Giải đáp thắc mắc cho người trẻ công giáo Bài 121-140

Thứ sáu - 21/03/2025 08:45
Giải đáp thắc mắc cho người trẻ công giáo Bài 121-140
Giải đáp thắc mắc cho người trẻ công giáo Bài 121-140
Giải đáp thắc mắc cho người trẻ công giáo Bài 121-140
Nguồn: https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/giai-dap-thac-mac-cho-nguoi-tre-cong-giao-50477
---------------------------------
Nội Dung:

BÀI 121 – NGƯỜI BÍ ẨN TRONG BỮA TIỆC LY.. 1
BÀI 122 – VÀI NÉT VỀ CHÚA GIÊSU.. 4
BÀI 123 – HIỂU VỀ CÂU CHUYỆN TRONG SÁCH SÁNG THẾ.. 10
BÀI 124 - ĐỘC THÂN KHIẾT TỊNH VÌ NƯỚC TRỜI 16
BÀI 125 - ĐỜI CÂY.. 20
BÀI 126 - LÀM ĂN CHÂN CHÍNH.. 23
BÀI 127 - THỬ VÀ THẬT! 27
BÀI 128 - SỐNG ĐẠO TRONG GIA ĐÌNH KHÁC TÔN GIÁO.. 30
BÀI 129 - KHÔNG KẾT HÔN VÌ SỢ ĐỔ VỠ.. 33
BÀI 130 - NGHIỆN INTERNET, TÌM SỰ QUÂN BÌNH.. 36
BÀI 131 - ANIMA CHRISTI - KINH LẠY HỒN CHÚA KITÔ.. 41
BÀI 132 - ĐÊM TỐI CỦA ĐỨC TIN.. 48
BÀI 133 - CON ĐƯỜNG ĐẾN VỚI THIÊN CHÚA.. 51
BÀI 134 - ĐÔI ĐIỀU VỀ MẦU NHIỆM CHÚA BA NGÔI 54
BÀI 135 - HÀNH HƯƠNG LÀ CÁCH CẦU NGUYỆN ĐẶC BIỆT.. 59
BÀI 136 - NGHE TIẾNG CHÚA ĐÍCH THỰC.. 62
BÀI 137 - KINH THÁNH CÓ GÌ HAY?. 65
BÀI 138 - TÌNH YÊU THÚC BÁCH TÔI 70
BÀI 139 - THỦ DÂM VÀ HƯỚNG DẪN CỦA GIÁO HỘI 75
BÀI 140 - TRUYỀN THÔNG SỰ SỐNG.. 78

---------------------------------

 

BÀI 121 – NGƯỜI BÍ ẨN TRONG BỮA TIỆC LY


Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc, SJ
02/04/2024
Theo nghiên cứu chuyên môn trên bình diện Kinh Thánh và hội họa, người ta chỉ thấy có 12 môn đệ và Đức Giêsu trong bức ảnh này. Hơn nữa, đừng quên thời Trung Cổ, Vatican đích thân nhờ những họa sĩ tài đức về vẽ những bức tranh liên quan đến Kinh Thánh, dưới sự giám sát chặt chẽ của Giáo hội.


GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 121: NGƯỜI BÍ ẨN TRONG BỮA TIỆC LY

Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc SJ

Câu hỏi: Con là người mới vào đạo, có lần con nghe người ta nói rằng: người ngồi cạnh Đức Giêsu trong bích họa Bữa Tiệc Ly của Leonardo da Vinci là Maria Magdalena. Vợ con nói không phải; đó là thánh Gioan. Xin giải thích giúp con được không ạ?

Trả lời:

Trước hết, chúc mừng bạn đã trở nên con Chúa trong Hội thánh của Ngài. Là người mới vào đạo, dĩ nhiên có nhiều bỡ ngỡ và rất nhiều câu hỏi cần được giải đáp. Với câu hỏi của bạn, tôi chia sẻ như sau:

Có lẽ trong lịch sử hội họa, Leonardo da Vinci (1452–1519) phải là một trong những người nổi tiếng nhất ở mọi thời. Là người Ý, nên ông được hít thở bầu không khí đạo Công giáo từ thuở nhỏ. Ông là người học sâu hiểu rộng, là kỹ sư, nhà khoa học và kiến trúc sư tài năng. Tuy nhiên, người đời luôn ngưỡng mộ nhất ở ông là lãnh vực hội họa, với những bức tranh sơn dầu đã làm nên chuẩn mực cho ngành hội họa sau này. Thú vị là những bức tranh ấy thường liên quan đến Kinh Thánh: The Adoration of the Magi (1478–1482), The Virgin of the Rocks (1483–1493), The Last Supper, v.v. (Mona Lisa cũng là của ông, hiện được trưng bày tại bảo tàng quốc gia Pháp, Louvre). Ngày nay, người ta vẫn nghiên cứu những bí ẩn đằng sau những bức tranh vừa đẹp đẽ, quyến rũ, vừa chứa đựng những bí mật đáng kinh ngạc.

Trước khi vào câu hỏi của bạn, chúng ta đã biết câu chuyện về bức họa: Đấng Cứu Chuộc Trần Gian – Salvator Mundi (vẽ năm 1499–1510). Năm 2005, người ta chỉ đấu giá bức họa Salvator Mundi[1] chưa tới 10 ngàn USD, bởi họ chưa biết tác giả của nó là ai. Từ năm 2006, giới chuyên gia đã vào cuộc để phân tích tác giả đích thật của bức họa này. Năm 2012 người ta biết chính xác là của Leonardo da Vinci, kéo theo là mức đấu giá của bức họa lần lượt là: 75 triệu $ (2013), 127.5  triệu và 380 triệu $ (năm 2018). Nói như thế để thấy tầm ảnh hưởng của Vinci là vô cùng lớn lao.

Ngoài bức ảnh đấu giá trên đây, mỗi khi nhắc đến Leonardo da Vinci, người ta phải nhắc đến công trình kinh điển của ông: The Last Supper–Bức họa Bữa Tiệc Ly (1492–1498). Hiện nay bức họa được trưng bày tại nhà nguyện Santa Maria delle Grazie, Milan, nước Italy. Bức họa diễn tả Bữa Ăn Cuối Cùng của Đức Giêsu với 12 môn đệ, mà thánh Gioan, người có mặt buổi hôm đó, kể chi tiết trong Tin Mừng của mình[2] (x. Ga chương 13 đến 17). Nếu phân tích bản văn, buổi hôm đó chỉ có Đức Giêsu và các môn đệ (μαθητῶν). Các học giả Kinh thánh đều đồng ý về dữ kiện này. Chúng ta thấy trong bữa ăn này, có người môn đệ Đức Giêsu thương mến dựa đầu vào lòng Đức Giêsu. Chúng ta đều biết danh xưng của người môn đệ này chính là thánh Gioan. Vì được thương mến, nên Gioan được ưu tiên ngồi gần thầy mình lúc này. Khi nghe Đức Giêsu nói: “Có một người trong anh em sẽ nộp Thầy” (Ga 13,21), thánh Phêrô liền khều vai Gioan đề nghị ông hỏi lại xem, thầy Giêsu đang nói về ai vậy. Lúc này Gioan liền nghiêng mình vào ngực Đức Giêsu và hỏi: “Thưa Thầy, ai vậy ?” Đức Giê-su trả lời: “Thầy chấm bánh đưa cho ai, thì chính là kẻ ấy.” (Ga 13,24-26). Chúng ta cũng thấy điều này khi Leonardo da Vinci họa lại chi tiết thánh Phêrô đang hỏi thánh Gioan, chứ không chỉ Gioan dựa vào ngực Đức Giêsu!

Như vậy, “trong bức tranh của Da Vinci, người ngồi bên phải Chúa Giêsu có phải là Maria Magdalene không?”, câu trả lời là KHÔNG nhé bạn! Nhưng vấn đề thú vị là tại sao lại có hoài nghi này?

Chúng ta phải thừa nhận rằng Maria Magdalena là người luôn theo Đức Giêsu trong hành trình rao giảng cho đến tận chân thập giá. Là người vùng Galilê, nên Maria Magdalena có lẽ đã đi theo Chúa Giêsu từ rất sớm. Chính Maria cũng là người đầu tiên gặp Đức Giêsu phục sinh. Về thân phận của nhân vật này, có người tin rằng bà là người được Đức Giêsu chữa lành khỏi 7 quỷ (Lc 8,2), cũng có truyền thống cho bà là người phụ nữ ngoại tình được Chúa cứu khỏi bị ném đá. Một số học giả xác định Maria Madalena là người phụ nữ đã xức dầu lên chân của Đức Giêsu (Lc 7,36-50). Bà cũng có thể là người phụ nữ xuất thân từ làng gần hồ Galilê, mà nay là ngôi làng mang bên bà. Dẫu sao chúng ta thấy trong Tin Mừng, Maria Magdalena luôn gần gũi với Đức Giêsu và các môn đệ. Có lẽ vì lý do này mà người ta gán ghép bà với Đức Giêsu trong bức họa trên đây.

Lý do nữa là vào thời Trung Cổ, nhất là thời Phục Hưng (tk 14-17), người ta bài xích Giáo hội. Họ chống đối Giáo hội không chỉ bằng sách báo, mà cả bằng những câu chuyện bịa đặt, vốn phỉ báng đức tin Công giáo. Một trong những cách dễ nhất là họ bóp méo các câu chuyện Tin Mừng.

Có lẽ lý do mạnh nhất đến từ các đề tài văn chương hoặc phim ảnh. Nhất là những đề tài càng gây tò mò, đụng đến niềm tin và tôn giáo, sách phim của họ lại càng được quan tâm. Một số tác giả tiểu thuyết hiện đại, chẳng hạn tác giả của cuốn sách Máu Thánh, Chén Thánh[3] (Holy Blood, Holy Grail, 1982), hoặc nhà văn người Anh, Dan Brown trong tiểu thuyết Mật Mã Da Vinci (đã được chuyển thể thành phim, 2003). Ví dụ, dựa vào bức họa Bữa Tiệc Ly, Dan Brown đã thêu dệt nên tiểu thuyết ly kỳ về “nhân vật Đức Giêsu thương mến - τῷ κόλπῳ τοῦ Ἰησοῦ, ὃν ἠγάπα” trong bức họa trên, chính là Maria Magdalena. Dĩ nhiên là ông đã hoàn toàn viết sai sự thật về câu chuyện Kinh Thánh liên quan tương quan giữa Đức Giêsu và Maria Magdalena!

Tóm lại, theo nghiên cứu chuyên môn trên bình diện Kinh Thánh và hội họa, người ta chỉ thấy có 12 môn đệ và Đức Giêsu trong bức ảnh này. Hơn nữa, đừng quên thời Trung Cổ, Vatican đích thân nhờ những họa sĩ tài đức về vẽ những bức tranh liên quan đến Kinh Thánh, dưới sự giám sát chặt chẽ của Giáo hội. Do đó, những ai cho rằng Maria Magdalena ngồi gần Đức Giêsu trong bức họa là sai sự thật, bịa đặt với ý hướng mờ ám nào đó.

Dẫu sao cũng cảm ơn bạn về câu hỏi thú vị này. Đừng quên Maria Magdalena là một vị thánh được yêu mến trong Giáo hội. Do đó, nếu có những câu chuyện gây cho chúng ta chút hoang mang, cứ bình tĩnh tìm hiểu vấn đề và chia sẻ với nhiều người về sự thật mà chúng ta đang tin.

Mở ngoặc nơi đây. Nếu nhìn vào bức họa, chúng ta dễ nhận thấy các môn đệ, ba người một nhóm. Họ đang trò chuyện về câu hỏi: ai là người nộp Chúa Giêsu. Trong khi đó, chúng Chúa Giêsu ngồi ở giữa. Dường như Chúa Cha và Chúa Thánh Thần cũng đang hiện diện với Chúa Giêsu, để làm nên một nhóm thứ 5: Thiên Chúa Ba Ngôi!

Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 6, Nxb Tôn Giáo, 05/2021

WHĐ (02.04.2024)

----------
[1] Quanh bức họa này cũng đã có hai phim tài liệu mới: Bức họa mất tích của Leonardo' và 'Rao bán Đấng Cứu Thế: Kiệt tác thất lạc của da Vinci? Hai phim đều kịch tính và hồi hộp của một câu chuyện trinh thám. Tuy nhiên về những gì liên quan đến đức tin, chúng ta phải cân nhắc đến tính xác thực.

[2] Cả bốn Tin Mừng đều nghi nhận chỉ có 12 tông đồ và Đức Giêsu.

[3] Tác giả: Michael Baigent, Richard Leigh và Henry Lincoln

---------------------------------

 

BÀI 122 – VÀI NÉT VỀ CHÚA GIÊSU


Rômualđô M. Bùi Văn Nghĩa, CRM
09/04/2024
Xin kể cho con một chút về Đức Giêsu mà chúng ta đang tin theo được không ạ?


GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 122: VÀI NÉT VỀ CHÚA GIÊSU

Văn Nghĩa, CRM

Câu hỏi: Xin kể cho con một chút về Đức Giêsu mà chúng ta đang tin theo được không ạ?

Trả lời:

Chúng ta biết Đức Giêsu là người thật việc thật, một nhân vật lịch sử chứ không phải là một nhân vật hư cấu. Tuy nhiên, Người không phải chỉ là một người bình thường, cũng không phải chỉ là một vĩ nhân, mà còn vượt trên tự nhiên, vượt trên lịch sử.

Người ngoài Kitô giáo có thể không tin vào thần tính của Đức Giêsu, nhưng không thể phủ nhận rằng Người đã trở thành nhân vật số một của cả thế giới, với hàng tỉ người tin thờ, trong đó có cả những cái đầu vĩ đại của nhân loại; với ngày sinh nhật được đón mừng hầu như khắp nơi trên thế giới “từ thành phố ra đồng quê”; và với niên lịch tính theo mốc năm sinh của Người được cả thế giới sử dụng... trong khi biết bao nhiêu danh tướng lẫy lừng một thời, biết bao vị vua từng xưng hùng xưng bá, biết bao triết gia từng nhận mình là đỉnh cao trí tuệ loài người, thì đều qua đi như ánh sao băng. Hoặc nếu có gây ảnh hưởng ít nhiều trên nhân loại, cũng không thể sánh với sức ảnh hưởng của một con người “hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29), “thân cô thế cô” ấy. Tại sao lại có hiện tượng lạ lùng như thế?

Chúng ta sẽ không thể tìm được lý lẽ thỏa đáng để giải thích, ngoại trừ việc nhìn nhận Người là Con Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa, Đấng đã nhập thể làm người. Đây là niềm tin cốt yếu của người Kitô giáo. Niềm tin này không phải là cảm tình bồng bột, nhưng dựa vào những cơ sở rất chắc chắn.

Đấng đã được Kinh Thánh nói trước

Bạn biết không? Trên thế giới này, không có bất kỳ một người nào, dù là vĩ nhân hay lãnh tụ, mà sử sách lại viết về họ trước khi họ sinh ra. Duy chỉ có mình Đức Giêsu, Kinh Thánh Cựu Ước đã nói nhiều điều về Người từ nhiều ngàn năm trước khi Người giáng sinh. Điều đó cho thấy việc Người giáng sinh vào thế gian này không phải ngẫu nhiên nhưng đã được chuẩn bị cẩn thận, chi tiết. Chẳng hạn:

* Sách Sáng thế tiên báo Đấng Cứu Thế sẽ thuộc dòng họ Giuđa (x. St 49,10).

* Ngôn sứ Isaia tiên báo Đấng ấy sẽ sinh ra trong hoàng tộc Đavit (x. Is 11,1) và được sinh ra bởi một Trinh Nữ (x. Is 7,14).

* Ngôn sứ Mikha tiên báo Đấng Cứu Thế sẽ sinh tại Bêlem (x. Mk 5,1).

* Ngôn sứ Isaia cũng đã phác họa rõ nét bức chân dung của Người Tôi Tớ Đau Khổ, ám chỉ Đức Giêsu sau này: “Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành. Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng” (Is 53,5-7).

* Các thánh vịnh cũng nói nhiều chi tiết về Đấng cứu thế, chẳng hạn:

“Bọn ác đó trong ngoài vây bủa,
chúng đâm con thủng cả chân tay,
xương con đếm được vắn dài;
chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem.
Áo mặc ngoài chúng đem chia chác,
còn áo trong cũng bắt thăm luôn” (Tv 22,17-19)
Tất cả các lời tiên báo đều đã được ứng nghiệm và hoàn tất nơi cuộc đời Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu cũng đã nói với người Do thái: “Các ông nghiên cứu Kinh Thánh, vì nghĩ rằng trong đó các ông sẽ tìm được sự sống đời đời. Mà chính Kinh Thánh lại làm chứng về tôi” (Ga 5,39). Sau phục sinh, Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (Lc 24,44).

Bạn thử nghĩ xem, giả như không có Đức Giêsu, chúng ta sẽ không thể biết được những đoạn sách trên nói về ai.

Đấng có thẩm quyền

Dù đã trút bỏ vinh quang để trở nên một phàm nhân, nhưng nơi Đức Giêsu vẫn toát lên một vẻ gì đó rất phi thường. Sách Tin Mừng Máccô ghi nhận: “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư” (Mc 1,22). Tin Mừng Gioan thì thuật lại việc đám vệ binh được sai đi bắt Đức Giêsu, đã trở về tay không và báo cáo: “Xưa nay chưa hề đã có ai nói năng như người ấy!” (Ga 7,44-46).

Khi chưa đến giờ đã định, không ai làm gì được Người. Nhiều lần các kinh sư và người Pharisêu đã bày mưu gài bẫy để kiếm cớ buộc tội Người, những cái bẫy cực kỳ hiểm hóc, không có lối thoát. Nhưng Đức Giêsu đều hóa giải một cách tài tình, như trong vụ xử “người phụ nữ ngoại tình” (x. Ga 8,2-11) hay trong vấn nạn “nộp thuế cho hoàng đế Xêda” (x. Mt 22,15-22). Người đã cư xử khôn khéo đến mức không ngờ khiến cho những kẻ gài bẫy Người phải chưng hửng.

Đức Giêsu còn thể hiện quyền năng của mình qua rất nhiều phép lạ. Phép lạ đầu tiên được thực hiện tại một tiệc cưới ở Cana, qua lời thỉnh cầu của thân mẫu, Đức Giêsu đã biến 10 chum nước lã thành rượu ngon để giúp cho nhà đám thoát cảnh thiếu rượu (x. Ga 2,1-11). Sau đó là những phép lạ như dẹp yên bão tố (x. Mt 8,23-27), bước đi trên mặt biển (x. Mc 6,45-52). Nhiều lần Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng nơi hoang địa.

Rất nhiều lần Đức Giêsu trừ quỷ và chữa lành các thứ bệnh tật. “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế…” (Cv 10,38). “Dân chúng nghe tin Người ở đâu, thì cáng bệnh nhân đến đó. Người đi tới đâu, người ta cũng đặt kẻ ốm đau ở ngoài đường ngoài chợ, và xin Người cho họ ít là được chạm đến tua áo choàng của Người; và bất cứ ai chạm đến, thì đều được khỏi” (Mc 6,55-56).

Đặc biệt hơn cả là Đức Giêsu có thể làm cho người chết sống lại: Người cho anh Ladarô đã chết chôn trong mồ bốn ngày và đã nặng mùi sống lại (Ga 11,43-44); Ngài cho con gái vị thủ lãnh sống lại (Mt 9,18-26); Ngài cho con trai bà goá thành Nain sống lại (Lc 7,12-15).

Đó là những sự việc xảy ra ngoài quy luật tự nhiên. Sự chữa lành bệnh tật ngay lập tức, việc người đã chết sống lại liên quan đến năng lực siêu nhiên. Cũng xin lưu ý rằng không phải Đức Giêsu thích làm phép lạ một cách tùy tiện đâu. Chỉ khi có một lý do chính đáng thì Người mới thực hiện. Thường Người làm phép lạ là vì đáp ứng một lòng tin mạnh mẽ vững vàng của ai đó. Hoặc để chứng tỏ rằng Người là Đấng Cứu độ đã được Chúa Cha sai đến, như lời Người nói: “Chính những việc tôi làm đó làm chứng cho tôi rằng Chúa Cha đã sai tôi” (Ga 5,36).

Đấng bày tỏ khuôn mặt Thiên Chúa tình yêu

Khi ở giữa nhân loại, Đức Giêsu Kitô đã bày tỏ cho nhân loại biết rằng: Thiên Chúa là tình yêu. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một” (Ga 3,16). Nghĩa là Ngài đã ban cho chúng ta điều quý giá nhất của Ngài. Bởi vì “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm 8,32).

Qua các bài giảng và huấn từ, Đức Giêsu luôn dạy về đức yêu thương: “Hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương" (Mt 5,44-45).

Qua các dụ ngôn, Đức Giêsu diễn tả Thiên Chúa như người cha nhân hậu, đến nỗi dù đứa con bất hiếu, bỏ nhà đi hoang, người cha vẫn ngày đêm trông ngóng, mong con trở về. (x. Lc chương 15)

Không chỉ giảng dạy bằng giáo lý suông, Đức Giêsu còn thể hiện dung mạo yêu thương của Thiên Chúa bằng chính cách sống cũng như cách ứng xử của Người: Người sống nghèo và gần gũi với những người nghèo, những người bị xã hội coi thường. Người hòa mình vào dòng người xuống sông Giođan nhờ Ngôn sứ Gioan rửa tội tỏ lòng sám hối. Người còn hạ mình sâu hơn nữa khi tự đồng hóa mình với những người kém cỏi nhất trong xã hội: “Ai làm phúc cho những người đói rách, bệnh tật, tù đày… là làm cho chính ta” (Mt 25,31-46).

Trước khi rời khỏi thế gian, Đức Giêsu còn hạ mình xuống rửa chân cho các môn đệ, để rồi tha thiết nói với họ: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).

Đấng cứu độ nhân thế

Có thể nói, mục đính chính của việc Đức Giêsu xuống thế làm người là để chịu chết đền tội thay cho toàn thể nhân loại. Đây không phải là một tai họa xảy ra ngoài ý muốn; trái lại, đây là một sự tự hiến. Chính Người đã nhiều lần nói trước:

- “Thầy sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ nhạo báng, khạc nhổ, đánh đòn và giết chết Thầy. Ba ngày sau, Thầy sẽ sống lại” (Mc 8,31; 9;9.31; 10;34).

- “Vì tôi đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45).

- “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy” (Ga 10,18).

Về khách quan, Giáo lý của Đức Giêsu có nhiều điều trái với thói tục thế gian, nhất là những người có thế lực, nên họ sinh lòng thù ghét. Họ cũng ganh ghét vì mất quyền lợi và ảnh hưởng trên dân, “vì nhiều người Do thái đã bỏ họ và tin vào Đức Giêsu” (Ga 12,10). Lý do chính họ đưa ra để kết án Người là Người đã phạm thượng khi dám nhận mình là Con Thiên Chúa. Họ đã tìm cách xử tử Người bằng hình phạt nặng nề nhất – đóng đinh vào thập giá.

Thế nhưng chính nơi thập giá, Đức Giêsu đã chứng tỏ rằng, tình yêu Thiên Chúa vượt lên trên tội ác của con người. Người đã cho thấy tình yêu đích thực là thế nào. Tình yêu ấy cao cả đến mức hy sinh chính mạng sống mình. Tình yêu ấy quảng đại đến mức tha thứ cho chính những kẻ hành hình mình, vì ngay trong giờ phút tột cùng đớn đau, Người vẫn van xin cùng Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).

Qua cái chết đau thương của mình, Đức Giêsu đã biến cây thập giá, dấu hiệu của đau khổ, ô nhục, man rợ và chết chóc trở thành biểu tượng của Tình Yêu và ơn cứu độ cho con người, như lời Người nói: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12, 32).

Đấng hằng sống

Sau cái chết đau thương, thân xác Đức Giêsu được hạ xuống và mai táng trong một ngôi mộ đá. Đúng như lời đã hứa, ba ngày sau, Người sống lại. Đây là biến cố lịch sử vĩ đại, với sự kiện Ngôi Mộ Trống mặc dù có lính canh gác cẩn thận.

Sau phục sinh, Đức Giêsu hiện ra gặp gỡ, an ủi, dạy dỗ các môn đệ trong khoảng 40 ngày rồi Người lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha.

Kể từ khi ấy, các môn đệ của Đức Giêsu đã bất chấp mọi hiểm nguy, đe dọa, bất chấp mọi đánh đập, tra tấn, và bất chấp cả cái chết, để làm chứng rằng họ đã thấy Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết. Không ai bịa ra một câu chuyện để rồi dại dột bảo vệ câu chuyện ấy đến mức đánh đổi mạng sống phải không bạn?

Đức Giêsu đã sống lại và là Đấng Hằng Sống (Ga 8,24.28.58). Tuy không còn hiện diện hữu hình như thời kỳ các tông đồ, nhưng Đức Giêsu vẫn còn ở giữa loài người cách thiêng liêng trong Hội Thánh, đặc biệt trong Bí tích Thánh Thể, như lời Người đã hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 20,28).

Bạn thân mến,

Đức Giêsu vừa là con người lịch sử, vừa là đối tượng của niềm tin. Bởi vì Người là Con Thiên Chúa nhập thể làm người, là Đấng cứu độ duy nhất, trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, như lời Người khẳng định: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).

Ước gì bạn và tôi đều có thể tuyên xưng cách mạnh mẽ như thánh Phaolô tông đồ: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?... Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,35-39).

Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 6, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (09.04.2024)

---------------------------------

 

BÀI 123 – HIỂU VỀ CÂU CHUYỆN TRONG SÁCH SÁNG THẾ


Pr. Lê Hoàng Nam, SJ
16/04/2024
Câu hỏi: Vài lần con bị bắt bí khi những đứa bạn không cùng tôn giáo chất vấn. Số là sách Sáng Thế kể hai ông Adam và bà Eva sinh ra Cain và Abel. Vậy làm sao để tiếp tục truyền sinh tạo nên nhân loại ngày nay. Vợ của Cain là ai, để hai người tiếp tục sinh sôi nảy nở?
Trả lời:

Chào bạn,

Trước hết, chúng ta cần phải làm rõ điều này: Kinh Thánh không phải là sách nói về khoa học. Nó không phải là sách chỉ đơn thuần là lịch sử. Kinh Thánh là sách thánh, là sách hàm chứa Lời Thiên Chúa qua ngôn ngữ của con người. Chính vì thế mà ta phải luôn đọc Kinh Thánh trong tâm thế của một người cầu nguyện, tìm xem Chúa muốn nói gì với ta. Và cũng vì thế, ta đọc Kinh Thánh không phải chỉ để lấy kiến thức, nhưng còn để tìm ra cái ý nghĩa ẩn tàng trong đó và để Lời Chúa biến đổi con người mình. Điều này càng đúng hơn với trình thuật Sáng Thế mà bạn thắc mắc. Thật ra, nếu đọc và hiểu trình thuật Sáng Thế theo nghĩa đen, ta sẽ thấy có nhiều mâu thuẫn. Chúng tôi xin kể ra một vài ví dụ:

(1) Trước khi tạo dựng nên trời đất, Thần Khí Chúa đã bay là là trên mặt nước (x.St 1,2). Nước này ở đâu ra, Chúa chưa tạo dựng mà? Vả lại, chúng ta thường thấy nước chảy trên một nền đất (sông, suối, hồ…) Thật khó để có thể tưởng tượng ra mặt nước mà Thần Khí “bay là là” trông như thế nào khi lúc đó thậm chí còn chưa có đất, và nước chưa được tạo dựng.

(2) Sau khi tách ánh sáng ra khỏi bóng tối... Thế là xong một ngày (x.St 1,5). Làm sao tính được một ngày. Để có thể biết một ngày thì ít ra ta phải thấy mặt trời mọc rồi mặt trời lặn. Nhưng lúc đó đã có mặt trời, mặt trăng, trái đất đâu mà biết một ngày?


(3) Thiên Chúa lấy bụi đất nắn thành con người (x.St 2,19). Thiên Chúa là một thực thể siêu việt, đâu có tay chân hữu hình như chúng ta, Ngài nắn bằng cách nào?

(4) Và quan trọng hơn cả là ngày Thiên Chúa dựng nên trời đất, làm gì có ai chứng kiến (vì đã có ai đâu), sao có thể viết lại tường tận câu chuyện như thế được?

Đó là chưa nói đến việc trong sách Sáng Thế có hai trình thuật về việc Chúa tạo dựng. Hai trình thuật ấy có chút khác nhau. Chúng tôi thiết tưởng là bạn sẽ tìm được câu trả lời cho chính mình khi bạn hiểu được nguồn gốc hình thành trình thuật Sáng Thế cũng như ý nghĩa mà trình thuật này hàm ý.

Tác giả trình thuật Sáng Thế lấy ý tưởng từ đâu?

Câu chuyện về tạo dựng trong sách Sáng Thế được cho là nét giống với một số sử thi dân gian của nền văn minh Mesopotamia. Về mặt thời gian, nền văn minh này tồn tại khoảng 3000 năm trước Công Nguyên. Về mặt địa lý, nó được tính từ vùng Ur thuộc xứ Can-đê của Ai Cập, kéo dài đến sông Nin và hai con sông lớn Euphrat và Tigrat (gọi là vùng Lưỡng Hà. Lưỡng nghĩa là hai, Hà nghĩa là con sông). Tại vùng đất này, người ta có lan truyền một số câu chuyện hấp dẫn liên quan đến việc tạo thành trời đất, và thậm chí các học giả Kinh Thánh cũng tìm thấy nơi những câu chuyện này nhiều hình ảnh, tình tiết... giống với trình thuật sáng thế trong sách Sáng Thế. Bởi vậy, người ta cho rằng có thể tác giả sách Sáng Thế đã viết sách dựa trên những câu chuyện này và còn đi xa hơn nó nhờ có những dụng ý thần học sâu sắc mà Thiên Chúa muốn chuyển tải cho con người.

Một vài câu chuyện được biết đến nhiều nhất là:

- Sử thi EnumaElish (khoảng thế kỷ XIV BC), nói về một vị thần tên là Marduk, vị thần cao cả của xứ Babilon, vị thần lớn nhất trong số các vị thần ở Đền Pantheon ở Babilon. Marduk đã dùng vũ khí tuyệt diệu của mình là ngọn gió để chiến đấu và chiến thắng thần Tiamat. Sau đó, Marduk đã xẻ đôi thân thể của Tiamat, làm nên trời và đất. Ta thấy những câu chuyện kiểu chiến đấu như thế này rất nhiều trong Kinh Thánh như trong Tv 89,10-11, Is 51,9-10 hay Is 27. Ngoài ra, hình ảnh “gió” xét như là sức mạnh của Thiên Chúa cũng được đề cập đến khá nhiều lần.

- Câu chuyện Adapa(khoảng thế kỷ XIV BC): Thần Anu ban cho Apada nước và bánh để khi Apada ăn vào, ông sẽ được trường sinh. Nhưng thần Ea, vì lòng ganh tỵ, đã không muốn Apada được trường sinh vì nếu không, Ea sẽ không còn được Apada phụng sự mình và dâng của lễ cho mình nữa. Vì thế, Ea đã lừa dối Apada và khuyên ông đừng ăn. Rốt cuộc Apada đã không ăn và không có được sự sống đời đời. Câu chuyện này có nét giống Sáng Thế ở chỗ, con người đã được Chúa ban cho điều kiện để hưởng sự sống đời đời nhưng con người đã từ chối.

- Sử thi Gilgamesh (khoảng năm 1000 BC). Gilgamesh là vua xứ Uruk, một vị vua độc ác. Các vị thần thấy vậy nên đã tạo nên Enkiduh để chống lại Gilgamesh, giải cứu người dân. Tuy nhiên, lạ lùng là hai người này bỗng trở nên bạn thân của nhau. Các vị thần tức tối nên đã khiến Enkiduh chết. Qua cái chết của bạn, Gilgamesh bỗng ngộ ra điều gì đó. Ông từ bỏ vương vị và quyết tâm lên đường để tìm thuốc trường sinh. Trải qua nhiều gian lao khổ cực, ông vẫn không biết phải tìm ở đâu. Rốt cuộc, ông nghe nói có một người thông thái biết tất cả mọi sự trên đời tên là Utnapishtim. Người này đã được các thần ban cho một sự sống bất tử và đang sống ở phía bên kia bờ biển Chết. Sau nhiều cố gắng, Gilgamesh cũng tìm được gặp vị này và xin ý kiến. Thế nhưng vị tiền bối này cho Gilgamesh biết rằng các thần không còn ban sự sống bất tử cho con người nữa nên con người phải đối diện với cái chết. Nghe thế, Gilgamesh rất đỗi buồn phiền. Chạnh lòng thương, vị ấy tặng cho Gilgamesh một loại cây giúp mình trẻ mãi không già. Gilgamesh rất hạnh phúc, cảm ơn ông rồi cáo biệt ra về. Tuy nhiên, trên đường vượt biển trở về quê hương, do không cẩn thận, ông đã sơ xuất để một con rắn trộm mất cây trường sinh. Trong câu chuyện này, ta thấy có một số hình ảnh rất quen thuộc: cây trường sinh, con rắn cũng như việc con người thất bại trong việc mưu cầu trường sinh bất tử.

Thánh Thần gợi hứng và là tác giả của Kinh Thánh

Kinh Thánh tuy có nét giống nhưng xét về bản chất thì khác hoàn toàn với những câu chuyện trên. Ta tin rằng Kinh Thánh đích thật là lời Chúa, do Thánh Thần gợi hứng cho các tác giả. Nhưng Thánh Thần không linh hứng theo kiểu “đọc cho chép”. Ngài khơi lên trong tâm trí các tác giả ý tưởng cốt lõi của Kinh Thánh, để họ có thể dùng khả năng hiểu biết, tài năng và tri thức của mình mà viết lại nó. Như thế, các tác giả này cũng đóng một vai trò rất quan trọng, chứ không phải là những rô-bốt bị Thánh Thần điều khiển như nhiều người vẫn nghĩ. Họ cũng phải nghe các chứng nhân kể lại, phải hỏi han người này người kia, phải nghiên cứu, suy tư, cầu nguyện và viết lại Lời Chúa trong khả năng của mình, với ngôn ngữ của mình, trong nền giáo dục và văn hóa của mình. Các tác giả Cựu Ước thì nghe tương truyền từ cha ông và viết lại.

Một cách cụ thể, liên quan đến Cựu Ước, các nhà nghiên cứu đã khám phá ra rằng:

- 11 chương đầu của Sách Sáng Thế chỉ là hư cấu, không có tính lịch sử. Tác giả của 11 chương này đã viết nó dựa trên những câu chuyện dân gian đã có thời đó để diễn đạt ý tưởng thần học của mình. Vì thế, đối với 11 chương này, chúng ta chỉ hiểu ý nghĩa thần học chứ không nên cho rằng nó đã xảy ra như thế trong thực tế.

- Từ chương 12 trở đi của sách Sáng Thế cho đến chuyện ở Ai Cập, vượt qua Biển Đỏ, hành hương trong sa mạc cho đến khi trở về đất Canaan để dựng nước, tuy dựa trên biến cố lịch sử nhưng không chắc là nó hoàn toàn diễn ra như vậy, theo tiến trình như vậy, và đúng y chang như những gì được viết ra. Ví dụ, biến cố 10 tai ương ở Ai Cập không chắc là đã xảy ra như thế, nhưng chắc chắn là đã có những hiện tượng tương tự như thế xảy ra để rồi vài thế kỷ sau, khi các học giả ngẫm nghĩ lại chuyện đã nghe cha ông kể vì đã dùng tài văn chương của mình để viết thành câu chuyện như thế. Hiện tượng nước sông hóa thành máu có thể là hiện tượng tảo đỏ do bị ô nhiễm, hiện tượng các em bé bị chết hàng loạt có thể là do dịch bệnh… Nhưng các học giả đã nhìn mọi biến cố như thể chính Chúa đã làm.

- Chỉ từ khi xuất hiện ngôn sứ Samuel và vua Saul thì sử tính mới được xem có xác thực. Nhà sử gia cho rằng việc vua Saul lập nước diễn ra vào khoảng thế kỷ VIII BC. Những diễn biến tiếp theo sau như đất nước bị chia đôi, rồi cả hai miền đất nước bị lưu đày ở Babilon, rồi trở về tái thiết đất nước... là có thật.

- Tất cả mọi chuyện được nói đến trong Cựu Ước đều nhằm mục đích quy hướng về Đức Kitô. Phải đọc mọi biến cố trong ánh sáng của Tân Ước. Ví dụ: chuyện Abraham dâng con là tiên báo đến biến cố Chúa Cha dâng Đức Giêsu trên núi Can-vê, hay chuyện vượt qua Biển Đỏ là hình ảnh của việc Đức Giêsu dẫn dắt Giáo Hội vượt qua cái chết để tiến về miền đất hứa (Thiên Đàng)…

Liên quan đến trình thuật Sáng Thế, Chúa gợi hứng cho tác giả thế nào? Có thể tác giả sách Sáng Thế quan sát trong tự nhiên và thấy thế này:

- Không thể tự dưng mà có mọi sự được, phải có ai đó làm ra chúng. Vì thế, phải có một vị mà mình gọi là Thiên Chúa.

- Mọi sự dường như có trật tự hẳn hoi, từ các tinh vân đến các sinh vật. Vũ trụ này rộng lớn biết bao nhiêu. Vậy mà vẫn xoay vòng theo chu trình, hệt như có người điều khiển. Từ đó tác giả cho rằng Vị Thiên Chúa này không những tạo dựng mà còn quan phòng nữa, hẳn Ngài phải rất quyền năng.

- Trong tất cả các loài, chỉ có con người là có vẻ vượt trội hơn các loài khác. Chẳng có loài nào được như con người. Bởi thế, hẳn là con người được Tạo Hóa yêu thương cách đặc biệt. Mọi loài khác dường như phải quy phục con người.

- Nhưng đôi khi con người sử dụng tự do quá đáng nên có lụt lội, thiên tai và những điều xấu xảy đến. Vì thế mà tác giả cho rằng con người có tự do nhưng tự do con người có giới hạn. Con người không được lạm dụng tự do để làm điều sai, nếu không con người sẽ bị tước quyền làm chủ.

- Khi chết, con người trở về với cát bụi. Xác chết thì không thể động đậy, và khi chết thì trong người không có luồng khí nào. Từ đó ông suy ra rằng con người có hai phần. Thứ nhất là phần vật chất, hữu hình và có thể được nhìn thấy là thân xác này đây. Nhưng tự bản thân phần này không giúp mình cử động được (ví dụ như xác chết, dù có đầy đủ các bộ phận vẫn đâu có cử động được). Muốn thân xác cử động, linh hoạt, phải có một phần khác mà mình gọi là hồn, phần vô hình nên mình không thể nhìn thấy được. Người xưa cho rằng hồn ấy chính là khí vận hành trong người mình. Khí ấy do Thiên Chúa ban (Thiên Chúa thổi hơi vào). Chính vì vậy mà khi Thiên Chúa lấy hơi lại là ta “tiêu” ngay (x.Tv 104(103),29). Từ kinh nghiệm quan sát ấy nên tác giả mới cho rằng Thiên Chúa dựng nên con người từ bụi đất, rồi thổi khí vào.

- Con người có hai giới: nam và nữ. Tác giả quan sát và thấy rằng một đứa bé khi được sinh ra thì chỉ có thể là nam hoặc nữ. Thiên Chúa chỉ dựng nên hai “giống” người này thôi. Khác nhau nhưng bổ trợ nhau. Người nam được đặt tên là Adam (Adam có gốc từ chữ Adama nghĩa là “đất”). Người nữ có tên là Eva (cái tên này chỉ được đặt sau khi phạm tội. Eva có nghĩa là “sinh ra sự sống”, ý muốn nói đến việc bà sẽ sinh ra những con người khác). Thế nên, chúng ta không nên hiểu là vào một thời điểm nào đó trong lịch sử có một người đàn ông có tên là Adam và một người phụ nữ có tên là Eva. Nhân vật Adam và Eva không có thực nhưng chỉ là biểu tượng cho dòng dõi người nam và dòng dõi người nữ, cả hai là đất, cát bụi (mau qua, chóng tàn) và có sứ mạng sinh sôi ra những mầm sống khác.

Ý nghĩa thần học của trình thuật Sáng Thế

Khi đọc Kinh Thánh nói chung và sách Sáng Thế nói riêng, ta cần tìm dụng ý thần học hơn là kiến thức về khoa học (mặc dù, ở phương diện nào đó, Kinh Thánh vẫn có sử tính của nó). Cụ thể, có một số điều căn bản về Sáng Thế mà ta phải chân nhận, đó là:

- Thiên Chúa là Đấng có trước mọi loài. Chính Ngài dựng nên vạn vật, ban cho chúng sự sống. Mọi loài từ Ngài mà ra và nhờ Ngài mà tồn tại. Ngài là chủ tể.

- Thiên Chúa là Đấng quyền năng. Ngài dựng nên mọi loài không cần ai trợ giúp và cũng không cần chất liệu nào khác. Còn Thiên Chúa thì không cần gì cả.

- Thiên Chúa là một nhưng có ba ngôi. Khi sáng tạo, Chúa Cha phán (Ngôi Thứ Nhất), Lời của Chúa phán ra thì có mọi loài (Lời là Ngôi Hai) và có Thần khí Chúa “bay là là trên mặt nước” (Ngôi Ba).

- Con người cao trọng hơn các loài khác, vì được Thiên Chúa dựng nên cách đặc biệt (tỉ mỉ hơn, chứ không phải chỉ phán) và mang hình ảnh Thiên Chúa.

- Mọi loài khác được dựng nên là để trợ giúp con người hướng về Thiên Chúa. Con người làm chủ các loài khác (chứ không phải nô lệ).

- Nếu con người có đau khổ, đó là do con người dám chống lại Tạo Hóa là Chúa Thượng của mình. Có sự dữ trong thế giới này chính là do con người đã không chấp nhận thân phận phải chết của mình nhưng ngạo mạn, muốn mình là Thiên Chúa.

- …Và còn nhiều ý nghĩa khác chúng tôi không thể liệt kê ra hết ở đây.

Hiểu được thế này rồi, chúng tôi tin là bạn sẽ biết cách trả lời bạn bè của bạn ra sao rồi, phải không?

Đọc thêm bài: Ađam và Evà có thật hay không?

Tham khảo

Hayes John H., Nhập Môn Kinh Thánh (Nguyễn Kiên Trường chuyển ngữ), NXB Tôn Giáo, Hà Nội, 2008

Võ Đức Minh, Lịch Sử Cứu Độ (viết từ tác phẩm “Salvation History” của Neal M.Flanacan, OFM), NXB Tôn Giáo, Hà Nội, 2016

Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 6, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (16.04.2024)

---------------------------------

 

BÀI 124 - ĐỘC THÂN KHIẾT TỊNH VÌ NƯỚC TRỜI


Maria Antôn Quỳnh Thoại, CĐM
23/04/2024
Câu hỏi: Linh mục hay tu sĩ dòng có lời khấn khiết tịnh vậy mức độ nghiêm trọng trong vi phạm lời khấn trong tư tưởng và hành vi khác nhau như thế nào. (Con thấy có đoạn lời Chúa: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn là đã phạm tội ngoại tình với người đó). Và so với Linh mục triều không có lời khấn thì có khác gì so với Linh mục dòng.
Trả lời:

Độc thân khiết tịnh: Lời đáp trả của tình yêu

Trước khi bàn về sự khiết tịnh trong đời sống độc thân của các linh mục triều, và lời khấn khiết tịnh của người sống đời thánh hiến (linh mục, tu sĩ dòng), cũng như mức độ vi phạm đối với lời khấn này ra sao… chúng ta cần thống nhất với nhau điều này: đời độc thân thánh hiến là tiếng đáp trả cho lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa nơi người tu sĩ. Lối sống này vượt xa hơn việc giữ mình tránh vi phạm lời khấn, hay lỗi nhân đức khiết tịnh. Vì suy cho cùng, tất cả mọi bậc sống đều quy về mục đích chính: là con người được sống hạnh phúc trong ân nghĩa Chúa.

Đời sống của các linh mục, tu sĩ cũng thế. Họ cũng đang đi tìm hạnh phúc cho cuộc đời mình, bằng việc đáp trả lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa. Khi chọn lối sống độc thân, họ không từ bỏ khả năng tính dục, khả năng yêu thương. Họ chỉ đang lựa chọn cách yêu, hay đối tượng yêu mà thôi, và đó là Thiên Chúa - cùng đích cuộc đời họ. Họ muốn dâng trọn con tim, khả năng yêu thương của họ một cách triệt để cho đối tượng mà họ ưu tiên hơn hết, là Chúa. Và chính sự lựa chọn này đã đem đến cho họ 3 giá trị sau:

1) Giá trị của tình yêu dành Đức Kitô: họ để mình bị thu hút hoàn toàn vào Chúa, đặt Chúa là trung tâm, và ưu tiên trong cuộc đời mình.

2) Giá trị của sự phục vụ tha nhân: họ trở nên chứng nhân cho tình yêu, sự hiện diện của Chúa qua việc phục vụ người nghèo, người yếu thế trong xã hội bằng một cách tự do, không vướng bận bởi đối tượng nào.

3) Giá trị của phục vụ Nước Trời: đời sống họ trở nên dấu chỉ ngày Cánh Chung: không cưới vợ lấy chồng, nhưng sống kết hợp với Chúa.

Thật cao quý, thật đẹp, và đáng ngưỡng mộ phải không? Tuy nhiên, người sống đời độc thân vì Nước Trời cũng có những thách đố và bão giông của riêng mình trên đường hoàn thiện, như bao người. Nói như thánh Phaolô, họ giữ kho báu này trong các “bình sành…” (2Cr 4,7). Thật vậy, ơn gọi độc thân thánh hiến là một ân huệ cao quý, nhưng lại được đặt để nơi thân xác yếu đuối của con người. Có những lúc, người linh mục, tu sĩ đã không vượt qua nỗi cô đơn, trống trải của đời sống độc thân vì những giằng co, đối kháng bên trong và bên ngoài, hay những nổi loạn của bản năng giới tính, do không được hướng dẫn đạt tới sự trưởng thành trong tương quan, và nhận biết những vấn đề về tính dục của mình, đặc biệt là thiếu đời sống cầu nguyện và kết hiệp với Chúa... Những điều đó đã đưa họ đi tìm những khỏa lấp từ bên ngoài, do con tim chưa được lấp đầy bằng lòng mến Chúa. Họ quên rằng, khi chọn đời sống này, thì chỉ có Chúa mới thật sự lấp đầy những khắc khoải nơi con tim của họ. Nếu bạn thật sự quan tâm đến những gì đang xảy ra nơi những con tim yếu đuối ấy, hãy cùng tôi ngồi lại, và dành chút thời gian để hiểu về những chọn lựa, đặc tính, và những thử thách trong đời sống độc thân của các linh mục tu sĩ.

Đồng trinh, độc thân, khiết tịnh, và tiết dục: chuyện không của riêng ai

Thuật ngữ sống đồng trinh, độc thân, khiết tịnh, hay tiết dục không chỉ dành độc quyền cho linh mục, tu sĩ, hay các Kitô hữu, mà là cho tất cả mọi người. Cha José Rovira Arumí dòng Claret, giáo sư Học viện Đời sống Thánh hiến tại Roma và Phi Luật Tân, đã giúp chúng ta phân biệt những thuật ngữ này như sau:

- Đồng trinh: (virginitas = virginity) dùng để chỉ tình trạng của người không bao giờ quan hệ tình dục với bất cứ ai. Quan niệm này thường được áp dụng cho các linh mục, tu sĩ, và những ai sống đời thánh hiến. (LG 42, 50; VC 12, 25).

- Khiết tịnh: (castitas = chastity) dùng cho tất cả mọi người, ở bất cứ bậc sống nào. Tất cả mọi người đều được mời gọi sống khiết tịnh trong ơn gọi của mình: những người sống ơn gọi thánh hiến tu trì (LG 42, 43; PC 1, 5, 12), những ứng viên truyền chức thánh như phó tế, linh mục (OT 10), và những người chuẩn bị lập gia đình (GS 49).

- Độc thân: (Coelibatus = celibacy) dùng để chỉ những ai chưa lập gia đình và người góa bụa (AA 4), người chuẩn bị bắt đầu đời sống hôn nhân, phó tế (LG 29), và linh mục (LG 42, PO 16).

- Tiết dục: (continentia [perfecta]) = continence dùng để chỉ những người biết tiết chế tính dục của mình, bao gồm trong và ngoài hôn nhân.

Ý thức được những khác biệt trên, chúng ta sẽ dễ dàng tiếp cận hơn với những đòi hỏi của độc thân linh mục và lời khấn khiết tịnh nơi các linh mục và tu sĩ dòng. Để rồi những khác biệt đó giúp chúng ta thấy được vẻ đẹp và giá trị của từng bậc sống, cũng như khao khát gìn giữ và làm thăng tiến ơn gọi của nhau mỗi ngày.

Độc thân linh mục và độc thân thánh hiến: những khác biệt

- Độc thân vì Nước Trời.

Để có thể diễn tả thích đáng về tình trạng độc thân của người sống đời tu trì (linh mục, tu sĩ dòng), Cha Rovira đã sử dụng thuật ngữ “độc thân vì Nước Trời” (celibacy for the Reign of God). Tương tự như vậy, nữ tu Sandra M. Scheiders lại dùng cụm từ “độc thân thánh hiến” (consecrated celibacy)[1] để nói về tình trang độc thân của người tu sĩ. Bên cạnh đó, trong Tông Huấn Đời Sống Thánh Hiến, số 32 cũng nêu rõ: tình trạng độc thân là cửa ngỏ của đời sống thánh hiến, một đời sống họa lại nếp sống tại thế của Đức Kitô: tiết dục trong sự độc thân. Giáo luật điều 599 cũng nêu rõ: “Lời khuyên phúc âm về đức khiết tịnh được đảm nhận vì Nước Trời là dấu chỉ của thế giới sẽ đến, là nguồn sinh lực phong phú hơn trong một con tim không chia sẻ, và bao hàm nghĩa vụ tiết dục hoàn toàn trong bậc độc thân”. Như vậy, mọi hành vi trái với sự tiết dục dù là trong tư tưởng, lời nói hay hành động đều vi phạm lời khấn khiết tịnh. Giáo luật và quy luật của từng hội dòng sẽ xét theo từng trường hợp và mức độ vi phạm mà có những hình phạt và chế tài riêng.

- Độc thân linh mục

Vậy còn các linh mục triều thì sao? Một lần nữa, cha Rovira dùng cụm từ “độc thân linh mục” (priestly celibacy) để chỉ về tình trạng sống của các linh mục triều. Khác với các linh mục dòng, linh mục triều không có tuyên khấn ba lời khuyên phúc âm: khiết tịnh – nghèo khó – vâng phục. Do đó, họ không vi phạm lời khấn khiết tịnh! Tuy nhiên, các linh mục triều “có nghĩa vụ sống độc thân qua nghi thức luật định”[2]. Đó là luật buộc, và chính họ cũng tự nguyện ràng buộc mình sống theo luật độc thân đó, với một trái tim dành trọn cho Chúa, và như thế, họ sẽ tự do để làm việc của Chúa cách hữu hiệu hơn: phục vụ dân Chúa! Hơn thế, một linh mục cũng sẽ không vượt ra khỏi lối sống khiết tịnh, vốn là một nhân đức chung cho tất cả mọi người, mọi bậc sống.

Những vi phạm sự độc thân - khiết tịnh và hệ quả

Vì độc thân linh mục và độc thân khiết tịnh nơi người tu sĩ là một đòi hỏi cốt yếu từ Thiên Chúa, từ giáo hội cho dấu chỉ Nước Trời. Đây cũng là thái độ đáp trả triệt để nơi những linh mục, tu sĩ đối với lời mời gọi yêu thương của Chúa. Do đó, khi họ lơ là, hay không sống sự độc thân khiết tịnh này thì họ đang vi phạm giao ước yêu thương đã được ký kết bằng sự tự do ưng thuận của mình. Hậu quả là:

- Tình yêu dành cho Đức Kitô bị san sẻ. Những tương quan không trong sáng dù khác giới hay cùng giới đều tạo nên những vết thương nơi con tim đã đoan kết thuộc về Chúa. Họ làm tổn thương chính mình khi chơi trò “ghép tim”, tức là “dâng tim cho Chúa, rồi tìm quả tim người khác thay vào” (Đường Hy Vọng số 176).

- Giá trị của sự phục vụ tha nhân bị giảm sút. Một đời sống tông đồ không sinh nhiều hoa trái vì mải lo bận lòng cùng những đối tượng ngoài Chúa. Con tim họ bị san sẻ nên sẽ không toàn tâm toàn ý cho Nước Trời, yêu Chúa và làm việc của Chúa.

- Giá trị của sự phục vụ Nước Trời bị lu mờ. Khi sự độc thân, hay khiết tịnh bị vi phạm, người linh mục, tu sĩ đã thất bại trong việc bắt chước Đức Kitô, đồng thời cũng đang đánh mất đi vai trò ngôn sứ về thời Cánh Chung, thời mà “không lấy vợ, gả chồng”, vì mọi người sẽ sống như các thiên thần, và bước vào trong tương quan viên mãn với Thiên Chúa (x. Mc 12:18-27). Tương quan này vượt lên trên sự mỏng giòn, yếu đuối của phận người, không dựa trên tính dục, nhưng bắt nguồn từ Thiên Chúa.

Bạn thân mến,

Độc thân linh mục và độc thân khiết tịnh vì Nước Trời là một quà tặng của sáng kiến tình yêu nơi Thiên Chúa. Do đó, khi nói về sự mức độ vi phạm lời khấn khiết tịnh hay sự tiết dục trong bậc độc nhân, vốn dĩ là một biểu lộ bên ngoài rõ ràng nhất cho sự hiến thân trọn vẹn nơi các linh mục tu sĩ, tôi muốn nhấn mạnh đến khía cạnh tương quan giữa họ với Thiên Chúa hơn là khía cạnh luận phạt hay chế tài do luật đem lại. Để yêu khác, và sống khác, các linh mục - tu sĩ đã phải chiến đấu rất nhiều để tôi luyện trái tim họ trưởng thành giữa đêm tối của cô đơn, bằng cách chuyển hóa những nỗi cô đơn ấy thành năng lượng tích cực và sáng tạo để phục vụ anh chị em đồng loại. Họ cần nơi chúng ta sự nâng đỡ bằng lời cầu nguyện, và sự thận trọng trong các mối tương quan hầu giúp họ trung thành và tự do thuộc về Chúa cả xác và hồn.

Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 6, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)

WHĐ (23.04.2024)

----------
[1] Sandra M. Scheiners. Selling All. Paulist Press. New York: 2001, 125.
[2] ;Giáo Luật điều 277

---------------------------------

 

BÀI 125 - ĐỜI CÂY


Nt. Elisabeth Bùi Phạm Phương An, CND – CSA
08/05/2024
Câu hỏi: Bạn trẻ liệu có thể làm chứng cho Tin Mừng ngay trong chính môi trường, ngoài xã hội mà họ đang sống không? Bằng cách nào ạ?
Trả lời:

1. Tuổi trẻ và ước mơ

Nếu bạn thắc mắc rằng người trẻ có thể làm gì cho xã hội và Giáo hội ngày nay? Rất nhiều điều đó chứ! Đầu tiên tôi đề nghị bạn hãy gieo mầm ước mơ, cho phép hy vọng nẩy nở trong đời mình. Việc loan báo Tin Mừng giống như chăm sóc mảnh vườn. Gieo hạt giống là gieo mầm mơ ước lành thánh. Cũng giống như đời cây, niềm tin của chúng ta có thể lớn lên được nếu ta tin tưởng vào Thiên Chúa, vào tha nhân, vào ngày mai.

Như cây cối cùng lớn lên với nhau và bên nhau, chúng ta cũng rất cần sự nâng đỡ đức tin, đức cậy cho nhau. Bạn hãy quan tâm tới các bạn trẻ thời nay lo sợ những gì? Cùng giúp nhau nhận định, tìm hướng dẫn trong các chọn lựa. Câu trả lời ấy phải là những câu trả lời của chính lòng mình. Hãy thử chìm sâu để có thể gặp được bản thân. Đó còn là những cảm nhận sự có mặt của Chúa trong cuộc đời.

Thiền sư Hae Min đề nghị: Kể cả những món đồ hiệu phiên bản giới hạn, cũng được sản xuất sau mỗi lần vài chục cái. Nhưng món hàng hiệu “Tôi” chỉ duy nhất trên thế gian. Bạn hãy gìn giữ “món hàng quý” ấy có cá tính riêng mãi nhé! Bắt chước chân phước trẻ Carlo Acutis, mong bạn sống phút hiện tại này thật ý nghĩa.

Giống như chúng ta chăm sóc cây cảnh, cần nắng sương để làm cho cây tươi tốt. Sự dễ dãi không làm cho sức bật của tiềm năng trỗi dậy, chúng ta sẽ trở nên nghèo nàn, khó phát triển đúng tầm. Vậy các bạn hãy tự tạo cơ hội tốt đẹp cho mình và nắm bắt chúng... Như người làm vườn, loan báo Tin Mừng tức là vun xới cho hạt giống Nước Trời lớn lên. Mỗi buổi sáng, bạn hãy hướng lòng lên Thiên Chúa xin Ngài trợ giúp, soi sáng để mỗi một cây con là những nhân đức, Lời Chúa được đâm bông, kết trái sau này. Khi chiều về, cảm tạ Ngài về tất cả những gì đã được sinh sôi nảy nở. Chúng ta cần yêu tha thiết mảnh vườn độc đáo này. Đúng vậy, bỏ rất nhiều công sức: từ sáng tới tối canh tác, tưới, nhổ cỏ, cắt xén, cắm cọc đỡ, bón phân, tôn trọng môi trường,… biết kín nước từ nguồn suối thật như ở “Cana” chẳng hạn. Hợp tác với các “nhà vườn” khác, hoặc với những người có chuyên môn cao, họ sẽ cho bạn những lời khuyên nhủ, khuyến khích quý báu. Đôi khi chúng ta cảm thấy buồn vì thu lượm không được bao nhiêu so với công sức đã bỏ ra! Lại có lúc cỏ dại lấn chiếm mảnh vườn, che mất các loài hoa rụt rè. Nhưng vẫn kiên tâm, tin tưởng vào tương lai và luôn chăm sóc miếng vườn của mình mỗi ngày, mặc cho thời tiết có xấu đi nữa,… rồi thì chính Thiên Chúa sẽ cho mọc lên.

2. Dấn thân cho công lý

Người trẻ thường nhạy với công bằng xã hội, mau mắn phục vụ người nghèo, năng động dấn thân đến những vùng sâu xa. Đó là nét son và điểm mạnh của các bạn. Hy vọng các bạn tiếp tục phát huy! Chẳng hạn, ơn linh hứng cho thánh Pierre Fourier khi ngài còn trẻ là hướng đến sứ vụ giáo dục, đặc biệt giáo dục trẻ nữ thời đó không có điều kiện đến trường. Bức phá này đã tạo sự tương hợp hài hòa giữa loan báo Tin Mừng và sứ vụ giáo dục.

Nền văn minh đương đại đã mang lại cho các bạn tư thế độc lập và điều này dẫn tới một số hoạt động dấn thân không nhất thiết phải thích hợp với khung thể chế truyền thống. Làm sống động ơn linh hứng từ Tin Mừng trong những bối cảnh là điều cần thiết. Bạn có thể nghĩ ra những việc làm cụ thể để phục vụ người nghèo về tinh thần, vật chất hoặc thiêng liêng, băng bó vết thương nhân gian, làm cho trái đất thành tươi xinh hơn… Vì trong mỗi chúng ta đều có những tổn thương nên ta mới có thể ôm ấp vỗ về những tổn thương của người khác. Vì bản thân ta từng thiếu xót và ngay lúc này đây ta vẫn còn thiếu xót, nên ta mới bao dung với lỗi lầm của anh chị em. Bằng cách sống đức ái trong gia đình và trong xã hội, như Tông huấn Chúa Kitô Đang Sống viết: “Chúa kêu gọi chúng ta thắp lên ánh sao trong đêm tối của các bạn trẻ khác... Hương thơm thánh thiện từ đời sống của người trẻ có thể băng bó vết thương của Giáo hội và thế giới, đưa chúng ta trở lại với tình yêu viên mãn mà chúng ta đã được kêu gọi từ thuở đời” (số 33).

3. Truyền rao bằng chứng tá

Dù chúng ta chưa thể cải tiến được bao nhiêu nhưng Tin Mừng phải được loan truyền cho kể cả những người đang sống trong nghịch cảnh. Tin Mừng phải giữ vị trí năng động sao cho xã hội hay Hội Thánh ngày càng giống Nước Thiên Chúa mà Đức Giêsu đã loan báo, một cộng đồng huynh đệ biết tôn trọng công lý và tôn trọng phẩm giá hết thảy mọi người. Vấn nạn đặt ra cho chúng ta là làm thế nào để tiếp tục nói về Thiên Chúa trong xã hội hôm nay, cách nào chuyển lửa đức tin cho mọi người? Trong bối cảnh dịch bệnh, chiến tranh, với nhiều căng thẳng trong những ngày này, chúng ta có khả năng làm chứng cho Tin Mừng cách cụ thể, đặc biệt đối với những người đang khốn khổ vì bị loại trừ, bị coi thường sinh mạng?

Các bạn trẻ là giáo lý viên, là sinh viên học sinh, hoạt động trong giới trẻ các giáo xứ, Thiếu Nhi Thánh Thể, ca đoàn hay thuộc các hội đoàn khác trong giáo xứ. Đó là những tham gia tốt đẹp và đáng khích lệ. Thiết nghĩ số đông các bạn có thể mạnh dạn kể lại cho bạn mình về kinh nghiệm đức tin của bản thân, kể bằng lời và bằng chính cuộc sống mới mẻ, vui tươi của mình. Các bạn trẻ trở thành những sứ giả loan Tin Mừng Chúa Phục Sinh, đồng thời góp phần dựng xây quê hương Việt Nam.

Bên cạnh đó, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc rằng: “Truyền thông loan truyền sự thật, không cần tô điểm”. Còn Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nói: Giáo hội không phát triển nhờ chiêu dụ, nhưng bởi sự lôi cuốn, “Nếu anh chị em chỉ muốn truyền đạt một sự thật mà không có lòng tốt và vẻ đẹp, hãy dừng lại. Nếu anh chị em muốn truyền đạt một sự thật, nhưng không liên quan đến bản thân anh chị em, không làm chứng bằng cuộc sống, hãy dừng lại, đừng làm điều đó.”

Có một câu chuyện sau đã để lại trong lòng khán giả thế giới một ấn tượng: Trong lịch sử thi đấu của các đại hội Olympic thế giới, một lần tổ chức tại Washington, Hoa Kỳ năm 2018: “Kỳ thi đó có 9 vận động viên đều bị tổn thương về thể chất hoặc tinh thần, tập trung trước vạch xuất phát để dự cuộc thi chạy 100m. Khi cờ hiệu phất lên, tất cả lao đi với quyết tâm chiến thắng, trừ một cậu bé bị vấp té. Đầu gối của cậu đập mạnh xuống đường, da của cậu bị trầy xước, rớm máu. Và cậu bật khóc. Tám người kia nghe tiếng khóc, giảm tốc độ và ngoái lại nhìn. Rồi, họ quay trở lại. Tất cả, không trừ một ai! Một cô gái bị hội chứng Down dịu dàng cúi xuống hôn cậu bé: “Như thế này, em sẽ thấy tốt hơn”. 7 người còn lại ngồi xuống quanh cậu bé, ánh mắt lộ rõ sự lo lắng. Một lúc, cô gái cất tiếng hỏi: “Em đã thấy đỡ hơn chưa?”. Cậu bé đưa tay lau nước mắt, mỉm cười gật đầu. Cả chín người cùng đứng dậy, họ khoác tay nhau sánh bước về đích.”

Để không ai bị bỏ lại, tất cả dìu nhau để về đích, đó là thể hiện sự “hiệp hành”! Và đó cũng là ý nghĩa trọng tâm được Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới chọn: “Vì một Giáo hội hiệp thông, tham dự và sứ vụ”. Mong bạn trẻ chúng ta có thể sẽ thi hành trách nhiệm chung trong việc loan báo Tin Mừng và nỗ lực xây dựng một thế giới đẹp và đáng sống hơn.

4. Đường loan tin vui cũng là đường nên thánh dành cho bạn

Nên thánh không độc quyền dành cho những người thánh hiến hoặc thông thái. Đó là ơn gọi phổ quát, là đích nhắm và là thách đố cho mỗi người. “Hãy nên thánh, vì Ta là thánh” (Lv 11,44; 1 Pr 1,16). Tín hữu sống giữa đời có mặt ở hàng ngũ tiên phong trong Giáo hội; nhờ họ, Giáo Hội trở thành nguyên lý sống động cho xã hội. Chính vì thế, họ là người trước hết phải ý thức không những mình thuộc về Giáo Hội, mà còn là chính Giáo Hội. Tôi biết có nhiều bạn trẻ thật quảng đại. Họ không chỉ có chuyên môn mà đời sống thiêng liêng. Nơi họ, nhiều người nhìn thấy Thiên Chúa sống động. Có khi họ ý thức hoặc chẳng để ý đến linh đạo giáo dân, nhưng họ đã sống trọn con đường nên thánh này.[1]

Tinh thần thế gian thường thắng thế trong việc rủ rê ta bỏ đường nên thánh. Do đó, ước chi các bạn cho Thiên Chúa cơ hội làm việc trên mình. Thư Chung Hội Đồng Giám Mục Việt Nam gửi Cộng đồng Dân Chúa, đặc biệt là người trẻ, 2019, cảnh báo lối sống “buông thả, sống ảo, sống vội, sống dửng dưng, vô trách nhiệm” và tệ hơn, lún sâu vào những cám dỗ của thời đại như nghiện ngập, hôn nhân thử, đồng tính, phá thai, bạo lực… Đọc đến đây, có lẽ nên dừng lại ít phút để cám ơn Chúa nếu chúng ta chưa bị ảnh hưởng các lối sống tiêu cực đó. Đặc biệt các bạn Công Giáo, chúng ta cần nêu gương sáng và cầu nguyện nhiều hơn, tha thiết hơn bạn bè cùng trang lứa, bạn nhé.

Đương nhiên các bạn bước vào đời với nghề nghiệp trần thế khác nhau. Trong môi trường thông thường của gia đình và xã hội, tất cả những điều đó như thể dệt thành cuộc sống. Đó là mảnh đất giúp nên thánh, nên muối đất và ánh sáng cho những người xung quanh. Trong khung cảnh đó, ta được Thiên Chúa mời gọi để nhờ việc chu toàn những bổn phận riêng và được Tin Mừng hướng dẫn. “Khi giáo dân đi vào con đường thiêng liêng cá vị hơn với Thiên Chúa, nơi đó, họ có kinh nghiệm về Ngài”[2]. Họ sống tinh thần người con Chúa nơi gia đình, trường học, công sở, ... Họ được mời gọi tham gia nhiều hơn, được trao ban nhiều phương tiện cứu độ dồi dào và cao quý để mỗi người một cách, vươn tới sự thánh thiện trọn lành như chính Chúa.[3]

Chúc bạn tìm ra con đường riêng và sứ mạng Chúa giao cho mình để liệu có thể làm chứng cho Tin Mừng ngay tại nơi bạn đang sống theo khả năng. Tôi tin với nhiệt huyết của người trẻ và sự hướng dẫn của Thánh Thần, bạn sẽ đi trong ca hát và tới đích!

Trích Giải đáp thắc mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 7 Nxb Tôn Giáo, 03/2023)

WHĐ (08.05.2024)

--------------
[1] Quốc Văn, O.P, Linh Đạo Giáo Dân Hay Nẻo Đường Nên Thánh Cho Mọi Gia Đình Kitô Giáo, 2019.
[2] Quốc Văn, O.P, Sdd, 2019.
[3] Lumen Gentium, số 11.

---------------------------------

 

BÀI 126 - LÀM ĂN CHÂN CHÍNH


Nt. Thùy Trang, DHM
15/05/2024
Câu hỏi: Con nghe nhiều bạn sinh viên Công giáo chia sẻ những khó khăn của người Công giáo khi làm ăn kinh tế. Công bằng, trong sáng và làm chứng trong môi trường doanh nghiệp, công ty và thương trường thực sự khó. Phải chăng cứ theo Chúa là không được bon chen làm giàu?

Trả lời:

Bạn mến, vì bạn hỏi nên mình lại cố đu bám với chủ đề làm giàu. Hỏi người Công Giáo có được làm giàu không, câu trả lời là ĐƯỢC. Mời bạn tìm lại bản trả lời chi tiết cho vấn đề này trong bài viết “Làm giàu trước mặt Thiên Chúa” của cùng tác giả trong Giải đáp thắc mắc cho người Công giáo trẻ, tập 6.

Còn bài viết này sẽ trả lời tiếp cho chủ đề làm giàu dựa trên các yếu tố bạn nêu trong câu hỏi, bao gồm người Công giáo có được bon chen để làm giàu, những khó khăn của người Công giáo khi hoạt động trong ngành kinh tế, và người Công giáo sống chứng tá trong môi trường kinh tế như thế nào.

Bon chen làm giàu

Bạn đề cập đến sự “bon chen làm giàu”. Vậy có được bon chen không? Trước hết, mời bạn khám phá bon chen là gì.

- Tranh-giành từng đồng, tính hơn thua từng món lợi nhỏ - Từ điển - Lê Văn Đức

- (1) Tranh giành, xô đẩy từng tí để cầu danh hoặc để mưu lợi riêng. (2) Chắt bóp, căn cơ từng tí một: bon chen từng xu một. - Đại Từ điển Tiếng Việt

- Cạnh tranh và kèn cựa. - Từ điển - Nguyễn Lân

- Cạnh-tranh, tranh đua. - Từ điển - Thanh Nghị

- “Len lỏi chật vật trong môi trường chật hẹp một cách nhọc nhằn hoặc ti tiện” (vi.wiktionary.org)

Mình muốn phân tích khái niệm bon chen cuối cùng một chút: “Len lỏi chật vật trong môi trường chật hẹp một cách nhọc nhằn hoặc ti tiện.” Trong khái niệm này có sự phân biệt giữa chủ thể (người hành động) và môi trường. Chủ thể phải “len lỏi chật vật”, nói lên sự vất vả, khó khăn, khôn khéo... “trong môi trường chật hẹp một cách nhọc nhằn hoặc ti tiện”. Môi trường đó bao gồm những người khác (chủ doanh nghiệp, người quản lý, đồng nghiệp...), điều kiện làm việc (không gian, phương tiện lao động) và kiểu vận hành hệ thống kinh tế (chính sách, luật, người thi hành). Chủ thể được mời gọi len lỏi cách chật vật trong môi trường khó khăn, vất vả mà vẫn giữ được lòng thanh.

Khái niệm “Chắt bóp, căn cơ từng tí một” của Đại từ điển Tiếng Việt góp phần để hiểu cách làm ăn căn bản, không hoang phí nguyên liệu, không tiêu xài hoang phí. Đó là khái niệm làm ăn chân chính và tiêu dùng chừng mực.

Cũng nên nói ngay rằng, tự bản chất làm kinh tế không xấu. Làm kinh tế là ơn gọi “trồng cấy và canh tác” của con người trên hành tinh này. Môi trường làm kinh tế trở nên “chật hẹp và ti tiện” là do lòng tham của những con người tham gia vào hoạt động kinh tế.

Những khó khăn của người Công giáo khi làm kinh tế

Khi bạn sống trong một nước đang phát triển, tháp dân số trẻ, lực lượng lao động dồi dào thì để tìm được một công việc tốt là khá cạnh tranh. “Tốt” đối với bạn là gì? Là an nhàn, lương cao, ổn định, đúng chuyên môn, hợp sở thích, môi trường làm việc tốt, tương quan đồng nghiệp tốt...? Thông điệp Laborem Exercens (Lao động của con người) được thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo II công bố ngày 14/9/1981 nói rằng lao động và sáng tạo làm nên phẩm giá con người và diễn đạt về chính con người. Nói đơn giản, lao động là vinh quang!

“Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ” – tìm được một công việc tốt đã khó, mà tìm được một công việc, hay tạo nên một hệ thống làm việc để làm giàu theo lương tâm Công giáo càng khó hơn. Trong khuôn khổ bài viết, mình không thể kể chi tiết các khó khăn mà người Công giáo gặp phải trong khi làm ăn và làm giàu. Chỉ xin nêu ra đây một số lý do tạo ra những khó khăn như:

+ Văn hóa “vứt bỏ” đã tạo cho con người thói quen sống vội với những tiện ích không cần kiểm chứng qua thời gian. Chữ tín theo đó cũng đi xuống, vì người tiêu dùng đâu còn thời gian để đánh giá độ bền và thưởng thức vẻ đẹp của sản phẩm họ sử dụng. Trong môi trường sản xuất để cung ứng đủ và kịp thời cho lối sống đó, giá trị con người được đánh giá theo tiêu chí hiệu năng: làm càng nhanh và tạo ra được nhiều sản phẩm thì người đó càng có giá trị, và kiếm được nhiều tiền. Ừ, làm việc thì phải hiệu quả chứ; nhưng đừng biến mình hoặc người khác thành công cụ lao động thuần túy.

+ Văn hóa đối kháng làm cho hầu hết mọi người nghĩ rằng muốn thắng thì phải đạp người khác xuống. Bản thân mỗi người đều mang nhiều thương tích của những lần bị “chơi khăm”, nên cũng ngần ngại giúp nhau cùng tiến. Do đó, thay vì giúp nhau cùng tiến, chúng ta tạo ra đủ thứ khó khăn để cản lối người khác, và ngược lại.

+ Văn hóa chỉ trích và đổ lỗi cũng góp phần không nhỏ vào việc tạo ra những “chật vật” trong môi trường làm việc và làm giàu. Sự thật, sự liêm chính bị nhấn chìm. Đã có bao nhiêu cá nhân, tổ chức, công ty, hệ thống kinh tế bị sụp đổ vì tai ương “chỉ trích và đổ lỗi”, thay vì tự vấn và tự hoàn thiện chính mình, hoàn thiện sản phẩm, hoàn thiện hệ thống tổ chức công việc.

+ Văn hóa phân biệt đạo-đời làm cho ta sống hai mặt, làm con chiên ngoan đạo và quảng đại cống hiến cho nhà thờ và các việc từ thiện; đồng thời ki cóp, gian dối để tích lũy trong các môi trường làm ăn.

Người Công giáo sống chứng tá trong môi trường kinh tế

Đất sống của người Công giáo vẫn thuộc về hành tinh này, ngay trong môi trường làm ăn và làm giàu cách chật vật, và họ được mời gọi sống theo các giá trị cao hơn. Thật ra, đâu chỉ là người Công Giáo, thách thức này dành cho tất cả những ai muốn sống theo lương tri, muốn sống đúng phẩm giá làm người.

“Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” là lời mời gọi dành cho người Công giáo và những ai có lương tri ngay thẳng. Khi người Công giáo làm ăn và làm giàu mà vẫn cố gắng giữ “tay sạch lòng thanh” (x. Tv. 23,3-4) thì họ đang sống chứng tá cho Thiên Chúa. Về những khía cạnh nào?

+ Bạn muốn nói với thế giới rằng, Thiên Chúa là Cha yêu thương hằng chăm sóc cho con người và muôn loài Ngài đã dựng nên. Ngài hạnh phúc khi thấy con người lao động và sáng tạo để tạo phương cách chăm sóc cho nhau.

+ Bạn muốn nói với thế giới rằng sự giàu có của thế giới này thuộc về Thiên Chúa, Đấng tạo nên chúng và ban cho chúng ta; rằng sự giàu có đó thuộc về mọi người và mọi loài nên cần được chia sẻ. Ngài vui khi thấy con người trao tặng và chia sẻ cho nhau những sản phẩm tối ưu, diễn đạt phẩm giá của chính mình. Ngài vui khi thấy công trình sáng tạo của Ngài ngày càng xinh đẹp hơn.

+ Bạn muốn nói với thế giới rằng con người được tạo dựng với những ưu phẩm của Thiên Chúa, cao hơn tất cả mọi loài và được đặt lên vị trí coi sóc và chăm lo cho muôn loài, chứ không phải để thống trị và bóc lột chúng, và bóc lột nhau. Ngài vui khi thấy con người dùng tài trí của mình để tương trợ nhau khi cùng giúp nhau làm ăn và làm giàu.

Bạn có biết những câu chuyện về những người, những dân tộc cường thịnh và thánh thiện để kể cho nhau nghe không? Mình rất ngưỡng mộ nhiều vị thánh xuất thân từ giới giàu có. “Không thể cho người khác cái bạn không có” – Vậy bạn giàu có thế nào để chia sẻ cho người khác, và để chăm lo cho muôn vật muôn loài? Bạn muốn bon chen làm giàu cách chân chính bằng cách nào?

“Giàu có trước hết là khả năng tạo ra của cải.” (Elon Musk)

Trích Giải đáp thắc mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 7 (Nxb Tôn Giáo, 03/2023)

WHĐ (15.05.2024)

---------------------------------

 

BÀI 127 - THỬ VÀ THẬT!


Nt. Thùy Trang, DHM
21/05/2024
Câu hỏi: Con nghe nhiều lần các cha các sơ khuyên sinh viên, người trẻ không nên sống thử. Tuy vậy, con thấy trào lưu này đang lan nhanh và người trẻ cũng khó cưỡng lại lối sống này. Không biết chúng con phải làm sao để có thể đương đầu với trào lưu này?

Trả lời:

Bạn có biết loài người chúng ta có hai cách để học tập là thử-sai-rút kinh nghiệm và học tập xã hội, tức là không cần thử mà vẫn có kinh nghiệm?

Tự nghiệm

Những thứ thuộc về hương vị, cảm xúc và thiêng liêng thì ai trải nghiệm, người đó có kinh nghiệm; nghĩa là bạn không thể “học tập xã hội” được. Giả xử như nơi bạn ở không có cây me. Bạn có thể nghe người khác mô tả về cây me, lá me, trái me với hình dạng, màu sắc, vị chua... nhưng bạn vẫn không thể cảm nhận được cho đến khi chính bạn ăn một trái me. Dù bạn vẫn hiểu được rằng me thì chua, gừng thì cay, muối thì mặn như trò chơi tập thể bạn có thể từng được chơi, nhưng bạn không thể cảm nhận được sự đặc trưng của chúng.

Bạn cũng nghe người khác kể khổ hoặc chia sẻ niềm vui. Bạn hiểu họ đang đau khổ hay đang vui, nhưng chính bạn không cảm được cái nghẹn lòng, hay cái run lên vì vui sướng trong cơ thể họ.

Chuyện thiêng liêng cũng thế, ai được ban cho kinh nghiệm thiêng liêng thì tự biết. Dù bạn có cố gắng chia sẻ thì người linh hướng chỉ hiểu và chuẩn nhận cho bạn dựa trên kinh nghiệm, chứ họ không cảm được điều bạn đang cảm nhận.

Về ba điều này, bạn cần tự “thử” nhé, để trải nghiệm và có kinh nghiệm. Không ai giúp bạn được.

Học tập xã hội

Chỉ nơi loài người mới có khả năng tổng hợp, phân tích, rút kinh nghiệm; rồi lưu truyền kinh nghiệm đó cho thế hệ sau bằng lời nói, ký hiệu, chữ viết. Hệ thống giáo dục dựa trên nền tảng học tập xã hội này. Hầu hết các kiến thức và kỹ năng bạn có được đều do học tập xã hội. Bạn “đi lối tắt” dựa trên kinh nghiệm của người đi trước, mà không phải tốn công thử-sai lại từ đầu.

Lý thuyết về “văn hóa hóa” giải thích cho bạn về sự tự động hóa trong việc hội nhập vào các yếu tố văn hóa, tôn giáo, kỹ thuật đang có sẵn ở nơi bạn được sinh ra. Ví dụ như việc bạn nói được tiếng Việt là thứ ngôn ngữ đa âm sắc mà hầu hết người nước ngoài cảm thấy không thể phát âm!

Học tập xã hội giúp cho bạn biết nhanh và giảm rủi ro thử-sai.

Nghiện

Chắc bạn đã từng thấy đâu đó bức tranh cổ động này.

 Bạn có tin vào thông điệp của nó không? Cũng vì có người không tin nên cố tình thử để rồi sau đó phải hối hận.

Vậy những thứ gì không được thử? Vì “thử” sẽ trở thành “thật”. Tôi sẽ không liệt kê chi tiết những thứ không được thử, vì làm như thế chắc chắn sẽ thiếu sót do hạn chế trong sự hiểu biết, nên tôi sẽ cùng bạn khám phá cơ chế “thử thành thật” để hiểu mà làm chọn lựa cho đời mình.

+ Thói quen: Thói quen là một hành vi được lặp đi lặp lại, để thay đổi nó, ít nhất người ta phải tập thuần thục một thói quen thay thế trong vòng 21 ngày liên tục (theo lý thuyết). Một khi thói quen đã được hình thành thì não bạn không cần điều khiển mà nó vẫn tự hoạt động được. Nhân đức là một thói quen tốt. Còn tính xấu là một thói quen xấu.

+ Ghi nhớ trong não: Hệ thống neuron thần kinh kết nối với nhau trong não và kết nối với toàn thân qua tủy sống và các thần kinh ngoại biên, tạo nên một hệ thống hoàn hảo giúp điều khiển toàn bộ hoạt động sống của của người từ thể chất, học tập, tinh thần, thậm chí thiêng liêng. Để điều khiển, neuron thần kinh tạo ra tín hiệu, truyền vào chất dẫn truyền để tác động lên một neuron khác và cứ thế truyền đi, và ngược lại khi các thần kinh ngoại biên cảm thụ và truyền tín hiệu về neuron thần kinh trung ương, nơi xử lý thông tin và đưa ra những quyết định. Heroin, nhất là heroin tổng hợp, cocain... đã tạo ra những tín hiệu và chất dẫn truyền thần kinh thay thế hệ thống tự nhiên của cơ thể người; với tính chất gây hưng phấn quá cao so với mức độ tự nhiên mà cơ thể có thể tạo ra được, nên người ta không thể thoát được sự thèm khát và tăng đô (dose), và lặp lại hành vi tái sử dụng, được gọi là nghiện. Quá trình nghiện còn được tạo ra do quá trình ghi nhớ và tự động hóa của não.

+ Cơ chế hưng phấn: Những hoạt động đời thường như ăn, uống, quan hệ tình dục, tương quan xã hội, đi phượt... tạo nên một sự hưng phấn nhất định do chất dopamine (hormon hạnh phúc) hoạt động như “tín hiệu” và chất dẫn truyền thần kinh. Quá trình này làm cho một người dễ ghi nhớ và thích lặp lại một số hành vi, hoạt động nào đó. Sự lặp lại này tạo nên “thói quen” tốt hoặc xấu.

Thử và thật !

Nếu bạn biết điều gì đó không tốt, mà khi bạn thử thì chắc chắn nó sẽ trở thành thật, thì bạn có muốn thử không?

Nếu bạn biết rằng điều bạn đang muốn thử sẽ trả giá bằng chính bạn, sự sống bạn, cuộc đời bạn... thì bạn có thử không?

Nói đơn giản, bạn, dù là nam hay nữ, có muốn sống thử điều gì đó để rồi trả giá bằng chính bản thân và cuộc đời mình chăng?

Cơ chế để ứng phó với điều bạn hỏi về “trào lưu này (tình trạng sống thử) đang lan nhanh và người trẻ cũng khó cưỡng lại lối sống này” không nằm ở trong môi trường bên ngoài, mà nằm trong quyết định của chính bạn.

Chỉ khi bạn cảm hiểu được sự độc nhất và quý giá của bản thân; của cơ hội duy nhất bạn được làm người trong hành trình cuộc đời ngắn ngủi này, thì bạn sẽ biết mình nên chọn lựa thế nào. Chắc rằng bạn không muốn chọn điều gì để đánh mất chính mình mà không lấy gì mà đổi lại được! (x. Mt 16,26). Vậy giải pháp cho vấn đề này là bạn hãy tìm mọi cách để nhận ra sự quý giá của chính mình, và của người khác.

Chúc bạn sống và làm được những chọn lựa mang lại giá trị cho chính mình lúc này, và cho cuộc sống đời đời.

Trích Giải đáp thắc mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 7, Nxb Tôn Giáo, 03/2023

WHĐ (21.05.2024)

---------------------------------

 

BÀI 128 - SỐNG ĐẠO TRONG GIA ĐÌNH KHÁC TÔN GIÁO


Lm. Giuse Lê Đắc Thắng, SJ
28/05/2024
Câu hỏi: Làm sao để giữ đạo khi lấy chồng không cùng tôn giáo?
Trả lời:

Bạn thân mến,

Chắc hẳn bạn cũng đã biết rằng ở một nước mà người Công giáo chiếm thiểu số như Việt Nam thì hôn nhân giữa người Công giáo và người khác đạo là điều không thể tránh khỏi. Vài chục năm trở về trước, vì nhận thấy ích lợi của đức tin Công giáo đối với đời sống gia đình nên ông bà mình thường “ép” những người ngoại giáo muốn lấy vợ hay chồng Công giáo thì phải “cải đạo”. Làm như thế có cái hay mà cũng có cái không hay. Cái hay thì rõ ràng rồi, hai vợ chồng cùng chung một đức tin thì dễ dàng sống hòa hợp với nhau hơn. Tuy nhiên, cái không hay là đôi khi người ta chấp nhận cải đạo chỉ để có đủ điều kiện lấy được vợ hay chồng người Công giáo, chứ trong thâm tâm họ không tin vào Chúa.

Đã có nhiều hệ lụy xảy ra từ khía cạnh không hay nói trên. Không ít người “bỏ đạo” sau khi “mọi sự đã hoàn tất”. Thậm chí có người còn quay lại công kích đạo Công giáo, cấm đoán cả người bạn đời Công giáo của mình thực hành đức tin. Ngày nay, người Công giáo có cái nhìn tương đối cởi mở hơn về các tôn giáo bạn nên việc ép buộc cải đạo để lấy vợ hay lấy chồng Công giáo không còn nghiêm ngặt như trước. Thay vào đó, hai bên gia đình để cho đôi bạn trẻ đến với nhau trong tình yêu với tất cả sự tự do, ngay cả về vấn đề tôn giáo. Do vậy, hiện tượng hôn nhân khác đạo và đạo ai nấy giữ ngày càng phổ biến.

Người Việt Nam có quan niệm “thuyền theo lái, gái theo chồng”. Nhìn chung, người nữ sau khi lấy chồng thường gắn bó với sinh hoạt bên nhà chồng nhiều hơn ở nhà mẹ. Chắc có lẽ vì thế nên bạn mới thấy có vấn đề khó khăn khi người nữ Công giáo lấy chồng ngoại đạo. Ở đây, chưa cần nói đến trường hợp người nữ phải ở với đại gia đình nhà chồng, chỉ riêng chuyện sống chung với chồng khác đạo thôi cũng là một thách đố lớn đối với họ trong việc thực hành đức tin Công giáo rồi.

Bạn thân mến,

Tình yêu vợ chồng, dù là cùng đạo hay khác đạo, luôn cần phải được xây dựng trên nền tảng tôn trọng lẫn nhau. Nếu chồng bạn thực sự yêu thương bạn và gia đình chồng đón nhận bạn như một thành viên trong gia đình họ, thì điều căn bản là họ phải tôn trọng đức tin Công giáo của bạn và để cho bạn tự do thực hành đức tin của mình. Tôi nói vậy để chúng ta tạm thời không bàn đến những trường hợp người chồng hay gia đình chồng cấm vợ hay con dâu mình đọc kinh, đi lễ hay thực hành các nghi thức Công giáo khác. Nếu bạn ở trong hoàn cảnh đó thì bạn đã trở thành nạn nhân của sự bất công rồi. Khi đó cốt lõi của vấn đề không còn là tôn giáo nữa mà là tình yêu trong đời sống hôn nhân.

Không thể gọi là tình yêu nếu người này không tôn trọng tín ngưỡng tâm linh của người kia. Tôi biết một vài trường hợp như thế và chính người nữ đã kiên quyết phản kháng để đòi lại công bằng cho mình. Trong hoàn cảnh không thể phản kháng được thì họ tìm cách sống đức tin cá nhân một cách âm thầm và có thể nói là lén lút. Tôi hy vọng rằng bạn có một người chồng yêu thương và tôn trọng bạn, gia đình bên chồng cũng hiểu và chấp nhận bạn để bạn có đầy đủ tự do thực hành đức tin của mình. Lưu ý rằng với câu hỏi bạn đặt ra thì tôi chỉ chia sẻ về trường hợp đạo ai nấy giữ thôi, còn nếu chồng bạn chấp nhận theo đạo và giữ đạo Công giáo thì coi như là cùng tôn giáo rồi.

Cần phải nói thêm rằng nếu bạn muốn chồng và gia đình bên chồng tôn trọng đức tin của mình thì chính bạn cũng phải tôn trọng tín ngưỡng tâm linh của họ. Vì họ chưa biết Chúa nên chắc chắn họ sẽ vẫn giữ những hình thức thờ cúng theo truyền thống hay thậm chí là mê tín dị đoan. Đó là quyền tự do của họ. Về phần bạn, vì không chia sẻ cùng một đức tin với bên nhà chồng nên bạn không thể tham dự vào những hoạt động trái ngược với đức tin Công giáo. Tuy nhiên, là một người vợ và người con dâu trong gia đình ngoại giáo, bạn vẫn có thể và rất nên hòa nhập vào những sinh hoạt chung của gia đình chồng, miễn là điều đó không làm ảnh hưởng tới đức tin của bạn.

Nếu chồng bạn là người khác đạo, tôi mời gọi bạn hãy nhìn lại quãng thời gian rất đẹp lúc hai người còn đang tìm hiểu nhau. Việc bạn và chồng bạn đã vượt qua rào cản khác biệt tôn giáo để đi đến kết hôn chứng tỏ tình yêu của hai người thật mãnh liệt. Một tình yêu với sự khởi đầu tốt đẹp như thế rất cần được tiếp tục nuôi dưỡng khi hai người về sống bên nhau. Nếu như tôn giáo đã không phải là rào cản trong thời gian đôi bạn tìm hiểu nhau, thì tôn giáo cũng không thể là yếu tố phá hủy tương quan vợ chồng sau này. Do đó, xét một cách sâu xa thì việc bạn lấy chồng Công giáo hay ngoại đạo đều không ảnh hưởng đến đời sống đạo của bạn, trừ trường hợp có cấm đoán bất công như tôi đã bàn ở trên. Điểm khác biệt chỉ là nếu lấy chồng ngoại đạo thì bạn phải giữ đạo trong môi trường ít thuận lợi hơn thôi.

Tôi đã chứng kiến vài trường hợp người nữ Công giáo lấy chồng ngoại giáo được chồng và gia đình bên chồng tạo điều kiện tự do thực hành việc đạo đức như đọc kinh xem lễ hay cho con đi học giáo lý. Thế nhưng, dần dần chính người nữ ấy lại bỏ cuộc, bỏ luôn việc đến nhà thờ, không phải vì bị cấm đoán nhưng vì không đủ kiên trì để sống đức tin trong hoàn cảnh như thế trong một thời gian dài. Do đó, khi đặt vấn đề về việc giữ đạo, bạn hãy nhìn về chính bản thân mình trước khi xét đến yếu tố người chồng không cùng tôn giáo với mình. Bạn hãy tự hỏi mình có đủ đức tin mạnh mẽ để vượt qua sự khó khăn khi sống với chồng và bên nhà chồng khác đạo hay không. Bạn đã thực sự mặn mà với đức tin Công giáo hay chưa, nhất là khi phải sống trong một gia đình có người không chia sẻ cùng một đức tin ấy?

Cuộc sống luôn có đầy những xung đột gây khó khăn nhưng cũng không kém phần thú vị và ý nghĩa. Chẳng hạn, nếu như lấy chồng khác đạo là một thách đố đối với việc sống đức tin thì ngược lại, đó cũng là cơ hội để bạn làm chứng tá cho đức tin Công giáo, trước hết là với chồng và gia đình bên chồng. Bạn là người đón nhận và được giáo dục đức tin Công giáo từ nhỏ, do vậy cách sống của bạn chắc chắn sẽ diễn tả được phần nào giá trị đức tin. Tôi có thể kể ra đây một vài yếu tố như tình yêu, trách nhiệm, sự chung thủy, kính nhớ tổ tiên ông bà cha mẹ, tôn trọng sự sống, tinh thần hy sinh phục vụ, quảng đại giúp đỡ tha nhân… Tất nhiên, không chỉ riêng người Công giáo mới có những đức tính ấy. Thế nhưng, chúng ta cần nhìn nhận rằng đức tin Công giáo dạy dỗ và đòi hỏi người tín hữu thực hành những giá trị tốt đẹp đó một cách triệt để hơn.

Do đó, nếu bạn lấy chồng khác đạo, bạn có điều kiện để cho chồng và cả gia đình chồng nhận thấy đức tin Công giáo đã giúp bạn chu toàn trách nhiệm của một người vợ, người mẹ, người con dâu trong gia đình một cách tốt đẹp như thế nào. Ngoài ra, bạn cũng có trách nhiệm giáo dục con cái của mình theo đức tin Kitô giáo. Những đứa con chăm ngoan và hiếu thảo ông bà cha mẹ chính là hoa trái cụ thể mà mọi người trong gia đình chồng đều có thể thấy được từ một người mẹ Công giáo như bạn.

Nói chung, giá trị đức tin Công giáo không chỉ dừng lại ở cá nhân bạn mà còn có thể lan tỏa cho mọi người xung quanh, dù họ có biết Chúa hay không.

Để kết thúc, tôi có lời khen bạn vì biết thao thức việc giữ đạo khi lấy chồng không cùng đức tin. Điều này chứng tỏ bạn rất trân trọng giá trị đức tin Công giáo, muốn tìm cách gìn giữ nó trong hoàn cảnh có nhiều thách đố. Tôi mời gọi bạn hãy tiếp tục nuôi dưỡng thao thức tốt đẹp đó và tha thiết cầu nguyện xin ơn Chúa trợ giúp. Tôi tin rằng Chúa sẽ ban đủ ơn giúp nâng đỡ bạn sống đức tin và có khi còn ban cho chồng và gia đình chồng ơn nhận biết Chúa qua gương sáng đạo đức của bạn nữa.

Trích Giải đáp thắc mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 7 Nxb Tôn Giáo, 03/2023

WHĐ (28.05.2024)

Đọc thêm:

1. Hôn nhân khác đạo tại Châu Á
2. Đồng hành với gia đình gặp khó khăn do hôn nhân khác đạo

---------------------------------

 

BÀI 129 - KHÔNG KẾT HÔN VÌ SỢ ĐỔ VỠ


Nt. Thiên Di, CND - CSA
04/06/2024
Câu hỏi: Con là một cô gái ngoài 30 tuổi, con thấy cuộc sống hôn nhân có quá nhiều mong manh dễ đổ vỡ, con sợ mình đi vào vết xe đổ nhiều gia đình. Con có ý định không kết hôn, xin cho con những lời khuyên?
Trả lời:

Có nên sợ ?

Một cuộc hôn nhân hạnh phúc viên mãn luôn là điều mong ước của các gia đình. Thế nhưng, có biết bao con người thì có bấy nhiêu hoàn cảnh gia đình khác nhau. Bạn là người nhìn thấy những cảnh gia đình tan vỡ và không muốn bước vào vết xe đổ của họ. Không lập gia đình có phải là giải pháp chọn lựa tránh rủi ro cho bạn?

Thực tế ngày nay, có rất nhiều lý do khiến nhiều bạn trẻ chán “ngán” lập gia đình. Có bạn cho rằng thích yêu hơn lấy, họ thích những cuộc tình chóng vánh hơn là những ràng buộc trong hôn nhân. Có người không sẵn sàng yên bề gia thất vì gia đình khiến họ phải đối diện với nhiều mối quan hệ phức tạp của dòng họ gia đình nội ngoại. Bên cạnh đó, ngày nay có khá nhiều phụ nữ có chức vụ cao trong xã hội, nên có một đứa con là cả một vấn đề lớn họ phải hi sinh, xu hướng “sợ phải sinh con” vì sợ một đứa trẻ sẽ chiếm hết quỹ thời gian nên họ không kết hôn.

Ngoài ra, cũng không ít những bạn trẻ không hứng thú với việc hẹn hò với một người khác phái, họ thích được tự do, thoải mái tận hưởng cuộc sống hoặc có nhiều thời gian cho việc phát triển sự nghiệp. Họ cảm thấy ổn khi chỉ sống một mình. Thêm lý do nữa là vấn đề tài chính chi tiêu cho một gia đình hạnh phúc êm ấm đầy đủ. Những khoản chi tiêu, xây dựng tương quan, nuôi dạy con cái khá cao khiến nhiều người nam nữ chọn ở vậy vì không đủ điều kiện kinh tế. Hay trào lưu làm mẹ đơn thân vì cũng sợ sợi dây ràng buộc hôn nhân làm người trẻ vướng víu. Bạn là một trong những người mất niềm tin vào hôn nhân khi thấy sự đổ vỡ trong hôn nhân ngày nay quá nhiều nên bạn chọn đơn thân độc mã giữa cuộc đời này.

Bạn thân mến, mỗi chúng ta đều có quyền tự do chọn lựa một lối sống ý nghĩa và thích hợp với mình miễn sao bạn cảm thấy hạnh phúc là rất đáng trân quý. Tuy nhiên, vì sợ mà ta không dám làm gì thì lại là điều chúng ta cần suy nghĩ lại. Bạn biết đó, trong một gia đình khi có con gái đến tuổi lập gia đình mà chưa có ai “rước về” hoặc chưa có định hướng rõ ràng thì cha mẹ như người ngồi trên đống lửa. Người ta vẫn thường nói “nhà có con gái lớn như hũ mắm treo đầu giường”. Có lẽ với thời gian tuổi bạn càng cao thì nỗi lo lắng của bậc sinh thành dành cho bạn vẫn mãi thổn thức. Lúc đó, nỗi sợ của bạn sẽ làm cha mẹ không được vui hưởng tuổi già an vui bên con cháu khi tuổi các ngài đã xế chiều.

Cuộc sống của chúng ta có rất nhiều điều đáng để sợ đáng để lo. Nỗi sợ giúp chúng ta tránh được hiểm nguy rủi ro không đáng có. Nhưng nếu chúng ta không điều chỉnh nỗi sợ của mình và biến niềm tin - hi vọng thành hiện thực thì chúng ta sẽ đánh mất sự trưởng thành, đánh mất những cơ hội vàng thành công hạnh phúc trong cuộc sống.

Nơi tôi làm việc có một bạn nam năm nay 25 tuổi, do nhút nhát – sợ tai nạn, sợ những đoàn xe nờm nợp ngược xuôi nơi phố thị nên bạn chưa một lần tập đi xe máy. Mọi di chuyển của bạn trẻ này đều do người nhà chở, hay tài xế grab đón. Khi bạn mới đến trường các sơ làm việc, bạn khá nhút nhát, sợ nhiều thứ, không dám quyết định bất cứ một vấn đề gì. Đầu năm vừa rồi, được sự khuyến khích của các sơ bạn đã bắt đầu tập lái xe, và tự di chuyển bằng xe máy điện. Theo thời gian, sự nhút nhát đã dần giảm đi, bạn trẻ tự tin trong công việc và những trách nhiệm được giao, xây dựng những mối tương quan tích cực với đồng nghiệp. Hôm nay, bạn đó đã cảm thấy khá tự tin, hạnh phúc với cuộc sống hiện tại. Tôi chia sẻ câu chuyện này để nói rằng Niềm Tin Hi Vọng sẽ giúp cho ta ý thức được những năng lực phẩm chất giá trị mà Thiên Chúa dành sẵn trong con người chúng ta.

Can đảm và chấp nhận

Niềm tin sẽ giúp mình có cái nhìn tích cực vào cuộc sống, và không ngừng hoàn thiện bản thân để xây dựng cuộc sống tốt đẹp. Trong cuộc sống, những rủi ro không ai mong muốn nó đến và nó cũng không loại trừ ai. Thay vì chúng ta co lại vì sợ hãi thì bạn hãy học cách tích cực xây dựng cuộc đời mình để tránh rủi ro. Hãy xây dựng thành trì ngôi nhà của bạn bằng những đức tính cao quý Công - Dung - Ngôn - Hạnh của ngươi phụ nữ. Hãy giữ lửa cuộc đời bằng một lối sống tích cực, suy nghĩ tích cực, yêu thương trân trọng những gì Thiên Chúa gởi đến. Chúng ta phải tự tin hướng đến những kết cục tốt đẹp trong tương lai.

Trong sách Huấn ca chương 26 có viết về người phụ nữ như thế này:

“Phúc  thay ai cưới được vợ hiền
Tuổi thọ sẽ tăng lên gấp đôi.
Vợ đảm đang khiến người chồng sung sướng,
được an vui suốt cả cuộc đời
Vợ hiền là số tốt phận may”

Chỗ khác có câu: “Phụ nữ nết na là ân phúc tuyệt vời, không có chi quý giá bằng người tiết hạnh” (Hc 26,15). Sách Châm Ngôn cũng viết về người phụ nữ “Phụ nữ khôn ngoan xây dựng cửa nhà, phụ nữ dại dột tự tay phá đổ” (Cn 14,1). Bạn mến, thay vì ngồi run sợ về tương lai, chúng ta hãy rèn luyện xây dựng một phẩm hạnh tốt đẹp để xây dựng gia đình tương lai.

Cuộc sống của chúng ta là một hành trình hướng về phía trước và không ai biết được tương lai chính xác sẽ như thế nào. Tôi và bạn không thể nhìn vào cuộc sống của người khác mà âu lo cho phận mình rồi không dám làm gì. Thay vì nói "không”, thì hãy có cái nhìn đúng đắn về việc tìm hiểu kỹ lưỡng người bạn đời của mình, cả hai cùng chấp nhận những giới hạn có thể được của nhau, yêu thương nhau thật lòng và cùng như học hỏi cho việc xây dựng tổ ấm của mình. Con người ta “nhân vô thập toàn” hãy nhìn đến điểm tích cực của người kia để xây dựng hạnh phúc gia đình, biết tha thứ cho nhau là điều rất cần thiết trong hôn nhân.

Các bạn hãy học và hiểu cho đúng ý nghĩa từ “vợ chồng”, hay từ “mình ơi, nhà tôi”… để trân trọng ý nghĩa thiêng liêng hai tiếng “gia đình” bạn nhé. Trái tim của người phụ nữ cũng cần rộng lượng khoan dung để bao bọc cả gia đình. Khi có chuyện không hay xảy ra cũng nên nhìn nhận “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng” mà kịp thời điều chỉnh, khéo léo kéo người ta quay trở lại với gia đình mình, hàn gắn những đổ vỡ qua đối thoại trong xây dựng yêu thương. Cho dù hạnh phúc trong hôn nhân vỏn vẹn hai năm, sáu năm… thì bạn hãy sống cho mình và gia đình những ngày tháng tiếp theo thật tốt đẹp – bình an. Hãy vui với những niềm vui nho nhỏ trong gia đình cùng con cái, chu toàn trách nhiệm làm mẹ và nuôi dạy các con trưởng thành đạo hạnh đó là điều quý giá nhất.

Trong cuộc sống gấp gáp hôm nay, nếu các gia đình có thời gian sống chậm lại để xây dựng hạnh phúc gia đình thực sự là "tổ ấm" chứ không phải là quán trọ thì tốt đẹp biết bao. Vợ chồng chấp nhận nhau, dành thời gian cho nhau, bao dung cho nhau, có thể yêu thương lại như thuở ban đầu, lắng nghe nhau, nhìn lại những đức tính, cử chỉ tốt đẹp của nhau.... thì sự đổ vỡ sẽ không còn đáng lo ngại.

Bạn thân mến,

Trong tất cả sự hi sinh cố gắng để xây dựng hạnh phúc gia đình, bạn hãy để Thiên Chúa làm chủ gia đình bạn, vì mọi nỗ lực của bạn mà không có Ngài đồng hành chúc phúc thì cũng như “dã tràng se cát biển đông”. Trong  sách Thánh Vịnh 126 có câu: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công. Thành kia mà Chúa không phòng giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm.” Người trông cậy vào Thiên Chúa khác nào người có Chúa làm thành lũy kiên cố bảo vệ cuộc đời mình.

Bên cạnh đó, Đức Maria là một mẫu gương cho nhân đức can đảm mà chúng ta cần học hỏi. Mẹ đã can đảm nói lời xin vâng để cưu mang Đấng Cứu Thế cho nhân loại. Mẹ không sợ những rủi ro, hình phạt của xã hội lúc đó khi chấp nhận lời truyền tin của Sứ thần. Nhờ hai tiếng xin vâng của Mẹ trong tin yêu và phó thác, Mẹ đã mang đến cho nhân loại một hi vọng mới, một giá trị đích thực, một con đường cứu độ trong một hành trình tưởng là mong manh và đơn độc này.

Thân ái! 

Trích Giải đáp thắc mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 7 Nxb Tôn Giáo, 03/2023

WHĐ (04.06.2024)

---------------------------------

 

BÀI 130 - NGHIỆN INTERNET, TÌM SỰ QUÂN BÌNH


Vinh Sơn Vũ Tứ Quyết SJ
11/06/2024
Câu hỏi: Nghiện Internet đúng là không tốt. Tuy nhiên, chính con và nhiều người trẻ thật khó thoát ra. Không biết có cách nào để quân bình trong việc lên mạng Internet.
Trả lời:

Bạn thân mến,

Khi bắt đầu đặt câu hỏi, cũng chính là khởi đầu rất tốt. Nhưng chắc chắn sẽ không có một giải pháp đúng cho tất cả mọi người. Và cũng chắc chắn rằng, không phải ai cũng gặp những vấn đề như nhau. Ví dụ, khi chưa có internet, người ta cũng dễ bị nghiện nhiều thứ. Phái nam, có thể nghiện hút thuốc, nghiện rượu. Phái nữ, có thể nghiện mua sắm, nghiện "buôn dưa lê” nói hành nói xấu. Có nhiều người cũng có thể nghiện cờ bạc, ma túy. Có vô vàn ví dụ và hoàn cảnh khác nhau trong cuộc sống.

Kỳ thực, có lẽ ai cũng dễ nhận thấy rằng: “nghiện” quá cái gì cũng đều không tốt. Có nhiều điều tốt lành như: trẻ con mà không vui chơi, thì đâu còn là trẻ con. Vì nếu không, các em sẽ mất tuổi thơ. Nếu không vui chơi, các em không thể lớn được, không thể phát triển về mọi phương diện được. Nhưng nếu ham chơi quá, thì không học hành, không biết chăm lo trong gia đình và nhiều điều cần thiết khác. Người lớn, thì có người “nghiện” việc công, mà bỏ bê gia đình, thì đó cũng là điều không nên. Hay người đi tu mà “nghiện” cầu nguyện đến mức quên nấu cơm cho chị em, thì kể cũng rất căng thẳng. Hoặc nếu thầy tu nào “nghiện” giúp đỡ người ta bên ngoài, mà quên mất anh em trong nhà, thì cũng rất khó mà sống tốt được. Do đó, bạn có ý kiến rất hay, khi đặt câu hỏi về “quân bình”. Quân bình không phải là bình thường, nhưng là điều tốt nhất phù hợp nhất trong muôn mặt muôn màu với mọi điều liên hệ.

Là người trẻ, trong học tập, công việc, đời sống đương thời, nếu không dùng internet, có lẽ chẳng có gì chạy được. Chúng ta sẽ bị lạc lõng, và lạc khỏi thế giới. Internet trở nên một phần không thể thiếu, giống như trước đây khi có điện. Trước khi có điện, mọi sự khác. Và khi đã có điện, thì cuộc sống mọi mặt của con người không thể thiếu được điện.

Internet có thể gây nghiện, vì vô vàn lý do. Bạn có thể tự ngồi lại, liệt kê, kể tên những gì, và bao nhiêu thời gian bạn sử dụng internet mỗi ngày, cho từng việc đó:

- Nghiện internet, để làm gì?

+ Chơi game: game gì, bao nhiêu tiếng một ngày…
+ Chơi các mạng xã hội: Facebook, Instagram, Youtube…
+ Lướt web: đọc tin tức loại gì…
+ Xem phim, giải trí: thể loại phim…
+ Tin tức xã hội…
+ Các phim ảnh xấu gây nghiện…
+ Học hành làm việc…

- Thời lượng dùng internet cho mỗi việc, sử dụng internert ở đâu, với ai…

Những câu hỏi cơ bản, được đặt ra càng cụ thể càng tốt: làm gì, khi nào, ở đâu, với ai, với mục đích gì, đạt được điều gì, đánh mất điều gì…

Cần suy nghĩ về các mặt khác của cuộc sống: ăn, ngủ, học hành, vui chơi, gia đình, bạn bè, công việc. Nếu học hành, công việc và đời sống thường ngày bị đình trệ, thì kể như đã bắt đầu dấu hiệu rất xấu. Ví dụ, không hoàn thành được việc học ở trường, cho dù nằm trong khả năng của mình. Ví dụ, công việc bị bỏ bê, đến độ không đủ tiền chi trả cuộc sống. Ví dụ, không còn có tương quan tốt với mọi người trong gia đình và đồng nghiệp. Ví dụ, con người mình tự nhiên cảm thấy dễ cáu gắt khó chịu…

Khi ở trong tình trạng “nghiện”, có nghĩa là ta đang đánh mất khả năng làm chủ bản thân. Đánh mất khả năng suy tính có tình có lý của trí khôn. Do đó, cần thời gian dừng lại, tĩnh dưỡng, nghỉ ngơi, đánh giá, để biết đâu là điều cần làm. Ví dụ, nếu ngày nào bạn cũng nghiện internet đến mức thiếu ngủ. Thiếu ngủ một thời gian ngắn, tuổi trẻ có thể chịu được. Thiếu ngủ thời gian dài, có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe thể lý, và suy nhược về tâm lý cũng như tinh thần, và có thể đổi tính nết, có thể tê liệt những khả năng của não bộ.

Khi bạn đã tự phân tích được hoàn cảnh của mình, hoặc nhờ cả người mà bạn tin tưởng giúp đỡ, bạn hãy đặt ra mục tiêu cụ thể và chiến lược cụ thể.

Ví dụ, nếu bạn thi môn văn, viết bài trên lớp, cần đọc sách, cần học bài liên tục trong vòng 3 ngày. Thì không có bất cứ lý do gì để sử dụng internet trong 3 ngày đó. Hãy ngắt kết nối 3 ngày. Khi thi xong, sẽ mở lại kết nối.

Ví dụ, đến giờ đi ngủ. Internet không liên quan gì cả. Hãy tắt tất cả. Rút phích cắm. Ngắt internet khỏi máy tính, khỏi iPad, khỏi điện thoại… Nếu cần hẹn giờ thức dậy, thì chỉ cần để điện thoại ở chế độ máy bay, thế là hoạt động tốt, ngay cả tắt cả chế độ điện thoại, nhắn tin, trước khi đi ngủ. Như thế, bạn có một giấc ngủ hoàn toàn thư thái nhẹ nhàng.

Nếu trong giờ học, hoặc giờ làm việc, bạn hay bị chia trí mất giờ cho Facebook, thì bạn cứ để cái điện thoại của bạn trong túi, không cần phải lấy ra làm chi. Khi nào cần, thì sử dụng. Nếu bạn không làm chủ được bản thân, lo lắng sẽ có người gọi này nọ. Bạn hãy mua riêng một cái điện thoại đơn giản chỉ phục vụ cho công việc.

Nếu bị nghiện internet vì mất giờ vô ích cho chơi game, hoặc tìm xem các mặt hàng mua sắm. Bạn hãy có bản lĩnh sống thật lòng mình, và chơi đẹp. Có nghĩa là, cần gì thì dùng đó. Không thì thôi. Đơn giản. Có thế bạn mới làm chủ thế trận. Nếu không, sẽ suốt ngày bị lôi kéo vào các trào lưu, và các nhóm bạn. Điều ấy không phải là xấu, đơn giản là những người ấy đang “ăn cắp” thời gian của bạn, mà trong khi những điều ấy bạn không muốn và cũng không cần.

Nếu bị nghiện dùng internet khi xem phim ảnh xấu, thì hãy thành thực với bản thân. Hãy mở cửa phòng, khi sử dụng internet. Hoặc hãy chọn những nơi vừa yên tĩnh để làm việc, nhưng cũng vừa thông thoáng để mọi người dễ dàng nhìn thấy. Như thế, bối cảnh chung sẽ nhắc bạn rất tốt trong việc làm chủ bản thân.

Khi bạn muốn tìm sự cân bằng, có nghĩa là bạn nhận thấy mình đang mất cân bằng. Có một quy luật rất đơn giản, nhưng thường hiệu quả. Đó là, bạn tập trung hết sức vào những gì cần làm, thì thực sự thời gian như thế đã trôi qua hết một cách tốt đẹp.

Mỗi buổi tối trước khi đi ngủ, hãy nhìn lại một ngày sống, và nghĩ về những việc ngày mai cần làm. Và ngày hôm sau, ngay khi thức dậy, tập trung hoàn thành từng điều một.

Bạn có thể nói, làm như thế khác chi cái máy. Sự thực thì ngược lại mới đúng. Nếu chúng ta sống trong tình trạng “nghiện”, thì chúng ta chẳng khác chi cái máy cứ lặp đi lặp lại những điều không thể thoát ra. Khi đó chúng ta cũng chẳng khác chi các con thú bị quy định nghiêm ngặt bởi bản năng thôi thúc.

Còn một khi, chúng ta làm được chương trình chính bản thân mình nhận thấy cần làm, thì đó là lúc chúng ta cảm nhận được thế nào là làm chủ, là tự do, là cộng tác với người khác, là hiểu về thế giới xung quanh, là sống có trách nhiệm, là có những ý tưởng mới.

Còn nếu thực sự việc học, công việc và cuộc sống của bạn quá nhàn hạ, quá thừa thời gian, thì bạn hãy tìm cách để cải thiện cuộc sống, bằng những dự án mới, những đóng góp tình nguyện cho cộng đồng, hoặc có thêm những chương trình tốt. Chứ nếu còn trẻ, khỏe, đầy năng lực, đầy sức sống, mà để cuộc đời trôi dạt theo kiểu “bị nghiện”, thì quả là lãng phí.

Còn nếu ở trong tình trạng “nghiện” trầm trọng, thì cần đến sự trợ giúp của các chuyên gia và những người giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực đó. Cũng tương tự như căn bệnh thể lý, có nhiều loại nặng nhẹ khác nhau, cần đến các bác sĩ đa khoa và chuyên khoa khác nhau, thì việc “nghiện” internet cũng sẽ có rất nhiều kiểu nhiều loại.

Bạn có thể hỏi rằng, nói dài dòng từ đầu tới giờ, thế thì chẳng lẽ không có giải pháp nào cụ thể, khả thi hay sao. Nếu muốn có một mô hình, thì có chứ. Đó là một đời sống lành mạnh. Ví dụ, là tuổi trẻ, đặc biệt sinh viên, chấp nhận là có những ngày ăn nhậu bạn bè thâu đêm. Chấp nhận là có những buổi học cày thâu đêm. Chấp nhận là có những buổi đấu game thâu đêm cùng nhóm bạn… Nhưng cũng phải nhìn nhận rằng, nếu ngày nào cũng như thế, nếu một tuần mà có tới vài ngày như thế, thì thực sự không chấp nhận được.

Có lẽ đời sống lành mạnh và giản dị, dường như trở thành điều xa xỉ và khan hiếm trong lối sống hiện đại. Nghiện “internet” có thể có một cái tên khác, đó là chia trí liên tục. Đó là sự bất an khi không kết nối. Đó là tình trạng trống rỗng, không biết phải làm gì khi không có internet.

Giữa nhịp sống xô bồ, hãy chọn cho mình một giấc ngủ ngon, hằng ngày. Hãy chọn cho mình những bữa ăn thích hợp, chứ không phải miệng ăn mà mắt dán vào màn hình, và chẳng còn biết mình đang ăn cái gì. Hãy chọn cho mình không gian làm việc phù hợp. Chọn cho mình có thời gian cùng thiên nhiên, cùng bạn bè, cùng người thân…

Internet phải nằm trong tay để chúng ta sử dụng, chứ internet không có quyền bao phủ tất cả cuộc sống, không có quyền lấy mất những gì riêng tư nhất, yên tĩnh nhất, thú vị nhất, đời thường nhất.

Đi ngủ, ngắt internet. Khi ăn, ngắt internet. Khi nói chuyện trực tiếp với người đối diện, ngắt internet. Khi đi học, nếu không thực sự cần, ngắt internet. Khi đi làm, nếu không cần, ngắt internet. Khi giải trí, dùng internet một phần. Phần còn lại, ngắt internet, để làm việc nhà, thăm người thân, chơi thể thao… Nếu bạn là người dùng Facebook “chuyên nghiệp” cho công việc, hoặc cá nhân, thì bạn hãy có phong cách riêng và lý do riêng cho mình. Và như thế, bạn sẽ có thời gian thích hợp cho phong cách ấy.

Ví dụ, thầy sử dụng Facebook. Mỗi ngày dành vài phút, thể post điều gì đó mình muốn. Sau đó, ngắt kết nối. Đợi đến giờ theo chương trình của mình, mở lên. Nếu ai đó comment mà mình cần hồi âm, thì mình trả lời. Không thì thôi. Các tin nhắn cũng thế. Có giờ cụ thể, và khi đó, sẽ trả lời tất cả các tin nhắn cần thiết. Nếu cần Chat với ai, hoặc gọi Video Call với ai, thì có hẹn trước, có giờ cụ thể. Làm như thế, mỗi ngày mất rất ít thời gian, và mọi sự đều rất nghiêm túc và có nhiều giá trị. Nếu mình có việc bận, đơn giản chỉ một tin nhắn, báo có việc bận, và hẹn ngày giờ khác. Như thế, mọi tương quan liên lạc đều rất đơn giản, thông suốt và không bị lãng phí thời gian, cũng không bị “mơ mộng hão huyền” và “bị nghiện”.

Đối với người Kitô hữu, việc xét mình hằng ngày hoặc thường xuyên, và việc xưng tội, thực sự rất quan trọng và vô cùng hữu ích, để không chỉ mình có thể làm chủ được bản thân, mà còn được tha thứ, được chữa lành, được nâng đỡ, và luôn có những khởi đầu mới, sáng kiến mới, sức sống mới.

Trích Giải đáp thắc mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 7, Nxb Tôn Giáo, 03/2023

WHĐ (11.06.2024)

---------------------------------

 

BÀI 131 - ANIMA CHRISTI - KINH LẠY HỒN CHÚA KITÔ


Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế SJ
19/06/2024
Câu hỏi: Mỗi lần đi Linh Thao chúng con đều được mời gọi cầu nguyện với kinh Lạy Hồn Chúa Kitô. Có phải kinh này do thánh I-nhã sáng tác không? Cũng xin cho chúng con hiểu thêm ý nghĩa của lời kinh Lạy Hồn Chúa Kitô!
Trả lời: Kinh Lạy Linh Hồn Chúa Kitô

Kinh Lạy Linh Hồn Chúa Kitô

Lạy linh hồn Chúa Kitô, xin thánh hóa con.
Lạy xác thánh Chúa Kitô, xin cứu độ con.
Lạy Máu Thánh Chúa Kitô, xin làm cho con say mến.
Lạy nước bởi nương long Chúa Kitô, xin tẩy rửa con.
Lạy sự thương khó Chúa Kitô, xin thêm sức cho con.
Lạy Chúa Giêsu nhân ái, xin nhận lời con.
Xin giấu ẩn con trong các vết thương Chúa.
Xin cho con đừng bao giờ lìa xa Chúa.
Xin gìn giữ con khỏi kẻ thù tinh quái.
Đến giờ lâm tử, xin Chúa gọi con, và cho con đến cùng Chúa,
để con được cùng các thánh ca tụng Chúa muôn đời. AMEN.

Dẫn nhập

Kinh Lạy Hồn Chúa Kitô (Anima Christi) là lời kinh lâu đời và có một giá trị cao. Theo dòng thời gian, lời kinh này được nhiều vị thánh yêu thích và được rất nhiều tín hữu đạo đức dùng để cầu nguyện.

Thánh I-nhã là một trong những vị thánh chú ý nhiều đến lời kinh Lạy Hồn Chúa Kitô. Trong sách Linh Thao, ngài mời gọi những người làm Linh Thao cầu nguyện với kinh Lạy Hồn Chúa Kitô. Nhờ đó, không ít người đã được ơn ích thiêng liêng và đem lòng yêu mến. Lời kinh Lạy Hồn Chúa Kitô được phổ biến khắp nơi, đến nỗi có nhiều người lầm tưởng rằng kinh này do thánh I-nhã sáng tác. Vậy, nếu không phải do thánh I-nhã sáng tác thì lời kinh này có nguồn gốc ra đời như thế nào?

1. Vài nét sơ lược về nguồn gốc của kinh Lạy Hồn Chúa Kitô

Về sử liệu, người ta không thể tìm thấy căn cứ rõ ràng để xác định ai là tác giả của kinh Lạy Hồn Chúa Kitô. Tuy nhiên, rõ ràng là lời kinh này đã được dùng vào thời Trung Cổ.

Theo Lothar Lies, dựa trên việc nghiên cứu linh đạo thánh I-nhã, người ta có thể xác nhận một vài điểm sau:

1) Bản văn cổ nhất của kinh Lạy Hồn Chúa Kitô được tìm thấy trong một bản thảo ở London (trong viện bảo tàng Anh Quốc – Britisches Museum, Harley 2253).

2) Bản thảo này được hoàn tất trong nửa đầu thế kỷ thứ 13 trong tu viện Loeminster (Hereford, England).

3) Lời kinh nguyện này khả thể lớn xuất hiện đầu tiên ở Ái-nhĩ-lan (Ireland) và sau đó được phổ biến rộng rãi toàn Châu Âu cho đến Tây Ban Nha; vì thế thánh I-nhã đã “gặp” và dùng để cầu nguyện.

4) Lời kinh Lạy Hồn Chúa Kitô ban đầu được dùng để cầu nguyện trước Thánh Thể[1].

Ngoài ra, tương truyền rằng Đức Giáo Hoàng Gioan XXII (1244 – 1334) đã đưa ra bản kinh gần giống với kinh Lạy Hồn Chúa Kitô và đã ban ơn toàn xá cho những ai cầu nguyện với kinh này[2].

Nữ thần bí người Đức, tu sĩ dòng Đa Minh, Magarete Ebner (1291-1351) thuộc tu viện Đa Minh ở Medingen, vùng Bavaria, miền Nam Đức cũng đã nhắc đến kinh Lạy Hồn Chúa Kitô trong các bài viết của ngài[3].

Theo Balthasar Fischer, kinh Lạy Hồn Chúa Kitô bằng tiếng La-tinh (Anima Christi) được tìm thấy vào khoảng 1314/1320. Kinh này được chuyển ngữ qua tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức và nhiều thứ tiếng khác. Kinh Anima Christi là kinh rất được yêu thích, dùng cầu nguyện trong thánh lễ, trong những buổi chầu Thánh Thể. Như thế, lời kinh này liên hệ đến bí tích Thánh Thể và được dùng như lời nguyện trước khi rước lễ, như vẫn thấy ở Giáo Hội Đức trước đây. Còn trong sách lễ Rôma (Missale -1970), Đức Giáo hoàng Phao-lô VI đã khuyên các tín hữu đọc kinh Anima Christi để cám ơn sau khi rước Mình Máu Chúa[4].

Theo Cha Roco Đinh Văn Trung SJ, “Kinh Lạy Hồn Chúa Kitô là kinh của một tác giả vô danh, được tìm thấy vào khoảng năm 1370. Ðây là kinh rất phổ biến hồi thế kỷ mười sáu (thời thánh I-nhã) và cả trước đó nữa. Thánh I-nhã ưa thích và trong lời kinh, ngài đặt trọng tâm vào sự tôn sùng Ðức Kitô với cuộc Thương Khó cứu chuộc của Người. Nhiều sách lễ giáo dân đặt kinh này vào phần cám ơn sau chịu Mình Thánh; có sách còn ghi lầm là kinh của thánh I-nhã”[5].

Trong sách Linh Thao, kinh Lạy Hồn Chúa Kitô được Thánh I-Nhã khuyên nên dùng trong một số bài suy gẫm và cầu nguyện:

1) Ở tuần thứ I, trong cuộc Linh Thao thứ ba (Sách Linh Thao 62-63), tại phần tâm sự thứ hai (x. LT. 63). Cuộc linh thao thứ ba này lập lại hai cuộc Linh Thao trước đó. Cuộc Linh Thao đầu tiên dùng ba tài năng của linh hồn để suy gẫm về tội thứ nhất, thứ hai và thứ ba (x. LT. 45-54). Cuộc Linh Thao thứ hai suy gẫm về các tội (x. LT. 55-61).

2) Ở tuần thứ II, trong bài suy gẫm hai cờ hiệu (LT. 136-148), tại cuộc tâm sự thứ hai (x. LT. 147).

3) Ở phần “ba cách cầu nguyện” (LT. 238-260), trong cách cầu nguyện thứ hai, chiêm niệm ý nghĩa của từng lời kinh một. (x. 253).

4) Lần cuối cùng cũng ở phần “ba cách cầu nguyện”, trong cách cầu nguyện thứ ba theo nhịp điệu (x. LT. 258).

2. Cấu trúc của kinh Lạy Hồn Chúa Kitô

Về cấu trúc của kinh Anima Christi, một số tác giả có cái nhìn khác nhau.

Johannes B. Lotzt SJ. đã chia thành ba phần: Phần thứ nhất từ câu 1-6; phần thứ hai từ câu 7-9 và phần thứ ba từ câu 10-13.[6]

Còn Erich Przywara SJ. thì cũng chia làm ba phần nhưng có khác biệt về số câu: Phần một từ câu 1-4; phần hai từ câu 5-7 và phần ba từ câu 8-13[7].

Đối với Bernhard Klinger, bản văn kinh Lạy Hồn Chúa Kitô gồm có 13 câu ngắn. Tuy nhiên, câu thứ 13 như là câu thường được dùng để kết thúc một kinh nguyện “In saecula saeculorum. Amen – muôn thuở muôn đời. Amen”[8].

Ở đây, chúng ta có thể xem kinh có hai phần với 12 câu, theo cách phân đoạn của Bernhard Klinger.

Phần một (cc.1-6): người cầu nguyện hướng trực tiếp về với Chúa Giêsu Kitô. Trong đó, tước hiệu “Chúa Kitô” được nhắc đến trong năm câu đầu liên hệ đến “hồn, “xác”, “máu”, “nước bởi nương long”, “thương khó” và đi kèm với lời cầu nguyện. Ví dụ: “Lạy sự thương khó của Chúa Kitô, xin thêm sức cho con”. Ở câu thứ sáu, tên “Chúa Giêsu ” được người cầu nguyện nhắc đến cùng với tính từ “bone - nhân ái”: Bone Jesu - Lạy Chúa Giêsu nhân ái.

Phần thứ hai (cc.7-12): chúng ta thấy câu thứ bảy ở thể mệnh lệnh gồm “xin” cộng với “một động từ”. Ví dụ: “xin giấu ẩn”, “xin cho”, “xin gìn giữ”, “xin ban”. Chắc chắn lời kêu xin là của chính “tôi - người cầu nguyện”.

Ngoài ra, trong bản văn tiếng La-tinh, từ “tôi/con – ME” xuất hiện trải dài từ câu 1 đến câu 11 và kết thúc với từ “Chúa/Ngài – TE” trong câu 12: “Ut cum sanctis tuis laudem Te”.

Nếu để ý, chúng ta thấy được một năng động quan trọng trong lời kinh Lạy Hồn Chúa Kitô, như Johannes B. Lotz nhận định: “Mặc dù kinh Anima Christi nhắc nhiều lần đại từ ‘ME’, ‘con/tôi’ (từ câu 1-7 và câu 9,10), nhưng sâu xa hơn, lời kinh này quy hướng về Chúa Kitô, Đấng mà chủ thể cầu nguyện khao khát tìm và mong muốn được gặp. Vì thế, ở những câu cuối của lời kinh (câu 8, 11 và 12), đại từ ‘TE’, chỉ về Chúa Giêsu Kitô được dùng. Như vậy ‘TE – Chúa Giêsu Kitô’ giờ đây trở thành trung tâm của lời kinh Anima Christi”[9].

Bernhard Klinger cũng nhận định: “Việc quy hướng về Chúa Giêsu Kitô làm nổi bật sự thay đổi đối tượng nền tảng của lời nguyện. Từ ‘tôi/con – ME’ chuyển sang trọng tâm là ‘Chúa/Ngài – TE’, tức là Chúa Giêsu Kitô (ad TE)[10].

Hơn nữa, trong phần một, người cầu nguyện chiêm ngắm cuộc đời và cuộc khổ nạn, chịu chết của Chúa Giêsu Kitô. Cuộc chiêm ngắm đạt đến đỉnh cao qua việc kêu tên “Giêsu” ở câu 6: Bone Jesu - Lạy Chúa Giêsu nhân ái.

Ở phần thứ hai, người cầu nguyện hướng lòng hẳn về Chúa Giêsu Kitô. Lời kêu xin của người ấy diễn tả lòng khao khát thâm sâu được trú ẩn và được kết hiệp mật thiết với Ngài.

Hơn nữa, nếu câu 6 là cao điểm của phần một thì câu 12 là trọng tâm của phần hai, diễn tả đích đến mà người cầu nguyện khao khát. Đó là: “Ut cum sanctis tuis laudem Te - để con được cùng các thánh của Chúa ca tụng Chúa”.

Theo Bernhard Klinger, “đó là bức tranh khác tương hợp với unio mystica, ở cùng Chúa và hiệp nhất với Ngài”[11]. Đó là đích đến của người cầu nguyện với kinh Lạy Hồn Chúa Kitô.

3. Một cái nhìn sơ lược về nội dung

Tổng quan về nội dung lời kinh Lạy Hồn Chúa Kitô, các lời kêu cầu được xếp lần lượt kế bên nhau. Tính xác thực và ý nghĩa sâu xa của các lời này diễn tả tâm tình khiêm nhường của người cầu nguyện. Nghĩa là người cầu nguyện ý thức thân phận của mình: “mỏng dòn dễ vỡ” cần được thánh hóa (ss.Tv 90, 5-6); một thân phận như “cọng cỏ đồng” nay tươi mai đã héo khô. Thân phận nhỏ bé đó cũng dễ dàng bị thế lực tinh quái từ bên ngoài đe dọa, cám dỗ và đưa đẩy vào trong bóng đêm, rơi vào trong hố sâu của cuộc đời.

Hơn nữa, qua những lời kêu xin, người cầu nguyện cũng diễn tả lòng khát khao được kết hiệp mật thiết với Đức Kitô, được trở nên một với Ngài trong tình yêu, đến nỗi được chung một nhịp thở, cùng một bước chân với Ngài. Hơn hết, người cầu nguyện ao ước, như thánh Phao-lô nói: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Theo đó, người cầu nguyện khởi đi từ chính lời cầu nguyện của mình, hướng lòng lên Chúa để cầu xin và đạt tới cùng đích là chọn và kết hiệp nên một với Chúa Giêsu Kitô như là trung tâm của cuộc sống.

Như vậy, khi đọc từng lời kêu cầu trong kinh Anima Christi, chúng ta sẽ không nhận ra được một “lý thuyết thần học hay một bản tuyên xưng đức tin”, mà là một tâm hồn chân thật của một người khiêm tốn cầu nguyện.

4. Phương pháp cầu nguyện với kinh Anima Christi

Anima Christi - Lạy Hồn Chúa Kitô là lời cầu nguyện rất sâu xa, nên người cầu nguyện cần phải hòa nhập mình với lời cầu nguyện, cần “đi vào” từng câu từng chữ, để cho câu và chữ đó dẫn mình đi vào chiều sâu thiêng liêng, dẫn mình đi vào tương quan thật gần gũi với Đức Giêsu Kitô. Chính vì thế mà thánh I-nhã đã đặt lời kinh này vào trong hai cuộc tâm sự với Chúa Giêsu (x.LT. 63 và 147).

Khi cầu nguyện với lời kinh này, theo thánh I-nhã, nên dùng phương pháp cầu nguyện “Chiêm niệm ý nghĩa của từng từ của kinh nguyện” như thánh nhân viết trong LT 249-257. Ngoài những bước căn bản, như “chuẩn bị”, “lời nguyện chuẩn bị”, và “phần kết thúc”, thì cần phải chú ý đến phương pháp cầu nguyện này:

“Về thể xác, quỳ hay ngồi, tùy như tư thế nào giúp hơn cho việc cầu nguyện; hai mắt nhắm lại hoặc nhìn vào một chỗ nhất định. Về hoạt động nội tâm, suy xét từng từ trong kinh và dừng lại ở từ đó bao lâu cảm thấy ý vị và sự yên ủi, như bản văn còn giải thích thêm khi nói về kinh Lạy Cha: ‘Nếu người chiêm niệm về kinh Lạy Cha tìm thấy ở một hay hai từ đề tài thật tốt cho tư duy, và ý vị và sự yên ủi, thì họ đừng bận tâm đến việc đi xa hơn, cho dù giờ cầu nguyện chấm dứt ở cái mà họ tìm thấy’ (LT 254,1-2). Ðiều này giống với một điều trong phần ‘Những điểm phụ thêm’ của Tuần Nhất: ‘Ở điểm mà tôi tìm thấy điều tôi muốn, tôi sẽ nghỉ lại, không quan tâm đến việc đi xa hơn, cho tới khi tôi được thỏa mãn’ (LT 76). Cũng vì thế, vẫn theo bản văn, không cần trong một lần chiêm niệm, phải chiêm niệm hết cả một kinh; và trong trường hợp này, khi hết giờ, sẽ đọc trọn cả kinh đó. Lần sau sẽ làm tiếp phần còn lại, nhưng bắt đầu bằng việc đọc lại kinh đó từ đầu cho tới chỗ mình có ý chiêm niệm tiếp”[12].

Phương pháp khác để cầu nguyện với kinh Anima Christi mà thánh I-nhã đề nghị là theo nhịp điệu. Cụ thể, thánh I-nhã dạy rằng:

“Trong mỗi hơi thở, ta nguyện thầm trong trí bằng cách đọc một lời trong Kinh Lạy Cha hay một kinh nào khác mà ta đọc; làm sao để giữa hai hơi thở chỉ đọc có một lời, và trong khoảng từ hơi thở này đến hơi thở khác, tập trung vào nhìn ngắm ý nghĩa của lời đó hay Ðấng mà ta cầu xin, sự thấp hèn của chính mình hay sự khác biệt giữa sự cao cả của Ðấng ấy với sự thấp hèn của mình” (LT 258).

So sánh giữa hai cách thức cầu nguyện trên, cách cầu nguyện theo nhịp điệu đơn giản hơn cách cầu nguyện “suy niệm từng từ của lời kinh”. Tuy nhiên, mỗi cách cầu nguyện có hướng đi và mục đích riêng. Vì cách cầu nguyện theo nhịp điệu đơn giản hơn nên có khi nó thích hợp hơn với hoàn cảnh nào đó.

Về mặt lý thuyết, kết hợp cả hai cách trên thì bổ ích hơn là chỉ dùng một trong hai cách. Bởi vì việc suy niệm kỹ và sâu về một kinh nguyện sẽ giúp dễ cầu nguyện hơn trong trường hợp dùng lại cũng kinh nguyện đó vào cách cầu nguyện theo nhịp điệu[13].

Với hai cách cầu nguyện trên, xin mời bạn cùng đọc lời kinh Anima Christi – Lạy Hồn Chúa Kitô. Nếu được, khi bạn cầu nguyện xong, bạn nên viết lại phần suy niệm của bạn.

Sẽ rất hữu ích cho đời sống thiêng liêng của bạn nếu bạn cầu nguyện từng câu của kinh Lạy Hồn Chúa Kitô theo cách mà thánh I-nhã đề nghị.

Sau mỗi câu, bạn viết lại tâm tình suy niệm của bạn. Tiếp đến, bạn dành giờ đọc lại tâm tình suy niệm của bạn, để cho “những hàng chữ bạn viết trên giấy” trở thành “nhịp đập trái tim của bạn”. Qua đó bạn có thể khám phá được điều Chúa muốn nói với bạn qua chính tâm tình và đời sống của bạn.

Thay lời kết

Cầu nguyện là hơi thở của con cái Chúa.

Cầu nguyện làm cho cuộc sống nội tâm được an bình, vì trong cầu nguyện ta khám phá được điểm tựa đời mình là chính Chúa.

Hơn hết, cầu nguyện giúp ta tìm gặp được con đường khởi đi từ “tôi” để đến với CHÚA, là trung tâm, nguồn cội và cùng đích.

Nói khác đi, cầu nguyện là cuộc gặp gỡ thân tình giữa ta với CHÚA, ĐẤNG LUÔN TÌM TA TRƯỚC, VÌ NGÀI DỰNG NÊN TA VÀ YÊU THƯƠNG TA CHO ĐẾN CÙNG.

Lời kinh Anima Christi có thể là lời kinh giúp bạn bước vào con đường dẫn đến trung tâm điểm là chính Chúa. Lời kinh này cũng giúp bạn gặp gỡ Chúa trong thân tình, nghĩa là bạn được Chúa cho trú ẩn và kết hiệp nên một với Chúa.

Đó chính là hạnh phúc thật sự của đời người, của bạn và của tôi.

Bài viết này xin không kết ở đây, để mời bạn cùng kết qua tâm tình bạn có qua cầu nguyện và suy niệm từng chữ từng câu của lời kinh Lạy Hồn Chúa Kitô!

Trích Giải đáp thắc mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 7, Nxb Tôn Giáo, 03/2023

WHĐ (19.06.2024)

_______

[1] Lothar Lies, Mysterum Vocationis. Sonderierung zur Spiritualität ignatianischer Exerzitien. Echter Verlag. Würzburg 2008. S.66.
[2] Hiện nay, ân ban này không còn áp dụng.
[3] F. Baumann SJ. Seele Christi heilige mich. Kanisius Verlag. Friburg – Schweiz 1965. S.3.
[4] ss. Balthasar Fischer, từ ngữ “Anima Christi, sanctifica me” trong “Lexikon für Theologie und Kirche”, Walter Kasper (Hrsg.), Band 1, Herder Verlag, Freiburg-Basel-Wien Sonderausgabe 2006, S. 679-680
[5] Đinh Văn Trung S.J, Một cuộc hành trình thiêng liêng. tr.151
[6] ss. Johannes B. Lotz SJ., s. 190-192.
[7] ss. Johannes B. Lotz SJ., s. 190-192.
[8] Bernhard Klinger. Anima Christi. Biblische Quellen eines Gebets. In Geist und Leben. Heft 4. Oktober/ Dezember 2012. Echter Verlag. S.360.
[9] ss. Johannes B. Lotz SJ., s. 189
[10] Bernhard Klinger. Anima Christi. Biblische Quellen eines Gebets. S.360.
[11] Bernhard Klinger. Anima Christi. Biblische Quellen eines Gebets. S.360.
[12] Đinh văn Trung S.J, s. 446-447
[13] ss. Đinh văn Trung S.J, s. 448-449

---------------------------------

 

BÀI 132 - ĐÊM TỐI CỦA ĐỨC TIN


Maria Antôn Quỳnh Thoại, CĐM
25/06/2024
Câu hỏi: Ban đêm đi một mình, con thường có cảm giác ai đó theo sau mình. Có khi nào ma quỷ hoặc hồn vía theo không? Hoặc nếu Thiên Chúa bảo vệ con, tại sao lại có cảm giác như thế?
Trả lời:

Tôi rất sợ bóng tối. Dù là bóng tối ở ngoài đường hay trong chính ngôi nhà của mình. Vì trong bóng tối thường... có ma. Tôi nghĩ vậy. Nhớ lúc nhỏ, mỗi khi được mẹ (bị thì đúng hơn với tôi) sai xuống bếp lấy gì đó, là tôi liền với tay lấy cây đèn dầu, bước những bước thật nhanh men theo hàng kiệu đựng nước mưa được xếp một dọc ngay ngắn dưới bếp, vừa đi tôi vừa ...nín thở. Tại sao hả? Vì tôi tin nếu có ma, thì khi tôi nín thở, con ma sẽ không phát hiện ra tôi là người, (người thì phải thở). Kết quả đúng như tôi dự đoán: nhờ nín thở, cuộc đời tôi chưa từng thấy con ma nào! Chỉ có lần đó đang đi nửa đường thì cây đèn dầu trên tay tôi bỗng tắt ngụm vì con bồ hong bay vô. Vậy là tôi vừa la làng vừa cong giò chạy thật nhanh như một cơn lốc lên nhà trên. Tay tôi cũng nhanh như chân vậy, làm liên hồi mấy lần dấu thánh giá luôn cho chắc ăn. Tuy nhiên, tôi vẫn có cảm giác những bước chân ai đó cũng đang vội vã chạy theo sau lưng mình. Tôi nổi hết da gà, mãi cho đến khi nghe tiếng mẹ, tôi mới hết sợ.

Giờ lớn rồi, là ma xơ rồi, tôi không sợ bóng tối nữa. Đi tới đâu tôi bật đèn sáng lên tới đó, nhưng sợ ma thì chưa bỏ được. Mỗi lần tập hát ca đoàn xong, dọn dẹp máy chiếu, đóng cửa và tắt đèn nhà thờ là tôi nhắc mấy đứa nhỏ:

- Tụi con đợi Út với nha!

- Bộ Dì Út sợ ma hả?

- Không hề nha! Út sợ tụi con chạy ra trước, rồi giỡn um xùm Ông Cố la! (khúc này đổ thừa Cha Sở nè)

- Phải hong đó Út? Chứ tụi con nghe đồn Út sợ ma!

- Ai đồn bậy bạ. Thôi tối rồi, tụi con về nhà đi!

- Dạ. Con chào Út!

Tụi nhỏ ra về, tôi cũng nhanh nhanh chân về phòng. Nhớ những ánh mắt hồ nghi của tụi nhỏ khi nghe tôi quả quyết là không sợ ma mà tức á. Ở trong nhà thờ mà cũng sợ ma là sao! Nhưng nghĩ lại, tụi nhỏ nói đúng mà. Sợ thì nhận, chứ chối làm chi cho bị phát hiện rồi... quê. Mà tôi quê thật.

Đúng, tôi sợ ma. Dù tôi chưa thấy ma bao giờ! Tôi đã từng bị hù “ê, ma đó!” và đã từng hốt hoảng, sợ hãi, y như các môn đệ khi thấy một hiện tượng bất thường: một người đi trên mặt hồ đang tiến về phía các ông! (x. Mt 14,26). Cũng vậy, khi Chúa hiện ra và ban bình an cho các môn đệ sau khi Phục Sinh từ cõi chết, các ông đã rất sợ hãi. Gặp lại người chết khi mình còn đang sống thì thật không phải chuyện bình thường, và dễ chấp nhận. Thánh Luca diễn tả thái độ của các môn đệ lúc đó là: các ông kinh hồn bạt vía! (x. Lc 24,36-40).

Vậy nên việc sợ ma là một việc xảy ra cũng khá phổ biến với nhiều người, trong đó có bạn, có tôi... dù chúng ta vẫn tin Chúa, và tin vào sự bảo vệ của Người. Tại sao vậy? Theo tôi, chúng ta có thể xét theo hai phương diện: tự nhiên và siêu nhiên.

Phương diện tự nhiên

Thứ nhất, con người thường có khuynh hướng sợ bóng tối. Chúng ta không an tâm khi mắt không thể nhìn thấy những gì xung quanh mình.  Điều này sẽ làm cho chúng ta có cảm giác không an toàn. Giả sử kẻ thù, hay những tên cướp đang rình rập phía trước hay bên cạnh, chúng ta khó mà nhận ra và thoát được. Và ma thường xuất hiện trong bóng tối, khi đêm về. Cảm giác khi đi ngang qua những ngôi mộ mọc giữa ruộng vào ban ngày rất khác so với lúc màn đêm buông xuống. Nghĩ tới thôi là tôi đã muốn nín thở co chân chạy rồi.

Thứ hai, những ám ảnh tuổi thơ do bị hù dọa. Xét về mặt tâm lý, những người thường có cảm giác ai đó đi theo mình khi đi một mình, hoặc sợ ma, sợ bóng tối... là do nỗi ám ảnh tuổi thơ “bị hù dọa” bởi người lớn[1]. Tôi đã từng chứng kiến cách người lớn xóm tôi dạy con:

- Con không được xuống sông chơi nghe chưa, dưới sông có con ma da nó hay kéo chân con nít lắm!

- Con phải ngoan, phải nghe lời biết chưa? Nếu không, chú công an tới bắt đó!

- Nhắm mắt lại ngủ nhanh lên, con rắn khổng lồ nó đang nằm trong góc, nó bò ra ăn thịt bây giờ!...

Và cứ như vậy, những đứa trẻ lớn lên trong một thế giới đầy những nguy hiểm, và không mấy thân thiện. Nếu chúng không vâng lời hoặc chưa đủ tốt, thì sẽ phải đối mặt với những rủi ro: bị kéo chân, bị bắt, bị ăn thịt... bởi một năng lực siêu nhiên nào đó, chẳng hạn như ma, quái vật trong bóng tối. Những đứa trẻ đã lớn về mặt thể xác nhưng lại có thái độ ngoan ngoãn trong sợ hãi, thiếu tự tin để bước một mình, và thường rụt rè, lo lắng khi phải đến những nơi xa lạ, vắng vẻ. Tệ hơn nữa, nếu những “hù dọa” này kéo dài thì có thể dẫn đến hội chứng sợ ma (phasmophobia), suy nhược thần kinh, và sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống, sức khỏe, và tâm lý của những ai luôn mang trong mình nỗi sợ này. Có khi nào chúng ta là một trong những đứa trẻ chưa vượt qua nỗi ám ảnh tuổi thơ đó?

Thứ ba, tiếp xúc nghiên cứu về ma quỷ, đọc truyện ma, xem phim kinh dị. Có câu nói như sau: “Chúng ta là những gì chúng ta đọc”. Câu nói này khiến tôi suy nghĩ về ảnh hưởng của những gì chúng ta đưa vào trí não và các giác quan của mình. Hằng ngày nghe những âm thanh rùng rợn, xem thấy những nhân vật kinh dị, và đọc những câu chuyện ma quái... thì thử hỏi sao tâm trí chúng ta không bị tác động. Xu hướng sợ hãi cũng sẽ từ đó mà phát sinh và lớn lên trong lo lắng, bất an. Trí tưởng tượng cũng góp phần nối kết giữa thực tế và phim ảnh để rồi tạo nên những nỗi ám ảnh trong cuộc sống hằng ngày.

Phương diện siêu nhiên

Chúa Giêsu đã nói gì trước thái độ sợ ma của chúng ta? Có chứ! Chúa đã nói: “Sao anh em lại hoảng hốt? Sao còn ngờ vực trong lòng? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc 24,36-39). Câu nói của Chúa vừa như lời trách hờn, vừa như lời trấn an dành cho các môn đệ Ngài yêu thương gắn bó suốt 3-4 năm trời.

Sao còn ngờ vực? Sao vẫn chưa tin vào những lời Chúa dạy? Đúng vậy, nguyên nhân sâu xa là sự kém tin vào Chúa khi lo lắng sợ hãi. Những lúc đó, nỗi sợ chiếm lĩnh và bao phủ toàn bộ giác quan của chúng ta. Chúng như những cơn gió mạnh thu hút toàn bộ tầm nhìn của chúng ta, làm đức tin vốn dĩ yếu ớt của chúng ta bị chao đảo, thậm chí chìm nghỉm. Và như hoàn cảnh của Thánh Phêrô, chỉ khi chúng ta hướng về Chúa trọn vẹn và mở miệng kêu xin: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” Chính lúc ấy, chúng ta hoàn toàn phó thác vào Chúa và nỗi sợ hãi cũng tan biến nhanh như bọt biển.

Bạn thân mến!

Chúa nhìn thấu tâm tư con người chúng ta. Chúa biết lòng tin của chúng ta rất nhỏ bé, rất yếu kém, nên Chúa luôn trấn an và củng cố cho đức tin ấy bằng những di sản để lại muôn đời: đó chính là LỜI CHÚA và MÌNH MÁU THÁNH CHÚA. Chính tại nơi hai nguồn mạch ân sủng này mà chúng ta trở nên mạnh mẽ để vượt qua những nỗi sợ trong cuộc đời. Nhất là, để chúng ta tin chắc rằng: “Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, chiều cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,38-39).

Hãy cùng nhau vượt qua nỗi sợ với Chúa mỗi ngày. Hãy tập gắn bó với Ngài trong cầu nguyện, suy gẫm, giữ mình sạch tội. Đó chính là nơi bạn và tôi tiếp nhận ánh sáng từ nguồn sáng chân thật là Đức Giêsu. Ngài đã dùng ánh sáng phục sinh mà đẩy lui bóng tối của tội lỗi và sự dữ. Và điều cần thiết hơn nữa, đó là chúng ta hãy cùng nhau tập những thói quen sinh hoạt lành mạnh, tránh nghe, đọc, hay xem quá nhiều những điều có khả năng gia tăng nỗi sợ và lo lắng.

Mến chúc bạn sẽ tìm thấy bình an trên mỗi bước đường!

Trích Giải đáp thắc mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 7, Nxb Tôn Giáo, 03/2023

WHĐ (25.06.2024)

---------------------------------

 

BÀI 133 - CON ĐƯỜNG ĐẾN VỚI THIÊN CHÚA


Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc, SJ
16/07/2024
Câu hỏi: Là người trẻ, linh đạo là từ rất xa lạ đối với con. Con tra từ điển thấy nghĩa của từ linh đạo là con đường linh thánh, nhưng con không chắc. Mong giải thích giúp con về thuật ngữ này?
Trả lời:

Có lẽ định vị dẫn đường là một trong những phát minh vĩ đại và thực tiễn nhất mà chúng ta đang sử dụng. Chỉ cần một chiếc điện thoại thông minh được nối kết mạng là bạn có thể đi đến bất cứ nơi đâu trên thế giới. Hấp dẫn hơn, định vị này còn chỉ cho chúng ta con đường nào là ngắn nhất để đến được đích. Định vị này còn mô tả cho chúng ta những chướng ngại vật cũng như những tiện ích trên hành trình. Nói chung, nếu bạn đi du lịch hoặc muốn đến nơi nào đó, bản đồ dẫn đường là một chương trình ứng dụng (App - Application) phải có trong điện thoại của bạn. Chỉ như thế, chúng ta mới tự tin và đến được đích nhanh và an toàn nhất.

Câu hỏi của bạn cũng liên quan đến con đường, bởi theo từ ngữ: linh là sự thánh thiêng, hoặc tinh thần của con người, đạo là con đường. Như vậy, linh đạo là con đường thiêng liêng giúp người ta đến được với Thiên Chúa. Như một cha dòng Hiến Sĩ Đức Mẹ giải thích như sau: “Linh đạo là nỗ lực của một cá nhân hay một nhóm người để gặp gỡ và cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa, của tha nhân và vũ trụ để đi vào sự sống và mừng vui cùng tất cả. Các khuôn khổ và tập quán chung cụ thể phát triển từ điều này đã trở thành nền tảng cho nhiều linh đạo khác nhau” (Ron Rolheiser).

Nếu không dùng định vị, bạn có thể tự mình đến được đích, nhưng lâu hơn, không chắc chắn và nguy hiểm hơn. Cũng vậy, nếu không sống theo một linh đạo nào đó, bạn có nguy cơ rất khó đến được với Thiên Chúa, thậm chí là lầm đường lạc lối. Vì lý do này, Giáo hội một mặt rất trân quý những linh đạo khác nhau, vốn là món quà của Chúa Thánh Thần; mặt khác, Giáo hội khuyến khích mỗi người hãy can đảm lựa chọn cho mình một linh đạo để tiến bước trong hành trình đức tin của mình.

Tôi tin bạn đã từng nghe câu nói nổi tiếng này của Chúa Giêsu: “Thầy là Đường, Sự Thật và Sự Sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Nếu mở Tin Mừng đoạn này, bạn gặp thánh Tôma là người đang bối rối không biết con đường Đức Giêsu đi. Ông muốn đi theo Thầy, nhưng vẫn chưa biết đường. Dĩ nhiên thời đó không có bản đồ định vị! Dẫu sao chúng ta cũng cảm ơn Tôma, bởi nhờ ông mà chúng ta thêm xác tín rằng chính Đức Giêsu là con đường dẫn con người đến với Chúa Cha. Thú vị là chỉ có Đức Giêsu đến từ Chúa Cha, nên chỉ một mình Người biết con đường trở về với Cha. Do đó, nếu ai đó bắt chước linh đạo, con đường thiêng liêng của Đức Giêsu, chắc chắn người ấy sẽ được cứu độ và được ở trong Thiên Đàng với Chúa Cha. Đức Giêsu là linh đạo trọn hảo và nhanh nhất để chúng ta đến với Chúa.

Ngoài ra, tôi đoán bạn đã từng nghe đến linh đạo Phanxicô, linh đạo Đa Minh hoặc linh đạo Dòng Tên... Linh đạo trong đời sống dòng tu đòi hỏi việc cầu nguyện, học hỏi Lời Chúa, lãnh nhận các bí tích, và sự hướng dẫn của những người có kinh nghiệm thiêng liêng. Điều này giúp tránh những hình thức chủ quan và cảm tính trong đời sống thiêng liêng[1]. Trong Giáo hội có những người (cả nam và nữ) đã nhận được những ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần (đặc sủng) để họ vạch ra một lối sống vốn đưa con người đến với Chúa Giêsu. Chẳng hạn vào thế kỷ 12, chàng trai Phanxicô sống ở thành Assisi bên nước Ý từ bỏ mọi sự để sống khó nghèo theo gương mẫu của Đức Giêsu. Thánh Phanxicô quy tụ nhóm bạn để sống linh đạo khó nghèo này. Sau đó, dòng Phanxicô được thành lập. Càng ngày, lối sống ấy thu hút được nhiều người và về sau Giáo hội công nhận lối sống này sẽ đưa con người đến được với Thiên Chúa.

Đầu thế kỷ 15 trước phong trào cải cách của anh em Tin Lành, I-nhã thành Loyola đã xuất hiện như một luồng gió mới để giúp Giáo hội canh tân. Sau khi hoán cải và nhận được đặc sủng của Chúa Thánh Thần, I-nhã chọn lối sống chiêm niệm trong hoạt động như là kim chỉ nam cho ngài và cho Dòng Tên sau này. Giờ đây, linh đạo tu trì không bị giới hạn bên trong bức tường nhà dòng, nhưng còn đi vào mọi ngóc ngách của cuộc sống. Chính khi phục vụ con người và phụng sự Thiên Chúa ở trong mọi lãnh vực, cũng là cách làm tôn vinh Thiên Chúa. Hoặc nói như thánh Têrêsa Avila: “Nền linh đạo đích thực là tình yêu bước xuống hướng về tha nhân”[2]. Chưa hết, người sống gần chúng ta nhất đó là thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu cũng đã cho chúng ta một linh đạo với “con đường bé nhỏ”[3]. Tuy không lập dòng như thánh Phanxicô, không đến tận chân trời góc bể như các Giêsu hữu, nhưng thánh Têrêsa đã thu hút rất nhiều con tim đến với linh đạo của mình. Sống đơn sơ, khiêm nhường và làm việc nhỏ với tình yêu lớn, linh đạo này đã giúp rất nhiều người đến được với Thiên Chúa.

Trên đây chỉ là ba trong muôn vàn con đường (linh đạo) có thể dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa. Mẫu số chung của các linh đạo là chúng họa lại, bắt chước bao nhiêu có thể lối sống của Chúa Giêsu. Thật may cho thời đại chúng ta vì đã có các tiền bối, các vị thánh đã cho chúng ta những lối nẻo rất phù hợp để bước theo Chúa Giêsu. Nếu thấy được gợi hứng bởi linh đạo nào, bạn có thể sống theo. Điều này không đồng nghĩa mời gọi bạn đi tu đâu.

Thực ra, ngoài linh đạo tu trì, vốn tu sĩ sống theo linh đạo của vị sáng lập, chúng ta còn có linh đạo hôn nhân gia đình[4], linh đạo giáo lý viên, linh đạo giáo dân[5], v.v... Nghĩa là nếu sống chu toàn trách nhiệm của mình ở bậc sống của mình, bạn cũng đang đi đúng hướng và sẽ đến được đích. Chúng ta có thể đọc thấy điều này trong công đồng Vatican II nói về linh đạo Kitô giáo: “Mỗi người không được do dự đáp lại ân huệ và bổn phận với một đức tin sống động, nó sẽ làm phát sinh niềm hy vọng và việc làm qua bác ái”[6].

Nếu lúc nào đó bạn cảm thấy mình chán nản, buồn sầu và mất hướng đi cho cuộc đời, hãy khởi động lại định vị. Để làm được điều này, bạn cần chút thời gian tĩnh lặng một mình với Thiên Chúa. Khi đó, tâm hồn bạn về mặt tâm lý sẽ thư thái và nhẹ nhàng hơn để nhìn nhận vấn đề, về mặt tâm linh, bạn sẽ được Thiên Chúa giúp đi đúng con đường. Cứ hỏi Chúa về những băn khoăn của bạn, bởi chính Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Dù trong bậc sống gia đình, tu sĩ hoặc dù bạn đang đi học hoặc đi làm, Chúa sẽ chỉ cho bạn một bản đồ hướng đi với rất nhiều tình yêu và trợ giúp. Chỉ có bạn với Thiên Chúa biết điều này. Có thể hỏi những người tương đối rành về đời sống tâm linh, hiểu về linh đạo nữa nhé. Họ cũng sẽ giúp cho bạn thoát ra khỏi con đường u mê, để bước vào chân trời tươi sáng.

Cầu chúc bạn luôn bước đi với Chúa Giêsu và Hội thánh của Ngài. Đây là con đường đúng nhất để đến bến bờ hạnh phúc bình an. Xin đừng tắt hoặc ngắt kết nối với Đức Giêsu, bởi khi đó, App định vị của bạn sẽ không hoạt động. Thay vào đó, chăm chỉ cầu nguyện và xin Chúa dẫn đường, chúng ta tin rằng bạn sẽ bon bon trên hành trình đức tin và cuộc sống của bạn sẽ luôn nở hoa.

Mong thay!

Trích Giải đáp thắc mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 7, Nxb Tôn Giáo, 03/2023

WHĐ (16.07.2024)

_______

[1] https://www.vatican.va/content/benedict-xvi/en/apost_exhortations/documents/hf_ben-xvi_exh_20120914_ecclesia-in-medio-oriente.html (số 52).

[2] Nền linh đạo đích thực của thánh Têrêsa Avila được thể hiện rõ nhất trong tác phẩm “Lâu đài Nội Tâm”, nơi thánh nhân nhấn mạnh đến chiều kích cộng đoàn và sự hiệp nhất của Giáo hội, thể hiện tình yêu bước xuống hướng về tha nhân.

[3] Con đường bé nhỏ của thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu được trình bày rõ nhất trong tác phẩm “Truyện một tâm hồn”. Đây là con đường của lòng tin và tình yêu, nhấn mạnh đến sự phó thác hoàn toàn vào ân sủng của Thiên Chúa.

[4] Đọc thêm: Linh đạo hôn nhân và gia đình https://www.simonhoadalat.com/hochoi/giaoluat/honnhangiadinh/Bai14.htm

[5] Linh đạo cho giáo dân: https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/linh-dao-cho-giao-dan-42567

[6] Hiến chế Tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, số 41.

---------------------------------

 

BÀI 134 - ĐÔI ĐIỀU VỀ MẦU NHIỆM CHÚA BA NGÔI


Rômualđô M. Bùi Văn Nghĩa, CRM
23/07/2024
Câu hỏi: Trong Kinh Tin Kính có đoạn nói Chúa Con được “sinh ra” mà không phải “tạo thành”, ta cần hiểu “sinh ra” ở đây như thế nào? Kinh Tin Kính cũng có nói Chúa Thánh Thần bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra. Phải chăng Chúa Cha có trước rồi đến Chúa Con rồi tới Chúa Thánh Thần? Có đoạn Kinh Thánh nào để cho Hội Thánh xác tín điều này ạ?
Trả lời:

Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm lớn nhất trong đạo, là chân lý đức tin vượt quá trí khôn hữu hạn của loài người chúng ta. Cho nên mọi cố gắng diễn đạt bằng ngôn ngữ hạn hẹp của loài người đều khập khiễng và khiếm khuyết. Giáo Hội đã phải vất vả rất nhiều để giữ cho chân lý ấy không bị hiểu sai lạc. Phần mình, dù sự hiểu biết không được bao nhiêu, vẫn liều lĩnh đồng hành cùng bạn đi tìm lời giải đáp.

Mạc khải về Ba Ngôi trong Kinh Thánh

Cách đây không lâu, có một diễn thuyết gia rêu rao rằng: “Lẽ đạo Ba Ngôi đồng đẳng ngược với Kinh Thánh, và không hề được nhắc lấy một lần trong Kinh Thánh”. Anh này nhầm to, vì tuy rằng trong toàn bộ Kinh Thánh không hề có cụm từ “Chúa Ba Ngôi”, nhưng những câu những đoạn biểu lộ cho ta thấy về một Thiên Chúa Ba Ngôi thì rất nhiều, chằng hạn:

Trang đầu tiên của Kinh Thánh đã chép: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Thần khí Thiên Chúa bay là trên mặt nước. Thiên Chúa phán: ‘Phải có ánh sáng.’ Liền có ánh sáng…”. Ở đây, thần khí Thiên Chúa gợi ý đến Chúa Thánh Thần; Thiên Chúa sáng tạo bằng Lời, gợi ý đến Chúa Con, Người là Ngôi Lời của Thiên Chúa. Cũng trong sách Sáng Thế, Thiên Chúa nói về chính mình ở số nhiều: “chúng ta” (Elohim), như vậy Người không phải là Thiên Chúa đơn độc mà là một cộng đồng Ba Ngôi; cuộc viếng thăm ông Abraham của ba sứ giả và nhiều đoạn khác nữa rải rác trong Cựu Ước đều đã nhắm nói đến mầu nhiệm Ba Ngôi.

Kinh Thánh Tân Ước thì mạc khải rõ ràng hơn. Chẳng hạn những câu sau đây:

- “Khi Đức Giêsu chịu phép rửa xong... Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu... Và có tiếng từ trời phán: ‘Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người’." (Mt 3,16).

- “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14,16)…

- “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19).

- “Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, đầy tình thương của Thiên Chúa, và ơn hiệp thông của Thánh Thần.” (2 Cr 13,13)…

Còn rất nhiều câu Kinh Thánh khác nữa. Chúng ta không thể trưng dẫn hết ở đây. Nhưng thiết nghĩ, bấy nhiêu đã đủ để chúng ta xác tín: Thiên Chúa Duy Nhất là Cha và Con và Thánh Thần.

Phải hiểu thế nào về cụm từ “Chúa Con được sinh ra mà không phải được tạo thành”?

Chúng ta đã biết Chúa Cha là Đấng tạo hóa, Ngài sáng tạo trời đất muôn loài. Thiên thần, loài người và mọi thực tại đều là thụ tạo của Ngài. Nhưng Chúa Con thì không phải là một thụ tạo. Chính Người cũng là Đấng tạo hóa, thông dự vào việc tạo dựng của Chúa Cha. Tin Mừng Gioan viết rằng:

Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời.
Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,
Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,
và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. (Ga 1,1-3).

Loài người chúng ta tuy được gọi là con cái Thiên Chúa, nhưng chúng ta hiện hữu được là nhờ Thiên Chúa tạo thành từ hư vô, chúng ta là con với thân phận là thụ tạo. Còn đối với Chúa Giêsu, Người được Chúa Cha sinh ra thực sự theo đúng nghĩa chữ “sinh”. Người được sinh ra từ bản thể Chúa Cha. Chúa Cha đã ban cho Chúa Con tất cả những gì Ngài có, gồm cả thần tính. Do đó, Chúa Con ngang bằng với Chúa Cha trong mọi sự: về vinh quang, về danh dự, về đời sống vĩnh cửu, về sự khôn ngoan, về ý chí và quyền năng. Về điều này, Chúa Giêsu đã nói với chúng ta: "Tất cả những gì của Con đều là của Cha, tất cả những gì của Cha đều là của Con” (Ga 17,10); "Tôi và Chúa Cha là một" (Ga 10,30); "Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha" (Ga 14,9).

Chúa Con là con Chúa Cha tự bản tính, là con đích thực, là con “ruột” và là con duy nhất của Chúa Cha. Ngoài Người ra, Chúa Cha không có “con ruột” nào khác. Còn chúng ta, thánh Phaolô trong thư Ga-lát gọi là “nghĩa tử”, nghĩa là được thông dự vào tư cách làm con của Con Thiên Chúa. Do Chúa Con đã nhận lấy thân phận loài người chúng ta, qua cái chết và đã sống lại, Người đã đón tiếp tất cả chúng ta vào trong nhân tính mới của Người; và vì Người là Con Thiên Chúa, chúng ta cũng trở thành con Thiên Chúa (Gl 3,26), và trở thành người “đồng thừa kế” (Rm 8,17).

Cũng xin chia sẻ thêm rằng đối với loài người chúng ta, phải chờ đến tuổi trưởng thành, lấy vợ lấy chồng rồi mới sinh con. Nhưng đối với Thiên Chúa thì khác. Chúa Cha sinh Chúa Con từ thuở đời đời. Chúa Con hiện hữu đồng thời với Chúa Cha. Cả Cha và Con cùng có trước vô cùng. Bởi vì Chúa Con hằng có cũng như Chúa Cha hằng có.

Đối với loài người chúng ta, sinh con ra thì đứa con là một bản thể riêng biệt, có thể tách ra khỏi cha mẹ. Chúa Con thì hằng được sinh ra, Người luôn luôn được sinh ra bởi Chúa Cha. Thần học gọi sự sinh ra kỳ diệu khôn tả này là “nhiệm sinh”.

Để dễ hiểu hơn, bạn hãy nhìn vào một ngọn lửa nhé. Bạn có thấy ánh sáng xuất hiện cùng lúc với sự xuất hiện của ngọn lửa không? Chúa Cha sinh ra Chúa Con cũng tương tự như thế. Có Cha là có Con. Bạn có thấy ngọn lửa luôn luôn sinh ra ánh sáng không? Chúa Con cũng luôn luôn được Chúa Cha sinh ra như vậy.

Phải hiểu câu “Chúa Thánh Thần bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra” như thế nào?

Tiếp tục thí dụ về ngọn lửa ở trên: ngọn lửa tượng trưng cho Chúa Cha, ánh sáng tượng trưng cho Chúa Con, và một yếu tố thứ ba nữa tượng trưng cho Chúa Thánh Thần, đó là sức nóng. Ngọn lửa – ánh sáng – sức nóng; ba yếu tố này tuy phân biệt nhưng không tách biệt, tương tự như Ba Ngôi Thiên Chúa.

Nhưng Chúa Thánh Thần không phải được sinh ra như Chúa Con. Ngài không phải là con Đức Chúa Cha bởi vì Chúa Cha chỉ có một Chúa Con duy nhất. Ngài cũng không phải là “anh em” của Chúa Con. Ngài là Thần Khí của Chúa Cha và Chúa Con. Ngài phát xuất cách nhiệm mầu bởi Chúa Cha và Chúa Con. Nhưng không phải Chúa Thánh Thần có hai nguồn gốc. Ngài chỉ có một nguồn gốc, bởi vì Chúa Cha và Chúa Con là một.

Giáo Hội Chính Thống diễn đạt theo cách khác: Thánh Thần bởi Chúa Cha qua Chúa Con mà ra. Hai cách diễn đạt khác nhau này đã đưa đến cuộc ly giáo lớn nhất vào năm 1054. Ngày hôm nay các thần học gia cởi mở của cả hai bên đều cho rằng hai lập trường này có thể bổ sung cho nhau. Giáo Hội Công Giáo không phản đối cách diễn tả “Thánh Thần bởi Chúa Cha qua Chúa Con mà ra”, nhưng vẫn dùng cách nói “Thánh Thần bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra” để nhấn mạnh tính duy nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con nhằm chống lại lạc giáo Ariô với quan niệm cho rằng chỉ một mình Chúa Cha là Đấng Duy Nhất Tuyệt Đối, ngoài Ngài ra, mọi thực tại khác chỉ là thụ tạo được dựng nên từ hư vô kể cả Chúa Con.

Kinh thánh cho biết Chúa Thánh Thần "là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha" (Ga 15,26). Kinh Thánh cũng cho thấy Thần Khí phát xuất từ Cha cũng chính là Thần Khí của Con: "Ai không có Thần Khí của Đức Kitô, thì không thuộc về Đức Kitô" (Rm 8:9), hoặc "Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: ‘Ápba, Cha ơi!’" (Gl 4:6).

Chúng ta cũng thấy không chỉ Chúa Cha sai Thánh Thần đến (x. Lc 11,13; Ga 3,34; Cv 2,38; 10,45), mà Đức Kitô cũng thông phần vào việc sai Thánh Thần, chẳng hạn: "Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha..." (15:26).

Sách Khải huyền cũng nói về "một con sông có nước trường sinh, sáng chói như pha lê, chảy ra từ ngai của Thiên Chúa và của Con Chiên" (Kh 22: 1). Trong Kinh Thánh, nước cũng là biểu tượng của Thần Khí, chảy ra từ một chiếc ngai duy nhất của cả Chúa Cha và Chúa Con, nên cả hai Ngôi vị này là một nguồn gốc duy nhất của Thần Khí.

Dựa vào những nội dung mạc khải trên đây và nhiều đoạn khác tương tự mà Giáo Hội Công Giáo khẳng định Thánh Thần bởi Cha và Con mà ra.

Chỉ có một Thánh Thần nhiệm xuất chứ không có nhiều Thánh Thần. Ngài là thần linh phát xuất từ bản thể thần linh. Ngài là tình yêu nối kết Chúa Cha và Chúa Con. Ngài đồng bản thể với Chúa Cha và Chúa Con, Ngài ngang bằng với Chúa Cha và Chúa Con, Ngài phải được phụng thờ và tôn vinh cùng với Chúa Cha và Chúa Con.[1]

Phải chăng Chúa Cha có trước rồi đến Chúa Con rồi tới Chúa Thánh Thần?

Không phải thế.

Nếu như trong Cựu Ước, Thiên Chúa mạc khải mình là Đấng "Hằng Hữu" (x. Xh 3,14) thì trong Tân Ước, Chúa Giêsu cũng nhiều lần khẳng định "Tôi Hằng Hữu" (Ga 8,24.28.58; 13,19; 18,6). Như vậy Chúa Cha và Chúa Con đều Hằng Hữu. Và Thánh Thần, Đấng phát xuất Đấng phát xuất bởi Chúa Cha và Chúa Con từ thuở đời đời, cũng thế.

Trong Kinh Sáng Danh, chúng ta tuyên xưng: “Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần. Như đã có trước vô cùng và bây giờ và hằng có và đời đời chẳng cùng”. Nghĩa là chúng ta tuyên xưng cả Ba Ngôi cùng có trước vô cùng, không có ngôi nào có trước, không có ngôi nào có sau, cả ba cùng hiện hữu cả trước khi có thời gian, Cả Ba Ngôi bằng nhau về mọi mặt, thần tính cũng như quyền năng, cả ba cùng chung một sự sống, một bản chất thần linh. Cả Ba Ngôi cũng vĩnh cửu, vô hạn, bất biến, quyền năng và khôn dò khôn tả như Chúa Cha và Chúa Con.

Đây không phải là điều nghịch lý, nhưng là Siêu lý.

***

Bạn thân mến, với kiến thức hạn hẹp, mình đã cố gắng giải đáp phần nào những thắc mắc của bạn xoay quanh mầu nhiệm Ba Ngôi. Mầu nhiệm này là ánh sáng chân lý cho những ai khiêm nhường đón nhận; đồng thời cũng là bóng tối dày đặc đối với những ai kiêu căng, muốn dùng lý trí hạn hẹp của mình để làm thước đo Vô Cùng.

Tài liệu tham khảo:

- Đức Tổng Giám mục Phaolô Bùi Văn Đọc, Khái quát giáo huấn của Hội Thánh về Ba Ngôi Thiên Chúa, https://tgpsaigon.net.

- Gómez, Felipe, “Ki-tô học”, Antôn & Đuốc Sáng, 2017.

- Lm Lê Văn Chính, “Giáo trình Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi”, Đại chủng viện Sài Gòn.

Trích Giải đáp thắc mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 7, Nxb Tôn Giáo, 03/2023

WHĐ (23.07.2024)

_______

[1] Về mặt từ ngữ: Thánh Thần = Thánh Linh = Thần Khí, là những danh xưng của cùng một ngôi vị Thiên Chúa. Nhưng thiên thần (thiên sứ) thì hoàn toàn khác. Các thiên thần cũng là thụ tạo của Thiên Chúa, là tôi tớ và sứ giả của Thiên Chúa. Các ngài thuần thiêng, không có thể xác. Thần thánh cũng là một từ có ý nghĩa hoàn toàn khác. Thần thánh là danh từ nói khái quát về các thiên thần và các vị thánh nói chung, hoặc là tính từ để nói tính chất thiêng liêng vĩ đại.

---------------------------------

 

BÀI 135 - HÀNH HƯƠNG LÀ CÁCH CẦU NGUYỆN ĐẶC BIỆT


Lm. Giuse Lê Đắc Thắng, SJ
07/08/2024
Hỏi: Con thấy vô lý khi có người thích đi hành hương, đến những nơi nổi tiếng, hơn là đi nhà thờ. Phải chăng đó cũng là hình thức giữ đạo?
Trả lời:

Sống đạo hay giữ đạo là cách con người diễn tả mối tương quan với Thiên Chúa qua những lựa chọn cụ thể trong suy nghĩ, lời nói và việc làm của mình. Tuy nhiên, đời sống nội tâm cũng như đời sống thiêng liêng của con người vô cùng phong phú, chúng ta không thể dễ dàng đánh giá đầy đủ qua một vài hành vi bên ngoài được.

Nếu chúng ta hiểu tương quan với Thiên Chúa là một kiểu tình yêu (có thể gọi đó là tình yêu siêu nhiên hay tình yêu đối thần) thì tình yêu đó cũng được thể hiện qua rất nhiều hình thức khác nhau tùy theo nhận thức, tính cách và hoàn cảnh của mỗi người. Có người khi yêu thường muốn dắt nhau đến những không gian tự nhiên bình yên lãng mạn, nhưng có người lại thích ngồi trò chuyện ở một góc nhỏ trong quán cà phê nào đó, và cũng có người khác thích rủ nhau đi ăn, xem phim hay mua sắm… Nói chung mọi hoạt động đều có thể là biểu hiện của tình yêu mà chỉ người trong cuộc mới hiểu và cảm nhận được.

Sống tương quan tình yêu với Thiên Chúa cũng tương tự như thế. Mỗi người đều được mời gọi tìm ra cách thế phù hợp nhất để củng cố và nuôi dưỡng đức tin của mình. Nếu bạn thấy mình được gần Chúa hơn khi đi nhà thờ thì hãy năng đến gặp Chúa ở đó. Còn nếu người khác thích ở bên Chúa tại các điểm hành hương thì đó cũng là một điều đáng khuyến khích. Thì ra trong chuyện này chẳng có gì vô lý như bạn nghĩ.

Là người Công giáo, chúng ta sống đức tin trong lòng Mẹ Giáo hội. Giáo hội là nơi Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và hoạt động giúp con người gắn kết với nhau trong một thân thể. Tính hiệp thông trong cộng đồng sống đức tin được biểu hiện rõ nét nhất qua thánh lễ, nơi đó mọi người tín hữu gắn kết với nhau trong Đức Giêsu là đầu của thân thể Giáo hội. Đấy là lý do vì sao thánh lễ luôn là trung tâm của mọi sinh hoạt đức tin. Bên cạnh đó, hành hương cũng là một truyền thống lâu đời trong Giáo hội. Chúng ta có thể cảm nhận được tình hiệp thông liên đới trong đức tin với những người chúng ta gặp gỡ tại các điểm hành hương. Nếu để ý một chút thì chúng ta sẽ nhận thấy rằng hầu như không ai phải lẻ loi khi đi hành hương. Nếu họ không đi chung với người khác thì ít ra họ cũng có thể gặp người nào đó ở điểm hành hương. Những điểm hành hương giúp chúng ta kết nối một cách thiêng liêng với Chúa Giêsu, Đức Mẹ, các thánh và những gương mẫu chứng nhân đức tin đã đi trước chúng ta. Như thế, dù là qua việc tham dự thánh lễ hay là đi hành hương, cảm thức thuộc về một Giáo hội hiệp thông luôn cần được nuôi dưỡng và củng cố.

Nói như thế không có nghĩa là chúng ta đánh đồng giá trị của thánh lễ với việc đi hành hương. Sẽ không có vấn đề gì nếu một người cả đời chỉ đi nhà thờ thôi chứ không có cơ hội đi hành hương. Ngược lại, nếu người nào chỉ giữ đạo bằng cách đi hành hương từ nơi này sang nơi khác mà không bao giờ tham dự thánh lễ thì không thể chấp nhận được. Xét về tầm quan trọng trong việc thực hành đức tin thì thánh lễ luôn chiếm vị trí trung tâm và là ưu tiên số một. Một trong những lý do người ta thích đi hành hương hơn đến nhà thờ là bởi vì hành hương thường gắn liền với du lịch, hay có thể nói hành hương là một kiểu du lịch – du lịch tâm linh. Nhà thờ thì ngày nào hay tuần nào cũng đến, khung cảnh ít thay đổi, tâm tình thiêng liêng dường như không có gì đặc sắc.

Hành hương thì thú vị hơn vì người ta sẽ đi đến vùng đất mới, gặp những con người mới, có những cảm xúc khác lạ, tâm hồn dễ dàng rung động trước vẻ đẹp thánh thiêng hơn. Điều đáng báo động chính là nhiều khi hành hương chỉ mang tính du lịch chứ không kết nối với yếu tố tâm linh. Có những cuộc hành hương chỉ để thỏa mãn trí tò mò và thích khám phá thôi chứ không giúp người tín hữu gia tăng tình liên đới với Thiên Chúa và với người khác.

Khi so sánh hình thức giữ đạo trong việc đi nhà thờ (tham dự thánh lễ) và đi hành hương, việc một người “thích” điều này hơn điều kia là hoàn toàn có thể chấp nhận được, bởi vì xét cho cùng thì đó cũng chỉ là vấn đề cảm xúc cá nhân. Sai lầm chỉ xảy ra khi ta chọn điều này mà bỏ điều kia. Do đó, không phải vì tầm quan trọng của thánh lễ mà chúng ta lên án chuyện đi hành hương. Thực tế là phần lớn các địa điểm hành hương đều có nhà thờ hay nhà nguyện để giáo dân có thể tham dự thánh lễ nếu có linh mục dâng lễ ở đó. Cũng thế, không phải vì đi hành hương là tốt mà chúng ta coi nhẹ tinh thần hiệp thông trong thánh lễ. Tóm lại là chúng ta thể hiện mối dây hiệp thông trong Giáo hội qua việc tham dự thánh lễ và qua những chuyến hành hương nữa.

Bạn thân mến, hy vọng những gì tôi vừa chia sẻ trên đây có thể trả lời được phần nào thắc mắc bạn đặt ra. Vâng, hành hương đúng là một hình thức giữ đạo, hay nói đúng hơn, nó là một trong nhiều hình thức giữ đạo khác nhau. Trong việc giữ đạo, vấn đề mấu chốt không phải là chúng ta làm gì, đi đến nhà thờ hay đi hành hương, mà là chúng ta làm việc đó với tâm tình như thế nào. Tôi xin gợi ý một vài câu hỏi để bạn có thể phản tỉnh về điều này:

- Tôi đi lễ đều đặn nhưng tôi có ý thức mối dây hiệp thông với người khác, đặc biệt là những người nghèo khổ trong xã hội không?

- Tôi thể hiện mối dây hiệp thông đó bằng những việc làm cụ thể nào?

- Tôi đi hành hương với mục đích gì? Tôi có ý thức việc đi hành hương giúp nuôi dưỡng đức tin của mình như thế nào không?

Trích Giải đáp thắc mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 7, Nxb Tôn Giáo, tháng 03/2023

WHĐ (07.08.2024)

---------------------------------

 

BÀI 136 - NGHE TIẾNG CHÚA ĐÍCH THỰC


Nt. Thiên Di, CND - CSA
14/08/2024
Hỏi: Làm sao để con có thể nghe theo và nhận ra tiếng Chúa nói đích thực trong lòng con?
Trả lời:

Bạn thân mến, cuộc sống của chúng ta được thêu dệt bởi muôn vàn thứ ngôn ngữ; ngôn ngữ âm thanh, ngôn ngữ hình ảnh, ngôn ngữ cử điệu… Ngôn ngữ biểu trưng cho một mối tương giao tiếp giữa con người với nhau, giữa con người với Thiên Chúa… Trước khi về trời, Đức Giêsu nói: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Ngài vẫn hiện diện với chúng ta mỗi ngày trong cuộc sống. Nhưng chúng ta không thể nhìn thấy Ngài, cũng như không nghe được tiếng Ngài nói với mình bằng những giác quan bên ngoài, vì Ngài là Đấng hằng hữu - Đấng vô hình. Câu hỏi của bạn và nhiều người đặt ra “làm sao để nghe theo và nhận ra tiếng Chúa đích thực?”

Với niềm tin Kitô giáo - bằng con mắt đức tin, đôi tai đức tin ta có thể nghe được Thiên Chúa thầm thĩ với chính mình, nhìn thấy Ngài hiện diện trong cuộc sống của nhân loại. Bạn hãy đặt cuộc đời của bạn trước Đấng vô hình - Đấng mang Danh Thiên Chúa và Ngài sẽ nói cho bạn biết.

Trong thinh lặng để gặp Ngài

Trong cuộc sống khi đối diện với những khó khăn, chán nản hoặc không ít lần ta phải đứng giữa ngã ba đường của sự lựa chọn, bất lực, cô đơn, mất định hướng. Dường như ta cảm thấy cùng với sự quay lưng của vạn vật thì Thiên Chúa cũng trở nên mờ mịt, Ngài im lặng với cả cõi lòng ta, ta tìm Ngài trong vô vọng đến đớn đau. Nghe được tiếng Ngài, nhận ra được tiếng Ngài là điều ta khát khao mòn mỏi hơn bao giờ hết. Trong khoảnh khắc đó bạn hãy để cho mình một chút nghỉ ngơi an nhiên - bình tĩnh. Hãy tìm cho mình một nơi thanh vắng chỉ có bạn và Ngài.

Thiên Chúa không bỏ rơi chúng ta, Ngài vẫn thổ lộ với chúng ta qua cuộc sống hằng ngày. Cuộc sống xô bồ bởi nhiều thứ âm thanh, ngôn ngữ. Ta không biết đâu là tiếng Chúa đích thực. Tôi ví von âm thanh cuộc sống và cả tiếng nói của Thiên Chúa như một bản giao hưởng khổng lồ bao gồm nhiều nhạc cụ cộng lại. Trong bản giao hưởng đó, tôi chỉ muốn nghe tiếng đàn Piano. Vậy để nghe được tiếng đàn Piano thì buộc tôi phải dừng (tắt) tất cả các dụng cụ âm nhạc khác, chỉ để tiếng đàn Piano du dương trong bản nhạc. Cũng vậy muốn nghe được và nhận ra tiếng Chúa bạn hãy để Chúa nói trong bạn. Còn những ngôn ngữ âm thanh ồn ào khác hãy tạm dừng.

Câu chuyện:

Có một nhà thám hiểm nọ lạc mất giữa sa mạc. Đi từ lũng cát này qua cồn cát nọ, nhìn hết hướng này sang hướng kia nơi đâu ông cũng chỉ thấy toàn là cát. Lê gót trong tuyệt vọng, tình cờ chân ông vấp phải một gốc cây khô, ông vấp ngã và nằm vùi bên gốc cây. Ông không còn đủ sức để đứng lên, ông không còn đủ sức để chiến đấu với sự sống còn của mình. Và ông cũng không còn một chút hi vọng sống sót nào. Trong tư thế bất động ấy nhà thám hiểu ý thức được sự thinh lặng của sa mạc, bốn bề chỉ có thinh lặng. Thình lình ông ngẩng đầu lên trong sự thinh lặng tuyệt đối của sa mạc, ông bỗng nghe được tiếng thì thào yếu ớt vọng lại bên tai. Dồn tất cả sự tập trung chú ý nhà thám hiểu mới nhận thức đó là tiếng róc rách chảy của một dòng suối từ xa vọng lại. Như sống lại từ cõi chết ông định hướng nơi xuất phát của tiếng suối, rồi dùng nguồn năng lực còn sót lại, ông cố gắng lê lết cho đến khi tìm được dòng suối.

Bạn thân mến,

Cuộc sống chúng ta có quá nhiều bận tâm kiếm tìm khiến chúng ta không nghe được tiếng nói và nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời mình. Có những ồn ào cho việc bận tâm trước tiền tài danh vọng của tương lai. Có những ồn áo chỉ lo hưởng thụ quy chính mình không quan tâm người khác. Có những ồn áo của sự sân si hơn thua đố kỵ, có những ồn ào của buồn bã, chán ngán cuộc đời… Nếu có thinh lặng trong cõi lòng chúng ta mới nghe được tiếng thì thầm của Chúa trong từng phút giây của cuộc sống. Có thinh lặng chúng ta mới nhận ra được tiếng Ngài trong tiếng khóc than của biết bao người bất hạnh xung quanh trong cảnh nghèo đói chiến tranh dịch bệnh. Có thinh lặng chúng ta mới nghe được lời an ủi đỡ nâng của Ngài giữa những khó khăn chồng chất trong cuộc sống qua những cử chỉ san sẻ yêu thương giữa người với người. (Trích: Lẽ Sống, Đài Chân Lý Á Châu)

Tiếng Chúa đích thực

Tiếng Chúa vẫn thầm thĩ với mỗi chúng ta qua quang cảnh cuộc sống, và ngang qua hoàn cảnh của mỗi phận người, chúng ta hãy cùng nhau đọc ý định của Thiên Chúa trong biến cố vui buồn dưới ánh sáng đức tin. Tiếng Chúa nói trong cuộc sống âm thầm của các đan sĩ, tiếng Chúa nói qua cử chỉ yêu thương của người nữ tu chăm sóc bệnh nhân HIV, tiếng Chúa nói qua những em bé nghèo bưng thúng bán bưng nơi phố thị, tiếng Chúa nói qua hơi thở yếu ớt của phận người sắp bước vào cuộc sống vĩnh hằng…

Ngày nay, chúng ta đang sống trong một thế giới hỗn tạp nhiều thông tin đa chiều thật giả lẫn lộn. không ít lần chúng ta hoang mang tự hỏi không biết đâu là sự thật, đâu là sự công chính đích thực, đâu là tiếng nói của Thiên Chúa? Trong giờ Kinh Nữ Vương Thiên Đàng ngày Chúa nhật lễ Chúa Chiên Lành, Đức Phanxicô đã nhắc lại tầm quan trọng phải biết phân biệt tiếng của Chúa và tiếng cám dỗ dẫn chúng ta đến sự xấu. Chúng ta phải học để phân biệt thần hứng của Chúa và lời quyến dụ của sự dữ, Đức Thánh cha nhắc lại: “Tiếng của Chúa không bao giờ bắt buộc chúng ta.” Ngài nhấn mạnh, người Mục tử tốt lành thì “chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10,27). Nhưng để làm được điều này, chúng ta phải biết phân biệt tiếng của Chúa và tiếng của quỷ dữ.

Đức Thánh cha giải thích:

“Tiếng nói của Chúa không bao giờ áp đặt chúng ta. Ngài tự hiến, Ngài không áp đặt. Thần hứng của Chúa kiên nhẫn sửa chữa và luôn khuyến khích chúng ta, luôn muốn điều tốt cho chúng ta, luôn nuôi dưỡng chúng ta trong hy vọng.”

Ngược lại, “tiếng của ác quỷ quyến rũ, và tấn công, gợi lên các ảo tưởng chói lọi, các cảm xúc hấp dẫn nhưng phù du mau qua chóng hết. Sự dữ còn làm cho chúng ta nghĩ rằng chúng ta đầy quyền lực nhưng sau đó để lại một sự trống rỗng trong lòng chúng ta.”

Và có ba điểm để có thể nhận diện người ngôn sứ thật.

1. Ngôn sứ thật là người có kinh nghiệm về Thiên Chúa (có đời sống cầu nguyện, tương quan mật thiết với Thiên Chúa).

2. Ngôn sứ thật được mạc khải về Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô (qua Kinh Thánh).

3. Ngôn sứ thật được sai đi đến với muôn dân (chứ không co cụm trong một nhóm nhỏ mánh mung).

Trong nhiều trường hợp khó khăn trong việc phân định lắng nghe tiếng Chúa nói với bạn, bạn hãy tìm cho mình một linh mục, tu sĩ có kinh nghiệm trong lĩnh vực đồng hành thiêng liêng giúp bạn nhận định lắng nghe tiếng Chúa.

Bạn có thể để Chúa nói với mình qua những biến cố cuộc sống vui buồn, lo âu. Hãy đọc tất cả dưới ánh sáng đức tin, mặt khác bạn có thể tìm gặp Lời Ngài trong Kinh Thánh, qua tiếng lương tâm thật của chính mình.

Bước theo tiếng Chúa

Khi đã phân định lắng nghe được tiếng Chúa nói, bạn hãy thẳng đường mà bước tiếp đừng phân vân hay chần chừ. Một người sẽ đi đến đích nhanh hơn nếu anh ta đi một mạch theo lộ trình đã vạch. Nếu trên đường đi bạn mải mê vui chơi, bận tâm đến việc tìm kiếm hư danh, tư lợi thì bạn còn rất lâu mới đến đích điểm.

Trước khi bắt đầu một hành trình, bạn nên dành thời gian để chiêm niệm suy nghĩ về con đường Chúa mời gọi bạn. Từ đó, bạn có thể gạt bỏ ra khỏi cuộc đời của mình những điều không cần thiết và chọn lắng nghe tiếng Chúa là định hướng của cuộc đời mình.

Trong cuộc hành trình, bạn nên có những khoảnh khắc dừng lại để cảm nhận hành trình Chúa mời gọi bạn đong đầy những niềm vui, yêu thương. Đồng thời sửa đổi những sai lầm vấp váp và nghiệm ra được những bài học Chúa gởi đến cho mình và không quên tri ân Thiên Chúa, cảm ơn cuộc đời đã giúp mình lớn lên.

Trích Giải đáp thắc mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 7, Nxb Tôn Giáo, tháng 3/2023

WHĐ (14/8/2024)

---------------------------------

 

BÀI 137 - KINH THÁNH CÓ GÌ HAY?


Rômualđô M. Bùi Văn Nghĩa, CRM
27/08/2024
Hỏi: Nếu được con hy vọng các thầy chia sẻ một chút về Kinh Thánh? Vì các bài học Kinh Thánh không được các Cha giảng nhiều nên kiến thức đọng lại cũng rất ít.
Trả lời:

Mong muốn được học hiểu về Kinh Thánh là một mong muốn rất tốt đẹp. Bởi vì Kinh Thánh rất cần cho đời sống đức tin, như lời thánh Giêrônimô đã nói: “Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Kitô”.

Nếu điều kiện cho phép, các bạn nên tham dự các khóa học về Kinh Thánh, trực tiếp hoặc online. Các bạn cũng nên mua các sách suy niệm Lời Chúa để có thể hiểu sâu hơn về từng trích đoạn Kinh Thánh. Việc này cần cả một quá trình cần mẫn và lâu dài. Trong khuôn khổ bài viết này mình chỉ có thể chia sẻ với các bạn vài nét đại cương để mong giúp các bạn có được đôi chút hiểu biết căn bản nhất về Kinh Thánh.

Bạn thân mến, nếu tra cứu bạn sẽ thấy được những thông tin sau đây:

Kinh Thánh là bộ sách bán chạy nhất mọi thời đại[1], ước tính mỗi năm có thêm 200 triệu bản được in ấn và phân phối[2]. Kinh Thánh là sách được dịch sang nhiều ngôn ngữ nhất: hơn 2.400 ngôn ngữ của 90% dân số thế giới. Kinh Thánh là bộ sách gây ảnh hưởng nhiều nhất trong lịch sử loài người[3]. Nhiều nhà giáo dục thấy rằng Kinh Thánh Kitô giáo đã ăn rễ vững chắc vào Văn hóa phương Tây đến nỗi bất cứ ai, dù có niềm tin hay không, nếu không quen thuộc với các giá trị và giáo huấn của Kinh Thánh sẽ trở nên dốt nát về văn hóa[4].

Dịch giả và cũng là nhà nghiên cứu tự do Nguyễn Hải Hoành nhận định:

Kinh Thánh là một bộ sách có tính tổng hợp, một bách khoa toàn thư rất hữu ích trong việc nghiên cứu nhân loại cổ đại về các mặt lịch sử, chính trị, quân sự, pháp luật, luân lý đạo đức, kinh tế, khoa học kỹ thuật, y học, văn hoá …

Kinh Thánh còn là một tác phẩm văn học đồ sộ, di sản quý báu của nhân loại…

Kinh Thánh là sách được người ta quan tâm đọc và trích dẫn nhiều nhất. Cho tới nay, Kinh Thánh đã lưu truyền mấy nghìn năm chưa bao giờ ngừng… có ảnh hưởng tới hàng tỉ người kể cả người không theo tôn giáo nào.[5]

Những nhận định trên đây thật là ấn tượng. Nhưng dù sao đó mới chỉ là ý kiến của người còn đứng ngoài cuộc. Đối với Hội Thánh thì Kinh Thánh còn có giá trị hơn bội phần. Kinh Thánh không chỉ là tổng hợp những tác phẩm văn học nhiều thể loại, mà là Sách chứa đựng Lời Hằng Sống, Lời đem lại cho con người sự sống đời đời.

Siêu nhiên trong tự nhiên

Sách Giáo Lý Công Giáo ghi rõ: “Kinh Thánh là sách ghi chép mạc khải của Thiên Chúa dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần.” Mạc khải là việc Thiên Chúa tỏ mình cho con người. Linh hứng là việc Thiên Chúa soi sáng cho một số người viết ra. Những người này nhận được ánh sáng Thiên Chúa từ bên trong để viết ra những điều Chúa muốn, theo cách thức và khả năng riêng của họ. Như thế nội dung là do Thiên Chúa, còn hình thức là do con người. Tác giả chính là Thiên Chúa; tác giả phụ là con người. Vì tin nhận Thiên Chúa là tác giả chính nên Hội Thánh gọi Kinh Thánh là Lời Chúa.

Tuy nhiên như đã nói, để ngỏ lời với loài người, Thiên Chúa đã chọn một số người và dùng họ trong khả năng và phương tiện của họ. Người chấp nhận những hạn chế của ngôn ngữ cũng như những giới hạn của các tác giả nhân loại. Họ là những con người cụ thể, sống trong một thời đại cụ thể với những vấn đề của thời đại ấy. Vì vậy, khi đọc Kinh Thánh, chúng ta đừng ngạc nhiên khi thấy có những chỗ khó hiểu. Chúng ta đang ở một văn hóa khác, thời đại khác, quan niệm và nhận thức khác so với nơi chốn và thời gian Kinh Thánh được mạc khải nên khó hiểu là điều khó tránh khỏi. Để có thể hiểu được bản văn Kinh Thánh, đòi hỏi chúng ta phải quan tâm đến hoàn cảnh lịch sử, văn hóa, văn phong của người viết. Việc này quả thật không dễ dàng. May mắn là chúng ta có sự chỉ dẫn của Hội Thánh. Kinh Thánh là cuốn sách của Hội Thánh. Không ai có thể hiểu Kinh Thánh một cách đúng đắn nếu họ đứng ngoài Hội Thánh.

Cổ xưa mà hiện thực

Tuy Kinh Thánh là những sách đã được viết từ rất xa xưa, từ khoảng 1000 năm trước công nguyên cho đến khoảng năm 100 sau công nguyên, nhưng nó lại chứa đựng nội dung, sứ điệp không hề lỗi thời, không hề thay đổi theo thời gian. Bộ sách này vừa cổ kính vừa mới mẻ, vừa cao xa vừa hiện thực. Đây cũng là một trong những điều độc đáo của Kinh Thánh mà không sách nào khác có được. Kinh Thánh đã và vẫn đang là sức mạnh để nâng đỡ và tăng cường Hội Thánh, cũng như ban nguồn sống thiêng liêng cho hàng tỉ người trong hiện tại. Trong Tông huấn Lời Chúa, Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI nhận định:

Trong thời đại chúng ta, thời đại mà nhiều điều chúng ta đặt niềm hy vọng đều tỏ ra phù du. Sớm hay muộn, tài sản, lạc thú và quyền lực cũng sẽ tỏ ra không có khả năng thực hiện các nguyện vọng sâu xa nhất của trái tim con người. Thật vậy, để xây dựng cuộc đời, con người cần những nền tảng chắc chắn, vẫn đứng vững cả khi những xác tín nhân loại mờ nhạt đi. Trong thực tế, bởi vì “muôn lạy Chúa, lời Ngài bền vững đến ngàn đời trên cõi trời cao” và “lòng thành tín của Chúa trải bao thế hệ” (x. Tv 119, 89-90), người nào xây dựng trên Lời ấy, là xây dựng ngôi nhà cuộc đời mình trên tảng đá vững chắc.[6]

Vì vừa cổ xưa vừa hiện thực, nên khi đọc mỗi đoạn Kinh Thánh, trước hết chúng ta phải hiểu đây là một lời tường thuật về sự thật lịch sử trong quá khứ, liên quan đến một người nào đó với những vấn đề riêng biệt của họ. Hiểu điều ấy rồi, chúng ta mới đặt câu hỏi: sứ điệp này soi sáng điều gì cho vấn đề hiện tại của tôi? Hay có điều gì đặc biệt nhắn nhủ tôi?

Ví dụ, câu Thiên Chúa nói “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi” (St 12,1) là nói với tổ phụ Apraham vào khoảng năm 1800 trước công nguyên. Hay lời Chúa Giêsu: “Hãy theo Ta” là nói với mấy người làm nghề đánh cá bên Hồ Galilê cách đây hơn 2.000 năm. Ngày nay, nếu bạn đọc câu ấy, và bạn cảm thấy rằng Chúa Giêsu cũng đang thôi thúc trong tâm hồn bạn lời mời gọi ấy, thì đó là điều bạn cảm nhận theo nghĩa thiêng liêng.

Đa dạng mà thống nhất

Kinh Thánh được viết bởi nhiều soạn giả, mỗi người một hoàn cảnh khác nhau. Có người làm nghề chăn cừu như ngôn sứ A-mốt, có người là vua như vua Đa-vít và vua Sa-lô-môn, có người thì mộc mạc như thánh Maccô, có người thì thông thái như thánh Phaolô. Các soạn giả cũng đã sử dụng rất nhiều thể văn khác nhau để viết như: truyện tích, lịch sử, thơ ca, thư từ, khải huyền… nhưng tất cả các phần trong Kinh Thánh đều liên đới và ăn khớp với nhau chặt chẽ cách kỳ diệu. Khi đọc các bản văn Kinh Thánh từ đầu đến cuối, chúng ta có thể thấy một dòng chảy như một dòng sông, khi thì chảy qua bãi đá thác ghềnh, lúc thì êm trôi trên đồng bằng yên ả. Xuyên suốt dòng chảy ấy là một đạo lý “mến Chúa, yêu người”.

Chính vì sự thống nhất chặt chẽ với nhau mà Kinh Thánh được gọi cách thi vị là “Bản hòa tấu Lời Chúa”. Trong một buổi hòa nhạc, chúng ta thấy có hàng chục nghệ sĩ sử dụng hàng chục nhạc cụ khác nhau, nhưng âm thanh của buổi hòa nhạc phát ra không phải là một mớ tạp âm hỗn loạn của một buổi chợ, mà tất cả đều ăn khớp nhịp nhàng với nhau, lúc thì dồn dập như thác lũ, khi thì lững lờ như mây trôi nước chảy, làm ngất ngây tâm hồn người nghe. Tất cả là nhờ có người nhạc trưởng phất nhịp điều khiển toàn bộ giàn nhạc. Chúng ta có thể hình dung sự thống nhất chặt chẽ của Kinh Thánh cũng tương tự như thế, “như một bản nhạc nhiều cung bậc”.[7]

Mặc dầu các sách hợp thành bộ Kinh Thánh có khác biệt nhau mấy đi nữa về phong cách hay về thể văn, Kinh Thánh vẫn là một, bởi kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa chỉ có một.

Dài rộng nhưng hướng tâm

Kinh Thánh trình bày về một chương trình cứu độ của Thiên Chúa, từ thuở khai thiên lập địa cho tới ngày tận thế. Tuy dài hun hút như vậy, nhưng toàn bộ Kinh Thánh có một trọng tâm là Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã nhập thể làm người tại miền đất Paléttin cách nay hơn 2.000 năm. Biến cố này đã chia lịch sử loài người thành hai phần: trước Chúa giáng sinh (thời Cựu Ước) và sau Chúa Giáng sinh (thời Tân Ước). Tất cả đều hội tụ về biến cố đó, chính xác hơn là hội tụ về chính Đức Giêsu Kitô. Thập giá của Đức Giêsu và sự phục sinh của Người nằm ngay ở trung tâm Kinh Thánh. Các sách Cựu Ước, gồm 46 cuốn, là những sách có mục đích chuẩn bị, loan báo, biểu thị và hướng về Đức Kitô cứu thế. Các sách Tân Ước gồm 27 cuốn, là những chứng từ về chính Đức Giêsu và các giáo huấn của Người.

Với 73 cuốn sách Kinh Thánh, mặc khải của Thiên Chúa đã dứt khoát và trọn vẹn, không còn thêm gì nữa. Đức Giêsu chính là Lời của Thiên Chúa. Nơi Người, Thiên Chúa phán dạy mọi sự, và sẽ không có lời nào khác ngoài Lời đó nữa. Do đó, những điều gọi là “mạc khải tư”, dù có được thẩm quyền Hội Thánh cho phép phổ biến thì tài liệu đó vẫn không thuộc kho tàng đức tin, không buộc chúng ta phải tin. Nhất là chúng ta không nên chạy theo những điều mới lạ nơi những sứ điệp lưu truyền ngoài Hội Thánh, trong khi lại hờ hững và thiếu hiểu biết về nguồn mạc khải chính là Kinh Thánh thì thật là nguy hiểm cho đức tin của chúng ta.

Gần gũi và sâu xa

Thánh Tôma More từng nói một câu dí dỏm như sau: “Kinh Thánh rất sâu đến nỗi một con voi có thể chết đuối; và cũng rất cạn cho nên một con chuột cũng có thể lội qua”. Ngài có ý nói rằng Kinh Thánh phù hợp cho mọi người. Không ai quá thông thái và cũng không ai quá tầm thường đối với Kinh Thánh. Người bình dân đọc Kinh Thánh và có thể nghe được những lời âu yếm ngọt ngào của Thiên Chúa, như lời ngôn sứ Giêrêmia: “Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh. Gặp được lời Chúa, con đã nuốt vào, lời Ngài làm cho con hoan hỷ, làm vui thoả lòng con, vì con được mang danh Ngài” (Gr 15,16). Người trí thức đọc Kinh Thánh tìm được ở đó lẽ khôn ngoan. Vì đó là “Sách có thể dạy anh nên người khôn ngoan để được ơn cứu độ... Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính. Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn, và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành.” (2Tm 3, 14-17).

***

Bạn thân mến, trên đây là vài điều chia sẻ của một người mà vốn hiểu biết về Kinh Thánh không nhiều. Còn vô số những điều bổ ích và thú vị khác đang chờ đợi các bạn khám phá. Các bạn hãy tiếp tục kiếm tìm và học hỏi nhé. Việc hăng say và kiên trì học hỏi Kinh Thánh chính là một bằng chứng lòng yêu mến của các bạn đối với Thiên Chúa.

Trích Giải đáp thắc mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 7, Nxb Tôn Giáo, tháng 3/2023

WHĐ (27/8/2024)

______

[1] https://dimibook.com/sach-ban-chay-nhat-moi-thoi-dai/

[2] Ash, Russell (2001). Top 10 of Everything 2002. Dorling Kindersley.

[3] Ryken, Leland. “How We Got the Best-Selling Book of All Time”. The Wall Street Journal. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2015.

[4] Ryken, Leland. Emerging Trends, Tháng 11 1994, tr. 4.

[5] http://nghiencuuquocte.org/2015/07/15/kinh-thanh-tac-pham-van-hoa-vo-gia-cua-nhan-loai.

[6] Đức Bênêđictô, Tông huấn Lời Chúa – Verbum Dominum, số 10.

[7] X. Đại Hội Thường Lệ lần XII của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Instrumentum laboris, số 9.

---------------------------------

 

BÀI 138 - TÌNH YÊU THÚC BÁCH TÔI


Nt. Elisabeth Bùi Phạm Phương An, CND – CSA
14/09/2024
Hỏi: Xin quý Tu sĩ giải đáp cho con về việc làm sao mình có thể giữ lửa yêu mến đời tu như thủa ban đầu đến nhà dòng ạ? Bởi con đã ở nhà dòng và thấy lửa yêu mến Chúa không được mãnh liệt như hồi chớm nở ơn gọi. Vì sao sơ/thầy đi tu? Xin chia sẻ một chút về kinh nghiệm thiêng liêng trong đời sống thánh hiến?
Trả lời:

Tôi sinh ra ở quê nghèo vùng sông nước miền Tây. Cuộc sống thanh bình dung dị bên lũy tre, hàng dừa và những ruộng lúa xanh ngát. Gia đình tôi là người nam rặt từ năm 1850. Lúc ấy chỉ bà ngoại theo Công Giáo. Nhưng sau đó ông ngoại là sĩ quan cấp cao, đi cải tạo và được ơn của Đức Mẹ nên bắt đầu tìm Chúa. Tiếp theo, ông bà nội được rửa tội lúc ngoài bảy mươi. Ông nội tôi là nhà nho thầy thuốc, nhờ ơn trên và nhờ các cha đã thích nghi và hội nhập văn hóa. Ông phải qua quá trình để hiểu “đạo này không bỏ ông bà”. Tạ ơn Chúa đã cho bác tám theo đạo đầu tiên và làm linh mục. Sau đó cha tôi, các cô và vài người cháu cũng theo Chúa. Cha mẹ tôi đã nuôi dưỡng, hết lòng sống vì chúng tôi suốt cuộc đời. Các ngài luôn hy sinh và dạy cho con cái giáo lý để nhận biết Đấng Chân Thiện Mỹ.

Thời gian trung học, chị em tôi nội trú trong nhà dòng. Ở đây, chúng tôi học được nhiều bài học và nhất là chứng kiến các tu sĩ bước theo Đức Kitô, lên đường giúp người khác.

Qua người bạn giới thiệu nhà chầu Tân Định, nơi tâm sự với Chúa về ưu tư và hoài bão, tôi đi thử và sau đó thấy bình an vì có người để trao gởi dự phóng tương lai, chuyện thi cử, gia đình. Dần dần tôi đến mỗi tối và rủ bạn khác Chầu Thánh Thể. Đó là điểm mấu chốt trong đời tôi khi bắt đầu tập lắng nghe tiếng Chúa.

Đời người - cuộc tìm kiếm khôn nguôi, tôi đọc Gương Phúc, Dân Làng Hồ,.. được đánh động, muốn bắt chước, đi đến những vùng sâu xa. Khi công tác tại một Viện Công Nghệ với mức lương cao, là ao ước của nhiều người lúc đó. Tôi tự nhủ mình cứ cầu an, sống cho gia đình và bản thân là được; khổ nổi, có điều gì cứ thôi thúc tôi, làm tôi phải lên đường vãng gia các cụ neo đơn, trẻ mồ côi, bệnh nhân mỗi cuối tuần. Sau này nghiệm lại tôi mới hiểu, như thánh Phaolô nói: “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc tôi” (2 Cr 5,14).

Chính Chúa Thánh Thần không ngừng hoạt động nơi mỗi người để làm ích cho người xung quanh. Tháng ngày thăm viếng tha nhân vẫn còn quá ít,...Chúa muốn tôi đi xa hơn. Lúc ấy tôi kiếm nhiều niềm vui khác nhưng tận cõi lòng, tôi vẫn thấy không thỏa. Tôi có bạn trai, muốn khẳng định mình, bất chấp rào cản, mưu tìm thành công và sử dụng tự do cá nhân. Bạn bè cách chung thì nhiều, học lắm thứ vì khao khát kiến thức, chu du mấy chục tỉnh và một số quốc gia, với cái thú lãng du, chỗ nào nghe nói lý thú thì tôi đến. Đúng vậy, thánh Augustin nói, “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa và tâm hồn con luôn khắc khoải cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa” (Tự thuật I, 1, 1). Và rồi tôi tìm hiểu dòng tu để “chia ngọt sẻ bùi” với Ngài.

Chắc bạn đồng ý với tôi, sinh ra và lớn lên ở đời, mỗi người có một hướng đi. Tôi nghĩ bạn cũng có câu chuyện thú vị để kể. Phần tôi không nghĩ mình chọn đời sống thánh hiến đâu. Hồi nhỏ và cho tới khi đi “mần” nhiều năm, tôi dự tính sẽ lấy chồng. Tôi hăng hái bước vào đời với những ước mơ, nhu cầu chinh phục của người trẻ. Khi đi làm ở cơ quan về kỹ thuật, tôi lại nghiệm ra rằng nghiên cứu khoa học và suy tư tâm linh bổ sung cho nhau, đều diễn tả tình yêu của Chúa.

Gia đình tôi không ủng hộ vì sợ tôi cực khổ; ngay cả đồng nghiệp, bạn bè đều bất ngờ khi tôi nói tôi đi tu. Ban đầu, tôi vừa đến nhà dòng tìm hiểu, vừa đi làm. Những mảnh rắc rối khác nhau rải rác đây đó, tôi theo đuổi nhiều thứ nhưng không biết cái gì là chính. Dần dần, với chiều kích khoa học và tôn giáo, tôi đào sâu thêm hai đam mê của mình và học hỏi thêm từ “sư phụ” Thánh Thần. Tôi âm thầm đăng ký linh thao và đọc Kinh Thánh một cách hẳn hoi, nghiêm túc. Lúc gặp cha hướng dẫn, tôi đã khóc vì sợ không thể lo cho cha mẹ được nếu quẳng gánh lo đi tu hành! Quả thật, tôi ray rứt vì mình chưa giúp được gì cho gia đình mà tôi là chị có ba bốn đứa em. Hồ hởi soạn đồ vô nhà thỉnh sinh mà như vào một cuộc phiêu lưu với lòng vừa quyết tâm vừa rầu rỉ.

Này Ta sẽ lấy gai góc chặn đường nó lại để nó không thấy được lối đi. Nó sẽ chạy theo các tình nhân của nó mà không gặp, sẽ tìm kiếm chúng mà chẳng thấy... Bởi thế, này Ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình (Hs 2,16).

Bạn ơi, đời tu trong hiện tại của bạn là quà tặng. Với trường hợp của tôi, có lẽ Chúa cất tiếng gọi nhiều lần nhưng tai tôi “điếc có chủ đích”. Hay nói đúng hơn tôi cảm thấy Ngài tiến về phía tôi và tôi trốn để Ngài đừng thấy. Mãi tới tuổi lớn rồi, sau nhiều đêm gió mưa rơi tí tách đầu hè, suy ngẫm về nhân tình thế thái và cầu nguyện, thì tôi mới chịu vâng theo tiếng Chúa. Bây giờ nhìn lại, tôi xác tín ơn gọi phát xuất từ tình Chúa vô biên. Ngài biết tôi từ khi tôi thành hình trong dạ mẫu thân. Dù tôi bất xứng, Thánh Thần đã hướng dẫn tôi trên mọi nẻo đường của hành trình ơn gọi và Ngài đón nhận ước nguyện tận hiến của tôi để tôi trở nên bài ca ngợi khen. Nhà dòng mang tên Mẹ Maria; Mẹ chu đáo cầm tay tôi và chỉ bảo từng chút. Mười năm theo đuổi chương trình huấn luyện khởi đầu, tôi học kinh nghiệm tương giao, được đồng hành, chứng kiến tình chị em thắm thiết. Tuy nhiên, học sống cộng đoàn thật là một quá trình cam go với con người dữ dằn và giàu tự ái như tôi.

Đọc câu hỏi của bạn, tôi thấy giống bạn! Lửa yêu mến có thể hừng hực nhưng rồi nguội dần. Đừng lo, Chúa có cách cho bạn. Thuở ban đầu, ta được khích lệ hoặc “bài tập” Chúa giao dễ hơn. Sáng kiến bao giờ cũng xuất phát từ Ngài. Đời thánh hiến cần “tân trang” lại theo năm tháng vì chất “đời” vẫn không ngừng len lỏi vào đấy. Chúa muốn người tu sĩ hiến tế đời mình để làm cho trời mới đất mới mau đến. Bạn hãy để tâm trí thanh thản và cho phép những việc quan trọng đã xảy ra nằm trong tiềm thức được rõ nét. “Lì” trong cầu nguyện cũng cần lắm đó bạn, để tìm ý Chúa đó mà! Ngài xem tình yêu của ta cỡ nào, nhưng Ngài không bắt ta chờ dài cổ đâu! Bạn hãy đọc hạnh các thánh thì sẽ ấm lòng vì thấy các ngài cũng có quá khứ nhưng đã “biết khôn” đặt cược đời trong tay “hộ pháp” của Chúa.

À, cuộc sống không chỉ dừng lại ở đó, những ngày qua tôi đã từng bị cô đơn, khủng hoảng, nghi nan và buồn sầu. Năm các bạn cùng lớp khấn, tôi chưa sẵn sàng và chưa đáp ứng được kỳ vọng của nhà dòng. Thật vậy, tôi nhận thấy mình sống theo tự nhiên hơn là có tâm tình của Chúa Giêsu. Những lúc đương đầu với vấn đề bản thân, tôi hỏi: Tại sao Chúa để con phải chịu như vầy? Đời thánh hiến nếu chỉ nhìn trên phương diện sức người thì thật khó vươn tới. Cuối cùng, trong mờ mịt, tôi lại nhận ra sự nghèo hèn của mình và Ngài chính là niềm vui sâu xa, vĩnh cửu, có sức giải thoát mọi gánh nặng.

Bạn mến, không thể yêu Chúa mà không có hình bóng của tha nhân trong tình yêu dành cho Ngài. Nhờ lời cầu nguyện của mọi người, tôi được vun trồng ơn gọi; những lúc gặp trắc trở trong đời tu tôi đã được an ủi. Tôi chuyển cộng đoàn nhiều đến nỗi tôi phân vân không biết rồi mình sẽ ra sao và chẳng có cách nào khác ngoài việc buông mình cho Chúa, can đảm bước theo đường lối của Ngài. Dần dà tôi rút ra bài học: mình cần được thanh tẩy để đến gần Chúa hơn, chìm sâu trong Ngài. Việc tập luyện nhiều mặt và được sai đi đến với mọi thành phần dân chúng thì cũng hay lắm: Tôi gặp gỡ các học sinh cá biệt, người nghèo về tri thức và thiêng liêng, dân tộc thiểu số,…rồi cộng tác với những người thiện chí, các sinh viên đầy lửa, giáo lý viên nhiệt thành, anh chị tôn giáo bạn,…

Thánh Thần yêu cầu ta can đảm đón lấy mạo hiểm với Thiên Chúa. Trong nhà dòng các bạn nên chia sẻ ơn gọi cho nhau để phần nào hiểu và thông cảm nhau. “Simon và Anrê, Gioan và Giacôbê đánh cá. Trong công việc mưu sinh này, họ đã học được quy luật tự nhiên, nhưng đôi khi sóng gió ập đến, khiến con thuyền chao đảo. Nỗ lực của họ cũng được đền đáp với mẻ cá lớn, nhưng những lần khác, họ vất vả suốt đêm mà chẳng bắt được con nào và họ vào bờ với tâm trạng mệt mỏi. Cuộc sống phần lớn như thế. Hãy cố gắng nhận ra khát vọng thẳm sâu nhất của mình. Chúng ta đặt những khả năng ấy trên “biển cả”, với hy vọng điều khiển con thuyền đúng hướng. Tuy nhiên, không có niềm vui nào lớn hơn niềm vui của người dâng hiến đời mình cho Chúa! Nếu Ngài gọi chúng con đi vào con đường này, hãy tín thác. Đừng ngục ngã trước sợ hãi, vốn là điều làm chúng ta tê liệt trước những tầm cao mà Chúa chỉ cho chúng ta. Chúng con hãy luôn nhớ rằng, với những ai bỏ thuyền lại mà đi theo Giêsu, Thiên Chúa hứa ban một cuộc sống mới, có thể lấp đầy tâm hồn chúng ta và làm cho hành trình của ta thêm sống động”[1].

Khi mới vô Dòng, tôi từ bỏ sở thích, gia đình, nhưng dần dà tôi lấy lại cách tinh vi. Nhìn những khuyết điểm mà tôi sửa hoài chưa được; nản chí lắm, nhưng tự nhủ Chúa kiên nhẫn với mình thì mình cũng cần chấp nhận giới hạn bản thân, “nháy mắt” với Chúa và tiếp tục bắt đầu rồi lại bắt đầu. Những khi “đuối” quá, tôi cứ năn nỉ Chúa câu nguyện tắt: Lạy Chúa, xin ở lại với con, con cần Chúa hiện diện để con không quên Chúa. Chúa biết con dễ dàng bỏ Chúa xiết bao. Lạy Chúa, xin ở lại với con vì con yếu đuối, con cần sức mạnh của Chúa để con không hoài vấp ngã. Lạy Chúa, xin ở lại với con vì Chúa là sự sống của con. Không có Chúa, con không còn nhiệt tâm. Lạy Chúa, xin ở lại với con vì Chúa là sự sáng của con. Không có Chúa, con sẽ ở trong tối tăm. Lúc hết năng lượng, bạn hãy làm như thánh Têrêxa Avila khuyên: Sống cùng Chúa Giêsu như sống với một bạn thân mà mình thường chuyện trò.

Dòng thời gian trôi qua, tôi thấm thía rằng, càng sống thì càng mỏng giòn và dễ sa ngã! Trong hành trình này, tôi phải học cảm nhận mình được thương. Tôi té lên té xuống khi bước theo Đức Kitô. Không dễ giữ lời khấn đâu bạn ạ, vì không có con đường tắt hay đường dễ dãi để nên thánh. Thỉnh thoảng tôi bị dao động trước một tâm hồn đẹp mà mình tiếp xúc.

Việc xưng tội thường xuyên là phương thế giúp tôi quay về với vòng tay của “người tình Giêsu”. Tôi đúng là kẻ ngoại tình trước những sự phù vân của thế gian mà Chúa vẫn xót thương, rồi Ngài mãi tìm cách đem về trong biển tình cứu độ. Về việc vâng phục cả thân và tâm thì thật nghịch lý dưới nhãn quan của con người thời nay, đúng không bạn? Tin tôi đi, Giêsu sẽ biến thử thách thành cơ hội. Giống Á Thánh lập dòng Alix le Clerc ở giai đoạn đầu đời, ngài thích khiêu vũ và ham vui, còn giai đoạn sau ngài đã hoán cải và thực tâm theo Chúa thì tôi chưa bắt chước được! Bạn nghĩ tu sĩ thì thánh thiện? Không đâu, họ vẫn là người đang lữ hành bằng xương bằng thịt. Dẫu chướng ngại như thế, tôi tin mình không chiến đấu một mình mà luôn có “bằng hữu Giêsu”. Còn nữa, nếu chúng ta sửa mình, đời ta sẽ đẹp vì tình Ngài mạnh hơn sự tự ái và ích kỷ của ta.

Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc: Người thánh hiến có đủ lý do để sống an bình dù “như bao sinh linh khác, chúng ta trải nghiệm khó khăn, đêm tối tinh thần, thất vọng, bệnh tật, kiệt sức. Chính trong hoàn cảnh đó, chúng ta cần khám phá “sự hoan hỉ hoàn hảo”, học cho biết nhận ra khuôn mặt Đức Kitô, Đấng đã trở nên giống chúng ta mọi đàng. Hãy vui mừng vì biết mình được giống kẻ vì yêu thương ta đã không khước từ thập giá”[2].

Thần học gia Angelus Silisius nói: “Chúa Giêsu sinh ra tại Belem sẽ được gì cho tôi, nếu người không sinh ra trong tôi và không triển nở trong tôi”. Cánh đồng truyền giáo mênh mông và nhu cầu sứ vụ thật khẩn thiết. Tin Mừng đến quê hương chúng ta qua các vị Thừa Sai sẵn sàng rời bỏ xứ sở, vượt trùng dương đến với người dân bản địa xa lạ mà họ nhận làm đồng hương. Được thừa hưởng gia tài quý báu ấy, đến lượt chúng ta có trách nhiệm loan báo cho đồng bào để họ đón nhận kho tàng. Chính vì thế, cầu Chúa cho ta luôn thắm mãi niềm tin son sắt, một tình yêu chứa chan hy vọng dẫu cảnh đời cát bụi dễ làm mình hoen ố, nhạt nhòa.

Tạ ơn Thiên Chúa, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương! Bạn là huyền nhiệm. Ơn gọi của bạn gắn với sứ mạng. Ý Chúa không ai dò thấu được nhưng với tâm hồn biết lắng nghe, chúng ta sẽ “phát hiện” ra. Dù đường sắp tới có gai chông, khi khám phá ra sứ mạng, chúng ta sẽ hạnh phúc, vùng trời bình an sâu thẳm sẽ ngự trị trong tâm hồn. Mong những chia sẻ của tôi sẽ giúp bạn trân quý ơn gọi mình. Trong bậc sống nào thì Chúa cũng muốn ta sống dồi dào. Xin Thánh Thần chỉ dẫn cho mọi quyết định của bạn!

Trích Giải đáp thắc mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 7, Nxb Tôn Giáo, tháng 3/2023

WHĐ (14/9/2024)

_____

[1] Sứ điệp ĐTC nhân ngày cầu nguyện cho ơn gọi lần thứ 56, 2019, https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-cua-duc-thanh-cha-nhan-ngay-the-gioi-cau-nguyen-cho-on-goi-lan-thu-56-nam-2019-50655

[2] X. Tông thư của Đức Thánh Cha Phanxicô Gửi tất cả các người Thánh hiến, 2014, https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tong-thu-cua-duc-thanh-cha-phanxico-gui-tat-ca-cac-nguoi-tan-hien-nhan-dip-nam-doi-song-thanh-hien-17879

---------------------------------

 

BÀI 139 - THỦ DÂM VÀ HƯỚNG DẪN CỦA GIÁO HỘI


Nt. Êlisabeth Trần Như Ý Lan, CND
19/09/2024
Hỏi: Sơ ơi, nếu 1 bạn trẻ thực hiện hành vi thủ dâm vì để muốn làm tổn thương bản thân (theo quan điểm của bạn thì đó là hành vi rất ghê tởm, rất xấu xa và tệ hại, vì bạn từng bị lạm dụng tình dục ngày nhỏ từ bố và anh họ). Bạn hay làm đau mình, đến đỉnh điểm thì bạn làm như vậy vì muốn mình tệ, vì ghét và ghê tởm chính mình, hoặc vì để tìm kiếm 1 cảm giác khác đi của cơ thể khi cảm xúc là chán, là tuyệt vọng để biết mình vẫn đang sống, và để không cảm thấy những nỗi đau khác đang giằng xé. Bạn luôn lấy đó làm lí do mình tệ, lỗi điều răn thứ 6, không trong sạch và ngày càng xa Chúa, không lên rước lễ vì như vậy là phạm thánh,... Nếu xét theo 10 điều răn thì lỗi luật, nhưng với con, và con nghĩ nếu là Chúa, với tình thương của Người, Người cũng không xét đoán và phán tội bạn đúng không sơ?
Trả lời:

Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo dạy rằng: “Thủ dâm là cố tình kích thích cơ quan sinh dục nhằm gây khoái lạc tình dục.” Dựa theo truyền thống, huấn quyền khẳng định rằng, thủ dâm tự bản chất là một hành động sai trái nghiêm trọng, vì "tự ý sử dụng khả năng tình dục ngoài quan hệ vợ chồng bình thường, dù với động lực nào đi nữa, cũng là sai mục đích”. Tuy nhiên, để phán đoán đúng đắn về trách nhiệm luân lý của người làm hành vi thủ dâm, cần lưu ý đến tình trạng thiếu trưởng thành tình cảm, áp lực của các thói quen, tâm trạng lo âu cũng như những yếu tố khác về tâm lý xã hội. Các nhân tố này có thể làm trách nhiệm luân lý của đương sự được giảm nhẹ ngay cả đến mức tối thiểu. (GLHTCG s. 2352).

Giáo Hội cũng công nhận những nghiên cứu tâm lý ngày nay cho thấy thủ dâm có thể xảy ra trong hoàn cảnh chán chường, cô đơn, hình ảnh về chính mình nghèo nàn, thiếu thốn tương quan nam nữ, xung đột với cha mẹ, cộng đoàn, nhiều áp lực xã hội, công việc. Trong vài trường hợp, không phải hành vi thủ dâm là vấn đề phải xem xét, nhưng là những xung đột, hoàn cảnh gây ra thủ dâm, và cần thiết phải được tâm lý liệu pháp. Trách nhiệm cá nhân về các hành vi thủ dâm trong các hoàn cảnh này được giảm nhẹ, mặc dù hành vi đó là vấn đề nghiêm trọng.

Như thế, trước hết cần nhận định rằng vấn đề thực sự của bạn trẻ này không phải là thủ dâm. Sau khi bị lạm dụng tình dục, mỗi trẻ sẽ có những phản ứng khác nhau. Nhiều trẻ bị ảnh hưởng đến tâm lý rất nặng. Bạn trẻ được mô tả trên đây bị chấn thương cả tinh thần lẫn thể xác sau khi bị lạm dụng tình dục bởi chính người Cha đáng ra phải là người đáng kính, yêu thương và bảo vệ bạn ấy. Vì vậy, tình cảm và sự hỗ trợ kịp thời của các thành viên khác trong gia đình là yếu tố vô cùng quan trọng để giúp trẻ phục hồi. Người thân cần kiên nhẫn và vững vàng để cùng trẻ vượt qua khoảng thời gian khó khăn.

Bạn trẻ này cần được gặp chuyên viên tâm lý, bác sĩ y khoa và cả linh mục để được điều trị chữa lành thể lý, tâm lý và tâm linh. Cần giúp bạn này thoát khỏi mặc cảm sai lầm là thân xác bạn “xấu xa” sau khi bị lạm dụng. Và, cố ý gây thương tích cho mình cũng là sai. Người thân, bạn bè cần giúp bạn ấy hiểu rằng bạn ấy là nạn nhân, vẫn rất đáng được yêu thương và trân trọng.

Vài điều cần trao đổi với bạn trẻ này:

Mỗi người chịu trách nhiệm về sự sống của mình trước mặt Thiên Chúa là Đấng ban sự sống. Chính Người là Chủ tối thượng của sự sống. Chúng ta có bổn phận đón nhận với lòng biết ơn và gìn giữ sự sống để tôn vinh Thiên Chúa và được cứu độ. Chúng ta là người quản lý chứ không phải là chủ của sự sống mà Chúa đã trao ban. Chúng ta không có quyền định đoạt về mạng sống, thân xác mình (GLHTCG s. 2280). Sự sống và sức khỏe là những ơn quý giá Thiên Chúa ban. Chúng ta có bổn phận chăm sóc chúng cách hợp lý.

Nguy hiểm luân lý liên quan đến thủ dâm thường xuyên là nó hấp dẫn, trở thành một lối thoát giảm nhẹ áp lực và khai phá những cảm giác tình dục. Thay vì dấn thân một cách trưởng thành vào tương quan liên vị, người thủ dâm có thể làm thinh lặng tiếng của Chúa Thánh Thần thúc đẩy yêu thương người khác, và kết quả, người thủ dâm kết thúc trở thành trống rỗng hơn, cô đơn hơn. Giáo dục tính dục cho thanh thiếu niên cần chú ý đến điều này, giúp đương sự có những hoạt động xã hội, thể thao và tinh thần lành mạnh để một phần hướng những đòi hỏi xác thịt vào hướng phục vụ tha nhân và phát triển nhân cách lành mạnh.

Theo Romeo Intengan, linh mục Dòng Tên, nhà thần học luân lý và là một bác sĩ, tính trái luân lý của thủ dâm hệ tại trong khuynh hướng của nó làm tổn hại sự phát triển hòa hợp của nhân cách con người... Sự tác hại với mức độ khác nhau của thủ dâm trên sự trưởng thành tâm lý tính dục và luân lý tùy thuộc nhiều yếu tố như cường độ của hành động, tính thường xuyên, giai đoạn phát triển tâm lý tính dục, mức độ tham gia của nhân cách vào hành động, và mức độ tự do và trách nhiệm của chính người đó.

Các em cần được khích lệ dũng cảm để trở nên khiết tịnh. Thái độ đúng đắn có lẽ là phải xử trí thói thủ dâm bằng cách mở ra các giải pháp để người đó tham gia vào một chương trình trợ giúp tâm linh. Người thủ dâm phải gánh vác trách nhiệm vì tương lai của chính mình.

Các em cần được linh hướng đầy đủ, cần nhận ra ước muốn trở nên thanh sạch của các em, cũng như cho những lời khuyên cụ thể về vấn đề này. Các em cần được truyền đạt về tác động của thủ dâm lên sự trưởng thành nhân cách, hiểu biết tính luân lý của vấn đề này. Những yếu tố tâm lý thường cản trở việc sử dụng ý chí tự do. Nhiều thanh niên đã không tham dự Bí tích Thánh thể vào ngày Chúa nhật vì họ cảm thấy không thể vượt qua thói quen xấu này. Hướng dẫn sự chú ý đến từng hành vi thủ dâm có thể cản trở sự phát triển nhân vị vì sự tập trung vào chính mình và đào sâu cảm giác thiếu thốn nơi người thiếu niên. Cần hướng dẫn các em vào các hoạt động củng cố sự tự tin và khuyến khích sự tăng trưởng và tương quan với người khác và tiến bộ trong phát triển nhân cách, trong hầu hết trường hợp thủ dâm sẽ dần biến mất.

Vài điểm linh hướng:

Theo linh mục John F. Harvey, những hướng dẫn sau đây đã chứng minh được tính hữu ích của chúng:

1. Hãy giúp người ấy suy gẫm về ý nghĩa cuộc sống, về niềm hy vọng, về tài năng mà bạn ấy có, về sự chán chường, sự thất vọng và nỗi cô đơn của mình. Giúp họ tìm ra điều gì đang gặm nhấm con người mình bởi vì thủ dâm là dấu hiệu của một tâm hồn đang thao thức, không bình an và chúng ta cần đi vào ngay vào điểm đó.

2. Nếu người ấy đang buông xuôi, phó mặc cho số phận, hãy giúp họ một kế hoạch tâm linh.

3. Giúp người ấy nhận thức rằng nhiều người cũng có khuynh hướng chui vào thế giới hấp dẫn của trí tưởng tượng trong khi thực tế lại phũ phàng. Thủ dâm phát xuất từ những hình ảnh tưởng tượng về tình dục. Chiến lược ở đây là làm thế nào để ra khỏi thế giới tưởng tượng tình dục để quay lại thực tại ngay khi người ấy ý thức rằng mình đang để tâm đến những gì tưởng tượng trong đầu. Một cách hữu hiệu đối với một số người là đọc một lời nguyện vắn tắt, sau đó thực hiện một hành động bên ngoài bằng chân tay ví dụ như dọn dẹp nhà cửa, sửa chữa đồ đạc, đi dạo... Bạn có bao giờ thấy mình đang tưởng tượng chuyện này chuyện kia vì tức giận, ganh ghét, hay vì bị hấp dẫn tình dục, rồi bất ngờ điện thoại reo lên, bạn nhấc máy trả lời, và thế là những gì đang tưởng tượng bỗng nhiên biến mất không? Hữu ích là ở chỗ làm sao luôn ở trong thực tại.

4. Bên cạnh việc chia sẻ khó khăn của mình với vị linh hướng, hãy cố gắng tìm một nhóm trợ giúp. Nhiều người nghiện thủ dâm và thủ dâm theo thói quen đã tìm được tình bạn đích thực nhờ những buổi họp mặt của các nhóm như thế. Trong khi tạo ý thức về giá trị bản thân, việc nuôi dưỡng những mối quan hệ đích thực với những con người chân thực sẽ làm suy giảm đáng kể mãnh lực cuốn hút mà những gì người đó tưởng tượng về tình dục.

Là người Kitô hữu, bạn hãy tìm đến phương dược thiêng liêng như năng lãnh nhận các Bí tích Thánh Thể và Bí tích Hoà giải, mạnh dạn tìm đến các linh mục chuyên viên nhờ linh hướng, và nhất là siêng năng cầu nguyện, hãy nhớ lời Mẹ Maria dạy: siêng năng lần chuỗi Mân Côi để tìm sự trợ giúp của Mẹ.

WHĐ (19/9/2024)

---------------------------------

 

BÀI 140 - TRUYỀN THÔNG SỰ SỐNG


Lm. Giuse Lê Đắc Thắng, SJ
24/09/2024
Hỏi: Người trẻ trong xã hội “bất khả phân ly” với những phương tiện truyền thông hiện nay phải chuẩn bị thái độ nào để có thể “hòa nhập” mà không “hòa tan” trước “văn hóa sự chết” đang đối diện?
Trả lời:

Mến chào bạn,

Câu hỏi của bạn làm tôi liên tưởng ngay đến sự khác biệt về cách hành xử trong gia đình ba thế hệ của tôi mỗi khi có sự cố cúp điện. Đối với cha mẹ tôi, việc cúp điện không thành vấn đề, bởi lẽ trước đây ông bà chỉ xài đèn dầu trong một thời gian dài. Riêng tôi thì khác, vì từ nhỏ đã quen tiện nghi nhờ các thiết bị điện nên mỗi lần cúp điện là tôi gần như “treo máy”, chẳng làm được gì, dù thực tế có những công việc không nhất thiết phải dùng đến điện. Từ kinh nghiệm đó tôi có thể hình dung mấy đứa cháu của tôi và những người bạn đồng trang lứa với chúng sẽ phản ứng như thế nào nếu không có internet. Thế hệ trẻ ngày nay sinh ra và lớn lên trong thời đại công nghệ thông tin phát triển bùng nổ nên những phương tiện truyền thông qua internet trở thành “một phần tất yếu của cuộc sống” hay “bất khả phân ly” với chúng cũng là điều dễ hiểu.

Hiện tượng này đáng vui mừng hay đáng lo ngại? Câu trả lời là: Tùy. Xét cho cùng thì điện lưới hay internet cũng như các loại thiết bị chỉ là phương tiện, chúng tốt hay xấu tùy vào cách con người sử dụng. Chẳng hạn như nếu được dùng đúng mục đích thì con dao là dụng cụ hữu ích cho việc làm bếp, còn không thì nó trở thành một loại vũ khí nguy hiểm. “Văn hóa sự chết” mà bạn nói đến thực ra đã bắt đầu ngay từ khi ông bà nguyên tổ phạm tội bất tuân lệnh Chúa rồi chứ không phải đợi đến thời hiện đại mới phát sinh. Chúng ta gọi đó là tội. Tội lỗi đã xâm nhập thế gian và không ngừng bành trướng “văn hóa sự chết” của nó qua mọi nơi trong mọi thời. Các phương tiện truyền thông ngày nay chỉ làm vạch rõ bộ mặt chết chóc đó một cách rõ nét và phổ quát hơn trước đây mà thôi. Như thế vấn đề chúng ta cần quan tâm ở đây không phải là thiết bị hay phương tiện truyền thông, mà là cách con người sử dụng chúng.

Vậy cụ thể là người trẻ phải “hòa nhập” vào bối cảnh thời đại mới này như thế nào để có thể đề kháng trước “văn hóa sự chết” đang lan tràn nhanh chóng trên không gian mạng? Theo tôi, trước hết chúng ta không nên quá bi quan trước hiện tượng sự dữ hoành hoành trên thế giới này, cách riêng là qua các phương tiện truyền thông. Chúng ta đừng quên rằng Chúa Giêsu đã chiến thắng sự dữ bằng cái chết và sự phục sinh của Người. Những ai đã đón nhận sự sống mới trong Đức Giêsu nhờ đức tin thì sẽ không phải lo sợ trước thế lực sự dữ hay sự chết, dù nó được biểu hiện dưới bất cứ hình thức hay trong môi trường nào đi nữa. Do đó, Chúa Giêsu chính là chìa khóa giải đáp vấn đề chúng ta đang đặt ra. Chính Chúa là đường, là sự thật và là sự sống. Người sẽ giúp chúng ta đánh bại mưu chước sai trái, dối trá và chết chóc của ma quỷ. Nếu chúng ta bước đi trong ánh sáng của Chúa Giêsu, bóng tối của “văn hóa sự chết” không đủ sức làm hại chúng ta. Cụ thể, ở đây tôi xin gợi ý ba điểm xét như ba khí cụ giúp chúng ta sử dụng phương tiện truyền thông một cách đúng đắn, đó là tình yêu, khôn ngoan và sự tự do.

Chúa Giêsu mặc khải cho loài người nhận biết khuôn mặt của Thiên Chúa: Thiên Chúa là tình yêu. Con đường chúng ta “hội nhập” vào thế giới mạng xã hội cũng phải là con đường tình yêu, vì chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Giáo lý Hội thánh Công giáo đã lấy lại định nghĩa của thánh Tôma Aquinô về tình yêu: “Yêu là muốn điều thiện cho người khác” (Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, số 1766). Theo đó, tình yêu luôn giúp cổ võ và làm phát sinh sự sống, là đối trọng với “văn hóa sự chết”. Vậy, chúng ta phải tự xét xem mình có tham gia mạng xã hội với con tim đong đầy yêu thương không? Những điều chúng ta chia sẻ hay cách chúng ta tương tác trên mạng xã hội có thực sự là vì muốn mang lại điều tốt cho người khác hay không?

Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nhiều lần cảnh báo về “văn hóa selfie”, tức là làm mọi cách để được chú ý hay nổi tiếng mà không quan tâm đến nhu cầu của người khác, đặc biệt là những người sống bên lề xã hội. Để chống lại xu hướng đó, thay vì nghĩ cách để có được nhiều tương tác thì chúng ta nên chú ý hơn đến giá trị đóng góp xây dựng cộng đồng từ nội dung chúng ta chia sẻ trên mạng xã hội. Chia sẻ những câu chuyện đẹp trong đời thường, những lời nói hay kiểu tương tác giúp động viên an ủi người khác, giúp nhau học hỏi mở rộng hiểu biết… là những điều tốt đẹp chúng ta có thể làm dễ dàng hơn trước đây nhờ sự phát triển của công nghệ, cách riêng là mạng xã hội. Tóm lại, chúng ta càng lan tỏa yêu thương thì “văn hóa sự chết” sẽ càng bị khuất phục, dù trên phương tiện truyền thông hay ở bất cứ môi trường nào khác.

Khí cụ tiếp theo chính là sự khôn ngoan. Chúa cho con người trí khôn để tạo ra những tiện nghi giúp cuộc sống được dễ dàng hơn, trong đó công nghệ thông tin truyền thông là một ví dụ điển hình. Khoảng cách địa lý dường như không còn là trở ngại lớn nữa khi người ta có thể dễ dàng kết nối liên lạc với nhau. Theo đó, việc xây dựng các mối quan hệ xã hội hay giao dịch kinh doanh vươn tầm xa hơn rất nhiều so với thời chưa có Internet. Tuy nhiên, chính trong môi trường đó lại phát sinh nhiều nguy cơ tiềm ẩn khi bị lợi dụng bởi những kẻ xấu. Chúa Giêsu dạy các môn đệ của Ngài phải “đơn sơ như bồ câu” nhưng đồng thời cũng phải biết “khôn như rắn”. Giống như con rắn xưa đã cám dỗ ông bà nguyên tổ phạm tội bất tuân lệnh Chúa thì ngày nay ma quỷ cũng nhắm vào những thói xấu của con người một cách tinh vi nhờ sự trợ giúp rất đắc lực của mạng xã hội. Như tôi đã nói ở trên, mạng xã hội tự nó không tốt cũng không xấu, vấn đề là do cách con người sử dụng.

Sự khôn ngoan đòi hỏi chúng ta phải tỉnh táo nhận ra xu hướng tội lỗi mà mạng xã hội đang lôi kéo chúng ta bước theo hay sa đà vào. Cách tính toán của trí thông minh nhân tạo (AI) dễ dàng phát hiện điều mỗi người chúng ta quan tâm nhiều nhất. Nếu chúng ta ngã theo điều xấu thì nó sẽ giới thiệu thêm nhiều cái xấu hấp dẫn tương tự nữa, đến một lúc nào đó chúng ta không có đủ sức thoát ra được. Ví dụ, nếu chúng ta thích xem phim ảnh khiêu dâm thì thông tin chúng ta nhận được từ mạng xã hội sẽ tràn ngập phim ảnh khiêu dâm, cứ như thể không còn nội dung nào khác đáng cho chúng ta quan tâm nữa. Ngược lại, nếu chúng ta quan tâm đến những nội dung lành mạnh thì những thông tin xấu sẽ bị lấn át và dần dần ít xuất hiện hơn.

Chúng ta biết như thế để có phương án đối phó ngăn chặn ngay khi “văn hóa sự chết” mới chớm ảnh hưởng, không cho nó cơ hội lan tỏa và khuynh đảo đời sống của mình hay người khác. Điều này lại đòi hỏi sự trưởng thành của mỗi người trong khả năng phân định giữa điều tốt và điều xấu, vốn cũng là một biểu hiện của sự khôn ngoan. Ví dụ như có những clip giúp giải trí sau những giờ học tập hay làm việc căng thẳng nhưng cũng có những clip chỉ tạo ra sự hưng phấn kích thích thần kinh và khiến chúng ta mất nhiều thời gian cho chúng một cách vô ích. Cũng vậy, con người cũng rất cần sự khôn ngoan khi tiếp cận và xử lý thông tin trên mạng xã hội để biết được đâu là tin thật hay tin giả, đâu là âm mưu của một nhóm truyền thông đang cố lèo lái dư luận. Có như thế chúng ta mới thoát khỏi những thế lực đen tối là tay sai của sự dữ đang hoành hành trên các phương tiện truyền thông.

Điều cuối cùng và cũng có lẽ là điều quan trọng nhất giúp chúng ta sử dụng phương tiện truyền thông một cách hiệu quả đó chính là sự tự do. Con người có tự do để chọn lựa và hành động theo những gì đúng với phẩm giá Chúa ban cho mình. Trái với tự do chính là lệ thuộc. Khi người ta quá lệ thuộc vào mạng xã hội đến mức nghiện, không có không được, thì khi đó họ đã đánh mất tự do. Thuật ngữ “phương tiện truyền thông” tự nó cũng đã xác định một ranh giới rõ ràng về vai trò của mạng xã hội. Đúng là cuộc sống con người không thể thiếu sự kết nối hay truyền thông. Tuy nhiên, người ta có thể kết nối với nhau qua nhiều “phương tiện” khác nữa chứ không chỉ giới hạn trong không gian mạng.

Con người luôn có nhu cầu kết nối bằng việc trực tiếp nhìn thấy ánh mắt nụ cười hay lắng nghe tiếng nói của nhau. Ngay cả với những nhóm hoạt động online người ta vẫn có nhu cầu offline để gặp gỡ trò chuyện với nhau mỗi khi có dịp. Đó là chưa kể có rất nhiều câu chuyện cuộc sống hay những mảnh đời không bao giờ được nhắc đến trên các phương tiện truyền thông. Nếu ai đó cho rằng họ không thể sống được nếu không có internet thì rõ ràng là cuộc đời họ đã bị cầm tù trong phạm vi giới hạn của thế giới mạng xã hội. Mạng xã hội với đặc tính năng động của nó dễ khiến con người ta mất ý thức về giới hạn không gian và thời gian. Theo đó, khi con người ta cho rằng thế giới mạng là tất cả (không gian) cuộc sống thì họ đã đánh mất cơ hội tương tác với những con người ở bên cạnh họ hàng ngày. Cũng vậy, khi con người bị thúc bách phải hoạt động (bất chấp thời gian) trên mạng xã hội thì họ quên mất rằng thể xác con người cần thời gian để nghỉ ngơi hay vận động thể dục thể thao tăng cường sức khỏe. Một người tự do là một người luôn luôn ý thức rõ và biết đặt ra giới hạn về không gian và thời gian sử dụng mạng xã hội trong đời sống của mình.

Bạn thân mến, tôi chia sẻ với bạn những điều trên đây với tư cách là một người đã phải chật vật để “hòa nhập” với sự phát triển chóng mặt của công nghệ truyền thông. Tôi cũng phải thừa nhận sự nhỏ bé yếu đuối của mình trước sự tấn công rất tinh vi và mạnh mẽ của “văn hóa sự chết” trên không gian mạng. Tuy nhiên, chúng ta không có cách nào khác hơn là phải đối diện với thực tế, nhờ ơn Chúa giúp. Tôi tin rằng nếu chúng ta có niềm tin vững vàng vào Thiên Chúa và quyết tâm noi gương Chúa Giêsu, chúng ta sẽ có đủ tình yêu, khôn ngoan và sự tự do để chung tay xây dựng Nước Trời là “văn hóa sự sống”, “văn hóa gặp gỡ” ngay trong môi trường truyền thông.

WHĐ (24/9/2024)

---------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây