Rômualđô M. Bùi Văn Nghĩa, CRM 02/10/2024 Hỏi: Có lần con trò chuyện với một bạn Tin Lành. Bạn ấy không tin Đức Mẹ Đồng Trinh. Con không biết phải giải thích cho bạn ấy làm sao? Xin giúp con với! Trả lời: Nói về tín điều Đức Mẹ đồng trinh trọn đời, cha Cao Gia An, SJ. đã có bài giải đáp trong bộ sách này ở tập 3 rồi, bạn tìm đọc nhé. Bài này xin chia sẻ về lòng sùng kính Đức Mẹ cách chung, bởi vì anh em Tin Lành không chỉ không tin Đức Mẹ đồng trinh, mà còn không tin nhận nhiều điều khác về Đức Mẹ, thậm chí bài bác luôn cả việc sùng kính Đức Mẹ.
Trước hết, cần nói rằng đã có nhiều người hiểu sai ý nghĩa việc tôn kính Đức Mẹ của người Công giáo. Họ dựa vào câu Kinh Thánh: "Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta" (Xh 20, 3) và cho rằng việc tôn kính Đức Mẹ là sai. Đây là cách hiểu Kinh Thánh thiển cận và hẹp hòi, cho nên dẫn đến việc cố tình gán ghép rằng người Công Giáo thờ Đức Mẹ. Lẽ dĩ nhiên người Công Giáo chỉ tôn thờ Một Thiên Chúa Ba Ngôi mà thôi. Đối với Đức Mẹ, người Công giáo không tôn thờ, nhưng có thái độ tôn kính cách đặc biệt, bởi vì Đức Mẹ đã có một vai trò rất đặc biệt trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Lần giở Kinh Thánh, bạn có thể thấy ngay từ khởi đầu của lịch sử cứu độ, Thiên Chúa muốn chọn Đức Mẹ để giúp loài người đương đầu với lực lượng Sự dữ, như được chép trong những trang đầu tiên khi Thiên Chúa phán với ma quỷ: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người nữ, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi” (St 3,15). Người Nữ này là ai nếu không phải là Đức Trinh Nữ Maria sẽ xuất hiện cùng với Chúa Kitô khi thời gian đến hồi viên mãn? (x. Gl 4,4).
Rồi trong bất cứ giai đoạn quan trọng nào của cuộc đời Chúa Cứu Thế, chúng ta luôn nhìn thấy hình ảnh của Ðức Mẹ. Khi dâng Chúa Hài Nhi trong đền thờ (Lc 2,22), khi ẵm Chúa Hài Nhi trốn chạy sang Ai cập (Mt 2,14), khi trở về sinh sống tại Nazareth (Mt 2,21). Đức Mẹ đã hiện diện trong tiệc cưới ở Cana và đã xin Chúa Giêsu làm phép lạ đầu tiên, lúc khởi đầu sứ vụ công khai của Người (Ga 2,3). Mẹ hằng dõi bước theo Chúa trong hành trình rao giảng của Người (Mt 12,46). Lúc Chúa chịu khổ hình, Mẹ đứng dưới chân thánh giá để chứng kiến cái chết của Con mình (Ga 19,25). Mẹ đã cùng chịu khổ hình với Chúa, hiệp thông với những đau khổ của Người, đúng như lời Kinh Thánh: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà" (Lc 2,35).
Vì đã tham dự vào các mầu nhiệm của Chúa Kitô, Ðức Maria được Giáo Hội tôn vinh và đặc biệt tôn kính. Ngay từ buổi đầu, sau khi Chúa Giêsu về trời, các tông đồ đã quây quần bên Đức Mẹ để nhờ Mẹ và cùng với Mẹ cầu nguyện chờ đón Chúa Thánh Thần (Cv 1,14). Ngày nay, Giáo Hội vẫn không suy giảm lòng tôn kính ấy. Và Đức Mẹ vẫn luôn đồng hành cùng Giáo Hội, bằng việc ban phát các ơn lành, bằng việc hiện ra ở nhiều nơi để nhắc nhở con cái cải thiện đời sống và tôn thờ Chúa cho phải đạo.
Thực ra vì không muốn tôn kính Đức Mẹ nên người ta mới đưa ra lý luận rằng chúng ta chỉ cần tôn thờ Chúa Kitô và Thiên Chúa là đủ rồi. Nhưng sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo dạy: “Những gì đức tin Công Giáo tin về Mẹ Maria, đều đặt nền tảng trên những gì đức tin đó tin về Đức Kitô” và “những gì đức tin dạy về Mẹ Maria, lại làm sáng tỏ đức tin vào Đức Kitô” (số 478). Như thế, vai trò của Đức Mẹ dù là phụ thuộc nhưng gắn liền vào vai trò của Đức Kitô không thể tách rời. Cho nên, lòng tôn kính đặc biệt dành cho Đức Trinh Nữ Maria cũng không thể tách rời khỏi sự tôn thờ dành cho Đức Kitô.
Không chỉ yêu mến và tôn kính, người Công Giáo cũng thường cậy nhờ Đức Mẹ cầu thay nguyện giúp trước tòa Chúa. Sự tôn kính đi liền với lòng cậy trông. Từ những thời rất xa xưa các tín hữu đã ẩn náu dưới sự che chở của Đức Mẹ trong mọi cơn gian nan khốn khó. Đây cũng là điều mà anh em thuộc các hệ phái ly khai và lạc giáo phản kháng chúng ta, dựa vào lời Kinh Thánh: “Chỉ có một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người: đó là một con người, Đức Kitô Giêsu” (1Tm 2,5). Cho nên việc cầu nguyện với Đức Mẹ, nhìn nhận Mẹ là Đấng trung gian, Đấng bảo trợ, Đấng ban phát các ơn… là hoàn toàn trái với Kinh Thánh.
Nhưng chúng ta cũng có thể đặt câu hỏi ngược lại: Phải chăng Thiên Chúa đã tự mình thực hiện hết mọi công việc, còn những ai được Thiên Chúa sử dụng, thì họ chỉ là những dụng cụ, như cái cuốc cái xẻng trong tay người thợ mà thôi? Phải chăng Đức Mẹ cũng chỉ là một dụng cụ thụ động giống như thế, chứ không phải Đức Mẹ đã chủ động chấp nhận qua lời "Xin vâng", để việc Chúa nhập thể được hoàn thành; và phải chăng Đức Mẹ đã không cộng tác tích cực trong công cuộc cứu độ, để chúng ta có thể nói rằng: Đức Mẹ là người cứu giúp chúng ta?
Đã hẳn, Đức Giêsu Kitô là trung gian duy nhất theo nghĩa là chỉ duy mình Người mới đem lại ơn cứu rỗi cho con người. Ngoài Người ra không ai có thể đem ơn cứu độ. Nhưng không phải chỉ có mình Chúa Giêsu mới cầu thay nguyện giúp cho chúng ta. Trong thời Cựu Ước, ông Môsê giữ vai trò trung gian giữa Thiên Chúa và dân, nhiều lần ông đã cầu xin Chúa nguôi cơn thịnh nộ mà bỏ ý định giáng phạt dân (Xh 32,11–33,23). Thánh Phaolô thì nói rằng: "Lúc nào chúng tôi cũng cầu nguyện cho anh em:..." (2 Tx 1, 11); đồng thời ngài cũng kêu gọi: "Thưa anh em, xin anh em cũng cầu nguyện cho chúng tôi nữa" (1 Tx 5,25; 2 Tx 3,1). Ngài cũng nói: “Tôi khuyên ai nấy dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người…” (1Tm 2,1). Vậy nếu như chúng ta cần đến lời cầu nguyện cho nhau, thì có lý do gì ngăn cản chúng ta cầu xin cùng Đức Mẹ, là Đấng đầy ơn phúc, Đấng Thiên Chúa ở cùng, là Mẹ hằng cứu giúp? Thư Giacôbê viết: "Lời cầu xin tha thiết của người công chính rất có hiệu lực" (Gc 5, 16). Đó là lý do mà người Công Giáo luôn thầm thĩ: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội…” cùng với nhiều lời cầu nguyện khác nữa.
Mặt khác, khi chúng ta cầu nguyện cùng Đức Mẹ, thì chúng ta không dừng lại ở Đức Mẹ, mà là cách chúng ta tiến đến sự kết hợp sâu xa hơn với Người Con của Mẹ. Câu châm ngôn cổ truyền của các tín hữu Công Giáo là “Ad Jesum per Mariam”, nghĩa là đến với Chúa Giêsu qua Đức Mẹ và nhờ Đức Mẹ, một cách cầu nguyện tuyệt vời nhất.
Với lòng tôn kính Ðức Mẹ cách thực sự, chúng ta thấy vai trò của Đức Maria không làm lu mờ hay giảm bớt vài trò trung gian duy nhất của Chúa Kitô chút nào, trái lại còn làm sáng tỏ sức mạnh của sự trung gian ấy. Chúng ta cũng biết rằng mệnh lệnh duy nhất của Ðức Mẹ đã được ghi lại trong Kinh Thánh, là phải vâng lời Chúa trọn vẹn: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5).
Thánh Irene, một nhà thần học lỗi lạc của Kitô giáo vào thế kỷ thứ hai, đã nói: “Nhờ sự vâng phục, Đức Maria đã trở nên căn nguyên của ơn cứu rỗi cho chính mình và cho hết thảy chúng ta”. Không phải Mẹ đã làm nên ơn cứu độ, nhưng Mẹ đã làm trung gian cho ơn cứu độ. Với lời xin vâng của mình, Đức Maria đã trở thành Đấng mang ơn cứu độ đến cho mọi người, mọi nơi, mọi thời. Với lời xin vâng của mình, Đức Maria không chỉ trở thành Mẹ của Đấng cứu độ, mà còn trở thành Mẹ của tất cả những ai đã được Con Mẹ cứu độ. Đây là lý do sâu xa nhất vì sao người Kitô hữu thuộc mọi dân và mọi thời đều tôn kính Mẹ. Còn những ai chủ trương chỉ tôn thờ Chúa Kitô mà không tôn kính Mẹ của Chúa, người Mẹ mà chính Chúa cũng rất mực yêu mến, thì thiếu sót biết chừng nào. Nữ sĩ Xuân Quỳnh có những lời thơ rất hay viết về người mẹ chồng của mình như sau: “Mẹ tuy không đẻ không nuôi, mà em ơn mẹ suốt đời chưa xong”. Thật là chính đáng phải không? Vậy thì lẽ nào chúng ta, những môn đệ của Chúa Giêsu, lại không biết yêu mến người Mẹ yêu dấu của Đấng chúng ta tôn thờ? Chính Mẹ đã cho Người bú sữa mình, đã nuôi nấng, đã giữ gìn, đã dưỡng dục và hy sinh Người vì chúng ta.
Bạn thân mến, trên đây là nền tảng cốt yếu của việc tôn kính Đức Mẹ, nắm vững được điều này, cũng như tin tưởng tuyệt đối vào đức tin tông truyền của Hội Thánh Công Giáo, chúng ta sẽ vững vàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về đức tin của chúng ta.
Còn việc Đức Maria Đồng trinh, cha Cao Gia An SJ đã giải thích ở tập 3 rồi, ở đây chỉ xin tóm tắt mấy ý chính như sau: Thiên Chúa muốn Chúa Giêsu Kitô có một người Mẹ thực sự là loài người, nhưng chỉ có một Người Cha là Thiên Chúa. Ngài muốn khai mở một thời kỳ mới nơi Chúa Giêsu, khởi đầu này là do chính Chúa Cha, chứ không do bất cứ một quyền lực trần thế nào khác. Do đó, việc Đức Maria đồng trinh là điều căn bản cho cuộc đời Chúa Giêsu.
Trong Tin Mừng Thánh Luca, Đức Maria hỏi Sứ Thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” (Lc 1,34). Sứ Thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà; vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa… vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” (Lc 1,34-35).
Trước khi các giáo phái Tin Lành tách ra khỏi giáo hội Roma (thế kỷ 16), sự đồng trinh trọn đời của Ðức Mẹ đã luôn luôn được dạy và tin tưởng. Giáo hội từ thuở ban đầu luôn luôn gọi Ðức Mẹ là Thánh Nữ Ðồng Trinh và Mẹ đã sống và chết như một trinh nữ. Tất cả các kinh tin kính cổ thời nhất đều nhấn mạnh đến điều Ðức Maria trọn đời đồng trinh. Các Thánh phụ trong giáo hội đều viết về Ðức Mẹ đồng trinh trọn đời. Ngay cả các nhà cải cách Tin Lành như Luther, Calvin, và Zwingli cũng đã đồng ý về sự đồng trinh trọn đời của Ðức Mẹ. Chỉ từ thế kỷ XVII trở đi, các giáo phái Tin Lành mới càng ngày càng đi xa đạo lý về Đức Mẹ của các vị sáng lập, trở nên những người từ chối và đả kích việc sùng kính Đức Mẹ.
Để bác bỏ niềm tin về Đức Mẹ Đồng Trinh, anh em Tin Lành thường dựa vào những câu Kinh Thánh có nhắc đến anh chị em Đức Giêsu (Mc 3,31-35 chẳng hạn). Nhưng thực ra các Tin Mừng, khi nói đến “anh chị em” Chúa Giêsu là nói đến anh chị em họ của Người. Vì trong tiếng Araméen là tiếng mẹ đẻ của Chúa Giêsu, chỉ có một từ để chỉ anh em và chị em, được dùng cho cả anh chị em ruột cũng như anh em chị em họ, vì thế mới có những cắt nghĩa và gán ghép sai lạc.
Cũng xin chia sẻ thêm với bạn rằng việc sùng kính Đức Mẹ hay các thánh phải luôn luôn trở thành việc noi gương bắt chước nhân đức của các ngài. Chỉ tôn kính mà thôi thì chưa đủ, chúng ta phải noi gương bắt chước tinh thần và đời sống của Đức Mẹ nữa. Chúng ta phải noi gương Mẹ sẵn sàng đón nhận những trách nhiệm mà Thiên Chúa trao ban, noi gương Mẹ phục vụ trong âm thầm, noi gương Mẹ để ý đến những nhu cầu và khó khăn của người khác, noi gương Mẹ luôn theo sát Chúa Giêsu trong suốt cả đời sống... Lòng sùng kính Đức Mẹ như thế sẽ không làm chúng ta xa Chúa Kitô hay mọi người, nhưng trái lại, nó đưa chúng ta đến gần Chúa Kitô và mọi người hơn nữa. Cuối cùng, mời bạn lắng nghe lời khuyên sau đây của Giáo Hội: “Phần các tín hữu, hãy nhớ rằng, lòng tôn kính chân chính không hệ tại tình cảm chóng qua và vô bổ, cũng không hệ tại một sự dễ tin phù phiếm, nhưng phát sinh từ một đức tin chân thật. Ðức tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta.” (Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, số 66-67).
Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc, SJ 08/10/2024 Hỏi: Thưa cha, con thấy tình yêu thì giống nhau. Trong khi đó, đạo Công giáo có vẻ đề cao tình yêu hơn, nghĩa là có cả một bí tích liên quan đến tình yêu nam nữ, vợ chồng. Xin cha giải thích giúp ạ? Trả lời:
Bạn nghe câu này chưa: “Tình yêu không thể bị ép buộc” (Boris Pasternak, 1890–1960). Câu này đúng cho cả đạo và đời. Nhưng trong Công giáo, sau một thời gian tìm hiểu và cùng nhau hạnh phúc trong tình yêu, thì đôi bạn đón nhận Bí tích Hôn phối. Theo cách nói thần học, Bí tích này là dấu chỉ và tham dự vào mầu nhiệm hiệp nhất và tình yêu sinh hoa kết quả giữa Chúa Kitô và Hội Thánh (Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 1661). Theo đó, Bí tích này ban ơn cần thiết để vợ chồng nên thánh trong cuộc sống hôn nhân và trong việc đón nhận và giáo dục con cái. Đây là điều rất đặc biệt chỉ có trong Đạo Công Giáo. Những bạn không cùng tôn giáo thường thắc mắc nhiều về ngày lễ cưới này.
Đây là bí tích xác nhận đôi bạn chính thức nên nghĩa vợ chồng. Trước mặt cộng đoàn và Thiên Chúa, họ nắm tay nhau trao câu thề ước. Dĩ nhiên, đôi bạn hoàn toàn tự do để tuyên bố:
Anh (em) là T… nhận em (anh) T… làm vợ (chồng) của anh (em), và hứa giữ lòng chung thủy với em (anh), khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi mạnh khỏe cũng như lúc đau yếu, để yêu thương và tôn trọng em (anh) mọi ngày suốt đời anh (em).
Lời thề hứa trên hẳn nhiên là không thể nói suông. Đó cũng không phải là một nghi thức trống rỗng, hay chỉ là dấu hiệu bên ngoài của một cam kết. Trên hết, bên trong đó là cả một sự linh thánh mà Thiên Chúa sẽ ban nhiều ơn lành, thánh hóa và cứu độ đôi vợ chồng; vì từ đây, họ thuộc trọn về nhau. Để qua đó, Hội Thánh đón nhận đôi bạn như một gia đình mới cùng hướng nhìn về Đức Giêsu. Chính Đức Kitô đến gặp gỡ các đôi vợ chồng Kitô hữu qua Bí tích Hôn phối. Đó là nét đẹp của bí tích này.
Điều thú vị là trong Bí tích Hôn phối, linh mục không phải là người cử hành bí tích này. Thay vào đó, chính người nam và người nữ đang kết hôn cử hành bí tích này, qua việc bày tỏ sự ưng thuận và diễn tả nó qua việc trao hiến cho nhau. Nhờ đó, họ chắc chắn nhận được nhiều ân sủng để có thể tạo nên một gia đình công giáo hạnh phúc. Nhờ sự ưng thuận và sự kết hợp thân xác mà họ trở nên “một xương một thịt”. Từ đây, vợ chồng không chỉ là một sự kết hợp về thể xác, mà còn là một sự hiệp nhất sâu xa về tâm linh và nhân vị[1]. Hơn nữa, sự hiệp nhất này không chỉ có chiều kích cá nhân, mà còn có chiều kích truyền giáo, vì vợ chồng Kitô hữu trở thành những chứng nhân sống động về tình yêu của Chúa Kitô dành cho Hội Thánh[2].
Làm sao vợ chồng nên một, nếu không nhờ tình yêu phu phụ? Theo đó, nếu đến học lớp giáo lý hôn nhân, bạn được mời gọi khám phá giá trị và sự phong phú của đời sống hôn nhân. Cụ thể, Giáo Hội mời gọi đôi bạn: “Phải nhận ra được sự hấp dẫn của một kết hợp trọn vẹn, một kết hợp nâng cao và kiện toàn chiều kích xã hội của cuộc sống, mang lại cho tính dục ý nghĩa cao trọng nhất của nó, và đồng thời cổ võ thiện ích của con cái và tạo cho chúng hoàn cảnh tốt nhất để được trưởng thành và giáo dục” (Tông Huấn Amoris Laetitia - Niềm vui của tình yêu, số 205).
Nhiều người hỏi tôi là làm sao để gia đình được hạnh phúc? Có nhiều cách thế khác nhau. Tôi thiết nghĩ gia đình hãy cùng nhau trở về, nhớ lại[3] những gì đã diễn ra trong ngày lễ cưới. Ngày đó, vợ chồng tràn đầy tình yêu. Cả hai đã thề non, hẹn biển với sự chứng kiến của Thiên Chúa. Họ thực sự được Thiên Chúa chúc phúc cho duyên tình lứa đôi. Thực tế là thời gian có hai tác động đến cuộc tình này:
1) Tình yêu phai nhạt: Tình yêu hôn nhân theo năm tháng sẽ phai nhòa. Thế giới của hai người có khi không chung quỹ đạo. Mỗi người nhìn về một hướng. Hai khung trời cách biệt. Sự hiện diện của Thiên Chúa cũng bị đôi bạn quên lãng dần trong cuộc sống lứa đôi. Con cái, công việc, khó khăn bủa vây người vợ, người chồng. Nhiều bữa cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt. Tình yêu phai nhạt khiến “nửa kia” của đời mình không còn hấp dẫn nữa. Nếu không để ý, giọt nước sẽ một ngày nào đó làm tràn ly, tan vỡ cuộc sống lứa đôi. Bởi đó, thật quý biết bao khi hai người thấy cuộc sống tẻ nhạt, tình yêu phai nhòa, hãy cùng nhớ lại buổi hôn lễ thánh thiêng năm xưa. Nói cách khác, hãy cùng nhau cử hành bí tích ấy mỗi ngày: Yêu thương, tôn trọng và chung thủy với nhau trong từng ngày sống.
2) Tình yêu mặn nồng: Thật phúc cho những đôi vợ chồng luôn hạnh phúc trong tình yêu. Càng sống với nhau, họ càng hiểu thế nào là tình yêu vợ chồng, thế nào là cùng nhau gìn giữ gia đình hạnh phúc. Mâu thuẫn, khó khăn và thách đố không thiếu, nhưng với tình yêu, họ biết nắm tay nhau vượt qua sóng gió. Họ không đơn độc, nhưng có Thiên Chúa, có nhau. Họ tin Thiên Chúa không thể bỏ rơi họ kể từ ngày lễ cưới năm xưa. Phải chăng chỉ có đôi vợ chồng nào để Thiên Chúa chi phối, tình yêu mới luôn mỉm cười với họ. Càng sống lâu, họ càng yêu nhau nhiều hơn. Đến răng long đầu bạc, họ vẫn tình tứ trong tình yêu. Thật đẹp biết bao!
Bởi đó, khi muốn giúp các gia đình Kitô hữu, Giáo hội một lần nữa mời gọi các đôi vợ chồng nhớ lại Bí tích Hôn phối này. Thực vậy, “nhờ ân sủng của Bí tích này, là chủ thể chính của mục vụ gia đình, nhất là khi họ cống hiến chứng tá đầy hoan lạc của đôi vợ chồng và của gia đình, Hội thánh tại gia”[4]. Khi đó chúng ta mới hy vọng có được một gia đình hạnh phúc. Vì trên hết, chúng ta tin rằng trong Đức Kitô, chúng ta được “giải thoát khỏi tội lỗi, buồn phiền, trống rỗng nội tâm và cô độc” (Tông Huấn Evangelii Gaudium - Niềm Vui Tin Mừng, số 1).
Sau thánh lễ cưới, nhiều đôi tân hôn thường đến trước tượng Đức Mẹ để nguyện cầu. Họ “khấn xin Mẹ thương dắt dìu tình yêu dâng cao”. Có Mẹ trong gia đình mới này, tình yêu vợ chồng ước sao mỗi ngày một nồng thắm hơn.[5]
[3] “Hôn nhân cũng như mọi Bí tích khác, là một sự nhớ lại, một sự hiện tại hóa và một lời tiên tri về biến cố cứu độ. Là một sự nhớ lại, Bí tích ban cho họ ân sủng và trao ban cho họ bổn phận phải nhớ lại những kỳ công của Thiên Chúa và làm chứng về những kỳ công ấy trước mặt con cái họ; là một sự hiện tại hóa, Bí tích ban cho họ ân sủng lẫn bổn phận phải thực hành trong hiện tại giữa họ với nhau và giữa họ với con cái, những đòi hỏi của một tình yêu tha thứ và cứu chuộc; là một lời tiên tri, Bí tích ban cho họ ân sủng và bổn phận sống và làm chứng về mối hy vọng sẽ được gặp gỡ Đức Kitô sau này.” (Denzinger số 4706).
[4] Tông Huấn Evangelii Gaudium - Niềm Vui Tin Mừng, số 200, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tong-huan-niem-vui-cua-tin-mung-evangelii-gaudium-46656
[5] “Tất cả các Kitô hữu hãy tha thiết khấn nguyện Mẹ Thiên Chúa cũng là Mẹ nhân loại, để như ngài đã trợ giúp Giáo Hội sơ khai bằng lời cầu nguyện, thì ngày nay Mẹ được tôn vinh trên trời, vượt trên các thánh và các thiên thần, ngày cũng chuyển cầu cùng Con ngài trong sự hiệp thông của toàn thể các thánh, cho tới khi mọi gia đình dân tộc, hoặc đã được vinh dự mang danh hiệu Kitô hữu, hoặc chưa nhận biết Đấng Cứu Chuộc mình, đều hân hoan đoàn tụ trong an bình và hòa thuận, họp thành đoàn dân Thiên Chúa duy nhất, để làm vinh danh một Chúa Ba Ngôi Chí Thánh.” (Denzinger số 4179).
Nt. Elisabeth Bùi Phạm Phương An, CND – CSA 15/10/2024 Hỏi: Làm sao để xóa bỏ hố sâu ngăn cách giữa các thế hệ ạ? Làm sao để tiếng nói của người trẻ được quan tâm và được tạo điều kiện học hỏi và phát triển trong môi trường đức tin ạ? Trả lời: Đã bao nhiêu lần bạn cảm thấy không hiểu nổi cách suy nghĩ đến hành động của người lớn tuổi, như thể có một khoảng cách thế hệ rất lớn. Đúng thế bạn ạ. Mỗi người có cách nghĩ, cách làm khác nhau huống hồ gì họ khác tuổi tác, môi trường sống, hoàn cảnh giáo dục với bạn.
Khoảng cách thế hệ là khoảng ngăn cách giữa những suy nghĩ, hành động, lối sống và tư tưởng của hai thế hệ khác nhau. Đặc biệt ngày nay, thường có quá ít giờ để các thế hệ tâm sự với nhau. Khối lượng công việc cùng những căng thẳng đã lấy đi sức lực của họ, hoặc con cái lớn rồi lo đi làm ít ngồi đàm đạo với cha mẹ ông bà. Vô tình hoặc cố ý, người lớn thường có xu hướng áp đặt lên con cái thành tích mà họ nghĩ là sẽ tốt, dù chúng không thích; khiến thế hệ trẻ cảm thấy không được ủng hộ theo đuổi năng khiếu, ước mơ, từ đó họ có xu hướng giữ bí mật với bậc trưởng thượng.
1. Thu hẹp khoảng cách
Đầu tiên tôi đề nghị chúng ta hãy mở rộng tương giao. Bạn có thể dẫn bậc tiền bối đi uống trà, trà sữa, cà phê để “thiết lập hội Bàn đào”, hay thậm chí tản mạn về thời tiết, thể thao, giải trí hay nhưng thao thức, trở nên bạn thân của nhau ngày một hơn. Hãy dành nhiều thời gian cho bố mẹ ông bà. Thông thường người trẻ hay sa vào các hoạt động bên ngoài, quên hỏi thăm bậc cao niên đang sống với mình. Nếu có thể hãy rủ họ đi dạo, đến nhà người quen chơi, cùng tham gia câu lạc bộ, công tác xã hội, giúp các vị ấy quen với smartphone, nếu có.
Tiếp theo, hãy học cách chấp nhận nhau, chịu khó lắng nghe chính kiến của “đối tác cao niên”, thử bước vào thế giới của họ để hiểu ngôn ngữ và bắt nhịp với sự phát triển rất khác của người trẻ chúng ta. Những điều đó giúp hàn gắn mối quan hệ giữa các thành viên các thế hệ.
Tôi đã từng trải qua giai đoạn khủng hoảng tuổi tin rồi tuổi trung niên, tôi phần nào hiểu cảm giác của bạn khi tiếng nói của người trẻ ít được quan tâm. Tôi thiết nghĩ, để các bạn trưởng thành và nhận thức đúng, các bậc đi trước phải kiên nhẫn thật nhiều, yêu thương đúng cách. Có lẽ tiếc là cha mẹ, thầy cô, các cha, các tu sĩ lớn tuổi,… chưa hoàn toàn làm được điều ấy.
Chúng ta biết, trong thời đại công nghệ số, một bước trong ứng dụng thông minh cũng đẩy thế hệ ra xa nhau thêm, ảnh hưởng của văn hoá phương Tây ngày càng rõ rệt với thế hệ trẻ. Điều này hình thành thói quen, quan điểm và nhịp điệu sống khác xa với thế hệ già. Vì thế, cũng rất cần các bạn giúp đỡ ông bà từ những việc nhỏ nhặt nhất, mạnh dạn nói lời yêu thương. Chỉ với những hành động nhỏ đã khiến các ngài hài lòng và vui vẻ. Rút ngắn khoảng cách thế hệ không phải là làm điều gì to tát, mà chính là những sự quan tâm thường xuyên bạn dành cho bậc cao niên. Thực sự chúng ta đã có bao lần đưa họ đi khám sức khỏe hoặc nhìn lại mà giật mình khi thấy bố mẹ già yếu. Chúng ta thường nghĩ cho bản thân, lao vào gầy dựng sự nghiệp mà quên các ông bà vẫn chờ đợi mỏi mòn. Họ đâu cần đền đáp bằng những thứ cao sang. Không sến quá đâu, hãy thử: “Con rất yêu bố mẹ. Con cảm ơn ông bà”. Bạn sẽ nhận lại được nhiều hơn đấy! Nếu khó quá hãy nhắn tin hoặc gửi thiệp nhân dịp lễ, cảm ơn bậc sinh thành đã nuôi dạy ta. Chúng ta đòi cuộc đời viên mãn hoặc tùy ý để cuộc đời sắp đặt và nghiễm nhiên hưởng thụ nhưng khi trải qua nỗi đau, sự chia ly, tuyệt vọng, ta mới cảm nhận được điều chi quý giá.
Thêm nữa, hãy cố gắng nhún nhường một chút, đặt mình vào vị trí của bậc cao niên để hiểu, đừng so sánh họ với người khác. Mỗi gia đình mỗi hoàn cảnh, bạn không chọn nơi mình sinh ra, không chọn bố mẹ, nhưng hơn hết, họ luôn hi sinh vì con cái.
Cuối cùng, mong bạn thật lòng, đừng giấu diếm, bậc cao tuổi sẽ vui hơn khi chính họ là điểm tựa, đồng hành và nơi bạn có thể tìm về sau bao nhiêu biến cố. Họ sẽ cầu nguyện nhiều cho bạn. Luôn có những cách để tháo gỡ và hàn gắn, nghĩ ra những điều vụn vặt để chia ngọt sẻ bùi cùng nhau. Tôi biết bạn có thể làm được!
2. Để tiếng nói của người trẻ được quan tâm và được tạo điều kiện học hỏi và phát triển trong môi trường đức tin
Tôi biết việc xóa bỏ hố ngăn cách thế hệ chưa bao giờ dễ dàng. Vì không hiểu tuổi trẻ nên đôi khi người già thường khó tin tưởng hoặc đánh giá thấp người trẻ, chê họ thiếu kinh nghiệm, bốc đồng và nông nổi; có lúc la rầy và không quan tâm đến những cảm xúc của họ. Hệ quy chiếu của mỗi người khác nhau dẫn đến bất đồng quan điểm và không có tiếng nói chung của thế hệ trẻ hơn so với các thế hệ trước đó. Tôi đọc được đoạn đối thoại của tác giả Lê Hoàng San:
“Bố mẹ ơi hôm nay con được học bổng”.
“Mày lại quay cóp chứ gì?”
“Bố mẹ ơi, con được vào đội tuyển học sinh giỏi”.
“Liệu mà học hành cho nghiêm túc, không được giải thì bôi tro vào mặt bố mẹ đấy, biết không?”
Thay vì được động viên, được khen ngợi thì đa phần, lời của bạn trẻ bị gạt đi. Cho đến khi không được như kỳ vọng hay họ làm sai thì người lớn sẽ chỉ trích. Điều này làm người trẻ mất tự tin, tự chủ, trách nhiệm, vì làm tốt thì cũng không được công nhận… Lẽ thường, sự thiên vị cũng khiến mối quan hệ đi vào ngõ cụt, tách biệt chứ không hề có sự đồng cảm hòa hợp.
Vì thế tôi ao ước người trẻ được quan tâm và được tạo điều kiện được là chính mình. Thế hệ trước thường đưa ra lời khuyên, nguyên tắc chỉ đạo nhưng lại gạt đi mong muốn của người trẻ. Thay vì họ tự chọn mối quan hệ bạn bè, người lớn lại ngăn cản và tự mình can thiệp, coi sở thích của con cháu là nhảm nhí và tốn thời gian. Để tháo gỡ những khúc mắc hãy tìm ra điểm chung và những mặt tích cực giữa các thế hệ. Một cây xương rồng xấu xí, gai nhọn tùm lum cũng vẫn rất hữu dụng và có vai trò nhất định trong hệ sinh thái.
Bạn thân mến, khi bạn đặt câu hỏi này, nó đánh động tôi và nhắc tôi cùng những người “không còn trẻ lắm”, biết làm gương sáng và hy sinh cho người trẻ để làm chứng về niềm tin của chúng ta.
Hiện nay, tôi thấy giới trẻ đã tham gia tích cực trong các hội đoàn như Sinh viên Công Giáo, Huynh trưởng, Giáo lý viên, Ca đoàn,... Ngoài ra họ rất năng động khi đi là từ thiện, tình nguyện đến giúp những nơi đang gặp khó khăn. Tôi từng đi chung với các bạn đến những vùng sâu, xa để thăm viếng, dạy học. Đi rồi mới nhận ra mình làm việc không theo kịp nổi các bạn trẻ về sự nhiệt thành và quả cảm! Quả thật, khi bạn tham gia vào những nhóm tốt như thế thì bạn sẽ tự tin hơn, góp ý kiến và tiếng nói trong những môi trường đức tin rồi đó!
Ngoài ra, chúng tôi cũng hiểu người trẻ cần được chấp nhận cá tính và lựa chọn của họ, nhất là về mặt đức tin. Khi bước vào cuộc sống và thế giới quan để nắm bắt được nhịp điệu, suy nghĩ của bạn trẻ, chúng tôi học cách Chúa Thánh Thần làm việc qua bao thiên niên kỷ qua. Ngài không bao giờ lạc hậu.
Chúng tôi để ý rằng người trẻ cần được đồng cảm, chân thành thấu hiểu và được ủng hộ. Đây đó có những buổi hội thảo, tọa đàm trực tiếp hoặc online dành cho giới trẻ Công Giáo. Đấy là những hoạt động bổ ích, dù còn ít ỏi, nhưng cũng giúp bạn trẻ được nghe và được bộc bạch. Hơn thế nữa, để người trẻ được phát triển trong môi trường đức tin thì cần từ phía gia đình, giáo xứ để “rộng cửa” cho các bạn trẻ hiệp hành trong những công tác, thao thức chung của Giáo Hội.
Ô, nói đi thì cũng nói lại cho công bằng! Còn về phía các bạn thì mong các bạn thiết tha đến với Chúa, tìm kiếm sự khôn ngoan nơi các bí tích và học hỏi Kinh Thánh. Có những bạn đi lễ Chúa nhật theo thói quen và vì sợ bỏ lễ thì phạm tội. Tôi cho rằng các bạn đầy lý trí và có thừa sự thông minh. Môi trường đức tin rất khác biệt môi trường xã hội. Vậy các bạn hãy đặt câu hỏi về đức tin đối với những vị thông thái, cứ việc thắc mắc cho đến khi được câu trả lời mới thôi. Cùng lúc đó hãy xin Chúa cho bạn tìm gặp được chân lý. Một khi đã hiểu rõ và cảm nghiệm bằng trái tim, các bạn biết bạn đi lễ vì sao, Chúa là Đấng nào, thì các bạn sẽ thực hành đạo theo một niềm xác tín sâu xa.
Nếu bạn muốn bạn có tiếng nói trong môi trường đức tin thì bạn cần điều đầu tiên đó là đức tin. Mà đức tin được nuôi dưỡng trong đời sống phụng vụ của Hội Thánh. Tâm nguyện, nhớ tới Chúa hằng ngày... là điều không thể thiếu đâu bạn! Thánh Thần sẽ có cách hướng dẫn các bạn nếu các bạn kết nối với Ngài. Thêm vào đó, rất cần các bạn chịu khó đến học nơi các thế hệ tiền bối như Samuel đã chạy tới thầy Êli mà học hỏi tìm tòi. Trong các giáo phận thường có Trung tâm mục vụ hoặc các dòng tu nam nữ, những nơi tổ chức nhiều hoạt động và nhiều lớp học hay, bạn hãy đến tham gia thử nhé!
Hy vọng những điều đó là chất xúc tác tuyệt vời để bạn nhận lại tình yêu thương từ thế hệ mình vốn dĩ nghĩ rằng chẳng thể dung hòa. Bạn hãy phát huy sáng kiến và dùng những phương thế để “kể chuyện về Chúa Giêsu” cho bạn bè mình trong môi trường sống hiện tại nhé. Đó là việc gieo mầm đức tin. Hãy nói với Chúa như lời Thánh vịnh 71: “Lạy Đức Chúa, chính Ngài là Đấng con tin tưởng ngay từ độ thanh xuân”!
Xin được phép mượn lời Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhắn các bạn trẻ: “Hỡi các bạn trẻ yêu dấu, Thầy Giêsu mời gọi các con là ngôn sứ trong kỷ nguyên mới, sứ giả tình yêu của Người, thu hút con người đến với Chúa Cha và xây dựng một tương lai đầy hy vọng cho toàn nhân loại”.
Lm. Giuse Vũ Uyên Thi, SJ 23/10/2024 Hỏi: Cha ơi có cách nào để mình không bị phạm tội về tư tưởng không ạ. Đặc biệt lúc mình đọc kinh đi lễ cầu nguyện thì lúc đó mình suy nghĩ rất nhiều không chú tâm lắm đến việc nhà chúa. Vậy con cần làm gì chứ mỗi lần con nghĩ như vậy con luôn bị chán nản. Cha nghĩ việc con đi lễ đọc kinh cầu nguyện lúc đó có lợi ích gì không ạ? Trả lời:
Bạn mến,
Phạm tội về tư tưởng được hiểu theo nhiều nghĩa nhưng theo những gì bạn diễn giải thêm thì đó là tội chia trí khi đọc kinh dâng lễ. Trước hết chúng ta đi phân tích tại sao hay chia trí? Chúng ta biết con người khi làm cái gì quen rồi thì cơ thể đẩy nó vào vô thức, tức không cần ý thức nữa. Các kỹ năng đều là vô thức: đá bóng chẳng hạn, đá quen rồi thì không nghĩ nữa, thấy bóng là chân tự đưa ra và căn rất chuẩn. Đạp xe đạp cũng vậy, đạp quen rồi thì vừa đạp vừa lái vừa nhìn nhưng thực ra tất cả đều khá tự động, người đi xe vẫn có thể nghĩ về chuyện khác. Còn người mới đá bóng và mới đi xe thì rất chú ý.
Cũng vậy, chúng ta đi lễ và đọc kinh nhiều nên rất quen, quen nên vô thức làm thay cho chúng ta; mà vô thức làm thay thì đầu chúng ta rảnh, rảnh thì tự nhiên đầu chúng ta sẽ nghĩ về những gì chúng ta thích hay quan tâm. Ở đây, nếu bạn có ý hỏi về ‘hình ảnh xấu’ hiện ra thì cũng đúng. Vì những hình ảnh xấu thực ra rất đẹp vì nó thuộc vấn đề giới tính. Đẹp nên thu hút, và ký ức có nhiệm vụ ghi nhớ những gì gây ấn tượng, nên những hình ảnh xấu này được ghi rất đậm. Nên khi đầu óc rảnh rang trong lúc đọc kinh, còn lúc khác thì đầu óc bận làm việc, những hình ảnh đó hiện ra, hay những việc làm mình bận tâm cũng hiện ra trong đầu và mình miên man nghĩ về nó. Những người mới yêu nhau, họ thích nhau đến độ khi ở một mình làm việc, chân tay họ vẫn làm nhưng đầu họ nghĩ về người ấy và họ còn cười một mình… Vậy kết luận đầu tiên rằng đây là một tình trạng xảy ra cho mọi người, không riêng gì bạn. Thế nên bạn cứ an tâm.
Nhưng câu hỏi tiếp theo là chia trí như vậy liệu việc đọc kinh dâng lễ có sinh lợi ích không? Ở đây có thể trả lời: thước đo sự thánh thiện và điều cốt yếu nhất trong việc đọc kinh dâng lễ là sự cố gắng. Vì thế, nếu bạn rất cố gắng để không chia trí mà vẫn chia trí, thì Chúa vẫn coi như bạn đã không chia trí. Còn nếu bạn không cố gắng mấy thì lợi ích ít hơn. Chúa nhìn tấm lòng. Đó chẳng phải là chia trí thánh thiện sao?
Bạn sẽ hỏi thêm, bạn phải cố gắng cách nào? Mỗi người có một cách, bạn cứ mày mò, và xem điều nào giúp thì giữ lại mà dùng. Tuy nhiên, một cách chung, có những cách sau. Về chuẩn bị xa, thì cố gắng giữ tâm hồn cho bình an, đừng để nghiện ngập điều gì, hay có ấn tượng mạnh với điều gì. Khi có nhiều đam mê tội lỗi, tâm hồn bất an, chúng ta dễ ‘loạn tâm’ và những hình ảnh kia đến quấy nhiễu. Tóm lại là gìn giữ năm giác quan, đừng ‘ghi những hình ảnh phù vân’.
Chuẩn bị gần, bạn có thể tập làm diễn viên theo nghĩa bạn đọc lời kinh với tất cả cảm xúc, bạn tưởng tượng bạn đại hiện cho cả thế giới này dâng Chúa lời kinh, và tin rằng dâng lên Chúa, Chúa sẽ nhận lời, vì thế bạn đặt hết tâm tình vào lời kinh. Khi dự lễ, bạn tin rằng cộng đoàn quy tụ để dâng Hy tế Chúa Giêsu lên Chúa Cha và cầu khẩn cho toàn thể nhân loại. Bạn tưởng tượng Chúa Cha ở trên phía cao nhà thờ, bạn cung kính thờ lạy và chú ý đến từng cử chỉ và lời thưa tiếng đáp. Tin rằng mỗi cử chỉ bạn làm thật chu đáo và sốt sắng sẽ sinh ích trong việc cứu linh hồn. Dù có chia trí thì lại trở về.
Một cách cụ thể hơn, trước khi đọc kinh dâng lễ cần chuẩn bị: Tự hỏi tôi sắp làm gì? Sắp gặp và thưa chuyện với Đấng nào? Việc tôi làm này sẽ mang lại lợi ích lớn lao biết chừng nào? và tôi thực sự tin vào những gì tôi sắp làm. Hãy nhớ đến ai đó cần cầu nguyện, các linh hồn, tội nhân…
Mặc dù cố gắng vậy nhưng vẫn chia trí thì sao. Có hai cách sau đây, chúng hơi trái nhau, bạn xem cách nào được thì dùng. Cách một, bạn thẳng tay với cám dỗ và chia trí, dứt khoát mạnh mẽ từ bỏ những mời mọc của nó, và nói, có chết cũng không thèm nghĩ về chúng. Một lòng theo Chúa mà thôi. Nghĩ như vậy xác thịt thế gian sẽ yếu đi. Chứ còn khi mình chống trả hời hợt thì xác thịt nó mạnh lắm.
Cách thứ hai mềm mại hơn: khi chia trí, mình ý thức rằng, à tôi đang nghĩ về điều này, chắc điều này quan trọng với mình lắm. Lát nữa về nhà sẽ nghĩ thêm về nó, còn giờ thì đọc kinh đã. Rồi nhẹ nhàng quay về. Và rồi lại chia trí tiếp, lại nhận ra và ghi nhận rồi lại nhẹ nhàng quay về. Tự nhủ rằng, chia trí là bình thường, tập trung mới khó, nhưng mình cứ cố gắng.
Không chỉ khi đọc kinh dâng lễ chúng ta mới phải trở lại mãi vì bị chia trí. Nhưng cả đời sống của chúng ta cũng vậy thôi: nguyện xin Chúa giúp con bắt đầu và lại bắt đầu. Chia trí thì cứ bắt đầu lại bạn nhé. Khi làm như vậy Chúa rất vui, vì chúng ta chấp nhận thân phận yếu hèn của mình: đọc kinh thôi cũng không cầm trí được! Nhưng tình yêu của chúng ta, đúng hơn là tình yêu của Chúa dành cho chúng ta, sẽ khiến chúng ta bắt đầu lại mãi.
Nt. Elisabeth Bùi Phạm Phương An, CND – CSA 03/11/2024 Hỏi: “Giữa những gì rất con người: ham muốn tình dục, rung động về cảm xúc và thể xác, họ sẽ thường thỏa mãn nó, chỉ cần "không làm hại", cân bằng. Nhưng trong đức tin thì "thân thể anh em là Đền Thờ của Chúa". Người trẻ làm gì để không bị cuốn đi với những "tư tưởng" rất đời kia? Nếu có nhu cầu thì sao kiểm soát khi chưa lập gia đình? Tụi con làm gì để bỏ tật thủ dâm? Trả lời:
Theo Jos. Farraher, “thủ dâm là tự lạm dụng, thỏa mãn, tìm thay thế tượng trưng qua kích thích cơ quan sinh dục ngoài tạo khoái cảm, bằng tiếp xúc hoặc hình ảnh, tư tưởng hay cả hai, gồm cả thủ dâm lẫn nhau”. Thói này khác nhau tùy độ tuổi, hoàn cảnh và tính khí, khuynh hướng bên trong. Theo Leanne Payne: “Điều xấu của thủ dâm là dùng ham muốn ra khỏi bản thân để hoàn thiện, sửa chữa tính cách như của người khác rồi trả về sự tù túng của mình, nơi lưu giữ “người tình bí mật”. Người tình ảo ở trạng thái sẵn sàng tiếp cận, phục tùng, không đòi hỏi, phán xét, hấp dẫn tâm lý mà người thực không sánh bằng” [1].
1. “Vì đâu nên nỗi”
Thanh thiếu niên bị phương tiện truyền thông tấn công với những khơi gợi; cám dỗ ở chỗ hợp lý hóa sản phẩm này dưới tên gọi Văn minh, Văn hóa. Do phụ huynh, giáo viên, bậc tu hành im lặng, do các em xấu hổ, rụt rè khi thảo luận và bất lực khi cố kiểm soát; bối rối, hoài nghi về mình, do trí tưởng tượng dồi dào, bạn bè rủ rê, khiến họ trải nghiệm thủ dâm. Đó là hình thức nghiện phổ biến vì dễ thực hiện, đáp ứng thời gian dài, bề ngoài không gây tác hại xã hội. Nhiều bạn không đi rước lễ vì thấy có cái gì đó sai sai, nhưng bị cản trở sử dụng ý chí. Ngoài ra, còn nhiều nguyên nhân khác:
Nơi người nữ, đó là triệu chứng rối loạn, trục trặc với gia đình, bạn bè; từng là nạn nhân của lạm dụng tình dục hoặc loạn luân, nhớ cảm giác ấy, sợ hãi.
Nơi người có gia đình, do bất mãn vì vợ chồng ở xa hoặc không sẵn lòng quan hệ, bị bỏ bê hoặc bệnh.
Người đồng tính sợ thú nhận khuynh hướng giới tính, khó tìm tình bạn và sự thân mật, xem thủ dâm là thay thế an toàn. Họ cần điều trị chuyên khoa khi nghĩ đến bạo dâm như bị đánh đập hoặc gây ra thương tích cho ai đó.
Đối với người độc thân, việc đình hoãn hôn nhân cùng với kích thích thường xuyên trong hò hẹn dẫn tới âu yếm để đạt khoái cảm. Ai sống chưa có mục đích, thường tưởng tượng khi rảnh, xem video “đen”, hưởng thụ mà sợ ràng buộc con cái, bận với công việc, có nhiều người quen nhưng cô đơn. Sau ba mươi, nếu chưa biết bậc sống, họ sẽ suy tư về sứ mạng, nhận ra trên đời còn nhiều ý nghĩa. Tìm hướng dẫn, nhưng khi không có ai để tỏ bày nỗi niềm với hy vọng giải quyết, thì họ tiếp tục bị đè nặng đến trung niên; thành công ở khía cạnh khác nhưng tuyệt vọng vì tội lỗi bí mật. Có người nhiệt thành với Chúa, với gia đình, Giáo hội, nhưng lại gặp khó khăn trong việc này.
Theo Bernard Tyrell, “tự ti, thương tổn, gặp vấn đề quá khứ,... là mảnh đất màu mỡ cho liên tưởng, ám ảnh, buông xuôi”. Tu sĩ với thói quen truyền thống, khó thổ lộ tâm tư, trong môi trường tương đối được bảo vệ, nơi ký ức hoạt động không ngừng, nơi các trở ngại thông thường được soi kỹ, e ngại hoạt động tình dục với người khác, không chắc về ơn gọi, trí lòng vuột khỏi tầm kiểm soát, kết cục thì...
2. Luân lý
Giống như trẻ con khi thấy cha mẹ ly dị và cho rằng do lỗi chúng. Tội lỗi liên quan sự phán xét khi đi ngược lương tâm, hối tiếc vì hành động sai. Hổ thẹn là cảm thấy mình không tốt, vô dụng. Giáo Hội phân biệt tính nghiêm trọng khách quan của hành vi và trách nhiệm cá nhân; giảm tội cá nhân khi đam mê vượt qua ý chí, miễn là sẵn lòng làm hết cách vượt qua. Theo cha John Harvey: “Mục vụ 47 năm, tôi chưa gặp ai có lòng ăn năn thống hối mà không muốn thoát khỏi thói thủ dâm hoặc có chủ đích muốn tiếp tục”.
Thủ dâm tổn hại tâm lý, thần kinh. Không vì tình yêu, nhưng thủ dâm khiến họ hy sinh gia đình, sức khỏe, công việc, sự an toàn để thỏa mãn. Nó phá hủy cái tôi và mối tương quan với Chúa; ngăn cản hoà nhập, thống nhất bản thân. Tu sĩ khi mang gánh này sẽ cảm thấy đang sống hai mặt, mâu thuẫn giữa tự nguyện tuyên hứa độc thân và lối sống thực tế, trầm cảm. [2]
Thánh Phaolô khuyên sống tiết độ (Gl. 5,23), “Chúng ta hãy tẩy hồn xác sạch mọi vết nhơ” (2 Cr. 7,1); “Nếu không tiết dục được, họ cứ kết hôn vì thà kết hôn còn hơn là bị thiêu đốt” (1 Cr. 7:9); “Đừng buông theo dục vọng như dân ngoại” (1Thx 4,5); việc làm nhục thân thể mình là suy đồi (x.1 Cr 6:9; Rm. 1:24).
Do không hoàn thành mục đích kết hiệp và sinh sản như vợ chồng vốn được chúc phúc trong bí tích, họ mắc tội trọng khi có chủ ý chọn lựa hành động. Nếu nhận thức một phần hoặc không hoàn toàn ưng thuận, là tội nhẹ; nếu không tự do lựa chọn, họ không mắc tội thậm chí khi biết những gì đang làm (x. Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, số 2352-2353).
Như hình thức nghiện khác, thủ dâm liên hệ ký ức; bắt đầu từ hình ảnh lấp đầy tâm trí, không cho động lực kháng cự có cơ hội sao lãng những sảng khoái. Họ mất khả năng nói “không” vì đây là một phần của chuỗi suy nghĩ, cảm nhận và hành động. Biết mình “sắp sửa ngã”, phải nghiêm túc tránh dòng duy nghĩ như tránh dịch. Khi băn khoăn tự nhủ mình phải thoát khỏi tưởng tượng nhưng không làm vậy. Ở vô thức, có xu hướng tìm thỏa mãn nhưng ý thức không cho. Họ phải chịu trách nhiệm vì không tận dụng khoảnh khắc hiện tại mà nô lệ, bằng lòng để nó tiếp diễn, không chống lại ham muốn khi có dịp, tự do không tuân theo luật Chúa vốn được ghi khắc trong tim (Rm 2,15).
3. Thử tìm hướng đi
- Yêu mình vì “mình” là người thân thương nhất[3].
- Thấy hạnh phúc khi mình là mình với mặt sáng và tối, không tự hành hạ mình với những mặc cảm. Nếu bạn hâm mộ bản thân thì bạn cũng sẽ thích người xung quanh.
- “Dậy mà đi”, khoan dung với bản thân là thái độ quân bình. Không quan trọng hoá vấn đề. Mọi người đều phạm lỗi trong đời. Lỗi lầm khiến bạn trưởng thành nhờ rút ra bài học, tuy nhiên, nếu không thể học từ đấy, bạn sẽ tiếp tục phạm sai lầm. Hãy cho mình “lớn lên” nhờ thanh luyện và mài dũa của thực tế! Mong sao qua nỗi đau, ta có thể nuôi lớn lòng bao dung.
- Tế nhị với mình, xây đắp và giữ gìn tâm hồn, thể xác cũng như giá trị do Chúa ban hay do chính mình nỗ lực đạt được.
- Tri ân, luôn tin mình là tác phẩm của Nhà Sáng Tạo siêu phàm: Thiên Chúa.
- Giải phóng khỏi “độc tố” ý nghĩ hay những điều mình tin mang tính tiêu cực, làm hao mòn nhuệ khí. Bảo vệ mình khỏi ảnh hưởng xấu của bạn bè, môi trường, không làm gì để tự hạ giá hay khiến người khác xem thường mình.
- Động viên mình. Không chỉ chịu đựng, chúng ta cần: Dám yêu cầu, dám xin khi cần và thích hợp. Đây là sự đơn sơ của người tự do. Ngại ngùng đôi lúc mất cơ hội. Chấp nhận lời khen, bạn đáng được như vậy!
- Kiên nhẫn với mình. Sức mạnh nội lực giúp ta chỗi dậy sau những sai lầm hay quật ngã của nghịch cảnh. Vội vàng không làm cho ta cứng cáp với gió sương hay đủ sức đề kháng với cạm bẫy. Tự tin, cho dù người khác có đánh giá chưa cao. Không những thế, chúng ta phải biến nó thành lợi thế. Người hài lòng về mình tạo sự thu hút tự nhiên.
- Khi thấy mình bất lực, chân thành thú nhận, nhờ chuyên gia có cùng quan điểm Giáo Hội giúp đỡ, kiên trì cầu nguyện với Lời Chúa hàng ngày.
- Suy gẫm về ý nghĩa cuộc đời, niềm hy vọng, ước mơ, tái định hướng cuộc sống.
- Đừng tranh luận với ma quỷ trong vấn đề này.
- Thủ dâm lặp lại theo chu kì, hãy theo dõi, quan sát, kiểm tra tâm trạng, ghi lại những cách trí tưởng tượng hoạt động, tìm xem điều gì gặm nhấm mình, làm tâm hồn thao thức, bất an.
- Lắng lòng để gặp mình, hiểu đứa trẻ bên trong, tĩnh lặng nghe chính mình. Đây là thí dụ về “thư gởi mình”: Hy vọng ta có thể trò chuyên thân tình hơn. Kể từ đây, có chuyện gì em cứ thổ lộ với anh/chị, chị sẵn lòng nghe em. Em à, anh/chị hiểu những mệt mỏi của em khi cuộc sống trắc trở, hiểu những vấp váp mà em đã trải qua, chị cảm thông với những nỗi đau, sợ hãi, đỗ vỡ và buồn tủi trong em. Hơn nữa, những sai lầm vẫn có thể xảy ra, bình thường thôi, chị tha thứ cho em. Quan trọng là em có thể hóa hung thành cát đó, thử xem! Chị biết, có lúc em phản ứng như thế vì em hay dễ xúc động, cảm thấy cuộc sống vô vị, bị ức hiếp và dồn nén. Có khi em tưởng chừng không ai quan tâm tới mình, không ai thương mình, mình không có giá trị. Nhưng chắc em không biết, có nhiều người lắng nghe, mong đợi, quý mến em, trân trọng và dành cho em nhiều tình cảm tốt đẹp đó chứ. Thật ra, em có rất nhiều thế mạnh, chẳng hạn: hiếu thảo, tốt bụng, chu đáo,... Với ơn lành Chúa ban trong đời, em đừng lo nhiều nữa nhé. Thoải mái đi, cứ an tâm, chị luôn ở bên em, em nhé!
- Sẽ không tốt nếu cố gắng ngủ lúc hình ảnh tình dục bao vây, nên thư giãn với cảm hứng từ việc đọc hay học gì đó, nghệ thuật khi sống trong thực tại. Ai chiến đấu triền miên trong bóng tối cần liệu pháp tâm lý kết hợp với nhóm hỗ trợ tinh thần như nhóm Người nghiện tình dục ẩn danh - nơi có thể thảo luận những mâu thuẫn nội tâm, xu hướng,... Chiêu thức hữu hiệu là lời nguyện tắt, làm việc chân tay như dọn dẹp, trồng cây, trang trí, sửa chữa, đi dạo, gọi điện thoại cho người thân,... Hiện diện chứ không phải tồn tại. Bài thơ của Portia Nelson diễn tả “chiến lược” ra khỏi ngay khi chúng trong đầu, cắt sợi dây ràng buộc tâm trí:
Tôi rảo bước xuống phố, Một hố sâu bên vệ Tôi rơi xuống hố Mất hút… bất lực. Không phải lỗi tại tôi Mãi chẳng thoát ra được.
Tôi xuống cùng con phố, Một hố sâu bên vệ. Tôi vờ như không thấy Lại rơi xuống lần nữa. Chỗ cũ. Không thể tin. Nhưng, không phải lỗi tại tôi. Vẫn phải mất khá lâu Để thoát ra lần nữa.
Tôi xuống cùng con phố Một hố sâu bên vệ Lại ngã…thành thói quen. Mắt tôi chợt mở to Đúng là lỗi tại tôi. Tôi bước ra lập tức.
Tôi xuống cùng con phố Một hố sâu bên vệ Tôi đi vòng qua nó.
Tôi bước sang phố khác.
Sự thông cảm giúp khai phóng kho tàng. Họ không là kẻ xấu nhưng là người chịu đựng căn bệnh có thể chữa trị. Nhận thức về mình là khởi điểm của thay đổi. Khi thoát khỏi, họ bắt đầu yêu đúng cách. Khuyến khích khi họ tiến bộ, xa thủ dâm và chuyển biến cái nhìn về tính dục, chấp nhận bản chất thể xác, hòa hợp, thăng hoa ham muốn với nhận thức.
Giải thoát tâm hồn là cuộc chiến dai dẳng mà sức lực hữu hạn của con người bị mài mòn. Do đó, cần tín thác vào Đấng yêu thương và luôn chăm sóc ta. Như người làm vườn, cảm thấy buồn vì thu lượm không được là bao so với công sức bỏ ra; lại có lúc cỏ dại lấn chiếm mảnh vườn, che mất các loài hoa rụt rè; nhưng vẫn kiên tâm, tin tưởng vào tương lai và luôn chăm sóc miếng vườn mỗi ngày, mặc cho thời tiết gió mưa. Thực hành khiết tịnh không dễ; có người kiểm soát, kềm chế thời gian dài, rồi tái phát. Lúc như thế, cần nỗ lực tập trung vào nhu cầu của người xung quanh, nuôi dưỡng tương quan với người thực. Nếu để ý và ngắm nhìn những cái đẹp ở trước mắt, tâm trí sẽ thóat khỏi những suy nghĩ xấu. Có khi thay đổi môi trường sống thì khuynh hướng ấy biến mất. Nên ép xác để giảm đòi hỏi, hình thành khuôn phép, xưng tội hàng tháng.
À, thậm chí khi đã xin, không có gì xảy ra hoặc ít hơn điều bạn cần, dường như Chúa để vậy. Chúa ban sức mạnh bắt đầu lại, sau mỗi lần té, cầu Ngài tha thứ, nâng mình dậy và cố lần nữa. Nài xin Thiên thần, Thánh Giuse, Đức Mẹ giúp. Quy phục đời ta vào tay Chúa, cảm nghiệm mối tương quan với Thánh Thể, Ngài sẽ lấp đầy nỗi trống trải, cho ta tìm được thân mật đích thực.
Mong chúng ta nhớ lời khuyên ân cần của Đức Thánh Cha Phanxicô: “Hỡi những người trẻ, đừng lầm lẫn hạnh phúc với chiếc ghế bành và đừng sống cả đời trước màn ảnh, thay vào đó hãy để cho những giấc mơ nở hoa và có những quyết định tốt. Hãy mạo hiểm, ngay cả khi các con thất bại. Đừng sống sót với tâm hồn đê mê và đừng nhìn thế giới như thể các con là du khách. Hãy gây tiếng ồn! Xua tan nỗi lo sợ làm tê liệt các con. Hãy sống! Hãy cho mình những gì tốt nhất! Làm ơn đừng về hưu non.”
WHĐ (03/11/2024)
_______
[1] x. John Harvey, Thủ dâm - Vấn đề mục vụ, 2012. http://couragerc.net/Masturbation.html#RECOBJ7DB11314122C1C19 truy cập ngày 17/7/2021.
[2] x. John Harvey, Thủ dâm - Vấn đề mục vụ, 2012. http://couragerc.net/Masturbation.html#RECOBJ7DB11314122C1C19 truy cập ngày 17/6/2020.
[3] x. M.Thecla Trần Thị Giồng, Dòng Đức Bà, Bài giảng Đặc trưng chính trong tính cách của mình.
Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc, SJ 12/11/2024 Hỏi: Em thấy trên mạng hoặc đôi lần biết có người bị Thiên Chúa trừng phạt vì dám xúc phạm đến Ngài. Nếu ai đó làm điều tàn ác, họ sẽ gặp tai ương và bị quả báo? Nhiều người cho rằng đó là do Thiên Chúa ra tay. Nếu vậy, Thiên Chúa không nhân từ chút nào! Ngài muốn trả thù? Như thế Thiên Chúa thật ích kỷ, vì ai không tin vào Chúa là Ngài tìm cách giết người đó! Trả lời:
Em nghe câu này bao giờ chưa: “Chẳng có gì xúc phạm đến Thiên Chúa Tốt Lành cho bằng nghi ngờ lòng thương xót của Ngài.” (Thánh Gioan Maria Vianney).
Cảm ơn em về câu hỏi rất thực tế và quan trọng. Thực tế vì luận lý theo con người, chúng ta thấy đó là vấn đề; quan trọng vì nó liên quan đến cuộc sống của từng người. Đâu đó nhiều người trong chúng ta cũng nghe có hiện tượng như em hỏi. Thậm chí có người còn nguyền rủa cho những ai làm điều ác, lộng ngôn và chống đối Thiên Chúa. Khi họ gặp nạn, người ta dán nhãn: họ bị quả báo, bị Thiên Chúa trừng trị. Như thế mới công bằng.
Em có thể đọc thấy vài câu chuyện dường như tương tự trong Kinh Thánh về vấn đề này: “Phải chăng Thiên Chúa ích kỷ hoặc thích trả thù, nếu ai đó xúc phạm đến Ngài?” Chẳng hạn, khi Ađam và Eva không nghe lời Thiên Chúa, họ ăn trái cấm. Thiên Chúa đã đuổi họ ra khỏi Vườn Địa Đàng. Khi dân Do Thái muốn rời đất Ai Cập, vua Pharaô không đồng ý. Thiên Chúa đã cho biết bao tai ương xảy ra, thậm chí các con đầu lòng của người Ai Cập phải chết. Nhiều người cho rằng Thiên Chúa thật bất công khi muốn giúp dân Do Thái, nhưng lại sát hại nhiều người!
Môsê là người thành công dẫn dân Do Thái ra khỏi Ai Cập, nhưng chính ông lại không được vào Đất Hứa. Người ta cho rằng có lần Môsê ngập ngừng làm theo lời Thiên Chúa, nên ông phải chịu hậu quả như thế (Ds 20,12). Khi vào Đất Hứa, vua Đavít thành công xây dựng vương quốc và tôn thờ Thiên Chúa. Sau đó, con ông là Salômon (làm vua 970–931 TCN) lúc đầu hằng thờ phượng Thiên Chúa. Nhờ đó, vương quốc của ông thịnh vượng và giàu có bậc nhất trong thiên hạ. Tuy nhiên, về sau ông thờ thần ngoại bang. Thiên Chúa không làm ngơ trước thái độ khinh thường và bất trung của vua. Hình phạt chẳng bao lâu đã xuất hiện. Sau khi Salômon chết, vương quốc hùng cường và phồn thịnh của ông ly khai về chính trị và tôn giáo. Nam Bắc phân tranh, huynh đệ tương tàn.
Một điệp khúc trong thời Cựu Ước là: Nếu không tuân lệnh, trung thành với Giáo Ước Sinai, con cái Do Thái sẽ gặp hoạn nạn, đất nước sẽ lụi tàn. Đó có phải là sự trả thù của Thiên Chúa? Hoặc như lời em nói: “Như vậy là Chúa ích kỷ, vì ai không tin vào Chúa là Ngài tìm cách giết người đó!” Nói cách khác, Thiên Chúa hay ghen tuông. Nếu ai đó thờ thần ngoại bang, chối Chúa, họ sẽ bị trừng phạt, vì họ không làm theo lời của Thiên Chúa. Bởi đó, nhiều người sợ Thiên Chúa, vì Ngài ruồng bỏ những ai không tin theo Ngài.
Em thân mến,
Để trả lời vắn ngọn, Giáo lý cho rằng: “Thiên Chúa không phải là một vị Chúa trả thù, mà là một Thiên Chúa đầy lòng thương xót và tha thứ. Ngài luôn sẵn sàng tha thứ và hòa giải với con người, ngay cả khi họ phạm tội.”[1] Thiên Chúa công bằng nhưng giàu lòng thương xót[2].
Thực ra, chúng ta đang đi vào một khía cạnh của Thiên Chúa: trả thù, ghen giận và trừng phạt. Tuy nhiên, có biết bao chuyện nói lên lòng thương xót và yêu thương của Thiên Chúa. Khi Ađam và Eva phạm tội, Thiên Chúa hứa ban một Đấng Cứu Chuộc đến để giải thoát dân. Khi thấy dân đau khổ bên Ai Cập, Thiên Chúa muốn cứu dân. Khi thấy dân không có người hướng dẫn, Thiên Chúa gửi các ngôn sứ, các tư tế và phong vương để đồng hành với dân. Chính những người này giúp dân thấy Thiên Chúa thật công bình. Nếu dân theo đường lối của Thiên Chúa, họ sẽ được bình an. Nếu không theo Thiên Chúa, nhiều khó khăn và thử thách sẽ xảy đến. Trước tình cảnh ấy, đúng là Thiên Chúa thời Cựu Ước có vẻ uy quyền, xa lạ và thưởng phạt nghiêm minh. Thời đó, dân sợ Thiên Chúa lắm! Họ không dám gọi Tên của Ngài. Dĩ nhiên, người dân chẳng thể gặp, hay nói chuyện trực tiếp với Ngài. Thiên Chúa lúc ấy dường như xa cách muôn trùng. Dân dường như sợ Thiên Chúa, như em nói.
Tuy nhiên, em biết không, thời Tân Ước, tức là từ thời Chúa Giêsu lại hoàn toàn khác. Lúc này, Đức Giêsu đến từ Chúa Cha để trình bày Thiên Chúa đầy lòng thương xót và luôn ở với con người. Ngài là Đấng Emmanuel và là Tình Yêu. Em nhớ Đức Giêsu kể câu chuyện đứa con hoang đàng (x. Lc 15,11–32), là chúng ta, từ khước người cha nhân hậu, là Thiên Chúa. Dù vậy, Thiên Chúa vẫn chờ đợi người con quay trở về, và sẵn sàng tha thứ tất cả. Ngài còn mở tiệc ăn mừng vì đứa con ấy nay trở về sống chung với Cha. Bất cứ khi nào chúng ta ăn năn, giao hòa với Thiên Chúa, Ngài đều tha thứ và đón nhận chúng ta.
Hơn nữa, cả cuộc đời Đức Giêsu, chúng ta thấy Thiên Chúa luôn đi tìm những con chiên lạc trở về (Lc 15,1–7). Ngài mời gọi tất cả những ai mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ngài để được nghỉ ngơi, bồi dưỡng. Chính Đức Giêsu thường lui tới với người tội lỗi, quân thu thuế để giúp họ sống tốt hơn (Lc 7,36–50). Đặc biệt, chính Đức Giêsu phải chịu chết để cứu độ con người. Trong cuộc thương khó, nếu chúng ta là Thiên Chúa, chắc chúng ta trừng phạt những kẻ đang hành hạ, và giết mình. Nhưng Chúa Giêsu không phản kháng; trái lại, Ngài sẵn sàng xin Chúa Cha tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm. Ngài đã bị đóng đinh và chịu chết. Nhưng Ngài đã sống lại!
Một trường hợp nữa để thấy lòng nhân từ của Chúa: đó là thánh Phaolô. Khi Chúa Giêsu sống lại, nhiều người bỏ đạo Do Thái để tin vào Đức Giêsu là Đấng đã chết và nay đã phục sinh. Phaolô là một trong những thủ lãnh bách hại những người theo Giêsu. Tuy nhiên, chúng ta thấy Thiên Chúa không trả thù hay giết hại ông. Ngược lại, trên đường Phaolô đi bách hại tại Đa–mát, Thiên Chúa đã khiến ông ngã ngựa. Sau đó, Ngài nói cho ông biết kẻ ông đang bách hại là Đức Giêsu. Chúa đã không phạt ông nhưng lại yêu thương và chọn gọi ông làm tông đồ của Người. Sau lần đó, ông tin vào Chúa Giêsu và hăng say rao giảng Nước Trời. Ông là một trong hai vị thánh lớn nhất của Giáo Hội (cùng với Phêrô).
Như em nói, chúng ta thật khó để thoát ra lối suy nghĩ rằng Thiên Chúa hẹp hòi, ích kỷ và hay trả thù. Chẳng hạn, những người làm điều ác, xúc phạm đến Thiên Chúa, Ngài có trừng trị họ không? Thật khó để trả lời rốt ráo! Nhiều trường hợp chúng ta thấy họ gặp tai ương và đối diện với cái chết. Phải chăng đó chỉ là sự trùng hợp, hay “lưới trời lồng lộng”? Hoặc ít ra đó là lời cảnh giác, nhắn nhủ cho những ai xúc phạm đến Thiên Chúa hoặc làm điều dữ. Những gì chúng ta thấy, chỉ là suy diễn của con người.
Em có thể hỏi thêm:
– “Nếu Thiên Chúa biết mọi sự và có thể làm được mọi sự, tại sao Người không ngăn cản được sự dữ?”
Thưa, “Thiên Chúa vẫn luôn có thể rút ra những điều tốt lành từ những sự dữ. Chẳng một đau khổ nào ta có thể giải mã được. Nhưng nó vẫn luôn đặt nền tảng trên sự khôn ngoan vô cùng của Thiên Chúa.” (Youcat, số 51). Khó hiểu quá! Điều ấy nghĩa là Thiên Chúa luôn muốn tốt cho con người. Chúng ta có thể cảm nhận:
“Thiên Chúa thì thầm trong những lúc ta vui, Người thì thầm trong lương tâm ta. Nhưng Người nói lớn và mạnh trong những đau khổ của ta. Những đau khổ đó là cái loa tăng âm để làm thức tỉnh một thế giới mê ngủ.” (Clive Staples Lewis 1898–1963, văn sĩ Anh, tác giả cuốn Ký sự Namia).
Tóm tại, đây quả là đề tài thú vị để chúng ta suy nghĩ và cầu nguyện với Thiên Chúa. Ngài là thẩm phán đáng sợ hay là Thiên Chúa giàu lòng thương xót? Giống như tương quan giữa người con với cha mẹ, chúng ta chỉ hiểu được khi có tương quan với Thiên Chúa. Hy vọng em để Thiên Chúa chất vấn, để những thắc mắc ấy là cơ hội cho Thiên Chúa giãi bày. Chính trong Kinh Thánh, ước gì chúng ta có thể hiểu hơn về Thiên Chúa đang muốn nói gì.
Chúc em nhiều bình an và luôn mạnh khỏe với ơn của Thiên Chúa. Xin Thiên Chúa hằng yêu thương và chăm sóc cho em trong mọi biến cố vui buồn. Xin đừng tránh xa Thiên Chúa, nhưng hay để Thiên Chúa kết bạn với em. Chúa không gọi chúng ta là tôi tớ, nhưng Ngài gọi chúng ta là bạn hữu (Ga 15,15). Ngài là một người bạn hằng yêu thương và tha thứ! Tuy nhiên, Thiên Chúa cũng là một Thiên Chúa công chính. Ngài không thể bỏ qua tội lỗi, nhưng Ngài muốn đưa con người đến với sự công chính thông qua lòng thương xót và tha thứ[3]. Nghĩa là Thiên Chúa không muốn trừng phạt con người, mà muốn họ hối cải và trở về với Ngài. Ngài sẵn sàng tha thứ và ban ơn cứu độ cho những ai thành tâm sám hối[4].
Chào em.
WHĐ (12/11/2024)
Đọc thêm bài: Sao Thiên Chúa trong Cựu ước ác thế? - Tác giả: Lm. Giuse Cao Gia An, SJ
Lm. Giuse Vũ Uyên Thi, SJ 19/11/2024 Hỏi: Con chào cha, con là một dự tu, tình cờ gặp một thầy đi tu, thầy rất dễ thương, giỏi và tài năng nữa. Mỗi khi gặp thầy, con thấy rất vui, và nhiều khi nghĩ về thầy. Nhiều lúc con còn bất giác tưởng tượng con có thể ôm thầy, nắm tay thầy... Con thấy thật nguy hiểm, lúc con vào nhà thờ con cứ nhìn chỗ thầy xem thầy có đó không. Mỗi lần như vậy con thấy rất cắn rứt và sợ mình phạm tội khiết tịnh... Như vậy con có tội không và tội này có nặng không ạ? Con phải làm sao đây cha? Trả lời:
Bạn thân mến,
Đây là một kinh nghiệm để mình hiểu về cơ cấu của con người chúng ta. Con người chúng ta có hai phần, phần “con” là phần gồm bản năng vốn rất cần thiết cho sự sống thể xác và tinh thần nữa. và phần “người” hay phần tinh thần, tức là phần có những suy nghĩ, chọn lựa theo mục đích và lẽ phải.
Một đứa bé sinh ra thì hầu như lý trí chưa có, bé sống nhờ bản năng (Self-preservation). Bản chất của bản năng là những kích thích và đòi đáp ứng. Để đứa bé có thể sống, bản năng ăn uống của nó sẽ hoạt động bằng cách tạo ra kích thích đói, đói là một cảm giác khó chịu khiến cho đương sự phải khóc đòi uống sữa. Bản năng có đặc tính là mù quáng, nó hoạt động để duy trì sự sống, không cần biết đến điều gì khác.
Khi lớn lên, chúng ta ăn chay vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh. Bản năng ăn uống vẫn nhắc nhở chúng ta bằng cách tạo ra cảm giác đói. Bản năng ấy không biết đến thứ Sáu Tuần Thánh và cả năm mới có một lần, nó cũng không cần biết mình là giáo dân, là nữ tu hay linh mục. Nó hoạt động nơi mọi người như nhau, thứ Sáu Tuần Thánh ăn chay, ai cũng thấy đói mà thôi.
Cũng vậy, khi con người lớn lên thì bản năng “lập gia đình” trỗi dạy và hoạt động. Và nó hoạt động bằng cách nào? Bên trong thì bản năng ấy tạo ra cảm giác thiếu thốn, trống trải kiểu A-đam có mọi thứ nhưng vẫn rất buồn. Bên ngoài thì khi nhìn thấy người khác phái thì vui như khi A-đam được Chúa dẫn E-và tới. Cả bên trong lẫn bên ngoài cùng hoạt động khiến cho người ta yêu nhau và lấy nhau. Các con vật vì không có sự can thiệp của lý trí nên bản năng hoạt động một cách trơn tru và tự nhiên nhất. Chúng ta thấy các con vật lớn lên tự nhiên thích nhau và “lấy nhau”, chưa thấy con nào sống độc thân cả.
Nơi con người thì khác, vừa có bản năng như con vật nhưng vừa có lý trí và lý tưởng. Và một số lý tưởng không cho phép bản năng hoạt động cách tự do. Ví dụ như người có lý tưởng làm người mẫu, và quyết tâm ăn kiêng, thì bản năng ăn uống cũng bị cho vào khuôn khổ, tức nhiều khi đói lắm, thèm lắm nhưng không ăn. Rõ hơn là lý tưởng độc thân tu trì, nơi đây bản năng truyền sinh hay kết hôn bị từ khước. Tất nhiên, từ khước một bản năng không dễ, cần ơn Chúa và sự quyết tâm.
Trở lại vấn đề của bạn, bạn là cô gái như mọi cô gái khác và bản năng “lập gia đình” đang hoạt động nơi bạn như bao cô gái khác. Dù bạn có dự tu, hay đã khấn trọn thì bản năng vẫn vậy. Bản năng này “nhìn thấy” đúng đối tượng mà nó cần, nên nó hoạt động, kiểu như mình nhìn thấy cái áo mình thích, món ăn mình ưa vậy. Như phân tích ở trên, bản năng ăn không biết đến thứ Sáu Tuần Thánh, không kiêng nể ngày Chúa chịu chết, thì cũng vậy, bản năng nơi bạn không biết đến bạn là con chiên, không biết đến người thầy kia đang tu, sống độc thân. Bản năng nó mù quáng và nó hoạt động tích cực, không biết mệt mỏi cho tới khi đạt được mục đích của nó. Những lời này bạn phải nhớ, bản năng “hoạt động tích cực, không biết mệt mỏi cho tới khi đạt được mục đích của nó”. Nguy hiểm hơn là nó hoạt động âm thầm, vì ở tầng vô thức, khi chúng ta ý thức được là nó đã hoạt động được khá nhiều rồi.
Khi đó, lý trí nhảy vào nhắc nhở: vậy là tội, vậy là sai rồi. Khi lý trí nhắc nhở như vậy, bạn sẽ bị giằng co giữa hai đàng: thôi thúc đạt cho được mục tiêu nơi bản năng và sự kìm tỏa của lý trí. Bản năng sinh tồn không muốn thân chủ mình bị khổ, nên nó đưa ra cơ chế tự vệ để xoa dịu sự căng thẳng: cơ chế tự vệ có nhiều cách. Cách thứ nhất là né tránh, “ơ mình nghĩ nhiều rồi, có sao đâu”. Cách thứ hai là hợp lý hóa “Thánh Phanxicô và thánh Clara cũng chơi thân và quý mến nhau đấy thôi”, “mới nghĩ thôi mà có làm sao đâu; nhưng thầy cũng sắp rời đi rồi mà” … và cả ngàn lý do nữa khiến bạn duy trì tình trạng hiện có. Khi sự áy náy được xoa dịu, bạn sẽ không rời khỏi hoàn cảnh tiếp xúc với thầy và bản năng càng hoạt động mạnh mẽ cho tới ngày cảm xúc và mọi thứ trở nên quá sâu đậm và chúng có thể khiến bạn có những quyết định sai lầm nghiêm trọng hơn.
Vậy bạn phải làm gì?
Biết mình và hiểu thân phận hay cấu tạo của con người mình nó là như thế. Muốn bản năng không hoạt động, bạn phải tách nguồn, không cho nó tiếp xúc với đối tượng của nó. Vậy bạn phải tránh xa thầy hết sức có thể. Có thể những cô gái khác thì không sao, còn bạn thì bản năng đã hoạt động rồi nên phải giữ khoảng cách hơn mức bình thường. Giống như người nghiện rượu thì cần tránh xa rượu hơn người không nghiện. Vì khi gần, xem ra thì dễ chịu đấy, vì phù hợp với đòi hỏi của bản năng, nhưng khi bản năng hoạt động rồi nó sẽ gây ra sự khó chịu cho tới khi bạn đạt được mục tiêu mà bản năng muốn, đó là lấy ông thầy kia. Một khi đã theo bản năng, việc dừng lại khổ hơn lúc mới bắt đầu rất nhiều. Thế nên, lời khuyên cho bạn là: dừng lại và tìm cách tránh gặp gỡ thầy ấy hết sức có thể.
Nói thêm, giả sự bạn gặp người thầy mà bạn không phát sinh tình cảm nhưng thầy lại phát sinh. Khi ấy bạn cũng nên tránh gặp gỡ thầy để giúp cho thầy nhé.
Trên là những phân tích về mặt tâm lý. Bạn là con chiên, con của Chúa. Bạn hãy cầu nguyện và xin Chúa ban ơn soi sáng cùng thêm sức mạnh, để bạn chiến thắng được chính mình, tìm và sống theo những gì thực sự đem lại bình an và ý nghĩa. Bạn “say nắng” người tu sĩ là chuyện bình thường, nhưng cần “thoát nắng” với nhiều ơn Chúa và quyết tâm nhé.
WHĐ (19/11/2024)
*** Đọc thêm bài:
Bài 101 - Cám dỗ nơi người tu sĩ Bài 124 - Độc thân khiết tịnh vì Nước Trời
Nt. Thùy Trang, DHM 05/12/2024 Hỏi: Phải chăng người trẻ khó hòa nhập lại sau những sai lầm mà họ gây ra, bởi họ khó đối diện với ngay chính người trong gia đình và trong xứ đạo có định kiến về họ? Trả lời:
Bạn mến, mình rất đồng cảm với bạn khi nghe câu hỏi của bạn – một câu hỏi thoát ra từ nỗi đau trong tim. Bạn muốn hỏi riêng cho người trẻ, nhưng có lẽ việc “hòa nhập lại sau những sai lầm” của bản thân thì khá khó khăn cho mọi người từ lão niên đến bé thơ, và trong nhiều nền văn hóa khác nhau. Mình chọn trả lời câu hỏi của bạn vì muốn cùng bạn chữa lành vết thương và gieo niềm hy vọng; bởi “không vị thánh nào mà không có quá khứ, và không tội nhân nào lại không có tương lai” (thánh Augustinô).
Chắc chắn mình không thể cùng bạn tháo gỡ được hết những rào cản tái hội nhập cộng đồng cho người đã mắc phải những sai lầm trong đời, nhưng muốn cùng bạn mở ra một cái nhìn mới.
Văn hóa hoàn hảo
Trong lối sống công nghiệp, mọi sự được tính toán cách khoa học và chính xác nhất có thể, giảm trừ những rủi ro sai lỗi tối đa để đạt hiệu năng tốt nhất. Bạn có thể nhận thấy sự hợp lý và độ chính xác từ công thức của gói mì ăn liền, đến những sản phẩm cao cấp nano. Con người cũng không nằm ngoài hệ thống đó. Chúng ta được giáo dục nhanh, nhạy, chính xác để theo kịp guồng máy và nhịp sống công nghiệp. Hiệu quả (effectiveness), hiệu suất (productivity), hiệu năng (efficiency) là những từ đắt giá. Hoàn hảo (perfection), người hoàn hảo (perfectionist), chủ nghĩa hoàn hảo (perfectionism) là lý tưởng ai cũng muốn đuổi theo!
Tuổi trẻ được quảng bá tối đa như là biểu tượng của sức mạnh và hạnh phúc. Trẻ em thì tiêu tốn nguồn lực, người già thì tiêu hao sắc đẹp và sự năng động. Thực phẩm chức năng và các thức uống tăng lực được khuyến khích sử dụng tối đa. Nhanh-mạnh-thắng! Trong thế giới đó hầu như không có chỗ cho những cảm xúc ủy mị, cho sự nhàn hạ, cho những giới hạn cá nhân về thể lực, tâm lý và thiêng liêng.
Xưa ta nói tới những khó khăn của những ai có “tiền án tiền sự” gặp phải khi đối diện với gia đình và cộng đồng. Với hệ thống số hóa trong việc quản lý thông tin cá nhân, CV (Curriculum Vitae) của ai đó mà “có vết đen” thì rất trắc trở cho hành trình nghề nghiệp kế tiếp.
Trong môi trường Công giáo, chúng ta đặt mục tiêu là vươn đến sự “trưởng thành toàn diện như Đức Kitô”, là nên thánh; nên mọi kitô hữu cũng phải “không tì vết”. Từng cá nhân và gia đình kitô hữu đều muốn mình không có bất cứ sai lầm nào để giữ được bộ mặt thánh thiện. Đâu đó bạn đã được nghe những câu chuyện về việc để giữ thể diện gia đình mà cha mẹ ép con gái mình phá bỏ cái thai lỡ lầm!
Văn hóa thử-sai
Có một kiểu văn hóa khác mô phỏng theo tiến trình tiến hóa tự nhiên và nghiên cứu khoa học, đó là thử-sai. Tất cả đều là thực nghiệm, rút tỉa kinh nghiệm rồi làm lại. Để kiểm chứng kết luận, người ta thử đi thử lại toàn bộ tiến trình thử-sai nhiều lần cho đến khi rút ra được một quy tắc nào đó.
Sàng lọc tự nhiên là quy luật Chúa thiết định nhằm đưa mọi sự tiến dần đến sự hoàn hảo hơn. Nghiên cứu khoa học là nỗ lực của con người để phát hiện ra những quy luật tự nhiên giúp cải thiện môi trường sống và đời sống con người.
Văn hóa thử-sai cho con người những được cơ hội tự tìm tòi cách thức thăng tiến đời sống và rèn luyện kỹ năng; khám phá và thử nghiệm những năng lực của mình, trong đó bao gồm việc sử dụng tự do quyết định. Bên cạnh đó, quá trình này gây ra một số tổn thất nhất định, và đôi khi rất nặng nề (ví dụ: bị nghiện ma túy chẳng hạn). Theo thiển ý, mình nghĩ có hai điều giúp giảm thiểu sự tổn thất, đó là giúp cá nhân nhận biết đôi điều hệ trọng không được thử-sai, và những thứ có thể thử-sai thì đừng thử đi thử lại toàn bộ tiến trình trên con người.
Văn hóa đồng hành
Để giúp nhau nhận biết đôi điều hệ trọng không được thử-sai thì cần đến văn hóa đồng hành. Bạn được đồng hành trong gia đình, nơi nhà trường, trong những nguyên tắc xã hội và pháp luật. Bạn cũng có thể được đồng hành qua những mối tương quan chuyên nghiệp như tư vấn, đồng hành thiêng liêng.
Nhà đồng hành không những cần có nền tảng vững chắc về nguyên tắc đạo-đời, mà còn cần có tầm nhìn về con người. Những nhà đồng hành thiêng liêng cần có cái nhìn của Chúa về con người thì mới có thể giúp người khác vượt qua những định kiến thông thường, những nguyên tắc thông thường.
Xin kể hầu bạn câu chuyện về trường hợp cháu trai mình. Khi đọc thấy câu hỏi của bạn, câu chuyện của cháu lập tức dội về trong tâm trí mình. Mình đã xin phép cháu cho phép dùng câu chuyện để làm ví dụ cho bạn.
Cháu trai mình thời trẻ trâu khá ham chơi, lại ít đam mê học hành nên đã nhanh chóng trở thành một game thủ. Bạn ấy không nổi tiếng như nhiều game thủ khác, nhưng chắc chắn bạn ấy đã rất vui vì được thỏa sức tung hoành trong thế giới ảo. Kết quả là bạn ấy đã bỏ học ngang giữa năm lớp 11. Những bài học trên trường, những bạn bè ở lớp, những sinh hoạt giáo xứ chẳng còn chút cuốn hút bạn; ngoại trừ những nhân vật trong game điện tử.
Cuộc đời đưa đẩy bạn ấy đến với cuộc duyên tình thứ hai với một cô bạn gái duyên dáng và khéo léo. Và bạn này cũng đã đi qua một sóng gió quá lớn: mang thai lớp 11, chấp nhận trốn đi xa, nghỉ học để sinh con; rồi quay lại trường học tiếp!
Liệu rằng cháu trai mình có còn cơ hội làm lại cuộc đời sau khi phạm sai lầm? Liệu rằng bạn nữ kia có còn cơ hội để tìm được hạnh phúc đích thực cho đời mình sau lầm lỡ? Cuộc tình của các cháu rơi vào căng thẳng trước làn sóng phản đối kịch liệt của cha mẹ và họ hàng. Sau một cuộc gặp gỡ ở quán cà phê để cùng chuyện trò với hai bạn, mình nhận ra nét đẹp tâm hồn và sự trưởng thành của cô bé; mình cũng nhận ra tình yêu chân thành mà hai bạn dành cho nhau. Mình ủng hộ cháu mình cho chọn lựa tiếp tục yêu thương và muốn lập gia đình cùng bạn nữ. Mình khéo léo chống đỡ hai cháu khi cần, và dịu dàng phân giải với những ai nhìn vào thấy toàn màu đen.
Dù chưa đi đến sự đồng thuận, đám cưới đã được diễn ra khi cô bé vào đại học năm Nhất như một giải pháp để chấm dứt mọi chống đối. Bạn có thể tin rằng cô con dâu là sinh viên đại học năm Nhất ấy đã có thể chinh phục được cha mẹ chồng cách ngoạn mục chỉ trong vòng ba tháng sống chung dưới một mái nhà không? Bạn có thể mường tượng được sự thay đổi tuyệt vời nơi game thủ nhà mình không?
Cuộc sống hôn nhân của hai cháu sau đó vẫn còn thách thức để chữa lành nhau, để giúp nhau vượt qua những cám dỗ nghiện, nhưng cũng thật nhiều hạnh phúc. Điều tuyệt vời hơn nữa là hai cháu có hai đứa con chung với nhau; nhưng nhân khẩu của nhà ấy là năm thành viên! Đó là kỳ tích của tình yêu chấp nhận nhau sau những sai lầm của đời mỗi người.
Bạn mến, “không vị thánh nào mà không có quá khứ, và không tội nhân nào lại không có tương lai.” – mong bạn hãy cho nhau một cơ hội nên thánh!
Hỏi: Giáo Hội có những thao thức thế nào với người trẻ?
Trả lời:
Chào bạn nhé,
Đây là câu hỏi khá rộng nhưng rất thực tế để cả người trẻ và Giáo hội cùng suy nghĩ. Giáo hội một cách hữu hình chúng ta có thể gọi tên: Giáo xứ, cha xứ, giáo dân, các vị chủ chăn, những người đồng trang lứa với bạn, v.v. Nói cách khác, đó là nhà của bạn, môi trường bạn lớn lên. Có thể vì lòng yêu mến Giáo hội nên bạn gợi lên cho Giáo hội lòng thao thức khôn nguôi dành cho người trẻ. Đọc câu hỏi của bạn, tôi nhớ đến lời của Giáo hội cũng thao thức cho người trẻ như sau:
“Tình yêu của Thiên Chúa và mối liên hệ của chúng ta với Đức Kitô hằng sống không ngăn cản chúng ta mơ ước, không đòi chúng ta phải thu hẹp chân trời của mình. Trái lại, tình yêu này thúc chúng ta, khuyến khích chúng ta, và đẩy chúng ta đến một cuộc sống tốt đẹp và tươi đẹp hơn. Từ “thao thức” tổng hợp nhiều khát vọng của con tim những người trẻ. Như Thánh Phaolô VI đã nói, “chính trong sự bất mãn đang hành hạ các con.... lại có một tia sáng”. Sự thao thức vì bất mãn, cùng với sự kinh ngạc về những điều mới lạ xuất hiện ở chân trời, mở ra một con đường cho sự táo bạo khiến các con phải đứng ra và gánh trách nhiệm trong một sứ vụ. Sự thao thức lành mạnh này, là điều trước hết đánh thức tuổi trẻ, vẫn là đặc điểm của mọi quả tim vẫn còn trẻ, sẵn sàng và cởi mở. Sự bình an nội tâm thật cùng đồng tồn tại với sự thiếu hài lòng sâu thẳm này. Thánh Augustinô đã nói: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa và tâm hồn chúng con không ngừng nghỉ cho đến khi chúng được an nghỉ trong Chúa”.[1]
Với khởi điểm trên đây, tôi xin chia sẻ với bạn vài thao thức chính của Giáo hội nhé:
1. Kinh nghiệm cá vị với Thiên Chúa
Mọi công việc mục vụ của Giáo hội nhằm giúp giáo dân, người trẻ gặp gỡ Thiên Chúa. Đó là sứ mạng chính của Giáo hội. Để làm được điều này, Giáo hội sẵn lòng cung cấp nhiều sân chơi cho người trẻ. Tùy vào hoàn cảnh và lứa tuổi, Giáo hội đồng hành và lắng nghe những thao thức của giới trẻ. Trong Giáo hội cũng có nhiều người rất hợp với người trẻ, có những người thích làm mục vụ với giới trung niên hoặc với những ông bà cụ. Tất cả là để giúp cho các linh hồn gặp gỡ Thiên Chúa. Để hoàn thành được thao thức này, một mặt Giáo hội tiếp tục lắng nghe người trẻ đang thao thức gì? Mặt khác, khi biết được thao thức ấy nhưng có khi Giáo hội không đáp ứng ngay được, nhưng chắc một điều Giáo hội cũng thao thức với người trẻ.
Càng thao thức, cả hai càng có cơ hội để gặp gỡ Thiên Chúa. Theo ngôn ngữ nhà đạo: “Khi chúng ta khao khát gặp Thiên Chúa, cũng là lúc chúng ta cầu nguyện rồi.” Đừng quên chính bạn cũng thao thức cho Giáo hội phát triển và đưa nhiều người gặp Thiên Chúa. Trong bầu không khí này, bạn sẽ không lạc lõng, nhưng tạo nên một cộng đoàn củng cố niềm tin và tiếp tục tin yêu Thiên Chúa. Do đó, bạn càng thao thức gặp Thiên Chúa, càng cảm thấy Giáo hội cũng có một lòng thao thức này. Rồi đến một ngày, hy vọng bạn cảm nhận rõ rằng: “Lạy Chúa, con cảm thấy Ngài thật gần, trong tim của con, trong gia đình và trong giáo xứ của con.”
2. Tham gia và đóng góp
Đây là lời mời gọi tương đối mạnh mẽ của Giáo hội dành cho người trẻ. Một mặt các vị chủ chăn cởi mở hơn, lắng nghe và cộng tác hơn với người trẻ. Mặt khác trong tiến trình hiệp hành, phần đông tín hữu (nhất là người trẻ) cảm thấy vui, vinh dự và hạnh phúc khi được tham gia phục vụ nhà Chúa. Những buổi gặp gỡ giúp người tín hữu ý thức hơn về sự bình đẳng về phẩm giá cũng như trong hoạt động xây dựng Hội Thánh[2]. Trong tiến trình này, người trẻ cần ý thức mình là người đồng trách nhiệm với cha xứ để dựng xây Giáo hội địa phương. Điều này tuy còn mới, nhưng với năm tháng và với sự nỗ lực của người trẻ, Giáo hội sẽ trở nên nhà của mọi người.
Mở ngoặt nơi đây, nếu bạn còn gặp khó khăn với lời mời gọi này, xin cứ bình tĩnh để cùng nhau gỡ rối. Về phía người trẻ, chúng ta kiên nhẫn và quảng đại chia sẻ với cha xứ những thao thức của mình. Về phía cha xứ, như là những nhà lãnh đạo, lắng nghe và đón nhận những đóng góp của người trẻ. Chắc chắn giáo xứ không phải của riêng cha xứ, nhưng là thuộc về mọi người và cho mỗi người. Cha xứ cũng mong ước người trẻ trao dồi khả năng và mạnh dạn cống hiến trong tiến trình hiệp thông. Như Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nhận xét: “Cản trở lớn nhất của hiệp thông là “cái tôi” quá lớn của mỗi người, nhất là những người lãnh đạo. Vì thế lời mời gọi của Chúa Giêsu rất cần thiết lúc này: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29).
3. Truyền giáo trong truyền thông
Truyền giáo là sứ mạng của mọi Kitô hữu. Người trẻ dường như có một lợi thế hơn về truyền giáo với những phương tiện truyền thông. Tuy nhiên, Giáo hội vẫn luôn mong muốn người trẻ: “Trong thời đại truyền thông kỹ thuật số, việc vận dụng phương tiện truyền thông để loan báo Tin Mừng là đòi hỏi cần thiết.” Cả phía Giáo hội cũng cần đồng hành và lắng nghe tiếng nói giáo dân, theo thức của người trẻ, và kịp thời thông tin và hướng dẫn đời sống đức tin, giới thiệu vẻ đẹp của Tin Mừng. Để đạt mục đích này, chính người trẻ cũng cần gây ý thức và trao dồi về đạo đức truyền thông. Càng “gặp gỡ - lắng nghe - phân định”, người trẻ càng biết cách giới thiệu Thiên Chúa cho bạn bè và tha nhân trên các phương tiện truyền thông.
Mặt khác, Giáo hội cũng thao thức làm sao để người trẻ hiện diện thực cùng nhau. “Online” đôi khi kéo người trẻ lìa xa Giáo hội và Thiên Chúa. Chắc các bạn cũng đồng ý rằng Giáo hội muốn người trẻ gặp nhau “face to face, mặt giáp mặt”. Môi trường giáo xứ hẳn là chỗ để người trẻ gặp “offline”. Đây cũng là dịp để người trẻ lấy lại quân bình trước những vòng xoáy của môi trường online. Về mặt tâm lý, Giáo hội cảm thấy người trẻ hiện hiện một cách hữu hình. Sự gặp gỡ này giúp cho bầu không khí của Giáo hội địa phương thêm sinh động. Về mặt đức tin, Giáo hội không chắc “cầu nguyện online” sẽ giúp người trẻ gặp được Thiên Chúa và gặp được nhau.
4. Giáo hội muốn đi với các bạn trẻ
Người trẻ thật quan trọng biết bao. Hy vọng bạn cũng nhận ra tầm quan trọng của chính mình. Từ đó, bạn đưa mắt nhìn Giáo hội như một người thầy, người mẹ đang muốn đi cùng với bạn. Đối khi bạn thấy Giáo hội đi trước đoàn chiên. Mục đích là để hướng dẫn bạn đây. Đôi khi bạn thấy Giáo hội muốn đi giữa với các bạn để khích lệ và nâng đỡ. “Sự gần gũi tạo điều kiện cho Giáo hội trở thành không gian đối thoại và làm chứng cho tình huynh đệ hấp dẫn.”[3] Nhưng nhiều khi Giáo hội chủ động đi sau để giữ gìn sự hiệp nhất trong cộng đoàn của chúng ta.
Chúng ta sẽ ngạc nhiên khi người điều hành Giáo hội (Giáo hoàng) nhắn với người trẻ: “Cha sẽ rất vui khi thấy các con chạy nhanh hơn những người chậm chạp và sợ hãi. Hãy chạy và được thu hút bởi Dung Nhan yêu dấu ấy, là Dung Nhan mà chúng ta tôn thờ trong Bí tích Thánh Thể, và nhận ra trong thân xác của những anh chị em đau khổ của chúng ta. Nguyện xin Chúa Thánh Thần thúc đẩy các con về phía trước trong cuộc chạy đua này. Hội Thánh cần động lực, trực giác và đức tin của các con. Chúng ta cần chúng! Và khi các con đến nơi mà Cha và những người khác chưa đến, hãy kiên nhẫn chờ đợi Cha và họ.”[4]
5. Muốn người trẻ nên thánh
Có lẽ đây là điểm cuối như là kim chỉ nam để người trẻ bước đi trong lòng Giáo hội. “Nên thánh không phải là ý tưởng mơ hồ.” – Giáo hội nhấn mạnh. Người trẻ ý thức Thiên Chúa kêu gọi mình trở nên thánh thiện. Chúng ta cũng được mời gọi như thế. Thực vậy, Giáo hội mời gọi mỗi người trên mọi nẻo đường của mình, hãy trở nên thánh “người này theo cách này, nhưng người kia thì theo cách khác”[5]. Chẳng hạn vì yêu mến Chúa Giêsu, bạn cố không nói hành nói xấu. Vì muốn thao thức cùng Giáo hội, bạn cố gắng chu toàn bổn phận của mình.
Tôi thấy người trẻ cần tránh hai thái cựu nguy hiểm này:
- Thế gian là chốn đọa đày. Chúng ta phải thoát tục, rời xa thế giới, loại bỏ những gì là phàm tục để hướng đến thế giới thánh thiêng. Người cực đoan hơn cho rằng: “Không có chuyện thánh thiện trong xã hội này, trong công việc làm ăn, trong những chuyện hằng ngày đều nhuốm mùi tội lỗi.” Họ muốn tách bạch chuyện đạo và chuyện đời. Muốn nên thánh, họ phải thoát đời, phải học hành, dấn thân sâu vào thế giới thiêng liêng như những thần học gia. Trước thực trạng này, Thánh Gioan Phaolô II đã cảnh báo tất cả những ai có khả năng học cao biết rộng trong Giáo hội, trước cơn cám dỗ muốn nâng niu “một cảm giác ưu việt nào đó trên các tín hữu khác”.
- Tôi muốn nên thánh mà thậm chí không cần Thiên Chúa giúp. Ý chí đóng vai trò quan trọng hơn cả ân sủng của Thiên Chúa. Đức Giáo hoàng diễn tả điều này bằng một cụ từ: “Một ý chí thiếu khiêm tốn”. Muốn nên thánh là điều kiện cần, nhưng điều kiện đủ là: nên thánh với một tinh thần khiêm tốn. Nói cách khác, ân sủng của Thiên Chúa phải đóng một vai trò quan trọng. “Người ta được chọn không phải vì muốn hay vì chạy vạy, nhưng vì được Thiên Chúa thương xót” (Rm 9,16), và cũng quên mất rằng, “Ngài đã yêu thương chúng ta trước” (1Ga 4,19).
Để lướt thắng hai kẻ thù trên đây, thao thức của Giáo hội là làm sao để dẫn người trẻ đến với ba nhân đức đối thần. Lý do là những nhân đức này luôn lấy Thiên Chúa làm đối tượng và nguyên lý. Đức Mến đứng trong trung tâm điểm của các nhân đức ấy. Điều thực sự đáng kể, như Thánh Phaolô nói, chính là “Đức Tin hành động nhờ Đức Ái” (Gl 5,6). Chúng ta được kêu gọi hãy lưu tâm tới Đức Ái: “Anh em đừng mắc nợ gì ai ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu thương thì đã chu toàn Lề Luật […]. Yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13,8.10). “Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi phải yêu thương người thân cận như chính mình” (Gl 5,14) (x. số 60).
Tạm kết
Hy vọng những chia sẻ trên đây giúp người trẻ hiểu hơn về Giáo hội. Càng dấn thân cùng thao thức với Giáo hội, bạn càng biết mình phải là gì. Chỉ có người vô cảm mới không cùng nhịp đập với tha nhân, hoặc với Giáo hội. Bạn không phải là người vô cảm, nhưng là một người con đồng cảm với Giáo hội. Cứ đối thoại và dấn thân để biết mình nên làm gì trong Giáo hội hiện nay, bạn nhé!
WHĐ (10/12/2024)
_____
[1] Tông Huấn Đức Kitô Sống số 138, https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tong-huan-christus-vivit-chua-kito-dang-song-38964
Lm. Giuse Lê Đắc Thắng, SJ 14/01/2025 Hỏi: Tại sao nhiều bạn trẻ hiện nay coi việc đi lễ là một gánh nặng, đi vì bổn phận hoặc là bị gượng ép, rất miễn cưỡng vậy ạ? Trả lời:
Mến chào bạn,
Thực ra vấn đề bạn nêu lên không chỉ đúng với người trẻ mà cả với những người “không còn trẻ” nữa. Trước khi tìm hiểu lý do tại sao giáo dân ngày nay thờ ơ với thánh lễ, tôi thiết nghĩ chúng ta nên xét xem những yếu tố nào giúp làm nên một thánh lễ sống động hấp dẫn. Rất có thể vì thánh lễ chúng ta thường tham dự còn thiếu một trong những yếu tố đó nên đã bớt đi phần ý nghĩa, thậm chí gây nhàm chán.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về thánh lễ tùy theo hướng tiếp cận, ở đây tôi chỉ xin giới thiệu một cách hiểu: Thánh lễ là cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và dân của Người. Nói như thế để hiểu rằng ngoài thánh lễ ra Thiên Chúa vẫn dùng nhiều cách khác để gặp gỡ và thông ban sự sống thiêng liêng cho con người. Tuy nhiên, cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và dân của Người được thể hiện một cách rõ nét và trọn vẹn nhất trong thánh lễ. Trong thánh lễ, dân Chúa kết hợp với chính Chúa Giêsu trong hy tế thập giá để dâng tiến cho Thiên Chúa Cha nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Theo cách hiểu như thế, chúng ta thấy có ba yếu tố làm nên thánh lễ cần bàn đến ở đây: Thiên Chúa, dân Chúa, và cuộc gặp gỡ.
Trước hết, về Thiên Chúa, chúng ta biết rằng trọng tâm của đức tin Kitô giáo hay Thiên Chúa giáo nói chung chính là việc thờ phượng và kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Đó là điều răn thứ nhất và cũng là quan trọng nhất mà chính Chúa Giêsu đã xác nhận. Một người có đức tin thực sự thì phải đặt Chúa làm trung tâm cuộc đời mình. Kinh nghiệm đức tin cho chúng ta biết mọi sự đều bởi Chúa mà ra. Mối tương quan với Thiên Chúa đóng vai trò nền tảng và chi phối tất cả mọi giá trị khác trong đời sống người tín hữu. Như thế, cả cuộc đời chúng ta thuộc về Thiên Chúa và quy hướng về Người. Để bất cứ thứ gì khác thay thế vị trí tối thượng của Thiên Chúa đều mang tội thờ ngẫu tượng. Trong thực tế nhiều lần thay vì hướng về Chúa thì chúng ta lại chiều theo sự dữ hay khuynh hướng xấu nơi bản chất yếu đuối của mình. Tuy nhiên, không phải vì thế mà lòng khao khát của con người được gặp gỡ Thiên Chúa bị dập tắt. Nói như thánh Augustinô, “linh hồn con khao khát cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa” (Agustinô, Tự thuật, số 1).
Giáo hội hiểu rõ rằng nỗi khao khát này cần được đáp ứng một cách đặc biệt qua việc cử hành thánh lễ. Do đó, Giáo hội “hằng bận tâm lo cho các Kitô hữu tham dự vào mầu nhiệm đức tin ấy, không như những khách bàng quan, câm lặng, nhưng là những người thấu đáo mầu nhiệm đó nhờ các nghi lễ và kinh nguyện: họ tham dự hoạt động thánh một cách ý thức, thành kính và linh động; họ được đào tạo bởi lời Chúa; được bổ sức nơi bàn tiệc Mình Chúa; họ tạ ơn Chúa; và trong khi dâng lễ vật tinh tuyền, không chỉ nhờ tay linh mục mà còn liên kết với ngài, họ tập dâng chính mình; và ngày qua ngày, nhờ Chúa Kitô là Trung Gian, họ được nên hoàn hảo trong sự hợp nhất với Thiên Chúa và với nhau, để cuối cùng Thiên Chúa trở nên mọi sự trong mọi người” (Công đồng Vatican II, Hiến Chế Phụng Vụ, số 48).
Bây giờ chúng ta sẽ xem xét yếu tố thứ hai, đó là “dân Chúa”. Trong Cựu ước, thuật ngữ “dân Chúa”, “dân riêng của Chúa” hay “dân thánh” là niềm tự hào của dân tộc Ít-ra-en, vì chính Chúa đã tuyển chọn dân này làm dân riêng của Người, ban lề luật và che chở bảo vệ họ qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử. Bước sang thời Tân ước, khái niệm “dân Chúa” được mở rộng cho tất cả mọi người có niềm tin vào Đức Giêsu Kitô. Trong thời Cựu ước, một trong những dấu hiệu xác định căn tính “dân Chúa” của dân tộc Ít-ra-en là việc giữ ngày Sa-bát, xét như là một thời gian nghỉ ngơi đặc biệt dành riêng để thờ phượng Thiên Chúa. Cũng vậy, đối với “dân Chúa” trong Tân ước, yếu tố xác định căn tính của họ chính là việc tham dự thánh lễ, đặc biệt là thánh lễ ngày Chúa nhật.
Như vậy, dù là thời nào đi nữa thì căn tính “dân Chúa” đều được đánh dấu bằng sự giải thoát con người tự do khỏi mọi bận rộn của cuộc sống để tập trung vào việc quan trọng nhất đó là thờ phượng Thiên Chúa. Khi cử hành thánh lễ, dân Chúa sống trọn vẹn căn tính “thuộc về Chúa” của mình. Không gian thánh lễ không giới hạn trong bốn bức tường của nơi cử hành nghi thức phụng vụ như nhà thờ hay nhà nguyện. Thật vậy, người tham dự thánh lễ được nối kết trong mối dây hiệp thông với các thiên thần và các thánh trên thiên quốc cũng như với các linh hồn trong luyện ngục nữa. Tương tự như thế, thời gian thánh lễ không chỉ gói gọn từ thời điểm bắt đầu đến khi kết thúc nghi thức phụng vụ. Hy tế của Chúa Giêsu trên thập giá là hy tế đời đời, có giá trị xuyên thời gian, mọi người ở mọi nơi mọi thời đều được hưởng nhờ ân sủng được thông ban qua mỗi thánh lễ. Nói tóm lại, cả cuộc đời của chúng ta là một thánh lễ kéo dài bởi vì chúng ta là dân của Chúa, một dân chuyên lo việc tế tự bằng việc cử hành phụng vụ lẫn cử hành đời sống.
Yếu tố cuối cùng rất quan trọng giúp làm rõ ý nghĩa của thánh lễ chính là “cuộc gặp gỡ”. Chắc có lẽ không cần phải nói nhiều về điều này bởi vì ai trong chúng ta cũng đã từng có kinh nghiệm gặp gỡ người này người kia. Thường trong mọi cuộc gặp gỡ đều có hai hoạt động chính đó là trò chuyện đối đáp qua lại và việc chia sẻ giá trị vật chất hay tinh thần giữa các bên. Hai hoạt động này được diễn tả rất rõ nét trong nghi thức thánh lễ. Cụ thể, Thiên Chúa nói với dân Người qua Lời Chúa trong các bài đọc. Dân Chúa cũng đáp lại lời của Chúa qua các lời thưa đáp hoặc các lời nguyện được vị chủ tế thay mặt cộng đoàn xướng lên. Trong thánh lễ, lễ vật con người dâng lên Chúa chỉ là chút bánh chút rượu nhưng nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, bánh và rượu đó đã trở nên Mình và Máu Thánh của Đức Giêsu Kitô, là thương thực thiêng liêng nuôi sống con người. Ngoài ra, kinh nghiệm đời thường còn cho chúng ta thấy đôi khi có sự thay đổi lớn nào đó sau những lần gặp gỡ. Có người sẵn sàng trả rất nhiều tiền chỉ để được gặp gỡ hay dùng bữa với những nhân vật tài giỏi hay nổi tiếng là vì vậy. Nếu chúng ta thực sự gặp gỡ hay đụng chạm với chính Thiên Chúa trong thánh lễ, chắc chắn chúng ta sẽ cảm nhận được sự biến đổi sâu xa nơi tâm hồn mình.
Bạn thân mến, tôi đã cố gắng giúp bạn tìm hiểu về ý nghĩa của thánh lễ trước khi trả lời vấn đề bạn đặt ra, mục đích là để cho thấy sự khác biệt giữa lý tưởng và thực tế liên quan đến việc cử hành thánh lễ. Người trẻ ngày nay thờ ơ với thánh lễ là do nhiều nguyên nhân, cả khách quan lẫn chủ quan, làm cho những yếu tố mà chúng ta đã phân tích ở trên không thể hiện được đầy đủ ý nghĩa của chúng.
Trước hết là tình trạng thờ ơ với Thiên Chúa hay còn có thể nói là sự suy giảm đức tin nơi thế hệ trẻ Công giáo. Thời đại phát triển công nghệ thông tin truyền thông làm cho năng lượng sống của người trẻ bị phân tán khá nhiều so với thế hệ cha mẹ hay ông bà của họ. Nhịp sống hiện đại khiến con người ta khó có thể tập trung thinh lặng cầu nguyện trong một giờ đồng hồ. Việc tham dự thánh lễ hàng ngày gần như là không thể bởi vì người ta cảm thấy quỹ thời gian quá eo hẹp, một ngày 24 giờ vẫn chưa đủ để giải quyết sự bận rộn. Giữa nhiều hoạt động giải trí rất phong phú đa dạng thì việc đến nhà thờ trở nên quá nhàm chán. Trong một thế giới tràn ngập nhiều thông tin hấp dẫn thì việc học hỏi tìm hiểu giáo lý để đào sâu đức tin trở thành thứ yếu, thậm chí không còn quan trọng nữa.
Nói tóm lại, nếu Chúa không còn ở vị trí số 1 trong đời sống của người trẻ thì làm sao mong họ tha thiết đến nhà thờ được. Đúng như bạn quan sát, người trẻ có đi lễ thì họ cũng cảm thấy đó là gánh nặng tâm lý hơn là niềm vui của sự ý thức hay tự nguyện. Đó là thách đố của thời đại mà các bạn trẻ Công giáo phải đối diện và cố gắng vượt qua. Các vị chủ chăn trong Giáo hội cũng phải hiểu rõ bối cảnh thời đại để có những sáng kiến mục vụ phù hợp nhằm đồng hành tốt hơn với người trẻ.
Liên quan đến căn tính “dân Chúa”, phải thừa nhận là người trẻ ngày nay không có kinh nghiệm thuộc về Thiên Chúa một cách sâu xa và rõ nét như các thế hệ đi trước. Là “dân Chúa”, chúng ta không chỉ thuộc về Chúa mà còn liên đới với người khác trong Chúa nữa. Sự liên đới này được thể hiện một cách hữu hình qua việc con người quy tụ với nhau trong không gian nhà thờ để cử hành thánh lễ. Một lần nữa, bối cảnh thời đại lại đặt ra thách đố cho người tín hữu, đặc biệt là người trẻ, sống căn tính “dân Chúa” của mình. Chưa cần phải nói đến sự liên đới trong cùng một đức tin, mối dây liên kết giữa người với người trong xã hội ngày nay cũng đang bị suy giảm trầm trọng khi người ta thường tương tác với nhau qua màn hình vi tính hay điện thoại hơn là gặp gỡ trực tiếp. Tâm hồn con người ngày càng trở nên khép kín hơn, ít quan tâm đến người khác hơn.
Hệ quả là có nhiều giáo dân thích ngồi ngoài hành lang hay gốc cây để tham dự thánh lễ dù trong nhà thờ còn nhiều chỗ trống. Người ta không có nhu cầu ngồi gần bên người khác trong nhà thờ bởi vì họ không cảm nhận được tình liên đới. Đó là chưa kể ngày nay thành phần tham dự thánh lễ không chỉ giới hạn trong một khu vực địa lý như làng xã ngày xưa nữa mà từ nhiều nơi khác đến. Họ tham dự thánh lễ chỉ để chu toàn luật buộc chứ không cần quen biết ai trong giáo xứ. Như vậy thánh lễ kém hấp dẫn là đúng rồi, vì người ta không cảm thấy mình thuộc về một dân riêng nào cả. Đối với những người như thế thì thánh lễ là của ai đó khác, là việc của các cha, các Sơ, của ca đoàn hay hội đồng giáo xứ, họ chỉ là khách tới dự lễ rồi ra về thôi. Thánh lễ chỉ trở nên hấp dẫn với bạn trẻ nếu các bạn thực sự sống kinh nghiệm thuộc về giáo xứ, thuộc về một cộng đoàn dân Chúa, nơi mà họ được đón nhận và trao cơ hội tham gia cộng tác trong công việc chung.
Cuối cùng, việc thiếu kiến thức nền tảng giáo lý và thói quen đạo đức hời hợt cũng làm cho người trẻ khó có được kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa ngang qua thánh lễ. Các bài đọc Lời Chúa thường không được chú tâm lắng nghe vì nội dung xa lạ, khó hiểu với các bạn. Có những nghi thức phụng vụ các bạn chỉ làm theo người ta vậy thôi chứ không hiểu ý nghĩa, không mang chút tâm tình nào. Các bài thánh ca chẳng mấy quen thuộc chỉ dành cho ca đoàn, các bạn chẳng cần để ý. Việc xướng đáp trong thánh lễ cũng vậy, không liên quan.
Công đồng Vatican II đã nhấn mạnh rất nhiều đến việc tham dự thánh lễ một cách ý thức, điều vốn tạo nên một bước ngoặc trong lịch sử phát triển của phụng vụ. Trước đó giáo dân chỉ “xem lễ” theo đúng nghĩa đen, bởi vì thánh lễ hoàn toàn bằng tiếng Latin, người ta có đối đáp được ít câu thì cũng chỉ là thuộc lòng chứ không hiểu ý nghĩa. Sau Vatican II thì khác, chúng ta “tham dự” chứ không còn là “xem lễ” nữa. Tất cả mọi thành phần dân Chúa đều được mời gọi tham gia vào việc cử hành thánh lễ cách tích cực và sống động đúng theo vai trò của mình. Tiếc thay nhiều bạn trẻ hiện nay chưa sống đúng tinh thần đó, có thể một phần chưa được hướng dẫn kỹ càng hoặc một phần do thói quen. Vì không được đụng chạm Thiên Chúa nên các bạn chưa cảm nếm được hương vị đức tin ngọt ngào của thánh lễ.
Bạn thân mến, những gì chúng ta vừa trao đổi ở trên không làm cho chúng ta bi quan hay trách móc các bạn trẻ. Trái lại, khi hiểu rõ nguyên nhân cũng như thực trạng của việc các bạn trẻ Công giáo thờ ơ với thánh lễ, chúng ta càng thông cảm hơn cho các bạn và nhận ra những việc cần phải làm để giúp các bạn trẻ yêu thích đến gần với Chúa qua thánh lễ nhiều hơn. Giáo hội là cộng đồng dân Chúa, mà thánh lễ là cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và dân của Người. Do đó tất cả chúng ta đều có trách nhiệm chung tay xây dựng Giáo hội ngày một trẻ trung, năng động và hấp dẫn hơn nhờ việc làm tươi mới cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa trong tư cách cá nhân cũng như cộng đoàn, được thể hiện một cách đặc biệt rõ nét qua thánh lễ.
WHĐ (05/02/2025) - Hỏi: Thánh Vịnh dùng để cầu nguyện và ca tụng Thiên Chúa; tuy nhiên có một số thánh vịnh nói lên sự thù hằn, nguyền rủa, không hợp với tình yêu thương tha thứ. Phải hiểu điều này như thế nào? Trả lời: Bạn đã đưa ra một câu hỏi rất chính đáng, một vấn đề cần được tìm hiểu và đào sâu đối với những ai yêu mến Lời Chúa và yêu thích cầu nguyện. Dù sự hiểu biết còn nhiều hạn chế, nhưng người viết vẫn mạnh dạn chia sẻ với bạn đôi chút về chủ đề này.
Thánh Vịnh, một phần của Kinh Thánh Cựu Ước, gồm 150 bài ca để ca tụng Thiên Chúa. Đây là sách mà Lời Chúa đưa mỗi người chúng ta đi vào một cuộc đối thoại với Thiên Chúa. Bởi vì qua các Thánh Vịnh, chính Thiên Chúa đang dạy chúng ta biết cách thưa chuyện với Ngài. Chính Ngài ban cho chúng ta những lời để ta có thể dùng mà thưa chuyện với Ngài. Thật là kỳ diệu, lời con người thưa với Thiên Chúa lại chính là Lời Chúa!
Qua các Thánh Vịnh, ta có thể thấy mọi tâm tình nhân loại trong cuộc sống đều được trình bày trước nhan Thiên Chúa: tâm tình tạ ơn, tâm tình tán tụng, niềm vui sướng hân hoan, nỗi sợ hãi và sự khắc khoải, tiếng kêu than não nề, tiếng lòng thổn thức, sự phẫn uất… tất cả đều được nói tới ở đây. Qua đó, chúng ta thấy toàn thể cuộc sống con người trở thành một cuộc đối thoại với Thiên Chúa, Đấng đang nói và đang nghe, đang mời gọi và hướng dẫn cuộc đời chúng ta.
Trong phụng vụ Do thái giáo, các Thánh Vịnh có một vai trò rất quan trọng. Giáo hội Công giáo cũng đã kế thừa và sử dụng Thánh Vịnh trong phụng vụ của mình. Tuy nhiên, việc đọc Thánh Vịnh đối với các tín hữu Kitô giáo gặp không ít khó khăn, nhất là các Thánh Vịnh được gọi với cái tên khá… chướng: “Thánh Vịnh nguyền rủa”, như bạn đã thấy đấy, với nhiều lời lẽ dường như trái nghịch với lương tâm Kitô hữu chúng ta.
Gọi là Thánh Vịnh nguyền rủa, vì trong đó chứa những lời lẽ đầy căm giận oán hờn với kẻ thù, mong cho chúng bị tiêu diệt:
Lạy Thiên Chúa, xin đánh chúng bể miệng gãy răng, Xin cho chúng biến đi như nước chảy và héo tàn như cỏ đạp dưới chân (Tv 58,7.8)
Cũng có khi tác giả Thánh Vịnh mong cho kẻ thù phải sống mà chịu muôn ngàn tai họa, sống không bằng chết:
Xin Chúa đừng giết chúng, kẻo dân của con lãng quên đi. xin dùng sức mạnh bắt chúng phải lang thang (Tv 59,12).
Ước gì mắt chúng mù đi không thấy nữa, và lưng sụm xuống đến mãn đời. (Tv 69,24)
Nhưng ghê rợn nhất có lẽ là những lời sau đây:
Gái Ba-by-lon hỡi, đồ trời tru đất diệt! Phúc thay người xử lại với mi, như mi đã xử với ta! Phúc thay người bắt những con thơ của mi mà đem đập vào đá. (Tv 137,8-9)
Phải hiểu thế nào về các Thánh Vịnh nguyền rủa này?
Là Kitô hữu, chúng ta được học về 14 mối thương người, được nghe Tin Mừng, nghe biết bao những giáo huấn yêu thương của Chúa Giêsu, nên khi lần giở những trang Thánh Vịnh, chúng ta không khỏi ngỡ ngàng về tính bạo lực của nó. Bạn đã rất có lý do để đưa ra câu hỏi: “Như vậy thì sự đồng nhất ở đâu?”
Bạn thân mến, để có thể hiểu được các Thánh Vịnh, cũng như khi muốn tìm hiểu một bản văn ngoại quốc cổ, chúng ta phải xem nó thuộc loại văn nào, phải đặt mình vào khung cảnh địa lý, lịch sử, phải tìm hiểu ngôn ngữ, phong tục, tôn giáo của nước ấy thì mới hiểu đúng được nội dung nó chuyển tải. Ở đây chúng ta xem xét sơ qua vài yếu tố căn bản.
Về Văn hóa: Trước hết, chúng ta cần hiểu rằng nguyền rủa là một đặc trưng của văn hóa và văn chương Do Thái. Người Do Thái rất thích dùng lối nói phóng đại, nói “quá lời”. Trong lúc căm giận, có khi tác giả đã dùng những kiểu nói quá khích, mà thực ra ông không có ý như vậy. Tương tự như ở Việt Nam chúng ta, nơi có nhiều người vẫn hay nói những câu từ rất khủng khiếp như: “đồ mắc dịch”, “tao vặn cổ mày bây giờ”, hay “tao mà biết đứa nào tao xé xác”, v.v.. Những kiểu nói ngoa ngoắt này chúng ta nghe đã quá quen nên không thấy có gì ghê gớm. Nhưng nếu dịch chúng sang tiếng ngoại quốc, người nước ngoài nghe thấy thế chắc sợ lắm.
Cũng nên nhắc lại điểm giáo lý này, là: từ bình diện nhân loại, Kinh Thánh là tổng hợp những tác phẩm của nhiều tác giả nhân loại. Họ là những con người cụ thể, sống trong một thời đại cụ thể, với những vấn đề của thời đại và có những khả năng hạn chế của mình. Công đồng Vatican II xác định: "Để viết các Sách Thánh, Thiên Chúa đã chọn những con người và dùng họ trong khả năng và phương tiện của họ, để khi chính Người hành động trong họ và qua họ, họ viết ra như những tác giả đích thực…" (MK.11).
Về Lịch sử: Israel là một dân tộc nhỏ bé luôn bị đàn áp, bách hại bởi các đế quốc hùng mạnh chung quanh, một dân tộc đã phải chịu rất nhiều cay cực vì những cuộc chiến tranh khắc nghiệt.
Kẻ thù con lòng chai dạ đá, mở miệng ra là ngạo mạn khinh đời. Rầm rập tới, kìa chúng đã bao quanh, mắt trừng trừng, như muốn quật con xuống đất, thật giống loài sư tử chực nuốt sống ăn tươi, hệt như con mãnh thú rình rập ở bụi bờ. (Tv 17,10-12)
Họ bị ngược đãi với những tội ác ghê rợn, như được miêu tả trong sách ngôn sứ Giêrêmia:
Mắt tôi hãy tuôn trào suối lệ cả ngày đêm không ngớt, vì trinh nữ cô gái dân tôi đã bị đánh nhừ đòn, vết trọng thương hết đường cứu chữa. Tôi bước ra đồng nội: này kẻ chết vì gươm, quay trở lại đô thành: nọ bao người đói lả. (Gr 14,17-18)
Bạn thử nghĩ coi, sống trong hoàn cảnh như thế, lẽ nào người ta không uất hận. Chứng kiến gia đình mình, con cháu mình, dân tộc mình bị tàn sát như thế, lẽ nào người ta không nguyền rủa.
Lạy CHÚA, xin đứng dậy, ra nghênh chiến, quật ngã quân thù, vung bảo kiếm, cứu mạng con cho khỏi ác nhân. Lạy CHÚA, xin thẳng tay khai trừ bọn chúng khỏi thế giới loài người, khỏi chốn dương gian. (Tv 17,13-14)
Ai chưa sống trong hoàn cảnh đau thương sẽ khó mà hiểu được nỗi đau thương nó lớn lao như thế nào, sức mạnh của sự dữ đáng sợ ra sao. Nó có thể vượt cả sức chịu đựng và lòng khoan dung của con người. Trong tình cảnh ấy, người Do thái đã mong đợi sự công minh của Thiên Chúa, họ đã chỉ đòi hỏi công lý chứ không có tâm địa gì xấu xa. Đây là một đòi hỏi chính đáng. Nếu bạn đã xem phim Bao Công xử án, bạn sẽ thấy công lý quan trọng như thế nào. Nhân vật Bao Công được người đời kính sợ, vì ông xét xử rất thẳng thắn, chí công vô tư. Kinh Thánh nhìn nhận nơi Thiên Chúa, Đấng tối cao, chức năng thi hành công lý ấy. Mà theo lẽ công bằng, sự dữ phải bị luận phạt, và những nạn nhân phải được bồi thường.
Về Tôn giáo: Đối với Do thái giáo, ít là vào thời mà các Thánh Vịnh được viết, niềm tin về cuộc sống đời sau còn rất mơ hồ. Đọc các Thánh Vịnh, bạn sẽ thấy thiếu vắng một niềm tin về đời sống tương lai với Thiên Chúa. Mãi cho đến thời quyển Macabê thứ II được viết vào khoảng năm 124 TCN, chúng ta mới gặp thấy chứng tích về niềm tin vào sự sống lại (chương 7), và chứng tích về việc cầu nguyện cho người đã qua đời được thúc đẩy bởi niềm tin vào sự phục sinh (chương 12). Chính vì chưa được mạc khải về cuộc sống đời sau, nên điều người Do thái quan tâm là đời sống hiện tại của họ. Vì vậy, họ mong nhìn thấy công lý được thực hiện đến nơi đến chốn ngay ở đời này. Họ cầu nguyện cho công lý ấy được thực thi.
Nhưng cũng chính ngay trong những lời cầu nguyện mang tính nguyền rủa ấy, các tác giả Thánh Vịnh đã nói lên niềm cậy trông vào Thiên Chúa. Những tâm tình ấy chỉ có thể phát xuất từ những tâm hồn sáng suốt và đạo đức. Lời cầu nguyện của họ chính là lời tuyên xưng vào tình yêu và quyền năng của Chúa, chỉ mình Ngài mới có thể giải thoát họ khỏi sự dữ. Đây chính là lời cầu nguyện chân thật nhất mà người ta có thể dùng để bày tỏ lòng mình với Thiên Chúa.
Chúng ta đang sống trong một hoàn cảnh tương đối yên ổn, một môi trường tương đối văn minh, một tinh thần bác ái Kitô giáo đã được lan tỏa rộng rãi, khi đọc Thánh Vịnh, chúng ta cần có sự thấu hiểu để có lòng thương cảm hơn là phê phán.
Đọc Thánh Vịnh như thế nào?
Trong phụng vụ, Giáo Hội đã thận trọng lựa chọn những Thánh Vịnh phù hợp để đưa vào phần Đáp ca trong các Thánh Lễ cũng như trong các giờ kinh phụng vụ, nên chúng ta không phải lo ngại nhiều về chuyện gương mù gương xấu. Chỉ khi đọc trực tiếp từ bản văn Kinh Thánh chúng ta mới gặp tất cả những Thánh Vịnh Nguyền Rủa này. Với tư cách là Kitô hữu, những người sống trong thời Tân ước, chúng ta cần phải vượt qua những quan niệm hạn hẹp của thời Cựu Ước để có thể đọc Thánh Vịnh với một ý nghĩa dồi dào hơn.
Như đã nói: Thánh Vịnh là lời kinh của một thời đại khác, thời Cựu Ước, trong đó có gói ghém một mạc khải chưa hoàn chỉnh. Mạc khải ấy chỉ được kiện toàn nơi Chúa Giêsu, Đấng đã nói: “Thầy đến không phải là để bãi bỏ lề luật Cựu Ước, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17). Và Ngài đã dạy như thế này: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi” (Mt 5,38-42). Đây mới chính là điều mà chúng ta phải thực hiện.
Sâu xa hơn một chút, chúng ta có thể thấy dường như chính Chúa Giêsu là Đấng đã tự mình hứng chịu mọi lời nguyền rủa ấy, bởi vì Người đến là để “gánh tội trần gian”: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành” (1Pr 2,24). Vì thế, khi đọc Thánh Vịnh nguyền rủa chúng ta phải nhận ra được sự hy sinh cao cả của Chúa, sự tha thứ Chúa dành cho nhân loại và cho chính chúng ta. Vì, lẽ ra tôi cũng đáng bị nguyền rủa do bao tội lỗi mình đã phạm, nhưng Đức Giêsu đã mang lấy vào thân Ngài rồi.
Hãy nhìn nhận Thánh Vịnh nguyền rủa chính là những tiếng gào thét từ khổ đau. Nếu bản thân bạn đang đau khổ, thì có thể áp dụng lời Thánh Vịnh vào hoàn cảnh cụ thể của mình; Nếu bạn đang hạnh phúc, thì hãy cầu nguyện cho những người đang đau khổ. Khi ấy bạn ngỏ với Thiên Chúa bằng những lời than van của tất cả những người đang bị nghiền nát bởi sự dữ. Đó là hành vi bác ái trong cầu nguyện.
Hãy hiểu lời Thánh Vịnh theo nghĩa ẩn dụ. Chẳng hạn khi đọc đến câu “xin đánh chúng bể miệng gãy răng…” thì chúng ta xin Chúa chặn đứng ngay sự dữ đang chực chờ làm hại mình. “Chúng” ở đây không là ai hay nhóm người nào, mà là “sự dữ” bao gồm ma quỷ, những trào lưu xấu của xã hội, và cả những đam mê xấu của chính bản thân mình. Đó mới là những kẻ thù thực sự của chúng ta. Cần phải chặt chân, chặt tay, móc mắt nó đi (x. Mt 9, 43-47).
Hãy phó thác cho Thiên Chúa những mối hiềm khích, những mối thù hận nếu có của mình. Khi bị ai đó làm hại, chúng ta không ăn miếng trả miếng với họ, nhưng chúng ta có thể giãi bày với Thiên Chúa. Phần Thiên Chúa, Ngài là Đấng rất công minh, nhưng cũng là một người cha yêu thương của tất cả mọi người. Ngài sẽ có cách giải quyết theo sự khôn ngoan vô cùng của Ngài. Và với quyền năng vô hạn, Ngài có thể biến sự dữ thành sự lành cho chúng ta.
Cuối cùng, chúng ta hãy noi gương các tác giả Thánh Vịnh mà chân thành, thân thương dâng lên Chúa mọi tâm tình, mọi nỗi niềm trong cuộc sống nhân sinh của chúng ta, theo như lời Kinh Thánh: “Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em” (1Pr 5,7).
Tài liệu tham khảo:
1) Tông Huấn Verbum Domini (Lời Chúa) của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI. 2) Dẫn Nhập Sách Thánh Vịnh, của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ. 3) Tìm hiểu Thánh Vịnh của Lm. Phaolô Nguyễn Quang Thanh, CM.
Hỏi: Thưa cha, con thấy việc xưng tội rất khó khăn ạ. Dù biết rằng bản thân con nhiều tội lỗi, nhưng mỗi lần xét mình, con không thể nhớ hết các tội con đã phạm và số lần vi phạm. Và đôi khi con lại không biết phải xưng tội gì. Vậy xin cha hướng dẫn lại cho chúng con cách xưng tội sao cho đúng, và hướng dẫn chúng con những tội hay phạm cần xưng tội mà chúng con thường hay bỏ qua được không ạ. Con cảm ơn cha.
Trả lời: Có rất nhiều điều cần nói trong câu hỏi này. Thứ nhất, chúng ta hiểu tội là gì đã. Có nhiều cách nhìn nhưng có thể hiểu tội là những gì gây thiệt hại, cho mình hay cho người khác, về phần xác hay phần hồn. Như vậy, chẳng có tội nào mà không gây hại cả. Ai cũng muốn xác hồn khỏe mạnh, vậy phải tránh tội.
Điều ghi nhận thứ hai là đôi khi chúng ta gây hại mà không biết, thế nên cần có người chỉ ra cho chúng ta cái đó là hại đấy, cái đấy ‘tội’ đấy. Vậy chúng ta phải cám ơn người chỉ ra tội cho chúng ta. Quả vậy, giả sử xóa bỏ các giới răn thì chúng ta vẫn phạm tội thôi, vì những hành động sai trái của chúng ra tự nó gây hại. Giới răn chỉ là cái chỉ ra. Dòng chữ ‘không được uống’ trên chai thuốc độc không phải là cái gây ra độc, nhưng cái gây độc chính là chai thuốc. Thế nên, tháo bỏ nhãn đi thì cũng vậy. Nhưng cám ơn người đã dán nhãn để chúng ta biết mà tránh. Chúa là đấng thông mình và thấu suốt, Chúa đã dán những cái nhãn chai để hướng dẫn con người. Vậy phải siêng năng đọc ‘nhãn chai’ bằng cách siêng năng học hỏi Lời Chúa và giáo lý, siêng năng đọc kinh cầu nguyện.
Vậy muốn mình và người khác tránh khỏi việc bị chính những hành động của mình gây hại, chúng ta phải xem xét những hành động chúng ta làm xem coi chúng có tốt không. Có hai cách xem xét: với những người thông thường thì xét theo 10 điều răn của Chúa, 5 điều răn Hội Thánh, xét theo bổn phận của mình (là cha, mẹ, con cái), theo nghề nghiệp… Ở mức cao hơn, mình xét xem trước tình yêu của Chúa, với tư cách là con cái của Chúa, mình đã sống như thế nào? Tức ở mức độ một giống như một đứa bé xét xem nó có chu toàn những gì bố mẹ dặn không. Mức độ hai vượt trên bổn phận mà cha mẹ giao, nhưng xét thấy bố mẹ già yếu mà vẫn phải làm, mình lớn rồi có thể phụ giúp được gì không?
Nói chung lại chúng ta đặt mình trước cùng đích của cuộc đời: mục đích cuối cùng là lên thiên đàng về với Chúa và giúp nhiều người về với Chúa. Tôi đã làm việc này ra sao? Tôi phải sửa điều gì đây? Thế rồi bản thân quyết tâm sửa lỗi (đây là lòng thống hối đích thực). Rồi bạn đi xưng tội. Đi xưng thì bạn cứ sắp xếp những tội mình sao cho có trật tự xíu để các cha dễ hiểu, nhưng nếu không được cũng không sao, đến giãi bày tâm hồn liên quan đến những gì mình nghĩ là tội cho các cha nghe. Và các cha được học hành sẽ phân tích cho bạn thấy đâu là tội nặng và đâu là nhẹ cùng cho những lời khuyên. Về số lần bạn không nhớ được thì xưng ước chừng, khoảng bao nhiêu lần; những tội mình không biết hay không nhớ thì “con xin xưng những tội con quên sót’.
Điều quan trọng là chúng ta biết rằng Chúa Giêsu lập Bí tích Hoà giải không dễ đâu. Chúa đã phải chấp nhận chịu đánh đòn, chịu đóng đinh, chịu chết, đổ máu ra để đền bù và thanh tẩy tội lỗi chúng ta. Thật vậy, Ngôi Lời đã làm người, chịu nạn, chịu chết và sống lại để cứu độ chúng ta, bằng cách giao hòa chúng ta với Thiên Chúa: Thiên Chúa “đã yêu thương chúng ta và sai Con của Ngài đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4,10). “Chúa Cha đã sai Con của Ngài đến làm Đấng cứu độ thế gian” (1 Ga 4,14). “Chúa Giêsu đã xuất hiện để xoá bỏ tội lỗi” (1 Ga 3,5). Và thánh Grêgôriô Nyssenô giải thích: “Bản tính chúng ta vì bệnh tật nên cần được chữa lành, vì sa ngã nên cần được nâng dậy, vì đã chết nên cần được phục sinh. Chúng ta đã đánh mất việc thông phần vào sự thiện, nên cần được dẫn trở về sự thiện. Chúng ta bị vây hãm trong bóng tối, nên cần đến ánh sáng. Chúng ta bị tù đầy nên mong người cứu chuộc; bị thua trận, nên cần người trợ giúp, bị áp bức dưới ách nô lệ nên chờ người giải phóng” (Giáo lý Hội thánh Công giáo số 457). Một ví dụ đơn giản mang tính ẩn dụ cho dễ hiểu, là khi chúng ta có tội, thì ví như chúng ta nợ tiền lớn, bị ma quỷ đến “đòi, chửi bới và bắt làm nô lệ”. Chúa đã phải “bán” Con mình, và người Con ấy đã chịu mọi đau khổ để “chuộc” chúng ta về. Điều đáng mừng là cái chết của người Con ấy đem lại một “khoản tiền cực lớn”, “tiêu không bao giờ hết”, “có khả năng chi trả mọi khoản nợ”. Thế nên đến muôn đời, ai phạm tội, tức mắc nợ nần, cứ đến lấy tiền đó mà trả. Điều đáng buồn nhất là Chúa Con đã chết, có tiền rồi mà người ta vẫn không đến, cứ để mình làm nô lệ.
Thế nên khi đến với Bí tích Hòa giải với lòng hống thối và quyết tâm chừa tội, chúng ta được ơn tha thứ và giao hòa với Chúa ngay. Nhưng cần nói thêm, Bí tích Giao hòa chỉ cứu chúng ta khỏi tay ma quỷ để đi vào tương quan với Chúa thôi, chứ những hậu quả của tội thì chúng ta phải đền và khắc phục ở đời này lẫn đời sau. Ví dụ, bạn bỏ học đi chơi đấy là tội. Xưng rồi thì bạn vẫn không có kiến thức của những giờ mà bạn bỏ, bạn phải tìm cách học bù, hay phải chấp nhận ở lại lớp. Có những lỗi khác phải đền ở luyện tội nếu đời này đền chưa hết. Thế nên khi có ơn toàn xá hay đại xá chúng ta nhớ đi lãnh để tha toàn bộ hậu quả tội hay là vạ mà chúng ta đáng ra sẽ phải đền. Tuy nhiên có những hậu quả như đã nói, nghỉ học nên thiếu kiến thức, ăn chơi nên nhà nghèo… thì đấy là cái mà chúng ta phải chịu, chứ không thay đổi tức khắc được.
Tóm lại, bạn hãy sống thực với lương tâm của mình, để ngó lên không thẹn với trời, ngó xuống không hổ với lòng mình. Đồng thời bạn siêng năng đọc kinh cầu nguyện, suy niệm Kinh thánh, học giáo lý để soi sáng thêm cho lương tâm. Khi phạm tội thì đi xưng, tin vào lòng nhân lành của Chúa. Và đừng quên cầu xin: nguyện xin Chúa giúp con bắt đầu và lại bắt đầu. Kẻ kiêu ngạo tột cùng là người nghĩ họ chỉ bắt đầu một lần mà thôi.
Cô là người Philippines, tầm 40 tuổi, đang chăm sóc chồng vừa qua cơn phẫu thuật tim. Sau một hồi bẻ miệng uốn lưỡi, với sự trợ giúp của cô, bạn nó (Thầy Dòng) vẫn không đọc đúng tên chú. Số là tên chú được viết bằng chữ “bác sĩ” trong danh sách các bệnh nhân muốn được rước Mình Thánh Chúa hôm ấy. Mà thôi! Chuyện đó cũng thường tình ấy mà, như người Tây nói tiếng Việt ta vậy.
Chuyện kế tiếp mới vui!
Số là bạn nó thì mặc áo dòng, nhìn thánh thiện như thiên thần áo trắng vậy. Nó thì quần đen áo sơ mi, nên cũng không ai biết nó là ma sơ hết. Đi bên cạnh bạn nó, mà đôi lúc cứ như vào vai “Người Vô Hình” của ca sĩ Minh Hằng. Người ta, kẻ lui người tới cứ chào bạn nó là cha, là linh mục, chẳng có ai thèm chào nó một câu. Coi kìa! Nhìn bạn nó gật đầu và đáp từ thôi cũng đủ mệt. Nó cười an ủi: hên quá, không ai biết mình là ai! Khỏe!
Nhưng xui cho nó khi gặp cô….
Sau một hồi hỏi thăm bệnh tình của chú, cô được biết về bạn nó. Rồi cô kể một tràng những người cô quen biết. Kẻ đi tu rồi ra lập gia đình, người làm linh mục 5 năm rồi cũng đã có vợ và một con…Đời tu như linh mục ấy, nói như cô, là “gãy gánh, vì không qua được những cơn cám dỗ, tu hành rồi còn yêu đương lăng nhăng!” Và như để kết cho câu chuyện tu xuất mình vừa kể, cô nhìn bạn nó động viên:
- Thầy cố gắng nhé, đừng để sa chước cám dỗ. Hãy trung thành trong ơn gọi của mình!
Tưởng xong chuyện, ai dè cô quay sang nhìn nó, phán một câu nhớ lâu luôn đến giờ:
- Cô gái này, đừng bao giờ cám dỗ các thầy nhé, để thầy yên phận tu trì!
Thiệt là oan ức mà, nó đang muốn phân trần!!!! Nhưng rồi nó cũng nghịch nghợm đáp lại:
- Cô cũng hãy nói như vậy với thầy nhé, vì cháu cũng là ma sơ rồi đó!
Biết mình bị hố, cô liền quay sang thầy bạn:
- Vậy thầy cũng không được cám dỗ sơ ấy nhé, hai người đừng có mà rủ nhau lập cộng đoàn riêng nhe!
Và chúng tôi cùng cười, xin lời cầu nguyện cho nhau luôn trung thành trong ơn gọi và bậc sống của mình.
2. Chuyện tình của ông bà cố
Về đến ký túc xá, mồ hôi nhễ nhại. Nó quăng mình xuống giường và tiện thể suy nghĩ về cuộc hạnh ngộ sáng nay. Nghĩ… Sao Chúa hay vậy ta? Dựng nên con người có đôi có cặp, Adam ở đâu, Eva ở đó. Khi vui sướng trong vườn địa đàng cũng như khi đau khổ vì sa ngã bất trung, họ luôn khắng khít bên nhau. Nhìn tía má nó kìa, cãi nhau chí chóe rồi lát lại ông ơi bà ơi, như chưa hề có cuộc xung đột. Vì sao vậy? Vì các ngài thương nhau, như lời Tía nói:
- Cả tỉnh Sóc Trăng, tui chỉ chấm có mỗi bà à! – Theo ngôn ngữ tuổi teen, tía đúng là chuyên gia thả thính!
Má nằm đu đưa trên chiếc võng kế bên, hứ một cái đáp lại:
- Thôi đi ông ơi, tại lúc đó lời cám dỗ quá ngọt ngào nên tui xiu lòng, chứ bây giờ thử coi, không có cửa đâu cưng. – Theo ngôn ngữ ngôn tình, má nó cũng không phải dạng vừa đâu!
Nằm kế bên, nó cười khúc khích, thầm cám ơn lời cám dỗ ngọt ngào của tía và sự “nhẹ dạ” của má. Nhờ đó ba chị em nó được làm con tía má đến giờ.
3. Chuyện tình của bà sơ
Rồi đùng một phát, Chúa gọi nó: Hãy theo Ta. Đó có phải là lời cám dỗ không? Nó không biết. Chỉ biết lời đó rất thuyết phục. Nếu không sao, đứa con nít 13 tuổi như nó, cái tuổi ăn chưa no, lo chưa tới, lại nhanh miệng “xin vâng”. Nó cũng chưa biết “nửa kia của mình” trước khi theo Thầy Giêsu. Trái tim non nớt của nó bấy giờ chỉ có hình ảnh của ông bà nội ngoại, tía má, hai đứa em và nhóm bạn chơi lò cò chung với nhau mỗi ngày. Nó không có “người dưng khác họ đem lòng nhớ thương” gì hết.
Tuổi thơ vẫn cứ trôi qua êm đềm. Nó học hết cấp hai, rồi cấp ba. Vẫn vô tư với người tình Giêsu chưa một lần trực tiếp gặp mặt. Nó vẫn vui với lý tưởng dâng hiến. Là ma sơ của Chúa, nó chọn Giêsu là đối tượng duy nhất nơi tâm trí mình.
Nhớ ngày nó được gọi để chuẩn bị khấn lần đầu. Chị Tổng Phụ Trách gặp nó, hai chị em ngồi dưới mái hiên nhà nguyện, cách gợi chuyện thân tình của chị làm nó cởi mở hơn…
- Sao rồi? Sẵn sàng chưa con? – Chị hỏi.
- Dạ con cũng không biết nữa. Thấy có gì đó sai sai… (cười)
- Trời đất! Vụ gì đây cô nương? Chỗ nào sai đâu, nói Dì nghe.
- Dạ… tại con thấy nhiều chị cùng lớp phải từ bỏ này kia, kia nọ. Các chị lớn còn chia tay người yêu nữa… Còn con, không thấy mình phải từ bỏ gì hết, người yêu cũng không có luôn. Con thấy đời tu mình nhẹ nhàng quá… không thấy thánh giá đâu hết, con có tu thiệt không?
- Haha... Dì vừa cười vừa cú nhẹ vào trán nó một cái. Thôi đi cô, cô chỉ mới ở chặng thứ nhất thôi, phía trước còn nhiều chông gai và thách đố, đến lúc có anh nào thương lại mếu máo không chịu buông bỏ và đau khổ khi phải hy sinh.
Rồi chị vỗ vai nó dịu giọng:
- Hãy luôn tin tưởng vào ơn Chúa và xin Người đồng hành trong mỗi bước đi con nhé.
- Dạ…
Vậy là lòng nó bình an, nghĩ về ngày tiên khấn với niềm hạnh phúc lớn lao.
Tưởng khấn xong rồi là khỏe, không phải khổ vì yêu như mấy đứa bạn ở xóm. Ôi thôi, mỗi lần về nghe mấy đứa nó tâm sự mà não nề. Thật ra thì mỗi nhà mỗi cảnh. Như nhỏ bạn (Thắm) còi coi vậy mà hạnh phúc. Chồng nó nghèo nhưng được cái thương nó và lo cho gia đình. Thằng Ngọc sát vách nhà thì mới ly dị vợ. Tội nhất là Nương Điệu, đẹp gái nhất xóm, giỏi giang nhất vùng, lấy được chồng giàu… vậy mà khóc suốt ngày, còn bị chồng đánh nữa.
Nghĩ bụng, may mà mình đi tu, không thì chắc cũng vướng vào cảnh dở khóc dở cười. Nghĩ vậy thôi. Ai dè đùng phát, anh ấy xuất hiện. Học viện (nơi nó được học) có ký túc xá cho sinh viên cả nam và nữ. Ngày ngày xuống nhà cơm ăn chung, đi lễ chung, đọc kinh chung… Như ông bà ta hay nói: “nhất cự li, nhì tốc độ”. Gần gũi thân tình lâu dần, nó chợt nhận ra trái tim mình loạn nhịp.
- Adam của đời con hả Chúa ơi? – Nó vừa chắp tay cầu nguyện vừa lẩm bẩm.
Chúa kỳ ghê. Chọn con vào “con đường chẳng mấy ai đi”, rồi lại đánh thức trái tim đang ngủ yên. Anh ấy nhiều lần làm trái tim nó đập loạn xạ và không ngừng thổn thức trước những ân tình. Sớm không đến, sao lại đến lúc “ván đã đóng thuyền”? Khấn trọn rồi như chiếc thuyền đã ra khơi. Bao nhiêu năm với Chúa trong sứ mạng tông đồ, khó khăn vất vả cỡ nào cũng vượt qua được, sao giờ lại đắn đo… Thật khó chịu vô cùng! Tưởng khấn rồi, lòng nó vững như kiềng ba chân; ai dè giờ nó “lúng ta lúng túng như gà mắc tóc, nuốt dây thun”. Nó nói nhỏ với đứa bạn thân:
- Ê, bà ơi, tui bị say nắng rồi, làm sao đây??? Vô nhà cơm là cứ ngó coi “người ta” đang ngồi ở góc nào, huhu... Khó chịu quá đi…
- Haha, chúc mừng mày, tưởng không thích con trai chứ!
- Thôi nha, đang nóng trong người đó, đừng có thêm dầu vào lửa à!
- Có gì đâu, tim mày bằng thịt mà, biết rung rinh vậy mới ra con người…
Rồi hai đứa cười như vỡ chợ. Cái cú đầu của chị Tổng ngày xưa, giờ mới có tác dụng nè.
Và nó bắt đầu tìm về trái tim mình, lắng nghe từng nhịp đập và thấy thương mình vô cùng. Đi tu sớm làm gì, giờ mới thấy cái cảnh…! Sau những giờ cầu nguyện và suy tư, nó ngồi vào bàn học, viết câu trả lời cho người bạn hỏi trên đây.
Bạn thân mến!
Trái tim người tu sĩ vẫn còn biết rung động trước một người. Cám ơn Chúa đã cho phép điều đó xảy ra để người tu sĩ biết nhớ, biết thương và biết day dứt vì yêu. Chúng ta từng rất tâm đắc câu nói của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận:
“Trái tim người tu sĩ không phải bằng đá. Trái tim đó bằng thịt và biết yêu thương.” (ĐHV, 445).
Điều đó nhắc nhở rằng người tu sĩ đi theo Chúa trong ơn gọi dâng hiến, họ cũng vẫn là những con người như bao người khác. Họ cũng có trái tim biết yêu thương và khao khát được yêu. Lời khấn khiết tịnh không làm mất đi khả năng tính dục nơi người tu sĩ. Chỉ có điều, tình yêu của họ không nhằm tiến triển theo hướng tình yêu đôi lứa, dành cho một người với mục đích xây dựng gia đình và duy trì nòi giống. Người tu sĩ được mời gọi để làm triển nở tình yêu theo một chiều kích khác. Nghĩa là, tình yêu ấy đem lại sự sống và góp phần xây dựng bảo vệ sự sống theo ơn gọi của mình.
Chẳng hạn, người tu sĩ dấn thân loan báo Tin Mừng cứu độ đến những ai chưa biết Chúa. Những công việc bác ái âm thầm, đời sống chứng tá, v.v, là kết quả của sáng kiến nơi con tim biết chung nhịp đập với những nỗi thống khổ của đồng loại. Con tim tu sĩ với khả năng yêu thương, cũng đôi lần được chào đón riêng tư và muốn được sống cho riêng mình bằng những ân cần, chăm sóc và thấu hiểu. Tuy nhiên, tu sĩ không dừng lại để vun vén cho những cảm xúc riêng tư đó, nhưng chuyển hóa chúng thành động lực để chia sẻ. Họ vui sống đời hiến dâng.
Thật khó và nhiêu khê khi tu sĩ không cho phép bản thân sở hữu những cảm xúc đó, cho riêng mình như bao người. Thánh Phaolô nói: “Trong mọi thử thách, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta.” (Rm 8,37). Vì với Người, Đấng tu sĩ chọn làm gia nghiệp, là đối tượng ưu tiên trong tâm trí. Tình Yêu của Người sẽ dạy tu sĩ biết yêu thế nào cho đúng, và triển nở đời mình trong mọi tương quan với đồng loại.
Cảm ơn bạn đã đồng cảm với những thổn thức tình cảm của người tu sĩ. Xin cầu nguyện cho họ thật nhiều. Hy vọng và cầu chúc họ luôn hạnh phúc và bền đỗ trong ơn gọi hiến dâng, bằng trái tim rất con người!
Thân chào bạn!
(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 1, Nxb Tôn Giáo, 2020)