Suy Niệm Tin Mừng Lễ Thánh Gia ABC Bài 201-250 Thánh Gia, một gia đình gương mẫu về mọi mặt.
------------------------- Năm A:
Lời Chúa: Mt 2, 13-15. 19-23: Hãy đem Con Trẻ và mẹ Người trốn sang Ai-cập
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi các đạo sĩ đã đi rồi, thiên thần Chúa hiện ra với ông Giuse trong lúc ngủ và bảo ông: "Hãy thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và ở đó cho tới khi tôi báo lại ông, vì Hêrôđê sắp sửa tìm kiếm Hài Nhi để sát hại Người". Ông thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người lên đường trốn sang Ai-cập đang lúc ban đêm. Ông ở lại đó cho tới khi Hêrôđê băng hà, hầu làm cho trọn điều Chúa dùng miệng tiên tri mà phán rằng: "Ta gọi con Ta ra khỏi Ai-cập". Bấy giờ Hêrôđê thấy mình bị các đạo sĩ đánh lừa, nên nổi cơn thịnh nộ và sai quân đi giết tất cả con trẻ ở Bêlem và vùng phụ cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo thời gian vua đã cặn kẽ hỏi các đạo sĩ. Thế là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia đã nói: Tại Rama, người ta nghe những tiếng khóc than nức nở, đó là tiếng bà Rakhel than khóc con mình, bà không chịu cho người ta an ủi bà, vì các con bà không còn nữa.
Khi Hêrôđê băng hà, thì đây thiên thần Chúa hiện ra cùng Giuse trong giấc mơ bên Ai-cập và bảo: "Hãy chỗi dậy, đem Con Trẻ và mẹ Người về đất Israel, vì những kẻ tìm hại mạng sống Người đã chết". Ông liền chỗi dậy, đem Con Trẻ và mẹ Người về đất Israel. Nhưng nghe rằng Arkhêlao làm vua xứ Giuđa thay cho Hêrôđê là cha mình, thì Giuse sợ không dám về đó.
Ðược báo trong giấc mộng, ông lánh sang địa phận xứ Galilêa, và lập cư trong thành gọi là Nadarét, để ứng nghiệm lời đã phán qua các tiên tri rằng: "Người sẽ được gọi là Nadarêô".
Năm C:
Phúc Âm: Lc 2,41-52: "Hai Ông Bà gặp Chúa Giêsu đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Hằng năm cha mẹ Chúa Giêsu có thói quen lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua. Lúc bấy giờ Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, cha mẹ Người đã lên Giêrusalem, theo tục lệ mừng ngày lễ Vượt Qua. Và khi những ngày lễ đã hoàn tất, hai ông bà ra về, trẻ Giêsu đã ở lại Giêrusalem mà cha mẹ Người không hay biết. Tưởng rằng Người ở trong nhóm các khách đồng hành, hai ông bà đi được một ngày đàng, mới tìm kiếm Người trong nhóm bà con và những kẻ quen biết. Nhưng không gặp thấy Người, nên hai ông bà trở lại Giêrusalem để tìm Người. Sau ba ngày, hai ông bà gặp thấy Người trong đền thờ đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ, nghe và hỏi các ông. Tất cả những ai nghe Người nói đều ngạc nhiên trước sự hiểu biết và những câu Người đáp lại. Nhìn thấy Người, hai ông bà đã ngạc nhiên, và mẹ Người bảo Người rằng: "Con ơi, sao Con làm cho chúng ta như thế ? Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con". Người thưa với hai ông bà rằng: "Mà tại sao cha mẹ tìm Con ? Cha mẹ không biết rằng Con phải lo công việc của Cha Con ư ?" Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người nói. Bấy giờ Người theo hai ông bà trở về Nadarét, và Người vâng phục hai ông bà. Maria mẹ Người ghi nhớ những việc đó trong lòng. Còn Chúa Giêsu thì tiến tới trong sự khôn ngoan, tuổi tác và ân sủng, trước mặt Thiên Chúa và người ta. - Ðó là Lời Chúa. ---------------------------------------
Bài Tin Mừng thuật lại một câu chuyện rất thường tình trong đời sống gia đình: những biến cố ngoài ý muốn và dường như dáng vẻ mâu thuẫn và tranh chấp. Trong hiện trạng của sự việc vấn đề không thể xem thường được: một người cha, một người mẹ long đong tất tưởi đi tìm con, người con mà họ đã phải hy sinh tất cả để sinh ra và nuôi dưỡng với tất cả lòng yêu mến và kính trọng; sau ba ngày gặp lại được con trong cảnh say sưa "nghe và hỏi" các tiến sỹ trong đền thờ, một sự việc có thể gây nhiều bất trắc trong một xã hội khắt khe như xã hội Do Thái, là một tảng đá ngầm có thể nổ tung con thuyền gia đình nhỏ bé; làm sao không dẫn đến lời trách móc "Con ơi, sao con làm cho chúng ta như thế ? Kìa cha con và mẹ đây, đã đau khổ tìm con". Lời trách trên môi miệng của Đức Maria, một người "Thiên Chúa ở cùng", một người mà "Quyền năng Thiên Chúa bao phủ lòng dạ", chắc chắn chuyên chở sự khổ tâm cùng cực.
Lời Chúa trong lễ này soi sáng và làm nổi bật lên con đường hạnh phúc gia đình, con đường giải quyết những mâu thuẫn và khó khăn. Khi đọc những đoạn kinh thánh này, chúng ta dễ có cảm tưởng đây là những bài học luân lý gia đình, và như thế thường phải chấp nhận những thể hiện khác biệt trải qua thời gian và không gian, nên dễ bị coi là lỗi thời. Nhưng Kinh Thánh không nhằm điều ấy, mà là mạc khải về chính Thiên Chúa và kế hoạch của Người, mà mọi nền luân lý nếu có phải quy chiếu về . Chính Đức Giêsu đã đòi hỏi điều ấy ngay cả với cha và mẹ Người "Cha mẹ không biết rằng con phải lo công việc của Cha con sao ?". Thánh Phaolô mở rộng cái nhìn thiêng thánh này khi cho thấy ơn gọi và sứ mệnh của gia đình là "làm nên một thân thể". Trong ngôn ngữ của Phaolô, chúng ta phải hiểu thân thể ấy chính là Nhiệm Thể của Đức Kitô. Vì vậy cái con đường hạnh phúc của gia đình, con đường giải quyết mọi mâu thuẫn đều dẫn đến Nhiệm Thể này. Rõ ràng, như Phaolô nói phải bắt đầu với Lời Chúa Kitô. Lời phải được đón nhận theo cách thức của Đức Maria và Thánh Giuse: cho dù không hiểu nhưng "ghi nhớ trong lòng và suy đi nghĩ lại". "Lời trở thành xác phàm" nơi lòng dạ, và là nguyên lý cho cuộc sống "Người bảo gì, anh em hãy làm theo". Chính Thiên Chúa Cha khi sai Con mình vào thế gian cũng nói với chúng ta "Đây là Con Ta yếu dấu, hãy nghe Lời Người". Thánh Phaolô cũng đã nói như thế "Tất cả những gì anh em làm, trong lời nói cũng như trong hành động, tất cả mọi chuyện anh em hãy làm vì Danh Chúa Giêsu Kitô, nhờ Người mà tạ ơn Thiên Chúa Cha". Mầu Nhiệm Thiên Chúa và chương trình của Người trong Đức Giêsu cho thấy giá trị của gia đình, của mỗi con người vượt xa những gì mà con người khát vọng. Gia đình Thánh Gia bằng thực tiễn lịch sử của mình là lời thuyết minh cho chân lý mạc khải ấy. Mọi mâu thuẫn không thể giải quyết bằng sự đòi hỏi mình phải được cái gì, nhưng là khả năng hiến thánh chính bản thân cho những người mình yêu thương. Sự hiến thánh cuối cùng chính là trao bản mạng sống vì người mình yêu.
Chúng ta có thể tìm thấy sự hiến thánh ấy không chỉ nơi Đức Giêsu là người Con, mà cả nơi Đức Maria và Thánh Giuse nữa. Tin Mừng đã viết như thế : "Chính Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm của nhiều người phải lộ ra." Qua những biến cố thời thơ ấu của Đức Giêsu, cũng như cuộc sống công khai của Người, và nhất là cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Người, chúng ta thấy lưỡi gươm đã đeo bám gia đình Thánh Gia thế nào. Bởi vì chung cuộc, từ trên Thánh Giá, Đức Giêsu đã muốn nói với Mẹ và mọi gia đình Ngài muốn hoàn tất đời mình trong tâm tình hiếu thảo của một Người Con, khi Ngài trối Đức Mẹ cho Hội Thánh sơ khai. Để Hội Thánh sống tình con thảo thay Người : và đó là Gia Đình tràn sức sống Thần Linh từ trái tim Người đổ ra. Đó là con đường hạnh phúc của Gia Đình Thánh và của mỗi gia đình chúng ta vậy. Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
Hc 3,2-6 : Đức Chúa làm cho người cha được vẻ vang vì con cái, cho người mẹ thêm uy quyền đối với các con. Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu. Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện họ sẽ được lắng nghe. Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng.
Cl 3,12-21 : Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau (.). Trên hết mọi đức tính anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo (.) Anh em có làm gì, nói gì thì hãy làm, hãy nói nhân danh Chúa Giê-su và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha. Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ. Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. Những bậc cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng.
TIN MỪNG: Lc 2, 41-52
Đức Giêsu ngồi giữa các bậc thầy Do-Thái
Hằng năm cha mẹ Đức Giê-su trẩy hội đền Giê-ru-sa-lem mừng Lễ Vượt Qua. Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, như người ta thường làm trong ngày lễ. Xong kỳ lễ hai ông bà trở về, còn cậu bé Giê-su thì ở lại Giê-ru-sa-lem mà cha mẹ chẳng hay biết. Oâng bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc. Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giê-ru-sa-lem mà tìm.
Sau ba ngày hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dậy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và về những lời đáp của cậu. Khi thấy con hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: ?Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!? Người đáp: ?Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?? Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói.
Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giê-su ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta.
1. Gia đình quan trọng như thế nào? 2. Hội Thánh chăm lo cho các Gia Đình?
Suy tư gợi ý:
1. Tầm quan trọng của Gia Đình:
Trong cái nhìn của người có Đức Tin, gia đình là một thể chế và cộng đồng tự nhiên, được Thiên Chúa thiết lập ngay từ thuở ban đầu, để cho con người sinh ra, lớn lên và trưởng thành, ngõ hầu có thể chu toàn các nhiệm vụ cao cả của một tạo vật có trí khôn và ý chí, có tự do và trách nhiệm. Vì thế gia đình hết sức quan trọng và cần thiết đối với từng con người. Gia đình còn là nền tảng của xã hội loài người và là mẫu mực của một cộng đồng nhân loại.
Muốn hiểu rõ hơn vai trò quan trọng của gia đình, chúng ta nên suy niệm về ba sự kiện này:
a) Ngay từ thuở tạo dựng con người, Thiên Chúa đã dựng nên loài người có nam có nữ và liên kết họ với nhau thành một cộng đồng keo sơn như xương với thịt (Đọc St 1, 1-2, 25).
b) Khi Ngôi Lời Nhập Thể làm người, thì Thiên Chúa đã chọn cho Người một phụ nữ (Đức Maria) làm mẹ và một người nam (Thánh Giuse) làm cha nuôi và một khung cảnh gia đình (Nagiaret) làm môi trường sinh ra, lớn lên và trưởng thành (Đọc Lc 1, 26-38; 3, 39-52 & Mt 1, 1-2.23).
c. Phép lạ đầu tiên mà Đức Giêsu đã thực hiện khi bất đầu đời sống công khai là phép lạ biến nước thành rượu để tạo Niềm Vui cho một Tiệc Cưới ở Cana (Đọc Ga 2, 1-12).
2. Hội Thánh chăm lo cho các Gia Đình:
Ngay từ ngày đầu, Hội Thánh đã luôn quan tâm chăm lo cho các gia đình, vì Hội Thánh hiểu được tầm quan trọng của thể chế và cộng đồng tự nhiên này. Nhất là ngày hôm nay khi gia đình đang bi đe dọa bởi rất nhiều tệ nạn (đói nghèo, thất nghiệp, mù chữ, kỳ thị chủng tộc và giới tính, buôn bán phụ nữ và trẻ thơ, kinh doanh khoái lạc thể xác, phá thai v. v. .) thì sự chăm lo của Hội Thánh dành cho các gia đình càng nổi bật hơn nữa.
Đặc biệt hơn nữa trong Năm Thánh 2000 này, Hội Thánh Công Giáo đã dành những ngày Năm Thánh cho các gia đình, với một chương trình hội học, thảo luận, chia sẻ, cầu nguyện và cử hành hết sức độc đáo tại Roma từ ngày 11 đến ngày 14 tháng 10 vừa qua, với chủ đề: ?Con cái, Mùa Xuân của Gia Đình và Xã Hội?
Trong buổi gặp gỡ các gia đình tại Roma vào dịp đặc biệt này, Đức Thánh Cha đã mạnh mẽ kêu gọi các tín hữu, mọi người thiện chí, các chính quyền, các tổ chức và đặc biệt là Liên Hiệp Quốc hãy bảo vệ gia đình và tôn trọng sự sống, làm sao để chúng chiếm ưu thế trong cuộc sống cũng như trong lĩnh vực văn hóa, các phương tiện truyền thông, các lựa chọn chính trị và luật lệ của các dân tộc. Đức Thánh Cha đã đưa ra lời kêu gọi trên đây trong bài huấn dụ nói với trên 200.000 người gồm các ông bà, các cặp vợ chồng và con cái đứng chật quảng trường thánh Phêrô chiều ngày 14/10/2000 trong khuôn khổ ngày Năm Thánh dành cho các gia đình.
Chương trình gặp gỡ đã bắt đầu vào lúc 17h gồm các màn ca vũ nhạc, xen với các chứng từ của các thành phần khác nhau trong gia đình. Sau khi gởi lời chào thăm các gia đình trên toàn thế giới, Đức Thánh Cha nhắc lại ngài đã nhớ đến tất cả các gia đình khi quỳ cầu nguyện tại ngôi nhà của Thánh Gia ở Nazareth trong chuyến viếng thăm Thánh Địa. Ngài cũng muốn sống lại bầu khí êm đềm dịu ngọt đó ngày hôm nay tại quảng trường Thánh Phêrô này với các gia đình đến từ nhiều nơi trên thế giới.
Đề tài ?Con cái là Mùa Xuân của Gia Đình và của Xã Hội? là một loại xét mình thường xuyên đối với các bậc làm cha mẹ liên quan đến tình yêu thương dành cho con cái và sự sống. Con cái là mùa xuân vì chúng đem mọi người vào trong chân trời của sự sống, của mầu sắc, ánh sáng và tiếng hát của mùa xuân. Trẻ em là niềm hy vọng luôn tươi nở, một chương trình tiếp tục hiện thực, một tương lai rộng mở không ngừng. Chúng mang theo sứ điệp sự sống là chính đấng Tạo Hóa, chủ tể của sự sống.
Tuy nhiên tình trạng của trẻ em trên thế giới ngày nay không phải như Thiên Chúa muốn bởi vì tuổi thơ đang bị đe dọa, sỉ nhục và khai thác đến độ cần phải có một Tông Thư gởi trẻ em. Thật thế, tình trạng của trẻ em hiện nay là một thách đố đối với toàn xã hội. Các em là nạn nhân của nạn ly thân, ly dị, và mang trong tâm hồn thương tích của cảnh gia đình xung khắc và ly tán ấy.
Trước cảnh biết bao nhiêu gia đình tan nát, Giáo Hội không lên án nhưng đặt để ánh sáng Lời Chúa vào bên trong các vết thương của các thảm cảnh đó. Đây là đường lối mục vụ của Giáo Hội đối với anh chị em đã ly dị và tái hôn. Các anh chị em ấy không bị loại bỏ khỏi cuộc sống cộng đoàn, trái lại được mời gọi tham dự vào cuộc sống cộng đoàn và trưởng thành trong tinh thần của các đòi buộc của Tin Mừng. Tuy không im lặng trước sự thật luân lý khách quan mà họ phải sống và các hậu quả của tình trạng đó đối với việc lãnh nhận các bí tích, Giáo Hội muốn bầy tỏ tất cả sự gần gũi hiền mẫu đối với họ.
Đức Thánh Cha cũng tái khẳng định các ơn thánh trợ giúp cần thiết mà bí tích hôn nhân ban cho các người sống ơn gọi vợ chồng và cha mẹ, giúp họ thắng vượt các khó khăn.
Đức Thánh Cha cũng nhấn mạnh trên các quyền của các trẻ em và nhắn nhủ các bậc làm cha mẹ hãy luôn đặt hạnh phúc của trẻ em lên hàng đầu. Ngài cũng khuyến khích việc nhận con nuôi. Ngài kêu gọi các bà mẹ hãy luôn luôn là suối nguồn của sự sống chớ không phải suối nguồn sự chết. Ngài nói với các bậc làm cha mẹ rằng: ?Anh chị em được mời gọi tham dự vào sứ mệnh cộng tác với Thiên Chúa tạo hóa trong việc truyền sinh, đừng sợ hãi sự sống nhưng hãy cùng nhau loan báo giá trị của gia đình và của sự sống. Không có các giá trị này sẽ không có tương lai xứng đáng với con người?.
Sau cùng, Đức Thánh Cha cầu mong ánh nến các gia đình thắp sáng lên trong buổi chiều gặp gỡ này như dấu chỉ đồng hành của đấng là ánh sáng, đấng kêu gọi họ dùng chứng tá sống động của họ như ánh sáng chiếu soi nhân loại trên các nẻ đường tiến về ngàn năm mới.
Nguyện:
Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con cảm tạ Cha đã dựng nên va chúc phúc cho các gia đình. Xin Cha yêu thương và che chở bảo vệ mọi người cha, mọi người mẹ, mọi người con sống trong các gia đình ấy.
Hôm nay, chúng ta cùng nhau mừng kính lễ Thánh Gia. Nghe bài Tin Mừng, chúng ta phải hiểu rằng chúng ta không chỉ nghe một mẩu truyện vui hay một câu truyện lịch sử. Bài đọc thứ nhất trong sách Đức Huấn ca cũng như trong trong thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Colossê đã mời gọi chúng ta cùng chiêm ngưỡng, cảm nghiệm và học lấy tình yêu cũng như đức vâng phục của Thánh Gia và đem chính tình yêu cũng như đức vâng phục ấy vào cuộc sống gia đình của chúng ta.
Học hỏi giáo lý, chúng ta biết rằng để trở nên người môn đệ Đức Kitô có nghĩa là chấp nhận lời mời gọi trở nên thành viên trong gia đình Thiên Chúa và sống trong đường lối của Ngài: "Ai thi hành ý muốn của Cha Tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi". (Mt 12, 50).
Chúng ta có thể tham phần vào đời sống Thánh Gia bằng cách đem chính lòng hiếu thảo của gia đình Thánh Gia vào trong gia đình chúng ta. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Colossê đã vạch ra cho chúng ta tình yêu và sự thánh thiện mà mỗi người chúng ta phải có, phải học và phải đem ra ứng dụng cho chính mình. Chúng ta được kêu mời để mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa, nhẫn nại và thương yêu. Chỉ khi đó chúng ta mới hiểu và thật sự sống đúng trách nhiệm mà Thánh Phaolô đã vạch ra cho mỗi gia đình Kitô hữu: Vợ phục tòng chồng, chồng xả thân vì vợ và tránh đay nghiến nhau. Cũng vậy, trẻ em được kêu gọi thảo kính cha mẹ trong mọi lúc, và cha mẹ hãy kiềm chế nỗi bực tức để đừng làm nản lòng con trẻ.
Trách nhiệm chủ yếu của cha mẹ là hướng dẫn con cái mình biết và yêu mến Thiên Chúa. Để làm được thế thì chính cha mẹ phải tuân thủ các giới răn của Cha trên Trời. Họ phải là gương mẫu về tình yêu và sự thánh thiện của Thánh Gia để lôi kéo con cái cùng cảm nghiệm sự lành thánh của gia đình này.
"Cha mẹ không biết rằng con phải lo công việc của Cha con ư?" Đó là câu trả lời của Đức Giêsu với Thánh Giuse và Mẹ Maria khi hai ông bà tìm gặp Ngài nơi đền thờ, một gương mẫu hoàn hảo về việc phục vụ Cha trên trời. Con trẻ Giêsu đã vâng phục trọn vẹn đối với Cha trên trời, nhưng điều đó không có nghĩa Ngài sao lãng bổn phận với cha nuôi mình là Thánh Giuse. Chúng ta nghe trong câu kế tiếp, Tin Mừng tường thuật là Ngài theo ông bà về Nazarét và vâng phục ông bà. Vâng phục cha mẹ nơi trần thế được tháp nối với việc vâng phục Cha trên trời. Tình mến và việc phục vụ Cha trên trời làm cho chúng ta có thể yêu mến và phục vụ cha mẹ chúng ta nơi trần thế và ngược lại việc vâng phục và yêu mến cha mẹ sẽ làm hài lòng Thiên Chúa.
Chúng ta hãy mở lòng mình đón nhận tinh thần Thánh Gia và chúng ta hãy kết hợp với nhau trong sự tinh tuyền và thánh thiện của gia đình gương mẫu này hầu chúng ta có thể sống với nhau một cách quảng đại và phục vụ lẫn nhau trong tình yêu đích thực của Thiên Chúa.
Chưa bao giờ đời sống gia đình đang đứng trước những thách đố lớn lao như ngày hôm nay. Bởi vậy, lễ Thánh Gia Thất mà chúng ta mừng kính hôm nay như là một cơ hội để chúng ta tái khám phá lại giá trị không thể thay thế được của đời sống gia đình.
Khủng hoảng gia đình khởi sự từ chính cá nhân của từng thành viên trong gia đình, mà mấu chốt chính là việc đề cáo tự do cá nhân quá trớn, đến độ đánh mất ý thức trách nhiệm đối với các thành viên khác trong gia đình. Từng thành viên chỉ biết đòi hỏi hơn là trở thành quà tặng cho nhau. Tự ái và tính ích kỷ là nguyên nhân xô đẩy gia đình đến bên bờ vực thẳm của gẫy đổ.
Nơi Thánh Gia Thất, chúng ta thấy một sự hài hòa tuyệt vời trong từng vai trò. Nơi Thánh Gia Thất chúng ta đọc được một bản hòa tấu nhịp nhàng trong ba nhân vật với ba cá tính khác nhau. Thánh Giuse, người thợ mộc chất phác, thâm trầm, con người đắn đo trong các quyết định, nhưng cương quyết trong hành động; Đức Maria, người phụ nữ đạo đức, sống nội tâm, dịu dàng và nỗ lực đọc Thánh Ý Chúa trong mọi biến cố cuộc cuộc đời; Chúa Giêsu luôn bị thôi thúc bởi sứ vụ Cha trao, nhưng cũng không bao giờ bỏ quên chỗ đứng của mình trong gia đình Thánh Gia.
Sự hòa nhịp được thể hiện trong chính đời sống đạo đức của gia đình Thánh Gia. Tất cả đều hướng về Thánh Ý. Từ lòng đạo đức nẩy sinh sự tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng ơn gọi của từng người, sứ vụ của từng thành viên. Sự tôn trọng đó là sợi chỉ đỏ liên kết các thành viên trong gia đình Thánh Gia trở thành mẩu mực cho mọi gia đình. Bởi từ sự tôn trọng, các thành viên sống cho nhau, bảo vệ giữ gìn nhau.
Đời sống gia đình hôm nay càng ngày càng gãy vụn, bởi thay vì tôn thờ Thiên Chúa, thì người ta tôn thờ tiền bạc, vật chất và sự hưởng thụ. Từ chỗ đó, người ta thiếu hẳn sự tôn trọng lẫn nhau, coi nhau như là dụng cụ phục vụ cho sở thích của riêng mình. Trong gia đình, người ta đòi hỏi lẫn nhau thay vì trở thành quà tặng cho nhau. Tình yêu gia đình không còn là một tình yêu trao ban hiến tặng cho nhau, nhưng là một tình yêu cho mình và vì minh, một tình yêu quy ngã ích kỷ.
Lạy Chúa, chưa bao giờ xã hội phải đối diện với những khủng hoảng lớn lao như ngày hôm nay, vì tế bào nền tảng của xã hội là gia đình đang bị phá vỡ. Xin cho gia đình kitô hữu chúng con vượt qua được những cơn giông bão này, bằng việc học cách sống nơi gia đình Thánh Gia Chú: Sống đạo đức, lấy Chúa làm chỗ dựa, sống tôn trọng lẫn nhau, sống cho nhau và sống vì nhau. Amen.
(Trích tài liệu Giời Kinh Gia Đình Với Lời Chúa của giáo phận Phú Cường)
[1 Sm 1,20-22.24-28; 1 Ga 3,1-2.21-24; Lc 2,41-52]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
«Các gia đình công giáo được mời gọi giữ vững và củng cố ơn gọi hôn nhân Ki-tô giáo, xây dựng gia đình như Hội Thánh tại gia, cái nôi của sự sống, mái ấm của tình thương và ngôi trường đầu tiên đào tạo con người toàn diện.»
Để thực hiện Sứ Điệp của Đại Hội Dân Chúa 2010 (số 5) nêu trên, chúng ta hãy đọc và suy niệm các Bài Sách Thánh của Lễ Thánh Gia Na-da-rét, để tìm ra các phương thế hữu hiệu, nhằm duy trì và phát huy các giá trị tốt lành, thánh thiện của gia đình theo kế hoạch của Thiên Chúa và tránh thảm họa khôn lường cho các gia đình và cho cả nhân loại ngày mai.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Bài đọc 1 (1 Sm 1,20-22.24-28): Mọi ngày đời ông Sa-mu-en sống, ông sẽ được nhượng cho Đức Chúa.
20 Ngày qua tháng lại, bà An-na thụ thai, sinh con trai và đặt tên cho nó là Sa-mu-en, vì bà nói: "Tôi đã xin Đức Chúa được nó." 21 Người chồng là En-ca-na lên với cả gia đình để dâng hy lễ thường niên cho Đức Chúa và để giữ trọn lời khấn hứa của mình. 22 Bà An-na không lên, vì bà nói với chồng: "Đợi cho đến khi đứa trẻ cai sữa đã. Khi đó em sẽ đưa nó đi, nó sẽ ra mắt Đức Chúa và sẽ ở lại đó mãi mãi."
24 Sau khi cai sữa cho con, bà đưa nó lên với mình, mang theo một con bò mộng ba tuổi, hai thùng bột và một bầu da đầy rượu. Bà đưa con vào Nhà Đức Chúa tại Si-lô; đứa trẻ còn nhỏ lắm. 25 Họ sát tế con bò và đưa đứa trẻ đến với ông Ê-li. 26 Bà nói: "Thưa ngài, xin thứ lỗi, tôi xin lấy mạng sống ngài mà thề: tôi là người đàn bà đã đứng bên ngài, tại đây, để cầu nguyện với Đức Chúa. 27 Tôi đã cầu nguyện để được đứa trẻ này, và Đức Chúa đã ban cho tôi điều tôi đã xin Người. 28 Đến lượt tôi, tôi xin nhượng nó lại cho Đức Chúa. Mọi ngày đời nó, nó sẽ được nhượng cho Đức Chúa." Và ở đó, họ thờ lạy Đức Chúa.
2.2 Bài đọc 2 (1 Ga 3,1-2.21-24): Chúng ta được gọi là con Thiên Chúa, mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa.
1 Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa -mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa. Sở dĩ thế gian không nhận biết chúng ta, là vì thế gian đã không biết Người.
2 Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Ki-tô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy.
21 Anh em thân mến, nếu lòng chúng ta không cáo tội chúng ta, chúng ta được mạnh dạn đến cùng Thiên Chúa. 22 Và bất cứ điều gì chúng ta xin, chúng ta được Người ban cho, bởi vì chúng ta tuân giữ các điều răn của Người và làm những gì đẹp ý Người. 23 Đây là điều răn của Người: chúng ta phải tin vào danh Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người, và phải yêu thương nhau, theo điều răn Người đã ban cho chúng ta. 24 Ai tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, đó là nhờ Thần Khí, Thần Khí Người đã ban cho chúng ta.
2.3 Bài Tin Mừng: Lc 2,41-52: Cha mẹ Đức Giê-su tìm thấy con đang ngồi giữa các bậc thầy.
41 Hằng năm, cha mẹ Đức Giê-su trẩy hội đền Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua. 42 Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, như người ta thường làm trong ngày lễ. 43 Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giê-su thì ở lại Giê-ru-sa-lem, mà cha mẹ chẳng hay biết. 44 Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc. 45 Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giê-ru-sa-lem mà tìm. 46 Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. 47 Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu. 48 Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: "Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!" 49 Người đáp: "Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?" 50 Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói.
51 Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. 52 Còn Đức Giê-su ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân dung Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?) 3.1.1 Bài đọc 1 (1 Sm 1,20-22.24-28) là câu chuyện tường thuật lại cách cư xử tuyệt vời của bà An-na, mẹ ông Sa-mu-en. Bà An-na tin rằng con của bà là do Chúa ban cho, nên bà có nghĩa vụ dâng lại người con ấy cho Thiên Chúa để người con ấy phụng sự Thiên Chúa.
Trong đoạn Sách 1 Sa-mu-en 1,20-22.24-28 trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng đáng được mọi người tôn kính và thờ phượng, vì tất cả mọi sự, mọi loài (kể cả loài người) đều do Thiên Chúa mà ra nên thuộc về Thiên Chúa. Nói cách khác vì Thiên Chúa là Chủ Tể muôn loài muôn vật nên Người có quyền trên muôn loài muôn vật.
3.1.2 Bài đọc 2 (1 Ga 3,1-2.21-24) là những lời tha thiết của Thánh Gio-an Tông đồ khi ngài truyết trình về tư cách làm con Thiên Chúa của các Ki-tô hữu. Vì yêu thương mà Thiên Chúa ban cho chúng ta ân huệ cao quý là làm con của Người. Đã là con Thiên Chúa thì các Ki-tô hữu phải sống tương xứng với tư cách làm con: giữ các giới rằn của Người, nhất là giới răn yêu thương!
Qua đoạn thư 1 Ga 3, 1-2-21-24 trên, chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Tình Yêu cho đi, Tình Yêu cống hiến.
3.1.3 Bài Tin Mừng (Lc 2,41-52) là tường thuật về một biến cố “bất thường” đã xẩy ra trong thời niên thiếu của Chúa Giê-su. Biến cố này lại xẩy ra tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem là nơi phượng thờ Thiên Chúa của dân tộc Ít-ra-en, nên có một ý nghĩa đặc biệt.
Qua đoạn Phúc Âm Lc 2,41-52 này, Chúa Giê-su bộc lộ cho chúng ta biết Cha thật của Ngài là chính Thiên Chúa và vì thế mà Ngài có nghĩa vụ phải chu toàn công việc mà Cha Ngài giao phó. Biến cố này được xem như một tia chớp, hé mở cho chúng ta thấy mầu nhiệm của Chúa Giê-su. Mầu nhiệm khôn lường ấy được Con Thiên Chúa che giấu một cách tài tình bằng một cuộc sống âm thầm, ẩn dật ở Na-da-rét, vâng phục cha mẹ là Đức Ma-ri-a và Thánh Giu-se. Điều mà Phúc âm Lu-ca muốn chúng ta lưu ý là Cậu Bé Giê-su không ngừng phát triển về mọi mặt: thể lý, trí tuệ và tâm linh tức mối tương quan với Thiên Chúa và với mọi người xung quanh.
3.2 Sứ điệp Lời Chúa (Thiên Chúa muốn chúng ta làm gì?)
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là Con Một Thiên Chúa đã xuống thế làm người, sinh ra và lớn lên trong khung cảnh một gia đình, được nuôi dưỡng và giáo dục bởi các bậc cha mẹ đạo đức thánh thiện. Trong khung cảnh đầm ấm của gia đình và nhờ công ơn dưỡng dục của cha mẹ, Con Một Thiên Chúa lớn lên và trưởng thành trong các mối tương quan với Thiên Chúa, với tha nhân và với chính bản thân mình.
Đó là mô hình mẫu của hết mọi người con, của hết mọi gia đình Ki-tô giáo.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa Cha là Đấng trân trọng gia đình và tin tưởng các bậc làm cha làm mẹ khi giao phó con cái của Ngài cho họ. Sống với Chúa Hài Nhi và Con Trẻ Giê-su là Đấng đã sống thương yêu và vâng phục cha mẹ, đã phát triển về mọi mặt: thể lý, trí tuệ và tâm linh, trong khung cảnh thánh gia thất Na-da-rét.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa
Để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, chúng ta thử nhìn lại xem chúng ta coi trọng gia đình như thế nào và chúng ta đã và đang làm gì cho các gia đình, nhất là cho các gia đình gặp khó khăn, để giúp họ chu toàn trọng trách dưỡng dục con cái mà Thiên Chúa trao cho họ.
Chúng ta cũng thử nhìn lại xem chúng ta coi trọng các bậc cha mẹ sinh thành của chúng ta như thế nào và chúng ta đã và đang làm những gì để tỏ lòng thảo hiếu với họ.
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ LOÀI NGƯỜI
5.1 «Ai tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy.» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các dân tộc trên thế giới ngày nay, để mọi người tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa là sống công bình và yêu thương.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 «Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa.» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, cho các Hồng Y, Giám Mục và Linh Mục, để các ngài nhiệt thành rao giảng Tình Yêu của Thiên Chúa cho nhân loại.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 «Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các bậc làm cha làm mẹ, để họ biết dưỡng dục con cái thành những người con hiếu thảo đối với Thiên Chúa là Đấng Tạo Dựng và là Cha của mọi người.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 «Đức Giê-su ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta.» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các bạn trẻ và các cháu thiếu nhi trong giáo xứ chúng ta, để các em biết noi gương bắt chước Cậu Bé Giê-su mà yêu mến vâng phục cha mẹ và lớn lên trong ơn nghĩa với Thiên Chúa và trong tình quý mến cùa mọi người xung quanh.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con! Giêrônimô Nguyễn Văn Nội 2012 .
Giai thoại ‘thất lạc Trẻ Giêsu’ quá độc đáo này trình bày hình ảnh một Thánh Gia hoàn toàn khác: không an hòa, đầm ấm như người ta thường mơ ước, hay từng được các thi sĩ ca ngợi, nhưng là một Thánh Gia gần gũi hơn với thực tế của con người, căng thẳng, sung khắc, đầy dẫy những hiểu lầm. Biến cố này được ghi nhận không hẳn nhằm mục đích đề cao sự khôn ngoan trước tuổi của một đứa trẻ mới 12, cho dầu điều này có thoáng qua được đề cập tới. ‘Hai ông bà thấy con… đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt các câu hỏi. Ai nghe cậu cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu’. Ý tưởng trung tâm của giai thoại, cũng là bài học chủ chốt cho mọi gia đình Kitô, chính là câu nói xác quyết, đồng thời là câu nói đầu tiên được ghi nhận của Trẻ Giêsu: “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?”
Thất lạc đứa con thân yêu quả là một biến cố đau thương đối với bất kỳ gia đình nhân loại nào. Ở đây mới chỉ là thất lạc tạm thời và thể lý, chưa kể tới những thật lạc dài lâu hay vĩnh viễn, hoặc thuộc diện tinh thần - đạo đức mà không ít gia đình gặp phải. Thất lạc gây buồn phiền, lo lắng, phiền trách… thậm chí đổ vỡ, thì cũng là thường tình thôi. “Con ơi, sao con lại sử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con va mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” Một gia đình nhân loại lý tưởng lẽ ra phải là một gia đình không có những thất lạc mất mát dưới bất kỳ hình thức nào; phải là một gia đình mẹ tròn con vuông, cơm mặn canh ngọt, sum họp đầm ấm, trên thuận dưới hòa... Cứ theo tiêu chuẩn này, Thánh Gia không thể được coi là một gia đình lý tưởng về mặt đối ngoại cũng như đối nội. Thế thì đâu là điểm đáng được đề cao nơi Thánh Gia? Tìm ra giải đáp cho câu hỏi này quả là thiết yếu cho bấy kỳ một mục vụ hôn nhân Công Giáo nào. Trình bày một hình ảnh sai lạc về Thánh Gia, có thể biến mục vụ này trở thành một câu chuyện thần thoại chỉ tồn tại trong mộng mà thôi.
Thật may mắn, cái lý tưởng nhân loại đó đã không bị gạt bỏ hoàn toàn, vẫn là một điều đáng mơ ước và cần vun trồng. ‘Trở về Nazareth Người hằng vâng phục các ngài’. Cho dầu có như vậy đi nữa, các tác giả sách Tin Mừng đã không hề muốn khỏa lấp khỏi Thánh Gia cái thực tế rất ư là nổi cộm mà mọi gia đình nhân loại, giầu nghèo bất luận, đều phải ít nhiều đối mặt trong cuộc sống thường ngày:
Ngờ vực lẫn nhau, ‘… Ông Giuse chồng bà… không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo.’ (Mt 1,19)
Tương lai bất ổn, “Cháu bé này… là dấu hiệu cho người đời chống báng… và một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà” (Lc 2,24-25)
Phân ly vì lý do này hay lý do khác, ‘… Sau một ngày đường, ông bà mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc’.
ông bà không hiểu lời Người vừa nói.’
Thánh Gia chỉ có thể trở thành gương mẫu cho mọi gia đình Kitô một khi cống hiến được một cửa mở cho cái thực tế rất phổ biến trên. Thì đây bài học căn bản của chính Thánh Gia: “Con có bổn phận ở nhà của Cha con!” Nếu gia đình Kitô đích thực là ‘nhà của Cha’ thì trong đó mỗi người và mọi người đều có bổn phận đối với Cha. Hơn nữa nếu Cha của Đức Kitô Giêsu trên hết và trước hết là một Cha nhân từ và hay thương xót, thì trong gia đình Kitô mọi người đều phải coi việc thể hiện kế hoạch từ bi và thương xót của Cha như bổn phận hàng đầu. Trước những ngờ vực lẫn nhau, tương lai bất ổn, ly tán hay hiểu lầm… tất cả mọi người, trước cả khi đi tìm lời giải đáp thuộc dạng tâm lý hay xã hội, đều tiên quyết cần ‘chu toàn bổn phận ở nhà của Cha’ bằng việc thi thố một tình yêu tha thứ và độ lượng, mà Cha trên trời là người đầu tiên đã thực hiện nơi Đức Kiô thập giá.
Ngay cả Giuse và Maria cũng phải học biết điều này nếu muốn trở nên một Thánh Gia thực thụ. “Này ông Giu-se… đừng ngại đón bà Maria vợ ông về”. Công việc này không hề dễ dàng chút nào, vì như bất kỳ ai khác, ‘hai ông bà không hiểu lời Người vừa nói’. Không sách tâm lý hôn nhân nào có thể dạy được, không tư vấn gia đình nào có thể chỉ vẽ, vì đây là lãnh vực của đức tin, mà ngay cả Maria cũng chỉ học được trong thinh lặng và cầu nguyện. ‘Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng’. Thánh Gia trước hết là một gia đình Kitô, một môi trường trong đó Tin Mừng cứu rỗi của Thiên Chúa hoàn toàn thống trị. Nói như thế thì mọi gia đình Kitô đều có thể và phải trở nên Thánh Gia, bất chấp, hay đúng hơn chính vì, có đầy dẫy những nổi cộm của đời sống thường ngày.
Lạy Thánh Gia của Đức Giêsu, Đức Maria và Thánh Giuse, xin hãy làm cho Tin Mừng tình yêu nhân ái thấm vào mọi mọi thực tế nhân loại của các gia đình Kitô chúng con. Mỗi khi đề cập tới Thánh Gia, xin cho chính chúng con bị thách đố và được nâng đỡ để thi hành kế hoạch nhân ái của Chúa Cha, như bổn phận hàng đầu trong ‘nhà Cha’. Xin đừng để cho Thánh Gia trở thành một mơ ước hão huyền bất khả thực hiện, nhưng nên như một đỡ nâng hữu hiệu và thường ngày trong cuộc sống đức tin của mỗi người chúng con. Amen
Hôm nay lễ thánh gia thất. Nói đến thánh gia là nói đến một gia đình hạnh phúc. Một gia đình luôn đồng cảm với nhau, chia sẻ vui buồn với nhau và cùng dìu nhau đi qua những thăng trầm của dòng đời. Gia đình thánh gia nơi có thánh Giuse, một người cha luôn là lá chắn chở che cho gia đình. Gia đình thánh gia, nơi có Mẹ Maria luôn sống âm thầm, tận tuỵ trong công việc của mình. Và nhất là có Chúa Giêsu luôn kính trọng và vâng lời cha mẹ. Chính các ngài đã tạo nên một mái ấm gia đình. Các ngài đã làm cho gia đình trở thành thiên đường tại thế khi mỗi thành viên đều sống có trách nhiệm với gia đình và cùng nhau vun trồng hạnh phúc cho gia đình. Nhất là các ngài luôn tìm kiếm ý Chúa và thực thi trong cuộc đời.
Là người ai trong chúng ta cũng có một gia đình. Gia đình là chỗ chúng ta tựa nương. Gia đình là thành trì vững chãi cho cuộc đời chúng ta. Gia đình mang lại cho chúng ta niềm vui, tiếng cười. Gia đình là chiếc nôi êm ái cho cuộc đời chúng ta. Thế nên, khi xa gia đình, chúng ta vẫn luôn cảm thấy mất mát, trống vắng trong cõi lòng.
Có một lời bộc bạch của một người con vừa chập chững bước chân vào đời đã tâm sự:
“Em nghĩ tới mẹ em lúc em đi học về, lúc em đói bụng. Nghĩ hồi trước về nhà, đi học về, có mẹ nấu đồ ăn, có cơm sẵn cho mình ăn. Bây giờ, đi học về, ngồi gặm bánh mì thui thủi một mình hay nấu mì gói. Em nhớ mẹ trong lúc đi làm, khi bị người ta nói này nói kia. Mình nghĩ lúc ở nhà, ba mẹ la mình thì mình giận, nghĩ là không thương mình. Rồi bây giờ, đi ra ngoài đi làm, người ta khó khăn với mình thì mình cũng phải chịu thôi, không nói lại được. Nên nghĩ lại thấy thương nhớ cha mẹ.”
Lời tâm tình này cũng là tâm sự của nhiều bạn trẻ - những chú chim non vừa bay ra khỏi tổ, tự một thân một bóng phải vật lộn, chống chọi lại mọi thứ để tồn tại trong khoảng không gian bao la vô tận mà trước đây bầu trời xanh trong với những ước mơ bay bổng từng thu hút và đầy quyến rũ để các chú chim luôn khao khát mau được bay ra khỏi tổ một cách tự do, độc lập.
Chính vì thế mà có nhiều bạn trẻ khi va vấp những khó khăn trong cuộc sống mới giật mình xót xa:
“Có đôi lúc, Mải mê quay với dòng đời ồn ã Những đô hội thị thành Những phương trời lạ Chợt giật mình tỉnh giấc nhớ mẹ cha.”
Có một sự thật là khi còn trong mái ấm gia đình chúng ta lại sống dửng dưng. Chúng ta luôn muốn thoát ra khỏi sự ràng buộc của gia đình. Chúng ta muốn tự do, tự tại, tự hành xử theo ý mình. Nhưng, đường đời đâu mấy khi bằng phẳng, dòng đời đâu mấy khi bình yên, đã giúp chúng ta nhận ra không ở đâu bình yên cho bằng gia đình, không ở đâu có tình yêu chân thành cho bằng tình cha mẹ yêu con. Lúc này, kẻ xa quê mới cảm thấy xót xa:
“Giữa bể trời bao la rộng lớn. Con bơ vơ, phố xá đông người. Tìm lói về mênh mông bóng tối. Con khóc nhiều, số phận thương đau. Cuộc đời con cần mọt hạnh phúc. Mái ám gia đình, buoir cơm chung. Cùng nhau sum vầy, ba ngày tết. Mười bảy năm rồi, Có được đâu?”
Hôm nay là lễ thánh gia, ngày thánh hoá các gia đình. Chúng ta xin ơn Chúa thánh hóa từng gia đình chúng ta và ban cho chúng ta một mái ấm gia đình hạnh phúc yêu thương. Xin cho mỗi thành viên trong gia đình biết trân trọng những ngày tháng bên những người thân yêu nơi gia đình, biết hy sinh, biết sống nhường nhịn và thân ái với nhau. Xin cho chúng ta cũng biết xây dựng gia đình mình hạnh phúc bằng việc chu toàn bổn phận và sống có trách nhiệm với gia đình. Xin đừng xúc phạm đến nhau khi đang được cùng sum họp trong một mái ấm gia đình. Và xin cho mỗi thành viên biết lắng nghe tiếng Chúa và đáp lại thánh ý trong cuộc sống hằng ngày. Amen
Có họ đạo nghèo ở vùng duyên hải miền Trung có tên gọi là Thánh Gia. Sở dĩ đặt tên như vậy là vì họ đạo nầy chọn Thánh Gia Nazaret làm bổn mạng.
Phía bên hông nhà thờ họ đạo có một hang đá khá lớn, có bộ tượng hang đá bằng thạch cao to bằng tầm vóc người trưởng thành.
Hằng năm vào dịp lễ Thánh Gia là ngày bổn mạng của giáo xứ, theo một truyền thống đã có từ lâu đời, sau khi lễ xong, các gia đình trong giáo xứ tập trung đông đảo chung quanh hang đá cầu nguyện với thánh gia thất và mỗi gia đình cử ra một vị đại diện tuần tự tiến lên theo hàng đôi đến trước bộ tượng hang đá, dâng lên Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse những bông hoa thắm tươi và thơm ngát để tỏ lòng tôn kính mến yêu.
Thế rồi một biến cố đau lòng xảy ra hai ngày trước lễ thánh gia thất năm ấy, một nhóm trẻ tinh nghịch từ làng bên vì có thù hận với nhóm trẻ trong xóm đạo, đã kéo đến vào ban đêm đập nát bộ tượng hang đá!
Sự việc nầy khiến cho nhiều người hoang mang và bối rối!
Biết tính sao đây, khi ngày lễ Thánh Gia đã gần kề? Tìm đâu ra bộ tượng ba Đấng mới thế vào bộ tượng đã bị phá tan? Nghi lễ dâng hoa cho ba Đấng vào mỗi dịp lễ Thánh Gia là một nghi lễ truyền thống đã được thực hiện xuyên suốt từ hơn trăm năm qua, lẽ nào năm nay không tổ chức được? Ngoài ra, ngày lễ Thánh Gia đã cận kề nên cũng không thể đặt làm một bộ tượng khác thay thế.
Trước tình thế đó, Cha Xứ có một sáng kiến táo bạo: Ngài cho mời đôi vợ chồng mới sinh đứa con trai đầu lòng được chừng tháng tuổi và mới được rửa tội mấy ngày trước, mặc y phục truyền thống thật chỉnh tề, đóng vai Đức Mẹ, thánh Giuse và Chúa Giêsu thay cho bộ tượng hang đá bằng thạch cao đã bị hư hại. Ngài sắp xếp cho cặp vợ chồng quỳ bên trong hang đá, chầu hai bên đứa con thơ nằm ở giữa họ và kêu mời đại diện các gia đình trong giáo xứ dâng hoa cho ba vị nầy trong tư cách là hình ảnh của Thánh Gia Nazaret.
Sáng kiến nầy đã làm cho một số người trong họ đạo cảm thấy bị sốc. Họ cho rằng làm như vậy là quá đề cao gia đình người tín hữu và xúc phạm đến ba Đấng thánh.
Cha Sở cố gắng diễn giảng cho họ như sau:
Khi đề nghị gia đình anh chị Năm đóng vai Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu thế chỗ cho bộ tượng ba Đấng bằng thạch cao bị hư, chúng ta không làm gì xúc phạm đến ba Đấng thánh, nhưng chúng ta xem gia đình anh chị Năm đây là hình ảnh rất trung thực và cao quý về Thánh Gia Nazaret. Lâu nay, chúng ta quen nhìn hình tượng ba Đấng bằng thạch cao, bằng xi măng hay bằng nhựa dẻo và chưa quen nhìn hình tượng ba Đấng bằng xương bằng thịt nên cảm thấy bị sốc.
Nhưng xin quý ông bà hiểu điều nầy:
Thứ nhất, bộ tượng ba Đấng mà ta kính viếng xưa nay là hình ảnh của Thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu do tay người phàm tạo nên bằng thạch cao, không có sự sống, không có linh hồn; trong khi gia đình anh chị Năm đây là hình ảnh của ba Ngôi Thiên Chúa , do chính Thiên Chúa tạo dựng nên, có linh hồn, có lương tri, có sự sống.
Thứ hai, nhờ lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, anh chị Năm cũng như mỗi người chúng ta được trở thành chi thể của Chúa Giêsu (glcg 1267). Thánh Phaolô cũng xác nhận điều nầy: “Nào Anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao?” (I Cor 6,15)
Thứ ba, nhờ rước lấy Mình thánh Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, các tín hữu được trở nên cùng chung máu thịt với Người, được thông dự vào sự sống của Thiên Chúa, được thông phần bản tính Thiên Chúa (2 Pr 1, 4). (xem cước chú số 1)
Như vậy, không có một bức tượng nào do tay người phàm làm ra dù bằng thạch cao, bằng gỗ, bằng đá hay bằng kim loại quý… xứng đáng được chọn làm hình ảnh của Chúa Giêsu, của Mẹ Maria, của thánh Giuse cho bằng chính mỗi người ki-tô hữu chúng ta.
Thứ tư, Hội Thánh công giáo xưa nay vẫn nhìn nhận gia đình của kitô hữu là gia đình thánh nên Giáo Hội quen gọi đó là những hội thánh tại gia, tức là thánh gia.
Ngoài ra, Chúa Giêsu còn lập bí tích hôn nhân để thánh hiến đời sống vợ chồng. Thế nên không gì thích hợp cho bằng chọn gia đình kitô hữu làm biểu tượng cho thánh gia Nazaret.
Sau khi hiểu được những điều cha xứ giải thích, mọi người vui vẻ dâng những đoá hoa thật đẹp thật tươi cho anh chị Năm được cử đóng vai thánh gia Nazaret.
Rồi qua những năm sau, nhiều người trong giáo xứ đều thấy thật là thích hợp và đầy ý nghĩa khi chọn một gia đình công giáo trong họ đạo đóng vai thánh gia Nazaret thay vì dùng bộ tượng thạch cao, nên cộng đồng giáo xứ thoả thuận với nhau rằng: đôi vợ chồng nào mới sinh con và được rửa tội sớm nhất trong tháng 12 dương lịch thì sẽ được chọn đóng vai thánh Giuse, Đức Mẹ và Chúa Giêsu để cho giáo dân kính viếng. Và cũng từ lúc đó, thay vì dâng hoa cho ba Đấng như trước đây, người ta dâng cho em bé trong vai Giêsu những hộp sữa; dâng cho người mẹ trong vai Maria những cuộn chỉ, những chiếc kim, chiếc kéo; dâng cho người cha trong vai Giuse những dụng cụ làm việc nho nhỏ như những chiếc kìm, chiếc búa, cái đục, cái bào…
Từ sự kiện nầy, các gia đình tín hữu trong xứ đạo đều ý thức mình là những thánh gia Nazaret thời đại mới. Các đôi vợ chồng trong các gia đình luôn trân trọng và yêu quý nhau như tương quan giữa Mẹ Maria và thánh Giuse: Cha mẹ biết chăm lo giáo dục con cái như Mẹ Maria và thánh Giuse đã thực hiện với Chúa Giêsu năm xưa; Con cái luôn vâng phục và thảo hiếu với mẹ cha như Chúa Giêsu đã làm đối với thánh Giuse và Đức Mẹ.
Từ đó, niềm vui, hạnh phúc và đời sống thánh thiện chan hoà trong các gia đình.
Ngoài ra, tương quan giữa các gia đình trong giáo xứ được cải thiện đáng kể vì ai nấy đều biết tôn trọng những gia đình khác vì xác tín rằng đó thực sự là những thánh gia.
Đã từ lâu, đời sống gia đình đã được mặc cho những cái tên thật là kêu: “Gia đình là đơn vị nền tảng xã hội”; “Gia đình là ngôi trường đầu tiên của con người”. Gia đình là một tế bào sống động của xã hội và Giáo Hội”, là nơi cung cấp cho xã hội những công dân tài năng và lương thiện, cho Giáo hội những tín hữu nhiệt thành và anh dũng. Chính tại nơi đây, con người được sinh ra, nuôi dưỡng và học được nơi cha mẹ, là những người thầy đầu tiên, những bài học quan trọng về nhân cách và các nhân đức. Chính tại nơi đây, con cái được “học ăn, học nói, học gói, học mở”.
Thế nhưng, những ngôn từ mĩ miều ấy ngày hôm nay có còn được nhắc đến nữa không, hay xã hội đang rung lên một hồi chuông báo động để cảnh báo về sự tụt dốc của đời sống gia đình: con số các gia đình đổ vỡ cứ gia tăng đến chóng mặt vì giữa giòng đời hôm nay vẫn còn đó những người chồng, người cha đang bê tha rượu chè, đang ngoại tình lang chạ, đang đánh mất niềm tin với Thiên Chúa nên cũng bỏ bê gia đình. Giữa giòng đời hôm nay vẫn còn đó những người vợ đang bất tín, bất trung, đang thiếu trách nhiệm và hy sinh cho gia đình, vì họ không còn niềm tin nơi Chúa nên cũng chẳng còn hy sinh cho nhau. Giữa giòng đời hôm nay, vẫn còn đó những người con đang lao vào những danh lợi thú trần gian mà lãng quên tình Chúa nên cũng xem thường tình nghĩa mẹ cha.
Trong ngày lễ Thánh Gia, Giáo Hội kêu mời chúng ta suy tư nghiêm chỉnh, trở lại ý nghĩa cuộc sống gia đình và cũng đề nghị với chúng ta một mẫu gương. Đó là mẫu gương tổ ấm yêu thương của gia đình Nazareth, gia đình của Chúa Giêsu với Mẹ Maria và Thánh Giuse.
Khi nghĩ hay nói đến gia đình Nazareth, nhiều người chúng ta chỉ nghĩ đến sự vinh quang và đời sống thánh thiện của ba thành viên của gia đình ấy, mà quên bẵng đi những nỗi vất vả và khổ đau, những thử thách cam go mà ba Đấng ấy đã phải gánh chịu. Vì thế mà chúng ta không thấy được sự gần gũi và tương đồng giữa gia đình Thánh Gia và gia đình chúng ta. Nếu chỉ nhìn vào sự thánh thiện của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse làm sao chúng ta noi gương bắt chước cho được? Nhưng nếu chúng ta nghĩ đến cảnh Thánh Giuse thấy người bạn đời của mình có thai ngoài kế hoạch của hai người hay cảnh Thánh Giuse không tìm được chỗ trọ cho Đức Maria ở Bêlem khi giờ sinh ra đã gần kề hay cảnh Con Trẻ mới sinh được đặt trong máng cỏ là chốn náu thân của đàn gia súc, hay cảnh hai ông bà đem con chạy trốn khỏi sự lùng bắt giết hại con trẻ của nhà vua thì chúng ta thấy gia đình Nazareth đã trải qua những khoảnh khắc nghiệt ngã giống như những cảnh huống đời thường của gia đình chúng ta ngày nay.
Hoặc nếu chúng ta hình dung cảnh lao động vất vả của hai cha con người thợ mộc là Thánh Giuse và Chúa Giêsu trong thôn xóm nhỏ bé Nazareth thì chúng ta thấy cảnh lao động của các ngài cũng giống hệt như cảnh lao động của hàng triệu triệu con người trong xã hội chúng ta. Hoặc nếu chúng ta nghĩ đến cảnh Chúa Giêsu xuất hiện công khai, rao giảng Nước Chúa, nay đây mai đó, lang thang khắp xóm khắp làng, đi hết đầu đường xó chợ... để tìm kiếm chiên lạc và đem chúng về thì chúng ta thấy Chúa vất vả cực khổ hơn các nhà giảng đạo ngày nay bội phần. Nhất là cảnh Đức Maria đi bên cạnh Con trên đường lên Golgotha và thấy Con ngã lên ngã xuống dưới sức nặng của thập gía và rồi cảnh Mẹ đứng lặng bên chân thập giá mà Con Mẹ bị treo trên đó, thì chúng ta mới thấy cảnh ấy khủng khiếp kinh hoàng như thế nào đối với một người phụ nữ làm Mẹ.
Vậy đó, cuộc sống của gia đình Thánh gia không phải là một cuộc sống bình yên, sung sướng; ngược lại, ta thấy những khó khăn cực nhọc, những đe dọa, những truân chuyên. Nhưng đó vẫn luôn là một gia đình thánh, tràn đầy hạnh phúc và tình yêu, bởi vì cuộc sống đó luôn được dẫn dắt bởi Thánh Ý Chúa; bởi vì thánh Giuse và Đức Mẹ là những người luôn sống trong ân nghĩa với Chúa. Trong chúng ta cũng vậy có nhiều người, nhiều gia đình phải sống những hoàn cảnh khắt khe nghiệt ngã, nhưng có lẽ chưa có ai, chưa có gia đình nào phải sống những cảnh mà Thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu đã sống. Xin Chúa giúp chúng ta qua mẫu gương của gia đình thánh gia, biết đặt thánh ý Chúa làm quy luật duy nhất và nền tảng cho đời sống cá nhân và gia đình chúng ta. Nhờ vậy, mỗi gia đình Công giáo chúng ta sẽ trở nên “một Thánh gia khác”, một cộng đoàn yêu thương hiệp nhất để làm chứng về sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa giữa thế giới hôm nay. Amen.
Một đôi vợ chồng người Anh sống ở Herefort đã được nhận giấy chứng nhận từ sách Guinness thế giới: ThánhGia ABC 210
Một đôi vợ chồng người Anh sống ở Herefort đã được nhận giấy chứng nhận từ sách Guinness thế giới về hôn nhân bền vững nhất thế giới. Đó là cụ ông Percy 105 tuổi và cụ bà Florence Arrowsmith 100 tuồi.
Vào ngày 1/6/2005, hai cụ kỷ niệm 80 năm ngày cưới. Cụ bà Arrowsmith hóm hỉnh nói: “Chúng tôi rất hạnh phúc khi gắn bó với nhau suốt 80 năm. Điều quan trọng nhất đến giờ chúng tôi vẫn yêu nhau… Từ năm 1925 đến nay, tôi cảm thấy thất vọng, nếu ngày nào ổng không nói với tôi những lời âu yếm.”
Trả lời về bí quyết hôn nhân bền vững của mình, cụ bà Arrowsmith cho biết: ”Chúng tôi ít khi cãi nhau, đôi bên không bao giờ ngại nói lời xin lỗi.” (Theo BBC & Telegraph)
Tình yêu và sự tôn trọng đã nuôi dưỡng đời sống hôn nhân mỹ mãn của ông bà Percy và Arrowsmith. Hôm nay chúng ta mừng lễ Thánh Gia, trình thuật Tin Mừng Luca phác họa đầy đủ chân dung Gia Đình Thánh còn đằm thắm, chứa chan hạnh phúc hơn nữa.
Chia sẻ & Hiệp Nhất
Theo Luật Do Thái, mỗi năm phải đi hành hương Đến Thánh ba lần, Thánh Gia cũng đã tuân thủ giữ điều này thật nghiêm chỉnh. Khi Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, tức là tuổi trưởng thành về mặt tôn giáo theo Do Thái giáo, Người cùng theo Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse lên Đền, như người ta thường làm trong ngày lễ.
Hình ảnh đó nêu lên sự hiệp nhất thân mật trong gia đình, cùng nhau khuyến khích chia sẻ việc đạo, cùng nhau vâng phục và tuân giữ lề luật, và nhất là cùng nhau sốt sáng thờ phượng Thiên Chúa, tôn kính, ngợi khen và cảm tạ.
Yêu thương & Trung tín
Hồn nhiên và hiếu động, Cậu Giêsu tung tăng trong đoàn lữ hành, khiến hai ông bà Thánh Gia, vốn luôn tin cậy nhau, cứ đinh ninh nghĩ Cậu Giêsu đi cùng với đám bà con, hay người quen thuộc. Nên sau một ngày đường, ông bà mới biết lạc mất người con yêu dấu. Tình mẫu tử và phụ tử đã dẩn hai ông bà trở lại Đền Thánh Giêrusalem.
Lo lắng, đôn đáo tìm kiếm, ba ngày sau ông bà mới tìm thấy Cậu Giêsu đang ngồi thảo luận, đối thoại về đạo lý cùng các thầy kinh sư, tại tiền đình trong khuôn viên Đền Thờ. Một hình thức giảng dạy rất gần gũi, bình dân, thân thiện và hiệu quả, mà sau này Người vẫn áp dụng khi đi rao giảng Tin Mừng.
Tình yêu và lòng trung tín là điều kiện tiên quyết xây dựng và củng cố gia đình vững chãi, an vui và hạnh phúc. Đức Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse đã thể hiện lòng yêu thương vô bờ bến với Chúa Giêsu, qua tinh thần trách nhiệm, sự trìu mến, cùng quan tâm, chăm sóc. Thánh Gia hạnh phúc vì luôn có Chúa ở cùng.
Vâng theo Thánh Ý Chúa
Mẹ Maria sửng sốt khi tìm thấy Cậu Giêsu. Mẹ không hề bực bội, nóng giận, hay buồn phiền, la mắng, mà chỉ nhẹ nhàng thắc mắc về hành động bất ngờ của con: “ Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!”Người đáp:“Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao? (Lc 2, 48 – 49)
Nhân dịp này, Chúa Giêsu đã mặc khải thiên tính của Người trước Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse và các thầy kinh sư. Người đặt mối quan hệ với Đức Chúa Cha bên trên mối quan hệ gia đình. Người vâng theo Thánh Ý Chúa, để rao giảng Tin Mừng.
Sau này Nguwoif còn giải thích rõ ràng vè mối quan hệ đặc biệt ưu tiên này: “Phải ai làm theo ý Cha Ta tên trời người ấy là anh em, chị em và là Mẹ ta vậy” (Mt 12, 50) Và “Mẹ Ta và anh em Ta là những ai nghe và thực hành Lời Thiên Chúa” (Lc 8. 21).
Theo như Thánh Gia, một gia đình bình an và hạnh phúc là gia đình có Chúa luôn hiện diện từng giây phút. Cùng nhau hiệp thông thờ phượng và vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa, cùng nhau hiệp nhất và chia sẻ mọi sự. Cùng nhau yêu thương và trung tín trong mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh.
Gia đình Công giáo làm tông đồ bằng “chứng tích.” Phải chứng minh rằng các con được gọi nên thánh và các con có thể sống một đời hôn nhân đẹp lòng Chúa. Các con chia sẻ với các gia đình khác: ân sủng, hạnh phúc, Chúa đã ban cho gia đình các con.
Nhìn vào gia
Lạy Cha yêu quý, xin hãy giúp chúng con biến đổi gia đình chúng con thành một Nazareth khác, nơi mà tình yêu, bình an và niềm vui ngự trị. Xin cho gia đình con biết suy niệm nhiều, biết yêu quý Thánh Thể, và rạng rỡ niềm vui.
Xin giúp chúng con sống chung với nhau, trong lúc vui cũng như lúc buồn qua việc cầu nguyện chung.
Xin dạy chúng con nhận biết Chúa Giêsu hiện diện trong mỗi người chúng con, nhất là trong sự đau khổ được ẩn giấu của Ngài.
Xin Thánh Thể Thánh Tâm của Chúa Giêsu biến đổi tâm hồn chúng con nên hiền từ và khiêm tốn như tâm hồn Ngài và giúp chúng con gánh vác trách nhiệm gia đình trong phương cách thánh thiện.
Xin giúp chúng con yêu thương nhau như Chúa yeu thương chúng con mỗi ngày một hơn và tha thứ lỗi làm của nhau như Chúa tha tội cho chúng con.
Xin Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria, là nguồn vui của chúng con, cầu cho chúng con. Xin Thánh Giuse cầu cho chúng con. Xin Thiên Thần Bản Mệnh hãy ở với chúng con, xin hướng dẫn và bảo vệ chúng con. Amen (Mẹ Têrêsa Calcutta)
Trình thuật Tin Mừng hôm nay cho ta thấy một sự cố trong gia đình Thánh Gia, một sự cố phổ biến mà tôi nghĩ hầu như gia đình nào cũng đã từng trải qua: “Lạc con – Cha mẹ đi kiếm”. Thông thường, đứa con bị lạc khi gặp lại cha mẹ hẳn rất mừng rỡ và đòi theo cha mẹ về ngay. Hoặc giả, gặp đứa con ngỗ ngược cố tình bỏ cha mẹ mà đi thì khi tìm gặp hẳn sẽ vùng vằng và có đôi lời hỗn xược. Chúa Giêsu chắc chắn không phải là người con ngỗ ngược nhưng những gì Người cư xử cũng không thể hiện là một người con ngoan: “Mà tại sao cha mẹ tìm Con? Cha mẹ không biết rằng Con phải lo công việc của Cha Con ư?” Thánh Giuse và Mẹ Maria thì “không hiểu lời Người nói” nhưng vẫn giữ vẻ ôn hòa. Cuối cùng, Chúa Giêsu cũng theo hai ông bà về Nagiaret và hết lòng vâng phục cha mẹ Người.
Thì ra, Gia Đình Thánh cũng vấp phải những hoàn cảnh “lệch pha” như bất cứ gia đình nào khác! Nhưng tại sao Ba Đấng đã duy trì được một mẫu gương yêu thương và hiệp nhất như thế?
Còn các gia đình hiện nay thì sao? Chúng ta cũng vẫn thường nghe nói về cuộc đời của các ngôi sao điện ảnh, những ca sĩ nổi tiếng, những cầu thủ lừng danh… Cuộc tình của vài người trong số họ đã khiến báo chí tốn nhiều giấy mực, để rồi sau đó không lâu, lại tốn nhiều giấy mực hơn cho những đổ vỡ… Trong tiếp xúc thường ngày, tôi cũng từng chứng kiến những cuộc tình lãng mạn, bay bổng, vượt mọi rào cản hay cấm đoán… Thế rồi, sau đám cưới linh đình chừng một vài năm hoặc có khi còn ít hơn – chỉ chừng vài tháng – đã lộ ra những vết nứt, đã xuất hiện những xung đột, đã thấp thoáng những lá đơn ly dị…
Có vẻ như, ngày nay người ta yêu nhau “ồn ào” hơn, “ầm ĩ” hơn! Khi mới quen, họ đã tung những tuyên ngôn “nặng ký” về tình yêu, họ dành cho nhau những mỹ từ “có cánh”, họ hết lời quảng cáo cho tình yêu “không đụng hàng” của họ… Rồi những đám cưới hết sức rình rang nối tiếp như một… hệ quả: 9 mâm lễ vật tượng trưng cho sự tròn đầy của tình yêu, chiếc áo đỏ của cô dâu tượng trưng cho tình yêu mãi thắm nồng, buồng cau phải đủ trăm trái, hoa tay phải đủ trăm bông tượng trưng cho hạnh phúc trăm năm viên mãn, họ hàng đi đưa dâu phải đủ đôi đủ cặp để cô dâu chú rể không bị “đứt gánh giữa đường”… Có vẻ như, tình yêu ngày nay có nhiều thứ để “tượng trưng” quá! Rồi, bước vào đời sống hôn nhân thì: “Tháng đầu anh nói em nghe, tháng sau em nói anh nghe, tháng sau nữa cả hai đều nói và… hàng xóm cùng nghe!” Không ầm ĩ, không phải… tình yêu!
Có vẻ như, khi mới yêu nhau, người ta phó thác đời mình cho nhau dễ dàng quá, tin tưởng nhau quá! Không cần hôn ước đã sẵn sàng “sống thử”. Ấy vậy mà, khi “sống thật” thì lại… tin người hàng xóm hơn tin người bạn đời đầu gối tay ấp của mình! Chả thế mà chúng ta vẫn thường nghe câu này ở những chỗ “trà dư tửu hậu”: Ra đường sợ nhất đua xe, về nhà sợ nhất vợ nghe… tin đồn!
Hiện nay, các văn phòng thám tử tư nở rộ như nấm mùa Hè. Phần lớn trong số họ cho biết hợp đồng phổ biến nhất của họ hiện nay là dịch vụ theo dõi vợ hoặc chồng của khách hàng. Một anh bạn chuyên mua bán, lắp đặt GPS (hệ thống định vị) cho xe cộ còn nói với tôi: “Đa số khách hàng hẹn cháu đến một ga-ra nào đó để lắp đặt chứ không gọi đến nhà. Hầu hết đều là vợ lén lắp đặt để theo dõi chồng hoặc ngược lại. Vì thế, họ không muốn người kia biết!” Có vẻ như, tình yêu càng “ầm ĩ” thì càng thiếu yếu tố… niềm tin. Nếu không tin thì làm sao họ yêu nhau được? Một anh bạn đầy chất… nghiệm sinh “mở mắt” cho tôi: “Họ chỉ yêu bản thân họ chứ họ đâu có yêu ai!” Ra thế, tôi tìm đến một tình yêu có vẻ “lặng lẽ” xem sao:
Anh là một người tài hoa nhưng đã trải qua khá nhiều lận đận suốt một thời bao cấp. Thời mở cửa, cơ hội đến khiến anh có điều kiện kiếm sống dễ dàng hơn bằng tài năng của mình. Bù lại, anh phải đi đây, đi đó giao du nhiều hơn. Chị an phận ở nhà lo lắng, chăm chút cho con cái. Tôi hỏi chị:
Anh tài hoa thế, lại hay ra ngoài tiếp xúc nhiều, chị không ghen chứ?
Chú nói lạ, phụ nữ ai mà chả ghen. Nhưng “ghen bóng ghen gió” thì không nên!
Vậy có bao giờ chị thấy điều gì đáng nghi nơi anh không?
Khi mình nhìn sự việc bằng đôi mắt Tào Tháo thì cái gì cũng đáng nghi cả. Tuy nhiên, chúng tôi đã cùng nhau trải qua những quãng đời rất khắc nghiệt và chú không biết được ảnh đã làm cho tôi những gì đâu. Một mái tranh nghèo đêm mưa dột khắp, ảnh phải trùm tấm ny-lông đứng lom khom cả đêm để che cho mẹ con tôi ngủ yên. Khi tôi bệnh, ảnh đã phải đạp xe cả đi lẫn về hơn 70 cây số để mua cho tôi hộp sữa và mấy viên thuốc, dọc đường khát nước ảnh nhảy xuống mương thủy lợi dọc đường uống tỉnh bơ… Và còn biết bao việc tương tự! Chú nghĩ, nghi ngờ một người đã đối xử với mình như vậy có phải là một tội lỗi không? Tôi thà để ảnh làm tổn thương tôi chứ tôi dứt khoát không làm tổn thương ảnh!...
Tôi đã hiểu, “tình yêu lặng lẽ” là thế! Vì người mình yêu chứ không vì bản thân mình. À, mà chị có một cái gì đó rất… quen thuộc, khiến tôi liên tưởng đến một người: Mẹ Maria cũng “lặng lẽ” như thế! “Maria, mẹ Người ghi nhớ những sự việc đó trong lòng”. Trong Tin Mừng Luca, tôi đọc được 2 lần câu này. Một lần nữa là khi những mục đồng đến thăm Chúa Hài Nhi trong máng cỏ và kể lại chuyện họ đã được các thiên thần loan tin như thế nào: “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc. 2, 19). Chỉ cần 2 lần thôi cũng đủ nói lên đây là một thói quen của Mẹ, không cần nhắc đi nhắc lại như một điệp khúc đối với những biến cố sau này. Chị “lặng lẽ” trên đây cũng thế! Chị ghi nhớ từng sự việc xảy ra cho gia đình chị ở những thời điểm khắc nghiệt nhất, và chị hằng suy niệm để tìm hiểu Thánh Ý, để tạ ơn Thiên Chúa, để nhận ra bổn phận, để lựa chọn thái độ sống… Nhờ đó, những thử thách chông gai bỗng biến thành gia vị nêm cho hạnh phúc của chị thêm nồng nàn trong chiếc nồi Hồng Ân.
Còn tôi? Có chồng tháo vát, có vợ đảm đang, có con khỏe mạnh; tôi có ghi nhớ và suy niệm trong lòng không? Hay chỉ đến khi chồng trở chứng, vợ lâm bệnh, con hư hỏng; tôi vội gào lên: “Thánh giá quá nặng, thử thách quá lớn!” Tôi than, tôi trách, tôi đổ lỗi cho người này, tôi quy trách nhiệm cho người nọ, tôi tìm cho mình một lối thoát, tôi đòi xã hội phải giúp tôi giải quyết vấn đề, tôi có quyền được hưởng hạnh phúc… Tôi đã quen yêu “ồn ào” nên không thể yêu “lặng lẽ”! Chung quy, tôi chỉ yêu bản thân mình và vì thế, gia đình tôi không thể là gia đình Thánh!
Lạy Mẹ Maria, xin giúp chúng con biết noi gương Mẹ để ghi nhớ và suy niệm mọi biến cố Chúa gửi đến trong đời sống chúng con. Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết quên mình để vun đắp cho đời sống gia đình của chúng con, biết mưu cầu hạnh phúc cho người khác hơn là cho bản thân mình; nhờ đó, chúng con sẽ tìm được hạnh phúc đích thực và gia đình chúng con sẽ ngày càng giống với mẫu gương Thánh Gia Nagiaret xưa. Amen.
Giáo Hội đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng gia đình Kitô hữu thành một cái nôi của tình thương: thánhGia ABC 212
Giáo Hội đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng gia đình Kitô hữu thành một cái nôi của tình thương, thành một mái trường dạy cho chúng ta những bài học làm người. Trong chiều hướng đó, Thánh Gia với Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse vốn được coi là những mẫu gương sáng chói của gia đình công giáo.
Thế nhưng, Chúa Giêsu đã không muốn đóng khung nhãn giới của chúng ta trong khuôn khổ một gia đình theo huyết thống. Bài học lớn nhất Ngài để lại cho chúng ta đó là bài học làm người trong xã hội. Ngài không vun xới cho gia đình riêng của mình, nhưng Ngài lại xây dựng đại gia đình nhân loại được cứu chuộc.
Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu ngay từ lúc lọt lòng mẹ đã phải trải qua một cuộc bôn ba, đã là một con người bị ruồng bắt bởi quyền lực thế gian. Con đường trốn qua Ai Cập cũng chính là con đường dân riêng của Chúa đã đi qua thuở xưa, con đường dẫn tới cuộc sống nô lệ trong suốt 400 năm. Nhưng rồi Ngài cũng được đưa về lại Galilê tượng trưng cho cuộc xuất hành của dân riêng khỏi đất nô lệ Ai Cập. Như thế Phúc Âm đã tóm gọn cuộc đời Chúa Giêsu và đặt cuộc đời ấy trong lịch sự của dân Chúa.
Qua Ai Cập và từ Ai Cập trở về, Chúa Giêsu đã không chỉ đi với cha mẹ Ngài mà còn đi với dân của Ngài. Qua cái chết và sống lại của Ngài, một dân mới được thiết lập và các môn đệ của Ngài được sai đi đến tận cùng trái đất để mọi người, không phân biệt màu da, tiếng nói, ý thức được mình là con Thiên Chúa và là anh em với nhau.
Việc xây dựng đại gia đình nhân loại nhiều khi vượt lên trên quyền lợi của gia đình ruột thịt hay dòng họ. Chúa Giêsu đã khẳng định điều đó một cách thật rõ ràng. Ngài đã từng cho người ta hiểu rằng Ngài đến không phải để đem hoà bình mà là gươm giáo, đến để chia rẽ con cái khỏi cha mẹ, nàng dâu khỏi mẹ chồng và làm coh những người trong gia đình trở thành kẻ thù của nhau. Những lời lẽ quả là lạ lùng, khó nghe. Dĩ nhiên chúng ta không thể coi Ngài như một kẻ chủ trương phá hoại gia đình hay coi nhẹ giá trị gia đình. Nhưng Ngài muốn cho người ta hiểu rằng: Còn một gia đình khác lớn hơn phải được xây dựng. Cái mối quan hệ lớn lao, cao quý mà người ta cần phải quan tâm thiết lập và vun xới, không phải là mối quan hệ cha con, anh em theo máu huyết. Mà là mối quan hệ cha con, anh em theo việc thực thi ý định của Chúa: Ai là mẹ Ta và ai là anh em Ta. Đó là người nghe và thực hành lời Chúa.
Nếu mọi thành phần trong gia đình cùng nhìn về một phía, cùng theo đuổi một lý tưởng phục vụ hạnh phúc của con người trong xã hội. Đó chính là gia đình gương mẫu, thánh thiện theo cái nhìn của Tin Mừng. Để đạt tới lý tưởng ấy, mỗi người trong gia đình cần phải tìm hiểu và đào sâu những đòi hỏi của Tin Mừng, thấy rõ trách nhiệm làm người và làm môn đệ của Chúa trong xã hội và trong thế giới hiện tại, đồng thời cố gắng giúp nhau chu toàn trách nhiệm ấy.
Chúa Giêsu lên 12 tuổi – đây là thời gian mà Người phải thực hiện những quy định của lề luật. Như : ThánhGia ABC 213
Chúa Giêsu lên 12 tuổi – đây là thời gian mà Người phải thực hiện những quy định của lề luật. Như vậy, Đức Maria và thánh Giuse đưa Người lên Giêrusalem, để cử hành lễ Vượt Qua. Các bậc cha mẹ có nhiệm vụ từng bước một đưa con trẻ hội nhập vào cộng đồng rộng lớn hơn, và dạy dỗ cho con trẻ những truyền thống của cộng đồng. Những đứa trẻ cũng cần phải được chỉ dạy con đường đi tới giếng nước thiêng liêng ; nếu không, chúng sẽ luôn luôn bị khát nước. Nhưng khi Đức Maria và thánh Giuse thực hiện cuộc hành trình trở về, thì Chúa Giêsu vẫn còn ở lại, và mãi cho đến hết ngày đầu tiên, các ngài mới phát hiện ra rằng Người bị thất lạc. Đó không phải là một chuyện đùa – một đứa trẻ còn nhỏ, đã bị thất lạc trong một thành phố rộng lớn. Tuy nhiên, không ai đáng trách cả. Đây chỉ là do hiểu lầm mà thôi. Sự hiểu lầm vẫn có thể xảy ra, ngay cả trong những gia đình tốt lành nhất.
Các ngài bắt đầu lo lắng tìm kiếm Người. Khi không tìm được Người trong số những khách hàng quen biết, các ngài liền quay trở lại thành phố để tiếp tục tìm kiếm Người. Các ngài không thể hiểu nổi tại sao Người lại gây ra cho mình nỗi lo lắng đến thế. Nhưng khi một đứa con gây ra cho bạn nỗi lo lắng, thì nó vẫn là con của bạn, và bạn vẫn là cha mẹ của nó. Thật dễ dàng yêu thương con cái khi chúng còn nhỏ dại, khi tất cả những điều mà chúng cần đến là sự quan tâm chăm sóc và những nụ cười. Nhưng không dễ dàng yêu thương con cái, khi chúng bắt đầu khẳng định ý riêng của chúng.
Khi một đứa trẻ hay quanh quẩn bên cha mẹ nó, thì đó là một dấu hiệu tốt. Điều có có nghĩa là đứa trẻ này được an toàn. Có khi một đứa trẻ tin tưởng chắc chắn vào tình yêu thương của cha mẹ, nó có thể quên mất cha mẹ, và đi ra ngoài để khám phá thế giới. Đây là trường hợp của Chúa Giêsu. Người không thực sự bị thất lạc, mà đang có một cuộc mạo hiểm. Người đang nhận biết mình ở đâu. Người đang ở trong nhà của Thiên Chúa.
Cuối cùng, khi tìm thấy Chúa Giêsu, câu hỏi đầu tiên của Đức Maria và thánh Giuse rất dễ hiểu: “Con ơi, sao con lại cư xử với cha mẹ như vậy ?”. Và Người trả lời “Cha mẹ không biết rằng con có bổn phận phải ở nhà của Cha con sao ?”. Mặc dù không hiểu được lời giải thích của Chúa Giêsu, nhưng các ngài vẫn không trách mắng Người. Khi làm như vậy, các ngài có thể tước đoạt của Ngài những thành quả của những cảm nghiệm tuyệt vời. Đôi khi, các bậc cha mẹ không biết được cách làm thế nào để khích lệ con cái, ngay cả khi họ chú ý đến những điều đáng giá. Nhưng Đức Maria ghi nhớ những lời nói của Chúa Giêsu, và suy niệm trong lòng. Lắng nghe là một phần rất quan trọng của vai trò làm cha mẹ. Chúng ta phải lắng nghe những lời con cái nói.
Trái ngược lại với cách tìm kiếm những nguyên nhân để kết án, lắng nghe có nghĩa là tìm kiếm những lý do thực sự, phía sau những vấn đề. Mặc dù sự kiện xảy ra là một điều gây đau lòng, thì sự kiện đó vẫn có thể mang lại hiệu quả là đưa người ta đến với nhau hơn. Chúa Giêsu đánh giá được sự quan tâm mà Đức Maria và thánh Giuse dành cho mình nhiều đến như thế nào, nên Người đã vui vẻ vâng phục các ngài. Đức Maria và thánh Giuse đã nhận ra rằng Chúa Giêsu là một đứa trẻ thật đặc biệt. Các ngài bắt đầu dành cho Người cơ hội để phát triển, mặc dù điều này có nghĩa là Người đang bắt đầu xa rời khỏi các ngài.
Bài học mà Đức Maria và thánh Giuse học được, chính là bài học mà tất cả các bậc cha mẹ cần phải bắt chước. Mỗi ngày qua đi, con cái chúng ta dần dần bớt thuộc về chúng ta, và trở nên con người của chúng nhiều hơn. Ngày sinh con cái trên đời chính là ngày mà cha mẹ bắt đầu đi vào cuộc chia tay lớn lao với chúng. Khi đã mang sự sống đến cho con cái, các bậc cha mẹ không được lấy lại cuộc sống đó. Nếu họ muốn có quyền sở hữu đối với con cái, thì họ sẽ không bao giờ biết được tình yêu thực sự của con cái họ.
Khi chúng ta nói rằng đứa trẻ nào là một đứa con “ngoan”, hiếm khi chúng ta có ý muốn nói rằng đứa trẻ đó nhạy cảm về mặt luân lý hoặc một cách phong phú. Nhưng chúng ta có ý muốn nói rằng đứa trẻ đó dễ bảo và biết vâng lời. Nhưng sự vâng lời không phải là một đức tính cao đẹp nhất.
Chúa Giêsu không bị thất lạc tại Đền thờ. Nói đúng hơn, Người bắt đầu tìm thấy chính mình tại nơi đó, và phát hiện được căn tính đích thực của mình với tư cách là Con Thiên Chúa. Về phương diện này, gia đình Kitô hữu có thể giúp chúng ta rất nhiều.
MỘT CÂU CHUYỆN KHÁC
Có một câu nói “Một bà mẹ có thể nuôi được mười đứa con, nhưng mười đứa con không thể nuôi được một bà mẹ”. Tất nhiên, không phải lúc nào cũng đơn giản là thế, như câu chuyện minh hoạ dưới đây.
Ngày xưa, một con chim mẹ có một con chim non mới ra ràng, mà nó rất mực yêu thương. Thế rồi đến thời kỳ di trú. Biết rằng con chim non còn quá bé nhỏ, không thể bay đi xa được, nên chim mẹ cõng chim non trên lưng.
Và thế là hai mẹ con nhà chim bắt đầu cuộc hành trình bay về phía nam. Ban đầu, chuyến bay tương đối dễ dàng. Nhưng thời gian trôi qua, con chim non trở nên nặng hơn, và chim mẹ bắt đầu cảm thấy mệt mỏi. Tuy nhiên, nó vẫn tiếp tục bay. Ngày kia, trong khi cả hai mẹ con đang nghỉ ngơi, chim mẹ quay sang chim con và nói “Con của mẹ, con hãy nói sự thật cho mẹ nghe, khi mẹ già rồi, thì mẹ sẽ không đủ sức mạnh để bay xuyên qua đại dương xuôi về phía nam, thế con sẽ cõng mẹ trên lưng và bay chứ?”.
Con chim con đáp “Mẹ ơi, con không thể hứa gì với mẹ về điều đó”.
Chim mẹ hỏi “Mà tại sao lại không được?”
“Bởi vì có thể chính con cũng bận rộn, vì phải cõng những đứa con của con trên lưng, giống như mẹ đang làm cho con bây giờ vậy”.
Trong khi đòi hỏi của bà mẹ là không thể nào hiểu được, là hơi ích kỷ, thì người ta vẫn phải làm điều mà mình có thể làm được, để chăm sóc cha mẹ già. Bổn phận đầu tiên và thánh thiện nhất của chúng ta, là cư xử tử tế đối với người họ hàng của mình. Nhưng có lẽ chăm sóc chính những đứa con của mình lại là cách thức tốt nhất, để đền đáp công ơn cha mẹ đã săn sóc chúng ta.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
Cổ tích vùng Rotal mạn Bắc nước Pháp có kể lại một câu chuyện sau đây: Có một gia đình nọ: ThánhGia ABC 214
Cổ tích vùng Rotal mạn Bắc nước Pháp có kể lại một câu chuyện sau đây:
Có một gia đình nọ gồm cha mẹ và một người con sống rất hiệp nhất yêu thương nhau. Nhưng một đêm kia, đang lúc mọi người ngủ say, một trận giông bão to lớn chưa từng thấy, chỉ trong mấy giờ đồng hồ cả vùng đều lụt lớn, nhà cửa sập cả, thây người và vật trôi bồng bềnh. Người cha của gia đình cõng vợ trên vai mình và bà vợ tay bế đứa con. Nước càng lúc càng dâng cao, chẳng bao lâu ngập đầu của hai vợ chồng. Dù ngộp thở và vô cùng mệt mỏi, bà mẹ cố giơ cao hai cánh tay nâng cao đứa con lên khỏi mặt nước để đứa bé khỏi chết ngộp. Hai vợ chồng sẵn sàng chờ chết, nhưng chỉ mong có ai cứu được đứa bé khỏi chết. Vừa lúc đó, có một thiên thần bay ngang qua, trông thấy cái đầu bé tí nhô khỏi mặt nước, vội cầm lấy kéo lên và dính chùm theo là cả cha mẹ đứa bé. Thế là nhờ yêu thương hiệp nhất mà cả gia đình được thoát nạn.
Có lẽ chưa bao giờ gia đình lại khủng hoảng trầm trọng trong thế giới như chúng ta đang sống hiện nay. Rất nhiều gia đình trong xã hội là những gia đình què quặt, tan nát, nạn ly thân, ly dị và phá thai, và những gia đình chia ly vì chiến tranh, bạo lực, áp bức của các chế độ vô nhân. Những gia đình bất hòa vì nạn thất nghiệp, vì nạn kinh tế khó khăn, eo hẹp hay vì nạn cờ bạc rượu chè, ma túy, thuốc sái và ham mê buông thả trong lạc thú. Vì thế, những người phải trả giá mắc mỏ nhất cho hậu quả của các cuộc khủng hoảng này là con cái, là trẻ em và giới trẻ.
Làm sao con người có thể hạnh phúc tươi vui khi phải sống trong các gia đình như thế? Làm sao thế giới có thể an bình thịnh vượng khi các tế bào nòng cốt của xã hội bị bệnh hoạn như vậy?
Qua ngày lễ Thánh Gia, Mẹ Giáo Hội kêu mời chúng ta suy tư nghiêm chỉnh trở lại ý nghĩa cuộc sống gia đình và đề nghị với chúng ta một mẫu gương, đó là mẫu gương của tổ ấm gia đình Nazareth xưa, gia đình của Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse.
Chương ba sách Đức Huấn Ca là một bài quảng diễn điều răn thứ Tư của Mười Giới Luật, dạy con cái phải thảo hiếu cha mẹ. Ngoài những lý do luân lý tự nhiên như câu ca dao Việt Nam nêu lên:
"Công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ kính mẹ cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con".
Tác giả sách Đức Huấn Ca còn nhấn mạnh đến lý do tôn giáo nữa. Đó là thái độ sống hiếu với cha mẹ, với những người đã dày công mang nặng đẻ đau, sinh thành, dưỡng dục chúng ta. Thiên Chúa sẽ nghe lời những người con hiếu thảo khi họ kêu khấn lên Ngài.
Suy tư trên đây là một thí dụ điển hình cho thấy người sống đạo, người đạo đức như tác giả sách Đức Huấn Ca, biết nhìn ra ý nghĩa sâu thẳm siêu việt nằm trong chính cái nhân loại tầm thường của cuộc sống mỗi ngày. Thiên Chúa không xa vời đối với Chúa Giêsu nhưng Ngài luôn hiện diện ngay trong cái tầm thường nhất của mỗi ngày sống chúng ta. Bởi vì Ngài đã đến sống giữa con cái loài người, đồng hành với con người, chia sẻ mọi buồn vui, mọi âu lo khó nhọc của cuộc sống con người. Khi biết nhìn thực tại bằng đôi mắt của lòng tin thì mọi sự trong thế giới hữu hình này đều được biến đổi và nói lên được sứ điệp mà Thiên Chúa muốn nhắn gởi chúng ta: một gia đình trong đó mọi thành phần biết kính sợ Thiên Chúa, biết yêu thương tôn trọng lẫn nhau, hy sinh cho nhau, sống cho nhau và sống vì nhau thì sẽ là một gia đình được tràn đầy phúc lành và sức sống thiên linh của Thiên Chúa.
Sự thật này được nêu bật trong Thánh Vịnh 28. Đây là bí quyết tạo hạnh phúc cho gia đình, nhưng rất tiếc cũng là điều rất thiếu sót trong các gia đình của xã hội chúng ta ngày nay. Làm sao gia đình có thể hài hòa hạnh phúc nếu mỗi người chỉ ích kỷ, sống và tìm hưởng thụ cho riêng mình mà không muốn yêu thương, không muốn chia sẻ, không muốn dâng hiến, trao ban và lo lắng cho những người khác. Tình yêu đích thực bao giờ cũng đơm hoa kết trái, và gia đình chỉ là gia đình khi cha mẹ, con cái xum vầy bên nhau.
Một tình yêu không sinh hoa trái là một thứ tình yêu cằn cỗi, què quặt, bất bình thường. Một gia đình không có con cái là một gia đình buồn tẻ và không trọn vẹn. Dĩ nhiên, vì những lý do ngoài ý muốn, gia đình có thể thiếu vắng thành phần này hay thành phần khác, nhưng tình yêu là nhân tố nòng cốt không thể thiếu được. Một cuộc hôn nhân không tình yêu là một cuộc hôn nhân lầm lẫn, bởi vì chỉ có tình yêu chân thành sâu đậm được chăm bón vun xới mỗi ngày mới khiến cho gia đình trở thành tổ ấm hạnh phúc. Còn lấy nhau vì tiền của, vì lợi lộc, lấy nhau vì chức tước và địa vị thì sẽ không bao giờ tạo hạnh phúc cho con người và hôn nhân sẽ đi đến chỗ đổ vỡ. Nhưng tình yêu không chân thành, không thôi thúc cũng chưa đủ để đảm bảo hạnh phúc cho gia đình mà cần phải có những nhân đức Kitô và nhân đức xã hội.
Trong chương III thư gởi tín hữu Côlôsê, thánh Phaolô khuyên các tín hữu chu toàn các đòi buộc của lòng tin trong cuộc sống thường ngày. Trước khi đề cập đến bổn phận của các thành phần khác trong gia đình, thánh nhân nhắc cho mọi người biết một số các bổn phận căn bản phát xuất tự lòng tin Kitô: Là những người được chọn làm con cái Thiên Chúa, là thành phần sống động của xã hội và là công dân Nước Trời, hơn ai hết người Kitô hữu phải noi gương Chúa Giêsu sống tình yêu thương bác ái trọn vẹn cao độ đến sẵn sàng hy sinh mạng sống vì người khác. Bởi vì, chính thái độ sống yêu thương là thái độ sống nền tảng cho người Kitô hữu, giúp họ thực sự trở nên giống Thiên Chúa, và là nền tảng của mọi nhân đức khác, đặc biệt là các nhân đức xã hội, nhân bản.
Do đó, thánh Phaolô thôi thúc chúng ta hằng ngày biết mặc lấy tâm tình của lòng thương xót, nhân từ, khiêm tốn, dịu hiền và kiên nhẫn. Tất cả các nhân đức này đều giúp chúng ta duy trì được bầu khí hài hòa trong nội tâm, trong gia đình và giữa cộng đoàn. Bởi vì khi có lòng thương xót và nhân từ, chúng ta sẽ cảm thông với những lỗi lầm thiếu sót và yếu đuối của nhau, và dễ tha thứ cho nhau hơn bắt đầu bằng các thành phần trong gia đình mình, vợ chồng, con cái, họ hàng, bạn bè. Khi khiêm tốn, chúng ta cũng biết nhận ra những tội lỗi, những khuyết điểm, những yếu hèn và thiếu sót của chúng ta chứ không luôn luôn cho mình là phải, là hay, là giỏi, là nhất, và hung hăng chỉ trích lên án và kết tội người khác.
Khi khiêm tốn, chúng ta dễ châm chước cho người khác, vì biết rằng mình cũng như họ thôi, hay đôi khi còn tệ hơn họ nhiều và chúng ta sẵn sàng xin lỗi, sẵn sàng làm hòa, sẵn sàng đền bù sửa chữa. Khi hiền dịu và khiêm tốn, chúng ta không nóng nảy gay gắt với người khác, mà biết chịu đựng mọi thiếu sót, sơ xuất của họ, đồng thời ý thức được rằng người khác cũng đang phải kiên nhẫn chịu đựng những thiếu sót và sai quấy của mình.
Lời Chúa mà chúng ta tâm niệm và cùng với ơn thánh Chúa ban cho mỗi ngày, chúng ta có thể tập được các nhân đức trọn lành này. Sau khi khuyến khích mọi người mỗi ngày hãy mặc lấy tâm tình và tìm sống các nhân đức trên đây, thánh Phaolô đem nguyên tắc xem ra đơn sơ, nhưng thực hiện được cho đúng quả thật không dễ. Đó là mỗi thành phần trong gia đình hãy cố gắng sống bổn phận riêng trong cương vị của mình một cách phù hợp với ý Chúa muốn: "Vợ hãy phục tùng chồng và chồng hãy yêu thương vợ, đừng gắt gỏng với nàng. Còn con cái hãy thảo kính cha mẹ và vâng phục các ngài. Cha mẹ hãy biết khoa sư phạm và rành tâm lý theo kiểu cách dạy dỗ, cư xử với con cái, đừng quá khắt khe đòi hỏi kẻo chúng chán nản ngã lòng".
Có người coi cái tôn ti trật tự của cuộc sống gia đình như thánh Phaolô trình bày là bất công, kỳ thị và lỗi thời. Vì trong xã hội nam nữ bình quyền, đặc biệt ngày nay trong liên hệ giữa vợ chồng với nhau họ được bình đẳng. Nhưng nếu chúng ta để ý đến nguyên tắc lấy tình yêu thương làm nền tảng cuộc sống thường ngày như thánh Phaolô đã nêu bật thì sẽ không có vấn đề nữa. Bởi vì trong yêu thương thì tất cả mọi người đều như nhau, không có phân chia ngôi vị. Nói như thế không có nghĩa là cuộc sống gia đình sẽ không bao giờ gặp khó khăn hay khủng hoảng, nhưng có nghĩa là cho dù có gặp những khủng hoảng, khó khăn trầm trọng đến thế nào đi nữa, nếu mỗi thành phần gia đình đều có tình yêu thương đích thật thì tất cả đều được san bằng trong yêu thương hợp nhất. và nếu sống tình yêu thương đó cách cụ thể thì sóng gió nào rồi cũng sẽ êm và con thuyền tổ ấm gia đình tiếp tục tiến tới. Sống yêu thương chân thành quảng đại vô vị lợi không phải là chuyện dễ, nhưng là điều có thể làm được và cần phải làm nếu chúng ta muốn tạo dựng hạnh phúc cho chính mình và cho người khác.
Sự thật này được minh chứng trong trình thuật Phúc Âm thánh Luca chương II: Sự thường mười hai tuổi vẫn là lứa tuổi thiên thần dễ thương và dễ mến nhất. Trong dịp cả gia đình đi hành hương ở Jérusalem hôm ấy, Chúa Giêsu đã khiến cho thánh Giuse và Mẹ Maria một lần phải rụng rời tay chân, khi Chúa Giêsu tự ý ở lại trong đền thờ mà không nói gì với hai người. Sau ba ngày hớt hải kiếm tìm và hỏi han khắp nơi, hai ông bà cảm thấy con đang đàm đạo đối chất với những tiến sĩ luật trong đền thờ.
Câu trách móc nhẹ nhàng của Mẹ Maria cho thấy tất cả tình yêu thương hiền dịu của Mẹ và của Thánh Giuse đối với Chúa Giêsu là một lời trách móc đầy yêu thương kính trọng. Sự im lặng của thánh Giuse thật vô cùng ý nghĩa: nó vừa tỏ nỗi lo âu một cách thầm kín, vừa cho thấy thái độ của thánh nhân tôn trọng tự do của Chúa Giêsu và biết chấp nhận sự kiện không thể giải thích được. Bởi vì thánh nhân biết chắc phải có lý do nào kín ẩn lắm mới khiến cho một người con ngoan ngoãn tuyệt diệu như Chúa Giêsu có thái độ hành xử này.
Câu trả lời lạ lùng của Chúa Giêsu giải thích cho hành động bất thường ấy đã minh chứng cho thấy tuy còn nhỏ tuổi, Chúa Giêsu đã ý thức được sứ mệnh và nguồn gốc của mình. Chúa Giêsu thuộc về một thế giới và có sứ mệnh phải chu toàn mà ít người có thể hiểu nổi, kể cả Mẹ Maria và thánh Giuse. Tuy không hiểu được câu trả lời của Con, Mẹ Maria ghi nhớ kỹ mọi sự và suy niệm trong lòng. Cuộc suy gẫm ấy sẽ lâu dài và đau đớn, và Mẹ chỉ hiểu được mầu nhiệm đó khi đứng dưới chân Thập Giá của Người Con trong ngày Chúa Giêsu tử nạn vì yêu thương.
Sau biến cố kể trên, Chúa Giêsu lại theo Cha Mẹ về Nazareth, lớn lên trong khôn ngoan, tràn đầy ơn thánh, yêu thương tuân phục các Ngài cho tới ngày công khai rao giảng Tin Mừng cứu độ.
Lần giở lại những trang đầu của sách Sáng Thế Ký, chúng ta thấy gia đình đầu tiên của nhân loại đã: ThánhGia ABC 215
Lần giở lại những trang đầu của sách Sáng Thế Ký, chúng ta thấy gia đình đầu tiên của nhân loại đã được Chúa chúc phúc. Họ đã có những ngày tháng thật hạnh phúc bên nhau và bên Chúa. Giữa Thiên Chúa và con người không có khoảng cách, chỉ có tình thân hữu thật thơ mộng mà Thánh kinh đã diễn tả: "chiều chiều Thiên Chúa tản bộ đi cùng con người trong vườn địa đàng". Thế nhưng gia đình đó đã bị rạn nức và bị đổ vỡ. Nguyên do của sự đổ vỡ chính là họ chối từ Thiên Chúa, hành vi Adam - Eve giơ tay lên hái trái cấm là hành vi nói lên con người muốn gạt Thiên Chúa ra bên ngoài, muốn loại trừ Thiên Chúa nên con người cũng loại trừ và kết án lẫn nhau. Adam đã kết án vợ mình: "Tại người đàn bà này mà tôi đã ăn trái cấm". Hậu quả của việc bất tuân phục Thiên Chúa là đau khổ và sự chết đã đi vào trần gian.
Nhưng, cho dù con người có ngàn lần phản nghịch, Chúa vẫn yêu thương con người, Chúa vẫn tìm đến để cứu chuộc con người và phục hồi lại giá trị của hạnh phúc gia đình thuở ban đầu. Thiên Chúa đã mang xác phàm để ở giữa chúng ta. Ngài đã sinh ra trong một gia đình, lớn lên trong một gia đình, và chính Ngài đã thánh hoá gia đình đó trở thành gia đình thánh, mẫu gương cho các gia đình noi theo. Đó là một gia đình luôn biết tuân phục Thiên Chúa, luôn phó thác cậy trông vào Chúa. Gia đình đó có thánh Giuse đã vì Chúa mà đón nhận Maria về làm bạn mình, đã vì Chúa mà lận đận vượt trăm ngàn nguy khó để bảo vệ sự sống cho hài nhi và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Gia đình đó có Đức Maria, một người Mẹ của cầu nguyện và hy sinh. Mẹ đã phó thác hoàn toàn cho thiên ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Mẹ đã tận hiến đời mình như một nữ tỳ nhỏ bé để phụng sự Thiên Chúa. Gia đình đó còn có Chúa Giê-su, một người con hằng yêu mến cha mẹ, càng lớn càng khôn ngoan, hằng đẹp lòng Thiên Chúa và người ta.
Và cho đến hôm nay, mỗi khi chúng ta thấy có những người cha, người mẹ biết sống tôn thờ Thiên Chúa là họ đang để cho Chúa canh tân, gìn giữ gia đình. Họ đang vui với phận mình trong niềm tín thác vào sự quan phòng của Chúa. Họ có thể nghèo khó nhưng tấm lòng họ lại thanh thoát, không gian tham của người. Họ có thể lam lũ, một nắng hai sương nhưng tấm lòng họ lại thanh cao như đóa sen "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Họ vì Chúa mà đón nhận nhau trong yêu thương tha thứ, không chỉ một lần mà trải rộng mọi ngày cho đến suốt cuộc đời. Họ là những gia đình thánh gia cho thời đại hôm nay. Họ vẫn tiếp tục nêu gương sáng trong bổn phận, trong đời sống thanh cao và giầu lòng quảng đại.
Song le, giữa giòng đời hôm nay vẫn còn đó những người chồng, người cha đang bê tha rượu chè, đang ngoại tình lang chạ, đang đánh mất niềm tin với Thiên Chúa nên cũng bỏ bê gia đình. Giữa giòng đời hôm nay vẫn còn đó những người vợ đang bất tín, bất trung, đang thiếu trách nhiệm và hy sinh cho gia đình, vì họ không còn niềm tin nơi Chúa nên cũng chẳng còn hy sinh cho nhau. Giữa giòng đời hôm nay, vẫn còn đó những người con đang lao vào những danh lợi thú trần gian mà lãng quên tình Chúa nên cũng xem thường tình cha, nghĩa mẹ.
Thực vậy, nếu trong cuộc đời này không còn ai tin tưởng vào Thiên Chúa, không còn ai tin vào đời sau, có lẽ sẽ chẳng còn ai dám hy sinh cho gia đình, hy sinh cho tha nhân. Không có đời sau thì người ta sẽ sống vì mình, vì hạnh phúc của mình, vì đam mê của mình mà chà đạp người khác và thiếu trách nhiệm với tha nhân.
Nguyện xin Thánh gia nâng các gia đình đang gặp những khó khăn thử thách. Xin cho các gia đình công giáo biết noi gương thánh gia để sống hy sinh cho nhau và cùng nhau xây dựng và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Amen.
Người ta có thể chọn lựa nhiều thứ cho mình, nhưng không ai có thể chọn cha mẹ hoặc nơi sinh: ThánhGia ABC 216
Người ta có thể chọn lựa nhiều thứ cho mình, nhưng không ai có thể chọn cha mẹ hoặc nơi sinh. Dù cha mẹ có thế nào thì cũng vẫn là cha mẹ của mình. Cha mẹ là khởi đầu một gia đình. Mà gia đình chính là tế bào cơ bản của xã hội, được mệnh danh là Tổ Ấm, là Chiếc Nôi Hạnh Phúc. Tổ ấm nghĩa là không được lạnh, không được nóng, mà nhất thiết phải ấm. Tiếng Việt hay thật !
Phàm một tổ chức nào cũng cần có quy luật để điều chỉnh, luật vị nhân sinh, chứ nhân sinh bất vị luật. Tổ ấm cũng có nguyên tắc cơ bản làm nền tảng, gọi là Gia Phong. Ngắm nhìn hang đá, chúng ta thấy một gia đình nghèo nhưng hạnh phúc. Nhìn vào đó, chúng ta cũng nhớ công ơn cha mẹ như biển trời lai láng, khôn ví và khôn tả. Như ca dao nói về ơn nghĩa mà cha mẹ dành cho con cái:
Ơn cha nặng lắm, cha ơi ! Nghĩa mẹ bằng trời, chín tháng cưu mang. Đặc biệt nói riêng về người mẹ: Thương thay chín chữ cù lao
Tam niên nhũ bộ, biết bao nhiêu tình !
Tuy nói về người mẹ cũng ngụ ý nói về người cha. Không thể chỉ kính trọng Tình Mẹ mà “coi nhẹ” Tình Cha, vì người Mẹ khởi đầu cho cuộc sống, tình yêu và hạnh phúc; người Cha khởi đầu cho ý chí, niềm tin và sức mạnh. Ai cũng từng là con trẻ, và mang ơn cù lao của cả cha và mẹ. Nhưng chín đức cù lao là gì ? Đó là Sinh, Cúc, Phủ, Dục, Súc, Trưởng, Cố, Phục, Phúc. Tức là sinh nở, nâng đỡ, vỗ về, dạy dỗ, cho bú, nuôi lớn, trông nom, chăm sóc, che chở ( xin xem chú thích cuối bài ).
Ngày qua tháng lại, bà Anna thụ thai, sinh con trai và đặt tên cho nó là Samuen, vì bà nói: “Tôi đã xin Đức Chúa được nó” ( 1Sm 1, 20 ). Ngày nay chúng ta gọi đó là “con cầu con khấn”. Thật ra ai cũng nhờ ơn Chúa mà có thể hiện hữu trên cõi đời này, nhưng có một số “hiếm hoi” thôi, trường hợp bà Anna là một điển hình. Khi đó, người chồng là Encana lên với cả gia đình để dâng hy lễ thường niên cho Đức Chúa và để giữ trọn lời khấn hứa của mình. Bà Anna không lên, vì bà nói với chồng: “Đợi cho đến khi đứa trẻ cai sữa đã. Khi đó em sẽ đưa nó đi, nó sẽ ra mắt Đức Chúa và sẽ ở lại đó mãi mãi” ( 1 Sm 1, 22 ).
Con cầu tự nên phải được dâng hiến cho Thiên Chúa, mà chính vợ chồng Encana và Anna cũng đã thề hứa với Chúa nên họ muốn giữ trọn lời hứa cho phải đạo.
Sau khi cai sữa cho con, bà đưa nó lên với mình, mang theo một con bò mộng ba tuổi, hai thùng bột và một bầu da đầy rượu. Đó là theo luật Cựu ước. Ăn theo thuở, ở theo thời. Ở đâu thì âu đấy. Hai ông bà này cũng không ngoại lệ. Bà đưa con vào Nhà Đức Chúa tại Silô. Họ sát tế con bò và đưa đứa trẻ đến với ông Êli. Bà nói: “Thưa ngài, xin thứ lỗi, tôi xin lấy mạng sống ngài mà thề: tôi là người đàn bà đã đứng bên ngài, tại đây, để cầu nguyện với Đức Chúa. Tôi đã cầu nguyện để được đứa trẻ này, và Đức Chúa đã ban cho tôi điều tôi đã xin Người. Đến lượt tôi, tôi xin nhượng nó lại cho Đức Chúa. Mọi ngày đời nó, nó sẽ được nhượng cho Đức Chúa” ( 1Sm 1, 26 – 28 ). Lời lẽ của bà nhà quê thật chất phác, nhưng quyết liệt. Và ở đó, họ đã thờ lạy Đức Chúa.
Kinh Thánh hôm nay gợi nhớ việc Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh. Ngày nay, sau khi sinh con – nhất là mỗi khi đưa con đi lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy, các bậc cha mẹ có chân thành dâng con trẻ cho Thiên Chúa ?
Tất cả đều là hồng ân, từ điều nhỏ tới điều lớn, đơn giản là mỗi chúng ta đều có không khí hít thở hằng ngày, hít thở từng giây, và lại có một gia đình – dù là nhà nghèo. Vì thế, “hãy tạ ơn Chúa, cầu khẩn danh Người, vĩ nghiệp của Người, loan báo giữa muôn dân” ( Tv 105, 1 ). Tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hát lên đi, đàn ca mừng Chúa, và suy gẫm mọi kỳ công của Người. Hãy tự hào vì danh thánh Chúa, tâm hồn những ai tìm kiếm Chúa, nào hoan hỷ. Hãy tìm Chúa và sức mạnh của Người, chẳng khi ngừng tìm kiếm Thánh Nhan. Hãy nhớ lại những kỳ công Người thực hiện, những dấu lạ và những quyết định Người phán ra, hỡi anh em, dòng dõi Ápraham tôi tớ Chúa, con cháu Giacóp được Người tuyển chọn !” ( Tv 105, 2 – 6 ).
Không tạ ơn sao được, vì “chính Đức Chúa là Thiên Chúa chúng ta, những điều Người quyết định là luật chung cho cả địa cầu. Giao ước lập ra, muôn đời Người nhớ mãi, nhớ lời đã cam kết đến ngàn thế hệ !” ( Tv 105, 7 – 8 ). Đó cũng chính là điều đã giao ước cùng Tổ phụ Ápraham, đã đoan thề cùng Isaac.
Thánh Gioan nói: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa. Sở dĩ thế gian không nhận biết chúng ta, là vì thế gian đã không biết Người” ( 1Ga 3, 1 ). Thánh nhân nói thêm: “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” ( 1Ga 3, 2 ).
Đó là ngài nói về ngày cánh chung, ngày tận thế, ngày Chúa Giêsu giáng lâm. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể hiểu theo hiện tại, khi chúng ta đang sống trong Tuần Bát Nhật Giáng Sinh, được mãn nhãn khi chiêm ngưỡng Con-Thiên-Chúa-mặc-xác-phàm, hạnh phúc và bình an đang tràn ngập địa cầu.
Thánh Gioan nói một hơi dài: “Anh em thân mến, nếu lòng chúng ta không cáo tội chúng ta, chúng ta được mạnh dạn đến cùng Thiên Chúa. Và bất cứ điều gì chúng ta xin, chúng ta được Người ban cho, bởi vì chúng ta tuân giữ các điều răn của Người và làm những gì đẹp ý Người. Đây là điều răn của Người: chúng ta phải tin vào danh Đức Giêsu Kitô, Con của Người, và phải yêu thương nhau, theo điều răn Người đã ban cho chúng ta. Ai tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, đó là nhờ Thần Khí, Thần Khí Người đã ban cho chúng ta” ( 1Ga 3, 21 – 24 ). Có lẽ chúng ta đã quá quen với “luật yêu thương” của Chúa, thế nhưng nghe nhiều mà chẳng giữ bao nhiêu. Ngay cả những người thân trong gia đình mà chúng ta cũng chưa yêu thương đúng nghĩa. Buồn thật !
Thánh Luca kể: Hằng năm, cha mẹ Đức Giêsu trẩy hội đền Giêrusalem mừng Lễ Vượt Qua. Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, như người ta thường làm trong ngày lễ. Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêrusalem, mà cha mẹ chẳng hay biết. Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc. Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giêrusalem mà tìm.
Người đông, đất rộng, đường xa, thế mà cha mẹ lại lạc mất Con Trẻ, thật là khổ ! Lòng như lửa đốt, cha mẹ lại lội bộ ngược dòng người để tìm Con. Mà đâu phải gặp ngay, mãi sau ba ngày mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Mệt nhoài, nhưng cha mẹ vẫn có thể thở phào, vì “cậu ấm” đang đối chất với những người lớn hơn mình và giỏi hơn mình. Có lẽ lúc đó Cô Maria nói với Chú Giuse: “Anh ơi ! Con mình giỏi thật !” Chú Giuse vốn ít nói, chắc chỉ cười thôi !
Thật lạ, ai nghe cậu Giêsu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp sắc xảo của cậu. Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy ? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con !” ( Lc 2, 8 ). Đó lời trách yêu, cho thấy Đức Mẹ rất đau khổ khi phải xa Con, dù chỉ là một thoáng, huống chi đã ba ngày qua. Người đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con ? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao ?” ( Lc 2, 49 ). Chắc hẳn hai người biết điều này, nhưng vì lạc mất Con, lo lắng quá mà quên thôi. Bản chất con người là thế, Chúa không trách mà chỉ nhắc nhở thôi.
Dù là cha mẹ của Chúa Giêsu, nhưng ông bà vẫn không hiểu lời Người vừa nói. Đúng thôi, vì cha mẹ là phàm nhân, còn Con là Thiên-Chúa-làm-người mà. Nói là nói vậy, nhưng sau đó, Người vẫn “đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài” ( Lc 2, 51a ). Con Thiên Chúa vẫn luôn tôn trọng, vâng lời và có hiếu với cha mẹ. Đó là Ngài đã làm gương cho chúng ta, chứng tỏ gia đình rất quan trọng đối với mọi người, không trừ bất kỳ ai, đồng thời nhắc nhở những người con phải giữ trọn chữ hiếu.
Có hai điều quan trọng: “Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” ( Lc 2, 51b – 52 ). Đức Mẹ luôn suy niệm, Chúa Giêsu càng khôn lớn càng kết hiệp thân mật với Thiên Chúa và được người đời yêu mến.
Mới đây, tại Thành phố Đà Nẵng, chỉ vì mẹ la rầy mà một thanh niên 18 tuổi đã nhẫn tâm bóp cổ mẹ và đâm mẹ chết bằng mấy nhát dao oan nghiệt. Đọc báo, nghe đài, hoặc lướt web, chúng ta vẫn thường thấy có những nghịch tử đối xử tồi tệ với cha mẹ. Phải chăng đó là hậu quả của việc giáo dục không đề cao tôn ti trật tự trong gia đình, coi nhẹ gia phong lễ giáo ? Ngày xưa, chương trình giáo dục có cho học bộ sách Nhị Thập Tứ Hiếu ( 24 Người Con Có Hiếu ), ngày nay không thấy có.
Ai cũng đã và đang làm con, thế nên ai cũng có bổn phận làm con. Đó cũng là một trong Mười Điều Răn của Thiên Chúa: Thảo kính cha mẹ. Đã là giới răn thì không thể không thi hành, có vậy mới làm đẹp lòng Chúa. Bổn phận làm con không chỉ phải thực hiện đối với cha mẹ, mà còn phải đối với ông bà, người trên, người lớn tuổi.
Lạy Thiên Chúa, chúng con xin lỗi Chúa về những thiếu sót trong bổn phận làm con đối với Ngài, với ông bà và cha mẹ. Xin giúp chúng con biết noi gương Con Chúa thực hiện đầy đủ bổn phận hằng ngày đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Trong kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân, Đức Phật kể đến 10 công đức của mẹ đối với con:
1. Chín tháng cưu mang khó nhọc;
2. Sợ hãi, đau đớn khi sinh;
3. Nuôi con, đành cam cực khổ;
4. Nuốt cay, mớm ngọt cho con;
5. Chịu ướt, nhường ráo cho con;
6. Sú nước, nhai cơm cho con;
7. Vui giặt đồ dơ cho con;
8. Thương nhớ khi con xa nhà;
9. Có thể tạo tội vì con;
10. Nhịn đói cho con được no.
Trong cái nhìn của xã hội: thì gia đình là nền tảng. Nền mà không vững, công trình sẽ bị đổ vỡ bất: ThánhGia ABC 217
Trong cái nhìn của xã hội: thì gia đình là nền tảng. Nền mà không vững, công trình sẽ bị đổ vỡ bất cứ lúc nào. Trong cái nhìn của Giáo hội, theo Công đồng, thì gia đình là Giáo hội thu nhỏ. Mà Giáo hội là do Chúa lập. Vì vậy, gia đình cũng là do ý muốn của Chúa.
Ngày xưa, lúc dựng nên tổ tông Adong - Eva, Chúa đã cho hai ông bà được thay mặt Ngài, mà làm đẹp mặt trái đất. Gia đình cũng là vùng đất mới, hoàn toàn mới. Và bổn phận xây dựng và làm đẹp vùng đất mới này, là bổn phận của hai vợ chồng, cùng với sự cộng tác của con cái.
Như thế, một sự thật rất đáng được quan tâm đó là: Gia đình là tổ chức vô cùng quan trọng. Người bước vào gia đình, phải ý thức một cách rất rõ ràng về sự quan trọng của gia đình. Gia đình không phải là một thứ trò chơi để tối ngày dung dăng dung dẻ. Cái yếu tố hệ trọng khi bước vào gia đình, là phải ý thức về: TRÁCH NHIỆM.
Vì thế, các bạn trẻ cần phải được chuẩn bị rất kĩ, khi bước vào trách nhiệm này. Cũng chính vì vậy, Mẹ Giáo hội muốn rằng: Các con cái trẻ của mình, trước khi bước vào hôn nhân, phải được học tập rất kỹ về giáo lý đức tin, về tâm lý đôi lứa, là luân lý chính đáng. Bạn trẻ nào càng được học nhiều về giáo lý hôn nhân càng thấy mình được may mắn, vì như thế giúp mình nhìn rõ hơn con đường có thể có được hạnh phúc.
Đừng coi việc học giáo lý hôn nhân là một hình phạt, mà coi đó là việc làm của tình yêu sâu sắc. Vì cha xứ hay giáo lý viên, đã bỏ rất nhiều thời giờ quý báu, và chất xám suy tư, để truyền đạt cho mình, những yếu tố hệ trọng, giúp tình yêu chúng ta được hạnh phúc dồi dào hơn. Có không ít những bạn trẻ phàn nàn rằng: Tại sao khi lập gia đình lại phải học kinh. Thưa, những kinh đó, là những kinh rất căn bản, để giúp người ta cầu nguyện.
Mình bước vào gia đình, là người đàn ông, mình sẽ trở thành một gia trưởng. Người gia trưởng sẽ nhận trách nhiệm từ Chúa, để xây dựng một xã hội mới. Và nhờ ơn Chúa, sau thời gian mình có con, là bố, là cha, không phải chỉ là cha thân xác, mà là cha để hướng dẫn linh hồn cho con cái nữa. Là cha, là gia trưởng, mà không thuộc được câu kinh nào, không hiểu biết được tí giáo lý nào, thì làm sao mà có thể dạy dỗ được con cái. Người ta không thể cho người khác cái mình không có.
Lễ Thánh Gia hôm nay, là dịp tốt đẹp, để mỗi người làm cha, làm mẹ, có dịp xem xét lại trách nhiệm nặng nề mà Chúa đã trao: Hững hờ những gì, thiếu sót những gì?
Gợi ý suy niệm
1- Khi bước vào hôn nhân, bạn đã chuẩn bị được những gì? 2- Bạn đã hoàn tất được bao nhiêu phần trăm về trách nhiệm trên vai mình? Lm Đaminh Đỗ Văn Thiêm Long Xuyên
Mừng lễ Thánh Gia, chúng ta hãy nhìn vào thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu để rồi từ đó rút : ThánhGia ABC 218
Mừng lễ Thánh Gia, chúng ta hãy nhìn vào thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu để rồi từ đó rút ra những bài học cụ thể cho bản thân mình.
Trước hết là thánh Giuse.
Ngài là cột trụ của gia đình. Thánh Kinh đã mô tả Ngài như một người công chính, luôn sống theo lề luật và thực thi thánh ý Thiên Chúa. Còn gì đau khổ cho bằng một người chồng thấy vợ mang thai không do hành vi của mình. Nhưng một khi biết được là thánh ý Thiên Chúa, Ngài đã cúi đầu vâng theo. Ngài đã tuân hành chiếu chỉ của César Augustô lên đường xuống Bêlem đăng ký nhân hộ khẩu. Ngài đã tuân phục lệnh truyền của sứ thần đem Hài Nhi Giêsu trốn sang Ai CẬp với bao nhiêu vất vả và khó khăn nơi đất khách quê người. Ngài đã noi giữ mọi lề luật: dâng con vào đền thờ và hằng năm lên Giêrusalem dự những lễ lớn. Suốt những năm tháng tại Nadarét, Ngài đã cặm cụi lao động sản xuất để nuôi sống gia đình.
Ước chi những người cha biết noi gương Ngài: Bình tĩnh trước những biến cố để nhận ra thánh ý Thiên Chúa. Nhẫn nại làm việc để bảo đảm đời sống vật chất cho gia đình mình.
Tiếp đến là Đức Maria.
Mẹ đã chu toàn bổn phận của một người nội trợ, lo lắng chuyện bếp núc. Mẹ cũng đã chu toàn bổn phận một người vợ, luôn vâng phục thánh Giuse, và sau cùng Mẹ cũng đã chu toàn bổn phận của một người mẹ, luôn chăm sóc và lo lắng đến con mình là trẻ nhỏ Giêsu.
Ước chi những người mẹ biết noi gương Mẹ: Sẵn sàng tha thứ vì một sự nhịn là chín sự lành. Sẵn sàng lấy tình thương mà giáo dục con cái, vì con hư tại mẹ cháu hư tại bà. Sở dĩ như vậy vì người mẹ thường gần gũi với con cái hơn người cha, nên có một ảnh hưởng to lớn. Hãy giáo dục chúng trở thành những công dân tốt và những tín hữu trung kiên với Chúa.
Và sau cùng là Chúa Giêsu.
Mặc dù là Thiên Chúa, Ngài đã hạ mình xuống vâng phục và đón nhận những lời chỉ bảo của Mẹ Maria và thánh Giuse. Trong Thánh Gia có một sự đảo lộn đáng cho chúng ta suy nghĩ: Trước mặt người đời thì thánh Giuse là chủ, rồi đến Mẹ Maria và sau cùng là Chúa Giêsu. Nhưng trước mặt Thiên Chúa, thì trước hết là Chúa Giêsu, rồi đến Mẹ Maria, và sau cùng là thánh Giuse. Thế nhưng, Chúa Giêsu vẫn vui vẻ vâng lời hai đấng.
Ước chi những người con biết noi gương Chúa Giêsu, vâng theo những lời chỉ bảo của mẹ cha, vì cá không ăn muối cá ươn, con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư. Sở dĩ như vậy, vì khi dạy bảo, cha mẹ luôn yêu thương chúng ta và mong muốn chúng ta nên người.
Trong thánh lễ ngày hôm nay, chúng ta hãy cầu xin cho mỗi người chúng ta biết chu toàn những bổn phận trong gia đình, để gia đình của chúng ta sẽ là một mái ấm ngập tràn yêu thương và hạnh phúc.
(Trích từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Giuse Dương Hữu Tình)
Chúng ta đang sống trong bầu khí của mùa Giáng Sinh, mừng mầu nhiệm Nhập Thể - Con Thiên: ThánhGia ABC 219
Chúng ta đang sống trong bầu khí của mùa Giáng Sinh, mừng mầu nhiệm Nhập Thể - Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Với mầu nhiệm này, con người không chỉ dừng lại ở trí khôn để hiểu biết Thượng Đế, nhưng còn dùng tất cả các khả năng của giác quan để nhận biết Ngài. Thiên Chúa vô hình đã trở nên hữu hình. Thiên Chúa không chỉ hiện lên trong trí khôn mà nay đã và đang hiện diện trước mắt chúng ta. Lời Kinh Thánh trong Cựu Ước: "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta" nay được hiểu cụ thể rõ ràng ngay chính thân phận và hình dáng của con người.
Với lễ Thánh Gia, mầu nhiệm thứ hai lại được sáng tỏ hơn bao giờ hết, đó là mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Nếu con người là hình ảnh Thiên Chúa thì gia đình phải là hình ảnh rõ nhất về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Bởi thế, con người là một mầu nhiệm và gia đình cũng là một mầu nhiệm.
Trong kinh Tin Kính, chúng ta đọc: "Tôi tin kính một Thiên Chúa, là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình". Khuôn mặt và cương vị của Thiên Chúa Cha hiện lên một cách tỏ tường qua việc sáng tạo, làm chủ và hướng dẫn muôn loài. Còn bài Tin Mừng hôm nay kể về gia đình thánh gia, đó là gia đình của Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse. Trong gia đình ấy, Chúa Giêsu luôn là đỉnh cao viên mãn của sự thánh thiện và Mẹ Maria là Đấng rất thánh, dầu thế cũng không sao che khuất vai trò và cương vị đặc biệt của Thánh Giuse. Thánh Giuse luôn là chủ, là đầu và là người lãnh đạo. Mỗi khi nhắc đến thiên thần, bao giờ thánh Matthêu cũng ngầm ý nói tới Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa hướng dẫn Thánh Giuse chứ không phải một ai khác trong gia đình. Chỉ một đoạn Phúc Âm ngắn thôi mà thánh Matthêu ba lần nhắc tới việc thiên thần hiện ra với Thánh Giuse và chỉ dạy cho ngài cách bảo vệ gia đình. Chi tiết này như một lời nhắc bảo: người cha, người bố trong gia đình luôn là hình ảnh tuyệt vời về Thiên Chúa Cha. Chúa Cha liên lạc mật thiết với các bậc gia trưởng. Có một mối dây thông truyền liên tục giữa Cha vô hình trên trời với những người cha đang sống nơi trần thế. Và trần gian này sẽ trở thành thiên đàng khi tất cả các gia đình đều do những người cha tốt lành như thế coi sóc và hướng dẫn.
Mừng lễ Thánh gia là dịp cầu nguyện cho tất cả các gia đình, đặc biệt cầu nguyện cho các bậc gia trưởng. Xin cho sợi dây liên kết hiệp thông giữa Cha trên trời luôn gắn chặt với các người cha đang sống trên trái đất này. Xin cho trái đất này thực sự trở thành thiên đàng nhờ sự hướng dẫn khôn ngoan, thánh thiện của các bậc gia trưởng đạo đức.
(Trích từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Một giảng viên giáo lý đặt câu hỏi với các học sinh: "Hôm nay, chúng ta mừng lễ thánh gia thất: ThánhGia ABC 220
Một giảng viên giáo lý đặt câu hỏi với các học sinh: "Hôm nay, chúng ta mừng lễ thánh gia thất. Vậy Anh hỏi các em: trong Hội Thánh, có bao nhiêu thánh gia thất".
Cả chục cánh tay giơ lên xin trả lời vì xem ra câu hỏi nầy dễ ợt. Khi giảng viên mời lần lượt từng em cho câu đáp, tất cả các em đều chung một ý kiến: chỉ có một thánh gia mà thôi, đó là thánh gia thất của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse.
Giảng viên giáo lý cho rằng như vậy chưa chính xác. Các em tỏ ra ngạc nhiên pha lẫn nghi ngờ.
Giảng viên mời bạn Hùng đứng lên và hỏi: - Gia đình em có bao nhiêu người?
- Thưa Anh có bốn, gồm ba, má, chị Hoa và em, Hùng đáp. - Cám ơn em. Thế thì cả bốn người đã lãnh bí tích rửa tội chưa? - Thưa Anh, tất cả đều đã lãnh bí tích rửa tội từ nhỏ.
Giảng viên tiếp tục giải thích: - Bí tích rửa tội làm cho chúng ta trở nên chi thể của Chúa Giêsu (giáo lý công giáo 1267.1Cr 6, 15; 12, 27), cho ta được thông phần bản tính Thiên Chúa (giáo lý công giáo 1265. 2Pr 1,4). Vậy thì bốn người trong gia đình bạn Hùng đều là chi thể Chúa Giêsu, đều được thông phần bản tính Thiên Chúa cả. Vậy cả bốn người đó có phải là thánh không?
Sau giây lát suy nghĩ vì câu hỏi có vẻ mới lạ, các em đáp: - Thưa phải.
- Đúng thế, được tháp nhập vào Thân Mình Chúa Giêsu, mọi kitô hữu đều là thánh vì được hiệp thông nên một với Chúa Giêsu chí thánh. Thế nên, qua các thư của mình, thánh Phaolô gọi các kitô hữu là thánh.
Giảng viên tiếp: - Các em biết không, trong hiến chế Tín Lý về Hội Thánh, Công Đồng Vatican II gọi gia đình là hội thánh thu nhỏ hay hội thánh tại gia (LG 11. glcg 1656). Như thế, huấn quyền của Hội Thánh chính thức công nhận gia đình là thánh gia.
Ngoài ra, chính Chúa Giêsu cũng đã thiết lập bí tích hôn phối để thánh hoá đời sống gia đình, nâng gia đình lên một tầm cao mới.
Nói cụ thể hơn, gia đình bạn Hùng có bốn thành viên đều là kitô hữu, đã được hiến thánh qua bí tích rửa tội, thế thì đó là một cộng đồng, một hội có bốn vị thánh cùng chung sống. Vậy thì gia đình nầy là một hội thánh nhỏ, một hội thánh tại gia hay nói khác đi là một thánh gia thất.
* * *
Để có thể xây dựng một công trình kiến trúc bảo đảm kỹ thuật, mỹ thuật và chất lượng, điều kiện đầu tiên phải có là một mô hình hay bản thiết kế. Người thợ xây chỉ việc nhìn vào bản thiết kế hay mô hình đó để thi công thì công việc xây dựng sẽ được tiến hành dễ dàng, suôn sẻ.
Trong việc xây dựng các hội thánh thu nhỏ hay các thánh gia cũng vậy, các kitô hữu cũng cần một mô hình, một bản thiết kế hoàn chỉnh. Chính Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người và bỏ ra suốt ba mươi năm đằng đẳng nhằm kiến tạo nên mô hình tuyệt hảo là Thánh Gia Nadarét làm mẫu mực cho tất cả các thánh gia khác suốt dòng lịch sử dựa theo đó mà xây dựng thánh gia của mình.
Xây dựng gia đình theo mẫu nhà Nadarét là mọi người trong gia đình phải đối xử với nhau như ba Đấng trong thánh gia nầy, cụ thể là chồng phải yêu thương và phục vụ vợ con như thánh Giuse đã yêu mến và phục vụ Đức Mẹ và Chúa Giêsu; người vợ phải yêu thương và chăm sóc chồng như Mẹ Maria đã yêu mến và phục vụ Chúa Giêsu và thánh Giuse; cha mẹ phải yêu mến và chăm lo cho con cái như thánh Giuse và Mẹ Maria chăm lo phục vụ Chúa Giêsu hết tình; con cái trong gia đình phải hiếu kính và phụng dưỡng cha mẹ như Chúa Giêsu đã làm đối với Cha Mẹ Ngài.
Nguyện xin Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh cả Giuse hằng hiện diện trong gia đình chúng con và giúp chúng con xây dựng gia thất chúng con nên giống thánh gia của Ngài.
Trong bầu khí Giáng Sinh, hôm nay chúng ta được mời gọi để chiêm ngắm một gia đình của Thiên: ThánhGia ABC 221
Trong bầu khí Giáng Sinh, hôm nay chúng ta được mời gọi để chiêm ngắm một gia đình của Thiên Chúa ở giữa nhân loại. Ngài đã đến thế gian, đã sống như một con người, trong một gia đình để nêu gương cho chúng ta. Khi chiêm ngắm gia đình Nagiaret, chúng ta nhận ra rằng điều làm cho gia đình này trở nên linh thánh chính là sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa gia đình.
Trước hết, chiêm ngắm hình ảnh thánh Giuse, người cha trong gia đình, ta nhận ra Ngài quả là một người công chính đích thực, nghĩa là người chọn Chúa làm gia nghiệp của đời mình. Đáp lại tiếng gọi của Chúa, Thánh Giuse hiến trọn cuộc đời mình để thi hành thánh ý Thiên Chúa. Ngài mau mắn đáp lại ý muốn của Thiên Chúa mọi lúc mọi nơi. Trong cương vị là người cha, người cũng dạy cho Đức Giêsu biết vâng phục Thiên Chúa. Khi đến ngày như luật định, Chúa Giêsu chịu phép cắt bì. Mẹ Maria thì chu toàn nghi lễ thanh tẩy. Còn thánh Giuse thì nộp tiền chuộc theo như lề luật đã qui định. Và hơn thế nữa, thánh Giuse cùng với Mẹ Maria hàng năm vẫn dẫn Chúa Giêsu lên đền thờ. Đặc biệt là năm Chúa mười hai tuổi, lứa tuổi chưa bị lề luật đòi buộc. Như vậy, có lẽ những bài học quan trọng nhất mà Đức Giêsu học được chính là từ ngôi trường của Giuse, một người công chính.
Thứ đến, với tư cách là một người Mẹ, Đức Maria cũng dành trọn cuộc đời của mình để vuông tròn thánh ý Thiên Chúa. Cuộc sống của mẹ được dệt nên bởi những giai điệu của tiếng xin vâng. Mẹ xin vâng để đón nhận con Thiên Chúa vào lòng, Mẹ xin vâng để chấp nhận những đau khổ và khó khăn trong cuộc sống, và cuối cùng là tiếng xin vâng khó khăn và đau đớn bên thập giá. Với tư cách là một người mẹ và một người bạn, Mẹ cũng gặp nhiều khó khăn và thách đố trong đời sống gia đình. Nhưng niềm tin và sự phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa đã giúp Mẹ vượt qua tất cả. Như trong bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy rằng, dù mẹ không hiểu điều Chúa Giêsu nói, nhưng mẹ không giận dỗi và đòi một lời giải thích, trái lại, Mẹ thinh lặng và suy đi nghĩ lại trong lòng. Chính thái độ này giúp mẹ luôn nhận ra thánh ý Chúa và vuông tròn thánh ý Ngài.
Còn Đức Giêsu mời gọi ta đi vào một chiều kích mới mẻ hơn giữa Thiên Chúa và con người. Chịu ảnh hưởng bởi đời sống thiêng liêng của Đức Maria và Thánh Giuse, có lẽ, ngay từ tấm bé, Đức Giêsu đã được dạy dỗ để sống theo lề luật, tuân giữ những tập tục của người Do thái. Ngài cũng học để cầu nguyện, và trong đời sống cầu nguyện Đức Giêsu đã cảm nhận được sự hiện diện của một người Cha trên trời. Một người mà Ngài âu yếm gọi là Cha. Cũng như Mẹ Maria, Ngài hiểu rằng mình cũng có một sứ mạng, đó chính là chu toàn thánh ý Cha. Trong những lúc khó khăn và thách đố của kiếp người, Ngài cũng có một nơi nương tựa, đó là tình yêu trung tín của Cha.
Vâng, sự hiện diện của Chúa trong gia đình là yếu tố căn bản để liên kết mọi thành phần trong gia đình. Nhờ tình yêu Thiên Chúa, tình yêu phàm trần của con người được thánh hóa, và được thấm nhuần chiều kích thiêng liêng. Hơn nữa, sự hiện diện của Thiên Chúa trong gia đình đem lại một niềm hy vọng vững chắc cho mỗi thành viên. Trước những thách đố đầy dẫy nảy sinh trong đời sống gia đình, niềm hy vọng vào tình yêu Thiên Chúa chính là chỗ dựa vững chắc nhất để mọi thành viên trong gia đình cùng nhau đối diện và vượt qua.
Một thống kê cho thấy, tại Mỹ cũng như tại hầu hết các nước thế giới, gia đình Do thái là gia đình trong đó mức phạm pháp của vị thành niên được coi là thấp nhất. Nhưng đâu là chìa khoá giải thích sự kiện này? Thưa chính là niềm tin. Các trẻ em Do thái luôn nhìn vào người cha như một đại diện của Chúa, người cha chúc lành cho con cái.
Như vậy, thánh gia trở nên gương mẫu sống động cho các gia đình trong mọi thời đại vì sự hiện của Thiên Chúa trong gia đình này. Ngày nay người ta thường gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của họ và đó có lẽ là một trong những nguyên nhân chính gây ra cuộc khủng hoảng về đời sống gia đình. Chúng ta cùng cầu nguyện với gia đình Thánh Gia, xin các Ngài thương nâng đỡ các gia đình trong thời đại ngày hôm nay, để gia đình là mái ấm thực sự cho mọi thành viên.
Gia đình là chiếc nôi yêu thương, là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, là nơi linh thiêng, là bản tổng phổ hòa: ThánhGia ABC 222
Gia đình là chiếc nôi yêu thương, là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, là nơi linh thiêng, là bản tổng phổ hòa âm hạnh phúc bằng những cung bậc yêu thương lồng trong giai điệu ngọt ngào, và vẫn được ngân vang vô tận...
Nói đến gia đình là nói đến yêu thương. Không yêu thương thì không là gia đình. Vì thế, gia đình mới được mệnh danh là Tổ Ấm. Gia đình là “tam giác cân” của mối liên kết Cha-Mẹ-Con. Trong đó có sự tổng hòa các mối quan hệ tình cảm nền tảng: Tình phu thê, tình mẫu tử, tình phụ tử, tình huynh đệ, tình tỷ muội. Thomas Fuller (1608-1661, tác giả nổi tiếng người Anh) nói: “Lòng nhân ái bắt đầu từ gia đình, nhưng không nên kết thúc ở đó” (Charity begins at home, but should not end there). Có thể nói rằng gia đình là vườn ươm các nhân đức.
Ca Nhập Lễ nói ngay đến khung cảnh một gia đình: “Các mục đồng hối hả tới nơi gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ” (Lc 2:16). Danh từ kép “gia đình” không được nói tới nhưng vẫn khả dĩ biết đó là một gia đình, đơn sơ, giản dị, nghèo nàn, nhưng tràn đầy hơi ấm yêu thương của mỗi thành viên.
Sách Huấn Ca xác định: “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu. Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe. Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng. Người đó phục vụ các bậc sinh thành như phục vụ chủ nhân” (Hc 3:3-7). Thờ cha, kính mẹ là giữ đạo hiếu đời thường, là “luật sống” của xã hội loài người, nhưng cũng chính là giới răn thứ tư trong Thập Giới mà Thiên Chúa đã truyền dạy qua ông Môsê.
Trong Phật giáo, kinh Tăng Nhất A Hàm dạy: “Cung kính và vâng lời cha mẹ, phụng dưỡng khi cha mẹ già yếu, giữ gìn thanh danh truyền thống gia đình, bảo vệ tài sản cha mẹ để lại, lo tang lễ chu đáo khi cha mẹ qua đời”; còn kinh Nhẫn Nhục so sánh: “Tột cùng thiện không gì bằng có hiếu, tột cùng ác không gì bằng bất hiếu”. Điều đó cho thấy đạo hiếu quan trọng với những người làm con – mà có ai lại không làm con chứ?
Trong Công giáo, sách Huấn ca nói chi tiết hơn: “Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con. Thiên Chúa sẽ nhớ đến con, ngày con gặp khốn khó, và các tội con sẽ biến tan như sương muối biến tan lúc đẹp trời” (Hc 3:14-15). Con cái thảo kính cha mẹ không chỉ là làm bổn phận, mà còn được Thiên Chúa tha thứ và chúc phúc. Nhất cử lưỡng tiện. Tuy nhiên, lại thật khốn nạn cho những nghịch tử: “Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai chọc giận mẹ mình, sẽ bị Đức Chúa nguyền rủa” (Hc 3:16). Chúa Giêsu cũng noi gương ngoan ngoãn và hiếu thảo: Sau khi Đức Maria và Đức Thánh Giuse tìm thấy Chúa Giêsu đang ngồi giữa các thầy dạy trong Đền Thờ, “Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2:51).
Sách Huấn Ca khuyên nhủ:“Con ơi, hãy hoàn thành việc của con một cách nhũn nhặn, thì con sẽ được mến yêu hơn người hào phóng” (Hc 3:17). Lời khuyên nhẹ nhàng và đơn giản nhưng rất thâm thúy.
Gia đình là sự đoàn kết chặt chẽ của “bộ ba”, như kiềng ba chân vững bền. “Bộ ba” đó là hình ảnh Tam Vị Nhất Thể (Chúa Ba Ngôi), lan tỏa yêu thương, chứng tỏ sự kính yêu Thiên Chúa. Thánh Vịnh mô tả: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may. Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn. Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128:1-4). Hình ảnh thật sống động và đẹp biết bao!
Gia đình hạnh phúc là nơi phải đầy ắp tiếng cười, sống thoải mái, tự nhiên, thì mới xứng đáng tận hưởng lời cầu chúc này: “Xin Chúa từ Sion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh, được sống lâu bên đàn con cháu” (Tv 128:5-6).
Thánh Phaolô nói: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3:12-14). Bất kỳ cái gì “được nhận” đều là ân huệ, dù là điều nhỏ nhoi, và tất nhiên người nhận phải có trách nhiệm và sống sao cho xứng đáng. Đó là lẽ công bằng minh nhiên thôi!
Thật vậy, Thánh Phaolô vừa cầu chúc vừa giải thích rạch ròi: “Ước gì ơn bình an của Đức Kitô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó. Bởi vậy, anh em hãy hết dạ tri ân. Ước chi lời Đức Kitô ngự giữa anh em thật dồi dào phong phú” (Cl 3:15-16a).
Biết được điều gì thì phải chia sẻ cho người khác cùng biết, đó là một dạng “dạy dỗ” hoặc “giáo dục”. Ai cũng có quyền này, đồng thời cũng là trách nhiệm: “Anh em hãy dạy dỗ khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn ngoan. Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng. Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giêsu và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha” (Cl 3:16b-17). Vấn đề là thực hiện vì danh Chúa Giêsu, chứ không phải để mình được khen tặng, được nổi trội. Người giỏi là người có ơn gọi tiên tri (ngôn sứ), phải sinh lời “nén” đó, càng nhiều càng tốt, chứ không thấy vậy mà “chảnh”, vì Chúa sẽ “đòi” phần lời của người đó. Đừng tưởng bở!
Cuối cùng, Thánh Phaolô khuyên riêng từng thành viên trong gia đình: “Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ. Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng” (Cl 3:18-21).
Có lẽ chẳng gia đình nào khốn khổ như Thánh Gia, gian nan trăm bề, “căng” đủ thứ, nạn này chưa qua thì tai khác lại tới. Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, thì sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài Nhi đấy!” (Mt 2:13). Mẹ tròn, con vuông là vui rồi, có nghèo cũng được. Thế nhưng sóng đời cứ vỗ, con thuyền gia đình tròng trành đủ kiểu. Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng.
Tưởng được yên ổn, ai ngờ… Số kiếp Đức Thánh Giuse lận đận hết sức, không phải hồng nhan mà bạc phận quá trời. Vừa nghe báo hung tin như vậy, biết sự nguy hiểm cận kề, Chú Giuse nhà ta liền trỗi dậy, và dù đang đêm tối đen như mực, Chú vẫn đưa Vợ và Con vội vã trốn sang Ai-cập. Và rồi Thánh Gia ở đó cho đến khi vua Hêrôđê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: “Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập” (Mt 2:18). Một chân lý vô thường: Gian nan và đau khổ cũng vẫn là hồng ân. Lạ thật!
Như một bộ phim dài, hết tập này thì đến tập khác. Thánh sử Mátthêu kể tiếp: Sau khi vua Hêrôđê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giuse bên Ai-cập, báo mộng cho ông rằng: “Này Giuse, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi” (Mt 2:20). Lần báo tin này là hỉ tín. Tiếng thở phào nhẹ nhàng biết bao! Sau cơn mưa trời lại sáng. Chả mong gì hơn, Chú Giuse liền trỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel. Nhưng vì nghe biết Ác-khê-lao đã kế vị vua cha là Hê-rô-đê, cai trị miền Giuđê, nên Chú Giuse sợ không dám về đó, nên lui về miền Galilê, và đến định cư tại một thành kia gọi là Nadarét, để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng các ngôn sứ rằng: “Người sẽ được gọi là người Nadarét” (Mt 2:23).
Ước gì mỗi thành viên gia đình đều sống đúng vai trò của mình để khả dĩ tạo nên một Tổ Ấm đích thực. Ước gì mỗi gia đình đều là bản Trường Ca Yêu Thương không ngừng hòa tấu vang dội hằng ngày, đó là một cách sống động để tích cực truyền giáo và làm chứng nhân của Chúa: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13:34-35). Điều này càng thích hợp hơn trong năm 2014: Phúc-Âm-hóa đời sống gia đình.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết sống đúng chức năng và bổn phận của mình theo đúng Thánh Ý Chúa trong từng hoàn cảnh thực tế hiện tại của cuộc đời, để tất cả đều làm vinh danh Chúa. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen
Bản văn đưa chúng ta đi vào tấn bi kịch: Vừa chào đời, Hài Nhi Giêsu đã bị vua Hêrôđê tìm cách tiêu: ThánhGia ABC 223
Bản văn đưa chúng ta đi vào tấn bi kịch: Vừa chào đời, Hài Nhi Giêsu đã bị vua Hêrôđê tìm cách tiêu diệt. Toàn bản văn có hai nét tiêu biểu: (1) Cuộc sống của Hài Nhi bị đe dọa, và vì thế, công trình cứu thế cũng bị đe dọa; (2) Thiên Chúa che chở Hài Nhi. Bản văn không hề có chút gì là màu sắc lãng mạn: các biến cố được mô tả rất đơn giản, y như thể là bài tường thuật về một sự kiện thời sự.
2.- Bố cục
Có thể chia bản văn Mt 2,13-21 thành ba phần, cuối mỗi phần có một ghi nhận về sự hoàn tất các sấm ngôn:
1) Cuộc đi trốn sang Ai Cập (2,13-15); 2) Mối đe dọa thật trầm trọng (2,16-18); 3) Mối đe dọa chấm dứt – Trở về quê hương (2,19-21).
Bản văn phụng vụ không đọc phần thứ hai.
3.- Vài điểm chú giải
- trốn sang Ai Cập (13): Đây là miền đất những người Do Thái bị bách hại thường tìm đến mà ẩn náu (x. 1 V 11,40; 2 V 25,26), nhất là từ khi xảy ra các xáo trộn thời Macabê. Rất có thể Giuse đã đến Arít, phía nam Gada: đến được đó, thì đã coi như ngài đã ở trên đất Ai Cập; vùng này được Rôma trực tiếp kiểm soát từ năm 31 tCN. Dù thế nào, đi từ Bêlem xuống Ai Cập chỉ mất năm hay sáu ngày.
- Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai Cập (15): Mt trích sách ngôn sứ Hôsê Hípri với chi tiết “con Ta”, còn Bản LXX thì viết là “các con của nó”. Lời sấm Hs gợi đến cuộc Xuất hành của Israel, vì khi đó họ đã được gọi là “con Ta” ở Xh 4,22. Theo cách Mt đặt Israel và Đức Giêsu song đối với nhau, ta phải kết luận rằng Đức Kitô sáp nhập dân mới của Thiên Chúa, tức là Hội Thánh, vào bản thân Người và Người sẽ lôi kéo dân mới này đi theo trong cuộc Xuất hành cánh chung của Người.
- giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và toàn vùng lân cận, từ hai tuổi trở xuống (16): Rất có thể con số các trẻ em bị giết không vượt quá hai mươi, do mật độ dân số thưa thớt và tỷ lệ sinh ít ỏi ở Bêlem thời đó (theo tính toán của D. Buzy).
- tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh (16): Ta có cảm tưởng là điều này không thật, bởi vì vua Hêrôđê có thể dễ dàng cho người đến Bêlem mà tìm ra ngôi nhà đã được các hiền sĩ đến thăm. Câu trích Gr 31,15 và giọng văn rất giản dị khiến người ta nghĩ bản văn này là một bài giáo lý hơn là một tư liệu lịch sử. Tuy nhiên, chứng giận dữ điên cuồng mù quáng dại dột của nhà vua thì rất phù hợp với những gì chúng ta biết được về những năm cuối đời ông.
- Ở Rama, vẳng nghe tiếng khóc than rền rĩ: tiếng bà Rakhen khóc thương (18): Bản văn trích từ Gr 31,15 dường như là một bản dịch tóm bản văn Hípri. Vị ngôn sứ cho thấy bà Rakhen, mẹ của Giuse (các chi tộc Épraim và Mơnase) và Bengiamin, trỗi dậy từ ngôi mộ của bà gần Rama (khoảng 8 cs về phía bắc Giêrusalem) mà khóc trên nỗi bất hạnh của các cháu chắt bà, vì họ đang bị người Átsua đưa đi lưu đày (khoảng năm 722 tCN). Truyền thống Do Thái đã lầm khi xác định Éprát, nơi có mộ bà Rakhen, là Bêlem (St 35,19), nhưng giúp cho tác giả Mt có cơ sở mà liên kết bản văn Giêrêmia với hoàn cảnh hiện tại. Tuy nhiên, để hiểu ý hướng của Mt khi quy chiếu về chương này của Gr, cần thấy rằng các câu sau (Gr 31,16-17) giới thiệu một bầu khí khác, đưa tới lời Thiên Chúa hứa lập một giao ước mới với nhà Israel (Gr 31,31-33). Theo Mt, việc Đức Giêsu trở về từ Ai Cập đánh dấu bước đầu hoàn tất lời sấm ấy: “giao ước mới” được Gr tiên báo, này đang đi dần tới chỗ được thực hiện nơi bản thân Đức Giêsu.
- vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi (20): Câu này trích từ Xh 4,19 (“Đi đi, hãy trở về Ai Cập, bởi vì mọi kẻ tìm cách làm hại mạng sống ngươi đã chết cả rồi”).
- Áckhêlao (22): Ông cai trị miền Giuđê từ năm 4 tCN đến năm 6 CN. Mt không nói vì sao Giuse muốn rời bỏ miền đất do Áckhêlao cai trị. Lịch sử cho biết Áckhêlao cũng độc ác như vua cha, nhưng không thông minh và khôn khéo về chính trị như vua cha. Mt không nói lý do, có lẽ vì muốn để cho quyết định của Giuse hoàn toàn lệ thuộc sự hướng dẫn của Thiên Chúa.
- Người sẽ được gọi là người Nadarét (23): Qua sự kiện Đức Giêsu về ở tại Nadarét, Mt thấy nhiều bản văn ngôn sứ được ứng nghiệm. “Người Nadarét” là nazôraios trong tiếng Hy Lạp. Nhưng nazôraios cũng còn có thể có hai nghĩa sau:
(1) Nazôraios có quan hệ với naziraios (LXX) là từ ngữ dẫn xuất từ từ ngữ Hípri na-dia (nazýr). Na-dia là một người “biệt cư”, một vị “thánh”, như Samsôn (x. Tl 13,5-7: đoạn này thường được liên kết với Mt 1–2), phải tuân giữ những luật lệ nghiêm ngặt. Luca giới thiệu Gioan Tẩy Giả (Lc 1,15), và Đức Giêsu (1,35), như một na-dia, kế thừa các vị thánh Cựu Ước.
Thật ra, văn cảnh Mt 1–2 khó phù hợp với ý tưởng về truyền thống na-dia này.
(2) Nazôraios có quan hệ với từ Hípri nêser, “mầm mống, chồi lộc” (x. Is 11,1; Gr 23,5; 33,15; Dcr 3,8; 6,12). Đấng Mêsia được gọi bằng tên này để diễn tả thân phận thấp hèn, khiêm tốn.
Từ này yếu hơn từ trước về phương diện ngữ học, nhưng lại phù hợp với văn cảnh Mt ch. 2 hơn.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Trong bản văn chúng ta đọc hôm nay, tác giả Mt diễn tả rõ ràng hình ảnh Đấng Mêsia bị dân Người loại trừ và bách hại. Ông cũng theo sát quan niệm của các kinh sư về một cuộc Xuất hành mới vào thời cánh chung mà trình bày loạt các biến cố này như một cuộc Xuất hành mới, tiên báo cuộc Xuất hành cuối cùng của lịch sử nhân loại mà Đức Giêsu sẽ thực hiện qua sứ vụ của Người: ở đây cũng có một ông vua sát hại các trẻ em Do Thái; nhưng cũng như Môsê đã được mang đi giấu và được cứu, Đức Giêsu cũng thoát khỏi cái chết; Thiên Chúa đã gọi Israel ra khỏi Ai Cập, bây giờ chính là Đức Giêsu, Israel mới, ra khỏi Ai Cập.
* Cuộc đi trốn sang Ai Cập (13-15)
Giuse được Thiên Chúa giao cho nhiệm vụ che chở và bảo vệ Maria và Hài Nhi (1,20t) và ngài đã vâng lời chấp nhận nhiệm vụ (1,24t). Kể từ đó, ngài sống là để phục vụ mẹ con Hài Nhi. Điều ngài phải làm, đã được biểu lộ đặc biệt vào dịp Hài Nhi bị đe dọa. Ba mệnh lệnh ngài nhận được từ Thiên Chúa luôn luôn có nguyên do là hoàn cảnh hiểm nghèo này (2,13.20.22). Thật ra lệnh Thiên Chúa đã được hiểu ngầm trong hoàn cảnh, bởi vì hoàn cảnh diễn tả điều mà Giuse được yêu cầu làm để bảo vệ Hài Nhi. Hành động của Giuse được xác định như là cách ứng xử do hoàn cảnh bó buộc dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa. Tương ứng với mỗi lệnh là việc Giuse thi hành chính xác điều được yêu cầu (2,14.21.23). Giuse vâng lời Thiên Chúa theo sát mặt chữ và tức khắc (ngay trong đêm; không biết ngày về). Luật tối thượng của đời sống ngài là ý muốn của Thiên Chúa, Đấng đã giao phó Hài Nhi cho ngài.
Hài Nhi luôn luôn được nhắc đến cùng với mẹ Người (2,13.14.20.21). Tuy nhiên, tác giả không nêu tên bà. Maria không được nhắc đến vì chính mình, nhưng vì công việc phục vụ từ mẫu bà cống hiến cho Hài Nhi, và Hài Nhi phải nhờ đó mà sống. Cũng như Giuse được giao cho nhiệm vụ che chở Hài Nhi khỏi các nguy hiểm bên ngoài, Maria được giao cho bổn phận săn sóc Hài Nhi để Hài Nhi lớn lên. Giuse và Maria có những nhiệm vụ khác nhau, nhưng tại trung tâm đời sống các ngài, có công việc giống nhau là phục vụ Đức Giêsu.
Khi kết thúc bài tường thuật đầu tiên này, tác giả Mt đã vận dụng bản văn Hs (11,1) không phải để nói về cuộc trốn sang Ai Cập, nhưng là chuyến đi từ Ai Cập về đất Israel. Bằng cách này, ngài muốn đề cao ơn gọi thiên sai của Đức Giêsu (sẽ được công bố tại sông Giođan), như xưa kia, dân Do Thái, khi được gọi ra khỏi Ai Cập, đã trở thành dân “sở hữu” của Thiên Chúa (Xh 19,5).
* Mối đe dọa thật trầm trọng (16-18)
Lối xử sự của vua Hêrôđê hoàn toàn ngược lại với lối xử sự của Maria và Giuse. Hai đấng che chở và săn sóc Hài Nhi, còn vua Hêrôđê thì muốn loại trừ Người, khi ông cảm thấy vương quyền của ông bị ấu chúa dân Do Thái đe dọa (2,2). Ông đã coi vương quyền của ông như mục tiêu tự nó có giá trị; ông bị chiếm hữu bởi ý chí hùng cường. Do đó, ông chỉ có một mối bận tâm, là vận dụng mọi phương tiện để đảm bảo vương quyền, kể cả vi phạm bổn phận đầu tiên của một vị vua, là che chở thần dân mình: như mục tử chăm sóc đoàn chiên, một vị vua cũng phải săn sóc dân mình (x. 2,6). Hêrôđê đã xúc phạm đến sự sống của dân ông, khi cho sát hại các hài nhi. Vì muốn loại trừ Đấng mà ông đang tìm kiếm, ông muốn chắc chắn nên đã gây ra cuộc tàn sát các hài nhi Bêlem. Ở đây Hêrôđê là hình ảnh của Pharaô ngày xưa tái hiện, vì trước Xuất hành, Pharaô đã giết các trẻ nam Israel (x. Xh 1,15-22). * Mối đe dọa chấm dứt – Trở về quê hương (2,19-21)
Cái chết của vua Hêrôđê đã loại trừ nguy hiểm, nên Thánh Gia có thể trở về quê. Tuy nhiên, vì sợ Hêrôđê Áckhêlao, Giuse đã quyết định đưa Hài Nhi về Nadarét. Tác giả nhận ra qua hành trình Hài Nhi theo để đi sang Ai Cập rồi trở về Nadarét là chương trình của Thiên Chúa được hoàn tất. Lời ngôn sứ Hôsê 11,1 (“Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai Cập”) lúc đầu nhắm tới việc dân Israel thoát ách nô lệ Ai Cập; nay vị trí của dân Thiên Chúa, Đức Giêsu, trong tư cách là Con Thiên Chúa theo cách tuyệt đối đặc biệt (x. 3,17), đã chiếm lấy. Công thức “Người sẽ được gọi là người Nadarét” không có trong bất cứ sách ngôn sứ nào; chính Mt cũng không quy chiếu về vị ngôn sứ nào, nhưng nói ở số phức “các ngôn sứ”. Câu văn ấy trước tiên cho thấy Đức Giêsu như là người đến từ Nadarét. Đây có thể là một gợi ý đến Is 11,1, vì trong câu ấy, có loan báo về mầm chồi (nêser) phát xuất từ gốc Giêsê như là Hoàng tử bình an, đầy Thần Khí và công chính; cũng có thể gợi đến cả Gr 23,5; 33,15, vì ở đó có cho biết là dân chúng đang trông mong một vị vua công chính và khôn ngoan như là một mầm chồi cho Đavít.
Chúng ta ghi nhận là trong đoạn tường thuật cuối cùng này, Mt so sánh Đức Giêsu với Môsê. Cũng như Môsê đã thoát chết cách huyền nhiệm (Xh 2,1-10) và đã trốn sang đất ngoại quốc để tránh Pharaô (Xh 2,11-15) trước khi đương đầu công khai với nhà vua theo lệnh Thiên Chúa, thì Đức Giêsu, sau khi đã được tấn phong làm ngôn sứ (Xh 3,1-12), cũng thoát khỏi cuộc tàn sát và trốn bạo chúa (cc. 13-15), rồi lui về Nadarét (c. 23) để tái xuất hiện và rao giảng công khai, sau khi được tấn phong làm Mêsia khi chịu phép rửa (ch. 3–4). Nét tương đồng với Môsê được khẳng định qua lời thiên sứ trích từ Xh 4,19. Đến cuối cuộc xuất hành này, Đức Giêsu sẽ tái xuất hiện trên sân khấu xã hội Do Thái dẫn đầu đoàn người đông đảo (4,25), và Người sẽ ban cho họ Luật mới (Bài Giảng trên núi, ch. 5–7), như Môsê sau Xuất hành, tại núi Sinai.
+ Kết luận
Ý muốn sát nhân của vua Hêrôđê đã bị sự che chở của Thiên Chúa triệt tiêu, mà lại không dùng bất cứ phương tiện phi thường nào. Do biết đi trốn và biết khôn ngoan nhận định tình hình, Giuse đã bảo vệ Con Trẻ được an toàn. Giuse đã là một dụng cụ Thiên Chúa dùng; ngài vâng lời Thiên Chúa và ra sức hành động để phục vụ sự sống của Hài Nhi. Do ý muốn của Thiên Chúa, Đức Giêsu đã đi sang Ai Cập rồi về Nadarét, và thế là chương trình của Thiên Chúa được ứng nghiệm (2,15.23). Những ai bị cuộc xuất hiện của Đức Giêsu “phá rối” thì vận dụng mọi phương tiện để chống lại Người. Nhưng Đức Giêsu ở dưới sự che chở của Thiên Chúa. Các dụng cụ Thiên Chúa dùng là các con người, được kêu gọi để phục vụ Hài Nhi. Trong câu truyện vừa đọc, ta thấy rõ ý nghĩa của sự hiện diện của Giuse và Maria đối với Hài Nhi Giêsu.
Đức Giêsu vừa là Môsê mới (Ai Cập) vừa là con cháu Đavít (Bêlem). Cuộc trốn sang Ai Cập không phải là một ngoặc đơn tình cờ trong định mệnh Đức Giêsu, nhưng là một sự kiện đầy ý nghĩa nối kết định mệnh này với toàn thể lịch sử Israel. Chương trình của Thiên Chúa đang điều hành trọn vẹn cuộc đời Đức Giêsu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Một em bé là một con người yếu ớt, mong manh, không quyền lực, bị đe dọa trong cuộc sống. Em không thể tự vệ, cũng không thể tự khẳng định. Chỉ nguyên chuyện tiếp tục sống, em cũng cần được săn sóc và giúp đỡ. Em lại càng cần được che chở cách hiệu quả và khôn ngoan để có thể thoát các nguy hiểm. Vô sô hài nhi đã trở thành nạn nhân của chính tình trạng thiếu khả năng tự vệ. Hài Nhi Giêsu cũng thông dự vào nguy cơ này. Làm sao khỏi cảm kích trước mầu nhiệm Nhập Thể đã đưa Con Thiên Chúa đến chỗ chia sẻ thân phận con người như thế?
2. Giuse biết rõ mình là ai và biết rõ mình phải làm gì và ngài sống đúng theo chiều hướng đó. Ta không hề thấy Giuse bận tâm đến chút quyền lợi riêng tư nào. Ngài chấp nhận mọi mệt nhọc, mọi mò mẫm; ngài chỉ có một mục tiêu là phục vụ sự sống của Hài Nhi. Thiên Chúa là Đấng hướng dẫn và Giuse là người thi hành. Cuộc sống Kitô hữu cũng có những mệt nhọc và những mò mẫm như đi trong đêm tối. Thiên Chúa kêu gọi, Thiên Chúa hướng dẫn, nhưng Ngài không chỉ rõ con đường phải theo. Ngài để cho con người suy nghĩ, vận dụng sáng kiến, mà cộng tác với Ngài.
3. Giuse và Maria có những nhiệm vụ khác nhau, nhưng đều nhằm phục vụ Hài Nhi Giêsu. Thật ra công việc phục vụ này không có gì đặc biệt, mà chỉ là công việc của một người cha và một người mẹ như bất cứ cha mẹ nào: săn sóc đứa con, bảo vệ che chở, làm cho nó lớn lên an toàn. Qua điểm này, chúng ta nhận ra sự hạ cố của Thiên Chúa: Người chấp nhận sự săn sóc của loài người, các thọ tạo của Người. Nhưng đấy cũng là một bài học cho chúng ta: cứ làm những việc bổn phận thuộc bậc sống, chúng ta lại có thể đang thực hiện những điểm trọng yếu trong lịch sử cứu độ.
4. Quyền bính của Giuse, chủ gia đình, là một quyền bính trung gian. Ngài nhận các mệnh lệnh từ Thiên Chúa và truyền đạt cho các thành viên trong gia đình. Như thế, quyền bính này là một việc phục vụ. Mục tiêu Giuse nhắm không phải là thỏa mãn chính mình, nhưng là phục vụ Con của mình bằng cách bảo vệ Con khỏi nguy hiểm. Đức Maria và Đức Giêsu vâng lời Giuse, vì nhận ra nơi lời ngài có Lời Thiên Chúa. Đây chính là sự hài hòa và bổ túc của các vai trò trong gia đình: mỗi người được mời gọi sống ơn gọi của mình trong tình yêu và sự kính trọng người khác.
5. Quyền lực được giao là để phục vụ hạnh phúc của nhân dân. Như thế, gương phải theo khi thi hành quyền lực là chính Thiên Chúa. Hêrôđê chỉ biết đến mục tiêu cá nhân, chứ không hề quan tâm đến những con người, dù là những con người yếu đuối, vô tội. Khi đó, mọi phương tiện đều tốt, kể cả sát hại hàng loạt những trẻ thơ vô tội. Dĩ nhiên không ai trong chúng ta lại không rùng mình khi nghĩ đến sự tàn ác của vua Hêrôđê, nhưng chúng ta có thể tự hỏi: Chúng ta có thật sự tôn trọng người khác, vì họ là con cái Thiên Chúa, và anh chị em của chúng ta chăng, hay là đôi khi chúng ta cũng nghĩ đến người khác chỉ như là phương thế để trục lợi, để giải quyết mọi khúc mắc của chúng ta, rồi sau đó mau mắn bỏ rơi và quên mất họ?
6. Đoạn văn nói đến diễn tả rõ ràng sự quan phòng của Thiên Chúa trên cuộc đời Đức Giêsu. Nhưng quan phòng không có nghĩa là làm cho cuộc đời của Đức Giêsu tiến đi trên thảm mịn, rải toàn hoa hồng. Đức Giêsu vẫn gặp đủ thứ thử thách. Nhưng Thiên Chúa quan phòng đưa lại một ý nghĩa cho các thử thách, tháp chúng vào trong một chương trình cứu độ (x. Rm 8,28).
Một trong những lo âu hàng đầu hiện nay của các bậc cha mẹ, đó là làm sao tìm được ngôi trường tốt: ThánhGia ABC 224
Một trong những lo âu hàng đầu hiện nay của các bậc cha mẹ, đó là làm sao tìm được ngôi trường tốt đẹp cho con cái học tập nên người, không những đầy đủ trí thức để sống trong xã hội, mà còn đủ đạo đức để không bị hư hỏng trong khi các tệ nạn xã hội đang tràn lan khắp nơi.
Hôm nay, Hội Thánh giới thiệu cho chúng ta một ngôi trường lý tưởng, một mô hình đào tạo thành công, đó chính là Thánh Gia Nagiarét. Nghe câu cuối cùng của bài Tin Mừng : “Còn hài nhi ngày càng lớn lên, càng thêm vững mạnh, khôn ngoan và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa…”, thì chắc chắn các bậc cha mẹ phải nức lòng mong ước cho con cái mình cũng được như thế.
Thánh Gia đã thành công trong việc đào tạo. Thánh Gia đã trở thành ngôi trường kiểu mẫu trong việc phát triển con người, không phải chỉ thân xác mà còn trí tuệ và nhất là đạo đức. Qua trình thuật Tin Mừng vừa nghe, có thể thấy những nét sống đạo trong gia đình Thánh Gia, hay cũng có thể gọi đó là chương trình đào tạo trong ngôi trường này.
1. Đào tạo lương tâm : Dâng con trong đền thờ là việc hoàn toàn tự nguyện (luật có buộc dâng một đôi chim làm của lễ thay cho đứa con). Đức Giêsu nếu xét là Thiên Chúa thì cũng không buộc phải tuân thủ lề luật của con người (của Môsê) đặt ra. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa thì cũng không phải giữ các luật đó. Thế nhưng các Ngài đã giữ với thái độ tự nguyện. Yêu mến lề luật, yêu mến đền thờ nên đã lui tới và tuân thủ lề luật. Việc dâng con không chỉ biểu lộ thái độ khiêm tốn mà còn biểu lộ một lương tâm trong sáng. Lương tâm đó khiến người ta giữ luật cả khi không bó buộc, cả khi không ai kiểm soát. Hoàn toàn giữ vì lương tâm, vì tự nguyện.
2. Đào tạo đức tin : Đời sống chúng ta đầy những thử thách, để vượt qua được những bóng tối thử thách đó cần có một đức tin rất vững mạnh. Thánh Gia chính là gương mẫu của đời sống gia đình sống đức tin mạnh mẽ. Dù không hiểu chương trình của Thiên Chúa nhưng Đức Maria vẫn cúi đầu xin vâng. Dù không hiểu những sự việc xảy ra, Đức Maria vẫn ghi nhận và suy niệm trong lòng. Thánh Giuse cũng thế, dù không hiểu hết chương trình của Thiên Chúa nhưng ngài vâng phục và mau mắn thi hành mọi điều Thiên Chúa truyền cho Ngài.
(Cũng như tổ phụ Abraham, cứ lên đường dù không biết đi đâu. Cứ việc sát tế con dù là đứa con duy nhất để nối dõi tông đường).
Những mẫu gương, những chương trình đào tạo người ta đi trong đức tin để vượt qua đêm tối thử thách.
3. Đào tạo đức ái. Đức ái hệ tại viêïc mở lòng ra trong thái độ dâng hiến. Đức Maria dâng Đức Giêsu trong đền thờ ; Abraham sát tế Isaac trên đồi … tất cả biểu lộ một thái độ dâng hiến, dâng con không khác gì dâng chính mình. Hiến dâng là mở tâm hồn mình ra tới vô biên, hiến dâng là đi đến kết hiệp với Thiên Chúa, là nhận thức con cái của mình là của Thiên Chúa, phải đi vào trong chương trình của Thiên Chúa, phải chu toàn nhiệm vụ của Thiên Chúa muốn nó làm. Hiến dâng con cũng là đi đến với nhân loại (nhờ sát tế Isaac mà Abraham mới trở thành cha của các dân tộc ; Việc dâng Đức Giêsu không kết thúc trong đền thờ mà kết thúc trên Núi Sọ, nhờ đó đem ơn cứu độ đến cho tất cả mọi người như ông Simêon đã loan báo trước).
Thưa anh chị em,
Một đời sống gia đình như thế, một chương trình đào tạo như thế thật cần thiết cho các gia đình Công Giáo của chúng ta ngày nay. Khi người ta đã bắt đầu coi trọng lương thực hơn lương tâm, khi người ta đang bị những đám mây nghi hoặc của xã hội hiện đại gieo rắc vào đầu thanh thiếu niên, khi chủ nghĩa cá nhân đang hướng tới những hưởng thụ ích kỷ, không còn nghĩ đến những đau khổ của tha nhân nữa… nếu mỗi gia đình chúng ta trở thành một Thánh Gia Nagierét, thì chắc chắn chúng ta sẽ đào tạo được những Đức Giêsu cho thế hệ hôm nay.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói “tương lai của nhân loại sẽ đi ngang qua các gia đình”. Thật vậy tương lai của chúng ta thuộc về giới trẻ, giới trẻ được đào tạo torng các gia đình, giới trẻ như hạt giống Chúa gieo vào trong vườn ươm gia đình, nếu gia đình chúng ta là mảnh đất tốt, được chuẩn bị kỹ lưỡng thì hạt giống đó nẩy nở, phát triển, chúng ta sẽ gặt được một mùa gặt “gấp trăm”.
Trong đại hội gia đình tại Manila vừa qua, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mong uớc các gia đình Kitô hữu hãy trở thành “Tin Mừng cho thiên niên kỷ này”. Thánh gia Nagiarét đã là Tin Mừng cho thế giới, đã gởi cho thế giới Tin Mừng nguyên thủy đích thực là Đức Giêsu Kitô. Nếu các gia đình Công giáo chúng ta biết học nơi trường Thánh Gia Nagiarét, chúng ta cũng sẽ trở thành Tin Mừng cho xã hội hôm nay, chúng ta có thể gửi tặng cho thế giới hôm nay những phiên bản của Tin Mừng, hình ảnh Đức Giêsu Kitô, là chính con cái của chúng ta.
Thưa anh chị em,
Tình gia đình, đời sống gia đình tốt đẹp tôi đã cảm nghiệm được trong Giáo Hội. Như Đức Cha Phêrô vừa nói, tôi về Lạng Sơn là một Giám Mục có vẻ cô đơn (chỉ có một linh mục và một soeur cao tuổi), nhưng tôi không cô đơn vì tôi ở trong gia đình Giáo Hội. Đặc biệt là Giáo Hội Việt Nam, tôi như một đại diện cho Giáo Hội tại đó, một vùng đất địa đầu. Thực sự trong HĐGM tôi là người em út được yêu thương. Với tình ưu ái, Đức Cha Phêrô như một người anh đã muốn tôi đến đây để được hưởng sự chăm sóc, tình cảm ưu ái của ngài, của các linh mục, của các tu sĩ nam nữ và của anh chị em nữa. Hôm nay khi đi thăm từ hạt Bảo Lộc, qua Dilinh và lên đến đây, tôi cũng cảm nghiệm được tình gia đình trong Giáo Phận Đalạt, cảm nghiệm thấy những nét của gia đình thánh gia trong Giáo Phận Đalạt. Việc đào tạo lương tâm tự nguyện chu toàn những lề luật của Thiên Chúa, những lời khuyên của Chúa dù không bắt buộc (chẳng hạn như Đức Cha Phêrô, mặc dù không bó buộc phải đi vào những ngôi làng xa xôi nhưng ngài vẫn tự nguyện đi thăm viếng hỏi han, quan tâm đến từng người… Nhiều linh mục tu sĩ cũng đã tự nguyện đi đến những nơi nghèo khổ, những làng mạc xa xôi…) và Giáo Phận chúng ta cũng đang trải qua cuộc đào tạo đức tin, biết bao nhiêu thử thách, biết bao nhiêu khó khăn trong những năm qua, thế nhưng anh chị em vẫn sẵn sàng, vẫn luôn dấn bước đi tới, đăïc biệt trong những điểm truyền giáo, gặp rất nhiều khó khăn, nhưng tất cả các linh mục tu sĩ, anh chị em giáo dân làm việc truyền giáo vẫn luôn trung thành với nhiệm vụ của mình bất chấp những thử thách.
Đặc biệt khi viếng thăm trại phong Dilinh, tôi cảm nghiệm thấy tình yêu thương nơi đó rất nhiều. Tôi cảm nghiệm thấy một sự dâng hiến ở đó. Những người bệnh tật dâng hiến đau khổ của mình cho Giáo Hội, cho Thiên Chúa, cho đồng loại. Những trái tim dâng hiến tình yêu thương cho những người bệnh. Tôi cảm nghiệm thấy từ Đức Cha cho đến quý cha, quý thầy, quý soeur đều dành tình yêu thương cho những nơi đau khổ như thế. Tôi thấy đó là trường đào tạo đức bác ái. Như thế chúng ta đang cố gắng phấn đấu để trở thành Tin Mừng cho xã hội hôm nay, qua tất cả những chương trình đào tạo mà chúng ta noi theo gương của Thánh Gia Thất. Trong năm nay, Giáo Hội Việt Nam chọn làm năm thánh hóa gia đình, chúng ta cầu nguyện cho nhau biết sống theo gương Thánh Gia nhiều hơn. Đặc biệt còn trong tháng Giêng, trong năm mới, tôi xin cầu chúc Giáo Phận Đalạt (qua môi trường thánh gia của mình), đào tạo được nhiều Đức Giêsu Kitô cho Giáo Phận cũng như cho Giáo Hội và ngày càng trở nên Tin Mừng cho nhiều người nghe thấy, cảm nhận thấy để nhận biết Thiên Chúa là tình yêu.
Lạy thánh gia Nagiarét, xin dạy chúng con sống theo Ba Đấng. Amen.
Thư Chung của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam ngày 10.10.2013, các Đức Giám Mục kêu gọi : ThánhGia ABC 225
Thư Chung của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam ngày 10.10.2013, các Đức Giám Mục kêu gọi Cộng đoàn Dân Chúa tại Việt Nam tích cực tham gia vào công cuộc Tân Phúc Âm Hóa trong kế hoạch ba năm 2014 – 2016. Đặc biệt, “trong năm 2014 sắp tới, chúng ta hãy cùng nhau Phúc Âm hóa đời sống gia đình và thúc đẩy gia đình tham gia tích cực vào sứ vụ Loan Báo Tin Mừng. Hội Thánh được gọi là gia đình của Thiên Chúa và mỗi gia đình Kitô hữu được gọi là Hội Thánh tại gia. Việc canh tân Hội Thánh phải được bắt đầu từ mỗi gia đình, do đó, Hội Thánh đặc biệt quan tâm đến các gia đình” ( số 5 ).
“Để thực hiện những mục tiêu trên, xin anh chị em hãy xây dựng gia đình mình thành một cộng đoàn cầu nguyện, sống tình yêu hợp nhất thủy chung, phục vụ sự sống và hăng say loan báo Tin Mừng” ( số 6 ). Như thế, các gia đình Kitô hữu, noi gương và bước theo Gia đình Thánh: Giêsu – Maria – Giuse luôn xin vâng theo chương trình cứu độ của Chúa Cha ( số 1 ), nguyện để cho gia đình mình được Phúc Âm hóa, được thánh hóa nhờ làm cho Đấng Thánh – Con Thiên Chúa hiện diện sâu đậm hơn trong gia đình ( số 2 – 7 ), nhờ đó gia đình tham gia vào sứ vụ Phúc Âm hóa của Hội Thánh trong Thánh Thần đổi mới ( số 8 – 12 ).
Từ mẫu gương Thánh Gia, mỗi Gia Đình Công Giáo xây dựng gia đình mình thành ngôi nhà thờ phượng Chúa, trường dạy Đức Tin, mái ấm tình thương và sống niềm vui Đức Tin.
1. Mẫu gương Thánh Gia
Phúc Âm Lễ Thánh Gia kể chuyện: gia đình Thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu đi hành hương về Giêrusalem. Hai ông bà là người sùng đạo, tuân giữ lề luật cách trung tín. Theo luật quy định, người Do Thái phải hành hương về Đền Thánh “mỗi năm ba lần mọi người nam phải trình diện trước Đấng Toàn Năng là Đức Chúa”. Họ đi bộ về Nhà Chúa phải mất một tuần lễ. Vừa đi vừa hát “Thánh Vịnh lên đền”: tôi vui sướng biết bao khi người ta nói với tôi rằng nào ta tiến về Nhà Chúa.
Chúa Giêsu lên 12 tuổi, cùng cha mẹ và đoàn hành hương tiến về Đền Thờ theo tập tục ngày lễ. Đối với người Do Thái, 12 tuổi là tuổi trưởng thành. Chúa Giêsu bộc lộ sự khôn ngoan trước các bậc thông thái. Sau khi dự Lễ Vượt Qua, Người ở lại Đền Thờ tranh luận với các tiến sĩ luật “mọi kẻ nghe Ngài đều sửng sốt về trí thông minh và các lời Ngài đối đáp”.
Sau đó cả gia đình trở về Nadarét. “Chúa Giêsu hằng vâng phục hai ông bà”. Con Thiên Chúa làm người và thuộc về một gia đình, một mái ấm có cha có mẹ. Con Thiên Chúa đã lớn lên trong bầu khí gia đình. Mái nhà là trường học đầu tiên. Cha mẹ là thầy cô căn bản. Đức Giêsu lớn dần về mọi mặt trong Thánh Gia đạo hạnh. 30 năm sống dưới mái nhà Nadarét, Đức Giêsu đã thành một người chín chắn và trưởng thành, sẵn sàng lãnh nhận sứ vụ Chúa Cha trao phó.
Đức Giêsu đã học nơi Thánh Giuse tinh thần lao động miệt mài, tâm tình tín thác và luôn thi hành thánh ý Thiên Chúa, lòng nhiệt thành chu toàn trách nhiệm đối với gia đình. Đức Giêsu học nơi Đức Mẹ nét đẹp hiền lành đơn sơ tế nhị, tận tụy phục vụ, tin tưởng phó thác, cầu nguyện thâm trầm.Nếp sống đạo đức của cha mẹ đã ảnh hưởng sâu xa đến cuộc đời Đức Giêsu. Người thừa hưởng nơi cha mẹ lòng yêu mến lề luật, gắn bó với Đền Thờ, thói quen siêng năng nghe và đọc Lời Chúa. Người học nơi cha mẹ tâm tình vâng phục thánh ý Chúa, thái độ hiền lành khiêm nhường, tinh thần phục vụ quên mình, chuyên chăm làm việc, ân cần âu yếm đối với con cái. Gia sản quý báu từ Thánh Gia bàng bạc trong những lời Người giảng dạy, trong đời sống của Người.
2. Gia đình “ngôi nhà thờ phượng Chúa”
Công Đồng Vaticanô II đã ví “gia đình như một Hội Thánh nhỏ” ( Hiến chế Ánh Sáng Muôn Dân số 11 ). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã định nghĩa: “gia đình là Hội Thánh tại gia” ( Tông Huấn Đời Sống Gia Đình số 11 ).
Gia đình là Hội Thánh tại gia, bởi lẽ:
- Chúa Giêsu đã sinh ra và lớn lên trong gia đình Nadarét, có Thánh Giuse và Đức Mẹ. Thánh Gia là mẫu mực cho mọi gia đình.
- Gia đình Công Giáo là trường học Đức Tin đầu tiên,là môi trường sống các Bí Tích và thực hành các Nhân Đức Kitô giáo. “Gia đình Công Giáo trở thành nơi gặp gỡ đặc biệt, có sức thánh hoá với tình yêu của Đức Kitô” ( Tông Huấn Kitô Hữu Giáo Dân số 15 ).
- Cha mẹ là những nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu của con cái.
- Gia đình là cộng đoàn thờ phượng Thiên Chúa. Qua đời sống cầu nguyện, lãnh nhận các Bí Tích, gia đình toả sáng sự bình an, trổ sinh nhiều hoa trái thánh thiện.
Để trở thành Hội Thánh tại gia, mỗi thành viên phải ý thức về căn tính cao cả và chức năng quan trọng của mình. Mỗi ngày, thể hiện rõ nét hơn những tính chất căn bản của Hội Thánh tại gia như hiệp thông, liên đới, yêu thương, thuận hoà, tôn ti trật tự, kinh nguyện sáng tối, sống phục vụ, làm chứng nhân Tin Mừng.
3. Gia đình “trường dạy Đức Tin”
Gia đình là nơi trẻ em và thanh thiếu niên hấp thụ nền giáo lý chân chính từ cha mẹ. Công đồng Vaticanô II mong muốn các bậc cha mẹ là những người đầu tiên ”dùng gương lành và lời nói, truyền dạy Đức Tin cho con cái” ( Hiến chế tín lý về Giáo Hội số 11 ). Gia đình chu toàn được sứ mệnh cao cả này nhờ yêu thương, cùng nhau học hỏi và cầu nguyện để hạt giống Đức Tin được triển nở ( Sắc lệnh tông đồ Giáo Dân số 11 ).
Cha mẹ chăm lo giáo dục nhân bản và giáo dục tâm linh cho con cái.
Với con cái, cha mẹ là những sứ giả đầu tiên của Chúa ( GLCG # 2225 ). Hạt giống Đức Tin nơi trẻ em được gieo và chăm sóc trong môi trường gia đình sẽ phát triển thành cây Đức Tin. Gia đình là vườn ươm, là thửa đất tốt. Dạy giáo lý như cung cấp chất dinh dưỡng. Tuỳ theo mức độ hấp thụ, tuỳ theo thời điểm, cây Đức Tin nơi đứa trẻ sẽ phát triển và đơm bông kết trái. Dạy giáo lý tại gia đình, cha mẹ góp phần với Hội Thánh trong sứ vụ đào tạo Đức Tin cho con cái.
Dạy con từ thuở còn thơ: Phải giáo dục Đức Tin cho con cái từ những năm đầu của tuổi thơ nhi. Dạy dạy giáo lý trong gia đình luôn đi trước, đi kèm và phong phú hoá các hình thức giáo lý khác. Cha mẹ có sứ mạng dạy cho con cái biết cầu nguyện và khám phá ra ơn gọi làm con Thiên Chúa ( GLCG # 2226 ). Những kinh đọc vắn tắt mà trẻ nhỏ bập bẹ sẽ là khởi điểm cho một cuộc đối thoại đầy tình yêu mến với Thiên Chúa mà sau này nó sẽ bắt đầu nghe lời ( Tông Huấn dạy giáo lý, số 36 ).
Dạy con cầu nguyện: Những giờ đọc kinh cầu nguyện là những giờ giáo lý sống động nhất vì bản chất và mục đích của việc dạy giáo lý là truyền đạt sức sống Tin Mừng và đưa đến đối thoại, gặp gỡ chính Đức Kitô; và như vậy đọc kinh cầu nguyện là thể hiện chiều kích hàng dọc này ( GLCG # 2685 ).
Dạy con làm quen với Lời Chúa: Cha mẹ kể chuyện Thánh Kinh, chuyện về Đức Giêsu, chuyện các Thánh, chuyện người tốt việc tốt để chúng làm quen với Lời Chúa. Có thể tận dụng nhiều cơ hội để kể chuyện Phúc Âm, giảng giải Lời Chúa một cách đơn sơ,ấm cúng và đầy ý vị.
Dạy con học giáo lý: Thiếu nhi học giáo lý ở các lớp học, chúng cũng cần được bồi dưỡng, nhắc nhở để những điều đã học được thông hiểu và ghi vào ký ức. Những dịp con cái được nhận lãnh Bí Tích ( Xưng Tội, Rước Lễ, Thêm Sức ), cha mẹ cần lưu tâm đến giáo lý nhiều hơn và tích cực giúp chúng nhận lãnh Bí Tích cách sốt sắng. Giáo lý tại gia không những nhắm đến con cái mà chính các bậc cha mẹ cũng phải học hỏi trau dồi giáo lý. Cha mẹ là người hướng dẫn chăm sóc cho con cái biết Chúa Kitô nhưng đồng thời cùng với con cái, cha mẹ cũng là những người cần được học hỏi để yêu mến Chúa Kitô hơn.
4. Gia đình “mái ấm tình thương”
Gia đình là cộng đoàn hiệp thông và liên đới chặt chẽ giữa các thành viên với nhau, bình đẳng về phẩm giá, về ơn gọi trước mặt Chúa và trước mặt nhau. Nhờ đó gia đình trở nên mái ấm với cuộc sống an hoà, yêu thương đầm ấm, chia sẽ, giúp đỡ, hy sinh quên mình vì hạnh phúc của nhau.
Gia đình là cộng đoàn phục vụ yêu thương. Luật yêu thương thúc đẩy gia đình Công Giáo gắn bó chặt chẽ với Hội Thánh là dân Tư Tế, Ngôn Sứ và Vương Đế, để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân, cùng cộng tác với Hội Thánh trong sứ mạng truyền bá Đức Tin. Noi gương Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường, hiến thân phục vụ mọi người.
Từ "GIA ĐÌNH" bao gồm người cha, người mẹ và con cái. Trong Anh ngữ, gia đình là "FAMILY", từ này có một ý nghĩa rất sâu đậm, được diễn đạt như sau: Family = Father And Mother, I Love You ! Nghĩa là: “Cha Và Mẹ Ơi, Con Yêu Thương Cha Mẹ.”
Hãy gìn giữ mái ấm gia đình. Hãy đặt ưu tiên cho niềm vui hạnh phúc gia đình.
Ngày nay, trong xã hội tiêu thụ, vì bận rộn với công việc kiếm tiền, một số cha mẹ không gần gũi, không dành thời giờ cho con cái. Vì thế, chúng cảm thấy bị bỏ rơi, thiếu tình thương. Theo mức độ, con cái sẽ lâm bệnh chán nãn, buồn phiền, không thích học nữa, lỳ lợm, xấc láo, ích kỷ, vô cảm, đua đòi thiếu suy nghĩ. Một số phụ huynh chỉ mong con mình học giỏi, thành đạt, kiếm được nhiều tiền. Họ ít quan tâm đến đời sống đạo đức của con, không lo giáo dục Đức Tin cho con. Có cha mẹ quan niệm, lo cho con được Xưng Tội, Rước Lễ, Thêm Sức là đủ rồi; vì thế có em sau khi Thêm Sức là bỏ Nhà Thờ. Sự đa dạng của vi tính và Internet quá hấp dẫn lôi kéo con cái chúng ta ra khỏi thực tế rồi đi vào thế giới ảo. Lối sống hiện đại cũng dễ đánh mất bầu khí mái ấm. Mỗi người có một phòng riêng, một thế giới riêng nên mọi người ít quan tâm đến nhau, ít giúp đỡ nhau. Hãy nhớ gia đình là thiêng liêng cao quý, còn công việc chỉ là vật chất tầm thường. Mọi thành viên có thể hy sinh công ăn việc làm cho mái ấm gia đình.
Tình yêu từ mái ấm sẽ làm trổ sinh hoa trái cho đời sống gia đình.
Lòng bác ái: Trên mọi đức tính hãy có lòng bác ái, đó là mối giây liên kết tuyệt hảo ( Cl 3, 14 ). Bác ái là tình yêu rộng lớn; là tình yêu mạnh hơn tội lỗi, sự dữ, khổ đau và cái chết. Tình yêu mãnh liệt như thế mới liên kết mọi sự và mọi người lại với nhau. Chính Thiên Chúa đã gieo vào lòng chúng ta lòng bác ái đó. Là tình yêu được tiếp sức bởi tình yêu của Thiên Chúa, lòng bác ái giúp mọi người gắn bó với nhau làm nên mái ấm gia đình. Lòng bác ái làm cho mọi người chấp nhận nhau, chịu đựng lẫn nhau, tha thứ hy sinh cho nhau, chia sẻ cho nhau, ban tặng cho nhau bản thân mình ( Cl 3, 12 – 13 ).
Niềm vui: Hạnh phúc là niềm vui của mỗi người và mọi người trong gia đình chung sống với nhau. Niềm vui của chồng vợ, con cái cháu chắt. Niềm vui đời thường, niềm vui nhỏ làm thành hạnh phúc.Niềm vui từ tình yêu làm cho gia đình thành mái ấm.
Bình an trong gia đình: Tâm hồn bình an là tâm hồn đạo đức. Chúng ta được bình an khi hòa giải với Chúa, tin và yêu Chúa. Chúng ta được bình an khi hòa giải với chính mình, khi hòa giải với những người sống chung quanh. Chúng ta được bình an khi tâm hồn không chất chưa tham vọng, không chất chứa oán hờn ganh ghét. Chúng ta được bình an khi tâm hồn không bị xáo trộn bởi đam mê bất chính. Chúng ta được bình an khi là con người tự do đích thực và tôn trọng người khác. Đó là bình an Chúa Kitô ban tặng cho chúng ta.
5. Gia đình sống niềm vui Đức Tin
Chiều thứ bảy ngày 26.10.2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp gỡ hàng trăm ngàn tín hữu tham gia cuộc hành hương của các gia đình tại Roma. Cuộc gặp gỡ do Hội đồng Tòa Thánh về Giáo Dân tổ chức với chủ đề “Hỡi gia đình, hãy sống niềm vui Đức Tin”.
Đức Thánh Cha mời gọi: Hỡi các gia đình thân mến. Chúa Giêsu nói: “Hãy đến cùng Thầy, hỡi tất cả những ai vất vả và bị đè nén” ! Chúa biết những cơ cực của anh chị em, những gánh nặng trong cuộc sống chúng ta. Nhưng Ngài cũng biết ước muốn sâu xa của chúng ta mong tìm được niềm vui được bồi dưỡng ! Anh chị em có nhớ chăng ? Chúa Giêsu đã nói: ”Ước gì niềm vui của các con hôm nay được tràn đầy” ( Ga 15, 11 ). Ngài đã nói điều đó với các tông đồ và hôm nay, Ngài lập lại điều đó với chúng ta. Vì vậy đây là điều đầu tiên mà tôi muốn chia sẻ với anh chị em, và đó là một câu của Chúa Giêsu: ”Hãy đến cùng Thầy, hỡi các gia đình trên toàn thế giới, và Thầy sẽ bồi dưỡng cho các con, để niềm vui của các con được tràn đầy”.
Với các gia đình trẻ, Đức Thánh Cha khuyên: các đôi vợ chồng trẻ, đừng bao giờ để một ngày kết thúc mà chưa làm lành với nhau. Chính nhờ biết làm hoà với nhau sau mỗi lần cãi vã, hiểu lầm, ghen ngầm, và kể cả phạm tội nữa, mà làm mới lại bí tích hôn nhân. Biết làm hoà với nhau sẽ mang lại sự hiệp nhất trong gia đình. Phải nói điều đó cho các bạn trẻ, các đôi vợ chồng trẻ, dù biết không dễ thực hiện nhưng đó là một con đường đẹp, rất đẹp. Cần phải nói cho các bạn trẻ con đường tốt đẹp đó!
Đức Thánh Cha đặc biệt quan tâm đến trẻ thơ và người già. Ngài nói: Tôi vui mừng được biết Hội Đồng Toà Thánh về Gia Đình đã chọn bức icôn Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thờ làm biểu tượng mới về gia đình. Bức tranh thể hiện Đức Mẹ và Thánh Giuse bế Hài Nhi lên Đền Thờ để chu toàn bổn phận như Luật dạy, ngoài ra còn có hai cụ già Simêon và Anna, được Thánh Thần thúc đẩy, đã nhận Hài nhi làm Đấng Cứu Thế. Tên của bức icôn mang ý nghĩa: “Lòng thương xót của Chúa từ đời nọ đến đời kia”. Một Giáo Hội biết chăm sóc trẻ thơ và người già thì trở thành người Mẹ của mọi thế hệ tín hữu, đồng thời phục vụ xã hội nhân loại để tinh thần thương yêu, tinh thần của gia đình và sự liên đới giúp mọi người biết tái khám phá tình phụ tử và mẫu tử của Thiên Chúa.
Bí quyết giúp các gia đình sống niềm vui Đức Tin là có Chúa Giêsu hiện diện trong gia đình. Phúc Âm hóa được thể hiện nơi gia đình qua đời sống làm chứng dấn thân cụ thể. Người ta nhận ra các gia đình Kitô hữu đích thực qua sự trung tín, nhẫn nại, biết quảng đại đón nhận sự sống, kính trọng người già. Phúc Âm hóa giúp gia đình trở thành môi trường, là cái nôi cho con cái trưởng thành trong Đức Tin và lòng mến. Khi đã thấm nhuần tinh thần Tin Mừng, gia đình tham gia sứ mạng Phúc Âm hóa bằng cách kết nghĩa, làm bạn với anh chị em lương dân, yêu thương giúp đỡ họ và nói cho họ về Thiên Chúa yêu thương.
Nguyện xin cho các Gia Đình Công Giáo biết noi theo gương sáng của Thánh Gia Thất, chiếu tỏa ánh sáng Đức Tin, tích cực góp phần thi hành sứ mệnh truyền giáo, đem lại hoa quả dồi dào trên quê hương Việt Nam thân yêu.
Ôn một kỷ niệm: Mừng Chúa Giáng Sinh năm 2000, Giáo Xứ tôi chọn chủ đề “THIÊN CHÚA: ThánhGia ABC 226
Ôn một kỷ niệm: Mừng Chúa Giáng Sinh năm 2000, Giáo Xứ tôi chọn chủ đề “THIÊN CHÚA GIÁNG SINH TRONG MỘT GIA ĐÌNH” làm ý lực chính cho mọi sinh hoạt chuẩn bị trong Giáo Xứ, trong các Giáo Họ và các gia đình như: Đêm Canh Thức, các hang đá ở Nhà Thờ Xứ, Nhà Thờ Họ, và các gia đình.
Chiều 21 tháng 12, năm ấy, các Giáo Họ, Chi Họ, các đoàn thể đã hoàn thành các hang đá chung quanh Nhà Thờ. Xảy ra là, một chi họ có sáng kiến mới, làm hang đá rất tân thời: chỉ một ngôi sao lạ chiếu sáng giải lụa từ trên cao xuống với hàng chữ “HÔM NAY CHA ĐÃ SINH RA CON” và cuối giải lụa ấy là một HÀI NHI đang nằm trên đụn rơm nho nhỏ, đôi mắt tuyệt đẹp, nụ cười hiền lành, giơ đôi tay rộng ra như đón lấy mọi người.
Cha sở bảo: “Rất đẹp, rất ý nghĩa, rất đúng thần học, nhưng chưa đúng với chủ đề chung của Giáo Xứ”. Mấy người thiết kế mẫu hang đá này hơi buồn lòng, nhưng rồi ông phó chủ tịch giải thích: “Các anh biết đó, mấy tuần nay cha sở đã triển khai đề tài “THIÊN CHÚA GIÁNG SINH TRONG MỘT GIA ĐÌNH” và qua các bài giảng, ngài đã làm nổi bật ý nghĩa Thiên Chúa làm người qua “cung lòng Mẹ Maria”, dưới sự “bảo bọc chân thành của Thánh Giuse”. Thiên Chúa xuống trần gian trong “một gia đình rất trần gian”. Hang đá của mấy anh không có Thánh Giuse, Đức Mẹ, chẳng có chuồng bò, mái che, hàng rào, con bò, con bê, lu nước, mục đồng… nên cha sở ngài không vui lắm”.
Đêm 24, trong Thánh Lễ, cha sở rất vui mừng nhìn thấy hang đá tân thời kia có thêm Đức Mẹ, Thánh Giuse và những con bò con bê… xinh đẹp. Ngài đã giảng một bài đầy xúc động về “Thiên Chúa đã Giáng Sinh làm người” vì “yêu con người” nhưng “nhờ cộng tác của con người”.
Giáng Sinh năm 2011, nhân vì kỷ niệm 30 năm Tông Huấn “Familiaris Consortio” “Về những bổn phận của Gia Đình Kitô Hữu” chúng ta đã họp, hội, học về Tông Huấn này. Năm nay, 2013, năm “Phúc Âm hóa gia đình”, gợi lên trong tôi một hoài niệm đẹp về cha cựu quản xứ và về chuyện năm 2000, đồng thời cũng khởi hứng cho tôi chút suy tư bé nhỏ:
Thiết tưởng, với quyền năng của Thiên Chúa, Ngài có thể xuống thế làm người cách long trọng, hùng vĩ, để thiên hạ nhận biết và thờ kính Ngài. Tại sao Ngài phải chọn cách xuống thế như một trẻ sơ sinh qua cung lòng một người nữ và trong một gia đình bần hàn. Hẳn là Ngài đã khiêm tốn thực hiện đúng như lời các tiên tri loan báo từ xa xưa trước, và muốn mặc cho đời sống gia đình một ý nghĩa cao quý.
Vâng, Ngài đã làm người trong một gia đình. Một Maria tin tưởng và khiêm tốn “xin vâng” để Thiên Chúa được nhập thể. Một Giuse chấp nhận từ bỏ ý riêng để chấp nhận ý trời thật thanh cao thánh khiết. Một Con Thiên Chúa làm con người từ phôi đến thai đủ chín tháng mười ngày trong bụng mẹ, để mẹ mang nặng, đẻ đau, cho con bú, mớm con ăn, ru con ngủ, thuốc chữa bệnh cho con, thao thức với con những đêm trời trở gió…
Và vì gia đình của Chúa không khác gì những gia đình trần gian, nên đã có những mục đồng như những người hàng xóm đơn sơ, thân thương, có lòng yêu trẻ con, có niềm vui đích thực khi nghe một con trẻ khóc tiếng chào đời… Các bà, các mẹ trong Giáo Xứ hẳn đã có những kinh nghiệm đau đớn và vui mừng lúc sinh con, thì ắt hẳn hiểu được tâm tình của người Mẹ mang tên Maria trong phút bi tráng ấy. Các ông, những người làm cha hẳn đã âu lo và sung sướng thế nào khi nghe tiếng oa oa con trẻ, thì ắt hẳn cũng hiểu tâm trạng của một người cha, người chồng mang tên Giuse kia. Những người làm cha mẹ hẳn đã trải nghiệm niềm vui khi được bà con lối xóm sẻ chia chúc mừng khi chúng ta có một người con ra đời.
Có thể nói, nhìn vào toàn cảnh Giáng Sinh của Con Thiên Chúa, mỗi tín hữu, không kể ở bậc độc thân hay hôn nhân gia đình đều phải hân hoan vui mừng và hãnh diện vì “Thiên Chúa ở giữa chúng ta”, “Thiên Chúa ở giữa Dân Người”, và “Thiên Chúa ở trong gia đình” như một thành viên trung tâm của khổ đau và hạnh phúc, trung tâm của “Giáo Hội tại gia”, trung tâm của “trường giáo dục Đức Tin”, trung tâm của “sứ mạng loan báo Tin Mừng”. Và nếu đã chọn Chúa Giáng Sinh là trung tâm, thì ắt hẳn giá trị của mỗi nhân vị được trân quí đúng mức như các thành viên gia đình của Chúa đã thể hiện: một Giuse bảo toàn ơn gọi đồng trinh của Đức Maria, một Maria trung thành dâng hiến cho Thiên Chúa và luôn quí trọng người bạn đời Chúa gửi đến, một Giêsu với niềm hiếu kính mến yêu.
Người sống bậc độc thân cũng bắt đầu từ gia đình và cảm nếm được ý nghĩa thiêng liêng mà Cha Mẹ đã cộng tác với Thiên Chúa qua việc nhận lấy con cái như quà tặng giáng sinh. Người sống bậc gia đình đang đi vào ơn gọi cao cả mà Thiên Chúa Giáng Sinh đã chọn và mặc lấy cho gia đình một ý nghĩa siêu phàm, thiêng thánh, để nơi gia đình, phải là một hang đá, một máng cỏ sống động cho Thiên Chúa Giáng Sinh. Đêm Giáng Sinh, phải là đêm bình an nhất, đêm hạnh phúc nhất, cho mỗi người, cho mỗi gia đình, vì chính Con Thiên Chúa đã đến làm người trong một gia đình. Ngài thấu hiểu tất cả và Ngài đã biến nỗi đau tột cùng của các gia đình thành hạnh phúc tuyệt vời nhất khi ngộ ra: THIÊN CHÚA ĐANG GIÁNG SINH TRONG GIA ĐÌNH CHÚNG TA.
Nguyện xin cho chúng con đích thực là Giuse, là Maria, là Giêsu trong hang đá đơn sơ nghèo hèn của chúng con, trong nhà của chúng con với tình thương mến, lòng tôn trọng các nhân vị, với ý thức sứ mạng làm ánh sao Giáng Sinh và nhất là với niềm tin yêu phó thác.
Gia đình là tổ ấm yêu thương, nơi ấy đong đầy tình thương của người cha, sự hy sinh của người: ThánhGia ABC 227
Gia đình là tổ ấm yêu thương, nơi ấy đong đầy tình thương của người cha, sự hy sinh của người mẹ và hạnh phúc của kẻ làm con. Thật vậy, cho dù có thủ đắc tất cả của cải thế gian mà thiếu vắng mái ấm gia đình cũng chỉ là kẻ bất hạnh tồi tệ.
Ai đã từng làm người, đã một lần được sinh ra và lớn lên trong gia đình, có lẽ sẽ cảm nghiệm sâu sắc hơn về điều đó. Gia đình đúng nghĩa phải luôn là một mái ấm yêu thương hạnh phúc, nơi ấy có những trái tim, những con người biết sống cho nhau và vì nhau. Nếu không có một gia đình đẹp, thì chẳng thể nào có được xã hội tốt. Một gia đình đẹp phải là gia đình thuộc về Thiên Chúa, nơi là đền thờ của Ba Ngôi ngự trị.
Ai cũng hiểu tầm quan trọng của gia đình, thế nhưng để giữ được tổ ấm gia đình theo đúng nghĩa là cả một vấn đề. Ngày nay, cũng từ trong mái ấm, thay vì trổ sinh ra những thành viên tài đức, thì xuất hiện không biết bao nhiêu là tội ác. Hạnh phúc ở trong chính gia đình mà bất hạnh cũng từ nơi ấy mà ra.
Chỉ cần thiếu ngọn lửa yêu thương thắp lên từ chính gia đình, tức khắc mái ấm đã trở thành mái lạnh. Khi mọi thành viên trong gia đình không còn biết quan tâm, chăm sóc, lo lắng và hy sinh cho nhau, thì sự dữ và tội ác lộng hành.
Nói gia đình là mái ấm yêu thương nhưng hiện nay dường như đã biến thành ngục tù. Tiếng chuông cảnh bảo người trong cùng một nhà đã không còn biết tôn trọng lẫn nhau ngày càng lớn. Bạo hành gia đình ngày càng nhiều, những giá trị luân lý đạo đức ngày càng bị đảo ngược, chỉ vì thiếu vắng nền tảng nhân đức yêu thương. Người chồng không biết hy sinh lo lắng cho gia đình, người vợ quên đi bổn phận làm người thắp lửa cho tổ ấm, con cái quên đi vai trò hiếu thảo, kính tôn… cũng là lúc sự dữ hoành hành, bá chủ.
Thánh Gia Nadarét chính là mẫu mực gia đình hạnh phúc cho toàn thể nhân loại. Thánh Cả Giuse luôn giữ vai trò là người bảo vệ, che chở cho Đức Mẹ và Hài Nhi Giêsu. Mặc cho nguy hiểm, nghèo nàn hay bắt bớ, Cha Thánh vẫn luôn sống mẫu mực của sự hy sinh và vâng phục: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Ai Cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp giết Hài Nhi đấy. Ông Giuse liền trỗi dậy và đang đêm đưa Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Ai Cập” ( Mt 2, 13 – 14 )
Có tổ ấm nào mà không gặp thử thách gian nan ? Cái gian nan thử thách của cuộc sống đã trở thành định luật tất yếu cho tất cả những ai sống ơn gọi làm người. Thế nhưng gian nan thử thách không quan trọng, điều cần thiết vẫn là sức mạnh của con người vượt lên chính mình trước những gian truân thử thách ấy.
Hai yếu tố quan trọng cấu nên mái ấm gia đình chính là tình yêu và sức mạnh. Thiếu một trong hai, tức khắc tổ ấm thiên đường trở thành địa ngục trần gian. Con người thời đại nào cũng khao khát mái ấm hạnh phúc, nhưng chính họ lại tự đào mồ chôn sống mình bằng những hố sâu ngăn cách bởi sự ích kỉ và hèn nhát. Ai cũng muốn làm vua, ai cũng muốn được cung phụng, ai cũng đặt mình vào vị trí quan trọng, để rồi loại bỏ người thân yêu bên cạnh xuống hàng thứ yếu. Nhu cầu cá nhân lớn quá, nhu cầu hưởng thụ quá cao, do vậy bất hạnh, bạo hành gia đình xảy ra đến chóng mặt, chồng giết vợ, con giết cha, bố mẹ loại trừ con cái…
Hỡi ơi, tổ ấm thiên đường không còn nữa !
Lạy Chúa, có gia đình nào nghèo khó hơn gia đình Nadarét, có hoàn cảnh nào gian truân cay đắng hơn tổ ấm Thánh Gia ? Vậy mà các Ngài đã kiên cường vượt qua tất cả, chỉ vì ngọn lửa tình yêu và lòng mến trong mái ấm không bao giờ lu mờ, lịm tắt. Bất hạnh, bạo động xảy ra trong gia đình mà chúng con đang đối diện tất cả là đều bởi vì sự ích kỉ và tham vọng.
Xin giúp con, sống ở giữa gia đình, mãi mãi là ngọn nến hồng của tình yêu, sự hy sinh trong tần tảo và lao nhọc. Xin tình yêu, niềm tin và sức mạnh của gia đình thánh gia luôn mãi ngự trị trong mọi tổ ấm gia đình. Cho dù có phải trải qua bao nhiêu chông gai, thử thách, cũng không thể cướp mất niềm tin kiên định của chúng con.
Bài giảng lễ Thánh Gia Thất tại cộng đoàn Công giáo Việt Nam Toulouse
Ai cũng biết rằng hạnh phúc của các bậc cha mẹ, nhất là cha mẹ Công giáo, là được thấy con cái: ThánhGia ABC 228
Kính thưa Cộng đoàn phụng vụ, ai cũng biết rằng hạnh phúc của các bậc cha mẹ, nhất là cha mẹ Công giáo, là được thấy con cái nên người và nên thánh. Điều ngược lại sẽ làm cho cha mẹ phải đau khổ, phiền muộn và tủi nhục đắng cay. "Con dại cái mang" là thế.
1 - Vợ chồng công giáo khi đưa nhau đến nhà thờ cử hành bí tích hôn phối thì vị linh mục chứng hôn hỏi thế này : "Các con (anh chị) có sẵn sàng yêu thương đón nhận con cái mà Chúa sẽ ban, và giáo dục chúng theo luật Chúa Kitô và Hội Thánh không?" Và đôi tân hôn trả lời : Thưa có!
Qua mẩu đối thoại ngắn này ta hiểu được rằng giáo dục con cái không chỉ là một bổn phận quan trọng, lớn lao của các bậc cha mẹ, nhưng hơn thế họ chính là những người cộng tác với Thiên Chúa trong việc trồng người. Không chỉ gieo trồng, vun xới, cải tạo để tạo nên những con người mới hữu ích cho đời, mà còn tạo nên những vị thánh. Chính vì là những người cộng tác với Thiên Chúa, nên phải cậy dựa vào Thiên Chúa để thi hành sứ vụ. Trong Tin Mừng ta thấy, chính Chúa Giê-su, trước mỗi sự việc quan trọng như chọn lựa các tông đồ, môn đệ hay dạy dỗ đám đông, đều luôn cầu nguyện trước khi thi hành. Chúa Giê-su luôn cầu nguyện để hiểu và thi hành ý Chúa Cha.
2 - Thường các bậc cha mẹ Công giáo rất hay quên mất điều căn bản trong việc giáo dục con cái là cầu nguyện cho mình sống xứng đáng là cha mẹ, biết cách dạy dỗ con cái mà chỉ cầu nguyện cho con cái biết nghe lời cha mẹ. Cầu nguyện giúp cho các bậc làm cha mẹ ý thức được mình là những người cộng tác của Thiên Chúa trong việc sinh sản, nuôi dưỡng, giáo dục con cái. Cầu nguyện giúp cho đời sống vợ chồng nên người và nên thánh trong đời sống hôn nhân cũng như việc sinh sản, dưỡng dục con cái. Không ai cho người khác cái mà mình không có. Nếu cha mẹ không khôn ngoan, không đạo đức, không thánh thiện thì làm sao giáo dục con cái cho nên người và nên thánh. Chúa Giê-su nói : “Không có Thầy, các con không thể làm được gì” (Ga 15, 5). Cần biết đến với Chúa để xin Ngài soi sáng, hướng dẫn phương thức giáo dục con cái. Ta làm cùng Chúa, Chúa làm cùng ta thì chúng ta sẽ có những người con là con và là thánh.
Ý thức được điều này, các bậc cha mẹ sẽ biết thi hành quyền và bổn phận căn bản của việc làm cha mẹ trong việc giáo dục con cái theo gương Chúa Giê-su : “Hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11,29). Chính Ngài sẽ ban Chúa Thánh Thần cho ta để ta học được sự hiền lành và khiêm nhường cần có. Ngài sẽ cho ta có một trái tim yêu thương, nhân hậu, kiên nhẫn, dịu dàng, biết hy sinh phục vụ con cái thế nào cho chính đáng. Chính Chúa sẽ cho ta biết sống vai trò cha mẹ theo gương Thánh Giu-se và Mẹ Maria, và theo gương Chúa là Cha.
3 - Vai trò giáo dục của cha mẹ không ai có thể thay thế được. Không thể theo trào lưu xã hội để khoán trắng việc giáo dục văn hóa cho nhà trường vì bận lo kiếm sống. Không thể theo trào lưu xã hội rồi khoán trắng việc giáo dục đức tin cho Giáo Hội vì bận kiếm ăn.
Gia đình không chỉ là cái nôi của sự sống, nhưng còn là cái nôi của văn hóa, của đức tin. Là trung tâm truyền thông phải thông truyền cho con cái tất cả những giá trị ấy.
Cha ông chúng ta cũng thường nói: "Uốn cây từ thưở còn non, dạy con từ thưở con còn đương thơ."
Sự tiến bộ của khoa học ngày nay cho thấy người mẹ ảnh hưởng đến tâm tính và sức khoẻ của đứa con ngay từ lúc phôi thai. “Còn đương thơ” ở đây phải được hiểu là từ khi đứa trẻ bắt đầu hình thành trong bụng mẹ. Nhiều khi vô tình hay do kém hiểu biết, các bậc cha mẹ đã dạy con những điều không hay, không tốt từ trong giai đoạn này mà không hề hay biết.[1]
Phải biết dạy từ trong lòng mẹ, nghĩa là tạo cho con mình có một nơi yên hàn để phát triển, lớn lên trong bình an, yêu thương. Tuy nhiên, thời gian thuận tiện cần bắt đầu trực tiếp giáo dục con cái là khi chúng có trí khôn, nghĩa là bắt đầu nhận biết về những điều cha mẹ dạy bảo. Bê a ba, mái trường đầu tiên này với thầy là cha, cô là mẹ sẽ là nơi đầu tiên dạy cho con trẻ những bài học làm người và làm con Chúa. Cha mẹ là thầy cô không thể thay thế cho sự cân bằng và phát triển của trẻ. Chỉ có người thầy cô này mới làm cho trẻ hiểu được thế nào là tình phụ mẫu tử cách trọn vẹn.
Muốn được như vậy, thì cha mẹ phải đồng tâm nhất trí với nhau trong việc nuôi dạy con cái. Phải biết học để trở thành cha mẹ mỗi ngày một hơn. Vợ chồng không tâm đầu ý hợp thì việc nuôi dạy con cái cũng kể là không không vậy. Ngoài việc đồng tâm nhất trí với nhau, cha mẹ còn phải biết cộng tác với những nhà giáo dục khác, đặc biệt là các thầy cô, Linh mục hay giáo lý viên.
4 - Chúng ta đang sống trong một xã hội mà biết bao đứa trẻ ngày nay trở thành những ông vua con, ở nhà thì cha mẹ phải vâng lời con, đến trường thì thầy cô phải nghe lời trò chỉ vì cha mẹ yêu thương con một cách thái quá, bảo vệ con một cách có thể nói là mù quáng. "Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà." là vậy. Cha mẹ có thể làm hư con cái chính trong việc giáo dục và bảo vệ chúng.
Ngoài việc đồng tâm nhất trí với nhau, cha mẹ còn phải biết làm gương sáng. Con trẻ như những tờ giấy trắng cha mẹ là cây bút có thể ghi lên đó những nét chữ đẹp bài văn hay, nhưng cũng có thể vẽ lên đó những đường cong bất định không lối thoát. "Lời nói như gió lung lay, gương bày như tay lôi kéo." Gương sáng của cha mẹ là điều tối cần trong việc giáo dục con cái. “Được cha mẹ hướng dẫn bằng gương sáng và kinh nguyện gia đình, con cái và tất cả những ai sống trong khuôn khổ gia đình sẽ gặp được con đường nhân ái, cứu độ và thánh thiện dễ dàng hơn" (MV 48).
5 - Một bầu khí gia đình lành mạnh, cởi mở, thánh thiện, hoà thuận, thương yêu, lạc quan và biết tín nhiệm nhau là môi trường lý tưởng, thuận lợi cho việc phát triển trí dục và đức dục không chỉ của con trẻ mà còn của mọi thành phần trong gia đình.
“Chính cha mẹ có nhiệm vụ tạo cho gia đình một bầu khí thấm nhuần tình yêu cũng như lòng thành kính đối với Thiên Chúa và tha nhân, để giúp cho việc giáo dục toàn diện con cái trong đời sống cá nhân và xã hội trở nên dễ dàng. Do đó Gia đình là trường học đầu tiên dạy các đức tính xã hội cần thiết cho mọi đoàn thể (GD 3)".
Thư chung của HĐGVN năm 1980 n°12 viết: “Gia đình của anh chị em phải trở nên như một trường học về đức tin, một nơi để cầu nguyện, một môi trường sống bác ái yêu thương và rèn luyện tinh thần tông đồ để làm chứng nhân cho Chúa”. Mục tiêu của của việc giáo dục con cái trong gia đình ki-tô giáo là giúp con cái nên người và nên thánh. Cho con cái càng "càng lớn càng thêm khôn ngoan và nhân đức, đẹp lòng Thiên Chúa và mọi người". (x. Lc 2,51-52). Gia đình Thánh Gia chính là gương mẫu hoàn hảo của một gia đình công giáo mà chúng ta phải noi theo. Chính vì thế khi giáo dục con cái phải để ý đến cả trí dục và đức dục, cả nhân bản và đức tin
6 - Vợ chồng công giáo thề hứa "sẵn sàng yêu thương đón nhận con cái mà Chúa sẽ ban, và giáo dục chúng theo luật Chúa Kitô và Hội Thánh". Công đồng Vaticanô II nói: “Vợ chồng đã lãnh nhận phẩm giá và chức vụ làm cha mẹ, sẽ chăm lo chu toàn bổn phận giáo dục, nhất là về phương diện tôn giáo, vì bổn phận này liên hệ đến họ trước" (GS 48).
Trong việc giáo dục đức tin ta cần để ý tới việc giúp con cái nhận ra ơn gọi của chúng và giúp chúng đáp lại ơn gọi đó. Ơn gọi căn bản là làm người và làm con Chúa, nhưng cũng có thể chúng mang trong mình mầm mống của những ơn gọi đặc thù như làm linh mục, tu sĩ, cha mẹ cần khuyến khích và động viên. Trong việc giáo dục nhân bản thì cũng vậy. Vì thế cha mẹ phải tìm hiểu con cái, đi với chúng trong thời đại chúng đang sống. Giữa cha mẹ và con cái, giữa những thế hệ, giữa những gia cấp, môi trường xã hội khác nhau luôn có một khoảng cách. Chính khoảng cách ấy đã là những khác biệt, bất đồng. Vì thế, nếu không tìm hiểu con cái, đồng hành với chúng trong môi trường chúng đang sống, việc giáo dục sẽ không đạt được kết quả như lòng mong muốn, mà đôi khi còn phản tác dụng, gây nên những giận hờn và oán trách, không vâng lời và thậm chí là lẩn tránh, xa cách cha mẹ, gia đình.
Chỉ khi cha mẹ bỏ công sức, thời gian tìm hiểu con cái, đồng hành với chúng, cha mẹ mới hiểu, cảm thông và xích lại gần con cái hơn. Điều đó có thể giúp lấp đầy được hố sâu cách biệt về tuổi tác, văn hóa, một hố sâu muôn thuở trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Hố sâu ấy đã vô tình đã tạo nên những mối bất bình sâu xa giữa cha mẹ và con cái chỉ vì chúng ta không biết cách lấp đầy.
7 - Cha ông ta đã để lại kinh nghiệm ngàn đời này : "Dục tốc bất đạt". Vội vã sẽ không thành. Việc trồng người cần tình yêu, sự hy sinh, nhất là phải biết kiên nhẫn. Đừng bao giờ nản chí và thất vọng trong việc uốn nắn sửa dạy con cái, bởi vì đó là một ơn gọi, một thiên chức cao cả mà Chúa đã dành cho những bậc làm cha và làm mẹ. Một con người không bao giờ hoàn toàn là xấu, một đứa trẻ cũng vậy dù cho nó ở trong hoàn cảnh nào đi chăng nữa. Người sáng lập phong trào hướng đạo nói rằng một đứa trẻ xấu tới bao nhiêu vẫn còn 5% tốt ở trong nó. Giáo dục là biết lợi dụng cái tốt của con cái để giúp chúng phát triển, chứ không phải chỉ sửa sai, cũng không phải chi lo kinh tế cho chúng.
Chúng ta cùng cầu xin Chúa, qua sự chuyển cầu của Thánh Gia Thất cho mỗi người chúng ta ý thức được vai trò và bổn phận của mình trong gia đình. Là cha mẹ cho xứng đáng, là con cái cho ngoan hiền, để gia đình mỗi chúng ta trở thành một tổ ấm yêu thương, một Giáo hội thu nhỏ, nơi tỏa rạng tình Chúa và tình người. Amen
Chương 1–2 của Tin Mừng Luca có ý tưởng chủ đạo là sự hoàn tất lời Thiên Chúa hứa ban Đấng Mêsia.: ThánhGia ABC 229:
Chương 1–2 của Tin Mừng Luca có ý tưởng chủ đạo là sự hoàn tất lời Thiên Chúa hứa ban Đấng Mêsia. Các truyện kết cấu nhịp nhàng và đạt tới đỉnh điểm khi Đức Giêsu được dâng trong Đền Thờ. Trong biến cố này, tác giả đã nhìn thấy Đức Giêsu tỏ mình công khai. Ngài diễn tả được điều đó khi dùng Đanien 9–10 trong các lời loan báo cho Đức Maria và Dacaria, cũng như khi dùng Malakhi 3 trong lời loan báo cho Dacaria, trong bài ca “Chúc tụng” (Benedictus) và trong truyện Dâng con trong Đền Thờ. Được quy tụ lại quanh khái niệm “sự hoàn tất các ngày” (= đã mãn: 1,23.57; 2,6.21-22), các bản văn thiên sai này nêu bật ý tưởng là thời thiên sai đã đến. Vậy các chương này thuộc lịch sử tôn giáo được viết theo ngôn ngữ Kinh thánh.
Lc 1,5–2,22 là một chuỗi các thời điểm. Tác giả đã muốn nối kết biến cố sứ thần Gabriel hiện ra ở Đền Thờ với việc Đức Giêsu tỏ mình ra cũng tại đấy bằng một con số huyền bí (70 tuần 7 ngày):
- 6 tháng (Lc 1,26.36) kể từ khi Dacaria được báo tin tới khi Đức Maria được báo tin: 30 ngày x 6 = 180 ngày - 9 tháng kể từ khi Đức Maria được truyền tin đến khi Đức Giêsu chào đời: 30 ngày x 9 = 270 ngày - 40 ngày kể từ khi Đức Giêsu chào đời cho đến khi được tiến dâng: = 40 ngày Tổng cộng: = 490 ngày = 70 tuần 7 ngày.
Thế mà theo lời sấm Đn 9,21-24, sau 70 tuần, Israel sẽ được thanh tẩy khỏi các tội và Đền Thờ Giêrusalem sẽ được tái cung hiến (thời vua Antiôkhô IV Êpiphanê / Giuđa Macabê). Tác giả Lc muốn cho thấy rằng việc Đức Giêsu được tiến dâng trong Đền Thờ đã khởi sự việc “Vinh quang” của Thiên Chúa (x. cụ Simêôn gọi Đức Giêsu là “vinh quang của Israel”) đến cư ngụ vào thời cánh chung để thanh tẩy Đền Thờ và Israel. Việc này cũng làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Ml (3,1).
2.- Bố cục
Nên đọc bản văn này từ câu 21, để duy trì được sự song đối giữa Gioan và Đức Giêsu. Do đó, chúng tôi xác định bố cục có cả c. 21. Đoạn này gồm hai phần chính và một kết luận:
1) Hai khúc dạo đầu (2,21-24): - cắt bì và đặt tên (c. 21), - thanh tẩy Đức Maria và dâng Đức Giêsu (cc. 22-24). 2) Hai cuộc tỏ mình (2,25-38): - tỏ mình cho cụ Simêôn (cc. 25-35), - tỏ mình cho bà Anna (cc. 36-38).
3) Kết: Nhắc lại điệp khúc của bài tường thuật về Thời thơ ấu (2,39-40). 3.- Vài ghi chú về chú giải
- Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài (22): “Các ngài” là Đức Maria và Giuse? hay là Đức Maria và Đức Giêsu? Luật không buộc thanh tẩy người chồng hoặc đứa con trai sơ sinh. Tuy vậy, “các ngài” phải được hiểu là quy về Giuse và Đức Maria, bởi vì các ngài là chủ từ của động từ “đem [con] lên”. Các nhà chú giải nhìn nhận rằng tác giả Lc, vì không phải là một Kitô hữu gốc Do Thái Paléttina, nên đã không được hiểu biết chính xác về tập tục thanh tẩy một phụ nữ sau khi sinh con. Và đây cũng là một dấu cho thấy rằng thông tin ngài có được không phát xuất từ những kỷ niệm hay ghi nhớ của Đức Maria.
- theo Luật Môsê(22): Theo Lêvi 12,2-8, một phụ nữ sinh một con trai bị coi là ô uế trong vòng 40 ngày: sau 7 ngày, đứa bé phải được cắt bì (vào ngày thứ tám), và người mẹ còn phải chờ ở nhà 33 ngày nữa, “cho đến khi mãn thời gian thanh tẩy của bà” (Lv 12,4), trước khi bà được đụng chạm vào bất cứ vật thánh nào hoặc đi vào các sân Đền Thờ. Sau ngày thứ bốn mươi (hoặc thứ tám mươi), bà phải đem đến cho vị tư tế phục dịch tuần ấy tại Lều Hội Ngộ hay Đền Thờ một con chiên một tuổi làm lễ toàn thiêu và một bồ câu non hay một chim gáy làm lễ tạ tội. Nếu không thể dâng con chiên, bà phải dâng hai chim gáy hoặc hai bồ câu non.
- để tiến dâng cho Chúa (22): Chi tiết này mô phỏng truyện bà Anna dâng Samuen ở 1 Sm 1,22-24. Tuy vậy, đến câu sau, tác giả Lc nối kết việc dâng Đức Giêsu với luật về đứa con đầu lòng. Đức Giêsu được gọi là “con trai đầu lòng” ở 2,7, và việc chuộc lại Người là nhiệm vụ của cha mẹ Người. Trong Xh 13,1-2, chúng ta đọc: “Đức Chúa phán với ông Môsê: ‘Hãy thánh hiến cho Ta mọi con so, mọi con đầu lòng trong số con cái Israel, dù là người hay là thú vật: nó thuộc về Ta”. Sự thánh hiến này sẽ bảo đảm phúc lành cho những đứa con đến sau. Đứa con đầu lòng được chuộc lại bằng cách trả năm sê-ken (= mười lăm chỉ bạc), tính theo đơn vị đo lường của thánh điện (Ds 3,47-48; 18,15-16), nộp cho một thành viên của gia đình tư tế, khi đứa bé đã được một tháng. Tác giả Lc không nhắc gì đến việc trả số bạc; thay vào đó, ngài diễn tả việc chuộc con như là việc dâng con vào Đền Thờ Giêrusalem, một tập tục không có chỗ nào trong Cựu Ước hoặc sách Mishnah nói cả.
- để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền (24): Hy lễ không phải là cho việc chuộc con đầu lòng, nhưng là cho việc thanh tẩy bà mẹ.
- công chính và sùng đạo (25): Các chi tiết mô tả cụ Simêôn đã đặt ông cùng với Dacaria và Êlisabét, Giuse và Đức Maria, và bà Anna, vào số những đại diện của những người Do Thái trung thành đang sống tại Paléttina vào thời gian sát ngay trước khi Đức Giêsu chào đời.
- niềm an ủi của Ít-ra-en (25): Ta hiểu đây là niềm hy vọng hậu Lưu đày: dân trông chờ Thiên Chúa khôi phục lại chế độ thần quyền tại Israel (x. Is 40,1; 61,2).
- ra đi (29): Ông Simêôn dùng ngôn ngữ của người canh đêm, sau khi đã hoàn tất công việc, xin được nghỉ ngơi.
- một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà (35): Có những tác giả cho rằng “thanh gươm” đây là nỗi ngờ vực về chân tính sâu xa của Con mà Đức Maria sẽ cảm nghiệm khi nhìn Đức Giêsu bị đóng đinh (chẳng hạn Origiênê, Reuss, Bleek…). Cách giải thích này không tương ứng với TM Lc, và có vẻ là một cách giải thích theo tâm lý không có cơ sở. Cách giải thích truyền thống (kể từ Paulin de Nole và thánh Âutinh) đã coi “thanh gươm” này là nỗi đau đớn đồng cảm Đức Maria cảm nhận khi chứng kiến Con mình bị đóng đinh. Tuy nhiên, cách giải thích này cũng không phù hợp với TM Lc, bởi vì Đức Maria chỉ xuất hiện dưới chân thập giá trong TM Ga mà thôi (Ga 19,25-27) và cũng chỉ trong Ga, cạnh sườn của Đức Giêsu mới bị một ngọn giáo đâm thâu (Ga 19,34). TM Lc không bao giờ nói rằng Đức Maria ở trong số các phụ nữ đã đi theo Người từ Galilê (Lc 23,49.55; 24,10). Cách giải thích này lại cắt ngang chuyển động của bản văn và dường như đưa vào đó một ngoặc đơn (x. bản dịch Bible de Jérusalem, CGKPV) hơi lạ. Cách giải thích này cũng giới hạn quá đáng vào cá nhân Đức Maria, điều này dường như trái với cái nhìn của tác giả Lc: đối với ngài cũng như đối với tất cả các tác giả Tân Ước, tâm lý của các nhân vật không đáng kể bằng vai trò của họ trong Lịch sử cứu độ (ta thấy điều này trong các bản văn về Thời thơ ấu: Đức Maria chỉ luôn đóng một vai trò lệ thuộc vào vai trò của Đức Giêsu). Đã thế, lối giải thích này lại chỉ ưu tiên chú ý đến Núi Sọ. Cần phải tìm ý nghĩa của lời này của ông Simêôn trong nhãn quan của tác giả Lc về Đức Maria.
1) Ở trong Cựu Ước, hình ảnh “thanh gươm” là biểu tượng của sự “chia rẽ” và “mâu thuẫn" (x. Ed 12; 14;...). Ở Is 49,2, Thiên Chúa đã làm cho miệng lưỡi Người Tôi Trung nên như một “lưỡi gươm sắc bén”. Sách Khải huyền đã lấy lại hình ảnh này và áp dụng cho Đức Kitô (1,16; 2,12.16; 19,15.21). Khi ta thấy rằng viên Kỵ sĩ trong Kh được gọi là “Lời của Thiên Chúa” và “từ miệng Người phóng ra một thanh gươm sắc bén” (Kh 19,13.15), đàng khác, ta lại nhận thấy rằng Is 49,2 chỉ đi trước Is 49,6 một chút, trong đó Người Tôi Trung được gọi là “ánh sáng muôn dân”, tức khắc ta nghĩ rằng hai câu này hiện diện trong tâm trí tác giả Lc khi ngài viết cc. 32.35a, và thanh gươm phân rẽ giữa lòng Israel chính là Lời mạc khải của Thiên Chúa là chính Đức Giêsu, Lời mang lại ơn cứu độ, nhưng cũng là Lời sẽ phán xét (x. Dt 4,12). Thế mà dọc theo hai chương đầu, ta thấy tác giả Lc giới thiệu Đức Maria như là Thiếu nữ Sion, nghĩa là Israel được nhân-cách-hóa (đọc Lc 1,28 dưới ánh sáng của Xp 3,14-15 và Dcr 2,14). Theo hướng này, ta hiểu tác giả đang vận dụng một kiểu nhân-cách-hóa tiên trưng để trình bày hoạt cảnh Dâng Con trong Đền Thờ, và như vậy, ngài đã đặt vào miệng ông Simêôn c. 35a để ngỏ lời với Đức Maria trong tư cách là Thiếu nữ Sion: nơi Mẹ, chính là Israel sẽ bị thanh gươm của Đức Chúa đâm thâu.
Cách giải thích này (được gợi ý bởi Sahlin, Black, Laurentin, Boismard, Benoýt…) có điểm thuận lợi là làm cho c. 35a ăn khớp hài hòa với ngữ cảnh. Thay vì đưa vào đó một ngoặc đơn, chi câu này trở thành một mắt xích của một phần triển khai, trong đó tư tưởng trước được nối tiếp và tư tưởng sau được chuẩn bị. Các câu 34 và 35a mô tả cuộc khủng hoảng gây ra nơi Israel bởi “dấu hiệu gây chống báng” được ngôn sứ Êdêkien coi như một thanh gươm của Thiên Chúa đâm thâu tâm hồn dân Chúa; còn c. 35b là kết luận: sự thử thách gây ra bởi việc Đức Giêsu đến, do việc đòi hỏi phải chọn lựa theo hay chống Người, sẽ đưa tới chỗ thâm tâm của người ta phải lộ ra.
Hiểu như thế, cc. 34-35 hoàn toàn di theo và minh họa cc. 30-32. Lời sấm của ông Simêôn được phân phối thành hai cánh của một bức tranh bộ đôi: một cánh thì cho thấy Dân Ngoại được ánh sáng soi đường và muôn dân được cứu độ, và đây phải là vinh quang cho Israel; cánh kia cho thấy khủng hoảng của chính Israel này, khiến nhiều con cái của Dân Chúa chọn phải vấp ngã. Vậy đây chính là toàn thể tấn bi kịch của Lịch sử cứu độ được ông Simêôn trình bày cô đọng, và sẽ được tác giả Luca tiếp tục trình bày trong Tin Mừng cũng như trong Công vụ.
(2) Có một cách giải thích khác cũng có thể chấp nhận như một tầng ý nghĩa khác của câu này, và như một cách chứng minh kiểu tiêu cực cho cách trên đây. Trong Ed 14,17 (Hy Lạp), có nối kết “thanh gươm” với “đâm thâu (= xuyên qua)”. Theo hình ảnh này, thanh gươm phân biệt ra (chọn ra) một số người để bị tiêu diệt và một số người để được cứu độ (x. Ed 5,1-2; 6,8-9). Trong ngữ cảnh của Lc, hình ảnh này phát xuất từ ý tưởng nói rằng vai trò của Đức Giêsu là làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Đức Maria, là thành viên của Israel, cũng sẽ phải chịu ảnh hưởng. Trong Lc, chính Đức Giêsu sẽ được mô tả như một người gây chia rẽ trong các gia đình (12,51-53). Như vậy, với hình ảnh thanh gươm đâm thâu Đức Maria, ông Simêôn gợi đến khó khăn mà Mẹ sẽ gặp thì mới học ra rằng việc vâng phục Lời Thiên Chúa phải vượt lên trên cả những dây liên hệ gia đình (x. 8,21; 11,27-28).
4.- Ý nghĩa bản văn
* Hai khúc dạo đầu (21-24)
Cũng như việc cắt bì và đặt tên cho Gioan là cơ hội để con trẻ tỏ mình ra và để Dacaria nói lên một lời sấm, ở đây cũng vậy, việc cắt bì và đạt tên cho Đức Giêsu là cơ hội để Người tỏ mình ra. Cũng như Gioan, Đức Giêsu được ghi dấu ấn là dấu chỉ của giao ước (St 17,11) và tháp nhập vào Israel (x. Gs 5,2-9). Ngài cũng được đặt tên là Giêsu, một tên được chính Thiên Chúa ban cho. Bản văn nhấn mạnh trên việc đặt tên hơn là trên việc cắt bì.
Trong cc. 22-24, có hai biến cố được kể lại nhân dịp Đức Giêsu tỏ mình ra: (a) việc thanh tẩy Đức Maria, 40 ngày sau khi sinh Đức Giêsu (cc. 22a.24); và (b) việc chuộc lại Đức Giêsu, một tháng sau khi sinh (cc. 22b.23). Dường như Luca đã mô phỏng truyện dâng Samuel (1 Sm 1,22-24) mà tả cảnh này. Bản văn nhấn mạnh trên sự trung thành của Đức Maria và ông Giuse, như là những người Do Thái đạo đức, khi thi hành những điều buộc của Luật Môsê. Trong các câu này, Luật được nhắc đến 3 lần (cc. 22a.23a.24a) và trong truyện tỏ mình ra cho ông Simêôn (c. 27) và trong phần kết (c. 39). Hình thái cứu độ mới của Thiên Chúa đến với việc vâng phục Luật này.
* Hai cuộc tỏ mình (25-38)
Hình ảnh ông Simêôn gợi nhớ đến tư tế Êli trong 1 Sm 1–2 cũng như Dacaria trong truyện Gioan Tẩy Giả. Cũng như Dacaria đã tiên báo sự cao cả của Gioan Tẩy Giả trong bài ca “Chúc tụng”, nay sự cao cả của Đức Giêsu được ông Simêôn ca tụng. Do có sự song đối như thế, đến đây ông Simêôn nói hai lời tuyên bố, một là bài thánh ca ở cc. 29-32 và một là lời sấm ở cc. 34-35. Bài thánh ca công bố hình thái cứu độ mới của Thiên Chúa. Lời sấm được ngỏ với Đức Maria để nói về sứ mạng của Đức Giêsu và thân phận của Mẹ.
Tác giả luôn luôn viết một truyện về phái nam đi song song với một truyện về phái nữ, ở đây cũng vậy: bà Anna song đối với ông Simêôn. Sự cao cả của Gioan được Dacaria công bố trong bài ca của ông; nhưng sự cao cả của Đức Giêsu lại không chỉ được ông Simêôn công bố mà được cả bà Anna giới thiệu nữa. Tuy nhiên, bà Anna không nói một tuyên bố nào; vai trò của bà là phổ biến tin mừng về hài nhi mà ông Simêôn đã nhận biết.
* Nhắc lại điệp khúc của bài tường thuật về Thời thơ ấu (39-40) Hai câu kết làm vọng lại điệp khúc đã có trong bài tường thuật về Thời thơ ấu (1,80; 2,52). Câu này nhắc lại từng chữ bản mô tả Gioan (1,80). Toàn c. 40 gợi lại truyện Samuen, nhất là 1 Sm 2,21c.26. + Kết luận Câu truyện này là một lễ mừng các cuộc gặp gỡ trong niềm vui. Truyện được kể cho chúng ta ở đây cho thấy nhiều tương quan khác nhau. Chúng ta thấy Đức Giêsu trong dây liên hệ có một không hai với Thiên Chúa. Chúng ta cũng thấy cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và ông Simêôn, Đức Maria và bà Anna. Gặp gỡ Đức Giêsu đưa lại niềm vui vô biên, nhưng cũng tạo nên một quan hệ buộc người ta phải rảo qua trọn con đường với Người và phải luôn luôn ở gần kề với Người.
5.- Bài học
1. Hôm nay, trong bản thân hài nhi Giêsu, chính Thiên Chúa trở lại với thánh điện của Ngài lâu nay bị bỏ hoang. Cho dù tọi lỗi của Israel có thế nào, Thiên Chúa vẫn trung thành giữ những lời đã hứa. Vào dịp chúng ta chịu phép rửa tội, Thiên Chúa đã nhận chúng ta làm con. Cho dù chúng ta có bất trung thế nào, Người vẫn không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Cho dù các tội lỗi của chúng ta đã xua đuổi Người ra khỏi thánh điện là trái tim chúng ta, Người vẫn tìm mọi cách để đưa chúng ta đến chỗ hoán cải. Hãy mở rộng thánh điện tâm hồn mà đón Đức Kitô.
2. Chúa Thánh Thần luôn luôn có mặt và làm việc. Chúng ta cũng có thể sống thường xuyên dưới tác động của Người nếu chúng ta ở trong ơn nghĩa với Thiên Chúa và chăm chú đi theo những gợi ý của Người trong lòng. Khi đó, Chúa Thánh Thần có thể trở thành một nguồn ánh sáng giúp chúng ta hiểu niềm tin của chúng ta rõ hơn cũng như hiểu bổn phận của chúng ta chính xác hơn, một nguồn sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta can đảm sống đời môn đệ của Đức Kitô, một nguồn gợi hứng trong khi chúng ta cầu nguyện cũng như sống nếp sống hằng ngày.
3. Ông Simêôn và bà Anna là gương mẫu cho chúng ta về cách sống hy vọng và trung thành. Sự trung thành của họ đã được ban thưởng. Mỗi khi chúng ta rước lễ, chúng ta cũng được nhận ân huệ ấy. Do đó, cần chuẩn bị với thái độ chờ đợi trung thành và nhận Thánh Thể với những tâm tình biết ơn.
4. Tất cả cuộc sống của Đức Maria và ông Giuse tập trung vào Đức Giêsu, trong khi Người lớn lên bình thường như mọi trẻ em khác. Nhưng “ơn nghĩa của Thiên Chúa vẫn ở trên Đức Giêsu” (c. 40) đã tạo nên trong gia đình này một bầu khí hiệp nhất, êm đềm, yêu thương. Bí quyết của hạnh phúc đơn giản và siêu nhiên ấy, chính là sự hiện diện phong phú của Đức Giêsu. Đây là điển hình hoàn hảo cho mọi gia đình Kitô hữu. Nếu Đức Kitô thật là trung tâm của gia đình, thì mặc dù có những thử thách của cuộc đời, chúng ta vẫn sẽ cảm nhận được hạnh phúc lớn lao là được yêu thương người khác và được người khác yêu thương, dưới cái nhìn của Thiên Chúa.
5. Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa đã đi vào Đền Thờ của Người. “Đó mãi mãi là cách Thiên Chúa đến viếng thăm…: sự thinh lặng, sự bất ngờ dưới mắt thế gian, mặc dù có những lời tiên báo mà mọi người đều biết … Không thể khác được. Các lưu ý của Thiên Chúa thì rõ ràng, nhưng thế giới vẫn tiếp tục dòng lưu chuyển của nó; khi đã dấn thân vào các hoạt động của họ, loài người không biết biện phân ra ý nghĩa của lịch sử. Họ coi các biến cố lớn là những sự kiện không quan trọng và do lường giá trị các thực tại theo một tầm nhìn hoàn toàn loài người… Thế giới vẫn mù lòa, nhưng sự Quan phòng ẩn tàng của Thiên Chúa thì tự thể hiện ngày qua ngày” (Hồng Y John Henry Newman, 1801-1890).
(22) Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Môsê, bà Maria và ông Giuse đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa, (23) như đã chép trong Luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là thánh, dành cho Chúa, (24) và cũng để dâng của lễ theo luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu con. (25) Và này đây tại Giêrusalem, có một người tên là Simêon. Ong là người công chính và sùng đạo. Ong những mong chờ niềm an ủi của Ítraen, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. (26) Ong đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức Chúa. (27) Được Thần Khí dun dủi, ông lên Đền Thờ vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu tòan tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người, (28) thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng: (29) Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này, được an bình ra đi. (30) Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ, (31) Chúa đã dành sẵn cho muôn dân. (32) Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngọai, là vinh quang của Ítraen Dân Ngài”. (33) Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Simêon vừa nói về Người. (34) Ong Simêon chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Maria, mẹ của Hài Nhi: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ítraen phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng. (35) Còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra”. (36) Lại cũng có một ngôn sứ tên là Anna, con ông Pơnuen, thuộc chi tộc Ase. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, (37) rồi ở góa, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. (38) Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem. (39) Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Nadarét miền Galilê. (40) Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.
2.Ý CHÍNH:
Tin mừng ghi lại việc Đức Maria và Thánh Giuse nêu gương sáng cho các bậc cha mẹ trong việc: ThánhGia ABC 230
Tin mừng ghi lại việc Đức Maria và Thánh Giuse nêu gương sáng cho các bậc cha mẹ trong việc tuân giữ Luật Thiên Chúa qua việc dâng Hài Nhi Giêsu cho Thiên Chúa trong Đền thờ. Tại đây Hài Nhi Giêsu đã tỏ mình là Con Thiên Chúa cho ông gìa Simêon và bà ngôn sứ Anna, đồng thời tỏ mình là phàm nhân trong hình hài một trẻ thơ yếu ớt phải tuân giữ Luật pháp Môsê.
3.CHÚ THÍCH:
-C 22-24: +Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Môsê: Luật Môsê dạy rằng: đàn bà sinh nở bị nhơ uế nên cần được thanh tẩy trong Đền thờ. Vì Hài Nhi Giêsu là con trai nên Đức Maria phải lên Đền thờ làm lễ thanh tẩy vào ngày thứ 40 sau khi sinh theo như Luật dạy. +bà Maria và ông Giuse đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa như đã chép trong Luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là thánh, dành cho Chúa: Vì Thiên Chúa đã cứu các con trai đầu lòng của dân Do thái khỏi bị giết chết bên Ai cập trước biến cố Xuất Hành, nên sau này Luật Môsê qui định các con trai đấu lòng thuộc về Thiên Chúa và phải được dâng cho Thiên Chúa (x Xh 15, 2 và 12). +và cũng để dâng của lễ theo luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu con: Theo luật Môsê (Lv 12,6-8) sản phụ phải dâng lễ vật để làm của lễ toàn thiêu và đền tội thay cho mình. Ở đây Maria dâng lễ vật một đôi chim câu, chứng tỏ ông bà thuộc thành phần nghèo. Việc dâng lễ vật này cho thấy Đức Maria có lòng khiêm tốn vâng phục Luật Chúa truyền dạy, dù Mẹ thụ thai và sinh con do quyền năng Thánh Thần, nên vẫn bảo tòan được đức trinh khiết.
-C 25-28: +Và này đây tại Giêrusalem, có một người tên là Simêon. Ong là người công chính và sùng đạo. Ong những mong chờ niềm an ủi của Ítraen, và Thánh Thần hằng ngự trên ông: Simêon là một người công chính và có lòng kính sợ Thiên Chúa thể hiện qua việc luôn tuân giữ Luật Môsê. Ong đang chờ đợi niềm an ủi của dân Itrael là Đấng Cứu Thế sắp được Thiên Chúa sai đến. +Được Thần Khí dun dủi, ông lên Đền Thờ vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu tòan tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người: Simêon được Thánh Thần cho biết ông sẽ được nhìn thấy Đấng Cứu Thế trước khi nhắm mắt. Quả thật, chính Thánh Thần đã thực hiện lời hứa khi thúc đẩy ông lên Đền thờ đúng vào lúc cha me Hài Nhi đưa Người lên Đền thờ dâng cho Thiên Chúa.
-C 29-32: +Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này, được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ, Chúa đã dành sẵn cho muôn dân. Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngọai, là vinh quang của Ítraen dân Ngài”: Khi bồng ẵm Hài Nhi trên tay, Simêon đã thốt lên bài ca mà ngày nay vẫn được Hội Thánh đọc trong giờ kinh tối mỗi ngày. Bài ca này gồm hai ý chính : Một là Simêon đã được thỏa mãn khi bồng ẵm Đấng Cứu Thế được hứa sẽ đến, nên ông sẵn sàng nhắm mắt trong bình an thư thái. Hai là sứ mệnh của Đấng Cứu Thế dành cho mọi dân tộc chứ không chỉ dành cho dân Do thái. Người sẽ trở thành ánh sáng chiếu soi cho muôn dân, phá tan mọi u mê tăm tối để giúp mọi người nhìn biết chân lý.
-C 33-35: +Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Simêon vừa nói về Người:Hai ông bà Giuse Maria kinh ngạc khi nghe ông già Simêon cho biết sứ mệnh cao cả của Hài Nhi Giêsu là cứu độ muôn dân, là ánh sáng muôn dân. Đây là điều Maria chưa nghe sứ thần Gáprien nói đến khi truyền tin. +Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ítraen phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng: Simêon tiết lộ cho Maria về cách thế người đời đối xử với Chúa Kitô . Người sẽ làm cớ cho nhiều người bị vấp ngã hay được chỗi dậy và là mục tiêu cho người đời chống đối. Khi xuất hiện, Chúa Giêsu sẽ chiathế giới thành hai phe đối chọi nhau: một phe tin yêu Người. Còn phe kia chống đối thù ghét Người. Chính sự yêu hay ghét đó sẽ bộc lộ tâm tư bề trong của con người là họ đứng về phía sự công chính chân thật hay ngả theo sự bất lương dối trá. +Còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra: Riêng bà Maria khi chứng kiến tất cả những sự thù ghét chống đối đó, sẽ bị đau khổ trong tâm hồn giống như bị một lưỡi gươm sắc bén đâm thâu vậy.
-C 36-40: +Lại cũng có một ngôn sứ tên là Anna…:Bà Anna được mệnh danh là ngôn sứ hay tiên tri, vì bà đã làm công việc của một ngôn sứ là tuyên sấm lời Thiên Chúa để kêu gọi người ta sám hối và động viên họ làm việc thiện theo đường lối của Thiên Chúa. +Bà không rời bỏ Đền thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa: Bà Anna là một phụ nữ có lòng đạo đức khi chuyên cần phục vụ Đền thờ và năng ăn chay cầu nguyện. +Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem: Bà được Thánh Thần soi sáng nhận biết Đấng Cứu Độ của dân Ítraen. Bà cảm tạ hồng ân của Thiên Chúa và đi loan báo tin mừng về Hài Nhi Cứu Thế cho hết những ai đang trông chờ ơn cứu độ của dân Ítraen được biết. +trở về nơi cư ngụ là thành Nadarét miền Galilê: Từ đây Nadarét trở thành quê hương của Đức Giêsu và luôn gắn liền với tên gọi của Người. Sau này người đời sẽ gọi Người bằng danh hiệu Giêsu Nadarét.
4.CÂU HỎI: 1-Bài Tin Mừng hôm nay nhằm dạy bài học gì về bản tính của Chúa Giêsu? 2-Luật Môsê quy định thế nào về sự nhơ uế của người phụ nữ sau khi sinh? 3- Luật Môsê dựa vào đâu để quy định khỏan luật về mọi con trai đầu lòng thuộc về Thiên Chúa nên phải dâng cho Thiên Chúa trong Đền thờ? 4-Qua lễ vật dâng cho Thiên Chúa để chuộc lại Hài Nhi Giêsu, chúng ta nhận biết hai ông bà Giuse Maria thuộc lọai người giàu có hay nghèo khó trong xã hội Do thái đương thời? 5-Ong già Simêon nói tiên tri về sứ mệnh của Hài Nhi Giêsu và về tương lai của Đức Maria Mẹ Người? 6-Do đâu tác giả Tin mừng gán cho bà Anna danh hiệu ngôn sứ hay tiên tri? 7-Tại sao Đức Giêsu được gọi là Giêsu Nadarét?
II.SỐNG LỜI CHÚA:
1.LỜI CHÚA: Ông Giu-se liền chỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập (Mt 2,14) :
2.CÂU CHUYỆN: LÀM TRƯỚC DẠY SAU:
Một hôm có một phụ nữ dắt theo một bé gái đến gặp MA-HÁT-MA GĂNG-ĐI (Mahatma Gandi) để xin ông một lời khuyên, để con bà bỏ thói hay ăn quà vặt. Găng-đi liền nói : Bà hãy đem nó về nhà và ba tuần sau hãy mang nó trở lại đây cho tôi”. Sau đúng ba tuần, bà ta lại dắt con đến như đã hẹn. Bấy giờ Găng-đi đã khuyên bảo đứa bé đúng như bà mẹ đã yêu cầu, rồi cho hai mẹ con về. Nhưng trước khi ra về, bà mẹ nêu thắc mắc: “Thưa ngài, tôi tưởng là ngài phải làm gì nhiều hơn chứ. Nếu chỉ là việc cho con gái tôi một lời khuyên thì sao ngài lại bắt tôi phải chờ đến ba tuần làm chi?” Bấy giờ Găng-đi mới ôn tồn trả lời: “Thưa bà, lần trước nghe lời bà yêu cầu, tự nhiên tôi cảm thấy xấu hổ, vì chính tôi cũng đang mắc tật xấu hay ăn quà vặt như con gái bà. Vì thế tôi không thể khuyên cháu đừng làm điều mà chính tôi đang mắc phải. Do đó, tôi đã phải hẹn với bà ba tuần sau trở lại, để trong ba tuần lễ đó, tôi cố bỏ tật xấu ấy, rồi mới dám cho cháu bé một lời khuyên như bà đã thấy”.
3.SUY NIỆM:
1) THÁNH GIU-SE: GƯƠNG MẪU CỦA NGƯỜI TRƯỞNG GIA ĐÌNH :
a) Tinh thần trách nhiệm lo cho gia đình và luôn cậy trông Thiên Chúa: Bấy giờ Hài Nhi Giê-su bị vua Hê-rô-đê tìm kiếm giết hại. Được sứ thần mộng báo, Giu-se đã lập tức trỗi dậy ngay lúc đêm tối, đem vợ con chạy trốn sang Ai-cập. Sau khi Hê-rô-đê băng hà, Giu-se lại một lần nữa vâng lệnh sứ thần mộng báo, đem Thánh Gia trở về làng Na-da-rét, để tránh bị ông vua mới là Ác-khê-lao tàn ác không kém vua cha giết hại. Qua sự kiện này, ta thấy ngày hôm nay dù có Chúa ở cùng, nhưng chắc chắn chúng ta cũng không tránh khỏi những cơn phong ba bão tố vùi dập. Có điều là thánh Giu-se đã không bao giờ ngã lòng trông cậy để nêu gương cậy trông cho chúng ta.
b) Vợ chồng cùng nhau cộng tác vượt qua nghịch cảnh: Thánh Giu-se và Đức Ma-ri-a trong quan hệ với nhau cũng không tránh khỏi có những lúc sóng gió, tưởng như con thuyền gia đình sắp tan vỡ. Chẳng hạn : Giu-se đã từng suy nghĩ ngày đêm và quyết định bỏ Ma-ri-a; Cũng có lúc hai ông bà rơi vào hoàn cảnh khốn cùng, như khi hai người về quê khai nhân danh, vừa tới thành Bê-lem thì Ma-ri-a cũng tới lúc sinh con, mà Giu-se không sao tìm được một chỗ trọ cho hai người; Có những lúc Giu-se Ma-ri-a phải lo lắng, chạy đôn chạy đáo đi tìm Hài nhi bị lạc mà phải mất tới ba ngày mới tìm thấy con trong Đền Thờ. Nhất là có lúc Đức Ma-ri-a phải chịu dao sắc thâu qua trái tim, khi đứng dưới chân bên cây thập giá, chứng kiến người con yêu bị hấp hối và sau khi chết còn bị lưỡi đòng đâm thâu cạnh sườn… Như vậy, Thánh Gia cũng chẳng được ưu đãi hơn so với các gia đình khác, cũng phải trải qua nhiều nghịch cảnh… để nêu gương cho các gia đình tín hữu chúng ta hôm nay. Trong bất cứ hoàn cảnh nào dù khó khăn đến mấy, chúng ta cũng không được ngã lòng thất vọng, nhưng luôn phải vững tin vào tình thương và quyền năng của Chúa quan phòng. Người sẽ mau biến từ sự dữ ra sự lành.
2) NHỮNG NGUYÊN NHÂN GÂY RA ĐỔ VỠ HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH:
Các gia đình hôm nay cũng có nhiều nguy cơ đổ vỡ hạnh phúc:
a) Có thể do ham bài bạc như đánh đề cá độ bóng đá gây nợ nần, dẫn đến nhà tan cửa nát, vợ chồng ly tán, con cái nheo nhóc bỏ học để đi bụi đời.
b) Có thể do thái độ ích kỷ và vô trách nhiệm không quan tâm lo cho gia đình dẫn đến sự bất bình khinh thường nhau và tranh cãi giận hờn nhau.
c) Có thể do thói hư như rượu chè, cờ bạc, trai gái hút chích… Hoặc do cách ứng xử thiếu lịch sự tế nhị với nhau và với cha mẹ họ hàng đôi bên, do lối ứng xử độc đoán không tôn trọng nhau, không bàn hỏi khi quyết định những vấn đề quan trọng, không thống nhất về việc nuôi nấng dạy dỗ con cái.
d) Có thể do thiếu tình mến Chúa yêu người. Trong một cuộc phỏng vấn, nữ tu Tê-rê-sa Can-quýt-ta đã nói về vấn đề này như sau: “Tôi nghĩ rằng không phải ai cũng ý thức về tầm quan trọng của gia đình. Nếu chúng ta yêu thương nhau thì chắc chắn thế giới này sẽ đổi khác”. Thậy vậy, thế giới băng hoại vì có quá nhiều gia đình thiếu vắng tình thương. Giới trẻ hiện nay rơi vào thói xấu nghiện ma túy, phần lớn là do cha mẹ đã thiếu quan tâm dạy dỗ chúng. Ước gì các gia đình tín hữu chúng ta trở thành những mái ấm đầy tình yêu của Thiên Chúa, vì “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
2) LÀM THẾ NÀO ĐỂ GIA ĐÌNH LUÔN SỐNG HÒA HỢP HẠNH PHÚC?
a) Học tập nhân bản và giáo lý: Phải làm thế nào để con em chúng ta được giáo dục về các đức tính tự nhiên đi đôi với việc giáo dục đức tin… các bạn trẻ sắp bước vào đời sống hôn nhân gia đình cần được học tập về bổn phận trách nhiệm của mỗi thành viên gia đình, rút kinh nghiệm từ các đôi vợ chồng hạnh phúc hay bất hạnh để phòng tránh và chuẩn bị cho cuộc sống chung sau này.
b) Mỗi người phải có tinh thần trách nhiệm, sống đúng vai trò của mình trong gia đình là chống, vợ hay con cái: Một tờ báo ở Luân-đôn nước Anh đã mở một cuộc điều tra các ông chồng, yêu cầu họ thành thật trả lời câu hỏi: “Trong gia đình bạn, ai là người thực sự có quyền làm chủ gia đình ?” Kết quả cho thấy có 80% câu trả lời: “Vợ tôi làm chủ”, 19% trả lời “Mẹ vợ tôi làm chủ”. Chỉ có 1% trả lời: “Chính tôi làm chủ, vì vợ tôi đã qua đời !” Như vậy, không lạ gì khi thấy sau Hoa Kỳ, Anh quốc có số gia đình ly hôn chiếm tỷ lệ cao nhất: Mỗi năm cứ hai đám cưới thì có một đám ly hôn.
c) Vợ chồng cần nuôi dưỡng tình yêu: Tình yêu có đặc điểm là hy sinh cho nhau. Cây tình yêu của hai vợ chồng rất cần được quan tâm khử trừ những con sâu ích kỷ khi chỉ nghĩ đến mình, con sâu độc đoán hẹp hòi, gàn dở khi cố chấp không chịu nhận lỗi và sửa sai, con sâu lười biếng bổn phận của mình và vô trách nhiệm không chịu lo kiếm tiền lo cho gia đình, con sâu tình cảm ngang trái vụng trộm, hoặc hay ghen bóng ghen gió… Tình yêu vợ chồng cũng cần được tưới bón bằng lời Chúa, lời cầu nguyện, bằng những lời khen tặng thành thật, bằng những lời yêu thương và những sự quan tâm và cử chỉ âm yếm dành riêng cho nhau.
d) Vợ chồng phải tôn trọng nhau, thể hiện qua việc biết trao đổi bàn bạc với nhau trong mọi việc: Phải một lòng một ý về việc cư xử với tha nhân, về việc nuôi dạy con cái, về việc mua sắm đồ dùng trong nhà, và việc làm ăn sinh sống. Vì “Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn”, và: “Phu phụ hòa, gia đạo thịnh”.
e) Hãy học sống Lời Chúa là “tập quen chịu đựng và tha thứ cho nhau” : Trong một buổi tĩnh tâm dành cho gia trưởng, nhưng cũng có nhiều bà vợ tham dự. Tới phần làm phép thánh giá, cha giảng phòng nói: “Ai có cây thánh giá cần làm phép yêu cầu mang lên gần gian cung thánh để được làm phép”. Bấy giờ một ông lão thay vì mang cây thánh giá thì lại cõng bà vợ bị tê liệt lên. Khi tới phiên, thay vì giơ cây thánh giá lên cho cha rẩy nước thánh thì ông lão lại bồng bà cụ lên trước sự ngạc nhiên của mọi người. Ông nói: “Thưa cha, đây là thánh giá của con. Xin cha làm phép để con được vác thánh giá này đến trọn đời !”.
g) Gia đình phải có Chúa hiện diện: Thực vậy, nếu gia đình thực sự có đức tin, có lòng đạo đức, thì sẽ thương yêu và nhường nhịn nhau. Cần dọn bàn thờ Chúa ở nơi trang trọng nhất và năng đọc kinh tối gia đình hằng ngày. Trong giờ kinh tối luôn có phần Lời Chúa và cầu nguyện theo Lời Chúa dạy. Gia đình động viên nhau sống tình yêu thương: Chồng yêu vợ, vợ yêu chồng, con cái thảo kính cha mẹ, anh chị em trong nhà biết nghĩ đến nhau và quan tâm làm vui lòng nhau. Cần năng suy niệm và thực hành lời dạy của thánh Phao-lô: “Anh em hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa, nhẫn nại, chịu đựng nhau và hãy tha thứ cho nhau, nếu người này có chuyện phải oán trách người kia…” (Cl 3,12-13). Trong đời sống hôn nhân gia đình, chắc chắn cũng sẽ có khi vui lúc buồn, khi thành công luc thất bại… Nếu gia đình có Chúa là Tình Yêu ngự trị thì chắc sẽ vượt qua mọi thử thách gặp phải trong cuộc sống hôn nhân gia đình.
4.THẢO LUẬN:
1) Nguyên nhân thường gây đổ vỡ hạnh phúc gia đình là gì và phải làm gì để phòng tránh ?
2-Bạn có đồng ý với câu người ta thướng nói: “Con hư tại mẹ cháu hư tại bà” không? Tại sao?
5.NGUYỆN CẦU
LẠY CHÚA GIÊ-SU, mỗi lần tham dự thánh lễ hôn phối, con thấy đôi tân hôn thật hạnh phúc. Với nét mặt rạng rỡ và trong bộ y phục trắng tinh khôi, con thấy cô dâu sánh bước bên chú rể tiến đến trước bàn thờ cử hành hôn lễ như đang bước vào thiên đàng hạnh phúc. Nhưng rồi với năm tháng qua đi, con lại thấy gia đình họ trở thành hỏa ngục trần gian, khi “kẻ thì khóc lóc, người lại nghiến răng”. Xin giúp các đôi vợ chồng trẻ biết duy trì được tình yêu ban đầu. Xin cho họ biết “cho hơn là nhận”, biết ân cần phục vụ lẫn nhau, biết quảng đại tha thứ và chịu đựng nhau. Nhờ đó gia đình chúng con sẽ trở thành một thiên đàng tình yêu, là dấu chỉ sau này chúng con sẽ cùng được hưởng hạnh phúc với nhau trên Thiên đàng.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LỄ THÁNH GIA : CHÚA GIÊSU, MẸ MARIA và THÁNH GIUSE
Lc 2, 22-40
Mỗi năm mừng lễ Thánh Gia, tôi vẫn cảm thấy thật hạnh phúc khi được diễm phúc nói về gia đình của: ThánhGia ABC 231
Mỗi năm mừng lễ Thánh Gia, tôi vẫn cảm thấy thật hạnh phúc khi được diễm phúc nói về gia đình của Chúa Giêsu. Một gia đình vô cùng thánh thiện: Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh cả Giuse sống yêu thương, hài hòa, trên thuận dưới hòa, luôn là mẫu gương sáng cho mọi gia đình.Đoạn Kinh Thánh ghi lại nét rất ấn tượng và rất đẹp của gia đình thánh như sau :” …Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các Ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng.Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta “ ( Lc 2, 51-52 ).
Khi đề cập tới Thánh Gia, tôi lại nhớ hình ảnh hết sức ấn tượng và gợi cảm của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khi về quê hương Ba Lan vào dạo tháng 5 năm 1987, Ngài đã làm hai cử chỉ để đời : viếng mộ song thân và cử hành Thánh lễ đặc biệt cho các đôi vợ chồng. Viếng mộ Cha mẹ, Đức Thánh Cha không những muốn lên lòng hiếu thảo, tôn kính, tri ân cha mẹ đã sinh thành dưỡng dục Ngài, nhưng Ngài còn muốn đề cao giá trị của đời sống hôn nhân. Đức Thánh Cha muốn nói lên với tất cả nhân loại hãy bảo vệ gia đình, hãy trung thành với nhau. Bởi vì khi người nữ và người nam nói lên lời cam kết yêu thương nhau và yêu thương nhau trọn đời, họ lập lại lời của chính Chúa Giêsu, Đấng đã yêu thương nhân loại và yêu cho đến cùng bằng chính cái chết ô nhục trên thập giá để cứu độ và để gánh tội cho mọi người theo ý Thiên Chúa Cha.Gia đình của Chúa Giêsu trong đó mẹ Maria và thánh Giuse luôn hết lòng tôn kính lẫn nhau.
Dù rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhưng nơi gia đình thánh, Chúa Giêsu luôn một lòng hiếu thảo, vâng lời cha mẹ của Người. Còn thánh Giuse luôn làm gương là một gia trưởng đầy yêu thương, luôn nắm vững cột trụ của gia đình. Mẹ Maria là mẫu gương tuyệt vời của mọi người mẹ trần thế, mẹ luôn cần cù làm những việc trong nhà, xứng đáng là người nội trợ đảm đang, hết mực yêu thương chồng và yêu thương con. Gia đình thánh quả thực đã nêu gương mẫu tuyệt vời cho mọi gia đình. Dưới lăng kính của người đời, gia đình thánh không giầu có, không sang trọng như nhiều gia đình khác, nhưng với con mắt đức tin, gia đình thánh là một gia đình hết mực thánh thiện, hết mực đầm ấm, yêu thương, gia đình thánh là một gia đình hết sức hạnh phúc. Nếu chúng ta nghe rađiô, xem tivi, đọc báo, xem mạng, chúng ta thấy quả thực trên thế giới nhiều nước nền tảng gia đình đang bị lay chuyển mạnh mẽ nhiều gia đình ly tán, nhiều đôi vợ chồng mất hạnh phúc, truyền thống ấm êm hạnh phúc của các gia đình nơi nhiều nước ngày càng sút giảm đến báo động. Ly thân, ly dị, trẻ em bị cha mẹ bỏ rơi, lang thang bụi đời đi vào những con đường tội lỗi, ma túy, mãi dâm, cướp dựt, thanh niên thanh nữ nổi loạn, nạn nạo phá thai vv…càng ngày càng gia tăng cách khủng khiếp. Gia đình là nền tảng của xã hội. Đối với người công giáo, gia đình còn là nền tảng của Giáo Hội, là Hội Thành nhỏ. Nếu không có những gia đình tốt, xã hội sẽ không lành mạnh. Chính vì thế, không lạ gì, Đức Thánh Gioan Phaolô II đã gióng lên tiếng nói :
” Hãy trung thành với nhau. Hãy yêu thương nhau và hãy bảo vệ gia đình “. Mà không những chỉ riêng Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói lên tiếng nói khẩn thiết :” Hãy bảo vệ nề nếp gia đình “ mà hầu như tất cả các Đức Cố Giáo Hoàng đều luôn nhắc nhở mọi gia đình hãy sống đạo đức, thánh thiện noi gương gia đình thánh. Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI cũng luôn nhắc nhở các gia đình :” Hãy bảo vệ hạnh phúc.Hãy vun đắp cho gia đình luôn sống đạo đức, nề nếp gia phong “. Đứng trước sự báo động của nền tảng gia đình bị lung lay, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong thư chung mục vụ năm 2008 đã lấy chủ đề:” Môi trường Giáo Dục Gia Đình Công Giáo “. Ngay trong lời mở đầu bức thư mục vụ, số 3, các Đức Giám Mục đã viết :” …Giáo dục tại gia đình là vấn đề quan trọng và cần thiết, tạo tiền đề cho việc giáo dục nói chung, vì gia đình là nền tảng của Giáo Hội và Xã Hội. Nếu nền tảng gia đình được củng cố chắc chắn, Giáo Hội và Xã Hội tương lai sẽ phồn thịnh và phát triển. Qua thư Mục vụ này, chúng tôi muốn bày tỏ mối ưu tư đối với hiện trạng gia đình Việt Nam và nêu lên những đề nghị cụ thể để góp phần canh tân mục vụ trong lãnh vực này, một lãnh vực căn bản của đời sống con người và đời sống Giáo Hội “.
Gia đình là nền tảng của Giáo Hội và Xã Hội.Do đó, không có gia đình nào tuyệt vời cho bằng gia đình thánh: Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh cả Giuse. Thánh Gia luôn là mẫu gương tuyệt vời cho mọi gia đình công giáo noi theo. Nếu, đời sống các gia đình không còn căn rễ, Giáo Hội và Xã Hội sẽ bị lung lay. Do đó, mọi gia đình công giáo ý thức bổn phận làm con Chúa và làm con Giáo Hội của mình hãy xây dựng gia đình theo mẫu Thánh Gia. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong thư Mục Vụ 2008 trong lời kết số 20 viết”: Nếu gia đình là nhân tố quyết định sự tồn vong của Giáo Hội và Xã Hội, thì việc đầu tiên chúng ta phải nghĩ tới là củng cố và thăng tiến gia đình, để bảo đảm cho hôn nhân và gia đình có được sức sống yêu thương tràn đầy và sự thăng tiến về nhân bản cũng như lòng đạo đức “ “…Trong gia đình Nadarét mọi thành viên đều tôn trọng nhau, mong muốn cho nhau điều tốt và cùng nhau thực hiện ý của Cha trên trời. Thánh Giuse và Đức Maria là những nhà giáo dục tài giỏi đã chu toàn sứ mạng được trao phó trong sự khôn ngoan và trung tín. Xin các Ngài chuyển cầu và luôn phù trợ cho các gia đình chúng ta.” Lạy Chúa Giêsu, xin cho mọi gia đình Công giáo luôn biết nhìn vào mẫu gương của Thánh Gia : Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse để noi gương, bắt chước và bằng tất cả lòng tin, sự yêu thương,hết sức chu toàn nghĩa vụ làm cha,làm mẹ và làm con của mình để mọi gia đình tỏa sáng lòng đạo đức, sự thánh thiện của gia đình mình.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Gia đình là gì ? 2.Tại sao mọi gia đình lại phải noi gương bắt chước Gia Đình Thánh Gia ? 3.Trong Gia Đình Thánh : Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh cả Giuse đã sống như thế nào ? 4.Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong Thư Chung năm 2003 đã nói gì về gia đình ? 5.ÔBACE nghĩ gì về các gia đình hôm nay ?
--------------------------------
ThánhGia ABC 232: Để cứu các gia đình, Chúa Cứu Thế đã chọn sinh ra trong gia đình
Suy Niệm Lễ Kính Thánh Gia
Hôm nay chúng ta cùng nhau cử hành lễ kính Thánh Gia Thất, trong bối cảnh Thượng Hội Đồng: ThánhGia ABC 232
Hôm nay chúng ta cùng nhau cử hành lễ kính Thánh Gia Thất, trong bối cảnh Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình vừa được cử hành là chặng đầu tiên của một lộ trình sẽ kết thúc vào tháng 10 năm tới với một Hội nghị về đề tài "Ơn gọi và sứ mệnh của gia đình trong Giáo Hội và trong thế giới". Giáo hội Việt Nam lấy năm Tân Phúc-Âm-Hoá gia đình làm tiền đề để bước vào năm Tân Phúc-Âm-Hoá giáo xứ. Đẹp biết bao khi nhìn vào hang đá chúng ta thấy Chúa Cứu Thế đến trần gian, đã chọn sinh ra trong một gia đình nhân loại, mà chính Người đã thành lập, để cứu các gia đình. Mừng Chúa Cứu Thế đến cũng là mừng Thánh Gia Thất, nơi Ngài sinh sống.
Các bài đọc hôm nay từ Cựu Ước đến Tân Ước thật là đẹp, đẹp về cách hành văn, đẹp về nội dung, nhất là đẹp tuyệt vời về cách sống trong gia đình. Nếu bài đọc I trích sách Đức Huấn Ca dạy con cái phải thảo cha kính mẹ : "Hỡi kẻ làm con, hãy gánh lấy tuổi già cha ngươi, chớ làm phiền lòng người khi người còn sống", cùng với những phần phúc cho những người con biết tôn kinh mẹ cha là : "Ai yêu mến cha mình, thì đền bù tội lỗi; ai thảo kính mẹ mình, thì như người thu được một kho tàng", nhất là được trường thọ : "Ai thảo kính cha mình, sẽ được sống lâu dài. " Thì bài đọc II, Thánh Phaolô khuyên những người làm vợ làm chồng : "Hỡi các bà vợ, hãy phục tùng chồng trong Chúa cho phải phép. Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình, đừng đay nghiến nó". Ngài cũng khuyên cha mẹ phải tôn trọng, yêu mến con cái : "Hỡi những người cha, đừng nổi cơn phẫn nộ với con cái, kẻo chúng nên nhát đảm sợ sệt" (Cl 3, 21). Bài Tin Mừng nêu bật vai trò quan trọng của Thánh Giuse, mẫu gương cho bậc làm cha, làm chủ, làm chồng trong các gia đình.
Thảo kính cha mẹ
Để giữ cho gia đình hạnh phúc, Thiên Chúa đã ban cho Giới răn thứ Bốn trong Mười Điều răn: “Thứ Bốn thảo kính cha mẹ”,
Có nhiều kẻ làm con đã hỏi: Vậy, tước phẩm làm cha làm mẹ là thế nào để con cái phải tôn kính. Quyền bính cha mẹ tự đâu mà có?
Để có một cuộc sống đích thực, nhân loại phải có quyền bính, nếu không xã hội không thể có được, và phải đi tới nguyên tắc căn bản: không có Thiên Chúa, không có quyền bính. Vì thế, kẻ làm con, người làm bề dưới phải vâng lời cha mẹ, tùng phục người trên là vì thấy trong trật tự ổn định là quyền lực, là thế giá của Thiên Chúa. Đứa trẻ thấy quyền lực Thiên Chúa nơi cha mẹ, học trò ở nơi thầy cô, người dân thấy ở nhà cầm quyền. Phải, quyện lực của cha mẹ là do Thiên Chúa mà ra.
Chúa dạy: "Hãy tôn kính cha ngươi và mẹ ngươi ". Và Thánh Phaolô khuyên: "Hỡi những người con, hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự " (Cl 3, 20). Giới răn không nói yêu mến nhưng là tôn kính. Người ta yêu anh chị em, yêu tha nhân, song đối với cha mẹ, phải tôn kính. Đó là điều mà phận làm con, kẻ bề dưới ngày nay không muốn biết nữa. Tôn kính có nghĩa là khi cha mẹ nói, dạy điều gì, con cái phải im lặng, lập tức thi hành, dù là ước muốn nhỏ nhất: "Vì đó là đẹp lòng Chúa" (Cl 3, 20). "Hãy tôn kính cha con và mẹ con" ; "Đứa con nào mà đánh đập cha mẹ mình thì phải chết" ( Xh 20;21)
Phu phụ tương kính như tân
Thiên Chúa dựng nên con người có nam có nữ giống hình ảnh Chúa, và cho hai người kết hợp với nhau nên một bằng mối giây loài người không thể tháo cới, để mỗi người phát triển nảy nở trong hạnh phúc, và sinh con cái nối giòng dõi loài người và Hội Thánh.
Khi nói thế, người chồng có thể đòi người vợ phụng tùng chồng một cách mù quáng không? Không, người này phải phục tùng người kia cho phải đạo, cả hai đều phải phục tùng Đức Kitô như toàn thể Giáo hội.
Người nam có biết khi được làm đầu thì phải làm gì không? Thánh Phaolô kêu gọi : " Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình, đừng đay nghiến nó" (Cl 3, 20).
Người ta thường nói: chồng là đầu gia đình, vợ là trái tim gia đình. Nói đúng hơn: chồng là cả hai, vừa là đầu, vừa là trái tim. Người ta cũng ví người chồng giữ vai trò như người lái thuyền, phải đưa thuyền đi đúng hướng, là bảo vệ sự an toàn cho mọi người trong thuyền, phục vụ mọi người với tình yêu thương, như yêu thương chính mình, để cùng nhau hướng tới hạnh phúc.
Cha mẹ tôn trọng và yêu mến con cái
Giới răn thứ Bốn này có hai chiều: con cái và cha mẹ, cha mẹ và con cái. Nếu con cái phải tôn kính cha mẹ, thì cha mẹ cũng phải tôn trọng, yêu mến con cái : "Hỡi những người cha, đừng nổi cơn phẫn nộ với con cái". Cha mẹ quí mến con cái, vì con cái trước hết không thuộc về các cha mẹ mà thuộc về Thiên Chúa. Con cái là kho tàng Thiên Chúa trao cho, một ngày kia Chúa sẽ đòi cha mẹ phải trả lẽ. Vậy, cha mẹ phải yêu quí, tôn trọng sự sống con cái, ngày từ khi còn trong lòng mẹ, chớ làm phương hại đến chúng. Tôn trọng con cái từ lúc còn thơ đến tuổi trưởng thành...
Chăm lo cho con cái về mặt tinh thần cũng như thể xác, nhất là linh hồn, vì trước hết chúng thuộc về Thiên Chúa. Cha mẹ không thể lên thiên đàng một mình, phải có con cái đi theo. Con cái không lên thiên đàng được, cha mẹ cũng không lên được. Chúng ta thấy Mẹ Maria, Thánh Giuse, và Chúa Giêsu, cả Ba Đấng đều lên Đền thờ dự lễ theo luật.
Khi có chuyện chẳng lành trong gia đình, lời thánh Phaolô sau đây như là khuôn vàng thước ngọc về lẽ sống và cách đối nhân xử thế của các thành viên trong gia đình: "Anh em thân mến, như những người được chọn của Thiên Chúa, những người thánh thiện và được yêu thương, anh em hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, và hãy tha thứ cho nhau nếu người này có chuyện phải oán trách người kia. Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau. Và trên hết mọi sự, anh em hãy có đức yêu thương, đó là dây ràng buộc điều toàn thiện".
Noi gương Mẹ Maria và Cha thánh Giuse, mỗi gia đình kitô giáo hãy đón rước Chúa Giêsu, lắng nghe Người, nói chuyện với Người, gìn giữ Người, che chở Người, lớn lên với Người, và như thế chúng ta mới phúc âm hóa gia đình, canh tân giáo xứ và cải tiến thế giới được. Hãy dành cho Chúa một chỗ trong trái tim và ngày sống của chúng ta.
Lạy Thánh Gia Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse, xin chở che gìn giữ gia đình nhân loại chúng con. Amen.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Lu-ca 2:22-40)
Ba bài Tin Mừng trong chu kỳ phụng vụ của lễ Thánh Gia nói với chúng ta về đời sống của gia: ThánhGia ABC 233
Ba bài Tin Mừng trong chu kỳ phụng vụ của lễ Thánh Gia nói với chúng ta về đời sống của gia đình thánh Giu-se, Mẹ Ma-ri-a và Chúa Giê-su ở trong ba tình huống khác nhau, lúc chu toàn tuân giữ Lề Luật, khi phải trốn chạy kẻ thù, hoặc trong dịp lễ hội của cộng đồng. Tuy nhiên trong bất cứ hoàn cảnh sống nào, đều có một điểm kết luận chung về sự phát triển con người của Chúa Giê-su, thành phần chính của Thánh Gia thất và là Đấng Cứu Độ muôn dân. Đoạn Tin Mừng Lu-ca hôm nay kể lại một sinh hoạt của Thánh Gia, là thi hành việc thanh tẩy theo luật Mô-sê, đồng thời đem con trai đầu lòng mà hiến dâng cho Thiên Chúa.
Vì là những người nghèo, nên nghi thức thánh hiến dành cho Thánh Gia thất cũng đơn sơ thôi, đó là “dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non”. Giá trị của lễ không căn cứ vào vật chất, nhưng là tấm lòng, nền móng của đời sống thiêng liêng. Chắc chắn Thánh Gia không cảm thấy mắc cỡ khi đem theo đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non lên Đền Thờ. Nhưng các ngài hân hoan vì một lễ vật cao quý hơn nhiều, một lễ vật là chính Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng Cứu Độ. Giờ đây các ngài đem dâng lại cho Thiên Chúa để Người tùy nghi sử dụng trong kế hoạch yêu thương của Người.
Quả thực phẩm giá và sứ mệnh nơi người con của Thánh Gia đã được tuyên xưng một cách giản dị, nhưng vô cùng ý nghĩa. Ông già Si-mê-ôn và bà “ngôn sứ” An-na là những người đầu tiên nhận biết Chúa Giê-su là ai. Ông Si-mê-ôn thì “chính mắt được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân” và “ánh sáng soi đường cho dân ngoại”. Còn bà An-na thì “nói về Hài Nhi cho hết thảy những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giê-ru-sa-lem”. Dưới con mắt của hai vị, Chúa Giê-su không những là một khởi đầu mới cho tuổi già của các ngài, mà còn là một khởi đầu mới cho toàn thể nhân loại nữa. Nhận biết Đấng Cứu Độ là ước mong cuối cùng và quan trọng nhất của con người. Cho nên ông Si-mê-ôn vui mừng “xin để tôi tớ này được an bình ra đi”, và bà An-na đã không uổng công ăn chay cầu nguyện và thờ phượng cho đến nay đã tám mươi tư tuổi!
Biến cố Thánh Gia hiện diện nơi Đền Thờ chỉ là để giới thiệu Hài Nhi, nhưng chính tại gia đình Na-da-rét, “ơn cứu độ” và “ánh sáng” mới thực sự được phát triển. Sự phát triển này được thánh sử Lu-ca diễn tả như sau: “Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa”. Hài Nhi, Đấng Cứu Độ, không phát triển đột biến, nhưng “lớn lên” về mọi phương diện theo năm tháng, thời gian của loài người. Điều quan trọng nhất đó là môi trường phát triển, tức gia đình Na-da-rét. Nơi đây có sự ấm áp của tình yêu, tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người. Tình yêu thấm nhập vào thức ăn, lời nói, cử chỉ, sinh hoạt… để giúp con người phát triển mọi mặt. Đâu phải chỉ một mình Hài Nhi thôi, mà cả Mẹ Ma-ri-a và thánh cả Giu-se nữa. Người nào cũng đạt tới “tầm vóc” của Chúa Ki-tô, con người hoàn hảo trước mặt Thiên Chúa và nhân loại.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúng ta đang ở trong năm Thánh hóa gia đình. Nói đến thánh hóa là nói đến phát triển, phát triển nhân bản cũng như phát triển thiêng liêng. Thánh Gia vẫn luôn là gương mẫu cho sự phát triển toàn vẹn ấy. Con người hôm nay chú trọng đến phát triển trí tuệ hơn là tâm linh, cho nên họ không nhận thức được tầm quan trọng của gia đình. Sống bên ngoài môi trường gia đình, người ta khó thấy được những gì họ thiếu thốn và không thể tìm thấy trong một xã hội tân tiến. Những bữa cơm gia đình, những giờ kinh sáng tối, những buổi họp mặt đầy yêu thương, tất cả nhiều khi chỉ còn là mơ ước thôi. Năm Thánh hóa gia đình kêu gọi chúng ta nhận định lại giá trị và sự cần thiết của đời sống gia đình, một yếu tố không thể thiếu trong sự phát triển con người. Giống như Thánh Gia lên Đền Thờ gặp Thiên Chúa, gia đình phải là môi trường đưa chúng ta vào đời sống cầu nguyện và giúp thăng tiến đời sống thiêng liêng của chúng ta. “Hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” phải là mục đích của chúng ta!
(Huấn ca 3,3-7.14-17a; Thư Côlôsê 3,12-21; Luca 2,22-40)
Phúc Âm: Lc 2, 22-40
"Con trẻ lớn lên, đầy khôn ngoan".
Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa". Và cũng để dâng lễ vật cho Chúa, như có nói trong Luật Chúa, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu con.
Và đây ở Giêrusalem có một người tên là Simêon, là người công chính, kính sợ Thiên Chúa, và đang đợi chờ niềm ủi an của Israel. Thánh Thần cũng ở trong ông. Ông đã được Thánh Thần trả lời rằng: Ông sẽ không chết trước khi thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ ngay lúc cha mẹ trẻ Giêsu đưa Người đến để thi hành cho Người những tục lệ của Lề luật. Ông bồng Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
"Lạy Chúa, bây giờ, Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an theo như lời Chúa, vì chính mắt con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa".
Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà và nói với Maria mẹ Người rằng: "Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ!"
Lúc ấy, cũng có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm. Rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi bốn tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel. Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người. Suy Niệm:
Chúa Nhật Lễ Thánh Gia Thất
Chúng ta đọc: Huấn ca 3,3-7.14-17a Thư Côlôsê 3,12-21; Tin Mừng Luca 2,22-40 hoặc 2,22-29.39-40
Lễ Thánh Gia thất tương đối mới. Nó được thiết lập vào cuối thế kỷ 19. Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII bấy: ThánhGia ABC 234
Lễ Thánh Gia thất tương đối mới. Nó được thiết lập vào cuối thế kỷ 19. Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII bấy giờ rất quan tâm đến các vấn đề xã hội. Người thấy nhân loại đang đi vào một nền văn minh mới. Lý trí và khoa học đòi quyền tự lập và tự chủ. Ảnh hưởng đạo đức bớt dần. Và trong phạm vi gia đình, người ta đã nói nhiều đến tự do, ly dị, cởi mở... Những phong trào "gia đình công giáo" có từ thế kỷ 16 ráo riết cổ động người ta noi gương Thánh Gia thất. Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII cũng nhưn các vị kế tiếp muốn chúc phúc cho những phong trào này. Và lễ Thánh Gia Thất được thiết lập trong bối cảnh ấy.
Dĩ nhiên đời sống gia đình hiện nay có nhiều vấn đề khác với hồi cuối thế kỷ 19. Và ngày lễ Thánh Gia Thất hôm nay là dịp để chúng ta suy nghĩ về đời sống cụ thể của các gia đình chúng ta. Những vấn đề kế hoạch hóa gia đình và giáo dục gia đình mới là những đề tài chắc chắn rất hợp thời, nếu chưa muốn nói là khẩn trương. Nhưng trong Thánh lễ chúng ta không thể suy nghĩ rộng rãi. Chúng ta chỉ có thể lắng nghe Lời Chúa theo Phụng vụ để được tâm hồn đạo đức, giúp chúng ta sau đó suy nghĩ cụ thể hơn. 1. Vâng Phục Thiên Chúa
Tư cách đạo đức, mà các gia đình phải có, được ba bài đọc Kinh Thánh hôm nay nhấn mạnh. Bài sách Huấn ca có vẻ không sâu sắc và giống như nhiều bài "gia huấn ca", khuyên con cái phải thờ kính cha mẹ. Tuy nhiên nền tảng của những lời khuyên ở đây lại rất sâu. Con cái phải kính yêu cha mẹ vì Chúa; phải coi các người như Chúa, đến nỗi bỏ bê cha là lộng ngôn phạm thượng và khinh dể mẹ là chọc giận Thượng đế. Thứ đạo đức này có lỗi thời không? Rõ ràng thư Phaolô cũng có một lập trường như vậy. Thánh Tông đồ viết: con cái hãy vâng phục cha mẹ trong mọi sự vì là điều đẹp lòng Chúa. Dĩ nhiên Người cũng đã nói luôn: cha mẹ đừng để con cái trở thành khiếp đảm! Nhưng theo người, thái độ của con cái vẫn là phải vâng phục. Và ở điểm này, người đã theo sát đường lối của Phúc Âm.
Quả vậy, một trong những câu điệp khúc của các bài tường thuật cuộc đời niên thiếu của Chúa Yêsu là Người đã trở về Nadarét nơi cha mẹ Người cư trú; và Người đã lớn lên đầy khôn ngoan và ân sủng; Người đã phục tùng cha mẹ Người. Khi viết đi viết lại điệp khúc đó, Luca làm vọng lại nhiều lời Cựu Ước, đặc biệt những câu về Samson và Samuel (Tp 13,24-25; 1S 2,19.21.26). Người cũng viết về Yoan Tẩy giả một cách tương tự (1,80). Tất cả khiến chúng ta nghĩ rằng: trong khi đề cao thần tính của trẻ Yêsu, tác giả các sách Phúc Âm vẫn nhấn mạnh việc Người vâng phục cha mẹ, để nêu gương sáng cho hàng con cái trong các gia đình.
Những người này cũng hãy yên tâm. Sách Huấn ca đòi con cái đối với cha mẹ phải như nô đối với chủ (3,7); nhưng bài Tin Mừng dường như đòi bậc cha mẹ nhiều hơn. Các người phải vâng lời luật Chúa như cha mẹ Yêsu... Ðến ngày phải làm lễ thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Người đã đem trẻ Yêsu lên dâng trong Ðền thờ. Chúng ta không hiểu việc thi hành luật pháp đã đòi các người phải hy sinh thế nào. Nhưng chúng ta có thể đoán được những đau đớn tinh thần Maria phải chịu theo lời Simêon hôm nay tiên báo.
Ông và bà tiên tri Anna thuộc loại người đạo đức trong dân Israel, sống chờ đợi ngày Chúa an ủi dân Người, tức là trông mong thời đại Thiên Sai Cứu Thế. Khi được Thánh Thần cho biết trẻ Yêsu đây chính là Ðấng muôn dân trông đợi, cả hai đều sung sướng cảm tạ Thiên Chúa đã cho mình được phúc nhìn thấy ánh sáng muôn dân. Nhưng nghĩ đến trách nhiệm của những người sống trong thời đại ấy, Simêon đã lặp đi lặp lại tư tưởng của Kinh thánh, đặc biệt nhiều đoạn Isaia, trong đó Ðấng Thiên Sai không những được ca tụng như ánh sáng của muôn dân (60,1-3; 52,7-10), nhưng đồng thời cũng là tảng đá vấp ngã cho nhà Israel (8,12-15). Tâm tư mọi người sẽ phải lộ ra (Lc 2,35). Ðấu tranh, dằn vặt sẽ xảy ra nơi lòng mọi người, bó buộc người ta phải lựa chọn hoặc chấp nhận hay phủ nhận đường lối của Người.
Maria cũng không thoát được luật chung đó. Những lời của Chúa luôn luôn làm Người phải đem lòng mà suy nghĩ. Chính lúc ấy một mũi gươm đâm thâu lòng Người. Mũi gươm này không phải chỉ là lưỡi đòng khi đâm vào cạnh sườn Chúa chịu treo trên Thập giá thì cũng như chọc vào trái tim Người. Mũi gươm mà Simêon gợi lên hôm nay là mũi gươm "Lời Chúa" sống động và linh hoạt, sắc bén hơn mọi thứ gươm hai lưỡi, và đâm phập vào tận ranh giới hồn phách, gân cốt và tủy não cùng biện phân ra được tình và ý tưởng của lòng dạ (Hr 4,12). Vậy, nếu Lời Chúa đối với Ðức Maria còn sắc bén như vậy và còn đòi hỏi Người phải hy sinh đau đớn để luôn luôn đi sâu hơn vào mầu nhiệm đức tin, thì huống nữa là đối với chúng ta hết thảy! Con cái phải vâng lời cha mẹ. Nhưng cha mẹ cũng phải vâng lời Thiên Chúa. Thi hành chỉ thị này của cha mẹ đòi hy sinh. Nhưng những hy sinh của bậc cha mẹ để giữ Lời Chúa còn to lớn hơn nhiều. Và có hy sinh như thế mới là đạo đức.
Thật ra đạo đức gia đình không phải chỉ đơn sơ như vậy. Nó không phải chỉ đòi con cái vâng lời cha mẹ và cha mẹ tuân giữ Lời Chúa. Ngay bài sách Huấn ca đã giục con cái tìm cách làm đẹp lòng Chúa khi vâng lời cha mẹ; và bài Tin Mừng cho thấy Ðức Maria phải khổ vì thánh ý Chúa nơi chính trẻ Yêsu. Ðạo đức gia đình không nguyên chỉ lên thẳng từ con cái đến cha mẹ rồi tới Thiên Chúa. Nền đạo đức thật đã tỏ hiện khi chính Thiên Chúa xuống với con người như chúng ta đã suy niệm nhiều trong mùa Giáng sinh này (1Tm 3,16). Và như vậy lý do cuối cùng của nền đạo đức gia đình cũng phải sát nhập vào chiều hướng đi xuống. Nói cách khác đạo đức gia đình đòi con cái phải vâng lời cha mẹ và cha mẹ tuân giữ Lời Chúa; nhưng nó chỉ thực hiện được nếu mọi người trong gia đình biết nhận lấy lòng đạo đức mà Chúa đã ban xuống cho trần gian trong mầu nhiệm Giáng sinh, để tựa vào đó mà đi lên.
Ðó là điều mà bài thư Phaolô hôm nay muốn nói với chúng ta. 2. Hãy Mặc Lấy Ðức Mến
Thánh Tông đồ không hài lòng khi nhìn thấy nhiều người không hiểu rõ lòng đạo đức Kitô giáo. Họ tưởng đây cũng là một trong nhiều lý tưởng đạo đức. Các lời khuyên Phúc Âm về đời sống gia đình chẳng hạn bị coi như là một thứ gia huấn ca. Ðạo nào cũng dạy thờ cha kính mẹ và cha mẹ thì phải vâng mệnh trời mà sửa dạy con cái. Người ta không thấy rõ nét độc đáo và mới lạ của nền đạo đức Phúc Âm. Thế nên thánh Phaolô phải mạnh mẽ lên tiếng. Người gọi tín hữu bằng những từ ngữ chọn lọc nhất của Kinh Thánh. Họ là các thánh, là những người được tuyển chọn và là những người được Thiên Chúa yêu mến. Các danh xưng này nằm trong sách Thứ luật (7,6). Chúng là tên riêng của dân Chúa. Họ thánh không phải vì họ tốt lành, nhưng chỉ vì Ðấng thánh đã tuyển chọn và đang thánh hóa họ. Và Người làm như vậy chỉ vì yêu mến.
Họ là những người được yêu. Nhưng họ lại không sống trong tình yêu. Kinh nghiệm lưu đày đã mở mắt cho họ thấy cuộc đời bất trung bất nghĩa của họ như thế nào, đến nỗi từ ngữ dân thánh của Chúa từ nay sẽ dành để nói về dân ở thời đại thiên sai (Is 4,3). Và như vậy các tín hữu tiên khởi của Hội Thánh Chúa Kitô tự xưng là "thánh hữu" thì thật hợp lý. Nhưng khi xử dụng từ ngữ này, họ vẫn biết mình chưa thánh. Sự thánh thiện mới tỏ hiện nơi họ thôi vì Ðức Kitô đã đem sự sống sung mãn của Thiên Chúa vào thế gian. Và bổn phận của họ bây giờ là phải đón nhận lấy sự thánh thiện ấy.
Việc đón nhận này được thánh Phaolô mô tả như là một việc "mặc lấy". Người nói: anh em hãy mặc lấy lòng lân mẫn biết chạnh thương, đức nhân hậu khiêm nhu, hiền từ và đại lượng. Nghe đọc thì tưởng đó là một mới những nhân đức, ít nhiều liên hệ với nhau. Nhưng dò lại thì sẽ thấy chúng gợi lên những lời sách Xuất hành (34,6) nói đến Thiên Chúa là Ðấng "chạnh thương, huệ ái, bao dung, và đầy nhân nghĩa, tín thành". Và như vậy, thánh Phaolô muốn nói chúng ta phải mặc lấy chính những tâm tình của Chúa. Lòng đạo đức của chúng ta phải là lòng đạo đức của Người. Nếu không, nói chỉ là lòng đạo đức của loài người chứ không phải của Kitô giáo. Người tín hữu của Chúa Kitô trước khi sống, tức là hành động, đã phải cởi bỏ con người cũ và mặc lấy con người mới là chính sự thánh thiện của Thiên Chúa, để từ đó cư xử như Thiên Chúa.
Người đã bày tỏ lòng "đạo đức" của Người khi đặt ra và thi hành kế hoạch cứu thế, ban Con Một Người cho nhân loại để làm giá tha thứ và hòa giải loài người tội lỗi trở về với mình... Ðó chính là lòng "bác ái" của Thiên Chúa, mà thánh Phaolô bảo chúng ta phải mặc lấy. Nếu không, chúng ta không được tha thứ, không được thánh thiện, không được đạo đức. Nhưng nếu chúng ta mặc lấy lòng bác ái tha thứ, thì có lẽ nào chúng ta lại không biết tha thứ và chịu đựng lẫn nhau, để sống hòa hợp như trong một thân thể?
Thế là thánh Phaolô đã chỉ cho chúng ta thấy đâu là cơ sở và nền tảng của nền đạo đức Kitô giáo. Thiên Chúa đã đổ nó từ trời xuống trên chúng ta khi ban Con Một Người làm hy tế tha thứ, giao hòa và bình an. Chúng ta đón nhận lòng đạo đức ấy thì cũng phải sống tha thứ hòa hợp và hợp nhất như trong một cơ thể.
Những điều này thật hợp để nói về đời sống gia đình. Và bây giờ chúng ta thấy rõ đạo đức gia đình đối với chúng ta phải được xây dựng trên nền tảng đức mến trọn lành của Thiên Chúa. Những gia đình nào sống như vậy mới thật là những gia đình Kitô hữu và mới giống như Thánh Gia Thất Chúa Yêsu, Ðức Maria và Thánh Yuse. Nếp sống của họ bây giờ sẽ được như lời thư Phaolô viết tiếp: tất cả những gì họ nói và làm đều vì Danh Chúa Yêsu và vợ chồng, cha mẹ, con cái đều giúp đỡ nhau nên thánh thiện. Họ có nếp sống gia đình tuyệt hảo, vì lời Ðức Kitô, tức là ân sủng của Người đã ngự nơi họ dồi dào phong phú.
Thế thì hôm nay muốn thánh hóa gia đình theo gương Thánh Gia Thất, chúng ta hãy nghe lời thánh Phaolô sốt sắng cử hành Thánh lễ này. Ở đây Thiên Chúa bày tỏ lòng bác ái từ tâm đối với hết thảy chúng ta khi ban thịt máu Con của Người làm giá cứu chuộc và cứu độ chúng ta. Chúng ta hãy nhận lấy như tinh thần và sự sống mới mà chúng ta phải mặc lấy, để như Chúa đã yêu thương chúng ta thì vợ chồng, cha mẹ, con cái, được tình bác ái của Người thúc đẩy sẽ xây dựng, phát triển đời sống gia đình như Thánh Gia Thất. (Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Hôm nay, Giáo Hội giới thiệu với mọi Gia Đình Công Giáo về Gia Đình của Chúa Giêsu, Mẹ: ThánhGia ABC 235
Hôm nay, Giáo Hội giới thiệu với mọi Gia Đình Công Giáo về Gia Đình của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse. Một Gia Đình lý tưởng, gương mẫu mà mọi Gia Đình Công Giáo phải bắt chước noi theo. Gia Đình Thánh Gia đã sống thế nào để nêu gương cho mọi người noi theo, bắt chước ?
Thiên Chúa đã chọn cho Con của Ngài một hình thức thông thường nhất mà bất cứ ai muốn có mặt trên thế giới này đều phải chấp nhận một gia đình. Chúa Giêsu cũng có một gia đình. Mẹ Ngài là Maria và cha của Ngài là thánh Giuse. Thiên Chúa không muốn cho Con của Ngài từ trên trời xuống như một vị tiên giáng trần hay không như một Phù Đổng Thiên Vương vươn vai lớn mạnh, hay như một vị thần trong một câu chuyện thần thoại nào đó. Chúa Giêsu đã được Mẹ Maria cưu mang trong cung lòng trinh khiết của Mẹ do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Chúa được giáng sinh nơi hang đá máng lừa nghèo nàn vùng Bêlem...Thiên Chúa đã chọn cho Con của Ngài sinh ra trong cảnh khó nghèo để cảm thông với kiếp sống khó nghèo của đa số người.
Thiên Chúa đã ban cho Con của Ngài một gia đình lý tưởng, đạo đức, yêu thương, tôn trọng và chăm sóc, chăm lo cho nhau. Gia đình Nagiarét là Gia đình lý tưởng vì trên thuận dưới hòa, yêu thương, tôn trọng và đùm bọc nhau. Xét về mặt thiêng liêng, Chúa Giêsu là Chúa, nên Ngài lớn lao và uy quyền hơn Cha Mẹ của Ngài, nhưng trong Gia đình thánh : Chúa Giêsu luôn tôn trọng, yêu thương, vâng lời Cha Mẹ của Ngài. Ngược lại, Mẹ Maria và thánh Giuse luôn yêu thương, tôn trọng Chúa Giêsu. Cả gia đình thánh luôn luôn trên thuận dưới hòa, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau. Chính vì thế, thánh sử Luca đã ghi lại hình ảnh rất đẹp về Thánh Gia như sau : “ Và Ngài đã xuống với ông bà về Nagiarét. Và Ngài hằng tùng phục hai ông bà. Còn Mẹ Ngài thì giữ kỹ hết các điều trong lòng bà. Và Đức Giêsu cứ tấn tới thêm về khôn ngoan, vóc dạng, và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và trước mặt người ta “ ( Lc 2, 51-52 ).
Vâng, gia đình là nền tảng của xã hội và Gia đình cũng là nền tảng của Giáo Hội. Xã hội mà thiếu vắng các gia đình tốt, gia đình lành mạnh thì chắc chắn không thể có xã hội tốt đẹp được. Do đó, cuộc sống của mọi gia đình phải có đạo đức, thánh thiện thì Xã hội và Giáo hội mới tốt đẹp được. Thực tế, trên thế giới có biết bao gia đình tốt đã lưu danh muôn đời và để lại biết bao ấn tượng tốt cho nhân loại, cho mọi người. Tuy nhiên, bên cạnh các gia đình tốt vẫn còn đó đây một số gia đình xấu. Trước một thế giới văn minh, nhiều gia đình đã xuống cấp trầm trọng : nan ly dị, ly thân, trẻ em bụi đời, nạn mại dâm, phá thai, ma túy, sì ke hầu như càng ngày càng gia tăng. Trước thực trạng ấy, việc đào tạo lớp trẻ, và hướng dẫn Giáo lý Hôn nhân cần phải được quan tâm kỹ lưỡng hơn nữa. Đức cố Giáo Hoàng Piô XI đã viết : “ Nền giáo dục hữu hiệu nhất và bền bỉ nhất là nền giáo dục được nhận lãnh từ một gia đình có qui củ và khuôn phép. Những gương lành của cha mẹ và của những người trong gia đình càng chiếu tỏa và bền bỉ, thì kết quả của giáo dục càng lớn lao ‘’.
Lễ Thánh Gia hôm nay là một dịp để chúng ta tự vấn xem gia đình chúng ta như thế nào ? Gia Đình Thánh : Chúa Giêsu, Mẹ Maria, thánh Giuse có là mẫu gương sáng ngời cho mỗi gia đình chúng ta không ? Công Đồng Vaticanô II trong Hiến Chế về Giáo Hội trong thế giới ngày nay số 22 đã viết : » Bằng việc Nhập Thể của Con Thiên Chúa đã hợp nhất với mọi thành phần của nhân loại. Ngài đã làm việc với đôi tay con người, suy nghĩ với tâm trí nhân loại, hoạt động bởi sự chọn lựa, đã yêu thương với một trái tim nhân loại. Ngài sinh ra bởi trinh nữ Maria, Ngài đã thực sự là một con người ở giữa chúng ta, giống chúng ta mọi sự ngoại trừ tội lỗi...Ngài đã trình bày cho chúng ta một con đường, và nếu chúng ta đi theo con đường đó, sự sống và cái chết đã được trở nên thánh thiện và mặc cho nó một ý nghĩa mới “.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa cũng có một gia đình để sống những năm tháng ở trần gian này, xin ban cho mọi gia đình Kitô hữu luôn biết noi gương Thánh Gia để mọi gia đình trở nên nhhững gia đình thánh thiện, đạo đức và gương mẫu. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ
1.Tại sao Chúa lại chọn một gia đình để sống ? 2.Gia Đình Thánh là Gia đình thế nào ? 3.Mỗi gia đình chúng ta muốn trở nên tốt phải làm gì ? 4.Thánh Gia gồm những ai ?
Theo Tin Mừng kể lại, thì Thánh gia không phải chỉ gặp toàn những chuyện may mắn và suôn sẻ. Trái lại, ThánhGia ABC 236
Theo Tin Mừng kể lại, thì Thánh gia không phải chỉ gặp toàn những chuyện may mắn và suôn sẻ. Trái lại, thánh Giuse có lần đã tính đến chuyện tháo lui. Còn Chúa Giêsu, lúc được đưa tới đền thờ, khi còn đang ăm ngửa, đã được tiên đoán là sẽ trở thành như một lưỡi gươm đâm thâu qua cõi lòng người mẹ. Vào dịp theo cha mẹ lên đền thờ tham dự lễ Vượt Qua năm mười hai tuổi, Ngài đã là duyên cớ của những nỗi khổ tâm không cầm nén được của cha và mẹ Ngài. Có một lúc nào đó, trong khi giảng dạy, Ngài đã tuyên bố: Ngài đến không phải là để đem lại sự hòa thuận, mà là sự chia rẽ giữa các thành viên trong gia đình.
Những đoạn Phúc âm ngắn ngủi và họa hiếm về Thánh gia và về mối quan hệ thân thuộc, lại không phải là những bức họa rõ nét của một gia đình gương mẫu, hiểu theo nghĩa thông thường. Không ai có thể hồ nghi về sự thánh thiện của từng thành viên trong gia đình này. Vậy phải chăng Thánh gia không còn là gương mẫu cho các gia đình Kitô hữu nữa sao?
Hoàn toàn không phải là như vậy. Thánh gia vẫn luôn là mẫu mực cho các mối quan hệ giữa các thành viên của gia đình Kitô hữu. Thực vậy, Đức Maria vẫn một lòng tin tưởng và tôn trọng việc làm của Người Con, dù rằng có những lức Mẹ đã tỏ ra không hiểu hết tầm mức của việc làm đó. Không chỉ tôn trọng mà thôi, Mẹ còn dõi theo những bước chân Con đi, dù là những bước chân dẫn lên Núi Sọ. Còn thánh Giuse thì vẫn âm thầm lao động để tìm kiếm chén cơm manh áo, nuôi sống cả gia đình, cũng như chu toàn thánh ý của Thiên Chúa ở mọi nơi và trong mọi lúc. Còn Chúa Giêsu, Ngài đã thể hiện và hoàn tất công việc của Chúa Cha, không chỉ đối với các thành viên của gia đình ruột thịt, mà còn để mọi người trở thành anh em trong gia đình của ơn cứu chuộc.
Thánh gia là gương mẫu của một tình yêu vượt ra ngoài giới hạn của những quan hệ bình thường theo một nghĩa nào đó, vốn được gọi là tự nhiên, ruôt thịt, họ hàng, chủng tộc. Thánh Gia là gương mẫu cho một mối quan hệ đi ngược lại với óc cục bộ và sự kỳ thị, cho một lối sống gắn bó, không chỉ với những người thân quen, mà còn với hết mọi người.
Nhìn vào cuộc sống Thánh gia, chúng ta nhận ngay ra rằng: Còn có một cái gì lớn hơn cuộc sống gia đình, mà chính cuộc sống gia đình phải hướng tới. Tứ hải giai huynh đệ. Bốn bể đều là nhà. Bốn bể đều là anh em. Từ quan hệ ruột thịt tiến tới quan hệ của một huynh đệ, của một tình liên đới, của một tình đồng loại, một tình của những người con làm theo ý Chúa, hoạt động cho chính nghĩa, cho lẽ phải.
Con Thiên Chúa giáng sinh làm người, trở nên con của thánh Giuse và Mẹ Maria, để mọi người chúng ta được trở thành con Thiên Chúa và trở thành anh em với nhau.
Hằng năm, sau Lễ Giáng Sinh, Giáo Hội dành một ngày đặc biệt để kính nhớ gia đình Thánh Giuse, Mẹ: ThánhGia ABC 237
Hằng năm, sau Lễ Giáng Sinh, Giáo Hội dành một ngày đặc biệt để kính nhớ gia đình Thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu, một gia đình thánh thiện tuyệt vời để mọi gia đình khác noi theo. Lễ Thánh Gia là ngày lễ bổn mạng của các Gia đình Công giáo.
Các Bài Đọc đều hướng về gia đình. Bài Đọc I trích trong sách Huấn Ca (3,3-7;14-17) (Cũng có thể chọn Bài đọc trong sách Khởi Nguyên (15, 1-6; 21, 1-3) đề cao tình hiếu thảo của con cái đối với các bậc sinh thành, ông bà, cha mẹ. Bài Đọc II trích trong Thơ gởi tín hữu Côlôsê (3, 12-21) (Cũng có thể chọn Bài đọc trích trong Thơ Do Thái (11, 8; 11-12; 17-19): Thánh Phaolô kêu gọi mọi người trong gia đình hãy thương yêu, chịu đựng và tha thứ cho nhau; hãy lo chu toàn bổn phận giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái. Bài Phúc Âm theo Thánh Luca (2, 22-40) tường thuật về những sự việc xảy ra khi Đức Mẹ và Thánh Giuse dâng Chúa Hài Nhi vào Đền Thánh theo luật thời đó.
Ngày nay, người ta thường nói đến các khủng hoảng của gia đình. Nhiều gia đình bị tan vỡ vì tình trạng ly dị. Ở nhiều nơi, tỷ lệ các gia đình li dị có thể lên tới một nửa hay quá một nửa! Nhiều gia đình chỉ có mẹ, nhiều gia đình chỉ có cha, và các em lớn lên cảm thấy như bị ‘mồ côi’ cha hoặc mẹ. Ngoài ra, có những em phải sống trong những gia đình ‘thiếu tình thương’, cha mẹ luôn sống bất hòa, và các em mới lớn lên, tâm hồn còn đang đơn sơ thanh thản, nhưng lại luôn phải chứng kiến những xáo trộn trong gia đình, làm ảnh hưởng sâu đậm đến cả cuộc đời các em.
Vì tình trạng ly dị như vậy, nên có những đôi bạn trẻ sống chung mà không làm hôn phối, đưa đến phong trào tự do luyến ái ngoài hôn phối. Chưa kể đến phong trào kết hôn đồng tính, nam lấy nam, nữ lấy nữ. Tất cả đều tác hại vào hạnh phúc gia đình, và phương hại đến nền tảng xã hội, vì ‘gia đình là nền tảng của xã hội’.
Trước thảm trạng đó, chúng ta cần phải theo những hướng dẫn cụ thể mà Giáo Hội đã đề ra để giúp chúng ta ‘Sống Hạnh Phúc Gia Đình’ giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái, tránh được những đổ vỡ đáng tiếc. Dù trong thực tế, gia đình nào cũng phải trải qua những ‘khủng hoảng’; tuy nhiên, biết được các phương thế để đề phòng, chúng ta sẽ dễ vượt qua các khủng hoảng đó. Sau mỗi khủng hoảng, tình yêu vợ chồng sẽ gia tăng. Chính những ‘khủng hoảng’ tôi luyện tình yêu vợ chồng và giúp vợ chồng biết sống vị tha và yêu thương nhau chân thành hơn.
Theo hướng dẫn của Giáo Hội, trước khi kết hôn, các bạn trẻ cần dành thì giờ tìm hiểu và chia sẻ những dự định về tương lai lâu dài. Khi đã quyết định tiến tới hôn nhân, cần tham dự các khóa Dự bị Hôn Nhân để học hỏi những hướng dẫn của Giáo Hội và những kinh nghiệm của các bậc vợ chồng đã đi trước truyền lại. Ngoài ra, để chuẩn bị ngày rất quan trọng là ngày lãnh nhận Bí Tích Hôn Phối, đôi bạn trẻ nên đi dự một cuối tuần tĩnh tâm (Engagement Encounter) để cùng nhau cầu nguyện chung. Hơn nữa, cũng để chuẩn bị bước vào một giai đoạn rất quan trọng của đời sống hôn phối.
Mặc dù trong xã hội ngày nay, cuộc sống rất bận rộn, nhưng vợ chồng vẫn cần dành thời giờ để thương yêu và chia sẻ tình yêu với nhau, với con cái. Có những đôi vợ chồng quá lo ‘làm ăn’ mà thiếu thời giờ chia sẻ tình yêu với nhau, đến khi giầu có về của cải, thì tình yêu lại nghèo đi, và đi đến chỗ đổ vỡ đáng tiếc.
Con cái là hồng ân Chúa ban. Chúng ta hãy luôn cảm tạ Chúa, và cố gắng dành thời giờ để tìm hiểu và nâng đỡ các em, nhất là khi các em đến tuổi ‘dậy thì’. Khi các em đã khôn lớn, nên khuyến khích và giúp đỡ các em gia nhập các hội đoàn như: Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể, Hướng Đạo Sinh Công Giáo, các Ca Đoàn… Một điều rất tốt là chính cha mẹ cũng hăng hái tích cực tham dự các sinh hoạt phụng vụ hoặc truyền giáo của giáo xứ. Rất may, là hiện nay Giáo Xứ nào, Cộng Đoàn Công Giáo nào cũng có những sinh hoạt đoàn thể khác nhau và có nhiều người tham gia.
Có nhiều khó khăn trong đời sống gia đình, vì thế chúng ta cần cầu nguyện nhiều với Chúa qua những buổi cầu nguyện chung trong gia đình, các giờ cùng đi dâng Thánh lễ cuối tuần hay những ngày lễ quan trọng theo lịch Phụng vụ của Giáo Hội, hoặc những kỷ niệm đặc biệt của gia đình.
Hằng năm, các gia đình nên tích cực tham dự các buổi tĩnh tâm do Giáo Xứ hay Cộng Đoàn tổ chức, thường là vào Mùa Chay và Mùa Vọng. Ngoài ra cũng có những buổi Tĩnh Tâm, Hội Thảo dành riêng cho các bậc vợ chồng (Marriage Encounter) được tổ chức tại các Trung Tâm Tĩnh Tâm của các Giáo Phận. Đây là những dịp rất tốt để ‘Canh Tân’ đời sống bản thân và gia đình, đem lại một sức sống mới hạnh phúc hơn cho vợ chồng và gia đình chúng ta.
Mỗi gia đình cần có Bàn Thờ gia đình ở nơi trang trọng trong nhà, là nơi gia đình cùng cầu nguyện chung. Chúng ta cũng cần dành một ngân khỏan hàng năm để mua sách và báo chí đạo, các băng nhạc đạo, các ‘video’ đạo để nuôi dưỡng đời sống tâm linh của gia đình. Tất nhiên, gia đình nào cũng cần có Sách Kinh Thánh. Cha mẹ và con cái cần tìm hiểu và cầu nguyện bằng Kinh Thánh, vì Kinh Thánh là nền tảng của Đạo Thánh Chúa, nhờ đó chúng ta mới có một Đức Tin vững chắc. Điều rất mừng là ngày nay có nhiều những khóa học hỏi về Kinh Thánh do các Hội Đoàn hoặc Giáo Xứ tổ chức, và có nhiều người tham dự.
Trong ngày Lễ Thánh Gia, bổn mạng của gia đình, ngoài việc cùng nhau đi dâng Thánh Lễ, chúng ta nên dành nhiều giờ cầu nguyện hơn trong gia đình. Nếu có thể, nên có bữa ăn chung đặc biệt, và buổi cầu nguyện chung vào buổi tối. Xin Chúa thánh hóa gia đình chúng ta. Xin cho người chồng biết noi gương can đảm của Thánh Giuse, luôn sống đời sống đạo đức, làm gương cho vợ con, can đảm chấp nhận Thánh ý Chúa trong mọi hoàn cảnh. Xin cho người vợ biết noi gương Mẹ Maria: luôn biết hy sinh cho chồng, cho con, chung thủy trong tình yêu, chung tay xây dựng gia đình và giáo dục con cái. Xin cho các bạn trẻ đang lớn lên, biết noi gương Chúa Giêsu ở Nagiaret, chăm chỉ làm việc, học hành, khéo léo cư xử với cha mẹ và lắng nghe những hướng dẫn của cha mẹ là những người cả cuộc đời hy sinh cho con cái, và luôn muốn giáo dục con cái nên những người con ngoan, những người con tốt cho gia đình và xã hội.
Xin Chúa chúc lành cho mỗi gia đình chúng ta, để mỗi gia đình Công Giáo luôn là những gia đình được sống hạnh phúc trong tình yêu Chúa, thành thực yêu thương phục vụ nhau, cùng nhau xây dựng những gia đình hạnh phúc, những gia đình gương mẫu, và góp phần vào việc xây dựng và bảo vệ gia đình nhân loại đang gặp nhiều khủng hoảng hiện nay.
Gia đình chiếm một vị trí rất quan trọng trong nền văn hóa Á Châu" (Giáo hội tại Á châu:1999). Nét đặc: ThánhGia ABC 238
"Gia đình chiếm một vị trí rất quan trọng trong nền văn hóa Á Châu" (Giáo hội tại Á châu:1999). Nét đặc sắc của văn hóa dân tộc cũng phát xuất từ gia đình. Thành công hay thất bại cá nhân thường tùy thuộc vào gia đình. Do đó không thể không xét đến vai trò gia đình trong những liên hệ tới cá nhân, xã hội và Giáo hội.
Nhưng làm sao có thể thấy được tất cả mọi ngõ ngách cuộc sống gia đình, nếu không nêu lên được một lý tưởng gia đình ? Còn lý tưởng nào cao đẹp hơn Thánh Gia, nơi chính Con Thiên Chúa đã được dưỡng nuôi, giáo dục và trưởng thành ? Chính Người đã thánh hóa đời sống gia đình và biến Thánh gia thành nguồn suối tuôn trào ơn cứu độ cho toàn thể gia đình nhân loại.
THEO BƯỚC THÁNH GIA
Một cảnh thật đầm ấm, Thánh gia quây quần trong đền thờ. "Cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người"(Lc 2:27). Tinh thần vâng phục lề luật được thể hiện rõ ràng, vì cha mẹ Người đã nhìn thấy thánh ý Thiên Chúa trong tập tục thánh đó.
Khi tiến vào đền thánh để thi hành lề luật, Thánh gia đã đem cả hai giao ước tới điểm cánh chung. Chính trong việc vâng lời lề luật của Thánh gia, Cựu ước đã đạt tới mức viên mãn. Đồng thời một chế độ Tân ước đã mở ra với những nét khai phóng. Nét mới lạ ở đây tập trung quanh những nhân vật chính là Chúa Giêsu, Đức Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse. Tất cả Thánh gia đã được cụ già Simêon đón tiếp vào trong đền thờ Thiên Chúa như những thượng khách, hơn nữa như những nhân vật chính sẽ mở ra một kỷ nguyên mới cho nhân loại. Từ nay đền thờ sẽ mang một khuôn mặt mới, vì chính Đấng thánh hóa đền thờ đã ngự đến.
Tất cả những lời cụ già Simêon đều liên quan tới sứ mạng hai Mẹ Con sẽ thực hiện cho toàn thể nhân loại. Simêon vui sướng vì đã được thấy tất cả chiều kích lớn lao của ơn cứu độ : "Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân. Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, Là vinh quang của Israel Dân Ngài." (Lc 2:30-32) Vinh quang đó chính là "ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người", nhưng thế gian lại không nhận biết Người. "Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận." (Ga 1:10 -11) Đó chính là bi kịch Simêon tiên báo với cha mẹ Đức Giêsu : "Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng." (Lc 2:34) Thánh giá đã giãi bóng vào đền thờ. Nếu không có Thánh giá, ơn cứu độ cũng chẳng đến với muôn dân. Thánh gia cùng chia sẻ Thánh giá khi lời tiên tri hướng thẳng về Mẹ : "Còn chính bà, thì một lưỡi gươm đâm thâu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra."(c.35)
Chính nhờ sự cộng tác chặt chẽ với Đức Giêsu, Thánh gia đã góp phần lớn lao vào công cuộc cứu độ muôn dân. Khó khăn lớn nhất trong công cuộc lớn lao đó chính là dưỡng dục Hài nhi Giêsu để làm sao "ngày càng lớn lên thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa."(c.40) Cha mẹ đã vâng phục "như Luật Chúa truyền,"(c.39) và đã uốn nắn Hài Nhi theo đúng tinh thần con cái Chúa. Nhờ vậy, suốt đời Đức Giêsu mới luôn vâng theo thánh ý Chúa Cha. Đó chính là hoa trái tốt đẹp nhất của gia đình. Nhìn thấy Đức Giêsu ngày càng trưởng thành trong ân sủng như thế, cha mẹ Người chắc chắn phải hài lòng và thầm cảm tạ Thiên Chúa. Cha mẹ Người đã tìm thấy được tất cả ý nghĩa cuộc đời trong thành quả lớn lao đó. Mồ hôi, nước mắt đổ ra không uổng công. Chắc hẵn nhiều lần, cũng như bà tiên tri Anna, cha mẹ Người cũng "nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem."(c.38)
GIÁO HỘI TẠI GIA
Dõi vết chân Thánh gia, "các gia đình Kitô hữu ngày nay được kêu gọi làm chứng cho Tin Mừng." (Giáo hội tại Á châu:1999) Nhưng muốn thi hành được sứ mạng cao cả đó, trước hết gia đình phải được thánh hóa trong sự thật. Nghĩa là "gia đình Kitô hữu, cũng như Giáo hội nói chung, phải là một nơi mà chân lý Tin Mừng là luật sống và là ân huệ mà các phần tử gia đình mang đến cho cộng đồng rộng lớn hơn."(GHTAC:1999) Tin Mừng chỉ thực sự trở thành động lực thúc đẩy gia đình dấn thân, khi mọi người đều được Phúc Aâm hóa. Thánh Phaolô khuyên : "Anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Anh em hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết đức tính, anh em phải có lòng bác ái : đó là mối dây liên kết tuyệt hảo."(Cl 3:12-14) Đây không phải chỉ là những đức tính nhân bản. Vì chính nhờ Thánh gia, những đức tính ấy đã trở thành nguồn ơn cứu độ cho muôn người.
Một đức tính nổi bật nhất trong khung cảnh gia đình, đó là lòng hiếu thảo. Đức Giêsu đã là một đứa con ngoan khi vâng lời cha mẹ giữ tất cả những điều luật lệ và cha mẹ truyền. Nếu không, chắc chắn Người đã không thể trưởng thành như vậy. Người ý thức rất rõ "luân lý Do thái đề cao việc thảo kính cha mẹ. Mệnh lệnh này trổi bật trong mười điều răn, tiếp ngay sau giới răn mến Chúa và trước các liên hệ với tha nhân."(Ex 20:12; Đnl 5:16) (Faley:1994) Luân lý đó rất phù hợp với thiên nhiên và phong tục của các dân tộc Á châu, trong đó có Việt Nam. Thật vậy, "các giá trị gia đình như lòng hiếu thảo, tình yêu và sự chăm sóc kẻ già và bệnh hoạn, tình yêu trẻ con và sự hài hòa, đều được quý trọng nhiều trong tất cả các nền văn hóa và truyền thống tôn giáo Á châu."(GHTAC:1999)
Cha mẹ chiếm một chỗ đứng thật quan trọng trong cuộc sống, con tim và truyền thống Việt Nam. Chữ hiếu không bao giờ lỗi thời, vì không bao giờ có thể quên : “Công cha như núi Thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.”
Chính khi thi hành đạo hiếu, chúng ta làm đẹp lòng Thiên Chúa và "sống ơn gọi Kitô hữu cách khiêm tốn và trong tình yêu."(GHTAC: 99) Cha mẹ trở thành điểm gặp gỡ giữa đất trời, điểm qui tụ "Giáo hội tại gia"(LG 11) Thực vậy cha mẹ có thể "cử hành những nghi lễ xứng hợp do cha mẹ chủ sự" và "tạo dịp thuận tiện để cầu nguyện, đọc và suy niệm Kinh Thánh." (GHTAC:1999) Đó là những lúc giáo dục tốt nhất vì "điều đó sẽ giúp gia đình Kitô hữu trở nên tổ ấm Tin Mừng hóa, nơi mỗi phần tử kinh nghiệm tình yêu Thiên Chúa và truyền sang cho người khác."(GHTAC: 99) Sức mạnh gia đình càng tăng triển khi liên kết với sinh hoạt giáo xứ, "chia sẻ các bí tích, nhất là bí tích Thánh thể và Sám hối, và dấn thân phục vụ người khác." (GHTAC:99)
Giáo hội đang quan tâm rất nhiều tới gia đình, vì "gia đình là một trong những thành viên hữu hiệu nhất trong việc rao giảng Tin Mừng", và vì "tương lai thế giới và Giáo Hội thông qua gia đình."(GHTAC:99) Nhờ gia đình, ngay cả trẻ em cũng có thể trở thành những tông đồ tí hon xây dựng Nươc Chúa. Thực vậy, "các trẻ em có vai trò trong việc rao giảng Tin Mừng, vừa ở gia đình của chúng vừa ở trong cộng đồng rộng lớn hơn."(GHTAC:99) Biết bao cha mẹ đã trở lại vì con cái . . . Lm. Đỗ Vân Lực, OP
Nói đến gia đình là phải nói đến tình yêu, vì thiếu tình yêu thì gia đình là một thảm kịch. Tình: ThánhGia ABC 239
Nói đến gia đình là phải nói đến tình yêu, vì thiếu tình yêu thì gia đình là một thảm kịch. Tình yêu là phẩm chất của Thiên Chúa tràn lan xuống mọi loài thụ tạo Người dựng nên. Dĩ nhiên gia đình cũng phải là nơi tích tụ tình yêu ấy, để gia đình sống, tồn tại, phát triển và tiếp nối công cuộc tạo dựng của Thiên Chúa. Tình yêu có nhiều đặc tính. Tuy nhiên Phụng vụ Lời Chúa hôm nay muốn trình bày tình yêu qua một khía cạnh độc đáo: tình yêu đòi hỏi và biểu lộ sự hy sinh.
1. Hy sinh trong niềm tin yêu Thiên Chúa của ông Áp-ra-ham (bài đọc Cựu Ước – St 15:1-6; 21:1-3)
Ông Áp-ra-ham được mệnh danh là cha của đức tin, vì ông là tổ phụ gương mẫu về lòng tin vào Thiên Chúa. Tin, yêu và cậy trông là những điều gắn liền với nhau. Lòng tin nảy sinh đức mến và cậy trông. Lòng tin này đã thôi thúc Áp-ra-ham yêu mến và phó thác mọi sự cho Chúa. Vì yêu mến và phó thác, ông Áp-ra-ham đã chấp nhận hy sinh tất cả để làm theo thánh ý Chúa, vì Người đã hứa với ông: “Hỡi Áp-ram, đừng sợ, Ta là khiên che thuẫn đỡ cho ngươi; phần thưởng của ngươi sẽ rất lớn” (St 15:1). Không chỉ cá nhân ông mà thôi, nhưng ông Áp-ra-ham còn đưa tất cả gia đình của ông đi vào mối quan hệ yêu mến với Thiên Chúa. Ta cứ nhìn vào việc ông rời bỏ quê cha đất tổ, đem gia đình đi đến một nơi nào đó Thiên Chúa sẽ cho ông biết, thì sẽ thấy lòng yêu mến Đức Chúa của ông lớn lao đến chừng nào.
Là một đại gia vùng đất Ur, ông Áp-ra-ham có một gia nghiệp rất lớn, cùng với tiếng tăm thế giá của ông. Cơ ngơi của ông là từng đoàn gia súc không sao đếm xuể, đồng cỏ mênh mông, nhà cao cửa rộng, tôi trai tớ gái cả đoàn. Vậy mà ông dám bỏ hết, ra đi với đoàn tôi tớ thân cận nhỏ bé và hành trang lên đường là gì nếu không phải lòng tin yêu Thiên Chúa. Theo bản chất con người, ông cũng thấy e ngại trong cuộc hành trình này chứ. Nhưng Thiên Chúa trấn an ông: “Hỡi Áp-ram, đừng sợ, Ta là khiên che thuẫn đỡ cho ngươi”.
Gắn bó với Chúa nên ông Áp-ra-ham có mối quan hệ yêu mến rất thân mật với Chúa. Ông có thể thân thưa với Chúa như đứa con thủ thỉ với cha mình. Một ngày kia sau khi đã định cư tại đất hứa Ca-na-an và chiến thắng vua Cơ-đô-la-ô-me, ông Áp-ra-ham nhìn lại hành trình đức tin của ông. Ông đã hy sinh tất cả vì lòng yêu mến Chúa; đáp lại, Chúa hứa ban cho ông “phần thưởng rất lớn”. Phần thưởng gì đây mà vẫn chưa thấy đâu? Hiện giờ tại đất hứa, ông cũng đã tạo lập lại cơ nghiệp. Ông chỉ còn thiếu một điều, là có con cái nối dõi và thừa hưởng gia tài. Nhưng đó là điều không thể, vì ông bà đều già lão không thể sinh con đẻ cái được nữa. Vì thế ông thưa Chúa: “Chúa coi, Chúa không ban cho con một dòng dõi; và một gia nhân của con sẽ thừa kế con”. Ông có ý nói với Chúa rằng: Đấy, Chúa xem, con đã vì yêu mến Chúa, hy sinh mọi sự để làm theo ý Chúa. Chẳng lẽ hy sinh của con không mang lại kết quả gì hay sao? Nhưng Chúa khẳng định hy sinh của ông sẽ sinh hoa kết trái, đó là dòng dõi ông sẽ đông đúc như sao trời (St 15:5). Thực vậy, nhờ ơn Chúa thương, “bà Xa-ra có thai và sinh cho ông Áp-ra-ham một con trai khi ông đã già, vào thời kỳ Thiên Chúa đã hứa” (St 21:2).
2. Hy sinh trong tình yêu gia đình của ông Áp-ra-ham (bài đọc Tân Ước – Dt 11:8.11-12.17-19)
Sự hiện diện của đứa con I-xa-ác là phần thưởng cho những hy sinh trong tình yêu mến của ông Áp-ra-ham và bà Xa-ra đối với Thiên Chúa. Gia đình Áp-ra-ham từ nay vui vẻ hạnh phúc biết chừng nào nhờ có tiếng trẻ vui đùa líu lo. Tuy sinh được I-xa-ác là niềm vui, nhưng gia đình Áp-ra-ham cũng có không biết bao nhiêu phiền phức. Lớn tuổi mà phải chăm sóc con thơ đâu phải dễ dàng. Với những bậc cha mẹ bình thường, yêu con đã đòi hỏi biết bao hy sinh thì ông bà Áp-ra-ham chắc chắn còn phải chịu nhiều hy sinh hơn nữa. Ta không thể đo lường được lòng hy sinh của họ, nhưng Chúa có cách để ta biết được lòng hy sinh của họ.
Thiên Chúa ban cho gia đình Áp-ra-ham chỉ một đứa con là I-xa-ác. Giờ đây Người lại bảo ông phải đem I-xa-ác lên núi để sát tế mà tỏ lòng tôn kính Người. Thật là mệnh lệnh quái ác không sao hiểu nổi! Nếu ông Áp-ra-ham không có lòng mến Chúa đích thực, ông sẽ chẳng nghe theo mệnh lệnh vô lý ấy. Rồi vợ ông là bà Xa-ra lại càng khó xử hơn. Lòng mẹ yêu con như biển Thái Bình đâu có thể để đứa con một của ông bà phải chịu chết như vậy. Cho nên khi bà theo quyết định của chồng mà trao con cho ông đưa lên núi sát tế, thì đủ biết sự hy sinh của bà thật lớn lao. Tình yêu càng lớn lao hy sinh càng cao cả. Bà chấp nhận hy sinh là vì yêu mến Chúa và yêu thương ông Áp-ra-ham. Chắc chắn ông Áp-ra-ham và bà Xa-ra đã khích lệ nhau hãy yêu mến Chúa và phó thác nơi Người. Do lòng mến, ông tin Chúa sẽ có giải pháp. Nếu Chúa có quyền năng biến sự già nua son sẻ của ông bà thành sự sống mới là I-xa-ác, thì Người cũng có thể làm cho một I-xa-ác đã chết được trỗi dậy. Quả thực Thiên Chúa đã có giải pháp. I-xa-ác đã được trao lại nguyên vẹn cho Áp-ra-ham như một phần thưởng lớn lao trong cuộc Thiên Chúa thử thách lòng hy sinh yêu mến của gia đình ông.
Hy sinh trong tình yêu gia đình ngày nay có lẽ là bài học khó nhất. Người ta nói lời yêu thương dễ dàng lắm, nhưng khi phải chấp nhận một vài hy sinh để biểu lộ yêu thương thì người ta lại không làm được. Ông chồng hút thuốc hứa lèo với vợ không biết bao nhiêu lần rồi. Đã không biết hy sinh bỏ thuốc hoặc bớt đi, mà đôi khi còn lên mặt tuyên bố xanh rờn thà bỏ vợ chứ không bỏ thuốc! Bà vợ tối ngày lê la xốp-binh, tốn không biết bao nhiêu tiền cho quần áo nữ trang, chẳng cần biết hy sinh là gì, mặc dù thấy chồng ngắc ngư hết gióp chính đến gióp phụ! Có biết bao hy sinh lớn nhỏ vợ chồng con cái trong gia đình có thể thực hiện để tỏ lòng yêu thương nhau. Quét cái nhà, rửa cái chén, lau nhà vệ sinh, tránh một lời nói nặng, ráng ăn một món mình không ưa thích lắm… Hàng trăm điều nhỏ nhặt hằng ngày như thế sẽ là hàng trăm cơ hội để nói lên lòng yêu thương nhau, là hàng trăm cơ hội để dẹp đi lòng ích kỷ. Hy sinh là thước đo tình yêu vậy.
3. Trong Thánh Gia Thất, Chúa Giê-su là tột đỉnh của hy sinh (bài Tin Mừng – Lc 2:22-40)
I-xa-ác là hiến lễ hy sinh của gia đình Áp-ra-ham, thì Chúa Giê-su là hiến lễ hy sinh của gia đình thánh cả Giu-se và Mẹ Ma-ri-a dâng lên Thiên Chúa. Câu truyện Hài Nhi Giê-su được tiến dâng cho Thiên Chúa diễn tả khởi đầu cuộc đời hoàn toàn hy sinh cho sứ mệnh cứu độ nhân loại của Người. Ông Si-mê-ôn được Thánh Thần thúc đẩy, lên Đền Thờ vào lúc làm lễ tiến dâng Hài Nhi Giê-su cho Thiên Chúa. Ông đã nói tiên tri về những hy sinh Hài Nhi và Mẹ Ma-ri-a phải chịu. “Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà” (Lc 2:34-35).
Thánh Gia Thất là trường đào luyện lòng hy sinh. Cả ba người trong Thánh Gia Thất đều học hỏi, khích lệ nhau sống hy sinh cho người khác. Sở dĩ gia đình thánh ấy hạnh phúc và thương yêu nhau, vì mọi người đều hiểu ý nghĩa hy sinh và sống hy sinh cho nhau. Mọi người đi tìm hy sinh để tỏ lòng yêu thương người khác. Nếu tại đó họ không tập luyện hy sinh thì không thể nào có được một Giê-su chấp nhận cái chết nhục hình trên thập giá và một Ma-ri-a thầm lặng đứng dưới chân thập giá mà không một lời oán trách. Nếu không có trường Na-da-rét dạy họ sống hy sinh thì nhân loại sẽ chẳng được hưởng nhờ ân phúc của những giọt máu Đấng Cứu Độ đổ ra trên thập giá.
Kết thúc câu truyện Tin Mừng dâng tiến Hài Nhi trong Đền thờ, thánh sử Lu-ca để lại một hình ảnh tuyệt vời: “Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2:40). Con người Giê-su được phát triển về mọi mặt, để chuẩn bị cho sứ mệnh cao cả Người sẽ thi hành mai sau. Trí tuệ, đạo đức, ý chí và lòng hy sinh can đảm là những nhân tố giúp Người chu toàn sứ mệnh cứu độ ở trần gian. Tuy nhiên, Người đạt được tất cả những điều đó là nhờ được đào tạo trong môi trường Thánh Gia Thất.
Gia đình thời nay, nhất là tại những quốc gia văn minh, thường được đào tạo một cách khoa học thay vì đạo đức. Người ta chú trọng đến khoa tâm lý và những kỹ thuật làm cho người khác hài lòng hơn là nhấn mạnh đến ý nghĩa hy sinh của tình yêu thương đích thực. Con cái trong gia đình không được dạy dỗ đủ về ý nghĩa của hy sinh. Trái lại, người ta quá đề cao và tôn trọng cái tôi của con cái đến độ không dám thẳng thắn nói cho con cái biết chúng phải tập sống hy sinh cho người khác. Tính ích kỷ của con cái đã được nuôi dưỡng ngay trong gia đình chúng rồi. Hơn lúc nào hết, ta nên trở về với cuộc sống của Thánh Gia Thất để học hỏi ý nghĩa hai chữ hy sinh nếu muốn hiểu tình yêu đích thực là gì. Hy sinh là cách tốt nhất và thực tế nhất để biểu lộ tình yêu. Chúa Giê-su không cần mở miệng nói: Thầy yêu thương anh em lắm, anh em biết không? Nhưng Người giang hai tay trên thập giá ôm lấy toàn thể nhân loại để nói lời yêu thương lớn lao của người sẵn sàng hiến mạng sống mình vì bạn hữu (Ga 15:13).
4. Sống Lời Chúa
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nói đến hy sinh trong tình yêu. Làm sao ta tập sống hy sinh nếu không học ngay trong gia đình là trường đào tạo tình yêu. Gia đình thánh của ba Đấng, Giu-se, Ma-ri-a và Giê-su là trường học lý tưởng, nơi đó tinh thần hy sinh là môn học chính giúp ta hiểu ý nghĩa đích thực của tình yêu. Ta đã quen tai nghe nói đến Chúa Giê-su hy sinh hiến tế thân mình trên thập giá mà quên mất rằng để sống hy sinh như vậy, Người đã phải học tập dưới sự dạy dỗ của cha mẹ bao năm trời mới đạt tới tột đỉnh của hy sinh trên thập giá. Thánh Gia Thất là gương mẫu về mọi mặt, nhưng với Lời Chúa hôm nay, ta được mời gọi học lấy hai chữ hy sinh để làm phương thức biểu lộ tình yêu đích thực với Chúa và anh chị em.
Suy nghĩ: “Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa”. Hình ảnh phát triển con người vẹn toàn này có là một dấu hỏi cho bổn phận của tôi, bậc làm cha mẹ hay con cái không? Là cha mẹ, tôi đã thiếu bổn phận giáo dục con cái và làm gương sáng? Là con cái, tôi đã không nghe lời dạy dỗ của cha mẹ? Chúng tôi mở miệng là “I love you”, “Anh yêu em”, “Em yêu anh” “Con thương ba má lắm”. Nhưng tôi có dám hy sinh không, dù là những hy sinh nho nhỏ?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã muốn đề cao Thánh Gia như tấm gương xán lạn để mọi người bắt chước. Xin làm cho chúng con cũng biết noi gương để ăn ở đúng lễ nghĩa gia phong, sống đùm bọc lẫn nhau trong tình yêu mến, hầu được chung hưởng niềm an vui vĩnh cửu trong nhà Chúa trên trời. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, lễ Thánh Gia Thất).
Giờ đây chúng ta cùng nhau dừng lại để tìm hiểu về những nhân vật qua đoạn Tin Mừng vừa nghe: ThánhGia ABC 240
Giờ đây chúng ta cùng nhau dừng lại để tìm hiểu về những nhân vật qua đoạn Tin Mừng vừa nghe.
Trước hết là Chúa Giêsu
Từ thuở thơ ấu, ngay cả khi chưa nói được, Chúa Giêsu đã hoàn tất các lời Thánh Kinh. Hôm nay Ngài thực hiện lời hứa đã được ban cho Đaniel, Malakia và nhiều tiên tri khác. Hôm nay trong con người hài nhi Chúa Giêsu, chính Thiên Chúa trở lại cung thánh đã bị bỏ phế của Ngài. Dù tội của Israel có thế nào chăng nữa, Thiên Chúa vẫn trung thành với lời mình đã hứa. Sự bất trung của Israel chỉ làm trì hoãn việc thực hiện các lời hứa ấy chứ không thể huỷ bỏ chúng được.
Trong cuộc đời chúng ta cũng thế. Ngày chúng ta được rửa tội, Thiên Chúa đã nhận chúng ta làm nghĩa tử. Mặc dù chúng ta có lắm bất trung, Ngài vẫn không khi nào ruồng rẫy. Mặc dù chúng ta có xua đuổi Ngài ra khỏi cung lòng chúng ta, Ngài vẫn tìm mọi cách giúp đỡ chúng ta ăn năn sám hối. Hôm nay, chúng ta hãy mở rộng cung thánh tâm hồn chúng ta cho Ngài, hãy mời Ngài đến ở mãi trong cuộc đời chúng ta, để rồi chúng ta sẽ trở nên ánh sáng chiếu soi cho những người chúng ta gặp gỡ trên vạn nẻo đường đời.
Tiếp đến là Maria và Giuse
Các Ngài đã chấp nhận chu toàn mọi lề luật. Các Ngài vâng phục đến độ còn thi hành thói quen đạo đức là trình dâng con trai đầu lòng tại đền thánh, một điều luật không đòi hỏi. Sở dĩ các Ngài đã đi quá lề luật như thế là vì các Ngài đã tuân phục với tình yêu chứ không vì sợ hãi. Riêng Mẹ Maria là thụ tạo tinh tuyền nhất của nhân loại, đã khiêm tốn chấp hành nghi thức thanh tẩy. Phần chúng ta là những kẻ bị tội lỗi làm cho trở nên xấu xa, chúng ta hãy khiêm tốn lãnh nhận bí tích Cáo giải để tâm hồn được thanh tẩy.
Sau khi nghe ông già Simêon nói về hài nhi Giêsu, hai ông bà đã ngạc nhiên. Sở dĩ như vậy vì các ngài chưa hoàn toàn thấu triệt mầu nhiệm sâu xa che phủ trên Con mình. Dù được sống thân mật với Chúa Giêsu, các ngài vẫn phải tiến tới trong đức tin. Nhưng đức tin các ngài luôn được đào sâu, vì các ngài suy gẫm trong lòng. Đối với chúng ta, cũng chẳng có gì lạ, nếu chúng ta không hiểu hết được những mầu nhiệm của Thiên Chúa. Dù qua hai mươi thế kỷ, Giáo Hội vẫn luôn tiếp tục đào sâu mầu nhiệm Đức Kitô. Nơi Đức Kitô, đức tin của chúng ta cũng phải triển nở và lớn lên trong sức mạnh và ơn sủng. Đức tin của chúng ta chính là sự tăng trưởng liên tục của Đức Kitô trong tâm hồn chúng ta.
Sau hết là ông Simêon và bà Anna
Chúa Thánh Thần đã ở trên ông Simêon, mạc khải cho ông biết Đấng Messia trước khi qua đời, thúc đẩy ông vào đền thờ chờ đón Hài Nhi Giêsu đến. Đối với chúng ta cũng vậy, chúng ta có thể sống dưới sự hoạt động của Chúa Thánh Thần cách thường xuyên, nếu chúng ta ở trong ơn nghĩa và biết chăm chỉ tuân theo những thúc đẩy bên trong của Ngài. Chúa Thánh Thần cũng có thể trở nên trong chúng ta một nguồn ánh sáng giúp chúng ta hiểu rõ hơn đức tin và bổn phận của chúng ta. Ngài đem đến một nguồn sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta can đảm sống đời sống chứng nhân cho Thiên Chúa.
Simêon và Anna đã suốt đời chờ mong Đức Kitô. Với chúng ta họ là những tấm gương hy vọng và trung tín. Lòng trung tín của họ đã được ân thưởng. Họ đã được niềm vui bồng ẵm trên tay ánh sáng dân ngoại, vinh quang Israel, là chính Chúa Giêsu. Trong mùa Giáng sinh này, chúng ta cũng hãy chuẩn bị và đón nhận hồng ân Thiên Chúa trong sự trung tín đợi chờ và đón nhận nó với tất cả tâm tình biết ơn ơn Simêon và Anna ngày xưa.
Vào ngày thành hôn của anh chị Trung và Hiếu, một người bạn của đôi vợ chồng nầy tặng cho: ThánhGia ABC 241
Vào ngày thành hôn của anh chị Trung và Hiếu, một người bạn của đôi vợ chồng nầy tặng cho đôi tân hôn bức tranh thánh gia thất Nadarét. Cuối bức ảnh có ghi dòng chữ: "Mến tặng thánh gia Trung-Hiếu. Cầu chúc thánh gia của Anh Chị nên giống thánh gia thất của Chúa Giêsu".
Sau khi bức tranh nầy được treo lên tường, có người lên tiếng phê bình:
Tại sao lại viết là "thánh gia Trung-Hiếu"? Chỉ có một thánh gia thất duy nhất là thánh gia của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh cả Giuse, chứ làm gì có cái gọi là "thánh gia Trung-Hiếu". Viết như thế chẳng phải là làm giảm giá trị của thánh gia Nadarét sao?
Thế là từ lúc đó, nổ ra một cuộc tranh luận giữa hai nhóm có ý kiến đối lập ngay giữa tiệc cưới. Cuộc tranh luận rất sôi nổi và khá ồn ào vì hai phe đều tìm đủ mọi lý lẽ để biện minh cho quan điểm của mình. Để tiết kiệm thời gian, tôi xin gom lại những lý lẽ chính của đôi bên.
Nhóm bài bác cho rằng gia đình kitô hữu không thể gọi là thánh gia vì:
Thứ nhất, gọi như vậy là làm giảm giá trị của thánh gia thất Chúa Giêsu. Xưa nay, Giáo Hội chỉ dùng hai từ thánh gia để chỉ thánh gia Nadarét của Chúa Giêsu mà thôi.
Thứ hai, không ai chối cãi Chúa Giêsu, Mẹ Maria, thánh cả Giuse thật sự là ba đấng thánh. Gia đình nầy gồm có ba đấng thánh nên mới được gọi là thánh gia. Còn gia đình các kitô hữu gồm những người phàm, làm sao gọi là thánh gia được?
Nhóm ủng hộ bảo rằng: Gia đình các kitô hữu cũng là thánh gia vì các lý do sau đây:
Thứ nhất, bất cứ ai đã lãnh nhận bí tích thánh tẩy đều đã được thánh hiến, được trở nên thánh. Họ là thánh vì bí tích thánh tẩy làm cho họ trở nên chi thể của Đấng rất thánh là Chúa Giêsu. Thánh Phao-lô ngày xưa chẳng gọi các kitô hữu tại Cô-rinh-tô, Rô-ma, Ga-lát... là thánh đó sao?
Thứ hai, Chúa Giêsu đã lập bí tích hôn phối để thánh hiến đời sống gia đình, nâng gia đình kitô hữu lên một tầm cao mới.
Thứ ba, Công Đồng Vatican II gọi gia đình là Hội Thánh thu nhỏ (Hội Thánh tại gia) (xem LG 11, giáo lý công giáo 1656) và Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II cũng thường gọi gia đình là Hội Thánh tại gia. Gọi như thế có khác gì gọi gia đình kitô hữu là thánh gia?
Thứ tư, theo giáo lý công giáo số 1657, gia đình "là nơi thể hiện đặc biệt chức tư tế cộng đồng của người cha, người mẹ, con cái và mọi phần tử trong gia đình", "là cộng đồng ân sủng và cầu nguyện, là trường học phát triển các đức tính tự nhiên và đức mến Kitô giáo" (Glcg số 1666)
Ngoài ra, xét theo khía cạnh mục vụ, một khi các kitô hữu ý thức rằng gia đình mình đúng thật là thánh gia, họ sẽ cố công xây dựng gia đình sao cho xứng đáng với danh hiệu đó. Thế là những tệ nạn thường xảy ra trong đời sống gia đình có nhiều cơ may được xoá bỏ và những phẩm chất xứng hợp với một thánh gia sẽ được phát huy.
* * *
Khi xây dựng một ngôi nhà, chúng ta cần một bản thiết kế thật hoàn chỉnh hay ít ra cần dựa vào một ngôi nhà đẹp mà chúng ta ưa thích để dựa theo đó mà xây ngôi nhà của mình.
Hôm nay, nhân lễ kính thánh gia thất của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh cả Giuse, Thiên Chúa muốn chúng ta nhìn ngắm lại một kiệt tác gia thất của Người, do chính Người xây dựng với sự hợp tác của thánh Giuse và Mẹ Maria và mời gọi chúng ta hãy xây dựng gia đình mình theo mô hình lý tưởng đó.
Xây dựng gia đình mình theo mô hình thánh gia Nadarét là mọi người trong gia đình phải cư xử với nhau như ba Đấng trong thánh gia nầy. Cụ thể là người chồng phải yêu thương và phục vụ vợ con như thánh Giuse đã yêu mến và phục vụ Mẹ Maria; người vợ phải yêu thương và săn sóc chồng như Mẹ Maria đã yêu mến và phục vụ thánh Giuse; cha mẹ phải yêu mến và chăm lo cho con cái như thánh Giuse và Mẹ Maria chăm lo phục vụ Chúa Giêsu; con cái trong gia đình phải hiếu kính mẹ cha, biết thờ cha kính mẹ, phụng dưỡng cha mẹ như Chúa Giêsu đã làm đối với Đức Mẹ và thánh Giuse.
Có như thế, gia đình tín hữu mới xứng đáng với danh hiệu là thánh gia, xứng đáng với hồng ân đã nhận ngày lãnh bí tích hôn phối, làm cho gia đình trở nên tổ ấm yêu thương hạnh phúc và thánh thiện.
Nếu con người là hình ảnh của Thiên Chúa, thì có thể nói rằng gia đình là hình ảnh của Ba Ngôi Thiên: ThánhGia ABC 242
Nếu con người là hình ảnh của Thiên Chúa, thì có thể nói rằng gia đình là hình ảnh của Ba Ngôi Thiên Chúa. Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa sống đơn độc, mà là một Thiên Chúa mang tính gia đình, trong đó Ba Ngôi khác biệt nhau nhưng yêu thương nhau, sống chung, làm việc chung, và kết hợp với nhau thắm thiết như trong một gia đình, tới mức độ tuy là Ba Ngôi nhưng chỉ là một Thiên Chúa duy nhất. Nếu Thiên Chúa là tình yêu, thì "Tập Thể Ba Ngôi" là một môi trường để Ba Ngôi Thiên Chúa thể hiện tình yêu của mình với nhau. Vì Ba Ngôi yêu thương nhau vô cùng, nên sự hiệp nhất của Ba Ngôi đạt được mức độ tối đa là trở thành một Thiên Chúa duy nhất. Tình yêu và sự hiệp nhất ấy tạo nên thiên đàng hay hạnh phúc của Ba Ngôi.
Cũng vậy, nếu gia đình là hình ảnh của Ba Ngôi, thì mọi thành viên trong đó phải yêu thương nhau, hòa hợp với nhau đến mức hiệp nhất với nhau. Nhờ đó gia đình trở thành một thiên đàng tại thế. Như vậy, mọi thành viên của gia đình đã được hưởng nếm trước phần nào hạnh phúc của thiên đàng mai sau. Hạnh phúc trong những gia đình yêu thương nhau - được biểu lộ và hình thành cụ thể bằng việc quan tâm, lo lắng và hy sinh cho nhau - chính là hình ảnh trung thực của thiên đàng vĩnh cửu. Trái lại, nếu các thành viên trong gia đình không yêu thương nhau, không sẵn sàng hy sinh cho nhau, thì họ sẽ biến gia đình thành hỏa ngục tại thế, là hình ảnh của hỏa ngục vĩnh cửu. Trong 8 cái khổ mà Đức Phật kể ra, có cái khổ gọi là "oán tắng hội khổ", nghĩa là khổ vì không ưa nhau, ghét nhau mà lại phải sống chung với nhau.
2. TÍNH ÍCH KỶ, NGUỒN GỐC BẤT HẠNH CỦA MỌI GIA ĐÌNH
Nhìn vào bất cứ một gia đình bất hạnh nào - nghĩa là một gia đình không hạnh phúc - ta luôn luôn thấy bóng dáng tính ích kỷ của một thành viên nào đó trong gia đình. Chính tính ích kỷ của thành viên này là nguồn gây nên đau khổ trong gia đình. Nếu thành viên ích kỷ ấy là người cha hay người mẹ, thì đau khổ trong nhà sẽ hết sức lớn lao. Gia đình nào càng có nhiều người ích kỷ, gia đình ấy càng bất hạnh. Gia đình mà càng có nhiều người sống vị tha, biết hy sinh cho người khác, gia đình ấy càng ít bất hạnh. Một gia đình mà mọi thành viên đều vị tha, đều quan tâm, chăm sóc và hy sinh cho nhau, đều sẵn sàng thông cảm và tha thứ cho nhau, gia đình ấy chắc chắn hạnh phúc.
Câu chuyện minh họa về thiên đàng và hỏa ngục sau đây thật phù hợp với thiên đàng và hỏa ngục của gia đình. Cả thiên đàng và hỏa ngục đều dùng bữa với những thức ăn y như nhau, trong khung cảnh giống y hệt nhau, trong đó mỗi người đều phải dùng một đôi đũa dài cả thước để ăn. Thiên đàng và hỏa ngục chỉ khác nhau ở chỗ này: trên thiên đàng, mọi người không ai tự gắp thức ăn cho mình, mà gắp cho người khác ăn, vì thế, ai cũng được ăn no. Còn trong hỏa ngục, mọi người chỉ biết nghĩ đến mình, chỉ biết gắp thức ăn cho mình, nhưng vì đũa quá dài, chẳng ai gắp cho mình được gì cả, thế rồi chẳng ai được no, hết giờ ăn mà đói vẫn hoàn đói, từ đó họ trở nên căm thù nhau.
Cũng vậy, trong gia đình, không ai tự tạo hạnh phúc cho mình được mà không cần đến người khác, nên nếu ai cũng chỉ biết lo cho hạnh phúc của mình, thì chẳng ai hạnh phúc cả, và rồi sẽ phát sinh đủ thứ đau khổ. Tuy nhiên trong gia đình, người ta có thể tạo hạnh phúc cho người khác, vì thế, nếu mọi người trong nhà đều biết lo cho nhau, tạo hạnh phúc cho nhau, thì ai nấy đều hạnh phúc.
Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là tình thương, nên bản chất của con người cũng là tình thương. Vì thế, chỉ khi con người sống phù hợp với bản tính của mình là yêu thương, và thể hiện cụ thể tình yêu thương ấy với những người chung quanh, thì con người mới hạnh phúc. Nếu con người sống ích kỷ, tức ngược lại bản chất yêu thương của mình, con người sẽ đau khổ và làm cho những người chung quanh đau khổ.
3. LÀM SAO ĐỂ CÓ TÌNH YÊU THƯƠNG?
Nhưng làm sao người ta có thể yêu thương nếu không có một động lực, một nguồn yêu thương ngay từ trong lòng mình phát xuất ra? Làm sao có được nguồn yêu thương ấy? - Vì "tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa" (1 Ga 4, 7), nên chính "Thiên Chúa là nguồn yêu thương" (2 Cr 13, 11). Vì thế, muốn yêu thương, muốn loại trừ tính vị kỷ, con người phải kết hợp làm một với Thiên Chúa, nguồn tình thương. Kết hợp với Thiên Chúa là luôn luôn ý thức rằng mình "là hình ảnh của Thiên Chúa" (St 1, 27; 9, 6; Ep 4, 24), được tạo dựng giống như Thiên Chúa (x. St 1, 26; 5, 1), và "được thông phần bản tính của Thiên Chúa" (2 Pr 1, 4), một Thiên Chúa mà bản chất là yêu thương (x.1 Ga 4, 8.16).
Nếu bản chất của Thiên Chúa là yêu thương, mà ta giống Ngài, là hình ảnh của Ngài, được thông phần bản tính Ngài, tất nhiên bản chất của ta cũng là yêu thương. Ta không yêu thương hay không yêu thương đủ, là ta sống không đúng với bản chất của ta. Nhờ thường xuyên ý thức như thế, tình yêu và sức mạnh của tình yêu ngày càng lớn mạnh trong ta, khiến ta ngày càng yêu thương mọi người cách dễ dàng, và sẵn sàng làm tất cả để mọi người được hạnh phúc. Sống đúng với bản chất của mình là yêu thương, là hình ảnh Thiên Chúa, chính là sống thánh thiện.
Để giúp con người có một môi trường thuận lợi để phát triển và thực tập tình yêu thương, Thiên: ThánhGia ABC 243
Để giúp con người có một môi trường thuận lợi để phát triển và thực tập tình yêu thương, Thiên Chúa đã tạo dựng và đặt con người sống trong gia đình. Khi vừa sinh ra, mọi người đều nhận được một tình thương dồi dào, vô điều kiện và vô vị lợi của cha mẹ - một tình yêu thuộc loại tốt đẹp nhất trên thế gian - đồng thời được mời gọi đáp lại tình yêu thương ấy. Đó là một bài tập hết sức dễ dàng về yêu thương mà mỗi người đều có thể thực tập ngay từ thuở nhỏ. Không gì dễ dàng bằng yêu thương người đã hết lòng yêu thương mình và hy sinh cho mình. Tình yêu đáp trả này tự phát sinh do mình nhận được từ cha mẹ mình quá nhiều. Đây là thứ tình yêu nhận nhiều hơn cho.
Lớn lên một chút, mỗi người khám phá ra, ngoài cha mẹ mình, thì các anh chị em mình cũng yêu thương mình bằng một tình yêu tương đối vô vị lợi. Với tình yêu này, con người phải tập cho nhiều hơn và nhận ít hơn so với tình yêu đối với cha mẹ. Ngoài gia đình, mỗi người còn có bạn bè do chính mình chủ động chọn lựa và yêu thương.
Đến khi trưởng thành, con người có tình yêu hôn nhân. Tình yêu này là một tình yêu do mình chọn lựa và tương đối có điều kiện: mình yêu và đòi hỏi người kia phải yêu lại, nếu đơn phương thì tình yêu sẽ khó tồn tại. Con người chủ động hiến thân và hy sinh cho người mình yêu với một ý chí tương đối tự do.
Đến khi có con cái, con người tự nhiên yêu thương con bằng một tình yêu vô vị lợi, vô điều kiện, không lựa chọn. Đó là tình yêu cao cả nhất và phản ảnh trung thực nhất tình yêu của Thiên Chúa mà con người kinh nghiệm được trong đời sống gia đình.
Như vậy con người thực tập yêu thương - từ dễ đến khó - trong môi trường gia đình. Trong gia đình, con người kinh nghiệm tình yêu một cách tự nhiên và sâu xa: con người được yêu và chủ động yêu, nhận hy sinh từ người khác và chính mình cũng hy sinh cho người khác.
Thế nhưng con người còn được mời gọi yêu một cách rộng rãi hơn, vượt khỏi phạm vi gia đình, để đến với những người ngoài, không ruột thịt máu mủ. Các tín đồ trong các tôn giáo, đặc biệt người Ki-tô hữu, còn được mời gọi yêu thương cả những người không hề quen biết, thậm chí cả kẻ thù. Yêu như thế khó hơn rất nhiều, nhưng nhờ áp dụng những kinh nghiệm về yêu thương đã có trong gia đình, việc yêu thương người ngoài gia đình, thậm chí kẻ thù, trở nên khả thi hơn.
Như vậy, vai trò của gia đình trong việc đào luyện tình yêu cho con người thật hết sức quan trọng, không gì thay thế được.
Nếu những người trong gia đình - là những người cùng máu mủ ruột thịt, những người tự nhiên yêu thương ta nhất và ta dễ yêu thương nhất - mà ta không yêu thương được, thì làm sao ta có thể yêu những người xa lạ, những người khó có cảm tình, nhất là những người thường gây bất lợi cho ta?
Kinh nghiệm cho tôi thấy, những ai đối xử đã không tốt với chính cha mẹ, với vợ, với chồng, với con cái, với anh em mình, thì khi họ đối xử tốt với những người khác, sự tốt ấy thật đáng nghi ngờ ! Rất có thể chỉ là giả tạo để đạt một mục đích nào đó, chứ không thể là thực tình được ! Vậy, các bậc cha mẹ hãy cho con cái mình những kinh nghiệm về yêu thương tốt đẹp nhất có thể. Đó là những gì tốt đẹp nhất mà họ có thể làm cho con cái họ!
Lạy Mẹ Maria, Mẹ và Thánh Giuse đã làm cho gia đình của mình trở thành một gia đình gương mẫu vì mọi trong đó đều yêu thương nhau. Xin cho mọi người trong gia đình con thực tập từ bỏ tính ích kỷ để biết yêu thương nhiều hơn, hy sinh cho nhau nhiều hơn, để nên thánh thiện hơn.
Tục ngữ Việt nam có câu: "Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh". Đứa con nào cũng ít: ThánhGia ABC 244
Tục ngữ Việt nam có câu: "Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh". Đứa con nào cũng ít nhiều mang khí huyết của cha, mang thịt máu của mẹ.
Nếu trong sinh học, yếu tố di truyền là tất yếu thì trong đời sống luân lý, nề nếp gia phong cũng ảnh hưởng sâu xa đến con người. Trẻ thơ vốn dễ bắt chước. Đứa trẻ lớn lên trong gia đình sẽ nói ngôn ngữ của cha mẹ, học lề thói cư xử của anh chị, tiếp thu những quy ước, hít thở thấm tẩm bầu khí gia đình. Gia đình là vườn ươm. Vườn ươm cung cấp những tố chất đầu tiên cho cây giống. Những tố chất tốt sẽ giúp cây lớn mạnh, sinh hoa kết quả tốt đẹp. Gia đình là con đường. Con đường thẳng sẽ dẫn trẻ đạt ước mơ, lý tưởng.
Qua bài Tin Mừng, ta thấy Thánh Gia thật là một vườn ươm tốt đẹp đã ấp ủ hạt mầm Giêsu, một con đường thẳng tắp đưa Đức Giêsu tiến trên con đường vâng phục Thánh Ý Chúa Cha.
Thánh Giuse và Đức Maria đưa Hài Nhi Giêsu lên Giê-ru-sa-lem để dâng cho Thiên Chúa. Thực ra luật Mô-sê không buộc phải đưa con lên Đền Thờ, chỉ buộc nộp một số tiền nếu đó là con đầu lòng (Xh 13,13; 34, 20). Việc dâng Đức Giêsu trong Đền Thờ cho thấy Thánh Gia nhiệt thành chu toàn lề luật và tha thiết gắn bó với Đền Thờ.
Sự nhiệt thành đối với lề luật và tha thiết với Đền Thờ còn được tỏ lộ qua việc hằng năm các ngài hành hương lên Giê-ru-sa-lem. Đức Giêsu bắt đầu được tham dự cuộc hành hương khi lên 12 tuổi.
Như những người Do-thái thuần thành, hằng tuần các ngài vào hội đường Na-da-rét để đọc và nghe Sách Thánh. Việc đến hội đường vào ngày Sa-bát đã trở thành thói quen của gia đình và sau này Đức Giêsu vẫn duy trì. Tất cả những nề nếp đó in sâu vào Đức Giêsu.
Đức Giêsu tha thiết với Đền Thờ nên không những giữ trọn luật hành hương mà Người còn ra công tẩy uế (x. Ga 2, 13-17). Đức Giêsu yêu mến Đền Thờ đến nhỏ lệ thương cho Đền Thờ sẽ bị tàn phá cùng với Thành Thánh Giê-ru-sa-lem (x. Lc 19, 41; 21, 5-6). Đức Giêsu yêu mến lề luật nên không huỷ bỏ dù là một chấm, một phẩy, mà chỉ kiện toàn cho luật nên hoàn hảo (x. Mt 5, 17). Đức Giêsu vẫn thường xuyên vào Hội Đường, nên khi trở về thăm làng quê Na-da-rét, "Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát và đứng lên đọc Sách Thánh" (Lc 4, 16).
Xem thế đủ biết nề nếp đạo đức gia đình đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc đời Đức Giêsu như thế nào. Chắc chắn Đức Giêsu không chỉ thừa hưởng từ nơi Thánh Giuse và Đức Maria lòng yêu mến lề luật, gắn bó với Đền Thờ, thói quen siêng năng nghe và đọc Lời Chúa, mà còn thừa hưởng nơi các ngài sự mau mắn vâng phục Thánh Ý Chúa, thái độ hiền lành khiêm nhường, tinh thần phục vụ quên mình, sự chuyên chăm làm việc, sự ân cần âu yếm với con cái... mà ta thấy bàng bạc trong những lời Người giảng dạy và nhất là trong đời sống của Người. Chính trong bầu khí gia đình nề nếp ấy, Đức Giêsu đã phát triển về mọi mặt, "càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa".
Gia đình thật quan trọng. Chính gia đình quyết định tương lai trẻ thơ. Gia đình là vườn ươm. Hạt mầm trẻ thơ có lớn mạnh được là nhờ vườn ươm có đầy đủ nước, phân bón và đất tốt. Gia đình là bầu khí quyển. Bầu khí có trong lành bổ dưỡng thì trẻ thơ mới phát triển được về mọi mặt. Gia đình là con đường. Đường có ngay thẳng, có định hướng thì tương lai trẻ thơ mới tươi sáng không đi vào ngõ cụt.
Nên thánh, làm thánh là mơ ước của mọi người Kitô hữu. Ai cũng muốn làm thánh. Ai cũng muốn: ThánhGia ABC 245
Nên thánh, làm thánh là mơ ước của mọi người Kitô hữu. Ai cũng muốn làm thánh. Ai cũng muốn được vào Nước Trời. Nhưng con đường nên thánh đòi hỏi chúng ta phải biết từ bó ý riêng để ý Chúa được thực hiện trong cuộc đời chúng ta. Con đường nên thánh đòi hỏi chúng ta phải vào cửa hẹp và tránh tìm sự dễ dãi bản thân. Vì đường thênh thang thì nuông chiều bản thân và tính xác thịt. Đường thênh thang chỉ dẫn tới diệt vong. Còn đường hy sinh, đường từ bỏ mới giúp cho chúng ta chiến thắng sự yếu duối bản thân để nên thánh từng ngày trong cuộc sống.
Nhìn vào gia đình thánh gia, chúng ta thấy các ngài luôn đi vào con đường hẹp. Các ngài luôn sống công chính trước mặt Chúa. Sự công chính hệ tại ở việc để thánh ý Chúa được nên trọn trong cuộc đời các ngài. Chúa Giêsu hằng luôn tìm kiếm ý Chúa Cha và thực thi. Thánh Giuse đã đón nhận ý Chúa khi nhận Maria về nhà làm vợ. Mẹ Maria đã bỏ ý riêng để sống cho ý Chúa qua lời thưa xin vâng. Nếu Chúa Giêsu không đón nhận ý Chúa Cha thì chén đắng cứu độ sẽ không thể thực hiện. Nếu Mẹ Maria không từ bỏ ý riêng để sống cho ý Chúa thì mùa xuân của ơn cứu độ vẫn chưa thực hiện. Nếu thánh Giuse không bằng lòng đón nhận Mẹ Maria vì ý Chúa thì sự nguy hiểm thật ghê sợ có thể xảy đến với Mẹ. Thế nhưng, ý Chúa các ngài đã thực thi. Chương trình của Chúa Cha đã hoàn tất nhờ sự vâng phục của các ngài. Cũng nhờ sự chung lòng chung ý mà gia đình thánh gia luôn gìn giữ được sự bình an và hạnh phúc trong cuộc sống hằng ngày.
Thực vậy, nếu trong gia đình mà mỗi người một ý, gia đình ấy sẽ tan nát, chẳng ai nghe ai. Trong gia đình mà ai cũng đề cao ý riêng của mình, thì gia đình ấy sẽ là một hỏa ngục, vì lúc nào cũng xảy ra tranh cãi tương tàn. Nhưng nếu mỗi người biết bỏ ý riêng để ý Chúa được thực hiện, thì gia đình ấy sẽ có những giây phút bình an hạnh phúc. Chính khi biết từ bỏ ý riêng, con người mới khiêm tốn đón nhận nhau, yêu thương nhau hầu tránh được những bất hòa đổ vỡ. Nhất là biết đón nhận nhau vì Chúa, thì chắc chắn sẽ xây dựng được một gia đình thánh, một thiên đường hạnh phúc ngay ở cuộc đời này.
Thực thi ý Chúa không phải là lời mời gọi mà là luật buộc chúng ta, vì không phải những ai kêu lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời đâu mà là những ai thực thi lời Chúa mới được vào Nước Trời.
Có một câu chuyện kể rằng: Một nông dân nghèo được vào thiên đàng, ông nhìn thấy người ta mang những vật rất kỳ lạ vào trong nhà bếp. Ông thắc mắc và lên tiếng hỏi: Cái gì thế? Có phải để nấu súp không?
Không phải. Đó là những cái tai của con người. Khi sống ở trần gian, tai giúp họ nghe những điều tốt lành, nhưng họ không làm điều tốt lành đó. Khi chết, chỉ có tai của họ được vào thiên đàng thôi, những phần khác của cơ thể thì không được vào.
Một lát sau, người nông dân lại nhìn thấy người ta mang vào nhà bếp những vật kỳ lạ khác. Ông cũng lên tiếng hỏi: Cái gì thế? Có phải để nấu súp không? Không phải. Đó là những cái lưỡi của con người. Khi sống trên đời, lưỡi khuyên bảo người khác làm điều tốt và sống tốt, nhưng chính họ lại không sống; không làm những điều tốt lành đó. Khi chết, chỉ có lưỡi của họ được vào thiên đàng thôi, những phần khác của cơ thể thì không được vào.
Gia đình nào cũng muốn được hạnh phúc. Gia đình nào cũng muốn thuận vợ thuận chồng để gia đình thăng tiến. Điều tiên quyết là mỗi người hãy để cho ý Chúa dẫn dắt. Hãy trở thành một khí cụ để thực hiện chương trình của Chúa. Hãy là những người không dừng lại ở lời nói lạy Chúa, lạy Chúa mà là những người luôn lắng nghe và thực thi Lời Chúa.
Ước gì, mỗi gia đình trong giáo xứ chúng ta đều là những gia đình thánh. Ước gì từng người luôn là thánh khi biết chết đi cái tôi của mình để sống cho gia đình và nhất là cho ý Chúa được thể hiện. Amen.
Khi chiêm ngắm những tấm ảnh gia đình Thánh Gia, chúng ta thường thấy một cảnh sống thật: ThánhGia ABC 246
Khi chiêm ngắm những tấm ảnh gia đình Thánh Gia, chúng ta thường thấy một cảnh sống thật thanh bình: Đức Mẹ ngồi khâu vá, Thánh Giuse đang làm mộc, còn Chúa Giêsu đang quan sát cha làm việc. Nếu cứ nhìn vẻ bề ngoài như vậy, bất cứ ai cũng đều nghĩ rằng, đời sống gia đình Thánh Gia quả là một đời sống lý tưởng, bởi nhịp sống mỗi ngày cứ trôi đi một cách hoàn toàn phẳng lặng. Thế nhưng, trong thực tế, gia đình Thánh Gia cũng gặp phải những khó khăn, những sóng gió như bất cứ một gia đình nhân loại nào khác.
Gia đình là nền tảng của Xã hội và Giáo Hội. Thế nhưng một thực tế là, ở nhiều nơi, “cái nôi” đó đang bị đe dọa, đang bị lung lay tới tận gốc rễ. Gia đình đang mất dần vai trò là “tổ ấm” của mình do tình trạng lục đục trong hôn nhân của các cặp vợ chồng. Hậu quả của những đổ vỡ đó dẫn đến việc nhiều đứa trẻ phải sống trong cảnh thiếu tình cha, vắng tình mẹ; dần dà trở thành những nạn nhân của những tệ đoan xã hội.
Nhận thấy tầm quan trọng của gia đình trong việc Giáo dục con cái, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong tông huấn về gia đình “Familiaris Consorto” đã khuyến cáo các bậc phụ huynh: “Cha mẹ phải nhìn nhận rằng, chính họ là những nhà giáo dục đầu tiên và trên tất cả đối với con cái. Vai trò giáo dục của họ quyết liệt đến nỗi thật khó tìm được bất cứ điều gì có thể đền bù vào sự thất bại của họ. Cha mẹ phải nhận trách nhiệm tạo bầu khí gia đình đầy linh hoạt trong tình yêu và tôn kính Thiên Chúa và mọi người, để sự phát triển hoàn mỹ về cá tính và xã hội được nẩy nở trong con người. Vì vậy, gia đình là trường học đầu tiên cho tất cả những đức tính Giáo hội và xã hội mà bất cứ xã hội nào cũng cần phải có”. Muốn được như vậy, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy cùng nhìn ngắm vào mẫu gương gia đình Nazarét.
Từ mẫu gương Gia đình Nazarét
Khi chiêm ngắm những tấm ảnh gia đình Thánh Gia, chúng ta thường thấy một cảnh sống thật thanh bình: Đức Mẹ ngồi khâu vá, Thánh Giuse đang làm mộc, còn Chúa Giêsu đang quan sát cha làm việc. Nếu cứ nhìn vẻ bề ngoài như vậy, bất cứ ai cũng đều nghĩ rằng, đời sống gia đình Thánh Gia quả là một đời sống lý tưởng, bởi nhịp sống mỗi ngày cứ trôi đi một cách hoàn toàn phẳng lặng. Thế nhưng, trong thực tế, gia đình Thánh Gia cũng gặp phải những khó khăn, những sóng gió như bất cứ một gia đình nhân loại nào khác.
Còn thử thách nào lớn hơn cảnh nghèo. Vì nghèo mà biết bao gia đình sinh ra bất hoà, ấy thế mà Thánh Gia đã phải trải qua những kinh nghiệm của kiếp nghèo. Ngay khi Chúa Giêsu chuẩn bị ra đời, gia đình Thánh Gia đã bị người ta xua đuổi, bị hất hủi đến nỗi phải trú ngụ trong chuồng bò lừa. Thê thảm hơn nữa, phải sinh con giữa bầy súc vật, không giường chiếu chăn màn.
Còn gì buồn hơn là bị thù ghét, bị săn đuổi? Thánh Gia sống hiền lành khiêm nhường, thế mà phải chịu đựng sự thù ghét của Hêrôđê. Vừa sinh ra, còn trẻ còn non nớt mà cha mẹ đã phải bồng bế con chạy trốn, xa quê hương đất nước, sống nơi đất khách quê người.
Còn cảnh nào bi đát bằng cảnh vợ chồng hiểu lầm nhau? Thế mà Thánh Giuse đã hiểu lầm Đức Mẹ khi Đức Mẹ thụ thai bởi quyền phép Đức Chúa Thánh Thần. Ai đã trải qua cảnh nghi ngờ bị phản bội sẽ hiểu Thánh Giuse đã bị giày vò đau đớn đến mức nào.
Còn gì khiến cha mẹ buồn hơn khi thấy con cái không ngoan ngoãn vâng lời, bỏ nhà ra đi? Vậy mà Thánh Giuse và Đức Mẹ đã phải chứng kiến cảnh đứa con ngoan ngoãn của mình tự động ở lại Đền Thờ mà không xin phép cha mẹ. Các ngài vất vả lo âu tìm kiếm thì ít, nhưng buồn phiền đau khổ thì nhiều. Làm sao các ngài tránh khỏi buồn phiền khi nghĩ rằng người con mà các ngài rất mực yêu quý đã không vâng lời cha mẹ?
Những sóng gió mà Thánh Gia đã phải đương đầu như thế có lẽ nhiều và nặng nề hơn những gia đình bình thường. Thế nhưng các ngài vẫn giữ được hạnh phúc gia đình. Vậy nhờ bí quyết nào các ngài đã vượt qua được biết bao cơn sóng gió như thế?
Trước hết các ngài luôn tìm thánh ý Chúa. Mỗi khi gặp gian nan thử thách, các ngài không tìm ý riêng mình, cũng không tìm ý thích của người đời, nhưng luôn đi tìm ý Thiên Chúa. Tìm ý Chúa mạc khải trong Kinh Thánh, qua các biến cố xảy đến. Tâm sự với Chúa trong giờ cầu nguyện. Hỏi ý kiến Chúa nơi các vị đại diện.
Khi biết được thánh ý Chúa, các ngài lập tức mau mắn vâng lời. Đức Mẹ muốn giữ mình đồng trinh, nhưng khi biết ý Chúa muốn cho Người làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Mẹ liền thưa: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, tôi xin vâng lời thiên sứ truyền”. Thánh Giuse đang muốn bỏ đi, nhưng khi biết ý Chúa muốn cho Người ở lại, Người đã vâng lời ngay không ngần ngại.
Sau cùng, các ngài luôn quên mình vì hạnh phúc của mọi người trong gia đình. Thánh Giuse tuy là gia trưởng, nhưng đã hết tình phục vụ Đức Mẹ và Đức Giêsu. Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng lại xưng mình là tôi tớ của Thiên Chúa. Còn Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhưng lại trở thành người con bé nhỏ nhất trong gia đình.
Đến Gia đình chúng ta
Ngày nay, nhiều gia đình gặp khủng hoảng, lâm vào cảnh cơm chẳng lành canh chẳng ngọt, vì đã không biết áp dụng những bí quyết của Thánh Gia. Mỗi khi gặp khó khăn, thay vì cầu nguyện, đọc Phúc Âm để tìm ý Chúa thì lại đi tìm ý kiến ở những nơi mê tín dị đoan. Thay vì vâng lời Chúa qua các vị bề trên thì lại chỉ tìm ý riêng mình. Thay vì khiêm nhường quên mình thì lại kiêu ngạo tự ái, bắt người khác phải phục vụ mình.
Vậy đâu là phương thế giúp chúng ta có thể trở nên những gia đình mẫu mực như lòng Chúa ước mong? Lời Chúa trong thứ của Thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Côlôxê (Cl 3,12-21) đã cho chúng ta biết: “Anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia”. Người Việt Nam có câu: “Một sự nhịn, chín sự lành”. Trong đời sống gia đình, làm sao có thể tránh khỏi những lúc xô xát, cãi cọ… nhưng nếu, vợ chồng biết nhường nhịn nhau thì cửa nhà sẽ êm ấm. “Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn” là vậy. Ở đây, lý do mà Thánh Phaolô đưa ra khiến ta phải tha thứ cho nhau là vì: Chúa đã tha thứ những lỗi lầm cho chúng ta (x. Cl 3, 13).
Tiếp đến, để giữ được mối thuận hảo trong gia đình, thì: “Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3,14). Lòng bác ái ở đây phải phát xuất từ con tim chân thành, không kiêu căng, không tự ái, như trong “Bài ca đức ái” mà thánh Phaolô đã dạy: Bác ái là tha thứ, là tin tưởng cậy trông tất cả. Là thông cảm và luôn thứ tha.
Sau cùng, thánh Phaolô khuyên chúng ta: “Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giê-su và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha” (Cl 3,17). Mỗi khi hành xử, chúng ta hãy đặt câu hỏi rằng: tôi làm điều này, nói điều kia có nhân danh Chúa hay không?
***
Đức Gioan Phaolô II đã viết: “Hôn nhân và gia đình là một trong những tài sản quí báu nhất của nhân loại” (Tông thư Familiaris consortio, số 1). Đã là tài sản quý, thì ai cũng phải có bổn phận giữ gìn, nâng niu và trân trọng. Mừng lễ Thánh Gia thất hôm nay, Giáo Hội ước muốn mỗi gia đình chúng ta hãy nhìn lên tấm gương của gia đình Nazarét để học biết cách gìn giữ hạnh phúc gia đình mình. Nguyện chúc cho tất cả các gia đình luôn sống trong sự bao bọc chở che của tình yêu Chúa, để mai ngày, mọi thành viên trong gia đình chúng ta sẽ được cùng hân hoan vui mừng đoàn tụ với nhau trên thiên quốc để ca tụng tình yêu Chúa muôn đời. Amen.
Chúng ta cùng cả Giáo Hội Việt Nam dành năm 2014 cho việc nhìn lại đời sống gia đình để cùng nhau: ThánhGia ABC 247
Chúng ta cùng cả Giáo Hội Việt Nam dành năm 2014 cho việc nhìn lại đời sống gia đình để cùng nhau làm cho Tin Mừng trở nên mới mẻ và thành động lực sống cho gia đình. Lý do Giáo Hội Việt Nam và Giáo phận chúng ta chọn năm nay cho việc Sống và loan báo Tin Mừng là vì trong những năm vừa qua nhìn lại lại đời sống của các gia đình, nó đã mất đi nhiều vẻ đẹp và sự tươi sáng của một mái ấm, mà thay vào đó, gia đình đang chịu sức ép và sự công phá nặng nề bới các khuynh hướng của xã hội đưa đến sự đổ vỡ, bất hạnh và nạn nhân đầu tiên của các cuộc chiến trong gia đình chính là con cái.
Ai cũng biết rằng gia đình là tế bào đầu tiên của xã hội, là Hội Thánh tại gia, thế nhưng nhiều gia đình đã bỏ quên đời sống cầu nguyện, đã không còn phải là một tổ ấm hiệp nhất yêu thương, đã không còn là nơi an toàn cho con cái và sự sống, và mất đi nhiệt tâm sống đạo và giới thiệu về Chúa Kitô cho người bên cạnh.
Nhìn vào những bản thống kê gần đây thực sự đã gây lo ngại cho tương lai của các gia đình, các cuộc hôn nhân không tình yêu, hôn nhân vì kinh tế với người ngoại kiều gia tăng. Tình trạng hôn nhân tan vỡ đã lên đến mức báo động khoảng 40%, trong đó người Công Giáo khoảng 15%. Tình trạng bỏ quê lên thành phố hoặc vào Nam làm ăn khiến cho hàng chục triệu người phải ly tán xa gia đình vì công ăn việc làm. Con số ca nạo phá thai ở một số các bệnh viện lớn khoảng 300.000 ca trong một năm… và bao nhiêu vấn đề về kinh tế, lối sống khác nữa đang ảnh hưởng đến gia đình.
Trong bối cảnh ấy chúng ta mừng lễ Thánh Gia Chúa Giêsu Đức Mẹ và Thánh Giuse, đồng thời mừng các gia đình kỷ niệm giáp năm ngày thành hôn, đây là dịp tốt nhất để chúng ta nhìn vào mẫu gương gia đình của Chúa để soi rọi và điều chỉnh gia đình của mình.
Không phải chỉ ngày nay mới có nhiều khó khăn cho gia đình, nhưng có thể nói thời nào cũng có những khó khăn riêng của nó, và vì thế Giuse Maria cũng có những khó khăn riêng trong gia đình của các Ngài, nhưng các Ngài vẫn giữ gìn được sự bình an và làm cho gia đình mình trở thành một gia đình tuy nghèo nàn đơn sơ, nhưng rất ấm cúng, hạnh phúc và thánh thiện. Các Ngài đã làm cách nào?
Các Ngài đã biến gia đình mình trở thành một gia đình cầu nguyện. Nói như thế không có nghĩa là lúc nào họ cũng đọc kinh, mà là gia đình của các ngài luôn sống trong bầu khí cầu nguyện, luôn có tâm tình cầu nguyện. Vì Giuse Maria rất ý thức về sự hiện diện của Chúa trong gia đình của mình, Đức Giêsu vừa là con, song lại vừa là Thiên Chúa đang ở trong gia đình, nên mọi công việc, mọi lo toan trong gia đình, hai ông bà đã làm vì Chúa và làm mọi việc để cho Chúa được lớn lên trong gia đình. Chính vì thế họ dễ dàng nhận ra tiếng nói của Thiên Chúa qua lời mộng báo đem trẻ Giêsu và Mẹ Người trốn qua Ai Cập để tránh nguy hiểm cho Giêsu.
Chắc chắn nhìn vào khung cảnh của hang đá giáng sinh chúng ta đã có thể thấy được bầu khí đạo đức thánh thiện và yêu thương toát lên từ gia đình này. Gia đình này đã nêu gương cho tình tình yêu chung thủy. Có những lúc Giuse bị “cám dỗ” giải quyết vấn đề theo thói thường của xã hội, tức là chấp nhận một cuộc ly hôn, bỏ trốn một mình. Thế nhưng trong hoàn cảnh ấy, Giuse vẫn dằn vặt để mong tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa trong thử thách đầu đời cuộc sống gia đình của mình. Vì trăn trở và lo lắng cho Maria, nên Giuse đã không tố cáo Maria, mà lại đón nhận Maria về nhà theo lời của Sứ thần mộng báo. Điều đó chứng tỏ Giuse đã chọn để trung tín trong cuộc sống hôn nhân mà Chúa đã muốn, là đón nhận và yêu thương Maria như là vợ của mình.
Kế đến Gia đình Thánh Gia nêu gương bảo vệ sự sống. Sự sống là quà tặng của Thiên Chúa, thuộc chủ quyền của Thiên Chúa, con người không bao giờ được phép định đoạt cho đứa con này được sống, được sinh ra, đứa kia phải chết. Giuse và Maria ý thức rất rõ mầm sống trong lòng của Maria là chính Thiên Chúa nữa. Vì thế mà Giuse và Maria đã hết lòng để bênh vực và bảo vệ sư sống này. Khi vua Herode ra lệnh tiêu diệt tất cả các hài nhi trong vùng, thì Giuse đã dựa vào giải pháp của Thiên Chúa, đó là đem Hài nhi và Mẹ Người trốn qua Ai Cập. Một cuộc tẩu thoát như thế quả thật là nhiều nguy hiểm gian nan, nhưng bằng mọi giá, Giuse đã đem Maria và Hài nhi ra đi ngay lúc nửa đêm để tránh bàn tay độc ác của Herôđe và bảo vệ sự an toàn cho hài nhi. Rồi khi được lệnh trở về, Giuse cũng đã khôn ngoan để chọn vùng Nazaret là một làng quê bình yên để cư ngụ giúp cho sự an toàn của hài nhi và cả gia đình.
Sau cùng, Gia đình Thánh gia đã nêu gương cho chúng ta trong việc sống và loan báo Tin Mừng. Nếu hiểu Tin Mừng là tin vui cứu độ, tin giải thoát cho nhân loại và chính con người của Chúa Giêsu là Tin Mừng, Ngài đến từ Thiên Chúa để ở với con người, thì Giuse Maria quả thật đã trở thành tấm gương sống và loan báo Tin Mừng này. Giuse Maria đã sống Tin Mừng bằng cách mở rộng tâm hồn để cho Thiên Chúa, Đấng cứu thế bước vào tâm hồn và chi phối cuộc đời của mình. Cả Giuse và Maria không thể hiểu hết những lời giải thích của sứ thần về việc đầu thai của Hài nhi, của việc đón nhận Hài nhi và đặt tên là Giêsu, song ông bà đã xin vâng không hề nghi nan. Trong khung cảnh Giáng sinh thì chính Giuse và Maria đã giới thiệu Hài nhi mới sinh bọc trong khăn và đặt nằm nơi máng cỏ cho các mục đồng, cho các nhà đạo sĩ và chắc chắn các mục đồng các đạo sĩ không chỉ thờ lạy Hải nhi mà còn được ẵm bế hài nhi và tin rằng Ngài là tin vui cho toàn dân.
Thưa quý OBACE, với trách nhiệm làm cha mẹ, có khi nào chúng ta tự đặt vấn đề với nhau hoặc với chính mình để tìm nguyên nhân tại sao gia đình mình không hạnh phúc? Tại sao gia đình mình hay lục đục cãi vã…? Đừng tránh né sự thật hãy đặt vấn đề với chính lương tâm của mình chúng ta sẽ tìm được câu trả lời.
Nhiều gia đình hôm nay đã để cho cái ti vi và các chương trình trên đó thống lĩnh suốt ngày trong gia đình và khiến họ không còn giờ cho việc đọc kinh mỗi tối, không còn giờ để nói chuyện với nhau, và thậm chí bữa cơm gia đình mọi người cũng dán mắt vào cái tivi và không còn cười đùa được với nhau nữa. Vì không nói chuyện được với nhau, khiến họ cũng không thể hiểu nhau và không còn thông cảm yêu thương nhau được nữa.
Nhiều cha mẹ vì ích kỷ hẹp hòi, vì thiếu lòng quảng đại mà họ biến gia đình mình trở thành lò sát sinh, giết chết nhiều đứa con của mình. Một gia đình như thế sẽ không thể có bằng an trong tâm hồn và vì thế sẽ không thể nào có bình an trong gia đình, ngược lai chỉ có sự dằn vặt và cắu gắt mà thôi. Nhiều gia đình khác đã không biết phải dạy dỗ con cái thế nào, đã để cho công việc, ăn uống say sưa, cờ bạc, cá độ và bạn bè chiếm hết thời giờ của con cái, khiến cho con cái cảm thấy lạc lõng ngay trong gia đình.
Hãy tạ ơn Chúa vì hồng ân gia đình Chúa ban cho mỗi người, và tạ ơn Chúa vì món quà là vợ, là chồng, là con cái Chúa đã ban tặng cho gia đình. Hãy đón nhận nhau như là quà tặng của Thiên Chúa để biết trân trọng đối với nhau và nhất là trân trọng với Đấng đã trao tặng mình. Hãy nhìn vào gia đình Thánh gia để học ở nơi đó tấm gương của người chồng, người vợ thánh này, mà biết vun đắp cho gia đình mình trở nên một gia đình thánh thiện, ấm cúng, thuận hòa.
Điều chúng ta cần quan tâm không chỉ là gia đình chúng ta ăn cái gì, mua sắm cái gì, điều mà mọi người cần phải đầu tư nhiều hơn đó là gia đình chúng ta sống như thế nào, có hạnh phúc hay không. Đó mới là điều đáng hãnh diện và mơ ước. Khi vun đắp cho gia đình mình mỗi ngày như thế, thì chúng ta sẽ là gia đình sống và làm chứng về Chúa cho người chung quanh. Amen.
Bài Tin Mừng hôm nay mời chúng ta nhìn ngắm một gia đình rất đặc biệt với ba nhân vật độc đáo: Mẹ ThánhGia ABC 248
Bài Tin Mừng hôm nay mời chúng ta nhìn ngắm một gia đình rất đặc biệt với ba nhân vật độc đáo: Mẹ Maria, Thánh Giuse và Chúa Giê-su.
Trước hết, chúng ta hãy nhìn ngắm hài nhi Giê-su.
Đây là nhân vật bé nhỏ nhất trong gia đình nầy và cũng là nhân vật quan trọng nhất. Ngài là một huyền nhiệm vượt quá trí tưởng tượng của loài người.
Có ai ngờ một Đấng tạo dựng nên muôn loài muôn vật trong vũ trụ vô biên nầy lại chấp nhận hóa thành một bào thai nhỏ bé nằm trong lòng mẹ suốt chín tháng mười ngày và được sinh ra bởi một người mẹ trần gian là một thiếu nữ miền quê không được mấy người biết đến.
Có ai ngờ một Đấng vô cùng giàu sang, là chủ nhân của tất cả mọi kho báu trên toàn thế giới và trong cả vũ trụ càn khôn, giờ đây lại trở thành một trẻ thơ nghèo hèn, không có một mái nhà, không giường chiếu và không cả một chiếc nôi cỏn con… đến nỗi phải nằm run rẩy trong máng súc vật lót rơm, giữa một chuồng bò tứ bề trống trải chơ vơ giữa không gian vắng lặng.
Có ai ngờ Đấng nuôi dưỡng chim trời cá nước, ban phát lương thực cho tất cả người thế hưởng dùng lại cậy nhờ đến từng giọt sữa của người mẹ trần gian để được tăng trọng và lớn lên thành người.
Có ai ngờ một Đấng vốn là Thiên Chúa Ngôi Hai đồng quyền năng phép tắc như Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, có sức mạnh lay chuyển cả vũ trụ càn khôn, có quyền năng dập tắt bão tố… lại trở thành một trẻ thơ nhỏ nhoi, yếu đuối, thân mình bầm tím vì giá lạnh đêm đông, phải cậy nhờ đến sự ấp ủ của người mẹ trần gian để sống, phải cậy trông vào sự che chở của người cha nuôi vốn là một anh thợ nghèo miền quê, mới có thể lánh thoát lưỡi gươm oan nghiệt của bạo chúa Hê-rô-đê.
Ngoài ra, khi có một vị vua, một tổng thống hay thủ tướng một đất nước nào đó trong vai khách mời đến thăm chính thức quốc gia sở tại, thì những vị vua hay những nhà lãnh đạo cao cấp nhất của Chính Phủ sẽ trải thảm đỏ và ra tận sân bay để tiếp đón cách trọng thị, thì tại Bê-lem năm xưa, khi Chúa Tể trời đất đặt chân đến viếng thăm địa cầu và thăm viếng nhân loại, thì chỉ có những người chăn chiên nghèo khổ đến tiếp đón Ngài mà thôi.
Tiếp theo, chúng ta hãy nhìn ngắm nhân vật thứ hai trong gia đình nầy là Mẹ Maria. Khi một người mẹ chuyển dạ sinh con, tối thiểu phải liệu cho bà một căn phòng kín đáo, thế mà khi chuyển dạ, Mẹ Maria chẳng tìm đâu được một căn buồng, mà phải nương thân nơi chuồng súc vật trống trải giữa cánh đồng hoang vu.
Nếu cùng cực lắm, không kiếm cho sản phụ một căn phòng kín đáo, ít nhất phải kiếm cho bà một chiếc giường, một tấm nệm hay tấm chiếu cho bà sinh con; đằng nầy, khi sinh con, Mẹ Maria không có giường êm, không nệm ấm, không được cả một manh chiếu đơn sơ, mà phải hạ sinh con ngay trên lớp rơm mỏng giữa chuồng bò!
Bao giờ sản phụ sinh con cũng có cô đỡ bên cạnh, để giúp sản phụ vượt cạn đầy khó khăn và cứu giúp bà thoát khỏi những nguy hiểm khó lường; đằng nầy, khi Mẹ Maria sinh con, chỉ có người bạn đời là thánh Giuse bên cạnh, mà người đàn ông thì chẳng biết phải xoay xở thế nào trong những trường hợp khó khăn như thế.
Còn nhân vật thứ ba là thánh Giuse.
Chắc chắn vào lúc bấy giờ, tâm hồn ngài đầy lo âu, buồn phiền và bối rối.
Lo âu vì thấy người bạn đời đang lúc chuyển dạ sinh con lại phải miệt mài gõ hết cửa nầy đến cửa khác ở các quán trọ ở Bê-lêm, mà không được một ai thương xót đoái hoài, nhường cho một chỗ trọ qua đêm.
Lo âu buồn phiền vì cuối cùng, đành phải đưa Mẹ Maria ra ngoài đồng vắng, dắt người bạn đời sắp vượt cạn vào một chuồng súc vật bẩn thỉu tanh hôi! Ngài cố tìm một tấm ván hay một vật gì đó tạm thay giường nằm cho Mẹ Maria cũng không có, thôi thì quơ đại ít rơm rạ vương vãi chung quanh để lót thành một ổ rơm nho nhỏ cho sản phụ có chỗ nằm.
Càng bối rối hơn khi đến giờ phút Mẹ Maria sinh con. Tìm đâu ra một cô đỡ trong nơi hoang vắng nầy! Biết làm thế nào trợ giúp một sản phụ đang sinh con! Mền không, chiếu cũng không. Thôi thì lót tạm ít rơm vào trong máng súc vật cho Hài Nhi mới sinh có một chỗ nằm thay nôi.
Ôi thôi! Càng ngắm, càng suy, càng thấy gia đình nầy thật là bi đát, cùng cực. Không ai trong chúng ta bị lâm vào hoàn cảnh đáng thương như thế.
***
Vì yêu thương nhân loại lỗi lầm, Ngôi Hai Thiên Chúa đã từ bỏ ngai trời xuống thế, chấp nhận sinh ra trong cảnh nghèo hèn cùng cực, hạ mình xuống tận đáy cuộc đời để chia sẻ cảnh lầm than khốn khổ của kiếp người. Qua sự việc nầy, Chúa muốn nói với chúng ta rằng: Hỡi những ai nghèo thiếu cùng cực trên thế gian, hãy vững lòng, hãy đứng vững và đừng tuyệt vọng vì có Ta đến chia sẻ sự túng cực của các con, cùng đồng hành với các con qua mọi gian lao của cuộc sống.
Và hỡi những gia đình đang lâm cơn quẫn bách nghèo túng, đừng lo âu sợ hãi, đừng xấu hổ vì gia cảnh nghèo túng của mình, vì gia đình của Ta hôm xưa còn lâm cảnh nghèo hèn khốn khổ hơn gia đình các con. Ta luôn ở cùng các con để che chở bảo vệ các con cho đến mãn đời.
Tổ chức Kỷ Lục Việt Nam. được sự hỗ trợ của Trung Ương Hội Người Cao Tuổi Việt Nam. vừa: ThánhGia ABC 249
Tổ chức Kỷ Lục Việt Nam. được sự hỗ trợ của Trung Ương Hội Người Cao Tuổi Việt Nam. vừa qua đã công nhận kỷ lục cặp vợ chồng cao tuổi nhất Việt Nam thuộc về vợ chồng cụ Cao Viễn ( sinh năm 1908 ) và Vũ Thị Hai ( sinh năm 1914 ) ở làng Phượng Lịch, xóm Hai, xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Cụ Cao Viễn chia sẻ bí quyết sống lâu của hai cụ là sống thật lạc quan và vui vẻ. Dù đều đã bước qua tuổi 100 nhưng hai cụ vẫn còn rất khỏe mạnh và minh mẫn. Cụ ông Cao Viễn vẫn còn rất lanh lợi. Hai cụ vẫn có thể đọc báo, xem tivi, làm những công việc trong gia đình, nuôi dạy các cháu, chắt. Cụ ông vẫn viết nhật ký, làm thơ, viết chữ với những nét rõ ràng khiến nhiều người trẻ phải bái phục ( Ảnh chụp cụ ông và cụ bà bên nhau ).
Vừa mở chiếc tivi nhỏ của gia đình cụ, ông Cao Viễn vừa tâm sự: “Tôi rất thích xem các chương trình thời sự, tin tức và đọc báo. Thấy chúng tôi sống “lâu quá”, người ta cứ đồn thổi rằng chúng tôi có bí quyết, hay thuốc gia truyền gì. Nhưng điều đó là hoàn toàn không có. Chúng tôi cũng chỉ ăn uống bình thường, thậm chí có thời gian còn không có cháo mà ăn ấy chứ”, nói đoạn cụ ông Cao Viễn nhìn sang vợ mình cười hạnh phúc.
Hai cụ kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện từ nạn đói 1945. Lúc đó các con còn nhỏ, hai vợ chồng cụ phải chia bát cháo ít ỏi cho các con ăn cầm hơi. Rồi đến những ngày đất nước chìm trong khói lửa chiến tranh, lúc cụ ông lên đường nhập ngũ, rồi lần lượt các con cũng ra chiến trận. Trong trí nhớ của hai cụ, lịch sử vẫn còn vẹn nguyên, không hề bị xáo trộn.
Lấy nhau sinh được 8 người con ( 3 trai, 5 gái ), hiện hai cụ đã có 34 cháu nội, ngoại. Cùng nhau bước qua thế kỷ thứ 2, đôi vợ chồng già vẫn vẹn nguyên những hạnh phúc như thuở ban đầu.“Ngày trước có những năm đến cháo không có mà ăn gia đình phải đào cả củ chuối, nhặt từng cái rễ khoai mà ăn chứ nói đến thuốc thang hay bí quyết gì để mà sống được lâu. Nhưng với vợ chồng chúng tôi, khi nào gia đình cũng phải vui vẻ lạc quan, sống nhân đức, hòa thuận. Khó khăn thì phải cùng nhau khắc phục chứ không được cãi cọ hay mâu thuẫn. Như vậy mình mới sống được mà không đau ốm bệnh tật và sống được lâu với con cháu” - cụ bà Vũ Thị Hai chia sẻ về cuộc sống hạnh phúc của gia đình vợ chồng mình suốt 2 thế kỷ qua. Hiện tại con cháu hai cụ đều đã ra ở riêng, thỉnh thoảng mới đến chăm sóc được bố mẹ. Vì vậy mọi sinh hoạt thường nhật từ bữa cơm, giấc ngủ hai vợ chồng cụ đều tự lo liệu. Tất cả mọi công việc hai cụ đều cùng nhau làm, từ xem ti vi, dọn dẹp nhà cửa đến nấu một nồi cháo. Cũng vì cuộc sống viên mãn, trường thọ của hai cụ mà người dân trong vùng thường xuyên nhờ hai cụ làm người chúc phúc lành cho những cặp vợ chồng mới cưới. ( Nguyễn Tình – Lany Nguyễn, Dân Trí, Cặp vợ chồng cao tuổi nhất Việt Nam chia sẻ bí quyết trường thọ ).
Hôm nay, Hội Thánh long trọng mừng Lễ Thánh Gia, khuôn mẫu lý tưởng cho mọi gia đình sống hạnh phúc, bình an và vững bền. Khi tất cả thành viên gia đình đều quy hướng về Đức Giêsu, luôn là trọng tâm của mỗi người, thì cuộc sống gia đình mãi ổn định và phát triển.
Sống cùng
Mẹ Maria được sứ thần Gabriel loan báo vinh dự được làm Mẹ Đấng Cứu Thế, cũng như Người Công Chính, Thánh Giuse được báo mộng đón nhận bổn phận cao cả làm cha nuôi Đức Giêsu. Cả hai đấng cùng nhau đồng tâm thực hiện Thánh Ý Chúa trao phó, mặc bao gian nan, thử thách. Cùng nhau lận đận về quê Bêlem, khi Mẹ Maria sắp đến ngày lâm bồn. Chật vật, khó khăn, thiếu thốn khi sinh nở. Trốn tránh, tản cư, vượt biên, khi vua Hêrôđê tàn sát con trai đầu lòng. Thánh Gia vẫn bền vững trong bao cơn sóng gió, vì Thánh Giuse và Mẹ Maria luôn vâng theo Thánh Ý hướng dẫn, và luôn có Chúa ở cùng.
Bao lâu, có Chúa cùng đồng hành, thì gia đình vượt qua tất cả mọi nghịch cảnh, mọi thách đố, kể cả bệnh tật, tai ương, hoạn nạn. Có Chúa sống cùng trong tâm hồn, trong lời nói, trong hành xử, trong việc làm, mọi thành viên gia đình thảy đều đồng cảm, đồng tâm, đồng hành với nhau, như Thánh Phaolô khuyên sống hòa đồng, hòa hợp cùng nhau: “Vui với người vui, khóc với người khóc” ( Rm 12, 15 ).
Sống cho
“Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.” ( Lc 9, 23 ). Để có Chúa hiện diện trong tâm hồn, thì tiên quyết phải xả kỷ, từ bỏ bản ngã, cái tôi hẹp hòi, độc đoán bất nhân, bất nghĩa, bất khoan dung, để sống cho người, cho tha nhân. “Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.” Người Công Chính không so đo, tự ái, vị kỷ, không bối rối vương vấn, không sống theo ý riêng, quyết tâm vâng theo Thánh Ý Chúa, nhiệt thành, hăng say, cộng tác, phục vụ đắc lực chương trình Cứu Độ.
Mẹ khiêm hạ, tự xóa mình đi, sẵn sàng vâng theo Thánh Ý, khi thưa sứ thần: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi, như lời sứ thần nói.” ( Lc 1, 38 ) Mẹ hoàn toàn phó thác, sống cho Ơn Gọi.
Còn Đức Giêsu gặp lại cha mẹ sau ba ngày ở lại đền thờ giải đáp Kinh Thánh, cũng luôn tuân phục Thánh Giuse và Mẹ Maria. “Người đi xuống cùng vời cha mẹ, trở về Nadareth và hằng vâng phục các ngài. ( Lc 2, 51 ). Thánh Phaolô cũng dạy dỗ con cháu biết hiếu thảo cha mẹ: “Con cháu phải học cho biết ăn ở hiếu thảo đối với gia đình mình, và đền ơn đáp nghĩa các bậc sinh thành. Đó là điều đẹp lòng Thiên Chúa.” ( 1Tm 5, 4 ).
Sống vì
Ông bà cụ Cao Viễn kể trên đã sống đúng theo truyền thống dân tộc: "Sống vì mồ mả, không sống vì cả bát cơm." Sống không phải bon chen, giành giựt, gian ác, làm giàu, mà nghĩ đến khi qua đời, làm sao mồ yên mả đẹp, để lo tu thân tích đức. Nên dù khó khăn, đói rách, các cụ vẫn vui vẻ chia sẻ, phục vụ lẫn nhau, con cháu và xóm giềng, mong để lại phúc đức cho con cháu hưởng nhờ. Người Kitô hữu có mục đích sống còn linh thiêng, cao quý hơn nữa. Đó là sống vì đạo. Trở nên chứng nhân của Đức Giêsu, giữa xã hội xô bồ tôn thờ bái vật.
Thánh Phaolô vạch rõ mục đích sống của Kitô hữu:“Không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa.Vì Đức Kitô đã chết và sống lại, chính là để làm Chúa kẻ sống cũng như kẻ chết” ( Rm 14, 7 – 9 ).
Me Maria luôn sống vì Con Mẹ, đồng cảm, đồng hành cùng Người suốt 33 năm, âm thầm đau khổ trước thái độ chống báng và ám hại của thần quyền lẫn thế quyền đối với Con Mẹ, như ông Simêôn đã tiên tri: “Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà” ( Lc 2, 5 ).
“Phần thứ nhất của tiệc cưới Cana là yêu thương và hưởng thụ, nhưng giữa tiệc cưới chỉ còn nước! Đôi tân hôn mới ý thức rằng: phương tiện mình hạn hẹp, tình yêu mình lạnh nhạt !
Phần thứ hai của tiệc cưới Cana là khám phá ra kho tàng đạo đức chưa được sử dụng, rượu sau ngon hơn rượu trước: Một tình yêu chân thực, một quả tim biết thắng mình, quên mình, trung thành và hiến dâng không đòi lui” ( Đường Hy Vọng, số 464 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin Người dạy chúng con biết sống cùng nhau, chia sẻ ngọt bùi cay đắng, biết sống cho đi, phục vụ tha nhân, cũng như biết sống vì Chúa, làm chứng nhân Tình Yêu. Kính xin Người ban Đức Chúa Thánh Thần xuống cho chúng con, biết can đảm sống theo Lời Chúa.
Lạy Mẹ Maria, kính xin Mẹ cầu bầu, chỉ dạy chúng con noi gương Mẹ, luôn sống bên Chúa, luôn vâng theo Thánh Ý Chúa, cùng luôn chấp nhận đau thương vì Chúa. Amen.
Con Thiên Chúa đã sinh ra làm người và sống trong một gia đình. Gia đình của Ngài gồm có Thánh ThánhGia ABC 250 Luong
Con Thiên Chúa đã sinh ra làm người và sống trong một gia đình. Gia đình của Ngài gồm có Thánh Giuse, Đức Mẹ Maria và Ngài. Một gia đình rất thánh thiện, gương mẫu. Hôm nay dâng lễ mừng kính Thánh Gia, chúng ta hãy học nơi các Ngài những đức tính cần có trong cuộc sống gia đình, và chúng ta xin các Ngài ban ơn cho gia đình chúng ta.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta hãy ăn năn sám hối vì những thiếu sót của chúng ta đối với những người trong gia đình mình.
Chúng ta hãy ăn năn sám hối vì chưa dành chỗ xứng đáng cho Chúa trong gia đình mình.
Chúng ta hãy ăn năn sám hối vì những gương xấu mà gia đình mình đã gây ra cho những gia đình chung quanh.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I: Hc 3, 3-7. 14-17a
Huấn ca là một tập sách luận bàn về cách sống khôn ngoan trong nhiều lãnh vực. Trong đoạn này, tác giả, Ben Sira, đưa những lời khuyên về cách sống trong gia đình. Điều quan trọng nhất là con cái phải thảo kính cha mẹ. Tác giả kể ra những ích lợi của việc này:
Việc thảo kính cha mẹ sẽ đền bù được tội lỗi Người thảo kính cha mẹ đến khi có con cái thì được con cái mình thảo kính. Người thảo kính cha mẹ khi cầu nguyện sẽ được Chúa nhậm lời. Phải thảo kính cha mẹ nhất là khi các ngài già yếu.
2. Đáp ca: Tv 127
Tv này được hát lúc hành hương lên Đền thờ Giêrusalem. Người tín hữu hành hương tin chắc rằng ai sống công chính thì sẽ được Thiên Chúa ban phúc. Các ơn phúc Chúa ban trước hết là những ơn cho cuộc sống gia đình: việc làm ăn có kết quả, vợ con mạnh khoẻ, sống lâu v.v.
3. Tin Mừng: Lc 2, 22-40
Tường thuật việc Thánh gia lên Đền thờ Giêrusalem để dâng con cho Thiên Chúa. Trong dịp này, cụ ông Simêon và cụ bà Anna nói những lời tiên tri về tương lai của Đức Giêsu.
Một số điều đáng lưu ý:
Thánh gia là một gia đình nghèo (lễ vật của người nghèo), nhưng giữ luật đạo rất chín chắn (luật thanh tẩy người mẹ sau khi sinh con, luật cắt bì cho con, luật dâng con đầu lòng cho Thiên Chúa).
Các phần tử của Thánh gia rất hiệp nhất với nhau: tất cả đều cùng nhau lên Đền thờ mặc dù luật không buộc như thế (chẳng hạn luật tẩy uế cho người mẹ chỉ buộc người mẹ lên đền thờ thôi).
Khi đó cha mẹ Đức Giêsu chưa hiểu hết mầu nhiệm con mình. Bởi vậy, khi nghe Simêon nói, hai ông bà "kinh ngạc".
4. Bài đọc II: Cl 3, 12-21
Thánh Phaolô giảng về "nếp sống mới" của những người đã cùng chết và cùng sống lại với Đức Giêsu. Nếp sống này gồm:
Những đức tính nhân bản: "Từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau và tha thứ cho nhau".
Nền tảng và nguồn gốc của những đức tính trên là chính Thiên Chúa: "Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau. Trên hết mọi sự, anh em hãy có đức yêu thương".
Bí quyết để sống được như trên là luôn suy gẫm Lời Chúa.
Và dịp tốt thường có để thực hành các đức tính ấy chính là trong gia đình.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Gia đình Nadarét và gia đình chúng ta
Gia đình Nadarét vừa giống nhưng cũng vừa khác phần lớn gia đình chúng ta:
Như phần lớn gia đình chúng ta, gia đình Nadarét nghèo. Trong Tin Mừng ta tìm thấy hai dấu chỉ tình trạng nghèo của các ngài: Khi đến Bêlem, Thánh Gia không đủ tiền để thuê một chỗ trọ trong hàng quán nên phải ở tạm trong hang súc vật; khi đem con đầu lòng dâng trong đền thờ cùng với lễ vật theo luật định, Thánh Gia chỉ dâng một đôi chim câu, là thứ lễ vật của người nghèo.
Như phần lớn gia đình chúng ta, gia đình Nadarét phải sinh nhai bằng chính sức lao động của mình. Có lẽ các ngài không có vốn để đầu tư, buôn bán. Thánh Giuse và Đức Giêsu kiếm tiền sinh sống bằng nghề thợ mộc.
Như phần lớn gia đình chúng ta, vì nghèo và vì theo nghề lao động, nên gia đình Nadarét không được người ta coi trọng cho lắm. Mãi sau này khi Đức Giêsu đã thôi làm ăn để đi rao giảng, thế mà nhiều người vẫn nhắc với giọng mỉa mai "Ông ta là con bác thợ mộc".
Nhưng gia đình Nadarét khác hầu hết gia đình chúng ta ở nhiều điểm: một là dù nghèo nhưng không gian tham trộm cắp; hai là dù nghèo nhưng không lục đục với nhau; ba là dù nghèo nhưng vẫn thu xếp công việc được để chu toàn mọi bổn phận trong đạo.
Những nét giống giữa gia đình Nadarét và gia đình chúng ta khiến chúng ta cảm thấy gần gũi với Thánh gia, và nhớ đó chúng ta biết mình có thể học với các ngài ở những điểm khác biệt với chúng ta.
* 2. Tương lai của đứa con gia đình
Trong ngày lễ đặt tên cho Gioan Tẩy giả, bà con lối xóm đã đặt câu hỏi "Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào?" (Lc 1, 66). Đây là câu hỏi của mọi người làm cha mẹ. Càng thương con bao nhiêu, câu hỏi đó càng là mối băn khoăn cho cha mẹ bấy nhiêu, bởi vì cha mẹ thương con chỉ muốn cho con mình có một tương lai tốt đẹp, nhưng tương lai ấy lại không do cha mẹ hoàn toàn lo liệu cho con được.
Cha mẹ Đức Giêsu cũng thế. Bởi vậy, sau khi nghe cụ Simêon nói về tương lai của trẻ Giêsu bằng những lời rất khó hiểu, Tin Mừng viết, "Cha mẹ Ngài đều kinh ngạc".
Nhưng tương lai của đứa con không hoàn toàn không có phần của cha mẹ. Điều này rất rõ trong trường hợp Đức Giêsu:
Người ta vẫn nói Ngài là "con bác thợ mộc" (Mc 6, 3).
Đức Giêsu có thói quen cầu nguyện và sống với Chúa Cha. Thói quen này hẳn là Ngài đã học được từ gia đình. Tin Mừng tuy nói rất ít về thời thơ ấu của Ngài, nhưng cũng đủ cho ta thấy Thánh gia rất quan tâm chu toàn những bổn phận tôn giáo.
* 3. Dung mạo Chúa cứu thế
Hoàng đế của một vương quốc hùng cường và thịnh vượng, một ngày kia đã triệu tập các nghệ nhân từ khắp các nước đến dự một cuộc tranh tài. Cuộc thi mô tả dung mạo hoàng đế.
Các nghệ nhân Ấn Độ đến với đầy đủ dụng cụ và các loại đá hoa cương quí hiếm. Các nghệ nhân Acmêni mang theo một loại đất sét đặc biệt. Các nghệ nhân Ai cập mang đủ loại đồ nghề và khối cẩm thạch hảo hạng.
Sau cùng, người ta hết sức ngạc nhiên vì phái đoàn nghệ nhân Hy Lạp chỉ mang đến vỏn vẹn một gói thuốc đánh bóng.
Mỗi phái đoàn thi thố tài năng của mình trong một phòng riêng. Khi thời gian ấn định đã hết, hoàng đế đến từng gian phòng để thưởng thức các tác phẩm. Vua hết lời khen ngợi bức chân dung của mình do các họa sĩ Ấn Độ vẽ. Ông càng thán phục hơn khi nhìn ngắm các pho tượng của chính ông mà các người Ai Cập và Acmêni điêu khắc.
Sau cùng, đến phòng trưng bày của người Hy Lạp, hoàng đế không nhìn thấy gì cả, duy chỉ có bức tường của căn phòng được đánh bóng đến độ khi nhìn vào ông thấy chân dung mình hiện ra từng nét.
Dĩ nhiên, giải nhất thuộc về các nghệ nhân Hy Lạp. Bởi vì họ đã hiểu rằng chỉ có hoàng đế mới họa được dung mạo của chính mình.
***
Muốn họa lại dung mạo Đức Kitô, chúng ta cần phải đánh bóng lòng mình cho sạch mọi vết nhơ, mọi tì ố của tâm hồn. Một khi đã nên sáng bóng như gương, chúng ta sẽ tiếp nhận khuôn mặt rạng ngời của Chúa.
Khi Đức Maria và Thánh Giuse dâng Chúa Hài Nhi trong đền thánh, có biết bao tư tế và luật sĩ thông thái, giỏi giang, am tường Kinh Thánh, nhưng họ đã không nhận ra Chúa. Duy chỉ có ông Simêon, và bà Anna đã nhận ra được dung mạo của Người.
Simêon và Anna đã dâng hiến trọn vẹn con người và cuộc đời, đã mài bóng đời mình bằng đạo hạnh và khiêm tốn, đã tôn thờ Chúa trong tin yêu và phó thác. Vì thế, dung mạo của Đấng Cứu Thế đã tỏ hiện sáng ngời trước mặt các ngài.
Simêon và Anna đã đón nhận Đấng Cứu Thế như những người nghèo hèn bé nhỏ. Các ngài đã được bồng ẵm Chúa, được thay mặt cho cả nhân loại nói lời đầu tiên tôn vinh Chúa đến cứu độ con người.
Lễ Thánh Gia mời gọi chúng ta nhìn vào các gia đình. Truyền thống gia đình ngày càng sút giảm. Ly thân, ly dị, trẻ em lang thang, thanh niên nổi loạn, phá thai, mại dâm, ma tuý ngày càng gia tăng. Gia đình là nền tảng của xã hội. Nếu không có những gia đình lành mạnh thì không thể có một xã hội tốt đẹp. Cuộc sống của gia đình phải tỏa hương thơm của thiên đường.
Hơn bao giờ hết, các gia đình chúng ta phải nhìn lên Thánh gia thất: một gia đình lý tưởng, đạo đức, yêu thương và chăm lo cho nhau. Thánh Luca đã ghi lại hình ảnh rất đẹp của Thánh Gia như sau: "Đức Giêsu đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadaret và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến" (Lc. 2, 51-52).
Xã hội chúng ta không thiếu các mẫu gương đạo hạnh: Louis Pasteur, nhà bác học thời danh, đã tâm sự khi đặt tấm bia kỷ niệm tại gia đình ông: "Kính thưa cha mẹ thân yêu của con đã khuất bóng, các ngài đã khiêm tốn sống trong nếp nhà bé nhỏ này. Con mắc nợ công ơn cha mẹ về hết mọi điều..."
Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo hội Pháp cũng tâm sự: "Những lời khuyên nhủ dịu dàng của mẹ tôi, gương đạo đức, lòng nhiệt thành hâm nóng linh hồn nguội lạnh của tôi, khuyến khích nâng đỡ sức mạnh cho tôi. Chính nhờ giáo huấn của người mà tôi có đức tin".
Có lẽ thế giới biết nhiều đến Thủ tướng Thái Lan, nhưng ít ai biết được cậu Chuam Leekpai còn là một người con giàu cảm xúc, hiếu thảo, và luôn nghĩ đến bậc sinh thành. Ông nói với mẹ: "Giờ đây, con đã là một chính trị gia và con không còn thời gian về thăm mẹ thường xuyên nữa. Điều này làm con cứ áy náy mãi. Tuổi mẹ càng cao thì nỗi lo của con càng nhiều. Do đó con cố gắng tìm mọi cơ hội về thăm mẹ".
Đức Piô XI trong thông điệp về Giáo dục Kitô giáo có viết: "Nền giáo dục hữu hiệu nhất và bền bỉ nhất là nền giáo dục được nhận lãnh từ một gia đình Kitô giáo có qui củ và khuôn phép. Những gương lành của cha mẹ và của những người trong gia đình càng chiếu tỏa và bền bỉ, thì kết quả của giáo dục càng lớn lao".
*
Lạy Đức Giêsu, xin dạy chúng con biết theo gương Chúa, luôn sống trung hiếu với Cha trên trời, thảo kính với ông bà cha mẹ, và sống hết tình với anh chị em chung quanh.
Xin cho chúng con luôn biết đánh bóng đời mình, bằng tấm lòng khiêm tốn và đạo hạnh, bằng việc tôn thờ Chúa trong tin yêu và phó thác, để dung mạo của Chúa ngày càng tỏ hiện sáng ngời trong cuộc đời chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 4. Con cái
Con cái các bạn không phải là con cái của các bạn Chúng đến qua các bạn chứ không phải từ các bạn. Mặc dù chúng ở với các bạn nhưng chúng không thuộc về các bạn.
Các bạn có thể cho chúng tình thương nhưng không thể cho chúng ý tưởng, bởi vì chúng có những ý tưởng riêng của chúng.
Các bạn có thể lo nơi ăn chốn ở cho thân xác chúng chứ không thể cho linh hồn chúng, vì linh hồn chúng ở một nơi thuộc tương lai mà các bạn không thể đến thăm, ngay cả trong giấc mơ.
Các bạn có thể cố gắng để giống như chúng, nhưng đừng cố bắt chúng giống như các bạn.
Bởi vì cuộc sống không đi giật lùi và cũng không ngừng mãi ở ngày hôm qua.
Các bạn là những chiếc cung, và những mũi tên từ đó phóng đi chính là con cái của các bạn. (Kahil Gibran)
* 5. Đạo hiếu
Bài trích sách Huấn Ca (bài đọc I, được chỉ định đọc trong năm A, nhưng cũng có thể đọc trong năm B và C) có câu: "Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu"
Những từ mà Thánh Kinh dùng rất quen thuộc với người Việt Nam. Thí dụ như câu ca dao: "Một lòng thờ mẹ, kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con".
"Thờ" và "kính" chính là những việc làm trong tôn giáo. Hiếu thảo với cha mẹ chính là Đạo.
Câu Huấn ca và câu ca dao trên giúp ta ý thức rằng hiếu thảo với cha mẹ không chỉ là một tình cảm, cũng không phải chỉ là một lẽ công bình, mà là một Đạo. Mà lỗi đạo tức là phạm tội chứ không chỉ là một sự thiếu sót.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã làm cho Thánh gia trở nên đền thánh của sự sống, của tình thương, và của niềm vâng phục ý Chúa. Hôm nay mừng lễ Thánh Gia, chúng ta đặc biệt hướng về các gia đình và dâng lời cầu nguyện:
1. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh là gia đình của Chúa / luôn cố gắng sống hiệp thông với nhau / để làm chứng cho tình yêu Chúa cho thế giới.
2. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các bậc làm cha mẹ và các nhà giáo dục / biết hướng dẫn và cộng tác với các con em mình / để xây dựng gia đình thành một tổ ấm đầy tình yêu thương.
3. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người không gia đình / hoặc sống trong gia đình đang bị khủng hoảng xáo trộn / được ơn can đảm để nhẫn nhục chịu đựng / và tích cực góp phần hàn gắn lại những gì đã tan vỡ.
4. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người làm cha mẹ cũng như làm con cái trong xứ đạo chúng ta / luôn ý thức trách nhiệm của mình đối với hạnh phúc gia đình / để biết cởi mở, đối thoại, thông cảm và cô#ng tác với nhau theo thánh ý Chúa.
Chủ tế: Lạy Chúa, xin chấp nhận những lời cầu chúng con dâng lên Chúa nhân dịp lễ Thánh Gia, để nhờ ơn Chúa giúp, mỗi người trong gia đình đều cộng tác làm cho gia đình trở nên Đền Thánh của sự sống của tình thương, và niềm vâng phục ý Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô.
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Ngoài gia đình tự nhiên, người kitô hữu chúng ta còn có được một gia đình siêu nhiên trong đó Thiên Chúa là Cha, mọi người là anh em với nhau, và Đức Giêsu là anh cả. Trong tình nghĩa gia đình ấy, chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa lời kinh Lạy Cha.
- Trước lúc Rước lễ: Thánh lễ là một bữa ăn gia đình. Chúa là gia trưởng, các tín hữu là con cái ngồi quanh bàn ăn. Phúc cho những ai được mời vào bàn ăn gia đình ấy.
VII. Giải tán
Sau khi được khuyến khích bởi tấm gương gia đình Nadarét, giờ đây anh chị em trở về sống với gia đình mình và các gia đình hàng xóm. Anh chị em hãy sống theo gương thánh gia. Chúc anh chị em bình an.