“Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy”.
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, mười một môn đệ đi về Galilêa, đến núi Chúa Giêsu đã chỉ trước. Khi thấy Người, các ông thờ lạy Người, nhưng có ít kẻ còn hoài nghi. Chúa Giêsu tiến lại nói với các ông rằng: “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. - Ðó là lời Chúa.
“Ðang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời”.
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh”.
Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa.
Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.
“Ðang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời”.
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Như đã ghi chép là Ðức Kitô phải chịu khổ hình và ngày thứ ba từ cõi chết sống lại; và nhân danh Người mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân, bắt đầu từ Giêrusalem. Các con là nhân chứng những sự việc ấy. Thầy sẽ sai đến với các con Ðấng Cha Thầy đã hứa; vậy các con hãy ở lại trong thành cho đến khi mặc lấy quyền lực từ trên cao ban xuống”. Rồi Người dẫn các ông ra ngoài, đến làng Bêtania, và giơ tay chúc phúc cho các ông. Sự việc xảy ra là đang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời. Các ông thờ lạy Người, và trở về Giêrusalem lòng đầy vui mừng. Các ông luôn luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. - Ðó là lời Chúa.
Việc trao ban Chúa Thánh Thần trong đoạn Tin Mừng hôm nay xem như một việc thông thường. Chúa HiệnXuống ABC501
Việc trao ban Chúa Thánh Thần trong đoạn Tin Mừng hôm nay xem như một việc thông thường. Chúa Giêsu chỉ thổi hơi trên các môn đệ và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Nhưng không đơn giản như thế. Chúa Giêsu đã nhiều lần nói đến Thánh Thần, hứa ban Thánh Thần; “Thầy sẽ xin cha Thầy ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi”. Ngài thổi hơi trên các môn đệ chứng tỏ Thánh Thần là hơi thở của Ngài. Ngài đã thở hơi cuối cùng trên thập giá, hơi thở đó chính là Thánh Thần. Thánh Gioan không nói Ngài tắt thở mà nói: “Ngài trao ban Thánh Thần”. Như thế, chúng ta có thể hiểu rằng Thánh Thần là sự sống, không phải là sự sống thể lý mà thôi mà là sự sống của tâm hồn. Chúa Giêsu trao ban Thánh Thần để chúng ta được sống, và được sống thật, được sống đời đời.
Nhưng Thánh Thần lại là Thánh Thần của ơn tha thứ và chính ơn tha thứ cũng là sự sống: “Anh em tha tội ai, người ấy được tha”. Tội lỗi là sự chết, ơn tha thứ mang lại sự sống. Thánh thần là nguồn cội của sự sống mới. Thánh Phaolô luôn nói đến sự sống mới trong Thánh Thần. Chúng ta được rửa trong Thánh Thần, và chính Thánh Thần đến trong chúng ta và kêu lên: “Abba, Cha ơi”. Chính Thánh Thần xác định chúng ta là con Thiên Chúa. Thánh Thần cầu nguyện trong chúng ta vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải. Thánh Thần cầu nguyện trong chúng ta bằng những tiếng rên khôn tả. Như thế, chúng ta hoàn toàn được thấm nhuần Thánh Thần của Thiên Chúa cũng như Chúa Giêsu luôn sống trong Thánh Thần. Mọi hoạt động của Ngài, lời giảng của Ngài đều do Thánh Thần. Chúng ta phải sống trong Thánh Thần như Ngài. Chúa Giêsu cũng nói: “Không có Thầy, anh em không làm được việc gì, thì chúng ta cũng không thể làm được việc gì nếu không có Thánh Thần.
Trong cuộc sống đức tin, Thánh thần Chúa phải là tất cả từ nguồn cội cho đến kết thúc. Ngài là Tình Yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Tình Yêu đó được đổ tràn trong tâm hồn tín hữu ngay từ khi chịu phép rửa tội. Thánh Thần được ban sung mãn qua bí tích Thêm Sức, nhờ đó, chúng ta được sống trong Thánh Thần Tình Yêu, chúng ta nhờ Ngài để có thể yêu mến Chúa thực sự. Một số đông tín hữu giữ đạo mà không biết yêu mến Chúa vì họ không ở trong Thánh Thần. Thánh Phaolô bảo chúng ta: “Đừng dập tắt Thánh Thần”. Chúng ta dễ dập tắt Thánh Thần vì sự lơ đãng của chúng ta. Có thể nói, chúng ta quên Thánh Thần, không mấy khi nói đến Ngài, đừng nói chi đến việc cầu khẩn Ngài. Giáo Hội luôn bảo chúng ta cầu nguyện với Chúa ThánhThần mỗi khi làm công việc gì, nhưng mấy khi chúng ta chú ý? Kinh nguyện Chúa Thánh Thần được đọc quá nhanh và quen thuộc đến nỗi không còn ai có thể chú ý. Thiếu vắng Chúa Thánh Thần thì không có gì thành tựu, xét về mặt thiêng liêng.
Chúa Thánh Thần là Tình Yêu. Ngọn lửa tình yêu của Ngài làm cho tâm hồn chúng ta hăng say làm việc Chúa không mõi mệt, làm trong sự khôn ngoan, làm một cách nhẹ nhàng vui tươi. Ơn khôn ngoan của Ngài làm cho chúng ta hiểu được những điều thiện hảo đẹp lòng Chúa, nhờ đó chúng ta biết phải làm gì.
Tình yêu Thánh Thần giúp chúng ta sáng suốt và hiểu được ý định của Chúa và thực hiện ý định đó trong cuộc sống. Nhờ Thánh Thần soi dẫn, chúng ta không lầm lạc trong những quyết định của chúng ta. Ngay trong đời sống hằng ngày, chúng ta cũng nhờ Thánh Thần để sáng suốt quyết định những điều thích hợp như cách dạy dỗ con cái, chọn người bạn đường trong hôn nhân…
Tình yêu Thánh Thần soi sáng cho chúng ta hiểu lời Chúa, sống bằng Lời Chúa. Chúng ta được lời Chúa soi dẫn trên mọi nẽo đường, giúp chúng ta biết yêu thương như Chúa muốn, can đảm trong mọi tình huống, bình thản vui tươi trong mọi cơn thử thách.
Tình yêu Thánh Thần sẽ là sức mạnh để chúng ta dấn thân phục vụ Tin Mừng, rao giảng Tin Mừng bằng cuộc sống bác ái, khiêm nhường và bền bĩ. Người đầy ơn Thánh Thần luôn cảm thấy cuộc đời là phục vụ không mệt mõi để Chúa được yêu thương hơn.
Tình Yêu Thánh Thần sẽ cho chúng ta một cái nhìn đức tin tất cả tạo vật của Chúa, biết sử dụng mọi sự cho sáng danh Chúa, không tìm lợi ích cá nhân cho mình. Một người không có đức tin nhìn mọi sự như là của mình, chỉ biết hưởng thụ và tìm thỏa thích cho riêng mình. Người tín hữu, với cái nhìn trong Thánh Thần sẽ nhìn mọi sự như những kỳ công của Chúa, như những hồng ân của tình thương Chúa và sử dụng mọi sự với lòng biết ơn.
Tình yêu Thánh Thần sẽ cho chúng ta một cặp mắt thiêng liêng để thấy được những thực tại thiêng liêng mà chúng ta không thể thấy bằng cặp mắt phàm trần và hiểu được những gì chúng ta không hiểu được bằng trí khôn ngoan nhân loại của chúng ta. Tất cả những thực tại thiêng liêng như hồng ân làm con Chúa. Ai cũng biết điều đó, nhưng không mấy người hiểu được, vì thế đa số người tín hữu sống như những người không có đức tin, không biết được hồng ân tuyệt diệu Chúa ban.
Các bí tích là những thực tại thiêng liêng mà nhiều người không thấy và cũng không hiểu. Phép Thánh Thể là một thực tại thiêng liêng quan trọng hơn mọi thực tại nào, thế nhưng bao nhiêu người hiểu và cảm thấy hạnh phúc được ăn lấy Chúa? Không có Thánh Thần không thể nhận ra Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể.
Cầu xin Chúa Thánh Thần xuống trên chúng ta như một “lễ Hiện Xuống mới” để như các Tông Đồ, chúng ta mạnh mẽ bước ra trước thế giới, hiên ngang tuyên xưng đức tin và rao giảng Tin Mừng. Rao giảng không rầm rộ nhưng vững chắc. Quý Ngài cũng như chúng ta, là những con người yếu hèn, kém tin, nhưng khi đã đầy tràn Thánh Thần các Ngài đã trở nên những con người mới, những con người hoàn toàn của Chúa, sống chết cho Chúa thôi. Hãy để Thánh Thần hoạt động tự do trong chúng ta, “đừng làm buồn lòng Ngài”… đừng cản trở hoạt động của Ngài bằng sự ươn lười của chúng ta. Lắng nghe tiếng thì thầm yêu thương của Ngài, cuộc sống chúng ta sẽ tươi sáng, thanh thản, vì tình yêu của Ngài sẽ tràn trề trên chúng ta, biến mọi hành động cử chỉ của chúng ta thành yêu thương chân thành.
Chúa Giêsu hôm nay đang thổi hơi trên chúng ta và ban Thánh Thần của Ngài trên chúng ta, sai chúng ta đi. Ngài biết chúng ta được dựng nên bằng gì nhưng vẫn tin tưởng nơi chúng ta, trao phó cho chúng ta nhiệm vụ thánh hóa cuộc sống trần gian để biến mọi sự thành của lễ đẹp lòng Thiên Chúa Cha. Ngài trợ lực chúng ta bằng chính Thịt Máu thần linh của Ngài. Hãy đến, bàn tiệc yêu thương vẫn mời gọi. Hãy ăn lấy Ngài và cùng với Ngài bước đi trong trần gian với tất cả tình yêu.
Tin mừng Ga 20:19-23 Chúa Thánh Thần là sự sống của Giáo Hội, nên từ ngày được khai sinh Giáo hội càng ngày càng lớn mạnh cho dầu Giáo Hội phải đối diện với bao thăng trầm trong lịch sử...
SUY NIỆM
Sự sống là hồng ân cao cả Thiên Chúa ban cho muôn loài qua công trình tạo dựng. Bởi Ngài là HiệnXuống ABC502
Sự sống là hồng ân cao cả Thiên Chúa ban cho muôn loài qua công trình tạo dựng. Bởi Ngài là Thiên Chúa của sự sống, nên mọi sự bắt nguồn từ Ngài đều có sự sống. Thế nhưng, sự sống nơi con người hoàn toàn khác sự sống của các loài thụ tạo khác. Tác giả sách Sáng thế tường thuật về công trình tạo dựng đã cho thấy sự phân biệt đó. Khi tạo dựng muôn loài Thiên Chúa chỉ phán một lời liền có sự sống theo ý muốn của Ngài (x. St 1, 11-24), thế nhưng việc tạo dựng con người không là “phán một lời”, nhưng bằng chính “đôi tay”, Ngài lấy bụi đất nặn ra con người và thổi sinh khi vào lỗ mũi (St 2, 7), nhờ đó con người có sự sống, và sự sống ấy được xem “giống như Thiên Chúa” (St 1, 26).
Hơi thở mà Thiên Chúa trao ban cho con người chính là Thần Khi sự sống của Thiên Chúa, được gọi là Chúa Thánh Thần, Đấng mà hôm nay Giáo Hội long trọng mừng kính.
Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, không chỉ là hướng về Ngôi Ba Thiên Chúa mà thôi, nhưng đây cũng là lúc Giáo Hội cất tiếng tạ ơn Thiên Chúa, vì hôm nay cũng là ngay sinh nhật của Giáo Hội, ngày Giáo Hội được khai sinh, hay nói cách khác, ngày Giáo Hội được nhận lấy Thần Khí của sự sống qua việc Chúa Giêsu thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Và chính nhờ hơi được Chúa thổi vào, các tông đồ đã đi ra khỏi sự sợ hãi nhát đảm, ra khỏi nỗi u sầu và sự tăm tối trí khôn, để mạnh dạn đứng lên giữa muôn dân loan báo: “Thưa anh em Đức Giê-su mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Ki-tô’’ (Cvtđ 2, 32. 36). Qua bài giảng của Phêrô, ngay hôm đó hơn 3000 người đã tin vào Chúa Kitô và đã chịu phép rửa. Giáo Hội được khai sinh từ giây phút đó.
Vâng Chúa Thánh Thần là sự sống của Giáo Hội, nên từ ngày được khai sinh Giáo hội càng ngày càng lớn mạnh cho dầu Giáo Hội phải đối diện với bao thăng trầm trong lịch sử, có nhhững lúc người ta nghĩ Giáo Hội sẽ gục ngã trước những thời khắc khủng hoảng sâu xa, thế nhưng Giáo Hội vẫn vượt qua và đứng vững, thế giới kinh ngạc trước sức sống của Giáo Hội, theo thống kê của Toà Thánh vào năm 2016, có hơn 1tỉ 270 triệu người Công giáo trên thế giới, và được coi là tôn giáo lớn nhất. Bởi đâu mà Giáo hội có được sức sông như thế? Thưa chính là nhờ Chúa Thánh Thần. Đức Thánh cha Phanxicô đã minh định: Chính Chúa Thánh thần đặt để trong chúng ta sự sống dồi dào, và nhờ Chúa Thánh Thần chúng ta đạt tới sự thỏa mãn ước vọng sâu thẳm tận đáy lòng về ánh sáng, tình yêu, vẻ đẹp và bình an. Chúa Thánh Thần dạy chúng ta nhìn bằng đôi mắt của Đức Kitô, sống cuộc sống của mình như Đức Kitô đã sống cuộc sống của Người, và hiểu cuộc đời như Đức Kitô đã hiểu. Nhờ thế mà Giáo Hội sống và sống dồi dào.
Sự sống dồi dào đó chính là mỗi người Kitô hữu được dẫn đưa vào trong mối tương giao với Thiên Chúa là Cha. Thánh Phaolô Tông Đồ trong thơ gởi tín hữu thành Roma đã nói rằng: “Tất cả những ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa. Vì Thần Khí mà anh em đã lãnh nhận được, đâu phải là tinh thần nô lệ, khiến anh em phải sợ sệt như xưa: nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên: Abba! – Cha ơi!”(Rm 8,14-15). Nhờ mối tương giao này, chúng ta, những Kitô hữu được cảm nghiệm về các hồng ân lớn lao mà Thiên Chúa như người Cha nhân ái đã trao ban cho chúng ta, những ân huệ như hoa quả của tình yêu mà Cha dành cho con. Nói như Đức Phanxicô: tình phụ tử của Thiên Chúa sẽ giải thoát chúng ta khỏi kiếp mồ côi mà chúng ta đã rơi vào đó. Ngay trong thời đại chúng ta, người ta cũng phát hiện ra những triệu chứng khác nhau mà chúng cho thấy tình trạng mồ côi của chúng ta: đó sự cô độc nội tâm mà chúng ta cảm nhận được khi chúng ta ở giữa muôn người, và đôi khi sự cô độc ấy sẽ có thể trở thành một nỗi buồn chán chường làm chúng ta không còn muốn sống (Bài giảng ngày15 tháng 05 năm 2016)
Anh chị em thân mến,
Nguồn mạch sự sống trào dâng từ Chúa Thánh Thần như suối nguồn không bao giờ cạn kiệt, bởi nhờ Chúa Thánh Thần chúng ta luôn được biến đổi để được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, hay nói cách khác chúng ta được biến đổi để thuộc về Chúa Kitô, tức thuộc về những di sản mà Chúa Kitô đã để lại cho thế giới. Di sản đó chính là nền văn hoá tình thương: các con hãy yêu thương như Thầy đã yêu thương. Chỉ có yêu thương như Đức Kitô cuộc sống mới thực sự mang đầy tràn ý nghĩa, và chỉ có yêu thương như thế, sự sống không bao giờ cạn kiệt.
Vì thế, mừng lễ sinh nhật hôm nay Giáo Hội ý thức mình từ đâu mà có, và mục đích sự hiện hữu của mình, nên Giáo Hội luôn đặt mình vâng phục tiếng nói của Chúa Thánh Thần để Giáo Hội luôn là hiền thê rạng ngời của Đức Kitô, là dấu chỉ thời đại mang niềm hy vọng cho nhân loại đang còn đối diện với quá nhiều trăn trở và thách đó.
Như những người con của Giáo Hội, chúng ta dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần luôn nỗ lực làm cho sự sống thần linh ở trong chúng ta được triển nở qua việc trung thành sống theo lời mời gọi của Tin Mừng, thể hiện sự hiệp nhất qua việc vâng phục các chủ chăn. Có như thế sự sống mà chúng ta nhận được từ Chúa Thánh Thần luôn triển nở hầu có thể đạt tới tầm vóc viên mãn của nó.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin đổ tràn trên chúng con các ân huệ của Chúa để chúng con trở thành khi cụ bình an của Chúa. Với sức sống của Chúa, xin cho chúng con tiếp tục lan toả sức sống nầy đến cho mọi người bằng sự dấn thân phục vụ của chúng con. Amen.
Hôm nay các bài đọc Lời Chúa, các ý cầu nguyện, bài thánh ca đều mang chung một tâm tình HiệnXuống ABC503
Hôm nay các bài đọc Lời Chúa, các ý cầu nguyện, bài thánh ca đều mang chung một tâm tình, cầu xin và mong muốn: “Xin Thiên Chúa ban Thần Khí, Thánh Thần xuống để Ngài canh tân đổi mới” cho chúng ta. Vì ơn của Chúa Thánh Thần rất cần thiết trong đời sống của mỗi người chúng ta; có rất nhiều ơn ban của Chúa Thánh Thần, như bảy ơn Chúa Thánh Thần, chín đặc sủng của Thánh Thần. Vậy không biết với mỗi người, chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần ban ơn gì cho chính mình cũng như cho người thân yêu?
Trong bài đọc 1 khi các Tông đồ được ơn của Chúa Thánh Thần “họ bắt đầu nói các thứ tiếng lạ”, Tiếng lạ là gì? Tại sao họ lại nói tiếng lạ? Ngày nay, con người dùng những kiểu từ hay thứ ngôn ngữ khác lạ; người lớn tuổi cũng như người trẻ tuổi đôi lúc không hiểu nhau vì những ngôn ngữ khác lạ; cũng có những ngôn ngữ khác lạ khi cho rằng đây là ngôn từ nhà quê, lạc hậu, những ngôn ngữ chanh chua, chợ búa, xã hội đen, …có phải đó cũng là tiếng lạ không? Đúng đó là thứ tiếng xa lạ, khó hiểu vì lập dị chứ không phải là ơn ngôn ngữ mà Chúa Thánh Thần ban cho. Ơn ngôn ngữ là để rao truyền tin vui, tin mừng của Đức Kitô với lời rao giảng và làm chứng của các Tông đồ để mọi người nhận ra thánh ý và ơn mà Thiên Chúa ban. Khi các Tông đồ rao giảng về Chúa, ai nghe cũng đều hiểu được mặc dầu các Tông đồ không nói bằng ngôn ngữ của họ. Thật vậy, ơn Ngôn ngữ bao gồm ơn Thông hiểu, ơn Khôn ngoan để hiểu nhau, để loan truyền, giúp nhau hiểu và sống theo thánh ý Chúa trong cuộc đời. Xin Chúa Thánh Thần cũng ban ơn Ngôn ngữ của Ngài cho chúng ta, để bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể dùng lời nói, ngôn ngữ của mình mà loan báo Tin mừng và giúp nhau nhận ra những kỳ công, ơn ban của Thiên Chúa.
Bài đọc 2, Thánh Phaolo trong thư gửi Corinto giúp cho chúng ta nhận biết và xác tín hơn. Chính Thần Khí của Thiên Chúa ban ơn, soi sáng và tác động giúp chúng ta hoạt động, phục vụ vì lợi ích chung. Mỗi người có một công việc, sứ vụ, nhiệm vụ khác nhau; nhưng chúng ta làm việc cho ai? Vì ai? Công việc của chúng ta hướng đến thiện ích là gì? Hình ảnh các bộ phận, các chi thể trong một thân thể, mời gọi chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần để với ơn của Ngài chúng ta luôn làm việc, thi hành sứ vụ vì lòng mến Chúa, làm vinh danh Chúa và đem lại lợi ích là yêu thương và bác ái với anh chị em.
Thưa anh chị em, để thực hiện điều mà 2 bài đọc trên mời gọi thì Tin Mừng hôm nay chính Chúa Giêsu đã ban và xin Chúa Cha trao ban Thần Khí, ban Thánh Thần cho các môn đệ và cho chúng ta. Ơn của Chúa Thánh Thần mà Chúa ban chính là ơn Bình an, ơn Tha thứ, ơn Hòa giải. Nếu không có ơn của Thánh Thần trong tâm hồn, và không đón nhận ơn ban này từ chính Đức Kitô Phục Sinh thì không ai trong chúng ta có thể sống cho Chúa và sống cho anh chị em. Nếu không có ơn Bình an của Chúa Thánh Thần chúng ta không thể nào yêu thương, chấp nhận, đón nhận hay tha thứ, cùng làm hòa với nhau.
Do đó, ơn Bình an và Thần Khí của Chúa Kitô hết sức cần thiết hơn bao giờ hết trong cuộc đời chúng ta. Với ơn Chúa Thánh Thần chúng ta hãy nói lời tốt đẹp, can đảm rao truyền tin vui, tin tốt đem lại hướng tích cực hơn. Đồng thời qua những công việc khác nhau của chúng ta, chúng ta luôn mưu cầu, kiến tạo vì lợi ích chung trong sự yêu thương và tha thứ cho nhau vì “nhân vô thập toàn”.
Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng ban mọi nguồn ơn phúc, xin ngự xuống trong tâm hồn và trong cuộc sống của chúng con. Xin ơn Ngài tái tạo, biến đổi chúng con giúp chúng con luôn sống cho Chúa và cho anh chị em. Lạy Mẹ Maria, ngày cuối tháng hoa dâng kính Mẹ, Mẹ chính là mẫu gương tuyệt vời cho chúng con khi đón nhận ơn của Thánh Thần và sống trọn vẹn cho ơn sủng đó. Xin Mẹ dạy chúng con sống đẹp lòng Chúa như Mẹ. Amen.
Khi nghe các Tông Đồ rao giảng, dân chúng ngạc nhiên, sững sốt vô cùng. Họ nói: “Những người đang HiệnXuống ABC504
Khi nghe các Tông Đồ rao giảng, dân chúng ngạc nhiên, sững sốt vô cùng. Họ nói: “Những người đang nói đó không phải là người Ga-li-lê-a cả ư? Thế sao mỗi người trong chúng ta lại nghe tiếng mẹ đẻ của chúng ta? Chúng ta đây, có người là dân Pac-thi-a, Mê-đi, Ê-lam, Mê-xô-pô-ta-mi-a, Giu-đê...” (Cv 2,7-8).
Chúa Thánh Thần đã khiến những người có ngôn ngữ khác nhau đó lại có thể hiểu được các Thánh Tông Đồ. Khi ấy, các ngài có lẽ nói chỉ một ngôn ngữ, tiếng Do Thái, vậy mà những người thuộc ngôn ngữ khác nhau vẫn hiểu được! Ví dụ, các ngài nói tiếng Việt Nam, nhưng những người Anh, Pháp, Mỹ, Nhật, Hàn… đều hiểu được!
Có một tiếng nói mà nhiều người đều hiểu được, quả là một điều lạ. Thế thì, tiếng nói đó là gì?
Chúng ta thấy, nhiều người của nhiều quốc gia đều có thể nghe và hiểu được âm nhạc. Nếu kể âm nhạc là một ngôn ngữ, thì âm nhạc cũng được kể là một ngôn ngữ mà những người các nước khác nhau có thể hiểu được. Tuy nhiên, không nhiều người đều hiểu được âm nhạc.
Nhưng rõ nhất, đó là tình yêu. Tình yêu chính là ngôn ngữ mà mọi người trên thế giới đều có thể hiểu được.
Đôi khi tôi thấy hai anh chị yêu nhau nhưng lại không hiểu tiếng nói của nhau, ví dụ như đôi bạn Việt và Hàn lấy nhau, họ không hiểu nhau qua lời nói, qua tiếng Việt hay tiếng Hàn nhưng họ lại hiểu nhau. Họ hiểu nhau qua ngôn ngữ của tình yêu.
Trước đây, có lần một vị sư Phật giáo nói với mẹ Têrêsa: “Tôi biết và yêu mến Đức Kitô lắm nhưng tôi không thích Hội Thánh của Ngài. Nếu các chị làm điều các chị nói, có lẽ các chị sẽ trở nên nơi hội ngộ để chúng tôi có thể gặp gỡ Hội Thánh Chúa Kitô".
Sau đó một năm, có dịp làm việc với mẹ Têrêsa, nhà sư đó phát biểu: “Tôi đã quan sát các chị, bây giờ tôi thực sự tin rằng các chị làm việc chỉ cốt để giúp những người nghèo khó, xấu xố nhất. Chúng tôi sẽ dâng cho các chị một ngôi nhà trong khuôn viên nhà chùa để làm bệnh xá miễn phí.”
Mẹ Têrêsa đã lập lại một tiếng nói, mà cách đây gần 2000 năm, thánh Phêrô và các Tông Đồ đã nói tại Giêrusalem, làm mọi người kinh ngạc. Họ hỏi: Tại sao Phêrô nói tiếng Do Thái vậy mà mọi người nước khác đều hiểu. Mẹ Têrêsa người Nam Tư, thế mà mọi người trên thế giới đều biết đều hiểu việc mẹ làm.
Chính nhờ Chúa Thánh Thần. Thật vậy, bởi nhờ Thánh Linh tác động mà Thánh Phêrô và các Thánh Tông Đồ đã nói về một Đức Kitô đã chết vì yêu, cũng nhờ Thánh Thần Chúa thúc đẩy mà mẹ Têrêsa đã dùng việc làm để nói về một Đức Kitô đã hiến thân vì yêu.
Chúa Thánh Thần là Ngô Ba tình yêu. Ngài hiện ra trên đầu các Thánh Tông Đồ không gì khác hơn là ngọn lữa tình yêu. Chính ngọn lữa tình yêu ấy đã thúc dục các ngài đã mở toang cánh cửa đóng kín vì sợ hãi, để mạnh dạn đứng lên đi loan báo Tin Mừng tình yêu, để biến thế giới nên một gia đình đầy bác ái yêu thương, liên kết muôn người nên một, không phân biệt màu da tiếng nói.
Sức mạnh của Chúa Thánh Thần, ngày hôm nay, giờ phút này vẫn còn được ban cho Hội Thánh, vẫn còn tác động canh tân đổi mới Hội Thánh. Sức mạnh này đã khiến cho Phanxicô, một thanh niên con nhà giàu, đã từ bỏ mọi thứ gia sản, đến cả áo quần để sống theo lý tưởng nghèo khó của Tin Mừng. Thế mà, Đức Giaó hoàng lại mơ thấy một người ăn mày Phanxicô này đang kê vai nâng đỡ một ngôi nhà thờ đã ngã nghiên sắp đổ. Ngôi nhà thờ đã ngã nghiên sắp đổ đó được hiểu là Giáo Hội lúc bấy giờ .
Sức mạnh Chúa Thánh Thần đã khiến Maximilien Maria Kolbê, một linh mục Công giáo, can đảm bước ra khỏi hàng tù nhân để chịu chết thay cho một người bạn tù, khi người này không thể can đảm chết vì nghĩ đến vợ con sẽ phải bơ vơ đói rách. Cha Kolbê đã thể hiện tình yêu hy sinh cao cả, dám chết vì yêu, giữa một xã hội đang tranh giành nhau; chém giết lẫn nhau.
Sức mạnh của Chúa Thánh Thần có thể khiến cho một Dì Hai ở Bến Sắn chỉ một nắm tay, nói một lời nói mà đã đưa được một anh phong cùi gàn dỡ nào đó trở về trại phong Bến Sắn. Điều mà cả công an cũng phải chịu thua, vì anh chàng này dữ lắm, không vừa ý là anh ta cắn. Mà lỡ bị anh cắn thì nguy hiểm vô cùng. Ai mà dám để mình mang bệnh cùi với kiểu lây bệnh như thế. Vậy mà Dì Hai chỉ nói một lời mà cầm tay anh dẫn đi một cách ngon lành. Con người gàn dỡ này cũng phải mềm lòng.
Ngày xưa trong Cựu ước, Thánh Thần Thiên Chúa chỉ ban cho một số người, ngày nay Thánh Thần Thiên Chúa được ban cho tất cả mọi người. Ai trong chúng ta nếu đã được lãnh nhận bí tích Rửa tội, đặt biệt là bí tích Thêm sức thì người ấy cũng đã được tái tạo bởi Thánh Thần Thiên Chúa.
Vậy không ai được nghĩ rằng là mình không có ơn riêng, không có trách nhiệm đối với cộng đoàn, dù là linh mục, tu sĩ hay giáo dân, dù là lương hay giáo, dù già hay trẻ, lớn hay bé. Dù một em nhỏ, dù một người thấp kém nhất cộng đoàn, dù là người ngoại đạo, ai ai cũng có thể được Thánh Thần Chúa Giêsu phục sinh giúp đổi mới chính mình.
Hôm nay chúng ta cầu xin Chúa ban cho chúng ta sức mạnh, biết cất đi những trở ngại đối ơn Chúa. Đó là từ bỏ cái tôi tội lỗi, ích kỷ để Thánh Thần tình yêu, Thần Khí sự sống, triển nở trong chúng ta hầu cộng đoàn chúng ta trở nên một cộng đoàn của hiệp nhất thánh thiện, yêu thương.
(Phục sinh, 40 ngày sau Lên Trời, 10 ngày sau (Ngũ Tuần) Hiện xuống.) Là lịch của Lc
Ga.20, 22: Ngưòi thổi hơi vào các ông...
Thiên Chúa hành động bằng Lời + hơi thở- Thần khí - luôn luôn như vậy. Lời là ý định của Thiên HiệnXuống ABC505
Thiên Chúa hành động bằng Lời + hơi thở- Thần khí - luôn luôn như vậy. Lời là ý định của Thiên Chúa đựoc công bố ra bên ngoài (ad extra). Nói và thở đi liền nhau. Nín thở không nói được. Thần khí đi liền theo lời để lời được thực hiện hay chính thần khí thực hiện lời nói làm cho lời là lời quyền năng của Thiên Chúa. Không có thần khí kèm theo thì lời không có quyền năng, không thực hiện đựoc ý định của Thiên Chúa.
Thiên Chúa là một và ba:
Chỉ một Thiên Chúa duy nhất(1)được biết qua hành động bằng lời (2) và khi nói lời thì Thiên Chúa cũng thở(3) Không có Chúa nào khác. Lời nói và hơi thở phát xuất từ một Thiên Chúa duy nhất và là của một mà thôi. Lời không là một Chúa khác, hơi thở cũng không là một Chúa khác.
Thiên Chúa thở hơi vào mủi của Adam không ban cho Adam một Chúa Thánh Thần (có lẽ Adam lầm tưởng vậy). Hơi thở là biểu tượng của sự sống, ý nói Thiên Chúa ban cho Adam một chút sự sống của mình (một chút thôi).
Từ ngữ làm khó người Việt Nam khi nói Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần (rỏ ràng là ba Chúa). Trong khi tiếng la tinh: Pater et Filius et Spiritus Sanctus. Tiếng Pháp: Le Père et le Fils et l'Esprit Saint. Rồi văn hoá Hy lạp và la tinh ưa thần thoại, thần vị hoá như thần chết,thần dử....
Vì Thiên Chúa thở hơi. Phải từ Thiên Chúa hơi thở mới phát xuất dược nên Chúa Giêsu phải về với Cha mới gởi (xin Cha, Cha đã hứa) hơi thở đến thế gian được. Lời và hơi thở phát xuất từ Thiên Chúa như từ một nguồn gốc chung. Nên không nói Cha, Con và Thánh Thần mà nói Cha và Con và Thánh Thần.
Ngày Phục Sinh Chúa Giêsu thở hơi và nói 'hãy nhận lảnh thần khí' nhưng chẳng thấy rụt rịt gì, êm ru.Nhưng không có nghĩa là không có gì mà là bắt đầu từ từ, tiệm tiến. Lc nói rỏ: Người ở lại 40 ngày, dạy dổ cho đủ điều rồi mới Thăng Thiên và 10 ngày sau- lễ Ngủ Tuần Thánh Thần mới xuống như làn gió mạnh'ào ào', như lưởi lữa đốt đầu các tông đồ các ông không thể chịu nổi phải bùng nổ, phá cửa chạy ra , la lớn ai ai cũng nghe thấy. Thở hơi là dấu chỉ một bắt đầu mới, một tạo dựng mới. Hiện Xuống là thực hiện mới. Thở hơi lần thứ nhất không kết quả. Lần thứ hai là tái tạo, là cứu độ: kết quả ấn tượng.
Thời gian 40 ngày ở lại dạy dổ cho đủ điều và 50 ngày lễ Ngủ Tuần thời gian coi là đủ để sự hiện diện và tác động của Đấng Phục Sinh bằng thần khí thấm nhập và kết quả qua sự cảm nghiệm và tin chắc của các phần tử đựơc tuyển chọn. Hiện Xuống là đánh dấu sự biến đổi và bùng nổ không còn kềm chế được.
Thánh Thần là thần khí quyền năng của Thiên Chúa nhưng hành động cách vô hình như Đấng Bảo Trợ, nhiệm vụ là nhắc nhớ, giúp hiểu và biết áp dụng vào những thực tế khác nhau của cuộc sống. Cần có vai chính hành động là con ngưòi. Không có sự cộng tác của con người Thánh thần dù là chính quyền năng của Thiên Chúa đành cũng bó tay. Tội không tha được là tội chóng lại Thánh Thần. Dụng cụ càng tốt kết quả càng cao. Như chuyện người đốn cây mướn. Rất nhiệt tình. Làm không dám nghĩ tay để mài búa. Ngày đầu đốn được 50 cây, hôm sau còn 40, hôm sau còn 30, hôm sau còn 15. Ông chủ gọi lại bảo: anh lấy tiền rồi thôi khỏi đốn cây nữa. Anh lấy làm lạ nói: Tôi làm tận tình, không lúc nào ngơi tay, sao ông đuổi việc tôi? Tại vì anh không có búa bén. Có búa bén mới đốn được nhiều cây. Ông chủ cho anh cơ hội nhưng anh không biết làm tốt.
Hãy cộng tác với Thánh Thần.Hãy là công cụ tốt cho Thánh Thần xử dụng. Lưu ý đến những cách hiểu không đúng về Thánh Thần: Chỉ cầu xin, để Thánh Thần làm hết, ngoan ngoản vâng theo Thánh Thần mà không làm, không có sáng kiến...... hoặc cứ làm rồi đổ cho Thánh Thần, trói tay Thánh Thần, cầm tù Thánh Thần......Thánh Thần bó tay.
Vào ngày lễ Ngũ Tuần, tức năm mươi ngày sau biến cố Đức Yêsu phục sinh, một hiện tượng lạ HiệnXuống ABC506
Vào ngày lễ Ngũ Tuần, tức năm mươi ngày sau biến cố Đức Yêsu phục sinh, một hiện tượng lạ đã xảy ra. Các tông đồ đã can đảm dám rao giảng về Đức Yêsu. Những người hiện diện nghe các ngài rao giảng, đã hiểu và tin vào các tông đồ. Thánh Thần đã làm các tông đồ trở thành chứng nhân của Đức Yêsu phục sinh; cũng chính Thánh Thần làm con người mở lòng nghe và hiểu cùng đón nhận Tin Mừng Đức Yêsu.
1. Đức Yêsu đã ban Thánh Thần ngay khi Ngài phục sinh
Theo Tin Mừng Yoan, Đức Yêsu trong lần hiện ra đầu tiên với các tông đồ vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần khi Ngài sống lại, đã thổi hơi trên các tông đồ và nói: “các con hãy nhận lãnh Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì người ấy được tha, các con cầm buộc ai thì người ấy bị cầm buộc”.
Trong sách công vụ tông đồ, Thánh Thần Thiên Chúa xuất hiện như hình lưỡi lửa trên các tông đồ vào ngày lễ Ngũ Tuần. Thánh Thần đã làm các tông đồ can đảm rao giảng về Đức Yêsu phục sinh cho mọi người tụ họp.
Mỗi Kitô-hữu khi lãnh phép rửa đã nhận lãnh Thánh Thần, nhưng qua bí tích Thêm Sức Kitô-hữu nhận lãnh ấn tín Thánh Thần và ý thức sự hiện diện của Ngài cách đặc biệt hơn.
2. Thánh Thần tỏ hiện quyền năng vào ngày lễ Ngũ Tuần
Qua biến cố ngày lễ Ngũ Tuần, người ta nhận ra, chính Thánh Thần quy tụ dân chúng đến chỗ các tông đồ đang ở qua tiếng gió thổi mạnh. Chính Chúa Thánh Thần làm các tông đồ mạnh dạn can đảm rao giảng, vì trước đó các ngài nhút nhát sợ sệt. Cũng chính Thánh Thần làm dân chúng hiểu được điều các tông đồ rao giảng, và làm dân chúng tin vào Đức Yêsu Phục Sinh.
Chúa Thánh Thần là Đấng dẫn các tông đồ vào sự thật trọn vẹn. Trước khi Thánh Thần tỏ hiện quyền năng vào ngày lễ Ngũ Tuần, các tông đồ là những người chậm hiểu (Mc.7, 18; 8, 17). Sau khi Chúa Yêsu lên trời và Thánh Thần hiện xuống, các tông đồ hiểu về Đức Yêsu hơn, nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng ngự bên hữu Thiên Chúa.
Thánh Thần tiếp tục ở với các tín hữu, để giúp họ tin vào Đức Yêsu. Biến cố Đức Yêsu phục sinh cũng cần phải có ơn từ trời mới có thể chấp nhận. Nhưng để tin Đức Yêsu là Chúa, là Con Thiên Chúa, cần ơn đặc biệt của Thánh Thần. “Nếu không nhờ Thánh Thần, không ai có thể tuyên xưng Đức Yêsu là Chúa” (1Cor.12, 3). Trong dòng lịch sử, Chúa Thánh Thần tiếp tục bày tỏ kỳ công của Ngài, qua việc làm cho các tông đồ và các nhà truyền giáo, can đảm dùng chính mạng sống của các ngài làm chứng cho Đức Yêsu phục sinh. Và cũng chính Thánh Thần tiếp tục làm cho bao người tin nhận Đức Yêsu phục sinh trong những hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Một cách cụ thể, chính Thánh Thần đã làm bao nhà truyền giáo can đảm chấp nhận đời sống lam lũ thiếu tiện nghi để rao giảng Tin Mừng ở Việt Nam. Cũng chính Thánh Thần làm cho các tín hữu trung thành với Chúa ngay cả dám hiến mạng sống mình để làm chứng cho đức tin. Ở Việt Nam có cả hơn một trăm ngàn anh hùng tử đạo, dám dùng chính máu mình để làm chứng. Không phải tự sức con người có thể làm được những điều đó, nhưng là do sức mạnh của Thánh Thần.
3. Thánh Thần là quyền năng của Thiên Chúa
Thánh Thần, chỉ được nhận biết như một ngôi vị nhờ Đức Yêsu. Chính nhờ Thánh Thần mà các tông đồ tin Đức Yêsu phục sinh, nhận ra Đức Yêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng ngự bên hữu Thiên Chúa. Chính nhờ Thánh Thần mà các tông đồ nhận ra Đức Yêsu, và lại nhờ Đức Yêsu mà các tông đồ nhận biết Thánh Thần.
Một khi nhận biết Đức Yêsu, các tông đồ nhớ lại những gì Đức Yêsu đã nói với các ông khi Ngài còn ở sống đời dương thế. Thánh Thần là Đấng bầu chữa, Đấng vẫn ở bên Cha, và được sai đến để ở lại mãi mãi với các tín hữu (Ga.14, 16). Thánh Thần là Đấng sẽ làm chứng về Đức Yêsu cùng với các tông đồ và qua các tông đồ (Ga.15, 26). Thánh Thần là Đấng giúp các tông đồ nhớ lại những gì Đức Yêsu đã nói (Ga.14, 26), là Đấng dẫn các tông đồ vào sự thật trọn vẹn (Ga.16, 13). Thánh Thần là Đấng cùng nguồn gốc với Cha, vì phát xuất từ Cha, và từ Cha mà đến (Ga.15, 26).
Giáo Hội và các nhà thần học trong dòng lịch sử, đã diễn tả Đức Yêsu là Đấng đồng bản tính với Thiên Chúa, là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể, là Con Một Thiên Chúa. Giáo Hội cũng diễn tả Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, là Đấng nhiệm xuất từ Thiên Chúa Cha và Con, là một với Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có thể phân biệt Thánh Thần và thiên thần không? Xin giải thích. 2. Bạn có ý thức là Thánh Thần luôn ở với bạn không? Bạn có thường cầu nguyện với Chúa Thánh Thần không? Xin chia sẻ cảm nghiệm về Thánh Thần. 3. Bạn hiểu thế nào về câu “anh em là đền thờ của Thiên Chúa” (1Cor.3, 16)?
CUỘC HIỆN RA CỦA ĐẤNG PHỤC SINH VÀ VIỆC BAN THẦN KHÍ
CÂU HỎI GỢI Ý
Hãy thử phân tích cơ cấu của bản văn này. 2. Qua bản văn, ta nhận ra mấy loại “hiện ra” của HiệnXuống ABC507
1. Hãy thử phân tích cơ cấu của bản văn này. 2. Qua bản văn, ta nhận ra mấy loại “hiện ra” của Đấng Phục Sinh? 3. Tại sao Gioan đưa ra một chi tiết địa điểm mơ hồ: “nơi các môn đồ đang ở”. Ông muốn nhấn mạnh đến khía cạnh nào của sự kiện? 4. Theo Gioan, Chúa Giêsu cho môn đồ xem tay và cạnh sườn Người vì mục đích gì? Có giống mục đích như trong Lc 24,39 không? 5. Công thức: “Như Cha đã sai Ta, Ta cũng sai các con” (c. 21) độc đáo ở chỗ nào? Hãy tìm trong Gỉoan những chỗ dùng lối song đối Thiên Chúa-Chúa Giêsu, Chúa Giêsu- môn đồ như vậy. 6. Tại sao Gioan dùng kiểu nói: Chúa Giêsu thổi Thần khí trên các môn đồ (c.22)? 7. Đặt trong văn mạch của Tin Mừng Gioan, thì việc tha và giữ tội nói lên quyền gì?
I. CƠ CẤU CỦA BẢN VĂN
Trình thuật gồm hai cảnh song song.
Trong cảnh nhất (cc. 19- 20), có một vài tiếng dẫn nhập xác định không gian và thời gian của sự kiện cùng nói lên tầm trong của các môn đồ. Chúa Giêsu đến và chúc bình an. Đoạn một công thức chuyển tiếp (“nối thế rồi”) đưa biến cố trọng đại vào Chúa Giêsu cho xem tay và cạnh sườn người. Các môn đồ đều tràn ngập vui sướng vì được thấy Chúa.
Ta đi sang cảnh hai (cc. 21- 23) bằng một công thức hành văn (“Chúa Giêsu lại nói với họ lần nữa”) công thức này có thể là dấu báo hiệu một trình thuật có nguồn gốc khác. Chúa Giêsu lặp lại câu chào bình an và đọc lên lời sai phái các môn đồ đi truyền giáo: Như Cha đã sai Ta, Ta cũng sai các con. Bấy giờ xuất hiện lài công thức chuyển tiếp (“nói thế rồi để, như trong cảnh nhất, báo hiệu việc chuyển qua biến cố trọng đại: Chúa Giê-su thổi hơi trên các môn đồ và bảo: “Hãy nhân lấy Thánh Thần”: Trình thuật kết thúc với lời trao ban quyền tha thứ và cầm giữ tội: “Các con tha tội cho ai thì tội họ được tha, các con cầm giữ tội ai, thì tội họ bị cầm giữ ”.
Lược đồ sau đây làm hiện lên sự song đối giữa hai cảnh:
Các câu 19-20 Các câu 21- 23
1. Vào lúc xế chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi ở của các môn đồ các cửa đều đóng kín vì sợ người Do thái ; Chúa Giêsu đã đến đứng giữa họ và nói: “Bằng yên cho các con” 1 . (Cũng khung cảnh ấy) Chúa Giêsu nói với họ một lần nữa: “bằng yên cho các con. Như Cha đã sai Ta, Ta cũng sai các con” . 2. Nói thế rồi, 2. Nói thế rồi, 3. Người cho họ xem tay cạnh sườn Người 3. Người thổi hơi (trên họ) vànói với họ: “Hãy chịu lấy Thánh Thần”. 4. Các môn đồ mừng rỡ vì được thấy Chúa. 4. Các con tha tội cho ai, thì tội họ được tha. Các con cầm giữ tội ai, thì tội họ bị cầm giữ ”.
Qua lược đồ trên, ta nhận ra hai loại hiện ra của Đấng Phục sinh được trình bày trong hai cảnh song song. Một cuộc hiện ra để người ta nhận biết: Chúa Giêsu đến với các môn đồ, họ nhận ra Người, lòng tràn ngập mừng vui. Một cuộc hiện ra để ủy thác sứ mệnh: Chúa Giêsu Phục sinh thông truyền cho các môn đồ trách nhiệm nối tiếp công việc của Người ở trần gian. Như trong một 28, 16-20 và nhất là trong Lc 24, 30- 49, tất cả hai cuộc hiện ra đều được liên kết trong cùng một biến cố.
Từ cảnh này đến cảnh kia, không những chỉ có liên tục, mà còn có cả tiến triển. Trong cảnh nhất, các môn đồ đi từ nỗi lo sợ người Do thái đến niềm vui được thấy Chúa, trong cảnh hai thì với từ sự bằng yên đã tìm lại được đến việc được sai đi thi hành sứ mệnh theo lời Chúa Kitô, Đấng sinh đông họ bằng hơi thở sáng tạo của Thánh Thần.
Xin lưu ý tính cách Kitô-tâm của tất cả trình thuật. Sáng kiến hoàn toàn do Chúa Giêsu. Mọi hành động đều xuất phát từ Người. Chính Người “đến”. Người “cho xem” các dấu vết Khổ nạn, chứng tích của việc Người chiến thắng” sự chết. Các môn đồ vui mừng được thấy Người; Người ban bình an, ủy thác sứ mệnh mình và thổi Thánh Thần vào họ; từ nhóm người nhát đảm này, Người dùng lời tạo nên một đội quân xung phong để sai đi vào trần gian, trang bị bằng quyền năng, bẻ gãy sức mạnh của tội lỗi.
Tâm tình của các môn đồ, lo lắng và mừng vui, chỉ được gợi lên một cách kín đáo, khác hẳn với Luca là người dồn tất cả phần đầu của trình thuật: mình cho họ. Chủ đề “cứng lòng tin” bị bỏ qua ở đây; nó sẽ được quảng diễn một cách cụ thể trong cảnh sau, khi nói về sự nghi ngờ của tôm. Thành ra chính cơ cấu của trình thuật biểu lộ phương hướng chủ yếu của nó. Như toàn thể Tin Mừng gian, nó đặt trọng tâm trên việc mặc khải con người Chúa Giêsu”.
2. CẢNH NHẬN RA CHÚA GIÊSU (cc. 19- 20)
Khung cảnh thời gian: “vào lúc xế chiều” hiện tại phân từ trong tiếng Hy lạp, ngụ ý rằng biến cố xảy ra vào buổi tối hay ẩn khuya như Hoskyns đã nghĩ (The Fourth Gospel, London, 1947, tr .544). Kiểu nói “ngày ấy”, có lẽ đã được thêm vào một bản văn nguyên thủy ngắn hơn, muốn xác định ráng đó cũng là ngày khám phá mồ trống (cc . 1- 10) và ngày hiện ra với Maria Mađalêna (cc 11- 18). Thành ngữ ngày thứ nhất trong tuần, vốn đã được dùng trong trình thuật viếng mộ, nhấn mạnh tính cách duy nhất thời gian ấy.
Còn địa điểm thì được xác định một cách quá mơ hồ qua kiểu nói: Nơi các môn đồ đang ở”. Văn mạch của cả chương cho biết dó là Giêrusalem. Thật ra, thánh sử muốn dừng lại ở một sự kiện thuộc lãnh vực tâm lý, luân lý và ngay cả thần học hơn là sự chính xác địa hình. Điều ông ta lưu ý là, nơi các môn đồ đang ở mọi cửa đều đóng kín vì sợ người Do thái. Không phải là định hình nhưng là định tính vậy: Chúa Giêsu đến nơi các môn đồ sợ hãi đang lẩn trốn sau những biến cố của cuộc Khổ nạn.
Theo một số tác giả, việc ghi nhận rằng các môn đồ sợ người Do thái chỉ là một chi tiết thuần túy văn chương, không có giá trị lịch sử nào, ý tưởng tự cảm thấy nguy ngập chẳng có nền tảng đâu hết (R.Bultmann, Das Evangelium Johannes, Gottingen, 1953 tr.535). Theo một quan niệm khác, thánh sử muốn qua đó cho thấy các môn đồ thiếu sẵn sàng để tin vào một kết cục may mắn của cái chết Chúa Giêsu đến chừng nào. Thật vậy trong Tin Mừng thứ tư, chi tiết này nối dài chủ đề về sự sợ hãi (phobos) do người Do thái hay “thế gian” gây nên nơi các môn đồ hay nơi bạn hữu của Chúa Giêsu (7, 13 ; 19, 38 ; x 12, 15 ; 19,8). Nỗi sợ hãi ấy vào chiều Phục sinh, tương ứng với trạng thái tinh thần của các môn đồ suốt. Bữa Tiệc ly (14, 1 .27 ; 16, 32) và vào lúc nghe những lời loan báo của Chúa Giêsu trong các diễn từ giã biết (15, 18- 16, 4).
Còn thành ngữ “cửa đóng kín”, chi tiết riêng của Gio-an nhắm làm nổi bật tính chất siêu việt của việc Chúa Giêsu đến. Chỉ cần quan sát vị trí của thành ngữ trong câu văn thì rõ: nằm sau mấy xác định thời gian và trước chi tiết mơ hồ về không gian. Ngoài ra, nó còn xuất hiện lại trong câu 26, nhưng chẳng có lời giải thích “vì sợ người Do thái” đi kèm. Bản văn bấy giờ chỉ nói: Chúa Giêsu đến, trong lúc các cửa đều đóng kín“. Trong tư tưởng của thánh sử, sự kiện này mặc khải phương thức hiện điện siêu nhiên của Chúa Giê-su phục sinh.
Thành ngữ “Chúa Giê-su đến” cũng là điểm riêng biệt của Tin Mừng thứ tư. Không có trong Luca (24, 38), nhưng nó thật quan trọng nơi Gioan, vì ông trình bày cuộc hiện ra như là việc Chúa Kitô đến. Nơi câu 24, việc đến ấy tóm kết biến cố trong những gì là đặc trưng nhất. “Tôma không ở với họ khi Chúa Giêsu đến”. Thật là lạ lùng khi thành ngữ đó cũng tái xuất hiện trong 21, 13 để dẫn nhập vào cảnh bữa ăn trên bờ hồ: Chúa Giêsu ở đấy giữa các môn đồ, thế mà thánh sử vẫn viết: “Chúa Giêsu đến là cầm lấy bánh”. Thành ngữ xem ra thuộc về ngữ vựng Gioan dùng trong các trình thuật hiện ra. Như sẽ thấy sau này, có lẽ nó có một nguồn gốc phụng vụ.
“Và Người đứng giữa họ”: Trong việc tường thuật sự kiện này, Lc và Ga hầu như hoàn toàn trùng hợp với nhau. Bỗng nhiên, Chúa Giêsu ở đó, đứng giữa môn đồ Người. Luca nhấn mạnh nhiều hơn đến sự ngạc nhiên của mấy ông: “Họ đang nói …” chính giữa lúc họ đang chuyện trò thì Chúa Giê-su có mặt. Còn với kỉểu nói “Chúa Giê-su đến”, Gio-an lại lôi kéo và giữ sự chú ý trên con người của Chúa Ki-tô đã đến đang lúc “cừu đóng kín”.
“Người nói với họ: Bình an cho các con”. Trong Tin Mừng thứ tư chủ đề bình an (elrênê) được liên kết, theo lối phản đề, với chủ đề sợ hãi (phobos) và chính chủ đề này, như đã bảo, lại được liên kết với chủ đề sự chống đối của thế gian cứng lòng tin. Chẳng hạn trong các diễn từ giã biệt (14,27; 16,33). Bằng sự hiện diện của lệnh, Chúa Giêsu phục sinh đến đánh tan niềm xao xuyến gây ra nơi các môn đồ do việc Người ra đi, cuộc ra đi đã để họ ‘mồ côi” (14,18tt) và đã bỏ mặc họ cho sự ghen ghét của thế gian (15.18tt). Trong viễn tượng ấy của Gioan, tiếng bình an mang một ý nghĩa rộng bằng ý nghĩa nó đã mặc trong các diễn từ của bữa Tiệc ly.
“Nói thế rồi”, Gioan viết tiếp. Như đã bảo trên kia, công thức chuyển tiếp này dẫn vào sự kiện trọng đại của trình thuật, sự kiện nối tiếp và làm hậu quả của những lời nói vừa được thốt ra. Chúa Giêsu vừa mới chúc bình an cho các môn đồ. Nói thế rồi và để dẫn chứng cho lời cầu chúc đó, Người cho họ xem tay và cạnh sườn Người.
Khác với Luca, Gioan chẳng nói rõ lý do lẫn ý nghĩa của cử chỉ Chúa Giêsu. Nơi Luca, cử chỉ này có mục đích đánh tan mọi nghi ngờ của các môn đồ liên can đến thực tại việc hiện ra. Giọng điệu có vẻ biện minh: “Hãy xem … ma nào có thịt có xương” (Lc 24,39). Trình thuật Gioan trái lại có chiều hướng thần học: Chúa Giêsu làm một cử chỉ mặc khải. Người tỏ bày cho môn đồ xem tay và cạnh sườn mình, không phải để cất khỏi họ mọi lo sợ trở thành nạn nhân của một ảo tưởng, nhưng tích cực hơn là để họ, khi khám phá ra những dấu tích thương khó trên thân xác Người, “thấy” Người là “Chúa” (13, 13) và nhờ thế niềm vui của họ được trọn vẹn (x. 17,13).
Điều đó phù hợp với việc Gioan dùng động từ “tỏ bày” ở thể tác động, với chủ từ là Giêsu. Động từ ấy luôn mang ý nghĩa mặc khải. Như ngay từ đầu Tin mừng, Chúa Giêsu được người Do thái xin “tỏ một dấu chỉ” để biện minh việc Người đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi Đền thờ. Bấy giờ Người đã tuyên bố rõ ràng là không tỏ dấu chỉ nào khác ngoài dấu chỉ thân xác phục sinh của Người, Đền thờ mới (2,18- 22 ; 5, 20 ; 10, 32 ; 14, 8tt).
Thật ra, cử chỉ Chúa Giêsu tỏ cho môn đồ xem tay và cạnh sườn Người mang một ý nghĩa phức tạp. Đónhư thể là Chúa Giêsu bảo với họ: “Hãy an tâm, chính Ta đây” (ego einti). Như trong cảnh đi trên biển (6,20) và trong Lc 24,39, Chúa Giêsu làm cho họ nhận biết Người. Các vết tích Khổ nạn xác nhận danh tánh, lai lịch Người. Nhưng, trong khi Luca nhấn mạnh đến thực tại thế lý của thân xác phục sinh, thì Gioan đặt nổi mối dây liên kết Đấng Phục sinh hôm nay và Đấng chịu đóng đinh hôm qua: cả hai cũng chỉ là một Chúa Giêsu.
Theo con mắt của Gioan, đấy là một sự kiện thần học tối quan trọng. Đối với ông, Cứu Chúa là con người Giêsu mà tay đã bị đinh xuyên thủng (c.25: Gioan là tác giả duy nhất đề cập đến dinh) và cạnh sườn đã bị lưỡi đòng của tên lính phanh ra (19, 34), là con người Giêsu đã đến nhờ nước cùng máu (1 Ga 5, 6), là Đấng đã chết và này đang sống đến muôn đời” (Kh 1, 18). Như H. van den Bussche đã nói rất đúng: “Sự phục sinh đòi buộc phải có thập giá. Không thể phủ nhận, loại trừ thập giá như một cơn ác mộng … Sự bình an (mà Chúa Giêsu đem đến cho các môn đồ vào chiều Phục sinh) tích hợp các dấu vết của cuộc Tử nạn” (Jean, DDB, 1967, tr.550).
Chủ ý liên kết Đấng Phục sinh và Đấng chịu đóng đinh của đồi Canvê đặc biệt tỏ rõ qua việc đề cập đến vết thương cạnh sườn. Cho tiết này là của riêng Gioan. Luca chỉ nói tới tay và chân Chúa Giêsu mà thôi. Điều đó dễ hiểu vì chỉ mình Gioan đã kể lại cảnh lưỡi đòng đâm thâu. Nhưng việc đề cập đến cạnh sườn mang lại cho biến cố, trong Tin Mừng thứ tư, một ý nghĩa vô cùng sâu xa. Người ta biết cảnh lưỡi đòng xuyên thủng cạnh sườn Chúa Giê-su có tầm mức biểu tượng và ý nghĩa thần học (19, 34- 37). Dưới con mắt của thánh sử, cảnh đó nói lên rằng Chúa Giêsu đã chết như Người Tôi tớ của thiên Chúa và như con chiên Vượt qua mới, bị sát tế để cứu rỗi thế gian. Chính Chúa Giêsu đã hiện ra trong tư cách ấy cho các môn đồ vào chiều phục sinh. Từ cạnh sườn Con Chiên bị lưỡi đòng của tên lính phanh ra đã vọt ra máu và nước, biểu tượng của ơn Thần khí và của công cuộc cứu độ: Giáo Hội và các nhiệm tích (x.1Ga 5,7). Chính để thông ban các ân huệ đó mà Chúa Giêsu đến với các thuộc nhân của Người.
“Các môn đồ mừn.g rỡ vì được thấy Chúa”. Gioan Tẩy giả, đầu Tin Mừng, đãmừng rỡ khi nghe tiếng Tân Lang (3,29). Các môn đồ, chiều Phục sinh, mừng rỡ khi thấy Chúa. Đây không phải là một tri giác đơn thuần có tính cách thể lý và vật chất, cả trong trường hợp Gioan Tẩy giả, nhưng là một tri giác của đức tin (C Traets, voi Jésus ét le Père en lui, se lon lỊevangile se saint Jean, trong Analecta Gregoriana, 159, Roma, 1967, tr.83tt.189). Trình thuật tiếp theo (cc.24-29) cho thấy rõ điều đó. Kiểu nói “thấy Chúa”, mà Maria Mađalêna đã dùng (c. 18) và các môn đồ lấy lại (c 25) dẫn tới tiếng kêu của Tôma: “Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi”, tiếng kêu bị Chúa Giêsu bình phẩm trong môt bài giáo huấn về đức tin.
Niềm vui của các môn đồ đặt cơ sở trên niềm tin vào sự hiện diện của Chúa (13, 13) đang sống, vị Chúa được nhận biết như là Đấng chịu đóng đinh hôm qua: Nơi Luca, niềm vui vỡ bờ này quá đường đột đến nỗi đã cản ngăn, một cách nghịch lý, việc biểu lộ niềm tin (24, 41). Nơi Gioan thì tất cả xem ra được gạn lọc: Chẳng có sự ngập ngừng nào được đề cập. Trong lòng các môn đồ dâng cao sự bình an và niềm vui phục sinh, dấu chỉ đã vượt thắng nỗi ô nhục và phần đầu của tnnh thuật đã kết thúc chính nơi việc chiêm ngưỡng Chúa Phục sinh ấy.
3. SAI ĐI TRUYỀN GIÁO VÀ BAN THÁNH THẦN (cc. 21 -23)
“Một lần nữa, Chúa Giê-su nói với họ: Bình an cho các con”. Như đã ghi nhận ở trên, công thức hành văn chuyển mạch này có thể là dấu hiệu chuyển sang một trình thuật có nguồn gốc khác. Để mô tả cảnh mới này. Gioan phải tách biệt với Luca nhiều hơn trong cảnh trước. Ngoài ra, không hiểu tại sao Chúa Giêsu lặp lại lời chào bình an cho các con trong khi người đã chẳng nói một lời nào khác và về phía các môn đồ thì đã chẳng có một phản ứng nào được ghi nhận, ngoại trừ cái niềm vui được thấy Chúa.
Công thức sai đi truyền giáo. “Như Cha đã sai Ta, Ta cũng sai các con” là nét độc đáo của Gioan, xét về kết cấu văn phạm, ngữ vựng lẫn viền tượng thần học. Việc trình bày Chúa Giêsu như là dâng được Cha sai ” là trung tâm điểm nền Kitô học của thánh Gioan. Hơn nữa, kiểu song đối giữa hành động Chúa Cha đối với Chúa Giê-su và hành động của Chúa Giêsu đối với môn đồ, được diễn tả qua thành ngữ: “ Như Cha…Ta cũng …” đã trở đi trở lại nhiều lần trong Tin Mừng thứ 4: như Chúa Giêsu sống nhờ Cha, Đấng đã sai Người, thì kẻ ăn Ngươi cũng sống nhờ Người (6, 57) ; như Cha biết Người và Người biết Cha, thì người cũng biết chiên người và chiên người biết người (10,15) ; như Cha đã yêu mến người., Người cũng đã yêu môn các thuộc nhân (15,9). Kiểu nói sai đi truyền giáo của 20, 21 đã gặp hầu như nguyên văn trong lời nguyện tương tế: “Như Cha đã sai Con đến trong thế gian, thì Con cũng sai chúng đến trong thế gian” (17,18). Gioan đã rất nhiều lần nhấn mạnh đến lầm mức của lối song đối này. Nó ám chỉ nhiều hơn một loại suy. Chúa Giêsu không những so sánh hai thực tại, Người còn cho các môn .đồ được tham dự vào sự sống người đã nhận từ Cha, vào mối dây hiểu biết hỗ tương nối kết Người với Cha vào tình yêu của Cha đối với Người, vào sứ mệnh Người đã lãnh nhận từ Cha.
Ở đây Chúa Giêsu không chỉ rõ đích điểm lẫn đối tượng của sử mệnh. Động từ “sai phái” được dùng trong, chẳng có túc từ. Nhưng bản văn lời nguyện thượng tế giữa bao bản văn khác, nói rõ rằng thế gian là đích điểm của sứ mệnh đó. Chính trong thế gian mà, như Chúa Giêsu, các môn đồ được sai vào.
Còn về đối tượng của sứ mệnh, nhiều bản văn Gioan cũng cho phép ta xác định được. Như Chúa Giêsu, các môn đồ phải chu toàn thánh ý Chúa Cha và tiếp tục công việc mà Chúa Cha đã trao phó trong tay Người (3,35; 5,20; 6,38-40; 13,3; 17,2-4), nghĩa là kế đồ cứu rỗi của Ngài đối với nhân loại. Họ phải đưa kế đồ đó đến đích điểm (4, 34-38). Như Chúa Giêsu, lương thực của họ là làm theo thánh ý Chúa Cha (4,34). Vậy là một giai đoạn mới mở ra trong lịch sử cứu rỗi, trong đó công trình của Chúa Giêsu được tiếp tục trong các “công việc còn lớn lao hơn” (14, 12) của môn đồ Người.
Sự đồng nhất giữa sứ mệnh các môn đồ và sứ mệnh Chúa Kitô phải hiểu theo nghĩa chặt. Sứ mệnh của môn đồ là sứ mệnh được tiếp tục của Chúa Giêsu. Vì, như F.Godet đã nói rất đúng, thật ra chỉ có một sứ mệnh từ trời xuống trần gian, là sứ mệnh của Chúa Giêsu … Sứ mệnh của các môn đồ được bao hàm trong sứ mệnh của Ngươi và kết thúc việc thực hiện sứ mệnh đó cho trần gian (commentairt de l’evangile ae sa.int J. III, Neuchàlel, 1885, tr. 643tt).
Sự hiện diện và lời nói của Chúa Giêsu phục sinh ngay lúc đầu sứ mệnh của Giáo Hội là một ý tướng chung cho cả 4 Tin Mừng. Dầu sao, khi liên kết chặt chẽ sứ mệnh của môn dỗ vào sứ mệnh của Con Thiên Chúa thì Tin Mừng Gioan đã mang lại cho ý tưởng trần chiều sâu đích thực của nó. Do mối dây nối kết sứ mệnh của các môn đồ với công cuộc Nhập thể, tất cả đều đi lên cùng Chúa Cha, Đấng “đã sai Con Ngài đến trong thế gian … để thế gian nhờ Người mà được cứu rỗi” (3,17; 8,26; 12, 49tt).
Sứ điệp của các môn đồ cũng không kém quy hướng về Chúa Kitô. Chúa Giêsu là đối tượng thực liếp của sứ điệp họ (20, 30tt ; 1 Ga 1, 1 tt). Như Chúa Giêsu đã mặc khải Cha, Đấng sai người (17,6.26) thì các môn đồ cũng sẽ phải rao truyền cho thế gian Chúa Giêsu phục sinh đó, Đấng đã từ bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha (13, 1) và đã sai chính ho. Họ sẽ lấy la i sứ điệp đã được ủy cho Maria Mađalêna. “Hãy đi gặp anh em Ta và bảo với họ: Ta lên cùng Cha Ta và cũng là Cha các con, Thiên Chúa của Ta và cũng là Thiên Chúa của các con” (20, 17). Sứ điệp phục sinh này được tóm kết trong công thức ngắn gọn: “Chúng tôi đã thấy Chúa” (20, 18.25 ; X. 1 Cl 9, 1).
Một cử chỉ của Chúa Giêsu kết thúc việc mạc khải chiều kích ba ngôi của sứ mệnh: “Nói thế rồi, Người thổi hơi” trên các môn đồ. Như đã lưu ý trên kia, dụng ngữ “nói thế rồi” dẫn vào một biến cố trọng đại như là một hậu quả và một sự soi sáng cho những lời trước đó… cử chỉ thổi hơi cắt nghĩa và củng cố lời sai phái thi hành sứ mệnh. Hơn nữa, chính Chúa Giêsu còn chú giải hành vi của mình bằng cách nói kèm theo: “Hãy nhận lãnh Thánh Thần”.
Thiết tưởng cần lưu ý đến động từ Gioan dùng để chỉ việc thông truyền Thánh Thần cho môn đồ (emphusân: thổi). Người ta không bắt gặp động từ này nơi nào khác trong Tân ước và nó cũng xuất hiện đột ngột trong Tin Mừng thứ tư. Thường người ta bảo Thần khí được ban cho, được gởi đến hay là được tuôn tràn chứ không bao giờ được thổi. Chính trong Cựu ước, chữ này cũng hiếm hoi … Nó xuất hiện trong St 2,7 để chỉ việc thổi sinh khí vào mũi con người trong ngày sáng tạo; nó cũng xuất hiện trong Kn 15,11 nhưng lần này được hên kết với “thần khí”. Nơi Edêkien 37, 9. Được nối kết cũng với thần khí, từ ngữ lại dùng để mô tả việc hồi sinh các bộ xương khô, hình ảnh. của việc phục hưng Israel vào cuối bao cuộc thử thách. Việc ám chỉ đến một hành động sáng tạo được ngụ ý do việc Kinh Thánh dùng động từ này, có thể có trong Gioan 20,12 lắm. Cử chỉ của Chúa Giêsu là dấu hiệu của một cuộc sáng tạo mới. Nhờ sức mạnh của Thánh Thần phát xuất từ Chúa Kitô phục sinh, một thế giới mới bất đầu; Israel mới được khai mạc nhờ sứ mệnh của các môn đồ trong thế gian. Đó là ý nghĩa kín đáo, nằm đầu trình thuật, của kiểu nói “ngày thứ nhất trong tuần” ; ngày này là dấu báo hiệu một thời đại mới (x.20, 1), báo hiệu sự tách biệt của các môn đồ đối với thế giới Do thái.
Cần phải nhấn mạnh dạn mối liên lạc chặt chẽ giữa việc ban Thánh Thần và sứ mệnh truyền giáo. Thật vậy, sứ mệnh này giả thiết đã có một cuộc biến đổi tận căn trong các môn đồ, một cuộc biến đổi nâng họ lên tầm vóc ‘công việc siêu phàm mà Chúa Giêsu trao cho họ. Chỉ mình Thánh Thần mới có khả năng thực hiện cuộc sáng tạo mới ấy. Do tác động của Ngài, các môn đồ được thánh hiến cho sứ mệnh, như Chúa Giêsu đã được thánh hiến và được sai đến trong thế gian” (10, 3. 6 ; x 1, 33 ; 17, 17- 19).
Mối tương quan giữa Thánh Thần và sứ mệnh này đã được nói đến từ đầu Tin Mừng thứ tư. Trong 3,34, Gioan nói về Chúa Giêsu như sau: “Kẻ Thiên Chúa đã sai, thì nói được lời của Thiên Chúa, vì Ngài (Thiên Chúa? hay Đấng Thiên Chúa sai?) ban thần khí không theo lường hạn”. Cho dù chủ từ của mệnh dề sau là ai, thì vẫn có một sợi dây liên tục nối kết Thiên Chúa Đấng sai phái, Chúa Kitô Kẻ được sai nói lời Thiên Chúa, ơn Thần khí và đức tin cùng sự sống đời đời (trong những câu tiếp sau: 3, 36). Chính trong sự kết hiệp mật thiết với Thần khí được ban vô lường hạn mà lời của Đấng được sai làm chớm nở đức tin, đức tin ban sự sống đời đời. Được tái lạo và thúc đẩy bởi cũng Thần khí đó, các môn đồ Chúa Kitô trở nên đủ khả năng truyền thông, đến lượt họ, những lời đưa dẫn con người đến sự sống (20, 31) bởi vì những lời ấy cũng là “thần khí pà sự sống (6,63).
Trình thuật kết thúc bàng việc ban quyền tha tội cho các môn đồ: “Các con tha tội cho ai, thì tội họ được tha. Các con cầm giữ tội ai, thì tội họ bỉ cầm giữ”. Việc Chúa Giêsu dành quyền tha tội này đã gây đụng độ sâu xa với các ký lục Do thái (Mc 2,5-7) Nay Người ban quyền đó cho các môn đồ không hạn chế. Người trao phó cho sự thận trọng của họ. Chính họ sẽ là quan án.
Không nên giới hạn quyền các môn đồ vào chức vụ khuyên bảo người ta trở lại bằng cách loan báo cho họ ơn cứu rỗi trong Chúa Giêsu Kitô. Các môn đồ nhận được quyền năng tha thứ tội lỗi cho hối nhân. Họ cũng nhận được quyền cầm giữ tội, nghĩa là quyền đọc trên bất hối nhân lời phán quyết tuyên bố đương sự còn đang bị tách rời khỏi sự hiệp thông với Thiên Chúa và anh em cho tới khi cải thiện đời sống (x. 1Ga 1, 3 .6- 10 ; 5, 16). Đó là một quyền có tính chất cộng đoàn, tính chất Giáo Hội, ban uy thế và sức mạnh, không chỉ để thừa nhận vào phép thánh tẩy, mà còn để thứ tha hay cầm giữ những lỗi phạm giữa lòng cộng đoàn của các môn đồ.
Nếu đặt lại trong văn mạch của Gioan, thì đó là quyền hướng dẫn đến nguyên sống những ai đã đư~ thanh tẩy khỏi những lỗi lầm, hầu nhờ việc hiệp nhất với Cây Nho đích thực, họ tạo thành một dân thánh của Thiên Chúa trong đức tin và đức ái (15, 1- 17). Như thế, qua sứ mệnh của các môn đồ, thế gian sẽ nhận ra sứ mạng của Người Con được Cha sai đến (17, 19- 21).
Có nên nối kết một cách trực tiếp, hơn thế nữa một cách độc hữu, hành động của Thánh Thần được ban cho các môn đồ với công việc xóa tội này chăng’? Xét cho thật kỹ thì bản văn Tin Mừng không cho phép điều đó, vì việc ban Thần khí được liên kết một cách trực tiếp với chuyện sai phái thí hành sứ mạng. Các môn đồ được Thần khí tái tạo với mục đích nối dài chính sứ mệnh của Chúa Giêsu trong toàn thể của nó. Thần khí không được trực tiếp mô tả như là tác giả của việc thanh luyện, nhưng như là nguyên lý sáng tạo của sứ mệnh.
Tuy nhiên, trong sứ mệnh của họ, có một nét được xác định mà ta phải cho . là quan trọng: đó là quyền tiêu diệt tội lỗi. Nét đó càng quan trọng hơn nữa vì Tin mừng Gioan đã mở đầu với việc mặc khải Chúa Kitô như là “Chiên Thiên Chua khử trừ tội thế gian” (1, 29) và là “Đấng thanh tẩy trong Thánh Thần” (1, 33). Không phải vô lý mà người ta đã coi đây là một lối “đóng khung” rộng lớn của ngôn ngữ sêmita, lối đóng khung ôm trọn cả Tin Mừng thứ tư và xác định một trong những khía cạnh nổi bật của nó.
4. TỔNG HỢP
Với một ngôn ngữ in dấu thần học Gioan, trình thuật này cho thấy rõ cộng đoàn Kitô giáo nguyên khởi đã ý thức mình là cộng đoàn của Chúa Kitô phục sinh, là sự nối dài của Người trong thế gian, là “thân thể Người”, sống nhờ người như thánh Phaolô bảo, là sáng tạo bền vững. của Thần khí Người; và ý thức đó được đặt nền tảng trên kinh nghiệm phục sinh của các sứ đồ: “Chúng tôi đã thấy Chúa” (20,25). Thật vậy, chính từ việc tỏ mình của Chúa Kitô phục sinh cho các sứ đồ đã phát xuất ra toàn thể niềm tin của Giáo Hội vào sứ mệnh riêng biệt của mình trong trần gian và vào sự hiện diện năng động vô biên của Thánh Thần trong Giáo Hội.
1. Phục sinh và Hiện xuống.
Từ xa xưa, người ta đã đặt vấn đề về mối tương quan giữa trình thuật Gioan 20 và trình thuật của Luca trong chương 2 Công vụ sứ đồ: Việc ban Thánh Thần cho các môn đồ chiều ngày Phục sinh có đồng hóa với việc ban Thánh Thần trong ngày Hiện xuống không? Nếu không, thì hai biến cố khác biệt nhau ở chỗ nào? Nhiều nhà chú giải nghĩ rằng Gioan đã đưa biến cố Hiện xuống ra trước thời hạn, khi nối kết việc ban Thánh Thần với cuộc hiện ra của Chúa Kitô phục sinh vào chiều ngày sống lại; có lẽ ông muốn phô diễn “toàn thể tính của mầu nhiệm Phục sinh” trong củng một cảnh duy nhất. Bởi đó mà người ta có nói đến một cuộc “Hiện xuống theo Gioan” (pentecôte johannique) (Archimandrite Cassien, La Pentecôte johannique (Jn 20,19-23), Paris, 1939). Ngược lại những kẻ khác chủ trương phải phân biệt hai biến cố trên (Như P.H.Menoud, La Pentecôte lucanienne et LIhistoire, tron… Rev dihist. et de phin. relig. 42. 1962) tr. 146tt).
Về vấn đề này, có một điểm nên lưu ý. Đó là thánh Luca không đợi đến bình thuật Hiện xuống mới liên kết việc tuyển chọn các môn đồ với Thánh Thần. Ngay từ đầu sách Công vụ, ông đã gọi họ là những kẻ mà Chúa Giêsu “đã chọn dưới tác động của Thánh Thần” (Cv 1 ,2).
Giải pháp của vấn đề một phần tùy thuộc vào mối tương quan mà người ta có thiết lập hay không giữa cuộc hiện ra cho các môn đồ và những lời Chúa Giêsu nói với Maria Mađalêna. Các giáo phụ đã tự hỏi chẳng biết cuộc hiện ra ấy có giả thiết là Chúa Giêsu đã hoàn toàn lên cùng Chúa Cha hay không, việc đi lên mà Người đã mặc khải cho Maria Mađalêna vào sáng cùng ngày với nhường lời như sau: “Hãy đi gặp anh em Ta và bảo họ: Ta lên cùng Cha Ta …”. Nếu quả thật là có thì trong tư tường của thánh sử, cái ông Giêsu đã hiện ra cho các môn đồ không những là chúa Giêsu phục sinh, hiện sống, mà còn là Chúa Giêsu “đã về cùng Cha” và nay đến thực hiện những lời hứa trong diễn từ giã biệt cùng mang lại cho các môn đồ những của đã tiên báo: bình an và niềm vui (x 14,3.18tt; 16,16), sứ mệnh (x.17,18), Thần khí (x.15,26; 16,7).
Có nhiều lý do xác đáng khiến ta nghĩ ráng dưới nhãn quan của thánh sử, trạng huống vẫn là một tràng lần hiện ra cho các môn đồ vào chiều Phục sinh và “tám ngày sau đó” (20, 19.26) cũng như trong lần hiện ra với mang Mađalêna sáng Phục sinh: Chúa Giêsu mà người ta thấy và đụng chạm được (20, 17. 20. 27) Cũng chính là Chúa Giêsu “chưa lên cùng Cha” (20, 17) của lần gặp gỡ với Maria. Còn về chuyện ban Thần khí, không nên đồng hóa nó với việc Thần khí ngự đến đã được loan báo trong diễn từ giã biệt việc này chỉ xảy tới khi Chúa Giêsu đã “ra đi” (16;7), đã lên cùng Chúa Cha (15, 26), vượt ra khỏi tầm tay của giác quan hay với biến cố Hiện xuống là biến cố cũng chỉ xảy ra khi Chúa Giêsu đã biến đi trong đám mây thần linh, lên “trời” và “ngự bên hữu Thiên Chúa” (Cv 1, 9-11 ; 2, 33- 35) cho đến ngày trở lại vào cuối thời gian.
Điều đó không cố ý nói là Chúa Kitô phục sinh, Đấng hiện ra cho các môn đồ, còn đang ở trong tồn tục thời gian và Người cần phải có thời gian để lên với Chúa Cha cùng ngự bên hữu Ngài. Khi tắt thở là Chúa Kitô đã qua bên kia thời gian rồi. Về cái chuyện bên kia thời gian đó, chúng ta không thể nói tới được chúng ta chỉ biết rằng Thánh Kinh, để dạy chúng ta, có phân biệt các giai đoạn và như là một nhiệm cục tiệm tiến trong việc mặc khải về mầu nhiệm sự tôn vinh Chúa Kitô. Cảnh ngày Phục sinh với cuộc hiện ra tám ngày sau tượng trưng, trong Tin Mừng Gioan, giai đoạn cuối cùng của mặc khải tiệm tiến này: cảnh đó là sự tỏ hiện hữu hình sau cùng của Chúa Kitô đang lên cùng Cha (20, 17) ; hiệp nhất với Cha, Người sẽ sai” (l5,26) Thánh Thần Bàu chữa đã hứa trong bữa Tiệc ly (14, 26 ; 16, 7- 14).
Thành thử, nói cho đúng cảnh hôm nay không dựng trước cuộc Hiện xuống, cũng chẳng tăng đôi biến cố này; nó mở đầu cho cuộc Hiện xuống trong mức độ biến cố này đi vào nhãn giới của Gioan, cũng như mở đầu cho cả đời sống Giáo Hội mà nó liên kết với nguyên lý là Chúa Kitô tử nạn và phục sinh. Nó bảo đảm việc thực hiện những lời hứa trong bữa Tiệc ly. “Lên cùng Cha”, Chúa Gỉêsu phục sinh sẽ trở lại với thuộc nhân Người (14, 18tt) ; Người “sẽ tỏ mình” ra cho họ (14, 21- 23); Đấng Bầu chữa (cũng) sẽ dẫn … là Thần khí sự thật, Ngài sẽ dẫn dắt (họ) vào tất cả sự thật (16, 7tt. 13 – 15). Với kỳ của những cuộc hiện ra phục sinh tiên trưng, sửa soạn và đặt nền móng cho tương lai ấy, cái tương lai sẽ là thời gian riêng của Giáo Hội và của Thánh Thần.
Sự phân biệt như vừa nói giữa cảnh chiều Phục sinh và cuộc Hiện xuống không phải là không quan trọng. Nó làm nổi bật sự kiện căn bản này là: sự đổi hướng thiêng liêng, từ đó phát minh cộng đoàn Kitô hữu, bắt nguồn từ chính Chúa Giêsu phục sinh: Cộng đoàn sơ khai đã không gán sự đổi hướng ấy một cách đơn thuần cho việc tuôn tràn Thần khí trong ngày Hiện xuống. Họ cũng không tự coi mình như bắt nguồn từ một biến cố hoàn toàn của Thần khí; nhưng họ biết rằng mình là tác phẩm cá nhân của Chúa Giêsu phục sinh, Đấng đã hiện ra với môn đồ người để truyền thông cho họ sứ mệnh Người và thổi Thần khí của Người vào trong họ. Cộng đoàn Kitô hữu đã ý thức mình trước tiên là cộng đoàn phục sinh, điều kiện cần thiết để trở nên cộng đoàn hiện xuống. Lc cũng nói lo điều đó trong tín mừng (24,48) và trong Cv 1, 1tt.
Tuy thế, viễn tượng của Gioan và của Luca khác nhau xa vời Luca liên kết việc ban Thần khí vào việc Chúa Giêsu ngự trị vinh hiển bên hữu Chúa Cha (Cv 2,33). Còn trong tư tưởng Gioan, việc ban Thần khí chiều ngày Phục sinh chỉ hiểu được trong sự nối dài thảm cảnh Canvê, thảm cảnh mà nó liên kết làm một. Cử chỉ Chúa Giêsu bày tỏ vết thương cạnh sườn cho môn đồ hiển nhiên ám chỉ điều đó. Trong hơi thở cuối cùng (pneuma) của Chúa Giêsu trên thập giá cũng như trong nước và máu chảy ra từ cạnh sườn Người sau khi chết Gioan đã nhận ra một dấu chỉ nhân tính của Chúa Kitô, hy tế đẫm máu của người và xác thịt bị đóng đinh của Người được mặc khải cho ông như là nguồn cứu độ, từ đó Giáo Hội phát sinh để tăng triển trong ơn Thần khí Cuộc hiện ra chiều ngày Phục sinh chỉ lấy lại việc mặc khải ấy, và chiếu soi nó với một ánh sáng mới mẻ và dứt khoát. Cuộc hiện ra đó tiêu biểu, bên kia cái chết, bộ mặt khác của cùng .một sự thật sau đây: sự thật về giời của Chúa Giêsu (12,23 ; 13, 1 .32; 17, 1).
2. Khía cạnh Phụng vụ.
Cần lưu ý một nét cuối cùng. Đó là khía cạnh phụng vụ phục sinh và thánh thể, khía cạnh đặc trưng tênh thuật Gioan.
Các môn đồ tụ họp nhau vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, các cửa đều đóng, kín. Chúa Giêsu đến. Người xuất hiện, mang đầy dấu tích của cuộc Khổ nạn. Người chào bình an với các môn đồ. Niềm vui ngập tràn lòng họ. Chúa Giêsu làm trên họ một cử chỉ nghi lễ là thổi hơi để thông ban cho họ Thần khí cùng với quyền tha tội cho anh em. Trong những nét tô điểm trình thuật Gioan này, có nhiều nét chả có trong Lưca (Lc 24,36-49). Có thể cất nghĩa chúng như là phát xuất từ một nguồn g.ốc phụng vụ phục sinh.
“Ngày thứ nhất trong tuần”, như ta biết, đã sớm trở thành ngày hội họp của Kitô hữu (Cv 20,7; 1Cr 16,2). Buổi canh thức ban đêm, khung cảnh tuyệt vời cho việc cử hành lễ Vượt qua, cũng là khung cảnh của cuộc hội họp phụng tự của Kitô hữu. Người Do thái đã liên kết sự trông chờ Đấng Messia đến với đêm vượt qua. Theo chứng từ của thánh Hiêrônimô, thì các Kitô hữu đã thừa hưởng từ các sứ đồ truyền thống này. Ngài viết: “Theo một truyền thống Do thái thì Chúa Kitô sẽ ngự đến vào nửa đêm, theo hình ảnh của việc cử hành lễ Vượt qua tại Ai cập … Chính vì lý do này mà vào đêm canh thức Phục sinh, người ta’ đã duy trì truyền thống của các sứ đồ, là không để tín hữu trông đợi Chúa Kitô đến ra về trước nửa đêm” (Comm. in Ev.Matth. IV, 25 trong PL 26, 192).
Ta biết trong cử hành mầu’nhiệm tạ ơn của Kitô giáo, chủ đề Chúa đến đã có một chỗ đứng đặc biệt. Lời cầu nguyện Maranatha (1Cr 22; x.Kh 22,20; Didaché 10,6) công bố việc ấy vừa được thực hiện trong cử hành vừa được mong chờ cách mãnh liệt. Khi trình bày cuộc hiện ra của Chúa Giêsu phục sinh như là một việc Chúa “đến” (20, 19. 24. 26 ; 21, 13) các trình thuật Gioan có thể là phản ảnh quan niệm phụng vụ trên.
Vết thương cạnh sườn, thấy được trên thân xác Đấng Phục sinh, gợi nhớ Con chiên, hy lễ của hy tế Vượt qua, mà người ta “đã chẳng bẽ gãy một xương nào” (19, 36 ; x. Xh 12,46 ; Ds 9, 12 ; Kh 5, 6). “Cửa đóng kín cũng có thể nhắc lại lễ Vượt qua mà người Do thái cử hành sau những khung cửa ghi dấu máu chiên (Xh 12, 22). Ngay cả nỗi sợ hãi người Do thái của các môn đồ cũng mặc cho cảnh này nét bi thương và đặc trưng đêm vượt qua như là đêm giải phóng. Rồi lời chúc bình an, niềm vui và sự sáng tạo mới trong quyền năng của Thánh Thần, đến lượt chúng cũng đi vào trong cùng khung cảnh.
Tất cả những điều vừa nói cho thấy trong hậu cảnh của trình thuật gian cũng như của trình thuật hai môn đồ Emmau (Lc 24, 13-25) có sự hiện diện của cừ hành Thánh Thể Kitô giáo. Việc hiện ra của Đấng Sống lại, vào chiều Phục sinh, được xem như là khuôn mẫu của cử hành này. Vì quả thật cử hành Thánh Thể là hiện tại hóa sự kiện đó cho đức tin.
Lần hiện ra với sự có mặt của Tôma (20,24-29) có lẽ nên đặt trong cùng một viễn tượng. Chi tiết “tám ngày sau” (20, 26) bấy giờ sẽ nói lên sự duy nhất giữa buổi hội họp phụng vụ Kitô giáo và việc Chúa Giêsu “đến” chiều ngày phục sinh. Cứ mỗi lần cử hành thì biến cố Phục sinh được tái diễn. chúa Kitô phục sinh “đến” mang tới cho tín hữu Người những ơn huệ như chiều sống lại: niềm vui thấy Người hiện diện, sự bằng an ; ơn tha tội, quyền năng của Thần khí người, để họ có thể tiếp tục sứ mệnh của Người trên thế gian. Vì thế Chúa Giêsu tuyên bố là có phúc cho những tín hữu nào, dù không thấy dấu đinh trên tay lẫn vết thương cạnh sườn Người, vẫn tin vào sự Phục sinh của Người dựa trên niềm tin của những kẻ đã chứng kiến người đến vào chiều phục sinh, vẫn cùng với Tôma và toàn thể anh em thừa nhận Người là “Chúa và là Thiên Chúa” của họ (20, 28tt).
(Bài của Donatien Mollat, Assembléesĩ du Seigneur 30, tr.42-56.)
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Ý chính rút từ các bài đọc: Được Thánh Thần dẫn đến hiệp nhất. Bài đọc 1 trích từ Cv là trình thuật lịch sử về cuộc Hiện Xuống. Trình thuật này vừa nhắc đến sinh: gió, tiếng động, lửa, vừa nhắc đến biến cố Babel, nơi loài người chia rẽ nhau và phân tán. Nhờ các sứ đồ, Thánh Thần bắt đầu sự nghiệp hiệp nhất: Ngài ban cho con ngươi thuộc mọi văn hóa, chủng tộc? khả năng hiểu nhau trong Chúa Kitô.
Bài đọc 2, trích thư thánh Phaolô gởi giáo hữu Côrintô, là một suy tư của lần hữu Phaolô về hành động của Thánh Thần trong Kitô hữu: “Không ai có thể nói: Giêsu là Chúa, mà lại không phải bởi sức Thánh Thần”. Hình ảnh thân thể diễn tả đúng sự hiệp nhất trong sự đa phức các chức vụ: Thánh Thần là nguyên lý hiệp nhất đó. “Tất cả chúng ta làm thành một thân thể duy nhất trong Thánh Thần”.
Trong bài Tin Mừng, thánh Gioan ghi lại cách Chúa Giêsu Phục sinh lần đầu tiên hiện ra cho các môn đồ. Chúa Giê-su bị cho các môn đồ quen một hình thức hiện diện mới: từ đây Người sẽ không hiện diện hữu hình một cách thể lý nữa, nhưng “một khi ra đi” Người sẽ hành động trong họ: chính đó là công việc của Thánh Thần. Và chúng ta đã biết sức mạnh nào, động lực nào đã thúc đẩy các sứ đồ Phúc âm hóa thế giới; từ đây chính Thánh Thần của Chúa Giêsu sống trong Giáo Hội và thực hiện sự hiệp nhất Giáo Hội quanh Chúa Kitô.
2. Hãy khám phá trong đời mình hành động của Thánh Thần. Đi từ đặc điểm hiệp nhất này, hãy khám phá công việc mà Thánh Thần đã thực hiện, và hãy nói lên những phần chưa hiệp nhất mà Thánh Thần còn phải thực hiện. Trong đời tôi, tôi có thể nhận ra sự hiện diện của Thánh Thần ở đâu? Ngài là lửa, là nước hằng sống, là sự hiệp thông, là ơn Chúa ... Ta cũng có thể tìm kiếm sự hiện diện của Thánh Thần qua các hoa quả của Ngài: ơn huệ của Thánh Thần là niềm vui, bình an, tình yêu......”
3. Sự hiện diện của Thánh Thần trong phép Thánh Thể. Ngay trước lúc truyền phép, linh mục xin Chúa Thánh Thần thánh hóa các của lễ được dâng tiến: “Chúng con nài xin Chúa dùng ơn Thánh Thần Chúa thánh hóa lễ vật này …” (Kinh nguyện Thánh Thể II) Khi đọc các lời đó, linh mục đồng thời đặt tay trên lễ vật. cử chỉ này tượng trưng việc Thánh Thần chiếm hữu các hiện vật đó. Qua cử chỉ và lời nói trên, linh mục cũng mời gọi ta nhận ra hành động nhiệm mầu của Thánh Thần trong phép Thánh Thể và trong đời ta. Chính nhờ Thánh Thần mà ta nhận biết Mình và Máu Chúa Kitô hiện diện trên bàn thờ, chính .nhờ Thánh Thần mà ta có thể tuyên xưng Chúa Giêsu trong cuộc đời ta. Mọi việc hiệp lễ đều là công việc của Thánh Thần; Chúa Kitô đến trong ta để ban cho ta Thánh Thần của Người, Đấng đã làm cho Người sống và cũng làm cho chúng ta sống.
Tường thuật biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống, thánh Luca viết : “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần HiệnXuống ABC508
Tường thuật biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống, thánh Luca viết : “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng một cơn gió mạnh từ trờiùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang họp” (Cv 2,1-2). Xem ra đây chỉ là một câu văn bình thường, không đáng quan tâm, nhưng nếu đối chiếu với câu đầu tiên trong sách Sáng Thế thì người đọc sẽ khám phá nội dung hết sức quan trọng. Ngay những dòng đầu tiên của bộ Kinh Thánh, sách Sáng Thế viết : “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1,1-2). Bản tiếng Việt dịch là “thần khí Thiên Chúa”, trong bản Do Thái là ruah, có nghĩa là khí, gió, hơi thở. Đây cũng là từ được thánh Luca sử dụng khi tường thuật biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống : “một cơn gió mạnh từ trời (ruah, pneuma)”. Như thế, thánh Luca muốn nói biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống là khởi đầu công trình tạo dựng mới. Cũng vì thế trong phần đáp ca sau bài đọc 1 hôm nay, cộng đoàn phụng vụ hát lên : “Lạy Chúa, xin gửi thần khí tới để đổi mới bộ mặt trái đất”. Chúa Thánh Thần là Đấng đổi mới bộ mặt trái đất.
Hội Thánh cử hành lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống năm 2020 trong bối cảnh chưa từng có : đại dịch Covid-19 gây ra những thiệt hại hết sức nặng nề, không những về số người bị nhiễm virus và số tử vong rất lớn, mà còn phải kể đến những hậu quả lâu dài về mọi mặt trong đời sống xã hội, không chỉ riêng ở một quốc gia nào nhưng trên toàn thế giới. Chính vì thế, cùng với những nỗ lực ngăn chặn sự lây lan virus, bảo vệ mạng sống người dân, bắt đầu nổi lên nhiều lời kêu gọi đổi mới : thế giới không thể tiếp tục như cũ, phải đổi mới, đổi mới vận hành kinh tế, đổi mới tổ chức xã hội, đổi mới chính trị. Cũng từ đó, câu hỏi quan trọng xuất hiện : Chúa Thánh Thần là Đấng đổi mới bộ mặt trái đất, vậy Ngài đổi mới cái gì, đổi mới thế nào? Người tin Chúa có thể góp phần ra sao vào công cuộc đổi mới của Chúa Thánh Thần? Lời Chúa không giới thiệu bất cứ kế hoạch đổi mới nào nhưng chỉ cho thấy công trình đổi mới của Chúa Thánh Thần là đổi mới từ bên trên và từ bên trong.
Đổi mới từ bên trên : khi kể về công trình tạo dựng thưở ban đầu, sách Sáng Thế viết, “Thần khí Chúa bay lượn trên mặt nước”(St 1,2); và khi tường thuật biến cố Hiện Xuống, sách Công Vụ mô tả, “Gió mạnh từ trời ùa vào nhà” (Cv 2,1). Cả hai bản văn đều diễn tả tác động từ bên trên, từ Thiên Chúa, vì chính Chúa là chủ thể đổi mới trái đất theo định hướng từ thưở ban đầu, tức là một thế giới trong đó con người sống hài hòa với Đấng Tạo Hóa, với nhau, với thiên nhiên vạn vật.
Lịch sử thế giới đã chứng kiến nhiều nỗ lực đổi mới xã hội, tiếc thay chỉ là những nỗ lực từ bên dưới, hành động phát xuất từ căm thù và bạo lực, thế nên người ta nhân danh đổi mới, xây dựng nhân loại mới để tiến hành những cuộc chiến tranh đẫm máu, hủy diệt lẫn nhau. Cuối cùng, đổi mới chỉ có nghĩa là một cuộc đổi ngôi : giai cấp bị trị trở thành giai cấp thống trị mới và tình hình cũng không sáng sủa gì hơn, có khi còn tệ hại hơn trước.
Đổi mới từ bên trong : bài Tin Mừng theo thánh Gioan kể rằng : “Chúa thổi hơi vào các ông và bảo, anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Hành động này của Chúa Kitô Phục sinh nhắc chúng ta nhớ lại việc Thiên Chúa tạo dựng con người đầu tiên : “Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và nắm đất trở nên một sinh vật” (St 2,7). Thổi hơi luôn luôn là thổi hơi vào bên trong, hơi thở rất nhẹ, nhưng làm nên sự sống và chính là nguồn sống, hết thở là hết sống. Công trình đổi mới của Chúa Thánh Thần là đổi mới từ bên trong chứ không phải chỉ ở bên ngoài, nghĩa là đổi mới từ trong tâm hồn, cách nhìn, cách nghĩ, rồi tác động lên cách sống, cách thiết lập những tương quan xã hội.
Lịch sử thế giới cũng ghi lại rất nhiều cuộc cách mạng để xây dựng cơ cấu xã hội mới, nhưng vì chỉ đổi mới cơ cấu bên ngoài mà tâm hồn không đổi mới nên cuối cùng chính con người lại biến xã hội mới đó thành cơ chế áp bức, có khi còn tệ hại hơn trước.
Con người là hữu thể có ý chí tự do và Chúa Thánh Thần tôn trọng tự do của chúng ta, vì thế Kitô hữu được mời gọi sử dụng tự do của mình mà cộng tác với Ngài trong công cuộc đổi mới. Vì Chúa Thánh Thần đổi mới từ bên trên, nên chúng ta phải cầu nguyện để đón nhận ơn ban, xin ơn khôn ngoan để phân định đâu là thánh ý Thiên Chúa, xin ơn can đảm để sống và làm theo Thánh Ý.
Vì Chúa Thánh Thần đổi mới từ bên trong, nên chúng ta phải cộng tác với Ngài để thanh tẩy tâm hồn, làm phát sinh những hoa quả của Thần Khí như thánh Phaolô nói : “Hoa quả của Thần khí là bác ái, vui tươi, bình an, nhẫn nhục, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gal 5,22).
Hãy bắt đầu từ chính bản thân mình. Chỉ đòi hỏi người khác và xã hội đổi mới mà chính mình không chịu đổi mới, e rằng chỉ là ngụy biện và giả hình. Vì thế, hãy xin Chúa Thánh Thần ngự đến đổi mới tâm hồn và con người chúng ta, và biến chúng ta thành khí cụ của Ngài trong công trình đổi mới thế giới. Amen.
Chúa Thánh Thần biểu tượng nước, không khí, hơi thở, bồ câu, lửa… Các biểu tượng ấy nói HiệnXuống ABC509
Chúa Thánh Thần biểu tượng nước, không khí, hơi thở, bồ câu, lửa… Các biểu tượng ấy nói lên sự đa dạng va phong nhiêu của Chúa Thánh Thần. Với Chúa Thánh Thần trong bí tích thanh tẩy, chúng ta cùng nhìn lại bí tích rửa tội đã được lãnh nhận.
Người Kitô hữu được mời gọi suốt hành trình là sống bí tích rửa tội.
Chúa Thánh Thần thanh tẩy tâm hồn người tín hữu. Đối với trẻ sơ sinh, Chúa Thánh Thần ban sự sống thần linh trong sự sống thân xác của trẻ, Đấng thanh tẩy tội tổ tông, một tội lưu truyền trong nhân loại, là một tội gốc, thời Covid người ta gọi đó là ca nhiễm số 0. Nhiều người nói tội của trẻ mới sinh có tội gì đâu mà rửa tội? Một sự liên đới trong tội cũng liên đới trong ân sủng. Cũng giống như mỗi người sinh ra đều thừa hưởng cả cái xấu cái tốt của người đi trước.
Thanh tẩy có nghĩa là sinh lại mới hoàn toàn. Chúa Thánh Thần có quyền năng tha tội, đưa người tín hữu sinh lại trong sự sống tinh tuyền. Dù đã được thanh tẩy mọi tội lỗi khi chịu bí tích thanh tẩy, nhưng con người Kitô vẫn sống trong sự yếu đuối mỏng giòn vẫn cần sinh lại luôn trong Chúa. Chúa Thánh Thần làm cho thân xác con người không còn là nơi chứa chất tội lỗi, để là nơi Đền Thờ của Thiên Chúa cư ngụ và sống trong Chúa Kitô và trong Chúa Thánh Thần.
Trong thư Thánh Phêrô tông đồ, người đã chia sẻ về đời sống thần linh của mình khi đón nhận Chúa Thánh Thần trong ngày lễ Hiện Xuống: “Bởi chưng quyền năng thần linh của Ngài đã thí ban cho ta tất cả những gì cần cho sự sống và đạo hạnh, nhờ ở trí tri về Ðấng đã kêu gọi ta do bởi vinh quang uy đức của Ngài. Nhờ đó những lời hứa vĩ đại đã được ban xuống cho ta, ngõ hầu nhờ vậy anh em được thông chia cùng một bản tính thần linh, thoát cảnh đồi bại do bởi đam mê thế tục.” (2 Pet 1, 3 – 4).
Đời sống đạo hạnh là hoa trái của Chúa Thánh Thần trong đời sống người Kitô hữu: “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân từ, lương thiện, hiền hòa, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ và thanh khiết” (Gal 5,22-23). Những đức tính này giúp cho người Kitô hữu sống trong tự do đích thật, và luôn ý thức Chúa sống trong họ, như Thánh Phaolô quả quyết: “Tôi sống không phải tôi sống mà la Chúa sống trong tôi” (Gal 2, 20). Đời sống như thế không dựa vào điều gì khác để có thể tự hào về những gì mình có thuộc về trần gian, vì tất cả Chúa là gia nghiệp đời tôi.
Chúa Thánh Thần làm cho người Kitô hữu càng ngày càng nhận biết Chúa hơn đang sống trong mình. Sự hiểu biết không hoàn toàn đến từ sự cố gắng của con người, nhờ Chúa thánh thần soi sáng, giáo huấn, trợ giúp, con người tiệm tiến trong sự nhận biết Thiên Chúa.
Thánh Augustine cầu nguyện xin Chúa “Biết Chúa để con biết con”. Nhờ Chúa Thánh Thần, biết con là một phàm nhân, biết con là người là một tội nhân. Cái “biết” quan trọng này là sự nhận biết: “Người đã yêu thương tôi, và phó nộp minh vì tôi” (Ga 2, 20). Xác tín thật rõ ràng, không còn mông lung, đại chúng. Chính vì tôi, yêu thương tôi, và phó nộp vì tôi. Kinh nghiệm biết Chúa về chiều sâu của tâm hồn, của kinh nghiệm xuyên qua từng ngày sống và ngay cả những lầm lỗi của chính mình, nhận biết Chúa yêu thương tôi.
Chúa Giêsu phán bảo: “Hãy xin sẽ được, hãy gõ sẽ mở cho…Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người” (lc 11, 9 – 13).
Xin Chúa ban Chúa Thánh Thần xuống trên chúng con, giúp chúng con sống hoàn thành ơn gọi trong bí tích rửa tội.
Lần giở lại sách Tông đồ công vụ chúng ta thấy: Vào ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các HiệnXuống ABC510
Lần giở lại sách Tông đồ công vụ chúng ta thấy: Vào ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ, tức thì các ngài bắt đầu nói các thứ ngôn ngữ khác để rao giảng Tin Mừng cho muôn dân đến từ khắp các nước trong thiên hạ. Ai cũng hiểu theo ngôn ngữ của mình. Ai cũng có thể đón nhận Tin mừng của các tông đồ rao giảng. Cốt lõi của tin mừng không dừng lại ở nói tiếng lạ mà là việc các tông đồ thiết lập một cộng đoàn yêu thương sau lời rao giảng của các ngài.
Theo sách Tông đồ công vụ 2, 45: “Họ bán gia tài mà phân phát cho nhau, tùy theo nhu cầu của mỗi người”. Mỗi người tín hữu theo Chúa Ky-tô thì đều coi anh em như chính mình vậy. Họ coi nhu cầu của anh em là nhu cầu của tôi. Khi anh chị em cần thì tôi vui lòng cho họ để thỏa mãn nhu cầu của họ. Đây là hoa trái của Chúa Thánh Thần đã làm cho Hội Thánh. Chính Ngài đã làm cho mọi người đồng tâm nhất chí với nhau để rồi luôn bao bọc chia sẻ cho nhau trong khả năng của mình. Có thể nói, hoa trái của Chúa Thánh Thần chính là sự hiệp nhất yêu thương đến nỗi coi người lân cận như chính mình.
Tình yêu thương tha nhân như chính mình đòi hỏi con người không thể yêu nhau bằng lời nói suông mà còn phải cả sự dấn thân chia sẻ cho nhau. Bởi vì, nếu chúng ta được liên kết với nhau bởi quyền năng của Thánh Thần, thì bất cứ việc gì ảnh hưởng đến anh cũng ảnh hưởng đến tôi. Trongtình yêu không thể nhìn thấy một người đói lả chỉ được chúng ta dừng lại và nói “thật tội nghiệp”, hay trên đường đi chúng ta bắt gặp một người anh em bị tai nạn và dừng lại an ủi rằng: “Tội nghiệp quá! Tôi sẽ cầu nguyện cho anh.” Rồi tôi cứ tiếp tục công việc của tôi, tôi quên đi chuyện của anh. Nếu chỉ nói thế thôi thì chúng ta chưa coi tha nhân “như là chính mình”?
Cám ơn Chúa nơi Giáo hội vẫn còn những cộng đoàn yêu thương nhau hết lòng. Họ đã coi tha nhân như là chính mình để rồi luôn hướng tới những con người khổ đau trong hoạn nạn. Trong đại dịch Covid 19 ta thấy nhiều giáo xứ đã phát khẩu trang miễn phí cho cộng đoàn khi tham dự thánh lễ. Họ không để ai trong giáo xứ của mình phải thiếu thốn nhưng luôn đủ gạo đủ tình thương cho anh chị em của mình. Và khi tình hình phải cách ly ta vẫn thấy nhiều giáo xứ vẫn phát gạo, phát cơm cho những anh chị em công nhân mất việc, cho những người bán vé số , đánh giày, lượm lặt ve chai . . . để không ai bị đói trong khu vực của mình.
Theo Giáo huấn của Hội thánh thì chúng ta được liên kết với nhau nên một thân thể duy nhất của Đức Ky-tô là nhờ Chúa Thánh Thần. Mà trong một thân thể thì một ngón tay đau , một ngón chân đau thì cả thân thể đều chia sẻ với nỗi đau của nhau. Đó là lý do người Công giáo phải luôn sống tình yêu với người lân cận trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
Chúa Giê-su đã đồng hoá mình với tất cả anh chị em khổ đau , cũng là để mời gọi chúng ta nên một với Ngài trong tình yêu với người khổ đau. Xin cho mỗi người chúng ta đã được nên một với Đức Ky-tô nhờ Chúa Thánh Thần cũng biết sống yêu thương người lân cận như chính mình. Và khi chúng ta biết sống yêu thương người lân cận là chúng ta đang sống cho Chúa và làm chứng nhân cho Ngài.
Nguyện xin Thánh Thần đến uốn nắn và dạy chúng ta biết sống tình thân với Chúa, trong giáo hội và dấn thân chia sẻ đức ái với anh em.Xin cho cộng đoàn đức tin nơi các giáo xứ mãi mãi là dấu chỉ của Hội Thánh Chúa khi biết yêu thương và đùm bọc lẫn nhau. Amen.
Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín vì các ông sợ người HiệnXuống ABC511
Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín vì các ông sợ người Do thái. Thầy Giêsu đã chết, các ông rơi vào nỗi sợ hãi kinh hoàng: người Do thái sẽ tìm bắt và giết các ông như cách họ đã làm với Thầy Giêsu. Mất Thầy, cuộc đời các ông rơi vào tăm tối, lòng các ông tràn ngập ưu phiền, đầy xao xuyến và sợ hãi.
Giữa lúc ấy, Chúa Giêsu phục sinh đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em” (Ga 20,19). Sự xuất hiện bất ngờ của Thầy khiến lòng các ông vui sướng, các ông mừng rỡ vì có Thầy ở bên. Ở bên Thầy, lòng các ông được bình an. Các ông được xem thấy và đụng chạm vào đôi tay và cạnh sườn của Thầy. Các dấu đinh trên tay và dấu đòng đâm thâu nơi cạnh sườn của Thầy nhắc các ông về tình thương bao la của Thầy, nó cho các ông nhìn thấy chính mình, về sự phản bội, sự nhát đảm và cả về nỗi sợ hãi mà các ông đã phải đối diện, nhất là các ông hiểu rằng mình cần Chúa biết bao. Thầy vẫn như ngày nào, gần gũi và yêu thương từng người cách trìu mến. Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Hơi thở là sự sống, hơi thở của Thầy còn là sự sống thần linh, là chính Chúa Thánh Thần. Đón nhận Chúa Thánh Thần là các ông đón nhận sự sống mới, để đổi mới tâm hồn và đón nhận sự bình an sâu thẳm mà chính Chúa Giêsu ban tặng.
Mỗi ngày, ta vẫn được đón nhận Chúa Thánh Thần. Ngài luôn hiện diện bên ta, ngay trong lòng ta cách âm thầm nhưng vô cùng mạnh mẽ. Ngài là Thánh Thần lửa mến, đốt lòng ta yêu mến Chúa, chọn Chúa trên hết mọi sự. Ngài là Thánh Thần tình yêu, đốt cháy nơi tâm hồn ta một ngọn lửa yêu thương mãnh liệt, để ngay cả những khi ta tưởng mình không thể yêu thương ai đó thì chỉ cần biết buông mình cho Ngài thì chính Ngài sẽ yêu thương trong ta. Ta có thể cảm nhận được tình yêu của Ngài ngay trong nhịp sống đời thường, giữa những biến cố và trong những phút giây lặng lẽ của cuộc đời. Tình yêu sẽ hóa giải những khúc mắc trong cuộc sống giữa ta và người anh chị em, hãy kiên nhẫn để Chúa Thánh Thần làm việc. Chúa Giêsu đã ban cho ta Thánh Thần của Ngài, đồng thời Ngài ban lệnh truyền yêu thương này: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20, 23). Tình yêu dẫn đến sự tha thứ và hòa giải, ta sẽ trở nên sứ giả hòa bình của Thiên Chúa. Hãy bắt đầu kiến tạo hòa bình ngay trong chính tâm hồn ta bằng việc thiết lập mối tương quan cá vị với Chúa Giêsu cách mật thiết, chính Ngài sẽ đổ tràn Thánh Thần Tình yêu trên ta.
Lạy Chúa Giêsu! Chúa đã muốn ban Thánh Thần của Ngài cho con để cuộc đời con được đổi mới. Mỗi ngày, xin Chúa khơi dậy nơi tâm hồn con lòng khao khát được đón nhận Thánh Thần và biết nhận ra sự hiện diện của Ngài trong đời sống con, ngay trong chính tâm hồn con và giữa anh chị em con. Amen.
Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, trong căn phòng, các cửa đều đóng kín, các môn đệ quy HiệnXuống ABC512
Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, trong căn phòng, các cửa đều đóng kín, các môn đệ quy tụ lại với nhau trong tâm trạng sợ hãi người Do thái. Họ không dám đi đâu hay xuất hiện ở bất cứ nơi nào, cũng không dám đối diện với những ánh mắt, cử chỉ và thái độ khinh chê của dân Do thái sau khi Thầy đã bị đóng đinh. Nhưng sau ngày đó, họ đã bước ra được khỏi căn phòng bóng tối ấy và ra đi rao giảng tất cả những gì đã lãnh nhận từ Thầy Giêsu. Nhờ đâu mà các Tông đồ được như vậy?
Trong lúc các môn đệ chìm trong nỗi sợ hãi, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ. Ngài trao ban bình an và thổi hơi vào các ông và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Chúa Thánh Thần là Đấng mà Chúa Giêsu đã xin Chúa Cha ban cho các môn đệ. Ngài sống với Chúa Cha trong tâm tình con thảo nên dầu làm việc gì Ngài cũng thân thưa cùng với Chúa Cha. Vì vậy, việc trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ cũng không là ý của riêng Ngài. Các môn đệ sẽ được hưởng sự sống trong Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là Đấng biến đổi các ông, để các ông không còn sợ hãi trước người Do thái hay lo lắng gì cho tương lai. Thay vào đó, các ông trở nên những con người tràn đầy bình an, lòng can đảm, ơn thông minh và hiểu biết (x. Ga 14,26). Ngoài ra, các ông còn được Chúa Thánh Thần trao ban sự khôn ngoan của Thiên Chúa, lòng kết hiệp với Thiên Chúa qua việc trung thành với sứ mạng chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Chúa (x. Cv 6,4). Chúa Thánh Thần giúp các ông được thông dự vào quyền năng của Thiên Chúa: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,23). Thánh Giám mục Syrilô đã viết: “Thánh Thần ngự trong ai thì Người biến đổi kẻ ấy để họ sống một nếp sống khác và phục hồi trong cuộc sống mới” (Kinh Sách). Như vậy, nhờ Chúa Thánh Thần và trong Chúa Thánh Thần, các môn đệ đã được biến đổi và sống một cuộc sống mới, ra đi đến với mọi người, làm cho muôn người yêu mến Chúa và trở thành môn đệ của Chúa, cùng làm vinh danh Chúa Cha.
Mỗi người kitô hữu chúng ta được lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Vì chúng ta là những con người yếu đuối và giới hạn, không thể hiểu được mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm Ngôi Hai Nhập Thể, chúng ta cần được Chúa Thánh Thần ngự đến soi sáng, nâng đỡ đức tin cho chúng ta. Nhưng chúng ta có nhớ đến Ngài không? Chúng ta có cộng tác với ơn Ngài ban không? Hay chúng ta đã lãng quên và khước từ Ngài? Trong ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, chúng ta hãy tỏ lòng sám hối và cầu xin Ngài đến ngự trong chúng ta, biến đổi và trợ giúp chúng ta bước đi trên con đường về quê trời. Ngài chính là Đấng Bảo Trợ mà Chúa Giêsu đã trao ban cho chúng ta trên cuộc đời lữ hành (x.Ga 14,16).
Lạy Thiên Chúa toàn năng và nhân hậu, xin cử Thánh Thần ngự đến trong tâm hồn chúng con, để biến chúng con thành môn đệ của Chúa. Xin khơi dậy nơi tâm hồn chúng con lòng khao khát được Chúa Thánh Thần ngự đến, vì chúng con đã bao lần lãng quên hay khước từ Ngài. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen.
Khi Chúa Thánh Thần hiện xuống vào “ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng HiệnXuống ABC513
Khi Chúa Thánh Thần hiện xuống vào “ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động như tiếng gió mạnh uà vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2,1-4).
Họ đây là nhóm các Tông Đồ. “Tất cả đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện” (Cv 1,14), và vừa rút thăm trúng ông Mátthia, người “được kể thêm vào số mười một Tông Đồ” (Cv 1,26).
Thực vậy, biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống đã hoàn thành mỹ mãn lịch sử của Israel, dân riêng Thiên Chúa, và từ nay mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của Giáo Hội mà Đức Giêsu đã thiết lập trên nền móng các Tông Đồ: “Anh là Phêrô, nghiã là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy…” (Mt 16,18).
Đây là mấu chốt quan trọng trong lịch sử cứu độ nhân loại của Thiên Chúa, với sự ra đi rao giảng Đức Giêsu chịu đóng đinh đã sống lại dưới sự hướng dẫn và phù trợ của Chúa Thánh Thần, Đấng mà Đức Giêsu đã hứa xin Chúa Cha ban cho các Tông Đồ trước khi chịu khổ hình và tử nạn: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật” (Ga 14,16-17), “Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26).
Chúa Thánh Thần huớng dẫn Giáo Hội đến Hiệp Nhất trong sự tôn trọng các khác biệt: Khi ban cho các Tông Đồ ơn nói các tiếng lạ, Chúa Thánh Thần muốn Giáo Hội Đức Giêsu hiệp nhất trong sự tôn trọng các khác biệt của mọi thành phần trong Giáo Hội: một Giáo Hội được sai đến với muôn dân, nói với mọi dân tộc bằng mọi ngôn ngữ, một Giáo Hội lên đường đi khắp nơi, đến tận hang cùng ngõ hẻm để loan báo Tin Mừng, một Giáo Hội không xây riêng cho mình pháo đài và khép kín để kiêu căng như ước mơ của những người xây tháp Babel trong Cựu Ước: “Thuở ấy, mọi người đều nói một thứ tiếng và dùng những từ như nhau. Trong khi di chuyển ở phía đông, họ tìm thấy một đồng bằng ở đất Sinai và định cư tại đó. Họ bảo nhau: Nào! Ta hãy xây cho mình một thành phố và một tháp có đỉnh cao chọc trời. Ta phải làm cho danh ta lẫy lừng, để khỏi bị phân tán trên mặt đất” (St 11,1-4).
Hình ảnh các Tông Đồ ai nấy nhận lưỡi lửa của Thánh Thần, và “bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2,4) đã nói lên tính hiệp nhất nhưng không đồng nhất, khi cùng nhận từ một Thánh Thần duy nhất những đặc sủng, khả năng khác nhau, và hoàn toàn khác với số phận của những người xây tháp Babel với tham vọng “hiệp nhất nhưng đồng nhất » đã bị Đức Chúa “làm cho tiếng nói của chúng phải xáo trộn, khiến chúng không ai hiểu ai nữa” (St 11,7), và kế hoạch kiêu căng của chúng đã đổ vỡ khi “Đức Chúa phân tán họ ra khắp nơi trên mặt đất” (St 11,9).
Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống đã khai trương một Giáo Hội đến với muôn dân, nói với mọi dân tộc, hợp nhất mọi người với mọi khác biệt trong Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.
Chúa Thánh Thần là Tình Yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa luôn hoạt động trong tâm hồn người đi theo Đức Giêsu: Cảnh tượng “bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ tập” (Cv 2,2), nhắc nhớ hình ảnh “sấm chớp, mây mù dày đặc trên núi… Cả núi Xinai nghi ngút khói, vì Đức Chúa ngự trong đám lửa mà xuống; khói bốc lên như khói lò lửa và cả núi rung chuyển mạnh” (Xh 19,16.18), khi Thiên Chúa ban giao ước cho dân riêng của Ngài.
“Khi nghe tiếng sấm sét, tiếng tù và, khi thấy ánh lửa và núi bốc khói, toàn dân sợ hãi run rẩy…” (Xh 20,18), và Mười Điều Răn được khắc trên bia đá.
Khác với cảnh tượng dân riêng nhận Giao Ước ở Xinai, Chúa Thánh Thần hiện xuống, tuy có “tiếng động như tiếng gió mạnh ùa vào”, nhưng không làm các Tông Đồ sợ, trái lại, “ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần”. Đó là các ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn thông minh, ơn đạo đức, ơn kính sợ Thiên Chúa, kèm theo các đặc sủng để phục vụ và xây dựng Hội Thánh.
Cũng thế, khác với Mười Điều Răn đã được khắc vào đá, Chúa Thánh Thần hiện xuống đã ghi Luật Tình Yêu của Đức Giêsu vào trái tim mỗi người, và làm hoan lạc tâm hồn bằng hoa trái ngon ngọt của Tình Yêu là “nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật” (1 Cr 13,4-6).
Nhờ thế, các Tông Đồ đã mạnh dạn, hân hoan lên đường rao giảng, làm chứng Đức Giêsu bất chấp mọi gian truân, thử thách, bách hại.
Chúa Thánh Thần hồi sinh và đổi mới thế giới: Thánh Thần là Đấng đã bay là là trên nước khi thế giới được tạo dựng cũng là Đấng sẽ hồi sinh thế giới đã chết bằng một tạo dựng mới, ở đó Ngài ban cho dân Chúa niềm hy vọng và sự sống như ngôn sứ Êdêkien đã tuyên sấm: “Các xương khô kia ơi, hãy nghe lời Đức Chúa. Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này với các xương ấy: Đây Ta sắp cho thần khí nhập vào các ngươi và các ngươi sẽ được sống. Ta sẽ đặt gân trên các ngươi, sẽ khiến thịt mọc trên các ngươi, sẽ trải da bọc lấy các ngươi. Ta sẽ đặt thần khí vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được sống. Bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa” (Ed 37,4-6).
Chính Thánh Thần làm cho “người chết được hồi sinh và đứng thẳng lên: Đó là cả một đạo quân lớn, đông vô kể” (Ed 37,10), một hình ảnh của dân Chúa, như Ítraen đã được Ngài mở huyệt, hồi sinh và đưa về lại đất hứa, dù họ đã như những xương cốt đã khô, và niềm hy vọng đã tàn rụi, tiêu tan (x. Ed 37,11-14).
Với lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Thần làm cho mọi thụ tạo được sống, ban lại sự sống cho những tâm hồn đã chết, và hồi sinh những trái tim đã héo úa, tuyệt vọng. Là Đấng ban sự sống, Ngài làm sống Giáo Hội, đổi mới đời sống người tín hữu và làm cho mọi sự nên mới để có một “trời mới, đất mới”, như ngôn sứ Giôen đã tuyên sấm: “Ta sẽ đổ thần khí Ta trên hết thảy người phàm. Con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, người già được báo mộng, thanh niên được thị kiến” (Ge 3,1). Chính tông đồ trưởng Phêrô đã khẳng định lại điều này khi ngài giảng cho dân chúng tại Giêrusalem trong ngày lễ Hiện Xuống (Cv 2,14-21).
Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa: Thánh Phaolô qủa quyết: “Chẳng có ai ở trong Thần Khí Thiên Chúa mà lại nói: “Giêsu là đồ khốn kiếp!”; cũng không ai có thể nói rằng: “Đức Giêsu là Chúa, nếu người ấy không ở trong Thần Khí” ( 1 Cr 12,3).
Cũng vậy, chính Thần Khí làm cho chúng ta được trở nên con cái, mà “không còn phải là nô lệ nữa” (Gl 4,7) như thánh tông đồ dân ngoại viết cho giáo đoàn Galát: “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: ‘Ápba, Cha ơi’!” (Gl 4,6).
“Hơn nữa, lại có Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên xiết khôn tả. Và Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can, biết Thần Khí muốn nói gì, vì Thần Khí cầu thay nguyện giúp cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8,26-27).
Chúa Thánh Thần cùng với Giáo Hội lên đường truyền giáo: Giáo Hội không thể là Giáo Hội truyền giáo, nếu không có Chúa Thánh Thần, và nhà truyền giáo không thể loan báo Tin Mừng, làm chứng Đức Giêsu, nếu không có Chúa Thánh Thần ở cùng, bởi chính Đức Giêsu phục sinh, khi hiện ra với Nhóm Mười Một, sau khi ban Bình An cho các ông đã nói: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em. Nói xong, Người thở hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,21-23).
Có Chúa Thánh Thần, Giáo Hội an tâm lên đường, hăng say rao giảng, kiên gan làm chứng. Có Chúa Thánh Thần, Giáo Hội luôn tràn đầy sức sống, tình yêu, bình an, và hy vọng trên đường đến với muôn dân như ý muốn của Đức Giêsu. Và với ơn của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội sẽ trung thành và hoàn thành sứ vụ được trao phó.
Lậy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến và đốt nóng tâm hồn nguội lạnh của chúng con, như đã cho “lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần” trong ngày lễ Hiện Xuống. Xin hồi sinh và thánh hoá chúng con để chúng con được trở nên nghiã tử của Thiên Chúa, để cùng với tất cả những người được Chúa kêu gọi là Giáo Hội, chúng con phấn khởi lên đường loan báo Tin Mừng “Thiên Chúa yêu thương nhân loại” dưới sự hướng dẫn và ơn trợ giúp của Thánh Thần Tình Yêu.
Thánh Thần Hiện Xuống Canh Tân Thế Giới, Thần Khí Trao Ban Đổi Mới Tâm Hồn. Chúa Thánh HiệnXuống ABC514
Thánh Thần Hiện Xuống Canh Tân Thế Giới Thần Khí Trao Ban Đổi Mới Tâm Hồn
Chúa Thánh Thần tác động mạnh mẽ nên con người biến đổi hoàn toàn, không chỉ khác thường mà rất lạ lùng, vì họ thông minh đột xuất. Thật vậy, khi thấy một số người “nói tiếng lạ,” người ta bàn tán: “Mấy ông này say bứ rồi!” (Cv 2:13) Có nhiều dạng say, nhưng khi nói say thì người ta thường nghĩ tới dạng say men rượu hoặc bia. Say là trạng thái “không bình thường” ở một con người, khiến người ta suy yếu. Tinh thần và thể lý khác nhau nhưng vẫn liên quan với nhau.
Say là một dạng điên nhẹ, say rượu bia là một dạng điên khùng, say tình là si tình – và chắc chắn không ai si tình bằng Thiên Chúa, vì Chúa Giêsu chết cho những người tội lỗi và ghét Ngài. Văn hào William Shakespeare ví von: “Một chút ái tình cũng như một chút rượu mạnh, cái gì quá cũng làm người ta mắc bệnh.” Si tình thì mới hóa tương tư – loại bệnh không ai trị được, chỉ có “đối tác” mà thôi.
Lợi và hại là hai thứ trái ngược, và thường thì “được nọ, mất kia.” Samuel Johnson xác định: “Một trong những bất lợi của rượu là nó khiến người ta nhầm lẫn ngôn từ với tư duy.” Ngày Lễ Ngũ Tuần, những người “nói tiếng lạ” mà không bất lợi, hoàn toàn hữu ích: Nói về Chúa và nói với Chúa. Họ “say” thật, say tới bến chứ chẳng ngà ngà hoặc là đà, thế nhưng chắc chắn không gì tuyệt vời hơn dạng “say Chúa” như vậy!
Chính Chúa Giêsu đã hứa với các môn đệ trước khi vì “say tình” mà chấp nhận đau khổ và cái chết: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật.” (Ga 14:16-17a) Chúa hứa thì chắc chắn Chúa ban, nhưng bổn phận của chúng ta vẫn phải cầu xin: “Veni Sancte Spiritus! Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến!” Và tín nhân sẽ tràn đầy hạnh phúc khi “say” Thần Khí.
Là tín nhân Kitô giáo – cách riêng là tín nhân Công giáo, ai cũng được biết rằng Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi Ba, được tôn xưng với nhiều danh hiệu: Thần Khí Sự Thật, Thánh Linh, Thánh Thần, Linh Khí, Đấng An Ủi, Đấng Bảo Trợ, Đấng Thánh Hóa, Đấng Canh Tân,… Ngài xuất hiện qua hình chim bồ câu, lửa, nước, và gió. Riêng về gió rất kỳ lạ, có mà không ai thấy, chỉ “thấy” gió qua vật khác – cây, mây, vải,… Chúng ta có thể cảm nhận mà không thể đụng chạm.
Chúa Thánh Thần rất quan trọng trong cuộc đời chúng ta, vì Ngài là Thần Khí Sự Sống. Ngài quan trọng đến nỗi mà Chúa Giêsu đã xác định: “Ai nói phạm đến Thánh Thần thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời.” (Mc 3:29; Lc 12:10) Mọi tội đều được tha, nhưng tội phạm tới Chúa Thánh Thần thì mãi mãi không được tha, nghĩa là “tội cố chấp.” Không chịu nhận mình sai mà sám hối thì ai giúp được gì?
Như chúng ta đã biết rõ, khi đề cập Chúa Thánh Thần, chúng ta quen nhắc tới “bảy ơn Chúa Thánh Thần” – ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn thông minh, ơn đạo đức, và ơn kính sợ Chúa. Cách nói quen thuộc đó do quan niệm của Kinh Thánh cho rằng số 7 là con số kỳ diệu. Chúng ta cũng nói Chúa Thánh Thần có sứ vụ thánh hóa, Ngài luôn tác động trong mỗi người, và chúng ta là đền thờ Chúa Thánh Thần. (x. 1 Cr 3:16) Chúa Giêsu đã về trời để Chúa Thánh Thần đến ở với chúng ta cho đến tận thế, và Ngài không ngừng hoạt động.
Mặc dù Chúa Thánh Thần vô cùng quan trọng trong cuộc đời của mỗi chúng ta, thế nhưng chúng ta lại thường xuyên quên lãng Ngài. Như lời nhắc nhở, trong các giờ phụng vụ, Giáo Hội luôn cầu xin Chúa Thánh Thần ngự đến và thánh hóa mọi sự ngay từ đầu để có hiệu quả đúng theo Ý Chúa, bắt đầu các giờ kinh đều cầu xin Thiên Chúa Ngôi Ba.
Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, đúng như lời Đức Kitô đã hứa trước khi về trời, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như LƯỠI LỬA tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho. (Cv 2:1-4) Thật vậy, mỗi người đều có khả năng riêng – người được ơn này, kẻ được ơn khác, không ai giống ai, không ai bất tài vô dụng như người ta quan niệm. Tài năng riêng của mỗi người chính là ơn của Chúa Thánh Thần, nhưng ơn đó không phải để giữ riêng cho mình rồi chảnh, ích kỷ hoặc kiêu căng, mà là để làm vinh danh Thiên Chúa. Của Chúa thì phải trả lại Ngài, đó là công bằng mà thôi.
Hồi đó ở Giêrusalem có những người Do Thái sùng đạo, từ các dân thiên hạ trở về, nhưng ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình. Họ sửng sốt và thán phục lắm. Đó là hiện tượng “nói tiếng lạ,” nhưng ai cũng hiểu. Các tông đồ chỉ là những người ít học, làm đủ các ngành nghề, chẳng học ngoại ngữ bao giờ, thế mà nay thông minh đột xuất, nói ngoại ngữ như gió, họ thấy nhãn tiền chứ chẳng phải chỉ nghe đồn. Mèn ơi, vô cùng lạ lùng, ngoài sức tư tưởng của phàm nhân chúng ta.
Ngay lúc đó của ngày hôm đó, các tông đồ “nói tiếng lạ” không phải để lòe bịp, khoe khoang hoặc ý đồ gì khác, mà chỉ “loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!” (Cv 2:11) Tận mắt chứng kiến và nghe rõ ràng như vậy, ai cũng sửng sốt, có những người phân vân vì không hiểu như vậy nghĩa là gì, nhưng cũng có những người lại chế nhạo rằng các tông đồ “say” thật rồi. (Cv 2:13)
Tương tự, ngày nay khi thấy “sự lạ” hoặc thấy người khác có “cái lạ” (theo nghĩa tích cực về tâm linh), có người khâm phục và tạ ơn Chúa, nhưng cũng có người gièm pha, chê trách, ghét bỏ,… Có thể họ không nói ra bằng lời, nhưng động thái của họ đã “bật mí” tâm địa của họ. Đây là phương diện cần lưu ý và cẩn tắc, vì “cái tôi” của con người vừa to vừa lớn, choán hết chỗ của những thứ khác, cụ thể là nó “che” tầm nhìn của mình nên chỉ thấy chính mình mà thôi. Thật đáng quan ngại!
Với ít nhiều kinh nghiệm để nhận biết rằng Ơn Chúa luôn chan hòa và kỳ diệu, thế nhưng khi cầu nguyện mà không thấy “được như ý” nên chúng ta cứ tưởng Chúa không ban, thật ra Ngài ban cho chúng ta cái khác có lợi cho chúng ta hơn so với điều chúng ta muốn, bởi vì “Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Người biết hết mọi sự.” (1 Ga 3:20) Thật vậy, “sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người.” (1 Cr 1:24-25) Chắc chắn rằng “tất cả đều là hồng ân,” thế nên chúng ta phải biết tạ ơn, chân thành tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi! Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả!” (Tv 104:1) Trí óc phàm nhân chúng ta không thể đủ sức hiểu sự quan phòng và tiền định của Thiên Chúa.
Thật là khôn ngoan nếu biết “Fiat voluntas Dei – Xin vâng Ý Chúa” theo tâm nguyện của Lm Leo Dehon – thời Công Đồng Vatican I, vị sáng lập Dòng Hiến Sĩ Thánh Tâm, tức là Dòng Linh Mục Thánh Tâm (Oblates of Sacred Heart, Priests of Sacred Heart, tức là SCJ – Prêtres du Sacré Cœur de Jésus.) Đặc sủng của dòng này là các linh mục như nạn nhân của Chúa và sống tinh thần đền tạ Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Thánh Vịnh gia minh định: “Công trình Ngài, lạy Chúa, quả thiên hình vạn trạng! Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan, những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất.” (Tv 104:24) Không có Ngài, chúng ta chẳng làm được trò trống gì, dù là việc nhỏ nhoi, mà thậm chí là chết ngay lập tức. Thiên Chúa là sự sống, Thánh Thần là hơi thở, có Thiên Chúa thì chúng ta nên mới hoàn toàn như “sinh vật lạ,” nhưng chắc chắn rằng thiếu Thiên Chúa thì chúng ta không thể nào sống nổi: “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi. Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này. Vinh hiển Chúa, nguyện muôn năm tồn tại, công trình Chúa làm Chúa được hân hoan.” (Tv 104:29-31)
Là những người Công giáo, ai trong chúng ta cũng mong được nhận thức sâu sắc và đúng đắn về Thiên Chúa, đồng thời khả dĩ định hướng sống rạch ròi: “Nguyện tiếng lòng tôi làm cho Người vui thoả, đối với tôi, niềm vui là chính Chúa.” (Tv 104:34) Chỉ có vậy mới an tâm và thẳng tiến về hướng Trời cao – Quê Hương Vĩnh Hằng.
Ngày xưa, các tông đồ là những người nhát đảm, sợ sệt, đã từng bị Thầy Giêsu trách là “kém tin,” (Mt 6:30; Mt 14:31; Mt 16:8; Mt 17:20; Lc 12:28) nhưng sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các ông trở nên can đảm, mạnh dạn, dám ăn dám nói chứ không “bỏ của chạy lấy người” như trước. Đa số các ông đã tử đạo để minh chứng niềm tin vào Đức Kitô – Đấng Cứu Độ duy nhất. Thật vậy, một Saolê hung hăng và tàn bạo bắt đạo Chúa đã trở thành một Phaolô “mềm như bún” và nhiệt thành rao truyền Đức-Kitô-chịu-đóng-đinh-và-phục-sinh sau khi được Chúa Thánh Thần tác động. Rất nhiều vị thánh trong lịch sử Kitô giáo đã cho thấy rõ sức mạnh của Chúa Thánh Thần hoạt động và biến đổi các ngài. Cầu xin Thiên Chúa Ngôi Ba cũng biến đổi mọi người – đặc biệt là biến đổi những người vô thần để họ sớm trở về với một Chúa duy nhất.
Với giáo đoàn Côrintô, Thánh Phaolô chia sẻ: “Khi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy. Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa. Thế mà điều chúng tôi giảng dạy cho các tín hữu trưởng thành cũng là một lẽ khôn ngoan, nhưng không phải là lẽ khôn ngoan của thế gian, cũng không phải của các thủ lãnh thế gian này, là những kẻ sớm muộn gì cũng phải diệt vong. Trái lại, chúng tôi giảng dạy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn đời, cho chúng ta được vinh hiển.” (1 Cr 2:3-7) Điều đó chứng tỏ sức mạnh của Chúa Thánh Thần đã tác động: Người nhút nhát thành can đảm, người yếu đuối thành mạnh mẽ, người dốt nát thành thông minh, người khờ dại thành khôn ngoan,… Thật tuyệt vời!
Và rồi Thánh Phaolô căn dặn: “Phần chúng ta, chúng ta đã không lãnh nhận thần trí của thế gian, nhưng là Thần Khí phát xuất từ Thiên Chúa, để nhận biết những ân huệ Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Để nói về những điều đó, chúng tôi không dùng những lời lẽ đã học được nơi trí khôn ngoan của loài người, nhưng dùng những lời lẽ học được nơi Thần Khí; chúng tôi dùng những lời lẽ Thần Khí linh hứng để diễn tả thực tại thuộc về Thần Khí.” (1 Cr 2:12-13)
Chắc chắn đúng như vậy và tuyệt đối như thế, bởi vì Chúa Thánh Thần vô cùng quan trọng. Chúng ta cùng nhau hiệp ý cầu xin với cả Giáo Hội qua bài Ca Tiếp Liên: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, và tự trời toả ánh quang minh của Ngài ra! Lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến; Ðấng ban ân huệ, Ðấng soi sáng tâm hồn, xin ngự đến!…” Và Ngài đã đến, đang đến và sẽ đến, để không ai phải mồ côi hoặc cô độc.
Quả thật, Ca Tiếp Liên xác định: “Nếu không có Chúa trợ phù, trong con người còn chi thanh khiết, không còn chi vô tội.” Vì thế mà chúng ta phải không ngừng “xin Chúa rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, và chữa cho lành nơi thương tích, uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng, chỉnh đốn lại chỗ trật đường, ban cho ơn bảy nguồn, được huân nghiệp nhân đức, được hạnh phúc cứu độ và được hoan hỉ đời đời.”
Thực sự được như thế thì vô cùng diễm phúc, vì chúng ta chỉ là phàm nhân cát bụi, tội lỗi ngập đầu, mà được Thiên Chúa ân cần săn sóc. Thảo nào ma quỷ ghen tức với chúng ta nên chúng dàn quân cám dỗ mọi nơi, mọi lúc. Chúng ta càng diễm phúc hơn vì dù chỉ là những tội nhân khốn kiếp mà được phục hồi cả “bộ ba” là nhân vị, nhân phẩm, và nhân quyền – nhờ Máu và Nước cứu độ tuôn trào từ Nguồn Mạch Thương Xót nơi Thánh Tâm Chúa Giêsu. Không chỉ vậy, Thiên Chúa còn ban cho chúng ta được Chúa Thánh Thần luôn ở với chúng ta và hứa ban hồng phúc trường sinh với Ngài trên Thiên Quốc, vì chính Chúa Giêsu, Đấng cứu độ chúng ta, muốn rằng Ngài ở đâu thì chúng ta cũng ở đó. (Ga 14:3) Đúng là còn hơn là diễm phúc hoặc đại phúc nữa. Deo gratias!
Chính Chúa Giêsu cho biết rằng Ngài về trời để dọn chỗ cho chúng ta, (Ga 14:2) vì ích lợi của chúng ta, (Ga 16:7) nhưng vì quá đỗi yêu thương chúng ta nên Ngài sợ chúng ta mồ côi, (Ga 14:18) thế nên Ngài hứa ban Chúa Thánh Thần ở hẳn trong mỗi chúng ta, (Ga 14:16) và lời hứa đó được thực hiện vào ngày Lễ Ngũ Tuần, sau khi Chúa Giêsu về trời được 10 ngày. Và lúc nào cũng là Lễ Ngũ Tuần đối với tín nhân chúng ta nếu biết mở rộng tâm hồn đón nhận Chúa Thánh Thần, để cho Ngài biến đổi.
Thánh Gioan cho biết: Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” (Ga 20:19) Một lời chúc tuyệt vời, vì đó là “hơi ấm” mà ai cũng cần, cả trong cuộc sống đời thường và tâm linh. Nói xong, Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Ôi, không vui sao được vì Thầy đã sống lại đúng như Ngài tiên báo. Cứ tưởng Thầy chết là “chấm hết,” nào ngờ Thầy vẫn “nguyên si.” Thật là sung sướng quá chừng luôn!
Chắc hẳn lúc đó các ông sướng rơn nên không biết nói gì. Rồi Ngài lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em.” (Ga 20:21) Một hệ lụy tất yếu. Sướng thì sướng thật, nhưng phải có trách nhiệm, và không được ích kỷ, nghĩa là phải chia sẻ niềm vui đó cho người khác. Đó là công bình và hiệp nhất.
Chúa Giêsu vừa dứt lời thì thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ.” (Ga 20:22-23) Một lần nữa, Chúa Giêsu lại tiếp tục thể hiện Lòng Thương Xót một cách cụ thể: Bí tích Hòa giải. Đúng như Ngài đã từng bảo ông Phêrô khi ông hỏi Ngài về mức độ tha thứ: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.” (Mt 18:22) Ngài là Đấng giàu lòng thương xót, là Thiên Chúa tình yêu, với Thánh Tâm ngùn ngụt Lửa Yêu nên Ngài dạy phải sống bao dung chứ đừng “bung dao,” phải “yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho người ngược đãi mình.” (Mt 5:44) Như thế mới là thực hành Lòng Thương Xót và “mới được trở nên con cái của Chúa Cha.” (Mt 5:45) Nếu không, chúng ta chẳng đáng công chi, chẳng hơn người thu thuế và người ngoại đạo. (Mt 5:46-48)
Để có thể hành động đúng như Chúa Giêsu mong muốn thì chúng ta phải thực sự can đảm, muốn can đảm thì phải có ơn Chúa Thánh Thần, muốn có ơn Chúa Thánh Thần thì phải cầu xin Ngài ngự đến. Thật vậy, không có Thiên Chúa thì chúng ta chẳng làm gì được. (Ga 15:5) Chúng ta chỉ vô dụng nếu không có Chúa Thánh Thần.
Mọi tín nhân đều là những người được Chúa Giêsu sai đi như chiên vào giữa bầy sói, vì thế phải “khôn ngoan như rắn và đơn sơ như bồ câu” (Mt 10:16), tức là cần ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần. Thật vậy, Thánh Phêrô vừa cảnh báo vừa căn dặn: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé.” (1 Pr 5:8) Nhìn vào mặt trời rất chói mắt, những ai theo Đức Kitô đều bị ma quỷ tìm cách phá – rõ ràng và cụ thể là luôn có bách hại Kitô giáo, càng ngày càng tinh vi hơn.
Thật thú vị với các biểu tượng về Chúa Thánh Thần: Bồ câu hiền lành và thân thiện với mọi người, tượng trưng hòa bình (bình an, an bình); Lửa có tính “nhiệt” (nóng, dương); Nước có tính “hàn” (lạnh, âm), âm dương hòa quyện Đất Trời; Gió làm hạ nhiệt, gió từ quạt máy không thể so với làn gió nhẹ từ thiên nhiên. Lửa, Gió và Nước là những thứ rất mềm, nhưng lại “cứng” hơn mọi thứ khác, và không ai có thể “cắt đứt” chúng. Chúa Thánh Thần cũng vậy, khi Ngài đã hành động thì không một sức mạnh nào có thể cưỡng lại. Ngoài ra, lửa có một đặc điểm khác là càng chia sẻ càng thêm nhiều, chứ không giảm bớt. Quả là kỳ diệu vô cùng!
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin tạ ơn Ngài đã cho chúng con được làm người và làm con cái của Ngài. Xin ban Thần Khí để chúng con được sống dồi dào và đủ sức hoàn thiện theo Thánh Ý Ngài, nhờ đó chúng con có thể can đảm làm nhân chứng nhân sống động và hiệu quả. Xin cho chúng con được say Tình Ngài, trở nên khí cụ bình an của Ngài, xin Lửa Thánh Thần “thiêu đốt” và “uốn nắn” chúng con nên mới mỗi ngày một hơn, đồng thời luôn bảo vệ chân lý của Ngài.
Lạy Thiên Chúa nhân lành, tạ ơn Ngài đã thương Việt Nam cách riêng trong cơn đại dịch Corona, không để chúng con chịu thiệt thòi như những quốc gia khác. Xin Chúa tiêu diệt virus ở những nơi khác, nhất là những nơi tâm dịch. Xin Chúa thêm sức cho mọi người, và xin cho những người thiệt mạng vì đại dịch được về hưởng Thánh Nhan Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Khi nói tới sức mạnh, khuynh hướng chung vẫn được nhắc tới là sức mạnh đồng tiền, sức mạnh HiệnXuống ABC515
Khi nói tới sức mạnh, khuynh hướng chung vẫn được nhắc tới là sức mạnh đồng tiền, sức mạnh quen biết: nhất thân, nhì thế, tam quyền, tứ chế. Khi sử dụng ngôn ngữ diễn tả sự việc, người ta thường nói bằng: ngôn ngữ bác học, ngôn ngữ bình dân, dù sao thì hiểu, biết, và cùng nhau hành động, đó mới là cùng đích của mỗi người nơi cuộc sống này. Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân, sẽ không còn phải là phát hiện mới, khi mà xã hội loài người từ lâu đã biết chú ý đến cái đẹp hình thức và nội dung, cái đẹp toàn tiện nơi một người lý tưởng. Món quà học trò mơ ước nơi người thầy của mình là tiếp thu được kiến thức, niềm vui cha mẹ mong đợi ở con cháu là nên người tài đức, và đích đến của mỗi người nơi trần thế phải là hạnh phúc.
Bằng ngôn ngữ của tình yêu, hồng ân được ban cho các môn đệ chẳng phải là sự hiểu biết thông thường, cũng không phải là sức mạnh tiền của, quyền lực, hay sự thông thái toàn diện, hạnh phúc thế trần. Đấng phục sinh ban tặng học trò món quà mà các ông chưa bao giờ nghĩ tới: bình an cho các con. Các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Các môn đệ chiều hôm đó không được Thầy cho quyền lựa chọn quà vật chất hay tinh thần, các ông còn được thôi thúc mở lòng đón nhận hồng ân: “các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha, các con cầm tội ai thì tội người ấy bị cầm lại”. Hãy lãnh nhận hồng ân Thánh Thần, hiện vẫn còn sống động và tự do nơi người tín hữu theo Đức Kitô, vì chưng, sức mạnh của tình yêu, hay ngôn ngữ của hiệp thông, đều khởi đi từ mầu nhiệm cứu độ giữa tình Chúa và tình người trong Đấng phục sinh.
Sống trên đời, khổ đau túng thiếu vật chất, cần được bổ túc giúp đỡ, tài giỏi giầu có, cần khôn ngoan chia sẻ, biết sử dụng số vốn mình đang sở hữu. Niềm tin kitô giáo chỉ có ý nghĩa khi tình hiệp thông liên đới với Đấng là Đầu, là Thân, và mọi phần tử được chuyển thông sức sống, hầu sinh hoa trái thánh thiện. Đấng phục sinh chiến thắng thế gian và sự chết là vì yêu thương, là muốn cứu tất cả nhân loại khỏi trầm luân, do đó, quà tặng hay ơn ban không những cần được linh hoạt, mà người nhận lãnh phải hết sức khôn ngoan, biết sử dụng món quà đặc biệt đó theo ý Đấng ban tặng. Kinh nghiệm cho thấy: sở hữu được tri thức ở đời, ai cũng phải chăm chỉ, nỗ lực học hỏi, có được bình an hạnh phúc nơi tâm hồn, tưởng chừng hết sức đơn giản, đó là bạn biết sử dụng, biết chia sẻ vốn tài nguyên mà mình đang có.
Để trở nên thành toàn cho cuộc sống mình, ai cũng cần có vốn, cần biết đầu tư công sức: khi nghèo ta phải ra ngoài tìm việc, kiếm sống, ít có thời gian ở nhà với gia đình, người thân. Đủ sống, đủ giầu, ta có của ăn của để rồi, ở nhà với gia đình, hạn chế ra ngoài giao du, đó là nghệ thuật sống, đó là khôn ngoan thế gian. Hồng ân mà Đấng phục sinh trao ban cho các tông đồ là gì, quà tặng vô cùng cao quý, học trò Thầy Giêsu và chúng ta hôm nay đã và đang thực hành thế nào ? Món quà Đấng phục sinh thông ban không phải là vật chất, đôi mắt tinh tế và đầu óc thông thái, cũng vô ích, trước hồng ân rất trọng đại. Chỉ những ai là học trò, là môn đệ, mắt đức tin và trí lòng mới đủ cảm nhận: ơn bình an, tình yêu phục vụ, thực sự phát huy niềm vui sự sống. Đúng như lời Thầy Giêsu đã từng cầu nguyện cho các môn đệ: “không ai biết Con trừ ra Cha, và không ai biết Cha trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho”. (Mt 11, 27)
Người ta có chia sẻ câu chuyện về “quà tặng cuộc sống” như sau: người cha già trước khi từ giã cuộc đời, ông gọi đứa con trai duy nhất đến và nói đôi lời trần tình với con. Ta xin lỗi con vì không để được cơ nghiệp vật chất nào cả, nhưng ta tự hào vì con trai ta đã khôn lớn như hôm nay. Hy vọng rằng sau khi ta về với cội nguồn, con trai ta sẽ phát hiện được hồng ân cao trọng nơi tổ tiên dòng tộc nhà mình. Người con trai lặng thinh, đầy ắp kỷ niệm trước cảnh bắt buộc phải chia tay lúc này. Phận làm con, có bao giờ ta đã suy nghĩ gì về món quà mà hiện tại cha mẹ để lại cho mình không ?
Các môn đệ năm xưa không ai ý kiến, kèo nài, thắc mắc,… các ông thinh lặng “như thể” đã hiểu “tài sản quí”, “quà tặng thiết thực”, Thầy ban tặng: “các con hãy nhận lấy Thánh Thần,….”. Có phải tình yêu đã thay lời muốn nói, có phải giá trị tinh thần thiết thực hơn cho tương lai phía trước đối với tình cha con, thầy trò ? Quà tặng cuộc sống là lời hay ý đẹp, là kiến thức để hiểu, để biết và để sống ở đời này. Tài sản vật chất tiền của, là nhu cầu nuôi sống thân xác qua ngày tháng năm. Đấng phục sinh đã nói với các môn đệ, và đang nói với ta “nhận lấy hồng ân” nào ? Có phải là “hồng ân Thánh Thần, hồng ân sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa”, sẽ hoạt động trong tương quan yêu thương không ? Amen.
Hôm nay là một ngày đặc biệt, ngày đại lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, ngày sinh nhật của Giáo HiệnXuống ABC516
Hôm nay là một ngày đặc biệt, ngày đại lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, ngày sinh nhật của Giáo Hội. Phụng vụ Lời Chúa nói nhiều đến Chúa Thánh Thần. Có lẽ trong Ba Ngôi Thiên Chúa, Chúa Thánh Thần là Đấng thường bị quên lãng, ít được biết đến. Hơn nữa, nói về Chúa Thánh Thần là một điều gì đó rất khó khăn. Bởi lẽ, Người là Đấng thiêng liêng sáng láng vô cùng, một khuôn mặt bí nhiệm và ẩn dấu nhất trong Thiên Chúa. Để giúp chúng ta hiểu điều gì đó về Người, tôi mời gọi anh chị em suy niệm về Chúa Thánh Thần là ai và Người có vai trò gì qua tước hiệu Đấng Bảo Trợ?
1- Đấng Bảo Trợ là ai?
Như chúng ta biết, mạc khải về Chúa Thánh Thần là một mạc khải tiệm tiến.
Trong Cựu Ước, Thánh Thần được đề cập đến rất nhiều lần qua các hình ảnh như hơi thở, gió, nước, lửa…, nhưng chưa được quan niệm như một vị Thiên Chúa, chỉ là một hành động, một sức mạnh thần linh, là nguyên lý, hay sự sống đến từ Thiên Chúa. Bởi vì, Cựu Ước chỉ tin vào Thiên Chúa duy nhất, nghĩa là niềm tin độc thần. Phải đợi đến mạc khải Tân Ước, chúng ta mới biết rõ hơn về Người.
Chúa Giêsu đến mang đến cho chúng ta một sự mới mẻ về mầu nhiệm Thiên Chúa, theo đó, Thiên Chúa không phải là một vị Thiên Chúa đơn độc, nhưng là một Thiên Chúa có Ba Ngôi, một cộng đoàn: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần hiệp nhất và yêu thương.
Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta về ngôi vị tính và thần tính của Chúa Thánh Thần qua danh hiệu Đấng Bảo Trợ (Paracletus): “Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha” (Ga 15, 26).
Ở đây, Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta biết: Chúa Thánh Thần không còn là một hành động, nhưng là một chủ thể, không phải là một cái gì, nhưng là một ngôi vị, không phải là một thụ tạo, như một số lạc giáo chủ trương, nhưng là Tạo Hóa. Người phát xuất từ Chúa Cha, nên Người ngang hàng với Chúa Cha và Chúa Con. Người là Thiên Chúa Ngôi Ba. Vì thế, chúng ta phải phụng thờ và tôn vinh Người như là Thiên Chúa cùng với Chúa Cha và Chúa Con. Đó là niềm tin mà Giáo Hội tuyên xưng qua hàng thế kỷ, được Công Đồng Constantinople I (431) định tín: Chúng tôi tin Chúa Thánh Thần là Đức Chúa và là Đấng Ban Sự Sống.
2- Vậy Người có vai trò gì đối với mỗi người chúng ta?
Được sai đến với tư cách là Đấng Bảo Trợ khác, Thánh Thần đóng vai trò thay thế cho Chúa Kitô, để hướng dẫn, bảo vệ và đồng hành với các môn đệ và mỗi người chúng ta trong cuộc sống mỗi ngày.
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu cho chúng ta biết những việc cụ thể Người làm: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi. Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến” (Ga 16, 12-13). Quả thật, Chúa Thánh Thần đến không thực hiện một chương trình cứu độ khác, nhưng Người tiếp tục và hoàn tất công trình cứu độ mà Chúa Kitô đã thực hiện. Thánh Thần nhắc lại cho họ những gì Chúa dạy, soi sáng cho họ hiểu lời nói và việc làm của Chúa Kitô. Người hướng dẫn họ đến với Chúa Kitô là đường, là sự thật và là sự sống. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta hiểu biết tất cả những điều này. Nếu không có Chúa Thánh Thần thì không ai có thể nói rằng “Đức Giêsu là Chúa” (1 Cr 12, 3).
Bằng chứng rõ ràng về vai trò của Chúa Thánh Thần qua biến cố Hiện Xuống: Trước đó, dầu các môn đệ sống gần gũi bên Chúa Giêsu, diện đối diện với Người, nhưng họ chưa có thể nhận biết Người là ai, vì họ chưa đón nhận sự soi sáng của Chúa Thánh Thần. Sau khi Chúa chết, các môn đệ đều thất vọng, hoang mang và sợ sệt, luôn nhốt mình ở trong phòng kín, nhưng khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, họ can đảm ra đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh, nói được tiếng lạ, chữa lành các bệnh tật và trừ quỷ.
Vì thế, các giáo phụ gọi Chúa Thánh Thần là “sự thông hiểu các mầu nhiệm Thiên Chúa.” Thánh Basiliô Cả có một tóm tắt rất ý nghĩa: “Con đường để hiểu biết Thiên Chúa đi lên từ Ngôi Thánh Thần qua Ngôi Con tới Ngôi Cha. Ngược lại, sự tốt lành, sự thánh thiện và sự cao trọng Thiên Chúa đến từ Chúa Cha, qua Con Một yêu dấu tới Chúa Thánh Thần.”
3- Để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn
Chúa Thánh Thần là quà tặng của Đấng Phục Sinh ban cho Giáo Hội và cho mỗi người chúng ta, như là Đấng Bảo Trợ. Người không phải là Thiên Chúa ở trên, nhưng là Thiên Chúa ở trong chúng ta. Người ngự trong lòng mỗi người chúng ta vì chúng ta là đền thờ của Người. Người hiện diện và đồng hành với mỗi người chúng ta để ban sức sống, soi sáng và hướng dẫn chúng ta tới chân lý toàn vẹn là Chúa Kitô. Để được Người hướng dẫn, tôi mời gọi chúng ta thực hành ba việc sau đây:
1) Mỗi ngày chúng ta hãy nhớ đến Người, ý thức về sự hiện diện và hoạt động của Người, nhất là hãy nhạy bén với hoạt động của Chúa Thánh Thần, và để cho Người hướng dẫn chúng ta qua ước muốn, suy nghĩ, lời nói và hành động của chúng ta. 2) Trước khi làm gì, chúng ta hãy cầu nguyện xin Người hướng dẫn và soi sáng cho chúng ta. 3) Mỗi sáng thức dậy, chúng ta hãy nhớ ngay đến Chúa Thánh Thần và thầm nguyện với Người, xin Người là Đấng Bảo Trợ của con trong ngày mới. Amen!
Sau ngày Chúa Kitô bị giết, kể cả sau khi Người sống lại, các môn đệ của Chúa Kitô rất sợ HiệnXuống ABC517
Sau ngày Chúa Kitô bị giết, kể cả sau khi Người sống lại, các môn đệ của Chúa Kitô rất sợ hãi. Họ trở thành những kẻ bạc nhược, mất hết can đảm, mất hết ý chí vươn lên. Ngay cả khi ở trong nhà, họ vẫn đóng kín cửa. Thánh Gioan nói rõ, “họ đóng kín cửa nhà vì sợ người Dothái” (Ga 20, 20).
Vậy mà ngày lễ Ngũ tuần năm ấy, mọi sự khác hẳn. Đó chính là ngày Chúa Thánh Thần ngự đến trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa. Từ đây, đánh dấu thời điểm các tông đồ không còn biết sợ, nhưng mở bung cửa nhà, lên tiếng tuyên xưng đức tin Chúa Kitô Phục sinh và thi nhau rao giảng ơn cứu độ của Chúa Kitô ngay lập tức bằng mọi ngôn ngữ, không một chút sợ hãi….
Lưỡi tượng trưng cho lời nói. Hình lưỡi có ý nhấn mạnh công tác truyền giáo của các môn đệ Chúa Kitô. Bởi khi thực hành công tác truyền giáo, các môn đệ nối tiếp sứ mạng của Chúa Kitô trong sự trợ lực và nâng đỡ lớn lao của Chúa Thánh Thần.
Còn lửa tượng trưng cho tình yêu và lòng nhiệt thành. Các môn đệ Chúa Kitô sẽ là những người mang trong mình tình yêu của Thiên Chúa, họ hãy nhiệt thành suốt đời truyền bá Tin Mừng tình yêu của Chúa.
Chính Chúa Thánh Thần là nguồn tác sinh tình yêu và lòng nhiệt thành này nơi các môn đệ của Chúa Kitô, để càng ngày các môn đệ càng hăng hái hơn trong trách vụ loan báo Tin Mừng của mình. Như vậy, hình lưỡi lửa trong ngày lễ Hiện Xuống, chính là hình ảnh của Chúa Thánh Thần gắn liền công tác truyền giáo của các môn đệ Chúa Kitô.
Lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần ngay trong ngày Người ngự đến, lòng các tông đồ được biến đổi nên dũng cảm phi thường. Từ những kẻ chỉ biết sợ, từ đây, các tông đồ quyết tâm sống chết cho Tin Mừng mà mình lãnh nhận. Không chỉ mở bung cửa nhà tiệc ly, họ còn tỏa ra khắp thế giới làm cho niềm tin vào Chúa Phục sinh lan rộng không ngừng.
Chính ngày Chúa Thánh Thần ngự đến là cột mốc đánh dấu thời gian lòng can đảm bùng lên mạnh mẽ nơi Hội Thánh Chúa Kitô.
Lòng can đảm đó cần thiết cho mỗi chúng ta là những Kitô hữu khi nối tiếp sứ mạng các tông đồ. Chúng ta cũng phải lên đường truyền giáo. Cuộc lên đường của chúng ta là đời sống mỗi ngày trong trách nhiệm sống đức tin, sống tình yêu thương, sống ơn hiệp nhất để làm chứng cho Tin Mừng của Chúa.
Lòng can đảm đó càng cần thiết khi ta quyết giữ lòng mình sốt sắng, mến yêu Chúa, lo tuân giữ luật Chúa giữa một thế giới nhiều cám dỗ, nhiều đau khổ mà nhân loại gây ra cho nhau.
Như các tông đồ xưa, ta sốt sắng cầu nguyện cùng Chúa Thánh Thần, mở lòng đón nhận Chúa Thánh Thần, xin Người ban cho ta lòng can đảm, để ta dấn thân cho Tin Mừng suốt đời ta.
Sách Công vụ Tông đồ từng ghi nhận sự hiện diện của Đức Maria nơi tông đồ đoàn khi họ cầu nguyện tại nhà tiệc ly, sau khi Chúa Kitô về trời.
Chúng ta cũng hãy cậy nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ để làm phát sinh hoa trái của ơn Chúa Thánh Thần trong tâm hồn mình. Cậy nhờ Đức Mẹ, không chỉ vì Đức Mẹ xứng đáng dâng lời cầu nguyện hơn ta, mà còn vì Đức Mẹ cảm nghiệm thâm sâu về Chúa Thánh Thần qua cả một chiều dài của đời sống kết hiệp cùng Chúa Kitô trong suốt cuộc đời của Mẹ. Hơn nữa, Mẹ đã nhận được chính Chúa Thánh Thần là quà tặng của Thiên Chúa trao ban, để từ nơi Mẹ, Chúa Kitô nhập thể làm người.
Với vai trò thật lớn lao của Đức Mẹ như thế, càng khiến chúng ta phó thác cho lời chuyển cầu của Đức Mẹ trong việc hưởng nhờ hoa trái của ơn Chúa Thánh Thần trong suốt đời ta. Như vậy sự cầu nguyện của ta và công nghiệp của Đức Mẹ sẽ là bí quyết chắc chắn dẫn ta đến cùng Thiên Chúa, hưởng nhờ hoa trái của ơn Chúa Thánh Thần và ngày càng xứng đáng là Con Thiên Chúa.
Khi tặng cho nhau một món quà, người ta thể hiện sự trân trọng và quan tâm đến người khác. Trước HiệnXuống ABC518
Khi tặng cho nhau một món quà, người ta thể hiện sự trân trọng và quan tâm đến người khác. Trước lúc chia ly với các môn đệ, Chúa Giêsu không hứa ban cho các ông một món quà vật chất, mà đó là món quà thiêng liêng. Món quà này là chính Chúa Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa. Trước đó, Người cũng nhiều lần nói tới sứ mạng và vai trò của Chúa Thánh Thần: Đấng Bảo trợ, Thần Chân lý. Chính Chúa Thánh Thần sẽ giúp các môn đệ hiểu rõ giáo lý mà Chúa Giêsu đã rao giảng. Nếu Chúa Giêsu, Đấng thành lập Giáo Hội, đã hứa sẽ ở với Giáo Hội mọi ngày cho đến tận thế, thì Chúa Thánh Thần là Đấng đồng hành với Giáo Hội mọi nơi mọi thời, hầu làm cho cộng đoàn tín hữu mà Chúa Giêsu đã quy tụ được lớn mạnh phát triển không ngừng. Lời hứa tặng quà đã được thực hiện trong ngày lễ Ngũ Tuần, một ngày hành hương quan trọng của người Do Thái và của các sắc dân khác về Giêrusalem. Tác giả sách Công vụ Tông đồ đã kể lại sự kiện này (Bài đọc I). Chính các tông đồ cũng ngỡ ngàng khi thấy lưỡi lửa đậu xuống trên đầu mỗi người. Ân ban đầu tiên mà Chúa Thánh Thần ban cho các ông, đó là ơn lợi khẩu và ơn can đảm. Trước đó, các ông là những người nhút nhát sợ sệt, phải đóng kín cửa phòng vì sợ người Do Thái. Từ khi nhận được Chúa Thánh Thần, các ông đã mở tung cánh cửa. Nỗi sợ đã biến tan. Phêrô, một người dân chài ít học, bỗng trở thành nhà giảng thuyết hùng hồn. Lời giảng của ông có tính thuyết phục mạnh mẽ lạ lùng. Ngày đầu tiên đã có ba ngàn người xin theo Đạo. Chúa Thánh Thần đến quy tụ muôn người nên một, để làm thành dân Israen mới. Đây là dân hợp nhất trong tình mến, mặc dù khác biệt đa dạng về văn hóa và ngôn ngữ. Nếu ngày xưa, tháp Baben là nguyên nhân của ly tán, thì nay, lễ Ngũ tuần là nguyên lý quy tụ. Sách Tông đồ Công vụ kể lại với chúng ta về sự hiệp nhất của cộng đoàn đức tin tiên khởi. Mọi người yêu thương đến nỗi nên một, chuyên tâm nghe Lời Chúa, cầu nguyện và thực thi bác ái. Tiếp nối ý tưởng quy tụ và hiệp nhất, thánh Phaolô đã so sánh Giáo Hội với một thân thể. Dù gồm nhiều chi thể, nhưng chỉ là một thân thể duy nhất, luôn hiệp nhất với nhau và góp phần làm cho thân thể nên vững mạnh (Bài đọc II). Chính Chúa Thánh Thần là hơi thở làm cho thân thể Giáo Hội sống động. Chúa Thánh Thần cũng là điểm nối kết, giúp cho tình hiệp thông của thân thể Giáo Hội ngày càng chặt chẽ và keo sơn. Như thế, những ai sống trong chia rẽ là đi ngược lại với ơn của Chúa Thánh Thần, thậm chí chống lại tác động của Ngài. Bởi lẽ Ngài là Đấng kết nối và duy trì tình hiệp thông. Chính sự hiệp thông kỳ diệu này làm nên sức mạnh của Giáo Hội và làm cho Giáo Hội tỏa sáng giữa lòng thế giới. Theo tác giả Tin Mừng Thánh Gioan (Bài Tin Mừng), Chúa Giêsu Phục sinh ban tặng Chúa Thánh Thần ngay vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, tức là ngày Người từ cõi chết sống lại. Cùng với quà tặng là Chúa Thánh Thần, Đấng Phục sinh còn ban cho các ông sự bình an và quyền điều hành Giáo Hội, thường được gọi là quyền tháo cởi và ràng buộc. Như thế, ba món quà (Chúa Thánh Thần, ơn bình an và quyền điều hành) đi liền với nhau, tạo cho Giáo Hội sức mạnh và làm cho Giáo Hội luôn vững vàng trường tồn. Hai ngàn năm đã qua, được khích lệ bằng sự bình an của Đấng Phục sinh, Giáo Hội thi hành sứ mạng của mình, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Nhờ Chúa Thánh Thần, mà Giáo Hội không giống một thể chế chính trị trần gian. Những thể chế này, có những lúc hùng mạnh vô địch, nhưng sự hùng mạnh đó không được bền lâu, vì cũng đến lúc suy tàn. Với lễ Hiện xuống, Mùa Phục sinh khép lại. Tuy vậy, Đấng Phục sinh vẫn ở với chúng ta. Cùng với Người, Chúa Thánh Thần được sai đến để tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu là cứu độ con người. Vì vậy, các nhà thần học gọi thời hiện tại là “kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần”. Chúng ta hãy cộng tác với Ngài, làm cho giáo huấn của Chúa Giêsu được loan truyền khắp thế giới. Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Giáo Hội kỷ niệm ngày mình được sinh ra. Giáo Hội cũng nhắc nhớ mọi tín hữu hãy đón nhận Chúa Thánh Thần là quà tặng của Chúa Giêsu Phục sinh, đồng thời ý thức về sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần trong đời sống hằng ngày, để luôn biết kêu cầu ơn phù trợ của Ngài. Chúa Thánh Thần là Đấng ban cho chúng ta những ơn cần thiết trong đời sống. Nhờ Ngài mà chúng ta vững vàng tiến bước trong hành trình nên thánh. Chân thành lắng nghe và thiện chí thực hiện những hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, chắc chắn chúng ta sẽ tìm được bình an thư thái và niềm vui hạnh phúc trong cuộc đời.
Trong đợt thường huấn ngày 16/5/2017 của linh mục đoàn Giáo phận Xuân lộc được nghe các HiệnXuống ABC519
Trong đợt thường huấn ngày 16/5/2017 của linh mục đoàn Giáo phận Xuân lộc được nghe các cha phụ trách giới trẻ các Giáo Hạt báo cáo về tình hình giới trẻ và các hoạt động dành cho giới trẻ.
Tất cả các báo cáo đều cho rằng giới trẻ xuống cấp về tinh thần, về đạo đức, về dấn thân. . . Và các hoạt động cho giới trẻ đều không được giới trẻ hưởng ứng bao nhiêu!
Ngồi bên tôi có một cha nói nhỏ rằng: như vậy giáo dục đức tin của mình từ nhỏ cho thiếu nhi vất đi hết rồi sao? Chẳng lẽ việc giáo dục của thế hệ trước không mang lại thành quả nào cho thế hệ hôm nay?
Thực ra, ở thời điểm nào cũng có cái ưu và cái khuyết. Thế hệ nào cũng có điểm mạnh và điểm yếu. Cuộc sống vốn dĩ không trọn vẹn. Nhưng con người lại chỉ nhìn thấy bất toàn nơi tha nhân mà không nhìn thấy nơi chính mình. Họ chỉ thấy rác nơi người khác mà không thấy cái đà nơi bản thân. Họ luôn đòi người khác canh tân mà không nghĩ đến việc mình phải canh tân.
Điều quan yếu là hãy nhìn đến sự hoạt động của Chúa Thánh Thần trong chính bối cảnh lịch sử. Chúa Thánh Thần thời nào cũng làm chủ lịch sử. Chúa Thánh Thần vẫn dẫn dắt Giáo hội, dẫn dắt thế giới. Dù con người có phản loạn, chống đối hay phá hủy đường lối Thiên Chúa nhưng sức mạnh của Chúa Thánh Thần vẫn chiến thắng thế gian. Ngài vẫn dẫn dắt thế gian đi đến sự viên mãn theo thánh ý Chúa.
Vì vậy, hãy đọc ra được lời mạc khải của Chúa Thánh Thần qua thời đại hôm nay. Đừng lấy thời đại của thế kỷ 20 mà so với thế kỷ 21. Mỗi thời đại con người có những thay đổi, những xu hướng thích nghi mang tính đặc trưng của thời đại.
Cụ thể nơi giới trẻ ngày nay ta thấy họ năng động hơn. Họ hoạt động theo nhóm hiệu quả hơn. Họ dám nghĩ dám làm đôi khi không cần sự dẫn dắt của người lớn kể cả linh mục.
Ở vùng Hố Nai ta vẫn thấy các nhóm trẻ hoạt động trong nghệ thuật như nhóm Tin yêu, nhóm Muối Men cho đời. Về lãnh vực bác ái ta vẫn thấy nhóm Ve chai, nhóm Khát Vọng, nhóm Nụ cười . . .
Đây là những nhóm đều xuất phát từ một số bạn trẻ cùng khao khát xây dựng thế giới tốt đẹp hơn. Họ đã liên đới với nhau để cùng nhau làm cho ý tưởng của mình được thực hiện. Có những nhóm cũng mời gọi được các linh mục đồng hành, linh hướng. Có những nhóm họ vẫn hoạt động tự lập nhưng vẫn mang lại tiếng vang tốt trong lý tưởng dấn thân của họ.
Đây là những nhân tố là muối, là men cho đời. Họ dám sống và làm việc cho ý tưởng tốt đẹp của mình là mang tình yêu Chúa đến thế giới qua những hoạt động xây dựng xã hội tốt đẹp và giầu tình thân ái hơn. Họ dấn thân một cách vô vị lợi và đầy lòng quảng đại. Họ là nhân chứng cho thế gian. Mặc dầu con người ngày nay sống dửng dưng trước anh em thì họ lại dấn thân vì tha nhân. Mặc dầu con người ngày nay sống chỉ tìm kiếm hưởng thụ cho bản thân thì họ lại sống hết mình vì tha nhân. Thế nên, hãy nhìn Chúa Thánh thần vẫn đang hoạt động trong giới trẻ theo nhu cầu của thời đại hôm nay.
Lần giở lại Kinh Thánh ta thấy: trong công trình tạo dựng mọi sự đều tốt đẹp là nhờ tác động của Chúa Thánh Thần. Trong việc khai sinh Hội Thánh cũng nhờ Chúa Thánh Thần đã biến đổi các tông đồ nên một con người mới, có khả năng canh tân thế giới. Chính nhờ Chúa Thánh Thần đã thổi tan những sợ hãi nơi các tông đồ để các ngài dấn thân rao giảng Tin mừng. Nhờ Chúa Thánh Thần đã làm mới suy nghĩ nơi các tông đồ để các ngài dấn thân đem tin mừng của Chúa đến tận cùng thế giới.
Hôm nay, mừng kính Chúa Thánh Thần là dịp nhắc nhở chúng ta về sự hiện diện đầy quyền năng của Chúa Thánh Thần trong thế giới. Ngài tiếp tục tác động để chương trình của Chúa được thực hiện nơi mỗi người chúng ta. Vì vậy, chúng ta hãy biết mở rộng lòng đón nhận Chúa Thánh Thần. Hãy để Chúa Thánh Thần canh tân đổi mới cuộc đời chúng ta. Chúa Thánh Thần vẫn không ngừng canh tân bộ mặt trái đất. Hãy cộng tác với ơn Chúa Thánh Thần để đổi mới trần gian. Ước gì mỗi người chúng ta đều được Chúa Thánh Thần thánh hóa thành con cái Chúa thì cũng được Chúa Thánh Thần thúc đẩy ra đi loan báo tin mừng. Ước gì chúng ta cũng trở thành chứng nhân cho thế giới về tình yêu, sự hiệp nhất, bình an mà Chúa Thánh Thần sẽ mang đến cho trần gian. Amen.
Thomas Hermon, một phi công tài giỏi người Mỹ. Anh được sai đi ném bom vùng nhiệt đới nước HiệnXuống ABC520
Thomas Hermon, một phi công tài giỏi người Mỹ. Anh được sai đi ném bom vùng nhiệt đới nước Brasil, trong trận thế chiến lần thứ II. Máy bay trục trặc, anh nhảy dù ra ngoài thoát nạn. Anh rơi xuống khu rừng rậm đầy gai góc và thú dữ. Anh phải xoay sở hơn một tháng trời mới ra khỏi khu rừng, tìm đường về nhà. Khi được hỏi làm thế nào anh thoát nạn? Anh trả lời:
– Tôi thoát nạn là nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Qua bí tích thêm sức tôi đã lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần. Tôi xin Ngài hướng dẫn, dìu dắt tôi về nhà bình an.
Như Thomas Harmon, chúng ta cũng đã lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần qua bí tích Thêm Sức. Hôm nay, chúng ta xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn dìu dắt ta, ban dồi dào ơn cho ta.
Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống nhắc chúng ta nhớ lại biến cố Chúa hiện xuống với các tông đồ trong nhà tiệc ly cách đây gần 2000 năm. Cách đây 10, 20, 30 hay 40 năm, Chúa Thánh Thần cũng hiện xuống với mỗi người qua bí tích Thêm Sức. Việc làm đó của mỗi người không phải đã xong, hay đã xưa rồi, mà còn cần làm sống lại ơn Chúa Thánh Thần mãi trong đời.
Như Harmon, mỗi người chúng ta đang lúng túng trong rừng rậm trần gian, không biết đường nào đem lại ơn cứu thoát. Chúa Thánh Thần là ánh sáng giữa tối tăm, là Đấng an ủi lúc âu sầu, là chốn nghỉ ngơi trong lao nhọc, là cơn gió mát trong nóng bức, là sự sấm áp trong giá lạnh, là sức mạnh cho tâm hồn yếu đuối, là chân lý cho kẻ lầm đường lạc bước.
Dù môi 4người đã lãnh nhận bí tích Thêm Sức rồi, nhung trong thánh lễ hom nay, và trong những cơn gian nan thử thách, hãy cầu khẩn cùng Ngài, xin Ngài ban cho chúng ta những ơn cần thiết.
THÁNH LINH HIỆN XUỐNG TRAO BAN ƠN THÁNH, NHÂN THẾ VUI MỪNG ĐÓN NHẬN HiệnXuống ABC521
THÁNH LINH HIỆN XUỐNG TRAO BAN ƠN THÁNH NHÂN THẾ VUI MỪNG ĐÓN NHẬN BÌNH AN
Kinh Thánh cho biết hiệu quả khi có Chúa Thánh Thần: “Ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2:4). Muốn đầy tràn ơn thánh của Chúa Thánh Thần, người ta phải chân thành cầu xin.
Cầu nguyện là động thái cần thiết bởi vì cầu nguyện là hơi thở của Kitô hữu, là sinh khí tâm linh của chúng ta, đặc biệt là việc cầu nguyện liên quan Chúa Thánh Thần. Thánh Ephraem (người Syria) nói: “Các nhân đức thành hình nhờ cầu nguyện. Lời cầu nguyện duy trì sự điều độ, ngăn chặn sự tức giận, ngăn chặn sự kiêu ngạo và đố kỵ. Lời cầu nguyện đưa Chúa Thánh Thần vào linh hồn và nâng con người tới Thiên Đàng”. Còn Thánh Inhaxiô Loyola nói: “Trong lòng mỗi chúng ta đều có ghi khắc luật đức ái của Chúa Thánh Thần, luật này là căn nguyên hành sự suốt đời chúng ta”.
Biết cũng tới lúc phải chia tay các môn đệ, Chúa Giêsu đã hứa với họ trước khi Ngài chịu khổ nạn: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật” (Ga 14:16-17a). Ngài hứa gì thì chắc chắn có, nhưng bổn phận của chúng ta vẫn phải cầu xin: “Veni Sancte Spiritus! Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến!”.
Là Kitô hữu, chắc chắn ai cũng biết rằng Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi Ba – Đấng nhiệm xuất từ Chúa Cha và Chúa Con, và được tôn xưng với nhiều danh hiệu: Thần Khí Sự Thật, Thánh Linh, Thánh Thần, Linh Khí, Đấng An Ủi, Đấng Bảo Trợ, Đấng Thánh Hóa, Đấng Canh Tân,… Ngài xuất hiện qua các hình dạng: chim bồ câu, lửa, nước, và gió.
Và như chúng ta đã biết, Chúa Thánh Thần rất quan trọng trong cuộc đời chúng ta, vì Ngài là Thần Khí Sự Sống, thế nhưng chúng ta thừng xuyên “quên” Ngài, nhưng không vì vậy mà Ngài “quên” chúng ta. Chúa Thánh Thần vô cùng quan trọng, Ngài quan trọng đến nỗi mà chính Chúa Giêsu đã xác định: “Ai nói phạm đến Thánh Thần thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời” (Mc 3:29; Lc 12:10). Mọi tội đều được tha, nhưng tội phạm tới Chúa Thánh Thần thì mãi mãi không được tha, nghĩa là “mắc tội đời đời” – và cũng có nghĩa là không được vào Nước Trời.
Nmỗi khi đề cập ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta quen nhắc tới “bảy ơn” – ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn thông minh, ơn đạo đức, và ơn kính sợ Chúa. Cách nói quen thuộc đó do quan niệm của Kinh Thánh cho rằng số 7 là con số kỳ diệu, chứ Chúa Thánh Thần không chỉ “đóng khung” trong 7 ơn đó mà thôi, mà còn vô số các ơn khác. Chúng ta cũng nói Chúa Thánh Thần có sứ vụ thánh hóa, Ngài luôn tác động trong mỗi người, và chúng ta là đền thờ Chúa Thánh Thần (x. 1 Cr 3:16).
Chúng ta lại thường xuyên quên lãng Chúa Thánh Thần. Thế nên như một lời nhắc nhở, trong các giờ phụng vụ, Giáo Hội luôn cầu xin Chúa Thánh Thần ngự đến và thánh hóa mọi sự ngay từ đầu để có hiệu quả đúng theo Thánh Ý của Thiên Chúa.
Và theo lời Đức Kitô đã hứa trước khi Ngài về trời, khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, lúc mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như LƯỠI LỬA tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho (Cv 2:1-4). Thật vậy, mỗi người đều có khả năng riêng theo 7 tặng phẩm của Thiên Chúa (Rm 12:6-8; x. 1 Cr 12:4-11). Ai cũng có tặng phẩm riêng, người được ơn này, kẻ được ơn khác, không ai giống ai, và không ai là bất tài vô dụng. Đó là ơn Chúa Thánh Thần, nhưng ơn đó không phải để ích kỷ hoặc kiêu căng, mà là để làm vinh danh Thiên Chúa, và vì công ích: “Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung” (1 Cr 12:7).
Ngày xưa, tại Giêrusalem có những người Do-thái sùng đạo, từ các dân thiên hạ trở về, nhưng ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình. Họ sửng sốt và thán phục lắm. Đó là hiện tượng “nói tiếng lạ”, nhưng ai cũng hiểu như tiếng bản xứ của mình, mặc dù chính họ thực sự nghe người khác nói bằng “ngoại ngữ”. Các tông đồ chỉ là những người ít học, làm đủ các ngành nghề, chẳng học ngoại ngữ bao giờ, thế mà nay thông minh đột xuất, nói ngoại ngữ như gió, họ thấy nhãn tiền chứ chẳng phải nghe ai nói lại hoặc nghe đồn. Lạ quá chừng luôn nghen!
Chính các tông đồ “nói tiếng lạ” nhưng không phải để lòe bịp, khoe khoang, “nổ” hoặc “chảnh” với ý đồ gì khác, mà họ hoàn toàn chỉ “loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!” (Cv 2:11). Thấy và nghe vậy, ai cũng sửng sốt, có những người phân vân vì không hiểu như vậy nghĩa là gì, nhưng cũng có những người lại chế nhạo: “Mấy ông này say bứ rồi!” (Cv 2:13). Loại người chê người khác như thế mới là “chảnh”, thấy người khác hơn thì tìm cách “thọc gậy bánh xe”. Đó là động thái của những kẻ hèn nhát và đê tiện!
Những dạng người như vậy vẫn xuất hiện nhan nhản trong xã hội ngày nay. Khi thấy “sự lạ” hoặc thấy người khác có “cái lạ” (theo nghĩa tích cực về tâm linh), có người khâm phục và tạ ơn Chúa, nhưng cũng có người gièm pha, chê trách, ghét bỏ,… Có thể họ không nói ra bằng lời, nhưng động thái của họ đã “bật mí” tâm địa của họ. Đây là phương diện cần lưu ý và cẩn tắc. Đúng là “giàu có bị ghét, đói rét bị khinh, thông minh bị triệt, ngu dốt bị đì”. Đối với loài người thì cỡ nào cũng… chết!
Hồng Ân của Thiên Chúa luôn chan hòa và kỳ diệu, chúng ta cầu nguyện mà không thấy “được như ý” nên chúng ta tưởng Chúa không ban, nhưng thực ra Ngài ban cho chúng ta cái khác có lợi cho chúng ta hơn, vì “Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Người biết hết mọi sự” (1 Ga 3:20). Thật vậy, “sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người” (1 Cr 1:24 -25). Tất cả đều là hồng ân, do đó mà chúng ta phải biết tạ ơn, tự nhủ và thân thưa: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi! Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả!” (Tv 104:1). Trí óc phàm nhân chúng ta không thể đủ sức hiểu sự quan phòng và tiền định của Thiên Chúa.
Cảm nhận sâu sắc, Thánh Vịnh gia đã xác nhận: “Công trình Ngài, lạy Chúa, quả thiên hình vạn trạng! Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan, những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất” (Tv 104:24). Qủa thật, không có Ngài thì chúng ta chẳng làm được trò trống gì (Ga 15:5), thậm chí có thể là chết ngay lập tức. Thiên Chúa là sự sống, Thánh Thần là hơi thở, có Thiên Chúa thì chúng ta nên mới hoàn toàn như “sinh vật lạ”, nhưng chắc chắn rằng thiếu Thiên Chúa thì chúng ta không thể nào sống nổi: “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi. Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này. Vinh hiển Chúa, nguyện muôn năm tồn tại, công trình Chúa làm Chúa được hân hoan” (Tv 104:29-31).
Với ý hướng chân thành, ước gì mỗi chúng ta đều khả dĩ nhận thức sâu sắc và đúng đắn về Thiên Chúa, đồng thời khả dĩ định hướng sống rạch ròi: “Nguyện tiếng lòng tôi làm cho Người vui thoả, đối với tôi, niềm vui là chính Chúa” (Tv 104:34).
Ngày xưa, các tông đồ chỉ là những con người yếu đuối, nhát đảm, sợ sệt, cũng đã từng bị Thầy Giêsu trách là “kém tin” (Mt 6:30; Mt 14:31; Mt 16:8; Mt 17:20; Lc 12:28), nhưng sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các ông trở nên can đảm, mạnh dạn, dám ăn dám nói chứ không “bỏ của chạy lấy người” như trước. Đa số các ông đã tử đạo để minh chứng niềm tin vào Đức Kitô. Một Saolê hung hăng và tàn bạo bắt đạo Chúa đã trở thành một Phaolô “mềm như bún” và rồi trở nên nhiệt thành rao truyền Đức Kitô sau khi được Chúa Thánh Thần tác động. Rất nhiều các thánh trong lịch sử Kitô giáo đã cho thấy sức mạnh của Chúa Thánh Thần hoạt động và biến đổi các ngài.
Tâm sự với giáo đoàn Cô-rin-tô, Thánh Phaolô bộc bạch: “Khi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy. Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa. Thế mà điều chúng tôi giảng dạy cho các tín hữu trưởng thành cũng là một lẽ khôn ngoan, nhưng không phải là lẽ khôn ngoan của thế gian, cũng không phải của các thủ lãnh thế gian này, là những kẻ sớm muộn gì cũng phải diệt vong. Trái lại, chúng tôi giảng dạy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn đời, cho chúng ta được vinh hiển” (1 Cr 12:3-7). Điều đó chứng tỏ sức mạnh của Chúa Thánh Thần đã tác động: Người nhút nhát thành can đảm, người yếu đuối thành mạnh mẽ, người dốt nát thành thông minh, người khờ dại thành khôn ngoan,…
Lời căn dặn của Thánh Phaolô dành cho dân Cô-rin-tô và cũng chính là lời khuyên nhủ đối với mỗi chúng ta ngày nay: “Phần chúng ta, chúng ta đã không lãnh nhận thần trí của thế gian, nhưng là Thần Khí phát xuất từ Thiên Chúa, để nhận biết những ân huệ Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Để nói về những điều đó, chúng tôi không dùng những lời lẽ đã học được nơi trí khôn ngoan của loài người, nhưng dùng những lời lẽ học được nơi Thần Khí; chúng tôi dùng những lời lẽ Thần Khí linh hứng để diễn tả thực tại thuộc về Thần Khí” (1 Cr 12:12-13).
Đúng như vậy, Chúa Thánh Thần vô cùng quan trọng. Hôm nay là cơ hội tốt để chúng ta hiệp ý cầu xin cùng với cả Giáo Hội qua bài Ca Tiếp Liên: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, và tự trời toả ánh quang minh của Ngài ra! Lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến; Ðấng ban ân huệ, Ðấng soi sáng tâm hồn, xin ngự đến!…”.
Chắc chắn rằng “nếu không có Chúa trợ phù, trong con người còn chi thanh khiết, không còn chi vô tội”, vì thế mà chúng ta phải không ngừng “xin Chúa rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, và chữa cho lành nơi thương tích, uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng, chỉnh đốn lại chỗ trật đường, ban cho ơn bảy nguồn, được huân nghiệp nhân đức, được hạnh phúc cứu độ và được hoan hỉ đời đời” (Ca Tiếp Liên).
Nếu thực sự được như thế thì thật diễm phúc cho chúng ta, vì chúng ta chỉ là phàm nhân cát bụi, tội lỗi ngập đầu. Chúng ta càng diễm phúc hơn vì dù chỉ là những tội nhân khốn kiếp mà được phục hồi cả “bộ ba” là nhân vị, nhân phẩm, và nhân quyền nhờ Máu và Nước cứu độ tuôn trào từ Ngồn Mạch Lòng Thương Xót từ Thánh Tâm Chúa Giêsu. Không chỉ vậy, Thiên Chúa còn ban cho chúng ta được Chúa Thánh Thần luôn ở với chúng ta và hứa ban hồng phúc trường sinh với Ngài trên Thiên Quốc, vì chính Chúa Giêsu, Đấng cứu độ chúng ta, muốn rằng Ngài ở đâu thì chúng ta cũng ở đó (Ga 14:3). Đúng là còn hơn là diễm phúc hoặc đại phúc!
Đúng như lời đã được cho biết trước, Chúa Giêsu về trời để dọn chỗ cho chúng ta (Ga 14:2), vì ích lợi của chúng ta (Ga 16:7), nhưng vì Ngài quá đỗi yêu thương chúng ta nên Ngài không muốn chúng ta sống trong cảnh mồ côi (Ga 14:18), thế nên Ngài hứa ban Chúa Thánh Thần ở hẳn trong mỗi chúng ta (Ga 14:16), và lời hứa đó được thực hiện vào ngày Lễ Ngũ Tuần, sau khi Chúa Giêsu về trời được 10 ngày.
Theo lời kể của Thánh sử Gioan, vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” (Ga 20:19). Một lời chúc tuyệt vời, vì đó là “hơi ấm” mà ai cũng cần, cả trong cuộc sống đời thường và tâm linh. Nói xong, Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Không vui sao được vì Thầy đã sống lại đúng như Thầy đã nói trước. Họ tưởng Thầy chết là “chấm hết”, có người còn bỏ về quê vì cảm thấy “vỡ mộng” thật rồi, thế nhưng đâu ngờ Thầy vẫn “nguyên si”. Thật là sung sướng quá chừng luôn, đúng là trên cả tuyệt vời!
Chắc hẳn là các ông sướng rơn nên không thể nói nên lời, và cũng chẳng biết thể hiện ra sao nữa. Bối rối quá chừng! Và rồi Ngài lại nói trấn an các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20:21). Một hệ lụy tất yếu. Sướng thì sướng nhưng phải có trách nhiệm, và không được ích kỷ, nghĩa là phải chia sẻ niềm vui đó cho người khác.
Dứt lời, Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20:22-23). Một lần nữa, Chúa Giêsu lại tiếp tục thể hiện Lòng Thương Xót một cách cụ thể: Bí tích Hòa giải. Đúng như Ngài đã từng bảo ông Phêrô khi ông hỏi Ngài về mức độ tha thứ: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18:22). Ngài là Đấng giàu lòng thương xót, là Thiên Chúa tình yêu, với Thánh Tâm ngùn ngụt Lửa Yêu, nên Ngài dạy chúng ta bao dung chứ đừng “bung dao”, phải “yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho người ngược đãi mình” (Mt 5:44). Như thế mới thực sự là thực hành Lòng Thương Xót và “mới được trở nên con cái của Chúa Cha” (Mt 5:45), nếu không thì chúng ta chẳng có công cán chi, chẳng hơn người thu thuế và người ngoại đạo (Mt 5:46-48).
Để có thể hành động đúng như Chúa Giêsu mong muốn thì chúng ta phải thực sự can đảm, muốn can đảm thì phải có ơn Chúa Thánh Thần, muốn có ơn Chúa Thánh Thần thì phải cầu xin Chúa Thánh Thần tác động không ngừng. Thật vậy, có lần Chúa Giêsu đã nói rõ: “Không có Thầy, có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Điều đó cũng có nghĩa là chúng ta có thể làm được nhiều thứ ngoài khả năng của mình – nếu chúng ta thực sự có Thiên Chúa.
Mỗi người trong chúng ta đều được sai đi như chiên vào giữa bầy sói, vì thế chúng ta phải “khôn ngoan như rắn và đơn sơ như bồ câu” (Mt 10:16) – nhất là trong xã hội ngày nay, tức là chúng ta rất cần ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần. Thật vậy, Thánh Phêrô đã căn dặn tất cả chúng ta: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5:8). Mưu ma chước quỷ rất tinh vi, lơ đãng một chút là “tiêu tùng” ngay thôi!
Chim bồ câu là loài chim hiền lành và thân thiện với mọi người, là biểu tượng hòa bình (an bình hoặc bình an), và cũng là biểu tượng Chúa Thánh Thần. Chúng ta biết rằng lửa có tính “nhiệt” (nóng, dương), nước có tính “hàn” (lạnh, âm). Âm dương hòa quyện Đất Trời. Gió làm hạ nhiệt. Lửa, gió và nước là những thứ rất mềm, nhưng lại “cứng” hơn mọi thứ khác, và không ai có thể cắt đứt được. Chúa Thánh Thần cũng vậy, khi Ngài đã hành động thì không một sức mạnh nào có thể cưỡng lại. Ngoài ra, lửa có một đặc điểm khác là càng chia sẻ càng thêm nhiều, chứ không giảm bớt. Quả là kỳ diệu vô cùng!
Để chúng ta không quên lãng Chúa Thánh Thần, Thánh Phaolô nhắc nhở: “Ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn thì đều là con cái Thiên Chúa” (Rm 8:14). Chúng ta thật hạnh phúc biết bao!
Lạy Thiên Chúa từ bi và nhân hậu, xin thương tuôn tràn Nguồn Hồng Ân của Chúa Thánh Thần để con đủ sức phấn đấu trở nên hoàn thiện theo Thánh Ý Ngài, nhờ đó mà con mới có thể sống dồi dào, sống chứng nhân sống động và hiệu quả theo khả năng Ngài ban. Xin Ngài ban Thần Khí để biến đổi con trở nên khí cụ bình an của Ngài – mọi nơi và mọi lúc, xin ban Lửa Thánh Thần để “thiêu đốt” và “uốn nắn” con theo Tôn Ý Ngài. Con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng cứu độ của nhân loại. Amen.
Vào năm 1976, trong xóm tôi có một em gái nghèo chừng mười lăm tuổi đi giúp việc nhà cho HiệnXuống ABC522
Vào năm 1976, trong xóm tôi có một em gái nghèo chừng mười lăm tuổi đi giúp việc nhà cho một gia đình giàu có. Gia đình nầy vừa mới tậu một bức tranh thêu rất đẹp nên cho hạ bức hoành phi cũ kỹ có mấy chữ lớn mạ vàng xuống, để nhường chỗ cho bức tranh thêu quý giá nầy. Bà chủ nhà cho rằng bức hoành nầy chỉ có mấy chữ lớn mạ vàng rẻ tiền, chẳng có giá trị là bao, nên bà trao bức hoành cho cô gái giúp việc đem về nhà tuỳ nghi sử dụng.
Thế là cô gái đem bức hoành về cho mấy đứa em làm đồ chơi. Chơi chán, bọn trẻ phá nát bức hoành, xả rác đầy nhà, khiến người mẹ phải ra công quét dọn và đem đi đốt.
Khi đốt rác vào lúc trời tối, bọn trẻ phát hiện những dòng chữ vàng trên bức hoành phi không bị thiêu rụi mà lại sáng ngời lên trong lửa. Hoá ra những dòng chữ này lại bằng vàng thật dát mỏng chứ không phải là giấy mạ vàng!
Thế là người nhà hăm hở xăm xoi đào bới, sàng sảy đống tro tàn để tìm kiếm và cuối cùng thu lại được cả lượng vàng! Cả nhà vui mừng khôn xiết, vì vào thời đó, kiếm được chừng ấy vàng chẳng khác gì trúng số độc đắc.
Thế là, nhờ ngọn lửa cháy lên, người ta mới phát hiện ra những dòng chữ bằng vàng quý báu!
Hôm nay, mỗi người chúng ta cũng được Chúa Giê-su trao tận tay một cuốn Tin mừng, là cuốn sách đáng giá ngàn vàng. Đó là một kho báu không hề vơi cạn, chứa đựng những điều khôn ngoan của Thiên Chúa được Chúa Giê-su mang từ trời xuống ban tặng cho thế gian. Đây là một cuốn sách chứa đựng những bí quyết đem lại bình an hạnh phúc cho muôn người, một kiệt tác được kết tinh bằng tình yêu, bằng trí tuệ, bằng tim óc của Chúa Giê-su và được hình thành trong suốt 33 năm dương thế của Ngài.
Nhưng tiếc thay, nhiều người đón nhận cuốn Tin mừng nầy cách hờ hững, xem đó là một tác phẩm khô khan, vô bổ, chứa đựng những dòng chữ vô hồn.
Sở dĩ kho tàng Tin mừng của Chúa Giê-su không được xem là quan trọng và quý giá vì những dòng chữ của cuốn sách nầy chưa được ngọn lửa của Chúa Thánh Linh soi chiếu.
Thượng Phụ Athénagoras nhận định rằng: “Nếu Hội thánh vắng bóng Thánh Linh, thì Thiên Chúa trở nên nghìn trùng xa cách, Đức Giê-su trở thành một huyền thoại và Phúc âm của Ngài chỉ là một mớ chữ không hồn.”
Quả vậy, vì không có lửa của Chúa Thánh Thần soi sáng nên lời dạy của Chúa Giê-su như: “Những gì các ngươi làm cho các anh em bé mọn của Ta đây là làm cho chính Ta” (Mt 25,40) trở thành những dòng chữ chết, không thể lay động lòng người. Tuy nhiên, đối với mẹ thánh Tê-rê-xa Calcutta, nhờ ánh sáng Thánh Linh tác động, lời đó trở thành châm ngôn vàng ngọc thúc đẩy mẹ hiến cả đời mình yêu mến và phung sự Chúa Giê-su nơi những con người bất hạnh và đau thương.
Cũng vì không có lửa của Thánh Linh soi chiếu nên những lời nhắc nhở như: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì chẳng được ích gì” (Mt 16, 26) được xem như những lời vô nghĩa. Tuy vậy, đối với thánh Phan-xi-cô Xa-vi-e, nhờ ngọn lửa của Thánh Linh soi sáng, lời đó trở thành sức mạnh vạn năng giúp ngài từ bỏ công danh địa vị để dấn thân vào những miền đất xa lạ, đem ơn cứu độ đến cho nhiều dân tộc Á châu.
Không có Chúa Thánh Thần soi sáng, không ai có thể nhận biết và yêu mến Chúa Giê-su.
Không có ánh sáng của Chúa Thánh Thần chiếu soi, những trang Tin mừng chỉ là những dòng chữ chết.
Không có Chúa Thánh Thần dạy dỗ, Thiên Chúa trở thành Đấng nghìn trùng xa cách.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin ban Thánh Thần Chúa cho chúng con, để nhờ ánh sáng Thánh Linh soi dẫn, chúng con nhận biết, yêu mến Chúa và tìm được nơi kho tàng Tin mừng những lời thần thiêng đem lại cho chúng con sức sống mới.
Bước vào ngàn năm thứ ba, chúng ta có thể thấy, Chúa Thánh Thần đã hoạt động một cách mạnh HiệnXuống ABC523
Bước vào ngàn năm thứ ba, chúng ta có thể thấy, Chúa Thánh Thần đã hoạt động một cách mạnh mẽ và cụ thể trong Giáo Hội qua các vị chủ chăn. Đức Thánh Giáo hoàng JP II là một vị Giáo hoàng bôn ba khắp thế giới để xây dựng đời sống đức tin nơi các tín hữu, nối kết mọi dân tộc, thúc đẩy hòa bình. Ngài là vị Giáo hoàng có số lần thăm viếng mục vụ ngoài Italia nhiều nhất từ trước đến nay, bất chấp sự đe dọa từ các tổ chức chính trị xã hội. Ngài mở ra cho Giáo Hội một hướng đi đối thoại với mọi thành phần, và mạnh dạn xin lỗi cả thế giới vì lỗi lầm của Giáo Hội. Kế vị Ngài là Đức Giáo hoàng Benedicto 16, một con người giỏi giang, uyên bác, Ngài đã đem đến cho Giáo Hội một sự cải cách mạnh mẽ, làm sáng tỏ nhiều vấn đề giáo lý và thay đổi những lối suy nghĩ bảo thủ. Ngài còn được coi là vị Giáo Hoàng đơn sơ khiêm nhường xin sự cầu nguyện và giúp đỡ của mọi thành phần Giáo Hội. Với việc Ngài từ nhiệm để sống một cuộc sống ẩn dật, cầu nguyện cho Giáo Hội, đã trở thành một tấm gương lớn về sự khiêm nhường và từ bỏ. Kế vị Đức Giáo Hoàng Benedicto 16 là đương kim Giáo hoàng Phanxicô, Ngài đã tạo nên một hình ảnh Giáo Hội gần gũi, đơn sơ và phục vụ người nghèo khổ, qua việc Ngài dễ dàng tiếp xúc với mọi thành phần trong xã hội. Cũng chính Đức Phanxicô đã lên tiếng mời gọi mọi thành phần Giáo Hội phải “đi ra” để gặp gỡ, cảm thông, sẻ chia.
Một vài ví dụ như trên để cho thấy Chúa Thánh Thần, kể từ ngày Lễ Ngũ Tuần năm xưa đã hiện xuống trên các tông đồ, vẫn đang hiện diện và hoạt động mạnh mẽ trong Giáo Hội và nơi mỗi chúng ta hôm nay. Ngài canh tân biến đổi Giáo Hội và thúc đẩy Giáo Hội ra khơi để loan báo Tin Mừng.
Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống như là ngày khai trương Giáo Hội, ngày Giáo Hội chính thức xuất hiện với thế giới. Mặc dù Giáo Hội đã được Chúa Giêsu thiết lập trên nền tảng các tông đồ và trao phó cho Phêrô vai trò thủ lãnh trong anh em, nhưng suốt thời gian Chúa Giêsu còn ở trần gian, Giáo Hội vẫn chỉ là hạt mầm được Chúa Giêsu gieo vào thế giới, âm thầm nảy mầm, bén rễ. Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, với sự trợ giúp của Thánh Thần, Giáo Hội đã vươn mình đứng dậy, tỏa bóng mát bao trùm thế giới và trổ sinh những bông hạt đầu tiên.
Sau cái chết của Chúa Giêsu, các tông đồ đã vô cùng sợ hãi, họ trở nên co cụm nhút nhát, tránh né việc xuất hiện công khai. Sau khi đã được gặp Chúa Phục sinh, được củng cố niềm tin rằng Chúa vẫn đang sống, các tông đồ như được hồi sinh để sống một tinh thần mới, một cuộc đời mới. Tuy nhiên, để ban thêm sức mạnh giúp các ông có thể chu toàn được sứ mạng cao cả là đến với muôn loài muôn vật, làm cho họ trở nên mộn đệ của Chúa, các ông cần phải được trợ giúp đặc biệt. Vì thế, Chúa Giêsu đã hẹn các ông: Hãy ở lại Gierusalem để chờ đợi lãnh nhận Chúa Thánh Thần như Chúa đã hứa. Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ, đã giới thiệu các ông với thế giới. Mọi người ở Giêrusalem vô cùng ngạc nhiên về sự xuất hiện của những con người này.
Thánh Thần là Đấng canh tân biến đổi – Mọi người ở Gieruslem dịp đó ngạc nhiên về sự thay đổi mau chóng nơi các tông đồ. Nếu như trước đây, các ông chỉ là một đám môn đệ đi theo thầy Giêsu, chẳng được mấy người quan tâm biết đến, thì bây giờ các ông trở nên nhưng con người mạnh dạn nói về Chúa Giêsu cho mọi người. Trước đây, các ông tỏ ra rụt rè, nhút nhát sợ hãi, giờ đây, các ông trở nên can đảm phi thường, nói về Chúa Giêsu không chút sợ hãi. Trước đây, các ông chỉ là những ngư phủ bình dân ít học, vậy mà giờ đây các ông trở thành những người uyên bác không ai có thể tranh luận được với các ông.
Bước ra khỏi nhà tiệc ly, các tông đồ như được lột xác vươn mình đứng dậy như một hạt giống đã ủ mầm nay bung ra những cành lá xum xuê và đơm hoa kết trái. Bài giảng của Phêrô đã khiến cho hàng ngàn người tin vào Chúa Giêsu và xin làm môn đệ của Chúa. Sách Công Vụ kể lại: Thánh Thần đã thực sự quy tụ muôn dân qua chính con người của các tông đồ. Nếu như trước đây với sự kiêu căng thách thức Thiên Chúa của con cháu ông Noe qua biến cố xây tháp Baben đã khiến cho nhân loại chia rẽ nhau, không còn nghe và hiểu nhau nữa, thì nay lời Phêrô rao giảng đã khiến cho mọi dân tộc khác nhau được quy tụ lai và hiểu được tiếng nói của Phêrô. Khi đón nhận những lời rao giảng của các tông đồ, những người nghe cảm thấy họ từ những người xa lạ, nay đã trở nên thân quen, dù khác biệt, nhưng trở nên thân thiết, nhờ tiếng nói của Thánh Thần và của Tin Mừng.
Thánh Thần là Đấng thúc đẩy Giáo Hội lên đường. Ngay từ sau ngày lễ Hiện Xuống, các tông đồ đã hoàn toàn trút bỏ khỏi sự sợ hãi, co cụm để mạnh dạn tỏa đi khắp muôn phương nói về Chúa Giêsu Phục sinh. Các tông đồ ý thức rằng đã đến lúc các ông phải ra khơi phục vụ Tin Mừng, quăng những mẻ lưới yêu thương để đem nhiều linh hồn về cho Chúa. Các ông đã khiêm tốn mở rộng tâm hồn như một cánh buồm để cho làn gió của Thánh Thần thổi vào và đưa các ông đi đến tận cùng cõi đất.
Sách Công Vụ Tông đồ đã kể lại cho chúng ta các hoạt động của các tông đồ, đặc biệt là của Phêrô, Gioan, sau này là Phaolô. Các Ngài đã thành lập nên các giáo đoàn ở khắp nơi, hiện diện, đồng hành với các tín hữu sơ khai, giảng dạy, khuyên bảo họ. Các Ngài đã trải qua bao nhiêu khó khăn thử thách, bị bắt bớ, tù đày, roi đòn, nhục mạ… tất cả những khó khăn đó không làm cản bước các ông. Có những người ra đi thật xa, đến tận Ấn Độ và những vùng miền xa xôi đến độ, hầu như các tác giả sách Công Vụ không còn nhận được thông tin từ các Ngài nữa. Chỉ sau này, người ta mới biết đến sự hiện diện của các Ngài nhờ các giáo đoàn mới được nảy sinh.
Tiếp nối bước chân các tông đồ, trải qua hơn 2000 năm, Giáo Hội với sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, vẫn không mệt mỏi để đem Tin Mừng của Chúa đến tận cùng ngóc ngách của thế giới. Nhìn lại lịch sử hai ngàn năm, từ mười hai con người đầu tiên tại Giêrusalem đến nay, Giáo Hội và Tin Mừng của Chúa đã được lan tỏa và đang từng ngày biến đổi bộ mặt thế giới này.
Mỗi người, qua Bí tích Rửa tội, chúng ta đã được lãnh nhận Chúa Thánh Thần, đặc biệt trong ngày lãnh Bí tích Thêm Sức, chúng ta được Chúa Thánh Thần đổ tràn ơn phúc, trang bị cho chúng ta những hành trang cần thiết, để thúc đẩy mỗi người tiếp tục lên đường, thành những ngư phủ ra khơi đem các linh hồn về cho Chúa. Đó là trách nhiệm mỗi người buộc phải thi hành, không thể chần chừ hay thoái thác.
Trong thư Corintô, Thánh Phaolô còn nhấn mạnh: Mỗi người dù là linh mục hay tu sĩ giáo dân, dù là ông bà cha mẹ hay con cái, chúng ta đều được đón nhận ân sủng và được thúc đẩy của Thánh Thần để sống và làm chứng cho Tin Mừng. Các linh mục tu sĩ được mời gọi để Chúa Thánh Thần hướng dẫn và hoạt động trong đời dâng hiến tu trì. Các giáo dân được thúc đẩy để sống trọn vẹn và đầy tràn ơn gọi của mình trong gia đình, giữa đời thường. Mỗi người đều phải sẵn sàng mở lòng, để cho Thánh Thần tác động, biến đổi và đốt nóng lòng hăng say nhiệt thành, gia tăng lòng yêu mến, để không ngần ngại sống và làm chứng cho Chúa theo bậc sống của mình.
Lạy Chúa Thánh Thần xin ngự đến canh tân, biến đổi tâm hồn, gia đình và cả cộng đoàn chúng con, biến chúng con thành những chiến sĩ, những tông đồ của lòng thương xót Chúa cho anh chị em. Amen.
Trước khi về trời, đã nhiều lấn Đức Ki-tô nói là Người sẽ ban Ngôi Ba Thiên Chúa cho các môn HiệnXuống ABC524
Trước khi về trời, đã nhiều lấn Đức Ki-tô nói là Người sẽ ban Ngôi Ba Thiên Chúa cho các môn đệ. Khi thì Người nói thẳng là Thánh Thần, khi thì Người nói là Đấng Bảo Trợ, là Thần Khí Sự Thật. Và sự thật đã ứng nghiệm: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần.” (Cv 2, 1-4). Có nhiều, rất nhiều sự kiện minh hoạ cho sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống, nhưng nổi bật nhất, đặc sắc nhất, kỳ diệu nhất là sự hiện diện của Đức Thánh Linh trong Giáo hội ở giai đoạn tiên khởi và cho đến hiện nay:
Ở giai đoạn tiên khởi thì Thánh Thần đã ban lòng can đảm, sự khôn ngoan và nhất là khả năng ngôn ngữ (các Tông đồ có thể nói nhiều thứ tiếng khác ngoài tiếng bản địa của mình). Đó là một mầu nhiệm được chính những người nghe (thính giả) làm chứng: “Những người đang nói đó không phải là người Ga-li-lê cả ư? Thế sao mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta? Chúng ta đây, có người là dân Pác-thi-a, Mê-đi, Ê-lam, Mê-xô-pô-ta-mi-a, Giu-đê, Cáp-pa-đô-ki-a, Pon-tô, và A-xi-a, có người là dân Phy-ghi-a, Pam-phy-li-a, Ai-cập, và những vùng Li-by-a giáp giới Ky-rê-nê; nào là những người từ Rô-ma đến đây; nào là người Do-thái cũng như người đạo theo; nào là người đảo Cơ-rê-ta hay người Ả-rập, vậy mà chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!” (Cv 2, 7-11). Và cho đến hiện nay thì bất kỳ ai khi nhìn lại lịch sử Giáo hội, cũng phải ngạc nhiên đến sửng sốt trước sự tồn tại bền vững và phát triển vượt bậc. Đó phải chăng là một món quà độc đáo, món quà vô giá mà Đức Ki-tô đã ban tặng các môn đệ, và nói chung là tất cả mọi tín hữu (“Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” – Ga 20, 22-23)?
Tuy rằng sự thực hiển nhiên là thế, nhưng vẫn còn và còn không ít những Tô-ma thời đai. Gọi là Tô-ma thời đại vì Tô-ma tiên khởi ngày xưa “không ở với các ông (các môn đệ) khi Đức Giê-su đến” (Ga 20, 24), còn Tô-ma thời đại ngày nay thì cho dù có biết bao nhiêu sự việc, sự kiện, dấu chỉ minh chứng, mà vẫn cứ hoài nghi, vẫn cứ “tưởng Thầy là ma!”, rồi đi tin vào ma mị quỷ quái và cho là thật. Sự thật thì cho là ảo, nhưng ảo lại tin là thật. Thế đấy! Xét cho cùng, cái “ảo” bao giờ cũng đẹp và quyến rũ hơn cái thật và cũng vì thế nên người ta mới mê “ảo” hơn là thích “thật”. Quả thực “mỗi người có bị cám dỗ, là do dục vọng của mình lôi cuốn và dùng mồi mà bắt” (Gc 1, 14), và càng gặp thử thách thì lại càng bị những thế lực thù địch ẩn trong thế giới ảo cám dỗ nhiều hơn.
Quan trọng là có đứng vững được trước cơn thử thách và vượt qua được hay không, mà thôi. Vâng, “anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn.” (Gc 1, 2-3). Ấy cũng chỉ vì “Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách, vì một khi đã được tôi luyện, họ sẽ lãnh phần thưởng là sự sống Chúa đã hứa ban cho những ai yêu mến Người.” (Gc 1, 12). Muốn có được sư khôn ngoan chọn lựa giữa một bên là “quả ngọt” (viên đạn bọc đường) và một bên là “trái đắng” (thử thách nghiệt ngã) để có thể đứng vững và vượt qua sóng gió, thì đừng quên vũ khí lợi hại nhất, đó là cầu nguyện (“Nếu ai trong anh em thiếu đức khôn ngoan, thì hãy cầu xin Thiên Chúa, Người sẽ ban cho. Vì Thiên Chúa ban cho mọi người cách rộng rãi, không quở trách. Nhưng người ấy phải cầu xin với lòng tin không chút do dự, vì kẻ do dự thì giống như sóng biển bị gió đẩy lên vật xuống. Người ấy đừng tưởng mình sẽ nhận được cái gì của Chúa: họ là kẻ hai lòng, hay thay đổi trong mọi việc họ làm.” – Gc 1, 5-8).
Món quà mà Đấng Cứu Thế ban tặng các môn đệ, rộng ra là toàn Giáo hội, rất độc đáo, một món quà vô giá! Chính vì thế, Công Đồng Va-ti-ca-nô II được coi là một Lễ Hiện Xuống mới, vì Công Đồng đã định hướng việc canh tân Giáo hội, đem tinh thần đối thoại hiệp thông với Thiên Chúa và với hết mọi người, để cùng với Chúa Thánh Thần thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Món quà vô giá của Con Thiên Chúa Giê-su Ki-tô là Thánh Thần; mà hoa trái của Thánh Thần là yêu thương phục vụ. Do đó những tư tưởng, lời nói và hành động mang tính chia rẽ, ghen tương, đố kỵ, thậm chí dèm pha, hạ bệ lẫn nhau, thù oán, giết hại nhau không bằng gươm giáo… đều là những thể hiện trái ngược với hoạt động của Thánh Thần. Ngoài ra, hoạt động của Chúa Thánh Thần tuy là vô hình, nhưng cũng đã được Giáo hội định tín trong 8 biểu tương sau đây (xc. Giáo Lý HTCG, số 694-701):
694 Nước: Trong bí tích Thánh Tẩy, nước là một biểu tượng đầy ý nghĩa về tác động của Thánh Thần, vì sau khi kêu cầu Thánh Thần, nước trở thành dấu bí tích hữu hiệu của việc tái sinh: như trong lòng mẹ, chúng ta được cưu mang trong nước; nước rửa tội thực sự nói lên rằng cuộc tái sinh vào đời sống Thiên Chúa được ban trong Thánh Thần. Vì “đã chịu phép rửa trong cùng một Thánh Thần”, nên chúng ta “đầy tràn một Thánh Thần duy nhất” (1Cr 12, 13). Chính Thánh Thần là Nước trường sinh chảy ra từ cạnh sườn Đức Ki-tô chịu đóng đinh thập giá (x. Ga 19,34; 1Ga.5,8), và chảy thành sự sống đời đời trong lòng chúng ta (Ga 4, 10.14; 7, 38; Xh 17, 1-6; Is 55, 1; Dcr 14, 8; 1Cr 10, 4; Kh 21, 6; 22, 17).
695 Xức dầu: Biểu tượng xức dầu cũng chỉ về Thánh Thần, đến nỗi trở thành đồng nghĩa với Thánh Thần (1Ga 2, 20.27; 2Cr 1, 21). Trong nghi thức khai tâm Ki-tô giáo, xức dầu là dấu bí tích của phép Thêm Sức; các Giáo Hội Đông Phương gọi là “Xức dầu thánh hiến”. Nhưng muốn hiểu rõ, chúng ta phải trở về với việc xức dầu của Đức Giê-su, việc xức dầu đầu tiên do Chúa Thánh Thần thực hiện. “Ki-tô” (tiếng Hip-ri là “Mê-si-a”) nghĩa là “được Thánh Thần Thiên Chúa xức dầu”. Cựu Ước (Xh 30, 22-32) nói đến những người được Thiên Chúa xức dầu, nổi bật nhất là Vua Đavit (1Sm 16, 13). Nhưng Đức Giê-su là Đấng được Thiên Chúa xức dầu cách độc nhất vô nhị: nhân tính do Ngôi Con đảm nhận “được Thánh Thần xức dầu” trọn vẹn. Đức Giê-su được Thánh Thần (Lc 4, 18-19; Is 61, 1) đặt làm “Ki-tô”.
Đức Trinh Nữ Ma-ri-a thụ thai Đức Ki-tô nhờ tác động Thánh Thần; khi Ngôi Lời giáng sinh (Lc 2, 11), Thánh Thần dùng các thiên thần loan báo Người là Đức Ki-tô và thúc đẩy ông Xi-mê-on đến đền thờ gặp Đấng Ki-tô Thiên Chúa đã hứa (Lc 2, 26-27). Đức Ki-tô (Lc 4, 1) đầy Thánh Thần, nhờ quyền năng Thánh Thần, Người chữa lành và cứu độ (Lc 6, 19; 8, 46). Cuối cùng chính Thánh Thần làm cho Đức Giê-su từ cõi chết sống lại (Rm 1, 4; 8, 11). Khi Đức Giê-su trở thành “Ki-tô” trọn vẹn trong nhân tính đã toàn thắng sự chết (Cv 2, 36), Người ban đầy tràn Thánh Thần cho các thánh “để nhờ kết hợp với nhân tính của Người, họ trở thành “Con người hoàn hảo…, đạt tới tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô” (Ep 4, 13), thành “Đức Ki-tô toàn diện” theo cách nói của Thánh Au-gus-ti-nô.
696 Lửa: Trong khi nước nói đến việc sinh ra và tính phong phú của Sự Sống được ban trong Thánh Thần, lửa tượng trưng cho năng lực biến đổi do tác động của Thánh Thần. Ngôn sứ Ê-li-a, “xuất hiện như lửa hồng và lời ông như ngọn đuốc” (Hc 48,1); bằng lời cầu nguyện, ông kéo lửa từ trời xuống thiêu cháy hy tế trên núi Cát-minh (1V 18, 38-39). Đây là hình bóng của lửa Thánh Thần sẽ biến đổi tất cả những gì lửa bén tới. Gio-an Tẩy Giả, “người đi trước dọn đường cho Chúa, đầy Thần khí và quyền lực của Ê-li-a” (Lc 1, 17), loan báo Đức Ki-tô là Đấng “sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và trong lửa” (Lc 3, 16), Đức Giê-su cũng nói về Thánh Thần : “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian, và Thầy mong muốn biết bao cho lửa ấy bùng cháy lên”(Lc 12,49). Dưới những hình “giống như lưỡi lửa”, Thánh Thần đậu xuống trên các môn đệ sáng ngày lễ Ngũ Tuần và họ được tràn đầy Thánh Thần (Cv 2, 3-4). Truyền thống linh đạo giữ lại biểu tượng lửa như một trong những biểu tượng diễn tả đúng nhất về tác động của Thánh Thần (x. T. Gio-an Thánh Giá,): “Anh em đừng dập tắt Thần Khí” (1Tx 5, 19).
697 Áng mây và ánh sáng: Hai biểu tượng này luôn đi đôi với nhau trong các lần Thánh Thần xuất hiện. Trong các cuộc thần hiện thời Cựu Ước, áng mây khi chói sáng, khi mờ tối, vừa mặc khải Thiên Chúa hằng sống và cứu độ, vừa che khuất vinh quang siêu việt của Người – như lúc Mô-sê trên núi Xi-nai (Xh 24, 15-18), trong lều Hội Ngộ (x. Xh 33,9-10) và suốt cuộc hành trình trong hoang địa (Xh 40, 36-38; 1Cr 10,1-2); với Xa-lô-môn dịp cung hiến Đền Thờ (1V 8, 10.12). Những hình bóng này được Đức Ki-tô thể hiện trong Thánh Thần. Chính Thánh Thần ngự xuống trên Trinh Nữ Ma-ri-a và “rợp bóng” trên Người, để Người thụ thai và hạ sinh Đức Giê-su (Lc 1, 35). Trên núi Hiển Dung, chính Thánh Thần đến trong “đám mây bao phủ” Đức Giê-su, Mô-sê và Ê-li-a, Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an, và “từ đám mây có tiếng phán rằng : “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9, 34-35). Cuối cùng, cũng chính đám mây này “che khuất Đức Giê-su” ngày Thăng Thiên (Cv 1, 9) và sẽ mặc khải Người là Con Người trong vinh quang ngày tái lâm (Lc 21, 27).
698 Ấn tín: Ấn tín là biểu tượng gắn liền với biểu tượng xức dầu. Thật vậy, chính “Thiên Chúa đã đóng ấn xác nhận” (Ga 6, 27) Đức Ki-tô và cũng đã đóng ấn Thánh Thần trên chúng ta trong Con của Người (2 Cr 1, 22; Ep 1, 13; 4, 30). Hình ảnh “ấn tín” đã được dùng trong một số truyền thống thần học để diễn tả “ấn tích” không thể xoá được mà ba bí tích Thánh Tẩy, Thêm Sức, Truyền Chức Thánh để lại.
699 Bàn tay: Đức Giê-su đặt tay để chữa lành bệnh nhân (Mc 6, 5; 8, 23) và chúc lành cho trẻ nhỏ (Mc 10, 16). Nhân danh Người, các tông đồ cũng làm như vậy (Mc 16, 18; Cv 5, 12; 14, 5). Hơn nữa Thánh Thần được thông ban (Cv 8, 17-19; 13, 3; 19, 6) nhờ việc đặt tay của các tông đồ. Thư Do Thái coi nghi thức đặt tay vào số “các điều căn bản” của giáo huấn của mình. Hội Thánh đã giữ lại việc đặt tay khẩn cầu Thánh Thần trong các bí tích.
700 Ngón tay: Đức Giê-su “nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ” (Lc 11, 20). Nếu ngày xưa “Thiên Chúa lấy ngón tay” ghi lề luật trên bia đá (Xh 31, 18), thì ngày nay Thiên Chúa hằng sống cũng dùng Thánh Thần, để viết “bức thư của Đức Ki-tô” được giao phó cho các tông đồ, “không phải ghi trên những tấm bia bằng đá, nhưng trên những tấm bia bằng thịt, tức là lòng người” (2Cr 3, 3). Thánh thi: “Veni Creator Spiritus” khẩn cầu Thánh Thần như là “ngón tay hữu Chúa Cha”.
701 Chim bồ câu: Cuối lụt hồng thủy (là biểu tượng cho bí tích Thánh Tẩy), chim bồ câu được ông Nô-ê thả ra, khi trở về ngậm một nhánh ô-liu xanh tươi, báo cho biết mặt đất lại có thể ở được (St 8, 8-12). Sau khi Đức Ki-tô nhận Phép Rửa của Gio-an và lên khỏi nước. Thánh Thần, dưới hình chim bồ câu, đáp xuống và ngự trên Người (Mt 3, 16 par). Thánh Thần cũng xuống và ngự trong tâm hồn những người lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy. Trong một số nhà thờ, Thánh Thể được giữ trong một bình bằng kim loại hình bồ câu treo bên trên bàn thờ. Trong các ảnh tượng Ki-tô giáo, hình bồ câu là biểu tượng truyền thống để chỉ Thánh Thần.
Viết tới đây, kẻ viết bài này chợt giật mình nhớ đến Lời dạy của chính Người đã ban tặng món quà vô giá là Thánh Thần cho Giáo hội: “Ai không đi với tôi, là chống lại tôi; và ai không cùng tôi thu góp, là phân tán. Vì thế, tôi nói cho các ông hay: mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng được tha. Ai nói phạm đến Con Người thì được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng được tha, cả đời này lẫn đời sau.” (Mt 12, 30-32). “Ai nói phạm đến Con Người thì được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng được tha” ư? Nhưng như thế nào mới là nói phạm đến Thánh Thần? Bí quá, tôi đành mở Giáo Lý HTCG tìm lời giải (Điều 1854-1863: “Tội lỗi: Tội trọng – Tội nhẹ”). Và đây: “Lòng Thiên Chúa thương xót không có giới hạn, nhưng ai cố tình không hối cải và khước từ lòng Thiên Chúa thương xót thì cũng khước từ sự tha tội và ơn cứu độ do Chúa Thánh Thần ban cho. Lòng chai dạ đá như thế có thể đưa tới chỗ không hối cải trong giờ sau hết và phải hư mất đời đời.” (Giáo Lý HTCG, số 1864: “Tội nói phạm đến Thánh Thần”).
Ôi! Lạy Chúa! Xin hãy cứu vớt con, xin “Hãy chiếu soi lửa hồng vào đêm tối sâu thẳm hồn con. Lửa tình yêu, lửa huyền siêu Ngôi Ba Thiên Chúa ban nhiều thánh ân. TK: Xin đưa bước con về, tìm chân lý hừng đông chiếu soi. Tìm bóng mát trong tình thương bát ngát, tìm an vui trong bàn tay hiền từ, Chúa dìu đưa.” (Phan-xi-cô – “Hãy chiếu soi” – TCCĐ). Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin cho ánh huy hoàng rực rỡ của Chúa là chính Ðức Kitô, giãi sáng trên chúng con. Và xin ban sức mạnh của Thánh Thần làm cho tâm hồn con cái Chúa, đã được tái sinh nhờ bí tích thánh tẩy, ngày càng thêm bền vững trung kiên. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống).
Giữa đường phố mùa đông, người người bước chân thật nhanh, có tiếng yếu ớt trẻ con cất lên HiệnXuống ABC525
Giữa đường phố mùa đông, người người bước chân thật nhanh, có tiếng yếu ớt trẻ con cất lên:
Mẹ ơi tay con lạnh quá! Ừm, con lạnh lắm phải không, đợi mẹ một chút.
Bà mẹ liền đặt đứa con xuống, nắm lấy hai tay nhỏ xinh tím ngắt của con. Bà lấy hơi ấm của mình sưởi ấm bàn tay cho con bằng cách thổi hơi vào tay con và xoa xoa. Bà làm nhiều lần như vậy, cô bé nhìn mẹ cười và nói:
Con cám ơn mẹ!
Bà mẹ bế con lên lưng tiếp tục công việc bán rong kiếm sống hằng ngày trên đường phố mùa đông. Hình ảnh người mẹ là hình ảnh tình mẫu tử. Bà đã làm mọi điều khi con cần đến nỗi quên cả thân mình. Hành động thổi hơi cũng là một phản xạ và nhu cầu của mọi người trong cuộc sống như thổi cho nước nguội, cho lửa cháy lên… Điều đó trở thành hành động quen thuộc của chúng ta.
Chúa Giêsu đã lấy hành động thổi hơi để diễn tả tình yêu của người cha dành cho con. Khi thấy các môn đệ khao khát ơn bình an, niềm an ủi và ơn sức mạnh… Ngài đã đến thổi hơi vào các môn đệ và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”(x Ga 20, 22-23). Sự thổi hơi của Ngài không đơn thuần là hơi ấm hay sức mạnh tạm thời như chúng ta thường làm, nhưng hơi Ngài thổi là hơi truyền sức sống, hơi sức mạnh,… Tất cả những điều đó có từ Chúa Thánh Thần. Vì thế, Chúa Giêsu đã nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, là Đấng luôn sống và hoạt động cùng Chúa Giêsu. Ngài là Thần Khí xuất phát từ Chúa Cha. Chúa Giêsu ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ để thánh hóa và dẫn dắt các ông vững tin tiến bước trên đường sứ mạng. Ngài còn trao cho các ông quyền tha tội cho ai được tha và cầm tội ai bị cầm giữ. Chính lúc các môn đệ được lãnh Chúa Thánh Thần cũng là lúc các ông được hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa. Như vậy, Chúa Giêsu đã trao ban cho các môn đệ tất cả những hành trang cần thiết để đi loan báo Tin Mừng. Điều này cũng chứng thực Chúa Giêsu luôn ở trong các môn đệ và Ngài hiện diện khắp mọi nơi.
Các môn đệ đã truyền lại cho Hội Thánh và Hội Thánh đã ban cho chúng ta ơn Chúa Thánh Thần. Nhưng đã không ít lần chúng ta đã đánh mất ơn Chúa Thánh Thần. Vì thế, hôm nay mừng Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng ta hãy mở tâm hồn, trái tim và tâm trí để được gia tăng ơn Chúa Thánh Thần.
Có Đấng Bảo Trợ Vì tình yêu thương Đấng đã ngự xuống Thánh hóa chúng con Biến đổi mỗi ngày Dìu dắt bước đi Trên muôn nẻo đường Về Cha trên trời.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con Đấng Bảo Trở là Chúa Thánh Thần. Xin cho chúng con biết đón nhận và cộng tác vào ơn Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, cuộc sống chúng con là bằng chứng cho việc loan báo Tin Mừng. Amen.
Chiều hôm nay không giống với những buổi chiều khác. Mặc dù gió vẫn cứ thổi rít qua mang tai HiệnXuống ABC526
Chiều hôm nay không giống với những buổi chiều khác. Mặc dù gió vẫn cứ thổi rít qua mang tai, cuốn bụi tung mù mịt, và nắng chiều vẫn nhạt dần rồi nấp mình hẳn sau ngọn núi phía Tây. Thiên nhiên vẫn xoay vần nhịp thời gian mà con người lại mang những nỗi niềm. Chính những nỗi niềm ấy khiến ta thấy cái khác của chiều hôm nay so với mọi chiều khác.
Buổi chiều lịch sử
Mới chiều hôm nao, các môn đệ sung sướng sánh bước bên Thầy sau một ngày dài mệt mài rảo qua các làng mạc. Thầy chữa bệnh cho bao người và các ông cũng được chung phần vào công việc trọng đại Thầy làm. Được sánh bước bên Thầy, một người danh tiếng lẫy lừng, ai nào chẳng cảm thấy hãnh diện. Dù cho cái nắng ban trưa thiêu đốt, phải làm việc quần quật cho đến chiều tà, có khi chẳng kịp ăn uống gì, mồ hôi thì đẫm vai áo, các môn đệ vẫn không cảm thấy hề hấn gì. Vậy mà chiều hôm nay, các ông nín thinh, “các cửa đều đóng kín bởi các ông sợ người Do thái.” (x. Ga 20,19). Nỗi sợ ập đến và bủa vây, giăng mắc. Các ông như những con chiên giữa bầy sói dữ. Vì sao vậy? Vì Người Mục tử đã bị người ta đóng đinh. Các ông bơ vơ như đoàn chiên không người chăn dắt. Rồi đây, những tháng ngày tương lai của các ông sẽ thế nào?
Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, các môn đệ đang quây quần bên nhau, không phải để chung chia niềm vui nhưng gần kề bên nhau mong cho nỗi sợ vơi bớt. Người Do thái có thể vẫn đang lùng bắt các ông. Giết được Giêsu, họ nào đâu tha cho các ông, diệt cỏ phải diệt tận gốc. Giữa lúc các ông đang run sợ, “Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” ( x. Ga 20, 20). Thầy luôn hiểu các ông cần gì. Thầy biết, vắng Thầy là các ông thiếu vắng sự bình an. Thầy chính là bình an mà các ông đang mong đợi. Thầy đến, hiện diện giữa các ông bằng xương bằng thịt chứ chẳng phải chỉ là ảo giác của các ông. Các ông không nhìn lầm, tai các ông vừa nghe tiếng nói thân thuộc của Thầy đó thôi. Thầy cho các ông xem tay và cạnh sườn, bàn tay đã chịu đóng đinh và cạnh sườn bị lưỡi đòng đâm thâu. Chính Thầy đây chứ không phải ai khác. Như trẻ thơ mong chờ mẹ hiền, các ông sung sướng vì được ở bên Thầy.
Đón nhận sứ mạng
Thầy phục sinh như lời đã hứa. Thầy đã chọn các ông, bên Thầy các ông được dạy dỗ, để các ông nhìn vào cung cách hành xử của Thầy mà sống theo. “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” (x. Ga 20, 22). Lời của Thầy khiến các ông hồi hộp. Trước khi nhận lệnh truyền Thầy trao thì lòng các ông sẽ đón nhận bình an đã. Có bình an, các ông sẽ đón nhận lời Thầy như cách Thầy đã đón nhận lời của Cha: vâng phục và yêu mến đến cùng. Thiên Chúa đã dựng nên con người từ bụi đất và thổi sinh khí ban sự sống cho con người. Chiều hôm nay, Thầy cũng thổi hơi ban Thánh Thần cho các ông để các ông đón nhận sự sống mới. “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữa ai, thì người ấy bị cầm giữ.” ( x. Ga 20, 23). Từ đây, Thánh Thần sẽ hoạt dộng trong tâm hồn các ông, giữa cộng đoàn.
Thần Khí mới làm cho sống
Ngày hôm nay, Giáo Hội mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống không phải chỉ như một biến cố lịch sử nhưng hơn thế, Giáo Hội mở rộng tâm hồn để Thiên Chúa ban tràn đầy Thần Khí. Sứ mạng của Giáo Hội là truyền giáo, muốn thực hiện được sứ mạng ấy, hơn bao giờ hết Giáo Hội luôn cầu xin Thiên Chúa ban Thánh Thần, để Ngài hoạt động trong lòng Giáo Hội. Giáo Hội sống nhờ Thần Khí.
Ơn ban “bình an” mà Thánh Thần ban tặng sẽ giúp mỗi người tín hữu bước đi theo Thầy trong tin yêu dù khi gặp những thách đố trong đời sống chứng nhân. Thánh Thần ban “ơn tha tội” để luật yêu thương được trải dài khắp mặt đất và ngự trị trong tâm hồn mỗi người. Có bình an, được quyền tha tội, Giáo Hội “được sai đi” loan báo Tin Mừng muôn nơi. Ơn cứu độ là món quà vô giá mà Thiên Chúa ban tặng, Giáo Hội có sứ mạng sẻ chia món quà ấy cho các anh em của mình.
Lạy Chúa! Trong nỗi sợ hãi trước thế lực bóng tối, xin Chúa ban Thánh Thần Chúa ở cùng chúng con để tâm hồn chúng con được bình an. Sống sứ mạng truyền giáo đòi hỏi mỗi chúng con không ngừng nỗ lực cộng tác với ơn Chúa, để được Chúa thánh hóa và làm cho sống. Khi sức sống của Chúa tràn ngập trong tâm hồn chúng con, chúng con sẽ không sợ gì nguy khốn. Chúa biết chúng con yếu đuối và bất toàn, xin cho chúng con đầy lửa mến Chúa để ra đi loan báo Tin Mừng cho những người chúng con gặp gỡ. Amen.
Chiều ngày thứ nhất trong tuần, Cửa nhà đóng kín, tìm nguồn ủi an. Giê-su xuất hiện sẻ san HiệnXuống ABC527
Chiều ngày thứ nhất trong tuần, Cửa nhà đóng kín, tìm nguồn ủi an. Giê-su xuất hiện sẻ san, Bình an chúc phúc, Chúa ban ơn lành. Bàn tay thương tích vết hằn, Cạnh sườn đâm thủng, dưới vành ngực yêu. Vui mừng thị kiến mọi điều, Chết đi sống lại, cao siêu diệu vời. Thổi hơi nhận lấy lộc trời, Thánh Thần chân lý, rạng khơi dạt dào. Bảy ơn nguồn suối ngọt ngào, Các con tha tội, cao rao tình Người. Hy sinh chịu chết cứu đời, Yêu thương tha thứ, cho người trần gian. Công đầu phúc đức Chúa ban, Khổ thân chuộc tội, xóa tan hận thù. Các con cầm tội đền bù, Tội kia cầm lại, tỉnh tu sửa mình. Cầu xin ân sủng Thánh Linh, Soi lòng mở trí, thanh minh tâm hồn.
Henry Maning, một mục sư Anh Giáo, rất nổi tiếng về việc giảng thuyết và viết sách. Một ngày nọ có người bạn thân đến thăm và bình luận về các tác phẩm của mục sư. Ông bạn khen rằng các tác phẩm rất hay, nhưng không có dòng nào nói về Chúa Thánh Thần. Người bạn nghĩ đây là một thiếu xót lớn. Henry để tâm suy nghĩ lời của bạn trong hai năm tiếp theo. Rồi Henry miệt mài học hỏi về Chúa Thánh Thần. Ông đã khám phá ra ánh sáng chân lý. Henry đã trở về với Giáo Hội Công Giáo, chịu chức linh mục và rồi sau trở thành Tổng Giám Mục Westminster, Anh Quốc. Tiếp sau ngài trở thành Hồng Y và tham dự Công Đồng Vatican II.
Chúa Thánh Thần được sai đến trên các Tông đồ dưới hình lưỡi lửa. Được đầy tràn Thánh Thần, các Tông đồ bắt đầu ra rao giảng làm chứng nhân cho Chúa. Đây là sự khai mở của Giáo Hội đến với muôn dân. Vai trò của Chúa Thánh Thần rất quan trọng trong sự hình thành và phát triển Giáo Hội. Thánh Thần ban cho các tông đồ và môn đệ nhiều thứ ân sủng khác nhau. Mỗi ân sủng đều sinh lợi cho đời sống chung của Giáo Hội, người thì nhận ơn nói tiếng lạ, kẻ thì được ơn chữa bệnh, người được ơn làm phép lạ hoặc nói tiên tri. Cùng một Thánh Thần hoạt động trong Giáo Hội với nhiều ân huệ để giúp mang đến lợi ích chung qua mọi thời.
Chúa Thánh Thần tiếp tục thánh hóa và canh tân Giáo Hội. Ngài luôn soi trí mở lòng Giáo Hội để cùng đồng hành với sự phát triển văn minh của nhân loại. Thánh Thần giúp Giáo Hội đi trong sự thật. Chính Ngài là nguồn chân lý. Chúng ta biết rằng chân lý không đến từ quyết định của đám đông, đa số hay dư luận chung, nhưng là do chính Chúa Thánh Thần tác động.
Có nhiều khi chúng ta than van nói rằng sao mà Giáo Hội quá cổ hủ. Không thích ứng với những trào lưu và đòi hỏi của con người thời đại. Giáo Hội qúa ngặt nghèo và khó khăn giải quyết những nhu cầu trong cuộc sống của các tín hữu. Nhiều người đã từ bỏ và chọn con đường dễ dãi hơn.
Hãy tin tưởng rằng Chúa không bỏ chúng ta mồ côi. Thần Chân Lý sẽ hoạt động nơi chúng ta và hướng dẫn chúng con trong sự thật. Chúng ta không sợ lầm lạc trong bóng tối của thế gian. Cầu Chúa Thánh Thần hướng dẫn, chúng ta sẽ tìm được sự bình an và chân lý đích thực.
Năm 1784, chính trị gia nổi tiềng Mỹ Benjamin Franklin đã vẽ ra viễn cảnh về một lực lượng “thiên HiệnXuống ABC528
Năm 1784, chính trị gia nổi tiềng Mỹ Benjamin Franklin đã vẽ ra viễn cảnh về một lực lượng “thiên binh” khi viết: “Liệu có nhà lãnh đạo nào có thể rải quân khắp nơi để bảo vệ đất nước và ngăn chặn hàng chục ngàn binh lính từ trên trời rơi xuống làm loạn trước khi một lực lượng lớn được điều đến để đẩy lui họ?”
Cho đến đầu thế kỷ 19, những chiếc dù sơ khai do con người sáng tạo nên vẫn không phù hợp để thả người từ trên máy bay xuống đất. Rất nhiều tai nạn thương tâm đã xảy ra khi những chiếc dù này, mở ngay tức thì sau khi người nhảy lao ra khỏi máy bay và bị vướng vào cánh quạt. Chính điều đó đã thôi thúc một diễn viên người Nga tên là Gleb Kotelnikov sáng tạo ra một loại dù mới đựng trong ba-lô, cho phép người nhảy có đủ thời gian an toàn để bung dù sau khi nhảy ra khỏi máy bay.
Sau phát minh này của Kotelnikov, chiếc dù cải tiến của ông đã trở thành một thiết bị cứu mạng vô giá cho rất nhiều phi công trên khắp thế giới, và dần dần nó thu hút sự chú ý của giới quân sự nhằm hiện thực hóa ý tưởng về một lực lượng “thiên binh”xuất quỷ nhập thần.
Đầu năm 1917, sĩ quan Winston Churchill, người hồi đó là Tư lệnh quân đội Anh ở Pháp, đã đề xuất thành lập một trung đoàn bộ binh có thể được thả xuống bằng máy bay vào phía sau phòng tuyến địch để phá vỡ thế bế tắc khủng khiếp trên chiến trường mặt trận phía Tây.
Churchill không phải là người duy nhất có ý tưởng này. Tướng Billy Mitchell, chỉ huy lực lượng Không quân Mỹ trong Thế chiến I đã lên kế hoạch trang bị dù cho Sư đoàn Bộ binh số 1 và thả họ bằng máy bay ném bom cải tiến, xuống vùng Mert ở Pháp nhằm phá vỡ phòng tuyến của quân Đức.
Sau Thế Chiến I, quân đội các nước trên thế giới mới bắt đầu nhận ra tầm quan trọng của lực lượng “thiên binh” và bắt đầu tổ chức các lực lượng lính dù được huấn luyện đặc biệt của mình. Đến những năm 1930, Liên Xô đã xây dựng dựng cho mình một lực lượng lính dù cực lớn.
Năm 1933, Hồng quân Liên Xô thực hiện cuộc diễn tập nhảy dù đầu tiên trong lịch sử với sự tham gia của 62 lính dù. Ba năm sau, một cuộc diễn tập nhảy dù quy mô lớn với hơn 1000 quân tham gia được Hồng quân tổ chức, và họ thậm chí còn thả cả một đơn vị thiết giáp xuống, bằng dù để yểm trợ cho lực lượng “thiên binh”.
Các động thái của Liên Xô được nhiều nước khác trên thế giới quan tâm và theo dõi sát sao. Trong thập niên 1930, các cường quốc như Nhật Bản, Đức và Ý đã đi theo thành công của Liên Xô, để tiên phong xây dựng các lực lượng lính dù chính quy. Quân đội Pháp cũng thành lập các đơn vị lính dù đặc biệt, trong đó có một đại đội gồm 200 lính dù nữ được huấn luyện để làm công tác cứu thương nơi tiền tuyến.(Trí Dũng, Lính dù, những “thiên binh” xuất quỷ nhập thần, khámphá. VN)
Lính dù đem đến sức mạnh phi thường, cũng như “thiên binh.” Vì yếu tố bất ngờ, vì ở sau lưng kẻ địch, vì trang bị võ khí vượt trội, nên được mệnh danh là thiên thần mũ đỏ bách chiến, bách thắng. Hôm nay, các tông đồ được Chúa Thánh Thần tăng lực, đổi mới, bỗng dưng trở nên chiến binh chuyên nghiệp cừ khôi, không hề sợ bất kỳ trở ngại nào, dù quyền lực thế gian bao năm thống trị.
Bình an tâm hồn
“Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: “Bình an cho các con!”
Giữa khung cảnh thù địch, các môn đệ thủ thế, cửa đóng then gài, lòng động lòng lo. Vì không sống theo thế gian gian tà, theo bả phù vân, không theo cám dỗ, nên các tông đồ bị thế gian tẩy chay, khai trừ, giết chết. “Anh em hãy phục tùng Thiên Chúa. Hãy chống lại ma quỷ, chúng sẽ chạy xa anh em.” (Gc 4,7)
Bình an sứ vụ
“Bình an cho các con! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con.” Không những Đức Giêsu vô tội, còn bị thế gian bêu riếu, mạ lỵ, chống báng, thậm chí bắt bớ, giam cầm, hành hạ, rồi xử oan, đem hành hình, nên các số phận các tông đồ cũng không khác chi. “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi. Chủ nhà mà người ta còn gọi là Bêendêbun, huống chi là người nhà.” (Mt 10, 24-25)
Bình an của Chúa Thánh Thần.
“Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại.” Bình an của Đức Chúa Thánh Thần là một trong 12 hoa quả của Chúa Thánh Linh, dựa theo đoạn văn Gl 5,22-23, được sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo liệt kê lại. Đó là: “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân từ, lương thiện, hiền hoà, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ, thanh khiết.“
Nếu trong lần sáng tạo thứ nhất, Thiên Chúa “thổi hơi” vào Ađam, ông liền có sự sống, thì trong lần sáng tạo thứ hai, Chúa Kitô Phục Sinh “thổi hơi” vào các môn đệ, các ông có sự sống mới của Chúa Thánh Thần. Qua đó, Chúa Kitô Phục Sinh ban Thánh Thần cho Giáo Hội, nghĩa là ban sự sống mới. Nhờ Thánh Thần, các môn đệ được tha tội và được quyền tha tội, vì tội là nguyên nhân làm cho con người phải chết. (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương, Chúa Thánh Thần, Quà tặng của Đấng Phục Sinh)
Sự khôn ngoan của Chúa Thánh Thần ban, sẽ soi sáng các dự định của con, sẽ hướng dẫn các chương trình của con, sẽ biến đổi các hành động của con thành giá trị vĩnh cửu, sẽ làm con người con bất tử, trường sinh. (Đường Hy Vọng, số 553)
Lạy Chúa Giêsu phục sinh xin thổi hơi Thánh Thần canh tân, ban cho chúng con được ơn tái sinh, sống trung thành Tin Mừng.
Khấn xin Mẹ ban đầy tràn cho chúng con Đức Chúa Thánh Thần, như ngay khi Mẹ cưu mang Đức Giêsu trong lòng. Amen.
Khi nhắc tới chuyện yêu thương, đa số người ta sẽ nghĩ đến tình yêu đôi lứa, vì sự cao đẹp, khỏe HiệnXuống ABC529
Khi nhắc tới chuyện yêu thương, đa số người ta sẽ nghĩ đến tình yêu đôi lứa, vì sự cao đẹp, khỏe mạnh, nồng nhiệt, dễ dàng thuyết phục hơn cho mọi suy tư và thực hành. Khi nói về tình bạn, chúng ta thường nói tới bạn tri kỷ, bạn cùng chí hướng, cùng sở thích ; thực ra thì tình yêu hay tình bạn đều đẹp và đáng trân trọng, nếu chữ tình có tính bền vững. Người xưa lại có câu: cũ người mới ta, ngụ ý cho rằng con người luôn khao khát cái mới và loại trừ cái cũ, hiểu tích cực một chút thì ai cũng có cơ hội để diễn tả ngôn ngữ, cách hành xử của mình thật tinh tế và sống động.
Mỗi một năm, người ta có khuynh hướng bỏ đi những đồ dùng cũ, xua đuổi được nhiều mâu thuẫn bất đồng trong tư tưởng, hàn gắn được nhiều quan hệ gia đình xã hội tốt đẹp, cụ thể một chút, thời gian đang là bạn đồng hành trợ giúp ta trưởng thành hơn trong nhân cách. Không phải chỉ là mơ ước hay đòi hỏi về tính mới mẻ tri thức, nhu cầu tâm linh được an vui, được thấu hiểu về giá trị của cuộc sống luôn cần đến tình yêu thương. Xã hội luôn cần mỗi người hãy nâng cao tinh thần trách nhiệm với tổ quốc, thì gia đình cũng nhắc nhớ mỗi người phải ý thức tới đức công bằng đối với cộng đồng tính nữa. Trong khi các tông đồ đóng cửa vì sợ người Do-thái, Đức Giêsu đến bên các ông để tăng cường sức mạnh thiêng liêng, nhằm củng cố niềm tin, giúp các ông khám phá ra một năng lực mới là Thánh Thần tình yêu.
Dù các học trò đang cần đến uy quyền hay binh lực để thắng sợ hãi, Đấng phục sinh lại trao ban bình an, Ngài muốn các ông phải mở cửa trí lòng đón nhận ơn ban mới. Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, năng lực mới, ngôn ngữ mới, tình yêu mới, đó là sức sống, là uy quyền mà các ông đang cần để vượt qua những lo lắng sợ hãi. Điều các học trò đang cần, Đấng phục sinh biết rõ hơn ai hết, đó chính là tình yêu, là ơn ban: “như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Tính thuyết phục đối với các tông đồ không phải là khiếu nại, hay đòi hỏi lời giải thích, nhưng sự thinh lặng, cầu nguyện, chờ đợi, đó là thứ ngôn ngữ vâng phục đức tin giúp các ông sẽ được hết ơn này đến ơn khác.
Sau lời trấn an, và sau mệnh lệnh làm chứng nhân cho tình yêu, các tông đồ không phải tưởng tượng về những ơn ban nữa, các ông đã cảm nhận rõ dàng hơn về thứ ngôn ngữ mới, dồi dào hồng ân Thánh Thần. Đấng phục sinh đã giúp các học trò mở cửa trí lòng, Ngài cũng giúp các ông mở cửa phòng sợ hãi để ra đi thực hiện lệnh truyền: “các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha, các con cầm buộc ai thì tội người ấy bị cầm lại”. Tinh thần cao đẹp của người môn đệ sẽ mãi mãi không phải là theo ý riêng của mình, mà tùy thuộc vào thứ ngôn ngữ mới của hành động yêu thương do Thánh Thần soi sáng thúc đẩy.
Nếu quan niệm của dân tộc Do-thái là tự hào vì được gọi là con cháu của Tổ phụ Abraham, hoặc người Việt Nam vẫn tự hào mình là dòng tộc của Rồng-Tiên, chắc hẳn cần phải có niềm tin sống động, mới đủ minh chứng được thế nào là phúc đức. Đấng phục sinh đã vượt qua đau khổ sự chết để biến đổi các học trò và nhân loại tội lỗi chúng ta, Ngài cũng đang dùng tình yêu Thánh Thần để khai mở ngôn ngữ và sức sống mới cho sứ mạng của các học trò của chúng ta. Nếu Đấng phục sinh đã dùng ngôn ngữ của trái tim để bày tỏ nguồn ơn Bí tích cho nhân loại, Ngài cũng đã dùng ngôn ngữ Thánh Thần để biến đổi các môn đệ, củng cố sức mạnh tâm hồn cho những ai tin theo Chúa.
Ngôn ngữ mới mà Thánh Thần khai sinh Giáo hội, cũng là thứ ngôn ngữ yêu thương người trẻ, người cao niên, và tất cả những ai đang sử dụng để đạt đến đích điểm của niềm vui hạnh phúc. Nếu như Xuân Diệu nói: đố ai sống được mà không yêu, không nhớ không thương một người nào, cha ông chúng ta lại có câu: bán họ hàng xa, mua láng giềng gần, thật là tinh tế. Nếu người quân tử lấy ân nghĩa để sống, kẻ tiểu nhân vẫn dùng thủ đoạn để đạt mục đích, thì hóa ra hạnh phúc ở trần gian này là tùy quan niệm của cá nhân. Ngày hôm nay, Đấng phục sinh hẳn vẫn đang quả quyết: đố ai sống được mà không yêu, đố ai làm môn đệ, làm bạn hữu của Đức Giêsu mà vắng bóng yêu thương, mà không có Thánh Thần. Đố ai hạnh phúc thật mà thiếu ơn Chúa tác động. Hiểu biết và tin tưởng vào ngôn ngữ của Thánh Thần, cũng chính là tự do, là phản ánh của tình yêu Đấng Phục sinh, là cảm nhận mới mẻ trong bình an Thánh Thần dồi dào nơi cuộc đời chúng ta. Amen.
Đổi đời được hiểu theo nghĩa tốt đẹp. Đổi đời mong đời có í nghĩa hơn, trong sáng, thêm tươi và HiệnXuống ABC530
Đổi đời được hiểu theo nghĩa tốt đẹp. Đổi đời mong đời có í nghĩa hơn, trong sáng, thêm tươi và trở thành con người hữu dụng cho xã hội và cho Giáo Hội. Con người tốt của Giáo Hội luôn tốt cho xã hội; trong khi người tốt của xã hội đôi khi nguy hại cho Giáo Hội. Tốt đạo chắc chắn tốt đời; nhưng có kẻ tốt đời lại báng đạo. Tốt cho cả đời lẫn đạo khi người đó vâng phục Thánh Thần Chúa hướng dẫn, Đấng mà toàn thể Giáo Hội mừng kính tuần này.
Thánh Thần là món quà vô cùng quí giá Đức Kitô nhiều lần hứa ban cho Kitô hữu. Thánh Thần sẽ hướng dẫn và chỉ bảo thêm cho Kitô hữu học hỏi, hiểu sâu rộng thêm những gì Đức Kitô đã truyền dậy.
Thánh Thần sẽ chỉ dậy Kitô hữu biết cách đối xử khi đối diện đau khổ, bách hại, cấm cách vì đức tin Lc 12,12. Thánh Thần là Đấng ban nguồn sống, nước trường sinh chính Đức Kitô nhận: Ta là nước hằng sống Gn 7,37-39.
Đức Kitô ban Thánh Thần cho Kitô hữu trong ngày Đức Kitô Phục Sinh và trong ngày lễ Ngũ Tuần khi Ngài thở hơi cho các môn đệ và nói: Hãy nhận lấy ơn Thánh Thần Gn 20,22.
Được tràn đầy ơn Thánh Thần các tông đồ mạnh dạn dấn thân trong việc rao giảng. Rao giảng việc Đức Kitô chịu chết, sống lại vinh quang. Thánh Phêrô ví nguồn sống Thánh Thần ban cho tạo nên một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của Tin Mừng Phục Sinh phát sinh bởi Đức Kitô sống lại đổi mới bộ mặt trái đất. Đổi mới bởi tin vào Đức Kitô Phục Sinh sẽ được Thánh Thần Chúa hướng dẫn Cv 2,17-18. Đổi mới bắt đầu từ con tim yêu mến nồng cháy tình yêu Chúa và mến tha nhân như Đức Kitô dậy. Từ đó họ sống Tin Mừng và chia sẻ, mang Tin Mừng Phục Sinh đến cho người khác chưa nhận biết Tin Mừng Phục Sinh.
Lễ Chúa Thánh Thần trong tiếng Hi Lạp có nghĩa là năm mươi. Kỉ niệm năm mươi ngày các Tông đồ nhận lãnh Thánh Thần Chúa. Giáo Hội mừng kính năm mươi ngày sau Phục Sinh và còn được biết đến như Chúa Nhật trắng vì trong ngày này các người mới gia nhập Giáo Hội mặc áo trắng mừng ngày lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy, họ trở nên tinh tuyền trong ánh sáng rực rỡ của Đức Kitô Phục Sinh.
Sách Tông Đồ Công Vụ 2,1-11 xác quyếtThánh Thần mở cõi lòng và tâm hồn các tín hữu để họ lắng nghe, học hỏi hiểu thêm về lòng từ bi Chúa. Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gởi tín hữu thành Corinto 1Cor. 12,3-7 loan báo bí tích Thánh Tẩy liên kết mọi Kitô hữu thành đại gia đình Chúa và Đức Kitô đồng hành với họ trên bước đường giữ đạo, giảng Tin Mừng. Chính Đức Kitô Phục Sinh sai các môn đệ đi rao giảng khi Ngài nói với các ông:
Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em Gn 19-23.
Thánh Thần Chúa khai mở một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của canh tân, hoà giải và kỉ nguyên của lòng tin. Kỉ nguyên của lòng tin bởi Đức Kitô về trời và đồng thời lại ước ao ở cùng Kitô hữu mọi ngày cho đến tận thế. Con mắt đức tin giúp nhận biết Đức Kitô Phục Sinh trong hành động bác ái, yêu thương, tha thứ. Con mắt đức tin giúp nhìn ra hình ảnh Đức Kitô Phục Sinh trong mọi người vì tất cả đều là anh chị em trong Chúa. Họ có thể khác chánh kiến, khác giai cấp, khác thể chế chính trị nhưng họ là người do Chúa tạo dựng. Vì thế để trở thành người tốt cho xã hội và Giáo Hội người đó cần được Thánh Thần Chúa hướng dẫn, cần có con mắt đức tin nhận ra hình ảnh Đức Kitô Phục Sinh trong anh chị em khác. Con mắt đức tin giúp nhận biết Thánh Thể là Thịt Máu thánh Chúa. Thánh Thể là nguồn sống cho tâm hồn và sức mạnh trợ giúp việc rao giảng Tin Mừng vì thế kết thúc Thánh Thể bằng lời chúc ra đi bình an, bình an trong việc rao giảng bởi rao giảng Tin Mừng luôn gặp chống đối và chúc ra đi bình an, làm nhân chứng sống động là điều cần cho mọi Kitô hữu.
Phát biểu trong Thánh lễ Truyền chức Giám mục Phụ tá Giáo phận Xuân lộc Gioan Đỗ Văn Ngân HiệnXuống ABC531
Phát biểu trong Thánh lễ Truyền chức Giám mục Phụ tá Giáo phận Xuân lộc Gioan Đỗ Văn Ngân, ngày 01/06/2017, Đức Tổng Giám Mục Leopoldo Girelli, đại diện không thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam đã nói: “Trong những ngày này, Chúa Thánh Thần làm việc rất vất vả tại Việt Nam”. Ngài nói vậy vì mới ngày hôm trước, ngày 31/05/2017, tại Giáo phận Đà Lạt cũng có Thánh lễ Truyền chức Giám mục cho Đức cha phó Đa Minh Nguyễn Văn Mạnh, và vẫn còn một vài Giáo phận đang trống tòa, cũng như một vài Giáo phận đang rất cần thêm những mục tử như lòng Chúa mong ước.
Câu nói của vị đại diện Tòa Thánh tại Việt Nam làm cho tôi suy nghĩ đến việc hơn bao giờ hết Giáo hội Việt Nam, xã hội Việt Nam, từng gia đình và từng người đang rất cần một lễ Hiện Xuống mới. Thực sự Chúa Thánh Thần vẫn luôn luôn hoạt động trong lòng Giáo hội, nhưng trong bối cảnh của thời đại hôm nay, nói theo ngôn ngữ của loài người, quả thật “Chúa Thánh Thần đang rất vất vả”.
I. Tại sao Chúa Thánh Thần vất vả?
Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, có nhiệm vụ thánh hóa, biến đổi, làm cho mọi sự được tốt đẹp. Ngài là Thần Chân Lý, dẫn con người đến sự thật toàn vẹn để họ nhận biết và tôn thờ Thiên Chúa hầu được hạnh phúc đời đời. Ngài là Thần Tình Yêu để đưa con người hiệp thông trọn vẹn với tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Thế nhưng thực tế ngày hôm nay cho chúng ta thấy sự thật chưa được tôn trọng và tình yêu chưa được nhìn một cách đúng đắn.
Sự thật chưa được tôn trọng
Tôn trọng sự thật là: “Có thì nói có, không thì nói không, thêm thắt điều gì là do ma quỷ (Mt 5, 37). Câu nói này của Đức Giêsu đúng trong mọi thời đại, vì thời nào cũng có ma quỷ cám dỗ để người ta gian dối, che dấu sự thật.
Sau khi biết việc Đức Giêsu sống lại, “Các thượng tế liền họp với các kỳ mục; sau khi bàn bạc, họ cho lính một số tiền khá lớn, và bảo: “các anh hãy nói như thế này: Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác hắn. Nếu sự việc này đến tai quan tổng trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với quan và lo cho các anh được vô sự” (Mt 28, 12-14)
Trong mùa Phục Sinh, chúng ta được Giáo hội kể lại những hoạt động của các Tông đồ thời Giáo hội sơ khai, trong đó có câu chuyện của 2 vợ chồng Khanania và Xaphira trong sách (Cv 5, 1-11). Họ đã gian dối các Tông đồ để cất giấu tài sản làm của riêng. Hơn thế nữa, bà Xaphira còn làm chứng dối cho tội ác của chồng mình. Vì vậy mà 2 ông bà đã bị thánh Phêrô nguyền rủa ngã lăn ra chết trước mặt nhiều người, vì theo lời của Phêrô, họ đã “thách thức Thần Khí Chúa” (Cv 5, 9).
Thực tế trong xã hội ngày hôm nay, có những sự thật bị người ta cắt xén hoặc thêm thắt cho đúng với ý đồ của người ta mong muốn.
Gian dối từ hình thức bên ngoài của con người. Vì muốn mũi cao, cằm nhọn, mắt hai mí,…và nhiều thứ khác nữa, nên người ta sẵn sàng bỏ tiền ra làm “đồ giả”.
Gian dối đến thực lực bên trong. Vì muốn có công ăn việc làm nên người ta bỏ tiền ra mua bằng giả, chạy chức, chạy quyền,… Vì muốn nhanh chóng nên người ta lấy tiền mua chỗ để khỏi phải xếp hàng, khỏi phải chờ đợi…
Gian dối cả trong đời sống gia đình. Có vợ, chồng rồi mà vẫn lường gạt người khác để giấu giếm cho một cuộc tình vụn trộm.
Người muốn đi tu mà không chịu từ bỏ những điều bất xứng nên giấu giếm bề trên để hòng đạt được mục đích riêng tư của mình…
Một vài hành động kể trên để cho thấy người ta không chịu theo tác động của Chúa Thánh Thần, mà chỉ muốn làm theo ý riêng, nhưng thực chất là làm theo ma quỷ. Chính vì vậy mà Thánh Thần phải vất vả rất nhiều vì không muốn để cho thế gian, để cho con người bị ma quỷ thống lãnh.
Tình yêu chưa đúng đắn
Tình yêu đúng đắn phải rập khuôn theo khuôn mẫu của Tình Yêu Ba Ngôi Thiên Chúa, nghĩa là phải có cho đi và đón nhận. Nhưng thực tế ngày hôm nay, người ta chỉ tìm kiếm một tình yêu đón nhận mà không chịu cho đi.
Những ai đem lại lợi ích cho tôi, những ai làm cho tôi dễ chịu, những ai chịu nghe lời tôi… thì tôi sẽ tiếp rước họ một cách nồng hậu. Ngược lại những ai đến xin sự giúp đỡ của tôi; những ai hành động, nói năng, làm cho tôi khó chịu; những ai hay “thọc gậy bánh xe” tôi, hay cãi lời tôi… thì tôi xua đuổi, hoặc miễn cưỡng tiếp rước.
Yêu nhau nhưng người ta chỉ đòi hỏi người yêu phải phục vụ cho mình: đẹp trai, con nhà giàu, xe 4 bánh, hoặc ít ra xe tay ga mới được làm quen với em. Yêu nhau thì phải chứng minh bằng việc cho anh điều gì quý giá nhất… Thực chất đó là những đòi hỏi ích kỷ chứ không phải tình yêu.
…Và còn nhiều những hình thức của tình yêu chưa đúng đắn. Chính những điều đó làm cho Chúa Thần phải vất vả, vì Ngài không muốn con người có một tình yêu lệch lạc.
II. Chúa Thánh Thần, nguồn nước thanh tẩy
Sau những cơn mưa đầu mùa, chúng ta thấy cây cối xung quanh được rửa sạch bụi bặm, không khí thoáng mát, trong lành hơn. Thì Chúa Thánh Thần cũng được ví như nguồn nước thanh tẩy tất cả mọi cặn bã trong con người. Khi đến với Bí tích Giải tội, hối nhân sẽ được Linh mục đọc công thức giải tội: “Thiên Chúa là Cha hay thương xót, đã nhờ sự chết và sống lại của Con Chúa mà giao hoà thế gian với Chúa và ban Thánh Thần để tha tội.” Như vậy Thánh Thần chính là cội nguồn của sự tha thứ.
Để nhân loại, nhất là Giáo hội và các gia đình được tươi mới hơn, thì mỗi người, mỗi gia đình phải để cho nguồn nước của Thánh Thần tuôn chảy trong tâm hồn mình, nghĩa là một sự ý thức luôn luôn.
Để giúp con người có thể ý thức được dòng nước trong lành đang tuôn chảy trong mình, thì họ phải có thời gian nghỉ ngơi, thinh lặng bên Chúa trong các giờ cầu nguyện, kẻo công việc và những lo lắng sự đời sẽ trở thành những viên đá ngăn cản dòng chảy của nguồn nước Thánh Thần. Nhiều khi chúng ta cũng muốn sống theo sự thật, cũng muốn yêu đương đúng nghĩa, nhưng chúng ta không chịu dừng lại để những lo toan, những ích kỷ, những sự đời có thể trầm lắng xuống, mà tâm hồn chúng ta cứ náo động, xôn xao bởi những sự thế gian, nên cuối cùng chúng ta lại hành động theo kiểu thế gian: gian dối và ích kỷ.
Trong tuần lễ vừa qua, thế giới biết đến đệ nhất phu nhân Hoa Kỳ Melania Trump là một người Công giáo thực sự vì bà thường xuyên cầu nguyện và tham dự Thánh lễ; Hay con trai của bà đương kiêm thủ tướng Ba Lan, vừa được thụ phong Linh mục hôm 27/05/2017, cha Tymoteusz Szydlo; tại Việt Nam, nhiều người đã xúc động trước hình ảnh Bà Cố của Đức tân Giám mục phụ tá Xuân Lộc, Gioan Đỗ Văn Ngân trong lễ nhậm chức của Ngài… Họ là hình ảnh của những con người cầu nguyện, những con người biết quan tâm đến những giá trị linh thánh. Vì vậy chắc chắn nguồn nước thanh tẩy của Chúa Thánh Thần vẫn luôn luôn tuôn chảy trong họ, nhưng quan trọng hơn cả, là họ biết lắng nghe, cảm nhận và để cho nguồn nước ấy thanh tẩy chính mình để luôn hướng về những giá trị của Chân-Thiện-Mỹ.
Xin Chúa Thánh Thần ngự đến thanh tẩy từng người, từng gia đình; thanh tẩy Giáo hội và xã hội để mọi người, mọi gia đình, Giáo hội và xã hội được sống trong Chân Lý và Sự Thật.
Sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa Giê-su Phục sinh đã hiện ra với nhiều người, trong đó có HiệnXuống ABC532
Sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa Giê-su Phục sinh đã hiện ra với nhiều người, trong đó có các tông đồ, nhiều lần và ở nhiều nơi, để minh chứng xác thực cho họ biết Người đã sống lại thật, để họ cảm thấy an bình và nhất là đức tin của họ được củng cố. Chúa Giê-su Phục sinh còn giải nghĩa Kinh thánh cho các tông đồ biết và hiểu về chính Người và Nước Trời một cách tường tận hơn, để các ông can đảm chu toàn sứ vụ rao giảng Tin mừng và làm chứng cho Chúa.
Tuần trước, chúng ta mừng lễ Chúa Giê-su lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Nhưng trước khi về trời, Chúa hứa sẽ ban cho các tông đồ Chúa Thánh Thần và khẳng định với các ông sẽ ở lại với các ông cho đến ngày tận thế. Đúng như lời Chúa đã hứa, trong ngày lễ Ngũ tuần khi các tông đồ đang họp nhau cầu nguyện, Chúa Thánh Thần đã hiện xuống trên các ông như hình lưỡi lửa. Lưỡi là biểu hiệu cho tiếng nói và lửa là biểu hiệu cho lòng hăng say nhiệt thành. Các tông đồ được Chúa Thánh Thần bao phủ và lãnh nhận nhiều ân sủng của Người. Như vậy, Chúa Giêsu lên trời không có nghĩa là Người không còn hiện diện nơi trần gian hay bỏ rơi các tông đồ thân thiết của Người, nhưng có nghĩa là Người không còn hiện diện giữa các tông đồ qua thân xác con người, nhưng vẫn luôn hiện diện bằng một cách đặc biệt hơn, đó là qua Chúa Thánh Thần và qua Giáo hội mà Chúa đã thiết lập.
Vì thế, ông bà anh chị em thân mến, Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống hôm nay cũng là ngày sinh nhật của Giáo Hội, khởi đầu sứ mệnh rao giảng Tin mừng của Chúa Ki-tô và xây dựng Nước Chúa nơi trần gian. Như chúng ta biết sách Tông đồ Công vụ đã ghi lại sự kiện các tông đồ đã được Chúa Thánh Thần biến đổi từ một nhóm người yếu kém và sợ hãi trở nên những con người tràn đầy ơn sủng với tấm lòng nhiệt thành và can đảm, và các hoạt động rao giảng của các tông đồ vào thuở ban đầu lúc Giáo hội còn trong tình trạng sơ khai. Các ông rao giảng lời Chúa với một niềm xác tín vào Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh, cho những người Do thái hành hương từ nhiều nơi và nói nhiều thứ tiếng được hiểu biết. Dân chúng nhận ra một sự thay đổi hoàn toàn và rõ rang nơi con người các tông đồ. Họ cảm nhận được một niềm xác tín trong lời giảng dạy của các tông đồ về Chúa Giê-su Ki-tô. Điều này đã làm cho họ cảm thấy lạ lùng và sửng sốt kinh ngạc, và cũng làm cho họ tin và ca tụng Thiên Chúa.
Trong bài đọc 2, Thánh Phaolô cho chúng ta biết nguồn gốc của các ân sủng và sự hoạt động của Chúa Thánh Thần trong đời sống đức tin của những Ki-tô hữu chúng ta. Thánh Phao-lô khẳng định rằng tất cả mọi ân sủng của chúng ta là từ Chúa Thánh Thần. Ngài ban ân sủng khác nhau cho từng người tùy theo nhu cầu và không ai giống ai. Tuy nhiên thánh Phao-lô dạy chúng ta các ân sủng ấy không phải để chúng ta giữ làm của riêng, làm lợi hay vinh danh cá nhân, nhưng nhằm mục đích làm sáng danh Chúa, phục vụ lợi ích chung và xây dựng Giáo hội. Thánh Phao lô còn cho chúng ta biết Giáo hội được so sánh như một thân thể, mỗi Ki-tô hữu hay mỗi người chúng ta là những chi thể được kết hợp lại trong thân thể ấy mà Chúa Giê-su Ki-tô là đầu. Vì thế, điều quan trọng thứ nhất là: mọi chi thể, mọi Ki-tô hữu cần phải được nối kết với thân thể, là Giáo hội và là chính Chúa Ki-tô, để có sự sống, và điều quan trọng thứ hai là: mọi chi thể phải chu toàn công việc, bổn phận của mình để cùng xây dựng Thân Thể Chúa Ki-Tô, là Giáo hội và là giáo xứ của chúng ta đây.
Ông bà anh chị em thân mến. Hơn lúc nào hết, ngày hôm nay và trong xã hội này, tất cả chúng ta, người Công giáo Việt nam sống trong thành phố Tulsa này, cần Chúa Thánh Thần và những ơn sủng của Ngài, để rao giảng Tin mừng, để làm chứng cho Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh và để hiệp nhất xây dựng giáo xứ làm sáng danh Chúa. Chúa thương yêu ban cho chúng ta nhiều ơn lành hồn xác để chúng ta sống đức tin và xây dựng giáo xứ. Chúng ta là những người Việt Nam, vì thế chúng ta phải nêu cao tinh thần hiệp nhất và đời sống đức tin Công giáo của người Việt. Chúng ta nhận biết để chu toàn sứ vụ rao giảng và xây dựng, chúng ta còn phải đối diện với rất nhiều khó khăn và thách đố từ bên trong cũng như bên ngoài, hay chính trong con người của chúng ta. Nhưng chúng ta tin Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa và biến đổi, Ngài sẽ tiếp tục đổi mới và canh tân đời sống đức tin chúng ta, cũng như hiệp nhất và thúc đẩy chúng ta sống đức tin Công giáo người Việt Nam chúng ta.
Khi lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy và Thêm sức, Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trong tâm hồn mỗi người chúng ta, và ban cho chúng ta 7 ơn sủng đặc biệt là: Ơn Khôn Ngoan; Ơn Hiểu Biết; Ơn Lo Liệu; Ơn Sức Mạnh; Ơn Thông Minh; Ơn đạo đức và Ơn Kính Sợ Chúa. Chúa Thánh Thần tuôn đổ những ơn sủng này xuống cho mỗi người chúng ta, để chúng ta trở thành những người nhận biết Thiên Chúa và yêu mến Người, và để chúng ta luôn được liên kết mật thiết với Người và với nhau. Chúa biến đổi chúng ta trở thành những người có đức tin và ban ơn sủng để chúng ta can đảm sống đức tin hằng ngày, làm chứng cho Chúa qua đời sống bác ái, yêu thương, quảng đại và hy sinh phục vụ Chúa. Chúng ta tin xưa Chúa Thánh Thần đã biến đổi và hoạt động mạnh mẽ thế nào trong cuộc sống của các tông đồ, thì ngày nay Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục biến đổi và hành động mạnh mẽ như thế trong mỗi người chúng ta. Vì thế, chúng ta phải luôn mở rộng tâm hồn để Chúa Thánh Thần đến và ở trong cuộc sống của chúng ta. Xin Chúa Thánh Thần luôn kết hợp mỗi người chúng ta trong Thân Thể Chúa Ki-tô, để chúng ta cùng nhau dùng đời sống đức tin Công giáo Việt Nam rao giảng Tin mừng, làm chứng cho Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh, giúp nhau sống đức tin, xây dựng cộng đoàn giáo xứ và làm sáng danh Chúa.
Có người bảo Chúa Thánh Thần là Ngôi Vị hay bị quên lãng. Người ta hay cầu xin Ngài vào đầu HiệnXuống ABC533
Có người bảo Chúa Thánh Thần là Ngôi Vị hay bị quên lãng. Người ta hay cầu xin Ngài vào đầu các cuộc gặp gỡ hội họp, nhưng sau đó chẳng ai còn nhớ đến Ngài nữa. Thật ra Chúa Thánh Thần ở gần ta hơn ta nghĩ rất nhiều, đến độ nếu không có Thánh Thần thì chẳng có kitô giáo, cũng chẳng có kitô hữu. Đời kitô hữu tràn ngập sự hiện diện của Thánh Thần, Đấng không có khuôn mặt hữu hình như Đức Giêsu, nhưng các hoạt động của Ngài thì có thể thấy được. Dần dần Hội Thánh sơ khai nhận ra rằng Thánh Thần không chỉ là một quyền năng từ trên cao, mà còn là một Đấng, một Ngôi Vị thần linh như Cha và Con. Ngài còn được gọi là Thần Khí, hay Đấng Bảo Trợ. Trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng Thánh Thần là Chúa, và là Đấng ban sự sống, đồng hàng với Chúa Cha và Chúa Con. Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống. Nước là nguồn mạch đem lại sự sống, nên Đức Giêsu ví Thánh Thần với mạch nước vọt lên, mạch nước đem lại sự sống đời đời (Ga 4,14). Ai tin vào Ngài sẽ lãnh nhận Thần Khí như những dòng sông đầy tràn nước hằng sống (Ga 7,38-39). Hơi thở là dấu hiệu của sự sống. Đức Giêsu phục sinh đã trao ban Thánh Thần cho các môn đệ bằng cách thổi hơi thở của mình trên các ông (Ga 20,22). Nhận hơi thở là nhận sự sống mới của Đấng phục sinh. Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống. Ngài hiện diện và hoạt động trong mọi Bí tích. Khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, ta được tái sinh trong nước và Thánh Thần (Ga 3,5), được rửa tội nhân danh Thánh Thần để thành thụ tạo mới. Khi lãnh nhận Bí tích Thêm sức, ta nhận được ấn tín của Chúa Thánh Thần, và được sai đi làm chứng cho toàn thế giới (Cv 1,8). Khi lãnh nhận Bí tích Hòa giải, ta được tha tội nhờ quyền năng của Thánh Thần (Ga 20,22-23). Khi linh mục cử hành Bí tích Thánh Thể, trước khi đọc lời truyền phép trên bánh và rượu, linh mục cầu xin Chúa Cha sai Thánh Thần đến trên lễ vật để biến đổi chúng thành Mình và Máu Chúa Giêsu. Lời Chúa mà ta đọc và nghe trong Thánh Lễ là Lời đã được linh hứng viết ra bởi Chúa Thánh Thần (MK 12). Lời ấy cũng sẽ được rao giảng nhờ Thánh Thần soi sáng (MK 9). Đức Giêsu nhận mình là Đấng ban sự sống (Ga 5,21; 17,2). Khi về với Cha, Ngài ban cho ta Thánh Thần là Đấng ban sự sống, Đấng sẽ ở với, ở bên và ở trong chúng ta mãi mãi (Ga 14,16-17). Thân xác chúng ta đáng quý vì là chi thể của Đức Kitô (1 Cr 6,15), và cũng là Đền Thờ của Thánh Thần (1 Cr 6,19). Thánh Thần là vị Thầy giúp ta nhớ lại giáo huấn của Đức Giêsu, và dẫn chúng ta tới sự thật toàn vẹn và trọn vẹn (Ga 14,26; 16,13). Thánh Thần là vị Thầy dạy chúng ta cầu nguyện và gọi Thiên Chúa là Abba, như những người con (Rm 8,15; Gl 4,4). Thánh Thần vừa ban nhiều ơn khác nhau cho mỗi người (1 Cr 12,4-11). vừa hiệp nhất mọi người thành một thân thể duy nhất (1 Cr 12,13). Không thể nào hình dung một Hội Thánh mà lại không có Thánh Thần. Thánh Thần là “linh hồn” của Hội Thánh. Kinh Sáng Danh cổ xưa nhất là: “Sáng danh Đức Chúa Cha, nhờ Đức Chúa Con, và trong Chúa Thánh Thần.” Kitô hữu là người sống trong Thánh Thần của Đức Giêsu. Dù chúng ta đã lãnh bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức, nhưng chúng ta vẫn phải luôn cầu xin Cha trên trời ban cho ta Thánh Thần mỗi ngày (Lc 11,13). Càng để cho Thánh Thần tự do hoạt động trong cuộc sống, cây đời của chúng ta càng sinh hoa trái tốt tươi (Gl 5,22-23).
LỜI NGUYỆN
Lạy Cha, xin ban cho chúng con Thánh Thần. Vì không có Thánh Thần, Cha sẽ là Đấng nghìn trùng xa cách, Đức Kitô trở thành nhân vật của quá khứ, Sách Tin Mừng là mớ chữ vô hồn, Hội Thánh chẳng khác nào một tổ chức trần thế. Vì không có Thánh Thần của Cha, quyền uy trở thành sức mạnh thống trị, truyền giáo trở thành tuyên truyền, việc phụng tự trở thành một thứ lễ bái, cách hành xử của kitô hữu thành thứ đạo đức của nô lệ. Nhưng nếu có Thánh Thần, vũ trụ này được nâng lên, những quặn đau để sinh ra Nước Cha mang ý nghĩa, Đức Kitô phục sinh thật sự hiện diện, Tin Mừng thành sức sống vô bờ, Hội Thánh có nghĩa là hiệp thông. Nếu có Thánh Thần của Cha, quyền uy của Hội Thánh là khí cụ phục vụ, truyền giáo trở thành một lễ Hiện Xuống mới, phụng vụ là một tưởng niệm và là một thực tại, các hành động của con người mang tính thần linh. Lạy Cha, xin ban Thánh Thần cho chúng con.
(dựa theo lời nguyện của Đức Thượng phụ Athenagoras)
Trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng: Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Đấng Ban Sự HiệnXuống ABC534
Trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng: Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Đấng Ban Sự Sống. Tin Mừng hôm nay thuật lại: Chúa Giêsu thổi hơi vào các môn đệ và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Cử chỉ này nhắc ta nhớ lại việc Thiên Chúa tạo dựng con người. Sách Sáng thế 2,7 tường thuật: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật”. Hơi thở là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là sự sống. Không phải là một sự sống bình thường như sự sống của các sinh vật khác. Đây là sự sống của Thiên Chúa với tất cả những chiều kích cao sâu phong phú của nó. Trong khuôn khổ Lời Chúa hôm nay ta có thể thấy sự phong phú của sự sống Chúa Thánh Thần.
Đó là sự sống thiêng liêng. Sự sống là tất cả. Nên sự sống là món quà quí nhất Thiên Chúa tặng ban cho con người. Không có sự sống là không có gì hết. Còn hơn thế nữa. Chúa ban cho ta sự sống của chính Thiên Chúa. Cho ta giống hình ảnh cao đẹp của Chúa. Cho ta được chung hưởng sự sống hạnh phúc với Chúa.
Đó là cuộc sống trong bình an. Tổ chức Y tế Thế giới đã đưa ra một định nghĩa mới về sức khoẻ. Khoẻ mạnh không phải chỉ là không có bệnh tật gì mà còn phải là cuộc sống bình an. Chúa Thánh Thần là sự sống bình an. Nên các môn đệ đang lo âu sợ hãi bỗng trở nên mạnh mẽ, can đảm. Dù cuộc sống còn nhiều khó khăn. Nhưng các ngài vẫn vui tươi và bình an.
Đó là cuộc sống hiệp thông. Con người không sống đơn độc, nhưng sống với người khác. Cuộc sống xã hội làm con người nên phong phú. Nhưng cuộc sống xã hội chỉ phát triển trong sự hiệp thông. Đó chính là ơn Chúa Thánh Thần. Ngày Lễ Ngũ Tuần, thế giới tràn ngập ơn hiệp thông. Nên người muôn dân muôn nước, dù khác biệt màu da, chủng tộc, ngôn ngữ vẫn hiểu biết và sống chan hoà. Sách Công vụ Tông đồ đề cập đến người thuộc 17 địa phương khác nhau. Ta nghĩ đến 70 lần 7. Con số vô vàn vô số chủng tộc có thể sống với nhau trong tình hiệp thông chan hoà.
Đó là cuộc sống yêu thương. Chúa Thánh Thần là tình yêu muôn đời giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Là tình yêu nguyên thuỷ. Là tình yêu của mọi tình yêu. Giáo hội sơ khai được ơn Chúa Thánh Thần nên sống với nhau trong tình yêu thương. Mọi người đối xử với nhau như anh em ruột thịt. Bỏ của cải làm của chung. Nên không ai bị thiếu thốn.
Đó là cuộc sống hài hoà. Thánh Phaolô diễn tả cuộc sống theo ơn Chúa Thánh Thần khiến xã hội trở nên hài hòa như trong một thân thể. Mỗi người làm việc riêng theo chức năng của mình. Nhưng hài hoà với mọi người, như các chi thể trong một thân thể. Mỗi chi thể làm việc riêng nhưng đều hướng về lợi ích của toàn thân. Ta hãy xem một cầu thủ đá bóng. Khi thấy bóng, mắt phải quan sát. Trí óc phải phán đoán. Chân tay phải chuyển động. Và cả mắt nhìn, cả trí phán đoán, cả chân tay chuyển động là làm sao đưa bóng đến mục đích. Như thế mọi thành phần trong cơ thể đều kết hợp hài hoà để đạt được ích lợi chung.
Nhìn vào tình hình thế giới hôm nay, ta thấy cuộc sống do Thiên Chúa tạo dựng đang bị phá vỡ. Lực lượng sự dữ tàn phá hình ảnh Thiên Chúa nơi con người; xúi giục con người sống theo thú tính; khiến khuôn mặt con người trở nên méo mó; đánh mất vẻ đẹp của hình ảnh Thiên Chúa; tàn phá lương tâm khiến con người không còn phân biệt thiện ác; tàn phá thiên nhiên khiến thế giới trở nên khó sống. Thiên nhiên nổi giận. Khí hậu biến đổi đang tác hại đến sự sống của con người. Tệ hại hơn nữa, lực lượng sự dữ tàn phá chính sự sống. Và tồi tệ nhất là con người huỷ diệt chính sự sống khi giết hại thai nhi là chính con người, chính con cái của mình. Sự xấu làm cho cuộc sống mất bình an. Con người phải sống trong lo sợ. Sợ bị mất mạng. Sợ bị mất tiền của. Sợ bị mất danh dự. Sợ bị mất tự do. Sợ hãi làm cho con người sống mà như đang chết đi. Sự xấu làm mất tình hiệp thông. Người trong một nước nói cùng ngôn ngữ mà không hiểu nhau. Người trong một gia đình trở nên xa lạ vì mỗi người đều nghĩ đến quyền lợi riêng. Cuộc sống thiếu tình yêu thương. Đang có những tình anh em kiểu Cain và Abel. Rủ nhau ra đồng để giết hại nhau. Tình đồng chí kiểu môi hở răng lạnh. Nhưng răng cắn môi đau. Và cuộc sống thiếu sự hài hoà; khiến cho các tập thể trở nên rời rạc. Vì mỗi người không nhìn đến lợi ích chung của toàn thân. Chỉ biết vun quén cho riêng mình.
Chính trong tình hình này, ta cần ơn Chúa Thánh Thần hơn bao giờ hết. Chỉ có Chúa Thánh Thần Đấng Ban Sự Sống mới có thể thay đổi, phục hồi và phát triển sự sống cho thế giới. Vì thế, ta phải tha thiết kêu van xin Chúa Thánh Thần ngự đến.
Lạy Đấng Ban Sự Sống xin hãy đến. Xin hãy thổi hơi thần linh để con người được có lại sự sống của Thiên Chúa.
Lạy Đấng Bảo Trợ xin hãy đến. Chúa là nguồn mạch bình an. Xin hãy ban bình an cho chúng con.
Lạy Nguồn Ơn Hiệp Thông xin hãy đến. Ngài là sự hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Xin hãy ban ơn hiệp thông để thế giới ngày càng gần gũi hiểu biết nhau hơn chí người trong cùng một nhà mà cũng như xa lạ, không thể hiểu nhau.
Lạy Thánh Thần Tình Yêu xin hãy đến. Ngài là tình yêu của mọi tình yêu. Là tình yêu nguyên thủy giữa Chúa Cha và Chúa Con. Xin cho chúng con sống với nhau trong tình bác ái huynh đệ chân thực.
Lạy Thánh Thần Hài Hoà xin hãy đến. Ngài làm cho tất cả “dầu là Dothái hay Hylạp, nô lệ hay tự do, nếu đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí đều trở nên một thân thể”. Và mọi chi thể trong thân thể đều kết hợp hài hoà nhịp nhàng ăn khớp để hoạt động vì cùng một mục đích là ích lợi cho toàn thân.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến và đổi mới mặt đất này. Nhưng mặt đất này do con người tàn phá. Nên xin hãy đổi mới tâm hồn con người. Xin đổi mới mọi sự trong ngoài chúng con. Để chúng con nên con người mới, xây dựng một thế giới mới chan hoà sự sống, chan hoà bình an, chan hoà tình yêu thương.
Lạy Mẹ Maria, xưa kia Mẹ đã cùng với các Tông đồ trong nhà Tiệc Ly cầu nguyện xin Chúa Thánh thần ngự đến; nay xin Mẹ cũng tiếp tục cầu nguyện để chúng con được đón nhận Chúa Thánh Thần.
Nơi Ba Ngôi Thiên Chúa, nếu chúng ta có thể dễ dàng hình dung ra “khuôn mặt” của Chúa Cha HiệnXuống ABC535
Nơi Ba Ngôi Thiên Chúa, nếu chúng ta có thể dễ dàng hình dung ra “khuôn mặt” của Chúa Cha và Chúa Con, nhờ lời nói và ngôi vị của Đức Giê-su, thì dường như chúng ta không thể hình dung ra “khuôn mặt” của Ngôi Ba Thiên Chúa, nghĩa là khuôn mặt của Chúa Thánh Thần. Vì thế có người nói, Thánh Thần không có “khuôn mặt”. Thực vậy, Lời Chúa trong các bài đọc của Thánh Lễ hôm nay đều nói về Thánh Thần bằng những hình ảnh rất đa dạng và năng động:
* Trước hết, trong bài Tin Mừng theo thánh Gioan, Thánh Thần được ban từ hơi thở của Đức Ki-tô phục sinh: “Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.”
* Trong bài Tin Mừng cũng theo thánh Gioan của Thánh Lễ Vọng Chúa Thánh Thần hiện xuống, Đức Giê-su còn dùng hình ảnh nước để nói về Thánh Thần: “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống! Như Kinh Thánh đã nói: “Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống”“ ; và thánh sử Gioan giải thích: “Đức Giê-su muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận” (Ga 7, 38-39)
* Và theo bài đọc 1, trích sách Công Vụ Tông Đồ, Thánh Thần đến ngang qua tiếng gió mạnh và dưới những hình lưỡi, giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một.
* * *
Do đó, thay vì dừng lại ở việc tìm biết, nói hay giảng giải về Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa, chúng ta được mời gọi mở lòng ra, dành chỗ cho Chúa Thánh Thần ngự đến, để Người hoạt động trong tâm hồn chúng ta như một năng động đến từ Chúa Cha và Chúa Con, thay vì để cho những năng động khác chi phối chúng ta ; nhờ đó tâm hồn chúng ta sẽ trở thành “thiêng liêng”, nghĩa là thuộc về Thiên Chúa, như Đức Giê-su Ki-tô.
Vì vậy, chúng ta có thể nói: Thánh Thần không có “khuôn mặt” nhưng Người làm cho chúng ta có “khuôn mặt” của con Thiên Chúa, theo khuôn mẫu của Đức Giê-su Ki-tô, Người Con duy nhất và chí ái của Thiên Chúa Cha.
1. Thánh Thần và ơn bình an
Sau khi Đức Ki-tô phục sinh, vào ngày thứ nhất trong tuần, các môn đệ đang ở trong tâm trạng sợ hãi. Vì thế, ơn đầu tiên mà Đấng Phục Sinh muốn thông truyền cho các môn đệ là ơn bình an: “Bình an cho anh em!” Bình an của sự sống mới, nhưng Chúa lại muốn thông truyền cho các môn đệ và cho chúng ta ngay trong sự sống đầy thách đố này; bởi lẽ chính Ngài đã sống ơn bình an này ngay trong cuộc Thương Khó đầy nhọc nhằn và đau đớn.
Chắc chắn chúng ta cũng đã trải qua những hoàn cảnh như thế, và có kinh nghiệm về sự viếng thăm của Đức Ki-tô phục sinh, ngang qua Lời của Ngài. Đức Ki-tô phục sinh “viếng thăm”, “đi ngang qua” những tình huống khác nhau như thế của những người thuộc về Ngài, của từng người chúng ta, của cả nhân loại. Xin cho chúng ta cũng nhận ra sự hiện diện sống động của Chúa trong cầu nguyện và trong ngày sống của chúng ta, và nhất là trong những thử thách làm chúng ta sợ hãi và đóng kín.
Như tất cả các lần hiện ra khác, Chúa luôn luôn cho thấy mình chính là Người đã bị đóng đinh: “Người cho các ông xem tay và cạnh sườn”. Điều này cho thấy:
Sự sống mới phát xuất từ con đường Thập Giá. Như thế, tất cả, dù là thử thách, đau khổ, tội lỗi, bệnh tật và sự chết, đều trở thành đường đi dẫn đến niềm vui Phục Sinh.
* Đức Ki-tô chịu đóng đinh và Đức Ki-tô phục sinh vừa rất khác, khiến cho những người đã từng sống với ngài không nhận ra, nhưng vẫn là một.
* Tuy Ngài đã đi vào sự sống mới, nhưng tất cả những gì đến từ cuộc Thương Khó, mãi mãi gắn bó với ngôi vị của Ngài. Đó chính là để chúng ta đừng bao giờ nghi ngờ tình yêu và lòng thương xót vô hạn của Chúa.
* * *
Hãy xin Chúa ban cho chúng ta ơn bình an và niềm vui, không chỉ vì Đức Ki-tô đi vào sự sống mới, nhưng còn là vì, mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa có liên quan sâu xa đến cuộc đời và hành trình ơn gọi của chúng ta: tất cả, dù là thử thách, đau khổ, tội lỗi, bệnh tật và sự chết, đều trở thành đường đi dẫn đến niềm vui Phục Sinh, và sự sống Phục Sinh đã được gieo và sinh hoa kết quả ngay hôm nay.
Đức Ki-tô phục sinh lại ban ơn bình an một lần nữa cho các môn đệ, trước khi trao sứ mạng và sai đi: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai thầy, thì thầy cũng sai anh em”. Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Như thế, ơn huệ Thánh Thần đến từ hơi thở của Đức Ki-tô phục sinh ; và Thánh Thần làm cho chúng ta sống bằng hơi thở của Đức Ki-tô phục sinh, nghĩa là sống sự sống mới của Ngài. Thánh Thần làm cho sức sống mới của Đức Ki-tô bừng lên như ngọn lửa, như không thiêu rụi hay hủy diệt, nơi các môn đệ, để họ có thể sống ơn gọi và sứ mạng đến cùng trong bình an. Trong tương lai đầy thách đố của ơn gọi và của sứ vụ, các môn đệ và chúng ta cũng vậy, cần Thánh Thần thông truyền ơn bình an của Đức Ki-tô phục sinh biết bao.
2. Thánh Thần làm cho nói “các thứ tiếng”
Theo sách Công Vụ Tông Đồ, Thánh Thần làm cho người ta nói được các thứ tiếng. Nếu vậy thì hay quá, bởi vì chúng ta quá vất vả khi phải học ngoại ngữ: tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Nhật, tiếng Hoa… Tuy nhiên, nếu chúng ta đọc kĩ trình thuật của sách Công Vụ Tông Đồ, thì chúng ta sẽ nhận ra rằng, đó không phải là sự kiện các tông đồ nói giỏi ngoại ngữ nhờ ơn Chúa Thánh Thần, nhưng đó là một kinh nghiệm thiêng liêng: Thánh Thần làm cho chúng ta hiểu nhau, làm cho chúng ta trở nên một, dù chúng ta là ai, dù chúng ta có khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa, nguồn gốc, giới tính, tính tình, tài năng, ngoại hình… như thánh Phao-lô nói: “Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể.”
Xưa kia, trong biến cố tháp Babel, loài người không còn hiểu nhau, chia rẽ nhau, vì mỗi người, mỗi dân tộc đều đầy tham vọng, qui về mình, thay vì qui về Thiên Chúa, thì với ơn huệ Thánh Thần, loài người chúng ta lại đến được với nhau, sống huynh đệ với nhau và hiểu được nhau ở chiều sâu. Và đây là một kinh nghiệm thiêng liêng của đức tin, vượt xa chuyện nói giỏi ngoại ngữ. Trong các diễn đàn quốc tế, ai cũng nói được ngoại ngữ, nhưng đâu có tự động xây dựng được sự hiệp nhất đâu ?
Vậy điều gì làm cho loài người chúng ta, mỗi người chúng ta, tuy khác biệt, nhưng hiểu được nhau và hiệp nhất với nhau, nếu không phải là ra khỏi mình để “loan báo những kì công của Thiên Chúa” (Cv 2, 11) và đón nhận Đức Ki-tô vào lòng mình, vào cuộc đời mình, như Thánh Phaolo nói: “không ai có thể nói rằng: Đức Giê-su là Chúa, nếu người ấy không ở trong Thần Khí.”
Và điều gì làm cho chúng ta trở nên một dưới tác động của Thánh Thần, nếu không phải là “ngôn ngữ tình yêu”, yêu mến Chúa và yêu mến nhau?
3. Thánh Thần và ơn tha thứ
Thánh Thần thông truyền sức sống mới của Đức Ki-tô phục sinh để chúng ta được bình an và nói được ngôn ngữ của tình yêu. Nhưng để có thể yêu mến nhau, chúng ta không thể không tha thứ cho nhau, đón nhận nhau, bao dung nhau và chấp nhận những khác biệt. Vì thế, trong bài Tin Mừng theo thánh Gioan, Đức Ki-tô ban Thánh Thần cho các Tông Đồ chính là để ban ơn tha thứ:
Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.
(c. 22-23)
Như thế, ơn huệ Thánh Thần được ban cho các tông đồ, chính là để tha thứ. Chúng ta không có chức thánh, nhưng vẫn có thể làm chứng về lòng thương xót của Chúa, bằng cách bao dung và tha thứ cho nhau, vì chính chúng ta đã được Chúa bao dung và tha thứ cách vô hạn và nhưng không, trong Đức Ki-tô chịu đóng đinh.
Xin Chúa Thánh Thần dẫn đưa chúng ta vào trong sự thật của Đức Ki-tô, và sự thật lớn nhất đó là: không có gì tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Ki-tô. Như thế, Thánh Thần sẽ làm cho thành sự điều Chúa Cha và Đức Ki-tô ước ao, đó là chúng ta trở nên một, như Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là một.
* * *
Thánh Thần không có “khuôn mặt”, nhưng mang lại cho chúng ta “khuôn mặt” của Thiên Chúa, Người làm cho chúng ta sống ơn gọi là “hình ảnh của Thiên Chúa”, nghĩa là trở nên con Thiên Chúa như Đức Giê-su Ki-tô và như thế, trở nên một như Thiên Chúa là một. Như chính Đức Ki-tô đã tha thiết cầu xin Thiên Chúa Cha trước khi bước vào hành trình Vượt Qua: “Xin cho họ nên một, như chúng ta là một.
CÙNG VỚI CHÚA THÁNH THẦN HÃY CANH TÂN CUỘC SỐNG NÀY
Thánh Kinh dùng biểu tượng: Hơi thở, Nước và Lửa, chim bồ câu, dầu để miêu tả Chúa Thánh Thần HiệnXuống ABC536
Thánh Kinh dùng biểu tượng: Hơi thở, Nước và Lửa, chim bồ câu, dầu để miêu tả Chúa Thánh Thần. Cụ thể, các bài đọc hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Thánh Thần hiện xuống với các Tông đồ bằng biểu tượng: HƠI THỞ – NƯỚC VÀ LỬA. Hơi thở, nước và lửa là những thứ rất bình thường nhưng rất quan trọng và thiết yếu cho cuộc sống chúng ta. Cho nên, cuộc sống tâm linh cũng vậy, chúng ta không thể sống nếu không có Chúa Thánh Thần và sự hoạt động của Ngài, vì chưng Chúa Thánh Thần có vai trò rất quan trọng trong thế giới này và trong mỗi con người chúng ta. Ngay cả Chúa Giê-su, Ngài cũng đón lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần khi Ngài chịu phép rửa tại sông Gio-đan. Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta về mầu nhiệm Ngôi Ba Thiên Chúa, mà hôm nay Giáo hội long trọng mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Và qua việc Chúa Thánh Thần hiện xuống này, chúng ta nhận ra vai trò hoạt động của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống chúng ta qua ba biểu tượng: Hơi thở, Nước và Lửa.
Trước hết, Chúa Thánh Thần là Hơi thở. Rõ ràng Bài Tin Mừng hôm nay đã mô tả Thánh Thần như hơi thở của Chúa Kitô Phục Sinh. Hơi thở là dấu hiệu của Sự Sống. Sách Sáng Thế kể khi Thiên Chúa tạo dựng nên con người đầu tiên là Ađam, Ngài lấy bun đất nắn nên con người và thở hơi của Ngài vào Ađam để ông sống và nhờ đó Ađam trở nên bạn hữu của Thiên Chúa. Chúa Giêsu Phục Sinh hôm nay cũng đã lặp lại hành động ấy khi Ngài xuất hiện giữa các môn đệ và thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Nhận lấy Thánh Thần là nhận lấy sự sống của Thiên Chúa, là nhận lấy tinh thần của Thiên Chúa vì Thánh Thần là Thần Khí, là Hơi Thở của Thiên Chúa.
Mỗi ngày chúng ta sống được là nhờ hít thở không khí, mà Thánh Thần là Thần Khí ban sự sống cho chúng ta, vậy sự sự sống của chúng ta là do Thiên Chúa ban tặng. Chính nhờ tham dự vào sự sống của Ngài mà chúng ta được sống. Ađam đã nhận được hơi thở của Thiên Chúa để sống vai trò nguyên tổ của loài người. Các Tông đồ đã nhận được hơi thở của Thiên Chúa để làm chứng về Chúa Giêsu Kitô. Mỗi người chúng ta, cũng đã nhận được hơi thở của Thiên Chúa khi chúng ta được dìm trong Nước Thánh Tẩy và được xức dầu trong bí tích Thêm Sức chính lúc ấy hơi thở, sức sống, tinh thần của Thiên Chúa được “hà hơi” vào trong ta. Vấn đề là chúng ta có biết sống bằng hơi thở Thần Linh ấy không? Thánh Phaolô trong bài đọc hai nói rằng Chúa Thánh Thần ban cho mỗi đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ vì lợi ích chung để được lợi ích chung cho cộng đoàn, Thánh Phaolô đề cao Đức Ái như một đặc ân của Thánh Thần. Vì vậy, sống đức Ái, sống yêu thương là chúng ta sống bằng hơi thở của Thiên Chúa, là kết hợp với Thiên Chúa Tình Yêu, là sống trong Thánh Thần. Chỉ có yêu thương mới làm cho con người sống và phát triển thực sự. Chỉ có yêu thương mới làm cho con người thay đổi, canh tân, hoán cải. Ai yêu thương nhiều là người ấy thay đổi nhiều, vì tình yêu sẽ dẫn đưa chúng ta đến chốn vô cùng, vô tận của cuộc sống. Ai yêu thương nhiều và yêu thương thực tình sẽ không còn là mình nữa, mà là dụng cụ của Tình Yêu Thiên Chúa, sẽ nên giống như Thiên Chúa. Vì vậy, Thánh Phaolô đã xác tín rằng: “Tôi sống nhưng không phải tôi, nhưng là Chúa Kitô sống trong tôi" (Gl 2,20).
Kế đến là biểu tượng của Chúa Thánh Thần là Nước. Nước mang lại sự sống cho chúng ta và các sinh vật trên trái đất này. Nếu không có nước thì con người và vạn vật không thể sống được. Cũng vậy trong đời sống thiêng liêng, chúng ta múc lấy nguồn nước ân thiêng từ nơi Chúa Thánh Thần khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Thêm sức. Chúa Giêsu dìm mình xuống tại dòng sông Gio-dan để đón nhận dòng nước tái sinh. Ngài muốn cùng chịu chung với thân phận với con người. Nhờ đó, chúng ta được ơn tái sinh từ nguồn nước của Đức Ki-tô. Máu và Nước của Ngài là nguồn ơn cứu độ cho chúng ta. Vì vậy, Lời Chúa trong bài đọc 2, Thánh Phaolô đã xác quyết rằng: "Chúng ta đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể". Phép rửa là để thanh tẩy tội lỗi con người, và tái sinh làm con cái Chúa nhờ lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần. Cho nên, Chúa Giêsu hôm nay nói: "Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em, anh em hãy lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần". Do đó, khi chúng ta chịu Bí tích Thanh tẩy là chúng ta được ơn tái sinh bởi Chúa Thánh Thần, chúng ta được sạch tội tổ tông, tội riêng ta phạm và lãnh nhận những ơn cần thiết trong đời sống, đó là ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn liệu, ơn sức mạnh, ơn thông minh, ơn đạo đức, ơn kính sợ Thiên Chúa để chúng ta sống xứng đáng là con cái của Thiên Chúa và đền thờ của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Cuối cùng, biểu tượng của Chúa Thánh Thần là Lửa. Sách Công vụ Tông Đồ trong bài đọc 1 thuật lại rằng khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bổng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào căn nhà nơi mọi người đang tụ họp. Họ thấy xuất hiện những hình lưỡi lửa tản ra đậu trên từng người. Ai nấy lòng tràn ngập ơn Chúa Thánh Thần, họ bắt đầu nói nhiều thứ tiếng lạ khác nhau, và trên đầu các ông có hình lưỡi lửa. Đó chính là lửa Chúa Thánh Thần, Ngài đã ban cho các tông đồ ngọn lửa sự sống đức tin, ngọn lửa niềm vui, và ngọn lửa bình an để các ngài can đảm ra đi rao giảng và làm chứng cho Tin mừng khắp nơi trên thế giới.
Rõ ràng, sau ngày Chúa Giêsu chịu chết, các Tông đồ sợ hãi tản lạc tứ phía. Các ngài phải trốn chạy. Các ngài phải ẩn nấp và sống trong sợ sệt lo âu. Các ngài phải đóng kín cửa nhà vì sợ người Do thái. Các ngài sống như tựa như đã chết. Các ngài giống như cái xác không hồn. Nhưng sau khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các ngài nhận được nguồn sống. Sự sống mãnh liệt trào tuôn vào lòng các ngài khiến các ngài không còn có thể ngồi đó mà nguyền rủa bóng đêm, nhưng mạnh mẽ mở cửa ra đi rao giảng Lời Chúa hằng sống. Như vậy, ngọn lửa Chúa Thánh Thần đã đem lại sự sống, sự sống lại và là sự sống mới cho các Tông đồ và cho cả chúng ta. Ngày nay chúng ta cảm ơn Chúa Thánh Thần hơn bao giờ hết. Trong bản thân cũng như trong cộng đoàn chúng ta có nhiều tì tích hoen ố, tội lỗi nhưng chỉ có ngọn lửa của Chúa Thánh Thần mới có thể thanh luyện tâm hồn chúng ta. Thế giới hôm nay đầy những bóng tối tội ác nhưng chỉ có ngọn lửa Chúa Thánh Thần mới có thể soi sáng cho chúng ta biết đi đường lối thánh thiện. Thế giới hôm nay chứa đầy văn minh sự chết, đưa con người tới huỷ diệt và chỉ có ngọn lửa Chúa Thánh Thần mới hồi phục, đưa ta vào sự sống mới trong Đức Kitô.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con để nhờ sức mạnh của Lời Chúa và với ơn Chúa Thánh Thần chúng con có nhiều Lửa tình yêu, Nước hằng sống và hơi thở bình an của Chúa để chúng ta sẵn sàng xin lỗi nhau, yêu thương nhau và tha thứ cho nhau hầu cộng đoàn, gia đình và xã hội chúng con được hạnh phúc, bình an và tràn ngập yêu thương. Alleluia.
Chúa Thánh Thần ai cũng biết và thường được nhắc đến, có lúc gần như mỗi ngày, nhưng hình như HiệnXuống ABC537
Chúa Thánh Thần ai cũng biết và thường được nhắc đến, có lúc gần như mỗi ngày, nhưng hình như chúng ta không thân mật với Ngài bao nhiêu, vì Ngài thiêng liêng. Chúng ta thân mật với Chúa Giêsu nhiều hơn vì Ngài đã mặc lấy xác phàm, đã sống giữa trần thế. Chúng ta còn giữ những vết tích của Ngài. Chúng ta ăn lấy Ngài gần như hằng ngày, nhưng Chúa Thánh Thần, chúng ta chỉ cầu xin lúc nào đó. Nhưng chính Ngài mới là Đấng đang sống và hoạt động mãnh liệt trong Giáo hội, trong các tâm hồn và trong vũ trụ. Ngài mới là sức sống mãnh liệt, là nguồn bình an là tất cả mà chúng ta không mấy ý thức.
Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là dịp để chúng ta ý thức hơn và kết hiệp với Ngài sâu xa hơn. Con người xác thịt chúng ta thường dễ bị chi phối và chỉ chú ý đến những gì chúng ta cảm nghiệm được. Chúng ta cần được nhắc nhớ đến những gì cần thiết.
Chúa Thánh Thần là Đấng vô hình. Chúng ta chỉ biết đến Ngài dưới hình thức những biểu tượng như ngọn gió, ngọn lửa hay chim bồ câu. Bao nhiêu đó không đủ để gây sự chú ý cho chúng ta. Nhưng Ngài là tất cả. Chúng ta hãy chú tâm nhìn lại, chúng ta sẽ thấy rõ hơn mối liên hệ với Ngài và nhờ đó chúng ta sẽ được Ngài trợ lực để niềm vui chúng ta nên trọn, như Chúa Giêsu đã nói.
Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta Thánh Thần mà Ngài gọi là Đấng Bàu Chữa hay Đấng An Ủi, không phải để ngồi nhìn mà để chiếm hữu. Đó là một quà tặng vô giá mà chúng ta không mấy người biết hưởng nhờ.
Theo thánh Gioan, Chúa Giêsu đã ban Thánh Thần ngay khi Ngài trút hơi thở cuối cùng trên thập giá: “Ngài gục đầu xuống và trao ban Thần Khí”. Và Ngài lại trao ban Thánh Thần một lần nữa là khi Ngài hiện ra với các môn đệ sau khi sống lại: Ngài thổi hơi trên các môn đệ và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, người ấy được tha, anh em cầm tội ai, người ấy bị cầm”. Và lần này chúng ta thấy Ngài trao ban Thánh Thần cùng với quyền tha tội. Như thế Thánh Thần chính là Thánh Thần của ơn tha thứ.
Thánh Luca, trong sách Tông Đồ Công Vụ lại cho rằng, Chúa Thánh Thần được trao ban trong ngày lễ Ngũ Tuần, là ngày lễ đầu mùa của dân Do Thái. Như thế, chúng ta cũng có thể xem Thánh Thần như ơn đầu mùa được ban cho Giáo hội.
Nhưng đó chỉ là những chi tiết lịch sử, nhưng ân ban Thánh Thần chính là ân ban không thể thay thế của Chúa Giêsu, là nguồn sống cho Giáo hội và cho mỗi người chúng ta.
Có thể nói, Chúa Thánh Thần hoạt động ngay từ khi tạo dựng vũ trụ. Kinh Thánh nói: “Thánh Thần Chúa bay là trên mặt nước” lúc trời đất chưa được tạo thành. Ngài có mặt suốt trong lịch sử nhân loại. Ngài là hơi thở được thổi vào Ađam để Ađam được sống. Ngài hoạt động nơi các tiên tri. Ngài hoạt động trong suốt lịch sử để chuẩn bị cho Chúa Giêsu đến trong trần gian. Ngài dùng mọi biến cố, mọi hình ảnh, để hướng dẫn nhân loại đón nhận Chúa Kitô.
Khi mọi sự đã được chuẩn bị, Ngài đưa Chúa Giêsu vào trần gian. Chính Ngài đã tạo nên Chúa Giêsu trong lòng trinh nữ Maria: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria và đã làm người”. Chính Mẹ Maria cũng được đầy tràn Thánh Thần khi thiên thần truyền tin. Như thế, Chúa Giêsu xuống thế làm người là do Thánh Thần và trong suốt cuộc đời Chúa Giêsu, Thánh Thần vẫn hoạt động trong Ngài, rõ rệt nhất khi Ngài tuyên bố trong Hội đường Nadaret: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi rao giảng tin mừng cho người nghèo… Hôm nay ứng nghiệm lời các ngươi vừa nghe đọc”.
Chúa Giêsu lại trao ban Thánh Thần cho Giáo hội tức là cho chúng ta. Chúng ta đã lãnh nhận Ngài trong Bí tích Rửa Tội và Thêm Sức. Thánh Thần đó sẽ hoạt động trong mỗi người chúng ta như đã hoạt động nơi Chúa Giêsu. Chúng ta không thể thấy Ngài, nhưng không có gì tốt nơi chúng ta mà không do Ngài. Những lời Chúa Giêsu nói với chúng ta minh chứng điều đó: “Không có Thầy, anh em sẽ không làm được việc gì”. Thầy không còn hiện diện hữu hình nữa, nhưng Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế bằng Thánh Thần.
Thánh Thần được ban tràn đầy cho các Tông Đồ ngày lễ Ngũ Tuần, đã mở toang cánh cửa sợ hãi và tung các ngài vào thế giới. Đọc sách Tông Đồ Công Vụ, chúng ta thấy Chúa Thánh Thần hoạt động một cách mãnh liệt nơi các ngài, giúp các ngài can đảm bước ra rao giảng Tin Mừng, bất chấp mọi trở lực. Các thánh thường nói là sách Tông Đồ Công Vụ là sách Tin Mừng của Chúa Thánh Thần. Tất cả mọi hoạt động đều do Thánh Thần hướng dẫn.
Thánh Phaolô, người đã được Thánh Thần dành riêng để làm công việc Ngài muốn đã không ngừng nói đến Thánh Thần: “Thần Khí Thiên Chúa làm cho chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa và có quyền kêu lên: “Abba! cha ơi”. Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa… Thần Khí cầu nguyện cho chúng ta bằng những tiếng rên khôn tả”.
Chúng ta có cảm thấy vui và hạnh phúc khi làm con Thiên Chúa không?
Ai trong chúng ta không biết mình là con Thiên Chúa? Nhưng mấy người hiểu được điều đó và cảm thấy hạnh phúc? Chỉ có Thánh Thần mới cho chúng ta hiểu được điều đó và cảm nghiệm được hạnh phúc đó. Và một khi chúng ta biết được điều đó, chúng ta sẽ thấy mọi sự ở trần gian này không có giá trị gì, và nếu có giá trị thì chỉ là phương tiện để chúng ta yêu mến Chúa thôi. Chúng ta hiểu tại sao các thánh xem mọi sự như rơm rác, như thánh Phaolô đã nói. Các ngài chỉ biết sử dụng trần gian để làm sáng danh Chúa thôi.
Thánh Thần là Tình Yêu, Ngài luôn ở với chúng ta, hoạt động mãnh liệt trong chúng ta. Ngài giúp chúng ta yêu mến Chúa và sống yêu thương. Không có Ngài, chúng ta không thể nào biết yêu thương đúng nghĩa. Tất cả những gì là yêu thương, tha thứ, tận tụy đều xuất phát từ nguồn gốc duy nhất là Thánh Thần mà thôi. Đôi thanh niên nam nữ yêu nhau trong sáng, một người vợ săn sóc cho chồng đang cơn hấp hối với tất cả tình yêu, cha mẹ tận tụy lo cho đám con, những bác sĩ tận tụy lo cho bệnh nhân… đều là dấu hiệu của Chúa Thánh Thần.
Tại sao trong thế giới hôm nay người ta giết nhau, bóc lột, khai thác lẫn nhau, làm khổ cho nhau? Tại sao người ta không biết yêu thương nhau, giúp nhau sống hạnh phúc? Chỉ vì Chúa Thánh Thần vắng mặt trong tâm hồn họ. Thánh Phaolô cũng căn dặn chúng ta: “Đừng dập tắt Chúa Thánh Thần”.
Hạnh phúc cho chúng ta biết bao khi chúng ta được đầy tràn Thánh Thần! Chỉ khi nào chúng ta được tràn đầy Thánh Thần, chúng ta mới có thể thực hiện điều Chúa Giêsu dạy: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Điều đó chỉ còn là một lý tưởng xa vời. Chúng ta không bi quan, nhưng hãy nhìn vào sự thật, chúng ta chưa yêu thương nhau. Không có mấy người đã yêu thương nhau thật. Chúng ta mơ mộng nhiều hơn là sống. Chúa Giêsu đã yêu thực sự, là mẫu gương không thể thay thế vì Ngài đầy tràn Thánh Thần. Thánh Phaolô đã yêu thương như Thầy và ngài luôn kêu gọi giáo dân yêu thương nhau. Thánh Gioan, trong các thư của ngài cũng nói đến bao nhiêu đó. Các Kitô hữu đầu tiên đã dám yêu thương thực sự, dám hi sinh tất cả, kể cả tài sản cho nhau. Hôm nay, trong Giáo hội, các tu hội, các phong trào giáo dân mới đã cố đi theo con đường đó, nhưng chỉ là những nhóm nhỏ.
Hãy cầu xin Chúa Thánh Thần thổi ngọn gió yêu thương của Ngài vào tâm hồn chúng ta, để chúng ta không chỉ nói mà thực hiện những gì Chúa Giêsu đã dạy, để tình yêu Chúa lan rộng trên khắp nẻo đường thế giới, để con người hôm nay bớt khổ và tìm được niềm vui đích thực chứ không giả dối.
Thánh Thần vẫn hoạt động, ngọn lửa tình yêu của Ngài vẫn bùng cháy trong Giáo hội, ngọn gió tình yêu của Ngài vẫn thổi, nhưng chúng ta có căng buồm lên để Ngài thúc đẩy chúng ta đi vào đời với một quả tim quảng đại hơn, nhiệt thành hơn không?
Trong hiến tế hôm nay, Chúa Thánh Thần sẽ biến tấm bánh và chén rượu nho thành Mình Thánh Chúa Giêsu, làm của ăn nuôi tình yêu chúng ta. Hãy cầu xin Thánh Thần cho chúng ta niềm tin vững mạnh để thấy một cách rõ ràng, không mập mờ tình yêu Chúa trong tấm bánh Tình Yêu đó, để khi chúng ta ăn lấy, chúng ta được biến đổi thành tấm bánh như Chúa Giêsu, đem tất cả cuộc đời hiến dâng phục vụ để mọi người nhìn thấy chúng ta là con Thiên Chúa, là môn đệ của Thiên Chúa Tình Yêu.
Đổi mới là điều tất yếu của sự phát triển. Nhiều chục năm gần đây, chúng ta thường xuyên nghe nói HiệnXuống ABC538
Đổi mới là điều tất yếu của sự phát triển. Nhiều chục năm gần đây, chúng ta thường xuyên nghe nói hoặc có những cuộc thảo luận nhiều cấp về chủ đề đổi mới: đổi mới tư duy, đổi mới cơ cấu sản xuất, đổi mới phong cách làm việc, nhằm phát triển con người toàn diện, phát triển xã hội bền vững về mọi phương diện.
Chúa Thánh Thần hiện xuống ban cho thế gian năng lực đổi mới toàn diện, đổi mới tận căn.
Bài đọc I, trích sách Tông Đồ Công Vụ, diễn tả hiệu quả hồng ân Thánh Thần nơi các Tông Đồ trước và sau ngày lễ Ngũ Tuần. Thánh Thần ngự xuống, ban cho họ ơn cam đảm lạ thường, nếu trước đây họ sợ hãi, co cụm, lẩn trốn đám đông, thì nay, tìm đến mọi người, dạn dĩ làm chứng cho Chúa Phục Sinh.
Ngay trong dịp lễ Ngũ Tuần, đám đông bàn tán về chuyện lạ, các Tông Đồ nói được nhiều thứ tiếng, Phê-rô đã lên tiếng loan báo Đấng Phục Sinh, thúc dục mọi người tin và chịu phép rửa nhân danh Chúa Giê-su để được cứu độ. Kết quả đáng ghi nhận cho một bài giảng: ba ngàn người xin tòng giáo.
Ơn nói được nhiều thứ tiếng là điều kiện thiết yếu giúp con người hiểu biết lẫn nhau, hiệp thông, nâng đỡ, sẻ chia những thiện ích cho nhau để cùng phát triển.
Nếu trước đây, vì cớ tháp Babel, ngôn ngữ bất đồng, con người chia rẽ, phân tán, bỏ dở mọi việc, thì nay, nhờ ơn Thánh Thần, con người xích lại gần nhau hơn, cùng nhau kiến tạo chân lý, kiến tạo tình thương, thực hiện viễn tượng “Trời mới/Đất mới” cho con người trong thế giới hôm nay.
Hiểu biết lẫn nhau, đoàn kết hiệp thông phục vụ là hồng ân lớn nhất Chúa Thánh Thần tô điểm bộ mặt thế gian.
Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là dịp để chúng ta chiêm ngắm mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa hiệp thông cứu độ: “Vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta”.
Cha yêu thương thế gian đến độ, đã sai Con Một giáng trần, sinh bởi một người đàn bà, đã sống dưới chế độ lề luật, để giải phóng những kẻ ở trong lề luật.
Giê-su được chỉ định là “Đấng bầu chữa thứ nhất”, yêu thương các môn đệ đến cùng, đã hoàn thành công trình cứu độ, bằng việc rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Người đã sống thân phận con người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi, đã chết và đã sống lại, lên trời ngự bên hữu Chúa Cha, hợp nhất với Cha thành một cội nguồn duy nhất đồng sai phái “Đấng bầu chữa khác” cho thế gian.
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giê-su quả quyết việc Người đi về cùng Cha, sẽ có lợi cho thế gian hơn, vì nếu, Người không đi, Giê-su chỉ là một con người đơn độc, giới hạn.
Giê-su về cùng Cha qua nẻo đường thập giá: tử nạn và phục sinh, đã trở nên con người thần thiêng hiện diện thường hằng, khắp nơi và biến đổi tất cả.
Chúa Thánh Thần được sai đến với sứ vụ, trước tiên, là phi bác sự sai lầm của thế gian đã kết án bất công người tôi trung của Chúa, tuyên bố Giê-su vô tội, bằng cách cho Người từ cõi chết sống lại, đặt ngự bên hữu Chúa Cha làm Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người.
Chúa Giê-su gọi đó là sự giáo dục thần linh, khai lòng mở trí kẻ thụ huấn, để đưa họ vào trong chân lý toàn vẹn, nghĩa là: tuyên xưng đức tin, gắn bó mật thiết, ham thích lắng nghe, thực hành Lời Chúa, khao khát nên hoàn thiện, đạt tầm vóc viên mãn Giê-su. Sẵn sàng làm chứng cho Ngài trước mặt muôn dân khi thuận cũng như nghịch cảnh.
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, diễn tả cách thức giáo dục của Thánh Thần: mạc khải cho biết Giê-su là Chúa, khơi dậy ước muốn sống thánh thiện theo phong cách Giê-su: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ.
Đấng ban phát các đặc sủng cho mỗi người là vì lợi ích chung của Giáo Hội, cũng như các bộ phận hoạt động theo phận vụ riêng, cũng chỉ vì lợi ích của toàn thân.
Thưa anh chị em,
Giáo huấn Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:
Một là: Thâm tín sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong lịch sử và nơi tâm hồn con người. Thánh Thần đang hoạt động mạnh mẽ, hướng dẫn nhân loại tới chân lý toàn diện. Vấn đề quan trọng là biết thuận theo sự hướng dẫn của Ngài, biết đọc ra dấu chỉ thời đại, vì tất cả mọi biến cố xẩy ra trên thế giới đều có thể sinh ích lợi cho kẻ có lòng yêu mến Chúa. Đại dịch Covid-19 là thảm họa đối với nhân loại, nhưng cũng từ đại họa, nhân loại xích lại gần nhau hơn, cảm thông, đoàn kết sẻ chia, bao nhiêu nghĩa cử thể hiện dưới muôn vàn hình thức, để giúp nhau vượt qua đại nạn.
Thứ hai: Rất cần thiết cho người tín hữu là phải biết “biện phân” đâu là Thánh Thần, đâu là quỷ dữ đội lốt dưới những vỏ bọc có vẻ đạo đức, đang ngấm ngầm gieo rắc sai lạc gây phương hại cộng đoàn. Xin anh chị em cảnh giác với những chiêu trò quảng bá nước thánh uống chữa bệnh, nhóm trừ quỷ, nghe mạc khải Chúa Cha ở trong Lâm Đồng. Những ai đã trót bị rủ rê, bị mê hoặc áp dụng lối thực hành lập dị, mê tín dị đoan, hãy can đảm dứt bỏ mới trông tìm được sự bình an đích thực của Thánh Thần.
Lạy Chúa Thánh Thần xin ngự đến biến đổi bộ mặt thế gian và biến đổi tâm hồn mỗi người chúng con, để chúng con luôn biết lắng nghe thực thi Lời Chúa dạy, hầu đạt tới con người trưởng thành trong đức tin, đức cậy, đức mến, xứng đáng hưởng hạnh phúc Nước Trời. Amen.
(Suy niệm của Lm. Benjamin Roberts - Nguồn: The Homiletic & Pastoral Review. Chuyển ngữ: JB. Đào Ngọc Điệp)
Năm tháng trước đây, chúng ta đã cùng nhau tụ họp tại Bê-lem. Chúng ta đã ở đó vào đêm Chúa HiệnXuống ABC539
Năm tháng trước đây, chúng ta đã cùng nhau tụ họp tại Bê-lem. Chúng ta đã ở đó vào đêm Chúa Giêsu sinh ra. Chúng ta đã thấy máng cỏ. Chúng ta đã thấy các mục đồng. Chúng ta đã nghe các thiên thần ca hát và chúng ta đã thấy Đức Mẹ cùng Thánh Giuse và chúng ta chứng kiến dung mạo Thiên Chúa vô hình qua khuôn mặt của một trẻ thơ.
Năm mươi ngày trước đây, chúng ta đã họp nhau tại ngôi mộ trống. Chúng ta đã ở đó vào buổi sáng phục sinh rạng rỡ. Chúng ta đã thấy tảng đá được lăn ra khỏi cửa mộ. Chúng ta đã thấy những khăn liệm dùng cho việc mai táng. Chúng ta đã nghe lời các thiên thần loan báo và sứ điệp của bà Maria Ma-đa-lê-na. Chúng ta đã nghe tiếng Chúa Giêsu nói và chúng ta nhận ra Người qua hình ảnh một ông làm vườn mà lại biết tên chúng ta.
Cách đây hơn một tuần, chúng ta đã tụ tập trên núi. Chúng ta tụ họp trên đó khi Chúa Giêsu lên trời và ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Chúng ta đã lãnh nhận lời chúc lành của Người. Chúng ta nghe thấy tiếng nói của các thiên thần. Chúng ta tràn ngập niềm vui vì Chúa đã hứa sẽ với chúng ta luôn mãi. Và chúng ta được lệnh phải chờ đợi hồng ân Chúa Thánh Thần.
Hôm nay, họp nhau trong phòng Tiệc Ly, chúng ta nhận được ân sủng Chúa Thánh Thần, và chúng ta được sai đi. Chúng ta được sai đến mọi nơi trên thế giới hoặc một nơi hẻo lánh nào đó trên trái đất. Chúng ta được sai đi với sức mạnh từ trời cao xuất hiện như những hình lưỡi lửa đậu trên đầu các Tông đồ. Chúng ta được sai đi mang sứ điệp ơn tha thứ và lòng thương xót cũng như sự sống và sự thánh thiện. Chúng ta được sai đi từ căn phòng Tiệc Ly này.
Nhưng thành thật mà nói, thưa anh chị em thân mến, tôi cảm thấy thoải mái khi ở Bê-lem. Tôi thấy dễ chịu khi ở trong ngôi mộ trống. Thậm chí tôi còn cảm thấy khoan khoái khi ở trên núi Thăng thiên. Vì tại Bê-lem, tại ngôi mộ trống, và trên núi Thăng thiên, chúng ta đã được đón nhận và chúng ta được yêu mến. Chúng ta được quy tụ lại trong sự hiện diện của Chúa. Chúng ta đã được ôm ấp bởi tình yêu Thiên Chúa đang đến trước mặt chúng ta. Chúng ta được ôm ấp bởi tình yêu Thiên Chúa đang bao quanh chúng ta. Chúng ta được ôm ấp bởi tình yêu Thiên Chúa đã hứa ban cho chúng ta. Tại Bê-lem, tại ngôi mộ trống, và trên núi Thăng thiên, chúng ta đã được đón nhận và chúng ta được yêu mến. Tôi thấy thoải mái khi ở những nơi đó, và có lẽ bạn cũng vậy.
Nhưng bây giờ thì Chúa Thánh Thần sai chúng ta đi. Mà Người lại sai chúng ta ra đi từ Phòng Tiệc Ly. Thánh Thần sai chúng ta đi vào thế gian, và trong thế gian, chúng ta bị chối bỏ. Trong thế gian, chúng ta gặp thù nghịch. Trong thế gian, chúng ta bị thù ghét, đố kỵ và bách hại. Tôi cảm thấy yên tâm khi ở trong Phòng Tiệc Ly, và có lẽ bạn cũng vậy.
Nhưng Chúa Thánh Thần vẫn sai chúng ta đi. Chúa Thánh Thần sai chúng ta đi với sức mạnh từ trên cao. Người sai chúng ta ra đi với niềm vui của Tin Mừng. Chúa Thánh Thần sai chúng ta đi với hành trang để thực hiện mọi việc lành hầu xây dựng Nước Trời. Chúa Thánh Thần bao bọc chúng ta. Chúa Thánh Thần củng cố sức mạnh cho chúng ta. Chúa Thánh Thần sai chúng ta đi, rồi Người lấy lửa tình yêu mà đốt cháy đi nỗi sợ hãi trong tâm hồn chúng ta.
Vậy anh chị em đừng sợ hãi khi được Chúa Thánh Thần sai đi. Amen.
Thánh Thần chính là làn hơi của Thiên Chúa, Người như là gió.
1.- Ngữ cảnh
Dựa theo bố cục tổng quát của TM Ga, đoạn văn này nằm trong chương 20 là chương cuối cùng HiệnXuống ABC540
Dựa theo bố cục tổng quát của TM Ga, đoạn văn này nằm trong chương 20 là chương cuối cùng của phần B (Sách về Giờ của Đức Giêsu), kèm theo lời kết cho thấy mục tiêu của tác giả khi viết Tin Mừng.
Trong tình trạng tranh tối tranh sáng lúc bình minh, Maria Mácđala đi đến mộ Đức Giêsu và thấy mộ đã được mở và trống không. Cho tới nay, có hai sứ điệp của Đức Giêsu Phục Sinh đã bao trùm ngày Phục Sinh (20,2.17). Vào buổi chiều ngày dài này, Đấng Phục Sinh đã đến gặp các môn đệ Người. Người gặp họ khi họ đang ở trong phòng cửa đóng kín: họ còn đang ở trong mộ của nỗi sợ hãi, chứ chưa được thông dự vào sự sống của Người. Đức Giêsu đã đưa các môn đệ ra khỏi tình trạng bế tắc do phản bội, do sợ hãi. Và Người đã trao sứ mạng để các ông trở thành sứ giả đi khắp nơi mà ban ơn tha tội, ban sự bình an. 7 2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Lời chào "bình an" thứ nhất với việc chứng minh sự Phục Sinh (20,19-20); 2) Lời chào "bình an" thứ hai với sứ mạng và trao ban Thánh Thần (20,21-23). 3.- Vài điểm chú giải
- Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần (19): Cuộc hiện ra xảy ra tại Giêrusalem vào ngày Chúa Nhật. Bản văn Lc 24,33-49 cho biết Đức Giêsu hiện ra vào buổi chiều, bởi vì vào lúc xế chiều, Người đã ngồi ăn với hai môn đệ tại Emmau, rồi hai ông đã trở lại Giêrusalem ngay trước khi Đức Giêsu hiện ra với cả nhóm. Rất có thể tác giả dùng từ ngữ "ngày ấy" mà chỉ ngày Chúa Nhật ấy là có ý coi đây là ngày cánh chung, ngày mà Đức Giêsu ban Thánh Thần để ở lại mãi mãi với các môn đệ (xem thêm cc. 14,20; 16,23.26).
Tác giả dùng công thức "Ngày thứ nhất trong tuần" cho cả hai lần hiện ra ở đây (lần sau đúng một tuần sau) rất có thể là vì ông muốn nhắc đến thói quen của các Kitô hữu cử hành Thánh Thể vào "ngày thứ nhất trong tuần" (Cv 20,7; xem thêm 1 Cr 16,2).
- các cửa đều đong kín (19): Lý do nêu ra trong bản văn là "vì các ông sợ người Do-thái", nhưng có lẽ tác giả cũng còn muốn cho thấy là thân thể Đức Giêsu Phục Sinh có thể đi qua cửa đóng kín.
- Bình an cho anh em (19): Trong tiếng Do-thái, shalôm (= bình an) là một lời chào thông thường. Nhưng trong văn cảnh long trọng ở đây, lời của Đức Giêsu có ý nghĩa khác, không phải chỉ là "Cầu chúc anh em được bình an", như thể họ còn phải chờ đợi sự bình an đến trong tương lai. Ở đây, lời Đức Giêsu nói là một nhận định về thực tại: chắc chắn họ đang có sự bình an của Người.
- Như Chúa Cha đã sai Thầy (21): Trong các Tin Mừng khác, cũng có lời sai đi này (x. Mt 28,19; Lc 24,47), nhưng ở đây, mẫu mực cho việc sai đi là quan hệ của Con với Cha (một đề tài thần học của Ga, xem 17,18).
- Người thổi hơi vào các ông... Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần (22): Hành động này nhắc nhớ đến làn hơi sáng tạo của Thiên Chúa trong St 2,7. Làn hơi của Đức Giêsu chính là Thánh Thần. Trên thập giá, Người đã "trao Thần Khí" (paredôken to pneuma; trước đây, vì không quan tâm đến thần học của tác giả Ga, người ta đã dịch là "trút hơi thở") (19,30): Ngươi đã trao ban Thánh Thần cho những người đứng dưới chân thập giá, đặc biêt cho thân mẫu Người, tượng trưng Hội Thánh hoặc Dân mới của Thiên Chúa, và cho người môn đệ Người thương mến, tượng trưng các Kitô hữu.
- Anh em tha tội cho ai...; anh em cầm giữ ai... (23): Câu này có vọng lại Ds 22–24 bằng tiếng Hy-lạp (Bản LXX), Truyện Bilơam: chẳng hạn so sánh Ga 20,23 // Ds 22,6 LXX. Theo bản văn Híp-ri, vua Balác xác tín rằng "kẻ nào bị ông nguyền rủa thì mắc họa/bị nguyền rủa" (Ds 22,6 Híp-ri), nghĩa là sẽ bị nguyền rủa qua lời nguyền Bilơam tuyên bố. Ông không bận tâm với quyền năng của Thiên Chúa Israel, là Đấng có đồng ý thì Bilơam mới có thể chúc phúc hoặc nguyền rủa (Ds 22,12; 23,8). Ngược lại, trong bản văn Hy-lạp, lời của Balác ở 22,6 có một ý nghĩa hàm hồ: có thể hiểu "được phúc" (eulogêntai) và "mắc họa/bị nguyền rủa" (kekatêrantai) vừa theo nghĩa một hậu quả sẽ xảy ra trong tương lai gần (bản văn Híp-ri: dạng phân từ và vị hoàn), vừa theo nghĩa một lời thú nhận không chủ ý rằng chỉ những ai đã được Thiên Chúa chúc phúc hoặc bị Thiên Chúa nguyền rủa thì Bilơam mới có thể chúc phúc hoặc nguyền rủa. Đó chính là điều Thiên Chúa đã nói với Bilơam: "Ngươi không được đi với chúng! Không được nguyền rủa dân đó, vì nó đã được chúc phúc (estin gar eulogêmenon)". Bilơam không thể nguyền rủa kẻ đang sống trong tình trạng đươc chúc phúc, từ đó chúng ta hiểu là kẻ nào ông nguyền rủa được, kẻ ấy đã đang bị Thiên Chúa nguyền rủa rồi. Balác đã nói như thế và ông có lý, mà ông không biết.
Dạng hoàn thành apheôntai ("được tha") và kekratêntai ("bị cầm giữ") ở Ga 20,23 có thể được hiểu như thế.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Sau khi Đức Giêsu đã bị bắt, bị xử tử và được an táng, tình trạng của các môn đệ thật đáng thương: các ông về nhà đóng kín tất cả các cửa, vì sợ người Do-thái. Các ông hoàn toàn mất bình an. Trong khi các môn đệ còn ở trong tình trạng bế tắc cùng cực, Đức Giêsu Phục Sinh đã đến với họ, tự mình đi vào ngày giữa lòng tình trạng thê thảm đó.
* Lời chào "bình an" thứ nhất với việc chứng minh sự Phục Sinh (19-20)
Khi hiện ra với các ông, điều đầu tiên Đức Giêsu nói là: "Bình an cho anh em!" (19,19). Nhưng nói mà thôi thì không đủ, Người còn cho các môn đệ thấy rằng các ông có Người đang sống giữa các ông. Người không chỉ nói về bình an, Người cung cấp nền tảng chắc chắn cho lời của Người: các vết thương. Vậy Người chính là Đấng đã chết trên thập giá, nhưng nay Người đã trở lại với cuộc sống trong tư cách vừa là Đấng Tử Nạn vừa là Đấng chiến thắng cái chết. Các vết thương cũng là dấu chỉ cho thấy tình yêu vô biên của Người. Trong cùng một lúc, Người cho các ông được gặp Người như Đấng Chịu Đóng Đinh và Đấng Phục Sinh. Do đó, Người chính là sự bình an và nguồn mạch tuôn trào niềm vui cho các môn đệ (c. 20).
Đoạn văn này còn có một ý nghĩa sâu xa hơn. Lời Đức Giêsu chào "Bình an cho anh em" (eirênê hymin) khiến chúng ta nghĩ đến ý nghĩa Thần Khí học của đoạn văn: eirênê lần đầu tiên được dùng ở Ga 14,27, ngay sau một lời nhắc đến Đấng Bảo Trợ sẽ đến (14,26). Câu tiếp theo "Thầy ra đi và đến với anh em" (14,28) là một quy chiếu về việc Đức Giêsu ra đi va Thánh Thần đến (x. 16,7). Như thế, lời Đức Giêsu nói về sự bình an của Người ở c. 27 rất có thể cũng phải được giải thích như là một quy chiếu về việc ban Thánh Thần trong tương lai, do chỗ các động từ "Thầy để lại" (aphiêmi) và "Thầy ban" (didômi) đều có nghĩa tương lai, cũng như "Thầy đến" (erchomai) ở c. 28. Các lời hứa – sai Thánh Thần, ban bình an, và lại đến – nay đã được hoàn tất.
Một chi tiết nữa cũng liên hệ đến Thánh Thần, là "cạnh sườn" (pleura); từ này tạo một liên kết với cuộc đóng đinh và hành vi người lính đâm cạnh sườn Đức Giêsu (19,31-36). Rất có thể coi nước chảy từ cạnh sườn Đức Giêsu là một biểu tượng về Thánh Thần: nước và Thánh Than được đặt song song tại 3,5 và cái chết của Đức Giêsu là một điều kiện cần thiết để Thánh Thần đến (7,39; 16,7). Ở 7,38-39, tác giả Ga minh nhiên đồng hóa những dòng nước hằng sống, sẽ chảy ra từ Đức Giêsu, với Thánh Thần. Điều này được hoàn tất ở 19,34. Bây giờ, khi Đức Giêsu cho các môn đệ xem cạnh sườn bị đâm, Người không chỉ chứng minh Người là con chiên Vượt Qua đã chết trên thập giá, nhưng nay đã sống lại; Người còn cho thấy rang Thánh Thần đã tuôn trào ra từ Người và bây giờ có thể được ban cho các môn đệ.
* Lời chào "bình an" thứ hai với sứ mạng và trao ban Thánh Thần (21-23)
Sau khi chúc bình an lần thứ hai, Đức Giêsu nói đến việc sai phái cac môn đệ (c. 21). Trước đây, tác giả TM IV cũng đã nói đến một việc sai phái các môn đệ tương tự việc Chúa Cha sai phái Đức Giêsu (13,20; 17,18). Thiên Chúa sai phái Đức Giêsu đi nói các lời của Thiên Chúa và giảng dạy (3,34; 7,16; 8,26; 12,49; 14,24), để thực hiện ý muốn và các công việc của Thiên Chúa (4,34; 5,30.36; 6,38-39; 9,4), và cứu độ thế gian (3,17). Từ ngữ "như" (kathôs) ở 20,21 khiến nhớ lại nhiều đoạn trong TM IV cho hiểu rằng các môn đệ phải làm việc như các ngôn sứ của Đức Giêsu, y như Đức Giêsu đã làm việc như là ngôn sứ của Cha Người. Như Đức Giêsu đã thấy Chúa Cha, họ cũng đã thấy Đức Giêsu; qua việc thấy Đức Giêsu, họ cũng đã thấy Chúa Cha (14,7-9). Bởi vì Đức Giêsu đã cho họ tất cả được biết những gì Người nghe được từ Chúa Cha (15,15), những gì họ đã nghe được từ Đức Giêsu bây giờ là lời của Chúa Cha (14,24). Các lời (rhêmata) đã được Chúa Cha ban cho Đức Giêsu, Đức Giêsu đã ban cho các môn đệ (17,8). Như Đức Giêsu đã làm chứng về những gì Người đã thấy và nghe (3,11.32), các môn đệ Người cũng phải làm chứng về Người (15,27). Như một cành nho không thể sinh hoa trái tư mình (aph' heautou) nhưng chỉ nhờ ở lại trên cây nho, họ cũng phải ở lại trong Đức Giêsu, "vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được" (15,4-5). Đức Giêsu đã ban cho họ vinh quang (doxa) mà Chúa Cha đã ban cho Người (17,22). Như vậy, các đặc điểm ngôn sứ trong sứ mạng của Đức Giêsu nay được gán cho các môn đệ sau khi Người đã chết, sống lại và lên trời vinh hiển.
Nói xong, Người "thổi hơi vào" (enephysêsen) các môn đệ; nói như thế là tác giả giải thích rằng hơi thở của Đức Giêsu là Thánh Thần. Y như sự cố Thần Khí xuống đã đánh dấu khởi đầu sứ vụ của Đức Giêsu (1,32-33), nay ân ban Thần Khí khai mạc sứ mạng của các môn đệ. Trước đây Đức Giêsu đã nói đến Thần Khí sự thật, Đấng ở lại (menei) với các môn đệ (14,17) như Ngài đã ở lại (emeinen) trên Đức Giêsu (1,32). Đây là Thần Khí ngôn sứ, theo như Đức Giêsu đã giải thích: "Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả nhưng gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến (16,13). Ở đây nhiều đặc tính ngôn sứ được áp dụng cho Thần Khí: Ngài vừa nghe vừa nói/loan báo những điều giấu kín, và Ngài là trung gioan truyền tải sứ điệp. Ngài sẽ làm chứng cho Đức Giêsu và như thế cung cấp cho các môn đệ một điển hình (15,26-27).
Động từ emphysian ("thổi hơi vào") ở Ga 20,22 đã được dùng tại St 2,7 LXX là chỗ nói về việc Thiên Chúa thổi hơi mang sức sống vào Ađam. Dựa vào đó, có những nhà chú giải đã giải thích rằng, chức năng của Thần Khí là rửa sạch các môn đệ khỏi tội lỗi và làm cho họ thành một cuộc tạo dựng mới. Nhưng ở đây Thần Khí được ban cho các môn đệ không phải vì lợi ích cá nhân họ, nhưng vì những kẻ khác.
"Anh em tha tội ai... anh em cầm giữ ai..." (c. 23): Câu này nói đến quyền tha và buộc tội. Dưới ánh sáng của Chu kỳ Bilơam (Ds 22–24), các thì hoàn thành của Ga 20,23 không có ý nói là Thiên Chúa cứ "nhắm mắt" phê chuẩn bất cứ hành vi tha tội và cầm tội nào mà các môn đệ tự do công bố. Đúng hơn, các thì này diễn tả điều này: nhờ Thánh Thần ngôn sứ được ban cho các ông, các môn đệ sẽ có khả năng tha tội cho những người và chỉ cho những người mà Thiên Chúa hoặc Đức Giêsu đã tha tội cho.
+ Kết luận
Ân ban căn bản của Đấng Phục Sinh là sự bình an (20,19.21.26). Ngay trong các diễn từ cáo biệt, Đức Giêsu đã hứa ban sự bình an này cho các môn đệ. Người có tư cách để ban sự bình an này vì Người về cùng Chúa Cha (14,27) và vì Người thắng thế gian (16,33). Nay Người đã thực sự thắng cái chết, là dấu chỉ tối hậu về sức mạnh tiêu diệt của thế gian, và đã thật sự lên cùng Chúa Cha. Người đã đạt tới mục tiêu của Người, Người lại đang sống giữa các môn đệ trong tư cách là Đấng chiến thắng. Chính Người là nền tảng của sự bình an của các ông, hoặc nói theo thư Êphêxô, "chính Người là bình an của chúng ta" (Ep 2,14). Các ông có thể ra đi thực hiện chương trình cứu độ, nhớ Thánh Thần của Người.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Kitô mà chúng ta gặp trong Lời Chúa, trong các buổi cử hành Phụng vụ, trong giờ cầu nguyện giữa cộng đoàn anh chị em, là Đức Kitô Phục Sinh. Người ban cho chúng ta bình an và Thánh Thần, và sai chúng ta đi hân hoan chia sẻ niềm tin và niềm hy vong ấy. Chúng ta cần phải để Người đưa chúng ta ra khỏi ngôi mộ của sợ hãi, của ích kỷ, của những sai lầm, để tin tưởng đi vào lòng thế giới. Quả thật, Đức Giêsu không giải thoát các môn đệ khỏi những ưu phiền (x. 16,33), nhưng ban cho chúng ta sự vững vàng, không lay chuyển và sự tin tưởng an bình.
2. Các môn đệ của Đức Giêsu cần xác tín rằng Đấng đang sống giữa họ cũng chính là Đấng đã chết trên thập giá; các ông cũng phải nhận biết rằng Người vẫn mang những vết tích của cuộc Thương Khó, dù đã sống lại; Người chính là "Con Chiên đứng như thể đã bị giết" (Kh 5,6). Các vết thương ấy là dấu chứng tỏ tình yêu vô biên của Người, nhưng cũng là dấu cho thấy sự tàn ác của loài người: dấu của tình yêu vô biên, để họ luôn luôn tin tưởng dấn thân; dấu của sự tàn ác con người, để họ có cái nhìn thực tế, biết rằng mình dấn thân vào trong thế giới nào.
3. Khi ban Thánh Thần trên các môn đệ, Đức Giêsu đã thổi hơi vào các ông và bảo: "Hãy nhận lấy Thánh Thần". Thánh Thần chính là làn hơi của Thiên Chúa, Người như là gió. Người ta không thấy gió, người ta không biết gió bắt nguồn từ đâu và đến đâu thì dừng lại. Cho dù các nhà khí tượng học có bao trước được các trận bão, ta vẫn có cảm tưởng mình bị một sức mạnh vừa huyền bí vừa mạnh mẽ bao trùm. Gió thổi và gây tiếng động. Gió bẻ gãy và nhổ bật lên. Gió tàn phá, nhưng cũng làm cho đất đai ra phì nhiêu. Có khi gió quạt mát, có lúc gió thiêu đốt. Về làn gió Thánh Thần cũng thế. Người mạnh mẽ, Người len lỏi vào mọi sự. Nếu chúng ta mở lòng ra với Người, Người sẽ bẻ gãy, Người nhổ tung và phá hủy tất cả những gì chống lại tình yêu Thiên Chúa; Người cũng làm cho các con tim nên dồi dào phong phú. Người liên tục làm việc trong lòng chúng ta, như thánh Phaolô đã nói: "Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà [liên tục] kêu lên: 'Áp-ba, Cha ơi!'" (Gl 4,6).
4. Nếu chúng ta chờ đợi một sự biến đổi đột ngột, tức khắc và lạ lùng sau khi được rửa tội, chắc chắn chúng ta phải thất vọng. Thánh Thần triển khai các hành động của Người như một hạt giống nhỏ bé trong tim chúng ta. Hạt giống ấy sẽ lớn lên dần dần trong âm thầm thinh lặng, nhưng chắc chắn sẽ kết quả.
Mùa Phục sinh có 50 ngày: Phụng vụ gọi là 50 ngày hoan lạc Phục Sinh. Chúa sống lại vào ngày HiệnXuống ABC541
Mùa Phục sinh có 50 ngày: Phụng vụ gọi là 50 ngày hoan lạc Phục Sinh. Chúa sống lại vào ngày lễ Vượt qua và Chúa Thánh Thần /Hiện Xuống vào ngày lễ Ngũ tuần của người Do thái.
Sách Công Vụ Tông Đồ thuật cho chúng ta khi hiện xuống, Chúa Thánh Thần lấy hình lưỡi lửa và luồng gió thổi. Chúa Thánh Thần là Đấng thiêng liêng vô hình, Chúa Thánh Thần bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, CG sinh xuống làm người thì có thân xác, còn Chúa Thánh Thần thiêng liêng nên Chúa dùng dấu chỉ để cho ta thấy hoạt động của Ngài. Hôm nay Chúa dùng dấu chỉ đó là ngọn lưỡi lửa và luồng gió thổi lùa vào nhà các môn đệ. Lửa đốt cháy, lửa sưởi ấm nên hai môn đệ đi đường Emmaus cảm thấy tâm hồn được nóng nảy lên khi đàm đạo với Chúa. Trong kinh Đức Chúa Thánh Thần, chúng ta xin Ngài đốt lửa kính mến Đức Chúa Thánh Thần trong lòng chúng ta
Còn luồng gió thổi cũng chỉ sức mạnh của Chúa Thánh Thần: Chúa Thánh Thần như luồng gió làm cho bầu khí được trong sạch, thổi bay đi những gì rác rưởi dơ bẩn. Chúa Thánh Thần là luồng gió canh tân đem lại sự tươi mới cho Giáo hội. Với hai hoạt động này của Chúa Thánh Thần, chúng ta thấy rõ được hiệu quả tốt đẹp xảy đến nơi Đức Mẹ và các tông đồ. Các ngài được đầy tràn ơn Chúa Thánh Thần, các ngài trở nên can đảm và đầy lòng sốt mến hơn trước rất nhiều, các ngài nói được các tiếng mới lạ để cho mọi người nghe và hiểu được như tiếng mẹ đẻ của mình và lên tiếng ca tụng kì công của Thiên Chúa
Chúa Giêsu muốn cho chúng ta nhận được Chúa Thánh Thần, nên Chúa mới nói: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần"(Ga 20,23) cũng tương tự như Chúa muốn ta lãnh nhận Bánh Thánh thể, nên Chúa mới nói: "Các con hãy nhận lấy mà ăn" (Mc 14,22)
Vậy chúng hãy mở rộng tâm hồn và có lòng ao ước đón nhận Chúa Thánh Thần như gương Mẹ Maria và các môn đệ xưa để mỗi người chúng ta được tràn đầy Chúa Thánh Thần.
Nhưng CG ban Chúa Thánh Thần không phải để mỗi người thụ hưởng cách ich kỉ mà để thi hành sứ vụ Chúa trao phó: Xin qui về hai sứ vụ sau đây: Ra đi làm chứng cho Chúa và đem đến ơn tha thứ
Ra đi: Sau khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần, các tông đồ không còn nhát sợ đóng cửa kín trong nhà mà các ông đã mở toang cửa, ra ngoài làm chứng cho Chúa, Ông Phêrô trước đây nhút nhát chối Chúa thì giờ đây ông can đảm đứng lên trước mặt mọi người quả quyết rằng CG đã sống lại thật. Ô. nói: "Chính chúng tôi đã ăn uống với Người khi Người từ cõi chết sống lại" (Cv 10, 41). Chúng ta xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng để chúng ta cũng biết can đảm làm chứng cho Chúa bằng lời nói và bằng chính đời sống mình
Tha thứ: Chúa Giêsu nói :"Các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha"(Ga 20,22). Chúa Giêsu ban quyền tha tội cho Giáo Hội. Nhưng trước hết Chúa muốn khi ta được ơn tha tội thì cũng phải sẵn lòng tha thứ cho anh em mình. Ta có tha lỗi lầm anh em xúc phạm đến ta thì chúng ta mới đáng lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa
Chúa Giêsu sẵn sàng quên mình đi để cho chúng ta được lãnh nhận Chúa Thánh Thần nên Chúa mới nói: "Thầy đi thì có lợi cho các con hơn vì Thầy ra đi thì Đấng Phù trợ mới đến với các con"(Ga 16,7) và Chúa Giêsu cho biết Chúa Thánh Thần là Thần Chân lý sẽ giúp chúng ta hiểu lời CG dạy và dẫn đưa chúng ta tới chân lý vẹn toàn
Câu chuyện: Cách đây nhiều năm, một cha xứ ở miền Bắc thấy có một nhóm người dân tộc Hmong đến với mình liền hỏi:
- Các bạn từ đâu mà đến đây? Họ đáp: - Chúng con từ Lai Châu tới đây và phải đi bộ 6 ngày đàng mới tới được - Vậy các bạn muốn gì? - Chúng con xin Cha rửa tội ngay cho chúng con - Không được vì phải có thời gian học kinh, học giáo lý rồi mới Rửa tội được chứ! - Chúng con không phải học kinh và giáo lý vì chúng con đã học qua đài phát thanh Chân lí Á châu từ Phi luật tân trong chương trình tiếng Hmong - Vậy các bạn có thể ở lại đây lâu hơn không? - Chúng con chỉ đem theo 14 ngày cơm, 12 ngày cho chuyến đi và về, 2 phần nữa cho 2 ngày ở lại để học hỏi và cầu nguyện - Các bạn sẽ được Rửa tội, Thêm sức và lần đầu tiên được Rước Mình Thánh Chúa, nhưng khi về nhà các bạn không có nhà thờ, không có Thánh lễ thì thế nào được? - Ban tối chúng con họp nhau 2-3 gia đình nghe đài cầu nguyện chung và học về đạo còn ngày Chúa nhật lúc 9.30 chúng con ngừng lao động, thả trâu dự Thánh lễ qua đài Chân lý Á châu - Cha xứ thốt lên: đúng là lễ Hiện Xuống mới, đúng là tác động của Chúa Thánh Thần!
Nguyện xin Chúa Thánh Thần xuống trên Giáo Hội và mọi người chúng ta để chúng ta được canh tân đổi mới nên tốt đẹp hơn và được hưởng niềm hoan lạc trong Chúa Thánh Thần mà Chúa Giêsu đã trải nghiệm và muốn cho chúng ta được nhận hồng ân đó. Amen.
(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
HÃY LẮNG NGHE CHÚA THÁNH THẦN ĐỂ NGÀI THÔI THÚC CHÚNG TA.
Năm mươi ngày sau lễ Phục sinh, chúng ta mừng lễ Hiện xuống, kính nhớ việc Chúa Thánh Thần HiệnXuống ABC542
Năm mươi ngày sau lễ Phục sinh, chúng ta mừng lễ Hiện xuống, kính nhớ việc Chúa Thánh Thần đến với Giáo hội. Các bài đọc Chúa nhật này tập trung vào vai trò duy trì đời sống cộng đoàn của Chúa Thánh Thần sau khi Chúa Giêsu chết và sống lại, nhắc nhở chúng ta cách thế mà Thánh Thần tiếp tục trao ban ơn thánh cho các tín hữu hôm nay.
Trong bài đọc I trích từ sách Công vụ Tông đồ (Cv 2,1-1), Thánh Thần hiện đến qua biểu tượng hình lưỡi lửa, tượng trưng cho nhiều ngôn ngữ mà các môn đệ có thể nói để rao giảng Tin mừng cho mọi người đến từ những vùng miền khác nhau. Thông thường, người ta giải thích đây là quang cảnh các môn đệ nhận lãnh Thánh Thần, nhưng thánh Luca không nói rõ những ai đang hiện diện trong nhà, chỉ nói là “họ” hiện diện. Ở chương trước Luca mô tả các môn đệ đang cùng cầu nguyện với một đám đông chừng 120 người (Cv 1,14-15). Như thế, thánh Luca có lẽ muốn nhắm đến hết mọi tín hữu đang hội họp đều nhận lãnh Thánh Thần và chia sẻ Tin mừng cho một thế giới rộng lớn hơn. Thánh Thần giúp cho nhiều nhóm người biết đến và hiểu được “những hành động quyền năng của Thiên Chúa”.
Bài đọc II có hai chọn lựa, đều nêu bật cách Thánh Thần trao ban ân huệ cho các tín hữu. Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô (1Cr 12,3-7.12-13), thánh Phaolô nhắc đến những ơn Thánh Thần như khôn ngoan, hiểu biết, chữa lành và ơn tiên tri. Cũng như bài đọc I, thánh Phaolô khẳng định vai trò của Thánh Thần là giúp đỡ mọi người có được hiểu biết và nhận thức. Trong bài đọc trích từ thư gửi tín hữu Galat (Gl 5,16-25), thánh Phaolô bàn luận về những hành vi chống lại Thánh Thần như thờ ngẫu tượng, ghen tỵ, giận dữ và chè chén say sưa. Phaolô nêu bật những hành động gây cản trở cho cộng đoàn và để thay thế, ngài mời gọi mọi người hãy “sống theo Thánh Thần” để nuôi dưỡng mối thân tình tốt đẹp với nhau.
Cả hai lựa chọn cho bài đọc Tin mừng đều là Tin mừng thánh Gioan (Ga 20,19-23 hay Ga 14,15-16.23-26). Trước khi chết, Chúa Giêsu hứa với các môn đệ là Ngài sẽ gửi đến cho các ông Thánh Thần như Đấng bầu chữa, Đấng trợ giúp, đặc biệt trong hành trì lành đầy gian nan phía trước. Chúa Giêsu an ủi, trấn an và hướng dẫn để cộng đoàn lớn lên, ngay cả sau khi Ngài đã ra đi. Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ, thổi hơi vào họ và nói “các con hãy nhận lấy Thánh Thần.” Thánh Gioan gợi lên hình ảnh một Thiên Chúa đầy quyền năng đã thổi hơi sự sống vào con người đầu tiên trong vườn địa đàng (St 2,7), với hình ảnh Chúa Giêsu hiện đang làm sinh động phong trào Kitô hữu nhờ quyền năng của Thánh Thần.
Cách đặc biệt, vào ngày lễ Hiện xuống, chúng ta nhớ lại vai trò quan trọng của Thánh Thần trong việc hướng dẫn và duy trì đức tin sau khi Chúa Giêsu phục sinh. Bí tích rửa tội và thêm sức là những dịp để ta lãnh nhận Chúa Thánh Thần và ơn Chúa Thánh Thần được ghi dấu, củng cố trong tâm hồn chúng ta. Chúng ta cần làm gia tăng những ân huệ này bằng cách cầu nguyện để sự hướng dẫn của Thánh Thần tràn ngập đời sống chúng ta. Cũng như các Kitô hữu sơ khai nhận ra Thánh Thần chính là sức mạnh thôi thúc công việc của họ thì chúng ta cũng vậy, chúng ta phải cầu xin sự hiện diện và ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần trong đời sống của chúng ta.
Trong cuộc sống chúng ta, biết bao nhiêu tiếng mời gọi, thúc giục, hối thúc chúng ta suy nghĩ HiệnXuống ABC543
Trong cuộc sống chúng ta, biết bao nhiêu tiếng mời gọi, thúc giục, hối thúc chúng ta suy nghĩ, quyết định và hành động. Nào trong chúng ta, ít nhiều cũng đã cảm nhận lời xúi giục, mời mọc chạy theo đam mê, thói quen không lành mạnh, hoặc nhắm mắt đưa chân sa vào tội lỗi, quay lưng lại với tiếng Chúa tha thiết thầm thĩ nơi lương tâm tốt lành, thánh thiện…!
Khi chúng ta chịu phép Thanh tẩy, đặc biệt lãnh nhận Bí tích Thêm sức, chúng ta được đầy tràn Thánh Thần, được biểu lộ qua bảy ơn thiêng, mười hai hoa quả ân sủng Thánh Linh. Thế nhưng, thời gian cứ trôi, thân xác cũng như đức tin chúng ta lớn dần lên, nhưng thật sự chúng ta đã-đang-sẽ sống theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần chưa? Đây là điều chính yếu và cấp bách! Và muốn sống theo ơn Chúa Thánh Linh, tiên vàn chúng ta phải biết phân định giữa Thần Khí chân lý và những gì không thuộc về Thần Khí.
Khi mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống (hoặc còn được gọi là Lễ Ngũ Tuần), thì chúng ta hoà quyện vào mùa xuân thánh ân của Giáo hội. Vì nhờ Ngài, Giáo hội ngày càng được mở rộng, được sinh sôi nẩy nở, được trở nên chứng tá kiên vững trước mặt toàn dân. Nếu Thần Khí đích thật sẽ không bao giờ đi ngược lại lời truyền dạy của Đức Giê-su Ki-tô; hơn thế, Ngài sẽ chẳng nói điều khác ngoài tất cả những gì mà Đức Giê-su đã rao giảng và hoàn tất. Trên hết, Ngài không làm nảy sinh sự rối bời, mâu thuẫn, gây chia rẽ trong cộng đoàn Ki-tô hữu; thay vào đó, Ngài luôn xây dựng niềm hiệp thông, khơi dậy lòng mến, sự tha thứ cho nhau, và luôn biết khiêm hạ vâng phục Giáo hội, cùng với Huấn quyền của Giáo hội.
Những năm gần đây dấy lên biết bao nhiêu phong trào tự cho mình được đặc sủng Thánh Linh, được ơn mạc khải trực tiếp hoặc gián tiếp từ Thiên Chúa Cha, v.v… nhưng lại gây chia rẽ, bè phái trong cộng đoàn, bất vâng phục Giáo hội qua các Đấng bản quyền sở tại, và tệ hơn, giảng dạy chống lại hoặc đi ngược với Giáo huấn của Giáo hội. Một trong những tội lỗi là đầu mối của biết bao tư tưởng, lời nói, hành động lệch lạc, gây thương tích nơi tâm hồn, đó là: tính kiêu ngạo, thái độ ngạo mạn, kiêu căng. Đây không phải là một tội lỗi mới mẻ gì, mà suy cho cùng, nó đã ẩn tàng và được phơi bày nơi nguyên tổ loài người. Cứ thế, nó âm thầm gieo vào lòng người qua bao thế hệ.
Ở bài đọc I sách Sáng thế, hình ảnh tháp Ba-bel là biểu tượng cho sự tản mác, bất đồng ngôn ngữ, và vì không hiểu nhau nên gây lộn xộn, rối loạn. Hơn nữa, nó còn là hình bóng của tội nguyên tổ, tội kiêu ngạo, tự đặt mình làm ‘ông/bà chúa' cai quản và quyết định mọi thứ, trong khi gạt bỏ Thiên Chúa đích thật ra ngoài cuộc sống, cũng như bất tín bất trung, bỏ quên lời cam kết đã giao ước với Thiên Chúa: “Nào, bây giờ chúng ta hãy xây một thành với một cây tháp mà ngọn nó chạm tới trời. Và chúng ta hãy tạo cho ta một tên tuổi, để chúng ta khỏi bị tản lạc ra khắp mặt địa cầu” (St 11, 4). Vì kiêu ngạo, kiêu căng mà tình hiệp nhất, gắn kết bị rạn nứt, bị chia cắt; nhưng nhờ Thần Khí Sự thật ngự xuống tràn ngập tâm trí chúng ta, giúp chúng ta hiểu Lời Đức Giê-su truyền dạy, nhớ lại gương Ngài sống hiền lành, khiêm hạ, nên Giáo hội và con cái của Giáo hội (chúng ta) được mời gọi sống theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Linh. Nhờ đó, Giáo hội không bao giờ lãng quên sứ mệnh loan truyền bình an, bác ái, tha thứ như bài sai mà Đức Giê-su giao phó: “…“Bình an cho các con! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”” (Ga 20, 21-23).
Dựa trên phương cách phân định Thần Khí sự thật, chúng ta không thể nào sống theo ơn Chúa Thánh Linh thúc đẩy, nếu chưa mặc lấy thái độ của một người con thảo với Cha trên trời. Vì nhờ Chúa Thánh Thần, chúng ta được gọi Cha chung trên trời là: Abba, Cha ơi! (x. Rm 8, 15). Vậy với ân sủng làm nghĩa tử, chúng ta sống vâng phục, chú tâm lắng nghe, đào sâu đời sống cầu nguyện, gắn kết thân mật với Thiên Chúa giữa bao tiếng gọi rủ rê nơi trần gian, giữa muôn thăng trầm cuộc sống. Dẫu bao phen thất vọng, chán chường, buồn tủi, v.v…, nhưng nhờ Thánh Thần, chúng ta luôn cậy tin và kiên tâm trông đợi (x. Rm 8, 25), bền bỉ chiêm ngắm, tĩnh lặng nguyện cầu: “Thánh Thần nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta. Vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho xứng hợp. Nhưng chính Thánh Thần cầu xin cho chúng ta bằng những tiếng than khôn tả” (Rm 8, 26).
Sau cùng, Thánh Thần ban cho chúng ta ơn sức mạnh, can đảm, dám ra khỏi ‘chốn loang phòng thoải mái tiện nghi’ của bản thân, mà đến với tha nhân, ngay cả những vùng ven, vùng ngoại biên, vùng xa xôi hẻo lánh. Ân sủng ra đi rao truyền, sống chứng tá cho đức tin này chẳng phải dùng để chiêu dụ người khác biết đến bản thân, hay trở nên lệ thuộc, tôn sùng mình như một đấng vị vọng mang ‘nền văn minh thời đại’ đến, và buộc họ sống đáp đền, biết ơn, trả công cho ta! Đúng hơn, Chúa Thánh Linh nâng đỡ sự yếu hèn ẩn kín trong tâm hồn, trong tư tưởng, trong tâm trí ta, giúp chúng ta trở nên giản dị, đơn sơ, hoạt bát, gần gũi, thân thiện, dễ mến, dễ tương tác với tha nhân. Qua cách sống theo sự thúc đẩy của Ngài, những ai tiếp xúc với chúng ta sẽ dần cảm mến, cảm nhận sự gắn kết tình thân như anh chị em một nhà. Rồi, nhờ tác động âm thầm của Chúa Thánh Linh nơi tâm hồn, họ muốn tiến gần đến Giáo hội, khao khát tìm hiểu Giáo hội, mong mỏi sống với Giáo hội.
Lạy Chúa Thánh Linh tình yêu Xin thắp lên ngọn hoa tiêu lửa mến Giữa hãi hùng, bao lênh đênh Đơn sơ, khiêm hạ kết nên lòng thành. Sống theo ơn Ngài khoan nhân Sáng soi đưa dẫn, thánh ân tràn đầy. Amen!
Với sự soi dẫn của ánh sáng Lời Chúa cùng với những gì mà Hội Thánh dạy, chúng ta vui mừng HiệnXuống ABC544
Với sự soi dẫn của ánh sáng Lời Chúa cùng với những gì mà Hội Thánh dạy, chúng ta vui mừng tạ ơn Chúa vì biết bao ơn phúc lành mà Thiên Chúa đã thương ban, cách cụ thể, qua bảy ơn của Chúa Thánh Thần và rất nhiều hoa quả ơn phúc khác của Thánh Thần được ban tặng cho chúng ta. Hôm nay khi mừng Lễ Chúa Thánh Thần, trong khi mọi người đang rất hoang mang-lo sợ, đang đau khổ để chống chọi lại với sự bùng phát nguy hiểm của đại dịch, sự tàn khốc của chiến tranh-chết chóc đang xảy ra nhiều nơi; trong hoàn cảnh rất bi thương và bất an này, vậy thì, chúng ta đang mong ước, nguyện cầu-khấn xin và cầu chúc cho nhau những ơn phúc lành nào của Thánh Thần? Hay nói khác hơn, những ơn phúc nào mà chúng ta mong muốn xin Chúa thương ban vì rất cần thiết cho chính bản thân và những người thân yêu của mình.
Chúa Thánh Thần chính là ơn ban tình thương mà Thiên Chúa dành cách đặc biệt cho con người chúng ta. Chúa biết rõ những nhu cầu cần thiết của con người trong mỗi hoàn cảnh cụ thể, nên Ngài đã ban tặng chính Thánh Thần của Chúa cho chúng ta. Cũng giống như trong bối cảnh mà bài Tin mừng của Gioan tường thuật lại, khi các Tông đồ đang còn bất an, buồn bã, các ông rất hoang mang vì không còn Thầy Giêsu hiện diện-đồng hành, các ông lo sợ vì người Do Thái sẽ lùng bắt, giết hại như Thầy của mình. Nên các ông đã co cụm lại với nhau trong phòng kín, cửa phòng đóng-khóa chặt. Trong hoàn cảnh đó “Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: Bình an cho các con”. Chúa hiện ra với các môn đệ, nhưng các ông không thể nhận ra Chúa vì họ còn có quá nhiều thứ đang phải lo sợ, bất an. Hơn thế nữa, vì các ông chưa tin vào những lời mà Chúa đã dạy và báo trước về cuộc khổ nạn-cái chết và phục sinh của Ngài. Nhưng giờ đây, với ơn ban là Chúa Thánh Thần, qua sự hiện diện của Chúa Phục Sinh, qua ơn thánh là sự bình an của Chúa, cùng với những lời an ủi, khích lệ và minh chứng về chính Đức Kitô Phục Sinh. “Người thổi hơi và phán bảo các ông: Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”. Ngày nay, trong cách thế nào đó, chúng ta cũng đang lo sợ rất nhiều thứ như dịch bệnh, đói nghèo, chiến tranh, bạo loạn…; cuộc sống luôn đầy những khó khăn, chông gai, thử thách, vậy liệu rằng, chúng ta có đặt niềm tin vào Lời Chúa cùng những giáo huấn của Ngài hay còn lòng tin vào sự hiện diện-đồng hành, ban ơn của Chúa Phục Sinh trong mọi hoàn cảnh sống hôm nay?
Trong hoàn cảnh khó khăn hiện tại, chúng ta phải làm gì và phải sống làm sao cho phù hợp với thánh ý Chúa? Các môn đệ của Chúa trong TĐCV chính là mẫu gương cho mỗi người chúng ta, dẫu các ông vẫn còn hoang mang lo sợ, nhưng họ đã tụ họp lại, cùng một lòng một ý, đồng tâm nhất trí trong lời cầu nguyện, chia sẻ Lời Chúa để nghe và nhận ra thánh ý Chúa. Thật cao quý và đẹp thay, đó là khi các Ngài cùng nhau hiệp ý nguyện cầu, thì lại có sự hiện diện của Đức Maria ở cùng họ. “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giêsu và với anh em của Đức Giêsu". (Cv 1.14) Trong hoàn cảnh đó, các Tông đồ đã được đón nhận ơn ban của Chúa Thánh Thần. “Bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp. Lại có những lưỡi như thể bằng lửa xuất hiện và rải rác đậu trên từng người. Hết thảy mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác nhau tuỳ theo Thánh Thần ban cho họ nói”. Với ơn mà Thánh Thần ban tặng, các Tông đồ, đã cam đảm, hăng say, tràn đầy niềm vui ra đi rao giảng Tin mừng và ơn thánh Chúa cho mọi người. Thật vậy, với biết bao ơn phúc của Thánh Thần, hay nói khác hơn, Thánh Thần là Đấng đã sai các ông ra đi để làm chứng về những gì mà họ đã cảm nhận từ chính Chúa Giêsu, Đấng đã truyền ban cho các ông sống và thực thi sứ vụ mà Đức Giêsu đã sống và truyền lại.
Thật là đẹp, hạnh phúc và ý nghĩa cho những ai biết mở lòng để đón nhận được ơn ban của Thánh Thần. Vì chính Thánh Thần là Đấng đã làm cho chúng ta hiệp nhất, yêu thương nhau. Thánh Phaolo trong bài đọc hai, đã minh chứng cho chúng ta biết, với ơn ban của Thánh Thần, dẫu với chức vụ, sứ vụ nào được đón nhận, hay trong bất cứ hoàn cảnh nào, khi chúng ta có ơn ban của Thánh Thần, Ngài sẽ biến đổi và giúp chúng ta hiệp nhất nên một trong thân thể nhiệm mầu, mà Đức Kitô là đầu của thân thể. Tâm tình và ước nguyện giờ đây của mỗi người chúng ta như được Thánh vịnh và Ca tiếp liên hôm nay khẩn thiết mời gọi: “Lạy Chúa, xin sai Thánh Thần Chúa đến… Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, xin hãy chữa lành, uốn nắn, soi sáng lòng dạ chúng con… để chúng con được hạnh phúc cứu độ và được hoan hỉ đời đời”.
Cùng với Đức Maria trong tháng hoa, thật là ý nghĩa khi chúng ta cùng sống, cùng hoạt động với Mẹ, để nhờ Mẹ và qua Mẹ, chúng ta luôn được sống trong tâm tình cảm mến, tri ân, cầu nguyện trong bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc sống. Ước gì qua tràng chuỗi Mân côi, qua những hy sinh, cố gắng nỗ lực của mỗi người vì lòng mến, chúng ta sẽ được đón nhận những ơn phúc của Thánh Thần, được sự bình an và nhờ đó mà chúng ta cũng được Chúa sai đi như các Thánh Tông đồ, để can đảm dấn thân ra đi rao giảng và làm chứng ơn Thánh Chúa cho tha nhân, đặc biệt cho những người phận nhỏ, đau khổ và bất hạnh. Amen.
Mỗi lần hiện ra, Chúa Phục Sinh đều thổi hơi ban Chúa Thánh Thần cùng lúc trao bình an cho HiệnXuống ABC545
Mỗi lần hiện ra, Chúa Phục Sinh đều thổi hơi ban Chúa Thánh Thần cùng lúc trao bình an cho các môn đệ.
Tin Mừng lễ Chúa Thánh Thần, có đến hai lần Chúa Phục sinh trao bình an: “Bình an cho anh em”, rồi lại: “Bình an cho anh em! Như Cha đã sai Thầy,Thầy cũng sai anh em”.
Dù vậy, lòng các môn đệ chưa thật sự chín mùi, chưa có sự chuẩn bị, chưa hề có lòng ao ước để ơn bình an phục sinh của Chúa Kitô sinh hiệu lực. Đúng hơn, các ông chưa có tâm tình cầu nguyện đủ.
Ngược lại, bao nhiêu tác động của cuộc thương khó, bao nhiêu nỗi khiếp hãi vẫn chưa phai, cuộc sống đầy chao đảo, lòng rối bời, dẫn tới việc các tông đồ không có bình an, không một chút yên lòng. Ơn bình an Phục sinh chưa phục sinh trong lòng các môn đệ của Chúa.
Chúa Thánh Thần làm cho ơn bình an phục sinh của Chúa Kitô nên hiệu lực nơi tâm hồn các tông đồ. Ngày ngự đến, Chúa Thánh Thần biến đổi "một trăm tám mươi độ" (180 degree) tâm hồn những kẻ đầy hoang mang, chết khiếp, thành can đảm phi thường.
Chính sự can đảm ấy, bày tỏ hết sức tỏ tường những tâm hồn giờ đây đã chất chứa bình an. Nhờ bình an thẳm sâu trong nội tâm, các tông đồ, cũng như lớp lớp môn đệ Chúa Kitô trong suốt dòng lịch sử đã hiêng ngang, bất khuất, bất chấp mọi lao lung, mọi cực hình... người đời dành cho mình.
Bình an nội tâm là ơn cần thiết vô cùng cho mỗi chúng ta. Bởi hơn bao giờ hết, thời đại chúng ta là thời đại đang diễn ra quá nhiều hỗn tạp, có sức làm chao đảo ngay cả những người được coi là vững vàng nhất.
Đức Bênêđictô XVI coi đó là “tình trạng trẻ thơ trong đức tin” (Hồng y Ratzinger - Bài giảng trong thánh lễ khai mạc Mật viện 18.4.2005). “Trẻ thơ” là do lòng người quá yếu đuối, không kiên định, không dứt khoát, lại để mình nghiêng ngã, “trôi giạt theo mọi chiều gió đạo lý” (Eph 4, 14).
Ơn Chúa Thánh Thần sẽ khiến ta bình an nội tâm. Có bình an, ta đủ sức chống chọi mọi "làn gió" thổi ngoài Tin Mừng Chúa Kitô, ngoài sức hấp dẫn của Thánh Thần của Người.
Những làn gió đang tác động mạnh mẽ trong thời đại là, “Từ Mác Xít tới chủ nghĩa tự do, tới mức chủ nghĩa tự do phóng túng; từ chủ nghĩa tập thể đến chủ nghĩa cá nhân; từ chủ nghĩa vô thần tới chủ nghĩa duy huyền bí tôn giáo mơ hồ; từ chủ nghĩa vô tín đến chủ nghĩa hỗn tạp…Nhiều giáo phái mới được đẻ ra mỗi ngày và sẽ xảy ra điều mà thánh Phaolô đã nói về sự lường gạt con người và sự tinh quái nhắm lôi kéo con người đến chỗ lầm lạc (Ep 4, 14). Có một đức tin rõ ràng, theo kinh Tin Kính của Hội Thánh, lại bị gán cho nhãn hiệu cuồng tín…” (Hồng y Ratzinger - Bài giảng trong thánh lễ khai mạc Mật viện 18.4.2005).
Hãy mở lòng đón nhận ơn Chúa Thánh Thần, nhờ đó ơn bình an phục sinh của Chúa Kitô có sức lớn mạnh trong tâm hồn ta.
Có bình an tâm hồn nhờ ơn Chúa Thánh Thần, ta sẽ kiên định đến cùng Chúa trong đức tin, trong lòng mến, trông sự cậy trông nơi tình yêu của Đấng Phục sinh.
Nguyện cho bình an của Đấng Phục Sinh ngự trị trong lòng chúng ta. Nguyện cho ân sủng tuyệt đối là chính Chúa Thánh Thần và bình an của Người sống mãi trong lòng Kitô hữu.
Nguyện cho mỗi Kitô hữu “chân cứng đá mềm” để xứng đáng hưởng nhờ bình an phục sinh và hăng hái trao ban bình an mà mình được lãnh nhận. mục lục
Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
CHÚA KITÔ PHỤC SINH BAN THÁNH THẦN CỦA NGÀI
Theo truyền thống Do Thái, Lễ Ngũ Tuần rơi vào 50 ngày sau Lễ Vượt Qua, cũng là lễ thu hoạch Shavuot của người Do Thái. Shavuot đôi khi được gọi là lễ hội các tuần, ám chỉ bảy tuần kể từ Lễ Vượt Qua: “Từ hôm sau ngày sabát, ngày các ngươi đem bó lúa đến để làm nghi thức tiến dâng, các ngươi phải tính bảy tuần, bảy tuần chẵn” (Lv 23:15) hoặc: “Anh em sẽ tính bảy tuần: từ khi bắt đầu mang liềm đi gặt lúa, anh em bắt đầu tính bảy tuần. Rồi anh em sẽ mừng lễ Ngũ Tuần kính Chúa, Thiên Chúa của anh em, dâng lễ vật tự nguyện, tuỳ theo phúc lành Chúa, Thiên Chúa của anh em, ban cho anh em” (Đnl 16:9-10). Ban đầu là một lễ thu hoạch, Shavuot giờ đây kỷ niệm việc đóng ấn Giao ước Cũ trên Núi Sinai, khi Chúa bày tỏ Torah - Lề luật - cho Môsê trên Núi Sinai. Hàng năm, người Do Thái cử hành lại việc tiếp nhận món quà Torah này vào ngày lễ Ngũ Tuần.
Còn theo truyền thống Kitô giáo, Lễ Hiện Xuống, 50 ngày sau Lễ Phục Sinh là lễ kỷ niệm Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông đồ, Mẹ Maria và những môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu tụ họp tại Phòng Tiệc Ly. Lễ Hiện Xuống nhớ về việc Thánh Thần tuôn đổ trên Giáo hội sơ khai và việc sai các môn đệ đi thu hoạch những gì Chúa Thánh Thần đã làm chín mùi và triển nở trong tâm hồn mỗi người và mọi người khắp trần thế.
Tin Mừng theo Thánh Gioan chương 20 câu 19 đến 23 cho chúng ta thấy cách Chúa Kitô Phục Sinh ban Thánh Thần của Ngài. Ba điều chính yếu trong đoạn Tin Mừng này là: Bình an: “Bình an cho anh em!” (Ga 20:19), Sai Đi: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20: 21) và Tha thứ: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20:23).
Ơn bình an.
Các môn đệ tự nhốt mình trong sợ hãi, trong gian phòng Tiệc ly đóng kín, trong buồn bã u uất của lòng mình: “Nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái” (Ga 20:19). Các ông vẫn còn bàng hoàng trước những gì mà họ đã trải qua trong Lễ Vượt Qua, đặc biệt là cái chết thảm thương của Chúa Giêsu. Ngài bị đối xử như con chiên Vượt Qua vô tội bị hiến tế. Tuy nhiên, bất chấp sự hèn nhát, thiếu niềm tin, họ vẫn gắn bó với nhau trong sự hướng vọng về Chúa Giêsu, và tại đây Đấng Phục Sinh xuất hiện giữa họ, bất chấp các quy luật vật lý của gian phòng đóng kín: “Chúa Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: Bình an cho anh em” (Ga 20: 19). n huệ đầu tiên của Chúa Thánh Thần là sự bình an. Sự bình an mà các Thiên Thần công bố từ trời cao ngay khi Chúa Giêsu xuống trần gian: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14). Sự bình an khi Ngài trấn áp biển cả dữ dội bằng cách làm dịu đi những cơn sóng dữ: “Ngài thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: Im đi! Câm đi! Gió liền tắt, và biển lặng như tờ” (Mc 4:39). Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14,27).
Bình an đích thực không phải là một cảm giác thảnh thơi, một cảm xúc êm đềm, đến và đi tùy theo hoàn cảnh. Bình an đó cũng không phải là một khái niệm trừu tượng trong suy tưởng. Bình an đó đến từ một con người, đã trải qua trọn vẹn một đời người, đã khổ nạn, chết, nhưng nay đã phục sinh, chiến thắng tất cả mọi sự, ngay cả cái chết. Không còn gì có thể vượt thắng Con Người ấy. Con Người ấy là Chúa Giêsu. Nơi Ngài tất cả chỉ là bình an. Ngài chính là Bình An. Đây là tin mừng vì điều đó có nghĩa là nơi nào Ngài hiện diện thì nơi đó có bình an.
Nhưng làm thế nào chúng ta có thể kinh nghiệm được sự bình an của Chúa Kitô? Làm sao chúng ta có thể biết được sự bình an của Ngài khi cuộc sống của chúng ta chẳng hề bình an chút nào?
Hãy để Ngài hiện diện bất cứ nơi nào chúng ta cần sự bình an. Chúa Giêsu phán: “Thầy để lại bình an cho anh em... Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14:27).
Chúa Giêsu như đang nói: “Việc đón nhận ơn bình an của Ta là một sự lựa chọn. Khi các con cho phép Ta hiện diện trong cõi lòng đầy rắc rối của các con, khi các con cho phép Ta hiện diện trong bao nỗi sợ hãi của các con, khi các con trao cho Ta vô vàn âu lo của các con, Ta sẽ đổi lại cho các con sự bình an của Ta.”
Bình an là hoa trái của ơn cứu độ mà Chúa Kitô đã mang lại cho trần thế qua cái chết và sự phục sinh của Ngài; đó là ân huệ mà Chúa Kitô phục sinh hôm nay tiếp tục thông truyền cho Giáo hội của Ngài khi cộng đoàn dân Chúa tụ họp để cử hành Bí tích Thánh Thể, để Giáo hội có thể làm chứng cho Ngài trong cuộc sống hàng ngày. Đó cũng là sự bình an mà Ngài tiếp tục ban cho chúng ta trong các bí tích và phụng vụ của Hội Thánh.
2. Sứ giả Tin Mừng Bình An
Với sự bình an được ban cho này, Chúa Phục Sinh đã phong các môn đệ làm tông đồ, “sứ giả Tin Mừng”. Chúa Giêsu truyền: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20, 21).
Trong Lễ Hiện Xuống, Chúa Giêsu biến đổi các tín hữu thành những người rao truyền Tin Mừng Bình An của Chúa nhờ Thánh Thần của Ngài. Ngài mời gọi mọi người đón nhận Bình An này, thứ Bình An sâu xa vốn đánh dấu sự hiệp thông của các tín hữu với Thiên Chúa, với người khác và với nhau. Sự Bình An này là sức mạnh thực sự cho những ai được Chúa Giêsu sai đi. Đó là hơi thở nội tâm truyền thông sự hiện diện của Chúa Kitô.
Tin Mừng bình an là gì? Và việc trở thành sứ giả Tin Mừng bình an là thế nào? Nói một cách đơn giản, Tin Mừng bình an là thông điệp về tình yêu của Thiên Chúa dành cho mọi người qua Chúa Giêsu Chúa Kitô. Đó là sứ điệp yêu mến Thiên Chúa và yêu thương người lân cận. Đó là lời nhắc nhở rằng tất cả mọi người, ngay cả những người chúng ta không thích, đều là con cái Thiên Chúa và được mời vào bàn tiệc Nước Trời. Đó là một lời mời gọi dành cho mỗi người trong hoàn cảnh xã hội cũng như tâm lý và cảm xúc hiện tại của họ để lãnh nhận ân sủng, sự tha thứ và dần dần biến đổi tình trạng bất ổn của họ nên bình an khi nhận ra rằng mỗi người đều được Thiên Chúa yêu thương và có thể đáp lại tình yêu đó bằng khả năng yêu thương của chính mình.
Trở thành sứ giả bình an là thế nào? Chúng ta có muốn trở thành sứ giả của bình an thay vì của sự nóng giận không? Chúng ta có muốn xây dựng đoàn kết, thay vì chia rẽ không? Chúng ta có muốn lắng nghe với trái tim và tâm trí rộng mở không? Chúng ta có muốn nhìn mọi người chung quanh bằng con mắt hiểu biết, cảm thông thay vì ganh ghét đố kỵ, phán xét và lên án không? Chúng ta có muốn nhận ra và nhìn thấy thế giới tươi đẹp thay vì chỉ là bi kịch không? Chúng ta có muốn đáp lại mọi người với lòng biết ơn thay vì phàn nàn, chê trách không? Nếu chúng ta trả lời những câu hỏi này bằng tiếng Có thì đó là sống theo sứ điệp và trở thành sứ giả Tin Mừng bình an. Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể trở nên sứ giả Tin Mừng bình an như thế khi mở tâm trí và cõi lòng đón nhận Thần Khí của Chúa Kitô Phục Sinh, như Thánh Phaolô khẳng định: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏmình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung. Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại đượcơn giải thích các tiếng lạ. Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Ngài” (1 Cr 12:4-11).
3. Tha thứ và Hòa giải
Một trong những hoa trái thực sự của Thánh Thần là sự tha thứ. Sự tha thứ được ban như một hồng ân siêu nhiên. Chính trong kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ cầu xin hồng ân siêu nhiên này: “xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6:12). Hôm nay Chúa Giêsu giao phó sứ vụ tha tội cho các tông đồ và những người kế vị các ngài khi Ngài hiện ra với các ông sau khi sống lại: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Các con tha tội cho ai, thì người ấy được tha” (Ga 20:22) .
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo nói: “Bởi vì Chúa Kitô đã trao cho các Tông Đồ của Ngài thừa tác vụ giao hoà, nên các giám mục, những người kế nhiệm các ngài, và các linh mục, là những cộng sự viên của các giám mục, tiếp tục thi hành thừa tác vụ này. Thật vậy, các giám mục và các linh mục, nhờ bí tích Truyền Chức Thánh, có quyền tha tất cả tội lỗi “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (GLHTCG, số 1461).
Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã cho thấy mối liên hệ giữa quyền xét xử của Chúa Giêsu và quyền tha tội của Ngài:
“Là Con Người đồng nhất với Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã tha thứ tội lỗi bằng chính quyền năng của mình, được Chúa Cha thông truyền cho Ngài trong mầu nhiệm hiệp thông Ba Ngôi và hiệp nhất ngôi vị. Là Con Người, trong bản tính con người đã chịu đau khổ và chết để cứu độ chúng ta, Chúa Giêsu đã đền tội chúng ta và nhận được sự tha tội từ Thiên Chúa. Là Con Người, trong sứ mệnh thiên sai phải kéo dài hành động cứu độ của mình cho đến tận thế, Chúa Giêsu đã ban cho các tông đồ quyền tha tội để giúp nhân loại sống phù hợp với đức tin và hành động phù hợp với ý muốn vĩnh cửu của Chúa Cha: “giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Ngài cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Chúa Kitô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ” (Ep 2:4). Toàn bộ niềm hy vọng cứu rỗi của chúng ta dựa vào lòng thương xót vô biên của Chúa Cha, vào sự hy sinh của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa và Con Người, Đấng đã chết vì chúng ta, và vào công việc của Chúa Thánh Thần, qua thừa tác vụ của Giáo Hội, liên tục thực hiện trên thế giới việc “tha tội” (Buổi tiếp kiến chung Thứ Tư, ngày 7 tháng 10 năm 1987).
Nhu cầu lớn nhất của mỗi người là được tha thứ tội lỗi mình đã phạm. Chúa Giêsu, với sự khôn ngoan vô hạn của Ngài, và thấu suốt các linh hồn, đã muốn rằng việc tha tội luôn được các linh mục của Ngài sẵn sàng thực thi. Các linh mục thay mặt Chúa Kitô thực hiện hành động tha thứ cụ thể, hòa giải và hướng dẫn thiêng liêng một cách mạnh mẽ và hiệu quả, phù hợp với hoàn cảnh của mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu Kitô luôn chờ đợi mỗi người chúng ta nơi Bí tích hòa giải trong tòa Giải tội để tha thứ, ban bình an và sức mạnh Thánh Thần của Ngài để chúng ta lại bắt đầu “ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại” (Ga 15: 16).
Xin cho chúng con, trong ánh sáng của Chúa Thánh Thần, cảm nhận được ơn bình an, lời sai đi và sự tha thứ, bằng cách xem xét lại tâm trí và ước muốn của mình! Xin cho chúng con mở rộng mùa thu hoạch này trong gia đình, trong Giáo hội và toàn xã hội của chúng con! Xin Chúa Thánh Thần hãy đến và canh tân bộ mặt trái đất! Amen.
Khi cầu nguyện bằng ngắm thứ ba của Mùa Mừng, chúng ta “xin được đầy rẫy mọi ơn Chúa Thánh Thần.” Chúa Thánh Thần có nhiều ơn, nhưng chúng ta thường “quen” nhắc tới 7 ơn mà Is 11:1-3 liệt kê: Khôn ngoan (cao minh), hiểu biết (thâm hiểu), thông minh (minh luận), lo liệu (chỉ giáo), đạo đức (sùng hiếu, hiếu thảo), sức mạnh (dũng cảm), kính sợ Chúa. Ai có Chúa Thánh Thần sẽ sinh nhiều hoa trái, Thánh Phaolô liệt kê 12 hoa trái: Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân từ, lương thiện, hiền hòa, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ, thanh khiết. (x. Gl 5:22-23)
Chúa Thánh Thần vô cùng cần thiết. Hằng ngày, mỗi khi làm bất cứ việc gì, hãy cầu xin: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến! – Veni Sancte Spiritus!” Ai có Ngài sẽ làm được nhiều việc, nhưng vẫn cảm thấy làm chưa đủ mức, càng làm nhiều càng cảm thấy mình hèn mọn, vô dụng. Đó là nhờ Ơn Thiêng của Chúa Thánh Thần gia tăng nhiệt huyết và sự khiêm nhường. Hãy tiếp tục cầu xin Ngài ngự đến, và cứ để cho Ngài tác động. Quả thật, Chúa Giêsu đã có lần nhắc nhở: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.” (Ga 15:5) Có Chúa là có tất cả.
Ngôi Ba Thiên Chúa thường xuất hiện qua ba dạng: Lửa, (Cv 2:3) Gió, (Ga 3:8; Cv 2:2) và Chim Bồ Câu. (Mt 3:16) Sách Công Vụ cho biết: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như TIẾNG GIÓ mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như LƯỠI LỬA tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho.” (Cv 2:1-4) Như vậy, khả năng ngoại ngữ là một ơn thiêng của Chúa Thánh Thần.
Thật kỳ lạ, khi các Tông Đồ giảng đạo, người nghe đều hiểu theo ngôn ngữ bản xứ của họ. (Cv 2:11) Hoạt động của Chúa Thánh Thần vô cùng kỳ diệu. Cùng một việc, một hoàn cảnh, nhưng Ngài tác động khác nhau nơi mỗi người. Đơn giản như âm nhạc, chỉ có bảy nốt và năm hình nốt phổ biến nhất, nhưng có cả hàng tỷ bài nhạc đủ thể loại được tạo nên với thiên hình vạn trạng. Con người không thể làm được nếu không có Chúa Thánh Thần tác động. Quá đỗi kỳ diệu! Cũng tương tự trong các lĩnh vực khác.
Thánh Vịnh gia tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi!” (Tv 104:1a) Và rồi tác giả chân thành thân thưa: “Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả!” (Tv 104:1b) Vì không thể trì hoãn, tác giả lại tiếp tục xưng tụng: “Công trình Ngài, lạy Chúa, quả thiên hình vạn trạng! Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan, những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất.” (Tv 104:24) Thật vậy, không khí là thứ vô hình, không ai thấy, nhưng lại là “vật chất.” Không khí đơn giản nhưng lại vô cùng cần thiết, không thể thiếu, dù chỉ trong chốc lát.
Cũng vậy, Chúa Thánh Thần là Thần Khí, Ngài vô cùng cần thiết cho sự sống, cả đời thường và tâm linh, cả thể lý và linh hồn: “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi. Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này.” (Tv 104:29-30) Ước gì chúng ta khả dĩ nhận thức đầy đủ, và luôn tâm niệm thành kính: “Nguyện tiếng lòng tôi làm cho Người vui thỏa, đối với tôi, niềm vui là chính Chúa.” (Tv 104:34)
Thói kiêu ngạo do con người ảo tưởng. Làm được gì gọi là “khác người” một chút thì tự mãn, ngông nghênh, cứ tưởng mình giỏi, thậm chí còn muốn phủ nhận Thiên Chúa, chống lại Ngài, muốn thay thế Ngài bằng sự độc tài chuyên chế – khởi đầu là cuộc cách mạng Bônsêvích (Bolshevik Revolution) của nước Nga, lan truyền chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu từ năm 1917. Bác học thiên tài Albert Einstein lý luận chí lý: “Người thông minh và lương thiện thì không thể là cộng sản. Người thông minh mà là cộng sản thì không thể lương thiện. Người lương thiện mà là cộng sản thì không thể thông minh.” Một “tam đoạn luận” thật tuyệt vời!
Thực tế cho thấy càng ngày người ta càng kinh tởm cộng sản. Có thể chúng ta chưa bị cộng sản hóa, nhưng chúng ta lại dễ quên rằng tất cả đều nhờ hồng ân, chứ chính bản thân chúng ta chẳng có thể làm nên trò trống gì cả! Thánh Phaolô phân tích: “Chẳng có ai ở trong Thần Khí Thiên Chúa mà lại nói: Giêsu là đồ khốn kiếp! Cũng không ai có thể nói rằng Đức Giêsu là Chúa, nếu người ấy không ở trong Thần Khí.” (1 Cr 12:3) Chúa Thánh Thần tác động tích cực trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, không thể thiếu vắng Ngài, dù chỉ trong giây lát.
Quả thật, Chúa Thánh Thần đã làm những kỳ công mà không ai có thể phủ nhận. Chẳng hạn việc phổ biến Kinh Thánh. Kinh Thánh trọn bộ, hoặc một phần, đã được dịch sang hơn 2.400 ngôn ngữ của 90% dân số thế giới. Kể từ năm 1815, ước tính đến năm 2023 có khoảng hơn 7 tỷ ấn bản Kinh Thánh (chưa kể lượt tải trên internet khoảng 900 triệu) trọn bộ hoặc các phần quan trọng của Kinh Thánh được phân phối, trở nên sách bán chạy nhất trong mọi thời đại.
Không một cuốn sách nào được chú ý và dịch ra nhiều ngôn ngữ như Kinh Thánh. Nhiều nhà giáo dục nhận thấy rằng Kinh Thánh Kitô giáo đã ăn rễ vững chắc vào văn hóa Tây phương đến nỗi “bất cứ ai, dù có niềm tin hay không, nếu không quen thuộc với các giá trị và giáo huấn của Kinh Thánh sẽ trở nên dốt nát về văn hóa.”
Thánh Phaolô giải thích về đặc sủng, và xác định là có nhiều nhưng vẫn chung một nguồn gốc: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn CHỈ CÓ MỘT THIÊN CHÚA LÀM MỌI SỰ TRONG MỌI NGƯỜI. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là VÌ ÍCH CHUNG.” (1 Cr 12:4-7) Thiên Chúa quan phòng và tiền định cho mỗi người một việc, mỗi người một cách. Anh giỏi cái này, chị chuyên cái kia, tôi biết cái khác. Tất cả là ơn Chúa.
Nói về Nhiệm Thể Đức Kitô, Thánh Phaolô nhận định: “Ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều nhưng vẫn là một thân thể, Đức Kitô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất.” (1 Cr 12:12-13) Rõ ràng không ai có thể viện vào bất cứ lý do gì để mà tự cao tự đại. Thật vậy, “ai tưởng mình hiểu biết điều gì thì chưa hẳn là đã hiểu biết như phải hiểu biết.” (1 Cr 8:2)
Về thói kiêu căng, tự tôn, tự mãn, Kinh Thánh nói: “Kiêu hãnh đi liền với ô nhục, khôn ngoan ở với kẻ khiêm nhường.” (Cn 11:2) – “Kiêu căng đưa đến sụp đổ, ngạo mạn dẫn đến té nhào.” (Cn 16:18) – “Tính tự cao hạ đứa tự cao xuống, người tự hạ sẽ được tôn vinh.” (Cn 29:23) Đức Maria nói: “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.” (Magnificat, Lc 1:51-52)
Cuộc sống luôn cần bình an, xã hội ngày nay càng cần hơn nữa, vì có đủ thứ bất trắc và sự dữ. Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, sau khi Chúa Giêsu phục sinh, các cửa đều đóng kín nơi các môn đệ ở. Bất ngờ Đức Giêsu xuất hiện giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” (Ga 20:19) Lời chúc quý giá lắm, vì lúc đó các ông đang sợ người Do Thái. Và rồi họ cảm thấy an tâm khi Thầy Giêsu cho họ xem tay và cạnh sườn. Đúng Thầy thật rồi!
Họ vui mừng được gặp lại Ngài trong lúc họ đang thất vọng và lo sợ. Rồi Ngài nói với họ: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em.” Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ.” (Ga 20:22-23) Đúng như lời Ngài đã hứa lúc trước: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi.” (Ga 14:16) Đấng đó như thế nào? Chúa Giêsu cho biết: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ DẠY anh em MỌI ĐIỀU và sẽ LÀM CHO anh em NHỚ LẠI MỌI ĐIỀU Thầy đã nói với anh em.” (Ga 14:26)
Lạy Thiên Chúa, xin ban Thần Khí Chúa cho chúng con, giúp chúng con ngoan ngoãn làm theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Xin thổi bùng Lửa Thiêng trong tâm hồn chúng con, biến đổi mọi người và mọi sự cho hợp Ý Chúa. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Ân huệ tuyệt hảo nhất mà Thiên Chúa có thể ban tặng cho HiệnXuống ABC547
“Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Ân huệ tuyệt hảo nhất mà Thiên Chúa có thể ban tặng cho loài người (x. Lc 11,13), điều hứa hẹn quý giá nhất mà Đức Giê-su đã từng đưa ra (x. Ga 7,39), Đấng Bảo Trợ mạnh mẽ mà Tôn Sư từng tiên báo với môn đệ là sẽ đến (x. Ga 14,16-17; 16,7-12), Thần Khí chân lý mà các Tông đồ mong giáng xuống để đưa mình tới sự thật toàn vẹn (x. Ga 16,13-15), Người nay đã đến thật rồi, đến một cách dư tràn trên nhân loại, qua hơi thở của Chúa Phục Sinh.
Thời Cựu Ước
Kể từ khi loài người – hữu thể duy nhất trên thế gian được Thiên Chúa phú ban tinh thần vì muốn coi họ là con cái – để cho ma quỷ bên ngoài và bản năng bên trong lợi dụng con dao hai lưỡi là tự do mà xúi giục lôi kéo họ phạm tội, làm cho tinh thần họ sa ngã, xa lìa Tạo Hóa-Hiền Phụ, chìm vào hố sâu ích kỷ, gây ra biết bao đổ vỡ giữa thế giới tạo vật, thì như thể Thiên Chúa bị đặt trước một thế tiến thoái lưỡng nan: hoặc rút lại tinh thần, cất mất tự do khỏi con người, biến họ trở thành một con vật xinh đẹp thật đấy nhưng vẫn chỉ là một con vật, một nô lệ của Đấng Sáng Tạo, để Người có thể ăn ngon ngũ kỹ trên chốn trời cao, hết sợ họ dùng lý trí, ý chí và tự do để quậy phá... Mà như thế cũng có nghĩa là phản lại tình yêu ở nơi Người, một tình yêu luôn phát sinh những ngôi vị có khả năng đối thoại: các thần vị nơi chính Người là Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần, các linh vị thụ tạo là 9 phẩm thiên thần phục dịch, cũng như các nhân vị thụ tạo mà mới chỉ có hai là A-đam và E-va. Hoặc ngược lại vẫn phải để cho con người là con người, với tinh thần và do đó tự do đầy đủ, với bao nhiêu chuyện bấp bênh bất ngờ tích cực lẫn tiêu cực sẽ có thể xảy ra, mà phần lớn hẳn là tiêu cực, vì tinh thần con người từ nay đã bị thương tổn: ý chí đã ra yếu nhược và lý trí đã ra mù quáng. Nhưng có như thế Thiên Chúa mới bảo toàn được tình yêu của mình, tình yêu của một người cha đối với những đứa con ngỗ nghịch nhưng vẫn là con. À phải! Cứ để nguyên tinh thần cho họ nhưng sẽ ban thêm cho họ chính Tinh thần của Người. Tinh Thần này sẽ soi sáng cho lý trí họ để họ tìm đến Sự Thật và củng cố cho ý chí họ để họ tìm đến Sự Thiện, hầu họ biết dùng tự do mà yêu Chúa và yêu nhau, sống cho phải đạo làm con của Người.
Thế là Thiên Chúa bắt đầu thực hiện kế hoạch sửa chữa cho tinh thần. Người chọn một dân tộc, ban Thần khí xuống trên các thủ lãnh trong dân (vua chúa, ngôn sứ, tư tế): trên Mô-sê (“Giavê lấy một phần Thần khí đang đậu trên ông mà đặt trên bảy mươi kỳ mục” Ds 11,25), trên Giô-suê (“Ngươi hãy đem theo Giô-suê, con của Nun, là người có thần khí nơi mình” Ds 27,18), trên Sam-sôn (Tl 14,6), trên Đa-vít (“Thần khí Thiên Chúa nhập vào Đa-vít từ ngày đó trở đi” 1Sm 16,13), trên Ê-li-a và Ê-li-sa (“Thần khí của ông Ê-li-a đã ngự xuống trên Ê-li--sa” 2V 2,15), trên Ê-dê-ki-en (Ed 2,2)... để qua họ, Người hướng dẫn dân tới chỗ ngày càng thoát khỏi tội lỗi hơn, ý thức sự thật và theo đuổi sự thiện hơn, khám phá và thực hành tình yêu hơn. Người cũng loan báo sẽ đổ dư tràn ân huệ của Thần khí trên một nhân vật Người sẽ sai tới tên là Đấng Mê-si-a (“Thần khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa” Is 11,2), là Người Tôi Trung (“Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, Ta cho thần khí Ta ngự trên nó” Is 42,1), cũng như trên dân tộc thời cánh chung để biến hình đổi dạng họ (Ge 3,1-5)... Thần khí đó là Thần khí hướng dẫn (“Xin Thần khí tốt lành của Chúa dẫn con đi trên miền đất phẳng phiu” Tv 142,10), Thần khí tác sinh (“Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này” Tv 103,30), Thần khí thúc đẩy (x. Ed 1,12), Thần khí soi sáng (“Ông được đầy Thần khí, nên đã nhìn thấy trước những sự việc thời cuối cùng” Hc 48,24), Thần khí quy tụ (Is 34,16)... Việc mạc khải và thông ban Thần khí tiến dẫn tới với việc dạy dỗ dân về sự thật và sự thiện, về Đấng Chân thật và Thánh thiện, về niềm tin và tình yêu.
Thời Tân Ước
Rồi đến một ngày, như lời tiên báo, Thần Khí đã đến với Đấng Mê-si-a. Người trước hết đã dùng sức mạnh sáng tạo thân xác cho Nhân vật đợi trông này trong cung lòng một trinh nữ (x. Lc 1,35). Thần Khí đã chiếm hữu Đấng Mê-si-a mang danh Giê-su ấy cách toàn diện ngày Người được công bố là Con Thiên Chúa (x. Mc 1,10-11). Trong Người, Thần Khí thành quyền năng hướng dẫn (“Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giê-su trở về miền Ga-li-lê” Lc 4,14), thành dòng nước hằng sống (“Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống. Đó là Thần Khí mà những kẻ tin Người sẽ lãnh nhận” Ga 7,38). Ngược lại, Đức Giê-su cũng muốn cho đoàn dân mới của Thiên Chúa biết được Thần Khí đang tràn ngập mình như thế (và sẽ tràn ngập họ). Người dạy họ gọi đó là Ơn cao vời (x. Lc 11,13), là Thần chân lý (x. Ga 16,13), là Đấng Bảo trợ (x. Ga 16,7). Người sẽ dùng cái chết và cuộc phục sinh để rộng ban cho họ sức mạnh bởi trên này (x. Cv 1,8).
Người đã giữ lời vào chính chiều ngày Phục sinh, bởi lẽ Người đã trao ban Thần Khí khi gục đầu xuống trong giây phút sau hết (“Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí” Ga 19,30). Qua cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã ban tinh thần cho loài người, khiến họ trở nên “con người”. Qua cuộc tái tạo, Thiên Chúa nay ban Thánh Thần cho loài người, khiến họ trở thành “con Chúa” (“Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: “Abba! Cha ơi!” Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa” Rm 8,15). Cuộc sống con người là cuộc sống trong/bằng/nhờ tinh thần; nay cuộc sống con Chúa là cuộc sống trong/ bằng/nhờ Thánh Thần.
Vì thần trí con người (tinh thần, esprit humain) đã bị thần khí ma quỷ (tà thần, esprit malin) đẩy vào tội lỗi, nên nay Thần Khí Thiên Chúa (Thánh Thần, Esprit sainte) thực hiện công việc trước hết là kéo khỏi tội: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha” (Ga 20,23). Rồi Người đổ tràn tình yêu thay cho ích kỷ (“Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần” Rm 5,5), mạc khải khôn ngoan để phá ngu cho trí lòng (“Không ai có thể nói rằng: “Đức Giê-su là Chúa”, nếu người ấy không ở trong Thần Khí... Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy... ơn hiểu biết để trình bày” 1Cr 2,3.8). Vì Người là ngọn lửa soi sáng lý trí (x. Cv 2,3), là cơn gió thúc đẩy ý chí (x. Ga 3,8), là nguồn mạch của sự sống và tự do đích thực (“Luật của Thần Khí ban sự sống trong Đức Ki-tô, đã giải thoát tôi khỏi luật của tội và sự chết....” Rm 8,2).
Thánh Thần sẽ tràn ngập trên Thân Thể Đức Ki-tô, trên mọi chi thể của Người: “Trong những ngày cuối cùng, Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên hết thảy người phàm, con trai con gái các ngươi sẽ thành ngôn sứ, thanh niên sẽ thấy thị kiến, bô lão sẽ chiêm điềm mộng” (Cv 2,17; x. Ge 3,1). Thánh Thần sẽ khai sinh một lối sống mới: “Hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Ga 5,22). Thánh Thần sẽ làm phát xuất những hoạt động mới để cộng đoàn sống trọn cho tình yêu: “Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin, kẻ thì được Thần Khí ban cho ơn để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri...” (1Cr 12,4.8-10). Thánh Thần quả là Đấng hỗ trợ tinh thần của con người, là nhà điều phối vĩ đại của Giáo hội vậy!
Félix Mendelssohn Bartholdy là một thiên tài âm nhạc nước Đức đầu thế kỷ 19 (1809-1847). Lần nọ, thăm viếng một đại giáo đường cổ có một chiếc phong cầm rất quý giá, ông đã xin người giữ chìa khóa đàn cho mình được đánh một lúc. Thấy là một chàng thanh niên lạ mặt, ông lão giữ đàn nhất định không cho. Sau cùng, vì Meldelssohn nài nỉ, ông miễn cưỡng chấp nhận. Thế rồi ông đứng sững sờ, mắt mở lớn, miệng nín thở, tai căng ra để nghe. Từ bàn tay khách lạ, tiếng nhạc thoạt tiên êm ái như luồng gió hiu hiu, rồi dần dần dồn dập như bão tố nổi dậy, như sấm chớp vang rền, như gió mưa vần vũ... Cuối cùng, nghe ríu rít như tiếng hót của đàn chim, êm đềm như hơi thở của đứa bé trong lòng mẹ... Khi khách lạ cám ơn, cụ già mới đánh bạo hỏi: “Anh là ai? Tên là gì?” - “Thưa cụ, cháu tên là Felix Mendelssohn Bartholdy” - “Ôi, suýt nữa kẻ phàm phu tục tử như lão đã phạm một đại tội là ngăn cản một thiên tài”.
Cây đàn chúng ta hôm nay là lòng ta, gia đình, Giáo hội đang thiếu mất những hòa khúc tuyệt diệu chỉ vì chúng ta còn ngăn cản Chúa Thánh Thần, vị nhạc sĩ đại tài, không trao chìa khóa lòng mình để Người chiếm hữu và toàn quyền sử dụng, chẳng để Người hỗ trợ tinh thần ta.
Người ta kể rằng, có một bầy ếch đi dạo trong rừng và có hai con bị rơi xuống một cái hố sâu HiệnXuống ABC548
Người ta kể rằng, có một bầy ếch đi dạo trong rừng và có hai con bị rơi xuống một cái hố sâu. Tất cả các con ếch còn lại trong bầy đều bu quanh miệng hố để kéo chúng lên. Nhưng khi thấy cái hố quá sâu, cả bầy liền nói với hai con ếch rằng chúng chịu thua, không giúp được gì và bảo hai con ếch kém may mắn ấy chỉ còn nước chết dưới hố sâu mà thôi.
Thế rồi, một trong hai con ếch ở phía dưới nghe theo những gì cả bầy đã nói, nó bỏ cuộc và ngã lăn ra chết trong sự tuyệt vọng. Con ếch còn lại tiếp tục cố gắng nhảy. Cuối cùng nó nhảy được lên bờ. Cả bầy vây quanh và hỏi nó: "Anh không nghe chúng tôi nói gì hay sao?" Con ếch liền ngớ ra hỏi: “Hả, mấy anh nói gì? Mấy anh khen tôi khoẻ hả? Ấy là cũng là nhờ các anh đã hò la động viên tôi, cho nên tôi mới có đủ nghị lực và đủ kiên nhẫn để nhảy lên khỏi miệng hố đó mà!” Thì ra con ếch này bị điếc. Nó tưởng cả bầy ếch đã nói lên những lời động viên nó nhảy lên khỏi cái hố trong suốt khoảng thời gian vừa qua, và vì thế nó đã cố gắng và đã thoát khỏi cái hố ấy.
Bạn thân mến, qua câu chuyện ngụ ngôn trên, chúng ta thấy rõ ràng cái lưỡi vô cùng lợi hại. Nếu bầy ếch trên miệng hố đừng nói ra những lời bi quan, nhụt chí, tuyệt vọng…thì bạn nghĩ một trong hai con ếch ở dưới hố có bị chết trong tuyệt vọng như vậy không? Tôi nghĩ rằng không!
Nói về sự lợi hại của cái lưỡi, sách Huấn Ca dạy như thế này: "Từ tâm não mà tư tưởng phát sinh hướng về bốn lãnh vực: thiện với ác, sinh với tử, nhưng cả bốn luôn bị cái lưỡi chi phối" (37:17-18). Thật vậy, tất cả mọi sự thiện và ác, sống và chết, hiệp nhất và chia rẽ, chiến tranh và hòa bình...đều do cái lưỡi mà ra!
Cái lưỡi của con người ta khi uốn lên để phát ra những lời nói khiêm nhường, vui vẻ, nhã nhặn, lịch sự, tử tế và cảm thông thì những điều THIỆN HẢO sẽ lập tức được SINH RA và tồn tại.
• Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận trong lúc ở tù, đã nói những lời đầy yêu thương và tử tế, cho nên mấy anh cán bộ, công an, quản giáo đã được Ngài "cải tạo" “… Ngày hôm sau tôi bắt đầu yêu Chúa Giêsu nơi họ hơn nữa, bằng cách cười nói trao đổi với họ vài câu thân tình. Tôi bắt đầu kể cho họ nghe về những chuyến đi ngoại quốc của tôi, cho họ biết các dân tộc tại Mỹ, tại Nhật Bản, tại Phi Luật Tân...sống như thế nào, và nói với họ về kinh tế, về sự tự do, về kỹ thuật. Tôi đã kích thích tính tò mò của họ và đưa họ tới chỗ đặt rất nhiều câu hỏi. Dần dần chúng tôi trở thành bạn với nhau. Họ muốn học tiếng Pháp, tiếng Anh... Và như thế những người canh tù trở thành học trò của tôi”
Và cũng với cái lưỡi, nếu nó chỉ uốn lên và phát ra những lời nói cay độc, thiếu bác ái, bi quan yếm thế, buông ra những lời chỉ trích, mang dụng ý xấu và thâm hiểm…thì những sự ÁC sẽ lập tức nảy sinh, sự tuyệt vọng, và cái chết là hậu quả đi sau đó.
• Megan Meier, một thiếu nữ 13 tuổi, cư dân tại thành phố Dardenne Prairie, tiểu bang Missouri, vào ngày 16 tháng 10 năm 2006 đã treo cổ tự tử trong phòng chỉ vì email của một người hàng xóm giả làm bạn trai của cô trong internet nói rằng cô là một người dơ dáy, bẩn thỉu, nhếch nhác và mập béo và thế giới này sẽ tốt đẹp hơn nếu không có sự hiện diện của cô ta.
• Laura Rhodes, một học sinh 13 tuổi tại thành phố Neath, South Wales, đã uống thuốc tự tử bởi vì bạn bè trong lớp đã nói những lời bất nhã, nhạo cười và chê bai em.
Cái lưỡi của ta lợi hại vô cùng, cho nên thánh Gia-cô-bê mới ví cái lưỡi giống là một ngọn lửa, nó có thể làm cho toàn thân bị ô nhiễm, đốt cháy bánh xe cuộc đời … cái lưỡi thì không ai chế ngự được: nó là một sự dữ không bao giờ ở yên, vì nó chứa đầy nọc độc giết người (3:6,8).
Bạn muốn cái lưỡi của bạn đem lại cái THIỆN tức là SINH ra những sự tốt lành, đem lại sự sống cho ngưòi khác không? Nếu bạn muốn thì xin hãy nói những lời lịch sự, nhã nhặn, yêu thương, bác ái, thông cảm, đem lại hy vọng, và khích lệ, động viên nhau, và tránh không bao giờ buông ra những lời nới bi quan yếm thế, độc địa, nham hiểm, và gây chia rẽ.
Hôm nay là lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, chúng mình hãy xin Ngài ngự vào trong lòng bạn và tôi, để Ngài biến đổi và thanh tẩy miệng lưỡi chúng mình qua bảy ơn thánh của Ngài.
• Xin Chúa Thánh Thần ban ơn SỨC MẠNH, ĐẠO ĐỨC & KÍNH SỢ THIÊN CHÚA, để bạn và tôi nói lên những lời bác ái, yêu thương, lạc quan, đầy hy vọng và cảm thông với những người chung quanh.
• Xin Chúa Thánh Thần ban ơn THÔNG MINH, HIỂU BIẾT, KHÔN NGOAN, và LO LIỆU, để tôi và bạn nói những lời tế nhị, lịch sự, nhã nhặn, và lịch thiệp với ông bà, cha mẹ, với bề trên và với những người chung quanh.
Cầu chúc bạn và gia đình một tuần lễ mới vui khỏe, bình an và với muôn vàn ân phúc của Chúa Thánh Thần.
Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa..... Bằng những lời này, Kinh Tin Kính Công Ðồng HiệnXuống ABC549
“Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Ðấng Ban sự sống, Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra. Người cùng được phụng thờ và tôn vinh với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con; Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy”.
Bằng những lời này, Kinh Tin Kính Công Ðồng Nicene (325) cũng được gọi là Kinh Tin Kính Công Đồng Constantinople I (381) xác định niềm tin về Chúa Thánh Thần, Ðấng là Thiên Chúa thật cùng với Chúa Cha và Chúa Con, trong sự hiệp nhất Ba Ngôi Thiên Chúa.
Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba của Ba Ngôi Thiên Chúa. Những gì chúng ta biết được về Ngài phần lớn được nhắc đến trong Tông Đồ Công Vụ qua những ơn huệ như chữa lành, xua đuổi ma quỉ, và nói tiếng lạ. Ngài còn được biết đến như Thần Khí, sức mạnh thần linh, sự cao cả của Thiên Chúa, và ảnh hưởng trên toàn thể vũ trụ cũng như các tạo vật.
Thánh Thomas Aquinas gọi danh hiệu của Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Tình Yêu. Ngài là Tình Yêu liên kết giữa Chúa Cha với Chúa Con. Tình Yêu ấy không đóng khung khép kín nhưng đã tuôn trào ra, bởi vì Thiên Chúa đã thông đạt tình yêu và mọi thiện hảo cho tạo vật - cách riêng là cho nhân loại - để mời gọi họ vào chia sẻ sự sống với Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Cha là Đấng yêu thương, Chúa Con là Đấng được yêu thương, và Chúa Thánh Thần là Tình Yêu Ngôi Vị.
Ngoài danh hiệu Tình Yêu. Chúa Giêsu đã nói về Chúa Thánh Thần như thầy dạy: “Nhưng khi Ðấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Ðấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.” (Gioan 14:26) Ngài là Thiên Chúa mà những người tín hữu được rửa tội trong danh Ngài (Mátthêu 28:19-20). Là quyền năng che chở cho những ai tin vào Ngài để không gì có thể đánh cắp ơn cứu độ của họ (Ephesians 4:30). Và Ngài ở trong các tín hữu, biến đổi họ thành đền thờ của Thiên Chúa (1 Corinthians 6:19-20). Ngài hoạt động không ngừng để canh tân con người, và canh tân bộ mặt trái đất.
NHỮNG ƠN HUỆ VÀ HOA TRÁI CHÚA THÁNH THẦN
Mục đích những ơn huệ Chúa Thánh Thần là giúp xây dựng, khuyến khích, và an ủi Giáo Hội. Sau đây là một số ơn cần thiết và phù hợp với nhu cầu của nhiệm thể Đức Kitô.
7 Ơn Chúa Thánh Thần
Theo Sách Giáo Lý Công Giáo và sự cắt nghĩa của Thánh Thomas Aquinas trong Tổng Luận Thần Học (Summa Theologica), Chúa Thánh Thần là suối nguồn:
- Ơn Khôn Ngoan (Wisdom): Giúp chúng ta khả năng để yêu mến và hiểu biết những sự việc và lời dạy của Thiên Chúa.
- Ơn Thông Minh (Understanding): Giúp chúng ta thấu hiểu những gì chúng ta tin, vì Thiên Chúa là Đấng đáng tin cậy.
- Ơn Biết Lo Liệu (Counsel/Right Judgment): Giúp chúng ta biết tránh xa những cơ hội dẫn đến tội lỗi. Biết chọn những gì không trái với lương tâm, những điều xứng hợp với phẩm giá con người, và những gì giúp chúng ta sống đẹp lòng Thiên Chúa.
- Ơn Dũng Cảm (Fortitude): Giúp chúng ta sức mạnh vượt qua những khó khăn để thi hành bổn phận của người Kitô hữu một cách vui vẻ và phấn khởi. Nó giúp chúng ta kiên trì làm điều tốt, dù phải gặp những thử thách. Với ơn can đảm, chúng ta hy vọng có thể đứng vững trước nhan Thiên Chúa ngay cả khi bị từ chối, xỉ nhục, hành hạ thể xác hoặc phải chết.
- Ơn Hiểu Biết (Knowledge ): Giúp chúng ta nhìn thấy sự việc theo cách nhìn của Thiên Chúa để chúng ta không bị lừa dối bởi những phù hoa của thế gian, của tội lỗi, và biết yêu mến sự việc của Chúa.
- Ơn Đạo Đức (Piety/Reverence): Giúp chúng ta yêu mến và thờ phượng Thiên Chúa, Đấng yêu thương chúng ta vô cùng, và giúp chúng ta yêu thương anh chị em mình vì chúng ta có cùng một Cha trên trời. Những ai với lòng đạo đức đều nhận ra mình tùy thuộc vào Thiên Chúa, và đến trước tôn nhan Ngài bằng sự khiêm nhường, tin tưởng và yêu mến. Theo Thánh Thomas Aquinas, Ơn Đạo Đức là ơn huệ Chúa Thánh Thần ban để chúng ta thờ phượng và phụng sự Thiên Chúa như Cha của chúng ta.
- Ơn Kính Sợ Chúa (Fear of the Lord/Wonder and Awe): Giúp chúng ta nhận ra sự cao cả, công minh của Thiên Chúa để không làm điều gì mất tình nghĩa với Ngài. Chúng ta không sợ hãi như kẻ nô lệ, nhưng luôn tôn kính và trông cậy vào tình yêu của Thiên Chúa. Theo Thánh Thomas Aquinas đây không phải là sự sợ hãi bị loại trừ ra khỏi Thiên Chúa. Nhưng đây là một sự “kính sợ” như người con sợ làm phiền cha mình hơn là “sợ hãi” của kẻ tôi tớ, một sự sợ hãi vì bị phạt. Thánh Kinh cũng nói về sự sợ hãi này: “Kính sợ Thiên Chúa là đầu mối của khôn ngoan” (Prov 1:7).
Vẫn theo Thánh Thomas Aquinas, bốn ơn Khôn Ngoan, Thông Minh, Hiểu Biết, và Lo Liệu trực tiếp về trí tuệ (intellect), trong khi ba ơn còn lại Dũng Cảm, Đạo Đức, và Kính Sợ Thiên Chúa hướng ý muốn chúng ta về với ý muốn của Thiên Chúa.
12 Hoa Trái Chúa Thánh Thần
Giáo lý Hội Thánh Công Giáo số 1832: Các hoa trái của Thần Khí là những điều trọn hảo mà Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta, như hoa quả đầu mùa của vinh quang vĩnh cửu. Truyền thống của Giáo Hội kể ra 12 hoa trái: “Bác Ái, hoan lạc, bình an, kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ, từ tâm, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ, khiết tịnh” (Gl 5: 22-23 vulg.).
Trong thư của Thánh Phaolô gửi tín hữu Galata 5:22-23, ngài mô tả chín hoa trái cụ thể của Chúa Thánh Thần: “yêu thương, vui mừng, bình an, nhẫn nại, nhân từ, tốt lành, trung tín, hiền lành, tiết độ”. Tuy nhiên trong bản dịch Vulgata tiếng Latin có thêm 3 hoa trái đó là: tin tưởng, nhã nhặn và trong sạch. Hoa nào sinh trái nấy:
1) Hoa Bác Ái (Charity): Trái Bác Ái là làm mọi việc vì mến Thiên Chúa, để tình yêu Ngài và tình yêu anh chị em mình được vô vị lợi, không mong được đền đáp và thỏa mãn tư kỷ. Hoa trái của bác ái là làm mọi việc vì mến Chúa.
2) Hoa Vui Vẻ (Joy): Trái Vui Vẻ trong Thánh Thần là nhận biết lòng nhân từ của Thiên Chúa. Khi Chúa Thánh Thần đến trong ta, chúng ta sẽ nhận ra hạnh phúc thật không đến từ giầu sang, tiền bạc. Nhưng do sự hiểu biết và đi theo Chúa Giêsu để được ở với Người bây giờ và trên Thiên Đàng mai sau.
3) Hoa Bình An (Peace): Trái Bình An là niềm vui làm cho ta được thư thái. Đây là sự thanh thản, yên tĩnh tâm hồn có Chúa. Qua lời cầu nguyện và thờ phượng Thiên Chúa, chúng ta cảm thấy sự bình an nội tâm, và hành động để gieo vãi sự bình an trên khắp thế giới.
4) Hoa Kiên Nhẫn (Patience): Trái Kiên Nhẫn giúp chúng ta chịu đựng những nghịch cảnh ở đời và những đau khổ do sự chết gây nên. Vì tình yêu thì nhẫn nại.
5) Hoa Hòa Nhã (Benignity): Trái Hòa Nhã là sự hòa nhã, ước mong làm nhiều cho kẻ khác hơn là họ làm cho mình. Đây là nhân đức để chúng ta đối xử với người khác như đối xử với chính mình.
6) Hoa Nhân Từ (Goodness): Trái Nhân Từ thơm từ trong lời nói và trong việc làm. Khước từ những điều xấu và đón nhận những gì là tốt lành khi chúng ta thống hối tội mình, và nỗ lực thực thi ý Chúa.
7) Hoa Nhẫn Nại (Longanimity): Trái Nhẫn Nại là kiên trì chịu đựng dù không có những khích lệ bên ngoài. Âm thầm và bền bỉ trước những tấn công của người khác. Trái chín nhân đức này là khả năng chấp nhận một cách tin tưởng trước những thử thách của cuộc đời.
8) Hoa Hiền Lành (Mildness): Trái Hiền Từ giúp kìm hãm nóng giận. Chúa Thánh Thần sẽ làm trổ sinh trái chín là thái độ bình tĩnh và dịu dàng. Từ vị ngọt ngào này sẽ kéo xuống cho chúng ta khả năng tha thứ và quảng đại với người khác.
9) Hoa Tin Tưởng (Faith): Trái Tin Tưởng là sự trung thành, thẳng thắn trong những giao tế với mọi người. Qua ân điển thần linh, chúng ta trở nên trung tín qua đời sống tuân theo thánh ý Chúa, và thực hành những lời giảng dạy của Chúa Giêsu Kitô, Thánh Kinh, và Giáo Hội.
10) Hoa Nhã Nhặn (Modesty): Trái Nhã Nhặn là khiêm nhường, điều độ, chừng mực trong hành động bên trong cũng như bên ngoài.
Trong tâm hồn là khiêm nhường và trong sạch trong tư tưởng. Nhận biết rằng mọi thành công, tài năng, và ơn phúc tất cả đều là hồng ân của Thiên Chúa.
Cung cách bên ngoài là ăn mặc xứng kỳ đức, nói năng nhẹ nhàng, khoan thai, và không hành động đi ngược với cung cách của những môn đệ Chúa Kitô.
11) Hoa Tiết Độ (Continence): Trái Tiết Độ là biết chế ngự những dục vọng, kiểm soát con người. Chống lại những cám dỗ của dục vọng, ham muốn nhục dục, và hạn chế những thèm muốn xác thịt.
12) Hoa Trong Sạch (Chastity): Trái Trong Sạch là sự canh phòng ngũ quan để chúng không trở nên dịp tội cho ta; giúp ta coi thân xác mình và thân xác người khác như đền thờ Chúa Thánh Thần. Đối với những người sống đời thánh hiến, trái trong sạch là hoàn toàn dâng mình cho Thiên Chúa.
CA TIẾP LIÊN - LỄ CHÚA THÁNH THẦN
Trong ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống, cùng với Giáo Hội, chúng ta hãy kêu xin Ngài:
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, và tự trời tỏa ánh quang minh của Ngài ra! Lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến; Đấng ban ân huệ, Đấng soi sáng tâm hồn, xin ngự đến! Lạy Đấng an ủi tuyệt vời, là khách trọ hiền lương của tâm hồn, là Đấng ủy lạo dịu dàng. Chúa là sự nghỉ ngơi trong cảnh lầm than, là niềm an ủi trong lúc lệ rơi. Ôi sự sáng chứa chan hồng phúc, xin chiếu soi tràn ngập tâm hồn tín hữu của Ngài. Nếu không có Chúa trợ phù, trong con người còn chi thanh khiết, không còn chi vô tội. Xin Chúa rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, và chữa cho lành nơi thương tích. Xin uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng, chỉnh đốn lại chỗ trật đường. Xin Chúa ban cho các tín hữu, là những người tin cậy Chúa, được ơn bảy nguồn. Xin ban cho họ được huân nghiệp nhân đức, được hạnh phúc cứu độ và được hoan hỷ đời đời (Amen. Alleluia).
Lâu lắm rồi, tôi được nghe cha Peter Robb, một linh mục Dòng Chúa Cứu Thế đã kể lại một HiệnXuống ABC550
Lâu lắm rồi, tôi được nghe cha Peter Robb, một linh mục Dòng Chúa Cứu Thế đã kể lại một câu chuyện. Truyện này đã xẩy ra tại nơi mà chính phủ chưa đủ khả năng để cung cấp một nền y tế và bảo vệ sức khoẻ cho người dân, như ở Phi Luật Tân và các quốc gia nghèo. Truyện kể như sau:
Có hai mẹ con gốc người dân tộc thiêu số, Đu-Ma-Gat bên Phi luật Tân. Họ nghèo khổ sống với nhau. Đã xẩy ra là con của chị mắc phải một cơn bịnh hiểm nghèo và cần một khoản tiền để chữa trị. Hoàn cảnh của họ, tiền ăn còn chưa đủ lấy đâu mà trả tiền viện phí và thuốc men. Cuối cùng, chị cũng đành bó tay nhìn người con ra đi!
Sau khi lo ma chay cho cháu xong. Trong một lần dọn dẹp nhà cửa, chị tìm thấy một gói giấy nằm trong góc tủ, sát bên bức tường bám đầy bụi bặm. Lôi gói giấy đó ra, chị đã lần mò mở từng lớp rồi từng lớp, cuối cùng chị khám phá ra một xấp tiền, theo sự suy đoán của chị thì đó là số tiền dành dụm của ông bố chồng. Ông đã nhét vào nơi đó rồi với cơn bịnh đãng trí nên không còn nhớ đến nó nữa. Cầm xấp tiền trên tay, chị nghĩ đến chú con trai mình với tâm hồn chua xót, đầy nghẹn ngào cho số phận của cháu! Số phận của những người nghèo là như thế, cuộc đời của họ bị bao phủ bởi đắng cay, bạc phước và bất hạnh.
Câu chuyện nói trên khiến tôi nhớ đến vai trò của Thánh Linh trong cuộc sống mình. Người vẫn có đó, thế mà nhiều lúc tôi cứ nghĩ Người đi vắng. Như người phụ nữ trong câu chuyện, chúng ta có thể sở hữu một năng lực phi thường, có thể giúp mình biến đổi từ trạng thái chết sang sống, thế mà chúng ta nhiều lần đã không nhận ra sự hiện diện đó.
Nhìn lại lịch sử cứu độ, đâu đâu chúng ta cũng thấy bàn tay của Thánh Linh, thần khí và sức sống của Thiên Chúa qua Chúa Thánh Thần. Sơ lược như sau:
Thánh Thần không chỉ là quà tặng cao quí nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta một lần mà thôi. Ngay từ thủa sơ khai, trong trình thuật tạo dựng, tác giả sách Sáng thế đã mô tả sự hiện diện của thần khí Thiên Chúa bay lượn là đà trên mặt nước. Rồi đến khi tạo dựng con người như hình ảnh của Thiên Chúa; tác giả một lần nữa, bằng một thể văn rất ấn tượng, ẩn chứa một ý nghĩa thật sâu sắc khi mô tả việc Thiên Chúa thổi sinh khí vào pho tượng mà ban cho con người sự sống.
Chính Thần Khí, hơi thở của Thiên Chúa là nguồn sự sống của nhân loại.
Thánh Thần hoạt động liên lỉ trong dòng lịch sử của dân Do Thái nói riêng và toàn thể nhân loại nói chung. Ngài hiện diện với mọi dân tộc. Ngài xuất hiện tựa làn gió, thổi sức mạnh và hơi ấm đến mọi người, mọi nơi và mọi chốn. Không một cá nhân hay tổ chức nào có thể cầm giữ và điều khiển được Ngài.
Rồi đến lượt các Tông đồ, Chúa Thánh Thần hoạt động nơi các ngài. Trước đó các ngài đã từng theo Chúa, đã từng nghe bao lời dạy dỗ của Chúa, đã từng chứng kiến bao phép lạ của Chúa. Thế mà chỉ vì sợ hãi nên cho dù sau các lần hiện ra, với lời chúc bình an và qua việc Chúa thổi hơi trên các ông; thế mà các ông vẫn lo sợ, trốn chui trốn nhủi trong nhà. Thậm chí đến ngày Chúa về trời và sai các ông tiếp tục sứ mạng của Chúa, thế mà vẫn còn có các Tông Đồ cho rằng đó là lúc Người khôi phục vuơng quyền Israel. Thì ra, óc não chính trị, tìm kiếm chức quyền là những vật cản khiến các ông không nhận ra chân tướng và sứ vụ của Đức Giê-su.
Thế rồi Chúa Thánh Thần ngự đến và các ông được biến đổi hoàn toàn: nhiệt thành và can đảm rao giảng Tin Mừng. Phêrô đã từng run sợ chối Chúa trước mặt những người đầy tớ, thế mà sau biến cố Thánh Thần ngự xuống, ông đã đứng trước một đám đông rao giảng hùng hồn về sự chết và sống lại của Đức Giê-su, khiến cho mấy ngàn người bị đánh đông và trở lại với niềm tin Phục Sinh.
Như Phêrô, chúng ta đuợc mời gọi đóng góp công sức của mình. Nhưng chính Chúa Thánh Thần mới là nguồn động lực họat động nơi kẻ nói và người nghe; để ai nói sẽ nói Lời Chúa và kẻ nghe cũng sẽ đón nhận bằng một con tim bằng thịt mà tin và trở lại với sự thật là Tình Yêu của Chúa đã thể hiện qua sự chết và Phục sinh của Đức Giê-su.
Một cách cụ thể, trong bài đọc một mà chúng ta vừa nghe hôm nay. Sau khi Chúa Thánh Thần ngự xuống, các Tông Đồ nói đuợc các thứ tiếng mà những người nghe đến từ các nơi đều hiểu các ngài muốn nói gì. Chúng ta có thể giải thích rất đơn giản là các ngài được ơn nói ngoại ngữ. Thật ra, dân chúng tập hợp tại Giê-ru-sa-lem vẫn còn giữ nguyên nền tảng cá biệt của dân tộc họ và ngôn ngữ riêng của họ.
Nhưng quyền năng của Chúa Thánh Thần đã hoạt động để các ngài có thể diễn đạt sứ điệp yêu thương của Thiên Chúa cho mọi người.
Như vậy, tuy họ vẫn còn sự khác biệt về văn hoá, ngôn ngữ, chủng tộc hay mầu da; nhưng bằng Tình yêu con người có thể đón nhận và hiểu sứ điệp của Thiên Chúa muốn nói gì qua lời rao giảng của các Tông Đồ.
Trong Tình yêu, dù vẫn còn khác nhau, nhưng trong sự khác nhau đó, con người vẫn đồng cảm, thông hiệp và yêu thương nhau hơn. Chỉ có ngôn ngữ của yêu thương mới giúp con người nối kết được với nhau. Tình Yêu là hoa quả mà Chúa Thánh Thần tác động và ban cho con người. Nói khác đi, Chúa Thánh Thần là nguồn suối, hoa quả của yêu thương mà Chúa Cha và Chúa Con trao ban cho những kẻ thuộc về Người.
Sự thán phục của dân chúng từ khắp phương thiên hạ kéo về Giê-ru-sa-lem dành cho các Tông Đồ không phải vì các ngài thông thái hay tài giỏi, can đảm hay mạnh dạn; nhưng vì các ngài đã để cho Thánh Thần ngự xuống trên môi miệng mà ca tụng và loan báo những kỳ công của Thiên Chúa.
Như vậy, quả là rõ ràng cho chúng ta nhận thấy rằng Chúa Thánh Thần đã dùng các ngôn ngữ của các dân tộc khác nhau để truyền đạt sứ điệp của Chúa cho con người. Khác xa với quan niệm cho rằng chỉ có dân tộc này, ngôn ngữ kia, văn hoá nọ mới mang tính ưu vượt và duy nhất để truyền đạt tư tưởng và sứ điệp của Chúa.
Chúa Thánh Thần hoạt động trong mọi dân tộc, như dân thành Ê-phê-sô khi xưa. Họ chưa từng nghe biết về Chúa Thánh Thần, nhưng họ đã tin. Đức Tin này không phải là khám phá của họ, nhưng đó chính là hoa quả của Thần Khí! Ai trong chúng ta dám khẳng định rằng Thánh Thần chưa hoạt động nơi họ. Nếu đã không dám khẳng định thì tin là giải pháp thuận lợi nhất.
Anh chị em thân mến,
Chúa Thánh Thần đã đuợc diễn tả qua các biểu tượng như gió, cuồng phong và lửa. Và như anh chị em đã từng có kinh nghiệm: gió muổn thổi đâu thì thổi, nào ai biết được gió từ đâu đến và sẽ đi về đâu; cuồng phong mà đến thì ai cản được!
Vì thế, nhân dịp mừng Lễ Chúa Thánh Thần ngự xuống hôm nay, xin mời anh chị em cùng tiếp tục:
Hãy nói lời yêu thương. Vì một khi chúng ta nói với nhau bằng tiếng nói của yêu thương thì chúng ta sẽ chạm đến những cảm xúc chân thật của con tim; từ đó mọi gắn bó và các dây liên kết của chúng ta sẽ bền chặt hơn bởi Thánh Linh.
Hãy tạo mọi cơ hội để tiếng nói của mình xứng đáng truyền đạt sứ điệp yêu thương của Thiên Chúa.
Và, đừng dập tắt hay từ khước nhận ra sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, Đấng đang hiện diện và hoạt động nơi con người tại các nền tôn giáo khác, nơi các dân tộc khác, thậm chí ngay cả trong các tổ chức mà nhiều người lầm tưởng là họ đang chống lại Giáo Hội. Có thể, ở một bình diện nào đó, họ không đồng ý với lối hành xử thiếu tính con người, không có dân chủ trong một hình thức cơ chế nào đó của Giáo Hội. Nhưng qua nỗ lực, sự thành tâm và thiện chí xây dựng; chúng ta tin rằng Chúa Thánh Thần vẫn hiện diện trong các nỗ lực mà họ đang làm để giúp chúng ta hành xử và xây dựng một thân thể nhiệm mầu của Đức Kitô theo đúng ý Chúa hơn.
Sau cùng, Thánh Linh, khấn xin ngự đến và giúp chúng con nhận ra các hoạt động của Người không chỉ trong cuộc sống của chúng con mà thôi; nhưng còn mở tung cánh cửa tâm hồn của chúng con, và tác động thật mãnh liệt để chúng con còn nhận ra sự hiện diện và tác động của Thánh Linh nơi mọi người; hầu chúng con đủ can đảm ra đi mà làm chứng cho sự thật, làm chứng cho Tin Mừng như các Tông đồ khi xưa. Amen!