Tác giả: NHÓM TU SĨ Chủ biên: Giuse Phạm Đình Ngọc, SJ
Lời Giới Thiệu của Đức Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Viên
Tuổi trẻ là giai đoạn bừng tỉnh của lý trí và con tim. Các em thường đặt ra những thắc mắc cho chính mình và người khác. Đây cũng là giai đoạn các em ý thức hơn về đời sống tâm linh, về Thiên Chúa, về tình yêu và tình bạn.
Giáo hội hoàn vũ luôn nhấn mạnh sự cần thiết trong việc đồng hành cùng giới trẻ. Đặc biệt, 2020–2022 là ba năm Giáo hội Việt Nam dành cho mục vụ giới trẻ, nhằm giúp các em vững bước hơn trong đức tin của mình giữa dòng đời, đồng thời, góp phần mình diễn tả căn tính, đời sống và sứ mệnh của Giáo hội. Câu chuyện hai môn đệ trên đường Em–mau luôn là nguồn hứng khởi cho lộ trình này (Lc 24,13–35). Hai môn đệ đã trình bày những ưu tư, thắc mắc của họ với vị khách bộ hành là Đức Giêsu Kitô Phục Sinh; và Người đã giải đáp cho họ tất cả. Nhờ vậy, họ đã trở nên những nhân chứng thực thụ của Đức Giêsu Kitô và Tin Mừng của người cho anh chị em đồng loại.
Giáo hội ý thức rằng “người trẻ là chủ thể chứ không chỉ là đối tượng chăm sóc mục vụ của Giáo hội”; “người trẻ là hiện tại chứ không chỉ là tương lai của Giáo hội”; “Mục vụ giới trẻ là phải đồng hành và lắng nghe hơn là dạy dỗ.” (Tông huấn Chúa Kitô Đang Sống). Trong định hướng này, Uỷ ban Giới Trẻ–Thiếu Nhi đã họp bàn nhằm tìm ra những phương cách để có thể đồng hành cùng giới trẻ cách hữu hiệu hơn. Chẳng hạn: các website, games học hỏi, bản tin online. Bên cạnh đó, việc dịch sách, sáng tác, linh đạo cho giới trẻ cũng là những vấn đề được quan tâm, chú ý.
Trong khi bề bộn với những dự án trên, chúng tôi nhận được một dự án của nhóm tu sĩ. Họ đã nhận được rất nhiều ưu tư, thắc mắc từ các bạn trẻ và giáo dân. Các tu sĩ này, mỗi người mỗi cách đã nỗ lực trả lời rõ ràng các ưu tư thắc mắc đó bằng ngôn ngữ rất hội nhập, ngôn ngữ của giới trẻ. Với dự án này, các tác giả ước mong đồng hành cùng giới trẻ trong việc lắng nghe, phân định, và chọn lựa thực hành đời sống đức tin của họ.
Theo lộ trình, dự án này mỗi năm sẽ xuất bản ba tập sách dựa theo chương trình mục vụ của Giáo hội Việt Nam[1]. Trong những tập sách này, các câu hỏi thường liên quan đến giới trẻ và những ưu tư, thắc mắc phát xuất từ thực tế đời sống đức tin của họ. Mỗi tác giả trả lời khá rõ ràng, chi tiết về những ưu tư, thắc mắc đó. Tôi rất tâm đắc với các tập sách này. Bởi vì, những câu trả lời của các tu sĩ cho thấy rằng họ vừa am hiểu nhãn quan của Giáo hội hoàn vũ về giới trẻ, vừa am hiểu bối cảnh của Giáo hội Việt Nam, cũng như những dấu chỉ thời đại của thế giới toàn cầu hóa và những cơ hội, thách đố nảy sinh trong thế giới hôm nay.
Tiêu đề của tập sách là: Giải Đáp Thắc Mắc Cho Người Trẻ Công giáo. Mỗi tập sách(7 tập trong 3 năm-xem link bên dưới)[2] được các tác giả khai triển thật dồi dào, không chỉ thích hợp với giới trẻ, mà còn với tất cả mọi người. Đặc biệt, các tập sách này cũng thích hợp với những người đồng hành cùng giới trẻ, phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể và các giáo lý viên. Nhiều chủ đề, câu hỏi có khi khá phức tạp, nhưng cách diễn tả của người trả lời rất sinh động, làm cho người đọc dễ hiểu, dễ nhớ và dễ áp dụng.
Tôi rất hân hạnh được giới thiệu tập sách này tới quí độc giả.
+ Pet. Nguyễn Văn Viên Giám Mục Phụ Tá Giáo Phận Vinh, Chủ tịch Uỷ ban Giới Trẻ – Thiếu Nhi
Pr. Lê Hoàng Nam, SJ 03/05/2021 Con không biết rõ ràng Chúa muốn con lập gia đình hay đi tu. Làm thế nào để nhận định ơn gọi cho bản thân con ạ?
Câu hỏi:
Con không biết rõ ràng Chúa muốn con lập gia đình hay đi tu. Làm thế nào để nhận định ơn gọi cho bản thân con ạ?
Trả lời:
Ơn gọi của một người thì chỉ có người đó mới nhận ra được. Đó là chuyện của người đó với Chúa. Ngoài người đó ra, không ai có thể chắc chắn 100% là người đó có ơn gọi này hay ơn gọi kia. Điều này càng đúng hơn với ơn gọi dâng hiến, vì dù phải đáp ứng những điều kiện ban đầu để được nhận vào chủng viện hay dòng tu nào đó, chẳng ai có thể khẳng định chắc nịch là một người nào đó có được mời gọi sống đời tu hay không, và trong môi trường tu, họ phù hợp với linh đạo nào. Chủng viện, dòng tu, bề trên... chỉ có thể căn cứ vào dấu hiệu người đó tỏ ra để lượng định về ơn gọi của người đó trong khả năng có thể, chứ không phải là phán quyết cho sự tồn tại của ơn gọi dâng hiến. Thật vậy, mọi ơn gọi đều đến từ Chúa, chứ không phải từ người phàm, và nhiệm vụ của mình là cố gắng khám phá ra tiếng nói của Chúa vẫn nhẹ nhàng vang lên trong lòng mình.
Dưới đây, trước hết, chúng tôi xin chia sẻ một vài dấu chỉ để bạn có thể cảm nghiệm về tiếng gọi của Chúa. Sau đó, chúng tôi sẽ đề cập đến phương pháp giúp nhận định ơn gọi.
Một vài dấu chỉ
Bạn hãy nghĩ đến những vinh hoa phú quý trên trời. Con người mỏi mệt một đời chỉ để đi tìm của cải, giàu sang. Cố gắng lưu trữ thật nhiều châu báu, nỗ lực đánh bóng mình để được nhiều người quan tâm. Nhưng rồi thì sao? Họ có được như thế mãi không? Họ tưởng mình là tâm điểm của vũ trụ, nhưng sẽ đến thời chẳng còn ai biết đến họ, chẳng còn nhớ đến tên họ, thậm chí chẳng còn biết là họ đã từng hiện hữu trên thế gian. Tình người bạc bẽo, tình đời mong manh. Có đó rồi mất đó. Chẳng có chi vững bền. Bạn có cảm nghiệm như thế không? Bạn có được thôi thúc đi kiếm một cái gì đó cao hơn, ý nghĩa hơn, bền vững hơn không? Những giá trị bền vững ấy là “cho đi mà không tính toán, biết làm việc không tìm nghỉ ngơi” hay “tìm yêu mến người hơn được người yêu mến, tìm an ủi người hơn được người ủi an”. Bạn có thích như vậy không?
Bạn hãy nghĩ đến những ơn lành lớn lao mà mình đã nhận được từ bé đến giờ. Gia đình ấm êm, được bố mẹ và anh chị em thương yêu. Bạn có được những điều kiện học hành để mở mang kiến thức. Bạn được Chúa gửi đến biết bao con người giúp bạn ngày càng thăng tiến hơn trong đời sống. Từng bước được bạn đi, dường như luôn có ai đó đưa dẫn. Nhưng rồi bạn cũng phát hiện ra là trên đời này có rất nhiều người không được may mắn như bạn. Bạn có cảm thấy là những gì mình được thụ hưởng bấy lâu nay, hệt như một sự chuẩn bị của Chúa để bạn cống hiến cho đời, để bù đắp những khiếm khuyết của cuộc sống không?
Bạn hãy nghĩ đến gương sống tốt đẹp của các vị tu sĩ thánh thiện. Suốt một cuộc đời âm thầm hy sinh, chẳng màng chi đến danh lợi. Họ nghèo nhưng vui, vì họ cho rằng mình đã có tất cả. Họ sống một mình nhưng không cô đơn, vì họ tin là bên mình luôn có Chúa. Họ bình an với đời sống phục vụ và chẳng bao giờ nóng giận, chửi bới ai. Dòng đời có xoay tới xoay lui với biết bao tranh giành, thủ đắc, họ vẫn bình tâm với nụ cười thánh thiện trên môi. Các bạn có thấy một đời sống như thế thu hút mình không?
Bạn hãy để lòng lắng xuống, và cố gắng nhận ra từng dòng cảm xúc đang tuôn chảy trong người. Khi nghĩ đến những điều này, bạn có thấy bình an không, có thích mình hợp không, có thấy cái gì đó sôi sục trong người và muốn mình dấn bước không? Cảm giác hứng khởi ấy kéo dài lâu trong bạn, hay chỉ là một thoáng chốc rồi thôi. Nếu nó cứ luôn thôi thúc bạn, đó chính là dấu hiệu cho thấy bạn đang được mời gọi để sống đời dâng hiến.
Phương pháp nhận định ơn gọi
Phương pháp này được thánh I-nhã ghi lại trong tập sách Linh Thao (LT) của mình. Nó là những bước chỉ dẫn giúp ta đi vào trong nội tâm của mình, lắng đọng để nghe được những chuyển động mà Chúa gửi đến, nhờ đó có thể nhận ra được điều Chúa muốn mình làm.
Thánh I-nhã đề cập đến ba “thì” chọn lựa. “Thì” thứ nhất là “khi Thiên Chúa đánh động và lôi kéo ý muốn rõ ràng đến nỗi không hồ nghi và không thể hồ nghi, khiến linh hồn công chính tuân theo điều đã được tỏ lộ…” (LT số 175). “Thì” thứ hai là “khi nhận được đủ ánh sáng và sự hiểu biết bởi kinh nghiệm về những an ủi và sầu khổ thiêng liêng, cũng như bởi kinh nghiệm nhận định thần loại” (LT số 176). “Thì” thứ ba là “khi bình tâm, suy xét con người sinh ra để làm gì, ấy là để ngợi khen Thiên Chúa và cứu rỗi linh hồn mình…” (LT số 177). Vì “thì thứ nhất” khá rõ ràng, không cần nhận định, còn “thì thứ hai” khá phức tạp, nên sau đây, chúng tôi xin trình bày “thì thứ ba”, cùng các bước để thực hiện.
Trước hết, bạn phải ý thức rằng đây là một giờ cầu nguyện. Cầu nguyện ở đây không phải là đọc kinh. Cầu nguyện trước hết là một thái độ tĩnh lặng của tâm hồn, đặt mình trước sự hiện diện của Chúa, của Đấng Tối Cao. Bởi thế, trước khi làm chọn lựa, hãy ngồi xuống, để tâm tĩnh lại, hệt như một mặt hồ phẳng lặng không một gợn sóng. Đừng để những xao động tác động đến. Đừng để cảm xúc thích thú, vui – buồn, chán, hăm hở... chi phối mình. Cũng đừng để người nào ảnh hưởng đến mình (đừng sợ sẽ làm ai buồn, ai vui), đừng cố gắng chọn lựa điều gì đấy chỉ vì muốn làm hài lòng ai đó. Hãy giữ tâm trạng của mình ở vị trí thật quân bình, không lệch sang bên nào cả. Hãy gạt đi luôn cả chọn lựa mà bạn đã có trong đầu rồi. Làm sao để tâm trí mình hoàn toàn trống rỗng.
Ngồi trong tư thế thoải mái, không suy nghĩ, không cảm xúc, nhắm mắt lại, nghe từng âm thanh nhỏ chung quanh. Tận sâu trong lòng, bạn chỉ còn một lòng khao khát là làm sao để danh Chúa được hiển vinh, chứ không mong chờ hay tìm kiếm điều gì cả. Hãy để lòng mình hoàn toàn thanh thoát, không mong chờ điều chi, ngoài việc chỉ mong biết được ý Chúa để có thể thực thi ý ấy mà thôi. Đây là điều rất quan trọng, vì nếu bạn đã mặc định cho mình một kế hoạch rồi thì bạn sẽ tự khắc đóng kín trước tiếng nói của Chúa.
Khi tâm hồn đã hoàn toàn thanh tịnh rồi và lòng bạn chỉ còn khao khát muốn biết ý Chúa, bạn hãy đặt các chọn lựa ra trước mắt. Nhìn thẳng vào từng chọn lựa, rồi vạch ra mặt thuận lợi và khó khăn của nó, dựa trên những gì bạn biết hay đã tham khảo ý kiến của những người có hiểu biết về vấn đề này. Đặt ra câu hỏi, “nếu tôi chọn phương án A thì tôi sẽ được điều gì và mất điều gì.” Ghi ra giấy, càng tường tận càng tốt. Cũng tương tự như thế cho các phương án B, C ... khác. Ghi với một thái độ bình tâm chứ không phải với thái độ yêu ghét, vì nếu để cảm xúc chi phối, bạn đã đi lệch đường rồi.
Sau khi đã hoàn thành việc suy xét từng chọn lựa, hãy đọc lại những gì mình đã viết một cách cẩn thận và suy xét xem, khi đối diện với cái nào thì mình thấy bình an, thấy “hợp lý” hơn, thấy mình sẽ được triển nở hơn trong đời sống của mình. Lưu ý là ở đây, chúng ta không đếm số lượng những thiệt hơn mình ghi ra để chọn lựa. Số lượng nhiều hay ít không quan trọng. Quan trọng là thấy chọn lựa nào mình “nên” có để giúp ích cho mình hơn trên con đường trở thành một người tốt và có ích. Nếu bạn làm với một thái độ bình tâm và thành khẩn, chắc chắn bạn sẽ thấy mình được nghiêng chiều hơn về một phía và nhận ra những vấn đề nếu mình chọn phía kia.
Bạn lại đặt mình trước Chúa, suy xét lại lần nữa chọn lựa mình đã chọn để tìm sự xác nhận từ Chúa. Nếu lòng bạn cảm thấy một sự bình an sâu thẳm thì có nghĩa là chọn lựa này là đúng. Nếu không thì bạn sẽ cảm thấy ngược lại.
Thánh I-nhã cũng nói đến một vài cách khác giúp cho việc chọn lựa. Dĩ nhiên là cũng với những điều kiện vừa nói ở trên.
Thứ nhất, bạn hãy tưởng tượng là có một người mà bạn rất yêu mến tìm đến với bạn. Bạn luôn mong muốn điều tốt nhất cho người này. Người này trình bày vấn đề hệt như những gì bạn ghi ra giấy. Bạn xem xét thật kỹ rồi cho người này lời khuyên. Bạn khuyên người này thế nào thì hãy làm theo như vậy.
Cách thứ hai, bạn hãy tưởng tượng có một người mà bạn không hề quen biết tìm đến với bạn. Người này tin tưởng bạn nên chia sẻ với bạn những vấn đề để xin bạn lời khuyên. Một cách khách quan và không bị chi phối điều gì cả, bạn khuyên người này thế nào thì hãy làm theo như vậy.
Cách thứ ba, bạn hãy tưởng tượng là mình đang đứng trước giờ chết hoặc trước Toà Chúa để chịu phán xét về những gì mình làm khi còn sống. Giả như cho bạn khoẻ lại hoặc sống lại để làm lại chọn lựa, bạn sẽ chọn điều gì. Hay nói cách khác, trong những chọn lựa của bạn, chọn lựa nào làm lòng bạn, lương tâm bạn cảm thấy thanh thản nhất đến độ bạn sẽ không bao giờ hối hận về nó, thì đó là chọn lựa theo ý Chúa.
Những bước trên đây có thể được áp dụng cho những chọn lựa khác trong cuộc sống, và chúng chỉ là phương pháp. Có một số người cảm thấy rất dễ để thực hiện nhưng cũng có không ít người cảm thấy có chút khó khăn. Tất cả đều đòi hỏi bạn phải có một thái độ bình tâm và cầu nguyện. Có đôi khi nó cũng cần thời gian và cần làm tới làm lui nhiều lần để xác thực. Đôi khi phải cần một bầu khí tĩnh tâm và có người đồng hành để giúp đỡ mình.
Ngoài ra, bạn cũng cần lưu ý rằng có ơn gọi dâng hiến là một chuyện, bạn có gìn giữ đó và làm cho nó triển nở hay không lại là chuyện khác, bởi lẽ cũng có thể xảy ra trường hợp: người ta vô tình hoặc cố ý đánh mất đi viên ngọc quý đã được Chúa ưu ái tặng ban. Chúc bạn luôn tràn đầy Thánh Thần và sớm tìm ra con đường mà Chúa muốn bạn đi để làm vinh danh Chúa.
(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 1, Nxb Tôn Giáo, 2020)
Lm. Giuse Cao Gia An, SJ 10/05/2021 Tại sao nhiều người lại kỳ thị những người đi tu mà bỏ về? Xuất tu có mang tội gì không?
Câu hỏi: Tại sao nhiều người lại kỳ thị những người đi tu mà bỏ về? Xuất tu có mang tội gì không?
Trả lời:
“Nhất quỷ nhì ma, thứ ba tu xuất”. Chắc bạn đã từng nghe câu mỉa mai này phải không? Bạn có cho rằng câu nói ấy đúng không? Bạn có thấy có điều gì đó sai sai khi người ta so sánh những người tu xuất với quỷ với ma không?
Trong văn hoá Việt Nam, có nhiều thành kiến và kỳ thị dành cho người tu xuất. Người ta giả định rằng: kẻ tu xuất, dù là tự ý bỏ về hoặc bị trục xuất khỏi nhà tu, đương nhiên phải làm gì đó rất sai thì mới bị đẩy về cuộc sống thường ngày. Người ta xem đi tu mà bỏ về là một thất bại. Nhiều người, nhất là thân nhân của người bỏ tu, còn xem đó là điều xấu hổ làm mất mặt mũi và thể diện của gia đình và dòng họ. Người đi tu mà bỏ về thường phải chịu nhiều áp lực và rất khó sống trước những lời ra tiếng vào và kỳ thị.
Trước hết, có lẽ cần nhận ra nghịch lý này: sự kỳ thị dành cho những người đi tu bỏ về có thể xuất phát từ chính sự trân trọng dành cho đời tu và lòng yêu mến dành cho những người đi tu. Trân trọng và kỳ vọng càng nhiều thì thất vọng càng lớn. Khi những mong đợi người ta đặt vào một người đi tu đã không thành, họ đổi trọng thành khinh, đổi thương thành ghét. Nặng hơn, có người còn gọi những người tu xuất là những kẻ phản bội. Có người còn rủa: đã ăn cơm nhà Chúa Trời mà còn quay đầu vương vấn thế gian, trước sau gì cũng bị phạt.
Quan trọng hơn, cũng cần nhận ra rằng hầu hết những kỳ thị và lời ra tiếng vào dành cho những người bỏ tu đi về đều đến từ những “người đời”, những người chưa bao giờ có kinh nghiệm thật sự về đời tu. Họ chưa bao giờ bước chân vào sống đời tu trì, chưa bao giờ thật sự hiểu được con đường đi tu là như thế nào. Họ chỉ có trong đầu mình những khuôn mẫu đẹp về đời tu. Họ chỉ có những mong đợi và lý tưởng. Khi thấy có những trường hợp đi ngược với mong đợi và lý tưởng của mình, họ sẵn sàng ném đá và khinh chê. Nhưng thực tế họ lại chưa bao giờ có một kinh nghiệm đủ thực để có thể thông cảm với những khó khăn thử thách, những dằn co nội tâm, những cô đơn và cám dỗ mà đời tu phải đối diện. Họ thường lập luận kiểu duy lý và ảo tưởng thế này: đi tu, có Chúa rồi, còn khó khăn gì nữa chứ!
Dù sao đi nữa, chúng ta phải nhận ra rằng đã là kỳ thị thì không bao giờ là đúng, dù đó là bất cứ loại kỳ thị nào. Bất cứ kỳ thị nào cũng xuất phát từ thành kiến. Không có một thành kiến nào là quân bình cả. Mặc cảm tội lỗi đè nặng trên những người xuất tu, phần lớn đến từ áp lực của lời ra tiếng vào và những kỳ thị như thế. Rất nhiều trường hợp những người bỏ về từ đời tu khó làm lại cuộc đời cũng chính vì những kỳ thị như thế.
Tại sao một người đi tu lại bỏ về? Có thể có nhiều nguyên nhân lắm.
Có thể có những nguyên nhân đến ngay từ khởi đầu. Không phải người nào cũng thích đi tu ngay từ những ngày đầu bước chân vào nhà Chúa. Có những người quyết định bước vào đời tu khi còn chưa đủ trưởng thành và không đủ tự do. Có khi người ta chọn đời tu chỉ đơn giản vì đứng từ bên ngoài nhìn vào, thấy đời tu lung linh và hấp dẫn quá; tới khi dấn thân nhập cuộc họ mới bị vỡ mộng và nhận ra thực tế đời tu không đẹp như mình tưởng. Có những người đi tu không phải vì chính họ lựa chọn; họ đi tu để làm ông bà bố mẹ vui lòng. Có những người thấy mình không đủ khôn ngoan và không đủ mạnh mẽ để đấu vật với cuộc đời; họ chọn đời tu như một lối thoát hay một chốn ẩn thân, vì nghĩ rằng đi tu đỡ vất vả, không phải bon chen tranh giành, không phải lo, không phải khổ. Còn nữa, không phải không có những người khởi đầu đời tu với tham vọng được làm ông này bà kia, làm cho bố mẹ và dòng họ nở mày nở mặt với mọi người… Tất cả những nguyên nhân ấy đều là những động cơ sai lầm. Mang những động cơ sai lầm, người ta bước vào đời tu với mục đích tìm mình chứ không phải tìm Chúa. Họ nhìn đời tu với cặp mắt vụ lợi và thế tục chứ không đủ thiêng liêng. Với động cơ và lối nhìn như thế, rất khó một ai có thể vượt qua được những thử thách và tôi luyện của đời tu.
Có thể có những nguyên nhân xuất hiện trong hành trình đời tu. Con người không phải là một thực thể cứng nhắc. Ai cũng có thể thay đổi với thời gian. Có những thay đổi đáng mừng nhưng cũng có những đổi thay rất đáng tiếc. Có thể có những người khởi đầu đời tu với động cơ không tinh tuyền, nhưng trong hành trình huấn luyện của đời tu họ được hoán cải. Họ để cho mình được dạy dỗ và thay đổi. Họ biết nội tâm hoá những giá trị thiêng liêng và cao đẹp của đời tu. Họ cộng tác với Chúa từng ngày để trở nên người tu sĩ tốt. Nhưng ngược lại, cũng có trường hợp có những người khởi đầu đời tu rất tốt, rất nhiệt thành, đầy nỗ lực và cố gắng. Cho đến khi đặt chân vào đời tu rồi, họ không chịu cố gắng nữa. Họ nghĩ rằng mình đã đạt được mục đích. Họ trở nên lười lĩnh và chểnh mảng. Ngọn lửa nhiệt tâm trong họ dần cạn vơi và tắt ngúm. Đời tu trở nên vô vị và mất ý nghĩa. Vậy là họ hỏng.
Thường thường, người ta hay nghĩ rằng nhiều người bỏ tu là vì lý do tình cảm. Tu mà còn động lòng trần nên bị ma quỷ cám dỗ. Họ kết tội luôn cả người dính dáng tình cảm với những người tu xuất, gọi đó là ma quỷ cám dỗ làm hỏng đời của người đã đi tu. Bên cạnh đó, không ít người suy nghĩ theo kiểu đổ thừa, cho rằng người đi tu bị cho về là do lỗi của nhà Dòng. Bề Trên khó tính, thử thách người ta quá đáng. Anh chị em đồng môn hiểu lầm và không thông cảm. Môi trường công việc quá khắc nghiệt, vân vân và vân vân… Thật ra, ít có ai rời bỏ đời tu chỉ vì một nguyên nhân nhất thời và duy nhất. Nếu việc rời bỏ đời tu được xem là một đổ vỡ, đổ vỡ nào cũng bắt nguồn từ nhiều rạn nứt nho nhỏ. Trước khi nói đến những nguyên nhân bên ngoài như cám dỗ tình cảm, những đụng chạm trong đời sống cộng đoàn, hay những lôi cuốn và hấp dẫn bên ngoài, cần lưu ý đến nguyên nhân bên trong là những chuyển biến nội tâm như an ủi và sầu khổ, xác tín và nghi ngờ, yêu mến và chán nản trong chính tâm hồn của người đi tu. Mỗi con người là một thế giới phức tạp và mầu nhiệm. Nếu chỉ nhìn bằng cái nhìn giản lược và thành kiến thay vì tìm hiểu và cảm thông, rất dễ để kết án người ta cách hà khắc và sai lầm.
Thái độ của những người bỏ tu đi về cũng rất khác nhau. Có những người đau khổ, thất vọng, và cần rất nhiều thời gian để vượt qua. Họ nhìn nhận việc không thể tiếp tục hành trình đời tu như một thất bại. Họ thu mình và xa lánh ánh mắt của mọi người… Nhưng cũng có những người thật sự tìm thấy hạnh phúc và bình an với cuộc chuyển hướng của đời mình. Sau một thời gian tìm hiểu đời tu, có những người được huấn luyện để đủ trưởng thành và nhận ra rằng con đường này không dành cho mình. Mình không thích hợp, hoặc mình không đủ khả năng để bước theo. Những trường hợp “bỏ về” theo kiểu này là những người đáng được trân trọng. Họ đủ can đảm để sống rõ ràng trong lựa chọn của mình. Họ chấp nhận ra đời và đường đường chính chính làm lại cuộc đời, thay vì chọn sống kiểu chân trong chân ngoài, thay vì che đậy lấp liếm để sống cho qua ngày, thay vì chấp nhận vật vờ cố bám vào đời tu để tránh khỏi bị miệng đời thị phi và kỳ thị. Họ nhận ra rằng nếu đã không hạnh phúc mà vẫn tiếp tục sống đời tu cách lây lất, hoặc sống hai mặt theo kiểu ngoài danh nghĩa vẫn là một người đi tu nhưng trong thực chất lại phản bội lời khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục, đó mới là tội đáng sợ. Họ trung thành với lòng mình, can đảm tìm một con đường khác để có thể sống triển nở và hạnh phúc cuộc đời duy nhất của mình. Những người đó không có tội. Chỉ những người xét đoán kỳ thị và bất bao dung với những người tu xuất thì mới là có tội.
Dù sao đi nữa, phải thừa nhận rằng có những cuộc bỏ về là những thất bại thật sự. Trong thực tế, có những người đã khấn trọn đời rồi mà vẫn rời bỏ đời tu. Thậm chí, có những người đã chịu chức rồi, nhưng sau lại chọn con đường hoàn tục. Bởi vì con đường theo Chúa để sống cuộc đời hiến dâng phục vụ chưa bao giờ là một con đường dễ dàng. Có thể có những người chưa đủ trưởng thành và tự do ngay cả trong giây phút họ bước lên bàn thánh, bước vào việc tuyên khấn. Có những mảnh vỡ, những mảng tối, những thương tổn và uẩn khúc trong tâm hồn họ. Chỉ có Chúa mới biết. Chỉ có Chúa mới là Đấng tuyệt đối có quyền phán xét họ. Người nào tự cho mình quyền xét đoán và kỳ thị, người đó sẽ phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa.
Đời tu là một ơn gọi quý giá, nghĩa là một quà tặng mầu nhiệm đến từ Thiên Chúa. Không phải cứ gồng mình lên thì con người sẽ đi tu được và đi tu tốt. Những kẻ được gọi thì nhiều, nhưng những người được chọn thì ít. Đường tu trì là một con đường gập ghềnh. Vì thế, cả những người được xem là “thành công” hay những trường hợp bị coi là “thất bại” đều cần đến lời cầu nguyện, sự yêu thương và nâng đỡ của mọi người.
(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 1, Nxb Tôn Giáo, 2020)
Khi Đức Giêsu chữa lành người bại liệt, các Kinh sư và Biệt phái liền nghĩ xấu về Người, nhưng Đức Giê-su biết ý nghĩ của họ, liền nói : “Sao các ông lại nghĩ xấu trong bụng như vậy.” (Mt 9,4).
Thiên Chúa nhìn thấy mọi bí mật sâu thẳm trong tâm hồn chúng ta. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa Thiên Chúa là một vị quan toà nghiêm khắc, và sẵn sàng trừng phạt mỗi khi chúng ta có suy nghĩ xấu. Theo Giáo Lý, ý nghĩ xấu tự nó không phải là tội. Một suy nghĩ xấu sẽ trở thành tội khi ta ưng thuận với suy nghĩ đó. Thánh Augustinô dạy rằng, ở đâu không có sự đồng thuận, ở đó không có tội.[1]
Bạn thân mến,
Các thánh cũng bị cám dỗ, cũng có những suy nghĩ xấu và tiêu cực. Thánh Phaolô đã thừa nhận, mặc dù nhận được ơn hoán cải và trở nên một với Đức Ki-tô, nhưng thân xác ngài như “bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Xa-tan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại.” (Cr 12,7). Thánh nhân đã ba lần cầu nguyện với Thiên Chúa để được giải thoát khỏi cám dỗ này. Thiên Chúa trả lời rằng, ân sủng của Thiên Chúa thì đủ cho thánh nhân: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (Cr 12,8-9). Thiên Chúa cho phép tôi tớ Ngài bị cám dỗ cũng như bị thử thách. Những thử thách ấy giúp tôi luyện ý chí và cải thiện sự bất toàn của họ.
Tuy nhiên, trong trường hợp bị cám dỗ về những suy nghĩ xấu, nếu chúng ta đồng thuận với suy nghĩ đó, thì chúng ta đã phạm tội. Hội Thánh gọi đó là tội trong tư tưởng. Một tư tưởng xấu với sự ưng thuận là một tội vì điều gì chúng ta không được phép làm, thì chúng ta cũng không được phép ao ước. Ao ước điều xấu cũng là một tội phạm đến Chúa, với tha nhân và với chính mình. Tội trong hành động khiến chúng ta lìa xa Thiên Chúa thế nào, thì suy nghĩ xấu, với sự ưng thuận, cũng khiến ta lìa xa Thiên Chúa thế ấy. Sách Khôn Ngoan dạy ta rằng: “Những suy nghĩ quanh co khiến con người lìa xa Thiên Chúa” (Kn 1,3). Vả lại, “Thiên Chúa quán thông, mọi hành vi, chính Người xét xử” (1 Sm 2,3).
Tuy nhiên, theo thánh Anphongsô Maria, giống như thần học luân lý chia tội thành hai loại. Chúng ta có thể chia suy nghĩ xấu làm ba loại:
- Tư tưởng chợt đến.
- Những tư tưởng mà ta đã thích thú đón nhận.
- Và thứ ba là sự đồng thuận với tư tưởng đó.
Điều này cho thấy rằng, nếu một suy nghĩ xấu xuất hiện trong tâm trí thì tự bản chất, đó chưa phải là tội. Trái lại, nếu ta chống lại suy nghĩ đó thì ta sẽ nhận được ơn ích, như thánh Antoniô nhắc nhở ta rằng: “Khi con kháng cự, con sẽ nhận được mũ triều thiên.”
Ý thức được tính nguy hiểm của tư tưởng xấu và ảnh hưởng xấu của nó đến đời sống thiêng liêng, nhiều người đã nỗ lực cố gắng để vượt thắng. Tiếc là không ít người thất bại. Vậy làm sao để chúng ta gạt bỏ những tư tưởng xấu? Và nếu nó cứ đến thì ta phải làm gì?
Để tránh như tư tưởng xấu, chúng ta cần phải làm chủ các giác quan. Người ta vẫn thường nói con mắt là cửa sổ tâm hồn. Điều này cũng đúng với các giác quan khác như thính giác, khứu giác, vị giác… Thông qua các giác quan, mọi hình ảnh, tư tưởng sẽ đi vào tâm trí chúng ta. Vì lẽ đó, chúng ta cần lưu tâm đến thể loại nhạc ta nên nghe, các chương trình truyền hình, các loại phim ảnh chúng ta nên xem, các loại sách hay tạp chí nào ta nên đọc. Chúng ta cần tự hỏi, bộ phim này ảnh hưởng tốt hay xấu đến đời sống thiêng liêng của tôi. Những hình ảnh tôi xem có tác động thế nào đến những suy nghĩ của tôi?
Trong truyền thống Giáo hội, đây được gọi là cách thế để tránh dịp tội, thường bao gồm hai loại: dịp tội xa và dịp tội gần. Thánh Phaolô dạy chúng ta rằng: “Những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy lưu tâm đến.” (Phl 4,8). Thánh nhân mời gọi chúng ta lưu tâm, suy nghĩ và dành thời gian cho những gì đem lại sức sống cho đời sống thiêng liêng của chúng ta.
Ngoài ra, theo kinh nghiệm nhiều bậc khôn ngoan trong Giáo Hội, chúng ta cần xưng tội và cho cha giải tội biết những cám dỗ và cạm bẫy mà ma quỷ vẫn hay bày ra trước mắt chúng ta. Thánh I-nhã ví ma quỷ như một một kẻ si tình lẳng lơ, muốn giữ bí mật để khỏi bị lộ. Trong sách Linh Thao, thánh nhân viết:
“Quả vậy, một người đàn ông đồi bại dùng lời xảo trá quyến rũ một thiếu nữ con nhà lành, hoặc vợ một người đứng đắn, thì muốn cho những lời dụ dỗ của hắn được giữ kín; trái lại hắn rất bất mãn khi thiếu nữ mách với cha, thiếu phụ mách với chồng những lời quyến rũ và ý xấu xa của hắn, vì hẵn dễ dàng suy ra rằng, không thể nào thành công được với chuyện hắn đã bắt đầu” (số 326).
Do đó, theo lời dạy của thánh nhân, chúng ta được mời gọi để xưng tội và nói cho cha giải tội hay các cha linh hướng biết về những suy nghĩ xấu chúng ta thường gặp phải.
Đừng quên chạy đến với Chúa mỗi khi ta bị cám dỗ. Khi đó chúng ta phải nhớ đến Chúa. Qua lời Thánh Vịnh, chúng ta biết rằng, trong cơn hoạn nạn Vua Đavít đã thưa lên với Chúa rằng: “Tôi kêu cầu Chúa là Ðấng xứng muôn lời ngợi khen, và tôi được cứu thoát khỏi quân thù.” (Tv 17,4). Khi ma quỷ dùng một tư tưởng xấu tấn công, bằng cách lặp đi lặp lại một tư tưởng xấu trong tâm trí, ta có thể dùng một câu lời Chúa hay kêu cầu đến danh Chúa, chắc chắn Ngài sẽ đến và giải thoát ta.
Ví dụ, khi bị cám dỗ, chúng ta có thể thầm đọc trong miệng rằng: “Lạy Chúa Giê-su, xin thương xót con.” Bằng cách lặp đi lặp lại lời này, chắc chắn chúng ta sẽ vượt thắng cám dỗ. Khi đó, tư tưởng xấu không những không thể hại ta, mà còn là dịp cho ta đến gần với Chúa, trở nên thiết thân hơn với Người.
Để tránh suy nghĩ xấu và tiêu cực, bạn cần chống lại nó. Truyền thống Giáo Hội gọi hành động này là “agere contra”. Nghĩa là “làm ngược lại” với những suy nghĩ tiêu cực hay xấu xa mà ma quỷ gợi ra cho chúng ta. Bạn áp dụng phương pháp này thử xem.
Một trong cách thế để tránh suy nghĩ xấu nữa: chúng ta suy nghĩ về những điều tốt, về những lý tưởng sống và ước ao tốt đẹp trong đời sống chúng ta. Ai cũng có những ước mơ cần được nuôi dưỡng, để theo đuổi ước mơ và biến ước mơ thành hiện thực. Chúng ta cần có kế hoạch và hiện thực hoá kế hoạch đó. Một giấc mơ lớn trở thành hiện thực qua những bước nho nhỏ. Do đó, chúng ta hãy có những ước mơ lớn và hãy dành thời gian, tâm trí và sức lực để sống cho những ước mơ đó.
Đức Thánh Cha Phanxicô khuyên các bạn trẻ đừng đánh mất ước mơ của mình.[2] Hãy dám ước mơ và sống cho ước mơ của mình. Khi có những ước mơ đẹp, chúng ta sẽ không còn thời gian cho những suy nghĩ xấu. Thay vì dành thời gian chiến đấu với những điều xấu, tư tưởng xấu, ta hãy dành thời gian và năng lượng đó để ước mơ và sống cho những ước mơ của mình.
Cảm ơn bạn đã nêu câu hỏi mà hầu hết chúng ta đều vướng phải. Tư tưởng xấu không phải là một tội, nếu chúng ta chưa đồng thuận với tư tưởng đó. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là vô hại. Nó là virus, là mật ngọt chết ruồi, nên chúng ta cần để ý. Tư tưởng xấu có thể làm tổn hại đến đời sống thiêng liêng của chúng ta, làm chúng ta mất bình an và thường là một dịp dẫn đến tội. Để tránh tư tưởng xấu, chúng ta cần phải làm chủ giác quan của mình, siêng năng lãnh nhận bí tích hoà giải và sẵn sàng chia sẻ những cám dỗ với những vị hữu trách. Đồng thời, hãy dành thời gian và tâm trí để suy nghĩ về những điều tốt, về những ước mơ của mình.
Thân chào bạn!
(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 1, Nxb Tôn Giáo, 2020)
WHĐ (21.6.2021)
----------- [1] “Nullo modo sit peccatum, si non sit voluntarium.” [2] ĐTC Phanxicô gặp các bạn trẻ Bắc Macedonia, https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2019-05/dtc-gap-cac-ban-tre-bac-macedonia.html
Con có đứa bạn lấy chồng khác đạo Công Giáo. Tiếc là chồng bạn ấy không chịu theo đạo bên vợ. Trong trường hợp phép chuẩn, không biết anh ấy có được phép rước lễ không? Đâu là những điều kiện để được rước Mình Máu Thánh Chúa?
Trả lời:
Người ta thường gọi bí tích Thánh Thể là bí tích tình yêu. Chính Chúa Giêsu vì yêu mến con người và không muốn để con người côi cút một mình giữa dòng đời đầy hiểm nguy này, nên đã có sáng kiến thiết lập bí tích Thánh Thể trong đêm tiệc ly, trước khi bước vào cuộc thương khó (x.Mt 26,26-29). Bí tích Thánh Thể là diễn tả đầy đủ nhất cuộc hiến tế của Chúa Giêsu trên thập giá, khi Ngài đã tự nguyện gánh lấy mọi đau thương, trao ban sự sống và trọn vẹn chính Ngài cho nhân loại. Nơi bí tích Thánh Thể, ta nghe rõ tiếng yêu của Chúa đang thỏ thẽ với con người.
Đối với người Công Giáo, việc rước Mình Máu Thánh Chúa là điều hết sức quan trọng vì chúng ta tin rằng cùng với Lời Chúa, Mình Máu Thánh Chúa là của ăn nuôi dưỡng linh hồn, ban cho chúng ta sức mạnh thiêng liêng trên hành trình tiến về Thiên Quốc. Bí tích Thánh Thể cũng là bí tích cao trọng nhất, vượt trội hơn hẳn các bí tích khác vì với các bí tích khác, chúng ta chỉ nhận ơn lành của Chúa, còn với bí tích Thánh Thể, qua lời truyền phép của linh mục, bánh và rượu trở thành chính Chúa, và khi chúng ta rước lễ, chúng ta đón nhận chính Thiên Chúa vào trong lòng mình. Vì tính chất cao trọng như thế của bí tích Thánh Thể nên mỗi người phải có một sự chuẩn bị thích đáng mới có thể được lãnh nhận.
Người chồng không theo đạo Công Giáo, chỉ chịu phép chuẩn khi hôn phối thì có được rước lễ không?
Câu trả lời mà chúng tôi đưa ra ngay lập tức cho bạn là “không”. Việc rước Mình và Máu Thánh Chúa chỉ dành cho những người đã được rửa tội và không bị luật ngăn cấm (x. Giáo Luật (GL) 912). Như thế, vì anh ta “chưa được rửa tội” nên anh ta không được phép rước lễ. Ở đây, chúng ta gặp phải một vài vấn đề: thứ nhất, tại sao phải chịu bí tích Thanh Tẩy rồi mới được phép rước lễ; thứ hai, đâu là ý nghĩa của cái mà chúng ta gọi là “phép chuẩn” trong hôn nhân Công Giáo.
Bí tích Thanh Tẩy (quen gọi là phép rửa tội) là bí tích đầu tiên trong bảy bí tích. Nó là “cửa ngõ” đưa con người vào trong ngôi nhà Giáo Hội để thụ hưởng những ân sủng của Chúa; nhờ bí tích này, con người được giải thoát khỏi tội lỗi, được tái sinh làm con Thiên Chúa, được nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô nhờ một ấn không thể xoá nhoà và được sáp nhập vào Giáo Hội (GL 849). Thiên Chúa ban ân sủng cho con người ngang qua Giáo Hội. Các bí tích được cử hành trong Giáo Hội và qua Giáo Hội với thẩm quyền mà Thiên Chúa ban cho. Vì thế, người nào chưa trở thành con cái của Giáo Hội (nghĩa là chưa chịu Bí tích Thanh Tẩy) thì không thể lãnh nhận các bí tích khác được. Khi đã có được niềm tin qua Bí tích Thanh Tẩy nhờ quá trình chuẩn bị, người ta sẽ hiểu rõ hơn về Bánh và Rượu mà họ rước, rằng đó không còn là bánh và rượu nhưng là Mình và Máu Thánh Chúa. Ý thức được điều đó và tin chắc như vậy, người đó mới xứng đáng rước Chúa vào lòng. Nếu không, đó sẽ là một sự phạm thánh.
Trong khi đó, phép chuẩn là phép của Đấng Bản Quyền (Giám Mục Giáo Phận) chuẩn chước cho một hôn nhân khác đạo để phía Công Giáo có thể tham gia cách đầy đủ vào đời sống của Giáo Hội, và cặp đôi khác đạo này được Giáo Hội công nhận như vợ chồng. Một người theo đạo Công Giáo không được phép cưới người không Công Giáo mà không có sự chuẩn chước của Giám Mục. Nếu không, người đó sẽ phải chịu những hình phạt của Giáo Hội (x. GL 1086 và 1078). Như thế, phép chuẩn chỉ là để hợp thức hoá một hôn nhân khác đạo; một mặt, giúp cho bên Công Giáo sống đức tin của mình cách trọn vẹn; mặt khác, không cản trở họ sống đời hôn nhân với người mình yêu khi người đó vì lý do gì đấy không thể hoặc không muốn theo đạo Công Giáo.
Phép chuẩn và Bí tích Thanh Tẩy là hai vấn đề khác nhau và phép chuẩn không có tác dụng thay thế phép rửa tội. Bởi thế, dù có được phép chuẩn để kết hôn, người chưa lãnh nhận Bí tích Thanh Tẩy, do vẫn chưa thuộc về gia đình Giáo Hội, nên không được phép rước lễ. Người đó phải xin học giáo lý, chịu Bí tích Thanh Tẩy để được tái sinh trong Thánh Thần rồi mới được rước Mình và Máu Thánh Chúa.
Đâu là những điều kiện để được rước Mình Máu Thánh Chúa?
Đã đành là phải lãnh nhận Bí tích Thanh Tẩy trước khi lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa, nhưng không phải người được rửa tội nào cũng được rước lễ. Để được rước lễ, các tín hữu còn phải đáp ứng nhiều điều kiện khác nữa. Đó là lý do vì sao các em nhỏ hay các anh chị em tân tòng phải học giáo lý đầy đủ, có thể phân biệt được sự khác nhau giữa bánh rượu và Mình Máu Thánh Chúa thì mới được xưng tội và rước lễ. Như thế, khi nào chưa có được ý thức và hiểu biết đầy đủ đúng đắn về Bí tích Thánh Thể thì chưa thể rước lễ.
Ngoài ra, cũng có một số trường hợp không được phép rước lễ. Đó là “những người bị vạ tuyệt thông và những người bị cấm chế sau khi hình phạt đã được tuyên kết hay tuyên bố, cũng như những người ngoan cố sống trong tội trọng tỏ tường” (GL 915) và “người nào ý thức mình đang mắc tội trọng mà chưa nhận lãnh bí tích Sám Hối trước, trừ khi có một lý do nghiêm trọng và không có dịp để xưng tội, trong trường hợp này, người ấy phải nhớ rằng mình phải ăn năn tội cách trọn, trong đó bao gồm việc quyết tâm xưng tội sớm hết sức.” (GL 916).
Chúng ta cùng tìm hiểu ý nghĩa của những quy định trên:
Những người bị vạ tuyệt thông là những người cắt đứt mối liên kết với Giáo Hội do vi phạm một tội nghiêm trọng theo luật định. Sự cắt đứt này làm cho người đó không được thừa hưởng ân sủng nào từ Giáo Hội. Vì thế, họ cũng không được phép rước lễ. Ngoài ra, có một số người do vi phạm điều cấm kỵ nào đó của Giáo Hội cũng bị phạt, không cho phép rước lễ.
Dĩ nhiên, không thể rước Mình Máu Thánh Chúa khi tâm hồn còn vướng bận bởi tội trọng. Tội trọng cắt đứt tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa. Khi người ta tỏ tường và cố ý phạm tội trọng, người ta từ chối ân nghĩa với Chúa, đi theo con đường chống lại Thiên Chúa. Khi đã phạm tội nghịch lại Thiên Chúa một cách ý thức đầy đủ, thì cũng không thể rước Chúa vào lòng được. Phạm tội và rước Chúa rõ ràng là hai hành vi hoàn toàn mâu thuẫn nhau. “Những người ngoan cố sống trong tội tỏ tường” thường là những người sống trong tình trạng rối của hôn nhân, bỏ bê đạo nghĩa, không dự lễ, không lãnh nhận các bí tích, đặc biệt là bí tích Hoà Giải… Để được rước lễ, người phạm tội trọng phải tỏ lòng sám hối, quyết tâm từ bỏ con đường tội lỗi và phải đi xưng tội để được hoà giải với Thiên Chúa và Giáo Hội.
Tuy nhiên, trong trường hợp người nào đó phạm tội trọng muốn lãnh nhận bí tích Hoà Giải để có thể được rước lễ nhưng lại không có linh mục ở đó hoặc vì thời gian gấp rút không kịp xưng tội (chẳng hạn, đã đến giờ cử hành thánh lễ) thì ngoại trừ trường hợp bị vạ tuyệt thông, bị cấm chế, bị hình phạt, bị rối, Giáo Hội cho phép người đó có thể đi rước lễ với điều kiện họ phải “ăn năn tội cách trọn” và hứa sẽ đi xưng tội ngay sau đó sớm nhất có thể.
Bên cạnh đó, Giáo Hội cũng không quên nhắc nhở con cái mình về bí tích cực trọng mà họ sắp lãnh nhận. Để xứng đáng đón rước Chúa, ngoài việc sạch tội trọng, Kitô hữu phải có sự chuẩn bị thích hợp để tỏ bày lòng khao khát và ước muốn lãnh nhận Mình Máu Thánh. Đó là, họ “phải kiêng mọi thức ăn, thức uống, chỉ trừ nước lã và thuốc chữa bệnh, ít là khoảng một giờ trước khi rước lễ” (GL 919, §1), ngoại trừ trường hợp “tư tế cử hành Thánh Lễ hai hoặc ba lần trong cùng một ngày có thể ăn uống chút ít trước khi cử hành Thánh Lễ lần thứ hai hay lần thứ ba, dẫu không cách quãng tới một giờ” (GL 919, §2) và “những người cao niên và bệnh tật, cũng như những người chăm sóc họ” (GL 919, §3).
Như thế, trước khi rước lễ khoảng một giờ, chúng ta phải kiêng ăn các loại thức ăn và các loại nước uống, ngoại trừ nước lã. Được phép uống nước lã vì nó không gợi lên sự thèm thuồng, khoái cảm giác quan và vì nó cần thiết cho sự tồn tại của con người. Thuốc chữa bệnh cũng không được xem là thức ăn hay thức uống vì nó là yếu tố giúp phục hồi sức khoẻ cho bệnh nhân. Vì thế, ai có nhu cầu cần uống thuốc và nước lã, có thể dùng vì sức khoẻ của bản thân mình. Cũng vì lý do tương tự như thế, những người cao niên, bệnh tật và những người chăm sóc họ cũng được miễn trừ luật giữ chay một tiếng trước khi rước lễ.
Vì nhu cầu mục vụ, các linh mục phải dâng nhiều thánh lễ trong cùng một ngày và có khi, các thánh lễ ấy gần nhau về mặt thời gian. Để các linh mục không bị kiệt sức, Giáo Hội cho phép họ có thể “ăn uống một chút” trước khi cử hành các thánh lễ sau, ngay cả khi không cách quãng một giờ. “Ăn uống một chút” có hàm ý nói đến việc “ăn lót dạ” để không quá đói và mệt, chứ không phải ăn uống thịnh soạn, linh đình.
Cuối cùng, là mẹ các tín hữu nên Giáo Hội dành rất nhiều sự quan tâm cho những người đang rơi vào tình trạng “lâm tử”. Cứ sự thường, để có thể rước lễ, một Kitô hữu phải học giáo lý đầy đủ, trải qua những kỳ kiểm tra, và thường là phải đạt đến một độ tuổi nhất định nào đấy. Nhưng nếu một em nhỏ đã rửa tội, dù chưa hoàn thành các chương trình giáo lý đòi hỏi, nhưng đã có thể phân biệt được Mình và Máu Thánh Chúa với của ăn thường, khao khát và cung kính rước Chúa, đang trong tình trạng nguy tử, thì có thể được rước lễ (x. GL 913 §2). Riêng đối với “các Kitô hữu lâm cơn nguy tử vì bất cứ lý do nào, phải được rước lễ như của ăn đàng”. Những người Kitô hữu trong cơn lâm tử, có thể rước lễ nhiều lần trong ngày và có thể rước lễ nhiều lần trong những ngày khác nhau, bao lâu cơn nguy tử còn kéo dài. (x.GL 921).
Hy vọng một vài giải thích ngắn gọn ở trên giúp bạn hiểu hơn về việc rước lễ trong Giáo Hội của chúng ta.
(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 1, Nxb Tôn Giáo, 2020)
Hồi nhỏ con nghe chúng bạn nói ngoài nghĩa địa thường có bóng ma. Nhất là rằm tháng Bảy hoặc lúc trăng sáng, nhiều hồn ma hiện về. Là người công giáo, con vẫn thắc mắc không biết hiện tượng ấy có thật không? Có hồn ma không?
Trả lời:
Bạn thân mến,
Hồi nhỏ thế hệ 8x, 9x, chúng tôi đôi lần thử những trò chơi liên quan đến ma quỷ: ma lon, chơi trốn tìm nhưng bị ma dấu, gọi hồn...Dĩ nhiên tụi nhỏ chúng tôi luôn sợ hãi những câu chuyện về bóng ma, nhưng đứa nào cũng tò mò thích chơi, thích nghe và thích thử tìm hiểu về những chuyện ly kỳ này. Thời đó, tôi còn nhớ nhiều bạn kể rằng đã gặp bóng ma ngoài nghĩa trang. Nhiều luồng sáng xuất hiện ngoài đó, thi thoảng còn thấy người mặc áo trắng lượn lờ. Nhất là nhiều người thế hệ trước kể về những chuyện rùng rợn liên quan đến người bị sét đánh, nếu không canh chừng mộ của họ, người khác sẽ lấy tay của người chết để đi ăn cắp.
Tôi không biết đó có phải là những câu chuyện có thật không, nhưng rõ ràng đó là những hiện tượng được đồn thổi râm ran. Nhất là những chuyện ma quỷ, những ngày trăng rằm, và nhất là tháng cô hồn, những câu chuyện ấy lại càng được thổi phồng nhiều hơn. Thời học sinh, sinh viên, nhiều đứa bạn sợ run khi nghe chuyện ma của Nguyễn Ngọc Ngạn. Tất cả những tình tiết ấy khiến chúng tôi nửa tin, nửa ngờ.
Hơn nữa, nơi những nghĩa trang vùng thôn quê (nhất là ngày trước), thường không có ánh điện. Màn đêm u mờ, ảo ảnh của ánh trăng luôn gợi lên những hình ảnh rùng rợn liên quan đến hương hồn người chết hoặc ma quỷ hiện ra. Ngược lại, ngày nay nơi nhiều nghĩa địa, nhất là giữa chốn thị thành luôn có ánh sáng, cảm giác rùng rợn ấy cũng phần nào giảm dần. Tuy vậy, những câu chuyện về thế giới bên kia luôn khiến con người thắc mắc, tò mò và đặt nghi vấn.
1. Thân xác và linh hồn
Trong câu hỏi của bạn, nghĩa trang dĩ nhiên là nơi của người chết. Theo niềm tin của nhiều tôn giáo, Công Giáo cũng thế, con người là sự kết hợp tổng hòa giữa hồn (soul) và xác (body). Thân xác được cấu tạo từ những tế bào, những nguyên tố hóa học hữu cơ và vô cơ. Nếu chiếu về lúc Thiên Chúa sáng tạo con người, thì Ngài lấy đất nặn lên hình hài con người. Sau đó, ngài thổi hơi để trao ban sự sống cho con người[1]. Đó là linh hồn. Đạo Công Giáo tin rằng linh hồn bất tử, vì linh hồn làm cho con người là hình ảnh của Thiên Chúa (St 2,7 và Mt 10,28). Khi chết, linh hồn lìa thân xác để đến trước tòa Thiên Chúa chịu phán xét. Linh hồn có thể được lên Thiên Đàng, hoặc phải vào Luyện Ngục để chịu thanh luyện. Tình trạng tồi tệ nhất là linh hồn phải xa Hỏa Ngục đời đời. Như thế, Công Giáo không tin sau khi chết, linh hồn bình thường có thể trở về trần gian, và cũng không có chuyện gọi hồn người chết trở về. Tôi nói bình thường, vì thực tế có những hiện tượng ma nhập, quỷ nhập vào người sống. Chúng ta sẽ bàn sau.
Như vậy, ngoài nghĩa trang là những nấm mồ chôn cất thân xác người đã chết. Ngày nay nhiều thi thể được thiêu lấy tro. Hài cốt thường được giữ trong nhà thờ hoặc nơi xứng đáng. Chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho linh hồn của họ. Đến ngày tận thế, Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta biết thân xác ấy sẽ sống lại để hòa làm một với linh hồn, và chịu phán xét ngày cánh chung.
Như thế, thân xác là tạm bợ. Ngày chết của thân xác là chân lý hiển nhiên. Về phần linh hồn, từ thời xa xưa, các triết gia Hy Lạp như Socrates, Plato và Aristotle luôn tin rằng linh hồn bất tử. Về sau, Giáo Hội Công Giáo cũng tin rằng linh hồn thuộc thế giới thiêng liêng, nên cũng bất tử. Hơn nữa, chúng ta cũng đọc thấy điều này khi Đức Giêsu trên thập giá nói với anh trộm lành: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” (Lc 23,43). Tuy nhiên, Kinh Thánh lại không nói minh nhiên về linh hồn bất tử, nhưng chỉ đề cập tới việc hy vọng vào sự sống lại mà thôi.
Vì không có hình hài, nên linh hồn “là nguyên lý linh thiêng của sự sống, và là cái sâu thẳm nhất trong con người. Linh hồn làm cho thể xác vật chất trở nên thân xác sống động của con người.” (Youcat số 62). Khi rời thân xác, nguyên lý ấy vẫn tồn tại. Có thể từ điểm này mà biết bao chuyện ma quỷ, hồn vía được đồn thổi trong những câu chuyện ma quỷ của dân gian!
2. Có bóng ma không?
Một hiện tượng mà ngành phân tâm học và tâm lý cũng chân nhận là: nhiều người nằm mơ thấy ma quỷ. Ma nhập, ma đè, ma quấy cũng là hiện tượng có thật ngay trong lòng Giáo Hội Công Giáo. Bởi đó, trong Giáo Hội thường có những người được đặc cách để trừ tà. Giáo Luật quy định tại điều 1172:
§1. Không ai có thể trừ tà cách hợp pháp cho những người bị quỷ ám, trừ khi có phép đặc biệt và minh nhiên của Đấng Bản Quyền địa phương.
§2. Đấng Bản Quyền địa phương chỉ ban phép trừ tà cho một linh mục đạo đức, sáng suốt, khôn ngoan và có đời sống vẹn toàn.
Đây đó chúng ta nghe hoặc chứng kiến hiện tượng người này bị ma nhập, người kia bị quỷ ám[2]... Theo quan điểm Kitô giáo, tuy linh hồn là giống thiêng liêng, nhưng sau khi chết, linh hồn ấy cũng không được phép nhập vào người sống. Vì linh hồn ấy vẫn là của con người, chứ không phải là của thần linh.
Trong hiện tượng trên, Giáo Hội tin rằng đó là sự quấy phá của ma quỷ, của thần dữ. Trong Tin Mừng, nhiều lần chính Đức Giêsu cũng trừ tà, buộc quỷ ám phải ra khỏi thân xác con người[3]. Hơn nữa, Ngài còn cho thấy chúng rất dữ tợn, đông đúc và luôn hãm hại con người. (x. Mt 8,28–34). Hiện tượng ma quỷ nhập vào người cũng là điều đáng quan tâm, nhưng bạn hỏi không có ý nói đến những điều này, nên chúng ta không bàn thêm.
Có bóng ma, linh hồn người chết trở về không?
Trước khi trả lời câu này, chúng ta phân biệt một vài thuật ngữ liên quan đến thế giới bên kia:
Quỷ xuất phát từ tiếng Hán Gwei (鬼), dùng để gọi linh hồn của những người đã chết. Theo quan điểm của người phương Đông, sau khi chết đi, linh hồn của con người sẽ đầu thai chuyển thế vào kiếp khác. Nhưng vì một lý do nào đó, linh hồn không thể đầu thai mà vẫn lưu lại trên thế giới vật chất thì được gọi là quỷ[4]. “Quỷ là hóa thân của ma” (Đạo Cao Đài). “Quỷ (devil) là các thiên thần lạc lối” (Do Thái Giáo). Theo truyền thống Công Giáo coi ma quỷ là một thiên thần sa ngã (quỷ vương Lucife). Ma quỷ luôn tìm cách cám dỗ, dẫn con người đến chỗ bất tuân Thiên Chúa (GLHTCG 391–394). Ma quỷ còn được gọi là tên Ác thần, hiện thân của sự dữ. Con người có thể chiến thắng Ác Thần bằng cầu nguyện nhờ ân sủng của Chúa Kitô. (GLHTCG 254).
Như vậy, nếu hiểu “hồn ma” là linh hồn của người đã chết, thì linh hồn ấy dĩ nhiên là có thật. Đó là xác tín và cũng là mục đích tồn tại của Giáo hội, nhằm cứu lấy các linh hồn, đem họ trở về với Thiên Chúa. Còn về chuyện linh hồn ấy có trở về dương thế không, theo Giáo Lý Công Giáo dạy rằng:
“Ngay khi lìa khỏi xác, linh hồn bất tử sẽ chịu phán xét riêng để được thưởng hay bị phạt đời đời; tùy theo đời sống của mình trong tương quan với Đức Kitô, linh hồn hoặc phải trải qua một cuộc thanh luyện, hoặc được hưởng phúc trên trời, hoặc sa địa ngục vĩnh viễn.” (số 1022).
Tuy nhiên, lịch sử cũng cho thấy những hiện tượng linh hồn người chết trở về mà chúng ta gọi nôm na là hồn ma. Chẳng hạn, một câu chuyện đáng tin mà chính thánh Gioan Boscô (1815–1888), kể trong hồi ký của ngài.
Trong những tháng đầu tiên của năm học thần học (1838), có lần thánh Gioan Boscô cùng với người bạn thân là Lu–y Comollo đọc mẩu chuyện về cuộc đời của vị thánh nọ. Sau đó, Gioan bình luận rằng: “Thật là đẹp nếu một trong hai người chúng ta, ai chết trước, và nếu Thiên Chúa cho phép thì sẽ về báo cho người kia những tin tức về cõi đời sau. Họ đã bắt tay giao kèo với nhau. Sau đó mấy tháng, cơn sốt cao đã khiến Comollo qua đời ngày 2 tháng Tư năm 1839. Trước khi mất, Comollo đã siết chặt tay người bạn thân của mình là thánh Gioan Boscô. Vào đêm sau khi an táng người bạn thân 22 tuổi, chính Gioan và 20 chủng sinh khác chứng kiến một hiện tượng lạ lùng. Gioan viết chi tiết trong hồi ký:
“Chiều hôm đó, cha đã lên giường trong một nhà ngủ dành cho 20 chủng sinh, và cha rất bồn chồn, tin chắc rằng đêm đó lời hứa sẽ được thực hiện. Vào lúc 11 giờ 30, một tiếng ồn sâu lắng nghe vang lên ở các hành lang. Nó giống như một toa xe lớn được kéo bởi nhiều con ngựa đang tiến dần đến cửa nhà ngủ. Nó càng lúc càng vang lên ghê sợ tựa tiếng sấm, khiến cả nhà ngủ rung lên. Các thầy chủng sinh khiếp hãi chạy trốn khỏi giường để qui tụ lại với nhau, tạo cho nhau được thêm can đảm. Chính lúc đó, và giữa cái thứ sấm gầm sâu lắng và hãi hùng đó, cha nghe rõ ràng tiếng của Comollo ba lần vang lên: Bosco, Bosco, Bosco mình đã được cứu rỗi! Tất cả nghe thấy tiếng ồn, có một số nghe thấy tiếng là không hiểu ý nghĩa; tuy nhiên một số bạn khác đã hiểu y như cha. Bằng chứng là trong cả một thời gian lâu dài về sau lời ấy vẫn được nhắc lại trong chủng viện. Đó là lần đầu tiên như cha nhớ là cha đã thực sự sợ hãi: Cha sợ hãi khủng khiếp đến nỗi rơi vào một cơn bệnh nặng, gần như đã ở bên bờ mộ rồi.”[5]
Thánh Gioan kết thúc chương hồi ký của mình: “Lần Lu–y hiện ra này được kể lại nhiều lần cho các bề trên của Nguyện Xá”.
Trong câu chuyện trên, tại sao linh hồn lại “được phép” trở về dương thế? Thánh Augustinô đơn giản trả lời: “Qua mệnh lệnh bí ẩn của Thiên Chúa”. Điều đó chỉ xảy ra với sự cho phép và qua quyền năng của Thiên Chúa, với mục đích nào đó. Tuy nhiên, “những lần cho phép”[6] ấy không nhiều.
Như vậy, bóng ma của người quá cố nơi nghĩa trang mà nhiều người đồn thổi dường như không đến từ niềm tin của Công Giáo. Ngược lại, từ truyền thống tâm linh dân gian và có thể là từ vài niềm tin tôn giáo khác, nghĩa trang là nơi linh hồn người chết hay hiện về. Nhất là những đêm trăng rằm (trăng biểu hiện cho thế giới âm linh[7]), hoặc rằm tháng Bảy[8], nhiều người vẫn tin rằng vong linh người chết lượn lờ trên dương thế. Dù đúng, dù sai, tâm thức ấy thường lôi cuốn nhiều người và biết bao câu chuyện về thế giới hồn ma ấy được thêu dệt trong đời sống của chúng ta. Dĩ nhiên là người Công Giáo, nhiều người cũng bị ảnh hưởng và hiếu kỳ về niềm tin dân gian ấy.
3. Hãy chăm sóc linh hồn
Với vài chia sẻ trên đây, người viết không có ý đi vào thế giới huyền bí và mang màu sắc mê tín dị đoan. Tuy nhiên, trước câu hỏi của bạn, và trước hiện tượng về thế giới linh hồn, ma quỷ, mỗi người chúng ta ý thức về cuộc sống đời sau. Trong thế giới người vô thần, họ gạt bỏ tất cả những gì liên quan đến Thượng Đế, đến đời sau và không cần chăm sóc linh hồn mình. Ngược lại, tôn giáo chỉ cho người ta những con đường để linh hồn con người được bình an, được hạnh phúc đời sau. Do đó, ngay ở đời này ước chi người Công Giáo để tâm chăm sóc cho linh hồn của mình.
Là người Công Giáo, chúng ta tin rằng thân xác và linh hồn luôn là món quà của Thiên Chúa. Chính Đấng Tạo Hóa đã dựng nên con người. Ngài cho mỗi người có linh hồn để sống, có lý trí để nhận biết Thiên Chúa, và có quả tim để yêu mến Ngài. Trên hành trình ấy, tiếc là con người thường bị tên Ác Thần cám dỗ. Có khi nó lôi kéo con người vào những con đường mê tín, khiến con người không tin vào Thiên Chúa.
Là người con của Chúa, dĩ nhiên chúng ta được mời gọi không tin vào những trò lừa bịp của Ma quỷ. Chúng ta cũng không nên liều lĩnh chế nhạo, hoặc đi vào thế giới của Ma quỷ, vì chúng xảo quyệt và thông minh hơn con người. Ngoài ra, chúng ta cũng ý thức sự hiện hữu của Sự Dữ. Chúng không phải là một điều trừu tượng, nhưng là một “nhân vật”, là Satan, Ác thần, là thiên thần đã chống lại Thiên Chúa. Trong tiếng Hy Lạp Satan: Diabolos (διάβολος) có nghĩa là chia rẽ. Chúng chia rẽ con người với Thiên Chúa. Bởi đó, kẻ nào càng bắt tay cộng tác với chúng, người ấy càng xa rời Thiên Chúa.
Đừng quên Ma quỷ có thể đội lốt hồn ma, bóng vía để lợi dụng các thực hành huyền bí này hầu thao túng và áp bức người ta. Thái độ tốt nhất mà Giáo Hội Công Giáo mời gọi là: “cấm đoán bất cứ toan tính nào tìm cách liên lạc với người chết qua các phương tiện như chiêm tinh, cầu cơ, lên đồng, v.v.. Lý do thì hiển nhiên: những toan tính như thế để “gọi hồn người chết… che giấu ước muốn có quyền năng… cũng như ao ước muốn liên kết với các thế lực huyền bí.” (GLHTCG, số 2116).
Hãy chạy đến với Thiên Chúa, với Đức Maria và các thánh để được trợ giúp. Trong bầu không khí thánh thiện ấy, chúng ta hy vọng có đủ sức mạnh để lướt thắng những cơn cám dỗ của đời thường. Thay vì tò mò, thử thách và đi vào thế giới hồn ma ấy, chúng ta hãy chăm sóc linh hồn mình với phương thế: thánh lễ, cầu nguyện, hãm mình đền tội, làm việc bác ái và sống tín thác vào Thiên Chúa. Ngoài ra, nghĩa trang cũng là mảnh đất để ta nhớ về những linh hồn đã khuất. Tạ ơn Thiên Chúa vì những linh hồn đã được hạnh phúc trong Nước Thiên Đàng. Van xin Thiên Chúa cho những linh hồn đang còn chịu nhiều đau khổ trong chốn Luyện Ngục. Trong tâm thế ấy, nghĩa trang là đất thánh thiêng, nơi thân xác con người trở về với bụi đất để chờ ngày Thiên Chúa đến lần thứ hai.
Thay lời kết
Hy vọng chút chia sẻ trên đây trả lời được phần nào câu hỏi của bạn. Chắc chắn đó là chủ đề quan trọng và rộng lớn. Quan trọng vì linh hồn luôn gắn liền với từng người, là phần sức sống của con người. Hồn an xác mạnh ai cũng để tâm. Rộng lớn vì khi trả lời có bóng ma hay không, nó liên quan đến nhiều tôn giáo, thuật ngữ và cả những truyền thống niềm tin dân gian. Rất may bạn đã giới hạn đề tài trong khuôn khổ niềm tin Công Giáo. Do đó, với chút chỉ dẫn của Giáo Hội Công Giáo, hy vọng câu trả lời sáng lên hơn. Để từ đó, chúng ta biết mình tin vào Ai và những điều Thiên Chúa tỏ lộ nhằm chỉ với một mục đích là để cứu độ con người: cả linh hồn và thân xác.
Xin Chúa chúc lành cho bạn. Chúng ta cũng không quên cầu nguyện cho các linh hồn nơi Luyện Ngục. Họ là những người thân yêu của chúng ta. Với lời nguyện cầu của người sống, các linh hồn ấy sẽ được Thiên Chúa đoái thương đưa về Thiên Đàng, nơi hạnh phúc tràn đầy.
(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 1, Nxb Tôn Giáo, 2020)
WHĐ (07.6.2021)
-------------- [1] Trong tiếng Latin anima là linh hồn, là sinh khí; vì thế, chúng ta có thể nói rằng linh hồn tạo sinh khí cho thể xác, làm thể xác sinh động. [2] Nguyễn Tầm Thường, SJ, Đi Tìm Kẻ Trừ Tà. [3] Chẳng hạn, Ðức Giêsu trừ một tên quỷ câm (Lc 11,14–23); lần khác, Ðức Giêsu quát mắng tên quỷ ô uế và chữa lành cho bé trai (Lc 9,37–43); Ngài trừ nhiều quỷ (Mc 1,32–34). [4] Xem thêm: vi.wikipedia.org [5] Teresio Bosco, SDB, Don Bosco, Một Tiểu Sử Mới, dịch giả: Đaminh Phạm Xuân Uyển, SDB, tr. 137-139. [6] Chúng ta cũng đọc thấy điều này trong Tin Mừng Thánh Luca (Lc 16,19-31). Sau khi ông nhà giàu chết và bị đày xuống âm phủ, ông van xin tổ phụ Abraham sai anh La-da-rô (người đã chết), về dương thế để cảnh cáo anh em ông nhà giàu còn trên dương gian. Tuy nhiên, Abraham không đồng ý. [7] Xem thêm: https://vnexpress.net/khoa-hoc/trang-ram-gay-hiem-hoa-2089100.html [8] Theo quan niệm ở một số quốc gia Châu Á, Việt Nam cũng vậy, người ta phải cúng cô hồn trong rằm tháng Bảy (Tết Trung nguyên) do người ta tin rằng, trong suốt tháng 7 và đặc biệt vào ngày Rằm tháng 7, những linh hồn từ dưới âm phủ, gồm cả linh hồn của tổ tiên và những cô hồn phiêu dạt sẽ từ dưới địa phủ quay về dương thế. (xem thêm: vi.wikipedia.org)
Cách để tìm được bình an, giữ cân bằng tinh thần trong giai đoạn khủng hoảng tuổi Teen?
Trả lời:
Chào bạn,
Chúng tôi cảm ơn câu hỏi rất thời sự và cần thiết của bạn. Thời sự vì khủng hoảng[1] tuổi teen thường xảy ra cho mỗi người. Để tìm được bình an và vượt qua khủng hoảng cũng là điều cần thiết cho mỗi người. Sau đây tôi xin kể cho bạn một câu chuyện rất thật. Từ đó, hy vọng chúng ta thấy vài cách người trong cuộc dưới đây tìm được bình an trong khủng hoảng.
Em chủ động tìm đến tôi trong giờ giải lao của lớp học. Em hơi rụt rè, bối rối khác hẳn với nét thanh tú, cá tính bên ngoài của em. Trong em chất chứa một nỗi niềm sâu thẳm mà khó ai có thể chạm vào được.
Thu Minh là tên của em trong tổng số 11 học viên lớp tiếng Anh trong đó có tôi. Lớp học ca tối (19g – 21g) nên đa phần là sinh viên, hay công chức, em là sinh viên mới tốt nghiệp đại học, trong lúc chờ việc làm em đến với lớp học. Không gian phòng học được sắp xếp theo hình oval để thuận lợi cho giao tiếp. Tôi ngồi đối diện em, nên từ ngày bước vào lớp học, tôi nhận ra em là người có chiều cao nhất lớp, vầng trán cao, mái tóc nâu đen tự nhiên tém nhẹ nhìn em hơi nam tính trong chiếc quần jean bụi. Tôi nhìn bề ngoài em cảm thấy hay hay. Em có nụ cười duyên, chiếc răng khểnh mọc đúng chỗ lại làm em càng đáng yêu và thu hút người khác. Tôi thầm nghĩ: “Em này được Chúa ban vẻ bên ngoài toàn vẹn”.
Em hỏi tôi: “Sao em nhìn chị vui vẻ, an yên và thanh thoát quá...?” Tôi mỉm cười với nụ cười thường ngày vẫn chào em. Tôi trở thành người bạn tương giao của em qua những giờ giải lao của lớp học. “Hôm nào em ghé thăm nhà chị được không?” Tôi nói em chờ tôi xin phép chị em ở cùng nhà, em vui vẻ chờ đợi tôi hồi đáp.
Sài Gòn sáng - trưa - chiều luôn thường trực cái nắng hanh khô phủ kín bầu trời. Mấy hôm nay nghe đài báo tia UV[2] cao mức báo động, nên phải cẩn thận khi ra đường. Cực chẳng đã người ta mới ra ngoài trong khí trời oi bức, nóng ran này. Em đến thăm tôi vào những ngày “cháy nắng đỏ da” của Sài gòn. Em phải mất hai chuyến xe bus để đến nhà tôi. Trời nắng như thiêu như đốt nhưng nhìn em chẳng có gì mệt mỏi. Tôi đón em ở trạm xe bus gần nhà, khuôn mặt em rạng rỡ khi nhìn thấy tôi. Em háo hức đến thăm nhà chị em tôi, khám phá nơi ở của những “bà sơ” bên đạo Thiên Chúa. Trước khi vào nhà, tôi giới thiệu em tượng đài Đức Mẹ Cô Đơn ở gần nhà. Tôi giới thiệu em cho Đức Mẹ.
Đức Mẹ Cô Đơn nằm trên đường Tô Ngọc Vân, Q 12. Mỗi ngày có hằng trăm người tìm đến bên Mẹ ở đây, họ đến không kể sớm khuya, cũng chẳng phân biệt tôn giáo. Họ đến bên Mẹ, bám víu Mẹ như một chiếc phao cứu sinh giữa sóng gió cuộc đời. Chiếc phao Maria đã cứu giúp biết bao tâm hồn, hoàn cảnh tưởng chừng như vô vọng, lạc bước... Bằng chứng là người ta vẫn đến đây tạ ơn, xin khấn... những tấm bảng tạ ơn tri ân Mẹ mỗi ngày một nhiều, phủ đầy những bức vách của đài. Với nhiều người tìm đến bên Mẹ, sự bình an, thanh thản Mẹ ban cho gia đình trong kiếp sống nhân sinh đã là đủ phép lạ, chứ không cần phải trúng số hay bán đắt mua hên...
Đứng dưới chân Đức Mẹ, em nhắm nghiền đôi mắt, hai bàn tay đan vào nhau, cung kính để trước ngực trong niềm thành kính cậy trông. Em thinh lặng thành khẩn một điều gì đó như những người vẫn tìm đến bên Mẹ. Phải chăng đó cũng là cách mà nhiều người khi gặp khó khăn khủng hoảng cũng chạy đến với Đức Mẹ, với Thiên Chúa để thinh lặng nguyện cầu nghe tiếng Chúa nói trong sâu thẳm của cõi lòng. Lúc ấy, tôi chợt nhớ đến một nghiên cứu tâm lý cũng khá thú vị: khi người ta gặp khủng hoảng thì cầu nguyện và niềm tin tôn giáo cũng giúp người gặp khủng hoảng được an tĩnh... Dĩ nhiên, là người tin theo Chúa, chúng ta tin rằng chính Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn thử thách của cuộc đời. Đức tin thực sự là cần thiết trong cuộc sống của mỗi người. Tôi nhớ Đức Thánh Cha Phanxicô Ngài nói với chúng ta:
“Khi thấy mình đang phải nhìn chằm chằm vào hố thẳm của một cám dỗ đáng sợ, hoặc cảm thấy chóng mặt bên cạnh bờ vực của tuyệt vọng, hoặc thấy mình hoàn toàn cô đơn và bị bỏ rơi. Chính là trong những hoàn cảnh như vậy, ta mới tìm được động lực sâu xa nhất để dấn thân sống trọn vẹn cho những bổn phận của mình. Trong thinh lặng, cô tịch của nội tâm... ta mới nghe được tiếng nói của Thiên Chúa bộc bạch với mỗi chúng ta.”[3]
Với em, tôi chỉ mong em được an yên giữa cuộc đời, vì vốn dĩ cuộc sống này có quá nhiều vấn đề đè nặng trên đôi vai của mỗi người. Em bình an, em vui sống trọn vẹn cuộc sống của chính em đã làm tôi cảm thấy an tâm.
Ngôi nhà của chúng tôi nằm trong một ngõ cụt nên khá yên tĩnh. Em khá bất ngờ trước không gian của nhà chúng tôi. Vì lọt thỏm giữa thành phố xa hoa và đầy xô bồ lại có một nơi dễ thương đến lạ, dễ khiến người ta liên tưởng đến căn nhà nhỏ xinh tại một thảo nguyên nào đó có đủ hoa lá và rau xanh... Chị em chúng tôi đón tiếp em nồng ấm như người nhà của tôi vậy. Trong cái nắng chiều còn vương chút hanh khô, không gian ghế đá gốc me già đủ để em bộc bạch nỗi niềm sâu kín trong lòng.
Mắt em bắt đầu ươn ướt ửng đỏ, hai dòng lệ lăn dài trên má...“Em căng thẳng quá chị ah”, “Em đã chuẩn bị kết liễu đời mình bằng một sợi dây... nhưng trong khoảnh khắc đời mình em đã thoát chết”. Em kể cho tôi nghe những khó khăn em đang trải qua, khoảng cách sống chết mong manh phận người...
Sau khi tốt nghiệp đại học, em may mắn xin được công việc thực tập trong một tập đoàn lớn với mức lương khá cao. Do vị trí này đang cần gấp nên dù chuyên ngành của em không phù hợp và kinh nghiệm không có, nhưng em vẫn được nhận làm nhân viên chính thức. Sau 8 tháng làm việc, vì suy nghĩ bồng bột, em quyết định nghỉ việc để tìm một công việc phù hợp với chuyên ngành của mình. Dù mọi người ngăn cản, em vẫn giữ nguyên lập trường. Em nấc lên nghẹn ngào:
– Đó là nguyên nhân dẫn đến sự trượt dài trong cuộc sống của em.
Hai – ba tuần đầu nghỉ việc, em vui vẻ tận hưởng thời gian nghỉ ngơi vì em tự tin “rồi mình sẽ lại tìm được công việc phù hợp”. Rồi hai – ba tháng trôi qua, em bắt đầu thấy lo vì mình chưa biết sẽ làm gì sắp tới. Trong lo lắng phập phồng, em nghe ngóng đứa bạn này đang được thăng chức, người bạn kia sắp lập gia đình với người chồng giàu sụ, bạn H vừa tậu con xe mới coóng... Còn ba mẹ em nơi quê nhà vẫn “bán mặt cho đất bán lưng cho trời” để kiếm kế sinh nhai...Em cảm nhận sự bấn loạn trong con người mình trước hằng hà những âu lo.
Em bắt đầu hoang mang, buồn bã. Nhiều CV[4] của em gửi đi vào những công việc mà em mong muốn. Nhưng không hề có phản hồi, dù em thật sự tự tin với những vị trí mà mình ứng tuyển. Em bắt đầu tìm kiếm những công việc có mức lương thấp hơn, em đi phỏng vấn nhiều nơi và gần như không có nơi nào em cảm thấy phù hợp. Em bắt đầu sợ buổi sáng, vì cảm giác mọi người đều đang làm việc, riêng em thì đang chây lì trong góp phòng của nhà trọ. Em thấy mình ngột ngạt giữa đất Sài Thành, tráng lệ. Em lầm lì thui thủi giữa sóng gió cuộc đời như một đứa trẻ tự kỷ. Những suy nghĩ hối hận, đổ lỗi cho mình, cho mình bất tài - lười biếng, cho mình trẻ con bồng bột... xâm chiếm con người em.
Mỗi ngày em chỉ dán mắt vào máy tính tìm kiếm việc làm, rồi chờ đợi được phỏng vấn... thời gian trôi qua với em thật chậm và thật khủng khiếp. Em quyết định không ăn uống hay ăn rất ít để tự trừng phạt bản thân. Em không dám gọi về cho ba mẹ, còn chị của em bắt đầu thấy chán nản mỗi ngày trở về phòng đều thấy em ngồi đó mà không làm, không nói gì. Em không ngủ được, dù rất mệt mỏi.
Áp lực tài chính, hàng ngàn áp lực khác đè nặng con người em, em cảm thấy mình bất tài, vô dụng còn chúng bạn thì mỗi ngày một tiến xa trên con đường công danh – sự nghiệp, yêu đương. Em không còn khóc được nữa vì đã quá mệt, hay em đang rơi vào khoảng rỗng của cảm xúc vui buồn? Rồi ngày ngày trôi qua, em bắt đầu rơi vào trầm cảm, có những lúc vì quá tức giận chính mình em đã cào cấu, tự đập vào đầu để trừng phạt con người bất tài trong em.
Đỉnh điểm là em đã quyết định treo cổ tự vẫn, em viết thư để lại, bắt đầu cột dây thừng, em đứng lên ghế. Em khóc, khóc rất nhiều, vừa khóc em vừa nói lời xin lỗi ba mẹ. Khi đưa đầu vào dây, em thấy mình nghẹt thở, khuôn mặt của ba mẹ, bà ngoại, chị hai hiện lên trong tâm trí em. Họ vẫn mỉm cười trong cái nghèo khó, an lành trong cuộc sống đơn giản của gia đình. Chỉ một năm trước ba mẹ em đã rất hạnh phúc trong ngày lễ tốt nghiệp của em... Em nhớ thương hai tiếng “Gia đình”:
- Lâu lắm rồi mình chưa gọi điện về thăm ba mẹ?
- Mình có bất công với ba mẹ không?
Em chưa thể và không thể chết như vậy... Khi gần như lịm đi, Em đã bừng tỉnh. May quá, chiếc ghế bên cạnh vẫn còn, em với chân đến, đứng lên ghế, gỡ đầu mình ra khỏi sợi dây. Sợi dây tử thần đung đưa trên xà ngang như kẻ bại trận vừa lọt mất con mồi là chính em.
Tôi để em khóc như một đứa trẻ, em không cần phải gồng lên chứng tỏ mình mạnh mẽ, hãy tạm quên về lo lắng ngày mai em phải làm gì, hãy thả lỏng cảm xúc của mình... Có lẽ, bây giờ em cần lắm một bờ vai cảm thông, một con tim chỉ để nghe em tâm sự. Không gian chiều nhạt đã bắt đầu nhường chỗ cho màn đêm mờ ảo, tiếng trẻ con í ới chào ngoại đi học về xé tan không gian tĩnh mịch đang bao trùm nơi đây.
Sau ngày em đến thăm chúng tôi, tinh thần em đã khá hơn trước. Hoa quả đó tôi luôn tin là đến từ Đức Mẹ và Thiên Chúa. Tôi tạ ơn cùng với em thật nhiều. Em bắt đầu lựa chọn cho mình những hoạt động thiện nguyện thay vì chỉ nghĩ đến bản thân và chuyện đã qua. Em sắp xếp lại cuộc sống, sắp xếp không gian phòng trọ thay vì chỉ biết vùi đầu vào điện thoại, máy tính. Gần một năm đến ở khu nhà trò này, hôm nay em mới biết nhà bác Năm quê An Giang có đứa cháu bị khuyết tật đã gần 10 tuổi nhưng bé không thể tự chăm sóc cho bản thân. Mỗi lần em ghé thăm, gia đình nghèo túng của Bác Năm lại rộn rã tiếng cười, em cảm nhận một hơi ấm lan tỏa trong tâm hồn em. Một cảm giác thật lạ.
Em bắt đầu kiếm công việc part time[5] để có đồng ra đồng vào chi trả cuộc sống thay vì chờ đợi một công việc với mức lương hoành tráng. Thay vì nhốt mình trong bốn bức tường, em đã mở lòng ra với những tương giao bạn bè, lạc quan hơn trước viễn cảnh tương lai. Em đến nhà sách, tìm những quyển sách hay về triết lý cuộc sống, vượt lên số phận... để vực dậy tinh thần mình, cũng như tìm cho mình một con đường mới. Tôi khuyến khích em viết tự truyện gởi cho báo Tuổi Trẻ về khoảnh khắc thay đổi cuộc đời, gởi gắm những thông điệp cuộc sống cho những người cùng cảnh ngộ. Bài viết của em được đăng trên một số báo của ngày Chúa Nhật. Em mừng hớn hở báo cho tôi biết tin về bài viết được đăng và hẹn hôm nào chúng tôi gặp nhau để chia vui về bài viết này, dù số tiền nhuận bút chẳng là bao. Em tâm sự, nghĩ đến ân tình với ba mẹ, bà ngoại, những người thân trong gia đình... em thấy mình nhói tim, “suýt nữa thì đầu bạc đưa tiễn đầu xanh về nguồn”.
Em phải sống tốt hơn, mạnh mẽ thực sự trước nghịch cảnh. Em nói với tôi, từ cõi chết sống lại em ngộ ra nhiều điều: “Em sẽ không cho phép mình ngã lòng vì thất bại, con đường ở phía trước còn rất rộng đang chờ đợi em...” Trên facebook, em tự đặt câu hỏi: “công danh – sự nghiệp – tiền tài đã cho ta đủ hạnh phúc chưa?” đính kèm là tấm hình của một bà cụ già nua với nụ cười tươi sáng bên gánh rau đủ loại trong khí trời nhòe sương. Tôi mừng vì thấy sức sống mới đang trỗi dậy nơi em, tôi cảm nhận mình có thể buông tay em, để cho em bước tiếp hành trình của mình. Em đã có thể lựa chọn cho mình một lối sống tích cực trước khó khăn của nghịch cảnh, lựa chọn một cái nhìn lạc quan trước những điều khó lý giải của cuộc sống, chọn cho mình một con đường sáng trong cái bộn bề lo toan của kiếp nhân sinh.
Nghĩ về em, tôi nghĩ đến sự sống và cái chết nơi phận người. Theo lẽ thường sống – chết của con người đúng là không ai biết được ngày giờ, còn định cho mình một cái chết thì đó là hoàn toàn sai. Vì cuộc sống này là của Thiên Chúa ban tặng, chỉ có Ngài mới có quyền định đoạt sống – chết cho mỗi chúng ta. Nếu em tự kết liễu đời mình, cuộc đời em chấm dứt ở đây, nhưng em thử hình dung ba mẹ em sẽ ra sao? Có lẽ nỗi đau của em để lại sẽ làm hai Đấng sinh thành em dằn vặt suốt đời. Mộ em xanh cỏ, còn cha mẹ em ngày một héo hắt với nỗi đau mất con. Cuộc sống vẫn cứ tiếp diễn nhưng thiếu đi một người là chính em. Hành trình này bị khuyết đi một chỗ vì em đã không còn. Cũng mừng em đã có khoảnh khắc dừng lại, khoảnh khắc thay đổi cuộc đời mình, để ý định điên rồ kia lọt thỏm vào dĩ vãng.
Em tiếp tục sống để khám phá con người mình, khám phá cuộc sống có bao điều tốt đẹp đang chờ đợi em, chờ đợi những người em thân quen, trong đó có tôi. Hôm nay, tôi buông tay em ra để em đi bằng đôi chân của chính mình, như em buông sợi dây để em không ràng buộc mình với cái chết. Mỗi ngày em chọn cho mình một lẽ sống đáng để sống. Em đang chọn con đường hạnh phúc của riêng mình giữa những ảo ảnh của hạnh phúc. Tôi mừng cho em và tôi mong em vững vàng sống... người em của tôi.
...........
Câu chuyện trên đây quả là có cái kết hạnh phúc. Qua đó, chúng ta thấy vài cách để tìm được bình an, giữ cân bằng tinh thần trong giai đoạn khủng hoảng tuổi Teen:
- Tìm đến người mình tin tưởng để sẻ chia.
- Thay vì nghĩ tiêu cực, hãy lạc quan tích cực đừng hồi tưởng chuyện đã qua...Hãy sống hiện tại với giây phút tròn đầy. Vì hiện tại là Present –và cũng là món quà của Thiên Chúa.
- Hãy dành giờ cầu nguyện với Thiên Chúa, chạy đến với Đức Mẹ để xin trợ giúp, tham dự Thánh Lễ mỗi ngày, rước Mình Thánh Chúa... Đó thực sự là nguồn bình an đích thực cho mỗi người Công Giáo.
- Sắp xếp lại cuộc sống, đơn giản như sắp xếp căn phòng, chỗ làm việc...
- Đi đến thư viện, nhà sách tìm đọc những quyển sách tâm lý, học làm người, vượt qua khủng hoảng, đọc hạnh các Thánh...
- Gặp gỡ bạn bè, dành thời gian thể dục, chơi thể thao mỗi ngày.
- Cùng bạn bè đến các trung tâm xã hội chia sẻ cuộc sống với những người thiếu may mắn. Và cảm nghiệm cuộc sống này còn rất nhiều điều thú vị để tôi đáng sống có ý nghĩa. Tôi còn may mắn hơn rất nhiều người.
- Kiếm một công việc gì đó để làm. Tạo tương quan tích cực với mọi người.
- Học ngoại ngữ, tự trau dồi kiến thức, rèn luyện kỹ năng, nâng cao tinh thần cho bản thân qua các lớp học...
Thân ái!
(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 1, Nxb Tôn Giáo, 2020)
WHĐ (30.5.2021)
------------ [1] Khủng hoảng tuổi teen, giai đoạn dậy thì (12 – 17 tuổi). [2] Tia UV (Ultraviolet) hay còn gọi là tia tử ngoại, tia cực tím. [3] Tông huấn “Gaudete et Exsultate” – Vui mừng và hân hoan, lược dẫn số 29 [4] CV là viết tắt của cụm từ Curriculum Vitae trong tiếng Anh, theo tiếng Việt thì nó còn được hiểu là Hồ sơ xin việc. [5] Part time chỉ những công việc làm thêm bán thời gian. Học sinh, sinh viên, nội trợ… tranh thủ thời gian rảnh đi làm kiếm thêm thu nhập.
Con thấy tuổi trẻ suy nghĩ nhanh, quyết định chóng, nhưng dễ thay đổi, nhất là lúc gặp khó khăn thách đố. Vậy làm thế nào để có thể kiên vững với những ý định, quyết tâm của bản thân?
Trả lời:
Bạn thân mến,
Là một người trẻ, có lẽ chúng ta cảm nhận được sự căng thẳng nơi chính bản thân. Nhiều khi mình suy nghĩ quá hấp tấp, quyết định quá vội vàng. Sau đó chính mình lại dễ dàng thay đổi hoặc thậm chí là bỏ cuộc khi gặp khó khăn thử thách. Điều này dường như là tình trạng phổ biến trong giới trẻ. Tôi đoán chắc rằng bạn đã ý thức được điểm yếu này và cố gắng khắc phục nó nhưng vẫn “tái phạm” hoài!
Hình mẫu lý tưởng mà bạn hướng đến có lẽ là một người điềm tĩnh, suy nghĩ chín chắn, và nhất là luôn luôn kiên định. Tôi tưởng tượng ra lúc bạn gặp mẫu người lý tưởng của bạn và hỏi họ về bí kíp làm sao để có được những tính cách như vậy. Họ sẽ cười và trả lời bạn:
- Khi còn trẻ tôi cũng giống như bạn. Qua thời gian dài, tôi đã rút ra nhiều bài học để trở thành một người như ngày hôm nay.
Thật vậy, không ai mới sinh ra là trưởng thành ngay. Tiến trình phát triển của bất cứ người nào đều phải theo quy luật tiệm tiến của tự nhiên. Đó không chỉ về mặt thể lý mà còn ở mặt nhân cách. Do đó, khi bạn nhận ra những điểm chung nơi mình và nơi các bạn trẻ khác, thì điều đó có nghĩa là bạn đang phát triển “bình thường”. Bạn đang ở đúng theo độ tuổi trưởng thành.
Trong nhiều trường hợp, “suy nghĩ nhanh” có khi là một lợi thế và cần thiết. Khi bạn suy nghĩ nhanh, tức là bạn có khả năng tư duy đủ nhạy bén, để có thể tìm ra nhiều hướng đi trước mỗi hoàn cảnh mới. Suy nghĩ nhanh còn giúp bạn nhạy bén kết nối nhiều nguồn thông tin, dữ liệu khác nhau. Từ đó bạn sẽ tiếp cận vấn đề một cách đầy đủ và sâu sát hơn.
Trong đời sống đức tin, sự nhạy bén trước những biến động của thời cuộc cũng là một yếu tố rất cần thiết để chúng ta nhận biết ý Chúa trong mọi biến cố. Giáo Hội rất cần sự nhạy bén của người trẻ trong một xã hội phát triển nhanh chóng về nhiều mặt như hiện nay. Các bạn là những người có nhiều kinh nghiệm về những nguy cơ và thách đố của xã hội hiện đại. Người trẻ tuy là nạn nhân của một thế giới bị tục hóa, nhưng đồng thời cũng được mời gọi để trở thành chứng nhân đức tin giữa lòng thế giới ấy. Nhờ lắng nghe tiếng nói của người trẻ, Giáo Hội sẽ biết cách diễn tả hình ảnh Thiên Chúa một cách gần gũi và thiết thực hơn với con người ngày nay.
Đừng quên “quyết định chóng” cũng là một lợi thế của người trẻ! Điều này cho thấy các bạn rất dũng cảm và quyết đoán. Thật vậy, không ít người lo sợ và lưỡng lự không dám đưa ra quyết định dứt khoát cho đời mình. Họ cứ để mặc cho dòng đời đưa đẩy. Đó là thái độ rất thụ động, không phù hợp với tính cách người trẻ. Hãy dám quyết định và dám chịu trách nhiệm trước quyết định của mình. Giả như quyết định đó có sai lầm, thì nó vẫn trở thành bài học kinh nghiệm giúp người trẻ trưởng thành hơn.
Trong đời sống đức tin, với khả năng tìm tòi, học hỏi và mạnh mẽ dấn thân, người trẻ sẽ nhanh chóng đưa ra quyết định, lựa chọn gần với ý định của Chúa. Cho dù đôi khi cách sống đó không hoàn toàn giống với những người đi trước. Đối với người trẻ, đức tin Công Giáo không chỉ đóng khung trong kiến thức giáo lý hay giới hạn trong khuôn viên nhà thờ. Ngược lại, đức tin đó đã được diễn tả một cách sống động qua những lựa chọn hàng ngày. Đó là từ việc học cho đến việc chơi, trong nhà thờ hay khi ở siêu thị. Nếu có đầy đủ lý do, người trẻ sẽ không ngần ngại đưa ra quyết định dứt khoát:
- Tới nhà thờ hay bỏ thánh lễ - Tin tưởng hoặc nghi ngờ vai trò của Giáo Hội - Yêu mến hoặc thù ghét các vị mục tử - Khao khát hoặc lãnh đạm trong việc cầu nguyện với Chúa - v.v…
Tất cả những quyết định như trên đến từ hiểu biết cá nhân và tự do chọn lựa của mỗi người trẻ. Chúng đều rất chân thực và cần được tôn trọng. Đây chính là điểm khởi đầu rất tốt trong việc đồng hành và giúp đỡ các bạn trẻ hướng đến những quyết định chín chắn và trưởng thành hơn.
Bạn nói “người trẻ dễ dàng thay đổi lựa chọn của mình, xem đó như là kết quả tất yếu của việc suy nghĩ nhanh và quyết định chóng.” Tất nhiên, không ai muốn chính mình hay người khác là người thay đổi nhanh chóng kiểu “sáng nắng chiều mưa, trưa có bão” cả. Một cuộc sống như thế sẽ không có định hướng rõ ràng và sẽ chẳng đi tới đâu.
Tiếc là dòng chảy cuộc đời vốn không ngừng biến đổi. Mọi người đều phải biết thay đổi, thích nghi với mỗi hoàn cảnh mới để tồn tại. Những người bảo thủ thường không chịu thay đổi quyết định của mình cho đến khi hoàn cảnh buộc họ phải đổi thay. Đến lúc đó thường là quá muộn màng. Những người ấy trở nên ù lì và bế tắc trong chính cuộc sống của mình.
Vì người trẻ không ngại thay đổi chọn lựa của mình, nên đời sống của các bạn trở nên rất linh động và có thể nhanh chóng hòa nhập với môi trường mới. Đây cũng là một ưu thế cho người trẻ khi họ sống đức tin Công Giáo. Có thể chúng ta có những quyết định nông nổi, bồng bột. Không sao! Chúng ta có thể thay đổi và điều chỉnh đời sống của mình. Như cây non tràn trề nhựa sống, người trẻ sẵn sàng chấp nhận bị uốn nắn. Đôi khi cây ấy cần được cắt tỉa. Khi đó, cây mới đâm chồi, nảy lộc và vươn lên cao.
Tuy vậy câu hỏi của bạn rất được chú ý. Ngay từ đầu tôi đã đề cập đến tính tiệm tiến trong tiến trình phát triển bình thường của một con người. Tuy nhiên, phát triển theo quy luật tiệm tiến không có nghĩa là ngồi chờ thời gian trôi qua, rồi hy vọng một ngày nào đó ta sẽ trưởng thành hơn. Cây cối lớn lên cần bộ rễ làm việc cật lực để hút nước và chất dinh dưỡng. Đó chưa kể cây phải trải qua bao lần thay da đổi thịt, rụng lá rồi lại đâm chồi mới, hy sinh những cành cong già cỗi, loại bỏ đi lớp vỏ cũ kỹ không còn phù hợp để vươn cao. Cũng vậy, con người, dù ở độ tuổi nào, cũng vẫn phải cố gắng hoàn thiện mỗi ngày. Nói cách khác, sự hoàn thiện là kết quả của quá trình nỗ lực phấn đấu của mỗi người chứ không chỉ là vấn đề thời gian.
Khi “suy nghĩ nhanh, quyết định chóng nhưng dễ thay đổi”, tôi xin gợi ý ba điều có thể giúp các bạn trẻ tránh những điểm yếu này.
Thứ nhất, bạn cần có thái độ khiêm tốn học hỏi.
Thẳng thắn thừa nhận điểm yếu của mình đã là bước khởi đầu quan trọng để bạn nhận biết rằng mình cần phải rèn luyện thêm, không kiêu căng tự mãn. Một khi đã nhận ra mình gặp nhiều rắc rối chỉ vì “suy nghĩ nhanh, quyết định chóng, nhưng dễ thay đổi” thì chắc chắn bạn sẽ tìm ra trong các mối liên hệ của mình những mẫu người suy nghĩ chín chắn và ý chí vững vàng để học hỏi theo. Họ vừa là mẫu gương để bạn bắt chước, vừa là động lực để bạn hoàn thiện mình.
Trong bất cứ cộng đồng nào cũng có những người trưởng thành hơn đáng để chúng ta học hỏi. Nhìn vào cách sống của họ, bạn sẽ thấy rõ bản thân mình thiếu và yếu ở những điểm nào. Họ trưởng thành hơn bạn không hẳn vì họ được trời ban sẵn những tố chất đặt biệt, nhưng là vì họ đã học hỏi kinh nghiệm từ những sai lầm trong quá khứ. Do vậy, bạn nên trò chuyện, lắng nghe và học hỏi từ kinh nghiệm của người trưởng thành hơn. Đặc biệt những người lớn tuổi, hãy gần gũi cha mẹ hay ông bà của bạn, vì họ từng “trẻ” như bạn, từng phạm những sai lầm như bạn nhưng họ đã vượt qua. Bạn có thể thấy bóng dáng mình trong những câu chuyện về tuổi trẻ của họ: cũng hăng say, cũng vội vàng, cũng sai lầm, nhưng cũng đã tìm cách khắc phục. Như thế, học từ kinh nghiệm của người khác thì chẳng khác gì học những bài học mà người khác đã trả học phí giúp mình.
Thứ hai, bạn cần kiên nhẫn với chính mình.
Để rèn luyện tính cách luôn đòi hỏi nhiều thời gian, bởi vì nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau. Có những người may mắn được nuôi dưỡng và giáo dục trong môi trường tốt, nên họ có điều kiện thuận lợi để hoàn thiện nhân cách. Với những người không được may mắn như thế, họ phải cố gắng nhiều hơn để vượt qua nghịch cảnh. Có thể bạn không thấy mình thay đổi gì cả sau một thời gian nhưng người khác lại nhận ra một sự thay đổi lớn nơi bạn.
Kiên nhẫn với bản thân sẽ giúp bạn tránh khỏi thất vọng. Thực tế luôn có khoảng cách xa vời giữa tình trạng hiện tại, với cột mốc lý tưởng mà mình mong muốn. Bên cạnh đó, kiên nhẫn còn giúp bạn có nhiều niềm vui khi thấy bản thân có tiến bộ hơn so với trước đây, dù đó chỉ là một bước thay đổi rất nhỏ. Kiên nhẫn giúp bạn tin tưởng rằng từng chấm nhỏ sẽ dần dần tạo nên một đường thẳng. Mỗi thay đổi nhỏ trong cách hành xử hàng ngày của bạn sẽ tạo nên bước đột phá trong tính cách sau một khoảng thời gian. Do vậy, nếu bạn cảm thấy rằng mình không sao tránh khỏi tật xấu trên đây, như bạn nói, xin đừng bỏ cuộc. Thay vào đó, bạn hãy ý thức về điều đó và cố gắng điều chỉnh từng chút một. Theo thời gian, bạn sẽ thấy bản thân dần dần tốt hơn, đạt được điều mình mong muốn.
Điều thứ ba là bạn cần can đảm chấp nhận thất bại.
Dù bạn đã làm tốt hai điểm trên đây, nhưng không phải lúc nào cũng đạt được kết quả tốt đẹp. Có khi thất bại cứ theo bạn hoài. Thay đổi tính cách là kết quả của quá trình kiên trì tập luyện lâu dài chứ không phải là một phép màu tức thì. Mà đã là tập luyện thì phải chấp nhận trầy trật, thương tích. Con đường trưởng thành của mỗi người được xây đắp bằng rất nhiều kinh nghiệm từ những lần vấp ngã. Có thể nói rằng trên đời này không hề có công thức bảo đảm thành công, chỉ có những bài học từ thất bại thôi. Do đó, đừng vì một vài lần thất bại mà nhụt chí.
Hãy can đảm, không sợ vấp ngã, chỉ nên sợ mình vấp ngã mà không dám đứng dậy đi tiếp thôi. Không có gì phải xấu hổ khi bạn sống là chính mình, cho dù bạn có nhiều yếu đuối và khiếm khuyết đi chăng nữa. Như thế, giả như bạn đã cố gắng hết sức, nhưng vẫn thấy mình chưa cải thiện được thói quen trên, hãy nhìn vào gương soi và mỉm cười với mình:
- Hey, đây chính là con người thật của tôi, và quan trọng hơn, cơ hội hoàn thiện mình vẫn đang chờ tôi phía trước!
Tạm kết
Chút chia sẻ trên, bạn thấy cả mặt tích cực lẫn tiêu cực của việc “suy nghĩ nhanh, quyết định chóng, nhưng dễ thay đổi”. Như thế, điều quan trọng không phải là tìm cách loại bỏ. Thú vị hơn khi bạn tận dụng những điểm mạnh và hạn chế điểm yếu của chúng. Chúng ta đề cao ý chí kiên định của con người. Thực tế, con người cần khả năng linh hoạt, thích nghi với môi trường mới. Đó là sự khôn ngoan mà chúng ta cần để ý.
Tôi tin rằng không có một công thức chung nào có thể giúp bạn đưa ra nhận định đúng đắn trong mọi hoàn cảnh. Tuy vậy, nhờ thái độ khiêm tốn học hỏi, kiên nhẫn với chính mình và dám chấp nhận thất bại, dần dần bạn sẽ trở nên khôn ngoan hơn để biết việc mình cần phải làm và làm lúc nào mới mang lại kết quả tốt đẹp nhất.
(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 1, Nxb Tôn Giáo, 2020)
Giáo Hội có những cách thức hay phương thế nào để có thể lan toả Đức Tin của Chúa đến với những bạn trẻ ngoại đạo?
Trả lời:
Đây là một câu hỏi tốt, vì nó phản ánh mối bận tâm và tấm lòng của một người trẻ với Giáo Hội của mình. Hẳn bạn phải là một người trẻ hạnh phúc trong đức tin thì mới nghĩ đến chuyện lan toả đức tin của Chúa đến với những bạn trẻ ngoại đạo khác, phải không? Tại Việt Nam, người Công Giáo hãy còn là một thiểu số. Trong môi trường làm việc của mình, phần lớn những người mà các bạn trẻ Công Giáo gặp gỡ là những người không cùng tôn giáo với mình. Do đó, ước muốn chia sẻ với họ niềm tin của mình là một ước muốn chính đáng. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô trong thông điệp gởi cho Giới Trẻ Công Giáo Việt Nam dịp cuối năm 2019 đã nhắc nhở các bạn trẻ về sứ mạng làm chứng và truyền giáo cho người trẻ ngoại đạo tại quê hương đất nước mình. Họ là những người có quyền được nghe Tin Mừng của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, trước khi trả lời trực tiếp vào câu hỏi, có một điều nho nhỏ cần lưu ý. Khi đặt câu hỏi về “các thức hay phương thế của Giáo Hội”, có lẽ nhiều người trẻ sẽ liên tưởng đến hình ảnh một Giáo Hội cơ cấu và phẩm trật, trong đó việc việc vạch ra những cách thức và phương thế thuộc riêng về trách nhiệm của những người có thẩm quyền như các Giám mục, Linh mục, hay các Tu sĩ nam nữ. Lối liên tưởng ấy cần được nới rộng và quân bình hơn. Trong thực tế, những người có thẩm quyền như các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ… nói cho cùng chỉ là một thiểu số trong lòng Giáo Hội. Phần lớn thành phần làm nên Giáo Hội là cộng đoàn dân Chúa, là những người giáo dân sống ơn gọi giữa đời. Loan báo Tin Mừng và lan toả đức tin không chỉ là chuyện của những người “có trách nhiệm”. Bất cứ một bạn trẻ nào đã được rửa tội và được giáo dục trong đức tin Công Giáo cũng đều có trách nhiệm trong việc loan báo Tin Mừng và rao giảng về đức tin của mình cho những người chưa biết Chúa. Những người chịu trách nhiệm trong Giáo Hội có thể lập ra rất nhiều chương trình, nhiều hoạt động, nhiều định hướng, nhiều kế hoạch và chiến lược. Nhưng chính các bạn trẻ Công Giáo, những người thực hiện chương trình và tham gia các hoạt động ấy, mới là những chứng nhân trực tiếp có thể làm hoán cải tâm trí và trái tim của những bạn trẻ không Công Giáo chung quanh mình.
Vậy thì đâu là cách thức hay phương thế của Giáo Hội? Câu trả lời thuyết phục nhất có thể là thế này: Giáo Hội dựa vào những bạn trẻ Công Giáo của mình để lan toả Đức Tin của Chúa đến với những bạn trẻ ngoại đạo.
Những bạn trẻ Công Giáo là ai? Họ là những thành viên chính thức của Giáo Hội. Trong cuộc sống thường ngày, họ là những trực tiếp tiếp xúc với các bạn bạn trẻ ngoại đạo. Vì thế, bất cứ một bạn trẻ Công Giáo nào cũng có thể là gương mặt đại diện của Giáo Hội. Những bạn trẻ ngoại đạo có ấn tượng tốt hay xấu về đức tin Công Giáo, có muốn trở thành người Công Giáo hay không, phần lớn là do ấn tượng họ có về những người trẻ Công Giáo.
Có thể bạn sẽ phản đối thế này: trong Giáo Hội có những người được học hành đầy đủ, được trang bị rõ ràng về thần học, giáo lý, giáo huấn… Họ mới là những người thích hợp có khả năng chinh phục và giảng dạy cách thuyết phục cho những người trẻ ngoại đạo, chứ các bạn trẻ Công Giáo bình thường thì biết gì đâu mà nói! Lối suy nghĩ này là rất thường gặp, nhưng lại không đúng. Thật ra, người ta không phải lòng một Giáo Hội nhờ vào những lời giảng dạy thật hay, nhưng là nhờ những gương sống thật đẹp. Một trăm lời giảng hay chưa chắc đã có tác dụng cho bằng một gương sống tốt. Rất nhiều người trẻ đã “phải lòng” Giáo Hội không phải vì những chiến thuật, phương pháp hay cách thế khéo léo của Giáo Hội. Nhiều người trẻ ngoại đạo bước vào Giáo Hội đơn giản vì họ “phải lòng” những người trẻ khác trong Giáo Hội. Họ nhìn thấy nơi cách sống của những bạn trẻ Công Giáo cái đẹp, cái hấp dẫn, cái nét nhân cách mà họ muốn có và muốn trở thành.
Thế nên để lan toả đức tin đến những bạn trẻ không Công Giáo, Giáo Hội cần đến những người trẻ của mình. Giáo Hội cần đến những bạn trẻ Công Giáo dám sống đức tin của mình cách đẹp đẽ giữa lòng đời. Giáo Hội cần đến những nhân cách đẹp của các bạn trẻ Công Giáo để có thể nói với các bạn trẻ không Công Giáo về giá trị thực tiễn của đức tin và của những xác tín luân lý của Giáo Hội Công Giáo giữa xã hội hiện đại.
Trong bối cảnh của đất nước chúng ta ngày nay, một đất nước đang trên đà phát triển kinh tế nhưng phải đối mặt với tình trạng xuống cấp và suy đồi nghiêm trọng của đạo lý luân thường, trong gói hành trang vào đời của người trẻ không có gì quý cho bằng đức tin. Trong kho tàng đức tin Công Giáo, có những vô số bài học luân lý dạy người trẻ cách sống tốt và sống đẹp. Phải có đức tin các bạn mới có thể có một lối nhìn đủ thiêng liêng về cuộc đời. Việc có một đức tin làm trụ có thể giữ người trẻ giữa bao chênh chao xô đẩy của những cơn sóng đời đến từ tứ phía. Niềm tin khi được chia sẻ đúng cách sẽ có thể được đón nhận, và chắc chắn sẽ giúp cho những bạn trẻ sống bình an và hạnh phúc hơn, sống vui và sống tốt hơn.
Vậy nên, nếu bạn là một người trẻ Công Giáo, câu hỏi này thực chất là câu hỏi dành cho bạn. Giáo Hội là của bạn, và bạn là người làm nên Giáo Hội. Các bạn trẻ không Công Giáo có muốn bước vào Giáo Hội hay không, tuỳ thuộc vào cách sống đạo và thực hành đức tin của bạn. Không có một kiểu truyền giáo lý thuyết, nhất là truyền giáo cho những người trẻ. Cũng không có một chiến thuật thần kỳ nào để lan toả đức tin. Nếu bạn muốn mời người khác bước vào Giáo Hội của mình và cùng chia sẻ một đức tin với mình, hãy sống sao cho họ thấy được giá trị và nét đẹp của Giáo Hội mà bạn đang thuộc về, của đức tin mà bạn đang cưu mang, của những giá trị luân lý đã đào luyện nên con người và nhân cách của bạn.
Theo hướng này, Đức Giáo Hoàng Biển Đức đã từng dặn dò rằng: các bạn trẻ không phải là tương lai nhưng là hiện tại của Giáo Hội. Chính các bạn trẻ Công Giáo là những người chịu trách nhiệm chính, là những người tiên phong trong việc chinh phục các bạn trẻ ngoại đạo. Chinh phục bằng đời sống chứng tá tốt đẹp của mình, chứ không phải bằng quyến rũ hay dụ hoặc, như lời của Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắn nhủ trong thông điệp gởi cho giới trẻ Công Giáo Việt Nam năm 2019.
Cụ thể hơn, câu hỏi có thể sẽ phải là thế này: làm cách nào để những bạn trẻ Công Giáo có thể thật sự trở thành những chứng tá hấp dẫn đối với những bạn trẻ không Công Giáo? Câu trả lời có lẽ nên được xét từ nhiều phía khác nhau.
Thứ nhất là từ phía những người có trách nhiệm trong Giáo Hội, những người có thẩm quyền và những bậc cha mẹ. Họ là những người có trách nhiệm phải lo cho con cái mình có một nền huấn luyện vững chắc về đạo nghĩa và đức tin, để con cái mình có thể lớn lên như những người trẻ Công Giáo đích thực. Ấy là việc duy trì trung thành các giờ kinh gia đình, các buổi cầu nguyện cộng đoàn, các hoạt động của Giáo xứ đặc biệt đặt trọng tâm vào người trẻ. Cần có một nền huấn luyện đức tin cởi mở và hướng đến đối thoại nhiều hơn với những người không cùng đức tin. Cần tránh những tranh luận vô bổ theo hướng đúng-sai, so sánh theo kiểu hơn-kém và phê bình đến từ thành kiến hơn là từ sự hiểu biết lẫn nhau. Các bạn trẻ Công Giáo cần có cơ hội để đào luyện khả năng diễn đạt đức tin của mình bằng ngôn ngữ thường ngày dễ hiểu, để cả những người không cùng đức tin với mình cũng có thể hiểu được. Quan trọng nhất là họ cần được dạy sống đời sống chứng tá. Một nhân cách đẹp có khả năng thu hút và rao giảng về đức tin nhiều hơn rất nhiều so với những lời nói hay.
Thứ đến là trách nhiệm từ phía các bạn trẻ Công Giáo. Một tiến trình huấn luyện tốt bao giờ cũng là một tiến trình hai chiều: huấn luyện và tự huấn luyện. Nếu bạn muốn giới thiệu đức tin của mình đến với những người trẻ không Công Giáo, hãy sống cho họ thấy đức tin của bạn thật sự có giá trị trong cuộc đời bạn. Vậy nên việc đào sâu tìm hiểu về đức tin mà mình đã được dạy dỗ từ nhỏ, áp dụng thực hành những lý thuyết và những bài học luân lý tốt đẹp, làm gương sáng giữa một môi trường có nhiều gương xấu và cám dỗ… tất cả thuộc về trách nhiệm của một người trẻ Công Giáo. Càng tự huấn luyện mình theo khuôn mẫu của đức tin Công Giáo, càng trở thành một nhân cách sống đẹp, bạn sẽ càng có khả năng thu hút và nói với những người khác về đức tin của mình.
Giáo Hội cần đến bạn và Giáo Hội đặt niềm tin vào bạn. Bạn chính là cách thức và phương thế để Giáo Hội vươn đến với những người trẻ khác.
Cũng đừng quên rằng bất cứ khi nào bạn cần trợ giúp, cần có ai đó hướng dẫn mình, trong Giáo Hội luôn có rất nhiều người sẵn sàng lắng nghe, đồng hành, và cố vấn cho bạn.
Chúc bạn can đảm và mạnh mẽ lên đường, làm lan toả đức tin của Chúa đến với những bạn trẻ ngoại đạo.
(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 1, Nxb Tôn Giáo, 2020)
Con hay nghe các bạn không cùng tôn giáo than phiền bên Công Giáo: “Sao cứ phải bắt người ta theo đạo mới cho cưới”. Có phải người Công Giáo bắt buộc người bên lương phải theo đạo khi kết hôn?
Trả lời:
Nhiều người vẫn hay đặt đâu hỏi tại sao đạo Công Giáo cứ bắt người không có đạo phải theo đạo Công Giáo rồi mới cho cưới. Thật ra, Giáo Hội không bắt buộc ai phải theo đạo cả. Thuật ngữ “theo đạo” mà dân gian hay dùng là để ám chỉ đến việc lãnh nhận Bí tích Thanh Tẩy và trở thành thành viên của Giáo Hội. Nói chính xác hơn, nó là việc một người lãnh nhận hồng ân đức tin ngang qua các bí tích và được tháp nhập vào sự sống mới của Đức Kitô. Nhưng vì đức tin là một hồng ân của Thiên Chúa, và đòi hỏi nơi người nhận lãnh một sự tự nguyện, nên sự cưỡng ép hay bắt buộc trở nên vô nghĩa và ấu trĩ. Người nào đó, dù đồng ý lãnh nhận Bí tích Thanh Tẩy, nhưng chỉ vì muốn lập gia đình, không hề có một chút ý thức và khao khát sống đức tin thì chỉ mang danh nghĩa là Kitô hữu trên giấy tờ chứ không phải là một Kitô hữu đích thực.
Tại sao các bậc cha mẹ Công Giáo luôn muốn con cái mình lập gia đình với người Công Giáo?
Cha mẹ nào cũng lo cho con cái. Vì xuất thân từ môi trường Công Giáo, cha mẹ sẽ có một sự tin tưởng dành cho những bạn trẻ nào cũng được nuôi dưỡng và lớn lên trong môi trường đó. Họ sẽ yên tâm hơn khi gửi gắm con cái của mình cho một gia đình Công Giáo. Nếu hai bên thông gia đều Công Giáo thì sẽ dễ dàng có cùng quan điểm, lối sống, cách bảo ban, dạy dỗ con cháu.
Ngoài ra, tuy tôn giáo không phải là yếu tố duy nhất quyết định hạnh phúc của lứa đôi, nhưng nếu họ cùng chia sẻ với nhau một niềm tin tôn giáo, đời sống chung cũng sẽ thuận lợi hơn rất nhiều. Môi trường Công Giáo là một môi trường rất tốt để nâng đỡ họ. Nếu cả vợ và chồng đều sớm tối cầu nguyện, dâng những lời kinh lên Chúa, tham dự thánh lễ, các bí tích, tham gia các hoạt động của giáo xứ, tích cực sống theo những chỉ dẫn của Giáo Hội… họ sẽ không cảm thấy cô đơn trong cuộc hành trình hôn nhân của mình, con cái của họ cũng sẽ được giáo dục tốt không chỉ về kiến thức nhưng còn về đức tin, nhân bản. Mỗi khi gặp khó khăn, họ có nơi chạy đến để tìm sự nâng đỡ cả về thiêng liêng lẫn vật chất. Những điều này sẽ khó có thể có được khi vợ và chồng thực hành niềm tin của mình ở hai tôn giáo khác nhau.
Ngược lại, cưới một người không Công Giáo sẽ có thể dẫn đến nguy cơ bên Công Giáo lơ là hoặc đánh mất đi đức tin của mình, đặc biệt là khi bên nữ Công Giáo phải về làm dâu bên chồng là người không Công Giáo. Nếu một bên lại theo tôn giáo khác, có những sinh hoạt tâm linh khác, bên Công Giáo có thể sẽ đánh mất điều kiện để thực thi bổn phận Kitô hữu của mình. Con cái sinh ra sẽ khó có điều kiện được giáo dục tốt trong một môi trường tâm linh thuần nhất.
Nói tóm lại, việc các bậc cha mẹ thường đòi hỏi con cái mình phải lấy người cùng theo đạo Công Giáo chỉ là lo lắng cho đời sống đức tin của con cái mình. Nếu trong gia đình, tất cả mọi người đều thờ phượng Thiên Chúa, sớm tối đọc kinh quây quần bên nhau, con cái được giáo dục theo đường hướng đúng đắn, hẳn đó là một gia đình hạnh phúc. Trong khi đó, sự khác biệt trong tôn giáo đôi khi sẽ kéo theo những bất đồng khác trong quan điểm và lối sống, dẫn đến bất hoà, làm ảnh hưởng đến đời sống chung. Vì thế, Giáo Hội khuyến khích bên không có đạo Công Giáo tìm hiểu đạo Công Giáo, học giáo lý để có cùng tôn giáo với người phối ngẫu của mình: khuyến khích chứ không bắt buộc.
Giáo Hội có quy định gì về những hôn nhân khác đạo?
Giáo Hội muốn con cái mình phải luôn được lãnh nhận ơn lành của Chúa. Trong một cuộc hôn nhân, vốn là quãng thời gian quan trọng nhất của đời người, Giáo Hội càng muốn cho hai bên nam nữ được Thiên Chúa chúc lành và thánh hoá cho tình yêu của họ và cho những dự phóng tương lai trong cuộc sống lứa đôi. Ơn lành của Thiên Chúa được ban cho họ ngang qua Bí tích Hôn Phối mà chính cặp đôi là người cử hành, với việc chứng hôn của thừa tác viên Hội Thánh và hai người làm chứng (x.GL 1108 §1). Muốn vậy, cả hai phải là Kitô hữu, nghĩa là đã thuộc về gia đình Giáo Hội. Vì thế, hôn phối giữa một người đã rửa tội và một người chưa rửa tội thì vô hiệu đối với Giáo Hội.
Điều 1086 §1 quy định rằng: “Hôn nhân giữa một người đã được Rửa Tội trong Giáo Hội Công giáo hoặc đã được nhận vào Giáo Hội ấy và không rời bỏ Giáo Hội ấy bằng một hành vi dứt khoát với một người không được Rửa Tội, thì bất thành.” Người Kitô hữu nào cố tình thực hiện cuộc hôn phối này sẽ phải chịu hình phạt của Giáo Hội.
Tuy nhiên, trong trường hợp bên kia vẫn nhất quyết không muốn gia nhập đạo Công Giáo vì lý do gì đó, để không cản trở tình yêu chính đáng của cả hai, không gây khó khăn cho bên Công Giáo đồng thời cũng để đảm bảo bên Công Giáo không mất đức tin do cuộc hôn nhân khác đạo này, Giáo Hội vẫn chấp nhận cho họ kết hôn với nhau, với phép của Đức Giám Mục giáo phận. Tuy nhiên, Đức Giám Mục chỉ có thể ban phép này khi họ đáp ứng các điều kiện quy định ở Giáo Luật, điều 1125:
(1) Bên Công Giáo phải tuyên bố mình sẵn sàng tránh mọi nguy cơ mất đức tin và thành thật cam kết sẽ làm hết sức để tất cả con cái được Rửa Tội và được giáo dục trong Giáo Hội Công Giáo.
Trước hết là bổn phận phải lo cho đức tin của chính mình: bên Công Giáo phải tuyên bố mình sẵn sàng tránh mọi nguy cơ mất đức tin. Những nguy cơ làm mất đức tin có thể là bê trễ chuyện kinh hạt, tham dự thánh lễ, tham dự và lãnh nhận các bí tích… Họ phải tiếp tục chu toàn những bổn phận là người Kitô hữu của mình cách tích cực và xa tránh những điều làm cho họ bị nguội lạnh dẫn đến không còn tin và thực hành những gì đã được dạy liên quan đến Thiên Chúa và Giáo Hội. Ngoài ra, người này còn phải nghĩ đến đức tin cho con cái mình bằng cách cam kết sẽ làm hết sức để tất cả con cái được Rửa Tội và giáo dục trong Giáo Hội Công Giáo. Ở đây, ta chú ý đến cụm từ “làm hết sức”. Có thể có trường hợp là việc rửa tội cho con cái và giáo dục chúng trong Giáo Hội Công Giáo không thể thực hiện được vì sức ảnh hưởng quá lớn từ phía không Công Giáo hoặc vì nguy cơ đổ vỡ hôn nhân chỉ vì chuyện này. Cũng có thể không phải “tất cả con cái” nhưng chỉ một hoặc một vài đứa con được rửa tội. Nhưng bên Công Giáo phải ý thức và cam kết rằng sẽ cố gắng “làm hết sức”. Nghĩa là có cố gắng thuyết phục, tìm mọi cách trong khả năng… để hướng đến mục đích tuyệt vời ấy. Có thành công hay không lại là một chuyện khác.
Thông thường, việc tuyên bố hay cam kết này phải được thực hiện trước mặt vị linh mục (hoặc phó tế được uỷ quyền) bằng văn bản hay lời nói. Nếu các vị này nhận thấy bên Công Giáo không hiểu hoặc không ý thức về những điều mình hứa hoặc nhận thấy người đó không muốn hứa thì có quyền từ chối viết thư giới thiệu để xin phép chuẩn của Đức Giám Mục.
Ta thấy rõ quy định này của Giáo Hội là để nhắm đến việc bảo vệ đức tin của bên Công Giáo và của con cái họ. Giáo Hội không muốn mất đi người con nào của mình, nhưng Giáo Hội cũng không quá đòi buộc để làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hạnh phúc của các Kitô hữu.
(2) Bên Công Giáo phải kịp thời thông báo cho bên không Công Giáo biết những điều bên Công Giáo phải cam kết để họ ý thức thật sự về lời cam kết và nghĩa vụ của bên Công Giáo.
“Phải kịp thời thông báo” không xác định thời điểm rõ ràng và chính xác. Tuy nhiên, được hiểu là diễn ra trước cuộc hôn nhân để cho bên không Công Giáo biết về những gì mà bên Công Giáo phải cam kết và thực thi trong nghĩa vụ và bổn phận của mình. Mục đích nhắm tới là hai bên có thể hiểu và tạo điều kiện cho nhau, hoặc ít là để bên không Công Giáo không gây cản trở. Ở đây nói đến hành vi “thông báo”, dĩ nhiên là cố gắng đạt được sự ưng thuận của bên không Công Giáo, nhưng có vẻ như Giáo Hội chỉ cần yêu cầu việc “họ biết” là đủ rồi.
(3) Cả hai bên phải được giáo huấn về những mục đích và đặc tính chính yếu của hôn nhân mà không bên nào được phép loại bỏ.
Điều kiện này chắc hẳn có liên quan đến chương trình đào tạo mà giáo phận (hoặc giáo xứ) phải có đối với các cặp đôi chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân. Ít là để bên Công Giáo có thể hiểu và chuẩn bị bản thân cho thật tốt để sống cuộc sống lứa đôi sao cho thật triển nở. Bên không Công Giáo cũng phải “được giáo huấn”, nghĩa là tham dự những buổi học này để hiểu về “mục đích và đặc tính chính yếu của hôn nhân”. Người này không cần phải tin nhưng phải biết những đòi hỏi của bên Công Giáo để có thể tôn trọng và muốn kết hôn với người Công Giáo, và cũng với hy vọng là khi hiểu được rồi, họ sẽ giúp bên Công Giáo chu toàn bổn phận của mình, hoặc xa hơn, họ sẽ được cảm hoá và muốn được rửa tội sau đó để cùng người bạn đời và con cái đắp xây một gia đình theo văn hoá Kitô giáo.
Như thế, khi muốn kết hôn với người không phải Công Giáo, phải gặp cha xứ, để xin ngài giúp xin phép của Đức Giám Mục, cùng với một số thủ tục kèm theo tuỳ quy định của từng giáo phận. Giáo Hội quy định những điều này chỉ vì lợi ích đức tin của con cái mình, chứ không hề có ý muốn bắt buộc ai phải theo đạo rồi mới cho cưới.
(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 1, Nxb Tôn Giáo, 2020)
Chúng ta cần phải phân biệt sự bền đỗ trong ơn gọi hôn nhân và tu trì. Dù cả hai ơn gọi, hai lối sống, đều được mời gọi trung tín trong lựa chọn của mình; nhưng sự trung tín đó được thể hiện một cách khác nhau.
1. Đi tu cần bền đỗ
Cũng giống như ơn gọi gia đình, ơn gọi tu trì cũng trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Mỗi giai đoạn có những thách đố khác nhau. Do đó, nếu đang trong giai đoạn tìm hiểu, một nam hay nữ tu sĩ rời bỏ ơn gọi tu trì của mình vì thấy ơn gọi đó không hợp với mình, thì sự chọn lựa đó không thể gọi là thiếu trung tín.
Tuỳ vào đặc tính của mỗi ơn gọi mà đời tu được chia nhiều giai đoạn huấn luyện và thử thách khác nhau. Thông thường, khi một người trẻ cảm thấy mình có ơn gọi, họ sẽ tìm hiểu một dòng tu nào đó, giai đoạn này tương tự như giai đoạn hai bạn trẻ thấy hợp và phải lòng nhau nên cả hai quyết định dành nhiều thời gian cho nhau hơn để có thể xây đắp mối quan hệ nghiêm túc hơn.
Sau một giai đoạn tìm hiểu, nếu người ứng sinh này thấy thích hợp, và nhà Dòng cảm thấy người này thích hợp với ơn gọi của họ, nhà dòng sẽ mời gọi người này vào Dòng. Sau thời gian nhà tập, người tu sĩ sẽ khấn tạm, lời khấn này vẫn chỉ mang tính tạm thời, nghĩa là sau khi kết thúc thời gian khấn tạm, nếu thấy không hợp thì đương sự sẽ dừng lại. Khi thời gian khấn tạm kết thúc, thông thường là 5 hoặc 6 năm, người tu sĩ sẽ được mời gọi khấn trọn. Từ lúc này, người tu sĩ khấn hứa trọn đời thuộc về Chúa. Nếu người tu sĩ ấy vì một lý do gì đó rời bỏ hội dòng, thì có thể nói người đó thiếu trung tín trong ơn gọi.
Tuy nhiên, không phải khi rời bỏ đời tu, thì người tu sĩ sẽ bị Chúa “phạt” vì thiếu trung tín. Trong thực tế, vì sự hiểu lầm này mà nhiều người cho rằng, khi một tu sĩ đã khấn hứa với Chúa rồi mà từ bỏ đời tu thì họ sẽ không hạnh phúc. Lý do là Chúa sẽ phạt người đó, vì sự thiếu trung tín của họ.
Thực ra, đây là một cách hiểu khá sai lầm. Thiên Chúa yêu thương hết thảy mọi người, và điều làm Thiên Chúa hạnh phúc chính là việc con người được hạnh phúc. Một người sau khi xuất tu sống không hạnh phúc có thể vì nhiều yếu tố khách quan cũng như chủ quan. Tuy nhiên, không thể nói rằng, Thiên Chúa sẽ trừng phạt người xuất tu vì sự thiếu trung tín của họ. Đồn đoán như thế thì tội cho họ quá!
2. Lập gia đình càng cần bền đỗ hơn
Hôn nhân gia đình là ơn gọi tự nhiên và phổ quát. Tuy nhiên thời đại này, ơn gọi này đang đứng trước nhiều thách đố. Tỉ lệ ly dị gia tăng trong những năm gần đây ở Việt nam, và người Công giáo không phải là một ngoại lệ. Trong xã hội hiện đại, ly hôn do chung sống không hợp đã trở thành chuyện “cơm bữa.” Thống kê cho thấy, ở Việt Nam hiện có khoảng 60.000 vụ/năm, tương đương 0,75 vụ/1.000 dân. Tỷ lệ ly hôn so với kết hôn là 25%, có nghĩa trong 4 đôi đi đăng ký kết hôn thì 1 đôi ra tòa. Tại sao tỷ lệ ly hôn lại cao như vậy? Đâu là nguyên do dẫn đến những đổ vỡ trong hôn nhân?
Thống kê cho thấy, 70% đương đơn trong các trường hợp ly dị là phụ nữ. Họ chủ động ly hôn nhiều hơn nam giới. Thực tế, do ảnh hưởng của văn hoá hiện đại, người phụ nữ độc lập hơn về mặt tư tưởng cũng như kinh tế. Do đó, khi mái ấm đã không còn tình yêu, trước đây người phụ nữ thường cam chịu, nhưng nay, với sự độc lập của mình, người nữ thường tìm cho mình một “lối thoát” để sống hạnh phúc hơn.
Thực tế trên cũng cho thấy rằng, để xây dựng một mái ấm hạnh phúc, người nữ thường chịu nhiều thiệt thòi. Họ thường phải hy sinh cho chồng, cho con, và thậm chí cho cả gia đình chồng. Nhiều phong tục tập quán, nhiều hủ tục, tính gia trưởng của người đàn ông,… vẫn còn khá phổ biến trong xã hội hiện đại Việt Nam. Đâu đó vẫn còn những suy nghĩ cho rằng: “Làm phụ nữ thì phải hy sinh cho chồng, phải hy sinh cho con, phải hy sinh cho gia đình. Đó là bổn phận đương nhiên của phụ nữ, của phận làm con gái.” Thiết nghĩ, để xây dựng một mái ấm hạnh phúc, trước hết phẩm giá của người phụ nữ cần được tôn trọng.
Thứ đến, với ảnh hưởng của xã hội hiện đại, người trẻ thường có khuynh hướng yêu vội, sống nhanh, vội đến và cũng vội đi. Sự vội vã này dẫn đến việc thiếu những kỹ năng quan trọng khi bước vào cuộc sống hôn nhân. Thế nên, yêu sớm, cưới vội cũng là một nguyên nhân góp phần vào sự gia tăng tỷ lệ ly hôn. Phải chăng nhà thơ Hồ Dzếnh đã đúng khi viết: “Tình mất vui khi đã vẹn câu thề. Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở!” Thiết nghĩ, để vượt qua khó khăn này, người trẻ cần học để sống chậm lại. Cần có thời gian dành cho nhau, để hiểu nhau nhiều hơn.
Điều quan trọng là nền giáo dục hiện nay chưa giúp người trẻ hiểu và sống các giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hoá Việt nam. Trong đó, sự trung tín, nhẫn nhịn, cảm thông… là những đức tính cần thiết cho đời sống hôn nhân. Thực tế cũng như trong đời tu, đời sống hôn nhân chắc chắn có nhiều khủng hoảng và thách đố, đặc biệt là giai đoạn 2 đến 5 năm sau khi kết hôn. Tuy nhiên, điều quan trọng là các bạn trẻ cần học để biết cách vượt qua các thách đố này. Nếu thiếu vắng các đức tính nêu trên, các cặp vợ chồng thật khó để vượt qua những thách đố trong đời sống hôn nhân!
Đối diện với những thách đố trên, là các bạn trẻ Công Giáo, chúng ta cần làm gì?
Thưa, trước hết, các bạn cần trở nên chứng nhân giữa lòng thế giới như Giáo Hội mong muốn. Trong một xã hội xem nhẹ giá trị của hôn nhân và đời sống gia đình, là người Công Giáo, các bạn cần làm chứng cho giá trị cao quý và bất biến của món quà mà Thiên Chúa đã trao tặng cho những người nam và người nữ. Ngài mời gọi các bạn cộng tác với Ngài để xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Để làm được điều đó, các bạn cần hiểu rõ bản chất và ý nghĩa của đời sống hôn nhân, bí tích hôn phối.
Ở Việt Nam, Giáo Hội rất lưu tâm đến việc giúp người trẻ chuẩn bị tâm thế sẵn sàng trước khi bước vào đời sống hôn nhân. Qua việc học giáo lý và những kỹ năng sống cần thiết, các bạn trẻ đã biết ý thức hơn về ơn gọi của mình. Các bạn trẻ cũng hiểu được rằng, ơn gọi hôn nhân không chỉ có màu hồng, nhưng còn đồng hành bởi nhiều khó khăn và thách đố. Sự chuẩn bị này giúp các bạn không bị bỡ ngỡ khi bước vào thực tế của đời sống hôn nhân.[1]
Các bạn trẻ cần tập sống kiên nhẫn, cần tập luyện ý chí, kiên định với những chọn lựa của mình. Dù ơn gọi đi tu hay lập gia đình, để trung tín, các bạn trẻ cần phải tập sống sự trung tín. “Đức Giê-su nói: Ai trung tín trong việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn.” (Lc, 16,10). Các bạn trẻ cần tập sự trung tín đó qua những chọn lựa nhỏ bé hàng ngày. Truyền thống Giáo Hội nói về nhân đức, nghĩa là một thói quen tốt, được lặp đi lặp lại nhiều lần và cuối cùng trở thành “bản năng” thứ hai của người tập luyện nhân đức.
Để giúp cho người trẻ có khả năng trung tín với chọn lựa của mình, người trẻ cần tập nhân đức trung tín qua những chọn lựa nho nhỏ mỗi ngày. Ví dụ, tập quyết tâm đi lễ một tuần hai lần, tập dậy sớm, tập giữ lời hứa, tập đúng giờ… Tập những thói quen nho nhỏ này, người trẻ sẽ lớn lên trong nhân đức trung tín và sẽ trở thành hành trang quý giá giúp người trẻ bước vào đời.
Có bạn gào lên: “Sao cứ phải tập tành chi vậy?” Vâng, đó là con đường duy nhất để con người trở nên tốt lành, hạnh phúc. Chúng ta không thể lách qua cánh cửa thực hành, tập tành! Người trẻ thời nay vẫn bị cho là sống vội và thiếu sự kiên nhẫn. Để vượt qua giới hạn này, các bạn trẻ cần tập luyện mỗi ngày, từ những điều nhỏ nhặt nhất.
3. Chìa khóa của bền đỗ trong ơn gọi
Để tập sống trung tín trong ơn gọi hôn nhân hay tu trì, điều quan trọng nhất là các bạn trẻ phải sống trung tín với Thiên Chúa. Kinh Thánh cho chúng ta thấy rằng, Thiên Chúa đã chọn con người và Người luôn luôn trung tín với lời Người đã hứa. Sự trung tín của Thiên Chúa là niềm hy vọng của chúng ta. Đức Thánh Cha Phanxicô nhắn nhủ chúng ta rằng:
“Mọi ơn gọi Ki-tô hữu đều mang dáng dấp của ơn gọi hôn nhân bởi vì nó là hoa trái của mối dây tình yêu nơi đó hết thảy chúng ta được đổi mới, đó chính là mối dây tình yêu với Đức Ki-tô.”[2]
Là người Ki-tô hữu, chúng ta học sự trung tín từ Thiên Chúa. Đừng quên chúng ta sống sự trung tín đó trong Thiên Chúa và nhờ ơn sủng của Người. Thật tốt khi chúng ta xin ơn Chúa và nỗ lực để sống trung tín với Thiên Chúa mỗi ngày. Nếu có điện thoại ở bên lúc này, trong những gì đã bàn ở trên, bạn có thể mở bản nhạc của Đức Cha Vũ Duy Thống: Một Chút (Tam Ca Áo Trắng), để lên dây cót cho hành trình tập tành này:
1. Một chút những viên đá nhỏ hợp thành ngọn núi lớn Một chút những bước chân đi xa về muôn lối Một chút những phút ủi an dịu xoa ngàn nỗi sầu Chỉ một chút khởi đầu tương lai sẽ đẹp màu
ĐK - Một chút trong đời chỉ một chút chút xíu thôi Nhiều chút chút bé nhỏ mà làm cho đời thêm mới Một chút trong đời trở thành một chút thật tuyệt vời. Chắt chiu từng chút ấy cho đời này thêm sáng tươi.
2. Một chút cánh tay kết liền tạo thành vòng nối lớn Một chút ánh sáng thôi cho lui dần đêm tối Một chút những phút ước mơ đời thơ trẻ muôn vàn Chỉ một chút ân cần xa xôi cũng thành gần.
3. Một chút những cơn gió nhẹ hội về thành bão lớn Một chút những phút giây nên xoay vần năm tháng Một chút những phút thứ tha rộn vui mà lắng đọng Chỉ một chút hy vọng tin yêu sáng ngập lòng Một chút những viên đá nhỏ, một chút cánh tay khép liền
Một chút, chỉ một chút, chút xíu thôi....
(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 1, Nxb Tôn Giáo, 2020)
WHĐ (04.7.2021)
-------------- [1] Minh Anh, “Vì sao người công giáo có tỉ lệ ly hôn thấp?” https://vietnamnet.vn/vn/doi-song/gia-dinh/vi-sao-nguoi-cong-giao-co-ti-le-ly-hon-thap-280342.html [2] https://www.archstl.org/popes-message-fidelity-is-for-every-vocation-not-just-marriage-3178
Giáo Hội có những cách thức hay phương thế nào để có thể lan toả Đức Tin của Chúa đến với những bạn trẻ ngoại đạo?
Trả lời:
Đây là một câu hỏi tốt, vì nó phản ánh mối bận tâm và tấm lòng của một người trẻ với Giáo Hội của mình. Hẳn bạn phải là một người trẻ hạnh phúc trong đức tin thì mới nghĩ đến chuyện lan toả đức tin của Chúa đến với những bạn trẻ ngoại đạo khác, phải không? Tại Việt Nam, người Công Giáo hãy còn là một thiểu số. Trong môi trường làm việc của mình, phần lớn những người mà các bạn trẻ Công Giáo gặp gỡ là những người không cùng tôn giáo với mình. Do đó, ước muốn chia sẻ với họ niềm tin của mình là một ước muốn chính đáng. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô trong thông điệp gởi cho Giới Trẻ Công Giáo Việt Nam dịp cuối năm 2019 đã nhắc nhở các bạn trẻ về sứ mạng làm chứng và truyền giáo cho người trẻ ngoại đạo tại quê hương đất nước mình. Họ là những người có quyền được nghe Tin Mừng của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, trước khi trả lời trực tiếp vào câu hỏi, có một điều nho nhỏ cần lưu ý. Khi đặt câu hỏi về “các thức hay phương thế của Giáo Hội”, có lẽ nhiều người trẻ sẽ liên tưởng đến hình ảnh một Giáo Hội cơ cấu và phẩm trật, trong đó việc việc vạch ra những cách thức và phương thế thuộc riêng về trách nhiệm của những người có thẩm quyền như các Giám mục, Linh mục, hay các Tu sĩ nam nữ. Lối liên tưởng ấy cần được nới rộng và quân bình hơn. Trong thực tế, những người có thẩm quyền như các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ… nói cho cùng chỉ là một thiểu số trong lòng Giáo Hội. Phần lớn thành phần làm nên Giáo Hội là cộng đoàn dân Chúa, là những người giáo dân sống ơn gọi giữa đời. Loan báo Tin Mừng và lan toả đức tin không chỉ là chuyện của những người “có trách nhiệm”. Bất cứ một bạn trẻ nào đã được rửa tội và được giáo dục trong đức tin Công Giáo cũng đều có trách nhiệm trong việc loan báo Tin Mừng và rao giảng về đức tin của mình cho những người chưa biết Chúa. Những người chịu trách nhiệm trong Giáo Hội có thể lập ra rất nhiều chương trình, nhiều hoạt động, nhiều định hướng, nhiều kế hoạch và chiến lược. Nhưng chính các bạn trẻ Công Giáo, những người thực hiện chương trình và tham gia các hoạt động ấy, mới là những chứng nhân trực tiếp có thể làm hoán cải tâm trí và trái tim của những bạn trẻ không Công Giáo chung quanh mình.
Vậy thì đâu là cách thức hay phương thế của Giáo Hội? Câu trả lời thuyết phục nhất có thể là thế này: Giáo Hội dựa vào những bạn trẻ Công Giáo của mình để lan toả Đức Tin của Chúa đến với những bạn trẻ ngoại đạo.
Những bạn trẻ Công Giáo là ai? Họ là những thành viên chính thức của Giáo Hội. Trong cuộc sống thường ngày, họ là những trực tiếp tiếp xúc với các bạn bạn trẻ ngoại đạo. Vì thế, bất cứ một bạn trẻ Công Giáo nào cũng có thể là gương mặt đại diện của Giáo Hội. Những bạn trẻ ngoại đạo có ấn tượng tốt hay xấu về đức tin Công Giáo, có muốn trở thành người Công Giáo hay không, phần lớn là do ấn tượng họ có về những người trẻ Công Giáo.
Có thể bạn sẽ phản đối thế này: trong Giáo Hội có những người được học hành đầy đủ, được trang bị rõ ràng về thần học, giáo lý, giáo huấn… Họ mới là những người thích hợp có khả năng chinh phục và giảng dạy cách thuyết phục cho những người trẻ ngoại đạo, chứ các bạn trẻ Công Giáo bình thường thì biết gì đâu mà nói! Lối suy nghĩ này là rất thường gặp, nhưng lại không đúng. Thật ra, người ta không phải lòng một Giáo Hội nhờ vào những lời giảng dạy thật hay, nhưng là nhờ những gương sống thật đẹp. Một trăm lời giảng hay chưa chắc đã có tác dụng cho bằng một gương sống tốt. Rất nhiều người trẻ đã “phải lòng” Giáo Hội không phải vì những chiến thuật, phương pháp hay cách thế khéo léo của Giáo Hội. Nhiều người trẻ ngoại đạo bước vào Giáo Hội đơn giản vì họ “phải lòng” những người trẻ khác trong Giáo Hội. Họ nhìn thấy nơi cách sống của những bạn trẻ Công Giáo cái đẹp, cái hấp dẫn, cái nét nhân cách mà họ muốn có và muốn trở thành.
Thế nên để lan toả đức tin đến những bạn trẻ không Công Giáo, Giáo Hội cần đến những người trẻ của mình. Giáo Hội cần đến những bạn trẻ Công Giáo dám sống đức tin của mình cách đẹp đẽ giữa lòng đời. Giáo Hội cần đến những nhân cách đẹp của các bạn trẻ Công Giáo để có thể nói với các bạn trẻ không Công Giáo về giá trị thực tiễn của đức tin và của những xác tín luân lý của Giáo Hội Công Giáo giữa xã hội hiện đại.
Trong bối cảnh của đất nước chúng ta ngày nay, một đất nước đang trên đà phát triển kinh tế nhưng phải đối mặt với tình trạng xuống cấp và suy đồi nghiêm trọng của đạo lý luân thường, trong gói hành trang vào đời của người trẻ không có gì quý cho bằng đức tin. Trong kho tàng đức tin Công Giáo, có những vô số bài học luân lý dạy người trẻ cách sống tốt và sống đẹp. Phải có đức tin các bạn mới có thể có một lối nhìn đủ thiêng liêng về cuộc đời. Việc có một đức tin làm trụ có thể giữ người trẻ giữa bao chênh chao xô đẩy của những cơn sóng đời đến từ tứ phía. Niềm tin khi được chia sẻ đúng cách sẽ có thể được đón nhận, và chắc chắn sẽ giúp cho những bạn trẻ sống bình an và hạnh phúc hơn, sống vui và sống tốt hơn.
Vậy nên, nếu bạn là một người trẻ Công Giáo, câu hỏi này thực chất là câu hỏi dành cho bạn. Giáo Hội là của bạn, và bạn là người làm nên Giáo Hội. Các bạn trẻ không Công Giáo có muốn bước vào Giáo Hội hay không, tuỳ thuộc vào cách sống đạo và thực hành đức tin của bạn. Không có một kiểu truyền giáo lý thuyết, nhất là truyền giáo cho những người trẻ. Cũng không có một chiến thuật thần kỳ nào để lan toả đức tin. Nếu bạn muốn mời người khác bước vào Giáo Hội của mình và cùng chia sẻ một đức tin với mình, hãy sống sao cho họ thấy được giá trị và nét đẹp của Giáo Hội mà bạn đang thuộc về, của đức tin mà bạn đang cưu mang, của những giá trị luân lý đã đào luyện nên con người và nhân cách của bạn.
Theo hướng này, Đức Giáo Hoàng Biển Đức đã từng dặn dò rằng: các bạn trẻ không phải là tương lai nhưng là hiện tại của Giáo Hội. Chính các bạn trẻ Công Giáo là những người chịu trách nhiệm chính, là những người tiên phong trong việc chinh phục các bạn trẻ ngoại đạo. Chinh phục bằng đời sống chứng tá tốt đẹp của mình, chứ không phải bằng quyến rũ hay dụ hoặc, như lời của Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắn nhủ trong thông điệp gởi cho giới trẻ Công Giáo Việt Nam năm 2019.
Cụ thể hơn, câu hỏi có thể sẽ phải là thế này: làm cách nào để những bạn trẻ Công Giáo có thể thật sự trở thành những chứng tá hấp dẫn đối với những bạn trẻ không Công Giáo? Câu trả lời có lẽ nên được xét từ nhiều phía khác nhau.
Thứ nhất là từ phía những người có trách nhiệm trong Giáo Hội, những người có thẩm quyền và những bậc cha mẹ. Họ là những người có trách nhiệm phải lo cho con cái mình có một nền huấn luyện vững chắc về đạo nghĩa và đức tin, để con cái mình có thể lớn lên như những người trẻ Công Giáo đích thực. Ấy là việc duy trì trung thành các giờ kinh gia đình, các buổi cầu nguyện cộng đoàn, các hoạt động của Giáo xứ đặc biệt đặt trọng tâm vào người trẻ. Cần có một nền huấn luyện đức tin cởi mở và hướng đến đối thoại nhiều hơn với những người không cùng đức tin. Cần tránh những tranh luận vô bổ theo hướng đúng-sai, so sánh theo kiểu hơn-kém và phê bình đến từ thành kiến hơn là từ sự hiểu biết lẫn nhau. Các bạn trẻ Công Giáo cần có cơ hội để đào luyện khả năng diễn đạt đức tin của mình bằng ngôn ngữ thường ngày dễ hiểu, để cả những người không cùng đức tin với mình cũng có thể hiểu được. Quan trọng nhất là họ cần được dạy sống đời sống chứng tá. Một nhân cách đẹp có khả năng thu hút và rao giảng về đức tin nhiều hơn rất nhiều so với những lời nói hay.
Thứ đến là trách nhiệm từ phía các bạn trẻ Công Giáo. Một tiến trình huấn luyện tốt bao giờ cũng là một tiến trình hai chiều: huấn luyện và tự huấn luyện. Nếu bạn muốn giới thiệu đức tin của mình đến với những người trẻ không Công Giáo, hãy sống cho họ thấy đức tin của bạn thật sự có giá trị trong cuộc đời bạn. Vậy nên việc đào sâu tìm hiểu về đức tin mà mình đã được dạy dỗ từ nhỏ, áp dụng thực hành những lý thuyết và những bài học luân lý tốt đẹp, làm gương sáng giữa một môi trường có nhiều gương xấu và cám dỗ… tất cả thuộc về trách nhiệm của một người trẻ Công Giáo. Càng tự huấn luyện mình theo khuôn mẫu của đức tin Công Giáo, càng trở thành một nhân cách sống đẹp, bạn sẽ càng có khả năng thu hút và nói với những người khác về đức tin của mình.
Giáo Hội cần đến bạn và Giáo Hội đặt niềm tin vào bạn. Bạn chính là cách thức và phương thế để Giáo Hội vươn đến với những người trẻ khác.
Cũng đừng quên rằng bất cứ khi nào bạn cần trợ giúp, cần có ai đó hướng dẫn mình, trong Giáo Hội luôn có rất nhiều người sẵn sàng lắng nghe, đồng hành, và cố vấn cho bạn.
Chúc bạn can đảm và mạnh mẽ lên đường, làm lan toả đức tin của Chúa đến với những bạn trẻ ngoại đạo.
(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 1, Nxb Tôn Giáo, 2020)
Tôi thấy đạo Công Giáo luôn nhớ xin lễ và cầu nguyện cho ông bà tổ tiên. Nhưng nhiều người vẫn cho là bên Công Giáo không thờ cúng ông bà tổ tiên. Vậy có cách nào cho họ hiểu đúng về đạo Công giáo về vấn đề này không?
Trả lời:
Bạn thân mến,
Trong câu hỏi trên, chúng ta đang đứng trước một vấn đề xảy ra đằng đẵng từ vài thế kỷ trước với nhiều tranh luận, đau thương và nước mắt. Điều này cho thấy đây là câu hỏi quan trọng cho Giáo Hội để suy nghĩ, thích nghi và hội nhập văn hóa. Chúng ta dễ thấy nhiều khác biệt giữa lương dân, người Phật Giáo và Công Giáo, nhất là trong vấn đề thờ cúng ông bà tổ tiên. Chỉ nhìn vào cách họ bài trí bàn thờ tổ tiên, niềm tin của họ về vấn đề người chết, về ông bà tổ tiên, chúng ta dễ dàng có những băn khoăn. Đúng sai chúng ta chưa bàn tới, nhưng trước thực trạng đó, Giáo Hội Công Giáo thực sự muốn đồng hành với con cái mình ngay trong những văn hóa, tâm tình thiêng liêng và cách biểu lộ niềm khao khát của mình.
Vế sau trong câu hỏi của bạn luôn là điều Giáo Hội quan tâm hướng dẫn mỗi tín hữu. Quan tâm vì trước những khác biệt trong cách thể hiện niềm tin: Làm sao để chia sẻ cho người Công Giáo hiểu điều họ đang thực hành? Làm sao để thấy những điều hợp lý và phi lý trong những thực hành tôn giáo đó? Dĩ nhiên Giáo Hội có những bản hướng dẫn cụ thể để chúng ta tự tin, mạnh dạn và yêu mến thực hành những gì Thiên Chúa mong muốn.
Khai triển dưới đây là chút tóm gọn từ nhiều nguồn tài liệu mà chúng ta dễ dàng tìm thấy trên Internet hoặc trong nhà sách Công Giáo.
Hy vọng khi nhìn lại chút lịch sử của “thờ kính ông bà tổ tiên”, mỗi người, nhất là những người trẻ, thấy được những điều thú vị và có câu trả lời cho riêng mình. Từ đó, hãy mạnh dạn sống những điều Thiên Chúa dạy và biết cách chia sẻ những thắc mắc về vấn đề này cho chúng bạn cùng trang lứa.
1. Những năm tháng tranh luận
Như bạn cũng biết Đạo Công Giáo vào Việt Nam từ đầu thế kỷ 17 (năm 1615). Cũng như bất kỳ tôn giáo nào, Công Giáo cũng gặp nhiều khó khăn để hội nhập vào mảnh đất phong phú về tâm linh, niềm tin, tín ngưỡng và văn hóa. Cụ thể, người Việt chúng ta luôn coi trọng đạo Hiếu. Thờ cha kính mẹ đã là truyền thống ngàn đời của người Việt. “Ðạo hiếu là một đặc tính của đạo tâm, làm cho con người tỏ lòng thành kính đối với cha mẹ, tiền nhân, nên chỉ nuôi dưỡng cha mẹ mà không có lòng hiếu thảo thì làm sao gọi là hiếu được!” (Lm. Giuse Vũ Kim Chính, SJ). Ngày mất, ngày giỗ của ông bà cha mẹ luôn buộc con cháu phải quy tụ về để thắp nén nhang tỏ lòng thành kính. Tạ ơn Thiên Chúa vì tâm tình cao quý ấy của người Việt. Trước nghi thức này, nhiều nhà truyền giáo thời xưa đã thành công trong việc nối kết phong tục ấy với cách thờ phượng Thiên Chúa.
Đáng tiếc là một số nhà truyền giáo lại ngộ nhận vấn đề trên. Họ cho rằng việc thờ kính ông bà tổ tiên là một tôn giáo, nên cần loại trừ. Tôn giáo nghĩa là có một Đấng Tối Cao để tôn thờ, yêu mến. Phải chăng người Việt thờ kính ông bà tổ tiên như thờ Thiên Chúa của họ? Có sự ngộ nhận này là vì: “Nhiều người nghĩ trong khi thức cúng lễ gia tiên, người Việt đọc những lời thần chú gì đó.” Không! Chúng ta chỉ nói lên tâm tình của con cháu với ông bà tổ tiên của mình.
Lý do thứ hai, thời xưa nhiều người ngộ nhận rằng người Việt cử hành nghi lễ thờ kính ông bà tổ tiên, bởi chữ “lễ” ấy cũng giống chữ “lễ” bên tôn giáo (họ nghĩ thế). Người Việt hiểu chữ “lễ” này đơn giản là lễ phép tỏ lòng kính thờ ông bà tổ tiên. Kế đến, có thể đây là lý do đáng ngại nhất khiến Giáo Hội chần chừ trong việc chấp nhận nghi thức thờ kính ông bà tổ tiên: thờ “bài vị”, vốn là nơi cư trú của các vong hồn (nhiều người tin như thế), hoặc thờ “hồn bạch”, vốn là nơi hồn người chết nhập vào. Dĩ nhiên, nếu chiếu theo niềm tin ấy, Giáo Hội có lý để khuyên các tín hữu không thờ bài vị hoặc hồn bạch, vì sau khi ông bà tổ tiên chết, linh hồn của họ không còn “lảng vảng” trên dương thế nữa. Theo đó, người Công Giáo cũng không cúng đồ ăn, thức uống cho người đã chết.
Phải thừa nhận trong lịch sử Nước Nam, nhiều người Việt tin rằng việc thờ kính ông bà tổ tiên là một tôn giáo (Đạo Ông Bà). Tiếng Việt dùng danh từ “tôn giáo” để chỉ chung cho các tín ngưỡng (tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên). Họ “thờ” tổ tiên như “thờ” thần thánh hoặc Thiên Chúa, một Đấng Tối Cao. Theo đó, nhiều nghi thức được thêu dệt đến nỗi gây nhiều hiểu lầm, và có thể là cả mê tín dị đoan (đốt vàng mã, gọi hồn, của cúng...).
Trước những tranh luận xôn xao ấy, Giáo Hội đành chọn cách tốt nhất là: quyết định cho người Công Giáo chỉ được tôn kính tổ tiên theo cách Giáo Hội quen làm, chứ không được thờ cúng theo hình thức cổ truyền địa phương. Quyết định ngày xưa ấy đã khiến nhiều người Việt nhìn người Công Giáo với con mắt khác. Tệ hơn nữa, nhiều người tẩy chay tôn giáo này và đó cũng là lý do biện minh cho các cuộc bách hại của nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn, và cả phong trào Văn Thân[1]. Đó là thời cuộc nhiễu nhương với nhiều ngộ nhận về vấn đề thờ kính ông bà tổ tiên. Kết quả là nhiều người tử đạo và quan điểm ấy vẫn còn liên lụy cho đến ngày nay. (Chẳng hạn trong chính câu hỏi của bạn nói lên ý đó!)
2. Những chỉ dẫn kịp thời
Trước trang sử đau buồn ấy, Giáo Hội cần hành động và đã đưa ra hướng dẫn kịp thời trong vấn đề hội nhập văn hóa. Thật dễ dàng để các bạn đọc lại những quyết định của Tòa Thánh về vấn đề này trong Huấn thị “Plane compertum est” được Tòa Thánh đề ra cho Giáo Hội tại Trung Hoa ngày 08-12-1939. Đại ý trong đó cho phép Giáo Hội địa phương: “không hủy bỏ hay dập tắt những giá trị thiện hảo, liêm chính, chân thành của các dân tộc.”
Sau Công Đồng Vatican II, một trang sử mới mở ra không chỉ cho Giáo Hội hoàn vũ, nhưng đó cũng là cơ hội để Giáo Hội Việt Nam tiếp nhận vấn đề thờ kính ông bà tổ tiên. Các Giám mục hội nghị tại Đà Lạt trong những ngày tháng 6 năm 1965, nhằm đưa ra nhiều hướng dẫn. Chẳng hạn:
“Vì thế, những cử chỉ, thái độ và nghi lễ tự nó hoặc do hoàn cảnh, có một ý nghĩa thế tục rõ ràng là để tỏ tinh thần ái quốc, lòng hiếu thảo, tôn kính hoặc tưởng niệm tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ (như treo ảnh, hình, dựng tượng, nghiêng mình bái kính, trưng hoa đèn, tổ chức ngày kỵ, giỗ...) thì được thi hành và tham dự cách chủ động.”
Sau đó 9 năm, các Giám mục tiếp tục họp tại Nha Trang (1974) cũng đưa ra chỉ dẫn tương tự về các lễ nghi tôn kính Ông Bà Tổ Tiên. Sáu điểm chúng ta dễ dàng đọc trên mạng trong Quyết nghị về Lễ nghi tôn kính Ông Bà Tổ Tiên. Chẳng hạn, về cách bài trí bàn thờ gia tiên, về việc đốt nhang hương, đèn nến, ngày “cúng giỗ”, “lễ tổ, lễ gia tiên”, được vái lạy trước thi hài người quá cố, được tham dự nghi lễ tôn kính vị thành hoàng, v.v. Miễn là tránh mọi hình thức mê tín dị đoan.
Nếu còn bối rối về vấn đề này, chúng ta dễ dàng thấy nhiều chỉ dẫn trong: Văn kiện hướng dẫn việc tôn kính tổ tiên (công bố ngày 7 tháng 10 năm 2019).
Bạn nhận xét rất đúng khi nhắc lại việc người Công Giáo luôn thờ kính ông bà, cha mẹ, tổ tiên là những người đã khuất. Trên hết, đó là điều răn, là giới luật của Thiên Chúa: Thảo kính cha mẹ. Chúng ta cũng dễ dàng đọc thấy Thiên Chúa đòi hỏi người ta phải thảo kính với cha mẹ. Chẳng hạn sách Huấn Ca khuyên rằng: “Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai chọc giận mẹ mình, sẽ bị Ðức Chúa nguyền rủa.” (Hc 3,16). Sau này thánh Phaolô khẳng định thêm: “Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này.” (Ep 6,2).
Ngoài ra, chúng ta dễ dàng nhận thấy lòng tôn kính, liên kết với ông bà tổ tiên trong cả tháng Mười Một, vốn là tháng con cháu kính nhớ, cầu nguyện cho những người thân yêu đã qua đời. Mồng Hai Tết - kính nhớ ông bà tổ tiên. Trong thánh lễ, chúng ta thường nghe Linh mục thay mặt cộng đoàn cầu nguyện cho: “anh chị em đã ly trần, và mọi người, đặc biệt các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ và thân bằng quyến thuộc…”. Đó chưa kể đến nhiều người thường xin lễ, đọc kinh, viếng đất thánh, nhà hài cốt thường xuyên, để cầu nguyện cho những người thân đã khuất.
3. Hòa nhập chứ đừng hòa tan
Nhìn lại lịch sử vài thế kỷ trước, nhiều người vội trách Giáo Hội quá khắt khe và bảo thủ. Tại sao Giáo Hội không cho phép ngay việc thờ kính ông bà tổ tiên? Để bảo vệ con cái mình, trong hoàn cảnh đó, vấn đề này còn nhuốm màu mê tín dị đoan, nên Giáo Hội buộc phải e dè. Từ đó, người Công Giáo đã một thời bị chế giễu “theo đạo bỏ ông bà”. Thành kiến ấy, tạ ơn Chúa, ngày nay không còn nữa.
Ngoài ra, nhiều phong trào đã giúp cho người Việt tránh xa được mê tín dị đoan. Chẳng hạn, đạo Công Giáo cũng chỉ ra những vấn đề mê tín ở Việt Nam từ vài thế kỷ trước[2]. Có khi bị phản đối, nhưng mưa dầm thấm lâu, người Việt cũng dần nhận ra vấn đề. Đáng chú ý nhất là từ những năm 1930, phong trào trí thức của nhóm Tự Lực Văn Đoàn[3] với biết bao bài viết, sách báo, tiểu thuyết đã giúp thay đổi được não trạng quần chúng, phá đổ được nhiều tệ đoan của xã hội. Cụ thể những mê tín dị đoan trong các phong tục cũng được phong trào này chỉ ra. Khi não trạng người dân thay đổi, Giáo Hội cũng cởi mở hơn về vấn đề thờ kính tổ tiên.
Có rất nhiều điều phù hợp với giá trị Tin Mừng nơi các nền văn hóa. Việc thờ kính ông bà tổ tiên chẳng hạn. Bởi “đôi khi Thiên Chúa đã gieo mầm trong các nền văn hóa cổ xưa trước khi Tin Mừng được rao giảng”. Do đó, khi khám phá những chân lý trong các nền văn hóa, Giáo Hội cố gắng hòa nhập, chứ không hòa tan, lựa chọn cách tốt nhất để giúp các linh hồn. Hẳn nhiên là cách ấy có khi gây hiểu lầm cho nhiều người. Nhưng với thời gian, lý giải và đối thoại chân thành, hy vọng người ta hiểu hơn về những quyết định của Giáo Hội cần hợp với Tin Mừng.
Cụ thể, bạn hỏi có cách nào cho người khác hiểu đúng về vấn đề thờ kính ông bà tổ tiên của người Công giáo không?
Giáo Hội đã, đang và vẫn theo đuổi con đường đối thoại, gặp gỡ và tôn trọng những khác biệt. Tạ ơn Chúa vì trong tiến trình ấy, ngày càng có nhiều lương dân, người Phật Giáo hiểu hơn về cách người Công Giáo thờ kính ông bà tổ tiên. Nhất là nhiều người Công Giáo mời lối xóm, bà con bên lương đến chung vui trong dịp giỗ chạp. Trong tang lễ người Công Giáo cũng chia sẻ chút khác biệt trong cách họ cử hành. Chân thành và nhẹ nhàng. Rồi qua lối sống yêu thương, nhiều người nhận ra tấm lòng hiếu thảo của người con Công Giáo với tổ tiên của mình.
Nhất là khi trò chuyện, chúng ta cũng chân nhận một thời Giáo Hội cũng “luống cuống” trong vấn đề này. Bởi, trước giờ Giáo Hội ở Châu Âu chưa phải đối diện với vấn đề thờ kính ông bà tổ tiên. Nên trước vấn đề này, Rôma đã có những ngăn cấm. Chúng ta cũng nhận lỗi về những thiếu sót trong việc thờ kính ông bà tổ tiên, ít là về hình thức bên ngoài. Do đó nhiều người buông lời nhận xét tiêu cực về người Công Giáo trong vấn đề này cũng là có lý do.
Là người trẻ, những gia đình trẻ, chúng ta để tâm hơn đến chút hình thức bên ngoài về bàn thờ ông bà tổ tiên. Nơi đó, chúng ta tưởng nhớ đến linh hồn người đã khuất. Theo chân các ngài, con cháu tiếp tục sống trung thành với Thiên Chúa và nên chứng tá giữa đời. Những hình thức tỏ lòng thờ kính với tổ tiên, chúng ta dễ dàng tìm thấy nơi hướng dẫn của Giáo Hội. Chẳng hạn, quyển Kinh nguyện gia đình và Gia lễ Công giáo, sách Nghi Lễ An Táng, v.v.
Trong đối thoại liên tôn, thật đáng tiếc nếu chúng ta lên án các nghi lễ của nhau. Đương nhiên mỗi tôn giáo có những nghi lễ rất khác biệt. Ví dụ chúng ta cần tôn trọng nghi lễ thờ kính ông bà tổ tiên của người lương dân, của các tôn giáo khác. Mặt khác, chúng ta cũng xác tín và hãnh diện về những cử hành đức tin của người Công Giáo, cách chúng ta thờ kính ông bà tổ tiên. Tôn trọng trong khác biệt! Rồi với những nỗ lực trong hội nhập văn hóa, hy vọng mỗi người hiểu hơn về nhau.
Sau cùng, khi ngỏ lời với các bạn ngoài Kitô Giáo, tác giả cuốn 50 năm Thờ Kính Tổ Tiên, Linh mục Trăng Thập Tự chia sẻ như sau:
Tôi đang chia sẻ với bạn một Tin mừng, một niềm vui. Nếu bạn nghĩ rằng tôi đang làm công tác truyền giáo thì cũng chẳng sao. Bởi lẽ truyền bá một tôn giáo tốt lành thì chẳng có gì xấu xa. Lắm người làm như thể khi chúng tôi bảo nhau truyền giáo là chúng tôi đang âm mưu làm một chuyện gì đen tối, bậy bạ, chẳng khác nào đang lén lút rủ nhau phạm những tội ác gì quái gở! Ồ không, bạn thấy đó, chúng tôi chỉ muốn chia sẻ với mọi người một thông tin quan trọng và hữu ích: Đó là, tất cả chúng ta đều có chung một người Cha là Thiên Chúa Tạo Hóa, chẳng phải vì chúng ta xứng đáng gì để được làm con Ngài, nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta đến nỗi đã tặng ban người Con duy nhất của Ngài là Chúa Giêsu Kitô cho chúng ta, đến làm Anh Cả của nhân loại, cho tất cả chúng ta thành em của Người Anh Cả ấy và thành con cái của Cha trên trời.
Tác giả viết tiếp:
Được biết Thiên Chúa là Cha, bạn sẽ sung sướng nhận ra rằng người Cha ấy ôm ấp trong lòng Ngài cả bản thân bạn và Tổ tiên bạn. Bạn trả lời cho tôi xem, mỗi khi nghĩ đến Ông Bà Tổ Tiên, bạn hình dung thấy họ ở đâu? Ở với Nguồn Cội nào? Nơi họ ở tối tăm hay rực sáng? Nếu rực sáng thì ánh sáng ấy do đâu?
Ước gì tâm tình trên đây cũng là câu trả lời cho một phần thắc mắc trên của bạn, cũng như của nhiều người liên quan đến việc thờ kính ông bà tổ tiên.
Xin Chúa chúc lành cho bạn, nhất là cho ông bà tổ tiên của chúng ta. Để ước mong các ngài cũng cầu thay nguyện giúp cho con cháu luôn sống gần gũi với Chúa Giêsu hơn. Từ đó, chúng ta yêu mến những nét đẹp của truyền thống dân Việt và để hạt giống Tin Mừng nảy mầm, phát triển trên quê hương con rồng cháu tiên này.
(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 1, Nxb Tôn Giáo, 2020)
WHĐ (19.7.2021)
--------------- [1] Theo wikipedia: Văn Thân là một phong trào quần chúng do các nho sĩ Việt Nam lãnh đạo với mục tiêu “bình Tây, sát tả” (nghĩa là: “dẹp người Pháp, giết người Công giáo”) để cứu nước. Phong trào này khởi phát từ năm 1864 bằng cuộc bãi thi của sĩ tử trong kì thi Hương tại các trường miền Bắc và miền Trung nhằm phản đối triều đình nhà Nguyễn ký Hiệp ước Nhâm Tuất (1862) nhượng 3 tỉnh miền Đông của Nam phần cho Pháp. [2] Chẳng hạn Giáo Hội cho rằng: “Phải loại bỏ mọi hình thức bói toán. Nghĩa là khi ta cậy nhờ Xa–tan hay ma quỉ, gọi hồn người chết hay những cách khác ngỡ rằng sẽ đoán được tương lai. Thậm chí coi tử vi, chiêm tinh, xem chỉ tay, giải điều mộng, xin xăm, bói toán quá khứ vị lai, đồng bóng, đều là những hình thức che giấu ước muốn có quyền trên thời gian, trên lịch sử và trên cả con người, cũng như ước muốn liên kết với các thế lực huyền bí.” (Giáo Lý Công giáo số 2115). [3] Khi học văn học, chúng ta cũng được học nhiều tác phẩm của nhóm này. Ví dụ, Hồn Bướm Mơ Tiên, Nửa Chừng Xuân, Thừa Tự – đều của Khái Hưng, Đoạn Tuyệt , Lạnh Lùng , Đôi Bạn – đều của Nhất Linh, Con Đường Sáng (Hoàng Đạo), Mấy Vần Thơ (Thế Lữ), Gió Đầu Mùa (Thạch Lam), Dòng Nước Ngược (Tú Mỡ),v.v.
Một số bạn sinh viên không theo đạo Công Giáo, nhưng các bạn ấy rất thích tham gia các sinh hoạt, hoạt động của người Công giáo. Có người nói bên Công giáo lôi kéo người ta. Vậy trong truyền giáo có chút “lôi kéo” không? Con cũng muốn biết thêm: Nếu ngoài Kitô giáo cũng có ơn cứu độ, vậy đâu là ý nghĩa của việc truyền giáo? Trong truyền giáo có chút “lôi kéo” không?
Trả lời:
Trước khi về Trời, Đức Giêsu đã truyền dạy các môn đệ “hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, làm cho muôn dân trở thành môn đệ Thầy, làm phép rửa cho họ”, kèm theo đó là lời hứa “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (x. Mt 28,19). Thầy Giêsu sẽ luôn ở cùng chúng ta trên hành trình truyền giáo, và cụm từ “mọi ngày cho đến tận thế” làm cho chúng ta có cảm tưởng rằng hành trình này sẽ chẳng bao giờ kết thúc. Nó chỉ kết thúc vào “ngày tận thế”. Quả vậy, cho đến nay, còn có rất nhiều người trên thế giới này chưa biết đến Chúa, chưa tin vào Chúa, thậm chí còn chối bỏ Chúa.
Việc có nhiều bạn sinh viên không theo đạo Công Giáo nhưng lại thích tham gia các sinh hoạt của người Công Giáo là một niềm vui cho chúng ta vì nhiều lý do. Trước hết, chúng ta thấy được khao khát của nhiều người trẻ. Không phải bạn trẻ nào cũng ăn chơi sa vào những trò truỵ lạc, nhưng vẫn còn rất nhiều bạn muốn sống một cuộc sống có ích và tìm thấy niềm vui trong những hoạt động lành mạnh. Rồi nữa, chúng ta thấy được điểm chung của người trẻ: họ tìm đến với nhau để chia sẻ cuộc sống vượt trên những khác biệt về niềm tin tôn giáo. Thứ đến, chúng ta có quyền tự hào về đạo Công Giáo và những sinh hoạt hữu ích của mình, vì nếu không, nó đã chẳng thu hút những người không cùng niềm tin đến như vậy.
Hiện nay có rất nhiều tôn giáo muốn gia tăng số lượng tín đồ nên đã dùng những cách thức truyền giáo rất “vật chất”. Họ hứa hẹn nếu ai đó theo đạo của mình thì sẽ được tặng 10kg gạo, nhà cửa hay một cơ hội học hành… Và cũng đã có nhiều người vì thấy được lợi ích hấp dẫn như vậy nên đã đồng ý theo tôn giáo đó mà không cần biết đạo đó là đạo gì, có nền tảng ở đâu, sẽ đưa người ta đi về đâu. Có nhiều giáo phái thậm chí còn có những hoạt động như sai người đi khắp nơi, vào tận nhà người dân, giảng giáo lý cho họ và khuyên họ hãy “ăn năn sám hối” nếu không sẽ bị trừng phạt nay mai…
Những kiểu chiêu dụ tín đồ như thế có thể có một vài thành công lúc khởi đầu nhưng sẽ không tồn tại lâu. Đạo Công Giáo đã tồn tại hơn 2000 năm trong lịch sử và hiện nay là một tôn giáo có số tín đồ lớn thuộc hạng bậc nhất thế giới. Nhưng chúng ta không “lôi kéo” người khác vào đạo của mình theo kiểu như vậy. Rất nhiều người xin gia nhập Công Giáo vì cảm nghiệm được nét hay nét đẹp nơi giáo lý chính thống và đúng đắn mà Chúa Giêsu truyền lại. Cũng có không ít người muốn trở thành người Công Giáo vì thấy được lối sống tuyệt vời của những mẫu gương là những vị chủ chăn, những vị Thánh, Chân Phước được Giáo Hội công nhận. Nếu như Giáo Hội đã có thể sản sinh ra một kho tàng những thành quả tốt đẹp như thế thì chắc chắn con đường mà Giáo Hội truyền dạy phải là con đường đúng đắn và khả tín, dẫn đưa người ta tiến về cõi phúc đích thực.
Ý thức rằng đức tin là một món quà của Chúa và nó phải được đón nhận bằng sự tự nguyện, Giáo Hội chưa bao giờ ép buộc ai phải tin khi người đó chưa sẵn sàng. Giáo Hội cũng không thực hiện bí tích thanh tẩy cho ai khi người đó thật sự không muốn. Ngay cả trong lĩnh vực hôn nhân, dù rất muốn bên không Công Giáo theo đạo để vợ chồng có thể chung chia với nhau một niềm tin, thuận tiện hơn cho đời sống vợ chồng và nuôi dạy con cái, nhưng nếu bên không Công Giáo không muốn thì Giáo Hội vẫn có “phép chuẩn” để đạo ai nấy giữ, miễn là bên Công Giáo phải cam kết tuân giữ một vài điều kiện để không làm tổn hại đến đức tin của mình và của con cái sẽ có. Điều này cho thấy, sự “lôi kéo” mà chúng ta có không phải là một kiểu chiêu dụ bất chấp, cốt để gia tăng số lượng tín đồ, nhưng đến từ chính nét đẹp mà chúng ta toả ra khi sống những giá trị siêu vượt mà Đức Kitô mang đến.
Một cách cụ thể, nếu như các bạn sinh viên không Công Giáo hào hứng và tham gia cách tích cực vào những sinh hoạt của Giáo Hội, thì có nghĩa là phía Công Giáo chúng ta đáp ứng được những nhu cầu của họ, làm cho họ được vui, được hạnh phúc và lớn lên. Họ cũng nhìn thấy nơi chúng ta một môi trường thật lành mạnh và tin tưởng để có thể dấn thân mà không sợ hãi. Chắc chắn, trong những hoạt động mà chúng ta dành cho họ, không hề có một sự phân tách dựa trên bình diện tín ngưỡng, cũng không hề có một điều kiện bắt họ phải theo đạo mình, càng không hề có dụng ý lôi kéo họ vào đạo của chúng ta.
Đến đây, chúng ta thấy mình được mời gọi để tiếp tục trở thành nhân chứng sống động cho Đức Kitô qua lối sống tốt lành của chúng ta: quảng đại, hy sinh, hiền lành, yêu thương… Chính những giá trị này được sống cách trưởng thành và đúng đắn sẽ trở thành sự “thu hút” mạnh mẽ nhất mà không một bài giảng và sách vở nào có thể mang lại. “Hữu xạ tự nhiên hương”, nếu tôn giáo của chúng ta là một tôn giáo tốt và chân thật, tự nó sẽ sinh ra những hoa trái thơm ngọt là đời sống của chúng ta, và khi chúng ta sống tốt, tự nó sẽ có sức làm người ta tò mò tìm đến và muốn được như thế.
Nếu ngoài Kitô giáo cũng có ơn cứu độ, vậy đâu là ý nghĩa của việc truyền giáo?
Như đã nói ở trên, truyền giáo là một mệnh lệnh của Chúa Giêsu trước khi Ngài về trời. Chúa Giêsu muốn cho tất cả mọi người trên trái đất này đều được biết đến Tin Mừng và nhờ đó được lãnh nhận ơn cứu độ qua việc chịu phép rửa và trở thành môn đệ của Ngài. Giáo Hội của chúng ta, từ khi được thiết lập cho đến nay, vẫn không ngừng thực thi mệnh lệnh này của Chúa. Đã có rất nhiều người xông pha không mệt mỏi trên các chặng đường xa xôi để truyền giáo, có khi hy sinh luôn cả tính mạng. Ơn cứu độ là của riêng Chúa, và với tư cách là Đấng Quyền Năng và tự do hoàn toàn, Ngài có quyền ban ơn đó cho bất cứ ai Ngài muốn và ở thời điểm nào Ngài thích. Có nhiều người không hề biết đến Tin Mừng của Chúa (do sinh ra trước Đức Giêsu hoặc do Tin Mừng chưa thể vươn tới được), nhưng đã sống một đời sống rất tốt. Chúng ta tin là Chúa chẳng thể nào không đón nhận những người này vào Nước Ngài. Nếu vậy, tại sao chúng ta cần gì phải vất vả truyền giáo làm gì?
Ngày trước, do có những quan niệm sai lầm, người ta cho rằng một cuộc truyền giáo thành công là rửa tội cho thật nhiều người, là đưa họ vào trong đạo Công Giáo. Truyền giáo được hiểu như một kiểu bành trướng của Công Giáo. Tệ hơn, nhiều nhà truyền giáo còn muốn gạt bỏ đi tất cả những giá trị tâm linh và văn hoá tốt đẹp mà người bản địa đã có từ bao đời. Điều này sẽ vô tình tạo nên một sự ác cảm của người khác dành cho Công Giáo. Số khác cởi mở hơn, không mang tư tưởng áp đặt nhưng lại cho rằng truyền giáo là “mang Chúa đến nhiều vùng đất mới” như thể Chúa chưa từng hiện diện nơi đó. Truyền giáo được hiểu theo nghĩa này hệt như một kiểu ban phát. Suy nghĩ như thế cũng không gây thiện cảm cho người ta. Thực ra, Chúa đã luôn hiện diện ở đó rồi. Có rất nhiều những cuộc tranh luận nảy lửa trong lịch sử Giáo Hội liên quan đến vấn đề truyền giáo. Quan niệm về truyền giáo và cách thức truyền giáo vẫn luôn là một vấn đề nhức nhối, không dễ giải quyết. Ta cần phải hiểu về nó như thế nào?
Ở một khía cạnh nào đó, ta thấy việc truyền giáo xuất hiện cách tự nhiên nơi thâm tâm của những ai đã bắt gặp được chân lý của đời mình. Anrê, sau khi đã “ở lại” với Giêsu, cảm nghiệm được điều gì đó khác biệt và kỳ diệu nơi Ngài, đã vội vàng tìm gặp Simon và nói với Simon về Giêsu, đồng thời đích thân dẫn Simon đến gặp Giêsu (x.Ga 1,40-42). Chị phụ nữ người Samari, sau cuộc trò chuyện với Đức Giêsu tại bờ giếng, ngỡ ngàng trước cung cách và lời nói của Ngài, đã ngay lập tức chạy vào thành để nói về Ngài cho người khác (x.Ga 4,39-42). Khi người ta nhận được một tin vui nào đấy, tự khắc người ta sẽ được thúc đẩy để chia sẻ tin vui đó cho người khác. Càng nhiều người biết tin vui ấy thì niềm vui càng lớn hơn và người chuyển trao tin vui đó cũng sẽ thấy rất ấm lòng và hạnh phúc. Tương tự như vậy, việc truyền giáo cũng nảy sinh từ những tín hữu đã nghiệm thấy được lẽ sống và niềm hy vọng vĩnh cửu cho đời mình. Họ vui đến nỗi không thể giữ kín điều đó cho riêng mình mà phải lên đường để chia sẻ niềm vui đó cho người khác, với khát mong rằng những người khác cũng sẽ có được sự khai sáng ấy.
Ngoài ra, đã đành ơn cứu độ vẫn có thể được ban ngoài môi trường Công Giáo, nhưng nếu không được chuẩn bị, nó không thể nảy mầm và lớn lên được. Có rất nhiều nơi trên thế giới, người ta vẫn còn sống trong những hủ tục lạc hậu, phản khoa học, sai lầm về mặt luân lý. Thậm chí, có những nơi tuy phát triển về vật chất, nhưng con người cứ loay hoay mãi trong những vòng xoáy của cuộc sống và đánh mất đi ý nghĩa và mục đích sự hiện hữu của mình. Những đối tượng này cần được giúp để nhận ra vấn đề của mình và sắp xếp lại cuộc sống sao cho tốt hơn và hướng về cứu cánh của mình là Thiên Chúa, dù họ có chân nhận sự hiện hữu của Ngài và vai trò của Giáo Hội hay không. Đây cũng chính là hoạt động truyền giáo: giới thiệu cho người ta một con đường để tìm về Đấng có thể giải cứu họ khỏi vòng nô lệ của kiếp người. Đây rõ ràng là điều rất cần thiết.
Hơn nữa, chúng ta cũng không thể không chân nhận rằng môi trường Công Giáo là một môi trường tốt và lành mạnh, giúp con người phát triển nhiều mặt. Nghi lễ phượng tự, học giáo lý, trại hè, sinh hoạt giới trẻ, ca đoàn, tĩnh tâm… đều là những phương tiện rất tuyệt để người ta thêm lòng yêu thương, gắn bó và sống những giá trị siêu việt ở mức độ cao nhất. Nếu trẻ em và giới trẻ được giáo dục trong môi trường tốt đẹp như thế này, chắc chắn khi vào đời, chúng sẽ là những con người hữu ích cho xã hội và Giáo Hội. Những chân lý của Chúa Giêsu sẽ được thực thi cách rộng rãi, lan truyền từ nơi này đến nơi kia, từ đời này đến đời kia. Những sự xấu xa sẽ từ đó mà giảm bớt đi. Bởi thế, nếu chúng ta có thể thu hút nhiều người trở thành Kitô hữu, thì chính chúng ta và những người đó cũng sẽ được sống trong một “môi trường an toàn” để học hỏi, đào sâu đức tin, tránh xa những điều xấu. Con người của chúng ta sẽ được triển nở đến mức hoàn hảo nhất. Một viễn tượng như thế chắc chắn là rất khác với một xã hội nơi người ta cứ vật vờ tự mình lẽ sống cho mình, chẳng nhận được nơi đâu sự trợ giúp. Ta truyền giáo, chính là mở rộng môi trường tốt lành của Công Giáo đến càng nhiều người càng tốt, để tất cả có thể trở thành anh chị em với nhau.
Có người cho rằng “đạo nào cũng tốt, đâu cần gì phải theo đạo Công Giáo”. Tiếng lương tâm mà Tạo hoá đặt để trong sâu thẳm mỗi người vẫn luôn lên tiếng dạy bảo người ta làm lành lánh dữ. Những chân lý mặc khải mà các Kitô hữu nhận được từ Đức Giêsu không thay thế tiếng nói lương tâm, cũng không làm đảo lộn những giá trị mà lương tâm mách bảo. Tuy nhiên, cái cốt lõi của truyền giáo không phải chỉ là dạy người ta làm điều tốt (vì như đã nói, lương tâm mỗi người đã đủ sức làm điều đó). Nhưng đạo Công Giáo có thể giúp khai sáng hơn tiếng nói của lương tâm, giúp đưa ra những chỉ dẫn rõ ràng minh bạch hơn cho con người ở từng thời điểm và hoàn cảnh cụ thể. Ngoài ra, đỉnh điểm cao nhất của việc truyền giáo là giúp người ta nhận ra phẩm giá đích thật của mình. Truyền giáo là đánh thức con người khỏi giấc ngủ hiện sinh, cho họ thấy họ không chỉ là một sinh vật bình thường như bao giống loài khác, nhưng họ là con của Thiên Chúa và được mời gọi để vui hưởng hạnh phúc vĩnh viễn với Ngài.
Để minh hoạ cho ý này, chúng tôi xin mượn câu chuyện nhỏ sau:
Một cái trứng chim lạc vào chuồng gà. Nó nở ra và trở thành con chim. Nhưng vì mở mắt ra đã thấy con gà, nên nó không hề biết nó là chim. Nó cứ nghĩ nó giống những con gà kia, nên ăn ngủ, sinh hoạt hệt như gà. Cuộc sống của nó vẫn trôi qua bình thường, nó chẳng làm hại ai và cũng không ai làm hại nó, nhưng vì tự bản chất, nó không phải là gà, nên lòng nó vẫn cứ canh cánh băn khoăn điều gì đó mà nó chẳng biết. Căn tính “chim” của nó tuy vẫn nằm trong nó, nhưng bị mai một đi, khiến nó chưa bao giờ nghĩ đến một ngày nào đó sẽ tung bay trên bầu trời, dù khi nhìn thấy những con chim khác chao lượn trên cao, nó rất thích… Con chim ấy cần được bảo cho biết nó không phải là gà. Nó cần được giúp để nhận ra căn tính đích thực của mình, rằng môi trường của nó không phải là chốn này, nhưng là cả bầu trời rộng lớn trên cao. Nếu nó nhận ra được điều này, nó sẽ là nó cách đúng nghĩa nhất.
Truyền giáo cũng hệt như vậy: cho người ta biết người ta thuộc về một cõi siêu việt cao hơn cái mà họ đáng sống rất nhiều; người truyền giáo đích thực là người đã nghiệm ra và đã sống được phẩm giá cao quý ấy của mình. Đây cũng chính là tin vui (hay Tin Mừng) mà ta mang đến cho người khác.
(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 1, Nxb Tôn Giáo, 2020)
Vị trí của đức tin trong việc kiến tạo hòa bình, công bằng xã hội?
Trả lời:
Ai cũng có quyền mưu cầu hạnh phúc và bình đẳng trước Thiên Chúa và con người. Đó là mơ ước của nhân loại. Hầu hết hiến pháp dân sự đều công nhận các quyền căn bản của con người[1]. Xã hội loài người cũng ước mong xây dựng trong tinh thần đó. Tiếc là thực tế có quá nhiều điều ảnh hưởng tiêu cực đến quyền chính đáng trên. Bởi thế mới có tranh giành, bất công, bạo lực và chiến tranh. Từ cổ chí kim, ở khắp mọi nơi, những dạng thức của bất công đều tồn tại. Sẽ là ảo tưởng nếu cầu toàn một xã hội hòa bình thực sự, vì lịch sử chứng minh điều đó.
Tôn giáo nói chung, Giáo hội Công Giáo nói riêng, đòi hỏi tín hữu phải thi hành mệnh lệnh của Thiên Chúa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng.”(Mc 16,15). Lời loan báo Tin Mừng đó luôn đụng phải những chống đối từ nhiều phía. Khi Thiên Chúa mời gọi con người kiến tạo hòa bình, sống yêu thương và công bằng với nhau, không ít người hoặc thể chế chính trị bị đặt vào thế kẹt. Từ những xung khắc thường có, chính Giáo hội cũng gặp nhiều thách đố để làm chứng cho Tin Mừng.
Tuy nhiên, Giáo hội không bỏ cuộc. Rao Giảng Tin Mừng là căn tính của Giáo Hội. Kiến tạo một thế giới bình an, cùng với các thể chế chính trị, là ước mong của Giáo Hội. Dù ở quốc gia nào, Giáo hội trước tiên mời gọi con cái mình thượng tôn pháp luật, sống đúng với con đường của Tin Mừng. Từ tâm thế đó, người Công Giáo biết cách hành xử để làm cho môi trường sống được tốt đẹp hơn. Đó là hoa trái của Tin Mừng, là minh chứng cho sự hiện diện của Thiên Chúa.
Bạn thân mến,
Cảm ơn bạn đã hỏi một vấn đề mà hầu hết chúng ta quan tâm. Hòa bình, hạnh phúc và công bằng, là những điều nhân loại luôn theo đuổi. Tuy nhiên, để đạt được nó, không phải một sớm một chiều. Có khi phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới mong được chút hoa trái của những từ ngữ trên. Nếu đi vào nội dung của hiến pháp, của pháp luật dân sự, chúng ta tìm thấy hàng tỷ gợi ý để xây dựng xã hội xứng với nhân phẩm. Nếu đi vào từng Giáo Lý của các tôn giáo, vô số điều chúng ta thấy liên quan đến câu hỏi này của bạn. Rất may, bạn chỉ đặt vấn đề vai trò của đức tin trong công cuộc kiến tạo xã hội, theo hướng tốt đẹp nhất.
Để trả lời cho câu này. Trước hết, chúng ta dành đôi dòng để giải thích chút từ ngữ liên quan. Sau đó, từ góc độ đức tin Công Giáo, chúng ta thấy sáng lên hơn vai trò của nó trong mỗi thuật ngữ chúng ta đề cập. Đừng quên, chúng ta đã có nhiều chỉ dẫn rất tuyệt vời từ Giáo hội về vấn đề này: Giáo Huấn Xã Hội của Giáo hội Công Giáo (Docat), hay, Toát Yếu Giáo Huấn xã hội của Hội Thánh, v.v.
1. Hòa bình
Chúng ta đều hiểu hòa bình là không có chiến tranh. Chiến tranh và hòa bình không đội trời chung. Tiếc là làn ranh giữa hai điều này rất mong manh. Nhất là những vùng đất nhạy cảm, chúng ta thấy chiến tranh và hòa bình thường luôn được bàn tới. Kết quả là xã hội nơi ấy điêu tàn, người dân di tản và thế giới bất an.
Dĩ nhiên định nghĩa trên là chưa đủ. Là người Công Giáo, chúng ta hiểu rộng hơn hòa bình có nghĩa là sự yên bình có trật tự, sâu xa hơn là hạnh phúc trong trật tự thiện hảo của Thiên Chúa. Đó là đường hướng để Giáo hội theo đuổi hòa bình. Bởi thế, nhiều lần vị Giáo Hoàng đi đầu trong phong trào kiến tạo hòa bình giải thích:
“Hòa bình không phải chỉ là không có chiến tranh, không phải do bởi tình trạng bấp bênh không quân bình giữa các sức mạnh; mà hòa bình được xây dựng từng ngày bằng cách thiết lập một trật tự công bằng hơn giữa loài người như Chúa muốn.” ĐGH Phaolô VI.
Do đó, người Công Giáo dĩ nhiên không thể đứng ngoài cuộc trong tiến trình dựng xây xã hội. Chúng ta mong xã hội được an bình. Chú ý là bình an ấy phải đến từ Thiên Chúa và phải là thứ bình an ấy mà thôi. “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian.”(Ga 14,27). Chỉ khi nào chúng ta thấm đẫm được tinh thần này, khi đó mới nói đến chuyện kiến tạo hòa bình theo tinh thần Kitô giáo. Nếu không, người ta dễ dàng rơi vào con đường xây dựng “hòa bình” của kẻ độc tài Hitler[2].
2. Công bằng
Đây là hai từ đau đầu nhức óc cho nhân loại. Nếu “chia cái bánh thế nào?”, thì thật dễ biết bao. Nhưng “chia cái bánh thế nào cho công bằng?” lại là một chuyện vô cùng phức tạp, không dễ trả lời! Đó là câu hỏi người ta cãi nhau suốt dòng lịch sử mà vẫn chưa thấu suốt. Chỉ vì hai chữ “công bằng” mà nhân loại chia phe phái để tranh giành, gây hấn và tàn sát lẫn nhau.
Tuy vậy, chúng ta thử đưa ra vài cách hiểu:
– “Công bằng là việc mỗi người tôn trọng quyền lợi của mình và của tha nhân theo quy định của pháp luật và của quy tác xã hội.” (Từ Điển Công Giáo)
– “Công bằng là luật đi liền với bác ái.” Công Đồng Vatican II.
– “Công bằng là quyết tâm trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa và trả cho tha nhân những gì thuộc về tha nhân.” (GLCG 1807).
Ba định nghĩa trên đây chỉ là nguyên tắc. Vào thực tế, công bằng phức tạp hơn nhiều. Chẳng hạn, làm mấy giờ một tuần là công bằng? Trả tiền lương bao nhiêu là công bằng? Phạt bao nhiêu là công bằng cho hai bên? Tiền thuế như thế nào mới công bằng? Hàng tỷ câu hỏi liên quan đến vấn đề này mà không phải dễ thỏa lòng hết mọi người.
Mỗi quốc gia và cả Giáo Hội, một cách chung, đều chấp nhận áp dụng công bằng theo:
– Công bằng phân phối: quy định của cộng đồng phải thực hiện cho mỗi công dân tương xứng với sự đóng góp và nhu cầu của họ.
– Công bằng pháp lý: quy định những bổn phận công bằng của người dân đối với cộng đồng.
– Công bằng giao hoán: điều tiết việc trao đổi của cải và dịch vụ, theo nguyên tắc tương xứng về giá trị giữa các cá nhân hay các nhóm với nhau.
Khi ba loại công bằng trên được thực hiện, chúng ta sẽ có một xã hội công bằng, gọi là công bằng xã hội.
3. Vai trò của Đức Tin
Tin là hành vi tự nhiên của con người. Một xã hội cần dựa trên niềm tin tưởng lẫn nhau, tin vào sức mạnh của hệ thống pháp luật công bằng. Một khi mất đi niềm tin này, xã hội thường gặp nhiều khủng hoảng và chia rẽ. Bạn tưởng tượng trong gia đình, mỗi thành viên tin tưởng lẫn nhau, ngoài xã hội chữ tín được đặt lên hàng đầu, khi đó, bộ máy của mọi hoạt động sẽ vận hành tốt đẹp. Tuy nhiên, trong câu hỏi trên, chúng ta không đề cập đến niềm tin này.
Chúng ta đang nói đến Đức Tin, một trong ba nhân đức đối thần (Đức Tin– Đức Cậy– Đức Mến). Theo đó, chúng ta tin vào Thiên Chúa, Đấng sáng tạo nên vũ trụ[3] và xã hội loài người, vì tình yêu.
Tiếc là sự dữ đã đi vào thế giới và đang phá hủy công trình tốt đẹp của Thiên Chúa. Nhiều bất công, bất hạnh và bất an. Trong bối cảnh đó, Đức Giêsu đã đến thế gian để cứu độ con người. Ngài có chương trình hẳn hoi, và mời con người cộng tác vào chương trình cứu độ đó. Mục đích là để “ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3,16).
Một cách cụ thể, nếu chúng ta soi những đặc điểm của Đức Tin vào câu hỏi trên, chúng ta sẽ có câu trả lời của vị trí Đức Tin.
1/ Đức tin là ơn ban tuyệt vời của Thiên Chúa. Vì đó là món quà nhưng không, nên tôi cũng cần tạ ơn và biết chia sẻ niềm tin ấy cho người khác. Khi đến với tha nhân, vào xã hội, người Công Giáo biết lối nẻo dựng xây xã hội công bằng hơn, bình an hơn.
2/ Đức tin là sức mạnh siêu nhiên. Đó không chỉ là điều tuyệt vời để giúp ta nên thánh, nhưng còn là nguồn năng lượng để ta kiến tạo xã hội theo con đường của Chúa. Đúng là chỉ có những ai không vững tin mới sớm bỏ cuộc và thoái lui. Ngược lại, nhờ ơn Đức Tin, người Công Giáo không bao giờ từ bỏ con đường hòa bình. Trong cuốn Dám Nghĩ Lớn, tác giả cũng trích lại câu Kinh Thánh để cho thấy sức mạnh của đức tin: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc.” (Lk 17,6).
3/ Đức tin đòi phải có ý muốn tự do và sự hiểu biết rõ ràng. Thiên Chúa không buộc chúng ta tin vào Ngài. Mỗi người đều có quyền tự do. Nhưng nếu đi theo Chúa, nghĩa là chúng ta cũng sống như những điều Ngài mời gọi. Càng học thuộc, am hiểu đường lối của Ngài, con đường dựng xây xã hội càng thành công.
4/ Đức tin là sự chắc chắn tuyệt đối. Một người Công Giáo dấn thân vào con đường dựng xây xã hội với đức tin lớn lao, người ấy chắc chắn sẽ đạt kết quả. Ít là tâm hồn họ được bình an. Họ không sống và làm việc một mình. Chúa Giêsu là chỗ dựa để họ làm chứng. Biết bao dòng máu các anh hùng tử đạo đã minh chứng cho điều này. Bởi các ngài tin Thiên Chúa luôn bảo đảm cho hành vi dấn thân của họ.
5/ Đức tin chỉ trọn vẹn, khi đức tin được thể hiện qua những việc bác ái. Đó là nguyên tắc cho những ai dấn thân xã hội. Hòa bình và công bằng không thể thiếu vắng tình yêu. Họ không thể xả thân vì lợi ích cá nhân hoặc lợi ích nhóm, với danh nghĩa dấn thân vì Thiên Chúa. Tiếc thay nhiều người đã chọn con đường này. Tuy nhiên, dấn thân thực sự với Thiên Chúa luôn thể hiện bằng tình yêu, lan tỏa niềm vui và bình an của Thiên Chúa cho xã hội. Đừng quên đó cũng là sức mạnh để thu hút con người. Tình yêu, bác ái chính là đắc nhân tâm.
6/ Đức tin lớn dần khi ta luôn biết lắng nghe Lời Chúa và hằng cầu nguyện. Đây cũng là điều kiện để người Công Giáo dấn thân xã hội. Họ không thể lao mình như con thiêu thân. Không phải đường lối dựng xây lúc nào cũng băng băng trên xa lộ, không phải lúc nào người ta cũng đầy tràn nhiệt huyết để kiên trì cho công cuộc hòa bình. Do đó, họ cần làm cho đức tin ấy lớn lên trong cầu nguyện. Nói cách khác, họ không thể dấn thân một mình, nhưng họ cần Thiên Chúa đồng hành.
7/ Đức tin cho ta nếm cảm trước niềm vui Thiên đàng ngay ở đời này. Như đã nói, xã hội công bằng và an bình dường như còn quá xa vời. Tuy vậy, với Chúa và trong Chúa, người ta có thể cảm nhận được cuộc sống bình an trong tâm hồn. Hơn nữa, họ luôn có hy vọng để gieo vào đời những hạt giống tốt đẹp. Họ tìm ra những lối nẻo hiệu quả để dấn thân. Đức Tin cho họ cảm nhận được bình an, niềm vui Thiên Đàng ngay trong những suy tư, bàn thảo và lựa chọn của mình.
Bảy đặc tính trên đây chúng ta có thể thấy rõ nơi cuộc đời dấn thân của Đức Giêsu. Ngài dấn thân cho công cuộc loan báo Tin Mừng Nước Trời, cho công bằng xã hội và cho hòa bình thế giới. Vì những điều này mà Ngài phải trả giá rất đắt: chết trên thập giá. Sau biến cố sống lại, Ngài trao cho Giáo hội Tin Mừng phục sinh. Do đó, trước những dấu chỉ thời đại, những bất công và xáo trộn của xã hội, Thiên Chúa mời gọi chúng ta nhập cuộc. Thực vậy, nhiều lần Đức Giáo Hoàng Phanxicô, vị đại diện của Chúa Giêsu ở trần gian, nói: “Một Kitô hữu sống trong thời đại này mà không dám lội ngược dòng thì không phải là Kitô hữu”.
4. Vài điều có thể làm
Chúng ta thừa biết dấn thân vào xã hội, cho những giá trị tốt đẹp, luôn có những khó khăn. Đó là vấn đề nhạy cảm và hiểm nguy. Đừng quên “chỉ cá sống mới bơi được ngược dòng”. Chúng ta muốn sống và muốn bơi trên dòng sông an bình, hạnh phúc.
Trong câu hỏi trên, ước gì chúng ta thêm tin tưởng vào Thiên Chúa. Hãy làm cho Ngài lớn lên trong tim ta, trong tim mỗi người. Nhất là những người trẻ, phải chăng chúng ta đang thờ ơ với những bất công xã hội, chán nản kiến tạo hòa bình? Đó không phải là người tín hữu tốt, người có niềm tin mạnh mẽ.
“Tôi muốn góp tay dựng xây gia đình, xã hội và đất nước này, vậy phải làm sao?”– Có người đưa tay ý kiến.
Một điều nho nhỏ mà tôi rất thích khi đọc cuốn Docat. Trong đó Đức Giáo Hoàng nói với người trẻ:
“Các bạn trẻ thân mến!
Chỉ có sự hoán cải của con tim mới có thể làm cho thế giới của chúng ta, một thế giới đầy khủng bố và bạo lực, trở nên nhân bản hơn. Và điều đó có nghĩa là sự nhẫn nại, công bằng, khôn ngoan, đối thoại, sự liêm chính, tình liên đới với các nạn nhân, những người túng thiếu và những người nghèo nhất, sự cống hiến vô hạn, yêu cho đến chết vì tha nhân.”
Ngài mời gọi người trẻ “tham gia” vào con đường Tin Mừng này. Người nghèo đang réo gọi chúng ta. Thiên Chúa liên tục mời chúng ta tin vào Ngài và làm chứng cho Tin Mừng. Ngài cảnh báo “nền kinh tế này đang giết chết” chúng ta, bởi nơi đó luôn có nhiều bất công. Hiện nay, khoảng 1 % dân số thế giới sở hữu 40 phần trăm toàn bộ tài sản của thế giới. Có khi chúng ta làm một phần trong đó.
Chính các nhà lãnh đạo quốc gia cũng mời gọi người dân dựng xây đất nước. Chúng ta yêu đất nước này, dân tộc và xã hội này. Đã đến lúc người Công Giáo để cho Đức Tin biến thành hành động. Theo đó, chúng ta đừng quên bám vào Chúa, bám vào những chỉ dẫn của Giáo Hội. (Chẳng hạn, Kinh Thánh, Giáo Huấn Xã Hội của Giáo hội Công Giáo). Bởi:
“Sẽ không có gì khác thay đổi thế giới ngoài những con người cùng với Chúa Giêsu dấn thân cho thế giới, cùng với Người đến với những người sống bên lề xã hội và đến ngay giữa các mảnh đời lem luốc. Hãy đi vào cả chính trị nữa, và đấu tranh cho công lý và phẩm giá con người, nhất là cho những người nghèo nhất trong những người nghèo. Tất cả các con là Giáo Hội.”[4]
Với những chia sẻ trên đây, hy vọng câu hỏi phần nào có những trả lời thỏa đáng. Dĩ nhiên, chủ đề này luôn còn nhiều tranh cãi. Thật tốt để chúng ta nhìn nhận rõ hơn vấn đề, để thấy: Ý Chúa, đường lối của Giáo hội và tiếng gọi của con tim. Là công dân, tôi có trách nhiệm dựng xây đất nước công bằng và bình an; là con Chúa, tôi có bổn phận mang Tin Mừng vào từng góc gách của cuộc sống. Khi đó, cuộc sống đáng sống hơn nhiều!
(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 1, Nxb Tôn Giáo, 2020)
WHĐ (3.8.2021)
------------ [1] “Chúng ta công nhận rằng các sự thật hiển nhiên này là mọi người được dựng nên đều bình đẳng, được Đấng Tạo Hóa phú ban các quyền bất khả xâm phạm, trong các quyền này là quyền Sống, quyền Tự Do và quyền mưu cầu Hạnh Phúc.” (Mỹ). “Bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.” (Việt Nam). [2] “Mọi lời nói ra từ miệng Hitler là lời dối trá: Khi ông ta nói hòa bình là ông ta muốn nói chiến tranh, bằng cách thóa mạ nhất khi ông ta nhân danh Đấng Toàn Năng, là ông ta muốn nói quyền lực của Quỷ thần Satan.” (Truyền đơn #4 của nhóm kháng chiến Munich “White Rose” ). [3] “Theo khoa học hiện đại, thì có thể nói là: Ngài có trước Vụ nổ Big Bang tạo ra vũ trụ và là nguồn gốc của tất cả các quy luật tự nhiên. Không có Thiên Chúa, mọi sự đang tồn tại sẽ sụp đổ. Thiên Chúa cũng là đích điểm của mọi loài hiện hữu.” (Docat, số 2) [4] Trích lời giới thiệu trong cuốn Docat.
Làm sao để giúp các bạn trẻ, đặc biệt là giới sinh viên, tránh xa các tệ nạn xã hội?
Trả lời:
Bạn thân mến,
Đọc tin tức trên báo chí hàng ngày, chúng ta không khỏi đau lòng khi thấy không ít các bạn trẻ lâm vào các tệ nạn như cờ bạc, hút chích, mại dâm, trộm cắp, giết người, cướp của, v.v. Những tệ nạn này đã gây nên những tác hại không thể lường hết được. Tương lai của người trẻ trở nên u ám. Bao nhiêu kỳ vọng từ cha mẹ và người thân bỗng chốc tiêu tan. Nhiều gia đình phải tán gia bại sản vì con cái hư hỏng.
Dù tệ nạn xã hội không lệ thuộc vào độ tuổi, nhưng chúng ta vẫn thường dành sự quan tâm nhiều hơn đến những người trẻ, xét như là nạn nhân lẫn thủ phạm. Tuổi trẻ không thể tránh khỏi những bồng bột và vấp ngã. Thế nhưng, có người trở nên trưởng thành hơn sau những sai lầm. Tiếc là nhiều người lại sa lầy vào con đường tội lỗi, không thể thoát ra. Điều khác biệt nằm ở tiến trình lớn lên của mỗi người qua các giai đoạn khác nhau, đặc biệt là thời thanh thiếu niên (còn gọi là Teen, xì-tin, tuổi ô mai). Tiến trình này vừa phụ thuộc vào khả năng nhận thức, ý chí quyết tâm, vừa chịu ảnh hưởng từ môi trường sống. Do đó, chúng ta cần quan tâm cả hai phương diện ấy.
Trước hết, sự hiểu biết luôn có ảnh hưởng rất lớn đến cung cách hành xử của một con người. Người trẻ cần được giúp đỡ để nâng cao nhận thức về những cạm bẫy nguy hiểm cũng như hậu quả tai hại do tệ nạn xã hội gây ra. Dù khả năng nhận thức không phụ thuộc vào trình độ học vấn, nhưng thất học thường khiến người ta thiếu hiểu biết. Rất nhiều bạn trẻ thất học gây nên tội ác đắng lòng!
Nếu được học hành đến nơi đến chốn, có lẽ nhiều người trẻ không rơi vào con đường tội lỗi. Chẳng phải nhiều bạn trẻ hối hận muộn màng nhận ra tác hại của HIV, ma túy đó sao! Nhiều em gái đã trở thành miếng mồi ngon cho đường dây chăn dắt buôn bán phụ nữ đó sao! Những em này nhẹ dạ cả tin. Các bạn ấy đâu biết: “Miếng phô mai có sẵn chỉ có trên cái bẫy chuột!” Do đó, học hành là bổn phận và trách nhiệm của mỗi người chúng ta. Khi đó mới mong hiểu biết và tránh khỏi những mối hiểm nguy đang rình rập bên ngoài xã hội.
Thứ đến, chúng ta đừng chủ quan rằng người học thức có thể miễn nhiễm trước mọi cám dỗ cuộc đời. Có không ít bạn dù đã ý thức được con đường sai trái, nhưng lại không đủ bản lĩnh để tránh xa. Chính thánh Phao lô thú nhận: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm.” (Rm 7,19). Đó là thân phận yếu đuối của con người. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng nhiều bạn chọn cho mình lối sống dễ dãi, làm giàu nhanh chóng, thích hưởng thụ và lười lao động. Những bạn này thường không có lý tưởng sống rõ ràng, dễ nhập bọn với bạn bè xấu hoặc là không có khả năng vượt qua nghịch cảnh.
Mặt khác các chúng ta may mắn vì có gia đình và xã hội luôn khuyến khích nâng đỡ, đồng hành để mỗi người rèn luyện nhân cách. Bên cạnh kiến thức cần thiết, các bạn trẻ rất cần được tiếp xúc hay biết đến những mẫu gương cụ thể về tinh thần vượt khó, không đầu hàng số phận để từ đó các bạn có động lực noi theo. Ý chí mạnh mẽ và tinh thần quyết tâm cao không chỉ cần cho người trẻ để tránh xa tệ nạn xã hội, mà còn giúp các bạn thoát khỏi con đường sai lầm nếu lỡ sa vào. Vì con người có đặc tính không hề cam chịu số phận, nên chúng ta có bản lĩnh vượt qua khó khăn thử thách.
Một lần nữa, môi trường giáo dục thật quan trọng biết bao. Bên cạnh đó môi trường sống là yếu tố chúng ta cần quan tâm. Chính hai môi trường ấy ảnh hưởng trực tiếp đến người trẻ, về mặt kiến thức lẫn nhân cách. “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” rất đúng theo ý nghĩa này. Thử điểm qua một vài trường hợp:
- Bỏ học sớm - Bố mẹ bất hòa, ly dị, không quan tâm đến con cái - Giao du với những phần tử hư hỏng - Không có công ăn việc làm ổn định - v.v.
Ai cũng thấy người sống trong môi trường lành mạnh, khả năng dính vào tệ nạn xã hội sẽ được giảm đi đáng kể. Môi trường giáo dục quan trọng nhất cần phải kể đến chính là gia đình. Gia đình là nơi mỗi người được lớn lên, được dạy dỗ để nên người, đặc biệt là trong giai đoạn đầu đời khi tương quan xã hội chưa được mở rộng. Trong mỗi gia đình, ông bà cha mẹ luôn có tầm ảnh hưởng nhất định đến nhân cách của người trẻ. Tiếc là nhiều cha mẹ chỉ chu cấp đầy đủ cho con cái về mặt vật chất, nhưng quên rằng con cái cần bầu không khí gia đình đầm ấm, yêu thương. Sự thật đáng buồn là có nhiều gia đình đùn đẩy hoặc buông bỏ trách nhiệm giáo dục đạo đức con em mình cho nhà trường và xã hội, đến khi hậu quả xảy ra thì hối hận cũng không kịp.
Tuổi trẻ là thời gian chắp cánh bay vào đời. Nơi đó hầu hết người trẻ mong có cơ hội trở thành những người công dân có ích cho xã hội. Khi bắt đầu hòa nhập nhiều hơn vào môi trường xã hội bên ngoài, sự ảnh hưởng của gia đình lên đời sống của các bạn trẻ theo đó cũng giảm dần. Nếu bạn đọc Mắt Biếc của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, Hà Lan là nhân vật dường như rơi vào hoàn cảnh như thế. Ngạn có lý khi trách Hà Lan không chịu bám chút rễ vào làng Đo Đo. Cô ấy không còn chịu kìm kẹp trong khuôn khổ gia đình, nhưng muốn vươn xa hơn đến những chân trời mới, nơi cha mẹ không còn có tiếng nói quyết định nữa. Khi ấy người trẻ phải chịu trách nhiệm về cuộc đời mình.
Thật đáng buồn khi nhiều cha mẹ lo lắng đến nỗi không cho con cái bước vào xã hội. Đành rằng đó là nơi có quá nhiều tệ nạn nguy hiểm, nhưng đó còn là: nhà trường, nhà thờ giáo xứ hay nơi công sở, xí nghiệp, v.v. Nếu các bạn trẻ dấn thân vào những hoạt động xây dựng cộng đồng như các phong trào thiện nguyện, tham gia các tổ chức đoàn hội theo độ tuổi hay theo sở thích, giao du với những bạn bè, đồng nghiệp tốt, thì chắc chắn các bạn sẽ tránh xa các loại tệ nạn xã hội.
Bạn nghĩ sao khi chúng ta không nhất thiết phải tránh môi trường tệ nạn ấy? Thay vào đó, chính mỗi người trẻ hãy kiến tạo môi trường, xã hội ấy trở nên tốt đẹp hơn. Chúng ta được chứng kiến không ít các bạn trẻ cống hiến nhiều giá trị tốt đẹp cho xã hội. Họ hoạt động nghiên cứu sáng tạo, chăm chỉ lao động học tập, sống có trách nhiệm với gia đình và bản thân, giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn, tham gia các chương trình phát triển cộng đồng. Các bạn đó đã cho thấy sức mạnh của người trẻ. Chính người trẻ trở thành nhân tố tích cực xây dựng cộng đồng, cải tạo xã hội.
Chúng ta cũng không bao giờ thất vọng. Nếu mắc sai lầm, hãy cho mình cơ hội sửa sai. Sai thì sửa, đó là chuyện bình thường trong đời sống con người. Nhiều bạn trẻ khi lâm vào con đường tội lỗi đã không thể quay trở lại chỉ vì bản thân mất đi động lực thay đổi cuộc đời. Các bạn này nghĩ rằng mỗi khi đã dính vết nhơ rồi thì gia đình, người thân hay xã hội nói chung sẽ nhìn các bạn với con mắt hoàn toàn khác, không thể nào lấy lại hình ảnh tốt đẹp được nữa. Thật không may, những bạn có suy nghĩ như thế đã vô tình tự đặt dấu chấm hết quá sớm cho cuộc đời tươi đẹp của mình.
Một ai đó nói chúng ta chưa phạm tội, vì chưa có cơ hội phạm tội. Tiếc là xã hội hôm nay nhiều cám dỗ đẩy các bạn trẻ vào hố sâu tội lỗi. Giả như các bạn ấy muốn hoàn lương, thì búa rìu dư luận, “gạch đá” khiến họ chẳng thể hoàn lương. Cách hành xử kiểu như thế không tử tế chút nào. Thay vào đó, hãy lấy tình yêu thương, tha thứ từ gia đình, người thân, từ xã hội mà hành xử với nhau.
Người trẻ là hiện tại của xã hội, nếu không muốn nói là thành phần quan trọng nhất trong mọi cộng đồng quốc gia, dân tộc. Do đó, chăm lo cho người trẻ chính là trách nhiệm quan trọng của gia đình và toàn xã hội. Vì người trẻ dễ bị tổn thương, kiến thức hiểu biết còn hạn chế, lại chưa có nhiều kinh nghiệm va chạm như người lớn, nên dễ trở thành đối tượng bị dụ dỗ, lôi kéo vào con đường tội lỗi. Vì thế trước khi các em đủ cứng cáp trưởng thành để tự bảo vệ chính mình trước mọi loại tệ nạn xã hội, người lớn phải tạo lập một môi trường an toàn và lành mạnh để giúp các bạn trẻ lớn lên.
Một môi trường lành mạnh như thế trước hết phải khởi đi từ gia đình và trường học. Nơi đó chúng ta được dạy dỗ, yêu thương. Ngoài ra các bạn trẻ cũng cần được tạo mọi điều kiện để phát huy tài năng và theo đuổi đam mê lành mạnh của mình. Nhờ đó hy vọng mỗi người ít có nguy cơ rơi vào cạm bẫy tệ nạn xã hội hơn.
Giả như ai đó lỡ sa vào con đường sai trái, hãy nỗ lực giúp họ với hy vọng và tin tưởng. Người trẻ như những chồi non tràn trề nhựa sống, dẫu cho mưa nắng gây bầm dập thương tổn nhưng vẫn không ngừng vươn lên đón ánh nắng mặt trời. Rồi một ngày nào đó những mầm non kia sẽ trở thành cây cổ thụ, những vết thương không đủ sức làm cây đổ gãy sẽ trở thành vết sẹo liền, tạo nên những đường vân mềm mại tăng sức duyên dáng cho cây. Người trẻ yếu đuối ở chỗ đó, nhưng mạnh mẽ cũng ở chỗ đó!
(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 1, Nxb Tôn Giáo, 2020)
Giàu có là điều đa số con người khao khát và theo đuổi. Đơn giản vì khi giàu có thì được tôn trọng, được sống sung sướng, muốn gì được đó. Thói đời vẫn nói: “Có tiền mua tiên cũng được”. Nhìn vào trong xã hội, chúng ta nhận ra khuynh hướng sống chạy theo đồng tiền và giàu sang rất mạnh mẽ, sôi nổi và nóng bỏng, đến nỗi không có bất cứ nơi nào không “dành chỗ” trân trọng, hay nói khác đi “chỗ VIP” cho đồng tiền và giàu sang. Thực tế, có tiền bạc và là người giàu sang đâu phải là tội lỗi gì.
Nhưng điều làm cho mọi người phải suy đi gẫm lại là: Tôi trở nên giàu có bằng cách thức nào? Khi là người giàu có tôi sống thế nào, để sự giàu có và đồng tiền không là ông chủ và tôi là nô lệ, nhưng đồng tiền và sự giàu sang là phương tiện tốt để đưa lại ý nghĩa và giá trị làm người cao quý cho tôi? Phải chăng của cải và tiền bạc tôi kiếm được dù bất nhân hay với nỗ lực của bản thân là của tôi 100%, quyền tư hữu của tôi chẳng dính dáng gì đến người khác, chẳng liên hệ gì với xã hội bên ngoài?
1. Hỡi thế gian, tiền là gì?
Trở nên giàu có bằng cách thức nào là một câu hỏi liên hệ đến giá trị của người giàu có. Kẻ cướp nhà băng để trở nên giàu có, người ăn hối lộ để trở nên giàu sụ, kẻ giàu có qua dối trá và giành giật tất cả mọi phần thừa kế cho bản thân mà chẳng màng đến tình máu mủ và còn sẵn sàng giở trò “lưu manh và bạo lực”… Thử hỏi trở nên giàu sang, trở nên đại gia theo những kiểu như vậy có làm cho đời người có giá trị và ý nghĩa đích thật không? Lương tâm dù “có răng hay mất răng” rồi cũng sẽ lên tiếng và trả lời cho những phận người giàu sang theo kiểu bất nhân như thế.
Ngược lại, có những cách trở nên giàu có tích cực, đó là qua cố gắng nỗ lực và hy sinh của bản thân trong công việc hằng ngày, qua tài năng và học vấn được trau dồi bao nhiêu năm với hương vị của “đổ mồ hôi sôi nước mắt”, hay qua sự thừa kế hợp lý và hợp tình với cơ hội may mắn của phận người. Đó là những cách thức giàu sang theo kiểu “đồng tiền liền khúc ruột”, nghĩa là làm ra tiền là một quá trình, do vậy khi xài tiền thì người ta biết trân trọng, và luôn ý thức phải sử dụng sao cho hợp lý, không hoang phí và đưa lại ý nghĩa và giá trị của cuộc sống.
Có tiền rồi, giàu sang rồi, là đại gia rồi, giờ đây đứng trước một thử thách không hề dễ dàng: Làm sao để tôi luôn ý thức không trở nên “kẻ nô lệ” cho đồng tiền và giàu sang. Ngược lại, đồng tiền và giàu có phải luôn đóng đúng vai trò của nó; nghĩa là, nó phải là phương tiện để tôi có thể tìm thấy được ý nghĩa và giá trị đích thực cho cuộc sống. Là con người ai cũng biết tiền bạc luôn là con dao hai lưỡi. Một đàng, tiền bạc giúp con người sống dồi dào và phong phú; đàng khác tiền bạc có thể điều khiển con người và gây ra biết bao nhiêu đổ vỡ và khổ đau.
“Tiền bạc là tên đầy tớ tốt, nhưng là ông chủ xấu”. Thật vậy, tiền bạc có sự hấp dẫn mạnh mẽ, thế lực tiềm ẩn nhưng rất nguy hiểm, nếu người ta trở nên nô lệ cho đồng tiền, nếu người ta không biết dùng đồng tiền cách tốt đẹp nhất. Chúa Giê-su đã khuyến cáo và kêu gọi thật mạnh mẽ: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được” (Lc 16,13). Chúa không cấm chúng ta làm ra tiền. Chúa cũng không cấm chúng ta để dành tiền của trong ngân hàng, mà Chúa nhắc nhớ Ki-tô hữu cần ý thức không được trở nên nô lệ của tiền bạc. Lời của Chúa nói như là một chân lý bất di bất dịch. Chúa cũng mời gọi Ki-tô hữu với sự tự do của mình có một quyết định đúng đắn và luôn ý thức trong phân định, để khôn ngoan chọn lựa và làm tôi của Thiên Chúa, nghĩa là thuộc trọn vẹn về Thiên Chúa.
Khi đã chọn Chúa là chủ của mình, người Ki-tô hữu luôn ý thức và cẩn trọng trong tâm hồn của mình, để tiền bạc không chiếm chỗ thượng phong, chỗ ưu tiên trong trái tim của mình. Khi người Ki-tô hữu đã có Chúa trong trái tim mình, thì luôn ý thức tỉnh táo trước cám dỗ của tiền bạc và sự ảo tưởng hão huyền của tiền bạc hứa hẹn sẽ đưa lại:
“Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu.” (Lc 12,15).
2. Ông nhà giàu và anh chàng nghèo
Lòng tham thì vô đáy. Chúa Giê-su biết rõ tâm trạng và lòng người mềm yếu dễ đi theo khuynh hướng “tham lam”, “gom góp” và “tích trữ”. Tham lam là một trong bảy mối tội đầu. Có nhiều kiểu tham và trong đó nổi bật là kiểu tham lam tiền bạc vật chất. Đi đôi với tham lam là keo kiệt, hà tiện và bủn xỉn. Đó là cách sống ích kỷ, chỉ nghĩ đến bản thân và không bao giờ muốn chia sẻ với người khác. Đó là cách sống của người phú hộ. Người giàu sang sẵn sàng chi tiêu thoải mái cho bản thân, nhưng không bao giờ bớt chút tiền dư bạc thừa để giúp đỡ những người nghèo.
Người giàu có tham lam với kho tàng kếch sù, luôn muốn sống trong nhung lụa giàu sang dư giả, lại còn ích kỷ sống trong vỏ bọc an toàn của “kho lẫm” đã được tích trữ. Đó là hình ảnh của một người phú hộ giàu có (đại gia) mà Luca diễn tả:
“Hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!” (Lc 12,18-19).
Theo lẽ thường tình, thì đại gia này làm rất ok và mọi người thấy chắc là sẽ khen ông ta khôn ngoan, biết hưởng thụ ở hiện tại và biết lo xa cho tương lai. Nhưng truyện đâu có kết thúc ở “cái đầu khôn ngoan” của con người giàu có. Dụ ngôn kể tiếp với lời của chính Chúa nói với “đại gia” tự cho mình là khôn ngoan:
“Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai? Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế” (Lc 12,20-21).
Trong dụ ngôn, chúng ta thấy tên của đại gia, của người phú hộ không được nhắc đến. Hay ông ta không có tên? Cha Pierre Cardon de Lichtbuer nói rằng: Người giàu không có tên! Thực chất dụ ngôn nói về một người đã mất linh hồn và tên của mình. Trong Tân Ước những người giàu có xấu xa không có tên. Đó hầu như chỉ là biểu tượng; người giàu có gắn bó với của cải vật chất của mình đến nỗi chính mình trở thành một đồ vật; người ấy đã mất nhân cách của mình. Ôi buồn thay, đại gia không tên! Dù đại gia không có tên, nhưng Thiên Chúa vẫn tìm đến được nơi ông ta sống và “đòi lại mạng” của ông ta, ngay trong đêm “đại gia” tưởng rằng an toàn thư thái hưởng thụ cuộc đời.
Rồi khi đại gia tham lam, ích kỷ và bất nhân chết đi, phận người giàu sang sẽ ra sao? Đọc lại dụ ngôn ông nhà giàu (x. Lc 16,19-31) mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình, nhưng lại ích kỷ không màng tới người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông ta, và mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta, chúng ta nhận ra kết quả của người giàu nhận được sau cái chết. Âm phủ với bao cực hình là chỗ ở của người nhà giàu keo kiệt ích kỷ chỉ sống cho mình, trong khi đó anh La-da-rô nghèo khó đang được nằm trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham. Hai bên lại có một vực thẳm thật sâu. Vực thẳm “ngăn chặn” mọi tương quan giữa người bên này với người bên kia. Sự thông tri, thông thương và liên lạc bị ngăn trở hoàn toàn.
Giữa hai bờ vực không có chiếc cầu được xây và bắc qua. Vực thẳm quá lớn, đến nỗi không ai có thể tự mình từ bên này để qua bên kia được. Vực thẳm lớn này được quy định rõ rệt và không ai có thể thay đổi. Như thế, không còn sự thông thương giữa hai bên và anh La-da-rô không thể giúp đỡ người giàu có kia được. Điều này là một sự nghiệt ngã đối với anh nhà giàu. Không biết, đến ngày cánh chung, anh nhà giàu sẽ như thế nào?
3. Dùng tiền mua lấy Nước Trời
Thánh Phaolô chia sẻ: “Cái gì chúng ta đem vào thế giới này? Chẳng có gì. Cái gì chúng ta đem ra khỏi thế giới này? Cũng chẳng có gì!” (1Tm 6,7). Như thế, khoảnh khắc được vào đời và khoảnh khắc phải lìa đời “thắm thiết ôm nhau” trong vòng tay của chữ KHÔNG. Chẳng có kho tàng nào của tiền bạc và vật chất có thể “đưa tang” và “đồng hành” với người có của, với đại gia của cuộc đời bước vào cõi chết cả. Vì thế, thật quan trọng và khẩn thiết, để cập nhật hoá, để update lại giá trị cuộc sống và kho tàng đời người, để không mắc sai lầm của người phú hộ và người giàu sang cứ yến tiệc linh đình đến nỗi vô cảm chẳng màng tới người nghèo.
“Không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu”. Đây chính là lời cảnh báo rõ rệt của Chúa Giê-su. Sự bảo đảm cho cuộc sống ai cũng muốn. Nhưng đâu là chỗ để chúng ta có thể dựa vào, để chúng ta có thể tìm sự bảo đảm và an toàn? Hơn nữa, giá trị của con người không nằm ở giá trị của những gì người ấy sở hữu, nhưng ở chỗ người ấy là ai và sống như thế nào. Con người không được đánh giá bằng những gì người ấy có trong tài khoản ngân hàng, nhưng bằng giá trị của trái tim, cuộc sống, các hành vi, các quan hệ với các người thân và với những người đồng loại của mình. Với người Ki-tô hữu, giá trị thật của con người, chính là biết mình được tạo dựng, biết mình là con cái của Thiên Chúa và ý thức tập sống đúng theo tinh thần Chúa dạy.
Tinh thần Chúa dạy dành cho người giàu thì rõ lắm. Dụ ngôn về người giàu có được nhắc ở trên đã đưa ra tinh thần Chúa dạy rồi. Câu truyện người thanh niên giàu có ao ước có sự sống đời đời làm gia nghiệp đến gặp Chúa Giê-su đưa lại một sứ điệp thật rõ ràng. Anh vừa giàu, vừa đạo đức, đến nỗi Chúa thấy và đem lòng yêu mến anh. Nhưng giàu và đạo đức theo chuẩn mực luân lý của người Ít-ra-en thời đó chưa đủ trong đôi mắt của Chúa. Điều quan trọng cuối cùng người thanh niên giàu có kia cần làm là:
“Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” (Mc 10,21).
Chúa đã đặt người thanh niên giàu có trước một thử thách lớn: “Hãy đi bán” của cải vật chất sở hữu. “Hãy cho người nghèo” khổ những gì mình có. Rồi “hãy theo Chúa”. Ba chữ “hãy” giải thoát của Chúa Giê-su dành cho người giàu sang phú quý, dành cho những đại gia của cuộc đời. Nhưng người thanh niên giàu có đã quyết định ra sao?
Ai trong chúng ta cũng biết cái kết của câu truyện là chàng thanh niên giàu có kia đã từ chối ba chữ “hãy” của Chúa, anh ta đã bỏ Chúa Giê-su và về lại với khối tài sản giàu sụ của mình. Không mở lòng thực sự thì hầu bao cũng đóng chặt. Dù đạo đức và dù đã lọt vào đôi mắt tình yêu của Chúa, nhưng người thanh niên kia vẫn không thể vượt qua được thân phận nô lệ của mình: một phận nô lệ cho tiền bạc và vật chất. Điểm tựa an toàn của anh chính là kho tàng kếch xù của anh.
Người thanh niên ra về và anh sa sầm nét mặt. Niềm vui đã tan biến. Khát vọng chân thật mà người thanh niên bộc lộ lúc ban đầu gặp Chúa, bây giờ tàn lụi, tắt ngấm. Nó không còn có thể làm nảy sinh niềm vui đến từ lòng khát vọng sống động. Trình thuật này được viết ra không phải để chúng ta buồn lòng về trường hợp người thanh niên ấy, nhưng để Lời Chúa đánh động tâm hồn ta. Lời Chúa cũng muốn vươn tới khát vọng chân thật của ta, cũng muốn khơi dậy đức tin chân thật nơi ta, cũng muốn đưa ta vào con đường khôn ngoan chân thật, đó là Khôn Ngoan của Thiên Chúa.
Khôn ngoan của Thiên Chúa dành cho người giàu có là biết dùng của cải vật chất để cho đi. Ai càng giàu mà càng cố gắng “xuất hành” ra khỏi cái tôi ích kỷ, ra khỏi đống tiền bạc lớn lao, để rảo bước đến với người nghèo, để chia sẻ lòng thương xót với họ, thì người đó đang trên đường trở thành người khôn ngoan.
Hơn nữa, tất cả những gì người giàu có làm cho người nghèo khó là làm cho chính Chúa nữa, vì người nghèo là hiện thân của Chúa đó mà (x.Mt 25,40). Khi sống được như thế, thì tới ngày Cánh Chung, sự sống đời đời chắc chắn dành cho “con chiên giàu có đạo đức”, đã ý thức sống chia sẻ với những anh chị em nghèo và bất hạnh. Nói khác đi, nếu chàng thanh niên này sống đúng như lời Chúa dạy, thì anh đã đạt được sự sống đời đời. Vâng, vật đặt cược chính là sự sống đời đời. Và cái khó ở đây là phải ưu tiên cho cái vô hình trước cái hữu hình ta đang có. Hơn nữa, sự khôn ngoan của Thiên Chúa dành cho người giàu còn nằm ở tại cửa Thiên Đàng, nơi Chúa sẽ hỏi phận người giàu có về chính tài sản mà Chúa đã trao cho họ để quản lý.
Charles Peguy từng nói rằng khi tiến đến cổng thiên đàng, chúng ta đều sẽ bị hỏi: “Nhưng những người khác đâu? - Mais où sont les autres?” Với Rolheiser, câu hỏi này dành cho cả tính nhân văn và đức tin của chúng ta. Nhưng những người khác đâu? Thật là ảo tưởng và sai lầm khi nghĩ rằng mọi thứ người giàu sang sở hữu do lao công thì phải là của mình. Nghĩ như thế là phải xem lại đời mình. Thân sinh của ông Bill Gates, cách đây hơn 15 năm, đã viết trên tờ Sojourners thách thức không chỉ người con nổi tiếng của mình, mà cả chúng ta nữa, với những lời này:
“Xã hội có quyền rất lớn trên tài sản của người giàu. Điều này không chỉ bắt rễ trong các truyền thống tôn giáo, mà còn trong việc thành thật tính đến sự đầu tư trọng yếu của xã hội để tạo nền tảng màu mỡ cho sự sinh sản của cải. Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo đều xác nhận quyền sở hữu riêng và tài sản riêng, nhưng đặt ra các giới hạn luân lý về quyền sở hữu tuyệt đối. Mỗi truyền thống đều khẳng định chúng ta không phải là cá thể đơn độc mà là những thành phần trong cộng đồng, một cộng đồng có quyền trên chúng ta. Khái niệm ‘cái này hoàn toàn là của tôi’ là một sự vi phạm những lời dạy và truyền thống này.” (Sojourners, tháng 1 đến tháng 2, 2003).
Như thế, phải công nhận rằng điều mỗi người tích lũy được là kết quả không chỉ nhờ lao công của bản thân, mà còn nhờ cơ sở hạ tầng của toàn xã hội mà người đó sống. Do đó, những gì người ta tích lũy được không hoàn toàn là của họ!
Trong kinh Lạy Cha, chúng ta đọc: “xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”. Chúng ta nhận ra đây là một lời kinh ở số nhiều. Điều này có nghĩa gì vậy? Theo Hamman, điều đó muốn dạy ta phải cầu nguyện chung với những người thiếu thốn lương thực hằng ngày, cũng như phải cầu nguyện cho những người ấy. Đừng quên rằng phân nửa thế giới ở trong tình trạng kém dinh dưỡng.
Lời cầu xin này vừa là lời cầu cứu Thiên Chúa, vừa là tiếng gọi những ai đang nắm giữ độc quyền của cải trần gian, vì Thiên Chúa ban cho của cải ấy là ban cho hết mọi người. Đó là lời nhắc nhở những người có của, những nước giàu rằng họ chỉ là người quản lý của Thiên Chúa, họ phải chịu trách nhiệm phân phối của cải sao cho công bình…Khi cầu xin lương thực như thế, người Ki-tô hữu càng đi sâu vào giữa lòng nhân loại hôm nay. Vì thế, với người Ki-tô hữu cần giới thiệu cho mọi người thấy khuôn mặt của Đức Ki-tô, Người là Đấng có đủ mọi sự giàu sang mà lại chấp nhận trở nên nghèo nàn.
Đến đây, có thể người tín hữu giàu sang thấy được chút tinh thần cần sống thế nào, để đời mình có được ý nghĩa. Tuy vậy, có thể họ sẽ lên tiếng:
“Là một doanh nhân có niềm tin vào Chúa, tôi cũng đến với Chúa thường xuyên trong Thánh Lễ Chúa Nhật, vẫn đi hành hương Đức Mẹ Tà Pao mỗi tháng, hành hương Đức Mẹ Bình Triệu mỗi tuần và mỗi năm ít nhất hai lần đến cầu nguyện với cha Trương Bửu Diệp nữa. Rồi cha xứ, Đức Giám Mục hay nhà dòng nào kêu gọi, tôi đều sẵn sàng đóng góp. Nhìn kìa bạn, khi công phúc treo gần đầy một bức tường trong phòng khách. Như vậy chưa đủ sao?”
Ôi đẹp biết bao nhiêu và tốt lành biết chừng nào! Mong sao các tín hữu là đại gia tiếp tục như vậy nhé! Nhưng không chỉ vậy. Chúa còn đòi hỏi hơn nhiều: “Ta muốn lòng nhân từ, chứ không muốn hy lễ” (Mt 12,8).
Lời của Chúa làm chúng ta nhớ lại tinh thần của Đức Khổng Tử: “Người quân tử mà bỏ đức nhân thì làm sao được gọi là quân tử? Người quân tử dù trong một bữa ăn cũng không làm trái điều nhân, dù trong lúc vội vàng cũng theo điều nhân” (Luận Ngữ, IV, 5). Như thế, trong năm đức tính (ngũ thường) người quân tử cần có, theo Khổng Tử, thì lòng nhân đứng hàng đầu.
Trong dòng chảy của cuộc đời, trong hàng hàng lối lối của những chiếc xe sang đưa của lễ đến dâng cho Thiên Chúa, cho Mẹ Maria, con chiên giàu sang của Chúa cần thành tâm và ý thức tự chất vấn mình dưới ánh sáng của Lời Chúa: “Tôi đi hành hương để làm gì? Có phải để tôi xin được bình an, mạnh khoẻ, làm ăn được khấm khá và xuôi chảy, để hầu bao của tôi mỗi ngày thêm ‘phồng to’? Trong chuyến hành hương này tôi sẽ kể cho Chúa nghe về những công phúc tôi đã làm cho các nhà thờ, cho các nhà dòng và chắc là Chúa sẽ phải trả công cho tôi? Tinh thần thờ lạy Chúa có trong cuộc hành hương của tôi không?
Giới răn đầu tiên trong 10 giới răn: ‘Thứ nhất thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự’ tôi thuộc nằm lòng, nhưng giới răn đó có đang cùng hoà nhịp cách sống động với trái tim và đôi tay của tôi không? Nhìn đến của lễ tôi chuẩn bị đang ở trong xe sang của tôi, tôi có thấy lòng nhân của tôi ở trong của lễ không? Thiên Chúa cần đến của lễ giàu sang này hay Người cần gì ở nơi tôi, một người giàu sang có nhiều của cải? Khi tôi dâng của lễ, Thiên Chúa sẽ hỏi tôi điều gì? Khi tôi đóng góp ‘tiền tỉ’ cho nhà thờ và nhà dòng, tôi đang đi tìm gì? Tìm một bản công phúc treo tường cho oai? Tìm một danh tiếng thơm làm cho ‘giá trị’ đại gia được thêm ‘lộng lẫy’? Trước những công phúc tôi làm và trước của lễ sang trọng tôi dâng Chúa, Ngài sẽ cám ơn tôi hay Ngài sẽ đặt lại với tôi những câu hỏi về chính đời sống của tôi có hương vị của tình yêu, của lòng thương xót hay không?”
Thánh Gioan Thánh Giá nói rằng: “Vào xế chiều cuộc sống này, bạn được phán xét về tình yêu”. Vì thế, thật đẹp khi của lễ dâng Chúa và Mẹ Maria của người giàu sang, lúc còn sống ở đời này, mang hương vị của Lòng Thương Xót, của chữ nhân từ là nét đẹp của chính Thiên Chúa và của con cái Người: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6,36).
Kết
Cám ơn bạn đã đặt câu hỏi thú vị trên. Đó là cơ hội, là động lực thúc đẩy người Ki-tô hữu giàu có của cải vật chất cần ý thức hơn để sống trong sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Đó là sống thanh thoát với tiền bạc vật chất, sống không làm “nô lệ” cho của cải và giàu sang. Sống ý thức trong việc quản lý của cải vật chất mình sở hữu, bằng cách biết dùng của cải và giàu sang không chỉ cho sự sung túc của bản thân, mà còn ý thức hướng về người nghèo khó. Đó là con đường chắc chắn dẫn tới Nước Trời. Ở cửa Nước Trời, mỗi người Ki-tô hữu giàu sang sẽ được Chúa hỏi: “Nhưng những người khác đâu?”
(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 1, Nxb Tôn Giáo, 2020)
Xin lỗi vì con theo Đạo Phật nên không biết nghiệp quả được hiểu như thế nào trong đạo Công Giáo. Làm sao để bớt nghiệp quả theo lối nhìn của Công Giáo?
Trả lời:
Đây là một câu hỏi chạm đến một khác biệt cốt lõi giữa hai tôn giáo lớn. Cần có những nghiên cứu đủ sâu và đủ rộng thì mới có thể trả lời thoả đáng những câu hỏi loại này. Trong khuôn khổ của bài viết ngắn ở đây, chúng ta thử tiếp cận câu hỏi này theo ba bước như sau. Thứ nhất, nên có một hiểu biết sơ lược về thuyết nghiệp quả của nhà Phật, nhận ra cái hay và những giá trị của thuyết ấy. Thứ hai, cần nhìn rộng hơn để thấy nghiệp quả là một thuyết phổ biến, hiện diện hầu như trong khắp mọi nền văn hoá và tôn giáo từ cổ đại cho đến hiện đại. Thứ ba, nhìn xem nội dung của lý thuyết nghiệp quả được hiểu như thế nào trong đạo Công Giáo.
Thuyết nghiệp quả theo nhà Phật
Chữ “nghiệp” (Karma) là một trong những thuật ngữ quan trọng trong giáo lý nhà Phật. Chữ ấy có thể được hiểu là một hành động có chủ ý trong tư tưởng, lời nói hay việc làm. Khi bạn làm một điều gì đó với đầy đủ chủ ý, bạn gieo một hạt nhân cho đời mình. Hạt nhân ấy chắc chắn sẽ thành cây và sinh quả. Gieo nhân loại nào, bạn sẽ gặt quả loại ấy. Nếu bạn gieo thiện nhân, bạn sẽ gặt thiện quả. Ngược lại, nếu bạn gieo ác nhân hay ác nghiệp, bạn sẽ gặt lại quả báo.
Theo giáo lý nhà Phật, nghiệp quả được hiểu như là một quy luật phổ quát. Không chỉ có tác dụng trong đời người, Luật ấy bao trùm vũ trụ vạn vật. Không chỉ giới hạn trong một đời người, Luật ấy có thể kéo dài từ đời này sang đời khác. Theo thuyết nghiệp quả, có những khổ đau của đời này được giải thích như là quả của những nghiệp ác đã được gieo từ kiếp trước. Cũng vậy, những nghiệp ác mà một người làm ở đời này, có thể người ấy sẽ còn phải trả trong cả kiếp sau.
Như thế, thuyết nghiệp quả dạy rằng cuộc sống của một người sướng hay khổ, vui hay buồn, thành công hay thất bại, thật ra đều phụ thuộc vào chính người ấy. Bạn được cứu rỗi hay trở nên hư mất đều phụ thuộc vào chính bạn, vào chính điều bạn đã làm và nghiệp bạn đã gieo. Sự cứu độ theo thuyết này thật ra là một sự “tự độ”. Mặt khác, thuyết nghiệp quả giả định rằng có một sự công bằng nhất định trong lối vận hành của vũ trụ vạn vật. Thuyết ấy cũng hàm chứa những bài học luân lý quý giá trong việc dạy dỗ con người: người ta phải biết tu thân tích đức và sống tốt để gặp điều thiện lương; ngược lại, người nào sống bất lương và bất chính, chắc chắn đến một lúc nào đó sẽ phải trả giá.
Thuyết nghiệp quả trong các nền văn hoá khác nhau
Không chỉ có trong nhà Phật, thuyết nghiệp quả còn hiện diện trong rất nhiều nền văn hoá và tôn giáo khác nhau. Trong những nền văn minh cổ đại của nhân loại như Ai-cập, Su-mer, A-cát, Ba-by-lon, Do-thái, Trung Hoa… luôn có một niềm tin vào nghiệp quả dựa trên nguyên tắc công bằng, cả ở cấp độ cá nhân lẫn cấp độ xã hội. Gieo nhân nào thì gặt quả đó. Gieo gió ắt gặp bão. Kẻ ác phải bị trừng trị và kẻ lành phải được tưởng thưởng. Một hôn quân vô đạo gieo nhiều nghiệp xấu, trước sau gì cũng phải gặt quả ác và làm cho vương quốc của mình sụp đổ. Một xã hội bất công và thối nát, tất sẽ đến hồi diệt vong. Một kẻ ác, có làm cách gì đi nữa cũng không thoát khỏi Luật trời. “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu”. Lưới trời lồng lộng, thưa nhưng khó lọt.
Trong kho tàng văn hoá Việt Nam, thuyết nghiệp quả được cưu mang trong rất nhiều câu chuyện cổ tích. Cô Tấm hiền lành tốt bụng một đời nên cuối cùng được hạnh phúc. Hai mẹ con nhà Cám gian ác nên kết cục bị trừng phạt đích đáng. Thạch Sanh thiện lương và nghĩa hiệp nên cuối cùng được tưởng thưởng. Lý Thông gian manh xảo quyệt nên kết cục phải bị trời phạt, v.v…
Tóm lại, có thể nói rằng thuyết nghiệp quả dựa vào xác tín căn bản rằng trong đời này không có gì tự sinh ra cũng không có gì tự mất đi. Có một Luật nhân quả chi phối toàn bộ vũ trụ vạn vật và mọi thứ trong cuộc đời. Nhờ có Luật ấy, mọi thứ vận hành theo đúng với lẽ công bằng.
Đạo Công Giáo nhìn về thuyết nghiệp quả
Não trạng bình dân của một người Công Giáo ít nhiều tin vào thuyết nghiệp quả. Chẳng hạn, người ta thường tóm lược Giáo Lý Công Giáo trong lời dạy: làm lành lánh dữ. Làm lành để được hưởng phúc Thiên Đàng, lánh dữ để khỏi phải sa hoả ngục đời đời. Có rất nhiều câu Kinh Thánh dạy dỗ điều này: “Hãy làm điều thiện, và bạn sẽ được sống” (Tv 37,3). Những nhà lập pháp đầu tiên của dân Ít-ra-en khi dạy dân về Luật của Thiên Chúa cũng dựa vào khuôn mẫu vận hành theo kiểu nhân quả: ”Nếu anh em nghe tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em mà đem ra thực hành tất cả những mệnh lệnh của người […] thì Đức Chúa sẽ cho anh em vượt mọi dân tộc trên mặt đất và mọi phúc lành sẽ đến với anh em […]” (Đnl 28,1-14); “Nhưng nếu anh em không nghe tiếng Đức Chúa [….], anh em sẽ bị nguyền rủa” (Đnl 28, 15-68). Thánh Phao-lô thì dạy rằng: “Ai gieo giống nào, thì sẽ gặt giống đó” (Gal 6,7), v.v.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng giữa niềm tin Công Giáo và niềm thuyết nghiệp quả có những khác biệt rất tận căn.
Thứ nhất, thuyết nghiệp quả theo nhà Phật là một Luật vận hành tuyệt đối. Không điều gì có thể thoát ra ngoài Luật ấy. Theo thuyết nghiệp quả của nhà Phật, không nhất thiết phải tin có một Đấng Tuyệt Đối nào. Trong khi đó, với niềm tin Công Giáo, điều tuyệt đối không phải là một Luật, nhưng là một Đấng làm chủ mọi Luật. Niềm tin Công Giáo không chỉ dạy người ta làm lành lánh dữ vì giá trị tuyệt đối của Luật nhân quả, nhưng là để xây dựng một tương quan cá nhân thiết thân và bền chặt giữa mình với Đấng Tuyệt Đối là Thiên Chúa của mình.
Mặt khác, niềm tin Công Giáo dạy rằng con người chỉ có một cuộc đời làm người để sống. Một người sống cuộc đời duy nhất của mình thế nào sẽ quyết định vận mệnh đời đời của người ấy. Nhưng sự quyết định này không nhất thiết hoàn toàn tuân theo Luật nghiệp quả. Trong hành trình cuộc đời của của mỗi con người, Thiên Chúa có một phương pháp sư phạm để dạy con người lớn lên. Sự lớn lên ấy có khi phải ngang qua những vấp ngã và thất bại, ngang qua những lỗi lầm và sai trái. Nhưng niềm tin Công Giáo dạy rằng nếu Thiên Chúa đối xử với con người theo luật nghiệp quả, khó một ai có thể đứng vững và được cứu thoát. “Ôi lại Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng?” (Tv 130,3). Không một con người nào thật sự có khả năng tự cứu mình, bởi có những yếu đuối bất khả vượt qua của thân phận con người. Thánh Phaolô, một vị tông đồ lừng danh về sự mạnh mẽ đã từng phải thốt lên: “Tôi không hiểu mình nữa, điều tốt tôi muốn thì tôi không làm. Điều xấu tôi không muốn tôi lại cứ làm” (Rm 7,15). Như thế, tự nền tảng, niềm tin Công Giáo dạy rằng mỗi người không phải và không thể là đấng cứu độ của riêng mình. Ai cũng cần một Đấng giải thoát, cần một trợ lực từ bên ngoài. Để được cứu, ai cũng cần đến sự đỡ nâng, cần tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa. Điều này khác biệt hoàn toàn với quan niệm “tự độ” của nhà Phật.
Hơn nữa, trong khi thuyết nghiệp quả của nhà Phật đề cao tuyệt đối trách nhiệm cá nhân và quan niệm rằng một người được cứu hay bị hư mất hoàn toàn phụ thuộc vào chính người ấy, đức tin Công Giáo dạy về sự liên đới và giá trị của chiều kích cộng đoàn đối với ơn cứu độ của từng cá nhân. Sự liên đới trong niềm tin là một giá trị đẹp của người Công Giáo. Đấy là lý do tại sao trong Giáo Hội Công Giáo thường có những buổi cầu nguyện cho những người đã qua đời, cầu nguyện cho những người đang gặp khó khăn hoạn nạn. Những lời cầu nguyện mà một người Công Giáo dâng lên Thiên Chúa thường không chỉ là cho riêng mình, nhưng cho rất nhiều người khác. Niềm tin nền tảng của việc thực hành ấy là thế này: người Công Giáo tin rằng Thiên Chúa có thể cứu rỗi một người nhờ vào lời khẩn nguyện của những người khác. Một người có thể được nâng đỡ và được cứu rỗi nhờ vào lời khẩn nguyện của cả cộng đoàn.
Quan trọng hơn hết đối với một người Công Giáo là những giáo huấn và gương sống cuộc đời của Đức Giê-su. Xuyên suốt các trang Tin Mừng, có thể thấy Đức Giê-su không cho rằng vận mệnh của một con người tuyệt đối bị khuôn định bởi Luật nhân quả. Ngài không dạy rằng một người đã gieo nhân nào thì đương nhiên sẽ nhận quả ấy. Đối tượng quan trọng mà Đức Giê-su chọn trong suốt cuộc đời rao giảng của mình là những người tội lỗi. Ấy là những người đã gieo nhân xấu trong đời mình. Ngài không rao giảng rằng họ sẽ phải nhận quả xấu. Ngài mời họ hoán cải, thay đổi đời sống để được cứu. Với Đức Giê-su, bất cứ một tội nhân nào cũng có một tương lai phía trước nếu họ biết từ bỏ đường tội lỗi, thay đổi cuộc đời để sống tốt và để làm người tốt. Có nhiều câu chuyện và dụ ngôn có thể minh hoạ rất tốt điều này.
Người ta bắt quả tang một người phạm tội ngoại tình (Ga 8,1-11). Chị đã gieo một nghiệp xấu trong đời mình là hành vi ngoại tình. Theo đúng lẽ đúng luật, chị phải gặt quả xấu là bị ném đá cho đến chết. Đức Giê-su không đi theo con đường đó. Nếu cứ phạm tội thì phải bị trừng phạt, liệu có một ai thoát khỏi án phạt không? Chuyện kể rằng khi Đức Giê-su đặt lại câu hỏi cho những kẻ chất vấn: “ai trong các ông không phạm tội, thì hãy ném đá người này trước đi” (Ga 8,7), những người kết án chị phụ nữ lần lượt bỏ đi, từ người lớn tuổi nhất. Câu chuyện Tin Mừng ấy dạy rằng ai cũng từng phạm tội. Ai cũng là kẻ có tội. Ai cũng từng ít nhiều gieo nhân xấu trong đời mình. Nếu cứ máy móc áp dụng theo luật nhân quả, liệu có ai là người sống sót được chăng? Liệu có ai đáng được cứu được chăng? Liệu có ai tự cứu mình được chăng? Càng thật lòng nhìn lại chính mình và thân phận làm người của mình, người ta càng có cơ hội nhận ra rằng mình cần đến lòng thương xót. Ai cũng cần đến sự tha thứ để có thể làm lại cuộc đời.
Đức Giê-su nhiều lần kể chuyện về lòng thương xót của Thiên Chúa. Thiên Chúa trong lời dạy của Đức Giê-su luôn là một người cha có trái tim nhân từ. Với người cha ấy, có khi chính đứa con hư hỏng và gieo nhiều ác nghiệp nhất lại là đứa con được quan tâm và lo lắng nhiều nhất. Có khi Thiên Chúa sẵn sàng đầu tư nhiều tâm huyết và kiên nhẫn nhất cho những con người bị coi là bất xứng nhất. Một thí dụ điển hình là dụ ngôn về đứa con hoang đàng (Lc 15,11-35). Đứa con ấy bỏ nhà cha của mình, thu gom hết của cải, ăn chơi phung phí cho đến khi tán gia bại sản thì mới quay trở về. Anh là người đã gieo nhân xấu. Lẽ ra quả mà anh gặt phải là bị kết án, bị ruồng bỏ, bị khinh miệt xa lánh. Nhưng không. Người Cha đón nhận anh bằng rất nhiều yêu thương và ưu đãi. Không phải vì anh ta xứng đáng. Chỉ đơn giản vì tình yêu của người Cha dành cho con mình luôn là như vậy. Anh có ra hư hỏng thế nào đi nữa, có gieo quả xấu thế nào đi nữa, cũng chẳng thể làm mai một tình yêu vô bờ mà người Cha dành cho anh. Tình yêu ấy vượt trên lẽ công bằng, vượt ra ngoài vòng khuôn định nhân quả. Tình yêu ấy không màng đến chuyện xứng đáng hay không xứng đáng. Chỉ đơn giản anh là người được yêu. Vì được yêu nên anh được tha thứ. Thiên Chúa không dùng luật nhân quả để phân loại và phán xử con người. Ngài dùng sự thương xót và tha thứ để cảm hoá lòng người, để mở ra một con đường mới cho con người có thể làm lại cuộc đời.
Như thế, niềm tin Công Giáo xác tín rằng trong tương quan giữa con người với Thiên Chúa, có những khung tiêu chuẩn khác quan trọng hơn và lý tưởng hơn là khung tiêu chuẩn công bằng theo kiểu nghiệp quả. Ấy là giá trị của tình yêu, của lòng thương xót và của sự tha thứ. Tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người không dựa trên bất cứ một quy luật nhân quả nào. Tình yêu của Thiên Chúa không phải là cái quả mà con người gặt được nhờ đã gieo nhân tốt. Thiên Chúa yêu thương con người không phải vì con người xứng đáng, không phải vì con người giỏi giang và đẹp đẽ, không phải như một cách để thưởng công cho con người. Chính tình yêu làm cho con người hoán cải để trở nên tốt hơn mỗi ngày, chứ không phải nhờ con người đã tốt nên con người mới được Thiên Chúa yêu thương. Trong tương quan tình yêu giữa Thiên Chúa và con người, chính Thiên Chúa là người đi bước trước, bất kể sự bất toàn bất xứng của con người. Cả khi con người bất trung và lầm lỗi, tình yêu mà Thiên Chúa đặt vào con người vẫn là không hề thay đổi. Đây là khác biệt tận căn giữa thuyết nghiệp quả và niềm tin vào tình yêu Thiên Chúa.
Như thế, làm sao để giảm bớt “nghiệp quả”?
Khi nói về tình yêu nhưng không và vô điều kiện của Thiên Chúa, luôn có nguy cơ người ta sẽ lý luận kiểu này: được Chúa yêu như vậy, con người muốn làm trời làm đất gì thì làm, còn phải sợ gì nữa! Người chọn “làm trời làm đất” khi nhận ra mình được yêu thật ra là người không có trái tim. Người đó không biết trân trọng tình yêu được đặt vào đời mình. Người đó trước sau gì cũng tự mình làm mất tình yêu mà mình đang được hưởng nếm, và tự đánh mất chính mình. Vậy nên vẫn có trường hợp có những người được Thiên Chúa yêu thương vô cùng, nhưng cuối cùng vẫn ra hư mất. Người ấy phải gánh quả ác từ những cái nhân xấu mà mình đã gieo, nếu giải thích theo lối hiểu nhà Phật. Đơn giản, bởi vì người ấy tự do nhưng lại không muốn dùng tự do của mình để chọn con đường tốt mà chính Thiên Chúa đã mở ra cho mình.
Nhận ra tình yêu Thiên Chúa và cộng tác với tình yêu ấy là cách tốt nhất để “giảm bớt nghiệp quả”. Chính tình yêu Thiên Chúa luôn có khả năng gột sạch những “nghiệp” xấu mà con người đã gieo trong đời mình và mở ra cho con người con đường sống mới. Bước đi trong hành trình đức tin mỗi ngày, người Công Giáo học cách nhận ra mình là người được yêu. Học cách sống xứng đáng với tình yêu đặt vào đời mình, để cho tình yêu ấy trở thành đảm bảo và thành nguồn động lực giúp mình trở nên tốt hơn mỗi ngày.
Tóm lại, người Công Giáo đặt niềm tin tuyệt đối vào tình yêu của Thiên Chúa. Tình yêu ấy vượt lên trên mọi khuôn định của thuyết nghiệp quả.
(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 1, Nxb Tôn Giáo, 2020)
Câu hỏi: Chúng ta làm điều gì đó, thường là có chương trình, kế hoạch. Khi tạo dựng thế giới và con người, liệu Thiên Chúa có thực hiện theo kế hoạch định trước không? Theo đó, vấn đề tiền định nghĩa là gì?
Trả lời:
Sao tôi cứ khổ hoài? Sao anh lập nghiệp mãi mà không thành công? Vì sao có người ngồi chơi xơi nước mà vẫn giàu sang phú quý? Bởi đâu tôi không thể làm thánh? Tại sao có nhiều người yêu mến Chúa nồng nàn?
Chúng ta có thể nghe hằng hà câu hỏi như trên. Có người cho đó là số phận đã an bài. Lắm người tin rằng đó là điều may mắn, là ơn Chúa. Không ít người xem đó là chuyện đương nhiên. Thiên thời, địa lợi, nhân hòa, mình sẽ thành công hạnh phúc thôi.
Trước thực trạng của cuộc sống, chúng ta có nhiều cách hiểu và tin. Mỗi tôn giáo đều cho chúng ta câu trả lời. Phật Giáo liên hệ những điều trên đến luật nhân quả. Các nhà thần học Hồi Giáo cũng bàn đến vấn đề tiền định và ý chí tự do. Giáo Hội Tin Lành cho rằng điều đó liên hệ đến thuyết tiền định. Công Giáo xác tín rằng mọi sự đều trong vòng tay yêu thương và quan phòng của Thiên Chúa. Trong câu hỏi thú vị trên đây, chúng ta thử lướt qua một vòng những điều hấp dẫn, nhưng chút phức tạp.
Bạn thân mến,
Câu hỏi của bạn không phải thời nay mới có. Ngay thời xa xưa, dân Do Thái nói riêng và nhân loại nói chung muốn đi tìm nguồn gốc của mình. Hẳn nhiên, người Do Thái diễn tả nguồn gốc ấy trong trình thuật sách Sáng Thế. Bạn hỏi trước khi Chúa sáng tạo muôn loài, Ngài có kế hoạch, bàn tính kỹ lưỡng không? Chúng ta hoàn toàn không biết, vì lúc ấy chẳng có ai để chứng kiến. Sau này Thiên Chúa và Đức Giêsu cũng không mặc khải điều đó. Tuy nhiên, nếu theo mạch văn và niềm tin, chúng ta thấy chính tình yêu dâng trào của Thiên Chúa đã lần lượt tạo nên vũ trụ. Ngài phán hãy có ánh sáng, đất trời, chim thú muôn loài, liền có như vậy. Ngài thấy mọi điều là tốt đẹp và chúc phúc cho chúng.
Trường hợp sáng tạo con người thú vị hơn, dường như Ngài có kế hoạch hẳn hoi. Theo bản văn, Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta.” Đó là điều mà chúng ta có thể thấy Thiên Chúa kỳ công nắn tạo con người. Hẳn là Thiên Chúa đã “suy nghĩ” làm thế nào sáng tạo nên một loài cao quý. “Giống hình ảnh Thiên Chúa” là hồng phúc tuyệt vời của con người. Và Ngài luôn chúc phúc cho họ, nghĩa là cho họ được hạnh phúc bình an, luôn mãi.
Tiếc là lịch sử nhân loại đi vào con đường tiêu vong. Như trong câu hỏi trên, chúng ta thấy có những chi tiết sau:
1. Thiên Chúa đã tiền định mọi sự
Tiền định tiếng Anh là “predestination”, “predestinationism” (thuyết). Hán Việt: tiền là trước, trên hết. Định là đã quyết, không thể thay đổi. Như thế, tiền định là những điều đã quyết từ trước mà con người không thể thay đổi. Có người gọi đó là định mệnh, là số phận[1].
Tôi không muốn đi vào lịch sử phát triển của từ này, vì nó đụng đến triết học Hy Lạp vốn phức tạp. Tuy nhiên, từ thời Giáo Hội sơ khai, người ta đã hoài nghi về những điều liên quan đến Đức Giêsu. Ngài đã biết trước mọi sự, kể cả cái chết? Bằng chứng là Ngài đã tiên báo đến ba lần. Phải chăng Ngài cũng biết Giuđa Ítcariốt là kẻ phản bội. Đó là định mệnh của tông đồ xấu số này. Phải chăng Đức Giêsu biết sau khi chết, Ngài sẽ sống lại. Những chủ đề ấy có dịp chúng ta sẽ bàn sau.
Tuy vậy niềm tin vào tiền định cũng rất phổ biến trong dân gian từ xưa[2]. Thánh Augustinô đã chấp nhận niềm tin này. Thánh nhân giảng rằng: Giáo Hội có hai thực thể: hữu hình và vô hình. Giáo Hội hữu hình là hệ thống tổ chức trần thế. Giáo Hội vô hình là cộng đồng những linh hồn do Chúa tiền định cho họ được cứu rỗi. (Sẽ bàn ở phần sau).
Phải nói thuyết tiền định loang rộng và ảnh hưởng mạnh mẽ vào thời Trung Cổ. Chính thần học gia Tin Lành John Calvin (1509-1564) đã đẩy cao thuyết này. Năm 1559, Calvin cho xuất bản tập Institutes of the Christian Religion (Những nguyên lý của Kitô giáo), trong đó thuyết tiền định được khai triển. Ông cho rằng sau khi con người sa ngã, tội lỗi đã hủy hoại tính thánh thiêng của con người. Trong thân phận tội lỗi, đọa đày, tất cả chúng ta đều bị đuổi ra Vườn Địa Đàng, bị xa cách Thiên Chúa. Tuy nhiên, vì lòng thương xót và tình yêu của Thiên Chúa, nhiều người được Thiên Chúa tiền định được cứu độ. Họ được lọt vào danh sách sổ bộ hằng sống (Ga 10,27-28; Ep chương 11).
Nhiều thần học gia còn đẩy xa hơn vấn đề. Đức Giêsu chịu chết và phục sinh phải cứu lấy toàn nhân loại chứ. Vậy tại sao nhiều người vẫn xa Hỏa Ngục? Câu trả lời chỉ thỏa đáng là: Thiên Chúa đã chọn cứu họ từ rất xa xưa. Như thế, nếu bạn và tôi không được ghi vào danh sách hằng sống đó, mọi nỗ lực nên thánh của chúng ta cũng đổ sông, đổ biển.
2. Thiên Chúa luôn quan phòng và cứu độ con người
Dĩ nhiên trước trào lưu tiền định đó, Giáo Hội Công Giáo không đồng ý. Tranh luận đã xảy ra phức tạp mà chúng ta không có giờ đi vào chi tiết. Chỉ tóm lại như sau:
Trong Công Giáo cũng có chữ tiền định. Nghĩa là Thiên Chúa từ muôn thuở đã an bài mọi sự. Mọi công trình và số phận của con người đều trong sự quan phòng của Người. “Anh em đừng lo lắng, ngày nào có cái khổ của ngày đó.” Còn về vấn đề cứu độ, Thiên Chúa tình yêu chắc chắn cứu hết mọi người trong vũng lầy của tội lỗi, khổ đau. Bằng giá máu của Đức Giêsu, con người đã được tiền định cho cứu độ. Chính Đức Giêsu “hòa giải con người với Thiên Chúa, và cho làm nghĩa tử.” (x. Ep 1,5)
Tuy nhiên vấn đề ở đây là nhiều người chối từ món quà cứu độ đó. Thiên Chúa trao ban sự sống cho mọi người, nhưng Ngài không bắt chẹt, ép lấy ép để mọi người phải chấp nhận. Nếu ép buộc con người, Thiên Chúa quả không công bằng, không tôn trọng tự do của con người. Đây là chìa khóa của vấn đề trên. Chúng ta có tự do để chấp nhận ơn cứu độ đó hay không mà thôi.
Thực vậy, có lần thánh Augustinô tâm sự rằng: Thiên Chúa sáng tạo con người, Ngài đâu cần hỏi ta. Nhưng khi muốn cứu độ con người, Ngài phải hỏi ý kiến của ta. Có nhiều người từ chối tin vào Thiên Chúa, phớt lờ ơn cứu độ; kết quả là họ tự chọn cuộc sống xa cách Thiên Chúa ngàn trùng.
Bởi đó chúng ta thấy Công Giáo, hay nói đúng hơn, Thiên Chúa luôn đề cao ý chí tự do của con người. Đức Giêsu nói cho người phụ nữ ngoại tình: “Ta không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa.” (Ga 8,11). Điều ấy có nghĩa là nếu chị ta chịu sửa đổi đời sống, tin theo Thiên Chúa, số phận của chị sẽ rất khác, sẽ được sống. Kết quả là sau này, theo truyền thống, chị đã là vị thánh trong Giáo Hội Công Giáo (chị có thể là thánh Maria Mađalêna).
Chúng ta cũng không ngoại lệ. Chỉ những ai chấp nhận để Thiên Chúa cứu độ, họ mới hy vọng được sống đời đời. Đừng quên “Nhà Thiên Chúa có nhiều chỗ ở.” Ngài muốn cứu mọi người. Tiếc là hành trình tin theo Đức Giêsu luôn nhiều thách đố, lắm chông gai. Nó thường đi ngược lại bản tính yếu đuối của con người. Trong ta lúc nào cũng cảm thấy những xung đột giằng co: tốt-xấu, lành-dữ, v.v.
Một điều thú vị là cuộc đời chúng ta không thể đoán trước được. Kể cả ngành tử vi, bói toán, cho đến chuyên gia tướng số đều không thể biết rõ cuộc đời của ta. Một điều ai cũng đoán được: sinh, lão, bệnh, tử. Do đó, có những thắc mắc đại loại như: phải chăng Chúa định đoạt cho tôi làm bác sĩ, công nhân, thầy giáo, nội trợ hay thất nghiệp dài dài? Phải chăng từ rất xa xưa, Ngài đã chọn tôi làm linh mục, bà sơ? Chúa muốn người này sống lâu, người kia chết sớm? Thực ra những điều ấy luôn vượt tầm hiểu biết của con người. Chúng ta đành khiêm tốn gom lại trong một từ: mầu nhiệm. Càng sống, hy vọng chúng ta càng thấy bàn tay Thiên Chúa dẫn đưa.
3. Tự do và đáp trả lời mời gọi yêu thương
Thiên Chúa yêu thương con người. Đó là luật tiền định của Thiên Chúa. Có người còn nói, Thiên Chúa tiền định đặt những nguyên lý, định luật vào trong công trình Sáng Tạo để nó vận hành tốt đẹp. Ngài tôn trọng những điều đó. Chẳng hạn ngày và đêm tuần hoàn nối tiếp nhau. Thiếu rừng sẽ gây lũ lụt, hạn hán. Chạy xe ẩu nguy cơ tai nạn sẽ cao hơn. Bệnh tật là do nhiều hệ lụy của con người. Người tài giỏi sẽ giàu sang, người lười biếng sẽ nghèo đói, v.v. Chúng ta không thể đổ lỗi cho số phận, cho định mệnh đã an bài. Đó là những lý do ngụy biện!
Thái độ của người Công Giáo là cộng tác với Thiên Chúa. Trước lời mời gọi yêu thương, lời hứa cứu độ, chúng ta cố gắng để đáp lại điều đó. Thiên Chúa đã đi bước trước, chỉ những ai thoái lui, phớt lờ “ơn tiền định” ấy, không ai dám chắc số phận của người ấy sẽ đi về đâu?
Thay vì sợ hãi trước Thiên Chúa quan phòng, an bài mọi sự, chúng ta hạnh phúc vì được Thiên Chúa ân cần săn sóc ngay từ trước khi chào đời. Ước gì mỗi người cảm nhận được hồng ân này, để dám lao mình về phía trước cùng với Chúa. Trong tâm thế đó, “tiền định, hay không tiền định” trở nên nhẹ nhàng hơn.
Bạn đừng quên mặc dù Thiên Chúa đã sáng tạo mọi sự, đã đặt vào chúng những quy luật vận hành, nhưng Ngài vẫn làm việc để chăm sóc con người. Do đó, chúng ta không có lý do gì tin vào thuyết định mệnh mà ngồi đó mặc cho số phận an bài. Tuy chúng ta là thụ tạo tốt lành, nhưng chưa hoàn hảo và tuyệt đối, vì tội lỗi. “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5,48) Trong đường hướng đó, giả như bạn có khả năng gì, hãy sử dụng chúng như những nén bạc Thiên Chúa ban cho.
Cảm ơn bạn đã khơi lại đề tài tưởng chừng đã quên lãng sau thời Trung Cổ. Tuy nhiên, chút chia sẻ trên đây hy vọng chúng ta hiểu hơn về thuyết tiền định. Đừng quên nhiều nhánh của Anh em Tin Lành vẫn theo niềm tin này. Bởi đó, ước mong bạn cũng có thể trò chuyện được với họ về vấn đề này. Hoặc, bạn có thể giải thích những gì liên quan đến vấn đề này dưới góc nhìn của Công Giáo.
Chúng ta sống và tiến về phía trước! Đừng tin vào số phận hẩm hiu, vì Thiên Chúa luôn cho chúng ta những gì tốt nhất. Mỗi ngày tin yêu một chút, cố gắng một chút, cộng tác với ơn Chúa một chút, cuộc đời chúng ta sẽ khác, khác nhiều lắm!
Chào bạn!
(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 1, Nxb Tôn Giáo, 2020)
WHĐ (30.8.2021)
--------------- [1] “Đó là cuộc sống mà…”, hoặc “Chẳng có gì để làm!” Theo cách này, cẩn thận kẻo mình rơi vào chủ nghĩa của thuyết định mệnh.
[2] Trong Truyện Kiều, bạn có thể thấy cụ Nguyễn Du đã ghi nhận niềm tin này trong tâm thức người Việt: “Ngẫm hay muôn sự tại Trời. Trời kia đã bắt làm người có thân. Bắt phong trần phải phong trần. Cho thanh cao mới được phần thanh cao.”
Thiên Chúa quá cao vời, uy quyền và huyền nhiệm. Chúng ta có thể cảm nghiệm được Thiên Chúa như thế nào?
Trả lời:
Thanh Liêm sinh ra trong một gia đình có năm anh em. Ngay từ nhỏ, Liêm đã bộc lộ là một người con ngoan, thương gia đình, Liêm thông minh, biết phải trái trước sau, nhưng luôn có những chính kiến riêng của mình... Từ năm lớp 3, cậu đã vui thích đảm nhận việc chăm sóc hai con bò để bớt gánh nặng cho bố mẹ. Sáng đi học, chiều Liêm cùng với người anh họ thả bò ven bờ đê, hay trên những ruộng lúa chỉ còn trơ gốc. Nhìn hai anh em thương nhau, ngoan ngoãn... ai ai trong làng cũng nói:
“Sau này lớn, hai đứa cháu đi tu đi?!”
Hai đứa nhỏ nhìn nhau cười và tiếp tục hành trình dẫn bò đi ăn. Khi trời chạng vạng tối, người người tất bật trở về nhà, Liêm cũng dẫn bò về, cậu lại lấy cám gạo trộn với hèm rượu cho heo ăn thay bố mẹ còn đang mải ruộng vườn. Buổi tối sau bữa cơm, rửa chén bát xong, Liêm chẳng cần ai nhắc nhở đã yên vị trên gác sàn cỏn con để học bài.
Liêm thấm những gian khó của gia đình từ lúc có trí khôn. Cậu nhớ như in cảnh người ta rình bắt quả tang nhà Liêm đang nấu rượu không xin phép. Mặt bố cậu tái xanh cắt không ra máu trước đám người miệng la oang oang, hung hăng đập phá như thể gia đình này phạm tội tầy trời. Mẹ Liêm khóc trước cảnh cùng cực, tang hoang như chạy giặc... bốn đứa nhỏ nheo nhóc cũng khóc theo mẹ, miệng cũng lắp bắp van xin:
- Chú nhà nước tha cho mẹ cháu...
Tiếng khóc nỉ non của bọn trẻ yếu ớt trong tiếng nạt nộ quát tháo của người lớn, chẳng khác gì cảnh đày đọa thời cấm cách bắt đạo. Mặc cho sự van xin của người lớn và trẻ con, đám người mặt mũi hằm hằm sát khí cướp đi mấy cái nồi nấu rượu; đập bể mấy cái chum ủ cơm rượu của gia đình, làm cơm đang lên men chảy vương vãi trắng đục gian nhà, hơi men rượu tỏa ra cay nồng sống mũi... Đám người rút đi, gia đình Liêm lại gạt nước mắt dọn dẹp bãi chiến trường đổ nát. Bao gian khó của gia đình, Liêm đều cảm nhận. Cứ vậy, cuộc sống thăng trầm của gia đình Liêm trôi qua với những công việc bổn phận của những đứa trẻ biết thương gia đình.
Gia đình nghèo túng, kinh tế thiếu trước hụt sau, nhưng gia đình Liêm chẳng bao giờ thiếu lời kinh chung trong gia đình. Những lời kinh đã in đậm, nuôi dưỡng anh em Liêm lớn từng ngày, anh em Liêm thuộc kinh như cháo... Chỉ có điều càng lớn Liêm lại thắc mắc, Thiên Chúa ở đâu trong cảnh đau khổ của người nghèo, của chiến tranh loạn lạc, của bất công xã hội... Dường như Thiên Chúa quá cao vời, hình ảnh Ngài quá xa lạ với Liêm, Liêm chưa thể cảm nhận... thắc mắc đặt ra, người lớn chẳng trả lời được, hay chỉ đáp lại:
- Mày hỏi vớ vẩn quá! Tin thì cứ tin, đức tin là ơn Chúa ban.
Cứ vậy, những thắc mắc cứ dồn lại thành những khối u trong Liêm chưa được mổ xẻ. Đến lúc này, Liêm nghĩ mình tin, mà chẳng nghiệm như vậy có mù quáng không? Niềm tin của Liêm được nuôi dưỡng từ chính những ngày còn thơ ấu: đi lễ, đọc kinh, nghe những lời dạy bảo đầy xác tín của ông bà, bố mẹ về Thiên Chúa, về đức tin... Nhưng giờ đây, dường như suy nghĩ của Liêm đang đi ra ngoài quỹ đạo chung của gia đình dòng họ. Liệu rằng Liêm có đánh mất niềm tin Kitô Giáo truyền thống của gia đình? hay Liêm đang đi tìm một đức tin bền vững qua những thắc mắc của Liêm.
Kỳ thi đại học năm đó, bạn bè của Liêm chọn ngành nghề theo sở thích, năng khiếu... Có đứa còn chọn ngành học theo yêu cầu của bố mẹ, trong khi năng lực không ăn nhập gì với yêu cầu của phụ huynh. Riêng bố mẹ Liêm thì để cho cậu tự quyết định đến tương lai của mình. Bố Liêm cũng không muốn tạo áp lực lên con cái, ông hiểu rõ gia đình ông đã quá nhiều áp lực của cuộc sống, nên ông không muốn mình trở thành người uốn con theo một khuôn mẫu cứng nhắc. Tất nhiên, con hư thì phải dạy, phải uốn, chăm tỉa như bonsai thì mới thành người. Liêm thi khối B, cậu trúng tuyển ngành công nghệ sinh học – Trường Đại học Khoa Học Tự Nhiên (KHTN), ĐH Quốc Gia, TP. HCM và ngành Nha Khoa Đại học Y Dược, TP. HCM. Gia đình Liêm ngập tràn hạnh phúc, bố mẹ Liêm có chút âu lo khi con vào đại học. Đến lúc này thì bố mẹ Liêm lại mong Liêm sẽ chọn học nha sĩ vì nghe nói nghề này “hái ra tiền”..., nhưng cũng không dám tác động lên cậu vì ông bà hoàn toàn tôn trọng quyết định của con. Còn Liêm phân vân không biết chọn một trong hai nghề gì đây cho tương lai của mình. Cả tương lai phụ thuộc vào quyết định ở giây phút này, một nha sĩ, hay một người làm về môi sinh, trồng trọt... Cuối cùng, cậu chọn học công nghệ sinh học (ĐH KHTN) vì được ở Ký túc Xá (KTX) đỡ gánh nặng cho gia đình giữa nơi xa hoa, đắt đỏ.
Năm thứ nhất trôi qua khá nhẹ nhàng với những môn đại cương. Tết năm ấy, Liêm về thăm gia đình, cả nhà và Liêm đều mong chờ đến tết, tết đầu tiên của người “xì phố” trở về quê. Liêm háo hức một, bố mẹ cậu mong con mười. Bữa cơm gia đình đầm ấm tiếng cười trong câu chuyện ở trường ở quê làm ai cũng vui. Cậu rôm rả kể những chuyện ở KTX, việc học ở trường cho cả nhà nghe. Liêm cũng nhắc đến nhóm sinh viên Công Giáo của mình. Bố cậu cảm thấy hài lòng về Liêm, ông gật gù mỉm cười:
- Giữa chốn đô thị nhưng con ông vẫn giữ chất con nhà đạo.
Sau bữa cơm, ông Hoành ngồi lại cùng Liêm trò chuyện, cha con lại bàn luận đến việc đức tin của người Công Giáo, ông Hoành cảm nhận:
- Một cục “ngang ngang” đang mọc trong Liêm sau khi con mình học được hai ba con chữ ở trường đại học.
Còn Liêm vô tư chia sẻ điều Karl Marx nói:
- Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân! - Trường dạy Liêm như thế.
Cậu không đồng ý với việc “theo đạo là theo chứ không cần bàn cãi”. Ông Hoành quả quyết: “Đức tin là do ơn Chúa ban”. Liêm hỏi:
- Nếu nói vậy, thì bên làng Ka Đơn người ta đang tin là có ma lai rút ruột, đêm đêm vẫn về hút máu người này người kia. Trời chập tối là cả làng không có một bóng người ra ngoài. Cả làng Ka Đơn ai cũng tin có ma lai, vậy thì ma lai cho họ đức tin là có ma sao?
Câu hỏi của Liêm làm ông Hoành cứng họng, ông như bị Liêm dội một gáo nước lạnh giữa trời đông buốt giá. Ông im lặng không nói, mắt ông đượm buồn. Bố con Liêm nói thêm năm - ba câu chuyện rồi ông đứng dậy bỏ vào phòng.
Đêm đó, ông Hoành trằn trọc mãi không ngủ, ông suy nghĩ: “cho Liêm ăn học thành người, bây giờ Liêm mất đức tin thì còn mặt mũi nào ngước nhìn tổ tiên”... Liêm biết mình đã làm bố phận lòng, Liêm không có ý chối bỏ niềm tin vào Thiên Chúa, cậu chỉ muốn nói lên chính kiến của mình về đức tin và khao khát muốn được cảm nghiệm một Thiên Chúa thực sự, chứ không phải tin là tin, hay:
- Ừ! đi lễ thì đi, chứ lòng thì đang ở quán bi da hay một tụ điểm vui chơi nào đó.
Hay giữ đạo theo kiểu đạo gốc cây như một số người mà Liêm vẫn gặp ở Thành phố. Thiên Chúa dường như quá xa, Ngài đang vắng mặt, nên chưa thể nghe được điều Liêm khao khát, cậu đang tự mày mò niềm tin trong khi mỗi ngày những tiến bộ của khoa học đang khẳng định vị trí, thế chỗ cho Đấng mang tên Thiên Chúa. Phải chăng cậu đã sai vì chính điều này đã làm tương quan cha con cậu bị rạn nứt.
Sau tết, Liêm trở lại thành phố với tâm trạng không vui. Cậu bước vào chương trình học với các môn học chuyên ngành. Liêm tập làm quen với phòng thí nghiệm với những chiếc kính hiển vi kích cỡ khác nhau. Tụi bạn Liêm vẫn ví von chúng là “kính chiếu yêu” như trong phim Tây Du Ký. Vì qua ống kính này, người ta có thể nhìn thấy tất cả những vi sinh vật nhỏ nhất mà mắt thường không thấy được. Hôm đó, giờ giải lao môn học tại phòng thí nghiệm, Liêm dùng nước mới rửa rau xà lách nhìn dưới kính hiển vi, qua tấm kính nhỏ cậu quan sát thấy hằng ngàn hằng ngàn vi khuẩn đang lúc nhúc trong ly nước. Liêm đem ly nước đun sôi và quan sát lại, đám vi khuẩn kia đã chết không còn một con. Cậu để ly nước ra ngoài không khí 30 phút cho nguội rồi soi lại dưới kính. Liêm không thể tin được, cậu thốt lên:
- Lạy Chúa, nó ở đâu rơi vào đây thế này?
Ly nước vô khuẩn kia đã sinh ra hằng ngàn vi khuẩn mới mà mắt thường của Liêm không thấy được. Liêm bừng tỉnh “sự sống ở xung quanh mà tôi không hề hay biết”. Qua môn học chuyên ngành, Liêm biết rằng trong bất cứ môi trường nào (nước, không khí...) đều có rất nhiều vi khuẩn. Nhưng hôm nay, Liêm được trực tiếp nhìn thấy thì thật là ngoài sức tưởng tượng. Những giờ học tiếp theo, Liêm khám phá, bề ngoài bàn tay rắn chắn của mình, là những tế bào “cực kỳ mong manh”. Bất cứ lúc nào, những vi khuẩn đâu đó cũng có thể xâm nhập vào cơ thể một cách dễ dàng. Nhưng cũng rất may, cơ thể con người có những đề kháng, những yếu tố chống lại chúng. Chính Thiên Chúa biết rõ những vấn đề đó, Ngài chuẩn bị cho cơ thể con người những yếu tố axít, phản ứng hóa học trong cơ thể để bảo vệ con người, để làn da mong manh của con người vẫn bảo đảm “nội bất xuất, ngoại bất nhập”.
Liêm bắt đầu nghĩ đến niềm tin của mình, “lâu nay cậu muốn cảm nghiệm được Thiên Chúa, việc này đâu khác gì ước muốn tận mắt nhìn thấy Ngài?” Liêm nghĩ đến chiếc kính hiển vi đã cho cậu khám phá ra nhiều điều mà mắt thường không thấy. Thiên Chúa là Đấng vô hình và Ngài vẫn hằng hiện hữu, mắt thường không thể thấy Ngài, nhưng Liêm có thể cảm bằng cái nhìn đức tin. Trong cuộc sống, có vô số những điều vẫn tồn tại mà con mắt giới hạn không cho phép chúng ta nhìn thấy. Trong mỗi lãnh vực nghiên cứu lại cần có những phương tiện để hỗ trợ nhìn. Nhà vi trùng học thì cần đến kính hiển vi, nhà thiên văn học thì cần có ống kính thiên văn để nhìn các ngôi sao thiên thạch cách mặt đất đến hơn mười tỉ năm ánh sáng...
Liêm nghĩ đến gia đình của mình, nghĩ đến ông bà bố mẹ, nghĩ đến những kỷ niệm thơ ấu đậm chất yêu thương... Thứ tình yêu đó đã nuôi dưỡng anh em Liêm khôn lớn. Tình mẫu tử, tình thương con người trao cho nhau Liêm không thể nhìn thấy bằng con mắt trần, cậu chỉ có thể cảm nhận bằng trái tim, bằng nghĩa cử yêu thương. Bây giờ Liêm cảm nhận Chúa thật gần với mình. Tim Liêm ấm lên, một niềm vui khoan khoái tràn ngập cả người Liêm. Cậu nhắm mắt chắp tay, Liêm xác tín chính Chúa đã quan phòng cho Liêm học ngành này, để Ngài trả lời cho Liêm câu hỏi đức tin mà cậu vẫn trăn trở.
Càng học, càng nghiên cứu Liêm lại thấy mình thật nhỏ bé trước vạn vật, trước tình yêu của Thiên Chúa. Liêm không thể giải thích được trước những điều kỳ diệu về cơ thể con người trong môn khoa học này. Cơ thể con người là một cỗ máy khổng lồ tuyệt diệu, hoạt động hoàn toàn nhịp nhàng ăn khớp với nhau. Cỗ máy này đã được Thiên Chúa sắp xếp một cách trật tự, tinh tế... mọi chi tiết nhỏ của cơ thể mà mắt thường không thấy đều mang lại sự sống. Cứ mỗi phút, 1 tế bào trong cơ thể có đến 1000 phản ứng hóa học khác nhau. Nếu không có Thiên Chúa “lo lắng” quan phòng cho những tế bào siêu nhỏ này thì những phản ứng sẽ không diễn ra một cách suôn sẻ, khi đó sự sống trong con người chắc chắn có vấn đề. Mỗi ngày có 70 triệu tế bào chết đi và từng ấy tế bào mới được sinh ra. Cứ 10 năm, toàn bộ cơ thể được tái tạo hoàn toàn.[1] Khi Liêm học năm cuối đại học, cơ thể Liêm đã thay đổi hoàn toàn đến hơn 2 lần. Nhưng tại sao những ký ức, trí nhớ trong Liêm vẫn còn nguyên vẹn ? Liêm không thể giải thích. Đến lúc này Liêm xác tín: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” (Lc 1, 37).
Thiên Chúa đã rất tinh tế khi tạo ra con người, Ngài chú ý đến từng chi tiết trong cơ thể của chúng sinh, để nó có thể hoạt động nhịp nhàng không lệch lạc. Tế bào thần kinh kết nối não bộ tương tự như cấu trúc vũ trụ. Liêm suy nghĩ, Trái tim mang lại sự sống cho Liêm thật mạnh mẽ. Trong một ngày, trung bình trái tim đập khoảng 100.000 lần để vận chuyển hơn 7.500 lít máu đi nuôi cơ thể.[2] Thông thường, máy bơm nước còn phải cho ngưng nghỉ vậy mà thi thoảng bố Liêm vẫn phải mang đi sửa. Vậy mà trái tim của con người bơm máu liên tục trong suốt cuộc sống của một con người: 20 năm, 50 năm, 90 năm thật kỳ diệu. Làm một bài toán vui, ở một người trưởng thành, nếu đem tất cả các động mạch, tĩnh mạch, mao mạch duỗi thẳng chúng và nối lại với nhau sẽ có độ dài khoảng 96.000 km, nó sẽ gấp 2,5 lần chu vi trái đất. Trái tim con người thật mạnh mẽ và tuyệt diệu, nó đã đẩy máu lưu thông cho 96.000 km.[3] Liêm xác tín chính Thiên Chúa đã tạo dựng, an bài mọi vạn vật không thể tự dưng mà có được.
Năm cuối đại học kết thúc, Liêm được trường giữ lại làm nghiên cứu sinh, học tiếp cao học. Liêm hạnh phúc trong ngày lễ tốt nghiệp cùng bạn bè dù bố mẹ không hiện diện cùng cậu. Giữa những thao thức cuộc đời, Liêm luôn luôn đi tìm ý Chúa, Liêm khắc khoải như Thánh Âu Tinh:
“Chính Chúa đã thúc giục con tìm niềm vui trong việc ngợi khen Ngài, vì Chúa đã dựng nên con cho Chúa nên lòng con khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa.”[4]
Sau ba tháng tốt nghiệp đại học, Liêm gọi điện cho ông Hoành báo tin ngày cậu vào thỉnh viện Dòng Đa Minh. Liêm xin phép bố mẹ tạm dừng việc học ở đây để đi theo Đấng mang lại sự sống cho cậu. Liêm xin lỗi bố mẹ vì không giúp được gì cho gia đình sau ngần ấy năm học hành:
- Con xin phép đến ở nhà Chúa, và con tin Chúa sẽ ở cùng gia đình mình.
Nghe điện thoại của con trai xong, ông Hoành gác điện thoại xuống, hai dòng lệ lăn dài trên má vì hạnh phúc vô bờ dâng tràn trong ông, vì điều Thiên Chúa ban cho gia đình ông vượt xa điều ông khấn xin: “Xin đừng để các con của con mất đức tin”.
* * *
Bạn thân mến, tôi hi vọng bạn đã có một cảm nghiệm nho nhỏ về Thiên Chúa của chúng ta qua câu chuyện trên đây. Chúng ta cũng có thể có một vài điều rút ra qua câu chuyện này về kinh nghiệm Thiên Chúa.
- Kiên trì cầu nguyện, lắng nghe tiếng Chúa nói với mình qua Thánh kinh, Thánh lễ, các Bí tích..
- Thiên Chúa là Đấng rất gần với chúng ta, hãy khám phá Thiên Chúa trong những điều bình dị nhất.
- Hãy trao đổi với những người bạn tin tưởng, có kinh nghiệm đức tin về những gì bạn khúc mắc.
- Tìm đọc những quyển sách khám phá Thiên Chúa qua những môn khoa học, qua các nghiên cứu, bài viết của những người đáng tin cậy.
- Chiêm ngắn vạn vật, cảm nếm cuộc sống có những điều rất bình dị nhưng cũng thật kỳ diệu. Hãy nhìn cuộc sống với con mắt đức tin để tạ ơn và chúc tụng Thiên Chúa vì chỉ có Ngài mới quyền năng trước vạn vật.
- Tham gia những nhóm tình nguyện viên, giúp đỡ những người kém may mắn và khám phá Thiên Chúa là nguồn sống, niềm vui của cuộc đời. Cảm nghiệm Thiên Chúa là Đấng hi vọng của cuộc sống này...
(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 1, Nxb Tôn Giáo, 2020)
WHĐ (05.9.2021)
--------------- [1] Cơ thể con người có thể làm được những điều này thì thật sự đáng kinh ngạc, tại https://kienthuckhoahoc.org/kham-pha-kh/co-the-nguoi-co-the-lam-duoc-nhung-dieu-nay-thi-that-su-qua-kinh-ngac-arev [2] Lê Hùng (theo MNN), 15 điều kỳ diệu về cơ thể con người, tại https://vnexpress.net/15-dieu-ky-dieu-ve-co-the-con-nguoi-3103898.html [3] Lê Hùng (theo MNN), 15 điều kỳ diệu về cơ thể con người, tại https://vnexpress.net/15-dieu-ky-dieu-ve-co-the-con-nguoi-3103898.html [4] https://dongten.net/2015/03/09/noi-khac-khoai-cua-thanh-au-tinh-trong-tac-pham-tu-thuat/
Thiên Chúa đã tác động lên đời sống con người như thế nào?
Trả lời:
1. Đức Maria mang thai
Đang yên đang lành, tự dưng… có bầu! Lý do là: “Bởi quyền năng Chúa Thánh Thần!” Nghe có vẻ rất mầu nhiệm, khó chấp nhận.
Truyền tin xong, Thiên Thần từ biệt cô gái làng Nazarét. Rồi biệt tăm, không thấy trở lại. Cô thiếu nữ Maria một mình trong hoảng sợ. Chưa chồng mà chửa, tội này lôi ra ném đá chứ bộ giỡn!
Còn chàng thợ mộc Giuse, sau khi biết tin vị hôn thê có bầu, liền hoang mang tột độ, buồn rầu rồi âm thầm bỏ đi. Túm lại, cuộc sống cặp đôi này bị đảo lộn hoàn toàn.
Rối nùi! Khủng hoảng! Những lời bàn ra, tán vào vẫn cứ xì xào từ đầu làng cuối thôn…
Rồi Thiên Thần lại hiện ra báo mộng cho chàng thợ mộc. Mọi việc sáng tỏ. Hai người về chung nhà. Kết thúc tập một có hậu.
Đó là chuyện xảy ra hơn hai ngàn năm trước. Chuyện ngày xửa ngày xưa…
2. Chuyện đau lòng
Còn bây giờ. Ngày nãy ngày nay. Cũng ngay ngày lễ truyền tin, nó đi dự lễ khấn của 2 người bạn nhỏ. Đường không xa nhưng vì lần đầu tiên nên nó hơi hồi hộp. Lạc đường hoặc đi nhầm địa chỉ là chuyện không xa lạ gì với nó. May quá! Lần này nó đi đúng nơi cần đến.
Khuôn viên nhà dòng thật đẹp, có nhiều cây cối. Người bạn nhỏ ra đón nó với nụ cười y chang: khoe cả hàm răng và mắt thì chỉ còn thấy hai dấu gạch ngang.
Rồi nó được dẫn đi tham quan một vòng… Xa xa có hai thầy, một già, một trẻ đang trao đổi gì đó. Rồi nó thấy thầy trẻ khóc, khóc như một đứa trẻ… Thì ra trên đường từ chỗ làm vườn lên nhà nguyện thầy nhận được tin: mẹ thầy qua đời! Một hung tin. Một thoáng ngậm ngùi, nhiều giờ khóc thương!
Thêm nữa, ngay giữa tâm bão virus Corona, em nhận được tin con trai mới chập chững biết đi là nạn nhân tiếp theo của cơn đại dịch. Trái tim người cha vốn dĩ mạnh mẽ, giờ như bị ngàn mũi dao đâm thấu, bất lực nhìn con đang đòi được bồng bế qua tấm cửa kính của phòng cách ly.[1] Một tờ giấy báo bệnh làm người ngoài cuộc như nó cũng không khỏi chạnh lòng. Đau và thương!
… Và ngoài kia còn bao nhiêu “ngày truyền tin” kiểu như thế! Có người gào lên trước những hung tin: “Liệu niềm tin có còn trên mặt đất?” (Lc 18,8).
3. Niềm tin vào Thiên Chúa quan phòng
Suy ngẫm về những biến cố truyền tin như thế, nó bắt gặp hai luồng chuyển động, một từ Thiên Chúa và một từ con người. Hai luồng chuyển động này gặp gỡ nhau trong đối thoại, được thể hiện qua thái độ đáp trả trước nhu cầu của nhau: Thiên Chúa mời gọi và con người đáp trả.
Đầu tiên, nó suy nghĩ về thái độ của Mẹ Maria:
Chuyện này chắc người Công Giáo nào cũng biết, cả Giáo Hội đều biết! Mọi người vui mừng vì… thông tin trọng đại này! Nhưng có mấy ai hiểu được những ngổn ngang trong lòng Mẹ Maria lúc ấy. Tuy nhiên, Mẹ không phó thác cuộc đời mình cho Chúa một cách hờ hững, nông cạn. Mẹ chuyển động. Sự chuyển động đầu tiên là biết ngạc nhiên. Điều này nó kết nhất nơi Mẹ. Và nó kết những ai còn biết ngạc nhiên trước những gì đang xảy ra chung quanh mình. Vì sao?
Vì sự ngạc nhiên lôi hút trí tò mò của con người về điều mà chúng ta chưa thể lĩnh hội được. Do đó, họ muốn biết rõ hơn và nhìn sâu hơn. Sự chuyển động thứ hai còn có giá trị hơn nhiều đối với nó; đó là, Mẹ nói với Sứ Thần tình trạng của mình. Nhiều và rất nhiều lần nó phớt lờ đi hay không dám đối mặt với tình trạng của bản thân mình. Mẹ Maria thì khác. Mẹ nói với Chúa về tình trạng “độc thân” của mình: “Làm sao mà một cô gái chưa chồng như con lại có thể mang thai được?”
Nó lại khoái cái khí chất này của Mẹ: Mẹ chủ động và có trách nhiệm với cuộc sống của mình. Hoang mang đó, nhưng không ủy mị, lý trí vẫn cùng con tim hợp tác vui vẻ. Kết quả là Mẹ đặt trọn niềm tín thác vào lời mời gọi của Thiên Chúa. Và chính sự tín thác đó là mảnh đất màu mỡ để ân sủng của Thiên Chúa được tự do tác động. Nói cách khác, Mẹ đã đón nhận Thiên Chúa là nguồn trợ lực cho quyết định cuối cùng của mình. Vâng theo Thánh Ý Chúa là một quyết định tuy liều lĩnh nhưng hết sức “Kitô Giáo”. Đó là đặt trọn niềm tín thác vào Thánh Ý Chúa. Tiếng “Fiat” – Xin Vâng, là một sự chuyển động không bao giờ ngưng nghỉ nơi Mẹ. (x. Lc 1,38)
Thái độ của Thầy trẻ trên đây:
Thầy trẻ vẫn đứng khóc, nhưng không như một đứa con nít, mà là một người đang can đảm nhận lãnh lời truyền tin. Chỉ có nó, là đang rối bời. Nó không biết phải nói gì, bao nhiêu vốn liếng từ vựng về chia sẻ và cảm thông, giờ bay đi đâu hết trơn, hết trọi…Nó chỉ biết nguyện thầm cho thầy, một người vừa nhận hung tin. Nó cũng thấy mắt mình cay cay…
Người theo Chúa, thưa xin vâng không khó. Cái khó là sống trọn vẹn và ý nghĩa từng giây phút hai tiếng XIN VÂNG là cả một thách đố và hy sinh. Điều đó đòi hỏi mỗi người một sức mạnh nội tại để vượt qua những giới hạn của phận người.
Thầy trẻ gạt nước mắt, rồi đi vào trong khoảng lặng của nỗi buồn mồ côi, mất mẹ. Nó đoán chắc thầy về phòng, gọi điện liên hệ với người thân hoặc chuẩn bị hành lý về chịu tang? Nó lầm to. Thầy vẫn dự lễ, vẫn giúp chiếu máy, vẫn tiếp khách dự tiệc, những giọt nước mắt mất mát người thân tạm nhường chỗ để hòa chung niềm vui của anh em mình và những người xung quanh…Thông điệp thầy nhận được dù vui hay buồn vẫn không cản trợ thầy hiện diện trong cộng đoàn như một quà tặng và một sự hiến thân. Nó cho đó là lời xin vâng đau đớn nhất và cũng đẹp nhất trong đời hiến dâng.
Còn thái độ người cha có đứa con nhỏ trong cơn đại dịch:
Em đau khi nhìn đứa con bé bỏng của mình phải cách ly. Báo chí chẳng nói thêm gì về em, nhưng nó tin chắc em sẽ không bao giờ bỏ cuộc. Em sẽ làm tất cả để vượt qua cùng con, mong chờ tin vui và hy vọng vào ngày đoàn tụ. Nó có luôn đặt hy vọng vào Chúa giữa những thách đố tưởng chừng quá sức chịu đựng không? Đâu là động lực để nó tiếp tục hy vọng?
Còn Thiên Chúa, Người đã chuyển động như thế nào cuộc đời của Mẹ Maria, nơi thầy trẻ và em? Nói cách khác, Thiên Chúa đã tác động lên đời sống con người như thế nào, trong những trường hợp cụ thể trên?
Nó lại ngồi ngẫm nghĩ và thấy lòng ấm áp. Thiên Chúa hay thật! Người yêu thương tất cả mọi người, nhưng luôn có kế hoạch cho từng người. Người không “bốc thăm” ngẫu nhiên, trúng ai thì người đó làm Mẹ Ngôi Hai Thiên Chúa. Người chọn lựa và mời gọi con người tự do cộng tác. Người không phải là Thiên Chúa “muốn làm gì thì làm”.
Như trong trường hợp của Mẹ Maria, nói theo kiểu ngôn ngữ bây giờ là “tốn không ít năng lượng để trấn an và giải thích”. Cuối cùng sứ thần mới thuyết phục được trái tim và lý trí của Mẹ. Cũng từ đó, Mẹ chung chia cuộc sống mình trong kế hoạch Yêu Thương của Thiên Chúa. Nó thiết nghĩ, Thiên Chúa đâu lúc nào cũng có thể “phán một lời liền có mọi sự” (x. St 1,1-8). Nhưng Thiên Chúa hành động không giống như những gì con người thường nghĩ. Thiên Chúa tâm lý và dễ thương vô cùng. Người chuyển động nhẹ nhàng và bền bỉ như chờ đợi được gặp gỡ con người, loài thọ tạo cần thời gian để hiểu và đón nhận Thánh Ý.
Nó tạm ví sự chuyển động trên như dòng sông chứa đầy phù sa, không ồn ào náo động nhưng ấp ôm nhân gian bằng những cưu mang. Nếu không phải vậy, sao Mẹ Maria lại dám liều lĩnh đi vào Mầu Nhiệm Cứu Độ với biến cố truyền tin? Không phải do ơn Chúa, sao thầy trẻ lại có đủ bình tĩnh để chờ đợi chuyến bay sớm nhất vào hôm sau để về gặp mẹ lần cuối? Và nếu không có Chúa, liệu niềm hy vọng của em có đủ để chờ đợi phép màu y khoa cho đứa con trai bé bỏng của mình?
Con người ngày nay nhiều khi rất vội vàng đưa ra câu hỏi: Tại sao Chúa im lặng?, Sao Chúa lại để những điều tồi tệ xảy ra trong cuộc sống này? Nó thấy bất công cho Chúa và nó muốn bênh vực cho Người. Thiên Chúa không hề im lặng, nhưng vì con người chúng ta không đủ bình tĩnh trước những khó khăn, hay những bất toàn trong cuộc sống.
Bản thân nó cũng vậy. Nhiều lần và rất nhiều lần, nó chỉ nhìn thấy vấn đề của mình mà quên mất sự hiện diện của Chúa. Nó đã từng tập trung toàn bộ năng lượng, giác quan của mình cho những vấn đề gặp phải và giải quyết chúng một mình. Nó quên lời hứa của Chúa: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Tôi, Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.” (Mt 11,28).
Phù sa vẫn âm thầm nuôi tôm, nuôi cá, nuôi cả cuộc đời bao kiếp người nổi trôi, nhưng mấy ai lại nhắc đến nó. Không khí vẫn phủ khắp nơi để nuôi sống con người, mấy ai quan tâm về nó. Chúng ta quả là rất mau quên đi những ân tình!
Xin Mẹ cầu bầu cho chúng ta biết noi gương khiêm nhường của Mẹ, để lắng nghe và suy ngẫm Thánh Ý Chúa trong lòng và trong cả cuộc đời.
Xin biến cố truyền tin năm xưa luôn nhắc nhở nó về một Thiên Chúa: khiêm hạ, bước xuống nhân gian để chung chia phận người với con người. Thiên Chúa ấy biết khóc, biết cười, biết nóng giận, biết xót thương…và nhất là luôn chuyển động trong mỗi biến cố lớn nhỏ.
Xin cho mỗi người tinh tế nhận ra tiếng Chúa nơi Lời của Người, nơi các Bí Tích, nơi những anh chị em chung quanh. Được như thế, chắc người ta không còn hoài nghi về sự hiện diện của Chúa trong đời mình nữa. Vậy trong mọi biến cố vui buồn: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” (Tv 118).
Thân ái!
(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 1, Nxb Tôn Giáo, 2020)