Giải đáp thắc mắc cho người trẻ công giáo Bài 101-120

Thứ sáu - 21/03/2025 08:44
Giải đáp thắc mắc cho người trẻ công giáo Bài 101-120
Giải đáp thắc mắc cho người trẻ công giáo Bài 101-120
Giải đáp thắc mắc cho người trẻ công giáo Bài 101-120
Nguồn: https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/giai-dap-thac-mac-cho-nguoi-tre-cong-giao-50477
---------------------------------
Nội Dung:

BÀI 101 - CÁM DỖ NƠI NGƯỜI TU SĨ 1
BÀI 102 - ẤP Ủ ƠN GỌI 4
BÀI 103 - NGƯỜI TU SĨ ĐỒNG TÍNH.. 10
BÀI 104 - ĐỨC GIÊSU, NGƯỜI THẬT VIỆC THẬT.. 15
BÀI 105 - LÀM GIÀU TRƯỚC MẶT THIÊN CHÚA.. 20
BÀI 106 - TÌNH YÊU THIÊN CHÚA VÀ SỰ DỮ TRONG THẾ GIỚI CON NGƯỜI 24
BÀI 107 - Ý NGHĨA CỦA LAO ĐỘNG.. 29
BÀI 108 - CỦA CHO KHÔNG BẰNG CÁCH CHO.. 34
BÀI 109 - LUẬT TỰ NHIÊN VÀ THIÊN LUẬT.. 38
BÀI 110 - SƠ ƠI CỨU CON! 40
BÀI 111 - HẠNH PHÚC TRONG THIÊN CHÚA.. 44
BÀI 112 - TÍNH DỤC – NĂNG LƯỢNG YÊU THƯƠNG.. 47
BÀI 113 - GẶP CHÚA MỖI NGÀY.. 51
BÀI 114 - ĐẠO “GỐC CÂY” CÂN ĐẠO “TẠI TÂM”. 55
BÀI 115 - CUỘC SỐNG LUÔN LÀ LỜI CẦU XIN CHÚA.. 59
BÀI 116 – VÀI CÁCH CẦU NGUYỆN.. 65
BÀI 117 – NGƯỜI CÔNG GIÁO LÀM TỪ THIỆN.. 70
BÀI 118 – NGƯỜI ĐÃ LẬP GIA ĐÌNH CÓ ĐƯỢC LÀM LINH MỤC?. 74
BÀI 119 – ĐỂ DANH THIÊN CHÚA ĐƯỢC NHIỀU NGƯỜI BIẾT ĐẾN.. 80
BÀI 120 – CHÚNG CON VẪN NHỚ! (CẦU NGUYỆN CHO ÔNG BÀ TỔ TIÊN) 84

---------------------------------

 

BÀI 101 - CÁM DỖ NƠI NGƯỜI TU SĨ


Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc, SJ
26/09/2023
Trường hợp yêu một người đang có ơn gọi dâng hiến và dần dần người đó từ bỏ ơn gọi thì có phải là cám dỗ hay không?

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 101: CÁM DỖ NƠI NGƯỜI TU SĨ

Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc SJ 

Hỏi: Trường hợp yêu một người đang có ơn gọi dâng hiến và dần dần người đó từ bỏ ơn gọi thì có phải là cám dỗ hay không?

Trả lời:

Bạn thân mến,

Câu hỏi của bạn thật thú vị. Tiếng Việt mình rất hay khi dùng chữ cám dỗ. “Cám” nghĩa là gây xúc động, “dỗ” là nói để người khác làm theo. Như thế, cám dỗ là xúi dục, nói người khác làm theo[1]. Thường chúng ta hiểu cám dỗ liên quan đến những điều xấu xa, tội lỗi. Phải nói ngay rằng cám dỗ chỉ là con đường đưa đến tội lỗi, chứ chưa phải là tội. Chỉ khi nào đương sự chấp nhận làm theo những cám dỗ mới xét đến chiều kích tội lỗi. Điều thú vị là cám dỗ có khi là cơ hội để rèn luyện nhân đức. (GLHTCG 2847).

Chúng ta không tránh được cám dỗ. Chính Đức Giêsu cũng nhiều lần bị ma quỷ cám dỗ. Kinh Thánh coi Satan là kẻ cám dỗ. Nó như con rắn thủ thỉ với bà Eva ăn trái cấm. Chỉ khi Eva ăn trái ấy, bà mới mang tội lỗi. Sau này, chính Đức Giêsu dạy cho chúng ta phải tỉnh thức và cầu nguyện để thoát khỏi những cơn cám dỗ. Từng là người khí phách tuyên xưng đức tin, vậy mà thánh Phêrô phải thú nhận rằng: “Hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé.” (1 Pr 5,8–9).

Cám dỗ lúc đầu bao giờ cũng đẹp. Ma quỷ không ngu ngốc đến nỗi bày ra những chuyện xấu xa ngay từ đầu. Nó như con rắn biết đối thoại có lớp lang. Lúc đầu nó thường nói lời ngon ngọt, kể cả đúng đắn. Chẳng hạn nó hỏi Eva: “Các người không được ăn hết mọi trái cây trong vườn phải không?” Eva: "Các trái cây thì được ăn, trừ cây ở giữa vườn." Eva đưa ra lý do: “Vì Thiên Chúa bảo không được ăn, kẻo phải chết.” Con rắn bồi thêm: “Chẳng chết chóc gì đâu?”

Vậy là họ đã đối thoại qua lại. Dĩ nhiên hậu kỳ câu chuyện, Eva đã bị con rắn thuyết phục. Vài lần Đức Giáo Hoàng Phanxicô cho biết: “Chẳng có điều gì thuyết phục tôi để phải đối thoại với Satan cả!” Sau đó ngài đưa ra lý do: "Vì Satan thông minh hơn chúng ta nhiều. Nếu chúng ta bắt đầu đối thoại với nó, nó sẽ quay chúng ta vòng vòng và sau cùng là chúng ta lạc hướng. Bản chất của Satan là dối trá lừa bịp chúng ta, thậm chí với cả giám mục và linh mục nữa. Ngược lại, khi chúng ta cương quyết đuổi nó đi, chúng ta sẽ chiến thắng. Đừng đối thoại với nó!"

Trong đời dâng hiến, các tu sĩ rất dễ gặp phải những “cám dỗ” tình cảm thật nhẹ nhàng nhưng tinh vi, do đó, các tu sĩ thường có những người đồng hành, hướng dẫn thiêng liêng. Họ thường có bề trên và bằng hữu để chia sẻ buồn vui của đời dâng hiến. Nhất là khi gặp khó khăn, người ấy được mời gọi chạy đến với họ để được an ủi và giúp đỡ. Thực tế đã có nhiều người vượt qua được những cám dỗ, kể cả chuyện tình cảm.

Đúng là những chuyện tình cảm giữa người nam và người nữ luôn có sức hút mãnh liệt khiến người tu sĩ nhiều khi mệt nhoài. Kể cả giáo dân cũng thế. Người đời cũng vẫn thường gào lên: “Hỡi thế gian tình là chi?”[2] đấy thôi. Tạ ơn Thiên Chúa đã đặt để trong mỗi con người bản năng yêu thương và cần được thương yêu. Chính món quà giới tính mà người nam và người nữ có thể đến được với nhau và nên nghĩa vợ chồng. Với người tu sĩ, họ có một mối tình đặc biệt với Thầy Giêsu. Hy vọng họ có đủ sức để vượt qua những cám dỗ vốn thường có trên bước đường ơn gọi.

Là tu sĩ trẻ, tôi hiểu chuyện tình cảm ấy khiến người tu sĩ vất vả để đương đầu. Có lần vị linh hướng chia sẻ rằng thay vì cứ chú tâm vào những cám dỗ, những rung động tình cảm ấy, thật hữu ích để tập trung vào những điều cao quý hơn. Nghĩa là, đời sống của người tu sĩ còn nhiều điều thú vị khác cần khám phá: cộng đoàn, sứ vụ, học tập, cầu nguyện, chia sẻ, v.v. Tôi tin những môi trường ấy có thể giúp cho người tu sĩ nhận ra những giá trị đích thực mà họ đang theo đuổi.

Trong đó, người tu sĩ sống hạnh phúc với những đòi hỏi độc thân vì Nước Trời. Bởi:

“Những ai theo Chúa Giêsu sát hơn tất nhiên họ hiểu rằng Người phải được yêu mến với một trái tim không chia sẻ, và mình phải dâng hiến cho Người tất cả cuộc sống chứ không phải chỉ vài cử chỉ, vài mảnh thời gian hay vài công việc.”[3]

Nếu cần một lời khuyên: “Có nên chủ động yêu người đã thuộc về Chúa không? Thì tôi cần nói là không! Xin cầu nguyện cho họ trung thành theo Chúa đến cùng. Dẫu biết chuyện tình cảm, những cám dỗ có khi xảy đến; nhưng trên hết, hãy để Thiên Chúa chi phối các tương quan ấy. Khi đó, chắc cám dỗ sẽ nhẹ gánh hơn nhiều. Còn những ai đang yêu người có ơn gọi dâng hiến, chỉ có họ mới biết mình cố tình hoặc vô ý cám dỗ người tu sĩ hay không mà thôi!

Nhân đây, thay vì “cám dỗ” người tu sĩ, xin cầu nguyện cho họ thật nhiều:

Lạy Chúa Giêsu – người tình đặc biệt của người tu sĩ, xin tiếp tục thắp lên ngọn lửa tình của Ngài để nung nấu trái tim của những người sống đời hiến dâng. Nhờ đó, mỗi tu sĩ có thể luôn rạng ngời niềm vui, ngập tràn tình yêu vì được bén rễ sâu trong tình thương của Đấng họ đang bước theo. Nếu lúc nào đó tình yêu trong họ vơi đi, sức hấp dẫn của đời tu yếu dần, xin Chúa mau đến và ở lại trong trái tim họ. Kể cả những lúc chuyện tình cảm nam nữ bủa vây người tu sĩ, xin Chúa đến giúp họ biết đâu là ơn gọi đích thực để họ được hạnh phúc. Ước mong từ đó, các tu sĩ của Chúa được hồi sinh và tiếp tục yêu hết mình và tu hết tình. Amen.

Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 5, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (25.09.2023)

---------
[1] Theo Nguyễn Lân: “Cám dỗ là tìm mọi cách quyến rũ làm việc gì không hay”.
[2] “Hỡi thế gian tình là chi, mà đôi lứa hẹn thề sống chết” thường gợi nhớ đến nhân vật Lý Mạc Sầu trong phim Thần Điều Đại Hiệp, tiểu thuyết kiếm hiệp Kim Dung (1924–2018).
[3] Tông Huấn Vita Consecrata, số 104.

---------------------------------

 

BÀI 102 - ẤP Ủ ƠN GỌI


Lm. Giuse Lê Đắc Thắng, SJ
04/10/2023
Hỏi: Làm sao để ấp ủ và nuôi dưỡng ơn gọi hiến dâng? Trả lời: Bạn thân mến, trước hết tôi chúc mừng bạn vì bạn đã có ơn gọi hiến dâng để mà ấp ủ và nuôi dưỡng!

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 102: ẤP Ủ ƠN GỌI

Giuse Lê Đắc Thắng SJ

Hỏi: Làm sao để ấp ủ và nuôi dưỡng ơn gọi hiến dâng?

Trả lời:

Bạn thân mến,

Trước hết tôi chúc mừng bạn vì bạn đã có ơn gọi hiến dâng để mà ấp ủ và nuôi dưỡng!

Sự thật là nhiều bạn trẻ Công giáo chẳng bao giờ mảy may nghĩ về ơn gọi hiến dâng. Nếu được hỏi đến thì họ sẽ buông câu trả lời rất chắc nịch: “Không là không!” Điều ấy rất bình thường, chứng tỏ các bạn đó đang ấp ủ và nuôi dưỡng ơn gọi khác!

Riêng ơn gọi dâng hiến là một ơn gọi đặc biệt, bởi vì không nhiều người được Chúa mời gọi sống đời dâng hiến. Nếu bạn cảm thấy mình được mời gọi sống đời tu theo linh đạo nào đó và bởi một lý do nào đó, dù chưa thực sự rõ ràng, thì đó cũng đã là điều rất tuyệt vời rồi.

Bạn thân mến, câu hỏi của bạn đã làm nổi bật một yếu tố rất quan trọng trong ơn gọi hiến dâng: nó cần phải được ấp ủ và nuôi dưỡng. Thật vậy, ơn gọi hiến dâng tương tự như hạt giống được gieo vào lòng đất, nó cần nhiều điều kiện phù hợp về nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng và chất dinh dưỡng để có nảy mầm và phát triển lớn mạnh. Là một người đang “manh nha” ý định sống đời tu, chắc hẳn bạn rất thao thức về những điều kiện đó trong cuộc đời mình. Theo đó, có những yếu tố tự bản thân bạn phải đầu tư xây dựng, nhưng cũng có những yếu tố khác được hỗ trợ từ môi trường bên ngoài. Tôi nêu ra ở đây một vài yếu tố để bạn suy xét xem chúng có liên hệ như thế nào với trường hợp của mình nhé.

1. Ý hướng đúng đắn

Một trong những yếu tố quan trọng nhất giúp người ta sống trọn vẹn đời dâng hiến chính là ý hướng đúng đắn. Trong bất cứ cuộc hành trình nào, trước hết bạn phải xác định đích đến rồi sau đó mới tính đến chuyện lựa chọn lộ trình phù hợp. Hành trình đời tu cũng tương tự như thế, bạn phải ý thức rõ mình đang đi đâu và muốn tìm gì thì bạn mới có thể tu được.

Lấy ví dụ, nếu một người muốn đi tu với hy vọng được bảo đảm lợi ích vật chất hay danh dự cho bản thân và gia đình thì họ đã xác định sai mục đích ngay từ đầu. Dù họ có tìm mọi cách nuôi dưỡng hay ấp ủ thì cũng chẳng bao giờ tu “thành” được, bởi vì đời tu đích thực sẽ không bao giờ dẫn tới những giá trị ấy. Do vậy trước khi bàn về vấn đề ấp ủ và nuôi dưỡng ơn gọi dâng hiến thì bạn hãy tự hỏi lòng mình rằng ơn gọi đó sẽ dẫn bạn đi đến đâu. Hay nói cách khác, bạn mong muốn tìm được điều gì trong đời tu?

Bạn đừng quá lo lắng hay vội vàng bỏ cuộc nếu thấy mình không có ý hướng đúng đắn 100% khi ao ước sống đời tu. Có thể động lực đời tu của bạn vẫn còn pha lẫn đôi chút giá trị lệch lạc. Bạn nghĩ rằng các cha, các thầy hay các sơ sống sung sướng, không phải lo cơm áo gạo tiền, cũng chẳng phải bận tâm chuyện vợ chồng con cái. Những điều như thế thu hút bạn đến với đời tu là chuyện bình thường. Thế nhưng, bạn nên hiểu rằng đó vẫn chưa phải là hình ảnh đầy đủ và đúng đắn về đời tu.

Tuy nhiên, dù ý hướng tinh tuyền rất quan trọng và cần thiết nhưng nó không phải là đòi hỏi tuyệt đối để một người có thể bước vào sống đời tu. Ý hướng lệch lạc của bạn vẫn được chấp nhận, miễn là bạn sẵn sàng để ý hướng ấy được thanh luyện trong thời gian sống trong nhà dòng hay chủng viện. Việc thanh luyện ý hướng không phải là chuyện một sớm một chiều, có khi phải kéo dài suốt cả một đời.

Bạn yên tâm, trong mỗi hội dòng hay chủng viện đều có những người giàu kinh nghiệm phụ trách việc huấn luyện. Họ sẵn sàng lắng nghe, đồng hành và giúp bạn nhận ra động lực đúng đắn nhất để tiếp tục dấn thân trong đời tu. Cũng có nhiều người không vượt qua được quá trình thanh luyện ý hướng. Họ bước vào đời tu với một hình ảnh lệch lạc về đời sống này. Khi va chạm với thực tế thì họ vỡ mộng, không thể tiếp tục sống ơn gọi dâng hiến được nữa. Ví dụ như có người nghĩ rằng khi trở thành tu sĩ rồi thì đời sống sẽ an nhàn, không phải bận tâm suy nghĩ nhiều, lại đỡ vất vả việc tay chân. Tuy nhiên, khi phải làm việc vất vả vì công việc của nhà dòng thì họ không chấp nhận được, đành phải từ bỏ đời tu.

2. Tâm tình tạ ơn

Ơn gọi hiến dâng là một đời sống được xây dựng trên niềm vui. Niềm vui ở đây không chỉ là những giây phút hân hoan trong ngày khấn dòng hay chịu chức thánh. Những cái đó sẽ đến và cũng sẽ qua đi rất nhanh, nhưng chúng không làm nên giá trị cốt lõi của đời tu. Nền tảng của đời tu phải là niềm vui tạ ơn. Người tu sĩ vui mừng khi nhận ra Chúa quá yêu thương mình và tất cả mọi người nói chung. Do đó họ tình nguyện dành trọn vẹn cả cuộc đời để tuyên xưng và làm lan tỏa tình yêu ấy đến với người khác.

Đời tu chính là lời đáp trả tình yêu Thiên Chúa bằng trọn vẹn đời sống hiến dâng chứ không phải là lựa chọn anh hùng của bản thân người tu sĩ. Nhiều người chọn đời tu giống như kiểu ta đây đã can đảm hy sinh từ bỏ nhiều thứ để sống cho Chúa và cho Giáo hội. Nhìn bề ngoài thì hành vi đáp trả tình yêu và lựa chọn anh hùng có vẻ giống nhau nhưng thực ra động lực bên trong rất khác nhau. Một bên xuất phát từ lòng biết ơn nên muốn quảng đại hiến dâng, còn bên kia thể hiện cái tôi đầy ích kỷ. Loại người “anh hùng” thường chỉ thấy bản thân mình, tự hào vì mình đã từ bỏ nhiều thứ. Họ tính toán, cân đong đo đếm, so sánh ganh tỵ, cân nhắc thiệt hơn trong mọi lựa chọn. Đến một lúc nào đó họ thấy rằng mình đã từ bỏ quá nhiều rồi, không muốn hy sinh thêm nữa. Hoặc là họ sẽ tìm cách “lấy lại những gì đã mất”, thậm chí còn lấy lại gấp trăm gấp ngàn lần.

Người biết ơn thì khác, vì ý thức rằng Chúa đã ban cho họ tất cả mọi thứ nên họ sẵn sàng cho đi. Họ thấm nhuần và thực hiện lời Chúa Giêsu dạy: “Anh em đã được cho không thì cũng phải cho không như vậy” (Mt 10,8). Chúa không đòi hỏi họ phải hy sinh từ bỏ nhưng chính bản thân họ được thôi thúc chia sẻ những gì đã được nhận lãnh. Đối với họ, không một hy sinh nào là quá nhiều so với hồng ân bao la của Thiên Chúa, không một từ bỏ nào là quá mất mát so với “mối lợi tuyệt vời là được biết đức Kitô” (Pl 3,8). Họ chưa bao giờ coi những gì họ cho đi là to tát cả, bởi vì họ biết rằng cho đi vậy vẫn chưa đủ so với tình yêu lớn lao họ đã nhận lãnh từ Thiên Chúa.

Do vậy, để ấp ủ và nuôi dưỡng đời tu, trước hết bạn hãy luôn luôn nuôi dưỡng nơi mình tâm tình biết ơn. Bạn hãy cầu xin Chúa cho mình có con mắt đức tin để nhận ra tình thương của Thiên Chúa luôn không ngừng tuôn đổ xuống trên bản thân, gia đình và toàn bộ cuộc sống của bạn. Tất cả là hồng ân!

3. Quảng đại dấn thân

Yếu tố quan trọng tiếp theo giúp nuôi dưỡng đời sống hiến dâng chính là lòng quảng đại. Như tôi đã chia sẻ ở ngay phần trước, thái độ biết ơn sẽ là động lực thôi thúc bạn đáp trả bằng đời sống hy sinh phục vụ tha nhân trong đời tu. Tuy nhiên, những va chạm thực tế với anh chị em trong cộng đoàn hay trong công việc tông đồ đôi khi làm giảm hoặc thậm chí làm mất đi động lực tốt đẹp đó. Đó có thể là hiểu lầm; đó có thể là ghen ghét đố kỵ; đó có thể là nhục mạ; đó có thể là vu khống; đó có thể là vô ơn… Có rất nhiều lý do khiến bạn cảm thấy sự hy sinh của mình dường như vô nghĩa.

Đấy là lý do tại sao tôi khuyên bạn cần phải xin ơn quảng đại. “Biết cho đi mà không tính toán, biết chiến đấu không sợ thương tích, biết làm việc không tìm nghỉ ngơi, biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào hơn là được biết con đang thi hành ý Chúa” (Kinh Quảng Đại Dâng Hiến của thánh I-nhã). Đời tu chắc chắn sẽ có nhiều hy sinh cắt tỉa, dẫn đến những đau đớn và thiệt thòi về thể xác, vật chất, tinh thần, tình cảm.

Xin ơn quảng đại chính là để đón nhận sự yếu đuối của những người sống chung với mình trong cộng đoàn. Có những người bước vào đời tu với ý hướng rất tốt lành và động lực mạnh mẽ nhưng lại không thể tiếp tục sống trọn vẹn đời dâng hiến chỉ vì không thể đón nhận yếu đuối của người khác. Ban đầu họ tưởng rằng cộng đoàn đời tu chỉ gồm những người rất mực yêu thương nhau. Thế nhưng khi sống trong đời tu một thời gian thì họ mới nhận ra các tu sĩ cũng ghen ghét, nói xấu nhau chẳng khác gì người ngoài đời, có khi còn tệ hơn nữa.

Nếu bạn hiểu rằng con người vốn yếu đuối, dù là tu sĩ cũng vậy, thì bạn sẽ thông cảm và cầu nguyện cho các tu sĩ nhiều hơn. Bạn thấy mình được Chúa mời gọi sống chứng nhân tình yêu trong môi trường đó nên tiếp tục vui vẻ sống đời tu. Tuy nhiên, cũng có thể bạn không chấp nhận những tu sĩ có cách hành xử như vậy. Nhất quyết phải sống với các tu sĩ “hoàn hảo” thì bạn mới tu được. Khi đó sớm muộn gì bạn cũng phải từ bỏ đời tu, bởi vì chẳng bao giờ có một cộng đoàn nào như thế cả.

4. Tập tành nhân đức

Khi bạn đã chuẩn bị cho mình thái độ biết ơn và xin ơn quảng đại rồi thì hãy bắt tay vào việc tập tành các nhân đức đời tu trong hoàn cảnh cụ thể hiện tại của mình. Đời tu không chỉ được tính từ lúc bạn bước vào cửa nhà dòng hay lúc bắt đầu mặc tu phục. Đúng hơn, đời tu có thể bắt đầu từ lúc bạn nhận ra lời mời gọi dâng hiến và đáp trả lại lời mời gọi đó bằng những việc làm rất đơn sơ nhỏ bé.

Đời tu được đặc trưng bởi 3 lời khuyên Phúc âm: Khó nghèo, Vâng phục và Khiết tịnh. Nếu bạn muốn nuôi dưỡng và ấp ủ đời sống hiến dâng, bạn nên chú ý đến những yếu tố đó trong đời sống hiện tại của mình, cho dù bạn chưa chính thức bước vào đời tu. Bạn có thể tập cho mình thái độ buông bỏ đối với của cải vật chất. Thay vì coi tiền bạc như mục đích tìm kiếm trong đời mình thì hãy đặt nó đúng chỗ như là phương tiện giúp mình duy trì đời sống ổn định để thờ phượng Thiên Chúa.

Nếu bạn chưa vào sống trong một cộng đoàn đời tu, nghĩa là chưa có một bề trên chính thức để thực hành lời khấn vâng phục, thì bạn vẫn có thể sống nhân đức vâng phục qua việc từ bỏ ý riêng để tìm kiếm ý Chúa qua lời dạy bảo của những người có trách nhiệm. Với lời khấn khiết tịnh cũng thế, ơn gọi sống đời dâng hiến chỉ có thể được ấp ủ nơi tâm hồn của một thân xác trong sạch. Sự trong sạch ở đây không dừng lại ở việc không quan hệ tình dục mà nó phải bao quát toàn bộ đời sống tâm lý tình cảm của bạn. Bạn thực sự muốn hiến dâng trọn vẹn cuộc đời mình, cả tâm hồn và thể xác, để phục vụ một mình Thiên Chúa mà thôi.

Bên cạnh việc sống nhân đức khó nghèo, vâng phục và khiết tịnh, bạn còn có thể tập sống đời tu ngang qua những hy sinh phục vụ ngay trong môi trường gia đình, nhà trường, hay giáo xứ của mình. Hiểu theo nghĩa chung nhất, đời tu chính là bước theo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đến thế gian “Không phải để được phục vụ mà là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45). Ngay từ lúc đang còn ấp ủ ý định sống đời dâng hiến, bạn phải ý thức noi theo mẫu gương phục vụ của Chúa Giêsu.

Mẹ thánh Têrêsa thành Calcutta đã chỉ ra bí quyết nên thánh: “Làm việc nhỏ với tình yêu lớn.” Bạn hãy dấn thân phục vụ trong những việc nhỏ như phụ giúp bố mẹ làm việc nhà, chăm chỉ học hành, quảng đại trong công việc trường lớp, siêng năng cộng tác phục vụ nhà thờ nhà xứ… Bạn sẽ có được kinh nghiệm phục vụ, kinh nghiệm hy sinh, kinh nghiệm yêu thương trong những công việc như vậy. Nếu Chúa thương mời gọi bạn sống đời tận hiến, bạn sẽ thấy rằng những kinh nghiệm bạn có trước đó không khác bao nhiêu trong đời tu.

5. Đời sống thiêng liêng

Cuối cùng, nền tảng sâu xa và quan trọng nhất của đời tu chính là lòng yêu mến Thiên Chúa. Đúng là đời tu được thể hiện qua đời sống khó nghèo, vâng phục và khiết tịnh, cùng với những việc dấn thân phục vụ, giúp đỡ tha nhân. Tuy nhiên, tất cả những việc làm ấy phải được phát xuất từ lòng yêu mến Thiên Chúa, còn không chúng chỉ là “thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng” (1Cr 13,1). Xét cho cùng, đời tu không phải do chúng ta chọn lựa hay tự mình xác định. Ơn gọi phải đến từ Thiên Chúa, như lời Chúa Giêsu đã nói: “Không phải anh em đã chọn Thầy nhưng chính Thầy đã chọn anh em” (Ga 15,16). Do đó nếu bạn không cảm nhận được cách nào đó tiếng Chúa đang gọi mời mình thì bạn sẽ không tìm được lý do nuôi dưỡng và thúc đẩy sống đời dâng hiến.

Trong tương quan giữa người với người, chúng ta cần thường xuyên tương tác, lắng nghe và chia sẻ tâm tư tình cảm cho nhau thì mới mong xây dựng tình thân được. Tương quan với Chúa cũng tương tự như thế. Không thường xuyên chạy đến với Chúa, không mở lòng tâm sự với Chúa, không chăm chú lắng nghe tiếng Chúa thì làm sao thân thiết với Chúa được. Do vậy bạn hãy tập dần thói quen tham dự thánh lễ hằng ngày, yêu mến Bí tích Thánh Thể, năng đến với Chúa trong Bí tích Hòa giải. Đó là những môi trường bạn gặp gỡ trực tiếp với Thiên Chúa và được Ngài nuôi dưỡng bằng lương thực thiêng liêng. Ngoài ra, người ta nói “vô tri bất mộ”, tức là không hiểu biết thì không yêu mến được. Vì thế bạn hãy trau dồi kiến thức giáo lý, học hỏi Kinh Thánh, tìm hiểu các vấn đề liên quan đến đức tin để hiểu hơn về Thiên Chúa và hy vọng qua đó thêm yêu mến Ngài hơn.

Để kết thúc, tôi muốn nhắn nhủ rằng bạn đừng nên lo lắng nếu thấy “xuất phát điểm” của mình còn quá thấp so với những tiêu chí được nêu ra ở trên. Điều đó rất bình thường. Ai cũng cần thời gian để lớn lên, ai cũng phải trải qua vấp ngã thì mới trở nên cứng cáp được. Ngay cả Chúa Giêsu cũng cần phải học hỏi từ từ mới trưởng thành về mọi mặt đấy thôi.

Nếu bạn thấy mình được Chúa mời gọi sống đời hiến dâng và đang thao thức ấp ủ ơn gọi ấy, chắc chắn việc Chúa đã khởi sự nơi bạn thì Ngài cũng sẽ ra tay hoàn tất tốt đẹp. Vì vậy bạn hãy đơn sơ phó thác để cho bàn tay Chúa dẫn dắt. Như thế sớm muộn gì bạn cũng sẽ được cảm nếm những hoa trái tốt đẹp trong đời sống và ơn gọi của mình. Xin Chúa tiếp tục chúc lành và gìn giữ ơn gọi hiến dâng mà bạn đang ấp ủ.

Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 5, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (04.10.2023)

---------------------------------

 

BÀI 103 - NGƯỜI TU SĨ ĐỒNG TÍNH


Pr. Lê Hoàng Nam, SJ
09/10/2023
Hỏi: Người tu sĩ đồng tính thì có sao không? Trả lời: Chào bạn, Trước khi đưa ra câu trả lời cho chuẩn xác, hãy cùng làm rõ câu hỏi của bạn. Hạn từ “tu sĩ” được dùng để chỉ những người nam/nữ sống đời thánh hiến qua việc tuyên khấn công khai các lời khuyên phúc âm (gọi tắt là lời khấn) trong một hội dòng. “Người tu sĩ hiến dâng trọn vẹn thân mình như một hy lễ được dâng lên Thiên Chúa, nhờ đó tất cả cuộc sống họ trở nên một việc liên lỉ thờ phượng Thiên Chúa trong đức ái” (GL 607).

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 103: NGƯỜI TU SĨ ĐỒNG TÍNH

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Hỏi: Người tu sĩ đồng tính thì có sao không?

Trả lời:

Chào bạn,

Trước khi đưa ra câu trả lời cho chuẩn xác, hãy cùng làm rõ câu hỏi của bạn.

Hạn từ “tu sĩ” được dùng để chỉ những người nam/nữ sống đời thánh hiến qua việc tuyên khấn công khai các lời khuyên phúc âm (gọi tắt là lời khấn) trong một hội dòng. “Người tu sĩ hiến dâng trọn vẹn thân mình như một hy lễ được dâng lên Thiên Chúa, nhờ đó tất cả cuộc sống họ trở nên một việc liên lỉ thờ phượng Thiên Chúa trong đức ái” (GL 607). Đôi khi, chúng ta cũng hay nghe nói đến từ “đan sĩ”. Thuật ngữ “đan sĩ” không xuất hiện nhiều trong Giáo Luật cho bằng từ “tu sĩ”. Thực ra, dưới một khía cạnh nào đó, các đan sĩ cũng là tu sĩ, vì họ tuyên công khai và giữ các lời khấn. Nhưng thuật ngữ “đan sĩ” được dành riêng cho các tu sĩ sống trong một đan viện. Đây là một kiểu đời tu xuất hiện rất sớm trong Giáo hội. Các linh mục triều không được gọi là “tu sĩ” vì họ không tuyên giữ công khai các lời khấn. Họ được gọi là “giáo sĩ”.

Liên quan đến xu hướng tính dục, phải phân biệt: dị tính, đồng tính (nam hoặc nữ), song tính[1], ngoài ra, còn có người chuyển giới (transgender), người đang chưa rõ về giới tính của mình và đang tìm hiểu về bản thân (questioning).

- “Dị tính” là người bị hấp dẫn tính dục bởi những người khác giới và không có cảm giác về mặt cảm xúc hay tình dục với người cùng giới.

- “Đồng tính” là người bị hấp dẫn tính dục bởi những người cùng giới tính và không có cảm giác về cảm xúc hay tính dục với những người khác giới tính. Có loại đồng tính nữ (gọi là lesbian hay les), và đồng tính nam (gọi là gay).

- “Song tính” là người bị hấp dẫn tính dục bởi cả người cùng giới lẫn khác giới (bisexual).

Câu hỏi của bạn chỉ giới hạn trong phạm vi “đồng tính”, nhưng chúng tôi ngầm hiểu là bạn đang ám chỉ đến một kiểu xu hướng tính dục không-phải-là-dị-tính, nghĩa là xu hướng mà chúng ta tạm gọi là “khác với xu hướng tính dục tự nhiên thông thường của đại đa số người trên thế giới”. Vì thế, dưới đây, khi trả lời câu hỏi của bạn, chúng tôi sẽ dùng từ “đồng tính” theo nghĩa này.

“Có sao không?” là một câu hỏi rất mơ hồ. Chúng tôi không hiểu là bạn đang nói đến điều gì: người đồng tính có được chấp nhận để trở thành tu sĩ không, hay nếu đi tu mà đồng tính thì có phạm tội gì không, hay là một tu sĩ mà đồng tính thì có ảnh hưởng nguy hại gì đến đời tu không?... Chúng ta không thấy có một ngăn trở nào quy định trong cuốn Giáo Luật 1983 nói rằng người đồng tính thì phải bị loại trừ khỏi đời sống dâng hiến (hay thậm chí là trở thành linh mục). Vì thế, nếu có tu sĩ (hay linh mục) nào phát hiện ra mình có xu hướng đồng tính, người đó không hề lỗi luật, cũng không phạm tội luân lý gì. Vấn đề đặt ra ở đây mà chúng ta cần suy xét là “khi biết một ứng viên muốn sống đời tu mà có xu hướng đồng tính, người hữu trách có nên nhận họ không?” Luật thì không cấm nhưng thường người hữu trách sẽ rất e dè với những trường hợp này. Vì sao?

Đời tu và người đồng tính

Như đã nói ở trên, đời tu có liên quan đến việc sống các lời khuyên phúc âm và đời sống cộng đoàn. Cụ thể hơn, nó đòi buộc người ta phải sống tốt đời sống khiết tịnh, triển nở bản thân trong tình trạng “độc thân vì Nước Trời”. Sống khiết tịnh vốn dĩ không phải là điều dễ dàng. Bởi thế, nếu người ta chọn sống nó chính là vì họ có một mục đích cao cả. Ta vẫn hay nghe đến những câu chuyện một anh chàng hay cô nàng nào đó nguyện suốt đời không lấy ai khác để chứng tỏ lòng chung thuỷ dành cho người mình yêu. Một tình yêu cao cả đã thôi thúc người ta đến chỗ dành trọn cuộc sống và mọi sự của mình cho một người duy nhất mà thôi, chứ nhất quyết không chia sẻ nó với ai khác, dù biết rằng mình sẽ gặp nhiều khó khăn và thử thách với chọn lựa này.

Với người sống đời dâng hiến, động cơ thúc đẩy họ đến chọn lựa sống độc thân, chính là vì tình yêu dành cho Đức Giêsu, hay cụ thể hơn, họ “sống độc thân vì Nước Trời.” Như thế, tình trạng độc thân của người tu sĩ hay lời khấn khiết tịnh của họ đồng thời cũng mang tính sứ mạng. Và để có thể sống được điều này, đòi hỏi người tu sĩ phải có một sự trưởng thành tâm cảm. Đó là một khả năng hiểu biết về chính mình, biết làm chủ cảm xúc, giới tính của mình, biết cách giao tiếp lành mạnh trong các mối tương quan, có một sự quân bình trong chính con người mình.

Thật ra, để có thể trở thành một con người thành công, có ích cho xã hội, con người nào cũng phải có được sự trưởng thành tâm cảm này. Đây chính là mục tiêu của giáo dục và huấn luyện con người. Nhưng nó trở nên cấp thiết hơn trong môi trường đời tu. Bởi lẽ, một tu sĩ nào đó dù đã lớn tuổi, nhưng lại không có một tâm cảm trưởng thành thì cũng hệt như một đứa bé mới lớn. Người đó chẳng hiểu về lý tưởng của mình, không thể làm chủ những xung động nơi bản thân mình, luôn bị cảm xúc chi phối trong các quyết định, lại không có một tương quan đúng đắn và lành mạnh với người khác. Một người như thế, rất khó có thể trở thành “người thợ” trong vườn nho của Chúa, và sống sót “giữa bầy sói dữ”.

Đòi hỏi một người tu sĩ phải ngay lập tức hoàn hảo trong tất cả mọi mặt là điều không thể, nhưng một mức độ trưởng thành về mặt tâm lý sẽ là dấu chỉ cho thấy người đó hiểu về chọn lựa của mình, dám đảm nhận quyết định của mình và sống nó một cách thích đáng để đời mình được sinh hoa kết trái và người khác cũng được hưởng lây thành quả này.

Chúng ta cùng quay trở lại vấn đề: liệu người đồng tính luyến ái có được nhận vào dòng tu hay chủng viện không? Trong phạm vi nhỏ bé của bài viết này, chúng tôi không có tham vọng triển khai một nghiên cứu đầy đủ và chi tiết về nó, nhưng chỉ xin trình bày một cách ngắn gọn những hướng dẫn của Toà Thánh liên quan đến tính hợp pháp trong việc thu nhận những người có xu hướng này.

Toà Thánh đã ban hành rất nhiều tài liệu hay những chỉ dẫn nói về vấn đề này. Trong đó có một Hướng Dẫn được Bộ Giáo Dục Công giáo ban hành vào ngày 31.8.2005, nói rõ rằng sẽ không nhận những ứng viên vào chủng viện hay vào một dòng tu, nếu người đó có khuynh hướng đồng tính, được thể hiện qua ba tiêu chí sau:

- (1) người thực hành hành vi đồng tính;

- (2) người có khuynh hướng đồng tính cách sâu sắc;

- (3) người cổ võ cho một kiểu “văn hoá đồng tính”.

Một tài liệu khác được ban hành vào 4.11.2005 cũng nhắc đến 3 ngăn trở này trong việc thu nhận một người vào một chủng viện hay dòng tu. Tài liệu nói rõ rằng mặc dù không phân biệt kỳ thị và vẫn tôn trọng những người có xu hướng đồng tính, Giáo hội không thể nhận những anh chị em này vào bậc sống tu trì và chức thánh bởi vì xu hướng ấy là một ngăn cản nghiêm trọng, khiến người đó không thể có một sự quân bình trong tâm lý và không thể có một tương quan đúng đắn và cân bằng với những người nam, cũng như người nữ khác. Một người đồng tính nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi sống trong một cộng đoàn chỉ toàn nam giới; cũng tương tự như vậy đối với người nữ. Do có sự lệch lạc trong xu hướng tính dục, môi trường dòng tu bao gồm những người cùng giới tính với mình có thể sẽ không còn là nơi giúp họ từ bỏ mọi sự và toàn tâm toàn ý phục vụ Chúa cũng như tha nhân, mà chỉ là nơi “trú thân” (vì họ không thể lập gia đình). Tệ hơn, môi trường này có thể trở thành nơi đầy những cám dỗ đối với họ.

Tài liệu không giải thích rõ “người có khuynh hướng đồng tính cách sâu sắc” nghĩa là gì, nhưng trên tinh thần của tài liệu, ta có thể suy đoán rằng đó có thể  là:

(1) Người ấy cho thấy một sự lệch lạc trong xu hướng tính dục của mình;

(2) người đó tham gia vào những diễn đàn, tổ chức dành cho người đồng tính để tìm thoả mãn cho nhu cầu tính dục của mình;

(3) người đó có những biểu diện bên ngoài thái quá như cách ăn mặc hay sử dụng nữ trang, trang điểm...

(4) người đó có nhu cầu thường xuyên đến những tụ điểm đồng tính...

Những người trên không thể là hiện thân cách thích đáng hình ảnh Đức Kitô, vị mục tử nhân lành và là hiền phu của Giáo hội, không thể trở thành một người cha/mẹ thiêng liêng và như thế, họ không có được sự trưởng thành cần có để đảm nhận các thừa tác vụ thánh. Liên quan đến đời sống khiết tịnh, họ không thể sống sự độc thân như một của lễ, không thể ra khỏi chính mình để thiết lập những tương quan đúng đắn với người khác, cả nam lẫn nữ.

Vì vấn đề đồng tính luyến ái là một vấn đề phức tạp, Giáo hội cũng nói đến việc các nhà huấn luyện, các vị linh hướng để thận trọng, khôn ngoan trong việc lắng nghe các ứng viên, đồng thời giúp đỡ họ nhận ra ơn gọi của mình, đặc biệt đối với trường hợp thứ ba (chưa xác định rõ về giới tính của mình do có vấn đề về tâm lý). Phải suy xét cho kỹ để không vội vàng quy chụp hay loại trừ một người có thể có ơn gọi, chỉ là đang có chút rắc rối liên quan đến tính dục của mình. Để tiến tới chức thánh, Giáo hội đòi hỏi ứng viên phải vượt qua được “sự không rõ ràng này” ít là 3 năm trước khi nhận chức phó tế.

Như thế, một sự trưởng thành tâm cảm là rất cần thiết để có thể sống đời tu một cách triển nở. Không chỉ người đồng tính mà cả người dị tính nếu không có được điều này thì cũng khó sống sự dâng hiến trong đời tu, đặc biệt là trong thiên chức linh mục. Để tránh những hiểu lầm hay chỉ trích dành cho Giáo hội, chúng ta cần phải hiểu rõ vì sao Giáo hội lại có những quy định như vậy.

Thật ra, sống đời dâng hiến, cách riêng là chức thánh, là một ân huệ mà Thiên Chúa dành cho Giáo hội, trước khi trở thành tiếng gọi cá nhân. Mỗi cá nhân được mời gọi để sống đời dâng hiến hay để trở thành linh mục là để cộng tác với Giáo hội, hoạt động trong lòng Giáo hội, phục vụ cho Giáo hội. Việc Giáo hội từ chối hay nhận ai đó vào bậc sống tu trì hay giáo sĩ tuỳ thuộc vào việc Giáo hội nhận thấy người đó có thích hợp với lối sống này không và có giúp ích cho người đó cũng như cho các linh hồn không. Sự thích hợp này chính là cái mà ta vẫn đặt tên “ơn gọi”, và được thể hiện ngang qua những dấu chỉ nơi bản thân người đó. Giáo hội xác nhận rằng “không trưởng thành về tâm cảm” là một dấu chỉ cho thấy sự không phù hợp của đương sự với đời tu.

Chúa kêu gọi một người dâng hiến cho Ngài ngang qua Giáo hội. Người ta có thể khăng khăng rằng mình có ơn gọi dâng hiến, nhưng nếu không được Giáo hội xác chuẩn và công nhận thì đó cũng chỉ là suy nghĩ đơn phương của người đó mà thôi. Sự từ chối chấp nhận ai đó vào đời tu của Giáo hội dành cho ai đó cũng muốn nói lên một điều rằng: đời tu không phải là cùng đích của con người, đó cũng chỉ là một trong số các phương tiện khác. Bất cứ con người nào, dù dị tính hay đồng tính, đều có thể trở thành thánh trong một môi trường ngoài đời tu, nếu họ sống tinh thần đức ái theo Tin Mừng và hằng luôn kết hiệp với Chúa.

Việc suy xét có nhận một người vào chủng viện hay vào dòng tu hay không hệ ở người hữu trách tại nơi đương sự xin vào. Đương sự có đủ sự trưởng thành tâm cảm để hiểu và đảm nhận đời tu hay không cũng do các vị có thẩm quyền nơi đó quyết định. Đối với cả người đồng tính hay dị tính, các nhà huấn luyện có trách nhiệm giúp họ khám phá ra ơn gọi mà Chúa dành cho họ, và giúp họ bình an với ơn gọi đó, làm sao để đời tu có được nét đẹp tinh tuyền của nó là một cuộc đời dâng hiến tự nguyện cho Thiên Chúa để sống cho Thiên Chúa và phục vụ con người, chứ không phải là nơi “tìm bạn tình”, hay “trốn đời”, “che đậy bản thân”. Nếu không, nó sẽ dẫn đến những tình trạng không hay vốn đang đục khoét lý tưởng đời dâng hiến - một sáng kiến tuyệt vời mà Thánh Thần đã thổi vào trong Giáo hội.

Tham khảo:

Clark, Keith, Being Sexual and Celibate, Notre Dame: Ave Maria Press, 1986

Sperry, Len, Sexo, Sacerdocio e Iglesia, Santander, Sal Terrae, 2004

Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 5, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (09.10.2023)

--------
[1] Đôi khi người ta còn nói đến hiện tượng “tò mò song tính”, tức là người tò mò về cả hai giới tính và/hoặc không có đủ trải nghiệm để xác định tính dục của bạn. “Toàn tính” là người bị hấp dẫn bởi mọi giới (có thể là đàn ông, phụ nữ hoặc những giới nằm ngoài hai giới này). “Mù giới tính”  bị hấp dẫn bởi mọi giới mà không phân biệt gì (trong khi một số khác cũng bị hấp dẫn mọi giới nhưng thiên về một số giới nhất định, chẳng hạn, có thể thiên về nam giới nhưng vẫn bị hấp dẫn bởi những người khác). “Vô tính” là người không bị hấp dẫn tình dục bởi bất kỳ giới tính nào. (Xem tại: https://www.wikihow.vn/Nh%E1%BA%ADn-bi%E1%BA%BFt-n%E1%BA%BFu-B%E1%BA%A1n-L%C3%A0-%C4%90%E1%BB%93ng-t%C3%ADnh)

---------------------------------

 

BÀI 104 - ĐỨC GIÊSU, NGƯỜI THẬT VIỆC THẬT


Rômualđô M. Bùi Văn Nghĩa, CRM
16/10/2023
Hỏi: Ở trường đại học, có lần con nghe thầy nói ông Giêsu chỉ là nhân vật bịa đặt. Hơn nữa, cuốn Kinh Thánh nói về ông Giêsu, nhưng chỉ do người khác ghi lại. Con biết vì thành kiến nào đó thầy mới nói vậy phải không ạ?

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 104: ĐỨC GIÊSU, NGƯỜI THẬT VIỆC THẬT

Văn Nghĩa, CRM

Hỏi: Ở trường đại học, có lần con nghe thầy nói ông Giêsu chỉ là nhân vật bịa đặt. Hơn nữa, cuốn Kinh Thánh nói về ông Giêsu, nhưng chỉ do người khác ghi lại. Con biết vì thành kiến nào đó thầy mới nói vậy phải không ạ?

Trả lời:

Bạn đã nói đúng, Đức Giêsu, đối tượng niềm tin của hơn hai tỉ Kitô hữu, bao gồm cả các bậc vĩ nhân, triết gia, khoa học gia, văn sĩ, thi sĩ hàng đầu thế giới, chắc chắn không phải là do hư cấu hay tưởng tượng ra, kiểu như một số nhân vật trong truyền thuyết, hay như những nhân vật huyền thoại trong các tín ngưỡng dân gian. Đức Giêsu là một con người cụ thể, đã sống trong một môi trường cụ thể và đã trải qua một hành trình cuộc đời trong một khoảng thời gian gian cụ thể, dù rằng Người là một thực tại siêu vượt trên tự nhiên. Sự xuất hiện của Đức Giêsu trong lịch sử nhân loại là điều đã được minh chứng bởi đông đảo các môn đệ và đã hình thành nên một tôn giáo lớn trên thế giới. Ngoài ra, nhiều sử gia cũng đã để lại cho chúng ta những tư liệu lịch sử đáng tin cậy, giúp chúng ta khẳng định sự hiện diện thực sự của Người. Chúng ta cùng tìm hiểu qua những tài liệu lịch sử ấy:

1. Sử liệu Rôma

Thời Đức Giêsu, vùng đất Palestine quê hương của Người đang chịu ách thống trị của đế quốc Rôma. Chính vì mối liên quan này mà trong kho sử liệu của Rôma, người ta tìm được một số tài liệu nói về Người.

Tài liệu thứ nhất là của ông Plinius, tổng trấn vùng Tiểu Á. Vào khoảng năm 112, trong một bản báo cáo gửi lên hoàng đế Trajano, ông đã đề cập đến người Kitô hữu, rằng tuy họ chẳng có làm điều gì rối loạn trật tự cả, nhưng họ rất đông, đến độ các đền thờ thần không còn ai lui tới nữa. “Họ quen tụ họp vào một ngày nhất định, trước khi mặt trời mọc, và ca bài chúc vinh Đức Kitô mà họ thờ như là Thiên Chúa của họ”[1]. Những thông tin ngắn ngủi vừa rồi có lẽ chưa làm bạn hài lòng, nhưng dù sao cũng gián tiếp cho chúng ta biết về tầm ảnh hưởng của Đức Giêsu trong xã hội lúc bấy giờ.

Tài liệu thứ hai là quyển “Sử biên niên” của sử gia Cornelius Tacitus, xuất bản khoảng năm 115-120, trong đó có thuật lại việc hoàng đế Neron ngông cuồng thiêu rụi thành phố Rôma vào năm 64. Việc làm tàn ác này đã gây ra không biết bao nhiêu đau thương mất mát cho dân chúng. Để tránh cơn phẫn nộ của dân, nhà vua trút lỗi cho các Kitô hữu, cho rằng chính họ mới là những người gây ra tai họa thảm khốc ấy. Giải thích về lai lịch của các Kitô hữu, sử gia Cornelius Tacitus viết như sau:

Danh xưng Kitô hữu bắt nguồn từ Kitô. Ông này đã bị tổng trấn Phongxiô Philatô kết án khổ hình dưới thời hoàng đế Tibêriô (14-34). Thế nhưng bọn mê tín ấy, đã bị dẹp yên một thời gian ngắn, lại bành trướng không những bên Giuđêa, nơi xuất phát của nó, mà ngay cả tại Rôma này[2].

Các sử gia Rôma nói trên đều không phải là Kitô hữu, họ chỉ là những người sống vào thời Kitô giáo bắt đầu phát triển và lan rộng, khoảng 20 năm sau khi Đức Giêsu về trời, và họ ghi nhận những sự kiện có thật ở trước mắt họ một cách khách quan. Theo họ, Đức Giêsu Kitô là người mà ai nấy đều biết là có thật.

2. Sử liệu Do Thái

Gần gũi hơn với Đức Giêsu là các sử gia bản địa Do Thái. Tại đây, người ta tìm được hai tài liệu nói về Đức Giêsu.

Tài liệu thứ nhất là sách “Lịch sử Do Thái” của sử gia Josephus Flavius, xuất bản khoảng năm 93-94, kể lại lịch sử của dân tộc từ lúc lập quốc cho tới cuộc kháng chiến chống Rôma. Trong tác phẩm này, Đức Giêsu được nhắc tới hai lần. Lần thứ nhất là đoạn văn viết ở quyển 18 như sau:

Hồi đó có một người khôn ngoan, nếu có thể gọi được là một con người. Thực vậy, ông ta làm được nhiều việc kỳ diệu, thầy dạy cho những ai vui lòng tiếp nhận chân lý. Ông ta đã thu hút được nhiều người Do Thái và thậm chí cả những người Hy Lạp nữa. Ông là Đấng Kitô. Một vài thủ lãnh của chúng tôi đã đi tố cáo ông ta với quan Phongxiô Philatô, và quan đã xử tử trên thập tự. Tuy vậy, số những kẻ đã mộ mến ông ta từ đầu vẫn tiếp tục. Vào ngày thứ ba, ông ta đã hiện về với họ như còn đang sống. Các Ngôn sứ đã nói trước về điều này rồi và còn rất nhiều điều lạ kỳ khác nữa. Hiện nay vẫn còn nhiều người theo ông ta, gọi là các Kitô hữu[3].

Đoạn thứ hai là đoạn văn rất ngắn, nói về cuộc tử đạo của thánh Giacôbê, người anh em của Đức Giêsu, và là thủ lĩnh cộng đoàn Giêrusalem:

(Ananus) tụ họp Sanhédrin của các nhà thẩm phán và cho điệu Giacôbê, người anh em họ của Ông Giêsu, thường được gọi là Đức Kitô, và vài người khác ra trước mặt họ và sau khi kết án là những người này đã vi phạm Lề Luật, ông đã giao họ cho người ta ném đá đến chết[4]. 

Tài liệu thứ hai là bộ sách Talmud, sách chú giải Kinh Thánh do các giáo sĩ Do thái viết khoảng sau năm 70. Đây là sách thể hiện sự căm ghét của Do Thái giáo đối với Kitô giáo. Sách này tìm cách bôi nhọ vị sáng lập tôn giáo mới. Chẳng hạn các tác giả cho rằng, ông Giêsu đã sang Ai Cập học nghề ma thuật, và trở về quê hương hành nghề đó; và cũng vì vậy mà ông ta bị bắt và bị kết án tử hình trên thập tự. 

Dù là sách bôi nhọ Đức Giêsu, nhưng rõ ràng sách này đã không phủ nhận sự hiện hữu của Người cũng như những phép lạ Người làm, họ chỉ gán những phép lạ ấy cho việc phù phép mà Người “học được ở Ai Cập”. Việc gán ghép này không có gì là lạ.

Sau này vào thế kỷ XX, nhiều người say mê những chuyện huyền bí phương Đông cũng đã cho rằng Đức Giêsu từng lưu ngụ tại Ấn độ hoặc Tây Tạng để luyện tập những phương pháp thần bí hầu đạt tới sự hiểu biết cao vời và làm được những phép lạ. Tiêu biểu trong số đó là cuốn sách mang tên “Quãng đời chưa được biết đến của Chúa Kitô” của nhà báo người Nga Nicolas Notovitch, xuất bản năm 1894. Ông dựa vào khoảng trống của Đức Giêsu trong các sách Tin Mừng, tức từ năm 13 tuổi đến năm 29 tuổi, là khoảng thời gian Đức Giêsu không được các Tin Mừng nhắc đến. Nhờ thế ông đã vẽ vời ra câu chuyện rằng khoảng thời gian đó Đức Giêsu đã đến sống ở Ấn độ và khu vực Himalaya để nghiên cứu Phật pháp và đã được các học giả Vệ Đà truyền dạy cho…

Ta thấy cách mà nhà báo Nicolas Notovitch viết cũng chính là cách mà sách Talmud đã viết, cho rằng Đức Giêsu đã sang Ai Cập học pháp thuật phù thủy ở đó, rồi trở về Israel mới có thể làm được nhiều phép thuật như thế. Thực ra, sách Tin Mừng Luca đã cho biết rõ là Đức Giêsu chẳng đi đâu cả:

Sau đó (sự việc Đức Giêsu ở lại trong Đền Thờ năm 12 tuổi), Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta. (Lc 2,51-52).

3. Các nguồn sử liệu Kitô giáo

Sử liệu về Đức Giêsu trong Kitô giáo thì hết sức dồi dào, đó là các ghi chép về cuộc đời của Người trong bốn quyển Tin Mừng và các sách trong bộ Tân Ước nói chung. Người ta có thể đặt ra nghi vấn về tính trung thực của các sách Tin Mừng. Tuy nhiên các nhà phê bình cũng phải công nhận rằng trong các tác phẩm cổ thời, nhất là các tác giả ngoại giáo, không có bản văn nào có giá trị sánh bằng.

Chúng ta hoàn toàn có thể tin vào các tác giả Tin Mừng, vì tính trung thực của các sách ấy. Các tác giả là những chứng nhân tai nghe mắt thấy cuộc đời của Đức Giêsu Kitô, họ là các Tông đồ hay những cộng tác viên của các vị ấy. Ta hãy đọc qua phần lời ngỏ của Tin Mừng Luca để thấy điều đó:

Thưa ngài Thêôphilô đáng kính, có nhiều người đã ra công soạn bản tường thuật những sự việc đã được thực hiện giữa chúng ta... Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài, mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc. (Lc 1,1-4).

Hơn nữa, chúng ta tin tính trung thực của các sách ấy bởi vì đó là chứng cứ của những con người đạo đức và họ chỉ muốn xác nhận sự thật về những gì đã xảy ra. Họ thành thực đến mức không che đậy những gì đáng xấu hổ của họ. Họ kể về sự dốt nát, chậm hiểu giáo lý của họ đến nỗi Đức Kitô nhiều lần phải khiển trách họ. Họ kể về sự nhát đảm sợ sệt của họ trong cuộc khổ nạn của Thầy mình: trốn chạy bỏ mặc Thầy chịu kết án oan, chịu hành hình và chết đau thương. Họ cũng kể lại luôn việc ông Phêrô, vị thủ lãnh của họ hứa sẵn sàng chết với Thầy nhưng rồi đã thất hứa, chối bỏ Thầy đến ba lần…

Chúng ta tin vào tính trung thực của các sách Tin Mừng, bởi vì tuy nhiều tác giả cùng viết, trong những hoàn cảnh khác biệt, mỗi người theo cách thức riêng, mỗi người tùy theo hoàn cảnh của các cộng đoàn họ phục vụ mà có những giải thích thêm. Tuy nhiên, về đại thể, các tác phẩm ấy rất tương đồng với nhau, chỉ khác biệt ở những chi tiết nhỏ và ở văn phong mỗi tác giả.

Cần hiểu thêm rằng các tác giả Tin Mừng không có ý viết tiểu sử của Đức Giêsu theo như phương pháp của chúng ta ngày nay. Các ngài chỉ muốn thuật lại những việc Người đã làm, những lời Người đã dạy dỗ vì ơn Cứu độ cho con người. Còn những điều khác, như mốc thời gian chẳng hạn, không được chú trọng cho lắm. Do đó, mà chúng ta không biết được chính xác Đức Giêsu sinh vào ngày nào, chỉ nói là ở thời vua Hêrôđê. Sau này, phụng vụ Giáo hội mừng sinh nhật của Người vào ngày 25 tháng 12 để thế vào ngày lễ kính Mặt Trời của dân Rôma. Dù vậy, đây vẫn là biến cố lịch sử, một sự kiện đã khai mạc kỷ nguyên mới cho lịch sử loài người, đã trở thành trung tâm điểm của lịch sử của nhân loại, tất cả các biến cố khác đều quy chiếu vào đó, nghĩa là dựa vào đó mà tính: trước Chúa Giáng sinh hay sau Chúa giáng sinh (vì tránh né, người ta quen gọi là trước công nguyên và sau công nguyên).

Tuy nhiên, qua các sách Tin Mừng mà chúng ta có thể thấy được bối cảnh lịch sử và cách sống của người Do Thái đương thời, nhất là những chỉ dẫn chính xác về địa lý liên quan đến cuộc đời của Đức Giêsu, chẳng hạn: Bethlehem là nơi sinh của Đức Giêsu, một làng nhỏ thuộc miền nam Do Thái; Nazareth là nơi định cư của gia đình Đức Giêsu, do đó mà người ta gọi Đức Giêsu là người Nazareth…

***

Bạn thân mến, với những tư liệu lịch sử trên đây, cùng với những suy luận xác đáng, mong là niềm tin của bạn được củng cố thêm lên, và luôn xác định rằng: Đức Giêsu là một người thật, một nhân vật lịch sử, chứ không phải là một nhân vật hư cấu do trí óc tưởng tượng viển vông của con người. Xin mượn lời Đức giáo hoàng Bênêdictô XVI làm lời tạm kết cho chủ đề của chúng ta:

Ngay cả khi ta chỉ dùng những tiêu chuẩn lịch sử đã được công nhận để xét, thì sự hiện hữu của Đức Giêsu đã quá rõ và đầy đủ, đến nỗi ta không còn nghi ngờ gì nữa về nhân vật lịch sử này. Những gì được truyền tụng về Người khác hẳn với những gì có thể tạo ra hay tưởng tượng ra… Vì vậy, theo tôi, việc hoài nghi về sự hiện hữu của Đức Giêsu là chuyện thiếu đứng đắn[5].

Tóm lại, Đức Giêsu là người thật việc thật, một nhân vật lịch sử, đã xuất hiện trong không gian và thời gian. Điều đó thật là hiển nhiên. Tuy nhiên sự thật không phải chỉ có thế. Đức Giêsu còn là một thực tại siêu vượt trên tự nhiên, siêu vượt trên lịch sử.

Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 5, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (16.10.2023)

----------
[1] Phan Tấn Thành, Về Nguồn, quyển 1, Nhà sách Đức Bà Hòa Bình, tr 28.
[2] Như trên, tr 29.
[3] Nguyễn Văn Trinh, Kitô học, Nhà sách Đức Bà Hòa Bình, 2011, tr 73.
[4] Như trên, tr.74
[5] Joseph Ratzinger, Thiên Chúa và Trần Thế, Phạm Hồng Lam, Dg, Nxb Tôn Giáo, 2011, tr 202.

---------------------------------

 

BÀI 105 - LÀM GIÀU TRƯỚC MẶT THIÊN CHÚA


Nt. Thùy Trang, DHM
31/10/2023
Câu hỏi: Chúa Giêsu mời gọi người ta sống nghèo khó. Người nghèo dễ vào Nước Trời. Phải chăng người Công giáo không được ủng hộ làm giàu? Đó có phải là “trái đạo đức”?

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 105: LÀM GIÀU TRƯỚC MẶT THIÊN CHÚA

Thùy Trang, DHM

Câu hỏi: Chúa Giêsu mời gọi người ta sống nghèo khó. Người nghèo dễ vào Nước Trời. Phải chăng người Công giáo không được ủng hộ làm giàu? Đó có phải là “trái đạo đức”?

Trả lời: 

Bạn mến, mình rất hứng thú với câu hỏi của bạn về chuyện giàu nghèo. Hồi còn là teen, nhạc sến bao vây nhà mình. Khi đó cứ lấy làm lạ sao những bài hát đó hầu hết là anh thì nghèo, còn nàng thì giàu, hoặc nàng mê “giàu” mà làm cho cuộc tình tan vỡ! Rồi lại nghe những kiểu nói đầy chất rap như:

Tiền là Tiên là Phật
Là sức bật của lò xo
Là thước đo của lòng người
Là tiếng cười của tuổi trẻ
Là sức khỏe của tuổi già
Là cái đà danh vọng
Là cái lọng che thân
Là cán cân công lý
Tiền là hết ý!
(Bài thơ Tiền ơi – Bùi Văn Sạch)

Giàu có là một sự chúc phúc

Một từ ngữ khác diễn đạt sự giàu có là “phong nhiêu”. Nó xuất hiện ngay từ chương đầu sách Sáng Thế: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất” (St 1,28). Với Abraham, Đức Chúa hứa cho ông có con cháu đông như sao trên trời và một miền đất để sở hữu (x. St 15,5. 7; 17,6-8). Mọi loài, mọi sự trong vũ trụ phản ánh sự giàu có của Thiên Chúa. Đa dạng sinh học, cấu trúc DNA (Deoxyribonucleic acid) là những bằng chứng của sự chúc phúc của Thiên Chúa cho sự phong nhiêu.

Cha Pierre Teilhard de Chardin, SJ (1881-1955) một nhà sinh học và thần học đã nêu lên tầm nhìn về Đức Kitô Vũ Trụ - Đấng nhập thể vào vũ trụ và cùng với vũ trụ này đi đến đỉnh cao và quy hướng về Chúa Cha. Thánh Phaolô suy tư rằng: “Tất cả đều thuộc về anh em, mà anh em thuộc về Đức Kitô, và Đức Kitô lại thuộc về Thiên Chúa” (1Cr 3,22-23). Ngài còn diễn tả muôn loài, cùng với con người đang rên xiết mong chờ ngày được cứu độ (x. Rm 8,19-23). Hình ảnh ‘Trời mới đất mới’ của sách Khải Huyền được hứa ban xinh đẹp như Tân Nương, là Giêrusalem mới, bao gồm mọi con người và vạn vật tốt lành (Kh 21,1-4). Nói cách đơn giản, sự phong phú và giàu có là tốt đẹp và có giá trị trước mặt Thiên Chúa.

Anawim: người nghèo trong Kinh Thánh

Sách Gióp là một cuộc vật lộn đi tìm ý nghĩa của người công chính phải đau khổ và nghèo khó. Dù bị giới hạn trong quan niệm thưởng phạt ngay ở đời này, cuối cùng, ông Gióp đã bị khuất phục bởi quyền năng sáng tạo vạn vật của Thiên Chúa nên sám hối. Tuy nhiên, phải đợi đến Đức Giêsu thì vấn nạn đau khổ của người công chính mới tìm được ý nghĩa trọn vẹn.

Kinh Thánh cố gắng quân bình lại quan điểm giàu có là một sự chúc phúc, nghèo khó (kể cả việc vô sinh) là một sự chúc dữ bằng việc nêu lên các mẫu gương “người nghèo Yaweh” hay Anawim - chỉ về những người nghèo, người thấp cổ bé họng, người bị bách hại vì trung thành với Luật Chúa… thì sẽ được chính Chúa che chở, nâng dậy.

- “Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ; chúng sẽ tìm nương ẩn nơi danh Đức Chúa.” (Xp 3,12)

- Bởi vì Chúa mến chuộng dân Người, ban cho kẻ nghèo hèn được vẻ vang chiến thắng. (Tv 149,4)

Tại sao “người giàu” bị kỳ thị?

Trong bối cảnh nhiều bất công xã hội, các ngôn sứ lên án, nguyền rủa “người giàu” để đòi công bằng cho người nghèo, bà góa, cô nhi, khách ngoại kiều (x. Gv 5,9; Cn 17,16). Thêm vào đó, nền triết học nhị nguyên – phân chia thân xác với linh hồn, tâm với trí, đời này với đời sau, kể cả thiện với ác – đã góp phần vào việc coi khinh thân xác, lý trí, vật chất và những gì “thuộc trần thế”. “Tiền bạc là tên nô lệ tốt và là một ông chủ xấu” là lối nói cho thấy nọc độc của tiền của. Nền tu đức Kitô giáo vẫn rất thận trọng với tiền của! (x. 1Tm 6,6-10)

Làm giàu trước mặt Thiên Chúa

Trong Tân ước, Đức Giêsu mời gọi người ta sống “nghèo khó về tinh thần” (Mt 5,3) và cả nghèo vật chất (Lc 6,20); thậm chí đối lập giữa tiền của và Thiên Chúa (Mt 6,24). Ngài mời gọi người thanh niên chia sẻ của cải vật chất để được thanh thoát làm môn đệ Ngài (Mt 19,21) và để được giàu có trước mặt Thiên Chúa (Lc 12,33).

Có một sự thay đổi trong cách hiểu và thực hành đời sống liên quan đến ‘xã hội trần thế” và những gì thuộc về nó trong dòng lịch sử.

Các tín hữu sơ khai thực hành để của cải chung, chuyên tâm sám hối và cầu nguyện để chờ Nước Chúa đến.

Sau năm 313, hoàng đế Constantine I đã công nhận Kitô giáo và ban cho nhiều bổng lộc. Trên nền tảng đó, Kitô giáo nói chung và Công giáo nói riêng đã phát triển sự cường thịnh của mình, song song với nhiều sự sa đọa và những cuộc chiến tranh giữa thần quyền và thế quyền. Sự xuất hiện của các lối tu trì trong lòng Giáo hội là một cách đi ngược lại xu thế quyền lực, giàu sang và hưởng thụ.

Đầu thế kỷ XVI, nhiều cuộc cải cách của anh em Tin Lành vừa chống lại xu thế lạm quyền, trục lợi của một số giáo sĩ, vừa tạo dịp để trở về với cội nguồn Kinh Thánh, bắt đầu từ Đức và Pháp. Đặc biệt một nét riêng trong phong trào cải cách này đã được nhà xã hội học người Đức là Max Weber (1864-1920) đưa ra trong cuốn Đạo đức Tin Lành và Tinh thần của Chủ nghĩa Tư bản[1] xuất bản bằng tiếng Đức năm 1904, và tiếng Anh năm 1930, đã chỉ ra nguyên nhân phía sau của những người Tin Lành (Calvin) đã góp phần phát triển chủ nghĩa tư bản. Weber chỉ ra rằng, dựa trên niềm tin tôn giáo, họ tìm kiếm các lợi ích kinh tế thông qua việc lập kế hoạch hoạt động kinh tế trên nền tảng duy lý, chứ không phải vì mục tiêu vị kỷ; nghiêm cấm việc chi tiêu hoang phí; không khuyến khích bố thí nhưng dùng lợi nhuận để tái đầu tư; và xem đó như là dấu chứng được cứu độ.

Giữa thế kỷ XX, công đồng Vatican II đã xác định nhiệm vụ “tìm kiếm nước Thiên Chúa bằng cách làm các việc trần thế và xếp đặt chúng theo ý Thiên Chúa” (Lumen Gentium 31) của các tín hữu. Giáo huấn xã hội của Giáo hội Công giáo không ngừng nêu cao những nguyên tắc và bổn phận thánh hóa trần thế qua hoạt động kinh tế như nguyên tắc liên đới và bổ trợ, nguyên tắc tư hữu và công ích, lao động và việc làm, quy định nguồn lợi của trái đất là của chung. Đức Giáo hoàng Phanxicô còn nói về hoạt động kinh tế có bản chất là “một ơn gọi cao quý, trực tiếp tạo ra sự phồn thịnh và cải thiện thế giới chúng ta” (Laudato Si' 129), và xem “khả năng kinh doanh là quà tặng từ Thiên Chúa” (Fratelli Tutti 123).

Từ những năm đầu 2000, tôi được học trong môn Luân lý Kinh tế Công giáo rằng những người làm kinh tế như một lính canh nơi biên cương; nghiêng một chút có thể rơi vào tội lỗi, nghiêng một chút ngược lại thì thuộc về Nước Thiên Chúa. Vị thế của họ quá đẹp và quá nhạy cảm nên Giáo hội đánh giá cao sự dấn thân của họ.

Đức Phanxicô ca ngợi nỗ lực của những doanh nghiệp nhỏ đã tạo ra nhiều việc làm và giữ gìn sự đa dạng sinh thái (Laudato Si' 129). Bản thân mình cũng từng góp phần xây dựng một doanh nghiệp xã hội (Social Enterprise)[2] với tầm nhìn tạo một hệ thống hoạt động “kinh tế sạch” tự vận hành để tạo việc làm cho phụ nữ nghèo với môi trường làm việc tốt và hưởng lương xứng đáng, được tập huấn kỹ năng và giá trị sống để nâng cao chất lượng đời sống gia đình, và để tạo nguồn hỗ trợ học bổng.

Bài hát 'Cho Nước Trời Mai Sau' của linh mục Roco Nguyễn Duy diễn tả rất tốt tinh thần sống tích cực vì Nước Trời: “Trái đất này nơi con người náu thân. Thế gian này con đường dẫn lên trời. Kiếp sống này ta xây dựng thế giới, để dọn đường cho Nước Trời mai sau.”

Bạn hỡi, hãy bỏ đi những suy những suy nghĩ lỗi thời. Đức Kitô chờ mong có những nhà làm kinh tế sạch và lợi nhuận được chia sẻ. Ngài đang nhìn bạn đấy!

Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 6, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (31.10.2023)

----------
[1] The Protestant Ethic and the Spirit of Capitalism

[2] https://www.investopedia.com/terms/s/social-enterprise.asp; Social entrepreneurship takes root though Vietnam still not affluent (truy cập 28/5/2021).

---------------------------------

 

BÀI 106 - TÌNH YÊU THIÊN CHÚA VÀ SỰ DỮ TRONG THẾ GIỚI CON NGƯỜI


Lm. Giuse Cao Gia An, SJ
07/11/2023
Nếu Thiên Chúa đã dựng nên thế giới vì tình yêu, tại sao xã hội chúng ta lại đầy bất công, áp bức và đau khổ? Nếu Thiên Chúa tốt lành và quan phòng, tại sao ngay ban đầu Thiên Chúa đã cho con người được chọn lựa làm điều dữ?


GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 106: TÌNH YÊU THIÊN CHÚA VÀ SỰ DỮ TRONG THẾ GIỚI CON NGƯỜI

Lm. Giuse Cao Gia An SJ

Câu hỏi: Nếu Thiên Chúa đã dựng nên thế giới vì tình yêu, tại sao xã hội chúng ta lại đầy bất công, áp bức và đau khổ? Nếu Thiên Chúa tốt lành và quan phòng, tại sao ngay ban đầu Thiên Chúa đã cho con người được chọn lựa làm điều dữ?

Trả lời: 

Một câu hỏi kinh điển

Câu hỏi của bạn là nỗi băn khoăn của rất nhiều người, đã kéo dài từ rất lâu trong dòng lịch sử của nhân loại. Sự hiện diện tràn lan của đau khổ, áp bức, bất công… hay nói chung là sự dữ, đã trở thành lời chất vấn khôn nguôi về sự hiện hữu, về vai trò, và về chính căn tính của Thiên Chúa. Một trong những công thức chất vấn kinh điển đến từ Epicuro, một triết gia Hy-lạp sống từ giữa thế kỷ thứ IV đến đầu thế kỷ thứ III trước công nguyên, thường được gọi là “nghịch lý Epicuro”. Nghịch lý ấy được tóm lại trong tác phẩm De Ira Dei của tác giả Lucio Cecillio Firmiano Lattanzio như sau:

Có thể có ba khả thể trong tương quan giữa Thiên Chúa và sự dữ:

(1) Thiên Chúa muốn tiêu diệt sự dữ, nhưng lại không thể

(2) Thiên Chúa có thể tiêu diệt sự dữ, nhưng lại không muốn

(3) Thiên Chúa vừa muốn vừa có thể tiêu diệt sự dữ

Nếu (1) Thiên Chúa muốn, nhưng lại không thể tiêu diệt sự dữ, hóa ra Thiên Chúa không toàn năng. Đấy không phải là Thiên Chúa.

Nếu (2) Thiên Chúa có thể tiêu diệt sự dữ, nhưng lại không muốn, hóa ra Thiên Chúa không tốt lành. Đấy cũng không phải là Thiên Chúa.

Nếu (3) Thiên Chúa muốn và có thể tiêu diệt sự dữ, và phải như vậy thì Ngài mới là Thiên Chúa, thì tại sao trên thế giới của chúng ta vẫn đầy dẫy sự dữ thế này? 

Chung quy lại, chất vấn của Epicuro và nhiều triết gia theo sau ông là thế này: Tại sao Thiên Chúa toàn năng và tốt lành lại không tiêu diệt sự dữ? Nếu Thiên Chúa toàn năng và tốt lành, tại sao lại có sự dữ? Câu hỏi thứ nhất của bạn cũng đi theo hướng này, nhưng tập trung vào những sự dữ mang tầm mức xã hội: nếu Thiên Chúa đã tạo dựng nên thế giới vì tình yêu, tại sao xã hội chúng ta lại đầy bất công, áp bức, và đau khổ?

Thiên Chúa tiêu diệt sự dữ?

Cần ghi nhận điều quan trọng này: không thể có sự bất công, nếu không có những con người làm chuyện bất công. Không thể có sự áp bức, nếu không có người áp bức. Không thể có sự đau khổ, nếu không có người gây ra đau khổ. Khi bàn về sự dữ, luôn có nguy cơ người ta chỉ tập trung vào sự dữ, mà quên mất con người mới chính là tác nhân gây ra sự dữ, nhất là những sự dữ mang tầm mức xã hội. Tại sao Thiên Chúa không thẳng tay tiêu diệt sự dữ? Vậy thì phải hỏi lại, làm cách nào để tiêu diệt sự dữ cách triệt để, nếu không phải là tiêu diệt tác nhân gây ra sự dữ? Liệu Thiên Chúa có thể ra tay tiêu diệt những con người làm điều dữ không?

Trong mong ước và tưởng tượng của con người, nhất là những nạn nhân của sự dữ, câu trả lời có thể là có: Thiên Chúa nên thẳng tay tiêu diệt những kẻ làm điều dữ, và khi đó chắc xã hội của loài người sẽ không còn áp bức, bất công, và đau khổ nữa. Nhưng trong kế hoạch của Thiên Chúa, không thể có điều đó! Thiên Chúa của chúng ta, như được mạc khải trọn vẹn nơi Đức Giêsu, không thể thẳng tay tiêu diệt con người, dù đó là những con người làm điều dữ. Như một người Cha, “Thiên Chúa cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên kẻ công chính cũng như kẻ bất lương” (Mt 5,45). Thiên Chúa mà Đức Giêsu mạc khải không phải là một vị thần sòng phẳng theo kiểu lấy điều ác để trả lại cho cái ác của người đã làm ác. Do đó, có những sự dữ Thiên Chúa không thể thẳng tay tiêu diệt: những sự dữ đến từ trong chính trái tim con người, khi con người dùng tự do của mình để chọn lựa và kiên quyết đi cho đến cùng chọn lựa tự do ấy.

Điều Thiên Chúa có thể làm và mong đợi đó là việc hoán cải trái tim của con người, những con người là tác nhân chính của bất công, áp bức, và đau khổ. Nhưng làm thế nào để hoán cải trái tim con người? Liệu Thiên Chúa có thể hành động như cách của một phù thủy đầy phép thuật, chỉ cần vung chiếc đũa thần là mọi sự hoàn toàn thay đổi theo ý của mình không? Không, Thiên Chúa không thể làm như thế. Bởi lẽ bất cứ một “phép thuật” nào làm biến đổi con người, dù là theo hướng tốt, nhưng ngược với ý muốn và chọn lựa của con người, thì đều phạm vào tự do, là ơn mà Thiên Chúa đã ban cho con người.

Thiên Chúa và tự do của con người

Từ điểm này, chúng ta có thể qua vế thứ hai trong câu hỏi của bạn. Nếu Thiên Chúa tốt lành và quan phòng, tại sao ngay ban đầu Thiên Chúa đã cho con người được chọn lựa làm điều dữ? Bạn có nhận ra đây là một câu hỏi phiến diện không? Sự phiếm diện nằm ở chỗ này: không phải là “ngay từ ban đầu Thiên Chúa đã cho con người được chọn lựa làm điều dữ”. Đúng hơn, ngay từ ban đầu Thiên Chúa đã cho con người được chọn lựa làm điều lành hoặc chọn lựa làm điều dữ.

Tự do mà Thiên Chúa ban cho con người là tự do thật sự, mở ra theo cả hai chiều, chứ không phải tự do theo kiểu chỉ có thể làm điều này mà không thể làm điều kia. Đó không còn là tự do nữa. Thí dụ: nếu Thiên Chúa chỉ cho con người tự do để làm điều lành mà thôi, không được làm điều dữ, thì “tự do” theo nghĩa này thật ra chỉ là một cách chơi chữ thôi, chứ có tự do gì đâu, phải không? Với tự do của mình, con người có quyền chọn làm điều này hoặc làm điều kia, làm điều lành hoặc làm điều dữ, chứ không phải Thiên Chúa chỉ cho con người tự do để chỉ chọn làm điều dữ mà thôi. Con người có thể dùng tự do của mình để xây dựng, để trưởng thành, để làm điều lành. Đồng thời, con người cũng có tự do để làm điều dữ. Tự do làm điều dữ là một trong vô vàn lựa chọn mà con người có thể chọn để làm. Nếu bạn chỉ thấy rằng Thiên Chúa cho con người có tự do để làm điều dữ, đó là một lối nhìn phiến diện, phải không?

Tự do nói lên phẩm giá của con người, đồng thời nói lên sự tin tưởng mà Thiên Chúa đặt vào con người. Khi trao cho con người tự do đích thực, Thiên Chúa cũng thể hiện tình yêu đích thực dành cho con người.

Đương nhiên, bất cứ một ơn tự do nào cũng đi liền với một hoặc nhiều nguy cơ. Nguy cơ người được trao sẽ sử dụng tự do không đúng cách. Nguy cơ bị phản bội. Nguy cơ người tự do sẽ đi xa lạc. Vậy thì tại sao lại cho con người có tự do? Bởi lẽ, nếu không có tự do, con người sẽ không còn là con người nữa. Không có tự do, con người đơn giản chỉ là một con rối trong bàn tay Thiên Chúa. Thiên Chúa không làm như thế. Thiên Chúa đủ quảng đại, yêu thương, và “chơi đẹp” để đặt trọn vẹn ơn tự do vào bàn tay con người. Bởi vì chỉ với tự do, con người mới có thể lớn lên, trưởng thành, và sống đúng phẩm vị là con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa.

Trong một gia đình nếu cha mẹ không cho con cái tự do, con cái mãi vẫn chỉ là những đứa trẻ khờ trong nhà chứ không bao giờ lớn lên được. Trong đời sống vợ chồng, nếu người vợ hay người chồng không dám tin tưởng và không để cho người bạn đời của mình có được một phút giây tự do nào, đời sống ấy sẽ sớm trở thành hỏa ngục, và tình yêu mà họ dành cho nhau thực chất chỉ là những chiếm hữu ích kỷ làm chết dần chết mòn người bạn đời của mình mà thôi.

Nếu Thiên Chúa không cho con người có tự do, chỉ vạch sẵn cho con người một lộ trình hoàn hảo để con người cứ theo đó mà làm, thì nói cho cùng con người chỉ là những con rô-bốt được lập trình. Con người như thế hoàn toàn không tự do và tự quyết trong mọi chuyện mình làm, do đó cũng không có nhân phẩm và trách nhiệm gì với cuộc đời của mình cả. Khi đó, con người không còn là con người nữa, và Thiên Chúa cũng không còn là một Thiên Chúa của tình yêu nữa. Thiên Chúa khi ấy có khi đóng vai trò chỉ như là một chủ cơ sở sản xuất, và con người chỉ còn là một thứ đồ chơi trong bàn tay Thiên Chúa mà thôi.

Tự do là một ân huệ. Bất cứ một ân huệ nào cũng đi liền với trách nhiệm.

Trách nhiệm thuộc về Thiên Chúa hay thuộc về con người?

Nếu Thiên Chúa đã tạo dựng nên thế giới vì tình yêu, tại sao xã hội chúng ta lại đầy bất công và đau khổ. Theo bạn, có phải Thiên Chúa là người gây ra những bất công và đau khổ chăng? Hay Thiên Chúa phải chịu trách nhiệm, vì đã cho con người có tự do?

Thử suy nghĩ về một vài trường hợp cụ thể trong cuộc sống thế này: có những bậc cha mẹ vĩ đại, đã yêu thương làm lụng vất vả, hy sinh cả đời cho con cái mình, con cái thì lại ăn chơi hư hỏng, không chịu học hành, gây ra bao nhiêu lỗi lầm và tai họa… Nếu bạn là người phân xử, bạn lại quy trách nhiệm về cho cha mẹ sao? Khi con cái dùng tự do để sống cuộc sống của mình cách sai lạc, lại quay sang trách cha mẹ, đó chẳng phải là lối đổ lỗi theo kiểu trẻ con và lối lý luận vô lý đến buồn cười sao?

Đáng tiếc là với con người, việc đổ lỗi như vậy thường không hiếm. Nhiều người làm ăn và mưu toan những chuyện bất chính, và khi gặp phải kết cục thất bại, họ vẫn thường ngước mắt lên trời than kiểu này: “Trời không độ ta”, hoặc “Trời hại ta rồi”. Sao lại đổ thừa cho ông Trời, trong khi mọi toan tính và hành động đều do mình ngoan cố, đã biết sai mà vẫn cứ làm? Có lạ không khi người ta ngoan cố bước đi trong đường tội lỗi và sai trái, ra công ra sức xây dựng cho mình những lâu đài trên cát, tới khi mọi sự sụp đổ thì họ quay sang quy tội cho Trời? Có lạ không khi đứng trước những cơ cấu tồi tệ và những con người tội lỗi gây ra bao nhiêu áp bức, bất công, đau khổ… người ta lại kéo Chúa vào, đổ lỗi cho Chúa, bắt Chúa phải gánh trách nhiệm?

Cứ đổ tội cho Thiên Chúa trong những sự dữ do chính con người gây ra, chắc chắn chẳng bao giờ con người có thể tìm được cho mình câu trả lời tại sao.

Kết luận

Thiên Chúa là Đấng tốt lành và quan phòng. Thiên Chúa đã dựng nên thế giới vì tình yêu. Thế giới ấy, Thiên Chúa đã trao cho con người. Là một người Cha, Thiên Chúa muốn con cái mình trưởng thành như những con người tự do và có trách nhiệm. Cần đủ lắng để suy niệm về cách mà Thiên Chúa trao tự do cho con người, để thấy được sự liều lĩnh mà Thiên Chúa thực hiện với con người. Phải có một tình yêu vĩ đại và cao cả thì mới có thể liều lĩnh được như vậy.

Thực tế xã hội đầy bất công, áp bức và đau khổ là điều không ai có thể chối cãi. Người thấp cổ bé miệng bị chèn ép. Kẻ có quyền có thế thì lộng quyền. Ở hiền không phải lúc nào cũng gặp lành. Nhưng cần đủ công bằng và trưởng thành để nhận ra rằng bất công, áp bức, và đau khổ là những chuyện con người gây ra cho nhau. Chẳng những con người không được phép chất vấn Thiên Chúa về những điều ấy; ngược lại, chính con người mới phải trả lời trước Thiên Chúa về việc lạm dụng tự do của mình và phụ bạc ân huệ tình yêu của Thiên Chúa.

Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 6, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (07.11.2023)

---------------------------------

 

BÀI 107 - Ý NGHĨA CỦA LAO ĐỘNG


BÀI 106 - TÌNH YÊU THIÊN CHÚA VÀ SỰ DỮ TRONG THẾ GIỚI CON NGƯỜI
avatar
Lm. Giuse Cao Gia An, SJ
07/11/2023
Nếu Thiên Chúa đã dựng nên thế giới vì tình yêu, tại sao xã hội chúng ta lại đầy bất công, áp bức và đau khổ? Nếu Thiên Chúa tốt lành và quan phòng, tại sao ngay ban đầu Thiên Chúa đã cho con người được chọn lựa làm điều dữ?


GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 106: TÌNH YÊU THIÊN CHÚA VÀ SỰ DỮ TRONG THẾ GIỚI CON NGƯỜI

Lm. Giuse Cao Gia An SJ

Câu hỏi: Nếu Thiên Chúa đã dựng nên thế giới vì tình yêu, tại sao xã hội chúng ta lại đầy bất công, áp bức và đau khổ? Nếu Thiên Chúa tốt lành và quan phòng, tại sao ngay ban đầu Thiên Chúa đã cho con người được chọn lựa làm điều dữ?

Trả lời: 

Một câu hỏi kinh điển

Câu hỏi của bạn là nỗi băn khoăn của rất nhiều người, đã kéo dài từ rất lâu trong dòng lịch sử của nhân loại. Sự hiện diện tràn lan của đau khổ, áp bức, bất công… hay nói chung là sự dữ, đã trở thành lời chất vấn khôn nguôi về sự hiện hữu, về vai trò, và về chính căn tính của Thiên Chúa. Một trong những công thức chất vấn kinh điển đến từ Epicuro, một triết gia Hy-lạp sống từ giữa thế kỷ thứ IV đến đầu thế kỷ thứ III trước công nguyên, thường được gọi là “nghịch lý Epicuro”. Nghịch lý ấy được tóm lại trong tác phẩm De Ira Dei của tác giả Lucio Cecillio Firmiano Lattanzio như sau:

Có thể có ba khả thể trong tương quan giữa Thiên Chúa và sự dữ:

(1) Thiên Chúa muốn tiêu diệt sự dữ, nhưng lại không thể

(2) Thiên Chúa có thể tiêu diệt sự dữ, nhưng lại không muốn

(3) Thiên Chúa vừa muốn vừa có thể tiêu diệt sự dữ

Nếu (1) Thiên Chúa muốn, nhưng lại không thể tiêu diệt sự dữ, hóa ra Thiên Chúa không toàn năng. Đấy không phải là Thiên Chúa.

Nếu (2) Thiên Chúa có thể tiêu diệt sự dữ, nhưng lại không muốn, hóa ra Thiên Chúa không tốt lành. Đấy cũng không phải là Thiên Chúa.

Nếu (3) Thiên Chúa muốn và có thể tiêu diệt sự dữ, và phải như vậy thì Ngài mới là Thiên Chúa, thì tại sao trên thế giới của chúng ta vẫn đầy dẫy sự dữ thế này? 

Chung quy lại, chất vấn của Epicuro và nhiều triết gia theo sau ông là thế này: Tại sao Thiên Chúa toàn năng và tốt lành lại không tiêu diệt sự dữ? Nếu Thiên Chúa toàn năng và tốt lành, tại sao lại có sự dữ? Câu hỏi thứ nhất của bạn cũng đi theo hướng này, nhưng tập trung vào những sự dữ mang tầm mức xã hội: nếu Thiên Chúa đã tạo dựng nên thế giới vì tình yêu, tại sao xã hội chúng ta lại đầy bất công, áp bức, và đau khổ?

Thiên Chúa tiêu diệt sự dữ?

Cần ghi nhận điều quan trọng này: không thể có sự bất công, nếu không có những con người làm chuyện bất công. Không thể có sự áp bức, nếu không có người áp bức. Không thể có sự đau khổ, nếu không có người gây ra đau khổ. Khi bàn về sự dữ, luôn có nguy cơ người ta chỉ tập trung vào sự dữ, mà quên mất con người mới chính là tác nhân gây ra sự dữ, nhất là những sự dữ mang tầm mức xã hội. Tại sao Thiên Chúa không thẳng tay tiêu diệt sự dữ? Vậy thì phải hỏi lại, làm cách nào để tiêu diệt sự dữ cách triệt để, nếu không phải là tiêu diệt tác nhân gây ra sự dữ? Liệu Thiên Chúa có thể ra tay tiêu diệt những con người làm điều dữ không?

Trong mong ước và tưởng tượng của con người, nhất là những nạn nhân của sự dữ, câu trả lời có thể là có: Thiên Chúa nên thẳng tay tiêu diệt những kẻ làm điều dữ, và khi đó chắc xã hội của loài người sẽ không còn áp bức, bất công, và đau khổ nữa. Nhưng trong kế hoạch của Thiên Chúa, không thể có điều đó! Thiên Chúa của chúng ta, như được mạc khải trọn vẹn nơi Đức Giêsu, không thể thẳng tay tiêu diệt con người, dù đó là những con người làm điều dữ. Như một người Cha, “Thiên Chúa cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên kẻ công chính cũng như kẻ bất lương” (Mt 5,45). Thiên Chúa mà Đức Giêsu mạc khải không phải là một vị thần sòng phẳng theo kiểu lấy điều ác để trả lại cho cái ác của người đã làm ác. Do đó, có những sự dữ Thiên Chúa không thể thẳng tay tiêu diệt: những sự dữ đến từ trong chính trái tim con người, khi con người dùng tự do của mình để chọn lựa và kiên quyết đi cho đến cùng chọn lựa tự do ấy.

Điều Thiên Chúa có thể làm và mong đợi đó là việc hoán cải trái tim của con người, những con người là tác nhân chính của bất công, áp bức, và đau khổ. Nhưng làm thế nào để hoán cải trái tim con người? Liệu Thiên Chúa có thể hành động như cách của một phù thủy đầy phép thuật, chỉ cần vung chiếc đũa thần là mọi sự hoàn toàn thay đổi theo ý của mình không? Không, Thiên Chúa không thể làm như thế. Bởi lẽ bất cứ một “phép thuật” nào làm biến đổi con người, dù là theo hướng tốt, nhưng ngược với ý muốn và chọn lựa của con người, thì đều phạm vào tự do, là ơn mà Thiên Chúa đã ban cho con người.

Thiên Chúa và tự do của con người

Từ điểm này, chúng ta có thể qua vế thứ hai trong câu hỏi của bạn. Nếu Thiên Chúa tốt lành và quan phòng, tại sao ngay ban đầu Thiên Chúa đã cho con người được chọn lựa làm điều dữ? Bạn có nhận ra đây là một câu hỏi phiến diện không? Sự phiếm diện nằm ở chỗ này: không phải là “ngay từ ban đầu Thiên Chúa đã cho con người được chọn lựa làm điều dữ”. Đúng hơn, ngay từ ban đầu Thiên Chúa đã cho con người được chọn lựa làm điều lành hoặc chọn lựa làm điều dữ.

Tự do mà Thiên Chúa ban cho con người là tự do thật sự, mở ra theo cả hai chiều, chứ không phải tự do theo kiểu chỉ có thể làm điều này mà không thể làm điều kia. Đó không còn là tự do nữa. Thí dụ: nếu Thiên Chúa chỉ cho con người tự do để làm điều lành mà thôi, không được làm điều dữ, thì “tự do” theo nghĩa này thật ra chỉ là một cách chơi chữ thôi, chứ có tự do gì đâu, phải không? Với tự do của mình, con người có quyền chọn làm điều này hoặc làm điều kia, làm điều lành hoặc làm điều dữ, chứ không phải Thiên Chúa chỉ cho con người tự do để chỉ chọn làm điều dữ mà thôi. Con người có thể dùng tự do của mình để xây dựng, để trưởng thành, để làm điều lành. Đồng thời, con người cũng có tự do để làm điều dữ. Tự do làm điều dữ là một trong vô vàn lựa chọn mà con người có thể chọn để làm. Nếu bạn chỉ thấy rằng Thiên Chúa cho con người có tự do để làm điều dữ, đó là một lối nhìn phiến diện, phải không?

Tự do nói lên phẩm giá của con người, đồng thời nói lên sự tin tưởng mà Thiên Chúa đặt vào con người. Khi trao cho con người tự do đích thực, Thiên Chúa cũng thể hiện tình yêu đích thực dành cho con người.

Đương nhiên, bất cứ một ơn tự do nào cũng đi liền với một hoặc nhiều nguy cơ. Nguy cơ người được trao sẽ sử dụng tự do không đúng cách. Nguy cơ bị phản bội. Nguy cơ người tự do sẽ đi xa lạc. Vậy thì tại sao lại cho con người có tự do? Bởi lẽ, nếu không có tự do, con người sẽ không còn là con người nữa. Không có tự do, con người đơn giản chỉ là một con rối trong bàn tay Thiên Chúa. Thiên Chúa không làm như thế. Thiên Chúa đủ quảng đại, yêu thương, và “chơi đẹp” để đặt trọn vẹn ơn tự do vào bàn tay con người. Bởi vì chỉ với tự do, con người mới có thể lớn lên, trưởng thành, và sống đúng phẩm vị là con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa.

Trong một gia đình nếu cha mẹ không cho con cái tự do, con cái mãi vẫn chỉ là những đứa trẻ khờ trong nhà chứ không bao giờ lớn lên được. Trong đời sống vợ chồng, nếu người vợ hay người chồng không dám tin tưởng và không để cho người bạn đời của mình có được một phút giây tự do nào, đời sống ấy sẽ sớm trở thành hỏa ngục, và tình yêu mà họ dành cho nhau thực chất chỉ là những chiếm hữu ích kỷ làm chết dần chết mòn người bạn đời của mình mà thôi.

Nếu Thiên Chúa không cho con người có tự do, chỉ vạch sẵn cho con người một lộ trình hoàn hảo để con người cứ theo đó mà làm, thì nói cho cùng con người chỉ là những con rô-bốt được lập trình. Con người như thế hoàn toàn không tự do và tự quyết trong mọi chuyện mình làm, do đó cũng không có nhân phẩm và trách nhiệm gì với cuộc đời của mình cả. Khi đó, con người không còn là con người nữa, và Thiên Chúa cũng không còn là một Thiên Chúa của tình yêu nữa. Thiên Chúa khi ấy có khi đóng vai trò chỉ như là một chủ cơ sở sản xuất, và con người chỉ còn là một thứ đồ chơi trong bàn tay Thiên Chúa mà thôi.

Tự do là một ân huệ. Bất cứ một ân huệ nào cũng đi liền với trách nhiệm.

Trách nhiệm thuộc về Thiên Chúa hay thuộc về con người?

Nếu Thiên Chúa đã tạo dựng nên thế giới vì tình yêu, tại sao xã hội chúng ta lại đầy bất công và đau khổ. Theo bạn, có phải Thiên Chúa là người gây ra những bất công và đau khổ chăng? Hay Thiên Chúa phải chịu trách nhiệm, vì đã cho con người có tự do?

Thử suy nghĩ về một vài trường hợp cụ thể trong cuộc sống thế này: có những bậc cha mẹ vĩ đại, đã yêu thương làm lụng vất vả, hy sinh cả đời cho con cái mình, con cái thì lại ăn chơi hư hỏng, không chịu học hành, gây ra bao nhiêu lỗi lầm và tai họa… Nếu bạn là người phân xử, bạn lại quy trách nhiệm về cho cha mẹ sao? Khi con cái dùng tự do để sống cuộc sống của mình cách sai lạc, lại quay sang trách cha mẹ, đó chẳng phải là lối đổ lỗi theo kiểu trẻ con và lối lý luận vô lý đến buồn cười sao?

Đáng tiếc là với con người, việc đổ lỗi như vậy thường không hiếm. Nhiều người làm ăn và mưu toan những chuyện bất chính, và khi gặp phải kết cục thất bại, họ vẫn thường ngước mắt lên trời than kiểu này: “Trời không độ ta”, hoặc “Trời hại ta rồi”. Sao lại đổ thừa cho ông Trời, trong khi mọi toan tính và hành động đều do mình ngoan cố, đã biết sai mà vẫn cứ làm? Có lạ không khi người ta ngoan cố bước đi trong đường tội lỗi và sai trái, ra công ra sức xây dựng cho mình những lâu đài trên cát, tới khi mọi sự sụp đổ thì họ quay sang quy tội cho Trời? Có lạ không khi đứng trước những cơ cấu tồi tệ và những con người tội lỗi gây ra bao nhiêu áp bức, bất công, đau khổ… người ta lại kéo Chúa vào, đổ lỗi cho Chúa, bắt Chúa phải gánh trách nhiệm?

Cứ đổ tội cho Thiên Chúa trong những sự dữ do chính con người gây ra, chắc chắn chẳng bao giờ con người có thể tìm được cho mình câu trả lời tại sao.

Kết luận

Thiên Chúa là Đấng tốt lành và quan phòng. Thiên Chúa đã dựng nên thế giới vì tình yêu. Thế giới ấy, Thiên Chúa đã trao cho con người. Là một người Cha, Thiên Chúa muốn con cái mình trưởng thành như những con người tự do và có trách nhiệm. Cần đủ lắng để suy niệm về cách mà Thiên Chúa trao tự do cho con người, để thấy được sự liều lĩnh mà Thiên Chúa thực hiện với con người. Phải có một tình yêu vĩ đại và cao cả thì mới có thể liều lĩnh được như vậy.

Thực tế xã hội đầy bất công, áp bức và đau khổ là điều không ai có thể chối cãi. Người thấp cổ bé miệng bị chèn ép. Kẻ có quyền có thế thì lộng quyền. Ở hiền không phải lúc nào cũng gặp lành. Nhưng cần đủ công bằng và trưởng thành để nhận ra rằng bất công, áp bức, và đau khổ là những chuyện con người gây ra cho nhau. Chẳng những con người không được phép chất vấn Thiên Chúa về những điều ấy; ngược lại, chính con người mới phải trả lời trước Thiên Chúa về việc lạm dụng tự do của mình và phụ bạc ân huệ tình yêu của Thiên Chúa.

Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 6, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (07.11.2023)

---------------------------------

 

BÀI 108 - CỦA CHO KHÔNG BẰNG CÁCH CHO


Quỳnh Thoại, CĐM
21/11/2023
Câu hỏi: Chúa nói: “Ai xin thì hãy cho”. Vậy nếu ta biết họ xin vì lười biếng thì ta có nên cho không? Nhất là những người giả bộ ăn xin!


GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 108: CỦA CHO KHÔNG BẰNG CÁCH CHO

Nữ tu Quỳnh Thoại, CĐM

Câu hỏi: Chúa nói: “Ai xin thì hãy cho”. Vậy nếu ta biết họ xin vì lười biếng thì ta có nên cho không? Nhất là những người giả bộ ăn xin!

Trả lời: 

Phần 1: THÁI ĐỘ

Có phải nghèo đói là một chọn lựa?

Mỗi buổi sáng, tôi đi bộ tầm hai mươi phút từ trường đến nhà thờ chánh tòa Đức Mẹ Vô Nhiễm, thuộc giáo phận Cubao, Philippines để tham dự thánh lễ. Dọc theo con đường N. Domingo quen thuộc, tôi bắt gặp những người nghèo, người ta xếp họ vào nhóm những “gia đình đường phố”. Gọi như vậy vì mọi sinh hoạt ăn uống, ngủ nghỉ, và kiếm sống đều diễn ra ngoài đường, trên các vỉa hè, góc phố.

Tôi thắc mắc. Tại sao lại có quá nhiều người nghèo như vậy? Và tôi đem những thắc mắc này vào lớp học. Tôi nhớ hôm ấy là vào tiết xã hội học (Sociology of Change), giáo sư đã cười khi tôi hỏi, và ông quyết định cho lớp tôi nghỉ học vào buổi học tiếp theo. Lớp tôi được đưa đến Trung Tâm Nội Trú dành cho trẻ em (Children’s Residential Center), do các xơ dòng Thánh Augustine Nữ phụ trách. Sau một ngày chơi đùa với các em (nữ) và trò chuyện với xơ phụ trách ở trung tâm, tôi hiểu rằng: nghèo đói chưa bao giờ là một chọn lựa! Không ai muốn mình nghèo cả. Và lại còn nghèo “bền vững” nữa. Giống như những đứa trẻ ở trung tâm vậy. Mỗi gương mặt mỗi câu chuyện và cái nghèo khác nhau. Không phải tất cả các em đều mồ côi, hoặc không có người thân, hoặc không có nhà để về. Có em vì gia cảnh túng thiếu, nên phải vào đây để các xơ nuôi dạy và cho đi học. Có em vì là nạn nhân của bạo lực gia đình và lạm dụng tình dục bởi cha đẻ của mình, có em bị bỏ rơi khi mới vài tháng tuổi… Có mấy ai biết đằng sau nụ cười hồn nhiên lúc ban ngày là những nổi ám ảnh kinh hoàng khi đêm xuống. Là những cơn ác mộng và những vết thương chưa được chữa lành… Vậy đó, càng hiểu sẽ càng thương!

Trở về trường, tôi bắt đầu viết bài thu hoạch. Tôi ngừng than phiền tại sao cuộc sống này có quá nhiều vấn đề, quá nhiều đau khổ! Thay vào đó, tôi chất vấn chính mình với câu hỏi: Tôi sẽ làm gì cho người nghèo? Và thái độ của tôi như thế nào khi đối diện với họ. Thương hại? Xét đoán? Hay bao dung và đáp ứng những điều họ cần ngay lúc này? Có ba điều xảy ra trong tôi. Thứ nhất, tôi ý thức hơn về sự hiện diện của người nghèo xung quanh mình. Thứ hai, nhờ đi ra khỏi vùng an toàn và tiện nghi đang sống, tôi có cơ hội hiểu họ hơn. Và cuối cùng, vì đã hiểu, nên tôi ngừng xét đoán. Quả thật, đừng vội xét đoán ai, nhất là người nghèo, nếu chúng ta không dành thời gian để hiểu về những gì họ trải qua. Tôi đã quá vội. Vội hơn những bước chân vội vã của mình, để rồi bỏ lỡ những khoảnh khắc nhìn thấy anh chị em mình phải ngồi co ro chờ trời sáng vào những ngày đông lạnh, để rồi có giấc ngủ muộn màng vào lúc bình minh.

Phần 2: ĐỐI TƯỢNG CHO VÀ NHẬN

Có phải người nghèo luôn là người nhận?

Dưới chân trạm xe điện Betty Go Belmonte, tôi thường thấy những đứa trẻ tay cầm lon, mặt mày lắm lem bụi bẩn. Cứ thấy người ngang qua là chìa cái lon về phía họ, mặt tươi cười khi nghe tiếng leng keng từ những đồng xu rơi xuống, mà không có những tiếng leng keng ấy, chúng cũng vẫn vô tư trở lại đùa giỡn với nhau. Trẻ em vẫn mãi là thiên thần vô lo và vô tư. Duy có điều, những thiên thần bé nhỏ “lắm bụi đường” này đã được cuộc đời khó khăn cơ cực dạy cho khả năng sinh tồn từ rất sớm, và hơn thế nữa, dạy chúng làm quen và coi như bình thường khi bị từ chối mà vẫn an yên. Đó là CÁCH NHẬN mà tôi học được từ những đứa trẻ đường phố trước khi bản thân tôi bắt đầu giúp đỡ ai, hay CHO ĐI một điều gì. Đó là: dù được người giúp đỡ, ban tặng hay không, thì bản thân cũng không để vụt mất niềm vui tự tại.

Về phần mình, tôi tìm cách tiếp cận lũ trẻ. Mỗi buổi chiều tôi kéo ống nước ra ngoài cổng để tưới cây cảnh. Lúc đầu chưa quen tôi, lũ trẻ cứ đi qua đi lại, thèm nghịch nước lắm nhưng còn e dè. Chúng kéo nhau năm bảy đứa chạy nhảy quanh khu vực tôi tưới cây. Biết con nít thích nước, tôi ra hiệu ngoắc tay một cái, và chúng như được mở cờ trong bụng. Vậy đó, món quà “ra mắt” đầu tiên tôi trao cho chúng là nụ cười sảng khoái hòa trong làn nước mát, làm trôi đi những bụi bẩn đã bám chặt thân thể bao ngày. Tôi nhớ khoảnh khắc Bà Vê-rô-ni-ca lau mặt Chúa. Và điều làm tôi ấn tượng nhất đó là: Chúa đã in mặt vào khăn của bà! Chắc bà vui lắm. Cũng như tôi bây giờ vậy. Tôi thấy mình thật hạnh phúc khi được ngắm nhìn những gương mặt ngời sáng niềm vui của lũ trẻ. Như vậy, cũng chính nơi cái nghèo trong các em, tôi lại nhận được những tiếng cười trong trẻo, chân thật, sảng khoái, và bình an… Những điều quý giá ấy làm cho người lớn như tôi thấy thật ấm áp. Và tôi biết mình không phải là người duy nhất cho đi. Chính những đứa trẻ đường phố cũng đã cho tôi niềm vui, tiếng cười trong sự gặp gỡ này. Có qua - có lại mới vui. Cuộc sống mà! Đâu ai nghèo đến nỗi không có gì để cho!

Phần 3: ĐỘNG CƠ THÚC ĐẦY

Thiên Chúa đối với người nghèo như thế nào?

Không biết bao nhiêu lần Thánh Kinh đề cập đến người nghèo, cái nghèo, và một Thiên Chúa của người nghèo. Cụ thể nhất là nơi con người Đức Giêsu. Ngài có một mối bận tâm sâu sắc đến những người thấp kém trong xã hội. Trên những nẻo đường rao giảng, nhiều lần Ngài đã chạnh lòng trước người nghèo, người bất hạnh, và những nỗi thống khổ của họ. Ngài đến với họ, đồng bàn với họ, chạm vào họ, cho họ ăn, và dạy dỗ họ nhiều điều. Không chỉ vậy, Ngài còn khích lệ những ai theo Ngài hãy quảng đại giúp đỡ người nghèo khi tuyên bố rằng: Quả thật, Thầy nói cho anh em biết, “mỗi lần anh em làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là anh em đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Mà “làm như thế” là làm gì? Thưa đó là “khi Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” (Mt 25,35-36).

Đức ái của người Ki tô hữu bắt nguồn từ tình yêu thương và lòng quảng đại của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Chúng ta có một Thiên Chúa không ngại “trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế…” (Pl 2,7) là Đức Giêsu Kitô, và Ngài cũng muốn lan tỏa tâm tình sống này cho tất cả mọi người, để rồi chúng ta có thể bắt chước Ngài, nhạy bén lắng nghe, và thấu hiểu, và đáp ứng những nhu cầu của anh chị em mình.

Phần 4: QUYẾT ĐỊNH CỦA ĐỨC ÁI

Ưu tiên cho người nghèo: chọn lựa hay bổn phận?

Trong tông huấn Niềm Vui Tin Mừng số 187, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc nhở mỗi Kitô hữu rằng: “Mỗi cá nhân và mỗi cộng đồng Kitô hữu được kêu gọi trở thành một dụng cụ của Thiên Chúa cho việc giải phóng và thăng tiến người nghèo, và giúp họ là thành viên đầy đủ của xã hội. Việc này đòi chúng ta phải mở lòng và chăm chú lắng nghe tiếng kêu của người nghèo và đến cứu giúp họ.” Ngài còn cho chúng ta thấy vẻ đẹp của Tin Mừng chính là sự “chọn lựa vì những người hèn mọn nhất, những người bị xã hội loại trừ”. Nói như Thánh Phaolô: chúng ta không được bỏ quên người nghèo, vì chính Đức Giêsu là người đầu tiên chọn lựa cách sống ấy. Như vậy, ưu tiên cho người nghèo, vừa là một chọn lựa của đức ái, nhưng cũng là bổn phận của mỗi người Kitô hữu, những người mang trong tim tình yêu của Đức Kitô.

Trở lại vấn đề giúp đỡ người nghèo. Tôi muốn nói về cách thức chúng ta giúp đỡ. Có người chỉ cần một bữa ăn no trong ngày là hạnh phúc lắm rồi; kiểu như ăn gì cũng được, miễn được ăn. Có người thì không cần ăn, chỉ cần tiền để mua sữa cho con. Lại có người cần được thay đổi tâm thức để có thể tự sinh tồn, vì vốn dĩ họ còn rất trẻ, và có thể dùng sức lao động của mình mà làm việc và trang trải cuộc sống; nhưng vì một lý do nào đó, họ lại thụ động. Hơn nữa, việc cho người nghèo, người ăn xin những gì thuộc về vật chất xem ra khá dễ dàng và đơn giản. Chỉ cần dừng lại, móc ví ra, và bỏ vài đồng lẻ cho họ rồi bước đi. Chúng ta có thể cho mà không mảy may suy nghĩ về họ sau đó.

Tuy nhiên, một khi đã đặt ưu tiên cho người nghèo như một chọn lựa và cũng là bổn phận, chúng ta sẽ để họ trong tâm trí, và tìm đáp ứng những nhu cầu của họ, cả vật chất lẫn tinh thần. Việc thay đổi não trạng và thái độ sống thụ động của họ thật không dễ dàng. Sự giáo dục, môi trường xã hội, và điều kiện sống có ảnh hưởng rất lớn đến trình trạng nghèo của họ. Trường học, bệnh viện không phải là nơi người nghèo có thể dễ dàng ra vào. Vậy nên, sẽ có lúc chúng ta thấy tiếc khi giúp người không xứng đáng vì nhận ra họ lười biếng, nhưng việc đó thì dễ chịu hơn nhiều so với việc ta bỏ lỡ cơ hội để trợ giúp kịp thời và tức thời những ai đang cần. Đó sẽ là điều làm ta day dứt không nguôi.

Bạn thân mến!

Chúng ta không bênh vực cho thái độ sống lười biếng, không chịu làm việc mà chỉ biết cậy chờ sự giúp đỡ của người khác. Đối với những trường hợp như vậy, chúng ta cần tìm hiểu và có “cách cho” khác. Nhưng dù sao đi nữa, hãy cho đi. Vì trong cái nghèo có vạn kiểu nghèo như được đề cập ở trên. Hãy yêu thương họ trước, rồi sau đó, chúng ta sẽ có cách hiểu được nhu cầu thật sự của họ.

Cầu chúc cho trái tim bạn luôn hướng về người nghèo như bạn đã từng, và kinh nghiệm sự gặp gỡ Chúa qua gương mặt của anh chị em chung quanh, đặc biệt là những người nghèo.

Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 6, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (21.11.2023)

---------------------------------

 

BÀI 109 - LUẬT TỰ NHIÊN VÀ THIÊN LUẬT


Phêrô Dương Hải Văn, SDB
28/11/2023
Tại sao “hôn nhân đồng tính” không phải là hôn nhân theo luật tự nhiên của con người?


GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 109: LUẬT TỰ NHIÊN VÀ THIÊN LUẬT

Linh mục Phêrô Dương Hải Văn, SDB

Câu hỏi: Tại sao “hôn nhân đồng tính” không phải là hôn nhân theo luật tự nhiên của con người?

Trả lời: 

Chào bạn,

Như chúng ta đã biết, hôn nhân gia đình chính là nền tảng cho sự sống còn của nhân loại trong thế giới này. Đây là giao ước tình yêu của một người nam và một người nữ dành cho nhau. Điều này không phải là một sự xác định chỉ có giá trị ở thời điểm hôm nay, nhưng nó đã trải dài theo dòng lịch sử của sự sống nhân loại. Hôn nhân này là nền tảng để duy trì nòi giống và sự phát triển của con người. Vì thế, nó là một giá trị căn bản cho đời sống nhân loại ở trong bất kỳ thời đại và nơi chốn nào.

Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa đã dựng nên người nam và người nữ, rồi Ngài tác hợp họ nên một, để họ gắn kết và thuộc về nhau: “Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt.” (St 2,24). Đồng thời, Thiên Chúa còn mời gọi họ cộng tác vào công trình tạo dựng của Ngài, khi làm cho đời sống hôn nhân được triển nở và tiếp tục trên mặt đất này: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất” (St 1,28). Như vậy, hôn nhân được khởi sinh từ ý định khôn ngoan và đầy yêu thương của Thiên Chúa, nhằm kết hợp một người nam và một người nữ nên một, để họ hỗ tương cho nhau trong đời sống, cũng như tiếp tục công trình sáng tạo và thánh hóa của Thiên Chúa trong việc truyền sinh.

Chúa Giêsu cũng khẳng định bản chất của hôn nhân giữa một người nam và một người nữ, khi Ngài nói: “Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hóa đã làm ra con người có nam có nữ, và Người đã phán: “Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt” (Mt 19,4-5). Đây là một kết ước thánh thiêng giữa một người nam và một người nữ để làm triển nở tình yêu mà họ dành cho nhau trong đời sống vợ chồng. Hôn nhân đó thuộc về bản chất tự nhiên đã được Thiên Chúa đặt để nơi con người, nhờ đó, họ đến với nhau bằng tình yêu thương, hỗ tương cho nhau trong đời sống vợ chồng, và duy trì nòi giống trong việc tương quan tính dục và truyền sinh.

Giáo Hội trong Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes số 50 cũng tái khẳng định: “Hôn nhân và tình yêu vợ chồng, tự bản tính, quy hướng về sự sinh sản và giáo dục con cái”. Điều đó cho thấy hôn nhân không chỉ dừng lại ở tình yêu, nhưng tình yêu đó phải được tiếp tục trao ban trong hành vi vợ chồng, trong việc sinh sản và giáo dục con cái của đôi bạn. Bao lâu tình yêu chỉ đóng kín trong việc thỏa mãn tình dục, nó chỉ còn là một nhu cầu khỏa lấp dục vọng nơi bản tính con người. Tình yêu hôn nhân tự bản chất phải hướng đến việc trao hiến cho nhau cách tự nguyện, để từ đó hướng đến việc truyền sinh trong đời sống gia đình.

Như thế, theo đức tin và Giáo huấn của Giáo hội Công giáo chúng ta, thì hôn nhân gia đình cách đích thực chính là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ. Sự kết hợp này không chỉ nằm ở sự đồng thuận của hai người, hay là ở việc chứng nhận của pháp lý, nhưng trên hết: “Chính Thiên Chúa là tác giả của cuộc hôn nhân; Ngài đã ban cho hôn nhân những ơn ích và mục tiêu khác nhau”[1]. Hôn nhân như thế mặc lấy những giá trị của tự nhiên và mang lấy cả những ý nghĩa của siêu nhiên một cách thánh thiêng. Cùng với đó, hôn nhân gia đình chính là cái nôi của sự sống, nhờ việc truyền sinh và giáo dục con cái. Điều này cũng được thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II trong Tông huấn Christifideles Laici nói tới: “Gia đình là chiếc nôi của sự sống và tình yêu”.

Tuy nhiên, khi đối diện với điều này, có nhiều ý kiến đưa ra là các cặp “hôn nhân đồng tính”[2] có thể xin con nuôi, hoặc sinh sản nhân tạo, hay mang thai hộ.... Mục đích của họ là sẽ làm mọi cách để có con. Và điều này cũng đang xảy ra nơi các cặp “hôn nhân đồng tính” ngày nay. Nhưng khi nhìn vào điều đó, chúng ta phải xác tín rằng, một trong những yếu tố quan trọng của hôn nhân không phải là tìm mọi phương thế để có con, nhưng con cái phải là kết quả của tình yêu thương vợ chồng dành cho nhau. Con cái không phải là kết quả do một cuộc nghiên cứu khoa học tạo nên, cũng không phải là sản phẩm của giới y khoa. Con người là một nhân vị, một quà tặng thánh thiêng, nên dù bé nhỏ thế nào chăng nữa, thì cũng phải được sinh ra và lớn lên trong tình thương cha mẹ một cách trọn vẹn.

Dù với lý do nào chăng nữa, thì chỉ trong hôn nhân giữa một người nam và một người nữ mới thực sự là hôn nhân theo luật tự nhiên. Hôn nhân này đã được Thiên Chúa đặt để trong bản tính của con người, nhằm hướng đến sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ trong tình yêu gia đình. Từ đó, trong tình yêu trao hiến vợ chồng sẽ nảy sinh một sự sống mới để duy trì sự sống cho nhân loại trên thế giới này.

Từ những điều đó, chúng ta thấy rằng, “hôn nhân đồng tính” giữa hai người nam hoặc hai người nữ với nhau, không phải là một khế ước hôn nhân đích thực. Đó cũng không phải là hôn nhân theo luật tự nhiên của con người, và theo như ý định của Thiên Chúa. Kiểu “hôn nhân” này trái ngược với bản chất của hôn nhân gia đình mà chúng ta đã nói ở trên. Nó không đưa đến một trong những mục đích của hôn nhân là duy trì sự sống con người trong việc sinh sản và giáo dục con cái. “Hôn nhân đồng tính” chỉ dừng lại ở những thỏa mãn của cảm xúc tính dục chứ không thể mở ra cho một sự sống mới.

Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 6, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (28.11.2023)

---------------------------------

 

BÀI 110 - SƠ ƠI CỨU CON!


Nt. Thiên Di, CND - CSA
12/12/2023
Câu hỏi: Bạn trẻ phải làm gì, giữa chọn lựa giữ lại thai nhi và tiếng đời bàn tán về việc có con trước hôn nhân?


GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 110: SƠ ƠI CỨU CON!

Nữ tu Thiên Di, CND - CSA

Câu hỏi: Bạn trẻ phải làm gì, giữa chọn lựa giữ lại thai nhi và tiếng đời bàn tán về việc có con trước hôn nhân?

Trả lời: 

Em nhắn tin cho tôi:

“Con đã sinh bé trai mạnh khỏe, bình an sơ ạ!”

Tôi mừng cho em và con, vì bé đã được sinh ra trong vòng tay của em và bà nội bé. Tôi nhìn lại quãng đường em đã đi qua mà tạ ơn Chúa với em. Có lẽ cuộc sống phía trước còn nhiều lo toan, vất vả… Nhưng đến lúc này, tôi tin rằng khi em nhìn sinh linh bé nhỏ Chúa dành cho em, em sẽ đủ mạnh mẽ sống và cùng con khám phá những cung bậc cuộc sống ở phía trước.

Mạng xã hội của nhà dòng xuất hiện tin nhắn của người lạ: “Con chào sơ!” kèm theo là khuôn mặt của một cô bé với hai dòng nước mắt lăn dài trên má. Tôi đoán người này, đang có chuyện không vui. Tôi vào trò chuyện thân tình, mới biết em là một cô gái mới bước qua tuổi 18.

Tôi hỏi em: “Sơ có thể giúp con được chuyện gì?”

Em ngập ngừng thổ lộ: “Con đã… con đã có thai được 6 tháng!” và em tiếp tục khóc. Em nghẹn ngào qua những dòng chữ đẫm nước mắt. Lúc này, em thật sự bối rối và mang nhiều nỗi đau. Còn tôi thì xót xa cho em, em vừa bước qua tuổi 18, sống xa gia đình để kiếm kế sinh nhai. Vì yếu đuối em đã có con với người mình yêu. Khó khăn này chồng lên khó khăn trước, nỗi buồn này đan xen với nghịch cảnh cuộc đời em, làm em chới với không biết bám víu vào ai.

Tôi gọi điện cho em. Em bắt đầu kể cho tôi về cuộc đời của mình. Em tin tưởng các sơ, cho dù chưa gặp mặt tôi, nhưng em vẫn thổ lộ hết những nỗi niềm trong lòng. Có lẽ lúc này, em cần một người lắng nghe em nói, một bờ vai chỉ để em dựa vào.

Em sinh ra tại một tỉnh miền Trung, vì vùng quê nghèo nắng cháy đỏ da, khí hậu khắc nghiệt nên em đi tìm một việc để làm thật khó. Em tạm xa gia đình khi mới học xong cấp 2 theo đám bạn mới lớn vào Sài Gòn kiếm việc. Tuổi 15 em đã phải lo cho người khác miếng cơm cái áo. Đồng lương ít ỏi hàng tháng, em chắt chui tiết kiệm gởi về nuôi Mẹ - nuôi dượng và 4 đứa em thơ dại nơi quê nghèo. Em buồn vì hôm nay em lại dẫm chân lên vết xe đổ của mẹ em “chưa chồng mà đã có con”, rồi đây ai sẽ lo cho gia đình em ở quê? Đầu em quay cuồng trong hỗn độn của sự giằng xé.

Em bộc bạch: “Dượng lấy mẹ đã có 4 mặt con, nhưng ‘cơm không lành canh không ngọt’ dượng lại lấy em ra mà chửi rủa mẹ em”. Sự đay nghiến của dượng làm Mẹ em nhục nhã, em bị tổn thương nặng trước những câu chửi đầy xúc phạm của kẻ say. Chuyện em mang thai, mẹ em chưa biết.

Em lo lắng trong dòng lệ ngấn dài: “Mẹ con mà biết, chắc mẹ con không sống được quá sơ ơi!” Khi em chào đời, tiếng gièm pha dị nghị của người đời đã khiến mẹ em “chết đi sống lại”. Mẹ em lo lắng khi em phải xa gia đình vì miếng cơm manh áo, mẹ thủ thỉ khi em chuẩn bị đi xa: “Con cố gắng lo làm việc, đừng ăn chơi đua đòi lại khổ con ơi…”

Em nơm nớp lo sợ khi bào thai mỗi ngày một lớn “mình làm gì để nuôi con đây!”, “còn gia đình ở quê thì sao đây?”, “hay là phá bỏ? nhưng đạo Công giáo không cho phép được giết con…?” Em òa khóc trong tuyệt vọng. Người em run lên mỗi khi nhìn thấy số điện thoại của Mẹ chuông báo, vẫn là điệp khúc “con có tiền gởi cho Mẹ và các em”. Em đượm buồn, nói dối mẹ “nhà chủ đang khất nợ 3 tháng nay, nên con chưa có”. Nhưng thật ra, em đã nghỉ việc 3 tháng rồi vì thai nghén. Lòng em quặn đau vì biết ở nhà chẳng còn gạo, 4 đứa em mặt mũi xanh xao vì đói ăn. Thương mẹ thương em lòng em thắt lại vì đau.

Em nhờ tôi làm cầu nối với mẹ em, vì em không can đảm đối diện với hiện tại nhưng lại cần lắm một sự cảm thông. Tôi trở thành người thân duy nhất của em nối kết nhà trai với nhà gái. Mẹ em khóc ròng khi hay tin em mang thai, tôi chỉ biết nghe bà trách móc em, bà cương quyết không chấp nhận người bạn của em vì không cùng tôn giáo. Tôi an ủi bà trong tuyệt vọng. Thật may mắn cho em, bạn trai em thương em thật lòng, gia đình nhà trai không kiêng nệ lại đón nhận em trong tình người. Gia đình cũng ít con nên nghe có cháu nội, bà mừng lắm. Bà đón em về để tiện chăm sóc trong những tháng cuối thai kỳ cho dù hai em chưa cưới hỏi. Tôi và em mừng rơi nước mắt.

Có lẽ người đời dị nghị ra vào chuyện cưới xin của em “chưa hỏi đã về làm dâu”. Còn với tôi, tôi lại mừng khôn xiết vì đây là điều tốt nhất trong lúc này, những thủ tục cưới hỏi xin tạm gác trong hoàn cảnh “nước xôi lửa bỏng”. Mẹ ruột em vì sợ viết thương cũ làm rướm máu nên bà không chấp nhận bào thai, không chấp nhận con rể ngoại đạo, còn em thì côi cút tự xoay sở trong lúc cần lắm sự nâng đỡ ủi an.

Gia đình nhà trai chấp nhận em, tôi xúc động trong nghẹn ngào. Mừng quá em ơi! Những câu nói chanh chua xin ngừng lại để một sinh linh sắp được chào đời, điều đó còn tuyệt vời hơn rất nhiều so với sĩ diện hão của con người: “Phá bỏ thai nhi để khỏi mang tiếng, phá bỏ để khỏi trách nhiệm…” và có cả hành ngàn lý do để người ta có thể giết chết một mần sống mà Thiên Chúa ban tặng. Tôi mừng vì tội ác giết người đã không xảy ra với em.

Nghĩ về cuộc đời em với những nỗi buồn vô định, tôi thấy em thật can đảm và mạnh mẽ. Dù cuộc sống đầy những bấp bênh vùi dập em, em vẫn hướng về phía trước, mang trong mình niềm hy vọng vào Thiên Chúa, vào sự sống Ngài ban cho em. Em đã dám chấp nhận những rủi ro của tương lai để làm cho sự sống của Thiên Chúa được lớn lên. Thiên Chúa đã trao cho em một trẻ thơ mong manh và mời em hãy làm cho bé lớn lên. Tôi vui vì em đã đáp đền niềm tín thác của Ngài nơi em.

Em thân mến,

Lúc này em đã trở thành một người mẹ trẻ, tương lai của gia đình em nằm trong chính cách cư xử, cách sống của mỗi thành viên trong gia đình. Em hãy giúp cho con của mình cảm nhận gia đình là một mái ấm đầy yêu thương có cha có mẹ; là nơi con em tập tễnh những bước chân đầu tiên đi vào đời. Cho dù có vấp ngã, có té nhoài hoặc có te tua giữa dòng đời thì con em vẫn an tâm tin rằng: “Ba mẹ vẫn luôn bên cạnh khuyến khích đỡ nâng và tiếp tục giúp con bước tiếp”.

Em đã rất kiên cường chọn lựa giữ lại đứa bé – con của hai em giữa những cám dỗ của sự chối bỏ hôm nay. Em hãy giúp cho con của mình cũng trở nên mạnh mẽ và có một trái tim nhân ái, biết trân trọng sự sống, biết hy sinh xả thân vì người khác mà không quy về chính mình. Hãy giúp cho bé biết rằng: chỉ có lòng nhân ái, sự tha thứ mới xoa dịu những vết thương trong lòng. Cầu mong em có một gia đình hạnh phúc, vợ – chồng em có những đứa con ngoan, thảo hiếu cha mẹ, biết thương gia đình. Và em hãy nhớ rằng niềm hy vọng hướng về tương lai luôn giúp cho chúng ta vững vàng sống tiếp.

Hẹn gặp lại em!

Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 6, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

Đọc thêm bài cùng chủ đề:

1. Khái niệm phá thai trên quan điểm y khoa và thần học luân lý Công Giáo

2. Mười hai điều Đức Giáo hoàng Phanxicô nói về phá thai

3. Vấn đề phá thai và hiếm muộn

---------------------------------

 

BÀI 111 - HẠNH PHÚC TRONG THIÊN CHÚA


Phêrô Dương Hải Văn, SDB
19/12/2023
Câu hỏi: Phải chăng khi con người không cần quan tâm đến Thiên Chúa nữa thì sẽ hạnh phúc hơn không?


GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 111: HẠNH PHÚC TRONG THIÊN CHÚA

Phêrô Dương Hải Văn, SDB

Câu hỏi: Phải chăng khi con người không cần quan tâm đến Thiên Chúa nữa thì sẽ hạnh phúc hơn không?

Trả lời:

Nếu ai đã từng xem chương trình “Như chưa hề có cuộc chia ly” được phát trên sóng truyền hình VTC3, chúng ta sẽ không ít thì nhiều bùi ngùi xúc động trước những cuộc gặp gỡ của những người thân yêu sau bao năm xa cách. Có những người do hoàn cảnh mà thất lạc nhau trong nhiều năm trường, nhưng cũng có những trường hợp do nỗi uất ức, hay do hiểu lầm gia đình, khiến họ bỏ nhà ra đi, và rồi thất lạc từ đó. Thế nhưng, sau nhiều năm xa cách, với những kinh nghiệm của cuộc sống, họ đã hiểu ra được những sai lầm non dại của tuổi trẻ, và mong ước được trở về với tình thân gia đình.

Chương trình này giúp kết nối để những con người thất lạc được tìm về với gia đình sau bao năm xa cách. Thế mới biết, nguồn cội và những giá trị của tình thân gia đình thật quý báu dường bao, nên dù cho điều gì hay hoàn cảnh nào chăng nữa, con người vẫn luôn khát khao tìm về với nguồn cội của chính mình.

Tôi muốn trả lời cho câu hỏi của bạn bằng tâm tình của những con người trong chương trình “Như chưa hề có cuộc chia ly”: ai cũng khát khao để gắn kết với nguồn cội, nơi mình đã được sinh ra. “Tôi là ai? đã là chủ đề rất lớn để nhà tâm lý học Erik Erikson nghiên cứu về vấn đề căn tính của mỗi người. Nói cách khác, nguồn cội của mỗi người chính là nơi khởi đầu cho hạnh phúc làm người. Chính nơi đây, ta được sinh ra và lớn lên trong tình yêu thương, được sống trong sự bảo bọc chở che của tình gia đình. Sẽ không có ai tự hào và cho rằng mình hạnh phúc vì bản thân là một người mồ côi cả. 

Chỉ khi chúng ta nhận thức rằng, hạnh phúc là được sống trong mối tương quan, chúng ta mới có được hạnh phúc đích thực cho đời mình. Vì thế, dẫu cho hành trình cuộc sống có những thăng trầm của cảm xúc, nhưng khi đối diện với sâu thẳm cõi lòng, chúng ta vẫn biết rằng, cuộc đời không phải là một thoáng thời gian trôi đi cách vô tình, nhưng luôn có nơi xuất phát và có điểm để về. Và chỉ khi ta biết được đâu là nguồn cội đích thực cho cuộc đời, ta mới thực sự chân nhận đó là hạnh phúc của đời ta.

Đối với người Kitô hữu, chúng ta thật hạnh phúc khi được Thiên Chúa mặc khải cho biết về phẩm giá làm người và làm con Chúa của mình. Với việc đáp trả bằng đức tin, chúng ta biết được Thiên Chúa chính là nguồn cội và là hạnh phúc đích thực cho cuộc đời chúng ta: “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Đức Chúa làm chỗ nương thân” (Gr 17,7). Chúng ta được Thiên Chúa yêu thương, được Ngài che chở và chúc lành cho hành trình làm người của mình. Do đó, chỉ khi biết gắn kết với Thiên Chúa, đặt trọn cuộc đời nơi Ngài, thì con người mới có được hạnh phúc trọn vẹn cho đời mình.

Thánh Augustinô cũng đã từng cảm nhận và thốt lên: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con và lòng con khắc khoải cho tới khi tâm hồn con được an nghỉ trong Chúa”. Chỉ những ai có mối tương quan cá vị sâu sắc với Thiên Chúa, mới cảm nhận được thế nào là hạnh phúc đích thực cho cuộc đời. Sự khắc khoải ưu tư của thánh nhân, cũng chính là sự khắc khoải của tâm hồn mỗi con người. Khắc khoải không phải là để chạy trốn, để chối bỏ vận mạng cuộc đời, hay là để từ chối cội người tình yêu trong Thiên Chúa. Nhưng sự khắc khoải đó giúp chúng ta biết rằng, mỗi phút giây của cuộc sống mà ta đang trải qua, phải là cơ hội để đưa ta đến với Thiên Chúa. Chỉ có như thế, chúng ta mới thực sự được sống trong tình yêu thương, trong niềm hạnh phúc của hành trình làm người. Vì trong Ngài, chúng ta mới định hướng được cho cuộc đời một cách vững chắc, mà như lời thánh vịnh nhắc nhớ:

“Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy, hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người !” (Tv 33,9)

Thế nhưng, có những người lại không nhận ra được chính Thiên Chúa là ý nghĩa, là hạnh phúc cho cuộc đời. Họ chỉ cho rằng Thiên Chúa là Đấng ngăn cấm bản thân hoàn thành vận mệnh đời mình. Vì thế, khi đặt Thiên Chúa trở thành một chướng ngại cho cuộc đời, họ đã cố gắng để dứt ra khỏi Ngài: từ bỏ hoặc chạy trốn. Vậy phải chăng chúng ta cũng đang giống như một vài trường hợp trong chương trình “Như chưa hề có cuộc chia ly”? Một vài người trong số họ thất lạc gia đình, là do họ đã có cảm tưởng bố mẹ không thương yêu, hay gia đình là nơi khiến họ mất tự do, kìm hãm con đường kiếm tìm hạnh phúc.

Thú vị là dòng thời gian đã cho họ nhận ra được giá trị và hạnh phúc của cuộc đời không phải là cứ “dứt áo ra đi” mới có được tự do và hạnh phúc đích thực. Nhưng gia đình và nguồn cội mới thực sự tạo nên ý nghĩa và hạnh phúc cho cuộc đời họ. Đó cũng là điều mà nhân loại nói chung và cách riêng là Kitô hữu, chúng ta cần xác tín về hạnh phúc của mình là gì và ở nơi đâu: “Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ. Ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc” (Tv 16,2). Ở trong Thiên Chúa và nơi Thiên Chúa, con người biết mình sẽ tìm được hạnh phúc và có hạnh phúc viên mãn cho cuộc đời. Hạnh phúc đó không chỉ dừng lại ở những gì là bề ngoài, là cảm xúc nhất thời, nhưng là hạnh phúc của người được yêu thương: “Hãy sống thân tình với Thiên Chúa và xây dựng bình an, anh sẽ tìm lại được hạnh phúc” (G 22,21).

Có những lúc chúng ta đang ở trong tình yêu thương của Thiên Chúa, nhưng ta lại không nhận ra đó là tình thương, mà chỉ thấy mình bị kiểm soát và bị cướp mất hạnh phúc cuộc đời. Thiên Chúa không bao giờ là Đấng chèn ép con người, và cũng không bào giờ là Đấng ghen tị với hạnh phúc của con người. Có thể vì tâm hồn chúng ta quá hẹp và ích kỷ, nên không còn đủ sáng để nhận ra được tình yêu Thiên Chúa đang dành cho ta.

Thiên Chúa là nguồn hạnh phúc, là cùng đích cho lý tưởng cuộc đời con người. Bao lâu con người đi ra khỏi lối đường này, con người trở nên chênh vênh giữa dòng đời và mất định hướng cho cuộc sống mình. Đôi khi chúng ta cứ tưởng không cần quan tâm, hoặc loại trừ Thiên Chúa ra khỏi đời mình, thế là ổn, là tự do để sống, và có được hạnh phúc đích thực. Nhưng rồi, những giá trị và hạnh phúc mà ta đạt được, như tiền bạc, địa vị, danh vọng, chức tước... lại có giới hạn và không mang tính tuyệt đối. Nó chỉ mang lại cho ta niềm vui và hạnh phúc trong một khoảng thời gian, để rồi ta cứ khát khao, cứ thao thức tìm kiếm.

Chỉ khi chúng ta ở trong mối tương quan tình yêu với Thiên Chúa, lúc đó chúng ta mới có được sự tự do và hạnh phúc đích thực. Thật đúng như lời Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI trong cuốn sách “Thiên Chúa và Trần thế” đã nói: “Chấp nhận rằng mục đích của đời tôi không phải là cho chính mình, tôi phải vươn lên trên mọi mục tiêu khác. Nghĩa là vươn tới hợp nhất với Đấng muốn tương giao với tôi, và Đấng đó đồng thời cũng để tôi hoàn toàn tự do trong hành động mình”. Khi chúng ta biết dùng tự do để làm điều thiện, và hướng đến hiệp nhất trong mối tương quan với Thiên Chúa, lúc đó chúng ta đạt đến sự tốt lành và hạnh phúc cho cuộc đời mình.

Bên cạnh đó, không phải chỉ khi chúng ta có được thứ này điều kia, hay được thỏa mãn những ước muốn cho bản thân, lúc đó chúng ta mới hạnh phúc. Và hạnh phúc cũng không phải là khi chúng ta cứ loại bỏ những chướng ngại trước mắt trong các mối tương quan để đạt được mục đích của riêng mình. Hay cũng không phải là khi chúng ta cắt đứt mối tương quan thân thuộc của bản thân như gia đình, bạn bè, những người thương yêu… lúc đó ta mới có hạnh phúc. Đó không phải là hạnh phúc mà con người hướng đến.

Hạnh phúc đích thực là khi chúng ta biết sống vì và sống cho trong mối tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Nghĩa là bản thân biết mở ra để hướng đến Thiên Chúa và tha nhân, để sống yêu thương và phục vụ. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhấn mạnh: “Hạnh phúc không phải là một thứ được mua ở siêu thị, hạnh phúc chỉ đến khi yêu và được yêu thương” (Hành hương Macerata-Loreta, 9/6/2018). Tình yêu thương chính là giá trị và dây nối kết chúng ta với Thiên Chúa và tha nhân. Nó cho chúng ta biết hạnh phúc là khi ta còn ở trong tình yêu của Thiên Chúa, được Ngài yêu thương và đáp lại tình yêu thương của Ngài bằng chính đời sống của mình. Đồng thời, khi chúng ta biết mở ra để yêu thương tha nhân, như chính Chúa đã mở ra để yêu thương và đón nhận chúng ta. Hạnh phúc không chỉ dừng lại ở điều chúng ta được, nhưng còn mở ra ở việc chúng ta sống vì và sống với tha nhân.

Như thế, khi con người loại bỏ hoặc không còn quan tâm đến Thiên Chúa nữa, con người sẽ đánh mất chính mình, đánh mất nguồn cội của sự sống và cùng đích của cuộc đời. Bao lâu con người ở trong tình thương của Thiên Chúa, trong mối tương quan với Ngài, lúc đó con người mới hoàn thành vận mệnh đời mình, và mới có được hạnh phúc cuộc đời. Có thể nói, người hạnh phúc nhất trên đời là người biết rằng mình được Thiên Chúa yêu thương, và là người có khả năng để yêu thương và mang lại hạnh phúc cho người khác.

Hy vọng chút chia sẻ trên đây cho bạn nhiều hứng khởi để lên đường với Thiên Chúa. Đừng quên chính Thiên Chúa cũng đang quan tâm, muốn kết thân với mỗi người chúng ta. Ngài đi bước trước để chuẩn bị cho hành trình đi tìm hạnh phúc đích thật của mỗi người.

Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 6, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (19.12.2023)

---------------------------------

 

BÀI 112 - TÍNH DỤC – NĂNG LƯỢNG YÊU THƯƠNG


Nt. Thùy Trang, DHM
04/01/2024
Câu hỏi: Con thấy Mười Điều Răn, điều thứ 6: Chớ làm sự dâm dục lúc nào cũng thách đố cho người trẻ. Những tội lỗi nào liên quan đến điều răn thứ 6 và làm thế nào để vượt qua?


GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 112: TÍNH DỤC – NĂNG LƯỢNG YÊU THƯƠNG

Thùy Trang – DHM

Câu hỏi: Con thấy Mười Điều Răn, điều thứ 6: Chớ làm sự dâm dục lúc nào cũng thách đố cho người trẻ. Những tội lỗi nào liên quan đến điều răn thứ 6 và làm thế nào để vượt qua?

Trả lời: 

Có một sự sống cuồn cuộn trong người chúng ta, và không ai có thể phớt lờ. Nó cuốn hút tôi và cuốn hút người khác vào tôi và tôi vào người khác: tính dục.

Xét về sinh học, tính dục thuộc hệ sinh sản. Như thế, nó cũng chỉ là một trong các hệ sinh học giúp cơ thể chúng ta thực hiện các hoạt động sống. Vậy sao nó lại được con người mọi thời quan tâm nhiều đến thế, và dường như nó vượt qua lãnh vực sinh học. Nhà tâm lý Sigmund Freud cho rằng nó (Ham muốn tình dục – Libido) quyết định toàn bộ nhân cách và động cơ của con người!

Nó thật sự là gì mà có sức mạnh ghê gớm như vậy? Con người đã phong thần cho sức mạnh này trong tín ngưỡng phồn thực, trong văn hóa điếm thánh (prostitues sacrees). Thần thoại Hy Lạp nói về vị thần tình yêu là Cupid vì họ không thể giải thích được tại sao người ta lại phải lòng nhau cực độ như vậy. Các tôn giáo lớn nhìn thấy mối nguy hiểm do tính dục gây ra nên đặt ra giới răn để ngăn cấm người ta sa phạm mà hủy hoại bản thân mình và người khác. Đức Phật khuyên chúng sanh diệt dục tức là lòng ham muốn, trong đó bao gồm cả tính dục (giới thứ ba trong Ngũ giới). Do Thái giáo và Kitô giáo đặt ra điều cấm trong Mười điều răn hay Mười Lời (x. Xh 20,3-17) là điều thứ sáu và thứ chín: “Ngươi không được ngoại tình” (Xh 20,14) và “Ngươi không được ham muốn vợ người ta” (Xh 20,17).

Không chỉ dừng ở đó, các tôn giáo, và cả Công giáo đã đi rất xa trong việc giải thích về tội dâm dục, làm cho người ta cảm tưởng như nó là tội không thể được tha, tội trọng nhất! Tác dụng của những răn dạy này là làm cho người ta tránh không phạm tội, nhưng đồng thời nó cũng làm mất đi vẻ đẹp thật sự của tính dục. Nếu Thiên Chúa là Tốt Lành, Ngài lại có thể tạo dựng nên tính dục như một điều xấu xa sao?

Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã có 129 bài nói chuyện giáo lý ngày thứ tư hàng tuần từ tháng 9/1979 đến tháng 11/1984, được tổng hợp thành cuốn Thần học về thân xác, Đức Giám mục Louis Nguyễn Anh Tuấn chuyển ngữ, cho thấy vẻ đẹp của tính dục con người trong kế hoạch thần linh của Thiên Chúa. Cha Gerald D. Coleman, SS., trong cuốn “Tính dục con người – Một ân ban toàn diện” đã cung cấp một cái nhìn đầy đủ và hệ thống về mọi phương diện của tính dục con người dưới ánh sáng Lời Chúa, sinh học, tâm lý và đạo đức học. Thần học về Sáng tạo hiện nay cũng góp phần “cải thiện” cái nhìn về tính dục con người trong công trình sáng tạo tốt lành của Thiên Chúa.

Năng lượng tính dục tạo nên khao khát kết nối giữa người với người, đặc biệt là giữa những cặp người khác giới đến độ họ có thể cam kết chung sống trọn đời và đảm nhận mọi trách nhiệm hôn nhân và con cái. Năng lượng tính dục cũng tạo nên tình yêu lớn lao dành cho đồng loại, lòng say mê vẻ đẹp, sự sáng tạo nghệ thuật, khao khát dấn thân chăm sóc cho những gì nhỏ bé và yếu ớt – như nỗ lực chung sức chăm lo và bảo vệ Mẹ Đất chẳng hạn.

Sự giảm thiểu tính dục

Tính dục theo cái nhìn của Kitô giáo như đã nhắc đến ở trên không chỉ dừng lại ở sinh học và cơ thể. Thiên Chúa tạo dựng con người là nam, là nữ (St 1,27). Như thế, tính dục góp phần tạo nên căn tính một người, và là phương cách để con người tương quan với nhau. Xã hội học gọi điều này là vai trò giới (gender role) – Cách thức một người sống, làm việc, tương quan và thực hiện vai trò trong gia đình và xã hội theo giới tính của mình.

Thế giới ngày nay có khuynh hướng giảm thiểu tính dục thành những hoạt động tình dục đơn thuần. Điều này tạo nên nhiều lạm dụng và biến thể gây tổn hại khôn lường cho những người liên quan và toàn xã hội.

Tình dục được phóng đại như thể là nhu cầu duy nhất của con người, hoặc bị cào bằng với nhu cầu ăn uống! Bởi thế họ cũng không cần một ranh giới bảo vệ hay ràng buộc nào.

Tình dục còn bị tách rời khỏi hôn nhân và trách nhiệm sinh dưỡng con cái, nó chỉ còn đơn thuần là một sự thỏa mãn khoái lạc cá nhân mọi nơi mọi lúc. Họ cho mình quyền lạm dụng từ ấu nhi đến lão niên, tương quan thân cận hay xa lạ.

Mình vẫn nhớ được cảm giác kinh tởm khi tham dự một khóa học do các bác sĩ trình bày về những biến thái tình dục nơi con người. Chợt nghĩ sao loài được Thiên Chúa tạo dựng cao đẹp như thế mà lại dùng khả năng của mình để biến mình thành điều kinh khủng như vậy!

“Chớ làm sự dâm dục”

Bạn hỏi những gì thuộc về tội dâm dục, tức là hỏi về những điều làm tổn hại đến tính dục cao đẹp của con người. Ai thực hiện những điều này thì mang tội vì làm tổn hại đến sự cao quý của chính mình và của người liên quan.

Sách Giáo Lý Giáo hội Công giáo xác định danh sách các tội này bao gồm (x. GLGHCG 2351-2359):

- Dâm ô: Ham muốn vô độ hưởng thụ khoái lạc.

- Thủ dâm: Cố tình kích thích cơ quan sinh dục nhằm gây khoái lạc tình dục.

- Tà dâm: Quan hệ xác thịt ngoài hôn nhân giữa một người nam và một người nữ. Nó bao gồm ngoại tình và quan hệ tình dục trước hôn nhân.

- Sách báo, phim ảnh và tranh ảnh khiêu dâm: Cố ý phơi bày những hành vi tình dục thầm kín thực sự hay mô phỏng bằng ấn phẩm khiêu dâm.

- Mại dâm và mãi dâm: xúc phạm đến phẩm giá của người bán dâm vì họ biến mình thành trò vui xác thịt cho người mua dâm.

- Hiếp dâm: Dùng bạo lực (hoặc dụ dỗ) bắt ép người khác quan hệ nhục dục với mình.

- Đồng tính luyến ái: Những liên hệ giữa những người nam hay nữ cảm thấy bị lôi cuốn tính dục với người đồng phái nhiều hơn với người khác phái và có hành vi quan hệ thân xác với nhau.

Định hướng năng lượng yêu thương

Nhằm đạt đến sự viên mãn như một người mang giới tính, trong khuôn khổ bài viết, xin đề nghị với bạn đôi điều sau:

1. Giáo dục giới tính Kitô giáo giúp bạn có cái nhìn toàn diện về vẻ đẹp của tính dục mà Thiên Chúa đã dựng nên, để giúp bạn sống trọn vẹn ý nghĩa của nó, dù bạn độc thân, lập gia đình hay đang sống đời tu trì.

2. Luyện tập sống khiết tịnh dành cho mọi người ở mọi độ tuổi và bậc sống. Nó giúp bạn quản lý và thăng hoa tính dục của mình và biết cách diễn đạt tính dục đúng cách và mang lại ý nghĩa.

3. Sống chân thật và có trách nhiệm giúp bạn nhận biết nhu cầu tình dục của bản thân và người khác, đồng thời không chạy theo văn hóa ảo “thời công nghệ 4.0”.

4. Tạo khung pháp lý bằng pháp luật và định chế hôn nhân Kitô giáo giúp bảo vệ tính dục của những người liên quan và con cái họ.

5. Chuyển hóa năng lượng tính dục thành tình yêu thanh khiết dành cho nhân loại, vũ trụ, nghệ thuật, khoa học, và dành để yêu chính Đấng Tạo Hóa của mình.

6. Cuối cùng, bạn hãy cẩn trọng với Camera và Internet! Vì chúng tạo điều kiện cho bạn vừa quá riêng tư, vừa quá rẻ tiền, lại không phải chịu trách nhiệm gì về hành vi tính dục của mình. Ai cũng nghĩ vậy, nhưng họ quên rằng “nhà mạng” và Google Search biết bạn đang làm gì!

Nguyện chúc bạn cảm hiểu được vẻ đẹp toàn vẹn trong tính dục được ban cho bạn, và biết sử dụng chúng để yêu thương và dấn thân.

Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 6, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (04.01.2024)

---------------------------------

 

BÀI 113 - GẶP CHÚA MỖI NGÀY


Lm. Giuse Lê Đắc Thắng, SJ
16/01/2024
Câu hỏi: Việc đọc kinh, cầu nguyện hằng ngày thường chẳng thú vị với người trẻ nữa. Không biết những điều đó có giúp người trẻ gần gũi Thiên Chúa không?


GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 113: GẶP CHÚA MỖI NGÀY

Giuse Lê Đắc Thắng, SJ

Câu hỏi: Việc đọc kinh, cầu nguyện hằng ngày thường chẳng thú vị với người trẻ nữa. Không biết những điều đó có giúp người trẻ gần gũi Thiên Chúa không?

Trả lời: 

Bạn thân mến,

Trong câu hỏi của bạn nêu ra có 4 từ khóa: đọc kinh, cầu nguyện, người trẻ, Thiên Chúa. Câu trả lời của tôi cũng sẽ xoay quanh những từ khóa này.

Trước hết, chúng ta cần phân biệt giữa đọc kinh và cầu nguyện. Cầu nguyện là việc trò chuyện với Thiên Chúa, tức là chăm chú lắng nghe tiếng Chúa và thưa lên cùng Chúa những tâm tư tình cảm của mình. Có nhiều hình thức cầu nguyện khác nhau: thinh lặng đặt mình hiện diện trước mặt Chúa; suy niệm một đoạn Lời Chúa hay đoạn sách thiêng liêng nào đó; dâng lên Chúa tâm tình tạ lỗi, tạ ơn, xin ơn; hoặc là đọc theo lời kinh được Giáo hội soạn sẵn phù hợp với ý nguyện của mình… Như vậy, đọc kinh chỉ là một trong số những hình thức cầu nguyện mà thôi.

Khi chúng ta không biết cầu nguyện như thế nào hoặc là không quen với việc cầu nguyện thì các lời kinh trở nên rất hữu ích. Kinh nguyện là lời Mẹ Giáo hội dạy đứa con nhỏ bập bẹ nói theo khi trò chuyện cùng Thiên Chúa là Cha. Ví dụ, khi các tông đồ muốn học cách cầu nguyện, Chúa Giêsu đã dạy họ cầu nguyện theo Kinh Lạy Cha. Hay như trong phần đầu Kinh Kính Mừng chúng ta mượn lời sứ thần Gabriel và bà Elisabeth để ca tụng Đức Mẹ, còn phần sau của kinh chính là lời xin Đức Mẹ cầu bầu và gìn giữ chúng ta từ lúc này cho đến giờ phút cuối cùng của cuộc đời. Tương tự, kinh Sáng Danh chính là lời tuyên xưng và tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi. Còn rất rất nhiều kinh nguyện khác nữa có thể giúp chúng ta diễn tả tâm tình đối con thảo với Thiên Chúa cách dễ dàng hơn.

Bạn cho rằng việc đọc kinh, cầu nguyện hằng ngày chẳng mấy thú vị với người trẻ. Nói như thế tức là ngầm hiểu rằng việc đọc kinh cầu nguyện chỉ thích hợp với những người lớn tuổi. Chúng ta thường mặc định rằng người lớn tuổi có nhiều thời gian rảnh rỗi hơn. Họ không thao thức lo lắng sự đời nhiều như người trẻ. Họ cũng chẳng bận rộn công việc và các mối quan hệ xã hội nhiều như người trẻ. Do vậy họ có thể dành nhiều thời giờ hơn cho việc đọc kinh cầu nguyện. Xin thưa rằng điều đó đúng nhưng chưa đủ. Gốc rễ của vấn đề không phải là thời gian nhiều hay ít, già hay trẻ, bận rộn hay thảnh thơi, mà là chúng ta đặt Chúa ở vị trí nào trong cuộc đời mình.

Một công việc chỉ thú vị khi chúng ta thấy nó có ý nghĩa. Việc đọc kinh cầu nguyện cũng thế. Người già là những người đã từng trải qua tuổi trẻ. Kinh nghiệm dày dặn giúp họ nhận ra đức tin chính là tài sản lớn nhất trong cuộc đời này chứ không phải là tiền bạc, công việc hay các mối tương quan xã hội. Họ biết rằng không có gì quan trọng hơn việc ca tụng Chúa qua các lời kinh nguyện. Không phải ngẫu nhiên mà người già nhận ra giá trị của kinh nguyện. Chắc hẳn họ đã học được bài học kinh nghiệm từ tuổi trẻ mải mê tìm kiếm những điều mà người trẻ ngày nay đang kiếm tìm. Đến một độ tuổi nhất định, họ chợt nhận ra mọi thứ đều qua đi theo thời gian, chỉ có tương quan với Chúa là vững bền mãi mãi.

Thật vậy, cuộc sống bận rộn khiến người trẻ quên lãng Chúa hoặc là không còn đặt Chúa làm trung tâm cuộc đời mình nữa. Nếu không ý thức về mối tương quan với Chúa, chắc chắn người trẻ sẽ không thấy giá trị và ý nghĩa của việc đọc kinh cầu nguyện. Người trẻ cần học hỏi từ ông bà cha mẹ mình cách sống mối tương quan với Thiên Chúa trong nhịp sống hàng ngày. Do đó, thay vì đặt vấn đề về việc đọc kinh cầu nguyện, người trẻ hãy đặt vấn đề về đời sống đức tin của mình, xét xem mình cần đến Chúa như thế nào.

Theo quan sát của tôi, dù các bạn trẻ ít đọc kinh và cũng ít thuộc kinh nhưng thực ra các bạn lại rất thường xuyên cầu nguyện. Việc cầu nguyện của các bạn trẻ không chỉ được tính vào những lúc đến nhà thờ hay là ngồi trước tượng ảnh Chúa và Đức Mẹ mà còn nhiều hơn thế nữa. Có những lúc các bạn thốt lên tự đáy lòng lời tạ ơn Chúa vì một ơn lành nào đó mới vừa nhận được. Có những lúc các bạn hướng lòng lên Chúa xin Người giúp vượt qua khó khăn trước mắt. Cả những lúc các bạn trách mắng Chúa vì quá nhiều tai họa đổ xuống trên gia đình và người thân. Hoặc những lúc các bạn ăn năn hối hận xin Chúa thứ tha vì mình đã lỡ phạm một tội lỗi nào đó. Cũng có những lúc các bạn cầu xin cho người khác vì biết rằng họ cần được ơn Chúa nâng đỡ… Những phút giây kết nối gần gũi với Chúa như thế đã dệt nên lời cầu nguyện rất chân thành và sâu lắng của các bạn trẻ.

Như vậy, các bạn trẻ cần đến việc cầu nguyện và đã thường xuyên cầu nguyện, nhưng chính các bạn lại không để ý. Vấn đề chỉ là cách cầu nguyện của các bạn không bị giới hạn trong những lời kinh truyền thống mà thôi. Có thể các bạn chưa biết đấy thôi chứ có nhiều lời kinh soạn sẵn rất phù hợp với tâm tình của các bạn trong những hoàn cảnh sống khác nhau. Ví dụ, những lúc muốn tạ ơn Chúa thì các bạn có thể đọc Kinh Cám Ơn. Đầu ngày thì đọc Kinh Ban Mai hoặc Kinh Dâng Ngày. Lúc hối lỗi với Chúa thì đọc Kinh Ăn Năn Tội hoặc Kinh Thú Nhận. Khi cần xin ơn soi sáng thì đọc Kinh Sáng Soi. Lúc gian nan đau khổ thì đọc Kinh Vực Sâu. Ngoài ra có rất nhiều kinh cầu với Đức Mẹ, thánh Giuse và các thánh… Nói chung tùy theo thói quen, sở thích và hoàn cảnh mà các bạn có thể lựa chọn hình thức cầu nguyện phù hợp nhất với mình. Lời cầu nguyện có thể được diễn tả bằng chính ngôn ngữ của các bạn. Hoặc các bạn có thể mượn ngôn ngữ của lời kinh để diễn tả tâm tình của mình. Cách nào cũng đều có giá trị trước mặt Chúa cả, miễn là phát xuất từ tấm lòng đơn sơ chân thành của các bạn.

Tất nhiên để các giờ kinh nguyện trở nên phù hợp và hấp dẫn hơn với người trẻ hiện nay thì cũng cần có những điều chỉnh phù hợp. Ông bà mình ngày xưa ít tiếp xúc với Kinh Thánh nên phải dùng nhiều lời kinh soạn sẵn. Nội dung các lời kinh đó cũng dựa trên Kinh Thánh nhưng được diễn giải bằng ngôn từ đơn giản và gần gũi hơn. Giới trẻ ngày nay thì khác, các bạn được học hỏi nhiều về giáo lý, có thể tự tìm đọc, học hỏi và suy niệm Lời Chúa. Do đó, thay vì chỉ lặp lại những lời kinh truyền thống thì nên có thêm phần đọc và suy niệm lời Chúa. Nếu cần thì có thể chèn thêm những giây phút thinh lặng để từng người có thể lắng nghe tiếng Chúa nói trong thẳm sâu tâm hồn mình.

Thứ đến là vai trò của người lớn trong gia đình. Thú thật là nhiều khi các bạn trẻ chỉ đọc kinh vì bị “bắt ép”. Người lớn không thể “bắt ép” con cháu mình đọc kinh nếu chính họ không làm gương sáng trước. Như tôi đã nói, người lớn là những người đã trải qua kinh nghiệm tuổi trẻ, hiểu được giá trị của kinh nguyện trong việc nuôi dưỡng mối tương quan với Thiên Chúa. Do vậy người lớn cần truyền đạt cho người trẻ hiểu được điều này bằng chính đời sống chứng nhân đức tin của họ. Để làm được điều đó, kinh nguyện cần phải trổ sinh hoa trái qua các nhân đức cụ thể, như yêu thương, tha thứ, hy sinh, phục vụ lẫn nhau. Nếu miệng đọc kinh lớn tiếng mà cũng chửi người khác to tiếng không kém thì kinh nguyện chẳng mang lại ích lợi gì. Hoặc như đôi bàn tay lần hạt cũng chính là bàn tay hãm hại người khác thì hóa ra chỉ là đạo đức giả hình. Nói chung, để con trẻ nhận ra sự hấp dẫn của việc đọc kinh cầu nguyện, chính người lớn phải cho thấy việc đọc kinh cầu nguyện đã làm biến đổi cuộc sống họ trở nên tốt lành và thánh thiện hơn mỗi ngày như thế nào.

Cuối cùng, điều không kém phần quan trọng chính là tạo lập thói quen đọc kinh cầu nguyện. Nếu chưa có được lòng yêu mến việc đọc kinh thì nên bắt đầu bằng việc tạo thói quen. Việc đạo đức nào cũng vậy, nếu không duy trì thói quen thì khó có được tâm tình yêu mến. Nếu không đi lễ thường xuyên thì nhà thờ trở thành nơi xa lạ. Nếu không đọc kinh thường xuyên thì lời kinh trở nên khô khan, nhàm chán. Tôi biết có nhiều người lần hạt Mân Côi hằng ngày chỉ vì đó là thói quen từ bé, bỏ đi thấy thiếu thiếu. Phải thú nhận rằng không dễ dàng gì để hình thành một thói quen mới, vì nó đòi hỏi sự kiên trì và quyết tâm cao. Thế nhưng nếu người trẻ đã có được thói quen đọc kinh cầu nguyện rồi thì chắc chắn họ sẽ thấy việc này không khó khăn hay kém hấp dẫn như họ từng nghĩ. Cũng có người có thói quen nhưng không có tâm tình khi đọc kinh cầu nguyện. Lòng yêu mến Chúa là một ơn, chúng ta cần phải xin Chúa ban. Nếu bạn chưa có lòng yêu mến thì hãy tha thiết nài xin ơn biết yêu mến Chúa, đặc biệt là qua việc đọc kinh cầu nguyện hàng ngày.

Với những chia sẻ trên đây tôi hy vọng giúp bạn hiểu hơn về ý nghĩa của việc đọc kinh cầu nguyện. Theo đó, kinh nguyện là một phương tiện rất hữu ích giúp người trẻ gần gũi hơn với Thiên Chúa. Nếu bạn được nung nấu tâm tình sốt sắng qua từng lời kinh nguyện, bạn sẽ nhận ra chúng rất gần gũi với những cung bậc cảm xúc hằng ngày của bạn. Sẽ rất thú vị nếu bạn có thể bày tỏ tâm tư tình cảm của mình với Chúa một cách tự nhiên và dễ dàng hơn qua những lời kinh nguyện.

Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 6, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (16.01.2024)

---------------------------------

 

BÀI 114 - ĐẠO “GỐC CÂY” CÂN ĐẠO “TẠI TÂM”


Lm. Giuse Lê Đắc Thắng, SJ
30/01/2024
Con luôn thắc mắc về sự chênh lệch của hai cán cân như thế này: Một bên là người luôn tham dự đầy đủ các Thánh lễ ngày Chúa Nhật, nhưng họ chỉ tham dự cho đủ, cho có, không hiệp ý đọc kinh dâng lễ cùng cộng đoàn, thậm chí tham dự lễ “gốc cây, ghế đá”, miễn là có mặt trong khi Thánh lễ diễn ra; một bên là người trong tâm luôn hướng đến Chúa, cầu nguyện với Ngài hằng ngày, nhưng lại không tham dự đầy đủ các Thánh lễ Chúa Nhật. Như vậy, ơn cứu độ sẽ rót xuống cán cân nào nặng hơn?


GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 114: ĐẠO “GỐC CÂY” CÂN ĐẠO “TẠI TÂM”

Giuse Lê Đắc Thắng, SJ

Câu hỏi: Con luôn thắc mắc về sự chênh lệch của hai cán cân như thế này: Một bên là người luôn tham dự đầy đủ các Thánh lễ ngày Chúa Nhật, nhưng họ chỉ tham dự cho đủ, cho có, không hiệp ý đọc kinh dâng lễ cùng cộng đoàn, thậm chí tham dự lễ “gốc cây, ghế đá”, miễn là có mặt trong khi Thánh lễ diễn ra; một bên là người trong tâm luôn hướng đến Chúa, cầu nguyện với Ngài hằng ngày, nhưng lại không tham dự đầy đủ các Thánh lễ Chúa Nhật. Như vậy, ơn cứu độ sẽ rót xuống cán cân nào nặng hơn?

Trả lời: 

Bạn thân mến,

Thật thú vị khi biết bạn thao thức về cách Chúa ban ơn cứu độ cho những người có các kiểu giữ đạo khác nhau. Hỏi về người khác cũng chính là hỏi cho bản thân mình, với mong muốn tìm ra cách thức giữ đạo đúng đắn nhất. Về hai ví dụ bạn nêu ra, giả sử Chúa đặt chúng ta làm quan tòa phân xử thì đúng là thật khó lòng xác định bên nào xứng đáng được nhiều ơn hơn bên nào. Nếu nói về cán cân nặng nhẹ thì ở đây có vẻ “kẻ tám lạng, người nửa cân.” Chúng ta thấy khó phân xử là bởi vì chúng ta phán xét theo tiêu chuẩn của loài người, không phải của Thiên Chúa.

Thật vậy, rất nhiều lúc chúng ta áp đặt tư tưởng của mình cho Thiên Chúa, cứ như thể Thiên Chúa cũng hành xử giống như con người vậy. Theo đó, Thiên Chúa được xem như một vị quan tòa nghiêm khắc và lạnh lùng. Ngài sẽ cân đo, xét nét hay thậm chí là bắt bẻ từng việc con người làm để rồi đưa ra quyết định ban phát ơn cứu độ cho họ ở mức nào tương xứng. Thế nên mới sinh ra kiểu suy nghĩ rằng tôi được ơn cứu độ là bởi vì tôi xứng đáng, còn người khác không được ơn cứu độ là vì họ không xứng đáng (như tôi). Những người Pharisêu thường bị Chúa Giêsu quở trách chính vì thái độ này. Sách ngôn sứ Isaia diễn tả rất rõ:

“Vì tư tưởng Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta, Chúa phán như vậy. Như trời cao hơn đất thế nào, thì đường lối Ta vượt trên đường lối các ngươi, và tư tưởng Ta cũng vượt trên tư tưởng các ngươi thế ấy” (Is 55,8-9).

Vậy thì Thiên Chúa phán xét theo tiêu chuẩn nào, khác với con người ra sao? Câu trả lời sẽ được tìm thấy từ chính Lời Chúa. Chắc hẳn bạn còn nhớ dụ ngôn thợ làm vườn nho được kể ở Tin Mừng Mt 20,1-16. Ông chủ mướn thợ làm vườn vào các giờ khác nhau. Có người làm từ đầu ngày nhưng cũng có người gần cuối ngày mới tới. Một chi tiết quan trọng mà chúng ta cần chú ý ở đây là ông chủ này mướn thợ không phải vì ông thực sự cần đến họ. Đúng hơn, vì ông thấy có những thợ phải chờ cả ngày không có người mướn nên ông mới chạnh lòng thương. Ông mướn là để cho họ có việc làm, có thu nhập nuôi sống bản thân và giúp đỡ gia đình. Có thể bạn đã biết, điểm nhấn của câu chuyện chính là cách ông ấy trả tiền công. Từ người vào làm đầu tiên cho đến người vào cuối cùng, ông đều trả cùng một số tiền như đã thỏa thuận.

Theo suy nghĩ của con người, ông chủ này đối xử không công bằng, vì người làm ít mà cũng nhận được bằng người làm nhiều. Tuy nhiên, sự công bằng của Thiên Chúa lại khác. Ngài không để người làm nhiều phải thiệt thòi chút nào, và ngài cũng có quyền trả công cho người làm ít theo lòng rộng lượng của mình. Do đó, nếu chúng ta muốn biết Thiên Chúa trả công cho những nỗ lực của mình ở đời này như thế nào, hãy nhìn vào hình ảnh ông chủ vườn nho để thấy. Con người xác định tiền công dựa trên năng suất công việc, còn Thiên Chúa trả công dựa trên tình yêu của Ngài. Thiên Chúa yêu thương con người với tình yêu dư tràn, không cần phải dùng cán cân. Chỉ những người từ chối đón nhận tình yêu của Thiên Chúa mới không lãnh nhận được ơn mà thôi.

Ở đây, tôi muốn liên hệ tới một dụ ngôn khác nữa, cũng được kể gần với dụ ngôn trên trong sách Tin Mừng Mátthêu, đó là dụ ngôn tiệc cưới (Mt 22,1-14). Theo trình thuật của câu chuyện, tất cả các khách ban đầu được vua mời đến dự tiệc cưới đều xin kiếu với những lý do khác nhau. Kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn, thậm chí còn có kẻ bắt giết các đầy tớ của nhà vua nữa. Thế là nhà vua sai đầy tớ ra khắp các ngã đường mời tất cả mọi người vào bàn tiệc đã dọn sẵn. Tuy nhiên, trong số khách dự tiệc cưới lại có người không mặc y phục lễ cưới. Thế là người đó bị ném ra ngoài và chịu hình phạt.

Rõ ràng những khách mời đầu tiên đã không tôn trọng nhà vua. Họ khước từ tham dự tiệc cưới để lo việc riêng của mình. Còn những khách được mời sau dù đến tham dự nhưng không phải ai cũng nhận ra diễm phúc của mình. Chúng ta biết rằng cách ăn mặc cho thấy phần nào thái độ của một con người. Với những buổi tiệc mà ta cho là quan trọng thì ta sẽ chọn những trang phục đẹp và lịch sự nhất. Ngược lại, ta sẽ ăn mặc xuề xòa hơn trong những buổi tiệc ít quan trọng. Theo đó, mặc y phục lễ cưới chính là yếu tố căn bản thể hiện tình cảm và sự tôn trọng dành cho chủ tiệc. Người không mặc y phục lễ cưới chính là người không biết trân trọng tấm lòng của chủ tiệc.

Tương tự như dụ ngôn thợ làm vườn nho, dụ ngôn tiệc cưới cũng cho thấy tình yêu thương vô bờ bến Thiên Chúa dành cho con người. Ngoài ra, dụ ngôn tiệc cưới còn nói đến cách con người đáp trả lại tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn mời gọi tất cả mọi người chúng ta vào dự tiệc, cỗ bàn đã dọn sẵn, ta chỉ việc ngồi thưởng thức. Tuy nhiên, mỗi người chúng ta lại đáp trả lại lời mời gọi ấy theo những cách khác nhau, tùy vào thái độ của chúng ta đối với Thiên Chúa. Có người từ chối tình yêu Thiên Chúa như những vị khách được mời đầu tiên trong câu chuyện dụ ngôn. Có người khác nhận lời với tâm tình biết ơn và chuẩn bị đầy đủ y phục phù hợp. Tuy nhiên, cũng có người nhận lời mời nhưng lại không sống tâm tình biết ơn. Điều này được biểu hiện qua việc họ không chịu mang y phục lễ cưới. Do vậy, khi chúng ta đánh giá cách thức giữ đạo (tức là cách họ chuẩn bị y phục lễ cưới) của một ai đó, điều chúng ta có thể rút ra được không phải là việc Chúa yêu họ nhiều hay ít (vì rõ ràng là luôn luôn nhiều rồi), nhưng là người đó yêu mến Chúa ít hay nhiều.

Từ bài học ý nghĩa của hai câu chuyện dụ ngôn trên, tôi xin đề nghị một cách tiếp cận khác về câu hỏi bạn đặt ra. Bởi vì ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa, chúng ta phải dựa vào tiêu chuẩn của Thiên Chúa chứ không phải của con người để phán xét. Chúng ta hãy đặt mình vào vị trí của Thiên Chúa là một ông chủ vườn nho đối xử rộng lượng với người làm thuê, hay như là ông vua sẵn lòng mời tất cả mọi người vào dự tiệc cưới. Khi đó chúng ta sẽ thấy việc chúng ta tham dự Thánh lễ bao nhiêu lần trong tuần, tham dự với tâm tình sốt sắng hay chỉ đến nhà thờ “cho có” không phải là tiêu chí căn bản để xác định việc chúng ta sẽ nhận được nhiều ơn hay ít ơn. Ân sủng là món quà Thiên Chúa ban cho chúng ta cách nhưng không, xuất phát từ tình yêu vô biên Thiên Chúa dành cho con người. Ân sủng không phải là kết quả tất yếu hay là phần thưởng cho những việc chúng ta làm ở đời này.

Theo cách hiểu như vậy thì tôi có thể đưa ra câu trả lời ngắn gọn cho câu hỏi của bạn: Thiên Chúa ban ơn cứu độ dư tràn cho hai loại người đó và còn cho tất cả mọi người khác nữa. Về phía Thiên Chúa, đã gọi là dư tràn rồi thì không thể nói Chúa ban ơn cho bên nào “nặng” hơn bên nào được. Tuy nhiên, như chúng ta đã rút ra từ dụ ngôn tiệc cưới, về phía con người thì tùy mức độ biết ơn Chúa mà mỗi người có cách đáp trả tương ứng qua việc giữ đạo của họ. Trong ví dụ bạn nêu ra, chúng ta sẽ có nhiều điều để bàn về cách hành xử của hai loại người đó hơn là nói về cách thức Thiên Chúa ban ơn cứu độ cho họ.

Tôi sẽ phân tích dựa trên giả định mà bạn đưa ra, chứ thực tế không ai có thể dễ dàng đánh giá chính xác đời sống đạo của một người chỉ từ những biểu hiện bên ngoài của họ được. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng thấu suốt những gì thầm kín mới biết rõ lòng mến của họ mà thôi. Đúng là có nhiều người đi lễ hay ngồi ở gốc cây ghế đá, đi trễ về sớm hơn người khác, nhưng họ yêu mến Chúa như thế nào thì chúng ta không thể biết được. Tương tự, có những người ít khi tham dự thánh lễ Chúa nhật nhưng chúng ta cũng không biết được lòng họ hướng về Chúa như thế nào.

Một mặt, chúng ta cần khẳng định lại điều Giáo hội dạy: Thánh lễ là tâm điểm của đời sống đức tin. Thánh lễ là nơi cộng đoàn dân Chúa họp nhau lại để tôn vinh Thiên Chúa qua việc kết hợp với hy tế thập giá của Chúa Giêsu Kitô nơi bí tích Thánh Thể. Do đó, nếu ai đó nói rằng họ luôn hướng lòng về Chúa mà không muốn tham dự Thánh lễ thì họ tự mâu thuẫn với chính mình. Những người này giống như các vị khách từ chối đến dự tiệc cưới nhưng vẫn luôn miệng nói rằng họ rất yêu mến và tôn trọng chủ tiệc. Còn những người giữa đạo “gốc cây” hay “ghế đá” cũng chẳng khá hơn mấy. Họ giống như người đến dự tiệc cưới mà không muốn ngồi vào bàn, cũng chẳng thèm chuẩn bị y phục cho tươm tất.

Mặt khác, cho dù Thánh lễ là tâm điểm của đời sống đức tin, đời sống tương quan với Chúa không chỉ giới hạn trong những giờ tham dự Thánh lễ. Việc chu toàn bổn phận tham dự Thánh lễ ngày Chúa nhật vẫn chưa nói lên được nhiều điều về tương quan giữa một người với Thiên Chúa. Việc không chu toàn Thánh lễ cũng vậy. Thiên Chúa không cầm sổ chấm công từng ngày để dò xét xem ai có tham dự Thánh lễ hay ai bỏ lễ để sau này xét xử. Đúng hơn, Thiên Chúa mời gọi con người sống tương quan với Chúa bằng trọn vẹn cuộc sống của mình. Điều răn quan trọng nhất mà Thiên Chúa dạy là “ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực ngươi” (Mc 12,33a). Nếu việc giữ đạo chỉ là đến nhà thờ mỗi tuần một giờ vào ngày Chúa nhật thì sao gọi là “hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực” được.

Do vậy, Thánh lễ không hề tách biệt với đời sống hằng ngày. Cuộc sống chính là Thánh lễ nối dài. Là người tín hữu, chúng ta có bổn phận tham dự Thánh lễ, ít là vào ngày Chúa nhật, xét như một biểu hiện cụ thể của tâm tình con thảo dành cho Thiên Chúa là cha luôn tuôn ban tình yêu dư tràn cho con cái. Tuy nhiên, chúng ta cũng đừng quên rằng hiệu quả của Thánh lễ cần phải được thể hiện ngang qua đời sống chứng nhân của người tín hữu trong tương quan với anh chị em của mình nữa. Thậm chí Chúa Giêsu còn đưa ra trường hợp là nếu một người chuẩn bị dâng của lễ lên Thiên Chúa mà chợt nhớ lại có người bất bình với mình thì hãy bỏ của lễ đó lại mà đi làm hòa với người anh em đó trước đã. Do đó, điều răn thứ hai cũng không kém quan trọng hơn điều răn thứ nhất, đó là “yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12,33b).

Bạn biết không, thật may mắn cho chúng ta khi có một vị Thiên Chúa vô cùng nhân hậu và giàu tình thương. Ngài luôn ban ơn dư tràn cho con người, dù họ có thờ ơ lạnh nhạt với Ngài như thế nào đi nữa. Về phía chúng ta, nếu chúng ta biết nhận ra mình luôn được yêu thương như vậy thì rất nên diễn tả lòng biết ơn qua cách giữ đạo hàng ngày của mình. Đạo “gốc cây” hay đạo “tại tâm” không làm suy giảm tình yêu thương và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Vấn đề chỉ là chúng ta thấy hổ thẹn với với chính mình khi tính toán nhỏ nhen với một Thiên Chúa đã luôn trao ban cho mình ân sủng dồi dào.

Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 6, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (30.01.2024)

---------------------------------

 

BÀI 115 - CUỘC SỐNG LUÔN LÀ LỜI CẦU XIN CHÚA


Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế SJ
06/02/2024
Câu hỏi: Trong giờ kinh của gia đình cũng như khi tập hát trong ca đoàn, mọi người đều bắt đầu đọc Kinh Sáng Soi rất ngắn gọn nhưng sâu sắc. Chúng con cũng hỏi nhau: Kinh Sáng Soi có nguồn gốc ở đâu và ý nghĩa của từng lời kinh là gì? Xin giúp chúng con hiểu sâu xa lời kinh này.


GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 115: CUỘC SỐNG LUÔN LÀ LỜI CẦU XIN CHÚA

Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế SJ

Câu hỏi: Trong giờ kinh của gia đình cũng như khi tập hát trong ca đoàn, mọi người đều bắt đầu đọc Kinh Sáng Soi rất ngắn gọn nhưng sâu sắc. Chúng con cũng hỏi nhau: Kinh Sáng Soi có nguồn gốc ở đâu và ý nghĩa của từng lời kinh là gì? Xin giúp chúng con hiểu sâu xa lời kinh này.

Trả lời:

Từ ngày còn ấu thơ, chúng tôi những trẻ nhỏ Công Giáo được quý cha, quý sơ và các anh chị giáo lý viên dạy đọc lời kinh Sáng Soi vào đầu giờ học giáo lý. Chúng tôi cũng được khuyên đọc lời kinh ngắn gọn này trước mỗi việc hằng ngày chúng tôi làm. Khi lớn lên bước vào nhiều môi trường sống khác nhau, chúng tôi đều nghe lời kinh Sáng Soi được cất lên trong nhiều trường hợp: trước khi ca đoàn tập hát, trước khi một nhóm chia sẻ Lời Chúa bắt đầu, trước khi một linh mục bắt đầu gợi ý cầu nguyện cho giờ Linh Thao tĩnh tâm.

Vậy lời kinh Sáng Soi này có gốc gác ở đâu, được Giáo hội dùng trong các dịp nào và có ý nghĩa gì cho đời sống tâm linh của người Công Giáo?

Nguồn gốc của kinh Sáng Soi và được Giáo hội dùng trong các dịp nào?

Lời kinh Sáng Soi là một lời kinh rất xưa của Kitô hữu với bản gốc bằng tiếng La-tinh. Chúng ta có thể tìm thấy lời kinh Sáng Soi được dùng là một đoạn cầu nguyện nằm trong kinh Cầu Các Thánh bản xưa và dài do thánh Giáo hoàng Grêgôriô Cả (540-604) đề nghị tín hữu thành Rôma cầu nguyện trong cuộc rước kiệu, để cầu xin Chúa mau chấm dứt cơn đại dịch đang lan tràn ở Rôma thời đó. Dựa trên sử liệu này, lời kinh Sáng Soi có tuổi khá cao. Gần 1400 năm rồi đấy!

Gần đây, kinh Cầu Các Thánh này được nhắc đến trong một văn kiện của toà thánh, do Tòa Ân Giải Tối Cao của Tòa Thánh biên soạn “Sắc Lệnh The Enchiridion of Indulgences - sắc lệnh tổng hợp các kinh nguyện và việc làm được ân xá”, được Đức Thánh Cha Phaolô VI phê chuẩn ngày 15.6.1968 và được ban hành ngày 29.6.1968. Trong đó lời kinh Sáng Soi vẫn được nhắc đến là một lời cầu nguyện ngắn nằm trong Kinh Cầu Các Thánh.

Ngoài ra, Giáo hội cũng đưa lời kinh Sáng Soi vào Phụng Vụ. Cụ thể trong sách Lễ Rôma hiện nay chúng ta đang dùng, lời kinh Sáng Soi được dùng là lời nguyện nhập lễ của ngày thứ năm sau thứ tư lễ tro. Trong Giờ Kinh Phụng Vụ, Giáo hội cũng dùng lời kinh Sáng Soi cho giờ kinh sáng của ngày thứ Hai tuần thứ nhất mùa Thường Niên.

Dưới đây là bản văn kinh Sáng Soi trích từ sách Lễ Rôma: “Lạy Chúa, xin soi lòng mở trí cho chúng con được biết việc phải làm, và khi làm, xin Chúa thương giúp đỡ để mọi công việc của chúng con, từ khởi sự cho đến hoàn thành đều do ân sủng Chúa. Nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen”.[1]

Ý nghĩa của lời kinh Sáng Soi.

Trong một cuộc yết kiến chung tại quảng trường thánh Phêrô, Đức Bênêđictô  XVI đã nhắc đến lời kinh Sáng Soi với tâm tình như sau:

“Đoạn sách được trích từ sách Công Vụ (6,1-7)[2] (…) nhắc nhở chúng ta nhớ đến nhu cầu của chúng ta luôn cần đến Thiên Chúa, cần đến sự hướng dẫn của Ngài, cần đến ánh sáng của Ngài, ánh sáng ban tặng cho chúng ta sức mạnh và hy vọng. Nếu không có lời cầu nguyện trung thành hằng ngày, hành động của chúng ta trở nên trống rỗng, và đánh mất đi chiều sâu nhất của tâm hồn. Cuối cùng hành động của chúng ta bị giảm xuống thành hoạt động thuần túy, mà rốt cuộc chúng ta không hài lòng.

Có một lời cầu nguyện tuyệt đẹp từ truyền thống Kitô giáo có thể được dùng cầu nguyện trước bất kỳ hành động nào. Lời cầu nguyện như sau: (…) ‘Lạy Chúa, xin soi lòng mở trí cho chúng con được biết việc phải làm, và khi làm, xin Chúa thương giúp đỡ để mọi công việc của chúng con, từ khởi sự cho đến hoàn thành đều do ân sủng Chúa’.

Thật vậy, mọi bước đi trong cuộc đời chúng ta, mọi hành động, kể cả hành động của Giáo hội, phải diễn ra trước mặt Thiên Chúa, dưới ánh sáng của Lời Người”[3].

Như thế, lời kinh Sáng Soi đưa chúng ta đi về lại với bản chất yếu hèn rất thật của con người chúng ta, nên chúng ta luôn cần có Chúa, luôn cần có sự hoạt động của Thiên Chúa, đặc biệt khi chúng ta đón nhận sứ mạng tông đồ mà Chúa và Giáo hội trao ban.

Đời tông đồ luôn là lời cầu xin

Nếu đã nói là công việc tông đồ, thì đó là công việc của Chúa trước hết và chúng ta chỉ là những người được Chúa cho phép cộng tác vào, thi hành những gì Chúa muốn. Vì thế, công việc tông đồ luôn diễn ra trong sự hướng dẫn, hoạt động của Chúa và của Lời Chúa. Hơn nữa, trong tiến trình làm việc tông đồ, chắc chắn luôn có thử thách và khó khăn, luôn gặp những trắc trở và chống đối, rồi không ít lần đứng trước ngõ cụt làm nản chí người tông đồ. Vì thế, thật quan trọng để ý thức: đời tông đồ luôn là lời cầu xin.

Như thế, xin Chúa sáng soi, giúp đỡ và hoàn thành công việc tông đồ quan trọng biết bao nhiêu. Càng khiêm tốn và ý thức cầu nguyện với lời kinh xin Chúa Sáng Soi, người tông đồ sẽ được Chúa lắng nghe và Thần Khí của Chúa hoạt động đưa lại biết bao nhiêu hoa trái thiêng liêng tốt lành, như bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền lành và tiết độ (x.Gl 5,16-25).

Sự hướng dẫn soi sáng của Chúa không chỉ cần thiết cho người tông đồ, mà cũng rất cần thiết cho đời sống thường ngày của mỗi người chúng ta, dù là giáo dân hay linh mục hoặc tu sĩ, vì thế thật phúc cho ai biết ý thức mời Chúa bước vào từng dao động của cuộc sống thường ngày.

Mời Chúa bước vào từng dao động của cuộc sống

Kinh Sáng Soi trong tiếng La-tinh có tựa đề là “Actiones nostras”, có nghĩa là các hoạt động của chúng ta. Điều đó có nghĩa gì vậy?

Con người luôn ở trong dao động, dù là dao động với công việc hay “dao động tĩnh” là nghỉ ngơi thanh thản. Khi con người còn ở trong dao động, con người vẫn sống. Nhưng để cho từng dao động tìm được sự trọn vẹn và ý nghĩa tốt lành của nó, cũng như đối với chúng ta là con cái Chúa, để cho dao động cuộc sống tương hợp với thánh ý của Chúa, thì sự ý thức cầu nguyện mời Chúa cùng đi chung trên đường, mời Chúa bước vào dao động cuộc sống thật quan trọng.

“Cúi xin Chúa sáng soi, cho chúng con được biết việc phải làm”

Cầu xin với một cái đầu “cúi xuống” mới đúng nghĩa cầu xin, vì như vậy phận người ý thức sự hèn mọn của mình. Thái độ này trái ngược với hình ảnh người Pha-ri-sêu cầu nguyện kiểu khoe khoang và kể công với Chúa: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc 18,11-12).

Lời cầu nguyện mở đầu với việc tạ ơn Thiên Chúa. Đó là một điều rất tốt. Tuy nhiên, ông tạ ơn Thiên Chúa về điều gì? Đọc kỹ, chúng ta thấy ông ta bắt đầu kể về chính bản thân ông, nghĩa là ông ta chỉ hướng về chính mình và những cái hay cái tốt nơi ông: “vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình”. Như thế, ông hãnh diện về lối sống đạo đức của bản thân, một kiểu công chính kể công và tự cao tự đại, luôn coi mình hơn người khác. Đó là một thói tự cao cách biệt mình với người khác.

Hình ảnh của người Pha-ri-sêu là một bài học thật lớn đối với chúng ta. Đứng trước Chúa không nên kiêu căng tự hào, không nên dựa vào sự đạo đức và công chính của bản thân, không nên so đo với người khác để tự coi mình là tốt hơn người. Vì thế, thái độ “cúi đầu” thật đẹp lòng Chúa biết bao.

Trong Tin Mừng, chúng ta cũng tìm thấy những hình ảnh sấp mình, cúi mình cầu xin Chúa, như hình ảnh người phong hủi: “Có người bị phong hủi đến gặp Người, anh ta quỳ xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” (Mc 1,40), như người phụ nữ Ca-na-an và người con hoang đàng đã nhận được những gì họ muốn. Thật vậy, với cái đầu cúi xuống chúng ta chân nhận và thưa với Chúa rằng: “phần con, con chẳng đáng Ngài ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời, xin Chúa soi sáng, hướng dẫn, thì hồn con, thân xác con sẽ lành mạnh” (x. Mt 8,8).

Đức Hồng Y John Henry Newman, vị thánh thời đại, có lời cầu nguyện thật đẹp với tất cả sự thành thật của trái tim ngài nói với trái tim Chúa:

“Lạy Chúa, trước đây con đã không luôn ý thức cầu xin Chúa,
giờ đây con ý thức và con xin Chúa:
Xin hãy dẫn bước con!
Trước đây con thường hay xem xét đường đi và
chọn đường nào mà con thích.
Nhưng giờ đây lạy Chúa,
xin hãy dẫn bước con!”.

Được Chúa bước vào đường đời, được Chúa soi sáng các dao động cuộc sống là từng công việc, từng cuộc gặp gỡ và mọi hoạt động. Đó là phúc lành thật lớn. Phúc lành Chúa ban càng lớn, lòng người lại càng phải khiêm nhường tiếp tục nguyện cầu với trái tim chân thành.

“Cùng khi làm, xin Chúa giúp đỡ cho mỗi kinh mỗi việc chúng con”

Với lời cầu nguyện này, chúng ta mời Chúa tham dự vào công việc chúng ta đang thực hiện. Chúa không còn đứng bên ngoài để nhìn, mà Chúa bước vào trong chính chiều sâu của tâm hồn, ánh sáng của Thần Khí Chúa chiếu toả vào trong trí khôn của chúng ta, và với quyền năng Thần Khí Chúa hướng dẫn từng bước chúng ta cần đi, chỉ dẫn từng điều nhỏ bé chúng ta cần làm, với sự khôn ngoan Thần Khí Chúa giúp chúng ta biết nói những lời gì cần nói.

“Xin Chúa giúp đỡ” khi đang làm việc và trong chính công việc đang diễn ra, đúng thật là khôn ngoan và khiêm tốn biết bao, vì như vậy chúng ta đang sống nhờ Chúa đấy!

Sống nhờ Chúa là chân nhận: “sự sống là quà tặng Chúa ban”. Sống nhờ Chúa là ý thức: “mỗi giây phút thức giấc chúng ta còn thở là hồng ân Chúa trao”. Sống nhờ Chúa là mỗi bước đi, mỗi việc làm, mỗi lời nói, mỗi suy tư và mỗi nhịp đập của trái tim đều được Chúa thương yêu trao tặng và mọi việc chúng ta làm đều có sự giúp đỡ của Chúa. Sống nhờ Chúa là luôn kín múc năng lượng từ thân cây nho là chính Chúa trao ban cho cành là chính chúng ta.

Chúa hiện diện soi sáng khi bắt đầu một công việc, một ngày sống, Chúa giúp đỡ khi đang làm việc, nghĩa là Chúa cùng “chèo xuồng” chung. Để rồi khi đến đích, thì chúng ta luôn ý thức rằng:

“Từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen”

Như thế, trong công việc chúng ta làm, việc cầu nguyện luôn là điều tiên quyết. Sau khi đã cầu nguyện với Chúa để xin ngài soi sáng hướng dẫn và giúp đỡ, chúng ta nỗ lực và chăm chỉ với mọi khả năng để làm việc hết sức mình (hard work); hết mình đến nỗi luôn chú tâm rằng, thành quả của công việc sẽ tuỳ thuộc vào sức của mình, vào sự chú tâm của toàn bộ con người mình.

Nhưng song song, một “năng động ẩn và thiêng liêng” là niềm tín thác và cậy trông hoàn toàn vào Chúa và sự hoạt động cùng ân sủng của Chúa luôn “chạy theo” tiến trình làm việc của chúng ta, để rồi khi hoàn thành công việc, chúng ta trở về vị trí của mình trong khiêm tốn và xác tín rằng: “Công việc này được khởi sự và được hoàn thành mỹ mãn là hoàn toàn do ân sủng của Chúa”.

Nói khác đi, sau khi chúng ta đã đọc kinh xin Chúa Sáng Soi xong, chúng ta bắt tay vào công việc, siêng năng chăm chỉ và chú tâm hoàn toàn, dùng mọi khả năng và phương tiện mình có, và chắc chắn Thần Khí Chúa hoạt động ở bên trái và bên phải mình, ở phía trên và ở cả phía dưới mình, để rồi chính Chúa sẽ làm cho công việc được thành toàn theo ý muốn thánh thiện của Ngài.

Bài viết này được kết với chính lời kinh Sáng Soi, vì mỗi dòng chữ, mỗi tư tưởng dù là khởi đi từ chính tâm tình đơn sơ của con người, nhưng từ lúc khởi sự ngồi vào bàn giấy cho đến khi hoàn thành bài viết, đều do ân sủng của Chúa mà thôi.

Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 6, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (06.02.2024)

--------------
[1] Uỷ Ban Phụng Tự trực thuộc HĐGM. Việt Nam. Sách Lễ Rô-ma. Ấn Bản mẫu thứ Hai, xuất bản năm 1992. Trang 187.

[2] Cv 6,1-7 nói về việc các Tông Đồ lập nhóm bảy người để giúp các Tông Đồ trong việc phục vu.

[3] Benedict XVI, General Audience, Saint Peter’s Square, Wednesday, 25 April 2012.

---------------------------------

 

BÀI 116 – VÀI CÁCH CẦU NGUYỆN


Phêrô Lê Hoàng Nam, SJ
18/02/2024
Xin chia sẻ giúp con vài cách cầu nguyện phù hợp với môi trường sinh viên? Con cảm ơn nhiều.


GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 116: VÀI CÁCH CẦU NGUYỆN

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Câu hỏi: Xin chia sẻ giúp con vài cách cầu nguyện phù hợp với môi trường sinh viên? Con cảm ơn nhiều. 

Trả lời: 

Chào bạn,

Chúng tôi thực lòng muốn dành cho bạn một lời khen. Nếu bạn là sinh viên, chúng tôi còn khen nhiều hơn nữa, vì trong khi các bạn trẻ khác mải mê tìm kiếm danh vọng thành tích hoặc những trò ăn chơi thì bạn lại khao khát gặp gỡ Chúa nơi cầu nguyện. Xin Chúa chúc lành cho thiện chí của bạn và cho bạn được gặp gỡ Ngài.

Bản chất của cầu nguyện

Ngày nọ có một người đã chất vấn chúng tôi rằng: “Khi tôi đói, bảo tôi vào nhà nguyện tạ ơn Chúa vì đã cho tôi cảm thấy đói, thật là một chuyện nực cười; bảo tôi đọc Kinh Thánh để suy tư về cái đói là điều không gì ngu xuẩn bằng, cũng ít bao giờ nhờ lời cầu xin mà ngay lập tức tôi được no bụng. Vậy cầu nguyện để làm gì?” Ý của người này muốn nói rằng: “Đừng có rỗi hơi mà cầu nguyện, đọc Kinh Thánh. Đó chỉ là những việc mất giờ vì nó chẳng giúp ta được no bụng. Hãy làm một việc gì đó thiết thực hơn đi!” Vâng, khi đói, tốt nhất hãy đi kiếm cái gì ăn, và để không rơi vào tình cảnh đói khổ, hãy lo kiếm một việc gì đó để làm. Nhưng việc đi kiếm cái gì đó để ăn và kiếm một công việc để làm chẳng có gì mâu thuẫn với chuyện cầu nguyện cả!

Đức Giêsu đã nhiều lần nhắc nhở chúng ta phải luôn cầu nguyện, nhưng cũng không quên nói thêm rằng: “Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại, họ nghĩ rằng cứ nói nhiều là được nhận lời…” (Mt 6,7) Kỳ thực, cầu nguyện không phải là cái gì đó đến từ bên ngoài, nhưng là một thúc đẩy căn bản xuất phát từ bên trong của mọi con người. Tâm tình cầu nguyện nảy sinh từ cảm thức của mình về một Đấng Tối Cao ở trên mình và khi nhìn về Đấng ấy, ta thấy mình nhỏ bé vô cùng. Chỉ có loài người chúng ta mới biết cầu nguyện, vì chúng ta có một cảm thức tôn giáo mà loài khác không có. Giữa thế giới này, chúng ta luôn hiên ngang hãnh diện vì mình có thể khống chế được mọi loài khác, nhưng chúng ta cũng cảm thấy một nỗi kính sợ dành cho những bậc thần thiêng. Khi rơi vào túng quẫn, bỗng dưng ta thầm thĩ và cầu mong một sự trợ giúp; khi bất chợt có được một niềm vui khôn tả, ta oà khóc và mặc lấy tâm tình cảm ơn; khi nhìn thấy một cảnh đẹp ngoạn mục, tự trong lòng ta nảy sinh một sự khâm phục trầm trồ; thậm chí khi bất mãn với đời, ta cũng thốt lên: “Trời ơi…”. Tâm tình muốn được giúp đỡ, tâm tình tri ân và tâm tình muốn thốt lên khen hay trách cứ ấy chính là một thái độ cầu nguyện, khi ta đưa mình lên cao, gặp gỡ với siêu việt. Như thế, bởi vì cầu nguyện là cái xuất phát từ bên trong, nên có thể nói, chẳng bao giờ con người có thể thôi cầu nguyện được.

Phần lớn chúng ta thường hiểu sai về cầu nguyện, cho rằng cầu nguyện là đọc nhiều kinh, lần nhiều chuỗi, xin lễ nhiều tiền, đóng góp cho thật nhiều cho nhà xứ… Một kiểu quan niệm sai lạc về cầu nguyện như thế vô tình biến các Kitô hữu thành những người mê tín dị đoan, biến tôn giáo của chúng ta thành một trò cười và biến Thiên Chúa thành một kiểu công cụ phục vụ cho nhu cầu của chúng ta. Có nhiều người dùng tiền bạc để trao đổi ân sủng với Chúa. Những người khác thì quá sùng đạo đến độ quên mất bổn phận của mình với mọi người trong gia đình, bỏ cả lao động, thậm chí không cần đi bác sĩ, vì cho rằng chỉ cần đọc kinh đi lễ là có đủ của ăn của mặc, có thể lành bệnh. Số khác cố gắng lần chuỗi thật nhiều như thể Chúa, Mẹ cần những lời kinh của chúng ta để tồn tại.

“Hãy cầu nguyện liên lỉ”

Lời khuyên “hãy cầu nguyện liên lỉ” của Đức Giêsu dành cho chúng ta, không biến chúng ta thành những kẻ lơ ngơ khù khờ, không màng chi đến những bổn phận và tương quan của chúng ta trong cuộc sống này. Đúng hơn, Đức Giêsu muốn nhắn nhủ chúng ta đừng bao giờ quá chăm chú vào thế giới mau qua này mà đánh mất đi bản chất tâm linh sâu thẳm của mình và mối liên hệ vốn có của ta với siêu nhiên. Cầu nguyện là một thái độ đặt mình trước Tuyệt Đối và thiết lập tương quan gắn bó với Ngài. Tất cả những điều khác như đọc kinh, lần chuỗi, đọc sách thiêng liêng, đọc Kinh Thánh, suy gẫm… chỉ là phương tiện để giúp đạt đến điều này. Khi đang bực dọc, cầu nguyện chính là để tâm hồn lắng xuống, xua tan những thúc đẩy bồng bột mà cơn bực dọc gợi lên trong ta. Khi đang thất vọng, cầu nguyện chính là bình tĩnh lại, cố gắng nhìn nhận vấn đề để một niềm hy vọng nào đó được bừng lên.

Khi có chiến tranh, khi có tai nạn, cầu nguyện chính là để lòng mình lên tiếng, để nỗi thổn thức của ta chạm tới Thiên Chúa và rồi cảm nghiệm xem mình được thôi thúc để làm gì. Chính trong sự tĩnh lặng của tâm hồn như vậy, con người thực sự của ta sẽ được phơi bày, chân lý sẽ được mặc khải cho ta. Bởi thế, chỉ cầu nguyện không thôi thì không đủ để “mang đến hòa bình cho thế giới”, không đủ “làm cho người ta không còn thấy đói khát”, không đủ để “mang đến màu xanh cho địa cầu, vườn cổ tích thơ mộng cho các em thiếu nhi”, nhưng nó là bước đầu để giúp những điều đó có thể được trở thành hiện thực. Không có cầu nguyện, những điều trên mãi mãi chỉ là mộng tưởng vì người ta sẽ chỉ biết thương cảm, buồn tủi, xót xa, than trách mà không biết phải làm gì để vượt qua nỗi đau và xây dựng thế giới.

Chúa Giêsu bảo chúng ta phải luôn cầu nguyện chính là muốn chúng ta trở thành một con người đúng nghĩa. “Một con người đúng nghĩa” là một con người biết căn cội thần linh của mình. Đó là một giống loài ý thức mình yếu kém, bất tài, hèn mọn và nhờ đó mà luôn hướng về Đấng có thể giải cứu mình khỏi những tấn công của sự dữ nơi trái đất này. Chúa Giêsu muốn chúng ta đừng bao giờ đánh mất tương quan giữa mình với Thiên Chúa, đừng bao giờ tách lìa khỏi Ngài, đừng bao giờ có tham vọng tự mình làm chủ chính mình mà không cần Ngài. Một thái độ cầu nguyện đúng là một thái độ ý thức rằng “mình được dựng nên giống Thiên Chúa và theo hình ảnh Thiên Chúa” nên phải luôn “giữ liên lạc” và khuôn mình theo Ngài. Khác với một thái độ cầu nguyện sai là thái độ “mình tạo nắn Thiên Chúa theo hình ảnh và ý muốn của mình”.

Bởi thế, nếu hiểu cầu nguyện như là một phương thế nối kết mình với Thiên Chúa, thì chẳng bao giờ cầu nguyện là thừa thãi và không cần thiết cả. Thậm chí, càng đứng trước những thảm cảnh của cuộc đời, khi ta thấy mọi thứ như bị vây kín bởi màn đêm dày đặc của tuyệt vọng, ta càng phải cầu nguyện nhiều hơn nữa, vì nếu ta không tìm thấy chung quanh một hướng đi nào thì vọng lên trên là lối thoát duy nhất. Rồi từ trên cao ấy, một luồng sáng sẽ chiếu xuống soi lối cho ta, giúp bước chân ta thêm vững vàng mà tiến.

Cách thức cầu nguyện

Từ nãy đến giờ chúng tôi đã nói khá nhiều lý thuyết về cầu nguyện. Có thể bạn đã biết những điều đó rồi, nhưng thiết tưởng rằng nếu nhắc lại, bạn sẽ hiểu hơn về bản chất của cầu nguyện, và sẽ cảm thấy dễ dàng cầu nguyện hơn, mỗi ngày yêu thích cầu nguyện hơn. Người ta thường nói “cầu nguyện là nâng tâm hồn lên với Chúa”. Như thế, cầu nguyện không phải là chuyện của phàm tục, nó đòi hỏi một sự “nâng lên”, nhấc bổng lên khỏi cái thường hằng. Đối tượng cần nâng không phải là một sự vật vật chất nào nhưng là “tâm hồn của mình”. Đó là một hành vi tâm linh, hướng trọn vẹn con người mình về cõi trời cao, nơi Thiên Chúa đang ngự trị.

Vì cầu nguyện là cái gì đó rất tự nhiên của con người chúng ta khi đặt mình trước Thiên Chúa, nên suy cho cùng, nó không cần một kỹ thuật hay chỉ dẫn gì cả. Hãy cứ để cho chính bạn tự mở lòng với Chúa ngang qua những cảm xúc, chuyển động, hay nói chung là tình trạng hiện tại của bạn. Nói nôm na, bạn đang có gì trong lòng thì cứ thản nhiên thưa chuyện với Chúa. Đây là cách cầu nguyện khá đơn giản mà bạn có thể thực hành ở bất cứ nơi nào. Bạn cũng không cần phải chuẩn bị gì cả, chỉ đơn giản là giữ thinh lặng một chút nhìn về bản thân, xem lòng mình đang có gì và đang muốn diễn tả điều gì với Chúa. Thông thường, đó sẽ là những tâm tình như tạ ơn (khi bạn thấy là mình đã nhận được điều gì từ Chúa), ngợi khen chúc tụng (khi bạn thấy một điều gì đó thật tuyệt vời mà bạn tin là chính Chúa đã làm), xin lỗi (khi bạn thấy mình đã làm điều gì đó không đúng, có lỗi với Chúa), xin ơn (khi bạn thấy mình đang thiếu điều gì đó và cần được Chúa giúp đỡ). Nếu bạn có những tâm tình như vậy, bạn cứ tự nhiên bày tỏ với Chúa bằng những từ ngữ của chính mình.

Nếu bạn không biết phải nói gì, hoặc không chưa tìm thấy những tâm tình nơi thâm sâu cõi lòng, bạn có thể mượn những lời kinh hoặc lời cầu nguyện của người khác để thân thưa với Chúa như thể đó cũng là nỗi lòng của bạn. Dễ nhất là những kinh thông dụng như Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh. Bạn có thể lần chuỗi khi đang chờ xe buýt, khi đang “ở không”. Vừa đọc vừa ngẫm những gì mình đọc hay ngẫm về các mầu nhiệm liên quan. Bạn cũng có thể sưu tầm những lời nguyện của các thánh như Kinh hòa bình, Kinh dâng hiến, Kinh quảng đại… và rất nhiều lời kinh mà các linh mục tu sĩ đã soạn… Mỗi sáng thức dậy, mỗi tối trước khi ngủ, hãy nhớ đến Chúa. Trước khi bắt đầu việc gì đó, hoặc sau khi làm xong, xin ơn Chúa hoặc tạ ơn Chúa, hoặc chỉ cần làm một cử chỉ cung kính, tỏ lòng thờ phượng như làm dấu, cúi đầu, để tay lên ngực… Tất cả những thực hành nhỏ bé này cũng giúp bạn thân quen với sự hiện diện của Chúa.

Việc cầu nguyện gắn liền với sự thinh lặng đến nỗi người ta có thể đánh đồng hai điều này với nhau. Thinh lặng ở đây không chỉ có nghĩa là không nói gì, nhưng là sự im bặt của tâm trí và cõi lòng, một sự lắng đọng sâu sắc. Đạt được tới sự thinh lặng, người ta dường như đã làm hết những gì cần làm để gặp gỡ Thiên Chúa. Vì thế, có đôi khi bạn không cần phải nói gì, làm gì khi cầu nguyện, nhưng chỉ đơn thuần là lắng tâm hồn xuống, gạt bỏ mọi nỗi bận tâm, để tâm hồn được nghỉ ngơi với Chúa. Để làm được điều này, bạn cần một nơi thanh vắng yên lặng nào đó. Bạn có thể đến nhà thờ, nhà nguyện, một công viên, hoặc ở phòng riêng. Bạn có thể đến trước giờ lễ một chút hoặc sau thánh lễ, có thể ở lại một chút, hướng mắt chiêm ngắm Thánh Thể, hoặc tượng Chúa chịu nạn. Hoặc tốt hơn, khi nào có thể (chẳng hạn vào dịp cuối tuần), bạn có thể tham gia một khóa tĩnh tâm ngắn ngày. Bạn cũng có thể đăng ký tham gia sinh hoạt ở một nhóm cầu nguyện.

Về phương pháp, có rất nhiều cách thức cầu nguyện. Chắc là bạn đã nghe nói đến cách cầu nguyện lectio divina. Đây là một cách cầu nguyện cổ điển dựa vào Kinh Thánh dựa vào 4 bước: lectio (đọc Lời Chúa), meditatio (suy niệm), oratio (cầu nguyện), contemplatio (chiêm niệm). Cũng có kiểu cầu nguyện nhẹ nhàng và thịnh hành trên thế giới hiện nay: cầu nguyện theo phương pháp Taizé. Lối cầu nguyện này chủ yếu dựa trên việc lặp đi lặp nhiều lần một đoạn nhạc nhẹ, vừa sâu lắng vừa truyền cảm, và để cho lời của nó từ từ thấm vào trong lòng mình, giúp mình cảm thấy thật bình an. Bạn cũng có thể cầu nguyện theo kiểu “nhìn lại cuộc sống”. Đơn giản chỉ là để lòng mình lắng xuống, bạn từ từ nhìn lại những chuyện vừa xảy đến với mình: những biến cố nói gì với mình, mình đã hành xử tốt chưa, có điều gì cần điều chỉnh lại cho tốt hơn không?... Bạn có thể áp dụng kiểu cầu nguyện này vào cuối ngày, hoặc cuối tuần… Áp dụng thường xuyên, nó sẽ giúp bạn biết mình hơn và làm chủ mình tốt hơn.

Để dễ dàng hơn cả cho bạn, chúng tôi khuyên bạn có thể dùng Tin Mừng hằng ngày để gặp gỡ Chúa. Mỗi ngày, bạn có thể đọc Tin Mừng một cách chậm rãi, suy nghĩ về nó, để xem Chúa muốn nói gì với bạn, hoặc tự hỏi xem mình có thể ứng dụng Lời Chúa dạy hôm nay trong cuộc sống của mình thế nào. Bạn cũng có thể đọc các bài đọc hoặc Thánh Vịnh (đáp ca) của ngày hôm ấy. Nếu không có nhiều thời gian, bạn chỉ cần chọn một câu nào đó đánh động tâm hồn bạn, đọng lại lâu trong lòng bạn và suy gẫm nó trong suốt ngày sống. Việc trung thành đọc và suy niệm Lời Chúa hàng ngày sẽ giúp bạn thân quen với Lời và chính Lời sẽ trở thành ánh sáng chỉ đường dẫn lối cho bạn, cũng như sẽ biến đổi cuộc sống của bạn một cách nhiệm mầu.

Cuối cùng, nếu bạn không biết phải cầu nguyện thế nào, hãy xin Chúa Giêsu chỉ cho bạn như các môn đệ đã làm (x.Lc 11,1), hoặc hãy xin Thánh Thần giúp bạn như lời thánh Phaolo nói (x.Rm 8,26-27).

Thân chúc bạn mọi điều tốt đẹp! Và khi cầu nguyện, xin đừng quên chúng tôi!

Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 6, (Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (18.02.2024)

---------------------------------

 

BÀI 117 – NGƯỜI CÔNG GIÁO LÀM TỪ THIỆN


Rômualđô M. Bùi Văn Nghĩa, CRM
27/02/2024
Trước khi giải đáp điều bạn thắc mắc, chúng tôi muốn mời bạn cùng với chúng tôi tìm hiểu về các hoạt động bác ái của người Công giáo, cũng như bổn phận thực thi bác ái của người Công giáo chúng ta nhé.


GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 117: NGƯỜI CÔNG GIÁO LÀM TỪ THIỆN

Văn Nghĩa, CRM

Câu hỏi: Tại sao con thấy người Công giáo ít khi làm từ thiện?

Trả lời:

Trước khi giải đáp điều bạn thắc mắc, chúng tôi muốn mời bạn cùng với chúng tôi tìm hiểu về các hoạt động bác ái của người Công giáo, cũng như bổn phận thực thi bác ái của người Công giáo chúng ta nhé.

Về mặt từ ngữ, “từ thiện” và “bác ái” có vẻ giống nhau về hành động, nhưng khác nhau về ý nghĩa. “Từ thiện” là lòng thương người, sẵn sàng giúp đỡ người nghèo khó theo lẽ tự nhiên của tình người. “Bác ái” là tình yêu cao cả, rộng khắp và có động lực siêu nhiên bắt nguồn từ Thiên Chúa. Bác ái chính là nhân đức cao trọng nhất trong đạo Công giáo chúng ta.

Bạn thân mến, có lẽ nơi cộng đoàn giáo xứ của bạn, việc bác ái – từ thiện chưa được quan tâm lắm, nhưng ở nhiều nơi nhiều xứ, không ít người vẫn làm một cách rất quảng đại. Họ thực hiện một cách âm thầm theo như lời Chúa dạy: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy... đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen...Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm.” (Mt 6,1-3). Bởi vậy thật khó có thể cân, đo, đong, đếm được các việc bác ái của người Công giáo.

Ngoài những việc làm mang tính cá nhân, những việc làm mang tính tập thể và có tổ chức[1] thì dễ nhận biết hơn. Chúng ta có thể thấy các hội đoàn trong các giáo xứ hằng năm vẫn thường vẫn tổ chức những chuyến từ thiện, hoặc cho những người nghèo khổ chung quanh, hoặc đi đến những nơi vùng sâu vùng xa, những nơi còn nhiều khó khăn thiếu thốn. Chúng ta cũng có thể thấy, hoặc nghe nói đến rất nhiều những nhóm thiện nguyện bảo vệ sự sống, trong đó có việc thu gom xác thai nhi bị cha mẹ giết và vứt bỏ, để chôn cất…

Nhìn xa trông rộng hơn, chúng ta sẽ thấy Đạo Công giáo có cả mạng lưới lớn mang tên Caritas, hiện đang hoạt động tại hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới[2]. Tại Việt Nam, tổ chức Caritas hiện đang hoạt động trên 27 Giáo phận. Trong mỗi Giáo phận, mạng lưới này được triển khai đến giáo hạt, giáo xứ. Nhiệm vụ của hội là phục vụ con người, đặc biệt là những người nghèo vật chất lẫn tinh thần, người bị bỏ rơi, hoặc bị gạt ra bên lề xã hội.

Chúng ta cũng có thể kể đến nhiều cộng đoàn tu sĩ nam nữ, vẫn luôn âm thầm thực thi bác ái một cách không mệt mỏi, trong quá khứ cũng như trong hiện tại. Chúng tôi không thể kể lể dài dòng những công tác bác ái của các dòng tu trên thế giới trong suốt dòng lịch sử, chỉ xin đơn cử một Hội dòng rất gần gũi với chúng ta là dòng của thánh Têrêsa Calcutta, một hội dòng được lập ra với mục đích chăm sóc người đói khát, trần truồng, kẻ không nhà, người tàn tật, người mù, người phong cùi và bất cứ ai bị ruồng bỏ trong xã hội. Ngay tại thời điểm Mẹ Têrêsa từ trần (năm 1997), dòng tu của mẹ có hơn 4.000 nữ tu, với sự hỗ trợ của 300 tu sĩ, và hơn 100.000 người tình nguyện. Họ điều hành 610 cơ sở từ thiện tại 123 nước trên thế giới[3]. Thật là một điều phi thường phải không bạn?

Tại Việt Nam, các dòng tu Công giáo cũng đã thiết lập và phục vụ nhiều cơ sở bác ái như: trại phong Di Linh (Lâm Đồng), bệnh viện phong Chí Linh (Hải Dương), viện phong Quảng Yên (Quảng Ninh), bệnh viện phong Da liễu Quy Hòa (Bình Định)… Các mái ấm dành cho bệnh nhân HIV/AIDS như Trung tâm Mai Hoa, Mái ấm Mai Tâm (Tp. Hồ Chí Minh)… Các mái ấm dành cho người già neo đơn như Mái ấm Thiên Ân (Thủ Đức, tp. HCM), Viện dưỡng lão Suối Tiên (Đồng Nai)… Ngoài ra còn có các mái ấm cho các trẻ em mồ côi, các mái ấm dành cho những cô gái lỡ làng cần nơi nương tựa để sinh con… Cũng phải kể đến các phòng chẩn trị y học cổ truyền vật lý trị liệu của Dòng Trợ Thế Thánh Gioan Thiên Chúa, phục vụ chăm sóc bệnh nhân nghèo, hiện đang hoạt động tại 3 tỉnh Đồng Nai, Lâm Đồng, Quảng Nam. 

PGS.TS Nguyễn Phú Lợi, Viện Tôn giáo và Tín ngưỡng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, trong một bài viết đăng trên Báo Mặt Trận, đã có những ghi nhận khách quan về công tác xã hội của người Công giáo như sau:

Về giáo dục, người Công giáo hiện nay có 1548 cơ sở (nhà trẻ, mẫu giáo, lớp tình thương) hướng tới những đối tượng là người nghèo, người khuyết tật và tâm thần; trẻ em mồ côi và bị bỏ rơi, trẻ tự kỷ… không phân biệt tôn giáo. Trong số 12 trường dạy nghề của các tôn giáo trên cả nước, thì Công giáo đảm nhận 11 trường, đối tượng đào tạo không phân biệt tôn giáo, ưu tiên cho những em nghèo, mồ côi, người dân tộc.

Về y tế, người Công giáo có 144 trạm xá, phòng khám từ thiện và 56 cơ sở trợ giúp xã hội đã được nhà nước cấp giấy phép hoạt động, tiếp nhận, chăm sóc, nuôi dưỡng người cao tuổi, người tâm thần, trẻ mồ côi, trẻ bị bỏ rơi, người khuyết tật, và đối tượng có hoàn cảnh khó khăn khác.

Về từ thiện xã hội, người Công giáo có 635 cơ sở hoạt động từ thiện xã hội, bảo trợ xã hội. Riêng tổ chức Caritas, trong năm 2018, đã hỗ trợ gạo và các phần ăn cho hơn 10.400 người nghèo; tặng quà cho những người có hoàn cảnh khó khăn; xây dựng hơn 260 nhà tình thương; xây dựng quỹ tín dụng tiết kiệm học đường hỗ trợ các gia đình người dân tộc thiểu số có con em đi học, tổ chức 263 lớp tập huấn cho bệnh nhân HIV/AIDS, giúp họ hòa nhập cộng đồng...

Ngoài ra, nhiều giáo xứ tích cực mở các lớp học tình thương, dạy chữ, dạy nghề cho trẻ mồ côi, trẻ đường phố, trẻ dân tộc thiểu số, hình thành tổ chức khuyến học, tổ chức “chương trình tiếp sức mùa thi”; xây dựng tủ thuốc bác ái, mua bảo hiểm y tế, khám bệnh phát thuốc cho những bệnh nhân nghèo không phân biệt tôn giáo; liên kết với các bác sĩ chuyên khoa của các bệnh viện mổ mắt miễn phí cho bệnh nhân nghèo[4]…

Như vậy, chúng ta có thể thấy người Công giáo không chỉ làm từ thiện một cách hời hợt, nhỏ lẻ, tùy hứng, nhưng bền bỉ và trải rộng trên nhiều lĩnh vực; không chỉ hỗ trợ vật chất nhưng còn làm cho tinh thần của những người kém may mắn được củng cố nhờ tình yêu thương, giúp họ phát triển con người toàn diện có nhân bản và nhân phẩm đáng được tôn trọng.

Trong nhiều trường hợp, người Công giáo có thể hy sinh tính mạng để cứu giúp người khác. Thời Trung cổ có các dòng tu được lập ra với mục đích để giải phóng nô lệ: các tu sĩ có thể tình nguyện hy sinh bản thân mình để chuộc các người bị bắt làm nô lệ, như các tu sĩ Dòng Chúa Ba Ngôi và Dòng Đức Mẹ Chuộc Kẻ Làm Tôi. Thời hiện đại chúng ta có những tấm gương tiêu biểu như thánh Maximilianô Maria Kolbê, khi ở trong trại tập trung của Đức Quốc Xã, đã xin chịu xử tử thay cho một người bạn tù, lý do là vì anh ta còn có vợ và bầy con thơ dại. Hay như gương của Đức cha Jean Cassaigne, người đã quy tụ những người bệnh nhân phong cùi và thành lập Trại Phong Di Linh, sống giữa họ, phục vụ họ và cuối cùng chết vì bệnh phong cùi như họ…

Nếu bạn thắc mắc do đâu mà các vị ấy có những nghĩa cử bác ái phi thường như thế, thì câu trả lời cho bạn là: từ tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài đã tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài; Chúa Con đã xuống thế làm người, thi ân giáng phúc cho con người và còn hy sinh cả mạng sống để cứu chuộc nhân loại. Vì thế, Chúa muốn hết thảy mọi người sống yêu thương nhau. Tình yêu thương ấy phải được cụ thể hóa bằng những hành động từ thiện: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, thăm kẻ bệnh tật, tù tội, cho khách trọ nhà, chôn xác kẻ chết... Chưa hết, nghĩa vụ của chúng ta là phải bác ái với cả linh hồn người ta: Lấy lời lành khuyên người, thức tỉnh kẻ mê muội, an ủi kẻ âu lo, răn bảo kẻ có tội, tha thứ cho kẻ thù và kẻ khinh dể ta, nhịn kẻ làm phiền lòng ta, cầu nguyện cho kẻ sống và kẻ chết (x. Kinh 14 mối).

Bạn thân mến,

Nếu bản thân chúng ta hay cộng đoàn nơi chúng ta sinh sống còn ít thực thi bác ái, có nghĩa là chúng ta chưa sống đúng với ơn gọi của người Kitô hữu. Bởi vì, theo như thánh Gioan phân tích: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4,20).

Mong rằng trong Cuộc Phán Xét chung, chúng ta sẽ được nghe Chúa Giêsu nói với chúng ta những lời thật dịu dàng:

“…Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa: Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.… Ta bảo thật: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là làm cho chính Ta vậy”.  (Mt 25,31-46).

-----

Vậy, để thực thi bác ái cách tích cực hơn, chúng ta hãy cầu nguyện và quyết tâm thực hành theo như thánh Phanxicô trong lời Kinh Hòa Bình mà có lẽ ai trong chúng ta cũng đã từng nghe qua:

Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa; để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm; để con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng; để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu.

Lạy Chúa, xin hãy dạy con: tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.

Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 6, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (27.02.2024)

--------------
[1] Chúng tôi phải lưu ý rằng tuy âm thầm, nhưng các công việc bác ái của người Công giáo cũng minh bạch liên quan đến giấy tờ, tiền bạc và có những kiểm tra qua lại với nhau. Mục đích là để mỗi người tự do trước cám dỗ của tiền bạc, để làm việc bác ái bằng cái tâm và cái tầm.

[2] Đọc thêm: Phúc Âm hóa bằng những công việc bác ái, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/phuc-am-hoa-bang-nhung-cong-viec-bac-ai-42110

[3] Con số hiện tại có thể lớn hơn, tiếc là chúng tôi chưa có số liệu cụ thể.

[4] X. https://tapchimattran.vn/dai-doan-ket/vai-tro-cua-nguoi-cong-giao-tham-gia-vao-cong-tac-xa-hoi-tren-linh-vuc-giao-duc-y-te-va-bao-tro-xa-hoi-tu-thien-nhan-dao-38013.html

---------------------------------

 

BÀI 118 – NGƯỜI ĐÃ LẬP GIA ĐÌNH CÓ ĐƯỢC LÀM LINH MỤC?


Lm. Giuse Cao Gia An, SJ
05/03/2024
Con đọc trên Internet, thấy Giáo hội thường tranh luận về vấn đề người lập gia đình có được lãnh nhận chức linh mục?


GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 118: NGƯỜI ĐÃ LẬP GIA ĐÌNH CÓ ĐƯỢC LÀM LINH MỤC?

Lm. Giuse Cao Gia An, S.J.

Câu hỏi: Con đọc trên Internet, thấy Giáo hội thường tranh luận về vấn đề người lập gia đình có được lãnh nhận chức linh mục?

Trả lời: Đây là một đề tài đã và đang còn được tranh luận sôi nổi. Đề tài này có một lịch sử lâu dài. Vì thế, để có thể hiểu đúng và hiểu sâu, đồng thời tránh được những kết luận mang tính khích bác và cực đoan, cần có một hiểu biết rộng hơn về lịch sử và những diễn tiến của vấn đề. Trước hết, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu khái quát xem đời sống độc thân của ơn gọi linh mục trong lòng Giáo hội có lịch sử thế nào. Sau đó, chúng ta sẽ mở ra với những thảo luận hiện đại và quan niệm mới nhất của Giáo hội về vấn đề này.

Ở khởi đầu của Giáo hội

Trong Giáo hội thời các Kitô hữu tiên khởi, không có một quy luật độc thân rõ ràng dành cho những người được chọn theo Chúa. Đúng hơn, độc thân được hiểu như là một lời khuyên được gợi hứng từ Kinh Thánh. Những người được gọi theo Chúa và phục vụ Giáo hội của Chúa là những người được mời gọi theo sát gót bước Chúa Giêsu và tập sống như Người đã sống. Chúa Giêsu đã chọn không lập gia đình, toàn tâm toàn ý hiến thân cho sứ mạng loan báo Tin Mừng. Người nhìn nhận giá trị của những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời (x. Mt 19,12). Người đòi hỏi những người muốn làm môn đệ của mình phải biết từ bỏ cả những người thân thương nhất của đời mình, như cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình (x. Lc 14,26.33).

Cũng vậy, Thánh Phaolô nhìn việc lập gia đình như là một nhân nhượng đối với những người đã chọn con đường phục vụ Chúa. Ngài khuyên những người chưa lập gia đình cứ ở độc thân thì tốt hơn cho họ. Chính Ngài cũng chọn sống độc thân vì Nước Trời. Chỉ với những người không tiết dục được, Ngài khuyên họ nên kết hôn, bởi vì thà kết hôn còn tốt hơn là bị thiêu đốt bởi ngọn lửa ham muốn (x. 1Cr 7,8-9). Tuy nhiên, cần nhìn nhận rằng có những người trước khi được chọn và được gọi bước theo Chúa là những người đã sống đời sống hôn nhân. Thánh Phêrô, người được chính Đức Giêsu chọn làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội, xuất thân là một người đã có gia đình (x. Mc 1,29-31; Mt 8,14-15; Lc 4,38-39).

Năm 304, vì những lý do mục vụ thực tiễn và vì những giằng xé xung đột trong đời sống của các vị mục tử đã có gia đình, Công Đồng Elvira ra sắc lệnh rằng tất cả các Giám mục, Linh mục, Phó tế và những người khác thuộc hàng Giáo sĩ phải hoàn toàn giữ mình, không được lấy vợ và có con cái. Từ đó, việc sống đời độc thân trở nên một quy luật bắt buộc cho các linh mục và giáo sĩ. Luật này đặc biệt phổ biến trong lòng Giáo hội Tây Phương[1], được tái khẳng định nhiều lần bởi các công đồng khác nhau, như Công Đồng Nicea năm 325, Công Đồng Laterano thứ hai năm 1139, hay Công Đồng Trento năm 1563. Như thế, trong dòng truyền thống của Giáo hội Công giáo Tây Phương, đời sống độc thân dần dần được xem như một đòi buộc quan trọng và là một thành trì vững chắc bảo vệ đời sống linh mục.

Trong khi đó, luật này không được áp dụng trong các Giáo hội Công giáo Đông Phương. Truyền thống của các Giáo hội Đông Phương xác tín rằng việc một người làm linh mục có gia đình là một giá trị. “Bằng việc sống đời sống gia đình và giáo dục con cái, các giáo sĩ có gia đình trở nên những gương mẫu trổi vượt trong đời sống đức tin cho các Kitô hữu khác…”[2]. Quan niệm của các Giáo hội Công giáo Đông Phương cho rằng đời sống hôn nhân và gia đình không hề mâu thuẫn với sứ vụ linh mục. Khi được mời gọi lãnh nhận chức Thánh, một người đã lập gia đình càng được mời gọi sống nhiều hơn giới răn yêu thương, họ nới rộng gia đình của mình đến một cộng đoàn lớn hơn.

Như thế có thể thấy rằng có nhiều truyền thống Công giáo khác nhau về luật độc thân linh mục. Cần phải nhấn mạnh rằng luật độc thân linh mục là một quy luật, hiểu theo nghĩa là một quy tắc thực hành của Giáo hội Công giáo Tây Phương, chứ không phải là một tín điều giáo lý. Quy luật ấy hoàn toàn có thể được thay đổi bởi bất cứ một Đức Giáo Hoàng nào, khi Ngài xét thấy sự thay đổi là cần thiết và mang lại nhiều hữu ích cho Giáo Hội. Đây có lẽ là một trong những lý do tại sao vấn đề này thường được bàn đi bàn lại nhiều trong Giáo Hội, nhất là trong những Giáo hội đang gặp nhiều khó khăn vì việc thiếu ơn gọi linh mục và thiếu hụt nghiêm trọng các mục tử chăm sóc đoàn chiên.

Bàn về những khả thể khác nhau

Không ít người thường bàn tán về đề tài này với ý hướng giễu cợt. Họ nói: Giáo hội đang bàn xem liệu Đức Giáo Hoàng có cho phép các linh mục lấy vợ không? Đây là một lối nói đại khái và sai lệch. Cần biết rằng dù là trong Giáo hội Công giáo Phương Đông hay Phương Tây, dấu ấn của Bí Tích Truyền Chức Thánh là dấu ấn trọn đời và không thể xóa nhòa. Một người đã được thánh hiến cho Chúa qua Bí Tích Truyền Chức Thánh, dù là trong Giáo hội Đông Phương hay Tây Phương, thì người ấy đã hoàn toàn và suốt đời thuộc trọn về Chúa. Giáo Luật của Giáo hội Công giáo Tây Phương xem việc một người đã chịu chức thánh hay đã gia nhập một Dòng Tu với lời khấn khiết tịnh trọn đời là một ngăn trở đối với Bí Tích Hôn Phối (GL 1087-1088).

Như thế, người đã chịu chức linh mục hoặc người đã Khấn Trọn trong một Dòng Tu nào đó sẽ không được phép lập gia đình theo hôn nhân Công giáo. Nói một cách đơn giản: đã là linh mục rồi thì không được lấy vợ nữa. Điều này cũng đúng với các tu sĩ đã khấn trọn. Các linh mục trước khi được chịu chức Thánh hay các tu sĩ Khấn Trọn đã long trọng tuyên hứa trước Giáo hội rằng họ sẽ giữ luật độc thân và sống Khiết Tịnh trọn đời. Họ không thể phản bội lời tuyên hứa của mình. Trừ trường hợp họ xin giải lời khấn để hoàn tục, không thể có chuyện một người được phép lấy vợ với tư cách là linh mục hay tu sĩ.

Vậy thì chính xác điều mà nhiều người trong Giáo hội đang bàn đến là gì? Là thế này: liệu những người đã có vợ có thể được truyền chức để làm linh mục không. Đây lại là một câu hỏi rất khác.

Đã là một linh mục thì không được phép lấy vợ. Nhưng một người đã có vợ thì vẫn có thể được phép chịu chức linh mục. Tuỳ vào truyền thống thực hành của mỗi Giáo hội. Trong Giáo hội Công giáo Phương Đông, đa số những người làm linh mục đều là những người đã lập gia đình. Sau khi lấy vợ, họ được truyền chức linh mục. Tuy vậy, đa số những người được chọn làm Giám mục trong Giáo hội Công giáo Đông Phương đều phải là những người sống độc thân. Trong Giáo hội Công giáo Phương Tây, không thiếu trường hợp những người đã có vợ, sau khi vợ qua đời, người ấy đi tu, sống độc thân và làm linh mục. Bên cạnh đó, vẫn có những ngoại lệ thú vị.

Trong Giáo hội Công giáo Tây Phương hiện tại, có một số trường hợp có những linh mục đã có gia đình và vẫn được thực thi chức thánh của mình. Những linh mục này trước đây vốn thuộc các Giáo hội Anh Giáo hay Tin Lành. Họ là những người đã có gia đình và đã được chịu chức linh mục trong truyền thống Giáo hội của họ. Họ trở lại với đức tin Công giáo, lại được chịu chức Thánh trong Giáo hội Công giáo. Nhưng họ vẫn phải tiếp tục sống đời hôn nhân của mình. Vì thế, họ được làm linh mục với sự miễn chuẩn về đời sống độc thân.

Chẳng hạn năm 1980, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đưa ra một tài liệu hướng dẫn đặc biệt, thường được gọi là Đáp Ứng Mục Vụ - Pastoral Provision, hay năm 2009, Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI ban hành Tông Hiến Anglicanorum Coetibus, cho phép thiết lập một Giáo Hạt Tòng Nhân (personal Ordinariate) cho các tín hữu gốc Anh Giáo quay trở về với Công giáo. Theo đó, các linh mục Anh Giáo đã có vợ được phong chức linh mục lại trong Giáo hội Công giáo. Đây là các linh mục vừa thực thi chức Thánh với Thánh Lễ và các Bí Tích; đồng thời, họ được miễn chuẩn việc sống đời độc thân để có thể có trách nhiệm với gia đình của mình như một người chồng và người cha trong gia đình. Trong trường hợp khi vợ của những linh mục này qua đời, họ không được quyền lấy vợ thêm lần nữa.


Dĩ nhiên, các quyết định này của các Đức Giáo Hoàng gặp nhiều phản đối và bàn tán từ phía những người Công giáo bảo thủ. Toà Thánh đã khẳng định rằng việc chấp nhận những linh mục Anh Giáo trở lại, cho họ làm linh mục trong Giáo hội Công giáo với sự miễn chuẩn về đời sống độc thân, hoàn toàn không đồng nghĩa với việc cho phép các linh mục Công giáo lập gia đình. Dẫu vậy, một số người vẫn lo sợ rằng có những linh mục đã có gia đình như thế sẽ mở đường cho việc xói mòn và hư hoại truyền thống lâu đời của Giáo hội Công giáo Tây Phương về sự độc thân của đời linh mục.

Bạn phản ứng theo hướng nào? Bạn có lo sợ rằng một ngày nào đó khi Đức Giáo Hoàng cho phép truyền chức thánh cho những người đã có gia đình, thì tất cả các linh mục đều xuất thân là những người đã có gia đình? Khi đó, sẽ không còn một ơn gọi linh mục độc thân nào nữa? Không sao! Giả như điều này xảy ra, trong Giáo hội vẫn còn có các tu sĩ. Các tu sĩ đi theo một con đường ơn gọi khác. Họ theo lý tưởng dâng mình sống trọn vẹn các lời khuyên Phúc Âm, được hiện thực hoá qua ba lời khấn khó nghèo, vâng lời, và khiết tịnh. Trong số họ, sẽ có những linh mục sống khiết tịnh và độc thân suốt đời. Như thế, bao lâu còn ơn gọi tu trì của các tu sĩ, còn khấn lời khấn Khiết tịnh, bấy lâu sẽ còn có những tu sĩ linh mục không lập gia đình.

Vấn đề ở thời điểm hiện tại

Gần đây nhất, vấn đề truyền chức linh mục cho những người đã lập gia đình được bàn thảo một cách nghiêm túc trong bầu khí long trọng của Thượng Hội Đồng Giám Mục vùng Amazon, tổ chức tại Vatican vào tháng 10 năm 2019. 121 vị nghị phụ tham dự Thượng Hội Đồng đã bỏ phiếu ủng hộ việc phong chức cho những người nam đã lập gia đình tại những vùng xa xôi hẻo lánh của rừng nhiệt đới Amazon. 41 người bỏ phiếu chống.

Cần biết rằng Amazon là một vùng đất bao la với rất nhiều sắc dân sinh sống. Từ lâu Giáo hội ở đây đã phải đối mặt với tình trạng khan hiếm ơn gọi và thiếu hụt trầm trọng các mục tử. Đời sống đạo của người dân nơi đây không được chăm sóc đúng mực. Họ bơ vơ như bầy chiên không người chăn dắt. Vì thế, nhu cầu có được những mục tử bản địa là một nhu cầu cấp thiết. Việc huấn luyện và truyền chức linh mục cho một số người bản địa, đã lập gia đình, có đời sống gương mẫu và có nhiệt tâm phục vụ, là một giải pháp cấp thời được đề nghị cho toàn vùng đất này.

Điều ngạc nhiên là trong tông huấn hậu Thượng Hội Đồng, Querida Amazonia – Amazon yêu dấu, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã hoàn toàn không nhắc đến bất cứ một điều gì về việc truyền chức linh mục cho những người đã kết hôn trên vùng đất Amazon. Những người bảo thủ thì vui mừng vì đã không có thay đổi nào. Nhiều người khác thì thất vọng vì tại sao Đức Giáo Hoàng chưa chịu bật đèn xanh. Đức Giáo Hoàng chỉ đưa ra một lời giải thích ngắn gọn nhưng đầy ý nghĩa. Ngài chia sẻ với cha Spadaro, Dòng Tên, một cộng sự thân tín của Ngài và là chủ biên của tạp chí Civlità Cattolica, rằng: Thượng Hội Đồng đã tiếp cận vấn đề này theo cách của “một cuộc thảo luận phong phú, một cuộc thảo luận có cơ sở, nhưng lại không có sự phân định”.

Không có phân định thì không thể nào có được một sự đồng thuận trong bình an. Cha Spadaro giải thích rằng, Đức Giáo Hoàng chưa đi đến một quyết định dứt khoát vì Ngài nhận thấy rằng kết quả đạt được đến từ sự tranh luận theo kiểu đầu phiếu ở các đấu trường chính trị hơn là đến từ việc phân định, lắng nghe, cảm thông và thấy được tính bức thiết trong nhu cầu của Giáo hội hiện tại. Do đó, vấn đề vẫn còn được mở ngỏ. Bao lâu vấn đề không được bàn luận nghiêm túc theo hướng phân định đích thực, bấy lâu vấn đề truyền chức linh mục cho ngươi đã kết hôn vẫn còn mở ngỏ…

Tóm lại, để đi đến một quyết định đúng đắn, cần sự cởi mở để có thể lắng nghe và bước theo sự thôi thúc của Thánh Thần Thiên Chúa. Dù bạn là người bảo thủ hay cấp tiến, bạn ủng hộ hay phản đối khả thể truyền chức linh mục cho những người đã lập gia đình, bạn luôn được mời gọi bước vào trong tinh thần phân định và cầu nguyện đích thực. Người có khả năng phân định trước hết là người có khả năng thoát ra khỏi tình trạng cố thủ và bám chặt vào quan điểm của riêng mình, dù đó là quan điểm bảo thủ hay cấp tiến. Có như thế, bạn mới có thể lắng nghe, đọc ra được những dấu chỉ của thời đại, cảm được những nhu cầu và tiếng kêu cấp thiết của những con người nhỏ bé ở tận những vùng xa xôi hẻo lánh của hành tinh này. Có như thế, Giáo hội mới không trở nên vô cảm với hiện thực của thế giới và của lịch sử.

Và như thế, mọi sự vẫn còn ở phía trước.

Và dù phía trước thế nào, chúng ta vẫn luôn tin rằng bất cứ một thay đổi nào trong truyền thống của Giáo hội đều là những thay đổi đến từ một quá trình phân định lâu dài và kỹ lưỡng. Thay đổi nào cũng hướng đến việc phục vụ tốt hơn cho con người, đặt con người ở vị trí trung tâm của mọi kế hoạch và dự phóng. Bởi lẽ, con người chính là con đường nền tảng và đáng được ưu tiên nhất của Giáo Hội, như được khẳng định bởi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong Tông Thư Redemptor Hominis (1979).

Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 6, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (05.03.2024)

---------------------------------

 

BÀI 119 – ĐỂ DANH THIÊN CHÚA ĐƯỢC NHIỀU NGƯỜI BIẾT ĐẾN


Nt. Thiên Di, CND - CSA
12/03/2024
Giáo hội Việt Nam phải làm gì để Danh Thiên Chúa được tỏa sáng, nhiều người theo đạo hơn?


GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 119: ĐỂ DANH THIÊN CHÚA ĐƯỢC NHIỀU NGƯỜI BIẾT ĐẾN

Thiên Di CND - CSA

Câu hỏi: Giáo hội Việt Nam phải làm gì để Danh Thiên Chúa được tỏa sáng, nhiều người theo đạo hơn?

Trả lời: Bạn thân mến,

Khi nhận trả lời câu hỏi của bạn, tôi có dịp đọc lại lịch sử Giáo hội Việt Nam, trong tôi có những cảm xúc thán phục trước hành trình truyền giáo của các vị thừa sai. Bên cạnh đó, đức tin mạnh mẽ, lòng dũng cảm can trường của các thánh tử đạo Việt Nam làm tôi cảm thấy bồi hồi xúc động trước sự hy sinh anh dũng vì niềm tin của các ngài vào Thiên Chúa. Các ngài đã ghi vào lịch sử truyền giáo tại Việt Nam những trang hồi ký đẫm nước mắt, nhưng trên tất cả là niềm hân hoan khôn tả vì Tin Mừng Đức Giêsu đã được gieo vãi và trổ sinh trên mảnh đất Việt thân yêu.

Lịch sử Giáo hội Công giáo tại Việt Nam trên 450 năm được ghi dấu bằng những cột mốc thăng trầm của lịch sử Giáo hội. Nhưng đức tin trong lòng người tín hữu thì không thể xóa nhòa. Bạn hỏi: “Giáo hội Việt Nam phải làm gì để Danh Thiên Chúa được tỏa sáng, nhiều người theo đạo hơn?” Tôi chợt nghĩ đến câu hát: “Đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho ta, mà tự hỏi ta đã làm gì cho tổ quốc hôm nay” (St. Vũ Hoàng). Cũng vậy, câu hỏi này của bạn không dành riêng cho Giáo hội Việt Nam mà tôi nghĩ nó được đặt ra cho mỗi chúng ta “Tôi phải làm gì để Danh Chúa được nhiều người biết đến…”

Khi tìm hiểu một vài con số thống kê về các tôn giáo hằng năm thì tôi thấy: sau hơn 450 năm đạo Công giáo có mặt tại Việt Nam thì hiện nay chỉ có khoảng 8% là người Công giáo trên tổng số hơn 90 triệu dân. Con số này đáng để mỗi người Công giáo chúng ta phải suy nghĩ và tự hỏi, tôi và bạn phải làm gì để nhiều người được biết Chúa hơn ?

Người mang sứ vụ truyền giáo?

Vậy thì ai là người có trách nhiệm truyền giáo làm Danh Chúa được nhiều người biết đến? Trước khi về trời, Đức Giêsu đã nhắn nhủ cho các môn đệ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28, 19). Ngay sau khi được Thánh Thần thúc đẩy các tông đồ đã hăng say đi rao giảng khắp nơi và các ngài đã quy tụ được nhiều người tin theo Chúa và giúp họ lãnh nhận bí tích rửa tội. Từ 12 vị tông đồ ban đầu các ngài đã thi hành sứ vụ và làm cho Danh Thiên Chúa được lan rộng khắp hoàn cầu.

Cũng vậy, mỗi người Kitô hữu chúng ta khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta được lãnh nhận ba chức vụ: tư tế, vương đế và ngôn sứ. Chức vụ ngôn sứ là rao giảng Tin Mừng (là loan truyền đức tin), người Kitô hữu phải mang sứ vụ truyền giáo thi hành mệnh lệnh của Chúa Giêsu. Nhưng trên thực tế, chúng ta nghĩ đơn giản hơn là: khi được rửa tội tôi được làm con Chúa, được tham dự vào các mầu nhiệm của Ngài, còn trách nhiệm ngôn sứ (sứ vụ truyền giáo) không phải là bổn phận của tôi.

Nhiều người cho rằng việc rao giảng Tin Mừng là trọng trách cao cả chỉ dành riêng cho các giám mục, linh mục, tu sĩ, những người sống đời tu trì, còn giáo dân không có trách nhiệm loan báo Tin Mừng. Ở đây, chúng ta cần xác định rõ, rao giảng Tin Mừng là trách nhiệm của mỗi người Kitô hữu khi chúng ta được làm con Chúa qua Bí tích Rửa tội. Còn các linh mục, tu sĩ nam nữ được Thiên Chúa mời gọi sống triệt để hơn ơn gọi loan báo Tin mừng và làm chứng nhân cho Ngài giữa thế gian.

Hành trang nhà truyền giáo?

- Đến vùng ngoại biên

Trong thư gởi người trẻ năm 2015 qua quyển sách Docat, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắn nhủ: “Không có cái gì khác sẽ làm thay đổi thế giới mà chỉ có những con người cùng với Chúa Giêsu dấn thân cho thế giới, cùng với Người đến những vùng ven và đi vào giữa lấm len của cuộc đời mới thay đổi được…”. Mỗi chúng ta là một tế bào xây dựng nên nhiệm thể Giáo hội là Đức Kitô. Việc giữ đạo, sống đạo của chúng ta sẽ rất cục bộ nếu ta chỉ giữ những khuôn phép, giữ đạo, sống đạo, tuân giữ lề luật Chúa, tham dự Thánh lễ, làm các việc đạo đức trong chính họ đạo, giáo xứ, giáo hội của mình. Chúng ta phải vượt qua bức tường thành lũy của giáo hội, giáo xứ, họ đạo để đến với vùng ngoại biên, đến với những người chưa nhận biết Chúa Kitô và giúp họ biết Tin Mừng của Chúa. Người Kitô hữu cùng Đức Giêsu dấn thân vào trong những cảnh sống khác nhau của xã hội.

- Chứng tá Phúc âm

Chúng ta không dùng chiêu bài “dụ” như người ta vẫn thường nói đến việc kêu gọi theo đạo của nhóm này nhóm kia, “Hội Thánh phát triển không phải bằng việc chiêu dụ, nhưng bằng sự thu hút” (Tông huấn Niềm vui của Tin Mừng - Evangelii Gaudium, số 14). Chúng ta thu hút người khác bằng một đời sống Phúc âm hóa trong mọi môi trường mình sinh sống. Sống Tin mừng của Chúa trong niềm vui, hy vọng, sống hạnh phúc hân hoan vì được biết Chúa. Đời sống của bạn lan tỏa Phúc âm Chúa đã là một lời truyền giáo sống động. Tỉ như qua việc chia cơm sẻ áo, lá lành đùm lá rách cho tất cả mọi người không phân biệt tôn giáo, chúng ta dám xắn tay áo làm tất cả những việc tốt đẹp cho anh em đồng loại... Hãy để cho Tin Mừng của Ngài ra khỏi khuôn viên của nhà xứ, nhà thờ…

- Biết rõ về đạo của mình

Có ai đã từng nói: “Chúng ta không thể cho cái mà chúng ta không có”. Thật vậy, để đem Chúa đến cho người khác trong bạn phải có Chúa hiện diện, đời sống của bạn phải là một người có Chúa, mang Phúc âm của Ngài. Ngoài ra, để trở thành một người nói về Chúa, cho người khác Lời của Ngài, mỗi chúng ta rất nên học hỏi và hiểu rõ đạo Công giáo của mình để “làm giàu” vốn sống đạo của mình. Chúng ta cần hiểu rõ những biểu tượng, dấu hiệu trong đạo Công giáo cho đến việc cắt nghĩa Thánh Kinh vì Thánh Phêrô đã nói: “Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em” (1Pr 3,15b).

Giả sử một người lương giáo đến hỏi bạn: “Trước khi dùng bữa, bạn thường vẽ vẽ cái gì trên mặt vậy?” Bạn có thể trả lời một cách xác tín và đầy thuyết phục về ý nghĩa của biểu tượng dấu của Thánh giá không? Những câu hỏi nhiều khi vô tình của người khác lại trở thành cơ hội cho bạn tuyên xưng niềm tin của mình. Nếu bạn lúng túng trong niềm tin thì thật tiếc vì bạn đã làm mất cơ hội loan truyền đức tin của mình cho người khác rồi. Mỗi chúng ta hãy trở thành vị ngôn sứ của Chúa, nói về Chúa, nói cho Chúa, nói vì Chúa một cách thật xác tín bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào.

- Dám liều nói về Chúa!

Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã nhận định rằng: “Con người ngày nay họ cần chứng nhân hơn thầy dạy, và nếu họ tin vào lời thầy dạy thì chính thầy dạy đó là chứng nhân”. Trong bối cảnh hôm nay, sự vô cảm, dửng dưng đã trở thành một căn bệnh khó chữa. Do đó, bạn sống tốt ư? Có người nói: “Kệ bạn, tôi không quan tâm!” Bạn đạo đức ư? “Kệ bạn, không phải việc của tôi!” và có rất nhiều câu trả lời hao hao như vậy. Chủ nghĩa Mắc-Kê-Nô (mặc kệ nó) đã len lỏi vào từng ngõ hẻm của cuộc sống.

Do đó, họ có thấy chứng nhân sống tốt đôi khi cũng dửng dưng và “kệ bạn” và chưa chắc bạn đã là một bài học, hay một câu hỏi cho người ta phải “bận lòng”. Tôi nghĩ người Công giáo chúng ta phải mạnh dạn nói về Chúa của mình nhiều hơn. Chúng ta nói về Chúa trong nhóm riêng ở nhà thờ, hội đoàn giáo xứ chưa đủ. Hãy sống chứng tá Phúc âm và hãy nói về Chúa cho người chưa biết Ngài. Tất nhiên sẽ tùy vào hoàn cảnh, môi trường mà chúng ta bày tỏ đức tin của mình mà không phải là “chiêu dụ”.

Người ta kể rằng: thời các linh mục thừa sai truyền giáo tại Kontum (khoảng những năm 1860), có một Yao Phu (Giáo lý viên) người Bana muốn cho người làng Xêđăng biết Chúa. Người Yao Phu này đã đến kể chuyện vui của làng mình khi tin theo Chúa cho dân làng Xêđăng. Nhưng người Yao Phu kể hoài nói mãi mà người Xêđăng chẳng phản ứng gì, họ chỉ cười trừ cho xong chuyện.

Trước khi về, người Yao Phu ngà ngà xay rồi liều nói: “Người Xêđăng mấy ông thật là dại dột, các ông tin nhảm nhí quá đi. Mấy ông cúng con dê, con heo, con bò kể cả con người để mấy thần giả của các ông khỏi quấy phá… Các ông xem chúng tôi này, người Công giáo chúng tôi, quăng hết những thứ nhảm nhí đó rồi, và chúng tôi sung sướng hơn nhiều vì đã tiết kiệm được khối tiền ấy!”.

Già làng người Xêđăng bực mình tuyên bố: “Làm sao chúng tôi tin người Công giáo các ông thông minh hơn chúng tôi chứ? Người Công giáo các ông đừng nghĩ các ông thông minh hơn chúng tôi… Các ông tưởng chúng tôi không thành Công giáo hả? Chúng tôi sẽ thành Công giáo cho mấy ông xem…”

Người Yao Phu thách thức: “Nhưng mấy ông muốn trở thành Công giáo các ông phải quăng hết những thần giả của các ông ra khỏi nhà, mấy ông có dám không? Các ông có dám không nào?

Sau một hồi suy nghĩ, người già làng Xêđăng liền nói: “Nếu phù thủy da trắng (các cha hội thừa sai Paris) tới đây và tự tay quăng đi thì chúng tôi chấp nhận!”

Chớp lấy cơ hội, người Yao Phu Bana liền về trình bày với cha thừa sai. Ngay hôm sau, trước sự chứng kiến của dân làng Xêđăng, người Yao Phu Bana dẫn một cha thừa sai đến và chính vị Linh mục này đã vứt bỏ những ngẫu tượng thờ cúng của dân làng Xêđăng kia đi. Sau ngày đó, cả dân làng Xêđăng đã tin theo Chúa và chịu phép rửa.

Trở lại với Giáo hội Việt Nam hôm nay, những năm gần đây, các đoàn thể giáo xứ, họ đạo đã và đang sống rất tốt sứ vụ truyền giáo của mình qua việc trao lửa Tin Mừng cho những người xung quanh không phân biệt tôn giáo. Tỉ như ATM gạo miễn phí trong mùa dịch, cung cấp thực phẩm cho bà con bị cách ly, những bữa cơm miễn phí mùa dịch... Tinh thần Tin Mừng được lan rộng đến cả những tôn giáo bạn. Ngoài ra, mỗi giáo phận, dòng tu, giáo xứ, họ đạo đều có ban truyền thông và tận dụng tốt phương tiện này để loan truyền Lời Chúa, trực tuyến thánh lễ online khi mọi người không được tham dự Thánh lễ đây cũng là cách làm cho nhiều người biết đến Chúa qua phương tiện truyền thông.

Tôi có quen một vài ca đoàn trong đó không ít ca viên là người ngoại đạo. Họ được bạn bè người Công giáo mời tham gia ca đoàn, khi họ cùng chung sở thích mê hát, thích phục vụ. Từ những buổi tập hát, tham gia sinh hoạt, làm việc bác ái mà họ nảy sinh lòng mến Chúa. Và họ đã xin gia nhập đạo khi đức tin đủ chín mùi.

Có lẽ, việc giúp người khác biết Danh Chúa rồi giúp họ theo đạo như vậy chưa là đủ của bổn phận truyền giáo. Chúng ta còn phải là người chăm sóc đức tin cho người mới theo đạo, nuôi dưỡng lòng mến Chúa yêu người, đồng hành nâng đỡ giúp họ giữ đạo và sống đạo trên hành trình ân phúc này.

Trên đây là một vài gợi ý để giúp bạn làm Danh Thiên Chúa nhiều người biết đến, mến chúc bạn có thật nhiều sức khỏe, niềm tin và lòng mến để làm Danh Chúa lan tỏa đến những người bạn gặp gỡ.

Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 6, Nxb Tôn Giáo, 05/2021

WHĐ (12.03.2024)

---------------------------------

 

BÀI 120 – CHÚNG CON VẪN NHỚ! (CẦU NGUYỆN CHO ÔNG BÀ TỔ TIÊN)


Nt. Elisabeth Bùi Phạm Phương An, CND – CSA
19/03/2024
Đối với ông bà tổ tiên đã qua đời khi ra thăm mộ, con có nên trò chuyện hay xin họ ban ơn gì không? Con phải làm thế nào khi ra viếng mộ để hợp với tinh thần Kitô giáo?


GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 120: CHÚNG CON VẪN NHỚ!

Phương An, CND - CSA

Câu hỏi: Đối với ông bà tổ tiên đã qua đời khi ra thăm mộ, con có nên trò chuyện hay xin họ ban ơn gì không? Con phải làm thế nào khi ra viếng mộ để hợp với tinh thần Kitô giáo?

Trả lời:

“Người chết nối linh thiêng vào đời”- bài nhạc Trịnh vang lên làm tôi nhớ đến những vị đã ra đi trước. Người xưa quan niệm “sinh ký tử quy” - cuộc đời này là tạm, cuộc sống mai sau mới là bến đỗ. Nhìn cung cách viếng mộ, ta thấy được thái độ hiếu kính với ông bà. Đó cũng là tâm tình tự nhiên, bình thường, quen thuộc của dân Việt hay kể cả trên thế giới và được coi như thái độ tất yếu trong nhiều tôn giáo. Các tín hữu tin rằng mối dây liên kết người đã khuất với chúng ta vẫn còn, vì Giáo hội thông công. Ông bà tổ tiên đã qua đời vẫn thuộc về Giáo hội dù chúng ta không còn thấy mặt các ngài theo cách hiện diện như trước đây.

Trò chuyện với người qua đời và gởi gắm xin họ chuyển cầu

Nội ngoại của tôi đã về với Chúa thấm thoát ba mươi năm. Kể từ lúc ông bà lìa xa gia đình, theo kinh nghiệm cá nhân, chúng tôi vẫn thấy gần gũi họ. Vì chúng tôi tin âm dương không cách biệt, trong lặng thinh ông bà vẫn nghe tiếng chúng tôi và mãi phù hộ cho con cháu. Cha mẹ tôi vẫn hay chia sẻ với ông bà dự tính trong công việc làm ăn, biến cố xảy ra cho nhà mình, cách nuôi dạy con cái, giao phó cho các vị những ước nguyện. Mộ ông bà gần bên, không cần phải nói, hàng ngày gia đình ra đọc hai ba kinh và chào ông bà mỗi khi đi ngang! Dần dần theo nếp ấy, tụi nhỏ không sợ ra mộ; cứ tới chơi, tìm đến tụ tập để kín múc chất liệu cần thiết cho cuộc sống.

Nếu đọc báo nghe đài, bạn sẽ bắt gặp nhiều thư “gởi người đã về nơi ấy”. Quả thật, những mong nhớ anh chị em khi họ đã rời xa khó lòng phai nhạt được. Trong bối cảnh ấy, tôi thiết nghĩ dù ra đi nhưng họ vẫn yêu nơi chốn cũ và vẫn nhớ những con người mà họ đã từng sống gắn bó, đồng hành. Vì vậy, họ có thể nghe lời tâm sự của chúng ta.

Tôi rất mừng vì bạn thực tâm, chân thành nhớ tới các linh hồn – đó là đạo làm con cháu đối với tổ tiên. Họ là những người chết trong ân sủng của Chúa nhưng chưa được thanh tẩy trọn vẹn, cần phải thanh tẩy - “tắm rửa” - thêm một thời gian cho sạch trước khi ra gặp “thượng khách” là Chúa. Tôi nghĩ bạn thao thức và ước mong cho ông bà mình được yên nghỉ trong nơi “mát mẻ, hạnh phúc” là điều phải lẽ.

Thử quan sát người Việt, dù Phật giáo, Công giáo hay bất cứ đạo nào, ai cũng có tâm thức thờ cúng ông bà tổ tiên, coi trọng việc đến viếng nghĩa trang để mộ phần của ông bà không bị bỏ quên trong lạnh lẽo. Thân bằng quyến thuộc của người đã khuất thường đến viếng mộ vào ngày giỗ, tết, tiết thanh minh. Họ quét dọn, đốt nhang, bày biện cúng bái, ở lại chơi một chập rồi mới về. Như có người ngâm nga: “Thế gian là chuyện đã rồi, cho lời kinh nguyện là tôi mát lòng”. Ấy cũng là trách nhiệm hiếu thảo của con cháu, làm người và làm con Chúa với bổn phận bác ái mà ta không thể lãnh đạm được!

Phải, lời cầu là “cái phao thiêng liêng” cho người về nơi chín suối. “Nếu chúng ta tin Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì cũng vậy, những người đã chết nhờ Đức Giêsu, Thiên Chúa sẽ đem họ đến làm một với Người” (1Tx 4,13-18). Người Công Giáo hòa nhập đạo Chúa với văn hóa dân tộc, biết nhìn ra ý nghĩa tôn giáo đằng sau cái chết. Chúng ta tin rằng ông bà tổ tiên vượt qua sự chết trong niềm tin để tiến tới sự sống cùng Đấng Phục Sinh. “Ta sẽ cho họ trỗi dậy trong ngày sau hết” (Ga 6,40). Giờ đây họ có thể đang được thanh tẩy khỏi tội lỗi, có một đời sống mới.

Liệu chúng ta có gặp lại ông bà không?

Người không tin vào Thiên Chúa thì cho rằng cái chết sẽ chấm dứt mọi thứ. Đối với người tin Chúa Kitô, “địa chỉ thường trú” của chúng ta trên Thiên Quốc. Qua hành trình đức tin ở trần gian, chúng ta sẽ về quê thật. Chúng ta trông cậy lòng Chúa thương xót tự muôn đời sẽ giải thoát con người trước đau đớn, phiền muộn đời này, đưa họ ra khỏi cảnh lầm than khốn khó mà về nơi họ đã phát xuất. Vì Chúa Giêsu đã nói: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con” (Ga 17,24).

Viếng mộ phù hợp tinh thần Kitô giáo

Từ thời Cựu ước, sách Macabê cho biết người ta hy vọng dù có chết thì cũng sẽ được sống lại để hưởng phúc vinh muôn đời. Trước đó, ông Gióp tiến đến cuộc gặp gỡ Thiên Chúa: “Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu hủy thì với tấm thân này, tôi sẽ được ngắm nhìn Thiên Chúa” (G 19,25-26). Đó cũng là hy vọng tối hậu của chúng ta vào Đức Kitô.

Ngày 2-10-1964, Toà Thánh ban phép cho các Đấng Bản quyền Việt Nam được áp dụng huấn dụ Plane Compertum Est (ban hành ngày 8/12/1939) của Bộ Truyền Giáo liên quan đến việc tôn kính các tổ tiên trong nước. Do vậy, nếu ra viếng mộ, bạn có thể đem nhang theo phong tục. Việc thắp nhang trước linh cữu hay di ảnh của người quá cố không phải là việc “thờ phượng” dành cho con người nhưng là một nghĩa cử bày tỏ lòng kính trọng đối với tiền nhân. Hoặc bạn đem nến vì Đức Kitô là ánh sáng cứu độ và niềm hy vọng của con người; hoặc bạn rảy nước thánh, dâng lời nguyện tự phát cầu cho các linh hồn, kết hợp ăn chay, hãm mình và làm việc bác ái. Tất cả những nghĩa cử đẹp đó như nén hương lòng và tâm tình thảo kính với họ.

Lời Tiền Tụng cầu cho Tín hữu qua đời I trong Sách Lễ Rôma có viết về niềm tin vào sự sống lại trong Chúa Kitô:

Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, nhờ Ðức Kitô, Chúa chúng con, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con. Nơi Người, niềm hy vọng sống lại vinh phúc đã chiếu toả trên chúng con, để những ai buồn sầu, vì số phận chắc chắn phải chết cũng được an ủi, vì Chúa đã hứa ban phúc trường sinh bất diệt sau này. Lạy Chúa, đối với các tín hữu, sự sống thay đổi chứ không mất đi, và khi nơi nương náu ở trần gian bị hủy diệt tiêu tan, thì lại được một chỗ ở vĩnh viễn trên trời.

Cho nên, việc cầu nguyện cho các ngài hưởng kiến thiên nhan Chúa là món quà quý dành cho ông bà tổ tiên vì chúng ta có mối liên hệ mật thiết với họ mà!

Nhận ơn toàn xá để giúp đỡ các linh hồn

Bạn hãy lãnh nhận mọi ân xá từ kho tàng của Giáo hội để chuyển cho người thân, làm việc Giáo hội dạy: xưng tội, rước lễ chính ngày lãnh đại xá, đọc một kinh Lạy Cha và một kinh Tin Kính, giục lòng ăn năn,... Viếng mộ mọi ngày trong năm đều được ơn tiểu xá để cầu nguyện cho các linh hồn. Đặc biệt các ngày từ 1-8/11 hằng năm, các tín hữu được hưởng ơn đại xá, bạn hãy cầu nguyện theo ý Đức Thánh Cha và nhường cho các linh hồn đang ngày đêm mong mỏi nhé. Họ cần lời cầu của ta vì giờ đây họ không thể “lập công chuộc tội” được nữa và còn đang thanh luyện. Làm như vậy để đưa họ trong đại dương lòng Chúa thương xót, dùng Máu Thánh của Chúa Giêsu làm dịu bớt ngọn lửa hồng đang thiêu đốt họ.

Thực ra, việc bạn nói chuyện với ông bà mình thì tốt, hoặc bạn có thể thinh lặng giây lát, trầm mặc để để tưởng nhớ đến các ngài. Họ đã cùng ta đi một quãng đường, chung chia vui buồn, sống hy sinh thầm lặng vì con cháu,… đó là cách giữ mối liên hệ với các vị ấy. Tình thương, mẫu gương, âm hưởng về đời sống, lời nhủ khuyên của họ vẫn còn đọng lại.

Thánh lễ nguyện cầu

Chúng tôi cho rằng không cần thực hành nghi lễ cúng kiến hay đốt vàng mã. Bổn đạo Công giáo có những hình thức dựa trên tập tục cổ truyền như 3 ngày sau khi ông bà mất thì đi thăm mộ, cầu kinh; sau 100 ngày: đọc kinh cầu lễ; hằng năm đến ngày giỗ thì xin lễ và cầu nguyện. Những dịp như vậy, con cháu họp nhau kể lại những những kỷ niệm xưa, câu chuyện về tiền nhân. Lẽ dĩ nhiên ngôn từ không bao giờ có thể nói được đầy đủ sự phong phú và vẻ đẹp của cuộc đời và những gì ông bà để lại. Họ từng là người vợ tận tụy trong gần mấy chục năm, ngần ấy từng là bạn thân thiết, là ông bà,... đã sống cuộc đời thật đặc sắc.

Mặc khác, sự liên đới với nhau qua cách phó thác họ trong bàn tay dịu hiền của Chúa là một việc nghĩa tốt đẹp. Bạn cứ hãy tiếp tục duy trì nhé!

Không những thế, khi bạn viếng mộ, bạn cũng đọc được nhiều thông điệp vì ông bà chúng ta đã thanh thản nhìn lên cao và nhận ra đường về Thượng Giới. Bạn sẽ khám phá ra chân lý, niềm hy vọng của bản thân ở đâu. Sự sống đời đời, ngày mai hậu bắt đầu từ việc chu toàn giây phút hiện tại, chỉnh lại cuộc sống của mình, “biết sống để chết!”, biết tìm Chúa là sự sống trường sinh. Vì ai ai cũng phải qua đoạn đường này. Mọi sự rồi sẽ qua đi. Các nấm mộ lặng yên dạy chúng ta rằng tất cả là phù vân,… ai mới thật dại khôn ở đời.

Ngoài ra, các vị đã ra đi trước ấy không thể tự cầu nguyện cho chính họ nhưng chúng ta cũng có thể nhờ ông bà đã khuất chuyển cầu cùng Chúa là Đấng nhân hậu từ bi cho chúng ta. Đừng quên chúng ta có sự liên đới giữa Hội Thánh khải hoàn, Hội Thánh đau khổ và Hội Thánh chiến đấu. Vì là tín điều các thánh thông công, nên thật tốt để chúng ta cầu nguyện cho những linh hồn đã khuất, sớm được hưởng nhan thánh Chúa.

Kết

Tóm lại, nhớ tới tổ tiên là phẩm chất đáng quý, đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì môi trường gia tộc. Chúng ta tin giữa những người sống và đã khuất (các Thánh và các linh hồn) có mối liên hệ thâm tình. Tất nhiên, chính lòng yêu mến và tin tưởng vào Chúa của ông bà đã để lại một gương mẫu không phai nhòa. Họ từng là tín hữu Công giáo. Đức tin và sự khao khát vô biên dành cho Chúa Giêsu Thánh Thể là trung tâm cuộc đời họ. Xin Chúa, Đấng họ trông cậy, đón họ vào ngôi nhà đời đời với bình an và niềm vui bất tận!

Chắc hẳn bạn sẽ thu xếp công việc để làm nghĩa cử đẹp là ra viếng mộ hoặc nhà chờ Phục sinh! Xin chúc bạn có niềm hy vọng vào cuộc đời mai ngày như là dưỡng chất cho tâm hồn và là ánh sáng soi chiếu cho giải pháp trong cuộc sống của bạn hiện tại. Mong bạn rủ bạn bè mình dành thời giờ và sự quan tâm cho các linh hồn. Và rồi họ sẽ tăng cường niềm tin cho chúng ta trên hành trình dương thế này!

Chào bạn.

Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 6, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (19.03.2024)

---------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây