Càng về cuối đời, tôi càng nghe được rõ những người đã chết nói với tôi. Trong số những người đó Bùi-Tuần 2051
1. Càng về cuối đời, tôi càng nghe được rõ những người đã chết nói với tôi. Trong số những người đó có Đức Mẹ Maria.
2. Đức Mẹ và nhiều người đã chết từ xa xưa đến bây giờ, thường nói với tôi một cách nhỏ nhẹ, lúc thì trong ý thức của tôi, lúc thì trong tiềm thức của tôi, và có lúc trong cõi vô thức của tôi.
Tôi nghe được tiếng các Ngài, khi tôi thinh lặng, hồi tâm, cầu nguyện.
3. Nội dung những gì các Ngài nói cho tôi có thể tóm tắt thế này:
Hãy cảm tạ Chúa, Hãy đền tạ Chúa.
Khiêm tốn cảm tạ Chúa, vì được Chúa thương nhận làm nghĩa tử, được Chúa nhận làm con Chúa, đó là một ơn trọng đại, vô cùng cao quý, hạnh phúc không gì bằng.
4. Thế nhưng, bao lần tôi đã không khiêm tốn cảm tạ Chúa như vậy, nên các Ngài khuyên tôi:
Hãy đền tạ Chúa.
Khiêm tốn đền tạ Chúa bằng cuộc sống hằng ngày. Mỗi giây phút hãy yêu mến Chúa. Mỗi giây phút hãy dâng những khổ đau cho Chúa. Mỗi giây phút hãy thuộc về Chúa. Mỗi giây phút hãy lo cứu những người khổ đau. Mỗi giây phút hãy là của lễ dâng tiến Chúa, của lễ sám hối, của lễ đền tội, của lễ vâng phục Thánh Ý Chúa.
5. Khi đề cập đến việc đền tạ Chúa, Đức Mẹ và nhiều người đã chết, thường nhắc cho tôi nhớ lại hình ảnh Chúa Giêsu sấp mặt xuống đất cầu nguyện trong vườn Cây Dầu, trước giờ tự nộp mình cho cuộc thương khó.
Sấp mặt xuống đất cầu nguyện, đó là việc Chúa Giêsu đã làm, Đức Mẹ đã làm, nhiều người đã làm.
Sấp mặt xuống đất cầu nguyện, đó là khiêm nhường đền tội. Đức Mẹ khuyên tôi hãy đền tạ với tâm tình khiêm tốn, cho dù thực tế không luôn cho phép sấp mình sấp mặt xuống đất cầu nguyện.
6. Đền tạ thì phải rất khiêm nhường. Người ta không nhìn thấy tôi có khiêm nhường hay không có. Còn Chúa thì Chúa thấy rõ.
7. Chuyện thánh Gioan, cha sở xứ Ars, có thuật lại rằng: Một người đến với Cha, tâm sự trong nước mắt, vì ông có một người thân mới nhảy xuống sông tự tử. Thánh Gioan, cha sở xứ Ars, vừa nghe xong liền nói: Từ cầu nhảy xuống sông chỉ khoảng thời gian rất vắn, người đó đã chết. Nhưng chính trong quãng thời gian vắn vỏi đó, anh đã được ơn trở lại với Chúa. Anh ấy đã đón nhận được ơn tha thứ của Chúa. Chỉ lòng thương xót Chúa mới thấy được chút khiêm nhường của người đó, để mà cứu anh ta.
8. Với mẫu chuyện trên đây, Đức Mẹ khuyên tôi hãy luôn coi khiêm nhường là điều kiện rất cần để đón nhận ơn cứu độ.
9. Sống khiêm nhường, chết khiêm nhường. Đức Mẹ xưa là thế. Đức Mẹ khuyên tôi hãy theo gương Mẹ.
10. Ngoài ra, Đức Mẹ còn khuyên tôi: Trong tâm tình cảm tạ Chúa và đền tạ Chúa, hãy tha thiết xin Chúa ban cho ơn được ở bên hữu Chúa trong ngày phán xét chung.
11. Theo Phúc Âm Thánh Mátthêu (Mt 25, 31). Sẽ có ngày phán xét chung. Kẻ lành được đứng bên hữu Chúa, còn kẻ dữ phải đứng bên tả Chúa. Kẻ lành là những ai đã cứu giúp những kẻ cùng khổ. Kẻ dữ là những ai đã từ chối cứu giúp những kẻ khổ đau.
12. Chúa thấy rõ cuộc sống từng người. Cuộc sống từng người dù dài dù vắn, sau cùng sẽ được xét xử công minh. Làm lành thì được thưởng, làm dữ thì bị phạt.
13. Được thưởng đời đời. Bị phạt cũng đời đời. Đó là điều Đức Mẹ và những người đã chết nói với tôi.
14. Điều sau cùng Đức Mẹ và những người đã chết đang nói với tôi là: Hãy sẵn sàng ra đi bất cứ lúc nào.
Tôi sẽ chết vào lúc nào, ở đâu, cách nào, thì chỉ Chúa biết mà thôi. Vì thế, tôi vâng lời Đức Mẹ mà luôn phó thác mình tôi cho Chúa.
15. Phó thác của tôi là
a) Luôn nhìn mình như vực sâu tội lỗi, yếu đuối, rất dễ sa ngã, rất dễ bất trung. b) Nhưng Chúa là Cha giàu lòng thương xót đã thương cứu tôi. Tôi đã được gặp Chúa Giêsu. Tôi đã được gặp Đức Mẹ. Tôi đã được gặp nhiều người tốt. c) Tôi tin: Nhiều người đã chết vẫn còn thương tôi, nói cho đúng, họ nay lại thương tôi hơn trước. d) Tôi cũng tin: Hội Thánh của tôi là một cộng đoàn tình thương bao la, vẫn luôn nâng đỡ tôi.
Do vậy, phó thác của tôi có hương thơm của Nước Trời. Các người đã chết đang gửi về tôi hương thơm êm dịu đó. Xin cảm ơn Đức Mẹ về hết thảy. Mẹ hẹn sẽ gặp tôi trên Nước Trời.
Càng về cuối đời, tôi càng cảm nhận rõ điều này: Tĩnh tâm là một nhu cầu và là một niềm vui Bùi-Tuần 2052
1. Càng về cuối đời, tôi càng cảm nhận rõ điều này: Tĩnh tâm là một nhu cầu và là một niềm vui.
Tôi cảm nhận sâu sắc tĩnh tâm là một niềm vui, vì lý do đặc biệt này, đó là được tĩnh tâm với Đức Mẹ Maria.
2. Đức Mẹ cho tôi thấy cuộc đời của tôi là một chuyến đi đầy gian nan trắc trở. Gian nan trắc trở nhất là tôi bị các thế lực vô hình và hữu hình lôi kéo tôi vào vòng nô lệ tội lỗi. Nộ lệ các thói xấu trong bản thân tôi. Nộ lệ các thói xấu trong Đạo ngoài Đời. Bị các thói xấu bắt làm nô lệ chúng, mà cứ tưởng mình tự do, thế mới thê thảm. Nhận ra sự thực thê thảm đó là bước đầu của đạo đức.
3. Bước thứ hai là nhận ra Đấng có thể cứu tôi khỏi sự thực thê thảm đó. Chính là Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu vốn đi tìm tôi, để cứu tôi. Nhưng rất nhiều khi tôi đã không đón nhận Ngài. Đức Mẹ cho tôi thấy như vậy.
4. Các thế lực thù địch chống Chúa Giêsu luôn dùng mọi cách để trói buộc tôi vào vòng nô lệ của chúng.
Làm nô lệ cho tội lỗi, mà cứ tự dối mình là có tự do nội tâm. Làm nô lệ cho tội lỗi, mà cứ ngụy biện để lừa người khác, cho mình là đạo đức. Làm nô lệ cho tội lỗi, mà cả đám cho mình trước Chúa là tiến dâng lên Chúa xác hồn trắng tinh như ánh trăng vẹn tuyền. Làm nô lệ cho tội lỗi, mà cứ tự hào về cảnh nô lệ đó, thì hậu quả sẽ khủng khiếp.
5. Đức Mẹ cho tôi thấy: không cần tôi chết rồi mới phải trói buộc mình vào hậu quả khủng khiếp đó, mà ngay ở đời này, cũng sẽ phải nếm sự khủng khiếp đó dưới nhiều hình thức.
6. Đức Mẹ cho tôi thấy cuộc đời của tôi là một cuộc chiến đấu cam go giữa đạo đức và tội lỗi. Để chiến thắng, tôi cần một điều, đó là gặp được Chúa Giêsu.
7. Phát triển các công trình về Chúa, như tổ chức ban bệ, xây dựng cơ sở, qui tụ đám đông, lễ nghi trang trọng, mà không gặp được chính Chúa Giêsu, thì vẫn thiếu quá nhiều, đúng hơn là thiếu tất cả.
8. Gặp được chính Chúa Giêsu, nữ tu Têrêsa thành Lisieux, cho dù ít tuổi, chỉ ở một chỗ, chỉ làm ít việc, thế mà đã ảnh hưởng rất lớn trên khắp hoàn cầu.
9. Gặp được chính Chúa Giêsu, Đức Bênêđictô XVI, cho dù về hưu, cho dù đau bệnh, chỉ ở một chỗ, chỉ làm ít việc, thế mà đang ảnh hưởng rất lớn trên khắp hoàn cầu.
10. Gặp được chính Chúa Giêsu, như Đức Mẹ.
Khi Đức Mẹ dẫn tôi tới Chúa Giêsu, tôi thấy Chúa Giêsu đã cứu tôi bằng nhiều cách. Cách nhẹ nhàng nhất và cũng thân thương nhất, là Chúa cho tôi nhận thức tôi là kẻ tội lỗi, là kẻ yếu đuối, là vực sâu đầy dơ bẩn. Thế mà tôi được Chúa yêu thương. Chúa đến không phải để phạt tôi, mà để cứu tôi. Chúa là Đấng cứu độ giàu lòng thương xót.
11. Khi được Đức Mẹ giúp tôi tĩnh tâm, tôi thấy cảnh Chúa Giêsu xưa nhìn thành Giêrusalem mà khóc, vì Ngài biết trước thành sẽ bị phá. “Sẽ không để hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết thời giờ ngươi được Chúa viếng thăm.” (Lc 19, 43- 44)
12. Cảnh Chúa khóc xưa có thể nay lại tái diễn ở một Hội Thánh địa phương nào đó, biết đâu ở chính địa phương mà tôi đang ở. Vì thế, mà tôi lo.
Tôi lo để sám hối, đê cầu nguyện và tỉnh thức.
13. Lúc này hơn bao giờ hết, Đức Mẹ khuyên tôi hãy cầu nguyện và tỉnh thức bởi vì sẽ có những bất ngờ khủng khiếp xảy ra. Lời Chúa phán xưa vẫn còn đó: “Anh em hãy luôn tỉnh thức và cầu nguyện, để có sức thoát khỏi những gì sẽ xảy đến, và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21, 36)
14. “Lạy Mẹ Maria Mẹ Thiên Chúa Mẹ đồng trinh, đoàn con chung tiếng hát chung tấm lòng dâng đời sống. Lạy Mẹ Maria Mẹ nhân ái Mẹ hiển vinh, Mẹ chính là Nữ Vương là trạng sư, là Mẹ con
Con dâng Mẹ đây tâm hồn đây trí khôn, cả dĩ vãng cả hiên tại với tương lai. Đức thiện toàn con cương quyết gắng đi tới, trông lên Mẹ là gương mẫu của đời con.
Yêu thanh bình yêu vâng lời, yêu khiết trinh, và yêu sống trên con đường Chúa đi xưa, Xứng con Mẹ con vui bước tới Thiên Chúa, hy sinh nhiều vì bác ái quên lợi danh.
Con nguyện cầu, con trung thành, con quyết tâm, Mẹ nhận lấy cả tâm hồn kính dâng lên. Sống bên Mẹ muôn ơn thánh giúp con tiến. Xin che chở giờ sau sau hết qua trần gian.” ( Dâng Mẹ).
Càng về cuối đời, tôi càng khao khát sự bình an, mà Chúa hứa. Tôi dâng sự khao khát đó cho Bùi-Tuần 2053
1. Càng về cuối đời, tôi càng khao khát sự bình an, mà Chúa hứa. Tôi dâng sự khao khát đó cho Đức Mẹ.
Đức Mẹ dạy tôi: Muốn được sự bình an của Chúa, thì hãy nhìn những người khác bằng Trái tim Chúa Giêsu giàu lòng thương xót.
2. Để dễ hiểu, Đức Mẹ khuyên tôi hãy nhìn vào chính bản thân tôi, xem Trái tim Chúa Giêsu thương xót tôi thế nào.
Tôi nhìn vào bản thân tôi, thì thấy Chúa Giêsu thương tôi là để cứu tôi. Thương là giải cứu, thương là cứu độ.
3. Chúa cứu bằng yêu thương và khiêm nhường của Chúa.
Chúa cứu bằng tấm lòng nhân hậu băng bó những vết thương riêng tư sâu thẳm của tôi.
4. Khi tôi thấy Chúa cúi mình xuống lau rửa những vết thương riêng tư của tôi, tôi rất cảm động. Tôi thấy sự bình an Chúa ban tặng cho tôi được gửi gắm trong những việc yêu thương và khiêm nhường của Chúa.
5. Yêu thương và khiêm nhường của Chúa dành cho tôi không là một lý thuyết, nhưng là một thực tại, mà tôi như chạm vào được, mà tôi như nếm được hương vị ngọt ngào.
6. Yêu thương và khiêm nhường của Chúa dành cho tôi chủ yếu là cứu tôi, không ồn ào mà rất lặng lẽ.
7. Có những ngày dài, một mình chống chọi với đủ mọi thứ đau, thì Chúa âm thầm ở bên tôi, để an ủi tôi, để cho tôi thấy, cho dù mọi người xem như xa tránh tôi, thì Chúa vẫn một mực là Đấng cứu độ tôi, là Tin Mừng của tôi.
8. Có những đêm dài, mệt mỏi trước những sợ hãi, mà Satan cố tình gây nên để khống chế tôi, thì Chúa vẫn lặng lẽ ở bên tôi, để ban cho tôi niềm tin: Chúa chính là sự sống và là sự sống lại của tôi.
9. Thế rồi Mẹ dạy tôi: “Những gì Chúa đã ban cho con, thì con hãy làm cho người khác”. Tức là tôi hãy nhìn họ bằng đôi mắt của Trái tim Chúa giàu lòng thương xót.
10. Điều Đức Mẹ khuyên tôi là rất hợp lý, là một chân lý cứu độ, nhưng lại rất khó thực hiện. Cái khó không phải ở phía người ta, mà ở phía tôi. Tôi vẫn mang trong mình đủ mọi tính hư nết xấu. Đặc biệt là trái tim của tôi có thể đã trở nên chai đá, đã trở thành ximăng hóa, đã trở nên dửng dưng trước những khổ đau của người khác.
11. Hiện tượng đó đang là nguy cơ khủng khiếp trong Hội Thánh.
Rất may là nhờ Đức Mẹ, nhiều tấm lòng đang được ơn đổi mới. Đổi mới ở chỗ biết cầu nguyện và tỉnh thức.
12. Thực tình mà nói: Hầu hết chúng ta chưa biết cầu nguyện, chưa biết tỉnh thức.
Lúc này hơn bao giờ hết, chúng ta cần xin Đức Mẹ giúp chúng ta biết cầu nguyện và biết tỉnh thức. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta vẫn cầu nguyện theo cung cách người Pharisêu đã cầu nguyện trước bàn thờ, mà bị Chúa kết án.
13. Cầu nguyện mà kể công, mà coi mình đạo đức hơn kẻ khác, thì không là cầu nguyện, mà là tự nộp mình cho quỷ dữ Satan.
14. Cầu nguyện là gặp gỡ Chúa Giêsu, yêu thương và khiêm nhường. Cầu nguyện là ở lại với Chúa Giêsu, xin vâng phục ý Chúa Cha. Cầu nguyện là sống mật thiết với Chúa Giêsu, như cành nho với thân nho.
15. Tỉnh thức là biết đau cái đau của Chúa lúc này, tại đây.
Tỉnh thức là biết khổ cái khổ của đồng bào tại đây, lúc này.
Tỉnh thức là nếu không làm được cho người khác khỏi khổ, thì ít là đừng làm cho ai phải khổ thêm do mình gây nên.
Tỉnh thức là sống thực thân phận tội lỗi, yếu đuối của mình, chỉ tin cây nơi Chúa giàu lòng thương xót, chứ không để mình trở thành công cụ của Satan, chỉ lo biểu diễn và vơ vét danh vọng hão huyền.
Tỉnh thức là khiêm tốn tuyên xưng chúng ta cần Chúa, chứ không phải là Chúa cần chúng ta.
16. Lúc này hơn bao giờ hết, chúng ta rất cần tỉnh thức dưới sự hướng dẫn của Đức Mẹ. Đức Mẹ là đền thờ của Chúa Thánh Thần, Mẹ sẽ chia sẻ cho chúng ta sự khôn ngoan của Chúa Thánh Thần, để biết sống đẹp lòng Chúa trong tình hình rất phức tạp hiện nay.
17. Trong tinh thần tỉnh thức và cầu nguyện, tôi hay nhìn lên Chúa, mà thầm nói với Chúa bằng bài ca quen thuộc sau đây:
“Giữ gìn con Chúa ơi, Vì Chúa là chốn con tựa nương tháng năm. Trong cánh tay Người hồn con vui sống, Tình yêu Chúa khoan dung bền vững muôn đời.”
Mấy ngày gần đây, Đức Mẹ hối thúc tôi với mấy lời vắn tắt như sau: “Tình hình đang diễn biến Bùi-Tuần 2054
1. Mấy ngày gần đây, Đức Mẹ hối thúc tôi với mấy lời vắn tắt như sau: “Tình hình đang diễn biến rất phức tạp. Sẽ có những bất ngờ đau đớn. Để cứu mình và cứu người khác, con hãy xin Chúa ban cho con biết sống ơn phó thác.”
2. Tôi đón nhận nội dung nhắn nhủ của Đức Mẹ với tâm tình cảm tạ. Đức Mẹ giúp tôi hiểu: “Sống phó thác là một ơn Chúa ban. Ơn đó rất cần cho chúng ta lúc này.”
3. Nhận thức trên đây là một sứ điệp. Sứ điệp này giúp tôi hồi tâm. Tôi xin Đức Mẹ giúp tôi lui mình vào thinh lặng, để tĩnh tâm với đề tài: “Sống ơn phó thác”.
4. Đức Mẹ cho tôi thấy: Nhiều người đạo đức đã có những phó thác sai lầm. Họ cầu nguyện nhiều. Họ nhân danh Chúa mà làm phép lạ, mà nói tiên tri, mà trừ được quỉ. Nhưng họ làm theo ý riêng, không theo ý Chúa, rồi phó thác cho Chúa. Nên họ bị Chúa xua đuổi. Chúa Giêsu quả quyết như vậy trong Phúc âm Thánh Mátthêu (Mt 7, 21- 23).
5. Rất có thể, tôi cũng đã nhân danh Chúa mà làm nhiều việc coi như đạo đức, rồi cũng với nhận thức sai lầm, tôi cũng đã phó thác vào Chúa.
6. Tôi xin Chúa thương tha tội cho tôi. Điều quan trọng Mẹ dạy tôi là: Nếu thấy sai thì ráng sửa. Đừng cố chấp.
Đem cái cố chấp của mình phó thác cho Chúa, thì sẽ là một thách thức ghê tởm đối với Chúa.
7. Phó thác là một ơn Chúa ban. Chúa chỉ ban ơn đó cho những ai khiêm nhường.
Đức Mẹ đã được ơn sống phó thác, vì Đức Mẹ rất khiêm nhường. Thánh Giuse đã được ơn sống phó thác, vì Ngài rất khiêm nhường.
Khiêm nhường của Đức Mẹ và của thánh Giuse là luôn đặt mình dưới cái nhìn của Chúa, từng giờ, từng phút, để xin vâng ý Chúa.
8. Đức Mẹ xin vâng ý Chúa, chứ không hề bao giờ vận động hoặc xin được làm Mẹ Đấng Cứu Thế.
Thánh Giuse xin vâng ý Chúa, chứ không hề bao giờ vận động hoặc xin được làm Cha nuôi Chúa Giêsu.
9. Nếu tôi không bắt chước gương Đức Mẹ và thánh Giuse, mà cứ vận động hoặc tự hào vì chức nọ quyền kia, vì danh hiệu này danh tiếng nọ, rồi phó thác những thứ đó cho Chúa, thì sẽ không là phó thác, mà là xúc phạm.
10. Đức Mẹ dạy tôi: Phó thác là một ơn Chúa ban, tôi phải biết đón nhận, phải biết cộng tác với ơn Chúa ban.
11. Tôi hay đọc Kinh Phó thác mình của chị thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu. Và tôi thấy bình an.
12. Tôi hay đọc Kinh Phó thác mình của anh Charles de Foucauld. Và tôi thấy tâm hồn nhẹ nhàng.
13. Đức Mẹ dạy tôi hãy cùng với Đức Mẹ phó thác mình cho Chúa theo gương Chúa Giêsu ở vườn cây Dầu và trên cây Thánh Giá.
“Cha ơi, nếu có thể, xin cho con khỏi uống chén đắng này. Nhưng xin đừng theo ý con, chỉ xin theo ý Cha mà thôi”. (Mc 14, 36)
“Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha”. (Lc 23, 46)
14. Chúa Giêsu đã phó thác như vậy trong cơn đau đớn. Tôi cũng nhờ Đức Mẹ mà phó thác tôi cho Chúa trong những cơn đau khổ.
Phó thác mình trong những hoàn cảnh khổ đau, đó là việc làm tôi đang thực hiện, đó là việc làm nhiều người đang cố gắng.
15. Phó thác đâu phải việc dễ. Vì thế, tôi vâng ý Đức Mẹ, mà cầu xin hằng ngày cho tôi và những người thân của tôi được sống ơn phó thác, nhất là trong những tình hình đầy bất ngờ hãi hùng khủng khiếp.
16. Khi tôi tĩnh tâm với Đức Mẹ tập trung vào đề tài sống ơn phó thác, tôi cảm nhận được thêm điều này, đó là rất nhiều người trong Hội Thánh Việt Nam đang sống ơn phó thác một cách sốt sắng.
17. Họ sống ơn phó thác dưới nhiều hình thức khác nhau. Tôi học được rất nhiều điều nơi họ. Cách riêng, họ nêu gương sáng cho tôi về sự sống phó thác trong âm thầm lặng lẽ.
18. Sống ơn phó thác trong âm thầm lặng lẽ, ở các tu viện, ở các bệnh viện, ở mọi ngả đường của cuộc sống hôm nay.
Sống ơn phó thác trong âm thầm lặng lẽ, mà vẫn tỏa ra hương thơm của Nước Trời.
19. Nước Trời đang âm thầm phát triển tại Quê hương Việt Nam yêu dấu của tôi, qua những nhóm người đang sống ơn phó thác.
20. Giờ đây, tôi cảm thấy thấm thía: Sống ơn phó thác là một món quà quý giá Chúa ban.
Người già rất cần đến ơn đó. Người trẻ cũng rất cần đến ơn đó do thiếu kinh nghiệm. Bởi vì, cuộc sống là một chuyến đi về cõi đời sau. Chuyến đi rất vất vả, đầy gian nan trắc trở. Chỉ bám chặt vào Chúa là Cha bằng tinh thần phó thác, thì chúng ta, dù trẻ, dù già, dù ở bậc nào, mới được bình an hạnh phúc.
21. Nếu cần để lại một lời trối trăng cuối cùng, thì tôi xin nói: Hãy cùng với Đức Mẹ cầu xin Chúa ban cho ơn sống phó thác như Chúa Giêsu đã nêu gương.
Tôi có rất nhiều sai lầm. Đức Mẹ đã giúp tôi sửa sai chính mình tôi. Ở đây, tôi chỉ xin chia sẻ Bùi-Tuần 2055
1.
Tôi có rất nhiều sai lầm. Đức Mẹ đã giúp tôi sửa sai chính mình tôi. Ở đây, tôi chỉ xin chia sẻ về mấy sai lầm lớn, mà Đức Mẹ đã giúp tôi sửa.
2. Sai lầm lớn thứ nhất là cái nhìn của tôi về Chúa đối với tôi.
Rất nhiều lần, tôi tưởng tôi là kẻ quá tội lỗi, nên bị Chúa ruồng bỏ.
Chính những lúc đó, Đức Mẹ ôm lấy tôi mà nói: “Con tưởng như thế là sai. Chúa vẫn thương xót con.”
Thế rồi, Đức Mẹ cho tôi nhận ra Chúa đã xót thương tôi thế nào. Chúa đã đi tìm tôi, để cứu tôi, để tha thứ cho tôi, để chữa lành tôi, để an ủi tôi, để nâng đỡ tôi.
3. Chúa đã xót thương tôi như thế. Thế mà tôi cứ tưởng Chúa ruồng bỏ tôi. Đó là sai lầm lớn.
Nhờ Đức Mẹ, tôi nhận ra sai lầm lớn đó. Tôi sửa sai bằng sám hối, bằng yêu mến Chúa hết lòng, bằng tín thác tuyệt đối vào Chúa.
4. Tôi biết mình rất yếu đuối, điều tôi sai lầm lúc trước và đang sám hối sửa lại lúc này, có thể lại tái phạm trong tương lai. Nên tôi tha thiết xin Đức Mẹ giúp.
5. Đức Mẹ đã thương giúp tôi luôn biết bắt đầu lại. Đối với tôi, mỗi ngày là một khởi đầu mới. Tôi xin Mẹ giúp tôi vững tin vào Chúa. Và đúng là Đức Mẹ đã giúp tôi. Bởi vì rất nhiều lúc, tôi nghe rất rõ tiếng quỉ Satan nói vào tai tôi rằng: “Mày bị Chúa ruồng bỏ rồi”. Hoặc: “Không có Chúa”.
Những gì tôi vừa nói trên đây là đúng sự thực. Sự thực đó khiến tôi khiêm nhường coi sự sửa sai cái nhìn của mình về Chúa đâu phải là việc dễ.
6. Chúa là Tình yêu giàu lòng thương xót, vô cùng vô tận. Tại sao tôi là kẻ tội lỗi lại dám đặt ranh giới cho Tình yêu đó. Nhất là lại coi ranh giới đó là chính tôi.
7. Do vậy, sửa sai cái sai lầm về Tình yêu Chúa đối với tôi là điều tôi phải xin Đức Mẹ giúp mỗi ngày. Nếu không, cái nhìn sai lầm về cái nhìn của Chúa đối với tôi sẽ gây hại vô cùng cho tôi.
8. Một sai lầm nữa, tôi cần nhờ Đức Mẹ sửa sai giúp tôi. Đó là cái nhìn sai lầm của tôi về những người khác.
Thực vậy, tôi đã có nhiều sai lầm về những người khác.
Có thể tôi đã có cái nhìn loại trừ dành cho người này người nọ. Loại trừ không do ác cảm, mà đôi khi dựa vào đạo đức.
9. Rất nhiều lần, tôi cứ tưởng người này người nọ là những kẻ quá xấu, nên đáng phải loại trừ.
Chính những lúc đó, Đức Mẹ ôm lấy tôi và nói: “Con tưởng như thế là sai. Con không thương họ. Nhưng Chúa vẫn thương họ.”
Thế rồi, Đức Mẹ giúp tôi nhận ra sự Chúa xót thương họ thế nào: Chúa xót thương họ, Chúa đi tìm họ, để cứu họ, để tha thứ cho họ, để chữa lành cho họ.
10. Nhờ ơn Đức Mẹ, tôi dần dần nhận ra: Chính tôi rất cần được sửa sai về cái nhìn đối với những người khác.
11. Sai lần về cái nhìn đối với những người khác sẽ kéo tôi vào hình phạt Chúa dành cho những ai đoán xét sai lầm. Do vậy, Đức Mẹ khuyên tôi phải hết sức tỉnh thức.
Nếu đoán xét xấu cho những người khác đã trở thành thói quen, thì phải hết sức sửa sai chính mình.
12. Còn một thứ sai lầm nữa Đức Mẹ cũng dạy tôi phải hết sức tránh, đó là chớ bao giờ sửa đúng thành sai, rồi cứ cho là đúng.
Đây là một hiện tượng có thực xảy ra một cách thê thảm. Người ta đang làm đúng, thì ai đó đến bảo phải làm khác đi, để rồi kết quả là đang đúng lại thành sai.
13. Đang đúng lại thành sai, nếu việc đó lại do những người có quyền chức chủ xướng, thì thiệt hại sẽ khôn lường.
14. Tới đây, tôi cảm thấy bản thân tôi đang trở thành một căn nhà nhỏ tồi tàn cần phải sửa.
Điều kiện rất cần để sửa là tôi phải có tinh thần nghèo khó: “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.” (Mt 5,3). Đức Mẹ dạy tôi như vậy.
15. Nếu lúc này, tôi tự hào vì Giáo Phận mình đang sở hữu nhiều của cải, nào là cơ sở vật chất, vừa nhiều, vừa rộng, nào là các tổ chức vừa hoành tráng, vừa màu sắc, nào là nhân sự vừa đông, vừa tài giỏi, vừa đạo đức, thì tôi sẽ không còn khó nghèo như Chúa muốn. Thấy mình quá đẹp quá đủ rồi, thì còn gì đâu phải sửa.
Do vậy, mà trong vấn đề sửa sai chính mình, tôi rất cần vâng ý Đức Mẹ, mà sống tinh thần nghèo khó.
16. Để giúp tôi sống tinh thần nghèo khó, Đức Mẹ khuyên tôi hãy cầu nguyện và tỉnh thức, để biết đón nhận những gương sáng về sửa sai chính mình đáng xuất hiện xung quanh tôi. Những gương sáng đó đang sáng lên trong Hội Thánh và ngoài Hội Thánh. Chúa Thánh Thần đang hoạt động trong họ.
Những ngày này, giáo phận Long Xuyên khắp nơi đang nô nức chung vui với kỷ niệm 60 năm Bùi-Tuần 2056
1. Những ngày này, giáo phận Long Xuyên khắp nơi đang nô nức chung vui với kỷ niệm 60 năm thành lập giáo phận, dưới sự hướng dẫn tinh vi của Đức Cha Giuse Trần Văn Toản, Giám mục Chánh Tòa.
2. Trong bầu khí thiêng liêng đó, tôi cảm thấy mình rất bé nhỏ. Tôi nhìn lên Đức Mẹ. Đức Mẹ hiểu tôi. Đức Mẹ an ủi tôi bằng gợi ý thầm lặng sau đây: “Mẹ sẽ giúp con sống tâm tình cảm tạ.”
3. Đức Mẹ nhẹ nhàng đưa tâm hồn tôi tập trung vào “ơn tôi được gặp Đức Kitô”. Thực vậy, trên đất giáo phận Long Xuyên này, tôi đã được gặp Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đến với tôi dưới hình ảnh Đấng Cứu thế đầy yêu thương và khiêm nhường.
4. Ngài đến với tôi thường xuyên, nhất là qua thánh lễ, qua các giờ suy gẫm, qua các giờ cầu nguyện.
5. Ngài cũng đến với tôi khắp nơi qua những con người tỏa sáng yêu thương và khiêm nhường.
Hoặc trực tiếp gặp Ngài, hoặc gián tiếp được gặp Ngài qua các dấu chỉ, tôi đều thấy yêu thương của Ngài là cứu tôi, khiêm nhường của Ngài là cúi xuống lau rửa cho tôi.
6. Thực sự, trong giáo phận Long Xuyên này, Chúa đã cứu tôi khỏi biết bao nguy hiểm phần hồn, phần xác. Trong giáo phận Long xuyên này, Ngài đã lau rửa cho tôi khỏi bao thất vọng, khỏi bao nỗi buồn.
7. Với những ơn đã được, tôi có cảm tưởng là tôi được sai đến với những người tại địa phương này, là để được họ ấp ủ và chở che.
Tôi cảm tạ Chúa và tất nhiên cũng cảm ơn địa phương dễ thương này.
8. Với cái nhìn như thế, tôi coi tôi là kẻ được Chúa sai đi, không phải như kẻ đi ban ơn, mà như kẻ đi nhận ơn của Chúa, qua dòng lịch sử cứu độ Chúa thực hiện ở nơi đó.
9. Thực tế cho tôi thấy điều này: Trước khi tôi đến đây, Chúa đã hoạt động ở đây lâu rồi. Nhiều ngươi đã sống đạo đức, mà đâu cần phải đợi chờ nơi tôi.
Tôi khám phá thấy Tin Mừng Chúa ban cho biết bao người tại đây, một cách lạ lùng, quá sức tôi tưởng tượng. Khám phá đó khiến tôi trở nên khiêm nhường, biết cảm tạ ngợi khen Chúa, về muôn ơn Chúa đã làm nơi biết bao người xung quanh tôi.
10. Tôi mừng 60 năm thành lập giáo phận Long Xuyên với tâm tình cảm tạ Chúa.
Cũng cảm ơn các tôn giáo và chính quyền tại địa phương này đã bao dung đón nhận tôi.
Tôi cũng cảm ơn dân chúng mọi tầng lớp đã mở rộng tấm lòng, để chia sẻ vui buồn với tôi.
11. Ấn tượng sâu sắc nhất trong tôi được nhận từ địa phương này là cuộc sống nặng về tình nghĩa.
Nếu thực sự sống có tình có nghĩa, thì đâu có xa Tin Mừng của Chúa Giêsu.
12. Mà tình nghĩa thì đâu phải một thứ cần phải biểu diễn. Tình nghĩa càng thầm lặng càng quý giá. Tình nghĩa càng tự nguyện càng thiêng liêng. Tình nghĩa thì hồn nhiên.
13. Cùng với tâm tình cảm ơn, tôi cũng gửi lên Chúa, gửi tới giáo phận Long Xuyên, cũng như tới địa phương yêu dấu này lời tôi xin lỗi.
Tôi đã có những lỗi lầm về nhiều lĩnh vực. Tôi thực tình xin lỗi. Tôi chắc chắn được đón nhận ơn tha thứ.
14. Có thể nói: Tôi thuộc về giáo phận Long Xuyên ngay từ những ngày đầu thành lập giáo phận. Vì thế, sự gắn bó của tôi với giáo phận được kể là vừa có bề dài, vừa có bề sâu.
15. Nếu cần nói về thành tích, thì thành tích của tôi chỉ là gắn bó chân thành. 16. Đức Mẹ giúp tôi gắn bó chân thành, coi sự gắn bó chân thành đó là một bài ca cảm tạ nhờ Mẹ với Mẹ.
17. Nếu tỉnh thức và cầu nguyện, chúng ta sẽ được Đức Mẹ cho thấy hiện nay đang có những sống ngầm âm mưu tách rời các môn đệ Chúa:
- Ra khỏi Chúa Kitô, - Ra khỏi Hội thánh của Người, - Ra khỏi trách nhiệm cốt yếu của mình, - Ra khỏi khối đại đoàn kết dân tộc.
Tách rời, chứ không gắn bó, là nguy cơ rất lớn hiện nay.
18. Vì thế mà, trong tâm tình cảm tạ Chúa, chúng ta đừng quên cầu xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta ơn mà Chúa Giêsu đã nêu lên trong bữa tiệc ly: “Thầy là cây nho, các con là cành nho. Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở trong kẻ ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái”. (Ga 15,5)
19. Gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu, đó là gắn bó nền tảng, để từ đó chúng ta biết gắn bó với các đối tượng cần gắn bó. Đó cũng là tâm tình cảm tạ, mà Đức Mẹ nhắc nhở cho tôi.
Tôi sắp ra đi. Hồn trở về với Chúa. Xác trở về với tro bụi. Trước khi giờ phút đó tới, tôi xin Bùi-Tuần 2057
1. Tôi sắp ra đi. Hồn trở về với Chúa. Xác trở về với tro bụi.
Trước khi giờ phút đó tới, tôi xin tuyên xưng một điều tôi cho là rất quan trọng và rất tha thiết đối với tôi, đó là: Suốt đời tôi, Đức Mẹ Maria luôn là người Mẹ yêu dấu của tôi. Nhờ vậy, cuộc sống của tôi được vui, được hy vọng và được bình an, hạnh phúc.
2. Thực vậy, cuộc sống của tôi là một chuyến đi. Chuyến đi này đầy gian nan trắc trở, có nhiều bất ngờ khủng khiếp.
Rất may là trong suốt chuyến đi đó, tôi có Đức Mẹ ở bên.
Đức Mẹ ở bên tôi, như người Mẹ yêu dấu.
3. Sự hiện diện của Đức Mẹ được tôi đón nhận không chỉ bằng đức tin, mà còn bằng sự cảm nhận thiêng liêng tràn qua thân xác.
4. Khi gặp những quãng thời gian trắc trở, đường thì nhỏ hẹp, dưới chân là vực thẳm, thì Đức Mẹ xuất hiện, như một bàn tay ôm lấy tôi, để cứu tôi. Mẹ vừa cứu, vừa an ủi.
5. Chuyến đi đã khá dài. Trắc trở gian nan thì vừa nhiều, vừa đe dọa. Nhưng nhờ có Mẹ ở bên, tôi nay được vững tin vào Chúa.
6. Cuộc sống của tôi cũng là một chiến trường. Chiến trường này đầy những chiến đấu cam go giữa thiện và ác trong tôi. Phía thiện có nhiều thiên thần giúp đỡ. Phía ác có nhiều thần dữ tấn công.
Cuộc chiến không ngơi nghỉ. Cuộc chiến dưới nhiều hình thức.
7. Dù cuộc chiến xảy ra dưới hình thức nào, tôi vẫn cảm thấy có Đức Mẹ ở bên tôi.
Mẹ giúp tôi cầu nguyện và tỉnh thức. Mẹ luôn nhắc bảo tôi: trên chiến trường mà ngây thơ, thì sẽ thảm bại. Hãy tìm sức mạnh và sự khôn ngoan nơi Chúa.
8. Cầu nguyện và tỉnh thức trên chiến trường cuộc sống. Điều quan trọng đó đã không được tôi thực hiện theo ý Đức Mẹ. Vì thế, tôi đã có nhiều lần nếm mùi thảm bại.
9. Đức Mẹ ở bên tôi, đã giúp tôi sám hối.
Thất bại trên chiến trường cuộc sống nhiều khi đã trở thành bài học cho tôi. Cũng nhờ Đức Mẹ.
10. Cuộc sống của tôi là một trường học.
Khi tôi nhìn cuộc sống của tôi là một trường học, thì điều quan trọng nhất mà Chúa soi sáng cho tôi là hãy tìm cho mình một nhà giáo tốt. Nhà giáo tốt mà Chúa chỉ cho tôi là Đức Mẹ Maria.
11. Đức Mẹ, khi ở bên tôi như một nhà giáo trong cuộc sống là một trường học, thì Mẹ chỉ nhắc đi nhắc lại cho tôi: “Hãy vâng phục thánh ý Chúa.”
12. Mà để biết đâu là thánh ý Chúa, thì phải có ơn biết phân định, dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần.
13. Biết phân định đâu là thánh ý Chúa, đó là điều rất cần cho tôi, nhất là lúc này. Bởi vì hiện giờ đang bùng nổ phong trào đạo đức, phong trào nên thánh, phong trào làm sáng danh Chúa, một cách tưng bừng đến chóng mặt.
14. Riêng đối với tôi, nhiều phong trào đó đã và đang làm cho tôi sợ hãi. Tôi sợ, nếu không tỉnh thức, thì không chừng có những phong trào tự xưng là đạo đức, lại phá đạo đức.
Đức Mẹ cho tôi biết: Sợ hãi đó nơi tôi cũng chính là điều lo ngại của Đức Mẹ.
Với cái nhìn trên đây, tôi thấy cuộc sống như một trường học rất cần đến Đức Mẹ.
15. Riêng đối với tôi, Đức Mẹ là nhà giáo tuyệt vời.
Đức Mẹ dạy tôi từ thẳm sâu tâm hồn tôi, từng tư tưởng, từng tình cảm, từng ước muốn, từng thao thức.
Đức Mẹ dạy tôi trong chính lương tâm tôi, từ ý thức, đến tiềm thức, đến vô thức.
16. Nhiều lúc Đức Mẹ nâng niu những niềm vui nhỏ trong tôi một cách nhẹ nhàng kín đáo, khiến tôi trở thành đứa con bé nhỏ tự nhiên bám chặt lấy Mẹ. Đức Mẹ còn lo cho tôi những gì là rất riêng tư, khiến tôi hết sức cảm động.
17. Đức Mẹ là Mẹ yêu dấu của tôi: Trong cuộc sống là một chuyến đi, Trong cuộc sống là một chiến trường, Trong cuộc sống là một trường học. Đức Mẹ là Mẹ của tôi, là Mẹ yêu dấu của tôi.
18. Nhờ vậy, mà tôi nhìn mọi người đều là anh chị em. Nhờ vậy, mà tôi nhìn Hội Thánh là một gia đình bác ái. Nhờ vậy, mà tôi nhìn Tổ quốc là một cộng đồng tình thương.
19. Xin hết lòng cảm tạ Chúa đã thương cho tôi được ơn làm con của Đức Mẹ, được gọi Đức Mẹ là “ Mẹ yêu dấu của con.”
Lúc này hơn bao giờ hết, tôi khao khát sự bình an một cách mãnh liệt. Tôi tha thiết gửi gắm điều Bùi-Tuần 2058
1. Lúc này hơn bao giờ hết, tôi khao khát sự bình an một cách mãnh liệt. Tôi tha thiết gửi gắm điều khao khát đó cho Đức Mẹ. Tôi hỏi Mẹ phải làm gì để được bình an.
2. Đức Mẹ dẫn tôi tới Chúa Giêsu. Với thái độ âu yếm, Chúa Giêsu nhắc lại cho tôi nhớ lời Ngài đã phán xưa: “Tất cả những ai đang vất vả gồng gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi. Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.” (Mt 11,28)
3. Tôi cảm tạ Chúa. Tôi xin trao cho Chúa gánh nặng của tôi. Gánh nặng của tôi lúc này là những cơn đau, là những lo buồn, là những mặc cảm, là những tội lỗi, là những thất vọng.
Gánh nặng của tôi là đủ thứ bất an, đè trên lương tâm tôi.
4. Chúa bình tĩnh nhận hết tất cả gánh nặng của tôi, mà không một lời trách mắng, trái lại Chúa còn an ủi.
5. Thế là tôi được nhẹ nhàng. Tôi cảm thấy một sự bình an lạ lùng từ trái tim Chúa chảy vào hồn tôi, như một dòng nước mát, để rửa hồn tôi.
6. Tự nhiên, tôi hiểu: Bình an là một ơn quí giá Chúa trao ban. Muốn được ơn đó, người ta phải khao khát, phải đến với Chúa, phải tin vào Chúa.
7. Nhận thức như vậy, nên khi cần đến bình an, tôi ít còn lo tính này nọ, hoạch định chương trình thế này thế kia, nhưng cần tĩnh tâm nhờ Mẹ chạy lại với Chúa Giêsu.
Khi cái tâm của tôi tĩnh lặng, tập trung vào Chúa Giêsu, khiêm tốn trao cho Ngài gánh nặng của tôi, thì tôi cảm nhận được rằng: Bình an là chính Chúa Giêsu.
8. Muốn có bình an, tôi cần gặp Chúa Giêsu, cần ở lại bên Chúa Giêsu, cần đón nhận Chúa Giêsu vào lòng tôi.
Lúc đó, tôi sống, mà không phải tôi sống, nhưng là Chúa Giêsu sống trong tôi.
9. Lúc đó, tôi cần tĩnh lặng. Ồn ào sẽ không gặp được Chúa. Mà, nếu không gặp được Chúa, thì tất nhiên sẽ không nhận được ơn bình an.
10. Satan biết rõ điều đó. Nên Satan và đoàn lũ ác quỉ đang tìm mọi cách ngăn cản chúng ta gặp Chúa Giêsu, mà chỉ lo gặp nhau và lo có những lễ ồn ào hoành tráng bề ngoài, rồi tự lừa dối mình và lừa dối nhau là đã gặp gỡ Chúa Giêsu. Thế là càng xa bình an, càng để mình rơi xuống vực sâu.
11. Khi được gặp Chúa Giêsu, Chúa Giêsu còn nhắc lại cho tôi nhớ lời Ngài đã nói với chị Mácta: “Mácta! Mácta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.” (Lc 10,42).
Chúa Giêsu nhắc lại cho tôi lời đó. Tôi hiểu là muốn có bình an của Chúa, thì đừng để lòng mình bận rộn quá nhiều. Chỉ có một sự cần, để được bình an, đó là gặp Đức Kitô.
12. Bận rộn quá nhiều, đó là một thứ hình thức đạo đức giả rất phổ biến hiện nay.
Tự ôm vào mình những việc không thuộc bổn phận của mình, rồi tự cho là dấn thân vì Chúa, nhưng thực chất chỉ là tính hiếu động.
Tự vẽ ra nhiều chương trình nói là để đổi mới, nhực thực chất chỉ là vì nội tâm mình trống rỗng, nên cần che sự trống rỗng đó bằng đủ thứ phô trương hão huyền.
13. “Chỉ có một sự cần.” Chúa Giêsu nhấn mạnh cho tôi lời khuyên đó. Nhưng nhiều khi tôi đã không thực hiện đúng và đủ lời khuyên đó. Vì thế, mà tôi không có sự bình an.
14. Bình an, bình an, đây là quà Noel, đây là sinh hoạt Mùa Vọng, đây là lời chúc năm mới.
Vì thế, lúc này hơn bao giờ hết, tôi xin Đức Mẹ giúp tôi được bình an.
15. Tới đây, Đức Mẹ khuyên tôi thêm điều này: “Muốn có bình an, hãy noi gương Mẹ, mà luôn vâng phục thánh ý Chúa.” (Lc 1,38)
Chúa Giêsu cũng khuyên tôi thêm điều đó. Chính Ngài đã thưa với Đức Chúa Cha: “Xin đừng theo ý con, chỉ xin theo ý Cha mà thôi.” (Mc 14, 36)
Vâng phục thánh ý Chúa trong tín thác vào Thiên Chúa giàu lòng thương xót, đó là tâm thức của tôi lúc này đang rất thao thức về bình an.
16. Thao thức, nên tỉnh thức và cầu nguyện, đó là cuộc sống hiện giờ của tôi. Chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau nhiều, vì tương lai đầy những bất an, bất ổn, bất bình. Chỉ Chúa mới cứu được chúng ta.
Mấy ngày nay, Đức Mẹ tha thiết dạy tôi điều này: “Thấy trước là đạo đức, Thấy trước là Bùi-Tuần 2059
1. Mấy ngày nay, Đức Mẹ tha thiết dạy tôi điều này:
“Thấy trước là đạo đức, Thấy trước là khôn ngoan, Thấy trước là cứu mình và cứu người khác.”
2. Hãy thấy trước những cái được và cái mất.
Chúa phán: “Nếu người ta được cả thế gian, mà phải thiệt mất linh hồn mình, thì còn được lợi gì.” (Mt 16,26).
Lời Chúa phán trên đây cảnh báo tôi rất nhiều.
3. Tình hình lúc này là rất phức tạp.
Nếu tôi bỏ cầu nguyện, lao mình vào hoạt động, thì rất có thể tôi được tiếng là nhiệt thành, nhưng lại xa Chúa, không chừng mất Chúa. Thế là cái mất sẽ quá nhiều, mà cái được sẽ quá ít. Tôi cần thấy trước điều đó.
Tình hình lúc này là rất ồn ào.
Nếu tôi tĩnh tâm, mà tâm không tĩnh, để hồn mình thành một thứ chợ trời, thì được thì ít, mà hại thì nhiều. Tôi cần thấy trước điều đó.
4. Tình hình lúc này là rất đa dạng.
Nếu tôi ôm vào mình những việc mà giáo dân làm được, rồi bỏ suy nghĩ, cầu nguyện, thì cái tôi được sẽ quá ít, mà cái tôi mất sẽ quá nhiều. Tôi cần thấy trước điều đó.
5. Tình hình lúc này có những bất ngờ khủng khiếp.
Nếu tôi cứ nhởn nhơ với những chương trình cố định, rồi tự hào cho mình là nhìn xa thấy rộng, thì cái tôi được có thể chỉ là số không, mà cái tôi mất sẽ không bao giờ lấy lại được. Tôi cần phải thấy trước điều đó.
6. Tình hình lúc này có nhiều thách đố.
Nếu tôi cứ tưởng mở Đạo là mở rộng đất đai, xây nhiều cơ sở, tổ chức nhiều ban bệ, phô trương những con số, thì chắc chắn cái tôi được sẽ rất ít, mà cái tôi phải mất ắt sẽ khôn lường. Tôi cần phải thấy trước điều đó.
7. Tình hình lúc này có nhiều cạnh tranh.
Nếu tôi tưởng rao giảng Tin Mừng là khoe Đạo mình có nhiều ngôi sao sáng hơn bất cứ tôn giáo nào khác, thì chắc chắn tôi sẽ tự tạo ra cho bản thân tôi và Đạo của tôi rất nhiều bất lợi. Lợi thì không rõ, mà hại thì rải khắp. Tôi cần phải thấy trước điều đó.
8. Tình hình lúc này đòi đối thoại.
Nếu tôi tưởng giới thiệu Đạo Chúa là giới thiệu một cộng đoàn chuyên vâng lời giáo quyền, thì người ta sẽ dễ nhìn hàng giáo sĩ với nhiều bất lợi. Nếu chẳng may giáo sĩ nào lại tự quả quyết ý mình là ý Chúa, buộc mọi người phải vâng, chứ không chấp nhận đối thoại, thì lợi sẽ không thấy, còn hại thì rất nặng nề. Tôi cần phải thấy trước điều đó.
9. Tình hình hiện nay có nhiều bí ẩn.
Bề mặt thì phẳng lặng. Nhưng dưới sâu có những sóng ngầm đầy chất chống đối. Nếu chỉ khoe bề mặt đó, mà không để ý đến bề sâu, thì sẽ rất dại dột. Cái lợi thì ít cái hại thì nhiều. Tôi cần phải thấy trước điều đó.
10. Thấy trước mấy điều trên đây là việc quan trọng, nhưng không luôn dễ.
Riêng tôi, nhờ Đức Mẹ, thấy trước là như nhìn thấy, là như ngửi thấy, là như chạm tới.
11. Đức Mẹ giúp tôi gặp Chúa Giêsu, ở lại với Chúa Giêsu và lắng nghe Chúa Giêsu.
Tôi thấy: “Được cả thế gian, mà mất linh hồn, thì lợi sẽ không có, mà hại thì vô cùng khủng khiếp.”
12. Thấy trước như vậy, và tôi coi đó mới là đạo đức, mới là khôn ngoan, mới là cứu mình và cứu người khác.
13. Nếu thấy trước như vậy là một cái nhìn tiên tri, thì tôi hết lòng cảm tạ Chúa, vì cái nhìn tiên tri đó đang được Chúa ban cho nhiều người tại Việt Nam hôm nay.
Tôi học được nơi họ rất nhiều.
14. Họ cho tôi thấy: Nếu không tỉnh thức, tương lai Hội Thánh tại Việt Nam sẽ mất rất nhiều.
Không tỉnh thức là không thấy trước. Không thấy trước vì không muốn thấy trước, không chịu thấy trước.
15. Thực sự, thấy trước sẽ rất buồn. Vì thế, mà trốn tránh thấy trước. Nhưng đã đến lúc chúng ta cần thấy trước, để cứu mình và cứu người khác.
16. Lúc này, tôi đang thấy trước tình trạng sa sút của tôi. Nên tôi bám chặt lấy Đức Mẹ.
Đức Mẹ luôn cúi xuống, để nhìn tôi, để cứu tôi, để an ủi tôi.
Đức Mẹ cho tôi cái nhìn của Mẹ, hơi thở của Mẹ, mùi thơm của Mẹ.
Từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây, Đức Mẹ là Mẹ yêu dấu của tôi.
Năm nào cũng vậy. Lễ Giáng Sinh là dịp tôi xin Chúa ban cho tôi ơn đổi mới. Đổi mới nói đây Bùi-Tuần 2060
1. Năm nào cũng vậy. Lễ Giáng Sinh là dịp tôi xin Chúa ban cho tôi ơn đổi mới. Đổi mới nói đây là đổi mới tâm hồn mình.
2. Năm nay, dịp Lễ Giáng Sinh, Đức Mẹ khuyên tôi hãy để ý đến việc đổi mới tâm hồn một cách đặc biệt, đó là tâm hồn hãy trở nên khó nghèo hơn. Lý do là vì Chúa Giêsu đã phán:
“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, Vì Nước Trời là của họ.” (Mt 5,2)
3. Ngoài lý do Lời Chúa, Đức Mẹ còn cho tôi lý do kinh nghiệm.
Từ ngày được về hưu, cộng thêm những ngày đau bệnh, tôi có kinh nghiệm là mình nghèo đi về nhiều lãnh vực. Nghèo nhưng mà hạnh phúc.
4. Về kinh nghiệm đó, Đức Hồng Y Martini đã viết:
“Những người nghèo chẳng có gì. Họ không mang trách nhiệm nào. Họ không phải trả lời ai về nhiệm vụ nào. Họ chẳng có gì để mất, và vì thế họ được tự do vui hưởng tình yêu của Chúa, và vui đợi chờ cuộc sống Chúa hứa sẽ cho họ.
“Tâm hồn những kẻ mang nhiều trách nhiệm về đủ thứ, sẽ dễ bị áp lực nặng nề và bị lệ thuộc vào mọi thứ.”
(Cardinal Martini, A l’écoule du coeur)
5. Tâm hồn nghèo khó là tâm hồn có hạnh phúc. Nói thế không có nghĩa là hạnh phúc đến với tâm hồn nghèo khó một cách dễ dàng. Lý do là vì khó mà có được tâm hồn nghèo khó.
6. Giữ được tâm hồn mình luôn trở nên nghèo khó là chuyện nội tâm rất vất vả vì.
Phải nhiều cầu nguyện, Phải nhiều hồi tâm, Phải nhiều suy niệm, Phải nhiều từ bỏ.
Riêng tôi, để có tâm hồn nghèo khó, tôi tập trung vào Chúa Giêsu:
Gặp Chúa Giêsu, Ở lại bên Chúa Giêsu, Lắng nghe lời Ngài, Xem gương Ngài, Bước theo Ngài, Để Ngài giải cứu, để Ngài chữa lành, để Ngài an ủi.
Thêm vào đó, tôi phải cậy nhờ Đức Kitô, để chống lại mọi âm mưu quấy phá của các thế lực xấu.
7. Như thế, đổi mới tâm hồn theo hướng đưa tâm hồn trở nên nghèo khó theo Phúc âm là chuyện không dễ chút nào.
8. Các thế lực phản Kitô hiện đang đánh phá Hội Thánh Chúa ở mặt trận tâm hồn nghèo khó.
Có những tâm hồn nghèo khó thật. Có những tâm hồn nghèo khó giả.
9. Tệ hơn thế, có những tâm hồn trắng trơn phô trương sự giàu có đủ thứ của Đạo mình và của mình, rồi cho thế là loan báo Tin Mừng.
Nếu không sửa lại, thì hậu quả khủng khiếp sẽ không tránh được.
10. Hơn bao giờ hết, Đức Mẹ dạy tôi hãy lo đời sống nội tâm, phải giữ sự tự do nội tâm, phải biết tỉnh thức, đừng để nội tâm mình suy nhược vì đủ thứ lo âu xâm chiếm.
11. Hãy bắt chước Đức Mẹ và Thánh Giuse ở Belem xưa.
Các Ngài rất khó nghèo về vật chất, các Ngài rất khó nghèo về tinh thần.
Các Ngài rất thầm lặng. Đang khi đó, Hội Thánh hôm nay tại nhiều nơi lại quá ồn ào với những phô trương, với những múa máy, với những tự mãn, với những bùng nổ, với những đổi mới hãi hùng.
12. Lúc này, hơn bao giờ hết, chúng ta nên khiêm tốn trở về với tâm hồn khó nghèo thực sự.
13. Sẽ là ảo mộng và sẽ là ác mộng, nếu chúng ta mắc mưu Satan, biến tâm hồn khó nghèo, thành tâm hồn giàu có với nhiều chương trình nặng về hình thức, mà thiếu phẩm chất thực sự.
14. Tình hình lúc này hết sức phức tạp. Hãy theo Đức Mẹ, mà đổi mới nội tâm, theo lời Chúa: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, Vì Nước Trời là của họ.” (Mt 5,2)
15. Xưa, Đức Mẹ chỉ xưng mình là nữ tì hèn mọn của Chúa. Vẻ dễ thương của Mẹ là khó nghèo và khiêm nhường.
Nhìn Mẹ, tôi thực sự sám hối, vì nhiều khi đã không khiêm nhường và khó nghèo như Mẹ. Đánh mất tâm hồn khó nghèo và khiêm nhường là mất quá nhiều, dễ biến mình thành con mồi cho Satan. Xin Chúa thương cứu chúng con.
Ngay khi còn rất nhỏ, tôi thường được nghe Bố kể lại chuyện gia đình, trong đó có lời trối của Bùi-Tuần 2061
1. Ngay khi còn rất nhỏ, tôi thường được nghe Bố kể lại chuyện gia đình, trong đó có lời trối của ông Nội. Bố kể: “Khi ông Nội sắp chết, ông Nội gọi con cháu lại bên giường và trối rằng:
“Gia đình chúng ta nghèo, hãy đến với Thánh Giuse. Thánh Giuse rất thương những kẻ nghèo khó. Ngài sẽ thương giúp chúng ta.”
2. Bố tôi nói thêm: “Gia đình mình nghèo túng đủ thứ. Nhưng cái nghèo túng cần phải giải quyết trước hết là nghèo túng về đạo đức. Cho dù phải nghèo về của cải, nhưng hãy cứ lo sống đạo đức.”
3. Mẹ tôi cũng luôn dạy con cái về đạo đức.
4. Hồi còn nhỏ, tôi hiểu: Sống đạo đức là năng cầu nguyện, đọc kinh, dự Thánh lễ và biết thương giúp những người ăn xin, ăn mày.
5. Dần dần, tôi cảm nhận cái nghèo đáng sợ nhất là nghèo về đạo đức.
6. Mà nghèo về đạo đức, mà tôi sợ hãi nhất lúc này là nghèo lửa mến Chúa yêu người.
7. Thiếu lửa mến Chúa yêu người, đó là một khủng hoảng khủng khiếp có thật hiện nay tại nhiều nơi trong Hội Thánh và trong xã hội.
8. Khi thiếu lửa mến Chúa yêu người, tôi sẽ dễ bị ác quỉ đốt lên trong tôi nhiều thứ lửa độc hại của chúng.
9. Đức Mẹ khuyên tôi hãy xin Thánh Giuse đốt lên trong tôi lửa mến Chúa yêu người, mà thuở xưa đã đốt lên trong lòng Ngài.
10. Tôi thấy lời khuyên của Đức Mẹ đang được thực hiện.
Thực vậy, Thánh Giuse đang đốt lên trong lòng nhiều người, trong đó có tôi, thứ lửa thiêng bừng bừng chất mến Chúa yêu người.
11. Lửa này đang cháy mạnh nơi nhiều người sống thầm lặng, những người tỉnh thức, những người luôn lên đường phục vụ trong yêu thương và khiêm nhường.
12. Lửa này đang cháy mạnh trong nhiều cộng đoàn luôn thao thức được thuộc về Chúa.
13. Lửa này đang cháy mạnh trong nhiều phong tào đạo đức lo đổi mới nội tâm mình theo hướng nghèo khó Phúc Âm.
14. Lửa này đang cháy mạnh trong nhiều giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân.
15. Lửa này sẽ là nguồn an ủi cho Hội Thánh trong thời kì gặp nhiều khó khăn.
Đúng như vậy, trong tương lai, Hội Thánh nhiều nơi sẽ rơi vào nhiều cảnh ảm đạm đầy đau đớn.
Nơi nào có lòng kính Thánh Giuse sẽ được giải cứu và được an ủi.
16. Riêng tôi, cho tới giờ này, tôi đã đươc Thánh Giuse dẫn đưa về với Chúa, nhất là Ngài cùng với Đức Mẹ đốt lên trong lòng tôi lửa thiêng mến Chúa yêu người.
17. Lửa mà Đức Mẹ và Thánh Giuse đang đốt lên trong tôi, là chính Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu là lửa. Trong lửa đó có tình yêu, có hy sinh và đau khổ, có cứu độ.
18. Khi lửa đó là chính Chúa Giêsu, thì đời tôi sẽ tập trung vào Chúa Giêsu. Tôi sẽ lo gặp Ngài, ở lại với Ngài, để Ngài dẫn dắt, để Ngài đổi mới.
19. Chúa Giêsu đổi mới tâm hồn tôi, biến nó thành lửa yêu thương và khiêm nhường, theo gương Thánh Giuse và Đức Mẹ.
20. Lúc này, tôi cũng như ông Nội của tôi, trước khi chết, xin trối lại cho mọi người thân thuộc:
“Hãy đến với Thánh Giuse”
21. Thánh Giuse, con người thầm lặng, nhưng lại đầy lửa. Ngài sẽ giúp chúng ta, dù sống thầm lặng, nhưng không ngừng đem lửa Giêsu đốt nóng các tâm hồn đến với chúng ta.
22. Thánh Giuse, con người vất vả, nhưng sống phó thác. Phó thác nơi Thánh Giuse là một thứ lửa của đức tin.
23.
Thánh Giuse, con người đơn sơ, mộc mạc, nhưng sống khôn ngoan. Khôn ngoan nơi Thánh Giuse là một thứ lửa của Chúa Thánh Thần.
Cả tháng nay, tôi lo mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Nào là lo in thiệp gửi đi lời mừng chúc. Nào là Bùi-Tuần 2062
1. Cả tháng nay, tôi lo mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Nào là lo in thiệp gửi đi lời mừng chúc. Nào là lo làm hang đá, với cây thông, giây điện, bảng in Lời Chúa. Nào là lo theo dõi thời sự khắp nơi về những cách mừng lễ Giáng Sinh trong tình hình rất bất ổn hiện nay.
2. Đang khi đó, tôi luôn nghe trong lòng tôi có tiếng nhắc bảo: “Hãy đấm ngực”. Bây giờ thì tôi mới hiểu đó là tiếng Đức Mẹ nhắc bảo tôi “Hãy sám hối”.
3. Mừng lễ Chúa Giáng Sinh bằng đấm ngực, ăn năn sám hối, đó là cách, mà thánh Gioan Tiền hô xưa cũng đã hô hào.
4. Lúc này, hơn bao giờ hết, tôi xác tín: Mừng lễ Chúa Giáng Sinh bằng sám hối, là điều Chúa mong muốn hơn hết.
5. Hãy sám hối, nhất là về mọi lỗi lầm và thiếu sót trong lãnh vực Khiêm nhường.
Tại Belem, Chúa Giêsu đã rất khiêm nhường. Gương khiêm nhường đó có được tôi bắt chước không?
Tôi phải sám hối, vì đã không lo bắt chước, hoặc có bắt chước, thì cũng không đúng, không đủ.
6. Hãy sám hối, đặc biệt là về mọi lỗi lầm và thiếu sót trong lĩnh vực Bác ái.
Tại Belem, Chúa Giêsu giáng sinh đã rất bác ái, ở chỗ hòa mình vào cuộc sống của những kẻ nghèo túng nhất. Gương bác ái đó có được tôi bắt chước không?
Tôi phải sám hối, vì đã không lo bắt chước, hoặc có bắt chước, thì cũng không đúng, không đủ.
7. Sám hối đòi một sự hồi tâm sâu sắc. Tôi chưa hồi tâm đủ.
8. Sám hối đòi một sự đổi mới tâm hồn thật sự. Tôi chưa để ý đủ đến việc đổi mới tâm hồn tôi.
9. Sám hối đòi một sự đền tội thực lòng. Tôi chưa đền tội chút nào cả, hoặc chỉ đền tội qua hình thức dễ dàng.
10. Nếu lúc này Chúa Giêsu đến với tôi, mà hỏi về sám hối. Thì không chừng tôi sẽ rất bỡ ngỡ và thất vọng vô vàn, vì tôi đã không chuẩn bị đúng để đón Chúa.
11. Nếu bỡ ngỡ và thất vọng đó làm tôi thức tỉnh, thì đó là ơn phúc cho tôi. Nếu tôi không thức tỉnh, thì sẽ là vô phúc cho tôi.
12. Tình hình lúc này là hết sức nghiêm trọng, báo trước nhiều bất ngờ khủng khiếp. Những ai sám hối sẽ tránh được phần nào những hãi hùng sắp tới.
Biết thế, mà vẫn không sám hối, thì đó sẽ là một tự chọn đầy đau đớn.
13. Tôi sẽ không tự mình sám hối được. Tôi phải nhờ ơn Chúa. Chúa sẽ ban ơn cho những ai khiêm nhường.
Khiêm nhường, khiêm nhường, khiêm nhường, đó là điều Đức Mẹ dạy tôi.
Khiêm nhường, khiêm nhường, khiêm nhường, đó là điều vẫn đi kèm với yêu thương chân thực.
14. Tại hang đá Belem, Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse đã nêu gương yêu thương và khiêm nhường, không bằng lời nói, mà bằng việc làm, bằng chính cuộc sống.
Gương sáng đó có sức cứu độ. Nhưng gương sáng cứu độ đó xưa vẫn chỉ là một thiểu số rất ít. Tuy nhiên, thiểu số rất ít đó vẫn là một ngôi sao dẫn đường cho những tâm hồn thiện chí.
15. Hiện giờ cũng thế. Tôi vẫn thấy trong thời sự hằng ngày vẫn có ngôi sao thiêng liêng xuất hiện, để đưa những tâm hồn sám hối tìm về với Chúa.
16. Họ sám hối, trong tinh thần cầu nguyện và tỉnh thức.
Tôi đang bắt chước họ.
17. Bây giờ thì tôi hiểu rõ hơn, thế nào là thiện tâm, mà các thiên thần đã hát xưa trên bầu trời Belem.
Tôi hiểu thiện tâm là những ai cầu nguyện, tỉnh thức và sám hối, mến chuộng yêu thương và khiêm nhường.
18. Nhận thức trên đây giúp tôi hiểu người thiện tâm sẽ phải phấn đấu nhiều lắm, nhất là phấn đấu với chính mình.
19. Thiện tâm sẽ không nặng về hình thức, nhưng về chất lượng. Chúa thấu suốt tâm hồn mọi người, sẽ dánh giá đúng ai là thiện tâm. Còn coi Chúa như một phương tiện để lợi dụng, đó là xúc phạm, chứ không phải là thiện tâm.
20. Với những gì chia sẻ trên đây, tôi xin mọi người cầu nguyện cho tôi được là kẻ thiện tâm, đúng theo ý Chúa.
Và tôi cũng cầu chúc cho mọi người được là kẻ thiện tâm, đúng theo ý Chúa.
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho người thiện tâm”
Tôi sắp vào tuổi 95. Cuộc đời 95 tuổi là một thời gian tương đối dài. Thời gian dài đó đã dạy tôi Bùi-Tuần 2063
1. Tôi sắp vào tuổi 95. Cuộc đời 95 tuổi là một thời gian tương đối dài. Thời gian dài đó đã dạy tôi một điều quan trọng, đó là: Tôi không làm chủ thời gian. Không ai làm chủ thời gian. Chỉ Chúa mới làm chủ thời gian.
2. Tôi xin vắn tắt.
Tôi thụ phong linh mục ở nơi và trong ngày giờ, xóa bỏ mọi trang trọng, mà tôi cũng như các Bề trên của tôi đã không ngờ trước. Coi như bi đát.
3. Tôi thụ phong Giám mục ở nơi và trong ngày giờ bất ổn, mà chính các Bề trên của tôi cũng như tôi, đã phải thay đổi vào giờ chót. Coi như buồn thảm.
4. Cả hai lễ thụ phong đó đã rất đơn giản. Đức Mẹ gỡ bỏ khỏi tâm trí tôi bất cứ lo toan nào không phải thánh ý Chúa, Đức Mẹ dạy:
Hãy vâng phục thánh ý Chúa. Thánh ý Chúa sẽ được báo cho tôi vào lúc Chúa muốn. Phải sắn sàng từ bỏ ý riêng, để vâng phục thánh ý Chúa. Thực sự vâng phục thánh ý Chúa đã đem lại cho tôi sự bình an.
5. Những điều trên đây Đức Mẹ dạy tôi trong hai lễ thụ phong, vẫn tiếp tục được nhắc lại trong tôi cho tới bây giờ.
6. Bây giờ hơn lúc nào hết. Đức Mẹ khuyên tôi hãy vâng phục thánh ý Chúa, và cũng nhắc cho mọi con cái Mẹ hãy vâng phục thánh ý Chúa.
7. Có một chi tiết mới, mà Đức Mẹ khuyên tôi lúc này, đó là hãy vâng phục thánh ý Chúa, như thánh Giuse xưa.
Xưa, thánh Giuse được thiên thần báo mộng là hãy mang Hài nhi Giêsu và Mẹ của Ngài trốn sang Ai Cập. Thánh Gisuse đã nhận ra đó là thánh ý Chúa. Ngài đã thực hiện đúng, cho dù việc làm đó dưới con mắt người phàm thì coi như kẻ thua kém.
8. Sau một thời gian ở Ai Cập, thánh Giuse lại được thiên thần báo mộng là hãy đưa Hài nhi Giêsu và Mẹ của Ngài về quê cũ. Nhưng hãy trở về, không theo đường thẳng, mà theo đường vòng, vẫn như kẻ trốn tránh.
Thánh Giuse đã thực hiện đúng. Ngài cho đó là thánh ý Chúa.
9. Suốt thời gian dài tại Nagiaret, thánh Giuse luôn sống thầm lặng, lao động vất vả, hòa mình vào cuộc sống những kẻ nghèo. Ngài coi đó là thánh ý Chúa.
10. Thánh ý Chúa là cứu người ta theo con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha, như chính Chúa Giêsu đã nói rõ tại vườn cây Dầu xưa:
“Lạy Cha, nếu có thể, thì xin cho con khỏi uống chén đắng này. Nhưng xin đường theo ý con. Mà chỉ theo ý Cha thôi.”
11. Lúc này hơn bao giờ hết, tôi nhìn thấy rất rõ tương lai chúng ta sẽ có nhiều chén đắng. Đó là một thử thách lớn.
Nhưng hãy vững tin: “Những ai vâng phục thánh ý Chúa Cha sẽ được cứu rỗi.”
12. Riêng tôi, tôi xác tín: Vâng phục thánh ý Chúa là việc không dễ dàng.
Nên, từng giờ, từng phút, từng giây, tôi xin Chúa thương tha thứ cho tôi vì biết bao lần đã không vâng phục thánh ý Chúa.
Đồng thời xin Chúa thương ban ơn giúp sức cho tôi biết ngoan ngoãn vâng phục thánh ý Chúa Cha, ngay chỉ trong giây phút hiện tại mà thôi.
13. Với tâm tình trên đây, tôi xin thân ái cầu chưc cho mọi người một mùa Tết, sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa, như thánh Giuse.
14. Thánh Giuse là con người bén nhạy, có ơn phân định trong từng tình hình cụ thể. Xin Chúa thương cho chúng ta được phần nào như Ngài. Hội thánh tại Việt Nam đang rất cần những người như thế.
15. Thánh Giuse đang âm thầm đào tạo nên những người bén nhạy, biết phân định trong hoàn cảnh cụ thể tại Việt Nam hôm nay. Hãy cộng tác với Ngài. Hãy cảm tạ Ngài.
16. Tình hình là rất nghiêm trọng. Xin thánh Giuse thương che chở con cái Chúa. Nhất là xin Ngài thương giúp chúng ta nên những người biết vâng phục thánh ý Chúa.
“Thánh ý Ngài là gia nghiệp đời con, là tình yêu cho con ủ ấp, là ước mơ con thơ đi tìm, là niềm tin cho con luôn vững lòng chờ mong.
Xin dạy con đường nẻo Ngài, xin dìu con từng bước đi, qua ngàn gian khổ có Chúa bên con sợ chi. Vì tình thương Chúa luôn đổ tràn, dẫu muôn ngàn điều gian nan thì đời con vui bước trong bình an giữa những bao lầm than.” (Gia Nghiệp Đời Con, Lm. Thái Nguyên)
Năm mới 2021 đã tới rồi. Tôi rất mong tôi được là con người mới. Để thể hiện ước mong đó, sáng Bùi-Tuần 2064
1. Năm mới 2021 đã tới rồi. Tôi rất mong tôi được là con người mới.
Để thể hiện ước mong đó, sáng sớm hôm nay, tôi cố gắng đến cầu nguyện trước tượng thánh Giuse trong sân Tòa Giám mục. Tượng chỉ cách phòng tôi vài chục thước.
2. Tay phải chống gây. Tay trái bám vào một chú dự tu. Vừa bước được hai bước, tôi cảm thấy đau nhói ở bàn chân. Đau quá, tôi phải trở lại ghế nằm đặt sẵn ở hè.
3. Trong cơn đau khủng khiếp, tôi được nghe thấy một tiếng nói trong lòng: “Con người mới, mà Chúa muốn nơi con là con người vâng phục thánh ý Chúa mà trở nên của lễ như thánh Giuse xưa.”
4. Đột nhiên tôi hiểu, tự mình, tôi không thể sống như của lễ. Đức Mẹ sẽ giúp tôi. Tôi bám chặt lấy Mẹ. Mẹ chỉ vào thánh Giuse, mà nói: “Đó là gương sáng, suốt cuộc đời là của lễ thầm lặng.”
5. Suốt cuộc đời thánh Giuse là của lễ thầm lặng: “Và chỉ như vậy, Ngài đã bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Và chỉ như vậy, Ngài đã loan báo Tin Mừng khắp mọi nẻo đường Ngài đi qua.”
6. Tôi chợt thấy thánh Giuse đang là của lễ thầm lặng như thế tại Việt Nam yêu dấu của tôi hiện giờ.
Hiện giờ, tại Việt Nam, số người sống như của lễ thầm lặng không phải là ít.
7. Chúa lặng lẽ làm nơi họ những điều kì diệu. Kỳ diệu nhất là họ không ngừng gieo rắc yêu thương và khiêm nhường của Chúa Giêsu một cách âm thầm trong mọi lãnh vực.
8. Mỗi ngày, họ phải lắng nghe Chúa, để điều chỉnh lại chính mình.
Điều chỉnh lại chính mình từng ngày, từng giờ, từng phút thì mới thực sự trở thành con người mới trong mọi giây phút.
9. Điều chỉnh lại chính mình như thế bao giờ cũng đòi sám hối.
Thiếu sám hối, sẽ chẳng bao giờ điều chỉnh lại được chính mình.
10. Vì thế, khi tôi muốn được là của lễ, tôi phải để ý nhiều đến sám hối.
11. Với những điều dạy dỗ trên đây, Đức Mẹ dạy tôi. Bất cứ lúc nào Chúa đến tìm tôi, Người sẽ rất vui, nếu thấy tôi là con người mới, ít ra ở một trong những nét cần thiết này:
* Đang sám hối, * Đang điều chỉnh lại chính mình, * Đang là của lễ, * Đang tìm vâng phục thánh ý Chúa, * Đang gieo rắc yêu thương và khiêm nhường, * Đang đón Chúa, * Đang đặt hy vọng vào Chúa.
12. Sẽ rất đáng buồn, nếu tôi tự phụ, tự mãn, với con người cũ của tôi.
Càng sẽ rất đáng buồn, nếu tôi tưởng mình là con người mới, mà thực ra lại quá cũ.
13. Tôi xác tín: Chỉ Chúa biết rõ sự thực về từng người. Vì thế, tôi lúc nào cũng trong tư thế:
Giơ hai tay lên trời, xin Chúa xót thương tôi.
14. Lúc nay, tuy dù đau đớn, tôi cảm thấy vui, thấy hạnh phúc, vì đang được trở nên con người mới, nhờ Đức Mẹ và thánh Giuse.
15. Lúc này, tôi đang trở nên con người mới, ở sự tôi sống mật thiết với Chúa nhiều hơn: “Thầy là cây nho, con là cành.” (Ga 15,5)
16. Lúc này, tôi đang trở nên con người mới, ở sự tôi sống yêu thương mọi người như Chúa đã trối lại xưa: “Thầy cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con.” (Ga 13, 34)
17. Lúc này là ngày đầu năm mới 2021, tôi xin thân ái cầu chúc mọi người được trở nên con người mới, như Chúa muốn.
5. Thiên Chúa giàu lòng thương xót đã cho tôi được làm con của Ngài. Tôi là con Chúa trong Đức Kitô.
6. Đức Kitô sống mật thiết với tôi như thân cây nho với cành nho. (Ga 15,6).
7. Đức Kitô đã trối tôi cho Đức Mẹ. (Ga 18, 26- 27).
8. Tôi sung sướng cảm thấy mình là anh em trong gia đình Hội thánh Chúa.
9. Từ những cảm nhận trên đây, tôi thấy mình được đón nhận vào một bầu khí thiêng tôi được mời gọi tin tưởng phó thác.
10. Thực sự, tôi coi sự tôi tín thác vào Chúa giàu lòng thương xót là như hơi thở của tôi.
11. Thực sự, tôi coi sự tôi tín thác vào Đức Mẹ là như điểm tựa từng giờ, từng phút, từng giây của tôi.
Tôi rất yếu đuối, dễ sa ngã. Nhưng nhờ tín thác vào Chúa và Đức Mẹ, tôi lại bắt đầu lại.
12. Nói về sự yếu đuối của tôi, tôi xin thú thực là sự yếu đuối đó là một sức mạnh khủng khiếp, như thánh Phaolô đã nói: “Sự thiện tôi muốn làm, thì tôi lại không làm. Sự ác tôi không muốn, thì tôi lại làm.” (Rm 7, 19).
13. Thêm vào sức mạnh của sự yếu đuối, còn có quỉ Satan. Theo cách nói của thánh Phêrô, thì quỉ Satan giống như sư tử đói gầm thét đi tìm mồi. Chúng rất đông, rất thông minh, rất mạnh. (1Pr 5,8).
Nếu không có ơn Chúa giúp, tôi tự mình khó có thể chống lại được lũ quỉ đó.
14. Tin Mừng là nhờ Chúa mà thôi.
Do vậy, có thể nói. Chỉ khi tôi có Chúa trong tôi, tôi mới thực sự có Tin Mừng.
15. “Chúa ở cùng anh chị em.” Đó là lời chúc đầu năm, mà Hội Thánh trên trời và dưới đất, gửi tơi mỗi người chúng ta.
Hãy đón Chúa vào lòng mình:
Chúa là Tin Mừng, Chúa là bình an, Chúa là hạnh phúc, Chúa là Tình yêu, Chúa là người xót thương cứu độ.
16. Đón nhận Chúa bằng cầu nguyện, Đón nhận Chúa bằng tỉnh thức.
17. Năm mới sẽ có những bất ngờ lớn lao, có thể gây hãi hùng.
Hãy đón Chúa vào lòng, Hãy ở lại trong Chúa, Hãy tỉnh thức nơi Chúa. Chúa mới là Tin mừng thực sự.
18. Hãy đón nhận Chúa không phải chỉ bằng thái độ đối với Chúa, mà còn phải bằng thái độ giữa con người với con người.
19. Giữa con người với con người, đừng coi mình là quyền lực, nhưng hãy là tình thương.
Giữa con người với con người, đừng chỉ biết tìm phần thắng cho mình, nhưng hãy biết nhường nhịn, lo phục vụ hơn là cai trị.
Giữa con người với con người, đừng chỉ biết tìm cho mình cuộc sống thảnh thơi, mặc kệ ai muốn làm gì thì làm, nhưng hãy biết góp phần vào việc chung với tinh thần liên đới khiêm nhường yêu thương.
20. Trên đây là Tin Mừng hôm nay của tôi. Xin dâng lên Chúa. Xin gửi anh chị em. Amen.
Năm mới này được Chúa báo trước sẽ là thời gian có nhiều gian nan khốn khó. Nhưng chính trong Bùi-Tuần 2066
1. Năm mới này được Chúa báo trước sẽ là thời gian có nhiều gian nan khốn khó.
Nhưng chính trong cảnh gian nan khốn khó ấy, Chúa sẽ cứu những ai đón nhận tình yêu thương xót Chúa.
2. Thế nào là đón nhận tình yêu thương xót Chúa?
Thưa là theo gương thánh Giuse, góp phần của mình vào việc kiến tạo nơi mình ở thành một gia đình yêu thương.
Gia đình yêu thương có Chúa ở cùng. Gia đình yêu thương có Đức Mẹ chăm sóc. Tình yêu của Đức Mẹ và của Chúa là rất thiêng liêng, luôn kêu gọi được đón nhận.
3. Những ai được kể là đón nhận tình yêu Đức Mẹ và tình yêu Chúa?
Thưa là những ai yêu thương kẻ khác với sự tha thứ, với những chia sẻ, với những phục vụ, với những hy sinh, quên mình.
4. Họ là những kẻ góp phần xây dựng nơi mình ở thành tổ ấm được tình yêu Chúa ấp ủ, được tình thương của Đức Mẹ nâng niu.
5. Họ cũng là những kẻ tha thiết muốn mọi người được về thiên đàng, bên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, hưởng hạnh phúc vô cùng trong cõi sống vô biên.
6. Như vậy, thái độ của chúng ta đối với những người khác sẽ là một điều kiện để đón Chúa.
Mà để có thái độ tốt đối với người khác, chúng ta rất cần có ơn Chúa. Nghĩa là chúng ta cần cầu nguyện.
7. Gia đình tốt là gia đình cầu nguyện. Gia đình tốt là gia đình biết lo cho những người khác.
Mọi người trong gia đình đều có trách nhiệm như thế.
Nhưng, người có trách nhiệm quan trong hơn thiết tưởng chính là người đứng đầu gia đình.
8. Người giữ vai gia trưởng trong đạo, ngoài đời hiện nay có ảnh hưởng rất lớn cho thế giới hôm nay.
9. Gia trưởng khôn ngoan sẽ cứu được cả gia đình, dù gia đình là một nước, một giáo phận, một đơn vị nhỏ.
10. Gia trưởng thiếu đạo đức, thiếu khôn ngoan có thể lái cả gia đình xuống vực thẳm, cho dù gia đình là cả một châu lục, một Hội thánh địa phương.
11. Gia trưởng đang có vai trò rất quan trọng, nếu lại thiếu khiêm nhường, trao mình cho ác quỉ Satan chăm sóc, thì không những gia trưởng sẽ bị hại, mà cả gia đình cũng sẽ bị vạ lây.
12. Chính vì thế mà vấn đề gia trưởng đang là vấn đề gây nhức nhối cho bao người hiện nay.
13. Nếu người gia trưởng được gia đình tín nhiệm, thì đó là bình an và hạnh phúc.
14. Nếu gia trưởng bị gia đình mình chống đối hoặc nghi ngờ, thì đó là những sóng ngầm nguy hiểm cho cả gia đình, nhất là khi tình hình bùng nổ những bất ngờ gây biến động.
15. Lúc này, chẳng ai dám chắc chắn sự gì sẽ xảy ra cho năm mới. Nhưng năm mới vẫn đem lại hy vọng cho những ai tin cậy ở Chúa.
16. Hy vọng trong tình hình có nhiều thất vọng, đó là điều Chúa sẽ làm trong tâm hồn khiêm nhường sám hối.
17. Với tinh thần khiêm nhường thống hối, chúng ta đấm ngực mình, chứ không đấm ngực kẻ khác.
18. Với tinh thần khiêm nhường thống hối, chúng ta phó thác sự yếu đuối của chúng ta cho Chúa là tình yêu giàu lòng thương xót.
19. Với tinh thần khiêm nhường thống hối, chúng ta cầu nguyện cách riêng cho những ai yếu đuối dưới mọi hình thức.
20. Với tinh thần khiêm nhường thống hối, chúng ta cảm tạ Chúa đã xót thương chúng ta, và xin Chúa tiếp tục thương xót chúng ta.
21. Và như vậy, những ngày đầu năm nay, chúng ta nhìn lên Chúa hơn là nhìn vào bất cứ đâu để tìm điểm tựa bền vững.
22. Riêng tôi, hay âm thầm cùng với Đức Mẹ và thánh Giuse, dâng lên Chúa những tâm tình phó thác, như bài ca gợi ý sau đây:
“Giữ gìn con Chúa ơi, vì Chúa là chốn con tựa nương tháng năm. Trong cánh tay Người hồn con vui sống, tình yêu Chúa khoan dung bền vững muôn đời.
1. Hồn con thao thức bên lòng Chúa, Chúa là gia nghiệp duy nhất đời con. Là chén phần phúc con trông mong, con tiến dâng Người tấm lòng cậy trông.” (Ca tình tri âm, Lm. Kim Long)
Tôi đang sống trên Quê Hương Việt Nam có nhiều biến cố trọng đại.Với cái nhìn của đức tin Bùi-Tuần 2067
1. Tôi đang sống trên Quê Hương Việt Nam có nhiều biến cố trọng đại.Với cái nhìn của đức tin, tôi rất mừng, khi thấy Chúa đã và đang làm nơi đây những sự lạ lùng.
2. Một trong những sự lạ lùng rất nên nói lên ở đây là Chúa làm cho Lời Chúa được thực hiện nơi rất nhiều người ngoài Công giáo.
3. Thí dụ Chúa Giêsu dạy: “Khi chúng con làm việc từ thiện giúp đỡ kẻ khác, thì hãy làm cách kín đáo, đừng phô trương. Cha trên trời thấy, sẽ thưởng công cho các con.” (Mt 6, 1-2).
Tôi rất vui mừng khi thấy Lời Chúa dạy trên đây đã và đang được nhiều người ngoài Công giáo tại đây thực hiện một cách chân thành.
4. Họ là những người Phật giáo truyền thống, những người Phật giáo Hòa Hảo, những người Cao Đài, những người đạo Hiếu Nghĩa, những người Cộng Sản.
5. Họ đã và đang làm từ thiện bằng những việc: Cụ thể, Quảng đại, Với cách tự nguyện, kín đáo.
6. Họ đã và đang tạo nhiều thuận lợi, để các vị chức sắc Công giáo tại đây có thể phục vụ các người nghèo, như trao nhà tình nghĩa, phát học bổng, mở bệnh xá, phục vụ những bệnh nhân, những người nghèo.
7. Họ cũng đã và đang tạo thuận lợi, để những người Công giáo vùng sâu vùng xa được có nhà thờ, có Thánh lễ.
8. Tôi có cảm nhận là họ đang cộng tác với Chúa trong việc cứu độ con người.
9. Họ được Chúa dùng như những người cộng tác với Chúa, vì họ khiêm nhường và yêu thương. Sự khiêm nhường và yêu thương nơi họ cũng do ơn Chúa ban, và đã được họ đón nhận với thiện tâm chân thành. Họ biết đau cái đau của người khác. Biết chịu khổ thay người khác.
10. Chính tôi đã thấy nhiều người trong họ đã âm thầm giúp đỡ Hội Thánh Chúa được phát triển, nước tình yêu Chúa được lan rộng.
11. Từ kinh nghiệm trên đây, tôi tự bảo mình rằng: Chúa làm những sự lạ lùng, mình không nên đặt giới hạn cho lòng thương xót Chúa.
Xưa, Phaolô là kẻ hăng say bắt đạo, nhưng rồi đã trở nên kẻ nhiệt thành mở đạo. Đúng là Chúa làm những sự lạ lùng. Xưa đã thế, nay cũng vậy.
12. Thú thực, là chính tôi cũng đã được nhiều người trong họ khích lệ, để tin vào Chúa. Có lúc, tôi như chán sống, vì quá khổ đau xác hồn, thì xuất hiện một người nào đó ngoài Công giáo, đã âm thầm an ủi tôi hãy tin vào Chúa.
13. Đúng là Chúa đã làm những sự lạ lùng. Lúc này, hơn bao giờ hết, Chúa hay nhắc cho tôi điều này: Thánh Giuse đang làm những phép lạ một cách thầm lặng tại Việt Nam hôm nay.
14. Thánh Giuse cũng đang làm nhiều phép lạ một cách thầm lặng nơi tôi lúc này.
15. Tôi không thể diễn tả được bằng lời nói. Tôi chỉ xin hết lòng phó thác nơi Chúa giàu lòng thương xót mà thôi.
16. Tình hình càng diễn biến phức tạp, chúng ta càng cần tìm đến Thánh Giuse. Hãy theo gương Ngài, bước theo Chúa một cách thầm lặng.
Thầm lặng, nhưng cầu nguyện và phó thác, hy sinh quên mình.
17. Một điều lạ lùng mà Thánh Giuse đã làm cho tôi, khiến tôi ngỡ ngàng, đó là cách Ngài giúp đỡ tôi.
Ngài giúp đỡ tôi một cách rất tế nhị, Ngài lo chăm sóc tôi qua nhiều người đơn sơ, kín đáo quên mình.
18. Rất nhiều khi, tôi vừa tỏ ý cảm ơn Ngài, thì lập tức Ngài chỉ vào Đức Mẹ và Chúa Giêsu. Ngài tỏ ý khuyên tôi hãy nhớ cảm ơn Đức Mẹ và Chúa Giêsu. Còn Ngài, thì xin rút vào bóng tối.
Ngài luôn tỏ ý khuyên tôi hãy khiêm tốn để Chúa đổi mới tôi mỗi ngày , mỗi giờ, mỗi phút, theo hướng vâng phục thánh ý Chúa. Thánh ý Chúa là Tổ Quốc Việt Nam được bình an, hạnh phúc của Chúa nhờ khiêm tốn đổi mới trong ơn Chúa.
Mấy ngày nay, lúc nào tôi cũng được nghe cảnh báo về một tình hình diễn biến phức tạp:Từng Bùi-Tuần 2068
1. Mấy ngày nay, lúc nào tôi cũng được nghe cảnh báo về một tình hình diễn biến phức tạp:Từng giờ số người lây nhiễm đại dịch tăng, Từng giờ số người tử vong do đại dịch tăng, Từng giờ số người mất niềm tin tăng.
2. Thấy vậy, tôi lo buồn, nhìn lên Chúa. Chúa an ủi tôi, bằng cách cho tôi nhớ lại cảnh Chúa xưa đã khóc thương thành Giêrusalem: “Đã bao lần Ta muốn tập họp con cái ngươi lại, như gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu”. (Lc 13,34)
3. Nhưng lúc này, một số con cái Chúa đang chịu để cho tình xót thương Chúa ấp ủ. Và đó là niềm hy vọng.
4. Chính tôi đang được nếm sự ngọt ngào của niềm hy vọng đó.
5. Thực vậy, tôi đang được tình xót thương Chúa ấp ủ, bằng nhiều cách như: Qua tình Mẹ Maria, Qua tình thương của thánh Giuse, Qua tình hiệp thông của Hội Thánh, Qua tình liên đới của các phong trào đạo đức, Qua tình đồng bào của các tấm lòng chân thành gần xa, Qua tình người của cả nhân loại.
6. Khi tôi để mình được tình xót thương Chúa ấp ủ qua rất nhiều nguồn tình thương như thế, tôi mới thấy sự ấm áp của tình xót thương Chúa dành cho tôi quả là huyền diệu, quả là lạ lùng.
7. Từ đó tôi nhìn đâu cũng có Chúa, đâu cũng lóe sáng nguồn hy vọng. Và trong ánh sáng niềm hy vọng đó, tôi mới hiểu rõ hơn những lời khuyên sau đây của thánh Phaolô.
8. “Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên anh em hãy hiến dâng mình làm của lễ sống động, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người.
Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo.” (Rm 12, 1- 2)
9. Thánh Phaolô nhấn mạnh đến ơn biết phân định. Đó là điều rất cần cho chúng ta lúc này.
10. Thực vậy, lúc này hơn bao giờ hết, tôi thấy đang bùng nổ nhiều sáng kiến đạo đức, do cá nhân và do phong trào. Nếu không có ơn phân định, thì những nhiệt tình đạo đức đó có thể sẽ chỉ gây rối cho Hội Thánh Chúa mà thôi.
11. Riêng tôi, với ơn phân định, tôi sống hiện nay thế này:
Tất cả đời của tôi đều được coi là một của lễ dâng lên Chúa. Của lễ đó cốt yếu là niềm tin. Tôi tin ở Chúa. Nên tôi phó thác mình cho Chúa. tôi sống như của lễ. Tôi sẽ chết như của lễ.
12. Thực sự, Chúa đã nhận tôi là của lễ. Nên Chúa cứu tôi, Chúa che chở tôi, Chúa ấp ủ tôi, Chúa chữa lành tôi.
13. Tôi được là của lễ hèn mọn. Nhiều người cũng đang được như thế. Đó là điểm lóe sáng niềm hy vọng, giữa thời sự đầy chuyển biến phức tạp.
14. Đức Mẹ và thánh Giuse cũng đang vui mừng dâng tôi lên Chúa như của lễ hèn mọn.
15. Thánh nữ Têrêsa thành Lisieux hay kể cho tôi chuyện Ngài đã sống như của lễ một cách đơn sơ bằng những việc lành âm thầm hằng ngày.
16. Ai sống như của lễ, thì Chúa thấy rõ. Họ sẽ được Chúa cứu. Họ sẽ được Chúa dùng để cứu nhiều người khác.
17. Vì thế, lời cầu chúc năm mới tôi xin gửi tới mọi người là: Hãy sống như của lễ.
Tết đang tới. Đối với tôi, một việc tôi cho là hết sức quan trọng, cần thực hiện đầu năm mới, đó Bùi-Tuần 2069
1. Tết đang tới.
Đối với tôi, một việc tôi cho là hết sức quan trọng, cần thực hiện đầu năm mới, đó là lãnh nhận Phép Lành của Chúa, để Phép Lành của Chúa sẽ đem lại cho tôi sự bình an, và giúp tôi biết góp phần xây dựng bình an cho những người khác.
2. Chính Đức Mẹ soi sáng cho tôi như thế. Tôi vâng ý Đức Mẹ mà cầu nguyện.
3. Cầu nguyện theo ý Đức Mẹ là hãy cầu nguyện như Chúa Giêsu đã dạy xưa, theo gương người thu thuế khiêm nhường, chứ đừng theo gương người Pharisiêu kiêu ngạo.
4. Người Pha-ri-sêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.”
5. Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.”
6. Rồi, Chúa Giêsu kết luân: “Người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” (Lc 18, 11- 14)
7. Thế là đã rõ ràng.
Nếu tôi muốn lãnh nhận Phép Lành của Chúa thì điều đầu tiên tôi phải làm là rất khiêm nhường.
Tôi cần sám hối.
8. Khi tôi thực tình sám hối, thì Chúa thương ban cho tôi được bình an, và thực tình muốn chia sẻ sự bình an đó cho nhiều người khác.
9. Tự nhiên tôi hiểu sám hối chân thành là điều kiện cần, để đón nhận Phép Lành của Chúa.
Chứ không phải là kể công và cảm tạ về những công đó.
10. Tới đây tự nhiên tôi nhớ tới Đức Cha Cố Micae Nguyễn Khắc Ngữ.
Lần nào vào phòng Ngài để thăm Ngài, thì cũng thấy tay ngài cầm tràng hạt Mân côi.
Ngài có lần nói với tôi: “Khi lần chuối Mân côi, tôi thích đọc đi đọc lại Kinh: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội.”
“Nhận mình là kẻ có tội” sẽ cảm thấy được an ủi, được an toàn. Ngài tha thiết nhắc đến việc sám hối và đền tạ.
11. Theo gương Đức Cha Cố, tôi vẫn tập làm quen như vậy, và chính lúc đó, tôi nhận được Phép Lành của Chúa.
12. Rất may là hiện giờ nhiều người cũng đang để ý đến sám hối và đền tạ. Như điều kiện để đón nhận Phép Lành của Chúa.
13. Sám hối, đền tạ dưới nhiều hình thức đang đổi mới Hội Thánh chúng ta.
14. Người nào, nơi nào thực tình sám hối, đền tạ, sẽ nhận được Phép Lành của Chúa, như những trận mưa hoa hồng mầu nhiệm có sức cứu độ.
15. Riêng tôi, tôi hết lòng cảm tạ Đức Mẹ đã và đang giúp tôi nhận mình là kẻ có tội, để xin Mẹ thương cầu thay nguyện giúp cho tôi.
Tôi thấy mình được Phép Lành của Chúa ủi an, cứu chữa trong tình thương Chúa giàu lòng thương xót vô biên vô bờ.
16. Rất có thể tôi đang nhận được Phép Lành của Chúa qua những người hiện giờ sống sám hối và đền tạ rải rác trong Hội Thánh Việt Nam nói chung và trong giáo phận của tôi nói riêng. Họ âm thầm mà mạnh mẽ.
17. Rất có thể tôi cũng đang nhận được Phép Lành của Chúa qua những tâm hồn lúc này sống sám hối và đền tạ ẩn khuất ngoài Hội Thánh Công giáo. Họ chân thành và can đảm.
18. Rất có thể nhiều người xa gần đang nhận được Phép Lành của Chúa qua nếp sống sám hối và đền tạ của tôi, cho dù nếp sống đó vẫn còn yếu ớt.
19. Sống sám hối và đền tạ, đó là những việc đạo đức cần nhấn mạnh lúc này, vì tình hình đang diễn biết rất phức tạp và nguy hiểm. Chúa Thánh thần sẽ giúp chúng ta thực hiện những việc khó khăn đó.
Thời kỳ này đang như bầu trời u ám. Đâu đâu cũng lo chống đại dịch. Ngay mấy ngày Tết cũng Bùi-Tuần 2070
1. Thời kỳ này đang như bầu trời u ám. Đâu đâu cũng lo chống đại dịch. Ngay mấy ngày Tết cũng như chìm trong dòng thời sự lo buồn.
2. Riêng tôi càng thấy thấm sâu nỗi buồn, do già yếu bệnh nạn.
3. Trong thực tế đó, tôi được Đức Mẹ nhắc cho tôi nhớ lại lời Chúa Giêsu đã phán xưa.
“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.
Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng.
Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng”. (Mt 11,28- 30)
4. Tôi tin vào lời Chúa. Với niềm tin đơn sơ, mạnh mẽ và trong tay Đức Mẹ tôi đến với Chúa Giêsu.
5. Tôi trút mọi gánh nặng của tôi vào trái tim Chúa Giêsu. Tôi tin tưởng phó thác, cầu nguyện, sám hối.
6. Dần dần tôi cảm thấy lòng tôi nhẹ nhàng.
Cảm nhận đầu tiên rõ nhất là tôi thấy mình được ơn tha thứ. Chúa cho tôi thấy rõ tôi là kẻ tội lỗi, nay được Chúa tha thứ. Ơn tha thứ đó được tôi cảm nhận là rất huyền diệu.
7. Càng được tha thứ, tôi càng thích trở nên khiêm nhường và hiền từ. Tôi hiểu đạo đức chủ yếu là biết đón nhận.
Sự khiêm nhường và hiền từ lôi cuốn tôi lúc đó là từ trái tim Chúa Giêsu.
8. Chính sự khiêm nhường và hiền từ đó của Chúa mới là dấu ấn của những ai được Chúa thứ tha.
9. Chính sự khiêm nhường và hiền từ đó do Chúa ban cho mới là sức mạnh thiêng liêng có thể cứu tôi và mọi người trong thời kỳ khốn khó hiện nay.
10. Chính sự khiêm nhường và hiền từ đó từ Chúa chia sẻ cho, đã giúp cho tôi cảm thấy những khổ đau tôi gặp phải lúc này có thể trở thành nhẹ nhàng, êm ái.
11. Từ những cảm nhận trên đây, tôi coi sự khiêm nhường và hiền từ do Chúa ban cho, đúng là những ơn rất quí, rất cần cho thời kỳ nguy hiểm hiện nay.
12. Được Chúa bồi dưỡng cho sự khiêm nhường và hiền từ, đó là việc Chúa đang làm cho nhiều tâm hồn hiện nay.
13. Tôi thấy Chúa đang làm việc đó không phải chỉ trong Hội thánh Công giáo, mà còn làm một cách lạ lùng việc đó trong nhiều tín ngưỡng tại Việt Nam hôm nay.
14. Tại Việt Nam hôm nay, tôi thấy nhiều người vô tôn giáo, nhưng mọi người đều có tín ngưỡng.
15. Với tín ngưỡng của riêng mình mọi người đều mang nặng tâm thức cầu nguyện.
16. Và trong tâm thức cầu nguyện, rất nhiều người coi trọng sự khiêm nhường và hiền lành, xem đó như những giá trị nhân bản có sức cứu độ.
17. Thú thực là nhiều người trong họ đã khích lệ tôi sống khiêm nhường và hiền lành. Chúa đang dùng họ, để bồi dưỡng tôi về mặt đạo đức, thế mới lạ. Việc Chúa làm, ta sao hiểu nổi.
18. Tóm lại, hãy khiêm nhường và hiền lành, như Chúa Giêsu đã nói và đã nêu gương. Đó là cách diệt các thứ virút về kiêu căng và độc ác là những virút cực kì nguy hiểm.
19. Khi tôi vừa viết tới đây, thì bỗng dưng tôi nhìn lên. Tôi ngạc nhiên như thấy thánh Giuse đứng cạnh tôi. Ngài khiêm nhường và hiền lành, thầm lặng.
20. Ngài gửi tặng tôi Lộc Xuân Tân Sửu. Lộc đó là khiêm nhường và hiền lành. Xin hết lòng cảm tạ thánh Giuse.
Một việc Đức Mẹ đã luôn dạy tôi, đó là sám hối. Hãy sám hối không chỉ trong Mùa Chay, mà hãy Bùi-Tuần 2071
1. Một việc Đức Mẹ đã luôn dạy tôi, đó là sám hối. Hãy sám hối không chỉ trong Mùa Chay, mà hãy sám hối suốt đời.
2. Sám hối, mà Đức Mẹ luôn nhắc bảo tôi là hãy điều chỉnh lại tâm hồn mình cách riêng ở nét bao dung.
3. Như Chúa đã luôn bao dung đối với tôi là kẻ có tội, thì tôi cũng hãy bao dung đối với mọi người như vậy.
4. Hôm nay, nhìn lại cuộc đời mình, tôi thấy tôi được như bây giờ, là nhờ Chúa đã bao dung vô bờ bến dành cho tôi.
5. Tôi được như bây giờ cũng nhờ một lịch sử dài đầy bao dung đã chấp nhận tôi, đã đỡ nâng tôi.
6. Đức Mẹ dạy tôi bao dung là không loại trừ. Cho dù có ai loại trừ tôi, tôi cũng không vì thế mà tôi loại trừ họ. Bởi vì tôi tin vào Lời Chúa.
7. Chúa phán: “Anh em nghĩ sao? Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao? Và nếu may mà tìm được, thì Thầy bảo thật anh em, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc.
Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.”(Mt 18, 12-14).
8.
Tôi xác tín tôi là con chiên lạc được Chúa tìm về trong tình yêu đầy bao dung của Chúa. Để cảm tạ Chúa, tôi phải bao dung đối với mọi kẻ lầm lạc, như Chúa đã làm cho tôi. Nhưng trên thực tế, tôi đã nhiều lần thiếu bao dung đối với họ. 9.
Vì thế, trong sám hối, tôi thường được Đức Mẹ nhắc bảo về bổn phận phải bao dung.
10.
Vâng ý Đức Mẹ, tôi xét mình, và thấy đúng là tôi đã lỗi lầm về bao dung. Để sửa mình về thiếu sót đó, tôi thấy tôi rất cần ơn Chúa giúp. Ơn Chúa sẽ giúp tôi biết khiêm nhường, hiền từ là những đức tính dọn đường cho bao dung. 11.
Ơn Chúa giúp tôi bao dung, cũng qua nhiều gương sáng gần gũi với tôi.
12. Ở đây, tôi chỉ xin nhắc đến vài gương sáng thân thương nhất, đó là Đức Cố Hồng y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận, và Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp. Hai Phanxicô đó đã là những tấm gương lôi cuốn tôi về bao dung. Không những các ngài đã lôi cuốn tôi, mà còn đã và đang lôi cuốn nhiều người khác, để biết sống bao dung.
13. Đức Mẹ đang cho tôi thấy hiện tình đời đạo là rất nguy hiểm. Thiếu bao dung, đó là thứ vi-rút cực kỳ nguy hại, mà quỷ Satan đang tung ra, để phá nhân loại, nhất là để phá Nước Thiên Chúa.
14. Trong Phúc âm Thánh Marcô, Chúa Giêsu nói đơn sơ thế này: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” (Mc 1,15).
15. Chúa kêu gọi sám hối, và tin vào Tin Mừng. Tôi hiểu ý Chúa là sám hối hiện giờ cần phải nhấn mạnh đến việc mở lòng mình ra, mà sống bao dung. Và tin vào Tin Mừng là nhấn mạnh đến Chúa Giêsu, Người là Tin Mừng, đầy tình yêu thương xót, bao dung.
16. Sám hối về bao dung, đó là sứ điệp Đức Mẹ gửi tới tôi và mọi người. Tôi tận tình thực thi sứ điệp đó.
17. Ngày nào cũng vậy, lúc nào cũng vậy, để thực thi sứ điệp sám hối về bao dung, mà Đức Mẹ gửi cho tôi, tôi luôn cầu xin Đức Mẹ giúp đỡ tôi.
18. Đức Mẹ dạy tôi là hãy dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Ngài đang đốt lên khắp nơi trong Hội Thánh ngọn lửa sám hối về bao dung. Tuy âm thầm, ngọn lửa sám hối đó đang đổi mới rất nhiều linh hồn, đặc biệt là những linh hồn có lòng mộ mến Thánh Giuse.
19. Tôi hãy khiêm tốn đi theo họ.
Thực sự, khi khiêm tốn đi theo họ, mà sám hối dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, tôi cảm nhận được niềm vui sám hối là rất lạ lùng.
20. Sám hối đem lại niềm vui. Bởi vì sám hối mang lại sự sống, hy vọng và sự ngọt ngào của tình Chúa xót thương.
21. Đức Mẹ dạy tôi: bao dung thực chất luôn đi liền với khôn ngoan, sáng suốt, đặc biệt là với ơn phân định của Chúa Thánh Thần.
22. Nghĩa là sẽ có những thứ bao dung giả. Vì thế, mà chúng ta rất cần tỉnh thức và cầu nguyện theo gương Thánh Giuse.
Đã lâu rồi, Chúa hay hỏi tôi: “Gioan, con đang ở đâu?” Tôi thưa: “Lạy Chúa, con đây. Con đang Bùi-Tuần 2072
+ GB. Bùi Tuần
1. Đã lâu rồi, Chúa hay hỏi tôi: “Gioan, con đang ở đâu?” Tôi thưa: “Lạy Chúa, con đây. Con đang cùng với Đức Mẹ, đứng dưới chân thánh giá treo Chúa bị đóng đinh.”
2. Rồi từ trên thánh giá, Chúa Giêsu nhắc lại cho tôi những lời xưa Chúa đã nói về chính Ngài:
“Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” (Ga 10, 11)
“Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình.” (Ga 10, 18)
3. “Hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên”, đó là danh hiệu Chúa Giêsu nói về chính mình. Và Chúa muốn tôi và các môn đệ của Chúa cũng hãy là như thế.
4. Lúc này, hơn bao giờ hết, danh hiệu hy sinh mạng sống mình để cứu người khác đang vang dội khắp nơi trong đạo ngoài đời.
5. Hy sinh mạng sống mình để cứu người khác cũng đang là sứ điệp khẩn thiết Chúa gửi tới tôi các môn đệ Chúa, ngay tại Việt Nam này.
6. Nhiều người đang trả lời Chúa: “Lạy Chúa, con đây.” Tôi cũng cùng với họ mà trả lời như thế: “Lạy Chúa, con đây.”
7. Một cách đặc biệt, Đức Mẹ dưới chân thánh giá, đang khích lệ tôi cũng hãy tin tưởng mà thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con đây.”
Thú thực là, tính tự nhiên của tôi vốn sợ hy sinh mạng sống mình. Vì thế, tôi hết lòng van xin Đức Mẹ giúp tôi.
Trong tay Mẹ, tôi đang trả lời: “Lạy Chúa, con đây.”
8. Dần dần, tôi cảm nhận được ơn muốn hy sinh mạng sống mình trong chỗ đứng lúc này của tôi là rất lạ lùng.
9. Xin dựa trên thực tế đơn giản của tôi. Tôi được sống gần gũi với Đức Cố Giám mục Micae Nguyễn Khắc Ngữ. Ngài là người luôn hy sinh mình để cứu đoàn chiên. Hy sinh của ngài là lối sống khó nghèo, lối sống khiêm nhường, lối sống tha thứ.
Ngài luôn chết đi cho chính mình để cứu đoàn chiên. Ngài luôn đứng dưới cây thánh giá treo Chúa Giêsu, để thưa cùng Chúa: “Lạy Chúa, con đây.”
10. Tôi may mắn được đến Ars, viếng thánh Gioan Vianney, Cha sở Ars. Cha thánh Gioan Vianney là người luôn hy sinh mình để cứu đoàn chiên. Hy sinh của Ngài là nếp sống khó nghèo, khiêm tốn, khắc khổ.
Ngài luôn chết đi cho chính mình, để cứu đoàn chiên. Ngài luôn sống bên thánh giá Chúa, để luôn nói với Chúa: “Lạy Chúa, con đây.”
11. Tôi cũng đã và đang gặp được nhiều Giám mục, Linh mục có cuộc sống mang đậm nét hy sinh, để cứu đoàn chiên của mình.
12. Tôi xác tín khi các vị đó thực sự thao thức sống đời hy sinh như thế, sẽ là công cụ Chúa dùng để cứu Hội Thánh hiện giờ đang lâm cảnh nguy khốn.
13. Riêng tôi, tôi sợ hãi mình sẽ lừa dối mình và lừa dối kẻ khác, nếu tôi tưởng tôi đang hy sinh mạng sống mình để cứu đoàn chiên. Không, tôi rất yếu đuối. Tôi cậy trông vào Chúa. Người là Cha giàu lòng thương xót. Chính Chúa đã, đang và sẽ cứu tôi.
14. Hơn nữa, tôi xác tín: Rất nhiều người đang hy sinh cho tôi, để nâng đỡ tôi, để cứu tôi.
Tôi không hy sinh cho họ, nhưng họ hy sinh cho tôi, một cách âm thầm, một cách quảng đại, một cách thường xuyên.
15. Với những tâm tình trên đây, tôi dâng mình cho Chúa Giêsu trên thánh giá. Người ban phép lành cho tôi. Tôi được bình an một cách lạ lùng.
16. Bình an lạ lùng nhất mà tôi cảm nhận là thấy Đức Mẹ luôn ở bên tôi. Ngày nào Mẹ cũng dạy tôi về yêu thương và hy sinh. Yêu thương mà không hy sinh là yêu thương giả. Hy sinh mà không yêu thương là hy sinh thừa.
17. Đức Mẹ dạy tôi: yêu thương và hy sinh là những giá trị thiêng liêng cao quý, cần phải học mỗi ngày. Mẹ tha thiết kêu gọi các con cái Mẹ hãy thành thực sám hối về lối sống thiếu yêu thương và hy sinh đang lây lan trầm trọng tại nhiều nơi hiện giờ.
Trước khi tắt thở, Chúa Giêsu hấp hối trên thánh giá, khi thấy thân mẫu và người môn đệ Ngài Bùi-Tuần 2073
1. Trước khi tắt thở, Chúa Giêsu hấp hối trên thánh giá, khi thấy thân mẫu và người môn đệ Ngài thương yêu đang đứng bên cạnh, Người đã nói với thân mẫu: “Thưa Bà, đây là con Bà.” Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của con.” Kể từ đó, người môn đệ rước Đức Mẹ về nhà mình. (Ga 19, 26-27)
2. Một cách riêng tư, Chúa Giêsu cũng đã trối Đức Mẹ cho tôi, và trao tôi cho Đức Mẹ.
Từ đó, tôi sống với Đức Mẹ một cách tha thiết đơn sơ. Đơn sơ tha thiết là thái độ của tôi đối với Đức Mẹ, và cũng là thái độ của Đức Mẹ đối với tôi.
3. Đơn sơ tha thiết của tôi là tôi luôn nhận mình là kẻ yếu đuối, tội lỗi, rất cần đến Đức Mẹ để đón nhận ơn Chúa cứu độ.
4. Thực sự là như vậy. Giữa đám đông những người tội lỗi, tôi thấy mình được Chúa xót thương, nhờ Đức Mẹ cầu bầu chở che, nâng đỡ.
Từ đó, tôi hiểu, sống đơn sơ tha thiết với Đức Mẹ chủ yếu là hãy biết đón nhận tình thương của Mẹ.
5. Nghĩa là đừng quá lo lắng mình phải làm gì cho Mẹ, mà hãy quan tâm đón nhận những gì Mẹ dành cho tôi.
6. Riêng tôi, biết đón nhận nơi Mẹ được thực hiện bằng nhiều cách. Có lúc là giơ tay ra về phía Mẹ. Có lúc là nắm lấy tay Mẹ. Có lúc là ôm chặt lấy Mẹ.
7. Vì rất yếu đuối, nên tôi thường ôm chặt lấy Mẹ. Khi tôi ôm chặt lấy Mẹ, tôi đã đón nhận được rất nhiều điều có sức giúp tôi thoát khỏi những gian nan phần hồn phần xác.
8. Trong tâm tình đơn sơ tha thiết, Đức Mẹ hay dạy tôi về sám hối. Để dạy tôi về sám hối, có lúc chính Đức Mẹ cùng sám hối với tôi.
9. Trong sám hối, Mẹ hay dạy tôi hãy nhìn vào máu Chúa Giêsu và nước mắt của Mẹ. Lúc đó, tôi cảm nhận thấy rất rõ sám hối là việc hết sức cần thiết, để cứu tình hình hiện nay.
10. Sẽ là một lựa chọn sai đầy nguy hiểm, nếu lúc này chúng ta tránh né sám hối, và thay vào đó là những việc đạo đức khác, không hợp với thánh ý Chúa.
11. Tôi có cảm tưởng là nhiều đồng bào Việt Nam thuộc nhiều tín ngưỡng cũng đang ý thức điều đó. Sám hối đang trở thành dấu ấn của ơn cứu độ.
12. Hiện giờ, thời sự cho thấy những gian nan phần xác phần hồn đang càng ngày càng thêm phức tạp, càng thêm nguy hiểm, càng thêm bất ngờ.
13. Trong một tình hình bất ổn như vậy, Chúa giàu lòng thương xót đang kêu gọi các con cái Chúa hãy chạy lại với Đức Mẹ.
14. Sống đơn sơ tha thiết với Đức Mẹ đối với tôi, chủ yếu là nhờ Mẹ mà sửa mình, mà trở về với Chúa, mọi ngày, mỗi giờ, mỗi phút.
15. Thực vậy, Mẹ luôn dạy tôi sống vâng phục thánh ý Chúa, tuân giữ những gì mình đã tuyên hứa với Chúa trước mặt Hội Thánh.
16. Có Đức Mẹ ở bên mình trong bầu khí đơn sơ tha thiết, đó là hạnh phúc cao quý, tôi phải bảo vệ bằng cầu nguyện và tỉnh thức.
17. Nếu chẳng may có lúc hạnh phúc đó bị yếu đi hay bị mất, thì tôi rất cần sám hối xin ơn trở về. Đức Mẹ chẳng bao giờ từ chối ơn đó với đứa con yêu của Mẹ.
18. Có Đức Mẹ ở bên mình, tôi xác tín tôi có thể sinh lợi ích cho nhiều người khác, cho Hội Thánh, cho quê hương Việt Nam yêu dấu của tôi.
19. Đến muôn đời, tôi cảm tạ Chúa đã cho tôi được là con của Đức Mẹ. Tôi thành thực cầu chúc ơn cao quý đó cho mọi người mà Chúa xót thương.
Lúc này hơn bao giờ hết, tôi cảm thấy mệt mỏi khác thường. Thân xác thì như tan nát rã rời Bùi-Tuần 2074
1. Lúc này hơn bao giờ hết, tôi cảm thấy mệt mỏi khác thường. Thân xác thì như tan nát rã rời. Chỗ nào cũng đau. Tâm hồn thì sợ hãi, lo âu.
Tôi xin Đức Mẹ cứu tôi. Đức Mẹ dạy tôi hãy nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá.
2. Tôi nhìn lên, thì gặp Chúa Giêsu đang nhìn tôi. Ngài không nói gì. Ngài chỉ nhìn tôi với cái nhìn tha thiết.
3. Tôi cảm nhận được, cái nhìn âu yếm đó gởi tới tôi rất nhiều tình thương cứu độ.
4. Tình thương cứu độ là cứu tôi khỏi những nguy nan ngặt nghèo hồn xác.
5. Tôi cảm thấy mình được an ủi, được cam đảm, được tin tưởng phó thác.
6. Cái nhìn của Chúa Giêsu có một sức thiêng rất lạ lùng. Vì thế, cầu nguyện đối với tôi lúc này là tập trung nhìn lên Chúa Giêsu.
7. Tôi nhìn lên Chúa, và gửi vào Chúa tất cả sự thực về cuộc sống tôi, một cuộc sống đầy yếu đuối, tội lỗi.
8. Khi nhìn vào cái nhìn của Chúa nhìn tôi, tôi cảm nhận được phần nào sức thiêng chữa lành Chúa dành cho tôi.
9. Từ kinh nghiệm đó, tôi cũng đã nhận ra được phần nào sức thiêng của cái nhìn nơi nhiều môn đệ Chúa.
Ở đây, tôi chỉ xin được nhắc đến vài nhân vật. Trước là Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
Tôi được may mắn gặp gỡ Ngài nhiều lần. Lần nào cũng vậy, Ngài chỉ nhìn tôi và nói: “Cha biết con rồi. Con đừng quá lo. Hãy tin cậy vào Chúa.”
Cái nhìn của Ngài chuyển gửi sang tôi sự bình an của Chúa.
10. Nhân vật thứ hai, mà tôi xin được đề cập đến, đó là Đức cố Hồng y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận.
Ngài và tôi rất thân nhau. Mỗi lần gặp nhau, Ngài hay nhìn tôi một cách tha thiết và nói: “Hãy nhìn vào Chúa và đặt hy vọng vào Ngài. Đừng sợ.” Cái nhìn của Ngài trấn an tôi.
11. Thú thực là hiện giờ, tôi cũng đang được hạnh phúc gặp được nhiều người có một cái nhìn chuyển gửi sức thiêng cứu độ.
12. Từ những kinh nghiệm trên đây, tôi khao khát một sự đổi mới sâu xa hơn trong lĩnh vực mục vụ, phụng vụ, và truyền giáo.
13. Khi tôi nhìn được cái nhìn của Chúa đang nhìn tôi, thì tôi khám phá thấy một bầu trời huyền diệu về tình yêu thương xót Chúa.
14. Xưa trên đồi Calve, Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá. Cùng bị đóng đinh với Người, quan Philatô cho đóng đinh hai kẻ trộm cướp. Một người bên hữu. Một người bên tả.
15. Một lúc bất ngờ, người bị đóng đinh bên hữu Chúa liếc nhìn sang Chúa Giêsu, thì thấy Chúa đang nhìn anh.
16. Lập tức, anh sám hối. Anh nói với anh bị đóng đinh bên trái rằng: “Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” Rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” Và Chúa nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” (Lc 23, 41-43)
17. Kẻ trộm bị đóng đinh bên hữu Chúa Giêsu đã nhìn Chúa Giêsu. Cái nhìn của anh gặp cái nhìn của Chúa dành cho anh. Anh cảm động, đã sám hối, và đã được Chúa cho lên Thiên Đàng.
18. Tôi mong tôi cũng được như anh. Có một lúc, tôi nghe Đức Mẹ nói với tôi: “Mẹ đã cầu cho anh ta thế nào, thì cũng cầu cho con như vậy.”
19. Thế là một kẻ tội lỗi như tôi đã đón nhận ơn cứu độ qua Đức Mẹ. Thú thực là có lúc tôi đã than thở: “Cha ơi, sao Cha nỡ bỏ rơi con?” (Mc 15, 34). Tôi cảm thấy cô đơn, sợ hãi. Nhưng rồi, tôi đã được ủi an nhờ Đức Mẹ. Đức Mẹ đang cứu tôi như đã cứu anh tội phạm bị đóng đinh bên hữu Chúa.
Đến muôn đời, tôi hết lòng cảm tạ Chúa vì ơn được Đức Mẹ cứu tôi.
Vấn đề quan trọng nhất đang đặt ra cho tôi lúc này là thái độ trước những thử thách. Bởi vì thực tế Bùi-Tuần 2075
1. Vấn đề quan trọng nhất đang đặt ra cho tôi lúc này là thái độ trước những thử thách.
Bởi vì thực tế lúc này của tôi là đang chơi vơi giữa muôn vàn khốn khổ, mà tôi gọi là thử thách.
2. Những khốn khổ đó ập tới, chứ tôi đâu có chọn.
Tôi xin Chúa xót thương tôi, thì Chúa chỉ trả lời: “Hãy vượt qua thử thách nhờ Đức Mẹ.”
3. Vâng ý Chúa, tôi van xin Đức Mẹ giúp tôi, thì tôi được Đức Mẹ an ủi một cách dịu dàng tha thiết:
“Con ơi, bị thử thách là con đường Chúa Giêsu đã đi, để cứu loài người. Chịu thử thách cũng là con đường Mẹ phải vượt qua, để cứu nhân loại, trong đó có con.”
4. Con đường thử thách là con đường tất yếu phải đi, để về Thiên Đàng.
5. Con hãy cùng với Chúa Giêsu và Mẹ vượt qua con đường đó. Con không vượt qua một mình, nhưng hãy vượt qua cùng với Mẹ và Chúa Giêsu.
6. Trên con đường thử thách, tôi đã nếm nhiều vị đắng của thân phận con người, nhưng nhờ Đức Mẹ, tôi cảm nhận những vị đắng đó lại có chất an thần do tình yêu xót thương của Chúa.
7. Chúa cho tôi hiểu những lợi ích của con đường thử thách:
Nào là để thanh luyện, Nào là để đào tạo, Nào là để cứu giúp người khác.
8. Đề cập đến việc vượt qua con đường thử thách, để cứu người khác, tôi sực nhớ tới Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp.
Ngài vượt qua con đường thử thách bằng sự Ngài tự nguyện chết thay cho đoàn chiên.
9. Gương sáng đó của Ngài soi sáng cho tôi hãy biết chết thay cho những kẻ thuộc về mình.
10. Có nhiều cách chết thay cho kẻ khác. Chúa Thánh Thần sẽ dạy cụ thể. Quan trọng là chết thay một cách thực sự. Chứ nếu chỉ là biểu diễn, thì sẽ mất hết mọi công phúc.
11. Hiện giờ, trong đạo ngoài đời, không thiếu những người tự nguyện chết thay cho kẻ khác. Họ làm việc đó một cách âm thầm, coi đó như một ơn gọi Chúa tặng ban, chỉ cần Chúa thấy mà thôi.
12. Và họ coi đó như là một thái độ cầu nguyện.
13. Xin hết lòng cảm ơn những ai đang cầu nguyện cho tôi như vậy.
14. Riêng tôi, tôi tận tình cầu chúc ơn đó cho mọi người dịp lễ Phục Sinh này.
Phục Sinh như vậy là vượt qua con đường thử thách.
15. Nhưng tôi rất yếu đuối, nên tôi thường thầm cầu nguyện theo bài hát quen thuộc này.
“Xin thương đỡ nâng con suốt cuộc đời, vì ngoài Chúa con đâu có ai nương nhờ. Chúa biết con đây bao yếu đuối. Đường đời muôn gian nguy giăng lối. Chúa là đường dẫn soi trên trần. Xin dắt dìu về ánh Thiên Nhan.
Chúa biết tâm tư con héo úa. Ngày và đêm con kêu van Chúa. Chúa là nguồn sáng tươi hy vọng. Xin cứu hồn khỏi chốn hư vong.
Hãy giúp con kiên trung đoan hứa. Trọn đời con xin dâng hiến Chúa. Dưỡng nuôi con sống trong thánh tịnh. Kính tiến Người bài hát tôn vinh.”
16. Như vậy, đời tôi đang được trở thành lời cầu nguyện dâng lên Chúa. Một lời cầu không hệ tại số lượng, mà hệ tại ở phẩm chất, nhờ vâng phục thánh ý Chúa mà vượt qua con đường thử thách.
17. Một điều quan trọng tôi không bao giờ quên, đó là khi vượt qua con đường thử thách, bao giờ tôi cũng ôm chặt lấy Đức Mẹ, để cùng với Mẹ, tôi đón nhận ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần.
18. Đúng là phải có ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần, tôi mới biết ứng xử với những thử thách.
19. Đối với tôi, hầu như ngày nào cũng có thử thách mới, do xác thịt, do thế gian, nhất là do ác quỷ. Nhờ Chúa Thánh Thần, tôi sẽ tỉnh táo nhận ra, để biết tránh được những lựa chọn tự gây ra hậu quả khủng khiếp cho mình và cho bao người khác. Với tâm tình trên đây, tôi cúi mình đón nhận phép lành Phục Sinh của Chúa.
Xưa, sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ của Ngài. Lần nào hiện Bùi-Tuần 2076
1. Xưa, sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ của Ngài. Lần nào hiện ra, Chúa Phục Sinh cũng đều chào các môn đệ của Ngài bằng lời: “Bình an cho các con.”
2. Nay, Chúa Phục Sinh cũng đã nhiều lần đến với tôi. Lần nào gặp tôi, Chúa Phục Sinh cũng đều nói: “Bình an cho con.”
3. Qua lời chúc đó, Chúa Giêsu cho tôi hiểu: Bình an mà Ngài chúc cho tôi là sự tôi được tha thứ. Nếu tôi biết đón nhận ơn Chúa thứ tha, thì tôi sẽ được bình an.
4. Ơn tha thứ giúp tôi nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi, cần được Chúa thứ tha.
5. Nhìn nhận mình tội lỗi là yếu tố cần, để tôi đón nhận ơn bình an của Chúa.
6. Lúc đó, tôi càng nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi, thì tôi càng cảm nhận Chúa gần tôi. Bởi vì tôi tin Lời Chúa phán xưa: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần.” (Mt 9, 12)
7. Hiểu như vậy, nên khi Chúa Phục Sinh cho tôi nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi cần được tha thứ, thì tôi không còn ray rứt nữa, mà thấy có đường để giải cứu, để được an tâm, con đường đó là tin cậy nơi tình yêu thương xót Chúa.
8. Tình yêu thương xót của Chúa không những tha thứ cho tôi, mà còn ôm ấp, che chở tôi và tín nhiệm ở tôi.
9. Xưa, Chúa Phục Sinh đã nói với các môn đệ của Ngài: “Bình an cho các con, như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con.” (Ga 20, 21)
Nay, Chúa Phục Sinh cũng nói với tôi như vậy. Ngài sai tôi đi.
10. Không những Chúa Phục Sinh đã nói như thế với tôi, mà Ngài cũng nói như thế với nhiều môn đệ khác của Ngài.
11. Hiểu như vậy, nên tôi biết nương tựa vào các anh em khác trên con đường được Chúa sai đi.
12. Tôi thấy số người đang được Chúa sai đi, và đang nương tựa vào nhau, hiện giờ không phải là quá ít.
13. Họ vẫn lên đường. Đường họ đi là tin cậy vào Chúa. Riêng tôi, trên đường làm chứng cho Chúa, tôi đã gặp được Chúa trên khắp mọi nẻo đường. Như:
14. Lời Chúa Các Bí tích Phụng vụ Mục vụ Tu đức
15. Ngoài ra, tôi đã gặp được Chúa trong nhiều môi trường, như: Môi trường Văn học, Nghệ thuật Môi trường Thiên nhiên Môi trường Chính trị, Kinh tế.
16. Nhất là tôi đã gặp được Chúa trong các con người gần xa, mà Chúa gửi đến với tôi. 17.
Tôi được gặp Chúa như thế hằng ngày hằng đêm.
18. Tôi gặp Chúa trong ý thức, trong tiềm thức, trong vô thức.
19. Tôi gặp Chúa, hay Chúa đến gặp tôi, tôi không biết. Nhưng tôi phân định rất rõ Satan làm mọi cách để không có gặp gỡ giữa Chúa Phục Sinh và tôi.
20. Nhưng nó càng tìm cách phá, thì Đức Mẹ càng ra tay che chở chúng tôi.
21. Chúng tôi vẫn là dụng cụ bình an của Chúa, như lời Kinh Hòa Bình khẳng định.
Lạy Chúa từ nhân,
Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa Ðể con đem yêu thương vào nơi oán thù, Ðem thứ tha vào nơi lăng nhục Ðem an hoà vào nơi tranh chấp, Ðem chân lý vào chốn lỗi lầm. Ðể con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng, Ðể con rọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu.
Lạy Chúa xin hãy dạy con:
Tìm an ủi người hơn được người ủi an, Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. Ôi Thần Linh thánh ái xin mở rộng lòng con, Xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí ơn an bình.
22. Thế là dù sống dù chết, chúng ta đều được gặp gỡ Chúa Phục Sinh. Ngài ban cho chúng ta ơn bình an. Ngài sai chúng ta đi xây dựng an bình.
Tôi được thụ phong Giám mục đúng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ngày đó bầu khí miền Nam rất Bùi-Tuần 2077
1. Tôi được thụ phong Giám mục đúng ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Ngày đó bầu khí miền Nam rất hoang mang. Ngày đó tôi lại đang đau yếu.
Nhưng, trong thầm lặng, tôi đã nhận được từ Chúa Giêsu một niềm vui thiêng liêng, mà chính Ngài đã nói ra trước cuộc tử nạn của Ngài.
2. Niềm vui đó gồm hai yếu tố.
Một là vâng phục thánh ý Chúa Cha. “Lương thực của tôi là làm theo ý Cha tôi đã sai tôi.” (Ga 4,34)
Hai là “những người Cha đã trao cho con, con không để mất một ai.” (Ga 18,9)
3. Niềm vui gồm hai yếu tố trên đây của Chúa Giêsu đã được Chúa Giêsu chia sẻ cho tôi một cách nhẹ nhàng mà sâu lắng.
Niềm vui thiêng liêng đó vẫn còn rất mạnh trong tôi.
4. Niềm vui thiêng liêng đó trở thành lời cầu nguyện hằng ngày của tôi.
5. Thực vậy, hằng ngày lúc nào tôi cũng cầu xin Chúa cho tôi được vâng theo ý Chúa.
6. Hằng ngày lúc nào tôi cũng cầu xin Chúa đừng để một ai trong những người Chúa trao cho tôi phải hư mất.
7. Cầu xin như vậy là một cách sống thân mật với Chúa.
Chính Chúa dẫn tôi vào cuộc sống thân mật đó, mà Chúa gọi là ở lại trong Chúa.
“Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái.” (Ga 15,5)
8. Thân mật là ở lại.
Đã từ lâu rồi, tôi coi sự ở lại trong Chúa là hạnh phúc của tôi.
Ngài ở lại trong tôi. Nhất là trong khát vọng, trong thao thức, để tôi được cùng với Ngài đi về Thiên Đàng, mãi mãi ở lại đó trong tình yêu của Chúa.
9. Tôi xác tín: Sống như vậy không những chỉ có lợi cho tôi mà thôi, nhưng cũng có lợi rất nhiều cho đồng bào của tôi, cho Đất nước của tôi.
10. Bởi vì, nhờ sống như vậy, mà tôi yêu Tổ quốc Việt Nam của tôi một cách sâu sắc và bền vững, giữa dòng lịch sử luôn đổi thay do nhiều yếu tố.
11. Lịch sử càng đổi thay, thì chúng ta càng cần có một hướng sống vững vàng đứng trong hàng ngũ những người môn đệ Chúa.
12. “Người ta cứ dấu này, mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con thương yêu nhau.” (Ga 13,35)
13. “Hãy thương yêu nhau, như thầy đã yêu thương các con.” (Ga 15,12)
14. Những tâm tình trên đây đang là sức mạnh đẩy tôi tới Đức Mẹ. Gặp Mẹ, tôi được Mẹ ôm chặt lấy tôi, Mẹ cho tôi nhớ lại việc Chúa Giêsu đã gửi gắm tôi cho Mẹ, và ban cho tôi được là con của Mẹ.
15. Từ đó, Mẹ luôn đồng hành với tôi, luôn chia sẻ cuộc sống với tôi. Đặc biệt, Mẹ trở thành niềm vui và hy vọng cho tôi. Nhiều lúc, tôi cảm thấy Mẹ là nơi tôi ẩn náu.
Tình Mẹ dành cho tôi thực là dạt dào, tế nhị.
16. Lúc này hơn bao giờ hết, tôi rất cần đến Mẹ. Có Mẹ, tôi cảm thấy an tâm giữa dòng đời đầy sóng gió.
17. Cho dù thân phận mong manh, yếu đuối, nhưng có Mẹ, tôi vẫn cảm thấy vui và vững tâm đi về cõi sau.
18. Tôi không giữ Mẹ cho một mình tôi, mà luôn đưa Mẹ tới rất nhiều người, để họ cũng được hạnh phúc là con của Mẹ, như tôi đang được hạnh phúc tuyệt vời đó.
19. Thế là tôi và chúng ta cùng được Mẹ che chở, nâng đỡ, ủi an trong tình thương cứu độ.
20. Tới đây, tôi nhận thức sâu xa ơn gọi của tôi không đơn giản chút nào.
Tôi tha thiết xin Đức Mẹ trả ơn bội hậu cho những người đã nâng đỡ tôi, để tôi sống ơn gọi đó. Tôi cúi mình đón nhận phép lành của Chúa do Hội Thánh trao ban.
Ngày 30/4/1975, tại Nhà nguyện Tòa Giám mục này, tôi đã được thụ phong Giám mục. Giờ phút Bùi-Tuần 2078
1. Ngày 30/4/1975, tại Nhà nguyện Tòa Giám mục này, tôi đã được thụ phong Giám mục.
Giờ phút đó, tôi cảm nhận sâu sắc mình rất yếu đuối cả phần xác lẫn phần hồn.
Cảm nhận đó càng ngày càng rõ, bởi vì sự thực đời tôi đúng là yếu đuối, rất yếu đuối. Có những yếu đuối gây nên đau khổ cho chính mình và cho người khác.
2. Vì thế, những ngày này, nhìn về hành trình 46 năm Giám mục, tôi tha thiết xin Chúa cho tôi biết đón nhận ơn tha thứ.
Cùng với sự tha thứ của Chúa, tôi cũng đón nhận sự tha thứ của mọi người tôi có trách nhiệm.
3. Khi tôi tha thiết xin Chúa ơn tha thứ, thì tôi tin nhận Chúa là tình yêu, giàu lòng thương xót. Người sẽ giúp tôi đổi sự yếu đuối của tôi thành lòng tin cậy ở Chúa.
4. Và đúng thực là như vậy. Những ngày này, càng thấy mình tội lỗi, yếu đuối, tôi càng tín thác mình cho Chúa.
Tôi tin: Chúa chờ đợi tôi. Chúa đi tìm tôi. Chúa đón nhận tôi, không phải để kết án tôi, nhưng là để giải cứu tôi.
5. Tuy nhiên, lạm dụng lòng thương xót Chúa sẽ là một xúc phạm.
6. Ở đây, tôi xin phép nói lên điều này: Khi đón nhận tha thứ và cho đi tha thứ, Đức Mẹ dạy tôi hãy luôn tìm vâng ý Chúa, cho dù ý Chúa là khổ đau, là gian nan khốn khó.
7. Khi ban cho tôi ơn tha thứ, Chúa cho tôi biết là tôi cũng hãy theo gương Chúa mà tha thứ cho những kẻ khác.
8. Thế là tôi hiểu tâm tình mà Chúa muốn tôi nên có trong dịp mừng Kỷ niệm 46 năm Giám mục, đó là:
Đón nhận tha thứ Và cho đi thứ tha.
Chính Chúa ban cho tôi tâm tình đó. Tâm tình đó đang giúp tôi được an tâm trên đường phấn đấu cho sự thiện.
9. Với tâm tình đó, tôi xin dừng lại chia sẻ về tôi, để được cùng với cộng đoàn, cầu nguyện cho Tổ quốc Việt Nam yêu dấu của chúng ta trong ngày hàn gắn những vết thương lịch sử, để tới thống nhất, bình an, hạnh phúc, và để có khả năng vượt qua những thử thách mới. Xin hết lòng cảm tạ Chúa. Xin thân ái cảm ơn anh chị em. Amen.
+ GB. Bùi Tuần
Long Xuyên, những ngày trước 30.4.2021
+ GB. Bùi Tuần (Long Xuyên 26-4-2021) Mừng ngày 30.4.2021
Được sự khích lệ của Đức Giám mục Giáo phận, tôi xin chia sẻ vắn tắt tâm tình của tôi trong Thánh Bùi-Tuần 2079
1. Anh chị em thân mến, Được sự khích lệ của Đức Giám mục Giáo phận, tôi xin chia sẻ vắn tắt tâm tình của tôi trong Thánh lễ hôm nay, kỷ niệm 46 năm Giám mục.
2. Tâm tình của tôi là cảm tạ Chúa. Suốt 46 năm qua, Chúa đã ban cho tôi muôn vàn ơn trọng đại.
3. Ở đây, tôi chỉ xin nhắc tới một ơn, mà tôi coi là cao quí nhất. Ơn đó là Chúa đã cho tôi được gặp Chúa giàu lòng thương xót.
4. Thực vậy, suốt đời Giám mục của tôi, tôi luôn được gặp Chúa giàu lòng thương xót, nhất là trong nội tâm sâu thẳm.
5. Hầu như mọi ngày, mọi giờ, mọi phút, tôi đều được gặp Chúa. Chúa đến với tôi với dung mạo tình yêu thương xót. Chúa đến, để nói với tôi 04 điều sau đây.
6. Một là Chúa đã nhận tôi + là con của Chúa. + là môn đệ của Chúa + là người được Chúa sai đi.
7. Hai là Chúa đã thấy tôi yếu đuối, + điều tốt muốn làm thì lại không làm, + điều xấu không muốn làm thì lại làm. (Rm 7,18)
8. Ba là + Chúa đã giúp tôi sám hối và tha thứ cho tôi + Chúa đã giải cứu tôi + Chúa không ngừng đổi mới tôi.
9. Bốn là Những người đã và đang cộng tác với Chúa, để nâng đỡ tôi là một số không nhỏ. Họ thuộc mọi thành phần. Tấm lòng của họ là những quán trọ tình thương, mà tôi không bao giờ sẽ quên.
10. Do vậy, mà tôi sống trong bầu khí thao thức về Chúa. Tôi không đặt chương trình cho Chúa, nhưng chính Chúa chủ động đặt chương trình cho tôi.
11. Thực vậy, tôi luôn xác tín. + Tôi thuộc về Chúa. + Tôi đi về với Chúa. + Tôi luôn được cùng với Đức Mẹ đứng dưới cây Thánh giá.
12. Và như vậy, tôi an tâm phục vụ Hội Thánh và Tổ Quốc Việt Nam của tôi. Tôi an tâm, khi phục vụ là sẵn sàng hy sinh chính mình và ngoan ngoãn để Chúa thanh luyện tôi.
13. An tâm nhất là vận mệnh của tôi ở đời này và ở đời sau chắc chắn ở trong tay Chúa là Đấng quyền năng, là Đấng xót thương, là Cha yêu dấu của tôi.
14. Trên đây là vắn tắt bản tuyên xưng đức tin riêng tư của tôi.
Xin anh chị em tiếp tục nâng đỡ tôi. Chúng ta sẽ lại cùng nhau lên đường, để loan báo Chúa là tình yêu thương xót. Hãy tuyệt đối tín thác ở Chúa. Tín thác ở Chúa là gặp được Chúa, là ở lại trong Chúa. Đó là hạnh phúc. Đó là bình an vững bền. Amen.
+ GB, Bùi-Tuần
Long Xuyên, những ngnày trước 30.4.2021
Hôm nay là ngày thứ bảy trong tuần phụng vụ, ngày dành cho Đức Mẹ. 2. Hôm nay cũng là ngày Bùi-Tuần 2080
1. Hôm nay là ngày thứ bảy trong tuần phụng vụ, ngày dành cho Đức Mẹ.
2. Hôm nay cũng là ngày đầu tháng 5 dương lịch, tháng quen gọi là tháng dâng hoa kính Đức Mẹ.
3. Là người con của Mẹ, tôi coi hôm nay là dịp để tôi gần lại Mẹ hơn.
4. Được ở bên Mẹ, tôi được Mẹ dạy dỗ một điều quí giá đó là vinh quang Chúa dành cho tôi lúc này.
5. Vinh quang đó là được thông phần vào thánh giá Chúa Giêsu.
6. Xưa, trên núi Sọ, Đức Mẹ đứng dưới chân thánh giá Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Chính tại nơi đó, trong giờ phút đó, Đức Mẹ đã thông phần vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu.
Mẹ coi đó là một vinh quang lớn lao Chúa dành cho Mẹ.
7. Nay, trong giờ phút tôi trong tình trạng đau đớn cả phần xác phần hồn, Đức Mẹ dạy tôi hãy thông phần vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Hãy coi đó là vinh quang.
8. Vinh quang của tôi là thập giá Đức Kitô.
Nhờ sự dạy dỗ trên đây của Đức Mẹ, tôi đã nhận ra ánh sáng giữa thời sự đầy bóng tối.
9. Không phải chỉ tôi mới nhận ra điều đó, mà rất nhiều con cái Mẹ khắp nơi cũng đang cảm nhận được sâu sắc sự thực đó.
10. Đức Mẹ cho tôi một thoáng nhìn về họ.
Tôi và họ, chúng tôi đang khám phá ra một nguồn ơn thánh cứu độ, từ thánh giá Chúa Giêsu.
11. Càng cầu nguyện, càng suy niệm, thì càng được đi sâu vào mầu nhiệm thánh giá Chúa.
Ở đó, có tình yêu, có xót thương, có cứu độ.
12. Ở đó có ủi an, có đỡ nâng, có hy vọng, có thứ tha.
13. Nhìn sâu vào cuộc sống hiện nay, tôi thấy cuộc sống hiện nay đang trôi nổi giữa muôn vàn sóng gió. Có nhiều thử thách lớn, có nhiều bất ngờ đau đớn.
14. Những người có đức tin nhìn cuộc sống này như một tiếng gọi đánh thức lương tâm.
Họ đang nhận ra ơn cứu độ đến từ thánh giá Chúa Kitô.
15. Riêng tôi, tôi nghe rất rõ tiếng Mẹ nói trong tôi: “Con hãy thay đổi trái tim con. Hãy đón nhận thánh giá Chúa Giêsu. Đó mới là sáng kiến Chúa dành cho con.”
16. Để được như thế, Mẹ khuyên tôi hãy gắn bó với Hội Thánh, khiêm tốn và trung thành với những người đại diện cho Hội Thánh, và quảng đại hiệp thông với đại gia đình Hội Thánh.
17. Tất cả chúng tôi đang cùng tuyên xưng:
“Vinh quang của chúng ta là thập giá Đức Kitô.”
18. Về việc dâng hoa kính Đức Mẹ, thì theo sự gợi ý của Đức Mẹ, tôi sẽ để ý dâng cho Mẹ những bông hoa thiêng liêng có mùi thơm hy sinh.
19. Những bông hoa đó sẽ bé nhỏ, lặng lẽ, như thánh nữ Têrêsa thành Lisieux đã quen dâng suốt đời mình. Thánh nữ luôn ôm vào mình Chúa Giêsu chịu đóng đinh vào thập giá. Đó là vinh quang của thánh nữ. Thánh nữ đã làm theo gương Đức Mẹ.
20. Thật là đã rõ vinh quang Chúa dành cho tôi, cho chúng ta. Đừng ảo tưởng những vinh quang khác, kẻo sẽ khốn khổ cho mình và cho kẻ khác. Thời điểm này có nhiều cạm bẫy. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện.
Xin Mẹ thương giúp chúng ta trở thành những bông hoa đẹp, mang vinh quang thập giá Chúa Kitô.
5. Nhìn rộng thêm, tôi thấy Hội Thánh của tôi trong mọi thời và khắp mọi nơi, đều coi sám hối là dấu ấn đích thực của người tin theo Chúa.
6. Đã hẳn, người ta có thể nói về nhiều dấu chỉ để nhận ra ai là người tin theo Chúa.
Nhưng khi những dấu chỉ đó bị phai mờ, bị mất phẩm chất, thì dấu chỉ cần có để cứu mình, chính là sám hối.
7. Sám hối, sám hối và sám hối, đó là điều Đức Mẹ luôn nhắc nhở, mỗi lần hiện ra, ở bất cứ đâu.
8. Sám hối, sám hối và sám hối, đó là điều Phụng vụ Thánh lễ kêu gọi ngay đầu Thánh lễ.
9. Sám hối, sám hối và sám hối, đó là việc tôi thực hiện mỗi ngày và từng giờ.
10. Đó là cách tôi được Chúa cho tôi được kết hợp với Chúa Giêsu, như cành cây nho với thân cây nho.
11. Sám hối, mà tôi nói đây, đã đem lại cho tôi sự sống mới đầy bình an, hy vọng và hương vị ngọt ngào của lòng thương xót Chúa.
12. Sám hối, sám hối đang là con đường dẫn tới sự cứu độ cho nhân loại hôm nay.
13. Tới đây, tự nhiên tôi nhớ tới Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ngài đã để lại nơi tôi ấn tượng sâu sắc về sám hối.
Ngài đã khiêm tốn nói lên lời này: “Hôm này, tôi, Giáo Hoàng của Hội Thánh Rôma, nhân danh tất cả mọi người Công giáo, tôi xin lỗi vì những sai lầm chúng tôi đã làm cho những người không Công giáo qua dòng lịch sử bị khuấy động của những dân tộc này thời chiến tranh giữa các tôn giáo.” (Tháng 5, 1995; tại Cộng Hòa Tiệp Khắc)
14. “Chúng tôi không ngừng xin lỗi những người da đen Nam Mỹ, về tội những người da trắng Công giáo đã đẩy họ xuống thân phận nô lệ.” (21/10/1992)
15. Hơn nữa, sám hối còn là biết tha thứ. Như Đức Gioan Phaolô II đã tha thứ cho kẻ mưu sát Ngài.
16. Như vậy, sám hối là tha lỗi, là nhận lỗi, và xin tha lỗi, về những lỗi lầm trong dòng lịch sử Hội Thánh, lỗi riêng mình, lỗi chung tập thể. Đó là điều Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã dạy tôi.
17. Sám hối như thế đã và đang trở thành sức thiêng hàng đầu, mà nhân loại cần đến lúc này, để được giải cứu.
18. Sám hối, biết sám hối, đó là điều tôi tha thiết xin mọi người cầu xin Chúa cho tôi, cho mọi người, nhất là cho các môn đệ Chúa tại Việt Nam hôm nay.
Bao giờ cũng vậy, khi tình hình trở nên phức tạp, tôi lại nghe Hội Thánh nhắn nhủ các người tin Bùi-Tuần 2082
1. Bao giờ cũng vậy, khi tình hình trở nên phức tạp, tôi lại nghe Hội Thánh nhắn nhủ các người tin theo Chúa: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện.”
“Hãy tỉnh thức và cầu nguyện” đó là Lời Chúa.
2. Thời điểm này, Lời Chúa “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện” đang vang dội tha thiết trong các lương tâm. Lý do là vì: “Ngày kinh hoàng đang như một chiếc lưới bất thần chụp xuống mọi người.” (Lc 21,34b)
3. Lưới Trời, đó là hình ảnh chính Chúa Giêsu đã dùng. Lưới trời đã chụp xuống, thì không ai thoát được. Nhưng Chúa cho biết, những ai tỉnh thức và cầu nguyện, sẽ được Chúa cứu.
4. Những lời cảnh báo trên đây đang làm cho tôi vừa sợ, vừa hy vọng.
5. Tôi sợ, khi nhìn thời sự lúc này đang như tạo nên một chiếc lưới trời chụp xuống khắp nơi, gây tang tóc.
6. Nhưng tôi hy vọng, khi thấy lưới trời đó cũng có thể trở thành lưới tình thương.
7. Xưa, Chúa cho tiên tri Giêrêmia thấy số phận của một người, của một địa phương, của một dân tộc, đều ở trong tay Chúa, như nắm đất trong tay thợ gốm.
8. Nay, bằng nhiều cách, Chúa cũng đã và đang nhắc bảo tôi là số phận của tôi nằm trong tay Chúa. Cho dù tôi có tội lỗi tới đâu, Chúa vẫn có thể làm cho tôi trở thành con người sám hối, trở về với Chúa.
9. Nhưng, Chúa đòi tôi một điều để được Chúa cứu, đó là hãy tỉnh thức và cầu nguyện.
Đúng là như vậy.
10. Tỉnh thức và cầu nguyện, đó là cách tôi đón nhận và cho đi. Tôi thường đơn giản hóa đời sống đạo của tôi trong từ phục vụ. Một là biết cảm ơn những người phục vụ tôi. Hai là biết khiêm tốn phục vụ những người khác. Nghĩa là biết đón nhận và biết cho đi.
11. Tới đây, tôi nhớ tới người cha mến thương của tôi, tức là Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Tôi được hạnh phúc gặp gỡ Ngài rất nhiều lần.
12. Lần nào cũng vậy, Ngài rất chăm chú lắng nghe những gì tôi chia sẻ với Ngài, trong các lãnh vực đời đạo, như Triết học, Giáo phụ học, Tu đức, Mục vụ, Truyền giáo.
13. Và lần nào cũng vậy, Ngài vẫn chia sẻ cho tôi những vui buồn và hy vọng của Ngài trong cương vị Giáo Hoàng.
14. Đón nhận và cho đi, đó là hai điều Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã dành cho tôi một cách hồn nhiên và thắm thiết.
15. Từ những cảm nghiệm trên đây, tôi có một kết luận, đó là Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đúng là con người tỉnh thức và cầu nguyện.
16. Tôi xin cầu chúc mọi người hãy trở thành con người tỉnh thức và cầu nguyện.
Xin mọi người cũng thương cầu nguyện cho tôi được luôn là con người tỉnh thức và cầu nguyện.
17. Qua kinh nghiệm cuộc sống, tôi thấy nhờ tỉnh thức và cầu nguyện, tôi mới biết phân định tốt xấu, và mới biết có những chọn lựa ứng xử thường ngày.
18. Nhưng tỉnh thức và cầu nguyện đâu có là chuyện dễ. Đối với tôi, đó là những việc phải nhờ ơn Chúa Thánh Thần, Đức Mẹ và Thánh Giuse.
19. Thú thực là: tự sức mình, tôi không tỉnh thức và cầu nguyện được như Chúa dạy. Chính Chúa đã đánh thức tôi và cầu nguyện trong tôi.
20. Chúa đánh thức tôi bằng nhiều cách, qua nhiều người. Chúa cầu nguyện trong tôi nhờ Thánh Thần Chúa trong Hội Thánh của Người.
21. Một câu Chúa phán xưa với ông Nicôđêmô sẽ tóm tắt việc Chúa đang làm nơi tôi: “Gió thổi, mà con không biết đến từ đâu và đi về đâu. Cũng vậy, Thánh Thần Chúa can thiệp vào đời con một cách nhiệm mầu nhờ ơn thánh.” (Ga 3,8) Tôi hết lòng cảm tạ Chúa. Tôi được an tâm sống những ngày còn lại. Alleluia.
(Bài nói chuyện của Đức Cha GB. Bùi Tuần với các Linh mục tu sĩ, Tĩnh Tâm tháng 5/1991)
Tháng vừa qua, tôi đi Hà nội, dự hội nghị thường niên Hội đồng Giám mục Việt Nam. Sau đó Bùi-Tuần 2083
Tháng vừa qua, tôi đi Hà nội, dự hội nghị thường niên Hội đồng Giám mục Việt Nam. Sau đó, tôi đi thăm nhiều nơi trong và ngoài giáo phận Long xuyên. Tôi cũng đã có nhiều tiếp xúc với các loại người khác nhau.
Nhờ dịp này, tôi đã được nghe nhiều cảm tưởng về vấn đề tự do trong hành đạo. Nói chung thì có 2 loại cảm tưởng. Một loại cảm tưởng cho rằng, tại nhiều nơi, việc hành đạo chưa được tự do. Một loại cảm tưởng khác cho rằng không thiếu nơi, có nhiều tự do, nhưng một số người trong đó có cả Linh mục, tu sĩ, đã không biết sử dụng sự tự do một cách đúng đắn, trái lại, họ còn lạm dụng sự tự do cho mục đích hưởng thụ, hơn là cho mục đích phục vụ. Sự tự do đó đã được sử dụng theo hướng tục hóa, hơn là theo hướng Phúc âm hóa. Do đó, đời sống nội tâm xuống dốc, đức tin suy giảm.
Khi nghe 2 loại cảm tưởng trên đây, tôi thấy sự tự do là một thử thách lớn lao. Tình hình thiếu tự do là một thử thách để xem Đức tin và Đức ái, Đức cậy có vững mạnh không. Tình hình có nhiều tự do cũng là một thử thách, để xem Đức tin, Đức ái, Đức cậy có bị biến chất không.
Dựa trên thực tế hiện nay tại các nước có rất nhiều tự do về mọi mặt, đồng thời cũng dựa trên thực tế hiện nay tại các nơi, tại Việt Nam có nhiều cởi mở, tôi có cảm tưởng là, trong tương lai, những nguy cơ có khả năng làm suy thoái nền đạo đức con người, và đức tin sẽ nằm trong chủ-nghĩa-tự-do. Tôi hiểu chủ nghĩa tự do ở đây là chủ trương coi tự do như một giá trị cao nhất, đứng trên mọi giá trị khác, một thứ tôn sùng tự do, mà kết quả là bỏ luật Chúa, bỏ luật đạo, bỏ luật Hội thánh, bỏ luật đời tu, bỏ cầu nguyện, bỏ lời Chúa, bỏ vợ, bỏ chồng, bỏ con, bỏ luân thường đạo lý.
Tôi nghĩ rằng, Việt Nam sẽ càng ngày càng mở ra, các trào lưu tự do sẽ càng ngày càng tràn vào. Chắc sẽ không có một chủ nghĩa tự do như một hệ thống tư tưởng, nhưng sẽ có chủ nghĩa tự do như một thứ não trạng, một lối sống. Điều tôi lo ngại cho một tương lai như vậy là, nếu không được chuẩn bị kỷ, thì vô số người, kể cả các Đấng, các bậc trong Hội thánh, sẽ thỏa hiệp với “chủ nghĩa tự do thực hành” đó một cách dễ dàng. Một tình hình như vậy sẽ tệ hại cho đạo Chúa còn hơn là một tình hình thiếu tự do.
Để các trào lưu tự do không trở thành sức mạnh lôi cuốn được ta và cộng đoàn của ta về đàng xấu, trái lại, để chính ta và cộng đoàn của ta có sức mạnh thiêng liêng lái các tự do về đàng lành, thiết tưởng việc bồi dưỡng đời sống nội tâm phải được ta coi là rất quan trọng.
Ai trong chúng ta cũng biết rằng: Trong đời sống nội tâm, đức ái là căn bản. Thánh Phaolô nói: “Dù tôi nói được các thứ tiếng của loài người và của các Thiên thần, nếu tôi không có đức ái, thì tôi chỉ là người khua chuông gõ trống. Dù tôi nói tiên tri, dù tôi thấu suốt mọi mầu nhiệm và mọi khoa học, hay dù tôi có đức tin mạnh mẽ khiến được núi non di chuyển, nếu tôi không có đức ái, thì tôi chỉ là hư vô. Dù tôi phân phát mọi của cải tôi cho người nghèo khó, dù tôi hy sinh để chịu lửa thiêu đốt, nếu tôi không có đức ái, thì những hy sinh ấy cũng thành vô ích” (I Cor 13,1-3).
Khi nhận thức một cách xác tín đức ái là căn bản, chúng ta tự nhiên muốn đức ái nơi ta được bồi dưỡng tốt, để trở nên trong sáng, phong phú và vững mạnh. Một trong những dịp may để bồi dưỡng đức ái là những lời Kinh thánh Chúa nhật tuần này, tức Chúa nhật thứ sáu/ năm B, sau Chúa nhật Phục sinh. Tôi xin trình bày một số gợi ý rút ra từ những bài Kinh thánh đó.
Điểm gợi ý thứ nhất: Chúa thương ta trước khi ta mến Chúa.
Trong thư thứ nhất, thánh Gioan Tông đồ đã viết: “Tình yêu Chúa là thế này: Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta trước và đã sai Con Một Người đến hy sinh, đền tội thay cho chúng ta” (I Giõ 4,10). Rồi trong bài Phúc âm, thánh sử Gioan cũng đã ghi lại lời Chúa Giêsu phán: “Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con và sai các con đi” (Gioan 15,16).
Với những lời trên đây, Chúa dạy ta rằng: Vị chủ động trong tình yêu giữa Chúa và ta là chính Chúa. Chúa ban ơn đức ái, còn ta là kẻ lãnh nhận. Chính Chúa cứu ta khỏi tình trạng không yêu mến Chúa.. Đức ái khởi đi từ sự biết mình nghèo nàn, bất xứng.
Điểm gợi ý thứ hai: Hãy lãnh nhận và sống ơn yêu mến Chúa bằng cách tập trung lòng tin mến, vâng phục vào Đức Kitô, như trung tâm điểm.
Trong bài Phúc âm, Chúa Giêsu phán: “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu chúng con tuân lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy” (Gio 15,9). “Ở lại” là một thái độ gắn bó, thái độ trung thành. Sự trung tín với Đức Kitô và Phúc âm của Ngài là một đòi hỏi thường xuyên của nền tu đức, để ta trở thành Kitô hữu đích thực, người có Chúa Kitô trong mình.
Điểm gợi ý thứ ba: Để lãnh nhận và sống ơn yêu mến Chúa, ta cần nhạy bén trước mọi hướng dẫn của Chúa Thánh Thần đối với những người ngoại giáo.
Bài trích sách Tông đồ công vụ lễ Chúa nhật này cho thấy: Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên nhiều người ngoại giáo. Thấy vậy, thánh Phêrô đã không ngần ngại Rửa tội cho họ (CV.10).
Sự nhạy bén như thế trước các hướng dẫn của Chúa Thánh Thần sẽ không tách rời khỏi sự khiêm tốn và bác ái cởi mở, nhất là trong những trường hợp làm ta bỡ ngỡ, sửng sốt, như trường hợp ông Cornêliô và các người ngoại giáo được ơn Chúa Thánh Thần.
Điểm gợi ý thứ bốn là: Để lãnh nhận và sống ơn yêu mến Chúa ta cần yêu thương nhau.
Trong bài Phúc âm Chúa nhật này, Chúa phán: “Đây là lệnh truyền của Thầy là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Gio 15,12). Từ “Như” ở đây là quan trọng. Hãy yêu thương kẻ khác, như Chúa đã thương ta. Chúa đã thương ta bằng tình yêu cứu độ, ta cũng cần thương kẻ khác bằng tình thương có tính cách cứu độ.
Thiết tưởng bốn điều gợi ý trên đây, nếu được ta thực hiện tốt, sẽ giúp ta sống đức ái một cách trong sáng và bình an, dù trong tình hình có nhiều tự do, dù trong tình hình thiếu tự do.
Trái lại, nếu những điều kiện trên đây không được thực hiện tốt, tôi e rằng các cuộc lễ tôn giáo của ta sẽ dần dần bị biến chất, để trở thành cuộc mítting, đình đám, biểu diễn, phô trương. Rồi chính bản thân con người tu của ta cũng sẽ bị tục hóa, với những lo lắng chạy theo tiếng khen danh vọng, địa vị, quyền chức, tiền bạc và cuộc sống cộng đoàn cũng sẽ trở nên nặng nề, hời hợt do thiếu đức ái chân thật đối với Chúa và đối với tha nhân.
Đức Mẹ Maria là người đã thực hiện bốn điều gợi ý trên:
-Đức Mẹ đã tạ ơn Chúa vì Chúa đã đoái nhìn đến thân phận hèn mọn của Mẹ. Mẹ biết mình nghèo hèn.
-Đức Mẹ đã tập trung vào Đức Kitô, Mẹ nói ở Cana: “Anh chị em hãy làm những gì con tôi truyền dạy”.
-Đức Mẹ đã cộng tác với Chúa Thánh Thần, khi Mẹ chịu thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần.
-Đức Mẹ đã yêu mến tha nhân. Mẹ đi thăm bà Isave, Mẹ cầu bầu với Chúa ở Cana. Mẹ đồng công cứu chuộc loài người.
Đức ái của Đức Mẹ là gương mẫu cho ta. Xin Mẹ cho ta được thông hiệp vào đức ái của Mẹ.
(Bài nói chuyện của Đức Cha GB. Bùi Tuần với các Linh mục tu sĩ, Tĩnh Tâm tháng 6/1991)
Tại Việt Nam, từ mấy năm nay có ba hiện tượng lớn đang lan rộng. Một là hiện tượng kinh tế Bùi-Tuần 2084
Tại Việt Nam, từ mấy năm nay có ba hiện tượng lớn đang lan rộng. Một là hiện tượng kinh tế phát triển, hai là hiện tượng tôn giáo phát triển, ba là hiện tượng đạo đức phát triển.
Trước ba hiện tượng phát triển này, mọi người có đạo nói chung, và các linh mục tu sĩ nói riêng đều tỏ vẻ vui mừng. Tất nhiên, sự vui mừng đó là chính đáng.
Tuy nhiên, để sự vui nừng đó đừng trở thành ngây thơ đến mức nguy hại, tôi xin chia sẻ với anh em linh mục và tu sĩ vài nhận xét sau đây:
* Nhận xét thứ nhất là tại nhiều nơi, kinh tế đang trên đà phát triển, nhưng đạo đức lại đang trên đà xuống dốc.
Nói một cách bình dân, thì kinh tế phát triển là có thêm nhiều tiền bạc, của cải và nhiều phương tiện để cuộc sống được đầy đủ hơn, được thoải mái hơn, không bị thua kém trong một xã hội cạnh tranh đi lên các bậc thang sung túc.
Cũng nói một cách bình dân dễ được mọi người chấp nhận: Thì đạo đức là vẻ đẹp tâm hồn do các đức tính tốt, nhất là sự biết sống với gia đình, bè bạn, đồng bào, nhân loại một cách lương thiện, tình nghĩa, công bình bác ái.
Nếu để ý một chút, thì thấy ngay quan niệm về sự phát triển kinh tế không bị ràng buộc vào sự phát triển đạo đức.
Hơn nữa, vì muốn phát triển kinh tế với bất cứ giá nào, nhiều người đã chối bỏ đạo đức, hoặc tạm gác đạo đức sang một bên.
Từ mấy tháng nay, báo chí Việt Nam đã nhiều lần lên tiếng báo động. Biết bao nhiêu cơ quan và cá nhân đã phát triển kinh tế bằng cách phát triển tội lỗi như dối trá, lừa đảo, chèn ép, bỏ vạ cáo gian, bán rẻ lương tâm. Biết bao gia đình khi nghèo túng, thì yêu thương đùm bọc nhau, nhưng khi có của thì ganh ghét nhau, xa nhau, tìm cách hại nhau. Biết bao nhiêu tội ác chỉ xảy ra ở những thành thị kinh tế phát triển, chứ không hề xảy ra ở các miền quê nghèo túng.
Nói thế, không có nghĩa là tôi không khuyến khích phát triển kinh tế. Trái lại, tôi coi việc phát triển kinh tế là một phương tiện hữu ích trong việc xây dựng đất nước và trong mục vụ truyền giáo. Nhưng điều tôi muốn nói ở đây, là những người có trách nhiệm đào tạo con người không nên quá đơn giản trong vấn đề đánh giá con người và phát triển kinh tế. Đừng tưởng hễ nghèo là dễ đi vào con đường tội lỗi. Cũng đừng tưởng hễ kinh tế lên là đạo đức cũng dễ đi lên.
Tôi chưa thấy ai dám quả quyết rằng: Một tu viện giàu có là một tu viện dễ sống đạo đức hơn một tu viện nghèo. Nhưng tôi thấy rất rõ thái độ cảnh giác của Chúa Giêsu đối với những ai phát triển sự giầu có mà không phát triển đạo đức, nhất là đối với người nghèo. Dụ ngôn người phú hộ và người ăn mày Lazarô nói lên thái độ ấy.0 Thái độ cảnh giác như thế của Chúa Giêsu có lúc đã tăng cường độ, đến nỗi Ngài không ngại đưa ra một hình ảnh khủng khiếp: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào thiên đàng”. Khi nhớ tới lời trên đây của Chúa, tôi thực sự lo ngại cho những ai quá đề cao việc phát triển kinh tế, mà coi nhẹ việc phát triển đạo đức.
* Nhận xét thứ hai là tại nhiều nơi tôn giáo đang trên đà phát triển, nhưng đạo đức lại đang trên đà xuống dốc.
Tất nhiên ở đây, tôi muốn nói về tôn giáo theo một nghĩa đã được phổ biến từ lâu, ngay tại các nước có nhiều tôn giáo khác nhau. Theo nghĩa này, thì tôn giáo là một tổ chức được hình thành do sự liên kết những cá nhân có ba đặc điểm sau đây:
1. Tin tưởng vào một giá trị, mà họ cho là tuyệt đối, thí dụ hạnh phúc đời sau.
2. Liên hệ với một quyền lực thiêng liêng mà họ coi là ở trên họ.
3. Thực hiện một số lễ nghi theo công thức được chuẩn nhận.
Theo cách hiểu này, thì nội dung một tôn giáo gồm những tin tưởng, những lễ0 nghi, và sự tùng phục thần quyền. Ba yếu tố trên đây, tất nhiên mang tính chất đạo đức đối với thần linh, thần quyền của tôn giáo đó, nhưng chưa chắc đã mang tính chất được người ngoài đạo coi là đạo đức đối với gia đình, bè bạn, đồng bào, nhân loại. Tôn giáo nào muốn được nhân dân một nước, một địa phương nhìn nhận là có nội dung đạo đức đối với họ, thì tất nhiên tôn giáo ấy phải tự minh chứng bằng thực tế cuộc sống cũng như bằng giáo lý.
Tra mấy tự điển xem, họ định nghĩa tôn giáo thế nào, rồi đọc mấy cuốn tiểu thuyết về tôn giáo, tôi có cảm tưởng là tôn giáo trong các tác phẩm ấy vẫn được hiểu là một thực tại có ba yếu tố kể trên, tức là những điều tin tưởng, những lễ nghi và những thần quyền. Chứ theo họ, thì tôn giáo không mang yếu tố đạo đức khách quan, càng không đồng nghĩa với đạo đức, nhất là vì đạo đức thời nay được nhấn mạnh đến các mối tương quan công bình bác ái trong các liên đới.
Chẳng may, trên thực tế, rất nhiều nơi, nhiều người có đạo cũng chỉ lo phát triển ba yếu tố kể trên, nghĩa là phát triển niềm tin, phát triển lễ lạy, phát triển thần quyền. Họ coi thế là đủ để tự mãn, cho là tôn giáo mình đã phát triển. Đang khi đó, các nhân đức quen thuộc nhất, như công bình, bác ái, hiền lành, khiêm nhường, lại thấy vắng mặt trong đời sống đạo mà không gây áy náy gì.
Tách rời tôn giáo ra khỏi đạo đức là một sai trái trầm trọng, làm cho tôn giáo biến chất, sinh cớ cho bao người chỉ trích và ác cảm đối với tôn giáo.
Hiện tượng tách rời đạo đức ra khỏi tôn giáo được ghi nhận khá thịnh hành tại Israel thời Chúa Giêsu. Hiện tượng đó lại được những người có thế giá trong đạo thời ấy bảo vệ. Phúc Âm thánh Matthêu, đoạn 23 cho thấy các chi tiết của một cuộc sống tự đắc cho là ngoan đạo, nhưng lại thiếu đạo đức. Chúa Giêsu đưa ra 7 chi tiết. Ở đây, tôi chỉ trích lại một phần: “Khốn cho các người, hỡi các thầy thông giáo và các pharisêu giả hình, các ông phô trương đọc kinh lâu giờ, nhưng lại xâu xé nhà bà goá... Khốn cho các ngươi, hỡi các thầy thông giáo và pharisêu giả hình, các ông đi khắp nơi để tìm kẻ tân tòng, nhưng khi tìm được rồi, các ông lại làm cho kẻ đó trở nên con cái hoả ngục, xấu gấp hai các ông... Khốn cho các ông, hỡi các thầy thông giáo và các pharisêu giả hình, các ông nộp thuế thập phân về mớ rau thơm, nhưng lại bỏ những điều quan trọng nhất trong lề luật là sự công bình, lòng thương xót và đức trung tín”.
Đọc đoạn Phúc Âm trên đây, tôi thực sự lo ngại cho nhiều nơi trong Hội Thánh Việt Nam hiện nay.
* Nhận xét thứ ba là tại nhiều nơi, đạo đức đang phát triển tuy âm thầm nhưng sâu sắc, nhờ những người tốt, cố gắng sống và hoạt động theo tinh thần của Đức Kitô.
Những người đó được nhận ra ở ba đặc điểm này:
1. Họ tích cực tham gia vào các việc cứu giúp kẻ khác khỏi mọi thứ sự dữ, từ thể xác tới tâm tư, linh hồn.
2. Họ tích cực tham gia vào các việc xây dựng những tương quan hoà giải và tình thương...
3. Họ vui lòng chấp nhận từ bỏ mình để phục vụ kẻ khác, như một lễ tế cho tình yêu cao cả.
Những người tốt đó thuộc đủ mọi thành phần xã hội. Có thể họ là người Công Giáo. Có thể họ là người ngoài Công Giáo. Điều đáng nói là họ sống theo tinh thần Đức Kitô, dù có khi họ chưa biết Ngài, và với tinh thần Đức Kitô, họ coi thái độ và hoạt động đạo đức đối với người khác là những bổn phận thiêng liêng.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cho thấy mẫu người như thế nơi người Samaritanô nhân hậu đã cứu giúp một nạn nhân gặp ở vệ đường. Ông Samaritanô này là người ngoại đạo (Luca 10). Khi đề cao gương đạo đức nơi người Samaritanô ngoại đạo đó, Chúa Giêsu đã muốn lôi kéo các kẻ tin theo Chúa, hãy biết khiêm tốn nhìn nhận và kính trọng những người tốt, việc tốt, ngoài đạo của mình. Đồng thời cũng hãy biết nhạy bén trước mọi hoàn cảnh xảy ra, để làm việc đạo đức đối với những người mình gặp. Đạo đức không thể minh chứng bằng những điều cao siêu, nhưng bằng những thái độ tươi mát của tình người. Ở đây, tôi nhớ lại một câu mỉa mai trong cuốn “Tàn lụi” tiểu thuyết tôn giáo của nhà văn nổi tiếng Graham Green: “Khi một người không có gì khác để tự hào, thì anh ta tự hào về những vấn đề cao siêu của anh ta” (Tàn lụi, bản dịch của Đặng Thiền Miễn, nhà xuất bản Hội Nhà Văn 1990, trang 27).
Trong tháng sáu, chúng ta tôn sùng Trái Tim Chúa Giêsu một cách đặc biệt hơn. Trái Tim Chúa Giêsu là trường dạy đạo đức. Chúa phán: “Hãy học với Cha, vì Cha hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”. “Hãy yêu thương nhau, như Cha đã yêu thương chúng con”. Nếu mỗi ngày, mỗi người chúng ta làm được vài việc hiền lành, khiêm nhường, bác ái, đối với kẻ khác, và cũng khuyến khích cộng đoàn mình làm như thế, thì bầu khí đạo đức sẽ dần dà phát triển, làm cho đạo Chúa được sáng lên, góp phần vào việc chấn hưng đạo đức của đồng bào ta, trong giai đoạn lịch sử, mà đạo đức sẽ giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế, văn hoá, và nền thịnh vượng của đất nước ta.
Bài nói chuyện dịp tĩnh tâm linh mục tu sĩ tháng 6/1991
(Bài nói chuyện của Đức Cha GB. Bùi Tuần với các Linh mục tu sĩ, Tĩnh Tâm tháng 7/1991)
Từ ít ngày nay, dư luận trong nước và ngoài nước chú ý nhiều đến sự thay đổi nhân sự trong cấp Bùi-Tuần 2085
Từ ít ngày nay, dư luận trong nước và ngoài nước chú ý nhiều đến sự thay đổi nhân sự trong cấp lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam. đây là một sự kiện quan trọng.
Khi tiếp xúc với một số người trong các giới công giáo, tôi thấy rõ mối quan tâm của họ đối với sự kiện trên đã phát xuất từ ba nhận thức sau đây:
1. Nhân sự lãnh đạo của Đảng và Nhà Nước là nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đến sự hưng suy của nền độc lập, tự do và hạnh phúc của Đất nước.
2. Nhân sự lãnh đạo của Đảng và Nhà Nước là nhân tố có ảnh hưởng không nhỏ đến việc giữ đạo và phát triển đạo của Hội thánh Việt Nam.
3. Nhân sự lãnh đạo Đảng và Nhà Nước là nhân tố được chọn để đáp ứng nhu cầu của từng thời điểm lịch sử. Mỗi thời điểm có những nhu cầu riêng.
Ba nhận thức trên đây đang là những động lực gây nên các dự đoán về đời, về đạo, trong tương lai của qui hướng Việt Nam ta.
Tôi không có dự đoán nào cả. Tôi chỉ có hy vọng là đời sống đồng bào sẽ được thoải mái hơn về nhiều mặt trong một tình hình xã hội ổn định.
Trong hy vọng đó, tôi xin chia sẻ với anh chị em vài cảm nghĩ mục vụ của tôi về thời điểm mới này.
1/ Thời điểm mới này được hứa hẹn là sẽ có nhiều cởi mở về kinh tế và dân chủ.
Đó là một hứa hẹn hợp thời. Tôi mong rằng Đảng và Nhà nước sẽ có những chính sách thích hợp để thực hiện hứa hẹn đó một cách tốt đẹp.
Riêng tôi, đứng ở chức năng tôn giáo mà nhìn, tôi thấy sự cởi mở về kinh tế và dân chủ cần phải đi đôi với sự chấn hưng đạo đức. Kinh tế tốt có cái đạo đức của nó, dân chủ tốt cũng có cái đạo đức của nó. Nếu những giá trị đạo đức ấy và các giá trị truyền thống của nền lễ giáo Việt Nam bị coi thường, để chạy theo kinh tế vì kinh tế, dân chủ vì dân chủ, thì tôi sợ rằng hậu quả sẽ rất đáng ngại. Hoặc là sẽ có tiến về mặt kinh tế và dân chủ, nhưng sẽ có nguy cơ phá sản về đạo đức. Hoặc sẽ có suy giảm về đạo đức, nhưng nền kinh tế và dân chủ cũng chẳng đi tới đâu.
Cái hồn của một dân tộc là những giá trị thiêng liêng, nhất là nền đạo đức của nó. Khi cái hồn đó yếu đi, thì dân tộc sẽ trở thành mồi ngon của mọi thứ căn bệnh lâu dài nguy hiểm. Đừng đợi khi những căn bệnh đó đã trở thành trầm trọng mới tìm cách chữa. Lúc đó sẽ quá muộn rồi.
Để góp phần vào việc chấn hưng đạo đức rất cần trong thời điểm này, chúng ta cố gắng sống đạo đức hơn, và hãy để ý giúp giáo dân sống đạo đức hơn, nhất là về nhân đức công bình bác ái. Gương mẫu đạo đức của ta là Đức Kitô. Cần đề cao Đức Kitô. Cần tập trung vào Đức Kitô. Cần trở về với Đức Kitô.
Tới đây tôi nhớ tới bài “Des églises pour aujourd'hui” của cha Antoine Bayer, chủ tịch uỷ ban nghệ thuật-thánh địa phận Genève, đăng trong tạp chí Etudes tháng 7-8/1988. Nội dung bài báo nhằm gợi ý tác tạo và sắp đặt các đồ thánh trong nhà thờ, sao cho tinh thần tập trung vào Đức Kitô được nhận thấy rõ. Có 6 đồ thánh cần được quan tâm:
1. Tượng ảnh Chúa Giêsu chịu nạn và sống lại, nói lên nguồn hy vọng cứu độ. 2. Nhà Chầu nói lên sự Chúa Giêsu ở lại với con cái loài người cho đến tận thế. 3. Bàn thờ nói lên hy lễ cứu chuộc của Chúa Giêsu. 4. Bàn nhỏ đọc sách thánh nói lên Lời Chúa là lương thực nuôi dưỡng linh hồn. 5. Ghế chủ tọa nói lên Chúa Giêsu là Chúa chiên lành qui tụ đòan chiên. 6. Giếng nước rửa tội nói lên sự Chúa Giêsu kêu mời mọi người trở về, làm con Thiên Chúa.
Các đồ thánh trên đây, nếu được tác tạo một cách mỹ thuật và được đặt ở chổ xứng đáng, sẽ giúp cho người tín hữu tập trung vào Đức Kitô là Đường, là Sự thật và là Sự sống.
Báo chí đạo cũng cho biết thời nay đang có phong trào sinh sôi nẩy nở các thứ giáo phái phát sinh từ nguồn Thiên Chúa giáo. Rồi đây, với làn gió cởi mở, nhiều giáo phái cũng sẽ tràn vào Việt Nam. Tôi nghĩ rằng nếu giáo dân Việt Nam không có một lòng đạo tập trung vào Đức Kitô, thì sẽ khó tránh khỏi nhiều mất mát. Khi nhiều người nghĩ rằng mẫu gương đạo đức và sức sống đạo đức được thấy rõ hơn ở các giáo phái hơn là ở đạo công giáo của họ.
Cũng vì thế, mà việc tập trung vào Đức Kitô là gương mẫu đạo đức cũng rất cần được thực hiện trong các bài giáo lý và các bài giảng. Theo tôi thấy, thì sự ta tập trung tâm hồn ta vào Đức Kitô sẽ gặp được sức cứu độ Chúa thông ban cho ta. Không những vì Người là gương mẫu đạo đức, mà còn là nguồn mạch sự sống thiêng liêng. Chính Người sẽ giúp bảo vệ và phát triển nền đạo đức rất cần thiết trong thời điểm hôm nay.
2/ Thời điểm mới này kêu gọi sự hợp tác của mọi người và với mọi tổ chức, để đưa đất nước tiến lên, trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau và mỗi bên đều có lợi.
Đó là một kêu gọi chân thành, hợp tình hợp lý. Tôi mong rằng Đảng và Nhà nuớc sẽ có cách để lời kêu gọi ấy được đáp ứng một cách tốt đẹp nhất.
Riêng tôi, cũng từ chức năng tôn giáo mà nhìn, tôi thấy rằng sự đoàn kết và hợp tác đời đạo để xây dựng hạnh phúc cho đồng bào là một phương án lý tưởng. Một sự hợp tác như vậy rất hợp với tinh thần Phúc âm, với Công đồng Vatican II, và với thư chung Hội đồng Giám mục Việt Nam năm 1980.
Tuy nhiên, cái thường làm cho nhiều người còn dè dặt về sự hợp tác đạo đời là cái lợi và cái hại không được rõ, hoặc thấy phía mình có nhiều cái hại hơn là cái lợi.
Tôi có cảm tưởng rằng hầu hết các chính phủ tại Á Châu đều coi sự hợp tác với Hội thánh công giáo trong đất nước họ là một sự kiện có tầm mức từ khiêm tốn đến quan trọng vừa phải, chứ không tới mức rất quan trọng, càng không tới mức cần thiết. Bởi lẽ các nước đã và đang phát triển mạnh ở Á Châu: Như Nhật, Đài Loan, Hồng Kông, Nam Triều Tiên, Singapo, Thái Lan Inđônêsia, Trung Quốc đều đã tương đối thành công, mà không nhất thiết phải cần đến Hội thánh công giáo là một thành phần quá bé nhỏ.
Riêng tại Việt Nam, nhiều người ngoài công giáo, kể cả các tôn giáo bạn, không những không xác tín về sự cần thiết phải hợp tác với Hội thánh công giáo, mà còn coi một sự hợp tác như thế là đáng ngại. Sự ái ngại đó là do hoàn cảnh lịch sử của quá khứ. Và trên thực tế, nhiều tỉnh không có sự hợp tác với Hội thánh công giáo, vẫn đã và đang đi lên.
Tuy nhiên, vẫn không thiếu người có đạo hay không có đạo vốn mong muốn, hoan nghênh và khích lệ một sự hợp tác đạo đời, để đời cũng được tốt hơn, và đạo cũng được đẹp hơn. Mong muốn của họ là chính đáng.
Tôi nghĩ rằng chúng ta, tập thể và cá nhân Linh mục, Tu sĩ đều tích cực hợp tác trong phạm vi chức năng và khả năng của mình. Tôi cũng thấy rằng hễ chúng ta sống hết mình với chức năng và khả năng của mình trong việc phục vụ đồng bào, thì chính cuộc sống đó sẽ là một hợp tác có chất lượng trước mặt Chúa và đối với đồng bào.
Thời gian qua, tại giáo phận nhà, đã có một số công trình hợp tác được thực hiện tốt. Hợp tác nói đây có nghĩa là Linh mục, Tu sĩ cùng với chính quyền ấp, xã, huyện làm chung một việc xã hội. Các công trình hợp tác cụ thể là như sau: Làm cầu, làm đường, xây trường, xây trạm xá, đào giếng nước ngọt, mở lớp học tình thương, cấp học bổng cho học sinh nghèo, kéo điện vào kênh, chăm sóc bệnh nhân, cấp vốn cho các đối tượng nghèo, hòa giải, bài trừ tệ đoan xã hội.
Trong các hình thức hợp tác này số tiền và công sức mà các Linh mục Tu sĩ đóng góp vào rất là đáng kể.
Tôi thấy những công trình hợp tác thuộc qui mô nhỏ như vậy đã trực tiếp giúp được người dân, bất kể lương giáo.
Còn những công trình hợp tác thuộc qui mô lớn, và những công trình hợp tác với mục đích làm kinh tế để kiếm lời cho dân hoặc cho chính quyền địa phương thì các Linh mục, Tu sĩ đã không đảm nhận. Thiết tưởng sự từ chối đó là hợp lý, bởi lẽ những công trình như thế vượt ngoài chức năng và khả năng của Linh mục Tu sĩ. Trong mọi trường hợp, chúng ta nên “Tỉnh thức và cầu nguyện” như Chúa đã dạy, và đừng bao giờ, vì một sự hợp tác nào, mà bê trể các bổn phận thuộc chức năng Linh mục Tu sĩ của mình.
Tháng bảy có lễ thánh Gioankim và Anna. Tháng tám có lễ thánh Monica và Augutinh. Đây là những dịp để chúng ta khai triển đề tài đạo đức trong gia đình và đề tài hợp tác giữa gia đình và nhà thờ trong dịp huấn luyện nền đạo đức cho con em.
Bài nói chuyện với các linh mục, tu sĩ dịp tĩnh tâm tháng 7/1991
(Bài nói chuyện của Đức Cha GB. Bùi Tuần với các Linh mục tu sĩ, Tĩnh Tâm tháng 9/1991)
Trong tháng 10 sắp tới có lễ kính Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu (10/10). Bổn mạng các xứ Bùi-Tuần 2086
Trong tháng 10 sắp tới có lễ kính Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu (10/10). Bổn mạng các xứ truyền giáo, và lễ chúa nhật truyền giáo (Cn XXIV, 20/10). Năm nay hai lễ nầy sẽ được nhiều nơi quan tâm đặc biệt, bởi vì truyền giáo đang là một vấn đề thời sự. Để góp phần nhỏ bé vào việc chuẩn bị cho hai lễ nầy, tôi xin chia sẻ vài suy nghĩ về tinh thần truyền giáo của Thánh nữ Têrêxa.
* Khởi điểm là một cái nhìn.
Đọc chuyện thánh nữ Têrêxa, tôi thấy tinh thần truyền giáo của thánh nữ đã được hình thành do một quá trình thiêng liêng. Qúa trình nầy khởi sự từ một tình yêu, và tình yêu bắt đầu từ một cái nhìn.
Têrêxa có đôi mắt thường. Nhưng thêm vào đó Têrêxa có đôi mắt thiêng do đức tin sống động. Nhờ đó, Têrêxa đọc được ý nghĩa các tín hiệu Chúa gởi tới, và nhận ra dung mạo Đấng vô hình hằng sống qua Phúc âm, qua cuộc sống, trong tinh thần cầu nguyện. Một đặc điểm của sự cầu nguyện nơi Têrêxa là tìm Chúa hơn tìm mình, yêu Chúa hơn yêu mình, muốn theo ý Chúa hơn theo ý mình. Têrêxa diễn tả cách cầu nguyện đó như sau:
“Chúa Giêsu cầm tay tôi trong tay Người...Người không nói gì với tôi. Tôi cũng không nói gì với Người. Tôi chỉ biết yêu Người hơn yêu tôi. Tôi cảm thấy đúng là như vậy. Bởi vì tôi thuộc về Người hơn thuộc về tôi...Con đường Người dắt tôi đi chẳng có gì là an ủi đối với tôi, tuy nhiên nó mang lại cho tôi tất cả mọi ủi an. Bởi vì chính Chúa Giêsu đã chọn cho tôi. Còn tôi, tôi chỉ muốn an ủi Người, chỉ một mình Người mà thôi”.
Như vậy, Đức Kitô là trung tâm của tâm hồn cầu nguyện Têrêxa. Thánh nữ tập trung cái nhìn lòng mình vào Đức Kitô, với khát vọng nhìn thấy dung mạo thực của Đức Kitô. Têrêxa nhìn Chúa, và Chúa nhìn Têrêxa. Thánh nữ viết:
“Một khi Chúa Giêsu đã chăm chú nhìn một linh hồn, thì linh hồn ấy không thể xa rời cái nhìn âý được. Linh hồn không được ngưng nhìn Người, dù chỉ một phút thôi...Ngay từ nhỏ, em đã quyết tâm không bao giờ để tâm hồn em xa rời cái nhìn của Chúa Giêsu”.
Có thể nói, cái nhìn của Chúa Giêsu dành cho Têrêxa là một cái nhìn truyền đạt. Qua cái nhìn ấy, Chúa Giêsu đã chuyển vào hồn Têrêxa biết bao sự thực lạ lùng, trong đó có một sự thực lạ lùng khôn tả, đó là tình yêu thương xót của Thiên Chúa.
* Đến sự nhận ra dung mạo thực của Chúa.
Theo thuật lại, Têrêxa đã coi tình yêu thương xót của Chúa chính là dung mạo thực của Chúa. Thánh nữ viết:
“Chúa đã cho tôi tình yêu thương xót, và chính qua tình yêu thương xót này mà tôi nhìn ngắm và tôn thờ mọi sự trọn lành của Chúa đều tỏa sáng tình yêu thương xót. Cả đến sự công bằng của Người cũng mặc lấy tình yêu thương xót”.
Sự Têrêxa đề cao tình yêu Chúa như đỉnh cao nhất của mọi sự trọn lành sẽ không có gì là đặc biệt, nếu người ta quên nét mà Têrêxa nhấn mạnh, đó là “thương xót”. Theo cảm nghiệm của Têrêxa, tình yêu Chúa khác với tình yêu nói chung ở chỗ tình yêu Chúa nhiều tình thương xót. Tình xót thương của Chúa được Têrêxa diễn tả đơn sơ thế này:
“Em biết em chẳng có gì có sức lôi kéo được cái nhìn của Chúa. Chỉ duy vì tình xót thương em, mà Người đã làm tất cả những gì là tốt lành nơi em”.
Nhận định của Têrêxa rất hợp với quan điểm của Thánh Phaolô tông đồ, trong câu: “Sự tuyển chọn của Chúa không tùy thuộc ở ý muốn và những cố gắng của con người, mà hoàn toàn tùy thuộc vào lòng xót thương của Chúa” (Rom 9,16). Và đúng là Têrêxa đã nhìn tình yêu Thiên Chúa theo sự hiểu biết của Thánh Gioan tông đồ (1Gioan 4,10) Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước khi chúng ta mến Người. Hơn nữa Chúa đã yêu thương chúng ta, đang khi chúng ta còn đang chìm trong tội lỗi, đến nỗi đã phó Con Người làm của lễ đền tội cho chúng ta. Khi đề cao tình xót thương Chúa, Têrêxa đã nhận ra đặc điểm của tình yêu Chúa nơi các đối tượng khó nghèo, bé mọn, tội lỗi, bệnh tật trong Phúc âm. Thí dụ người con phung phá, người đàn bà ngoại tình, người thu thuế cầu nguyện ở cuối nhà thờ, người trộm bị đóng đinh bên hữu Chúa, các người bất toại, phong cùi, quỉ ám, vv...
* Với nhận thức khiêm tốn về thân phận yếu hèn của mình.
Thân phận hèn yếu con người là đối tượng tình yêu thương xót Chúa. Có những thân phận yếu hèn nhưng lại kiêu căng. Còn Têrêxa thì biết mình hèn yếu và rất khiêm nhường. Têrêxa viết:
“Em luôn ao ước nên thánh. Nhưng than ôi! Khi so sánh mình với các thánh, em luôn luôn thấy điều này là giữa các Ngài và em có một khoảng cách, như quả núi cao chạm trời và một hạt cát dưới chân người bộ hành. Thấy thế, thay vì ngã lòng, em đã nói với Chúa: Thưa Chúa, Chúa chẳng bao giờ thôi thúc con mong muốn sự lành không thể thực hiện được. Vì thế, mặc dầu con hèn mọn, con vẫn cứ mong muốn đi tới sự thánh thiện. Lớn lên là chuyện không thể được đối với con. Nên con là thế nào, thì con chấp nhận con như thế ấy. Con chấp nhận con với tất cả những khuyết điểm của con. Nhưng con muốn tìm cách lên trời bằng một con đường nhỏ, rất thẳng, rất vắn, một con đường nhỏ mà thôi. Con đường nhỏ đó là cậy tin phó thác vào lòng thương xót Chúa”.
Thánh nữ diễn tả sự phó thác ấy bằng hình ảnh đứa bé đứng ở chân cầu thang, không thể bước lên một bậc nào. Nhưng vì thương xót, chính cha nó đã ẵm nó lên. Têrêxa quả quyết:
“Cái làm vui lòng Chúa là sự Người thấy em ưa thích thân phận bé nhỏ nghèo nàn của mình”.
Kho tàng thiêng liêng của Têrêxa không phải là các nhân đức, mà là sự khó nghèo thiêng liêng. Cũng như lời kinh đẹp lòng Chúa không phải là lời kinh kể công của người Pharisêu đứng trước bàn thờ, mà là lời kinh xin ơn thương xót của người thu thuế đứng cuối nhà thờ. Têrêxa lại viết:
“Chúng ta hãy tránh xa những gì sáng chói. Hãy yêu mến sự bé nhỏ của mình. Hãy yêu thích sự mình không cảm thấy gì cả. Lúc đó, ta sẽ là kẻ nghèo túng thiêng liêng, và Chúa sẽ đến tìm ta”.
Theo tinh thần khó nghèo này, nếu ta tự coi mình là người công chính, ta sẽ không còn là kẻ cần được cứu độ. Đoạn thư sau đây của Têrêxa về chính bản thân mình :
“Chị sẽ lầm, nếu chị tưởng rằng Têrêxa bé nhỏ này bước đi luôn luôn hăng hái trên đường nhân đức. Têrêxa yếu đuối, rất yếu đuối. Mỗi ngày Têrêxa lại có kinh nghiệm mới về sự thực đó. Nhưng Chúa Giêsu muốn dạy Têrêxa như đã dạy thánh Phaolô xưa là hãy khoe mình trong những yếu đuối của mình. Đây là một ơn lớn lao. Và cầu xin Chúa Giêsu dạy chị điều đó. Bởi vì chỉ ở nơi đó mới tìm được bình an và nghỉ ngơi tâm hồn. Khi người ta thấy mình khốn khổ, người ta sẽ hết muốn nhìn vào mình, mà chỉ còn nhìn Đấng Mến Yêu của mình mà thôi”.
* Từ đó đốt lên những thao thức:
Sự nhận thức chân thành sâu sắc và thân phận yếu hèn của mình đã loại ra khỏi tâm hồn Têrêxa mọi hình thức tự kiêu tự mãn. Tâm hồn Têrêxa trở nên sâu trống, thuận lợi cho tình yêu xót thương Chúa tràn vào. Theo thánh nữ thuật lại, thì tình yêu Chúa đã tràn vào như những đợt sóng lửa. Têrêxa viết:
“Em khởi sự viếng đàng Thánh Giá thì đột nhiên, em bị tràn ngập tình yêu Chúa. em chỉ có thể cắt nghĩa sự kiện đó bằng cách nói là toàn thể con người em như bị chìm vào lửa. Ôi! Lửa, nhưng đồng thời lại hết sức dịu dàng. Em như bị thiêu đốt bởi tình yêu. Em cảm thấy rằng: Nếu chậm thêm một phút nữa, em sẽ không thể chịu nổi, em sẽ chết”.
Tình yêu ấy làm cho Têrêxa trở nên tạo vật mới, thánh nữ viết cho mẹ thiêng liêng:
“Thưa mẹ yêu mến, mẹ đã cho phép con dâng mình cho Chúa. Mẹ biết những dòng sông, hay nói đúng hơn, đó là những đại dương ơn thánh đã đến làm ngập lụt linh hồn con... Từ ngày hạnh phúc đó, con có cảm tưởng là tình yêu thấu suốt con, vây phủ con, và mỗi lúc tình yêu ấy mỗi đổi mới con, thanh luyện con”.
Đây là tình trạng “Kitô hữu” đích thực. Hơn ai hết, Têrêxa được phép nói như thánh Phaolô xưa: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Giêsu sống trong tôi”. Và cũng từ đó, Têrêxa chia sẻ những thao thức của Chúa Cứu Thế.
Thao thức muốn loan báo cho mọi người biết Thiên Chúa là tình yêu thương xót, Người dễ thương dễ mến dường nào!
Thao thức muốn mọi người hiểu rằng, dù họ hèn yếu đến mức độ nào, họ vẫn có hy vọng đón nhận tình xót thương Chúa.
Thao thức khi thấy tình yêu xót thương Chúa bị bỏ quên, bị khinh miệt, bị từ chối. Trong thao thức vô vàn, Têrêxa hiểu thấm thía ý nghĩa lời “Ta khát” mà Chúa Giêsu đã thốt ra trên Thánh giá xưa.
Những thao thức ví như những tiếng gọi, như những lời sai đi. Têrêxa viết: “Ơn gọi của tôi là tình yêu”.
Tình yêu Chúa kêu gọi và sai đi, để loan báo một tình yêu.
* Lên đường bước đi không mệt mỏi bằng những việc lành nhỏ trong tình phó thác.
Xưa, Kinh thánh nói về Abraham: “Do đức tin, Abraham đã đáp lại lời gọi. Ngài vâng lời và đi tới một xứ sở mà Ngài sẽ nhận làm gia nghiệp. Ngài ra đi, mặc dù không biết là đi đâu” (Hebr 11,8). Têrêxa cũng có tâm hồn tương tự. Thánh nữ ra đi trong tâm hồn mình, với những khắc khoải nhắn gửi mọi người, nhất là những ai tội lỗi, yếu đuối, hèn mọn, một tin mừng đầy hy vọng, đó là họ sẽ được no thỏa ơn phúc, nếu họ cậy tin vào lòng thương xót Chúa.
Têrêxa nói với Chúa:
“Con cảm thấy rằng: Nếu chuyện không thể xảy ra sẽ xảy ra là Chúa tìm thấy được một linh hồn yếu đuối hơn con, bé mọn hơn con, chắc Chúa sẽ vui lòng lấp đầy tâm hồn ấy những ơn còn lớn hơn các ơn con được, nếu họ biết phó thác hoàn toàn nơi tình thương xót Chúa”.
Têrêxa lại viết:
“Chớ gì mọi linh hồn yếu đuối bất toàn cảm được những gì mà linh hồn bé mọn này đang cảm thấy, chắc chắn sẽ không một linh hồn nào phải thất vọng. Bởi vì Chúa không đòi hỏi những việc lớn lao, mà chỉ đòi sự phó thác và lòng tạ ơn. Đó là tất cả những gì Chúa đòi nơi ta. Chúa không cần các việc ta làm, mà chỉ cần tình yêu của ta”.
Têrêxa ra đi trong lòng mình với tất cả tâm tình phó thác. Phó thác không có nghĩa là ỷ lại, đợi chờ, nhưng là làm tất cả mọi việc lành nhỏ có thể làm, với ý chí cậy trông. Têrêxa viết:
“Đứa con bé nhỏ bày tỏ tình yêu của nó thế nào, bởi vì tình yêu phải chứng chứng minh bằng việc làm. Thưa, đứa con bé nhỏ sẽ tung hoa. Vâng, đó là cách con dâng hiến đời con. Con không có cách nào khác, ngoài cách tung hoa, nghĩa là con không bỏ sót một hy sinh nào, một cái nhìn nào, một lời nói nào. Con sẽ lợi dụng tất cả những sự bé mọn nhất, và làm vì tình yêu mến”. Têrêsa cũng viết cho chị Céline:
“Phải làm tất cả những gì có thể, phải cho đi mà không tính toán, phải luôn luôn từ bỏ mình. Tắt một lời, phải chứng minh tình yêu bằng mọi việc lành trong khả năng của mình. Thực ra, những việc ấy chẳng đáng gì. Khi đã làm tất cả những gì cần phải làm, ta hãy thú nhận ta chỉ là những đầy tớ vô ích, nhưng ta cậy tin Chúa nhân lành, do lòng nhân hậu, Người sẽ ban cho ta tất cả sự ước muốn”.
Trên đây là sơ lược tinh thần truyền giáo của thánh nữ Têrêxa. Tinh thần này cho phép tôi nghĩ rằng: Truyền giáo là loan báo một tình yêu hơn là rao giảng một giáo lý, là giới thiệu cho mọi người, nhất là cho những người yếu hèn bé mọn, dung mạo vô cùng dễ thương dễ mến cuả Thiên chúa là Tình yêu thương xót. Tình yêu thương xót mà người truyền giáo ca tụng và loan báo không phải là một câu chuyện cổ xưa, mà là một tình yêu chính họ đã cảm nghiệm sâu sắc. Họ loan báo bằng cách thuật lại một tình yêu mà chính họ đã xác tín, đã sống thực. Đối với họ, dù với hình thức nào, truyền giáo là một bài ca tạ ơn và hy vọng, họ hát cho Chúa, cho chính mình và cho mọi tâm hồn.
(Bài nói chuyện của Đức Cha GB. Bùi Tuần với các Linh mục tu sĩ, Tĩnh Tâm tháng 11/1991)
Trong đạo Công Giáo, tháng 11 hàng năm là thời gian dành cho việc tưởng nhớ những người quá Bùi-Tuần 2087
Trong đạo Công Giáo, tháng 11 hàng năm là thời gian dành cho việc tưởng nhớ những người quá cố.
Đây là việc làm hợp tình hợp lý, có lợi cho người đã chết, củng cố nền đạo đức truyền thống, góp phần vào việc giáo dục thế hệ trẻ, và củng cố rất hữu ích cho chính chúng ta là những người đang sống, nhưng rồi có ngày sẽ chết.
Sự chết là biến cố cực kỳ quan trọng. Nhưng điều quan trọng hơn, chính là những gì sẽ xảy ra sau cái chết.
Đức tin Công Giáo dạy ta rằng: Nơi con người chết là linh hồn lìa khỏi xác, để vào một cuộc sống mới sẽ kéo dài vô tận. Hầu như mọi tôn giáo đều tin tưởng như vậy.
Nay tin tưởng ấy đang vượt ra ngoài phạm vi tín ngưỡng, trở thành một đề tài của khoa học. Bởi vì, đây đó đã xuất hiện nhiều hiện tượng lạ về một sự sống nào đó sau cái chết. Nhiều người đã xem thấy hình ảnh lạ, đã nghe được tiếng nói lạ, đã ghi lại được hình ảnh lạ và tiếng nói lạ.
Khi khoa học nghiên cứu những sự kiện lạ đó, chắc chắn khoa học không dựa trên tín ngưỡng nào, càng không đếm xỉa gì đến những thiên kiến mê tín dị đoan. Khoa học làm việc theo con đường riêng của mình, với những phương pháp kiểm nghiệm bằng máy móc càng ngày càng tối tân, tinh vi.
Nếu khoa học không chứng minh được có đời sau, thì không vì thế mà đức tin bị tổn hại. Còn nếu khoa học xác nhận là có đời sau, thì xác nhận đó sẽ có lợi rất nhiều cho tất cả nhân loại và cho mọi tín ngưỡng.
Hiện nay các nghiên cứu khoa học đang nghiêng về kết luận này: Một người chết là chết thật đấy, nhưng là chết phần xác, còn phần hồn vẫn sống trong một trạng thái khác.
Để góp phần mở rộng cái nhìn về đề tài này, hôm nay tôi sẽ chú trọng đến tài liệu thông tin.
1/ Một số mẫu tin trên báo chí gần đây
* Tờ “Khoa học phổ thông” số 447, tháng 9/1981, đăng tin sau đây: “Tại bang Florida (Mỹ) vừa mới thành lập một viện nghiên cứu quốc tế chuyên nghiên cứu về cái chết. Viện trưởng là luật sư Arthur S. Berger. Tổ chức với tên gọi kỳ lạ này tự đề ra cho mình mục tiêu nghiên cứu khách quan tất cả các mặt của quá trình kết thúc sự sống ở tất cả mọi người, đồng thời lựa chọn những thông tin có liên quan đến vấn đề vẫn được gọi là “Cuộc sống sau cái chết”, và “Sự biến hoá của linh hồn”, nghiên cứu và kiểm chứng các mối liên quan giữa thế giới của người chết và thế giới hiện tại mà chúng ta đang sống. Tại viện nghiên cứu, người ta thành lập “Toà án” với sự tham gia của các nhà chuyên môn nghiên cứu về cái chết ở các lãnh vực khác nhau, như khoa học tự nhiên, y học và tư pháp. Tại đây người ta sẽ tổ chức các buổi họp và mời những người đã từng chứng kiến các hiện tượng đặc biệt trong lãnh vực này báo cáo.
Viện nghiên cứu này dự định sẽ phổ biến rộng rãi và công khai các kết quả mà họ đã thu thập được qua nghiên cứu. Nam phương (Theo Znanie I Sila, 5-91).
* Tờ “Thế giới mới) số 6, tháng 2/91, có đăng bài “Vào ngưỡng cửa của thế giới chưa biết, mà hiện hình” của giáo sư Nguyễn Hoàng Phương, và bài “Phải chăng người Nga đã đào đến “Cổng địa ngục” ? của Vũ Thăng. Cả hai bài này đều thuật lại những hiện tượng lạ về một cuộc sống nào đó của những người đã chết, mà những người không muốn tin đã mắt thất tai nghe.
* Tờ “Paris Match” ra ngày 23/09/1988 có đăng bài phỏng vấn linh mục Francois Brune, trong đó cha đã quả quyết: “La survie de l'homme est en train de d'imposer comme une évidence scientifique” (Sự sống đời sau của con người đang áp đặt như một sự hiển nhiên khoa học).
2/ Một số sách khoa học nghiên cứu về những hiện tượng bí ẩn và về đời sau xuất bản từ 1980.
- Ebon M., La preuve de la vie après la mort. Editions Best Seller, 1980. - Morton M. L., Où et comment retrouverons-nous nos disparus? Ed. Astra 1989. - Ring K.: Sur la frontière de la vie, Robert Laffont 1980. - Osis K. et Haraldsson E: Ce qu'ils ont vu... au seuil de la mort. Ed. du Rocher 1982. - Tiret C.: Le monde invisible vous parle. Francois Sorlot et Fernand Lanore, 1983. - Paqui: Entretiens célestes, Francois Sorlot et Fernand Lanore, 1984. - Denis L.: Après la mort, Ed. Vermet 1985. - Hardy C.: L'après-vie à l'épreuve de la science, Ed. du Rocher 1986. - Ritchie G.: Retour de l'au-delà, Robert Laffont, 1986. - Prieur J.: Les témoins de l'invisible, Fernand Lanore 1981-1986. - Lebrun M.: Médecins du ciel médecins de la terre, Robert Laffont, 1987. - Lorimer D.: L'énigme de la survie, Robert Laffont 1987. - Simonet M.: A l'écoute de l'invisible, Sorlot et Lanore 1988. - Francois Brune: Les morts nous parlent, Ed. du Félin, 1988. - Nguyễn Hoàng Phương: Con người và trường sinh học, NXB Đà Nẵng 1990. - NXB Thông Tin: Những khả năng bí ẩn của con người, NXB Thông Tin, 1991.
Qua các sách chuyên đề này, người ta có thể thấy được khởi điểm và những diễn tiến của công trình khoa học nghiên cứu về hồn, về cái chết và những gì xảy ra sau cái chết. Các sách này cũng cho thấy công trình nghiên cứu đó đã được thực hiện do những ai, những nhóm nào, ở những chương trình nào, qua những hội nghị nào.
Từ các nghiên cứu ấy, khoa học dần dần khám phá ra nguồn năng lượng đặc biệt trong mỗi người, với điện năng riêng, với từ trường riêng.
Mọi hiện hữu của con người từ hình dáng, lời nói, cho đến hoạt động nội tâm như tư tưởng, ước muốn, tình cảm đều phát ra những làn sóng vô hình với từ trường riêng. Những ai may mắn bắt được đúng tần số, sẽ nghe được, sẽ thấy được, sẽ hiểu được thế giới người khác, dù họ còn sống hay đã chết.
Cũng dựa trên nguyên tắc đó, một chiếc máy tối tân hiện đại chỉ bắt được đúng tần số các làn sóng hết sức tinh vi ấy, sẽ thu chúng lại, và biến thành hình ảnh và tiếng nói, theo phương pháp khoa học đang thịnh hành hiện nay.
Với cái nhìn khoa học trên đây, nhiều người quả quyết rằng: Một giai đoạn mới của lịch sử đang được mở ra, trong đó:
1. Con người có thể trở về quá khứ xa xăm, để chụp ảnh và ghi âm những nhân vật quan trọng đã sống trong những thế kỷ rất xa đây. Bởi vì, tất cả các sóng của tiếng nói và hình ảnh của họ vẫn còn đó.
2. Con người có thể giải thích được cái mà người đời quen gọi là số mệnh. Thí dụ một người, một gia đình, một cộng đoàn xã hội có thói quen hay nghĩ những điều ích kỷ, hay mơ ước những điều xằng bậy, hay tưởng tượng những điều độc ác, bất hạnh, thì tất cả các ý nghĩ, ước muốn và tình cảm đó đều phát sóng, mang năng lượng phá hoại. Chúng dần dần tạo thành những thứ ác quỷ làm hại nhiều người, tấn công cả đến những người đã sản sinh ra chúng, đưa họ vào số mệnh do chính họ gây nên.
3. Con người có thể giải thích được những chuyện người chết hiện về. Trước sự kiện máy ghi được những câu chuyện mới, chụp được những hình ảnh mới của kẻ đã chết hiện về, người ta nghiên cứu những hiện tượng đó theo cái nhìn khoa học là mỗi sự đều mang năng lượng, điện từ, thì kết luận sẽ là: Những tiếng nói đó, những hình ảnh đó phải phát xuất từ những từ trường năng lượng nào đó. Rồi với nhiều kiểm chứng, thuộc các loại khác nhau, người ta sẽ phải xác nhận điểm phát xuất những từ trường năng lượng đó không là gì khác ngoài hồn người quá cố. Chính hồn kẻ chết đã trở về với người còn sống qua những cách mà khoa học kiểm chứng được.
3/ Kinh nghiệm ở biên giới sự chết.
Đọc các sách kể trên, người ta thấy một loại khảo cứu chuyên môn mang tên EFM, tức là Expériences aux Frontières de la Mort. Những người thuộc nhóm nghiên cứu này chuyên thu thập và khảo sát những lời tường thuật của những kẻ từ cõi chết trở về, đặc biệt là những gì họ đã kinh nghiệm ở những giờ phút đầu tiên, khi họ từ giã đời này bước vào đời sau.
Về chi tiết thì những lời kể lại có khác nhau. Nhưng về căn bản thì giống nhau. Dưới đây là một số điểm căn bản.
Khi vừa qua ngưỡng cửa sự chết, hồn con người gặp thấy ngay tất cả cuốn phim đời mình được quay lại thực rõ với đầy đủ mọi chi tiết. Một Đấng hiện ra. Ngài toàn là ánh sáng. Và linh hồn cảm thấy tức khắc Ngài chỉ là Tình Yêu, một tình yêu không thể tả được. Chỉ có thể nói thế này: Nếu cộng tất cả mọi tình yêu trên trái đất này lại thành một khối, thì khối đó sẽ rất mờ nhạt, chẳng sánh được với Tình Yêu, mà linh hồn đang chứng kiến và cảm nghiệm.
Lúc đó, từ Tình Yêu vô biên sống động ấy chiếu vào linh hồn một câu hỏi: Con đã dùng đời con để làm gì? Linh hồn liền nhớ lại tất cả mọi việc mình đã làm. Đột nhiên một câu hỏi khác được đặt ra: Con có làm tất cả mọi việc đó, để yêu thương kẻ khác như Cha đã sống, đã làm mọi việc và đã chết vì tình yêu thương con không? Trong giây lát, linh hồn thấy rõ cái có giá trị thực trong đời chính là bác ái, không gì đẹp bằng tấm lòng quảng đại, không gì dơ bẩn cho bằng tâm hồn ích kỷ, hẹp hòi và các tội nghịch đức thương yêu.
Đấng là Tình Yêu phán xét về tình yêu. Đấng là Tình Yêu vẫn luôn êm đềm. Nhưng linh hồn tự biết mình bất xứng, nếu thấy mình mang vô vàn dấu tích của ích kỷ, hẹp hòi, ghen ghét, dửng dưng khinh khi kẻ khác. Các tội thì dễ được tha thứ. Nhưng tình trạng ích kỷ, hẹp hòi của linh hồn gây nên do một cuộc sống trần gian khép kín, vị kỷ, khinh người, hại người vẫn còn đó. Nó là một cản trở không cho linh hồn tiến gần lại Tình Yêu vô biên. Linh hồn trong tình trạng đó sẽ rất xấu hổ, tự thấy mình cần phải đi vào những nơi dành cho những ai khác biệt hay xung khắc với Tình Yêu tuyệt vời vô cùng trong sáng.
Theo nhiều lời thuật lại, thì các linh hồn được thanh luyện ở ngay chính những nơi họ đã trải qua cuộc sống trần gian. Các hồn ấy thường khuyên nhủ những kẻ còn sống hãy làm việc lành phúc đức, sống bác ái, làm việc bác ái, để thanh luyện chính kẻ còn sống, đồng thời cũng để rút vắn thời gian thanh luyện linh hồn người quá cố. Các linh hồn hay nói với các người thân thương còn sống. Nhưng có kẻ nghe, có kẻ không nghe.
4/ Nền đạo đức dân gian nhìn sang kiếp sau.
Trên đây là một ít điều thuộc loại điểm báo, điểm sách. Tất cả đều trong phạm vi thông tin, chứ không đụng chạm gì đến đức tin.
Tôi nghĩ đây là những bản tin hay, mà người loan báo Tin Mừng cứu độ nên quan tâm suy nghĩ. Thông tin phục vụ đức tin. Đức tin được thanh luyện nhờ thông tin.
Thêm vào những mẫu tin trên, tôi muốn nói đến một bản tin khác cùng một nội dung: Bản tin này không in trong sách báo, nhưng đang được loan đi qua cuộc sống đồng bào Việt Nam tại quê hương mến yêu này. Bản tin đó là: Càng ngày càng thấy xuất hiện những hiện tượng tâm lý xã hội báo hiệu rằng đồng bào ta đang tự động vun trồng nền đạo đức dân gian truyền thống đầy tin tưởng kiếp sau. Nền đạo đức dân gian đang trở thành một bầu khí trong lành tươi mát linh thiêng giúp đổi mới quê hương.
Nền đạo đức dân gian này có 3 yếu tố chính:
- Một là đề cao tình nhân ái. - Hai là tôn giáo hoá lòng hiếu thảo. - Ba là tin tưởng ở kiếp sau.
Cả 3 yếu tố đó đều có liên hệ với nhau. Sống nhân ái hiếu thảo là điều kiện để được hạnh phúc đời sau. Sống nhân ái hiếu thảo là cách giúp đỡ các linh hồn còn vướng mắc ở kiếp sau.
Những việc làm nói lên 3 yếu tố trên đây đang mọc lên như những điểm sáng trên khắp giải đất quê hương này. Các lớp học tình thương, các học bổng dành cho học sinh nghèo, các tấm lòng tốt góp của góp công trong những tai nạn như lũ lụt, cháy nhà, đói khát, những đoàn người chăm sóc các người phong cùi. Những bàn tay âm thầm cứu giúp những gia đình cơ cực. Những làn sóng người đi cầu nguyện ngày rằm tháng bảy. Những tập thể đông đảo đồng bào ăn chay, bố thí các ngày rằm hàng tháng...
Nếu để ý quan sát, ta thấy hiện nay một vài tôn giáo xung quanh ta đang dùng các hoạt động từ thiện và lòng hiếu thảo để khẳng định căn tính của mình. Bằng cách đó, mấy tôn giáo bạn đang đi vào nền văn hoá dân gian truyền thống.
Dân gian ngoài Công Giáo sống theo một nền đạo đức đơn sơ. Nền đạo đức ấy vắn gọn như: “Thương người như thể thương thân: hoặc “Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Đơn sơ, vắn gọn, nhưng có chất lượng, dễ tập trung vào.
Nhìn những yếu tố trên đây đang phát triển mạnh trong dân gian tại Việt Nam hôm nay, tôi có cảm tưởng là Chúa đang Phúc-Âm-hoá một chặng đường lịch sử bằng những cách riêng ủa Tình yêu bao la của Người.
Tôi tự hỏi: Tôi và giáo đoàn của tôi có biệt nhạy bén, để cố gắng thanh luyện mình, cho chất nhân ái Phúc Âm và chất hiếu thảo Phúc Âm được sáng thêm hơn không? Đối với người đang sống và đối với kẻ đã chết, nếp sống đạo của húng ta có bị thua kém người ngoài Công Giáo về tình nhân ái và lòng hiếu thảo không?
Tôi nghĩ rằng chính bằng nếp sống nhân ái, hiếu thảo mà người truyền giáo tại Việt Nam hôm nay mới gây được thiện cảm cho đạo mình nơi đồng bào ngoài Công Giáo.
Tôi mong trong tháng 11, là tháng nhớ về kẻ chết, chúng ta sẽ đặc biệt cầu nguyện cho họ với tinh thần thanh luyện chính mình, nhất là về phương diện bác ái. Ta tin Chúa, thì phải tin Lời Chúa. Lời Thiên Chúa chính là Đức Kitô. Đức Kitô đã yêu thương ta, khi ta chưa biết Người, và khi ta còn chìm trong tội lỗi. Người đã yêu thương ta, đến nỗi đã gánh tội cho ta, đã đền tội cho ta, đã xoá tội cho ta. Ta có tin Đức Kitô như vậy không? Nhất là ta có một Đức Kitô như vậy trong bản thân ta không? Khi hiểu đức tin như vậy, thì tất nhiên đức tin phải diễn tả bằng đức ái. Tôi nghĩ rằng đức ái Phúc Âm sẽ được minh chứng rõ rệt, khi tôi thương yêu những kẻ tội lỗi, yếu đuối, như Chúa đã yêu thương tôi, là kẻ rất tội lỗi yếu hèn. Tôi cũng nghĩ rằng, nếu tôi sống đức tin như vậy thì đời sống đó sẽ là một bản tin mừng, và khi sự chết đến, tôi cũng nhìn biến cố đó như một tin vui, ít là cho bản thân tôi. Bởi vì chết là khởi sự sống cuộc sống mới với Đấng là Tình Yêu đã thương tôi vô cùng.
Bài nói chuyện dịp Tĩnh Tâm linh mục tu sĩ tháng 11/1991
(Bài nói chuyện của Đức Cha GB. Bùi Tuần với các Linh mục tu sĩ, Tĩnh Tâm tháng 12/1991)
Những ngày trước lễ Sinh nhật Chúa Cứu thế, đó đây trong Hội thánh thường hát lời cầu của Bùi-Tuần 2088
Những ngày trước lễ Sinh nhật Chúa Cứu thế, đó đây trong Hội thánh thường hát lời cầu của tiên tri Isaia: “Hỡi các tầng trời, hãy đổ sương mai. Hỡi ngàn mây, hãy mưa Đấng công chính. Đất hãy mở ra và trổ sinh Đấng cứu chuộc” (Is 45,8).
Lời cầu trên đây nhắc lại lịch sử dân Chúa từng ngàn năm vẫn mong chờ Đấng Cứu Thế.
Nay, Đấng Cứu Thế đã đến rồi. Tính từ Sinh nhật Ngài tới nay đã được 1991 năm. Vấn đề đặt ra từ đó đến hôm nay là vấn đề ĐÓN NHẬN NGÀI.
Sở dĩ phải đặt ra vấn đề đó, là vì Ngài đã đến, nhưng biết bao người vẫn không đón nhận Ngài. Thánh Gioan Tông đồ viết: “Ngôi Lời đã đến nhà mình, mà các gia nhân không tiếp nhận” (Gioan 1,11). “Ngài vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Ngài tác tạo, nhưng thế gian đã không nhận biết Ngài”. (Gioan 1,10).
Không nhận biết Ngài, không đón nhận Ngài, đó là một dấu ấn mà chính dân Chúa là Israel đã đóng trên đời Ngài.
Thực vậy, ngay khi Ngài giáng sinh, chẳng ai đã tiếp nhận Ngài vào nhà. Ngài phải giáng sinh trong hang đá, nơi dành cho loài chiên bò. (Luca 2,6).
Chính các vị có thế lực trong tôn giáo là các Thượng tế, các Luật sĩ, các Trưởng lão, không những đã khônng đón nhận Ngài, mà còn nhất trí tố cáo Ngài, loại trừ Ngài. (Marcô 6,1-6).
Thân nhân Ngài có lúc cũng nghi ngờ Ngài. (Marcô 3,21)
Khi Ngài lâm nạn, các môn đệ thân tín nhất của Ngài cũng bỏ Ngài, trốn chạy. (Marcô 14,50)
Đến lượt dân chúng, bị xách động, cũng hò hét yêu cầu phải giết Ngài. (Math 27,20)
Sau cùng, quyền đời quyền đạo đã kết án tử hình Ngài. (Luca 23, 1-23)
Thực lạ ! Đang lúc đó, và trước đó ròng rã mấy ngàn năm, Israel vẫn mong chờ Đấng Cứu Thế đến. Khi Ngài đến, không những Ngài không được đón nhận, mà còn bị giết một cách tàn nhẫn.
Sự việc xảy ra thật là bi thảm. Lý do thiết tưởng chính là những khủng hoảng của Đức tin bấy giờ.
Khủng hoảng thứ nhất ở chỗ Đức tin lúc ấy quá quan-trọng-hóa nền đạo đức tập truyền, chứ không mấy dựa trên Lời Chúa.
Sự kiện ấy đã được Chúa Giêsu nêu lên. Phúc âm kể: “Khi ấy có mấy người Pharisêu và Luật sĩ ở Giêrusalem đến thưa với Chúa Giêsu rằng: Tại sao các môn đệ của ông lỗi tập truyền của Tổ tiên ? Họ không rửa tay trước khi ăn. Chúa đáp: Tại sao các ông lỗi giới răn Thiên Chúa, viện cớ là để giữ tập truyền ?” (Math 15, 1-3). Sau đó, Chúa Giêsu dẫn chứng những tập truyền trái luật Chúa. Rồi Ngài kết luận: “Các ông đã xóa bỏ Lời Chúa vì tập truyền của các ông”. (Math 15,6)
Mâu thuẫn giữa nền đạo đức dựa trên tập truyền và nền đạo đức dựa trên Lời Chúa càng trở nên gay gắt. Nên có lần Chúa Giêsu buột lòng phải gọi đúng tên những người bám vào tập truyền mà bỏ Lời Chúa là hạng đạo đức giả hình. Đoạn 23 Phúc âm Thánh Mátthêu dành riêng cho loại đạo đức đó. Thay vì nói 8 lần “Phúc cho những ai...” như trong bài giảng Tám Mối Phúc, lần này Chúa nói 8 lần “Khốn cho các ngươi, hỡi các Pharisêu và Luật sĩ giả hình”. Nghe nhức nhối lắm.
Xem ra Chúa Giêsu ghê tởm nền đạo đức tập truyền như vậy, vì nó giam hãm con người vào một nhà tù luật lệ vô bổ, cấm cản con người đi vào một nền đạo đức dựa trên Lời Chúa có khả năng đưa con người vào bầu trời bao la của Tình Yêu Thiên Chúa.
Ngay trong Cựu ước, Tình yêu bao la Thiên Chúa cũng đã được đề cao và nhắc đi nhắc lại nhiều lần, Thánh vịnh 135 là một bài ca tuyệt vời ca tụng và loan báo Tình thương Thiên Chúa: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”.
Tình thương Thiên Chúa là tình thương nhưng không. Chúa phán: “Không phải vì các ngươi đông đúc hơn các dân tộc khác mà Chúa gắn bó với các ngươi và chọn các ngươi. Vì thực sự dân số các ngươi ít hơn dân số mọi dân tộc khác. Nhưng Chúa thương yêu các ngươi, vì muốn giữ lời hứa với tổ phụ các ngươi” (Thứ luật 7,7).
Tình thương Thiên chúa là một giao ước đòi hỏi. Chúa phán: “Các ngươi hãy yêu mến chúa là chúa các ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức” (Thứ luật 6,5). “Các ngươi hãy trở về với Thiên Chúa các ngươi, và các ngươi sẽ nghe tiếng chúa. Vì chúa là đấng hay thương xót” (Thứ luật 4, 30-31).
Cũng ngay trong Cựu ước, Tình yêu Thiên chúa đã được diễn tả như một Tình yêu Cứu độ. Đọc các Thánh vịnh, người ta dễ gặp thấy các biểu tượng của Tình yêu Cứu độ, như Đôi mắt đoái nhìn, Bàn tay cứu giúp, Trái tim thứ tha đầy nhân ái.
Người có một đức tin biết xây dựng và thanh luyện nền đạo đức trên nền tảng Kinh thánh như vậy, sẽ biết nhận ra Đấng Cứu thế khi Ngài đến, và sẽ biết đón nhận Ngài.
Nhưng thời đó, số người có đức tin như Đức Mẹ, Thánh Giuse quả là quá ít. Phần đông chỉ bám vào nền đạo đức tập truyền cổ hủ và tha hóa, chỉ lo bảo vệ tập truyền đó thôi. Vì thế, khi Đấng cứu thế đến, đúng với hình ảnh mà Kinh thánh loan báo, nhưng không đúng hình ảnh mà tập truyền khẳng định, Isarel đã không đón nhận Ngài. Đám đông đã vậy, mà các lãnh đạo tôn giáo cũng thế. Buồn thay! Một khủng hoảng đức tin rất trầm trọng
Khủng hoảng thứ hai ở chỗ đức tin lúc ấy chỉ quan- trọng- hóa sự chấp nhận các giáo điều và giữ các lễ nghi luật lệ bề ngoài, chứ không tập trung vào sự đón chờ và đón nhận chính Thiên chúa bằng thái độ cầu nguyện và tỉnh thức.
Thực vậy, khi liên hệ giữa con người với Chúa được nhìn như một giao ước, thì Đức tin chính là một sự gặp gỡ Chúa, một gặp gỡ thân mật, sống động, như được diễn tả trong Diệu ca: “Người yêu của tôi thuộc về tôi, và tôi thuộc về Ngài”. (Diệu ca 2,16).
Tình yêu Cứu độ đến với con người như một quà tặng. Người ta chỉ nhận ra quà tặng ấy và chỉ có thể đón nhận được quà tặng ấy bằng thái độ cầu nguyện và tỉnh thức.
Ngay thời rất xa xưa, Tiên tri Isaia đã nhấn mạnh đến một thái độ như vậy, khi Ngài than phiền: “Tất cả chúng tôi đều đầy vết nhơ, và công nghiệp chúng tôi đều như những áo dơ bẩn. Vì không còn ai kêu cầu Thánh danh Chúa, không còn ai tỉnh thức để bám lấy Chúa”. (Isaia 64,5-6).
Tình hình một Đức tin không tỉnh thức và cầu nguyện thời Chúa Giêsu đến, được biểu hiện ở chính đền thờ Giêrusalem và các hội đường.
Ta thấy hình ảnh một nơi thờ phượng bị lạm dụng làm nơi kiếm tiền. Phúc âm kể: “Chúa Giêsu vào đền thờ và đuổi các người buôn bán ra. Chúa lật đổ bàn các người đổi tiền và ghế các người bán bồ câu. Rồi Ngài phán với họ rằng: Có lời chép: Nhà Ta là nhà cầu nguyện mà các ngươi biến thành hang trộm cướp”. (Math 21,12-13).
Ta cũng thấy hình ảnh một nơi thờ phượng bị lạm dụng làm nơi tranh quyền. Phúc âm kể: “Chúa Giêsu vào đền thờ, đang khi Chúa giảng thì các Thượng tế và các Trưởng lão đến hạch hỏi Chúa rằng: Ông lấy quyền ai mà làm như thề này? Ai cho ông quyền ấy”. (Math 21,23).
Ta cũng thấy hình ảnh một nơi thờ phượng bị lạm dụng làm nơi phô trương các thứ đạo đức giả. Chúa phán: “Các Luật sĩ và Pharisêu...phô trương mình đọc kinh lâu giờ, nhưng lại xâu xé nhà bà góa” (Math 23,14)..."Họ làm mọi việc cốt ý dể người ta xem thấy”. (Math 23,4).
Ta cũng thấy hình ảnh một nơi thờ phượng bị lạm dụng làm nơi rình rập, bắt bẻ, kết án người lành. Phúc âm kể: “Họ sai một số người giả bộ đạo đức đến hội đường cốt ý xem xét và bắt bẻ Chúa”. (Luca 20,20).
Đức tin của giai cấp quyền lực tôn giáo chỉ còn tỉnh thức về các chuyện tiền bạc, quyền chức, bắt bẻ, kết án những ai có khả năng đụng tới quyền lợi các ngài. Không có dấu hiệu nào cho thấy họ thao thức chờ đón Chúa Cứu Thế bằng sự cầu nguyện và tỉnh thức nắm bắt các tín hiệu Chúa đến.
Tuy họ rất đông, nhưng vì họ lo cho mình hơn lo cho dân, nên Chúa Giêsu thương xót nhìn dân như đoàn chiên không có người chăn. (Math 9,30). Do đó, dân dễ đánh mất sự chính trực. Chúa Giêsu có lần đã nói về họ: “Ông Gioan đến không ăn uống, thì họ bảo ông bị quỉ ám. Con Người đến có ăn có uống, thì họ bảo đó là kẻ mê ăn, rượu chè, là bạn các kẻ thu thuế và các người tội lỗi”. (Math 11,16-19).
Khi một Đức tin ngày đêm không mong chờ chính Chúa, mà thực sự chỉ nhân danh Chúa mà chờ mong những gì trái nghịch với Chúa hoặc không hợp Thánh ý Chúa, thì khi Chúa đến, Đức tin ấy sẽ không thể nhận ra Chúa. Vì Chúa đến nhưng lại ẩn hình dưới những hình dạng khó nghèo, nhịn nhục, hiền lành, khiêm tốn, phục vụ quên mình, là những đòi hỏi mà Đức tin ấy không quen chấp nhận.
Hai khủng hoảng trên đây về Đức tin là chuyện xưa, thuộc về Israel dân Chúa. Nhưng khi nhìn vào hai khủng hoảng ấy, tôi có cảm tưởng đây cũng là chuyện hôm nay, thuộc về dân Chúa tại Việt Nam, trong đó có tôi. Tôi nghĩ là ta có khủng hoảng đấy.
Nhân dịp dọn mình đón Chúa Giáng sinh, ngoài việc mời gọi thanh luyện Đức tin như nói ở trên, tôi cũng xin đưa ra thêm vài gợi ý:
Một là đức tin của ta phải rất khiêm nhường.
Chúa đến với ta hơn là ta đến với Chúa. Chúa tìm ta hơn là ta tìm Chúa. Chúa đến với ta, Chúa tìm ta, chỉ vì Chúa thương ta, để cứu độ ta, chứ không vì ta có công phúc vì xứng đáng. Vì thế trong niềm cảm tạ Chúa đã thương ta, ta vẫn nghĩ tới bao người khác, với tâm tình cởi mở khiêm tốn. Hãy nhớ lời Chúa phán: “Quả thực, Ta bảo các ông, những người thu thuế và các đĩ điếm sẽ vào nước Chúa trước các ông. Vì Gioan đã đến với các ông trên đàng công chính, và các ông đã không tin Ngài. Còn các người thu thuế và các đĩ điếm đã tin Ngài”. (Math 21,31-32). Chúa cũng đã phán: “Ta cũng nói cho các ngươi biết rằng nhiều người từ phương đông cho tới phương tây sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacob trong nước Trời. Còn con cái trong nhà sẽ bị ném vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc, nghiến răng”. (Math 8,10-11).
Những lời Chúa phán trên đây không cho phép đức tin ta tự phụ tự mãn. Đừng lấy làm lạ nếu vô số những kẻ đời đạo cho là tội lỗi, sẽ có mặt trên thiên đàng. Riêng tôi, điều làm tôi bỡ ngỡ nhất, chính là sự tôi được Chúa yêu thương, được tin vào Chúa. Chẳng do tôi, nhưng hoàn toàn do Chúa mà thôi.
Hai là đức tin của ta phải rất bác ái.
Thánh Phaolô, khi đề cập đến đức tin đón chờ Chúa đến, Ngài hay nhắc đến khía cạnh yêu thương. Trong thư I gởi giáo đoàn Thessalonica Ngài viết: “Xin Chúa gia tăng và ban cho anh em lòng thương yêu nhau và thương yêu mọi người...không có gì đáng trách trước mặt Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Kitô, Chúa chúng ta ngự đến”. (I Thess 3,11-12). Trong một lá thư khác, Ngài viết: “Điều tôi cầu nguyện bây giờ, là lòng bác ái của anh em càng ngày càng gia tăng trong sự thông biết và am hiểu, để anh em xác định những điều quan trọng hơn, để anh em được trong sạch và không đáng trách cho đến ngày Đức Kitô đến”. (Philip 1,4-6). Cũng trong lá thư ấy, Ngài nói thêm: “Đức ôn hòa của anh em phải sáng tỏ trước mặt mọi người, vì Chúa đã gần đến”. (Philip 4,4-5).
Phải nói thiệt điều này: Đức tin của nhiều tín hữu Việt Nam chưa phải là một sự gặp gỡ Thiên Chúa Tình yêu, chưa phải là một cuộc sống thân mật với Đấng là Tình yêu đầy lòng thương xót, nên Đức tin của họ chưa có nhiều tình thương Phúc âm để chia sẻ ra. Đàng khác, nhiều người cũng không chuẩn bị đón nhận đức tin và tích cực vun tưới đức tin bằng các việc bác ái, nên khi Chúa là Tình thương đến, đức tin của họ vốn thiếu vắng bác ái đã không nhận ra Ngài, đã không đón nhận Ngài.
Ba là đức tin của ta phải rất đơn sơ.
Chúa Giêsu đã có lần nói với Đức Chúa Cha rằng: “Lạy Cha là Chúa trời đất, con chúc tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những người đơn sơ”. (Luca 10.21). Điều mà nhiều người khôn ngoan thông thái không được biết, nhưng người đơn sơ bé mọn lại biết nhờ mạc khải, đó là Đức Kitô chính là trung tâm điểm của đức tin. “Cha Ta đã trao cho Ta mọi sự. Không ai biết Chúa Con là ai, ngoài CHúa Cha. Cũng không ai biết Chúa Cha là Đấng nào, ngoài Chúa Con”. (Luca 10.22). Chúa Kitô chính là Tình yêu Thiên Chúa Cứu độ. “Do điều này mà chúng ta biết Tình yêu của Thiên Chúa là chính Người đã thí mạng sống mình vì chúng ta” (Gioan 3,16).
Một người có đức tin quen tập trung vào Đức Kitô là Tình yêu Cứu độ,sẽ được chuẩn bị tốt, để dễ nhận ra và dễ đón tiếp Đức Kitô, khi Ngài đến với bất cứ dưới hình thức nào mang tính cách Tình yêu Cứu độ. Có thể Ngài ẩn mình dưới hình thức kẻ hiền lành khiêm nhượng (Math 11,30). Có thể Ngài ẩn mình dưới hình thức kẻ làm các việc từ thiện bác ái (Luca 7,19-23). Có thể Ngài ẩn mình dưới hình thức những người sống Tám Mối Phúc (Math 5,1-12).
Tôi nghĩ rằng, nếu thực hành mấy gợi ý trên đây với tinh thần sám hối cậy tin, chúng ta sẽ dọn đường cho Chúa đến (Luca 3,4-6). Chúa đang đến với ta, Chúa đang đi vào tâm hồn ta.
Lạy Con Một Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô, Lạy Chúa là Thiên Chúa, Là Chiên Thiên Chúa, Là Con Đức Chúa Cha, Chúa xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con, Chúa xóa tội trần gian, xin nhậm lời chúng con cầu khẩn.
Bài nói chuyện với các linh mục tu sĩ, dịp tĩnh tâm, tháng 12/1991
(Bài nói chuyện của Đức Cha GB. Bùi Tuần với các Linh mục tu sĩ, TĩnhTâm tháng 12/1992)
Sắp tới ngày kỷ niệm việc Thiên Chúa giáng sinh. Nhiều nơi đã bắt đầu chuẩn bị mừng lễ. Hầu Bùi-Tuần 2089
Sắp tới ngày kỷ niệm việc Thiên Chúa giáng sinh. Nhiều nơi đã bắt đầu chuẩn bị mừng lễ. Hầu hết các chuẩn bị ấy đều hợp tình hợp lý. Riêng tôi, tôi chú ý nhiều hơn đến việc chuẩn bị tâm hồn. Tâm hồn mới là nơi Chúa muốn đến viếng thăm và ở lại. Tôi chuẩn bị tâm hồn tôi bằng những việc đơn sơ.
KHIÊM NHƯỜNG
Trước hết tôi sẽ nhìn vào sự tự hạ của Ngôi Hai Thiên Chúa. “Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”. Không những Ngài đã từ trời bước xuống, mà còn đã tự hạ tới bậc thang chót của thân phận con người. Sự tự hạ của Ngài vượt quá ranh giới nghèo khó, để đi vào cõi cùng cực. Nghèo khó là thiếu thốn, nhưng trong mức độ còn chịu đựng được. Còn cùng cực là thiếu thốn những gì cần thiết nhất tới mức coi như không chịu đựng nổi. Nhất là khi phải cùng cực, mà danh dự lại bị chối từ. Ngài tự hạ và chấp nhận bị hạ.
Chúa Giêsu giáng sinh tại Bêlem là một cảnh hết sức cùng cực. Nằm trong máng cỏ, giữa đàn bò chiên, ở cánh đồng hoang vắng, giữa đêm đông giá lạnh. Thiếu hết mọi sự. Cơ cực đủ mọi điều. Không ai chịu đón nhận Ngài.
Ngài là Đấng cao cả vô cùng, quyền uy vô cùng, thế mà Ngài đã lựa chọn sự tự hạ như thế, khi giáng sinh làm người. Để khởi đầu một cuộc đời hy sinh “làm giá cứu chuộc” cho nhân loại (Marc 10,45).
Ngài tự hạ trong tinh thần tuân phục thánh ý Chúa Cha, vì thế mà Thiên Chúa trên trời được vinh danh. Thánh Phaolô viết: “Anh em hãy cảm nghĩ trong anh em điều đã có trong Đức Kitô: Ngài tuy có bản tính Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho mình được ngang hàng với Thiên Chúa, trái lại, Ngài đã huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Ngài đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài” (Phil 2,5-10).
Đối với tôi, sự tự hạ như thế của Đức Kitô là một phép lạ đặc biệt, làm chứng Ngài bởi trời mà xuống. Sự tự hạ ấy là một đặc điểm của Chúa Cứu Thế. Các Thiên thần đã giới thiệu đặc điểm ấy cho các mục đồng, và các mục đồng đã nhận ra Chúa Cứu Thế qua đặc điểm tự hạ (Luca 2,12).
Sự tự hạ của Chúa Cứu Thế là một lời kêu gọi. Còn sự tự hạ của tôi chính là trở về đúng chỗ của mình. Chỗ của tôi là hàng ngũ kẻ tội lỗi. Bởi vì “tôi đã phạm tội nhiều, trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót”.
Chính khi tôi đứng vào đúng chổ của mình, thì Chúa Cứu Thế đến với tôi. Bởi vì Ngài không đến cho kẻ khỏe mạnh, mà đến cho kẻ bệnh tật yếu đuối. Ngài là “Đấng xóa tội trần gian” (Gioan 1). Ngài là Đấng đã kêu gọi “những ai gồng gánh nặng hãy đến với Ngài, Ngài sẽ làm cho nhẹ gánh đi” (Mt 11,28).. “Ngài là Đấng cầu bầu trước mặt Chúa Cha, chính Ngài là hy lễ đền tội chúng ta, không những cho chúng ta mà cũng cho mọi người trên thế gian” (I Gioan 2,1).
Từ kinh nghiệm trên đây, tôi hiểu phần nào “Vực thẳm của sự giàu có, của sự khôn ngoan và của sự hiểu biết Thiên Chúa. Ý định của Ngài thật không thể nào thấu được, và con đường của Ngài không thể nào hiểu được” (Rm 11,33).
Khi tôi nhận biết mình là kẻ tội lỗi mà được Chúa Cứu Thế yêu thương tha thứ, niềm tin tôi đặt vào Ngài sẽ rất sống động. Ngài là Tin Mừng của tôi. Ngài là hy vọng của tôi. Ngài là sự sống của tôi. Tôi tin như vậy.
TRỞ VỀ
Với niềm tin ấy, tôi đón nhận ơn cứu độ. Ở đây, tôi nhớ lại lời Thánh Phaolô nói: “Nhờ hồng ân Thiên Chúa mà ta được cứu độ, do đức tin. Ơn cứu độ này không do ta, mà là một hồng ân của Chúa. Nó không phải là kết quả những cố gắng của ta, và do đó không ai có thể tự phụ” (Eph 2,8-9).
Tôi hiểu đức tin nói đây là một đức tin đi đôi với việc làm. Bởi vì thánh Giacôbê viết: “Nếu ai nói tôi có đức tin, mà lại không có việc làm, thì điều ấy chứng tỏ gì? Đức tin có cứu rỗi người ấy không?...Tổ phụ Apraham đã chẳng nên công chính bởi việc làm khi ông tiến dâng con mình là Isaac trên bàn thờ sống ư?. Như thế đã rõ là đức tin kết hợp với việc làm của ông, và bởi việc làm thì đức tin của ông nên trọn vẹn” (Giacôbê 2,14,21).
Việc làm của tôi là gì? Thưa là trở về với Chúa. Trở về đó là việc làm quan trọng nhất, mà Chúa Giêsu giáng sinh mong muốn chúng ta thực hiện. Tôi trở về bằng sự từ bỏ những gì phản nghịch với Đức Kitô, để sống theo lời Ngài và mẫu gương của Ngài.
Sẽ không có sự trở về đích thực, nếu thiếu nhận thức đúng về khoảng cách đau buồn giữa hình ảnh Đức Kitô và hình ảnh của ta. Nhận biết sự cách biệt đó là do sự thức tỉnh của trái tim nhiều hơn là do sự học hỏi của trí khôn. Với một trái tim dửng dưng cứng cỏi, khô khan, đóng kín, bao người đã không trở về với Chúa được, mặc dù trí khôn họ chất chứa đầy những chân lý tôn giáo cao sâu. Trái lại, với thái độ tỉnh thức, nhạy bén của trái tim đơn sơ khiêm nhường, bao người đã không những đón nhận được ơn trở về, mà còn phát triển được ơn đó trên suốt cuộc đời đầy thử thách.
Nhận định trên đây vừa dựa trên kinh nghiệm, vừa dựa trên Kinh thánh. Thánh Vương Đavit cầu xin: “Con chôn lời Chúa hứa tận đáy lòng con, để con không phạm tội mất lòng Chúa...Con muốn chạy trên con đường giới răn Chúa,vì chính Chúa đã mở trái tim con... Xin hướng lòng con theo thánh ý Chúa” (Tv,119,11,32,36). “Lạy Chúa, xin tạo trong con một quả tim trong sạch...” (Tv,51,12). “Ta sẽ cho con một quả tim mới, Ta sẽ đặt trong con một tinh thần mới, Ta sẽ cất khỏi con trái tim chai đá, và ban cho con một trái tim thịt” (Edekien,36,26).
Trái tim không chai cứng do bản năng, mà do sự suy thoái đạo đức dần dần, vì từng bước xa lìa luật Chúa. Trái tim chai cứng cũng thường do thói quen tự mãn coi mình là đạo đức, để rồi dễ dàng khinh chê kẻ khác, coi họ là kẻ tội lỗi. Có thể nói, người công chính quá tự mãn sẽ dần dần làm cho trái tim mình trở nên chai đá. Họ tái diển lại bi kịch của phái đạo đức Pharisêu xưa, hồi Chúa giáng sinh. Phá hủy được sự chai đá của tấm lòng sẽ không hoàn toàn là kết quả của thiện chí và cố gắng con người, mà còn là việc của ơn thánh.
Một vài chỉ dẩn trên đây cho thấy sự trở về với Chúa sẽ được thực hiện bằng việc ăn năn sám hối, cầu nguyện không ngừng và quyết tâm hy sinh phấn đấu để thực thi ý Chúa. Tôi nói như thế trong tinh thần lời Thánh Phaolô sau đây: “Thưa anh chị em, tin vào lòng Chúa xót thương, tôi khuyên anh chị em hãy lấy bản thân mình làm lễ vật sống động, thánh thiện và tốt đẹp mà dâng cho Chúa. như thế là anh chị em thờ phượng Chúa một cách xứng hợp. Anh chị em đừng học đòi thế gian, nhưng hãy thay đỏi tâm trí anh chị em nên mới, để có thể hiểu biết ý Chúa và phân biệt điều hay lẽ phải, điều tốt đẹp, điều trọn lành” (Rôma 12,1-2).
CẢM TẠ VÀ CA NGỢI
Chắc là còn lâu lắm bản thân tôi mới trở thành “lễ tế thánh thiện”. Nhưng có một việc tôi nên làm và có thể làm trên đường trở về, là ca ngợi và cảm tạ Thiên Chúa.
Thật vậy, tôi rất đỗi ngạc nhiên trước những sáng kiến bất ngờ của Thiên Chúa giáng sinh. Thí dụ Ngài đã sinh ra ở cánh đồng chứ không trong đền thờ. Những người đầu tiên được mời gọi đến với Ngài là các mục đồng chứ không phải các vị tư tế, thông luật và chức sắc. Ba Vua được hướng dẫn tới hang đá Bêlem là những vị thuộc dân ngoại xa xôi, chứ không phải các vị có chức quyền đời đạo tại Israel. Đức Mẹ Maria và Thánh Giuse là những người bình dân lao động lặng lẽ, chứ không phải là những người được đào tạo qua trường lớp.
Với những chọn lựa bất ngờ này, Thiên Chúa chứng tỏ Ngài là Đấng hoàn toàn tự do, Ngài đến cứu độ, qua bất cứ con đường nào mà Ngài muốn, bằng bất cứ cách nào mà Ngài định, với bất cứ ai mà Ngài chọn.
Khi ca ngợi sự tự do Chúa, tôi thấy tôi phải rất khiêm tốn và nhạy bén mềm dẻo trong việc đón nhận tình yêu cứu độ. Có khi chúng ta quen bám chặt vào một số khung đạo đức, rồi đinh ninh cho rằng ơn Chúa chỉ đến qua những cửa khẩu cố định đó mà thôi. Nhưng không thiếu trường hợp ơn Chúa đến qua những ngã bất ngờ, nên ta không sẵn sàng đón nhận, ta dững dưng, thậm chí có khi cũng dám chối từ, hoặc đối kháng.
Tuy nhiên, chính nhờ sự tự do của Chúa mà tôi và bao người đã được Chúa yêu thương. “Tình yêu Thiên Chúa là thế này: Không phải chúng ta mến yêu Chúa trước, nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta trước và đã sai Con mình xuống thế, hy sinh đền tội cho chúng ta” (I Gioan,4,8-10).
Dung mạo Thiên Chúa đúng là tình yêu cứu độ giầu lòng thương xót. Có được một cái nhìn như vậy do đức tin, thực là một ân huệ lớn lao, đáng được ta ca ngợi và cảm tạ suốt đời.
Dung mạo Thiên Chúa cứu độ là nguồn hy vọng đem lại sự sống thiêng liêng. Dung mạo ấy không những được in vào tâm hồn tôi một lần quyết liệt do đức tin, mà cũng được thường xuyên trau dồi bởi những gương sáng. Mỗi ngày , nhìn cuộc đời, tôi có cảm tưởng như lễ Giáng Sinh là chính hôm nay. Bởi vì tôi đang thấy những nhóm nhỏ đơn sơ như các mục đồng, không biết giảng nghĩa Tin Mừng, mà chỉ biết kể lại những gì họ đã thấy, đã cảm nghiệm về Tin Mừng đã xảy đến với họ. Họ là những tông đồ đến từ đám đông giáo dân chất phác. Họ làm chứng về một Thiên Chúa là Emmanuen: “Đấng ở với chúng tôi”.
Tôi cũng đang thấy có những đoàn người như Ba Vua, bén nhạy trước ơn Chúa gọi, thao thức với sứ mạng cứu đời, đang âm thầm chuyển dịch từ cuộc đời hưởng thụ sang cuộc đời dấn thân khiêm tốn như chuyến đi Bêlem. Họ là tông đồ đến từ lương dân, đang làm chứng cho Nước Trời vô biên giới. Tôi cũng đang thấy vô số gia đình lặng lẽ như Thánh Gia tại Bêlem, sống vững vàng với niềm tin, trọn vẹn với giới luật yêu thương. Họ làm chứng cho một trật tự đạo đức được xây dựng trên nền tảng Đức Kitô. Tôi cũng đang thấy nhiều người đang mạnh mẽ sống mầu nhiệm Giáng Sinh, không giảng về Đức Kitô, nhưng diễn lại cuộc sống Ngài trên chính bản thân mình. Nhất là tôi đang thấy Đức Kitô đang đến với tôi và những kẻ tội lỗi, yếu đuối, hèn mọn, khó nghèo, dưới nhiều dạng khác nhau, để chia sẻ cho chúng tôi tình yêu cứu độ và rồi cũng đã vui nhận từ chúng tôi tình thương chân thành sám hối và cảm tạ.
Thành ra, mỗi ngày, tại chính nơi đây, tôi vẫn có vô số lý do trước mắt, để hợp cùng các Thiên Thần dâng lên Chúa lời ca muôn thuở: “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng Trời và bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
Bài nói chuyện với các linh mục tu sĩ, tháng 12/1992.
Những gì tôi nói ở đây có một phần đã in trong bản “tĩnh tâm tháng 12-12-1992” và một phần không Bùi-Tuần 2090
Những gì tôi nói ở đây có một phần đã in trong bản “tĩnh tâm tháng 12-12-1992” và một phần không có trong bản đó.
Việc thứ nhất tôi thực hiện để đón mừng Chúa Giáng Sinh là sống khiêm nhường . Tại sao vậy? Thưa vì khiêm nhường là nhân đức rõ ràng nhất và gây xúc động nhất mà tôi thấy nơi Chúa Giêsu tại hang đá Bêlem. Khiêm nhường của Ngài được tỏ rõ ở những điểm nào?
Thưa:
1/ Ở sự Ngài tuân phục thánh ý Chúa Cha. Tôi nhớ lại lời Thánh Phaolô nói thay Ngài: “Cha đã không hài lòng với các lễ vật toàn thiêu, vì vậy, này con xin đến để làm theo ý Cha”. Thánh ý Chúa Cha là Ngài xuống thế, gánh tội nhân loại. Chuyến đi rất dài, đầy khổ đau, nhục nhã.
2/ Ở sự Ngài hạ mình xuống làm người, một người phàm trống vậy, không mang theo tước vị nào để mà tựa nương. Tôi nhớ lại lời kinh tin kính: “Vì loài người chúng tôi, và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”. Để làm người, không làm người thánh, không làm người công giáo. Thuộc từ “thánh”, “công giáo” là một thuộc từ chỉ một cộng đoàn, để nương tựa. Chúa Giêsu không mang theo thuộc từ nào. Ngài hoàn toàn chỉ tựa nương vào một Thiên Chúa Cha.
3/ Ở sự Ngài hạ mình để làm con người hèn hạ. Tôi nhớ lời Thánh Phaolô nói: “Tuy Chúa Giêsu có bản tính Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không dành quyền được ngang hàng với Chúa Cha, trái lại Ngài lại hạ mình xuống làm người, mang thân phận tôi đòi...”.
4/ Ở sự Ngài giữ thinh lặng, cuộc đời Ngài là Lời Thiên Chúa, Ngài là Ngôi Lời. Lời là lời nói, nhưng Lời đây không nói.
5/ Ở sự Ngài mang thân phận đứa nhỏ nghèo nàn cùng cực. “Hôm nay một đứa trẻ đã sinh ra”. Một đứa trẻ nghèo, nằm trong máng cỏ dành cho bò lừa!
6/ Ở sự Ngài chấp nhận bị hạ. Tôi nhớ lại lời thánh Gioan viết: “Ngài đến trong nhà của Ngài, nhưng những người của nhà Ngài đã không đón nhận Ngài”. Ngài bị từ chối, bị xua đuổi. Bị hạ là một nỗi nhục, bị hạ khó chấp nhận hơn tự hạ.
Khiêm nhường là một dấu chỉ đầu tiên và rõ rệt nhất về Đấng Cứu Chuộc. Vì thế, hôm nay, muốn nhận ra cá nhân nào, cộng đoàn nào, hoạt động nào là do Chúa Giêsu thúc đẩy, có tính cách góp phần vào việc cứu chuộc, tôi sẽ hỏi xem người đó, cộng đoàn đó, việc đó có tính cách khiêm nhường không? Nếu có tính cách phô trương, kiêu căng, tự đắc, hãnh diện, thì không phải là dấu có sự hiện diện của Chúa Giêsu.
Tôi thấy hiện nay Chúa đang thúc giục chúng ta hãy sống khiêm nhường. Ngoài Lời Chúa và Gương đời Chúa, tôi còn thấy nhiều sự đang xảy ra trên đời, có vẻ như những áp lực, ép chúng ta phải khiêm tốn. Chẳng hạn:
a/ Những yếu đuối và những giới hạn của các đấng bậc trong Hội Thánh, nhất là nơi chính chúng ta. Mang chức thánh, nhưng con người đâu có thánh!
b/ Đang có sự đi lên của nền đạo đức nhân bản, coi sự chân thành, khiêm tốn, hồn nhiên, là những giá trị lớn. Năm 1992 này đã xảy ra nhiều việc xin lỗi có tính cách lịch sử. Đức Giáo Hoàng Gioan II chính thức xin lỗi Galilée và lịch sử vì ông bị kết án oan. Các Giám mục Mỹ xin lỗi các thổ đân, vì họ đã bị ngược đãi từ 1492 đến nay. Dòng Đaminh đã xin lỗi các dân Nam Trung Mỹ, vì sau biến cố 1492, đã có một số thầy dòng Đaminh đưa ra những suy nghĩ thần học biện minh cho việc thực dân (tuyên bố tại Đại Hội Mehicô ngày 28 tháng 7 năm 1992). Những hành động khiêm tốn này được đánh giá cao.
c/ Đang có phong trào tục hóa, theo đó, người ta đánh giá các đấng bậc Hội Thánh theo tấm lòng các Ngài đối với con người, nhất là đối với người nghèo khó, tội lỗi, chứ không căn cứ vào tấm lòng các Ngài đối với những gì là thánh, như xây thánh đường, mở lễ thánh. Trong một thế giới như hiện nay, nếu ta cứ mãi xây uy tín cho mình và cho Hội Thánh bằng cách đấu tranh cho các quyền lợi Hội Thánh hơn là quan tâm lo cho kẻ nghèo, thì sẽ rất lạc lõng.
d/ Đang có phong trào bỏ Hội Thánh tại nhiều nước có đạo lâu năm, như Âu Châu. Sự kiện này thúc đẩy ta đừng quá tin cậy vào các phương tiện tự nhiên, như tự do, tiền bạc, quyền thế, nhưng hãy tuyệt đối cậy tin vào Chúa. Bên Tây, Hội thánh có đủ mọi phương tiện, thế mà dân cứ bỏ Hội Thánh. Có nơi nay chỉ còn 10% được gọi là giữ đạo.
e/ Đang có phong trào chỉ trích Hội Thánh nói chung và các đấng bậc Hội Thánh nói riêng. Mới rồi có những bài báo công khai gợi ý Đức Giáo Hoàng từ chức đi! Cuốn Clérocratie dans l'Eglise de France, 1991 là một phê phán công khai gay gắt nhắm vào hàng giáo phẩm. Tác giả là một tông đồ giáo dân!
f/ Đang có sự phát triển mạnh của Hồi Giáo ngay tại các nước Âu Châu Công Giáo. Nhiều giáo phái đang nở rộ. Công Giáo đang trở thành thiểu số. Ta cần khiêm tốn xét mình xem có phải do lỗi các thành phần Hội Thánh ta không?
Việc thứ hai tôi thực hiện để mừng lễ Chúa Giáng Sinh là trở về.
1/ Trở về với Đức Kitô là tôi trở về với đời hiến tế. Đức Kitô đã dâng mình làm của lễ. Tôi cũng phải vậy.
2/ Trở về với Đức Kitô là tôi trở về với chức năng người chăn chiên lành lo cho đoàn chiên, đi tìm chiên lạc.
3/ Trở về với Đức Kitô là tôi trở về với tinh thần Emmanuel của Đức Kitô. Ở lại với nhân loại không có phải là Ngài giữ một thái độ cố định, nhưng ở lại là Ngài đồng hành với nhân loại. Tôi cũng phải thế, tôi phải nhạy bén với những chuyển biến tâm lý, xã hội, văn hóa, kinh tế của Việt Nam, để biết có những mục vụ thích ứng.
(Bài nói chuyện của Đức Cha GB. Bùi Tuần với các Linh mục tu sĩ, Tĩnh Tâm tháng 3/1993)
Trong mọi thánh lễ, dù là lễ tạ ơn, việc đầu tiên tôi làm là thú nhận mình tội lỗi. “Tôi thú nhận Bùi-Tuần 2091
Trong mọi thánh lễ, dù là lễ tạ ơn, việc đầu tiên tôi làm là thú nhận mình tội lỗi. “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em, tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót”.
Với thái độ thú nhận này, tôi coi mình như người thu thuế đến nhà thờ cầu nguyện (Luca 18,9-14). Ông này không dám tự hào như người đạo đức biệt phái kể công kể phúc, coi mình hơn kẻ khác. Trái lại ông cúi mình đấm ngực, thú nhận mình hèn kém, hết lòng xin Chúa xót thương.
Mặc dầu tôi đã phạm nhiều tội, nhưng tôi nhấn mạnh hơn đến sự “tôi đã phạm tội nhiều”.
Nói “phạm tội nhiều” là nói tới tính chất tội lỗi, chứ không nói tới số lượng tội lỗi. Bởi vì sẽ rất mệt và cũng sẽ chẳng mấy ích lợi, nếu khi thống hối, tôi phải kể ra tỉ mỉ từng loại tội tôi phạm, và đếm đủ các lần tôi sai lỗi.
Trong đạo đức, số lượng việc làm đâu có quan trọng bằng tính chất việc làm. Nếu trong một ngày, tôi được rước lễ hai lần, và mỗi lần cả chục bánh thánh, nhưng với một tâm hồn nguội lạnh, thì tôi đâu có được ơn bằng một người vì hoàn cảnh chỉ được rước nửa bánh thánh một lần trong cả một năm, nhưng với tâm hồn hết sức sốt sắng. Đừng đưa môn toán vào đạo đức, kẻo lầm to.
Người trộm bị đóng đinh bên hữu Chúa đã phạm nhiều tội. Nhưng ông khiêm tốn biết mình, nên đã đón nhận được ơn cứu độ. Còn các vị đạo đức như các biệt phái, các kỳ lão, các thầy tư tế có vẻ không phạm nhiều tội. Cho dù họ chỉ phạm một tội, đó là tham gia vào việc giết Chúa Giêsu, do tinh thần đạo đức ác độc, kiêu căng, cố chấp, thì chỉ với chừng ấy thôi họ cũng đã phạm tội rất nhiều.
Còn tôi thì sao? Có thể là tôi không phạm nhiều tội. Nhưng đừng vì thế mà tôi vội an tâm. Bởi vì nếu tôi thường xuyên mang sẵn một thái độ nội tâm xấu, thì chỉ với một vài tội do tư tưởng, lời nói, việc làm và thiếu sót, tôi cũng đã phạm tội nhiều, gây khốn khổ muôn vàn cho tôi và cho người khác.
Thái độ nội tâm là rất quan trọng. Trong mọi thái độ nội tâm nguy hại, mà tôi cần để ý hơn cả trong thống hối, thiết tưởng phải nghĩ đến đến “thái độ nội tâm đầy chật cái tôi”. Thái độ này không tự xuất hiện, không tự nói ra, không tự thú nhận. Nhưng nó được phát hiện qua các phản ứng. Lần này chỉ xin nêu lên 2 phản ứng mà thôi.
1. PHẢN ỨNG TỰ MÃN
Người tự mãn coi mình là đầy đủ. Họ hả hê với cái mình có. Họ hả hê cả khi thấy người khác lầm lỗi hoặc gặp phải rủi ro, cơ cực.
Đối với kẻ đạo đức tự mãn, thì tội lỗi là chuyện của kẻ khác, đổi mới là chuyện không liên quan đến mình, và cứu độ chỉ là chuyện chung chung.
Phúc Âm nói đến nhiều loại người tự mãn, như vị tư tế, thầy thông luật, người biệt phái, kẻ phú hộ, ngài kỳ lão. (Mt 21,23, Luca 12).
Phúc Âm cũng cho thấy, đang khi Chúa Giêsu tỏ ra rất nhân từ với những người tội lỗi yếu đuối, Ngài lại tỏ ra rất công bình nghiêm khắc với những người tự mãn, kiêu căng.
Chính Ngài có bao giờ tỏ ra tự mãn đâu. Mặc dù Ngài là Con Chúa Cha, nhưng Ngài không hề đấu tranh để được ngang hàng với Thiên Chúa. Trái lại Ngài tự hạ, mặc lấy bản tính con người, chia sẻ trọn vẹn thân phận con người hèn yếu, ngoại trừ tội lỗi.
Trong sa mạc, Satan xúi Đức Kitô phô trương quyền lực để làm sáng danh Thiên Chúa. Đức Kitô đã quyết liệt chối từ. Bởi vì có một điều Satan đã không nói ra, đó là sự phô trương dễ đưa tới tự mãn, và tự mãn chính là một địch thù phá phách vinh quang Thiên Chúa.
Tôi mới đọc cuốn Clérocratie dans l'Eglise de France, của Jean-Claude Didelot, 1991, cuốn Misérable Eglise của Henri Guillemin, 1992, và cuốn Lettre aux Evêques của André Frossard, 1992. Cả ba tác giả đều là những giáo dân trí thức giữ đạo có khuynh hướng bảo thủ. Nội dung sách là những phê phán từ cá nhân vị này vị nọ, đến cơ chế Hội Thánh Pháp. Ít vị ngọt, mà nhiều vị đắng. Cố nuốt xong mấy trăm trang đó, tôi tự nhiên tiên đoán, rồi đây sẽ tới thời, với trào lưu tự do dân chủ, các sách loại đó cũng sẽ xuất hiện tại Việt Nam này.
Ngay hiện tại, nhiều nơi trong các cộng đoàn Việt Nam, cũng đang phổ biến nhiều loại báo “miệng”, sách “miệng”, bàn tán đủ các thứ “chuyện người ta” trong đạo. Những thứ sách báo loại này, nếu không đem lại cho chúng ta những sự thực mới, cũng có thể giúp thanh luyện tâm hồn chúng ta. Những đắng cay của thực tế lòng người phức tạp sẽ nạo vét lòng ta cho bớt đi sự tự mãn, để có thể đón nhận được nhiều hơn dòng ơn thánh Chúa, để sau đó chảy sâu hơn vào các linh hồn.
Mới rồi, tôi đi làm lễ Thêm Sức ở Hoà Giang, thuộc huyện Hà Tiên. Lúc đó gần trưa, xe tôi đi về hướng Kiên Lương. Đường xấu và vắng giữa vùng quê dân cư thưa thớt. Tôi thấy đàng xa hai em bé cắp cặp lững thững đi. Tới gần, tôi cho xe dừng lại, mời hai em bé quá giang.
Đó là hai chị em đi học, đứa chị 12 tuổi, đứa em trai hơn 10 tuổi. Trên xe, chúng tôi hỏi chuyện hai em:
- Trường học cách đây bao xa? - Thưa 10 cây số. - Ba các cháu làm gì? - Thưa ba chết lâu rồi. - Má các cháu làm gì? - Thưa má nằm bệnh. - Ai nuôi các cháu? - Thưa bà ngoại và chị hai.
Ngày hôm sau, trên đường về, tôi ráng tìm nhà hai đứa bé. Xe tôi dừng lại đúng trước nhà chúng. Thực là thê thảm. Trong căn nhà tranh trống trải, một người mẹ mắc bệnh ung thư, da bọc xương, nằm chờ chết trên một chiếc giường trải tấm chiếu rách. Một bà ngoại đang ngồi chắp nối các mảnh vải vụn, khâu lại để làm áo quần cho mấy cháu, một chị hai đi làm mướn, ngày có tiền, ngày không. Họ rất nghèo, làng xóm cũng rất nghèo. Họ đùm bọc lấy nhau. Họ lo cho nhau. Họ chia sẻ cho nhau tình thương và hy vọng. Họ chẳng có gì cho tôi. Nhưng tôi đã lãnh nhận từ họ rất nhiều. Tôi không còn gì để tự mãn cả.
Đối với tôi, cảnh nghèo khổ của đồng bào là một lá thư sống động Chúa gửi cho tôi và Hội Thánh của tôi. Cảnh nghèo khổ cụ thể như thế đó. Chúa gọi từ đó. Chúa đến qua đó. Chúa chờ ở đó. Thao thức của Chúa chất đống tại đó. Toà án phán xét của Chúa đặt tại đó. Cứ thử ghìm mình vào cảnh đó như những người nghèo khổ đang sống, ta sẽ thấy Tám mối phúc ở đâu?
Bao lâu những cảnh nghèo khổ và những người yếu đuối xung quanh chúng ta chưa nhận thấy Hội Thánh Công Giáo là Tin Mừng Cứu Độ thiết thực cho họ, và bao lâu chúng ta chỉ hướng về họ chứ không chia sẻ phần nào thân phận cuộc đời của họ như Đức Kitô, thì bấy lâu sự tự mãn của chúng ta về bất cứ thành công nào, cũng phải kể là một phản ứng còn nhiều chất “Tôi”, chứ không đúng tinh thần Đức Kitô, Đấng Cứu chuộc loài người.
Rất mừng là số người mang tinh thần Đức Kitô dấn thân phục vụ người nghèo nay đang tăng. Và số người hiền lành khiêm nhường theo gương Đức Kitô nay cũng rất đông. Loạt bài nói về “Les Héros du Coeur”, đăng trên Paris-Match, 7 Janvier 1993 báo hiệu một mùa xuân đẹp cho Nước Trời đang đến.
Riêng năm vừa qua, 1992, đã loé sáng nhiều tấm gương cỡ lớn. Như việc các Hội Đồng Giám Mục Canada và Hoa Kỳ công khai nhìn nhận công cuộc truyền giáo đi đôi với việc khám phá Mỹ Châu cách đây 500 năm đã phạm nhiều lỗi lầm (Documentation Catholique, số 2044, Février, 1992 và số 2059, Nov. 1992).
Rồi việc Đức Tổng Giám mục giáo phận Tarragone, Chủ-tịch uỷ-ban Giám mục của Hội đồng Giám mục Tây Ban Nha, phụ trách các quan hệ liên tôn, đã công khai nhìn nhận việc trục xuất các người Do Thái ra khỏi Tây Ban Nha năm 1492 là một lỗi lầm lớn. (Documentation Catholique, số 2049, Mai, 1992).
Rồi đặc biệt là việc Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ngày 31-10-1992 chính thức nhìn nhận việc Toà Thánh kết án nhà khoa học Galilée ngày 22-6-1633 là một lầm lỗi đau đớn (La vie, số 2471, Janvier, 1993).
Rồi văn kiện “Pastores dabo vobis” do Đức Gioan Phaolô II công bố ngày 25-3-1992 cho thấy Toà Thánh không tự mãn với nền đào tạo giáo sĩ vốn có từ lâu, nhưng nay thao thức đi tìm một nền đào tạo mới thích hợp và hữu hiệu hơn cho kỹ nguyên mới và cho từng địa phương.
Nhận sai lầm, thiếu sót, thiếu thốn là một nhận thức đẹp. Nỗ lực học hỏi thêm, nghiên cứu thêm, tự đào tạo thêm và dấn thân thêm là một việc rất tốt, khác với tự mãn là một phản ứng xấu. Tuy nhiên, có một phản ứng khác còn xấu hơn nhiều, đó là phản ứng loại trừ.
2. PHẢN ỨNG LOẠI TRỪ
Đọc Phúc Âm, tôi thấy các người tự coi mình là đạo đức có thói quen loại trừ những ai, mà họ cho là không đạo đức như họ. Đối với họ, chính việc loại trừ như thế là dấu chỉ đạo đức.
Những kẻ bị họ loại trừ vì lý do đạo đức là số đông nhân loại: Những dân ngoại đạo, những người thu thuế, những bệnh nhân phong cùi, những kẻ không kiêng việc ngày Sabbat, những đĩ điếm. Nói chung, tất cả những ai bị họ kết án là tội lỗi, đều phải loại trừ. Họ loại trừ cả những ai không chịu theo chủ trương loại trừ như họ. Do đó, Chúa Giêsu cũng bị loại trừ (Mt 9,11; Mc 2,16; Lc 5,30). Loại trừ là khinh khi, là xa tránh, là không ngồi chung với họ, là không vào nhà họ, là không cho họ vào nhà mình, là không cộng tác với họ.
Dần dà, thái độ loại trừ trở thành một đặc điểm tôn giáo thời đó. Đặc điểm ấy vẫn tồn tại cho đến ngày nay, dưới các hình thức, có lúc nhẹ nhàng, có lúc thô bạo. Lịch sử cho thấy, ba tôn giáo cùng chung gốc rễ Abraham là Do Thái giáo, Hồi giáo và Thiên Chúa giáo, đã có những thời loại trừ nhau một cách quyết liệt, nhưng bất thành, để lại cho nhau những vết thương tâm lý đến nay vẫn chưa lành. Rồi Thiên Chúa giáo lại chia ra nhiều khối lớn khác nhau: Công giáo, Chính Thống, Tin Lành, Anh giáo. Và nay lại xuất hiện từng ngàn khối nhỏ, kể cả các giáo phái. Các khối lớn nhỏ tuy không chủ trương loại trừ nhau, nhưng vẫn khó tránh được ảnh hưởng não trạng loại trừ.
Đang khi đó, trong lãnh vực chính trị, kinh tế, dân tộc, văn hoá, não trạng loại trừ nhau hầu như không lúc nào an nghỉ. Đọc cuốn Exclus, Jésus aussi, 1989, và tập Une société affrontée à l'exclusion, 1992, tôi thấy cảnh loại trừ nhau đang lan tràn cùng nhịp độ với đà phát triển của chủ nghĩa cá nhân. Nó đang chiếm một phần quan trọng trong các bản tin hằng ngày. Thực đáng buồn, thực đáng ngại.
Trước một tình hình như thế, cách sống đạo của chúng ta và của các cộng đoàn đức tin chúng ta được huấn luyện theo hướng nào? Hướng chủ trương loại trừ theo gương các tư tế và biệt phái, hay hướng bao dung theo gương Đức Kitô, Đấng ưu tiên đến với những người tội lỗi, yếu đuối, nghèo khổ, bị xã hội loại trừ.
Trình độ nhận thức con người thời nay rất bén nhạy trước những phản ứng loại trừ theo tiêu chuẩn: Giàu thì sang, nghèo thì hèn, và theo tiêu chuẩn yêu nên tốt, ghét nên xấu.
Cách đây mấy tuần, các báo chí Pháp đồng loạt loan tin và bình luận chuyện một đứa con bị chính người mẹ đẻ của mình hành hạ, với ý muốn loại trừ. David Bisson là con trai của một phụ nữ không chồng. Sau khi cô này kết hôn với một chàng trai đàng hoàng và có con với, bà bắt đầu hành hạ đứa con đầu lòng. David bị xiềng xích từng tháng trong phòng tắm, bị trói ở chân giường từng đêm, bị bỏ đói có khi cả một ngày, và sau cùng, bị nhốt trong phòng nhỏ tối tăm suốt 12 tháng. David không được học hành, không được tiếp xúc với ai. Có một lúc cửa phòng giam chưa khoá, David chạy trốn được. Người ta báo động. Cảnh sát đến bắt hai vợ chồng. Trước toà David xin tha cho mẹ. Nhưng bà không tỏ dấu ăn năn, nên bị tống giam. David nhờ người viết thư cho Tổng Trưởng Tư Pháp xin ân xá cho mẹ mình. Bà được tha, và biến mất. (La vie, 3, Février, 1993. Và Paris Match, 14, Janvier, 1993).
Đọc xong chuyện thương tâm này, tôi tự nhiên nghĩ tới các con cái Hội Thánh. Tôi tự hỏi: Có nơi nào con cái Hội Thánh bị chính những người của Hội Thánh nhốt vào một nếp sống khép kín thở ra hít vào tinh thần nghi kỵ, hận thù không? Có nơi nào con cái Hội Thánh bị chính những người của Hội Thánh xiềng xích vào những tệ đoan, những não trạng xấu và những thói quen lỗi thời không? Có nơi nào con cái Hội Thánh bị chính những người của Hội Thánh bỏ rơi, bỏ đói về mặt tinh thần không?
Đang khi bao thế lực Satan đang nỗ lực loại trừ con cái Hội Thánh và chính Hội Thánh, thì trong nội bộ Hội Thánh, nhiều nơi lại có những toan tính loại trừ nhau. Tất nhiên phải biện minh là vì lý do đạo đức. Nhưng hãy hỏi Chúa Giêsu Đấng chăn chiên lành, xem Ngài có dạy như thế không? Ngài có làm gương như thế không? Ngài có sai môn đệ đi để làm những việc như thế không? Hay đây chỉ là phản ứng của một thái độ nội tâm chất đầy cái tôi hẹp hòi?
Trong đầu tháng hai này, tôi đi thăm một số họ đạo thuộc tỉnh Kiên Giang. Dịp này, tôi nhận thấy nhiều giáo xứ có những điểm bác ái đáng khen, khác hẳn những nét loại trừ. Có nơi mở rộng nghĩa trang họ đạo, dành một phần cho những ai ngoài công giáo không có đất chôn, muốn được chôn cất trong nghĩa trang họ đạo. Có nơi dành đủ mọi phương tiện, như xe tang, tiền của giúp cho những ai ngoài công giáo muốn nhờ, để tổ chức an táng. Có nơi thành lập Hội Hiếu, đón nhận người giáo cũng như người lương, với mục đích bảo đảm cho những người nghèo bất luận giáo hay lương, được có phúng điếu và lễ tang đàng hoàng, trong dịp tiễn biệt người thân về bên kia thế giới. Có nơi làm cầu, đào giếng nước ngọt, nhưng ưu tiên dành cho những xóm đồng bào ngoài công giáo. Có nơi tổ chức lễ cưới, lễ Thêm Sức và Rước lễ lần đầu, Rước lễ Bao Đồng với những quan tâm tế nhị đặc biệt đối với những người túng thiếu, không để có cách biệt đối xử giữa giầu và nghèo. nhất là để tránh tuyệt đối thái độ loại trừ áp dụng cho kẻ nghèo. Tại một giáo điểm vùng sâu, linh mục phụ trách lo học bổng cho 25 em đi trung học và 5 em theo đại học không phân biệt lương giáo. Tại một giáo điểm khác vùng nông thôn, cha sở và họ đạo tập trung công sức vào việc nâng cấp các căn nhà nghèo của các hộ quá túng thiếu, lần lượt theo thứ tự nhu cầu và khả năng. Tại nhiều nơi việc dạy giáo lý đang nhấn mạnh đến các đức tính nhân bản, nhất là tình liên đới. Sống đạo là làm chứng.
Với những việc như trên bầu khí họ đạo trở nên huynh đệ đằm thắm hơn, mối liên hệ giữa cộng đoàn công giáo và đồng bào ngoài công giáo được đổi mới hơn với nhiều tình nghĩa.
*****
Những chia sẻ trên đây có mục đích giúp nhau đi vào con đường thống hối của Mùa Chay. Chỉ là chút gợi ý không phải để ray rứt với chính mình, cho bằng để dọn lòng đón nhận ơn cứu độ của Chúa. Với tấm lòng khiêm cung tan nát, ta nhìn lên Chúa. Và ta sẽ thấy ta đã phạm tội nhiều, do thái độ nội tâm còn nặng cái tôi hời hợt ích kỷ, chưa sạch chất tự mãn, chưa sạch tính hay loại trừ, chưa đủ cả đến những đức tính nhân bản thô sơ nhất, và biết đâu, đó là một cái tôi sặc sụa mùi vong thân. Lạy Chúa, con còn xa mẫu gương của Chúa quá! Xin Chúa thương xót con. Bài nói chuyện với các linh mục tu sĩ, dịp tĩnh tâm tháng 3/1993
(Bài nói chuyện của Đức Cha GB. Bùi Tuần với các Linh mục tu sĩ, Tĩnh Tâm tháng 5/1993)
Những tháng ngày sắp tới sẽ có nhiều lễ tạ ơn được tổ chức để mừng những kỷ niệm lớn của Bùi-Tuần 2092
Những tháng ngày sắp tới sẽ có nhiều lễ tạ ơn được tổ chức để mừng những kỷ niệm lớn của nhiều linh mục, nhiều nhà dòng, nhiều họ đạo.
Một lễ mừng kỷ niệm như thế sẽ có nhiều ý nghĩa, nếu người trong cuộc biết nhận định một quá khứ nào của mình đã qua, và một tương lai nào của mình đang tới.
Mỗi người, mỗi cộng đoàn sẽ có những trả lời riêng cho chính mình. Bởi vì, chân lý đạo đức không đơn thuần chỉ rút ra từ những lý thuyết có sẵn, mà còn được hiểu theo tính cách liên tục của hoàn cảnh cụ thể cuộc sống từng người từng nơi.
Trong tinh thần hiệp thông, tôi xin chia sẻ một vài suy nghĩ riêng tư, khi tôi đặt câu hỏi cho chính mình.
I. MỘT QUÁ KHỨ NÀO CỦA TÔI ĐÃ ĐI QUA?
Theo nhãn quan Phúc Âm, quá khứ ấy trước hết là một quá khứ của kẻ tỉnh thức đợi chờ Chúa đến (Mc 13,35).
Chúa đến, không phải chỉ trong giờ phút Chúa gọi vào đời sau, mà còn là mọi sự Chúa đến viếng thăm.
Phúc Âm nói nhiều đến việc phải tỉnh thức đợi chờ giờ Chúa đến. Như dụ ngôn 10 trinh nữ (Mt 25,1-3). Và như dụ ngôn người giúp việc đợi chủ về (Lc 12,35-36). Một điều kể được là chắc chắn trong tỉnh thức Phúc Âm, đó là phải đợi chờ chính Chúa, chứ không đợi chờ ai khác.
Do đó, sẽ không gọi được là tỉnh thức Phúc Âm, nếu người ta quá tập trung vào hệ thống các trung gian, quá mải mê đề cao các trung gian, cứ mãi mãi dừng lại ở các trung gian. Bởi vì, bất cứ trung gian nào, dù rất tốt, cũng chỉ là dấu chỉ và dụng cụ của Chúa. Đang khi chính Chúa mới là Đấng phải đến. Đàng khác, có những trung gian bị lợi dụng, trở thành những trạm phức tạp, tự ý dựng lên trên đường Chúa đến.
Một điều khác cũng kể được là chắc chắn trong tỉnh thức Phúc Âm, đó là Chúa không bó buộc mình phải đến đúng ngày giờ của phụng vụ, qua đúng những con đường của một số sách đạo đức. Kinh Thánh và kinh nghiệm cho thấy: Bao lần Chúa đã đến với các linh hồn trong lúc bất ngờ và qua những con đường bất ngờ. Như hiện nay, bao người đã được trở nên tốt hơn, đã đón nhận được ơn hiểu biết và khôn ngoan nhờ biết cởi mở đón nhận những giá trị nhân bản, những cái đúng cái đẹp của khoa học nghệ thuật.
Một điều nữa cũng kể được là chắc chắn trong tỉnh thức Phúc Âm, đó là kẻ đợi chờ Chúa đến phải nhạy bén với các dấu chỉ của thời đại, và biết phân biệt các dấu chỉ ấy dưới ánh sáng Lời Chúa.
Một Lời Chúa sẽ là ánh sáng giúp ta phân biệt các dấu chỉ Chúa đến, đó là câu trả lời của Đức Kitô gửi cho Gioan Baotixita. Vị thánh Tiền Hô này sai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu rằng: “Thầy có phải Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?”. Chúa Giêsu đáp lại rằng: “Các anh hãy về báo Gioan biết những gì các anh đã nghe và đã thấy: Kẻ mù được xem, kẻ què đi được, người phong cùi được khỏi, kẻ điếc được nghe, kẻ chết sống lại, kẻ nghèo khó được nghe giảng Tin Mừng” (Lc 7,19-22).
Với câu trả lời trên đây, Chúa Giêsu xác định đâu là dấu chỉ sự Đấng Cứu Thế đến. Theo Ngài dấu chỉ sự Chúa đến là những việc làm có tính cách cứu độ dành cho những kẻ mà đời cho là bất hạnh.
Như vậy, những ai thao thức với việc cứu độ con người, tích cực dấn thân làm những việc có tính cách cứu độ, theo khả năng của mình, dưới sự hướng dẫn khôn ngoan của Chúa Thánh Linh, những người ấy mang dấu chỉ của sự Chúa đến. Qua đó, chính họ đón nhận được Đức Kitô đến với họ, và cũng qua đó, họ dọn đường cho Đức Kitô đến với người khác.
Khi hiểu quá khứ tỉnh thức với vài nét trên đây, người ta có thể thấy được trong quá khứ của mình những gì đáng vui mừng, và những gì đáng phải sám hối.
Ngoài ra, cũng theo nhãn quan Phúc Âm, quá khứ mỗi người còn là một quá khứ của kẻ phải dùng số vốn đã lãnh nhận để sinh lời lãi (Mt 25,14-32).
Vốn mà Chúa trao cho mỗi người gồm nhiều thứ, như các khả năng về trí tuệ, về ý chí, về trái tim, về tay chân, như các điểm tựa gia đình, bạn bè, tôn giáo, xã hội, như các phương tiện thời giờ, sức khoẻ, địa vị, cơ may, như các kinh nghiệm đa dạng của cuộc sống.
Số vốn của người này không giống số vốn của người kia. Nhưng dù với số vốn nào, mỗi người đều có bổn phận phải sinh lời lãi. Thiết tưởng cái lời lãi Chúa đòi, chính là phải lớn lên về sự khôn ngoan và ân sủng (Lc 2,40).
Sự khôn ngoan và ân sủng được nhận thấy ở những điểm cụ thể sau đây:
1. Biết tận dụng từng giờ phút hiện tại, để sống trọn vẹn Tin Mừng lúc đó.
Kinh Thánh nhấn mạnh đến giây phút hiện tại. Riêng Tân Ước đã dùng từ “Bây giờ” đến 95 lần, và dùng từ “Hôm nay” đến 43 lần.
Đối với kẻ tin Chúa thì ngày nào nơi nào cũng có Tin Mừng. Điều này được xác định trong các lời Tiền Tụng: “Lạy Cha, chúng con tạ ơn Cha mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con” (Lời Tiền Tụng Chúa Nhật thường niên).
Bởi vì bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, người ta vẫn có thể thực hiện được luật căn bản Phúc Âm, đó là mến Chúa yêu người (Mc 12,29-31), người ta vẫn có thể sống kết hợp mật thiết với Đức Kitô như cành với thân cây (Gioan 15,1-11), người ta vẫn có thể sống tinh thần Tám mối phúc thật (Mt 5,1-11).
2. Biết tận dụng từng giờ phút hiện tại, để chu toàn bổn phận của mình.
Chu toàn bổn phận là làm đúng việc phải làm, làm đúng lúc phải làm, làm đúng cách phải làm.
Sẽ không phải là khôn ngoan và ân sủng, nếu ta bê trễ việc bổn phận phải làm, hoặc vô lý dấn thân vào những việc không phải là bổn phận của mình.
Sẽ không phải là khôn ngoan và ân sủng, nếu ta làm việc tốt, nhưng làm không đúng lúc phải làm. Chẳng hạn cao rao các việc lạ lùng Chúa đã làm, đó là việc tốt. Nhưng trong Phúc Âm, biết bao lần Chúa đã cấm các tông đồ và các người được Ngài ban phép lạ đừng nói ra, vì không phải lúc nên nói ra.
Sẽ không phải là khôn ngoan và ân sủng, nếu làm đúng việc, đúng lúc, như không đúng cách Chúa muốn. Thí dụ, có những cách đọc kinh mà không cầu nguyện, có những cách dâng thánh lễ mà không gặp Chúa, có những cách làm chứng cho đức tin mà lại là phản chứng.
Khi hiểu quá khứ sinh lời với vài nhận thức trên đây, ta sẽ thấy giá trị quá khứ không hệ tại ở chiều dài của nó, mà hệ tại ở bề dầy của nó. Bề dầy của nó là trọng lượng kết tinh của tinh thần khôn ngoan và ân sủng.
Vì thế, có những quá khứ rất dài, nhưng lại vô duyên rẻ rúng. Có những quá khứ vắn, mà lại dễ thương, quí giá hơn vàng.
Quá khứ, dù đáng vui, dù đáng buồn, đều đã qua đi để lại những kinh nghiệm như những bài học quí cho tương lai.
II. MỘT TƯƠNG LAI NÀO CỦA TÔI ĐANG ĐI TỚI?
Tương lai đang tới cũng vẫn là thời gian phải tỉnh thức và sinh lời. Nhưng bằng cách tích cực nhiều hơn trong việc tân-phúc-âm-hoá theo lời kêu gọi của Đức Thánh Cha.
Trong tình hình Việt Nam hiện nay, thiết tưởng có ba đối tượng cần được ưu tiên tân-phúc-âm-hoá.
1. Lương tâm cần được tân-phúc-âm-hoá.
Bởi vì lương tâm là đầu mối tội phúc xem ra tại nhiều nơi đang rơi vào tình trạng phá sản. Có những lương tâm đã mất hết ý thức về tội phúc. Có những lương tâm chỉ còn sợ một số tội, vì e ngại dư luận và luật pháp trừng trị, chứ không vì kính sợ Thiên Chúa. Có những lương tâm tự cho phép mình làm bất cứ sự gì mà mình cho là có lợi cho mình.
Trong nội bộ Hội Thánh, và ngay cả trong giới tu trì, nhiều lương tâm nay cũng đang chuyển biến theo chiều hướng đáng ngại. Quen sống giả trong cuộc đời, họ tiếp tục không thực trong lời nói, việc làm và thái độ đối với cộng đoàn và các bề trên cộng đoàn. Quen đấu tranh bằng thủ đoạn trong cuộc đời, họ cũng lại đấu tranh bằng thủ đoạn để lãnh các bí tích và chiếm đoạt những quyền lợi trong đạo.
Khi lương tâm cong queo, thì dù có ban bố từng trăm ngàn luật, tội ác vẫn xảy ra, và vẫn phát triển.
Lương tâm sẽ được huấn luyện tốt, không phải nhờ biết nhiều luật lệ, nhưng là nhờ gặp được một Đấng thánh, và biết sống dưới cái nhìn của Ngài. Đấng ấy là Đức Kitô, mà Phúc Âm giới thiệu.
Tân-phúc-âm-hoá lương tâm là như vậy.
2. Trí khôn cần được tân-phúc-âm-hoá.
Nói chung, tình hình trí khôn tại nhiều nơi ở Việt Nam không đáng lạc quan lắm. Bởi vì còn nhiều chứng bệnh: Như thất học, dốt nát, hiểu biết sai lầm, hẹp hòi, nông cạn. Thực đáng ngại. Lý do dễ hiểu.
Con người khác loài vật ở chỗ có trí khôn. Đối tượng của trí khôn là sự thực. Ai tôn trọng sự thực, ham tìm sự thực, biết nhiều sự thực, phân biệt sự thực, người đó đúng là người. Họ rất đáng kính trọng.
Người Kitô hữu càng cần sống trong sự thực, và càng cần làm chứng đức tin của mình bằng các sự thực.
Thế nhưng, vô số người xem ra giàu sang đạo đức, nhưng lại rất ít chất người và ít chất Kitô hữu. Bởi lẽ thiếu tinh thần tôn trọng sự thực, ít đón nhận sự thực, ít đi tìm sự thực, ít biết phân biệt sự thực, ít hiểu các sự thực Phúc Âm, các sự thực cuộc sống và các sự thực văn hoá.
Thế giới kiến thức ngày nay chuyển biến rất mau, rất mạnh. Ai không theo dõi những chuyển biến đó, sẽ dễ trở thành lạc lõng, khó làm chứng được cho các sự thực Phúc Âm.
Mở mang trí khôn mình và trí khôn kẻ khác bằng nỗ lực thường xuyên trau dồi văn hoá, không ngừng nâng cao trình độ kiến thức của mình và của người khác, đó là những bước đầu của việc tân-phúc-âm-hoá trí khôn. Đồng thời cần đẩy mạnh việc học hỏi Phúc Âm, đón nhận ở đó dung mạo thực của Đức Kitô, Đấng là Đàng, là Sự Thực và là Sự Sống.
3. Trái tim cần được tân-phúc-âm-hoá
Nếu quan sát kỹ, ta sẽ thấy tại nhiều nơi, trái tim con người Việt Nam hôm nay có rất nhiều vết thương, âm thầm sâu lắng. Vết thương là những lo âu triền miên về cuộc sống: Cái ăn, cái mặc, cái ở, cái dự trữ, muốn ổn định mà chưa sao ổn định được. Rồi vết thương là những mệt mỏi kéo dài: Mệt mỏi về thể xác, mệt mỏi về tinh thần. Rồi vết thương là những thất vọng, vì nhiều mơ ước tầm thường mà không đạt được. Rồi vết thương là sự đắng cay gây nên bởi những nghi kỵ, ghen tương, kiêu kỳ, tráo trở, hẹp hòi của cảnh đời ích kỷ bon chen. Rồi vết thương là sự e dè, không dám quá tin ai, bởi vì kinh nghiệm cho thấy tìm được những người đáng tin không phải là chuyện dễ.
Những vết thương trên đây và nhiều vết thương khác cần được chữa trị. Rất nhiều trái tim bị thương như thế đã đi tìm thuốc chữa ở những mái nhà tâm-linh. Đây là những tâm hồn sống đời nội tâm phong phú. Bề dầy tâm linh của cuộc sống họ, được xây dựng bằng tinh thần cầu nguyện, khiêm tốn, bình an và tự do của Chúa. Bầu khí của những mái nhà tâm linh này có sức tân-phúc-âm-hoá con người và môi trường xã hội. Nhờ đó, bao trái tim đã được chữa trị và được tân-phúc-âm-hoá. Câu hỏi đặt ra cho mỗi người chúng ta có cố gắng trở thành mái nhà tâm linh không?.
***
Những chia sẻ trên đây sẽ là một số vốn thiêng liêng mới, được tặng thêm vào số vốn mà mỗi người và mỗi cộng đoàn đã có sẵn.
Biết đâu, đối với những ai tỉnh thức và khéo sinh lời, số vốn mới này sẽ là một tín hiệu nào đó báo hiệu sự Chúa đến thăm viếng mình hôm nay, tại đây và đặc biệt dành riêng cho mình.
Bài nói chuyện với linh mục tu sĩ, dịp tĩnh tâm tháng 5/1993
(Bài nói chuyện của Đức Cha GB. Bùi Tuần với các Linh mục tu sĩ, Tĩnh Tâm tháng 11/1994)
Trong tuần báo Paris-Match ra ngày 08/09/1994 có hình Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II được in Bùi-Tuần 2093
Trong tuần báo Paris-Match ra ngày 08/09/1994 có hình Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II được in khổ lớn, choán trọn 2 trang. Bức hình này rất khác thường. Đức Thánh Cha tay trái cầm gậy mục tử có tượng Chúa chịu đóng đinh, tay phải ôm bụng, mặt nhăn nhó gắng gượng đầy vẻ đau đớn, mắt nhắm lại, đầu hơi gục xuống, thân người nghiêng về phía một người đang giơ tay nâng đỡ.
Đây là bức ảnh chụp Đức Thánh Cha sáng Chúa Nhật 21/08/1994, khi Ngài bỗng dưng bị cơn đau nhói tấn công, đang lúc chủ sự phụng vụ tại nhà thờ Combes, thuộc thành phố nhỏ Aoste, nước Ý, gần biên giới Pháp.
Bức ảnh này cho thấy Đức Thánh Cha bị đau đớn nhiều. Chắc chắn cơn đau thuộc về thể xác. Nhưng cũng không loại trừ cơn đau thuộc về tâm hồn.
Do biến cố sức khoẻ, Đức Thánh Cha đã phải huỷ bỏ một số chương trình mục vụ, đặc biệt là chuyến đi Liên-Hiệp-Quốc dự kiến ngày 20/10/1994, mặc dù đây là chuyến đi mục vụ có tầm quan trọng quốc tế.
Sự việc xảy ra cho Đức Thánh Cha ngày 21/08/1994 tại Combes là một biến cố.
Với ánh sáng Phúc Âm, tôi nhìn thấy trong biến cố này có sự hiện diện của Đức Kitô. Người ở đó, để làm cho biến cố trở thành một sứ điệp. Đối với riêng tôi, sứ điệp này có nội dung nhắc nhở vài chân lý cứu độ. Trước hết là mầu nhiệm thánh giá.
Mầu nhiệm thánh giá
Hơn bao giờ hết, Đức Thánh Cha lúc này đang kêu gọi đào tạo và tái-đào-tạo các mục tử, theo mô hình Đức Kitô.
Hình ảnh Đức Kitô là thế nào?
Đọc Phúc Âm, tôi thấy Đức Kitô đã tỏ mình ra với nhiều hình ảnh, nhưng tất cả đều đậm màu thánh giá. Hãy xem lại các hình ảnh sau đây của Người: Hài nhi nghèo khó tại hang đá Bêlem. Hài nhi được mẹ ẵm đi trốn sang Ai Cập. Người thợ lam lũ tại Galilê. Người làm chứng bị quyền bính đạo đời ghen ghét. Người cầu nguyện trong sầu muộn lo lắng tại vườn Cây Dầu. Người bị bắt, bị vác thánh giá, bị đóng đinh, bị bỏ rơi trên núi Sọ. Hình ảnh nào cũng đóng ấn thánh giá.
Tất nhiên đau đớn tự nó không có sức cứu độ. Nhưng mọi đau đớn của Đức Kitô đều là dấu chỉ của tình yêu thương chấp nhận hy sinh vì loài người, nên những đau đớn của Đức Kitô trở nên nguồn sinh ơn cứu độ.
Đau đớn thể xác của Đức Kitô tuy lớn, nhưng không thấm gì với đau đớn tâm hồn của Người, do bị khinh chê, bị ghen ghét, bị loại trừ.
Nếu đầy tớ không trọng hơn Thầy, thì các môn đệ Chúa cũng sẽ phải mang trong mình, ít là phần nào, những hình ảnh trên đây của Thầy Chí Thánh. Đó là một chân lý Phúc Âm.
Đáng tiếc là chân lý đó đang bị lu mờ. Trong một thời đại khuyến khích hưởng thụ, nhiều nơi không còn dám nói tới đời sống hiến dâng làm chứng cho mầu nhiệm thánh giá, nhiều người trốn chạy trước ơn gọi thánh giá, nhiều người cũng có nêu lên mầu nhiệm thánh giá, nhưng để ca ngợi mà thôi, chứ không để sống thật sự mầu nhiệm ấy.
Chính vì thế mà hình ảnh Đức Thánh Cha bị đau đớn được coi như một lời Chúa gọi. Chúa kêu gọi các môn đệ Chúa hôm nay hãy trở về với mầu nhiệm thánh giá. Không phải chỉ trở về bằng tinh thần một cách tượng trưng, nhưng phải trở về bằng những đau đớn thật sự trong thân xác và trong tâm hồn. Có những thánh giá mình không tự chọn, nhưng do Chúa chọn cho mình. Vì thế, khi biết đón nhận những biến cố đớn đau, người môn đệ Đức Kitô sẽ nên giống Đức Kitô, hơn là khi đón nhận những biến cố vinh quang. Đó là một chân lý về mầu nhiệm thánh giá, mà hình ảnh đớn đau của Đức Thánh Cha đã gợi lên.
Ngoài ra, hình ảnh đó còn gợi lên mầu nhiệm Nước Trời.
Mầu nhiệm Nước Trời
Dựa trên Phúc Âm, tôi hiểu Nước Trời là ở trong lòng con người, khi trong đó có sự thật, sự công bình, sự yêu thương, sự tự do và ân sủng. Nước Trời như thế là các đặc tính của Phúc Âm, hay nói cho cùng, cũng chính là Đức Kitô.
Ta không làm nên Nước Trời. Ta chỉ đón nhận mà thôi. Đón nhận cách nào? Thưa bằng thái độ khiêm tốn, khó nghèo, bé nhỏ. Tức là bằng sự ta từ bỏ cái tôi của con người cũ Adong thích theo ý mình, để mặc lấy cái tôi con người mới Đức Kitô hoàn toàn tuân phục thánh ý Chúa Cha.
Ý riêng mình, ý của tập thể, nhiều khi có vẻ rất tốt, nhưng lại khác thánh ý Chúa. Đọc Phúc Âm, ta thấy nhiều lúc thánh Phêrô đã nghĩ tới việc củng cố uy tín của Thầy, phô trương quyền phép của Thầy, bảo vệ sinh mạng cho Thầy. Để làm sáng danh Thầy. Để mở rộng ảnh hưởng của Thầy. Nhưng thánh ý Chúa lại rất khác.
Sự từ bỏ ý riêng mình, nhất là khi ý riêng mình coi có vẻ hợp lý và tốt lành, sẽ là một hy sinh lớn. Rất nhiều khi, Chúa đòi những hy sinh lớn đó, để thanh luyện ta và Hội Thánh địa phương ta, để chúng ta nên khó nghèo hơn, khiêm tốn hơn, hầu dễ đón nhận Nước Trời.
Trong biến cố đớn đau, Đức Thánh Cha đã phải hy sinh như thế. Ngài phải từ bỏ nhiều chương trình mục vụ, với tâm tình xin vâng phục thánh ý Chúa.
Tôi có cảm tưởng là Chúa cũng đang làm như vậy cho nhiều môn đệ Chúa hôm nay tại Hội Thánh Việt Nam ta. Bởi vì hôm nay, não trạng xây dựng uy tín và quyền lợi cho cá nhân và cộng đoàn đang là một cơn cám dỗ mạnh lôi kéo nhiều người trong Hội Thánh. Khiến Đức Kitô trở thành một bóng mờ trong một thứ đạo đức hàm hồ, mà người ta gọi là Nước Trời rất xa lạ với Phúc Âm. Bởi lẽ thiếu tinh thần tôn trọng sự thật, thiếu công bình, thiếu bác ái, thiếu tự do, thiếu ân sủng. Trước tình trạng này, bằng những hy sinh đầy tình yêu và khiêm tốn của các môn đệ tốt, Chúa sẽ đốt lên trong lòng nhiều người gần xa lửa sám hối. Nước Trời đã gần là như thế.
Với cái nhìn trên đây, biến cố đớn đau của Đức Thánh Cha đã nhắc nhở cho tôi chân lý mầu nhiệm Nước Trời. Sau cùng, biến cố đớn đau ấy còn nhắc nhở cho tôi mầu nhiệm Hội Thánh.
Mầu nhiệm Hội Thánh
Thật vậy, sự Đức Thánh Cha bỗng dưng bị cơn đau hành hạ, đã gây xúc động cho từng trăm ngàn người có mặt hơn bất cứ bài giảng nào của Ngài, đã khơi dậy tinh thần hiệp thông hơn nhiều thánh lễ trọng thể của Ngài, đã đốt nóng lên đức tin của bao người hơn mọi công thức tuyên xưng đức tin trong các lễ nghi phụng vụ của Ngài, đã là dịp để mọi trái tim cùng nói chung một tiếng xót thương đoàn kết lại hơn các lời hô hào của Ngài.
Lúc đó, người ta thấy tận mắt thế nào là mầu nhiệm Hội Thánh. Hội Thánh là hiệp thông giữa mọi thành phần dân Chúa. Hội Thánh là toàn thể dân Chúa cùng nâng đỡ nhau. Hội Thánh là dấu chỉ và là dụng cụ của sự hợp nhất với Chúa và đoàn kết với nhân loại. Hội Thánh được hướng dẫn bởi Chúa, mặc dầu có những yếu đuối nhân loại.
Biến cố đau đớn của Đức Thánh Cha thay thế hình ảnh cũ của Ngài bằng một hình ảnh mới của Ngài. Hình ảnh cũ của Ngài là hình ảnh một người trẻ trung, tươi cười, lanh lẹ, đầy sức sống. Hình ảnh mới của Ngài là hình ảnh một người già yếu, mệt mỏi, chậm chạp, đầy cố gắng.
Chắc chắn đây không phải là tấm hình tiêu biểu cho toàn thể Hội Thánh. Nhưng cho dù thế nào đi chăng nữa, hình ảnh này vẫn mang nhiều giá trị rất mới. Nên nhớ rằng, mỗi giai đoạn lịch sử Hội Thánh cũng như mỗi giai đoạn lịch sử của một người, đều có những giá trị riêng của nó.
Kinh nghiệm cho thấy biết bao đời sống cầu nguyện hy sinh trong đau đớn thinh lặng, lại có những giá trị truyền giáo thiết thực, phong phú, hơn nhiều đời sống hoạt động với những thành công lẫy lừng bề ngoài. Ngày thứ sáu Tuần Thánh là ngày u sầu thê thảm nhất, nhưng cũng chính ngày đó đã dâng trào lên nguồn suối cứu độ.
***
Cách nhìn trên đây về biến cố đớn đau đã xảy ra cho Đức Thánh Cha đang giúp tôi biết nhìn về các biến cố đã, đang và sẽ xảy ra cho từng giáo đoàn, cho từng vị đứng đầu giáo đoàn. Có những biến cố buộc ta phải từ bỏ nhiều dự định tốt, nhiều mơ ước đẹp. Có những biến cố buộc ta phải nhìn nhận sự yếu đuối và những giới hạn của mình.
Tuy nhiên, nếu biết đọc sứ điệp Chúa gửi qua các biến cố, ta sẽ lợi dụng được tất cả những gì xảy ra vào mục đích tự-đào-tạo mình, để ta nên trưởng thành hơn, trên con đường làm chứng cho Chúa về mầu nhiệm thánh giá, mầu nhiệm Nước Trời, mầu nhiệm Hội Thánh.
Ước mong bài chia sẻ này sẽ góp phần vào việc chuẩn bị mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam sắp tới, cũng như sẽ góp phần vào việc giải quyết các vấn đề đang đặt ra cho chúng ta do biến cố lũ lụt.
Bài nói chuyện với các linh mục tu sĩ, dịp tĩnh tâm tháng 11/1994
(Bài nói chuyện của Đức Cha GB. Bùi Tuần với các Linh mục tu sĩ, Tĩnh Tâm tháng 12/1994)
Thiên Chúa đã nói với nhân loại qua Con của Người” (Heb, 1,2). Con của Người là Ngôi Lời Bùi-Tuần 2094
“Thiên Chúa đã nói với nhân loại qua Con của Người” (Heb, 1,2). Con của Người là Ngôi Lời. Khi giáng trần, Ngôi Lời được đặt tên là Giêsu Kitô.
Tuy là Ngôi Lời, Đức Kitô tại hang đá Bêlem đã không nói lời nào. Đúng hơn, Người đã nói, nhưng không phải bằng lời, mà bằng chính bản thân mình.
Trước hết, Người nói bằng thân phận kẻ rốt hết.
THÂN PHẬN KẺ RỐT HẾT
Thực vậy, Người đã giáng sinh trong thân phận hài nhi cực kỳ khốn khổ, nằm trong một máng cỏ rơm, đặt ở góc hang đá, giữa cánh đồng, bên cạnh mấy con bò và chiên. Chỗ như thế phải kể là chỗ rốt hết. Chính chỗ rốt hết này đã là nơi chọn lựa của Thiên Chúa giáng trần.
Ở đây, tính cách rốt hết không chỉ hệ tại chỗ đó thấp hèn, mà còn ở tại sự khinh miệt người ta thường dành cho kẻ nào rơi vào chỗ đó.
Chỗ rốt hết dành cho Đức Kitô đã được tiên tri Đavid loan báo từ lâu trước “Tôi chọn sự khinh miệt trong nhà Chúa” (Cv. 83,11). “Tôi là kẻ bị khinh miệt nhất trong toàn dân” (Cv. 21,7).
Từ chỗ rốt hết tại Bêlem, Đức Kitô đã tiếp tục sống ơn gọi kẻ rốt hết suốt cả cuộc đời.
Thánh Phaolô đã diễn tả cuộc đời đó như sau: “Đức Kitô, tuy mang ngôi vị của Thiên Chúa, nhưng Người đã không nghĩ phải tranh giành cho mình chức vị đồng hàng với Thiên Chúa. Song Người đã tự huỷ mình ra không, là lãnh thân phận tôi đòi, trở thành giống hẳn người ta, đem thân mặc thân phận người phàm. Người đã hạ mình thấp hèn, trở thành vâng phục cho đến chết, và là cái chết trên thập giá” (Phil. 2,6-8).
Như thế Đức Kitô đã đi xuống. Từ xuống ít tới xuống nhiều. Từ thân phận kẻ bần cùng đến thân phận kẻ đầy tớ tôi đòi, và sau cùng tới thân phận kẻ bị án chết.
Chọn chỗ rốt hết, đó là một chọn lựa cứu độ của Đức Kitô. Để cứu độ ai, sự có mặt của mình đã là một việc tốt, gần gũi họ là việc tốt hơn, chia sẻ thân phận của họ là việc còn tốt hơn nữa, và chết tủi nhục vì họ là việc không ai dám nghĩ tới. Đức Kitô đã đi tới cùng tiến trình cứu độ ấy.
Tiến trình ấy không đơn giản chỉ có một vài thử thách, mà là mọi thử thách. Thánh Phaolô nói: “Chúng ta có một vị thượng tế không phải là không biết những yếu đuối của chúng ta. Bởi vì Người đã chịu thử thách về mọi sự, ngoại trừ tội lỗi” (Heb. 4,15).
Chịu thử thách về mọi sự, nhất là về sự bị đẩy vào các chỗ rốt hết, đó là một nét của chân dung tình yêu cứu độ, mà Đức Kitô đã muốn mọi người nhìn ngắm, khi gặp gỡ Người.
Khi gặp gỡ Đức Kitô, khi nhìn ngắm chân dung ấy, nhiều người đã hết muốn hỏi Người điều nọ điều kia. Chính Người là câu trả lời đầy đủ, mặc dầu Người thinh lặng. Bằng thinh lặng, Người cũng đã nói rất nhiều. Một sự thinh lặng đã được chọn lựa ngay từ hang đá Bêlem.
THINH LẶNG
Thực vậy, Đức Kitô làm chứng nhiều hơn là rao giảng. Trước khi giảng đạo đức, Người đã sống đạo đức. Người làm chứng các chân lý đạo bằng chính cuộc sống mình. Để bất cứ ai, khi theo đạo Người, sẽ có thể nói: Theo đạo Đức Kitô là đi theo Người, là sống như Người, là noi gương Người. Và để bất cứ ai, khi trích dẫn lời Người, sẽ có thể trích dẫn đời Người kèm theo.
Như thế, sự thinh lặng của Đức Kitô không có nghĩa một tình trạng thiếu nội dung. Trái lại, nó có nghĩa một chọn lựa để làm chứng cho những giá trị cao cả.
Thinh lặng của Người là sự lặng lẻ của một hành trình dài ơn gọi “Này con xin đến, để làm theo ý Cha”, Đấng hằng mong muốn cho mọi người được rỗi, bằng cách họ tự do đón nhận ơn Người ban cho.
Thinh lặng của Người là sự khiêm tốn của tinh thần dâng hiến. Xin làm men, làm muối, làm hạt giống chấp nhận phải thối đi, để có thể nảy mầm, sinh cây.
Thinh lặng của Người là sự tỉnh thức của kẻ đợi chờ, kêu gọi người ta bằng sự kiên trì đầy yêu thương và bằng gương sáng, hơn là bằng những lời ép buộc.
Thinh lặng của Người là sự tĩnh mịch của tinh thần cầu nguyện, một sự cầu nguyện có nghĩa là sự gặp gỡ giữa con người với Thiên Chúa.
Thinh lặng của Người là sự dũng cảm của tinh thần sự thực, làm chứng cho chân lý bằng thực chất bản thân mình, chứ không bằng cách nói nhiều, phô trương nhiều, tố cáo nhiều, biện minh nhiều.
Thinh lặng của Người là sự chân thành của tình mến Chúa yêu người, làm chứng cho tình bác ái, cho đi âm thầm, hy sinh lặng lẽ.
Thinh lặng như thế là quê hương của kẻ mạnh. Để trong việc đào tạo các môn đệ sau này, Đức Kitô sẽ coi việc tập cho họ biết giữ thinh lặng là việc quan trọng. Biết bao điều sai trái đã được nhận ra và sửa đổi, nhờ sự thinh lặng làm chứng của những người tích cực sống Phúc Âm, nêu gương sáng, sốt sắng cầu nguyện. Biết bao người đã được ơn trở lại nhờ tiếp cận với những tâm hồn thinh lặng đầy sự hiện diện của Thiên Chúa.
Thinh lặng như thế là dấu chỉ của tinh thần khắc kỷ, thường xuyên phấn đấu với chính mình, để có sự tự do tâm hồn, một sự tự do là ơn huệ của Chúa Thánh Linh và múc ra từ thánh-giá. Nhiều môn đệ Đức Kitô đã được kính trọng và tín nhiệm, nhờ khả năng thinh lặng đầy tinh thần chiêm niệm, cầu nguyện và tự chế.
Chọn lựa thinh lặng để cứu đời, đó cũng là một nét của chân dung tình yêu cứu độ, mà Đức Kitô mời gọi mọi người nhìn ngắm, khi gặp gỡ Người.
Khi gặp gỡ Người, khi nhìn ngắm chân dung ấy, nhiều người phải lặng đi ngây ngất, và không ngừng cảm tạ Đức Kitô. Họ sẽ lại thấy Người dễ thương quá đỗi, ở chỗ Người rất đơn sơ. Người nói qua sự đơn sơ của Người.
ĐƠN SƠ
Thực vậy, khi giáng trần, Đức Kitô đã đến một cách đơn sơ, hết sức đơn sơ, một sự đơn sơ không ai tưởng tượng nổi. Nơi Người chọn đến là một chỗ cực kỳ đơn sơ. Đó là hang đá Bêlem. Những người gặp gỡ đầu tiên là những kẻ rất mực đơn sơ. Đó là Đức Mẹ, thánh Giuse và các mục đồng. Ngôn ngữ đầu tiên của Người là những cử chỉ dễ thương của hài nhi bé bỏng.
Đơn sơ là đi thẳng vào căn bản. Theo tinh thần đó, Đức Kitô đã giới thiệu chính bản thân Người, trước khi giới thiệu đạo lý của Người. Chính bản thân Người là quà tặng. Chính bản thân Người là đường, là sự thật và là sự sống. Chính bản thân Người là sự hiền từ, khiêm nhường và bác ái.
Đơn sơ là rất thực, hoàn toàn thực. Theo tinh thần đó, Đức Kitô đã cho thấy, Người cam chịu muôn vàn khổ cực, chắc chắn không phải để cứu thân Người, mà để cứu nhân loại. Càng không phải để theo ý riêng mình, mà để theo ý Đấng đã sai mình đi.
Đơn sơ là dễ hiểu. Theo tinh thần đó, Đức Kitô đã làm chứng hơn là giảng dạy. Người làm chứng về một Thiên Chúa yêu thương, chấp nhận hy sinh đến cùng, để mọi người được biết yêu thương nhau, và cùng nhau trở về với Thiên Chúa là tình yêu vĩnh cửu.
Đơn sơ là hồn nhiên, đón nhận. Theo tinh thần ấy, Đức Kitô đã khẳng định, chỉ những ai trở nên giống như trẻ nhỏ, mới được vào thiên đàng (Mt 18,3). Và chỉ những tâm hồn đơn sơ bé mọn mới được Chúa Cha mạc khải cho biết các mầu nhiệm Nước Trời (Lc 10,21).
Đơn sơ như thế là vẻ đẹp toả sáng của tâm hồn sống sự thực và phó thác khiêm nhường. Tâm hồn ấy chỉ khao khát một điều duy nhất, đó là làm vui lòng Đấng đã thương mình và mình gắn bó vô điều kiện.
Đơn sơ như thế là lợi dụng mọi dịp, dù bé nhỏ nhất, của giây phút hiện tại, để chứng minh lòng mình mến Chúa yêu người thực sự hết lòng, hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn.
Đơn sơ như thế, đó cũng là một nét của chân dung tình yêu cứu độ, mà Đức Kitô muốn mọi người nhìn ngắm, khi gặp gỡ Người.
*****
Với một chân dung đơn sơ, thinh lặng và chấp nhận chỗ rốt hết, Đức Kitô dạy ta hãy biết đón nhận Người, hãy để Người yêu thương ta, hãy tin tưởng phó thác vào tình yêu cứu độ của Người, hãy biết mở lòng thực rộng, để Người tự do thực hiện trong ta công việc tạo dựng, cứu độ và thánh hoá.
Bài nói chuyện với các linh mục tu sĩ tĩnh tâm tháng 12/1994
(Bài nói chuyện của Đức Cha GB. Bùi Tuần với các Linh mục tu sĩ, Tĩnh Tâm tháng 3/1995)
NHÂN KỶ NIỆM 15 THƯ CHUNG 1980 CỦA HĐGMVN VÀ 20 NĂM THỤ PHONG GIÁM MỤC (30/4/1975)
Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc” là một đường hướng sống đạo. Lựa chọn này đã được thực hiện Bùi-Tuần 2095
“Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc” là một đường hướng sống đạo. Lựa chọn này đã được thực hiện từ lâu tại Hội Thánh Việt Nam, trước khi được viết thành khẩu hiệu trong thư chung 1980.
Dư luận chú ý đến cụm từ “giữa lòng dân tộc”, coi đâylà điểm cần nhấn mạnh trong giai đoạn mới. Nghĩ như vậy là đúng. Riêng đối với tôi, cũng trong giai đoạn này, điều tôi quan tâm nhiều hơn, đó là việc “sống Phúc Âm”. Tôi nghĩ rằng: Thời thế càng phức táp, càng phải sống Phúc Âm. Chăm lo Phúc Âm hoá chính mình và cộng đoàn của mình, đó là cách mở rộng ánh sáng, đẩy lùi bóng tối. Hãy sống Phúc Âm thực, hãy sống cho đúng Phúc Âm: Tiếng gọi này thôi thúc tôi, không để tôi yên. Tiếng gọi tha thiết thường xuyên dưới nhiều hình thức.
Sống Phúc Am.
Muốn sống đúng Phúc Âm, tôi cần suy gẫm Phúc Âm, nhất là phải cầu nguyện nhiều. Theo chỉ dẫn tu đức, tôi làm hai việc trên với tâm hồn thực sự nghèo khó, lắng nghe ý Chúa, khát khao được Chúa đổi mới tôi theo ý của Người.
Dần dà, qua nhiều ngày tháng, tôi cảm nghiệm thấy vài điều, mà trước đây tôi chỉ biết trên lý thuyết. Đó là: Có những lờI Chúa đã thành văn được in trong các sách Kinh Thánh; ngoài ra còn có những lời Chúa đã thành lửa do chính Chúa rót vào tâm hồn con người bằng nhiều cách khác nhau. Lại có những lần người ta hiểu lời Chúa như một lý tưởng đẹp, chỉ thế thôi; và có những lần người ta cảm được lời Chúa như một dòng nước sự sống cứu độ, đồng thời nhận ra chính Đức Kitô hiện diện đàng sau lời Người.
Trong kinh nghiệm này, Chúa dạy tôi: Sống Phúc Âm không có nghĩa là sống theo một lý tưởng, mà nhất là phải sống với một người, người ấy là Đức Kitô.
Nhưng trên thực tế, giữa Đức Kitô và tôi có một khoảng cách mênh mông, cũng như giữa lời Người dạy trong Phúc Âm và cuộc sống tôi có một sự khác biệt bao la sâu thẳm. Vì thế, đối với tôi, sống Phúc Âm là trở về với Đức Kitô và lời dạy của Người.
Phải nói ngay rằng: Nhận định trên đây không phải là một quan niệm lạnh lùng củalý trí, mà là một chân lý được hiện lên như một đòi hỏi nồng nàn, da diết, khuấy động trái tim đến tất cả con người, tận đáy các vùng sâu tiềm thức và vô thức. Trên đường trở về, tôi đón nhận được vô số ơn lành. Trong các ơn lành nhận được, có một ơn tôi cho là đặc biệt nhất, đó là ơn cảm được tình Chúa xót thương dành cho riêng mình. Tôi thấy Đức Kitô là tình yêu Thiên Chúa. Người đã thương yêu tôi. Người đã tha thứ cho tôi. Người đã cứu tôi khỏi bao hiểm nguy và bế tắc. Người như xa mà lại rất gần. Người ẩn mình mà hiện diện. Người đồng hành với tôi, nhẹ nhàng dẫn tôi bước theo kế hoạch cứu độ của Người.
Nhận ra tình Chúa thương xót dành cho mình, đó là điểm tôi cho là quan trọng nhất đem lại ý nghĩa cho mọi bước đi trên suốt hành trình trở về.
Xác tín về tình Chúa dành cho mình, tôi dễ nhận ra những đòi hỏi của tình yêu. Mến Chúa thì phải tin vào Chúa, phải phó thác nơi Người, phải sống theo ý Người, phải sẵn sàng hy sinh vì Người.
Vì yêu nên tin. Bởi tin nên yêu. Tin yêu gây nên thao thức.
Tình yêu thường tỉnh thức. Như chiếc lá rút tỉa mọi chất dinh dưỡng của từng giọt sương, của từng giọt nắng. Cũng thế, kẻ tin yêu Chúa thao thức đón nhận mọi giọt tình yêu Chúa gởi tới mỗi ngày, kể cả qua những tín hiệu mang màu sắc khổ đau.
Tình yêu đòi hợp nhất. Như cành cây cùng chung một sự sống với thân cây. Cũng thế, kẻ tin yêu Chúa thao thức được chia sẻ sự sống Thiên Chúa, muốn sự Người muốn, làm điều Người thích.
Tình yêu hay sáng tạo. Như một chiếc khăn được dệt bằng nhiều sợi chỉ, nhưng có thể mang nhiều kiểu hình, nhiều màu sắc. Cũng thế, người tin yêu Chúa thao thức được dệt đời mình bằng những sáng tạo khả năng mình có và trong hy vọng đẹp lòng Chúa.
Tình yêu sẵn sàng hy sinh. Như một hạt giống sẵn sàng được vùi mình trong đất, để nảy sinh sự sống mới sẽ vươn lên thành cây, trổ hoa, kết trái. Cũng thế, người tin yêu Chúa thao thức được vùi mình vào những từ bỏ âm thầm, để góp phần vào cánh đồng truyền giáo bao la, hy vọng mọc lên những niềm tin yêu mới, làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu.
Những thao thức của niềm tin yêu Chúa giống như sức mạnh của những động cơ, luôn đẩy con người về phía trước. Cái nhìn của niềm tin yêu bao giờ cũng đơn sơ, rất đơn sơ. Nhưng cuộc đời lại chẳng đơn sơ.
Tái Phúc Âm hoá.
Xung quanh mình và trong chính mình vẫn còn đầy dẫy những yếu tố phản Phúc Âm, vẫn còn nhiều khuynh hướng sống đạo xa lạ với Phúc Âm.
Xưa, Đức Kitô đã phải đối phó gay gắt với các thứ đạo đức bệnh hoạn, thiếu quân bình nơi giới gọi là đạo đức Pharisêu, nơi cả những môn đệ coi là nhiệt thành của chính Người, và nơi ma quỷ trong sa mạc đến cám dỗ Người bằng các lý do đạo đức.
Nay, người ta cũng thấy khá rõ nơi nhân loại hiện đại tính kiêu ngạo của ông tổ tông Ađam, tính tham lam của bà tổ tông Evà, tính ghen tương và độc ác của Cain, con trưởng của ông bà tổ tông.
Nay, người ta cũng đang chứng kiến những cách đánh giá nơi nhiều xã hội đời đạo, giống hệt cách đánh giá của những người lãnh đạo đời đạo Do Thái thuở ấy đã kết án tử hình Đức Giêsu.
Nguy cơ đáng ngại là những hiện tượng như thế vẫn ung dung tồn tại và phát triển ngay trong các cộng đoàn đức tin. Tôi sợ chính trong tôi cũng không thoát được những di căn của các thứ đạo đức khoác áo Phúc Am, nhưng thiếu thực chất Phúc Âm. Vì thế, trong việc sống Phúc Âm, không những cần để ý đến việc phúc âm hóa như đã nói trên, mà còn phải để ý đến việc tái-phúc-âm-hoá.
Trong việc tái-phúc-âm-hoá, tôi chú trọng nhiều đến ba việc sau đây:
Đào tạo lại đức tin, sao cho thực sâu, để đức tin trở thành sự gặp gỡ Đức Kitô, như bàn tay bám chặt lấy Thiên Chúa Tình yêu.
Đào tạo lại nếp sống tu đức, sao cho quân bình, lành mạnh, để đời sống đạo tỏa ra được niềm vui, sự đơn giản và tình xót thương của Đức Kitô.
Đào tạo lại đức tin, sao cho trong sáng, để qua cuộc sống, con người có đạo giới thiệu được dung mạo dễ thương của Đức Kitô, hiền lành, khiêm nhường, đầy tình yêu bao dung và có sức phục sinh những gì đã chết.
Trong ba việc trên đây, tôi coi việc thứ ba là ưu tiên. Bởi vì bác ái là đặc điểm cơ bản của Phúc Âm, và khi sống đúng đức ái Phúc Âm, người ta cũng sẽ sống một đức tin trưởng thành, với một nền tu đức lành mạnh, có thực chất Phúc Âm.
Xin đọc kỹ lại Phúc Âm thánh Gioan, đoạn 15. Chẳng hạn những lời Chúa sau đây: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinu nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, anh em chẳng làm được gì”. “Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em”.
Cũng xin đọc kỹ lại thư thứ I gởi Corintô, đoạn 13. Trong đó, thánh Phalô đã viết: “Dù tôi nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần, nếu tôi không có đức bác ái thì tôi chỉ là người khua khua gõ trống. Dù tôi nói tiên tri, dù tôi thấu suốt mọi mầu nhiệm cùng mọi khoa học, hay dù tôi có đức tin mạnh mẽ khiến được núi non di chuyển, nếu tôi không có đức bác ái, thì tôi chỉ là hư vô. Dù tôi phân phát mọi của tôi cho người nghèo, dù tôi hiến thân tôi cho lửa thiêu đốt, nếu tôi không có đức bác ái, thì những hy sinh ấy cũng trở thành vô ích.
Người có đức bác ái thì nhẫn nại, nhân từ, không ghen tỵ, không khoe khoang, không kiêu kỳ, không tham lam, không tìm tư lợi, không giận dữ, không mưu mô gian ác, không vui khi thấy sự bất công, chỉ vui khi thấy sự thật.
Người có đức bác ái tha thứ mọi sự, tin mọi sự, trông cậy mọi sự, chịu đựng mọi sự”.
Việc tái-phúc-âm-hóa và Phúc-Am-hoá tạo nên trong tôi một bầu khí nội tâm luôn qui hướng về Đức Kitô là tình yêu Thiên Chúa mạc khải và cứu độ. Khi làm mục vụ giữa lòng dân tộc, bầu khí nội tâm ấy cho tôi một sức mạnh đồng hành, xuất phát từ chính Đức Kitô.
Trong lòng dân tộc.
Dân tộc tôi là đồng bào xa gần của tôi. Cụ thể là ông Hai, bà Ba, anh Tư, chị Năm vv... Họ là những người trong họ đạo của tôi và ngoài cộng đoàn của tôi. Họ là những người như tôi. Họ mang một dòng máu như tôi. Chính trong tôi có dân tộc tôi. Nơi họ cũng như trong tôi có những khát vọng cần được cảm thông, có những vết thương tâm hồn cần được băng bó, có những hy vọng chờ được đỡ nạng, có những thành kiến cần được xóa bỏ, có những thiện chí cần được ghi nhận, có những sự thực cần được trọng kính. Với dòng máu dân tộc, tôi hiểu đồng bào tôi, tôi thương đồng bào tôi. Và với tình yêu của Đức Kitô trong tôi, tôi càng hiểu thấm thía đồng bào tôi, tôi càng mến thương và biết ơn dân tộc tôi.
Trong tình yêu thương và tự hào dân tộc, tôi cũng đã nhìn thấy bao phức tạp.
Trong lòng dân tộc, tôi thấy dân tộc tôi mang máu anh hùng. Nhưng bao người quảng đại mà cũng dễ hẹp hòi. Họ khư khư bám vào một thoáng lịch sử, một mảnh quá khứ, ướp thơm lại, coi đó là lý tưởng đời đời bền vững.
Trong lòng dân tộc, tôi thấy dân tộc tôi có óc thông minh. Nhưng bao người nói lý, mà chỉ sống theo cảm tính. Có những cảm xúc tập thể thật vô lý, hầu như vô thức, nhưng rất mạnh, do kết tinh lâu đời của những răn đe, những hứa hẹn của tập tục, văn hoá, tín ngưỡng.
Trong lòng dân tộc, tôi thấy dân tộc tôi rất tài tình trong việc đấu tranh cho tự do. Nhưng bao người nói tự do, mà lại tự trói mình và trói người xung quanh. Trói bằng quyền lực, bằng tiền bạc, bằng dư luận, bằng ích kỷ, ghen tương.
Trong lòng dân tộc, tôi thấy dân tộc tôi có nhiều thành tích chống giặc ngoại. Nhưng bao người nói bài ngoại, mà lại dễ dàng sùng ngoại, hướng ngoại. Có những đánh giá và thái độ còn nặng ảnh hưởng của những trăm năm nô lệ và của những khuynh hướng thực dụng.
Trong lòng dân tộc, tôi thấy dân tộc tôi có nhiều công trình thống nhất. Nhưng bao người nói đoàn kết, mà lại rất là cục bộ. Có những tính toán vụn vặt vun quén cho lợi ích tư riêng của cá nhân và nhóm này gốc nọ.
Trong lòng dân tộc, tôi thấy dân tộc tôi có nhiều tín ngưỡng. Nhưng bao người rất sùng đạo, mà lại dễ mê tín. Có những cuồng tín, có những tin tưởng chỉ do những tâm trạng tâm lý xã hội gây nên, chứ không phải đức tin.
Trong lòng dân tộc, tôi còn nhìn nhiều phức tạp khác. Nhưng với tình yêu cứu độ của Đức Kitô, tôi không ngỡ ngàng. Đức Kitô không hề tách rời con người ra khỏi thân phận của họ. Mỗi người có những hoàn cảnh riêng và có những cái nhìn riêng. Mỗi giai đoạn của lịch sử dân tộc cũng vậy. Dù cá nhân, dù tập thể có những lỗi lầm, Đức Kitô vốn nói với họ: “Tôi đến không phải để kết án, nhưng để cứu độ”. Thực sự, biết bao người đã và đang phấn kình, gia đình và dân tộc được nên tốt hơn. Hiện nay tôi thấy rất nhiều người đang âm thầm sống gđạo đức một cách phi thường, ngay giữa những hoàn cảnh có đủ thứ khó khăn chồng chất. Nếu Chúa cân đo công phúc con người theo những cố gắng của mỗi người, để hướng cái tâm mình về sự thiện, thì chắc chắn những người Việt Nam được cứu độ sẽ vô số kể.
Khi đã có chút kinh nghiệm về tình yêu cứu độ, mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi cá nhân tôi, tôi hiểu được phần nào kế hoạch cứu độ của Người dành cho dân tộc tôi. Nhờ đó, tôi thấy rằng: “Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc” là một mời gọi tôi và Hội Thánh Việt Nam của tôi hãy ưu tiên trở về với Đức Kitô và Phúc Âm của Người, đó là cách tốt nhất để cứu độ và thăng tiến dân tộc tôi, nhất là trong những thời điểm khó khăn phức tạp. Đức Kitô hiện diện trong lịch sử. Hãy nhạy cảm trước những hoạt động tình yêu cứu độ của Người, ta sẽ thấy sức mạnh phục sinh của Người là hết sức lạ lùng.
*****
Trong tông thư của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II gởi Hội Thánh toàn cầu về việc chuẩn bị mừng kỷ niệm trọng thể biến cố Đức Giêsu Kitô giáng trần được 2000 năm, Đức Thánh Cha đã kêu gọi mọi người, hãy xét xem mình có sống xa rời Phúc Âm không, xa rời ở điểm nào và tới mức nào. Thiết tưởng lời kêu gọi của Đức Thánh Cha nên được chúng ta đón nhận một cách nghiêm túc hơn ai hết, bởi vì chúng ta đã chọn cho mình một định hướng gắn bó với Phúc Âm trong việc gắn bó với dân tộc.
Bài nói chuyện với các Linh mục tu sĩ, tháng 3/1995
(Bài nói chuyện của Đức Cha GB. Bùi Tuần với các Linh mục tu sĩ, Tĩnh Tâm tháng 12/1995)
Ngày 08/12 năm nay sẽ là kỷ niệm 30 năm bế mạc Công đồng Vatican II (08/12/1965- 08/12/1995). Bùi-Tuần 2096
Ngày 08/12 năm nay sẽ là kỷ niệm 30 năm bế mạc Công đồng Vatican II (08/12/1965 - 08/12/1995).
Nhân dịp này, tôi xin nêu lên vài nét của Công đồng thứ 21 đó, một Công đồng đã và đang ảnh hưởng đến Giáo Hội toàn cầu nói chung và các cộng đoàn tín hữu tại Việt Nam nói riêng.
Một sáng kiến can đảm
Công đồng Vatican II là một sáng kiến can đảm của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII. Bằng việc triệu tập Công đồng chung, Đức Gioan XXIII muốn Giáo Hội Công Giáo nhìn lại chính mình, để đổi mới, nhờ ơn Chúa Thánh Linh, hầu cho dung mạo của mình được thực sự phản ánh Tin Mừng, như một hiện diện huynh đệ và truyền giáo giữa thế giới hôm nay.
Bốn trách vụ được đặt ra cho Công đồng: - Giáo Hội nhận thức về chính mình, - Giáo Hội đổi mới, - Giáo Hội thiết lập sự hiệp nhất với mọi người tin Đức Kitô, - Giáo Hội đối thoại với mọi người.
Để thực hiện những công việc lớn lao đó, Công đồng đã là nơi gặp gỡ các dòng tư tưởng và các kinh nghiệm. Hiện diện có 2.800 nghị phụ đến từ 141 nước, 453 chuyên viên, 58 dự thính viên giáo dân và 101 quan sát viên của các tôn giáo ngoài Công Giáo.
Với 168 phiên họp khoáng đại, Công đồng đã trải dài qua các mùa thu 1962, 1963, 1964, 1965, dưới thời hai Đức Giáo Hoàng: Gioan XXIII và Phaolô VI.
Công đồng là một chuyến đi vất vả, với nhiều vấn đề khó khăn phức tạp, với nhiều tranh luận gay gắt. Một thí dụ điển hình, đó là Hiến chế tín lý về Mạc khải (Dei Verbum). Bản dự thảo thứ nhất bị loại ngày 19/11/1962 với 1368 phiếu trên tổng số 2190 nghị phụ hiện diện. Bản dự thảo thứ hai đệ trình ngày 22/04/1963 đã không được bàn tới. Bản dự thảo thứ ba đệ trình ngày 20/09/1964 được khuyến cáo phải sửa lại. Bản dự thảo thứ tư đệ trình ngày 20/09/1965 được sửa lại thêm. Bản dự thảo thứ năm được chấp thuận ngày 18/11/1965 với 2344 phiếu trên 2350 nghị phụ hiện diện.
Làm việc trong Công đồng, các nghị phụ đã phải nhìn các vấn đề với nhiều chiều kích khác nhau: Đức tin, mục vụ, khoa học, tâm lý, xã hội v.v...
Kết quả được công bố của Công đồng là 16 văn kiện quan trọng gồm 4 Hiến chế, 9 Sắc lệnh và 3 Tuyên ngôn. Hiến chế có giá trị vững bền, như Hiến chế tín lý về Giáo Hội. Sắc lệnh mang nội dung cần thực hành ngay, như vấn đề huấn luyện linh mục. Tuyên ngôn nêu lên những nhận định trong một giai đoạn lịch sử, như vấn đề các phương tiện thông tin.
Trở về nguồn
Đọc các văn kiện của Công đồng Vatican II, người ta có thể thấy ưu tư lớn nhất của Công đồng là mục vụ.
Mục vụ tốt không phải là biết nêu lên những chân lý để khai thác, nhưng là trở về gắn bó với Đức Kitô, vị Mục tử tốt lành. “Đức Kitô là nguyên lý của chúng ta, là đường đi của chúng ta, là người hướng dẫn của chúng ta, là hy vọng của chúng ta và là mục đích của chúng ta” (Diễn văn khai mạc khoá hai của Đức Phaolô VI, ngày 29/09/1963).
Nếu mục vụ là đổi mới con người, thì mô hình con người mới và nguồn ơn đổi mới chính là Đức Kitô.
Thực vậy, vì yêu thương nhân loại, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Nhờ vậy, một cách nào đó, Người kết hợp với mọi người. Người đã làm việc với bàn tay con người. Người đã suy nghĩ với trí khôn con người. Người đã hoạt động với ý chí con người. Người đã yêu thương với trái tim con người. Người đã trở nên một người giữa chúng ta, giống chúng ta hoàn toàn, chỉ trừ tội lỗi.
Vì yêu thương, tuy vô tội, Người đã vui lòng đổ máu mình ra để cứu chúng ta khỏi xiềng xích ác quỷ và tội lỗi, đem lại cho chúng ta sự sống. Nhờ vậy, Người không những đã nêu gương sáng cho chúng ta chiêm ngưỡng, mà còn mở ra cho chúng ta một con đường mới, để cho chúng ta đi vào.
Con đường mới đó là thực thi điều răn mới của Người, tức giới luật yêu thương, tham gia vào sự sống mới của Người bằng cách sống mầu nhiệm thánh giá và phục sinh, đón nhận ơn Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, chúng ta sẽ được một địa vị mới, đó là: Trong Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần chúng ta trở nên Con Thiên Chúa, có thể kêu lên rằng: Abba (Lạy Cha) (Xem Hiến chế Vui mừng và Hy vọng, chương I, Đức Kitô con người mới, số 22).
Nắm bắt các dấu chỉ của thời đại
Trung thành với Con Thiên Chúa nhập thể, Giáo Hội hoà nhập vào thân phận con người trong thế giới hôm nay, để tiếp tục sứ mệnh của mình.
Muốn thực thi sứ mệnh Chúa trao ban một cách thích hợp, Giáo Hội sẽ dựa vào các dấu chỉ của thời đại. Dấu chỉ lớn nhất và rõ nhất của thời đại này là quan tâm đến con người và thế giới. Giáo Hội đã nhận ra dấu chỉ đó và đã tập trung mục vụ vào dấu chỉ đó. Đức Phaolô VI quả quyết: “Giáo Hội của Công đồng không những suy nghĩ về bản tính của mình và những dây liên hệ ràng buộc mình với Thiên Chúa, mà còn quan tâm đến con người, con người như đang xuất hiện trong thời đại này”...
“Hơn bao giờ hết, Giáo Hội cảm thấy mình cần phải biết, phải gần gũi, phải hiểu, phải thấu triệt, phải phục vụ, phải Tin-Mừng-hoá xã hội xung quanh mình, phải nắm bắt, và có thể nói, phải theo dõi nó trong những chuyển biến mau lẹ và liên tục của nó” (Diễn văn phiên họp khoáng đại cuối cùng, ngày 07/12/1965).
Khi đã đặt trọng tâm mục vụ vào việc phục vụ con người, Giáo Hội sẽ biết lắng nghe những băn khoăn, ưu tư và hy vọng của con người. Những biến cố lịch sử, những hoàn cảnh kinh tế, luân lý, chính trị, khoa học đều là những gặp gỡ giữa con người và Giáo Hội. Giáo Hội sẽ không xét đoán, nhưng đầu tiên là sẽ quan sát và tìm hiểu. Trong mọi sự, Giáo Hội giữ một thái độ bác ái của Đức Kitô, để nhân loại thấy rằng: Mọi vấn đề của con người đều vang dội trong Giáo Hội. Giáo Hội chia sẻ thực sự thân phận con người. Hình ảnh một thế giới, một đất nước, một dân tộc sẽ không được nêu lên để chỉ trích, mà để tìm hiểu một cách thận trọng.
Nhờ tiếp cận thường xuyên với những chuyển biến mới của con người và xã hội, Giáo Hội cảm thấy bổn phận phải có những tìm tòi mới, những hiểu biết mới, những hành động mới, những giải đáp mới. Và mục vụ tất nhiên phải mới hơn.
Nhìn khiêm tốn về chính mình
Như thế là Giáo Hội sau khi đã trở về với Đức Kitô, sẽ phải trở về với con người, để phục vụ con người.
Đức Phaolô VI nhận định rõ điều đó. Ngài nói: “Giáo Hội có một vị trí giữa Đức Kitô và thế giới. Giáo Hội không tự mãn về mình. Giáo Hội không là tấm màn che khuất Đức Kitô. Giáo Hội không coi mình là mục đích, nhưng hết lòng mong muốn mình phải hoàn toàn thuộc về Đức Kitô, trong Đức Kitô và vì Đức Kitô. Đồng thời Giáo Hội cũng mong muốn mình phải hoàn toàn thuộc về nhân loại, giữa nhân loại và vì nhân loại. Giáo Hội coi mình như một trung gian khiêm tốn và vinh dự giữa Đấng Cứu Thế và nhân loại, để bảo toàn, gieo vãi chân lý và ơn thánh của sự sống siêu nhiên” (Diễn văn khai mạc khoá ba Công đồng, ngày 14/09/1964).
Trong ý hướng đó, Đức Phaolô VI đã dám có một kiểu nói rất khác xưa. Thay vì nói: Giáo Hội là Mẹ và là Thầy, Ngài đã nói: “Giáo Hội có quyền được tuyên bố mình là nữ tỳ của nhân loại.... Tư tưởng phục vụ con người đã chiếm một chỗ trọng yếu trong Công đồng” (Diễn văn phiên họp khoáng đại cuối cùng, ngày 07/12/1965).
Bầu khí bác ái
Một thoáng nhìn trên đây cho thấy dấu ấn của Công đồng Vatican II là đức ái: Yêu mến Thiên Chúa, mến yêu Giáo Hội, mến yêu nhân loại.
Đức Phaolô VI đã nhiều lần xác quyết điều đó. Ngài nói: “Sau này sử gia sẽ hỏi về Công đồng Vatican II: Giáo Hội đã làm gì trong Công đồng ấy? Xin thưa: Giáo Hội đã yêu mến... Giáo Hội đã mến yêu với trái tim mục vụ... Giáo Hội đã mến yêu với trái tim đại kết... Giáo Hội đã mến yêu với trái tim cởi mở đối với mọi người” (Diễn văn khai mạc khoá bốn Công đồng, ngày 14/09/1965).
“Chúng tôi muốn nhấn mạnh điều này: Luật của Công đồng là ưu tiên phải bác ái. Ai có thể tố cáo Công đồng là thiếu tinh thần tôn giáo và thiếu trung thành với Đức Kitô, khi chọn luật đó? Xin họ nhớ lại lời Đức Kitô đã dạy phải coi sự yêu thương kẻ khác như đặc điểm của người môn đệ Chúa (Gioan 13,15) và xin họ hãy để cho lời Thánh Tông đồ Gioan vang lên trong lòng họ: ”... Ai không yêu thương con người mà họ thấy được, thì làm sao có thể yêu mến Thiên Chúa, mà họ không thấy được” (1 Gioan 4,20).
“Mô hình tu đức của Công đồng là chuyện người Samaritanô tốt lành” (Diễn văn phiên họp khoáng đại cuối cùng, ngày 07/12/1965).
Trưa ngày 08/12/1965, trước đám đông từng mấy chục vạn người tập trung ở Công trường Thánh Phêrô, Đức Phaolô đã kết thúc Công đồng bằng những lời phát ra từ một trái tim dạt dào tình yêu thương. Ngài nói: “Đối với Giáo Hội Công giáo, không ai là khách lạ, không ai bị loại trừ, không ai là xa cách”.
*****
Công đồng Vatican II đã bế mạc được 30 năm. Lời yêu thương trên đây của Đức Phaolô VI vẫn mãi vang dội trong tôi, như một lý tưởng, như một kỷ niệm của Công đồng. Nhiều khi tôi nói với chính mình: Đối với Giáo Hội Công giáo, không ai là khách lạ, không ai bị loại trừ, không ai là xa cách. Điều đó đúng. Nhưng đối với nhiều người của Giáo Hội Công giáo, còn biết bao kẻ vẫn là khách lạ, vẫn bị loại trừ, vẫn là xa cách. Điều đáng nói nhất là: Kẻ bị coi là khách lạ, kẻ bị loại trừ, kẻ bị đẩy xa lại chính là Đức Kitô.
Đúng như lời Thánh sử Gioan đã viết xưa: “Người đã đến nơi nhà của Người, nhưng các người nhà đó không tiếp nhận Người” (Gioan 9,11).
Vì thế, nguyện vọng tha thiết nhất của tôi, khi kỷ niệm 30 năm Công đồng Vatican II là hãy trở về với Đức Kitô, hãy đón nhận Người, điều răn mới của Người, sự sống của Người và ơn cứu độ của Người.
Bài nói chuyện với các linh mục tu sĩ, dịp tĩnh tâm tháng 12/1995
(Bài nói chuyện của Đức Cha GB. Bùi Tuần với các Linh mục tu sĩ, Tĩnh Tâm tháng 1/1996)
Một trong những việc cần làm trong tuần-tĩnh-tâm năm của các linh mục giáo phận là chọn những Bùi-Tuần 2097
Một trong những việc cần làm trong tuần-tĩnh-tâm năm của các linh mục giáo phận là chọn những định hướng mục vụ cho thời gian tới.
Công việc đó thường diễn tiến như sau:
1. Đề ra những định hướng mục vụ theo nhu cầu của tình hình mới. 2. Chọn một vài định hướng ưu tiên. 3. Tìm cách thực hiện những định hướng ưu tiên đã được chọn.
Một diễn tiến như trên sẽ dựa trên những hiểu biết về tình hình cụ thể. Tình hình gồm những chuyển biến mới trong nội bộ Giáo Hội và những chuyển biến mới ngoài Giáo Hội về các mặt xã hội, kinh tế, văn hoá, chính trị và các tôn giáo ngoài Công Giáo.
Nắm bắt tình hình với những phân tích khảo sát, tìm hiểu, nhận xét, đánh giá và dự báo là công việc không được coi thường trong mục vụ, nhất là trong chọn lựa và thực hiện định hướng mục vụ.
Định hướng mục vụ chung hiện nay là đổi mới theo Công đồng Vatican II và tân-phúc-âm-hoá theo Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II.
Về phía Công đồng và về phía Toà thánh, những định hướng chung đó đã được trình bày và khích lệ trong rất nhiều tài liệu chính thức. Về phía các Giáo Hội tại mỗi nước, những định hướng chung đó sẽ được áp dụng, không phải một cách máy móc, nhưng một cách sáng tạo với sự nghiên cứu kỹ càng hoàn cảnh địa phương và thời điểm.
Chúng ta cũng làm như thế. Một công việc không đơn giản chút nào. Để góp phần vào việc làm đó, tôi xin đưa ra một số gợi ý, rút ra từ những nghiên cứu tình hình đó đây. Hy vọng những gợi ý cho các Giáo Hội địa phương khác cũng báo cho chúng ta về những hướng đi mục vụ chúng ta nên chọn cho chính Giáo Hội chúng ta lúc này.
* Cuốn “Les pouvoirs dans l'Eglise, Etude du gouvernement d'une Eglise locale: l'Eglise de Québec”, NXB Paulines, 1993, 522 trang, là một công trình nghiên cứu về tình hình giáo phận Québec. Tác giả là linh mục Gilles Routhier, giáo sư thần học tại đại học Laval, Canada.
Sau khi đã khảo sát tỉ mỉ các tài liệu, các sinh hoạt, cách điều hành giáo đoàn và những kết quả mục vụ của giáo phận Québec, từ sau Công đồng Vatican II đến nay, tác giả đã đưa ra những nhận xét có tính cách gợi ý sau đây:
1. Một Giáo Hội địa phương cần phải là Giáo Hội của địa phương mà mình mang tên. Nó cần tìm ra những hình thức cơ chế và cách diễn tả đức tin có khả năng được chấp nhận vào văn hoá của xã hội địa phương mình. Những người của Giáo Hội địa phương cần có những liên hệ tốt với xã hội địa phương, nhất là với giới trí thức địa phương, cần có những hiểu biết các vấn đề của địa phương, và cần có những tham gia vào việc xây dựng xã hội địa phương.
2. Một Giáo Hội địa phương cần phải là Giáo Hội của thời đại mà địa phương đang vươn tới. Những người của Giáo Hội địa phương cần có khả năng đối thoại về các giá trị mới của thời đại mới.
3. Một Giáo Hội địa phương cần phải là Giáo Hội của Tin Mừng. Nó cần có thiện chí và khả năng cống hiến ơn thánh cứu độ, làm cho con người và cuộc sống nên tốt hơn, và làm cho những mối tương quan xã hội được công bình bác ái hơn.
4. Một Giáo Hội địa phương cần phải là Giáo Hội của hiệp thông. Nó cần có những liên hệ nhận lãnh và cho đi với Toà thánh và với các Giáo Hội tại các địa phương.
Một Giáo Hội địa phương như thế không nên đợi chờ và thực hiện những định hướng mục vụ làm sẵn do trên truyền xuống hay do thói quen truyền lại, nhưng phải nghiên cứu và phải biết sáng tạo.
* Cuốn “L'Eglise catholique en France. Approches sociologiques” NXB Desclée de Brouwer, 1994, 220 trang. Tác giả là linh mục Julien Potel, một nhà xã hội học.
Sau khi xem xét các mặt khác nhau của tình hình Giáo Hội Pháp, ngài đã đưa ra 05 chiều kích của đức tin như sau:
- Tin là tham dự các nghi thức, lễ lạy tôn giáo. - Tin là chấp nhận hệ thống chân lý Hội Thánh dạy. - Tin là cộng tác với các nhân sự của cơ chế Hội Thánh. - Tin là đi vào những mầu nhiệm Đức Kitô. - Tin là sống trung thực với những gì đạo dạy nhất là trong đời thường.
Theo tác giả, rất ít người có đủ 05 chiều kích kể trên. Hơn nữa, rất nhiều người có đạo chỉ mang tên thánh, còn trên thực tế họ không có một đức tin mang chiều kích thánh nào cả. Và đó là băn khoăn lớn của Giáo Hội Pháp hiện nay. Để giúp hiểu nguyên nhân cơn khủng hoảng, tác giả cho thấy Giáo Hội Pháp cần nhận thức là mình đang đứng trước những thực tế sau đây:
1. Xã hội đang phát triển với sự tự lập của mình, không cần đến Giáo Hội.
2. Nhiều tôn giáo ngoài Công giáo và nhiều giáo phái đang phát triển với những giá trị riêng của họ, có nhiều sức lôi cuốn.
3. Nhiều loại “hướng dẫn viên tinh thần” không phải là giáo sĩ Công giáo đã xuất hiện và đang hoạt động, được quần chúng tín nhiệm.
4. Có nhiều cộng đoàn Công giáo đã gây được ảnh hưởng tốt, nhờ có khả năng đối phó với những thách đố của thời đại, với nền văn hoá mới và những vấn đề thiết thân về đời sống hôm nay.
* Cuốn “Vraie et fausse réforme dans l'Eglise”, NXB Cerf, 1950, 648 trang. Tác giả là Yves M.J. Congar, O.P, đã được phong Hồng y.
Đây là một công trình nghiên cứu rất công phu về lịch sử các cuộc cải cách liên quan đến Giáo Hội Công giáo.
Để giúp chọn định hướng mục vụ và tìm cách thực hiện định hướng mục vụ với mục đích mới, tôi chỉ tóm tắt 4 điều kiện do tác giả nêu lên.
1. Trong đổi mới phải ưu tiên cho đức Ái và cho mục vụ. Một đổi mới nào chỉ lo sao cho hợp lý, sao cho ăn khớp với một hệ thống quan điểm mình coi là đúng, sẽ là một đổi mới không tốt. Trái lại, một đổi mới tốt phải phát xuất từ đức Ái, từ khát vọng nên thánh, từ nhu cầu mục vụ: Muốn Chúa được nhiều người mến tin hơn và người ta được yêu thương nhau hơn.
2. Trong đổi mới phải cố gắng duy trì tinh thần hiệp thông. Lịch sử cho thấy nhiều cuộc đổi mới sinh hiệu quả tốt đã xuất phát không từ trung ương và từ những cấp cao của Hội Thánh, mà từ những địa phương xa, bé nhỏ, như những cộng đoàn cơ bản hiện nay tại nhiều Giáo Hội Phi Châu, Á Châu và Nam Mỹ, và từ những nhân vật khiêm tốn như anh Clarles de Foucauld, chị Chiara, mẹ Têrêxa Caleutta. Sở dĩ những đổi mới ấy đã gây được nhiều ảnh hưởng Phúc Âm sâu rộng, là vì đã có nhiều cảm thông của giáo quyền dành cho những người khởi xướng, và những người này giữ được sự hiệp thông tích cực với giáo quyền và các thành phần của Hội Thánh.
3. Trong đổi mới phải quan tâm trở về nguồn là trở về với Đức Kitô. Một sự trở về với Đức Kitô như vậy sẽ bắt đầu bằng việc đổi mới chính bản thân mình theo mô hình Đức Kitô là tình yêu cứu độ. Vì thế, mọi đổi mới nào do động lực không phải là tình yêu Đức Kitô, và dùng phương tiện không phù hợp với tình yêu Đức Kitô đều là những đổi mới không tốt.
4. Trong đổi mới phải biết kiên trì. Đổi mới nào cũng cần có thời gian. Nhất là đổi mới não trạng, đổi mới cách nhìn, và đổi mới cách đánh giá. Rồi từ sự biết đúng đến sự làm đúng cũng cần có thời gian. Tinh thần thì nhanh lẹ, nhưng xác thịt thì nặng nề. Vì thế, vội kết án, vội xét đoán, vội loại trừ, là những điều không nên có trong những chương trình đổi mới.
****
Để chuẩn bị cho tuần tĩnh tâm sắp tới, mỗi người chúng ta nên dựa theo những gợi ý trên đây cùng với những nhận xét riêng của mình về tình hình Việt Nam nói chung và của địa phương nói riêng, để tự mình đề ra cho mình những định hướng mục vụ, tiếp đó là sắp xếp chọn lựa định hướng ưu tiên, rồi tìm cách thực hiện định hướng ưu tiên mình chọn lựa.
Có làm như thế, chúng ta mới thấy rỏ được nhiệt tâm khả năng và phương cách đáp ứng của chúng ta trước lời mời gọi đổi mới của Hội Thánh.
Cộng đoàn được trao phó cho chúng ta sẽ tiến hay lùi, một phần do sự chúng ta biết đáp ứng lời gọi tha thiết đó.
Bài nói chuyện với các linh mục tu sĩ, dịp tĩnh tâm tháng 01/1996
(Bài nói chuyện của Đức Cha GB. Bùi Tuần với các Linh mục tu sĩ, Tĩnh Tâm tháng 8/1996)
Tôi mới đi thăm mục vụ những giáo điểm vùng U Minh thượng. Đây là những cộng đoàn nhỏ, cách Bùi-Tuần 2098
Tôi mới đi thăm mục vụ những giáo điểm vùng U Minh thượng. Đây là những cộng đoàn nhỏ, cách xa nhau, rải rác ở các miệt thứ.
Kỷ Niệm Năm Xưa
Lần đầu tôi đến vùng sâu này là ngày lễ Noel 1969. Hôm đó, nhân dịp đình chiến, tôi tình nguyện đi vào vùng giải phóng ở U Minh. Mục đích là tìm thăm những cộng đoàn công giáo. Chỉ nghe nói có vài cộng đoàn nhỏ trong vùng mênh mông đó, nhưng không rõ ở những địa danh nào. Tôi đi với một linh mục bạn. Phương tiện là đò máy. Sáng sớm, khởi hành từ Tắc Cậu. Qua sông cái nhỏ, rồi sông cái lớn, đò đi vào con sông rất dài chảy qua các miệt thứ.
Gần trưa, tới thứ 9, nhìn lên bờ, thấy xa xa mấy đèn ông sao treo lác đác. Chúng tôi vội đứng lên mũi đò vẫy tay. Lúc đó chúng tôi mặc áo dài đen linh mục. Lập tức, có vài người chạy theo đò. Rồi nhiều người, rồi cả một đám đông tuốn ra reo hò. Đò dừng lại. Chúng tôi lên bờ. Một cuộc gặp gỡ đầy bất ngờ, đầy xúc động. Nhiều người khóc. Đã hơn chục năm rồi, cộng đoàn ở đây không gặp được linh mục.
Quá trưa, chúng tôi cho đò chạy ngược về phía Xẻo Rô. Đi sâu vào kênh rạch, chúng tôi lại được vui sướng gặp một cộng đoàn nhỏ khác ở Rọc Lá. Cũng đã từ rất lâu, cộng đoàn này không có dịp tham dự thánh lễ.
Noel năm ấy đã để lại trong tôi những kỷ niệm đẹp, những ấn tượng sâu. Từ đó đến nay, các giáo điểm đó và các giáo điểm khác tại những vùng xa vùng sâu ấy không những đã tồn tại, mà còn phát triển. Lần này, tôi đi qua 04 giáo điểm vùng đó. Tất cả đều đã có nhà thờ đẹp, có linh mục ở thường xuyên. Bộ mặt hôm nay trẻ trung, rạng rỡ của những giáo điểm này là kết quả của nhiều yếu tố đạo đời. Trong đó có những yếu tố hiện lên như một bài học quí giá cho tôi.
Vài Kinh Nghiệm Tôn Giáo
Tất cả các cộng đoàn này đều trong vùng sâu vùng xa. Và thực sự rất xa rất sâu. Đặc điểm chung của dân ở đây là đơn sơ, bình dị. Đa số kiếm ăn đủ sống. Nhìn lại lịch sử các giáo điểm, tôi thấy không ai ở đó đã bị dụ dỗ theo đạo Chúa cả. Chính tự họ tìm đến đạo Chúa. Theo kể lại, thì ban đầu khoảng 60 năm về trước, một số người lớn, lúc đó là không công giáo, đã tự động viết thư gửi linh mục chánh xứ Rạch Giá, yêu cầu ngài giúp họ theo đạo Công giáo. Họ khao khát một điểm tựa thiêng liêng, một ánh sáng khai phá, một tình thương che chở. Vài tu sĩ đã được sai vào sống giữa họ. Họ học đạo, hiểu đạo, và họ đã tin vào Chúa Giêsu Kitô.
Ban đầu đối với họ, sinh hoạt tôn giáo thường xuyên và căn bản là cầu nguyện. Tôi có cảm tưởng là cầu nguyện của họ rất hồn nhiên. Qua cầu nguyện, họ có một vài cảm nghiệm thiêng liêng. Những cảm nghiệm đó thuộc về nội tâm. Họ cảm thấy một sự hiện diện nào đó của Đấng linh thiêng. Ngài đến với họ, tế nhị với họ, nhẹ nhàng với họ, làm quen với họ. Họ cảm thấy mình được yêu thương, kính trọng.
Gặp được một tình thương vô hình nhưng thân mật ấy, đó chính là Tin Mừng lớn lao nhất và quí giá nhất đối với họ. Nó thay đổi cuộc đời của họ.
Nhờ tình thương đó, họ có thêm được nhiều khả năng mới trong nội tâm, thí dụ khả năng tha thứ cho những người mà trước đây họ không thể nào tha thứ được, khả năng nhìn nhận những giới hạn của mình một cách khiêm tốn và bình an, khả năng nhận thấy những thánh giá cuộc đời có giá trị cứu rỗi.
Qua những cảm nghiệm như thế, họ nhìn đức tin là một ân huệ Chúa ban tặng. Họ đón nhận với lòng tri ân cảm tạ. Họ đáp lại bằng những cách cho đi hồn nhiên đơn giản. Đức tin được tuyên xưng bằng một vài kinh thuộc lòng. Đức tin được cử hành bằng thói quen qui tụ ngày Chúa nhật, để nghe đọc Kinh Thánh. Đức tin được sống bằng tinh thần bác ái phục vụ, xây dựng công bình, đoàn kết và bình an trong xóm làng, với những việc nhỏ, khiêm tốn, thường ngày.
Đạo gắn liền với cuộc sống địa phương. Địa phương có cảm tình với đạo. Nhờ vậy mà cộng đoàn được thành hình, được tồn tại và được phát triển. Chính nhiều người ngoài công giáo đã tích cực góp phần vào việc làm nhà thờ cho các cộng đoàn công giáo tại đó.
Giữa đời và đạo có những tương giao tình nghĩa. Bầu khí hài hoà. Cái nhìn thanh thản. Đón nhận và cho đi một cách khiêm tốn, cởi mở. Mỗi lần cử hành thánh lễ tại các giáo điểm này, tôi đều thấy có nhiều người ngoài công giáo tham dự, đặc biệt là các đại diện nhiều tôn giáo bạn xung quanh. Đức tin được chia sẻ, được lan ra.
Vài Đối Chiếu Căn Bản
Khi đem hình ảnh các cộng đoàn nhỏ vùng sâu vùng xa này đối chiếu với hình ảnh các cộng đoàn công giáo thời Giáo Hội sơ khai được ghi lại trong Tông đồ công vụ, tôi thấy có nhiều nét giống nhau. Những nét giống nhau là: Đức tin của họ tập trung vào Chúa Giêsu Kitô đã chịu nạn và đã phục sinh. Họ tin Ngài là hy vọng của họ. Họ tin Ngài đem lại cho họ một sự sống cao đẹp và phong phú. Họ học hỏi lời Ngài. Họ chiêm ngắm gương sáng đời sống và việc làm của Ngài. Họ cầu nguyện với Ngài. Theo gương Ngài và theo lời Ngài dạy, họ yêu thương nhau. Từ đó bác ái yêu thương trở thành dấu chỉ của người công giáo.
Họ đơn sơ khiêm tốn, sống bao dung, chan hoà tình người. Họ gây được cảm tình với người ngoài công giáo, nhờ đời sống bác ái phục vụ, nhờ những biến đổi sâu sắc nơi chính bản thân họ về mặt lương thiện, công bình, chân thành và tinh thần trách nhiệm, nhất là nhờ những việc chia sẻ của họ với người nghèo, người khốn cùng, người khổ đau, người bị bỏ rơi, người bị loại trừ.
Còn khi đem hình ảnh những cộng đoàn nhỏ này đối chiếu với đường hướng của Công đồng Vatican II và của các huấn thị tân-phúc-âm hoá do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, tôi cũng thấy có những nét gần gũi. Đó là nhấn mạnh đến việc trở về với Đức Kitô, trở về với việc phục vụ con người, trở về với giới luật yêu thương, là giới luật mới của Đức Kitô, trở về với đức ái, mà thánh tông đồ Phaolô đã ca ngợi trong 1 Cor 13.
Ngoài ra, nét sau đây cũng được nhận thấy khá rõ, đó là: qua các cộng đoàn nhỏ, Hội Thánh hoạt động như một dấu chỉ và dụng cụ của Nước Trời. Hội Thánh khiêm tốn, không đồng hoá mình với Nước Trời, không coi mình là mục đích của hoạt động truyền giáo. Khi được sai vào một địa phương gọi là ngoại đạo, Hội Thánh nhận biết Chúa đã hiện diện và hoạt động ở đó từ lâu rồi, trong các lương tâm. Hội Thánh là một cộng đoàn được chọn một cách đặc biệt, được trao cho những phương tiện đặc biệt, để nên dấu chỉ và dụng cụ của Nước Trời, giúp cho xã hội, và cùng với xã hội đón nhận Nước Trời một cách sớm hơn và trọn vẹn hơn. Nhưng Hội Thánh chỉ có thể thực hiện sứ mạng đó một cách tốt đẹp, khi toả ra được đức ái phục vụ, khiêm tốn, theo gương Đức Kitô.
Tại các giáo điểm nhỏ bé này đang thực hiện những chương trình nhỏ bé phục vụ con người, không phân biệt lương giáo, như sân nhà thờ có thể được dùng làm sân cho dân phơi lúa, nhà trẻ, phòng dạy may, phòng sách báo, lớp học tình thương ...v.v. Các linh mục, tu sĩ đi đến với dân, nhất là dân nghèo, với phong cách một kẻ đi theo Đức Kitô tìm đến các linh hồn.
Đúng là đức ái phục vụ đang được cụ thể hoá, đáp ứng đúng nhu cầu địa phương. Từ đó tôi xác tín rằng: Nếu đức tin không được phiên dịch ra đức ái phục vụ một cách cụ thể bằng đúng việc, đúng thời, đúng cách, tại địa phương này, thì Hội Thánh sẽ không thể nào được nhìn nhận là một cộng đoàn có lợi cho dân tộc. Và vì thế sẽ khó có một chỗ đứng được trân trọng trong xã hội đang phát triển này.
Vài Dấn Thân Mới
Tại những cộng đoàn vùng sâu vùng xa này, bên cạnh những điểm tích cực, cũng có nhiều điểm tiêu cực lớn nhỏ. Sự phát triển cộng đoàn cũng gặp nhiều khó khăn. Có loại khó khăn đến từ bên ngoài. Có loại khó khăn mọc lên từ bên trong nội bộ. Có những thách đố mới. Vì thế cần có những dấn thân mới. Dấn thân ưu tiên là đào tạo nhân sự, để có tông đồ giáo dân, có người biết hướng dẫn phát triển cộng đồng, có người biết giáo dục giới trẻ.
Sau chuyến đi thăm các giáo điểm vùng U Minh thượng, tôi đã ghé thăm khoá đào tạo các ca trưởng tại Đài Đức Mẹ Tân Hiệp, mấy căn nhà lưu trú học sinh tại thị tỉnh, dành cho các em vùng xa vùng sâu đến trọ học, mấy lớp hè miễn phí. Tại nhiều nơi, tôi đã nhận thấy những sáng kiến mới, những dấn thân mới có khả năng hỗ trợ cho các giáo điểm nghèo xa xôi.
Thêm vào đó là những cuộc huấn luyện giáo lý viên, nhiều người trong các hội đồng giáo xứ đi tham dự linh thao dài hạn, nhiều nhóm nhỏ được hình thành, cùng nhau cầu nguyện, chầu Mình Thánh Chúa, chia sẻ Lời Chúa và làm các việc từ thiện.
Nhìn chung các giáo điểm, tôi nhận thấy thực rõ hai dấu chỉ của Hội Thánh thời đại hôm nay, một là vai trò của tông đồ giáo dân, hai là vai trò của bác ái phục vụ con người, nhất là giúp cho các tầng lớp túng nghèo, khổ cực biết tự mình vươn lên. Những cộng đoàn địa phương nào biết tỉnh thức dấn thân theo hai dấu chỉ đó, trong tinh thần hiệp thông chặt chẽ với Đức Kitô và với Hội Thánh của Người, sẽ là những chứng nhân của hy vọng, một niềm hy vọng vượt quá biên giới trần thế. Hy vọng đó là chính Đức Kitô. Và vì thế việc huấn luyện nội tâm là quan trọng nhất Bài nói chuyện với các linh mục tu sĩ, dịp tĩnh tâm tháng 8/1996
(Bài nói chuyện của Đức Cha GB. Bùi Tuần với các Linh mục tu sĩ, Tĩnh Tâm tháng 9/1996)
Việc học hành của con em vốn là vấn đề gây nhiều suy nghĩ cho các phụ huynh và mục vụ giáo Bùi-Tuần 2099
Việc học hành của con em vốn là vấn đề gây nhiều suy nghĩ cho các phụ huynh và mục vụ giáo xứ. Tháng Chín, dịp tựu trường, vấn đề này càng lan rộng và tăng độ nóng.
Để giúp cho các suy nghĩ về việc học hành của con em đưa tới những hành động thích hợp, hôm nay tôi xin gửi đây một số thông tin rút từ báo chí.
1- Những Mừng Lo
a/- “Cùng với những thành tựu bước đầu hết sức to lớn, có ý nghĩa sống còn của công cuộc đổi mới trong mười năm qua, sự nghiệp giáo dục - đào tạo của đất nước ta cũng có những chuyển biến đáng mừng không thể phủ nhận được, tuy rằng còn không ít yếu kém ...”
”... Tuy nhiên sự nghiệp giáo dục - đào tạo đang đứng trước những vấn đề gây cấn, nhiều thách thức, nhiều khó khăn, đồng thời cũng tồn tại nhiều yếu kém:
1/- Tuy nước ta có tỷ lệ người biết chữ thuộc loại cao so với cộng đồng quốc tế nhưng mặt bằng dân trí chung lại thấp, tỷ lệ người được đào tạo nghề nghiệp rất thấp. Điều này sẽ là trở ngại lớn cho việc tăng tốc phát triển. Nguy cơ tụt hậu nguy hiểm nhất là tụt hậu về giáo dục - đào tạo. Biện pháp chống tụt hậu đầu tiên và hữu hiệu nhất của toàn bộ nền kinh tế xã hội là chống tụt hậu về giáo dục - đào tạo.
2/- Áp lực đòi hỏi phát triển quy mô và chất lượng giáo dục - đào tạo ngày càng tăng, đòi hỏi phải tăng nhanh tốc độ xây dựng trường sở, tăng trang thiết bị, tăng cường đào tạo và bồi dưỡng nâng cao trình độ giáo viên, phải tiến tới học đủ môn, làm đủ thí nghiệm, học ngày 2 buổi ... mà năng lực hiện có của hệ thống giáo dục - đào tạo rất hạn chế, ngân sách ta còn nghèo, dân ta có thu nhập thấp ... không đủ sức thoả mãn kịp thời các yêu cầu đó.
3/- Bên cạnh những mặt tích cực mà cơ chế thị trường đem lại, cũng có những tác động tiêu cực, những vấn đề mới nảy sinh hết sức gay gắt. Các thang giá trị bị xáo trộn, quan niệm và tiêu chuẩn đạo đức trong xã hội có phần suy suyển. Ý thức trách nhiệm với đất nước, với cộng đồng bị giảm sút ở nhiều người ... Tất cả những cái đó ảnh hưởng đến thái độ dạy và học. Người ta chọn nghề phần nhiều theo khả năng kiếm thu nhập cao. Một số ngành không có người học hoặc không có người giỏi theo học, kể cả những người thực sự có năng khiếu.
4/- Người có học vẫn khó tìm việc làm, càng khó tìm việc làm có đồng lương cân xứng. Nền học vấn của xã hội chỉ có thể phát triển khi giá trị của học vấn thực sự được coi trọng. Mặt khác, nhiều khi kiến thức và năng lực được đào tạo lại không phù hợp với yêu cầu của sản xuất và đời sống.
5/- Sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội ngày càng lớn, kéo theo sự phân hoá về điều kiện học hành cũng ngày càng lớn. Người nghèo, ngoài khả năng được hưởng nền giáo dục tối thiểu ở trình độ phổ cập, rất khó khăn về mặt kinh tế để học đến nơi đến chốn, tuy Nhà nước có chính sách học bổng, có trường nội trú, có tín dụng giáo dục ... Phần lớn nông dân đều khó khăn, mà nông dân lại chiếm đến 78% dân số. Ngân sách khó mà bao cấp hết được.
6/- Sự yếu kém của bản thân hệ thống quản lý giáo dục cũng là một nguyên nhân trực tiếp làm nảy sinh hoặc không hạn chế được những biểu hiện tiêu cực, yếu kém trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo.
7/- Sau khi Nghị quyết Đại hội VII và nhất là sau khi có Nghị quyết Trung ương 4 khoá VII về giáo dục - đào tạo, nhận thức của các cấp và trong xã hội có sự chuyển biến quan trọng, tuy vậy vẫn “chưa thực sự quán triệt tư tưởng xem giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu”.
(Bài “Một số vấn đề về Giáo dục - Đào tạo”, tác giả Trần Hồng Quân, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, tạp chí Thế Giới Mới, số 192, ra ngày 8/7/1996, trang 4-5)
b/- “10 dự án lớn của ngành giáo dục - đào tạo với kinh phí 4.627 tỉ đồng đã và sẽ được triển khai từ nay đến năm 2000. Các dự án bao gồm 6 chương trình nâng cấp giáo dục tiểu học (1.090 tỉ đồng), chương trình nâng cấp giáo dục trung học (520 tỉ đồng), chương trình hỗ trợ giáo dục dân tộc (500 tỉ đồng), chương trình xây dựng trường học vùng bão (840 tỉ đồng), chương trình nâng cấp giáo dục dạy nghề (200 tỉ đồng), chương trình nâng
7- cấp cơ sở vật chất các trường Đại học (400 tỉ đồng), dự án Đại học Quốc gia Hà Nội giai đoạn 1 (132 tỉ đồng), Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh (450 tỉ đồng), Đại học Cần Thơ (260 tỉ đồng) và nâng cấp Trường Hàng không Việt Nam (235 tỉ đồng)”.
("10 dự án lớn của ngành giáo dục - đào tạo”, tạp chí Thế Giới Mới, số 192, ra ngày 8/7/1996, trang 77)
2- Những Thực Tế Đáng Suy Nghĩ
a/- “Theo số liệu từ Phòng Tổ chức của Sở Giáo dục - Đào tạo An Giang, khoảng tháng 7-95 đến 30-5-96 tổng số giáo viên nghỉ và bỏ dạy là 552, trong đó 153 người là nhân viên, 265 người là giáo viên tiểu học, 28 là cô giáo mầm non, 74 giáo viên cấp II và 32 là giáo viên cấp III. Xét về tính chất, có 85 trường hợp đúng tuổi nghỉ hưu, 102 trường hợp do sức khoẻ đời sống khó khăn, 110 trường hợp thôi hợp đồng, 160 trường hợp tự ý bỏ việc, 80 trường hợp xoá hợp đồng, và 15 trường hợp do xuất cảnh. So với năm học 94-95 số giáo viên, nhân viên nghỉ và bỏ việc năm học 95-96 tăng gần gấp đôi (năm 94-95 có 267 trường hợp thôi và bỏ việc). Vì sao lại có quá nhiều giáo viên và nhân viên ngành Giáo dục bỏ việc không tiếp tục sự nghiệp mà xã hội xem là cao quí ? Qua tìm hiểu, nhận thấy có 2 nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng nghỉ và bỏ dạy: Đó là do sức khoẻ, kinh tế, tâm huyết...”
(Bài “Khi người kỹ sư tâm hồn bỏ việc”, tác giả Nguyễn Thuỷ, báo An Giang, số 1240, ra ngày 29/6/96, trang 5).
b/- “Theo thống kê của Sở Giáo dục - Đào tạo, hiện toàn tỉnh có 567 giáo viên hệ mầm non, 12.682 giáo viên phổ thông các cấp. Thế nhưng trên thực tế tình trạng thiếu giáo viên, nhất là giáo viên tiểu học và giáo viên cấp II đang ở mức độ báo động. Nếu tính theo chỉ số một giáo viên/lớp theo quy định của Bộ GD-ĐT, thì toàn tỉnh thiếu đến 2.048 giáo viên tiểu học, 465 giáo viên cấp II, 72 giáo viên cấp III, tập trung chủ yếu ở các bộ môn ngoại ngữ, nhạc, hoạ, thể dục (hệ trung học).
Theo nguồn tin từ Sở GD-ĐT An Giang, nguyên nhân của “cơn sốt” giáo viên chủ yếu là do ngành sư phạm không đạt chỉ tiêu tuyển sinh, mặt khác số giáo viên ra trường không bù đắp nổi so với số bỏ nhiệm sở ngày một tăng (năm học 95-96 là 435 trường hợp; 94-95 là 267 trường hợp).
Nếu so sánh với nhu cầu nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên thời kỳ sau năm 2000 (giáo viên tiểu học đạt trình độ Cao đẳng, giáo viên trung học đạt Đại học, trong đó có 5% đến 10% là thạc sĩ) thì thực trạng giáo viên ở An Giang hết sức bất cập.
Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng học sinh (nhất là bậc trung học) dự kiến tăng đến năm 2000 từ 2 đến 3 lần khiến tình hình thiếu giáo viên càng trở nên trầm trọng. Sở GD-ĐT An Giang đang lập nhiều đề án khả thi trình lên Tỉnh uỷ, UBND tỉnh nhằm khắc phục tình trạng này.
(Bài “Thiếu 2585 giáo viên các cấp”, tác giả Lục Tùng, báo An Giang, số 1241, ra ngày 3/7/1996, trang 12).
c/- ”...Sau khi Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định cho phép hạ điểm chuẩn từ 1 đến 3 điểm tuỳ theo kết quả thi ở mỗi tỉnh, các báo đồng loạt phản ứng mạnh mẽ. Tất cả đều không đồng tình với quyết định ấy. Báo Tuổi Trẻ ra ngày 29/6/1996 nêu cái tít lớn thật chua chát: “Bằng tú tài: Ai xin thì cho”. Ôi! “Bằng cho” thì còn giá trị gì, nhất là bằng ấy lại là bằng tú tài...”
”...Nghe nói thành phố Hồ Chí Minh không hạ điểm chuẩn nên nảy sinh cái tên “Tú tài tỉnh” để phân biệt với “Tú tài thành phố”, nghĩ thật buồn cười. Theo các báo thì tú tài Long An 19 điểm, Sóc Trăng 18 điểm, Kiên Giang, Cần Thơ 17 điểm... riêng Vĩnh Long lại tròn trịa 20 điểm nên mới có bài phàn nàn của một nhà giáo trên báo Thanh Niên rằng tại sao lại có sự bất công ấy giữa Cần Thơ và Vĩnh Long. Thôi thì đủ thứ chuyện kêu ca, than phiền, trách móc, hẳn lần này các vị lãnh đạo ngành giáo dục không khỏi nhức đầu...”
”...Những lý do mà lãnh đạo ngành giáo dục và giám đốc sở giáo dục các tỉnh đưa ra để biện minh cho việc hạ điểm chuẩn là:
- Tránh đột biến: các năm trước đỗ 90%, thậm chí 100%, nay có tỉnh tụt xuống còn 60%-65% là một sự đột biến gây xúc động tâm lý lớn cần phải tránh.
- Không an tâm: học sinh đã phải học 12 năm để đi thi mà hỏng thì áy náy; các năm trước đỗ nhiều, năm nay đỗ ít nên lãnh đạo ngành giáo dục đào tạo không an tâm.
- Cần nhân lực cho tỉnh (nghĩa là cần nhiều người có bằng tú tài cho dù bằng ấy không đánh giá đúng trình độ của người cầm nó).
- Tránh lưu ban quá nhiều ở lớp 12, gây hậu quả thiếu trường lớp, thiếu giáo viên...”
(Bài “Mảnh bằng “hạ chuẩn”, tác giả Huyền Viêm, báo SGGP, số 6849, ra ngày 4/8/1996, trang 4).
d/- “Hiện nay cả nước có khoảng 8,5 triệu người mù chữ, trong đó đồng bằng sông Cửu Long chiếm 33%, vùng núi phía Bắc chiếm 38%. Hằng năm có khoảng 2,5 - 3 triệu trẻ em không đến trường. Cả nước thiếu 6 vạn giáo viên tiểu học, tập trung ở các vùng sâu, biên giới, hải đảo...”
(Bài “Chống mù chữ...”, báo Thanh Niên, số 127 (915), ra ngày 10/8/1996, trang 10).
e/- “Tại hội nghị toàn quốc tổng kết năm học 1995-1996 ở Sầm Sơn (Thanh Hoá) mới đây, Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình nói: “Nếu từ trung ương đến địa phương mà có thêm công trình nào thì điều đó đáng hoan nghênh. Nhưng, phải thấy rằng giáo dục-đào tạo là công trình của những công trình”! Đó là một cách nói khác để nhấn mạnh giáo dục-đào tạo là nền tảng, bệ phóng cho sự tăng trưởng của một quốc gia...”
”... Ở Lai Châu vẫn còn có hơn 500 bản làng hoàn toàn không có trường học. Tại đây người ta cũng không còn lạ với chuẩn đào tạo của những người thầy: 5+3 rồi 5+1, nhưng vẫn cứ thiếu. Thậm chí để có giáo viên, ngành phải lấy cả những học sinh có trình độ lớp ...1 rồi nuôi ăn học đến lớp 5, sau đó cho học thêm một năm nữa để làm ... thầy (!)...”
”... Công trình của những công trình! Nhưng, năm này sang năm nọ người ta cứ phải loay hoay chống đỡ với những công trình ... ca ba, rồi ca bốn mà vẫn không hết: năm học mới còn tới 14.000 lớp học ca ba và hàng vạn phòng học bằng tre lá; lớp học không cửa nẻo, không bàn ghế và cả nhà vệ sinh cũng không có nốt (báo cáo của Bộ GD-ĐT)! Ca ba đã sinh nở đến cả những thành phố được tiếng có nhiều nhà hàng, khách sạn nhất như Hà Nội, TP. HCM... Trong khi đó, cả nước chỉ có 8,2% số trường có phòng thí nghiệm. Tại sao ? Dễ hiểu, khi mà vốn xây dựng cơ bản dành cho giáo dục chỉ đạt từ 2 - 3%, chưa có năm nào đạt đến cái ngưỡng 5% như chỉ thị 248/TTg của Thủ tướng Chính phủ. Và theo báo cáo tổng kết năm học 1995-1996 của Bộ GD-ĐT, so với năm học trước kinh phí tăng 6% trên lý thuyết, trong khi kinh phí thực chi cho giáo dục lại giảm đến ... 20%!
Cần phải làm gì cho một “công trình của mọi công trình” ?”.
(Bài “Công trình của những công trình”, tác giả Hà Thạch Hãn, báo Tuổi Trẻ Chủ nhật, số 29-96 (662), ra ngày 28/7/1996, trang 14)
3- Những Hậu Quả Cần Thấy
a/- ”...Không có ví dụ nào rõ ràng hơn về giá trị của giáo dục khi so sánh giữa Pakixtan và Hàn Quốc. Cả hai nước đều có cùng một mức thu nhập vào năm 1960 nhưng Pakixtan có tỉ lệ đi học cấp cơ sở là 30%, trong khi Hàn Quốc là 94%. Đó là lý do vì sao tổng sản phẩm quốc nội GDP tính theo bình quân đầu người của Hàn Quốc tăng gấp ba lần so với Pakixtan 25 năm sau đó!...”
”...Lời cảnh tỉnh thật rõ ràng: không một nước nào có thể chuyển đổi cơ cấu kinh tế nếu không tăng mức giáo dục cơ bản. Tăng trưởng kinh tế chỉ là phương tiện, vì mục tiêu là lợi ích con người. Chính con người mới đáng coi trọng chứ không phải là tổng sản phẩm quốc gia. Chẳng phải ngẫu nhiên mà có hiện tượng “có sự tăng trưởng nhưng không tạo ra việc làm” ở các nước giàu có”.
(Bài “Vòng đạo lý”, tác giả Yên Ba, báo Tuổi Trẻ, số 85/96 (2527), ra ngày 23/7/1996, trang 12).
b/- ”...Kinh nghiệm cho thấy ở những nước có nền văn hoá dày dặn, có truyền thống ham học và coi trọng văn minh tinh thần như các nước Á Đông (Nhật Bản, Hàn Quốc, Xin-ga-po) thì tiếp thu và biến đổi văn hoá hiện đại từ bên ngoài thường có hiệu quả...”
”...Văn hoá chỉ trở thành mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá khi các yếu tố cấu thành của nó như tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, thái độ và hành vi ứng xử thấm vào tất cả các lãnh vực hoạt động sáng tạo của con người để trở thành văn hoá trong sản xuất, văn hoá trong kinh doanh, văn hoá trong quản lý, văn hoá trong lối sống, trong giao tiếp, văn hoá trong sinh hoạt gia đình và ngoài xã hội, văn hoá trong giao lưu và hợp tác quốc tế...”
”...Văn hoá nhờ thế thấm thấu vào mọi mao mạch của đời sống con người, và do đó vun trồng, tôn vinh con người như là mục tiêu cao nhất của phát triển kinh tế - xã hội. Và cũng nhờ đó từng bước thực hiện được nguyên tắc và cơ chế phát triển kinh tế - xã hội bằng văn hoá, và thông qua văn hoá...”
(Bài “Để văn hoá là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội”, báo Nhân Dân, số 32 (392), ra ngày 4/8/1996, trang 12).
c/- ”... Nhưng điều khiến cho tôi quan tâm chính là làm thế nào để cho Xingapo, từ một hòn đảo không hề có tài nguyên, trơ trụi, cách đây hai, ba chục năm vẫn còn là những dãy nhà ổ chuột, người dân thản nhiên đi vệ sinh ở gốc cây trên đường phố, ngày nay trở thành một nền kinh tế hùng mạnh trong khu vực, với một xã hội có kỷ cương và trật tự ? Khi tôi đặt câu hỏi này với ông Tan Seng Chye, giám đốc Ban hợp tác kỹ thuật thuộc Bộ Ngoại giao Xingapo, thì câu trả lời của ông Tan là: giáo dục! Đó chính là cái cầu nối quan trọng bậc nhất để nối giữa cái “không có gì” với “cái gì cũng có”! ...”
(Bài “Không có cái gì” - và giáo dục: “cái gì cũng có”, tác giả Yên Ba, báo Tuổi Trẻ Chủ nhật, số 28-96 (661), ra ngày 21/7/1996, trang 10).
4- Những Địa Chỉ Hướng Về
a/- ”...Muốn công nghiệp hoá nói chung và công nghiệp hoá nông thôn nói riêng thành công, phải làm thế nào để phát huy nguồn lực con người Việt Nam, trong và ngoài nước. Chúng tôi nghĩ, đã đến lúc Đảng và Nhà nước cần làm một cuộc đổi mới thứ hai - đổi mới trong cơ chế quản lý con người, như đã đổi mới trong cơ chế sản xuất nông nghiệp làm từ mấy năm đầu thập kỷ 80. Trong khi ngân sách nhà nước còn giới hạn, cuộc “đổi mới thứ hai” này cần bắt đầu ngay từ cái gốc - các lớp mẫu giáo, tiểu học và trung học trên toàn quốc. Mạnh dạn đầu tư vốn trong nước và mượn vốn quốc tế để làm công cuộc “đổi mới thứ hai” này.
Lao động Việt Nam cũng thuộc loại tài ba trên thế giới. Nhưng chúng ta chưa biến tiềm năng thành hiện thực được, vì tuy nói “khoa học và kỹ thuật là then chốt” nhưng trong thực hành ta chưa tạo điều kiện cho khoa học kỹ thuật phát huy.
Cách nay khoảng một thế kỷ, vua Nhật Bản và vua Việt Nam đều có gửi sứ giả đi các nước phương Tây để xem triển lãm khoa học kỹ thuật. Khi sứ thần về nước tâu lại, vua Nhật Bản đã tạo điều kiện cho người Nhật đi khắp thế giới học hỏi khoa học kỹ thuật về làm giàu cho nước Nhật, còn vua Việt Nam thời Tự Đức đã buộc tội “khi quân” ông Nguyễn Trường Tộ. Đó là bài học cho chúng ta ngày nay.
(Bài “Cùng suy nghĩ với nông dân”, tác giả GSTS Võ Tòng Xuân, báo Tuổi Trẻ Chủ nhật, số 29-96 (663), ra ngày 28/7/1996, trang 3).
b/- ”...Việc xem nhẹ chức năng giáo dục truyền thống từ mỗi gia đình trong bối cảnh những mối quan hệ rường cột trong gia đình và xã hội nhiều nơi đang bị lỏng lẻo, rạn nứt, bị đặt dưới nhãn quan của kinh tế thị trường cũng là điều hết sức lo âu...”
(Bài “Tự hào dân tộc, nhân tố đặc biệt quan trọng trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc”, tác giả Trần Bạch Tuyết, báo SGGP, số 6849, ra ngày 4/8/1996, trang 2).
c/- ”... Tương lai của đất nước trước hết phụ thuộc vào trình độ dân trí, vào nền học vấn, vào chất lượng lao động của dân cư chứ không phải vào của cải đang có. Một dân tộc giỏi dù nghèo rồi sẽ giàu và văn minh, một dân tộc dốt nát dù có giàu cũng sẽ thành nghèo và lạc hậu. Việc học hành là việc lớn của tương lai, từng gia đình, từng dòng họ cũng như cả dân tộc. Ngẫm lại ai cũng thấy. Nhưng thường ngày rất dễ quên, vì đó là việc tuy trọng đại nhưng không nóng bỏng. Khi xưa, triều đại nào coi trọng sự học, trọng dụng người tài, cũng điều thịnh trị cả. Thời đại ngày nay với chủ nghĩa xã hội nhất định phải hơn thế”.
(Bài “Một số vấn đề về Giáo dục - Đào tạo”, tác giả Trần Hồng Quân, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, tạp chí Thế Giới Mới, số 192, ra ngày 8/7/1996, trang 7).
Để Kết:
Những thông tin trên đây chỉ là một mảng nhỏ của tổng thể tình hình học hành của con em chúng ta. Thiết tưởng mảng nhỏ này cũng gợi được trong chúng ta nhiều suy nghĩ có trách nhiệm. Đúng là vấn đề không đơn giản, việc giải quyết vấn đề càng không đơn giản.
Tuy gặp khó khăn, nhiều nơi, mục vụ giáo xứ đã có nhiều sáng kiến góp phần đáng khen vào việc giải quyết vấn đề, không phải chỉ bằng những khích lệ đi học, mà còn bằng những việc tích cực khác, như mở phòng đọc sách báo, phòng dạy nhạc, phòng dạy nghề, phòng lớp học tình thương, nâng đỡ các học sinh nghèo, xây dựng lưu xá cho các học sinh từ xa tới, giúp đỡ các thầy cô túng thiếu, quan tâm đến ngày nhà giáo, ngày khai trường, ngày phát phần thưởng, ngày bế giảng, vv... Tuần báo “Công giáo và Dân tộc” thường đăng nhiều tin tức của các giáo xứ về những hoạt động trên.
Việc giáo dục - đào tạo cần nhắm vào việc phát triển con người toàn diện một cách cân đối. Sẽ là một thứ phát triển què quặt, nếu mặt kinh tế, kinh doanh thì tiến, còn mặt văn hoá, đạo đức, nghiên cứu khoa học và bản sắc dân tộc thì lùi.
Rất mong những người làm mục vụ suy nghĩ và góp phần giải quyết vấn đề trong phạm vi trách nhiệm của mình một cách khôn ngoan và đạo đức.
Tưởng cũng nên nhớ rằng: Hiện nay tinh thần liên đới xã hội là một yếu tố quan trọng không được phép tách rời khỏi tinh thần phục vụ Lời Chúa và phục vụ Bí tích, trong việc làm chứng cho đức tin và truyền bá đức tin. Bài nói chuyện với các linh mục tu sĩ, dịp tĩnh tâm tháng 9/1996
(Bài nói chuyện của Đức Cha GB. Bùi Tuần với các Linh mục tu sĩ, Tĩnh Tâm tháng 10/1997)
Một trăm năm trước đây (tháng 9/1897) nữ tu Têrêxa thành Lisieux đã qua đời. Một trăm năm sau Bùi-Tuần 2100
Một trăm năm trước đây (tháng 9/1897) nữ tu Têrêxa thành Lisieux đã qua đời. Một trăm năm sau đó (tháng 9/1997) nữ tu Têrêxa thành Calcutta đã tạ thế.
Chị Têrêxa thành Lisieux chết hồi 24 tuổi. Mẹ Têrêxa thành Calcutta chết, thọ 87 tuổi. Hai nữ tu này khác nhau về lý lịch, về chân dung, về tính tình. Nhưng cả hai giống nhau ở trái tim. Bởi vì hai trái tim ấy đều bốc lửa tình yêu: Rất mến Chúa và rất thương người.
Khi nhìn tình yêu của chị Têrêxa Lisieux, tôi lại nghĩ tới bác ái của Mẹ Têrêxa Calcutta. Khi suy về tính vị tha của lòng nhân ái nơi Mẹ Têrêxa Calcutta, tôi lại liên tưởng đến tính hy sinh của tình yêu nơi chị Têrêxa Lisieux. Như thể hai tình yêu ấy vốn là một về căn bản, chỉ khác nhau về cách diễn tả mà thôi.
Ngắm nhìn hai trái tim ấy, tôi học được nhiều điều. Trong đó, tôi để ý cách riêng đến một yếu tố, mà tôi cho là quan trọng, đó là khả năng lắng nghe.
Lắng nghe Lời Chúa
Theo gương Đức Mẹ Maria, hai Têrêxa đã rất gắn bó với Lời Chúa. Nghe, đọc và suy gẫm Lời Chúa, hai Têrêxa đã gặp được chính Chúa. Một Thiên Chúa hiện hữu tự thuở đời đời đã đi vào lịch sử nhân loại qua biến cố nhập thể. Nơi Đức Kitô là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể, tình yêu Thiên Chúa đã được mặc khải, như một tình yêu tự hạ tại hang đá Bêlem, như một tình yêu tự hoà mình vào dân thường tại Nadarét, như một tình yêu tự chọn con đường thánh giá tại Calvariô. Làm như thế để đến với nhân loại, để gần gũi và ở lại với nhân loại, để cứu độ nhân loại, để làm chứng Thiên Chúa yêu thương nhân loại đến mức nào.
Qua gặp gỡ một Thiên Chúa như vậy, hai Têrêxa đã nhận ra Thiên Chúa là Tình yêu. Nhận ra, rồi xác định và xác tín. Như một niềm tin. Như một cảm nghiệm do đã đón nhận được tình yêu ấy một cách nhưng không. Càng đón nhận, càng không thể không đáp lại. Đáp lại bằng cách mến Chúa như người con bé nhỏ, và đáp lại bằng cách yêu thương con người như Chúa đã yêu thương.
Hai Têrêxa coi sự Thiên Chúa Tình yêu đi vào lịch sử nhân loại để yêu thương gần gũi nhân loại là Tin Mừng trọng đại. Từ đó hai Têrêxa hiểu sống Tin Mừng chính là sống tình yêu. Đó là một giao ước tình yêu của mình với Thiên Chúa và đó cũng là một giao ước tình thương của mình với nhân loại. “Ơn gọi của tôi là tình yêu": Chị Têrêxa Lisieux đã nói như thế. “Tôi muốn là thừa sai bác ái": Mẹ Têrêxa Calcutta đã nói như vậy. Để thực thi tình yêu bác ái, hai nữ tu của chúng ta đã lắng nghe con người, nhất là những người nghèo khổ.
Lắng nghe những con người nghèo khổ
Nghèo khổ ở đây được hiểu về mọi mặt. Hai Têrêxa đã lắng nghe họ bằng tất cả con người của mình, bằng lý trí, nhưng nhất là bằng trái tim. Cũng như xưa Đức Mẹ Maria, chỉ liếc nhìn sơ qua tình hình tiệc cưới Cana, đã nhận ra được rất lẹ và rất đúng nỗi lòng chủ nhà, hai Têrêxa xem ra cũng có một cảm quan tương tự.
Từ những người nghèo khổ có một tiếng gọi âm thầm phát ra. Tiếng gọi của họ và tiếng gọi của Chúa: “Hãy đến mà xem” (Ga 1,39). Hai Têrêxa đã nghe được tiếng gọi, đã đến và đã thấy. Họ có nhiều hoàn cảnh đáng cảm thông hơn là đáng kết án. Họ có nhiều vấn đề rất cần được giúp đỡ. Họ có nhiều tiềm năng tốt cần được đánh thức. Họ có nhiều điều tốt mình cần phải học hỏi. Nhất là họ cũng được Chúa yêu thương, nên mình không thể không kính trọng họ.
Trong cái nhìn tổng quát, hai Têrêxa đã nắm bắt được cái chính yếu. Sự hiểu biết đó không do lý luận, phân tích, nhưng do sự thông minh của trái tim, qua một thứ trực giác không diễn tả được bằng những công thức ngôn từ.
Điều mà hai nữ tu đã nghe được như một nhu cầu sâu xa nhất, đó là tình liên đới. Liên đới đối với con người chuyển sang liên đới đối với Chúa. Và ngược lại. “Sự gì các con làm cho những kẻ bé mọn nhất chính là làm cho Thầy” (Mt 25,40). Sống tình liên đới ấy, tấm lòng hai Têrêxa có những khoảng rộng cho nhiều người, nhất là đặc biệt mở ra cho những kẻ khốn cùng, những kẻ thất vọng, những kẻ bị loại trừ. Giữa những người ấy lại có một chỗ cho một Đấng khác, đó là Đức Kitô. Thành ra khoảng rộng lòng mình coi như không còn chỗ nào cho mình, mà tất cả đều dành cho những người khác và cho Đấng khác.
Khi thực sự mến Đức Kitô và yêu thương con người, nhất là những người nghèo khổ, hai Têrêxa mới nghe được những gì sâu thẳm nhất của các thân phận. Bởi vì tuy có biết mới yêu, nhưng có yêu mới hiểu rõ được. Thực ra, có những tiếng nói lặng câm, mà chỉ tình yêu vị tha sâu thẳm mới nghe thấy rõ. Khi nghe rồi, hai Têrêxa đã dấn thân cho tình yêu, coi đó như chia sẻ Tin Mừng.
Lắng nghe Hội Thánh truyền giáo
Đọc chuyện chị Têrêxa Lisieux và Mẹ Têrêxa Calcutta, người ta thấy hai nữ tu rất thao thức với việc truyền giáo. Để chia sẻ Tin Mừng, hai Têrêxa vẫn coi trọng các chương trình và các dự án có liên hệ đến truyền giáo. Nhưng hai Têrêxa lại rất quan tâm đến chiêm niệm. Cần hoạt động trong chiêm niệm. Chiêm niệm hỗ trợ cho hoạt động. Bởi vì hai Têrêxa đã được các tông đồ Chúa cho biết, truyền giáo không phải chủ yếu là chuyển giao những giáo lý, nhưng là chia sẻ một sự sống thiêng liêng. Mình phải có dồi dào sự sống thiêng liêng đó, để có thể chia sẻ. Mình phải là một dụng cụ ngoan ngoãn của tình yêu Thiên Chúa. Mình phải công bố Tin Mừng Tình yêu bằng chính con người và cuộc sống của mình.
Nhìn cuộc sống hai Têrêxa, người ta thấy hai vị đã rất lắng nghe các môn đệ truyền giáo thuở xưa của Đức Kitô. Các môn đệ ấy đã không là những chiếc búa để đập phá các sai lầm, cũng không là những cái loa để rao bảo cho lớn, nhưng các ngài là những ngọn lửa đốt nóng lòng tin, thắp sáng niềm hy vọng. Theo phong cách đó, Hội Thánh truyền giáo của các ngài đã không muốn như là những toà nhà nhiều tầng, kiên cố, nhưng muốn như là những căn nhà xếp nhẹ nhàng di động. Cũng không muốn như là những hồ ao nuôi cá đẹp, được bao vây bởi những bờ cao ổn định, nhưng muốn như là những dòng sông, nước chảy thật xa, khắp các ngả, nước ngấm thực sâu vào mọi thứ đất. Cũng không muốn như là những hạt ngọc quý cất kỹ trong kho tàng được bảo vệ, nhưng muốn như là những hạt muối, những tấm men, những hạt giống, thích được chôn vùi, thích được hoà mình, thích được len lỏi.
Hai Têrêxa cũng rất biết, trên con đường truyền giáo, các môn đệ Đức Kitô luôn luôn phải quan tâm phục vụ người nghèo, và chính mình phải sống nghèo. Sống tinh thần nghèo cũng là sống như Đức Kitô, để đồng cảm với người nghèo, để làm chứng cho tám mối phúc, và để chứng minh rằng: Việc truyền giáo chủ yếu phải nhờ vào sức mạnh của tình yêu Đức Kitô chịu đóng đinh chứ không nhờ vào tiền bạc, quyền lực. “Không có Thầy, chúng con không làm gì được” (Ga 15,5).
Hai nữ tu của chúng ta, không những đã thương người nghèo, mà còn đã sống tinh thần nghèo. Đó là một nhắc nhở có tính cách tiên tri gởi đến Hội Thánh truyền giáo hôm nay.
Nhờ sống chan chứa tình thương và tinh thần nghèo khó trong sáng, hai Têrêxa đã biến đời mình thành những chiếc dây tình yêu vị tha, có khả năng nối kết lại những cái khác biệt, cho dù những khác biệt đó là những tín ngưỡng khác nhau, những dân tộc khác nhau và những văn hoá khác nhau.
Nếu có một lúc nào đó, hai Têrêxa nhìn thấy đời mình đã có một số thành công như thế, các vị đó đã nghĩ gì?
Lắng nghe lịch sử đời mình.
Hai nữ tu của chúng ta đã luôn khiêm tốn. Chị Têrêxa Lisieux coi mình như đứa nhỏ bé bỏng yếu hèn, luôn cậy nhờ ở ơn Cha. Mẹ Têrêxa Calcutta xưng mình như một chiếc bút chì xấu xí, Chúa dùng để viết. Viết hay là do người viết chứ không do cây viết.
Hai Têrêxa cảm ơn Chúa và cũng nhớ ơn mọi người đã giúp đỡ. Bởi vì sống là đồng hành với những hoàn cảnh nhất định của nơi chốn mình sinh sống. Mình phải nhờ vào đó một cách khiêm tốn. Mình phải rút ra từ đó nhựa sống một cách khôn khéo.
Hai Têrêxa không quan niệm mình được Chúa chọn trong muôn ngàn người, cũng không nghĩ mình được tách rời ra khỏi đám đông và môi trường sống, cũng không hề nghĩ riêng mình được đặt vào một tình trạng thánh thiện. Nhưng được Chúa gọi là được gọi từ những hoàn cảnh cụ thể của xã hội và Hội Thánh và được gọi vào những môi trường cụ thể, để luôn luôn phải trở thành con người mình chưa thành, trong chính môi trường thực tế của mình.
Vì thế, khi đồng hành với thực tế cuộc đời, hai nữ tu của chúng ta đã luôn khiêm tốn bám vào Chúa và căn bản Phúc Âm với lòng trung tín, luôn mở ra về phía thực tại với tinh thần sáng tạo, và luôn sẵn sàng trước những bất ngờ với lòng phó thác.
Trong thinh lặng nội tâm, trong khiêm tốn khó nghèo hồi tâm, trong tỉnh thức cầu nguyện, hai nữ tu nghe được những bước đi của đời mình. Đã có những chập chững, đã có những ngỡ ngàng, đã có những vấp té, đã có những thương tích, nhưng vẫn bước đi với những bước nhỏ về một tương lai có thể không thiếu bất ngờ. Nhưng bước đi trong tay một Tình yêu mà mình tin tưởng. Và bất cứ bước nào ở bất cứ tuổi nào cũng vẫn được coi như những bước khởi đầu, rất trẻ của một tình yêu luôn mới.
***
Với những suy nghĩ trên đây, tôi lắng nghe vang vọng của đời sống hai vị nữ tu Têrêxa khắp nơi trên thế giới. Trong chăm chú, tôi nghe được sức mạnh tinh thần của hai Têrêxa là rất lớn. Điều đó là có thực. Sự thực này cho phép tôi nghĩ rằng: Hai nữ tu khiêm tốn này có sức đổi mới Hội Thánh và xã hội hơn nhiều Đại hội tôn giáo.
Sự thực đó cũng gợi cho tôi nghĩ rằng: Đang khi đề cao lý trí, thiết tưởng nên nhấn mạnh nhiều hơn đến vai trò của trái tim. Đang khi giảng dạy đức tin, thiết tưởng nên tập tành đức ái nhiều hơn và cụ thể hơn. Đang khi lo các chương trình từ thiện, thiết tưởng nên quan tâm nhiều hơn đến việc đào tạo chính mình và nhiều người để biết sống bác ái một cách khiêm tốn, vị tha, hy sinh, nhờ phối hợp chiêm niệm và hoạt động. Đang khi xây dựng nền văn minh của kinh tế và khoa học, thiết tưởng nên chú ý nhiều hơn đến việc phát triển nền văn minh của tình yêu.
Sau cùng, tôi lắng nghe hai Têrêxa. Và trong thầm lặng tôi đón nhận tâm sự này: “Hai Têrêxa bé nhỏ này chỉ là những giọt tình yêu hy sinh bé nhỏ hoà nhập vào tình yêu hy sinh của Đức Kitô chịu nạn chịu chết trên thánh giá. Tất cả sức mạnh là ở đó. Mọi người, dù bé nhỏ đến đâu, cũng làm được như vậy”.
Với tâm sự ấy, tôi lắng nghe lòng tôi, tôi thấy sợ. Bởi vì bé nhỏ là khiêm nhường, là hy sinh, là từ bỏ mình, là nên giống Chúa Giêsu từ Bêlem đến Calvariô. Để bé nhỏ như thế trong mọi sự, nhất là trong bác ái, môn đệ Chúa phải có một sự can đảm phi thường, lâu dài, khắp nơi. Tính tự nhiên không muốn có và không dám có sự can đảm khác thường đó.
Thực vậy, trong nhiều trường hợp, làm chứng cho đức tin thì rất can đảm, làm chứng cho bác ái thì bớt can đảm, làm chứng cho đức khiêm nhường thì hết can đảm. Đáng sợ thực!
Nhưng Chúa Giêsu quả quyết: “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào” (Lc 18,17).
Lạy Chúa, xin thương xót con! Lạy Chúa, xin xót thương Hội Thánh của con!
Bài nói chuyện với các Linh mục tu sĩ, tháng 10/1997