Suy Niệm Tin Mừng Lễ thánh Giuse 19/3 Bài 51-100 Giu-se đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền

Thứ tư - 21/03/2018 03:57
Suy Niệm Tin Mừng Lễ thánh Giuse 19/3 Bài 51-100 Giu-se đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền
Suy Niệm Tin Mừng Lễ thánh Giuse 19/3 Bài 51-100 Giu-se đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền
Suy Niệm Tin Mừng Lễ Thánh Giuse 19/3 Bái 51-100: Giu-se đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền
---------------------------------
Mục Lục:

PHÚC ÂM: Mt 1, 16. 18-21. 24a. 2
19/03-51: CẦU THANG CỦA THÁNH GIUSE Ở LORETTO – NEW MEXICO.. 3
19/03-52:  “HÃY ĐẾN CÙNG GIUSE”. 16
19/03-53:  Đặt tên cho con trẻ. 17
19/03-54: Thánh Giuse gương mẫu cho người trưởng gia. 19
19/03-55: BẢO VỆ CÔNG TRÌNH CỦA THIÊN CHÚA.. 22
19/03-56: Bài suy niệm trong tháng thánh Giuse. 24
19/03-57: THÁNH GIUSE.. 27
19/03-58: Tình Yêu Thanh Khiết 28
19/03-59: ÐỨC THÁNH CHA NÓI VỀ GƯƠNG THÁNH GIUSE.. 31
19/03-60: CÁC THÁNH DÀNH CHO BẠN TRẺ.. 32
19/03-61:  NGƯỜI THỢ MỘC.. 33
19/03-62:  Thánh Giuse. 34
19/03-63:  Thánh cả Giuse là vị thánh rất đặc biệt. 35
19/03-64:  THÁNH GIUSE, NGƯỜI CHA TUYỆT VỜI 38
19/03-65:  THÁNH GIUSE - MẪU GƯƠNG CHO GIA TRƯỞNG.. 41
19/03-66:  Cầu Nguyện Với Thánh Giuse. 44
19/03-67:  Noi gương thánh Giuse sống cuộc đời công chính. 46
19/03-68: Thánh Giuse, gương mẫu thời đại 47
19/03-69: Người công chính sống bởi đức tin. 49
19/03-70: NIỀM TIN CỦA THÁNH GIUSE – MỘT NIỀM TIN KHÔNG TÍNH TOÁN   51
19/03-71: Thánh Giuse khó khăn. 53
19/03-72:   THÁNH GIUSE NGƯỜI CÔNG CHÍNH.. 55
19/03-73:   Thánh Giuse, người đi trong đêm tối 57
19/03-74: Sống Đức Tin Theo Gương Thánh Giuse. 59
19/03-75:  TRẢ LẠI CHO THIÊN CHÚA.. 62
19/03-76:  Những khuôn mặt Giuse. 65
19/03-77:  BÀI 1: LÝ LỊCH CỦA THÁNH YUSE.. 70
19/03-78:  SUY NIỆM VỀ THÁNH YUSE.. 72
19/03-79: Lễ thánh Giuse. 73
19/03-80: Thánh Giuse. 77
19/03-81: Thánh Lễ kính Thánh Giuse. 79
19/03-82: Thánh Giuse là Đấng Bảo trợ các người cha. 81
19/03-83: Làm theo ý Chúa và chu toàn nhiệm vụ cách âm thầm.. 84
19/03-84: Lễ thánh Giuse, Bạn Đức Trinh Nữ. 87
19/03-85: Thánh Giuse, Bạn trăm năm Đức Trinh nữ Maria. 88
19/03-86: Thánh Giuse, Bạn trăm năm Đức Trinh nữ Maria. 91
19/03-87: THÁNH GIUSE NGƯỜI GIA TRƯỞNG TRUNG THÀNH.. 95
19/03-88: THÁNH GIUSE MẪU GƯƠNG CỦA THINH LẶNG.. 97
19/03-89: Thánh Giuse, người thinh lặng và hành động. 100
19/03-90: Người thợ vô danh. 102
19/03-91: Thánh Giuse là mẫu gương chu toàn thánh ý Chúa. 106
19/03-92: Thánh Giuse, Bạn Trăm Năm Đức Trinh Nữ Maria. 107
19/03-93: Thánh Giuse, đường nên thánh. 112
19/03-94: Thánh Giuse, Bạn Trăm Năm Đức Trinh Nữ Maria. 115
19/03-95: Thánh Giuse từng có ý định bỏ Đức Mẹ, tại sao?. 117
19/03-96: Thánh Giuse, người không thích “nổ”. 119
19/03-97: Noi Gương Thánh Giuse Sống Lòng Thương Xót 120
19/03-98: Thánh Giuse, Mẫu Gương Cho Các Người Cha. 123
19/03-99: Thánh Giuse, người Cha tuyệt vời 125
19/03-100: Thánh Giuse Lao Động, Người Cha tuyệt hảo. 128

---------------------------------
 

PHÚC ÂM: Mt 1, 16. 18-21. 24a


“Giu-se đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền”.

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Mát-thêu (Mt 1, 16. 18-21. 24a)
Gia-cóp sinh Giu-se là bạn của Ma-ri-a, mẹ của Chúa Giê-su gọi là Ðức Ki-tô. Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Ma-ri-a đính hôn với Giu-se, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giu-se bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì Thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: “Hỡi Giu-se con vua Ða-vít, đừng ngại nhận Ma-ri-a về nhà làm bạn mình, vì Ma-ri-a mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giê-su: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội”. Khi tỉnh dậy, Giu-se đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền.
Ðó là lời Chúa.Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Mát-thêu.
Gia-cóp sinh Giu-se là bạn của Ma-ri-a, mẹ của Chúa Giê-su gọi là Ðức Ki-tô. Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Ma-ri-a đính hôn với Giu-se, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giu-se bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì Thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: “Hỡi Giu-se con vua Ða-vít, đừng ngại nhận Ma-ri-a về nhà làm bạn mình, vì Ma-ri-a mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giê-su: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội”. Khi tỉnh dậy, Giu-se đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền. - Ðó là lời Chúa.

---------------------------------
---------------------------------

 

19/03-51: CẦU THANG CỦA THÁNH GIUSE Ở LORETTO – NEW MEXICO


 (2 tác giả viết)

Bài 1: Hoà Tâm

 

Ở thành phố Santa Fe, tiểu bang New Mexico, có nguyện đường Loretto. Đã từ lâu nhiều người: 19/03-51


Ở thành phố Santa Fe, tiểu bang New Mexico, có nguyện đường Loretto. Đã từ lâu nhiều người nói nhiều về chiếc cầu thang kỳ lạ, được cho là chính Thánh Giuse kiến tạo, nay có dịp thuận tiện tôi quyết định tới chứng kiến tận mắt và sờ tận tay chiếc cầu thang có một không hai bên Tây bán cầu này.
Nguyện đường Loretto tọa lạc tại số 207 Old Santa Fe Trail, khởi công xây dựng năm 1873 và tới năm 1878 mới hoàn thành, chiều dài 30 mét 5, chiều ngang 8 mét, chiều cao 21 mét 3. Với kích thước này, cách đây 134 năm, nguyện đường Loretto được coi là một nguyện đường lớn nhất tại Santa Fe, thủ đô tiểu bang New Mexico.
Đức Cha Jean Baptiste Lamy, người Pháp, đã mời kiến trúc sư Antoine Monly và con trai là Projectus Monly từ Paris sang vẽ kiểu và xây Nhà thờ chính tòa St Francis, đồng thời khuyến khích các nữ tu nhờ hai cha con ông Monly xây nguyện đường Loretto theo mô hình nhà thờ Sainte Chapelle tại Paris mà họ đã tham gia trong công tác trùng tu vào đầu thập niên 1800. Theo mô hình phổ thông các nhà thờ bên Âu châu thời đó thì không có cầu thang lên gác lửng dành cho ca đoàn vì cầu thang sẽ chiếm nhiều chỗ trong lòng nhà thờ. Vả lại, vào thế kỷ thứ 19, chỉ có phái nam được hát trong ca đoàn nên họ dùng thang gỗ để leo lên gác ca đoàn mà không cần cầu thang.
Khi mới làm chưa có cầu thang
Cầu thang hiện nay Cầu thang khi mới làm, không có tay vịn và song chắn
Sau khi khánh thành nguyện đường và cha con ông Monly đã rời khỏi thành phố thì thực tế đem lại một vấn đề hết sức nan giải: ca đoàn gồm toàn các nữ tu và nữ sinh với tu phục và váy đầm dài tới gót chân, không thể leo lên gác ca đoàn bằng thang gỗ. Các nữ tu đã mời nhiều tay thợ chuyên nghiệp đến làm cầu thang nhưng sau khi quan sát, đo đạc, tính toán, tất cả đều lắc đầu nói không thể thực hiện được vì gác ca đoàn thì cao, lòng nhà nguyện lại hẹp, cầu thang sẽ chiếm qúa nhiều chỗ kê ghế. Giải pháp còn lại là hoặc vẫn phải dùng thang leo lên gác ca đoàn, hoặc nới rộng nguyện đường dành chỗ làm cầu thang. Và dĩ nhiên, giảp pháp này cũng không thể chấp nhận. Sau cùng, Mẹ Bề Trên Magdalen đưa ra quyết định: khi khởi công xây dựng nguyện đường, công trình được đặt dưới sự bảo trợ của Thánh Giuse, quan thầy nghề thợ mộc, thì nay khi gặp khó khăn, công việc cũng phải được giao cho Thánh Giuse lo liệu. Trong cuốn niên giám của Dòng còn ghi lời phát biểu của Bà: “Chúng ta tôn kính Thánh Giuse mỗi ngày thứ tư hàng tuần để xin Người trợ giúp, và đã nhiều lần, chúng ta chứng kiến sự can thiệp đầy quyền thế của Thánh Giuse”.
Ngay hôm đó, các nữ tu bắt đầu làm tuần 9 ngày xin Thánh Giuse. Sau 8 ngày liên tục cầu nguyện với đầy lòng tin tưởng và phó thác nơi Thánh Giuse thì đột nhiên vào ngày thứ 9, xuất hiện một ông già râu tóc bạc dắt theo một con lừa tới xin làm cầu thang lên gác ca đoàn. Ông thợ mộc chỉ mang theo một ít đồ nghề đơn giản: 1 cái cưa, 1 thước đo hình chữ T và 1 cái búa. Ông cũng không đòi tiền công trước hoặc tiền ứng mua vật liệu. Với tinh thần đơn sơ, các nữ tu nghĩ rằng sẽ thanh toán tiền công và tiền vật liệu sau khi công việc hoàn tất nên không cần hỏi tên tuổi ông thợ. Sau khi giao công việc, vì đức khiết tịnh, các nữ tu không tiện liên lạc với ông và để mặc ông thợ tiến hành công tác, đồng thời tạm dùng một phòng học để cầu nguyện và cử hành phụng vụ.
Sau thời gian 7-8 tháng, các nữ tu được thông báo cầu thang đã hoàn tất nhưng không tìm thấy ông thợ đâu cả: ông thợ đã đột nhiên bỏ đi mà không đòi tiền công và tiền vật liệu, cũng không để lại tên tuổi hoặc điạ chỉ. Các nữ tu đã nhờ tìm kiếm khắp nơi và còn nhắn tin trên các báo địa phương, tuy nhiên, không ai nghe biết về ‘ông thợ kỳ lạ’ này. Sau cùng, Mẹ Bề Trên đã phải đến xưởng gỗ để thanh toán tiền vật liệu, nhưng mọi người làm việc tại đây cho biết không có ai đến mua gỗ làm cầu thang cho nguyện đường. Do không tìm ra tông tích ông thợ ‘huyền bí’ này nên người đương thời đều kết luận đó chính là Thánh Giuse đã đáp lời cầu xin của các nữ tu. Hiện nay, tại Nhà Mẹ các nữ tu Loretto ở tiểu bang Kentucky, trong sách kinh hàng ngày, có hình vẽ ông thợ mộc đầu tóc bạc phơ dắt theo con lừa với túi đồ nghề gồm 1 cái cưa, 1 cây thước và 1 cái búa.

Năm 1971, một trận hỏa hoạn lớn thiêu hủy nhiều ngôi nhà của học viện và khu vực chung quanh. Tuy nhiên, như một phép lạ, nguyện đường Loretto vẫn đứng y nguyên, không hề hấn gì.
Khi tới nguyện đường Loretto tôi thấy lối kiến trúc theo kiểu Gothic và tôi cũng gặp nhiều đoàn người đến từ mọi nơi như Canada, Pháp, Đức, Ý…. Điều này cho thấy ‘Cầu thang Thánh Giuse’ đã được biết đến khắp nơi, mỗi năm có khoảng 250 ngàn khách hành hương đến nguyện đường Loretto để xem cầu thang, và đúng như nữ tu Januarius, Giám đốc học viện Loretto năm 1960, cho biết du khách từ khắp nơi trên thế giới đến chiêm ngưỡng cầu thang lạ lùng này, trong số đó, có cả kỹ sư, kiến trúc sư, khoa học gia đến tìm hiểu, nghiên cứu và nói rằng họ không thể hiểu làm thế nào một chiếc cầu thang như vậy có thể tồn tại sau gần 1 thế kỷ sử dụng. Quả thực, cầu thang đã thách đố những phân tích khoa học cũng như khoa kiến trúc và ngành thủ công nghệ.

Bước qua cửa vào cuối nguyện đường, du khách sẽ lập tức bị thu hút bởi những tác phẩm nghệ thuật:
Bàn thờ gỗ được làm từ bên Ý, chạm trổ bằng tay theo kiểu Gothic, rồi sơn cho giống màu đá cẩm thạch. Bàn thờ nguyên thuỷ này được đặt trong nguyện đường từ năm 1910 đến nay, hơn 100 năm vẫn không thay đổi. Phía dưới bàn thờ có khắc nổi hình Bữa Tiệc Ly của Leonardo da Vinci.
Trong gian cung thánh, phía bên phải gần bao lơn, có tượng Thánh Giuse tay trái cầm cây gậy, tay phải ẵm Chúa Hài Đồng. Cũng trong gian cung thánh, phía bên trái gần bao lơn, có tượng Đức Mẹ ban ơn đứng trên qủa cầu, chân trái đạp đầu con rắn, chân phải có chuỗi Mân Côi và dưới đó là các ngôi sao. Cả hai bức tượng đều có kích thước lớn hơn người bình thường.

Hai tượng thiên thần bổn mạng đứng 2 bên phía trên bàn thờ và tượng thiên thần ngồi bưng bình nước thánh lớn là công trình nghệ thuật của nhóm nghệ nhân M.M. K. Brokaw nổi tiếng đương thời.
Tượng Trái Tim Chúa Giêsu, đặt trên tường phía bên trái, tay trái chỉ Trái Tim Cực Thánh, tay phải xuôi xuống với bàn tay mở rộng như ban ơn cho những ai đến với Người.

Chặng đường Thánh gía hai bên tường biểu lộ nét sinh động của nghệ nhân khi diễn tả được nỗi bi thương của Chúa và Đức Mẹ cũng như sự tàn ác của ‘quân dữ’. Thực ra, chặng đường Thánh gía là do sáng kiến của thánh Phan-xi-cô từ thế kỷ 13 nhằm giúp tín hữu, trong ngày thứ Sáu Tuần Thánh, sốt sắng nhớ lại hành trình khổ nạn của Chúa khi vác Thập gía lên đồi Can-vê, nhờ đó những người không biết đọc cũng có thể trải nghiệm cuộc thương khó của Người. Khởi đầu, người ta dựng những cây thánh giá nhỏ bằng gỗ ở những khoảng cách khác nhau và tín hữu dừng lại mỗi chặng trong khi suy tưởng về quãng đường thập gía Chúa đã đi qua. Sau cùng, các họa sĩ và các nhà điêu khắc đã vẽ hoặc tạc nên những cảnh sống động về chặng đường khỗ nhục cuả Chúa vác Thánh gía lên đồi để chịu đóng đinh. Phải chính mắt trông thấy những chặng đường Thánh gía tại nguyện đường Loretto, chúng ta mới thấy tài nghệ tuyệt vời của các nhà đúc tượng khi thực hiện những tác phẩm nghệ thuật này. Chặng đường Thánh gía Loretto hiện nay là một kho tàng nghệ thuật vô gía mặc dù được thực hiện từ năm 1800. Tất cả những bức tượng và chặng đường Thánh gía đều bằng đá cẩm thạch nghiền nát, rồi đổ vào khuôn, nung trong lò như kỹ thuật làm đồ gốm, sau đó các nghệ nhân tô vẽ bằng tay.

Kỹ thuật sơn kính màu tại nguyện đường Loretto đã đạt tới mức hết sức tinh vi, không thua gì các thánh đường nổi danh bên Âu châu như nhà thờ Fatima Bồ Đào Nha, nhà thờ Thánh An-tôn Lisbon, nhà thờ chính tòa Burgos, đại thánh đường Thánh I-nha-xi-ô Loyola Tây Ban Nha, nhà thờ Sacré Coeur, nhà thờ Notre Dame Paris ở Pháp, những nơi mà tôi có dịp viếng thăm trong những chuyến hành hương Fatima-Lộ Đức. Kính màu trên vòm cửa cuối nguyện đường vẽ biểu tượng của Chúa Giêsu bằng 2 cây Thánh gía đặt chéo lên nhau với ánh hào quang màu xanh dương. Hai bên phía dưới là chữ Hi-lạp Alpha và Omega, nói lên Chúa Ki-Tô là khởi đầu và là sau hết. Cửa kính tròn sau gác ca đoàn có hình bông hồng lớn, được gọi là ‘Rose window’, vẽ chữ M, lồng trên chữ A (Ave Maria), lời chào kính Đức Mẹ Maria vì khi thành lập Hội Dòng Loretto ngày 25/4/1812 tại Kentucky, các nữ tu đã chọn Đức Mẹ làm bổn mạng. Ngoài ra, còn 2 kính màu lớn, một vẽ ảnh Thánh Stanislas ẵm Chúa Hài Nhi, bổn mạng của các tập sinh và các thiếu nữ, một vẽ ảnh Thánh Catherine thành Alexandra tay ôm cành thiên tuế, bổn mạng các trinh nữ và các nữ sinh.
Tuy nhiên, đích điểm của khách hành hương chính là ‘CẦU THANG THÁNH GIUSE’. Thật vậy, suốt thời gian ở trong nguyện đường, lúc nào tôi cũng thấy khách hành hương, hết lớp này đến lớp khác, chăm chú quan sát cầu thang từ trên xuống dưới, rồi lại từ dưới lên trên, không bỏ qua một
chi tiết nhỏ nhặt nào, rồi bàn tán, thảo luận, và đi từ ngạc nhiên đến trầm trồ không tiếc lời khen ngợi. Sau đó, nhiều người đến qùy dưới chân tượng Thánh Giuse cầu nguyện trước khi quyến luyến ra về sau khi đã chụp hàng chục tấm ảnh, hoặc quay phim làm kỷ niệm.

Cầu thang nằm sát tường bên phải, phía cuối nguyện đường, có hình xoắn ốc, vòng 2 lần, mỗi vòng 360 độ, không có cột chịu lực ở giữa. Toàn bộ sức nặng tựa trên chân cầu thang và phần nối với gác ca đoàn.Điều này trái hẳn với nguyên lý về trọng lực (law of gravity) khiến các khoa học gia không sao giải thích được. Kiến trúc sư Urban C. Weidner cũng là chuyên gia nghiên cứu gỗ cho biết ông chưa bao giờ thấy cầu thang hình xoắn ốc bằng gỗ mà không có cột chịu lực ở giữa. Theo ông, nó sẽ sụp đổ ngay khi có người đặt chân bước lên. Thế mà các nữ tu và nữ sinh phải lên xuống cầu thang mỗi ngày một hay nhiều lần để hát phụng vụ. Năm 1959, cả ca đoàn học viện Loretto đứng hát trên các bậc thang mà nó vẫn vững chắc như làm bằng xi-măng côt sắt.

Cầu thang có 33 bậc cùng một kích thước, tượng trưng cho 33 năm Chúa sống ở trần gian, 2 bên các bậc thang không có song chắn an toàn khi lên xuống, cũng không có tay vịn. Một nữ sinh thời gian làm cầu thang mới 13 tuổi, sau vào tu dòng Loretto lấy tên Mary, kể lại rằng chính cô và các bạn là những người đầu tiên bứơc lên cầu thang, nhưng vì sợ qúa nên phải bò lên từng bậc, rồi khi xuống, phải cho hai chân xuống trước, rồi bám bậc phía trên,từ từ trụt xuống. Chính vì thế, sau 7 năm các nữ tu và nữ sinh phải ‘bò lên bò xuống’ các bậc thang để lên gác ca đoàn, Phillip August Hesch, chuyên viên bảo trì nhà thờ chính tòa St. Francis, được mời tới làm tay vịn và song chắn 2 bên cầu thang cũng như quanh gác ca đoàn. Điều đặc biệt là cầu thang không có dù 1 chiếc đinh, hoặc keo dán để liên kết các vật liệu với nhau. Ông thợ ‘bí mật’ đó chỉ dùng các chốt gỗ hình vuông để liên kết một cách tài tình, chính xác và hết sức mỹ thuật.

Cầu thang được ráp nối bằng 93 tấm gỗ, dài từ 0.9 đến 1.5 mét, gồm 10 tấm dùng làm sườn phía ngoài (nên có 9 đường nối), 8 tấm làm sườn phía trong (7 đường nối), 33 tấm làm bậc thang, 33 tấm kê giữa 2 bậc thang, phần còn lại dùng làm đoạn vòng dưới chân cầu thang. Kỹ thuật ráp nối thật lạ lùng và tinh xảo, và như trên đã nói, ông thợ không dùng đinh, cũng không dùng keo dán, chỉ nối kết bằng những chốt gỗ hình vuông mà thôi. Kiến trúc sư kiêm chuyên gia nghiên cứu gỗ Urban Weidner đã có nhận xét: một trong những điều làm sửng sốt các kỹ sư và các nhà kiến trúc là những tấm gỗ được ghép nối thành sườn cầu thang với độ cong tuyệt hảo, mỗi tấm gỗ có độ cong thật chính xác, đường ghép nối lại hết sức tinh vi, không tìm thấy một khuyết điểm nào. Ông Weidner vẫn băn khoăn suy nghĩ là một kỹ thuật tinh vi như thế mà vào thập niên 1870, một mình ông thợ mộc với những dụng cụ rất thô sơ, làm thế nào có thể thực hiện được.

Về gỗ làm cầu thang, nhiều chuyên gia đã phân tích, tìm hiểu loại gỗ và xem loại đó xuất xứ từ đâu. Tuy nhiên, không một ai có thể khẳng định là loại gỗ nào để tìm ra xuất xứ của nó. Mặt các bậc thang liên tục bị giẵm lên từ khi hoàn thành cách đây hơn 100 năm, nhưng chỉ mép bậc thang bị mòn đi một chút. Có nhà nghiên cứu cho đây là một loại thông mà thớ gỗ nằm gần vỏ, người khác thì cho là loại thông vàng lá dài. Urban Weidner lại khẳng định loại gỗ ít bị mòn này không hề có tại New Mexico. Việc ông thợ lấy gỗ từ đâu mang về làm cầu thang vẫn còn là một bí ẩn.

Chuyên gia Forrest N. Easley, sinh quán New Mexico, tốt nghiệp ưu hạng tại Đại học Colorado ngành Lâm học và Mộc học, đã từng làm việc cho các cơ quan chính phủ và Hải quân Hoa Kỳ trong 40 năm, đặc trách nghiên cứu và quản trị ngành gỗ. Với thành quả và công trình nhiều năm nghiên cứu, ông là chuyên gia về gỗ nổi tiếng, có uy tín và được mọi người kính nể. Năm 1996, Forrest Easley đã bỏ ra 15 tháng nghiên cứu và phân tích gỗ làm cầu thang Loretto. Ông lấy một mẩu gỗ cầu thang đem vào phòng thí nghiệm và dùng kính hiển vi, kính khuếch đại để quan sát, phân tích tế bào cấu tạo của gỗ. Ông cho biết gỗ có tế bào cấu trúc hình vuông, không giống bất cứ loại gỗ nào hiện có, và cũng không biết rõ nguồn gốc từ đâu. Đây là loại gỗ vân sam (spruce) ‘có một không hai’, vì tất cả các loại gỗ vân sam khác không bao giờ có cấu trúc tế bào hình vuông. Như vậy, chỉ có thể phân loại gỗ này vào giữa nhóm Picea sitchensis và Picea engelmanni. Forrest đề nghị đặt tên khoa học là Pinacae Picea josefìi Easley, còn tên phổ thông nên gọi là gỗ vân sam Loretto.

Giáo Hội luôn luôn thận trọng khi đề cập đến những hiện tượng siêu nhiên mà con người không giải thích được. Cũng trong tinh thần đó, các nữ tu và Giáo quyền tại Santa Fe không muốn đưa ra một tuyên bố khẳng định nào về chiếc cầu thang lạ lùng này, chỉ cho đó là sự đáp ứng của Thánh Giuse đối với lời cầu nguyện và sự phó thác của các nữ tu nơi Thánh Giuse. Tuy nhiên, nhiều người vẫn nghĩ Thánh Giuse chính là ông thợ đã làm chiếc cầu thang lạ lùng đó.
Truyền thống tôn kính Thánh Giuse đã có từ lâu đời trong Giáo Hội, từ những thế kỷ đầu, thời các thánh Giáo phụ. Rồi qua các thế kỷ, chúng ta thấy rất nhiều nơi tôn kính Thánh Cả Giuse một cách đặc biệt mà nhà thờ Loretta là nơi đáng cho chúng ta đến hiệp cùng thánh Giuse dâng lên Thiên Chúa lời tạ ơn và khẩn cầu.
Hoà Tâm

---------------------------------

Bài 2: Trần văn Huyến
CẦU THANG THÁNH GIUSE
Tác Giả: Trần văn Huyến (Tháng Thánh Giuse 2012)
Tôi theo nhóm người trượt tuyết ngày 31/12/2011 từ Dallas trực chỉ hướng tây bắc tới thành phố Santa Fe, tiểu bang New Mexico, với chủ đích là kiểm chứng ‘Cầu thang Thánh Giuse’ tại nguyện đường Loretta.
Đã từ lâu tôi đã nghe nói nhiều về chiếc cầu thang kỳ lạ này, được cho là chính Thánh Giuse kiến tạo, nay có dịp thuận tiện nên mặc dù mùa đông giá lạnh với đường xá nguy hiểm vì băng tuyết, tôi quyết định phải theo nhóm người, vượt ngàn dặm hiểm nguy để có thể tới chứng kiến tận mắt và sờ tận tay chiếc cầu thang có một không hai bên Tây bán cầu này.
Nguyện đường Loretta tọa lạc tại số 207 Old Santa Fe Trail, khởi công xây dựng năm 1873 và tới năm 1878 mới hoàn thành, chiều dài 30 mét 5, chiều ngang 8 mét, chiều cao 21 mét 3. Với kích thước này, cách đây 134 năm, nguyện đường Loretta được coi là một nguyện đường lớn nhất tại Santa Fe, thủ đô tiểu bang New Mexico.
Đức Cha Jean Baptiste Lamy, người Pháp, đã mời kiến trúc sư Antoine Monly và con trai là Projectus Monly từ Paris sang vẽ kiểu và xây Nhà thờ chính tòa St Francis, đồng thời khuyến khích các nữ tu nhờ hai cha con ông Monly xây nguyện đường Loretta theo mô hình nhà thờ Sainte Chapelle tại Paris mà họ đã tham gia trong công tác trùng tu vào đầu thập niên 1800. Theo mô hình phổ thông các nhà thờ bên Âu châu thời đó thì không có cầu thang lên gác lửng dành cho ca đoàn vì cầu thang sẽ chiếm nhiều chỗ trong lòng nhà thờ. Vả lại, vào thế kỷ thứ 19, chỉ có phái nam được hát trong ca đoàn nên họ dùng thang gỗ để leo lên gác ca đoàn mà không cần cầu thang.
Sau khi khánh thành nguyện đường và cha con ông Monly đã rời khỏi thành phố thì thực tế đem lại một vấn đề hết sức nan giải: ca đoàn gồm toàn các nữ tu và nữ sinh với tu phục và váy đầm dài tới gót chân, không thể leo lên gác ca đoàn bằng thang gỗ. Các nữ tu đã mời nhiều tay thợ chuyên nghiệp đến làm cầu thang nhưng sau khi quan sát, đo đạc, tính toán, tất cả đều lắc đầu nói không thể thực hiện được vì gác ca đoàn thì cao, lòng nhà nguyện lại hẹp, cầu thang sẽ chiếm qúa nhiều chỗ kê ghế. Giải pháp còn lại là hoặc vẫn phải dùng thang leo lên gác ca đoàn, hoặc nới rộng nguyện đường dành chỗ làm cầu thang. Và dĩ nhiên, giảp pháp này cũng không thể chấp nhận. Sau cùng, Mẹ Bề Trên Magdalenđưa ra quyết định: khi khởi công xây dựng nguyện đường, công trình được đặt dưới sự bảo trợ của Thánh Giuse, quan thầy nghề thợ mộc, thì nay khi gặp khó khăn, công việc cũng phải được giao cho Thánh Giuse lo liệu.
Trong cuốn niên giám của Dòng còn ghi lời phát biểu của Bà: “Chúng ta tôn kính Thánh Giuse mỗi ngày thứ tư hàng tuần để xin Người trợ giúp, và đã nhiều lần, chúng ta chứng kiến sự can thiệp đầy quyền thế của Thánh Giuse”. Ngay hôm đó, các nữ tu bắt đầu làm tuần 9 ngày xin Thánh Giuse. Sau 8 ngày liên tục cầu nguyện với đầy lòng tin tưởng và phó thác nơi Thánh Giuse thì đột nhiên vào ngày thứ 9, xuất hiện một ông già râu tóc bạc dắt theo một con lừa tới xin làm cầu thang lên gác ca đoàn. Ông thợ mộc chỉ mang theo một ít đồ nghề đơn giản: 1 cái cưa, 1 thước đo hình chữ T và 1 cái búa. Ông cũng không đòi tiền công trước hoặc tiền ứng mua vật liệu. Với tinh thần đơn sơ, các nữ tu nghĩ rằng sẽ thanh toán tiền công và tiền vật liệu sau khi công việc hoàn tất nên không cần hỏi tên tuổi ông thợ. Sau khi giao công việc, vì đức khiết tịnh, các nữ tu không tiện liên lạc với ông và để mặc ông thợ tiến hành công tác, đồng thời tạm dùng một phòng học để cầu nguyện và cử hành phụng vụ.
Sau thời gian 7-8 tháng, các nữ tu được thông báo cầu thang đã hoàn tất nhưng không tìm thấy ông thợ đâu cả: ông thợ đã đột nhiên bỏ đi mà không đòi tiền công và tiền vật liệu, cũng không để lại tên tuổi hoặc điạ chỉ. Các nữ tu đã nhờ tìm kiếm khắp nơi và còn nhắn tin trên các báo địa phương, tuy nhiên, không ai nghe biết về ‘ông thợ kỳ lạ’ này. Sau cùng, Mẹ Bề Trên đã phải đến xưởng gỗ để thanh toán tiền vật liệu, nhưng mọi người làm việc tại đây cho biết không có ai đến mua gỗ làm cầu thang cho nguyện đường. Do không tìm ra tông tích ông thợ ‘huyền bí’ này nên người đương thời đều kết luận đó chính là Thánh Giuse đã đáp lời cầu xin của các nữ tu. Hiện nay, tại Nhà Mẹ các nữ tu Loretta ở tiểu bang Kentucky, trong sách kinh hàng ngày, có hình vẽ ông thợ mộc đầu tóc bạc phơ dắt theo con lừa với túi đồ nghề gồm 1 cái cưa, 1 cây thước và 1 cái búa.
Năm 1971, một trận hỏa hoạn lớn thiêu hủy nhiều ngôi nhà của học viện và khu vực chung quanh. Tuy nhiên, như một phép lạ, nguyện đường Loretto vẫn đứng y nguyên, không hề hấn gì.
Sau hơn 8 giờ lái xe trong đêm với tốc độ trung bình 120 cây số/giờ, chúng tôi tới ranh giới Texas và New Mexico khi trời hừng sáng. Và kìa, trước mặt chúng tôi và hai bên xa lộ 40, trải dài những cánh đồng tuyết chạy mút tới chân trời. Thảm tuyết bao la phản chiếu ánh mặt trời tạo nên một phong cảnh kỳ ảo khiến chúng tôi có cảm tưởng như đang đi trên một hành tinh nào khác trong giải ngân hà. Quả thực, chúng tôi thật may mắn vì mặc dù vào mùa đông, bầu trời New Mexico lúc này trong sáng với mặt trời trên cao tỏa ánh sáng dịu hiền, làm ấm lòng khách viễn du, nhưng không đủ sức nóng để làm tan chảy những cánh đồng tuyết trải dài từ ranh giới Texas tới thành phố Santa Fe.
Chúng tôi tới nguyện đường Loretto kiến trúc theo kiểu Gothic lúc 4 giờ 30 chiều, đúng vào ngày đầu năm dương lịch và phải đợi khá lâu mới đến lượt vào bên trong nguyện đường vì nhiều đoàn hành hương đã tới trước. Có những đoàn từ các tiểu bang miền Bắc như Minnesota, Michigan, từ miền Đông như New York, Pennsylvania. Chúng tôi cũng gặp 1 đoàn người Việt từ California. Đặc biệt có 2 đoàn, 1 từ Canada và 1 từ Pháp. Điều này cho thấy ‘Cầu thang Thánh Giuse’ đã được biết đến khắp nơi, mỗi năm có khoảng 250 ngàn khách hành hương đến nguyện đường Loretta để xem cầu thang, và đúng như nữ tu Januarius, Giám đốc học viện Loretto năm 1960, cho biết du khách từ khắp nơi trên thế giới đến chiêm ngưỡng cầu thang lạ lùng này, trong số đó, có cả kỹ sư, kiến trúc sư, khoa học gia đến tìm hiểu, nghiên cứu và nói rằng họ không thể hiểu làm thế nào một chiếc cầu thang như vậy có thể tồn tại sau gần 1 thế kỷ sử dụng. Quả thực, cầu thang đã thách đố những phân tích khoa học cũng như khoa kiến trúc và ngành thủ công nghệ.
Bước qua cửa vào cuối nguyện đường, du khách sẽ lập tức bị thu hút bởi những tác phẩm nghệ thuật:
-Bàn thờ gỗ được làm từ bên Ý, chạm trổ bằng tay theo kiểu Gothic, rồi sơn cho giống màu đá cẩm thạch. Bàn thờ nguyên thuỷ này được đặt trong nguyện đường từ năm 1910 đến nay, hơn 100 năm vẫn không thay đổi. Phía dưới bàn thờ có khắc nổi hình Bữa Tiệc Ly của Leonardo da Vinci.
-Trong gian cung thánh, phía bên phải gần bao lơn, có tượng Thánh Giuse tay trái cầm cây gậy, tay phải ẵm Chúa Hài Đồng. Cũng trong gian cung thánh, phía bên trái gần bao lơn, có tượng Đức Mẹ ban ơn đứng trên qủa cầu, chân trái đạp đầu con rắn, chân phải có chuỗi Mân Côi và dưới đó là các ngôi sao. Cả hai bức tượng đều có kích thước lớn hơn người bình thường.
-Hai tượng thiên thần bổn mạng đứng 2 bên phía trên bàn thờ và tượng thiên thần ngồi bưng bình nước thánh lớn là công trình nghệ thuật của nhóm nghệ nhân M.M. K. Brokaw nổi tiếng đương thời.
-Tượng Trái Tim Chúa Giêsu, đặt trên tường phía bên trái, tay trái chỉ Trái Tim Cực Thánh, tay phải xuôi xuống với bàn tay mở rộng như ban ơn cho những ai đến với Người.
-Chặng đường Thánh gía hai bên tường biểu lộ nét sinh động của nghệ nhân khi diễn tả được nỗi bi thương của Chúa và Đức Mẹ cũng như sự tàn ác của ‘quân dữ’. Thực ra, chặng đường Thánh gía là do sáng kiến của thánh Phan-xi-cô từ thế kỷ 13 nhằm giúp tín hữu, trong ngày thứ Sáu Tuần Thánh, sốt sắng nhớ lại hành trình khổ nạn của Chúa khi vác Thập gía lên đồi Can-vê, nhờ đó những người không biết đọc cũng có thể trải nghiệm cuộc thương khó của Người. Khởi đầu, người ta dựng những cây thánh giá nhỏ bằng gỗ ở những khoảng cách khác nhau và tín hữu dừng lại mỗi chặng trong khi suy tưởng về quãng đường thập gía Chúa đã đi qua. Sau cùng, các họa sĩ và các nhà điêu khắc đã vẽ hoặc tạc nên những cảnh sống động về chặng đường khỗ nhục cuả Chúa vác Thánh gía lên đồi để chịu đóng đinh. Phải chính mắt trông thấy những chặng đường Thánh gía tại nguyện đường Loretta, chúng ta mới thấy tài nghệ tuyệt vời của các nhà đúc tượng khi thực hiện những tác phẩm nghệ thuật này. Chặng đường Thánh gía Loretta hiện nay là một kho tàng nghệ thuật vô gía mặc dù được thực hiện từ năm 1800. Tất cả những bức tượng và chặng đường Thánh gía đều bằng đá cẩm thạch nghiền nát, rồi đổ vào khuôn, nung trong lò như kỹ thuật làm đồ gốm, sau đó các nghệ nhân tô vẽ bằng tay.
-Kỹ thuật sơn kính màu tại nguyện đường Loretta đã đạt tới mức hết sức tinh vi, không thua gì các thánh đường nổi danh bên Âu châu như nhà thờ Fatima Bồ Đào Nha, nhà thờ Thánh An-tôn Lisbon, nhà thờ chính tòa Burgos, đại thánh đường Thánh I-nha-xi-ô Loyola Tây Ban Nha, nhà thờ Sacré Coeur, nhà thờ Notre Dame Paris ở Pháp, những nơi mà tôi có dịp viếng thăm trong chuyến hành hương Fatima-Lộ Đức tháng 10 năm 2011. Kính màu trên vòm cửa cuối nguyện đường vẽ biểu tượng của Chúa Giêsu bằng 2 cây Thánh gía đặt chéo lên nhau với ánh hào quang màu xanh dương. Hai bên phía dưới là chữ Hi-lạp Alpha và Omega, nói lên Chúa Ki-Tô là khởi đầu và là sau hết. Cửa kính tròn sau gác ca đoàn có hình bông hồng lớn, được gọi là ‘Rose window’, vẽ chữ M, lồng trên chữ A (Ave Maria), lời chào kính Đức Mẹ Maria vì khi thành lập Hội Dòng Loretto ngày 25/4/1812 tại Kentucky, các nữ tu đã chọn Đức Mẹ làm bổn mạng. Ngoài ra, còn 2 kính màu lớn, một vẽ ảnh Thánh Stanislas ẵm Chúa Hài Nhi, bổn mạng của các tập sinh và các thiếu nữ, một vẽ ảnh Thánh Catherine thành Alexandra tay ôm cành thiên tuế, bổn mạng các trinh nữ và các nữ sinh.
Tuy nhiên, đích điểm của khách hành hương chính là ‘CẦU THANG THÁNH GIUSE’. Thật vậy, suốt thời gian ở trong nguyện đường, lúc nào tôi cũng thấy khách hành hương, hết lớp này đến lớp khác, chăm chú quan sát cầu thang từ trên xuống dưới, rồi lại từ dưới lên trên, không bỏ qua một chi tiết nhỏ nhặt nào, rồi bàn tán, thảo luận, và đi từ ngạc nhiên đến trầm trồ không tiếc lời khen ngợi. Sau đó, nhiều người đến qùy dưới chân tượng Thánh Giuse cầu nguyện trước khi quyến luyến ra về sau khi đã chụp hàng chục tấm ảnh, hoặc quay phim làm kỷ niệm.
Cầu thang nằm sát tường bên phải, phía cuối nguyện đường, có hình xoắn ốc, vòng 2 lần, mỗi vòng 360 độ, không có cột chịu lực ở giữa. Toàn bộ sức nặng tựa trên chân cầu thang và phần nối với gác ca đoàn.Điều này trái hẳn với nguyên lý về trọng lực (law of gravity) khiến các khoa học gia không sao giải thích được. Kiến trúc sư Urban C. Weidner cũng là chuyên gia nghiên cứu gỗ cho biết ông chưa bao giờ thấy cầu thang hình xoắn ốc bằng gỗ mà không có cột chịu lực ở giữa. Theo ông, nó sẽ sụp đổ ngay khi có người đặt chân bước lên. Thế mà các nữ tu và nữ sinh phải lên xuống cầu thang mỗi ngày một hay nhiều lần để hát phụng vụ. Năm 1959, cả ca đoàn học viện Loretto đứng hát trên các bậc thang mà nó vẫn vững chắc như làm bằng xi-măng côt sắt.
Cầu thang có 33 bậc cùng một kích thước, tượng trưng cho 33 năm Chúa sống ở trần gian, 2 bên các bậc thang không có song chắn an toàn khi lên xuống, cũng không có tay vịn. Một nữ sinh thời gian làm cầu thang mới 13 tuổi, sau vào tu dòng Loretto lấy tên Mary, kể lại rằng chính cô và các bạn là những người đầu tiên bứơc lên cầu thang, nhưng vì sợ qúa nên phải bò lên từng bậc, rồi khi xuống, phải cho hai chân xuống trước, rồi bám bậc phía trên,từ từ trụt xuống. Chính vì thế, sau 7 năm các nữ tu và nữ sinh phải ‘bò lên bò xuống’ các bậc thang để lên gác ca đoàn, Phillip August Hesch, chuyên viên bảo trì nhà thờ chính tòa St. Francis, được mời tới làm tay vịn và song chắn 2 bên cầu thang cũng như quanh gác ca đoàn. Điều đặc biệt là cầu thang không có dù 1 chiếc đinh, hoặc keo dán để liên kết các vật liệu với nhau. Ông thợ ‘bí mật’ đó chỉ dùng các chốt gỗ hình vuông để liên kết một cách tài tình, chính xác và hết sức mỹ thuật.
Cầu thang được ráp nối bằng 93 tấm gỗ, dài từ 0.9 đến 1.5 m, gồm 10 tấm dùng làm sườn phía ngoài (nên có 9 đường nối), 8 tấm làm sườn phía trong (7 đường nối), 33 tấm làm bậc thang, 33 tấm kê giữa 2 bậc thang, phần còn lại dùng làm đoạn vòng dưới chân cầu thang. Kỹ thuật ráp nối thật lạ lùng và tinh xảo, và như trên đã nói, ông thợ không dùng đinh, cũng không dùng keo dán, chỉ nối kết bằng những chốt gỗ hình vuông mà thôi. Kiến trúc sư kiêm chuyên gia nghiên cứu gỗ Urban Weidner đã có nhận xét: một trong những điều làm sửng sốt các kỹ sư và các nhà kiến trúc là những tấm gỗ được ghép nối thành sườn cầu thang với độ cong tuyệt hảo, mỗi tấm gỗ có độ cong thật chính xác, đường ghép nối lại hết sức tinh vi, không tìm thấy một khuyết điểm nào. Ông Weidner vẫn băn khoăn suy nghĩ là một kỹ thuật tinh vi như thế mà vào thập niên 1870, một mình ông thợ mộc với những dụng cụ rất thô sơ, làm thế nào có thể thực hiện được.
Về gỗ làm cầu thang, nhiều chuyên gia đã phân tích, tìm hiểu loại gỗ và xem loại đó xuất xứ từ đâu. Tuy nhiên, không một ai có thể khẳng định là loại gỗ nào để tìm ra xuất xứ của nó. Mặt các bậc thang liên tục bị giẵm lên từ khi hoàn thành cách đây hơn 100 năm, nhưng chỉ mép bậc thang bị mòn đi một chút. Có nhà nghiên cứu cho đây là một loại thông mà thớ gỗ nằm gần vỏ, người khác thì cho là loại thông vàng lá dài. Urban Weidner lại khẳng định loại gỗ ít bị mòn này không hề có tại New Mexico. Việc ông thợ lấy gỗ từ đâu mang về làm cầu thang vẫn còn là một bí ẩn.
Chuyên gia Forrest N. Easley, sinh quán New Mexico, tốt nghiệp ưu hạng tại Đại học Colorado ngành Lâm học và Mộc học, đã từng làm việc cho các cơ quan chính phủ và Hải quân Hoa Kỳ trong 40 năm, đặc trách nghiên cứu và quản trị ngành gỗ. Với thành quả và công trình nhiều năm nghiên cứu, ông là chuyên gia về gỗ nổi tiếng, có uy tín và được mọi người kính nể. Năm 1996, Forrest Easley đã bỏ ra 15 tháng nghiên cứu và phân tích gỗ làm cầu thang Loretto. Ông lấy một mẩu gỗ cầu thang đem vào phòng thí nghiệm và dùng kính hiển vi, kính khuếch đại để quan sát, phân tích tế bào cấu tạo của gỗ. Ông cho biết gỗ có tế bào cấu trúc hình vuông, không giống bất cứ loại gỗ nào hiện có, và cũng không biết rõ nguồn gốc từ đâu. Đây là loại gỗ vân sam (spruce) ‘có một không hai’, vì tất cả các loại gỗ vân sam khác không bao giờ có cấu trúc tế bào hình vuông. Như vậy, chỉ có thể phân loại gỗ này vào giữa nhóm Picea sitchensis và Picea engelmanni. Forrest đề nghị đặt tên khoa học là Pinacae Picea josefìi Easley, còn tên phổ thông nên gọi là gỗ vân sam Loretto.
Giáo Hội luôn luôn thận trọng khi đề cập đến những hiện tượng siêu nhiên mà con người không giải thích được. Cũng trong tinh thần đó, các nữ tu và Giáo quyền tại Santa Fe không muốn đưa ra một tuyên bố khẳng định nào về chiếc cầu thang lạ lùng này, chỉ cho đó là sự đáp ứng của Thánh Giuse đối với lời cầu nguyện và sự phó thác của các nữ tu nơi Thánh Giuse. Tuy nhiên, nhiều người vẫn nghĩ Thánh Giuse chính là ông thợ đã làm chiếc cầu thang lạ lùng đó.
Truyền thống tôn kính Thánh Giuse đã có từ lâu đời trong Giáo Hội, từ những thế kỷ đầu, thời các thánh Giáo phụ. Rồi qua các thế kỷ, chúng ta thấy rất nhiều vị thánh đã tỏ ra lòng sùng kính Thánh Cả Giuse cách đặc biệt.
Tiêu biểu nhất, thế kỷ 13 có thánh Margaret Cortona, thế kỷ 14 các thánh Bridget Thụy Điển, thánh Vincent Ferrer, thánh Bernardine Siena. Đặc biệt thế kỷ 16 có thánh Teresa Avila, nữ tiến sĩ đầu tiên của Hội Thánh, là tông đồ nhiệt thành với lòng phó thác tuyệt đối vào Thánh Cả Giuse. Bà đã thành lập 17 tu viện và dâng kính 13 tu viện cho thánh Giuse. Qua kinh nghiệm bản thân của bà về những ơn đã nhận được từ Thánh Giuse, thánh Teresa quả quyết:”Tôi thấy không lần nào xin gì cùng Thánh Giuse mà không được. Dường như Thiên Chúa ban cho các Thánh giúp ta việc này việc nọ. Nhưng kinh nghiệm cho tôi biết Thánh Giuse giúp chúng ta trong mọi trường hợp. Những ai không tin lời tôi, hãy thử mà xem”.
Sang thế kỷ 17, Mẹ Đáng Kính Maria Agreda, nữ tu Dòng Thánh Phan-xi-cô, trong mọi khó khăn cũng như nghịch cảnh, lúc nào bà cũng tín thác nơi Thánh Giuse. Trong cuốn sách Thành Trì Thiên Chúa (La mistica ciudad de Dios), bà viết: “Sự cầu bầu của Thánh Giuse thực là mạnh thế, để giúp chúng ta giữ đức trong sạch, gỡ mình khỏi tội lỗi, thêm lòng kính mến Đức Mẹ, được ơn chết lành, khỏi quỷ ma cám dỗ, được sức khỏe phần xác cùng sự cứu trợ trong mọi hoàn cảnh khó khăn”.
Trong thời cận đại, chúng ta có 2 vị Thánh được coi là Tông đồ nhiệt thành hơn cả của Thánh Cả Giuse: Thánh Daniele Comboni và Thánh Andre Bessette. Cả hai có chung đặc điểm là cùng sinh vào thế kỷ 19 và được phong hiển thánh vào thế kỷ 21, nhưng thánh Daniele qua đời vào thế kỷ 19 và thánh Andre qua đời thế kỷ 20.
1. Thánh Daniele Comboni là một linh mục truyền giáo tại Phi châu, sau làm Giám mục, được phong thánh ngày 5/10/2003. Ngài đã sáng lập Dòng Thừa Sai gồm cả hai ngành nam tu sĩ và nữ tu. Ngay khi khởi đầu việc truuyền giáo tại Sudan, Cha Daniele đã phó thác sứ mạng này cho Đức Mẹ và Thánh Giuse. Trong một cuộc hành trình bằng lạc đà phải xuyên qua những cánh rừng rậm Phi Châu, Cha bị té gẫy nát cả bàn tay và cánh tay. Mặc dù vô cùng đau đớn, Cha Daniele vẫn phải leo lên lưng lạc đà, băng rừng tới bờ sông Nile để được đưa bằng thuyền tới tụ điểm truyền giáo. Sau 82 ngày nằm liệt trên giường điều trị vết thương, Cha trở lại công việc, và ngay lập tức, Cha viết hóa đơn gởi Thánh Giuse, yêu cầu Ngài phải lấy tiền từ ‘ngân hàng Thiên quốc’ bồi thường cho Cha tám mươi hai ngàn quan, nghĩa là mỗi ngày Cha nằm trên giường trị thương và không dâng Thánh lễ được, Thánh Giuse phải trả cho Cha một ngàn quan. Rốt cuộc, Thánh Giuse ‘đành’ phải chi ra số tiền ‘khổng lồ’ đó. Tiếp theo, không biết từ đâu đến, Cha Daniele nhận được những số tiền lớn, chẳng những Cha có thể trả hết những chi phí chuyên chở, chi phí điều hành 2 nhà ở Cairo, 2 học viện ở Verona và Bắc Ý, thanh toán lương bổng cho nhân viên địa phương và hoàn tất công việc xây cất ngôi nhà dành cho các nữ tu, gồm nhà ở, trường học và vườn trẻ. Đúng là Thánh Giuse quá rộng lượng, đã trả cho Cha Daniele cả vốn lẫn ‘4 lời’.
2. Thánh Andre Bassette là Thày trợ sĩ Dòng Thánh Gía. Ngài sinh ngày 9/8/1845 trong một gia đình lao động gồm 10 anh chị em (2 người mất sớm), mồ côi cha năm lên 9 và mồ côi mẹ năm lên 12. Thuở nhỏ Ngài ít được đi học, chỉ biết đọc biết viết, và để mưu sinh, cậu bé Andre suốt 13 năm phải làm nhiều nghề khác nhau: thợ thiếc, thợ rèn, thợ sửa giầy, thợ làm bánh, v.v. và có thời gian phải sang Hoa Kỳ kiếm sống. Tuy nhiên, cậu Andre rất có tâm hồn đạo đức. Khi nào có chút giờ rảnh, cậu đều qùy gối cầu nguyện trước Thánh Gía, và khi có cơ hội, cậu đem Thánh kinh nói chuyện với bạn bè. Ngoài ra, cậu có lòng kính mến Thánh Giuse đặc biệt.
Năm 25 tuổi, nhờ sự giới thiệu của cha xứ và nhất là sự can thiệp của Đức Cha Ignace Bourget, thanh niên Andre được nhận vào Nhà Tập. Thày Andre khấn trọn đời ngày 2/2/1874 khi 28 tuổi. Trong suốt 40 năm, công việc chính của Thày là gác cổng trường College de Notre Dame Montreal. Thày thường nói đùa :“khi tôi đến, người ta chỉ cho tôi cái cổng và tôi ở đó suốt 40 năm”. Ngoài công việc chính, Thày Andre còn làm những việc không tên như lau nhà, lau đèn nhà nguyện, lau cửa kính, vác củi, chạy thơ, v.v. Thày cũng được giao nhiệm vụ đi thăm các học sinh bị bệnh, và cũng nhờ công việc này, không bao lâu, Thày nổi tiếng là ‘người làm phép lạ Montreal’, có khả năng chữa bệnh nhờ lời xin của Thày với Thánh Giuse. Khi đến thăm bệnh nhân tại nhà, Thày bảo họ cầu cùng Thánh Giuse rồi xức dầu Thánh Giuse cho họ (dầu lấy từ cây đèn luôn luôn thắp sáng trước bàn thờ Thánh Giuse trong nhà nguyện). Thế rồi càng ngày tiếng tăm Thày Andre, ‘người làm phép lạ’, càng loan truyền khắp nơi khiến hàng ngàn người từ xa kéo đến, và rất nhiều người được khỏi bệnh nhờ Thầy cầu nguyện với Thánh Giuse. Chỉ riêng năm 1916 đã có 435 trường hợp được báo cáo khỏi bệnh mà y giới không giải thích được.
Thường ngày Thày Andre phải tiếp khách hành hương từ 8 đến 10 giờ và mỗi năm Thày nhận khoảng 80 ngàn thơ từ khắp nơi gởi đến xin khấn hoặc xin những lời chỉ dạy của Thày. Thày Andre luôn luôn nói với những người đến xin chữa bệnh: “Tôi chỉ là kẻ quê mùa. Nếu có ai ngu dốt hơn tôi, chắc chắn Chúa sẽ chọn người đó thay tôi”. Câu nói này làm chúng ta nhớ tới câu nói của Thánh Bernadette được Đức Mẹ hiện ra ở Lộ-Đức: tôi là kẻ ngu dốt nhất trong các người ngu dốt. Nếu có ai ngu dốt hơn tôi thì Đức Mẹđã chọn người đó rồi. Các Thánh sao mà khiêm nhường đến thế, chẳng bù cho chúng ta, có người còn cho mình ‘thay trời’ (thế thiên) hành đạo. Quả đúng như lời Chúa dạy: ai đưa mình lên sẽ bị hạ xuống và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Khi có người được khỏi bệnh đến cám ơn, Thày Andre trả lời: “Đó là Thánh Giuse chữa. Tôi chỉ là con chó nhỏ của Ngài mà thôi”.
Giấc mơ của Thánh Andre là xây một đại thánh đường kính Thánh Giuse. Khởi đầu, Thày Andre quyên góp được số tiền 200 Gia kim và mỗi học sinh trả cho Thày 5 xu tiền hớt tóc. Năm 1904, Thày làm được một nhà nguyện bằng gỗ dài 5,49m, rộng 4.57m gần địa điểm Vương cung thánh đường Thánh Giuse hiện nay. Giấc mơ của Thày Andre đã trở thành hiện thực năm 1924 khi thánh đường Thánh Giuse được xây trên sườn đồi Mount Royal bên cạnh nhà nguyện nhỏ bé của Thày. Năm 1955 thánh đường hoàn thành, cao 263 thước, cao nhất thành phố Montreal và được thánh hiến. Mỗi năm có trên 2 triệu người đến viếng Vương Cung Thánh Đường Thánh Giuse, và nhiều người đến xin ơn đã được như ý nguyện.
Thày Andre qua đời năm 1937 lúc 91 tuổi. Hơn một triệu người từ khắp nơi đến kính viếng và đi qua quan tài của Thày để được nhìn Thầy và vĩnh biệt Thày lần cuối. Thi hài Thày Andre được an táng trong Vương Cung Thánh Đường mà Thày đã có công khởi xướng. Thày Andre được ĐGH Gioan-Phaolô đệ nhị phong chân phước ngày 23/5/1982 sau phép lạ ông Carlo Audino khỏi bệnh ung thư năm 1958 nhờ lời cầu bầu của Thày. Ngày 17/10/2010 Chân phước Andre được ĐGH Bê-nê-đic-tô thứ 16 tôn phong hiển thánh sau khi phép lạ thứ 2 được công nhận.
Nhân nói đến thời cận đại, không thể không đề cập đến biến cố vĩ đại ngày 13/10/1917 khi Đức Mẹ hiện ra lần thứ 6 với ba trẻ tại Fatima và trên bầu trời có Thánh Giuse, Chúa Hài Đồng và Đức Mẹ cùng xuất hiện bên cạnh mặt trời. Liền sau đó, chị Lucia la lên: trông mặt trời kìa! (Regardez le soleil), và trước sự chứng kiến của khoảng 70 ngàn người, mặt trời nhảy múa. Từ xưa đến này, ít khi nghe nói đến việc Thánh Giuse hiện ra, nhưng trong thời cận đại, sự kiện Thánh Giuse xuất hiện trên bầu trời cùng với Chúa Giêsu và Đức Mẹ có lẽ nhắc nhở chúng ta rằng Người vẫn luôn luôn quan tâm đến nhu cầu, nguyện vọng của mỗi người chúng ta, và sẵn lòngcầu bầu cho chúng ta trước Tòa Chúa Giêsu và Đức Mẹ.
Trên đây là truyện các Thánh tôn vinh Thánh Cả Giuse. Đến đây xin độc gỉa lượng thứ cho vì chỉ muốn chứng minh rằng trong cuộc sống đời thường, nếu chúng ta thành tâm cầu khẩn Thánh Giuse, Người sẽ nhận lời. Xin được kể hầu qúy vị một kinh nghiệm mới xảy ra trong gia đình như sau: Tôi có người con gái thứ 3 tên là Trần-Nguyễn Thiên Hương Lan, gọi bằng tên Mỹ là Mary cho tiện và vắn tắt. Mary tốt nghiệp Đại học Dược khoa với cấp bằng Doctor of Pharmacy và đã hành nghề dược sĩ hơn 10 năm. Mới đây một bệnh viện trong vùng cần tuyển một dược sĩ có kinh nghiệm để bào chữa thuốc trị bệnh cho các trẻ em khuyết tật hoặc mắc những bệnh nan y. Mary muốn nộp đơn xin làm nhưng xem ra tiêu chuẩn rất khó. Tôi đã khuyến khích Mary và khuyên Mary cầu nguyện cùng Thánh Giuse.
Một tuần sau khi phỏng vấn, Mary nhận được thư từ chối. Mary buồn rầu thông báo cho tôi và nghĩ là chuyện đã rồi nên tôi không quan tâm nữa. Bất ngờ tuần sau Mary gọi điện thoại báo tin vừa được bệnh viện cho hẹn đến làm thủ tục nhận việc. Mary cho biết ngay khi nhận thư từ chối, trong lòng không vui, lại thắc mắc vì sao đã cầu xin Thánh Giuse mà Người không nhận lời, nên theo đúng lời Mary kể, Mary hỏi Thánh Giuse TẠI SAO, sau đó ‘email’ cho bà Giám đốc phòng nhân viên của bệnh viện. Ngay chiều hôm đó, Mary nhận được hồi báo cho biết đã có sự lầm lẫn, và trong số những ứng viên đủ tiêu chuẩn, người được chọn chính là Mary. Mary tin rằng chính Thánh Giuse đã nhận lời cầu xin của mình mà chỉ cho họ nhận ra sự lầm lẫn.
Để kết thúc bài viết, xin trích dẫn bài suy ngẫm ngày thứ sáu trong cuốn Tuần cửu nhật kính Thánh Giuse do nhà sách Trái Tim Đức Mẹ tái bản năm 1993 mà không thấy tên tác gỉa:
“Muốn biết thế lực Thánh Cả trên Thiên Đàng ngày nay, không gì bằng nhớ lại công việc Người đã làm xưa trong Nhà Nazarét. Nơi đây, vì phận sự gia trưởng, Người đã xếp đặt mọi công việc cho Đức Mẹ và Chúa Con. Ngót ba mươi năm trường, hai Đấng đã lấy làm hạnh phúc được vâng lời Người trọn vẹn, chẳng lấy chi làm sung sướng cho bằng làm vừa lòng đẹp ý Người luôn. Ấy là thế lực Người ở trần gian, huống chi trên Thiên Đàng, quyền uy Người còn lớn gấp bội. Có lẽ nào trên chốn vinh quang, Chúa Giêsu và Đức Mẹ lại phai lạt lòng yêu mến đối với Người? Tất nhiên lời cầu nguyện của Người phải mạnh thế dường nào! Đấng Cứu Thế vừa thấy đôi tay, suốt ba mươi năm, đã làm lụng vất vả để nuôi Mình, rày chắp lại van xin, thì cầm lòng sao được mà chẳng mau kíp ban ơn?”

-------------------------------

 

19/03-52:  “HÃY ĐẾN CÙNG GIUSE”

 

Hãy đến cùng Giuse” là một lời khuyên nổi tiếng, chúng ta thường hiểu về việc Hội Thánh: 19/03-52


“Hãy đến cùng Giuse” là một lời khuyên nổi tiếng, chúng ta thường hiểu về việc Hội Thánh dạy chúng ta hãy đến cùng Thánh Cả Giuse mỗi khi chúng ta có nhu cầu cần xin ơn Chúa. Quả thật Thánh Cả Giuse, đấng đã được đặt làm Cha nuôi Chúa Giêsu, ngài có một lòng tin mạnh mẽ, lòng cậy trông vững bền, lòng mến yêu tha thiết, ngài lắng nghe và vâng lời Thiên Chúa tuyệt đối, ngài trở nên Thánh Cả của Thiên Quốc vì những nhân đức tuyệt vời của ngài. Lời khuyên dạy “Hãy đến cùng Giuse” thật không sai.
“Hãy đến cùng Giuse” có nguồn gốc từ trong Cựu Ước, câu nói này là câu nói của Pharaô vua Ai Cập, Pharaô đã khuyên mọi người dân Ai Cập: “Hãy đến cùng Giuse” để được phân phát lương thực ( St 41, 55 ).
Giuse trở nên Tể Tướng của Ai Cập trong một câu truyện đầy tính bi hài của một con người, một gia đình, một dân tộc. Câu truyện được kể ở phần IV, Sự tích ông Giuse trong sách Sáng Thế các chương từ chương 37 trở đi.
Sinh ra trong một gia đình có 12 anh em, cha của Giuse, ông Giacóp, một con người sống tình cảm, tình yêu của mình rất mực thủy chung, đó là lý do vì sao ông thương Giuse hơn các con trai khác. Giuse là con của Rakhen, người vợ ông đã thương ngay từ thuở vừa gặp gỡ, nhưng có khá nhiều trở ngại trên con đường hai người đến với nhau, ngay cả khi đã đến với nhau rồi thì việc mang thai và hạ sinh Giuse lại khá muộn màng.
Giuse là một con người giàu cảm xúc, trí tưởng tượng của ông rất phong phú, Kinh Thánh nói ông có tài đoán mộng, vì ông tiếp nhận những câu truyện trong giấc mơ của người khác một cách sống động, ông trân trọng những câu truyện đó vì nó là một phần của cuộc sống, ông không chối bỏ, ông đón nhận cảm xúc từ câu truyện như là một câu truyện có thật của ông, ông sống cảm xúc đó, nhập vào bối cảnh đó một cách nhẹ nhàng như chính ông trong giấc mơ, ông để cho những diễn biến xuôi chảy tự nhiên, ông đem câu truyện ra khỏi giấc mơ mà thấm vào hiện tại cuộc sống, ông diễn tả cảm xúc cho người khác hiểu, ông truyền cảm xúc đó đến cho người khác, ông làm cho người khác cùng sống cảm xúc của ông.
Đó là tiến trình quan sát, chuyển biến tâm hồn và khả năng diễn tả của bậc nghệ sĩ. Có thể nói Giuse là một nghệ sĩ. “Tác phẩm” của ông vào lúc thuận lợi đã làm biến đổi cuộc sống của tha nhân, không chỉ một người mà là nhiều người, mà cũng không chỉ là cứu một số người nhưng còn là cứu cả gia đình và dân tộc của ông nữa.
Có lẽ vì là người giàu cảm xúc nên khi bị loại bỏ, bị thù ghét vì lòng ganh tỵ của anh em mình, Giuse đau đớn hơn người khác nhiều. Chúng ta có hiểu được nỗi tuyệt vọng của Giuse khi bị anh em thả xuống giếng sâu để mặc cho cái chết dần đến, sự thanh vắng của hoang mạc, nỗi cô đơn tuyệt vọng, dưới lòng giếng sâu âm u, Giuse đã nghĩ gì, đã sống ra sao ? Khi được anh em kéo lên, rồi bị bán cho đoàn thương lái, rong ruổi theo người lạ đến xứ sở xa xôi, Giuse đã nghĩ gì ? Khi long đong lận đận nơi xứ người, khi bị giam mình trong chốn tù đày, Giuse đã nghĩ gì ? Giuse đã bật khóc khi gặp lại anh em mình trên đất Ai Cập, Giuse đã không ngăn được những dòng nước mắt khi bỗng một ngày anh em ruột thịt mình tìm đến.
Nhiều khi tôi tự hỏi, Đức Hồng Y Phanxicô đã sống ra sao trong những ngày ở lao tù, Đức Hồng Y đã cảm xúc thế nào khi bước ra khỏi điện Vatican đón những người nhiều năm trước đã “tống cổ” mình ra khỏi Giáo Phận, bán mình cho kẻ thù hại mình, để mặc cho người ta hành hạ, không một hành vi can thiệp hoặc lên tiếng bênh vực ? Giuse đã không ngăn được cảm xúc, lao xuống đỡ lấy anh em đang sấp mình run rẩy ngay dưới chân ông, Giuse đã nói một câu tuyệt vời: “Đừng sợ, chính vì để cứu gia đình mình, Chúa đã sai em sang Ai Cập trước các anh”. Tôi đã chứng kiến vị Hồng Y khả kính mỉm cười khoan dung đón kẻ từng hại mình vào điện Vatican, tiếp đón họ như những thượng khách và dành cho họ những đặc ân mà họ không xứng đáng được hưởng !
Để có biến cố Xuất Hành, cuộc đoàn tụ bên Ai Cập đã là nguyên nhân của sự xuất hành, trong đó Giuse là nhân vật trung tâm. Tháng ba, tháng kính Thánh Giuse, cũng là một cơ hội để chiêm ngắm những con người mang tên Giuse và cũng mang tên Công Chính. Hình ảnh vị Tôi Tớ Chúa của thế kỷ chúng ta đang sống giúp ta chiêm nghiệm tình yêu và sự tha thứ. Xin cho Mùa Chay Thánh giúp chúng ta hiểu và sống tận tình hơn với Chúa và với nhau.
Lm. VĨNH SANG, DCCT, Lễ Thánh Giuse, 19.3.2012

-------------------------------

 

19/03-53:  Đặt tên cho con trẻ


--Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

 

Cô Maria đã đính hôn với ông Giuse và vẫn ở nhà với bố mẹ. Phải đợi một năm sau cô mới về 19/03-53


Cô Maria đã đính hôn với ông Giuse và vẫn ở nhà với bố mẹ.
Phải đợi một năm sau cô mới về nhà chồng, mới làm lễ thành hôn thực sự.
Lạ thay cô lại mang thai khi chưa chung sống với Giuse.
Điều này hẳn làm Giuse bối rối và suy nghĩ nhiều.
Ông không thể tố cáo Maria, cũng không thể lấy cô ấy làm vợ.
Chỉ còn cách là ly dị Maria cách âm thầm kín đáo.
Nhưng Thiên Chúa không nghĩ thế.
Ý định của Ngài được báo với Giuse trong giấc mộng.
“Đừng sợ đón Maria vợ ông về,
vì thai nhi được cưu mang nơi bà là do Thánh Thần” (c. 20).
Giuse hay bị đánh thức vào lúc ông cần nghỉ ngơi.
Phải có lòng tin thế nào Giuse mới dám nhận Maria đang mang thai làm vợ.
Tin thai nhi được Maria cưu mang là “do Thánh Thần” (c. 20),
điều đó không dễ dàng, vì chưa bao giờ xảy ra trường hợp tương tự.
Tin còn là từ bỏ những toan tính và định tâm của mình (cc.19-20)
để vâng phục ý định bất ngờ và khó hiểu của Thiên Chúa.
Điều khiến cho Giuse có một chỗ đứng độc đáo trong lịch sử cứu độ
đó là việc ông đón Maria đang mang thai về nhà mình làm vợ chính thức.
Đơn giản là ông chấp nhận làm đám cưới với Maria.
Đón Maria làm vợ cũng là nhận cả thai nhi trong bụng mẹ làm con.
Giuse là cha khi ông chấp nhận đứng ra đặt tên cho con trẻ (c. 21).
Ai có thể biết được điều gì sẽ xảy ra nếu Giuse cứ muốn âm thầm ly dị Maria?
Giuse đã là chỗ dựa sống còn của ơn cứu độ, là nơi nương tựa của Mẹ và Con.
Nhờ Giuse, Cô Maria không bị mang tiếng ngoại tình,
và bé Giêsu không phải là con hoang, nhưng là con thuộc dòng Đavít.
Đức Giêsu sau này có thể công khai và tự tin đến với dân Ítraen.
Thánh Giuse đã lập gia đình, đã có một mái ấm với người mình yêu.
Ngài sống như một người chồng, người cha bình thường.
Nhưng bên trong lại là những mầu nhiệm.
Ngài không thật sự là chồng của Maria, cũng không thật sự là cha của Giêsu.
Maria không còn là đối tượng để Giuse mê đắm và chiếm hữu,
vì Maria đã thuộc trọn về Thiên Chúa, cả xác lẫn hồn.
Maria là một mầu nhiệm, Giêsu cũng là một mầu nhiệm.
Giuse sống bên những mầu nhiệm, nên chính đời ngài cũng trở thành mầu nhiệm.
Phải đến với mái ấm ở Nadarét ta mới thấy mầu nhiệm ẩn trong cái bình thường.
Chỉ ai biết nhìn thì mới thấy sự thánh thiện phi thường ở đó.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
sau hơn 30 năm sống dưới mái nhà ở Nadarét,
Chúa đã thành một người chín chắn và trưởng thành,
sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng Cha giao.
Bầu khí yêu thương đã góp phần không nhỏ
trong việc hình thành nhân cách của Chúa.
Chúa đã học nơi thánh Giuse
sự lao động miệt mài,
sự mau mắn thi hành Thánh ý Thiên Chúa,
sự âm thầm chu toàn trách nhiệm đối với gia đình.
Chúa đã học nơi Mẹ Maria
sự tế nhị và phục vụ,
sự buông mình sống trong lòng tin phó thác
và nhất là một đời sống cầu nguyện thâm trầm.
Xin nhìn đến gia đình chúng con,
xin biến nó thành nơi sản sinh những con người tốt,
biết yêu thương tha thứ, biết cầu nguyện và phục vụ.
Ước gì xã hội chúng con lành mạnh hơn,
Giáo hội chúng con thánh thiện hơn,
nhờ có những con người khỏe mạnh, khôn ngoan
và tràn đầy ơn Chúa.

---------------------------------

 

19/03-54: Thánh Giuse gương mẫu cho người trưởng gia


 - Suy niệm lễ Thánh Giuse Bạn Trăm Năm Đức Maria

 

Ngày 19 tháng 3, Hội Thánh hoàn vũ hân hoan mừng kính thánh Giuse, bạn trăm năm của Ðức: 19/03-54


Ngày 19 tháng 3, Hội Thánh hoàn vũ hân hoan mừng kính thánh Giuse, bạn trăm năm của Ðức Trinh Nữ Maria, cha nuôi Chúa Giêsu, vị quan thầy khả kính của mình cách trọng thể. Truyền thống bình dân Kitô giáo dành trọn tháng Ba cho thánh Giuse người của Thiên Chúa và đem lòng sùng kính ngài cách đặc biệt.

Trong chương trình của Thiên Chúa tình thương, thánh Giuse đã được mời gọi trở nên người cha trên trần gian của Ngôi Lời Nhập Thể, (nơi ngài) được phản chiếu một cách đặc biệt tình phụ tử của Thiên Chúa. Nên khi chúng ta tôn kính thánh nhân là chúng ta ca khen chúc tụng Thiên Chúa : “Trong ngày lễ kính thánh Giuse chúng con cùng tung hô, chúc tụng và ca ngợi Cha” (Kinh Tiền Tụng Thánh Giuse). Đây là điều đẹp lòng Thiên Chúa, lời nguyện khác có đoạn “ Vào lúc bình minh của thời đại mới, Chúa đã trao cho thánh Giuse bảo vệ các Mầu Nhiệm Cứu Độ, xin cho Hội Thánh Chúa luôn luôn nhớ lời cầu bầu của thánh nhân …”. Chính Đức Giáo Hoàng Pio IX đã công bố sắc lệnh Quemadmodum Deus (08.12.1870), nhận thánh Giuse làm quan thầy cả Hội Thánh, hàng năm dành riêng hai lễ kính ngài vào ngày 19 tháng 3 và mùng 01 tháng 5.

1. Bạn hiền Trinh Nữ

Tin Mừng ghi lại : “ Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kính đáo” (Mt 1, 19). Ðây là câu chuyện duy nhất trong Tân Ước diễn tả trực tiếp về con người của thánh Giuse, một vị hôn phu không những là người đã giữ đức công bình mà còn trung thành chu toàn mọi bổn phận của một người chồng, người chủ gia đình.

Lần giở lại những trang Tin Mừng có liên quan đến Thánh Giuse, chúng ta có thể khám phá ngay tính cao thượng trượng phu của ngài. Khi hay tin Maria mang thai, Thánh Giuse không bối rối cũng không ẩn trốn. Nhưng ngài chỉ mới toan tính bỏ bà Maria cách kín đáo. Tuy nhiên, ngài không thực hiện ý định đó. Bởi sau khi được sứ thần Thiên Chúa đến mặc khải cho ngài qua giấc mộng: “Mẹ Maria mang thai là bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần”(Mt 1,20), ngài đã không còn “bán tín bán nghi” nữa. Trái lại, tín thác hoàn toàn vào lời của sứ thần, sẵn sàng đón Đức Maria về nhà làm bạn mình và phục vụ với lòng kính trọng, mến yêu.

Những biến cố xảy ra trong cuộc đời thánh Giuse như: Mầu Nhiệm Nhập thể, cuộc trốn chạy sang Ai Cập trước ý định tìm giết Chúa Giêsu của vua Hêrôđê, việc lạc mất Chúa Giêsu, cũng như những tháng năm sống đời ẩn dật tại Nazaret, Giuse, bậc trượng phu đã đứng mũi chịu sào trong mọi tình huốn : cùng bạn mình “đem Hài nhi lên Giêrusalem tiến dâng cho Chúa” (Lc 2, 22) ; “đem Hài nhi và mẹ Ngài ban đêm mà trốn qua Ai Cập” (Mt 2,14 ) ; “đem Hài Nhi và Mẹ Ngài mà về đất Israel” (Mt 2, 20 ) ; cùng với bạn đời sống âm thầm nơi thôn làng Nazaret, hàng năm cùng với Đức Maria đưa Chúa Giêsu lên Đền thờ chầu lễ (x. Lc 2, 41- 43). Ngài thật xứng đáng là bạn hiền của Đức Nữ Trinh.

Như thế, từ khi kết hôn với Mẹ Maria cho đến biến cố Chúa Giêsu 12 tuổi tại Ðền thờ Giêrusalem, ngài ân cần yêu thương đồng hành trong mọi lúc. Ngài ở cạnh Maria Hiền thê của ngài trong những lúc thanh thản cũng như trong những lúc khó khăn của cuộc sống, trong hành trình đi Bêlem để kiểm tra dân số, và trong những giờ hồi hộp và vui mừng của cuộc sinh hạ; trong lúc bi thảm tị nạn sang Ai Cập và trong cuộc vất vả tìm con tại Ðền Thờ; và rồi trong cuộc sống hằng ngày tại nhà Nazaret, trong phòng làm việc nơi thánh nhân đã dạy nghề cho Chúa Giêsu.

Thánh Giuse đã sống ơn gọi làm chồng của Đức Maria trong thinh lặng, kiên trì và trung tín hoàn toàn, cả khi ngài không hiểu. Ngài biết lắng nghe Thiên Chúa, để cho thánh ý Chúa hướng dẫn, và chính vì thế thánh nhân trở thành người chồng mẫu mực của Đức Maria và người cha tận tụy đối với Chúa Giêsu, như Chân phước Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh: “Thánh Giuse, vì yêu thương chăm sóc Mẹ Maria và vui mừng tận tụy giáo dục Ðức Giêsu Kitô, như thế Ngài cũng giữ gìn và bảo vệ nhiệm thể của Ngài là Giáo Hội, mà Ðức Thánh Trinh Nữ là hình ảnh và gương mẫu” (Trích Tông Huấn Redemptoris Custos, 1).

2. Cha nuôi Hài Đồng Giêsu

Thánh Giuse là vị hôn phu của Ðức Maria, đấng đã cưu mang Chúa Giêsu, mà vẫn còn đồng trinh, do bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nhưng con trẻ Giêsu cũng là con của thánh Giuse, vị hôn phu hợp pháp của Mẹ Maria. Vì thế, trong Tin Mừng, cả hai đều được gọi là song thân của Chúa Giêsu (x. Lc 2, 27.41).

Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Mẹ Người mà thánh Luca mô tả : Đức Maria nói “Này cha con và mẹ phải đau khổ tìm con! ” Nhưng Ngài đáp lại: “ Thì tại sao tìm con? Lại còn không biết là con phải ở lại nơi nhà Cha con sao? ” (Lc 2 , 48 - 49 ). Những lời của Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu được thiên chức “ làm cha ” của thánh Giuse. Khi gợi lên cho cha mẹ trần gian về việc của Đấng mà Ngài gọi là “Cha con”, Chúa Giêsu tiết lộ sự thật về vai trò của Đức Maria và Thánh Giuse. Thánh Giuse thực sự là “chồng” của Đức Maria và là “cha” của Chúa Giêsu, như Đức Maria nói: “Cha con và mẹ phải đau khổ tìm con”. Nhưng thánh Giuse là chồng và là cha theo ý Thiên Chúa, vì chính Thiên Chúa mời gọi Giuse cống hiến đời mình phục vụ người Con duy nhất của Chúa Cha và Đức Trinh Nữ Maria. Thánh nhân đã đảm nhận thánh ý Chúa với lòng trung thành và ngưỡng mộ.

3. Gưỡng mẫu cho người trưởng gia

Ngày hôm nay có biết bao người đang vui mừng làm ông nội, ông ngoại, làm bố, và đang hồi hộp chờ đợi đứa con đầu lòng, tức là sắp được làm bố, với bao trách nhiệm gia đình phải gánh vác. Họ không biết làm ông, làm bố thế nào cho phải cho nên. Xem ra họ phải chấp nhận mọi hy sinh vì điều thiện hảo cho gia đình của họ. Họ mong ước được người vợ và con cái chia sẻ tình thương để bù lại cho những mệt nhọc phải chịu. Thì thánh Giuse là mẫu gương sống động cho chính họ học đòi bắt chước, trong vai trò làm chồng cách quảng đại, làm cha gương mẫu và làm chủ gia đình cách tận tụy sáng suốt.

Kính xin thánh Giuse từ trời cao phù hộ cho tất cả các người cha và bảo vệ những người làm cha trong gia đình. Ước chi mỗi người trong họ có thể phản chiếu tình thương dự phòng và trung tín của Thiên Chúa trong khi thi hành những trách nhiệm là chồng, làm cha và làm chủ gia đình.

Nguyện xin thánh Giuse và Mẹ Maria rất thánh, Nữ Vương các gia đình và là Mẹ của Giáo Hội, (nguyện xin hai Ðấng) cầu cùng Chúa cho chúng con được hồng ân chúng con xin. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ


-------------------------------

 

19/03-55: BẢO VỆ CÔNG TRÌNH CỦA THIÊN CHÚA 


 Bài giảng Lễ thánh Giuse tại Đan Viện Châu Sơn 19.03.2014.

Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt.

 

Từ tạo thiên lập địa Thiên Chúa có chương trình tốt đẹp cho thế giới và đặc biệt cho con người. : 19/03-55


Từ tạo thiên lập địa Thiên Chúa có chương trình tốt đẹp cho thế giới và đặc biệt cho con người. Thiên Chúa sáng tạo mọi sự và thấy hài lòng vì mọi sự tốt đẹp. Nhưng chẳng bao lâu ma quỉ gieo sự xấu vào thế giới. Con người hư hỏng vì nghe lời ma quỉ chống lại Thiên Chúa. Vì thế lâm vào cảnh khốn cùng. Nhưng Thiên Chúa không từ bỏ ý định yêu thương nên quyết định sai Con Một xuống cứu độ trần gian. Và Thiên Chúa chọn thánh Giuse làm người bảo vệ Đấng Cứu Thế và bảo vệ công trình của Thiên Chúa. Thánh Giuse đã hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ, đưa công trình cứu chuộc của Thiên Chúa đến thành công. 
Ngài bảo vệ chính mình khi sống công chính. Công chính là công bình và chính trực. Chính trực là thẳng ngay. Công bình là của ai trả cho người ấy. Chỉ nhận những gì thuộc về mình. Tin mừng hôm nay xưng tụng thánh Giuse là công chính vì đã không dám nhận Đức Mẹ làm bạn và nhận Chúa Giêsu làm con. Vì thánh nhân biết đây là công trình của Thiên Chúa. Chỉ khi Thiên Chúa truyền ban ngài mới dám lãnh nhận. Từ đó ngài quan tâm bảo vệ Đức Mẹ và Chúa Giêsu. 
Ngài bảo vệ sự sống của Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Nếu không có thánh Giuse, Đức Mẹ có thể bị kết án tử hình, bị ném đá theo luật Do thái. Và Chúa Giêsu khó thoát khỏi bàn tay khát máu của Hêrôđê bạo chúa. 
Ngài bảo vệ công trình cứu chuộc khi phát triển sự sống của Chúa Giêsu. Dưới mái nhà đơn sơ Nagiarét, Chúa Giêsu càng khôn lớn càng khỏe mạnh, càng thông minh và càng giầu ân nghĩa trước mặt Thiên Chúa. Để có thể trưởng thành, hoàn thành công cuộc cứu chuộc nhân loại.  
Ngài tiếp tục bảo vệ công trình của Thiên Chúa. Nhiệm vụ của thánh nhân chưa kết thúc. Vì công trình của Thiên Chúa vẫn đang tạo dựng một thế giới tốt đẹp. Nhưng ma quỉ vẫn luôn gieo rắc sự xấu, tàn phá công trình của Thiên Chúa. Vũ trụ bị tàn phá. Thiên nhiên bị tàn phá. Sinh vật bị tàn phá. Nhưng trầm trọng nhất là con người bị tàn phá. Tàn phá từ thể chất đến tinh thần. Nguy hiểm nhất là tàn phá về đạo đức. Con người được Thiên Chúa yêu thương tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Nhưng con người đang bị tàn phá đến độ biến dạng không còn phản ánh vinh quang của Thiên Chúa nữa. Đáng sợ nhất khi con người không còn lương tâm, không còn phân biệt được phải-trái, thiện-ác, tốt-xấu. Vì thế hôm nay  chúng ta cần đến sự bảo vệ của thánh Giuse. 
Và chúng ta cần phải noi gương Thánh Cả, tiếp tay với ngài trong công cuộc bảo vệ công trình của Thiên Chúa.
Trước hết là bảo vệ chính mình khỏi ô nhiễm thói đời để sống công chính. Ngày nay người ta dễ dàng nhận những gì không phải của mình. Vì nhận những gì không phải của mình nên người ta sẵn sàng chiếm đoạt của người khác. Từ của cải đến chức quyền. Từ danh dự đến uy tín. Thậm chí chiếm đoạt cả quyền tự do và quyền sống nữa. Trong một bầu khí như thế, cần rất nhiều đời sống công chính. Chỉ nhận những gì của mình. Và trả lại cho tha nhân những gì của họ. 
Không những bảo vệ chính mình, ta còn phải bảo vệ công trình của Thiên Chúa. Thế giới hôm nay bắt đầu ý thức bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ môi trường. Nhưng ít có ai bảo vệ con người là trọng tâm của công trình của Thiên Chúa. Trong sứ điệp mùa chay năm 2014 này, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, tự trở nên nghèo để anh em được trở nên giầu có. 
Đức Thánh Cha nói thế giới hôm nay còn rất nhiều người nghèo. Tuy nhiên nghèo chưa đáng sợ bằng lầm than khốn khổ. Lầm than khốn khổ là nghèo mà bị bỏ rơi, không được ai quan tâm đoái hoài. Ngài phân biệt ba loại lầm than khốn khổ. Lầm than khốn khổ về vật chất là nghèo mà không được ai quan tâm giúp đỡ, bị bỏ rơi, bị gạt ra ngoài lề xã hội. Lầm than khốn khổ về tinh thần. Là những người bị áp bức, bất công, bị bóc lột, bị chà đạp. Mà cũng bị bỏ rơi, không có ai bênh vực, không có ai khích lệ, an ủi. Lầm than khốn khổ về luân lý. Là những người rơi vào tội lỗi, tệ nạn. Nhưng cũng không được ai quan tâm giúp đỡ. 
Ngài kêu gọi chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, trở nên nghèo khi đến với những anh chị em lầm than khốn khổ. Có lẽ ta đã nghĩ đến giúp người nghèo khổ vật chất. Nhưng ta ít nghĩ đến giúp những người đang bị áp bức bất công, bị bóc lột, bị tước mất những quyền cơ bản của con người như quyền được sống, quyền được tự do, tự do tôn giáo, tự do tư tưởng, tự do phát biểu. Và cả những người vì bênh vực quyền lợi chính đáng mà bị tù tội, bị ám hại, và bị mọi người sợ hãi xa tránh. 
Công trình của Thiên Chúa mọi sự đều tốt đẹp. Tất cả nhằm mục đích đem sự sống và hạnh phúc cho con người. Nhưng công trình của Thiên Chúa cần được bảo vệ. Mừng lễ thánh Giuse, ta hãy cầu xin ngài tiếp tục bảo vệ công trình của Thiên Chúa. Và chúng ta hãy tiếp tay với ngài bảo vệ công trình của Thiên Chúa. Bảo vệ vũ trụ. Bảo vệ thiên nhiên. Bảo vệ súc vật. Bảo vệ môi trường sống. Và quan trọng nhất bảo vệ chính sự sống. Bảo vệ con người. Bảo vệ hạnh phúc của con người. Chính khi bảo vệ công trình của Thiên Chúa ta xây dựng một xã hội tốt đẹp. Và đem hạnh phúc cho mọi người. 
Lạy thánh Giuse xin bảo vệ con người, bảo vệ Giáo hội và bảo vệ thế giới. Amen.

-------------------------------

 

19/03-56: Bài suy niệm trong tháng thánh Giuse


-- Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

 

Ơn xin: xin cho tôi biết để cho Chúa sử dụng đời mình hầu phục vụ kế hoạch cứu độ của Thiên 19/03-56


Ơn xin: xin cho tôi biết để cho Chúa sử dụng đời mình hầu phục vụ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.

1. Thánh Giuse là người có đức tin lớn lao

Ngài đã đón nhận những biến cố độc nhất vô nhị do Thiên Chúa gửi đến cho đời mình. Ngài đã uốn đời mình theo ý Chúa: ngài chấp nhận chung sống như một người bạn bên cạnh người mà ngài yêu mến và muốn lấy làm vợ là Đức Maria. Đúng là ngài đã chấp nhận đổi tình cầm sắt hóa ra cầm kỳ. Ngài đã chấp nhận thai nhi mà ngài không phải là cha, vì tin vào quyền năng của Thần Khí đang tác động.

Thánh Giuse không xa lạ với cái bất ngờ của đường lối Chúa, cái bất ngờ hẳn đã làm ngài khắc khoải, chới với đến nỗi định âm thầm ly dị Maria (Mt 1,19). Rồi từ đó ngài đạt được bình an trong đức tin. Tuy nhiên, đức tin của thánh Giuse – cũng như của chúng ta – tuy lớn lao nhưng vẫn là một đức tin không ngừng lớn lên và là một đức tin liên tục kéo dài. Thánh Giuse bị vây bọc bởi mầu nhiệm: mầu nhiệm về Đức Maria mang thai bởi Thánh Thần và mầu nhiệm về thai nhi Giêsu. Bề ngoài, dưới mắt người đời, thì Thánh Gia là một gia đình bình thường như mọi gia đình khác. Nhưng bên trong Giuse thấy mình sống trong một thế giới thần linh, liên tục đằm mình trong thế giới đó và vẫn không sao hiểu hết được (Lc 2, 33; 2, 48.50). Mầu nhiệm luôn vẫy gọi Giuse bước sâu thêm. Cùng với nghề thợ mộc vất vả, thánh Giuse hẳn đã sống đời chiêm niệm thâm trầm. Đức Giêsu vẫn lớn lên trước mắt Giuse, lớn lên một cách bình thường. Maria vẫn là người được Giuse yêu mến kính trọng. Bà vẫn chu toàn bổn phận làm mẹ một cách bình thường. Nhưng Giuse vẫn khám phá thấy trong cái bình thường đó một mầu nhiệm đang hé lộ. Tin là một hành trình tìm kiếm mãi.

Thánh Giuse chấp nhận cái nghịch thường của ý định Thiên Chúa. Giuse muốn lập gia đình với Cô Maria, người ông đã đính hôn nhưng chưa về chung sống như vợ chồng (Mt 1, 18). Giuse chỉ mong làm một người chồng, một người cha bình thường, nhưng Thiên Chúa lại không muốn ngài là chồng, là cha bình thường như những người khác. Ngài không phải là cha đẻ của Đức Giêsu. Matthêu đã không viết là “ông Giuse sinh Giêsu” ở Mt 1,16, nhưng đã viết: “Ông Giacóp sinh ông Giuse, chồng của bà Maria, từ bà Đức Giêsu được sinh ra, Đấng được gọi là Kitô”. Giuse đã sống như một người bạn, người trợ giúp bên cạnh Đức Mẹ. Đức Maria vẫn là người mà thánh Giuse chỉ “biết” trong đức tin. Thế nhưng cái nghịch thường mà thánh nhân phải đảm nhận đó là: bề ngoài ngài vẫn được mọi người coi như chồng của Maria, như cha của Giêsu, và ngài phải gánh mọi trách nhiệm trong tư cách đó. Nhưng thực tế thì lại khác. Thánh Giuse đã chấp nhận điều đó trong âm thầm suốt đời. Đúng là ngài phải trở thành nhà chiêm niệm. Chính đời ngài cũng là một mầu nhiệm mà người ngoài không biết rõ được. Người ta chỉ coi ông Giêsu là con của ông thợ mộc Giuse và bà Maria thôi. Người ngoài không biết rõ căn tính của tôi được, và tôi cũng không được nói với ai.

Giuse sống mầu nhiệm đời mình trước mặt Thiên Chúa. Chính cái âm thầm làm nên mầu nhiệm. Chúng ta không thích âm thầm và ẩn danh. Chúng ta thích quyền lợi và nghĩa vụ phải tương xứng. Nhưng khi phá vỡ cái âm thầm riêng tư, chúng ta cũng có nguy cơ phá vỡ cả mầu nhiệm và đời sống chúng ta sẽ mất đi một điều rất quý, điều mà chỉ riêng Thiên Chúa và ta mới hiểu được, cái thế giới thần linh riêng tư giữa Thiên Chúa và ta mà người khác chỉ đứng ngoài. Không cần thiết người ngoài phải biết hết, phải hiểu được hết mọi sự trong đời ta. Ta cũng không cần chia sẻ mọi sự mình có, để mãn nguyện vì được thông cảm, được biện minh. Phải duy trì khoảng cách với thụ tạo (đó là từ bỏ) để có thể nói được rằng Thiên Chúa là Đấng duy nhất hiểu mình thật là gì. Chúng ta thường cảm thấy mình là điều người khác nghĩ (thậm chí sống theo điều người khác nghĩ về mình). Chúng ta dễ quên rằng “Thiên Chúa nghĩ về ta như thế nào thì ta là thế ấy” (thánh Têrêsa Nhỏ).

2. Thánh Giuse là một người đã thánh hiến đời mình cho sứ mạng của Thiên Chúa

Giuse phải sống đức khiết tịnh trong một tình cảnh đặc biệt. Đúng là ngài đã chọn sống như thế, tuy ngài có quyền sống như người chồng thật của Đức Maria. Đức khiết tịnh nào cũng là một lựa chọn, một từ khước cái quyền tự nhiên mình có thể có. Không cần thiết thánh Giuse phải là một cụ già để bảo đảm điều đó. Nếu ngài là một thanh niên, chúng ta mới hiểu được rằng với ơn Chúa, người ta làm được cả những điều vượt quá sức con người. Chắc chắn thánh Giuse đã giữ được khiết tịnh suốt đời nhờ có cảm nghiệm sâu xa về việc mình đang tiếp cận với một mầu nhiệm linh thánh. Maria bây giờ không còn là một đối tượng để mê đắm và chiếm hữu. Cô là hiện thân của một mầu nhiệm khôn dò, mầu nhiệm khiến Giuse phải kính ngưỡng. Giữ khiết tịnh chính là nhìn nhận Maria là người của Thiên Chúa, được Ngài tuyển chọn cách riêng. Người thiếu nữ mà tôi vốn yêu quý ấy nay đã là đối tượng cho tình thương đặc biệt của Thiên Chúa và là nơi diễn ra mầu nhiệm cứu độ. Giữ khiết tịnh chính là nhìn nhận trong đức tin rằng mình không còn quyền làm chủ trên đời Maria nữa, vì Maria đã thuộc trọn về Thiên Chúa, cả xác lẫn hồn. Sống khiết tịnh là sống trong một mầu nhiệm. Trước một mầu nhiệm ta chỉ có thể đáp lại bằng cách sống một mầu nhiệm khác. Chẳng mấy chốc Giuse cũng thấy đời mình là một mầu nhiệm, với những điều chỉ có thể hiểu được nhờ đức tin. Cuối cùng Giuse thấy mình được kêu gọi để thuộc trọn về Thiên Chúa như Maria, để cùng nhau cộng tác cho kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.

Giuse sống đức khó nghèo qua lao động chân tay. “Ông ấy không phải là con bác thợ sao?” (Mt 13, 55), người làng Nadarét đã nói với nhau như thế về Đức Giêsu. Chính Ngài đã theo nghề của Giuse theo kiểu cha truyền con nối (Mc 6, 3). Nghề thợ mộc không phải là một nghề được trọng vọng vào thời đó. Lao động để nuôi gia đình và giúp cậu Giêsu đi vào lao động. Lao động trở thành một thời gian kết hiệp với Thiên Chúa trong âm thầm. Trong các Phúc âm, ta không thấy thánh Giuse nói một lời nào. Ngài là con người hành động. Chúng ta không nên quên những cuộc hành trình vất vả của ngài. Ngài không đi một mình. Ngài luôn đi với Maria và Giêsu. Đi từ Nadarét lên Bêlem và lúng túng trước cảnh Maria sinh con đầu lòng trong thiếu thốn, sợ hãi đem Con đi trốn qua Ai Cập rồi lại đưa về, đem Con tiến dâng cho Thiên Chúa tại Đền Thờ để nghe lời tiên tri không vui của cụ Simêon, và bồn chồn lo âu ba ngày đi tìm con bị lạc. Việc lao động chính của Giuse không phải chỉ là lao động chân tay, nhưng còn là đứng mũi chịu sào để bảo vệ Đức Giêsu và Mẹ Ngài. Như những gia đình khác trên mặt đất, Thánh Gia cũng không được miễn trừ khỏi những sóng gió và lo âu.

Giuse sống triệt để sự vâng phục đối với ý định của Thiên Chúa. Trong Tin Mừng Matthêu, ý định này được chuyển đạt qua việc sứ thần Chúa nói trong mộng (Mt 1, 24; 2, 13.19.22). Giuse chấp nhận hình thức chuyển đạt này. Trong Tin Mừng Luca, sứ thần nói với Maria lúc thức, nên có cuộc đối thoại thực sự, và Maria đã nói tiếng Xin Vâng. Trong Tin Mừng Mátthêu, sứ thần đã nói với thánh Giuse lúc ngủ. Thánh nhân đã không nói tiếng Xin Vâng thành lời, nhưng ngài đã nói bằng hành động vâng phục khi tỉnh dậy. Chúng ta cũng phải chấp nhận những hình thức khác, những hình thức quen thuộc mà Chúa thường dùng với riêng từng người. Giuse luôn vâng phục mau mắn mọi lệnh truyền. Ông luôn bị đánh thức vào lúc đang an nghỉ. Thiên thần Chúa luôn bảo ông “trỗi dậy” để làm điều này điều khác cách khẩn trương. Và ông đã trỗi dậy ngay để thực hiện (Mt 2, 13-14; 2, 20-21). Bỏ dở giấc ngủ và lên đường giữa đêm khuya, Giuse lúc nào cũng thấy mình có trách nhiệm với những kho báu của Thiên Chúa, đó là gìn giữ Hài Nhi và Mẹ Ngài. Vâng phục mà không đặt vấn đề, đó là đức tính của Giuse.

3. Thánh Giuse là người chấp nhận đóng một vai trò khiêm tốn nhưng hết sức cần thiết trong chương trình cứu độ

Giuse là con vua Đavít (x. Mt 1, 20), và như thế khi được Giuse nhận là con mình về mặt pháp lý, Đức Giêsu cũng thuộc về dòng tộc vua Đavít. Lời hứa xưa của Thiên Chúa với Đavít qua miệng ngôn sứ Nathan đã được ứng nghiệm: “Khi ngày đời của ngươi đã mãn, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền… Ta sẽ làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi.” (2Sm 7, 12-13). Đó cũng là lời của sứ thần Gabrien nói với Đức Maria về người Con mà Bà sắp cưu mang: “Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít… Người sẽ trị vì nhà Gia cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.” (Lc 1, 32-33).

Hành động có tính quyết định và nền tảng là hành động nhận Maria đang mang thai về làm vợ chính thức. Chính hành động đó đủ để thánh Giuse có một chỗ đứng độc đáo trong lịch sử cứu độ. Người ta không thể đoán được điều gì sẽ xảy ra nếu như Giuse cương quyết ly dị Đức Maria, hay lớn tiếng tố cáo vị hôn thê của mình. Theo sách Đệ Nhị Luật thì Bà có thể bị ném đá (Đnl 22, 23-27), và Con Thiên Chúa có thể chết trước khi chào đời. Ơn cứu độ sẽ bị đổ vỡ từ trong trứng nước. Hành vi đón nhận Maria về làm vợ cũng bao hàm việc đón nhận cả thai nhi mà ngài tin là do Thánh Thần. Như thế, Giuse đã là điểm tựa sống còn của ơn cứu độ, là chỗ nương thân nhờ cậy của Maria và Hài Nhi. Nhờ Giuse, Đức Maria không bị mang tiếng ngoại tình, và Đức Giêsu không phải là con hoang. Đức Giêsu có thể công nhiên và tự tin mà đến với Dân Ngài. Vai trò của Giuse thật hết sức quan trọng, nhưng cũng thật khiêm hạ. Chắc Giuse chẳng có gì để khoe về vị thế quan trọng của mình. Chúa mới là người điều động mọi chuyện. Giuse chỉ xin được là người giúp việc cho Thiên Chúa thôi.

Mừng lễ Thánh Giuse, chúng ta được mời gọi để đứng đúng chỗ Chúa chọn cho mình trong chương trình cứu độ nhân loại, và làm đúng việc Chúa trao phó một cách tận tụy hy sinh. Xin được có lòng tin khiêm hạ và đời sống nội tâm sâu xa của thánh nhân.

---------------------------------

 

19/03-57: THÁNH GIUSE


- § Frère Trần An Phong

 

Hôm nay, 19-3, lễ thánh Giu-


Hôm nay, 19-3, lễ thánh Giu-se. Xin được phép chia sẻ chút suy niệm về Ngài thay vì kể chuyện như thường lệ
"Sau đây là gốc tích Ðức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a, mẹ Người đã đính hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo.
Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: 'Này ông Giu-se, là con cháu Ða-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ' ...
Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà" (Mát-thêu 1: 18-25).
Mình là hôn phu, là chồng, chưa hề ăn ở với người yêu, thế mà bụng nàng cứ từ từ phát triển. Có phải là đau không?
Không ghen sao được!
Nếu không ghen đi nữa, thì cũng phải tủi thân chứ!
Nàng lại chẳng giải thích gì cho mình. Ðau!
Tố cáo nàng ư? Nàng sẽ bị ném đá chết theo đúng Luật Mô-sê.
Tha thứ cho nàng, chấp nàng lẫn thai nhi? Ðể rồi phải bế con, mà trong lòng biết chắc đây không phải là con mình! Ðau lắm!
Chịu không nổi!
Thôi hay đành mang tiếng "Sở Khanh", "làm cho con gái mang bầu, rồi quất ngựa truy phong"! Mặc cho thiên hạ cười chê mình!
Còn gì là thể diện trong cái xã hội nhỏ bé Na-da-rét!
Mất mặt mình, nhưng người yêu mình khỏi mất mạng, thai nhi khỏi mất quyền sống.
Bao là dằn vặt trong tim.
Và Giu-se đã liều lĩnh chấp nhận giải pháp "bỏ chạy" để cứu người yêu và con trẻ.
Chính lúc này, Thiên Chúa mới can thiệp, và cho Giu-se một thị kiến. Lúc ấy Giu-se mới hiểu được kế hoạch của Thiên Chúa.
Tình yêu đòi buộc chúng ta phải liều lĩnh.
Và nếu chúng ta chấp nhận liều lĩnh vì yêu thương, Thiên Chúa sẽ cho chúng ta vinh phúc cộng tác vào công cuộc cứu độ của Ngài.
Lạy Chúa, xin cho con một trái tim gan dạ, biết liều lĩnh dấn thân, dám yêu dám sống trọn tình cho con trẻ.


--------------------------------

 

19/03-58: Tình Yêu Thanh Khiết


Thánh Giuse Trong Thánh Kinh

Tình Yêu Thanh Khiết

"Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai,
và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu" (Mt 1, 25)


 

Thánh Giuse chăm sóc Đức Maria cho đến ngày Đức Maria sinh con mà "không ăn ở với bà". Trong: 19/03-58


Thánh Giuse chăm sóc Đức Maria cho đến ngày Đức Maria sinh con mà "không ăn ở với bà". Trong suốt cuộc đời, chính một tình yêu thanh khiết đã giúp thánh Giuse can đảm chu toàn những nhiệm vụ khó khăn của mình đối với Đức Maria.

Chính nhờ tình yêu thanh khiết đó, Thiên Chúa đã có thể thực hiện công trình cứu độ trần gian. Chính nhờ tình yêu thanh khiết của thánh Giuse, Thánh Thần đã có thể làm cho cuộc hôn nhân đó nảy sinh những hoa trái siêu nhiên, biến tình yêu giữa hai người thành một mẫu mực của tình yêu vợ chồng, nghĩa là một tình yêu có Thiên Chúa ở giữa, có Thiên Chúa hiện diện để làm cho tất cả những gì còn chưa trọn vẹn của tình yêu nhân loại sẽ trở nên toàn hảo, để làm cho tất cả giới hạn của một gia đình nhân loại bình thường, sinh con rồi qua đi...trở thành trường tồn, trở thành nguồn ơn ích cho những người khác nữa.

Tình yêu nhân loại, tự nó, không đủ sức mang lại thỏa mãn cho niềm mong ước tuyệt đối của con người. Tình yêu đó dễ bị bao vây do tội lỗi, nên thường hay đóng kín trong chính mình, trong gia đình của mình, và dễ bị héo úa, khô cằn, mất đất sống. Thiên Chúa muốn can thiệp vào tình yêu nhân loại để làm cho tình yêu đó trổ sinh hoa trái thiêng liêng. Để được như vậy, con người cần để cho Thiên Chúa tham dự vào trong tình yêu của mình, cần để cho Thiên Chúa hoạt động hướng dẫn, và thông ban sức sống Thần linh của Ngài. Điều đó chỉ có thể có được nhờ một tình yêu thanh khiết, nghĩa là một tình yêu có sự tiết độ, từ bỏ, một tình yêu tôn trọng nhau, tôn trọng Thiên Chúa và hiểu rằng chính Thiên Chúa vẫn hiện diện trong tình yêu vợ chồng; một tình yêu luôn tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng chúc lành cho tình yêu vợ chồng, luôn tuân phục Thánh Ý Ngài để Ngài làm cho tình yêu nhân loại trở thành dụng cụ rao truyền tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.

Về phương diện tự nhiên, tất cả mọi thành tựu con người đều cần có một thứ khổ chế, một thứ kiêng cữ, hãm mìmh, từ bỏ nào đó.

Trong tình yêu vợ chồng, một thứ tình yêu cao quí nhưng cũng khá dòn mỏng, thì lại càng cần sự từ bỏ hãm mình hơn hết để tình yêu được vững mạnh. Sự từ bỏ đó, tỏ cho thấy sự tôn trọng lẫn nhau, kính trọng những hoàn cảnh, tâm lý cũng như những ước muốn của nhau. Nhưng hơn hết, sự từ bỏ đó còn có ý nghĩa là con người biết dành cho Thiên Chúa một khoảng trống để Ngài thực hiện chương trình của Ngài. Khi con người muốn làm tất cả, thành quả của con người sẽ chỉ quanh quẩn trong mức độ nhân loại. Nhưng, với tình yêu thanh khiết, tôn trọng nhau và tôn trọng những qui luật của đời sống hôn nhân, con người tin tưởng rằng chính Thiên Chúa cùng cộng tác với con người.

Trong Tông Huấn về đời sống gia đình, Đức Gioan Phaolô II nói: "Hội Thánh xác tín sâu xa rằng chỉ khi nào biết chấp nhận Tin Mừng người ta mới có thể bảo đảm thực hiện được trọn vẹn tất cả những gì mà con người đang hy vọng một cách chính đáng nơi hôn nhân và gia đình" (s.3). Trong số 32, tông huấn đó lại viết : "Khi đôi bạn, bằng cách thuận theo những thời kỳ không thụ thai, tôn trọng mối dây bất khả phân ly giữa hai mặt kết hợp và truyền sinh cho tính dục con người, họ đã coi mình là những "người thừa hành" ý định của Thiên Chúa".

Như vậy, chỉ có Thiên Chúa mới có thể bảo đảm cho tình yêu con người; và chỉ có một tình yêu thanh khiết trong đời sống vợ chồng mới có thể mở rộng tâm hồn con người cho Thiên Chúa hoạt động.

Lời nguyện

Lạy Chúa,
Chúa đã muốn sinh ra làm con của nhân loại.
Sự hạ mình của Chúa là một tình yêu không điều kiện,
bởi vì Thiên Chúa yêu thương con người
ngay khi con người là tội nhân.
Nhưng để đón nhận tình yêu Chúa,
chúng con cần phải biết sống một tình yêu thanh khiết,
để cho Chúa hoạt động trong cuộc sống hôn nhân
cũng như trong mọi tình yêu nhân loại.

Chúng con thường tự hào
mình có thể xây dựng cuộc sống tốt đẹp,
tự mình có thể xây dựng tình yêu trọn vẹn.
Nhưng đã bao lần chúng con thất bại ê chề.
Rồi cũng có khi, trong lúc thất bại, buồn sầu,
chúng con lại tưởng rằng
trong nhân loại chẳng thể có một tình yêu thực sự được,
rằng người ta chỉ nói với nhau những lời giả trá,
trong lúc ngẫu hứng mà thôi.

Lạy Chúa,

Những thứ tình yêu như vậy
nhuốm đầy tính tự nhiên ích kỷ của chúng con,
nó không phải là một tình yêu thanh khiết,
nó đóng kín mình lại
và không còn chỗ nào cho Chúa hiện diện cả.

Xin Chúa hướng dẫn tình yêu của chúng con,
xin Chúa thâm nhập vào tình yêu của chúng con.
Xin Chúa biến tình yêu nhân loại chúng con thành tình yêu của Chúa.
Xin Chúa hãy sử dụng tình yêu của chúng con
để bày tỏ tình yêu cao vời và ơn cứu độ của Chúa. Amen.


--------------------------------

 

19/03-59: ÐỨC THÁNH CHA NÓI VỀ GƯƠNG THÁNH GIUSE


Anh chị em rất thân mến,

 

Ngày 19 tháng 3, chúng ta cử hành Lễ Thánh Giuse. Vào trung tâm của Mùa Chay, Phụng vụ trình: 19/03-59


Ngày 19 tháng 3, chúng ta cử hành Lễ Thánh Giuse. Vào trung tâm của Mùa Chay, Phụng vụ trình bày cho chúng ta vị thánh vĩ đại này như là gương mẫu để noi theo, và như là Ðấng bảo vệ để chúng ta cầu khẩn.

Trước hết, thánh Giuse là mẫu gương sống Ðức Tin cho chúng ta. Như Tổ Phụ Abraham, thánh Giuse đã luôn sống trong thái độ hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa; vì thế Ngài là mẫu gương khích lệ, nhất là khi chúng ta được mời gọi tin tưởng vào Chúa, dựa trên "Lời Ngài" đã phán, mà không nhìn thấy được rõ ràng Ý Ðịnh của Chúa.

Hơn nữa, chúng ta được mời gọi noi gương Ngài, trong việc khiêm tốn thực thi sự vâng phục, một nhân đức chiếu sáng nơi Ngài trong nếp sống thinh lặng và trong việc làm ẩn khuất. Trường học Nazareth quý giá biết bao cho con người thời nay, bị bao vây bởi một nền văn hóa rất thường đề cao vẻ bề ngoài và sự thành công, đề cao sự độc lập và một quan niệm sai lầm về tự do cá nhân. Ngược lại, thật là cần thiết biết bao, việc phục hồi lại giá trị của sự đơn sơ và vâng phục, sự tôn trọng và yêu mến đi tìm thánh ý của Thiên Chúa.

Thánh Giuse đã sống phục vụ cho vị hôn thê của mình và cho Con Thiên Chúa; và như thế, đối với các tín hữu, thánh Giuse trở thành chứng tá hùng hồn cho biết phải cai trị hay phục vụ như thế nào. Ðặc biệt, tất cả những ai, trong gia đình, trong trường học và trong giáo hội, có trách vụ sống làm cha, làm người hướng dẫn, đều có thể nhìn về thánh Giuse, để được huấn luyện sống tốt lành. Nhất là tôi nghĩ đến những người cha, mừng lễ của họ vào đúng ngày lễ dành cho thánh Giuse. Tôi cũng nghĩ đến tất cả những ai mà Thiên Chúa đã thiết lập trong giáo hội để thực hiện "tình cha thiêng liêng".

Nguyện xin thánh Giuse, vị thánh mà dân Kitô tin tưởng khẩn cầu, luôn hướng dẫn những bước tiến của đại gia đình Thiên Chúa. Xin thánh nhân hãy đặc biệt trợ giúp cho những ai đang chu toàn vai trò làm cha tự nhiên hoặc thiêng liêng. Xin thánh Giuse hãy cùng đồng hành với những lời khẩn cầu của chúng ta và xin Mẹ Maria khẩn cầu cùng Chúa cho chúng ta, Mẹ là vị hôn thê đồng trinh của thánh Giuse và là Mẹ của Ðấng Cứu Chuộc.

Lời Nguyện:

Lạy Thánh Cả Giuse, nhiều khi con ham nói mà ít chịu lắng nghe tiếng Thiên Chúa, ham suy luận mà ít chịu vâng phục cách triệt để thánh ý Thiên Chúa. Xin thánh nhân dạy con biết noi gương Người, biết tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa trong thinh lặng và biết sống đức tin bằng hành động. Xin thánh nhân nâng đỡ những người cha trong gia đình để họ sống trọn sứ mạng làm chồng, làm cha. Xin thánh nhân phù trợ Giáo Hội Việt Nam trong vai trò hướng dẫn những người Kitô và làm chứng cho đức tin Kitô giữa lòng dân tộc.


--------------------------------

 

19/03-60: CÁC THÁNH DÀNH CHO BẠN TRẺ


Ngày 19 tháng 3

Thánh Giuse


 

Giuse là một vị thánh rất đặc biệt. Ngài là cha đồng trinh của Đức Chúa Giêsu và là vị hôn phu của Đức: 19/03-60


Giuse là một vị thánh rất đặc biệt. Ngài là cha đồng trinh của Đức Chúa Giêsu và là vị hôn phu của Đức Maria. Thánh Giuse được ban tặng đặc ân thật lớn lao là chăm sóc Đức Chúa Giêsu, Con Một Thiên Chúa và Đức Maria, Mẹ yêu dấu của Người. Suốt cả một đời, thánh Giuse sống thật khó nghèo. Thánh Giuse phải làm việc rất vất vả trong xưởng mộc của ngài nhưng thánh nhân chẳng bận tâm lo lắng điều gì. Ngài sung sướng khi được làm việc phục vụ gia đình nhỏ bé của ngài. Thánh Giuse rất yêu mến Đức Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria. Bất cứ điều gì Thiên Chúa muốn thánh Giuse thực hiện, thì thánh nhân liền thi hành ngay dù cho công việc ấy có khó khăn thế nào! Thánh Giuse sống thật khiêm tốn, trong sạch, hiền từ và khôn ngoan. Đức Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria đã hết lòng yêu mến và vâng phục thánh Giuse vì Thiên Chúa đã đặt ngài làm gia trưởng. Đối với thánh Giuse, niềm vui sướng hạnh phúc là được sống với chính Con Thiên Chúa. Đức Chúa Giêsu cũng đã vâng lời, giúp đỡ và yêu mến Ngài.

Chúng ta khẩn cầu cùng thánh Giuse như đấng che chở khi lâm cơn hấp hối là có lý do đặc biệt. Người ta tin rằng thánh Giuse đã được chết an bình trong tay Đức Chúa Giêsu và Đức Maria.

Thánh nữ Têrêsa Avila cũng chọn thánh Giuse làm đấng bảo trợ các chị em dòng Cátminh của ngài. Thánh nữ tin tưởng đặc biệt vào lời khẩn cầu vạn năng của thánh Giuse. Thánh nữ nói: “Mỗi khi tôi cầu xin thánh Giuse điều gì, thì tôi đều nhận được!”

Đức thánh cha Piô IX đã tôn phong thánh Giuse làm quan thầy của Giáo hội hoàn cầu.

Như Đức Chúa Giêsu đã vâng lời và giúp đỡ thánh Giuse trong công việc khiêm tốn và vất vả của ngài, chúng ta cũng hãy sẵn lòng giúp đỡ cha mẹ chúng ta làm những công việc nhỏ bé trong gia đình


--------------------------------

 

19/03-61:  NGƯỜI THỢ MỘC

 

Người thợ mộc trong xóm nghèo thưở ấy Nghĩ làm sao khi nghe thấy người yêu: 19/03-61


Người thợ mộc trong xóm nghèo thưở ấy
Nghĩ làm sao khi nghe thấy người yêu
Thượng Đế thương đã gởi gấm trăm điều
Lòng trinh nữ, ôi những điều bất khả
Anh thợ mộc vững lòng tin dấu lạ
Đưa người yêu về nhà nhỏ tình thương
Tình thăng hoa, tình ấy thật phi thường
Lo săn sóc, vỗ về Mẹ Ngôi Thánh
Rồi luật định, chàng và nàng mùa lạnh
Đã chuyển di về xứ sở quê hương
Chuyến về quê nàng sinh nở dọc đường
Nơi hang đá chiên cừu thường trú ẩn
Anh thợ mộc cuộc đời thật lận đận
Phải tản cư trốn lệnh giết vua ban
Vợ vừa sinh, tình thương mến vô vàn
Hài nhi nhỏ, con chiên hiền bé bỏng
Sang Ai Cập thật vội vàng nhanh chóng
Vì bảo an tính mệnh của Thiên Nhi
Thượng Đế thương, Thượng Đế thử lạ kỳ
Ngôi cực thánh mà sao khổ nhọc thế!...
Giu-Se đó trải qua nhiều thế hệ
Người ngợi khen vị Cha cả thánh gia
Lo dưỡng nuôi, giáo dục trẻ trong nhà
Lùi vào tối khi Con ra ánh sáng
Gương thánh cả muôn đời còn rạng sáng
Cho mọi người nhìn thấy để trông theo
Những người cha, dù đói khổ khó nghèo
Cũng nhận thấy gương xưa người thợ mộc
Vững lòng tin, cậy, mến Chúa làm gốc
Hy sinh nhiều, dù sống khổ, khó khăn
Có khổ tâm, người cũng chẳng cằn nhằn
Giữ hạnh phúc trong thánh gia bền đẹp


--------------------------------

 

19/03-62:  Thánh Giuse

 

Thánh Giuse khong được các thánh sử cho “phát biểu” một câu nào trong cả bốn Tin Mừng, chỉ: 19/03-62


Thánh Giuse khong được các thánh sử cho “phát biểu” một câu nào trong cả bốn Tin Mừng, chỉ thấy Ngài làm theo những gì được truyền: nào là bỏ ý định toan tính trốn; nào là dắt Đức Maria và Hài Nhi Giêsu đi “tị nạn” bên Ai-cập… nhất nhất cái gì cũng làm theo lời chỉ dạy của Thiên Chúa. Sự vâng phục của thánh Giuse không phải là thứ vâng lời tối mặt, mù quáng. Để thực hiện sứ mạng, ngài không được Chúa ban cho sự can thiệp đặc biệt nào ngoài những lời báo tin của thiên thần. Thế nên phải thật khôn ngoan mưu lược, thánh Giuse mới hoàn thành sứ mạng đưa Hài Nhi và Mẹ Ngài thoát khỏi vòng vây trùng điệp của binh lính Hêrôđê để sang tới Ai Cập. Sự khôn ngoan của thánh Giuse càng thể hiện rõ khi hồi hương từ Ai Cập, ngài đã đưa thánh gia về Nadarét thay vì Bêlem. Thánh Giuse vâng phục thánh ý Chúa cách tuyệt đối, không máy móc mà đầy khôn ngoan và sáng tạo.
Mời Bạn: Thánh Giuse được Thiên Chúa tuyển chọn làm cha nuôi Đức Giêsu, nhưng cũng vẫn phải trải qua những long đong của cuộc sống thường nhật. Ngài không “nói” lời nào nhưng luôn lắng nghe và vâng phục thi hành trọn vẹn thánh ý Chúa.
Sống Lời Chúa: Bạn đọc lại câu Phúc Âm trên đây cách chậm rãi và suy niệm về việc vâng phục ý Chúa từ những kinh nghiệm sống của mình.
Cầu nguyện: Lạy thánh Giuse, Ngài đã lang nghe và thực hành lời Chúa trong sự khiêm nhường tột bậc. Xin giúp chúng con cũng biết lắng nghe và vâng phục ý Chúa trong mọi biến cố của cuộc sống hằng ngày. Amen.


--------------------------------

 

19/03-63:  Thánh cả Giuse là vị thánh rất đặc biệt.


Thánh Cả GIUSE

 

Trong tất cả các vị thánh, ngoại trừ Đức Trinh Nữ Maria là Nữ Vương các thánh, thì không có : 19/03-63


Trong tất cả các vị thánh, ngoại trừ Đức Trinh Nữ Maria là Nữ Vương các thánh, thì không có thánh nào sánh kịp với Thánh cả Giuse.

Thánh cả Giuse được sống bên cạnh Chúa Giêsu, Con của Thiên Chúa; được sống bên cạnh Đức Maria, Mẹ của Con Đức Chúa Trời, trong gia đình thánh thất Nadarét, là thiên đàng trên trần gian nầy.

Thánh cả Giuse được chết trong tay Hai Đấng cao trọng: trong tay của Con của Thiên Chúa và trong tay của Mẹ Thiên Chúa.

Thánh cả Giuse là vị thánh rất cao sang vì Ngài được làm cha nuôi của Chúa Giêsu.

Các thánh tổ phụ, các thánh tiên tri, các thánh nam nữ xưa và nay đều sấp mình thờ lạy Chúa Giêsu, còn Thánh cả Giuse thì nuôi dưỡng Chúa Giêsu, nâng đỡ Chúa Giêsu, lo lắng cho Chúa Giêsu, bồng Chúa Giêsu trên tay, hôn kính Chúa Giêsu, nói chuyện với Chúa Giêsu, cho Chúa Giêsu ăn, cho Chúa Giêsu mặc, bảo vệ Chúa Giêsu khỏi muôn vàn nguy hiểm.

Ý Thiên Chúa quan phòng để cho Thánh cả Giuse làm Cha của Đấng Cứu Thế ở trước mặt người đời. Để thực hiện ý định nầy của Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu luôn vâng lời thánh cả Giuse từng li từng tí, tôn kính Ngài như một người con hết sức hiếu thảo.

Bởi thế, trừ ra chức làm Mẹ Thiên Chúa vô cùng cao sang của Đức Trinh Nữ Maria, thì trên trời dưới đất nầy, không có chức nào cao trọng cho bằng chức làm Cha nuôi của Thánh cả Giuse đối với Chúa Giêsu

Vì Chúa Giêsu chỉ có một mình Đức Mẹ Maria là Mẹ thật, nên Thánh cả Giuse được Thiên Chúa Cha giao cho toàn quyền lo lắng mọi sự cho Con Một mình trên trần gian nầy.

Thánh Giuse rất cao sang vì Ngài được làm bạn rất thanh sạch của Đức Trinh Nữ Maria.

Đối với Đức Trinh Nữ Maria, chức làm Mẹ Thiên Chúa là chức cao trọng vô cùng, thế mà Thánh cả Giuse lại được liên kết mật thiết với Đức Mẹ bằng giây liên lạc hôn nhân theo phép đạo.

Khi ban thánh cả Giuse làm bạn rất thanh sạch của Đức Trinh Nữ Maria, Thiên Chúa ban cho Thánh cả Giuse ba điều cao quý: một là, làm người bạn đường lo lắng, giúp đỡ Đức Trinh Nữ Maria; hai là, làm người chứng nhận sự trinh khiết tuyệt vời của Đức Trinh Nữ Maria; ba là, ban cho Thánh cả Giuse ơn trọng đại tham gia vào phẩm chức cao cả làm Mẹ Đức Chúa Trời của Đức Trinh Nữ Maria.

Thánh cả Giuse là vị thánh được Giáo Hội tôn kính hết sức đặc biệt

Giáo Hội dành một tháng trong năm, tháng ba, để kính Thánh cả Giuse.

Giáo Hội đặt hai lễ trọng trong năm kính Thánh cả Giuse: Lễ Thánh Giuse, Bạn Trăm Năm của Đức Maria (ngày 19.3 ) và Lễ Thánh Giuse Thợ (ngày 01.5).

Giáo Hội dành ngày thứ tư trong tuần để kính Thánh cả Giuse.

Giáo Hội soạn nhiều kinh đặc biết để cầu nguyện và ca ngợi Thánh cả Giuse như Kinh cầu Ông Thánh Giuse, kinh Thân lạy Ông Thánh Giuse.

Giáo Hội chọn thánh cả Giuse làm Quan Thầy bàu chữa của mình. Khi chọn thánh cả Giuse làm Quan Thầy bảo vệ, Gíao Hội quả quyết rằng: “Ngoài Đức Mẹ ra, thì trên trời dưới đất nầy không tìm được một vị thánh nào có thần thế để bênh vực Giáo Hội cho bằng Thánh cả Giuse.” (ĐGH Piô IX, 08.12.1870).

Thánh Cả Giuse treo cao gương sống thánh thiện cho tất cả chúng ta : Ngài là đấng gồm no mọi nhân đức.

Gương yêu mến Chúa Giêsu trên hết mọi sự: Thánh Cả Giuse là Đấng dưỡng nuôi Con Đức Chúa Trời, là Đấng ân cần gìn giữ Chúa Kitô.

Gương hết sức quý chuộng Đức Trinh Nữ Maria: Thánh Cả Giuse là Bạn Đức Mẹ Chúa Chúa Trời, là Đấng thanh sạch giữ gìn Đức Nữ Đồng Trinh.

Guơng trong sạch: Thánh Cả Giuse luôn cầm nhành huệ trắng nơi tay; Ngài là đấng cực thanh cực tịnh; ngài là đấng che chở kẻ giữ mình đồng trinh.

Gương khôn ngoan theo Lời Chúa dạy: Thánh Cả Giuse cực khôn cực ngoan, được Thiên Chúa dùng để huớng dẫn Con của Ngài và Mẹ của Con Ngài.

Gương đức tin mạnh: Thánh Cả Giuse là Đấng vững vàng mạnh mẽ. Ngài tin tất cả những Lời Chúa do thiên thần truyền, dầu những Lời nầy được truyền ra trong những hoàn cảnh rất khó khăn: “Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy” (Mátthêu 1,24) ; “Ông Giuse liền chỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập” (Mátthêu 2,14) ; “Ông liền chỗi dậy, đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ixraen” (Mátthêu 2,21).

Gương vâng lời chóng vánh: Thánh Cả Giuse luôn nhanh chóng tuân theo lệnh Chúa truyền. Ngài là đấng vâng lời mọi đàng, chịu lụy mọi đàng.

Gương thành thật: Thánh Cả Giuse là đấng rất ngay chính thật thà.

Gương sống đời hiền lành, nhịn nhục: Thánh Cả Giuse là gương nhơn đức nhịn nhục.

Gương sống khó nghèo theo tinh thần Tám Mối Phước Thật: Thánh Cả Giuse là đấng yêu chuộng sự khó khăn.

Gương siêng năng làm việc: Thánh Cả Giuse là kiểu thức các tài công noi theo.

Gương điều khiển gia đình một cách thánh thiện: Thánh Cả Giuse là đấng cai quản Thánh Gia Thất xưa ; ngài là Đấng làm cho sáng danh gia đạo.

Gương sống đời nội tâm, thinh lặng: Thánh Cả Giuse không bao giờ nói ra một lời vô ích, một lời ta thán; ngài nêu cao gương cho các linh hồn sống đời nội tâm sâu xa.

Gương hy sinh tận tụy: Thánh Cả Giuse lo từng miếng cơm manh áo cho Đức Mẹ và Chúa Giêsu, tuy không giàu sang lòe loẹt gì, nhưng cũng luôn luôn đầy đủ. Ngài bao bọc nuôi dưỡng gia đình bằng mồ hôi nước mắt của mình. Ngài thức khuya dậy sớm lo cho kịp công kịp việc để có tiền nuôi sống gia đình.

Thánh Cả Giuse là đấng đầy quyền thế trước mặt Thiên Chúa.

Ngài che chở kẻ giữ mình đồng trinh, nâng đỡ gia thất chúng ta, an ủi kẻ mắc gian nan. Ngài là nơi trông cậy cho kẻ đau ốm liệt lào. Ngài là bổn mạng kẻ mong sinh thì, kẻ hấp hối, sắp lìa đời. Ngài chiến thắng ma quỷ, làm cho quỷ thần kinh khiếp.Ngài là Quan Thầy bàu chữa Giáo Hội.

Thánh cả Giuse thật là một vị thánh siêu phàm, không thiên thần nào sánh kịp, không vị thánh nào so nổi.

Chúng ta hãy nghe những lời đầy trông cậy sau đây của thánh nữ Têrêxa Avila :

“Tôi không thể nào quên được rằng cho đến ngày hôm nay, tôi xin Thánh cả Giuse điều gì thì được điều đó, và tôi không thể không lấy làm bỡ ngỡ khi thấy rằng, nhờ Thánh cả Giuse cầu bàu mà Chúa đã ban cho tôi nhiều ơn và đã cứu tôi khỏi những nguy hiểm phần hồn phần xác. Các thánh khác thì được Chúa ban ơn giúp chúng ta trong một vài trường hợp cần thiết, còn kinh nghiệm cho tôi biết rằng Thánh cả Giuse giúp chúng ta trong tất cả mọi trường hợp, như thể Chúa muốn cho chúng ta hiểu rằng: khi ở dưới thế nầy, Ngài đã vâng lời Thánh cả Giuse vì Thánh Cả Giuse là Cha nuôi mình, thì nay trên trời, Ngài cùng không từ chối Thánh cả Giuse điều gì.”

Linh mục Nguyễn Hài Đồng


--------------------------------

 

19/03-64:  THÁNH GIUSE, NGƯỜI CHA TUYỆT VỜI

 

Trong toàn bộ Tin Mừng, chúng ta thấy chỉ nhắc đến tên và một số đặc tính của thánh Giuse, chứ: 19/03-64


Trong toàn bộ Tin Mừng, chúng ta thấy chỉ nhắc đến tên và một số đặc tính của thánh Giuse, chứ tuyệt nhiên không hề có chỗ nào ghi lại lời nói của ngài. Tuy nhiên, chỉ nhắc tới ngài thôi, thì cũng đủ để cho chúng ta thấy được vai trò ưu tuyển của ngài trong lịch sử cứu độ và nơi truyền thống của Giáo Hội.
Thật vậy, từ lâu, Giáo Hội đã tuyên xưng ngài là “đấng công chính”; “cha nuôi Con Đức Chúa Trời”; là “bạn trăm năm của Đức Nữ Trinh”; là “đấng bầu chữa cho cả Giáo Hội”; là “mẫu gương sống động cho những người cha nơi các gia đình”.
Vậy do đâu và tại sao ngài lại được ân thưởng những đặc ân cao quý như vậy?
1. Thánh Giuse là đấng công chính
Có lẽ xét về góc độ bề ngoài, thánh Giuse không có gì trổi vượt, thậm chí là một người bình thường như mọi người đàn ông nông dân khác thời bấy giờ. Nhưng xét về góc độ niềm tin, chúng ta dễ dàng nhận ra ngài là một anh hùng vì can đảm và tín trung.
Khi gọi ngài là “đấng công chính”, Giáo Hội muốn nói với con cái mình rằng: thánh Giuse là người thuộc về Thiên Chúa trọn vẹn, vì đã gắn bó và trung thành tuân giữ lời của Thiên Chúa cách tuyệt đối trong mọi hoàn cảnh.
Lần giở lại Kinh Thánh, chúng ta thấy việc Thiên Chúa sai sứ thần mộng báo cho thánh Giuse luôn mang tính đột ngột. Nhưng thái độ đáp ứng của thánh nhân cũng mau mắn đến độ đột ngột không kém.
Trong lần báo mộng đầu tiên, ý Thiên Chúa muốn thánh Giuse đón nhận Mẹ Maria về chung sống, để Con Thiên Chúa có một mái ấm gia đình bình thường như mọi gia đình khác trên trần gian. Nhưng đặt mình trong hoàn cảnh của thánh nhân lúc bấy giờ, thì việc đón nhận thánh ý Thiên Chúa thật không dễ, vì thai nhi Giêsu đang lớn dần trong cung lòng Mẹ Maria không phải của ngài, mà do quyền năng Chúa Thánh Thần. Xét theo góc độ con người thì việc đón nhận này không dễ. Tuy nhiên, thánh nhân đã không ngần ngại khi được giả thích, nên sẵn lòng đón Đức Mẹ về sống chung để cùng nhau xây dựng một gia đình thánh.
Tiếp theo là lần báo mộng thứ hai, ý Thiên Chúa mặc khải cho biết bạo chúa Hêrôđê đang tìm cách giết Con Trẻ, vì thế phải trốn sang Aicập ngay trong đêm; thánh nhân cũng mau mắn thi hành cách vội vã vì sự an toàn của tính mạng Con Thiên Chúa.
Lần cuối cùng, thánh nhân được báo mộng là đem Hài Nhi và Mẹ Người trở lại Nazareth, vì hòa bình đã lập lại; thánh Giuse không ngần ngại đem Hài Nhi và Mẹ Người trở lạ quê hương xứ sở của mình cách an toàn.
Thêm vào đó, sau khi đi lễ đền thờ, lúc trở về, ngài phát hiện được Hài Nhi Giêsu không về chung với mọi người thân thuộc, nên đã cùng với Đức Maria tức tốc trở lại đền thờ để tìm con.
Và, mặc dù không nói, nhưng chắc chắn rằng: suốt cuộc đời sống âm thầm nơi làng quê Nazareth... thánh Giuse luôn gắn bó mật thiết với Thiên Chúa qua mọi biến cố thăng trần của cuộc sống được thể hiện qua vai trò người chồng và người cha trong gia đình. Thật vậy, thánh nhân là người rất nhạy bén với thánh ý của Thiên Chúa và mau mắn thi hành. Chính sự cộng tác cách tuyệt đối này của thánh Giuse mà lịch sử cứu độ chuyển sang trang sử mới.
Bởi vậy, thánh Giuse xứng đáng được gọi là “đấng công chính” và là “cha nuôi Con Đức Chúa Trời”.
Khi trở thành dưỡng phụ của Đức Giêsu, lẽ đương nhiên, ngài trở thành “bạn trăm năm của Đức Maria”. Ngài là người chồng chung thủy và hết lòng yêu mến Mẹ Maria.
2. Thánh Giuse là đấng bầu chữa cho Giáo Hội
Thánh Giuse còn được gọi là đấng bầu chữa cho cả Giáo Hội:
Thật thế, trải qua dòng lịch sử, ai trong chúng ta cũng có thể nhận ra sự bầu chữa của thánh nhân. Ngài luôn nâng đỡ những người nghèo khổ, kém may măn trong cuộc đời và nơi cuộc sống. Hình ảnh thánh Giuse hay làm phép lạ được truyền tai nhau khắp nơi. Đến nỗi người ta có thể nói rằng: ngài không quên ai chạy đến để cầu cứu ngài. Thánh nữ tiến sĩ Têrêsa Avila đã viết: “Tôi nhớ rõ, chưa bao giờ tôi cầu xin sự gì cùng thánh Cả Giuse mà không được như ý. Kỳ diệu thay, những ơn đặc biệt mà Thiên Chúa đã ban đầy tràn cho tôi, và đã giải thoát tôi khỏi mọi nguy hiểm phần hồn cũng như phần xác, do lời cầu bầu của Vị Thánh vinh phúc này”; thánh Têrêsa Avila viết tiếp: “Dường như Đấng Tối Cao ban ơn cho các thánh giúp chúng ta việc này, việc nọ, nhưng kinh nghiệm cho tôi biết thì Thánh Giuse vinh hiển có quyền năng rộng rãi giúp chúng ta trong mọi việc. Như thế là Chúa muốn cho chúng ta hiểu rằng, như xưa Chúa đã vâng phục Thánh Cả dưới thế, đã nhìn nhận Ngài với quyền làm Cha và làm Giám Quản, thì nay ở trên trời, Chúa cũng sẵn lòng chiều theo ý muốn của Ngài, mà nhận mọi lời Ngài cầu xin. Những người khác mà tôi khuyên chạy đến cùng Vị Bảo Hộ này, cũng nhận thấy điều ấy như tôi, do kinh nghiệm”.
Ý thức được tầm quan trọng của thánh nhân trong đời sống đức tin của Giáo Hội, và hết lòng tôn kính Ngài, vì thế, ngày 01.01.2013, Giáo Hội không ngần ngại khi đưa tên của thánh nhân vào trong Kinh Nguyện Thánh Thể với sắc lệnh số 215/11/L của Bộ Phụng Tự Thánh và Kỷ Luật Các Bí Tích. Vì thế, các Kinh Nguyện Thánh Thể đã nhắc tới danh xưng “Thánh Giuse, bạn trăm năm Đức Trinh Nữ” như một niềm tôn vinh và cũng như một lòng trông cậy.
Như vậy, thánh nhân thật xứng đáng trở nên Vị Bảo Trợ cho cả và Giáo Hội. Bên cạnh đó, ngài còn là mẫu gương các gia trưởng nơi các gia đình. Bởi vì, ngài là người chồng, người cha mẫu mực khôn ngoan.
3. Bài học rút ra từ cuộc đời thánh Giuse
Mừng lễ thánh Giuse, Giáo Hội mời gọi mỗi chúng ta hãy hướng nhìn lên thánh nhân như một mẫu gương về lòng trung tín với Thiên Chúa, chung thủy với Đức Maria, luôn chu toàn trách vụ của người cha trong gia đình.

Thật vậy, thánh nhân là một con người thinh lặng, trầm tư, cầu nguyện... nên ngài dễ dàng nhận ra Thiên Ý và sẵn sàng mau mắn thi hành ý của Thiên Chúa trong cuộc đời. Sự thinh lặng của thánh nhân đã biến cuộc đời của ngài trở nên cuộc đời sống vì yêu. Yêu Chúa để thi hành mệnh lệnh. Yêu Mẹ Maria để sống chung thủy. Yêu mến Đức Giêsu để hết mực chăm lo. Yêu mến Giáo Hội để luôn bầu cử, trợ giúp... điều này thật đúng với tác giả Philippon, OP. đã nhận định về sự thinh lặng: “Ai yêu mến sự thinh lặng, sẽ được dẫn tới sự thinh lặng của mến yêu”.

Đối với Giáo Hội Việt Nam, giáo dân đất Việt có lòng yêu mến ngài đặc biệt. Nhiều gia đình, dòng tu, chủng viện, học viện đã tôn nhận ngài là Đấng Bảo Trợ. Nhiều nhà thờ lấy tước hiệu của ngài. Nhiều đền đài được dựng lên tỏ lòng tôn kính. Nhiều cụ ông, và anh em đã chọn ngài làm bổn mạng. Khi gặp bất trắc gì trong cuộc sống, chúng ta đều chạy đến với Ngài.

Tuy nhiên, nhiều khi chúng ta cũng chưa tôn kính ngài cho đủ, và cũng nhiều khi chúng ta chưa noi gương ngài thực sự. Vì thế, mừng lễ thánh Giuse, nhất là năm nay, là năm “Phúc Âm hóa đời sống gia đình”, chúng ta hãy xin thánh nhân bầu cử cho các gia đình chúng ta, luôn giữ được lòng yêu mến Chúa và Giáo Hội như ngài; mặt khác, khi Giáo Hội dành trọn tháng 3 để tôn kính thánh nhân, mà theo niên lịch phụng vụ thì thường rơi vào Mùa Chay, mà Mùa Chay là mùa sám hối, vì thế, cách này, cáh khác, Giáo Hội muốn mời gọi mỗi chúng ta hãy trở về với sự thinh lặng, để gắn bó với Chúa, nhận ra thánh ý Chúa trên cuộc đời và mau mắn thi hành mệnh lệnh của Chúa như thánh Giuse.

Lạy Thiên Chúa toàn năng, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con mẫu gương tuyệt vời là thánh Giuse. Xin Chúa đón nhận lời bầu cử của thánh nhân mà ban cho chúng con được can đảm, trung thành và yêu mến luật Chúa; đồng thời đem ra thi hành trong cuộc sống hiện tại. Amen.

Jos. Vinc. Ngọc Biển


--------------------------------

 

19/03-65:  THÁNH GIUSE - MẪU GƯƠNG CHO GIA TRƯỞNG

 

Tin Mừng hôm nay đề cập đến câu chuyện Truyền tin cho Giuse. Maria đã đính hôn với Giuse (Mt 1,18): 19/03-65


Tin Mừng hôm nay đề cập đến câu chuyện Truyền tin cho Giuse.

Maria đã đính hôn với Giuse (Mt 1,18).Từ ngày hai bên nội ngoại làm lễ đính hôn cho Giuse và Maria, ai ai cũng vui mừng, chúc phúc cho đôi hôn nhân lý tưởng. Họ thương nhau không vì trai tài gái sắc, mà thương nhau vì cả hai đều nết na đức hạnh, cùng có một đức tin tinh tuyền từ gia đình đạo đức. Giuse là Người Công Chính. Maria là Đấng Đầy Ơn Phúc. Đó là tổ ấm cao sang nhất trong lịch sử nhân loại.

Sau ngày làm lễ đính hôn, chỉ chờ lễ cưới.Maria và Giuse vẫn chỉ biết hướng về tương lai, chuẩn bị cho gia đình mới sắp thiết lập.

Điều bất ngờ xảy đến với cuộc tình duyên êm đẹp. Thiên Chúa đã can thiệp vào dự án tương lai của Maria và Giuse. Thiên Chúa muốn cả hai thành Đấng Bậc Đồng Trinh để Ngài trao gửi Con Một dấu yêu của mình. Cả hai trở nên cha mẹ của con trẻ Giêsu về pháp lý và Maria ban tặng bản tính nhân loại cho Đấng Cứu Thế.

Thiên Chúa đi từng bước một. Truyền tin cho Đức Maria rồi truyền tin cho Giuse. Giữa hai biến cố trọng đại là cuộc khủng hoảng đối với Giuse.

Thấy Maria có thai, Giuse phải đau khổ lắm. Người hôn thê đạo hạnh mà ngài rất mực yêu thương lại mang thai trước khi về nhà chồng. Bối rối và khó xử nhưng ngài vẫn tiếp tục tin tưởng Maria trong sạch vẹn tuyền. Không một lời phàn nàn, ca thán, trách móc, Giuse không hề hạch sách hay tra hỏi Maria một lời nào, ngài âm thầm ôm lấy nổi đau riêng mình với một quyết định: “Đào vi thượng sách”. Giuse không còn chọn lựa nào khác: “vì là Người Công Chính và không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (1,19). Thế rồi, Thiên Thần đã hiện ra với Giuse trong giấc mộng giải thích cho ngài biết: “Người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (1,20); Thai nhi ấy không chỉ là một con người mà còn là Người Con của Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, được sinh ra, không phải được tạo thành, vì Ngài đã có từ trước muôn thuở. Ngài là Con của Chúa Cha ở trên trời; đã từ trời xuống thế nhập thể trong lòng trinh nữ Maria, và đã làm Người. Và Người Con sẽ sinh ra ấy được Thánh Giuse đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu Dân của Người khỏi tội. Thiên Thần khuyên Giuse “Chớ sợ rước Maria về nhà mình” (1,20). Nhận ra Thánh Ý Thiên Chúa “Giuse đã làm như lời Thiên Thần Chúa truyền và ông đã rước bà về” (1,24).

Thiên Chúa đã đưa Thánh Giuse vào chương trình cứu độ của Ngài. Thánh Giuse đã tích cực góp phần thực hiện chương trình ấy. Ngài được Thiên Chúa chọn, trở thành người cha nuôi của Chúa Giêsu ở trần gian. Vì vai trò làm cha của Chúa Giêsu và làm bạn đời của Mẹ Maria, sống bên cạnh một người nữ trẻ tuổi xinh đẹp là Mẹ Maria, mà theo dự định của Thiên Chúa, sẽ trọn đời đồng trinh, nên các nghệ nhân thường có khuynh hướng hình dung Thánh Giuse như một cụ già. Điều đó không đúng! Thánh Giuse là một thanh niên trẻ trung và đầy sinh lực, có lẽ chỉ lớn hơn Mẹ Maria chừng năm bảy tuổi! Nhưng ngài là một người rất nhân đức, được Thiên Chúa chọn để đồng hành với Mẹ Maria đồng trinh trong cuộc đời dâng hiến của Mẹ. Mẹ đã hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, không thuộc về người trần gian (ĐTGM Phaolô Bùi Văn Đọc).

Thánh Giuse còn được sách Tin mừng gọi là “Người Công Chính”. Mà người công chính, theo lời Kinh thánh, là người sống bằng đức tin, hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa như tổ phụ Abraham. Người Công Chính, nói đơn giản, là người tốt, ngay thẳng, trung tín. Là tôi tớ trung thành của Thiên Chúa, luôn thực thi trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa. Là con người luôn biết kính trọng và yêu thương tha nhân.

Thánh Giuse là một con người bình thường như mọi người, được Thiên Chúa giao phó thực hiện “những điều cao trọng” trong cuộc đời thường, như làm “cha nuôi của Chúa Giêsu”, làm “bạn đời của Đức Trinh Nữ Maria”. Ngài đã thực hiện đúng như ý muốn của Thiên Chúa trong mọi biến cố. Thiên Chúa bảo ngài cưới Mẹ Maria, đưa Mẹ về nhà mình, đưa Mẹ Maria sắp sinh nở về nguyên quán Bêlem để khai lý lịch, đưa Mẹ và hài nhi Giêsu chạy trốn sang Aicập, sau đó đưa gia đình về Nazarét vùng Galilê, Thánh Giuse luôn xin vâng theo Ý Chúa.

Thánh Giuse mạnh dạn đối diện với các vấn đề, đương đầu với các khó khăn, mà không bao giờ trách móc Thiên Chúa hay quy tội cho người khác. Ngài là một con người “đầy tinh thần trách nhiệm”, một con người nhiều sáng kiến trong bất cứ công việc gì được trao phó. Trước Thánh Ý Thiên Chúa, Giuse vâng phục và chu toàn. Từ Nazarét qua Bêlem, từ Bêlem đi Aicập, từ Aicập về Israel, Chúa bảo ngài đi là ngài đi, bảo ngài về là ngài về, bảo ngài làm thế nào là ngài làm thế ấy, đúng thời gian, đúng địa điểm mà không thắc mắc, không hoài nghi, không cự nự.Tất cả mọi lần Giuse đều thưa như Đức Maria “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền”(Lc1,38).

Để luôn hướng về Ý Chúa, Thánh Giuse đã âm thầm đi sâu vào đời sống nội tâm. Trong nội tâm thinh lặng, ngài lắng nghe Chúa. Thiên Chúa mà Giuse gắn bó là Đấng đã gọi ngài. Ngài hiểu tiếng gọi đó là một tình thương đặc biệt. Ngài trả lời như một giao ước, một gắn bó tín trung bền vững. Chúa gọi và chỉ dẫn ở từng chặng đường, ngài nghe và vâng theo. Cho dù gặp khó khăn trắc trở, ngài luôn vững tin ở Đấng đã gọi mình. Vì thế, nơi Thánh Giuse, con đường sống đạo là con đường tin cậy khiêm cung và tuyệt đối vào Thiên Chúa. Tin với tâm hồn thờ phượng, tạ ơn, với lòng phó thác và nguyện cầu tha thiết.

Ngày nay, Thánh Giuse vẫn đồng hành với chúng ta và che chở chúng ta, như đã đồng hành và che chở Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Với kinh nghiệm của mình, ngài xứng đáng là thầy dạy đời sống nội tâm cho mỗi người chúng ta: dạy cho ta biết Chúa Giêsu, gần gũi với Chúa, chia sẻ cuộc đời của Chúa. Ngài giúp ta ý thức mình là người nhà của Chúa, là thành viên của Giáo hội, Gia đình của Thiên Chúa tại trần gian.

Anh em Gia trưởng thân mến,

Thánh Giuse là một bài học khiết tịnh cho anh em. Không cần chờ tới tuổi già mới sống đời thanh tịnh. Sự thanh khiết của đôi bạn Giuse và Maria là do tình yêu. Sức mạnh và sự vui tươi của tuổi trẻ không là ngăn trở cho một tình yêu cao thượng. Khi cưới Mẹ Maria về, Thánh Giuse có một “trái tim trẻ trung” trong một thân xác trẻ trung. Khi được thiên thần báo mộng cho biết mầu nhiệm “Đức Maria là Mẹ Chúa Trời”, người đã sẵn sàng đón nhận Mẹ Maria, đồng hành với Mẹ, chăm sóc Mẹ, mà vẫn tôn trọng sự trinh nguyên của Mẹ. Mẹ Maria trở thành một niềm vui, một hồng ân cho Thánh Giuse.

Anh em là người cha người chồng trong gia đình. Anh em đừng bao giờ coi mình là ông chủ đầy quyền lực trong gia đình, muốn làm gì thì làm. Anh em phải biết tuân theo ý Chúa, phải bình tĩnh, biết quảng đại, hy sinh trong mọi khó khăn của gia đình theo gương Thánh Giuse.

Đứng trước những bối rối, đối diện với nghịch cảnh, gặp những thử thách, Thánh Giuse luôn chia sẽ nổi lòng với Đức Mẹ, ngài trăn trở những âu lo của Đức Mẹ, ngài chỉ muốn tìm giải pháp ưu việt cho nhất cho gia đình. Anh em gia trưởng cần có lòng tôn kính Thánh Giuse, thường xuyên xin ngài cố vấn cho các hoàn cảnh khó xử của mình. Ngài đã kinh qua tất cả nên ngài hiểu rõ hơn ai hết những nổi niềm của người Gia trưởng. Thánh Cả như một địa chỉ cần thiết, thân quen, anh em cần lui tới chuyện trò với ngài.

Hôn nhân là tổ ấm. Gia đình là chiếc nôi. Con cái đón nhận đời sống thể chất và tinh thần. Mỗi đứa con đều mang hình ảnh Thiên Chúa. Giáo dục để chúng lớn lên trong ơn gọi làm người, ơn gọi làm con Thiên Chúa. Nhiệm vụ giáo dục con cái thật thiêng liêng và cao cả. Thiên Chúa trao cho các Gia trưởng.

Thánh Giuse làm cha. Con của ngài vừa là con người vừa là Con Thiên Chúa -Đấng Cứu Độ. Con cái của anh em được làm con Thiên Chúa. Cho nên nhiệm vụ nuôi nấng dưỡng dục con cái là sứ vụ cao cả và là hồng ân quý giá Thiên Chúa ban cho anh em.

Anh em cần phải biết yêu thương và tôn trọng con cái mình. Hãy trở nên gương mẫu đạo đức thánh thiện cho con cái. Hãy tránh mọi thứ gương mù gương xấu. Từ lời nói đến thái độ sống xấu sẽ là đại họa cho con cái. Tuổi thơ các em đơn sơ như tờ giấy trắng, mỗi lời nói, mỗi cử chỉ của cha mẹ đều ghi đậm nét trên tờ giấy trắng tâm hồn và in dấu suốt cuộc đời các em. Bởi đó, trách nhiệm của người Gia trưởng đối với các em vô cùng quan trọng. Các em là thánh hay là quỷ tùy vào sự giáo dục và cách ăn nết ở của cha mẹ. Con cái là hoa trái của tình yêu và là niềm hy vọng của cha mẹ. Nguyện xin Thánh Giuse phù trợ cho anh em được trở nên những Gia trưởng thánh thiện, gương mẫu để đem hạnh phúc đến cho gia đình và cho cả xã hội tương lai.

Thánh Giuse mãi mãi là tấm gương cho anh em Gia trưởng soi. Tấm gương của một con người luôn thao thức lắng nghe tiếng Chúa và khi đã nghe thì mau mắn đáp lại không thắc mắc cho dù phải trả giá.Tấm gương của một con người luôn hướng tâm hồn về Chúa, xin vâng trước Thiên Ý, luôn phó thác để Chúa thực hiện chương trình cứu rỗi của Người.Tấm gương về người quản gia trung tín chăm sóc hai kho tàng quý giá nhất trần gian là Hài Nhi Giêsu và Mẹ Maria.

Thánh Giuse là con người thầm lặng, ít nói, khiêm tốn. Gioan Tẩy Giả chân thành “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ bé lại”. Giuse đã sống điều đó mà không nói một lời. Chính cuộc sống ấy đã biến Thánh nhân thành một vị Đại Thánh. Thánh Cả đã đem cuộc đời mình biến thành một Lời Chúa sống động.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An


--------------------------------

 

19/03-66:  Cầu Nguyện Với Thánh Giuse

 

Chúng ta chỉ biết một chút ít về Giuse khi các tác giả Tin Mừng thuật lại những biến cố xảy ra trước: 19/03-66


Chúng ta chỉ biết một chút ít về Giuse khi các tác giả Tin Mừng thuật lại những biến cố xảy ra trước và sau khi Đức Giêsu giáng lâm. Ta biết về gốc gác của Giuse, về hôn ước giữa ông và Maria, về những trằn trọc trăm mối tơ vò để tìm ra giải pháp tối ưu cho chuyện vị hôn thê sắp cưới của mình có mang, rồi chuyện truyền tin trong giấc mơ và những chuyến hành trình lắm chông gai và mệt mỏi. Qua những tình tiết nhỏ nhặt đó, ta thấy Giuse hẳn phải là một người có tinh thần trách nhiệm như thế nào. Giuse đã không hành xử theo cảm tính hay chỉ làm mọi chuyện cho qua. Đã có lúc Giuse phân vân không biết rời bỏ Maria hay tiếp tục cuộc hôn nhân này. Nhưng khi nhận được lệnh của Chúa là hãy rước Maria về, ông đã thực thi mệnh lệnh ấy như thể đó là sứ mạng của mình, như là chọn lựa của mình, không một lời oán than hay một đòi hỏi xin giải thích.

Khi Maria lâm bồn, hẳn là ông đã phải chạy vạy khắp nơi để tìm kiếm chỗ cho tươm tất. Khi không tìm thấy một nơi ấm êm và đường hoàng, hẳn là ông cũng buồn phiền lo lắng biết bao cho sức khỏe của vợ và hài nhi vừa mới sinh.

Giữa đêm khuya giá lạnh, đang tựa đầu để mong nghỉ ngơi một chút thì đã phải vội vàng thức giấc để đưa vợ và con băng đường dài, trốn đi tị nạn ở nơi xa.

Khi được lệnh trở về, ông cũng nghe ngóng tình hình, để quyết định xem nên cư trú ở đâu để vợ con có thể được an toàn, không bị những ganh ghét của thế lực trần gian làm hại. Và khi đã tìm được chỗ tốt nhất, ông tiếp tục hành nghề thợ mộc để kiếm cơm nuôi sống gia đình.

Giuse đã hoàn toàn dành hết tâm huyết để chăm lo cho gia đình nhỏ bé, cùng với vợ giáo dưỡng Giêsu, cả thể chất lẫn tinh thần, với hết tất cả tình yêu và trách nhiệm của một người đàn ông cột trụ nơi tổ ấm.

Giêsu càng lớn lên, bình an và khỏe mạnh thì hình ảnh của Giuse cũng dần dần mờ nhạt đi. Đến một lúc, ta chẳng còn thấy Tin Mừng nhắc gì đến ông nữa. Ông qua đời khi nào, khi bao nhiêu tuổi… ta cũng chẳng hay biết. Giuse đã hoàn toàn để cho Chúa lớn lên, bằng cách để mình nhỏ bé đi. Những gì làm cho Chúa, ông kể như chẳng là gì to tát. Có chăng là trọn một niềm hạnh phúc vì cảm thấy vinh dự được Chúa cho cộng tác vào chương trình cứu độ của Ngài mà thôi.

Chỉ cần nghĩ đến chuyện Giuse đã hy sinh thế nào cho Thiên Chúa và cho gia đình nhỏ bé của mình, cũng đủ để chúng ta mường tượng được công trạng của ngài to lớn trong công trình cứu độ của Thiên Chúa. Vậy cớ gì ngài không hô hào lên tiếng cho người ta biết về những hy sinh của mình? Làm như thế cũng đáng chứ, cũng là điều hợp tình hợp ý mà bấy lâu nay chúng ta vẫn hay làm đấy thôi. Nhưng dường như đối với Giuse, được phục vụ Chúa là một niềm vinh hạnh, được hy sinh cho người khác điều ta nên làm. Nó hiển nhiên như ta hít thở, chứ chẳng phải là điều gì đó ghê gớm đến độ đáng được nêu danh. Chính cái tính cách khoan khai, khiêm nhường và lặng lẽ ấy của Giuse đã giúp cho thánh nhân sống trọn một đời mà không đau khổ dằn dặt chi, không hụt hẫng, nhưng lúc nào cũng bình an, hạnh phúc.
Giuse không cần chi người ta biết đến và ca tụng, có lẽ bởi vì Giuse đã có được phần thường cho chính mình rồi. Ông là một trong những người đầu tiên thấy được tận mắt, sờ được bằng tay hình hài của Con Thiên Chúa. Một quãng thời gian dài, ông có Chúa kề bên, được tập cho Chúa nói, được mớm cho Chúa ăn, được vui cười với Chúa. Rồi bỗng một ngày, niềm hạnh phúc như ngập tràn khóe mắt khi tai ông nghe chính Thiên Chúa gọi mình hai chữ “bố ơi” thật ngọt ngào và êm ái. Ông là ai mà được diễm phúc trở thành người được Con Thiên Chúa gọi là cha? Cả một huyền nhiệm cao vời đang hiển lộ trước mặt ông: một Thiên Chúa làm người mà ông đang ẵm bồng đây, đang gặp gỡ từng giây phút đây, được ôm lấy từng ngày đây. Có Giêsu rồi, ông đâu cần tìm kiếm điều gì nữa. Có nguồn hạnh phúc ở đây rồi, cần gì phải theo đuổi điều gì nữa.

Giuse có lẽ đã tạ thế trước khi Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai. Ông không được nghe những lời giáo huấn vàng ngọc của người con yêu của mình dành cho dân chúng. Nhưng biết đâu, khi căn dặn các môn đệ hãy biết phó thác mọi sự cho Chúa Cha, hãy vác thập giá hằng ngày, hãy sống sống khiêm nhường nhỏ bé, Đức Giêsu đã nghĩ đến vị dưỡng phụ yêu quý của mình. Giuse đã biến cuộc đời mình thành một lời nguyện ca tuyệt vời dâng lên Chúa.

Hôm nay, chúng ta hãy dành ít phút cầu nguyện với Thánh Giuse. Chúng ta hãy xin ngài chuyển cầu cùng Đức Giêsu, con ngài, cho chúng ta cũng biết sống khiêm nhu, âm thầm và lặng lẽ, suốt cuộc đời chỉ đi tìm một mình Chúa mà thôi, và dám can đảm để Chúa lớn lên, để mình nhỏ lại. Ước gì đó là niềm vui lớn nhất của cuộc đời Kitô hữu của chúng ta.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ


--------------------------------

 

19/03-67:  Noi gương thánh Giuse sống cuộc đời công chính


 --TGM Giuse Nguyễn Năng

 

Thánh Giuse vâng lời sứ thần để nhận Chúa Giêsu là con của mình, nhờ thế Chúa Giêsu thuộc về 19/03-67


Sứ điệp: Thánh Giuse vâng lời sứ thần để nhận Chúa Giêsu là con của mình, nhờ thế Chúa Giêsu thuộc về dòng dõi vua Đa-vít. Thánh Giuse là người công chính vì Ngài luôn tôn trọng Thánh Ý Thiên Chúa và tôn trọng Đức Mẹ.

Cầu nguyện: Lạy Cha, con chúc tụng Cha vì Cha đã chọn cho Chúa Giêsu một người cha nuôi thánh thiện là thánh Giuse. Ngài thánh thiện vì ngài là người công chính sống đúng thân phận và vai trò của mình. Đối với Cha, ngài đã luôn tôn trọng Thánh ý nhiệm mầu và kế hoạch cứu độ. Dù hiểu hay không hiểu, ngài vẫn luôn sẵn sàng chờ đợi để thực hiện điều Cha muốn nơi ngài. Đối với Chúa Giêsu, ngài luôn tôn trọng và chu toàn trách nhiệm của người cha nuôi. Đối với Đức Mẹ, dù ngài không hiểu rõ điều đã xảy đến cho Đức Mẹ, nhưng ngài vẫn hết lòng tôn trọng và không muốn tố giác Đức Mẹ.

Lạy Cha, xin Cha giúp con noi gương thánh Giuse để sống cuộc đời công chính. Xin Cha cho con biết tôn trọng Cha để con thờ Cha cho phải đạo. Xin cho con biết tôn trọng mầu nhiệm Thánh Ý Cha để con tuân giữ và vâng phục, dù trí khôn hèn mọn của con chẳng thể hiểu thấu. Xin giúp con tôn trọng người khác, vì mỗi người là một mầu nhiệm mà chỉ mình Cha mới có quyền đi vào. Con cũng muốn tôn trọng cả thiên nhiên, vì Cha muốn con phải làm chủ vạn vật theo kế hoạch của Cha.

Trong đức tin, con nhận ra rằng cả một mầu nhiệm vĩ đại đang bao trùm cuộc sống con. Con chỉ biết chờ đợi Cha lên tiếng mời gọi và hướng dẫn, để con sống đúng thân phận và vai trò của con. Amen.

Ghi nhớ: ”Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền”.

--------------------------------

 

19/03-68: Thánh Giuse, gương mẫu thời đại


--TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

 

Khi chọn một vị thánh bảo trợ, ta đặt mình dưới sự chở che cứu giúp của Người và cũng mong noi 19/03-68


Khi chọn một vị thánh bảo trợ, ta đặt mình dưới sự chở che cứu giúp của Người và cũng mong noi gương bắt chước đời sống đức hạnh của Người. Tất cả những ai xin thánh cả Giuse bảo trợ chắc chắn sẽ được Người chở che gìn giữ, như xưa Người đã gìn giữ Đức Giêsu và Đức Maria trong cuộc đời dương thế. Nhưng ít có ai noi gương được đời sống của Người. Đó là một đời sống thánh đức chiếu toả ra những nét đẹp cao quý mà ta khó bắt chước.

Nét đẹp thứ nhất ở nơi thánh Giuse mà ta khó bắt chước, đó là đức tính ít nói. Lần giở những trang Tin Mừng, ta thấy diễn tả nhiều hành động của thánh cả Giuse, nhưng không thấy trích dẫn lời nói nào của Người. Người làm nhiều nhưng nói ít. Còn ta, ta thương nói nhiều và làm ít. Tục ngữ Việt nam có câu: Đa ngôn đa quá. Ai nói nhiều sai lỗi nhiều. Thực vậy trong đời sống có biết bao hiểu lầm phát sinh từ những lời nói thiếu trung thực. Biết bao đổ vỡ do những lời nói thiếu trách nhiệm gây nên. Biết bao lời nói trống rỗng không chứa đựng nội dung xây dựng. Biết bao lời nói làm vẩn đục tâm hồn, vẩn đục môi trường đạo đức, làm ô nhiễm bầu khí bác ái. Thánh Giacôbê thật chí lý khi nói: “Ai không sai lỗi trong lời nói thì đó là người hoàn hảo. Người ấy có khả năng kiềm chế toàn thân” (Gc 3,2). Thánh Cả Giuse đã kiềm chế được lời nói, chứng tỏ Người hoàn toàn làm chủ được bản thân. Sự im lặng của Người là sự im lặng của kẻ mạnh. Sự im lặng của Người là sự im lặng của một đời sống nội tâm phong phú. Sự im lặng của Người là sự im lặng hoạt động đem lại những kết quả tốt đẹp.

Nét đẹp thứ hai ở nơi thánh Cả Giuse mà ta khó bắt chước, đó là sự vâng lời tuyệt đối. Người luôn vâng lời Chúa, dù lệnh Chúa truyền chỉ mơ hồ trong cơn mê ngủ, dù lệnh Chúa truyền nhiều khi rất khó chấp nhận. Làm sao chấp nhận được một phụ nữ đã có thai làm bạn? Không bao giờ Người thắc mắc, chối từ. Không bao giờ Người tỏ ý ngần ngại trước những mệnh lệnh khó khăn. Trong mọi nơi mọi lúc, Người luôn vâng lệnh Chúa một cách mau chóng, tức khắc, vui tươi. Thấy Đức Maria đã mang thai, Người muốn trốn đi, nhưng khi Chúa tỏ ý muốn Người ở lại nhận Đức Maria làm bạn, Người vâng lệnh ngay tức khắc. Khi Chúa muốn Người đưa Đức Giêsu và Đức Maria trốn sang Ai cập, Người đã thức dậy và tức khắc lên đường giữa đêm khuya. Thật là một sự vâng lời tuyệt đối. Còn ta, trước những lệnh truyền của Chúa, ta có thái độ nào? Nếu ta không chối từ thì cũng uốn nắn theo ý riêng. Ít nhất cũng thắc mắc, giảm nhẹ. Nếu có vâng lời thì cũng ngần ngại, chậm trễ thi hành. Sự vâng lời tuyệt đối nói lên đức tin mãnh liệt vào Chúa. Vì hoàn toàn tin tưởng nên hoàn toàn phó thác. Vì hoàn toàn phó thác nên hoàn toàn vâng phục. Dù không hiểu, nhưng cứ dấn bước lên đường. Sự vâng lời tuyệt đối nói lên một lòng mến yêu tha thiết. Vì mến yêu tha thiết nên sẵn sàng làm bất cứ điều gì, cho dù không hiểu, cho dù khó khăn. Thánh Cả Giuse có lòng tin tưởng tuyệt đối và lòng yêu mến tha thiết đối với Chúa, nên đã vâng lời Chúa một cách tuyệt đối.

Nét đẹp thứ ba ở nơi thánh Cả Giuse mà ta khó bắt chước, đó là sự khiêm nhường quên mình. Đọc trong Tin Mừng, ta không bao giờ thấy Người xuất hiện ở những nơi công khai được nhiều người biết đến, trái lại Người luôn có mặt ở những nơi tối tăm âm thầm. Người không làm những việc lớn lao trọng đại, nhưng chỉ chu toàn những bổn phận nhỏ bé thông thường. Một hình ảnh quen gặp là bức vẽ hoạ cảnh Thánh gia trốn sang Ai cập. Đức Mẹ bế Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa. Thánh Giuse đi bộ, dắt lừa âm thầm trong đêm tối. Tôi có cảm tưởng Người đã tự nguyện hạ mình xuống để Chúa được tôn vinh. Người đã tự nguyện sống âm thầm để Chúa được nhận biết. Người đã tự nguyện lùi vào bóng tối để Chúa được xuất hiện trong ánh sáng. Người đã chấp nhận bị quên lãng để Chúa được yêu mến. Còn chúng ta, chúng ta thường làm ngược lại. Ta luôn muốn nâng mình lên, nên Chúa thường bị hạ xuống. Ta luôn muốn phô trương bản thân, nên Chúa bị chìm trong âm thầm. Ta luôn muốn xuất hiện trong ánh sáng, nên Chúa bị đẩy lùi vào bóng tối. Ta luôn tìm cho mình được yêu mến, nên Chúa bị chôn vùi trong quên lãng.

Những nhân đức của thánh Cả Giuse thật khó bắt chước, nhưng đó là những đức tính rất cần cho thời đại chúng ta. Thế giới ngày nay quá ồn ào, cần có những con người hành động. Thế giới ngày nay đã chán ngán những lý thuyết, cho dù rất hay, rất đẹp, nên cần có những con người thực hành, làm chứng nhân. Thế giới ngày nay đang đánh mất niềm tin yêu phó thác, cần có thánh Cả Giuse như mẫu gương trung tín và khôn ngoan. Thế giới càng ngày càng tiến đến hưởng thụ, cá nhân chủ nghĩa, đang cần những con người khiêm nhường, phục vụ, quên mình. Nếu ta biết noi gương những nhân đức của thánh Cả Giuse, ta sẽ có thể thánh hoá bản thân, củng cố gia đình và góp phần cải tạo xã hội.

Lạy thánh Cả Giuse, xin hãy chở che gìn giữ giáo phận chúng con. Amen.

--------------------------------------

 

19/03-69: Người công chính sống bởi đức tin


--TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

(2S 7,4-5a.12-14a.16; Rm 4,13.16-18.22; Mt 1,16.18-21.24a)

 

Lời Chúa hôm nay trình bày hai khuôn mặt được tuyên dương là người công chính. Tổ phụ Áp-ra-ham 19/03-69


Lời Chúa hôm nay trình bày hai khuôn mặt được tuyên dương là người công chính. Tổ phụ Áp-ra-ham và Thánh Cả Giu-se. Người công chính sống bởi đức tin. Các ngài công chính vì đã có một đức tin kiên vững. Tin vào Lời Chúa Hứa.

Chúa hứa cho tổ phụ Áp-ra-ham một miền đất và một dòng dõi. “Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không…Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó… Ta ban cho dòng dõi ngươi đất này, từ sông Ai cập đến Sông Cả, tức sông Êu-phơ-rát, đất của những người Ke-ni, Cơ-nát, Cát-môn, Khết, Pơ-rít-di, Ra-pha, E-mô-ri, Ca-na-an, Ghia-ga-si và Giơ-vút” (St 15,5-21). Tổ phụ vững tin vào Lời Chúa Hứa không chút nghi nan. Chúa bảo ông đi đâu ông liền vâng theo. Kể cả khi đến cuối đời mà chẳng có mảnh đất nào. Khi bà Xa-ra qua đời, tổ phụ phải khéo léo thương thuyết và tốn rất nhiều vàng bạc mới mua được một mảnh đất nhỏ ở Mác-pê-la, của người Khết, để chôn cất bà. Và sau này chôn cất chính ông. Còn về dòng dõi. Hơn 90 tuổi Áp-ra-ham mới sinh được một con trai. Nhưng khi đứa trẻ lên 12 tuổi, tuổi trưởng thành của người Do thái, Chúa truyền cho ông sát tế mà dâng cho Chúa. Đó là niềm hi vọng cuối cùng. Đó là chỗ dựa duy nhất. Nhưng ông vẫn mau mắn vâng phục không chút từ nan. Thật là một đức tin lớn lao. Thánh Phao-lô đã ca tụng ông: ”Mặc dù không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin”. Quả thật khi không có gì để tin mà ông vẫn tin vào Lời Chúa Hứa. “Bởi vậy, ông được kể là người công chính”.

Thánh Cả Giu-se cũng được Tin mừng tuyên dương là người công chính. Vì đức tin của người thật lớn lao. Từ ngàn xưa Chúa đã hứa với vua Đa-vít: ”Trước mặt Ta, nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ muôn đời bền vững, và ngai vàng của ngươi sẽ được củng cố đến muôn đời”. Thánh Cả thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Được thừa hưởng lời hứa đó. Nhưng đến thời Thánh Cả thì nhà của Đa-vít không còn nữa. Vì đã rơi vào ách nô lệ ngoại bang La-mã. Vương quyền Đa-vít không còn nữa. Vì Hê-rô-đê, người Ê-đôm đã trở thành vua người Do thái. Bản thân người chỉ là một bác thợ mộc nghèo hèn sống âm thầm trong ngôi làng Na-da-rét nhỏ bé. Nhưng Thánh Cả vẫn vững tin vào Lời Chúa Hứa. Niềm tin vững vàng được thể hiện qua việc nhận Đức Mẹ và Chúa Giê-su. Làm sao một trinh nữ có thể sinh con? Làm sao Thiên Chúa lại mặc lấy thân xác một trẻ sơ sinh bé nhỏ yếu ớt như thế. Tại sao Thiên Chúa nhập thể phải sinh ra trong chuồng bò? Tại sao vua cả trời đất vừa sinh ra đã phải trốn chạy bạo chúa trần gian? Đức tin của người thật lớn lao. Người chấp nhận tất cả những gì Thiên Chúa dạy bảo. Người thi hành tức khắc những gì Thiên Chúa truyền. Dù phải thức dậy giữa đêm khuya. Dù phải lên đường tức khắc. Dù phải chấp nhận những điều ngược lại ý thích.

Người cũng như tổ phụ Áp-ra-ham. Không còn gì để trông cậy mà vẫn trông cậy. Không có gì để tin mà vẫn tin. Tin như thế cũng là từ bỏ mình hoàn toàn. Từ bỏ tất cả ý riêng. Chương trình riêng. Để hoàn toàn cho Thiên Chúa sử dụng. Để hoàn toàn theo chương trình của Thiên Chúa.

Tin như thế là dâng hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa. Là phó thác hoàn toàn. Huỷ mình ra không. Để Thiên Chúa sử dụng đời mình. Và thật lạ lùng. Khi ta không có gì thì Thiên Chúa là tất cả ở trong ta. Khi ta không thể làm gì thì Thiên Chúa làm tất cả qua ta.

Quả thật Thiên Chúa đã trung tín với Lời Thề Hứa. Tất cả đã được thực hiện qua Thánh Cả Giu-se. Nhờ đức tin người đã đón nhận Chúa Giê-su. Chúa Giê-su là tất cả. Khi đón nhận Chúa Giê-su Thánh Cả có tất cả. Nhờ đức tin người trở thành cha của Chúa Giê-su. Nhờ người Chúa Giê-su thuộc về dòng dõi vua Đa-vít. Chính Chúa Giê-su sẽ giữ gìn ngai vàng của nhà Đa-vít đến muôn ngàn đời. Và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.

Mừng lễ Thánh Cả Giu-se ta noi gương người sống đức tin. Nhiều lúc cuộc đời ta tăm tối. Giáo hội tăm tối. Thế giới tăm tối. Không có gì. Không là gì. Không thể làm gì. Không biết đi đâu. Nếu ta noi gương Thánh Cả. Phó thác tất cả cho Chúa. Để Chúa hành động. Ta sẽ có tất cả. Vì Chúa là tất cả. Và Chúa sẽ làm tất cả. “Bởi vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”.

Tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con một người cha. Để Con Chúa giáng trần. Trở thành nguồn ơn phúc cho chúng con. Để nhờ dòng dõi vương giả của người chúng con được trở thành miêu duệ xứng đáng hưởng Lời Chúa Hứa. Xin cho chúng con biết noi gương Thánh Cả. Từ bỏ tất cả. Để chỉ được một mình Chúa. Như thế chúng con sẽ được tất cả.

Lễ Thánh Giuse 19-3-2016.

--------------------------------

 

19/03-70: NIỀM TIN CỦA THÁNH GIUSE – MỘT NIỀM TIN KHÔNG TÍNH TOÁN

 

Thánh Giuse, cha nuôi của Đức Giêsu là một nhân vật đặc biệt trong sứ mạng Thiên Sai của Đấng: 19/03-70


Thánh Giuse, cha nuôi của Đức Giêsu là một nhân vật đặc biệt trong sứ mạng Thiên Sai của Đấng Cứu Thế. Kinh Thánh không nhắc nhiều đến Ngài. Nếu như Tin Mừng còn ghi lại một vài câu nói của Mẹ Maria, thì tuyệt nhiên hoàn toàn thinh lặng về những lời phát biểu của thánh Giuse. Nhưng chúng ta biết được một chi tiết rất quan trọng trong Mt 1,19: thánh nhân là người công chính. Tức là một người hết mực tin tưởng nơi Chúa và tuân giữ, thi hành mọi điều thánh ý Thiên Chúa bày tỏ.
Ngay giữa lúc được thiên thần hiện đến trong giấc mộng để báo tin về việc Mẹ Maria cưu mang Ngôi Hai Thiên Chúa, thánh Giuse xem chừng cũng không nói một lời nào. Tuy nhiên, tất cả những gì Thiên Chúa muốn nơi Ngài, Ngài đều thực hiện một cách mau chóng và hoàn trọn. So sánh một chút với ơn gọi và sứ mạng của một số nhân vật trong Kinh Thánh, chúng ta có thể nhận xét rằng: niềm tin của thánh Giuse là một niềm tin không tính toán.
Với tổ phụ Abraham, mặc dù được gọi là tổ phụ của những ai tin, bởi niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vẫn luôn phải nhắc đi nhắc lại lời hứa sẽ trở thành tổ phụ một dân đông đảo như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển (Dn 3,36) và không ngừng bày tỏ lời chúc phúc ấy ra trong cuộc sống thường nhật nơi gia đình tổ phụ.
Với Môsê, người tôi trung đã được Chúa sử dụng để dẫn đưa dân của Người từ Ai Cập trở về, Thiên Chúa cũng phải “vất vả” để thuyết phục ông. Ngay từ cuộc thần hiện trên núi Khorep trong bụi gai bốc cháy cho đến khi đưa dân về gần đất hứa, biết bao phen ông đã trách móc Thiên Chúa hay tự trách mình, biết bao lần Thiên Chúa đã phải “tạm ứng trước” lời hứa của mình bằng các phép lạ đi kèm và bằng cả vật bảo đảm là cây gậy thần. Sau cùng thì Môsê mới chấp nhận ngoan ngoãn tuân theo ý Chúa.
Với các ngôn sứ, ý muốn của Thiên Chúa không phải lúc nào cũng được thi hành mau chóng và hoàn trọn. Có vị đã “trả treo” với Chúa và có vị còn cả gan “chống lại” ý Người. Ngôn sứ Giêrêmia chẳng hạn, ý muốn của Thiên Chúa ngay từ ban đầu đã không được hăng hái đón nhận. Từ việc từ chối khéo: “Ôi, lạy Đức Chúa, con đây còn quá trẻ, con chẳng biết ăn nói” cho đến buông xuôi, chán nản: “Tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa” . Trường hợp ngôn sứ Giôna, ông luôn tìm cách “tránh nhan Đức Chúa” và làm ngược lại ý muốn của Người. Người sai ông đi Ninivê thì ông lại đáp thuyền đi Tác-sít, Người không giáng phạt dân như lời ông tuyên sấm thì ông bực tức bỏ ra ngoài thành. Để rồi, cuối cùng, bằng tình thương hải hà của mình, Chúa đã chinh phục được ông.
Với Phêrô, người môn đệ thân tín của Đức Giêsu, cũng không ít lần ta thấy ông yếu kém lòng tin nơi thầy mình, hay cản bước trên hành trình lên Giêrusalem của thầy, và tệ hơn nữa là đã chối thầy cách công khai. Để rồi sau lễ ngũ tuần, sau cái chết bi thảm của thầy mình, ông mới thực sự trở lại và tin vào Đức Giêsu Kitô, là thầy mình và là Thiên Chúa.
Còn đối với thánh Giuse, chúng ta không được chứng kiến nhiều ý định của Thiên Chúa nơi cuộc đời Ngài, nhưng nơi các biến cố chỉ được tỏ bày qua giấc mộng, chúng ta thấy chân dung một người tin không tính toán, so đo.
Đang ngủ, thánh Giuse được lệnh nhấp nhận Đức Maria, Ngài thức dậy và Tin Mừng bảo rằng Ngài đã đón Maria về nhà của mình . Rồi khi Chúa Giêsu mới được sinh ra, cũng lại ban đêm thánh nhân nhận được lệnh phải đem Đức Chúa và Mẹ Maria trốn sang Ai cập, thế là đang đêm Ngài cất bước lên đường . Rồi đang yên ổn ở Ai cập, thánh Giuse lại được báo mộng. Ngài cũng lại thức dậy và lại lên đường . Cứ như thế, cuộc đời của thánh Giuse chỉ biết làm mà không cần biết đến lý do. Ngài chỉ biết làm mà không cần biết hậu quả sẽ ra sao. Ngài chỉ biết làm mà không cần ai biết tới. Tất cả là vì niềm tin nơi Thiên Chúa.
Nhìn lại đời sống đạo của các tín hữu ngày hôm nay, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra một điều: những gì chúng ta nói với Chúa chỉ là những đòi hỏi, yêu sách theo ý chúng ta hơn là phục vụ theo ý muốn của Chúa. Chúng ta đang tính toán quá nhiều đối với Chúa trong niềm tin của mình. Chúng ta hãy học nơi thánh cả Giuse, lắng nghe tiếng Chúa, tìm ra thánh ý Chúa và chỉ biết im lặng thi hành như một người đầy tớ trung thành, thì mới mong sẽ có ngày được hợp đoàn với các thánh trên quê trời.

Hvđm (Học viện Đa Minh)

--------------------------------

 

19/03-71: Thánh Giuse khó khăn


 – Lm. Giuse Phạm Bá Lãm RW

 

Vị thánh quê ở Assisi được mệnh danh là thánh Phanxicô khó khăn, tại sao ông thánh ở Nagiarét lại: 19/03-71


Vị thánh quê ở Assisi được mệnh danh là thánh Phanxicô khó khăn, tại sao ông thánh ở Nagiarét lại không được danh hiệu ấy? Kinh cầu đã xác định “Ông thánh Giuse yêu chuộng sự khó khăn”. Hoá ra khi nhận làm bạn với Đức Maria và làm cha nuôi Chúa Giêsu, ngài đã tiên thiên cam nhận cái số phận lận đận hẩm hiu ấy. Chàng trai Giuse thuộc dạng “Nơi đâu cần thanh niên có, nơi đâu khó có thanh niên”. Tất cả vì sự an toàn của gia đình Nagiarét.

Thánh Giuse là người cha pháp lý, thực chất chỉ là cha nuôi của Chúa Giêsu: có phải vì đó mà mất giá chăng? Để hiểu được dưỡng phụ hay cha nuôi cao quý như thế nào, chúng ta hãy nghe câu chuyện liên quan đến nước Đức và Việt Nam. Ông Uwe Rosler người Đức vào cuối năm 1973 đã đến Cô nhi viện của các sơ Dòng Chúa Quan Phòng Portieux tại Sóc Trăng, nhận nuôi một trẻ em mồ côi Việt Nam, đã được sơ Marie Marthe Đỗ Thị Suốn chăm sóc trong 9 tháng (sinh ngày 24.02.1973 tại Khánh Hưng, Sóc Trăng). Ông đã đưa cháu về Đức dưỡng nuôi như con ruột và đặt tên là Philipp Rosler. Điều kỳ diệu đã đến: 36 năm sau cậu trở thành Bộ trưởng Y tế (tháng 10/2009), rồi Phó Thủ tướng nước Đức (13.05.2011). Ông Uwe Rosler nghiễm nhiên được làm bố của Bộ trưởng và làm cha của Phó Thủ tướng. Khoảnh khắc cảm động được ghi lại: ông Uwe và cậu Philipp lúc đó 5 tuổi cùng soi gương chung với nhau: “Hãy nhìn con, rồi nhìn ba – con với ba khác nhau. Nhưng dù cho điều gì xảy ra hay người ta nói cái gì thì ba vẫn là ba của con”!

Thánh Giuse còn vinh dự hơn nhiều, vì được làm cha Đấng Cứu Thế, dù ai nghĩ sao nhưng vẫn được bé Giêsu gọi: Abba! Cha ơi! Người ta nói “cha sinh mẹ đẻ”, nên cha ruột hay cha nuôi, chẳng có cha nào biết đẻ, mà mỗi người nhận phần việc của mình thật hoàn hảo. Người ta có thể chứng minh điều đó qua một giai thoại: hai vợ chồng không có con, nhận nuôi một trẻ sơ sinh nặng 3 ký, chăm sóc như con ruột. Hơn một năm sau cháu lớn lên và cân nặng 10 ký. Lúc đó người cha ẵm lấy đứa con và nói với vợ: trước đây là 3 ký của huyết nhục, còn đây là 7 ký của tình thương. Chẳng biết bên nào hơn bên nào? Câu chuyện nhỏ ấy muốn nói: công dưỡng dục có giá trị lớn lao, chẳng kém gì công sinh thành.

Theo như dấu vết của Khăn liệm thành Torino, Chúa Giêsu cao 1m78 và có lẽ nặng 73 ký. Vâng, 70 ký tình thương của thánh Giuse không phải là nhỏ: vì nó đủ cho Chúa Giêsu sức khoẻ để đi giảng đạo suốt 3 năm, đủ lực để vác thập giá lên đồi Golgotha và dù tàn lực vẫn kêu lên một tiếng lớn rồi mới tắt thở (Mt 27,50; Mc 16,27).

Cha nào con nấy: Chúa Giêsu chịu khổ nạn, thì cũng giống cha Giuse khổ thân suốt đời, vì “đã mang cái nghiệp vào thân”. Một cuộc đời vô thường như lời thánh Phaolô trong thư Corintô (1Cr 7,29): “Thưa anh em, tôi xin nói với anh em điều này: thời gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ nay, những người có vợ hãy sống như không có; ai khóc lóc, hãy làm như không khóc; ai vui mừng, như chẳng mừng vui; kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng - vì bộ mặt thế gian này đang biến đi”. Thánh Giuse đã cam chịu thiệt thòi như thế đó: không hưởng gì, có chăng là hưởng dương! Dung mạo của ngài cũng bị bóp méo: các hoạ sĩ thường vẽ các thánh trẻ trung đẹp đẽ, còn thánh Giuse tuổi đôi mươi mà mang hình dạng một lão gia bên người vợ trẻ đẹp, như bố với con! Và bao thiệt thòi khác: tình duyên không giống ai, không tự quyết đời mình, lận đận như người bôn tẩu, bóng mờ và im tiếng trong gia đình. Đúng như nhận định của nhân gian:

“Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha”.

Với thánh Giuse, gánh và ách đã biến thành êm ái nhẹ nhàng nhờ tình yêu nhiệm mầu. Có ai được lặng nghe tiếng nói dịu êm của Mẹ Maria và trẻ Giêsu mỗi ngày? Có ai được thưởng món ăn mẹ hiền Maria dọn cho? Có ai được bồng ẵm hài nhi Giêsu, được làm ngựa cho bé Giêsu cưỡi? Có ai được phó linh hồn và chết lành trong vòng tay của Chúa Giêsu và Mẹ Maria?

Thiên Chúa vẫn áp dụng luật bù trừ “Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Mt 23,12; Lc 14,11 và 18,14): Bác phó mộc thành Nagiarét lên trời được chức Thánh Cả, ở dưới đất được làm Bổn Mạng của Giáo Hội. Thánh Giuse thật xứng đáng: ngài đã “gắn bó và chịu bao gian nan thử thách vì Chúa, nên sẽ được trao Vương Quốc, để được đồng bàn ăn uống với Chúa và ngự toà xét xử mười hai chi tộc Israel” (Lc 22,28-30).

Ngày xưa bên Ai Cập, người ta kêu gọi “Ite ad Joseph”: Hãy đến với Joseph! Với Giáo Hội Việt Nam thì ngược lại: Thánh Giuse hãy đến với Việt Nam! Dẫn chứng sau đây:

Chính ngày lễ thánh Giuse 19.03.1627, giáo sĩ Đắc Lộ bị bão đã dạt tàu vào Cửa Bạng Thanh Hoá, khởi đầu cho công cuộc truyền giáo ở Đàng Ngoài. Nhận ra sự bảo trợ lạ lùng, Công đồng Đàng Ngoài ngày 14.02.1670 đã tôn vinh thánh Giuse làm Bổn Mạng địa phận Đàng Ngoài và đã được ĐGH Clêmentê X châu phê 3 năm sau vào ngày 23.12.1673. Giáo Hội Việt Nam đã được đi trước thời đại, mở đường cho các cuộc tôn vinh khác:

-  Sắc chỉ của ĐGH Innocentê XI ngày 17.08.1678 tuyên nhận Thánh Giuse làm Bổn Mạng các nước truyền giáo Đông Phương.
- Sắc chỉ ĐGH Piô IX ngày 08.12.1870 tôn Thánh Giuse làm Bổn Mạng của Giáo Hội toàn cầu.
- Năm 1889 ĐGH Lêô XIII ra thông điệp Pluries Quamquam chọn tháng 3 kính Thánh Giuse.
- Năm 1955 ĐGH Piô XII đã thánh hoá ngày Quốc tế Lao động 1/5 thành ngày lễ thánh Giuse Thợ.
- Hội nghị thường niên của HĐGMVN tại Hà Nội ngày 06.10.1997 đã tái xác nhận tôn vinh Thánh Giuse làm Bổn Mạng của Giáo hội Công giáo Việt Nam.

Trở lại việc Thánh Giuse làm Bổn Mạng của Giáo Hội toàn cầu có giai thoại như sau. Một hoạ sĩ trình bày một bức tranh mô tả cảnh sống trên thiên đàng. ĐGH Piô IX ngắm nhìn thấy nhân vật nào cũng tuyệt vời: Chúa Ba Ngôi, Đức Mẹ, các thiên thần, các thánh… Bất chợt ngài chau mày hỏi: Thế còn Thánh Giuse ở đâu? – Dạ thưa, được đặt vào góc nhỏ này. ĐGH ra lệnh: Phải đặt Thánh Giuse ngay bên cạnh Đức Mẹ! Sau đó ngài đã ban sắc chỉ 08.12.1870 đặt Thánh Giuse làm Bổn Mạng Giáo Hội hoàn vũ.

Ngày nay cũng vậy: Kinh nguyện Thánh Thể 2-3-4 xướng danh Đức Mẹ, nhưng thánh Giuse ở đâu? Thế là Bộ Phụng tự và Kỷ luật các bí tích đã ra Sắc chỉ ngày 11.05.2013 quyết định phải đọc tên Thánh Giuse ngay sau tên Đức Mẹ trong tất cả các Kinh Nguyện Thánh Thể. Thật xứng đáng là một “cặp đôi hoàn hảo”, sẽ hợp đồng công tác phù giúp con cái Chúa.

Thánh Giuse không những yêu chuộng sự khó khăn, mà còn là quan thầy của kẻ khó khăn. Hơn ai hết con dân đất Việt đang gặp khó khăn gian nan về lãnh địa và lãnh hải. Cần phải có những “Cửa Bạng” để thánh quan thầy vững lái con thuyền đến bến bình an.
         

Lm. Giuse Phạm Bá Lãm, Chính xứ Hoà Hưng

---------------------------------

 

19/03-72:   THÁNH GIUSE NGƯỜI CÔNG CHÍNH


 (Lc 4, 24-30)

Tgm Ngô Quang Kiệt

Lễ Thánh Giuse 19-03

 

Khi mừng lễ thánh Giuse, tôi thường tự hỏi. Không biết thánh Giuse, người sống cách đây 2 000:  19/03-72


Khi mừng lễ thánh Giuse, tôi thường tự hỏi. Không biết thánh Giuse, người sống cách đây 2 000 năm có còn thích hợp với thời đại chúng ta không ? Không biết thánh Giuse, Đấng đã coi sóc một gia đình gồm toàn những đấng thánh có thể làm gương mẫu cho gia đình chúng ta, những gia đình gồm toàn những con người phàm trần không?
Tin mừng hôm nay nói thánh Giuse là người công chính. Nhìn vào cuộc đời thánh Giuse, ta có thể hiểu được nội dung tính từ công chính.
Công chính trước hết là trả lại cho người khác những gì thuộc về họ. Nói khác đi công chính là không dám nhận những gì không phải của mình. Thánh Giuse định trốn đi khi biết Đức Ma ria mang thai. Theo lối giải thích xưa kia thì thánh Giuse trốn đi vì nghi ngờ Đức Ma ria. Nhưng theo các nhà chú giải thời mới thì thánh Giuse định bỏ trốn vì thấy mình không xứng đáng với danh hiệu làm cha nuôi Đấng Cứu Thế. Chức vị làm cha Đấng Cứu Thế là một chức vị quá cao trọng, thánh Giuse thấy mình không phải là Cha Đấng Cứu Thê, không xứng đáng làm Cha Đấng Cứu Thế,nên Ngài bỏ trốn.
Công chính là chu toàn nhiệm vụ của mình. Nhiệm vụ của thánh Giuse là gìn giữ Đức Giê su và Đức Ma ria. Chúa đã trao cho Ngài nhiệm vụ đó và Ngài đã hết sức chu toàn. Chu toàn với tinh thần trách nhiệm cao, không để xảy ra chuyện gì đáng tiếc. Chu toàn với sự tế nhị, kính cẩn, nâng niu. hãy nhìn cảnh thánh gia trốn sang Ai cập, Đức Ma ria bế Đức Giê su ngồi trên lưng lừa. Thánh Giuse dắt lừa đi trong đêm tối. Không còn cảnh tượng nào đẹp đẽ hơn. Thánh Giuse trân trọng kho tàng Chúa trao cho Ngài gìn giữ. Thánh Giuse kính cẩn nâng niu Đức Ma ria và Đức Giê su. ngài chu toàn nhiệm vụ với tinh thần dấn thân hi sinh không ngại gian khổ. Đang đêm mà chúa bảo thức dậy trốn sang Ai cập, Ngài cũng thức dậy lên đường tức khắc.
Những nhiệm vụ của thánh Giuse xem ra tăm tối, không có gì vinh quang. Nhưng thánh Giuse vẫn chăm chỉ chu toàn, và không đòi cho mình nhiệm vụ nào khác.
Chẳng hạn sau này các tông đò được Đức Giê su sai đi rao giảng, có quyền làm phép lạ, được mọi người kính phục, thánh Giuse vẫn không ghen tị và đòi cho mình quyền đó. Ngài thật là người công chính.
Công chính là trung tín với nhiệm vụ. Thánh Giuse được Chúa trao cho nhiệm vụ gìn giữ Đức Ma ria và Đức Giê su, gìn giữ gia đình, Ngài đã hết sức chu toàn trong hoàn cảnh thuận lợi cũng như trong hoàn cảnh khó khăn. Vì trung tín với nhiệm vụ mà thánh Giuse phải lao động vất vả để nuôi sống gia đình. Vì trung tín với nhiệm vụ mà thánh Giuse phải chung sống với súc vật trong ngày Đức Ma ria hạ sinh Đức Giê su. Vì trung tín với nhiệm vụ mà thánh Giuse phải vất vả bồng bế Đức Giê su chạy trốn sang Ai cập. Vì trung tín với nhiệm vụ mà thánh Giuse kiên trì tìm kiếm khi Đức Giê su đi lạc 3 ngày trong đền thờ. Trung tín không hề xao nhãng, không hề lẩn tránh, không hề lùi bước trước nhiệm vụ khó khăn, thánh Giuse thật là người công chính.
Ngày nay thánh Giuse vẫn hợp thời, vẫn là gương mẫu cho con người, vẫn là niềm mơ ước của con người.
Vì thế giới ngày nay đang thiếu vắng sự công chính. Người ta gian tham nhận những gì không phải của mình. Không phải chỉ gian tham tiền bạc mà còn gian tham chức quyền, danh vọng. Vì thiếu công chính mà người ta hãm hại người khác, chiếm đoạt tiền của , danh dự của người khác.
Vì thiếu công chính mà người ta sống giả dối, làm hàng giả, nói dối, mượn bằng giả.
Vì thiếu công chính nên người ta trốn tránh nhiệm vụ. Chỉ thích những việc nhàn tản, phô trương, trốn tránh những việc nặng nhọc, hèn kém.
Các gia trưởng nhiều khi lười biếng, ham vui mà thiếu trách nhiệm với gia đình, với vợ con.
Sự trung tín ngày nay đang là một vấn đề lớn. người ta bất tín, lừa đảo, gian dối trong đời sống xã hội, trong kinh doanh buôn bán. người ta thiếu trung tín cả trong gia đình. Chỉ một vài thử thách, thiếu thốn, người ta sẵn sàng từ bỏ nhiệm vụ, từ bỏ người thân.
Nên thánh Giuse vẫn còn là gương mẫu rất cần thiết cho người thời nay. Những đức tính của Ngài, sự công chính của Ngài rất hữu ích để chấn chỉnh, xây dựng xã hội hôm nay.

---------------------------------

 

19/03-73:   Thánh Giuse, người đi trong đêm tối


Tgm Ngô Quang Kiệt

 

Trong các bức vẽ thánh Giuse, tôi thích nhất bức tranh vẽ Thánh Giuse đưa Đức Mẹ và Chúa Giêsu: 19/03-73


Trong các bức vẽ thánh Giuse, tôi thích nhất bức tranh vẽ Thánh Giuse đưa Đức Mẹ và Chúa Giêsu trốn sang Ai Cập. Bầu trời đen thẫm, một vài tia chớp lóe lên ở cuối chân trời vừa soi đường cho Thánh Giuse, vừa báo hiệu cơn giông bão sắp tới. Đức Maria bồng Chúa Giêsu ngồi trên lưng lừa. Thánh Giuse dắt lừa. Cả người, cả lừa như lẩn vào màn đêm. Bức tranh không chỉ đẹp ở nét vẽ gợi cảm mà còn đẹp về ý nghĩa. Ngắm nhìn bức tranh, tôi thấy hiện lên cả cuộc đời Thánh Giuse, một đời bước đi trong đêm tối.
Thánh Giuse đã đi trong đêm tối đức tin, Ngài đã sống chung với Đức Maria và Chúa Giêsu, những con người của huyền nhiệm. Một người bình thường đã là một thế giới huyền bí. Một con người của huyền nhiệm lại càng sâu xa bí ẩn hơn bội phần. Đi bên những huyền nhiệm cũng như đi trong đêm tối, Thánh Giuse không hiểu gì hết. Không hiểu mà vẫn phải đón nhận. Không hiểu mà vẫn phải tin, phải yêu. Không hiểu mà vẫn phải đồng hành hết suốt cuộc đời. Thánh Giuse giống như một người lính canh, được cấp trên giao cho một chiếc hộp đóng kín. Người lính canh chỉ có nhiệm vụ canh giữ mà không được phép mở ra. Trong hộp có gì? Có thể là một kho tàng quí giá. Nhưng cũng có thể chỉ là một chiếc hộp rỗng không. Không biết, nhưng vẫn phải canh giữ.
Thánh Giuse đã đi trong đêm tối im lặng. Ngài đi trong sự im lặng của Đức Maria người bạn yêu quí. Trước những mầu nhiệm cao cả, Đức Maria đã lặng thinh không nói. Ngài đi trong sự im lặng của Đức Giêsu. Thiên Chúa làm người là một mầu nhiệm ẩn giấu vì Đức Giêsu không hề hé lộ thân phận. Ngài đi trong sự im lặng của Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ trực tiếp nói với Ngài. Chỉ có vài lần mà chỉ là những tiếng vọng mơ hồ giữa đêm khuya trong giấc ngủ, vẫn là ngôn ngữ của im lặng. Ngài đi trong im lặng của chính mình. Im lặng đáng sợ nhất là khi phải đối đầu với nguy hiểm, với nghi ngờ, với những vấn đề hệ trọng của đời sống. Im lặng khó hiểu. Khi những gì thân thiết nhất trong đời trở nên bí ẩn, cách xa. Im lặng nguy hiểm. Nó có thể đốn ngã cây cổ thụ, làm chao đảo những niềm tin vững mạnh nhất.
Trong cả 4 Phúc Âm không thấy ghi lại lời nào của Thánh Giuse. Ngài bước đi trong âm thầm lặng lẽ. Thánh Giuse đã đi trong đêm tối lãng quên. Ngài bị lãng quên trong một làng quê nhỏ bé, trong thân phận nghèo hèn của bác thợ mộc. Người ta không bao giờ nhắc đến Ngài. Nếu có nhắc đến cũng chỉ để chê bác ái, dè bĩu, hạ thấp thân phận của Đức Giêsu: "Giêsu con của bác Giuse thợ mộc tầm thường ấy mà. Có làm gì nên chuyện". Ngài bị lãng quên luôn luôn ở phía sau, luôn luôn chìm trong bóng tối.
Phúc Âm kể về Đức Maria, sách Tông đồ Công vụ kể về Đức Maria. Nhưng từ khi Đức Giêsu khôn lớn không ai nói gì về Thánh Giuse nữa. Ngài chìm vào đêm tối quên lãng. Ngài luôn luôn đóng vai phụ, như hình ảnh người dắt lừa đi trong đêm tối.
Thánh Giuse đã đi trong đêm tối thử thách thân phận nghèo hèn. Sống trong im lặng và lãng quên, nhưng những thử thách Ngài phải đương đầu lại rất cam go. Rất hiền lành, nhưng phải đương đầu với Hêrôđê hung hãn. Mình giữ mình chưa xong, lại còn phải che chở cho một hài nhi sơ sinh và một sản phụ yếu ớt. Nhưng những thử thách khốn khó về thể lý, dù cam go thế nào cũng còn chịu được, những thử thách đức tin mới thật là khủng khiếp. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa ư? Đức Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa ư? Thật khó mà tin được. Sao Con Thiên Chúa quyền uy dường ấy lại bé nhỏ yếu ớt nghèo hèn thế này? Sao Vua Trời vinh hiển lại phải trốn chạy một ông vua trần thế. Các thử thách làm cho đêm tối càng đen hơn, càng dày hơn, càng sâu hơn.
Tuy đêm có đen, tuy chân có mỏi, tuy lòng có xao xuyến nhưng Thánh Giuse vẫn bước đi. Tuy thử thách còn nặng nề nhưng Thánh Giuse vẫn chiến đấu. Cha Teilhard de Chardis nói "Người chiến đấu giống như người bơi lội ngoài biển ban đêm. Ban đêm người bơi lội vùng vẫy làm dao động mặt nước biển có ánh sáng lóe lên chung quanh mình".
Thánh Giuse đã chiến đấu. Những chiến đấu mạnh mẽ cũng làm lóe lên ánh sáng soi bước cho chân Ngài đi.
Đi trong đêm tối đức tin. Ngài có ngọn lửa đức mến soi đường. Đêm đen lắm nhưng Ngài cứ yêu mến Chúa, cứ gắn bó với Chúa và cứ bước đi với Chúa.
Trong đêm tối im lặng, Ngài đốt lên trong tâm hồn ngọn đèn thao thức, lắng nghe đón chờ. Niềm thao thức khiến tâm hồn Ngài nhạy bén như một phần mỏng. Lời Chúa chỉ thoáng nhẹ như làn gió thoảng phím đàn đã rung lên. Ý Chúa chỉ mờ ảo trong giấc mơ Ngài đã đọc được và mau mắn thi hành.
Trong đêm tối lãng quên, Ngài có đèn khiêm nhường dẫn lối. Khiêm nhường chìm vào quên lãng, khiêm nhường phục vụ. Khiêm nhường sâu thẳm. Ngài cũng có tâm tình như thánh Gioan Tẩy Giả: "Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi".
Trong đêm tối thử thách, Ngài thắp lên ngọn đèn tin yêu phó thác. Tin vững vàng vào lời Chúa, hoàn toàn phó thác cho Chúa, để Chúa dẫn đường qua đêm đen mù mịt.
Lạy Thánh Giuse, con cũng đang đi trong đêm đen. Xin hãy thắp lên trong con những ngọn đèn của Thánh Cả, soi đường cho con đi đến nơi bình an.

---------------------------------

 

19/03-74: Sống Đức Tin Theo Gương Thánh Giuse


--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

 

Thánh Giuse được Tin mừng hôm nay công khai tuyên dương là “người công chính”. Công chính 19/03-74


Thánh Giuse được Tin mừng hôm nay công khai tuyên dương là “người công chính”. Công chính là gì?

Theo luân lý, công chính là trả cho người khác cái thuộc về họ. Trong Tin mừng, Chúa Giêsu cũng có lần nói: “Của Xêda hãy trả cho Xêda. Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”. Việc thánh Giuse muốn kín đáo bỏ trốn được giải thích nhiều cách khác nhau. Nhưng cách giải thích chính xác nhất là của thánh Bênađô. Ngài nói:

“Lý do Giuse muốn rời bỏ Maria cũng là lý do mà Phêrô đã xin Chúa tránh xa ông: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi! “ (Lc 5:8). Đó cũng là lý do viên đại đội trưởng không dám mời Đức Giêsu vào nhà : “Thưa thầy tôi không đáng rước Ngài vào nhà tôi” (Lc 7:6). Như vậy, vì tự coi mình không xứng đáng và là người tội lỗi, nên Giuse tự nhủ rằng mình chẳng là gì hết để có thể sống chung với một con người vĩ đại như Đức Maria… Phêrô đã sợ hãi sự cao cả của quyền năng, viên đại đội trưởng đã e sợ sự hiện diện uy nghi, Giuse cũng thế, ông sợ hãi trước sự mới lạ, trước chiều sâu của một mầu nhiệm lớn lao, nên muốn rời bỏ bà cách kín đáo.. . Lý do khiến Giuse muốn rời bỏ Maria là thế đó”.

Thánh Giuse công chính không dám nhận những gì không phải của mình. Ngài muốn trả cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa. Bào thai trong lòng Đức Mẹ là quyền năng của Thiên Chúa. Thánh Giuse không dám lãnh nhận địa vị cao cả đó.

Đặc biệt hơn, công chính là sống đức tin. Đó chính là điều thánh Phaolô quả quyết khi nói về tổ phụ Abraham trong thư Rôma 4, 3.18-22 mà chúng ta nghe một phần trong bài sách thánh thứ hai: “Ông Abraham đã tin Thiên Chúa, và vì thế được kể là người công chính….Mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin…, vì ông hoàn toàn xác tín rằng: điều gì Thiên Chúa đã hứa thì Người cũng có đủ quyền năng thực hiện. Bởi thế ông được kể là người công chính”.

Quả thật Abraham luôn tin tưởng vào Thiên Chúa. Vì tin tưởng nên ông mau mắn vâng lời, thi hành mệnh lệnh Thiên Chúa truyền dạy. Thiên Chúa truyền cho ông bỏ quê hương xứ sở, lập tức ông lên đường. Thiên Chúa truyền dòng dõi ông sẽ đông như sao trên trời, như cát dưới biển, dù lớn tuổi, ông vẫn tin. Khi Isaac, con trai ông, đứa con của lời hứa, được mười hai tuổi, Thiên Chúa truyền ông sát tế dâng cho Người, ông lập tức thi hành.

Cũng trong thư Rôma, thánh Phaolô nhắc lại lời tiên tri Habacuc: “Người công chính sống bởi đức tin” (Hab 2,4// Rm 1,17// Gal 3,11). Sống đức tin là sống công chính. Vì ai tin vào Lời Chúa, thi hành mệnh lệnh của Thiên Chúa là trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Thiên Chúa là tất cả. Ta chẳng là gì. Mọi sự là của Thiên Chúa. Ta chẳng có gì. Vì thế tuyệt đối vâng lệnh Thiên Chúa và mau mắn thi hành mệnh lệnh của Người là điều hợp lý.

Thánh Giuse là người công chính vì thánh nhân tuyệt đối tin tưởng lời Thiên Chúa, dù lời Thiên Chúa nói với thánh nhân trong giấc ngủ. Thánh nhân tin vào lời Thiên Chúa, trong những sự việc bình thường và hợp lý. Như khi truyền cho thánh nhân đem Chúa Giêsu và Đức Mẹ trốn sang Ai cập và sau đó trở về. Thánh nhân còn tuyệt đối tin tưởng ngay cả trong những trường hợp bất thường và lý trí không giải thích được. Như khi thánh nhân định trốn đi, nhưng Thiên Chúa truyền cho thánh nhân ở lại để nhận Đức Mẹ về làm bạn. Không những tuyệt đối tin tưởng, thánh nhân còn mau mắn thi hành không chút chậm trễ. Đức tin của thánh nhân thật lớn lao. Và vì thế sự công chính của thánh nhân thật trổi vượt, xứng đáng được Tin Mừng chính thức ca tụng.

Chúng ta đang sống trong Năm Đức Tin. Nhưng xem ra chúng ta còn thiếu đức tin. Nếu “người công chính sống bởi đức tin” thì ta chưa sống bởi đức tin. Vì ta còn thiếu công chính. Ta chưa trả cho người khác những gì thuộc về họ. Bất công lớn lao đang tràn lan khắp nơi. Ta chiếm đoạt những gì không phải của mình. Từ chiếm đoạt vật chất của cải, đến chiếm đoạt danh dự, phẩm giá của người khác. Từ chiếm đoạt quyền lợi, đến chiếm đoạt cả tự do. Từ chiếm đoạt uy tín, đến chiếm đoạt cả tiếng nói, cả ý kiến của người khác. Nhất là khi sự chiếm đoạt bât công được thể chế hóa qua guồng máy có tổ chức, được hợp thức hóa qua luật lệ. Tiếm quyền, tiếm danh, tiếm ngôn đang được thực hiện khắp nơi. Nhưng trên hết con người đang chiếm đoạt quyền lợi, và vị trí của Thiên Chúa.

Cần sửa chữa những tệ nạn này bằng một đời sống công chính. Đó là điều mà Hội đồng Giám mục Việt nam đã thể hiện qua bản góp ý để sửa đổi Hiến pháp nước Việt nam. Hãy trả cho từ ngữ đúng ý nghĩa của nó. Hãy trả cho người dân đúng quyền lợi của họ. Hãy trả cho đảng phái đúng vị trí của nó. Và hãy trả cho các cơ quan chính quyền đúng chức năng của nó.

Hôm nay chúng ta vui mừng hiệp thông với toàn thể Giáo hội trong ngày lễ đăng quang của Đức Thánh Cha Phanxicô. Đức Thánh Cha là người thao thức với đời sống đức tin thể hiện qua sự công chính. Vì thế suốt đời mục tử ngài quan tâm tới đoàn chiên nghèo khổ. Đòi công bằng cho người nghèo được nghe rao giảng Tin mừng, ngài đã nói với các linh mục: “Chúa Giêsu dậy chúng ta một phương cách khác: Hãy đi. Hãy đi chia xẻ chứng tá của các bạn, hãy đi mà giao dịch với các anh chị em, hãy đi và chia xẻ, đi và thăm hỏi. Hãy trở thành Lời Chúa bằng cả thân xác lẫn tinh thần.”

Đòi công bằng cho người nghèo được quan tâm nên Ngài đã lên án các đồng sự lãnh đạo giáo hội là đạo đức giả vì đã quên rằng Chúa Giêsu Kitô đã làm cho người phong cùi được sạch và ăn uống với phụ nữ làng chơi. Để chia sẻ với người nghèo, bản thân ngài thường đi xe buýt đến sở làm, tự nấu ăn lấy và thường xuyên thăm viếng các khu xóm nghèo nàn xung quanh thủ đô nước Argentina.

Cũng vì luôn đứng về phía người nghèo và luôn bảo vệ công lý, chống lại bất công, bất bình đẳng trong xã hội, Ngài không ngại lên tiếng chỉ trích những điều bất công, phi lý. Mark Rice-Oxley trên nhật báo The Guardian tại Anh, hôm 13/03, năm 2009, cho biết Ngài đã chỉ trích chính phủ của Tổng thống Ernesto Kirchner, chồng của Tổng thống hiện tại của Argentina là Cristina Fernández de Kirchner, là xấu xa và bất chính khi để bất bình đẳng tại nước này gia tăng. Theo báo La Croix, Ngài đấu tranh chống nghèo đói vì Ngài coi nghèo đói là một sự vi phạm nhân quyền. Cũng theo bài viết này, trong một đất nước mà đối lập hầu như không tồn tại, Ngài thực sự là tiếng nói duy nhất dám đương đầu với vợ chồng Tổng thống Kirchner – người mà Ngài không ngừng chỉ trích là độc đoán, chuyên quyền.

Tạ ơn Chúa đã ban cho thời đại chúng ta một vị Giáo hoàng sống đức tin mãnh liệt trong đức công chính lớn lao. Chúng ta hãy đồng hành với ngài và noi gương ngài sống đức tin trong Năm Đức Tin này bằng đời sống công chính.

Lạy Thánh Cả Giuse là Đấng Công Chính, xin nâng đỡ Đức Thánh Cha Phanxicô.

---------------------------------

 

19/03-75:  TRẢ LẠI CHO THIÊN CHÚA


Lễ thánh Giuse 2

2S 7, 4-5a.12-14a.16; Rm 4, 13.16-18.22; Mt1, 16-18.21-24a

Lễ Tạ ơn của Chị Maria Nguyễn thị Hóa

Khấn trọn đời trong Tu hội Điểm Tim (01-03-2014)

 

Chúng ta vừa hát đáp ca: Dòng dõi Người sẽ trường tồn vạn kỷ. Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ tốt đẹp: 19/03-75


Chúng ta vừa hát đáp ca: Dòng dõi Người sẽ trường tồn vạn kỷ. Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ tốt đẹp. Con người đã phạm tội làm cho công trình của Thiên Chúa bị hư hại. Nhưng Thiên Chúa không từ bỏ chương trình yêu thương của Người. Người sửa chữa bằng chọn một con người mới để lập nên một dòng dõi mới. Đó là tổ phụ Abraham, người công chính sống với đức tin mãnh liệt. Tin cả khi không còn gì để tin.

Đức tin được thể hiện khi tổ phụ Abraham nghe lời  Thiên Chúa từ bỏ quê hương, ruộng vườn, và người thân, lên đường đến miền đất Chúa hứa. Đức tin càng mãnh liệt hơn khi ngài sát tế con trai duy nhất. Thiên Chúa hứa cho ngài một dòng dõi đông như sao trên trời như cát dưới biển. Vậy mà khi Isaac được 12 tuổi, Chúa  truyền cho ngài sát tế dâng cho Chúa. Ngài vẫn tin tưởng thi hành. Do đó ngài được xưng tụng là người công chính.

Công chính là người sống công bình chính trực. Chính trực là thẳng ngay không gian dối. Công bình là trả cho người khác những gì thuộc về họ. Chỉ nhận và giữ những gì của mình. Trong đời sống trả cho người khác những gì thuộc về họ đã là khó. Nhưng sống công chính trước mặt Thiên Chúa, trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa còn khó hơn.

Sống công chính trước mặt Thiên Chúa đòi hỏi một đức tin lớn lao. Trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa là sống đúng thân phận của mình. Thiên Chúa là tất cả. Ta không là gì hết. Thiên Chúa có tất cả. Ta không có gì hết. Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo. Ta là thụ tạo. Ta nhận được tất cả từ nơi Chúa. Vì thế sống công chính là tin nhận Thiên Chúa là chủ đời ta. Là nguồn sự sống của ta. Là nguồn hạnh phúc của ta. Tin nhận như thế ta sẽ không làm gì khác hơn là làm theo ý Thiên Chúa.

Tổ phụ Abraham công chính đã sống theo đức tin, nên đã trở thành tổ phụ của một dân mới. Adam Eva thiếu đức tin vào Chúa nên đã tin lời ma quỉ. Abraham tuyệt đối tin tưởng vào Chúa. Adam Eva thiếu đức tin nên chỉ nhìn thấy những lợi lộc đời này. Abraham đầy đức tin nên sống bằng lời hứa ở đời sau. Adam Eva thiếu đức tin nên gắn bó với mặt đất và những giá trị trần gian. Abraham tràn đầy đức tin nên dứt bỏ những cám dỗ của trần gian, chỉ gắn bó với dòng dõi và đất đai của lời Chúa hứa. Adam Eva chỉ gắn bó với mặt đất mau qua nên dòng dõi họ sinh ra rơi vào kiếp hư vong tàn tạ. Abraham gắn bó với quê hương trên trời nên dòng dõi ông sinh ra sẽ trường tồn vạn kỷ. Muốn chiếm đoạt của Thiên Chúa con người phải hư vong. Trả lại mọi sự cho Thiên Chúa con người mới trường tồn.

Thánh Cả Giuse hôm nay cũng được Tin mừng xưng tụng là người công chính. Và thánh Phaolô so sánh ngài với tổ phụ Abraham. Quả thật thánh cả Giuse có một đức tin lớn lao. Tin cả khi không có gì để tin. Tin rằng Đức Mẹ sinh con mà vẫn đồng trinh. Tin rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa dù sống như loài người. Niềm tin tuyệt đối nên thánh Giuse mau mắn thực hành lời Chúa dậy. Dù lời Chúa nói với ngài chỉ mơ hồ trong giấc ngủ giữa đêm khuya. Dù lời Chúa khiến ngài phải gian nan vất vả. Ngài quả là dòng dõi nhân loại mới sống công chính với đức tin sâu xa.

Đến Chúa Giêsu mới thật là Adam mới sinh ra nhân loại mới. Chúa Giêsu chứng tỏ một đức tin tuyệt đối khi hoàn toàn phó thác cuộc đời dương thế trong tay Chúa Cha. Chúa Giêsu sống công chính khi hoàn toàn vâng phục Chúa Cha trong mọi sự, cho đến nỗi chịu chết trên thánh giá. (x. Phil 6, 2-11). Trong sứ điệp mùa chay năm 2014 này, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nêu gương Chúa Giêsu: “Người vốn giầu sang, nhưng đã tự nguyện trở nên nghèo vì anh chị em. Để anh chị em được nhờ cái nghèo của Người, mà trở nên giầu sang” (2Cr 8, 9). Và Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta sống mùa chay bằng noi gương Chúa Giêsu, chia sẻ thân phận nghèo hèn với anh chị em nghèo.

Theo Đức Thánh Cha, nghèo khác với lầm than khốn khổ. Vì lầm than khốn khổ là nghèo mà bị bỏ rơi. Lầm than khốn khổ có 3 loại. Lầm than khốn khổ về vật chất là những người thiếu thốn vật chất nhưng không có thân nhân, không ai quan tâm giúp đõ. Lầm than khốn khổ về tinh thần là những người bị áp bức bất công, bị đàn áp khủng bố, bị bóc lột, bị oan ức, bị chà đạp mà không có ai quan tâm giúp đỡ, động viên.  Lầm than khốn khổ về luân lý là những người tội lỗi, rơi vào tệ nạn xã hội nhưng cũng không có ai quan tâm giúp đõ, đưa họ về con đường ngay chính.

Con người không ai muốn sống nghèo. Người ta luôn muốn chiếm đoạt. Chiếm đoạt của người khác. Và chiếm đoạt cả quyền lợi của Thiên Chúa. Các linh mục tu sĩ là những người muốn noi gương Chúa Giêsu, không chiếm đoạt nhưng trả tất cả về cho Thiên Chúa. Khi sống 3 lời khuyên Phúc âm, các linh mục tu sĩ tự nguyện trở nên nghèo. Nếu người đời tìm mọi cách để có thêm nhiều của cải, linh mục tu sĩ khấn giữ đức khó nghèo, không tìm cách chiếm hữu tài sản, không có tài sản riêng. Nếu người đời hạnh phúc khi có con cháu vây quanh, linh mục tu sĩ khấn giữ độc thân để trở nên nghèo không có con cháu. Nếu người đời phấn đấu để thăng quan tiến chức, chỉ huy người khác, thì linh mục tu sĩ khấn giữ vâng lời, trở nên nghèo về quyền lực, tự đặt mình dưới quyền người khác để vâng lời bề trên.

Chúng ta vui mừng tạ ơn Chúa vì các linh mục tu sĩ trở nên nghèo để ta được trở nên giầu có. Chúng ta đặc biệt tạ ơn Chúa với chị Maria Nguyễn thị Hóa đã khấn trọn đời trong Tu hội Điểm Tim. Tu hội Điểm Tim được thành lập bên Pháp, để làm bạn với nhừng người trẻ nghèo hèn trong xã hội. Những người trẻ lang thang không nhà cửa, không có nghề nghiệp, không có ai quan tâm chăm sóc. Để làm bạn với những người nghèo, thành viên của Tu hội Điểm Tim phải trở nên nghèo. Nghèo vì không có tu phục. Chỉ ăn mặc đơn sơ như những người dân bình thường. Nghèo vì sống giữa người nghèo. Ở trong những mái nhà bình dân, trong những khu phố ổ chuột. Nghèo vì cuộc sống bấp bênh trong những khu phố phức tạp như thế. Khấn trọn đời phục vụ những anh chị em nghèo trong những nơi nghèo nàn như thế là một thách thức lớn, là một can đảm lớn. Khấn như thế là hoàn toàn sống đức tin. Là tin tưởng vào Thiên Chúa. Nghèo như thế để anh chị em được trở nên giầu có. Giầu vì được yêu thương. Giầu vì được kính trọng. Giầu nhất là được làm con Thiên Chúa. Giầu vì cuộc sống phó thác vào Thiên Chúa. Người sống nghèo trong Thiên Chúa không có gì cả, nhưng lại có tất cả. Vì “mọi sự của Cha là của Con”.

Cầu chúc cho chị Maria Nguyễn thị Hóa được trung tín với ơn gọi, sống nghèo như Chúa Giêsu, để thế giới này trở nên giầu có. Xin thánh Giuse Đấng bảo vệ Thiên Chúa, bảo vệ công trình của Thiên Chúa sẽ luôn bảo vệ chị Hóa, người phục vụ công trình của Thiên Chúa.


Lạy Chúa, con xin tạ ơn Chúa vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.

TGM. Gs. Ngô Quang Kiệt
Châu sơn 19-03-2014

---------------------------------

 

19/03-76:  Những khuôn mặt Giuse

 

Nghiên cứu khảo xét trong Kinh Thánh về gia phả nguồn gốc gia đình Chúa Giêsu trong ý nghĩa : 19/03-76


Nghiên cứu khảo xét trong Kinh Thánh về gia phả nguồn gốc gia đình Chúa Giêsu trong ý nghĩa thần học, cùng trong liên hệ bản tính loài người, người ta thấy hai Vị Giuse giữ vai trò quan trọng then chốt.
Vị Giuse con Ông Giacop bị anh em bán sang Ai Cập. Ở nơi đó Ông đã làm Tể Tướng và có công cứu dân không chỉ ở Ai Cập, mà còn toàn vùng Trung Đông, trong có có nước Do Thái gia đình Ông thoát khỏi nạn mất mùa đói kém hoành hành.

Giuse con Tổ phụ Giacop và Bà Rahel thời cựu ước hay Giuse Ai Cập

Và Vị Giuse, người bạn đường trăm năm của Đức mẹ Maria, là cha nuôi Chúa Giêsu trên phương diện xã hội ở trần gian.

Giuse người Nazareth thời tân ước.

1. Tên của hai người Giuse là biểu tượng cho sự may mắn hạnh phúc.

Khi sinh thành Giuse Ai Cập, là con Ông Giacop, bà Rahel mẹ của Giuse đã nói : Thiên Chúa ban cho bà thêm người con nữa (St 30, 24.)

Giuse thành Nazareth cũng là người mang hạnh phúc niềm vui đến. Vì Ông giữ vai trò xã hội là cha nuôi dưỡng Chúa Giêsu

2. Hai vị Giuse đều là những vị có những giấc mơ.

Những giấc mơ của Giuse Ai Cập phản ảnh thực tại và là người của điều may mắn: Thiên Chúa ở cùng Giuse và ban cho ông được may mắn hạnh phúc (St 39,2.)

Giuse Ai Cập đi tìm anh em của mình và cứu sống 12 chi tộc Israel, dù vì giấc mơ của Ông mà bị anh em bán sang Ai Cập. ( St 37,16.)

Giuse thành Nazareth cha nuôi Chúa Giêsu theo lời Thiên Thần trong giấc mơ đặt tên cho con trẻ là Giêsu : Con trẻ Giêsu sẽ cứu thoát dân khỏi tội lỗi. (Mt 1,21) và ngài là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. ( Mt 1,23)

3. Có những giấc mơ. Nhưng cả hai Giuse đều phải theo đuổi trải qua con đường gian nan chông gai đi sang đất nước Ai Cập. Giuse Ai Cập bị anh em bán cho lái buôn người Ismael sang Ai Cập ( St 37,28-36). Còn Giuse thành Nazareth cha nuôi Chúa Giêsu (Mt 2,13-15) phải đi tỵ nạn sang Ai Cập vì vua Herode tìm lùng bắt các trẻ con mới sinh, trong đó có hài nhi Giêsu.

4. Ý định đen tối trong đời hai Giuse đều được Thiên Chúa biến đổi cứu sang chúc lành.

Anh em Giuse thời Cựu ước bán Giuse sang Ai Cập, khiến Ông phải sống đời lưu vong bơ vơ. Nhưng đó là „ để bảo vệ giữ gìn sự sống, mà Thiên Chúa đã gửi tôi sang đây trước các anh em.(St 45,5.) „ Các anh em đã có ý định đen tối hại tôi, nhưng Thiên Chúa đã biến thành sự tốt lành. (St 50,20.)

Tương tự như vậy, Thiên Thần Chúa trong giấc mơ đã thúc dục Giuse thành Nazareth phải đem hài nhi Giêsu sang Ai Cập, vì vua Herode đang tìm lùng bắt con trẻ. (Mt 2,13.)

Cả hai Giuse phải ra đi trong sự đe dọa bị ám hại. Nhưng Thiên Chúa đã biến đổi sự đe doạ thành cứu rỗi.

5. Giuse thời cựu ước và Giuse thời tân ước đều có tấm lòng tha thứ rộng lượng.

Giuse Ai Cập thời cựu ước khi gặp lại anh em bên Ai Cập đã tha thứ cho họ. Ông không trả thù vì ngày xưa họ đã tìm cách ám hại sau cùng bán ông sang xứ xa lạ. Vì đó ông lâm cảnh bơ vơ mồ côi xa cha mẹ. (St 45,1-5).

Còn Giuse thành Nazareth thời tân ước đau khổ, khi hay tin Maria người bạn đường đã đính hôn đang có thai. Nhưng Ông không muốn để Maria một mình bị nguyền rủa khinh khi (Mt 1,19). Ông đã chấp nhận Maria như Thiên Thần Chúa truyền dạy.

Cả hai Giuse tỏ ra là người có đời sống công chính theo đúng luật lệ của Chúa. Và là người có lòng nhân ái quảng đại.

6. Cả hai Giuse đóng vai trò chiến lược là nhịp cầu nối kết.

Giuse Ai Cập thời cựu ước như nhân vật bản lề của cánh cửa lịch sử thời các Tổ phụ, tổ tiên một bên, và cảnh tượng bi thảm của cuộc giải thoát xuất hành khỏi Ai Cập trở về đất Chúa hứa một bên khác. Vị Giuse này đã mang đến làn gío đổi mới cắt nghĩa tại sao dân Israel có mặt ở Ai Cập.

Còn Giuse thành Nazareth cũng đứng nơi vị trí bản lề giữa lịch sử Israel và sự nối tiếp lạ lùng ngạc nhiên của lịch sử trong cộng đoàn mới thành hình cho dân Do Thái và dân ngoại chung hợp với nhau. Vị Giuse này là bảo chứng về dòng dõi vua David được nối tiếp trong lịch sử dân Do Thái. Vì Ông có nguồn gốc gia phả từ dòng dõi vua David (Mt 1,1.20 2,6). Và như thế Chúa Giêsu cũng là miêu duệ thuộc dòng dõi vua David, người đã thành lập nước Israel.

7. Cả hai Giuse cùng có thời gian sinh sống bên Ai Cập, tuy Giuse thành Nazareth ở ngắn thời gian hơn. Con đường sang sinh sống bên Ai Cập của cả hai không chỉ là sự sống còn của riêng bản thân họ, nhưng còn cho cả gia đình , phải cho sự cứu độ dân Israel và toàn nhân loại.

Giuse Ai Cập cứu đói cho dòng tộc gia đình con Tổ phụ Giacop

Giuse thành Nazareth cứu trẻ Giêsu bị tìm lùng bắt.

8. Cả hai lịch sử đời sống của Giuse đều có vua đóng vai trò chủ chốt. Một bên vua Pharo Ai Cập là hình nảnh tích cực tốt đẹp với Giuse Ai cập. Vua đã tin tưởng phong cho Giuse làm quan Tể Tướng về phương diện chính trị cai trị nước Ai Cập.

Đối diện là Vua Herode là một hình ảnh tiêu cực đen tối. Vua vì ghen tức, lo sợ cho uy quyền ngai vàng của mình, mà truy lùng bắt giết trẻ Giêsu cùng các trẻ con cùng thời tuổi với trẻ Giêsu. Và vị vua trẻ Pharo của Ai Cập thời hậu Giuse Ai cập cũng là một hình ảnh tiêu cực đen tối. Chính vị vua trẻ Pharao này đã kỳ thị hành hạ người Israel sinh sống bên Ai Cập. Và do đó dẫn đến lịch sử xuất hành của dân Do Thái từ Ai Cập trở về quê hương Do Thái.

9. Giuse thành Nazareth thời tân ước theo lời Thiên Thần truyền đã đặt tên cho con trẻ sinh bởi mẹ Maria là Giesu. Tên Giêsu có sự phù hợp với tên Josua. Theo văn hóa Do Thái tiếng Hylạp không phải là sự tương tự giống nhau, nhưng là cùng một tên.

Theo bản dịch Kinh Thánh Septuaginta - bản Bảy mươi - tên Josua quan trọng. Tên Iesous và sách Josua cũng gọi phù hợp như vậy. Josua trong lịch sử của Giuse Ai Cập đóng vai trò lớn. Josua là người đã chôn cất Giuse Ai Cập ở Sichem (Sách Josua 24,32), sau khi dân Israel đã đưa hài cốt Giuse từ Ai Cập trở về quê hương Israel.

Ngôi mộ Giuse Ai Cập hiện ở vùng Samaria bên dưới ngọn núi Garizim, gần giếng nước Giacop, nơi Chúa Giêsu gặp gỡ nói chuyện với một chị phụ nữ người Samaria. Giếng nước Giacop hiện nằm trong đền thờ Chính Thống giáo, được gìn giữ bảo quản cẩn thận. Khách hành hương có thể lấy nước từ dưới lòng giếng lên theo cách trục kéo cuốn giây kiểu cổ nhà quê, nhưng lại đượm nét bình dân thi vị thân mật.

Giacop con của Tổ phụ Isaak được Thiên Chúa đổi tên thành Israel (St 33,29). 12 con Ông Israel , trong đó có Giuse Ai Cập, là 12 chi tộc của dân tộc Israel

Và như vậy Giuse và Giosua có mối liên hệ tương quan với nhau chặt chẽ.

10. Sau khi các anh em bán Giuse cho người lái buôn Ismael sang Ai Cập, họ lấy chiếc áo chùng dài tay của Giuse nhúng thấm máu con dê rồi đem về cho Tổ phụ Giacop và nói là Giuse đã bi thú dữ ăn thịt. Họ chỉ còn tìm thấy chiếc áo dính máu của Giuse mang về đây. (St 37, 28-33).

Sau khi Chúa Giêsu bị đóng định trên thập gía, những người lính có nhiệm vụ canh gác nơi đó cũng lấy chiếc áo dài chùng của Chúa Giêsu bắt thăm chia nhau. (Ga 19, 23-24).

Áo của Giuse Ai Cập dính máu chiên dê đã đưa Ông sang sinh sống bên Ai Cập và sau đó cứu dân Ai Cập và gia tộc Giacop khỏi cảnh chết đói.

Áo của Chúa Giêsu con Giuse thành Nazareth thấm dính máu của Người trên con đường vác thập gía bị hành hạ và đã chết trên thập gía. Nhưng Ngài không dừng ở lại mãi trong sự chết. Sau ba ngày Ngài đã sống lại từ cõi chết mang lại sự sống mới cho toàn thể con người khỏi hình phạt tội lỗi.

Như thế có thể suy ra rằng đó là những chiếc áo cứu độ.

12. Ngoài hai vị Giuse trên, còn một nhân vật Giuse nữa không chỉ trong Kinh Thánh, mà còn liên hệ mật thiết với Chúa Giêsu vào giờ phút cuối đời của Chúa Giêsu: Giuse thành Arimathia.

Theo Kinh thánh thuật lại, nhân vật Giuse này là một môn đệ của Chúa Giêsu, nhưng không lộ diện ra mặt công khai, vì sợ người Do Thái. Ông là người Do Thái, một người gầu có, là một trong những Thành Viên của thượng Hội Đồng Do Thái. Nhưng cũng là người có đời sống tốt lành công chính cùng rộng lượng.

Vị Giuse thành Aromathia là người tin Chúa Giêsu là con Thiên Chúa. Và từ xa xa theo dõi vụ án xử Chúa Giêsu, Ông không bằng lòng với phán quyết của Thượng Hội đồng đòi giết Chúa Giêsu.

Không làm sao hơn được, Ông âm thầm chuẩn bị cho cuộc mai táng Chúa Giêsu. Ông đã cho đào sẵn một huyệt mộ gần nơi Chúa Giêsu bị đóng đinh. Khi hay biết Chúa Giesu đã chết, Ông can đảm mạnh dạn đến xin quan Philato cho được tháo xác Chúa Giesu xuống, và tẩm liệm trong tấm khăn vải mới, rồi cùng với Ông Nicodemo xức dầu thơm mai táng thân xác Chúa Giêsu trong huyệt mộ còn mới sẵn có của chính ông (Mt 27,57-60).

Giuse Ai Cập thời cựu ước là người có đời sống công công chính đã có công cứu dân Ai Cập và gia đình dòng tộc Israel khỏi cảnh chết đói.

Giuse Ai cập làm quan chức vị lớn, nhưng đã mang niềm hy vọng cho đời sống ấm no của dân chúng toàn vùng, toàn nước.

Phải chăng đây là hình ảnh báo trước ơn cứu độ sau này vào thời Tân ước Chúa Giêsu mang đến cho con người?

Giuse thành Nazareth là cha nuôi Chúa Giêsu là người có đời sống công chính âm thầm lặng lẽ. Vị Giuse này không để lại một mảy may lời nào. Nhưng Ông lắng nghe những gì Thiên Chúa nói qua ThiênThần, và cứ thế âm thầm làm cho Chúa Giêsu, Đấng cứu thế cứu toàn nhân loại khỏi hình phạt tội lỗi.

Giuse thành Nazareth góp phần tích cực cho niềm hy vọng, cho chương trình ơn cứu độ của Thiên Chúa nơi mẹ Maria, nơi nhân loại được thể hiện qua việc Ông đảm nhận vai trò là cha nuôi Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, trên trần gian. Ông đến cùng làm việc âm thầm. Và Ông ra đi cũng lặng lẽ. Nhưng trên trời và dưới trần gian thời nào cũng nhắc nhớ đến Ông với lòng cung kính cảm phục biết ơn.

Giuse thành Nazareth đã đóng góp thiết yếu vào việc Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể làm người trên trần gian mang ơn cứu độ cho nhân loại

Giuse thành Arimathia là người vị vọng chức quyền trong xã hội, cũng là người có đời sống công chính, âm thầm lặng lẽ, và có lòng kính sợ Thiên Chúa. Ông đã ra tay tháo gỡ xác Chúa Giêsu từ trên thập gía xuống và an táng với hết lòng thành kính, như lễ an táng một vị Vua, trong huyệt mộ mới của chính Ông đã có sẵn.

Phải chăng Ông Giuse Arimathia đã tẩm liệm Chúa Giesu trong tấm khăn vải mới, rồi mai táng Chúa Giêsu trong ngôi mộ mới là dấu hiệu nói lên, sự sống mới của Chúa Giêu sống lại bừng lên mang lại niềm hy vọng mới cho con người cũng được cứu rỗi?




Lễ kính Thánh Giuse, 19.03.2015

Lm.Daminh Nguyễn ngọc Long


---------------------------------

 

19/03-77:  BÀI 1: LÝ LỊCH CỦA THÁNH YUSE

 

Lý lịch Thánh Yuse: Tên Ngài là Yuse, có nghĩa là “Xin Chúa ban thêm nữa”, tên Yuse thường : 19/03-77


1/ Lý lịch Thánh Yuse: Tên Ngài là Yuse, có nghĩa là “Xin Chúa ban thêm nữa”, tên Yuse thường gặp trong Kinh Thánh: Cựu Ước có 7 người, Tân Ước là  8 người, thân phụ Ngài là Yacob. Trong gia phả Chúa Yesus, Mattheu có viết: Yacob sinh ra Yuse là chồng của bà Maria, Thánh Yuse thuộc dòng dõi Đa-vít, nơi sinh trưởng: Nazaret miền Galilê, tại đây Yuse kết hôn với Maria và nhận mẹ Maria về nhà mình.
2/ Do ý Thiên Chúa quan phòng nên Yuse trở thành phu quân của Đức Maria: Kinh Thánh không nói Yuse lập gia đình vào độ tuổi nào nhưng theo ý kiến chung thì lúc đó Ngài còn trẻ chứ không phải là một ông già râu tóc bạc phơ, lúc đó ông ở độ tuổi khoảng dưới 30 vì khi Thánh Yuse chết thì Chúa Yesus chưa đi giảng đạo, Thánh Yuse chết ở tuổi  khoảng 60 /
3/ Thánh Yuse không phải là cha thật của Chúa Yesus: Điều này đã được xác định trong Kinh Tin Kính, hàm chứa ý nghĩa Đức Mẹ thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần nên Mẹ vẫn còn đồng trinh. Thánh Yuse là cha nuôi vì ông lo cho Chúa con đời sống vật chất.
4/ Như vậy trong gia đình Nazaret, Thánh Yuse có đầy đủ uy tín của một vị gia trưởng: Có đủ quyền lợi và bổn phận với Đức Mẹ và Chúa Yesus như một người chồng, một người cha trong gia đình.
5/Trong những tháng năm sống ở trần gian, Thánh Yuse đã sống rất thánh thiện. Kinh Thánh đã gọi Ngài là Đấng công chính, theo Kinh Thánh Cựu Ước thì công chính là chu toàn mọi lề luật không có lỗi phạm gì và tràn đầy nhân đức.
6/ Thánh Yuse thực hành nhiều nhân đức tới mức anh hùng: Ngài rất mau mắn chu toàn Thánh Ý Chúa khi biết Thánh ý Ngài, Ngài tin theo Thiên Thần trong một lần bị nan giải khó hiểu => Đó là việc Mẹ Maria thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần.
7/ Thánh Yuse đã đối xử rất bác ái, tế nhị với Đức Mẹ: Ngài đã dùng đôi tay lao động để lo liệu mọi nhu cầu trong gia đình, Ngài đã cùng cam cộng khổ với Mẹ Maria tại Bê-lem, Ai-cập, cũng như khổ đau khi lạc mất Chúa ở đền thờ.
8/ Các giáo phụ suy diễn sự thánh thiện của Thánh Yuse trên lĩnh vực siêu nhiên nhờ 2 nguồn lực: Yuse càng gần nguồn thánh thiện, người càng thánh thiện, Chúa Yesus là nguồn ân sủng, Thánh Yuse lại là cha nuôi thanh khiết của Chúa Yesus, Ngài gần nguồn thánh thiện hơn mọi người nên được thông phần thánh thiện nhiều hơn.
9/ Thiên Chúa ban ơn sủng cho mỗi người tỷ lệ tương xứng với sứ mạng và nhiệm vụ mà người đó phải chu toàn. Chúa Yesus tràn đầy ơn phúc, Mẹ Maria lại là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ lại dư đầy ơn sủng hơn các Thiên Thần và các Thánh.
10/ Thánh Yuse cũng được ơn phúc hơn mọi người vì Ngài phải chu toàn một sứ mạng đặc biệt: Là bạn đời để gìn giữ Đức Mẹ, là Cha khiết trinh của Chúa Yesus, Ngài phải lo lắng vật chất và bảo vệ Chúa Yesus khỏi mọi hiểm nguy.
11/ Chúng ta có thể kết luận: Thánh Yuse thánh thiện hơn các Thánh, chỉ kém có Đức Mẹ. Vì thế khi ở trên trời, Thánh Yuse cũng vinh hiển hơn các Thánh khác. Trong giáo hội, phụng vụ cũng dành cho Ngài đứng tiếp sau Đức Mẹ trước cả các Thánh Tông đồ => Vì thế Thánh Yuse phải được tôn kính khác hơn với các Thánh khác.
12/ Từ một đời sống thánh thiện như thế nên Thánh Yuse đã trở nên gương mẫu cho tất cả chúng ta về mọi phương diện, Ngài có quá nhiều nhơn đức, như khi chúng ta thấy giáo hội tuyên xưng trong Kinh cầu, nhân đức nào của Ngài cũng ở mức cao độ.
13/ Tóm lại: Thánh Yuse đã thực hiện trọn vẹn Lời Chúa Yesus khuyên dạy “Các con hãy nên hoàn thiện như Cha các con ở trên trời….”, và đây cũng là điều mà Thiên Chúa đòi hỏi tất cả những ai đang tin theo Chúa.
14/ Chúng ta đừng kể Thánh Yuse: Chỉ nhìn lên các Thánh nam nữ, những người đi trước chúng ta, họ thuộc đủ mọi thành phần mọi tầng lớp, cùng tuổi hay khác tuổi. Họ cũng ở trong môi trường sống như chúng ta, các Ngài đã nên Thánh , đã đạt được đến mức trọn lành mà Thiên Chúa đòi hỏi.
15/ Chúng ta đừng nên hiểu lầm các Thánh mới sinh ra đã là Thánh: Không! Các Ngài khi sinh ra cũng mang vết tích tội tổ tông trong huyết quản, cũng có xu hướng ngang trái, gai góc trong tính nết, cũng có đầy tình dục nơi cõi lòng.
16/ Nết xét theo khía cạnh loài người, khía cạnh tự nhiên: Các vị đó cũng có rất nhiều yếu tố như chúng ta, các Ngài cũng có thể trở thành những kẻ tiểu nhân, đầu trộm đuôi cướp, man trá ,đê hèn ,xấu xa, nghĩa là các vị Thánh cũng chẳng được ưu thế nào hơn chúng ta trong việc tự thánh hóa bản thân.
17/ Nói theo ngôn ngữ Tin Mừng thì có những vị cũng chỉ nhận được một nén hay hai nén bạc làm vốn mà thôi. Có khi còn được ít hơn chúng ta.
18/ Các Ngài nên Thánh nhờ phấn đấu, nhờ cố gắng thực hiện những lời khuyên Phúc Âm. Các Ngài đã không nhượng bộ những khuynh hướng xấu, các Ngài luôn có thái độ cương quyết và các Ngài biết mình yếu đuối nên cầu nguyện liên lỉ , thiết tha.
19/ Bí quyết thành công của các Thánh là cái Ngài biết lãnh nhận ơn Chúa vô điều kiện. Cho nên các Ngài sẵn sàng để ơn Chúa hoán cải, ngăn cản tội lỗi, nâng đỡ khuyến khích /các Ngài đã nhiệt tình cộng tác với ơn Chúa để xây dựng đời mình.
20/ Có 2 yếu tố quan trọng để nên Thánh là : phấn đấu tối đa sức lực cá nhân, và nhận lãnh sự trợ giúp của ơn Thánh Chúa.
21/ Thánh Yuse là vị Thánh Cả đã cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Ngài sống rất thánh thiện, đã chu toàn mọi bổn phận Chúa trao phó. Vì thế Thánh Yuse là gương mẫu rất tốt lành thánh thiện, mọi người chúng ta cần noi theo.
22/ Xin Chúa: Qua lời cầu bầu của Thánh Yuse giúp cho tất cả chúng con biết cộng tác với ơn Chúa để hoàn thành sứ mạng Ki-tô hữu ở đời này trong bậc sống giáo dân, làm chồng làm cha trong gia đình, để chúng con xứng đáng là một gia trưởng như Cha Thánh Yuse. Amen.

---------------------------------

 

19/03-78:  SUY NIỆM VỀ THÁNH YUSE

 

Thánh Yuse, một con người im lặng, kín tiếng: Kinh Thánh không kể lại lời nói nào của Thánh Yuse. 19/03-78


1/ Thánh Yuse, một con người im lặng, kín tiếng: Kinh Thánh không kể lại lời nói nào của Thánh Yuse. Đây là điều chúng ta cần lưu ý, thế giới hôm nay quá ồn ào với các loại âm thanh, người ta ai cũng muốn nói nhiều, nói to nói mạnh mồm, muốn dùng lời nói lấn át kẻ khác. Thích quảng cáo , thích tuyên bố nóng bỏng, nhưng ai nói nhiều thì càng sai lỗi nhiều và có thể vấp phạm bất kỳ lúc nào. Đó là tội nói xấu, nói hành người khác, nói nhiều thì dễ nói bậy nói sai ,nói dai, nói ẩu, khiến cho tình cảm bị sứt mẻ. Người xưa có câu: “Nhất ngôn xuất khẩu, tứ mã nan truy/ Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
2/ Chúng ta hãy học cùng Thánh Yuse bài học yên lặng. Hãy biết yên lặng trong những giây phút căng thẳng, sóng gió. Bởi vì nếu biết yên lặng đúng lúc ta có thể ngăn chặn được 90% nguy cơ đỗ vỡ đáng tiếc, cho nên “Yên lặng là vàng”, là thái độ khôn ngoan nhất của con người, là phương thuốc  có thể chữa lành mọi tội lỗi xấu xa.
3/ Thánh Yuse, con người cần cù lao động: Kinh Thánh cũng không kể lại chi tiết về việc này nhưng chắc rằng Thánh Yuse phải là một bác thợ mộc siêng năng và nổi tiếng. Khi Chúa Yesus bắt đầu cuộc rao giảng công khai, người cùng quê với Chúa đã quá ngạc nhiên trước sự khôn ngoan của Chúa Yesu khi họ tự hỏi “Ngài chẳng phải là con bác thợ mộc đó sao?”, Thánh Yuse đã dùng đôi bàn tay lao động để phục vụ cho Chúa Yesus và Đức Mẹ.
4/ Với Thế giới chúng ta hôm nay, lao động là ngôn từ được sử dụng và được nghe nói đến nhiều nhất.Chứng tỏ rằng: Lao động có một chỗ đứng thật quan trọng trong đời sống con người, con người sinh ra để lao động, con chim được sinh ra để bay, nhờ đó con người có thể biến đổi bộ mặt trái đất đem lại cho đời một ý nghĩa đáng sống như muối làm mặn cho đời.
5/ Cần nói ra cụ thể hơn: Nhờ làm việc mà chúng ta có miếng cơm manh áo, hạnh phúc ấm no. Chúng ta cảm thấy nhột khi nghe lời Thánh Phaolo nói “Ai không làm thì đừng có ăn”.
6/ Chúng ta cần suy nghĩ về câu chuyện: Con ve và con kiến. Con ve ca hát suốt mùa hè nên đã chết đói về mùa đông, con kiến thì cần cù tích trữ từng hột gạo cho nên dù gió bấc có thổi thì con kiến cũng không sợ túng thiếu.
7/ Sự nghèo túng đi gõ cửa nhà những con người siêng năng làm việc, nhưng nó không bao giờ dám bước vào. Ca dao Việt Nam có câu:
“Có làm thì mới có ăn, tự dưng ai dễ mang phần đến cho/Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ”
8/ Với xã hội chúng ta đang sống: Lao động là một cách để chúng ta trả nợ cho đời, cũng là cách chúng ta góp phần xây dựng xã hội. Sống trong xã hội, chúng ta cần nương tựa vào nhau để mà trao đổi, để mà sống.
9/ Chúng ta thường hưởng dùng những thứ do người khác mang lại như xăng dầu, đường sữa, nước mắm, hạt gạo,…do công của người khác. Thì hôm nay khi đến lượt , chúng ta phải đóng góp cho đời bằng những sản phẩm do công sức lao động của chúng ta mang lại.****
10/ Đối với Chúa: Lao động là cách thức chúng ta cộng tác với Ngài trong công cuộc sáng tạo, đúng như lệnh truyền của Ngài với tổ tiên chúng ta: “Hãy làm chủ cá biển chim trời và muôn loài trong vũ trụ”.
11/ Thánh Yuse là con người vâng phục ý Thiên Chúa:  Phúc Âm đã kể lại 3 lần Thiên Thần hiện ra trong giấc mộng để báo cho Thánh cả biết ý định của Thiên Chúa. Và lần nào Thánh cả cũng cuối đầu “Xin vâng” mà không hề có chút ý kiến phản dối. Lần thứ nhất, Thánh cả xin vâng để đón nhận Maria về nhà mình dù trong lòng đang phân vân nghi ngờ, lần thứ hai Thánh cả xin vâng khi đưa hài nhi và mẹ Ngài trốn sang Ai Cập, lần thứ ba Thánh cả xin vâng để trở về Palestine ở Nazaret => Cả 3 lần Thánh Yuse đều vâng lời mau mắn không hỏi tại sao?
12/ Chúng ta thì khác: Chúng ta thường tìm ý mình hơn ý Chúa và mỗi khi gặp phải tai ươn họan nạn chúng ta thường kêu trách, xúc phạm đến Chúa.Vì chúng ta cho rằng: Chúa bất công thiên vị, và luôn cho rằng :vâng lời chỉ là thái độ của kẻ hèn nhác, mất tự do, mất nhân phẩm.
13/ Noi gương Thánh Yuse: Chúng ta hãy sống yên lặng, làm việc và vâng phục Thánh ý Thiên Chúa để chúng ta trở nên những tôi tớ trung thành của Thiên Chúa như Thánh Yuse ngày xưa cũng như ngày hôm nay trên Thiên Đàng.****
Bài viết của: Yuse Luca (ditimchanly.org)

---------------------------------

 

19/03-79: Lễ thánh Giuse


--GM. Giuse Đỗ Mạnh Hùng

1. Ước mơ của con người là được hạnh phúc.

 

Các thánh là những người đã đạt được hạnh phúc vĩnh cửu. Hôm nay Giáo Hội mừng kính thánh 19/03-79


Các thánh là những người đã đạt được hạnh phúc vĩnh cửu. Hôm nay Giáo Hội mừng kính thánh Giuse, mời gọi chúng ta hướng đến ngài, học hỏi con đường đạt được hạnh phúc vĩnh cửu của Ngài và cũng cầu xin ngài cho chúng ta cũng đạt được hạnh phúc như vậy.

Trong ước mơ này, xin được chia sẻ 3 điểm :

* Có một ước mơ hạnh phúc và cố gắng đạt được
* Bảo vệ và xây dựng hạnh phúc mà mình đã chọn.
* Bí quyết Bảo vệ và xây dựng hạnh phúc của thánh Giuse

2.  Có một ước mơ hạnh phúc và cố gắng đạt được

Cũng như mọi người, chàng thanh niên Giuse làng Nagiarét cũng có ước mơ hạnh phúc. Ước mơ có được người bạn đường hiền dịu, đạo đức như Maria. Và Giuse đã cố gắng đạt được ước mơ này: giữa bao chàng trai làng Nagiarét, Maria đã chọn Giuse.

Tôi nhớ lại một bức tranh của nhà danh họa Raphael với tựa đề “Lễ Đính Hôn của Maria”. Năm 1983, UNESCO có khởi xướng mừng kỷ niệm 500 năm ngày sinh của Họa sĩ Raphael, dịp đó Việt Nam đã cho in một con tem. Trên con tem in phần trọng tâm của bức họa “Lễ Đính Hôn của Maria” : cảnh Thánh Giuse đang trao nhẫn cưới cho Đức Maria, trước sự chứng kiến của một thày Tư Tế.

Nếu xem bản gốc của bức tranh, thì thấy hậu cảnh là ngôi đền thờ hình đa giác, có một sân thật rộng. Cận cảnh là lễ đính hôn. Một thầy tư tế đứng giữa thánh Giuse và Đức Mẹ. Sau và cạnh thánh Giuse là 5 chàng trai phù rể, đối diện phía bên kia, sau Đức Mẹ là 5 thiếu nữ phù dâu. Thánh Giuse đang long trọng xỏ nhẫn cho Đức Mẹ bằng tay phải. Tay trái cầm cây gậy gỗ trổ bông, dấu hiệu của người đã được tuyển chọn. Chỉ có cây gậy của Thánh Giuse trổ bông, còn những cây gậy của 5 chàng thanh niên khác thì khô chồi. Hai trong những thanh niên này, thất vọng, đang bẻ gãy cây gậy của mình.

Theo như bài chú giải về bức tranh, chiếc nhẫn nhỏ bé đó chính là trọng tâm, nói lên toàn bộ ý nghĩa của bức tranh: Lễ đính hôn của Đức Mẹ và Thánh Giuse. Hình ảnh chàng thanh niên đang chủ động xỏ chiếc nhẫn đính hôn vào tay vị hôn thê của mình với khuôn mặt tràn đầy hạnh phúc.

Có lẽ phải trải qua nhiều cố gắng lắm mới Giuse mới đạt được ước mơ của mình : có được Maria làm vị hôn thê của mình. Vì có nhiều người thanh niên khác trong làng cũng để ý Maria. Điều này họa sĩ Raphael họa lại thật sống động qua cảnh 2 chàng thanh niên, vì thất vọng và bực tức, đang bẻ gãy chiếc gậy của mình.

3. Bảo vệ và xây dựng hạnh phúc mà mình đã chọn.

Thế nhưng, kể từ lúc đính hôn, lúc đã đạt được ước mơ hạnh phúc của mình, Giuse lại bắt đầu phải bảo vệ và xây dựng hạnh phúc mà mình đã chọn.

Đó là những khó khăn trong tương quan với những người chung quanh. Trước hết, là tương quan với Maria, vị hôn thê yêu quí, đức hạnh, nhưng trước khi chung sống đã mang thai. Và rồi, sau khi vượt qua được khó khăn này, những khó khăn khác lại xảy đến. Phải về quê Bêlem khai sổ kiểm tra, lúc Maria gần tới ngày sinh. Phải trốn sang Ai Cập, nơi đất khách quê người. Rồi lại trở về Nagiarét. Trước những khó khăn thử thách đó, Giuse đã luôn chu toàn bổn phận của mình, chăm lo và nuôi sống cả gia đình.

Ở  đây có thể thấy 2 yếu tố bảo vệ và xây dựng hạnh phúc của thánh Giuse: yếu tố thứ nhất là bảo vệ những tương quan trong cuộc sống, khởi đi từ những người thân nhất, và yếu tố thứ hai là cố gắng chu toàn bổn phận dù bao biến cố, bao khó khăn thử thách.

Kính thưa cộng đoàn,

Giờ phút này đây, nhìn lại cuộc đời của mình ai cũng thấy được điều này… Cuộc sống với rất nhiều bất ngờ, với những khó khăn…

Ví dụ như các linh mục lớn tuổi về hưu trong giáo phận. Cuộc sống êm đềm. Nhưng các cố tại nhà hưu trong tuổi già… vẫn phải đối diện với những người chung quanh, rất thân thiết, nhưng mỗi người một tính với những sở thích khác nhau… Và luôn có những khác ý mình. Vẫn có những hy sinh, những đón nhận trái ý trong cuộc sống.

Hay trong tầm mức lớn hơn trên thế giới hiện nay: bất ngờ con virus Corona xuất hiện làm mọi sinh hoạt đảo lộn, con người sống trong lo sợ, nhất là tại những vùng dịch bệnh.

Làm thế nào để có được một cuộc sống bình an, hạnh phúc khi phải đối diện với những khó khăn đến từ những người chung quanh hay từ những biến động của môi trường sống, là một thách đố lớn!

4. Làm sao để bảo vệ và xây dựng hạnh phúc mà mình đã chọn?

Thật vậy, đâu là bí quyết giúp Thánh Giuse bảo vệ và xây dựng hạnh phúc của mình?

Thưa: đó là khám phá ra thánh ý Thiên Chúa và mau mắn thi hành.

Trước hết, để khám phá ra thánh ý Thiên Chúa, phải có một đời sống nội tâm sâu xa, với những giây phút thinh lặng suy nghĩ tìm kiếm. Khi xác tín được đâu là thánh ý Chúa: tâm hồn chúng ta sẽ được bình an. Và xác tín này chỉ có thể đạt được trong đức tin hay nói cách khác là do Thiên Chúa ban tặng. Giữa lúc rối bời, chuẩn bị lìa bỏ Maria, được thiên thần báo mộng, Giuse đã tin dù về lý luận tự nhiên thật là khó hiểu.

Tiếp đến, bước thứ hai là mau mắn thi hành. Và điều này không dễ dàng chút nào. "Khi tỉnh dậy, Giu-se đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền". Niềm tin vào lời thiên thần trong mộng đã biến thành hành động cụ thể.

Từ bài học trên của thánh Giuse, chúng ta có thể nhìn lại chính ước mơ hạnh phúc của mình

Các cha, các thày, các soeurs và anh chị em có thể nhớ lại ước mơ tuổi trẻ của mình: hạnh phúc được trở thành một linh mục, một nữ tu hay niềm vui của ngày thành hôn, ngày được chấp nhận vào dòng, vào Chủng viện, được chấp nhận khấn lần đầu, rồi khấn trọn hay chịu chức linh mục. Và đạt được ước mơ hạnh phúc trên cũng không phải dễ dàng gì.

Thế nhưng đạt được ước mơ đó với cao điểm là ngày thành hôn, ngày khấn trọn đời hay ngày chịu chức linh mục không phải là đã trọn vẹn. Sau đó là cả bao cố gắng để bảo vệ và xây dựng hạnh phúc đó.

a) Cũng như thánh Giuse, trước hết là bảo vệ những tương quan với người chung quanh, trước hết là những người gần gũi nhất với mình trong cộng đoàn, trong gia đình. Những hiểu lầm, những đụng chạm… phải khó khăn lắm mới vượt qua được.

b) Tiếp theo là cố gắng chu toàn bổn phận được trao phó với bao biến động, thay đổi trong cuộc sống.

Tóm lại, sống tương quan vui tươi với những người chung quanh đồng thời luôn cố gắng chu toàn bổn phận hằng ngay xem ra không đơn giản tí nào.

Tự sức riêng mình có lẽ không thể vượt ra khỏi hoàn cảnh khó khăn. Không có ơn Chúa, không có tình yêu của TC hướng dẫn và nâng đỡ, có lẽ chúng ta đã bỏ cuộc, không còn được như ngày hôm nay.

Ơn Chúa ban tặng qua những điều xem ra rất nhỏ bé trong cuộc sống. Một lời an ủi, góp ý của ai đó, một sự cảm thông hỗ trợ nào đó… bỗng nhiên như ánh sáng bừng lên giúp ra khỏi cảnh tăm tối.

Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta cùng dâng lên Chúa cuộc sống của chúng ta với những khó khăn. Và cũng như thánh Giuse, nhiều khi chúng ta không thể hiểu hết được.

Nhưng xin Chúa cho chúng ta biết lắng nghe sự hướng dẫn của Chúa qua những biến cố thật nhỏ, thật tự nhiên… như thánh Giuse đã đón nhận qua giấc mơ thật bình dị.

Lạy thánh cả Giuse, xin chuyển cầu cùng Chúa cho chúng con, cho gia đình chúng con, cho giáo phận chúng con. Amen.

-------------------------------

 

19/03-80: Thánh Giuse


--TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc

 

Hôm nay toàn thể Giáo hội Công giáo mừng lễ Thánh Giuse, và một cách đặc biệt hơn Giáo hội 19/03-80


Hôm nay toàn thể Giáo hội Công giáo mừng lễ Thánh Giuse, và một cách đặc biệt hơn Giáo hội Việt Nam của chúng ta có Quan Thầy là Thánh Giuse. Hôm nay cũng là lễ Bổn mạng của Cha Sở Giuse, Chính xứ của Giáo xứ Mông Triệu và nhiều người hiện diện ở đây. Xin chúc mừng Cha sở và mọi người.

Lời Chúa, nhất là bài Tin mừng nói về Thánh Giuse, tường thuật câu chuyện, mà một vài nhà kinh thánh gọi là câu chuyện truyền tin cho Thánh Giuse. Thiên thần hiện ra với Thánh Giuse trong giấc mộng, và khuyên thánh nhân đừng ngại nhận Đức Maria về làm vợ mình, đừng ngại đưa Mẹ Maria về nhà, dù Mẹ Maria đang có thai. Vì thai nhi trong lòng Mẹ, không phải tự nhiên mà có, không phải do xác thịt hay máu huyết, mà là do quyền năng của Chúa Thánh Thần.

Thai nhi ấy không chỉ là một con người mà còn là Người Con của Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, được sinh ra, không phải được tạo thành, vì Ngài đã có từ trước muôn thuở. Ngài là Con của Chúa Cha ở trên trời; đã từ trời xuống thế nhập thể trong lòng trinh nữ Maria, và đã làm Người. Và Người Con sẽ sinh ra ấy được Thánh Giuse đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu Dân của Người khỏi tội.

Như thế là Thiên Chúa đã đưa Thánh Giuse vào chương trình cứu độ của Ngài. Thánh Giuse đã tích cực góp phần thực hiện chương trình ấy. Ngài được Thiên Chúa chọn, thay mặt cho Thiên Chúa, trở thành người cha của Chúa Giêsu ở trần gian. Vì vai trò làm cha của Chúa Giêsu và làm bạn đời của Mẹ Maria, sống bên cạnh một người nữ trẻ tuổi xinh đẹp là Mẹ Maria, mà theo dự định của Thiên Chúa, sẽ trọn đời đồng trinh, nên các nghệ nhân thường có khuynh hướng hình dung Thánh Giuse như một cụ già.

Điều đó không đúng! Thánh Giuse là một thanh niên trẻ trung và đầy sinh lực, có lẽ chỉ lớn hơn Mẹ Maria chừng năm bảy tuổi! Nhưng ngài là một người rất nhân đức, được Thiên Chúa chọn để đồng hành với Mẹ Maria đồng trinh trong cuộc đời dâng hiến của Mẹ. Mẹ đã hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, không thuộc về người trần gian.

Trường hợp Thánh Giuse là một bài học khiết tịnh cho các bậc mày râu. Không cần chờ tới tuổi già mới sống đời thanh tịnh. Sự thanh khiết của đôi bạn Giuse và Maria là do tình yêu. Sức mạnh và sự vui tươi của tuổi trẻ không là ngăn trở cho một tình yêu cao thượng. Khi cưới Mẹ Maria về, Thánh Giuse có một “trái tim trẻ trung” trong một thân xác trẻ trung. Khi được thiên thần báo mộng cho biết mầu nhiệm “Đức Maria là Mẹ Chúa Trời”, người đã sẵn sàng đón nhận Mẹ Maria, đồng hành với Mẹ , chăm sóc Mẹ, mà vẫn tôn trọng sự trinh nguyên của Mẹ. Mẹ Maria trở thành một niềm vui, một hồng ân cho Thánh Giuse.

Thánh Giuse còn được sách Tin mừng gọi là “người công chính”. Mà người công chính, theo lời kinh thánh, là người sống bằng đức tin, hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa như tổ phụ Abraham. Người công chính, nói đơn giản, là người tốt, ngay thẳng, trung tín. Là tôi tớ trung thành của Thiên Chúa, luôn thực thi trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa. Là con người luôn biết kính trọng và yêu thương tha nhân.

Thánh Giuse là một con người bình thường như mọi người, được Thiên Chúa giao phó thực hiện “những điều cao trọng” trong cuộc đời thường, như làm “cha nuôi của Chúa Giêsu”, làm “bạn đời của Đức Trinh nữ Maria”. Người đã thực hiện đúng như ý muốn của Thiên Chúa trong mọi biến cố. Thiên Chúa bảo người cưới Mẹ Maria, đưa Mẹ về nhà mình, đưa Mẹ Maria sắp sinh nở về nguyên quán Bêlem để khai lý lịch, đưa Mẹ và hài nhi Giêsu chạy trốn sang Aicập, sau đó đưa gia đình về Nazarét vùng Galilê.

Thánh Giuse mạnh dạn đối diện với các vấn đề, đương đầu với các khó khăn, mà không bao giờ trách móc Thiên Chúa hay quy tội cho người khác. Ngài là một con người “đầy tinh thần trách nhiệm”, một con người nhiều sáng kiến trong bất cứ công việc gì được trao phó.

Ngày nay Thánh Giuse vẫn đồng hành với chúng ta và che chở chúng ta, như đã đồng hành và che chở Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Với kinh nghiệm của mình, ngài xứng đáng là thầy dạy đời sống nội tâm cho mỗi người chúng ta: dạy cho ta biết Chúa Giêsu, gần gủi với Chúa , chia sẻ cuộc đời của Chúa. Người giúp ta ý thức mình là người nhà của Chúa, là thành viên của Giáo hội, Gia đình của Thiên Chúa tại trần gian.

-------------------------------

 

19/03-81: Thánh Lễ kính Thánh Giuse


--GM. Giuse Võ Đức Minh

 

Chúng ta vừa nghe các bài đọc Lời Chúa. Lời Chúa chính là sự sáng soi dẫn đời sống của chúng 19/03-81


Chúng ta vừa nghe các bài đọc Lời Chúa. Lời Chúa chính là sự sáng soi dẫn đời sống của chúng ta. Như có lời đã chép rằng: “Lời Người là đèn rọi bước chân, ánh sáng cho nẻo đường tôi đi”. Và đặc biệt, trong ngày hôm nay, ngày đại lễ kính thánh cả Giuse. Không những mối liên hệ hết sức mật thiết với Mẹ Maria, với Chúa Giêsu, mà ngài còn như được nối kết với các tổ phụ Ápraham, với vua Đavít. Và hơn thế nữa, Ngài thực hiện những gì Thiên Chúa trao phó cho Ngài trong công trình cứu độ. Vì thế, chúng ta khó có thể trong một khoảng thời gian của một thánh lễ nói về Thánh Giuse. Tuy nhiên, vì ngài là người cha của chúng ta, người thân cận của chúng ta. Vì thế, trong ngày đại lễ của ngài, chúng ta xúc động và hãnh diện nói về người cha của chúng ta.

Chúng ta mượn Lời Chúa soi sáng và mặc lấy tâm tình của Mẹ Maria, Mẹ nhân lành, người mà Chúa đã định liệu ở bên thánh Giuse. Để từ đó, chính Mẹ Maria là trinh nữ lắng nghe lời Chúa, trinh nữ cầu nguyện, trinh nữ cưu mang và sinh hạ Chúa, trinh nữ hoàn toàn và trọn vẹn hiến dâng đời sống cho Chúa. Chính Mẹ Maria hiểu lời Chúa, hiểu thánh Giuse và soi sáng cho chúng ta, để chúng ta thêm hiểu về người cha Giuse kính yêu, để yêu mến và luôn luôn tin tưởng, cậy trông ở nơi Ngài. Nếu chúng ta được phép hỏi Mẹ Maria, thưa Mẹ, xin Mẹ chỉ dạy cho chúng con điều mà Mẹ hiểu sâu xa nhất về Thánh Giuse. Chắc hẳn, ngài cũng xúc động, bởi vì ngài hiều và biết ơn Thánh Giuse.

Và đặc điểm của Mẹ Maria, Ngài không phát xuất từ bản thân của mình, từ cảm tính của mình, nhưng ngài đã dùng lời Chúa để cho chúng ta hiểu về thánh Giuse. Và Ngài như muốn nói với chúng ta rằng các bài đọc lời Chúa hôm nay bao trùm mầu nhiệm của Thánh Giuse. Mà đã là mầu nhiệm thì chúng ta không thể nào quán triệt hết tất cả. Muốn hiểu được mầu nhiệm phải có ơn của Chúa Thánh Thần. Cũng như Mẹ Maria, Mẹ chẳng là gì cả, nhưng Mẹ trở nên Đấng mà muôn đời gọi là diễm phúc vì Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên Mẹ.

Vì thế, hiểu về thánh Giuse phải có ơn của Chúa Thánh Thần. Và Chúa Thánh Thần soi sáng để cho thấy rằng nơi Giuse chính là hình ảnh của tổ phụ Ápraham, người công chính của Thiên Chúa. Người công chính là người tin, thờ phượng, đi theo, và hết sức khiêm tốn trước Thiên Chúa. Người công chính trước mặt Thiên Chúa luôn luôn nghe Lời Chúa, suy niệm Lời Chúa bằng đời sống cầu nguyện để Lời Chúa trở nên thật sự như lương thực cho cuộc đời của mình. Và chính Lời Chúa sẽ là sức mạnh để hướng dẫn cả cuộc đời của người công chính. Vì thế, nếu muôn thế hệ gọi Mẹ là người diễm phúc, thì Mẹ cũng có thể nói lòng thương xót, ân sủng, tình thương của Thiên Chúa tuôn đổ từ đời nọ đến đời kia trên những ai kính sợ Chúa, trên những ai được Thánh Kinh gọi là đấng công chính. Cứ đến với đấng công chính sẽ gặp được lòng thương xót của Thiên Chúa, sẽ gặp được tình thương của Thiên Chúa, sẽ gặp được lòng nhân hậu của Thiên Chúa, sẽ gặp được chính sự sống của Thiên Chúa. Vì thế, Mẹ không ngần ngại nói rằng Giuse là hiện thân của tổ phụ Ápraham như bài đọc thứ 2 chúng ta vừa nghe. Năm xưa tổ phụ Ápraham đi trong đức tin, đi dưới sự hướng dẫn của Lời Chúa mà hôm nay trong bài đọc thứ hai Thánh Phaolô đã dùng một cái hình ảnh thật là lạ lùng. Bên bờ tuyệt vọng vẫn một niềm tin. Đối với thế gian thì mất tất cả, tuyệt vọng rồi. Nhưng mà tổ phụ Ápraham vẫn tin, vẫn tin vào Thiên Chúa, vẫn đặt để tất cả niềm tin yêu, sự sống của mình, tương lai của mình nơi Thiên Chúa, bên bờ tuyệt vọng vẫn một niềm tin:“ spes contra spem” Ngôn ngữ tuyệt vời đó của thánh Phaolô diễn tả đời sống, hình ảnh và cuộc hành trình thiêng liêng của tổ phụ Ápraham. Điều đó rọi soi vào đời sống của Thánh Giuse. Giuse là một người như tất cả mọi người, nghĩ đến tương lai của mình.  Chúa lại hướng dẫn Giuse trên một con đường, mà Giuse, không bao giờ ngờ, không bao giờ nghĩ tới. Con đường của Chúa khác hẳn con đường của con người. Và nhiều khi mình phải đối diện với sự tối tăm, bên bờ tuyệt vọng nhưng vẫn một niềm tin. Vì thế, hình ảnh của tổ phụ Ápraham, hình ảnh của các tổ phụ, hình ảnh của các bậc tiền bối trong lịch sử dân Chúa như tìm gặp được, như cô đọng lại nơi chính con người của Thánh Giuse. Có thể nói tất cả những vị tổ phụ, các vị tiên tri, các vị hiền nhân trong lịch sử dân Chúa đều có thể thấy hình ảnh của mình nơi chính thánh Giuse. Nhờ Thánh Thần soi dẫn, nhờ Lời Chúa soi sáng, khuôn mặt và đời sống của thánh Giuse tỏ hiện một cách đặc biệt.

Rồi trong bài đọc thứ nhất, Lời Chúa lại cho thấy rằng hào quang của Vua Đavít, sự huy hoàng của Vua Đavít cũng chiếu tỏa nơi chính Thánh Giuse. Bởi vì Thánh Giuse thuộc hoàng tộc Đavít. Nếu trong dòng lịch sử, thì Giuse phải là đấng kế vị hoàng tộc Đavít. Thế nhưng, Giuse đã sống điều mà sau này Chúa Giêsu đã ngợi khen: Ai là người lớn nhất, ai là người cao trọng, thì hãy trở nên người tôi tớ phục vụ anh em của mình. Không ai có thể ngờ, hình ảnh của Giuse cao trọng quá sức, muôn đời đều ngợi khen Giuse là người cha công chính. Ngài vẫn âm thầm. Ngài vẫn nhẫn nại. Ngài vẫn bao dung. Ngài không thốt ra một lời nào làm cho ai phải đau đớn, nhưng hình ảnh của ngài âm thầm, yêu thương, hiền lành, khiêm nhường, phục vụ và phục vụ hết mình. Ai là người lớn nhất, ai là người có quyền thì trở nên người phục vụ, và thậm chí là người tôi tớ của anh em của mình.

Lời Chúa soi sáng để chúng ta hiểu. Và Mẹ Maria chia sẻ dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần để chúng ta gặp được nơi thánh Giuse mẫu gương của các tổ phụ, mẫu gương của các bậc hoàng đế, mẫu gương của các bậc tiên tri. Và rồi Giuse có thêm cái gì nữa cho chúng ta. Giuse vẫn luôn luôn ở bên Chúa Giêsu, gắn bó với Chúa Giêsu cho đến độ sau này trong thời gian hoạt động rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu, đi tới đâu, mọi người đều nhận Chúa Giêsu là người con thiêng liêng của thánh Giuse. Khuôn mặt của Thánh Giuse, hình ảnh của Thánh Giuse và thậm chí lời nói của Thánh Giuse cũng ẩn hiện nơi chính Chúa Giêsu. Bởi vì, Giuse khi đã hiểu được sứ mạng của Mẹ Maria, khi đã nói lời xin vâng với thánh ý của Thiên Chúa, thì Giuse gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu. Và điều kỳ diệu cũng như tuyệt vời mà bài Phúc âm hôm nay gợi lên cho chúng ta. Thiên Thần nói với Giuse: Ngài sẽ đặt tên cho Con Trẻ được sinh ra bởi Đức Maria, bạn thanh sạch của ngài, tên đó chính là Giêsu, là Đấng Cứu Thế. Giuse được diễm phúc có một không hai như thế, đặt tên cho Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế.

Kính thưa anh chị em!

Mừng lễ Thánh Cả Giuse hôm nay, chúng ta xúc động nói về người cha kính yêu của mình, nói về vị thánh bổn mạng của mình, nói về người cha của cả Giáo Hội, của dòng lịch sử của dân Chúa. Mà vì thế, lời mời gọi hãy đến với Giuse như nhắc nhở tất cả chúng ta. Khi chúng ta gặp những khốn khó trong cuộc đời, khi chúng ta gặp những lúc bên bờ tuyệt vọng, nhưng nhìn vào Giuse vẫn kiên trì trong đức tin, vẫn kiên trì trong đức tin. Và khi chúng ta thành đạt, vinh quang có tất cả mọi sự, có quyền lực, thì nhìn vào Giuse để thấy rằng ai là người có quyền, ai là người danh vọng, hãy trở nên khiêm hạ, khiêm tốn, hiền lành để yêu thương và phục vụ anh em đồng loại của mình. Hoàn cảnh hiện nay trên thế giới như nhắc bảo chúng ta hãy đến với thánh Giuse. Chính ngài sẽ cùng với Mẹ Maria chuyển cầu cùng Thiên Chúa để đem lại sự bình an, hiệp nhất mở đường cho hạnh phúc của các tạo vật của Chúa. Amen.

-------------------------------

 

19/03-82: Thánh Giuse là Đấng Bảo trợ các người cha


--Giáo Phận Bắc Ninh

 

Hôm nay chúng ta mừng lễ kính Thánh Cả Giuse là Cha nuôi Chúa Giêsu, là Bạn trăm năm Đức 19/03-82


Hôm nay chúng ta mừng lễ kính Thánh Cả Giuse là Cha nuôi Chúa Giêsu, là Bạn trăm năm Đức Trinh Nữ Maria, là Đấng Bảo trợ Hội Thánh, Bảo trợ nước Việt Nam. Đó là những lý do chính thúc giục chũng ta yêu mến, tin cậy và cầu xin Thánh Giuse.

Nhưng trong bài này, tôi muốn nói về một lý do nữa: Thánh Giuse là Đấng Bảo trợ các người cha gia đình.

Thưa anh chị em,

Trong một căn nhà, cột trụ có một vai trò và vị trí rất quan trọng. Cột trụ vững mạnh thì căn nhà sẽ đứng vững. Trái lại, nếu cột trụ yếu ớt, xiêu vẹo, thì căn nhà cũng xiêu vẹo và sụp đổ.

Người cha cũng là cột trụ của gia đình. Người cha khôn ngoan, can đảm, đạo đức, thì gia đình sẽ an vui, hòa hợp và đứng vững. Trái lại, người cha vụng về, nhát đảm, khô khan, thì gia đình sẽ lục đục, chia rẽ và sụp đổ khi gặp gian nan.

Kinh nghiệm cho thấy, một gia đình trong thời chiến tranh, cửa nhà bị tàn phá, tài sản bị phân tán, vợ thì yếu đuối, con thì thơ dại, trông mặt nào cũng thấy bi quan chán nản, không phương cứu vãn. Tuy nhiên, người cha vẫn đứng vững và trung thành yêu vợ thương con, can đảm hy sinh vì vợ con, thì khi đó tình yêu và lập trường của người cha trở nên bảo đảm cuối cùng cứu gia đình khỏi tan vỡ.

Để làm trọn nghĩa vụ cao quí đó, người cha phải làm gì?

Trước hết, phải biến gia đình thành nhà cầu nguyện theo gương Thánh Giuse. Đối với Thánh Giuse việc cầu nguyện chiếm địa vị ưu tiên trong mọi sinh hoạt của Thánh Gia: Cầu nguyện hằng ngày trong gia đình, cầu nguyện hằng tuần ngày Sabat trong hội đường, cầu nguyện hằng năm ở Đền thờ Giêrusalem… Đó là tấm gương sáng mà Thánh Gia để lại cho chúng ta.

Về phần xác, mỗi ngày gia đình ta họp nhau ít là hai lần để ăn cơm chung do người cha đứng đầu, thì phần hồn, mỗi ngày chúng ta cũng cần hợp nhau tối sớm để đọc kinh chung do người bố chủ sự. Đó là điều kiện cần thiết để nuôi dưỡng đức tin. Kinh nghiệm cho thấy gia đình nào siêng năng đọc kinh tối sớm, gia đình ấy sẽ giữ vững đức tin, gia đình nào lười đọc kinh, đức tin sẽ suy yếu và có nguy cơ sụp đổ trước những cơn thử thách của cuộc đời.

Đọc kinh tối sớm là điều kiện cần thiết nuôi dưỡng đức tin, hơn nữa còn là bảo đảm cho gia đình hòa thuận an vui.

Đời sống gia đình không phải bao giờ cũng vui tươi như ngày mới cưới, gia đình nào cũng có lúc va chạm, vợ chồng cãi cọ nhau, con cái ngỗ nghịch. Nhưng ban tối nếu gia đình họp nhau đọc kinh thì những bất bình va chạm ban ngày sẽ tan đi trong giấc ngủ. Trái lại nếu không đọc kinh, mỗi người đi ngủ đem theo sự buồn giận trong lòng, thì ban đêm sẽ khó ngủ và sáng dậy đầu óc sẽ nặng nề hơn.

Đọc kinh chung là điều kiện nuôi dưỡng đức tin, bảo đảm sự hòa thuận trong gia đình, hơn nữa còn là nguồn nghị lực giúp gia đình đứng vững trước cơn gian nan thử thách.

Đời sống gia đinh không phải luôn êm xuôi như nước chảy một chiều, gia đình nào cũng có lúc trải qua những ngày khó khăn thử thách như ốm đau bệnh tật, mất cha, mất con, làm ăn thất bại, tai nạn túng thiếu… Trong những tình huống đó, nếu gia đình vững lòng tin cậy, bền bỉ cầu nguyện thì thế nào Chúa cũng ban ơn trợ giúp để vượt qua.

Sau nữa, phải biến gia đình thành trường luyện nhân đức, nhất là đức hiền lành nhẫn nại.

Sống chung là một dịp hãm mình rất lớn. Người ta thường nói: “Bá nhân bá tính”. Nghĩa là một trăm người, một trăm tính nết khác nhau. Không nói gì đến một trăm người, chỉ mấy đứa con, trong một vấn đề nhỏ mọn như ăn uống thôi mà người mẹ cũng khó lòng dọn thức ăn cho vừa tất cả: đứa thích món này, đứa thích món kia, làm thế nào mà chiều được. Nếu không hợp tính nhau, không đồng quan điểm với nhau thì chỉ còn một cách là nhịn nhục chịu đựng trong tinh thần hy sinh bác ái, thì gia đình mới yên ổn được. Về vấn đề này, người cha phải làm gương sáng cho vợ con trước nhất, bởi vì sự thường người bố hay lấy quyền mình mà áp đặt, đòi hỏi, không được như ý sinh ra cáu gắt, đánh đập làm cho vợ con khiếp sợ. Thật là hạnh phúc cho gia đình nào có người bố hiền lành nhịn nhục. Người ta kể chuyện: Ông Socrate, xưa là một nhà hiền triết Hy Lạp có một bà vợ dữ tợn và lắm đều, nhưng ông cứ bình tĩnh chịu đựng. Một hôm bà ta xỉa xói ông những điều thậm tệ, ông im lặng khoác áo ra đi, bà ta còn chạy theo hất một chậu nước vào ông. Nhà hiền triết quay lại thái độ bình tĩnh nói: Tôi biết mà! Sau cơn giông tố thì thể nào cũng đổ mưa! Thế rồi ông cứ bình tĩnh bước đi.

Thưa các ông là những người cha gia đình,

Sứ mạng Chúa trao cho các ông thật là cao cả tựa như sứ mạng của Thánh Giuse, trách nhiệm của các ông cũng rất nặng nề, hoàn cảnh hiện nay cũng đầy khó khăn phức tạp. Chẳng hạn gia đình túng thiếu, việc làm ăn vất vả đi sớm về khuya, còn giờ đâu mà dạy dỗ con cái. Đang khi ấy thì bao nhiêu quyến rũ bên ngoài, bao nhiêu tệ nạn xã hội lôi kéo con cái ta vào con đường hư hỏng: cờ bạc, trộm cắp, nghiện hút, bạn bè xấu, phim ảnh trụy lạc… Nhiều lúc các ông cảm thấy khổ tâm và bất lực, các ông lo lắng nhìn con cái và tự hỏi: Sau này chúng sẽ ra sao ? Còn giữ vững đức tin hay bỏ đạo ? Còn trung thành với nền nếp gia đình hay trở nên người hư hỏng

Dù sao chúng ra cũng không thể ngã lòng nản chí, vì quyền năng của Thiên Chúa thường biểu lộ ra trong sự yếu đuối và bất lực của con người, lúc chúng ta thấy mình yếu đuối là lúc chúng ta mạnh.

Vậy chúng ta hãy đến cùng Thánh Giuse, xin Người hộ giúp. Xưa Thánh Giuse cũng sống đời sống gia đình như ta. Người đã làm đầu coi sóc mọi sự trong nhà Đức mẹ mà nay người là Đấng mọi nhà phải cậy trông cho được vững vàng.

Thánh Giuse thấu hiểu hơn ai hết những nỗi khó khăn phức tạp của đời sống gia đình. Người cũng hiểu hơn ai hết vai trò và trách nhiệm của người cha gia đình. Do đó, với một tình thông cảm bao la, Thánh Giuse luôn sẵn sàng hộ giúp các người cha gia đình, khi đến cầu xin Người.

Sau cùng, tôi đề nghị anh chị em, nhất là các bà mẹ, cầu nguyện nhiều cho các gia đình có một người gia trưởng giống như Thánh Giuse, thì đời sống gia đình ta sẽ hạnh phúc biết bao. Người ta kể lại: Một người mẹ gia đình đến xin một luật sư biện hộ cho mình trong dự định ly hôn với ông chồng. Bà nói: Ông nhà tôi quá thể, tôi không chịu nổi, tối nào về cũng say khướt rồi đánh mắng vợ con, đập phá đồ đạc om sòm nhà cửa… Luật sư hỏi: Khi ấy thì bà làm gì?- Tất nhiên tôi phải lên tiếng cãi lại không chịu ngồi yên. Luật sư nói: Tôi nghĩ nhà bà còn thiếu một cái. Thiếu cái gì? Thiếu một cái ghế quì. Nếu khi ông nhà bà say sưa, đánh mắng như vậy, bà cứ yên lặng quì cầu nguyện cho ông sửa đổi tính nết thì sẽ có kết quả hơn nhiều.

Trên đây là một bài học rất khôn ngoan và thâm thúy, mong rằng chúng ta đem ra áp dụng trong đời sống gia đình khi gặp trường hợp tương tự. Amen.

-------------------------------

 

19/03-83: Làm theo ý Chúa và chu toàn nhiệm vụ cách âm thầm


--Lm Carôlô Hồ Bạc Xái

A- Phân tích (Hạt giống...)

 

Trong bài trích Phúc Âm này, Thánh Matthêu kín đáo cho biết một số chi tiết quan trọng về Đức 19/03-83


Trong bài trích Phúc Âm này, Thánh Matthêu kín đáo cho biết một số chi tiết quan trọng về Đức Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse và Chúa Giêsu:

1. Về Đức Mẹ Maria: một số chi tiết chứng tỏ Maria là một Trinh nữ (do đó đứa con trong bụng Người không phải là con của Thánh Giuse):

- “Maria đính hôn với Giuse” (câu 18): Mt dùng chữ “đính hôn” chứ không phải “kết hôn”.

- “đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần” (câu 18); “vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần” (câu 20).

2. Về Thánh Giuse: “Là người công chính” (câu 19): “công chính” có 2 nghĩa:

a/ nghĩa thông thường là “công bình”, điều gì không phải của mình thì mình không nhận. Giuse biết thai nhi không phải của mình nên không dám nhận làm cha, do đó muốn bỏ đi;

b/ nghĩa đạo đức: công chính là tuân theo ý Chúa. Khi được thiên sứ cho biết Thiên Chúa muốn Giuse rước mẹ con Đức Mẹ Maria về nhà mình thì Giuse mau mắn vâng theo.

3. Về Chúa Giêsu: Ngài là một đứa con đặc biệt: “thụ thai “bởi phép Chúa Thánh Thần” (câu 18 và 20), “chính Ngài sẽ cứu dân mình khỏi tội” (câu 21).

B- Suy gẫm (... nẩy mầm)

Thánh Giuse nêu gương cho chúng ta về nhiều điểm:

1. Một người luôn làm theo ý Chúa: theo khuynh hướng tự nhiên, việc tuân theo ý Chúa để nuôi dưỡng Đức Mẹ Maria và Chúa Giêsu là điều rất khó, vì Đức Mẹ Maria không phải là vợ Người đúng nghĩa, và Chúa Giêsu không phải là con ruột của Người. Nhưng Thánh Giuse đã nuôi dưỡng hai Đấng, không phải một cách miễn cưỡng mà hết sức chu đáo.

2. Một ngươi chu toàn nhiệm vụ cách âm thầm: Trong các sách Phúc Âm, chúng ta không nghe Thánh Giuse nói một lời nào, cũng không thấy Giuse được vinh dự gì nổi bật. Lời nói của Người là làm bổn phận, vinh dự của Người là chu toàn bổn phận, niềm vui của Người cũng là chu toàn bổn phận.

3. Giáo Hội coi Thánh Giuse là “Đấng giữ gìn các kẻ đồng trinh”. Người đã giữ gìn Đức Mẹ Maria. Người cũng sẵn sàng giữ gìn những người tận hiến đời mình cho Chúa.

4. Có một người làm công, ngày ngày đi quét lá rừng rụng xuống, gom lại một nơi rồi hốt đi. Một hôm một đoàn người lên rừng chơi, thấy người quét lá, họ rất đỗi ngạc nhiên, và họ càng ngẩn ngơ khi biết rằng chính Hội đồng Thành phố đã thuê với số lương 7000 đồng một tháng.

Sau một hồi vãn cảnh, đoàn người trở về. Một số người tìm đến ông Chủ tịch Hội đồng thành phố đề nghị hủy bỏ phụ khoản chi tiêu cho việc quét lá rừng vì quá vô ích. Ông Chủ tịch cũng như Hội đồng chẳng hiểu căn do của phụ khoản kia, vì họ chỉ làm theo truyền thống, nên cuối cùng quyết định không thuê người quét lá rừng nữa.

Ngay giữa thành phố có một cái hồ rộng lớn, nước trong xanh, cây to in bóng mát, người qua lại dập dìu. Mọi người ca tụng nó là viên ngọc trai điểm trang cho thành phố. Nhưng lạ thay, một tháng sau ngày người quét lá rừng nghỉ việc, nước hồ trở nên đục ngầu bẩn thỉu, không còn thấy bóng người hóng gió ngoạn cảnh, quán xá bên bờ hồ vắng tanh... Cả thành phố trở nên buồn tẻ mà không hiểu tại đâu. Hội đồng Thành phố nhóm ngay phiên họp bất thường để tra xét hiện tượng trên. Và sau cùng họ tìm ra nguyên nhân: do người phu quét lá rừng nghỉ việc nên lá rừng rụng xuống, gió đùa lá bay tứ tung trên mặt đường, rồi rơi xuống hồ nước trong xanh, gây nên tình trạng ô nhiễm...

Và ngay hôm đó họ tái dụng người phu quét lá với số lương còn cao hơn xưa. (Trích “Phúc”)

5. ”Này ông Giuse là con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20)

6. Học xa…

Mỗi lần tôi về nhà, đám em tôi lại ùa ra tíu tít, mẹ thì hỏi dồn dập khiến tôi không kịp trả lời. Riêng ba chỉ lặng lẽ nhìn tôi, với ánh mắt ấm áp một nụ cười.

Cuộc đời ba là những tháng ngày âm thầm làm việc nuôi chúng tôi khôn lớn. Ba là bệ phóng vững chãi cho chúng tôi vào đời. Mỗi đứa con cứ thế lấn lượt đi lên từ bệ phóng ấy.

Lạy Thánh Giuse, ngày xưa Ngài đã sống một đời âm thầm cho Chúa Giêsu được lớn lên. Xin dạy con biết sống vì và sống cho người khác (Hosanna)

--------------------------------------

 

19/03-84: Lễ thánh Giuse, Bạn Đức Trinh Nữ


--Lm Giuse Đinh Lập Liễm

 

Kinh thánh đã xác nhận thánh Giuse “là người công chính và không muốn tố giác bà, nên định 19/03-84


Kinh thánh đã xác nhận thánh Giuse “là người công chính và không muốn tố giác bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19). Khi gọi Giuse là người công chính, và nhìn vào cuộc sống của Ngài, chúng ta có thể hiểu được nội dung của từ công chính ấy.

Theo nghĩa thông thường: từ “công chính” có nghĩa là “công bình”, nghĩa là trả lại cho người khác những gì thuộc về họ. Nói khác đi, công chính là không dám nhận những gì không phải là của mình. Thánh Giuse định trốn đi khi biết Đức Maria đã mang thai.

Theo lời giải thích xưa kia thì thánh Giuse trốn đi vì nghi ngờ Đức Maria bất trung. Nhưng theo các nhà chú giải mới thì thánh Giuse định bỏ trốn, vì thấy mình không xứng đáng với danh hiệu làm Cha Đấng Cứu Thế. Chức vị làm Cha Đấng Cứu Thế là một chức vị quá cao trọng, thánh Giuse thấy mình không phải là Cha Đấng Cứu Thế, không xứng đáng làm Cha Đấng Cứu Thế, nên Ngài bỏ trốn.

Theo nghĩa đạo đức: trước sự kiện Đức Maria thụ thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần, mặc dù không hiểu và định tâm rút lui trong âm thầm, để thực hiện kế “đào vi thượng sách” khôn ngoan, nhưng một khi đã được mạc khải cho biết sứ mạng “Cha nuôi” của mình thì Giuse đã mau mắn rước mẹ con Đức Maria về nhà mình.

Nhiệm vụ của thánh Giuse là gìn giữ Đức Giêsu và Đức Maria. Chúa đã trao cho Ngài nhiệm vụ đó và Ngài đã hết sức chu toàn. Chu toàn với tinh thần trách nhiệm cao, không để xảy ra chuyện gì đáng tiếc. Chu toàn với sự tinh tế, kính cẩn, nâng niu. Hãy nhìn cảnh Thánh gia trốn sang Ai cập, Đức Maria bế Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa. Thánh Giuse dắt lừa đi trong đêm tối. Không còn cảnh tượng nào đẹp hơn. Thánh Giuse trân trọng kho tàng Chúa trao cho Ngài gìn giữ. Thánh Giuse kính cẩn nâng niu Đức Maria và Đức Giêsu. Ngài chu toàn nhiệm vụ với tinh thần dấn thân hy sinh không ngại gian khổ. Đang đêm mà Chúa báo thức dậy trốn sang Ai cập, Ngài cũng thức dậy lên đường tức khắc.

Ngài là một gia trưởng: thánh Giuse được Chúa trao cho nhiệm vụ coi sóc Đức Giêsu và Đức Maria, gìn giữ gia đình, Ngài đã hết sức chu toàn trong mọi hoàn cảnh trong lúc thuận tiện cũng như trong hoàn cảnh khó khăn.Theo pháp lý, thánh Giuse là Bạn trăm năm của Đức Maria, Ngài là chồng thực sự, mặc dầu không ăn ở với nhau. Ngài cũng phải là Cha của Đức Giêsu mặc dù chỉ là cha nuôi. Cả ba vị đã làm thành một gia đình thực thụ. Người ta thường nói: “Kim chỉ phải có đầu” (Tục ngữ), như vậy trong gia đình Nazareth thì đương nhiên thánh Giuse phải là gia trưởng, và Đức Maria và Đức Giêsu phải vâng lời Ngài với tư cách Ngài là gia trưởng.

Người cha là mái hiên che chắn cho gia đình trước bao giông tố của cuộc đời. Người cha chấp nhận những gian khổ cuộc đời để nuôi dưỡng gia đình.

Ngài là người cộng tác âm thầm trong công cuộc cứu thế, với vai trò thật mờ nhạt. Kinh Thánh chỉ nhắc đến Ngài với tư cách là một bác thợ mộc ở Nazareth và là cha của ông Giêsu, thế thôi, rồi Ngài rút vào bóng tối không ai biết đến nữa. Nhưng công dưỡng dục vào bảo vệ thánh gia, được thánh tiến sĩ Bênađô ghi nhận: “Thiên Chúa Cha chọn thánh Giuse không những để làm người an ủi Đức Maria khi gặp gian truân và để làm Cha nuôi Chúa Con mà còn để thánh nhân cộng tác vào công trình của Chúa Cứu Thế là công việc chung cả Ba Ngôi Thiên Chúa”.

Ngài là đầy tớ trung thành: nếu ơn gọi phát xuất từ sáng kiến của Thiên Chúa và nỗ lực của bản thân để đáp trả lời mời gọi, thì qua bài Tin mừng hôm nay, chiêm ngưỡng thánh Giuse trong dáng dấp “người công chính” cũng cho thấy Thánh Giuse là tôi tớ trung tín một đời, sẵn sàng vâng nghe tiếng gọi và mau mắn thi hành, như một đầy tớ vô dụng, tất cả đều cậy nhờ vào Thiên Chúa (Lc 17,10), sẵn sàng bỏ ý riêng làm theo ý Chúa để cộng tác vào công trình cứu độ của Thiên Chúa.

Ngài có thần thế trước toà Chúa: ngày xưa vua Pharaon nói với dân chúng: “Ite ad Joseph”: hãy đến cùng Giuse, tiên báo Giuse ngày nay: không phải chỉ ban phát gạo thóc mà là muôn ơn. Thánh Giuse có thần thế trước mặt Chúa. Cảm nghiệm điều đó, thánh nữ Têrêsa Avila đã nói: “Tôi thấy không lần nào xin sự gì cùng thánh Giuse mà không được như ý, ngài giúp chúng ta trong mọi trường hợp”.

-------------------------------

 

19/03-85: Thánh Giuse, Bạn trăm năm Đức Trinh nữ Maria


--Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Hôm nay chúng ta cùng toàn thể Giáo Hội mừng lễ kính thánh Giuse

I. ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ

 

Đọc kỹ lại Tin Mừng để tìm hiểu về Thánh Giuse, chúng ta phải ngạc nhiên về công việc của 19/03-85


Đọc kỹ lại Tin Mừng để tìm hiểu về Thánh Giuse, chúng ta phải ngạc nhiên về công việc của Chúa. Chúa làm những việc mà con người khó có thể đoán trước được.

+ Thường thì để làm một công việc gì, chúng ta thấy con người luôn phải ưu tiên nghĩ đến vấn đề nhân sự. Những tiêu chuẩn người ta đặt ra để tìm kiếm những con người cho phù hợp với những chức danh hay những địa vị cũng thật quan trọng. Trên báo chí ngày này, nhìn vào những bố cáo tuyển dụng nhân viên chúng ta sẽ thấy rất rõ điều đó.

Ở đây tôi xin đan cử một thí dụ:

Ogilvy and Mather là một công ty quảng cáo lớn. Khi muốn lập ra công ty và muốn cho công ty đó hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận, ông David Ogilvy người sáng lập ra công ty đã nghĩ ra một cách làm như thế này: Ông đã cho mời các vị lãnh đạo cộng tác với ông lại, tặng cho mỗi người một con búp bê Nga, bên trong đó có năm tấm hình người theo thứ tự mỗi lúc mỗi nhỏ dần. Trong tấm hình người bé nhất ông dán vào đó một tờ giấy nhỏ có ghi mấy hàng chữ ”nếu mỗi người trong chúng ta chọn những cộng sự nhỏ hơn mình, chúng ta sẽ trở nên một công ty của những người lùn. Nhưng nếu chúng ta chọn những người cộng sự lớn hơn mình, thì lúc ấy Ogilvy and Mather sẽ trở thành một công ty của những người khổng lồ”

Và quả thật, Ogilvy and Mather đã trở thành một trong những công ty quảng cáo lớn nhất và được kính trọng nhất thế giới.

Những nhà lãnh đạo ngày nay cũng thường làm như vậy. Chọn những con người có trình độ, có năng lực có kinh nghiệm.

+ Khi khởi sự một công trình lớn lao vô tiền khoáng hậu: Công trình cứu chuộc cả loài người để loài người được thoát khỏi ách thống trị tội lỗi thì Thiên Chúa cũng đã không đi ra ngoài khuôn khổ đó. Chúa cũng phải chú trọng đến vấn đề nhân sự. Và những người quan trọng nhất Thiên Chúa đã chọn đó là ai thì anh chị em đã biết. Đó là Đức Maria và Thánh Cả Giuse.

Chúng ta tự hỏi Chúa đã dựa vào tiêu chuẩn nào để chọn thánh Giuse. Chúa không dựa vào những tiêu chuẩn mà con người thường dựa vào đó để tuyển chọn như trình độ, có khả năng, có kinh nghiệm nhưng Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ tiêu chuẩn Chúa muốn là tiêu chuẩn nào: Thánh Matthêô đã ghi ”Ông Giuse, chồng bà, là người công chính” (Mt 1,19).

Vâng, Chúa đã căn cứ vào tiêu chuẩn công chính nơi một người thợ mộc nghèo khó để chọn thánh Giuse để cộng tác với Người trong công việc vô cùng trọng đại đó là công trình cứu chuộc loài người.

+ Nếu chúng ta có dịp nhìn lại toàn bộ Kinh Thánh thì chúng ta cũng thấy mỗi khi tuyển chọn ai thì Chúa cũng theo tiêu chuẩn ấy.

Đây là một ít thí dụ: Chúa đã chọn ông Dacaria và bà Elizabeth. Thánh Luca ghi: ”Cả hai ông bà đều là người công chính trước mặt Thiên Chúa sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì” (Lc 1,5).

Với việc Chúa chọn Gioan Tẩy Giả, ta thấy thánh Marcô cho biết: ”Thật vậy, vua Hêrôđê biết ông Gioan là người công chính thánh thiện, nên sợ ông, và còn che chở ông. Nghe ông nói, nhà vua rất phân vân, nhưng lại cứ thích nghe” (Mc 6,20).

Vâng đúng là Thiên Chúa đã căn cứ vào tiêu chuẩn công chính để chọn những công tác với Người trong công việc vô cùng trọng đại đó là công trình cứu chuộc loài người.

II. BÀI HỌC

1. Chúa yêu thích sự công chính đạo đức. Tại sao thế? Chúng ta thừa biết một xã hội mà thiếu những con người đạo đức công chính thánh thiện thì xã hội ấy sẽ ra sao.

Vào năm 1729 Ben Franklin một nhà tư tưởng lớn của Mỹ đã nói những lời như thế này trước một cử tọa đến nghe ông “Nếu chúng ta vẫn chuyên chăm để trở nên vĩ đại như chuyên chăm trở nên tốt lành thì ta sẽ trở nên vĩ đại thực sự và con số những người đáng nể phục sẽ tăng lên rất nhiều. Nhưng sẽ là một sai lầm lớn nếu chúng ta nghĩ rằng mình có thể trở nên vĩ đại mà không cần có sự đạo đức” rồi như dằn từng tiếng ông khẳng định ”Và tôi khẳng định rằng không bao giờ có một con người thật sự vĩ đại mà đồng thời lại không thật sự đạo đức”.

Đây là lời của sách Khôn ngoan: ”Nếu trên đời này, giàu sang là báu vật ai cũng khao khát, thì còn gì giàu sang hơn đức khôn ngoan?” (Kn 8,5).

Chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng con biết đánh giá các hành động và giá trị của chúng ta theo chuẩn mực của Ngài.

2. Muốn được Thiên Chúa quí chuộng và ban ơn thì không có con đường nào khác hơn là con đường trở nên công chính đạo đức.

Sách Giáo Lý mới số 227 đã viết thật hay: Đối với những ai lo tìm kiếm Nước Trời và sự công chính của Thiên Chúa, Người hứa sẽ ban cho họ đủ mọi sự. Mọi sự đều là của Chúa: ai có được Thiên Chúa thì có mọi sự, miễn là Thiên Chúa có người ấy (T. Cyprien 21).

Thánh Augustinô nói: ”Sống công chính tốt lành không gì khác hơn là yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực mình”… ”Chúng ta dành cho Người một tình yêu trọn vẹn (nhờ tiết độ), không gì lay chuyển nổi (nhờ can đảm), chỉ vâng phục một mình Người (nhờ công bình), luôn tỉnh thức để khỏi sa vào cạm bẩy của mưu mô và gian dối (nhờ khôn ngoan)” Đó là cách sống đẹp lòng Chúa nhất (T. Augustinô, Những thói quen của Hội Thánh Công Giáo 1,25,46).

Một cô kia cuộc đời thật là bất hạnh: bị mồ côi cha từ lúc 6, 7 tuổi, lúc lên 12 tuổi mẹ cô lại qua đời. Từ đó cô thay mẹ chăm sóc cho mấy đứa em nhỏ của cô. Lúc 16 tuổi cô bị lâm bệnh nặng.

Một bà đến thăm và an ủi cô. Bà này hỏi: Cháu có sợ chết không? Đừng sợ cháu à! Chết là được về với Chúa, đó là điều hạnh phúc nhất đấy cháu ạ.

Cô bé trả lời: Thưa bà, cháu không sợ chết. Nhưng cháu không biết là khi gặp Chúa, cháu sẽ phải nói làm sao vì cháu chưa làm được gì cho Chúa cả. Cháu muốn phục vụ Chúa, nhưng từ khi mẹ cháu chết, cháu phải lo nuôi mấy đứa em cháu, vì thế mà cháu chẳng còn thì giờ nào làm được việc gì cho Chúa.

Người đến thăm cô bé, nắm lấy tay cô, bàn tay gầy guộc và nói: Khi gặp Chúa, cháu không cần nói gì cả vì Chúa biết rõ lòng của cháu rồi, cháu đã làm tất cả những gì cháu có thể làm rồi.

Vâng Chúa biết rõ lòng của chúng ta. Làm tất cả những gì có thể làm, đó chính là điều mà chúng ta phải cố gắng. Điều quan trọng đối với Chúa, không phải là chúng ta đã làm được những gì và làm được bao nhiêu nhưng là chúng ta có cố gắng làm những điều mà Chúa muốn chúng ta làm hay không. Thánh Giuse đã làm như thế trong cả cuộc đời của Ngài. Và ngày nay Ngài đã được Chúa ân thưởng vinh quang trên nước trời.

-------------------------------

 

19/03-86: Thánh Giuse, Bạn trăm năm Đức Trinh nữ Maria


--Lm. Giuse Đinh Tất Quý

(2020.03.19-saigon.net)

 

Hôm nay chúng ta cùng toàn thể Giáo Hội mừng lễ kính thánh Giuse (cách riêng chúng ta cầu 19/03-86


Hôm nay chúng ta cùng toàn thể Giáo Hội mừng lễ kính thánh Giuse

(cách riêng chúng ta cầu nguyện cho các đức Giám mục, các linh mục và tu sĩ cũng như anh em giáo dân nhận thánh Giuse làm Bổn mạng).

1. Đọc kỹ lại Tin mừng để tìm hiểu về Thánh Giuse, chúng ta phải ngạc nhiên về cái vẻ tầm thường bề ngoài của Ngài:

- Làm chủ một gia đình nghèo,

- Làm nghề thợ mộc để nuôi sống gia đình nhỏ bé của mình.

Xét về mặt xã hội lúc bấy giờ thì Giuse cũng như gia đình của ngài là những con người rất tầm thường trong xã hội Do thái.

Nhưng chính cái vẻ tầm thường đó mà chúng ta phải suy nghĩ và cảm động. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì Người đã ban cho Giáo Hội một vị thánh cả tầm thường như thế. Và tôi nghĩ không sợ lầm rằng, ngoài những vị thánh lừng danh được Giáo Hội tuyên phong, thì trên thiên đàng còn có rất nhiều những vị thánh mà cuộc đời trần gian của các ngài bề ngoài cũng rất tầm thường như thế. Như vậy thì chúng ta thấy đâu phải những con người tầm thường là những con người không có hy vọng trong nước của Thiên Chúa.

Theo như những hình ảnh chúng ta có thể thấy được đó đây thì Thánh Giuse có bộ râu hình trái tim rất dễ thương, tay cầm cành huệ trắng và mặc áo nhiều màu. Có lẽ vì muốn kính trọng ngài cho nên các họa sĩ đã tô vẽ cho Ngài trở thành dễ thương như thế nhưng nếu chúng ta có dịp nhìn vào một người nông dân Palestine trên truyền hình thì chúng ta có thể thấy được một Giuse hoàn toàn khác: đầu vấn khăn, bộ râu xồm xoàm của người bình dân, tay cầm đục búa thay vì bông huệ trắng, với một bộ áo nông dân màu đất.

Kinh Thánh có nói Giuse thuộc Hoàng tộc David, nhưng là một hoàng tộc đã đến ngày tàn, còn bây giờ ngài chỉ là một anh thợ mộc tầm thường trong một xóm nghèo. Cũng như ngày nay chúng ta thỉnh thoảng gặp những cô "công tằng tôn nữ".... cũng là dòng dõi vua chúa đấy nhưng là những "Công chúa" đi bán vé số hay đậu phộng rang trên vỉa hè.

Trong Tin mừng, chúng ta thấy Giuse không để lại một lời. Ngài sống với Chúa Giêsu và Đức Mẹ như hình với bóng. Giuse vào đời lúc nào không ai hay, chết lúc nào không ai biết. "Đức Maria đính hôn với một người tên là Giuse". Kinh Thánh nói về ngài như nói về một người nào đó, một người tầm thường.

Vâng những nét trên đây đã cho chúng ta thấy về một Giuse rất khiêm tốn, thầm lặng, sống chỉ để phục vụ; một con người gần với đại đa số những người bình dân tầm thường như chúng ta.

2. Tuy nhiên nếu đọc kỹ Kinh Thánh chúng ta có thể tìm ra được những nét rất nổi bật nơi con người tầm thường này. Có rất nhiều nhưng tôi chỉ xin nói đến hai nét đặc trưng này: Đó là đức tin và lòng mến của ngài.

Giuse có một đức tin mạnh mẽ lạ lùng, một đức tin tỉnh thức cả trong giấc mơ. Thiên thần chỉ nói với Giuse trong giấc mơ, nhưng ông thức dậy và thi hành ngay, không chút do dự.

Giuse cũng là người có một đức ái rất tế nhị. Sự thường theo luật Do thái, một cô gái có thai ngoài hôn phối thì sẽ bị ném đá chết. Nhưng Giuse chỉ định tâm bỏ Maria cách kín đáo, không một lời trách móc phàn nàn, hay đừng nói đến tố cáo. Đó là dấu chứng của một đức ái đầy kính trọng. Lòng mến của Giuse còn được thể hiện bằng một cuộc đời vất vả, cực nhọc, suốt đời vì vợ con.

Tuy là một người tầm thường, nhưng đời sống của thánh Giuse đã được tô điểm bằng hai nhân đức sáng chói là đức tin và lòng mến như thế.

3. Chúng ta có thể rút ra được bài học nào qua cuộc đời của vị thánh đặc biệt này? Có rất nhiều bài học nhưng ở đây tôi chỉ xin được nêu lên một vài bài học này

a- Bài học đầu tiên là đừng coi thường những cái tầm thường, những con người bề ngoài rất tầm thường. Kinh nghiệm mục vụ linh mục của tôi cho thấy, phần đông những người thánh thiện lại có một cuộc sống rất tầm thường trước mặt mọi người. Một Gioan XXIII mà Giáo Hội đã phong lên hiển thánh nay mai. Một Têrêsa Calcutta cũng sắp được Giáo Hội tôn phong lên như thế.

b- Bài học thứ hai là thánh Giuse là tấm gương cho mọi người cha gia đình cũng như cho mọi người chúng ta: nên thánh trong việc chu toàn bổn phận tầm thường của mình một cách anh hùng.

Một cô gái kia cuộc đời thật là bất hạnh: bị mồ côi cha từ lúc 6, 7 tuổi, lúc lên 12 tuổi mẹ cô lại qua đời. Từ đó cô thay mẹ chăm sóc cho mấy đứa em nhỏ của cô. Lúc 16 tuổi cô bị lâm bệnh nặng.

Một bà đến thăm và an ủi cô. Bà này hỏi:

- Cháu có sợ chết không? Đừng sợ cháu à! Chết là được về với Chúa, đó là điều hạnh phúc nhất đấy cháu ạ.

Cô bé trả lời:

- Thưa bà, cháu không sợ chết. Nhưng cháu không biết là khi gặp Chúa, cháu sẽ phải nói làm sao vì cháu chưa làm được gì cho Chúa cả. Cháu muốn phục vụ Chúa, nhưng từ khi mẹ cháu chết, cháu phải lo nuôi mấy đứa em cháu, vì thế mà cháu chẳng còn thì giờ nào làm được việc gì cho Chúa.

Người đến thăm cô bé, nắm lấy tay cô, bàn tay gầy guộc và nói:

- Khi gặp Chúa, cháu không cần nói gì cả vì Chúa biết rõ lòng của cháu rồi, cháu đã làm tất cả những gì cháu có thể làm rồi.

Làm tất cả những gì có thể làm, đó chính là điều mà chúng ta phải cố gắng. Điều quan trọng đối với Chúa, không phải là chúng ta đã làm được những gì và làm được bao nhiêu nhưng là chúng ta có cố gắng làm những điều mà chúng ta có thể làm hay không.

Chúa ban cho chúng ta, mỗi người những khả năng khác nhau, trước mắt loài người, những khả năng đó có thể bị kẻ khác coi là tầm thường, nhưng trước mặt Chúa thì không có khả năng nào hơn khả năng nào.

Một người dù đã làm hết sức nhưng vẫn không đạt đến những thành quả được người đời đánh giá cao, thì trước mặt Thiên Chúa người đó đáng được lãnh phần thưởng trọng hậu rồi.

Trước mắt Chúa tất cả chúng ta chỉ là những người quản lý.

Nhiệm vụ của người quản lý là đem hết khả năng của mình ra để làm cho số vốn đã được cấp phát sinh lợi ra. Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta có thế.

-------------------------------

 

19/03-87: THÁNH GIUSE NGƯỜI GIA TRƯỞNG TRUNG THÀNH

 

Để đảm bảo hạnh phúc gia đình, hơn lúc nào hết các đôi vợ chồng ngày hôm nay cần phải ý 19/03-87


Để đảm bảo hạnh phúc gia đình, hơn lúc nào hết các đôi vợ chồng ngày hôm nay cần phải ý thức và can đảm sống nhân đức trung thành theo mẫu gương của Thánh Giuse.

1. Thánh Giuse trung thành bảo trợ gia đình

Sau khi nhận được thánh ý Thiên Chúa, Thánh Giuse đã sẵn sàng đứng ra để bảo trợ Thánh gia.

Thánh Kinh thuật lại: khi biết được Đức Maria mang thai là do quyền năng Chúa Thánh Thần, Thánh Giuse đã không ngần ngại nhận Đức Maria về nhà mình để chở che và nuôi dưỡng. Nhận lãnh hay bảo lãnh Đức Maria về nhà cũng đồng nghĩa Thánh Giuse giải cứu Đức Maria khỏi búa rìu dư luận và thoát khỏi án tử.

Việc bảo trợ Đức Maria cũng có nghĩa là đồng bảo trợ Hài Nhi đang được cưu mang trong cung lòng Đức Maria. Việc nhận Đức Giêsu làm con cũng đồng nghĩa với việc bảo trợ cho Đức Giêsu sinh ra cách hợp pháp và đưa Đức Giêsu vào trong dòng tộc vua Đavít.

Không chỉ bảo trợ cho Hài nhi Giêsu sinh ra hợp pháp mà thánh Giuse còn bảo toàn mạng sống của Đức Giêsu khỏi nanh vuốt của vua Hêrôđê. Để bảo toàn mạng sống của Đức Giêsu, thánh Giuse phải vượt đường xa hiểm trở gần 500 cây số xuyên qua sa mạc dài hơn 200 km không một bóng cây, không một ngọn cỏ, không một giọt nước, rất gian khổ để đến Ai-cập tị nạn.

Ngoài việc bảo vệ sự sống, bảo vệ mạng sống, Thánh Giuse còn phải bảo vệ cho Đức Maria và Hài Nhi Giêsu được sống nữa. Ngài đã phải lao động vất vả tại xưởng mộc bé nhỏ tại làng Nazarét để mưu tìm miếng cơm, manh áo, tiền nong để nuôi sống gia đình.

Cuộc đời thánh Giuse quả không phải sung sướng, an nhàn, trái lại ngài phải trãi qua trăm chiều thử thách và đau khổ. Ý Chúa quan phòng để ngài nêu gương cho ta khi gặp gian lao, thử thách cũng biết vui lòng hy sinh như ngài để bảo vệ sự sống, mạng sống và tạo điều kiện cho gia đình mình được sống an bình.

Là người cha phải hết lòng bảo vệ con cái mình khỏi tay kẻ dữ, khỏi bầu khí hận thù và bất công. Đó là nhiệm vụ vô cùng to lớn của người gia trưởng.

Hằng ngày có biết bao hài nhi bị hủy diệt trong bào thai. Chúng ta cũng đã từng chứng kiến không ít những hài nhi vừa cất tiếng khóc chào đời lại bị chính cha mẹ chúng bỏ rơi, thật đau lòng!

Cách bảo vệ hài nhi an toàn nhất là chúng ta phải biết tỉnh thức để nghe tiếng Chúa nói trong lương tri như Thánh Giuse, dù khi ngủ, ngài vẫn thức tỉnh nhận ra tiếng Chúa nói trong giấc mộng.

2. Thánh Giuse trung thành trong nhiệm vụ giáo dục con cái

Tin mừng thánh Luca đề cao nền giáo dục tuyệt vời của Thánh gia qua câu: “Hài nhi lớn lên càng mạnh khỏe, khôn ngoan và đầy ân sủng trước mặt Chúa và người ta” (Lc 2,40-52). Chỉ một lời ngắn ngủi của thánh sử Luca nhưng đã diễn tả hầu như trọn vẹn cách thế giáo dục của thánh Giuse và Đức Maria đối với con mình. Các ngài đã để ý và giáo dục con mình về mọi phương diện: Thể dục, trí dục, đức dục …

- Thể dục: Trẻ Giêsu càng lớn lên càng mạnh mẻ, đầy sức lực nhờ vào lao động nơi xưởng mộc Nazarét mà thánh Giuse đã dày công tạo dựng. Lên 12 tuổi trẻ Giêsu đã đi bộ suốt bốn năm ngày đàng lên Giêrusalem dự lễ, vậy mà không thấy Thánh kinh nói trẻ Giêsu mệt mỏi. Sau này giảng đạo, Đức Giêsu đã đi khắp cùng làng mạc, thành phố và cả những vùng lân cận nữa.

- Trí dục: Càng tuyệt vời hơn khi mới 12 tuổi, cậu bé Giêsu của làng Nazarét quê mùa, vô danh, ở tít vùng sâu, vùng xa đã đàng hoàng vào đền thờ ở thủ đô Giêrusalem, ngồi giữa các thầy tiến sĩ vừa nghe vừa hỏi. Ai cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp khôn ngoan của cậu. Nếu gia đình Thánh Giuse không quan tâm đến việc hướng dẫn con mình học hỏi và trao dồi Thánh kinh thì làm gì có sự hiểu biết như thế?

Mỗi ngày Sabát là dịp tốt để tìm hiểu Thánh kinh và nghiên cứu Luật Chúa. Như trở thành thói quen mà cha mẹ để lại. Sau này khi rao giảng Chúa Giêsu thường xuyên vào Hội Đường đọc Lời Chúa, giảng dạy và chữa bệnh. Có lẽ nhờ việc quan tâm đến giáo dục tri thức cho con mình nên Đức Giêsu đã thuộc lòng các khoản Luật và Lời Chúa.

- Đức dục: Ngoài đức công chính gắn liền với tên tuổi Thánh Giuse, chúng ta còn nhận thấy một nhân đức khác nổi bậc nơi ngài nữa đó là đức vâng lời. Vâng lời thánh ý Thiên Chúa, ngài đã bỏ ý riêng mình để đón nhận Đức Maria về nhà mình. Vâng lời Thiên Chúa, ngài đã mau mắn đem Đức Maria và Hài Nhi trốn sang Aicập.

Chính nhờ ảnh hưởng của một nền đạo đức như vậy mà Đức Giêsu trở nên người con hằng “đẹp lòng Chúa Cha”. Cuộc đời Chúa Giêsu cũng tiếp nối bằng hai chữ “xin vâng” theo thánh ý Chúa Cha như thánh Giuse và Đức Maria:

Vâng lời Chúa Cha từ trời cao Người xuống thế, từ Vị Thiên Chúa trở nên người phàm, từ Đấng Thánh Thiện lại gánh lấy tội nhân. Người vốn là giàu sang lại trở nên nghèo khó…; và Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Vì thế nên Người hằng xác quyết: “lương thực của Ta là làm theo Đấng đã sai Ta” (Ga 4,34). Ngoài việc vâng lời Chúa Cha, Đức Giêsu còn luôn vâng lời thánh Giuse và Đức Maria: “Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nazarét và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2,51).

Vậy những bậc cha mẹ cũng hãy noi gương thánh Giuse, quan tâm giáo dục con mình phát triển toàn diện. Trung thành giáo dục như thế mới hy vọng con chúng ta trở nên tốt.

Cùng với Giáo Hội, chúng ta cũng đang sống trong tâm tình của mùa chay thánh. Nếu mùa chay Giáo Hội mời gọi chúng ta trở về, thì trước hết, chúng ta hãy bắt đầu trở về với chính mình, với những bổn phận của người chồng-vợ, người cha-mẹ, người gia trưởng-hiền mẫu trong gia đình mình, bằng việc noi gương thánh Giuse trung thành trong vai trò bảo trợ gia đình, trung thành trong trách nhiệm làm cha-mẹ và nhất là trung thành trong việc giáo dục con mình trở thành người và thành người con Chúa.

Vì sự sống và hạnh phúc gia đình, xin cho các gia trưởng-hiền mẫu quyết sống với HAI CHỮ TRUNG THÀNH theo gương thánh Giuse Bổn mạng gia trưởng. Amen.

-------------------------------

 

19/03-88: THÁNH GIUSE MẪU GƯƠNG CỦA THINH LẶNG


Dẫn nhập

 

Nếu mùa chay là mùa sám hối, trở về, thì có lẽ việc trở về sâu xa nhất là trở về cõi lòng mình trong 19/03-88


Nếu mùa chay là mùa sám hối, trở về, thì có lẽ việc trở về sâu xa nhất là trở về cõi lòng mình trong thinh lặng để nhận ra Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương, nhận ra tha nhân là anh em mình, nhất là nhận ra con người thật của mình. Nhờ đó mà ta có những điều chỉnh cho đúng đắn phù hợp với ý Chúa hơn.

Nếu Giáo Hội đặt tháng kính Thánh Giuse vào Mùa Chay, thì mục đích đã rõ, bởi vì ngài là khuôn mẫu của con người nội tâm, thinh lặng.

Xin Chúa cho chúng ta biết trân trọng và yêu quý đời sống thinh lặng, nhất là biết học nơi thánh Giuse bài học về “đức thinh lặng”.

Chia sẻ

Có truyện kể về 3 pho tượng: Xưa một nhà vua Ấn Độ, muốn thử nhân tài của một nước Chư hầu liền gửi tới nước này ba pho tượng vàng, giống hệt nhau. Nhà vua Ấn Độ yêu cầu nhà vua Chư hầu cho biết trong ba pho tượng vàng này, đâu là pho tượng quí giá nhất.

Nhà vua nước Chư hầu cho triệu tập các nhà thông thái tới để đánh giá ba pho tượng vàng này, tìm ra xem pho tượng nào quí giá nhất. Các nhà thông thái nghĩ ngay tới giá trị của mỗi pho tượng sẽ căn cứ vào cân nặng nhẹ, hoặc vào tuổi vàng tốt xấu, hoặc căn cứ vào nghệ thuật tìm thấy trên ba pho tượng vàng! Nhưng rồi các nhà thông thái đành phải bó tay, vì ba pho tượng này giống hệt nhau về nghệ thuật, khối lượng và tuổi vàng.

Nhà vua nước Chư hầu rất buồn, vì không biết được giá trị hơn kém của ba pho tượng. Vua liền cho loan báo khắp nước: Ai tìm được bí mật giá trị của mỗi pho tượng sẽ được trọng thưởng.

Có một người tù, biết chuyện xin được xem ba pho tượng và nếu anh ta tìm ra giá trị hơn kém của ba pho tượng này thì anh chỉ xin một điều kiện là cho anh được tự do. Lập tức nhà vua cho anh xem ba pho tượng. Vừa ngó xong ba pho tượng, anh ta xin một cọng rơm. Chỉ trong ít phút, anh đã khám phá ra giá trị hơn kém của ba pho tượng vàng.

Anh lấy cọng rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ nhất, thì thấy cọng rơm xuyên từ lỗ tai này sang lỗ tai kia, anh bảo: “đây là pho tượng ít giá trị nhất, vì nó tượng trưng cho hạng người nghe điều gì, vừa vào tai nọ, đã ra tai kia, không biết ghi nhớ, không để tâm gì suy nghĩ điều đã nghe”.

Anh ta lại lấy cọng rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ hai, thì thấy cọng rơm đi từ lỗ tai chạy xuống miệng pho tượng. Anh bảo: “pho tượng này hơn pho tượng trước là vì nó tượng trưng cho hạng người biết nghe, biết nhớ nhưng mắc khuyết điểm là: vừa nghe được gì đã vội nói ngay, không suy nghĩ xem điều mình nghe đúng hay sai, nói ra có lợi hay có hại”.

Anh lại lấy cọng rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ ba, thì thấy cọng rơm đi từ lỗ tai chạy xuống bụng. Anh nói: “pho tượng này quý giá nhất, vì nó tượng trưng cho hạng người biết nghe, biết nhớ, biết để lòng suy nghĩ, biết ghi vào tâm dạ mình”.

Vua nước lớn nghe được lời giải đáp của thần dân nước nhỏ thì vô cùng kính nể. Ông về nói với các quan trong triều: “Nước họ có người thông minh tài giỏi như vậy, hẳn nước họ là nước mạnh mẽ, hưng thịnh, ta nên giao hoà với họ chứ không nên giao chiến”.

Trong các sách Tin Mừng dù có nhắc tên Thánh Giuse đôi lần, nhưng không hề thuật lại bất cứ lời nào của thánh Giuse. Có lẽ không phải vì vô tình mà Thánh Kinh không ghi nhận một lời nào của Thánh Giuse, nhưng muốn đề cao giá trị của sự thinh lặng.

Thinh lặng giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp.

…Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều
Để nghe dưới đáy nước hồ reo
Để nghe tơ liễu run trong gió
Và để xem trời giải nghĩa yêu…”

Trong bài thơ “Đà Lạt Trăng Mờ”, nhà thơ Hàn Mặc Tử kêu mời ta hãy lắng đọng tâm hồn trong cỏi riêng tư để cảm nhận sâu xa vẻ đẹp thiên nhiên mà Thượng Đế yêu thương ban tặng cho. Chỉ có thinh lặng, ta mới chìm sâu vào tận đáy lòng mình để nhận ra đáy nước hồ reo, nghe thấy nhịp rung của liễu tơ và nhận ra tình yêu của đất trời.

Chính đời sống thinh lặng, Thánh Giuse mới có khả năng nhìn thấu được phía bên kia của những biến động làm xáo trộn cuộc sống của ngài. Chính trong thinh lặng ngài mới thấu suốt và tin tưởng vào những vẽ đẹp của ơn Chúa ban trước những biến cố đầy sóng gió xảy đến cho gia đình mình.

Thinh lặng là chọn cho mình lối sống khôn ngoan

Người đời thường nói: “Lời nói là bạc, im lặng là vàng”. Thinh lặng hơn nói, vì nói chỉ là bạc mà im lặng mới là vàng, là vàng thì bao giờ cũng quí hơn bạc. Như thế thinh lặng được ví như một chuẩn mực của đạo đức, một tiêu chí của khôn ngoan thông thái.

Ông bà ta vẫn nói “Ngôn giả bất tri, tri giả bất ngôn” (Người không biết thì lại lắm mồm vì tưởng người khác không biết như mình, người biết thì lại không nói vì nghĩ rằng mọi người đều biết”.).

Trong thinh lặng đầy khôn ngoan, Thánh Giuse đã âm thầm bảo vệ che chở Đức Maria và nuôi dưỡng Hài Nhi Giêsu trong bầu khí ấm êm của một gia đình hợp pháp. Cho nên Heidegger mới khuyên chúng ta thực tập thinh lặng, bớt nói, bớt phát biểu, bớt bàn tán….không phải để ta nên ngu muội, vô tri, nhưng để cho tâm khảm suy nghĩ hoà quyện với sinh linh vạn vật, và chỉ khi đó chúng ta mới có thể thấu đạt hết mọi ngóc ngách, thông tường mọi thế thái, biến chuyển trong sự biểu đạt khôn cùng của nhân sinh, của nhiên giới.

Thinh lặng giúp ta nhận ra giới hạn của mình

Thinh lặng để thấu đạt được cái vô thường, cái bất biến, cái trường cửu của đất trời. Thinh lặng để thấu triệt được nội quan cũng như ngoại giới. Thinh lặng đễ thấy ta là nhỏ bé, là mong manh, là hạn hữu trong mênh mông, bao la, vô hạn giới của đất trời, của vũ trụ thường hằng và vô biên. Thinh lặng để chuyển tải nhiều hơn, thinh lặng để nói nhiều hơn, để nghe nhiều hơn, để thấu đạt nhiều hơn, có lẽ cũng đáng giá lắm thay sự thinh lặng ấy!

Trong chính sự thinh lặng của đêm vắng, Thánh Giuse đã nhận ra được ý muốn của Chúa, lắng nghe được Lời Chúa nói. Phân biệt được điều gì đúng, điều gì sai và chọn lựa cách thế thực hiện như thế nào đẹp ý Chúa nhất. Vì thế ngài được gọi là “người công chính”: làm theo ý Chúa.

Giữa bao triết lý và lắm luồng tư tưởng trong xã hội này, ta phải chọn lựa như thế nào? Giữa những nền văn hóa đa dạng và những nền văn minh phức tạp, ta biết đâu là đúng, đâu là sai? Có lẽ ta hãy học thinh lặng như thánh Giuse, để lắng đọng tâm hồn, bình tĩnh lắng nghe tiếng Chúa nói. Khi nghe được tiếng Chúa, ta phải cương quyết chọn lấy cho mình con đường. Đó là sống cho nền văn minh tình thương và văn hoá của sự sống theo gương Thánh Giuse. (trích từ trang Lamhong.org)

-------------------------------

 

19/03-89: Thánh Giuse, người thinh lặng và hành động


-- Lm. Giuse Nguyễn văn Thú

 

Khi tìm học ở thánh Giuse, Đức Bênêđictô khám phá một gương sống cần thiết nơi thánh Giuse giúp 19/03-89


cho tín hữu trong thời đại này, đó là đời sống thinh lặng của thánh nhân: “Hãy để chúng ta “nhiễm” lây sự thinh lặng của thánh Giuse! Chúng ta cần rất cần nhân đức ấy trong một thế giới quá ồn ào xao động hôm nay, một thế giới không thân thiện với việc suy niệm và lắng nghe tiếng Chúa.” Thánh Giuse còn là người hành động trong thinh lặng.

Thánh Giuse, người thinh lặng

Chúng ta không biết nhiều về thánh Giuse. Chỉ biết, thân phụ thánh Giuse tên là Gia-cóp, Giuse là chồng của cô Maria và là người công chính, làm nghề thợ mộc ở Nazarét. Chỉ biết, sau khi biết Maria mang thai, thánh Giuse hoang mang không biết điều gì xảy ra, nên định tâm rời bỏ Maria cách kín đáo. Chỉ biết, thánh Giuse giữ luật đạo khi đưa Chúa Giê-su lên Đền Thờ Giêrusalem, giữ luật xã hội khi về miền Giu-đa khai sổ bộ và một số nhỏ chi tiết khác. Điều lạ lùng, không nơi nào trong các sách Tin Mừng ghi lại dù chỉ một lời của thánh Giuse. Theo Đức Phanxicô, điều này không có nghĩa thánh Giuse bị câm hay sống lầm lì, nhưng đó là dấu chứng một đời sống nội tâm sâu xa, một sự thinh lặng lắng nghe tiếng Chúa.

Thinh lặng là không gian đón rước Chúa bước vào đời sống của thánh Giuse. Thánh Augustinô quả quyết: khi Ngôi Lời, nghĩa là Thiên Chúa làm người ở với chúng ta, thì những lời khác nhỏ lại, bởi Chúa Cha đã nói lời trọn vẹn trong chính Con của Ngài, Ngôi Lời. Đó là lý do Thiên Chúa giáng sinh làm người trong sự thẳm lặng giữa thế giới. Ba mươi năm đầu, cuộc đời của Ngài cũng diễn ra trong thầm lặng. Ba năm hoạt động là thời gian đi đây đó rao giảng, gặp gỡ nhiều người, cũng là thời gian Ngài tỏ dấu sự thinh lặng, đặc biệt trong cuộc khổ nạn của Chúa như lời ngôn sứ Isaia báo trước: “Như con chiên bị đem đi làm thịt, như con cừu câm nín khi bị xén lông, Người chẳng hề mở miệng” (Is 53,7). Cho đến hôm nay, Ngôi lời làm người vẫn thinh lặng trong bí tích Thánh Thể, bởi sự hiện diện của Ngài đủ thay cho mọi lời nói. Thánh Giuse đã cảm nghiệm sâu xa sự hiện diện thinh lặng của Thiên Chúa trong cuộc đời mình, nên đã mê mẩn trong thinh lặng chiêm ngưỡng những mầu nhiệm của Thiên Chúa trong cuộc đời mình.

Sống trong thinh lặng minh chứng đời sống nội tâm trưởng thành của thánh Giuse. Trong thinh lặng, thánh Giuse nghe được tiếng Chúa nói, hiểu được điều Chúa muốn cho cuộc đời mình. Trong thinh lặng, thánh Giuse trở thành người cầu nguyện, không bị cuốn hút bởi những xôn xao bên ngoài, bởi thánh Giuse biết Chúa đang ở trong ngôi nhà của mình.

Thánh Giuse, người hành động

Tuy nhiên, sự thinh lặng của thánh Giuse không phải là sự thinh lặng của một người hèn nhát, lười biếng. Thánh nhân nói qua hành động của ngài. Thánh Giuse không cần nhiều lời để diễn tả niềm tin vào Thiên Chúa và tình yêu đối với Mẹ Maria và Chúa Giê-su. Thánh nhân không cần nhiều lời để mô tả sự xông xáo của ngài khi đối mặt với những gian nan của gia đình Nazarét. Ngài nói bằng hành động. Đức tin và tình yêu của thánh Giuse được chuyển dịch sang hành động, vì đối với thánh Giuse, hành động của ngài cất tiếng mạnh hơn bất cứ lời nào ngài nói. Vì thế, chúng ta chỉ biết hành động của thánh Giuse.

Khi nghe sứ thần bảo, thánh Giuse vội vã đón Maria đang cưu mang Con Thiên Chúa về nhà mình. Thánh Giuse đảm đương việc đưa Mẹ Maria đi đoạn đường xa về Giêrusalem khai sổ bộ và sinh con. Thánh Giuse cũng nhanh chóng đưa Mẹ Maria và Hài Nhi sang Ai-cập lánh nạn. Thánh Giuse làm lụng nuôi sống gia đình và lo liệu đưa gia đình lên Đền Thờ thờ phượng Thiên Chúa. Cuộc đời của Chúa Giê-su đầy dấu ấn công sức của thánh Giuse, từ gương sáng, việc làm cho đến bảo vệ và giáo dục. Ngài là con người hành động: khi nghe lời Chúa, chỗi dậy và làm theo.

Trong ngày trọng kính thánh Giuse, chúng ta xin thánh Giuse giúp chúng ta biết sống thinh lặng trong hành động giữa thế giới xôn xao này. Trong thinh lặng, chúng ta nghe được lời Chúa và trưởng thành trong đời sống nội tâm. Trong hành động, chúng ta diễn tả điều mà sự thinh lặng muốn nói về đức tin vào Chúa và tình yêu đối với Hội Thánh và anh chị em mình.

Nhưng cũng xin Chúa ban cho chúng ta phục hồi đời sống chiêm niệm nơi mỗi người, vì giữa xã hội này, chúng ta sợ thinh lặng, muốn nói, nói và nói nhanh, muốn ồn ào nghe truyền hình, các hình thức giải trí, vì sợ thinh lặng và không hiểu giá trị của sự thinh lặng.

Lạy Chúa, xin cho chúng con noi gương thánh Giuse, thinh lặng chiêm niệm và hành động trong đức tin và lòng mến đối với Chúa và tha nhân.

-------------------------------

 

19/03-90: Người thợ vô danh


--Lm. Giuse Trương Đình Hiền

 

Hôm nay, cùng với toàn thể Hội Thánh hoàn vũ, chúng ta long trọng cử hành lễ Thánh Giuse, bạn 19/03-90


Hôm nay, cùng với toàn thể Hội Thánh hoàn vũ, chúng ta long trọng cử hành lễ Thánh Giuse, bạn Đức Trinh Nữ Maria, Cha nuôi Chúa Cứu thế, và được mệnh danh là ‘Người Công Chính” hay là “Vị quản lý trung tín và không ngoan mà Chúa đã cắt đặt để trông coi Nhà Chúa” (CNL).

Ngày lễ nầy ra đời vào thế kỷ 15, và kể từ năm 1621 đã được mừng kính trong khắp cả Giáo Hội. Vào năm 1847, ĐGH Piô IX đã tôn phong Thánh Giuse làm quan thầy của toàn thể Giáo Hội. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã ghi tên Thánh Giuse vào lễ qui Rôma…

Đối với lịch sử Giáo Hội Việt nam, Ngày lễ Thánh Giuse 19. 3 còn là một cột mốc quan trọng trong cuộc hành trình truyền giáo: vào chính ngày nầy, 19. 3. 1627, phái đoàn truyền giáo của Cha Đắc Lộ đã cập bến Cửa Bạng ở Đàng Ngoài để đem Tin Mừng cho dân tộc Việt nam. Đó cũng là một lý do để Hội Thánh Việt nam chọn Thánh Giuse làm quan thầy.

1. Giuse, Người công chính

Để tôn vinh và xác nhận địa vị cao cả của Thánh Giuse trong chương trình cứu rỗi, Thánh thi của Giờ Kinh Phụng vụ kinh sáng của ngày lễ hôm nay đã hát lên:

Đây Chúa tể càn khôn đây Thượng Đế,
Một dấu tay là địa ngục hải hùng,
Cả thiên đình đều phụng mệnh khiêm cung
Mà không quản vâng ý ngài trọn vẹn.

Trong khi đó thánh Bê-na-di-nô thành Siê-na trong bài đọc của giờ phụng vụ Kinh Sách đã lý giải vai trò cao cả của Thánh Giuse như sau: “Nếu bạn muốn nói đến vị thế của Thánh Giuse trong Hội Thánh Đức Kitô, thì không phải thế nầy sao: Thánh nhân chính là con người được tuyển chọn, con người đặc biệt. Nhờ có thánh nhân đứng bảo lãnh mà Đức Kitô đã vào trần gian một cách hợp pháp và đàng hoàng? Vậy nếu toàn thể Hội Thánh mắc nợ Đức Mẹ đồng trinh, vì nhờ Mẹ mà Hội Thánh được đón nhận Đức Kitô, thì sau Đức Mẹ, Thánh Giuse phải được Hội Thánh biết ơn và tôn sùng hơn hết”.

Nhưng, còn điều gì khác nữa khiến Thánh Giuse được tôn vinh, trọng vọng như thế?

- Có phải vì thánh Cả xuất thân từ một gia đình danh gia vọng tộc như các thánh sử Matthêô và Luca trình bày: Ông là “Con cháu Vua Đa-vít” (Mt 1,23), thuộc “hoàng tộc Đa-vít” (Mt 1,27), thuộc “dòng dõi vua Đa-vít” (Lc 2,4). Có phải vì ý nghĩa đó, mà Bài đọc 1 trong Phụng vụ Lời Chúa của thánh lễ hôm nay đã chọn trích đoạn sách thứ 2 Samuel để nhắc lại lời giao ước của Thiên Chúa dành cho Đa-vít là sẽ “thiết lập cho Đa-vít một nhà chính là dòng dõi kế vị để vương quyền bền vững thiên thu”. Tin Mừng Matthêô đã xác nhận cái mắc xích liên tục trong cái chuỗi huyết tộc vương giả mà Giuse được dự phần: “Ông Gia-cóp sinh Giuse, chồng của bà Maria, bà là mẹ Đức Giêsu cũng gọi là Đấng Kitô” (Mt 1,16).

Nhưng trong lịch sử loài người có cơ man những người danh gia vọng tộc như thế nhưng nào có được tôn vinh!

- Hay vì thánh Giuse đã để lại những công trình vĩ đại, những tác phẩm danh tiếng, những lời vàng ngọc làm thước đo về luân thường đạo lý cho cuộc sống của nhân sinh? Điều nầy thì hoàn toàn không. Phúc âm không để lại một lời phát ngôn nào của “người thợ mộc Na-da-rét” nầy và cũng chẳng ghi lại một tác phẩm nào, một công trình nghệ thuật, tâm linh nào của Ngài. Cả đến “Người con” mà người có công chăm sóc, nuôi dạy, bảo bọc ngay từ lúc mới sinh thì lại là “con nuôi”, “con theo giấy tờ”, chứ hoàn toàn không phải là “giọt máu” của Ngài. Cũng chính sự kiện nầy mà ngay từ buổi bào thai Giêsu còn trong bụng mẹ, thánh Giuse đã một phen bối rối, băn khoăn đến độ, nếu không có thiên thần hiện ra báo mộng mặc khải, chắc thánh Giuse đã khăn áo lên đường bôn tẩu cao bay xa chạy để khỏi gây nên vụ án thảm khốc cho người yêu Maria trong trắng dịu dàng.

Như vậy thì điều gì khiến thánh Giuse được ca tụng, cao rao và đặt trên bệ thờ với muôn ngưỡng vọng kính tôn của Dân Chúa muôn nơi muôn thuở.

Thưa, chỉ cần một nhân đức thôi: Giuse người công chính. (Mt 1,19)

Để hiểu khái quát về nội dung của từ Công chính theo nghĩa Thánh kinh, chúng ta hãy theo chân học giả Phạm Đình Khiêm để nghe ông chia sẻ trong tác phẩm “Thánh Giuse trong Dân Chúa”:

“Ông Giuse là người công chính” (Mt 1,19). Đó là lời giới thiệu cao quí nhất mà Phúc âm Chúa Giêsu dành cho thánh Cả Giuse ngay ở trang đầu. Nếu diễn ngữ “Đầy thánh sủng” là lời thiên sứ chào mừng Đức Trinh nữ như biểu dương trọn vẹn nhân phẩm Đức Mẹ thế nào thì diễn ngữ “Người công chính” cũng tóm gọn phẩm giá và nhân đức Thánh Giuse như vậy.

Trong cựu ước, công chính là đức tính của người tuân giữ trọn vẹn lề luật, công bình với mọi người, và theo một nghĩa rộng hơn, đó là sự thánh thiện của bản thân hay ít nhất là một nếp sống nhân đức đã thành lề thói. Công chính là trái ngược với tội lỗi. (X. St 18,23), và người công chính là người sống theo lẽ phải, chỉ làm điều thiện, không bao giờ làm điều ác, điều tội lỗi (X. Ez 18,5). Tóm lại, người công chính là người có đủ mọi nhân đức, và đức công chính là nhân đức toàn thiện, toàn hảo, như thánh Gioan Kim Khẩu, tiến sĩ HộiThánh, đã nhận định.

Thông thường nhất, người công chính được khen ngợi bằng sự tuân thủ lề luật và các giới răn Thiên Chúa, như Phúc âm Luca viết về hai ông bà Giacaria và Êligiabét: “Cả hai đều là người công chính trước mặt Thiên Chúa, đi theo đường lối Người truyền dạy, không ai chê trách được điều gì (Lc 1,6). Những người biệt phái và người thông giáo thời đó cũng tự cho mình là người công chính vì chăm chỉ giữ lề luật, nhưng đó là thứ công chính che dấu một lương tâm suy đồi, khiến họ chỉ biết giữ hình thức lề luật mà khinh khi, vi phạm cả công bình và bác ái.

Trong Tân ước, Chúa Giêsu đã lên án lối giữ lề luật như vậy và Chúa đã đòi hỏi nơi các môn đệ một đức công chính mới trổi vượt hơn nhiều (x. Mt 5,20,tt), sự công chính của Nước Trời: khiêm nhường, thành thật, không giả hình, bác ái, không phô trương, đạo đức nội tâm, lương tâm trong sáng, siêu thoát của cải, cậy tin Đấng quan phòng, làm cho người khác tất cả những gì mình muốn người khác làm cho mình v. v. . . (x. Mt chương 6). Tóm lại, đó là đức toàn thiện của Kitô giáo vậy.

Diễn ngữ “người công chính” mang ý nghĩa trọn vẹn nhất trong câu nói của viên đại đội trưởng quân binh La Mã, khi chứng kiến thái độ phi thường và nghe những lời bất tử của Chúa Giêsu trên thập giá, lại thấy những hiện tượng vũ trụ kinh hoàng xảy ra lúc Chúa trút hơi thở cuối cùng. Ông ta cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa và nói: “Chắc hẳn ông đây là người công chính” (Lc 23,47). Người công chính ở đây không phải chỉ là người vô tội như Philatô tuyên xưng (Lc 23,22) mà phải là bậc Toàn thiện, là Đấng chí thánh, hơn nữa, là chính “ConThiên Chúa” theo bản văn của Matthêô: Mt 27,54) và của Mát-cô (Mc 15,39).

2. Giuse, Người Quản lý mầu nhiệm Thiên Chúa

Và cũng từ nhân đức “công chính” đó, Thánh Giuse xứng đáng được Thiên Chúa ký thác để giữ gìn mầu nhiệm thiên Chúa theo quảng diễn của tông huấn “REDEMPTORIS CUSTOS” (Đấng Hộ thủ Chúa Cứu Thế) của Đức cố giáo hoàng Gioan Phaolô II. Chúng ta cùng dừng lại suy niệm đôi điều về nội dung nầy của tông huấn:

Đức Thánh Cha, trong khi nêu bật đức tin của Thánh Giuse đối chiếu với đức tin của Đức Maria, Ngài đã làm rõ sứ mệnh “quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa” của Thánh cả:

“Bằng một cách đặc thù và phi thường, Thánh Giuse đã trở thành Người được ký thác mầu nhiệm “giấu kín từ muôn thuở trong Thiên Chúa” (Ep 3,9)…. Thánh Giuse đã được Thiên Chúa kêu gọi phục vụ bản thân Chúa Giêsu và sứ mệnh của Chúa bằng cách thực hành quyền làm Cha của mình: Chính bằng cách ấy mà, khi thời gian đến hồi viên mãn, Người được cọng tác vào mầu nhiệm vĩ đại của công trình cứu chuộc, và Người đích thực là vị “Thừa quản ơn cứu độ”…Đức Maria là nữ tỳ khiêm hạ của Chúa, đã được chuẩn bị từ muôn thuở cho sứ mệnh làm Mẹ Thiên Chúa; còn thánh Giuse là người mà Thiên Chúa đã chọn làm “phối trí viên sắp đặt mọi sự cho Chúa ra đời, người có trách vụ lo liệu, chu cấp mọi sự cho Con Thiên Chúa bước vào trần gian “trong trật tự”, nghĩa là tôn trọng mọi ý định của Thiên Chúa và lề luật của loài người. Trọn vẹn đời sống “riêng tư” hay “ẩn dật” của Chúa Giêsu được giao phó cho Thánh Giuse trông coi” (Số 8).

Ý nghĩa nầy cũng đã toát lên nơi lời cầu nguyện của Hội Thánh qua lời kinh tổng nguyện của ngày lễ kính Thánh Giuse hôm nay: "Lạy Chúa, Chúa đã giao phó Đức Giêsu, và thánh nhân đã trung thành gìn giữ trong giai đoạn đầu của công trình cứu độ. Xin nhận lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp, cho Giáo Hội biết luôn luôn cộng tác với Đức Giêsu để hoàn tất công trình Người đã khởi đầu".

Và chúng ta cũng biết rằng: Giáo Hội không bao giờ là một thực tại trừu tượng, một cơ cấu rỗng tuếch. Giáo Hội đó chính là tôi, là anh, là chị. Giáo Hội là mỗi người kitô hữu chúng ta. Vì thế, “cầu xin cho Giáo Hội biết luôn luôn cọng tác với Đức Giêsu để hoàn tất công trình Người đã khởi đầu” là cầu xin cho chúng ta biết từng ngày lắng nghe tiếng Chúa âm vang trong cuộc sống và can đảm, khiêm nhu cúi dầu thực hiện trong thái độ phó thác tin yêu.

Trong ý nghĩa và tâm tình đó, chúng ta có thể mượn lời Thánh Thi giờ kinh Phụng vụ lễ Thánh Giuse Thợ 1/5 để cầu nguyện với Thánh Giuse:

Hỡi người thợ vô danh
Của xưởng mộc nghèo khó,
Xin ban no lành
Cho người lao công khắp cùng xứ sở.
Chúng con càn gương ngài
Để thấy kho tàng trong giọt mồ hôi,
Thấy nụ cười trong từng dòng nước mắt,
Thấy Nước Trời trong lòng đất mẹ cằn khô
Thấy sáng tạo, đi lên, tình người,
Yêu thương và hiệp nhất.
Thấy lớn lao trong từng nhỏ nhặt,
Thấy vinh quang trong khổ nhục, ngài ới.
Hỡi người thợ vô danh
Của xưởng mộc nghèo khó,
Xin cho những người đang xây dựng thé giới nầy
Thấy Ngài phục sinh,
Thấy Ngài phục sinh trong bàn tay của họ…

---------------------------------

 

19/03-91: Thánh Giuse là mẫu gương chu toàn thánh ý Chúa


--Lm. G. Võ Tá Hoàng

 

Thánh Giuse đã mau mắn đáp lại tiếng Chúa gọi, gạt bỏ những sợ hãi để đón lấy ơn gọi của mình19/03-91


Thánh Giuse đã mau mắn đáp lại tiếng Chúa gọi, gạt bỏ những sợ hãi để đón lấy ơn gọi của mình.

Thánh Giuse luôn là mẫu gương hoàn hảo cho chúng ta trong việc tuân theo thánh ý Chúa trong cuộc đời mình. Bất chấp những nỗi sợ hãi và lo lắng của riêng mình, ngài đã gạt chúng sang một bên để đáp lại những thúc giục của Chúa.

Thánh Giuse có thể từ bỏ Đức Mẹ để tiếp tục cuộc sống của mình, nhưng khi sứ thần đến để chuyển thông sứ điệp của Thiên Chúa, Thánh Giuse lập tức thay đổi hướng đi.

“Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu” (Mt 1, 24-25).

Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã suy tư về cuộc đời của Thánh Giuse trong buổi đọc Kinh Truyền Tin năm 2006, nhắc lại lòng trung thành của Thánh Giuse với Thiên Chúa là một mẫu gương hoàn hảo cho chúng ta.

“Từ tấm gương của thánh Giuse, tất cả chúng ta được mời gọi hãy thi hành trọng trách mà Chúa Quan Phòng đã uỷ thác, một cách tận tụy, đơn giản và khiêm tốn. Trước hết, tôi nghĩ đến các bậc cha mẹ trong gia đình, và tôi cầu xin cho họ biết quý trọng vẻ đẹp của một cuộc sống đơn giản và cần cù, phát triển tình nghĩa phu thê và vui vẻ thi hành sứ mạng giáo dục con cái, một sứ mạng cao quý và nhiều khó khăn”.

Thánh Giuse đã đáp lại tiếng Chúa gọi bằng tấm lòng quảng đại, sẵn sàng gác lại những toan tính để theo đuổi những dự định của Chúa.

Tấm gương của ngài nhắc nhở chúng ta về nhiệm vụ của mình là trung thành với ơn gọi mà Thiên Chúa đã mời gọi chúng ta, không để nỗi sợ hãi lấn át chúng ta, nhưng tin tưởng vào kế hoạch quan phòng của Thiên Chúa.

-------------------------------

 

19/03-92: Thánh Giuse, Bạn Trăm Năm Đức Trinh Nữ Maria


--Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 

Ngày 19.06.2013, Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích công bố một Sắc lệnh đã được Đức hồng 19/03-92


Ngày 19.06.2013, Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích công bố một Sắc lệnh đã được Đức hồng y Bộ trưởng Antonius Cañizares Llovera và Đức Tổng giám mục Thư ký Arturus Roche ký vào ngày lễ Thánh Giuse Thợ 01.05.2013. Sắc lệnh quyết định đưa tên Thánh Giuse vào các Kinh nguyện Thánh Thể II, III và IV, sau tên của Đức Trinh Nữ Maria.

Trước đây, tên Thánh Giuse chỉ được đọc trong Kinh nguyện Thánh Thể I (Lễ quy Rôma).

Sắc lệnh viết: ”Qua việc làm cha chăm sóc Chúa Giêsu, Thánh Giuse làng Nazareth, khi được đặt lên trông coi gia đình của Chúa, đã hoàn thành nhiệm vụ đã nhận được nhờ ân sủng. Do gắn bó chặt chẽ với các mầu nhiệm khởi đầu trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Ngài trở nên mẫu gương về lòng khiêm nhường và nhân ái, những điều làm cho đức tin Kitô giáo có được những phẩm giá cao cả; và thể hiện những nhân đức nhân bản và đơn sơ, cần cho con người trở nên môn đệ tốt lành và đích thực của Chúa Kitô. Nhờ các nhân đức đó, Người Công Chính này, sau khi đã hết sức trìu mến chăm sóc Mẹ Thiên Chúa và vui vẻ tận tình dạy dỗ Chúa Giêsu Kitô, đã trở nên người quản lý kho tàng quý giá của Thiên Chúa Cha và qua các thế hệ được Dân Thiên Chúa không ngừng tôn kính như đấng bảo trợ thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô, nghĩa là Hội Thánh” (Lm. Phêrô Lê Tấn Bảo dịch).

Sắc lệnh ghi nhận rằng các tín hữu trong Hội thánh Công giáo luôn tỏ lòng sùng mộ Thánh Giuse và không ngừng tôn kính Ngài là Bạn rất thanh khiết của Mẹ Thiên Chúa và là Đấng bảo trợ trên trời của Giáo hội hoàn vũ. Vì lý do này mà Chân phước Giáo hoàng Gioan XXIII đã truyền đưa thêm tên Thánh Giuse vào Lễ quy Rôma, sau tên của Mẹ Maria (Thánh bộ Lễ nghi, Sắc lệnh Novis hisce temporibus, 13.11.1962).

Sắc lệnh nhắc lại rằng Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI đã nhận được nhiều lời thỉnh cầu đạo đức từ khắp nơi trên thế giới và ngài đã vui lòng chấp thuận, nay lại được Đức giáo hoàng Phanxicô tái xác nhận. Điều này diễn tả sự hiệp thông trọn vẹn với các Thánh, là những người đồng hành với chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế và dẫn chúng ta đến với Chúa Kitô để liên kết chúng ta với Người.

Nội dung Sắc lệnh cũng ghi rõ các phần Kinh nguyện Thánh Thể (II, III và IV) bằng tiếng Latinh với tên Thánh Giuse đã được thêm vào, chẳng hạn như  trong Kinh nguyện Thánh Thể II: ”ut cum beata Dei Genetrice Virgine Maria, beato Ioseph, eius Sponso, beatis Apostolis”. Ngoài ra còn có thêm phần phụ lục cho các ngôn ngữ Anh, Tây Ban Nha, Ý, Bồ Đào Nha, Pháp, Đức và Ba Lan. Đối với các ngôn ngữ khác, bản dịch sẽ do các Hội đồng Giám mục soạn thảo, theo quy định của luật và được Tòa Thánh phê chuẩn thông qua Bộ Phụng tự (trích: “Phải đọc tên Thánh Giuse trong Kinh Nguyện Thánh Thể II, III và IV”, ‘WHĐ 19.06.2013’).

“Maria đã đính hôn với Giuse” (Mt 1,18). Từ ngày đó, Thánh Giuse đã trở nên Bạn Trăm Năm của Đức Trinh Nữ Maria. Vui buồn sướng khổ, gian truân thử thách, Thánh Giuse đều đã trải qua. Ngài chính là mẫu gương cho anh em Gia trưởng trong đời sống gia đình.

Kể từ khi hai bên nội ngoại làm lễ đính hôn cho Giuse và Maria, ai ai cũng vui mừng, chúc phúc cho đôi hôn nhân lý tưởng. Họ thương nhau không vì trai tài gái sắc, mà thương nhau vì cả hai đều nết na đức hạnh, cùng có một đức tin tinh tuyền từ gia đình đạo đức. Giuse là Người Công Chính. Maria là Đấng Đầy Ơn Phúc. Đó là tổ ấm cao sang nhất trong lịch sử nhân loại. Sau ngày làm lễ đính hôn, chỉ chờ lễ cưới. Maria và Giuse vẫn chỉ biết hướng về tương lai, chuẩn bị cho gia đình mới sắp thiết lập.

Thế rồi điều bất ngờ xảy đến với cuộc tình duyên êm đẹp. Thiên Chúa đã can thiệp vào dự án tương lai của Maria và Giuse. Thiên Chúa muốn cả hai thành Đấng Bậc Đồng Trinh để Ngài trao gửi Con Một dấu yêu của mình. Cả hai trở nên cha mẹ của con trẻ Giêsu về pháp lý và Maria ban tặng bản tính nhân loại cho Đấng Cứu Thế.

Thiên Chúa đi từng bước một. Truyền tin cho Đức Maria rồi truyền tin cho Giuse. Giữa hai biến cố trọng đại là cuộc khủng hoảng đối với Giuse.

Thấy Maria có thai, Giuse phải đau khổ lắm. Người hôn thê đạo hạnh mà ngài rất mực yêu thương lại mang thai trước khi về nhà chồng. Bối rối và khó xử nhưng ngài vẫn tiếp tục tin tưởng Maria trong sạch vẹn tuyền. Không một lời phàn nàn, ca thán, trách móc, Giuse không hề hạch sách hay tra hỏi Maria một lời nào, ngài âm thầm ôm lấy nổi đau riêng mình với một quyết định: “Đào vi thượng sách”. Giuse không còn chọn lựa nào khác: ”vì là Người Công Chính và không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19). Thế rồi, Thiên Thần đã hiện ra với Giuse trong giấc mộng giải thích cho ngài biết: “Người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20); Thai nhi ấy không chỉ là một con người mà còn là Người Con của Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, được sinh ra, không phải được tạo thành, vì Ngài đã có từ trước muôn thuở. Ngài là Con của Chúa Cha ở trên trời; đã từ trời xuống thế nhập thể trong lòng trinh nữ Maria, và đã làm Người. Và Người Con sẽ sinh ra ấy được Thánh Giuse đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu Dân của Người khỏi tội. Thiên Thần khuyên Giuse “Chớ sợ rước Maria về nhà mình” (Mt 1,20). Nhận ra Thánh Ý Thiên Chúa “Giuse đã làm như lời Thiên Thần Chúa truyền và ông đã rước bà về” (Mt 1,24).

Thiên Chúa đã đưa Thánh Giuse vào chương trình cứu độ của Ngài. Thánh Giuse đã tích cực góp phần thực hiện chương trình ấy. Ngài được Thiên Chúa chọn, trở thành người cha nuôi của Chúa Giêsu ở trần gian. Vì vai trò làm cha của Chúa Giêsu và làm bạn đời của Mẹ Maria, sống bên cạnh một người nữ trẻ tuổi xinh đẹp là Mẹ Maria, mà theo dự định của Thiên Chúa, sẽ trọn đời đồng trinh, nên các nghệ nhân thường có khuynh hướng hình dung Thánh Giuse như một cụ già. Điều đó không đúng! Thánh Giuse là một thanh niên trẻ trung và đầy sinh lực, có lẽ chỉ lớn hơn Mẹ Maria chừng năm đến bảy tuổi! Nhưng ngài là một người rất nhân đức, được Thiên Chúa chọn để đồng hành với Mẹ Maria đồng trinh trong cuộc đời dâng hiến của Mẹ. Mẹ đã hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, không thuộc về người trần gian (ĐTGM Phaolô Bùi Văn Đọc).

Thánh Giuse còn được sách Tin mừng gọi là “Người Công Chính”. Mà người công chính, theo lời Kinh thánh, là người sống bằng đức tin, hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa như tổ phụ Abraham. Người Công Chính, nói đơn giản, là người tốt, ngay thẳng, trung tín. Là tôi tớ trung thành của Thiên Chúa, luôn thực thi trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa. Là con người luôn biết kính trọng và yêu thương tha nhân.

Thánh Giuse là một con người bình thường như mọi người, được Thiên Chúa giao phó thực hiện “những điều cao trọng” trong cuộc đời thường, như làm “cha nuôi của Chúa Giêsu”, làm “bạn trăm năm của Đức Trinh Nữ Maria”. Ngài đã thực hiện đúng như ý muốn của Thiên Chúa trong mọi biến cố. Thiên Chúa bảo ngài cưới Mẹ Maria, đưa Mẹ về nhà mình, đưa Mẹ Maria sắp sinh nở về nguyên quán Bêlem để khai lý lịch, đưa Mẹ và hài nhi Giêsu chạy trốn sang Aicập, sau đó đưa gia đình về Nazarét vùng Galilê, Thánh Giuse luôn xin vâng theo Ý Chúa.

Thánh Giuse mạnh dạn đối diện với các vấn đề, đương đầu với các khó khăn, mà không bao giờ trách móc Thiên Chúa hay quy tội cho người khác. Ngài là một con người “đầy tinh thần trách nhiệm”, một con người nhiều sáng kiến trong bất cứ công việc gì được trao phó. Trước Thánh Ý Thiên Chúa, Giuse vâng phục và chu toàn. Từ Nazarét qua Bêlem, từ Bêlem đi Aicập, từ Aicập về Israel, Chúa bảo ngài đi là ngài đi, bảo ngài về là ngài về, bảo ngài làm thế nào là ngài làm thế ấy, đúng thời gian, đúng địa điểm mà không thắc mắc, không hoài nghi, không cự nự. Tất cả mọi lần Giuse đều thưa như Đức Maria: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền” (Lc1,38).

Để luôn hướng về Ý Chúa, Thánh Giuse đã âm thầm đi sâu vào đời sống nội tâm. Trong nội tâm thinh lặng, ngài lắng nghe Chúa. Ngài hiểu tiếng gọi đó là một tình thương đặc biệt. Ngài trả lời như một giao ước, một gắn bó tín trung bền vững. Chúa gọi và chỉ dẫn ở từng chặng đường, ngài nghe và vâng theo. Cho dù gặp khó khăn trắc trở, ngài luôn vững tin ở Đấng đã gọi mình. Vì thế, nơi Thánh Giuse, con đường sống đạo là con đường tin cậy khiêm cung và tuyệt đối vào Thiên Chúa. Tin với tâm hồn thờ phượng, tạ ơn, với lòng phó thác và nguyện cầu tha thiết.

Ngày nay, Thánh Giuse vẫn đồng hành với chúng ta và che chở chúng ta, như đã đồng hành và che chở Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Với kinh nghiệm của mình, ngài xứng đáng là thầy dạy đời sống nội tâm cho mỗi người chúng ta: dạy cho ta biết Chúa Giêsu, gần gũi với Chúa, chia sẻ cuộc đời của Chúa. Ngài giúp ta ý thức mình là người nhà của Chúa, là thành viên của Giáo hội, Gia đình của Thiên Chúa tại trần gian.

Anh em Gia trưởng thân mến,

Thánh Giuse – Bạn Trăm Năm Đức Trinh Nữ là gương sáng khiết tịnh cho anh em. Không cần chờ tới tuổi già mới sống đời thanh tịnh. Sự thanh khiết của đôi bạn Giuse và Maria là do tình yêu. Sức mạnh và sự vui tươi của tuổi trẻ không là ngăn trở cho một tình yêu cao thượng. Khi cưới Mẹ Maria về, Thánh Giuse có một “trái tim trẻ trung” trong một thân xác trẻ trung. Khi được thiên thần báo mộng cho biết mầu nhiệm “Đức Maria là Mẹ Chúa Trời”, người đã sẵn sàng đón nhận Mẹ Maria, đồng hành với Mẹ, chăm sóc Mẹ, mà vẫn tôn trọng sự trinh nguyên của Mẹ. Mẹ Maria trở thành một niềm vui, một hồng ân cho Thánh Giuse.

Anh em là người cha người chồng trong gia đình. Anh em đừng bao giờ coi mình là ông chủ đầy quyền lực trong gia đình, muốn làm gì thì làm. Anh em phải biết tuân theo ý Chúa, phải bình tĩnh, biết quảng đại, hy sinh trong mọi khó khăn của gia đình theo gương Thánh Giuse.

Đứng trước những bối rối, đối diện với nghịch cảnh, gặp những thử thách, Thánh Giuse luôn chia sẻ nỗi lòng với Đức Mẹ, ngài trăn trở những âu lo của Đức Mẹ, ngài chỉ muốn tìm giải pháp ưu việt cho nhất cho gia đình. Anh em gia trưởng cần có lòng tôn kính Thánh Giuse, thường xuyên xin ngài cố vấn cho các hoàn cảnh khó xử của mình. Ngài đã kinh qua tất cả nên ngài hiểu rõ hơn ai hết những nổi niềm của người Gia trưởng. Thánh Cả như một địa chỉ cần thiết, thân quen, anh em cần lui tới chuyện trò với ngài.

Hôn nhân là tổ ấm. Gia đình là chiếc nôi. Con cái đón nhận đời sống thể chất và tinh thần. Mỗi đứa con đều mang hình ảnh Thiên Chúa. Giáo dục để chúng lớn lên trong ơn gọi làm người, ơn gọi làm con Thiên Chúa. Nhiệm vụ giáo dục con cái thật thiêng liêng và cao cả. Thiên Chúa trao cho các Gia trưởng.

Thánh Giuse làm cha. Con của ngài vừa là con người vừa là Con Thiên Chúa – Đấng Cứu Độ. Con cái của anh em được làm con Thiên Chúa. Cho nên nhiệm vụ nuôi nấng dưỡng dục con cái là sứ vụ cao cả và là hồng ân quý giá Thiên Chúa ban cho anh em. Anh em cần phải biết yêu thương và tôn trọng con cái mình. Hãy trở nên gương mẫu đạo đức thánh thiện cho con cái. Hãy tránh mọi thứ gương mù gương xấu. Từ lời nói đến thái độ sống xấu sẽ là đại họa cho con cái. Tuổi thơ các em đơn sơ như tờ giấy trắng, mỗi lời nói, mỗi cử chỉ của cha mẹ đều ghi đậm nét trên tờ giấy trắng tâm hồn và in dấu suốt cuộc đời các em. Bởi đó, trách nhiệm của người Gia trưởng đối với các em vô cùng quan trọng. Các em là thánh hay là quỷ tùy vào sự giáo dục và cách ăn nết ở của cha mẹ. Con cái là hoa trái của tình yêu và là niềm hy vọng của cha mẹ. Nguyện xin Thánh Giuse phù trợ cho anh em được trở nên những Gia trưởng thánh thiện, gương mẫu để đem hạnh phúc đến cho gia đình và cho cả xã hội tương lai.

Thánh Giuse mãi mãi là tấm gương cho anh em Gia trưởng soi. Tấm gương của một con người luôn thao thức lắng nghe tiếng Chúa và khi đã nghe thì mau mắn đáp lại không thắc mắc cho dù phải trả giá. Tấm gương của một con người luôn hướng tâm hồn về Chúa, xin vâng trước Thiên Ý, luôn phó thác để Chúa thực hiện chương trình cứu rỗi của Người. Tấm gương về người quản gia trung tín chăm sóc hai kho tàng quý giá nhất trần gian là Hài Nhi Giêsu và Mẹ Maria.

Thánh Giuse là con người thầm lặng, ít nói, khiêm tốn. Gioan Tẩy Giả chân thành: “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ bé lại”. Giuse đã sống điều đó mà không nói một lời. Chính cuộc sống ấy đã biến Thánh nhân thành một vị Đại Thánh. Thánh Cả đã đem cuộc đời mình biến thành một Lời Chúa sống động, ngài xứng đáng là Bạn Trăm Năm Đức Trinh Nữ.

-------------------------------

 

19/03-93: Thánh Giuse, đường nên thánh


--Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 

Trong các loài hoa, có một loài không những thân luôn mọc về phía ánh sáng mà hoa còn luôn 19/03-93


Trong các loài hoa, có một loài không những thân luôn mọc về phía ánh sáng mà hoa còn luôn quay về phía mặt trời. Đó là Hoa hướng dương. Hoa hướng dương luôn hướng về phía mặt trời với cánh hoa mở rộng đón nhận ánh sáng và sức sống để toả hương khoe sắc. Thánh Giuse như hoa hướng dương luôn hướng về Thánh Ý Thiên Chúa. Ngài hằng hướng mắt, hướng lòng về Thiên Chúa để nhận ra và làm tròn Thiên Ý. Thánh Giuse được sách Tin mừng gọi là “người công chính”. Theo Kinh thánh, “Người công chính sống bởi đức tin” (Hab 2,4; Rm 1,17; Gal 3,11). Sống đức tin là sống công chính, là hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa như tổ phụ Abraham. Người công chính, nói đơn giản là người tốt, ngay thẳng, trung tín, có trách nhiệm. Là tôi tớ trung thành của Thiên Chúa, luôn thực thi trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa. Là con người luôn biết kính trọng và yêu thương tha nhân.

Thánh Giuse tuyệt đối tin tưởng vào lời Thiên Chúa. Ngài đã luôn sống trong thái độ hoàn toàn phó thác cho tình yêu quan phòng của Thiên Chúa. Trong bất cứ hoàn cảnh nào,hễ biết là Ý Chúa, Thánh Giuse vui lòng lãnh nhận và mau mắn thi hành. -Thấy Maria có thai,Giuse phải đau khổ lắm. Người Hôn thê đạo hạnh mà Ngài rất mực yêu thương lại mang thai trước khi về nhà chồng. Bối rối và khó xử nhưng Ngài vẫn tiếp tục tin tưởng Maria trong sạch vẹn tuyền. Không một lời phàn nàn, ca thán, trách móc, Giuse không hề hạch sách hay tra hỏi Maria một lời nào, Ngài âm thầm ôm lấy nổi đau riêng mình với một quyết định: “Đào vi thượng sách”. Giuse không còn chọn lựa nào khác “ vì là người công chính và không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” ( Mt 1,19). Thế nhưng, Thiên Thần đã hiện ra với Giuse trong giấc mộng giải thích cho Ngài biết “Người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20);rồi Thiên Thần khuyên Giuse “Chớ sợ rước Maria về nhà mình”(Mt1,20). Nhận ra Thánh Ý Thiên Chúa “ Giuse đã làm như lời Thiên Thần Chúa truyền và ông đã rước bà về”(Mt 1,24). – Cuộc sống đang bình yên tại Bêlem thì chính lúc đó Chúa lại bảo ông chỗi dậy đi ngay giữa đêm khuya, không hành trang, không tiền bạc sang Aicập sống kiếp lưu đày. Trước mắt là gian truân vất vả,đường dài vạn dặm mà vợ yếu con thơ, nhưng Giuse luôn tín thác vâng phục “Chỗi dậy, ông đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Aicập ngay giữa đêm khuya” (Mt 2,14). – Khi đã ổn định cuộc sống nơi xứ lạ quê người với một cơ ngơi bé nhỏ mà Giuse đã gầy dựng từ hai bàn tay trắng. Vậy mà một lần nữa Chúa lại bảo ông phải bỏ lại tất cả để ra đi. Thật mau mắn trước Thiên Ý “Giuse chỗi dậy đem Hài Nhi và Mẹ Người về đất Israel”(Mt2,21). Trước Thánh Ý Thiên Chúa, Giuse vâng phục và chu toàn. Từ Nazareth qua Bêlem, từ Bêlem đi Aicập, từ Aicập về Israel, Chúa bảo ông đi là ông đi, bảo ông về là ông về, bảo ông làm thế nào là ông làm thế ấy,đúng thời gian,đúng địa điểm mà không thắc mắc,không hoài nghi, không cự nự. Tất cả mọi lần Giuse đều thưa như Đức Maria “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền”(Lc1,38).

Thánh Ý Thiên Chúa bao giờ cũng hoàn hảo, không những cho cá nhân mà còn cho toàn thể nhân loại. Thánh Giuse người công chính đã thực hiện lời mời gọi “nên hoàn hảo như Cha trên trời là Đấng hoàn hảo” (Mt 5, 48) bằng cách thi hành ý muốn của Thiên Chúa.

Công đồng Vatican II dạy: “Mọi Kitô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tuỳ theo con đường của mỗi người” (GH 11,3).

Nên thánh theo con đường của Thánh Giuse là một con đường cho nhiều người. Không quan trọng mình là ai, địa vị nào trong xã hội, làm việc cao quý hay tầm thường. Trước nhan Thiên Chúa, mọi địa vị và công việc đều có giá trị. Điều quan trọng là hãy thực thi thánh ý Chúa, đáp lại tiếng Người mời gọi trong cuộc sống. Địa vị và công việc lao động chân tay của Thánh Giuse chỉ ở mức tầm thường; thế nhưng, ngài vẫn có khả năng biến đổi nó trở thành phi thường. Cái phi thường ở trong cái tầm thường của mỗi con người là một viên ngọc quý tiềm ẩn. Những người đồng thời nói về Thánh Giuse rất trìu mến là “bác thợ mộc”. Một tên gọi rất thường nhưng lại bao hàm lòng yêu mến con người thợ mộc ấy. Dĩ nhiên, phải có điều gì đó nơi người thợ mộc kia đã tạo được thiện cảm và lòng yêu mến của nhiều người. Ngày nay có bao nhiêu người chức nọ, quyền kia, có học vị, có địa vị, rất giàu có; nhưng khi nói về họ, nhiều người rủa thầm: tên này, tên nọ, thằng này, thằng kia, tay này, tay nọ… Để được tôn trọng, trước tiên người đó cần có lòng tự trọng. Công việc mỗi ngày bộc lộ tính tự trọng trong đó, người có lòng tự trọng sẽ làm công việc cẩn thận, có trách nhiệm, liêm khiết, công bằng, hợp tác, thân tình… Thánh Giuse là một con người “đầy tinh thần trách nhiệm”, một con người nhiều sáng kiến trong bất cứ công việc gì được trao phó. Thánh Giuse nên thánh trong nghề nghiệp của mình nên Ngài là Thánh bổn mạng của những người lao động.

Theo gương thánh Giuse, sống đạo là tin tưởng, cậy trông, yêu mến Thiên Chúa. Tin với tâm hồn thờ phượng, tạ ơn, với lòng phó thác nguyện cầu và sống theo Ý Chúa.

Hoa hướng dương là hình ảnh Thánh Giuse. Nhìn một đoá hoa hướng dương khoe sắc ta nghĩ đến Thánh Giuse. Nhìn cả vườn hoa hướng dương đang rực rỡ trong nắng ấm ta ước mong mỗi người Kitô hữu là một bông hoa nhỏ luôn hướng tâm hồn về Thiên Chúa, mở rộng lòng đón nhận sự sống,tình yêu, niềm vui để rồi toả hương khoe sắc cho cuộc đời.

Thánh Giuse mãi mãi là tấm gương cho tất cả chúng ta soi. Tấm gương của một con người luôn thao thức lắng nghe tiếng Chúa và khi đã nghe thì mau mắn đáp lại không thắc mắc cho dù phải trả giá. Tấm gương của một con người luôn hướng tâm hồn về Chúa, xin vâng trước Thiên Ý, luôn phó thác để Chúa thực hiện chương trình cứu rỗi của Người. Tấm gương về người quản gia trung tín chăm sóc hai kho tàng quý giá nhất trần gian là Hài Nhi Giêsu và Mẹ Maria.

Thánh Giuse là con người thầm lặng, ít nói, khiêm tốn, sống theo Ý Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Gioan Tẩy Giả chân thành “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ bé lại”. Giuse đã sống điều đó mà không nói một lời. Chính cuộc sống ấy đã làm nên một con đường tu đức hướng đến trọn lành. Thánh Giuse là bậc thầy dạy con người sống an vui và nên thánh trong địa vị của mình. Thánh Giuse là mẫu gương cho mọi người nên thánh trong cuộc sống thường ngày.

-------------------------------

 

19/03-94: Thánh Giuse, Bạn Trăm Năm Đức Trinh Nữ Maria


--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi  DCCT

“THÁNH GIUSE GIÚP TA TRONG MỌI TRƯỜNG HỢP” (Thánh Têrêsa Avila)

 

Đọc lại câu nói của thánh Têrêsa Avila về thánh cả Giuse sau đây chúng ta không khỏi khâm phục 19/03-94


Đọc lại câu nói của thánh Têrêsa Avila về thánh cả Giuse sau đây chúng ta không khỏi khâm phục và ngạc nhiên: “Tôi thấy không lần nào xin sự gì cùng thánh Giuse mà không được như ý. Dường như Thiên Chúa ban ơn cho các Thánh giúp ta việc này việc nọ nhưng kinh nghiệm cho tôi biết Thánh Giuse giúp chúng ta trong mọi trường hợp. Tôi lấy danh Chúa mà xin những ai không tin lời tôi hãy thử mà xem”. Hội Thánh qua bao thế kỷ đã dành cho thánh Giuse một chỗ đứng cao vời trong Phụng Vụ thánh. Theo truyền thống Kitô giáo, lòng đạo đức bình dân của các Kitô hữu trên thế giới lúc nào thánh Giuse cũng được mọi người tôn kính như một Đấng đầy uy quyền. Giáo Hội đã trao tặng cho thánh Giuse rất nhiều tước hiệu cao quí, danh xưng nào cũng đẹp, tên nào cũng tuyệt vời chẳng hạn như: Thánh Giuse, Cha nuôi của Chúa Giêsu, thánh Giuse thợ, Bạn trăm năm của Đức Trinh Nữ Maria vv… Hội thánh hàng năm vẫn dành cả tháng 3 để tôn vinh thánh Giuse mà cao điểm là lễ ngày 19/3, Giáo Hội truyền mừng lễ này cách rất trọng thể.

THÁNH GIUSE, ANAWIM, NGƯỜI NGHÈO CỦA THIÊN CHÚA: Thiên Chúa đã chọn thánh Giuse giữa muôn người nghèo vì trước mặt Người, thánh Giuse chỉ là người khiêm nhu, nhỏ bé, một người nghèo của Thiên Chúa Giavê, một Anawim như Đức Trinh Nữ Maria. Thánh Giuse cũng chờ đợi Đấng Cứu Thế như muôn dân hằng trông đợi, Đấng mà Thiên Chúa đã hứa với tổ tiên Đavít của mình. Thánh Giuse luôn đặt sinh mạng của mình trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa, phó thác và tin tưởng hoàn toàn nơi Ngài. Vì đặt tin tưởng, cậy trông nơi Thiên Chúa duy nhất là Đấng có uy quyền và làm được tất cả mọi sự. Do đó, khi được sứ thần Gabrien cho biết ý định cứu rỗi của Thiên Chúa ngang qua cái thai mà Maria, bạn của Người vừa mới đính hôn đang cưu mang trong cung lòng trinh khiết, thánh Giuse đã bỏ mọi ý định riêng tư của mình để sống kế hoạch chung, kế hoạch yêu thương và mầu nhiệm của Thiên Chúa. Như Mẹ Maria, thánh Giuse có thể nói với sứ thần: “Xin hãy thành sự cho tôi như lời sứ thần loan báo”. Thánh Giuse đã thực hiện hoàn hảo như lời sứ thần truyền: “Đem Maria về nhà để nuôi dưỡng và giúp đỡ”. Thánh Giuse chỉ là một người thường dân như mọi người dân khác trong xã hội Do thái lúc đó dù rằng Ngài thuộc hoàng tộc vua Đavít. Do đó, thánh Giuse chẳng được đặc ân, đặc lợi như hàng tư tế, Lêvi, biệt phái, Pharisiêu vv…

2. VAI TRÒ CỦA THÁNH GIUSE: Trước mặt Mẹ Maria và Chúa Giêsu quả thực thánh Giuse hầu như đứng trong bóng tối. Nhưng đó là vai trò của Ngài, Ngài âm thầm, kiên nhẫn, khiêm nhượng nuôi dưỡng Chúa Giêsu và Mẹ Maria bằng cái nghề thợ mộc khiêm tốn của mình. Tuy nhiên không phải vì thế mà vai trò của Ngài bị lu mờ, bị che khuất dẫu Tin Mừng hầu như không ghi lại một câu nói của Ngài. Có lẽ đó là bí mật và mầu nhiệm của Tin Mừng. Nhưng, đã có ai gần gũi Chúa Giêsu và Mẹ Maria bằng thánh cả Giuse? Có ai nuôi dưỡng Chúa Giêsu và Mẹ Maria bằng thánh cả Giuse? Hội Thánh luôn tôn vinh thánh Giuse và chiêm ngưỡng con người khiêm nhu nhưng lại rất thánh thiện và cao vời của Ngài. Thánh Giuse luôn nắm vai trò quan trọng nhất trong kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa ngang qua gia đình Nagiarét, một gia đình đã cưu mang và nuôi dưỡng Con Thiên Chúa: “Đức Giêsu làm người”. Chúng ta không sợ nói quá lời, nếu không có thánh Giuse chắc lịch sử cứu độ đã xoay khác.

3. THÁNH GIUSE TRUYỀN LỆNH HƠN LÀ VAN XIN: Vì giữ vai trò quan trọng trong lịch sử cứu độ, thánh Giuse được Thiên Chúa yêu thương, sủng mộ, Ngài rất đắc sủng trước mặt Thiên Chúa. Chính vì thế, Thiên Chúa đã ban cho Ngài muôn vàn đặc ân cao quí mà có lẽ chỉ có Đức Mẹ và thánh Giuse mới có được, mới nhận được. Chúng ta chỉ cần điểm qua vài biến cố trong cuộc đời của thánh Giuse, chúng ta sẽ hiểu thế nào là ơn Thiên Chúa ban cho Ngài để Ngài bảo vệ và củng cố lòng tin cho gia đình Nagiarét, chẳng hạn: “Thánh Giuse đem Chúa Giêsu và Mẹ Ngài trốn qua Ai Cập để tránh Hêrôđê tìm giết Con Trẻ, đưa Chúa Giêsu và Mẹ Ngài trở về Nagiarét. Cả hai biến cố ấy luôn cần ơn can đảm, khôn ngoan và hiểu biết, thánh Giuse đã được Thiên Chúa ban cho những ơn ấy để Ngài hướng dẫn và săn sóc gia đình Thánh Gia tốt đẹp trước mọi biến cố của cuộc đời. Việc lạc mất Chúa Giêsu lúc Chúa lên 12 tuổi. Chắc chắn thánh Giuse đã được Chúa ban đức tin mãnh liệt để Ngài củng cố niềm cậy trông cho Mẹ Maria, Bạn trăm năm của Người.

Thánh Giuse quả thực được sủng ái nơi Thiên Chúa vì thế Ngài có quyền lớn lao trên Nước Trời. Thiên Chúa đã ban cho thánh Giuse toàn quyền can thiệp vào lịch sử nhân loại. Do đó, chạy đến với thánh Giuse chắc chắn con người sẽ chẳng bị thất vọng.

Chúng ta hãy cùng nhau đọc kinh khấn thánh Giuse: “Lạy thánh Giuse, xưa nay không ai kêu cầu Cha mà vô hiệu. Cha có thần thế trước mặt Đức Chúa Trời đến nỗi người ta có thể nói rằng: “Trên Trời thánh Giuse truyền lệnh hơn là van xin”.

Lạy Cha hiền, xin cầu bầu cùng Chúa Giêsu cho chúng con. Khi ở thế gian này. Cha đã từng là Cha nuôi và là vị bảo hộ trung thành của Chúa Con Chí Thánh, nay xin Cha bào chữa cho chúng con bên tòa Chúa. Chúng con trao phó nơi Cha vụ khó khăn này (…) Xin Cha giải gỡ giúp chúng con, để thêm một vinh quang mới vào bao nhiêu vinh quang sẵn có của Cha.

Lạy Thánh Giuse nhân từ, chúng con tin tưởng. Vâng, chúng con tin tưởng Cha có thể chấp nhận lời nguyện của chúng con và giải thoát chúng con khỏi những khổ cực ưu sầu mà chúng con đang gặp phải. Hơn nữa, chúng con vững lòng trông cậy. Cha không bỏ qua điều gì giúp cho những người sầu khổ kêu cầu Cha. Chúng con sấp mình dưới chân Cha, tha thiết nài xin Cha đoái thương đến những than van khóc lóc của chúng con. Xin Cha lấy tình thương như áo choàng che phủ chúng con và chúc lành cho chúng con. Amen.

-------------------------------

 

19/03-95: Thánh Giuse từng có ý định bỏ Đức Mẹ, tại sao?


--Lm Nguyễn Thể Hiện

 

Xảy ra là Đức Maria, sau khi đã đính hôn nhưng trước khi về chung sống với Thánh Giuse, đã 19/03-95


Xảy ra là Đức Maria, sau khi đã đính hôn nhưng trước khi về chung sống với Thánh Giuse, đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. ”Ông Giuse, chồng bà [Maria], là người công chính và không muốn tiết lộ điều xảy ra với bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19).

Không có bất cứ lý do gì để nghi ngờ rằng Thánh Giuse đã không biết việc Đức Maria mang thai là do sự can thiệp của Chúa Thánh Thần. Trái lại, nếu đọc bản văn một cách thanh thản, không thiên kiến, người ta thấy hình như tác giả gợi ý rằng Thánh Giuse biết điều đó. Đàng khác, tình yêu lành thánh giữa Đức Maria và Thánh Giuse càng cho phép chúng ta tin rằng chắc chắn Đức Maria chẳng hề giấu giếm Thánh Giuse một điều quan trọng như thế.

Và khi đã biết sự thực, Thánh Giuse liền định tâm kín đáo lìa bỏ Đức Maria!

Tác giả Mt kể ra hai lý do khiến Thánh Giuse đi đến quyết định như vậy.

Lý do thứ nhất: vì Thánh Giuse “là người công chính”.

Phải hiểu thế nào?

Chắc chắn đây không phải là sự công chính theo nghĩa pháp lý, tức là theo nghĩa vâng phục lề luật. Bởi lẽ lề luật chẳng buộc người ta phải rẫy bỏ vị hôn thê phạm tội ngoại tình, nhất là lại rẫy bỏ “một cách kín đáo” (vì hành động kín đáo như thế này là không có giá trị pháp lý). Đàng khác, nếu Thánh Giuse nghĩ rằng Đức Maria vô tội, thì ông còn có nghĩa vụ phải bảo vệ vị hôn thê vô tội của mình.

Vì thế, cách hiểu hợp lý nhất là phải coi đây là sự công chính tôn giáo.

Là người công chính theo nghĩa tôn giáo, Thánh Giuse kính trọng công việc Thiên Chúa đang thực hiện nơi Đức Maria và không dám nhận về mình những công trạng do hành động của Thiên Chúa mà có. Nói cách khác, là người công chính, Thánh Giuse không dám đưa về làm vợ mình một người đã được Thiên Chúa dành riêng cho Ngài, vì như thế là thánh nhân tự chiếm lấy một vai trò không do Thiên Chúa trao phó.

Lý do thứ hai: vì Thánh Giuse không muốn tiết lộ điều đã xảy ra với Đức Maria, tức là thánh nhân kính trọng mầu nhiệm thần linh nơi Đức Maria.

Nhiều người cho rằng Thánh Giuse không muốn tố giác Đức Maria. Thực ra, nghĩ như thế không chính xác. Tác giả Mt sử dụng động từ deigmatisai (nghĩa là tiết lộ, vén mở). Nếu muốn nói là “trừng phạt để làm gương” hay “làm cho mất danh giá”, có lẽ ông đã dùng động từ paradeigmatisai. Đàng khác, trong tiếng Việt, động từ “tố giác” có nghĩa là “báo cho nhà cầm quyền biết người hoặc hành động phạm pháp nào đó”, và như thế, tiền giả định là người tố giác cho rằng rằng người bị tố giác (hay hành động bị tố giác) là phạm pháp. Khi dùng động từ “tố giác” này, người ta đã đồng ý với tiền giả định theo đó, Thánh Giuse đã cho rằng Đức Maria phạm tội ngoại tình. Nhưng bản văn lại chẳng cho phép chúng ta hiểu như thế. Do đó, hiểu rằng Thánh Giuse không muốn tố giác Đức Maria là không chính xác, nếu không muốn nói đó là một sự hiểu sai rất tai hại.

Thực chất, lý do thứ hai khiến Thánh Giuse định tâm lìa bỏ Đức Maria một cách kín đáo là vì ngài không muốn tiết lộ mầu nhiệm đang bao trùm Đức Maria. Đó là mầu nhiệm của Thiên Chúa, một người công chính không thể tự tiện nói ra cho mọi người biết được.

“Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì quả thực người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,20-21).

“Sứ thần Chúa” là một kiểu nói diễn tả sự can thiệp của chính Thiên Chúa, chứ không có nghĩa là một trong các thiên thần. Vậy đã xảy đến cho Thánh Giuse một sự can thiệp huyền nhiệm của Thiên Chúa, khẳng định với ngài là em bé sắp được sinh ra thật có nguồn gốc thần linh, nhưng ngài có nhiệm vụ phải đón Đức Maria và em bé sắp sinh ấy về và phải đặt tên cho em bé.

Nói cách khác, Thánh Giuse được Thiên Chúa can thiệp cho biết rằng ông phải duy trì mối tương quan với Đức Maria và nhìn nhận về pháp lý rằng con trẻ do Đức Maria sinh ra chính là con của ông.

Thánh Giuse được mời gọi đảm nhận vai trò làm cha của hài nhi sắp sinh về phương diện luật pháp. Nhờ đó, Đức Giêsu được tháp nhập một cách hợp pháp vào dòng dõi của ông Giuse “con cháu Đavít”.

-------------------------------

 

19/03-96: Thánh Giuse, người không thích “nổ”


--Lm Giuse Nguyễn Văn Hữu

 

Hàng năm cứ đến tháng Ba, Giáo Hội cho chúng ta chiêm ngắm dung mạo Thánh Giuse, cha nuôi 19/03-96


Hàng năm cứ đến tháng Ba, Giáo Hội cho chúng ta chiêm ngắm dung mạo Thánh Giuse, cha nuôi Đức Giêsu và là bạn trăm năm của Mẹ Maria.

Khi chiêm ngắm thánh Giuse, ngoài những nhân đức nổi bật đã được Giáo hội đúc kết thành Kinh Cầu tôn kính Ngài…, ta còn thấy ở Ngài một nhân đức nổi bật khác nữa, đó là đức tính âm thầm, khiêm nhường không muốn thể hiện mình hay nói theo ngôn ngữ ngày nay Ngài là người không thích nổ.

Cụ thể như việc Mẹ Maria mang thai Đức Giêsu…, thánh Giuse có thể tố cáo…, nhưng Ngài lại chọn giải pháp âm thầm rút lui. Chính vì âm thầm, không thích nổ mà Thiên Chúa đã chọn gọi và đặt Ngài lên địa vị cao sang là làm cha nuôi Đức Giêsu và là bạn trăm năm của Mẹ Maria: “Này Giuse, con cháu Đavít đừng ngần ngại đón Maria về nhà làm bạn mình vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu…”

Thánh Giuse không chỉ âm thầm khiêm nhường trước Thiên Chúa mà Ngài còn âm thầm tự xoá mình đi trước Đức Giêsu và Mẹ Maria. Chẳng hạn như biến cố Đức Giêsu tự ý ở lại đền thờ vào dịp hành hương Giêrusalem, thánh Giuse có thể la rày hay sửa phạt Đức Giêsu để thể hiện uy quyền của người cha, nhưng Ngài đã nhường cho Mẹ Maria, để Mẹ Maria chỉ nhẹ nhàng nhắc nhở: “Con ơi, sao con lại làm cho cha mẹ phải cực nhọc tìm con!”

Tóm lại thánh Giuse âm thầm và xoá mình đi như thế là để cho chương trình và thánh ý Thiên Chúa được thực hiện, Đức Giêsu và Mẹ Maria được lớn lên. Còn chúng ta là con cái của người thì sao?

Thực lòng mà nói, ta luôn muốn thể hiện mình chứ không muốn xoá mình đi, ta luôn thích nổ để chứng tỏ quyền uy của mình chứ không thích âm thầm bé nhỏ:

Trong gia đình, chồng muốn chứng tỏ uy quyền của mình trên người vợ, vợ muốn thể hiện vai trò của mình đối với chồng, chẳng ai chịu nhường nhịn ai … và thế là xảy ra cảnh gia đình bất hoà bất thuận, cơm chẳng lành canh chẳng ngọt.

Ngoài xã hội, ta thấy ai cũng muốn thể hiện mình, ai cũng cho mình là nhất… Kiêu ngạo gặp kiêu ngạo…, thế là xảy ra cảnh cãi vã, đánh lộn khắp nơi.

Muốn cho gia đình êm ấm và xã hội hài hoà, mỗi người chúng ta phải biết sống âm thầm khiêm nhường, xoá mình đi trước người khác như thánh Giuse đã sống.

Lạy thánh Giuse, xin dạy con biết sống âm thầm, khiêm nhường, xoá mình đi để Chúa và tha nhân được lớn lên, gia đình được êm ấm và xã hội được hài hoà. Amen.

-------------------------------

 

19/03-97: Noi Gương Thánh Giuse Sống Lòng Thương Xót


--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

(2 Sm 7, 4-5a. 12-14. 16; Rm 4, 13. 16-18. 22; Mt 1, 16. 18-21. 24a)

 

Thánh Giuse, bạn trăm năm của Ðức Trinh Nữ Maria, cha nuôi Chúa Giêsu, vị quan thầy khả 19/03-97


Thánh Giuse, bạn trăm năm của Ðức Trinh Nữ Maria, cha nuôi Chúa Giêsu, vị quan thầy khả kính dễ mến, dễ thương, là gương tốt lành cho giới gia trưởng, được Giáo hội đề cao như là mẫu gương cho người thế noi gương, bắt chước, học đòi về sự công chính và lòng từ bi thương xót.

Tin mừng gọi là người công chính. Công chính trước hết có nghĩa là tuân giữ luật Chúa (Rm 4,2; Gl 3,6). Công chính còn được hiểu là lòng xót thương nhân hậu, (St 12,19; Tv 37,21; Tv 112,4). Thánh Giuse là người có lòng thương xót, đính hôn với Maria như bao thanh nam nữ tú khác. Theo phong tục Do thái, khi hai người nam nữ đính hôn đã thành vợ chồng, dù chưa chung sống với nhau. Muốn bỏ nhau phải ra toà xin ly dị. Nếu vợ ngoại tình, phải bị xử ném đá theo luật.

Thế mà Maria đã có thai trước khi về chung sống. Giuse thật khó xử. Tin mừng viết: “Giuse, chồng bà là người công chính và không muốn tố giác bà, nên định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1, 19). Vì nhân hậu và thương xót, Giuse không tố cáo, làm nhục Maria, người mà ông rất tin tưởng, mến yêu và quí trọng; càng không muốn Maria bị xử phạt theo luật, nên quyết định âm thầm ra đi. Vì công chính, hành động theo ý Chúa, nên Giuse sau lời giải thích của Thiên thần, đã tín thác hoàn toàn, sẵn sàng đón Đức Maria về nhà làm bạn mình và phục vụ với lòng kính trọng, mến yêu.

Vốn là người vâng nghe ý Chúa, Giuse đã sống ơn gọi làm chồng cách trung thành. Vì thế, thánh nhân trở nên người chồng mẫu mực của Đức Maria, người cha tận tụy đối với Chúa Giêsu, như thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh: “Thánh Giuse, vì yêu thương chăm sóc Mẹ Maria và vui mừng tận tụy giáo dục Ðức Giêsu Kitô, như thế Ngài cũng giữ gìn và bảo vệ nhiệm thể của Ngài là Giáo Hội, mà Ðức Thánh Trinh Nữ là hình ảnh và gương mẫu”  (Tông Huấn Redemptoris Custos, 1).

Nếu như Đức Thánh Cha Phanxicô nói, thế giới hôm nay rất cần đến lòng thương xót và sự tha thứ của Thiên Chúa. Chúng ta có thể nói mà không sợ sai lầm rằng, các gia đình chúng ta hôm nay đang rất cần có những người chồng, người cha công chính và có lòng thương xót như thánh cả Giuse biết bao. Đó là lý do chúng ta mừng kính để xin người cầu thay nguyện giúp cho các người cha.

“Hãy cứu lấy các gia đình hỡi những người cha” là lời kêu gọi của Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđitô, ngài tiếp: “các gia trưởng sẽ bớt bài bạc, bớt những chén rượu, bớt đi những cuộc vui vô bổ, để làm gương sáng cho vợ con về lòng tin; siêng năng cầu nguyện và đến với Chúa …”. Thánh Giuse đã làm điều đó, đem Con Trẻ và Mẹ Người trốn sang Ai Cập, dẫn về thành Nagiarét, lên Đền thờ dự lễ và vui sống bình an.

Thật là đẹp khi ta thấy người chồng một tay dắt vợ, với nách ôm con đến nhà thờ dự lễ. Kết hôn, người nam sẽ bỏ cha mẹ mà luyến ái với vợ mình, hai người nên một, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khỏe. Logo Năm Thánh Lòng Thương Xót, họa sỹ vẽ Chúa Giêsu vác Ađam lên vai, hai mắt nhìn vào nhau 2 con người với 3 con mắt. Không phải ngài vẽ thiếu, nhưng chủ đích muốn nói chính tình yêu và Lòng Thương Xót hòa quyện giữa Thiên Chúa và con người với nhau, để Ađam hướng nhìn vào Thiên Chúa thì khám phá ra lòng Chúa xót thương. Và Chúa Giêsu nhìn chúng ta với con mắt của Ađam để thấy được những lỗi lầm thiếu xót, những đau khổ gian nan mà con người phải chịu do tội lỗi, để ôm ấp, yêu thương và chữa lành. Từ đó, ta nhìn anh em với con mắt của chính Chúa Giêsu, để sống lòng thương xót của Thiên Chúa với tha nhân.

 Nếu người chồng mà nhìn vợ bằng con mắt của vợ, mang lấy tâm tư, vui buồn, sướng khổ của người vợ, và người vợ nhìn chồng bằng con mắt của người chồng, mang lấy ý muốn, tâm tư, cố gắng thực hiện ước mơ của người chồng thì thật hạnh phúc.

“Tình yêu là sứ mạng của chúng ta”  là chủ đề của ĐHGĐTG tại Philadelphia vừa qua. Tình yêu là cốt lõi làm nên ý nghĩa cho đời sống gia đình. Nếu Thiên Chúa không yêu thương thì không tạo dựng gia đình, không có mầu nhiệm nhập thể, và không có chết trên Thánh giá. Cũng vậy, không có tình yêu, chẳng ai dại gì mà kết hôn với nhau cho nó nặng nề. Có tình yêu, người ta mới sống với nhau trong tình nghĩa vợ chồng, hy sinh, quên mình để sống cho người khác. Vì Thiên Chúa là Tình Yêu, nên Thiên Chúa gieo mầm tình yêu đó nơi mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu đến để tỏ lộ lòng thương xót của Chúa Cha và trao cho chúng ta sống và biểu lộ tình yêu ấy cho đồng loại. Tình yêu là sứ mạng thì chúng ta phải sống, và nhóm lên ngọn lửa để gieo niềm tin và hy vọng trong đời sống gia đình.

Nhìn vào Logo Năm Thánh thấy Chúa Giêsu vác con người tội lỗi trên vai, cụ thể hơn, nhìn thánh Giuse bồng Chúa Giêsu trên tay, hai cha con nhìn nhau làm tôi nhớ tới anh Đinh Văn Mạnh cõng vợ là Lương Thị Hà bị mất chân sau một vụ tai nạn “đi khắp thế gian” (phát sóng ngày 9/5 trên VTV3). Hay là ông Lê Xuân Hồng cõng con là Lê Xuân Bách (xã Tiên Kiên, huyện Lâm Thao, Phú Thọ) suốt 20 năm trời đến trường, theo đuổi giấc mơ đỗ Đại học, phát sóng trong chương trình Điều ước thứ 7 ngày 24/10 thật là cảm động. Dĩ nhiên là có mẹ em động viên, an ủi. Ba con người, ba trái tim giàu tình yêu thương, họ sống bên nhau, nương tựa vào nhau trong khó khăn, hoạn nạn. Chưa hết, ngày con nhập trường cũng là ngày ông cùng con lên trường xin làm bảo vệ để tiếp tục cõng con. Người vợ nói rằng, ông Hồng là người đàn ông tuyệt nhất thế gian.

Vợ chồng, hay bố mẹ cõng nhau xem ra bình thường, nhưng Báo Dân Trí có đăng em Nguễn Văn Phong cõng bạn là Lê Xuân Tú (cùng sinh năm 1998, chung lớp 11C5) đến trường suốt 5 năm trời vì thương bạn quá. Tình bạn không vơi, Tốt nghiệp THCS, Tú và Phong lại thi đậu vào trường THPT Nguyễn Đức Mậu (huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An) và được xếp vào cùng một lớp.

Đó không phải là thực hành sứ mạng tình yêu và lòng thương xót trong gia đình noi gương Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse như Chúa dạy đó hay sao.

Kính xin thánh Giuse từ Trời cao trợ giúp các gia đình chúng ta, đặc biệt là những người cha. Amen. 

-------------------------------

 

19/03-98: Thánh Giuse, Mẫu Gương Cho Các Người Cha


-- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

 

Ngày 19 tháng 3, toàn thể Hội Thánh hân hoan mừng kính thánh Giuse, bạn trăm năm của Ðức 19/03-98


Ngày 19 tháng 3, toàn thể Hội Thánh hân hoan mừng kính thánh Giuse, bạn trăm năm của Ðức Trinh Nữ Maria, cha nuôi Chúa Giêsu, vị quan thầy khả kính dễ mến, dễ thương, là gương tốt lành cho các bậc làm cha làm chủ trong gia đình.

Trong khung cảnh của Mùa Chay Thánh, nổi bật lên khuôn mặt của Thánh Giuse – vị thánh vĩ đại được Giáo hội đề cao như là mẫu gương cho người thế noi gương, bắt chước, học đòi. Ngài là mẫu mực sáng láng về cách ăn nết ở trong nhà, là vị gia trưởng thánh thiện, vâng phục, khiêm cung trong gia đình Nagiarét.

Tin mừng gọi thánh Giuse là người công chính. Công chính trước hết có nghĩa là tuân giữ luật Chúa (Rm 4,2; Gl 3,6). Công chính còn được hiểu là nhân hậu, và trắc ẩn (St 12,19; Tv 37,21; Tv 112,4). Đức công chính của thánh Giuse xem ra nổi bật hơn cả. Chẳng thế, Giuse đính hôn với Maria như bao thanh nam nữ tú thời bấy giờ. Theo phong tục Do thái, khi hai người nam nữ đính hôn, trước luật pháp đã thành vợ chồng, nhưng chưa chung sống; một năm sau đính hôn, chồng rước vợ về sống chung. Thời gian đính hôn, muốn bỏ nhau phải ra toà xin ly dị. Nếu vợ ngoại tình, phải bị xử ném đá theo luật.

Thế mà Maria đã có thai trước khi về chung sống. Giuse thật khó xử. Tin mừng viết: “Giuse, chồng bà là người công chính và không muốn tố giác bà, nên định tâm bỏ bà cách kín đáo”. Vì công chính, Giuse không tố cáo Maria, hay làm nhục người mà ông thương mến yêu; ông không muốn Maria bị xử phạt theo luật, nên quyết định âm thầm ra đi. Vì công chính, nên Giuse hành động theo ý Chúa, sau lời giải thích của Thiên thần, Giuse tín thác hoàn toàn, sẵn sàng đón Đức Maria về nhà làm bạn mình và phục vụ với lòng kính trọng, mến yêu.

Vốn là người vâng nghe ý Chúa, Giuse đã sống ơn gọi làm chồng cách trung thành. Vì thế, thánh nhân trở nên người chồng mẫu mực của Đức Maria và người cha tận tụy đối với Chúa Giêsu, như Chân phước Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh: “Thánh Giuse, vì yêu thương chăm sóc Mẹ Maria và vui mừng tận tụy giáo dục Ðức Giêsu Kitô, như thế Ngài cũng giữ gìn và bảo vệ nhiệm thể của Ngài là Giáo Hội, mà Ðức Thánh Trinh Nữ là hình ảnh và gương mẫu” (Trích Tông Huấn Redemptoris Custos, 1).

Nếu như Đức Thánh Cha Phanxicô nói, gia đình nhân loại hôm nay cần đến lòng thương xót và sự tha thứ của Thiên Chúa biết bao. Chúng ta có thể nói mà không sợ sai lầm rằng, các gia đình hôm nay đang rất cần có những người chồng, người cha công chính và có lòng bác ái như thánh cả Giuse.

“Hãy cứu lấy các gia đình hỡi những người cha” là lời kêu gọi của Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđitô, ngài tiếp: ”Các gia trưởng sẽ bớt bài bạc, bớt những chén rượu, bớt đi những cuộc vui vô bổ, để làm gương sáng cho con cái về lòng tin; để con cái siêng năng cầu nguyện và đến với Chúa khi nhìn vào cha mẹ của mình. . . “. Thánh Giuse đã làm điều đó, đem Con Trẻ và Mẹ Người trốn sang Ai Cập, dẫn về thành Nagiaréth vui sống bình an.

“Tình yêu là sứ mạng của chúng ta” là chủ đề của ĐHGĐTG tại Philadelphia năm 2015. Tình yêu là cốt lõi làm nên ý nghĩa cho đời sống gia đình. Nếu Thiên Chúa không yêu thương thì không tạo dựng gia đình, không có mầu nhiệm nhập thể, và không có chết trên Thánh giá. Cũng vậy, không có tình yêu, chẳng ai dại gì mà kết hôn với nhau cho nó nặng nề. Có tình yêu, người ta mới sống với nhau trong tình nghĩa vợ chồng, hy sinh, quên mình để sống cho người khác. Vì Thiên Chúa là Tình Yêu, nên Thiên Chúa gieo mầm tình yêu đó nơi mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu đến để trao cho chúng ta sống và biểu lộ tình yêu ấy cho đồng loại.

Yêu là luôn nghĩ tốt, nỗ lực làm tốt, nói tốt, muốn điều tốt nhất cho người mình yêu. Tình yêu là sứ mạng, thì các gia đình Công Giáo phải thay đổi cách nhìn về gia đình, vì hôm nay ly dị quá nhiều, gia đình bị tan nát, gia đình hai người nam, hoặc nữ kết hôn với nhau. Một bức tranh tăm tối, ảm đạm phủ trên gia đình. Giáo hội phải có sứ mạng tình yêu đó, nhóm lên một ngọn lửa nhỏ để gieo niềm và hy vọng trong đời sống gia đình.

Thánh Giuse là người biết nhìn lên, luôn cố gắng đáp lại kế hoạch của Thiên Chúa. Thánh Giuse cũng là người biết nhìn xuống Đức Maria và Chúa Giêsu, đồng thời cố gắng giải thích những hành động của họ cách thiện ý nhất. Nhìn thánh Giuse bồng Chúa Giêsu trên tay, hai cha con nhìn nhau làm chúng ta nhớ tới anh Đinh Văn Manh cõng vợ là Lương Thị Hà “đi khắp thế gian” (phát sóng ngày 9/5 trên VTV3, Đài truyền hình Việt Nam). Hay là ông Lê Xuân Hồng cõng con là Lê Xuân Bách (xã Tiên Kiên, huyện Lâm Thao, Phú Thọ) suốt 20 năm trời đến trường, theo đuổi giấc mơ đỗ Đại học phát sóng trong chương trình Điều ước thứ 7 ngày 24/10 thật là cảm động. Sau những thành công mà hai cha con vất vả đạt được luôn có hình bóng người mẹ động viên, an ủi. 3 con người, ba trái tim giàu tình yêu thương, họ sống bên nhau, nương tựa vào nhau trong khó khăn, hoạn nạn nhưng lại chưa bao giờ kể cho nhau nghe những tâm tình từ đáy lòng. Chưa hết, ngày con nhập trường cũng là ngày ông cùng con lên trường xin làm bảo vệ để tiếp tục cõng con. Người vợ nói rằng, ông Hồng là người đàn ông tuyệt nhất thế gian.

Vợ chồng, hay bố mẹ cõng nhau xem ra ruột thịt, nhưng Báo Dân Trí có đăng em Nguyễn Văn Phong cõng bạn là Lê Xuân Tú (cùng sinh năm 1998, chung lớp 11C5) đến trường suốt 5 năm trời vì thương bạn quá. Tình bạn không vơi, Tốt nghiệp THCS, Tú và Phong lại may mắn thi đậu vào trường THPT Nguyễn Đức Mậu (huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An) và được xếp vào học cùng một lớp.

Đó không phải là thực hành sứ mạng tình yêu và lòng bác ái trong gia đình noi gương Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse như Chúa dạy đó hay sao.

Kính xin thánh Giuse từ trời cao trợ giúp các gia đình chúng ta, đặc biệt là những người cha. Amen.

-------------------------------

 

19/03-99: Thánh Giuse, người Cha tuyệt vời


- Logos năm C

 

Tác giả người Nga tên Mikhain Vanolov viết một truyện ngắn tựa đề “Người Cha” như sau: 19/03-99


Tác giả người Nga tên Mikhain Vanolov viết một truyện ngắn tựa đề “Người Cha” như sau:

Trong gia đình chỉ có hai cha con. Người cha và cô con gái. Người cha rất thương yêu cô con gái của mình. Ông chăm sóc cô thật chu đáo. Nhưng cô lại rất khó chịu về sự chăm sóc quá tỉ mỉ của người cha già. Cô thường gọi cha mình là “ông già lẩm cẩm” khi ông nhắc nhở: ra đường nhớ đội mũ nón; đi đường mắc mưa thì về phải uống thuốc kẻo bệnh. v. v…

Vì làm văn phòng cho một trường trung học nên cô gái thường về muộn. Dù mọi người đã ra về hết, nhưng cô gái vẫn phải ở lại để sắp xếp giấy tờ cho ổn định rồi mới ra về.

Hôm ấy, khi cô khóa cửa văn phòng để về thì trời bắt đầu tối. Khu trường học vắng tanh không một bóng người. Bỗng nhiên, trước mặt cô xuất hiện ba người đàn ông với bộ mặt hung dữ từ từ bước tới phía cô.

Cô gái sợ hãi hét lên cầu cứu và bỏ chạy ra phía chiếc xe hơi của cô đậu ở sân trường. Ba người đàn ông lập tức đuổi theo. Cô gái vừa chạy vừa đưa tay vào túi lấy chìa khóa. Nhưng vì quá run rẩy nên cô làm rớt chìa khóa xuống đất. Cô cúi xuống tìm kiếm. Nhưng mắt cô hoa lên không nhìn thấy gì cả. Đang khi đó, ba người đàn ông tiếp tục chạy về phía cô. Cô đành bỏ, không tìm chìa khóa nữa, chạy tiếp đến chiếc xe. Đến nơi, cô không biết làm gì hơn là đưa tay vào chiếc ví để tìm kiếm một cái gì đó có thể cứu cô trong lúc nguy hiểm này.

Thật kỳ lạ! trong một ngăn nhỏ của chiếc ví, tay cô chạm vào một vật bằng kim loại. Cô cầm lấy nó. Ồ! Chiếc chìa khóa! Không kịp suy nghĩ, cô cầm chìa khóa tra vào lỗ khóa. Cửa xe bật mở, cô lao vào xe và chiếc xe phóng đi. Ngay lúc ấy ba gã đàn ông phóng tới, nhưng không kịp. Thế là cô thoát nạn!

Về sau, cô gái mới biết: người “cha già lẩm cẩm” của cô đã đặt làm một chìa khóa khác và âm thầm bỏ vào ví cô, dự phòng lúc cô cần đến. Chiếc chìa khoá ấy đã cứu cô.

Câu chuyện trên gợi lên hình ảnh của một người cha hết lòng yêu thương chăm sóc con cái từ những việc nhỏ nhặt đến những việc lớn lao. Hình ảnh người cha ấy, cũng gợi lên hình ảnh người cha nuôi của Chúa Giêsu, thánh Giuse.

Mặc dù chỉ là người cha nuôi của Chúa Giêsu, nhưng vai trò làm cha của thánh Giuse thật đặc biệt. “Sứ mạng làm cha” của thánh Giuse xuất phát từ Thiên Chúa, Người Cha đích thực của Chúa Giêsu. Thiên Chúa đã trao cho thánh Giuse sứ mạng cao cả ấy như một vinh dự lớn lao, nhưng cũng là một trách nhiệm nặng nề. Từ đó, thánh Giuse trở thành “Người Quản Lý trung tín và khôn ngoan” được đặt lên để coi sóc gia đình Chúa.

Thánh Giuse, người cha thánh thiện

Phúc Âm thuật lại Mẹ Maria kết hôn với thánh Giuse. Trước khi về chung sống với nhau, Mẹ Maria có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Thánh Giuse, là Người công chính, không muốn tố cáo Mẹ Maria, nên định tâm lìa bỏ Mẹ một cách âm thầm. Đang khi ấy, sứ thần báo mộng cho thánh Giuse biết Mẹ Maria mang thai là do quyền năng Chúa Thánh Thần và con trẻ Giêsu chính là Vị Cứu Thế. Khi thức giấc, thánh Giuse đã làm như sứ thần Chúa dạy và đón Mẹ Maria về nhà.

Thánh Giuse được gọi là Người công chính vì đã biết thực thi ý Thiên Chúa. Nếu Mẹ Maria đã thưa lời “xin vâng” với Thiên Chúa, thì Thánh Giuse cũng thưa lời “xin vâng” giống như vậy. Nhưng Người thưa “xin vâng” không bằng lời nói mà bằng việc làm trong suốt cuộc đời. Lắng nghe và thực thi ý Thiên Chúa chính là sự thánh thiện nơi thánh Giuse.

Thánh Giuse đã trở thành dòng suối ơn lành của Thiên Chúa tuôn chảy tràn lan cho nhân loại. Nhưng để có giòng suối ấy, phải có muôn ngàn mạch nước nhỏ góp thành. Cuộc đời thánh Giuse được chan chứa ân sủng phát xuất từ nguồn mạch bất tận là Thiên Chúa chí thánh.

Thánh Giuse, người cha siêng năng cần mẫn

Dù Chúa Giêsu là “Con Nuôi” và Mẹ Maria là “Người Vợ Trinh Khiết”, nhưng đã được thánh Giuse tận tình chăm sóc, bảo vệ bằng tất cả khả năng và sức lực của mình với sự tận tụy và trung thành.

Đối diện với những thử thách và gian nan, thánh Giuse đã dùng đôi tay đầy nghị lực của người cha, người chồng gương mẫu mà dẫn dắt Thánh Gia vượt qua.

Để bảo vệ Thánh Gia, giữa đêm khuya, Người đưa Chúa và Mẹ trốn sang Ai cập, rồi cũng đang đêm Người lại đưa Chúa và Mẹ về Nazareth.

Để chăm sóc và dưỡng nuôi Chúa Giêsu và Mẹ Maria, thánh Giuse đã cần mẫn siêng năng trong âm thầm lặng lẽ nơi xưởng mộc. Người đã trở thành người thợ tuyệt diệu xây dựng “ngôi nhà của Chúa” và cũng là Mái Ấm Tình Yêu.

Trong tháng 3 năm 2004, Đài Truyền Hình Bình Dương hoàn tất bộ phim độc đáo mang tên: “Mùa Xuân Chim Bay Qua và Cất Tiếng Hát”. Bộ phim này hoàn toàn không có lời thoại vì diễn tả thế giới của người câm điếc. Vai chính là cô gái tên Ngọc Nhị ở Trung Tâm Giáo Dục trẻ khuyết tật Thuận An.

Trong phim có cảnh cô chụm hai bàn tay lại thành mái nhà đặt ngay trước mặt, diễn tả ước mơ mình có một mái ấm gia đình.

Bộ phim đã làm nhiều người xúc động.

Không phải chỉ bằng đôi tay, mà bằng cả trái tim, cả một đời cần lao vất vả trong thầm lặng, thánh Giuse đã tạo dựng một mái ấm gia đình đầy tình yêu thương. Người cùng với Mẹ Maria tạo thành “mái nhà” đầm ấm yên vui, nêu gương mẫu cho các gia đình chúng ta.

Hôm nay, mừng lễ thánh Giuse, bổn mạng của Hội Thánh toàn cầu, bổn mạng của Hội Thánh Việt Nam, bổn mạng của giáo phận Xuân Lộc. Chúng ta hãy xin thánh Giuse luôn phù trợ và dẫn dắt chúng ta can đảm bước đi trên cuộc hành trình đức tin và nhiệt tâm lên đường loan báo Tin Mừng.

Thánh Giuse cũng là quan thầy của các gia trưởng, bổn mạng của các người cha, bổn mạng của các người chồng. Chúng ta cầu nguyện cho các gia trưởng luôn noi gương thánh Giuse trung tín và khôn ngoan trong vai trò người cha, người chồng trong gia đình, luôn biết trở thành người thuyền trưởng đầy tinh thần trách nhiệm trên con thuyền gia đình, biết lèo lái con thuyền vượt qua phong ba bão táp đến bến bờ bình yên và hạnh phúc.

-------------------------------

 

19/03-100: Thánh Giuse Lao Động, Người Cha tuyệt hảo


--WHĐ

 

Khi tôn vinh Thánh Giuse như vị đại thánh và thân thương gọi Ngài là Thánh Cả, Hội Thánh đã 19/03-100


Khi tôn vinh Thánh Giuse như vị đại thánh và thân thương gọi Ngài là Thánh Cả, Hội Thánh đã dành ngày 19-3, ngày 1-5, và trọn cả tháng Ba để kính Ngài. Ngài được chọn là Đấng Bảo Trợ của Hội Thánh hoàn vũ, của Giáo hội Việt Nam và của các người làm cha trong gia đình. Tất cả là để mời gọi chúng ta – đặc biệt là mời gọi những người cha trong gia đình – cầu khẩn, chiêm ngắm và bắt chước các nhân đức của Ngài.

Thánh Giuse là hình ảnh sự thánh thiện của Chúa Cha

Chúa Cha là Đấng thánh thiện vô cùng, mà Thánh Giuse được chọn làm hình ảnh của Chúa Cha, nên Thánh cả cũng là gương mẫu của sự thánh thiện. Phúc Âm nói về sự thánh thiện của Ngài như sau: “Ông Giuse là người công chính” (Mt 1,19). Sự công chính là điều mà mọi Kitô hữu cần phải vươn tới.

Thánh Giuse là hình ảnh tình yêu của Chúa Cha

Được chọn làm Cha của Chúa Giêsu, chắc chắn Thánh Giuse cũng cảm nhận về Chúa Giêsu như Chúa Cha: “Con là con yêu dấu của Cha, con đẹp lòng Cha vô cùng!” (Mt 3,17). Thật vậy, chỉ có Thánh Giuse mới được bồng ẵm và yêu thương Chúa Giêsu như người con rất yêu quý của mình. Dường như chính Chúa Cha sống trong Thánh Giuse để yêu thương và bảo vệ Chúa Con. Sứ mạng này cao cả biết bao!

Thánh Giuse là hình ảnh lòng thương xót của Chúa Cha

Thánh Giuse được Chúa Cha chọn làm Cha của Chúa Giêsu, nên chắc chắn Chúa Cha cũng đã muốn tỏ lộ mình là người Cha đầy lòng thương xót qua cuộc sống của Thánh Giuse. Khi xưa, Thánh Giuse đã thể hiện lòng nhân từ xót thương này khi đón nhận Đức Maria và chăm sóc Hài nhi Giêsu bé bỏng qua mọi gian nan đầy thử thách. Ngày nay, Thánh Giuse cũng thương xót và chăm sóc chúng ta như đã chăm sóc Chúa Giêsu vì chúng ta là em Chúa Giêsu. Thật an ủi cho chúng ta, vì Thánh cả có thần thế trước mặt Chúa, sẽ luôn bầu cử hữu hiệu cho chúng ta.

Người Cha Mẫu Mực

Thánh Giuse luôn vâng theo thánh ý Chúa Cha: Nhận Đức Maria về làm vợ, lo tìm chỗ hạ sinh cho Đấng Cứu Thế, dẫn Chúa Giêsu và Mẹ Người trốn sai Ai Cập, lao động cực nhọc để chăm sóc Thánh Gia Thất, đem Chúa Con lên Đền thờ dự lễ, và dưỡng dục Chúa Con suốt 30 năm tại Nadaret.

Noi gương Thánh Giuse, các gia trưởng cũng nỗ lực trở nên người cha Mẫu Mực.

Anh Vũ Đức Nghĩa đã viết một câu chuyện thật cảm động, có tựa đề: Cha tôi.

“Anh con trai đi làm được vài tháng, có dịp ghé thăm nhà. Bữa cơm chiều, anh cứ nhìn chăm chăm vào chiếc đồng hồ của cha. Người cha thầm nghĩ: ‘Chắc là con nó cần’. Ăn cơm xong, người cha gọi con trai ra bàn uống nước, ông bảo: ‘Con mới đi làm, cũng cần biết giờ giấc’. Rồi ông tháo đồng hồ đưa cho con. Người con trai cầm đồng hồ, bấm lại hai nấc rồi đeo vào tay cha. Rơm rớm nước mắt, anh nghẹn ngào: ‘Dạo này ba gầy quá, dây đồng hồ tuột cả xuống bàn tay!’”

Người con đã có được tình thương đối với cha mình vì người cha luôn thể hiện được tình thương đối với con mình một cách hết sức nhạy bén. Và đấy là gia tài to lớn nhất mà người cha để lại cho con cái: Không phải là tiền bạc, mà chính là tình yêu thương và lòng đạo đức mới là quý giá nhất.

Mẫu Mực về lòng Hiếu Thảo. Người cha dạy con hiếu thảo bằng hành động, không dạy theo khuôn sáo. Chẳng hạn, thay vì bắt con phải nhớ câu: “Tiên học lễ, hậu học văn” thì sai con đem tô canh sang biếu ông bà nội ăn cho mát ruột. Dặn con khi đến nhà ông bà phải chào hỏi tử tế; khi về phải khoanh tay, cúi đầu lễ phép.

Mẫu Mực về tính Ngay Thẳng. Người cha không nói dối, nhất là trước mặt con cái. Kinh Thánh viết: “Có thì nói có, không thì nói không. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5, 37). Mahatma Gandhi, khi còn nhỏ, đã nói dối mẹ một lần. Bà bỏ ăn ba ngày. Quá đau lòng, cậu Gandhi đã lấy một cục than đang cháy đỏ, đặt vào lòng bàn tay và thưa: “Con thề với mẹ, từ nay con không bao giờ nói dối nữa”. Bà mẹ mỉm cười và nói: “Có như thế, mẹ mới có thể sống với con”. Sau này, ông đã trở thành Thủ tướng Ấn Độ, những gì ông đã hứa thì kể như đã thành hiện thực.

Mẫu Mực về tình Bác Ái. Người cha nêu gương cho con về lòng yêu người bằng cách giúp đỡ kẻ nghèo hèn, túng thiếu. Đưa tiền cho con bỏ giỏ nhà thờ, quyên góp lũ lụt thiên tai. Dẫn con đi ủy lạo trại dưỡng lão, viện mồ côi, trường khuyết tật… Ông cha ta đã dạy: “Thấy ai đói rách thì thương Rách thường cho mặc, đói thường cho ăn”.

Mẫu Mực về tính Chung Thủy: Dân gian có câu: “Con gái nhờ đức cha, con trai nhờ đức mẹ” để nói về luật nhân quả giữa cha mẹ và con cái: “Cha nào con nấy” hay “Hổ phụ sinh hổ tử”. Nếu muốn cho con cái biết chung thuỷ giống như mình, người cha phải hằng cảnh giác với chính bản thân của mình. Mẩu đối thoại giữa hai chị hàng xóm khá ý nhị và thâm thúy dưới đây nhắc nhở các người cha về điều ấy:

– Ông giám đốc có nhà không chị?
– Hình như nhà tôi đi họp.
– Chị phải kiểm tra ông xã xem, họp hành gì giờ này?
– Ôi dào! Ông ngoại rồi chứ có phải trẻ con nữa đâu!
– Chị ngây thơ quá! Ông giời còn giở chứng nữa là ông ngoại!

Người Cha Yêu Thương

Thánh Giuse rất mực yêu thương Chúa Giêsu. Vì yêu thương, thánh nhân đã phải long đong tìm chỗ hạ sinh cho Hài Nhi Giêsu, đem Con trốn khỏi tay bạo Chúa độc ác Hêrôđê, vất vả dạy con làm nghề thợ mộc, “đổ mồ hôi, sôi nước mắt” suốt 30 năm tại làng quê Nadaret để chăm sóc, dưỡng nuôi và giáo dục Chúa Giêsu.

Noi gương Thánh Giuse, gia trưởng cũng nỗ lực trở nên người cha Yêu Thương. Muốn vậy, cần phải hiểu con, bằng không, yêu con mà kết quả lại hại con, như câu chuyện dưới đây:

“Có một người cha nghèo đã quở phạt đứa con gái 3 tuổi của mình vì tội lãng phí cả một cuộn giấy gói quà mầu vàng. Tiền bạc eo hẹp, người cha nổi giận khi đứa bé cắt cuộn giấy quý ra thành từng mảnh nhỏ trang trí một cái hộp. Sáng sớm hôm sau, đứa con gái nhỏ mang cái hộp đến nói với cha: ‘Hôm nay là sinh nhật của bố, con không có tiền mua quà cho bố nên con xin tặng bố chiếc hộp này!’. Người cha cảm thấy hối hận vì cơn giận dữ vô lý của mình tối hôm qua. Nhưng khi mở cái hộp ra, thấy bên trong trống rỗng, thì cơn giận của ông lại bùng lên.

Ông mắng đứa con gái xối xả vì đã tặng ông chiếc hộp rỗng… Đứa con gái nhỏ ngước nhìn cha, nước mắt rưng rưng, nhỏ nhẹ thưa: ‘Bố ơi, đó đâu phải là cái hộp rỗng, con đã thổi đầy những nụ hôn vào trong hộp để tặng bố mà!’.

Người cha giật thót tim. Ông đã quá hồ đồ, xét đoán lầm đứa con hiếu thảo. Vòng tay ôm lấy đứa con gái nhỏ, ông cầu xin con tha thứ!

Sau đó không lâu, thiên thần nhỏ của ông đã qua đời trong một vụ tai nạn. Nhiều năm sau, người cha vẫn giữ khư khư chiếc hộp bên mình. Mỗi khi gặp khó khăn, buồn bực, ông lại lấy ra một ‘nụ hôn tưởng tượng’ và nghĩ đến tình yêu nồng ấm mà đứa con gái bé bỏng của ông đã thổi vào chiếc hộp”.

Trong cuộc sống, có biết bao người cha đã nhận được những chiếc hộp quý giá chứa đầy những nụ hôn chan chứa yêu thương từ con cái. Trên đời này, không có tài sản nào quý giá hơn những chiếc hộp chứa đầy tình yêu chân thành như thế!

Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4, 8). Vì thế, người cha sẽ bày tỏ Tình yêu của Thiên Chúa qua trách nhiệm làm cha của mình. Chính qua tình thương của người cha mà con cái hiểu và cảm nhận được Tình yêu của Thiên Chúa. Đứa con cảm nhận được tình thương của cha sẽ trở nên dễ thương và dễ dạy. Đừng nổi nóng hay quát nạt, hãy nói những lời yêu thương, an ủi và động viên.

Muốn dạy con cái nên người, chúng ta cần phải dỗ. Không dỗ không dạy được. Dỗ là biểu lộ tình thương ngọt ngào, ân cần và mềm dẻo. Thay vì nói: “Học bài đi, không học là bố đánh đòn!”, thì nói thật ngọt ngào: “Học bài đi con, nghe cô giáo khen con học giỏi, bố hãnh diện về con lắm!”. Cha ông ta có câu “Giáo đa thành oán”: dạy nhiều, nói nhiều, răn đe nhiều, mà không khéo léo dỗ dành, con cái sẽ khó chịu, không thèm nghe nữa.

Người cha thường xuyên nói chuyện với con cái thì cha con mới hiểu nhau, thông cảm nhau và có tình thân với nhau. Người cha Yêu Thương là biết dành thời gian chơi chung với con, nhờ đó hiểu tính khí và ước mơ của con. Người cha Yêu Thương là tìm thời gian thích hợp để dạy giới tính cho con. Như thế, mới thật là người cha tuyệt hảo!

Người Cha Nhân Hậu

Thánh Giuse đích thực là người cha Nhân Hậu: Trong biến cố lạc mất Chúa Giêsu trong Đền thờ, Thánh Giuse rất đau khổ và lo lắng. Nhưng khi tìm được rồi, thánh nhân không một lời trách móc. Ngài chỉ im lặng để lắng nghe Thánh ý Chúa và thực thi Thánh ý Người.

Noi gương Thánh Giuse, gia trưởng cũng nỗ lực trở nên người cha Nhân Hậu. Xin kể một câu chuyện về tình cha đến rơi nước mắt: “Con còn tiền lẻ không?”

“Học lớp 12, tôi không có thời gian về nhà xin tiền ba như 2 năm trước. Vì thế, tôi viết thư cho ba, rồi ba đích thân lên đưa tiền lên cho tôi. Từ nhà đến chỗ tôi trọ học chừng 15 km. Nhà nghèo, không có xe gắn máy, nên ba phải đi xe đạp. Chiếc xe cũng gầy gò giống như ba!!!

Cuối năm, làm hồ sơ thi đại học, tôi lại nhắn ba đưa tiền lên. Lần này, sau khi đưa cho tôi một trăm ngàn, ba hỏi: ‘Con còn tiền lẻ không?’. Tôi đáp: ‘Con còn bốn ngàn, ba ạ’. Ba nói: ‘Con cho ba hai ngàn, để lát về, nếu xe có hư như lần trước thì có tiền mà sửa’. Ba về, tôi đứng trông theo, không cầm được nước mắt, khóc òa lên!…”

Thật vậy, người cha Nhân Hậu thì nhạy bén, nắm bắt nhu cầu của con cái và cảm thông, chia sẻ với con, như tấm gương của Chúa Giêsu: “Tôi hy sinh mạng sống vì đàn chiên”.

Người cha Nhân Hậu là người trở nên bạn của con như Chúa Giêsu với các môn đệ: “Thầy gọi anh em là bạn hữu”. Khi con cái xem ta là bạn, chúng mới bày tỏ ý nghĩ trong đầu, không giấu giếm sự gì. Lúc đó, ta mới dạy dỗ chúng được.

Người cha Nhân Hậu là người hiểu được nỗi lòng của con để an ủi, động viên hay nâng đỡ, khích lệ. Người cha Nhân Hậu là người không dán nhãn cho con, vì một lần dán nhãn, thì chín lần gỡ ra không được. Người cha Nhân Hậu là người không so sánh con với trẻ khác, vì so sánh khiến con trẻ thiếu tự tin và bị tủi hổ. Người cha Nhân Hậu là người không ra lệnh một chiều, không áp đặt, độc đoán; trái lại, luôn thăm dò ý con và hướng dẫn con đúng thời, đúng buổi.

Lời kết

Thánh Phaolô dạy: “Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Ep 6, 4). Trong Tông huấn gởi các gia đình, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết: “Phúc Âm tình yêu là nguồn mạch bất tận nuôi dưỡng các gia đình Công giáo”. Vì thế, các bậc gia trưởng gương mẫu bao giờ cũng sẵn sàng bẻ đời mình ra và trao ban cho con cái bằng cách trở nên người cha: Mẫu Mực, Yêu Thương và Nhân Hậu.

Con cái ngoan hiền là triều thiên của cha mẹ. Phần thưởng lớn lao trong lúc tuổi già, sẽ dành cho những cha mẹ nào biết quan tâm giáo dục con cái:

“Người trồng cây hạnh người chơi

Ta trồng cây đức để đời về sau”.

Lạy Thánh Giuse, xin giúp các gia trưởng chúng con nên giống thánh nhân, luôn chu toàn bổn phận làm cha, là trở nên một người cha Mẫu Mực, Yêu Thương và Nhân Hậu, như Chúa Cha là Đấng giàu lòng thương xót. Amen.

-------------------------------
 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây