Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Lu-ca. Khi ấy, thiên thần Gáp-ri-en được Chúa sai đến một thành xứ Ga-li-lê-a, tên là Na-da-rét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ða-vít, trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ”. Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: “Ma-ri-a đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một Con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ða-vít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Gia-cóp, và triều đại Người sẽ vô tận”. Nhưng Maria thưa với thiên thần: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?” Thiên thần thưa: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Ðấng Bà sinh ra, sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, I-sa-ve chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ họi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được”. Ma-ri-a liền thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền”. Và thiên thần cáo biệt Bà. - Ðó là lời Chúa.
Thiên Chúa Nhập Thể làm người là một mầu nhiệm vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại. Ngôi Hai làm LễTruyềnTin 51
Thiên Chúa Nhập Thể làm người là một mầu nhiệm vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại. Ngôi Hai làm người để cứu chuộc nhân loại, thiết lập Nước Trời. Công trình cứu độ đựơc khởi đầu cách âm thầm, giản dị tại một làng quê nghèo, với một thôn nữ bình thường chẳng mấy người biết tới.
Sứ Thần đến Nazareth và cung kính thưa với người nữ ấy rằng: “Mừng vui lên, hỡi Ðấng đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng bà!” (Lc 1,28). “Ðấng đầy ơn phước” là tên gọi đẹp nhất của Mẹ Maria, tên gọi mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ, để chỉ cho biết rằng từ muôn thuở và cho đến muôn đời, Đức Mẹ là Ðấng được yêu thương, được Thiên Chúa tuyển chọn, được tiền định để đón nhận hồng ân quý giá nhất, là Chúa Giêsu, “tình thương nhập thể của Thiên Chúa” (Thông điệp: Thiên Chúa là tình yêu, số 12).
Sau khi đã tuyển chọn và trang điểm cho người nữ ấy với muôn vẻ đẹp và ơn phước, Thiên Chúa đã sai Sứ thần Gabriel đến báo tin và thỉnh ý ngài tại làng quê Nazareth.
Sứ thần cung kính bái chào vì thấy Đức Mẹ cao trọng và trong sạch hơn các thiên thần. Tước hiệu “Bà đầy ơn phước” xác nhận lòng Đức Mẹ không có chổ dành cho tội lỗi vì luôn được đầy tràn ơn phước của Thiên Chúa. “Thiên Chúa ở cùng Bà”: Ở đâu có Thiên Chúa, ở đó bóng tối của tội lỗi không thể có mặt. Mẹ luôn sống trong ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa. “Bà có phúc hơn mọi người phụ nữ”, vì Mẹ là người duy nhất không vướng mắc tội tổ tông.
Đức Mẹ được Thiên Chúa tuyển chọn, ngài đáp tiếng “xin vâng” cách tự do và từ đó Đức Mẹ trở nên thầy dạy tuyệt vời cho nhân loại.
1. Đức Mẹ đựơc Thiên Chúa tuyển chọn Nếu tôi có quyền chọn người mẹ sinh ra tôi, tất nhiên tôi sẽ chọn một người nữ hết sức xinh đẹp và thánh đức. Xinh đẹp đến nổi làm cho tất cả các phụ nữ khác đều phải ghen tuông sửng sốt. Thánh đức đến nổi làm cho mọi người đều phải cảm phục, ngợi khen. Ai cũng ước mong như thế. Trong một lớp giáo lý, cô giáo hỏi các em học sinh: Em mơ ước điều gì cho mẹ của các em? Các em đua nhau trả lời:
Em muốn cho mẹ em là người đẹp nhất trên thế giới nầy.
Em mơ ước mẹ em có một sức khoẻ thật dồi dào.
Em cầu mong cho mẹ em giàu sang, có thật nhiều tiền bạc.
Em chỉ ước mong cho mẹ em là một bà mẹ hiền lành, đạo đức và nhân hậu.
Chỉ là ước mơ vì không ai có quyền chọn người mẹ sinh ra mình. Nhưng đối với Thiên Chúa thì khác hẳn. Ngài đã sinh ra bởi một người nữ được tuyển chọn. Đây là trường hợp độc nhất vô nhị trong lịch sử loài người. Đức Maria đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ. Ngài chọn Maria vì Ngài muốn chọn, theo sự tự do của Ngài (x. Rm 9,12.16), và cũng “vì bà đẹp lòng Thiên Chúa”.
Thời Đức Mẹ, ai cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc mà thôi. Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do ân huệ nhưng không của Chúa, và cũng bởi Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.
Nhờ lòng khiêm nhường nên Đức Mẹ đựơc quyền năng Thiên Chúa bao phủ.
Sứ thần nói với Đức Mẹ: “Quyền năng của Đấng tối cao sẽ bao trùm lên bà, vì thế Đấng Thánh con của bà sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35). Tiếng quan trọng ở trong câu đó là “bao trùm lên” hay “bao phủ lên”. Lều tạm nơi dân Do Thái để hòm Giao Ước. Câu (Xh 40,34) nói rằng bao lâu đám mây còn bao phủ lều tạm thì “lều tạm có Thiên Chúa hiện diện”.
Thánh Luca chọn và dùng từ “bao trùm lên” có ý nghĩa thâm sâu. Thánh sử so sánh thân thế Đức Maria với lều tạm nơi đặt Hòm Giao Ước của Thiên Chúa. Luca so sánh cung lòng Đức Maria nơi Đức Giêsu sẽ tới cư ngụ với Hòm Giao Ước nơi đặt hai phiến đá có ghi 10 điều răn của Thiên Chúa. Như vậy nghĩa là khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Maria, thì có “Thiên Chúa hiện diện” trong Mẹ. Nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đức Maria thì vô cùng phong phú hơn sự hiện diện của Ngài trong “lều tạm”. Sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Maria chính là sự hiện của Đức Giêsu bằng xương bằng thịt.Quyền năng Chúa Thánh Thần bao trùm, cùng với máu thịt của mình, Đức Maria đã tạo nên hình hài Đức Giêsu.Ngôi Hai mặc lấy thân xác con người nhờ máu thịt Mẹ và Ngài vẫn là Thiên Chúa được Chúa Cha sinh ra từ muôn thuở. Cả hai bài đọc giúp chúng ta hiểu thêm về mầu nhiệm ấy.
Thiên Chúa từ chối ngôi đền vật chất mà Đavit muốn xây cho Ngài; nhưng trái lại Thiên Chúa hứa cho Đavit một ngôi nhà thiên thu là dòng dõi Đavit (2 Sm 7,1-16). Lời hứa này được thực hiện nơi Đức Maria, Đấng trở nên Hòm Bia Thiên Chúa,nơi đây Con Thiên Chúa đến với loài người. Đó chính là mạc khải của mầu nhiệm được giữ kín từ muôn thuở nay được bày tỏ ra mà Thánh Phaolô đề cập đến trong (Rm 16,25-27).
2. Đức Mẹ đã tự do đáp tiếng “Xin vâng”.
Thiên Chúa không chọn lựa cách độc đoán. Ngài tôn trọng tự do của người đựơc chọn. Ngài sai Sứ Thần đến và muốn Đức Mẹ hoàn toàn ưng thuận theo suy nghĩ và sự tự do của mình. Thiên Chúa “bật mí” cái bí mật từ ngàn đời. Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nổi muốn trở thành một con người giữa nhân loại. Và Thiên Chúa đã chọn Mẹ Maria là để Ngài sai Con Một đến giữa nhân loại, thực hiện chương trình cứu độ. Giây phút Đức Mẹ tự do đáp lời “Xin vâng” là khởi đầu bình mình ơn cứu độ cho thế nhân.
Nếu như Nguyên Tổ bị con rắn cám dỗ bằng lời nghi nan, lừa lọc dối trá, gây cuộc nổi loạn, và Adam và Evà đã sa ngã, đau khổ sự chết tràn vào thế gian; thì Sứ thần Gabriel đề nghị một sự tự do ưng thuận. Đức Maria thưa “Xin vâng”, lời ấy đã làm cho Ngôi Hai làm người. Từ đây, nhờ Đức Maria, tin tưởng và vâng phục, nhân loại được liên kết trở lại với Thiên Chúa.
Thái độ “Xin vâng” của Mẹ hoàn toàn khác với Ađam Evà trong câu chuyện vườn địa đàng. Sau khi ăn quả cấm trái lệnh Chúa, Ađam đã đổ lỗi cho Evà, Evà đổ lỗi cho con rắn. Và đó chính là thảm kịch của con người: không ai nhận lỗi, không ai chịu trách nhiệm, không ai có thiện chí nên xã hội mãi chậm tiến, nên hạnh phúc trở thành khó khăn xa vời. Mẹ Maria đã đáp “Xin vâng” không chỉ một lần mà còn nhiều lần trong đời. Mẹ luôn đảm nhận trách nhiệm và chu toàn thánh ý Thiên Chúa. Mẹ Maria mãi mãi là tấm gương cho chúng ta soi trong cuộc đối thoại lắng nghe Lời Chúa và đáp trả Lời Chúa. Thiên Chúa đã chứng tỏ nơi Mẹ điều không thể để trở nên điều có thể. Vì “cái gì cũng có thể đối với người có lòng tin” (Mc 9,23).
3. Đức Mẹ là nhà giáo dục tài giỏi.
Thư chung HĐGM Việt Nam năm 2008, với chủ đề “Giáo dục Kitô giáo”có viết: “Thánh Cả Giuse và Đức Maria là những bậc cha mẹ gương mẫu, luôn biết đón nhận thánh ý Chúa và đem ra thực hành. Trong gia đình Nazareth mọi thành viên đều tôn trọng nhau, mong muốn cho nhau điều tốt và cùng nhau thực hiện ý của Cha trên trời. Thánh Giuse và Đức Maria là những nhà giáo dục tài giỏi đã chu toàn sứ mạng được trao phó trong sự khôn ngoan và trung tín”.(Thư HĐGMVN 2008, số 20).
Thiên Chúa đã tín nhiệm Mẹ khi để Con Một là Chúa Giêsu sinh ra và lớn lên trong gia đình Nazareth dưới sự dìu dắt và dạy dỗ của Mẹ. Như thế chúng ta có thể nói rằng Đức Maria là nhà giáo dục tài giỏi và trở thành gương mẫu cho tất cả mọi nhà giáo dục.
“Giáo Hội ước mong mỗi gia đình Kitô giáo phải là trường học đầu tiên để thông truyền, dạy dỗ và bảo dưỡng cho con cái về đời sống đức tin, đức ái, đời sống cầu nguyện, tình liên đới, vị tha, hài hòa, quảng đại, những đức tính nhân bản như khôn ngoan, công bằng, can đảm và tiết độ. Các môi trường khác như giáo xứ hay học đường chỉ tiếp tay với gia đình chứ không thể thay thế gia đình trong vấn đề giáo dục đức tin, đức ái. Cha mẹ phải là những nhà giáo dục tuyệt đối cần thiết cho sự phát triển hài hoà và bền vững của đời sống đạo đức cho mọi người trong gia đình.Gương sáng của cha mẹ và những bậc cha anh đóng vai trò quan trọng để giáo dục lương tâm cho những thế hệ nối tiếp”. (Thư HĐGMVN 2008); “Trong suốt lịch sử mấy trăm năm của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam, gia đình vẫn là cái nôi thông truyền đức tin cho con cái, là trường dạy giáo lý đầu tiên cho thế hệ trẻ, là nơi đào tạo những Kitô hữu vững mạnh trong đức tin và gương mẫu trong đời sống đạo đức. Ngày nay, dù phải đối diện với nhiều lo toan trong cuộc sống, xin anh chị em cố gắng duy trì và phát huy truyền thống tốt đẹp này của gia đình công giáo. Hãy xây dựng gia đình mình thành ngôi nhà thờ phượng Chúa, trường dạy đức tin, và mái ấm tình thương. Đây là phương thế cụ thể và hữu hiệu nhất để anh chị em góp phần vào công cuộc Tân Phúc Âm hoá mà Chúa Giêsu đã trao phó cho Giáo Hội và từng người chúng ta”. (Thư Mục Vụ Năm Đức Tin HĐGMVN).
Thư Mục Vụ Năm Đức Tin mời gọi Dân Chúa hướng lòng về Đức Mẹ như mẫu gương Đức Tin: “Mẹ có phúc hơn mọi người nữ vì đã tin rằng Lời Chúa phán cùng Mẹ sẽ được thực hiện (x. Lc 1,42). Trong ngày Truyền Tin, Mẹ dạy chúng ta sống đức tin khiêm tốn và vâng phục: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa. Xin Chúa thực hiện nơi tôi điều thiên sứ truyền” (Lc 1,38). Bằng những bước chân vội vã lên đường thăm viếng bà Elisabeth, Mẹ thúc đẩy chúng ta sống đức tin dấn thân loan báo Tin Mừng, đem niềm vui cứu độ đến cho mọi người. Dưới chân thập giá, Mẹ nêu gương cho chúng ta về đức tin chứa chan hy vọng”.
Đức Mẹ chính là thầy dạy đức tin và lòng yêu mến. Tin và yêu giống như đôi cánh giúp cho Mẹ bay lên rất cao lên tới Thiên Chúa.Tin và yêu giống như chiếc chìa khóa có thể mở được cánh cửa khó mở nhất. Mở được cả cánh cửa Nước Trời.
Đức Maria đã hiện diện trên núi Calvariô vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh (Ga19,25) và trong nhà Tiệc Ly vào dịp lễ Ngũ Tuần (Cv1,14), chắc hẳn Mẹ cũng là một chứng nhân ưu tuyển của Chúa Kitô Phục sinh; như vậy là hoàn tất việc tham dự vào hết các giai đoạn chính yếu của mầu nhiệm Vượt qua. Ngoài ra, khi đón tiếp Đức Kitô Phục sinh, Đức Maria là dấu hiệu và điểm chỉ tiên báo cho một nhân loại đang hy vọng vào sự hoàn thành sung mãn của mình với việc kẻ chết được sống lại.
Trong mùa Phục sinh, cộng đoàn Kitô hữu khi hướng về Thân mẫu của Thiên Chúa, đã mời Người hãy vui mừng: “Lạy Nữ Vương Thiên đàng, hãy vui mừng, alleluia!”. Họ nhắc lại niềm vui của Đức Maria vì cuộc Phục sinh của Đức Giêsu, kéo dài qua lời mời gọi của thiên sứ vào lúc Truyền tin “hãy vui lên”, ngõ hầu Mẹ trở thành “nguyên nhân vui mừng” cho toàn thể nhân loại.
Hãy lắng nghe những lời giáo huấn của Đức Mẹ và hãy noi gương giáo dục của Đức Mẹ để sống tốt lành và thánh thiện hơn.
Mexico City, Mexico, 8 tháng Ba, 2018 / 03:25 chiều (CNA/EWTN News). –
Linh mục người Ý, Sante Babolin, nói rằng Satan đứng đằng sau những cuộc tấn công chống lại Mẹ LễTruyềnTin 52
Linh mục người Ý, Sante Babolin, nói rằng Satan đứng đằng sau những cuộc tấn công chống lại Mẹ Maria Đồng Trinh ở nhiều vùng trên thế giới, cha nhấn mạnh rằng Mẹ là một trạng sư quyền lực cho cha trong những lần trừ quỷ.
“Theo kinh nghiệm của tôi – từ trước tới nay tôi đã thực hiện 2.300 nghi thức trừ quỷ – tôi có thể nói rằng sự khẩn cầu của Mẹ Maria Đồng Trinh Rất Thánh thường gây ra những phản ứng rất mạnh nơi người đang được trừ quỷ,” cha nói với tờ tuần báo Desde la Fe của Mexico.
Cha Babolin, giảng dạy tại Đại học Gregorian ở Roma, nói rằng “đứng trước sự thất bại của cuộc tấn công dữ dội từ những người không tín ngưỡng, hiện nay để xúc phạm và làm nản lòng người Công giáo, Mẹ Maria Đồng Trinh đang bị tấn công, Đấng mà quỷ rất ghét.”
Tờ Tuần báo Desde la Fe nhấn mạnh đến những biến cố năm 2017 khi một người đàn ông giả nữ của Tây Ban nha, Borja Casillas, hóa trang thành Maria Đồng Trinh và nhạo báng Mẹ trong một buổi trình diễn, cũng như một phụ nữ cải trang thành Mẹ Maria Đồng Trinh và tái hiện lại một ca phá thai trong một cuộc phản đối ở Argentina.
Nhà trừ quỷ người Ý nói rằng “như là một bằng chứng về lòng thù ghét này” của quỷ đối với Mẹ Thiên Chúa, “khi tôi đang sốt sắng khẩn nài Mẹ Maria Đồng Trinh Rất Thánh, quỷ trả lời tôi: ‘Ta không chịu nổi Người (Mẹ Maria) đó nữa và ta cũng không chịu nổi ngươi nữa.’”
Cha Babolin cũng nhấn mạnh rằng “Công Đồng Chung Vatican II tuyên bố rằng Mẹ Maria khi nhận thông điệp từ Thiên Chúa, đã trở thành Mẹ của Chúa Giê-su, và ôm trọn lấy ý định cứu chuộc của Thiên Chúa bằng cả tâm hồn và không vướng bất kỳ một tội gì, hoàn toàn tận hiến cho ngôi vị và công cuộc của Con của Mẹ, như là người tôi tớ của Chúa.”
Linh mục dẫn chứng một đoạn trong sách Sáng Thế – điều này cũng được nhắc lại trong Nghi thức Trừ quỷ – trong đó Chúa nói với con rắn rằng “Bà sẽ đạp lên đầu ngươi.”
Cha nói, trong nghi thức này nhà trừ quỷ nói với quỷ: “Hỡi loài rắn xảo quyệt nhất, ngươi sẽ không dám lừa dối loài người, hành hạ Giáo hội, quấy rầy người được Chúa chọn và sàng lọc họ như lúa mì (…) Dấu Thánh Giá thiêng liêng ra lệnh cho ngươi, và quyền năng của những mầu nhiệm của Đức tin Ki-tô giáo ra lệnh cho ngươi (…) Mẹ Thiên Chúa vinh thắng, Mẹ Maria Đồng Trinh, ra lệnh cho ngươi; Mẹ với lòng khiêm hạ và ngay từ giây phút đầu tiên Vô nhiễm Nguyên tội đã đạp lên đầu kiêu căng của ngươi.”
Cha Babolin cũng nói rằng “những phản ứng mạnh nhất” của quỷ trong thời gian trừ quỷ xảy ra “khi đề cập đến những lần hiện ra của Mẹ.”
Vì lý do này, cha thường lớn tiếng nhắc đến danh của Mẹ Maria Rất Thánh với những tước hiệu Lộ-đức, Fatima hoặc Guadalupe. Với tước hiệu Guadalupe, ngài nói, “tôi sử dụng công thức này: ‘Maria Rất Thánh, Đức Mẹ của Guadalupe, Nữ vương của Tepeyac.’”
Nhà trừ quỷ cảnh báo rằng “công cụ mà quỷ thường sử dụng để bẫy chúng ta là tiền, vì nó đáp ứng được khả năng làm thỏa mãn những thôi thúc hướng đến lạc thú và quyền lực.”
Satan “khuất phục chúng ta tha62nphu5c hắn bằng cách bóp méo sự thật và cho chúng ta ánh sáng của hắn làm chúng ta lóa mắt, cho chúng ta thấy hình thức ‘tự do’ của hắn và hứa hẹn cho chúng ta những phần thưởng tức thời.”
Cha nói, “Cũng như sự giao tiếp giữa người với người, ý thức về vẻ ngoài vượt qua ý thức về lắng nghe; và hậu quả là hình ảnh lấn lướt lời nói; nghĩa là, sự khao khát đi trước suy tư.”
Cha Babolin khuyến khích người Công giáo phải lên án những cuộc tấn công vào đức tin cũng như tổ chức và tham dự vào những buổi cầu nguyện, đọc Kinh Mân Côi, và tham dự Thánh Lễ tại những nơi xảy ra sự phạm thánh.
Bài này được đăng lần đầu trên CNA ngày 28 tháng Tư, 2017. [Nguồn: catholicnewsagency]
Thiên Chúa bày tỏ ơn nghĩa với chúng ta thế nào? Trong Thánh vịnh chúng ta cầu nguyện “Lạy Chúa, LễTruyềnTin 53
Thiên Chúa bày tỏ ơn nghĩa với chúng ta thế nào? Trong Thánh vịnh chúng ta cầu nguyện “Lạy Chúa, xin tỏ cho con dấu chỉ của ân nghĩa Chúa” (Tv 86,17). Trong Cựu ước, Thiên Chúa thực hiện nhiều dấu lạ để chứng tỏ tình yêu và lòng thương xót dành cho dân Người, như sự giải thoát của họ khỏi ách nô lệ ở Ai Cập và việc đi trên đất khô lạ lùng giữa lòng Biển Đỏ (Tv 78,43-53). Khi Agia, vua Giuđa và là hậu duệ của ngai vàng Đavít (735 B.C.) bị bao vây bởi những lực lượng, đe doạ tiêu diệt ông và dân của ông, Thiên Chúa đã ban vua Ahaz một dấu chỉ để bảo đảm với dân Người rằng Thiên Chúa sẽ không huỷ bỏ lời hứa Người đạ thực hiện với Đavít và con cháu của ông. Tuy nhiên, vua Agia đã mất hy vọng vào Thiên Chúa và từ chối để xin một dấu chỉ ân nghĩa. Thế nhưng, Thiên Chúa đã ban cho một dấu hiệu để bảo đảm với dân Người rằng Người sẽ thật sự ban cho họ Đấng Cứu độ, Đấng sẽ cai trị với sự bình an và công chính (Is 7,11).
Kế hoạch cứu độ của TC đang mở ra
Chúng ta thấy sự hoàn thành lời tiên tri của Isaia và sự mở ra kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa trong những sự kiện hướng tới mầu nhiệm Nhập thể, sự sinh ra của Vua Mêsia. Thời đại mới của sự cứu độ khởi đầu với sự mang thai lạ lùng của Đức Giêsu trong lòng Maria. Đứa trẻ sắp sinh này được thụ thai bởi tác động ơn sủng của Chúa Thánh Thần trên Maria, người được nghĩa với Thiên Chúa (Lc 1,28). Như Eva là mẹ của chúng sinh trong tội lội thế nào, giờ đây Maria trở nên mẹ của Ađam mới, Đấng sẽ là Cha của chúng sinh do bởi ơn sủng của Người (Rm 5,12-21). Con trẻ này được thụ thai trong lòng Maria là sự hoàn thành của tất cả lời hứa của Thiên Chúa. Người sẽ nên “cao trọng” và là “Con của Đấng Tối cao” và là “Vua”, và tên Ngài sẽ được gọi là “Giêsu” (Lc 1,31-32), nghĩa là “Chúa cứu”. “Người sẽ cứu dân Người khỏi mọi tội lỗi” (Mt 1,21). Sứ thần lập lại với Maria, con gái của dòng họ Đavít, lời hứa với Vua Đavít rằng: “Đức Chúa, Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai báu tổ phụ Đavít của Người, và Người sẽ ngự trị nhà Gia Cóp đến muôn đời; và vương quốc của Người sẽ vô tận” (2Sm 7,12-16; Is 9,6-7; Lc 1,32-33).
Đức Maria đáp trả lời Chúa qua sứ thần Gabriel thế nào? Maria biết mình đang nghe những điều vượt sức của con người. Đó chắc hẳn là một phép lạ cả thể vượt trổi hơn tất cả những gì Thiên Chúa đã thực hiện trước đó. Câu hỏi của Maria, “điều này xảy đến thế nào, vì tôi chưa có chồng” không phải phát xuất từ sự nghi ngờ, nhưng bởi sự kinh ngạc! Cô là người lắng nghe lời Chúa thật sự, và nhanh chóng đáp lại với lòng tin tưởng và trông cậy. Lời đáp trả “xin vâng” nhanh chóng của Maria với sứ điệp của Chúa là mẫu gương đức tin cho tất cả mọi tín hữu.
Maria tin tưởng những lời hứa của Chúa ngay khi chúng xem ra không thể thực hiện. Maria đầy ơn sủng bởi vì cô trông cậy rằng những gì Thiên Chúa đã nói đều là sự thật và sẽ được thực hiện. Maria sẵn sàng và tha thiết thực thi thánh ý Chúa, thậm chí có khó khăn hay đòi hỏi giá đắt mấy đi nữa. Maria là “Mẹ Thiên Chúa” bởi vì Thiên Chúa đã nhập thể khi Người mặc lấy xác phàm trong lòng Mẹ. Khi chúng ta đọc kinh Tin kính, chúng ta tuyên xưng niềm tin của mình vào mầu nhiệm cao cả này: “Vì loài người chúng tôi, và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế. Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh nữ Maria, và đã làm người”.
Tin tưởng và suy phục trước ơn sủng của TC
Thiên Chúa ban cho chúng ta ơn sủng và Người mong đợi chúng ta đáp trả với cùng sự tự nguyện, vâng phục, và tin tưởng hết lòng như Mẹ Maria đã làm. Khi Thiên Chúa truyền lệnh, Người cũng ban ơn sủng, sức mạnh, và những phương thế để chúng ta đáp trả. Chúng ta có thể suy phục ơn sủng của Người hay chống lại và đi theo con đường riêng của mình. Bạn có tin tưởng vào những lời hứa của Thiên Chúa và bạn có suy phục ơn sủng của Người không?
Lạy Cha trên trời, Cha ban cho chúng con ơn sủng, lòng thương xót, và sự tha thứ dư dật ngang qua Con của Cha, là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Xin giúp con sống một cuộc đời tràn đầy ơn sủng như Mẹ Maria đã sống, nhờ tin vào những lời hứa của Cha, và qua sự tiếng “xin vâng” hoàn toàn trước thánh ý Cha và kế hoạch của Cha dành cho cuộc đời con.
Tác giả: Don Schwager (http://dailyscripture.servantsoftheword.org/readings/) Bro. Paul Thanh Vu – chuyển ngữ
Vị trí của Đức Maria thật là lớn lao và duy nhất trong tương quan với Thiên Chúa và loài người chúng LễTruyềnTin 54
Vị trí của Đức Maria thật là lớn lao và duy nhất trong tương quan với Thiên Chúa và loài người chúng ta: Đức Maria là Mẹ Giáo Hội, trong đó có chúng ta, và Đức Maria cũng là Mẹ Thiên Chúa. Tuy nhiên, tất cả những ơn huệ lớn lao của Mẹ đã bắt đầu bằng một biến cố thật hạn hẹp, thật nhỏ bé, thật khiêm tốn, thật âm thầm và kín ẩn, đó là biến cố Truyền Tin. Nhỏ bé và âm thầm, nhưng đó chính là một kinh nghiệm thiêng liêng làm thay đổi cuộc đời của Đức Maria, và của lịch sử cứu độ. Và kinh nghiệm thiêng liêng này là một cuộc đối thoại, đối thoại giữa Đức Maria và sứ thần Gabriel.
Trước hết, chúng ta cần chú ý đến nơi chốn xẩy ra biến cố Truyền Tin, đó là nhà của Đức Maria: « Sứ thần vào nhà trinh nữ » (Lc 1, 28). Khi cầu ngyện với Lời Chúa, chúng ta được mời gọi hình dung ra nơi chốn, ở đó diễn ra biến cố mà bản văn Tin Mừng thuật lại: nhà, vườn, sa mạc, đồi Calvê… Việc « đặt khung cảnh » khi bước vào giờ cầu nguyện như thế có hai mục đích:
– Khi cầu nguyện, chúng ta được mời gọi dấn thân cả con người của chúng ta, bên trong cũng như bên ngoài. Thế mà, bên trong của chúng ta, có nhiều thứ, trong đó có trí tưởng tượng. Dùng trí tưởng tượng để hình dung ra một nơi chốn khi cầu nguyện, đó là giúp chúng ta cầu nguyện với cả con người, đồng thời giúp định hướng cho trí tưởng tượng, vốn hay dẫn chúng ta đi lang lang, ra khỏi việc cầu nguyện. Hơn nữa, nơi chốn mà chúng ta hình dung ra, không phải là bất cứ nơi nào, đó là một nơi chốn của đời thường, nhưng đồng thời cũng là nơi « thánh », nghĩa là nơi được Chúa viếng thăm.
– Vì thế, một nơi chốn cụ thể còn có một ý nghĩa thiêng liêng: Thiên Chúa đến gặp gỡ con người không phải ở trên trời cao hay ở một nơi xa vời, nhưng tại một nơi chốn cụ thể và rất đời thường, chẳng hạn nhà của Đức Maria ; và đối với chúng ta cũng vậy, đó có thể là một nơi nào đó trong cuộc đời của chúng ta: trường học, nơi hành hương, nhà tĩnh tâm, trong vườn của Nhà Dòng, trong căn phòng nhỏ bé, hay nơi nhà nguyện… Vậy đâu là nơi chốn, ở đó chúng ta được Thiên Chúa viếng thăm, đã làm thay đổi cuộc đời chúng ta, như trường hợp của Đức Mẹ ?
Trình thuật Truyền Tin có thể được gói gọn trong tiếng « Xin Vâng » của Đức Mẹ ; và chúng ta thường hiểu tiếng « Xin Vâng » là câu trả lời tức khắc của Mẹ khi nghe lời đề nghị của Thiên Chúa, qua trung gian của sứ thần Gabrien. Tuy nhiên, nếu chúng ta đặt lời « Xin Vâng » của Mẹ vào trong diễn tiến của trình thuật Tin Mừng, chúng ta sẽ nhận ra rằng, tiếng « Xin Vâng » của Mẹ là điểm tới của cả một cuộc trao đổi khá dài, và nhất là đầy biến động trong tâm hồn.
Trước hết, chúng ta hãy tự hỏi Đức Maria là ai, theo lời kể của thánh sử Luca về mầu nhiệm Truyền Tin ? Mẹ là một thiếu nữ Israel, ngụ tại Galilê, làng Nazarét. Mẹ là một thiếu nữ đã đính hôn, như bao thiếu nữ khác khi đến tuổi trưởng thành. Một cách chính xác, Mẹ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi Đavít. Như thế, lúc ban đầu, Mẹ là một cô gái như bao cô gái khác (và cũng tương tự như thế, đối với phái nam). Và có lẽ chúng ta cũng đã như vậy trước khi bước vào hành trình ơn gọi, ơn gọi gia đình hay dâng hiến: một cô gái với thân phận bình thường, và với ước mơ về đời mình cũng thật bình thường. Nhưng Mẹ lại không được vậy, vì, có thể nói, Chúa đến làm xáo trộn cuộc đời của Mẹ.
Ở đây chúng ta có thể nhìn lại hành trình ơn gọi của mình và tự hỏi: đâu là những dấu chỉ, những cách thức Chúa dùng để làm xáo trộn cuộc đời chúng ta, làm cho chúng ta không thể sống như những cô gái (hay một người) bình thường ? Và trong trình thuật Truyền Tin, Chúa không đến trực tiếp, nhưng qua trung gian sứ thần Gabriel ; vậy đâu là những người « trung gian » của Chúa trong cuộc đời và nhất là hành trình ơn gọi của chúng ta ?
2. Lắng nghe Sứ thần Gabrien và Đức Maria
Cuộc đối thoại giữa Sứ Thần và Đức Maria được « đóng khung », nghĩa là khởi đầu và kết thúc, bởi chuyển động vào và ra của sứ thần: « Sứ Thần vào nhà trinh nữ » (c. 28), và sau đó, « Rồi Sứ Thần từ biệt ra đi » (c. 38). Cuộc đối thoại có thể chia làm ba bước. Chúng ta hãy lắng nghe từng bước, nhưng không quên nhìn ngắm và quan sát cung cách đối thoại của Đức Mẹ, vốn diễn tả những tâm tình nội tâm, chẳng hạn sự bối rối lúc ban đầu.
a. Bước thứ nhất (c. 28-29)
Sứ Thần ngỏ lời với Đức Maria: « Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà ». Lời chào của sứ thần dành cho Đức Maria trở thành lời chào của chúng ta, vì Kinh Kính Mừng hằng ngày của chúng ta, của cả Giáo Hội bắt đầu bằng lời chào này: « Kính Mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà ». Nhưng ở ngọn nguồn, lời chào này làm cho Đức Maria rất bối rối.
Chúng ta hãy hình dung ra Đức Maria đang trong trạng thái bối rối và tự hỏi tại sao ? Chúng ta có kinh nghiệm tương tự như vậy bao giờ chưa ? Chúng ta có bối rối như Mẹ không ? Nếu chưa, nghĩa là chưa có kinh nghiệm về tình yêu nhưng không Thiên Chúa dành cho chúng ta từ thủa đời đời, thì Mẹ sẽ chia sẻ cho chúng ta, bởi vì tất cả những gì Mẹ nhận được là để chia sẻ. Ơn huệ lớn nhất mà Mẹ nhận được là Đức Giê-su, và Mẹ đã chia sẻ hết cho chúng ta và Mẹ vẫn chia sẻ mỗi ngày.
Và Đức Mẹ tự hỏi về ý nghĩa của lời chào. Không phải vì Mẹ không hiểu điều sứ thần muốn công bố, là ân sủng Thiên Chúa dành cho Mẹ cách nhưng không, nhưng Mẹ không hiểu ý nghĩa của ân sủng: qua ân sủng Thiên Chúa ban cho Mẹ tràn đầy, Chúa muốn nói gì với Mẹ, Chúa muốn mời gọi Mẹ thực hiện điều gì ? Vì thế, ngay sau đó, sứ thần mặc khải điều Thiên Chúa mời gọi Mẹ thực hiện: « Này đây, bà sẽ thụ thai… ». Có lẽ chúng ta cũng vậy, khi Chúa đến ngỏ lời với chúng ta, một lúc nào đó trong quá khứ và nhất là trong những biến cố quan trọng của hành trình ơn gọi ; chúng ta cũng bối rối và tự hỏi: tại sao Chúa lại chọn con, tại sao Chúa ưu ái với con cách nhưng không như vậy ? Chúa mời gọi con làm gì ?
b. Bước thứ hai (c. 30-34)
Sứ thần xác chuẩn ơn huệ nhưng không Chúa ban cho Mẹ: « Bà được đẹp lòng Thiên Chúa », và sau đó, loan báo sứ mạng mà Thiên Chúa muốn trao cho Mẹ: « Này đây bà sẽ thụ thai… ». Như thế, ơn huệ luôn đi đôi với sứ mạng ; và đó chính là cung cách hành xử của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ, trong lịch sử Hội Dòng và trong hành trình ơn gọi của mỗi người chúng ta.
Sứ mạng thụ thai, hạ sinh con trai, vốn là « Con Đấng Tối Cao », là sứ mạng quá lớn, lớn hơn tất cả những gì Mẹ có và Mẹ là. Vì thế, Mẹ không thể không nêu câu hỏi, và câu hỏi của Mẹ chất chứa một ngăn trở, cũng rất lớn: « Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng ? » Chính ở nhịp thứ hai này của cuộc đối thoại, mà chúng ta cảm nhận được Đức Mẹ thật sống động, thật mạnh mẽ và cũng thật lý sự nữa. Vì thế, Mẹ thật gần gũi với chúng ta, vì can đảm đặt câu hỏi, nêu ra khó khăn và trở ngại đối với lời mời gọi của Thiên Chúa.
Còn có một điều bất ngờ lớn lao nữa, mà chắc chắn lúc này, Mẹ chưa hình dung ra hết được, bởi vì Mẹ sẽ phải khám phá ra từ từ, đó là cách Đức Giê-su trở nên cao cả, trở nên Con Đấng Tối cao, và nhất là cách Ngài thừa kế ngai vàng vua Đa-vít. Biến cố Đức Giêsu giáng sinh trong máng cỏ, việc dâng Hài Nhi cho Đức Chúa trong Đền Thờ và nhất là lời tiên tri của ông cụ Simeon: « một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà », sẽ hướng Mẹ tới con đường Thập Giá của Con Mẹ.
Sứ mạng Chúa muốn trao cho chúng ta, khi mời gọi chúng ta đi Đức Ki-tô trong đời sống dâng hiến, luôn luôn vượt qua khả năng của chúng ta. Như khi Đức Giê-su mời gọi: « Thì chính anh em hãy cho họ ăn đi ». Hay như kinh nghiệm của Thánh Phaolô: « Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi: Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối » (2Cr 12, 8-9). Mẹ thật gần gũi với chúng ta, vì can đảm đặt câu hỏi, nêu ra khó khăn và trở ngại đối với lời mời gọi của Thiên Chúa. Chúng ta cũng được Chúa ban ơn huệ để thi hành sứ mạng, chúng ta hãy ca đảm, giống như Mẹ, dãi bày cho Chúa nghe những khó khăn và trở ngại của chúng ta: « việc ấy xẩy ra thế nào được ? »
c. Bước thứ ba (c. 35-37)
Sứ thần rất coi trọng ngăn trở mà Đức Mẹ nêu ra ; vì thế, để thuyết phục, ngài đã không dựa vào điều gì khác, ngoài quyền năng riêng của Thiên Chúa. Chúng ta hãy dừng lại thật lâu để suy niệm từng lời của sứ thần. Vì lời của sứ thần rất thuyết phục, thuyết phục đến độ, Đức Maria đã thốt ra lời « Xin Vâng » liều lĩnh, hướng đến rất nhiều thách đố, nguy nan và những điều bất ngờ. Trước hết, theo lời của Sứ Thần, Người Con Mẹ sẽ cưu mang và sinh ra, là hoàn toàn do quyền năng của Thiên Chúa và thuộc về Thiên Chúa: « Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, … ». Làm phát sinh sự sống, ở nơi mà loài người không thể làm gì được, đó chính là quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa.
Sứ thần Gabrien đến gặp Đức Maria, vào thời điểm bà Elizabeth có thai được sáu tháng ; vì thế, trong lời đối thoại với Đức Mẹ, sứ thần long trọng nêu ra trường hợp bà Elizabet để thuyết phục Đức Mẹ. Sự kiện bà Elizabet với cung lòng vừa hiếm muộn và vừa già cỗi nhưng lại mang thai, có ý nghĩa đặc biệt trong lời xin vâng của Mẹ và trong mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa:
– Trường hợp bà Elizabet nhắc nhớ Lịch sử cứu độ ; và lời xin vâng của Mẹ đặt trên nền tảng hành động của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ.
– Lời xin vâng của Mẹ làm cho lịch sử cứu độ được hoàn tất: hoàn tất bao gồm hai chiều kích: liên tục nhưng mới mẻ.
– Người con bà Elizabet sinh ra sẽ gắn bó đến cùng với Người Con Mẹ Maria sinh ra.
Như thế, Thiên Chúa có khả năng làm phát sinh sự sống ở nơi mà con người không còn hi vọng gì và không thể làm gì được nữa, bởi vì hai ông bà vừa hiềm muốn và vừa lớn tuổi. Và tuyệt tác này lại nhắc nhớ những tuyệt tác tương tự khác trong lịch sử cứu độ, đó là trường hợp các phu nhân hiếm muộn của các tổ phụ, mà vẫn cứ sinh con được, và tiêu biểu nhất là bà Sara, vợ của tổ phụ Abraham. Với Đức Maria, đó cũng là một tuyệt tác, nhưng là một tuyệt tác còn lớn hơn và là duy nhất: Mẹ sinh con không phải từ cung lòng già cỗi hay hiếm muộn, nhưng là từ cung lòng trinh nguyên. Các Giáo Phụ nhìn ra đây là hình ảnh diễn tả công trình sáng tạo của Thiên Chúa, bởi vì lúc khởi đầu, Thiên Chúa cũng làm phát sinh sự sống từ mặt đất trinh nguyên. Đó là vì, đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được. Và đây đã là Tin Mừng cho loài người của chúng ta rồi: đó là Thiên Chúa có thể làm phát sinh sự sống, và làm phát sinh sự sống viên mãn là Đức Kitô, ở nơi mà con người không còn hi vọng gì, ở nơi là tuyệt đối không thể đối với con người. Như thế mầu nhiệm Vượt Qua đã được loan báo ở đây rồi, nơi biến cố truyền tin, bởi vì Thiên Chúa sẽ làm trào vọt sự sống từ sự chết, trong mầu nghiệm Thương Khó và Phục Sinh của Đức Ki-tô.
Chúng ta được mời gọi nhận ra hành động của Thiên Chúa trong lịch sử của Hội Dòng, của Tu Hội, của giáo xứ chúng ta, trong gia đình, trong cuộc đời và trong hành trình ơn gọi của chúng ta, để chúng ta có thể đi theo Đức Ki-tô và phục vụ cho sứ mạng của Ngài, không phải bằng sức lực và khả năng của chúng ta, nhưng quyền năng và sức mạnh của Chúa. Và biến cố Truyền Tin cũng bày tỏ cho chúng ta yếu tính của đời tu: đó là để cho Thiên Chúa làm phát sinh sự sống thần linh của Người, theo hình ảnh của Đức Ki-tô, ở nơi không thể, là thân xác trinh nguyên của chúng ta, theo cách thức mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi Đức Maria. « Trinh nguyên », tiên vàn theo nghĩa thiêng liêng. « Trinh nguyên », tiên vàn theo nghĩa thiêng liêng (bởi vì trinh nguyên thể lý tuyệt đối là không thể và chỉ là vẻ bề ngoài), nghĩa là một con tim khát khao dành trọn cho một mình Chúa và tình yêu của Người.
3. Lắng nghe lời « Xin vâng » của Đức Maria (c. 38)
Trong bản văn Hi-lạp của trình thuật Truyền Tin, thật ra không có từ « xin vâng », hay từ « vâng » trong bản dịch Tiếng Việt ở đây, nhưng chỉ có câu trả lời của Đức Mẹ: « Tôi đây là nữ từ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói » hay dịch sát hơn: « Tôi đây là nữ tì của Chúa, hãy xảy ra cho tôi theo như lời Sứ Thần ». Ngoài ra, « Xin Vâng » còn được đọc theo tiếng La-tinh là « Fiat » ; nhưng thực ra, « Fiat » có nghĩa là « ước gì xẩy ra », hoặc « hãy xẩy ra », cho tôi theo như lời của ngài. Vì thế, chúng ta vẫn cứ tiếp tục nói Đức Mẹ thưa « Xin Vâng », nhưng phải hiểu tiếng « Xin Vâng » của Mẹ là cả một câu trả lời khá dài và đầy ý nghĩa.
Thật vậy, trong lời « Xin Vâng », Mẹ tự xưng mình là « nữ tì ». Chúng ta thường nghĩ ra nhiều tước hiệu cao vời dành cho Đức Maria ; nhưng Mẹ lại thích tự xưng mình, trong biến cố Truyền Tin và trong bài ca bất hủ Magnificat, là « Nữ Tì của Chúa » (Lc 1, 38), là « Phận nữ tì hèn mọn ». Chúng ta được mời gọi dõi theo một Đức Maria như thế đó. Không ở đầu ngoài lời nói này của Mẹ, chúng ta cảm thấy thật gần gũi với Mẹ. Vì chúng ta cũng như Mẹ, là nữ tì, là tôi tớ của Thiên Chúa. Sau đó, Mẹ nói « Hãy xảy ra cho tôi theo như lời của Sứ Thần nói ». Chúng ta hãy cảm nếm lòng tín thác tuyệt đối Mẹ dành cho Chúa qua lời nói này, bởi vì qua lời này, Mẹ cam kết từ bỏ quyền làm chủ đời mình ; và đó chính là ý nghĩa tận cùng của mọi ơn gọi, và nhất là của ơn gọi dâng hiến.
Chúng ta được mời gọi đặt lời « xin vâng » của chúng ta, khi đón nhận Đức Ki-tô vào cuộc đời chúng ta và sống theo ơn gọi Chúa ban, trong lời « Xin Vâng » của Đức Mẹ. Cũng giống như Đức Mẹ, tiếng xin vâng ban đầu của chúng ta cần phải làm mới lại suốt đời, nhất là ở những khúc quanh quan trọng và trong thời gian tĩnh tâm, hay ở những lúc khó khăn thử thách lớn nhỏ trong hành trình ơn gọi. Trong những giai đoạn khó khăn thử thách lớn, có khi chúng ta được mời gọi thưa « xin vâng » mỗi ngày, bằng cách nhận lời « Xin Vâng » của Mẹ làm của mình, và lời « Xin Vâng » này có nghĩa là: « Con là nữ tì của Chúa, xin xảy ra cho con theo như Lời của Ngài. »
****
Xin Đức Mẹ đồng hành và phù hộ chúng ta với tình yêu hiền mẫu, để chúng ta cũng sống đến cùng lời « xin vâng » của chúng ta, giống như Mẹ. Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
Không biết – về tốc độ đẩy tin tức đi nhanh nhất có thể – thì – ở thời điểm này – khoa học về truyền thông LễTruyềnTin 55
Không biết – về tốc độ đẩy tin tức đi nhanh nhất có thể – thì – ở thời điểm này – khoa học về truyền thông đã đụng trần rồi hay chưa… Ai nghĩ sao và có thêm những cố gắng gì hơn nữa…thì không biết, nhưng bản thân người viết…thì nghĩ như thế đấy: về mặt tốc độ tin tức…thì khó có thể nhanh hơn được nữa…Những mặt khác và những tiện dụng khác…thì không dám nói, nhưng về mặt tốc độ…thì … là như thế… Tuy nhiên “nhanh” … chưa hẳn là “tốt”…và nhanh không có nghĩa là thoát khỏi tình trạng “vấp phải đá” và “quàng phải giây” …
Đi đâu mà vội mà vàng
Mà vấp phải đá, mà quàng phải giây ( Ca Dao)
Thú thật mỗi buổi sáng, cái khoái của tuổi hưu là còn có thể lướt mạng, lang thang vùng này vùng khác với trăm ngàn những mẩu chuyện vui buồn ở mọi nơi và trong mọi lúc: những việc người ta làm, những điều người ta nói, những góc khuất ở đây đó…Cả đống rác rến truyền thông được quăng lên…Người viết may mắn lắm mới vớ được đôi ba mẩu chuyện đời đáng kể để làm vốn cho những bài viết của mình…Còn lại là những thứ để mà “xóa”…thế thôi…Nhưng vẫn phải lướt…vì không có gì buồn cho bằng tuổi hưu mà không có việc chi đó để mà làm…
Đừng nói đến cầu nguyện…Không ai cầu nguyện suốt cả ngày chứ đừng nói chi đến tuần, đến tháng, đến năm…
Đừng nói đến “ đọc sách”…vì cũng chẳng can đảm lắm để mà đọc ngày này qua ngày khác: nào là bệnh mắt, nào là bệnh cột sống, nào là bệnh đau đầu…
Khoái trá vẫn là chuyện lướt mạng…và khoái trá hơn nữa vẫn là chuyện còn đủ đầu óc để mà sàng, mà lọc hầu có thể gom lượm được đôi ba điều hay, điều tốt – hữu ích cho mình và có thể chia sẻ với người…
Cho nên – dù sao thì vẫn tạ ơn Thiên Chúa đã cho thế giới con người những bộ óc tìm tòi và cám ơn những sáng kiến cải thiện đời sống con người nơi những bộ óc đặc biệt – quý vị có thể là không muốn nghĩ đến Thiên Chúa, Đấng chi tiết và tỷ mỷ với hàng vạn, hàng ngàn những giây nhợ li ti trong não bộ của quý vị…để quý vị suy nghĩ, thử nghiệm…và chào hàng…Bản thân người viết…thì…vẫn hết sức khâm phục sự siêu việt của Thiên Chúa qua những công trình của con người… Thế nhưng những người sử dụng thành quả của những bộ óc kiệt suất…thì lại quá tệ… Cả những người có đầu óc…lẫn những cô cậu trẻ người non dạ…
Người ta nói đến thứ quyền lực thứ 4: quyền lực của truyền thông…Và khi đề cập đến quyền lực của truyền thông…thì người ta nghĩ ngay đến những “mặt trái” của thứ quyền lực này: lèo lái quần chúng cứng hay mềm theo ý mình muốn và mang lại lợi ích cho mình hay cho những người thuê mướn mình – nghĩa là ngòi bút bị bẻ cong…Bút viết thì hết thời rồi, nhưng bàn phím cũng là một thứ bút, bởi vì cũng hình thành những giòng chữ…
Lớp trẻ “tự sướng”…thì ưng chi nói nấy, nói bằng thứ ngôn ngữ mà những người ở tuổi của người viết phải mất cả giờ đoán già đoán non mới mò hết một hàng chữ viết của chúng…Và bản thân lớp trẻ “tự sướng” này cũng chẳng hiều chi về những kiểu nói, những cụm từ của thế hệ người lớn tuổi…Đã đôi ba lần người viết được yêu cầu giải thích “gấp” về những cụm từ như Hội Nhập Văn Hóa, Phúc Âm Hóa, Tân Phúc Âm Hóa, Tái Phúc Âm Hóa…để kịp đi làm bài thi…Cho thấy không mấy người trẻ hiểu gì, và không hiểu – dĩ nhiên – cũng không sống…Mong rằng các đấng bậc có trách nhiệm quan tâm hơn về phương diện này: khi người ta không hiểu được ý nghĩa của các cụm từ thì người ta cũng sẽ mù tịt về sứ điệp mà cụm từ muốn trình bày…Mà mỗi cụm từ chuyên biệt như trên – muôn rõ ràng – thì chí ít cũng ba bốn tiết học…chứ “gấp” chỉ là giải pháp vá đắp…
Đi đâu mà vội mà vàng
Mà vấp phải đá, mà quàng phải giây
Thật vậy, Thiên Chúa không bao giờ vội vàng trong công việc của Người, vì Người trân trọng con người…
Giáo Hội mừng Lễ Truyền Tin và giới thiệu với con người mô-típ truyền tin của Thiên Chúa thực hiện với con người vì ơn cứu rỗi và hạnh phúc của con người…Chúng ta thấy được gì qua sự kiện Truyền Tin này?
Thứ nhất: Thiên Chúa cực kỳ kiên nhẫn khi chuẩn bị một tin quan trọng vào bậc nhất cho con người chúng ta – một sự kiên nhẫn trải dài suốt lịc sử của Cựu Ước, không phải vì Thiên Chúa, nhưng là vì con người và để cho con người được chuẩn bị đủ hầu có thể đón nhận tin vui ấy…Đây cũng là bài học cho những người làm công việc truyền tin: không phải cho mình và vì mình, nhưng là cho người và vì người…nên phải cẩn trọng, phải kiên nhẫn…
Thứ hai: Thiên Chúa tuyệt vời trong thái độ trân trọng đối tượng được chọn để loan tin…Trong sự kiện là Đức Maria và – qua Đức Maria – là toàn thể nhân loại…Một cô bé chỉ khoảng độ trên dưới 16 tuổi, vô danh tiểu tốt trong một làng quê cũng chẳng có danh tiếng gì…Nhưng Thiên Chúa nhìn thấy con người ấy, Thiên Chúa nhận ra khuôn mặt của nhân loại nơi con người ấy: một khuôn mặt đẹp và đáng để được làm cho rạng rỡ hơn nữa…Thiên Chúa cũng muốn những người làm công tác truyền thông biết trân trọng đối tác mình nhắm tới và đưa ra những gì làm cho khuôn mặt nhân loại ngày càng rạng rỡ hơn…Bởi vì mỗi một con người là một tuyệt tác phẩm có một không hai của Tạo Hóa…Làm hư hoại đi thì quả thực là…không biết nói sao!!!
Thứ ba: người đưa tin là một “nhân vật” có uy tín và đáng tin cậy: trong sự kiện là sứ thần Ga-bri-el…Truyền tin thời @ là mạng…và trên mạng là những tin tức: thượng vàng hạ cám, thậm chí dẫy đầy những thứ bẩn thỉu trong ngôn ngữ cũng như hình ảnh, bẩn thỉu cả trong lãnh vực thông thường lẫn địa chính trị của phe nhóm, của chủ thuyết…Ông bạn lão thành “trà dư tửu hậu” với người viết một nhận định về những trùm quyền lực thế giới: bọn họ là những tay nghiện games không thua gì bọn trẻ!!! Nghĩa là cuộc thế sự được coi như một thứ “Game Show”… Không lạ gì mà chỉ thấy lửa khói và chém giết khắp mặt đất dễ thương này…Buồn da diết ở chỗ phần đa số con người bị coi như những “đối tượng” phải tiêu diệt…để có được bàn thắng!!!
Thứ tư: Thiên Chúa tuyệt đối trân trọng chọn lựa của con người đứng trước đề nghị của Người…Không có chuyện áp đặt…Không có chuyện cưỡng bức…Thông tin của con người khi được quăng lên một phương tiện truyền thông nào đó thì – nhiều hay ít – cũng có những “ý đồ” nhằm khuynh loát đám đông…Đấy không phải là đường lối của Thiên Chúa và không là cách “ truyền thông” của Người…Dĩ nhiên không có thứ truyền thông nào trong thế giới con người mà không nhắm một mục đính, nhưng truyền thông có lương tâm buộc chúng ta cố gắng khách quan tối đa để trân trọng “đối tượng” của mình…Không phải mèo khen mèo dài đuôi, nhưng phải nói thẳng là những người tin Chúa làm truyền thông tương đối có nhân văn…Phải chăng cũng là nhờ Tin Mừng Chúa…
Đức Thánh Cha Phan-xi-cô – trong Sứ Điệp cho Ngày Thế Giới Truyền Thông Xã Hội làn thứ 50 – ngày 24/10/2016 – có nói:
“Email, tin nhắn, mạng xã hội và trò chuyện cũng có thể là những hình thức truyền thông đầy tính nhân văn. Không phải là công nghệ xác định truyền thông có xác thực hay không, mà là trái tim con người và khả năng của con người biết sử dụng một cách khôn ngoan các phương tiện sẵn có. Các mạng xã hội có thể giúp cho những mối tương quan được dễ dàng và thúc đẩy thiện ích của xã hội, nhưng chúng cũng có thể làm gia tăng sự phân cực và chia rẽ giữa các cá nhân và các nhóm. Thế giới kỹ thuật số là một quảng trường, là nơi gặp gỡ mà ở đó người ta có thể yêu thương hay gây đau thương, tham gia một cuộc thảo luận bổ ích hay ném đá nhau tàn nhẫn. Tôi cầu xin cho Năm Thánh này, khi được sống với lòng thương xót, “ giúp chúng ta cởi mở hơn trong đối thoại, để có thể hiểu biết và cảm thông nhau nhiều hơn…Mong sao Năm Thánh sẽ giải tỏa mọi thái độ khép kín và thiếu tôn trọng, cũng như loại bỏ mọi hình thức bạo lực và kỳ thị” ( Misericordiae Vultus, 23). Internet có thể giúp chúng ta trở nên những công dân tốt hơn. Việc tham gia các mạng kỹ thuật số đòi hỏi chúng ta phải có trách nhiệm đối với người thân cận của mình – dù chúng ta không nhìn thấy họ nhưng họ vẫn có thật và có một phẩm giá phải được tôn trọng…Internet có thể được sử dụng một cách khôn ngoan để xây dựng một xã hội lành mạnh và mở ra để sẻ chia.”
Và Ngài kết luận:
“Truyền thông – dù ở đâu và bằng cách nào – cũng mở ra những chân trời rộng lớn hơn cho nhiều người. Đấy là quà tặng của Thiên Chúa kèm theo một trách nhiệm lớn lao. Tôi muốn dùng từ “sự gần gũi” để nói về sức mạnh của truyền thông này. Cuộc gặp gỡ giữa truyền thông và lòng thương xót sẽ mang lại hoa trái vì nó tạo nên được sự gần gũi để chăm sóc, an ủi, chữa lành, đồng hành và chung vui với nhau. Trong một thế giới vụn vỡ, phân mảnh và phân cực, truyền thông với lòng thương xót…có nghĩa là giúp kiến tạo sự gần gũi lành mạnh, tự do và huynh đệ giữa con cái Thiên Chúa và mọi người anh chị em của chúng ta trong một gia đình nhân loại duy nhất.”
Nhân ngày lể kính sự kiện thiên sứ Ga-bri-el vâng lới Thiên Chúa đến gặp gỡ Đức Maria để thông báo và xin ý kiến Đức Maria về việc việc Thiên Chúa muốn chọn Ngài cộng tác với Thiên Chúa hầu phục hồi tình trạng nguyên tuyền cho con người qua tạo dựng mới nơi Đức Ky-tô Thương Khó – Tử Nạn – Phục Sinh, xin được chia sẻ một đôi suy nghĩ về Truyền Thông.
Tuân phục là một nhân đức quan trọng,quý hơn cả lễ vật(1 Sm 15:22; Tv 50:8-9), và có liên quan đức tin: LễTruyềnTin 56
Tuân phục là một nhân đức quan trọng,quý hơn cả lễ vật(1 Sm 15:22; Tv 50:8-9), và có liên quan đức tin: có tin tưởng thì mới vâng lời. Đức Mẹ là người tuyệt đối tín thác vào Thiên Chúa nên cũng tuyệt đối tuân phục Ngài. Lễ Truyền Tin nói lên điều đó. Đức tuân phụclà một trong ba lời khấn của các tu sĩ, nhân đức này phải được dựa trên nền tảng kiên cố là đức khiêm nhường.
Mùa Chay đầy gai nhọn và đinh sắc, phủ màu tím khổ đau của Đức Kitô, nhưng lại có niềm vui khởi đầu Ơn Cứu Độ: Chúa Cha trao ban Con Một cho nhân loại. Lễ Truyền Tin là Đại Hỉ Tínkhông chỉ riêng cho Đức Maria mà còn cho cả nhân loại. Nhờ sự kiện truyền tin và nhờ lời “xin vâng” của Đức Maria mà chúng ta có Đấng Em-ma-nu-en, là vị Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Mầu nhiệm thứ nhất Mùa Vui: Sứ thần truyền tin cho Đức Maria, Giáo Hội dạy chúng ta cầu xin biết SỐNG KHIÊM NHƯỜNG.
Thật tuyệt vời, chỉ trong vòng nửa năm mà tin vui được nhân đôi: Mới trước đó là tin vui cho vợ chồng ông Da-ca-ri-a và bà Ê-li-da-bét (còn gọi là I-sa-ve) với tin thụ thai ngôn sứ Gioan Tẩy Giả, và nay là tin vui cho Đức Maria với tin thụ thai Đấng Cứu Thế. Tin vui lớn dần, tin vui sau lớn hơn tin vui trước. Quả thật, niềm vui ấy lan tỏa mau chóng, bao phủ khắp nơi, đầy ắp lòng người. Niềm vui như vỡ òa!
Đối với hỉ tín thứ nhất, chúng ta có Thánh ca “Chúc Tụng” (Benedictus) của ông Da-ca-ri-a (Lc 1:68-79). Đối với hỉ tín thứ nhì (nhưng lớn hơn), chúng ta có Thánh ca “Ngợi Khen” (Magnificat) của Đức Maria.
Chắc hẳn chẳng có bút sách hoặc văn lực nào có thể nói đầy đủ về Đức Maria – một Nữ Tỳ Vĩ Đại, một Kiệt Tác của Thiên Chúa, một loại kỳ hoa dị thảo đặc biệt nhất. Trí óc phàm nhân không thể nào hiểu nổi chuyện “thụ thai mà còn đồng trinh”, có so sánh như “ánh nắng chiếu qua tấm kiếng” thì cũng chỉ để hiểu được phần nào thôi. Và càng khó hiểu hơn về một thụ tạo mà lại trở thành Mẹ của Thiên Chúa, điều mà người chị họ Ê-li-da-bét đã xác nhận và reo vui: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1:43). Quá đỗi nhiệm mầu và vô cùng kỳ diệu!
Từ ngàn xưa, Đức Chúa đãnóivới vua A-khát: “Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh” (Is 7:11). Thiên Chúa cho phép xin, nhưng ông không dám xin: “Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa” (Is 7:12). Đó là cách sống đức tin và khiêm nhường, tấm gương sáng ngời để mỗi chúng ta cần phải thường xuyên “soi” mình xem dung nhan linh hồn thế nào rồi.
Ngôn sứ I-sai-a đã nghiêm túc cảnh báo: “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít! Các ngươi làm phiền thiên hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa? Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en” (Is 7:13-14).
Chắc hẳn đây cũng là lời cảnh báo với chúng ta, vì chúng ta vẫn có “máu nổi loạn” là làm phiền Thiên Chúa, khoái sự lạ, tính tò mò lớn hơn niềm tin. Đơn giản như khi đi đường, thấy có gì “khác thường” là người ta xúm lại xem rồi bàn tán rôm rả, thậm chí còn thêm đủ thứ “gia vị”. Biết bao người đã và đang là “nạn nhân” của những “cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Tương tự, người ta chỉ mong được thấy “sự lạ” ở nơi này hoặc nơi kia, rỉ tai nhau rồi ùn ùn kéo nhau đi. Xong rồi thôi, chính cuộc sống của những người đó chẳng thấy có gì thay đổi tích cực về tâm linh. Như thế cũng chỉ là vô ích. Thậm chí có người còn nói thấy Chúa, thấy Mẹ, hoặc thấy “người lạ” nào đó, muốn người khác biết mình là “thị nhân” đấy!
Thế nhưng các “dấu lạ” nhãn tiền hằng ngày lại không mấy ai thực sự để ý, hoặc chúng ta cố ý làm ngơ. Có thật vậy sao? Đúng như thế!Các “dấu lạ” minh nhiên về KHÔNG KHÍ để chúng ta hít thở từng giây để có thể sống, về ÁNH SÁNG, và đặc biệt là phép lạ THÁNH THỂ hằng ngày tái diễn trên bàn thờ, chính Chúa Giêsu vẫn hiện diện sống động thực sựở giữa chúng ta, cụ thể là nơi Nhà Tạm.
Đức vâng lời là nhân đức thể hiện sự khiêm nhường. Vâng lời là lời khấn thứ nhất của các tu sĩ, sau đó mới là sống nghèo khó và khiết tịnh (có dòng còn thêm một hoặc hai lời khấn khác). Tác giả Thánh Vịnh nói: “Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã mở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi, con liền thưa: ‘Này con xin đến!’. Trong sách có lời chép về con rằng: con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con” (Tv 40:7-9). Điều này được thể hiện rõ nét nơi Đức Mẹ, vì Đức Mẹ cũng là người ít nói, biết được gì thì cũng “hằng ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2:19).Quả thật, im lặng là vàng!
Với niềm vui trong lòng, tác giả Thánh Vịnh bộc bạch: “Đức công chính của Ngài, con loan truyền giữa lòng đại hội; lạy Chúa, Ngài từng biết: con đâu có ngậm miệng làm thinh. Đức công chính của Ngài, con chẳng giữ riêng lòng mình biết; nhưng con đã nói lên đức trung tín và ơn cứu độ của Ngài, chẳng giấu giếm chi cùng đại hội rằng Ngài thành tín và yêu thương” (Tv 40:11). Đây cũng phải là quyết định của mỗi Kitô hữu. Hành động như vậy là hợp tác với Thiên Chúa, là loan báo Tin Mừng, là truyền bá lòng sùng kính Thánh Tâm, là truyền bá Lòng Chúa Thương Xót, là cố gắng hoàn thiện,là đem Chúa đến với người khác để họ khả dĩ nhận biết Ngài và cũng được Ngài cứu độ.
Tuy nhiên, Thánh Phaolô cũng nói: “Máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10:4-7). Vì vâng lời, cậu bé Sa-mu-en đã biết chân thành thân thưa: “Người là Đức Chúa. Xin Người cứ làm điều Người cho là tốt” (1 Sm 3:18). Ước gì mỗi chúng ta cũng biết tuân phục mà cầu nguyện như vậy hằng ngày!
Đức tuân phục cứ được lặp đi lặp lại. Thánh Phaolô dẫn chứng:“Trước hết, Đức Kitô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền. Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ” (Dt 10:8-10). Với tinh thần tuân phục tuyệt đối, Đức Mẹ đã mau mắn nói lời “xin vâng”, vì ý Chúa chứ không vì ý riêng. Và chính Đức Kitô cũng hoàn toàn tuân phục, dù Ngài cũng có sự giằng co của nhân tính trước khi nhận “chén đắng”.
Qua trình thuật Lc 1:26-38,Thánh sử Luca cho biết: Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Maria. Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”.Nghe lời ấy, Thôn nữ Mariarất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Sứ thần liền trấn an: “Thưa Chị Maria, xin đừng sợ, vì Chị đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây Chị sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người.Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”.
E ngại là bản tính nhân loại, thế nên Đức Maria nhẹ nhàng thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”. Thế nhưng sứ thần quả quyết: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Chị, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Chị, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa Cô Ê-li-sa-bét, người họ hàng với Chị, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: Cô ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, KHÔNG CÓ GÌ LÀ KHÔNG THỂ LÀM ĐƯỢC”.
Ôi, thật tuyệt vời! Và thế là không còn nghi ngờ vàcũng chẳng ngần ngại chi ráo trọi, Đức Maria nói ngay: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1:38).Một câu nói đầy ắp sự can đảm với tầm nhìn tương lại rộng lớn.Quả thật, không dễ gì mà có thể quyết định mau mắn với đại sự như vậy. Đây là động thái quan trọng, vì nhờ Đức Mẹ vui lòng “xin vâng” mà Ngôi Hai nhập thể để bắt đầu Chương Trình Cứu Độ.
Sau khi hoàn thành sứ vụ, Tổng thần Gáp-ri-en từ biệt ra đi. Và Đức Maria bắt đầu trang đời mới với trọng trách mới và đầy gian khó.Xin hết lòng tạ ơn Thiên Chúa và tạ ơn Đức Trinh Nữ Maria. Đức Mẹ là Nhà Tạm đầu tiên bởi vì Đức Mẹ là Người-mang-Thiên-Chúa (Theotókos).Thật diễm phúc cho phàm nhân chúng ta, vì mỗi khi đón nhận Thánh Thể, chúng ta cũng trở nên Nhà Tạm của Thiên Chúa Ngôi Hai. Thật vậy, Thánh Phaolô xác nhận rằng “chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa hằng sống” (2 Cr 6:16).
Lạy Thiên Chúatoàn năng,xin Ngài cứ thực hiện những gì Ngài thấy tốt cho cuộc sống của con trên trần gian này, mặc dù có thể trái ý con, xin giúp con luôn biết xin vâng tuyệt đối và mau mắn. Lạy Thánh Mẫu Thiên Chúa, xin hướng dẫn và nâng đỡ để con vững bước theo bước Mẹ đã đi. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Sinh ra trong cuộc đời có nhiều điều chúng ta cần phải cám ơn. Cám ơn Thượng Đế đã cho ta làm người.
Sinh ra trong cuộc đời có nhiều điều chúng ta cần phải cám ơn. Cám ơn Thượng Đế đã cho ta làm người. Cám ơn mẹ cha đã đón nhận chúng ta. Cám ơn cuộc đời đã cho ta niềm vui. Nhưng, xem ra chúng ta ít cám ơn về món quà sự sống mà Thượng Đế và mẹ cha đã ban tặng cho chúng ta. Có mấy ai đã một lần cám ơn mẹ cha đã sinh ra chúng ta?
Có một người con gọi về cho mẹ:
– Alô, Mẹ đó ạ?
– Ừ, C đó hả?
– Dạ…
– Có chuyện gì không con?
– …Dạ, không Mẹ…hôm nay sinh nhật con…
– Ờ nhỉ, Mẹ quên mất! Già rồi nên chẳng nhớ nổi ngày sinh của mấy đứa con.
– Không sao đâu Mẹ ạ. Con…con chỉ muốn nói với Mẹ rằng…hôm nay sinh nhật con, con muốn cám ơn Mẹ đã sinh ra con. Món quà sinh nhật quý giá nhất Mẹ đã tặng cho con.
Hóa ra món quà quý nhất cho ngày sinh nhật của chúng ta là tình yêu của mẹ. Mẹ đã cho chúng ta một ngày sinh nhật thật tuyệt vời bên lòng mẹ, với tiếng khóc chào đời trong niềm vui của mọi người. Mẹ đã tặng chúng ta sự sống, tình yêu, lòng quảng đại đón nhận chúng ta làm con của mẹ. Có biết bao đứa trẻ bất hạnh đã bị mẹ từ chối cho sinh ra. Có biết bao đứa trẻ ao ước được mừng một lần sinh nhật trong cuộc đời mà không có. Thế nên, ta được sinh ra, được mừng sinh nhật đầu đời là hạnh phúc to lớn mà chính mẹ tặng ban cho chúng ta.
Thế mà, chúng ta dường như chưa bao giờ cám ơn món quà của mẹ. Chúng ta cám ơn ai đó tặng ta con búp bê, cái khăn tay, cái móc khóa mà quên cám ơn mẹ đã tặng ta cả cuộc đời. Đôi khi còn đòi hỏi nơi mẹ điều này điều kia, vì tưởng rằng đó chỉ là bổn phận của mẹ phải làm cho con, mà quên rằng có biết bao bà mẹ đã từ chối đón nhận con, từ chối hy sinh cho con.
Hôm nay lễ Mẹ Maria được sứ thần truyền tin. Phúc âm ghi lại hành trình làm mẹ của Mẹ Maria thật cao cả, tuyệt vời. Mẹ đón nhận làm Mẹ của Con Chúa Trời trong sự đơn sơ khiêm tốn. Mẹ đón nhận thiên chức làm mẹ trong cái nhìn của đức tin để vượt qua mọi sợ hãi mà sinh Con Chúa Trời làm người. Nếu không có lòng quảng đại Mẹ đã khước từ gánh nặng của bóng thập giá ngay từ lúc truyền tin. Nếu không có đức tin Mẹ sẽ không đủ can đảm đón nhận thiên chức làm Mẹ vượt qua trí hiểu của con người. Mẹ Maria đã đón nhận mang trong mình một mầm sống trong niềm tín thác xin vâng.
Mẹ xin vâng dầu Mẹ chưa hiểu hết. Mẹ xin vâng dầu phải đối diện với nguy nan, vì sinh con mà không qua người đàn ông, chắc chắn theo luật Do Thái Mẹ phải chết . . . Thế nhưng, Mẹ vẫn tin vào quyền năng của Chúa sẽ bao phủ trên cuộc đời của Mẹ. Mẹ đón nhận tất cả với niềm tín thác nơi sự quan phòng của Thiên Chúa.
Lạy Mẹ Maria, chúng con cám ơn Mẹ đã quảng đại đảm nhận vai trò làm Mẹ với Con Chúa Trời. Chúng con cũng cám ơn Mẹ đã quảng đại tiếp tục đón nhận chúng con làm con của Mẹ. Chúng con xin dâng hồn xác chúng con trong sự che chở, gìn giữ của Mẹ. Xin Mẹ xưa đã cưu mang, gìn giữ, nuôi nấng Con Chúa Trời thì xin Mẹ cũng che chở nâng đỡ từng cuộc đời chúng con. Và xin cho các bà mẹ trên thế gian biết vượt qua nỗi sợ hãi để sinh con ra trong cuộc đời. Xin đừng vì một chút sợ hãi của đói nghèo, của bệnh tật, của danh dự mà cướp đi sự sống của các thai nhi. Xin cho các bà mẹ luôn giầu lòng quảng đại để chấp nhận mọi đứa con theo thánh ý Chúa. Amen
Sứ điệp đa dạng và nhiều mức độ. Sứ điệp có thể vui hay buồn, bình thường hoặc quan trọng, cũng LễTruyềnTin 58
Sứ điệp đa dạng và nhiều mức độ. Sứ điệp có thể vui hay buồn, bình thường hoặc quan trọng, cũng có thể là sứ mệnh, trọng trách. Lễ Truyền Tin là Sứ Điệp từ Thiên Chúa trao cho Đức Maria, là tin mừng, là hỷ tín, nhưng cũng là trách nhiệm nặng nề.
Dù sợ, nhưng khi hiểu ra vấn đề, Đức Maria đã mau mắn vui vẻ chấp nhận, không so đo, không tính toán. Từ đó, Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa bắt đầu trở nên hiện thực. Và rồi Thánh sử Gioan xác nhận: “Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta, và chúng ta đã nhìn thấy vinh quang của Người” (Ga 1:14ab).
Trình thuật Is 7:10-14 ngắn gọn nhưng chứa một sứ điệp tuyệt vời. Ngày xưa, vua A-khát được Thiên Chúa cho phép: “Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh”. Nhưng ông e ngại với lòng khiêm nhường, và ông trả lời: “Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa”. Sứ điệp này cảnh báo chúng ta “đừng đùa với lửa”, vì có những lần chúng ta đã từng thử thách Thiên Chúa mà chúng ta không biết hoặc tìm cách biện hộ cho mình.
Ông I-sai-a đưa ra một sứ điệp cho dân chúng với lối “hỏi–đáp” đơn giản: “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít! Các ngươi làm phiền thiên hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa? Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en”. Đó là lời tiên báo về Đức Maria, một thôn nữ miền Na-da-rét, được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ Thiên Chúa.
Là thục nữ và được giáo dục đạo đức của Cha Mẹ – ông Gioakim và bà Anna, nên Cô Gái Trẻ Maria không chỉ thánh thiện mà còn khiêm nhường – nhân đức nền tảng của mọi nhân đức. Thiên Chúa ưa thích tính khiêm nhường chứ không cần thứ gì khác, như Thánh Vịnh xác nhận: “Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã mở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi” (Tv 40:7). Cô Gái Trẻ Maria cũng luôn “xin vâng” trong mọi sự, theo cách mà Kinh Thánh đã đề cập: “Này con xin đến! Con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con!” (Tv 40:8-9). Cả cuộc đời Đức Maria đã sống vuông tròn theo Thánh Ý Chúa, và cuộc đời Mẹ là “lời nói” vang ngân mãi mọi thời đại: “Đức công chính của Ngài, con loan truyền giữa lòng đại hội; lạy Chúa, Ngài từng biết: con đâu có ngậm miệng làm thinh” (Tv 40:10).
Vì khiêm nhường mà người ta mới có thể vâng lời. Hai nhân đức này là nhân đức đối nhân, không là nhân đức đối thần, nhưng vẫn có tầm quan trọng lắm, và luôn có hệ lụy với nhau theo tính liên đới. Thánh Phaolô chứng minh và đề cập đức vâng lời: “Máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10:4-7).
Thánh Phaolô tiếp tục dẫn chứng về ý muốn của Thiên Chúa Cha và đức tuân phục của Thiên Chúa Con: “Trước hết, Đức Kitô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền. Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ” (Dt 10:8-10). Tương tự, phàm nhân cũng luôn yêu quý những người biết tự nguyện, chứ không miễn cưỡng.
Chúa Giêsu là Chiên Hiến Tế Thánh, vô giá, dâng một lần nhưng có hiệu lực từ hồng hoang tới tận thế. Chúng ta chỉ là phàm nhân tội lỗi, bất xứng, nhưng nếu biết khiêm nhường thì vẫn có giá trị đối với Thiên Chúa, nhưng chúng ta phải dâng lễ tế nhiều lần, dâng lễ đền tội cho chính mình và cho người khác.
Thánh sử Luca cho biết về việc Sứ thần truyền tin cho Đức Maria. Sự kiện này chỉ được ghi lại trong Tin Mừng theo Thánh Luca (Lc 1:26-38), ba Tin Mừng kia không có. Thánh Luca cho biết: “Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, Thiên Chúa sai sứ thần Gáprien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Maria”. Rất rõ ràng các chi tiết!
Cuộc đối thoại siêu nhiên nhưng có vẻ rất tự nhiên, như một đoạn video clip, rất sống động, rất đời thường.
Sứ thần vào nhà và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Chị”. Nghe lời ấy, Đức Maria rất bối rối vì “kỳ thí mồ” đi, chả hiểu ất giáp chi ráo trọi. Lạ thế nhỉ! Nhưng Sứ thần liền nói một hơi dài: “Này Chị Maria, xin đừng sợ, vì Chị đẹp lòng Thiên Chúa. Chị sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”. Đức Maria vẫn thấy chưa ổn, vẫn ngại lắm, nên thưa với Sứ thần: “Mèn ơi, việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”.
Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. Và để chắc cú, Sứ thần dẫn chứng cụ thể: “Này nhé, Cô Êlisabét, người họ hàng với Chị đấy, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: Cô ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”. Lạy Chúa tôi, nhẹ cả mình! Hai năm rõ mười, thế là an tâm, chả lo sợ chi nữa. Bấy giờ Đức Maria liền nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Lời “xin vâng” này là điều quyết định rất quan trọng để rồi “chốc ấy Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người, và ở cùng chúng ta”.
Xin vâng là tuân phục Thánh Ý Chúa, dù biết rằng “vâng lời trọng hơn của lễ” (1 Sm 15:22; Tv 50:8-9), nhưng chắc chắn không là điều dễ thực hiện, mà phải nỗ lực rất nhiều và phải cậy nhờ ơn Chúa.
Xin tạ ơn Thiên Chúa, vì thương xót nhân loại mà Ngài lập Kế Hoạch Cứu Độ rất kỳ diệu. Xin cảm ơn Đức Maria, nhờ lời xin vâng của Mẹ mà chúng con diễm phúc được Chúa Giêsu đến ở cùng và chia sẻ vui buồn với chúng con, đồng thời chúng con cũng được làm con cái Mẹ.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin Ngài hành động nơi chúng con theo Thánh Ý Ngài, xin giúp chúng con luôn can đảm “xin vâng” trong mọi hoàn cảnh, nhất là trong lúc gian nan khốn khó. Xin Đức Mẹ nguyện giúp cầu thay và đồng hành với chúng con, giúp chúng con kiên cường sống trọn ba đức đối thần suốt cuộc đời này. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con. Amen.
Thiên Sứ Gabriel truyền tin cho Đức Maria là một cuộc đối thoại. Các nhà chú giải đã chia ra ba sườn LễTruyềnTin 59
Thiên Sứ Gabriel truyền tin cho Đức Maria là một cuộc đối thoại. Các nhà chú giải đã chia ra ba sườn chính về thể văn mà thánh Luca sử dụng trong cuộc đối thoại của khung cảnh Truyền Tin.
– Thể văn báo tin việc sinh hạ:
* Thiên sứ hiện ra – Phản ứng của người được thị kiến là sợ hãi – Lời loan báo về việc thụ thai và sinh hạ, đặt tên cho con trẻ, tương lai của con trẻ – Chất vấn: làm thế nào được? – Thiên sứ khẳng định điều loan báo với một dấu hiệu.
* Ví dụ: báo tin về sự sinh ra của Isaac (St 17), Samson (Tl 13, 1-23), Samuel (1Sm 1), Gioan Tẩy Giả (Lc 1, 5-25).
* Nội dung sứ điệp là loan báo về việc Thiên Chúa can thiệp lạ thường nơi một phụ nữ sinh ra một người con làm vị cứu tinh dân tộc.
– Thể văn kêu gọi vào một sứ mạng:
* Thiên sứ hiện ra – Ơn gọi sứ mạng – Giải thích và dấu hiệu – Kết luận. * Ví dụ: Maisen (Xh 3, 1-12), Geđeon (Tl 6, 11-23) * Thiên sứ hiện ra trực tiếp cho người được Chúa gọi.
– Thể văn giao ước, hay lập lại giao ước
Một người trung gian như Ngôn Sứ, Vua, Tư Tế trình bày ý định của Thiên Chúa và toàn dân đáp lại “Chúng tôi sẽ thực hành điều Ngài dạy” (Xh 19, 7; 24, 3-7; Er 10, 12; Nkm 5, 12).
Cả ba thể văn bổ túc cho nhau diễn tả sắc thái độc đáo có một không hai trong lịch sử qua biến cố Truyền Tin.
Để thấy được sự trang trọng, độc đáo của cuộc đối thoại Truyền Tin, cần so sánh khung cảnh truyền tin của Thiên sứ Gabriel cho ông Zacaria và cho Đức Maria.
– Về địa điểm: Thiên sứ hiện ra với Zacaria ở đền thờ Giêrusalem, trung tâm tôn giáo của Israel, giữa làn khói hương nghi ngút. Với Đức Maria, Thiên sứ đến gặp Mẹ tại Nazareth, một thôn làng chẳng mấy ai biết đến (Ga1,46; 7,41). Nazareth thuộc miền đất Galilê, gần vùng dân ngoại (Is 8, 23; Mt 4,14).
– Về nhân vật: Zacaria là tư tế thuộc giòng Abia, Isave thuộc giòng Aaron. Cả hai ông bà thuộc thành phần có địa vị xã hội. Hai ông bà tuân giữ lề luật chu đáo (Lc 1, 6). Họ tượng trưng cho người công chính theo Cựu ước. Còn Maria chỉ là một thôn nữ tầm thường, một người nghèo của Giavê.
– Đi vào nội dung đối thoại thì hoàn toàn đảo ngược
Thái độ của Thiên sứ:
* Với Zacaria: Thiên sứ coi mình như chủ nhà. Giọng nói Thiên sứ như ra lệnh, thị oai. Thiên sứ phạt Zacaria khi ông tỏ dấu nghi ngờ.
* Với Maria: Thiên sứ là khách, đi đến nhà của Maria, một làng quê hẻo lánh. Thiên sứ tỏ vẻ kính cẩn vì nhìn thấy nơi thôn nữ mộc mạc dáng vẻ oai nghi của “Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng ”
– Công trạng và ân huệ
* Với Zacaria: Thiên sứ bảo rằng: Lời cầu nguyện của ông đã được Chúa chấp nhận, vợ ông sẽ thụ thai (Lc 1, 13). Như vậy tất cả đều dựa trên công trạng phúc đức của con người, đúng theo tinh thần Cựu ước.
* Với Đức Maria: Tất cả đều là Ân huệ của Chúa. Thiên sứ chào Maria là “người được Thiên Chúa yêu thương chiếu cố” (Lc 1,28). Mọi sự đều là ân huệ và tình thương của Chúa.
– Kết quả: Zacaria bị quở trách vì “không chịu tin vào Lời Chúa” (Lc 1, 20). Maria được ca ngợi vì “đã tin rằng Lời Chúa sẽ thực hiện” (Lc 1, 45. 38). Isave được cưu mang Gioan “sẽ làm lớn trước mặt Chúa ” (Lc 1, 15). Maria cưu mang “Con Đấng Tối Cao ” (Lc 1, 32), “Con Thiên Chúa” (Lc 1, 35).
Lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Đức Maria, ta thấy rằng: công cuộc vĩ đại của Thiên Chúa là cứu chuộc nhân loại, thiết lập Nước Trời được bắt đầu một cách rất âm thầm. Một cuộc đối thoại Truyền Tin tại một làng quê, giữa Thiên Sứ với một thôn nữ chẳng mấy người biết. Chúa Giêsu đã diễn tả sự khởi đầu bé nhỏ nhưng thành quả lại lớn lao qua dụ ngôn hạt cải: “Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng” (Mc 4, 31-32). Thiên Chúa thường khởi sự những việc hết sức lớn lao bằng những việc hết sức bé nhỏ, với những con người cũng hết sức nhỏ bé. Như thế người ta mới thấy quyền năng của Ngài, mới thấy Ngài là một Thiên Chúa vĩ đại: “Những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh” ( 1Cr 1, 27).
Lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Maria, ta thấy Thiên Chúa chọn những ai sống đẹp lòng Ngài. Maria đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ. Ngài chọn Maria vì Ngài muốn chọn, theo sự tự do của Ngài (x. Rm 9, 12. 16), và cũng vì Maria đẹp lòng Thiên Chúa. Thời Đức Mẹ, ai cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do ân huệ nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận. Thiên sứ nói với Đức Maria: “Quyền năng của Đấng tối cao sẽ bao trùm lên bà, vì thế Đấng Thánh con của bà sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1, 35). Tiếng quan trọng ở trong câu đó là “bao trùm lên” hay “bao phủ lên”. Lều tạm nơi dân Do Thái để hòm Giao Ước. Câu Xh 40, 34 nói rằng bao lâu đám mây còn bao phủ lều tạm thì “lều tạm có Thiên Chúa hiện diện”. Việc Luca chọn và dùng từ “bao trùm lên” có ý nghĩa thâm sâu. Luca so sánh thân thế Đức Maria với lều tạm nơi đặt Hòm Giao Ước của Thiên Chúa. Luca so sánh cung lòng Đức Maria nơi Đức Giêsu sẽ tới cư ngụ với Hòm Giao Ước nơi đặt hai phiến đá có ghi 10 điều răn của Thiên Chúa. Như vậy nghĩa là khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Maria thì có “Thiên Chúa hiện diện ” trong Mẹ. Nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đức Maria thì vô cùng phong phú hơn sự hiện diện của Ngài trong “lều tạm”. Sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Maria chính là sự hiện của Đức Giêsu bằng xương bằng thịt.
Lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Maria, ta thấy Đức Maria đã tự do đáp tiếng “Xin vâng”. Trong Hiến Chế Lumen Gentium số 56, Công Đồng Vatican II đã giải thích ý nghĩa quan trọng của câu chuyện Truyền Tin và sự ưng thuận tự do của Đức Maria: “Các thánh Giáo Phụ đã nghĩ rất đúng rằng: Thiên Chúa đã không thu dụng Đức Maria một cách thụ động, nhưng đã để Ngài tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin và sự vâng phục của Ngài. Thực vậy, Thánh Irênê nói: “Chính Ngài, nhờ vâng phục, đã trở thành nguyên nhân ơn cứu độ cho bản thân Mẹ và cho toàn thể nhân loại”. Và cùng với thánh Irênê còn có rất nhiều thánh Giáo Phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng: “Nút dây đã bị thắt lại do sự bất tuân phục của bà Evà, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Maria ; điều mà trinh nữ Evà đã buộc lại bởi cứng lòng tin, thì Trinh Nữ Maria đã tháo ra nhờ lòng tin”. Và so sánh với Evà, các Giáo phụ gọi Đức Maria là “Mẹ các sinh linh” và thường quả quyết rằng: “Bởi Evà đã có sự chết, thì nhờ Maria lại được sống”. Trong Sứ điệp Ngày Quốc Tế Giới Trẻ Lần Thứ 18 năm 2002, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói với giới trẻ rằng: Trong biến cố Truyền Tin, Đức Maria trao ban bản tính nhân loại cho Con Thiên Chúa trong cung lòng Mẹ với lời tự do chấp nhận: “Này tôi là tôi tớ Chúa”. Dưới chân Thánh Giá, nơi thánh Gioan, Đức Maria đón nhận toàn thể nhân loại vào tâm hồn mình: “Hỡi bà, này là con bà”. Là Mẹ Thiên Chúa ngay từ lúc đầu tiên của biến cố Nhập Thể, Mẹ đã trở thành Mẹ loài người trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu, Con Mẹ.
Cuộc đối thoại Truyền Tin là khoảnh khắc Thiên Chúa “bật mí” cái bí mật từ ngàn đời. Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nỗi muốn trở thành một con người giữa nhân loại. Và Thiên Chúa đã chọn Mẹ Maria là để Ngài sai Con Một đến giữa chúng ta, thực hiện chương trình cứu độ của Ngài đối với trần gian. Giây phút Mẹ tự do đáp lời “Xin vâng” là khởi đầu bình mình ơn cứu độ cho thế nhân. Một lời thật ngắn nhưng âm vang cả đời. Một lời vừa biểu lộ sự hiến dâng cộng tác tích cực, vừa thể hiện niềm yêu mến tin tưởng phó thác. Mẹ Maria đã đáp “Xin vâng” không chỉ một lần mà còn nhiều lần trong đời. Mẹ Maria mãi mãi là tấm gương cho chúng ta soi trong cuộc đối thoại lắng nghe Lời Chúa và đáp trả Lời Chúa. Thiên Chúa đã chứng tỏ nơi Mẹ điều không thể để trở nên điều có thể. Vì “cái gì cũng có thể đối với người có lòng tin” (Mc 9, 23).
Ngắm thứ nhất Mùa Vui: Thiên thần truyền tin cho Đức Bà chịu thai Lời kinh mỗi người chúng ta dâng lên từ mầu nhiệm này là xin cho mình được sống khiêm nhường.
Đức Maria vâng lời Chúa qua trung gian của Thiên thần. Mẹ biểu lộ nhân đức khiêm nhường tuyệt vời. Vâng phục Chúa, qua “xin vâng” như lời Thiên thần truyền. Mẹ nhận mình là một người tôi tá. Rõ ràng, trong sự vâng phục, trong tiếng xin vâng của Mẹ là một niềm trông cậy. Mẹ tin tưởng phó thác cả đời sống cho Đấng đã tuyển chọn mình. Là Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ nhân loại, để từ đó một cách thường hằng, Mẹ nên Hiền Mẫu chuyển cầu che chở nâng đỡ ủi an mọi người trên đường lữ thứ trần gian. Và một cách đặc biệt, Mẹ nên nguồn cậy trông cho tất cả những ai, không phân biệt lương giáo, đang gặp phải những nỗi đau trong đời như đau đớn xác thân vì bệnh tật, đau khổ tinh thần vì thất vọng thử thách, đau buồn vì cảnh gia đình tan tác hay đau thương vì nỗi vĩnh quyết chia xa hoặc đau điếng mãn tính cấp tính vì tình đời đen bạc… Hãy bền lòng cậy trông ký thác, phần còn lại là kiên tâm làm theo hướng dẫn của Mẹ.
Đức khiêm nhường là nhân đức nền tảng, từ đó mới có thể xây dựng lâu đài các nhân đức khác. Giữa lòng Mùa Chay Thánh, mừng lễ Truyền Tin, học nơi Mẹ nhân đức khiêm nhường.
Mùa Chay là mùa sám hối để canh tân. Mùa Chay là mùa đổi đời, trút bỏ đi những gì là cồng kềnh, những gì là cũ kỹ, những gì là tăm tối, những gì là tội lỗi để khoác vào đời sống của mình một tấm áo mới trong niềm tin yêu Chúa. Lòng khiêm tốn, sự vâng phục của Đức Trinh Nữ Maria là mẫu gương cho chúng ta noi theo. Luôn thưa xin vâng với Chúa trong khiêm nhường của người tôi tớ, để cảm nghiệm mình được hân hạnh cộng tác với Chúa và thấy Chúa đang làm biến chuyển tâm hồn sẵn sàng cưu mang Chúa trong tâm hồn mình. Đó là niềm vui muôn thưở của người Kitô hữu hôm nay.
Khi suy niệm kinh mân côi ngắm thứ nhất mùa vui, Thiên thần truyền tin cho Đức Maria, chúng ta chiêm LễTruyềnTin 60
Khi suy niệm kinh mân côi ngắm thứ nhất mùa vui, Thiên thần truyền tin cho Đức Maria, chúng ta chiêm ngắm hình ảnh người nữ tỳ của Thiên Chúa nơiMẹ và xin cho được ‘Ở khiêm nhường’. Nhưng, sự khiêm nhường nơi Đức Maria đã được Kinh thánh diễn bày như thế nào?
Maria, người được Thiên Chúa tuyển chọn.
Tin mừng Luca thuật lại biến cố truyền tin mà hôm nay Giáo hội mừng kính. Thần sứ Gabriel đến gặp Đức Maria và trao lời cầu ngỏ. Đức Maria chỉ là một cô gái quê, cư dân thành Nazareth, không học thức cao sang, không danh giá quyền quý và chẳng có một nét ưu việt nào dưới con mắt người đời. Nhưng trong chương trình của Thiên Chúa, Mẹ được tuyển chọn để trở nênThân mẫu Đấng Cứu Thế. Điều Thiên Chúa muốn luôn khác xa với sự toan tính của con người. Các ngôn sứ thời cựu ước đã từng loan báo về việc Đấng Messia sẽ được sinh ra do một trinh nữ.Bài đọc 1 trong phụng vụ hôm nay nhắc lại cho chúng ta lời tiên báo ấy qua miệng ngôn sứ Isaia. Như vậy, Đức Maria đã được tuyển chọn không phải do tình cờ, nhưng kế hoạch ấy đã có trong chương trình của Thiên Chúa ngay từ đời đời. Mẹ được chọn không phải vì Mẹ đã đắc thủ cho mình những nhân đức trổi trang hơn hẳn các phụ nữ khác, hay do một yếu tố lịch sử nào đó tác động từ bên ngoài. Thiên Chúa đã chọn Mẹ, chỉ vì Chúa muốn như vậy, thế thôi. Ơn gọi luôn là một mầu nhiệm rất khó hiểu và dường như không thể hiểu nổi đối với đầu óc suy lý của con người. Chúa đã chọn Mẹ hoàn toàn do ý định của Ngài, và như một hệ quả tất yếu, Chúa cũngphú mặc cho mẹ những phẩm tính cao trọng, tương xứng với thiên chức ‘Mẹ Thiên Chúa’ hay‘Mẹ Đấng Cứu thế’. Tâm hồn Mẹ được gìn giữkhông bị lây nhiễm bất cứ ô nhơ nào, ngay cả tội nguyên tổ. Cung lòng của Mẹ đã trở nên như ngôi đền thờ tuyệt mỹ để Ngôi Hai Thiên Chúa đến ẩn ngự.
Sự đáp trả tự do.
Trước lời cầu ngỏ của thần sứ, Mẹ đã thưa: “Xin vâng – Fiat”. “Xin hãy thực hiện nơi tôi những điều Chúa muốn”. Mẹ hoàn toàn tự do để lựa chọn giữa việc chấp thuận hay chối từ nhưng sự từ chối đã không xảy ra. Lời thưa xin vâng của mẹ có một ý nghĩa sâu xa mà Giáo hội mời gọi chúng ta nhìn vào đó như một quy chuẩn căn bản để thực hiện sự khiêm tốn nội tâm. Khiêm nhường ở đây không phảichỉ đơn thuần là một đức tính nhân bản như trong xã hội hiện nay người ta vẫn hay đề cao. Nền tảng của sự khiêm tốn nơi mẹ chính là sự tự hư vô hóa chính mình để cho Thiên Chúa hoàn toàn chiếm ngự. Mẹ thuộc trọn về Chúa, không còn giữ lại chút gì cho mình và đã hoàn toàn để cho Thiên Chúa điều hướng. Cha Tennyson, một nhà tu đức đã nói: “Khiêm nhường là căn rễ của mọi nhân đức, là cửa ngõ đưa dẫn đến sự hoàn thiện”. Thánh Phêrô trong thư thứ nhất của Ngài cũng đã dạy chúng ta: “Anh em hãy trang điểm mình bằng sự khiêm nhường, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo nhưng ban ơn cho ai sống khiêm nhường” (1P5,5).
Nhiều khi chúng ta nghĩ rằng, Thiên Chúa đã an bài và quyết định sẵn, nên tình thế không thể đổi thay. Qủa thật, từ đời đời Thiên Chúa đã tiên liệu, nhưng nơi Mẹ, sự đáp trả vẫn được thực hiện trong tự do hoàn toàn. Thiên Chúa luôn tôn trọng sự chọn lựatự do nơi mỗi người chúng ta. Thánh Augustinô đã từng cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con không cần có con, nhưng để cứu rỗi con, Chúa cần có con cộng tác” (Trích trong sách ‘Confessio’). Mẹ đã hoàn toàn tự nguyện cộng tác vào trong chương trình của Thiên Chúa để kế hoạch cứu chuộcđược thực hiện. Vì thế, lời đáp trả của Mẹ có một giá trị tuyệt đối, vì đã khai mở chân trờiơn cứu độ, khi Mẹ bắt đầu cưu mang Đấng Messia trong cung lòng của mình. Đây là điểm nhấn của sự khiêm tốn nơi Đức Maria để mỗi khi suy niệm kinh mân côi ngắm thứ nhấtmùa vui, chúng ta đi sâu vào ý nghĩa của mầu nhiệm này.
Thầy dạy đức tin.
Bà Elizabeth đã nói về Mẹ: “Phúc cho bà là người đã tin” (Lc 1,45). Mẹ đã tin như lời sứ thần nói, là không có gì mà Thiên Chúa không thể làm được (Lc1, 37). Khi Thần sứ cầu ngỏ,Đức Maria đã ngơ ngác hỏi lại với lý luận rất đơn sơ: “Việc đó xảy ra thế nào được vì tôi không biết đến việc vợ chồng”. Mẹ đặt câu hỏi vì Mẹ không phải là một ‘Siêu Thiên Chúa’,nhưng Mẹ cũng chỉ là một thụ tạo giống chúng ta. Tuy nhiên, Mẹ là thụ tạo toàn hảo vì đã đặt niềm tin trọn vẹn vào Thiên Chúa.
Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan 23 đã gọi Giáo hội là Mẹ và là Thầy(xem Tông thư Mater et Magistra). Những gì nói về Giáo hội cũng ám thị về Đức Maria. Mẹ đã trở nên Mẹ của Ngôi Hai và cũng là Thầy dạy đức tin cho chúng ta khi mẹ đón nhận Chúa Giêsu được tượng thai trong cung lòng mình. Lời thưa xin vâng trong biến cố truyền tin là khởi điểm của cuộc hành trình đức tin, và cuộc hành trình này đạt đến đỉnh điểm khi Mẹ đứng dưới chân Thập giá, hiệp thông trọn vẹn với Đức Giêsu trong hy tế cứu độ. Từ khuôn mẫu nội tâm này, mẹ đã trở nên Thầy dạy đức tin cho tất cả mọi tín hữu.
Học nơi Mẹ để sống hoàn thiện ơn gọi.
Sống sung mãn ơn gọi của mình là con đường duy nhất dẫn đưa chúng ta đến sự hoàn thiện. Phát nguồn từ Thiên Chúa, chúng ta được tạo thành và đi vào hiện hữu. Đồng thời, cũng chỉ duy nhất một mình Thiên Chúa là cùng đích tối hậu mà chúng ta phải vươn đạt tới. Để sống mầu nhiệm ơn gọi, trước hết chúng ta cần phải nhận ra tiếng Chúa đang mời gọi, tức là phải khám phá ra ước mơ của Thiên Chúa nơi mình. Ngài muốn tôi là ai, chứ không phải muốn tôi làm gì. Chúa đã muốn Đức Maria trở nên Mẹ Đấng Cứu thế, còn phương cách thực hiện như thế nào, Chúa sẽ sắp xếp, chứ không phải do Mẹ quyết định. Nơi chúng ta cũng vậy. Muốn khám phá và đi vào lộ trình ơn gọi, không có mẫu gương nào hoàn hảo cho bằng chính Đức Maria để chúng ta quy chiếu vào. Mẹ đã để cho Thiên Chúa hướng dẫn đời mình và Mẹ đã hoàn toàn quy thuận thánh ý Chúa. Trong bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay, tác giả thơ Do Thái cũng gợi lại hình ảnh Đức Giêsu khi vào trần gian: “Này con đây, này con đến để thi hành thánh ý của Cha”. Đức Giêsu đã khiêm tốn vâng lời cho đến chết và chết trên Thập giá (Phil 2, 8). Đó cũng là sự khiêm nhường mà Đức Maria đã sao chép lại để trở nên gương mẫu cho chúng ta.
Kết luận Thế gian như một quán trọ, và chúng ta là những lữ khách. Đường đời muôn nẻo mắc giăng với biết bao cạm bẫy. Chỉ khi nào chúng ta biết trải lòng mình ra, khiêm tốn tìm kiếm và thực hiện những gì Thiên Chúa muốn, chúng ta mới đi đúng đường và sống hoàn thiện ơn gọi của mình. Đứng trước mọi biến cố hay mọi chọn lựa, chúng ta hãy học lấy tư thế nội tâm giống như Mẹ để luôn thưa lên: “Tôi chỉ là tôi tớ của Thiên Chúa, xin hãy thực hiện nơi tôi những gì Chúa muốn”.
Hôm nay lễ Mẹ truyền tin. Lời Chúa dẫn đưa chúng ta đến một khung cảnh thật bình dị, ấm cúng nơi LễTruyềnTin 61
Hôm nay lễ Mẹ truyền tin. Lời Chúa dẫn đưa chúng ta đến một khung cảnh thật bình dị, ấm cúng nơi mái nhà nhỏ bé miền quê Nagiaret. Nơi đó đã diễn ra một cuộc đối thoại lịch sử giữa sứ thần Chúa và cô thôn nữ Maria. Sứ thần Chúa đã viếng thăm đột ngột. Đột ngột quá nên chẳng có gì chuẩn bị từ tinh thần đến vật chất đối với cô Maria. Sứ thần thì chủ động – Maria thì bối rối. Lời sứ thần nói như đã được chuẩn bị chu đáo. Còn Maria thì phân vân, đắn đo từng lời. Sứ thần Chúa đã mang đến cho cô một thông điệp thật bất ngờ và quá cao vời. Cao vời đến nỗi cô không dám nghĩ mình được phước đức như vậy? Vì có bao giờ cô nghĩ rằng mình sẽ là Mẹ Đấng Cứu Thế? Có bao giờ phận nữ nhi thường tình như cô lại được giao trọng trách cao quý như vậy? Cô đã không dám tin điều đó. Vì cô cảm thấy mình bất xứng và bất tài. Thế nhưng, sứ thần Chúa đã trấn an cô. Cô được chọn không vì tài năng hay sắc đẹp. Cô được chọn vì cô hằng sống đẹp lòng Thiên Chúa. Từ trời cao Chúa đã nhìn thấy tấm lòng cô. Một tấm lòng thanh khiết vẹn tuyền. Một tấm lòng bao dung độ lượng. Một tấm lòng bác ái yêu thương. Nhưng tất cả những phẩm chất đó vẫn không thể giúp cô hoàn thành chương trình của Thiên Chúa. Cô phân vân và do dự. Vì phận nữ nhi yếu đuối, vì việc phu thê cô chưa bước tới. Sứ thần Chúa đã trấn an cô: “Thánh Thần Chúa sẽ ngự xuống trên cô, và quyền năng Chúa sẽ rợp bóng trên cô”. Maria với tấm lòng quảng đại và niềm tín thác sắt son đã thưa vâng để chương trình Thiên Chúa được thực hiện.
Ngược lại, trước đó sáu tháng. Cuộc đối thoại giữa sứ thần và Giacaria cũng diễn ra trong âm thầm, ấm cúng. Sứ thần Chúa cũng đề nghị với Giacaria về việc Thiên Chúa sắp làm nơi ông. Nhưng ông đòi dấu lạ. Lòng tin của ông đòi bằng chứng. Sứ thần Chúa đã để ông câm lặng, như dấu chỉ về những điều mà Thiên Chúa sắp làm cho gia đình ông.
Có thể thấy hai cuộc truyền tin nhưng hai thái độ khác nhau. Maria thì tin vào quyền năng Chúa có thể thực hiện được mọi sự. Giacaria thì hoang mang lo lắng. Maria để Chúa thực hiện theo ý định của Chúa. Giacaria đòi dấu lạ để kiểm chứng. Chính hai thái độ đón nhận sứ điệp khác nhau nên kết quả cũng khác nhau. Maria thì hết lời ngợi khen Chúa. Giacaria thì câm nín. Nhưng dầu trong cách đón nhận nào, thì Thiên Chúa vẫn thực hiện chương trình của mình trong sự cộng tác của con người.
Điểm chung của Maria và Giacaria chính là đời sống hằng đẹp lòng Thiên Chúa. Dầu ở hoàn cảnh cô thôn nữ nhà quê hay một tư tế đền thờ. Các ngài đã làm tất cả chỉ để đẹp lòng Chúa. Các ngài đã sống hết mình với bổn phận bằng tình yêu nồng nàn với Chúa và tha nhân. Cuộc sống của các ngài luôn rạng ngời biết bao hy sinh làm nên nhân đức. Các ngài đã sống đẹp giữa dòng đời đến nỗi từ trời cao Thiên Chúa luôn hài lòng về các ngài.
Phải chăng đó cũng là cách sống chung của những người con cái Chúa? Là người ky-tô hữu chúng ta phải lan tỏa hương thơm bác ái cho anh em. Là người ky-tô hữu chúng ta phải sống sao cho người khác nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa bằng chính đời sống yêu thương và phục vụ. Khi chúng ta sống hết mình vì Chúa, Chúa sẽ làm tất cả những điều tốt đẹp xuống trên cuộc đời chúng ta, như chính Ngài đã nói: “Các con hãy lo tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, còn các sự khác Ngài sẽ ban cho sau”. Điều đó Chúa đã thực hiện trên cuộc đời của Maria, của Giacaria. Khi các ngài sống hết mình phụng thờ Chúa, thì Chúa lại làm biết bao điều cao siêu trên cuộc đời các ngài.
Nguyện xin Mẹ Maria là Đấng hằng đẹp lòng Thiên Chúa, xin cầu bầu cùng Chúa cho mỗi người chúng ta biết thể hiện nhân cách làm con cái Chúa qua đời sống bác ái yêu thương, qua đời sống thanh khiết vẹn toàn như Mẹ. Amen
Trong cuộc sống, chúng ta thấy nhiều ông chủ thường chọn cho mình một trợ lý để hỗ trợ mình trong LễTruyềnTin 62
Trong cuộc sống, chúng ta thấy nhiều ông chủ thường chọn cho mình một trợ lý để hỗ trợ mình trong công việc. Tiêu chuẩn để được trở thành trợ lý xứng đáng, đó chính là sự khiêm nhường. Nếu khiêm nhường thì sẽ dễ dàng đón nhận ý chủ và thi hành cách trung thực. Ngược lại, nếu tự kiêu tự đại, người trợ lý rất khó chấp nhận ý chủ và sẵn sàng đưa ý mình thay ý chủ. Như vậy, công việc của ông chủ sẽ bị người trợ lý phá hoại nếu hắn không tuân thủ mệnh lệnh trong sự khiêm tốn, và lẽ tất yếu, rất khó trung thành!
Hôm nay, Lễ Truyền Tin Thiên Chúa nhập thể, chúng ta thấy toát lên hai nhân vật chính: một là sứ thần, hai là Mẹ Maria. Sứ Thần là người truyền tải sứ điệp của Thiên Chúa cho Mẹ Maria, còn Mẹ Maria là người đón nhận sứ điệp của Thiên Chúa qua sứ thần.
1. Khiêm nhường để đón nhận Ý Chúa
Nội dung sứ điệp rất đặc biệt. Người đón nhận đóng vai trò rất quan trọng. Bởi vì khi đón nhận, ngay tức khắc, Mẹ Maria trở thành Mẹ Thiên Chúa khi sẵn sàng để Con Thiên Chúa là Đức Giêsu xuống thế và nhập thế nơi cung lòng mình.
Đây là một tin vừa gây shock, vừa hãnh diện nơi Mẹ. Shock là vì Mẹ đã khấn giữ mình đồng trinh, ấy vậy mà giờ Thiên Chúa lại thách đố Mẹ khi truyền cho mình phải mang thai, cưu mang và hạ sinh Con Thiên Chúa. Hãnh diện vì trong muôn ngàn phụ nữ, Thiên Chúa đã chọn mình. Tuy nhiên, dù shock hay hãnh diện, Mẹ đã khiêm tốn để xin vâng trong lòng mến.
Từ thái độ khiêm nhường để đón nhận lời xin vâng, kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa đã được thành hiện thực. Cũng kể từ khi lời xin vâng đầy xác tín và khiêm nhường ấy, mà: “Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta, và chúng ta đã nhìn thấy vinh quang của Người” (Ga 1, 14). Đức Maria vâng lời Chúa qua trung gian của thiên thần, đây là giây phút Mẹ biểu lộ nhân đức khiêm nhường tuyệt vời mà Mẹ đã được hấp thụ bởi cha mẹ của mình.
Vâng phục Chúa, qua lời thiên thần truyền, Mẹ nhận mình là một người tôi tớ. Rõ ràng trong sự vâng phục, qua tiếng xin vâng của Mẹ, Mẹ đã tin tưởng, phó thác cả đời sống cho Đấng đã tuyển chọn mình.
Cũng chính lời xin vâng của Mẹ như thế, mà từ nay, Mẹ trở thành Evà mới thay thế cho Evà cũ đã bất tuân. Từ nay mẹ trở thành Mẹ Thiên Chúa và Mẹ nhân loại.
Trở thành Mẹ Thiên Chúa, Mẹ đóng vai trò Nữ Hoàng và cũng là Nữ Tỳ của Thiên Chúa. Trở thành Mẹ nhân loại, Mẹ đóng vai trò Từ Mẫu và là Đấng Bầu Chữa cho con cái của mình. Nhưng dù trong vai trò nào, Mẹ luôn luôn chuyển cầu lòng thương xót của Thiên Chúa xuống cho nhân loại. Đây là niềm vui và tự hào nơi Mẹ. Chính trong tâm tình này mà Mẹ đã cất cao lời ngợi khen Đấng Giàu Lòng Xót Thương đã đoái nhìn đến thân phận hèn yếu nơi Mẹ. Vì thế, mẹ đã mượn lời của bài ca Manifiat mà trong lịch sử cứu độ, những người hèn mọn đã cất lên để ca ngợi kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện cho mình và dòng tộc mình..
Qua lời kinh này, đức khiêm nhường lại càng đậm nét hơn nơi Mẹ, vì thế, Mẹ đã dâng lại cho Chúa tất cả vinh dự mà Người ban tặng cho Mẹ.
2. Sứ điệp Ngày Lễ
Mỗi khi mừng lễ Thiên Chúa Nhập Thể, hay còn gọi là lễ Truyền Tin, Giáo Hội mong muốn con cái của mình khám phá ra sứ điệp nền tảng của ngày lễ:
Trước tiên, đó chính là noi gương Thiên Chúa. Người đã yêu thương thế gian và Người yêu đến cùng, bằng việc trao ban chính Con Một của mình để biểu lộ lòng xót thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Thứ đến, việc nhập thế của Đức Giêsu lộ hiện rõ đức khiêm nhường. Thật thế, Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã chấp nhận từ bỏ vinh quang, mang lấy kiếp phàm nhân, sống như người trần thế để cứu chuộc con người.
Cuối cùng, học nơi Mẹ Maria bài học vâng phục thẳm sâu. Sự vâng phục nơi Mẹ được khởi đi từ đức khiên nhường, nên khi được sứ thần giải thích, Mẹ đã sẵn sàng đón nhận trong sự tín thác.
Có thể nói: nhân đức khiêm nhường chính là điểm nổi bật nơi Mẹ Maria. Vì khiêm nhường, nên Mẹ Maria mới sẵn sàng vâng lời tuyệt đối để trở thành nữ tỳ của Thiên Chúa. Cũng chính nhờ nhân đức này mà Mẹ được thuộc trọn về Chúa là Đấng hằng yêu quý những tâm hồn khiêm tốn.
3. Sống sứ điệp ngày lễ
Ngày hôm nay, sống đức khiêm nhường quả là một thách đố đối với mọi thành phần. Chúng ta nói về đức khiêm nhường thì rất hay và “kêu”, nhưng khi đòi hỏi phải sống đặc tính của đức khiêm nhường thì lại là một “miếng xương” khó nuốt.
Thật vậy, nhiều người vẫn xin Chúa ban cho mình ơn khiêm nhường, nhưng khi Chúa gửi thử thách đến, nhất là những thử thách đụng đến lòng tự trọng, danh dự, thế là ta sẵn sàng nổi khùng và phàn nàn, trách móc nếu không muốn nói là khẳng khái khước từ!
Cũng vẫn có nhiều người sẵn sàng từ bỏ nhiều thứ như: tiền, tình, quyền… để đi theo Chúa, nhưng cái tôi thì không chấp nhận bỏ. Những người đó, họ đâu biết rằng: bỏ mọi sự, nhưng cái tôi không bỏ thì kể như chưa bỏ gì cả!
Mừng lễ Truyền Tin Thiên Chúa Nhập Thể, xin cho chúng ta biết noi gương Thiên Chúa để xót thương mọi người như Chúa đã xót thương đến nhân loại tội lỗi. Biết noi gương Đức Giêsu, Ngài là Thiên Chúa – người, chấp nhận tất cả để cho người khác được hạnh phục và được cứu độ. Noi gương Mẹ Maria, sẵn sàng khiêm nhường và phó thác tuyệt đối nơi Thiên Chúa, để thánh ý Thiên Chúa được nên trọn.
Chúng ta cần hiểu rằng: đức khiêm nhường là nhân đức nền tảng, từ đó mới có thể xây dựng lâu đài các nhân đức khác. Khi có được nhân đức này, chúng ta mới hy vọng thuộc về Chúa cách trọn vẹn nhờ loại bỏ được những thói xấu như: ích kỷ, kiêu ngạo, tự phụ…
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con. Chúng con tạ ơn Chúa đã mạc khải cho chúng con về tình thương cao vời của Thiên Chúa ngang qua biến cố Nhập Thể của Đức Giêsu. Xin Chúa ban cho chúng con học được bài học khiêm nhường thẳm sâu nơi Mẹ Maria. Ước gì qua sự khiêm nhường của mỗi người chúng con, kế hoạch và thánh ý của Thiên Chúa được thực hiện trong cuộc đời mỗi chúng con. Amen.
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội hân hoan mừng trọng thể lễ Truyền Tin Thiên Chúa nhập LễTruyềnTin 63
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội hân hoan mừng trọng thể lễ Truyền Tin Thiên Chúa nhập thể. Nói cách khác, hôm nay, chúng ta long trọng mừng biến cố Thiên Chúa chính thức thực hiện lời hứa cứu độ với nhân loại khi trao ban Con của Người xuống thế và nhập thể trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria.
Qua biến cố vĩ đại này, tinh thần phụng vụ hướng chúng ta về hai mẫu gương vâng phục của Đức Giêsu và Mẹ Maria, đồng thời cũng mời gọi mỗi người chúng ta noi gương Đức Giêsu và Mẹ Maria để sống sự vâng phục trong cuộc sống đạo hôm nay.
1. Vâng phục để cứu độ
Khi nói đến sự vâng phục, chúng ta nhớ ngay đến đoạn Kinh Thánh mà thánh Phaolô đã viết trong thư gửi tín hữu Philípphê, ngài viết: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” ( Pl 2, 6-7).
Sự vâng phục này là khởi đầu của nguồn ơn cứu độ, vì nếu Đức Giêsu không vâng phục Thiên Chúa để trở thành Đấng Emmanuen, nhằm cứu chuộc nhân loại tội lỗi, thì chắc chắn Thiên Chúa sẽ phải chọn con đường khác. Tuy nhiên, con đường tự hủy mà Đức Giêsu đã chọn là con đường tuyệt vời nhất, bởi vì nó diễn tả trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa. Điều này đã được thánh Gioan nhắc đến, ngài nói: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).
Sự vâng lời của Đức Giêsu hoàn toàn được diễn ra trong tự do và tự nguyện, vì thế, Ngài đã nói: “Lạy Chúa, này con xin đến để thi hành thánh ý Chúa” Tv 39, 8a – 9a) ; hay: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34 ). Chính nhờ sự vâng phục tuyệt đối trong tự do này, mà Đức Giêsu trở thành nguồn ơn cứu độ đến muôn ngàn đời. Tại sao vậy? Thưa! Bởi vì Ngài đã vâng lời và vâng lời cho đến chết, chết trên cây thập tự và đã chấp nhận đổ máu mình ra nhằm cứu chuộc con người.
Chính vì sự vâng phục này, mà nhân loại đón nhận được ơn cứu chuộc của Thiên Chúa ngang qua Đức Giêsu, Đấng vừa là Thiên Chúa thật, vừa là người thật.
2. Vâng phục để đồng công cứu chuộc
Khi nói đến sự vâng phục của Đức Giêsu, chúng ta không thể không nói đến sự vâng phục của Đức Maria. Mặc dù phụng vụ canh tân ngày nay không còn tập trung nơi Đức Maria như trước kia vào thời Trung Cổ. Tuy nhiên, khi nói đến ơn cứu chuộc của Đức Giêsu nhờ sự vâng phục mà có, thì Giáo Hội cũng luôn đề cao sự cộng tác của Mẹ Maria trong công cuộc ấy cũng bằng chính sự vâng phục nơi Mẹ.
Sự vâng phục của Mẹ Maria được đánh giá rất cao trọng, bởi vì khi Mẹ vâng phục thánh ý Thiên Chúa, kế hoạch riêng tư của Mẹ hoàn toàn sang trang và chuyển hướng khác, để nhường cho chương trình và ý định của Thiên Chúa trên toàn thể nhân loại.
Nói như thế, là vì Đức Mẹ ngay từ khi còn nhỏ đã khấn giữ mình đồng trinh để thuộc trọn về Chúa và phụng sự Người. Tuy nhiên, Thiên Chúa lại có chương trình riêng cho người thiếu nữ Sion này, đó là muốn Mẹ nhận lời và cưu mang Con Thiên Chúa làm người để cứu chuộc nhân loại.
Biết được ý định ngàn đời của Thiên Chúa, nên sau khi đã nghe lời giải thích của sứ thần: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà,và quyền năng Đấng tối cao sẽ rợp bóng trên bà,vì thế,Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35 ), Mẹ Maria đã mau mắn trong tự do để thưa lên với Thiên Chúa ngang qua sứ thần: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa,xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38 ). Nhờ hai tiếng xin vâng của Mẹ, nhân loại tràn đầy niềm hân hoan, vì từ nay, Con Thiên Chúa đã đến và ở với loài người.
Khi chọn Mẹ Maria, người thiếu nữ Sion để cộng tác với Thiên Chúa trong công trình cứu chuộc, Thiên Chúa đã khai mở một kỷ nguyên mới, thiết lập một dân tộc mới thay thế cho dân cũ đã bị cái chết bao phủ do tội bất tuân của Evà. Từ nay, muôn đời sẽ khen Mẹ diễm phúc, vì từ cung lòng Mẹ đã cưu mang Đấng là Nguồn Ơn Cứu Độ, Nguồn Mạch Sự Sống.
Cũng chính lời xin vâng này, mà cuộc đời của Mẹ đã kết hiệp mật thiết với Đức Giêsu trọn vẹn. Mẹ đã trở thành Đấng đồng công cứu chuộc với Con Chí Ái của mình.
3. Người Kitô hữu sống tinh thần vâng phục
Sứ điệp Lời Chúa và tinh thần phụng vụ ngày lễ hôm nay mời gọi chúng ta hướng về Đức Giêsu và Mẹ Maria như là mẫu gương tuyệt hảo cho sự vâng phục trong đời sống đức tin hằng ngày của mỗi người.
Nếu trước kia, nơi Đức Giêsu, Ngài đã tự nguyện trút bỏ vinh quang để vâng phục Thiên Chúa Cha qua việc đến trần gian trong thân phận là một con người nhằm cứu chuộc nhân loại; và nếu Mẹ Maria khi vâng lời Thiên Chúa và sẵn sàng để cho thánh ý của Người được thực hiện, thì đến lượt chúng ta, nếu muốn trở nên người môn đệ đích thực của Chúa trong lòng Giáo Hội hôm nay, thiết nghĩ con đường tự khiêm tự hạ và vâng phục trong lòng mến của Đức Giêsu và Mẹ Maria chính là lựa chọn của chúng ta.
Tuy nhiên, với sự yếu đuối của con người và với những trào lưu hiện sinh của nhân loại ngày nay, chúng ta rất khó có thể vâng phục, nhất là sự vâng phục của đức tin!
Nhiều khi chúng ta biện hộ cho việc bất tuân của mình bằng những chuyện như: vâng phục là mất tự do; vâng phục làm cho con người bị lệ thuộc. Hiểu theo nghĩa tâm lý hay triết học thì thật đúng như vậy. Tuy nhiên, hiểu theo nghĩa đức tin dưới ánh sang Lời Chúa thì không phải vậy, bởi vì: “Tự do đạt tới mức hoàn hảo khi quy hướng về Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc của chúng ta. Chỉ có tự do đích thực khi con người phục vụ cho điều thiện và công bằng. Khi bất tuân ý Chúa và chọn điều ác, con người lạm dụng tự do và trở nên “nô lệ tội lỗi”(SGLHTCG. Số 1733).
Thực tế cho thấy, những ai trung thành với Chúa, người đó đạt tới đích trong sự viên mãn. Những ai biết gắn bó cuộc đời của mình với Thiên Chúa trong sự vâng phục, cuộc sống của người ấy vui tươi bình an và hạnh phúc.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, chúng con tạ ơn Cha đã ban cho chúng con chính người Con Một duy nhất của Cha đến trần gian qua cung lòng Mẹ Maria, để chúng con được hưởng dồi dào ơn cứu chuộc của Đấng vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Xin Cha ban cho chúng con biết noi gương Con Một Cha và Đức Trinh Nữ Maria để sẵn sàng hiến dâng cuộc đời của mình trong sự vâng phục nhằm cộng tác vào công trình cứu chuộc mà Thiên Chúa đang thực hiện trong thế giới hôm nay. Amen.
Ðọc Tam Quốc Chí, ai cũng mến mộ Trương Lương, một trong những vị tướng tài ba của Lưu Bang. LễTruyềnTin 64
Ðọc Tam Quốc Chí, ai cũng mến mộ Trương Lương, một trong những vị tướng tài ba của Lưu Bang. Thuở nhỏ, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ sông. Thấy một ông lão ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu. Ông lão ngủ say làm rơi một chiếc dép xuống sông. Thấy Trương Lương, ông sai bảo: "Thằng bé, nhặt chiếc dép cho ta". Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép kính cẩn đưa lại cho cụ già. Cụ cầm lấy. không một lời cám ơn. Loay hoay xỏ mãi không vào, cụ đánh rơi chiếc dép một lần nữa. Cụ lại quát bảo Trương Lương: "Thằng bé, xuống nhặt dép cho ta". Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba cũng thế. Thấy vậy, ông lão khen: "Thằng bé này dạy được đây". Thì ra cụ là một cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận Trương Lương làm học trò, truyền dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.
Trương Lương gặp được thầy giỏi một phần nhờ cơ may. Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục vụ của ông. Ðọc truyện Trương Lương, tôi lại nhớ đến Ðức Mẹ. Thời Ðức Mẹ, ai cũng mong chờ Ðấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Ðức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Ðức Mẹ, đó là do ơn lành nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Ðức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.
Ðức Mẹ khiêm nhường trong đời sống bình dị. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo. Sống trong một thôn xóm nghèo hèn vô danh. Ngày ngày chu toàn những công việc tầm thường như nấu nướng, may vá, dọn dẹp nhà cửa. Ðức Mẹ khiêm nhường trong thái độ ứng xử. Trước mặt thiên sứ Gáp-ri-en, Ðức Mẹ xưng mình là nữ tỳ của Thiên Chúa, dù thiên sứ đã loan báo Mẹ sẽ là Mẹ Thiên Chúa. Sau đó, Ðức Mẹ đến thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét. Vừa nghe Ðức Mẹ chào, bà Ê-li-sa-bét đã ngợi khen Ðức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Ðáp lại, Ðức Mẹ chỉ nhận mình là phận hèn bé nhỏ. Nếu có được ơn gì là do Thiên Chúa thương ban.
Vì khiêm nhường nên Ðức Mẹ hoàn toàn vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa. Ðức Mẹ đã có chương trình riêng. Chương trình đó là sống độc thân trinh khiết. Ðó là một chương trình tốt đẹp. Nhưng khi Thiên Chúa ngỏ ý muốn Ðức Mẹ theo chương trình của Chúa, Ðức Mẹ đã mau mắn từ bỏ chương trình riêng tư để đi vào chương trình của Thiên Chúa. Ðức Mẹ nhận biết rằng, chương trình của Chúa là vô cùng tốt đẹp, còn chương trình riêng chỉ là bất toàn. Thánh Ý Thiên Chúa là tuyệt đối, còn ý riêng chỉ là khiếm khuyết.
Vì khiêm nhường nên Ðức Mẹ phó thác trọn vẹn vận mạng trong tay Chúa. Khi thưa "Xin vâng", Ðức Mẹ đã mạnh dạn vượt qua những toan tính dè dặt của người đời để nép mình vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Nếu ta hiểu luật lệ khắc nghiệt của người Do-thái đối với phụ nữ không chồng mà có con, ta sẽ thấy Ðức Mẹ liều lĩnh biết bao, và sự phó thác của Mẹ vào Thiên Chúa mãnh liệt đến thế nào.
Vì đã thưa "xin vâng", nên Ðức Mẹ chấp nhận tất cả, dù chưa hiểu hết Thánh Ý Thiên Chúa. Tại sao Con Thiên Chúa phải sinh ra trong cảnh thiếu thốn nghèo nàn? Tại sao Vua trời đất lại phải chạy trốn như một kẻ yếu hèn? Tại sao Ðấng Cứu Thế làm nhiều phép lạ đến thế để cứu nhân độ thế lại bị người ta chống đối, hành hạ, giết chết nhục nhã như một tội nhân? Hoàn toàn không hiểu, nhưng Ðức Mẹ vẫn khiêm nhường chấp nhận và tin tưởng phó thác. Vì thế Ðức Mẹ vẫn kiên trì theo Chúa Giê-su trên khắp mọi nẻo đường, cho đến dưới chân Thập Giá.
Thái độ khiêm tốn chấp nhận của Ðức Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương. Nước chảy xuống chỗ trũng. Ân huệ Thiên Chúa đổ xuống tâm hồn khiêm nhường. Càng khiêm nhường càng nhận được nhiều ân phúc. Ðức Mẹ có một tâm hồn khiêm nhường thẳm sâu, nên Ðức Mẹ đã nhận được đầy tràn ân phúc của Thiên Chúa, nhận được chính Ngôi Hai Thiên Chúa, là nguồn mạch mọi ân phúc.
Mùa chay là Mùa đặc biệt nhắc nhở và giúp chúng ta "trở lại" đúng địa vị của con người được tạo dựng theo hoạ hình của Thiên Chúa, đúng địa vị trong mọi tương hệ với Thiên Chúa là Cha, với mọi người là anh chị em, với vũ trụ tạo thành là người quản lý. Ta mong được đón rước Chúa vào tâm hồn. Ta mong được ân huệ dư đầy của Thiên Chúa. Ta hãy noi gương Ðức Mẹ, biết khiêm nhường nhận mình tội lỗi yếu hèn, biết khiêm nhường từ bỏ ý riêng để thi hành ý Chúa, biết khiêm nhường vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, biết khiêm nhường phó thác vận mệnh trong tay Chúa dù không hiểu hết những ý định mầu nhiệm của Người. Chỉ khi khiêm nhường tan biến thành hư không, ta mới được Chúa thương đổ đầy tràn ân phúc vào tâm hồn.
Lạy Ðức Mẹ Ma-ri-a, xin dạy con biết sống khiêm nhường để con đi vào chương trình của Thiên Chúa.
Jacques Duquesne là một văn hào hiện đại của nước Pháp có kể rằng: Trong một cuộc tranh luận ở thư LễTruyềnTin 65
Jacques Duquesne là một văn hào hiện đại của nước Pháp có kể rằng: Trong một cuộc tranh luận ở thư viện ngoại ô Paris, với thành phần tham dự đủ mọi loại người, thuộc nhiều tầng lớp xã hội và tuổi tác khác nhau, đề tài được bàn đến là Ðức Giê-su. Ðang khi mọi người tranh luận, một thiếu niên Ả-rập giơ tay nói với Duquesne: thưa ông, một con người không thể là Thiên Chúa, một Thiên Chúa không thể là người.
Quả thật đây là vấn đề được đặt ra từ lâu. Không chỉ người thiếu niên Hồi Giáo đặt ra mà suốt hơn 20 thế kỷ qua nhân loại vẫn luôn thao thức. Tin vào một Thiên Chúa thần linh thì hầu hết các tôn giáo đều làm như vậy. Nhưng tin vào một Thiên Chúa làm người, chấp nhận thân phận con người, không loại trừ bất cứ điều gì chỉ trừ tội lỗi là một điều vượt quá lý trí nhân loại. Làm sao một Thiên Chúa lại có thể làm những chuyện quá tầm thường, thậm chí không xứng đáng với bản tính thần linh của Ngài như là được cưu mang, được sinh hạ, phải ăn uống ngũ nghỉ, mệt mỏi, vui buồn?
Vậy mà Giáo Hội Ki-tô Giáo hơn 20 thế kỷ qua vẫn kiên trì bảo vệ niềm tin vững chắc của mình vào một Ðức Giê-su vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Trong Phụng Vụ Lễ Giáng Sinh khi đọc đến câu Tin Mừng Ga 1,14: "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta" thì mọi người đều quì gối. Trong Lễ Truyền Tin, lúc đọc Kinh Tin Kính, mọi người đều quì gối khi đọc câu "Người đã nhập thể trong lòng Trinh nữ Ma-ri-a và đã làm người"
Ðức Giê-su, Thiên Chúa thật, người thật, là một mầu nhiệm thâm sâu. Ðức Hồng Y Henri De Lubac bảo rằng: Mầu nhiệm Nhập thể là nghịch lý của mọi nghịch lý. Văn hào Tertuliano đã xác tín: Tôi tin vì nó phi lý. Thiên Chúa làm người, điều phi lý đối với lý trí nhưng ông đã tin vì Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa làm người là một nghịch lý, một điều không thể tin được, bởi lẽ, đã là Thiên Chúa thì phải là Ðấng cao cả, tuyệt đối, hằng hữu, bất tử. Ðối với triết lý Hy-lạp, các thần linh thuộc về một thế giới siêu phàm hoàn toàn khác biệt với thế giới phàm nhân. Các thần linh đều bất di bất dịch, bất động vô cảm đối với thế giới vật chất. Còn vật chất là một thực tại xấu xa. Thân xác con người là tù ngục nhốt kín linh hồn và linh hồn tìm cách thoát khỏi tù ngục thân xác để trở về thượng giới. Do đó họ không thể tin nổi một Thiên Chúa yêu thương con người tới mức làm người, sống với con người cách đơn sơ bé nhỏ. Vậy mà niềm tin Ki-tô Giáo lại khẳng định: Ðiều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận được, dân ngoại cho là điên rồ (1Cr 1,23) thì lại là Niềm Tin căn bản nhất trong giáo lý Giáo Hội: Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta.
Giáo Hội chọn đọc đoạn Tin Mừng Lc 1, 26-38: Truyền tin cho Ðức Ma-ri-a để nói cho chúng ta về việc nhập thể lạ lùng của Con Thiên Chúa trong cung lòng một trinh nữ. Một trinh nữ thụ thai, sinh con, đồng trinh trọn đời, một giáo lý độc đáo nhất chỉ có trong Ki-tô Giáo. Ðoạn Tin Mừng này được đọc trong các Lễ Ðức Ma-ri-a, nói lên sự thánh hiến tuyển chọn của Thiên Chúa đối với một thụ tạo được đặc ân vĩ đại nhất. Trang Tin Mừng được công bố trong ngày hôm nay muốn hướng chúng ta đến Mầu Nhiệm Nhập Thể Làm Người của Con Thiên Chúa.
Trong cuộc đối thoại giữa sứ thần Gáp-ri-en và Ðức Ma-ri-a, chính sứ thần đã nói: "Quyền năng Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm lên bà, vì thế con bà sinh ra sẽ là Ðấng Thánh, là Con Thiên Chúa". Từ ngữ quan trọng ở đây là "bao trùm lên". Trong Cựu Ước, sách Xuất Hành kể lại: Một đám mây mầu nhiệm bao trùm lên Lều Tạm, nơi dân Do-thái để Hòm Bia Giao Ước; Một giao ước được Thiên Chúa ký kết với Mô-sê trên núi Xi-nai. Hòm Bia, nơi chứa đựng Thập Giới; Xh 40, 34 nói rằng: Bao lâu đám mây còn bao phủ Lều Tạm thì Lều Tạm có Thiên Chúa hiện diện.
Thánh Lu-ca dùng từ "bao trùm lên" không phải là ngẫu nhiên mà là có ý nghĩa thâm sâu. Lu-ca so sánh thân thể Ðức Ma-ri-a với Lều Tạm, nơi đặt Hòm Bia Giao Ước của Thiên Chúa. Cung lòng Ðức Ma-ri-a, nơi Ðức Giê-su cư ngụ; Hòm Bia Giao Ước, nơi đặt hai phiến đá ghi 10 Giới Răn của Thiên Chúa, trung tâm Cựu Ước. Vậy khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Ðức Ma-ri-a thì có Thiên Chúa hiện diện trong Ngài. Nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong cung lòng Ðức Ma-ri-a thì vô cùng phong phú hơn làsự hiện của Thiên Chúa trong Nhà Tạm, vì nơi đó Ðức Giê-su bằng xương bằng thịt hiện diện. Quyền năng Chúa Thánh Thần bao phủ và máu thịt Ðức Ma-ri-a tạo nên hình hài Ðức Giê-su. Ðức Giê-su mặc lấy thân xác con người nhờ máu thịt Ðức Ma-ri-a và Người vẫn là Thiên Chúa được Chúa Cha sinh ra từ muôn thuở. Cả hai bài đọc giúp chúng ta hiểu thêm về mầu nhiệm ấy.
Qua lời "Xin Vâng" của Ðức Ma-ri-a, Thiên Chúa đã nhập thể làm người. Nói như Thư Do thái, Ngài đã muốn nên giống anh em mình về mọi phương diện, phải trải qua thử thách và đau khổ, phải nếm sự chết. Ðau thương, thử thách, gian khổ, chết, đó làthân phận con người. Hữu sinh hữu tử. Ðức Giê-su đã chấp nhận sinh làm con một người phụ nữ và sống dưới lề luật như Lời Thánh Phao-lô trong Thư Gl 4,4 thì Người cũng chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, chịu đóng đinh trên cây thập giá và táng xác như chúng ta đã tuyên xưng trong kinh tin kính. Ðó là niềm tin vững chắc của người Ki-tô hữu hơn 20 thế kỷ qua.
Ðức Giê-su đã sinh ra và đã đi vào lịch sử. Thiên Chúa của chúng ta không phải là vị Chúa Tể xa cách uy nghi ngự chín tầng mây, mà qua, Ðức Giê-su, Người đã trở thành Em-ma-nu-en, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Người đến không phải để được kẻ hầu người hạ mà là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn dân. Chính Người đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ và tuyên bố với các học trò mình "Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ vì tôi tớ không biết việc chủ làm, nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu vì tất cả những gì Thầy nghe biết nơi Cha Thầy thì Thầy sẽ cho anh em biết" (Ga 15, 15).
Con Thiên Chúa làm người cũng lớn lên như hàng tỉ con người khác, cũng cần chín tháng mười ngày trong lòng mẹ để khóc chào đời mong manh yếu đuối. Người cũng đã đi hết hành trình cuộc đời với tất cả buốn vui, âu lo trăn trở. Như thế, Con Thiên Chúa làm người dạy cho mỗi người chúng ta yêu mến cuộc đời, yêu mảnh đời bé nhỏ âm thầm đơn sơ của mình. Cuộc đời Ðức Giê-su không chỉ toàn màu hồng. Ngài đã phải long đong với phận nghèo, cũng ê chề vì thất bại chống đối khinh khi, bị tước đoạt đến tột cùng trên thập giá. Nhưng Ngài vững tin đến cùng vào tình yêu Chúa Cha ngay giữa lúc tối tăm nhất.
Con Thiên Chúa làm người dạy chúng ta yêu mến mọi người. Từ khi Ðức Giê-su mang lấy khuôn mặt con người thì mọi người đều mang khuôn mặt Thiên Chúa. Mọi người đều là anh em trong Ðức Giê-su. Yêu cuộc đời và yêu mọi người là thắp lên ngọn lửa Ðức Tin để sưởi ấm cho xã hội đang mất dần niềm tin vào Thiên Chúa vào con người.
Chính Ðức Thánh Cha Gio-an Phao-lô 2 trong Thông Ðiệp Ðấng Cứu Chuộc Con Người đã mạnh mẽ nói rằng: Con người là con đường của Giáo Hội. Con người là đối tượng phục vụ của Giáo Hội.
Xin Mẹ Maria giúp chúng con yêu mến con người và yêu mến cuộc đời.
Trước việc sinh con mà vẫn còn đồng trinh, Maria thắc mắc và hỏi lại sứ thần:”Việc ấy xẩy ra cách LễTruyềnTin 66
Trước việc sinh con mà vẫn còn đồng trinh, Maria thắc mắc và hỏi lại sứ thần:”Việc ấy xẩy ra cách nào được, vì…”? Sứ thần liền đáp:”Đối với Thiên Chúa, không có gì là không có thể” (Lc 1,37).
Câu trả lời của sứ thần nói lên quyền năng của Thiên Chúa, Ngài sáng tạo muôn vật từ hư vô, quyền năng Ngài không giới hạn. Quyền năng của Thiên Chúa cũng đồng nghĩa với yêu thương, nên trong lịch sử cứu độ, Ngài luôn đi bước trước trong sáng kiến yêu thương con người. Chỉ với bài Tin mừng hôm nay thôi cũng đủ thấy sáng kiến táo bạo của Ngài.
Thiên Chúa lại muốn trở thành một con người, đó là sang kiến táo bạo thứ nhất. Hơn thế nữa, không muốn đột nhiên xuất hiện cách phi thường mà lại muốn làm người con bình thường sinh ra bởi một người nữ như bao nhiêu người khác. Đây chẳng phải là sáng kiến táo bạo thứ hai sao ?
Táo bạo và kỳ diệu hơn nữa đã làm phát sinh sáng kiến thứ ba thật tuyệt vời và mầu nhiệm, đó là: người phụ nữ ấy lại đồng trinh trước và sau khi sinh con. Thực ra, không có gì Thiên Chúa không làm được. Một Vị Thiên Chúa mà còn làm con người được, thì chuyện bảo vệ sự đdồng trinh cho Đức Maria trước và sau khi sinh thì có nghĩa lý gì đâu ?
Cũng vậy, nếu sau khi phục sinh, Chúa Giêsu hiện ra cho các Tông đồ trong lúc cửa vẫn đóng kín, thì việc Ngài hạ sinh mà tấm lòng băng trinh của Mẹ Maria vẫn còn nguyên vẹn lại không được chấp nhận sao ? Quả thật, không có gì Thiên Chúa không làm được. Điều đó mời gọi chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng Thiên Chúa.
Thiên Chúa cũng có thể có thể làm nơi mỗi người chúng ta những việc trọng đại, miễn là chúng ta sẵn sàng để Ngài hoạt động nơi chúng ta.
Thiên Chúa cần con người cộng tác
Nhưng có một điều mà “Thiên Chúa không làm được”, đó là “Thiên Chúa không thể cứu độ con người nếu con người không cộng tác với Ngài”. Lời quả quyết này có vẻ nghịch thường, nhưng nội dung bàiTin mừng hôm nay là như thế. Thiên Chúa không làm được không phải vì quyền năng Ngài bị giới hạn, nhưng vì yêu thương, tôn trọng tự do của con người nên Ngài không làm được những điều mà con người không cộng tác.
Mặc dù Thiên Chúa đã ban cho con người sự tự do, nhưng Thiên Chúa vẫn có thể ép buộc Maria phải làm theo ý định của Ngài vì Ngài có khả năng làm như vậy. Tuy nhiên, Thiên Chúa không muốn. Điều Ngài muốn là thấy Maria tự nguyện đáp lại ý muốn của Ngài vì Thiên Chúa yêu thích những ai cho một cách vui lòng. Ôi ! Thiên Chúa nhân từ dườg nào ! Một Thiên Chúa quyền năng tuyệt đối mà lại phải đi hỏi ý kiến của một thiếu nữ nhỏ bé, quê mùa, và lo lắng chờ đợi trước quyết định của cô, dù nó là một đặc ân cao cả, mà nếu chấp nhận thì sẽ có lợi cho toàn thể nhân loại và riêng cho thiếu nữ nữa.
Truyện: Chiếc đồng hồ báo thức
Một thanh niên kia có thói quen ngủ rất say, luôn cần có mẹ gọi mới thức dậy được. Sau khi tốt nghiệp, anh đi làm một chỗ ở xa nhà. Mẹ anh mua cho anh một chiếc đồng hồ báo thức. Ngày đầu tiên anh quên vặn đồng hồ trước khi ngủ nên đến sở làm trễ. Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng hồ, nhưng sáng sớm khi nó reo thì anh đưa tay tắt bỏ, nên lại đi làm trễ. Và anh bị đuổi việc. Khi anh trở về gia đình, mẹ anh hỏi về chiếc đồng hồ. Anh đáp:
– Chiếc đồng hố ấy hoàn toàn vô dụng đối với con. – Nó vô dụng là vì con không dùng nó. Mẹ anh đáp.
Qua câu truyện trên, chúng ta thấy rằng trong cuộc đời chúng ta, Thiên Chúa ban cho chúng ta muôn vàn ơn, nếu chúng ta không biết sử dụng thì nó cũng trở nên vô dụng đối với chúng ta.
Lời Fiat của Đức Maria
Bấy giờ bà Maria nói:”Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Thiên Chúa, xin cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.
Bình luận về câu trả lời trên, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong bài giảng tại Vương cung Thánh đường Mexicô City đã nói:”Virgo fidelis: Đức Nữ trung tín thật thà. Đức trung tín của của Maria nghĩa là gì ? Trung tín bao gồm chiều kích gì ? – Chiều kích thứ nhất là tìm kiếm. Trước hết, Maria tỏ ra trung tín khi Ngài bắt đầu tìm kiếm ý nghĩa sâu xa của chương trình Thiên Chúa nơi mình và cho thế giới. Quomodo fiet ? Sự việc xẩy ra như thế nào ? Ngài hỏi sứ thần Truyên Tin ( … ).
– Chiều kích thứ hai của trung tín gọi là tiếp nhận, chấp nhận. Lời Quomodo fiet ? trên môi Maria chuyển thành một lời fiat: Xin cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền, tôi sẵn sàng, tôi chấp nhận. Đây là giờ phút hệ trọng của đức trung tín, giờ phút mà con người cảm thấy mình sẽ không bao giờ hiểu thấu được từ “như thế nào”; trong kế hoạch của Thiên Chúa có các khu vực mang tính nhiệm mầu nhiều hơn là tính sáng sủa rõ ràng; cho dù có ra sức phấn đấu đến đâu chăng nữa thì cũng chẳng tài nào lĩnh hội đầy đủ sự việc ( … )
– Chiều kích thứ ba của đức trung tín là sự kiên định, kiên trì sống theo nhừng điều mình tin tưởng, sẵn sàng điều chỉnh cuộc đời mình cho phù hợp với mục tiêu mình theo đuổi. Sẵn sàng chấp nhận bị hiểu lầm, bắt bớ còn hơn là ngôn hành bất nhất, tin một đàng mà làm thì một nẻo, điều này gọi là tính kiên định.
– Tuy nhiên mọi sự trung tín đều phải trải qua cuộc thử thách khốc liệt nhất: sự thử thách của thời gian. Do đó, chiều kích thứ tư là tính thủy chung như nhất. Kiên trì ngày một ngày hai thì dễ. Kiên trì trong suốt cuộc đời thì khó và đây mới là điều quan trong. Kiên trì đang khi hào hứng, hồ hởi phấn khởi thì dễ, còn vẫn giữ được sự kiên trì trong cơn thử thách khốn quẫn mới khó. Và chỉ có sự kiên trì kéo dài cho đến suốt đời mới là tín trung.. Lời thưa “Fiat”: xin vâng của Đức Maria trong buổi truyền tin trở nên viên mãn trong tiếng fiat xin vâng âm thầm mà Mẹ lặp lại dưới chân Thập giá (Đức Gioan Phaolô II, Bài giảng tại Vương cung Thánh đường Mexico City, 26 tháng 01 năm 1979).
Đức Maria đã tận hiến làm tôi tớ Chúa, phục vụ cho thân thế và sự nghiệp của Con Ngài, và nhờ ân sủng của Thiên Chúa toàn năng, phục vụ mầu nhiệm cứu chuộc dưới quyền và cùng với Con Ngài. Bởi vậy, các thánh Giáo phụ đã nghĩ rất đúng rằng: Thiên Chúa đã không thu dụng Đức Maria một cách thụ động, nhưng đã để ngài tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại.
Truyện: Tờ giấy và cây viết
Nhắc đến ông Leonard de Vinci, chúng ta thường nghĩ ngay đến những phát minh khoa học và những bức họa tuyệt diệu của ông. Nhưng để giải trí, ông còn sưu tầm những truyện cổ tích, hay đặt ra những truyện mới, như câu truyện sau đây về cuộc đối đáp tưởng tượng của tờ giấy trắng và cây viết.
Có tờ giấy trắng nọ nằm ù lì trên bàn viết với bao đồng bạn khác từ nhiều năm tháng qua. Nhưng rồi một hôm nó được chọn đem ra trước bàn chịu cảnh cây viết với mực đen vẽ lên nó không biết bao nhiêu là những dấu hiệu mà nó không hiểu gì cả. Tờ giấy phàn nàn với cây viết như sau: “Tại sao anh lại làm thế, anh vẽ trên mình tôi những dấu làm tôi mất đi sự trắng sạch ban đầu, anh làm nhục tôi thế này sao ? Anh làm hư cả cuộc đời tôi rồi”.
Nhưng cây viết trả lời:”Không, anh giấy hiểu lầm tôi rồi, tôi không làm dơ anh đâu, tôi vẽ lên anh những dấu hiệu, những dòng chữ và kể từ nay, anh không còn là tờ giấy vô dụng nữa, mà mang trên mình một sứ điệp, anh trở thành kẻ cộng tác với con người lưu giữ những tư tưởng cao siêu của con ngưởi, và vì thế sẽ được con người nâng niu bảo vệ; anh được sống mãi để trợ giúp con người”.
Tờ giấy chưa kịp trả lời cây viết, thì nó bỗng nhìn thấy một bàn tay con người quơ lấy những tờ giấy trắng đồng bạn của nó mà nay đã trở thành vàng đục, già cỗi và đầy bụi bặm mà quăng vào ngọn lửa bên cạnh. Bấy giờ tờ giấy trắng đầy chữ viết mới hiểu được hành động vừa rồi của cây viết và lấy làm sung sương vì được trở thành kẻ cộng tác và lưu giữ kho tàng trí khôn của con người.
Cuộc đời mỗi người chúng ta có thể được so sánh như tờ giấy trắng kia, nếu không chấp nhận để cho bàn tay Thiên Chúa viết vào đó những dòng chữ, những chương trình hành động, thì sẽ không được hạnh phúc trở thành người cộng tác với Thiên Chúa, trở thành kẻ lưu truyền sự khôn ngoan của Thiên Chúa, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tờ giấy không hiểu được những hành động của cây viết vẽ những dấu lạ trên mình nó, con người cũng chắc chắn không thể nào hiểu được ý định của Thiên Chúa là ý định khôn ngoan, hợp lý nhất để đưa con người đến hnạh phúc.
Thật vậy, Đức Maria đã tự nguyện trở thành tôi tớ của Thiên Chúa để cộng tác vào chương trình cứu chuộc nhân loại. Ngài đã trở nên một dụng cụ tuyệt vời của Thiên Chúa, hoàn toàn đặt mình dưới quyền sử dụng của Thiên Chúa như như một tờ giấy trắng trước cây viết.
Thánh Irênê nói:”Chính Ngài, nhờ vâng phục, đã trở nên nguyên nhân cứu rỗi cho mình và cho toàn thể nhân loại”. Và cùng với thánh Irênê còn có rất nhiều thánh Giáo phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng:”Nút dây đã bị thắt lại do sự bất tuân của Evà, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Maria. Điều mà Evà đã buộc lại bởi cứng lòng tin, Đức Maria đã tháo ra nhờ lòng tin; và so sánh với Evà, các ngài gọi Đức Maria là “Mẹ kẻ sống”, và thường quả quyết rằng:”Bởi Evà đã có sự chết, thì nhờ Maria lại được sống” (Lumen gentium, số 56).
Lễ Truyền Tin được mừng đầu tiên vào thế kỷ IV (thế kỷ V) tại Giáo hội Đông phương để kính nhớ LễTruyềnTin 67
Lễ Truyền Tin được mừng đầu tiên vào thế kỷ IV (thế kỷ V) tại Giáo hội Đông phương để kính nhớ mầu nhiệm Nhập Thể. Đến thế kỷ VII, lan sang Giáo hội Tây phương. Do lòng sùng kính Đức Maria, lễ Truyền Tin được mừng để kỷ niệm Đức Trinh Nữ Maria chịu thai Ngôi Lời Nhập Thể. Đức Bênêđictô XIV (1740-1758) ra sắc lệnh ấn định khắp Giáo hội mừng lễ Truyền tin vào ngày 25 tháng 3 theo Thánh Augustinô đã đề nghị và giữ cho ngày nay.
Công đồng Vatican II đã canh tân Phụng vụ và xếp Lễ Truyền Tin vào bậc lễ trọng kính Chúa – phục hồi ý nghĩa truyền thống ban đầu. Lễ Truyền Tin được cử hành để kỷ niệm việc Ngôi Hai nhập thể nơi cùng lòng Đức Maria[1] – khởi đầu mầu nhiệm nhập thể. “Khi tuyên xưng Đấng Đức Trinh Nữ cưu mang là Chúa thật và là người thật, thì nhờ quyền năng phục sinh cứu độ của Người chúng con đáng đạt tới niềm vui muôn đời”.[2]
Từ đó, đưa đến việc thay đổi tên gọi của ngày lễ. “In Annuntiatione Beatae Mariae Virgiuis”[3] – Truyền Tin của Đức Trinh Nữ Maria được đổi thành “In Annuntiatione Domini”[4]– Truyền Tin của Chúa. Bảng dịch Việt ngữ dịch ngắn gọn là “Truyền Tin”.
Trong phụng vụ Thánh lễ, kinh tín kính được quy định cùng thể thức với lễ Giáng Sinh. Khi đọc kinh Tin Kính đến chỗ “bởi phép Chúa Thánh Thần…” thì bái gối, thay vì cúi đầu.
Ý nghĩa thần học phụng vụ
Chủ đề chính của In Annuntiatione Domini – Truyền Tin của Chúa là lời “xin vâng” của Ngôi Lời Nhập Thể. “Lạy Chúa, này con đây. Con xin đến để thực thi ý Chúa” (Dt 10,7). Đây cũng là lời Ca nhập lễ và Đáp Ca được chọn cho ngày hôm nay. (Bài ca nhập lễ có mục đích … hướng tâm hồn về mầu nhiệm thánh lễ được cử hành. QCTQ. SLR số 47.)
Bài đọc 1: loan báo một trinh nữ sẽ thụ thai và con trẻ sẽ được đặt tên là Emmanuel.
Đáp ca được chọn từ Tv 39, 8-9: “Lạy Chúa, này con đây. Con xin đến để thực thi ý Chúa.”
Bài đọc 2: Tác giả thư Do Thái đặt lời Tv 39 (đáp ca) vào môi miệng của Chúa Giêsu.
Tin Mừng: Một người nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai (Lc 1,31).
Phụng vụ lời Chúa cho thấy Ngôi lời đã vâng theo chương trình cứu độ củaThiên Chúa. “Chúa đã muốn Ngôi Lời của Chúa nhận lấy thân xác thật”.[5]
Lễ Truyền Tin cũng Đánh dấu việc nhập thể của Ngôi Lời qua tiếng “xin vâng” của Đức Maria. Đức Maria đã cộng tác cách trực tiếp vào chương trình của Thiên Chúa. Mẹ đã thay mặt Hội Thánh nhận lãnh và cưu mang Ngôi Lời. “Đức Trinh Nữ đã tin tưởng nghe theo lời Thiên sứ truyền tin, và bởi phép Chúa Thánh Thần, đã âu yếm cưu mang trong lòng thanh khiết. Đấng sẽ được sinh ra giữa nhân loại và vì nhân loại, để Đấng là chân lý hoàn tất các lời hứa với con cái Israel, và để niềm mong đợi của muôn dân được mãn nguyện cách diệu kỳ”.[6]
Vài điểm lược sử và ý nghĩa thần học trên giúp chúng ta có cái nhìn đúng hơn về Mầu Nhiệm được cử hành trọng lễ Truyền Tin. Đã hơn 50 năm canh tân phụng vụ, nhưng nhiều người vẫn hiểu lễ Truyền Tin là lễ trọng kính dành riêng cho Đức Mẹ. Do đó, cách trang trí, chọn bài hát thường quy lời “xin vâng” của Đức Mẹ hơn là lời “xin vâng” của Ngôi Lời. Tóm lại, hiện nay lễ Truyền Tin là bậc lễ trọng kính Mầu Nhiệm Nhập Thể của Ngôi Lời, “quy về Đức Kitô”. Tiền Hô
Có một bài hát mà ai trong chúng ta cũng biết, ‘Xin vâng, Mẹ dậy con hai tiếng xin vâng …’ Đã LễTruyềnTin 68
Có một bài hát mà ai trong chúng ta cũng biết, ‘Xin vâng, Mẹ dậy con hai tiếng xin vâng …’ Đã là bài hát thì ai hát cũng được. Trẻ con đi lễ cũng gào ầm lên ‘xin vâng’, chẳng có phải nghĩ ngợi gì cả!
Có lẽ mỗi người chúng ta cũng ở trong bọn trẻ đó, cũng gào tướng lên, cho đến khi bình tĩnh nghĩ lại thì ‘xin vâng’ chẳng dễ tí nào ! ‘Xin vâng’ trong một tâm trạng không mấy thoải mái, xin vâng chịu vậy, xin vâng phải gồng mình lên mà sống, xin vâng liều mạng vì tương lai mù mịt tăm tối đơn độc … Và còn nhiều thứ ‘xin vâng’ nữa.
Khi sứ thần được sai đến, nói với bà Maria: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà" thì trước đó bà Maria cũng đã “đầy ân sủng” và có “Đức Chúa ở cùng bà" rồi. Có như thế thì bà Maria mới mạnh dạn đón nhận lời sứ thần truyền tin "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói". Vậy thì trước đó bà Maria đã sống đức tin rồi.
Ngày nay những người sống đức tin chân chính cũng rất sẵn sàng mau mắn ‘xin vâng’ cho cả đời. Chứ không phải là người tâm trí mơ hồ xa vắng rồi ‘xin vâng’ đại đi!
Sống đức tin trong tương quan thân mật, ngọt ngào hạnh phúc thì chẳng có gì cản được bà Maria dấn thân trọn vẹn, bất kể nguy hiểm đến tính mạng. Lời Vâng dõi theo bà trong suốt cuộc đời, mà đỉnh cao là dưới chân thập giá.
Khi nói lời cam kết trung thành trong bí tích Hôn phối hay dịp Khấn Dòng, ấy là những người đó nói lời xin vâng, diễn tả niềm tin như bà Maria. Niềm tin hàm chứa phiêu lưu vì chúng tôi không biết trước được tương lai (tuy chưa biết trước tương lai nhưng không phải sống cõi lòng rỗng tuếch). Phiêu lưu sẽ là liều lĩnh nếu chỉ cậy dựa vào sức riêng của mình, nhưng phiêu lưu sẽ là phó thác nếu chúng tôi luôn sống sự hiện diện của Chúa một cách sống động trong phút giây cuộc đời. “Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Ki-tô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể … Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài … Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ”
“Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được". Nói rõ ra rằng Thiên Chúa làm được hết mọi sự nhưng chúng tôi không vì thế mà bắt Chúa phải làm hết mọi sự theo nhu cầu của chúng tôi ; hay ngược lại là chúng tôi làm hết mọi sự, chúng tôi tự giải quyết được mọi sự cho đời sống chúng tôi nên chúng tôi chẳng cần đến Chúa nữa !!! Chúa bị khống chế hết mọi sự nhưng ngoại trừ tình yêu thương. Chỉ trong tình yêu, chứ không phải là sức mạnh cơ bắp, không phải mưu mô tính toán vụn vặt …
“Vua A-khát trả lời: "Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa … Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en”. Đấng Emmanuen đang ở với chúng con khi chúng con lãnh nhận Bí tích Rửa tội … cho đến hôm nay, làm sao cho Đấng ấy được lớn lên trong lòng, trong tương quan yêu thương, chứ đừng để Đấng ấy chết yểu, quái thai, teo khô đi và nhất là đừng ‘trục xuất’ ra khỏi lòng mình.
“Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”. (Lc. 1, 38).
Suy niệm
Qua biến cố sứ thần Gabriel truyền tin cho Đức Mẹ Maria, Thiên Chúa đã mời gọi Mẹ cộng tác vào LễTruyềnTin 69
Qua biến cố sứ thần Gabriel truyền tin cho Đức Mẹ Maria, Thiên Chúa đã mời gọi Mẹ cộng tác vào chương trình cứu độ qua việc cưu mang Đấng Cứu Thế. Trong những giây phút đầu tiên, Đức Mẹ đã bối rối và thắc mắc vì một tin vừa bất ngờ và vừa cao trọng, trong khi mình thì lại nhỏ bé. Mẹ thắc mắc vì đó là điều thật khó hiểu theo lý luận của con người: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào vì tôi không biết đến người nam?”. Trước thắc mắc của Mẹ, sứ thần đã giải thích: “Vì đối với Thiên Chúa, không gì là không thể làm được”. Đây không phải là giải thích nhằm làm thỏa mãn những lý luận của lý trí nơi Mẹ, nhưng là một gợi ý mời gọi người nghe đáp trả bằng thái độ của đức tin. Lời xin vâng của Mẹ chính là một lời đáp trả của đức tin.
Nhìn vào cuộc sống thường ngày, ta cũng dễ nhận thấy vai trò quan trọng của niềm tin như: sự tin tưởng lẫn nhau của chúng ta hay sự tin tưởng của ta vào những giá trị giúp thăng tiến cuộc sống của mình. Nếu thiếu yếu tố đó, có thể nói ta sẽ không thể sống được. Tuy vậy, trong đời sống đạo, nhiều khi ta lại lãng quên vai trò của đức tin mà đòi hỏi sự hợp lý hóa cho mọi sự. Trước các biến cố hay cả các mầu nhiệm trong đạo, ta cũng chỉ muốn giải thích chúng một cách thuần lý trí. Nói khác đi, ta chỉ chấp nhận những gì hợp lý mình mà thôi. Đức Mẹ cũng đã có thắc mắc như vậy: “Điều đó làm sao có thể?”. Nhưng rồi Mẹ đã lấy đức tin để bù lại những gì lý trí của Mẹ không thể giải thích. Chúng ta cũng được mời gọi hãy đáp lại tiếng Chúa bằng thái độ vâng phục và tin tưởng như Mẹ.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, đời sống đạo của chúng con sẽ là vô nghĩa nếu không được đặt trên nền móng của đức tin. Chỉ ánh sáng của đức tin, chúng con mới tìm ra thánh ý của Ngài. Xin Chúa khơi lên ngọn lửa đức tin trong lòng chúng con, để chúng con dám thưa lời xin vâng trước những lời ngỏ của Chúa, và cũng dám nói không với những ý riêng của mình. Xin cho chúng con xác tín rằng cuộc đời chúng con chỉ được hoàn thành tốt đẹp nếu chúng con bước theo sự dẫn dắt của Chúa. Amen.
Bài đọc 1: Is 6, 10-14 Bài đọc 2: Dt 10, 4-10 Tin mừng: Lc 1, 26-38
Kính thưa…
Hôm nay cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta họp nhau nơi đây để cử hành trọng thể lễ Truyền LễTruyềnTin 70
Hôm nay cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta họp nhau nơi đây để cử hành trọng thể lễ Truyền Tin. Trước đây, vào thời Trung cổ và Cận đại, vì lòng yêu mến Đức Maria, người ta nhấn mạnh đến việc Truyền Tin cho Đức Maria, và cho rằng lễ này là lễ trọng về Đức Maria. Đây là một sự lầm lẫn làm biến dạng ý nghĩa ban đầu của ngày lễ. Chính vì thế, phụng vụ canh tân sau Công đồng Vatican 2 đã quay trở lại ý nghĩa nguyên thuỷ của ngày lễ, đó là ngày lễ được Giáo Hội lập ra để kính nhớ một trong ba mầu nhiệm chính trong đạo Công giáo chúng ta, mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa như câu xướng trước Phúc Âm nói rõ: “Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể và Người đã cư ngụ giữa chúng ta”.
Nếu như mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi dạy cho chúng ta bài học về sự hiệp nhất trong tình yêu, và mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô ghi khắc vào tâm trí chúng ta hình ảnh sống động về một tình yêu tự hiến, thì mầu nhiệm Nhập Thể hôm nay là một mẫu gương cho chúng ta về sự vâng phục.
1. Sự vâng phục của Đức Kitô:
Trước hết, đó là sự vâng phục của Đức Kitô. Đây là một sự vâng phục căn bản và nền tảng để nhờ đó công trình cứu độ được khởi đầu. Sự vâng phục này đã được thánh Phaolô tóm tắt rất hay trong một ca vãn gởi tín hữu thành Philip: “Ngài, phận là phận của một vì Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không nghĩ phải giành cho được chức vị đồng hàng cùng Thiên Chúa… Ngài đã hạ mình thấp hèn, trở thành vâng phục cho đến chết, và là cái chết thập giá!” (Pl 2, 6-8). Như thế, người con mà Đức Maria sắp sinh ra không những là con của Mẹ trong tư cách là một con người, nhưng còn là Con Thiên Chúa như lời thiên sứ truyền tin: “Đấng Bà sẽ sinh ra là Đấng Thánh và được gọi là Con Đấng Tối Cao”. Hay nói theo cách nói của phụng vụ qua các lời nguyện trong Thánh lễ hôm nay, thì người con đó vừa là “Thiên Chúa thật và là người thật”. Như thế, việc Nhập Thể của Ngôi Hai là kết quả một sự vâng phục hoàn toàn của Con đối với Thánh ý Chúa Cha.
Đây không phải là một sự vâng phục miễn cưỡng nhưng là một sự vâng phục hoàn toàn trong tự do như lời tác giả thư Do thái chúng ta vừa nghe: “Khi đến trong thế gian, Chúa Giêsu phán: “Lạy Chúa, này con xin đến để thi hành thánh ý Chúa”. Chính Chúa Giêsu trong cuộc đối thoại với các môn đệ tại bờ giếng Giacóp cũng đã tuyên bố: “Lương thực của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta” (Ga 4, 34). Và tác giả thư Do thái còn khẳng định: chính nhờ sự vâng phục này, Đức Kitô trở thành một của lễ có giá trị tuyệt đối đến muôn đời trước mặt Thiên Chúa, tác giả viết: “nhờ việc hiến dâng Mình Chúa Giêsu Kitô một lần là đủ”. Vâng, Đức Kitô chỉ hiến dâng thân mình một lần là đủ đem lại ơn cứu độ cho muôn người thuộc mọi thời đại, bởi lẽ “của lễ hy tế, của lễ hiến dâng, của lễ toàn thiệu và của lễ đền tội, Chúa không muốn, cũng không nhận, mặc dầu được hiến dâng theo lề luật”.
2. Sự vâng phục của Đức Maria:
Kế đến là sự vâng phục của Đức Maria. Thật vậy, dù trọng tâm của ngày lễ hôm nay là việc Nhập Thể của Ngôi Hai, chúng ta cũng không thể không nói đến sự cộng tác tích cực của Đức Maria. Mẹ chính là “thiếu nữ Sion”, là “người trinh nữ”, người được Thiên Chúa tuyển chọn từ muôn thuở để làm Mẹ của Con Thiên Chúa. Điều này được thánh sử Luca diễn tả cách khéo léo qua lời chào của sứ thần: ‘Kính chào Bà đầy ơn phước”. Bởi vì, theo bình thường, đúng ra sứ thần phải chào: “Kính chào bà Maria”, nhưng ở đây, tên Maria đã được thay bằng “đầy ơn phước”. Như thế, Mẹ đã được đổi tên, mà việc đổi tên trong Thánh Kinh là dấu chỉ cho thấy một người được Thiên Chúa tuyển chọn cách đặc biệt để làm công việc của Ngài. Hơn nữa ở đây, sứ thần còn thêm: “Thiên Chúa ở cùng Bà”. Mẹ được đầy ơn phước, vì luôn có Chúa ở cùng. Mẹ là “thiếu nữ Sion” được Thiên Chúa tuyển chọn thay thế cho dân cũ là Israel để sinh ra Đấng Messia, khởi đầu cho một dân mới là Giáo Hội.
Mặc dù được Thiên Chúa ưu ái tuyển chọn từ đời đời, nhưng qua việc gởi sứ thần đến báo tin, cho thấy Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của Mẹ. Ngài chờ đợi nơi Mẹ một lời đáp trả trong tự do. Và Thiên Chúa đã không uổng công chờ đợi. Sau khi đã nghe lời giải thích của sứ thần: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Đấng Bà sinh ra, sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa”, mặc dù chưa hiểu hết, nhưng trong niềm tin, Mẹ đã cất lời thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần Chúa truyền”. Mẹ đã thưa hai tiếng “Xin vâng” trong tư cách của một con người tự do. Và với lời thưa “xin vâng” này, Mẹ Maria đã gắn chặt cuộc đời mình với Con Thiên Chúa qua việc thụ thai. Mẹ xứng đáng với tước hiệu là “Đấng hiệp công cứu chuộc”.
Tóm lại, nhờ sự vâng phục của Ngôi Hai Thiên Chúa và Mẹ Maria, việc Nhập Thể đã được thực hiện. Con Thiên Chúa đã mặc lấy bản tính nhân loại, ở cùng nhân loại, để nhờ đó, con người được thông phần vào bản tính Thiên Chúa như lời chúng ta kêu xin trong lời nguyện nhập lễ: “Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho Ngôi Lời của Chúa mặc lấy xác phàm trong lòng Đức Trinh Nữ Maria để cứu độ loài người… Xin cho chúng con cũng được thông phần bản tính Thiên Chúa của Người”. Như thế, với mầu nhiệm Nhập Thể, Thiên Chúa đã hoàn tất lời hứa cách đó hơn 700 năm mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc một được trích từ sách ngôn sứ Isaia: “Này một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
3. Và chúng ta hôm nay:
Lắng nghe lời Chúa trong ngày mừng kính mầu nhiệm Nhập Thể hôm nay, mời gọi từng người chúng ta cũng biết sống tinh thần vâng phục như Đức Giêsu và Mẹ Maria đã sống khi xưa. Hai chữ “Xin vâng” mới nghe qua thật dễ, nhưng thực hiện lại không dễ chút nào. Nó đòi hỏi từng người chúng ta phải bỏ ý riêng của mình để thực hiện thánh ý Thiên Chúa.
Mặt khác, con người thời nay cũng thường bị dị ứng khi nói đến hai chữ “vâng phục”. Bởi lẽ, chúng ta thường nghĩ rằng, vâng phục làm mất tự do. Nhưng thực ra, chính khi vượt thắng những đam mê tội lỗi, và những dục vọng của bản thân, để sống vâng phục theo Thánh Ý Chúa, chúng ta mới thực sự là người tự do. Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo số 1731, 1733 khẳng định: “Tự do đạt tới mức hoàn hảo khi quy hướng về Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc của chúng ta. Chỉ có tự do đích thực khi con người phục vụ cho điều thiện và công bằng. Khi bất tuân ý Chúa và chọn điều ác, con người lạm dụng tự do và trở nên “nô lệ tội lỗi” (SGL. 1733).
Đối tượng đầu tiên chúng ta cần vâng phục đó là Thiên Chúa. Chúng ta hãy can đảm tuân giữ các giới răn của Người, nhất là giới răn bác ái. Chúng ta hãy tuân giữ các giới răn không phải như một người nô lệ, nhưng như một phương thế để biểu lộ tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa. Kế đó, chúng ta hãy vâng phục cha mẹ, và những người hướng dẫn mình trong chân lý, để làm được việc đó, mỗi người chúng ta cần bỏ đi những tự ái, kiêu căng và cả những mặc cảm tự ti. Nhờ đó, tâm hồn chúng ta xứng đáng đón Con Thiên Chúa trong bí tích Thánh Thể nhờ việc hiệp lễ. Rồi khi trở về nhà, chúng ta hãy sống yêu thương nhau như Chúa đã yêu. Sống được như vậy, chúng ta đã cùng với Mẹ Maria góp phần làm cho mầu nhiệm Nhập Thể được tiếp tục kéo dài và trở nên hiện thực trong đời sống hàng ngày. Amen.
Lời thiên sứ truyền tin không phải như một thông tin trên báo chí, mà là giới thiệu cả một chương LễTruyềnTin 71
Lời thiên sứ truyền tin không phải như một thông tin trên báo chí, mà là giới thiệu cả một chương trình cứu độ để mời gọi con người tham gia. Vì thế, khi sai thiên sứ truyền tin cho Đức Ma-ri-a, Thiên Chúa đồng thời cũng muốn chọn Mẹ, để Mẹ sinh con, người con ấy được báo trước sẽ nên cao cả, là Con Đấng Tối Cao. Sứ mạng của Đức Ma-ri-a là sinh con, còn việc đó xảy ra thế nào, Thiên Chúa sẽ liệu, vì đối với Ngài, không có gì là không thể. Phần Đức Ma-ri-a, lời thưa ‘vâng’ để cộng tác trong chương trình của Chúa là một hành vi đẹp lòng Thiên Chúa.
Mời Bạn: Lời thưa ‘xin vâng’ của Đức Ma-ri-a như một nét chấm phá nhưng xuyên suốt trong toàn cảnh kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Quả thế, từ khi tổ tông loài người sa ngã, Thiên Chúa đã phán với tên cám dỗ: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà,... dòng giống người ấy sẽ đánh vào đầu mi” (St 3,15). Rồi khi người ta tìm cách loại bỏ Đức Ki-tô bằng việc đóng đinh Ngài và treo lên cây gỗ thì qua đó Ngài đã hoàn tất công trình cứu độ. Khi thiết lập Hội Thánh, Chúa Ki-tô cũng khẳng định: “Quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16,18). Và Triều đại của Ngài sẽ vô cùng vô tận. Như thế, khi được ngỏ lời cộng tác để xây dựng Vương quốc ấy, bạn có thưa ‘xin vâng’ không?
Sống Lời Chúa: Lắng nghe điều Chúa ngỏ ý với bạn hôm nay và can đảm đáp lời ‘xin vâng’.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin làm cho con theo như điều Chúa muốn. Amen.
Lịch Rôma đã mừng lễ Ngôi Lời nhập thể với danh hiệu gọi từ xa xưa là "Truyền tin" của Chúa LễTruyềnTin 72
"Lịch Rôma đã mừng lễ Ngôi Lời nhập thể với danh hiệu gọi từ xa xưa là "Truyền tin" của Chúa, nhưng lễ này từ xưa và hiện nay vẫn là lễ mừng Chúa Kitô và Mẹ Ngài: Ngôi lời đã trở thành "Con của Đức Maria" (Mc 6,3) và Maria trở thành Mẹ Chúa Trời".
"Phụng vụ phong phú của Đông và Tây phương, đối với Đức Kitô. Đã mừng lễ Truyền Tin, nhằm nhắc lại tiếng "Xin vâng" cứu rỗi của Ngôi Lời Nhập Thể, lúc bước vào đời đã nói: "Lạy Thiên Chúa, này con xin đến để thi hành thánh ý Người" (Dt 10, 7 và Tv 39,8-9), lễ này cũng kính nhớ giây phút đầu của ơn cứu chuộc với sự kết hợp chặt chẽ, bất khả phân giữa thiên tính và nhân tính trong một Ngôi Lời".
"Lễ truyền tin đối với Đức Maria: một Evà mới, trung thành và vâng phục với lời "Xin vâng" quảng đại” (Lc 1,38) do Đức Chúa Thánh Thần. Maria trở thành Mẹ Chúa Trời và là Mẹ của mọi người. Maria cũng là Hòm Bia Giao Ước và Đền thờ Thiên Chúa bởi Mẹ cưu mang Đấng trung gian duy nhất. Lễ truyền tin kính nhớ sự tự do chấp nhận sự hợp tác với kế hoạch cứu rỗi Đức Maria" (Marialis culitus 6b) .
Như vậy biến cố Truyền tin. Diễn ra âm thầm giữa sứ thần Gabrie với Đức Trinh Nữ Maria (Lc 1,26-28) đã mang đến cho toàn thể gia đình nhân loại một Tin vui lớn lao. Nhân loại không còn chìm ngập trong bóng tối sự chết nữa, bởi vì lời hứa cứu độ (St 3,15), nay "Vào thời sau hết, Thiên Chúa đã nói với ta nơi một người Con" (Dt 1,2). Biến cố cứu rỗi này kết hợp bởi hai lời "Xin vâng" tự đời đời của Ngôi Con Thiên Chúa "xin đến để thi hành thánh ý Thiên Chúa" và trong thời gian của Đức Maria sẵn sàng cộng tác "như lời thiên thần truyền" (Lc 1,38).
Đến lượt chúng ta là những kẻ hưởng nhờ hồng ân cứu chuộc chúng ta cũng cần tiếp nối một lời xin vâng để thực sự trở thành thân nhân của Chúa (Lc 8.21). Đây là đường nhập thể của sự sống vĩnh cửu nơi mỗi người biết đón nhận Tin Vui Cứu Độ.
Chúng ta vừa nghe cuộc loan báo quan trọng nhất trong lịch sử của chúng ta: Truyền Tin cho LễTruyềnTin 73
Chúng ta vừa nghe cuộc loan báo quan trọng nhất trong lịch sử của chúng ta: Truyền Tin cho Mẹ Maria (x. Lc 1:26-38) – một đoạn cô đọng, đầy sự sống, mà tôi muốn đọc dưới ánh sáng của một cuộc loan báo khác: cuộc loan báo sự hạ sinh của Gioan Tẩy Giả (x. Lc 1:5-20). Hai cuộc loan báo theo sau nhau và hiệp nhất với nhau; hai cuộc loan báo khi có sự tương phản, cho chúng ta thấy điều Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta ở nơi Con của Ngài.
Cuộc truyền tin của Gioan Tẩy Giả diễn ra khi ông Da-ca-ria, vị tư tế, đã sẵn sàng bắt đầu nghi lễ phụng vụ đi vào trong Đền Thánh, nơi tất cả cộng đoàn đều đợi chờ ở bên ngoài. Cuộc Truyền Tin của Chúa Giêsu, thay vào đó, diễn ra ở một nơi xa xuất của Galilêa, ở một thành phố ngoại biên và không có danh thơm tiếng tốt đặc biệt (x. Ga 1:46), trong một sự vô danh của một gia đình của một cô gái có tên là Maria.
Một sự tương phản, điều đó không không phải là có ý nghĩa một chút ít, một điều cho thấy rằng Đền Thờ mới của Thiên Chúa, cuộc gặp gỡ mới của Thiên Chúa với dân của Người sẽ diễn ra ở những nơi mà chúng ta nhìn chung là không mong đợi, ở những vùng biên, những vùng ngoại biên. Ở đó, họ sẽ gặp, ở đó họ sẽ gặp gỡ nhau, Thiên Chúa sẽ trở thành xác phàm ở đó để bước đi cùng với chúng ta từ cung lòng của Mẹ Người. Giờ đây, Ngài sẽ không còn ở một nơi được dành cho một vài người trong khi toàn bộ ở ngoài trong sự mong đợi. Không có gì và không ai có sẽ phớt lờ Ngài, không hoàn cảnh nào sẽ tước đi sự hiện diện của Ngài: niềm vui Ơn Cứu Độ bắt đầu trong đời sống hằng ngày của một cô gái Thành Na-da-rét.
Chính Thiên Chúa là một Đấng có sáng kiến và chọn để tự thêm chính bản thân Ngài, như Ngài đã thực hiện với Mẹ Maria, vào trong gia đình của chúng ta, trong những vật lộn hàng ngày của chúng ta, đầy những lo toan cùng với những khát khao. Và thực ra là ở trong những thành phố của chúng ta, các trường học của chúng ta và đại học của chúng ta, các quảng trường và bệnh viên của chúng ta mà cuộc loan báo tuyệt vời nhất chúng ta có thể nghe được viên mãn: “Mừng vui lên, Thiên Chúa ở cùng anh em!” Đó là một niềm vui tạo nên sự sống, niềm vui tạo nên niềm hy vọng, niềm vui trở thành xác phàm theo một cách mà chúng ta nhìn vào tương lai, bằng một thái độ mà qua đó chúng ta nhìn vào người khác. Đó là một niềm vui trở thành tình liên đới, lòng hiếu khách, và lòng thương xót đối với hết mọi người.
Giống như Mẹ Maria, chúng cũng có thể không chắc chắn. “Điều này xảy ra cách nào” vào những lúc quá đầy sự suy đoán. Có sự suy đoán về cuộc sống, về công việc, về gia đình. Có sự suy đoán về người nghèo và về những người di dân; có sự suy đoán về người trẻ và về tương lai của họ. Tất cả dường như bị giảm xuống thành các con số, mà mặt khác, lãng quên rằng đời sống hằng ngày của quá nhiều gia đình đang bị nhuốm mầu với sự hay thay đổi và sự không an toàn. Trong khi nỗi đau gõ cửa quá nhiều gia đình, trong khi quá nhiều người trẻ ngày càng bị bất mãn do sự thiếu các cơ hội thật sự, sự suy đoán diễn ra ở khắp nơi.
Nhịp điệu chóng mặt mà chúng ta đang là đối tượng chắc chắn dường như cướp khỏi chúng ta niềm hy vọng và niềm vui. Những áp lực và sự bất lực khi đối diện với quá nhiều hoàn cảnh dường như làm khô khéo tư tưởng và làm cho chúng ta không nhạy bén khi đối diện với những muôn vàn thách đố. Và, một cách trái nghịch, khi mọi sự bị tăng tốc để xây dựng – về lý thuyết – một xã hội tốt đẹp hơn, cuối cùng không có thời gian cho bất cứ điều gì hay bất cứ ai. Chúng ta đánh mất thời gian cho gia đình, thời gian cho cộng đoàn, chúng ta đánh mất thời gian cho tình bạn, cho tình liên đới và cho việc tưởng nhớ.
Sẽ thật tốt để chúng ta tự hỏi chính bản thân chúng ta: Làm thế nào ngày nay có thể sống niềm vui của Tin Mừng trong các thành phố của chúng ta? Liệu niềm tin Kitô Giáo có khả thể trong hoàn cảnh này, ở đây và bây giờ không?
Hai câu hỏi này chạm vao căn tính của chúng ta, đời sống của gia đình chúng ta, đất nước và thành phố của chúng ta. Hai câu hỏi này chạm vào đời sống của con cái chúng ta, đời sống của người trẻ của chúng ta và chúng tác động về phía chúng ta một cách thế mới để xác định vị thế của chúng ta trong lịch sử. Nếu niềm vui và niềm hy vọng Kitô Giáo tiếp tục có thể khi chúng ta không thể, thì chúng ta không muốn duy trì trước quá nhiều hoàn cảnh đau đớn như là những khán giả thuần tuý là những người nhìn lên trời hy vọng rằng “trời sẽ tạnh cơn mưa”. Tất cả điều đang xảy ra đòi hỏi và đạt được từ phía chúng ta điều mà chúng ta đang nhìn vào hiện tại bằng sự bạo dạn, bằng sự bạo dạn của người biết rằng niềm vui ơn cứu độ hình thành trong đời sống hằng ngày của gia đình của một cô gái Na-da-rét.
Khi đối diện với sự lúng túng của Mẹ Maria, khi đối diện với sự lúng túng của chúng ta, thì có ba chìa khoá mà Sứ Thần mang lại cho chúng ta để giúp chúng ta đón nhận sứ mạng đã uỷ thác cho chúng ta.
1. Gợi nhớ ký ức. Điều đầu tiên mà Sứ Thần làm là gợi nhớ ký ức, do đó mở hiện tại của Mẹ Maria ra cho toàn bộ lịch sử cứu độ. Ngài gợi nhớ lại lời hứa đã được thực hiện với Đa-vít như là hoa trái của Giao Ước với Gia-cóp. Mẹ Maria là người con của Giao Ước. Chúng ta ngày nay cũng được mời gọi để nhớ, để nhìn vào quá khứ của chúng ta để không lãng quên chúng ta xuất phát từ nơi nào, để không quên lãng tổ tiên của chúng ta, ông bà của chúng ta và tất cả mọi điều mà họ đã trải qua để đến nơi mà hiện nay chúng ta đang ở. Mảnh đất này và người dân của nó đã biết đến nỗi đau của hai cuộc thế chiến và đôi khi thấy được danh tiếng có được về công nghiệp và nền văn minh đã bị ô nhiễm bởi những tham vọng vô độ. Ký ức giúp chúng ta không ở lì trong tình trạng là tù nhân của những dòng chảy thời gian gieo rắc những đổ vỡ và chia rẽ như là cách duy nhất để giải quyết những mâu thuẫn. Gợi nhớ ký ức là phương dược tốt lành nhất cho ý muốn của chúng ta khi đối diện với những giải pháp mang tính ma thuật của sự chia rẽ và sự bất hoà.
2. Thuộc về Dân Thiên Chúa. Ký ức giúp cho Mẹ Maria biết trân trọng sự thuộc về Dân Thiên Chúa của Mẹ. Thật tốt lành cho chúng ta khi biết nhớ rằng chúng ta là những thành viên của Dân Thiên Chúa! Người Milan, đúng, người Ambrosia, chắc chắn, nhưng là một phần của đại Dân Chúa – một dân được tạo nên từ hàng ngàn diện mạo, lịch sử, nhiều nguồn gốc, một dân đa văn hoá và đa sắc tộc. Đây là một trong những sự phong phú của chúng ta. Đó là một dân được gọi để đón nhận những khác biệt, để tháp nhập chúng bằng sự tôn trọng và sáng tạo và để vui mừng sự mới mẻ đến từ người khác; đó là một dân không sợ để đón nhận những biên giới, những chiến tuyến; đó là một dân không sợ cho đi lòng hiếu khách cho người đang cần vì dân ấy biết rằng Thiên Chúa của mình đang hiện diện ở đó.
3. Không có gì là không thể. “Không có gì là không thể đối với Thiên Chúa” (Lc 1:37): đó đó kết thúc câu trả lời của Sứ Thần với Mẹ Maria. Khi chúng ta tin rằng mọi sự tuỳ thuộc vào khả năng của chúng ta, vào sức mạnh của chúng ta, vào những chân trời thiển cận của chúng ta, thay vào đó, khi chúng ta sẵn sàng để cho bản thân chúng ta được giúp đỡ, để cho bản thân chúng ta được dạy dỗ, khi chúng ta mở bản thân chúng ta ra cho ân sủng, thì dường như là sự không thể bắt đầu trở nên có thể. Những mảnh đất này biết rõ điều này, theo dòng lịch sử, đã tạo ra quá nhiều đặc sủng, quá nhiều việc truyền giáo, quá nhiều sự phong phú đối với đời sống của Giáo Hội! Nhiều thời điểm mà, khi vượt thắng chủ nghĩa bi quan không sinh hoa trái và mang tính chia rẽ, thì họ mở bản thân họ ra cho sáng kiến của Thiên Chúa và trở thành những dấu chỉ của một mảnh đất sinh hoa trái có thể vốn không khép kín ở nơi những ý tưởng của riêng nó, trong những giới hạn của nó và trong những khả năng của nó và mở ra cho người khác thế nào.
Như ngày hôm qua, Thiên Chúa vẫn đang tiếp tục tìm kiếm các đồng bạn, Ngài vẫn tiếp tục tìm kiếm những người nam nữ biết tin, biết nhớ, biết cảm nhận mình là một phần của Dân Ngài để hợp tác với sự sáng tạo của Thần Khí. Thiên Chúa vẫn đang tiếp tục đi đến những vùng đồng quê và những nẻo đường của chúng ta. Ngài thúc đẩy chính bản thân Ngài ở mọi nơi để tìm kiếm những tâm hồn biết lắng nghe lời mời gọi của Ngài và biết nó trơ thành xác phàm ở đây và bây giờ. Trích dẫn lời Thánh Ambrose trong lời giảng của Ngài về đoạn Kinh Thánh này, chúng ta có thể nói: Thiên Chúa vẫn đang tiếp tục tìm kiếm những tâm hồn giống như tâm hồn của Mẹ Maria, sẵn sàng để tin ngay cả trong những hoàn cảnh bất thường (x. Esposizione del Vangelo sec. Luca II: 17: PL 15, 1559). Xin Thiên Chúa làm cho niềm tin này và niềm hy vọng này lớn lên trong chúng ta.
Thiên Chúa sai sứ thần Gáprien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã LễTruyềnTin 74
Thiên Chúa sai sứ thần Gáprien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria."(Lc 1,26-27)
Suy niệm: "Tin" mà thiên sứ Gáprien "truyền" cho đức trinh nữ Maria chính là chương trình của Thiên Chúa để cứu độ con người. "Tin" ấy Thiên Chúa "đã nhiều lần nhiều cách" truyền dạy qua các ngôn sứ (x. Dt 1,1) mà giờ đây được hiện thân qua chính Người Con nhập thể trong lòng trinh nữ Maria. Đức Maria đã cộng tác bằng việc đón nhận "tin" này với niềm vâng phục của đức tin (x. GLHTCG, 148).
"Được truyền tin" rồi, Mẹ lại tiếp tục "truyền tin" mà Mẹ đã nhận bằng cách ban tặng Đức Giêsu Đấng Cứu Thế cho nhân loại chúng ta, như Mẹ đã nói: "Người bảo gì, anh em cứ làm theo" (Ga 2,5).
Mời Bạn: Xã hội hôm nay tràn ngập thông tin: tin lành, tin dữ, tin vui không vui, tin thật, tin giả.... Muốn hay không, chúng ta đều "bị" nghe hoặc "được" nghe". Để khỏi là nạn nhân của sự bùng nổ thông tin ấy, chúng ta phải: - biết sàng lọc thông tin và phân định để nhận ra tin lành đến từ Thiên Chúa; - và trở thành tác nhân truyền tin lành của Ngài đến với tha nhân.
Chia sẻ: Bạn đã dùng các phương tiện truyền thông hiện đại để loan truyền Tin Mừng cho tha nhân chưa?
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày bạn thực hiện sứ mạng "truyền tin" bằng một lời nói hoặc hành động để chuyển thông tin lành của Chúa đến cho tha nhân.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con luôn nhận ra mình "được truyền tin" để biết sống "truyền tin" như Đức Maria. Amen
Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII, khi được tấn phong giám mục, lúc bấy giờ còn mang tên làLễTruyềnTin 75
Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII, khi được tấn phong giám mục, lúc bấy giờ còn mang tên là Roncalli, ngài đã lấy khẩu hiệu: “Vâng Phục và Bình An”.
Ngài kể lại sở dĩ ngài chọn khẩu hiệu đó vì khi còn là học sinh, chiều nào ngài cũng thấy Hồng Y Daronius già cả đi qua công trường thánh Phêrô. Mỗi lần như thế, vị hồng y ấy đều lấy một ít tiền tặng cho những người nghèo đang ở đó. Sau đó, ngài vào đền thờ thánh Phêrô, đến ngay trước tượng thánh Phêrô và hôn chân ngài, rồi đọc lớn tiếng: “Vâng Phục và Bình An”. Đọc xong, vị Hồng Y khả kính đến quỳ gối cầu nguyện trước mồ thánh Phêrô, tỏ lòng cung kính, vâng phục và trung thành với Hội Thánh rồi ra về.
Hình ảnh cao đẹp và lời nói đanh thép ấy đã in sâu vào lòng Đức Roncalli, nên ngài đã chọn câu ấy làm tâm niệm và đã thực hiện trong suốt cuộc đời.
Khi chọn “Vâng Phục và Bình An” là tâm niệm của cuộc đời một vị giám mục, một vị giáo hoàng, các ngài đã noi theo lời tâm niệm “xin vâng” của Mẹ và hơn thế nữa, là con đường sống của Mẹ Maria. Lời “Xin vâng” là một lời quyết định để Mẹ Maria được cất nhắc lên một địa vị cao sang: Mẹ Thiên Chúa. Lời “xin vâng” đã làm thay đổi tất cả cuộc đời Mẹ và là yếu tố quyết định của chương trình cứu độ.
Hôm nay, trong bài Tin Mừng theo thánh Luca, sứ thần Gabriel đã được sai đến để báo tin vui cho Mẹ Maria: Mẹ sẽ trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế. Đứng trước một biến cố quá bất ngờ, một sứ mệnh quá lớn lao, Mẹ Maria bối rối và xao xuyến trong lòng. Sứ thần Gabriel đã giải thích để Mẹ Maria thấu hiểu chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Sau khi nghe sứ thần giải thích, Mẹ Maria đã thưa lời xin vâng: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”.
Lời “xin vâng” của Mẹ Maria
Lời xin vâng của Mẹ Maria chính là khởi đầu cho Mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc. Thật vậy, Chúa Giêsu không đến trần gian như một thiên thần, hay như một vị thần siêu việt. Và Chúa cũng không muốn cứu chuộc trần gian mà không đổ một giọt máu nào. Trái lại, Chúa đã xuống thế làm người để cứu chuộc loài người. Chúa thực sự là người như mọi người chúng ta. Chúa đã tiếp nhận bản tính nhân loại nơi cung lòng Mẹ Maria.
Lời “xin vâng” của Mẹ Maria cũng là khởi đầu cho địa vị cao cả của Mẹ: đó là được trở thành Mẹ Thiên Chúa. Lời “xin vâng” cũng gắn liền với những ân huệ khác của Mẹ: trọn đời đồng trinh, vô nhiễm nguyên tội, hồn xác về trời.
Như thế, nhờ lời “xin vâng”, Mẹ Maria thực sự “có phúc hơn mọi người nữ”. Lời “xin vâng” đã mang đến một “Tin Mừng” lớn lao cho toàn thể nhân loại. Và đặc biệt là cho mỗi người chúng ta: qua lời “xin vâng”, không những Mẹ Maria trở thành Mẹ Thiên Chúa, mà Mẹ còn là Mẹ của Giáo Hội, Mẹ của mọi người chúng ta. Chính lời “xin vâng” đã làm nên tình mẫu tử thiêng liêng giữa Mẹ Maria và nhân loại. Lời “xin vâng” như nhịp cầu đưa chúng ta bước vào cung lòng hiền mẫu của Mẹ Maria.
Lời “xin vâng” của người tín hữu hôm nay
Mẹ Maria đã cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Sau lời “xin vâng”, Mẹ Maria đã phó thác tất cả đời mình trong bàn tay từ ái của Thiên Chúa, để Người toàn quyền định đoạt số phận của mình. Mẹ Maria chỉ còn biết vâng theo ý Chúa hoàn toàn.
Mẹ Maria cũng là người như chúng ta. Mẹ cũng có những ước vọng riêng mong đạt tới. Mẹ cũng có những chương trình cá nhân cần hoàn thành. Nhưng đứng trước lời mời gọi của Thiên Chúa, Mẹ đã từ bỏ chính mình để đáp lại bằng lời “xin vâng”. Mẹ đã sẵn sàng từ bỏ con đường riêng của mình để đi vào con đường Thiên Chúa sắp đặt. Đó chính là nét đẹp tuyệt vời của hai chữ “xin vâng”.
Hôm nay, Chúa vẫn đang cần những lời “xin vâng” của chúng ta, đang cần sự cộng tác của chúng ta để tiếp tục những gì Ngài làm còn dang dở. Ngài muốn dùng chúng ta như những khí cụ trong bàn tay Ngài. Chúa vẫn muốn nhìn bằng đôi mắt của ta, yêu thương bằng trái tim của ta, làm việc bằng đôi tay của ta và bước đi bằng đôi chân của ta.
Trong ngày lễ Truyền Tin, hơn bao giờ hết, chúng ta hãy nhìn lên Thánh Giá Chúa Giêsu để chiêm ngưỡng lời “xin vâng” tuyệt hảo của Ngài. Là một vị Thiên Chúa cao cả, nhưng Ngài đã không đòi cho được ngang hàng với Thiên Chúa. Trái lại, Ngài đã hủy bỏ mình ra không, đã hạ mình vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá (Phil 2, 6-8).
Bài đọc II, trích thư gửi tín hữu Do Thái, cũng nhắc đến sự vâng phục của Chúa Giêsu trước thánh ý Chúa Cha. Cũng thế, cả cuộc đời Chúa Giêsu chính là một lời “xin vâng” kéo dài: từ hang đá Bêlem đến đỉnh Núi Sọ, Chúa Giêsu luôn thi hành thánh ý Cha trong mọi giây phút của cuộc đời. Ngài chấp nhận uống chén đắng hơn là khước từ ý Cha.
Chớ gì lời “xin vâng” của Mẹ Maria sẽ dẫn đưa chúng ta đến lời “xin vâng” của Chúa Giêsu, và từ đó giúp ta cũng bắt chước các Ngài để luôn thưa lời “xin vâng” trong cuộc sống hằng ngày, thay cho những lần chúng ta “nói không” trước Thiên Chúa và anh em mình.
Ngày 08/7/1903, Đức Giáo Hoàng Lêô XIII từ trần. Đức Hồng Y Sartô phải đi vay tiền mua vé xe lửa về Rôma họp mật nghị bầu Giáo Hoàng. Kết quả cuộc bầu cử: Đức Hồng Y Sartô đắc cử Giáo Hoàng. Đức Hồng Y niên trưởng đến trước mặt Hồng Y Sartô hỏi:
– Nhân danh Thiên Chúa, chúng tôi tiến cử ngài làm Giáo Hoàng, ngài có chấp nhận không ?
Sau giây phút yên lặng với giòng nước mắt tuôn trào, Đức Hồng Y Sartô nghẹn ngào trả lời:
– Ước gì con không phải uống chén này, nhưng mong sao ý Chúa được nên trọn.
Thấy câu trả lời chưa rõ, Đức Hồng Y niên trưởng hỏi lại lần nữa. Lúc bấy giờ ngài đã trả lời:
– Con xin nhận như một thánh giá Chúa trao phó.
Qua lời “xin vâng” đầy nước mắt ấy, Đức Giáo Hoàng Piô X chính thức nhận sứ vụ Thánh Phêrô và đã trở thành một vị thánh Giáo Hoàng, đem đến cho Giáo Hội biết bao sự đổi mới, canh tân.
Mỗi ngày, khi đọc kinh Truyền Tin, chúng ta lặp lại lời “xin vâng” của Mẹ Maria. Chính lời kinh ấy luôn nhắc nhở chúng ta cũng hãy noi theo Mẹ Maria để luôn vâng theo ý Chúa trong mọi trạng huống cuộc đời. Con đường “xin vâng” là con đường ngắn nhất giúp ta đạt tới sự trọn lành và nhờ vậy, đạt được hạnh phúc Nước Trời mai sau.
Lễ Truyền Tin là cơ hội để chúng ta theo Sứ Thần Gabriel đến Nagiarét gặp một trinh nữ mà LễTruyềnTin 76
Lễ Truyền Tin là cơ hội để chúng ta theo Sứ Thần Gabriel đến Nagiarét gặp một trinh nữ mà thiên hạ muôn đời khen là có phúc (x. Lc 1, 48). Thánh Augustinô viết: ” Thiên Chúa đã chọn một người mẹ mà Ngài đã tạo dựng, Ngài đã tạo dựng người mẹ mà Ngài đã chọn “(x. Bài giảng 69, 3, 4).
Hôm nay, chúng ta cử hành mầu nhiệm cao cả tuyệt vời đã hoàn tất cách đây hơn hai ngàn năm. Một sự kiện diễn ra trong không gian và thời gian: ” Khi ấy, Thiên Thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nagiarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đa-vít, Trinh nữ ấy tên là Maria “(Lc 1 , 26-27 ). Tuy nhiên, để hiểu được những gì đã xảy ra tại Nagiarét hơn ngàn năm về trước, chúng ta lần dở lại Thư gửi tín hữu Do thái. Bản văn này thuật lại cuộc trò chuyện giữa Chúa Cha và Chúa Con về kế hoạch đời đời của Thiên Chúa. ” Chúa đã không muốn hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác. Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội “. Nên tôi nói: “ Lạy Chúa, này tôi đến để thi hành thánh ý Chúa ” (Dt 10, 5-7). Như thế, vì vâng ý Chúa Cha, Ngôi Lời đến đã đến cư ngụ giữa chúng ta, dâng chính thân mình làm của lễ hy sinh vượt trên mọi hy lễ đã dâng trong Cựu Ước. Lễ hy sinh của Chúa Giêsu là lễ vĩnh viễn và hoàn hảo nhất để cứu chuộc thế gian.
Kế hoạch của Thiên Chúa được thể hiện từng bước trong Cựu Ước, lời tiên tri Isaia là bằng chứng: ” Vì thế chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu, này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và tên con trẻ sẽ gọi là Immanuel ” (Is 7, 14). Emmanuel nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Khi thời gian tới hồi viên mãn như đã báo trước, những lời trên được thực hiện, ngày hôm nay chúng ta cử hành với hạnh phúc và niềm vui.
Từ Abraham đến Đức Maria
Hành trình truyền tin khởi đi từ Abraham ” cha chúng ta trong đức tin” (x. Rm 11, 12 ). Dẫn chúng ta về Nagiarét, gặp Đức Maria nữ tử Sion thuộc dòng dõi Abraham. Hơn ai hết, Đức Maria là người có thể dạy cho chúng ta sống đức tin với ” Cha chúng ta.”
Abraham và Đức Maria, cả hai đều nhận được từ Thiên Chúa lời hứa tuyệt hảo. Abraham sẽ trở thành cha một cậu con trai, sinh ra một dân tộc vĩ đại. Đức Maria sẽ trở thành Mẹ Đấng Thiên Sai, Đấng được Chúa xức dầu. Sứ thần Gabriel nói , “Này Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai […] Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người […] và triều đại Người sẽ vô tận ” (Lc 1, 31-33) .
Lời hứa của Thiên Chúa đến với Abraham và Đức Maria thật bất ngờ, làm thay đổi cuộc sống hàng ngày và đảo lộn những trật tự bình thường của hai đấng. Lời hứa ấy là hoàn toàn khổng thể đối với Abraham và Đức Maria. Sara vợ của Abraham đã lão, Maria còn trinh nữ nên đã thưa với Thiên Thần: ” Việc đó xảy ra thế nào được, vì tôi không biết đến người nam ” (Lc 1, 34).
Lời “xin vâng” của Abraham và Đức Maria
Cả Abraham và Đức Maria đều được yêu cầu trả lời “xin vâng ” cho một điều mà từ trước tới nay chưa từng thấy thế bao giờ. Sara, người đàn bà son sẻ đầu tiên trong Kinh Thánh thụ thai bởi ân sủng quyền năng của Thiên Chúa, giống như người phụ nữ sau cùng là bà Isave. Thiên Thần Gabriel nói về Isave để trấn an Đức Maria: “Này Isave, chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già ” (Lc 1, 36).
Như Abraham, Đức Maria cũng phải bước đi trong đêm tối, tin tưởng vào Đấng đã kêu gọi Maria. Tuy nhiên, câu hỏi ” việc đó xảy ra thế nào được ? ” chứng tỏ Đức Maria đã sẵn sàng thưa ” xin vâng ” bất chấp mọi hoàn cảnh. Maria không đặt câu hỏi liệu lời hứa có được thực hiện hay không, nhưng chỉ hỏi việc đó xảy ra thế nào và đã thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền” (Lc 1, 38). Với những lời trên, Đức Maria chứng tỏ mình là nữ tử thuộc dòng dõi Abraham đã trở thành Mẹ Chúa Kitô và Mẹ của tất cả các những người tin.
Để hiểu rõ hơn mầu nhiệm này, chúng ta nhìn lại hành trình của Abraham khi đón ba vị khách lạ vào nhà mình (x. St 18, 1-5) ông đã nhận được lời hứa. Cuộc gặp gỡ nhiệm mầu ấy báo trước buổi Truyền Tin cho Đức Maria. Sự hiệp thông giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần lôi kéo Mẹ. Nhờ lời thưa “xin vâng” của Đức Maria tại Nagiarét mà mầu nhiệm Nhập Thể hoàn tất cuộc gặp gỡ của Abraham với Thiên Chúa. Hôm nay chúng ta hát mừng người nữ ” đem vầng hồng rực rỡ xuống trần gian” ( Hymne Ave Regina Caelorum ).
Chúng ta xin gì cùng Mẹ Thiên Chúa ?
Chúng ta cầu xin cho những người sống đời thánh hiến, để họ biết đón nhận Lời Chúa, cưu mang Lời Chúa, suy ngẫm Lời Chúa như Mẹ Maria, nhất là sống theo Chúa Kitô, khiết tịnh, thanh bần và vâng phục là một sự chú giải sống động về Lời Chúa. Xin cho họ được luôn thưa “xin vâng” với trọn bản thân và tất cả lòng chân thành, hoàn toàn sẵn sàng đối với thánh ý Chúa và lượng từ bi của Ngài.
Trong năm Phúc Âm Hóa Giáo xứ, xin cho mọi người biết quan tâm đến nhau, mở rộng tâm hồn đón nhận thánh ý Chúa, quảng đại giúp đỡ tha nhân. Vì Giáo hội luôn ý thức rằng: “Nếu một chi thể đau, thì tất cả các chi thể khác cũng đau” (1 Cr 12,26), nên Đức khẳng định: “Mỗi cộng đoàn Kitô được kêu gọi hãy vượt qua ngưỡng cửa nối kết họ với xã hội xung quanh, với những người nghèo và những người xa xăm. Giáo Hội tự bản chất là thừa sai, không co cụm vào mình, nhưng được sai tới tất cả mọi người. Sứ mạng của Giáo Hội là kiên nhẫn làm chứng về Ðấng muốn mang tất cả thực tại và mỗi người về cùng Chúa Cha… Tôi ước mong sao ở đâu Giáo hội hiện diện, đặc biệt là các giáo xứ và cộng đoàn của chúng ta, ở đó trở thành những honf đảo từ bi giữa lòng biển cả dửng dưng!” (Sứ điệp Mùa Chay năm 2015)
Ước gì trên hành trình dương thế, có Mẹ Maria đồng hành, chúng ta có thể thưa: Lạy Chúa, này con đây, xin Chúa thực hiện nơi con những gì Chúa muốn trong mọi hoàn cảnh của đời con. Amen.
Trong thời đại ‘kỹ thuật số’, việc truyền thông hay truyền tin chẳng còn xa lạ gì đối với chúng ta LễTruyềnTin 77
Trong thời đại ‘kỹ thuật số’, việc truyền thông hay truyền tin chẳng còn xa lạ gì đối với chúng ta. Người ta có thể gửi và nhận thông tin hằng ngày một cách đơn giản và dễ dàng qua các phương tiện truyền thông cá nhân và đại chúng. Nội dung hay ‘sứ điệp’ chuyển tải cũng thật sự đa dạng bao gồm cả tốt lẫn xấu, vui hay buồn tuỳ theo mục đích và sự chọn lựa của người sử dụng. Do vậy, khi mừng lễ Truyền Tin, ta thử nhìn lại biến cố này có ý nghĩa gì trong đời sống đức tin của chúng ta, đặc biệt đối với Dòng Ngôi Lời chúng ta.
Biến cố truyền tin đánh dấu một sự khởi đầu chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Đây là sáng kiến của Thiên Chúa khởi đi từ tình yêu và lòng thương xót của Người. “Thiên Chúa yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Người, để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Ngang qua biến cố này, Ngôi Hai Thiên Chúa đã mặc lấy xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta (Ga 1,14). Trong một ý nghĩa nào đó, biến cố này cũng đánh dấu sự bắt đầu của Hội dòng chúng ta, vì việc nhập thể của Ngôi Lời (Divine Word) cho phép chúng ta trở nên những “người anh em đồng hành của Ngôi Lời”, ngang qua danh xưng Dòng Ngôi Lời (a Society of the Divine Word).
Chúng ta thường nghĩ rằng Truyền Tin là loan báo một tin vui. Nhưng nếu ta suy niệm và chiêm ngắm sâu biến cố này ta mới cảm nhận rằng điều trở thành một tin vui được bắt đầu từ một tin buồn. Không khó khăn để ta hình dung rằng Đức Maria hẳn đã có những ước mơ riêng, những kế hoạch riêng – một đời sống yên bình với thánh cả Giuse trong một thị trấn nhỏ tại Nadarét, xa cách thành phố lớn Giêrusalem nơi đầy tranh luận tôn giáo và thủ đoạn chính trị. Nhưng rồi Lời Chúa đến với Mẹ Maria đã đảo lộn những ước mơ và phá đổ tận căn kế hoạch riêng của Mẹ. Mẹ được mời gọi đóng một vai trò cụ thể trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa: trở nên Mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, Mẹ của Đấng Cứu Thế như lời đã hứa. Thay vì có một đời sống yên bình với thánh Giuse, giờ đây Mẹ phải sống một đời chia sẻ với sứ vụ của Đức Giêsu, người Con của Mẹ, một đời sống liên quan với âm mưu và tranh cãi xoay quanh Đấng Cứu Thế.
Ta có thể thắc mắc và hỏi rằng điều gì trở thành một tin vui được bắt đầu từ một tin buồn. Làm thế nào Mẹ Maria đã biến đổi từ tin buồn đó trở thành tin vui? Tôi nghĩ chúng ta có thể nhìn thấy ba khoảnh khắc trong lời đáp trả của Mẹ Maria đối với Lời Thiên Chúa.
Đầu tiên, đó là khoảnh khắc sợ hãi, bối rối và thậm chí có vẻ chống đối. Tin Mừng thuật lại cho chúng ta biết Mẹ Maria ngạc nhiên trước lời chào của sứ thần Chúa. Mẹ sợ hãi và không biết lời chào của sứ thần có nghĩa gì. Vì thế Mẹ phản kháng: “Điều ấy xảy ra như thế nào? Vì tôi không biết đến việc vợ chồng” (Lc 1,34). Sau khoảnh khắc đầu tiên là khoảnh khắc tiếp theo. Một khoảnh khắc của thinh lặng, cầu nguyện, phản tỉnh, biện phân và chiêm niệm. Mẹ đã suy nghĩ cân nhắc trong tâm hồn khi Lời Chúa đến với mình ngang qua lời sứ thần.
Thỉnh thoảng chúng ta nghĩ việc Truyền Tin diễn ra trong một giờ hoặc một ngày. Nhưng trong thực tế, nó có thể kéo dài trong nhiều ngày hoặc nhiều tuần. Hẳn là Mẹ Maria đã dành nhiều thời gian để biện phân lời mời của Thiên Chúa. Trong tinh thần cởi mở và trong bầu khí tĩnh lặng, Mẹ lắng nghe lời giải thích của sứ thần. Mẹ biện phân những cách thức mà Thiên Chúa đã mạc khải nơi người khác, như bà Êlisabét, người họ hàng của Mẹ. Sau cùng dẫn đến khoảnh khắc thứ ba, khoảnh khắc của việc đón nhận trong hân hoan Lời của Chúa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như sứ thần nói” (Lc 1,38).
Trong cuộc sống của chúng ta cũng thế, thoạt tiên Lời Chúa đến với chúng ta như thể một tin buồn. Lời Chúa có thể làm đảo lộn mọi ước mơ hay phá đổ những kế hoạch cá nhân của ta. Điều này có thể là trường hợp trong anh em chúng ta, những người được mời gọi đảm trách những công việc và chức vụ leadership trong Tỉnh Dòng hay trong cộng đoàn. Nó cũng thách đố chúng ta trong khi đón nhận bài sai để thi hành sứ vụ. Và nó cũng có thể xảy ra đối với anh em trong mọi tình huống vào lúc này hoặc lúc khác. Nhưng, như gương Mẹ Maria, chúng ta cũng có thể biến đổi từ tin buồn đó thành tin vui. Để được như thế, chúng ta cũng tuần tự theo ba khoảnh khắc trong lời phúc đáp của Mẹ Maria đối với Lời Chúa: một khoảnh khắc của sợ hãi, bối rối và miễn cưỡng; một khoảnh khắc của biện phân, cầu nguyện và suy niệm; một khoảnh khắc của việc đáp trả vui tươi và đón nhận Lời Chúa.
“Ngôi Lời đã trở nên xác phàm và ở giữa chúng ta” (Ga 1,14). Lời của Thiên Chúa đã “đâm rễ sâu” trong tâm hồn Mẹ và đã hoá thành nhục thể. Nói như thánh Âu Tinh, trước khi Lời được cưu mang trong dạ Mẹ, Lời đã đâm rễ sâu trong tâm hồn Mẹ. Hiến pháp Dòng cũng mời gọi chúng ta noi gương Đức Maria trong việc chú tâm lắng nghe và quảng đại đáp lại Lời Thiên Chúa (HP số 406). Trở về với Lời Chúa, hay nói khác đi “Đâm rễ sâu vào Lời – Dấn thân cho sứ vụ” là căn nguyên và động lực để chúng ta làm mới con người và sứ vụ hôm nay như Tổng Tu Nghị XVIII vừa qua đã trình bày.
Với danh xưng là Dòng Truyền Giáo Ngôi Lời, chúng ta không chỉ loan báo Tin Mừng hay tin vui mà thôi, nhưng còn có nhiệm vụ biến đổi nhiều tin buồn trong thế giới hôm nay thành tin vui nữa. Chúng ta có thể làm được điều này, nếu chúng ta biết noi gương Mẹ Maria trong việc lắng nghe Lời Chúa và để cho Lời Chúa “đâm rễ sâu” trong tâm hồn chúng ta, mãi cho đến khoảnh khắc mà chúng ta dám công bố: “Tôi là tôi tá Chúa, xin hãy thực hiện nơi tôi Lời Thiên Chúa phán dạy”.
Đăng bởi: admin, vào lúc: 06:00 - 24/03/2019, chỉnh sửa lần cuối 22/03/2019, Danh Mục: Suy Niệm Hằng Ngày, Tin Nổi Bật. Tags bai giang, chia sẻ, kinh thanh, lễ mẹ truyền tin, lễ truyền tin, loi chua, lời chúa hằng ngày, suy niem, suy niệm hằng ngày, thánh kinh, tin mừng, truyền tin.
Đúng chín tháng trước lễ Chúa Giáng Sinh, Giáo Hội cho chúng ta mừng trọng thể lễ Truyền Tin LễTruyềnTin 78
Đúng chín tháng trước lễ Chúa Giáng Sinh, Giáo Hội cho chúng ta mừng trọng thể lễ Truyền Tin. Thánh lễ này nhắc lại biến cố sứ thần Gabriel được sai đến loan báo cho Đức Maria rằng Mẹ sẽ được diễm phúc làm Mẹ của Đấng Cứu Thế. Đây là một vinh dự tột bậc mà Thiên Chúa đã yêu thương dành riêng cho Mẹ Maria. Nhờ khiêm tốn đáp lời xin vâng, Mẹ đã chính thức đón nhận sứ vụ vĩ đại này: cưu mang Ngôi Lời nhập thể làm người.
Cùng với Mẹ Maria, chúng ta dâng lên Thiên Chúa lời ngợi khen cảm tạ vì hồng ân quá lớn lao mà Ngài đã tặng ban cho Mẹ. Thế nhưng ở đây, chúng ta cũng cần nhận ra rằng: trong chương trình cứu độ yêu thương của Ngài, Thiên Chúa luôn mời gọi sự cộng tác của con người. Rõ ràng, là một Đấng quyền năng vô biên, Thiên Chúa có thể cứu độ chúng ta một cách dễ dàng theo ý Ngài muốn. Nhưng qua biến cố sứ thần Gabriel truyền tin cho Đức Mẹ, Thiên Chúa muốn loài người góp phần tích cực của mình vào kế hoạch cứu độ của Ngài. Nói như thánh Augustinô: “Để dựng nên con, Thiên Chúa không cần con, nhưng để cứu độ con, Chúa cần con đáp lời”.
Mỗi người chúng ta đều có một ý nghĩa trong chương trình của Thiên Chúa. Điều quan trọng là chúng ta có khiêm tốn nhận ra và mau mắn đáp trả lời mời gọi cộng tác để thánh ý cứu độ của Chúa được mau thành toàn.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dạy chúng con biết noi gương Mẹ trong việc luôn biết đón nhận và nhiệt tâm thực thi thánh ý của Chúa trong cuộc đời mình, hầu góp phần làm sáng danh Chúa và mưu ích cho phần rỗi của các linh hồn. Amen.
Nội dung kinh Truyền tin diễn tả biến cố thiên sứ Gabriel truyền tin cho Ðức Trinh Nữ Maria chịu LễTruyềnTin 79
Nội dung kinh Truyền tin diễn tả biến cố thiên sứ Gabriel truyền tin cho Ðức Trinh Nữ Maria chịu thai Ngôi Lời nhập thể. Còn bản kinh hiện nay và thời giờ đọc đã được diễn tiến từ thế kỷ XIII. Thoạt tiên, Ðức Grêgoriô truyền dạy đánh chuông buổi chiều cầu cho các nghĩa binh thánh giá. Năm 1269, Thánh Bonaventura dạy các tu sĩ khuyến khích giáo dân đọc kinh Kính mừng chào kính Ðức Mẹ sau kinh đêm và đánh chuông để tưởng niệm mầu nhiệm Nhập Thể. Thời đó, tu sĩ Bonvesin Riva (1260-1315) truyền bá việc đánh chuông đọc kinh Kính mừng buổi chiều cho các giáo xứ thành phố Milan và các vùng phụ cận. Dần dần mỹ tục này được truyền bá khắp các miền Kitô giáo. Ngày 13 tháng 10 năm 1318, Ðức Gioan XXII chuẩn nhận mỹ tục đọc kinh Kính mừng vào buổi tối, và ngày mồng 7 tháng 5 năm 1327, ngài truyền đánh chuông đọc ba kinh Kính mừng buổi chiều tại thành Rôma. Ngài cũng ban ân xá cho việc đó.
Thế kỷ XIV các đan viện đánh chuông trong khi đọc ba kinh Kính Mừng lúc giờ kinh ban mai. Năm 1386 Công đồng Prague (nước Áo) có nói đến mỹ tục đánh chuông đọc kinh Kính mừng buổi trưa các ngày thứ Sáu kính nhớ cuộc khổ nạn của Chúa và cầu cho hoà bình. Năm 1456, Ðức Calixtô III truyền dạy đánh chuông đọc kinh Kính mừng buổi trưa mọi ngày trong tuần để tạ ơn Ðức Mẹ cho nghĩa binh thánh giá chiến thắng quân Hồi giáo Thổ nhĩ kỳ. Vua Louis XI nước Pháp (1423-1483) cũng sùng mộ mỹ tục buổi trưa đó để cầu bình an. Ðang khi cưỡi ngựa mà nghe chuông kinh Kính mừng buổi trưa, vua xuống ngựa, quì gối đọc kinh.
Ðến thế kỷ XVI, mỹ tục đánh chuông đọc ba kinh Kính mừng cả ba buổi sáng, trưa, và tối. Bản kinh Truyền tin hiện tại đã được Ðức Benedictô XIV hoàn toàn phê nhận năm 1724. Ðức Benedictô XIV, Ðức Leo XIII, và Ðức Piô XI ban ân xá: mỗi lần mười năm ân xá, nếu đọc hằng ngày cả ba buổi trong một tháng thì được một ơn đại xá.
Ngày nay, Ðức Gioan Phaolô II theo mỹ tục của các vị tiền nhiệm buổi trưa đứng ở cửa sổ điện Vatican đọc kinh Truyền tin chung với khách hành hương tại quảng trường thánh Phêrô, và đọc thêm kinh Sáng danh và kinh cầu cho các tín hữu đã qua đời.
Kinh Kính Mừng
Kính mừng Maria đầy ơn phúc. Lạy Mẹ Ðồng Trinh Vô nhiễm chí thánh, Mẹ là thụ tạo hết sức khiêm nhu và hết sức cao trọng trước mặt Chúa, Mẹ đã tự nhìn nhận Mẹ rất nhỏ bé, nhưng Chúa lại nhìn nhận Mẹ là Mẹ rất cao sang, đến nỗi tôn vinh Mẹ làm Mẹ Người, và làm Nữ Vương trời đất. Con cảm tạ Chúa vì đã cao tôn Mẹ nhường ấy, con vui mừng cùng Mẹ, vì Mẹ được hợp nhất với Thiên Chúa chí cao, không thụ tạo nào có thể hợp nhất cùng Chúa hơn được nữa. Nhưng thấy Mẹ trọn lành thánh thiện nhường ấy mà vẫn tự khiêm tự hạ, thì con bẽ bàng không dám đến trước mặt Mẹ, vì con kiêu căng, đầy bao tội lỗi. Nhưng, dầu con khốn nạn mọi đàng, con cũng cả dám dâng lên Mẹ lời thiên thần chào Mẹ: Kính mừng Maria đầy ơn phúc. Mẹ tràn đầy ơn phúc, xin cho con được thông phần phúc đức cùng Mẹ. Thiên Chúa ở cùng Mẹ. Chúa đã luôn luôn ở cùng Mẹ ngay từ khi Mẹ vừa được phôi dựng, nhưng từ khi xuống làm Con Mẹ, lại càng keo sơn gắn bó cùng Mẹ hơn.
Mẹ có phúc lạ hơn mọi nữ nhân. Ôi! Mẹ là nữ nhân phúc đức trong giới nữ lưu, xin Mẹ cũng cầu cùng Chúa chúc phúc chúng con.
Và Giêsu, quả của lòng Mẹ cũng đầy phúc. Lạy Mẹ là cây phúc lộc, đã sinh cho thế giới một quả tuyệt cao, tuyệt thánh!
Thánh Maria Ðức Mẹ Chúa Trời. Ôi! Maria, con nhìn nhận Mẹ là Mẹ thật Thiên Chúa, và để chứng thực chân lý này, con sẵn sàng hy sinh một nghìn lần mạng sống con.
Xin Mẹ cầu cho chúng con là những tội nhân khốn nạn. Nếu Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, thì cũng là Mẹ cứu độ chúng con, Mẹ của chúng con, những tội nhân khốn nạn, vì Thiên Chúa đã làm người để cứu với các tội nhân' và Chúa đã chọn Mẹ làm Mẹ Người, để lời Mẹ nguyện cầu có quyền năng cứu độ bất cứ tội nhân nào. Vậy, lạy Mẹ Maria, xin cầu cho chúng con.
Khi nay và trong giờ lâm tử. Xin cầu cho chúng con luôn luôn: xin cầu cho chúng con khi nay, lúc mà chúng con chơi vơi giữa biết bao cám dỗ, bao nguy hiểm liều mất Chúa trong đời chúng con. Nhưng nhất là xin cầu cho chúng con trong phút lâm chung, khi chúng con sắp từ biệt thế trần và ra trước toà Chúa, để nhờ công nghiệp cứu độ, một ngày kia, không lo gì phải hư mất nữa, chúng con có thể đến kính chào Mẹ, ngợi khen Mẹ, Mẹ và Con Mẹ, trên thiên đàng đời đời. Amen. (Vinh quang Ðức Mẹ Maria, tập 2, tr. 91-92).
Câu Truyện về Lễ Mẹ Nhận Tin Năm 1456, thành Belgrade trên sông Danube bị quân Thổ-Nhĩ-Kỳ bao vây và đánh phá ròng rã bốn tháng trời, nhưng vẫn không sao chiếm nổi. Thất vọng vì thấy bao nhiêu nỗ lực bị uổng công, vua Thổ quyết mở một cuộc tấn công đại qui mô. Trong 20 tiếng đồng hồ, đôi bên đánh nhau kịch liệt.
Quân thủ thành nhược sức chán nản vì phải cầm cự lâu ngày quá, họ đã định đầu hàng quân giặc, giữa lúc đó thánh Gioan Capistrano, một tu sĩ đạo đức Dòng Phanxicô, xuất hiện, ngài cầm một tượng Thánh giá, tiến lên, giơ cao cho binh sĩ xem thấy và cầu nguyện lớn tiếng: "Lạy Nữ Vương quyền phép trên trời, Mẹ bỏ các con cái Mẹ rơi vào tay quân vô đạo để chúng tha hồ làm nhục, làm ô danh Con Chí Thánh của Mẹ sao? Chúng sẽ dựa vào sự đắc thắng mà nhạo báng: Thiên Chúa của quân Công giáo ở đâu?" Vừa van xin thánh nhân vừa khóc lóc thảm thiết.
Kích thích bởi lời cầu nguyện và nước mắt thánh nhân, binh sĩ Công giáo hăng hái cách lạ, xông vào quân Thổ đã đột nhập vào thành, giết hàng vạn tên, còn bao nhiêu trốn thoát hết.
Ðược tin chiến thắng cách lạ đó, Ðức Thánh Cha Calixtô III vui mừng hớn hở, truyền cho khắp Giáo hội, trong các nhà thờ phải hát kinh Tạ Ơn Chúa, và ra lệnh từ hôm đó trở đi, vào quãng hai hoặc ba giờ chiều, là giờ chiến thắng, các nhà thờ phải kéo chuông đọc ba kinh Kính mừng để kỷ niệm, đồng thời nhắc nhở lòng tin tưởng vào quyền phép và lòng thương yêu của Ðức Mẹ.
Về sau, hồi chuông được dịch lên giờ trưa, để chia ngày ra hai phần đều nhau đọc ba kinh Kính mừng rồi kinh Truyền tin, nhưng vẫn có ý kỷ niệm cuộc chiến thắng anh dũng đó. (Những ơn lạ Mẹ ban tập 2, tr. 99-100) ------------------------- [1] Kinh nguyện Thánh Thể II [2] Thành kiến (成見): ý nghĩ cố định về người hay vật, xuất phát từ cách nhìn sai lệch hoặc dựa trên cảm tính và thường xuyên có chiều hướng đánh giá thấp. [3] William Barclay, Tin Mừng theo Thánh Matthêu, NXB Tôn Giáo, 2008, tr. 203-204.
Ðúng chín tháng trước lễ Giáng Sinh, phụng vụ hôm nay mừng kính Mầu Nhiệm xuống thế LễTruyềnTin 80
Ðúng chín tháng trước lễ Giáng Sinh, phụng vụ hôm nay mừng kính Mầu Nhiệm xuống thế của Con Một Chúa. Ðược sứ thần Gabrie trình bày chương trình của Thiên Chúa, Ðức Maria đã khiêm tốn chấp nhận, nhờ đó Ngôi Hai đã nhập thể làm người và ở giữa chúng ta.
Khi suy niệm về hai chữ “Xin vâng” của Ðức Maria, các giáo hữu thời xưa đã quen tuyên xưng Ðức Mẹ là “Evà mới”.
Chính sự bất tuân của Evà thứ nhất đã khiến chúng ta phải chết, thì sự ưng thuận của Ðức Maria đã làm cho Ngài trở nên Mẹ của một dòng dõi mới, vì Ngài đã ban cho chúng ta chính Chúa Giêsu nguồn mạch sự sống.
Bởi đó mỗi khi đọc kinh truyền tin, chúng ta nhắc lại biến cố trọng đại nhất của lịch sử nhân loại: Mầu Nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa và lời kinh kính mừng được dâng lên Mẹ, chính là lời ca tụng đẹp nhất mà thiên sứ Gabrie đã dùng để kính chào Mẹ Chúa Trời.
Nhóm Châu Kiên Long, Ðà Lạt Vietnamese Missionaries in Asia
Nói đến sợ hãi, chúng ta liên tưởng đến tâm trạng của ai đó cảm thấy không yên lòng, muốn tránh LễTruyềnTin 81
Nói đến sợ hãi, chúng ta liên tưởng đến tâm trạng của ai đó cảm thấy không yên lòng, muốn tránh vì cho rằng sẽ gây nguy hiểm hoặc gây hại cho mình (x. Từ điển Tiếng Việt).
Mẹ Maria trong trình thuật Tin mừng hôm nay (Lc 1, 39-45) cũng cảm thấy lo sợ. Mẹ lo sợ, nói đúng hơn là lo lắng, phân vân, bối rối và bất ngờ trước sứ điệp mà tổng lãnh thiên thần Gabriel vừa loan báo, vì từ trước tới giờ Mẹ vẫn suy tính theo lẽ bình thường của con người. Với những gì Mẹ đang đối diện, quả là một mầu nhiệm khôn dò thấu, một sự kiện không thể mường tượng được, mà ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa đang muốn thực hiện trên cuộc đời Mẹ.
Tại sao nhiều nhân vật trong Kinh Thánh nói chung, đặc biệt trường hợp Đức Maria chúng ta suy niệm hôm nay lại cảm thấy lo lắng và sợ hãi trước những lời đề nghị của Chúa? Đâu là lý do khiến người ta mạnh dạn tin tưởng và thấy không còn sợ sệt để chấp nhận sứ vụ Chúa trao?
Lý do khiến Mẹ Maria thấy sợ hãi.
- Bất ngờ.
Yếu tố bất ngờ xảy ra với Mẹ Maria cũng tương tự như đã từng xảy ra với ngôn sứ Giêrêmia. Khi Giêrêmia được Giavê kêu gọi ra đi làm ngôn sứ cho các dân tộc, ông đã tìm cách thoái thác: "Ôi! Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, con đây còn quá trẻ, con không biết ăn nói!" (Gr 1, 6). Cả ngôn sứ Giêrêmia cũng như Đức Maria đều thấy quá bất ngờ trước lời mời gọi của Chúa, xét thấy khả năng của bản thân không xứng hợp để làm nhiệm vụ cao cả Chúa trao. Tương tự như vậy, bà Elisabeth dường như phải già đi trước tuổi bởi những đau khổ và an phận với tủi nhục vì không có con cái nối dòng nối dõi, nhưng giờ của Chúa đến đúng lúc bà không thể ngờ và nếu chuyện thường tình của con người không thể xảy ra thì Chúa lại cho phép xảy ra.
Còn hơn Giêrêmia và chị họ Elisabeth, Mẹ Maria phải đối mặt với một bất ngờ lớn hơn nhiều, đó là ý định của Chúa muốn chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế, mà dường như Mẹ không được chuẩn bị gì hết.
- Không hiểu.
Người Dothái xưa và thời bấy giờ vẫn xem những phụ nữ không sinh con là đồ bị chúc dữ. Việc Mẹ Maria tự nguyện hiến dâng đời trinh khiết của mình, tự nguyện hy sinh hạnh phúc cá nhân để góp phần cầu mong Đấng Thiên Sai mau đến, giống như nhiều phụ nữ thời đó là chuyện có thể chấp nhận được. Tuy nhiên ngang qua cuộc đời tận hiến ở tuổi còn rất nhỏ của Mẹ chúng ta thấy sự cao cả và tấm lòng vị tha của Mẹ hiện rõ qua việc Mẹ tự nguyện chọn lấy tình cảnh như bị Thiên Chúa chúc dữ trước mặt người đời. Mẹ đã khấn giữ mình đồng trinh, vậy tại sao thiên thần lại nói "sẽ làm Mẹ Đấng Cứu Thế?
Mẹ vẫn suy tính và hiểu theo nhãn quan của người bình thường, của lí trí hạn hẹp của con người; thế nhưng "không có gì Thiên Chúa không làm được" (Lc 1, 37). Mẹ chính là "Trinh Nữ sẽ thụ thai, và sinh hạ con trai. Người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel" (Is 7, 14) như lời tiên báo của Isaia nhiều thế kỷ trước đó.
- Giới hạn của lòng tin.
Đức Maria có cuộc gặp gỡ với tổng lãnh thiên sứ Gabriel hết sức đặc biệt. Thiên sứ trao cho Mẹ chương trình Chúa muốn thực hiện trên cuộc đời Mẹ: được tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế.
Lòng tin của Mẹ Maria vào Thiên Chúa chắc chắn đã mạnh, nhưng đứng trước sự kiện lạ lùng này, Mẹ cũng phân vân, thắc mắc..... Chính vì vậy thiên thần Gabriel trấn an: "Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận" (Lc 1, 30-33).
Vì còn giới hạn bởi lòng tin nên Mẹ phải hỏi lại và hỏi thêm các thông tin; tuy nhiên đó cũng khía cạnh cho thấy Mẹ hoàn toàn tự do trước lời mời gọi của Chúa.
Lý do khiến Mẹ Maria thấy hết sợ hãi.
- Khiêm tốn.
Mẹ Maria sở dĩ là Đấng đẹp lòng Thiên Chúa vì Mẹ là người khiêm tốn. Dù bản thân muốn sống theo một lối riêng nhưng vui vẻ và sẵn sàng đón nhận ý Chúa làm lẽ sống của đời mình. Khiêm tốn, dễ dạy là đức tính cần thiết của thụ tạo.... và thụ tạo đẹp lòng Chúa cũng như xứng đáng nhất để nhận nhiệm vụ làm Mẹ Đấng Cứu Thế không ai khác ngoài Đức Maria: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền" (Lc 1, 38).
Thưa "xin vâng" là hành vi đẹp nhất mặc dù với tất cả sự liều lĩnh theo cách tính toán của con người. Khoảnh khắc trước và sau tiếng "xin vâng" đã làm cho cuộc đời Mẹ Maria trở nên hoàn toàn khác. Với lời thưa vâng ấy, sự tín thác nơi Chúa và tình thương Ngài đang thực hiện trên cuộc đời hèn mọn của Mẹ; đồng thời cũng cho thấy rằng một thế giới mới đang được mở ra.
- Cộng tác.
Mẹ Maria đã khiêm tốn thưa vâng để cộng tác với ý định Thiên Chúa. Với sự đồng thuận này Mẹ đã hoàn toàn để cho Thiên Chúa làm chủ và hướng dẫn đời mình với trọn niềm phó thác, cậy trông và yêu mến. Trong từng biến cố lớn nhỏ, Mẹ đã luôn chăm chú lắng nghe lời Thiên Chúa và trung thành làm theo ý Thiên Chúa (Lc 1, 38; Mc 3,31-35; Lc 11, 28; GH 56. 61. 63. Đặc biệt, Mẹ luôn yêu mến và gắn bó với Chúa Giêsu, lòng yêu mến đó đã được thể hiện sâu đậm trong những giờ phút đau khổ ở dưới chân Thánh giá (Lc 1,41-52; Ga 19,25-27). Công đồng Êphêsô năm 431 đã tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Tước hiệu ấy trước hết nhằm khẳng định Thần tính của Chúa Giêsu, nhưng đồng thời cũng là một lời tôn vinh Đức Mẹ: một người phụ nữ giữa muôn người mà lại được phúc cưu mang và sinh hạ chính Con Thiên Chúa (x. Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ chúng ta:
Mặc dù phải mò mẫm trong đức tin nhưng Mẹ vẫn tin và phó thác tất cả sứ vụ đời mình cho Thiên Chúa tình yêu.
Sở dĩ có được điều này vì đức tin của Mẹ đã lớn lên, Mẹ dám đặt trọn chương trình của Chúa muốn nơi mình. Mẹ thấy an tâm vì biết rằng đó là thánh ý Thiên Chúa, là kế hoạch nhiệm mầu Thiên Chúa sử dụng để qua Mẹ nhân loại nhận lại được hồng ân sự sống và hạnh phúc vĩnh cửu từ Đấng Cứu Chuộc. Cùng với tâm tình của Vịnh gia Mẹ đã hát lên: "Có Chúa ở với ta, ta còn sợ gì?".
Kết:
Khi chưa nhận sứ mạng cao cả thì trinh nữ Maria đã là tuyệt phẩm của Thiên Chúa. Mẹ được ca ngợi là Đấng Đầy ân sủng, vì Thiên Chúa ở cùng Mẹ. Mặc dù Mẹ thấy lo sợ trước sứ mạng nhiệm mầu của Thiên Chúa nhưng rồi đã hết sợ hãi khi tiếp nhận ý Chúa qua lời thưa xin vâng.
Với lời chấp nhận ấy, Mẹ Maria trở thành Người đẹp lòng Chúa hơn tất cả mọi tạo vật và đã được diễm phúc cưu mang và sinh hạ chính Ngôi Lời của Chúa.
Trong ngày mừng lễ Truyền Tin, chúng ta được mời gọi khiêm tốn tìm đến bên Mẹ và học hỏi các nhân đức của Mẹ, nhất là đức tin, lòng khiêm tốn, sự vâng phục...... để rồi chúng ta cũng trở thành tạo vật cho Chúa có cơ hội "nhập thể" trong chúng ta, để chúng ta cưu mang và an bình vui sống với sự hiện diện của Chúa suốt mọi ngày của cuộc đời này.
Ngày lễ này đã được mừng trong Giáo Hội từ giữa thế kỷ thứ 6, ở vùng
Constantinopel. Đến LễTruyềnTin 82
Ngày lễ này đã được mừng trong Giáo Hội từ giữa thế kỷ thứ 6, ở vùng Constantinopel. Đến thế kỷ thứ 7, ngày lễ này được công nhận mừng ở bên Roma.
Trong Giáo Hội Chính Thống lễ Truyền tin là một trong 12 lễ chính. Từ khi có cải tổ về Phụng vụ năm 1969 lễ này trở thành lễ trọng trong Giáo Hội Công giáo.
Lễ Truyền tin vào ngày 25.03 hằng năm, tính theo ngày tháng niên lịch, đúng chín tháng trước ngày lễ Chúa Giêsu giáng sinh làm người ngày 25.12. Vì thế còn gọi lễ này lễ báo tin Chúa Giês - đấng là mùa Xuân, là mặt trời công chính sẽ sinh ra đến trong trần gian.
Ngày 25.03 theo nhiều vùng là lúc bắt đầu mùa Xuân trong thiên nhiên. Và vào thời gian cuối tháng Ba, ánh sáng mặt trời càng chiếu tỏa trong trời đất càng nhiều giờ hơn vào ban ngày.
Hai yếu tố âm dương hòa hợp nẩy sinh tạo nên một sự sống mới. Đó là định luật thiên nhiên do Thiên Chúa đã tạo dựng như vậy. Nhưng nơi Đức Mẹ Maria thụ thai thì lại khác, Đức Chúa Thánh Thần, Đấng là sự sống, đã tác dụng gầy dựng sự sống Chúa Giêsu trong cung lòng Đức Mẹ Maria (Lc 1,28-38).
Cả hai biến cố ngày lễ Thiên Thần đã đóng vai trò sứ giả làm trung gian cho ý định của Thiên Chúa được thực hiện nơi con người trên trần gian. Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Có thể nói, Mầu Nhiệm Truyền Tin là "Mẹ" của các mầu nhiệm, vì sao , thưa quý vị? Thưa, vì LễTruyềnTin 83
Có thể nói, Mầu Nhiệm Truyền Tin là "Mẹ" của các mầu nhiệm, vì sao , thưa quý vị? Thưa, vì mầu nhiệm Truyền Tin là mầu nhiệm đứng đầu, mầu nhiệm khởi sự công trình cứu độ của Thiên Chúa. Trước hết và trên hết, chúng ta thấy mầu nhiệm Truyền Tin là một mầu nhiệm Thiên Chúa Tỏ Mình ra cho nhân loại, hay có thể gọi là mầu nhiệm Mặc Khải đầu tiên của Tân Ước. Thiên Chúa mời gọi và con người đáp trả. Vâng, đây cũng có thể nói là mầu nhiệm "Đức Tin" . Vì sao, thưa quý vị ? Thưa, khi mà vị linh mục xướng lên "Đây là mầu nhiệm Đức Tin ", sau khi truyền phép Thánh Thể. Và cộng đoàn giáo dân thưa: "Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết, và tuyên xưng việc Chúa sống lại, cho tới khi Chúa lại đến ". Vâng, trong Thánh Lễ Misa
đây là lúc quan trọng nhất, bởi vì, nếu không có mầu nhiệm Đức Tin, thì tất cả đều vô nghĩa. Điều đó có nghĩa gì? Thưa, có nghĩa là: Thánh Thể Chúa Giêsu vốn dĩ vô hình, siêu nhiên, cực Thánh. Nhưng Người đã biểu lộ cho nhân loại bởi sự Hữu Hình, Hữu Thể cách sống động, và rồi nhãn quan trần thế không nhìn thấy được, nhưng con mắt Đức Tin thì phải tán tụng, bởi vì là một "mầu nhiệm ". Vâng, chính là "Mầu Nhiệm Đức Tin".
Theo đó, chúng ta thấy, Thiên Chúa sáng tạo nhân loại thật kỳ diệu, nhưng cứu chuộc nhân loại còn kỳ diệu hơn nữa. (trong kinh nguyện sách lễ ). Như vậy, dù con người chưa tin ơn cứu độ, nhưng nhân loại không thể phủ nhận sự sống trần gian, sự sống hữu hình trên mặt đất nầy, mà không do bởi sự tao thành của Thượng Đế. Bởi vì không một ai tự nhiên xuất hiện từ cục đá. Trừ phi là Tề Thiên Đại Thánh đại náo thiên cung ( nhân vật hư cấu của Trung Hoa).
Từ đó, sau khi con người chống lại Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa không bỏ mặc con người dưới quyền sự ác. Vì vậy, Thiên Chúa đã Hứa ban Đấng cứu độ muôn dân. Nên chi, khi đến giờ đã định, Đấng Cứu Thế sẽ Giáng Sinh bởi một người " Mẹ", vì Thiên Chúa đã sáng tạo loài người, nên Đấng Cứu Thế sẽ làm Người. Vì vậy, mặc nhiên "Mầu Nhiện Truyền Tin" ra đời, hầu thực hiện Lời Hứa của Thiên Chúa đối với nhân loại.
Và hôm nay, chúng ta sẽ nghe thánh Luca thuật lại biến cố Truyền Tin. ( Lc 1, 26-38)
Vâng, biến cố truyền tin là một mầu nhiệm vĩ đại nhất trong toàn bộ công trình cứu chuộc của Thiên Chúa, bởi vì, Mầu nhiệm Truyền Tin là mẹ của tất cả các mầu nhiệm. Vì tiếng "xin vâng" của Mẹ Maria không phải chỉ bằng môi miệng , mà bằng cả một niềm tin, bằng trọn vẹn tấm lòng của Mẹ.
Vâng, niềm tin của Mẹ Maria và lời thưa xin vâng của Mẹ có gía trị như thế nào đối với mầu nhiệm Truyền Tin ?
Chúng ta hãy đối chiếu với cuộc truyền tin cho ông Gia-ca-ria và cho Đức Maria. Khi được sứ thần loan báo một biến cố trọng đại như vậy, xét về bản tính tự nhiên, ai cũng tự hỏi, suy tư, thắc mắc, bởi vì việc siêu nhiên thì luôn khác với việc tự nhiên. Chúng ta thấy sự đối đáp bên ngoài của ông Gia-ca-ria và Đức Maria không khác nhau là mấy. Nhưng sự khác biệt rất lớn giữa hai tâm hồn được sứ thần tuyền tin. Đó là sự tin tưởng trong tâm hồn của Đức Maria, một sự tin tưởng tuyệt đối và sự tin tưởng ấy là muốn cho ý định, kế hoặch của Thiên Chúa được hoàn thành. Còn ông Gia-ca-ria thì không c1o tâm hồn nầy, bởi vì ông không tin điều Thiên Chúa sẽ thực hiện ngya trong lòng ông, và điều nầy sứ thần của Thiên Chúa biết, và như vậy, để chứng minh Lời Chúa sẽ trở nên hiện thực, thì ông Gia-ca-ria phải bị câm, cho tới khi sự việc hoàn tất. Chúng ta thấy, trải qua bao đời, như lời Đức Mẹ Nói, Thiên Chúa luôn thực thi mọi việc Ngài nói.
Tâm hồn của Mẹ Maria luôn khát khao điều Thiên Chúa muốn, vì Mẹ biết không có gì mà Thiên Chúa không làm được.Sự đón nhận biến cố Truyền Tin nơi Đức Maria là một đón nhận ơn mặc khải trong đại, một sự đáp trả tuyệt vời nhất của thụ tạo đối với Thiên Chúa. Lời thưa" xin vâng" của Mẹ là một sự bằng lòng đ1on nhận sự lạ lùng, sự kỳ diệu một cách nhưng không của Mẹ. Có thể nói, Mẹ Maria là vị linh mục tuyệt vời nhất, trước Con của Mẹ là Đấng Cứu Thế. Bởi vì, Mẹ đã Đồng Công Cứu Chuộc trước khi ơn cứu chuộc xảy ra. Mẹ đã chấp nhận dâng Chúa Giêsu trên bàn thờ Hy Tế cho Thiên Chúa Cha, trước khi cuộc Hy Tế thật sự diễn ra của Đức Kitô. Mẹ chính là vì linh mục đầu tiên,vì Mẹ đã đón nhận Chúa Giêsu vào cung lòng của Mẹ và Mẹ đã nuôi dưỡng, ấp ủ , che chở ,cung kính Chúa như một báu vật, và điều nầy, há không phải là công việc, trong trách và vinh quang của một linh mục sao? Ơn cứu độ được bắt đầu từ Chúa Giêsu và được diễn ra bởi Chúa Giêsu, sau cùng được kết thúc bởi Chúa Giêsu. Nhưng Mẹ là người cưu mang Chúa Giêsu
, sinh hạ Chúa Giêsu, nuôi dưỡng Chúa Giêsu, bước theo Chúa Giêsu, và sau cùng chứng kiến Hy Lễ Thập giá của Người. Như vậy, sự kiện đón nhận mầu nhiệm Truyền Tin của Đức Maria, không đơn thuần là được làm mẹ một cách bình thường, như một thiên chức bình dị của mọi người phụ nữ, là được sinh con, nuôi con mà thôi, mà là một sứ mạng cao cả, duy nhất, đạc biệt nhất của một người phụ nữ duy nhất được làm Mẹ Đấng Cứu Thế, mà Đấng Cứu Thế chính là Thiên Chúa, vì vậy Mẹ chính là Mẹ Thiên Chúa. Đấng ấy chính là Giêsu- Kitô, Con Thiên Chúa, chính là Đấng Con lòng Bà gồm phúc lạ.
Và như vậy, Kinh Kính Mừng được bắt đầu từ đây , cùng với lời của Hội Thánh kêu cầu Mẹ, làm thành một lời chúc tụng ca vang, chúc khen Mẹ muôn đời cho loài người.
Chính Mẹ dâng Chúa Cứu Thế, đồng thời là Con của mẹ lên cho Chúa Cha, và Mẹ Tuyên xưng rằng: "Đây là mầu nhiệm Đức Tin", lời mà ngày nay trong mọi Thánh Lễ đều phải tuyên xưng bởi linh mục.
Như vậy, Mầu Nhiệm Truyền Tin đồng thời là mầu nhiệm Nhập Thể, mầu nhiệm cứu chuộc, mầu nhiệm Thập Gía, mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Con Thiên Chúa làm Người là Đức Giêsu- Kitô. Như vậy, Mẹ Maria không phải là một vị linh mục và là Mẹ của các linh mục sao?
Lạy Thiên Chúa là Cha nhân từ, Cha đã kêu mời một thụ tạo xứng hợp là Đức Trinh Nữ Maria cộng tác vào công trình cứu độ loài người của Cha vì yêu thương nhân loại. Xin cho chúng con biết noi gương Mẹ để mau mắn tin trung vào Cha là Thiên Chúa toàn năng, hầu chu toàn phận sự Cha trao cho một cách trọn vẹn như Đức Maria. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa Chúng con. Amen
Giáo hội cử hành Lễ Truyền tin cho Đức Maria vào ngày 25 tháng 3. Truyền Tin là thời điểm khi LễTruyềnTin 84
Giáo hội cử hành Lễ Truyền tin cho Đức Maria vào ngày 25 tháng 3. Truyền Tin là thời điểm khi Tổng Lãnh Thiên Thần Ga-bri-el công bố rằng Mẹ Maria sẽ là mẹ của Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể thông qua quyền năng của Chúa Thánh Thần. Lễ này cũng được gọi là lễ của mầu nhiệm Nhập Thể trong lịch cũ. Nó có nguồn gốc từ khoảng thời gian của Công đồng Êphêsô (năm 431) và là lần đầu tiên được đề cập trong Sách Lễ triều đại Đức Giáo Hoàng Ge-la-si-us (chết 496). Lễ này cũng được kết nối với ngày lễ Giáng sinh (25 tháng 12) bởi vì nó đã được công bố với Mẹ Maria rằng qua sự sẵn sàng hợp tác của Mẹ Maria sự Nhập Thể của Chúa Giê-su sẽ xảy ra. Nhưng lễ này gần như luôn luôn diễn ra trong mùa Chay là một thời điểm kỷ niệm của sự thương khó,sự chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu.
Do đó, có thể nói rằng biến cố Truyền Tin liên quan đến Tin Vui vì Thiên Chúa đã trở thành một người như chúng ta để chúng ta có thể trở nên như con của Thiên Chúa, và là tin quan trọng và lớn hơn, đó là Thiên Chúa, trong con người của Chúa Giêsu, đã “trả giá” cho việc đạt được mục tiêu này. Có nghĩa là, Thiên Chúa thực hiện lời hứa cứu độ: chuộc lại phẩm giá được làm con Thiên Chúa của chúng ta khi Con của Thiên Chúa nhập thể làm người và gánh tội lỗi của tất cả chúng ta để chúng ta được tha tội và được sống.
Chúng ta có thể suy niệm hai điểm trong tháng 3 này: “Tin Vui và Tin Buồn”.
Tin Vui, khi Đức Maria đón nhận từ Tổng Lãnh Thiên Thần Ga-bri-el và đem chia sẻ cho người chị họ là Elizabeth. Cả hai bà mẹ đều đón nhận Tin Vui với sứ mạng riêng của mình: Elizabeth cưu mang vị ngôn sứ chuẩn bị cho Chúa Giê-su Cứu Thế đến và Mẹ Maria cưu mang chính Đấng Cứu Thế Giê-su là niềm hy vọng lớn lao cho nhân loại. Khi nhận lãnh Tin Vui từ trời, cá hai bà mẹ đã phải trả những giá đắt cho sự sẵn sàng cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Tin Buồn, là mỗi lần chúng ta phao tin đồn nhảm, phao tin thất thiệt, tin giả, tin không đúng sự thật. Làm thiệt hai thanh danh người khác. Làm tổn thương tình cảm những người xung quanh. Hoặc chúng ta đem những điều bất hạnh, buồn phiền đến cho ai đó. Mọi hành vi của chúng ta dù tốt hay xấu, đều có liên quan đến người khác. Không ai được phép nói: “Tôi làm tôi chịu, không gây thiệt hại cho ai..!” Mọi việc chúng ta làm dù riêng tư hoặc công khai, đều có liên hệ tới người khác. Chúng ta có trách nhiệm hỗ tương.
Hơn bao giờ hết, Giáo hội Công giáo đang đối diện với những tin buồn, rất đau buồn!. Trong bối cảnh xã hội không muốn bị chi phối bởi những giáo huấn của giáo hội về mặt nhân bản, xã hội, luân lý, chính trị, đức tin… Nên người ta tìm cách phơi bày những khuyết điểm của giáo hội. Có những thông tin thật được kiểm chứng và đáng tin cậy, có những thông tin giả để bôi nhọ, bài bác. Chúng ta thừa nhận bản chất con người trong giáo hội có những yếu đuối, tội lỗi. Chúa gọi và chọn những con người bất toàn để trao phó sứ vụ loan báo Tin Mừng cứu độ. Một số cá nhân đã hành động đi ngược lại lời mời gọi của Tin Mừng và tạo ra Tin Buồn cho thời đại.
Mùa chay đã bắt đầu. Chúng ta được mời gọi trở về giao hòa với Thiên Chúa và làm hòa với nhau. Thiên Chúa cho phép xảy ra tình trạng đau buồn hiện tại để chúng ta nhìn nhận sự yếu đuối của mình mà sống khiêm tốn hơn. Thiên Chúa vẫn luôn bảo vệ con cái của Ngài trong khi Ngài vẫn cho phép sự dữ tung hoành trong thế giới để thử thách chúng ta khi sử dụng sự tự do mà chúng ta hành động. Noi gương Mẹ Maria, chúng ta đem Tin Vui bình an đến cho người khác và quyết tâm loại trừ Tin Buồn ra khỏi suy nghĩ và hành động của chúng ta vì sẽ gây ra cho anh chị em mình.
Và như vậy, giống như Mẹ Maria, chúng ta đón nhận Ý của Thiên Chúa đến với tất cả chúng ta ở giữa quang phổ đầy niềm vui, đau khổ, nỗi buồn và sự chuyển đổi, tái sinh trong chính cá nhân, gia đình, cộng đoàn, quốc gia và cuộc sống toàn cầu của chúng ta. Thiên Chúa muốn thanh tẩy Giáo hội của Ngài trở nên thánh thiện và tinh tuyền hơn. Mùa chay là cơ hội thuận tiện để sống Niềm Vui thánh thiện trong Chúa khi chúng ta trở về giao hòa với Thiên Chúa và làm hòa với anh chị em. Lm. Giovanni Nguyễn Hùng
Nhờ lời ưng thuận của Đức Maria, Con Thiên Chúa đã nhập thể trong cung lòng người Mẹ đồng LễTruyềnTin 85
Nhờ lời ưng thuận của Đức Maria, Con Thiên Chúa đã nhập thể trong cung lòng người Mẹ đồng trinh. Thiên Chúa là Đấng khởi xướng mọi hoạt động cứu độ, nhưng Ngài cần sự hợp tác của con người.
1.Ghi nhớ: Sứ thần đáp: “Thánh thần sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền năng Đấng tối cao sẽ rộp bóng trên Bà, vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35).
2.Suy niệm: Biến cố truyền tin cho ta biết Đức Maria đã thưa “xin vâng” để chấp nhận chương trình của Thiên Chúa trong đời mình, Mẹ cưu mang và hạ sinh Đấng Cứu Thế. Chính Con Thiên Chúa hoá thân làm người trong lòng trinh nữ Maria, đây là kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã làm tất cả những gì có thể để cư ngụ giữa loài người chúng ta. Nhưng con người cũng phải làm mọi cách để Thiên Chúa ở lại với mình. Là kitô hữu, tôi đã làm gì để Thiên Chúa ở mãi trong tôi? Tôi có thật sự xứng đáng là nơi Chúa ngự không? Hãy nhìn ngắm và sống theo gương Mẹ Maria.
3.Sống Lời Chúa: Nhìn gương Mẹ Maria, để sống ”xin vâng” theo thánh ý Chúa.
4.Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con nhận ra tiếng gọi của Chúa qua Giáo hội, qua tha nhân và qua mọi biến cố. Amen.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con thờ lạy Chúa là Con của Chúa Cha, Chúa đã nhập thể,, đã trở thành người trong lòng Đức Mẹ đồng trinh. Với tâm hồn thánh thiện đầy ân sủng và thân xác tinh tuyền, Mẹ đã được Chúa chọn làm cung thánh để từ đó Chúa đi vào lịch sử loài người. Mẹ đã cưu mang Chúa trong tâm hồn trước khi cưu mang Chúa trong thân xác. Tâm hồn Mẹ tràn đầy Chúa nên thân xác Mẹ cũng được Chúa cư ngụ, để rồi Mẹ ban tặng Chúa cho chúng con. Mẹ đã khiêm tốn ưng thuận để Chúa đi vào cuộc đời Mẹ, nhờ vậy Chúa đã đi qua cuộc đời Mẹ để đến với chúng con.
Lạy Chúa, hôm nay, Chúa đang muốn đi qua cuộc đời con để đến với thế giới, Chúa cũng đang muốn hiền mình cho con, để qua con, Chúa hiến mình cho nhân loại hôm nay. Xin Chúa giúp con biết khiêm tốn đón nhạn Chúa và ưng thuận Lời Chúa mời gọi. Con không thể đem Chúa đến cho anh em nếu con chẳng có Chúa trong lòng. Hằng ngày, nhờ thánh lễ, Chúa lại muốn nhập thể trong con. Xin cho con biết đón nhận Chúa vào cuộc đời mình. Nhờ đức tin và tình yêu mến, nhờ tâm hồn trong sạch và khao khát Chúa, con sẽ được cưu mang Chúa trong tâm hồn. Nhờ việc rước lễ, con sẽ được cưu mang Chúa trong cả thân xác nữa. Xin Chúa ở với con luôn mãi. Con xin dâng hiến đời con cho Chúa, để Chúa dùng con như khí cụ của tình thương cứu độ của Chúa. Amen.
“Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền” (Lc 1,38)
Suy niệm:
A- Phân tích (Hạt giống…)
Vai chính trong tường thuật này là Đức Mẹ Maria, được Thánh Luca mô tả với những nét như LễTruyềnTin 86
Vai chính trong tường thuật này là Đức Mẹ Maria, được Thánh Luca mô tả với những nét như sau:
– Một thiếu nữ bề ngoài bình thường như mọi thiếu nữ khác (câu 27) – Nhưng đặc biệt hơn mọi thiếu nữ vì “đầy ơn phước” và được “Thiên Chúa ở cùng” (câu 28) – Được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Messia Con Thiên Chúa (cc 30-33) – Dù không hiểu rõ (câu 34), Maria cũng sẵn sàng cho Chúa dùng mình để làm công việc của Chúa (câu 38: Fiat = “Tôi xin vâng…”).
B- Suy gẫm (… nẩy mầm)
1. Đức Mẹ Maria hỏi “Việc đó xảy đến thế nào được, vì…”. Thiên Thần đáp “không có việc gì mà Chúa không làm được” (câu 37). Rất nhiều điều con người tưởng không thể nào làm được thế mà Thiên Chúa vẫn làm được: Ngài đã làm cho Êlisabét son sẻ được có con, đã làm cho Đức Mẹ Maria đồng trinh sinh ra Đấng Cứu Thế. Thiên Chúa cũng có thể làm nơi mỗi người chúng ta những việc trọng đại, miễn là chúng ta sẵn sàng để Ngài hoạt động trong chúng ta.
2. Mặc dù “không có việc gì mà Chúa không làm được”, nhưng thường Thiên Chúa không làm một mình, Ngài thích có sự hợp tác của con người. Để cho Đấng Cứu Thế nhập thể, Thiên Chúa đã nhờ Đức Trinh Nữ Maria hợp tác. Và Đức Trinh Nữ Maria đã hợp tác bằng cách ngoan ngoãn để cho ơn Chúa hành động trong mình và qua mình: “Tôi xin vâng…”.
3. Một thanh niên kia có thói quen ngủ rất say, luôn cần có mẹ gọi mới thức dậy được. Sau khi tốt nghiệp, anh đi làm ở một chỗ xa nhà. Mẹ anh mua cho anh một chiếc đồng hồ báo thức. Ngày đầu tiên anh quên vặn đồng hồ trước khi ngủ nên đến sở làm trễ. Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng hồ, nhưng sáng sớm khi nó reo thì anh đưa tay tắt bỏ, nên lại đi làm trễ. Và anh bị đuổi việc. Khi anh trở về gia đình, mẹ anh hỏi về chiếc đồng hồ. Anh đáp:
– Chiếc đồng hồ đó hoàn toàn vô dụng đối với con. – Nó vô dụng là vì con không chịu dùng nó. Mẹ anh đáp. Bao nhiêu ơn Chúa ban cho ta cũng đều vô dụng nếu ta không xử dụng đến. (Góp nhặt)
4. “Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào Bà đầy ơn ph ước, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ” (Lc 1,28-29)
Đứng trước một biến cố trọng đại, bất ngờ, Mẹ đã bối rối. Sự bối rối ấy không đến từ sự hoang mang nghi ngờ như trường hợp ông Dacaria, nhưng đến từ sự băn khoăn muốn tìm hiểu thánh ý Thiên Chúa.
Phần tôi, đứng trước những khó khăn xảy đến trong cuộc sống thì hầu như chỉ biết than vãn, kêu trách Chúa mà không thử tìm xem Chúa muốn nói gì với tôi qua những biến cố ấy. Chúa vẫn đi ngang qua đời tôi nhưng tôi đã không gặp được Ngài. Chúa đứng ngoài và gõ cửa nhà tôi nhưng tôi đã không nghe được tiếng Ngài. Lòng tôi vẫn khép kín.
Lạy Chúa. Xin cho con biết lắng nghe tiếng Chúa trong từng biến cố của cuộc sống, và biết xin vâng như Mẹ. (Epphata)
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con tuyên xưng rằng: Con Chúa nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ Maria là Thiên Chúa thật và là người thật. Xin cho bí tích chúng con vừa lãnh nhận củng cố niềm tin chân thật ấy, và xin cho cuộc chiến thắng phục sinh của Con Chúa đem lại cho chúng con ơn cứu rỗi và niềm vui muôn đời.
Lạy Mẹ Maria là Đấng hằng đẹp lòng Thiên Chúa, xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho mỗi người chúng con biết thể hiện nhân cách làm con cái Chúa qua đời sống bác ái yêu thương, qua đời sống thanh khiết vẹn toàn như Mẹ. Xin cho chúng con biết đáp lại tiếng “xin vâng” với Chúa như gương Mẹ thuở xưa. Amen.
Maria liền thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền” (Lc 1,38).
Bằng con mắt đức tin, khi nhìn vào lịch sử cứu độ, ta không chỉ nhận ra lòng trung tín của Thiên LễTruyềnTin 87
Bằng con mắt đức tin, khi nhìn vào lịch sử cứu độ, ta không chỉ nhận ra lòng trung tín của Thiên Chúa mà còn khám phá ra ý định nhiệm màu của Người. Thiên Chúa luôn đi bước trước mời gọi con người cộng tác vào chương trình của Người mà biến cố truyền tin trong Tin mừng hôm nay là một minh chứng cụ thể. Thiên Chúa, qua lời sứ thần Gápriel, đã ngỏ lời mời Mẹ Maria, cô trinh nữ miền quê Nazarét, cộng tác vào chương trình cứu độ của Người trong thiên chức làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Đứng trước lời mời gọi của Thiên Chúa, Mẹ đã mau mắn đáp lời xin vâng. Với tất cả niềm tin và sự phó thác, Mẹ đã từ bỏ những dự tính của bản thân để thi hành thánh ý Chúa. Mẹ đã phó thác hoàn toàn cuộc đời của mình trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa, dẫu rằng Mẹ chưa hoàn toàn hiểu hết thánh ý của Người.
Qua lời thưa xin vâng, Mẹ không chỉ mở lòng ra đón nhận ý Chúa nhưng trên hết Mẹ còn đón rước Chúa vào trong cung lòng và trong chính cuộc sống của mình. Từ đây, cuộc đời của Mẹ là chuỗi ngày kết hợp mật thiết với Ngôi Hai Thiên Chúa từ niềm vui của biến cố Nhập thể đến cuộc thương khó của Người trên đỉnh đồi Calvê ngày nào. Chiêm ngưỡng Mẹ Maria, chúng ta được mời gọi noi gương Mẹ, biết khiêm tốn từ bỏ ý riêng để đón nhận và thi hành ý Chúa, biết luôn tín thác vào lòng từ ái của Chúa trong mọi biến cố vui buồn của cuộc sống.
Lạy Chúa, giữa biết bao tiếng ồn ào trong cuộc sống, xin cho chúng con biết nhận ra và mau mắn thi hành thánh ý Chúa. Xin cho chúng con luôn biết khiêm tốn mở lòng ra để đón Chúa đến làm chủ cuộc đời của chúng con. Amen.
Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở LễTruyềnTin 88
Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa đó ít dặm, nghe nói thế thì tìm đến, và hy vọng học được bí quyết để sống bình tâm, hạnh phúc. Bà hỏi: “Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao ?”. “Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao”.
Câu hỏi của người phụ nữ giống như lời của bà Êlisabéth ca tụng Đức Maria: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45).
Suy niệm
Theo Kinh Thánh, trinh nữ Maria đã đính hôn cùng thánh Giuse và hai người đã quyết tâm sống tận hiến cho Thiên Chúa. Cùng hòa chung với toàn dân, Maria cũng luôn khao khát và hằng trông đợi Đấng Cứu Thế đến với Dân Người.
Bỗng nhiên, Maria đón một vị khách lạ đến, vị khách đó chính là Sứ thần Gabriel mang một sứ điệp từ trời cao làm thay đổi cả cuộc đời Maria: Nàng được Thiên Chúa chọn là Mẹ Đấng Cứu Thế. Giữa những bối rối của bản thân: Quyết tâm tận hiến cho Thiên Chúa như ước mơ cuộc đời hay trở nên một người mẹ theo thánh ý của Thiên Chúa ? Maria đã đặt đời mình trong niềm tin và vâng phục hoàn toàn vào Thiên Chúa.
Dù chưa sáng tỏ sự việc nhưng Maria vẫn tín thác xin vâng: “…tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Sự vâng phục trọn vẹn trong đức tin của Maria là một thái độ sẵn sàng chờ đợi Đấng Cứu Thế. Sự vâng phục như tỏ lộ ý chí của Maria: “Điều gì Chúa nói, tôi tin và tôi luôn xin vâng”. Tin và tuân theo thánh ý của Thiên Chúa, Maria học biết trước tinh thần của Đức Cứu Thế muốn nơi dương gian mà Ngài đã thực hiện “Xin ý Cha được thực hiện” (Mt 26,39).
Chính thái độ hoàn toàn vâng phục trong đức tin là tâm tình chờ đón Chúa đến mà Maria đã biểu lộ trong suốt cuộc đời của một người trinh nữ tận hiến gặp gỡ thiên ý và trở nên người Mẹ Đấng Cứu Thế luôn tin và vâng phục.
Tâm tình và thái độ khiêm nhu trước Thiên Chúa của Mẹ, đốt lên ngọn nến để chờ đợi sẵn sàng đón Chúa. Ngọn nến soi tỏ chúng ta sống tâm tình tin và vâng phục: Bản ngã và cuộc sống của mình tan hoàn toàn trong thánh ý Thiên Chúa.
Sống tâm tình chờ đợi là sống trong ánh sáng của niềm tin. Tin làm cho cuộc đời có ý nghĩa. Không có niềm tin cuộc đời như một đêm tối không ánh sao. Tin sẽ mang đến niềm vui. Tin là sức mạnh cho cuộc đời tinh thần hăng hái và niềm hy vọng như Maria vui tươi hy vọng vào Thiên Chúa biểu lộ qua bài ca Magnificat và tinh thần phục vụ (x. Lc 1,39-56).
Hôm nay, cùng với Giáo Hội, ta cử hành mầu nhiệm cao cả tuyệt vời đã hoàn tất cách đây hơn LễTruyềnTin 89
Hôm nay, cùng với Giáo Hội, ta cử hành mầu nhiệm cao cả tuyệt vời đã hoàn tất cách đây hơn hai ngàn năm. Sự kiện ấy diễn ra trong không gian và thời gian: ” Khi ấy, Thiên Thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nagiarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đa-vít, Trinh nữ ấy tên là Maria “(Lc 1 , 26-27 ).
Với lời xin vâng, Mẹ đón nhận Con Thiên Chúa trong sự khiêm hạ đơn hèn. Mẹ đón nhận thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa trong cái nhìn của đức tin để vượt qua những gian nan thử thách. Mẹ đã xin vâng trong sự tín thác để đồng hành cùng con mình đến tận hơi thở cuối cùng.
Khi nói về tầm quan trọng hai tiếng xin vâng của Mẹ, công đồng Vatican II đã lặp lại lời của các Giáo Phụ xưa rằng: Nút dây đã bị thắt lại do sự bất tuân của Evà, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Maria. Điều mà Evà đã buộc lại bởi cứng lòng tin, Đức Maria đã tháo ra nhờ lòng tin; và so sánh với Evà, các ngài gọi Đức Maria là “Mẹ kẻ sống”, và thường quả quyết rằng: “Bởi Evà đã có sự chết, thì nhờ Maria lại được sống” (x. Lumen gentium, số 56).
Và rồi Thánh Bênađô thì kêu lên rằng: “Ôi trinh nữ, Adam đang khóc lóc cầu khẩn Mẹ trả lời, Đavit cũng khẩn cầu, các tổ phụ cũng không ngớt nài xin. Câu trả lời ấy cả thế giới này đang phủ phục dưới chân Mẹ và chờ đợi nó. Bởi việc giải thoát cho những ai đang đau khổ, chuộc lại kẻ giam cầm, trả tự do cho người bị kết án và sau cùng là phần rỗi của mọi con cái Adam, của toàn thể dòng dõi Mẹ đều tùy thuộc vào lời thưa của Mẹ”.
Trở thành Mẹ Thiên Chúa, Mẹ đóng vai trò Nữ Hoàng và cũng là Nữ Tỳ của Thiên Chúa. Trở thành Mẹ nhân loại, Mẹ đóng vai trò Từ Mẫu và là Đấng Bầu Chữa cho con cái của mình. Nhưng dù trong vai trò nào, Mẹ luôn luôn chuyển cầu lòng thương xót của Thiên Chúa xuống cho nhân loại. Đây là niềm vui và tự hào nơi Mẹ. Chính trong tâm tình này mà Mẹ đã cất cao lời ngợi khen Đấng Giàu Lòng Xót Thương đã đoái nhìn đến thân phận hèn yếu nơi Mẹ. Vì thế, mẹ đã mượn lời của bài ca Manifiat mà trong lịch sử cứu độ, những người hèn mọn đã cất lên để ca ngợi kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện cho mình và dòng tộc mình..
Và để hiểu được những gì đã xảy ra tại Nagiaret hơn ngàn năm về trước, chúng ta lần dở lại Thư gửi tín hữu Do thái. Bản văn này thuật lại cuộc trò chuyện giữa Chúa Cha và Chúa Con về kế hoạch đời đời của Thiên Chúa. ” Chúa đã không muốn hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác. Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội “. Nên tôi nói: “ Lạy Chúa, này tôi đến để thi hành thánh ý Chúa ” (Dt 10, 5-7). Như thế, vì vâng ý Chúa Cha, Ngôi Lời đến đã đến cư ngụ giữa chúng ta, dâng chính thân mình làm của lễ hy sinh vượt trên mọi hy lễ đã dâng trong Cựu Ước. Lễ hy sinh của Chúa Giêsu là lễ vĩnh viễn và hoàn hảo cứu chuộc thế gian.
Tin mừng Luca thuật lại biến cố truyền tin mà hôm nay Giáo hội mừng kính. Thần sứ Gabriel đến gặp Đức Maria và trao lời cầu ngỏ. Đức Maria chỉ là một cô gái quê, cư dân thành Nazareth, không học thức cao sang, không danh giá quyền quý và chẳng có một nét ưu việt nào dưới con mắt người đời. Nhưng trong chương trình của Thiên Chúa, Mẹ được tuyển chọn để trở nênThân mẫu Đấng Cứu Thế. Điều Thiên Chúa muốn luôn khác xa với sự toan tính của con người. Các ngôn sứ thời cựu ước đã từng loan báo về việc Đấng Messia sẽ được sinh ra do một trinh nữ.Bài đọc 1 trong phụng vụ hôm nay nhắc lại cho chúng ta lời tiên báo ấy qua miệng ngôn sứ Isaia.
Như vậy, Đức Maria đã được tuyển chọn không phải do tình cờ, nhưng kế hoạch ấy đã có trong chương trình của Thiên Chúa ngay từ đời đời. Mẹ được chọn không phải vì Mẹ đã đắc thủ cho mình những nhân đức trổi trang hơn hẳn các phụ nữ khác, hay do một yếu tố lịch sử nào đó tác động từ bên ngoài. Thiên Chúa đã chọn Mẹ, chỉ vì Chúa muốn như vậy, thế thôi. Ơn gọi luôn là một mầu nhiệm rất khó hiểu và dường như không thể hiểu nổi đối với đầu óc suy lý của con người. Chúa đã chọn Mẹ hoàn toàn do ý định của Ngài, và như một hệ quả tất yếu, Chúa cũngphú mặc cho mẹ những phẩm tính cao trọng, tương xứng với thiên chức ‘Mẹ Thiên Chúa’ hay‘Mẹ Đấng Cứu thế’. Tâm hồn Mẹ được gìn giữkhông bị lây nhiễm bất cứ ô nhơ nào, ngay cả tội nguyên tổ. Cung lòng của Mẹ đã trở nên như ngôi đền thờ tuyệt mỹ để Ngôi Hai Thiên Chúa đến ẩn ngự.
Để sống mầu nhiệm ơn gọi, trước hết chúng ta cần phải nhận ra tiếng Chúa đang mời gọi, tức là phải khám phá ra ước mơ của Thiên Chúa nơi mình. Ngài muốn tôi là ai, chứ không phải muốn tôi làm gì. Chúa đã muốn Đức Maria trở nên Mẹ Đấng Cứu thế, còn phương cách thực hiện như thế nào, Chúa sẽ sắp xếp, chứ không phải do Mẹ quyết định. Nơi chúng ta cũng vậy. Muốn khám phá và đi vào lộ trình ơn gọi, không có mẫu gương nào hoàn hảo cho bằng chính Đức Maria để chúng ta quy chiếu vào. Mẹ đã để cho Thiên Chúa hướng dẫn đời mình và Mẹ đã hoàn toàn quy thuận thánh ý Chúa. Trong bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay, tác giả thơ Do Thái cũng gợi lại hình ảnh Đức Giêsu khi vào trần gian: “Này con đây, này con đến để thi hành thánh ý của Cha”. Đức Giêsu đã khiêm tốn vâng lời cho đến chết và chết trên Thập giá (Phil 2, 8). Đó cũng là sự khiêm nhường mà Đức Maria đã sao chép lại để trở nên gương mẫu cho chúng ta.
Qua biến cố sứ thần Gabriel truyền tin cho Đức Mẹ Maria, Thiên Chúa đã mời gọi Mẹ cộng tác vào chương trình cứu độ qua việc cưu mang Đấng Cứu Thế. Trong những giây phút đầu tiên, Đức Mẹ đã bối rối và thắc mắc vì một tin vừa bất ngờ và vừa cao trọng, trong khi mình thì lại nhỏ bé. Mẹ thắc mắc vì đó là điều thật khó hiểu theo lý luận của con người: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào vì tôi không biết đến người nam?”. Trước thắc mắc của Mẹ, sứ thần đã giải thích: “Vì đối với Thiên Chúa, không gì là không thể làm được”. Đây không phải là giải thích nhằm làm thỏa mãn những lý luận của lý trí nơi Mẹ, nhưng là một gợi ý mời gọi người nghe đáp trả bằng thái độ của đức tin. Lời xin vâng của Mẹ chính là một lời đáp trả của đức tin.
Lời xin vâng của Mẹ Maria xưa vẫn là lời rất cần thiết cho mỗi người chúng ta trong bất cứ ơn gọi nào, hoàn cảnh nào: Người dưới vâng lời người trên, con cái vâng lời cha mẹ, học sinh vâng lời thầy cô, vợ chồng lắng nghe nhau… Đó không chỉ là nét đẹp của cuộc sống hằng ngày và để gia đình, xã hội có tôn ti trật tự mà còn là điều kiện để gia đình hạnh phúc và xã hội bình yên. Chúng ta thử hình dung: Nếu trong một gia đình mà con cái không vâng lời cha mẹ, vợ chồng không biết lắng nghe nhau; ở nhà trường, học sinh không vâng lời thầy cô; xã hội không có trên dưới… thì gia đình, nhà trường, xã hội đó sẽ như thế nào? Thực tế cho chúng ta thấy, vì không biết vâng lời cho nên con cái hư hỏng, trò đánh thầy, hỗn loạn nhiều nơi trong xã hội chúng ta đang sống.
Trong đời sống đạo, nhiều khi ta lại lãng quên vai trò của đức tin mà đòi hỏi sự hợp lý hóa cho mọi sự. Trước các biến cố hay cả các mầu nhiệm trong đạo, ta cũng chỉ muốn giải thích chúng một cách thuần lý trí. Nói khác đi, ta chỉ chấp nhận những gì hợp lý mình mà thôi. Đức Mẹ cũng đã có thắc mắc như vậy: “Điều đó làm sao có thể?”. Nhưng rồi Mẹ đã lấy đức tin để bù lại những gì lý trí của Mẹ không thể giải thích. Chúng ta cũng được mời gọi hãy đáp lại tiếng Chúa bằng thái độ vâng phục và tin tưởng như Mẹ.
Hôm nay chúng ta cử hành lễ Truyền tin cho Đức Maria, chúng ta hãy nhớ lại bối cảnh quyết định LễTruyềnTin 90
Hôm nay chúng ta cử hành lễ Truyền tin cho Đức Maria, chúng ta hãy nhớ lại bối cảnh quyết định lịch sử của nhân loại chúng ta. Một thế giới bị xé nát bởi tham vọng của những người tranh giành quyền lực. Ngày càng có nhiều người không còn hy vọng vào chân trời, trên trái đất cũng như cuộc sống mai sau. Họ vẫn đang " ngồi trong bóng tối sự chết"...Dù sao, Dân Chúa vẫn luôn sống trong hy vọng Đấng Thiên Sai sẽ đến...Nhưng dường như tín hiệu về sự giải thoát mà họ mong đợi vẫn biệt tăm...Isaia nhắc nhở rằng: không nên ép buộc Thiên Chúa khi xin những dấu chỉ mà nhiều người chưa sẵn sàng biết. Của lễ toàn thiêu hay là của lễ đền tội không phải là cách duy nhất để chạm đến con tim Thiên Chúa, vì thực sự con người đã quen nói "không" với Thiên Chúa.
Những tiếng xin vâng cứu độ chúng ta. Thư gửi cho người Do Thái nói: trọng tâm của cuộc đối thoại Ba Ngôi Thiên Chúa, đó là Chúa Con thưa với Chúa Cha:“Lạy Cha, này con xin đến để thực thi ý Cha”. Đó là "tiếng xin vâng" của một tình yêu vô hạn!
Tại ngôi làng Nazareth, có rất nhiều người nghèo có nguồn gốc khác nhau, người Do Thái và người ngoại giáo: cả nhân loại đang chờ đợi! Bất ngờ Thiên Chúa đến với nhân loại không phải trong âm thanh ồn ào chiến thắng, nhưng như tiên tri Elia đã thoáng thấy trong một làn gió nhẹ . Chính trong thinh lặng, những tiếng "xin vâng" đẹp nhất được nói lên: tiếng xin vâng của Thiên Chúa và tiếng xin vâng của chúng ta....
Chính trong làn gió nhẹ này mà thiên thần đã đến Nagiaret thăm Đức Maria. Thật ngạc nhiên vào thời điểm này, đối với Đức Maria cũng như đối với chúng ta, Thiên Chúa thực hiện chương trình của Ngài mà các tiên tri đã loan báo từ lâu và rất nhiệm mầu... Thiên thần chào Đức Maria: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”. Đó cũng là lời mà tiên tri Isaia đã loan báo cho dân Israel: “Mừng vui lên hỡi con gái Sion, Đức Chúa ở cùng ngươi”. Chính Đức Maria đã suy niệm những lời này và niềm hy vọng của dân Israel đốt cháy con tim Đức Maria. Nhưng Đức Maria không ngờ rằng mình là người đầu tiên thực hiện vai trò này, đại diện cho toàn bộ lịch sử và một dân hậu duệ.
Đầy ân sủng
Vào ngày này, Đức Maria nhận được một tên mới: đầy ân sủng. Thiên Chúa đến trung tâm cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Một thế giới mới bắt đầu! Đức Maria dường như sợ hãi: đó là sự xao xuyến mà chúng ta thường thấy nơi những người khiêm nhường khi Tình yêu Thiên Chúa bất ngờ hiện diện trước mặt họ. Họ phát hiện ra cùng lúc một người hoàn toàn khác nhưng cũng rất gần.
Đức Maria hỏi thiên thần: “việc đó sẽ xẩy ra cách nào”? Câu hỏi này không phải là một nghi ngờ. Câu đó chứng tỏ tất cả những tiếng "xin vâng" mà Thiên Chúa chờ đợi nơi chúng ta là kết quả của việc vừa lắng nghe, vừa đối thoại và vừa có khả năng đáp trả.
Trong suốt cuộc đời và cho đến đêm trước cuộc khổ nạn của Con mình, Đức Maria luôn tự hỏi mình: “việc đó sẽ xẩy ra cách nào”? Chính trong cuộc đối thoại này với chình mình và với Thiên Chúa, đức tin của Đức Maria không ngừng phát triển...
Thiên Chúa ở cùng bà
Câu nói này loan báo mầu nhiệm thụ thai Đấng Cứu Thế được Thiên Chúa hoàn toàn hỗ trợ cho người đáp lại tiếng xin vâng. Khi cử hành các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể, chúng ta thường nghe câu này, "Chúa ở cùng anh chị em”. Câu nói này nhắc nhở chúng ta rằng từ khi Đức Maria thưa tiếng xin vâng, Thiên Chúa rất gần với những ai đón nhận Ngài. Ngài là Emmanuel, "Thiên Chúa ở cùng chúng ta". ..Từ nay sự gần gũi của Chúa với nhân loại sẽ không ngừng phát triển. Chúa Kitô sẽ âm thầm triển nở trong con tim chúng ta, toàn bộ con người chúng ta và toàn thể thế giới.
Nhập thể luôn luôn là lên đường:
- Chúa Kitô lớn lên, đau khổ, chết trong chúng ta, để rồi phục sinh với chúng ta.
- Đức Maria, Mẹ lớn lên trong đức tin, cùng chịu đau khổ và được phục sinh với Con Mẹ
- Còn chúng ta, con Mẹ cũng nhập thể trong mỗi chúng ta. Vì thế chúng ta cũng đặt bước chân chúng ta vào bước chân của Con Mẹ để cùng lên đường với Ngài: cùng truyền giáo, cùng chịu đau khổ để cứu độ chính chúng ta và thế giới. Và như thế, chúng ta và thế giới cũng được phục sinh...
Lạy Mẹ Maria, mẹ hãy mừng vui lên! Mẹ là người đầu tiên lên đường hướng về Vương Quốc mà Con Mẹ đến để thiết lập trên trần gian này. Xin Mẹ hướng dẫn chúng con khám phá Vương Quốc đó! Cùng với mẹ, hôm nay chúng con hát bài ngợi khen Magnificat khi chúng con chiêm niệm mầu nhiệm về một Thiên Chúa Tình Yêu đến ở giữa người nghèo chúng con, để chúng con cũng được mừng vui như Mẹ. Amen!
Đó là giây phút Mẹ đại diện từng người một và tất cả lịch sử trần gian này trước lời hỏi của Thiên LễTruyềnTin 91
Đó là giây phút Mẹ đại diện từng người một và tất cả lịch sử trần gian này trước lời hỏi của Thiên Chúa. Và Đức Maria thưa lên lời “Xin vâng” và liền lập tức Hội thánh tuyên xưng: “Lời đã thành xác phàm và đã lưu trú ở giữa chúng ta”
Trong thư Do thái, tác giả đã nói: “Đã lắm phen cùng nhiều kiểu, xưa kia Thiên Chúa đã nói với cha ông nơi các tiên tri: Vào thời sau hết, tức là những ngày này, Người đã nói với ta nơi một Người Con, mà Người đã đặt làm Đấng thừa tự tất cả mọi sự…” (Hr 1,1-2)
Cả hai câu sách thánh này đều qui về một biến cố độc nhất vô nhị trong toàn lịch sử, biến cố ngang qua đó, tất cả những thân phận của trần gian chúng ta và ý định của Thiên Chúa Hằng có được thể hiện hay bị từ chối thì có lẽ cả thân phân chúng ta cứ ở trong sự tối tăm, tội lỗi để rồi chết mà không biết mình đi về đâu. Cái chết chấm dứt tất cả mọi sự. Nên Thiên Chúa làm ra công cuộc cứu độ chúng ta ngang qua những biến cố rất lạ lùng, xét về mặt thời gian thì tầm thường, không ai để ý nhưng lại vực dậy và cưu mang tất cả lịch sử trần gian này.
Hôm nay, chúng ta mừng lễ Truyền tin cho Đức Maria. Truyền Tin là gì? Trước khi Sứ thần đến và ngỏ lời với Đức Maria, Hội thánh không biết gì về Đức Mẹ cả, thậm chí Kinh thánh cũng không nói tới. Đức Mẹ đã sống làm sao? Đã trải qua thời thiếu nữ như thế nào? Nguồn gốc của Đức Mẹ? Hạnh phúc hay bất hạnh trong gia đình?
Nhưng lời chào của Thiên sứ khiến cho Hội thánh cảm nhận ngay từ khởi đầu, đó là: ơn của Thiên Chúa đã bao trùm thiếu nữ này “Hỡi Maria đầy ơn phúc”. Nghĩa là từ khởi đầu của định mệnh, Thiên Chúa đã can thiệp và đã bao trùm lên thân phận Đức Mẹ cách thế nào khiến cho con người này được đầy tràn ân sủng của Thiên Chúa. Như thế, tất cả lòng xót thương và ưu ái của Thiên Chúa đậu lại ở nơi Mẹ, để cuối cùng chuẩn bị cho việc Thiên Chúa gặp gỡ đích danh Mẹ và hỏi ý kiến Mẹ về chương trình của Ngài.
Với thân phận con cháu Eva, chúng ta không thể hiểu được đặc sủng đó là gì, bởi vì nơi chúng ta đầy ắp những ý nghĩ bất chính, những thao túng, những hắc ám trong tâm trí, những đổ vỡ mà chúng ta kinh nghiệm hàng ngày. Maria đau khổ, chắc chắn có điều đó, nhưng Maria không bao giờ kinh nghiệm cái đổ vỡ là gì, cái hắc ám, tối tăm trong tâm hồn là làm sao, vì ơn của Thiên Chúa đã bao bọc khiến cho người phụ nữ ấy luôn trong sáng nơi ân sủng và lòng mến thương của Thiên Chúa cách thế nào, làm cho người phụ nữ ấy như thể kết tinh công trình mà Chúa dựng nên.
Tạo thành và ý thức tự do là gì? Ấy là Thiên Chúa dựng nên người ta để người ta tìm kiếm và sống cho người mà thôi. Khi chúng ta mới mở mắt chào đời, Hội thánh và cha mẹ đã dạy chúng ta như vậy. Đức Maria trong thân phận làm người luôn luôn hướng về Thiên Chúa như vậy, vì ân sủng của Thiên Chúa đã đi trước Mẹ. Nhưng ân sủng đó không phải dành riêng cho Mẹ mà dành cho giây phút chúng ta mừng lễ hôm nay. Đó là giây phút Mẹ đại diện từng người một và tất cả lịch sử trần gian này trước lời hỏi của Thiên Chúa. Và Đức Maria thưa lên lời “Xin vâng” và liền lập tức Hội thánh tuyên xưng: “Lời đã thành xác phàm và đã lưu trú ở giữa chúng ta”. Chúng ta bắt đầu được nhìn ngắm, được tiếp cận, được đối thoại vào trong chính gặp gỡ Thiên Chúa như Thiên Chúa muốn chứ không còn phải ngang qua môi giới nữa.
Vì thế, để chuẩn bị cho biến cố ngày hôm nay, thư Do thái đã gợi lại tất cả dòng lịch sử ngang qua đó, Thiên Chúa tìm hết cách để đến với người ta, dạm hỏi người ta. Kinh thánh đã nói rất đơn giản: đã nhiều lần, từ xưa kia, Thiên Chúa muốn tiếp cận với người ta. Ngài đã dùng các ngôn sứ là những môi giới để người ta nhận ra mối bận tâm bên trong của Người. Đó là Người muốn cứu độ tất cả chúng ta. Cái bận tâm đó không bao giờ Thiên Chúa nói ra hết được, bởi vì các môi giới chuyển đến cho nhân loại ý định của Thiên Chúa cũng chỉ là những mảnh phần đổ vỡ và yếu hèn như con người của chúng ta. Vì thế, người ta không bao giờ có khả năng đối thoại diện trực diện với Thiên Chúa được. Nên Thiên Chúa luôn can thiệp và mon men tới lịch sử để tìm hết cách mà gợi ý nơi lòng của người ta để người ta hướng về Ngài và tìm kiếm Ngài. Nhờ đó, khi nào Thiên Chúa can thiệp thì người ta nghe được đích danh lời của Người. Lời của Người từ nơi Cha và Con đến và lúc đó, người ta không còn nghe lời giới thiệu nữa mà là chính Thiên Chúa Hằng Có trở thành Lời ở giữa chúng ta.
Cho nên chúng ta hiểu: Maria là kết tinh của cuộc dọn đường đó, dọn đường từ khởi sự tạo thành ngang qua các ngôn sứ và lịch sử dân của Chúa cho đến ngày ơn của Thiên Chúa đến bao trùm lên người phụ nữ này. Điều đó hoàn toàn là tự do của Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu mến và làm cho nhân loại đón nhận được lời của Người, nên Người đã ban ơn sủng đó cho Đức Maria. Thiếu nữ này đã luôn luôn hướng về Thiên Chúa bằng tất cả cuộc đời của Mẹ. Nên biến cố xảy đến hômnay trong cuộc đời của Mẹ là biến cố ngang qua đó treo lên tất cả vận mệnh của cuộc đời chúng ta. Và phải nói đến cái mong manh của việc Thiên Chúa được chấp nhận hay không, vì Thiên Chúa yêu mến trong tự do. Ngài muốn cho người ta đón nhận lòng yêu mến của Ngài cũng là tự do. Ngài không cưỡng ép ai bao giờ, vì Ngài đã dựng nên chúng ta là vậy.
Ơn của Đức Maria hôm nay không phải là ơn riêng cho ngài. Hội thánh không bận tâm về chức tước của Đức Mẹ. Chúng ta có khó khăn, vì hành trình của chúng ta có những kinh nghiệm đổ vỡ của thân phận làm người. Vì thế, chúng ta níu kéo những chức tước bên ngoài. Chúng ta lộ ra bên ngoài nhiều điều chúng ta không có bên trong. Bên trong trống vắng sự thiện, sự sáng, trống vắng Thiên Chúa. Ấy thế mà bên ngoài chúng ta thường bị cám dỗ níu kéo những chức tước bên ngoài.
Thiên Chúa lại không bận tâm các điều đó. Đức Maria cũng vậy. Ngài bận tâm việc trả lời Thiên Chúa. Nên chính lời thưa vâng đó đã nói lên tất cả con người thật của Đức Maria, nghĩa là Mẹ có đó để Chúa tự do hành động theo ý của Người. Mẹ có đó không có một chút đề kháng nào mà hoàn toàn là con người tự do thấy hết cả con người trong tâm linh, trong thể xác là luôn hướng về, đón chờ Thiên Chúa. Chúng ta gọi đó là điều Mẹ đã hoàn toàn bỏ ngỏ cho Thiên Chúa một cách tuyệt đối đến nỗi Thiên Chúa tự do làm theo ý của Người trên cuộc đời của Mẹ. Ý đó làm Mẹ liên đới với chúng ta để đón nhận lời Thiên Chúa thật sự. Từ đó, Lời Thiên Chúa đến ở với chúng ta trên mặt đất này. Mặt đất qua đi với hành trình của từng người, những vất vả, nhưng mau qua của nó, sống quá lắm là mấy chục năm. Chúng ta kinh nghiệm thân phận qua đi đó. Vì thế, Con Thiên Chúa muốn nói với chúng ta thì cũng phải nói bằng ngôn ngữ của con người. Do đó, ngang qua Maria, Thiên Chúa đã làm người.
Ngày hôm nay, chúng ta liên đới tất cả vào lời thưa “xin vâng” của Đức Maria. Lời xin vâng đó kéo Thiên Chúa đến với chúng ta thì cũng mời gọi chúng ta tiếp tục sống lời xin vâng đó cho đến khi Chúa hoàn tất cuộc sống của chúng ta trong vinh quang của Người. Nên tất cả căn cứ của lòng tin là nói lời “xin vâng” với Thiên Chúa. Xin vâng một cách không có gì cản trở nổi hoạt động tự do của Thiên Chúa. Khi con người xin vâng Thiên Chúa tận căn của mình và sống lời xin vâng đó thì con người trở thành lời thành tín với Thiên Chúa và sống trong ý định yêu thương của Người.Có lúc chúng ta làm nhiều công việc là chúng ta làm đẹp lòng Thiên Chúa. Nhưng xét cho cùng, chỉ có một việc làm đẹp lòng
Thiên Chúa mà thôi: ấy là chúng ta vâng theo thánh ý của Thiên Chúa trong truyền thống của người Mẹ chúng ta là Maria đã “xin vâng”. Lời xin vâng đó đã đưa Mẹ tới chân thập giá, tới chỗ lãnh nhận chúng ta trong lời trối trăng của Con Mẹ. Lời xin vâng ấy nhất thiết cũng phải được thể hiện nơi những ai là con cái của Mẹ.
Nên chúng ta mừng lễ Truyền Tin cho Đức Maria thì chúng ta đọc được khuôn mặt đó, thay cho chúng ta, đã đón nhận Thiên Chúa. Qua khuôn mặt đó, Chúa thật sự ở với chúng ta ngày hôm nay. Vì thế, Thiên Chúa không còn là một Thiên Chúa xa vắng với chúng ta. Ngài đã đến thánh hóa chúng ta trong những biến cố hàng ngày. Thiên Chúa luôn ở cùng để chúng ta được sống trong tình thương của Thiên Chúa. Chúng ta cám ơn Chúa vì Ngài đã yêu thương chúng ta. Chắc chắn chúng ta không quên cám ơn Đức Maria cách đặc biệt, vì chúng ta yêu mến cảm nhận “Mẹ nào con nấy”, “Con nhà nông, không giống lông cũng giống cánh”. Nếu Mẹ của chúng ta đã sống với Thiên Chúa như vậy, thì không có lý gì con cái của Mẹ lại sống theo lối khác được.
Với tình thương Thiên Chúa ban cho chúng ta, chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta biết chiêm ngưỡng tâm hồn của Đức Maria. Nhờ vậy, tâm hồn chúng ta càng ngày càng nên giống Mẹ. Mỗi lần chúng ta đọc lời nguyện: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội…” là chúng ta lại nhắc nhớ tới biến cố căn bản này, biến cố đã làm cho Maria trở thành Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng ta. Đó cũng là biến cố làm cho Chúa Yêsu trở thành xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng ta biết mình được Mẹ chuyển cầu cho chúng ta, chúng ta lại nên chắc chắn hơn trên con đường nên thánh, con đường cứu rỗi. Chúa đã làm như vậy vì yêu mến và vì phần phúc đời đời của chúng ta. Lm. Anphong Phạm Gia Thụy, C.Ss.R
Hàng ngày, lời kinh kính mừng mà muôn muôn người Kitô hữu cất lên vẫn luôn là lời ca ngợi LễTruyềnTin 92
Hàng ngày, lời kinh kính mừng mà muôn muôn người Kitô hữu cất lên vẫn luôn là lời ca ngợi, chúc tụng mẹ Maria đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Mẹ.
Suy niệm Lễ Truyền TIn Thiên Chúa Nhập Thể
Trong “Vị ẩn sĩ khôn ngoan”, đoạn nói về người mẹ có viết:”…Và tất cả những điều đó chỉ một mình bà biết mà thôi, ẩn sĩ nói, mọi người không ai hay biết, vì thế họ mới lên án con bà. nhưng còn bà, vì biết rõ nó nên bà thương yêu nó. Thiên Chúa cũng thế, Người còn biết rõ nó hơn cả bà nữa. Và cả những điều bà không thấy nơi con bà, những điều còn ở trong ao ước, trong hy vọng, trong tiếc nuối, Thiên Chúa đều biết hết. Và giờ đây tất cả những cái đó đều xuất hiện ở bên kia thế giới. Ở đó không còn vấn đề nửa sự thật như ở đây ta thấy nữa”(Ebbe de PauliL’ Ermite ).
Vâng, người mẹ thế gian còn yêu thương con cái mình với tất cả tình thương dù cho con mình ngỗ nghịch, nói trắng ra là cả lúc phản nghịch, lỗi đạo làm con. Người mẹ có tên Maria lại còn yêu thương con người gấp bội. Mẹ đã yêu con người, chấp nhận ý định Thiên Chúa, nói lời xin vâng làm mẹ Thiên Chúa, mẹ Chúa Giêsu, dù rằng mẹ đã khấn giữ mình đồng trinh. Nhưng, chỉ biết ý định của Chúa:” Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là con Thiên Chúa”( Lc 1, 35 ). Maria đã tuân theo ý Chúa, không hề nao núng, không hề do dự:” Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần”( Lc 1, 38 ).
MẸ MARIA ĐƯỢC TRÀN ĐẦY ƠN PHÚC
Linh mục Thành Tâm trong bài hát:” Mẹ đầy ơn phúc” đã viết:” Hỡi Mẹ đầy ơn phúc, đời đời diễm phúc, Chúa ở cùng Mẹ”. Lời ca đượm ý Thánh Kinh. Vì với lời chào của thần sứ Gabrien, Maria quả thực là người vô cùng diễm phúc. Hàng ngày, lời kinh kính mừng mà muôn muôn người Kitô hữu cất lên vẫn luôn là lời ca ngợi, chúc tụng mẹ Maria đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Mẹ. Mối phúc quan trọng hàng đầu là phúc con người được Thiên Chúa ở cùng. Mẹ Maria có phúc hơn mọi người phụ nữ được sinh ra bởi dòng dõi bà Eva, đó là Mẹ được tràn muôn ơn phúc. Mẹ được Thiên Chúa đoái thương, cất nhắc, dù Mẹ chỉ là một người đầy tớ khiêm hạ, đơn hèn và nghèo khó. Cái nghèo được Thiên Chúa ghé mắt đoái thương. Mẹ là một trong những kẻ “Anawim”, người nghèo của Thiên Chúa Giavê. Với lời chào của sứ thần Gabrien, Mẹ đã biến mối lo âu không biết đến người nam làm cái phúc, nghĩa là Mẹ đã biến cái son sẻ của một con người đã hiến trọn cuộc đời cho Chúa trở nên phong phú vì Mẹ biết không việc gì mà Thiên Chúa không làm được. Mẹ đã biến cái bối rối, lo âu, trăn trở làm thành nỗi vui mừng, phấn khởi vì Mẹ hiểu ra người chị họ là bà Eâligiabét cũng đang được phúc mang thai con trong lúc tuổi già, trong lúc xế chiều, gần ra đi về với Chúa. Maria đã hiểu ý Chúa qua sứ thần truyền tin. Mẹ đã chấp nhận ý định tuyệt vời của Chúa và sẵn sàng tiếp tay với Chúa trong công việc cứu độ nhân loại, đến nỗi Mẹ đã cất cao lời chúc tụng, tạ ơn, tri ân Thiên Chúa:” Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa…Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả”( Lc 1, 46- 55 ).
CÁI PHÚC CỦA THIÊN CHÚA CŨNG ĐANG ĐƯỢC TRAO CHO TA
Như câu chuyện:” Người Mẹ” trong vị Aån sĩ khôn ngoan, người Mẹ luôn yêu thương đứa bé con bà dẫu rằng có lúc bà đã quá chán vì đứa con bà trở nên hư đốn, nhưng tấm lòng bao la, rộng lớn của bà mẹ đã lấn lướt đi tất cả, bà đã nghe lời khuyên của vị ẩn sĩ:” …Người ta gặt cái gì mà mình đã gieo: đó là luật chung, một điều luật tốt đẹp của Thiên Chúa dành cho con cái của Người. Nhưng nhờ đau khổ, chúng ta mới học biết nhiều. Và khi ta vượt qua được sự dữ đã từng đè nén ta, thì sự lành do Chúa đem lại sẽ lớn lên trong ta và sau cùng chỉ còn sự lành. Đó sẽ là cái”tôi” độc nhất và là cái”tôi” thật sự của mỗi người”( Ebba De Pauli L’ Ermite ).
Vâng, người mẹ đã biến cái nỗi khốn cùng khi bà lo lắng về con mình để làm cho nó trở thành chứa chan hạnh phúc: bà đã cầu nguyện và hàng ngày cầu nguyện cho con mình. Cái phúc trở nên niềm vui cho con người, cho cuộc đời của mỗi người. Thiên Chúa đã dùng một người nữ, một người mẹ với trọn tình thương, với muôn đặc ân cao quí mà chỉ có độc nhất vô nhị người mẹ, người nữ ấy mới có: đặc ân không vướng tội lỗi, làm mẹ Thiên Chúa, hồn xác lên trời, trọn đời đồng trinh, để nhờ mẹ đưa nhiều người đến với Chúa. Thiên Chúa đã biến nỗi bất hạnh, nỗi âu lo, xao xuyến bối rối của người nữ tỳ Sion làm thành sự hạnh phúc tuyệt vời cho mẹ vì mẹ được chọn, được tuyển lựa giữa muôn vàn người nữ, cộng tác vào công trình cứu rỗi nhân loại. Mẹ nói lời”Fiat”, biến nó thành cái phúc cho mẹ và cho nhân loai, cho từng người. Cái phúc ấy vẫn như là một dòng suối linh thiêng đang từ từ tuôn chảy trong từng người con của mẹ.Nhân loại mãi mãi và muôn thuở vẫn nhận được cái phúc từ mẹ vì từ mẹ, từ cung lòng mẹ:”…Ngôi Lời của Chúa mặc lấy xác phàm để cứu độ loài người”( lời nguyện nhập lễ, lễ truyền tin ) và cũng chính nơi cung lòng mẹ Maria như thánh Phaolô viết: khi vào trần gian Đức Kitô nói:” Lạy Thiên Chúa, này con đây, Con đến để thực thi ý Ngài”( Dt 10, 5.7 ).
Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng rằng: Con Chúa nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ Maria là Thiên Chúa thật và là người thật. Xin cho bí tích chúng con vừa lãnh nhận củng cố niềm tin chân thật ấy, và xin cho cuộc chiến thắng phục sinh của Con Chúa đem lại cho chúng con ơn cứu độ và niềm vui muôn đời( lời nguyện hiệp lễ, lễ Truyền Tin .
Thiên Chúa sai sứ thần Gáprien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria."(Lc 1,26-27)
Suy niệm:
Tin" mà thiên sứ Gáprien "truyền" cho đức trinh nữ Maria chính là chương trình của Thiên Chúa LễTruyềnTin 93
"Tin" mà thiên sứ Gáprien "truyền" cho đức trinh nữ Maria chính là chương trình của Thiên Chúa để cứu độ con người. "Tin" ấy Thiên Chúa "đã nhiều lần nhiều cách" truyền dạy qua các ngôn sứ (x. Dt 1,1) mà giờ đây được hiện thân qua chính Người Con nhập thể trong lòng trinh nữ Maria. Đức Maria đã cộng tác bằng việc đón nhận "tin" này với niềm vâng phục của đức tin (x. GLHTCG, 148).
"Được truyền tin" rồi, Mẹ lại tiếp tục "truyền tin" mà Mẹ đã nhận bằng cách ban tặng Đức Giêsu Đấng Cứu Thế cho nhân loại chúng ta, như Mẹ đã nói: "Người bảo gì, anh em cứ làm theo" (Ga 2,5).
Mời Bạn: Xã hội hôm nay tràn ngập thông tin: tin lành, tin dữ, tin vui không vui, tin thật, tin giả.... Muốn hay không, chúng ta đều "bị" nghe hoặc "được" nghe". Để khỏi là nạn nhân của sự bùng nổ thông tin ấy, chúng ta phải: - biết sàng lọc thông tin và phân định để nhận ra tin lành đến từ Thiên Chúa; - và trở thành tác nhân truyền tin lành của Ngài đến với tha nhân.
Chia sẻ: Bạn đã dùng các phương tiện truyền thông hiện đại để loan truyền Tin Mừng cho tha nhân chưa?
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày bạn thực hiện sứ mạng "truyền tin" bằng một lời nói hoặc hành động để chuyển thông tin lành của Chúa đến cho tha nhân.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con luôn nhận ra mình "được truyền tin" để biết sống "truyền tin" như Đức Maria. Amen.
Quan niệm đông phương nhìn vũ trụ nhân sinh theo nguyên lý tam tài: phải có đủ “thiên thời, địa LễTruyềnTin 94
Quan niệm đông phương nhìn vũ trụ nhân sinh theo nguyên lý tam tài: phải có đủ “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” mới bảo đảm được sự thành đạt trong cuộc sống. Công trình cứu chuộc của Thiên Chúa cũng thế, Ngài chỉ sai Con Một Ngài đến khi cả ba yếu tố đó đều hội đủ: - “thiên thời”: “khi thời gian tới hồi viên mãn” (Ga 4,4); - “địa lợi”: trong dòng tộc Đa-vít, tại miền đất mà Chúa đã ban và trong lịch sử của dân riêng Ngài; và – “nhân hoà”: chỉ khi có lời thưa của Đức Ma-ri-a: “Vâng, tôi đây là nữ tì của Chúa, xin Ngài thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói.” “Thiên thời, địa lợi” là do sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa. Còn yếu tố “nhân hoà” Chúa dành cho con người định đoạt.
Mời Bạn: Đặt biến cố truyền tin vào trong từng giây phút sống của mình, chắc chắn không phải là một sứ thần Chúa sẽ đến hỏi ý chúng ta. Thay vào đó, có thể là một người thân, một người bạn hữu, là một trong những người mà ta thường gặp hằng ngày, có khi là một người cơ nhỡ, khổ đau mà tình cờ chúng ta tiếp xúc. Phải có yếu tố “nhân hoà” của bạn thì Chúa mới có thể qua bạn mà đến với người khác đấy. Liệu bạn có thể thưa vâng như Mẹ, để ơn huệ và tình yêu Chúa lan truyền cho đời sống không?
Chia sẻ: Những yếu tố “thiên thời, địa lợi” cho việc loan báo Tin Mừng ngày hôm nay là phần Chúa; yếu tố “nhân hoà”, phần của bạn, bạn đã có chưa?
Sống Lời Chúa: Noi gương Mẹ, bạn dành ít là 5 phút mỗi ngày để cầu nguyện riêng với Chúa, và tập thưa vâng với Ngài.
Cầu nguyện: Hát bài “Xin Vâng” hoặc đọc kinh Truyền Tin vào giờ trưa.
Nếu trong đời sống tự nhiên, con người khi được sinh ra, lớn lên và trưởng thành cần biết bao LễTruyềnTin 95
Nếu trong đời sống tự nhiên, con người khi được sinh ra, lớn lên và trưởng thành cần biết bao tình yêu thương và chăm sóc của người mẹ thì trong đời sống thiêng liêng điều đó còn cần thiết hơn gấp ngàn lần. Chúa Giêsu biết rõ điều đó nên khi muốn trở thành một con người, Ngài đã chọn Đức Maria làm mẹ của mình nơi trần thế và Ngài đã để lại cho chúng ta một người mẹ thiêng liêng tuyệt vời luôn bầu cử cho chúng ta nơi cuộc sống trần thế này.
Thánh sử Luca đã tường thuật lại cho ta biến cố lịch sử trong cuộc đời Đức Maria và cho toàn thể chúng ta hôm nay. Khi biết Thiên Chúa muốn chọn Đức Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế qua việc truyền tin của sứ thần. Đức Mẹ đã rất bàng hoàng và bỡ ngỡ, tin đó quả là bất ngờ, vượt mọi suy nghĩ, mọi tưởng tượng, mọi đợi chờ. Bất ngờ từ việc sứ thần không gọi Maria bằng tên riêng, nhưng gọi bằng tên gọi thần thiêng: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”. Cụm từ “Đầy ân sủng” có nghĩa là Đấng “được Thiên Chúa yêu thương” hoặc “được Chúa ở cùng”. Một người luôn được Chúa yêu thương và được Chúa ở cùng hẳn là người rất hạnh phúc.
Để được Chúa yêu thương và ở cùng, Mẹ đã mở lòng đón nhận thánh ý Chúa bằng tiếng “Xin vâng” để Con Thiên Chúa nhập thể trong Mẹ và chính Chúa làm cho cuộc đời Mẹ tràn ngập ân sủng, sự sống và niềm vui. Mẹ đã đón nhận Chúa và đem Chúa đến cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta. Cũng chính nhờ Đức Kitô, mà chúng ta được trở nên con cái của Thiên Chúa và nhận mọi phúc lộc thiêng liêng trên trời. Xin vâng là chấp nhận ý Chúa; là cùng cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa, Mẹ đã khiêm tốn, phó thác chính mình trong tay Chúa. Khi Mẹ cất lên hai tiếng "xin vâng", Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã xuống thế nhập thể trong lòng Đức Mẹ. Sau lời đáp trả của Mẹ, nhân loại đã được hưởng nhờ ơn cứu độ của Thiên Chúa, Ngài đã chọn cung lòng Mẹ để thực hiện lời hứa cứu độ của Ngài; và cũng từ đây một con đường mới được mở ra cho nhân loại, con người đã có thể đón nhận ánh sáng của ơn cứu độ mà không còn phải lầm lũi trong bóng đêm của tội lỗi.
Lời xin vâng của Mẹ biểu lộ bằng việc Mẹ luôn đón Chúa vào cuộc đời của mình, để Chúa làm chủ cuộc đời của Mẹ và Mẹ đã chấp nhận sống theo thánh ý Chúa. Khi đón Chúa vào cuộc đời của mình ta đáp lại lời xin vâng như Đức Maria xưa và để đón Chúa vào cuộc đời mình, ta chấp nhận để Chúa làm chủ cuộc đời ta và buông mình theo lề luật và thánh ý của Chúa. Điều này thật không dễ dàng đối với mỗi người chúng ta. Có những lúc trong cuộc sống ta luôn coi trọng ý Chúa và xin vâng ý Chúa, nhưng cũng có những lúc ý Chúa không như ta mong đợi nên ta coi thường ý Chúa và chống lại ý Chúa. Có những lúc ta vô tình hay cố tình hiểu sai ý Chúa hay luôn làm theo ý riêng mình rồi giải thích đó là ý Chúa. Cũng có những lúc ta muốn ý Chúa hợp theo ý riêng mình, cho dù ý riêng mình là nhỏ nhen, ích kỷ, chỉ nghĩ, chỉ lo cho riêng cá nhân mình.
Lời xin vâng của Đức Maria xưa và của chúng ta ngày nay là cả một tiến trình đi tìm kiếm và sống theo thánh ý Chúa. Mỗi ngày, từng chút từng chút một, ta thực thi lời xin vâng bằng những hy sinh âm thầm, bằng những chuỗi kinh Mân Côi; bằng việc đón nhận thánh ý Chúa trong cuộc đời của mình cho dù đó là những khó khăn, thiếu thốn, vất vả. Khi đón Chúa vào cuộc đời của mình, chúng ta sẽ được Chúa cất khỏi những gánh nặng tội lỗi, chữa lành những vết thương của tâm hồn và tháp nhập đời chúng ta vào sự sống thần linh cao cả của Ngài. Bỏ ý mình để sống theo thánh ý Chúa có khi ta phait từ bỏ và hy sinh rất nhiều, nhưng chắc chắn Chúa sẽ dẫn ta đến thành toàn và bình an. Ta cũng noi gương và sống xin vâng như Đức Maria trong bầu khí thinh lặng, chiêm niệm và sức mạnh lạ lùng của sự khiêm nhường, nghèo khó bằng cách thực hành việc bác ái, thương cảm giúp đỡ những người nghèo, bệnh tật, chú tâm đến việc loan báo Tin Mừng cho người khác bằng đời sống và lời nói của mình. Trong năm thánh Lòng Chúa Thương Xót này, ta cũng tập sống theo ý Chúa bằng cách đón nhận những khác biệt và khiếm khuyết của nhau để Chúa luôn ở với ta như đã ở trong cung lòng Đức Mẹ.
Mừng lễ Mẹ Truyền Tin, chúng ta hết lòng tạ ơn Chúa đã thương ban cho Mẹ bao ân phúc lạ lùng và tạ ơn Chúa vì muôn hồng ân Chúa ban cho chúng ta. Nếu lời xin vâng của chúng ta được hiệp thông sâu sắc với lời xin vâng của Đức Mẹ, thì cuộc đời ta sẽ tràn ngập niềm vui, đó là kho tàng vô giá đối với cuộc đời của người tín hữu Kitô giáo hôm nay. Amen.
Thiên Chúa dành cho Đức Maria một sứ điệp đặc biệt – đệ nhất sứ điệp, thông qua Sứ Thần Gáp-ri-en LễTruyềnTin 96
Thiên Chúa dành cho Đức Maria một sứ điệp đặc biệt – đệ nhất sứ điệp, thông qua Sứ Thần Gáp-ri-en trong cuộc Truyền Tin, và cũng là sứ vụ đặc biệt mà Thiên Chúa trao cho Đức Maria: làm Mẹ Thiên Chúa. Đó là Hỉ Tín không chỉ riêng cho Đức Maria mà còn cho cả nhân loại. Nhờ sự kiện truyền tin và nhờ đức tuân phục của Đức Maria mà nhân loại có Đấng Em-ma-nu-en, Vị Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Tôn Danh Mẹ Thiên Chúa được Thánh Ê-li-da-bét sử dụng lần đầu tiên khi Đức Mẹ đến thăm: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1:43).
Thật tuyệt vời vì chỉ trong vòng nửa năm mà tin vui nhân đôi: Mới trước đó là tin vui cho vợ chồng ông Da-ca-ri-a và bà Ê-li-da-bét (còn gọi là I-sa-ve) với tin thụ thai ngôn sứ Gioan Tẩy Giả, và nay là tin vui cho Đức Maria với tin thụ thai Đấng Cứu Thế. Tin vui lớn dần, dâng trào, tin vui sau lớn hơn tin vui trước. Quả thật, niềm vui ấy lan tỏa mau chóng, bao phủ khắp nơi, đầy ắp lòng người. Niềm vui như vỡ òa nhờ Thiên Chúa ban hồng ân chan hòa!
Đối với hỉ tín thứ nhất, chúng ta có thánh ca “Bài Ca Chúc Tụng” (Benedictus) của ông Da-ca-ri-a (Lc 1:68-79). Đối với hỉ tín thứ nhì (lớn hơn), chúng ta có thánh ca “Bài Ca Ngợi Khen” (Magnificat) của Đức Maria. Cả hai thánh ca đều xưng tụng và cảm tạ Thiên Chúa.
Các sứ điệp đa dạng và nhiều mức độ. Sứ điệp có thể vui hay buồn, bình thường hoặc quan trọng, cũng có thể là sứ mệnh, trọng trách. Sứ điệp đó là tin mừng, là tin vui, là tin lành, là hỉ tín, đồng thời cũng là trách nhiệm nặng nề, thực sự không dễ thực hiện.
Mặc dù lo sợ – vì chưa hiểu thế nào, nhưng khi hiểu ra vấn đề, đặc biệt là với niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, Đức Maria đã mau mắn vui vẻ chấp nhận, không chút trì hoãn, không hề so đo, không hề tính toán. Từ đó, Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa bắt đầu trở nên hiện thực. Và rồi Thánh sử Gioan xác nhận: “Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta, và chúng ta đã nhìn thấy vinh quang của Người” (Ga 1:14ab). Thật hạnh phúc cho nhân loại biết bao!
Ngược dòng thời gian, trình thuật Is 7:10-14 cho biết một sứ điệp tuyệt vời – ngắn gọn và súc tích, nhưng mạnh mẽ. Đó là từ xa xưa, vua A-khát được Thiên Chúa cho phép: “Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh”. Nhưng ông e ngại với lòng khiêm nhường, và ông trả lời: “Tôi sẽ KHÔNG XIN, tôi KHÔNG DÁM thử thách Đức Chúa”. Sứ điệp này cảnh báo chúng ta “đừng đùa với lửa”, bởi vì đã từng có những lần chúng ta dám thử thách Thiên Chúa mà chúng ta không biết hoặc tìm cách biện hộ cho mình.
Thời đó, ông I-sai-a đã đưa ra một sứ điệp cho dân chúng với lối “hỏi–đáp” đơn giản: “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít! Các ngươi làm phiền thiên hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa? Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en”. Đó là lời tiên báo về Đức Maria, một thôn nữ miền Na-da-rét, được Thiên Chúa ưu tuyển để đảm trách sứ vụ làm Thánh Mẫu Thiên Chúa.
Là một thục nữ và được giáo dục đạo đức nghiêm túc của Cha Mẹ – ông Gio-a-kim và bà An-na, nên Cô Gái Trẻ Maria không chỉ sống thánh thiện mà còn rất khiêm nhường – nhân đức nền tảng của mọi nhân đức. Thiên Chúa ưa thích tính khiêm nhường chứ không cần thứ gì khác, như Thánh Vịnh gia xác nhận: “Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã mở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi” (Tv 40:7). Cô Gái Trẻ Maria cũng luôn biết “xin vâng” trong mọi sự, theo cách mà Kinh Thánh đã đề cập: “Này con xin đến! Con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con!” (Tv 40:8-9). Trọn đời Đức Maria đã sống vuông tròn theo Thánh Ý Chúa, và cuộc đời Mẹ là “lời nói” vang ngân mãi mọi thời đại, như Thánh Vịnh xác định: “Đức công chính của Ngài, con loan truyền giữa lòng đại hội; lạy Chúa, Ngài từng biết: con đâu có ngậm miệng làm thinh” (Tv 40:10). Không ai có thể làm thinh khi niềm vui quá lớn.
Chỉ vì sống khiêm nhường thì người ta mới có thể vâng lời. Hai nhân đức này là nhân đức đối nhân, không là nhân đức đối thần, nhưng vẫn có tầm quan trọng, và đặc biệt là luôn có hệ lụy với nhau theo tính liên đới. Để chứng minh, Thánh Phaolô đề cập đức vâng lời: “Máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10:4-7). Thiên Chúa có tất cả vì Ngài là Đấng Tạo Hóa, Ngài không cần gì ở loài thụ tạo, mà chỉ cần chúng ta nhận biết Ngài, tin yêu và tuân phục Ngài.
Tiếp tục dẫn chứng về ý muốn của Thiên Chúa Cha và đức tuân phục của Thiên Chúa Con, Thánh Phaolô cho biết: “Trước hết, Đức Kitô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền. Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ” (Dt 10:8-10). Tương tự, phàm nhân cũng luôn yêu quý những người biết tự nguyện, chứ không miễn cưỡng. Sự tự nguyện là đáng quý, sự miễn cưỡng là vô ích.
Chính Chúa Giêsu là Chiên Hiến Tế Thánh, vô giá, dâng một lần nhưng có hiệu lực từ hồng hoang cho tới tận thế. Chúng ta chỉ là phàm nhân tội lỗi, hoàn toàn bất xứng, nhưng nếu biết khiêm nhường thì vẫn có giá trị đối với Thiên Chúa, thế nhưng chúng ta phải dâng lễ tế nhiều lần, không chỉ dâng lễ đền tội cho chính mình mà còn cho người khác nữa. Đó là một dạng yêu thương liên đới.
Sự kiện Truyền Tin chỉ được ghi lại trong Tin Mừng theo Thánh Luca (Lc 1:26-38), ba Tin Mừng kia không có. Thánh Luca cho biết: “Bà Êlisabét có thai được sáu tháng,Thiên Chúa sai sứ thần Gáprien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Maria”. Các chi tiết rất rõ ràng qua văn phong của Thánh Luca. Thật kỳ lạ, đó là cuộc đối thoại siêu nhiên nhưng lại có vẻ rất tự nhiên, giống như một đoạn video clip, rất sống động, rất đời thường.
Hôm đó, Sứ thần Gáp-ri-en vào nhà Đức Maria và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Chị”. Nghe lời ấy, Đức Maria rất bối rối, bởi vì… “kỳ thí mồ” đi, chả hiểu ất giáp chi ráo trọi. Sao lại lạ thế nhỉ? Ngay lập tức Sứ thần vừa trấn an vừa giải thích một hơi dài: “Này Chị Maria, xin đừng sợ, vì Chị đẹp lòng Thiên Chúa.Chị sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”. Đức Maria vẫn thấy chưa ổn, vẫn ngại lắm, nên thưa với Sứ thần: “Mèn ơi, việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”.
Sứ thần ôn tồn đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. Và như để chắc cú, Sứ thần dẫn chứng cụ thể: “Này nhé, Cô Êlisabét, người họ hàng với Chị đấy, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: Cô ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”. Ôi, lạy Chúa tôi, nhẹ cả mình! Rõ ràng hai năm rõ mười, thế là an tâm, chả còn lo sợ chi nữa. Bấy giờ Đức Maria liền nói: “Vâng, tôi đây là NỮ TỲ của Chúa, xin Chúa CỨ LÀM cho tôi như lời sứ thần nói”. Một lời xác nhận đầy ắp sự can đảm với tầm nhìn tương lại rộng lớn. Quả thật, không dễ gì mà có thể quyết định mau mắn với đại sự như vậy. Lời “xin vâng” này là điều quyết định rất quan trọng để rồi “chốc ấy Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người, và ở cùng chúng ta”. Lịch sử kiếp người sang một trang hoàn toàn mới trong Chương Trình Cứu Độ. Thật tuyệt vời!
Sau khi hoàn thành sứ vụ, Tổng thần Gáp-ri-en từ biệt ra đi. Và Đức Maria bắt đầu trang đời mới với trọng trách mới và đầy gian khó đang chờ phía trước. Ôi, xin hết lòng tạ ơn Thiên Chúa và Đức Trinh Nữ Maria. Đức Mẹ là Nhà Tạm đầu tiên bởi vì Đức Mẹ là Người-mang-Thiên-Chúa (Theotókos). Thật diễm phúc cho phàm nhân chúng ta, vì mỗi khi đón nhận Thánh Thể, chúng ta cũng trở nên Nhà Tạm của Thiên Chúa Ngôi Hai, đúng như lời Thánh Phaolô xác nhận rằng “chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa hằng sống” (2 Cr 6:16).
Một sự thật minh nhiên là “xin vâng” là tuân phục Thánh Ý Chúa, và điều đó “trọng hơn của lễ” (1 Sm 15:22; Tv 50:8-9), thế nhưng chắc chắn không dễ thực hiện, mà phải nỗ lực rất nhiều và phải cậy nhờ ơn Chúa.
Lễ Truyền Tin là dịp đặc biệt, là cơ hội tốt để chúng ta cùng nhau tự soi lại cuộc đời mình qua lời Đức Mẹ đã nói với ba trẻ chăn chiên tại Fátima (Bồ Đào Nha) từ năm 1917: “Nếu loài người biết vĩnh cửu là gì thì họ sẽ làm mọi thứ để thay đổi cuộc đời”.
Mỗi khi cầu nguyện bằng Kinh Mai Côi, với ngắm thứ ba của Mùa Vui, chúng ta cầu xin được “ở khiêm nhường”, tức là biết sống khiêm nhường. Khiêm nhường, khiêm hạ hoặc khiêm nhu cũng là một, chữ “khiêm” nào cũng khó. Mẫu tự K mà thật là khó “ca” quá chừng, KH mà có dễ “ca hát” gì đâu! Chúng ta đều biết rằng khiêm nhường là nhân đức nền tảng của mọi nhân đức, vô cùng quan trọng đối với bất kỳ ai, bởi vì chính Chúa Giêsu đã dạy: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11:29). Đức Mẹ là người luôn sống khiêm nhường, được tuyển chọn làm Mẹ Thiên Chúa nhưng lại chỉ nhận mình là Nữ Tỳ của Thiên Chúa mà thôi (Lc 1:38).
Sau khi biết tin Chị Ê-li-da-bét cũng có hỉ tín và chấp nhận làm Mẹ Thiên Chúa, Đức Maria đã vội vã đi thăm Chị. Khi hai người mẹ phấn khởi, Đức Maria đã chúc tụng Thiên Chúa bằng bài Magnificat, trong đó có đề cập đức khiêm nhường: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1:25). Thánh Phaolô cũng khuyên sống khiêm nhường: “Anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường. Vậy anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, để Người cất nhắc anh em khi đến thời Người đã định” (1 Pr 5:5-6). Thiên Chúa có kế hoạch riêng cho từng người, không ai biết trước, nhưng Thiên Chúa sẽ hành động đúng lúc, đúng thời theo kế hoạch quan phòng mầu nhiệm của Ngài.
Bất cứ ai khiêm nhường thì cũng hiền lành. Khiêm nhường là nhân đức cao quý đến nỗi Chúa Giêsu đã đặt là một trong Tám Mối Phúc: “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp” (Mt 5:4). Tuy nhiên, nên nhớ rằng càng làm lớn càng dễ ỷ lại, dễ kiêu ngạo, do đó mà càng cần đức khiêm nhường hơn bao giờ hết. Trồng rừng phải mất nhiều thời gian, nhưng đốt rừng chỉ trong thoáng chốc, và chỉ cần một que diêm mà thôi. Que diêm đó chính là thói kiêu ngạo. Đốm lửa kiêu ngạo sẽ mau chóng thiêu rụi tất cả trong nháy mắt!
Lạy Thiên Chúa toàn năng và hằng hữu, xin Ngài hành động nơi chúng con theo Thánh Ý Ngài, xin giúp chúng con luôn can đảm“xin vâng” trong mọi hoàn cảnh, nhất là trong lúc gian nan khốn khó. Nguyện xin Đức Mẹ nguyện giúp cầu thay và đồng hành với chúng con, giúp chúng con kiên cường sống trọn ba đức đối thần suốt cuộc đời này. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen
Lễ Truyền Tin nhắc nhở chúng ta về một khoảnh khắc quan trọng: Sứ thần Gáp-ri-en thông báo LễTruyềnTin 97
Lễ Truyền Tin nhắc nhở chúng ta về một khoảnh khắc quan trọng: Sứ thần Gáp-ri-en thông báo Tin Vui cho Trinh Nữ Maria, vị hôn thê của Đức Thánh Giuse. Cô thôn nữ Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn là Người-mang-Thiên-Chúa (Theotókos), trở thành Mẹ Thiên Chúa.
Lời “xin vâng” của Đức Maria góp phần hoàn tất Kế hoạch Cứu độ của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Chúng ta cùng nghe lại lời Đức Mẹ nói với Sứ thần năm xưa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1:38).
Thật là trên cả tuyệt vời, ngay khi Đức Mẹ nói lời “xin vâng” thì “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14).
Ngôi Hai Thiên Chúa là Đấng Em-ma-nu-en, Đấng Thiên-Chúa-ở-giữa-chúng-ta, gọi là Đức Giêsu Kitô. Đức Maria được mang Đấng ấy, Đấng Mê-si-a, Đấng Thiên Sai, và cung lòng của Đức Mẹ trở nên Nhà Tạm đầu tiên, nơi có Chúa Giêsu ngự trị, hiện diện thực sự. Ngày nay chúng ta cũng có những Nhà Tạm ở các nhà thờ, nơi có Thánh Thể Chúa Giêsu Kitô. Các nơi đó cũng có Chúa Giêsu hiện diện thực sự.
Chúa Giêsu Kitô chính là Ngôi Lời Vĩnh Hằng của Thiên Chúa: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1:9).
Thánh Gioan diễn tả: “Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống. Quả vậy, sự sống đã được tỏ bày, chúng tôi đã thấy và làm chứng, chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời: sự sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha và nay đã được tỏ bày cho chúng tôi. Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha và với Đức Giêsu Kitô, Con của Người” (1 Ga 1:1-3).
Sau khi được đón nhận Tin Vui, Đức Mẹ đã đem Chúa đến cho người chị họ Ê-li-da-bét. Chính Chị Ê-li-da-bét đã có niềm vui nhân đôi: Được cả Thiên Chúa Ngôi Hai và Đức Maria đến thăm. Niềm vui nhân đôi đó khiến Thai nhi Gioan cũng phải nhảy mừng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1:42-45).
Lễ Truyền Tin cũng nhắc nhở chúng ta về bổn phận loan báo Tin Mừng cho tới tận cùng trái đất, giúp người khác nhận biết Cứu Chúa Giêsu Kitô!
Là một thiếu nữ trong một gia đình đạo đức, ta có thể hình dung Maria đang chăm chỉ với công LễTruyềnTin 98
Là một thiếu nữ trong một gia đình đạo đức, ta có thể hình dung Maria đang chăm chỉ với công việc thường ngày để phụ giúp cha mẹ. Tâm trí Cô đang nhẩm hát một ca khúc, như Thánh vịnh 118 chẳng hạn: “Israel hãy nói lên rằng: muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương… có Chúa ở cùng tôi, tôi chẳng sợ gì, hỏi người đời làm chi tôi được…”. Maria đã được đính hôn và trong một tương lai gần, cô sẽ có một gia đình hạnh phúc với chàng thợ mộc Giuse rất đạo đức, tốt lành, nếu như không có việc Thiên Sứ Gabriel đến can thiệp. Sứ thần vào nhà và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà…” Bối rối quá đi chứ! Chắc hẳn Mẹ đã tự hỏi: “Tại sao người lại chào tôi một lời chào trân trọng đến thế được? Tôi là ai mà đáng nhận lời chào ấy chứ? Đức Chúa ở cùng tôi ư? Vậy Đức Chúa muốn dùng tôi làm việc gì cho Ngài?…” Rồi khi được nghe sứ thần giải thích chương trình của Chúa, Mẹ đã hiểu ra ý Chúa muốn “trọn tình thương” với Dân Người, và Đấng muôn dân trông đợi sẽ đến, và Người muốn Mẹ cộng tác vào chương trình cứu độ này… mà Đấng ấy… là Con Đấng Tối Cao… vậy làm cách nào để Mẹ có thể cộng tác vào một dự phóng quá quan trọng như vậy được?
Khi lắng nghe sứ thần giải thích, Maria đã hiểu ra: tất cả chương trình Cứu độ sẽ được chính Thiên Chúa đích thân thực hiện: “Thánh Thần sẽ ngự xuống…, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà”, Mẹ hiểu chính Đức Chúa ở với Dân Người, và ở với chính Mẹ để làm mọi sự qua Mẹ, và Mẹ hiểu ngay vai trò của Mẹ là cộng tác vào kế hoạch lớn lao ấy: “Này tôi là Nữ tỳ của Chúa… Tôi xin vâng…”, bất chấp mọi hệ lụy có thể xảy đến từ lời “Xin vâng” ấy, vì Mẹ đã tin: “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” Mẹ đã đặt trọn đời Mẹ trong chương trình của Chúa, mặc dù chưa biết mọi sự sẽ diễn tiến thế nào, nhưng đối với Mẹ từ nay không còn kế hoạch riêng nào, cũng không còn áp lực nào có thể lung lạc được Niềm Tin kiên vững của Mẹ.
Sống Tin Mừng với Mẹ:
Mỗi lần tham dự thánh lễ, lời chào của vị Chủ tế “Chúa ở cùng anh chị em” có đem lại cho tôi cảm xúc hoặc suy nghĩ nào không? Khi rước Thánh Thể, tôi có ý thức được niềm hạnh phúc vì được Chúa ở cùng như Mẹ không? Nếu ý thức sâu xa về điều đó, chắc hẳn đời tôi đã thay đổi, vì chính Mẹ đã được biến đổi, mà biến đổi trong niềm vui, niềm cậy trông và tín thác.
Hành động như Mẹ:
– Tham dự thánh lễ và hiệp lễ cách ý thức.
– Thường xuyên trở về với “cung thánh lòng mình” để thờ lạy Chúa đang ngự nơi đó, lắng nghe và đáp trả lời mời gọi của Ngài. Tôi sẽ kín múc được Niềm Vui từ Ngài.
Cầu nguyện với Mẹ: Hát
“Mẹ ơi, đời con dõi bước theo Mẹ… “Lạy Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên tội Xin cầu cho chúng con hằng chạy đến kêu xin Mẹ.” -Biên tập: Gia đình Ảnh Đức Mẹ Ban Ơn
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật về một cuộc đối thoại quan trọng nhất cho vận mạng loài người LễTruyềnTin 99
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật về một cuộc đối thoại quan trọng nhất cho vận mạng loài người – cuộc đối thoại giữa Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel với cô thôn nữ làng Nazareth là Đức Maria.
Cuộc truyền tin này mang một ý nghĩa sống còn khi tạo vật nín thở chờ tiếng “xin vâng” của Đức Maria để Con Thiên Chúa nhập thể đi vào trần gian.
Nơi biến cố này, chúng ta có nhiều điểm đặc biệt để suy tư, như: “Nữ Tỳ Khiêm Hạ, Đấng Đầy Ơn Phúc, Đấng đầy Thánh Thần và đặc biệt là lời “Xin Vâng” của Đức Trinh Nữ.
Ở đây, chúng ta chỉ tập chú suy niệm về đức vâng phục của Mẹ qua lời “Xin Vâng”:
Đức Maria nhận ra ý muốn của Đấng Toàn Năng trong lời thiên sứ và tùng phục quyền năng của Người, Mẹ đáp lại: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38).
Như thế, Mẹ đã ưng thuận sự lựa chọn của Thiên Chúa, để nhờ Chúa Thánh Thần, trở thành Mẹ của Thiên Chúa, vì Mẹ được hướng dẫn bởi tình yêu hoàn toàn “tận hiến” cho Thiên Chúa một con người nhân bản, để cộng tác trọn vẹn mối hiệp thông vào chương trình cứu độ.
Lời xin vâng – xác tín
Lời “xin vâng” không chỉ nói lên sự khiêm nhường và vâng phục cách đơn thuần, nhưng còn hơn thế nữa, Người xác tín và hoàn toàn đồng ý với chương trình của Thiên Chúa, nghĩa là “ngay bây giờ sẽ thụ thai”, mà Giuse không biết gì cả. Khi chấp nhận chương trình của Thiên Chúa, thụ thai để làm Mẹ Đấng Cứu Độ, Đức Maria biết rất rõ sự nguy hiểm đang chờ đón mình là có thể mất mạng vì luật Môsê sẽ ném đá thiếu nữ đã đính hôn mà có thai ngoài hôn nhân (x. Đnl 22, 22- 23).
Lời xin vâng – phó thác
Tiếng “xin vâng” là một tiếng can đảm vâng phục, tin tưởng phó thác cả mạng sống vào tay Thiên Chúa và tiếng “xin vâng” đó sẽ theo suốt cuộc đời của Đức Maria cho đến cây thập giá. Âm thầm chấp nhận tất cả, vì chương trình của Thiên Chúa .
Lời xin vâng – tự do
Tuy nhiên, cũng cần hiểu đúng trong sự “xin vâng” của Đức Maria chất chứa hoàn toàn với tất cả ý thức và tự do, Người được thiên sứ Gabriel giải thích ý nghĩa công trình của Thiên Chúa muốn được thực hiện nơi con người của Mẹ. Thật vậy, ý định của Thiên Chúa luôn được thi hành và chương trình của Thiên Chúa luôn được thực hiện, nhưng không phải bằng cách cưỡng bách hay ép buộc. Khi chương trình Thiên Chúa liên can đến con người mà Thiên Chúa trang bị cho được tự do, thì có thể nói, chương trình ấy phần nào lệ thuộc vào sự cộng tác của con người. Nếu Thiên Chúa sử dụng con người như những “con tốt” trên bàn cờ hay như những vật vô tri trong vũ trụ, thì mọi sự sẽ diễn ra trong trật tự và ổn định, nhưng Thiên Chúa đã không muốn thế, vì như vậy sẽ tước đi sự tự do -điều quí giá nhất trong tình yêu- con người, làm cho sự đáp trả mất đi ý nghĩa và giá trị của nó. Cũng thế, Đức Maria, với cả “nhân vị” của mình, Người đã thưa tiếng “xin vâng” với sự cộng tác cao nhất, trong sự tự do và trách nhiệm, cùng với một tình yêu không mức độ.
Như vậy, qua lời “xin vâng”, Đức Maria để lại cho chúng ta một mẫu gương chói ngời về sự vâng phục và tín thác hoàn toàn trong tay Thiên Chúa, với cả ý thức tự do tận hiến cho Chúa. Mẹ trở thành một khí cụ tuyệt hảo trong tay Thiên Chúa để ban ơn cứu độ cho nhân loại. Mẹ đã qui về Thiên Chúa tất cả mọi đặc ân và vinh quang nhận được, khiêm tốn nhìn nhận mình là “nữ tỳ hèn mọn” và tất cả là do Thiên Chúa. Đặc biệt Mẹ đã can đảm thưa tiếng “xin vâng” để suốt cuộc đời âm thầm chấp nhận phó thác mình cho Thiên Chúa hầu cộng tác cứu độ loài người.
Lạy Mẹ Maria, xin mẹ cầu bầu cho chúng con luôn bước đi trong ân sủng, khiêm tốn qui hướng mọi sự về cho Thiên Chúa và không tự phụ về những thành công mình đạt được. Đặc biệt, luôn phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa trong sự vâng phục thánh ý Người, để nên hiến lễ hằng ngày dâng lên Thiên Chúa hầu mưu ích cho các linh hồn. Amen Hiền Lâm
Thiên Chúa đã khởi sự công trình Cứu Chuộc bằng ngỏ ý mời con người cộng tác, qua việc sai LễTruyềnTin 100
Thiên Chúa đã khởi sự công trình Cứu Chuộc bằng ngỏ ý mời con người cộng tác, qua việc sai sứ thần Gabrien đến với một Trinh Nữ có tên là Maria, làng Nadarét và đề nghị Trinh Nữ chấp thuận làm Mẹ Ngôi Lời Thiên Chúa sẽ làm người trong lòng Trinh Nữ nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Sau những trao đổi khiêm tốn, thẳng thắn và chân thành, Trinh Nữ Maria, con người đẹp lòng Thiên Chúa đã chính thức nhận lời cộng tác với Thiên Chúa trong công cuộc Cứu Thế của Ngài, khi dứt khoát trả lời: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38).
“Và Ngôi Lời đã làm người, và ở giữa chúng ta” (Ga 1,14).
Lời nguyền rủa Rắn, tức Thần Dữ, cũng là Lời Hứa cứu độ của Thiên Chúa sau khi nguyên tổ phạm tội: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy ; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3,15) nay đã được thực hiện, và Lời Hứa ấy đã được các ngôn sứ nhiều lần nhắc lại khi tuyên sấm, đặc biệt ngôn sứ Isai: “Chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây một Trinh Nữ sẽ thụ thai, sinh hạ con trai và đặt tên là Emmanuen” (Is 7,14) nay đã hoàn toàn được ứng nghiệm. Chúng ta thấy trong biến cố Truyền Tin:
1. Thiên Chúa tuyệt đối tôn trọng tự do của con người:
Dựng nên con người, Thiên Chúa đã không hỏi ý kiến của ai, vì chưa có ai để hỏi, khi tất cả còn là hư không. Nhưng khi đã dựng nên con người giống hình ảnh mình rồi, thì Thiên Chúa tuyệt đối tôn trọng tự do của con người, là hình ảnh của chính Ngài.
Vì thế, với tự do là hình ảnh của Thiên Chúa, con người đã trở mặt phản nghịch Thiên Chúa khi nghe lời Thần Dữ xúi dục không tin ở Ngài, không tin Ngài thương yêu, không tin Ngài hết lòng chăm nom, săn sóc, và không để phải thiếu thốn gì.
Tự do đã cho con người quyền “nói có, nói không” với Thiên Chúa ; tự do đã cho con người địa vị bá chủ mọi loài được Thiên Chúa tạo dựng (x. St 1,28), nhưng cũng chính tự do làm con người tự cắt đứt ân tình, gạt bỏ ân nghiã với Thiên Chúa, nhưng chính tự do cũng đã mở mắt con người để “thấy mình trần truồng”, nghèo nàn, phản phúc, nên xấu hổ, sợ hãi, tránh mặt Thiên Chúa (x. St 3, 7-10).
Nhưng vì yêu thương vô cùng và đến cùng, Thiên Chúa đã không nỡ bỏ con người mà Ngài đã yêu thương tạo dựng, nên đã lên ngay một chương trình cứu vãn những gì đã sụp đổ, hư hỏng, qua Lời Hứa Cứu Độ, nhưng Lời Hứa ấy sẽ chỉ có thể được thực hiện với sự cộng tác tự do, hợp tác tự nguyện của con người, như con người đã tự nguyện, tự do bất hợp tác với Thiên Chúa cho hạnh phúc của mình, trong vườn địa đàng.
Trong biến cố Truyền Tin, sứ thần đã được sai đến để hỏi ý kiến con người, để chờ đợi ở con người một lời chấp thuận, để nhận từ con người một cam kết hợp tác, và con người đại diện cho tất cả loài người ấy chính là Trinh Nữ Maria, quê làng Nadarét, người nữ đuợc Thiên Chúa yêu thương, chúc phúc. Chính người đã thay mặt nhân loại trả lời xin vâng, bầy tỏ tự do tin yêu, tự do phụng thờ, tự do vâng phục, tự do phó thác, tự do dấn thân thực thi Thánh Ý Thiên Chúa trong nhiệm cuộc cứu độ nhân loại.
Và chương trình cứu chuộc qua mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa đã thực sự được khởi sự tốt đẹp ngay sau biến cố Truyền Tin hôm ấy.
2. Cộng tác với Thiên Chúa là vâng theo Thánh ý Ngài:
Là Cha thương yêu, nhân hậu và toàn năng, nên kế hoạch nào, chương trình nào của Thiên Chúa chuẩn bị thực hiện cho con người cũng đều tốt đẹp và hoàn hảo, vì Ngài là Tình Yêu và chỉ muốn trao ban những gì tuyệt vời nhất cho con người.
Vì thế, khi chờ đợi con người tự do cộng tác vào kế hoạch, chương trình đem lại hạnh phúc cho con người của mình, Thiên Chúa chỉ mong con người chấp thuận ý muốn yêu thương, và làm theo kế hoạch đã được quan phòng cách tuyệt hảo của Ngài, bởi chỉ một mình Ngài là Thiên Chúa mới biết rõ chúng ta cần gì, và thực hiện hoàn hảo những gì cần cho chúng ta (x. Mt 6, 25-34).
Tóm lại, điều Thiên Chúa cần ở con người là vâng phục Thánh Ý Ngài ; công việc con người cần làm để cộng tác với Thiên Chúa là sống theo Luật Chúa ; thái độ con người cần có để làm vui lòng Thiên Chúa là là làm theo Lời Ngài dậy, như Đức Giêsu đã đến để làm theo ý Chúa Cha, đã đến để thực thi ý muốn của Cha Ngài, như lời thánh vịnh 39 đã được thánh Phaolô nhắc lại cho tín hữu Do Thái:
“Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lậy Chúa, này con đây, con xin đến để thực thi thánh ý Ngài, như sách thánh đã chép về con” (Dt 10,5-7).
Vâng, ý nghiã quan trọng của lễ Truyền Tin là Thiên Chúa tuyệt đối tôn trọng tự do của mỗi người, cũng như cần chúng ta cộng tác với Ngài trong việc cứu rỗi chính chúng ta và anh em, bằng vâng phục Thánh Ý yêu thương và tuyệt hảo của Ngài, Thánh Ý luôn mang lại Hạnh Phúc đời đời cho chúng ta.
Lậy Đức Trinh Nữ Maria, dung mạo và gương mẫu của Giáo Hội, xin Mẹ đồng hành với Giáo Hội để Giáo Hội luôn sẵn sàng cộng tác với Thiên Chúa bằng khiêm tốn, vâng phục Thánh Ý để chúng con, con cái của Mẹ và Giáo Hội được cùng Mẹ hát vang lời kinh Tán Tụng: “Chúa đã làm cho con biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn !” (Lc 1,49)