Suy Niệm Tin Mừng Lễ Trái tim Vô Nhiễm Đức Mẹ - Thứ 7 sau lễ Thánh Tâm - Cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con

Thứ hai - 03/06/2024 10:17
Suy Niệm Tin Mừng Lễ Trái tim Vô Nhiễm Đức Mẹ - Thứ 7 sau lễ Thánh Tâm - Cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con
Suy Niệm Tin Mừng Lễ Trái tim Vô Nhiễm Đức Mẹ - Thứ 7 sau lễ Thánh Tâm - Cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con
Suy Niệm Tin Mừng Lễ Trái tim Vô Nhiễm Đức Mẹ - Thứ 7 sau lễ Thánh Tâm - Cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con
(Thứ 7 sau lễ Thánh Tâm)
----------------------------------    
Mục Lục:

Lời Chúa: Lc 2, 41-52 : "Cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con". 1

Suy niệm 1: Trái tim người Mẹ. 2
Suy niệm 2: LỄ KÍNH TRÁI TIM VẸN SẠCH ĐỨC MARIA.. 4
Suy niệm 3: Mẫu mực trong đời sống đức tin. 5
Suy niệm 4: Lễ Trái Tim Đức Mẹ. 6
Suy niệm 5: Tôi biết chạy đến với ai?. 7
Suy niệm 6: Suy niệm trong lòng. 8
Suy niệm 7: LỄ Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ. 9
Suy niệm 8: ĐỨC MARIA VÔ NHIỄM, VÌ ĐƯỢC CHÚA Ở CÙNG.. 12
Suy niệm 9: LỄ TRÁI TIM VÔ NHIỄM ĐỨC MẸ (Lc 2, 41 – 51) 15
Suy niệm 10: LỄ TRÁI TIM VÔ NHIỄM ĐỨC MẸ.. 16
Suy niệm 11: Trái Tim vô nhiễm của Đức Maria. 18
Suy niệm 12: Thân mẫu Người ghi nhớ tất cả những điều này trong lòng. 23
Suy niệm 13: Lễ Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ Maria. 24
Suy niệm 14: Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ) 28
Suy niệm 15: Trái tim Xin Vâng của Mẹ Maria. 29
Suy niệm 16: Sống trong trái tim Mẹ Maria. 30
Suy niệm 17: Trái tim Vô nhiễm Đức mẹ. 33
Suy niệm 18: Nên giống Trái Tim Đức Mẹ. 35
Suy niệm 19: Lễ Trái tim Vô nhiễm Đức Mẹ. 38

-------------------------------

 

Lời Chúa: Lc 2, 41-52 : "Cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con"


Hằng năm cha mẹ Chúa Giêsu có thói quen lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua. Lúc bấy giờ Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, cha mẹ Người đã lên Giêrusalem, theo tục lệ mừng ngày lễ Vượt Qua. Và khi những ngày lễ đã hoàn tất, hai ông bà ra về, trẻ Giêsu đã ở lại Giêrusalem mà cha mẹ Người không hay biết. Tưởng rằng Người ở trong nhóm các khách đồng hành, hai ông bà đi được một ngày đàng mới tìm kiếm Người trong nhóm bà con và những kẻ quen biết. Nhưng không gặp thấy Người, nên hai ông bà trở lại Giêrsalem để tìm Người.
Sau ba ngày, hai ông bà gặp thấy Người trong đền thờ đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ, nghe và hỏi các ông. Tất cả những ai nghe Người nói, đều ngạc nhiên trước sự hiểu biết và những câu Người đáp lại. Nhìn thấy Người, hai ông bà đã ngạc nhiên, và mẹ Người bảo Người rằng: "Con ơi, sao Con làm cho chúng ta như thế? Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con".
Người thưa với hai ông bà rằng: "Mà tại sao cha mẹ tìm con? Cha mẹ không biết rằng con phải lo công việc của Cha con ư?" Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người nói. Bấy giờ Người theo hai ông bà trở về Nadarét, và Người vâng phục hai ông bà. Maria mẹ Người ghi nhớ tất cả những việc đó trong lòng.
Còn Chúa Giêsu thì tiến tới trong sự khôn ngoan, tuổi tác và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và người ta.

-------------------------------

 

Suy niệm 1: Trái tim người Mẹ.

 

Nếu ai hỏi Mẹ Maria điều gì quý nhất trong đời Mẹ, hẳn Mẹ sẽ trả lời đó là Giêsu, con của Mẹ Suy niệm 1


Nếu ai hỏi Mẹ Maria điều gì quý nhất trong đời Mẹ,
hẳn Mẹ sẽ trả lời đó là Giêsu, con của Mẹ.
Người con này Mẹ đã cưu mang, dưỡng dục, và bảo vệ giữ gìn.
Người con này đã đem lại cho Mẹ biết bao niềm vui và hãnh diện.
Nhưng Mẹ cũng chịu nhiều đau khổ vì người con ấy.
Bài Tin Mừng hôm nay vén mở một chút nỗi đau của Mẹ,
cho thấy một chút trái tim của Mẹ khi sống bên Giêsu.
Cậu Giêsu, mười hai tuổi, cùng với cha mẹ lên Đền thờ mừng lễ Vượt qua.
Kể cũng lạ khi cậu ở lại Giêrusalem mà không báo cho cha mẹ biết.
Hai ông bà đi một ngày đường mới nhận ra mình mất con,
vội vã đi tìm trong đám bà con thân thuộc,
nhưng không thấy, nên trở lại Giêrusalem mà tìm.
Phải qua ba ngày đầy lo âu và nước mắt mới tìm thấy con trong Đền thờ.
Kinh nghiệm mất- tìm kiếm- tìm thấy này thật đau đớn đối với người mẹ.
Mẹ Maria sợ mất con, mất điều rất quý đã được Thiên Chúa trao cho mình.
Nhưng khi thấy con mình ngồi giữa các vị thầy, rất bình an trò chuyện với họ,
thì Mẹ lại sửng sốt, ngỡ ngàng, thay vì vui sướng.
Như vậy là con không bị lạc, nhưng đã cố ý ở lại Đền thờ mà không báo.
Mẹ không nén được một lời trách móc: “Tại sao con làm thế với cha mẹ?
Cha con và mẹ đã khắc khoải tìm con” (c. 48).
Chuyện không ngờ là cậu Giêsu đã đáp lại câu hỏi của Mẹ bằng hai câu hỏi,
đầy vẻ sửng sốt và cũng là một lời trách: “Tại sao cha mẹ lại tìm con?
Cha mẹ không biết là con phải ở nhà của Cha con sao ?” (c.49).
Cũng có thể hiểu là: cha mẹ không biết con phải lo việc của Cha con sao?
Đức Giêsu, khi lên mười hai tuổi, đã bắt đầu có ý thức mình thuộc về Cha.
Người Cha trên trời này khác với người cha mà Ngài đang chung sống.
Ngài phải ở với và lo việc cho người Cha này, lẽ ra cha mẹ phải biết chuyện đó.
Dĩ nhiên hai ông bà chưng hửng, không hiểu được câu nói của cậu Giêsu (c.50).
Riêng Mẹ Maria có thói quen nghiền ngẫm về các biến cố khó hiểu.
Mẹ giữ kỹ trong trái tim mình những chuyện xảy ra (Lc 2, 19. 51b).
Chúng ta tưởng Mẹ Maria luôn luôn hiểu Con mình, hiểu ngay, hiểu trọn vẹn.
Chúng ta tưởng ai sống thánh thiện thì lúc nào cũng vui, chẳng bao giờ lo sợ.
Nhìn Mẹ Maria, chúng ta hiểu theo Chúa là bước vào một cuộc hành trình.
Có những lúc như đang chơi ú tim với Chúa, mất rồi lại tìm, tìm thấy rồi lại mất.
Chúng ta chẳng bao giờ nắm được Chúa, giữ chặt Chúa trong tay.
Chúa vẫn là Đấng không thể thấu hiểu được, và vẫn làm chúng ta sững sờ.
Mẹ Maria đã chứng kiến Đức Giêsu lớn dần về mọi mặt (Lc 2, 40),
từ khi sinh ra đến khi mười hai tuổi,
và từ mười hai tuổi đến lúc trưởng thành (Lc 2, 52).
Ngài càng lúc càng ý thức mình thuộc về Cha và ý thức về sứ mạng.
Con của Mẹ là một mầu nhiệm khôn dò mà Mẹ phải tìm hiểu mỗi ngày.
Mẹ để cho Con tự do sống theo Ý Cha, dù điều đó đem lại nhiều đau khổ.
Chuyện mất Con hôm nay chuẩn bị cho việc Con sẽ chia tay Mẹ đi sứ vụ,
và chuẩn bị cho cuộc chia tay kinh hoàng trên thập giá.
Chúng ta cầu cho các bà mẹ đang đau khổ vì con.
Mong sự vâng phục của con cái làm tươi trái tim người mẹ.
 
Cầu nguyện:

Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu.
Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,
từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm họa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con
đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

-------------------------------
 
 

Suy niệm 2: LỄ KÍNH TRÁI TIM VẸN SẠCH ĐỨC MARIA


Lm HKT

 

Hôm nay Giáo Hội mừng kính Trái tim vẹn sạch Đức Trinh nữ Maria. Lễ này được Giáo Hội mừng Suy niệm 2


Hôm nay Giáo Hội mừng kính Trái tim vẹn sạch Đức Trinh nữ Maria. Lễ này được Giáo Hội mừng kính ngay sau lễ tôn kính Thánh tâm Chúa Giêsu. Điều đó giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa ngày lễ của Mẹ Maria hôm nay.

Thật vậy, nếu như Thánh tâm Chúa Giêsu là dấu chỉ tình thương vô hạn mà Thiên Chúa dành cho con người, thì Trái tim vẹn sạch Đức Trinh nữ Maria cũng thế, cũng là dấu chỉ của tình yêu, nhưng là tình yêu của Mẹ đối với Thiên Chúa và đối với Đức Giêsu Kitô, con yêu dấu của Mẹ. Tuy nhiên, một cách đặc biệt, khi tôn kính Trái tim vẹn sạch Đức Trinh nữ Maria, Giáo Hội cũng tôn kính tình yêu hiền mẫu của Mẹ đối với toàn thể nhân loại.

Thế nhưng, tình thương của Mẹ Maria đối với con người không ngừng bị xúc phạm. Hình ảnh trái tim của Mẹ bị lưỡi gươm đâm thấu mà cụ già Simêon đã cho thấy điều đó. Và trong sứ điệp Fatima, Mẹ Maria đã tỏ cho chúng ta thấy tình yêu của Mẹ đã bị tội lỗi của thế gian gây nên biết bao thương tích. Bởi đó, một trong ba mệnh lệnh Fatima là “Hãy đền tạ trái tim vô nhiễm nguyên tội của Mẹ Maria”.

Cũng như tình yêu của Thiên Chúa, con người cũng không thể hiểu thấu được tình yêu của Mẹ Maria đối với chúng ta. Thật thế, khi trao ban thánh Gioan cho Mẹ Maria, Đức Giêsu cũng trao ban mỗi người chúng ta cho Mẹ Maria. Bởi đó, dù thánh thiện hay tội lỗi, giàu sang hay nghèo hèn, thông minh hay đần độn, khoẻ mạnh hay bệnh tật, mỗi người chúng ta đều được Mẹ Maria đón nhận như người con trọn vẹn của Mẹ. Mỗi người chúng ta đều được Mẹ Maria dành cho tất cả tâm tình và tình thương mà Mẹ đã dành cho Đức Giêsu. Mỗi người chúng ta đều được Mẹ Ma-ri-a dành cho một chỗ đặc biệt trong trái tim Mẹ.

Là con cái của Mẹ Maria, chúng ta hãy siêng năng chạy đến với Mẹ để được Mẹ ủi an nâng đỡ và nhất là chúng ta hãy thi hành những lời căn dặn của Mẹ:

- Cải thiện đời sống,
- Siêng năng lần hạt mân côi,
- Tôn sùng Trái tim Mẹ – Amen.

-------------------------------

 

Suy niệm 3: Mẫu mực trong đời sống đức tin

 

Một người đàn bà Nigiêria bị tòa án Hồi Giáo kết án tử hình bằng cách ném đá về tội ngoại hôn Suy niệm 3


Một người đàn bà Nigiêria bị tòa án Hồi Giáo kết án tử hình bằng cách ném đá về tội ngoại hôn đã được hoãn hành quyết hai năm để bà có thể cai sữa cho đứa con.

Hôm thứ Hai ngày 17/6/2002, tòa phá án thành phố Pontuar ở miền tây bắc Nigiêria vẫn duy trì cuộc hành quyết này sau khi xét đơn kháng cáo của bà Amila Nawanrami. Người phụ nữ này bị kết án tử hình hồi tháng 3/2002, sau khi bị tố cáo có thai với một người đàn ông không chính thức là chồng của chị. Kurami là người đàn bà thứ hai bị kết án tử hình vì có con ngoại hôn tại Nigiêria. Án tử hình của chị sẽ được thi hành vào năm 2004 sau khi đứa con của chị dứt sữa mẹ. Bản án thật bất công, nó ngược lại với mọi chuẩn mực văn minh của loài người. Tuy nhiên, vẫn còn thấy ở đây một giá trị mà cho dù có độc ác tới đâu loài người vẫn còn trân quí, đó là tình mẫu tử. Người mẹ Nawanrami sẽ chết đi nhưng ít ra đứa con của chị vẫn còn có được những giọt sữa mẹ nuôi dưỡng cho đến khi thôi bú.

Cho con bú mớm, đó là hình ảnh đẹp nhất mà người ta có thể nhìn thấy nơi bất cứ người mẹ nào. Hôm nay Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria, có lẽ chúng ta cũng được mời gọi để suy niệm về tình mẫu tử của Mẹ. Mẹ đã sinh dưỡng Chúa Giêsu, Mẹ đã từng cho Ngài bú mớm. Một hôm, vào giữa lúc Chúa Giêsu đang giảng dạy, có một người trong đám đông đã lên tiếng ca ngợi Mẹ: "Phúc cho kẻ đã cho Ngài bú mớm". Quả thật, cũng như bất cứ bà mẹ nào, Mẹ đã cho Chúa Giêsu bú mớm, Mẹ đã nhìn Ngài lớn lên từng ngày, Mẹ theo dõi và hân hoan với từng bước chân chập chững của Ngài, Mẹ vui với sự khôn lớn của Ngài, Mẹ buồn lo vì sự bất chấp xảy ra cho Ngài.

Câu chuyện Chúa Giêsu lạc mất trong đền thờ được thánh sử Luca ghi lại trong Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy được trái tim hiền mẫu của Mẹ: "Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con?" Lời trách móc này bộc lộ tất cả trái tim con người của Mẹ. Mẹ đối xử với Chúa Giêsu với tất cả tình cảm của một con người và chính vì là một con người cho nên Mẹ trở thành mẫu mực cho chúng ta trong cuộc lữ hành đức tin. Nơi Mẹ, chúng ta nhận ra được một người tín hữu tiến bước trong mò mẫm, trong chiến đấu, trong tin yêu và vâng phục. Nhưng Mẹ không chỉ là mẫu mực cho chúng ta trong đời sống đức tin. Mẹ là Mẹ của chúng ta. Mẹ đã yêu thương Chúa Giêsu với tất cả trái tim nhân loại của Mẹ. Ngày nay, Mẹ cũng tiếp tục dõi theo mỗi người chúng ta với trái tim hiền mẫu ấy. Mẹ đã trải qua thử thách, Mẹ hiểu được thế nào là khổ đau. Hơn ai hết, Mẹ đồng cảm với bao nỗi lo lắng và khổ đau của chúng ta. Mẹ hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Mẹ đã từng dõi theo từng bước trong tiến trình trưởng thành của Chúa Giêsu Con Mẹ. Mẹ suy niệm từng biến cố của cuộc sống.

Ngày nay cũng thế, không có giây phút nào trong cuộc sống của mỗi người chúng ta mà không được Mẹ ôm ấp trong lòng. Với niềm tin tưởng ấy, chúng ta phó thác cuộc sống cho Mẹ.

-------------------------------

 

Suy niệm 4: Lễ Trái Tim Đức Mẹ

 

Có thứ nghệ thuật cho rằng đặt trái tim bốc lửa ra ngoài ngực của Đức Giê-su và Đức Ma-ri-a Suy niệm 4


Có thứ nghệ thuật cho rằng đặt trái tim bốc lửa ra ngoài ngực của Đức Giê-su và Đức Ma-ri-a là một gương mù. Thế mà chiêm ngưỡng lối cách mạng này là trình bày cho chúng ta thấy hai Đấng thương yêu chúng ta đậm đà nồng ấm biết chừng nào, và chúng ta thấy hai Đấng đáng mến vô cùng. Người ta cho đó là thứ đạo đức thời trang; lấy lý do đạo đức trong sáng, người ta chê thiếu sự liêm chính tri thức và tinh thần thối thiểu trong đức tin; Nhưng người ta không thấy chướng tai gai mắt của lối thương mại in đúc những trái tim to bự bằng nhiều kiểu để trao tặng cho nhau trong ngày lễ Va-lăng-tin;

Như thế người ta nghĩ sao?

Thói chỉ trích đó do thứ thông minh đáng nghi ngờ cho rằng  lối nghệ thuật cơ bắp đó chỉ lôi cuốn sự sùng kính cảm tình. Tuy nhiên, nghệ thuật tạo hình để bày tỏ sự thực của Thiên Chúa, nó nói lên tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta.

Đừng cười chê quá lố; chúng ta thích biểu lộ tình yêu của chúng ta thế nào: bằng phá bỏ tưởng tượng này chăng? Phải, nếu muốn làm cho lòng yêu mến biến mất và không còn gì để kính tôn nữa. Cần phải đến những nhà thờ để chiêm ngưỡng; tôi đã đến và thấy rằng: “Những tượng ảnh xưa đầy gợi cảm đang sống động tốt”. Chúng có giá trị kích thích lòng đạo đức, chúng không thể là thứ danh từ tân thời như ngày nay.

Đức Ma-ri-a yêu thương chúng ta

Trái tim cực sạch Đức Ma-ri-a thế nào? Ngài yêu thương chúng ta. Trái tim cực sạch của Ngài đồng nghĩa với tình yêu chân thật, giống như tình yêu Con Ngài đối với chúng ta. Dù cho chúng ta tan tành cũ rách, và chẳng đáng để ý chút gì.

Thi hào Claudel nói:“Lạy Mẹ Đức Giê-su Ki-tô, con không đến cầu xin, con đến chỉ để nhìn ngắm Mẹ thôi. Nhìn ngắm Mẹ không chỉ để một lát, mà suốt mọi lúc...

Vì Mẹ là bà Mẹ sáng ngời vinh quang nguyên tuyền...chỉ vì mẹ là Ma-ri-a, Mẹ Đức Giê-su Ki-tô, Xin đoái thương chúng con”.

---------------------------------

 

Suy niệm 5: Tôi biết chạy đến với ai?

 

Sau khi phản bội Chúa bằng một cái hôn, Giuda cảm thấy thất vọng đến độ không còn nghĩ rằng Suy niệm 5


Sau khi phản bội Chúa bằng một cái hôn, Giuda cảm thấy thất vọng đến độ không còn nghĩ rằng mình có thể được tha thứ nữa. Ông cầm 30 đồng bạc là giá của sự phản bội và đi vào Ðền thờ để trả lại cho các thượng tế và kỳ lão. Sau đó, ông ra ngoài lấy dây thắt cổ tự vận.

Câu chuyện ấy đã được xen vào vở tuồng thương khó nổi tiếng của dân làng Oberammergau bên Ðức. Cứ 10 năm một lần, theo một lời thề hứa mà ông cha đã để lại từ mấy trăm năm qua, người dân làng diễn ra cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Vở kịch thu hút khán giả từ khắp nơi trên thế giới.

Người ta kể lại rằng lần kia, một em bé gái 7 tuổi ngồi cạnh mẹ để xem vở tuồng. Người đóng vai Giuda, trong cơn thất vọng não nề đã thốt lên: "Tôi biết đi đến với ai bây giờ? Tôi đã phản bội Thầy tôi. Thế là hết; Tô không biết phải chạy đến với ai nữa".

Em bé ngồi bên cạnh mẹ cảm thông cho số phận của kẻ chìm đắm trong thất vọng. Em muốn tìm cách để cứu vớt con người khốn khổ ấy. Em bèn quay sang mẹ và nói lớn đến độ tất cả mọi khán thính giả có mặt trong hội trường đều nghe được: "Má ơi, sao ông ta không chạy đến với Mẹ Maria?".

Chúa Giêsu cũng có một người Mẹ như mọi người, và nhất là Ngài cũng trải qua một thời thơ ấu như mọi người. Kỷ niệm của những giây phút ngồi trên gối Mẹ, những lần sà vào lòng Mẹ, những lần mếu máo khi lạc mất Mẹ, hay những lần vòi vĩnh Mẹ... hẳn phải luôn đậm nét trong ký ức của Chúa Giêsu. Có lẽ chính kinh nghiệm của bản thân ấy đã trở thành bài học về hồn nhiên trong trắng, tin tưởng, phó thác của tuổi thơ mà Chúa Giêsu luôn đề ra cho chúng ta khi Ngài nói: "Nếu các ngươi không nên giống như trẻ nhỏ, các ngươi không được vào nước Trời".

Tuổi thơ thường gắn liền với mẹ. Còn âm thanh nào bộc phát, tự nhiên, quen thuộc và êm dịu trên môi của trẻ thơ cho bằng tiếng "Mẹ". Khi vui, trẻ thơ kêu mẹ, lúc đói, trẻ thơ cũng kêu mẹ. Khi tỉnh thức, trẻ thơ cũng kêu mẹ, lúc ngái ngủ, trẻ thơ cũng kêu mẹ... Mẹ là tất cả của trẻ thơ.

Mời gọi chúng ta mặc lấy tâm tình của trẻ thơ để được vào nước Trời, hẳn Chúa Giêsu cũng muốn nhắn gửi chúng ta cho Mẹ của Ngài. Trở nên trẻ thơ trong nước Trời cũng có nghĩa là biết chạy đến với Mẹ Ngài. Trở nên trẻ thơ trong nước Trời cũng có nghĩa là mặc lấy tâm tình của chính Mẹ Ngài, bởi vì còn ai trong trắng, tin tưởng, phó thác cho bằng Mẹ.

(Trích sách ‘Lẽ Sống’)

---------------------------------

 

Suy niệm 6: Suy niệm trong lòng


Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. (Lc 2,51)

Suy niệm:

 

Nhiều lần Chúa Giêsu đã gián tiếp ca ngợi Mẹ: “Mẹ tôi và anh em tôi là những ai nghe Lời tôi Suy niệm 6


Nhiều lần Chúa Giêsu đã gián tiếp ca ngợi Mẹ: “Mẹ tôi và anh em tôi là những ai nghe Lời tôi và đem ra thực hành” (Mc 3,35; Lc 8,21) và “Phúc thay ai lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa” (Lc 11,28). Các Phúc Âm đã thuật lại những biến cố trong cuộc đời của Người Con, nhất là những biến cố trong thời thơ ấu, đã đi vào cuộc đời của Mẹ và cho biết Mẹ “hằng ghi nhớ những kỷ niệm đó và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19.51). Hẳn đối với Mẹ, Lời Chúa không chỉ được nghe tại các hội đường mà còn vang lên nơi các biến cố đời thường và nhất là nhập thể nơi Người Con duy nhất mà Mẹ được diễm phúc sinh ra. Mẹ đã thường xuyên “đọc” Lời Chúa và suy niệm trong lòng như thế nên những phản ứng của Mẹ luôn biểu lộ thái độ của một người có lòng tin sâu xa, thấm nhuần Lời Chúa.

Mời Bạn: Mẹ Maria là người đã trải qua nhiều “đêm tối đức tin” hơn ai hết, nhưng nhờ Mẹ năng lắng nghe và suy niệm Lời Chúa nên Mẹ có sức mạnh nội tâm vượt qua tất cả. Làm sao Mẹ có thể tin nổi lời sứ thần Gabriel, làm sao Mẹ có thể can đảm đi theo Chúa trọn con đường Thập giá nếu Mẹ không nhận ra và tin vào Lời Chúa? Giờ đây Mẹ vẫn chuyển cầu và dẫn chúng ta đến với Chúa mỗi khi chúng ta gặp khó khăn thử thách: “Người bảo gì thì hãy làm theo” (Ga 2,3). Nhưng liệu tôi có nghe và làm theo không?

Sống Lời Chúa: Mỗi ngày chọn một câu Lời Chúa để suy đi gẫm lại như Mẹ.

Cầu nguyện: Lạy Mẹ Maria, Chúa Giêsu đã vâng phục Mẹ vì Mẹ đã thấm nhuần Lời Chúa. Xin giúp con biết để Lời Chúa hướng dẫn bước đường con đi trong suốt cuộc lữ hành trần thế này.

(Trích trong ‘nguoitinhuu.com’)

---------------------------------

 

Suy niệm 7: LỄ Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ


 - JM Lam Thy ĐVD

 

Để nói lên vai trò quan trọng bậc nhất của người mẹ, tục ngữ Việt Nam có câu: “Mồ côi cha Suy niệm 7


Để nói lên vai trò quan trọng bậc nhất của người mẹ, tục ngữ Việt Nam có câu: “Mồ côi cha ăn cơm với cá; Mồ côi mẹ liếm lá đầu đình”. Ấy cũng bởi vì tình cảm mẹ con vô cùng thắm thiết. Ngôn ngữ loài người đã dùng 2 tiếng Mẹ và Con để tôn vinh tình cảm bất khả thay thế đó, đồng thời cũng dùng 2 tiếng ấy trong cách xưng hô giữa 2 ngôi vị đó trong gia đình. Đối chiếu tình cảm đó với Thánh Kinh, khi nhìn vào mầu nhiệm Cứu Chuộc thì Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa (Mẹ Ngôi Lời Nhập Thể), khi nhìn vào mầu nhiệm Hội Thánh thì Đức Maria là Mẹ Giáo Hội (vì Người Con của Mẹ đã nhận Giáo Hội làm Hiền Thê và chính thức trao phó cho Mẹ trước khi sinh thì trên Thánh Giá). Quả thật tình Mẫu Tử giữa Mẹ Thiên Chúa và Người Con là cao vời tuyệt đỉnh, muôn vật thụ tạo khôn sánh bằng.

Tuy nhiên, khi suy niệm Thánh Kinh thì lại nảy sinh thắc mắc: Tại sao Người Con Chí Thánh Giê-su lại gọi Mẹ mình bằng tiếng Bà nghe có vẻ xa lạ như vậy (như trong tiệc cưới Ca-na, khi thấy thiếu rượu, Đức Maria nói với Đức Giê-su: “Họ hết rượu rồi.” Đức Giê-su đáp: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến.” – Ga 2, 4); thậm chí cả khi trối trăng dưới chân thập tự: “Thưa Bà, đây là con của Bà.” Rồi Người nói với môn đệ Gio-an: “Đây là mẹ của anh.” Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.” – Ga 19, 26-27). Phải chăng vì Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, nên Người không muốn gọi người sinh ra mình nơi trần gian là Mẹ? Thắc mắc thật khó lý giải, đành phải nhờ vào việc tìm hiểu danh thánh Maria qua cách giải thích của các Giáo phụ, mới hiểu rõ được vấn đề:

Qua hàng bao thế kỷ, nhờ lòng tôn sùng tuyệt đốiĐức Maria, các thánh Giáo phụ đã đề nghị nhiều cách giải thích khác nhau về ý nghĩa của danh xưng “Maria”. Tựu trung, người ta đã có được một giàn ý nghĩa kỳ thú sau đây: Maria nghĩa là “Người Soi Sáng” bởi vì Người đã đem Ánh Sáng (Đức Giê-su Thiên Chúa – Nguồn Ánh Sáng Cứu Độ) đến cho thế gian; Maria nghĩa là “Sao Biển” vì những người đi biển được Sao Biển hướng dẫn về bến bờ như thế nào, thì Ki-tô hữu trong biển đời giông tố cũng đạt đến vinh quang nhờ sự soi đường chỉ lốicủa Đức Từ MẫuMaria như vậy; Maria còn có nghĩa là “Lệnh Bà” (là Đức Bà của nhân loại). Trước đây ở Việt Nam, trong các kinh nguyện về Đức Maria đều gọi là Đức Bà.Điều đó cho thấy khi Đức Giê-su gọi Đức Maria là Bà, là Người tôn vinh Người Mẹ chí ái của minh vậy.

Còn về ngày lễ “Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ”, thì Lịch sử Phụng Vụ của Giáo Hội cho biết: Năm 1787, Đức Giáo hoàng Pi-ô VI ban phép các nữ tu dòng Đức Mẹ Gabriel mừng lễ “Rất Thánh Trái Tim Mẹ Maria” vào ngày 22/8. Năm 1799, tất cả các nhà thờ giáo phận Palermô nước Ý được mừng lễ này. Năm 1805, tất cả các giáo phận và các dòng tu muốn mừng lễ này đều được Đức Pi-ô VII ban phép. Năm 1855, dưới triều đại Đức Pi-ô IX, giờ kinh và Thánh lễ đã được Thánh bộ Lễ nghi chấp thuận (1).

Từ sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại Fatima năm 1917 ban hành mệnh lệnh “Tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ”, vào ngày mồng 8/12/1942, Đức Thánh Cha Pi-ô XII long trọng dâng thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ. Tới tháng 5/1943, Đức Thánh Cha khuyến khích tín hữu Công Giáo kêu cầu sự bầu cử của Đức Trinh Nữ Rất Thánh, nhất là bằng cách đọc kinh Mân Côi cầu cho thế giới được hoà bình đích thực. Ngài cũng kêu mời mọi người dâng mình cho Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ. Năm 1945, ngài chính thức thành lập lễ “Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ” vào ngày 22/8. Theo chiều hướng canh tân Phụng vụ, năm 1969, Đức Phao-lô VI đổi lễ này vào ngày thứ Bảy sau lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su (cuối tuần Chúa nhật II sau lễ Hiện Xuống) (2).

Thật vô cùng ý nghĩa khi ngày lễ kính Trái Tim Người Mẹ đi liền với ngày lễ kính Thánh Tâm Người Con. Ấy cũng bởi vì 2 Trái Tim ấy luôn gắn liền với nhau, ở trong nhau trong suốt thời Cứu Độ và mãi mãi cho đến vô cùng. Để được hòa chung Máu của Mẹ với Máu của Con làm của dưỡng nuôi những tín hữu, cùng đồng công cứu chuộc nhân loại thoát khỏi sự chết đời đời, hẳn nhiên Đức Mẹ phải có đầy đủ trong lòng (trong trái tim) nguồn ân sủng chan chứa làm nên những hình ảnh Trái Tim Từ Mẫu tuyệt vời: Trái Tim Tinh Tuyền, Trái Tim Tín Thác, Trái Tim Cay Đắng, Trái Tim Nhân Hậu.

Trái Tim Tinh Tuyền: Mẹ đã được tuyển chọn ngay từ khi Nguyên tổ phạm tội. Thiên Chúa đã tiền định một E-và Mới sẽ “đạp nát đầu con rắn (Xa-tan) đã cám dỗ E-và” (St 3, 1-15). E-và Mới đó chính là Đức Maria được hồng ân vô nhiễm nguyên tội ngay từ khi đầu thai trong lòng bà Anna. Đồng thời, trong suốt cuộc đời trần thế, Mẹ cộng tác mật thiết với Người Con (A-đam Mới) đồng công cứu chuộc loài người, gặp biết bao nghịch cảnh và cám dỗ của ba thù, Mẹ vẫn giữ nguyên tuyền vẻ đẹp trinh trong một Trái Tim Vẹn Sạch, không chút bợn nhơ trần thế.

Trái Tim Tín Thác: Sau khi nghe sứ thần truyền tin, Mẹ chẳng so đo ngần ngại, mà dứt khoát:“Xin Vâng”. Mẹ hoàn toàn vâng phục, phó thác vào Thiên Chúa Quan Phòng với tất cả tấm lòng tin, cậy, mến. Qua bài ca “Ngợi Khen” (Magnificat), Mẹ cảm tạ, ca ngợi và tri ân Thiên Chúa đã đoái thương đến Mẹ và dân Chúa chọn. Vì nay lời Giao ước đã được thưc hiện, Mẹ phó thác vào Thiên Chúa, tuân phục theo những dấu chỉ, những mệnh lệnh của Người cách trực tiếp, hay gián tiếp qua người bạn trăm năm là Thánh Cả Giu-se. Dù bụng mang dạ chửa nặng nề, Mẹ vẫn vui lòng lên đường trở về Bê Lem cùng với Thánh Cả Giu-se, theo lệnh kiểm tra dân số của hoàng đế Augusto. Sau khi sinh hạ Hài Nhi Giê-su nơi hang bò lừa Bê-lem lạnh lẽo, Mẹ lại tiếp tục vâng theo Thánh ý, đem Con sang Ai-cập lánh nạn Hê-rô-đê lung giết các hài nhi.

Trái Tim Cay Đắng: Ngày 13/6/1917, một trong ba thiếu nhi Fatima (Lucia, Jacinta và Francisco) là Lucia (được “Chúa Giê-su dùng để làm cho Mẹ được mọi người nhận biết và yêu mến”) đã trực tiếp nghe lời Đức Mẹ phán hứa: “Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ là nơi con nương náu và là đường đưa con đến với Chúa”. Thế rồi, trước khi biến đi, Đức Maria đã dùng tay phải chỉ vào ngực, cho 3 trẻ thấy một Trái Tim bị gai nhọn từ chung quanh đâm vào (3). Điều này cho thấy những gai nhọn, đinh sắc (tội lỗi loài người) không chỉ đâm vào Thánh Tâm Người Con mà còn đâm cả vào Trái Tim Mẹ. Trái Tim Mẹ khi còn tại thế đã đau đớn đúng như lời ngôn sứ Si-mê-on tiên báo (“Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.” – Lc 2, 35). Thật không ngờ cho đến 20 thế kỷ sau, khi Đức Mẹ hiện ra tại Fatima (năm 1917), Trái Tim Mẹ vẫn tiếp tục bị gai nhọn, đinh sắc tội lỗi loài người đâm thâu. Danh thánh Maria với nghĩa là “Biển Đắng Cay” quả thật không sai.

Trái Tim Nhân Hậu: Nói về nhân hậu là nói về Đức Mến nền tảng của Ki-tô giáo. Đó chính là điều răn trọng nhất: “Mến Chúa yêu người”. Với Đức Maria thì Trái Tim Mẹ đã vượt trên tất cả phàm nhân về đức tính nhân hậu. Vì “yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn”, Đức Maria đã dâng hiến toàn thân cho Thiên Chúa (khấn giữ đồng trinh). Cũng vì yêu Chúa, nên Mẹ đã “xin vâng như lời sứ thần truyền” dù cho Mẹ “không hề biết đến người nam”. Cũng vì yêu Chúa, nên Mẹ chấp nhận mọi gian nan vất vả khi sinh con tại hang bò lửa Bê-lem, khi mang Con lánh nạn sang Ai-cập. Từ khi hạ sinh Trưởng Tử Giê-su, Mẹ hết lòng yêu thương, chăm sóc Con, không những thế, Mẹ còn dạy mọi người đức mến yêu, vâng phục tuyệt đối Con Thiên Chúa và cũng là Con của Mẹ: “Người bảo gì, các anh cứ làm theo” (Ga 2, 5). Cho đến khi Con tử nạn trên Gôn-gô-tha thì Trái Tim tan nát của Mẹ vẫn mở ra đón nhận đàn con cái trần gian do Người Con trao phó. Trái Tim của Mẹ vì khiêm cung nhân hậu đã xin vâng nhận làm Mẹ Thiên Chúa, nay lại mở rộng lòng nhận hậu, nhận làm Mẹ Giáo Hội lữ hành.

Suy niệm về Trái Tim Từ Mẫu Maria thì vô cùng, không bút mực nào có thể diễn tả cho hết được về kỳ công Thiên Chúa đã ban cho nhân loại một E-và Mới Maria, hạ sinh một Trưởng Tử A-đam Mới, cùng hiệp thông thi hành sứ vụ Cứu Độ nhân loại. Người Ki-tô hữu hãy chạy đến với Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ, để được “Nhờ Mẹ, đến với Chúa – Ad Jesum per Mariam”, cầu xin Người ban cho một tâm hồn trong sạch, một trái tim tinh tuyền như Mẹ và như vua Đa-vit thủa xưa. Hãy tha thiết thân thưa với Chúa: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ” (Tv 51, 12). Ôi! “Lay Chúa, xin ban cho con trái tim tinh tuyền. Để con luôn luôn cao dâng tâm tình kính mến. Lay Chúa, xin ban cho con trái tim tinh tuyền. Để con luôn luôn trung kiên vững một niềm tin.” (TCCĐ “Trái Tim Tinh Tuyền”).

 ---------------------------------

 

Suy niệm 8: ĐỨC MARIA VÔ NHIỄM, VÌ ĐƯỢC CHÚA Ở CÙNG

 

Khi ta nhìn Đức Ma-ri-a trong mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người, thì Đức Ma-ri-a là Mẹ của Suy niệm 8


Khi ta nhìn Đức Ma-ri-a trong mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người, thì Đức Ma-ri-a là Mẹ của Thiên Chúa (Hội Thánh kính ngày 1.1)

Khi ta nhìn Đức Ma-ri-a trong mầu nhiệm Hội Thánh, thì Đức Ma-ri-a là đấng Vô Nhiễm, vì là Hiền Thê của Tân Lang Giêsu mà Hội Thánh kính hôm nay.

Chính Đức Giê-su đã gọi Mẹ mình bằng danh hiệu Bà lúc khởi đầu và lúc kết thúc cuộc đời công khai của Ngài.

- Khởi đầu cuộc đời công khai của Đức Giê-su, Ngài “thai nghén” Hội Thánh qua tiệc cưới Cana là dấu chỉ. Nơi đây Đức Giê-su nói với Mẹ: “Này Bà, giữa tôi và Bà nào có việc gì” (Ga 2,4a). Đức Giê-su gọi Mẹ mình là Bà,Ngài có ý xác nhận Đức Ma-ri-a là Eva mới, sẽ làm ứng nghiệm lời hứa tiền Tin Mừng Thiên Chúa cứu độ loài người: “Người phụ nữ sẽ đạp nát đầu rắn” (St 3,15 – Theo bản dịch Phổ Thông). Bà Eva mới này mới làm ứng nghiệm lời ông Adam nói với vợ: “Bà là mẹ các sinh linh” (St 3,20), nghĩa là mẹ của những người được Thiên Chúa cứu độ.

- Kết thúc đời công khai của Đức Giê-su, khi Ngài bị treo trên thập giá là thời điểm Ngài sinh ra Hội Thánh, là con của Bà Maria, Eva mới,  như Lời Đức Giê-su nói về sự liên hệ giữa môn đệ của Ngài với Đức Ma-ri-a: “Hỡi Bà, này là con Bà”, đoạn Ngài nói với môn đệ: “Này là Mẹ con”, và từ giờ đó môn đệ đã lĩnh lấy bà về nhà mình” (Ga 19,26-27).

Như thế hai lần Đức Giê-su gọi Mẹ bằng danh hiệu Bà mở đầu và kết thúc cuộc đời công khai của Ngài, là Ngài có ý nhấn mạnh: Từ khởi sự cho đến hoàn tất, những công việc tôi đều có sự tham dự tích cực của bà Maria. Vì thế, thánh Phao-lô nói: “Cũng chỉ vì một người mà sự tội đã đột nhập vào thế gian, và vì tội, thì sự chết nữa và như vậy sự chết đã lan qua hết mọi người, một khi mọi người đều đã phạm tội… Ấy thế, mà sự chết đã ngự trị từ Adam cho đến ông Mô-sê, trên những kẻ không phạm tội (vì lúc đó chưa có Luật) bằng cách vi phạm giống như Adam phản ảnh của Đấng sẽ đến. Nhưng không phải sa ngã sao ơn huệ cũng vậy. Vì nếu bởi sự sa ngã của một người, nhiều người đã chết, thì còn dãy tràn hơn biết bao trên nhiều người, ơn của Thiên Chúa, lộc trong ơn của một người, Đức Giê-su Ki-tô”(Rm 5,12.14-15).

Bởi đó, Đức Ma-ri-a là tiền thân của các Ki-tô hữu, vì qua Bí tích Thánh Tẩy, người Ki-tô hữu cũng là một trinh nữ thanh khiết, như Maria, Mẹ của mình, được đính hôn với Tân Lang Giêsu, (x 2Cr 11,2). Chính vì vậy mà Hội Thánh tuyên xưng Đức Ma-ri-a là một Trinh Nữ Vô Nhiễm Chúa chọn từ muôn thuở, để cùng với Adam cuối cùng (x 1Cr 15,45b) sinh ra dòng giống nhân loại mới là Hội Thánh. Do đó giáo huấn của Công Đồng Vat.II, trong Hiến Chế Hội Thánh số 56: “Vì Eva không vâng Lời Chúa, nên đã sinh ra nhân loại phải chết ; nhưng nhờ Đức Ma-ri-a, Eva mới cùng với Adam cuối cùng, sinh ra dòng giống nhân loại mới được sống muôn đời hạnh phúc dồi dào”, và như thế Đức Ma-ri-a đã làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói về thời đại Thiên Chúa ra tay cứu độ: “Dòng giống chúng sẽ được biết đến trong các nước, và miêu duệ chúng lừng danh giữa muôn dân ; ai thấy chúng đều nhận biết đích thị là dòng giống được Thiên Chúa chúc lành” (Is 61,9: Bài đọc). Bởi đó, khi Đức Ma-ri-a vừa nghe bà Elyzabeth người chị họ chúc tụng: “Trong nữ giới có người là diễm phúc ! Vì đáng chúc tụng thay quả lòng Bà! Và bởi đâu tôi được thế này là Mẹ Chúa đến với tôi” (Lc 1,42-43). Vừa nghe lời chúc tụng ấy, Đức Ma-ri-a cất tiếng ca ngợi Chúa: “Tâm hồn con nhảy mừng trong Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1,47: Đáp ca). Tâm tình ca tụng Chúa của Đức Ma-ri-a đã nối dài lời chúc tụng của bà Anna, dù hiếm hoi mà được Chúa cho sinh con trong tuổi già: “Tâm hồn con hỷ hoan vì Chúa, nhờ Chúa con ngẩng đầu hiên ngang, con mở miệng nhạo báng quân thù. Vâng con vui sướng vì được Ngài cứu độ” (1Sm 2,1). Và như thế, lời tạ ơn trên của Đức Ma-ri-a lại làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói về thời Thiên Chúa ra tay cứu loài người khỏi án tử vì tội: “Tâm hồn con vui sướng trong Chúa, mạng con nhảy mừng trong Thiên Chúa con thờ, vì Người đã mặc cho con áo cứu độ. Chiến bào công chính, Người phủ lên con, như tân lang chỉnh tề đai mão và tân nương điểm trang phục sức” (Is 61,10: Bài đọc). Và  như thế Đức Ma-ri-a đã xác nhận mình là Tân Nương đã được Chúa điểm trang phục sức đứng kề bên Adam cuối cùng chỉnh tề đai mão, vì Ngài là Vua.

Ơn huệ quý báu Chúa ban cho Đức Ma-ri-a chỉ có thể tồn tại nhờ Mẹ đến Nhà Chúa gặp thấy Con đang giảng dạy giáo lý. Quả thật, mầu nhiệm này Đức Giê-su hữu ý bắt cha mẹ Ngài phải đến Nhà Thờ, mới được bình an. Đó là lý do Ngài trốn cha mẹ ở lại Nhà Thờ, để từ đó Con Thiên Chúa đồng hành với cha mẹ trở về quê Nazareth (x Lc 2, 41-51: Tin Mừng). Sau này từ Nazareth Đức Giê-su bắt đầu đời sống công khai, đem Tin Mừng cứu độ cho muôn dân (x Lc 4,14t).

Vậy ta hãy bắt chước “Đức Trinh Nữ Ma-ri-a ghi nhớ Lời Chúa và suy niệm trong lòng” (Lc 2,19: Tung Hô Tin Mừng), để qua Phụng Vụ Thánh Lễ Trái Tim Vô Nhiễm của Đức Ma-ri-a, Hội Thánh  muốn nhắc nhở con cái mình: Người Công Giáo đã được trở nên con cái Mẹ, thì phải nên giống Mẹ năng đến Nhà Thờ gặp Chúa, vì mỗi khi phạm tội là ta lạc mất Chúa, hãy trở lại Đền Thờ để tham dự Thánh Lễ, nhờ Chúa ta được thanh tẩy, và cho ta tham dự vào ơn Vô Nhiễm của Mẹ. Như lời thánh Gioan nói: “Mầm giống của Đức Ki-tô lưu lại trong kẻ ấy, và kẻ ấy không thể phạm tội, bởi chưng đã được sinh bởi Thiên Chúa” (1Ga 3,9). Đó là hiệu quả chính của Bí tích Thánh Thể mà sách Giáo Lý Roma đã xác quyết:

--- Việc rước lễ giúp ta xa lánh tội lỗi, khi chúng ta rước Mình Chúa Ki-tô “đã phó nộp vì ta” và Máu “đã đổ ra cho mọi người được tha tội”. Vì thế Bí tích Thánh Thể không thể kết hợp chúng ta với Chúa Ki-tô, nếu Chúa Ki-tô không thanh tẩy chúng ta khỏi tội đã phạm và giúp chúng ta xa lánh tội lỗi (số 1393).

--- Nhờ tình yêu mà Bí tích Thánh Thể khơi dậy trong tâm hồn, chúng ta được gìn giữ khỏi phạm tội trọng, càng tham dự vào sự sống Chúa Ki-tô, chúng ta càng sống mật thiết với Người ; nhờ đó giảm bớt nguy cơ phạm tội trọng lìa xa Chúa (số 1395).

--- Nhờ tham dự Thánh Thể, ta được gắn bó với Chúa Giê-su Phục Sinh chặt chẽ hơn, vì Ngài đã tha các tội nhẹ của ta, và bảo vệ ta khỏi phạm tội trọng (số 1416).

THUỘC LÒNG: Tôi đã đính hôn anh em với một người độc nhất là Đức Ki-tô, để tiến dâng anh em cho Người như một trinh nữ thanh khiết (2Cr 11,2).

http://phaolomoi.net    // LM. Giuse Đinh Quang Thịnh

---------------------------------

 

Suy niệm 9: LỄ TRÁI TIM VÔ NHIỄM ĐỨC MẸ (Lc 2, 41 – 51)

 

Xâm mình (xâm những hình ảnh trên thân thể) đang là mốt thời thượng của giới trẻ. Họ xâm trên Suy niệm 9


Xâm mình (xâm những hình ảnh trên thân thể) đang là mốt thời thượng của giới trẻ. Họ xâm trên mình nhiều hình ảnh hết sức lạ mắt và cho rằng xâm mình như vậy mới là “dân chơi”, mới là “sành điệu”. Có bạn trẻ xâm trên ngực hình trái tim bị một mũi tên xuyên qua đang rỉ máu với hàng chữ minh họa “hận tình đen bạc” hoặc “hận đời”…..

Khi nhìn trái tim rỉ máu ấy tôi liên tưởng đến 2 trái tim cũng bị đâm thâu: Một trái tim mà chúng ta mới mừng lễ hôm qua bị xé rách do lưỡi đòng của quân lính – Thánh Tâm CGS - và một trái tim bị đâm thâu do lưỡi gươm ác nghiệt mà Ông già Simêon đã tiên báo (Lc 2, 35b) – trái tim vô nhiễm Đức Mẹ mà chúng ta mừng lễ hôm nay.

Điểm khác biệt của 2 trái tim này với trái tim trên ở chỗ : 2 trái tim này bị đâm thâu và loang máu không phải vì “hận tình” và “hận đời” mà là vì “yêu Trời, yêu đời và yêu người”.

Sau khi Nguyên Tổ sa ngã, dù con người đã phạm tội chống lại Thiên Chúa, Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương Ađam và Evà. Người muốn họ và tất cả loài người phát xuất từ hai ông bà được sống trong tình nghĩa với Người nên đã sai Đấng Cứu Chuộc đến để giao hòa con người với Thiên Chúa (St 3,15) và phục hồi tình trạng ơn thánh cho chúng ta (Sách GL của HTCG).

Thế là trái tim thứ I có sứ mạng tuân hành thánh ý Thiên Chúa Cha, nhập thể và nhập thế để trở nên của lễ đền tội cho nhân loại: “Này con đây, con đến để thực thi ý ngài” (Dt 10, 8-9). Nhưng để có thể xuất hiện trong cuộc đời này, trái tim thứ I rất cần có sự cộng tác của trái tim thứ II để cho thánh ý được nên trọn. Thiên Chúa không phải chờ lâu, trái tim thứ II đã mau mắn đáp lại tiếng mời gọi của Sứ Thần Gabriel: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ Thần truyền” (Lc 1, 38).

Và bắt đầu từ đó, hai trái tim hòa quyện với nhau, trở nên một tâm tình, một ý chí và một lòng mến: yêu Trời (Chúa Cha), yêu đời (chấp nhận và thực thi sứ mạng của mình) và yêu người (vì yêu thương nhân loại), đến nỗi ta không bao giờ có thể tách biệt 2 trái tim ấy ra.

Có lẽ chính vì ý thức như vậy nên liền sau lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, Giáo Hội mừng lễ trái tim vô nhiễm Mẹ Maria để muốn nói lên rằng Mẹ và Con Yêu Dấu của Mẹ đã liên kết với nhau chặt chẽ, đã đồng tâm nhất trí với nhau, đã một lòng một ý vâng lời Thánh ý Thiên Chúa Cha và hoàn toàn dâng hiến cho nhân loại. Có lẽ không có hình ảnh nào cao cả cho bằng hình ảnh Mẹ Maria đứng dưới chân Thánh Giá. Chính lúc lưỡi đòng đâm thâu trái tim Con của Mẹ thì cũng là lúc trái tim Mẹ nát tan. Có lẽ để chứng thực điều đó nên vào ngày 13/6/1929, khi hiện ra với Chị Lucia, Mẹ đã cho Chị nhìn thấy trái tim của Mẹ bốc lửa và bị vòng gai quấn chung quanh, bên cạnh là Thánh Giá Chúa Giêsu lơ lửng trên trần nhà nguyện.

Bạn thân mến, Mẹ Maria đang mời gọi mỗi người chúng ta cũng hãy gắn chặt và liên kết trái tim chúng ta với Thánh Tâm Chúa qua trung gian trái tim vẹn sạch của Mẹ. Điều kiện để được liên kết đó là hãy yêu như Chúa và Mẹ yêu, hãy sống như Chúa và Mẹ sống, hãy hy sinh, dâng hiến trọn vẹn cho tha nhân như Chúa và Mẹ đã làm. Amen.

Lm. Giuse Nguyễn Đức Ngọc

---------------------------------

 

Suy niệm 10: LỄ TRÁI TIM VÔ NHIỄM ĐỨC MẸ

 

Trong các lễ nhớ dành riêng cho Mẹ Maria liên quan tới lễ Đức Mẹ Lộ Đức, có lễ Trái Tim Vô Suy niệm 10


Trong các lễ nhớ dành riêng cho Mẹ Maria liên quan tới lễ Đức Mẹ Lộ Đức, có lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria. Kiểu nói ”trái tim vô nhiễm” mới có sau này, và trở thành thông dụng sau khi Đức Giáo Hoàng Piô IX công bố tín lý Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội năm 1854. Trước đó có các kiểu nói thông dụng như ”trái tim rất thanh sạch”, hay ”trái tim rất vẹn tuyền”, hoặc ”trái tim rất thánh” Đức Mẹ Maria...

Việc tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ được dựa trên nền tảng Phúc Âm: “Maria ghi nhớ những điều này và suy niệm trong lòng” (Lc 2, 19), và “Còn Mẹ Ngài thì ghi nhớ những điều này trong lòng” (Lc 2, 51). Trong Cựu Ước, trái tim được xem là biểu tượng thẳm sâu trong tâm lòng con người, là trung tâm của mọi chọn lựa và cam kết. Còn đối với nhân loại thì đó là biểu tượng của tình yêu. Trong sách Đệ Nhị Luật ta đã nghe rằng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết tâm lòng, hết sức lực và trí khôn ngươi.” (Đnl 6,5).  Trong Tin Mừng theo thánh Máccô thì khi các biệt phái chất vấn Đức Kitô về giới răn nào là trọng nhất, Ngài đã nhắc lại đoạn Kinh Thánh này để trả lời cho họ (Mc 12, 29-33).

Chính Trái Tim Mẹ đã đáp trả bằng tiếng “Xin vâng” với Thiên Chúa khi được sứ thần Gabrien truyền tin. Do sự ưng thuận vì tình yêu, Mẹ Maria trước hết đã cưu mang Đức Giêsu trong trái tim mình và rồi cũng cưu mang trong cung lòng của Mẹ.

Theo lịch sử, việc tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ được tìm thấy đầu tiên vào thế kỷ 12 với nhiều sử gia như Thánh Anselm (1109) và Thánh Bernard thành Clairvaux (1153) là thánh viết rất tài tình về việc tôn sùng thánh thiện này. Thánh Bernadine thành Siena (1380-1444) đã được gọi là Tiến Sĩ về lòng sùng kính Trái Tim Mẹ vì những trước tác về Trái Tim Mẹ. Ngài viết, “từ trái tim Mẹ, như lò lửa của Tình Yêu Rất Thánh, Đức Trinh Nữ Maria đã nói lên ngôn ngữ tuyệt vời nhất của một tình yêu mãnh liệt.” Thánh John Eudes (1601-1680) qua các bài viết của Ngài đã giúp khơi lại lòng sùng kính này. Đức Thánh Cha Lêô XIII và Piô X gọi ngài là “cha, thầy dạy và là tông đồ phụng vụ lòng sùng mến Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria”. Thánh John Eudes và những người theo ngài đã dành ngày 8 tháng 2 trong khoảng năm 1643 để kính nhớ Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ. Về sau, Đức Piô VII cho mở rộng ngày mừng kính này để các giáo xứ hoặc hội đoàn nào muốn tôn sùng thì cũng được phép.

Việc tôn sùng Trái Tim Mẹ Maria có một truyền thống đẹp đẽ hơn nữa qua tấm ảnh đeo của Thánh Catarina Laboure năm 1830 và việc hiện ra của Đức Mẹ tại Fatima từ ngày 13 tháng 5 đến 13 tháng 10 năm 1917. Mẹ đã hiện ra với 3 trẻ là Jacinta, Phanxicô và Luica tại Fatima, Bồ Đào Nha. Trong ngày 13 tháng 7, Mẹ đã cho các trẻ này biết rằng ''để cứu những người tôi lỗi, Thiên Chúa đã ước ao thiết lập việc sùng kính Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ''. Toàn bộ lời nhắn nhủ của Mẹ là một lời cầu nguyện, thống hối và bằng những việc hy sinh, đền bù phạt tạ Thiên Chúa về những xúc phạm đến Ngài.

Vào năm 1942, kỷ niệm 25 năm biến cố Đức Mẹ hiện ra ở Fatima, Đức Thánh Cha Piô XII đã dâng thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ. Cũng vào năm ấy, ngài đã chọn mừng lễ này vào ngày 22 tháng 8, một tuần sau lễ Đức Mẹ Hồn Xác Về Trời. Ngày 4 tháng 5 năm 1944, ngài loan báo mở rộng lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm cho Giáo Hội hoàn vũ. Với những cải cách về phụng vụ trong Công Đồng Vatican II, lễ kính Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ được dời về một ngày ngay sau Lễ Kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, chính là ngày  thứ bảy sau chúa nhật thứ hai sau Lễ Hiện Xuống.

Thiên Chúa đã chọn Mẹ Maria để cưu mang Đấng Cứu Thế, để cộng tác cho công trình cứu chuộc của Người. Công trình này xuất phát từ tình yêu của Thiên Chúa. Đức Maria đã cộng tác với Thiên Chúa để mang tình yêu của Người cho nhân loại. Chúa cũng mời gọi sự cộng tác của mỗi người chúng ta. Mỗi người đều có một vai trò và vị trí đặc biệt trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Điều Thiên Chúa cần nơi mỗi người chúng ta là noi gương Mẹ Maria, luôn sẵn sàng vâng phục thánh ý của Chúa.

Phêrô Dương Hải Văn SDB

---------------------------------

 

Suy niệm 11: Trái Tim vô nhiễm của Đức Maria

 

Hôm nay thứ bảy, ngay sau Lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su, Giáo Hội mời gọi chúng ta cử hành Suy niệm 11


Hôm nay thứ bảy, ngay sau Lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su, Giáo Hội mời gọi chúng ta cử hành Thánh Lễ kính nhớ Trái Tim vô nhiễm của Đức Maria, Mẹ của chúng ta. Và Lời Chúa trong Thánh Lễ sẽ giúp chúng ta hiểu Trái Tim Vô Nhiễm của Đức Mẹ là trái tim như thế nào: đó là một trái tim hoàn toàn hướng về Đức Giê-su, tìm kiếm Đức Giê-su, ghi nhớ và suy đi nghĩ lại tất cả những gì liên quan đến Đức Giê-su, vui khi có sự hiện diện của Đức Giê-su, lo buồn và cực lòng khi thiếu vắng Đức Giê-su. Có thể nói, trái tim của Mẹ không “nhiễm” điều gì khác ngoài Đức Giê-su và những gì thuộc về Người.

Vậy, chúng ta hãy xin Mẹ đồng hành, cầu bầu và dạy dỗ chúng ta với tình hiền mẫu, để chúng ta cũng có được một trái tim hết tình và hết đời gắn bó với Đức Giê-su, như Đức Mẹ, trong hành trình đi theo Đức Ki-tô trong ơn gọi gia đình hay dâng hiến của chúng ta.

1. Mầu nhiệm Vượt Qua (c. 41)

Lễ Vượt Qua là thời gian người Do Thái tưởng nhớ ơn huệ được giải phóng khỏi nơi tù đày và chết chóc và trở thành Dân Riêng của Đức Chúa ; ơn được ban cho thế hệ đầu tiên, nhưng những thế hệ sau này là người thụ hưởng : « không có biến cố Xuất Hành, thì đã không có tôi, không có thế hệ của tôi hôm nay ». Trong đời sống Ki-tô hữu cũng vậy, chúng ta luôn phải tưởng nhớ Mầu Nhiệm Vượt Qua của Đức Ki-tô khi cử hành bí tích Thánh Thể, bởi vì không có mầu nhiệm Vượt Qua, thì sẽ không có Giáo Hội, không có các Ki-tô hữu là chúng ta. Và cũng thế trong đời sống dâng hiến, chúng ta cũng luôn phải tưởng nhớ các vị sáng lập Hội Dòng, vì không có vị sáng lập, thì không có các tu sĩ, là chúng ta hôm nay.

Đặt vào bối cảnh của đời sống ẩn dật, biến cố lạc mất Đức Giê-su là một biến cố nhỏ bé của đời thường ; nhỏ bé của đời thường, nhưng lại liên quan đến những mầu nhiệm lớn nhất của lịch sử cứu độ :

Trước hết, đó là biến cố Xuất Hành, bởi vì đó là bầu khí lễ Vượt Qua của người Do Thái.
Và việc tìm lại được Đức Giê-su sống động, sau ba ngày bị lạc mất, loan báo mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giê-su, nghĩa là biến cố chết và phục sinh của Người.
Xin cho chúng ta, nhờ lời cầu bầu của Đức Maria, nhận ra những biến cố đã xẩy ra trong cuộc đời chúng ta đều qui về mầu nhiệm Vượt Qua, và xin cho chúng ta cũng biết khởi đi từ mầu nhiệm Vượt Qua và hướng về mầu nhiệm Vượt Qua khi phải sống những biến cố nhỏ bé và đời thường trong tương lai. Sống Mầu nhiệm Vượt Qua :

Là xác tín rằng Chúa sẽ mở đường cho chúng ta đi, ở nơi mà chúng ta tưởng là ngọt cụt, giống như biến cố vượt qua Biển Đỏ.
Là Chúa có thể làm phát sinh sự sống, ở nơi mà chúng tưởng là thất bại, là chấm hết, là không thể, là không còn hi vọng gì, như trường hợp của bà Elizabeth.
Là Chúa có thể làm phát sinh sự sống tuyệt hảo, ở nơi không thể, như trường hợp cung lòng trinh nguyên của Đức Mẹ.
Là chuyển điều xấu, tội lỗi thậm chí sự dữ thành điều tốt cho chúng ta, như trường hợp điều xấu mà các anh làm cho em Giuse, trong gia đình tổ phụ Gia-cóp (x. St 50, 19-20).

2. Cả gia đình cùng lên đền (c. 42-47)

Chúng ta hãy hình dung ra khung cảnh và bầu khí rộng lớn của lễ Vượt Qua. Đi vào tâm tình của Thánh Gia. Nhất là Đức Maria và thánh Giuse, nhớ lại kỉ niệm cách nay 12 năm. Nếu muốn, chúng ta có thể hình dung ra cuộc sống của Thánh Gia trong 12 năm qua. Xong kỳ lễ, đi về một ngày đường, thì cha mẹ nhận ra mình bị lạc mất Đức Giê-su. Chúng ta nên hình dung ra những chặng đường mà các ngài phải trải qua trong ba ngày tìm kiếm: đi một ngày, nhưng phải mất ba ngày trở lại tìm kiếm; nhất là hiểu thấu và cảm thông điều mà chính Đức Maria sẽ nói với Đức Giêsu về sự “cực lòng” của cha mẹ. Đâu là ý nghĩa của biến cố lạc mất Đức Giê-su đối với thánh Giuse và Đức Maria ? Chúng ta hãy tự mình khám phá ra. Sau đây là một vài gợi ý :

Đó là sống lời « xin vâng », mà các ngài đã thưa với Thiên Chúa trong biến cố truyền tin. Cũng tương tự như khi chúng ta được mời sống giao ước của chúng ta mỗi ngày, giao ước hôn nhân hay dâng hiến.
Và khi sống lời “xin vâng”, các ngài đã học để cho Đức Giêsu vượt khỏi tay mình từ từ, để sống cho một kế hoạch khác, một ơn gọi khác, một Đấng Khác. Tương tự như các bậc cha mẹ, như chính chúng ta đối với những người thân yêu và những điều thiết thân.
Ba ngày mất Đức Giê-su, rồi tìm lại được Ngài ở trong Nhà Thiên Chúa Cha, đã loan báo mầu nhiệm Vượt Qua mà Đức Maria sẽ trải qua, và mỗi người chúng ta cũng phải trải qua.
Đức Giê-su ở lại đền thờ, chúng ta có thể tự hỏi: tại sao Ngài lại quyết định ở lại Đền Thờ? Có thể là, một cách hồn nhiên, Ngài đã để cho Đền Thờ và những gì thuộc về Đền Thờ cuốn hút Ngài, giữ chân Ngài lại, khiến Ngài bỗng chốc quên đi tất cả, quên cả cha cả mẹ, để hướng tới Vô Biên. Đền Thờ là nơi, Ngài đã được bố mẹ tiến dâng cho Đức Chúa, khi mới sinh ra. Sau này Đức Giêsu sẽ phải đối diện nhiều với các thầy dạy (luật sĩ, tư tế, thượng tế, rộng hơn là các trưởng lão, những người thuộc nhóm Pha-ri-sêu, Sa-đốc…), và lúc nào Ngài cũng tỏ ra khôn ngoan, không phải khôn ngoan của người đời, nhưng là của Thiên Chúa. Ngài đã chuẩn bị và được chuẩn bị ngay lúc này rồi. Hình ảnh này nói lên điều mà thánh Phao-lô sau này sẽ suy tư vừa rộng vừa sâu về mối tương quan giữa Tin Mừng (Đức Giêsu) và Lề Luật (các thầy dạy), đặc biệt là về luật sa-bát, Mười Điều Răn, luật rửa tay, ăn chay, cầu nguyện, bố thí…

3. Lắng nghe Đức Maria và Đức Giê-su (c. 48-52)

Sau ba ngày tìm kiếm trong vất vả và nhất là trong lo âu, thánh Giuse và Đức Maria tìm lại được Đức Giê-su trong Đền Thờ, lúc đó mới 12 tuổi. Đức Maria nói với Đức Giêsu:

Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!

Lời của Đức Maria thật là hay, vì vừa dịu dàng và nói lên tình thương, nhưng vừa nghiêm khắc. Chúng ta cần đặt mình vào hoàn cảnh của thánh Giuse và Đức Maria để hiểu và cảm được hết sự “cực lòng” của các ngài: đi một ngày, nhưng phải tìm kiếm tới ba ngày! Sự “cực lòng” không chỉ của người cha và người mẹ, như bất cứ người cha và người mẹ nào, khi để lạc mất người con yêu dấu, nhưng còn sự “cực lòng” của người tôi tớ và của người nữ tì trong tương quan với Thiên Chúa, khi để lạc mất Con Đấng Tối Cao. Chúng ta hãy hình dung ra tâm trạng lo âu của thánh Giuse và Đức Maria lớn đến mức nào, khi các ngài thầm nghĩ: “Thiên Chúa trao phó cho mình Con của Ngài, để thực hiện kế hoạch cứu độ, vậy mà mình lại để lạc mất!”

Và nếu chúng ta để ý, đó là lời của Đức Maria, nhưng Mẹ không nhân cá nhân mình, nhưng nói với Đức Giê-su với tư cách là “cha mẹ” của Ngài; hơn nữa, Đức Mẹ còn tỏ lòng kính trọng thánh Giuse khi nói: “cha con và mẹ đây”. Ngoài ra, trong trình thuật này, từ đầu đến cuối, thánh sử Luca luôn nói tới: “cha mẹ”, “ông bà”, “hai ông bà”. Thật vậy, “hai ông bà” trở về sau kỳ lễ, “cha mẹ” chẳng hay biết, “ông bà” cứ tưởng, “ông bà”đều cực lòng tìm con suốt ba ngày; và khi thấy con, “hai ông bà” đều sửng sốt. Chúng ta có thể dừng lại để cảm nếm sự hiệp thông và hiệp nhất giữa Thánh Giuse và Đức Maria, con tim và tình yêu của các ngài dành cho nhau và cho Đức Giê-su. Đức Giê-su trả lời như trách hỏi lại cha mẹ:

Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết
là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?

Lời nói đầu tiên (theo lời kể của sách Tin Mừng theo thánh Luca) của Đức Giêsu có khó nghe quá không? Sau này, Ngài còn nói những câu khó nghe nữa với Đức Maria: “Ai là mẹ tôi, ai là anh em, chị em của tôi?”. Nhưng lời của Đức Giê-su không chỉ khó nghe, nhưng còn khó hiểu! Chúng ta hãy đặt mình vào trường hợp của các ngài: “Ông bà không hiểu lời Người vừa nói”. Trong đời sống ơn gọi, chúng ta cũng không hiểu nhiều điều. Lời Chúa trong Kinh Thánh cũng vậy, vấn đề ý nghĩa luôn không dễ dàng.

Ở đây, chúng ta có thể nhận ra thách đố của mọi gia đình. Thách đố của cha mẹ: đó là con mình sinh ra và thuộc về mình, nhưng người con còn là quà tặng của Thiên Chúa, là con Thiên Chúa. Thách đố của người con: vừa sống sự chờ đợi (vâng lời) của cha mẹ, và vừa sống sự chờ đợi của Cha trên trời. Nhưng cả hai thách đố đều, một đàng làm cho tương quan ruột thịt trở nên đích thật và triển nở, và đàng khác, nhắm đến tương quan rộng mở của Nước Trời. Bởi vì, mọi ơn gọi đều hướng tới tương quan Nước Trời: Ơn gọi gia đình khởi đi từ tương quan ruột thịt để mở ra với tương quan Nước Trời: Mọi người là con của Cha, mọi người là anh chị em của nhau. Tuy nhiên, ơn gọi tu trì làm cho tương quan ruột thịt bị đứt đoạn, vừa để chất vấn mọi người và vừa để xây dựng tương quan Nước Trời ngay hôm nay và chỉ sống và làm chứng cho tương quan Nước Trời.

Nhưng nếu Đức Giê-su đã nói lời khó nghe, thì thái độ “đi xuống” cùng với cha mẹ, và hằng ngoan và vâng phục các ngài, sẽ bù lại (c. 51-52). Hay đúng hơn, Ngài cũng khám phá ra ý của Cha trên trời cũng được thể hiện nơi ý của cha mẹ. Tình yêu Ngài dành cho Cha trên trời cũng được thể hiện nơi tình yêu Ngài dành cho cha mẹ ở dưới đất. Về Đức Giê-su và về tất cả (không chỉ cuộc đời nhập thể, nhưng toàn bộ Kinh Thánh, nghĩa là sáng tạo và lịch sử) liên quan đến người, chúng ta hãy noi gương Trái Tim Vô Nhiệm của Đức Maria:

« Hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng »

Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
 

Mẹ Người ghi nhớ tất cả những điều này trong lòng – SN song ngữ 20.6.2020 ( Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ)

Saturday (June 20): “His mother kept all these things in her heart”

Scripture: Luke 2:41-52 

41 Now his parents went to Jerusalem every year at the feast of the Passover. 42 And when he was twelve years old, they went up according to custom; 43 and when the feast was ended, as they were returning, the boy Jesus stayed behind in Jerusalem. His parents did not know it, 44 but supposing him to be in the company they went a day’s journey, and they sought him among their kinsfolk and acquaintances; 45 and when they did not find him, they returned to Jerusalem, seeking him. 46 After three days they found him in the temple, sitting among the teachers, listening to them and asking them questions; 47 and all who heard him were amazed at his understanding and his answers. 48 And when they saw him they were astonished; and his mother said to him, “Son, why have you treated us so? Behold, your father and I have been looking for you anxiously.” 49 And he said to them, “How is it that you sought me? Did you not know that I must be in my Father’s house?” 50 And they did not understand the saying which he spoke to them. 51 And he went down with them and came to Nazareth, and was obedient to them; and his mother kept all these things in her heart. 52 And Jesus increased in wisdom and in stature, and in favor with God and man.

---------------------------------

Lc 2,41-52

41 Hằng năm, cha mẹ Đức Giê- su trẩy hội đền Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua.42 Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, như người ta thường làm trong ngày lễ.43 Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giê-su thì ở lại Giê-ru-sa-lem, mà cha mẹ chẳng hay biết.44 Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc.45 Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giê-ru-sa-lem mà tìm.46 Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi.47 Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu.48 Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con! “49 Người đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao? “50 Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói.51 Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng.52 Còn Đức Giê-su ngày càng thêm khôn ngoan thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta.

Meditation:

Do you know the pain and grief of losing someone close to you? Mary and Joseph must have felt anxious and helpless when the boy Jesus disappeared. Nonetheless, they returned to Jerusalem with confident trust that God would guide them in their hour of trial.

Why did Jesus stay back in Jerusalem when his parents left for home? Just as the prophet Samuel heard the call of the Lord at a very young age, Jesus in his youth recognized that he has been given a call by his heavenly Father. His answer to his mother’s anxious inquiry reveals his trusting faith and confident determination to pursue his heavenly Father’s will. Did you not know that I must be in my Father’s house? Our Heavenly Father calls each of us. With the call, God gives grace – grace to say “yes” to his will and grace to persevere through obstacles and trials. Do you recognize God’s call on your life and do you trust in his grace?

“Lord Jesus, in love you have called me to live for your praise and glory. May I always find joy in your presence and trust in your wise and loving plan for my life.”

---------------------------------

 

Suy niệm 12: Thân mẫu Người ghi nhớ tất cả những điều này trong lòng

 

Bạn có biết nỗi đau khổ của việc mất mát người thân đối với bạn không? Mẹ Maria và thánh Giuse Suy niệm 12


Bạn có biết nỗi đau khổ của việc mất mát người thân đối với bạn không? Mẹ Maria và thánh Giuse chắc chắn đã cảm thấy lo âu và thất vọng khi bé Giêsu biến mất. Tuy nhiên, họ đã trở lại Giêrusalem với sự tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ hướng dẫn họ trong giờ thử thách.

Tại sao Ðức Giêsu ở lại khi cha mẹ Người trở về nhà? Giống như ngôn sứ Samuel đã nghe tiếng gọi của Chúa ở tuổi rất trẻ, Ðức Giêsu cũng trong tuổi còn trẻ đã nhận ra rằng Người đã được Cha trên trời của Ngài kêu gọi. Câu trả lời của Người với câu hỏi lo lắng của mẹ mình bộc lộ lòng tin tưởng phó thác và quyết tâm mạnh mẽ để theo đuổi ý Cha trên trời. Cha mẹ không biết rằng con phải ở trong nhà Cha của con sao? Cha trên trời của chúng ta kêu gọi mỗi người chúng ta. Với lời kêu gọi, Thiên Chúa ban ơn sủng – ơn để nói tiếng “xin vâng” với thánh ý Người và ơn bền đỗ ngang qua những nghịch cảnh và thử thách. Bạn có nhận ra tiếng gọi của Thiên Chúa trong cuộc đời mình và bạn có trông cậy vào ơn sủng của Người không?

Lạy Chúa Giêsu, trong tình yêu, Chúa đã gọi con sống cho sự ca ngợi và vinh quang của Chúa. Chớ gì con luôn luôn tìm được niềm vui trong sự hiện diện của Chúa và trông cậy vào ơn sủng và trong kế hoạch khôn ngoan của Chúa cho cuộc đời con.

Tác giả: Don Schwager
(http://dailyscripture.servantsoftheword.org/readings/)
Bro. Paul Thanh Vu– chuyển ngữ

-------------------------------

 

Suy niệm 13: Lễ Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ Maria


 Lm. Giuse Đinh Tất Quý

 

Ngày thứ Bảy tuần thứ hai sau lễ Hiện Xuống. Giáo Hội cho chúng ta mửng lễ Trái Tim của Đức Suy niệm 13


Ngày thứ Bảy tuần thứ hai sau lễ Hiện Xuống. Giáo Hội cho chúng ta mửng lễ Trái Tim của Đức Mẹ ngay sau khi chúng ta mừng lễ Trái tin Chúa Giêsu.

I. NGUỒN GỐC LÒNG TÔN SÙNG TRÁI TIM VÔ NHIỄM ĐỨC MẸ.

Lễ Trái Tim Vô nhiễm Mẹ Maria bắt nguồn từ Thánh kinh, Lời các Thánh và Mạc khải tư,

A. THÁNH KINH

* Phúc âm Thánh Luca ba lần trực tiếp nói về Trái Tim Mẹ là nền tảng chính yếu lòng tôn sùng Trái Tim Mẹ,

“ Maria giữ kỹ mọi điều ấy và hằng ngày suy nghĩ trong lòng" (Lc 2,19).

“ Mẹ Ngài giữ kỹ hết các điều ấy trong lòng " (Lc 2,51) .

“ Một mũi gươm sẽ đâm thâu qua lòng Bà " (Lc 2,35).

Câu Phúc âm này là nền tảng chính yếu của lòng tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ.

* Theo Đức Piô XII, các Giáo phụ giải thích lòng tôn sùng Trái Tim Mẹ, căn cứ vào hai câu Diệu ca,

"Tôi như vườn khoá chặt, là suối niêm phong " (Dc 4,12).

"Tôi ngủ mà lòng tôi thức" (Dc 5,12).

B. LỜI CÁC THÁNH

- Thánh Giêrônimô: Không trí khôn thụ tạo nào, không trái tim thụ tạo nào, không sức lực nhân loại nào có thể biết được Trái Tim Mẹ Maria yêu mến Chúa chúng ta đến mức nào.

- Thánh Bênađô: Tình Chúa yêu thương chiếm trọn Trái Tim Mẹ Maria, đến nỗi Trái Tim Mẹ dầy tràn tình yêu, vì Thiên Chúa không làm bùng lên tình yêu trong trái tim nào khác như trong Trái Tim Rất Thánh Nữ Trinh. Và vì Mẹ thoát khỏi mọi dính bén thế tục để Mẹ lãnh nhận được ngọn lửa thánh này.

- Thánh Bênađino: Đức Nữ Trinh hiển vinh không lặp lại những tác động yêu mến như các thánh, vì trọn cuộc đời Mẹ là một tác động yêu mến liên lỉ do một đặc ân Mẹ luôn luôn yêu mến Thiên Chúa.

- Thánh Phanxicô Salêsiô: Mẹ Maria trung thành yêu mến Thiên Chúa trong những giờ phút đen tối nhất và tuyệt vọng nhất, đặc biệt trên đồi Canvê. Mẹ tới một mức độ yêu mến hoàn hảo nhất, cao cả nhất. Điểm căn bản là tâm hồn Mẹ tan hòa kết hợp với Chúa và chỉ yêu mến duy một Thiên Chúa trong mọi sự và mọi nơi.

- Thánh Tôma Kempi: Chúng ta có thể tìm một nơi náu ẩn nào có bảo đảm hơn Trái Tim từ bi Mẹ Maria? Người khốn khó tìm được sự cứu giúp, kẻ ốm liệt tìm được thuốc thang, người sầu khổ tìm được sự ủi an, người xao xuyến tìm được lời khuyên răn, kẻ thất vọng tìm được sự trợ phù.

- Thánh Gioan Maria Vianney, Chúa Con có đức công bình của Người, Mẹ không có gì, chỉ có tình yêu là Trái tim của Người. Không có ơn nào từ trời xuống mà không qua tay Mẹ.

- Thánh Eymard: Ai muốn hiểu biết những bí nhiệm thẳm sâu tình yêu Thiên Chúa, và những nhân đức kín nhiệm Thiên tính Chúa Giêsu, thì phải học trong bức gương trong suốt Trái tim Vô nhiễm Mẹ Maria.

C. GIÁO HUẤN CỦA GIÁO HỘI

Đức Piô XII, Tình Hiền Mẫu của Trái Tim Mẹ Maria gần như vô biên. Tâm hồn Mẹ đầy tình hiền ái nồng nàn nhất. Trong giờ phút bi thảm của lịch sử loài người này, chúng con phó thác và hiến dâng chúng con cho Trái Tim Vô nhiễm Mẹ.

- Đức Phaolô VI: Một lễ rất được người đạo đức thời nay yêu quí theo chiều hướng mới lấy tình thương xoá bỏ hận thù. Đó là lễ Trái tim Đức Mẹ.

- Đức Gioan Phaolô II: Trái tim Mẹ Maria đã luôn luôn theo sát sự nghiệp Con mình, và cũng đập cùng một nhịp thương mến đối với tất cả những ai mà Đức Ki tô đã và đang ấp ủ trong tình thương mến vô biên của Ngài.

- Trái tim Vô nhiễm Mẹ Maria đã mở ra khi Chúa nói, 'Hỡi Bà, này là con Bà'. Một cách thiêng liêng, Trái tim Mẹ đi gặp gỡ Trái tim Con Mẹ đã mở ra khi bị lưỡi đòng của người lính đâm thâu. Trái tim Mẹ mở ra vì cùng một tình yêu thương người ta và thế giới mà Chúa Ki tô đã yêu thương, đã tự hiến trên cây Thánh giá.

D. MẠC KHẢI TƯ

Mẹ Maria đã tỏ ra Trái tim Mẹ cho Thánh nữ Mechtilđê năm 1298, cho Thánh nữ Giêtruđê năm 1302,  cho Thánh nữ Brigitta năm 1395, và sau đây cho Thánh Catarina Labouré năm 1830, cho cha Carôlô des Genettes năm 1836, cho nữ tu Justina Bisqueyburu năm 1840, và đặc biệt cho ba trẻ Fatima năm 1917.

1. Sứ điệp dầu tiên của Mẹ

Năm 1830, Đức Mẹ hiện ra với chị Catarina Labouré, thỉnh sinh dòng Nữ Tử Bác ái tại Paris nước Pháp để dạy làm mẫu ảnh lạ (Miraculous Médal). Một mặt có ảnh Trái tim Chúa Giêsu và Trái Tim Đức Mẹ. Cha linh hướng của chị Catarina bảo chị hỏi Đức Mẹ có chữ gì bên trên hai Trái tim. Đức Mẹ trả lời rằng không cần thiết có chữ gì, vì hai Trái tim kết hợp với nhau nói lên đầy đủ ý nghĩa. Đức Mẹ cũng hứa với chị Catarina, “Tất cả những ai đeo ảnh lạ đã làm phép sẽ được nhiều ơn lành, nhất là nếu họ đeo ở cổ xuống ngực'.

2. Chúa Giêsu và Mẹ Maria muốn lập lòng sùng kính Trái tim Mẹ trên khắp thế giới

Hiện ra lần thứ hai ngày 13-6-1917, Mẹ nói với Lucia: "Chúa Giêsu muốn thiết lập lòng sùng kính Trái tim vô nhiễm Mẹ trên khắp thế giới. Mẹ hứa ơn phần rỗi cho những ai có lòng sùng kính đó. Linh hồn họ sẽ được Thiên Chúa yêu thương như những bông hoa Mẹ trang hoàng ngai toà Chúa... Không bao giờ Mẹ bỏù con. Trái tim Vô nhiễm Mẹ sẽ là nơi con nương ẩn và là đường dẫn đưa con đến cùng Thiên Chúa

Hiện ra lần thứ ba ngày 13-7-1917, Mẹ khuyên Lucia khi hy sinh thì đọc, "Lạy Chúa Giêsu, con xin hy sinh vì lòng yêu mến Chúa cho các tội nhân trở lại và để đền tạ tội lỗi xúc phạm tới Trái tim Vô nhiễm Mẹ Maria. Con đã xem thấy hoả ngục. nhiều linh hồn tội nhân khốn nạn sa xuống đó. Để cứu họ, Thiên Chúa muốn thiết lập trên thế giới lòng sùng kính Trái tim Vô nhiễm Mẹ... Mẹ sẽ đến xin dâng nước Nga cho Tráii tim Vô nhiễm Mẹ và rước lễ đền tạ các ngày thứ Bảy đầu tháng”

Mẹ lại hiện ra cùng với Chúa Hài Đồng ngày 10-12-1925 với Lucia trong phòng riêng của chị tại tu viện các nữ tu Thánh Dorothy. Một tay Mẹ đặt trên vai Lucia, tay kia Mẹ cầm một quả tim quấn đầy gai. Chúa Hài Đồng nói: “Con hãy thương Trái tim Mẹ rất Thánh của con bị gai quấn quanh do những người bội bạc đâm vào mọi lúc. Và không có ai rút gai ra bằng một việc đền tạ!” Rồi Đức Mẹ nói: “Ái nữ của Mẹ! Con hãy nhìn xem Trái tim Mẹ quấn đầy gai mà những người vô ơn hằng đâm vào bằng những sự xỉ nhục và những sự tệ bạc. Ít là con, con hãy an ủi Mẹ. Nhân danh Mẹ, con hãy loan truyền rằng Mẹ hứa sẽ đến hộ giúp trong giờ chết với những ơn cần thiết tất cảù những ai trong năm thứ Bảy đầu tháng liên tiếp, xưng tội, rước lễ, đọc kinh Mân côi và cùng với Mẹ suy niệm những mầu nhiệm Mân côi có ý đền tạ Mẹ ' .

Ngày 15-12-1926, Chúa Hài Đồng lại hiện đến với Lucia hỏi xem Lucia đã truyền bá việc đền tạ Trái tim Vô nhiễm của Mẹ Chúa.

Năm 1929, Lucia đang cầu nguyện trong nhà nguyện tại tu viện Tuy, Mẹ lại hiện đến với Lucia và nhắc lại: “Mẹ sẽ đến xin dâng nước Nga cho Trái tim Vô nhiễm Mẹ... Nếu họ nghe lời Mẹ, nước Nga sẽ trở lại và sẽ có hoà bình '!”

3. Đức Mẹ tỏ ra Trái tim vàng của Mẹ

Năm 1932, tại Beauraing phía nam nước Bỉ, Đức Mẹ hiện ra với năm trẻ em, một em trai là Albertô 11 tuổi, và bốn em gái là Fernanda 15 tuổi, Andrea 14 tuổi, và hai chị em Gilberta V 13 tuổi, Gilberta D 9 tuổi. Các em đến học trường các Sơ dòng "Christian Doctrine ' , nên các em được thấy Đức Mẹ hiện ra tại vườn tu viện các Sơ gần cây táo gai.

Ngày 17 tháng 12, Đức Mẹ xin xây một nhà thờ tại đây để dân chúng tới hành hương. Sau bốn ngày, Đức Mẹ nói, "Ta là Đức Nữ Trinh Vô nhiễm'.

Ngày 29 tháng 12, Đức Mẹ cho các em xem thấy Trái tim Vô nhiễm của Mẹ mầu vàng sáng óng.

Ngày hôm sau, Đức Mẹ cũng tỏ ra Trái tim vàng của Mẹ và nói: “Hãy cầu nguyện. Hãy cầu nguyện nhiều”  Riêng với Andrea, Mẹ nói: “Ta là Mẹ Thiên Chúa, là Nữ Vương thiên đàng. Hãy cầu nguyện luôn luôn” Riêng với Fernanda, Đức Mẹ mở hai cánh tay tỏ ra Trái tim Mẹ chói chang và nói: “Con có yêu mến Con Ta không? Con có yêu mến Ta không?” Femanda thưa "có". Đức Mẹ nói tiếp: “Con hãy hy sinh cho Ta”'. Đức Mẹ hiện ra với năm em tất cả 33 lần.

Lạy Mẹ Maria, xin uốn lòng chúng con nên giống Trái tim Mẹ. Amen.

-------------------------------

 

Suy niệm 14: Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ)


Suy Niệm Lời Chúa: Luca 2, 41-51

“Đức Maria hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng”

 

Giáo Hội Công Giáo thường trích dẫn Lời Chúa trong Cựu Ước để xây dựng hình ảnh Đức Maria Suy niệm 14


Giáo Hội Công Giáo thường trích dẫn Lời Chúa trong Cựu Ước để xây dựng hình ảnh Đức Maria – người nữ tỳ đầy ân phúc của Thiên Chúa, như trong sách tiên tri Isaiah 61, 10 đã từng nói: “Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, và lòng tôi hoan hỉ trong Chúa tôi, vì Người đã mặc cho tôi áo phần rỗi và choàng áo công chính cho tôi, như tân lang đầu đội triều thiên, như tân nương trang sức bằng ngọc bảo. Như đất đâm chồi, như vườn nảy lộc, Chúa cũng làm phát sinh công chính và lời ca tụng trước mặt muôn dân.” Thế nên, ngày lễ hôm nay chúng ta mừng kính sự tinh tuyền của trái tim vẹn sạch của mẹ, như một người tôi tớ được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt!

Phong trào sùng kính trái tim vỗ nhiễm Mẹ Maria được khởi đi trong Giáo Hội hầu như cùng lúc với việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu. Thế nhưng, giữa hai ngày lễ về “hai trái tim” rất thánh này lại có sự khác biệt rõ ràng.

Nếu việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu như là sự diễn tả hữu hình tình yêu mãnh liệt Thiên Chúa dành cho loài người, thì việc sùng kính Trái Tim Vô Nhiễm Đức Maria lại tập trung vào tình yêu của Mẹ Maria dành cho Chúa Giêsu, người con yêu dấu của Mẹ, và qua đó Mẹ vươn tới cùng Thiên Chúa Cha.

Như vậy, việc sùng kính Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria không dừng lại ở việc lành đạo đức, nhưng sâu xa hơn, nó còn giúp ta khám phá ra cách thức tốt nhất và hữu hiệu nhất để ta đáp trả tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Như Giáo Hội vẫn thường dạy chúng ta, qua việc tôn kính Đức Maria, các tín hữu luôn được Mẹ dẫn đưa đến gần hơn với Thiên Chúa. Điều này nhằm chống lại các lạc thuyết cho rằng các tín hữu thần thánh hoá Mẹ hay tôn thờ Mẹ Maria đến mức đặt người ngang hàng với Thiên Chúa.

Khi chúng ta tôn kính trái tim vô nhiễm của Mẹ, chúng ta nhìn nhận nơi Mẹ một cách thức cụ thể để yêu mến Thiên Chúa trong việc tôn thờ Người. Tôn vinh trái tim tinh tuyền của Mẹ là ta đang tôn vinh chính con người đã được Thiên Chúa thương tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế.

Tôn vinh trái tim vô nhiễm của mẹ, ta được mời gọi nhìn nhận sự thánh thiện và tình yêu mãnh liệt có một không hai mà mẹ đã dành cho Con Thiên Chúa làm người, Đấng mang trong mình dòng máu của mẹ. Sự thánh thiện và tình yêu mãnh liệt đến nỗi làm cho mẹ sẵn sàng cộng tác hoàn toàn vô điều kiện vào chương trình cứu độ nhân loại của Thiên Chúa, qua việc làm người và cuộc tử nạn, Phục sinh của Đức Kitô.

Lòng sùng kính Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria khi ta bắt chước sống theo gương sáng của Mẹ, còn làm cho ta trở nên kết hiệp mật thiết hơn với Thiên Chúa. Thế nên, tôn vinh Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ, ta được ơn thánh hoá bản thân mỗi ngày, hầu giúp chúng ta bớt phần bất xứng khi ta đón nhận Thiên Chúa trong Bí Tích Thánh Thể.

Như thế, khi chúng ta mừng kính lễ Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ Maria, chúng ta cũng phải bắt chước Mẹ, nhiệt thành trong việc đáp trả lại tình yêu của Thiên Chúa đã dành cho ta, qua chính sự đơn sơ phó thác và vâng phục Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc đời. Đồng thời ta cũng được kêu gọi thánh hoá bản thân mỗi ngày cho Trái Tim cực sạch của mẹ, qua việc ăn năn thống hối tội lỗi mình đã phạm.

Lạy Mẹ Maria, xin hãy giúp chúng con luôn biết noi theo gương Mẹ, sống cuộc đời trong sạch để sau này chúng con cũng sẽ được chia sẻ hạnh phúc vĩnh cửu với mẹ trên quê trời. Amen.

-------------------------------

 

Suy niệm 15: Trái tim Xin Vâng của Mẹ Maria


TGM Giuse Nguyễn Năng

Sứ điệp:

 

Chúa Giêsu theo Đức Mẹ và thánh Giuse trở về Nagiaret và Người hằng vâng phục hai ông bà Suy niệm 15


Chúa Giêsu theo Đức Mẹ và thánh Giuse trở về Nagiaret và Người hằng vâng phục hai ông bà. Lòng vâng phục của Chúa Giêsu trong cuộc đời trần thế, là nguồn sự vâng phục của Mẹ Maria đối với Thiên Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trái tim Mẹ Maria là một trái tim biết yêu thương. Từ lúc nói lên lời “xin vâng” với sứ thần Gabriel, Mẹ đã từ bỏ tất cả ý riêng, và trọn đời tín thác vào Chúa. Bằng đủ mọi cách, Mẹ luôn lắng nghe và mau mắn thi hành thánh ý Chúa. Trái tim của Mẹ luôn cùng một nhịp đập với trái tim Chúa: vui với niềm vui của Chúa, và đau khổ với nỗi đau của Chúa. Loại trừ tất cả những gì không cần thiết, trái tim vô nhiễm của Mẹ luôn đập lên nhịp đập của tình yêu.

Lạy Chúa, hôm nay, cùng với Mẹ, con cần sống cuộc đời yêu thương. Trái tim vô nhiễm của Mẹ vẫn đang thổn thức vì yêu thương nhân loại.

Vì là Mẹ của Chúa, nên Mẹ Maria đã có nhiều kinh nghiệm của tình mẫu tử, nên Mẹ cũng đang đau khổ vì mỗi người chúng con như những đứa con vô tâm, bội nghĩa trước tình thương của Chúa. Mẹ muốn chúng con cùng Mẹ lặp lại lời “xin vâng “mỗi ngày: xin vâng trong mọi nơi mọi lúc, xin vâng để luôn lắng nghe Lời Chúa, xin vâng để biết quên mình và sống yêu thương người khác.

Lạy Chúa, khi làm những việc nhỏ mọn, tầm thường và rất âm thầm, là con đang đặt một viên gạch nền móng cho chương trình cứu độ của Chúa, và con tin rằng: lúc ấy, Thánh ý Chúa được thể hiện nơi con. Amen.

Ghi nhớ: “Cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con”.

-------------------------------

 

Suy niệm 16: Sống trong trái tim Mẹ Maria


GM GB. Bùi Tuần

 

Ảnh Đức Mẹ càng ngày càng xuất hiện dưới nhiều hình thức. Hình thức nào cũng đẹp. Nhưng nói Suy niệm 16


Ảnh Đức Mẹ càng ngày càng xuất hiện dưới nhiều hình thức. Hình thức nào cũng đẹp. Nhưng nói về mặt hấp dẫn, thì ảnh Đức Mẹ Trái Tim xem ra được người công giáo Việt Nam yêu mến hơn. Người ngoài công giáo cũng vậy. Tôi cũng thế.

Lý do đơn giản nhất là vì trực giác của người Việt Nam. Theo trực giác Việt Nam, người mẹ vốn được cảm nhận là tình thương. Phương chi một người mẹ lại giới thiệu trái tim mình. Chẳng cần cắt nghĩa gì, trực giác con người bình thường vừa thoáng nhìn, là cảm được một cái gì cao đẹp, linh thiêng, gần gũi.

Với trực giác đó, khi nghe sứ điệp Đức Mẹ ở Fatima về việc tôn sùng Trái Tim Mẹ, tự nhiên tôi vui như được một ơn tái sinh nhiệm mầu.

Tôi dâng mình cho Trái Tim Mẹ. Coi Trái Tim Mẹ như nguồn hy vọng của mình. Đơn sơ vậy thôi. Tôi ở lại trong đó. Tình Mẹ dạy dỗ uốn nắn và dưỡng dục tôi. Mẹ tái sinh tôi.

Ở đây, tôi chỉ xin được chia sẻ mấy điều. Xưa thánh Phaolô đã nói về mấy điều ấy trên đường Ngài phục vụ (x. Cl 1,24-29). Nay tôi cũng nói về mấy điều ấy trên đường tôi phục vụ, nhưng được Trái Tim Mẹ cùng chia sẻ với tôi.

1/ Chịu đau khổ.

Thánh Phaolô viết: “Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, thì tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1,24).

Thánh Phaolô đã nói rất thực. Những đau khổ Ngài phải chịu cũng rất thực.

Hôm nay, sau những năm dài phục vụ trong những hoàn cảnh rất khó khăn, tôi thấy các môn đệ Đức Kitô tại Việt Nam cũng hơn kém cảm thấy những lời thánh Phaolô tâm sự xưa đã như nói thay cho mình.

Có nhiều thứ đau khổ. Của riêng mình. Của người khác. Của cộng đoàn mình.

Đau cái đau của Hội Thánh.
Khổ cái khổ của Quê Hương.
Buồn cái buồn của người nghèo.
Lo cái lo của người bệnh.

Có những thân phận bị nhận chìm, không ngóc đầu lên được. Có những trái tim tan vỡ, không sao gắn lành lại được. Có những cuộc đời bị trói lại, bị kéo đi trên những nẻo đường tăm tối, không bao giờ thoát ra được.

Bao thứ khổ đau như thế bước vào tâm hồn tôi, thân mật như những người bạn tìm nơi trú ngụ.

Tôi đón nhận, như một phần sứ vụ Chúa Giêsu dành cho tôi. Thú thực, đau khổ vẫn là đau khổ. Chẳng sung sướng gì. Nhưng khi tôi ẩn mình trong Trái Tim Mẹ, tôi được Mẹ chia sẻ, ủi an, nâng đỡ. Tôi được Mẹ cho nhìn thấy, một cách nào đó, ý nghĩa của những đau khổ, kể cả những đau khổ vô danh, không chân dung, lặng lẽ trong tôi.

2/ Rao giảng Lời Chúa cho trọn vẹn.

Thánh Phaolô viết: “Tôi đã trở nên người phục vụ Hội Thánh, theo kế hoạch Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em: Đó là tôi phải rao giảng Lời Chúa cho trọn vẹn” (Cl 1,25).

Thánh Phaolô xác tín việc rao giảng Lời Chúa cách trọn vẹn là một sứ vụ quan trọng Chúa uỷ thác cho Ngài.

Các môn đệ Chúa tại Việt Nam xưa rày cũng xác tín như vậy. Nhưng cách rao giảng có khác nhau, tuỳ theo hoàn cảnh.

Tôi đã trải qua nhiều chặng đường rất khác nhau của lịch sử Quê Hương và Hội Thánh Việt Nam. Cùng với việc phục vụ trong nhiều thời gian khác nhau và ở nhiều địa phương khác nhau, tôi học hỏi nơi Trái Tim Mẹ cách rao giảng Lời Chúa sao cho thích hợp.

Mẹ cho biết: Nói chung, cách thích hợp nhất là Lời Chúa trước tiên phải thấm nhập vào chính bản thân người rao giảng. Khi diễn tả ra, nó phải ngấm đậm ơn Chúa Thánh Thần qua việc cầu nguyện, gẫm suy và hy sinh.

Chính Mẹ đã là người rao giảng Lời Chúa một cách thích hợp.

Giảng qua cuộc sống “xin vâng” thánh ý Chúa.

Giảng qua cuộc đời biết sống với những người xung quanh một cách tế nhị.

Giảng qua một hiện diện âm thầm, mang ấn tín mọn hèn của người nữ tỳ của Chúa.

Giảng qua một nếp sống bén nhạy toả ánh sáng và tình thương của trái tim người Mẹ coi nỗi khổ của đàn con như chính nỗi đau của chính mình.

Giảng qua những tu đức coi tội lỗi như cực hình xúc phạm nặng nề sự trong trắng của Trái Tim Mẹ và sự cực thánh của Thiên Chúa.

Giảng qua một cuộc đời tu thân có chiêm niệm và dấn thân.

Nhất là giảng qua một cuộc đời luôn tập trung vào Đức Kitô. Như thánh Phaolô quả quyết: “Chính Đức Kitô đang ở giữa anh em, Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang” (Cl 1,27).

3/ Vất vả phấn đấu.

Thánh Phaolô viết thêm: “Chính vì mục đích ấy, mà tôi phải vất vả và chiến đấu, nhờ sức lực của Người hoạt động mạnh mẽ trong tôi” (Cl 1,29).

Vất vả và phấn đấu trên đường phục vụ, đó là cảm nghiệm sâu sắc của các môn đệ Chúa tại Việt Nam.

Riêng tôi, sự vất vả và phấn đấu nặng nề nhất là đối với chính bản thân tôi. Tôi phải phấn đấu không ngừng với chính mình tôi. Tôi phải vất vả cảnh giác không ngơi với những cái xấu trong tôi.

Tôi thấy vất vả và phấn đấu như thế luôn rất cần để đón nhận được ơn Chúa.

Nhưng những vất vả và phấn đấu của tôi luôn được Trái Tim Đức Mẹ chia sẻ. Hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp qua những trung gian Mẹ gởi tới.

Phải nói thực rằng: Từ bỏ mình, vác thánh giá mình và theo chân Chúa Giêsu là điều không dễ chút nào.

Nhất là khi Chúa Giêsu bảo tôi theo Người vào tâm trạng cô đơn, xao xuyến, hãi hùng, tăm tối mà Người đã trải qua ở vườn Cây Dầu.

Nhưng, rất may, là trong chính những trường hợp bi đát như thế, Trái Tim Đức Mẹ lại cầu bầu tha thiết cho tôi. Hơn nữa, tôi có cảm tưởng là chính Đức Mẹ cũng cùng khóc với tôi. Người lau nước mặt tôi bằng hơi ấm của tình Mẹ.

Chia sẻ vắn tắt trên đây là một sự kể lại chân thành. Hy vọng nó sẽ góp được phần nào nhỏ bé vào việc cổ động cho việc thi hành sứ mạng Fatima: “Hãy tôn sùng Trái Tim Mẹ”.

Hoàn cảnh hiện nay đang xuất hiện nhiều dấu chỉ về một tương lai ảm đạm cho đức tin. Nên sự tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ phải được coi là một thuốc mầu. Đức Mẹ đã dạy như thế. Nhiều người đã cảm nghiệm rõ, Chính tôi là một chứng nhân.

----------------------------------

 

Suy niệm 17: Trái tim Vô nhiễm Đức mẹ


 Lc 2, 41-51

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

- “Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” Lc 1, 49)
- “Lạy Chúa, được Ngài cứu độ, lòng con sẽ vui mừng. Con sẽ hát bài ca dâng Chúa vì phúc lộc Ngài ban" (Tv 12, 6).
- Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người giống hình ảnh của Người (St 1, 26 - 27 ).

 

Mẹ Maria vốn được Thiên Chúa yêu thương tuyển lựa giữa muôn vàn người nữ, Mẹ đã trở nên Suy niệm 17


Mẹ Maria vốn được Thiên Chúa yêu thương tuyển lựa giữa muôn vàn người nữ, Mẹ đã trở nên đồng hình đồng dạng với Thiên Chúa, nghĩa là Mẹ đã nên hình ảnh của Thiên Chúa về lòng trung tín, nhân từ và lòng xót thương vô biên đối với mọi người. Vì thế, Thiên Chúa đã làm cho Trái Tim Mẹ Maria trở thành cung điện xứng đáng cho Chúa Thánh Thần, cho Con Một Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô ngự trị.

TRÁI TIM CỦA MẸ MARIA: TRÁI TIM TÌNH YÊU:

Mẹ Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn để làm Mẹ của Chúa Giêsu vì thế trái tim của Mẹ đã hoàn toàn hiến tế, thuộc trọn về Chúa, Mẹ đã để cho Thiên Chúa hoàn toàn sử dụng Mẹ cho tình yêu của Người và để cứu rỗi nhân loại. Thánh Công Đồng Vaticanô II viết: “Đức Nữ Trinh Maria đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong tâm hồn và thân xác, và đem sự sống đến cho thế gian, lúc Thiên Thần Gabrien truyền tin cho Mẹ” (LG 53). Trong tông thư Đấng Cứu Độ con người, số 22, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhận định: “Chúng ta có thể nói mầu nhiệm cứu độ đã thành hình nhờ Trái Tim Đức Trinh Nữ thành Na-gia-rét khi Maria thưa lời xin vâng. Từ giây phút đó, Trái Tim Trinh Khiết Từ Mẫu ấy luôn luôn theo sát công cuộc của Con Mẹ và vươn đến với tất cả những ai được Chúa Kitô ôm ấp và tiếp tục ôm ấp trong tình yêu vô cùng của Người”. Như Chúa Giêsu trên thập giá, Mẹ Maria đã hiến tế con tim tình yêu vẹn toàn của mình cho Thiên Chúa, trái tim của Mẹ đã rộng mở để đón nhận mọi người. Người lính đâm cạnh sườn của Chúa Giêsu khi Người bị treo trên thập giá, tức thì nước và máu chảy ra, từ nơi đó phát sinh các bí tích. Trái tim hiền mẫu của Mẹ Maria cũng luôn mở rộng để cùng với Chúa Giêsu qui tụ mọi người, để ơn cứu độ của Chúa đến với mọi người. Mẹ Maria với trái tim vẹn toàn, trinh trong đã cống hiến cho công tình cứu rỗi của Chúa và góp phần xây dựng Hội Thánh trần thế. Lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng của thánh Gioan: “Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15, 13) đã minh chứng tình yêu của Chúa là tình yêu vĩnh cửu, vô vị lợi, xả kỷ. Mẹ Maria với trái tim vẹn toàn là dấu chỉ tuyệt vời và cao đẹp nhất dẫn nhân loại và từng người đến tình yêu của Thiên Chúa Cha. Trái tim của Mẹ Maria là trái tim tình yêu vì Mẹ đã sống trọn tình yêu của Chúa Giêsu Kitô, Con của Mẹ.

MARIA ĐÃ LUÔN TUÂN THEO Ý THIÊN CHÚA:

Thiên Chúa qua sứ thần Gabrien đã gọi đích danh Maria: Mẹ đã thưa xin vâng không chút đắn đo, không chút do dự khi được sứ giả của Thiên Chúa giải thích. Maria đã nói lời xin vâng tuân theo ý Chúa. Suốt cuộc đời của Mẹ là lời thưa vâng, đáp trả tình yêu của Thiên Chúa. Đời của Mẹ là bài ca cảm tạ, tri ân không ngừng. Mẹ đã giữ kỹ những điều Mẹ đã cảm nghiệm và suy đi nghĩ lại trong lòng (Lc 2, 51). Cuộc đời của Mẹ là hồng ân quí giá nhất Chúa trao cho nhân loại. Qua tác động của Chúa Thánh Thần, cuộc đời của Mẹ trở nên kiệt tác tình yêu và khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì Mẹ luôn làm theo ý Thiên Chúa, nên nhân loại muôn đời sẽ khen Mẹ là người đầy ân sủng: Mẹ đã để Thiên Chúa hoàn toàn sử dụng cho tình yêu của Ngài và để góp công vào công trình cứu rỗi nhân loại. Tình yêu tự hiến của Mẹ chìm sâu trong mầu nhiệm cứu độ và làm cho cuộc sống Giáo Hội được triển nở phong phú.

Đức Thánh Cha Piô XII vào ngày 31 tháng 10 năm 1942, nhân kỷ niệm 25 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, đã dâng hiến nhân loại và toàn thể gia đình Kitô giáo khắp thế giới cho Trái Tim Đức Mẹ và ngày 04 tháng 5 năm 1944, Ngài truyền cho Giáo Hội mừng lễ kính Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria.

“Lạy Thiên Chúa chí thánh, Chúa đã làm cho Trái Tim Đức Trinh Nữ Maria nên cung điện xứng đáng của Chúa Thánh Thần; vì lời Đức Trinh Nữ chuyển cầu, xin thương giúp chúng con cũng trở nên đền thờ Chúa ngự” (Lời nguyện nhập lễ, lễ Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ)

-------------------------------

 

Suy niệm 18: Nên giống Trái Tim Đức Mẹ


Thomas Nguyễn Văn Hiệp

 

Khi nói đến trái tim thì mọi người không chỉ nghĩ đấy là một cơ phận của thể xác con người, nhưng Suy niệm 18


còn nghĩ ngay đến chiều sâu bên trong là ý hướng, tình cảm, tâm trạng, nỗi niềm .... Triết Đông còn dùng chữ "tâm" (:trái tim)để chỉ thế giới tinh thần (tâm linh) của con người. Có thể nói "trái tim" là biểu tượng nói lên cái cốt yếu của con người đích thực. Chính vì thế mà Đại Thi hào Nguyễn Du từng bảo:

"Thiện căn ở tại lòng ta

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài" (Truyện Kiều).

Cũng vì ý nghĩa và tầm quan trọng của biểu tượng trái tim mà chúng ta có lễ trọng "Thánh Tâm Chúa Giêsu" và lễ "Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ" liền kề nhau.

Câu chuyện có thật về người đàn bà "hủi", mẹ thằng Chiền (Tú Anh) trong phim "Chuyện Tử Tế" của đạo diễn Trần Văn Thủy cũng để lại cho ta nhiều suy nghĩ. Trong phim chỉ cho biết mẹ thằng Chiền bị hủi, bị xua đuổi khỏi làng, bị chồng bỏ, đi xin ăn, đêm đêm lén về nhào đất đúc được 18 vạn (180.000) với ước mơ con có một mái nhà ... đã làm cho khán giả xúc động. Nhưng khi đọc những bài báo viết sau đó mười mấy hay hai chục năm, nhất là bài "Chuyện cổ tích về số phận kỳ lạ của một người đàn bà" của tác giả Phùng Nguyên (2005) cho ta biết thêm nhiều thông tin hơn về người đàn bà "hủi" có tên Trần Thị Hằng, mẹ thằng Chiền. Bài báo đã tạo một cơn sốt ngưỡng mộ nơi độc giả. Chị Hằng đã từng nung dao nóng đỏ để chặt lần lượt mười ngón tay bị cho là "hủi' của mình, phải làm bè sống trên ao, ban ngày đi gánh nước hoặc cát thuê, đêm về gánh đất lấp ao để có một nền nhà .... Chị còn thảm thương hơn cả chị Dậu trong "Tắt Đèn" của Ngô Tất Tố, vì Chị Dậu còn có bầy chó để bán.

Chính trái tim thương con của người mẹ đã giúp chị Hằng vượt qua tất cả. Từ đôi bàn tay bị cho là "hủi" phải chặt cụt từng ngón cùng với trái tim người mẹ luôn yêu thương thao thức vì con, sau mười mấy năm lăn lộn với khổ đau cùng tận, chị Hằng đã thành công trong cuộc sống, đã trở thành triệu phú, có ngôi biệt thự lớn nhất xã Hoàng Diệu, thành phố Thái Bình (năm 2005).

Cả ba bài đọc phụng vụ hôm nay đều mời gọi chúng ta có trái tim vâng phục Thiên Chúa như Đức Maria.

Bài đọc 1, sách 2Sm mời gọi mọi người sống tâm tình của người con luôn tùng phục Thiên Chúa: "Ngươi mà xây nhà cho Ta ở sao ? ... Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con."

Bài đọc 2, thánh Phao lô xác tín với giáo đoàn Rôma: "Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa. Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí".

Bài Tin Mừng, bằng vài nét chấm phá, thánh sử Luca phác họa chân dung Đức Maria: là người thôn nữ bình thường như mọi thôn nữ khác (c 27), là người nữ "đầy ơn sủng" và được "Đức Chúa ở cùng" (c 28), là người được Thiên Chúa chọn làm mẹ Đấng Messia Con Thiên Chúa (c 30-33)... Tuy nhiên câu kết của Tin Mừng đã làm bừng sáng cả bức chân dung Đức Mẹ là một con người bình thường nhưng thật vĩ đại vì trái tim đã vâng phục Thiên Chúa cách triệt để: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói."

Chiêm ngắm cuộc đời Đức Mẹ, chúng ta không chỉ thấy Trái tim Đức Mẹ thốt lên hai tiếng "xin vâng" trong biến cố Truyền tin, khi chứng diện trước Sứ thần của Thiên Chúa; mà cả cuộc đời Đức Mẹ, trái tim vẫn luôn rung nhịp vâng theo thánh ý Thiên Chúa giữa bao nghịch cảnh. Mẹ vâng phục Thiên Chúa trong mọi nơi, mọi lúc, mọi biến cố, mọi phút giây. Trong biến cố hạ sinh con nơi hang bò lừa giữa cánh đồng hoang vu đêm khuya gió rét, biến cố trốn sang Ai Cập, dâng con trong Đền thờ, ẩn cư tại Nazareth ... ở mọi thời khắc Đức Mẹ đều thinh lặng, nhưng con tim ghi nhớ và suy niệm (x. Lc 2,19). Cả biến cố dưới chân thánh giá, Mẹ chứng diện trước cái chết của người con dấu yêu. Có nỗi đau nào sánh ví! Thế mà Mẹ vẫn thinh lặng, vâng phục và phó thác, trao phó con tim mình cho Thiên Chúa.

Ngay từ thời xa xưa, các Giáo phụ và những vị đại thánh đã ca ngợi Trái Tim Đức Mẹ:

Thánh Giêrônimô: Không trí khôn thụ tạo nào, không trái tim thụ tạo nào, không sức lực nhân loại nào có thể biết được Trái Tim Mẹ Maria yêu mến Chúa chúng ta đến mức nào.

Thánh Bênađô: Tình Chúa yêu thương chiếm trọn Trái Tim Mẹ Maria, đến nỗi Trái Tim Mẹ đầy tràn tình yêu, vì Thiên Chúa không làm bùng lên tình yêu trong trái tim nào khác như trong Trái Tim Rất Thánh Nữ Trinh. Và vì Mẹ thoát khỏi mọi dính bén thế tục để Mẹ lãnh nhận được ngọn lửa thánh này.

Thánh Bênađinô: Đức Nữ Trinh hiển vinh không lặp lại những tác động yêu mến như các thánh, vì trọn cuộc đời Mẹ là một tác động yêu mến liên lỉ do một đặc ân Mẹ luôn luôn yêu mến Thiên Chúa.

Thánh Phanxicô Salêsiô: Mẹ Maria trung thành yêu mến Thiên Chúa trong những giờ phút đen tối nhất và tuyệt vọng nhất, đặc biệt trên đồi Canvê. Mẹ tới một mức độ yêu mến hoàn hảo nhất, cao cả nhất. Điểm căn bản là tâm hồn Mẹ tan hòa kết hợp với Chúa và chỉ yêu mến duy một Thiên Chúa trong mọi sự và mọi nơi.

Thánh Gioan Maria Vianney: Chúa Con có đức công bình của Người, Mẹ không có gì, chỉ có tình yêu là Trái tim của Người. Không có ơn nào từ trời xuống mà không qua tay Mẹ.

Thánh Eymard: Ai muốn hiểu biết những bí nhiệm thẳm sâu tình yêu Thiên Chúa, và những nhân đức kín nhiệm Thiên tính Chúa Giêsu, thì phải học trong tấm gương trong suốt Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria.

Lời mời gọi của thánh Eymard, cũng là lời mời gọi của Lời Chúa hôm nay: Hãy nên giống trái tim Đức Mẹ.

Có lẽ chúng ta sẽ bảo rằng: thật khó để thanh luyện trái tim mình nên giống Trái tim Đức Mẹ. Quả là khó chứ không phải là điều không thể. Điều quan trọng là tình yêu chúng ta dành cho Thiên Chúa có tinh tuyền và mãnh liệt như Đức Mẹ hay không. Nếu có tình yêu thì chúng ta sẽ làm được tất cả, vượt qua tất cả mọi gian nan hay đam mê lôi cuốn. Cha ông ta đã từng bảo: "yêu nhau mấy núi cũng trèo" mà! Mẹ thằng Chiền chẳng phải đã thắng vượt tất cả vì yêu con sao?

Chính trái tim yêu mến Thiên Chúa cách trọn vẹn và mãnh liệt đã làm nên một Maria vâng phục thánh ý Thiên Chúa suốt cả đời. Cũng thế, nếu trái tim chúng ta luôn thao thức qui hướng về Thiên Chúa, rung nhịp với Tin Mừng tình yêu vĩnh cửu của Ngài thì mỗi người chúng ta cũng có thể vượt qua tất cả mọi trở ngại để vâng phục Thiên Chúa cách hoàn toàn và suốt cả đời như Đức Mẹ. Các Vịnh gia từng thốt lên: "Tim thét gào thì miệng phải rống lên" (Tv 38,9) (xem bài diễn giải rất hay của thánh Augustinô về câu Thánh vịnh này ở Bài đọc 2 Kinh Sách, thứ 6 tuần 3 mùa vọng).

Nếu chúng ta không thanh luyện trái tim mình nên giống trái tim Đức Mẹ, tức để cho tim mình rung nhịp theo những xúc cảm tầm thường, nhất thời, thì trái tim chúng ta không chóng thì chày cũng dễ bị lạc nhịp theo những xu hướng của thế tục, của sự ích kỷ vụ lợi cá nhân.

Ước mong Lời Chúa hôm nay soi dẫn, mỗi người chúng ta thanh luyện chính mình để trái tim chúng ta trở nên máng cỏ yêu thương nơi Hài Nhi Giêsu ngự trị và để chúng ta có thể mang Chúa đến cho tha nhân.

-------------------------------

 

Suy niệm 19: Lễ Trái tim Vô nhiễm Đức Mẹ


 Lc 1, 41 – 51

Nt. Têrêsa Ngọc Lễ

 

Phụng vụ Giáo hội đọc Tin Mừng thánh Luca 1, 41-  51 trong ngày Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ Suy niệm 19


Phụng vụ Giáo hội đọc Tin Mừng thánh Luca 1, 41-  51 trong ngày Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ với trình thuật cuộc viếng thăm, gặp gỡ giữa Đức Mẹ và người chị họ Ê-li-sa-bet. Bản văn Tin Mừng đọc trong thánh lễ hôm nay được bắt đầu ngay bằng lời ca của người chị họ Ê-li-sa-bet ( c 41), chứ không phải từ câu 39 của chương 1 cho trọn vẹn bài đọc. Tuy thế, chúng ta vẫn có một sự xuyên suốt của bản văn khi suy niệm Tin Mừng.

Đức Mẹ đã rời Nazaret để đi thăm bà Ê-li-sa-bet, chắc chắn , đây phải là cuộc gặp gỡ của niềm vui và hạnh phúc. Mẹ đến để chia sẻ với niềm vui của người chị họ đang mang thai, nhưng đồng thời, Mẹ cũng đến để chia sẻ niềm vui của chính mình cho người chị họ, sau khi lãnh nhận sứ điệp của Thiên Chúa uỷ thác. Mẹ đến gặp, hàn huyên chuyện trò, giúp đỡ chị Ê-li-sa-bet bằng một tình yêu từ trong trái tim mình. Tình yêu nơi Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ gợi đến cho chúng ta sứ điệp của tình yêu. Trái tim, biểu tượng của tình yêu, mà nơi Mẹ, đó  là một tình yêu thanh khiết và hoàn toàn tự hiến, trao ban cho Thiên Chúa và cho mọi người, tình yêu của sự rao loan tin mừng cho người khác. Đó cũng là tình yêu của sự sẵn sàng chia sẻ buồn vui, gánh lấy những vất vả, lo lắng của người khác, để rồi, tình yêu nơi trái tim Mẹ cũng là tình yêu của chấp nhận mọi đau khổ trong cuộc đời của chính Mẹ. Chính tình yêu đó đã khai mở, dẫn đưa Mẹ đến gặp chị họ Ê-li-sa-bet.

Sự hiện diện của Mẹ đã không chỉ làm chị Ê-li-sa-bet hạnh phúc, nhưng còn cho bào thai trong lòng người chị họ cũng sung sướng nhảy mừng ( c.41 ). Lẽ ra, đây là một hiện tượng bình thường khi bào thai ở độ tháng thứ sáu thường ngọ nguậy trong lòng người mẹ. Nhưng với Ê-li-sa-bet, bà đã giải thích và mặc cho hiện tượng này bằng một sự diễn giải hoàn toàn khác thường. Đó là niềm vui và sự đầy tràn Thánh Thần (c 42), một sự diễn giải thường tìm thấy trong Kinh Thánh. (Xh 31,3; Ds 11,17-29; 24,2; Tl 3,10; 6,34; 14,6; 1 Sm 10,6; 10,10; 11,6). Sự đầy tràn Thánh Thần được miêu tả như một sự kiện đặc biệt và khác thường mà chỉ người tin mới mô tả được tâm trạng hạnh phúc ấy. Và với sự đầy tràn Thánh Thần ấy, nhìn từ bên ngoài, Thánh Thần sẽ đến trên những người tin để họ thực hiện nhiệm vụ cụ thể nào đó. Đây là thời điểm đặc biệt của bà Ê-li-sa-bet khi được đầy tràn Thánh Thần để bà Ê-li-sa-bet thực hiện nhiệm vu đặc biệt của mình: soạn ra một bài ca ngợi Thiên Chúa qua Đức Ma-ri-a( c. 42 -45).

Bài hát mà Ê-li-sa-bet soạn và cất lên là sự ngợi ca Thiên Chúa. Trong thi ca Do Thái, bài ca ngợi này chứa đựng một lối song song ba yếu tố:

 “Được chúc phúc giữa muôn người phụ nữ” (c. 42)

“Người con em cưu mang cũng được chúc phúc” ( c. 42)

“Em được chúc phúc vì đã tin” ( c. 45).

Đức Ma-ri-a được chúc phúc giữa muôn người phụ nữ, có lẽ, không vì những gì Mẹ đã làm nhưng Mẹ có phúc vì tất cả những gì Thiên Chúa đã làm cho Mẹ. Mẹ được Thiên Chúa tuyển chọn và được trao sứ mạng đặc biệt trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Ngài đã làm cho Trái tim Mẹ trở nên cung điện xứng đáng của Chúa Thánh Thần, để chương trình cứu chuộc loài người được thực hiện. Trong tư cách thụ tạo của Thiên Chúa, Mẹ được ân ban đặc biệt để nhận lãnh sứ mạng của tình yêu, của sự cứu độ. Sự tin yêu, vâng phục, và phó thác vào Thiên Chúa của Mẹ là nền tảng của tình yêu nơi trái tim Mẹ. Mẹ được Thiên Chúa sủng ái, được toàn vẹn hoá phẩm giá người nữ nơi Mẹ cưu mang. Chính sự diễm phúc này, Mẹ đã đồng hành cùng Con Mẹ và đồng hành với nhân loại trên đường về Nước Trời.

“Mẹ của Đấng Cứu Thế” ( c 43). Ê-li-sa-bet đã nhìn Đức Ma-ri-a với một cái nhìn vượt trên những gì hữu hình nơi thân xác Mẹ, để nhận ra người em họ của mình sẽ là Mẹ Đấng Cứu Thế. Điều này gợi nhớ lại lời nói của Vua Đavit khi ông nói về Chúa của mình “Sấm ngôn của Đức Chúa, ngỏ cùng Chúa Thượng tôi: “Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân con” (Tv 110,1). Ê-li-sa-bet dường như đã nhận ra người con mà người em Ma-ri-a sẽ sinh ra chính là Đấng Cứu Thế. Trong cuộc sống đức tin người Kitô hữu hôm nay, giữa những khó khăn, buồn vui của cuộc sống, Mẹ Ma-ri-a luôn là nơi để mọi người chạy đến khẩn cầu. Mẹ chuyển trao và cầu bầu cho chúng ta trước toà Chúa. Mẹ yêu chúng ta, một tình yêu của người Mẹ trọn vẹn nhất, hy sinh, trao ban và làm tất cả vì con cái Mẹ. Trái tim Vô Nhiễm Mẹ thanh khiết, ôm lấy tất cả những đau khổ, tội lỗi của con cái Mẹ, để từ đó, xin Chúa ân ban và giải thoát chúng ta khỏi những nước mắt và than khóc, những chán chường và thất vọng, những bế tắc và nghi nan. Mẹ ở đó với mỗi người chúng ta, sẵn sàng chờ đợi lời cầu xin của chúng ta trong mỗi giây phút cuộc đời. Vì, Mẹ là Mẹ Đấng Cứu Thế và cũng là Mẹ của chúng ta.

“Mẹ có phúc bởi vì Mẹ đã tin” (c 45). Được chúc phúc cũng đồng nghĩa với hạnh phúc mà Mẹ được Thiên Chúa ân thưởng. Mẹ có phúc bởi vì Mẹ đã tin. Chúng ta có thể nhận ra được quy trình đó: đầu tiên, Thiên Chúa ban cho Mẹ ân sủng của Ngài, sau đó, Mẹ đã tin và cuối cùng Mẹ đã có được sự hạnh phúc bên trong tâm hồn. Và, ở đây, chúng ta có thể có được công thức: Ân sủng + Niềm tin = Hạnh phúc nội tại. Niềm tin như là chìa khoá để mở kho tàng quà tặng của Thiên Chúa ban cho mỗi người chúng ta.

Lời ca ngợi Mẹ của người chị họ Ê-li-sa-bet được Mẹ đáp trả bằng bài ca tạ ơn Thiên Chúa. Mẹ đã hát, ngợi ca sự vĩ đại và vinh quang của Thiên Chúa bởi Mẹ nhận ra lòng thương xót và ân sủng của Thiên Chúa dành cho Mẹ. Mẹ cảm tạ Thiên Chúa vì Ngài đã đổ tràn tình yêu, bình an, niềm vui và sự công chính của Ngài trên Mẹ. Mẹ đã sống sự thanh khiết, để làm đẹp đền thờ Thiên Chúa nơi Mẹ. Trái tim thanh khiết của Mẹ đã được Chúa chúc phúc và ngự đến.

Còn chúng ta, phải chăng tâm hồn chúng ta vẫn chưa thực sự là cung điện để Thiên Chúa ngự đến? Những bất trung, tội lụy, những yếu đuối và đam mê, những hận thù và chia rẽ… đã khiến chúng ta không thể sống thánh trong mỗi phút giây đời mình? Đã làm cho tâm hồn chúng ta trở nên nhơ uế? Đã làm cho chúng ta không nhận ra tình yêu không bờ bến của Thiên Chúa trong cuộc đời của mỗi người? Chúng ta có theo Mẹ để đón nhận sứ vụ của mình bằng một niềm tin và thái độ vâng phục tuyệt đối hay không? Mẹ đã tin cậy vững vàng và phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh của đời Mẹ. Còn chúng ta, phải chăng chúng ta chỉ sống bằng niềm tin nửa vời, một sự phó thác nửa vời nơi cuộc đời Kitô hữu của mình?

Lạy Thiên Chúa chí thánh,

Chúa đã làm cho Đức Trinha Nữ Ma-ri-a nên cung điện xứng đáng của Chúa Thánh Thần.

Vì lời Đức Trinh Nữ chuyển cầu, xin thương  giúp chúng con cũng trở nên đền thờ Chúa ngự. Amen.

-------------------------------




 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây