Giải đáp thắc mắc cho người trẻ công giáo Bài 81-100

Thứ sáu - 21/03/2025 05:24
700 giải đáp cho người trẻ công giáo
700 giải đáp cho người trẻ công giáo
Giải đáp thắc mắc cho người trẻ công giáo Bài 81-100
Nguồn: https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/giai-dap-thac-mac-cho-nguoi-tre-cong-giao-50477
---------------------------------

Nội Dung:

Bài 81: ĐẤNG BẢO HỘ GIA ĐÌNH.. 1
BÀI 82 - ĐỂ TRỞ NÊN CHA MẸ CÔNG GIÁO TỐT.. 8
BÀI 83 - VẤN ĐỀ LY HÔN CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO.. 13
BÀI 84 - QUAN ĐIỂM CỦA GIÁO HỘI VỀ HÔN NHÂN ĐỒNG TÍNH.. 17
BÀI 85 - CON NHÀ NGƯỜI TA.. 21
BÀI 86 - NGƯỜI NGOẠI ĐẠO CHẾT, LINH HỒN SẼ ĐI ĐÂU?. 26
BÀI 87 - SỰ SỐNG THAI NHI – HỒNG ÂN BỊ LOẠI BỎ.. 29
BÀI 88 - KÍNH LÃO ĐẮC THỌ.. 32
BÀI 89 - ĐÒI HỎI CỦA CHÚA GIÊSU CÓ CÒN HỢP VỚI THỜI ĐẠI CÔNG NGHỆ?  38
BÀI 90 - THIÊN ĐÀNG HỎA NGỤC HAI BÊN.. 43
BÀI 91 - KHI NÀO ĐẾN NGÀY TẬN THẾ?. 47
BÀI 92 - THIÊN CHÚA TẠO DỰNG VŨ TRỤ TRONG VỤ NỔ BIG BANG?. 50
BÀI 93 - KHỦNG HOẢNG ĐỨC TIN CÓ TỘI CHĂNG?. 56
BÀI 94 - ĐỨC TIN HAY MÊ TÍN.. 59
BÀI 95 - THỜI ĐẠI 5G MÀ CÒN CẦU NGUYỆN À?. 64
BÀI 96 - GIÁO HỘI VÀ VẤN ĐỀ TRỢ TỬ.. 68
BÀI 97 - GIÁO DÂN XÂY DỰNG NHIỆM THỂ CHÚA KITÔ.. 74
BÀI 98 - CÔNG VIỆC NGƯỜI TRẺ TRONG ĐƯỜNG HƯỚNG CỦA THIÊN CHÚA.. 77
BÀI 99 - NGUỒN SỐNG ĐANG BỊ ĐE DỌA.. 81
BÀI 100 - BÌNH AN NỘI TÂM... 87

---------------------------------

 

Bài 81: ĐẤNG BẢO HỘ GIA ĐÌNH


Phương An, CND - CSA

Hỏi: Thánh cả Giuse, người thợ mộc, không được Kinh Thánh đề cập nhiều, tại sao lại có thể là người bảo hộ cho các gia đình?

Trả lời:

Tin Mừng ít kể về thánh Giuse. Ngài không để lại di ảnh, bút tích, lời giáo huấn. Không ai biết sinh nhật của thánh nhân, tới lúc thánh nhân ly trần, thì cũng là sự ra đi lặng thầm. Ngài như nhân vật phụ trên sân khấu, diễn xong, rút lui sau tấm màn... Maria có nhiều tước hiệu, thí dụ trong kinh cầu Đức Mẹ. Nhưng thường ta chỉ nhắc đến Giuse qua danh hiệu “dưỡng phụ của Chúa Giêsu”. Hình như Thiên Chúa giữ ngài “trong vòng bí mật” như một huyền nhiệm cuộc đời.

1. “Cuộc đời, sự nghiệp” của Giuse theo Kinh Thánh

 “Giuse” theo nguyên ngữ Hippri: “xin Đức Chúa thêm cho tôi” (St 30,24). Các tranh ảnh hay vẽ thánh nhân là ông già lụ khụ, râu tóc bạc phơ. Tuy vậy, theo một số nhà nghiên cứu, thánh nhân khi đó vẫn còn trẻ, vì nếu nghĩ thánh nhân già, thì “coi thường” việc giữ đức khiết tịnh của ngài. Bạn nghĩ ông già thì sao đủ sức đưa một thai phụ từ Phía Bắc đến tận Phía Nam là Bêlem, rồi sau đó, ông Giuse làm sao đưa vợ con qua Ai Cập, cáng đáng việc mưu sinh nuôi gia đình?

Mátthêu nói vắn tắt về ngài với vài chi tiết qua gia phả và biến cố thời thơ ấu Đức Giêsu ở đầu Tin Mừng: “Giacóp sinh Giuse là bạn của Maria”.

Máccô không nhắc đến ngài trực tiếp, nhưng có nói xa xa, khi đề cập tới quê quán và nghề của Đức Giêsu, tức là liên quan tới cha Người: “Ông Giêsu Nadarét” (1,24); Đức Giêsu giống cha làm nghề mộc: “ông ta không phải là bác thợ sao?” (6,3); “vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Nadarét” (10,47); “cái ông người Nadarét, ông Giêsu đó chứ gì” (14,67); “các bà tìm Đức Giêsu Nadarét” (16,6).

Luca viết vắn gọn về cha và ông nội của Giuse: “Khi Đức Giêsu khởi sự rao giảng, thiên hạ vẫn coi Người là con ông Giuse. Giuse là con Êli. Êli con Máttát” (3,23-24). Trong ngụy thư thánh Giacôbê, phụ mẫu của Maria là Gioakim và Anna. Còn mẹ của Giuse là ai và có làm thánh hay không thì chúng ta không được biết thêm thông tin. Truyện về thánh Giuse kết thúc khi Đức Giêsu mười hai tuổi, bị lạc ở Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua (2,41-50).

Tin Mừng Gioan nói về thánh Giuse: “Chúng tôi đã gặp ông Giêsu, con ông Giuse, người Nadarét” (1,45). Nhưng khi nghe tới đó, Philipphê liền chê: “Nadarét có cái chi hay!” (1,46).

Giáo hội không tuyên xưng tín điều về Giuse như đã công bố bốn tuyên tín về Maria. Đến thời cận đại, Giuse mới được nhắc đến nhiều trong thần học và phụng vụ. Thánh Ambrosiô nói thánh Giuse là chứng nhân cho sự tinh khiết của Maria. Đức Gioan Phaolô II cho rằng, thánh Giuse mang danh hiệu: Người giữ gìn Đấng cứu chuộc, kẻ phục vụ ơn cứu độ .

Hiền phụ của Giêsu phải có điểm tuyệt vời, độc đáo gì đó mới được Chúa tuyển chọn và trao trọng trách! Quả đúng như thế, nhờ ngài mà Đức Giêsu là “con cháu tổ phụ Abraham, mang dòng họ vua Đavít (x. Mt 1,1-6). Ngài có vai trò tiên quyết trong sứ mạng cứu độ của Chúa Giêsu, ngài đưa Giêsu vào lòng dân tộc đặc tuyển. Nếu ngài không nhận bào thai mà Đức Maria đang cưu mang, thì Giêsu trở thành con không cha, căn cước Đức Giêsu sẽ “lờ mờ”, bé Giêsu sẽ bơ vơ. Ngài như “chiến binh” bảo vệ và làm chứng cho “mầu nhiệm giữ kín từ muôn thuở” về Ngôi Lời nhập thể. Ngài là bạn trăm năm đức hạnh của “Maria – đầy ơn phúc”, là tập hợp những nhân đức tuyệt vời của “đầu tàu của gia thất”. Ngài còn là hoa tiêu lèo lái thuyền thánh gia đi đúng hướng. Ngài được ca tụng là ánh sáng của các tổ phụ vì đã tiếp xúc trực tiếp với chính Đấng Cứu Thế.

2. Tính cách của ông thợ mộc Nadarét

a. Tín thác và giữ luật Chúa

Câu chuyện “Truyền tin cho ông Giuse” (x.Mt 1,18-24), cho thấy lời xin vâng của ngài như một điểm tới. Cách ngài hành xử trước mặt Chúa, nhạy với quyết định của Chúa, nói lên: đời ngài là chuỗi cầu nguyện liên tục.

Hiếm gia đình nào truân chuyên như thánh gia thất. Người ta nói “an cư lạc nghiệp”, nhưng thánh Giuse gặp quá nhiều bất ngờ, không có nơi đàng hoàng để vợ sinh con, sống cảnh thanh bần và không có bất động sản, không địa vị xã hội, thời đó ít mạnh thường quân hay tổ chức xã hội nào đứng ra giúp đỡ! Tuy vậy, thánh Giuse luôn tin tưởng trước mọi cảnh huống xảy ra trong đời. Chúng ta không nghe ngài cằn nhằn hay ta thán Thiên Chúa câu nào!

Giuse - “người công chính” (Mt 1,19) – trọn cuộc đời luôn làm điều Chúa dạy. Ngài đăng ký “hộ tịch” pháp lý cho Giêsu, đem con đi cắt bì và tiến dâng cho Chúa theo luật truyền (x.Lc 2, 21-22),...

b. Hạ mình trong lao động

Ngày ngày, bác thợ ẩn danh cần cù đóng đồ gia dụng. Không biết ngài có nhận “học viên” hay không nhưng chắc là ngài vui vẻ sửa đồ đạc giúp bà con lối xóm khi họ cần. Ngài sống với đồng lương không cố định, với vị thế không được tôn vinh. Có lần Đức Giêsu về quê, đồng hương chẳng hồ hởi: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?” (Lc 4,22). Họ không mặn mà với Chúa Giêsu và suy ra, họ không kính trọng người cha lao nhọc Giuse .

Khi làm chủ gia đình, người ta thích thống trị. Ngược lại, thánh Giuse tạo nguồn thu nhập chính, vẫn nhu mì, không dùng quyền bính nhưng sẵn sàng dịu hiền chăm sóc mái ấm của mình. Ngài còn thường huấn sát sao cho Chúa Giêsu trong nghề nghiệp.

Ngày quốc tế lao động là ngày kính thánh Giuse Thợ vì ngài bảo hộ người lao động. Ai cũng phải làm việc, sinh nghề tử nghiệp. Thánh Giuse là người lao động tử tế, chân chính, nghiêm chỉnh và trung thành, vui sướng dâng hiến hằng ngày như người tôi tớ của Chúa. Mọi người đang công tác ở các ngành nghề, cần học gương thánh cả, cố gắng làm việc với niềm hy vọng, giữ liêm khiết và công bằng trong lĩnh vực của mình.

c. Biết tiên liệu

Là quản gia khôn khéo trong gia thất, thánh nhân che chở Maria và chăm sóc Giêsu từ tấm bé, trông coi gia đình, lo liệu lúc khó khăn. Ngài còn kiên cường, vững chãi khi đưa gia đình tị nạn ở Ai Cập và sống thân phận bấp bênh của di dân. Khi những chông gai không hề thiếu trong đời sống, cam go ập tới, ngài can đảm đương đầu và vượt qua (Đức Giêsu trốn sang Ai Cập, x. Mt 2,13-15; từ Ai Cập về đất Israel x. Mt 2,19-23). Nhờ nhạy bén trước mọi hoàn cảnh, vun vén công việc, quyết đoán, thu xếp trong nhà cách chu đáo, yêu vợ thương con, ngài gầy dựng gia đình Nadarét– tế bào của xã hội – thật yên ổn, tạo nên một bức tranh thánh gia thất thật thanh bình và nhiều màu sắc.

d. Để vạn sự như Ý Chúa

Chúa sai thiên thần đến với thánh nhân ba lần trong giấc mơ (x. Mt 1,20; 2,13.19) nhưng không hiện ra trước mắt như với Dacaria (x. Lc 1,11) hay với Maria (x. Lc 1,26). Điều đó các thánh sử muốn nói: tính cách của Giuse là vâng Thánh ý Chúa, không cần hỏi han gì thêm!

Thánh nhân cùng với Maria và Giêsu, đi trọn hành trình đức tin. Thêm nữa, thánh nhân giám hộ, dạy dỗ Giêsu cách thờ phượng Đức Chúa, hướng dẫn Giêsu lên Đền Thờ, chỉ con cách cầu nguyện với Thiên Chúa theo phong tục và niềm tin của cha ông. Đó là điều mà các bậc phụ huynh cần dạy con trước tiên: học biết Chúa.

e. Kín tiếng và khôi hài

Chưa chung sống với chồng, Maria đã có thai. Dù có thể bị đàm tiếu và vu khống, không ai chia sẻ với mình, nhưng Giuse vẫn âm thầm tính chuyện ra đi. Có thể Giuse bị “tan vỡ trái tim” trước “bi kịch” này, nhưng ngài không tra khảo, truy cứu, hỏi cung Maria. Giuse không muốn “kiểm soát đời tư thầm kín” và tin tưởng cô.

Thánh Giuse không nói gì, không có nghĩa là không phản ứng gì, nhưng là phản ứng bằng cách không nói! Ngôn ngữ vô ngôn này được hướng dẫn bởi thần lành. Xuyên qua mọi rào cản và áp lực, ngài vẫn lặng thinh và để Chúa dẫn dắt. Ngài quy phục hoàn toàn. Ngài lùi lại phía sau để cho công trình của Chúa thành sự.

Khi tìm được Giêsu trong Đền thờ, chúng ta không thấy ngài đối đáp câu nào. Có lẽ không nói gì cũng là nói lên nhiều điều. Phải chăng Giuse là người hướng nội! Nhưng ngài chiêm niệm song hành với hoạt động, vì sau khi nhận lệnh Chúa, ngài liền thi hành.

Có lẽ Giuse có nụ cười tươi và ánh mắt rạng rỡ, vì những biến cố Chúa gởi đến làm ngài ngẫm nghĩ và thấy thú vị. Chỉ mình ngài mới được vinh dự độc nhất vô nhị là sống cùng Maria. Thử tưởng tượng, khi Chúa tỏ ý cho Giuse biết và ông đón vợ về, khi Maria sinh con, chứng kiến Giêsu lớn khôn và hiếu thảo, chắc lúc đó Giuse mừng lắm. Với óc tiếu lâm, ngài dễ xoa dịu những tình huống nan giải, dễ tương giao với Maria, Giêsu và xóm giềng. Tin Mừng không nói có xích mích giữa gia đình ngài và hàng xóm.

3. Đấng nâng đỡ gia thất

a. Giữ cho gia đình ấm êm

Chính ngài đặt tên cho Hài Nhi (x.Lc 2,21). Dù Giêsu là Thiên Chúa nhưng đã làm người bình thường như bao người khác, thuở thiếu thời có lẽ cũng khóc quấy, hiếu động. Thánh Giuse kiên nhẫn cùng Maria giúp Giêsu khôn lớn, chững chạc và trưởng thành. Cha mẹ trong gia đình cần đồng bộ và thống nhất khi giáo dục con, để bầu khí gia đình luôn đầm ấm, là mái trường đầu tiên cho con cái hấp thụ tình yêu và được nuôi dưỡng lòng cậy trông.

Tương quan tình cảm giữa Giuse – Maria – Giêsu rất tốt. Cả ba ắt đã đối thoại sâu với nhau, nên mới “ăn rơ” như thế! Quả vậy, Giuse – Maria kết hôn nghiêm túc trước luật Do Thái và kết hợp với nhau trong tinh thần. Mối tình của họ có nền tảng là lòng yêu mến Chúa, do đó, nhận được hoa trái của Thánh Thần. Giêsu là tác nhân hợp nhất Giuse – Maria. Vì thế, gia đình cần có những giờ cơm chung, quay quần đọc kinh tối cùng nhau để có Chúa luôn đồng hành, dành thời gian nghỉ ngơi ngày Chúa nhật bên nhau, chứ không phải bên tivi hay iphone! Những cử chỉ quan tâm, thông cảm và khích lệ lẫn nhau sẽ giải giới xung đột, hận thù.

b. Thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn

Chạy vạy lo cơm áo gạo tiền, xảy ra hỷ, nộ, ái, ố trong đời sống gia đình là chuyện bình thường. Đôi lúc họ gặp khủng hoảng, giận nhau,... dễ làm tình hình trong nhà căng thẳng. Mùa dịch vừa qua đã có nhiều ca ly hôn, bố giết con,…do không yêu nhau nhưng phải ở với nhau nhiều giờ!

Vợ chồng cần hiểu tâm lý, cảm xúc, quá khứ, tánh tình của nhau, biết người phối ngẫu là típ người nào, vì họ là huyền nhiệm và nhất là đối với người nữ. Ngày xưa, không dễ đi tới ly dị như bây giờ, cho nên, đôi bạn thời nay lại càng cần ân sủng của Chúa để sống tới “đầu bạc răng long”, khi qua thời “trăng mật” và vẫn còn tình nghĩa.

Gia đình nên ôn lại tình yêu thuở ban đầu, hãy chiêm ngắm kế hoạch đính hôn của Maria và Giuse. Kinh Thánh không nói tới việc gây gổ trong thánh gia vì họ đã làm chủ lời ăn tiếng nói. Giuse yêu đủ nên có thể chấp nhận sự kiện “động trời và gây sốc” đến như vậy! Hơn nữa, với sức người, khi gặp khó khăn đã bỏ cuộc ngay, nhưng thánh nhân dù khổ tâm, vẫn để cho Chúa dẫn lối: “Này ông Giuse, đừng ngại đón bà Maria về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (x.Mt 1, 20-21). Đôi khi, nếu không phù hợp ý Chúa, phải chọn bỏ cả cái mà mình cho là tốt.

c. Xử sự tế nhị

Thánh Giuse là người bình tĩnh, chờ hôm sau rồi mới ra đi. Lật lại những trang Tin Mừng, ta thấy phác họa hình ảnh ngài rất bao dung, “không muốn tố giác”, để Maria không bị mất danh dự, tổn thương. Trong đời gia đình, vợ chồng tránh lời nói vô tình làm mất lòng nhau; nếu cả hai đều ứng xử lịch sự, nhã nhặn như thánh Giuse thì cuộc sống hôn nhân sẽ đẹp lắm.

Với đời lứa đôi, Chúa không lấy đi ý mình nhưng nâng nó lên cấp độ cao của cuộc sống để đảm nhận vai trò mới trong Chúa. Giuse đã có ý định tốt lành trong trí trước khi đi tới những hành động ý nghĩa và tâm tình. Cả hai vị đã chuẩn bị những tâm thế để đến với nhau. Hiểu -  biết – phân định – chọn lựa và sống khăng khít,...là những bước mà các cặp hôn nhân cần học gương Giuse – Maria.

d. Kiên nhẫn bên nhau tới cùng

Giuse lặng lẽ chịu bao gian khổ mà không nản lòng. Khi đón Maria về, bà con lối xóm dị nghị; khi đưa vợ con trốn đi, đường xá xa xôi, chắc hẳn ngài mệt mỏi lắm; sống bên đất khách quê người, không biết ngài có nói được ngoại ngữ để giao tiếp và trao đổi với người ta? Khi con trẻ ra đời, có lẽ ngài phải ưu tư để lo tìm chỗ yên ổn cho hài nhi. Ngài luôn tận tụy bên Maria và Giêsu như một người bạn chí thiết! Cha mẹ cũng cần “làm bạn” với nhau và với con cái, nhất là khi các con ở tuổi dậy thì, tập cư xử hòa đồng, thấu hiểu.

e. Bổn mạng gia trưởng

Các dân tộc Á Đông coi trọng tình phụ tử, làm con phải thờ cha kính mẹ. Giêsu yêu kính người cha dưới đất của mình. Lc 2,50 miêu tả Người đã tùng phục cha mẹ mình và sống ngoan nên “hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa”.

Phần mình, Giuse sống chính danh, chu toàn bổn phận làm chồng - làm cha. Ngài “vâng lời sứ thần”,  theo dự định của Chúa mặc khải, chấp nhận “gen” mình không được lưu truyền qua thế hệ sau, quên đi những hấp dẫn về cơ thể, làm chủ thân xác khi sống với người yêu Maria để bảo vệ nàng. Lúc ấy, ngài đã thay đổi cách thế hiện diện trước thực tại cuộc sống. Người làm cha nên bắt chước thánh nhân, giữ rường cột gia đình ổn định, cộng tác với Chúa để lo cho con cái nên người, không sống chủ nghĩa cá nhân nhưng sống vì lợi ích gia đình.

Tóm lại, Chúa không sai thánh nhân đi loan báo Tin Mừng hay chịu tử đạo nhưng muốn ngài nên gương cho các gia đình trên thế gian. Thánh Giuse đã chọn con đường của mình và hoàn thành sứ mạng. Ước chi, người sống đời gia đình có thể bắt chước ngài. Ngài có kinh nghiệm về đời sống hôn nhân, là người đàn ông lý tưởng, người chồng mẫu mực, người cha đáng kính. Xin ngài giúp các thành viên gia đình sống đức mến - hoa trái của hạnh phúc viên mãn – bằng cách bày tỏ cụ thể qua tha nhân tình yêu của Chúa.

Thứ Tư hàng tuần, các nơi thường dâng lễ kính thánh Giuse. Thánh nhân được công bố là người bảo trợ Giáo hội hoàn vũ. Đức Phanxicô cho biết ngài thiết lập Năm Thánh này (từ 8-12-2020, kết thúc vào 8-12-2021) để “mọi tín hữu theo gương Thánh Giuse, củng cố đời sống đức tin bằng cách hằng ngày thực hiện trọn vẹn ý muốn của Chúa”.

Ngài từng gìn giữ thánh gia, hẳn ngày nay, ngài sẵn lòng tiếp tục bao bọc các gia đình trên cuộc lữ hành trần thế. Thánh Giuse, kẻ được ơn nghĩa với Chúa, sẽ chuyển cầu đắc lực cho chúng ta.

Chúng con rày đang cơn khuẩn bức
Đều tuông đến kêu cầu thánh cả...
Xin thánh cả hộ phù bào chữa
Vì tấm lòng thánh ái thiết tha...
Đấng hộ thủ rất nên dõng lực
Xin đem lòng ái tuất dân nghèo...
Ngửa trông ơn Người cứu độ
Cho chúng con sanh thuận tử an
Hầu hưởng phước tiêu diêu cõi thọ Amen.

(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 4, Nxb Tôn Giáo, 04/2021)

WHĐ (27.3.2023)

---------------------------------

 

BÀI 82 - ĐỂ TRỞ NÊN CHA MẸ CÔNG GIÁO TỐT


Rômualđô M. Bùi Văn Nghĩa, CRM
17/04/2023
Chúng con đang chuẩn bị đón thành viên đầu tiên trong gia đình. Xin cho chúng con hỏi Kinh Thánh hoặc Giáo hội khuyên như thế nào để trở nên cha mẹ tốt?

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 82: ĐỂ TRỞ NÊN CHA MẸ CÔNG GIÁO TỐT

Văn Nghĩa, CRM

Hỏi: Chúng con đang chuẩn bị đón thành viên đầu tiên trong gia đình. Xin cho chúng con hỏi Kinh Thánh hoặc Giáo hội khuyên như thế nào để trở nên cha mẹ tốt?

Trả lời:

Các bạn muốn trở nên cha mẹ tốt, điều đó thật tuyệt vời. Theo yêu cầu của các bạn, chúng tôi dựa vào Kinh Thánh và chọn ra 7 lời khuyên cho các bạn (số 7 tượng trưng cho sự đầy đủ trọn vẹn), đồng thời dựa vào Sách Giáo lý cũng như một số văn kiện của Hội Thánh để trình bày.

1. “Này con cái là hồng ân của Chúa, con mình sinh hạ là phần thưởng Chúa ban” (Tv 127,3)

Lời khuyên thứ nhất này giúp chúng ta xác tín rằng: Con cái không phải là tài sản của cha mẹ, càng không phải là “của nợ” của gia đình, nhưng là hồng ân và cũng là trách nhiệm Chúa trao. Ý thức được điều này các bạn sẽ yêu thương con mình đúng cách hơn; yêu con không phải chỉ vì chúng xinh đẹp, lễ phép, thông minh; hay vì chúng thực hiện được ước mong của các bạn, lập được những thành tích đem lại vẻ vang cho các bạn… nhưng là yêu thương vô điều kiện, cho dù bất cứ điều gì xảy ra, cho dù con mình có như thế nào. Ngay cả khi đứa con sinh ra ngoài sự mong đợi của các bạn, thì các bạn cũng hãy tin tưởng vào Chúa để vui lòng đón nhận đứa trẻ này với sự cởi mở và lòng âu yếm[1].

2. “Có con cái ư? Hãy dạy dỗ và uốn nắn chúng ngay thuở còn thơ.” (Hc 7,23)

Dạy dỗ và uốn nắn con cái là quyền và bổn phận quan trọng của cha mẹ. Quyền và bổn phận này không thể thay thế hay chuyển nhượng được, cũng không thể khoán trắng cho người khác hay bị người khác chiếm đoạt[2].

Trong Tuyên ngôn về giáo dục Kitô giáo, Giáo hội xác định: “Vì là người lưu truyền sự sống cho con cái, nên cha mẹ phải là những nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu..., gia đình chính là trường học đầu tiên”[3]. Như thế việc dạy dỗ con phải được thực hiện ngay từ lúc ấu thơ, thậm chí từ khi con còn ở trong bụng mẹ. Ngay trong thời gian này, các tâm tình và thái độ ứng xử của cha mẹ đều có ảnh hưởng đến tâm tính và sức khoẻ của thai nhi. Cho nên, ngay trong thai kỳ, các bạn hãy điều chỉnh tâm tình và lối sống sao cho thật lành mạnh, vợ chồng tránh cãi vã nhau, tránh những ưu sầu phiền muộn, những giận ghét, lắng lo... gây ảnh hưởng xấu cho thai nhi. Trái lại hãy tạo cho gia đình một bầu khí yên vui, thánh thiện, năng lui tới nhà thờ, thường xuyên nghe nhạc thánh ca... những điều ấy chắc chắn sẽ tác động rất tốt cho đứa con của bạn.

3. “Hãy dạy đứa trẻ đi con đường nó phải đi, để đến tuổi già, nó vẫn không lìa bỏ.” (Cn 22,6)

Dạy cho đứa trẻ con đường nó phải đi có thể hiểu là giúp cho con cái phát triển con người toàn diện, cả về nhân bản và đức tin[4].

Về thể dục: Các bạn cần giúp con có thói quen ăn uống hợp lý, tích cực vận động để trau dồi và giữ gìn sức khỏe là của cải quý báu Thiên Chúa trao ban.

Về trí dục: Các bạn cần giúp con trau dồi về học vấn để phát triển tri thức. Nhưng cũng không nên ép con mình học quá nhiều, khiến trẻ trở thành “những chiến binh thi cử”, tệ hơn nữa là “những con robot vô cảm”, thiếu năng động, thiếu kỹ năng sống, thiếu tương quan xã hội và nguy hiểm nhất là thiếu đời sống tâm linh.

Về đức dục: Các bạn cần dạy con biết tránh thói hư tật xấu và tập luyện các đức tính tốt, biết nói năng và cư xử lễ độ, biết “kính trên nhường dưới”, biết “ăn quả nhớ người trồng cây”, biết giữ vệ sinh chung, biết nhận lỗi và xin lỗi, biết rộng lượng tha thứ, biết quảng đại cho đi… những điều rất căn bản để con bạn trở thành người tốt và hữu ích cho gia đình và xã hội.

4. “Anh em phải lặp lại những lời [tuyên xưng đức tin] cho con cái, phải nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy.” (Đnl 6,7)

Những lời thúc giục mạnh mẽ trên cho thấy trách nhiệm giáo dục đức tin của cha mẹ là hết sức quan trọng. Bổn phận của cha mẹ không chỉ là xin cho con cái được lãnh nhận Bí tích Rửa tội rồi sau đó không biết làm gì hơn. Với sự hiểu biết giáo lý và đời sống đức tin quá nghèo nàn, khi vào đời, trước bao nhiêu trào lưu và tư tưởng thế tục, các em khó lòng giữ vững được đức tin và luân lý Kitô giáo.

“Gia đình là nơi cha mẹ trở nên các thầy cô đầu tiên về đức tin của con cái”[5]. Cha mẹ phải có trách nhiệm dạy cho con cái nhận biết về sự hiện hữu của Thiên Chúa và bước đi theo đường lối của Ngài.

Để làm được điều ấy, ngay từ bây giờ, các bạn phải hiểu biết giáo lý để truyền đạt lại cho con, dành thời giờ cùng con ôn lại các bài giáo lý con học ở trên lớp. Các bạn nên đưa việc đọc Kinh Thánh vào sinh hoạt hàng ngày. Chẳng hạn dành thời gian sau bữa ăn tối để đọc hay kể truyện Kinh Thánh cho con nghe; đọc một đoạn Tin Mừng trong các buổi cầu nguyện gia đình.

Giờ cầu nguyện chung trong gia đình chính là phương thế hữu hiệu và là điều không thể thiếu trong việc giáo dục đức tin cho con cái. Nhờ các buổi cầu nguyện mà con cái hấp thụ được tinh thần đạo đức của gia đình. Để tạo thành nền nếp, các bạn hãy ấn định thời giờ cụ thể cho việc cầu nguyện chung gia đình và coi đó là “giờ thánh”. Truyền hình, máy vi tính, mạng xã hội… phải ngưng hoạt động trong gia đình vào giờ đó.

Để việc giáo dục đạt kết quả, điều không thể thiếu là chính các bạn phải nêu gương tốt cho con cái học theo[6]. Các bạn hãy cương quyết sống những gì mình muốn truyền đạt. Gương sáng của cha mẹ sẽ dẫn dắt con cái đi theo đường ngay nẻo chính, vì như người ta vẫn thường nói: “Lời nói như gió lung lay, gương bày như tay lôi kéo”. Nếu các bạn có gương sáng và được con cái tín nhiệm, thì cho dù khi chúng đã trưởng thành, và dù có đi xa vạn dặm, chúng sẽ vẫn nhớ đến các bạn khi cần lời khuyên bảo.

5. “Những bậc làm cha mẹ, hãy giáo dục con cái thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy.” (Ep 6,4)

Để khuyến khích con phát huy những điều tốt mà con bạn đã thực hiện được, các bạn nên khen thưởng và cho chúng biết là cha mẹ vui mừng về điều đó; nhưng hãy chừng mực, công bằng, không nên tâng bốc con thái quá, kẻo chúng trở nên kiêu căng ngạo mạn. Ngược lại, khi trẻ có điều sai trái, cha mẹ phải biết sửa dạy chứ không được xem thường. Sách châm ngôn nói: “Tâm trí trẻ con vốn dại khờ, lấy roi sửa phạt là giúp nó nên khôn” (Cn 22,15).

Tuy nhiên, việc sửa dạy con cần chừng mực và khôn khéo. Phải hết sức tránh hình phạt có tính sỉ nhục, vô lý. Đừng bạo hành con cho thỏa mãn cơn tức giận, cũng đừng lạm dụng roi đòn vì sẽ làm cho trẻ bị rối loạn tâm lý, trở nên những người lì lợm, bướng bỉnh. Các bạn cũng cần phải tế nhị, tránh sửa phạt con trước mặt mọi người, đừng đem lỗi lầm của con kể cho người khác, đừng nhắc lại những lỗi lầm đã qua rồi; đừng cằn nhằn mắng nhiếc dai dẳng những chuyện không cần thiết… Vì tất cả những điều ấy sẽ làm trẻ suy nghĩ tiêu cực. Các bạn phải cho con biết điều quan trọng này là: cha mẹ chỉ trích cái sai của con chứ không hề ghét bỏ con.

Người cha và người mẹ phải nhất trí với nhau trong đường hướng và phương thức giáo dục. Tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” giữa cha và mẹ sẽ khó đem lại kết quả tốt nơi con cái. Bản thân người cha người mẹ cũng đừng thiếu nhất quán, nay thế này mai thế khác, vì như thế sẽ khiến trẻ rối loạn nhận thức. Tốt hơn, cả gia đình nên cùng theo một nguyên tắc, để khi con làm sai, cha hay mẹ theo đó mà sửa dạy. Chẳng hạn quy định cụ thể giờ học, giờ chơi, giờ đi ngủ, giờ phải có mặt ở nhà buổi tối...

6. “Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng.” (Cl 3,21)

Để trở thành cha mẹ tốt, các bạn cần phải biết cách để cho con cái cảm nhận được giá trị và tình yêu thương trong việc giáo dục, phải xem con cái như những người con của Thiên Chúa và tôn trọng chúng như những nhân vị.

Khi con còn nhỏ, các bạn hãy tìm hiểu về tính tình, năng khiếu của từng đứa con, giúp chúng phát huy những khả năng đó, đừng làm thui chột những khả năng sẵn có của con cái mà ép buộc chúng theo mong muốn của mình. Cũng đừng ép con mình phải thực hiện những ước vọng nằm ngoài khả năng của chúng.

Các bạn cần sắp xếp thời giờ để nói chuyện với con mỗi ngày, nhất là phải tạo một bầu khí cởi mở giúp con cái có thể thổ lộ những tâm tư hoặc những khó khăn rắc rối mà chúng gặp phải, nhờ đó mà các bạn hiểu con hơn và có thể giúp đỡ con kịp thời và chu đáo hơn.

Khi đến tuổi trưởng thành, con cái có quyền chọn lựa nghề nghiệp và bậc sống. Các bạn phải tránh ép buộc con trong việc chọn nghề, cũng như trong việc chọn người bạn đời. Tất nhiên, các bạn vẫn có thể giúp đỡ con cái bằng những ý kiến khôn ngoan, nhất là khi chúng chuẩn bị lập gia đình. Phần con cái cũng cần bàn hỏi, lắng nghe ý kiến và lời khuyên bảo của cha mẹ.

Trong trường hợp đặc biệt, nếu con của các bạn nhận được tiếng Chúa mời gọi dâng mình trong đời sống tu trì hay trong hàng giáo sĩ, thì các bạn hãy nhận ra đó là một ân phúc lớn lao. Các bạn hãy tôn trọng và tạo thuận lợi cho ơn gọi ấy. Các bạn phải ý thức và dạy dỗ cho con biết rằng theo Đức Giêsu là ơn gọi ưu tiên của người Kitô hữu[7].

7. “Ông Gióp dậy thật sớm, dâng lễ toàn thiêu cho mỗi người trong các con ông…” (G 1,5)

Kinh Thánh giới thiệu cho chúng ta hình mẫu một người cha tốt lành, thường xuyên quan tâm cầu nguyện cho các con của mình. Trong thực tế những người như ông Gióp không phải là hiếm. Những bậc cha mẹ như thế, chắc chắn con cái họ sẽ không bao giờ hư mất. Mà dù có hư, họ cũng dễ có ngày quay bước trở về, nhờ công đức và lời cầu nguyện của cha mẹ, như gương bà thánh Monica, người đã kiên trì cầu nguyện cho đứa con trai ngang bướng của mình và cuối cùng đã chinh phục được người con trai ấy trở về đường ngay nẻo chính, hơn thế nữa, còn trở nên một vị thánh, là thánh Augustinô.

Các bạn ạ, trong việc nuôi dạy con cái, chỉ cậy vào sức tự nhiên của mình thôi thì chưa đủ, cần nương tựa vào Chúa nữa. Những gì các bạn có thể làm, hãy gắng làm hết khả năng của mình, phần còn lại, hãy phó thác nơi Thiên Chúa.

* * *

Tóm lại, để trở nên cha mẹ Công giáo tốt lành, Kinh Thánh và Giáo hội mời các bạn hãy yêu thương con với một tình yêu vô điều kiện; hãy giúp con phát triển con người toàn diện, nhất là chăm lo cho con cái sống xứng đáng phẩm giá làm người và làm con Chúa.


Chúc các bạn thành công. Chúc các bạn trở thành những người cha, người mẹ Công giáo tốt như ý Chúa muốn và như chính tâm nguyện của các bạn.

(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 5, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (17.04.2023)

--------------
[1] x. Tông Huấn về Tình Yêu Gia Đình của Đức Thánh Cha Phanxicô, 166
[2] x. Tông huấn về gia đình của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II, 36
[3] Tuyên ngôn về giáo dục Kitô giáo, 3
[4] x. Sách giáo lý Hôn nhân của Ủy Ban Giáo Lý HDGMVN
[5] Tông Huấn về tình yêu Gia đình của Đức Phanxicô
[6] x. Giáo lý Hội Thánh Công giáo, 2223
[7] x. Sách Giáo lý của HTCG, các số 2222, 2230, 2253

---------------------------------

 

BÀI 83 - VẤN ĐỀ LY HÔN CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO


Phêrô Lê Hoàng Nam, SJ
24/04/2023
Gần nhà, con chứng kiến chồng thường bạo hành vợ. Họ là người Công Giáo. Nhiều người bàn ra tán vào, nói vợ nên ly dị ông chồng vũ phu đó đi. Không biết trong trường hợp như thế có được ly dị không? Con thấy định chế hôn nhân ràng buộc hai người. Điều ấy có khi gây cho họ mất đi tự do. Nhiều đứa bạn con nói hôn nhân Công Giáo không cho người ta ly dị. Như thế định chế hôn nhân Công Giáo quá cứng nhắc?

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 83: VẤN ĐỀ LY HÔN CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Hỏi: Gần nhà, con chứng kiến chồng thường bạo hành vợ. Họ là người Công Giáo. Nhiều người bàn ra tán vào, nói vợ nên ly dị ông chồng vũ phu đó đi. Không biết trong trường hợp như thế có được ly dị không? Con thấy định chế hôn nhân ràng buộc hai người. Điều ấy có khi gây cho họ mất đi tự do. Nhiều đứa bạn con nói hôn nhân Công Giáo không cho người ta ly dị. Như thế định chế hôn nhân Công Giáo quá cứng nhắc?

Trả lời:

Chào bạn,

Hôn nhân và gia đình là vấn đề luôn được quan tâm vì tầm quan trọng và ảnh hưởng của nó. Có nhiều sự khác biệt giữa những quy định của Giáo Luật và luật đời liên quan đến vấn đề này, một trong số đó là chuyện ly dị tái hôn, bấy lâu nay vẫn tạo ra những cuộc tranh luận không hồi hết. Ai cũng biết là chuyện ly hôn không nên quá dễ dãi vì nó gây nên nhiều tác hại xấu.

Nhưng nếu tương quan vợ chồng đã đến mức độ không thể cứu vãn, thậm chí, nếu tiếp tục duy trì tương quan này, có thể sẽ gây hại rất nhiều cho một trong hai bên (chẳng hạn như bạo lực…), thì liệu có nên suy xét và cho phép vợ chồng đó cắt đứt hôn phối, mỗi người đi con đường riêng và tìm hạnh phúc khác cho mình trong một cuộc hôn nhân khác? Luật đời thì đồng thuận, còn Giáo hội thì không. Bởi lẽ đó, Giáo hội lâu nay vẫn bị chỉ trích là cứng nhắc, cổ hủ, chỉ lo gìn giữ truyền thống và không để ý đến quyền con người. Trước khi kết luận Giáo hội có như thế hay không, chúng ta hãy cùng nhau suy xét một vài vấn đề. Trước hết, hãy tìm hiểu về các đặc tính của hôn nhân Kitô giáo; sau đó, hãy xem Giáo hội quy định thế nào trong trường hợp vợ chồng “cơm không lành, canh không ngọt”, và lý do của quy định đó.

Đặc tính hôn nhân Kitô giáo

Như đã nói, hôn nhân là một vấn đề quan trọng, không chỉ đối với bản thân hai người kết hôn, nhưng còn đối với gia đình, xã hội và Giáo hội. Bởi thế, trước khi tiến đến hôn nhân, đôi bạn trẻ được mời gọi phải tìm hiểu nhau thật kỹ, phải có một thái độ trưởng thành về tình yêu, phải có một hiểu biết cặn kẽ và chắc chắc về hôn nhân để thực hiện một quyết định chung cuộc cho cuộc đời mình.

Vì hôn nhân rất quan trọng và còn dính líu đến gia đình hai bên và con cái, nên không thể xem nó như trò đùa, thích thì cưới, không thích thì chia tay. Hôn nhân là nền tảng để làm nên gia đình, gia đình lại là nền tảng của xã hội; nên gia đình càng vững bền, hạnh phúc, xã hội càng phồn thịnh phát triển. Cũng tương tự như vậy trong tương quan giữa hôn nhân, gia đình và Giáo hội. Xuất phát từ ý muốn của Thiên Chúa được mặc khải trong Kinh Thánh và qua tự nhiên, điều 1056 của bộ Giáo Luật 1983 (GL) có nói đến hai đặc tính của Hôn Nhân Kitô giáo là độc nhất và bất khả phân ly.

Khi nói đến tính độc nhất, ta hiểu đó là kiểu hôn nhân một vợ một chồng. Tự bản chất, khi yêu ai, ta muốn mình chỉ thuộc trọn về người đó, cũng như người kia chỉ thuộc trọn về mình. Tình yêu là một sự trao hiến hoàn toàn, chứ không phải một phần. Nó loại trừ tất cả mọi sự san sẻ. Hôn nhân, vì đặt nền trên tình yêu trao hiến hoàn toàn ấy, nên chỉ có thể trở nên trọn vẹn khi không có người thứ ba nào can thiệp vào. Chính từ sự kết hợp hoàn hảo và trọn vẹn giữa hai người này mà làm nảy sinh một mầm sống mới, như hoa quả của nhành cây ân ái, là đàn con. Ngoài ra, hôn nhân là kết quả của tình yêu. Người ta kết hôn để mưu cầu hạnh phúc chứ không chỉ đơn thuần là thoả mãn nhục dục, tìm con cái, hay để có cuộc sống sung túc về vật chất.

Hơn nữa, xét về phẩm giá, người nam và người nữ tuy khác nhau nhưng ngang bằng nhau, tất cả đều là vô giá và hạnh phúc của mỗi người đều phải được trân quý như nhau. Không có chuyện một người nam bằng hai hay ba người nữ gộp lại. Vì thế, một người nam tương xứng với một người nữ, làm nên một cuộc hôn nhân, rồi sinh ra con cái, đó là một tổ ấm hạnh phúc nhất. Có người từng nói, hôn nhân khác với bạn bè ở chỗ: bạn bè thì càng đông càng vui, còn với hôn nhân, chỉ cần có “người thứ ba” là đã có vấn đề lớn.

Khác với luật đời, luật Giáo hội, chiếu theo mệnh lệnh của Thiên Chúa, không cho phép hai người đã kết hôn thành sự và hoàn hợp ly dị. Nghĩa là, khi hai người trưởng thành, không có ngăn trở gì, tự do và ý thức xin Giáo hội chuẩn nhận cho tình yêu của mình, sau đó, họ đã có hành vi vợ chồng với nhau (gọi là hoàn hợp) thì hôn nhân đó là bất khả phân ly. Khi đưa ra quy định này, Giáo hội không có ý “làm khó” giáo dân, cũng không tự biến mình thành “kẻ độc đoán”, nhưng Giáo hội chỉ tuân theo lệnh truyền của Thiên Chúa từ thuở tạo thiên lập địa và được Đức Giêsu khẳng định: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.” (Mc 10,6-9).

Đôi khi ta vẫn thấy có một số trường hợp hai người đã kết hôn, nhưng sau đó lại chia tay và kết lập giao ước mới. Đó không phải là vì Giáo hội cho phép ly hôn, nhưng vì hôn nhân đó bị mắc những ngăn trở nào đó, khiến nó đã không thể thành sự ngay từ lúc đầu. Hoặc đôi khi, vì lợi ích đức tin của tín hữu, Giáo hội chuẩn chước cho một số trường hợp ngoại lệ theo những điều kiện quy định để hưởng “các đặc ân đức tin”. Tuy nhiên, để cứu xét những trường hợp này, Giáo hội phải rất cẩn trọng, để không đi ngược lại với giáo huấn của Thiên Chúa, mà vẫn có thể giúp cho các bên sống đức tin của mình cách tốt đẹp nhất.

Giải quyết trường hợp “cơm không lành, canh không ngọt”

Không phải là Giáo hội không biết đến những khó khăn trong đời sống vợ chồng hay cố tình làm ngơ thực tại mà chỉ chăm lo gìn giữ một kiểu truyền thống cổ hủ nào đó. Giáo hội biết rõ là không phải hôn nhân nào cũng có cái kết viên mãn. Có rất nhiều cặp vợ chồng Công giáo sống rất tồi tệ, gia đình không hạnh phúc. Thậm chí, còn có những kiểu bạo hành khiến cho một trong hai bên “sống không bằng chết”. Phải làm gì trong trường hợp này? Chẳng lẽ Giáo hội cứ nhắm mắt làm ngơ, và chỉ vì cái đức tin gì gì đó mà để người vợ/chồng phải chịu thiệt thòi và sống trong đau khổ cả đời?

Trong một tập tài liệu nhỏ có tựa đề: Những nguyên tắc luân lý pháp lý, phần 9, “Hôn nhân – Luật – Luật sư”, nhà thần học luân lý R.P. Murray đã nói rằng: Các luật sư Công giáo có thể bào chữa cho trường hợp của đương sự từ chối ly hôn trong một hôn nhân hợp pháp; bào chữa cho trường hợp của đương sự có hôn nhân bị Giáo hội tuyên bố vô hiệu; bào chữa cho trường hợp của đương sự chỉ muốn bảo vệ các quyền hợp pháp, chứ không ly dị vì muốn tái hôn. Ngoài những trường hợp hiếm hoi này, luật sư Công giáo phải từ chối tham gia tố tụng cho vụ án ly hôn cho dù các bên liên quan không phải là người Công giáo, vì giả định là họ tin rằng hôn nhân là bất khả phân ly.

Trước năm 1965, nhiều luật dân sự có những quy định tương đối nghiêm ngặt, thậm chí là khắt khe, liên quan đến việc ly hôn. Chẳng hạn, luật của New York trước năm 1965 chỉ cho phép ly dị trong trường hợp có ngoại tình. Điều này dẫn tới việc có một số người rời bỏ tiểu bang, còn những người ở lại thì phải khai man để được ly hôn. Việc khai man này cũng là một lý do khác giải thích tại sao các luật sư Công giáo chân chính không nên dính líu vào các thủ tục ly hôn. Đồng thời, Công Đồng Vatican II đã than phiền “cơn dịch ly hôn” như là một trong “những quái dạng” làm lu mờ đi nét tuyệt hảo của hôn nhân. Theo Công Đồng, không chỉ sự thiện hảo của cá nhân nhưng sự thiện hảo của xã hội con người và Kitô giáo cũng được nối kết mật thiết với hôn nhân bền vững và đời sống gia đình.

Tuy nhiên, giáo luật cũng cho phép ly thân (GL điều 1151-1155) với điều kiện không được tái hôn, nghĩa là trong trường hợp vợ và chồng khi không thể sống hạnh phúc bên nhau, có thể sống xa nhau. Thậm chí, nếu việc sống xa nhau mà vẫn không đảm bảo được an toàn và một số quyền lợi chính đáng, thì Giáo hội vẫn cho phép ly dị theo toà đời. GL điều 2383 nói như sau: “Nếu sự ly dị theo toà đời là cách duy nhất để bảo đảm một số quyền lợi chính đáng, để lo cho các con hoặc để bảo vệ di sản, thì có thể được dung thứ và không tạo thành một lỗi phạm nào về luân lý”. “Không tạo thành một lỗi phạm về luân lý” có nghĩa là không có tội.

Tuy nhiên, lưu ý rằng sự ly dị mà Giáo Luật nói ở trên là ly dị theo tòa đời, nghĩa là nhờ đến pháp luật nhà nước để chấm dứt những ràng buộc và đảm bảo về tài sản cũng như quyền lợi của mình. Chẳng hạn, khi đã ly dị theo toà đời rồi, người chồng không còn quyền gì trên người vợ nữa, nếu anh ta dùng bạo lực hay cưỡng đoạt tài sản cách vô lý thì sẽ bị pháp luật xử lý.

Sự khác biệt giữa xã hội và Giáo hội liên quan đến vấn đề này là: xã hội thì cho phép thiết lập hôn nhân mới, còn Giáo hội thì không. Giáo hội không cho phép một trong hai bên thiết lập hôn nhân với ai khác, vì một lý do: họ còn đang bị ràng buộc bởi một hôn nhân có đặc tính bất khả phân ly; một trong hai bên chỉ được giao kết một hôn nhân khác khi người kia qua đời. Người nào cố tình vi phạm thì bị xem là sống trong tình trạng “rối”, sẽ phải chịu những hình phạt của Giáo hội và dù xã hội có nhìn nhận hôn nhân mới thì với Giáo hội, nó cũng không thành sự.

Nói tóm lại, khi gia đình có lục đục mà không thể giải quyết được dù đã tìm đủ mọi cách, hai bên có thể đưa nhau ra toà đời để xin chấm dứt hôn nhân của mình, nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng cho cả hai. Nhưng trước mặt Chúa và Giáo hội, họ vẫn là vợ chồng, nên họ không được đi đến hôn nhân với người khác khi người phối ngẫu kia vẫn còn sống. Xuất phát từ đức ái Kitô giáo và mối bận tâm điều tốt đẹp cho gia đình, giáo luật cũng khuyến khích bên bị hại hãy tha thứ những lầm lỗi cho bên kia và đừng chia cắt đời sống hôn nhân (GL 1152, § 1).

Vì Giáo hội muốn nâng đỡ hôn nhân nên, vì đức ái Kitô giáo cũng như vì điều tốt đẹp cho gia đình, luật sư Công giáo nên cố gắng hòa giải giữa hai bên để bảo vệ tầm quan trọng của hôn nhân bất khả phân ly, cho dù việc hòa giải đó có thể không thành công. Dẫu biết rằng có nhiều người không đồng tình với Giáo hội về điều này nhưng không còn cách nào hơn vì không thể đi ngược lại với mệnh lệnh của Thiên Chúa: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19,6). Đó là chưa nói đến những tác hại mang tính xã hội mà việc cho phép ly dị cách thoải mái và bừa bãi có thể gây ra.

Bởi thế, Giáo hội khuyên các tín hữu hãy suy nghĩ thật kỹ trước khi đi đến hôn nhân. Hôn nhân không phải là trò chơi nhưng là một cam kết lâu dài. Dĩ nhiên, liên quan đến mục vụ, có rất nhiều trường hợp Giáo hội ban những phép đặc biệt như đặc ân Phaolô, đặc ân Phêrô (gọi là đặc ân đức tin) để giúp các tín hữu giải quyết những khúc mắc trong đời sống vợ chồng mà không lỗi với đức tin Công giáo.

Thân chúc bạn mọi điều tốt lành và mong bạn hiệp lời cầu nguyện cho các gia đình luôn bình an và hạnh phúc trong ơn Chúa!

Tham khảo:

Smith, William B,. Modern Moral Problems: Trustworthy Answers to Your Tough Questions, edited by Donald Haggerty, Ignatius Press, San Francisco, 2012.

Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Bộ giáo Luật 1983, bản dịch 2006.

(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 5, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (24.04.2023)

---------------------------------

 

BÀI 84 - QUAN ĐIỂM CỦA GIÁO HỘI VỀ HÔN NHÂN ĐỒNG TÍNH


Phêrô Dương Văn Hải, S.D.B
10/05/2023
Giáo hội Công giáo có chấp nhận hôn nhân đồng tính giống như một số quốc gia đã hợp thức hóa hay không?


GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 84: QUAN ĐIỂM CỦA GIÁO HỘI VỀ HÔN NHÂN ĐỒNG TÍNH

Phêrô Dương Văn Hải, S.D.B

Hỏi: Giáo hội Công giáo có chấp nhận hôn nhân đồng tính giống như một số quốc gia đã hợp thức hóa hay không?

Trả lời:

Bạn thân mến,

Trong những năm gần đây có nhiều người, đặc biệt là nhiều bạn trẻ đã công bố mình là người đồng tính. Không chỉ thế, họ còn công khai tình yêu cùng giới của mình và cũng đã tổ chức những lễ cưới như bao nhiêu lễ cưới của các đôi nam nữ với nhau. Tại một số quốc gia, chính phủ đã chấp nhận hôn nhân cho người đồng tình. Chắc có lẽ vì thế mà bạn đang thao thức: Nên chăng Giáo hội Công giáo cũng chấp nhận hôn nhân cho người đồng tính? Có lẽ để trả lời câu hỏi này, chúng ta nên đi vào tìm hiểu về bản chất và ý nghĩa đích thực của hôn nhân trong đời sống nhân loại.

Ý nghĩa và mục đích của hôn nhân

Theo Kinh Thánh, sau khi tạo dựng muôn loài muôn vật, Thiên Chúa đã tạo dựng con người có nam có nữ và chúc phúc cho họ: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất” (St 1,28). Đây không chỉ là lệnh truyền của Thiên Chúa, nhưng còn là sứ mệnh của con người, và là bản chất của sự kết hợp vợ chồng.

Bên cạnh đó, Kinh Thánh còn khẳng định người nam và người nữ được Thiên Chúa tạo dựng là để hỗ trợ cho nhau trong hành trình đời sống của họ: “Đàn ông ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó” (St 2,18). Vì thế, khi Ađam nhìn thấy bà Evà thì liền thốt lên: “Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi… Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt.” (St 2,23-24). Như thế, hôn nhân ngay từ khởi đầu được nằm trong kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Qua đó, người nam và người nữ kết hợp để hỗ tương cho nhau trong đời sống, cũng như để tiếp tục công trình sáng tạo và thánh hóa của Thiên Chúa trong việc truyền sinh.

Đến thời Tân Ước, Chúa Giêsu cũng đã từng nói với những người Pharisêu rằng: “Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hóa đã làm ra con người có nam có nữ, và Người đã phán: ‘Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt.’” (Mt 19,4-5). Đồng thời, Ngài đã nâng đời sống hôn nhân lên hàng Bí Tích nhằm giúp đôi bạn sống cuộc đời nên thánh trong ơn gọi của mình (x. Mt 19,3-6). Như thế, Chúa Giêsu một lần nữa khẳng định Thiên Chúa không dựng nên con người trong sự cô độc, hoặc chỉ là người nam, hoặc chỉ là người nữ. Thiên Chúa dựng nên con người có nam, có nữ và tác hợp họ thành vợ chồng, thành “một xương một thịt”, thành một gia đình của tình yêu thương tương trợ lẫn nhau.

Giáo lý Hội Thánh Công Giáo dạy rằng: “Do giao ước hôn nhân, một người nam và một người nữ tạo thành một sự hiệp thông trọn cả cuộc sống; tự bản chất, giao ước ấy hướng về lợi ích của đôi bạn, cũng như đến việc sinh sản và giáo dục con cái.” (GLHTCG, 1601). Với ý nghĩa này, giao ước hôn nhân chỉ được thực hiện trong tình yêu giữa một người nam và một người nữ, từ đó hướng đến việc truyền sinh và giáo dục con cái trong vai trò và trách nhiệm của mình. Bên cạnh đó, Công Đồng Vaticanô II diễn tả ý nghĩa nội dung hôn nhân là “sự hiệp thông thân mật của đời sống và tình yêu” (Gaudium et Spes, 48). Cũng như: “Hôn nhân và tình yêu vợ chồng, tự bản tính, quy hướng về sự sinh sản và giáo dục con cái. Con cái là ơn huệ cao quý nhất của hôn nhân và đóng góp rất nhiều vào niềm hạnh phúc của cha mẹ.” (Gaudium et Spes, 50). Điều đó càng khẳng định cách rõ ràng hơn về đặc tính của đời sống hôn nhân. Nó không dừng lại ở việc người nam và người nữ sống cam kết trong tình yêu, nhưng còn hướng đến hoa trái của tình yêu là việc sinh sản và giáo dục con cái.

Trong Tông Huấn Amoris Laetitia, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh rằng: “Hôn nhân là một dấu chỉ quí giá, vì khi một người nam và một người nữ cử hành Bí tích Hôn Phối, thì có thể nói, Thiên Chúa được ‘phản chiếu’ nơi họ, và Ngài ghi khắc trong họ những nét phác thảo đặc thù và dấu ấn tình yêu không thể xóa nhòa của Ngài.”[1]

Như vậy, hôn nhân là sự kết hợp trong giao ước tình yêu của một người nam và một người nữ dành cho nhau. Tình yêu này được vun đắp qua hành vi tự hiến trong đời sống vợ chồng, nhờ đó họ tiếp tục công trình sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa trong việc sinh sản và giáo dục con cái.

Lập trường của Giáo Hội về hôn nhân đồng tính

Trước hết, Giáo Hội vẫn luôn xác tín và trung thành với ý nghĩa và mục đích hôn nhân mà chính Thiên Chúa đã đặt để trong chương trình sáng tạo và cứu độ của Ngài. Giáo hội dựa vào các bản văn Kinh Thánh (x. St 19,1-29); đặc biệt là trong các thư của thánh Phaolô, như một sự chỉ dẫn mục vụ đối với đời sống của người đồng tính. Thánh Phaolô đã nói đến lối sống đồng tính trong các thư của ngài, để cảnh báo cho các Kitô hữu về tình trạng sai đường lạc lối của một số người trong đời sống nhân loại. Ngài dạy rằng, những kẻ làm những hành động đồng tính sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp (x. 1Cr 6,9-10; 1Tm 1,9-10). Cũng vậy, những người đàn bà và đàn ông làm điều trái tự nhiên “đàn ông bậy bạ với đàn ông” cũng bị ngài lên án là sẽ “chuốc vào thân hình phạt xứng với sự lầm lạc của mình” (Rm 1,26-27). Điều này cho thấy những ai thực hành lối sống này đều đi ngược lại với mục đích và ý nghĩa của đời sống hôn nhân.

Trong “Tuyên ngôn về một số vấn đề liên quan đến đạo đức tính dục” của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, ban hành ngày 29 tháng 12 năm 1975, số 8 có nói: “Những hành động đồng tính luyến ái là điều đã bị Kinh Thánh lên án như những sa đọa trầm trọng và bị coi là hậu quả đau thương của sự phủ nhận Thiên Chúa. Phán đoán này… chứng tỏ các hành động đồng tính luyến ái là điều xáo trộn và không thể chấp nhận được trong bất cứ trường hợp nào.” Còn trong Thư gửi các Giám mục Giáo hội Công giáo về chăm sóc mục vụ cho các người đồng tính luyến, do Bộ Giáo Lý Đức Tin ban hành năm 1986, cũng xác định: “một người thực hiện hành vi đồng tính luyến ái là hành động không hợp luân lý… Chọn một ai đó cùng phái tính cho hoạt động tình dục của mình là phá hủy biểu trưng và ý nghĩa phong phú của tạo dựng tính dục của Tạo Hóa, đó là chưa nói đến mục tiêu của hành vi tình dục” (số 7). Và mới đây nhất, trong Thông cáo công bố ngày 15/3/2021, Bộ Giáo Lý Đức Tin khẳng định rằng Giáo hội không có quyền làm phép chúc lành cho sự kết hiệp của những người đồng phái, và vì thế, việc làm phép chúc lành như vậy là điều bất hợp pháp.

“Giáo huấn của Giáo hội ngày nay là sự tiếp nối với quan điểm Kinh Thánh và với Truyền Thống hằng định của Giáo hội”[2], nên Giáo Hội không thể chấp nhận hôn nhân đồng tính như một số quốc gia đã hợp thức hóa: “Dựa trên Thánh Kinh, vốn xem chúng như những suy đồi nghiêm trọng, truyền thống Hội Thánh luôn tuyên bố: “Các hành vi đồng tính luyến ái tự bản chất là vô trật tự”. Chúng nghịch với luật tự nhiên. Chúng khép kín hành vi tính dục khỏi việc ban tặng sự sống. Chúng không phát xuất từ tính bổ sung thực sự về tình cảm và tính dục. Những hành vi này không thể chấp nhận được trong bất kỳ trường hợp nào” (GLHTCG, 2357). Như thế, Giáo hội vẫn sẽ luôn khẳng định hôn nhân giữa một người nam và một người nữ. Bởi vì đây là một giao ước hôn nhân do chính Thiên Chúa thiết lập và đã được Đức Kitô nâng lên hàng Bí tích.

Tuy Giáo Hội không thể chấp nhận hôn nhân đồng tính như các quốc gia đã hợp thức hóa, nhưng Giáo Hội vẫn luôn yêu thương và đón nhận mọi người trong sự tôn trọng và cảm thông. Giáo hội xem họ là những đứa con cần được yêu thương hơn trong lòng Giáo hội: “Họ phải được đón nhận với sự tôn trọng, thông cảm và tế nhị” (GLHTCG, 2358).

Đồng thời, Giáo hội mời gọi con cái mình là những người đồng tính sống đúng ơn gọi của mình, vác thập giá đời mình trong niềm hy vọng, và tiến bước trên đường thánh thiện Kitô giáo: “Những người đồng tính luyến ái được kêu gọi sống khiết tịnh. Nhờ các nhân đức giúp tự chủ dạy cho biết sự tự do nội tâm, và khi nhờ sự nâng đỡ của tình bằng hữu vô vị lợi, nhờ việc cầu nguyện và ân sủng bí tích, chính họ có thể và phải dần dần và cương quyết tiến đến sự trọn hảo Kitô giáo” (GLHTCG, 2358).

(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 5, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (10.5.2023)

-------------
[1] ĐGH Phanxicô, Tông Huấn Amoris Laetitia, số 121.
[2] Bộ Giáo Lý Đức Tin, Thư gửi các Giám mục Giáo Hội Công giáo về chăm sóc mục vụ cho các người đồng tính luyến, Rôma, 1986, 8.

---------------------------------

 

BÀI 85 - CON NHÀ NGƯỜI TA


Nt. Thiên Di, CND - CSA
16/05/2023
Khi ba mẹ đặt quá nhiều kỳ vọng nơi con, khiến bản thân suy nghĩ lo âu dẫn đến căng thẳng (stress), có cách nào để giúp bớt căng thẳng và có hướng tốt cho bản thân không ạ?

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 85: CON NHÀ NGƯỜI TA

Thiên Di CND-CSA

Hỏi: Khi ba mẹ đặt quá nhiều kỳ vọng nơi con, khiến bản thân suy nghĩ lo âu dẫn đến căng thẳng (stress), có cách nào để giúp bớt căng thẳng và có hướng tốt cho bản thân không ạ?

Trả lời: 5 tuổi tôi đã nhận thức được sự so sánh giữa tôi với con nhà người ta. Cụm từ “Con nhà người ta” đã ám ảnh tôi đến tận bây giờ. Tôi rất sợ đối diện với cụm từ này. Mỗi khi nghe ba mẹ nói “con nhà người ta”… thì đầu óc tôi bốc hỏa, cơ thể tôi nóng ran lên, tai tôi chẳng còn nghe được gì ngoài những tiếng ù ù kéo dài, tôi cảm giác tim mình đang loạn nhịp. Tôi gằm mặt xuống đất muốn tìm một cái lỗ để chui vào. Dưới sức ép của cụm từ này tâm tính tôi trở nên cọc cằn nóng nảy, đôi khi lại trở nên sợ sệt mất tự chủ, chân tay thừa thãi luống cuống. Những lúc không kìm chế được cảm xúc tôi nắm bàn tay lại, ghì thật chặt, hai hàm răng xiết mạnh vào nhau, đầu tôi nghĩ “phải nện cho đứa được so sánh với mình một trận nên thân…”

Tất nhiên sự so sánh này là tôn vinh con nhà người ta, còn tôi thì như một thứ cặn bã mà ba mẹ tôi phải chịu đựng. Nó giỏi hơn tôi, tài năng hơn tôi, ngoan hơn tôi… mọi thứ đều hơn tôi. Tôi không biết ưu phẩm của tôi là gì, và có gia đình nào lôi tôi vào so sánh với con họ không?... Ba mẹ tôi có những câu nói kinh điển dành cho tôi:

- “Mày nhìn con nhà người ta cao to thế kia, còn nhìn mày thì “chán”…”

- “Cùng một thầy, con nhà người ta thì ngoan ngoãn học giỏi còn mày thì chả được tích sự gì?”

- v.v.

Nản chí với mọi thứ và bức xúc với sự so sánh của ba mẹ, tôi trở nên căm ghét những bạn bị so sánh với mình.

Tuổi thơ của tôi lớn lên cùng với những lời so sánh, dòm ngó của ba mẹ với con nhà người ta. Tôi thấy mình bị kẹt ở giữa, giữa ước muốn của tôi và mong ước như con nhà người ta của ba mẹ. Tôi cố gắng để ba mẹ hài lòng nên ba mẹ nói học thêm gì tôi cũng ngoan ngoãn học hết. Tôi nghe lời ba mẹ như một chú cún con ngoan ngoãn nghe lời ông chủ - hi vọng cũng có ngày tôi được cải thiện bằng con nhà người ta. Ngoài giờ học 2 buổi trên trường, tôi còn đi học thêm Toán, Anh, Văn. Năng khiếu võ thuật, đàn Piano chẳng phải môn tôi thích nhưng ba mẹ thích tôi cũng được xếp lịch học luôn. Điểm tâm sáng, bữa lỡ buổi chiều trước khi đi học thêm là những bữa ăn trên xe máy sau lưng ba tôi.

Nói không ngoa thời gian tôi đi học nhiều hơn thời gian ba mẹ tôi đi làm. Thứ Bảy, Chúa Nhật ba mẹ còn được nghỉ, còn tôi thì hầu như không có thời gian xả hơi. Ba mẹ đầu tư cho tôi khá nhiều thời gian lẫn tiền của…, nhưng năng lực tiếp thu của tôi thì có hạn. Tôi cảm thấy mệt mỏi với sự kỳ vọng quá lớn của ba mẹ. Đại loại là ba mẹ muốn tôi “văn – võ song toàn” nhưng sức tôi không đủ chứa hết chúng nên chẳng môn nào tôi học cho ra hồn. Tôi cảm giác lưng mình đang gồng lên để gánh 50kg cát trong khi sức tôi chỉ có thể đỡ được 5kg gạo!

Sự kỳ vọng quá lớn làm tôi trở nên căng thẳng, tôi bắt đầu có những hành động tiêu cực với ba mẹ mình. Khi những lỗ lực đầu tư của ba mẹ bị đổ sông đổ biển ba mẹ la mắng tôi, điệp khúc con nhà người ta lại xuất hiện trong bầu khí ảm đạm của gia đình. Mỗi khi con nhà người ta xuất hiện tôi chạy vào phòng đóng cửa thật mạnh để tỏ thái độ không hài lòng của mình. Tôi đấm mạnh tay vào tường cho thật đau để nỗi đau thể xác lấn áp nỗi đau đang xé nát tim tôi. Lúc khác tôi cãi lại: “Ba mẹ thích thì bế con nhà người ta về nuôiiiiiii!” Tôi liền bị giáng một cái tát nảy đom đóm mắt. Tôi khóc tức tưởi trong sự ức chế. Có lúc tôi nghĩ có lẽ ba mẹ không phải là ba mẹ ruột của tôi. Nếu là ruột thịt ba mẹ sẽ trân trọng và yêu quý tôi hơn nhiều…

Khi ở nhà, tôi đối diện với bốn bức tường cùng với đống sách vở. Tôi không biết chia sẻ cùng ai và không ai lắng nghe tôi nói. Tôi trở nên lầm lì ít nói, tôi mất cảm xúc vui buồn trước áp lực kỳ vọng của người lớn dành cho mình. Tôi thích ở ngoài đường hơn là về nhà… Cứ vậy tôi sợ gặp ba mẹ, sợ ba mẹ hỏi đến chuyện học hành… và ý định bỏ nhà ra đi nảy sinh trong đầu khi tôi học lớp 7.

Lúc bình tĩnh, tôi cũng nghĩ suy tại sao ba mẹ lại so sánh mình? Phải chăng ba mẹ đang khích lệ để tôi được tốt hơn? Nhưng đưa con nhà người ta ra làm gương làm mẫu làm tôi bực bội lắm! Ba mẹ có biết giới hạn của tôi không? Tại sao ba mẹ không cho tôi là chính tôi, mà bắt tôi phải giống con nhà người ta?. Tôi muốn nói chuyện với ba mẹ mình nhưng không thể, vì trong căn nhà này con nhà người ta nó to thù lù và luôn xuất hiện mỗi khi ba mẹ “sờ gáy” tôi làm tôi khó chịu vô cùng. Tôi không oán trách gì ba mẹ, nhưng dằn vặt mình thì đúng hơn. Tôi đã không đón nhận hết sự yêu thương của ba mẹ và lãng phí những gì ba mẹ dành cho tôi. Tôi chán ghét bản thân, thấy mình vô dụng và không muốn mình trở thành gánh nặng của gia đình. “Tôi muốn mọi người quên tôi đi” – tôi nhủ thầm.

Cũng thật may, cuối con đường của sự tuyệt vọng tôi gặp một giáo viên chủ nhiệm thật tâm lý và bao dung. Cô trân trọng từng học sinh trong lớp, lắng nghe từng người, cô chẳng bao giờ trách nóc, la phạt một học trò nào, mà chỉ ân cần dạy bảo, khuyên răn khi chúng tôi lầm lỗi. Ánh mắt sâu buồn của tôi đã thu hút cô, cô chủ động hẹn gặp tôi, ân cần trò chuyện. Cuối cùng tôi cũng chịu mở lòng, trút hết những ưu phiền đã kìm nén bao năm cho cô. Tôi ào khóc như một đứa con nít, tôi khóc rất lâu, một thằng con trai ủy mị trước một người phụ nữ nhân hậu.

Sau buổi gặp đó, cô giúp tôi viết tâm thư gởi ba mẹ và cô cũng chủ động xin gặp ba mẹ tôi trò chuyện. Cô đã giúp cho tôi và ba mẹ hiểu nhau hơn. Sau khoảng thời gian này, bầu khí gia đình tôi bớt cẳng thẳng hẳn, ba mẹ hiểu tôi hơn không còn đặt nặng đến thành tích học tập. Những chuyến dã ngoại cùng gia đình thường xuyên được tổ chức thay vì bắt anh em tôi đến các trung tâm học thêm học nhóm. Thật kỳ diệu việc học hành của tôi cũng cải thiện rất nhiều, tinh thần của tôi thoải mái nên việc tiếp thu bài vở của tôi cũng tốt hơn.

Tôi ghi nhớ lòng biết ơn với cô chủ nhiệm đã giúp tôi thăng bằng lại con người mình bằng sự yêu thương và tin tưởng của cô. Cô chia sẻ với tôi: “Tất cả chúng ta ai sinh ra trên đời này cũng có một giá trị riêng, không ai giống ai cả, con là một bản thể duy nhất, con được sinh ra bởi sự kết tinh tình yêu thương của cha mẹ, hơn cả kim cương, con là báu vật của ba mẹ mà ba mẹ con luôn luôn trân quý. Con hãy tỏa sáng và trân trọng những giá trị của bản thân con đang có… hãy tích cực sống con trai”. Cảm ơn Cô, người Thầy của con!

Kính thưa quý phụ huynh,

Ông bà ta có câu “con cái là của để dành của cha mẹ”, nên việc cha mẹ kỳ vọng, đặt tất cả tương lai vào con cái cũng là chuyện dễ hiểu. Nhưng kỳ thực, mỗi một đứa trẻ được sinh ra là duy nhất không có bản sao. Đứa trẻ sẽ tùy vào hoàn cảnh gia đình, đất nước, gen di truyền mà chúng được thụ hưởng những tố chất về thể lý, tinh thần khác nhau. Cũng từ đó chúng sẽ bọc lộ năng khiếu, thiên hướng nghề nghiệp trong tương lai. Chúng ta không thể ép con mình ăn một món mà trẻ bị dị ứng hay trẻ phát bệnh mỗi khi chúng nến thử. Trong việc học, chọn nghề nghiệp của con lại càng không nên ép con, vì vô tình cha mẹ đã tạo áp lực, gây căng thẳng cho con. Điều gì mới đem lại hạnh phúc thực sự cho con? Mỗi người chỉ có một cuộc đời, sao cha mẹ lại bắt con sống thay cho cha mẹ?

Những năm gần đây, tại Việt Nam đã có rất nhiều chuyện đau lòng xảy ra sau mỗi kỳ thi, đợt tuyển sinh kết thúc. Có những lá thư tuyệt mệnh đẫm nước mắt của cô cậu học trò trăng trối để lại cho gia đình: “Xin lỗi cha mẹ vì con đã không làm tròn ước mơ của cha mẹ…” Điều gì đã khiến các em rơi vào tuyệt vọng về chính mình? Phải chăng do sự kỳ vọng quá lớn của gia đình, người thân?  

Một thầy hiệu trưởng của một trường tại Singapore đã gởi cho phụ huynh trước kỳ thi, lá thư này đã được nhiều người chia sẻ trên mạng xã hội. Có đoạn viết: “Tôi biết quý vị đều lo lắng muốn con mình làm bài tốt nhưng hãy nhớ rằng: trong số các em làm bài thi có một em làm nghệ sĩ không phải hiểu môn toán; sẽ có một doanh nhân không quan tâm đến lịch sử hay văn học; sẽ có một nhạc sĩ thì điểm môn hóa sẽ chẳng thành vấn đề và đó chỉ là một bài thi…” Chúng ta đừng lấy đi sự tự tin và phẩm giá của con mình. Chẳng phải trường học là nơi nuôi dưỡng ước mơ của con trẻ và trách nhiệm của cha mẹ là ở bên cạnh con đỡ nâng con đứng dậy khi con bạn thất bại. Xin đừng dập tắt sự tự tin và tương lai của con em mình chỉ vì vài điểm số.

Bạn trẻ thân mến,

Tôi đồng cảm với tâm trạng và cảm xúc của bạn lúc này. Có lẽ điều đầu tiên lúc này bạn hãy quẳng gánh lo đi mà vui sống. Hãy tạm gác những kỳ vọng của ba mẹ qua một bên và bắt đầu sống giây phút hiện tại. Hãy ngủ một giấc cho thật ngon, để tỉnh táo tinh thần sau những gì mệt mỏi, căng thẳng. Kế đến, bạn hãy bồi bổ cơ thể bằng một món ăn thức uống bổ dưỡng mà bạn thích. Điều này rất quan trọng giúp bạn lấy lại sức khỏe, phục hồi tinh thần và thể xác. Bạn có thể tập yoga, dạo công viên, đi nhà sách, thăm viếng mái ấm, nhà tình thương… Nếu bạn là người Công giáo thì đừng quên đến với Chúa qua Thánh lễ và lãnh nhận Bí tích Thánh Thể nhé.

Sau đó, bạn hãy lên kế hoạch cho một chuyến đi hai - ba ngày đến một nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi và cầu nguyện (có thể đến một Đan viện nào đó?). Chúa Giêsu đã nói: “Hỡi tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng…” (Mt11,28). Nghỉ ngơi bên Chúa trong những khoảng lặng của cuộc đời, tôi tin bạn sẽ nghe được tiếng Chúa nói, cảm nhận sự nồng ấm nơi trái tim của Ngài. Đức Giêsu là người bạn tâm giao tuyệt với, Ngài biết rõ những khó khăn trăn trở của bạn. Hãy cùng Ngài ngụp lặn trong cuộc trò chuyện thiêng liêng để biết ý định của Thiên Chúa dành cho mình.

Bên cạnh đó, bạn rất nên có một người lớn đáng tin cậy để lắng nghe những chia sẻ của bạn và cho bạn những hướng dẫn, lời khuyên bổ ích. Sau những ngày nghỉ ngơi cầu nguyện, phân định, lúc này bạn rất cần một sự can đảm để trò chuyện với cha mẹ trong bầu khí an hòa. Bạn hãy nói lên ước mơ và dự định tương lai của mình, và không sợ bộc bạch những giới hạn của bản thân cho cha mẹ biết nhé. Ngoài ra bạn cũng đừng quên bày tỏ thái độ biết ơn với những gì cha mẹ đang kỳ vọng nơi mình. Hãy thuyết phục cha mẹ bằng một cuộc sống đáng để sống trên những gì bạn ước mơ. Theo thời gian những giá trị sống đẹp, sống tích cực, triển nở của bạn sẽ giúp ba mẹ cảm thấy an lòng vì đã cho bạn tự lựa chọn tương lai. Đừng bao giờ bỏ cuộc bạn nhé!

Trên đây là một vài gợi ý để giúp bạn vượt qua sự căng thẳng, mệt mỏi... Cầu chúc cho bạn sớm lấy lại sự quân bình trong cuộc sống. Chúc gia đình bạn luôn an vui.

Thân ái!

(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 5, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (16.5.2023)

---------------------------------

 

BÀI 86 - NGƯỜI NGOẠI ĐẠO CHẾT, LINH HỒN SẼ ĐI ĐÂU?


Vinh Sơn Vũ Tứ Quyết SJ
22/05/2023
Là con cái Thiên Chúa, sau khi chết chúng ta hy vọng được trở về bên lòng Chúa xót thương. Thiên Đàng là nơi chúng ta hướng về. Tuy nhiên, con không biết những người chưa được rửa tội, những người không theo đạo Công giáo, vậy sau khi chết, linh hồn họ sẽ ra sao? Con cảm ơn!

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 86: NGƯỜI NGOẠI ĐẠO CHẾT, LINH HỒN SẼ ĐI ĐÂU?

Vinh Sơn Vũ Tứ Quyết SJ

Hỏi: Là con cái Thiên Chúa, sau khi chết chúng ta hy vọng được trở về bên lòng Chúa xót thương. Thiên Đàng là nơi chúng ta hướng về. Tuy nhiên, con không biết những người chưa được rửa tội, những người không theo đạo Công giáo, vậy sau khi chết, linh hồn họ sẽ ra sao? Con cảm ơn!

Trả lời: Bạn thân mến,

Cám ơn bạn vì đã hỏi câu hỏi này. Đó cũng là điều mà rất nhiều người thường đặt ra. Ngay cả đặt ra cho thầy trong thời gian mục vụ và gặp gỡ. Xin chia sẻ với bạn về hai hướng chính. Thứ nhất là những điều mà Hội Thánh từng trải và suy tư. Thứ hai là những câu chuyện thực tế cụ thể. Vì là việc trả lời một cách ngắn gọn, nên thầy sẽ không nói quá chi tiết và chuyên môn. Nếu muốn, bạn có thể đọc tham khảo chuyên sâu về các tài liệu sách vở.

Những điều mà Hội Thánh đã suy tư

Thời Hội Thánh sơ khai, tức là thời các môn đệ các tông đồ của Chúa, lúc ấy mọi người quy tụ nhau trong những cộng đoàn nhỏ. Lúc đầu, tất cả đều là người Do Thái. Và đương nhiên, khi ấy “người ngoại đạo”, tức là người ở ngoài đạo của mình, ngoài tôn giáo của mình (ở đây là Do Thái giáo), có nghĩa là những người không theo Đạo Do Thái. Hồi đó, người Do Thái nhìn người Hy Lạp, nhìn người Roma là dân ngoại. Rồi các cộng đoàn môn đệ theo Chúa Giêsu dần dần độc lập hơn, và tách khỏi cộng đồng Do Thái giáo. Và lần đầu tại một cộng đoàn có tên là Antiokhia, gần Đất Thánh, các môn đệ lần đầu tiên được gọi là Kitô hữu. Trong bối cảnh này, nếu gọi là “người ngoại đạo”, thì có nghĩa là chúng ta (là các các Kitô hữu) đang nói về những người chưa phải là Kitô hữu.

Cũng thời đó, nếu đọc các sách Tin Mừng, thì bạn cũng biết về cuộc đời Chúa Giêsu, và Chúa “rất không muốn phân biệt” chuyện người “trong đạo” hay “ngoài đạo”. Vì Chúa đã chữa lành cho nhiều người không phải là người Do Thái. Ngay cả việc, Chúa không ngần ngại lấy người ngoại đạo (là minh chứng cho tình thương của Thiên Chúa) làm gương mẫu cho các tông đồ và mọi người noi theo. Đó là câu chuyện về người Samaritanô nhân hậu. Hơn nữa, có lần các môn đệ thấy người ta nhân danh Thầy mình để chữa bệnh, để trừ quỷ, thì các môn đệ “tức tối” và “mách lẻo” với Chúa và còn kể là các ông ra sức ngăn cản. Nhưng Chúa đã nói, đừng ngăn cản người ta.

Cũng thời ấy, trong dân Do Thái, có nhiều nhóm khác nhau, có nhóm gọi là Pharisêu, tin vào sự sống đời sau, tin vào sự sống lại. Nhưng nhóm Xađốc tại không tin như thế. Còn với người Hy Lạp, thì họ có đặt câu hỏi về sự bất tử của linh hồn một cách rất nghiêm túc trong triết học, hoặc diễn tả niềm tin ấy rất mạnh mẽ trong các câu chuyện.

Thời đó, cũng là thời của Đế quốc La Mã, và các hoàng đế tự xưng mình là thần linh. Điều này cũng tựa như các hoàng đế Trung Hoa tự xưng mình là thiên tử (tức là con của Trời, thay Trời thực thi việc cai trị, thực thi công lý). Và có những hoàng đế đã tàn ác đến độ bắt dân phải thờ mình như thờ một vị thần. Trong bối cảnh ấy, các Kitô hữu không chịu khuất phục quyền bính ác độc của hoàng đế, nên bị bách hại. Không chỉ các Kitô hữu bị bách hại mà thôi, mà cả những nhóm khác cũng bị bách hại nữa.

Hơn 300 năm như thế, đến thời Kitô giáo trở thành tôn giáo chính thức của Đế quốc La Mã. Có nhiều chuyện vui mà cũng không thiếu chuyện buồn. Nếu bạn muốn tìm hiểu lịch sử, thì cứ bỏ giờ để tìm hiểu thêm. Trong bối cảnh ấy, “người ngoại” lại được nhìn theo những hướng khác. Vì có câu “ngoài Hội Thánh, không có ơn cứu độ”. Hiểu theo “nghĩa đen và thiển cận”, thì có nghĩa là: tất cả những ai ngoại đạo, đều chết sa hỏa ngục.

Cũng vì lý do này, vào thế kỷ 17, khi các nhà truyền giáo Dòng Tên, đến truyền giáo tại Đất Việt, thấy người dân mộ đạo, tốt lành, lại rất thích hỏi về câu hỏi: “Ông bà tổ tiên của con ngày xưa, rất tốt lành, mà chưa biết Đạo Chúa; vậy thì bây giờ linh hồn các ngài đang ở đâu?”. Các nhà truyền giáo Dòng Tên đã “né”, “tránh” trả lời trực tiếp, vì thực tình không biết phải giải thích làm sao nữa. Vì nếu theo lý mà nói, thì không thật tâm. Vì nếu theo tâm mà nói, thì cái lý không có rõ, không biết phải nói sao cho phải. Nên các ngài “phó mặc cho Chúa” trong thinh lặng và chần chừ. Thế mà lại hay! Vì thực sự, thì chỉ có Chúa mới biết được.

Phải đợi cho đến Công Đồng Vatican II (năm 1962), với những tài liệu chính thức của Hội Thánh, mới quan tâm đặc biệt về điều này. Hội Thánh lúc đó xác nhận rằng, hạt giống Lời Chúa được gieo vãi ngay cả một cách âm thầm và ẩn giấu, trong lòng người và giữa các nền văn hóa (ngoài Kitô giáo). Rằng, những người ăn ngay ở lành với lương tâm ngay thẳng, ngay cả không có cơ hội biết Chúa, và chưa biết Chúa, thì vẫn được ở trong tình thương yêu quan phòng của Ngài. Về bí tích Rửa Tội, cũng có cách hiểu mở rộng hơn, sâu xa hơn. Đó là bí tích được đón nhận một cách cụ thể qua việc cử hành trong Hội Thánh. Đó là bí tích được đón nhận bằng phúc tử đạo. Đó là bí tích được đón nhận bằng lòng khao khát. Và cũng có một lời khác, còn mạnh mẽ hơn nữa, khi nói về tình thương yêu quan phòng của Chúa: Thiên Chúa hoạt động ban ơn qua các bí tích, nhưng không bị giới hạn trong các bí tích.

Những câu chuyện thực tế cụ thể

Lần kia, khi các thầy đi thăm bệnh nhân trong bệnh viện. Dù không phải thân thích gì, nhưng tự nhiên có người đến thăm, mọi người đều rất vui. Các thầy đều làm như thế các cuối tuần. Nếu gặp người có đạo và đang trong tình trạng sẵn sàng, thì có thể được rước Mình Thánh Chúa. Nếu ai muốn xưng tội, sẽ được các thầy mời Cha tới trong ngày gần nhất có thể. Nếu ai không có đạo, thì các thầy thăm hỏi động viên. Giúp được gì thì giúp, không giúp được thì thôi. Thế rồi, có một cụ bà, xúc động quá, cụ thốt lên: “Con cám ơn các thầy nhiều lắm, các thầy tốt quá. Các thầy ơi, sau này các thầy làm cha thì cứ tiếp tục như thế nhá, chúng con được phúc lắm!” Chưa hết, khi nhìn các thầy nói chuyện thăm hỏi hết mọi người, không phân biệt lương giáo, cụ còn nói một điều làm chúng tôi cũng hết sức ngạc nhiên và vui mừng. Cụ nói: “Hóa ra Chúa thương hết tất cả mọi người à, chứ đâu riêng gì người có đạo như con”. Lần ấy, trên đường về lại nhà Dòng, tôi cứ xúc động mãi về lời nói và ánh mắt của cụ.

Tại một làng quê kia, trong một gia đình ngoại đạo, người bố khi tuổi cao bệnh nặng, đã tỏ ý muốn chịu Phép Rửa. Thực ra, ông đã có những ấn tượng rất tốt về Đạo Chúa, nhưng chưa bao giờ nghĩ mình sẽ trở thành người theo Đạo. Thế rồi, không hiểu sao, trong những ngày tháng nằm bệnh, ông suy nghĩ nhiều và quyết định chịu Phép Rửa. Gia đình ông cũng không có chi ngăn cản. Thế là có Cha đến để giúp ông dọn mình chịu bí tích. Và một thời gian ngắn sau, ông ra đi trong bình an và hạnh phúc. Mọi sự diễn ra tốt đẹp. Một thời gian nữa, ngắn thôi, sau khi ông qua đời, bà bắt đầu có những bối rối lương tâm.

Bà và các con hỏi rằng: “Cả gia đình dòng tộc tôi, chẳng có ai theo Đạo cả. Chúng tôi tin rằng, một người tốt lành, khi chết, sẽ đi vào thế giới bên kia trong hạnh phúc cùng tổ tiên ông bà”. Chúng tôi cũng biết rằng: “Ông nhà tôi, bố của chúng tôi bây giờ cũng hạnh phúc trong Nước Chúa”. Nếu như thế: “Thực sự bây giờ, ông ấy ở bên nào, bên Chúa hay bên ông bà tổ tiên, hay là các bên lại “giành giật” ông ấy, như thế có tội nghiệp cho ông ấy hay không…”

Câu chuyện ấy đến tai tôi, và tôi đã nhờ người nói lại với gia đình rằng: Mọi người đừng lo, đừng suy nghĩ chi nhiều. Ông đã sống rất tuyệt vời, và ra đi rất bình an hạnh phúc. Ông cũng đang hưởng hạnh phúc trong Chúa, cùng với tổ tiên. Một cách cụ thể như nào, thì Chúa là Đấng thông suốt vô cùng, đầy tình thương vô cùng, Ngài biết là cần làm gì tốt nhất cho ông. Phần chúng ta, không có chi phải lo cả. Cứ cầu nguyện cho ông, rồi khi ông được hưởng phúc lành, ông lại cầu nguyện cho mọi người. Thực sự, đó là mầu nhiệm hiệp thông trong Hội Thánh.

(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 5, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (22.5.2023)

---------------------------------

 

BÀI 87 - SỰ SỐNG THAI NHI – HỒNG ÂN BỊ LOẠI BỎ


Phêrô Dương Văn Hải, S.D.B
29/05/2023
Hỏi: Nhiều nước đã cho phép phá thai, vì đó là quyền của con người. Vậy tại sao con thấy Giáo hội Công giáo luôn ngăn cấm việc phá thai?

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 87: SỰ SỐNG THAI NHI – HỒNG ÂN BỊ LOẠI BỎ

Phêrô Dương Văn Hải, S.D.B

Hỏi: Nhiều nước đã cho phép phá thai, vì đó là quyền của con người. Vậy tại sao con thấy Giáo hội Công giáo luôn ngăn cấm việc phá thai?

Trả lời:

Trong thời đại chúng ta hôm nay, nhiều người vẫn luôn đòi hỏi cho mình có được những quyền chọn lựa căn bản cho cuộc sống. Đó là một đòi hỏi chính đáng của đời sống nhân loại. Thế nhưng, không phải điều nào mình thấy có lợi cho bản thân, thì quyền đòi hỏi đó phải được đáp ứng. Những quyền chọn lựa căn bản của đời sống con người phải đặt nền tảng trên chân lý và sự thiện, cũng như phải gắn kết vào mối tương quan với Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, và với cả tha nhân.

Một trong những đòi hỏi của nhiều người, đặc biệt là nhiều bạn trẻ ngày nay, đó là có quyền được phá thai. Một số nước đã cho phép phá thai, vì thế, nhiều bạn trẻ cũng đòi hỏi Giáo Hội chấp nhận điều này. Thế nhưng, chúng ta cần phải xét xem sự cho phép đó có phải đang đặt nền trên một chọn lựa sự thiện, cũng như nó có chiếm lấy quyền của Thiên Chúa hay không. Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu điều này để có thể thấu hiểu một cách rõ ràng hơn về giá trị của sự sống con người.

Hồng ân sự sống

Sự sống là một hồng ân, bởi do chính Thiên Chúa là Đấng tác tạo nên. Vì thế, con người được đón nhận sự sống từ tình yêu thương của Thiên Chúa, để rồi đi vào mối tương quan trong tình yêu và hạnh phúc với Ngài. Kinh Thánh cho chúng ta thấy: “Con người giống hình ảnh Thiên Chúa” (St 1,27; 2,7), nghĩa là con người được Thiên Chúa tạo dựng để được chia sẻ sự sống với Ngài. Sự sống con người thuộc về Thiên Chúa và chỉ mình Ngài mới có quyền tối thượng quyết định trên sự sống (x. Đnl 32, 39).

Chính Thiên Chúa đã dựng nên con người, “thổi sinh khí” (St 2,7) cho con người có được sự sống. Từ đây, sự sống con người mặc lấy thần tính của Thiên Chúa, một sự thông ban để con người được hiệp thông vào sự sống vĩnh cửu. Vì thế, sự sống chính là một quà tặng vô giá, là hồng ân cao quý mà Thiên Chúa đã thương ban cho con người, nên: “Sự sống con người phải được coi là điều linh thánh, vì từ lúc khởi đầu của mình, sự sống đó ‘đòi phải có hành động của Đấng Tạo Hóa’ và mãi mãi được liên kết một cách đặc biệt với Đấng Tạo Hóa, là cùng đích duy nhất của mình” (GLHTCG, 2258).

Con người không thể muốn có sự sống là có, và sự sống không phải là sản phẩm do con người tạo ra, như một kiểu chế tạo theo ý riêng của mình. Sự sống là thánh thiêng, là quyền tuyệt đối không bị lệ thuộc vào bất kỳ một quyền nào khác. Chính Thiên Chúa là Đấng tác tạo nên sự sống, và cũng là nguồn sống cho con người. Mỗi sự sống đều có giá trị cao quý trong ý định của Thiên Chúa. Quyền sống của con người được xây dựng trên chính sự sống Thiên Chúa: “Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con. Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu! Hồn con đây biết rõ mười mươi. Xương cốt con, Ngài không lạ lẫm gì, khi con được thành hình trong nơi bí ẩn, được thêu dệt trong lòng đất thẳm sâu” (Tv 139,13-15).

Sự sống của con người được Thiên Chúa tạo dựng, yêu thương và bảo vệ, dù đó là những con người nhỏ bé và yếu đuối nhất, như chính lời Chúa Giêsu đã nói: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng” (Mc 10, 14). Chúa Giêsu đón nhận tất cả mọi người, tôn trọng và yêu thương họ. Đặc biệt, Ngài đề cao sự hiện diện của trẻ nhỏ trong thế giới nhân loại, và ví các em như các thiên thần trên trời đang được chiêm ngưỡng nhan Chúa Cha (x. Mt 18,10).

Quyền được sống của các thai nhi

Như chúng ta thấy, sự sống là một hồng ân cao quý mà con người được đón nhận từ Thiên Chúa. Con người không có quyền quyết định trên sự sống của mình hay của người khác: “Quyền được sống là quyết bất khả nhượng của mỗi người vô tội… Quyền này không tùy thuộc vào các cá nhân, không tùy thuộc vào các cha mẹ, cũng không phải là một nhân nhượng do xã hội và nhà nước làm ra, nhưng những quyền này thuộc về bản tính con người và gắn liền với nhân vị do chính hành động tạo dựng, là nguồn gốc của con người” (GLHTCG, 2273). Do đó, dù là một sinh linh bé nhỏ, thì các thai nhi vẫn có quyền được sống, vì quyền sống đó phát xuất từ Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng có quyền trên sự sống này mà thôi: “Chỉ có Thiên Chúa là Chúa của sự sống từ khi sự sống khởi đầu cho tới khi kết thúc: không ai, trong bất cứ hoàn cảnh nào, có thể dành cho mình quyền trực tiếp đem cái chết đến cho một thụ tạo nhân linh vô tội” (GLHTCG, 2258).

Hơn nữa, vì các thai nhi là những sinh linh nhỏ bé và yếu đuối, nên rất cần đến sự yêu thương và bảo vệ từ những người thân yêu: “Vì phải được đối xử như một nhân vị từ lúc tượng thai, nên phôi thai phải được bảo vệ, chăm sóc và chữa trị trong sự toàn vẹn của nó” (GLHTCG, 2274). Không ai, dù là những người thân yêu nhất của thai nhi, có quyền phán quyết trên sự sống của chính thai nhi: “Thiên Chúa là Chúa của sự sống, đã giao phó cho con người nhiệm vụ cao cả là bảo tồn sự sống, và họ phải chu toàn nhiệm vụ đó cách xứng đáng với con người. Vì vậy, sự sống ngay từ lúc tượng thai, phải được bảo vệ hết sức cẩn thận: việc phá thai và giết trẻ sơ sinh là những tội ác ghê tởm” (Công đồng Vatican II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 51). Khi thực hiện hành vi phá thai, con người đang tước đoạt quyền làm chủ sự sống của Thiên Chúa, cũng như quyền sống bất khả xâm phạm của mỗi người.

Việc phá thai luôn là một tội ác luân lý. Trên con đường bảo vệ sự sống, hẳn nhiên Giáo hội mời gọi mỗi người bồi đắp nền văn minh tình thương và sự sống. “Ngay từ thế kỷ thứ nhất, Hội Thánh đã khẳng định mọi vụ phá thai đều là tội ác luân lý. Giáo huấn đó không thay đổi. Giáo huấn đó vẫn luôn luôn không thể thay đổi. Việc phá thai trực tiếp, nghĩa là, hoặc được muốn như mục đích hoặc được muốn như phương tiện, đều trái ngược một cách nghiêm trọng với luật luân lý” (GLHTCG, 2271). Chính vì lẽ đó, Giáo Hội luôn bảo vệ sự sống của tất cả mọi người, đặc biệt là với các thai nhi, những sinh linh nhỏ bé nhất, cần được yêu thương và che chở hơn hết.

Do đó, Giáo Hội luôn ngăn cấm việc phá thai dưới bất kỳ hình thức nào, và những ai “Cộng tác chính thức vào việc phá thai là một trọng tội” (GLHTCG, 2272). Cũng như Giáo Hội phạt vạ tuyệt thông cho tội ác chống lại sự sống của con người: “Người nào thi hành việc phá thai, và nếu việc phá thai có hiệu quả, thì bị vạ tuyệt thông tiền kết” (Giáo luật, 1398).

Mong rằng trong đời sống nhân loại, con người luôn ý thức về hồng ân sự sống của chính mình và của người khác. Từ đó, luôn biết sống trong tâm tình tạ ơn Thiên Chúa, cũng như biết yêu thương, nâng đỡ và bảo vệ sự sống cho nhau, đặc biệt là đối với các thai nhi. Qua đó, sự sống của các thai nhi sẽ mãi là quà tặng tình thương mà Thiên Chúa dành cho con người.

(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 5, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (29.5.2023)

---------------------------------

 

BÀI 88 - KÍNH LÃO ĐẮC THỌ


Nt. Elisabeth Bùi Phạm Phương An, CND – CSA
05/06/2023
Con thấy người Phương Tây thường gửi ông bà, cha mẹ lớn tuổi vào nhà dưỡng lão. Việt Nam hiện tượng này chưa phổ biến. Vậy Giáo hội nhìn nhận người cao tuổi như thế nào?

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 88: KÍNH LÃO ĐẮC THỌ

Phương An, CND-CSA

Hỏi: Con thấy người Phương Tây thường gửi ông bà, cha mẹ lớn tuổi vào nhà dưỡng lão. Việt Nam hiện tượng này chưa phổ biến. Vậy Giáo hội nhìn nhận người cao tuổi như thế nào?

Trả lời:

Ngày 31.01.2021, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã thiết lập ngày Thế giới Ông bà và Người cao tuổi. Lễ này sẽ được toàn Giáo hội tổ chức hằng năm vào Chúa nhật thứ tư trong tháng Bảy, gần lễ nhớ “ông bà ngoại của Chúa Giêsu”.

Bạn mến, gia đình nào cũng có ông bà, cha mẹ. Vậy khi họ cao niên thì chúng ta đối đãi với họ như thế nào cho phải đạo? Chúng ta cùng tìm hiểu sơ qua tình trạng người cao niên ở Việt Nam và trên thế giới, sau đó thử xem quan điểm Giáo hội về họ ra sao nhé.

1. Thực trạng và quan điểm

a. Thế giới

Theo thống kê của Hoa Kỳ năm 2019, số người già toàn cầu là 630 triệu. Với đà tuổi thọ trung bình tăng, y học tiến bộ, an sinh xã hội tốt, đến năm 2050 số người cao niên sẽ đạt 2 tỉ, chiếm khoảng 1/5 dân số.

Văn hóa Âu Mỹ quan niệm ở nhà dưỡng lão là bình thường. Nhiều người thích sống yên tĩnh một mình, họ tôn trọng tự do cá nhân của con cháu. Cuối tuần con cháu tới thăm và kể đủ thứ chuyện hoặc thỉnh thoảng gọi điện thoại. Họ đã chuẩn bị cho tuổi già của mình ở nhà dưỡng lão. Nơi đây họ tìm được niềm vui trong việc tập dưỡng sinh, đọc sách báo, coi ti vi hoặc nghe tin tức, tham gia hội người cao tuổi,...

Nhà dưỡng lão có nhiều thiết bị và cơ sở vật chất tiên tiến. Các nước Phương Tây cũng có hệ thống an sinh xã hội, bảo hiểm hưu trí cao để lo cho họ. Tuy nhiên, các ông bà lớn tuổi vẫn luôn mong nhớ con cháu. Khi ở Hungary, nhiều lần tôi đến Nhà Xã Hội địa phương thăm các cụ. Họ cho tôi coi hình và kể: “Đây nè, sơ coi hình gia đình tôi hồi những năm 80”; “Này là ngôi nhà lúc đó của chúng tôi, con tôi hồi nhỏ đó”... Lúc kể chuyện về con cháu, ánh mắt họ sáng lên. Chắc họ vui khi nhớ lại quãng thời gian hạnh phúc bên gia đình. Dẫu có đổ vỡ hay vẹn toàn trong đời sống gia đình, khi về già họ vẫn chờ mong người thân lui tới thăm viếng.

Nhìn chung, tôi thấy ở Đông hay Tây gì thì con người ngày nay dành ít thời gian cho ông bà cha mẹ hơn xưa. Có lẽ phương tiện thông tin và vòng xoáy công việc cuốn họ xa những người thân yêu. Thời gian gần đây trong mùa dịch, ngành y tế không kịp đối phó, trung tâm dưỡng lão trở nên hiu quạnh, nhiều vị cao niên bị bỏ rơi. Vì bị phong tỏa, các ông bà không được ai tới thăm. Nhiều nước đã chích vắc-xin cho các vị cao niên, hy vọng họ sẽ an tâm và được chăm sóc kỹ hơn.

b. Việt Nam

Gia đình Việt thường có ông bà sống chung dưới một mái nhà nhiều thế hệ. Theo tổng cục Dân số của Bộ Y tế năm 2019, người cao tuổi cần hỗ trợ hằng ngày ở nước ta là 4 triệu và dự tính đến năm 2049 số người cần chăm sóc gần 10 triệu.

Ngày nay, nhiều gia đình trẻ phải mưu sinh tại thành phố, thỉnh thoảng mới về quê thăm nội ngoại vào dịp tết, giỗ chạp. Nhiều người chia sẻ việc anh chị em họ phải đắn đo, bàn bạc xem nên quyết định thế nào cho vẹn cả đôi đàng, để ba mẹ không buồn mà mình cũng đỡ áy náy lương tâm. Tôi có chị bạn đang băn khoăn không biết có nên đưa mẹ vô nhà dưỡng lão hay không. Chị độc thân, đi làm tuốt trên thành phố. Mẹ chị thì ở quê. Nhà có mấy chị em nhưng người thì đi nước ngoài, người thì sống với gia đình chồng, mà mẹ chị lại thích ở Việt Nam.

Phần đông người Việt quan niệm việc đưa ông bà vô nhà dưỡng lão là bất hiếu. Trước đây, cứ chiều Chúa nhật tôi thường đi thăm người vô gia cư hoặc các ông bà neo đơn ở các nhà dưỡng lão. Một người bạn đi cùng đã chép miệng than: “Đành rằng nước mắt chảy xuôi nhưng ai đời lại để ông bà sống với người dưng ở nhà dưỡng lão thế này”.

Các cụ ông, cụ bà thường kể cho chúng tôi nghe những mẩu chuyện nhỏ:

- À, ông hay đau lưng, nhức chân tay khi trái gió trở trời...

- Hồi đó ông và bà thường làm cái này, cái kia...

- Thiệt mừng ghê vì mấy đứa cháu bà mới gọi điện hỏi thăm nè!

Bạn có thể tưởng tượng hoàn cảnh các ông bà: sức yếu, không nơi nương tựa, có thể không còn người thân hoặc con cháu không thể nuôi dưỡng. Đoàn từ thiện nào đến là họ vui khôn xiết. Có lẽ họ nghĩ: “A đây rồi, có người để trút nỗi lòng!” Dù phải đi xe lăn hay bước chân tập tễnh, các ông bà cũng mau mau ra tập họp để trò chuyện. Trong nhà dưỡng lão nhỏ bé ở quận 8 ở Sài Gòn, tôi thường chú ý đến bà Năm. Vừa nói được vài câu, tôi lại thấy bà cứ ngóng ra cửa, chắc là bà mong con cháu tới thăm lắm. Còn bà Chín thì hay để dành chút bánh kẹo, vài gói trà mà nhà dưỡng lão phát để tặng con cháu khi tụi nó tới...

Sau khi tâm sự, một số câu kết của các ông bà là:

- Từng tuổi này rồi mà còn ăn với uống nỗi gì, chỉ thích có ai để nói chuyện thôi hà!

- Tui mong nhứt là thằng út tới thăm, sao lâu quá không thấy nó...

Có bà còn cho hay: “Mấy đứa con bà lúc này làm ăn khá lắm nhưng chúng lu bu hơn nên chẳng thấy tăm hơi đâu”. Thế là bà khóc như một đứa trẻ. Có cụ ông xác nhận: “Ở chốn này người ta lo cho chúng tôi tương đối đầy đủ nhưng chúng tôi vẫn nhớ con cháu ở xa lắm”… Thời gian dần trôi, mỗi người có nỗi niềm riêng, có khi khó kể với ai. Phần đông thì họ chỉ thích ngồi ở đài Đức Mẹ gần đó để nói chuyện với Mẹ thôi.

2. Giáo hội nhìn giới cao niên ra sao?

a. Giáo huấn

Chắc hẳn bạn đã chứng kiến nhiều gia đình rất yêu quý ông bà. Họ tìm cách kể chuyện vui, đọc báo cho ông bà nghe; khi ông bà đau yếu thì họ thay nhau chăm sóc thật kỹ lưỡng. Bên cạnh đó, cũng có những kẻ đối xử tệ với các vị. Họ bỏ bê, nặng lời mắng nhiếc; khi ông bà bệnh tật, đãng trí thì trách cứ, cho là cha mẹ già rồi “trở chứng”. Đúng như Đức Gioan Phaolô II nói: “Con người ngày nay có hai thái độ văn hóa đối với bậc cao niên: biểu lộ sự kính trọng thương yêu và một nền văn hóa khác chủ trương loại trừ họ ra khỏi môi trường gia đình và cộng đoàn”[1].

Giáo hội không những trân quý phẩm giá từng người mà còn rất coi trọng những vị cao niên, kêu gọi con cháu chăm sóc sức khỏe tinh thần và thiêng liêng cho các vị. Trong mười điều răn của Hội thánh, điều răn thứ tư quy định việc thảo kính cha mẹ. Giáo lý Hội thánh Công giáo số 2197, 2217 và Hiến chế Mục vụ số 48 nhấn mạnh sau Thiên Chúa là tôn kính cha mẹ. Thông điệp Frateli Tutti số 30 có đề cập: “Làm sao để vượt qua các chia rẽ... Trong một gia đình, cha mẹ, ông bà và con cháu đều cảm thấy an nhiên, không ai bị loại trừ.”

Ngày 20/4/2021, Bộ Giáo dân, Gia đình và Sự sống thông báo ngày Ông bà và Người cao tuổi lần thứ nhất được tổ chức vào ngày 25/7 với chủ đề “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Điều này diễn tả sự gần gũi của Thiên Chúa và Giáo hội đối với người cao tuổi và cũng là lời hứa về niềm hy vọng mà người già và người trẻ có thể cùng nhau chia sẻ. “Sinh, lão, bệnh, tử” là hành trình cuộc đời của mỗi con người. Thực tế ít ai mong sớm chạm đến mốc tuổi già sức yếu vì đó là giai đoạn cuối của đời người tại thế. Ngược lại, Thánh Kinh và huấn quyền cho thấy sự cao cả của bậc cao niên trong sự quan phòng của Chúa.

b. Lời Chúa

Cao niên là ân huệ:

“Mái đầu bạc là triều thiên vinh hiển được tặng ban cho kẻ sống công chính” (Cn 16,31). Thật đáng tiếc nếu gia đình vắng sự hiện diện của bậc cao niên: “Này sắp đến những ngày Ta sẽ chặt cánh tay ngươi và cánh tay của nhà cha ngươi, khiến cho không còn người già trong nhà của ngươi.” (1 Sm 2,31).

Thánh Kinh coi trọng bậc cao niên: “Người đầu bạc được trí khôn ngoan, bậc tuổi cao có tài thông hiểu” (G 12,12). Sự khôn ngoan ấy do tích lũy kinh nghiệm sống: “Đừng bỏ qua chuyện các vị cao niên kể lại. Vì chính các ngài đã học hỏi nơi tổ tiên mình.”

“Nhờ học với các ngài mà con có được sự hiểu biết, khi cần con biết đưa ra câu trả lời hợp lý” (Hc 8,9).

Như tiên tri Isaia nói về dân Chúa, người cao niên được Chúa ủi an: “Cho đến khi các ngươi già nua tuổi tác, trước sau gì Ta vẫn là Ta; cho đến khi các ngươi da mồi tóc bạc, Ta vẫn còn gánh vác các ngươi. Như xưa nay Ta vẫn từng đối xử: Ta sẽ nâng niu, gánh vác các ngươi và ban ơn cứu thoát” (Is 46,4).

Thái độ với bậc cao niên:

- Tôn trọng: “Đừng khinh dể, vì đến lượt chúng ta rồi cũng già hết cả” (Hc 8,6). “Đừng nặng lời với cụ già, ... hãy coi cụ như cha” (1 Tm 5,1).

- Phụng dưỡng: “Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi” (Hc 3,12). “Ai không biết lo lắng đến người thân và nhất là gia quyến mình, thì nó đã chối bỏ đức tin, và còn tệ hơn là người không tin” (1 Tm 5,8).

- Vâng lời: “Hãy lắng nghe cha con, đấng sinh thành ra con, đừng khinh dể mẹ con khi người già yếu” (Cn 23,22). Tin Mừng Lc 2,51-52 có kể câu chuyện thánh gia lên đền thờ, sau đó cha mẹ Chúa Giêsu bị lạc con và khi tìm được, trở về nhà, Ngài hằng vâng phục cha mẹ. Thánh Phaolô răn bảo: “Hỡi kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ ... để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6,1-3 ).

- Thảo hiếu: Ngay từ những thế kỷ đầu, sách xuất hành và đệ nhị luật đã xác quyết việc thảo kính cha mẹ để được sống trên đất Chúa ban. Còn sách huấn ca thì viết: “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu ... Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông ... Hãy thảo kính cha con bằng lời nói việc làm...” (Hc 3,3-14). Chính Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh điều răn này của Thiên Chúa” (x.Mc 7,8-13).

3. Giáo hội vạch ra con đường nên thánh

Giáo hội khuyên bậc cao niên nên thánh trong hiện tại với sức nặng của thể lý đang giảm và tuổi tác cao. Tuổi già nên thánh khi làm tháng ngày còn lại của mình trở nên ý nghĩa bằng sự kết hợp với Chúa dù cho sức cùng lực kiệt. Họ có thể dâng hy sinh trong cơn đau, dâng sự cô đơn và yếu đuối của mình cùng với những cố gắng nho nhỏ hằng ngày như một hiến lễ lên Đấng Tối Cao.

Chìa khóa nên thánh chính là yêu thương! Vì luống tuổi, sức yếu nên đương nhiên họ sẽ mất khả năng làm việc hay tự lo cho bản thân. Thế nhưng bù lại, tình yêu thương giúp họ sống ơn gọi trong giây phút hiện tại, không đầu hàng trước sức tàn phá của bệnh tật mà vẫn kiên cường và vui sống ý nghĩa đời mình. Thật đẹp nếu các vị dù da có nhăn, mắt có mờ, chân tay run rẩy mà tình yêu vẫn luôn thiết tha, tinh ròng. Khi đó tuổi già tiếp tục là mùa xuân yêu thương cho mọi người, nắng mai rạng rỡ cho thế giới[2].

Chắc bạn không ngạc nhiên khi ngày 31/1/2020, trong Đại hội quốc tế về mục vụ cho người cao tuổi tại Vatican, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Tuổi già là sự phong phú của người đã trải qua những năm tháng kinh nghiệm và lịch sử.” Càng có tuổi, người ta càng có tâm tình tôn giáo rõ nét hơn. Khi ngắm tiền nhân sốt sắng bền bỉ lần chuỗi, dâng lễ, sống nhẫn nại, bác ái, chúng ta hiểu lòng tri ân của họ đối với Đấng mà họ tin.

Bậc cao niên vẫn có sứ mạng truyền giáo. Kinh Thánh nhắc “bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái tức giận nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và chỉ dạy” (Ep 6,4). Chính khi trung thành trong đức tin, họ cho hậu thế bài học sống động vì họ đúng là chứng nhân giữa đời thường. Qua bao gian nan khốn khó, họ vẫn còn lòng sắt son với Chúa và tình yêu với tha nhân.

4. Giáo hội nói về bổn phận con cháu

Giáo hội đề cao tinh thần bác ái, trong đó có việc chăm lo và cầu nguyện cho bậc cao niên. Đức Phanxicô nhận định trong Tông huấn Amoris Laetitia, số 191: “Giáo hội không thể nhượng bộ một tâm thức bất nhẫn, dửng dưng hay khinh miệt đối với người già. Chúng ta phải đánh thức ý thức tập thể về lòng biết ơn, sự trân trọng, lòng tử tế, làm cho người già cảm thấy mình là thành viên sống động của cộng đồng.”

Với nhiều biến động của thế giới đến chóng mặt, người trẻ dường như thấy ông bà mình hơi khó hiểu. Để khoảng cách thế hệ làm cuộc sống phong phú và tốt đẹp hơn, người trẻ cần hành xử sao cho phải phép. Sự quan tâm ông bà cha mẹ là bài học cụ thể cho con cháu chúng ta về các giá trị đạo đức. Trẻ thơ thấy người lớn xử với ông bà thế nào thì sau này chúng sẽ bắt chước như vậy.

Trong nhà dòng, chúng tôi quý các Sơ cao niên lắm. “Khi đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ”. Chúng tôi thường đến thỉnh ý, tham khảo họ trong nhiều chuyện vì họ là nhân chứng lịch sử, là người giữ truyền thống của hội dòng. Dẫu vậy, các vị nhiều khi dễ xúc động, hoài cổ hay đãng trí. Có Sơ hỏi: “Chị đọc kinh chưa em? Chị đi lễ chưa? Hôm nay thứ mấy?!...” Chúng tôi hiểu và tìm cách trả lời tế nhị để tránh làm các vị buồn sầu. Chúng tôi cùng đến đọc kinh, chia sẻ đời sống, ngồi nghe các Sơ già kể chuyện đời xưa,…

Tóm lại, người trẻ thừa hưởng lòng tin được tôi luyện qua thử thách của bậc cao niên trong thời khó khăn. Nhờ người cao tuổi, thế hệ trẻ đón nhận được những tinh hoa từ cuộc sống để có thể áp dụng trong cách xử thế hằng ngày. Khi thao thức chuyển tải cho hậu thế kho tàng văn hóa và đức tin, bậc cao niên tìm thấy ý nghĩa và giá trị đời mình[3]. Lời nói của họ thật quý giá, tư tưởng và quyết định của họ thường dày dạn kinh nghiệm.

Vậy bạn ơi, nếu còn ông bà cha mẹ bên cạnh, hãy trân trọng và sống cho trọn đạo lý nhé!

(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 5, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)
WHĐ (05.06.2023)

------------
[1] Thư của Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II gởi các gia đình ngày 2/2/1994
[2] x. Bài giảng của TGM Giuse Vũ Văn Thiên ngày 03/03/2020
[3] Bài giảng của TGM Giuse Vũ Văn Thiên ngày 03/03/2020

---------------------------------

 

BÀI 89 - ĐÒI HỎI CỦA CHÚA GIÊSU CÓ CÒN HỢP VỚI THỜI ĐẠI CÔNG NGHỆ?


Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế SJ
12/06/2023
Giữa thế giới của Google, của Youtube, của Instagram, của Facebook, của Twitter và trong xã hội 5.0 cùng với làn sóng 5G của những chiếc điện thoại, những đòi hỏi và điều kiện của Chúa Giêsu đưa ra cho người môn đệ còn có hợp thời hay không?

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 89: ĐÒI HỎI CỦA CHÚA GIÊSU CÓ CÒN HỢP VỚI THỜI ĐẠI CÔNG NGHỆ?

Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế SJ.

Hỏi: Giữa thế giới của Google, của Youtube, của Instagram, của Facebook, của Twitter và trong xã hội 5.0 cùng với làn sóng 5G của những chiếc điện thoại, những đòi hỏi và điều kiện của Chúa Giêsu đưa ra cho người môn đệ còn có hợp thời hay không?

Trả lời:

Giữa dòng đời hôm nay, nhiều người cảm thấy lạc lõng nếu không cập nhật được những trào lưu sống của thời đại Internet. Con người được mời gọi và, một cách gián tiếp, “bị bắt buộc” chạy theo làn sóng của Google, của Youtube, của Instagram, của Facebook, của Twitter... Một số người đã “chìm sâu” vào trong đó và được/bị những làn sóng hiện đại này hướng dẫn/chi phối cuộc sống.

Rồi người ta bắt đầu chú ý đến một khuynh hướng mới. Đó là trí tuệ nhân tạo (AI: Artificial Intelligence) và người máy – robot. Trong bức tranh mới của cuộc sống hôm nay, chúng ta nhận thấy các nhà máy dần dần tự động hóa trong sản xuất và phân phối hàng hóa. Các xe vận tải không người lái, các sân bay, bến cảng sẽ có những nhân viên “ảo”, bệnh viện hay nhà thương hoạt động bằng những bác sĩ robot được kết nối và điều khiển thông qua một “trí tuệ nhân tạo AI” sẽ ngày càng trở nên phổ biến. Những phát minh trước đây chỉ thấy trong các bộ phim khoa học viễn tưởng thì ngày nay không còn quá xa lạ trong đời sống thực tế.

Cụm từ “xã hội 5.0” được nhắc đến với những viễn tượng đầy hứa hẹn. Thế nhưng, trào lưu sống hiện đại này lại mang đến nhiều thách đố, đặt ra những điều kiện cho sự phát triển và sống còn của con người. Vì thế, con người phải chịu những áp lực ngày càng lớn. Ai "cập nhật – update” được, thì có thể sống vui, thoải mái, và cũng có thể trở nên giàu có và nổi tiếng. Nhưng chiều ngược lại cũng xảy ra. Ai không update được thì không chỉ bị tụt hậu mà còn có thể rơi vào dòng sông “trầm cảm”.

Chúng ta nhớ có lần Chúa Giêsu nhất quyết đi lên Giêrusalem (Lc 9,51). Con đường Chúa đi không phải là con đường dễ dàng và được trải nhung lụa. Ngược lại, con đường này dẫn Chúa đến với thập giá, khổ đau và cái chết. Trên con đường đó, có nhiều người đi với Chúa (Lc 14,25). Nhưng họ đi theo Chúa để làm gì, tìm gì? Tìm cơm gạo ư? Tìm quyền lợi chăng? Tìm sự bảo đảm sao? Hay tìm một con đường dễ dàng đưa họ đạt được danh vọng, quyền lực, vinh quang và hạnh phúc theo lăng kính của cuộc đời?

Rất nhiều người đi với Chúa, nhưng chẳng mấy ai trong số họ quyết định dứt khoát bước tiếp trên đường thập giá. Chúa Giêsu đã rất thực tế khi quay lại nói với đám đông điều cần phải nói: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14, 26-27). Cả hai câu nói đều được diễn tả trong thể “điều kiện” nếu-không-thì. Câu đầu tiên nói về sự dứt khoát từ bỏ. Câu thứ hai nói về việc sẵn sàng vác thập giá theo Chúa.

Tiếp đến, Chúa Giêsu còn mạnh mẽ hơn khi nói rằng người nào muốn theo Ngài phải dứt bỏ cả mạng sống mình nữa. Đó là một sự tự huỷ thực sự. Tự huỷ như chính Chúa đã tự huỷ – làm cho mình trở nên trống rỗng hoàn toàn – để trao lại cho Chúa toàn bộ con người và cuộc sống của mình. Có thể nói đây là một điều kiện rất khó thực hiện, bởi vì đã là con người thì phần lớn ai cũng đi tìm cái tôi. Nhất là trong thời đại Google, Youtube, Facebook, Instagram, 5G và xã hội 5.0, cái tôi luôn được đề cao.

Cái tôi được chú ý quá nhiều và được mọi người “đi tìm không ngưng nghỉ”. Vậy nên mới có thánh nhân nói rằng “Khi con người chết đi, thì 15 phút sau cái tôi mới chết”. Cái tôi luôn to lớn và luôn muốn trở thành “cái rốn của vũ trụ”. Trong mọi câu chuyện, trong mọi hành động và trong mọi suy tưởng, cái tôi luôn chiếm một chỗ lớn và quan trọng. Nếu cái tôi vẫn còn, thì Chúa không thể lớn lên được. Chỉ khi nào người môn đệ và người tín hữu ý thức liên lỉ sống tinh thần “Chúa phải lớn lên và tôi cần phải nhỏ lại” thì lúc đó con đường theo Chúa mới tìm được ý nghĩa và giá trị đích thực.

Câu thứ hai Chúa Giêsu nói lại đụng tới thập giá: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được”.  Nhưng chúng ta vác thập giá như thế nào? John Newton đề nghị với chúng ta cách vác thập giá: “Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta vác không nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục… Lạ gì họ không vác nổi”! Hãy can đảm, chúng ta không vác Thánh Giá một mình, nhưng cùng với nhau và với Chúa.

Thế giới của Google, Youtube, Facebook, Instagram, 5G và xã hội 5.0 hứa hẹn nhiều viễn tượng rất đẹp, liệu có còn thập giá không? Với sự tân tiến của trí tuệ nhân tạo và các người máy siêu thông minh, biết cảm thụ và nhận thức, có thể đưa ra các quyết định thay cho con người, liệu thập giá có được xoá bỏ? Thật không may, công nghệ phát triển vẫn không thể xóa bỏ thập giá. Khuynh hướng sống hiện đại cũng khó có thể làm cho thập giá nhẹ đi. Vì thế, thập giá luôn còn đó. Con người dù thông minh và tiến bộ đến mấy vẫn phải tiếp tục sống với đau khổ. Vấn đề là người trẻ chúng ta cần biết làm mới lại, cần biết “update”. Vậy chúng ta sẽ update cái gì?

Trước hết, chúng ta update lại lời mời gọi trở nên người môn đệ của Chúa trong lòng thế giới hôm nay. “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Chúng ta cần update thêm tình yêu vào trong chính suy tư, nụ cười, lời nói và cách hành động để người khác có thể tìm thấy Chúa nơi chúng ta. Hình ảnh của Chúa được thể hiện rõ nét qua tinh thần yêu thương, sự hy sinh xả thân quên mình của người môn đệ. Là người môn đệ của Chúa, chúng ta cần lan tỏa tình yêu và lòng thương xót mà chính Chúa đã và đang tiếp tục ban tặng cho nhân loại.

Update yêu thương là update thập giá, mà update thập giá là update khổ đau. Thật vậy, yêu thương, thập giá và đau khổ không thể tách rời nhau. Ở đây, chúng ta cần tự hỏi xem mình nên vác thập giá như thế nào để yêu thương và an bình luôn được nở rộ? Có khuynh hướng văn minh hiện đại nào hướng dẫn chúng ta không? Các nhà tâm lý trị liệu đã đưa ra biết bao phương pháp hứa hẹn giúp con người giảm bớt gánh nặng thập giá. Nhiều phong trào, tổ chức xã hội hay du lịch chào hàng các chương trình wellness, thư giãn, nghỉ ngơi và hưởng thụ kiểu như muốn con người đừng “ngó” tới thập giá và “làm ngơ” với đau khổ.

Là người Kitô hữu, chúng ta luôn hướng nhìn về Chúa Giêsu vác thập giá. Lúc này chúng ta cũng tự vấn mình trước thập giá: Tôi có đang cố trốn khỏi thập giá? Là môn đệ của Chúa Giêsu, Đấng vác thập giá và chịu chết trên thập giá, mà tôi lại chối từ thập giá thì thật là “môn để giả hiệu” mà thôi. Nói vác thập giá thì dễ vô cùng, nhưng sống với thập giá thì rất khó.

Như thế, để truyền thông vẫn hợp thời với lời mời gọi của Đức Giêsu, chúng ta cần làm mới lại chính mình, ý thức chuẩn bị con đường bước theo Chúa. Nói cách khác,  hệ điều hành của chúng ta cần phải update thì “phần mềm” Giêsu mới chạy hiệu quả được. Hay nói như chính lời của Đức Giêsu, “Rượu mới thì bầu phải mới” (Mc 2,22). Về phần chuẩn bị, sách Huấn Ca có nhắc nhớ rằng: “Con ơi, nếu con muốn dấn thân phụng sự Đức Chúa, thì con hãy chuẩn bị tâm hồn để đón chịu thử thách. Hãy giữ lòng cho ngay thẳng và cứ kiên trì, đừng bấn loạn khi con gặp khốn khổ.” (Hc 2,1-5).

Chúng ta đừng để lòa mắt bởi thứ ánh sáng đến từ Google, Youtube, Facebook, Instagram, 5G và xã hội 5.0. Chúng phải được dùng như công cụ giúp con đường ta đến với Chúa trở nên dễ dàng hơn. Nguy cơ xảy ra là trong thời công nghệ, chúng ta dễ quên đi thập giá, quên đi tinh thần biết từ bỏ để yêu thương, quên đi tinh thần biết tự huỷ, quên đi tinh thần của Chúa Giêsu. Chúng ta cần chia sẻ với Chúa Giêsu trên đường khổ nạn, để rồi cùng với Ngài bước vào vinh quang Nước Trời.

Cuối cùng, nếu bạn muốn trở thành người môn đệ đích thật của Chúa và là người tín hữu chân chính trong thời đại 5.0 hôm nay thì bạn hãy tự hỏi mình:

- Tôi có đang bám chặt vào của cải vật chất, gom góp tiếng thơm và danh vọng, quyền lực và sử dụng người khác để phục vụ cho bản thân?

- Tôi có tinh thần từ bỏ để trở nên người môn đệ tự do của Chúa như thế nào?

- Tinh thần tự huỷ của Chúa Giêsu có ý nghĩa và giá trị gì đối với tôi?

- Là môn đệ Chúa, tôi đang đi tìm gì vậy?

- Tôi đang đi tìm công việc của Chúa hay tôi đang đi tìm Chúa?

- Là người môn đệ của Chúa, tôi cần chuẩn bị những gì? Tôi nên ý thức như thế nào trong việc học hỏi và trau dồi Giáo Lý, Giáo Huấn của Hội Thánh, Thần Học, Thánh Kinh?

- Thập giá mà tôi đang mang vác trên vai là gì?

- Thập giá đó có ý nghĩa gì với tôi?

- “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Lời này của Chúa Giêsu có ý nghĩa gì với tôi?

(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 5, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (12.06.2023)

---------------------------------

 

BÀI 90 - THIÊN ĐÀNG HỎA NGỤC HAI BÊN


Lm. Giuse Cao Gia An, SJ
19/06/2023
Con nghe người ta nói là năm 1999 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã từng tuyên bố: Thiên đàng không ở trên chín tầng mây, hỏa ngục cũng không ở trong lòng đất. Nếu thế, không lẽ Đức Cố Giáo Hoàng đi ngược lại với Giáo lý Công giáo? Hơn nữa, còn mâu thuẫn với bí mật thứ nhất Fatima khi ba trẻ được Đức Mẹ cho thấy hỏa ngục dưới lòng đất?


GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 90: THIÊN ĐÀNG HỎA NGỤC HAI BÊN

Lm. Giuse Cao Gia An, S.J.

Hỏi: Con nghe người ta nói là năm 1999 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã từng tuyên bố: Thiên đàng không ở trên chín tầng mây, hỏa ngục cũng không ở trong lòng đất. Nếu thế, không lẽ Đức Cố Giáo Hoàng đi ngược lại với Giáo lý Công giáo? Hơn nữa, còn mâu thuẫn với bí mật thứ nhất Fatima khi ba trẻ được Đức Mẹ cho thấy hỏa ngục dưới lòng đất?

Trả lời:

Câu hỏi này sẽ được trả lời theo hai bước. Thứ nhất, thay vì nghe “người ta nói”, chúng ta thử lục lại xem thật sự Đức Cố Giáo Hoàng đã nói gì. Tiếp đó, chúng ta sẽ cùng phân tích chính những điều Đức Cố Giáo Hoàng đã nói, để xem liệu có thật những điều Ngài nói đi ngược với Giáo lý Công giáo (GLCG) hay ngược với bí mật thứ nhất của Fatima không nhé!

Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói gì?

Điều mà bạn “nghe người ta nói” có vẻ như có liên hệ đến hai bài nói chuyện của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong buổi tiếp kiến khách hành hương tại Quảng Trường Thánh Phêrô vào hai ngày thứ Tư cuối tháng 7 năm 1999. Đức Cố Giáo Hoàng đã dựa trên nền tảng Kinh Thánh và các suy tư thần học để quảng diễn về ý nghĩa của thiên đàng và hoả ngục. Có thể tìm đọc hai bài này ở trang web chính thức của Vatican.

Đây là tựa đề của bài nói chuyện ngày 21 tháng 7: John Paul II, General Audience, link[1]. Có thể tạm tóm lược điều ngài nói như sau:

Được làm người, con người nào cũng có một cùng đích tối hậu là được thông hiệp trọn vẹn với Thiên Chúa Ba Ngôi. Sự thông hiệp trọn vẹn này được gọi là “thiên đàng”. Tư tưởng này được Đức Cố Giáo Hoàng trích từ sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo: “Thiên đàng là cùng đích tối hậu và là thành toàn của khát vọng sâu thẳm nhất trong mọi trái tim con người, là tình trạng hạnh phúc tối cao và viên mãn” (GLCG, số 1024).

Đức Giáo Hoàng còn quãng diễn rằng: Theo dòng văn chương Kinh thánh, thiên đàng là một lối nói ẩn dụ để chỉ về “nơi” Thiên Chúa ngự. Nhưng nơi ấy không được hiểu theo nghĩa không gian địa lý. Ngài lại trích dẫn Giáo lý của Giáo hội Công giáo: “Thiên đàng là cộng đoàn của tất cả những ai hoàn toàn được tháp nhập trong Đức Kitô, được hưởng nhờ Ơn Cứu Độ từ Đức Kitô” (GLCG, số 1026).

Như thế, thiên đàng không phải là một khái niệm trừu tượng nay một nơi chốn địa lý nào đó trên chín tầng mây, nhưng là một mối tương quan sống động và cá vị với chính Ba Ngôi Thiên Chúa.

Còn đây là bài nói chuyện ngày 28 tháng 7: John Paul II, General Audience, link[2]. Có thể tạm tóm lược điều ngài nói như sau:

Hỏa ngục là nơi dành cho những người chủ ý từ khước tình yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa, tự tách mình ra khỏi sự kết hiệp hạnh phúc với Ngài. Đây là điều mà Giáo hội gọi là “sự kết án đời đời”, là Hoả Ngục. Đức Cố Giáo Hoàng lại trích dẫn Giáo Lý của Giáo hội Công giáo: “Chết trong tình trạng còn mang tội trọng, lại từ chối hoán cải và từ chối chấp nhận lòng thương xót của Thiên Chúa, đồng nghĩa với việc tự do chọn xa cách Thiên Chúa mãi mãi. Tình trạng tự mình loại mình ra khỏi sự hiệp thông với Thiên Chúa như thế được gọi là hỏa ngục” (CLCG, số 1033). Như thế, hỏa ngục không phải là một hình phạt do Thiên Chúa áp đặt trên con người, nhưng là hậu quả tất yếu của lựa chọn tự do của con người khi phạm tội và tự cách ly mình khỏi Thiên Chúa, Đấng là nguồn mạch của mọi niềm vui và hạnh phúc.

Như vậy, hỏa ngục không phải là một nơi nào đó dưới lòng đất, nhưng là tình trạng của những người chọn lựa từ chối tình yêu và lòng thương xót của Chúa, thậm chí trong chính giây phút cuối cùng của đời mình.

Điều Đức Cố Giáo Hoàng nói có đi ngược với GLCG?

Bạn thấy đấy, trong cải hai bài nói chuyện, để quãng diễn về hình ảnh thiên đàng và Hoả Ngục, Đức Cố Giáo Hoàng đều dựa trên nền tảng Kinh thánh và những suy tư thần học. Đặc biệt, ngài minh nhiên trích dẫn GLCG. Vậy, nếu dựa vào chính điều Đức Cố Giáo Hoàng đã nói, liệu bạn có thể kết luận rằng ngài đi ngược với GLCG không?

Thiên đàng không ở trên chín tầng mây, theo nghĩa như là một nơi chốn địa lý cụ thể nào đó cách xa khỏi trần gian này. Ấy là một tuyên bố đúng đắn. Não trạng bình dân hay nghĩ về thiên đàng như một nơi chốn trên trời cao. Nhưng đó là lối nói ẩn dụ, chứ không thể hiểu theo nghĩa đen được. Có bao giờ bạn nghe nói về những thiên đàng tại thế không? Ấy là những thời khắc mà người ta được sống trong tâm trạng bình an, hoan lạc, hạnh phúc, chẳng hạn như khi người ta cảm nghiệm được sự kết hợp ngọt ngào với Thiên Chúa trong cử hành Thánh Lễ, được kết hợp với Chúa qua Bí tích Thánh Thể, cảm nghiệm được sự an ủi thiêng liêng của Ngài, cảm nghiệm được sự hiện diện gần gũi và thân mật của Ngài. Đó có thể chỉ là những giây phút ngắn ngủi. Nhưng trong những giây phút ấy, có thể nói rằng con người được cảm nếm thiên đàng tại thế rồi.

Cũng vậy, hỏa ngục dưới lòng đất cũng chỉ là một lối nói ẩn dụ dân gian. Sự phát triển của khoa học ngày nay cho thấy trong lòng đất làm gì có một nơi chốn gọi là Hoả Ngục. Thật ra, đâu cần phải xuống tận sâu lòng đất với những lò lửa cháy hừng hực thì mới gọi là hoả ngục. Trong cuộc sống thường ngày, đâu hiếm những trường hợp cuộc sống của người ta trở thành Hoả Ngục. Chẳng phải bạn vẫn từng nghe “cuộc sống như địa ngục” đấy sao? Đó không phải là một nơi chốn cụ thể, nhưng là một tình trạng, một cảnh huống bi thảm và đau khổ.

Cuối cùng, cần thấy rằng điều Đức Cố Giáo Hoàng nói hoàn toàn không có gì trái ngược với điều được gọi là “bí mật thứ nhất của Fatima”, như được kể lại trong nhật ký của nữ tu Lucia dos Santos. Để hiểu thấu đáo hơn về bí mật Fatima, có lẽ bạn nên đọc lại văn kiện chính thức của Giáo hội, với sự trích dẫn nguyên văn và bút tích của sơ Lucia dos Santos. Bạn có thể tìm đọc ở đây: The Message Of Fatima[3].

Theo đó, điều được gọi là “bí mật” thật ra là một thị kiến về Hoả Ngục. Sơ Lucia dos Santos đã viết lại trong nhật ký của mình kinh nghiệm về hỏa ngục bằng ngôn ngữ của thị kiến. Chúng ta biết rằng, những người có thị kiến là những người được cho thấy về những điều vốn vượt quá sức hiểu biết và khả năng diễn đạt của con người. Bởi thế, để diễn tả về thị kiến, những hình ảnh ẩn dụ dân gian thường được sử dụng. Sơ Lucia đã mô tả hình ảnh kinh sợ của hỏa ngục như là một biển lửa có vẻ như ở dưới lòng đất. Đây hoàn toàn không phải là một Mạc Khải về đức tin nhằm khẳng định rằng hỏa ngục là một nơi ở dưới lòng đất. Hình ảnh “biển lửa”, “có vẻ như ở dưới lòng đất”, “tiếng than khóc rên la”… là những hình ảnh ẩn dụ mà con người có thể hiểu được, để nói về những đau khổ khốn cùng không cách nào diễn đạt trọn vẹn của Hoả Ngục, tình trạng của những người tội nhân bị vĩnh viễn kết án xa rời Thiên Chúa. Hơn nữa, sứ điệp chính của thị kiến này cũng không chỉ dừng lại ở việc mô tả hỏa ngục mà là lời kêu gọi việc sùng kính Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ, như là một sứ mạng cầu nguyện được gởi đến cho mọi người, nhằm xin ơn cứu rỗi cho những linh hồn đang khổ đau vì tình trạng bị lìa xa Thiên Chúa.

Thay lời kết

Trước khi kết thúc, chúng ta thử phân tích thêm một chút về cách đặt câu hỏi của bạn nhé.

Bạn khởi đầu câu hỏi của mình bằng cụm từ “con nghe người ta nói”. Đây là cách đặt câu hỏi thường thấy trong giới trẻ ngày nay. Chúng ta thường bắt đầu câu hỏi của mình bằng những thông tin “nghe người ta nói”. Sự phát triển của các phương tiện truyền thông mở ra cho chúng ta một thế giới bao la. Thật tốt khi chúng ta chịu khó đọc, chịu khó lượm lặt thông tin về Giáo hội và về đức tin, chịu khó “nghe người ta nói”…

Nhưng bạn biết không, cái biết từ việc nghe người ta nói là một cái biết rất đại khái. Trong cuộc sống thường ngày, có nhiều điều chúng ta “nghe người ta nói”, nhưng đâu phải điều gì người ta nói cũng đều đúng, phải không? Một người cẩn trọng là người phải tìm cách kiểm chứng rõ ràng điều mình “nghe người ta nói”, trước khi đặt niềm tin vào đó và dựa vào đó để suy diễn thêm. Trong câu hỏi của mình, bạn đã không thật sự dựa vào điều Đức Giáo Hoàng nói, chỉ dựa vào điều “người ta nói” rằng Đức Cố Giáo Hoàng đã nói. Giả như “người ta” ở đây là những người có ác ý, muốn công kích Đức Cố Giáo Hoàng, thì sao nhỉ? Nếu người ta nói theo hướng cắt xén và lèo lái lời của ngài để tấn công ngài, thì sao nhỉ? Liệu có phải cái phản ứng của bạn cũng đang bị người ta lèo lái và định hướng không?

Như thế, cái lạ của bạn nằm ở chỗ này: khởi đi từ một điều “nghe người ta nói” chưa được kiểm chứng rõ ràng, bạn lại có xu hướng đi đến một kết luận đầy tính nghi nan: liệu Đức Cố Giáo Hoàng có đi ngược lại với Giáo lý Công giáo không? Nếu là một người được sinh ra trong lòng Giáo hội Công giáo, tại sao bạn lại chọn nghe và tin điều “người ta” xa lạ nào đó nói về điều Đức Giáo Hoàng đã nói, và phản ứng theo hướng đặt nghi nan về phía Đức Giáo Hoàng, là “người nhà” của mình? Đây là một điều dở, phải không? Nếu thật sự là một người tín hữu, mang trái tim của một người con trong Giáo hội, bạn vẫn có thể chọn đứng về phía Đức Giáo Hoàng để chất vấn ngược lại điều “người ta nói” mà, đúng không?

Chúc bạn tiếp tục phát huy nét đẹp của việc thích tìm tòi và học hỏi, nhằm đào sâu hiểu biết về Giáo hội và đức tin của mình. Đồng thời, chúc bạn luôn mang một trái tim tin tưởng và bình an của một người con trong Giáo hội.

(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 5, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (19.06.2023)

---------------
[1] http://w2.vatican.va/content/john-paul-ii/en/audiences/1999/documents/hf_jp-ii_aud_21071999.html.
[2] http://w2.vatican.va/content/john-paul-ii/en/audiences/1999/documents/hf_jp-ii_aud_28071999.html.
[3] Tiếng Việt: https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/nguyen-van-bi-mat-fatima-phan-iii-va-loi-giai-thich-cua-giao-hoi-39579
Tiếng Anh: https://www.vatican.va/roman_curia/congregations/cfaith/documents/rc_con_cfaith_doc_20000626_message-fatima_en.html

---------------------------------

 

BÀI 91 - KHI NÀO ĐẾN NGÀY TẬN THẾ?


Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc, SJ
03/07/2023
Chúng ta vẫn tin Thiên Chúa sẽ đến lần thứ hai vào ngày tận thế. Nhiều người vẫn thắc mắc khi nào tới ngày đó? Chiến tranh thế giới thứ ba, dịch bệnh trên toàn thế giới, ngày mặt trời hết năng lượng, v.v?

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 91: KHI NÀO ĐẾN NGÀY TẬN THẾ?

Giuse Phạm Đình Ngọc SJ

Hỏi: Chúng ta vẫn tin Thiên Chúa sẽ đến lần thứ hai vào ngày tận thế. Nhiều người vẫn thắc mắc khi nào tới ngày đó? Chiến tranh thế giới thứ ba, dịch bệnh trên toàn thế giới, ngày mặt trời hết năng lượng, v.v?

Trả lời:

Câu hỏi trên đây là một trong những vấn đề lớn mà các nhà thần học quan tâm. Thậm chí người bình dân cũng muốn tìm hiểu hoặc thắc mắc về ngày tàn của vũ trụ. Nếu như thế giới có ngày bắt đầu, hẳn là nó cũng có ngày tàn cuộc. Đó là lối nói bình dân, dễ hiểu. Về phương diện khoa học vật lý thiên văn, các cuộc nghiên cứu cho thấy tuổi thọ của vũ trụ, cụ thể: trái đất là giới hạn. Một ngày nào đó năng lượng mặt trời cạn kiệt, trái đất cũng không còn sự sống. Hoặc nhiều giả thuyết đưa ra rằng: chiến tranh thế giới thứ 3 với bom nguyên tử có thể hủy hoại hành tinh này. Hoặc tới một ngày, dịch bệnh sẽ hủy diệt loài người trên mặt đất này. Sau cùng nhưng chưa hết, chẳng may một hành tinh nào đó va chạm vào trái đất, đó cũng là ngày tàn của quả địa cầu.

Bạn thân mến,

Trên đây là những nguyên do có thể hiểu được trái đất có ngày kết thúc. Vấn đề là phải chăng ngày đó là lúc Đức Giêsu đến lần thứ hai?

Sau thời gian chờ đợi Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa đã nhập thể nơi Đức Giêsu Kitô. Ngài là Con Thiên Chúa xuống thế, chịu chết, phục sinh và đã về trời. Theo đó, Giáo hội thời các Tông đồ mời gọi các tín hữu hãy tin vào Đức Giêsu. Hơn nữa, Giáo hội còn mời gọi mỗi tín hữu hãy ăn năn, thống hối và sửa đổi đời sống để sẵn sàng cho ngày Chúa lại đến lần thứ hai. Điều này được ghi lại trong bản tuyên xưng Đức Tin từ thời các Tông Đồ: “Và Người sẽ đến để phán xét kẻ sống và kẻ chết.” Đó là ngày quang lâm mà Giáo hội diễn tả việc Chúa Giêsu Kitô ngự đến lần thứ hai trong vinh quang, phán xét nhân loại vào ngày Cánh Chung. (x. Mc 13,24–27, Kinh Tin Kính).

Ngày nay nhiều nhà thần học thường nhắc đến cụm từ: “cánh chung cận kề”. Nhiều người cho rằng sứ điệp của Đức Giêsu và của các tông đồ dường như loan báo về ngày tận thế sắp xảy đến. Thậm chí người ta có cảm tưởng đó cũng chính là trọng tâm lời rao giảng của Đức Giêsu cũng như của Giáo hội sơ khai. Hẳn nhiên nếu xét về mặt thời gian, điều ấy vẫn chưa xảy ra. Hơn 2000 năm đã trôi qua, chúng ta chưa thấy ngày ấy xuất hiện. Bởi thế Rudolf Bultmann[1] có lý khi cho rằng: “Con người tân tiến ngày nay chẳng còn ai tin vào chuyện “tận thế” trong ngày Chúa lại đến để xét xử.”[2]

Nếu ta nói Đức Giêsu lại đến trong vinh quang lần hai, thì vinh quang ấy đã thể hiện ngay biến cố Phục Sinh. Lúc này Ngài không mang thân xác thuộc sự sống tự nhiên. Trên hết Đức Giêsu phục sinh trong bình diện của sự sống mới mẻ, khác biệt và vĩnh viễn. Với Ngài, lúc này lịch sử và thời gian không còn chi phối nữa. Ngài luôn là sự sống và trường cửu. Bởi đó, chỉ có con người mới có ngày cuối cùng, thế giới mới có ngày tận thế.

Trong ý nghĩa tận thế, chúng ta hiểu ngày thế giới vật lý và vũ trụ này sẽ kết thúc. Giáo hội cũng hiểu lịch sử nhân loại hoặc thế giới con người sẽ chấm dứt. Như vậy, tận thế có nghĩa là thế giới con người sẽ có một kết thúc do Thiên Chúa định đặt. Theo lối nhìn của nhà thần học Teilhard de Chardin[3], Thiên Chúa là điểm đầu và là điểm kết của thế giới này. Ngài là Anpha và Ômêga. Ngôi Hai Thiên Chúa đang đưa nhân loại hướng về điểm Ômêga này.

Dù có những thăng trầm, chúng ta cần thừa nhận lịch sử con người phải là tiến về phía trước. Tới một thời điểm nào đó, người ta gọi là ngày tận cùng, tận thế. Chúng ta cũng có thể gọi đó là điểm Ômêga. Từ điểm đó, chính Đức Giêsu đến lần thứ hai để tạo nên một thế giới mới, và điều này cũng đồng nghĩa với sự chấm dứt thế giới cũ. Khi đó là trời mới đất mới. Lúc ấy Người lau sạch mọi nước mắt khỏi mắt họ, không còn chết nữa, không còn khóc lóc, kêu ca, đau khổ nữa, vì vũ trụ cũ đã qua đi. (x. Kh 21,1–4).

Khi chiêm ngắm thế giới vũ trụ, lịch sử con người và thân phận của nó, chúng ta phải thừa nhận: vận mệnh của thế giới không tùy thuộc ở chúng ta mà là trong bàn tay của Thiên Chúa. Chúng ta không làm chủ được thế giới. Con người càng không sống mãi trên mặt đất này. Trên hành trình đó, chính Đức Giêsu đã đến để mở ra con đường cứu độ cho mỗi người. “Ai tin Thiên Chúa sẽ được sống muôn đời.” (Ga 3,7–15). Và Thiên Chúa sẽ đến vào ngày sau hết. Vì thế với niềm hy vọng, chúng ta hạnh phúc chờ đón ngày ấy. Ðó ngày Thiên Chúa đưa “thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Ðức Kitô.” (Eph 1,9–10).

Với tâm thế trên, chắc chúng ta không quá sợ hãi trong ngày tận thế. Giáo hội ngày nay không cho rằng ngày Đức Giêsu đến lần thứ hai là “Ngày thịnh nộ”. Thực vậy, Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI phê bình quan niệm “Ngày thịnh nộ” khi cho rằng: “Ngày đó lại khiến con người có thể chết khiếp ví đau đớn, kinh hoàng, nghĩ đến là rùng mính khiếp sợ. Việc Chúa đến chỉ còn là phán xét, đe dọa mọi người, vì đó là ngày giải quyết mọi công nợ. Lối nhìn như thế rõ ràng đánh mất những gì là cốt yếu nhất của Thiên Chúa tốt lành.”

Trái lại, người tín hữu được mời gọi xin Chúa hãy đến, “Maranatha”. Đó là ngày của niềm vui và vinh thắng, vì Chúa chúng ta lại đến trong vinh quang. Thay vì sợ hãi trong viễn tượng của ngày tận thế, người theo Chúa hẳn sẽ ngỡ ngàng hạnh phúc, vì một lần nữa, Thiên Chúa không bỏ dân Người. Ước sao ai cũng cảm nghiệm được sự bình an và hạnh phúc vì Thiên Chúa luôn đặt tay lên chúng ta và nói: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” (Mc 6,45–52).

Tới đây, hy vọng câu trả lời sáng thêm đôi chút. Để cụ thể, chúng ta thấy có lần các môn đệ cũng hởi Đức Giêsu về thời điểm Thầy khôi phục vương quốc Ítraen. Người đáp: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em.” (Cv 1,6–8).

Thiết tưởng lời nhắn trên đây của Đức Giêsu thật quan trọng để mỗi chúng ta sống hạnh phúc trong hiện tại. Số là chúng tôi từng gặp nhiều người hoang mang về vấn đề ngày tận thế. Cực đoan hơn nữa, họ chẳng muốn làm gì, mà chỉ chờ ngày Chúa đến trong sợ hãi. Mặt khác, trên mạng Internet đang có quá nhiều bài viết về vấn đề này. Hy vọng các bạn trẻ, mỗi giáo dân cẩn trọng hơn với những trang Web có bài liên quan đến chủ đề này. Đó là những nhánh giáo phái chủ trương ngày tận thế đang đến gần. Lồng trong đó, chúng tôi thấy có biết bao thông tin khiến người đọc hoang mang!

Thay vì trả lời ngày tận thế khi nào đến, chúng ta hãy chú tâm vào sứ điệp của Đức Giêsu mời gọi chúng ta dẫn thân cho Nước Thiên Chúa ngay trong hiện tại. Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI giải thích:

“Vì Đức Giêsu hết sức nhấn mạnh đến chữ “bây giờ” nên đối với những ai biết nhìn sâu vào vấn đề, sẽ thấy “thì tương lai” không còn là điều chính yếu nữa. Vì thế, dù chính Đức Giêsu có nghĩ đến tương lai hay đến một Vương Quốc của Thiên Chúa, nhưng ý nghĩa của nó có thể hiểu như lời mời gọi hãy quyết định: phải dấn thân ngay trong hiện tại, ngay bây giờ.”[4]

Xin Thiên Chúa luôn ở cùng bạn và tôi, ở đây và lúc này!

(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 5, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (03.07.2023)

-------------------
[1] Rudolf Karl Bultmann (1884 – 1976) là thần học gia Tin Lành người Đức.
[2] Trích lại trong sách của Đức Tin Kitô Giáo hôm qua và hôm nay.
[3] Pierre Teilhard De Chardin (1881-1955), thụ phong Linh mục Dòng Tên năm 1912, theo học Địa chất và Cổ sinh vật học tại Đại học Sorbonne Paris. Ngài thường du hành nhiều nơi như Mông Cổ, Ấn Độ, Trung Á…để nghiên cứu cổ sinh vật và địa chất.
[4] Joseph Ratzinger, Đức Tin Kitô Giáo hôm qua và hôm nay. Người dịch: Athanasiô Nguyễn Quốc Lâm và Phạm Hồng Lam, 2009, tr. 222

---------------------------------

 

BÀI 92 - THIÊN CHÚA TẠO DỰNG VŨ TRỤ TRONG VỤ NỔ BIG BANG?


Vinh Sơn Vũ Tứ Quyết SJ
10/07/2023
Con nghe mọi người có học nói về vụ nổ Big Bang. Các Cha nhà mình cũng hay nói đến. Trong trường học cũng vậy. Con biết đây được xem là vụ nổ lớn nhất để có vũ trụ ngày hôm nay, mà vụ nổ này là do một cha tìm hiểu ra, vậy con cảm thấy băn khoăn thấy thuyết Big Bang này có đi ngược lại sách Sáng thế không?

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 92: THIÊN CHÚA TẠO DỰNG VŨ TRỤ TRONG VỤ NỔ BIG BANG?

Vinh Sơn Vũ Tứ Quyết SJ

Hỏi: Con nghe mọi người có học nói về vụ nổ Big Bang. Các Cha nhà mình cũng hay nói đến. Trong trường học cũng vậy. Con biết đây được xem là vụ nổ lớn nhất để có vũ trụ ngày hôm nay, mà vụ nổ này là do một cha tìm hiểu ra, vậy con cảm thấy băn khoăn thấy thuyết Big Bang này có đi ngược lại sách Sáng thế không? Chúa tạo dựng trong 6 ngày, ngày thứ 7 nghỉ ngơi đâu có nói đến vụ nổ gì đâu mà sao Cha này lại nói đến? Con không biết thuyết này có đi ngược lại giáo huấn của Giáo hội không? Các Đấng bậc trong Hội Thánh có cái nhìn như thế nào về thuyết nào? Người Công giáo nhà mình có nên chấp nhận thuyết này như là một giải thích cho nguồn gốc của vũ trụ và con người không? Có nhiều người hỏi con nhưng con cũng không biết phải trả lời làm sao! Xin giúp con với ạ, con xin chân thành cảm ơn ạ.

Trả lời:

Bạn thân mến,

Câu hỏi của bạn “rất hay” và cũng “rất phức tạp”. Nên thầy sẽ cố gắng diễn tả một cách ngắn ngọn và đơn giản nhất có thể, để làm vấn đề sáng tỏ ra, chứ không bị tối tăm thêm. Có lẽ cách thích hợp, là thầy sẽ đi theo những lời nói của bạn, để như là cuộc đối thoại ngắn.

Con nghe mọi người có học nói về vụ nổ Big Bang

Đúng thế, trong giới khoa học, giới những người có học, thì thuyết vụ nổ lớn Big Bang đang là lý thuyết có giá trị nhất và thuyết phục nhất để giải thích về nguồn gốc vũ trụ, về sự khởi đầu của vũ trụ. Để hiểu cụ thể hơn, chi tiết hơn, bạn có thể tìm thấy rất nhiều bài viết, video từ kiểu tóm tắt đến trình bày chi tiết, bằng tiếng Việt hoặc tiếng Anh, trên Website hoặc Youtube. Tuy nhiên, có thể tóm tắt ở vài điểm sau. Dựa trên các công trình toán học và các quan sát vật lý thiên văn, người ta khám phá ra rằng, vũ trụ đang giãn nở. Nếu hiểu như thế, thì lùi lại quá khứ, có nghĩa là vũ trụ co lại. Có nghĩa là vũ trụ phải có điểm khởi đầu của không gian và thời gian. Nếu chỉ nói xuông như thế, thì đâu có gì đặc biệt. Điều đặc biệt, là hàng loạt công trình khoa học lớn bậc nhất, lại quy tụ gặp gỡ nhau trong thuyết này, củng cố cho thuyết này. Đương nhiên, có những thuyết khác nữa, nhưng cho đến hiện tại, thuyết Big Bang vẫn chiếm ưu thế hơn tất cả các thuyết còn lại (ví dụ, đa vũ trụ, vũ trụ song song, hoặc thuyết nhiều vụ nổ lớn).

Các Cha nhà mình cũng hay nói đến

Các Cha nói đến, vì thuyết này vừa rất khoa học vừa phù hợp sâu xa với Đức Tin. Rất khoa học, vì thuyết này do các nhà khoa học hàng đầu thế giới đề xuất, và cũng có tính thuyết phục vô cùng lớn. Phần lớn các nhà khoa học (vừa lý thuyết vừa thực hành) này đều là những người có đức tin sâu sắc. Rất phù hợp với Đức Tin, vì Kinh Thánh nói rằng: vũ trụ được Thiên Chúa tạo thành từ hư không.

Trong trường học cũng có nói đến

Trường học nói đến, vì trường học là nơi các học sinh, sinh viên, học viên được học những thành quả chính thức và tốt nhất của toàn thể nhân loại, kho tàng chung của nhân loại. Cho nên, khi học về thiên văn, về vật lý, hoặc khoa học nói chung, không thể không nhắc đến thuyết vụ nổ lớn Big Bang.

Con biết đây được xem là vụ nổ lớn nhất để có vũ trụ ngày hôm nay, mà vụ nổ này là do một cha[1] tìm hiểu ra, vậy con cảm thấy băn khoăn thấy Big Bang này có đi ngược lại sách Sáng thế không? Chúa tạo dựng trong 6 ngày, ngày thứ 7 nghỉ ngơi đâu có nói đến vụ nổ gì đâu mà sao Cha này lại nói đến?

Bạn đang đề cập đến hai điều rất khác nhau. Một bên là sách Sáng Thế được viết cách đây ít là nhiều ngàn năm, với một bên là những khám phá khoa học mới trăm năm nay. Và nếu đẩy mạnh hơn nữa, đó là cuộc đối thoại giữa đức tin “muôn thuở, vĩnh cửu, đời đời, vượt thời gian” với khoa học “với những khám phá mới nhất, trong thời gian”. Để đi vào câu hỏi của bạn, sẽ rất phức tạp, vì câu hỏi ấy có một lịch sử rất dài với vô vàn câu chuyện.

Một cách đơn giản, có thể tóm tắt như thế này. Một người có đức tin sâu xa vào Thiên Chúa của Kinh Thánh (đương nhiên bao gồm sách Sáng Thế) hoàn toàn đồng thời có thể là một nhà khoa học chuyên sâu bậc nhất của nhân loại trong thời điểm hiện tại. Nếu muốn, bạn có thể tìm hiểu về cuộc đời các nhà khoa học lớn nhất trong lịch sử thế giới. Không muốn nói là tất cả, nhưng hầu chắc, phần đông trong số các vị đều là những người Kitô hữu nghiêm túc và đầy lòng đạo sốt sắng.

Kinh Thánh, sách Sáng Thế, là Lời của Thiên Chúa, nhưng được bàn tay con người viết, trong ngôn ngữ con người (tiếng Do Thái), với một vùng đất, dân tộc, nền văn hóa cụ thể, ở một thời điểm lịch sử cụ thể. Cách đây mấy nghìn năm, làm gì có điện, làm gì có radio, tivi, máy chụp ảnh, internet, smartphone, kính thiên văn, tàu vũ trụ… Nên chắc chắn bạn sẽ không thể tìm thấy những điều này trong các trang sách Sáng Thế. 

Con không biết thuyết này có đi ngược lại giáo huấn của Giáo hội không? Các Đấng bậc trong Hội Thánh có cái nhìn như thế nào về thuyết này?

Thuyết này không chỉ không đi ngược, mà còn rất gần với niềm tin trong Kinh Thánh. Và càng tìm hiểu vũ trụ, con người càng khám phá để hiểu thêm về công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Cái nhìn này là rất tích cực. Tuy nhiên, luôn có khoảng cách cần thiết. Vì là lý thuyết khoa học, nên sẽ thuộc địa hạt khoa học. Cho nên, có thể trong tương lai, có thể sẽ có những lý thuyết mới thuyết phục hơn, tốt hơn.

Không nên có cái nhìn khép kín và sợ hãi. Không sợ tìm hiểu sâu xa đức tin, cũng không sợ nghiên cứu sâu xa về khoa học. Bạn có thể đọc một chút về thông điệp Đức Tin và Lý Trí[2] của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, để thấy được vai trò và thế đứng của đức tin và lý trí trong con người và trong dòng lịch sử. Giáo hội là Giáo hội của Chúa để phục vụ Dân Chúa, phục vụ con người. Đương nhiên, giáo huấn của Giáo hội không gì khác ngoài việc diễn giải giáo huấn của Chúa. Và như thế, cùng một Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo vũ trụ, sáng tạo con người, để con người nghiên cứu.

Thiên Chúa cũng là Đấng sai Con của Ngài đến thế gian, và nhờ Con của Ngài mà mọi người được cứu độ, và trong công cuộc cứu độ ấy, các môn đệ của Chúa hợp thành Hội Thánh. Chúng ta gọi đó là công trình sáng tạo và công trình cứu độ. Đấng là Chủ của cả hai công trình ấy, sẽ không thể tự mâu thuẫn. Do đó, càng nghiên cứu sâu xa, đức tin càng thêm sâu sắc. Càng có niềm tin lớn, sẽ càng có các công trình nghiên cứu vĩ đại.

Xin nhắc tới hai gương mặt muốn hoà hợp giữa khoa học và đức tin. Thứ nhất, nhà vật lý học thiên thể Robert Jastrow cho rằng, các bằng chứng thiên văn học có liên hệ rất gần với quan điểm về cội nguồn vũ trụ của Kinh Thánh; chi tiết có thể khác, nhưng những yếu tố cốt lõi và lời lý giải là giống nhau.[3] Thứ hai, nhà hoá-sinh Francis S.Collins nhận định, vụ nổ lớn củng cố cho kết luận: tự nhiên (vũ trụ) có một khởi đầu xác định; không thể hình dung được, bằng cách nào mà tự nhiên (vũ trụ) có thể tạo ra chính nó; phải có một lực lượng siêu nhiên ở bên ngoài vũ trụ và ngoài thời gian mới có thể làm nổi điều đó.[4]

Người Công giáo nhà mình có nên chấp nhận thuyết này như là một giải thích cho nguồn gốc của vũ trụ và con người không?

Như ngay từ đầu đã nói với bạn, có rất nhiều người Công giáo chấp nhận thuyết này. Mà không chỉ là Công giáo, mà cho đến hiện nay, thuyết này vẫn đang là một thuyết có sức thuyết phục nhất. Khi bạn nói “người Công giáo”, thì chúng ta nên cẩn thận một chút, để không “tự tách mình” ra khỏi thế giới. Vì khi nói về các công trình khoa học, các lý thuyết khoa học, thì đều là một phần của kho tàng chung của nhân loại, không phân biệt ai. Còn khi nhấn mạnh “người Công giáo”, có lẽ chúng ta muốn nhấn mạnh đến đức tin gắn liền với Kinh Thánh và với những hướng dẫn của Hội Thánh.

Cũng nên lưu ý, khi đã gọi là một thuyết, thì dù có thuyết phục và có giá trị đến mấy, thì đó cũng là một lý thuyết, chứ không phải là tuyệt đối đúng. Bạn sẽ có thể ngạc nhiên cho rằng, đã đúng thì phải đúng, chứ làm gì có chuyện đúng hơn. Có đó bạn. Có hai ví dụ rất cụ thể.

Ví dụ thứ nhất về thiên văn học

Bạn có thể đã biết ví dụ kinh điển về thuyết địa tâm (thời cổ đại: nói rằng trái đất là trung tâm) và thuyết nhật tâm (thời trung cổ: nói rằng mặt trời là trung tâm). Thời cổ đại và ngay cả Kinh Thánh, và trong cả trong các câu chuyện của người Việt xưa, đều mô tả trái đất là trung tâm (mặt trời mọc, mặt trời lặn…) vì dựa vào kinh nghiệm trực giác, kinh nghiệm đời thường, thấy sao nói thế. Thời trung cổ, người ta khám phá ra mặt trời là trung tâm, chứ không phải trái đất, nhờ vào các định luật toán học và các quan sát thiên văn học, các bài toán vật lý…

Thế nhưng sau này, với các kính thiên văn hiện đại, với các phương pháp hiện đại, các công trình nghiên cứu lớn, người ta khám phá ra rằng: mặt trời chỉ là trung tâm của hệ mặt trời mà thôi. Còn thực tế, có rất nhiều mặt trời, với nhiều hệ khác nhau. Và rồi cả dải ngân hà cũng chỉ là một trong vô số dải khác. Và như thế, mặt trời của chúng ta cũng vô cùng nhỏ bé và nằm ở rìa của vũ trụ… Thời cuộc chiến nảy lửa giữa thuyết nhật tâm và địa tâm cách đây mấy trăm năm, thì hồi đó, con người mới nhìn mặt trăng bằng kính thiên văn bé tí của Galile (như đồ chơi ngày nay). Hiện tại, con người đã đặt chân lên mặt trăng từ lâu, và robot đã đặt chân lên Sao Hỏa.

Ví dụ thứ hai về sinh vật học

Từ lâu nay, các lý thuyết nói về việc hình thành mầm sống đầu tiên trên trái đất, là như thế này: Đó là cần hội tụ các yếu tố về ánh sáng, khí hậu, nhiệt độ, nước, không khí, mưa… rồi có mầm sống hữu cơ… Thế nhưng gần đây, bằng các tầu ngầm nghiên cứu ở đáy đại dương, ở các vết nứt gần như là nham thạch, nơi mà ánh sáng không thể tới, nơi mà nóng cực độ, nơi mà chất độc vô cùng mạnh… thì vẫn có vô vàn sinh vật sống ở đó. Các sinh vật ấy không có mắt, có thể tự thích nghi trong môi trường cực độc ấy, và cũng không cần năng lượng từ ánh sáng mặt trời, mà nhận năng lượng trực tiếp từ trái đất. Và rõ ràng, đây là một hệ thống về dạng sống, hoàn toàn khác và nằm ngoài tất cả những gì mà từ trước tới giờ con người biết.

Có nhiều người hỏi con nhưng con cũng không biết phải trả lời làm sao! Xin giúp con với ạ, con xin chân thành cảm ơn ạ.

Với những câu hỏi lớn và vô cùng phức tạp. Tùy bạn tìm hiểu tới mức độ nào, và tùy người hỏi ở mức độ nào, mà bạn giải thích sao cho phù hợp bao nhiêu có thể.

Cùng về câu hỏi “lúc khởi đầu của vũ trụ” từ quan điểm triết học, từ góc nhìn Kinh Thánh, và từ lối tiếp cận khoa học, bạn có thể đọc thêm bài viết: Vũ Trụ có khởi đầu không?

Phần 1: https://dongten.net/vu-tru-co-khoi-dau-khong-phan-1/

Phần 2: https://dongten.net/the-gioi-co-khoi-dau-khong-phan-2/

Và nếu bạn chưa muốn đọc ngay bài viết khá chuyên đó, thì chỉ phần kết luận cũng tạm đủ để phác họa một số đường nét chính:

Tựu trung, chủ đề “lúc khởi đầu” của vũ trụ vẫn còn là câu hỏi mở cho tới ngày nay. Thánh Augustinô cũng như thánh Tôma Aquinô đã vận dụng tất cả khả năng về triết lý của mình để suy tư, để đối thoại với nền triết học đương thời của các ngài. Về phương diện triết học, các ngài chỉ ra rằng, có thể chấp nhận nhiều câu trả lời khác nhau. Hơn nữa, về phương diện thần học, các ngài đón nhận lối nhìn của Kinh Thánh. Nhờ đó, các ngài vừa truy tìm trong triết lý, vừa dấn thân trong đức tin, mà cả hai vẫn hoà hợp nhau.

Chính thánh Augustinô lưu ý: “Nếu cả hai người đều nói sự thật, thì chân lý bất dịch vượt lên trên trí khôn của họ, và họ không được bài bác tư tưởng của nhau”[5]. Thêm vào đó, trong tình trạng có nhiều ý kiến khác nhau và cũng chân thật cả, thì chính chân lý phải thiết lập sự hoà hợp.[6] Để cẩn thận tránh nhầm lẫn khi dùng đức tin dẫm chân vào lĩnh vực triết học, thánh Thomas cho rằng: điều hữu ích là đừng cả gan chứng minh điều thuộc đức tin bằng những lý lẽ bất tất. Vì nếu làm như thế, sẽ làm cớ cho người ngoại giáo chế diễu, vì họ tưởng rằng, chúng ta dựa vào những lý lẽ đó mà tin nhận những điều thuộc đức tin.[7]

Vâng, những giải pháp khác nhau của chủ đề “lúc khởi đầu” không chỉ xảy ra cho triết học, mà cho cả khoa học hiện đại, như đã đề cập. Bài học lớn mà chúng tôi nhận thấy: dù là triết học, thần học, hay khoa học, thì cái nền căn bản là khiêm tốn kiếm tìm chân lý; vừa tôn trọng lĩnh vực riêng của mình, vừa bổ túc nhau, và đừng “chơi xấu” nhau.

(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 5, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (10.07.2023)

---------
[1] Độc giả có thể đọc thêm về vị linh mục đầu tiên đặt nền móng cho thuyết Big Bang, Georges Lemaître: https://en.wikipedia.org/wiki/Georges_Lema%C3%AEtre
[2] http://catechesis.net/thong-diep-fides-et-ratio-duc-tin-va-ly-tri-cua-dgh-gioan-phaolo-ii-ngay-14-09-1998-1/
[3] X. Francis S.Collins, Ngôn ngữ của Chúa (The Language of God), Lê Thị Thanh Thuỷ dịch, (Nxb Lao Động, Hà Nội, 2007), tr. 88.
[4] X. Francis S.Collins, Ngôn ngữ của Chúa, tr. 91.
[5] X. Thánh Augustine, Tự Thuật, Quyển XII, Đoạn XXVI, (Nxb Tôn Giáo, 2007), tr. 759-760.
[6] X. Thánh Augustine, Tự Thuật, Quyển XII, Đoạn XXX, tr. 770.
[7] X. Thánh Thomas Aquino, Tổng luận Thần học, (Thiên Chúa Tạo Thành và các thiên thần, Phần I, vấn đề 44-64); phiên dịch và dẫn nhập: Joachim Nguyễn Văn Liêm, O.P. và một số cộng tác viên; (Tu viện thánh Alberto Cả, Tp. HCM, 2001), tr. 111.

---------------------------------

 

BÀI 93 - KHỦNG HOẢNG ĐỨC TIN CÓ TỘI CHĂNG?


Nt. Thùy Trang, DHM
17/07/2023
Hỏi: Con không hiểu sao có đôi lúc trong tâm trí con lại có những ý tưởng không tin vào Thiên Chúa. Có khi con nghĩ Thiên Chúa chẳng tồn tại, đó chỉ là sản phẩm của con người. Nhiều lần như vậy, nhưng con bối rối không biết có nên xưng những tội đó không?

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 93: KHỦNG HOẢNG ĐỨC TIN CÓ TỘI CHĂNG?

Thùy Trang, DHM

Hỏi: Con không hiểu sao có đôi lúc trong tâm trí con lại có những ý tưởng không tin vào Thiên Chúa. Có khi con nghĩ Thiên Chúa chẳng tồn tại, đó chỉ là sản phẩm của con người. Nhiều lần như vậy, nhưng con bối rối không biết có nên xưng những tội đó không?

Trả lời:

Cám ơn bạn đã rất thật lòng khi bộc lộ confession của bạn. Thật không dễ gì để tự thú rằng mình đang có vấn đề gì đó về đức tin!

Bạn đề cập đến ý nghĩ về sự tồn tại của Thiên Chúa và tâm trí không tin vào Thiên Chúa. Mình sẽ dựa vào hai điểm này để trả lời bạn nhé.

Ý nghĩ về sự tồn tại của Thiên Chúa

Xét về mặt con người, chúng ta bắt đầu tin nhờ nhận biết bằng lý trí. Tôi tiếp xúc, khám phá, hiểu và bắt đầu tin. Khi quan sát trật tự trời đất, sự kỳ diệu trong cấu trúc vĩ mô và vi mô, sự kỳ diệu nơi loài người… con người bắt đầu đặt một câu hỏi rất lớn về nguồn gốc và cùng đích của mọi sự mọi loài. Triết học đẩy con người suy tư tận cùng phận người và thấy rằng người ta không thể xây dựng một xã hội an thịnh, nếu không dựa trên một “vị thần” đủ khả năng bảo đảm cho họ về ý nghĩa sống. Kinh nghiệm đó kết tụ lại bằng niềm tin rằng có Ông Trời, có thưởng phạt.

Tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa

Nối liền với dòng mặc khải[1] của Do thái giáo, Kitô giáo nhận biết một Thiên Chúa Duy nhất, Đấng Sáng tạo và yêu thương. Giáo hội Công giáo đã đúc kết niềm tin của mình trong Kinh Tin Kính các Tông Đồ; và được diễn giải trong Kinh Tin Kính công đồng Nicea-Constantinopoli. Các kinh này được gọi là tín biểu – Danh sách những điều phải tin.

Lý trí con người tìm được chỗ dựa để quy chiếu và để xác tín điều mình tin nơi các tín biểu. Tuy nhiên, những mầu nhiệm họ tuyên xưng thường vượt quá khả năng phân tích của lý trí con người. Do vậy, tin được những điều mình tuyên xưng là nhờ ơn Chúa ban. Về mặt con người, chúng ta cần tin cùng nhau. Đức tin của tập thể, của cha ông giúp nâng đỡ đức tin mỗi cá nhân.

Lung lay… để trưởng thành đức tin!

Tương tự với quá trình lớn lên về thể lý và trưởng thành tâm lý, đức tin cũng cần thời gian và sự huấn luyện để trưởng thành. Có nhiều mức độ sống đức tin. Đức tin trẻ con khi ta tuân giữ luật vì sợ, mặc cả, đổi trác với Chúa, sợ bị Chúa phạt. Đức tin thiếu niên khi ta tin vì những điều trong đạo phù hợp với logic, chú tâm vào kiến thức về Thiên Chúa. Đức tin trưởng thành khi ta hiểu và tin yêu Chúa, dám phó thác đời mình trong tay Ngài, gắn bó với Chúa. Đức tin này vượt trên kiến thức, nhưng lại không mù quáng. Nó là kết quả của một hành trình đi với Thiên Chúa ngang qua chính câu chuyện đời mình hơn là do học hành và nghiên cứu.

Tâm lý một người được trưởng thành khi cá nhân đó biết tự đánh giá các giá trị được truyền dạy, và tự nguyện sống theo. Đây gọi là quá trình nội tâm hóa các giá trị. Điều này thường được diễn ra trong tuổi teen. Tương tự với đức tin, sẽ có lúc nào đó bạn “đặt vấn đề” cho những điều bạn được dạy và những thực hành trong đạo. Bạn tự gợi lên nhiều điều liên quan đến niềm tin vào Chúa, và thấy mình hoài nghi nhiều điều.

Khủng hoảng đức tin lên tới đỉnh điểm và kéo dài là điều được các thánh gọi là “đêm tối đức tin”. Họ trung kiên giữ đức tin vào Thiên Chúa, dù cảm thấy Thiên Chúa “vắng bóng” và lý trí đang chống lại điều họ tin.

Đây là những cơ hội huấn luyện quan trọng để xác tín đức tin. Vậy sao lại có thể xem là một tội? Chúng cần thiết để giúp bạn chuyển đức tin cộng đồng thành đức tin cá nhân: Tôi tin.

Chối bỏ đức tin vào Thiên Chúa

Bội tín là khi một người biết Thiên Chúa và những điều Ngài dạy, với lý trí, ý chí và tự do, người đó tuyên bố chối bỏ đức tin vào Thiên Chúa cách công khai hoặc âm thầm. Đây là lúc “tâm trí” người đó hoàn toàn không tin yêu Thiên Chúa nữa, và cũng không còn tin vào Giáo hội. Một người trở nên lạc giáo khi chối bỏ tín điều đã được Giáo hội công bố. Gọi là ly giáo hay bội giáo khi một người rời bỏ Giáo hội Công giáo để thành lập một Giáo hội khác.

Bội tín, lạc giáo, bội giáo / ly giáo mới là tội. Khi họ sám hối trở về, họ sẽ tuyên xưng đức tin theo công thức[2] để giúp họ công khai tuyên xưng lại đức tin của mình.

Để kết…

Truyền thống Do Thái Giáo dạy chúng ta tiếp cận Thiên Chúa như một huyền nhiệm. Con người không thể “đặt tên” hay gọi tên Thiên Chúa như một đối tượng có thể nắm bắt và hiểu được. Tên của Ngài được viết bằng bốn phụ âm là YHWH[3]. Thú vị là danh xưng ấy, chữ ấy là tên cực trọng nên người Do Thái không được phép phát âm, nhưng bạn có thể tạo thành hơi hít vào và thở ra.

Vâng, Thiên Chúa là Đấng chúng ta không thể chiếm hữu, không thể nắm bắt, nhưng Ngài luôn sẵn có đó và bạn luôn có thể tiếp cận như không khí sẵn có trong bạn và ngoài bạn để nâng đỡ sự sống. Dù bạn có ý thức, có tin kính hay hững hờ, Ngài vẫn luôn có đó cho bạn. Cầu nguyện chiêm niệm sẽ giúp bạn xác tín vào một Thiên Chúa yêu thương, hơn là dùng lý trí con người để phân tích Ngài.

Nguyện chúc bạn được kết thân với Thiên Chúa sau những khủng hoảng đức tin của riêng mình.

(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 5, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (17.07.2023)

----------
[1] Chính Thiên Chúa tỏ lộ cho con người được biết.
[2] Tôi, …, với đức tin kiên vững, tôi tin và tuyên xưng tất cả và từng chân lý trong Kinh Tin Kính. Tôi cũng tin vững vàng mọi chân lý trong Lời Thiên Chúa được viết ra hay truyền đạt, mà Giáo hội, bằng phán quyết long trọng hoặc bằng giáo huấn thông thường và phổ quát, dạy phải tin như là do Thiên Chúa mạc khải.
Tôi cũng chấp nhận và tuân giữ vững chắc mọi điều và từng điều liên quan đến giáo lý về đức tin và luân lý mà Giáo hội đã xác quyết. Hơn nữa, với lòng vâng phục tôn kính của ý chí và trí khôn, tôi trung thành với những giáo huấn do Ðức Giáo Hoàng hoặc Giám Mục Ðoàn trình bày, khi các ngài thi hành huấn quyền chính thức, cho dù không có ý công bố những giáo huấn ấy bằng một hành vi xác định.
[3] Người Do Thái dùng từ khác để gọi tên của Đức Chúa: Adonai, nghĩa là “Chúa tôi”

---------------------------------

 

BÀI 94 - ĐỨC TIN HAY MÊ TÍN


Nt. Thiên Di, CND - CSA
24/07/2023
Hỏi: Con tin có Thiên Chúa, nhưng thỉnh thoảng trong suy nghĩ lại nghĩ đó là mê tín. Vả lại nhiều người không cùng tôn giáo cũng cho là những người tin theo Chúa quả là mê tín. Xin giúp con trong vấn nạn này?

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 94: ĐỨC TIN HAY MÊ TÍN

Thiên Di CND - CSA

Hỏi: Con tin có Thiên Chúa, nhưng thỉnh thoảng trong suy nghĩ lại nghĩ đó là mê tín. Vả lại nhiều người không cùng tôn giáo cũng cho là những người tin theo Chúa quả là mê tín. Xin giúp con trong vấn nạn này?

Trả lời:

Bạn thân mến,

Để bắt đầu trả lời câu hỏi của bạn, chúng ta cùng đi tìm những định nghĩa về mê tín là gì, đức tin là gì? Rồi từ đó có những hướng giúp cho niềm tin của mình thêm vững mạnh trước những thách đố mà bạn đặt ra nhé.

Vậy mê tín là gì? Theo Wikipedia tiếng Việt: “Mê tín dị đoan là tin vào những điều mơ hồ, nhảm nhí, không phù hợp với lẽ tự nhiên (như tin vào bói toán, chữa bệnh bằng phù phép, đi thi cúng vái, không ăn chuối,...) dẫn tới hậu quả xấu cho cá nhân, gia đình và cộng đồng. Mê tín dị đoan bao gồm những hành vi ông đồng, bà cốt, tin xin xăm bói quẻ, tin ngày lành tháng dữ, tin số mạng sang hèn. Vì vậy, cần phải đấu tranh chống mê tín dị đoan.”

Còn từ điển Công giáo Việt Nam định nghĩa rằng: “Mê tín là thờ phượng một cách lệch lạc hay bất kính hoặc dành cho tạo vật một sự tôn thờ chỉ có Thiên Chúa đáng được tôn thờ. Thờ phượng Thiên Chúa theo xu hướng thích ma thuật. Tôn thờ tạo vật như Thiên Chúa có thể dưới hình thức sùng bái ngẫu tượng, bói toán hay phù phép.”

Còn đức tin là gì? Theo Wikipedia: “Đức tin là niềm tin hoặc tin tưởng vào một người, sự vật hoặc khái niệm. Những người theo tôn giáo thường nghĩ về đức tin là sự tự tin vào ai đó dựa trên mức độ nhận thức của sự bảo đảm. Trong khi những người khác nghi ngờ tôn giáo có xu hướng nghĩ rằng đức tin chỉ đơn giản là niềm tin mà không có bằng chứng.”

Còn theo Giáo lý Hội Thánh Công giáo (GLHTCG) ta có thể tóm lược về đức tin: Đức tin là nhân đức siêu nhiên, là hồng ân Thiên Chúa ban giúp ta vững lòng tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa mà chấp nhận những điều Chúa dạy và nhờ Hội Thánh truyền lại cho ta.


Với niềm xác tin chúng ta biết rằng: Đức tin không phải ai cũng có, mà nó là ân ban của Thiên Chúa dành cho những người mà Ngài muốn. Bạn nói “con tin có Chúa”, đó là một tuyên xưng tuyệt vời không phải ai cũng nói được. Với những định nghĩa trên bạn có thể nhận thấy bạn đang sống đức tin ở mức độ nào của niềm tin hay đang đi lệch hướng, tin một cách méo mó so với những gì mình tuyên xưng…

Có thật là có Thiên Chúa?

Đó là một câu hỏi vẫn làm người ta tốn không ít giấy mực, phí tổn nhiều công sức. Nhìn vũ trụ tuyệt đẹp với muôn vật, muôn loại, đủ muôn loại sắc hương... người ta tự hỏi ai là chủ nhân của vũ trụ này? Người vô tín trả lời: “Đây là nhà vô chủ. Nó tự nhiên mà có, không ai tạo thành cả!” Vậy để có một ngôi nhà, người ta phải làm gì? Có phải có một đống gạch rồi tự nhiên sẽ hóa thành nhà thành lâu đài theo ý mình ư? Một đống gạch để đó thì trăm năm vẫn là gạch. Nếu như không có những bàn tay khéo léo, cùng công sức của người thợ thuyền bỏ ra thì mãi mãi gạch vẫn là gạch chưa kể đến sự hao mòn, phân hủy của chúng theo thời gian. 

Bạn có thể khám phá hệ mặt trời của chúng ta trên các trang Web, Youtube. Hệ mặt trời gồm có một mặt trời ở trung tâm và có 8 hành tinh quay chung quanh theo thứ tự từ gần đến xa. Trong đó có trái đất của chúng ta. 8 hành tinh đều nằm trên cùng một mặt phẳng với mặt trời và đều quay quanh mặt trời theo một quỹ đạo nhất định, với một vận tốc không thay đổi. Từ hàng triệu triệu năm qua không bao giờ đi chệch ra khỏi quỹ đạo, không nhanh hơn và chậm hơn dù chỉ một vài giây!

Cách đây nhiều năm, Isaac Newton (1643-1727), một nhà vật lý, triết gia, nhà toán học nổi tiếng đã tạo ra một mô hình thu nhỏ của hệ mặt trời trong phòng làm việc của ông. Nhờ hệ thống răng cưa nối kết những quả cầu với nhau. Khi dùng tay quay cần quay thì 8 quả cầu nhỏ xoay quanh quả cầu lớn (mặt trời) cách đều đặn. Mô hình như một hệ mặt trời thu nhỏ đang vận hành nhịp nhàng ngay trong phòng của ông. 

Khi Newton đang khảo sát bộ máy thì có một người bạn vốn là người không tin có Thiên Chúa là Đấng tạo dựng vũ trụ, người này đến thăm Newton. Ông ta kinh ngạc trước bộ máy đang vận hành rất nhịp nhàng, chính xác, ông ta thốt lên: “Ồ Newton, thật tuyệt vời! Ai đã tạo nên cho bạn một bộ máy diệu kỳ này vậy?”

Nhà khoa học đáp: “Không ai cả, nó tự có trong phòng tôi đó chứ!”

Người bạn đáp: “Ông cứ đùa, nếu vậy thì thật phi lý! Phải có người tạo ra chúng chứ?…”

Nhà khoa học Newton nhìn ông và đáp: “Càng vô lý hơn khi bạn cho rằng trái đất và vũ trụ bao la này tự nhiên mà có”. Sau này Newton tuyên bố: “Điều ta biết được chỉ là một giọt nước, điều ta chưa biết là cả một đại dương bao la. Những xếp đặt hài hòa của vũ trụ chỉ có thể xuất phát từ bản vẽ của một Đấng toàn năng và toàn tri.”

Có người đã từng tuyên bố khoa học càng phát triển thì dương như niềm tin vào Thiên Chúa đang bị lu mờ, vì khoa học đã soi cho nhân loại thấy chẳng có Thiên Chúa nào cả. Nhưng kỳ thực ngược lại, con người càng khám phá ra sự kỳ diệu của vũ trụ thì hình ảnh của Thiên Chúa lại được sáng tỏ: nhà hóa học lừng danh Justus von Liebig (1803–1873) đã tuyên bố:“Sự vĩ đại và trí khôn vô tận của Đấng Tạo Hóa sẽ chỉ được nhận thấy bởi những người cố công rút ra những ý tưởng của mình từ cuốn sách vĩ đại mà chúng ta gọi là thiên nhiên”.

Khi những cố gắng của con người tìm ra nguồn gốc của chính mình thì con người ngày càng thấy khoa học và tôn giáo không thể tách rời: “Tôi có thể khẳng định việc từ chối đức tin là thiếu nền tảng khoa học. Theo quan điểm của tôi, không có bất kỳ sự mâu thuẫn nào giữa đức tin và khoa học.”- Robert Millikan (1868–1953), nhà vật lý Hoa Kỳ, giải Nobel 1923 khẳng định.

Còn Charles Darwin (1809–1882), trong thuyết tiến hóa ông cũng tuyên bố: “Tôi không bao giờ từ chối sự hiện hữu của Thiên Chúa. Tôi nghĩ thuyết tiến hóa phù hợp với niềm tin vào Thiên Chúa. Tôi cho rằng bằng chứng mạnh mẽ nhất về sự hiện hữu của Thiên Chúa đó là ta không thể giải thích hay hiểu được vũ trụ mênh mông vượt xa mọi phép tính toán và không thể giải thích được rằng con người là kết quả của ngẫu nhiên.”

Đức Giêsu có phải là Thiên Chúa không?

Trong niềm tin, chúng ta tuyên xưng: “Tôi tin Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, Công giáo và Tông truyền”. Tông truyền được hiểu là chúng ta tin vào chính  những điều các Tông đồ loan báo (truyền lại). Chính Đức Giêsu đã gọi đích danh các ngài, để các ngài ở với Người và Người sai các ngài đi rao giảng. Các tông đồ đã làm chứng về một Đức Giêsu - Con Một Thiên Chúa đã xuống thế làm Người, Người đã chữa lành những vết thương của nhân loại bằng chính lòng xót thương của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã đến “cắm lều giữa chúng ta” để mạc khải cho loài người biết về Thiên Chúa và về tình yêu của Ngài dành cho con người. Nhưng có lẽ, sự kiện này vượt quá trí tưởng của con người nên: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). Và cũng bắt đầu từ đó, những nghi ngờ, chống đối nối tiếp nhau chống lại Đấng chính là Thiên Chúa.

Dọc theo chiều dài lịch sử của Giáo hội đã có rất rất nhiều cuộc bách hại khắp nơi để ngăn cản những người tuyên xưng Danh Đức Giêsu. Máu các anh hùng tử đạo khắp nơi vẫn chảy đã thấm đẫm sự đau thương của người tín hữu, điều gì đã khiến đức tin của họ vẫn mạnh mẽ trước những bắt bớ, tra tấn, ngục tù dã man như vậy: “Dù trăng trói, gông cùm tù rạc; chén ngục hình xiềng tỏa chi nề; miễn vui lòng cam chịu một bề; cho trọn đạo trung thần hiếu tử” (thánh Phêrô Quý) - Thánh tử đạo Việt Nam. Chính Sự Thật về tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại đã trở thành đức can trường dũng cảm cho người người nối tiếp nhau tuyên xưng Danh Chúa. Quyết tâm bảo vệ niềm tin của cha ông của chính họ cho dù có phải đầu rơi máu chảy.

Sau khi Đức Giêsu Phục Sinh, các Tông đồ thời sơ khai bị quan quyền lùng bắt bách hại khắp nơi vì đã loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Thời đó có một người Pharisêu tên là Gamaliên đứng lên nói giữa thượng Hội đồng khi các tông đồ đang bị bắt tù vì Danh Đức Giêsu; ông là một kinh sư được toàn dân kính trọng, ông nói: "Thưa quý vị là người Ítraen, xin quý vị coi chừng điều quý vị sắp làm cho những người này. Thời gian trước đây, có Thêuđa nổi lên, xưng mình là một nhân vật và kết nạp được khoảng bốn trăm người; ông ta đã bị giết, và mọi kẻ theo ông cũng tan rã, không còn gì hết. Sau ông, có Giuđa người Galilê nổi lên vào thời kiểm tra dân số, và lôi cuốn dân đi với mình; cả ông này cũng bị diệt, và tất cả những người theo ông ta đều bị tan tác. Vậy giờ đây, tôi xin nói với quý vị: hãy để mặc những người này. Cứ cho họ về, vì nếu ý định hay công việc này là do người phàm, tất sẽ bị phá huỷ; còn nếu quả thật là do Thiên Chúa, thì quý vị không thể nào phá huỷ được; không khéo quý vị lại thành những kẻ chống Thiên Chúa" (CV 5,34-39). Họ tán thành ý kiến của ông. Và hơn 2000 năm qua Giáo hội của Ngài vẫn trường tồn và không ngừng lớn mạnh, lan rộng khắp nơi vì đó là ý định của Thiên Chúa.

Niềm tin của bạn của tôi của những người tin vào Đức Giêsu không hề mơ hồ, nó đã được chứng thực qua Tin Mừng của Ngài (Lời Chúa), qua chứng tá của các Tông đồ, qua chính cái chết của các anh hùng tử vì đạo khắp nơi. Sự kiện Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết chứng tỏ cho chúng ta thấy Ngài không phải là người phàm nhưng đích thực là Con Thiên Chúa làm Người. Ngài đã đập tan quyền lực của sự chết, sự khống chế của tội lỗi để cứu độ chúng ta. “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em thật hão huyền” (1 Cr15,17).

Bạn thân mến,

Đức Kitô đang sống và hoạt động trong lòng Giáo hội, Người hiện diện trong cuộc đời của mỗi chúng ta Ngài nói: “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy… Anh em hãy yêu thương nhau như thầy yêu thương anh em” (Ga 15,12). Lệnh truyền của Ngài chỉ là “hãy yêu thương nhau”, qua nghĩa cử yêu thương, việc tử tế bạn dành cho tha nhân là Thiên Chúa đã hiện diện trong chính bạn. Ngài hứa “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20), chúng ta không hề đơn độc trong đức tin của mình. Điều bạn tin không phải là mê tín, có điều chúng ta đang thiếu lửa của đức tin. Các Tông đồ đã xin Đức Giêsu: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc17,5). Vậy chúng ta cũng hãy xin Chúa tăng thêm đức tin cho mình để ta thêm vững tin.

Bên cạnh đó tôi xin chia sẻ cho bạn một vài chỉ dẫn về bổn phận của người có đức tin nhờ vậy bạn an vững vượt qua những khó khăn bạn gặp phải.

- Hãy luôn có tâm tình tạ ơn: Chúa vì Ngài đã ban ơn đức tin cho bạn.

- Để bảo vệ đức tin của mình: trước những bối cảnh hoài nghi, hoang mang, khủng hoảng, bạn cần bình tĩnh, thinh lặng cầu nguyện, chia sẻ với quý cha, quý sơ mà bạn tin cậy, xin Chúa soi sáng hướng dẫn cho mình. Rất cần tránh những ảnh hưởng sai lạc (những nhóm lạc giáo) có thể làm lung lay dẫn đến mất đức tin. Tuyệt đối không nên đọc những sách báo nguy hại cho đức tin. Bạn thử đọc Kinh Thánh, những sách đạo đức, sách Giáo lý Công giáo, những sách đã được Giáo hội công nhận. Luôn bênh vực đức tin không mặc cảm khi bị chế diễu, phỉ báng.

- Nuôi dưỡng đức tin: bằng việc tham dự Thánh lễ, rước Mình Thánh Chúa, học hỏi giáo lý, đọc Lời Chúa, cầu nguyện suy niệm Lời Chúa, lãnh nhận các Bí tích...

- Làm chứng cho đức tin: Bằng chứng tá yêu thương tha nhân qua lời nói, hành động tử tế. Tự tin khi xưng mình là Kitô hữu nơi công cộng (làm dấu trước bữa ăn, tạ ơn Chúa khi thấy niềm vui may lành, làm dấu cầu nguyện trước những cuộc thi, biến cố…).

- Loan truyền đức tin: Tham gia một vài hội đoàn trong giáo xứ (ca đoàn, Giáo lý viên), ủng hộ công việc truyền giáo qua việc chia sẻ giúp đỡ người nghèo, những vùng truyền giáo xa xôi. Cầu nguyện cho những người mất đức tin hoặc chưa có đức tin, đọc kinh cầu nguyện cho người đã qua đời.

(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 5, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)
WHĐ (24.07.2023)

---------------------------------

 

BÀI 95 - THỜI ĐẠI 5G MÀ CÒN CẦU NGUYỆN À?


Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế SJ
01/08/2023
Con nghe nói cầu nguyện là đến gặp gỡ Thiên Chúa. Với con điều ấy khó khăn vô cùng. Là người trẻ luôn bận rộn: điện thoại, mạng xã hội, việc làm, cà phê, lễ hội, v.v. làm sao có thể để tâm đến việc gặp gỡ Thiên Chúa?

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 95: THỜI ĐẠI 5G MÀ CÒN CẦU NGUYỆN À?

Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế SJ

Hỏi: Con nghe nói cầu nguyện là đến gặp gỡ Thiên Chúa. Với con điều ấy khó khăn vô cùng. Là người trẻ luôn bận rộn: điện thoại, mạng xã hội, việc làm, cà phê, lễ hội, v.v. làm sao có thể để tâm đến việc gặp gỡ Thiên Chúa?

Trả lời:

“Thời đại 5G mà còn cầu nguyện à? Bạn mà cầu nguyện là bạn đang lãng phí thời gian đó”.Một số bạn trẻ suy nghĩ như vậy! Bạn có đồng ý với suy nghĩ đó không?

Là người Công giáo, bạn nghĩ gì về cầu nguyện? Cầu nguyện quan trọng như thế nào đối với bạn? Cầu nguyện là tâm sự với Thiên Chúa. Khi cầu nguyện, chúng ta bước ra khỏi cuộc độc thoại với chính mình, để bước vào cuộc đối thoại với Thiên Chúa, Đấng là trung tâm điểm của cuộc sống.

Khi đón nhận bí tích rửa tội, chúng ta được rửa trong Ba Ngôi Thiên Chúa, nghĩa là chúng ta được đưa vào sống trong mái nhà của Thiên Chúa Ba Ngôi. Để ý chúng ta sẽ nhận ra sự sống động của tương quan cao cả nhưng rất dễ thương này: làm dấu tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi mỗi lần vào nhà thờ, mỗi lần bắt đầu bữa cơm và kết thúc bữa cơm, mỗi lần đi máy bay và hơi sờ sợ…

Như thế, với dấu Thánh Giá người Công giáo luôn sống gần gũi và thân tình với Thiên Chúa Ba Ngôi. Đời sống như vậy còn được gọi là đời sống cầu nguyện liên lỉ. Trong cầu nguyện và kết hiệp với Thiên Chúa, cuộc sống sẽ khác đi, bình an và niềm vui bên Chúa luôn ở bên, dù chúng ta có phải bơi vào trong những “nhánh sông” nhiều hiểm nguy và nhơ bẩn.

Thiên Chúa giàu lòng xót thương không bao giờ bỏ rơi chúng ta, như lời Thánh Vịnh nói: “Lạy Chúa, ngày con kêu cứu, Chúa đã thương đáp lại” (Tv 138,3). Người sẽ mở đôi tay giàu lòng xót thương và quyền năng để cứu thoát chúng ta: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11,9).

Có người phụ nữ trẻ mới lập gia đình, đã trải nghiệm việc cầu nguyện, dù lúc đó chị chưa là người Kitô hữu. Truyện kể rằng, trong tình yêu thương vợ chồng, chị được hồng phúc đón nhận một bào thai đầu tiên. Người vợ trẻ vui mừng khôn siết và chuẩn bị lo cho bào thai được lớn lên tốt đẹp. Nhưng không may, người chồng lại nghi ngờ vợ, và đặt vấn nạn về chiếc bào thai này. Chị giải thích nhiều lần, nhưng sự nghi ngờ kia không hết mà mỗi ngày lại lớn hơn. Chị đau buồn và ngày càng thất vọng. Tư tưởng “giữ lại bào thai này hay sẽ phá nó đi” loanh quanh luẩn quẩn trong đầu chị. Mỗi ngày từ hãng xưởng về nhà, nỗi buồn và tư tưởng kia lại chạy đến với chị. Trên con đường từ hãng xưởng về nhà, chị đi qua một nhà thờ. Tâm sự cùng ai và ai có thể hiểu được nỗi lòng của chị đây?

Một lần chị dừng bước trước hàng rào nhà thờ. Ngó vào và chị thấy tượng một người phụ nữ đang bế một Hài Nhi trên tay. Người Công giáo thường nói đó là Đức Mẹ và chị chỉ biết vậy. Hôm nay với “cái biết” nhỏ bé đó, chị bỗng chợt thốt lên những lời tâm sự với Đức Mẹ mà chị chưa bao giờ quen biết. Lần tâm sự đầu tiên đó là một trải lòng thấm thía với những hàng nước mắt trào dâng. Hoa quả của lần tâm sự đó là sự an ủi sâu xa trong tâm hồn. Từ đó, mỗi ngày trên đường từ hãng về nhà, chị lại dành thời gian cho “cuộc hẹn dễ thương” này. Cuối cùng, chị đã được thúc đẩy gìn giữ thai nhi trong bụng. Sau khi sinh em ra, chị đã tri ân cảm tạ người phụ nữ kia. Nhưng tương quan đó đâu dừng lại. Vời thời gian trôi đi, chị đã tìm hiểu, học đạo và cùng với đứa con của mình, chị đã được đón nhận bí tích Rửa Tội.

Người Kitô hữu là người không bao giờ buông bỏ lòng trông cậy vào Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương. Tin tưởng và luôn cầu nguyện với lòng thương xót của Thiên Chúa là bản chất chính yếu của người Kitô hữu.

Tác phẩm “Chuyện người hành hương” kể lại kinh nghiệm của một người lữ hành. Trên cả hành trình anh luôn miệng thốt lên lời cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin thương xót con”. Anh đã chia sẻ như sau: “Mỗi nhịp đập bình thường của trái tim con như thể đang bắt đầu đập với từng tiếng từng lời của lời cầu nguyện ấy… Con không còn đọc lời đó trên môi nữa. Con chỉ còn biết chăm chú lắng nghe cõi lòng con đang nói”.

“Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin thương xót con”. Phúc thay những ai trung kiên bám chặt vào lòng thương xót của Thiên Chúa, dù dòng chảy của khúc sông cuộc đời có mạnh mẽ và có nhiều cơn xoáy đang manh nha cuốn mất chúng ta. Thiên Chúa không bao giờ quên chúng ta và Người không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Thánh Biển Đức đã nhắc nhớ: “Anh em đừng bao giờ tuyệt vọng về lòng thương xót của Thiên Chúa” .

Sống trong lòng thương xót và trong sự hiện diện gần gũi với Thiên Chúa, người Kitô hữu còn học biết “gạn đục khơi trong” cho đời sống.

“Nếu là một chậu nước đục, ta cứ để yên dưới sức nóng của mặt trời một thời gian, thì những cặn bã sẽ lắng xuống đáy chậu và phần trên sẽ là nước trong. Đời sống Kitô hữu của bạn cũng tương tợ như thế: nó sẽ được gạn lọc trong lành dần dần trong sự cầu nguyện và dưới cái nhìn của Thiên Chúa. Nếu bạn trung thành sống dưới ánh sáng Phúc âm thì những khuynh hướng đã đâm rễ sâu trong con tim bạn sẽ được rọi chiếu và bạn nhận diện được chướng ngại vật cản trở tác động của Thiên Chúa ở trong bạn”. Lời trên giúp cho chúng ta nhận ra được ý nghĩa tiếp theo của việc cầu nguyện. Đó là “gạn đục khơi trong”.

Truyện Kiều có câu: “Thân tàn, gạn đục khơi trong. Là nhờ quân tử khác lòng người ta.” Gạn đục khơi trong là một hành động đầy ý thức và khôn ngoan, nghĩa là người biết gạn đục khơi trong là người biết chọn lọc, để loại bỏ hết cái không hay, cái xấu, và chỉ giữ lại và phát huy cái hay, cái tốt, cái tinh hoa giúp thăng tiến cuộc sống làm người. Có thể nói rằng: Gạn đục khơi trong là hành động của phân định thiêng liêng, mà thánh Inhã thành Loyola đã chú ý đến.

Mỗi người đều phải bươn chải trong cuộc đời, phải vật lộn với biết bao cơn sóng, đôi khi phải bơi vào cả những nơi mà nguồn nước bị ô uế bởi biết bao nhiêu thứ rác rưởi. Làm sao vẫn giữ được căn tính Kitô hữu trong “khúc sông” nhơ bẩn đây? “Gạn đục khơi trong” chính là điều mà người Kitô hữu cần có. Nhưng làm sao để có thể có được khả năng này? Cầu nguyện và cầu nguyện. Trong cầu nguyện chúng ta trình bày với Chúa về hoàn cảnh chúng ta đang gặp phải “ở giữa khúc sông nhơ bẩn”, tâm sự với Người về những “thứ rác rưởi nào đang trôi và đang bám vào chúng ta”, và có nguy cơ chúng làm cho chúng ta phải “mang bệnh”, phải chịu ảnh hưởng bởi những mùi hôi thối của chúng. Chúng ta hỏi Chúa xem, phải làm gì hay có thái độ nào đối với hoàn cảnh và với những điều tiêu cực đang vây quanh chúng ta. Thiên Chúa chắc chắn sẽ vui mừng khi Người được chúng ta tâm sự, khi chúng ta mời Người vào hành trình “gạn đục khơi trong” này.

Ai càng biết “gạn đục khơi trong”, người đó càng vui sống trong an bình.

Ai càng ý thức “lãng phí thời gian cho cầu nguyện”, người đó luôn có được “cái phao” cần thiết cho cuộc sống, giúp cho người đó vượt qua được những “nhánh sông nguy hiểm và nhơ bẩn”.

Hơn hết, cầu nguyện chính là khoảnh khắc tuyệt vời nhất cho đời sống làm người, vì trong cầu nguyện, chúng ta được sống trong tương quan thân yêu và gần gũi với Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên chúng ta và Đấng luôn đồng hành cùng chúng ta trên hành trình cuộc đời này.

Cuối cùng chúng ta ý thức rằng: “Dù thời đại 5G hay thời đại nào đi nữa, cầu nguyện luôn là điều rất quan trọng và nền tảng. Ai khôn ngoan ‘lãng phí’ cho việc cầu nguyện, người đó không bao giờ lỗi thời”.

(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 5, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)
WHĐ (01.08.2023)

---------------------------------

 

BÀI 96 - GIÁO HỘI VÀ VẤN ĐỀ TRỢ TỬ


Lm. Giuse Cao Gia An, SJ
08/08/2023
Con thấy nhiều phong trào đang ủng hộ trợ tử. Trong khi đó con nghe Cha xứ nói Giáo hội Công giáo không ủng hộ hoặc cho phép làm điều ấy. Quan niệm đúng đắn của Giáo hội về vấn đề này là gì?

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 96: GIÁO HỘI VÀ VẤN ĐỀ TRỢ TỬ

LM Cao Gia An, S.J.

Hỏi: Con thấy nhiều phong trào đang ủng hộ trợ tử. Trong khi đó con nghe Cha xứ nói Giáo hội Công giáo không ủng hộ hoặc cho phép làm điều ấy. Quan niệm đúng đắn của Giáo hội về vấn đề này là gì?

Trả lời:

Theo nguyên ngữ, “trợ tử” có nguồn gốc từ một từ Hylạp: Euthanasia. Từ này được lập thành bởi hai thành tố: tiếp đầu ngữ eu-, nghĩa là “tốt đẹp”, được thêm vào gốc từ -thanasia, đến từ chữ thanatos, có nghĩa là “chết”. Như thế, về lý thuyết, Euthanasia là thuật ngữ được dùng để chỉ về những cái chết êm đẹp, theo nghĩa là không phải vật vã đau đớn. Tuy nhiên, trong thực tế, thuật ngữ ấy được dùng để chỉ về chính hành động can thiệp của con người với mục đích giúp cho người chết có được một cái chết gọi là êm đẹp.

Trong tiếng Việt, Euthanasia có thể được dịch là “trợ tử” hoặc “an tử”. Gọi là “trợ tử” nếu đứng từ phía những người ngoài cuộc, khi các bác y bác sĩ hoặc những người thân trong gia đình quyết định can thiệp giúp cho người bệnh chết sớm hơn, với mong ước giúp cho người ấy khỏi phải kéo dài đau đớn. Gọi là “an tử” nếu đứng từ phía người bệnh, khi chính người ấy quyết định xin được chết sớm. Một tên gọi khác, hay được sử dụng cho cả hai, là “chết êm dịu”. Câu hỏi đặt ra: những cái chết như thế có êm dịu thật không? An tử liệu có phải là một quyết định sáng suốt và đáng được tôn trọng? Trợ tử liệu có phải là một hành động nhân đạo và bác ái không? Đâu là nền tảng luân lý để dựa vào đó người ta biện minh cho hành động an tử hoặc trợ tử? Tại sao Giáo hội Công giáo chẳng những đã không ủng hộ mà còn luôn phản đối và kết án mọi hình thức an tử hoặc trợ tử?

Một trường hợp trong Kinh Thánh

Có một trường hợp trong Kinh Thánh hay được gọi là “trợ tử”. Tin Mừng Gioan kể rằng, một thời gian sau khi đã đóng đinh Chúa Giêsu và hai người khác trên thập giá, nhằm tránh tình trạng có xác người chết treo trong ngày Sa-bát, những người lính đã đến xin phép Phi-la-tô để đập giập ống chân của những người tử tội còn chưa chết. Họ đã làm như thế với hai người chịu đóng đinh cùng với Đức Giêsu (x. Ga 19, 31-33).

Chúng ta biết rằng những người bị đóng đinh trên thập giá thường phải đối diện với cái chết từ từ, do đau đớn và mất máu. Khi bị treo giăng ngang hai tay trên cao, cả cơ thể của người tử tội trên thập giá sẽ bị trì xuống, lồng ngực bị ép lại làm cho hô hấp của người ấy trở nên rất khó khăn. Thỉnh thoảng người ấy phải đạp chân vào điểm tựa bên dưới, nâng cơ thể lên, làm cho lồng ngực được giãn ra và có thể thở được. Khi ống chân bị đập giập, chỉ cần vài phút sau người ấy sẽ chết vì không thở được. Do đó, việc đập giập ống chân của những tử tội bị đóng đinh trên thập giá được nhiều người xem là một hành động trợ tử. Nếu bạn đặt mình vào vị trí của người tử tội trên thập giá, đang cố nhoi người để tìm từng hơi thở, bạn có thật sự muốn ống chân của mình bị đập giập không? Bạn có muốn được trợ tử không? Nhìn vào từ góc độ bên ngoài, việc đập giập ống chân của tử tội trên thập giá có thể được xem như một hình thức nhân đạo, hay đơn giản đó chỉ là bước cuối cùng của một quy trình giết người?

Những lối lý luận khác nhau

Thật ra, từ rất sớm trong dòng lịch sử nhân loại, việc an tử hoặc trợ tử đã được bàn đến. Có nhiều lý luận ủng hộ, và có nhiều trường hợp an tử được nhắc đến. Lý luận chính của những người theo hướng này là: con người có quyền chọn cho mình một cái chết xứng đáng với phẩm giá của mình.

Chẳng hạn, khi bị cáo tội làm băng hoại giới trẻ, bị tống giam, và bị kết án bất công, Socrates đã chọn uống thuốc độc để được chết một cái chết xứng đáng với phẩm giá của mình. Trong những câu chuyện chiến tranh, có trường hợp những quân nhân bị dồn vào bước đường cùng đã chọn kết liễu mạng sống mình thay vì phải bị rơi vào tay quân thù.

Ngày nay không hiếm trường hợp những người bệnh xin cho mình được chết, để khỏi trở thành gánh nặng cho những người thân của mình. Cũng có trường hợp chính những người thân hoặc chính các nhân viên y tế quyết định ngừng mọi chăm sóc y tế cho người bệnh để người ấy được chết sớm. Không thiếu trường hợp chính những người có chuyên môn về y khoa đi bước trước, hướng dẫn và giới thiệu về khả thể an tử hoặc trợ tử.

Tuy nhiên, cũng rất sớm trong dòng lịch sử nhân loại, đã có nhiều ý kiến hoàn toàn ngược lại. Một trong những cung giọng đáng lưu tâm nhất là Hyppocrates, ông tổ của ngành y. Trong bản văn được gọi là “lời thề Hyppocrates”, vẫn còn được hầu hết tất cả các y bác sĩ đọc trong nghi thức tuyên thệ khi ra trường, có đoạn này: “Tôi sẽ không trao thuốc độc cho bất kỳ ai, kể cả khi họ yêu cầu. Tôi sẽ không tự mình gợi ý cho họ. Cũng vậy, tôi sẽ không trao cho bất cứ người phụ nữ nào những thuốc gây sẩy thai”. Hyppocrates cũng trình bày rõ quan điểm y khoa của mình: “Tôi sẽ không bao giờ cho toa thuốc chết người để làm hài lòng một ai đó, cũng sẽ không bao giờ đưa ra những lời khuyên có thể dẫn đến cái chết”. Theo Hyppocrates, ơn gọi của y khoa ngay từ khởi đầu là phò sự sống. Một người theo học y khoa mà lại ủng hộ việc trợ tử là phạm vào y đức và phản bội chính cội nguồn của mình.

Nền tảng của những quyết định

Tại sao có những quyết định trái chiều như thế? Đó chỉ đơn giản là những ý kiến trái chiều, và ý kiến nào cũng đáng được tôn trọng, hay ẩn đằng sau những ý kiến trái chiều ấy là những nền luân lý hoàn toàn khác nhau, cần được chúng ta cân nhắc và suy xét cẩn thận?

Nếu bạn là người theo chủ nghĩa duy vật, tin rằng con người chỉ thuần là vật chất và sự sống thật ra chẳng có một giá trị thánh thiêng nào, thật dễ và gọn gàng để quyết định, phải không?

Hitler đã từng mơ về một nhân loại hùng cường bằng cách lập kế hoạch loại bỏ hết những người già yếu và bệnh tật. Stalin từng tắm máu hàng chục ngàn sinh viên biểu tình để dập tắt tiếng nói của những người đi ngược với mình.

Nếu tin rằng con người chỉ thuần là vật chất, như một con chó chết là hết chuyện, người ta rất dễ tự cho phép mình quyết định theo hướng mà họ cảm thấy là cần, là tốt, là ổn. Nếu tin rằng con người chỉ thuần là “phương tiện sản xuất”, chẳng có gì đặc biệt, cá vị, thánh thiêng, rất dễ để một số người có quyền và có khả năng quyết định sinh tử vận mệnh của một số những người khác, phải không?

Dĩ nhiên, chúng ta không thể loại trừ trường hợp có những người phải quyết định với ý hướng ngay lành và với lòng thương cảm thật sự. Đó là những quyết định đau đớn xé lòng. Có những người đau khổ lâu năm trên giường bệnh, họ xin được chết để chấm dứt những đau khổ của đời mình, và để mình không còn là gánh nặng cho những người thân. Có những người thấy người thân của mình phải vật vã lâu năm trên giường bệnh, không đành lòng, nên muốn tìm cách trợ giúp để người ấy an bình ra đi và không phải chịu đau đớn khổ sở nữa. Cả hai đều xuất phát từ ý hướng tốt, nhân danh lòng bác ái để giúp giải thoát con người khỏi khổ đau. Nếu chỉ nhìn từ góc độ cảm tính, những quyết định ấy cần được thông cảm, phải không? Nhưng bạn có tin rằng trong bất cứ trường hợp nào, một con người có thể có quyền quyết định sinh tử đối với một con người không?

Nếu bạn tin rằng có một Thiên Chúa là Đấng Tạo Hoá, chính Thiên Chúa ấy mới là chủ tể của mọi sự sống, thì mọi chuyện sẽ rất khác, phải không? Quan điểm của Giáo hội được xây nền từ đây.

Quan điểm của Giáo hội

Xác tín nền tảng của Giáo hội Công giáo là thế này: con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa (x. St 1,26). Dù là bụi đất mọn hèn, con người mang nơi mình tính thánh thiêng của sự sống được thông truyền từ chính Thiên Chúa (x. 2,7). Sự sống ấy là thánh thiêng, và do đó, bất khả xâm phạm. Sự sống ấy không thuộc về chính con người, nhưng thuộc về Thiên Chúa. Như vậy, con người hoàn toàn không có quyền quyết định, nhất là quyết định chấm dứt đối với sự sống, dù đó là sự sống của mình hay của một ai khác.

Có rất nhiều tài liệu của Giáo hội lên tiếng với cung giọng mạnh mẽ bảo vệ sự sống và lên án những lạm quyền của con người đối với sự sống. Chúng ta chỉ xét đến một vài tài liệu quan trọng gần đây.

Tin vào tính thánh thiêng của sự sống và phẩm giá cao vời của con người, Công Đồng Vatican II (1965) đã gọi trợ tử là một điều ô nhục, sánh ngang với những tội ác khác như phá thai, nô lệ, mãi dâm, buôn người… vì tất cả những điều này xâm phạm đến sự sống và nhân phẩm của con người (x. Gaudium et Spess, số 27). Khi một con người tự cho mình quyền hạn để quyết định sinh tử và vận số của một con người khác, người ấy tự biến mình thành một ông chủ, một thiên chúa, và người khác bị giản lược thành một đối tượng, một vật thể, một món hàng, một sự vật… chứ không còn là một con người có phẩm giá nữa.

Sau Công Đồng Vatican II, một tài liệu quan trọng chính thức của Giáo hội về vấn đề này là Tuyên ngôn ngắn của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin năm 1980. Tài liệu này tuyên bố: “Chẳng điều gì và chẳng một ai có quyền cho phép việc giết chết một con người vô tội, dù đó là một thai nhi trong bụng mẹ, một hài nhi mới chào đời, một người mang những chứng bệnh không thể cứu chữa hay một người đang chết.”[1]

Gần đây nhất, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là người gióng lên những cung giọng mạnh mẽ nhất ngang qua những giáo huấn phò sự sống. Trong Tông Thư Evangelium Vitae ban hành năm 1995, Đức Giáo Hoàng khẳng định rằng trợ tử hoặc an tử là một hành động nghiêm trọng vi phạm luật Thiên Chúa. Dù người ta có nại vào bất cứ lý do gì đi nữa thì cũng không thay đổi được bản chất của việc can thiệp làm cho một con người chết sớm hơn: tự nó là một hành động giết người. Không một lý do gì có thể biện minh cho việc giết một con người (số 65).

Với những người nại vào lý do thương xót và nhân đạo để ủng hộ trợ tử, Đức Giáo Hoàng phản biện: “Lòng thương xót thật sự dẫn chúng ta đến việc chia sẻ nỗi đau với người khác, chứ không phải là giết chết người đang đau khổ chỉ vì chính chúng ta không chịu đựng nổi sự đau khổ của họ” (số 66). Ngài cảnh tỉnh rằng chúng ta phải rất tỉnh thức để không phò theo văn hoá sự chết là văn hoá khiến con người hành động tiếm quyền của Thiên Chúa, làm hạ giá nhân phẩm con người, chống lại sự sống, tấn công vào nhân loại.

Như thế, theo lối nhìn của Công giáo, sự sống tự bản chất mang một giá trị thánh thiêng và bất khả xâm phạm. Mạnh khoẻ hay ốm đau, lành lặn hay tàn tật… tất cả đều chỉ là những dạng thức bên ngoài của sự sống. Sự sống của con người từ lòng mẹ cho đến lòng đất phải được xem là thánh thiêng và phải được tôn trọng cách tuyệt đối. Do đó, Giáo hội chưa bao giờ cho phép hay ủng hộ việc trợ tử.[2]

Ngược lại, Giáo hội luôn có những lối tiếp cận mục vụ để có thể gần gũi và thể hiện lòng thương cảm cách thật sự với những người bệnh đang tuyệt vọng và buông xuôi. Chẳng hạn, Giáo hội dạy rằng trong trường hợp an tử, lời xin được chết thực chất trong thẳm sâu là tiếng kêu tuyệt vọng của một con người bệnh đang cần đến tình yêu, tình liên đới, tình người. Điều mà một bệnh nhân đang đối diện với cái chết thật sự cần không chỉ là thuốc men và những can thiệp y khoa, nhưng quan trọng hơn là tình yêu và hơi ấm của tình người, chứ không phải là một giải pháp gọn gàng tiện lợi. Trong rất nhiều trường hợp, lời xin chết của một người thực chất là một tiếng kêu cứu và phản ánh khát vọng sâu thẳm của một người muốn được sống và được đối xử xứng đáng với phẩm giá con người.

Hơn nữa, cần nhận ra rằng nhiệm vụ của y tế và những phát triển y khoa chưa bao giờ là giúp cho con người chết. Cả những khi không còn hy vọng gì nữa, con người vẫn có quyền được chăm sóc.

Cuối cùng, cần nhận ra rằng an tử hay trợ tử không chỉ là một vấn đề tách biệt và cô lập. Luôn có những hệ luỵ kèm theo. Chẳng hạn, nếu trợ tử là được phép, thì án tử hình cũng là điều nên được ủng hộ, phải không? Người ta nhân danh luật pháp chính đáng để kết liễu một mạng người. Theo cách đó, sai lầm vì đã gây ra cái chết cho một người lại được sửa sai bằng cái chết của một người khác. Bạn có nghĩ công bằng theo cách đó là đúng đắn không?

Cũng vậy, nếu trợ tử là được phép, đâu có lý do gì để phản đối việc phá thai, phải không? Những người muốn phá thai thực ra luôn có “lý do” của họ. Nào là họ chưa được chuẩn bị để làm cha làm mẹ. Nào là đứa con sinh ra sẽ là một gánh nặng hay một chướng ngại về công việc và tương lai của họ. Nào là đứa trẻ có nguy cơ sinh ra không phải là một đứa trẻ lành lặn, thay vì không sinh ra thì hơn là để con mình phải sống một cuộc sống tật nguyền… Tất cả đều là những lý luận theo hướng cảm tính và ích kỷ. Nhưng quan trọng hơn cả, người ta đặt mình làm chủ tể của sự sống, tự cho mình quyền sinh sát trong tay đối với những con người chưa thể hoặc không thể tự quyết về cuộc sống của mình.

Chẳng có một cái chết nào có thể được gọi là dịu êm, nếu đó là cái chết đến từ sự can thiệp của con người. Nếu bạn tin rằng con người mang nơi mình sự sống đến từ Thiên Chúa, sự sống không chỉ là một quà tặng vô giá mà còn là một điều thánh thiêng bất khả xâm phạm. Nếu cả tính thánh thiêng của sự sống mà còn bị tước khỏi con người, cả sự sống và cái chết của con người còn có ý nghĩa gì nữa chăng?

(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 5, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (08.08.2023)

----------
[1] Sacred Congregation for the Doctrine of the Faith, Declaration on Euthanasia, II

[2] Giáo lý Hội Thánh Công giáo về cái chết êm dịu (Euthanasia)

2276. Phải đặc biệt tôn trọng sự sống của những người tàn tạ, yếu ớt. Những người bệnh hoạn hoặc khuyết tật (handicap) phải được nâng đỡ để sống một cuộc sống bình thường, bao nhiêu có thể.

2277. Cái chết êm dịu trực tiếp, với bất cứ lý do nào hoặc dùng phương tiện nào, cốt tại việc chấm dứt sự sống của những người tật nguyền, bệnh hoạn hoặc hấp hối. Về phương diện luân lý, việc này không thể chấp nhận được.

Như vậy, một hành động hoặc một thiếu sót, tự nó hoặc với ý hướng, gây ra cái chết để chấm dứt sự đau đớn, là một tội giết người, nghịch lại một cách nghiêm trọng với phẩm giá của nhân vị và với sự tôn trọng Thiên Chúa hằng sống, Đấng Tạo Hoá của con người. Một phán đoán sai lầm mắc phải cách ngay tình, không thay đổi bản chất của hành vi sát nhân này, một hành vi luôn phải cấm chỉ và loại trừ (X. Thánh bộ Giáo lý Đức Tin, Tuyên ngôn Jura et bona: AAS 72 (1980) 542-552).

2278. Việc ngưng các phương tiện y khoa, quá tốn kém, mạo hiểm, ngoại thường hoặc không tương xứng với những kết quả mong muốn, có thể là hợp pháp. Đây là sự từ chối “việc trị liệu khắc nghiệt”. Theo cách này, ta không muốn đưa đến cái chết, nhưng chấp nhận vì không thể ngăn cản được cái chết. Chính bệnh nhân phải quyết định, nếu họ có thẩm quyền và khả năng, nếu không, việc quyết định phải do những người có quyền theo luật pháp, nhưng luôn phải tôn trọng ý muốn hợp lý và quyền lợi hợp pháp của người bệnh.

2279. Dù cái chết xem ra gần kề, vẫn phải chăm sóc bình thường cho bệnh nhân, chứ không thể ngưng một cách hợp pháp. Việc sử dụng các loại thuốc giảm đau, để làm dịu bớt sự đau đớn của người hấp hối, cả khi có nguy cơ rút ngắn những ngày sống của họ, về mặt luân lý có thể được coi là phù hợp với nhân phẩm, miễn là không nhắm đến cái chết như mục đích hay như phương tiện, nhưng chỉ tiên đoán và phải chấp nhận cái chết như điều không thể tránh. Việc chăm sóc để giảm đau là một hình thức tuyệt vời của đức mến vô vị lợi. Vì thế, công việc này cần được khuyến khích.

---------------------------------

 

BÀI 97 - GIÁO DÂN XÂY DỰNG NHIỆM THỂ CHÚA KITÔ


Nt. Thùy Trang, DHM
14/08/2023
Hỏi: Là giáo dân, nhiều khi con chẳng biết phải đóng góp cho Giáo hội như thế nào. Xin cho con biết những con đường để cùng xây dựng Giáo hội?

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 97: GIÁO DÂN XÂY DỰNG NHIỆM THỂ CHÚA KITÔ

Nữ tu Thùy Trang, DHM

Hỏi: Là giáo dân, nhiều khi con chẳng biết phải đóng góp cho Giáo hội như thế nào. Xin cho con biết những con đường để cùng xây dựng Giáo hội?

Trả lời:

Là giáo dân???

Bạn chắc chắn mình thuộc về thành phần đông đảo nhất trong Giáo hội. Bạn là nền tảng và lý do cho sự hiện hữu của các ơn gọi khác trong Giáo hội!

Phẩm trật Giáo hội. Theo dòng lịch sử phát triển của Giáo hội, phương pháp quản trị theo hình tháp của đế quốc Roma đã được ứng dụng để quản trị Giáo hội. Nhóm “giáo sĩ” với nhiều cấp bậc khác nhau nhưng chiếm tỉ lệ ít, lại được đặt làm thầy dạy, người dẫn đường, nhà quản trị… do họ hiến đời mình để chuyên lo những việc phục vụ và quản trị cộng đồng.

Tu sĩ. Họ là những người tuyên khấn Khiết tịnh, Khó nghèo và Vâng phục trong một hội dòng chính thức. Họ không thuộc về hàng giáo sĩ theo phẩm trật Giáo hội, nhưng thuộc vào phẩm trật ân sủng. Họ thường được đào tạo bài bản về tôn giáo và theo đuổi đời sống thánh thiện trong một linh đạo và một loại hình hoạt động tông đồ cụ thể. Do vậy, họ vẫn đóng một vai trò nổi bật trong dòng lịch sử Giáo hội nói chung.

Giáo dân. Hiến chế Lumen Gentium định nghĩa giáo dân là “tất cả những Kitô hữu không thuộc hàng giáo sĩ và bậc tu trì được Giáo hội công nhận; nghĩa là những Kitô hữu đã được tháp nhập vào Thân Thể Chúa Kitô nhờ phép Thánh Tẩy, đã trở nên Dân Thiên Chúa, và tham dự vào chức vụ tư tế, tiên tri và vương giả của Chúa Kitô theo cách thức của họ; họ là những người đang thực hiện sứ mệnh của toàn dân Kitô giáo trong Giáo hội và trên trần gian theo phận vụ riêng của mình.” (LG 31)

Cảm giác tự ti của giáo dân. Sự chênh lệch về địa vị và giáo dục tôn giáo trong nhiều thế kỷ đã tạo nên khoảng cách thực sự giữa giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân. Giáo sĩ/tu sĩ phải chủ động khởi xướng và điều hành mọi sự! Giáo dân thụ động nghe theo, ì ạch và nặng nề. Giáo sĩ/tu sĩ than phiền về sự bất hợp tác của giáo dân, còn giáo dân cảm thấy mình thấp kém, không được tôn trọng…

Phẩm giá Kitô hữu

Truyền thống Do thái giáo đã nối kết rất nhiều nhóm dân tộc “nô lệ” vào đại gia đình 12 chi tộc Israel trong biến cố xuất hành khỏi Ai Cập, và nhận Abraham làm ông tổ chung. Thời Tân ước, đức tin vào Đức Kitô đã xóa bỏ ranh giới: “Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô” (Gl 3, 28). Thánh Phaolô diễn tả tầm quan trọng của từng thành phần trong Giáo hội như những chi thể của một thân thể, và ân huệ riêng Chúa ban là vì lợi ích của cộng đoàn (x. 1Cr 12). Thánh Phêrô viết: “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng” (1Pr 2, 5). Khi thiết lập nhóm phó tế, thánh Phêrô giải thích về nhiệm vụ chứ không phải về quyền hành (x. Cv 6, 1-6).

Khoảng tối trong việc điều hành của Giáo hội thời Trung cổ đã góp phần phân hóa giai cấp giữa các Kitô hữu. Phải chờ đến Công đồng Vatican II (1962-1968) mới có sự tái xác lập lại vị trí của thành phần đông đảo nhất là các kitô hữu giáo dân như vị thế của họ trong thời Giáo hội sơ khai. Hiến chế Lumen Gentium, một tài liệu Công Đồng, đã thay đổi khái niệm phẩm trật Giáo hội bằng hạn từ ‘Dân Thiên Chúa’ (x. chương 2). Dù vai trò Giám mục vẫn được đề cao (x. chương 3) nhưng nhiệm vụ và vị thế của tín hữu giáo dân rất được chú trọng (x. chương 4).

Quả thế, phẩm giá chúng ta là như nhau vì đều dựa trên ơn gọi căn bản là Kitô hữu qua phép Thánh Tẩy. Thánh Giám mục Augustinô (354 - 430) từng nói: “Cho anh em tôi là giám mục, cùng với anh em tôi là kitô hữu”. Như thế, giáo dân, tu sĩ, giáo sĩ hay bất cứ phẩm vị nào trong Giáo hội chỉ khác nhau về cách thức làm chứng cho Chúa Kitô qua đời sống của mình trong gia đình và làm việc giữa đời, thánh hiến cho Thiên Chúa qua lời khấn dòng, hay cử hành tác vụ thánh. Ngoài nghĩa vụ chuyên biệt này, tất cả những điều khác có thể hoán đổi cho nhau, chỉ cần bạn có đủ trình độ chuyên môn và đức tin vững chắc.

Tại nhiều nước, giáo dân đứng ở vị trí giáo sư thần học, và giáo sĩ, tu sĩ ngồi ở vị trí học trò là chuyện bình thường. Tại cơ quan đầu não của Giáo hội là Vatican, trong những năm gần đây đã có những chuyển biến lớn trong việc bổ nhiệm nhân sự là giáo dân, thậm chí ở vị trí các bộ trưởng. Điển hình như bà Barbara Jatta làm giám đốc Bảo tàng Vatican từ năm 2016; bà Gabriella Gambino và Linda Ghisoni, hai phụ nữ có gia đình và có con, làm thứ trưởng bộ Giáo dân, Gia đình và Sự sống từ năm 2017; ông Paolo Ruffini làm Bộ trưởng Bộ Truyền thông Tòa thánh từ năm 2018, bà Francesca Di Giovanni đã trở thành thứ trưởng trong bộ Ngoại giao Tòa Thánh từ tháng Giêng năm 2020.

Kitô hữu giáo dân đóng góp xây dựng nhiệm thể Chúa Kitô

Về sứ mạng cụ thể của Kitô hữu giáo dân, hiến chế Lumen Gentium viết: “Vì ơn gọi riêng, giáo dân có bổn phận tìm kiếm nước Thiên Chúa bằng cách làm các việc trần thế và xếp đặt chúng theo ý Thiên Chúa. Họ sống giữa trần gian, nghĩa là giữa tất cả cũng như từng công việc và bổn phận của trần thế, giữa những cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngoài xã hội; tất cả những điều đó như dệt thành cuộc sống của họ. Ðó là nơi Thiên Chúa gọi họ, để dưới sự hướng dẫn của tinh thần Phúc Âm, như men từ bên trong, họ thánh hóa thế giới bằng việc thi hành những nhiệm vụ của mình; và như thế, với lòng tin cậy mến sáng ngời, và nhất là với bằng chứng đời sống, họ tỏ lộ Chúa Kitô cho kẻ khác, vì thế, họ có nhiệm vụ đặc biệt soi sáng và xếp đặt những thực tại trần gian có liên hệ mật thiết với họ, để chúng không ngừng phát triển và bành trướng theo Thánh Ý Chúa Kitô, hầu ca tụng Ðấng Tạo Hóa và Ðấng Cứu Ðộ” (LG 31).

Các hiệp hội giáo dân. Nhằm được hướng dẫn và nâng đỡ nhau sống chứng tá cho Chúa giữa đời, có những hiệp hội, đoàn thể, phong trào giáo dân, và các dòng ba (dựa vào linh đạo của một dòng tu) được thành lập trong Giáo hội.

Con đường nên thánh của bạn mang tên linh đạo giáo dân. Trong Tông huấn Vui mừng và hân hoan (Gaudete et Exultate, 2018), Đức giáo hoàng Phanxicô viết: “Để nên thánh, không nhất thiết cứ phải là giám mục, linh mục, hay tu sĩ.” (GE 14).

Nói cách đơn giản, bạn thuộc thành phần đông đảo nhất trong lòng Giáo hội. Bạn hiện diện giữa thế giới và tự sáng tạo con đường nên thánh cho chính mình ngay giữa lòng thế giới, ngang qua những bổn phận trần thế của mình, khi làm mọi sự để vinh danh Chúa, cứu rỗi linh hồn mình và mưu ích cho tha nhân. Như thế, bạn có thể sống chứng tá ở bất cứ môi trường nào, và qua ngành nghề chuyên môn của mình, cách riêng lẻ hay theo hiệp hội.

Bạn ơi, hãy tích cực tự đào tạo mình và tham gia vào các khóa đào tạo để bạn tự tin bước vào Giáo hội theo mô hình “bàn tròn”, chứ không phải “hình tháp”. Mong sao bạn sẽ là nhân tố tích cực góp phần xây dựng mô hình này trong tương quan giáo sĩ – tu sĩ – giáo dân ở Việt Nam. Cũng mong sao các giáo sĩ và tu sĩ tích cực góp phần vào quá trình chuyển hóa này qua việc đào tạo tín hữu giáo dân.

Hãy tự tin rằng khi bạn nghĩ, nói, làm bất cứ điều gì để vinh danh Chúa là bạn đang góp phần vào việc xây dựng Giáo hội – nhiệm thể Chúa Kitô, bạn nhé!

(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 5, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)
WHĐ (14.08.2023)

---------------------------------

 

BÀI 98 - CÔNG VIỆC NGƯỜI TRẺ TRONG ĐƯỜNG HƯỚNG CỦA THIÊN CHÚA


Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc, SJ
23/08/2023
Hỏi: Con đang chuẩn bị ra trường và lúc này cũng đang tìm việc làm. Là người Công giáo, không biết mình cần tìm việc hoặc làm việc với ý hướng như thế nào? Bởi con thấy nhiều khi mình muốn chỉ tìm tiền thôi. Mỗi lần nghĩ đến công việc nối kết với đạo, với Thiên Chúa, con thấy chưa rõ ý nghĩa như thế nào? Mong chia sẻ với con đôi điều. Con cảm ơn nhiều!

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 98: CÔNG VIỆC NGƯỜI TRẺ TRONG ĐƯỜNG HƯỚNG CỦA THIÊN CHÚA

Linh mục Giuse Phạm Đình Ngọc SJ

Hỏi: Con đang chuẩn bị ra trường và lúc này cũng đang tìm việc làm. Là người Công giáo, không biết mình cần tìm việc hoặc làm việc với ý hướng như thế nào? Bởi con thấy nhiều khi mình muốn chỉ tìm tiền thôi. Mỗi lần nghĩ đến công việc nối kết với đạo, với Thiên Chúa, con thấy chưa rõ ý nghĩa như thế nào? Mong chia sẻ với con đôi điều. Con cảm ơn nhiều!

Trả lời:

“Nơi đây đã từng có một người quét đường vĩ đại,
người ấy đã làm thật tốt công việc của mình.”
Martin Luther King

Lớn lên, ai cũng cần công ăn việc làm ổn định và sống dồi dào. Đó cũng là khát khao và ước mơ thời tuổi trẻ. Chia tay những năm dùi mài kinh sử, người trẻ bước vào đời với biết bao cơ hội làm ăn. Đâu là điểm khởi đầu để người trẻ chạy nhanh và tiến xa trên con đường lập nghiệp? Câu hỏi ấy không dễ trả lời; bởi thực tế, nhiều người trẻ đang thất nghiệp, công việc khó khăn và ra trường làm không đúng chuyên ngành.

Vậy, Thiên Chúa nghĩ gì về công việc hiện nay của người trẻ?

Để trả lời vắn gọn thắc mắc trên, trong khi chia sẻ với các bạn trẻ, Giáo hội trước hết khẳng định rằng: công ăn việc làm là chủ đề chính người trẻ ước muốn và bận tâm. Thật dễ để thấy chính mình, bạn bè và cả xã hội đều phải đương đầu với kiếp sống mưu sinh. Bạn ngóng ra đường thấy dòng người lao xao xuôi ngược. Họ đang vất vả bươn chải chẳng phải vì miếng cơm, manh áo hay sao?

Giàu có và tiện nghi ai cũng mong muốn và kiếm tìm. Một trong những yếu tố quan trọng của làm giàu là đam mê. Nhiều doanh nhân đã chỉ ra, và thêm rằng, đó là đam mê chính đáng và cao thượng. Chẳng hạn, trong chương I của cuốn sách: Chiêu Bài Quản Lý Vàng của Bill Gate, trích câu nói trứ danh của Albert Einstein:

“Đam mê là người thầy tốt nhất. Có đam mê mới nỗ lực làm việc và luôn thấy cuộc sống thật phong phú. Nếu công việc bạn đang làm là niềm đam mê của bạn thì điều đó cho thấy, bạn đã thành công một nửa.”

Điều thú vị là đam mê ấy đến từ Thiên Chúa, tôi tin thế, vì Albert Einstein (1879–1955) vốn là một người sùng đạo hằng tin vào Thiên Chúa. Là người Do Thái, ông theo học trường Công giáo và thích đọc Kinh Thánh. Ông là người đặt nền cho vật lý hiện đại (Thuyết tương đối[1]). Một trong những phát biểu của ông về Thiên Chúa như sau: “Những ai nghiêm túc nghiên cứu khoa học đều chắc một điều là trong tất cả những định luật của vũ trụ đều có bóng dáng của một thần linh siêu vượt lên trên con người và chúng ta phải cảm thấy mình thật thấp kém.” Thần Linh siêu vượt đó giúp ông đam mê tìm tòi, khám phá.

Tiếc là tình trạng thất nghiệp hiện nay gia tăng, lương lao động thấp và mức độ cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Thậm chí tôi có nhiều dịp gặp các bạn trẻ đang phải lao động trong môi trường khắc nghiệt. Bóc lột sức lao động và xem người trẻ như một món đồ để mua bán. Nhiều bạn trẻ phải bỏ quê xuất khẩu lao động. Nơi đó không thiếu những hình thức loại trừ và bị đẩy ra ngoài lề xã hội. Điều này khiến các bạn trẻ nghèo hoàn nghèo. Hệ quả là tình trạng thiếu công ăn việc làm đã cướp đi khả năng mơ ước và hy vọng.

Dĩ nhiên ai cũng thấy giá trị của lao động luôn cao quý. Chính Thiên Chúa cũng lao tác, sáng tạo tiếp tục thế giới này. Ngài mời gọi con người, người trẻ cộng tác trong công trình vĩ đại này. Trong mỗi công việc mình làm, người trẻ được mời gọi nhìn nó như một sứ mạng cao quý. Xin đừng biến mình thành những robot chỉ cắm cúi làm việc mà không suy tư, phản tỉnh. Trong ý hướng này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắn với người trẻ:

“Mặc dù công việc có thể không giúp các con thực hiện các ước mơ của mình, nhưng điều quan trọng là những người trẻ phải nuôi dưỡng một cái nhìn, học cách làm việc theo một cách thức thực sự mang tính cá vị và tốt đẹp cho đời sống của mình, và tiếp tục phân định tiếng gọi của Thiên Chúa.” (Tông huấn Christus Vivit - Đức Kitô Sống, số 268)

Bạn có bao giờ hỏi: tại sao tôi lại làm công việc này? Tôi có thể làm gì tốt hơn không? Chúa đang muốn tôi làm gì trong công việc cụ thể này?

Điều đáng bàn là làm sao người trẻ dùng tài năng và sức trẻ của mình để có được một công việc đáng mơ ước. Siêng năng học tập và kiến tạo tương lai là điều Giáo hội mời gọi. Ngồi chờ sung rụng là rụng cả tương lai. Tôi biết nhiều người bạn thao thức, bàn luận và khởi nghiệp. Thất bại có, thành công có. Vấn đề là họ phải suy nghĩ “nát nước” để tìm ra giải pháp khả thi. Khi đó, họ vừa làm, vừa trải nghiệm. Bởi đó, Bill Gates chia sẻ với độc giả rằng: “Thành công bắt nguồn từ trái tim không ngủ yên.”[2]

Thành công chỉ “bó tay” với những ai lười biếng. Đôi khi có bạn ảo tưởng: giàu có thần tốc. Người giàu như thế trên thế giới có, nhưng đếm trên đầu ngón tay. Cứ bình thường, ai cũng trải qua bước khởi nghiệp. Đôi khi sự phũ phàng, trắc trở thử thách người trẻ, nhưng thành công sẽ đến với những ai không từ bỏ ước mơ, không bao giờ được bỏ cuộc.

Thừa nhận là có người gặp nhiều thuận lợi trong sự nghiệp của họ, nhưng phần lớn nhân loại phải vất vả mới có miếng ăn. Dù bạn là ai trong số ấy, Thiên Chúa gọi bạn làm việc. Chúa có thể gọi bạn làm y tá, thợ mộc, nhân viên ngân hàng, kỹ sư, nhà giáo, nghệ sĩ hoặc bất kỳ công việc nào khác. Ước chi người trẻ có thể tập trung hết khả năng của mình để hy sinh, đại lượng và dấn thân.

Có lẽ chúng ta đều đồng ý với nhau về một thực tại đau lòng là nhiều người trẻ không cảm nhận được niềm vui trong công việc.[3] Có người học vì cha mẹ, chọn nghề học vì ép buộc. Lắm người làm chỉ đơn thuần vì đồng lương. Tuy nhiên, lý tưởng của một công việc bao gồm cả niềm vui, hăng say và cống hiến. Đó là ý nghĩa của công ăn việc làm. Không chỉ ở thời đại 4.0, thời xa xưa con người đã mong ước điều ấy:

“Tôi nhận ra rằng, đối với con người, không có gì tốt hơn là hưởng những thú vui do công việc chính mình làm ra.” (Trích sách Giảng Viên 3,22, được viết cuối thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên).

Vậy rốt cuộc Thiên Chúa muốn người trẻ làm gì? Chắc chắn Ngài muốn người trẻ sống hạnh phúc và dấn thân. Đáng trách cho những ai lười biếng, ăn bám và than trời trách đất. Người đời sẽ vỗ tay ủng hộ những bạn trẻ chí thú làm ăn. Hãy khai phá con đường mới để cùng nhau giúp mình và người khác hưởng cuộc sống đầy đủ, phát triển bền vững.

Lao động có khi chưa bao giờ an nhàn thư thái; tuy nhiên, chính trong hoàn cảnh đó, con người hy vọng tìm cho mình chỗ nương tựa nơi Thiên Chúa. Cùng với Ngài làm việc và thưởng thức những thách đố từ công ăn việc làm. Đến độ Martin Luther King (1929–1968) khẳng khái:

“Nếu một người được kêu gọi làm phu quét đường, thì người ấy nên quét đường y như cách Michelangelo vẽ tranh, hoặc Beethoven sáng tác nhạc, hay Shakespeare làm thơ. Người ấy nên quét đường cho thật tốt đến độ tất cả các thiên binh trên trời dưới đất phải dừng lại để nói rằng: Nơi đây đã từng có một người quét đường vĩ đại, người ấy đã làm thật tốt công việc của mình.” (x. Docat, 135).

Lạy Chúa Giêsu, nhìn tới nhìn lui, biết bao người trẻ chúng con đang quay cuồng với cuộc sống mưu sinh. Có bạn muốn làm việc, nhưng vẫn chịu cảnh thất nghiệp; có bạn muốn phấn đấu làm ăn, nhưng không có cơ hội; nhiều bạn khởi nghiệp, nhưng mấy ai thành công, v.v. Đã đến lúc chúng con cần Ngài giúp sức, để trong mọi hoàn cảnh, chúng con làm việc trong niềm vui với ước mơ lớn. Trong từng hoàn cảnh, xin giúp chúng con thấy đâu là công việc làm nên cuộc đời ý nghĩa. Làm sao để phụng sự Chúa trong những sứ vụ cụ thể chúng con đang làm? Được như thế, người trẻ hy vọng một tương lai tươi sáng hơn, đáng sống và đáng làm việc hơn. Amen.

(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 5, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (23.08.2023)

----------
[1] Đọc thêm trên wikipedia, Thuyết Tương Đối (một trong những phương trình nổi tiếng của Einstein: E = mc2).
[2] X. Chiêu Bài Quản Lý Vàng của Bill Gates, chương I, phần 5.
[3] Steve Jobs, tác giả của chiếc điện thoại iPhone, máy tính bảng iPad, v.v, nói với người trẻ rằng: “Công việc sẽ lấp đầy một phần lớn cuộc đời của các bạn, cách duy nhất để có được sự thỏa mãn là làm thứ bạn tin rằng nó tuyệt vời. Và cách duy nhất để làm thứ gì tuyệt vời là yêu cái bạn đang làm. Nếu bạn chưa tìm ra, hãy kiên trì. Đừng thỏa hiệp.”

---------------------------------

 

BÀI 99 - NGUỒN SỐNG ĐANG BỊ ĐE DỌA


Nt. Elisabeth Bùi Phạm Phương An, CND – CSA
11/09/2023
Lúc này ở Việt Nam đang vào mùa hè, nhiều nơi thiếu hụt nước để sử dụng. Cho con hỏi, Giáo hội nhận định thế nào trước tình hình khan hiếm nước như hiện nay? Người trẻ có thể tham gia gì trong công tác bảo vệ và gìn giữ nguồn nước?

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 99: NGUỒN SỐNG ĐANG BỊ ĐE DỌA

Nữ tu Phương An, CND - CSA

Hỏi: Lúc này ở Việt Nam đang vào mùa hè, nhiều nơi thiếu hụt nước để sử dụng. Cho con hỏi, Giáo hội nhận định thế nào trước tình hình khan hiếm nước như hiện nay? Người trẻ có thể tham gia gì trong công tác bảo vệ và gìn giữ nguồn nước?

Trả lời:

Tôi hiểu băn khoăn của bạn. Lúc này mùa hè nắng nóng, việc có được nguồn nước sạch để sinh hoạt và sản xuất thật không dễ. Tôi được sinh ra nơi vùng miền sông nước. Ngày xưa, người dân quê di chuyển bằng xuồng, đò; đi đâu cũng thấy kênh rạch chằng chịt, cầu tre lắt lẻo bắt qua những con sông xanh mát và nhiều phù sa. Nơi đây, khi chúng tôi thảy một hạt giống xuống đất thì không bao lâu sau có cây để ăn! Thế nhưng, giờ này quê tôi cũng đang khát, ruộng đồng khô cằn, vườn cây ăn trái và cây kiểng khô rụi. Đó là một nghịch lý phải không bạn?

1. Nước quyết định sự tồn vong

Thuở xa xưa, con người đã có những cách tế trời, thờ thần sông, cúng thần biển vì họ coi trọng nguồn nước. Nước chảy đến đâu, đất đai được bồi đắp màu mỡ, các sinh vật phát triển tới đó. Bằng chứng là người dân thường tập trung ven sông hồ vì họ nhận ra lợi ích của nước đem lại, phù hợp cho việc canh tác, dễ dàng tìm kiếm nguồn dinh dưỡng để tồn tại.

Quả thật, nước có “chỗ đứng” trong công trình sáng tạo của Chúa. Nó giúp xây dựng và tạo nên hệ sinh thái tự nhiên, đóng vai trò thiết yếu trong sự bảo đảm phát triển xã hội loài người, an ninh lương thực, công nông nghiệp, giao thông, thương mại và giải trí,...

Chuyện gì sẽ xảy ra nếu hành tinh này không còn nước? Chúng ta biết, nước chiếm 70-80% trong cơ thể con người. Tuy nhiên, nước không phải là vô tận. Theo ước tính của Liên hiệp quốc năm 2019, thế giới hiện có 2,2 tỷ người không được tiếp cận với nước sạch. Ngày nay, với tốc độ phát triển của nhân loại, nguồn nước ngày càng trở nên hiếm hoi. Dân số ngày một đông dẫn tới rác sinh hoạt bị ứ đọng; các nhà máy sản xuất công nghiệp cần sử dụng lượng nước lớn và thường thì không xử lý hết chất thải trước khi nó được đổ ra sông ngòi; sản xuất nông nghiệp đưa vào môi trường những chất độc như phân bón, dư lượng thuốc trừ sâu.

Nước cần thiết cho sự sống, thế nhưng khi bị biến đổi, ô nhiễm thì gây ra những hiểm họa khôn lường. Còn nhớ ở Sài Gòn, trước đây người ta rùm beng vụ công ty Vedan gây ô nhiễm cho dòng sông đến nỗi mà Báo Nhân Dân vào tháng 9/2008 có nhan đề: “Ai là tác nhân gây cái chết của con sông Thị Vải?” hoặc vụ công ty Formosa ở Hà Tĩnh gây sự cố cho môi trường biển năm 2016,... Đúng là đã đến lúc phải gây ý thức cho các tín hữu trẻ Việt Nam về vấn đề sinh tử này.

Chúng ta biết, nước là yếu tố đơn giản và quý giá, nhưng đáng buồn thay, tiếp cận được nguồn nước sạch đối với nhiều người thật khó khăn. Một điển hình vào hè 2020, miền Tây Việt Nam nơi chín nhánh Cửu Long chảy qua, vậy mà đã xảy ra tình trạng hạn mặn khốc liệt gây thiệt hại nặng nề cho đồng bào nhiều tỉnh, làm cho diện tích lúa bị mất trắng hơn 20.000 ha, 80.000 ha cây ăn trái bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Nông dân “bó tay” khi nhìn ruộng đồng khô héo từng ngày, vì nước uống còn không có, lấy gì mà tưới! Một đoạn mà báo Tuổi Trẻ đăng năm 2020: “Nông dân hoảng hồn khi nước trong các mương vườn lên đến 4-5% độ mặn. Đây là hiện tượng rất lạ, ngay cả những bậc cao niên cũng cho biết chưa năm nào nước mặn lên sớm và nhanh khủng khiếp đến vậy”. Trong khi nước máy bị nhiễm mặn không thể tắm giặt thì người dân phải mua nước ngọt với giá cắt cổ, có nơi lên đến 300.000 đồng/m3.

Thật vậy, bảo vệ nguồn nước không phải là nhiệm vụ của riêng cá nhân, tổ chức, khu vực hoặc quốc gia nào mà là của toàn thể cộng đồng nhân loại vì chúng ta hiện hữu cùng nhau.

2. Giáo hội kêu gọi bảo vệ nguồn sống này

Thiên Chúa đã giao con người trách nhiệm trông coi công trình của Ngài. Vì thế, đối với các Kitô hữu, việc gìn giữ, bảo vệ thiên nhiên không chỉ là trách nhiệm xã hội, mà còn là đòi hỏi của niềm tin, là nghĩa vụ cao cả, vì lẽ được cộng tác với Thiên Chúa trong công trình tạo dựng. Tác giả sách Sáng Thế kể lại sau khi tạo dựng mọi vật, Thiên Chúa tạo dựng con người và Ngài chuẩn bị mọi sự cho họ, giống như cha mẹ chuẩn bị đầy đủ mọi đồ dùng cần thiết trước khi đứa con yêu quý chào đời. Khi tạo dựng Ađam và Evà, Thiên Chúa trao cho ông bà quyền điều khiển mọi loài và khai thác đất đai, sông ngòi. Thế rồi Ngài phán: “Nước phía dưới trời phải tụ lại một nơi… Nước phải sinh ra đầy rẫy những sinh vật…Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời và mọi giống vật bò trên mặt đất” (St 1,9-28). Vũ trụ được Thiên Chúa sáng tạo có mối tương quan hài hoà với Thiên Chúa và với con người,  “Thiên – Địa – Nhân”.

Con người gọi thiên nhiên với danh xưng thân thương trìu mến: Mẹ. Như người mẹ nuôi con bằng dòng sữa ngọt ngào, Mẹ Thiên Nhiên luôn hào phóng cung cấp đủ lương thực, nước uống và những nhu cầu của cuộc sống hằng ngày. Nhờ đó nhân loại từng thế hệ nối tiếp nhau sinh sống và phát triển. Nhận lãnh quyền từ Thiên Chúa, con người được mời gọi thay Ngài canh tác đất đai và tiếp tục làm cho công trình sáng tạo của Thiên Chúa tới mức hoàn mỹ.

Nhờ ủy thác này, nhân loại mạnh dạn khám phá và chế ngự thiên nhiên, tạo điều kiện thuận lợi để khoa học hình thành và phát triển. Qua khoa học kỹ thuật, con người ngày càng mở rộng chủ quyền của mình trên toàn thể đất - nước, hành tinh và vũ trụ. “Được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, con người đã nhận lãnh trách nhiệm chinh phục trái đất cùng với tất cả những gì chứa đựng trong đó, quản trị vũ trụ trong thánh thiện và công bằng” (GS 34).

Có rất nhiều bản văn của Giáo hội kêu gọi bảo vệ sinh thái cũng như lên tiếng trước tác động của ô nhiễm môi trường và phá hoại thiên nhiên, mà dẫn tới hậu quả là phần đông con người trên thế giới này, nhất là những người nghèo đang phải gánh chịu hậu quả. Trong khuôn khổ bài viết này chỉ xin đương cử vài bản văn gần thời điểm hiện nay nhất.

Tông thư Octogesima Adveniens của Đức Phaolô VI năm 1971 kêu gọi người Kitô hữu quay về với chính những nhận thức mới này, để rồi cùng với những người khác, đảm trách một vận mệnh mà từ nay đã trở thành của chung, ấy chính là bảo vệ thiên nhiên mà trong đó có việc bảo tồn nguồn nước (x. số 21).

Nhân dịp kết thúc năm Laudato Si', Đức Thánh Cha đã phát động nhiều phong trào để kỷ niệm năm công bố thông điệp này. Bộ Phục vụ và Phát triển Con người Toàn diện đã tổ chức “Tuần lễ Laudato Si'” từ 16-25/05/2021. Một trong những vấn đề về sinh thái toàn diện được đem ra bàn thảo có nói đến chủ đề về tránh lãng phí trong việc sử dụng nguồn nước.

Trước tình cảnh của con người trên thế giới đang lao đao vì bị thiếu nhu cầu căn bản là nước sạch. Giáo hội bênh vực quyền lợi của những người khốn khó ấy. “Được có nước uống an toàn là quyền căn bản và phổ quát cho hết mọi người, bởi vì nó thiết yếu cho sự sinh tồn và đó là điều kiện để thực thi những nhân quyền khác. Thế giới chúng ta đang mắc một món nợ lớn đối với người nghèo đang thiếu nước uống. Họ bị khước từ quyền được hưởng cuộc sống phù hợp với phẩm giá bất biến của họ.” (Laudato Si’, 30).

Bên cạnh đó, sứ điệp của Đức Thánh Cha hôm 1/9/2018, Ngày Thế giới Cầu nguyện cho việc Chăm sóc Thiên nhiên, chủ đề “Tôn trọng nước như yếu tố quý giá và việc đạt được nước uống như một nhân quyền”. Trong sứ điệp, Đức Phanxicô mời gọi các tín hữu cầu nguyện cho việc chăm sóc thiên nhiên, đặc biệt là việc bảo vệ các nguồn nước và ngài cũng kêu gọi chấm dứt nạn làm ô nhiễm đại dương. Sứ điệp nêu lên những lập trường hết sức đúng đắn như sau: “Nước kêu mời chúng ta suy tư về cội nguồn của mình. Qua văn thể gợi hình, mở đầu sách Sáng Thế viết rõ rằng ngay từ khởi thủy, thần khí Đấng Tạo Hóa “đã bay lượn trên mặt nước” (1,2). Đối với Kitô hữu, nước được Thánh Thần thánh hóa, là chất liệu Chúa dùng để ban sự sống và làm cho chúng ta thành người mới. Đức Giêsu đã hứa ban loại nước có khả năng thỏa mãn cơn khát của nhân loại (x. Ga 4,14), và “Ai khát hãy đến với Ta mà uống” (Ga 7,37). Ước gì lời Ngài thốt ra trên thánh giá – “Ta khát” (Ga 19,28) – không ngừng vang vọng trong tâm hồn chúng ta. Ngài kêu mời chúng ta cho Ngài uống trong thân phận những người đang khát hôm nay: “Ta khát và các ngươi đã cho Ta uống” (Mt 25, 35). Trong ngôi làng toàn cầu, cho uống không những là một cử chỉ bác ái cá nhân, mà còn biểu hiện những lựa chọn và quyết tâm bảo đảm cho hết mọi người tài nguyên quý báu này.”

Thêm nữa, cũng có những động thái của Giáo hội địa phương trong công tác bảo vệ sinh thái, giữ nguồn nước sạch. Liên Hội đồng Giám mục Châu Á tổ chức cuộc hội thảo tại Thái Lan ngày 31/1/2011 thảo luận về trách vụ của Giáo hội ở đại lục này đối với việc bảo vệ môi trường và kêu gọi ứng phó với biến đổi khí hậu hiện nay. Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn trong Lá thư Mục tử, 2009, khẳng định thiên nhiên là quà tặng của Đấng Tạo Hoá và là tài nguyên dành cho hết thảy mọi người. Không ai tạo dựng nên thiên nhiên. Khi họ sinh ra, thiên nhiên đã có rồi. Đời sống con người gắn liền với thiên nhiên. Quà tặng và tài nguyên này, bao gồm cả đất, nước, sinh quyển “được dành cho tất cả mọi người, chứ không chỉ dành riêng cho một ai hoặc một thiểu số nào, cũng không chỉ dành riêng cho thế hệ hiện tại mà còn cho cả thế hệ tương lai”.

3. Vài đề nghị cụ thể

Sự hiểu biết của con người cao hơn nhờ học hành và dễ dàng tiếp cận thông tin, hy vọng họ cũng sẽ thấy nguy cơ của việc cạn kiệt nguồn nước. Vậy nếu ngay bây giờ bạn và tôi không nỗ lực khắc phục tình trạng đó thì e rằng đã quá trễ. Nhân đây xin mạn phép đưa ra vài đề nghị nho nhỏ trong cuộc sống hằng ngày mà chúng ta có thể cùng thực hiện trước nhu cầu cấp bách là chăm sóc các nguồn nước:

- Tiết kiệm nước khi sử dụng nước sinh hoạt hàng ngày, mở nước tại các vòi nước cách vừa phải; kiểm tra, bảo trì cải tạo lại đường ống chứa nước để hạn chế thất thoát nước; dùng lại nguồn nước rửa rau, nước mưa vào những việc thích hợp như chà sân, tưới cây, rửa xe.

- Giữ sạch nguồn nước bằng cách không xả rác, phóng uế bừa bãi.

- Tránh ảnh hưởng đến nguồn nước sạch; sử dụng thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật đúng hướng dẫn, đúng liều lượng và thời gian.

- Chụp ảnh liên quan tới nước và đưa lên mạng xã hội để gây ý thức và tôn vinh nét đẹp của nguồn nước sự sống ví dụ cảnh mưa xuống thành những hạt ngọc phản chiếu ánh dương, niềm vui trong những sinh hoạt thường nhật bên sông hồ, sương rơi đọng trên những ngọn cỏ ban mai,…

- Phân loại rác, nhất là đối với kim loại nặng, pin, thiết bị điện tử.

- Hạn chế dùng túi nilon, những vật liệu khó phân hủy và hạn chế dùng phân tươi để bón rau.

- Trồng cây, trồng rừng ngập mặn - một cách giữ đất, giữ nước, giữ ẩm không khí và “cải thiện bữa ăn”.

- Vì nước tầng mặt tương tác với tầng ngầm, cho nên cần giảm thải trực tiếp ra ao hồ, gây ô nhiễm nguồn nước - đó cũng là cách tự bảo vệ sức khỏe của chúng ta.

- Tái sử dụng giấy (vì mỗi lần sản xuất, xí nghiệp giấy sử dụng nhiều loại hóa chất độc hại, nước thải màu vàng chảy ra từ ống ngầm, bốc mùi hôi nồng nặc, là gánh nặng cho môi trường), hạn chế xài đồ nhựa, những loại dùng một lần rồi bỏ.

- Dọn dẹp khu phố, cống rãnh, bãi biển.

- Bảo tồn và sử dụng bền vững các vùng đất ngập nước.

- Cầu nguyện cho việc bảo vệ và giữ gìn nguồn nước.

- Có những sáng kiến, cộng tác với bạn bè để chung tay thực hiện, chẳng hạn chiến dịch mới đây của Caritas mang tên “Marathon cầu nguyện cho thiên nhiên”.

Tóm lại, nước - mạch sống của trái đất - cần được quan tâm hơn nữa. Ước chi chúng ta làm như lời Đức Thánh Cha Phanxicô căn dặn trong sứ điệp ngài gởi nhân ngày Thế giới Chăm sóc Nhiên nhiên: “Chúng ta hãy cầu nguyện để nước không trở thành dấu chỉ sự chia cách giữa các dân tộc, nhưng là dấu chỉ sự gặp gỡ đối với cộng đoàn nhân loại”. Nếu mọi người cùng hợp tác, tương trợ và chung tay thì sẽ được hưởng trọn vẹn thế giới tốt đẹp này, vì cùng một mái ấm mà!

Là người Việt Nam, chúng ta không quên truyền thống uống nước nhớ nguồn. Từ tận đáy lòng và trực giác, chúng ta biết mình không phải nguyên lý của vạn vật. Khi tri ân Đấng đã tạo ra nước cho chúng ta hưởng dùng, tâm tình đó được diễn đạt để nói lên niềm tin vào Đấng vốn là nguồn gốc, qua cách chúng ta sống và bảo vệ thiên nhiên, gìn giữ hồng ân “Chị Nước” độc đáo mà Chúa đã ban.

(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 5, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)
WHĐ (11.09.2023)

---------------------------------

 

BÀI 100 - BÌNH AN NỘI TÂM


Quỳnh Thoại, CĐM
19/09/2023
Con dẫu biết ai cũng cần bình an trong cuộc sống. Tuy nhiên đó dường như là từ trừu tượng và khó hiểu. Nào là bình an bên ngoài, bên trong, bình an giả tạo? Vậy làm sao mới tìm được bình an thực sự?

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 100: BÌNH AN NỘI TÂM

Nữ tu Quỳnh Thoại, CĐM

Hỏi: Con dẫu biết ai cũng cần bình an trong cuộc sống. Tuy nhiên đó dường như là từ trừu tượng và khó hiểu. Nào là bình an bên ngoài, bên trong, bình an giả tạo? Vậy làm sao mới tìm được bình an thực sự?

Trả lời:

Em. Hai mốt tuổi, sinh viên Công giáo. Ở cái tuổi như em, người ta thường hay hỏi những câu như: bí quyết để thành công là gì? Làm thế nào để làm việc và học tập hiệu quả? Ra trường rồi thì nên về quê hay ở lại thành phố làm việc? Những câu hỏi như thế này rất thiết thực và giúp cho các bạn trẻ có định hướng cho tương lai.

Em làm tôi ngạc nhiên. Ngay lúc này, em không đi tìm thành công, hay mơ ước công việc tương lai cho mình. Vì sao vậy? Vì hiện tại của những điều đó không làm em lo lắng? Hay vì có điều khác hấp dẫn em hơn? Em thẳng thắn, không úp mở hỏi rằng: làm thế nào để có được sự bình an viên mãn?  Và tôi chợt nghĩ, đó không chỉ là một thắc mắc, mà còn là một lựa chọn. Không phải chọn lựa xơ xài đâu, mà là một lựa chọn rất mực khôn ngoan. Vì rốt cuộc, sau tất cả những gì một người cố gắng, vất vả cả đời để đạt được, đều nhằm tới mục đích này: một cuộc sống bình an! Em đã không đi tìm những giá trị bên ngoài, nhưng là những gì tạo nên giá trị bên trong. Tôi có thể đồng cảm với những loay hoay của em. Vì thật không dễ để nội tâm một người có thể bình an giữa cuộc sống đầy những đối kháng, tranh chấp và bạo lực hôm nay. Em đã kinh nghiệm được những mơ hồ, không rõ ràng, và dường như mất phương hướng trong hành trình tìm kiếm sự bình an cho mình. Lý tưởng và thực tế vẫn chưa gặp được nhau, và điều đó làm em băn khoăn.

Em thân mến!

Cám ơn rất nhiều những trăn trở của em. Nó giúp tôi nhìn lại cuộc sống nội tại của mình, và bắt đầu đi tìm câu trả lời cho chính mình: bình an nội tâm là gì? Tôi có đang bình an? Và đâu là nguồn bình an đích thực?

Bình an nội tâm là gì?

Trước khi trả lời cho câu hỏi này, tôi muốn kể em nghe câu chuyện về “ông vua và bức tranh vẽ sự bình yên”.[1] Chuyện kể rằng có một ông vua kia, treo giải thưởng cho ai có thể vẽ được một bức tranh chứa được thông điệp về sự bình yên một cách tròn đầy nhất. Nhiều họa sĩ đã hết lòng hết sức đặt bút xuống vẽ. Trong vô số những bức tranh được vẽ ra, chỉ có hai bức được chọn, và nhà vua đang phân định để chọn ra bức tranh ưng ý nhất.

Bức tranh thứ nhất vẽ hồ nước yên ả. Mặt hồ thì phản ánh vẽ đẹp hùng vĩ của những ngọn núi chập chùng, cao cao xung quanh, phía trên là trời xanh mây trắng, rất hài hòa. Ai nhìn vô cũng tấm tắc: Đúng là tuyệt phẩm về sự bình yên tựa như bài Thu Điếu của nhà thơ Nguyễn Khuyến!

Bức tranh còn lại cũng có núi, nhưng là núi đá lởm chởm, và trần trụi. Đã vậy, người họa sĩ còn tô thêm cho bầu trời những áng mây xám xịt, cùng trận mưa xối xả, kèm sấm chớp nữa. Chưa hết, bên vách núi còn có dòng thác chảy mạnh, nổi bọt trắng xóa, kiểu như đang hờn cả thế giới vậy. Nhìn tổng thể, không thấy đâu là bình yên. Nhưng điều lạ lùng là sau một hồi ngắm nghĩa bức tranh, nhà vua đã quyết định chọn đó là bức tranh vẽ về sự bình yên một cách chân thật nhất. Vì khi nhìn kỹ bức tranh, nhà vua đã phát hiện phía sau dòng thác giận dữ nổi bọt trắng xóa đó có một bụi cây mọc chen kẽ đá. Trong bụi cây, có cô chim mẹ đang xây tổ. Mặc kệ trận mưa xối xả, phớt lờ sấm chớp, và âm thanh chảy xiết của dòng thác, chim mẹ vẫn an nhiên đậu trên tổ của mình… tâm thái yên bình.

Câu chuyện cổ tích xa lơ xa lắc này đã giúp tôi hiểu hơn về sự bình an. Đó không phải là tình trạng vắng bóng của những ồn ào sau bao thành công và thất bại, hay những bon chen và lo toan ngoài kia cuộc sống. Trên hết, đó là khi tâm ta giữ được sự tĩnh lặng, bình yên giữa những giông bão cuộc đời. Nhưng làm sao để đạt được điều đó? Hãy nhìn chim mẹ đang làm tổ trong bụi cây: không lơ là để mình bị cuốn vào dòng thác chảy xiết, cũng không quá bận tâm vào đó, nhưng cái chính là tập trung vào công việc của mình: xây tổ! Sống trọn vẹn giây phút hiện tại, tâm sẽ không bị dao động bởi những điều không liên quan, hoặc không đem lại giá trị tích cực cho mình. Có lẽ, giây phút hiện tại của tuổi 21, độ tuổi thanh niên như em là việc học hành, và trau dồi cho mình những kỹ năng sống, làm việc nhóm, và giải trí lành mạnh. Biết làm chủ ngày sống của mình, em sẽ bình an khỏi những lo lắng đôi khi không cần thiết, và làm em mất bình an.

Tôi có đang bình an?

Bình an không đong đếm bằng những thành công, thành tựu, hay những điều ta đạt được trong cuộc sống. Muốn biết mình có bình an hay không, hãy để ý đến 3 đặc điểm sau:

1) Một là, bạn ngủ có ngon không?

Cứ mỗi tối thứ bảy, tôi đọc thánh vịnh 4, trong đó có câu này: “Thư thái bình an, vừa nằm con đã ngủ”. Không biết bạn thế nào, nhưng sau một ngày sống, học tập và làm việc, tôi thường ngồi lại, thinh lặng và xét mình. Tôi cám ơn Chúa vì những điều tốt mình đạt được, xin lỗi Chúa vì những thiếu sót và những lầm lỗi đã phạm, và cuối cùng là phó thác cho Chúa những gì còn dang dở. Sau đó là đẩy một giấc tới sáng. Có nghĩa là, khi tôi biết đặt mọi sự trong bàn tay quan phòng của Chúa, đồng thời biết và chấp nhận giới hạn của mình, tôi bình an. Điều đó thể hiện cụ thể qua giấc ngủ của tôi.

Còn khi tôi chọn ôm đồm nhiều việc và giải quyết mọi sự một mình, tôi thường bất an lắm. Vì sao? Vì tôi phải loay hoay tìm cách để mọi công việc được thành công một cách hoàn hảo nhất. Và nếu không được như ý, tôi đâm ra quạo quọ, thất vọng về bản thân. Nằm trên giường rồi, nhưng lòng vẫn còn nặng nề những ưu tư. Chúa cho giấc ngủ để nghỉ ngơi bồi dưỡng, nhưng tôi lạm dụng nó để phục vụ cho nhu cầu cái tôi cầu toàn của mình. Thử hỏi, sao tôi bình an được?

2) Hai là, bạn cười nhiều không?

Tôi nhớ có một câu nói rất hay của mẹ Thánh Têrêsa là: “Hòa bình bắt đầu bằng một nụ cười”. Hòa bình ở đây được hiểu là tâm thế bình an giữa cuộc đời. Nụ cười vừa là công cụ xây dựng bình an, vừa là dấu chỉ của một tâm hồn ngự trị bình an. Vì khi cười, bạn sẽ tỏa ra năng lượng tích cực cho chính mình, và cho người đối diện với mình. Nụ cười có thể giải tỏa những căng thẳng, xoa dịu những áp lực, và giúp bạn vui vẻ hơn. Niềm vui của bạn, niềm vui của người người Kitô hữu, nói như trong tông huấn “Hãy Vui Mừng và Hân Hoan” của Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Đó là hoa trái của Chúa Thánh Thần, và của đức ái[2]. Mà đúng là vậy đó, khi chúng ta có kinh nghiệm được yêu thương, chúng ta sẽ trở nên rất đáng yêu, và sự đáng yêu này được thể hiện nơi gương mặt rạng rỡ môi cười của mình. Một cách rất tự nhiên, bạn muốn trao tặng nụ cười cho những người mình yêu mến, và càng yêu thương nhiều, bạn càng muốn cho đi nụ cười nhiều hơn. Vậy ngồi ngẫm lại xem, bạn có hay cười không?

3) Ba là, lòng biết ơn của bạn như thế nào?

Khi tôi học về cuộc đời ông Gióp trong Kinh Thánh Cựu Ước, tôi chợt nhận ra rằng lòng biết ơn chính là bí quyết để ông giữ vững đức tin vào Thiên Chúa và sự bình an trong tâm hồn mình giữa những đau khổ thử thách xảy đến cho ông và gia đình[3]. Biết ơn trong mọi hoàn cảnh, dù vui hay buồn, được hay mất, sẽ giúp ta đón nhận và chấp nhận mọi việc xảy đến trong đời như một điều tất yếu trong cuộc sống, và trong Thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Khi nghĩ được như vậy, ta sẽ không trách Chúa, trách mình, trách người để rồi quay quắc bất an.

Đâu là nguồn bình an đích thực?

Em thân mến!

Đến đây, tôi lại nhớ về bài diễn văn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong đại hội Thiếu Nhi Thánh Thể vào tháng 8, 2015. Khi được một bạn trẻ người Brazil hỏi rằng: “Điều khó khăn nhất mà Đức Giáo Hoàng phải đối mặt trong khi sống theo căn tính và sứ vụ của mình là gì?”, Ngài đã trả lời như sau: “Luôn luôn tìm kiếm sự bình an nơi Chúa, sự bình an đích thực mà chỉ Chúa Giêsu mới có thể đem lại cho chúng ta.”[4] Ngài còn tiếp lời rằng, đang khi đi tìm sự bình an nơi Chúa, chúng ta cũng sẽ gặp đâu đó những loại bình an khác. Những kiểu bình an đó có thể khiến chúng ta vui vẻ, thoải mái trong chốc lát, nhưng nó không kéo dài, và đặc biệt, nó có thể đến từ kẻ thù của chúng ta.

Chúng được khoác trên mình những lớp áo của sự dung dưỡng bản thân không cần thiết, và những thú vui không lành mạnh. Chúng có tính giải trí, làm ta hài lòng trong lúc này, nhưng lại hủy diệt ta sau đó. Còn bình an đến từ Chúa Giêsu sẽ đem đến cho chúng ta niềm vui lâu bền, một “niềm vui sâu thẳm”[5], đó là chúng ta được đầy tràn Thần Khí của sự thật. Chính Chúa Giêsu sau khi sống lại từ cõi chết đã hiện ra với các môn đệ và ban bình an cho các ông, một sự bình an không theo kiểu thế gian. Vậy sự bình an đó là gì?

Như thông điệp trong câu chuyện nhà vua và bức tranh vẽ sự bình an, tôi muốn chia sẻ tâm tình này với em, rằng bình an không có nghĩa là vắng bóng của bão giông. Bình an mà Chúa Giêsu ban tặng cho các môn đệ Ngài cũng vậy. Đó là sự bình an viên mãn đã trải qua đau khổ, thập giá, và cái chết. Em và tôi đang được mời gọi không phải để đi tìm sự bình an không có thử thách bên ngoài, nhưng để đi vào trong sự bình an đó, nơi con người Đức Giêsu. Hành trang cần chuẩn bị cho sự đi vào trong này là:

+ Thói quen kết nối với Chúa mỗi ngày trong Thánh Lễ, và trong cầu nguyện. Nếu khi yêu thương ai, ta thường muốn liên lạc và kết nối thường xuyên với người đó thì với Chúa cũng vậy. Hãy ưu tiên một khoảng lặng trong ngày để chia sẻ với Ngài những gì đang xảy ra trong cuộc sống mình. Dù chỉ là năm, mười phút thinh lặng ngắn ngủi bên Thánh Thể. Đó cũng là dịp để chính bản thân được nghỉ ngơi khỏi những ồn ào của công việc và tương quan. Vả lại, có ai đến gần nguồn nước mà phải khát bao giờ. Chúa là nguồn bình an, sẽ thỏa cơn khát trong ta.

+ Chọn lọc những giá trị để dấn thân. Cuộc sống là một chuỗi những chọn lựa, quyết định, và trách nhiệm đi kèm. Tuổi trẻ có nhiều cơ hội, nhiều chọn lựa, nhưng cùng đầy những thách đố. Hãy chọn học hỏi, trau dồi nhân cách bằng những điều thiện lương, trong sáng, mang tính xây dựng cộng đồng, thì dù thành công hay thất bại, bạn vẫn sẽ bình an.

+ Xin ơn bình an. Bình an là quà tặng của Thiên Chúa, là hoa trái của Chúa Thánh Thần. Chính Thánh Phaolô đã phải thốt lên, “Tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa”. (1 Cr 15,10). Như vậy, để kinh nghiệm được sự bình an, chúng ta hãy biết quỳ gối cầu xin Chúa, xin Ngài ban cho chúng ta được kinh nghiệm sự bình an Phục Sinh mỗi ngày.

Hy vọng với những chia sẻ trên cùng gói hành trang chứa gọn tâm tình cầu nguyện, cầu xin, và thái độ chọn lựa giá trị để dấn thân trong cuộc sống, sẽ giúp em đi sâu vào trong cõi lòng mình, và gặp được bình an. Chúa ở cùng em!

Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 5, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (19.09.2023)

---------
[1] Truyện Cổ Tích Việt Nam, Sự Bình Yên. Đăng nhập ngày 8 tháng 5 năm 2021 từ https://truyencotich.vn/qua-tang-cuoc-song/su-binh-yen.html.
[2] Gaudete et Exsultate: Chương IV, câu 122.
[3] Gióp 1, 21.
[4] Pope Francis, Address of His Holiness Pope Francis to The Eucharistic Youth Movement (Meg). Đăng nhập ngày 8 tháng 5, 2021. https://www.vatican.va/content/francesco/en/speeches/2015/august/documents/papa-francesco_20150807_meg.html
[5] Ibid.

---------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây