới ơn cứu độ?
2. QUA CỬA HẸP.
"Cửa hẹp" không phải là cửa nhỏ. Chúa không nói đến nghĩa đen, nhưng theo nghĩa tinh thần và thiêng liêng. Chính cuộc đời trần thế của Chúa là gương cho ta về việc "qua cửa hẹp", khi Chúa đặt trọng tâm đời mình theo ý Chúa Cha. Bằng mọi giá, Chúa phải thi hành thánh ý Chúa Cha, dẫu trả bằng mạng sống và cuộc tử nạn bi thương khi trải qua mọi thứ phẫn nộ mà loài người dành cho.
Cũng vậy, theo Chúa qua cửa hẹp, ta phải bỏ ý riêng để chỉ một mình thánh ý Chúa là trọng điểm, là tất cả của đời sống. Thánh ý Chúa nhiều lúc đi ngược mong muốn của ta. Vì thế, ta sẵn sàng để Chúa tự do hành động, dẫu sự vâng phục có thể đưa đến mất mát, thiệt thòi, gập ghềnh, nhiều lúc còn chênh vênh, cô độc, thậm chí như muốn đẩy tới tận cùng của tuyệt vọng.
Qua cửa hẹp, ta được mời gọi nên thánh từng ngày bằng quyết tâm loại những gì đi ngược phẩm giá và lương tâm, dù nó mang nhiều lợi lộc, nhiều giá trị ở trần gian đến mấy đi nữa.
Qua cửa hẹp là sẵn sàng hy sinh không chỉ thời gian, công sức, tiền của mà còn chấp nhận thiện thân, chấp nhận đánh đổi cả sự sống nếu cần, vì danh Chúa, vì công cuộc rao giảng Tin Mừng, vì phần rỗi đời đời của anh chị em.
Qua cửa hẹp đòi có tình yêu vô vị lợi, chấp nhận không chỉ hòa mình, mà còn cúi mình để giữ sự thuận hòa, để nhìn nhận vai trò, kết quả, thành công, sự nổi bật... của người khác. Đồng thời không oán hận, không nuôi lòng thù trước những chỉ trích, những hằn học, những cái nhìn không thiện cảm...
Qua cửa hẹp là hết lòng yêu thương và tha thứ. Đó là cách sống đẹp, họa lại hình ảnh Chúa Giêsu thánh giá, nơi tưởng như khó có thể tha thứ. Vì ơn tha thứ từ thánh giá không phải được ban khi con người ăn năn, hoặc đau đớn và thấm thía về tội ác của mình, mà được ban giữa lúc họ đằng đằng sát khí, dâng trào hận thù, và hả hê vì chiến thắng trong tội ác đang ở mức cực điểm.
Qua cửa hẹp còn là từ bỏ và hết sức xa lánh những quyến rũ thế tục, đam mê tiền của, danh lợi, quyền lực, ham muốn xác thịt hay những hình thức tin tưởng sai quấy: dị đoan, bói toán, ma thuật và những gì liên quan đến chúng.
Chấp nhận qua cửa hẹp, ta thấm thía giá trị của ơn Chúa trong đời mình. Ta càng quý những nỗ lực để phấn đấu cho phần rỗi của bản thân và không tự mãn, không ỷ lại vào tình thương, sự bảo vệ nhưng không của Thiên Chúa.
Hãy luôn luôn tâm niệm rằng, Chúa không bao giờ tiếc với ta bất cứ một ân ban nào, nhưng luôn sẵn sàng chờ đợi ta, lôi kéo ta về phía Chúa. Tuy nhiên, Chúa cũng không làm thay ta mọi sự mà phải có sự phấn đấu của ta, để nỗ lực càng ngày càng hơn nhằm đạt tới ơn cứu độ của Chúa.
Chúa cứu độ ta, nhưng vẫn mời gọi ta: "Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp"! mục lục
Bài Tin Mừng hôm nay chỉ là trình thuật về một việc xảy ra trên con đường Chúa Giêsu đi từ TN 21-C182
Bài Tin Mừng hôm nay chỉ là trình thuật về một việc xảy ra trên con đường Chúa Giêsu đi từ Galilê đến Giêrusalem, vốn là một đoạn dài mô tả cuộc hành trình đến Giêrusalem trong mười chương, chiếm một phần ba Tin Mừng Thánh Luca, từ chương 9 câu 51 đến chương 19 câu 28.
● Luca 13:22: Đây là cuộc hành trình hướng về Giêrusalem: “Trên đường lên Giêrusalem, Chúa Giêsu đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy.”
Đã hơn một lần Luca đề cập và liên tục nhắc lại rằng Chúa Giêsu đang trên đường tiến về Giêrusalem:
- “Khi đã tới ngày Chúa Giêsu được rước lên trời, Ngài nhất quyết đi lên Giêrusalem…Nhưng dân làng không đón tiếp Ngài, vì Ngài đang đi về hướng Giêrusalem… Đang khi Thầy trò đi đường thì có kẻ thưa Ngài rằng: "Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo” (Lc 9: 51,53,57) ;
- “Sau đó, Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Ngài sẽ đến… Trong khi thầy trò đi đường, Chúa Giêsu vào làng kia” (Lc 10: 1,38);
- “Trên đường lên Giêrusalem, Chúa Giêsu đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy” (Lc 14:25);
- “Trên đường lên Giêrusalem, Chúa Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samari và Galilê” (Lc 17:11);
- “Chúa Giêsu kéo riêng Nhóm Mười Hai ra và nói với các ông: "Này chúng ta lên Giêrusalem, và tất cả những gì các ngôn sứ đã viết về Con Người sẽ được hoàn tất” (Lc 18:31);
- “Khi Chúa Giêsu gần đến Giêrikhô, có một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường. Nghe thấy đám đông đi qua, anh ta hỏi xem có chuyện gì. Họ báo cho anh biết là Đức Giêsu Nadarét đang đi qua đó” (Lc 18: 35-37);
- “Sau khi vào Giêrikhô, Chúa Giêsu đi ngang qua thành phố ấy… Khi dân chúng đang nghe những điều ấy, thì Chúa Giêsu lại kể thêm một dụ ngôn, vì Ngài đang ở gần Giêrusalem và vì họ tưởng là Triều Đại Thiên Chúa sắp xuất hiện đến nơi rồi… Nói những lời ấy xong, Chúa Giêsu đi đầu, tiến lên Giêrusalem” (Lc 19: 1,11,28).
Điều rõ ràng và dứt khoát ngay từ đầu chính là nơi kết thúc của cuộc hành trình và cũng là nơi kết thúc số phận của Chúa Giêsu: Giêrusalem, thủ đô nơi Chúa Giêsu chịu cuộc Khổ nạn và chịu chết: “Ngài còn nói: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy… Phần anh em, hãy lắng tai nghe cho kỹ những lời sau đây: Con Người sắp bị nộp vào tay người đời” (Lc 9:22, 44,50).
Nhưng Luca hiếm khi nói cho chúng ta biết về những nơi mà Chúa Giêsu đã đi qua. Ông chỉ nói điều này khi:
- bắt đầu cuộc hành trình: “Khi đã tới ngày Chúa Giêsu được rước lên trời, Ngài nhất quyết đi lên Giêrusalem” (Lc 9:51),
- ở giữa cuộc hành trình: “Trên đường lên Giêrusalem, Chúa Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samari và Galilê” (Lc 17:11)
- và khi kết thúc cuộc hành trình: “Chúa Giêsu kéo riêng Nhóm Mười Hai ra và nói với các ông: "Này chúng ta lên Giêrusalem, và tất cả những gì các ngôn sứ đã viết về Con Người sẽ được hoàn tất” (Lc 18:35) và “Người đang ở gần Giêrusalem và vì họ tưởng là Triều Đại Thiên Chúa sắp xuất hiện đến nơi rồi” (Lc 19: 11).
Nhờ đó chúng ta biết đôi điều về những nơi mà Chúa Giêsu đã đi qua. Bằng cách này, Luca gợi ý lời dạy sau đây: mục tiêu của cuộc đời chúng ta phải rõ ràng, và chúng ta cần phải chấp nhận mục tiêu đó một cách dứt khoát như Chúa Giêsu đã làm. Chúng ta phải bước đi; chúng ta không thể dừng lại. Dù những nơi mà chúng ta phải đi qua không phải lúc nào cũng rõ ràng và dứt khoát như vậy, nhưng điều chắc chắn phải là mục tiêu: Giêrusalem, nơi “cuộc xuất hành”, cuộc Khổ nạn, Cái chết và Sự Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô đang chờ đợi chúng ta: “Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem” (Lc 9:31).
● Luca 13:23: Câu hỏi liên quan đến số người được cứu. Dọc đường, mọi chuyện xảy ra: thông tin về vụ thảm sát và các thảm họa (Lc 13: 1-5), dụ ngôn (Lc 13: 6-9, 18-21), các cuộc thảo luận (Lc 13: 10-13) và , trong bài Tin Mừng hôm nay, một câu hỏi của dân chúng: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” Luôn luôn là một câu hỏi liên quan đến sự cứu độ! Đây là một câu hỏi đáng sợ. Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi trực tiếp. Thay vào đó, Ngài đưa ra một số lời khuyên. Có vẻ như Chúa Giêsu đang né tránh câu hỏi, như thể câu trả lời sẽ khiến người nghe nản lòng. Thay vào đó, Ngài cố gắng động viên, nhưng đồng thời nhấn mạnh khó khăn của thành công. Ngài nói, hãy cố gắng vào bằng cửa hẹp. Cố gắng là từ then chốt, vì rõ ràng cánh cổng quá hẹp. Nhiều người sẽ cố gắng vào và thất bại, vì khả năng thất bại là rất thực tế. Ai sẽ thất bại? Có thể là, những người không coi trọng Ngài; những người không đủ cố gắng; những người yêu điều gì đó nơi trần thế này, gắn bó với sự ấy hơn yêu và gắn bó với Chúa Giêsu. Như thế, có thể rất nhiều người sẽ thất bại.
● Luca 13: 24-25: Cửa hẹp. Chúa Giêsu nói rằng cửa hẹp: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được. Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói: "Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào! , thì ông sẽ bảo anh em: "Các anh đấy ư? Ta không biết các anh từ đâu đến! ”. Phải chăng Chúa Giêsu nói điều này để làm chúng ta sợ hãi và buộc chúng ta tuân theo Lề luật như những người Pharisêu đã dạy sao? Cửa hẹp này báo hiệu điều gì? Ngài đang nói về cánh cửa nào?
Nhiều người Israel vào thời Chúa Giêsu cho rằng chỉ cần là người Israel và tuân theo Lề luật là đủ. Và vì vậy trong trình thuật hôm nay, Chúa Giêsu cảnh báo họ đừng coi sự cứu độ của mình là điều hiển nhiên. Là một người Israel hoặc chỉ đơn giản tuân theo lề luật là không đủ.
Theo Chúa Giêsu, để được cứu độ, một người phải cố gắng thao luyện vất vả để trở nên thánh thiện. Thay đổi tính cách, lối sống buông thả phóng túng không bao giờ là việc dễ dàng. Thật vất vả vì chúng ta phải thay đổi cõi lòng của chúng ta. Không dễ dàng để buông bỏ ý chí của chúng ta, không dễ dàng để buông bỏ những ham muốn của chúng ta và những dự định của chúng ta. Để nên thánh, phải liên tục thuần phục ý chí của chúng ta theo ý muốn của Thiên Chúa, kế hoạch của chúng ta theo kế hoạch của Thiên Chúa.
Những việc “đạo đức” “tuân giữ lề luật” của Chúa và Giáo hội là rất cần thiết. Nhưng trong tất cả nếu không có tình yêu thương và cõi lòng hoán cải thì tất cả việc thực hành tôn giáo trên trần thế không có giá trị gì. Những gì giúp chúng ta hiểu ra ý Chúa, tuân theo ý Ngài và yêu mến Ngài là rất quan trọng.
● Luca 13: 26-28: Chỉ những ai thuộc một trong những người được đề cập trong Các Mối Phúc mới được vào Nước Thiên Đàng. Đây là cửa hẹp. Đây là cái nhìn mới về ơn cứu độ mà Chúa Giêsu đã truyền đạt cho chúng ta. Không có cửa nào khác! Đó là một câu hỏi về sự hoán cải mà Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta. Và Ngài khẳng định: “Bấy giờ anh em mới nói: "Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi. Nhưng ông sẽ đáp lại: "Ta không biết các anh từ đâu đến. Bấy giờ anh em mới nói: "Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi. Nhưng ông sẽ đáp lại: "Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính! "Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Ápraham, Ixaác và Giacóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. ”
Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Ngài nghĩ đến giờ phút phán xét, để nhận ra rằng chính bây giờ là thời điểm thuận lợi để hoán cải, để thay đổi quan điểm của chúng ta về ơn cứu độ để “được ở trong Nước Thiên Chúa” mà không “bị đuổi ra ngoài.” Chúa Giêsu cảnh báo nhiều người nghĩ rằng họ đã làm đủ rồi nhưng rốt cuộc họ sẽ ngạc nhiên khi thấy họ đã không làm đủ. Họ nghĩ rằng danh xưng Kitô hữu và lối sống đạo thành thói quen của họ là đủ vững chắc. Họ sẽ nói với Chúa Giêsu rằng họ đã ăn và uống với Ngài, rằng họ đã đi lễ vào mỗi Chúa nhật. Họ đã bao nhiêu lần ở trong nhà thờ và tham gia lớp học giáo lý, nghe các linh mục của Chúa Giêsu giảng trên các tòa giảng, họ đã đóng góp bao nhiêu tiền bạc và của cải cho các lần quyên góp của giáo xứ, giáo phận…, nhưng tất cả các điều đó là chưa đủ!
Chúa Giêsu đang cảnh báo tôi rằng việc tôi cảm thấy mình đã làm đủ cho Ngài không có nghĩa là tôi sẽ được ở trong số người được cứu độ. Tôi cần phải làm theo ý muốn của Chúa Giêsu với sự chân thành và trung thực nhất có thể, làm theo ý muốn của Ngài chứ không phải như mong muốn của riêng tôi. Đây là một sự hiểu lầm bi thảm vì thiếu sự hoán cải trọn vẹn. Chúa Giêsu coi những người cho mình là có công phúc và đạo đức, vì: “từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi” là “tất cả những quân làm điều bất chính!” Đây là một cách nhìn nhận hoàn toàn mới về ơn cứu độ của chúng ta. Cửa hẹp thật!
● Luca 13: 29-30: Chìa khóa giải thích sự hiểu lầm. “Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót.” Đó là sự thay đổi lớn lao xảy ra khi Thiên Chúa ngự xuống với chúng ta trong Chúa Giêsu. Tất cả mọi người sẽ có quyền tiếp cận và sẽ đi qua cửa hẹp.
Người ta có thể nghĩ đến Bài giảng trên núi, trong đó Chúa Giêsu gợi ý rằng Nước Trời có tám cửa. Đó là tám loại người trong các Mối Phúc:
1. “ai có tâm hồn nghèo khó”, 2. “ai hiền lành”, 3. “ai sầu khổ”, 4. “ai khát khao nên người công chính”, 5. “ai xót thương người”, 6. “ai có tâm hồn trong sạch”, 7. “ai xây dựng hoà bình”, 8. “ai bị bách hại vì sống công chính” (Mt 5, 3-10).
Thánh Luca rút gọn lại thành bốn loại:
1. “những kẻ nghèo khó”, 2. “những kẻ bây giờ đang phải đói”, 3. “những kẻ bây giờ đang phải khóc” và 4. những người “bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa” (Lc 6: 20-22).
Nên thánh quả thực giống như cố gắng chui một thân thể kềnh càng qua một cánh cửa hẹp. Sự có mặt của chúng ta ở nhà thờ vào Chủ nhật có đưa chúng ta đến gần Chúa hơn không, có dần dần “nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” không? (Mt 5: 48). Chúng ta phải cố gắng, phải làm việc thực sự chăm chỉ để trở nên thánh thiện. Nếu chúng ta nghĩ rằng điều đó dễ dàng thì có gì đó không ổn.
Chúng ta không thể cứ ngồi một chỗ và coi sự cứu độ là điều hiển nhiên. Được rửa tội theo Công giáo là không đủ. Chúng ta không thể cho phép mình suy nghĩ kiểu như tôi đến Nhà thờ vào mỗi Chủ nhật và có rất nhiều người tồi tệ hơn tôi, cho nên tôi vậy là đủ rồi.
Chúng ta phải yêu thương hơn, nhân từ hơn, tử tế hơn, ít phán xét hơn, ít giận dữ hơn, tin tưởng hơn, quan tâm hơn đến nhu cầu của người khác, tha thứ nhiều hơn, ít kiêu hãnh hơn, trung tín hơn… vv… vv…và điều đó thật là cánh của hẹp, không dễ dàng bước qua.
Lời Chúa mà chúng ta nghe trong Thánh Lễ sẽ thôi thúc chúng ta. Ân sủng của Bí tích Thánh Thể sẽ nuôi dưỡng chúng ta và nâng đỡ chúng ta. Ân sủng lạ thường của mỗi lần xưng tội tốt lành sẽ khiến chúng ta khiêm tốn và nhân từ hơn.
Sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay chính là: chúng ta phải cố gắng làm cho mình phù hợp với Chúa Kitô mỗi ngày trong cuộc sống của chúng ta để một ngày nào đó chúng ta có thể vượt qua cửa hẹp của sự thánh thiện để đến với sự sống đời đời đã được Chúa Giêsu hứa ban cho “Thiên hạ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa” (Luca 13:29). mục lục
Một cặp vợ chồng trẻ nọ chia sẻ cho nhau ước muốn có một ngôi nhà khang trang. Một tay tỉ TN 21-C183
Một cặp vợ chồng trẻ nọ chia sẻ cho nhau ước muốn có một ngôi nhà khang trang. Một tay tỉ phú tình cờ nghe được câu chuyện ấy. Với tất cả nghiêm chỉnh, ông đề nghị với họ: nếu cô vợ chịu ngủ với ông một đêm, ông sẽ tặng họ một triệu Mỹ kim để thực hiện ước mơ của mình. Hai vợ chồng đồng ý. Nhưng khi người vợ lên đường đến với nhà tỉ phú thì người chồng cũng bắt đầu hối hận. Song đã quá muộn. Sau một đêm để có một triệu Mỹ kim, tình yêu của họ đã tan vỡ... Con đường dễ dãi là con đường dẫn đến hư mất. Sự thành đạt thường không tới cách ngẫu nhiên, mà là kết quả của những cố gắng và kiên nhẫn lâu dài.
Đó là điều mà trang Tin Mừng hôm nay muốn dạy. Đoạn này là một bức khảm gồm nhiều văn bản mà nơi Mát-thêu, ta thấy nằm rất ở nhiều vị trí (câu 24: Mt 7,13; câu 25: Mt 25,11; câu 26: Mt 7,22; câu 28: Mt 8,11; câu 30: Mt 19,30 và 20,16). Lu-ca thành thử đã liên kết nhiều lời Đức Giê-su nói trong nhiều trường hợp khác nhau. Tuy nhiên, vẫn có thể coi đây một bản văn nhất quán: trả lời câu hỏi về số người được chọn, Đức Ki-tô khẳng định hai chân lý xem ra rất mâu thuẫn... cửa trời thì “hẹp”, nhưng chính lương dân ùa vào bàn tiệc thiên sai, trong khi những khách mời trước tiên lại đứng ngoài. Chớ nên ngạc nhiên trước lối biên soạn này. Đức Giê-su đã chẳng “viết lách”, “cố định” gì cả. Và hiển nhiên Người cố ý như vậy. Người đã thật sự giao Lời mình cho Giáo Hội để Giáo Hội nói lại bằng cách thích nghi nó theo các nhu cầu của mỗi thời đại lịch sử. Trang sách Lu-ca vẫn là “của Đức Giê-su” theo hai nghĩa: nó đúng là phát xuất từ môi miệng Người vào những lúc khác nhau... nó cũng là công trình của Đức Giê-su hằng sống trong Giáo Hội là Thân Thể Người... Hãy bắt chước chính thái độ của Lu-ca: vừa trung thành với nguồn liệu, vừa tự do trong Thần Khí... để giải thích Kinh thánh như lời sống động, có khả năng soi sáng các vấn đề hôm nay.
Bằng Nỗ Lực Hành Động
Lúc ấy, Đức Giê-su đang “trên đường” lên Thành thánh... nơi chúng ta biết cái gì sắp xảy đến. Người chẳng bất động. Người “du hành”. Người bước đi! Từ này được sử dụng 88 lần bởi Lu-ca, bạn đường của thánh Phao-lô, nhà đại du hành. Đời Ki-tô hữu cũng là một cuộc du hành, tiến về phía trước. Phần tôi, tôi có bất động, dừng lại, đứng im chăng? Phải chăng tôi mong ước một Giáo Hội đứng im, dừng lại, bất động? Hãy nhớ lại lời giáo huấn “Giáo hội đi ra” trong Tông huấn “Niềm Vui Tin Mừng” (số 20-24.49) của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô. Sự tiến triển của lịch sử nằm trong chương trình Thiên Chúa. “Thời gian” là một tạo vật của Người.
“Có kẻ hỏi Người: Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” Đây là một câu hỏi nóng bỏng, luôn thời sự. Một câu hỏi rất người, căng phồng tình máu mủ của ta: làm sao có thể hạnh phúc trên trời nếu thân nhân của mình không có đó? Một câu hỏi rất tự nhiên: “Chớ đến dự tiệc Vương Quốc một mình; trên đường, hãy loan tin: điều Thiên Chúa hứa là một chiếc bánh bẻ ra để san sẻ...”. Ai không ao ước cho “mọi người” được cứu, thì chẳng hưởng ơn cứu rỗi được, vì không hoàn tất chính định luật của Vương Quốc Thiên Chúa là tình yêu vô biên... “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu rỗi” (1Tm 2,4).
Một lần nữa, Đức Giê-su không trả lời trực tiếp. Người chẳng nói sẽ có “nhiều” hay “ít” kẻ được tuyển chọn. Làm như thể câu hỏi lý thuyết này chẳng liên quan tới mình, Người lập tức đưa thính giả về lại trách nhiệm của họ: “Thay vì tranh luận kiểu trí thức, anh em hãy cụ thể đi vào sự sống vĩnh cửu ấy... Vấn đề là đi vào!” Tò mò về số kẻ được cứu phản ảnh thái độ tìm kiếm an ninh không lành mạnh: nếu mọi người lên trời hết, thì cần chi lo lắng chuyện này... nếu rất ít là kẻ được lên, thì ích gì mà nỗ lực? Đức Giê-su thành thử cố ý bất chính xác, để buộc ai nấy phải quyết định, và Người quả quyết “đó là điều nghiêm túc”. Người không thích “trấn an”, một chỉ muốn ta có “trách nhiệm”. Do đó Người sử dụng một hình ảnh quen thuộc trong toàn bộ Kinh thánh: Vương Quốc Thiên Chúa như một phòng tiệc. Nhưng Người thêm: thiên hạ xô lấn nhau trước cửa, bởi lẽ nó “hẹp” vô cùng. Từ hy lạp được dịch “hãy chiến đấu” là động từ “agonizesté” vốn có nghĩa “đánh nhau để vào” nếu xét theo mặt chữ. Từ “agonie” trong tiếng Pháp xuất phát tự cùng ngữ căn: đó là cuộc chiến đấu tối hậu của cuộc đời. Để trao ban ơn cứu rỗi cho “mọi” người, Đức Giê-su đã “chiến đấu” đầu tiên, tại Ghet-sê-ma-ni và Gôn-gô-ta (chính xác hơn cách dịch: “hấp hối”). Người không cho ta một lời khuyên nào mà chẳng tự mình thực hiện trước. Trong một đoạn khác, Người bảo: “Ai mạnh sức thì chiếm được Nước Trời” (Mt 11,12; Lc 16,16).
Vậy để được thiên đường, đâu là cuộc chiến của riêng tôi? Tôi phải đấu tranh trên điểm nào, trong hoàn cảnh tôi ở, với tính khí tôi có, bằng cách vượt thắng những điều kiện và những gò bó đè lên cuộc đời tôi? Thánh Phao-lô cũng sử dụng từ “agôn”, “chiến đấu” để diễn tả bản chất đời Ki-tô hữu. “Tôi vui mừng được chịu đau khổ, để loan báo Đức Ki-tô: chính vì mục đích ấy mà tôi phải vất vả chiến đấu” (Cl 1,29; 1Cr 9,25; Cl 4,12; 1Tm 4,10). “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin” (2Tm 4,7). Sao chúng ta lại có ảo tưởng “đi vào” thiên đường mà chẳng nỗ lực? Đời Ki-tô hữu phải đâu là một chiếc ghế bành. Dĩ nhiên đó là một ơn nhưng không, thậm chí ban cho kẻ tội lỗi. Song phải biết đón nhận ơn ấy, chớ triệt để khép cửa lòng mình.
Chứ Chẳng Bằng Mang Danh
“Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khóa cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói: “Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào!” thì ông sẽ bảo anh em: “Ta không biết các anh từ đâu đến!” Dụ ngôn dữ dội tiếp tục: cửa hẹp bây giờ trở thành cửa “đóng”. Lời mời vào hết sức khẩn cấp: thời gian thúc giục, ngày mai sẽ quá trễ... phải “vào Vương Quốc” ngay hôm nay. Vâng, một ngày kia, đối với tôi cũng thế, sẽ quá trễ. Tôi còn lại biết bao thời gian? Chúng ta phải sống mỗi ngày như thể là ngày cuối cùng. “Bấy giờ anh em mới nói: Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài...”. Ý thức cao về giá trị của Giao ước, dân Ít-ra-en đã khó chấp nhận chuyện dân ngoại đi vào Nước Trời. Rabbi Méir viết: “Để nên con cái của thế giới mai hậu, phải ở tại xứ Ít-ra-en, nói ngôn ngữ thánh là tiếng Hip-ri, và đọc kinh Shê-ma Ít-ra-en (=Nghe đây, hỡi Ít-ra-en) sáng chiều...”. Đối với Đức Giê-su thì trái lại, các đặc quyền chủng tộc ấy không đáng kể. Lời cảnh cáo nghiêm khắc của Người, vốn áp dụng trước hết cho những ai đã “ăn uống” với Người, đã “nghe” Người giảng dạy, bây giờ áp dụng cho chúng ta là những kẻ chia sẻ bàn tiệc Thánh Thể. Một giờ ngắn ngủi sống với Đức Giê-su Chúa nhật, sẽ không bù trừ nổi mọi giờ khác trong tuần chúng ta trải qua để “làm điều bất chính” cách xa Người.
“Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Giácóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài...”. Ngôn ngữ này có thể cho ta cảm tưởng nhiều người thiện chí, sau khi đã thật sự tìm cách vào thiên đường, thì bị tùy tiện loại khỏi đó do quyết định độc đoán của một chúa tể bất nhân. Nghĩ thế là bêu riếu Thiên Chúa! Người không khe khắt cũng chẳng bất công tí nào. Ai không vào bàn tiệc được phải tự trách mình. Thật thế, ngay cả lương dân cũng từ mọi chân trời đến đó. Thiên Chúa đã làm tất cả để cánh cửa thời danh, “chật hẹp” thật sự, vì vĩnh cửu là cái gì quan trọng, trở thành một cửa “mở” cho mọi người, không phân biệt ai. Số phận bi đát của Ít-ra-en, hạng được mời trước hết nhưng đã bị các dân tộc từ khắp nơi qua mặt, phải đánh thức thói đờ đẫn của chúng ta. Ta không thể lên trời mà không lưu tâm đến trời, có thể bảo vậy. Phải muốn nó. Phải phấn đấu để vào. Phải quyết chọn Đức Giê-su. Đó không phải là thuộc về một nhóm, một chủng tộc, một gia đình, cũng chẳng phải là thực hành một số lễ nghi, vốn có thể cho chúng ta một bảo đảm hão... Đó là dấn thân toàn bộ con người chúng ta, mọi giây phút của chúng ta, để theo Đức Giê-su.
Và đặc biệt chớ phê phán người khác. Chúng ta biết được hai điều: 1- về phía Thiên Chúa, tất cả đã được thực hiện để cứu rỗi mọi người...; 2- về phía con người, còn lại tự do nghiêm túc để chấp nhận hay từ chối “ân huệ” Thiên Chúa, và tự do này gây nên một cuộc chiến đấu thực sự... Ở đời này, chúng ta chẳng bao giờ biết tự do của anh em đã nói tiếng cuối cùng hay chưa. Cuộc gặp gỡ sau hết với Thiên Chúa, vào lúc chết, thành thử hẳn mang tính quyết định. Mọi ai đã hiểu sự được mất kinh khủng này, mới có thể trở nên “người cứu rỗi” cùng Thiên Chúa: Chớ đến dự tiệc Vương Quốc một mình; trên đường, hãy loan tin: Điều Thiên Chúa hứa là một chiếc bánh bẻ ra để san sẻ. Thiên Chúa thúc giục anh em đi vào nơi ở duy nhất và quy tụ anh em trong tình yêu. Lạy Chúa Giê-su, niềm hy vọng của loài người, xin giúp chúng con làm chứng cho ơn cứu rỗi của Chúa… mục lục
Đọc bài Phúc Âm hôm nay (Lc 13:22-30), có nhiều người hiểu lầm và hiểu nhiều cách khác nhau TN 21-C184
Đọc bài Phúc Âm hôm nay (Lc 13:22-30), có nhiều người hiểu lầm và hiểu nhiều cách khác nhau vì không biết cách Chúa nói. Nói gọn lại là “Ai là người sẽ được cứu rỗi” thì ta thấy ý Chúa Giêsu đã rõ ràng, không thể hiểu cách nào khác.
Chúa đòi hỏi chúng ta phải cố gắng chiến đấu (13:24), phải nắm lấy cơ hội là những điều kiện để được vào nước Trời bởi vì cửa trời thì “hẹp” và không phải “lúc nào cũng mở” (c.25).
Qua câu chuyện ẩn dụ về bàn tiệc, Chúa Giêsu muốn gửi một sứ điệp cho dân Do Thái lúc đó (c.26) là chỗ của họ trong bàn tiệc nước trời đã bị dân ngoại, những người xa lạ đến từ muôn phương chiếm mất rồi (c.29). Những người ở cuối chót (tức dân ngoại) sẽ được đưa lên trên thế chỗ của những người được mời trước đã bị loại ra (người Do Thái).
AI LÀ NGƯỜI ĐƯỢC CỨU RỖI?
Nguyên văn câu người ta hỏi Chúa Giêsu là “Có phải chỉ một số ít người được cứu rỗi phải không?” Chúa đã không trả lời trực tiếp câu hỏi, nhưng nói rằng cửa vào nước trời thì hẹp và đòi hỏi nhiều điều đặc biệt và khác thường. Chúa kết luận “Cửa Cơ Hội” không phải lúc nào cũng mở, nhưng ‘một khi cửa đã đóng thì đóng luôn và không mở ra nữa’.
Cửa sẽ không mở trở lại cho những người thưa với Chúa là ‘chúng tôi đã từng thấy Chúa đến thị trấn và làng mạc của chúng tôi, đã giảng dạy trên những đường phố, chúng tôi đã thấy Chúa, đám đông và các môn đệ của Chúa. Những lời biện minh như thế đã không có giá trị mà còn tự tố cáo mình đã không nắm lấy những cơ hội tốt đó như những điều kiện ắt phải có.
Thêm vào nỗi đau khổ phải đứng chờ trước cánh cửa đã đóng, họ lại thấy rất nhiều người được nhận vào không phải là dân Israel mà là dân ngoại xa xôi, là những người đã nghe và tin Chúa, một cơ hội tốt mà chúng ta và những người Do Thái đã có nhưng lại để vuột mất.
THẾ NÀO LÀ CỨU RỖI?
Để được cứu rỗi với tư cách là Kito hữu, chúng ta phải nhận biết Chúa Giêsu là Thầy ngay từ bây giờ. Theo bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy có lẽ Chúa Giesu không nhận tất cả mọi người mang danh là Kito hữu, nhưng Người biết tất cả những ai có cuộc sống mang dấu ấn “Kito hữu”. Chúng ta nên coi lại xem chúng ta đã quan niệm vương quốc Thiên Chúa thế nào, và ai sẽ được cứu rỗi. Những người mà chúng ta nghĩ là rất khó có thể vào đó được thì có thể lại là những người đầu tiên được vào hoặc ngược lại.
Cứu rỗi là cả một hành trình dài mà xuyên suốt đoạn đường đó Thiên Chúa đã tìm kiếm chúng ta và chọn chúng ta. Trên hành trình đó chúng ta trở thành bạn đường với Chúa và với nhau, để rồi chìm sâu hơn nữa vào mầu nhiệm thánh của Thiên Chúa. Và, toàn thể cuộc hành trình cải đổi đó đều được xây dựng trong tình thương yêu.
CỨU RỖI QUA CHÚA GIÊSU KITÔ.
Cái khác lạ chúng ta gặp trong khi loan truyền Tin Mừng Chúa là ơn cứu chuộc của những người bề ngoài xem ra không thuộc về Giáo Hội. Trong Tông thư lừng danh của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II “Redemptoris Missio / Sứ Mệnh Cứu Chuộc”, đã có câu: “Tặng phẩm cứu chuộc không chỉ giới hạn cho “những người rõ ràng đã tin vào Chúa Kitô và ở trong Giáo Hội, vì ơn cứu chuộc được ban cho tất cả mọi người thì nó phải được sẵn sàng cho tất cả mọi người một cách cụ thể”. Và, cũng để công nhận rằng có nhiều người không thể tiếp cận được với sứ điệp Tin Mừng, Ngài đã nói: “Họ là những người không có cơ hội để biết và đón nhận mạc khải Phúc Âm hoặc gia nhập Giáo Hội. Những điều kiện văn hóa xã hội mà họ sống không cho phép họ, và thường thì họ lại được đưa đẩy đến những truyền thống tôn giáo khác” (Số 10).
Chúng ta không nên và không bao giờ được chấp nhận thuyết tương đối cho rằng ơn cứu chuộc có thể thấy ở bất cứ tôn giáo nào khác như ta thường nói “đạo nào cũng tốt, miễn là ăn ngay ở lành là được”, ngay cả ở những tôn giáo tin vào Chúa Kitô là Đấng Cứu Chuộc theo cách thức riêng và độc lập của họ, và rằng đối thoại liên tôn phải được đặt căn bản trên ý tưởng tương đối mơ hồ này. Giải quyết vấn đề cứu chuộc cho những ai không tin vào Chúa Kitô như tuyên xưng trong kinh tin kính thì không thích hợp với Tin Mừng Phúc Âm. Chúng ta phải giữ vững lập trường cứu chuộc là phải qua Chúa Kitô. Do đó Giáo Hội và những nhà truyền giáo của Giáo Hội có bổn phận làm cho mọi người nhận biết Chúa và yêu mến Chúa ở mọi thời mọi lúc và mọi văn hóa. Tách biệt khỏi Chúa Kitô thì “không có ơn cứu độ”.
Thánh Phêrô cũng đã tuyên bố trước Đại Công Nghị/Tòa án tối cao của người Do Thái là “Không có danh xưng nào khác dưới bầu trời này được ban cho nhân loại lại có thể cứu rỗi” (cv 4:12).
BẠN CÓ ĐƯỢC CỨU RỖI KHÔNG?
Nếu có ai hỏi, bạn có được cứu rỗi không thì bạn nghĩ sao? Trong một buổi học hỏi Kinh Thánh ở xứ đạo của tôi, một học viên trẻ đã hỏi vị linh mục giảng viên là cha có được cứu rỗi không? Ngay lúc đó cha đã không trả lời và tiếp tục giảng…., rồi sau đó chừng mươi phút cha nói tôi không thể trả lời câu hỏi của bạn được. Cha có vẻ đăm chiêu suy nghĩ. Nhưng một bạn trẻ khác trong đám học viên đã trả lời: “Cha là linh mục và là người Công Giáo, cha không được cứu rỗi vì cha không biết điều đó ý nghĩa thế nào!”
Đối với cá nhân tôi, câu hỏi đó đã đè nặng đầu tôi lâu ngày, vì thực sự tôi chưa bao giờ nghĩ tới một câu hỏi như vậy. Nếu người ta hỏi tôi câu hỏi đó ở một góc phố ồn ào xô bồ nào đó hay ở lối vào một khu thương mại lớn ở Los Angeles hay Jacksonville, Florida thì tôi nghĩ những người này hoặc thiếu giáo dục hoặc quá chất phác hay là những người chủ trương thuyết cơ bản cố ý phá vỡ bầu khí yên tịnh trong đầu tôi bằng những câu hỏi xấc xược như vậy?
Nhưng, đây là một câu hỏi quan trọng chúng ta cần phải suy nghĩ và đặt thành vấn đề, nhất là những người Công Giáo chúng ta lại ít hiểu biết nhiều về danh từ cứu chuộc trong Kinh Thánh và cũng không thường gặp những câu hỏi đặc biệt thế này. Nếu sau này có ai hỏi chúng ta câu hỏi này thì chúng ta có thể đã có ít nhiều tư tưởng trong đầu rồi, và chúng ta sẽ vui mừng và ngạc nhiên về kết quả của những suy nghĩ của chúng ta.
KIẾN TRÚC SƯ CỦA NIỀM TIN KITÔ GIÁO
Theo bài đọc 2 thư gửi tín hữu Do Thái (Dt 12:5-7,11-13), đời sống người Kitô hữu đã được truyền hứng không những bởi đức tin gương mẫu của các tổ phụ trong Cựu ước (Dt12:1) mà trên hết nữa còn bởi Chúa Giêsu. Là kiến trúc sư của niềm tin Kitô giáo, chính Chúa Giêsu đã phải chịu cực hình trên Thập giá trước khi khải hoàn vinh quang (Dt12:2). Suy niệm về sự đau khổ của Người sẽ giúp chúng ta có can đảm để tiếp tục chiến đấu, nếu cần cũng phải đổ máu (Dt12:3-4). Người Kitô hữu nên để ý đến chính những đau khổ của mình như những sửa đổi dễ thương mà Chúa là Đấng yêu thương chúng ta như cha yêu thương con cái đã sửa đổi chúng ta vậy.
CẦU NGUYỆN CHO PHẦN RỖI CỦA THA NHÂN
Ngày 27 tháng 8 Giáo Hội mừng nhớ thánh Monica, mẹ thánh Augustine. Nếu ai muốn cầu nguyện cho người nhà hay người mình yêu thì nên cầu xin thánh Monica. Khi tiếp chuyện với các bậc cha mẹ rất lo lắng cho con cái, tôi thường nói với họ về thánh Monica, một vị thánh rất hay cứu giúp các cha mẹ và con cái trong những lúc buồn phiền chán nản, bởi vì chính thánh nhân đã từng thắc măc đặt câu hỏi: “Khi nào và làm sao để con tôi được cứu rỗi?” Thánh Monica đã phải nhẫn nại chờ đợi rất lâu để con mình là Augustine trở lại Kito giáo.
Monica có nhiều lý do để lo buồn áy náy về cậu quí tử này. Lúc 18 tuổi, Augustine có bồ và có một đứa con, anh lại gia nhập đạo Manichees, một lạc giáo được giảng dạy từ thế kỷ 3 đến thế kỷ 7 do Manichacus, người Ba Tư khởi xướng, kết hợp giữa các yếu tố bái hỏa giáo (Zoroastrianism), ngộ đạo thuyết (Gnosticism) và Kitô giáo. Đạo này chủ trương nhị nguyên – thiện và ác song hành - ảnh hưởng rất mạnh đến các chi nhánh của giáo phái Cathari… Khuyên răn thế nào cũng không được, trái lại chỉ làm cho anh chàng càng bướng bỉnh xa lánh đường ngay nẻo chính. Bà Monica đã phải đi gặp giám mục để xin giúp đỡ, nhưng ngài cũng chẳng làm gì khác là khuyên bà: “Đừng đụng đến hắn nữa, cứ cầu nguyện đi”. Bà đã cầu nguyện, và hình như Chúa cũng có vẻ không muốn nghe lời cầu của bà. Bất thần Augustine căng buồm đi Rome dù bà cầu khẩn Chúa ngăn cản anh chàng. Nhưng Thiên Chúa đã hiểu ý muốn chân thành của bà và ở Rome, Augustine đã học hỏi đủ, suy nghĩ và từ bỏ Manichees. Nhưng anh ta vẫn chưa phải là Kito hữu, cho đến khi ....
PHẢI NHẪN NẠI, TRUNG THÀNH VÀ HY VỌNG
Monica là một thánh nhân bình thường nhưng lại nổi tiếng được nhiều người biết đến. Thánh nhân có nhiều đức tính đặc biệt: Trước nhất là tính NHẪN NẠI. Bà nhẫn nại với chồng và với con, đứa con trai tính tình có thể nói là bất trị. Chỉ đến năm cuối đời của Monica, Augustine mới trở lại Kito Giáo. Monica là mẫu mực của lòng TRUNG THÀNH. Bà tin tưởng vào đấng quan phòng trong khi sống trong đen tối và mơ hồ. Bà là gương mẫu của HY VỌNG. Trong khi nói chuyện với con trai ở Ostia / Rome, cả hai cùng đăm chiêu nhìn ra biển cả và suy nghĩ về vấn đề Sống và Chết. Chúng ta hãy nghe những lời thú tội của Augustine về đức tin bền bỉ của mẹ mình:
“Ngày mẹ con lìa đời đang đến gần. Lạy Chúa! Chúa biết ngày đó nhưng con không biết…Mẹ con nói: ‘Con ơi, đối với mẹ, đời này chẳng có gì làm cho mẹ hạnh phúc cả. Mẹ không hiểu tại sao mẹ còn hiện diện ở đây, bởi vì mẹ chẳng còn hy vọng gì ở trần gian này nữa. Mẹ chỉ có một lý do muốn sống lâu hơn một chút là để nhìn thấy con trở thành người Kito hữu Công giáo trước khi mẹ nhắ mắt lìa đời. Thiên Chúa đã không tiếc cho mẹ đủ thứ quà tặng, vì mẹ biết rằng con cũng từ chối hạnh phúc trần gian để làm tôi tớ Người.’”
Những lời cầu khẩn Chúa và sự chứng giám bền bỉ, dễ thương trong thầm lặng này của thánh Monica đã mang lại kết quả cho toàn thể Giáo Hội. Augustine đã chịu phép rửa tội năm 387 và gần 10 năm sau đó ngài trở thành Giám mục của Hippo ở bắc Phi châu. Chỉ vào năm cuối đời của bà Monica, Augustine mới trở lại Kito giáo. Như vậy là mất 33 năm trời, nhưng Thiên Chúa đã đáp ứng lời cầu khẩn của Monica một cách mà bà không thể ngờ được. Augustine đã trở thành thánh và là một thánh tiến sĩ của Giáo Hội.
Khi chúng ta mừng kỷ niệm kính nhớ thánh Monica, chúng ta hãy cảm ơn cha mẹ, anh chị em, bạn bè chúng ta vì niềm tin bình thường của họ. Họ là những mẫu mực của niềm tin vĩ đại, lòng trung thành, nhẫn nại và hy vọng của chúng ta. Những người này đã giúp chúng ta biết ước mong và tận hưởng ơn cứu độ bây giờ và mãi mãi về sau. mục lục
Trên đường lên Giê-ru-sa-lem đã có người hỏi Chúa rằng “Thưa Thầy, phải chăng chỉ có một TN 21-C185
Trên đường lên Giê-ru-sa-lem đã có người hỏi Chúa rằng “Thưa Thầy, phải chăng chỉ có một số rất ít người được cứu thoát thôi?” Lời phỏng đoán của ông về số người sẽ được cứu thoát trong bài Tin Mừng có thể là suy nghĩ của chúng ta nữa. Với tinh thần cục bộ và phe nhóm, chúng ta cho rằng chỉ có một số người công giáo chính hiệu, công giáo toàn tòng mới được cứu thoát thôi.
Nói đến đây khiến tôi nhớ đến một câu chuyện ngắn: Truyện kể về cuộc gặp gỡ của một ông kia với Thánh Phê-rô. Sau khi ông chết, được đưa về Thiên đàng, gặp Thánh Phê-rô đang đứng ở cổng để chào đón mọi người. Đến phiên ông, khi trình diện, đã mạnh dạn xin Thánh nhân dẫn đi một vòng Thiên đàng để tham quan. Ông vui sướng trước vẻ đẹp và cảnh thần tiên của Thiên Đàng. Đi không biết mệt, chỗ nào cũng thú vị. Cả hai đang đi, ông nhận ra khung cảnh trước mắt hơi khác lạ. Họ chuẩn bị đi đến một khu vực được bao quanh bởi một bức tường cao.
Khi chuẩn bị đi qua chỗ này, Thánh Phê-rô mới yêu cầu ông giữ yên lặng và đi trong âm thầm. Ngạc nhiên, ông ta mới thưa với Thánh nhân rằng: “Tại sao thế?” Thánh Phê-rô nhỏ nhẹ trả lời ông rằng: “Bởi vì, bước chân và tiếng nói của chúng ta có thể làm phiền những người bên trong.” Vậy ai ở bên trong, thưa Ngài. Thánh Phê-rô trả lời: “Họ là những người Công giáo.” Ngài nói tiếp: “Ông đã biết rõ họ là những người đã nghĩ rằng Thiên Đàng chỉ thuộc về phe của họ. Ngoài họ ra thì chẳng có ai xứng đáng sống ở đây. Và bây giờ, nếu họ biết rằng có những người khác đang sống ở Thiên đàng thì họ sẽ thất vọng biết bao. Biết đâu, chẳng có một số người trong nhóm họ sẽ yêu cầu được trả lại cho họ những công nghiệp mà họ đã tích lũy trước khi bước vào nơi đây.” Vì họ, chúng ta tốt nhất là hãy bước đi trong thinh lặng!
Ngược lại, trong thế giới hiện đại này lại có những người thờ ơ với tôn giáo đến độ không cần chuẩn bị cho sự sống đời sau, không cần biết ai sẽ cứu mình và làm sao để được cứu nữa? Họ sống buông thả, sống theo ước muốn và chiều theo các nhu cầu của bản thân. Vui là chính, không cần biết đến ai khác, ngoại trừ bản thân. Họ đang sống trong một môi trường mà con người chỉ biết hưởng thụ, tìm cái lợi trước mắt cho bản thân. Mục tiêu của tôi là phải giành chiến thắng. Con đường tôi đi phải đưa tôi lên đỉnh cao, tôi phải được về nhất, như thế bằng mọi cách thức tôi phải loại bỏ những người khác, rồi những người khác giống như tôi sẽ tìm cách lôi tôi xuống. Cuối cùng thì ai sẽ vào được cổng! Cho dù cánh cửa có mở rộng, nhưng chúng ta sẽ bị kéo xuống hay bị đè bẹp vì chen lấn nhau.
Thưa anh chị em,
Ở đây, Đức Giê-su đã không trả lời trực tiếp là có bao nhiêu người sẽ được cứu độ. Người đã dùng hình ảnh ‘cánh cửa hẹp’ mời gọi chúng ta bước vào. Rồi Đức Giê-su nói tiếp rằng sẽ có rất nhiều người chiến đấu để vượt qua ngưỡng cửa để vào mà không vào được vì quá yếu. Hãy chiến đấu để bước qua cửa hẹp mà vào, đó là Lời Đức Giê-su phán dậy hôm nay.
Căn cứ vào Lời Người phán, chúng ta thường để ý và suy diễn để tìm ra cửa hẹp ở đâu? Làm cách nào để bước vào? Rồi từ đó liệt kê ra một số việc cần làm, những hành động phải hy sinh; các khoản luật cần chu toàn; những điều cần từ bỏ, v.v… Nói chung, chúng ta sẽ làm tất cả để thu gọn vóc dáng sao cho vừa với kích thước của cánh cửa.
Đức Giê-su nói với chúng ta hãy qua cửa hẹp mà vào. Ở một nơi khác, Người tự xưng mình chính là cánh cửa. Con đường và cuộc sống của Người là lối đi hẹp. Ngay từ những ngày đầu tiên, Đức Giê-su đã chọn lối sống hy sinh, từ bỏ, phó thác và làm vui lòng Cha. Con đường hẹp mà Đức Giê-su đã đi quá chật, chật đến độ khiến Người đã có ý định bỏ cuộc mà kêu lên rằng: “Lạy Cha, xin cho con khỏi uống chén này.” Nhưng nếu Người không uống, thì làm sao có thể đi tới cùng để thi hành ý định của Cha. Vì vậy, Người đã vâng phục khi nói rằng “xin đừng theo ý con, một xin theo ý Cha”.
Con đường hẹp dẫn Đức Giê-su đến cái chết. Thật là ngược đời; nhưng đó lại là ý định của Chúa Cha, Đấng yêu thương nhân loại đến độ không tiếc hy sinh Con của Ngài để thiết lập vương quốc tình yêu và sự sống qua sự chết. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa hoàn toàn khác xa với tính toán của con người. Đó là sự khôn ngoan đem đến cho con người sự sống từ cái chết.
Đức Giêsu nói với chúng ta rằng hạt giống phải chết thì mới sinh nhiều hoa trái. Trong vương quốc của Đức Giê-su mà theo kiểu nói bình dân, chúng ta hay gọi là Thiên đàng thì người nghèo được chúc phúc, những người đau khổ sẽ vui mừng. Thành viên của Nước đó được mời gọi tha cho kẻ thù và làm ơn cho ai oán ghét mình. Tất cả các điều ấy đã được thể hiện trong cuộc đời của Đức Giê-su, một cánh cửa hẹp của Thiên Chúa.
Đây không phải là những điều làm cho con người cảm thấy bị lôi cuốn và hấp dẫn người ta. Đó là nghịch lý, khác hẳn với quan niệm của thế gian; nhưng đối với những kẻ tin, những ai đang theo Chúa thì qua cánh cửa hẹp, bước vào con đường gian khổ này lại chứa đựng một niềm hạnh phúc vô biên và đích thực.
Do đó tất cả những ai đã gặp Người, theo chân Người đều cảm nghiệm được điều đó. Bằng chính cuộc sống cũng như các lời giảng dậy, Đức Giêsu đã là Tin Vui cho người nghèo, những kẻ thấp cổ bé miệng, bị bỏ rơi và thân phận không được tôn trọng. Người đã không chỉ giải thoát con người khỏi ách nô lệ của tội lỗi mà thôi, nhưng còn lôi họ ra khỏi sự giam cầm của thứ luật lệ đã giam hãm và làm mất đi phẩm giá của họ. Từ sự giải thoát ấy, họ cảm nghiệm được lối sống phát sinh từ sự tự do của ân sủng nơi Người. Người chính là cánh cửa hồng ân của Thiên Chúa ban cho nhân loại để những ai bước qua ngưỡng cửa đó sẽ trở thành suối nguồn hồng ân cho tha nhân.
Đức Giê-su là cánh cửa hẹp. Người đã đến, hiện diện và hoàn tất sứ mạng một lần cho tất cả. Người không đến cho một cá nhân nào mà cho tất cả mọi người. Do đó, con người cũng đừng có quan niệm chộp bắt và giam hãm Đức Giê-su cho riêng mình hay cho phe nhóm mình.
Và làm thế nào để bước vào cánh cửa đây? Tự cá nhân mình hay cần sự giúp đỡ của nhau. Các điều này tuy cần nhưng không phải là yếu tố quan trọng và then chốt. Nếu chúng ta chỉ nghĩ đến mình và phe nhóm mình thì không ai trong chúng ta có thể bước qua ngưỡng cửa mà vào trong được. Cần khôn ngoan, biết quan tâm và đối xử thật đại lượng với nhau thì tất cả có cơ may vượt qua cánh cửa mà vào.
Cửa hẹp đã được dựng nên. Con người cần tự giác và nhắc nhở nhau rằng: cơ hội đã được dọn sẵn, chúng ta đang trên đường, do đó cần nhường bước, quan tâm và giúp nhau đi vào.
Còn một yếu tố quan trọng nhất mà chúng ta không thể bỏ qua. Hãy nhớ rằng Thiên Chúa của chúng ta là nguồn hy vọng, chúng ta được sống và tồn tại trong lòng nhân ái của Chúa. Do đó, nếu chúng ta vẫn tiếp tục đào sâu các kinh nghiệm thật cụ thể và sống động về sự thiện hảo, tình yêu thương và lòng quảng đại của Thiên Chúa đang được thể hiện nơi bản thân, trong gia đình và giữa cộng đồng thì cho dù cánh cửa hay con đường có hẹp đến đâu chúng ta sẽ không chơi vơi.
Cùng với Người, chúng ta sống trong tự do chứ không bị ép buộc để đến với nhau, trao cho nhau con tim chân chính, biết quí trọng và yêu mến nhau, tay trong tay cùng nhau bước vào. Cho dù cánh cửa có hẹp đến đâu, nhưng có Chúa ở cùng thì chúng ta an tâm mà vững bước. Có Người ở bên, còn quyền lực nào có thể làm cho chúng ta nao núng và sợ hãi nữa đây!
Đó chính là lối sống của những người đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa mà phần cuối của bài Tin Mừng đã nói đến. Họ đến từ bốn phương thiên hạ. Trong khi đó, những người gần nhất, những người tự nhận mình là ‘đạo gốc’, những người tự xưng mình là con cháu Abraham, con cháu của các Thánh Tử Đạo; nhưng lại thờ ơ với lối sống quan tâm, thiếu bác ái, không dám cho đi, không nhận ra các dấu chỉ của thời đại để cộng tác với chương trình của Thiên Chúa; cho nên họ sẽ bị loại ra ngoài để nhường chỗ cho những ai đã sẵn sàng tham dự tiệc trong Nước Thiên Chúa.
Nói tóm lại, cửa hẹp là lời mời gọi chúng ta hoán cải và việc thay đổi lối sống không thể trì hoãn vô thời hạn. Chúng ta phải để cho sứ điệp Lời Chúa chất vấn tính ích kỷ, cách suy nghĩ nhỏ mọn và hành động thiếu quảng đại của chúng ta đối với nhau. Cửa hẹp vẫn là con đường duy nhất giúp chúng ta bước vào. Cửa hẹp sẽ giúp chúng ta lọc đi những thứ không cần thiết mà bước vào Nước Thiên Chúa.
Vì thế, hãy chọn lựa, hãy bắt đầu; vì cơ hội tuy có nhiều nhưng không phải lúc nào cũng có. Đừng để đến lúc cửa đã khóa rồi mới thức tỉnh thì quá trễ! Amen. mục lục
Trong Phúc Âm (Ga 14,2), Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ TN 21-C186
Trong Phúc Âm (Ga 14,2), Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”. Và trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài lại nói : “Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào”.
Vậy phải chăng vì Nước Trời ít chỗ, cần phải hạn chế? Có sự tương phản nào đó trong giáo huấn của Chúa chăng? Vấn đề không phải là “bao nhiêu” người được vào “Nhà Cha Thầy” mà là những ai được vào “phải làm gì”. Nước Trời rộng bao la, có thể đón tiếp tất cả mọi người. Nhưng không phải tất cả mọi người vào được, vì vào Nước Trời đòi buộc phải có những điều kiện cần thiết. Cửa hẹp chính là để tuyển lựa những người có phẩm chất thích hợp với Nước Trời. Ai muốn vào Thiên Đàng phải chiến đấu, đi qua cửa hẹp.
Hành hương Đất Thánh, ai cũng muốn đến kính viếng nơi Chúa Cứu Thế hạ sinh. Thánh đường Giáng Sinh nguy nga đồ sộ nhưng cửa chính lại rất thấp và hẹp, chiều cao chừng 01 mét, chiều rộng chừng 80 phân nên chỉ đủ chỗ cho một người “chui” vào. Có lẽ khi xây dựng, tác giả muốn nói đến ý nghĩa tâm linh. Muốn bước vào bên trong Thánh đường nơi Chúa Giáng Sinh, thì dù là ai đi nữa, thuộc màu da, chủng tộc, tôn giáo nào, dù là đấng bậc nào trong xã hội, tất cả đều phải cúi mình xuống thấp mà đi vào. Đó là một cử chỉ khiêm nhường, cúi mình để thờ lạy Thiên Chúa.
Cửa hẹp là cửa khó đi qua. Kinh Thánh dùng hình ảnh cửa hẹp để chỉ những đòi hỏi của Thiên Đàng. Hẹp ở đây không có nghĩa là hẹp hòi hay kém giá trị. Tính từ hẹp chỉ sự thách đố, chông gai, đòi hỏi nỗ lực để kiên vững bước đi. Hẹp chỉ sự khó khăn, vất vả, từ bỏ, cần phải “chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào”, vì “cửa hẹp dẫn đến sự sống đời đời”(Mt 7,14). Cửa vào Thiên Đàng nhỏ hẹp vì Nước Trời luôn là một mầu nhiệm được ẩn giấu mà chỉ có những người cố gắng tìm kiếm mới gặp thấy và biết “thu nhỏ” mình lại mới đi qua được.
“Thời nay gọi là thời mở cửa. Có những khung cửa lành mạnh của chính sách kinh tế thông thoáng làm tiền đề cho đất nước vươn mình cất cánh cùng với các nước trong khu vực Á châu, nhưng cũng không thiếu những khung cửa rộng mở đầy cạm bẫy có nguy cơ đưa đẩy con người dần dà sa chân mà không một lời cảnh báo: cửa của những quán cà phê mộng mơ đợi chờ đèn mờ làm cớ vấp phạm cho kẻ đi ngang; cửa của những đường dây sextour lạ đời phơi phới hàng mới giá hời như lời quảng cáo; cửa của sự cấu kết quyền lực làm lũng đoạn đời sống xã hội và cửa của những quyền lợi bất chính gây thiệt hại đến tài sản chung. Đàng sau những khung cửa tưởng như rộng mở ấy là một sự trống rỗng đạo đức nếu không muốn nói đến những thứ hẹp hòi nghiệt ngã của bất công vun quén cá nhân, coi thường nhân phẩm, ghẻ lạnh với số phận người khác”. (x. Nút vòng xoay, trang 117).
Chúa Giêsu dùng hình ảnh “cửa hẹp” mời gọi mọi người phải không ngừng chiến đấu để bước vào Nước Trời. Cửa hẹp Chúa Giêsu nói tới không phải là cửa hậu, cũng không phải là cánh cửa “chạy chọt” theo kiểu thế gian, nhưng là một con đường chiến đấu liên tục với bản thân và với ngoại cảnh. Cửa rộng là sự dễ dãi tự do buông thả, là lối sống buông chiều theo bản năng và những lôi kéo của cám dỗ, xã hội. Trái lại, cửa hẹp đòi phải hy sinh, tiết chế, làm chủ bản thân. Bước qua cửa hẹp, chúng ta không thể mang những hành lý cồng kềnh, những bận vướng là những gai góc trên mỗi người, những tính hư tật xấu, ích kỷ nhỏ nhen, nhưng phải có một tâm hồn nhẹ nhàng thanh thoát.
“Cửa hẹp” theo tác giả thư Do Thái, đó là sự kiên nhẫn trong thử thách. “Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không sửa dạy?”. Những gian khó mà chúng ta gặp phải trên đường đời, nếu được đón nhận bằng cái nhìn đức tin, sẽ được coi như sự sửa dạy của Chúa để chúng ta nên con người hoàn thiện. Mà nếu Chúa sửa dạy ai, là vì Ngài yêu thương người đó và muốn kéo người đó lên kẻo họ chìm sâu trong bùn lầy.
Thiên Chúa đến với con người qua khung cửa hẹp. Thiên Chúa sai Con Một xuống thế làm người hiến thân chịu chết khổ đau trên thập giá vì loài người và để cứu rỗi muôn người. Thiên Chúa chọn con đường hẹp để mở lối vào khung trời bao la của tình thương. Tình thương cao cả cúi xuống với thân phận thấp hèn của con người. Sau cửa hẹp là tình thương rộng lớn của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã mở đường về Nước Trời. Muốn vào Nước Trời chẳng có con đường nào khác ngoài con đường Chúa Giêsu đã đi. Chẳng có cửa nào khác ngoài khung cửa hẹp mà Chúa Giêsu đã qua. Con người đến với Thiên Chúa cũng phải qua khung cửa hẹp. Ai muốn qua đó cũng phải noi gương Chúa Giêsu hạ mình xuống và bé nhỏ đi. Chỉ những ai hạ mình khiêm tốn và từ bỏ hết cái tôi cồng kềnh ích kỷ mới qua được khung cửa hẹp mà vào Nước Thiên Chúa.
Vấn đề không phải là khung cửa hẹp mà chính là bản thân mình quá cồng kềnh với những thứ danh vọng chức quyền tiền bạc. Chấp nhận thanh tẩy cần thiết, trút bỏ vướng víu để nhẹ nhàng qua khung cửa hẹp mà đến với sự sống đời đời. Sau khung cửa hẹp là tình thương đẹp ngời Thiên Chúa mở ra cho vận mệnh con người.
Cửa Nước Trời không làm bằng vật chất, nhưng là Lề Luật và các phương tiện nên thánh. Nước Trời vừa mang tính hữu hình, vừa mang tính thần thiêng. Sự khó khăn chật hẹp khi đi qua cửa là đời sống kỷ luật.Vào cửa hẹp phải đi qua một mình, từng người một.Bước qua cửa hẹp là giữ và sống lời Đức Giêsu và giáo huấn của Giáo hội một cách nghiêm chỉnh suốt cuộc hành trình trần gian. Cửa hẹp nên để qua phải hy sinh, vất vả. Đứng trước cửa hẹp, ai lại không ngần ngại, ai dám khẳng định con đường cứu độ thật dễ dàng, ai dám tự hào về thành công bản thân? “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”. Lối vào dẫn tới nguồn vui vẻ và hạnh phúc đời đời.
Khung cửa hẹp, con đường hẹp là con đường tu đức Chúa Giêsu dạy cho chúng ta, nhưng đó không phải là mục tiêu. Mục tiêu là ơn cứu độ, là hạnh phúc, là niềm vui, là Thiên Đàng, là tình yêu và sự sống mà Chúa dành cho con người. Mục tiêu ấy chúng ta chưa đạt được cách trọn vẹn ở đời này, nhưng cũng đã đạt được một phần nào ngay trong hành trình của cuộc sống đời thường.
“Phấn đấu sẽ thành quen, tập luyện sẽ thành tác phong, thao dợt sẽ thành cốt cách, và khung cửa hẹp sẽ trở nên khung cửa đẹp lên hy vọng và đẹp khít khao cho hạnh phúc đời đời. Khung cửa hẹp đã nên lối mở gọi mời đi qua. Một đời tin mến đậm đà, mới mong thanh thoả vào nhà trời cao. Xin Chúa chúc lành cho thiện chí của mỗi chúng ta”. (x. Nút vòng xoay, trang 118).
Hãy bước theo Đức Kitô. Hãy trở nên giống Ngài bằng cách chấp nhận những thử thách, những thập giá. Vì đó là khung cửa hẹp, chúng ta cần phải bước qua để tiến vào cõi sống vĩnh cửu, đón nhận vinh quang phục sinh. Một cuộc “chiến đấu” để cuối cùng có thể nói được như thánh Phaolô: “Tôi đã chiến đấu trong cuộc sống chính nghĩa; đã chạy đến cùng đường; kiên vững trong lòng tin. Giờ đây, triều thiên công chính được dành sẵn cho tôi, và Thiên Chúa, Đấng phán xét chí công, sẽ hoàn lại cho tôi trong ngày ấy, không chỉ cho tôi mà thôi, nhưng còn cho hết mọi người đã đầy lòng mến yêu trông đợi Ngài xuất hiện” (2 Tm 4,6-8).
Thiên đàng có cửa, để vào được cửa Thiên đàng phải phấn đấu với rất nhiều cố gắng và quyết tâm nỗ lực… Cửa hẹp mà vào được thì mới quý, mới hãnh diện. “Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào” là lời mời gọi mang tính hiện sinh thúc giục người tín hữu bước theo Đức Kitô trên con đường tin tưởng và kiên vững. Ai chấp nhận đi qua cửa hẹp sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính, như Thánh Phaolô khẳng định. mục lục