Một giáo huấn của Hội Thánh thường bị hiểu lầm là Luyện Ngục. Luyện ngục không phải là dịp thứ hai cho những linh hồn đã bị luận phạt trong Hỏa Ngục ăn năn trở lại. Nhưng là tình trạng gội rửa và thanh tẩy cho những linh hồn đang đi về Thiên Ðàng. Luyện Ngục cũng không phải là phương thế lập công để được vào Thiên Ðàng, nhưng là một món quà của Thiên Chúa để sửa soạn cho chúng ta được hưởng Thánh Nhan Ngài. Mặc dấu không trực tiếp nói đến tên, Kinh Thánh ám chỉ nó, nhất là bằng chữ lửa thanh luyện. Chữ Luyện Ngục liên quan đến động từ - luyện - có nghĩa là làm cho tinh tuyền (như luyện kim). Theo Giáo Lý Công Giáo: Tất cả những người chết trong ân sủng và tình bằng hữu với Thiên Chúa, nhưng chưa được thanh luyện hoàn hảo, thì đương nhiên là chắc chắn được rỗi; nhưng sau khi chết họ phải được tẩy luyện để đạt được mức thánh thiện cần thiết để vào Thiên Ðàng. Hội Thánh đặt tên Luyện Ngục cho sự thanh tẩy sau cùng này của những người đã được tuyển chọn, nó hoàn toàn khác với sự trừng phạt của những người bị luận phạt. [GLCG 1030-1031]. Chỉ những linh hồn đã được cứu độ - những người chết trong tình bằng hữu với Thiên Chúa - mới có thể đi qua Luyện Ngục mà lên Thiên Ðàng. Ðể hiểu rõ hơn về Luyện Ngục dưới ánh sáng của sự tự hiến và cứu độ của Ðức Kitô, chúng ta trước tiên phải lưu ý đến hậu quả của tội lỗi. Nhờ Phép Rửa và đức tin (Mc 16:16), chúng ta trở nên bạn hữu Thiên Chúa và nhận được ơn thánh hóa - đặc ân sống đời đời. Tất cả có được là nhờ sự cứu chuộc chúng ta của Ðức Kitô. Tiếc thay những tội trọng giết chết sự liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa. Bằng cách cố tình phạm tội trọng, chúng ta chối bỏ Thiên Chúa, và chúng ta mất ơn thánh hóa này (Tim 1:16). Sự hiến thân của Ðức Kitô trên Thánh Giá vẫn còn có thể chuộc lại tình bằng hữu của chúng ta với Thiên Chúa; tuy nhiên, chúng ta phải ăn năn hối cải và tìm đến ơn tha thứ của Thiên Chúa qua Bí Tích Hòa giải (Xưng tội). Nếu chúng ta không ăn năn hối cải và chết trong tình trạng không có ân sủng, thì chúng ta mất sự sống đời đời. Sự mất mát này là bị trầm luân đời đời hay hỏa ngục (Mat 25:46). Hỏa Ngục không phải là sự trừng phạt của một THiên Chúa có tính thù hận, nhưng là hậu quả tự nhiên của việc chối từ Thiên Chúa - là nguồn vui và sự sống. Sự cứu chuộc chúng ta không can thiệp vào ý chí tự do của chúng ta; chúng ta vẫn có thể chối bỏ Chúa qua tội trọng (DT 10:26-27). Không phải tất cả các tội đều là tội trọng (1 Gioan 5:17). Có những tội không đủ nặng để cắt đứt tình bằng hữu với Thiên Chúa, nhưng vẫn nguy hại. Tình trạng bẩn thỉu gây ra bởi tội lỗi cần phải được sửa đổi. Sự sửa đổi này là hình phạt tạm thời (DT 12:5-11). Chúng ta có thể được sửa đổi và tẩy rửa qua việc ăn năn hối cải ở đời này hoặc sau này trong Luyện Ngục - nhờ ơn Cứu Chúa của chúng ta là Ðức Giêsu Kitô. Chúa Giêsu nói về việc sửa đổi này trong Tin Mừng và gián tiếp nói đến Luyện Ngục ở cuối dụ ngôn cùa Người về sự tha thứ: Trong khi giận dữ, chủ trao anh cho các lính canh tù, cho đến khi anh ta trả hết nợ. Ta ở trên trời cũng đối xử với các người như vậy, nếu các người không thực tâm tha thứ cho anh em các người. [Mat 18:34-35]. Ðoạn này không nói gì đến việc Thiên Chúa trừng phạt những người phạm trọng tội, nhưng những người phạm tội thiếu lòng tha thứ cho người khác. Và hình phạt nói ở đây không phải là hình phạt đời đời như trong hỏa ngục (Mc 9:47-48) mà chỉ là hình phạt tạm thời - "cho đến khi trả hết nợ". Luyện Ngục là tình trạng tạm thời dành cho các linh hồn vẫn còn duy trì tình nghĩa với Thiên Chúa, nhưng cần được thanh tẩy cho sạch các hậu quả xấu, các sự bẩn thỉu và dính líu còn lại từ các tội trọng đã được tha và các tội nhẹ. Những linh hồn còn bị dính bợn nhơ này, mặc dầu được rỗi, nhưng không được vào Thiên Ðàng ngay, như Kinh Thánh nói: "Không có gì nhơ bẩn được vào (thiên đàng)..." [KH 21:27]. Các linh hồn này cần được thanh luyện khỏi tất cà mọi "vết nhơ", dầu rất nhỏ trước khi được đối diện với Thiên Chúa (KH 22:3-5). Tất cả các linh hồn nơi Luyện Ngục cuối cùng sẽ được lên Thiên Ðàng. Thánh Phaolô ám chỉ điều này bằng lửa trong Thư gửi Tín Hữu Côrinthô: Nếu ai dùng vàng, bạc, đá quý, gỗ, cỏ, rơm mà xây trên nền đó. Công việc của mỗi người sẽ được lộ ra ánh sáng. Vì Ngày đó sẽ vạch trần công việc ấy, vì nó sẽ tỏ ra bằng lửa, và lửa này sẽ thử xem công trình của mỗi người đã lám ra sao. Nếu công trình của ai đã xây dựng tồn tại trên nền, thì người ấy sẽ được lĩnh thưởng. Còn công trình của ai bị thiêu huỷ, thì người ấy sẽ bị thiệt thòi. Tuy vậy chính người ấy sẽ được cứu, nhưng chỉ như thể qua lửa. [1 Cor 3:12-15]. Công việc chúng ta xây dựng trên Ðức Kitô sẽ bị thử thách. Công trình thấp kém - "gỗ, cỏ, và rơm" - sẽ bị thanh lọc bằng "lửa", trong khi chỉ có "vàng, bạc và đá quý" sẽ còn xót lại để vào Thiên Ðàng. Câu "thì người ấy sẽ bị thiệt thòi" ám chỉ sự khó và hình phạt tạm thời, mặc dầu người đó được cứu chuộc. Thánh Phêrô trong Thư của ngài cũng nhắc nhở chúng ta rằng đức tin chân chính của chúng ta "bị thử bằng lửa" [1 Phr 1:7]. Có những Kitô hữu không công nhận tín điều về Luyện Ngục và chưng ra người trộm lành hối cải trong Tin Mừng: Và anh ta nói, "Thưa ông Giêsu, xin nhớ đến tôi khi ông vào cầm quyền trong vương quốc của ông". Và Chuá Giêsu nói cùng anh, "Thật, Tôi bảo thật với anh anh sẽ ở trong Ðịa Ðàng với Tôi hôm nay" [Lc 23:42-43]. Theo họ, vì Chúa Giêsu hứa với người có tội ăn năn trở lại đặc biệt này được ở "Ðịa Ðàng" với Người ngay hôm đó, nên như vậy thông thường không cần có Luyện Ngục. Lý luận này có vài khiếm khuyết. Trước hết, Ðức Kitô có thể ban cho hối nhân đặc biệt này điều mà Hội Thánh gọi là "Ơn Ðại Xá" - việc tha hết các hình phạt tạm thời gây ra bởi các tội đã được tha. Ðiều thứ hai là Ðức Kitô có thể biết rằng những đau đớn người trộm lành chịu trên thập giá là việc đền tội cá nhân đủ để thanh luyện linh hồn anh. Tuy nhiên, một điểm đáng lưu ý là Chúa Giêsu sau khi chết đã không về Thiên Ðàng ngay. Theo Thư Thánh Phêrô: Vì Ðức Kitô cũng đã chết vì tội chúng ta... chết về thể xác nhưng được sống lại nhờ Thần Khí; Người đã đến và rao giảng cho các linh hồn bị giam cầm, là những linh hồn xưa đã không vâng lời... [1 Phr 3:18-20]. Ngay sau khi chết, Chúa Giêsu "đã đến và rao giảng cho các linh hồn bị giam cầm". Nhà tù này chắc chắn không phải là Thiên Ðàng, cũng không phải là Hỏa Ngục vì các linh hồn trong Hỏa Nhục không có được ích lợi gì nhờ việc Chúa Giêsu giảng cả. Ðó phải là tình trạn g thứ ba. Ðương nhiên là người trộm hối cải đi cùng Chúa Giêsu ngay ngày hôm đó. So sánh với Hỏa Ngục thì Luyện Ngục có thể được diễn tả thật như Ðịa Ðàng. Lại có người cho là không có Luyện Tội vì Máu Ðức Kitô "rửa chúng ta sạch mọi tội" [1 Ga 1:7]. Ðiều này đúng, nhưng việc sự hiến thân chuộc tội cùa Chúa được áp dụng cách khác nhau, như qua Bí Tích Rửa Tội, Hòa Giải, cầu nguyện... Một cách khác là Luyện Ngục. Xà bông và nước có thể đủ để rửa mình tôi; nhưng tôi có thể dúng chúng cách khác nhau: tắm ngồi, kỳ cọ bằng bọt biển, hay xối nước. Hội Thánh khuyến khích chúng ta cầu nguyện cho những người đã qua đời vì có thể họ còn ở trong luyện ngục và cần chúng ta cầu nguyện. Cầu nguyện cho người chết hợp với Kinh Thánh. Theo sách Maccabê trong quy điển Cựu Ước của Công Giáo và Chính Thống, ông Giuđa Maccabê quyên tiền để dâng lễ đền tội cho những người chết ngoài mặt trận: Vì nếu ông không hy vọng rằng những người đã ngã xuống sẽ sống lại, thì thật là dư thừa và ngu xuẩnkhi cầu nguyện cho người chết... Vì vậy nên ông tế lễ đền tội cho những người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi của họ [2 Mac 12:44-46]. Thánh Phaolô cũng dâng một lời cầu nguyện ngắn cho Onesiphorus và gia đình ông: Nguyện xin Chúa thương xót gia đình của Onesiphorus... xin Chúa cho anh ta được tìm thấy lòng thương xót của Chúa trong Ngày ấy... [2 Tim 1:16,18]. Dầu chết hay còn sống, Thánh Phaolô cầu nguyện cùng Thiên Chúa cho ông ta (1 Tim 2:1-5). Trong Kinh Thánh Thánh Phaolô viết về lửa thanh luyện sẽ thanh luyện công trình của chúng ta "trong Ngày đó". Thánh Phêrô nhắc chúng ta rằng đức tin của chúng ta sẽ được thanh luyện và thử bằng lửa. Ở các chỗ khác trong Kinh Thánh, tác động của Chúa Thánh Thần được diễn tả như lửa. "Người sẽ rửa tội anh em bằng Thánh Thần và bắng lửa". [Lc 3:16]. Theo Thánh Gioan Thánh Giá, một nhà thần bí Tây Ban Nha, lửa Luyện Tội là Tình Yêu Thiên Chúa thanh luyện linh hồn chúng ta để sửa soạn cho chúng ta hưởng Thánh Nhan Chúa - là việc kết hợp với Thiên Chúa trên Thiên Ðàng (KH 22:3-5). "Vì quả thật Thiên Chúa của chúng ta là một ngọn lửa thiêu" [DT 12:29]. Phaolô Phạm Xuân Khôi dịch theo bài Purgatory: The Purifying Fire trên website A Catholic Reponse.
Nhân tháng các linh hồn, tôi suy nghĩ: thế nào là cuộc đời thành tựu? Những câu hỏi hệ trọng Nhờ khoa hoc kỹ thuật, con người hiện đại được cung cấp dồi dào những phương tiện tối tân đề làm việc và những tiện nghi đủ loại để thụ hưởng. Dĩ nhiên, chưa phải mọi người hay mọi nhóm người đều đã được như thế, nhưng đó vẫn là điều mà chung chung ai cũng hướng tới và hy vọng sẽ đạt được. Những khám phá kỳ diệu của khoa học kỹ thuật đã thay đổi cuộc sống và cả cách suy nghĩ của con người hiện đại một cách sâu xa. Bây giờ, một cách chung, trong các nước phát triển và cả trong những nước đang phát triển, người ta xa dần với những bận tâm tâm linh, tôn giáo hay những bận tâm về ý nghĩa cao cả của cuộc đời. Cuộc sống thực tế, cuộc sống vật chất hiện có hoặc những gì cuộc sống ấy đang hứa hẹn -một thiên đàng ở trần gian- đã đủ cho họ rồi. Ngoài ra, con người hiện đại có ý thức mãnh liệt về tài năng, về quyền lực của mình. Họ cảm nghĩ rằng mình muốn gì cũng được, làm gì cũng được, -chưa được bây giờ thì sẽ được trong một tương lai gần hay xa. Không ít người tưởng mình là “ông Trời”, không còn ai trên mình nữa, không phải “chịu lụy” ai nữa. Nhưng thực tế cho thấy con người bao giờ cũng chỉ là con người mà thôi. Họ vẫn mong manh trước thiên nhiên; những trận thiên tai như động đất, sóng thần, bão lụt không hề giảm mà trái lại còn xảy ra nhiều hơn, tàn bạo hơn, một phần do chính con người gây nên.Thiên nhiên đặt cho ta những ranh giới phải tôn trọng, nếu không nó sẽ không để cho ta yên ổn, vô sự.Trước những trận lũ lụt hung hãn xảy ra liên tiếp ở miền trung nước ta trong tháng 10 này, báo chí viết rằng thiên nhiên đang trả thù. Một số bệnh tật ngày xưa hoành hành nay đã được khống chế hay tiêu diệt, nhưng rồi lại xuất hiện những thứ bệnh nguy hiểm và nan y hơn. Ngay này, ta có thể đi lại bằng xe máy, xe hơi, tàu lửa, máy bay, nhưng song song với những phương tiện hiện đại ấy số người chết do tai nạn giao thông càng gia tăng… Và cuối cùng, dù văn minh đến dâu, con người vẫn không thắng nổi cái chết bằng sức mạnh của khoa học kỹ thuật. Giàu nghèo sang hèn, trí thức hay bình dân, văn minh hay lạc hậu …, ai ai rồi cũng pải chết. Đứng trước cái chết, mọi người đều bình đẳng. Cho nên thời đại ta cũng như mọi thời đại, con người vẫn không tránh khỏi những câu hỏi: Thế thì sống để làm gì? Cuộc đời có ý nghĩa gì không? Phải sống như thế nào mới nói được là cuộc đời đáng giá, cuộc đời thành tựu? Có cái gì bên kia cái chết không? Sớm muộn, chỉ cần quay về mình và sống có chút chiều sâu thì người ta sẽ nghĩ tới những vấn đề trọng đại này. Câu trả lời của Kitô giáo Tất cả các tôn giáo bằng cách này hay cách khác, đều nhằm trả lời những vấn nạn như thế. Câu trả lời của Kitô giáo có lẽ là rõ ràng nhất, cụ thể nhất. Câu trả lời đó là chính Chúa Giêsu Kitô, Đấng là Thiên Chúa đã làm người chia sẻ kiếp người của chúng ta và đã chịu nạn chịu chết rồi phục sinh để cứu độ chúng ta, đem đến cho ta sự sống trường sinh sung mãn. Bài tường thuật của thánh Gio-an về phép lạ Chúa làm cho anh La-da-rô sống lại mà phụng vụ thường trích đọc trong lễ an táng, là một minh họa tuyệt vời cho giáo lý này. Câu truyện diễn ra theo 5 hồi: - Hồi 1.Khi Chúa Giêsu đến làng Bê-ta-ni-a thì La-da-rô đã chết và được chôn cất bốn ngày rồi. Vừa được tin Chúa đến, cô Mác-ta ra đón Người. Cô nói với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết …” Nhưng bây giờ thì La-da-rô đã chết. Anh phải chết theo lẽ thường tình vì đó là số phận của mọi con người. Số phận mà chính Người cùng chia sẽ. Lát nữa, khi đi ra mộ La-da-rô, thấy cảnh người ta khóc, Người cũng “thổn thức trong lòng và xao xuyến”. - Hồi 2. Nhưng Chúa Giêsu nói với Mác-ta: “Em chị sẽ sống lại!” Một khẳng định mạnh mẽ. - Hồi 3. Lý do tại sao, hay bằng cách nào? Thì đây: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết.Chị có tin thế không?” - Hồi 4. Cô Mác-ta tuyên xưng lòng tin. Đó là điều kiện Chúa đòi hỏi. Cô nói: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian”. - Hồi 5. Phép lạ chứng thực lời Chúa phán là thật. Chúa Giêsu tiến đến ngôi mộ, cầu nguyện rồi kêu lớn tiếng: “ Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ!” Và “người chết liền ra, tay chân còn quấn vải,và mặt còn phủ khăn…” Phép lạ này báo trước sự phục sinh của chính Chúa Kitô trong một thời gian không còn xa. Và theo lời Người dạy, dù ai nấy đều phải chết, nhưng nếu ta tin vào Người, nếu ta đặt trọn niềm trông cậy vào Người, ta cũng sẽ được chia sẽ sự sống vinh quang bất diệt của Người. La-da-rô chỉ được hồi sinh một ít năm rồi lại chết. Nhưng cuộc hồi sinh của anh cũng loan báo sự sống lại của chúng ta trong quyền năng phục sinh của Chúa Kitô trong Nước Trời mai sau. Cuộc sống hiện tại phải hướng về và chuẩn bị cho Ngày đó. Nhưng phải sống cuộc đời hiện tại như thế nào? Người Kitô hữu sống cuộc đời mình ở thế gian này như xây một ngôi nhà. Mỗi người xây một cách, theo mẫu nhà mình muốn. Các vật liệu xây dựng cũng có thể khác nhau,- bằng gỗ, bằng đá, bằng sắt thép, kể cả “vàng, bạc, đá quý”, không loại trừ “cỏ và rơm” (x. 1 Cr 3:12). Nhưng thánh Phao-lô quả quyết, nền móng thì chỉ có một mà thôi, đó là Chúa Giêsu Kitô. Trong ngày phán xét, ngôi nhà mỗi người sẽ được nghiệm thu cũng bởi Chúa Kitô. Tất cả những gì chúng ta xây dựng sẽ được đem ra thử lửa, “công việc ai xây dựng trên nền (là Chúa Kitô), thì người ấy sẽ được thưởng; còn công việc của ai bị thiêu hủy, thì người ấy sẽ phải thiệt” ( 1Cr 3:14-15). Hỏi: có cái gì không thể bị lửa thiêu hủy chăng? Có, đó là bác ái, là những công việc bác ái lớn nhỏ của ta. “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1Cr 13:13), và “đức mến không bao giờ mất được” (1 Cr 13:8), trong lúc tin và cậy sẽ không còn trong nước thiên đàng vì lúc đó nó không cần nữa. Đến ngày phán xét chung, Chúa Giêsu sẽ chỉ hỏi ta về cách ta thực hiện lòng bác ái yêu thương mà thôi (x. Mt 25:31-46). Kết Lòng bác ái, tình yêu dâng hiến và phục vụ là giá trị cao cả nhất trong thang giá trị của Kitô giáo, nó tiêu biểu cho Kitô giáo. Chúa Giêsu đã thể hiện tình yêu ấy tới mức cao cả nhất có thể có. Người ta thường gọi Đức Kitô là con-người-cho-kẻ -khác. Nhưng không được quên, sở dĩ Người làm được như thế là nhờ Người sống trọn tình con thảo với Chúa Cha. Cuộc đời mỗi người chúng ta cũng sẽ được đánh giá chung cuộc theo mẫu mực tình yêu này.
cho các linh hồn trong Luyện Ngục Ð.Ô. Nguyễn Quang Sách Sứ điệp của Đức Gioan Phaolô II gởi các Nữ tu Minim dòng Đức bà Phù hộ VATICAN CITY (Zenit.org) –
Đức Gioan Phaolô II đã viết một sứ điệp để khích lệ sự cầu nguyện cho các linh hồn trong luyện ngục, nhấn mạnh đến nhu cầu riêng biệt các người đã qua đời. Sứ điệp giáo hoàng, gởi cho các Nữ tu Minim dòng Đức Bà Phù hộ, đang họp tổng tu nghị tại Rome, nhấn mạnh tới tầm quan trọng của ơn đoàn sủng hội dòng. Ơn đoàn sủng đó hệ tại nhớ sự hiệp thông sâu xa giữa người sống và kẻ chết. Cách riêng, sứ điệp phổ biến hôm thứ Bảy do Cơ quan báo chí Vatican, nhấn mạnh ""sự phù hộ" các linh hồn trong luyện ngục. " Đức Giáo hoàng nhận xét: "Hình thức bác ái thứ nhất và cao nhất đối với anh em là lòng muốn nồng nhiệt cho phần rỗi đời đời của họ". Ðức Thánh Cha nói: "Tình yêu Kitô hữu không biết biên giới và đi quá mức không gian và thời gian, cho chúng ta khả năng yêu thương những kẻ đã lìa bỏ thế gian này". Sách Giáo lý Giáo hội Công giáo, trong những số 1030 và 1031, nói, một phần: "Những người chết trong ân nghĩa Chúa, nhưng chưa được thanh luyện hoàn toàn, mặc dầu chắc chắn được cứu độ đời đời, còn phải chịu thanh luyện sau khi chết, để đạt được sự thánh thiện cần thiết để vào hưởng phúc Thiên Đàng. Hội thánh gọi việc thanh luyện cuối cùng của những người được chọn là Luyện ngục. " Đức Thánh Cha cũng thúc giục các tu sĩ làm "những sứ giả không biết mõi mệt và vui tươi của hy vọng cho nhân loại thời đại chúng ta, mà rất thường xem ra sống trong đen tối bởi bạo tàn và bất công, nhốt kín trong những chân trời hoàn toàn thế gian. " Các Nữ tu Minim dòng Đức bà Phù hộ, được thành lập bởi Chân phước người Ý Francesco Faa di Bruno (1825-1888), có 210 nữ tu và tập sinh khắp thế giới. Các nữ tu thấy mình có sứ vụ "cầu nguyện" (liên kết với Chúa Kitô); "hành động" (vì người ta, nhất là những kẻ yếu kém, ngheo nàn và bị loại trừ); "chịu đau khổ" (dâng sự sống của mình vì các linh hồn trong luyện ngục)
Trong Tháng 11 , tháng cuối cùng của Năm Phụng Vụ, Giáo Hội muốn nhắc nhở chúng ta nhớ đến những người đã ra đi trước chúng ta. Trong số đó, có những vị đã được thưởng công trên nước trời, đó là các vị “đã nên thánh”, mà chúng ta kính chung vào ngày Lễ CÁC THÁNH (01/11); có những người còn đang được thanh tẩy trong Luyện ngục mà chúng ta cầu nguyện chung cho họ vào ngày Lễ CÁC LINH HỒN (02/11). Tháng 11 cũng thường được gọi là THÁNG CÁC LINH HỒN và là tháng để chúng ta cầu nguyện nhiều cho các linh hồn nơi luyện ngục. Tất nhiên không phải chúng ta chỉ cầu cho các linh hồn quá cố vào tháng 11; nhưng chúng ta vẫn nhớ đến các bậc tổ tiên, ông bà, cha me và bà con thân thuộc, các linh hồn ‘mồ côi’ trong các Thánh Lễ và kinh nguyện hằng ngày ; đặc biệt trong các Ngày Giỗ, ngày các vị đã ra đi khỏi cuộc đời này. Tháng 11, tháng cuối cùng của Niên Lịch Phụng Vụ, cũng là tháng để chúng ta nhớ đến giờ phút chúng ta sẽ ra khỏi cuộc đời này mà không ai trong chúng ta biết được lúc nào và cách nào. Điều đó không làm cho chúng ta bi quan về cuộc sống. Trái lại trong niềm tin vào Chúa Giêsu Phục sinh và lên trời vinh hiển để mở đường ‘ về trời’ cho chúng ta, chúng ta vẫn luôn vui sống cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, chúng ta cần luôn sống sẵn sàng đón chờ Chúa đến với chúng ta bất cứ lúc nào (theo tinh thần bài Dụ ngôn “Mười Trinh Nữ” trong Bài Tin Mừng Chúa Nhật ***II (Năm A). Trong khi chờ đợi, chúng ta cần dùng mọi thời giờ và những gì Chúa ban cho chúng ta, tùy theo hoàn cảnh mỗi người, để ‘sinh lời’ là các ‘việc lành phúc đức’ (Theo tinh thần Dụ ngôn “Những Nén Bạc” trong Bài Tin Mừng Chúa Nhật ***III (năm A). Những điều chúng ta cần phải làm hơn cả, đó là giúp đỡ những người nghèo khó, không cơm ăn áo mặc, và nhũng nạn nhân do thiên tai, chiến tranh, khủng bố, và bịnh nhân…(Đó là tinh thần Dụ Ngôn “Cuộc Phán Xét Cuối Cùng” của Bài Tin Mừng Chúa Nhật cuối cùng trong Năm Phụng vụ, Lễ Chúa Kitô là Vua Vũ Trụ (Năm A): “Khi Ta đói các con đã cho Ta ăn, “ khi Ta khát các con đã cho ta uống, “ khi Ta bịnh hoạn, các con đã đến viếng thăm… “ Vì khi các con làm như thế cho những người nghèo khó nhất của Ta đây, là các con đã làm cho chính Ta đó…( Xin đọc Mát-Thêu 25,31-46). Vậy Chúng ta hãy cầu nguyện chung cho nhau , để bao lâu chúng ta còn sống trong cuộc đời này , chúng ta luôn biết sống “khôn ngoan như Năm Cô Trinh Nữ Khôn Ngoan chờ Chàng Rể đến…”
Trong hai bài trước đây, tôi đã có dịp trình bày về tội simonia, về ơn cứu độ, về việc cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện tội (purgatory) cũng như nói về cái gọi là “Hội Đời Đời” do một số người lập ra với mục đích cầu nguyện cho các linh hồn và “bảo hiểm” cho những người còn sống hoặc đã qua đời. Vì có một số độc giả thắc mắc nên tôi xin được nói thêm về vấn đề này. Truớc hết, tôi phải nhấn mạnh một lần nữa về nguyên tắc căn bản sau đây: Khi bàn cãi hoặc đề cập đến bất cứ vấn đề gì liên quan đến đức tin của người tín hữu Công giáo, nhất là liên quan đến Giáo Hội nói chung thì nhất thiết phải căn cứ vào những tiêu chuẩn căn bản như Thánh Kinh (Sacred Scripture), Thánh Truyền(Sacred Tradition), Giáo Lý (Doctrine), Tín Lý(Dogma), Giáo luật (Canon law), Văn kiện Công Đồng (Conciliar Documents), Tông Thư, Tông Huấn (Encyclical Letters) của các Đức Giáo Hoàng, chứ không thể dựa vào suy luận cá nhân hay căn cứ vào những tài liệu bên ngoài Giáo Hội để tham khảo được. Từ nguyên tắc này, chúng ta hãy tìm hiểu xem Giáo Hội dạy về việc cầu nguyện cho người sống và người chết như thế nào: A- Cầu nguyện cho người đã qua đời: Sách 2 Ma-ca-bê kể lại việc “Ông Giuđa quyên được khoảng hai ngàn quan tiền và gửi về Giêrusalem để xin dâng hy tế tạ tội ; ông làm cử chỉ rất tốt đẹp và cao quí này vì cho rằng ngươì chết sẽ sống lại…Đó là lý do khiến ông xin dâng hy tế đền tội cho những người đã chết để họ được giải thoát khỏi tội lỗi” (x. 2 Macabê 12:43-46) Đây là nguồn gốc trong Kinh Thánh Cựu Ước về việc cầu nguyện cho người quá cố vì có niềm tin vào sự sống lại của kẻ chết. Niềm tin này đã được củng cố vững vàng hơn với biến cố lich sử về cuộc tử nạn và phục sinh của chính Chúa Kitô Giêsu như Kinh Thánh Tân Ước đã tường thuật tỉ mỉ (x. Mt 27-28; Mc 15-15, Lc 23-24; Ga 19-20). Từ đó, việc cầu nguyện cho kẻ chết đã trở thành truyền thống trong Giáo Hội cho đến nay vì niềm tin vào sự sống lại của kẻ chết và vì tín điều các Thánh Thông Công. Sách Giáo Lý mới của Giáo Hội đã khuyến khích việc cầu nguyện cho kẻ chết dựa vào niềm tin nói trên và vào lời dạy của Thánh Gioan Kim Khẩu (John Chrysostom:344-407) sau đây: “Chúng ta hãy cứu giúp và tuởng nhớ đến những ngươì đã qua đời. Nếu con cái Ông Job được thanh luyện nhờ sự hy sinh của Ông, thì tại sao chúng ta lại nghi ngờ rằng những việc hiến dâng của chúng ta sẽ đem lại an ủi cho các linh hồn ấy ? Vậy chúng ta đừng ngần ngại cứu giúp những người đã qua đời và cầu nguyện cho họ” (x. John Chrysostom, Hom. In 1 Cor 41, 5:PG 61, 361; cf. Job, 5) I-Luyện Tội (Purgatory) và hình phạt hữu hạn (temporal punishment) Theo Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo thì tất cả những ai chết trong ơn phúc của Chúa đều được bảo đảm phần rỗi đời đời (eternal salvation). Nhưng nếu chưa được thanh sạch hoàn toàn sau khi chết thì phải được thanh luyện lần cuối cùng trong nơi gọi là Luyện tội (Purgatory) trước khi được vào hưởng niềm vui Thiên Đàng. (x. Sách Giáo Lý Công Giáo số 1030). Đây là lý do vì sao Giáo Hội khuyến khích việc cầu nguyện cho các linh hồn nơi chốn thanh luyện cuối cùng này để giúp họ được mau vào vui hưởng Thánh Nhan Chúa. Cũng theo giáo lý của Giáo Hội thì có hai loại tội cần phân biệt: tội trọng (mortal sin) và tội nhẹ (venialsin) xét theo hậu qủa của tội gây thương tổn nhiều hay ít đến mối thân tình giữa Chúa và hối nhân cũng như giữa hối nhân và Cộng đồng Giáo Hội. Tội trọng phá tan đức ái và cắt đứt tức khắc mọi hiệp thông với Chúa. Vì thế, khi một người mắc tội trọng, nếu chết mà không kịp ăn năn và được tha thứ qua bí tích hoà giải thì sẽ bị án phạt đời đời trong nơi gọi là hoả ngục (hell). Ở nơi này, các linh hồn bị phạt sẽ đời đời lìa xa Thiên Chúa và Cộng đồng các Thánh (x. Sđd, số 1033). Tội nhẹ không phá hủy hoàn toàn đức ái nhưng cũng gây thương tổn phần nào cho sự hiệp thông với Chúa và với Giáo Hội nên cũng cần được tẩy xóa qua bí tích hoà giải. Tộị trọng và tội nhẹ đều có thể được tha thứ qua bí tích hoà giải –trừ tội phạm đến Đức Chúa Thánh Thần, tức là chối bỏ Thiên Chúa hoàn toàn (x. Mt 12,31). Sau khi đã được hoà giải với Chúa và với Giáo Hội, hối nhân phải làm việc “đền tội” (penance) cho mọi tội trọng và nhẹ đã được tha qua bí tích hoà giải. Đây là hình phạt hữu hạn (temporal punishment) mà hối nhân phải thi hành để “sửa lại những xáo trộn mà tội đã gây nên” theo lời dạy của Công Đồng Trentô (x. CĐ Trentô DS 1712). Việc “đền tội” này, nếu không được làm đầy đủ khi còn sống, thì phải được thanh luyện sau cùng trong Luyện Tội sau khi chết. Ở đây các linh hồn có thể trông cậy vào sự cứu giúp của Đức Mẹ, của các Thánh và của các tín hữu còn sống đang hiệp thông trong Giáo Hội lữ hành. Các linh hồn cũng có thể cầu bầu cho các tín hữu còn sống nhưng không thể tự giúp mình được vì thời giờ làm việc lành phúc đức đã hết. Các Thánh trên Thiên Đàng có thể nguyện giúp cầu thay cho các linh hồn trong luyện tội và cho các tín hữu còn sống nhưng không cần ai trợ giúp nữa vì đã được hưởng trọn vẹn Nhan Thánh Chúa rồi. Đây là tất cả ý nghĩa về Tín điều các Thánh thông công (communion of Saints) trong Giáo Hội Công Giáo.
II- Các tín hữu còn sống có thể giúp gì cho các linh hồn nơi Luyện tội? Như đã giải thích ở trên, luyện tội là nơi thanh luyện cuối cùng cho những linh hồn đã chết đi trong ơn nghiã Chúa nhưng chưa đuợc thánh thiện đủ để được vào Thiên Đàng hưởng Nhan Thánh Chúa cùng các Thánh. Họ phải lưu lại nơi đây trong một thơì gian để được thanh luyện theo lượng từ bi và công bằng của Chúa đòi hỏi. Nhưng Luyện tội không phải là chốn các linh hồn phải xa Chúa đời đời như những linh hồn ở nơi gọi là hoả ngục. Vì thế không có vấn đề cầu nguyện đời đời cho các linh hồn nơi luyện tội vì họ không đời đời ở đó. Các tín hữu còn sống trên trần gian có thể giúp đỡ các linh hồn nơi luyện tội bằng những việc lành phúc đức như ăn chay, cầu nguyện, làm việc bác ái và nhất là xin dâng Thánh Lễ cầu cho họ. Sự giúp đỡ thiêng liêng này rất hữu ích nhưng không phải là yếu tố quyết định phần cứu rỗi cho một linh hồn nào. Yếu tố quyết định là chính tình thương của Chúa và công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô cộng với phần đóng góp của cá nhân khi còn sống trên trần thế này. Khi còn sống, nếu một người đã tư ý chọn lựa xa cách Thiên Chúa, khước từ tình thương của Người để qui hướng đời mình hoàn toàn về những mục tiêu trần thế cho đến giờ chết thì chắc chắn Chúa không thể cứu được người đó vì họ đã tự ý chọn lựa từ chối Người trong suốt cuộc đời trên trần thế này rồi. Chúa không ngăn cản sự chọn lựa này vì Ngài tôn trọng ý chí tự do (free will) của con người. Trong trường hợp này mọi việc cứu giúp của chúng ta như cầu nguyện, xin Lễ v.v. sẽ là vô ích vì người ta đã chọn lựa khước từ Chúa và ơn cứu độ của Người khi còn sống rồi Tuy nhiên đây chỉ là nguyên tắc thần học phải suy luận và tin mà thôi. Trong thực hành, chúng ta không thể biết được ai đã thực sự rơi vào trường hợp này để khỏi phải cầu nguyện cho họ nữa. Chúng ta cũng không được phép phán đoán ai sẽ lên Thiên Đàng, ai phải xuống hoả ngục dù biết họ sống ra sao trên trần gian này. Vì thế, chúng ta cứ vì bác ái mà cầu cho mọi người đã qua đời ngay cả cho những người đã tự tử hay công khai sống “bê bối” trước khi chết. Chỉ có Chúa mới biết chính xác được lòng người và phán đoán công minh về phần rỗi của mỗi cá nhân. Bao lâu còn sống thì ta cứ cầu nguyện cho kẻ sống và kẻ chết, không giới hạn thời gian, nhưng không thể nói cầu “đời đời” được vì chính mình cũng không sống vĩnh viễn ở đời này thì làm sao mà cầu “đời đời”cho ai được?
B- Vấn đề xin “Lễ đời đời” và mua “Hậu” cho người còn sống hay đã qua đời Tôi phải đặc biệt nói thêm về vấn đề này vì thực chất sai trái giáo lý trầm trọng của những việc làm này đã và đang còn diễn ra ở một số nơi trong và ngoài Việt Nam. Như đã nói ở trên, việc cầu nguyện cho các người đã qua đời chỉ hữu ích cho các linh hồn thánh (holy souls) trong nơi luyện tội mà thôi, chứ tuyệt đối không ích gì cho những ai đã tự ý chọn lựa xa lìa Thiên Chúa và đang bị phạt ở nơi gọi là hoả ngục. Lý do: chỉ có sự hiệp thông giữa các Thánh trên Trời, các linh hồn nơi luyện tội và các tín hữu còn sống trên trần gian mà thôi, chứ không có sự hiệp thông nào vơí các linh hồn nơi hoả ngục. Vì thế, không có giáo lý nào của Giáo Hội dạy hay khuyến khích việc cầu nguyện cho các linh hồn trong hoả ngục cả vì họ đã lìa xa Chúa đời đời rồi. (x. Sđd. Số 1033-1036) Vậy xin Lễ đời đời để cầu cho ai ? Rõ ràng đây là một ý niệm mơ hồ không có căn bản giáo lý, tín lý nào vì như đã giải thích ở trên: các linh hồn trong luyện tôi không cần sự giúp đỡ “đời đời”, các Thánh trên Thiên Đàng không cần ai trợ giúp nữa, còn những linh hồn trong hoả ngục thì không thể giúp được vì không còn sự hiệp thông nào với nơi này. Hơn thế nữa, làm sao người nhận tiền xin Lễ đời đời có thể thực hành được điều này khi mà chính người đó hay Tu Hội, Cộng Đoàn nào làm việc này cũng không tồn tại “đời đời” trên trần thế này thì làm sao có thể cầu nguyện hay dâng lễ đời đời cho ai để hưởng số tiền to bây giờ của những người xin vì không am hiểu giáo lý? Việc “mua, bán hậu” lại càng vô lý và sai trái giáo lý hơn nữa. Trước hết là không hề có giaó lý nào cho phép làm việc này. Sau nữa, chủ đích của việc làm này hoàn toàn sai trái về mặt thần học, về ơn cứu độ vì lý do sau đây: Nói đến sống đời đời là nói đến hy vọng được hưởng ơn cứu độ của Chúa nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô. Mà muốn hưởng ơn này thì nhất thiết phải “hoán cải và tin vào Tin Mừng” như Chúa Giêsu đã đòi hỏi (x. Mc 1:15). Hoán cải hay sám hối để chừa bỏ tội lỗi và tin vào Tin Mừng có nghĩa là thực sự mến Chúa và yêu người. Đây chính là phần đóng góp cần thiết của mỗi cá nhân vào công cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô để được hưởng ơn cứu độ của Người. Không ai có thể làm thay người khác trong việc quá hệ trọng này cũng như không thể dùng tiền bạc để đút lót cho ai lo hộ mình việc tối quan trọng này. Như vậy, “mua hậu” để làm gì ? có phải là bỏ nhiều tiền ra bây giờ để mua “bảo hiểm đời sau” cho cả người sống và người chết của một vài nơi đã và đang rao bán dịch vụ mại thánh (simony) này để lừa dối những người không am hiểu giaó lý về ơn cứu độ không ? Chúng ta phải xác tín rằng việc cứu rỗi không bao giờ có thể đổi chác hay mua được bằng tiền bạc hoặc của cải vật chất dù trị giá có thể cao đến đâu. Nếu sống mà không quyết tâm tìm Chúa và đi theo đường lối của Người thì có bỏ ra hàng trăm triệu đôla để mua hàng ngàn “cái hậu” cũng vô ích mà thôi vì tuyệt đối những thứ này không có chút giá trị cứu rỗi nào cho ai hết. Tôi quả quyết như vậy và thách đố ai trưng ra được căn bản thần học, giáo lý, Kinh Thánh nào khuyến khích hay cho phép làm việc này trong Giáo Hội. Là tín hữu, chúng ta chỉ được kêu gọi sống đức tin, đức cậy, và đức mến cách thích đáng nghiã là thực tâm tin, yêu Chúa và yêu mến tha nhân như Chúa đòi hỏi để được hưởng ơn cứu độ. Và đây mới thực sự là thứ “bảo hiểm” có giá trị nhất, hơn bất cứ loại “hậu hay bảo hiểm” nào khác mà một số người không am hiểu giáo lý đã và đang làm để trục lợi về tiền bạc và lừa dối người khác qua dịch vụ “buôn thần bán thánh” này trong cộng đồng Công giáo Việt Nam ở trong nước cũng như ở Mỹ này. Tóm lại, không có “cái hậu” nào có giá trị cứu rỗi, bảo đảm đời sau hơn chính nỗ lực của cá nhân cộng tác với ơn Chúa ngay trong cuộc sống này cho đến ngày giờ sau hết để được hưởng ơn cứu độ như giáo lý Công Giáo dạy. Vậy phải dứt khoát loại trừ những việc sai trái về cái gọi là “Lễ đời đời” và mua bán “hậu” đời sau nếu muốn thực hành đức tin cách chính đáng trong Giáo Hội. Đó là tất cả những điều tôi cần nói thêm về vấn đề cầu nguyện cho các linh hồn, về điều kiện để được cứu rỗi và về những sai trái quanh vấn đề này.
Qua sự cầu nguyện, Chúa Cha đã kêu gọi chúng ta hợp tác với các ý định của Người. Người cho phép chúng ta đóng góp vào những ân ban và những trợ giúp Người dành cho nhân loại. Thật vậy, qua sự cầu nguyện chúng ta có thể xin được cho tất cả những kẻ thân quen và thương yêu những của cải thiêng liêng và vật chất. Chúng ta biết rằng, một lời cầu nguyện, dù thế nào đi nữa, cũng không bao giờ mất hiệu nghiệm, và kẻ nào chúng ta cầu nguyện cho, nhất thiết đều nhận được những ơn lành và những lợi ích qua những lời cầu xin chúng ta gởi lên Trời. Quyền năng Thiên Chúa, nếu không ban cho như mình xin, thì cũng ban cái gì đó tốt hơn cho người liên quan, và một cái gì đó thực sự đáp ứng những ước muốn thầm kín của người cầu xin. Không có lời kinh nào mà không được nhậm lời: đó là một sự thật cho phép chúng ta hiểu giá trị mà Chúa Cha gán cho những điều ước mong mà chúng ta bày tỏ với Người. Ðối với những người đã qua đời, vai trò của sự cầu nguyện cũng đáng ngạc nhiên lắm, và nó biểu lộ tầm quan trọng của sự hợp tác chúng ta với quyền năng của Thiên Chúa. Chúa Cha muốn ban hạnh phúc của Người cho con cái Người đã chết bình an trong tình bằng hữu với Người. Nhưng, một số người không thể vào ngay cõi phúc thiên đàng, do những thiếu sót chuẩn bị cá nhân lúc họ bước vào cõi bên kia. Họ phải trải qua một cuộc tinh luyện; chúng ta biết cuộc tinh luyện này rất đau khổ, nhưng chúng ta không thể diễn tả nó được. Ðiều huyền diệu của ý định Thiên Chúa, là qua những lời kinh và những lễ vật của chúng ta, chúng ta có khả năng xin cho họ được giảm bớt đau khổ và rút ngắn thời gian đau khổ thử thách. Cho nên, vì lòng nhân lành của người Cha luôn sẵn sàng chấp nhận lời cầu khẩn chúng ta, chúng ta có thể làm cho người đã qua đời tiến nhanh đến thời điểm họ được hưởng hạnh phúc cuối cùng. Mặc dù chỉ có quyền tối cao của Chúa Cha quản trị những số phận con người bên kia cũng như trên mặt đất, nhưng chúng ta có quyền can thiệp hữu hiệu giúp những người chúng ta thương yêu và có quyền mở cửa nơi cư trú thiên đàng cho họ. Như vậy, người ta hiểu được rằng: Giáo Hội cử hành ngày Các Linh Hồn bằng một cố gắng mãnh liệt hơn về sự cầu nguyện. Tập quán trang hoàng các bông hoa trên ngôi mộ là một biểu thị rất đẹp của những mối thân tình vẫn tiếp tục tồn tại với người qua đời. Nó chứng tỏ rằng tình yêu đối với người thân tiếp tục sống sau sự chia ly do cái chết. Nhưng quan trọng hơn, đó là dấu chứng tình yêu qua sự cầu nguyện. Sự cầu nguyện, thật vậy, không những là một sự tỏ bày lòng kính trọng với những người chúng ta đã yêu thương và còn tiếp tục yêu thương, mà còn nhắm xin Trời cải thiện số phận những kẻ qua đời: nhờ sự cầu nguyện, chúng ta mang đến sự trợ giúp hữu hiệu nhất, cho những kẻ đau khổ đang khao khát hạnh phúc chiếm hữu Thiên Chúa. Chỉ cần chúng ta tự hỏi các linh hồn mong muốn chúng ta làm điều gì cho họ, là chúng ta hiểu được tầm quan trọng của sự cầu nguyện. Chắc chắn chúng ta không biết được có phải những người chúng ta yêu thương còn ở trong thời kỳ đau khổ trước khi vào thiên đàng? Chúng ta không có chỉ dẫn nào về vấn đề này, và thời điểm vào thiên đàng lại nằm trong bí mật của những quyết định của Thiên Chúa. Nhưng những lời kinh chúng ta dâng cầu cho các kẻ qua đời, không bao giờ là vô ích; nếu những lời kinh đó không còn ích lợi gì cho những kẻ chúng ta cầu xin cho, vì họ đã vào cửa hạnh phúc, thì những lời kinh đó lại sinh ích lợi cho những kẻ khác, những kẻ cần đến sự can thiệp giúp này, để đạt tới cùng đích số phận của mình. Vả lại, đức bác ái nhiều khi thúc giục những người Kitô hữu phải cầu nguyện cho các linh hồn ở thế giới bên kia đang bị đau khổ tột cùng hoặc bị mọi người lãng quên. Chúng ta cảm tạ Chúa Cha cho phép chúng ta giúp đỡ cách hiệu nghiệm như vậy, trong mầu nhiệm của thế giới bên kia, những người thương yêu đã từ biệt chúng ta.
Theo niềm tin và cũng là thói quen trong Giáo hội, người tín hữu Công giáo chúng ta thường tôn kính các Vị đã được Giáo hội tuyên phong là Thánh như Thánh Phero, Thánh Giuse, Thánh Antôn, Thánh Vicentê, Thánh Terexa, các Thánh Tử Ðạo Việtnam... Và chúng ta cũng thường hay chạy đến cầu nguyện trước phần mộ, trước ảnh tượng của họ để xin các ngài cầu thay nguyện giúp trước tòa Chúa, cho những ước mong khấn xin của mình. Ðây là việc phải đạo và chính đáng. Hằng năm, vào tháng Mười Một, người Công giáo chúng ta dành riêng tháng này tưởng nhớ đến những người đã qua đời. Và nếu hoàn cảnh có thể, đi thăm viếng phần mộ của Ông Bà, Cha Mẹ đã qua đời. Ðây là lòng đạo đức hiếu thảo của con người.
1. Gương mẫu thánh đức trong đời sống Hai việc làm đạo đức sống đức tin tình người này rất tốt đẹp luôn được duy trì từ ngàn xưa nay trong Giáo Hội Công giáo. Nghĩa cử tưởng nhớ đi thăm viếng phần mộ Ông Bà, Cha Mẹ đã qua đời mang mầu sắc âm vang của một tấm lòng yêu mến. Vâng có pha chút tâm tình hãnh diện cùng buồn thương nhớ tiếc hiếu lễ nhiều hơn. Ðang khi đến với các Vị được tuyên phong lên hàng Thần Thánh, thấm nhuộm mầu sắc tôn kính. Vâng với lòng tin tưởng cầu xin khấn nguyện, và đôi khi còn có chút kính sợ nhiều hơn. Nhưng xét cho cùng, theo niềm tin của tôi, ông bà cha mẹ đã qua đời của chúng ta, dù chưa hay không được Giáo Hội biết đến tuyên phong công nhận là Vị Thánh tôn kính trên bàn thờ, các ngài cũng là Thánh. Tạo sao có thể nói nghĩ được như vậy? Trong lịch sử Giáo Hội, có những vị Thánh do lòng sùng kính của người tín hữu được tung hô công nhận là Thánh như các Thánh Tông đồ, Thánh Phaolô, Thánh Gioan tẩy gỉa, Thánh Stephano, Thánh Giuse...Người tín hữu biết được nơi đời sống của những vị này có nhiều gương mẫu thánh đức cho việc sống đức tin vào Chúa, họ tôn kính các ngài là thánh. Và dần dần trở thành nếp sống đạo đức tốt lành ăn rễ sâu vào đời sống trong Giáo hội. Cũng trong dòng lịch sử Giáo hội, trước khi một vị nào được công nhận tuyên dương là Thánh tôn kính trên bàn thờ, có tên trong lịch phụng vụ Giáo hội, Vị đó phải được nhìn nhận là có đời sống anh hùng làm nhân chứng cho tình yêu Chúa giữa con người khi còn sống, cũng như khi đã qua đời làm phép lạ chứng minh được. Như Mẹ Á Thánh Terexa Calcutta, như Á Thánh Giáo Hoàng Gioan 23., như Ðức Cố Giáo Hòang Gioan Phaolô đệ nhị đang được mở vụ án phong Á Thánh, các Vị Thánh Tử đạo... Ông Bà Cha Mẹ chúng ta, đời sống của họ không được mọi người biết đến, ngoại trừ trong vòng gia đình con cháu. Nhưng các ngài khi còn sống trên trần gian cũng đã trải qua những giai đoạn sống là những nhân chứng đức tin vào Chúa giữa con người. Phải, có khi rất can đảm anh hùng nữa. Các Ngài không chỉ giữ sống đức tin vào Chúa trong và cho đời mình, mà còn là những vị truyền bá đức tin vào Chúa tiếp cho con cháu trong gia đình. Như thế, trong giới hạn suy nghĩ của người tín hữu, họ cũng xứng đáng là Thánh trước mặt Chúa, cùng nêu gương thánh đức cho con cháu rồi. Lẽ dĩ nhiên, đời sống của mỗi người lúc trên trần gian, và sau khi đã qua đời, chỉ một mình Thiên Chúa, Ðấng là cội nguồn đời sống, biết rõ và luận xét công minh thôi. Là con người, là con cháu, chúng ta giữ tấm lòng hiếu thảo, kính trọng cha mẹ, như điều răn Chúa truyền bảo: Con phải thảo kính cha mẹ con!
2. Cha mẹ, người cộng tác trong công trình sáng tạo Ngay từ khi tạo dựng công trình trong đất, Thiên Chúa đã dựng nên có người Nam và Nữ. Rồi Ngài truyền cho họ sinh sôi cho đầy mặt đất (St 1, 26-30).Ngài muốn công trình sáng tạo được tiếp tục, bằng cách Ngài tạo ban cho khả năng truyền sinh giống nòi nơi con người và cả nơi cây cỏ, nơi thú vật muông thú nữa. Ngài muốn con người cùng cộng tác vào việc xây dựng công trình Ngài đã khởi đầu. Và đó là đời sống cùng là hạnh phúc cho con người. Nếu chỉ nhìn theo khía cạnh vật thể sinh lý, hai yếu tố âm dương, nam nữ phối hợp tạo nên sự sống mới. Nhưng đâu phải chỉ có như thế. Ðức tin nói cho ta hay: đời sống cha mẹ chúng ta bắt nguồn từ Ðấng tạo dựng. Ngài ban cho họ sự sống cùng tình yêu. Sự sống cùng tình yêu của các ngài là qùa tặng phản ảnh sự sống tình yêu sáng tạo của Thiên Chúa. Nên sự sống và tình yêu các Ngài là thánh đức. Ngay từ khi là em bé chào đời, rồi trong suốt đời sống, cha mẹ chúng ta đã thương yêu bảo vệ con mình, nói dạy bảo cho chúng ta biết về Thần Thiêng thánh đức, về Thiên Chúa, về bác ái tình yêu. Lòng âu yếm lo lắng cho con mình không chỉ dừng lại nơi nhu cầu quần áo đầm ấm, thức ăn sữa bột, cơm canh no đủ. Nhưng còn thể hiện qua lời khuyên bảo dậy dỗ, trong lời cầu xin khấn khứa, nhất là những khi gia đình, con cái gặp khó khăn hoạn nạn. Cha mẹ làm tất cả những gì tốt đẹp nhất cho con cái mình. Lòng yêu thương đó là tình yêu thánh đức mà các ngài đã tiếp nhận từ Trời cao. Con cái học được nơi cha mẹ mình cách sống thế nào lòng đạo đức tình yêu giữa con người với nhau và cách sống đức tin với Thiên Chúa. Các ngài dạy con cái mình lối sống thánh thiện tốt lành với mọi người ngay trong lòng cuộc sống. Ngay từ khi còn thơ bé cha mẹ đã cầm tay con mình dậy cách làm dấu Thánh gía, dậy đọc kinh Lạy Cha, kinh Kính mừng, dậy nói lời cầu nguyện cám ơn Chúa, xin Ngài ban ơn che chở phù giúp được khoẻ mạnh, học hành tấn tới. Cũng nhờ cha mẹ mà chúng ta biết đường đi tới thánh đường nhận lãnh các Bí tích của Chúa. Do nhờ các ngài chỉ dẫn mà chúng ta khám phá nhận ra gía trị đời sống, cách ăn ở sao cho vệ sinh sạch sẽ khỏe mạnh. Và do thúc đẩy khuyến khích của các ngài mà chúng ta dần sống làm quen với không khí tình nghĩa con người từ trong gia đình ra đến ngoài xã hội. Các ngài là thầy dậy dẫn dắt chúng ta tới trường học, khi ở nhà thúc dục dậy học bài, làm bài, dậy biết sống giữ lễ độ. Từ những căn bản đó, chúng ta phát triển lớn lên thành người đi vào đời. Chưa hết, cha mẹ là người gợi ý khuyến khích giúp con cái đi vào đường đời sống riêng hoặc lập mái ấm gia đình, hoặc chọn nếp sống dấn thân đời tu trì cho việc truyền giáo trong Giáo hội. Cha mẹ chúng ta tham gia vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa không duy chỉ trong việc truyền sinh, nhưng còn cả việc giáo dục uốn nắn tâm hồn thân xác cùng niềm tin đời con cái mình theo ý Chúa muốn, xây dựng gia đình cùng xã hội. Chính công việc nặng nề, đòi hỏi nhiều hy sinh kiên nhẫn này góp phần tô điểm làm cho khu vườn sáng tạo của Thiên Chúa được vun trồng chăm sóc, sinh nhiều hoa trái tươi tốt. Xưa nay và ở khắp nơi, có nhiều cha mẹ, thường cả hai ngưòi hay có trường hợp không may mắn, một mình người mẹ, phải sống suốt cuộc đời hy sinh làm việc cần cù vất vả, tiết kiệm từng đồng xu cắc bạc, để nuôi sống con cái và lo cho họ ăn học nên người. Các ngài đã sống và đã làm công việc thánh thiện tốt lành cho con cái mình. Ðời sống các ngài, như thế được Chúa chúc lành thánh hóa.
3. Họ là thánh, vì tin vào Chúa Trong nghi lễ an táng người qúa cố, Giáo hội tiễn đưa người qúa cố trở về lòng đất mẹ: „ Trong làn nước và trong Chúa Thánh Thần con đã được rửa tội. Thiên Chúa hoàn tất nơi con những gì Ngài đã bắt đầu ngày con nhận phép Bí tích Rửa tội. “ ; và „ Thân xác con là đền thờ Chúa Thánh Thần. Thiên Chúa ban tặng con niềm vui vĩnh cửu .“ ( Bản nghi lễ bằng tiếng Ðức) Những lời đó, không phải chỉ là lời an ủi cho người còn sống trong lúc đau buồn tang tóc. Nhưng những tâm tình thấm nhuộm chan chứa lòng tin tưởng đó là đời sống của người qúa cố, cha mẹ chúng ta. Họ đã tin vào Chúa là nguồn đời sống. Họ đã tin vào Chúa là Ðấng sinh thành đã trao ban cho họ, cùng cho được cộng tác vào việc sáng tạo truyền bá đức tin tình yêu Chúa. Họ tin được Chúa cứu độ thưởng công cho về sống bên Chúa. Khi xưa, lúc còn đang sống trên trần gian, nếu chúng ta nói với cha mẹ mình:“ Thầy mẹ, hay thầy bu là thánh của chúng con!“. Chắc chắn các ngài sẽ nghiêm nghị mắng chúng ta: „Bộ con điên rồi hả. Quân kiêu ngạo phạm sự thánh! Chúng ta tất cả là tạo vật tội lỗi phàm hèn cùng là không trước mặt Chúa thôi“ ... Nhưng giờ đây họ đã qua đời rồi. Tưởng nhớ đến họ, nhớ lại những công lao ân đức thánh thiện tốt lành họ đã sống và đã làm cho gia đình con cái. Chúng ta với niềm hãnh diện cám ơn Thiên Chúa đã ban cho đời mình cha mẹ có đời sống tràn đầy niềm tin tưởng thánh đức, chan chứa lòng hy sinh nhẫn nhục. Nhờ các ngài mà chúng ta biết thế nào là sự thánh thiện tốt lành Các ngài không là những vị được Giáo hội tuyên dương phong Thánh tôn kính trên bàn thờ nơi công cộng, có tên tuổi trong lịch phụng vụ. Nhưng trên bàn thờ tâm hồn của con cái, các ngài là những vị Thánh bầu cử cho ta bên ngai Thiên Chúa. Họ là những vị Thánh đầy lòng tin tưởng và hy vọng vào Chúa trong đời sống chúng ta khi xưa và lúc này.
Đối với niềm tin vào Thiên Đàng—Luyện Ngục và Hỏa Ngục, người ta thường có ba thái độ: Thứ nhất là thái độ cứng lòng tin: Chẳng có Thiên Đàng, cũng chẳng có Luyện Ngục hay Hỏa Ngục như Giáo Hội Công Giáo dạy! Có chăng là có Thiên Đàng nơi trần thế này mà thôi! Chết là hết, là kết thúc, xuôi tay nhắm mắt xong là hết đau khổ, hết lo lắng và hết … nợ đời! Chính vì không tin vào thực tại của Thiên Đàng—Luyện Ngục và Hỏa Ngục ở đời sau, cho nên họ như những con thiêu thân chỉ biết lao đầu vào ăn chơi, hưởng thụ, trác táng, hút sách, phạm pháp, làm những việc vô luân thường đạo lý… Và cuối cùng khi chán ngán cuộc đời này, khi họ chán sống rồi thì … tự tử. Chấm hết! Thứ hai là thái độ tin vào Chúa nhưng tin một cách lệch lạc: Tin vào Thiên Chúa và chỉ tin có Thiên Đàng mà thôi! Luyện Ngục và Hỏa Ngục không thể có được bởi vì Thiên Chúa là Tình Yêu (1 Ga 4:16), Ngài không bao giờ dựng nên những thứ khủng khiếp ấy để trừng phạt hay hành hạ con cái của Ngài. Luyện Ngục và Hoả Ngục là những thứ mà Giáo Hội dựng nên để hù dọa người ta mà thôi! Vì không tin có Luyện Ngục và Hoả Ngục cho nên họ chẳng quan tâm gì đến việc đọc kinh xin lễ, và làm việc hy sinh, hãm mình … để cầu nguyện cho những người đã qua đời. “Tất cả những ai tin vào danh Đức Giê-su và chịu phép Rửa Tội thì chắc chắn được cứu rỗi, vậy cầu nguyện, đọc kinh, tham dự Thánh Lễ, hy sinh cho người quá cố để làm gì? Vô ích! Tốn thời giờ” Họ dùng Thánh Kinh để lý luận như vậy! Thứ ba là thái độ tin nhưng lờ mờ: Những người thuộc nhóm này thì tin vào những lời giáo huấn của Giáo Hội về sự sống đời sau, tin chắc chắn có Thiên Đàng—Luyện Ngục và Hỏa Ngục, nhưng chẳng bao giờ họ hiểu rõ và hiểu đúng về thực trạng của Thiên Đàng—Luyện Ngục và Hỏa Ngục cả. Họ cũng chẳng hiểu Giáo Hội Công Giáo gồm có BA THÀNH PHẦN và sự liên đới chặt chẽ, và mối liên quan mật thiết giữa ba thành phần này trong Giáo Hội. Còn bạn? Bạn thuộc nhóm nào vậy? Tôi hy vọng là bạn không thuộc vào nhóm thứ nhất và thứ hai! Nếu bạn thuộc vào một trong hai nhóm này thì… Amen! Chỉ có Chúa Thánh Thần mới giúp bạn được thôi! Còn nếu bạn thuộc vào nhóm thứ ba thì trong ngày lễ Các Thánh và lễ Các Linh Hồn hôm nay, mời bạn hãy cùng với tôi học hỏi và tìm hiểu sâu hơn về thực trạng của Thiên Đàng—Luyện Ngục và Hỏa Ngục, về BA THÀNH PHẦN của Giáo Hội và sự liên đới chặt chẽ, và mối liên quan mật thiết giữa ba thành phần này. Rất nhiều người, trong đó có tôi, và không chừng có cả bạn nữa, đã từng nghĩ hay vẫn còn đang nghĩ Thiên Đàng—Luyện Ngục và Hỏa Ngục là những nơi chốn (places): Thiên Đàng là một nơi trên trời cao, ở đó không có đau khổ, không có nước mắt mà chỉ có vui vẻ, hạnh phúc, hoan lạc, bình an và yêu thương. Ở trên Thiên Đàng các Thánh và các Thiên Thần suốt ngày suốt đêm chỉ ca hát, tán tụng và ngợi khen Thiên Chúa… Luyện Ngục là một trại chuyển tiếp, một nơi tạm giam, nơi đây người ta phải chịu nóng nảy, chịu đau khổ, có cả cực hình nữa để chờ hễ mãn hạn thì được chuyển lên Thiên Đàng. Hỏa Ngục là một nơi sâu thẳm trong lòng đất, ở đó là nơi giam giữ đời đời những kẻ ác, những người không có passport vào Thiên Đàng hay Luyện Ngục. Nơi đây xăng dầu vừa nhiều, vừa rẻ, cho nên Sa-Tan và ma quỷ tha hồ dùng để thiêu đốt và trừng phạt những thường trú nhân ở trong vương quốc của chúng. Nếu bạn đã từng nghĩ như tôi hoặc vẫn còn đang nghĩ Thiên Đàng—Luyện Ngục và Hỏa Ngục là những nơi chốn thì sai rồi! Bạn cứ mở cuốn Toát Yếu Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo do Đức Giáo Hoàng Benedictô đương kim soạn thảo ra mà xem thì sẽ thấy quan niệm về NƠI CHỐN của Thiên Đàng—Luyện Ngục và Hỏa Ngục như là những NƠI CHỐN là sai bét tè le! Thiên đàng là tình trạng hạnh phúc tối thượng và vĩnh viễn. Ai chết trong ân sủng của Thiên Chúa và ai không cần bất cứ sự thanh luyện cuối cùng nào, sẽ được qui tụ quanh Chúa Giêsu và Đức Maria, các thiên thần và các thánh … được chiêm ngắm Thiên Chúa “mặt giáp mặt” ( 1 Cr 13,12) … sống trong sự hiệp thông tình yêu với Chúa Ba Ngôi và chuyển cầu cho chúng ta (Toát Yếu Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo # 209). Luyện ngục là tình trạng của những người chết trong tình thân với Thiên Chúa, nhưng, dù đã được đảm bảo ơn cứu độ vĩnh cửu, họ còn cần thanh luyện trước khi được hưởng hạnh phúc thiên đàng (Toát Yếu Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo # 210). Hoả ngục là [tình trạng] xa cách đời đời khỏi Thiên Chúa.… Đức Kitô diễn tả thực tại hoả ngục bằng những lời này: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời” (Mt 25:41) (Toát Yếu Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo # 212). Hy vọng bạn sẽ không bao giờ nghĩ rằng Thiên Đàng—Luyện Ngục và Hỏa Ngục như là những NƠI CHỐN nữa! Bây giờ chúng mình tiếp tục tìm hiểu về mối liên hệ chặt chẽ giữa các thành phần trong Giáo Hội nhé! Nói về BA THÀNH PHẦN trong Giáo Hội: Giáo Hội Chiến Thắng, Giáo Hội Ðền Bù và Giáo Hội Lữ Hành, sách Toát Yếu Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo # 195 dạy rằng: Một số còn lữ hành trên trần gian; một số khác, đã rời bỏ đời này, hiện đang được thanh luyện, và cũng được trợ giúp bằng lời cầu nguyện của chúng ta; sau hết, một số khác nữa, đã được hưởng vinh quang Thiên Chúa và đang chuyển cầu cho chúng ta. Tất cả cùng nhau làm thành một gia đình duy nhất trong Đức Kitô, là Hội thánh, để ca ngợi và tôn vinh Chúa Ba Ngôi. Bạn thấy mối quan hệ rất chặt chẽ và tình liên đới mật thiết giữa chúng mình với các linh hồn nơi Luyện Ngục và với các Thánh ở trên Thiên Đàng chưa? Các linh hồn thuộc Giáo Hội Đền Bù hoàn tất giai đoạn thanh luyện chậm hay mau là nhờ vào sự cầu nguyện, hy sinh, hãm mình, thánh lễ, Kinh Mân Côi… của những người thuộc về Giáo Hội Lữ Hành, tức là chúng mình, những người còn sống ở trần gian. Sau khi hoàn thành quá trình thanh luyện, các linh hồn được vào Thiên Đàng, lúc này các Ngài thuộc Giáo Hội Chiến Thắng sẽ cầu bầu, giúp đỡ cũng như chuyển cầu cùng Chúa cho chúng ta. Nếu hôm nay bạn đã hiểu đúng về Thiên Đàng—Luyện Ngục và Hỏa Ngục và nhận ra mối liên hệ chặt chẽ và mật thiết giữa ba thành phần trong Giáo Hội thì tôi đề nghị với bạn hãy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục, bằng cách dâng lời cầu khẩn, đặc biệt là Thánh lễ, và cả những việc bố thí, ân xá và những việc hãm mình để cầu cho họ (Toát Yếu Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo # 211). Bạn có muốn con cháu, bạn bè, thân thuộc và tha nhân làm những việc như hy sinh, xin lễ, đọc kinh, lần hạt Mân Côi, Viếng Thánh Thể, cầu nguyện … cho bạn sau khi bạn nhắm mắt từ giã cõi đời này và nhất là khi bạn bị kẹt ở trong trại chuyển tiếp PURGATORY không? Nếu muốn thì tôi mạn phép đề nghị với bạn những công việc nhỏ bé sau: Xin lễ, tham dự Thánh Lễ, xưng tội, rước Lễ, lần hạt Mân Côi, Chầu Thánh Thể … để cầu nguyện cho các linh hồn đã ra đi trước chúng ta … Hy sinh, hãm mình, không mua những đồ xa xỉ phẩm, một gói thuốc lá, một chai rượu, một két bia, một bữa ăn ở nhà hàng… để dành tiền giúp cho các cơ quan từ thiện, trại cùi, các trẻ em khuyết tật... Hy sinh không cãi lại cha mẹ, không nóng giận và kiên nhẫn với những người chung quanh. Chăm sóc, quan tâm đến ông bà, cha mẹ hoặc đi thăm viếng người già, những người đau yếu, tật nguyền, kém may mắn... “Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Lc 6:31). Hy sinh, xin lễ, đọc kinh, lần hạt Mân Côi, Viếng Thánh Thể, cầu nguyện … cho các linh hồn là chúng mình đang làm cho chính chúng ta đấy! Làm ngay đi! Chần chờ gì nữa?
Paul Jeandai là một cậu bé đầy sức sống. Bản tính thông minh linh hoạt, không một lúc nào chịu ngồi yên của Jeandai, đã làm cho cậu trở thành niềm vui của gia đình. Nhưng vào một ngày cuối tháng 4 năm 1978, Jeandai lâm bệnh. Cơn bệnh làm cho cậu hay bị ói mửa và nhức đầu. Cha mẹ cậu đưa cậu vào nhà thương. Tại đây, một bản án tử cho Jeandai đã đưọc công bố, bởi vì Bác Sĩ cho hay rằng, Jeandai bị ung thư não. Tin trên đây thật là một tiếng sét đánh lên đầu cha mẹ Jeandai. 10 ngày sau, các Bác Sĩ trong bệnh viện đã quyết định giải phẫu cho Jeandai để cắt bỏ phần óc bị bệnh hoạn của Jeandai, với hy vọng là ngăn chặn được đà phát triển của con bệnh. Thật là may mắn, sau ca phẫu thuật này, Jeandai lấy lại được phần nào sức khỏe. Thế nhưng dịp lễ Giáng Sinh năm 1978, Jeandai cảm thấy cơn đau đầu bắt đầu trở lại. Dầu vậy, Jeandai cũng vẫn cố gắng theo học lớp giáo lý xưng tội lần đầu, và ngày 11-03-1979, Jeandai đã được xưng tội rước lễ lần đầu. Sang tháng 4 năm 1979, Jeandai bị tê liệt hoàn toàn, nhưng trí khôn vẫn còn minh mẫn. Đến 2giờ chiều ngày 02-05-1979, nụ cười cuối cùng đã tắt lịm trên môi củaJeandai. Vào những giây phút cuối đời của Jeandai, đang khi người mẹ của Jeandai ôm đấu vật vã khóc lóc tự hỏi: “Tại sao con tôi lại bị bệnh tật hiểm nghèo như thế này ? Tại sao một đứa nhỏ mới 10 tuổi đầu mà đã phải chịu những cơn đau cuồng bạo như vậy? Tại sao sự đau đớn của con tôi lại cứ kéo dài mãi như thế này?...vv.thì Jeandai vẫn thì thầm cảm tạ Chúa, vì Ngài đã ban món quà sự sống cho mình, cho dù cậu chỉ mới giữ được món quà đó vỏn vẹn trong 10 năm, mà trong 10 năm đó đã hơn một năm phải giữ nó trong đớn đau khổ cực. Tại sao Jeandai đã có được tâm tình cao thượng như thê Ơ? Thưa chỉ là vì Jeandai đã nhình thấy được điều bí mật, được dấu kín ở đàng sau những đau khổ và nước mắt. Bí mật đó chính là tình yêu của Thiên Chúa đã dành cho cậu. Câu truyện của cậu bé Jeandai trên đây, có lẽ phần nào cũng giống câu truyện của ( TT) mà giờ này thân xác của ( Ông, anh... ) đang nằm ở giữa chúng ta đây. Nếu cái chết của Jeandai đã làm cho cha mẹ của cậu đau khổ, đến nỗi phải vật vã bên giường bệnh của con, thì cái chết của (TT), chắc chắn cũng đem đến cho những người thân thương của ( Ông, anh...) những nỗi khổ đau không kém như thế đâu. Với cái nhìn tự nhiên thì cái chết của ( Ông, anh...) là một sự rủi ro mất mát thật lớn lao đối với gia đình. Nhưng với cái nhìn siêu nhiên, cái nhìn của Đức Tin, thì đó là một cuộc an nghỉ trong Chúa. Cũng như các bậc cha mẹ ở trần gian, khi muốn cho con cái đi ngủ, thì phải bảo con: “Thôi con hãy bỏ các đồ chơi lại đó đi, hãy từ giã các bạn bè, để đi ngủ” thì Cha trên trời hôm nay, cũng bảo ( Ông, anh...) rằng: “Con à, đến giờ con đi ngủ rồi, con hãy bỏ lại các thứ của con ở lại đó đi, con hãy từ giã những người thân thương của con đi, để Cha đưa con vào giấc ngủ” Đưa con vào giường ngủ mỗi buổi tối, đó là công việc rất thông thường của những người cha người mẹ. Sau những lời kinh vắn tắt, sau một vài lời khuyên vắn gọn, và một dấu Thánh Giá do chính tay của những người cha người mẹ, cầm tay con để ghi trên mình con, là một nụ hôn trìu mến, yêu thương mà người cha, người mẹ đặt lên má của con. Những việc làm trên đây gợi lên những kinh nghiệm ngọt ngào nhất, những kỷ niệm thú vị nhất, cho những người cha người mẹ. Còn nỗi sung sướng nào cho bằng khi nhìn những đứa con đã ngủ say, nhưng vẫn còn để hiện trên nét mặt bình thản, một niềm tin yêu phó thác ở nơi cha mẹ !!! Nhưng để có được kinh cảm nghiệm ngọt ngào ấy, những kỷ niệm thú vị ấy, để có thể được hưởng nỗi niềm sung sướng ấy, cha mẹ phải tốn công tốn sức mà dỗ dành con bỏ những đồ chơi, những trò chơi mà con đang thích thú, bỏ những chương trình TV đang trình chiếu những cuốn phim hấp dẫn. Thiên Chúa, Cha chúng ta ở trên trời, cũng đã làm những công việc như thế đối với (TT) khi gọi anh vào giác ngủ ngàn thu. Bây giờ hồi tưởng lại những ngày giờ trước khi ( TT) nghe theo tiếng Chúa gọi “Đi Ngủ”, những người thân thương của (TT) có thể nhận ra được việc dỗ dành của Chúa dành cho (TT), cũng như việc (TT) đáp trả lời mời gọi” đi ngu”í của Chúa Nhưng khi kêu gõi (TT) đi vào giấc ngủ ngàn thu, chắc chắn là Chúa cũng thấy được những nỗi khổ đau và niềm thương nhớ của những người thân thương và bạn bè của (TT). Tuy nhiên Ngài vẫn bảo (TT) đi ngủ, vì giấc ngủ này cần thiết cho anh, ích lơi cho anh hơn tất cả mội thứ.. Chính Ngài cũng đã kêu gọi con một Ngài, là Chúa Giêsu, bỏ trời cao, bọ địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, để đi ngủ trên “Chiếc giừơng Thấp Giá”, bởi Ngài biết đó là giấc ngủ sẽ đưa Con Ngài đến chỗ vinh quang. Không ai trong chúng ta có thể hiểu nổi nỗi đau khổ của cái chết. Nhưng có một điều chúng ta, những người có Đức Tin, biết chắc chắn là, cái chết của mỗi người là kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa, dành cho loài người. Đó là kế hoạch tuyệt diệu nhất, bởi vì Ngài là Thiên Chúa khôn ngoan vô cùng. Hôm nay vị Thiên Chúa khôn ngoan vô cùng ấy đã dành kế hoạch tuyệt diệu của Ngài cho (TT). Riêng với chúng ta, những người mặt trong ngày Chúa thực hiện kế hoạch yêu thương của Ngài cho (TT), chúng ta hãy học lấy bài học sẵn sàng đáp trả lại lời mời gọi “Đi Ngủ” của Chúa dành cho chúng ta, để dù bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, khi được Chúa gọi “Đi Ngủ”, chúng ta cũng sẵn sàng xếp bỏ mọi thứ: những người thân thương, nhà cửa ruộng vườn...để đi vào giấc ngủ ngàn thu mà cuối giấc ngủ ấy, khi thức giấc, chúng ta sẽ được hưởng một buổi bình minh rực rỡ huy hoàng, đó chính là Nước Trời vậy. /.
Chiều Chúa nhật 19/07/1992, Thẩm phán Paulo Marcellino 54 tuổi, được một nhóm cảnh sát hộ tống, đến thăm mẹ già và người em gái tại một khu phốù bình dân ở Palermo, thuộc niềm Nam Italia. Khi vừa bước ra khỏi chiếc xe bọc sắt và được 5 cảnh sát hộ vệ, thì bỗng một tiếng nổ vang lên. Tiếng nổ phát ra từ một chiếc xe đạp dựng gần đó. Bom nổ đã làm cho thẩm phán Paulo và 5 cảnh sát chết tan xác, đồng thời còn làm cho nhiều người gần đó bị thương và còn làm hư hại rất nhiều xe cộ nhà cửa trong khu phố. Bom đã do bọn Mafia bất lương cài đặt để kết liễu cuộc đời của một vị thẩm phán cương trực, liêm chính, đã không ngừng làm việc để diệt trừ tội phạm của nhóm Mafia gây ra, làm băng hoại bầu khí luân lý của Palermo. Thẩm phán Paulo chết để lại motä vợ và ba người con. Người con gái đầu tên là Lucia, 22 tuổi, tiếp đến là cậu con trai tên Malfredi, 20 tuổi và cô gái út 19 tuổi. Trong cuộc gặp gỡ dành cho phái viên Maximo Carala của tờ Quan Sát Roma, cơ quan ngôn luận chính thức của Roma, Malfredi đã thổ lộ: “Hẳn là ông ngạc nhiên khi thấy gia đình chúng tôi không tỏ dấu gì là buồn sầu phải không ? Vì là tín hữu Công Giáo nên chúng tôi tin và biết rõ ràng rằng, cái chết chỉ là một giai đoạn chuyển tiếp từ thế giới này sang thế giới bên kia. Chính niềm xác tín này đã cho chúng tôi chấp nhận khoảng trống do người đã ra đi để lại. Cha tôi ngã gục vì lý tưởng và vì những giá trị luân lý mà cha tôi từng tin tưởng, hằng quyết tâm bảo vệ và thông truyền cho chúng tôi. Đã có lần cha tôi nói với tôi: “Nếu con sống phù hợp với niềm tin Kitô của con, thì chết vì lý tưởng con theo đuổi chỉ là cuộc trở về với sự sống”. Hôm nay ông.....vừa mới ra đi trở về với nguồn sống là Thiên Chúa . Thực vậy khi tạo dựng nên .....Thiên Chúa đã thông ban sự sống của Ngài cho ông....Lý do Ngài đã làm như thế chỉ là vì Ngài thương yêu ông. Sau hơn một nửa thế kỷ, cho ông được sống ở trần gian này để ông quảng bá lòng yêu thương của Thiên Chúa cho những người khác, hôm nay Ngài thấy ông đã hoàn tất được sứ mạng đó rồi, nên Ngài gọi ông về với Ngài, để nhận lãnh phần thưởng mà Ngài đã sắm sẵn cho ông. Có thể có người trong chúng ta nghĩ rằng, với thời gian nằm bệnh quá dài, Ông Đaminh đâu có làm được gì mà Chúa thưởng công ? Phải, nếu chúng ta nhìn cuộc sống của ông với con mắt trần thì có thể chúng ta cho như thế là đúng. Nhưng dưới con mắt Đức tin thì cuộc sống của ông Đaminh phải nói là một cuộc sống hào hùng. Không hào hùng thì làm sao có thể trung kiên với Chúa đến giờ phút cuối cùng, cho dù phải trải qua một thời gian bệnh hoạn ? Chính cái nhìn Đức Tin đó cho phép chúng ta lạc quan về cái chết của người thân yêu của chúng ta. Cái chết đó được mô tả bằng một hình ảnh tuyệt vời, đó là hình ảnh của một buổi hoàng hôn. Nếu ngồi ngắm cảnh hoàng hôn vào những buổi chiều tàn, hẳn tâm hồn chúng ta không khỏi xao xuyến. Chúng ta xao xuyến bởi một sự mất mát, đó là sự mất mát ánh sáng chói chang thật quí gía của mặt trời. Thế nhưng chúng ta có biết rằng, sự mất mát của chúng ta lại đang là điều diễm phúc cho người khác không? Thực vậy, ông mặt trời mà chúng ta đang nuối tiếc về sự ra đi của ông vào mỗi buổi hoàng hôn, lại đang đem đến cho biết bao người ở góc trời bên kia một buổi bình minh tuyệt vời, đầy sức sống và hy vọng.
Cái chết của con người chúng ta cũng thế. Chính vì thế chúng ta cũng đừng quá buồn sầu về sự ra đi của người thân thương của chúng ta. Xin Chúa nâng đỡ và ủi an những người thân thương của ông Đaminh trong dịp ông ra đi về với Chúa này.
Có lẽ không một ngày nào mà chúng ta lại không thấy, hay là nghe nói đến cái chết. Cái chết đến với con người chúng ta bởi rất nhiều lý do: chết vì già yếu, bệnh tật, chết vì thiên tai, chết vì chiến tranh, chết vì tai nạn....vv. Nạn nhân của những cái chết ấy, có thể là những người hoàn toàn xa lạ với chúng ta, những người mà chúng ta chưa hề một lần gặp gỡ và có thể là cũng chưa hề bao giờ được nghe nói đến. Nhưng cũng có thể những người ấy lại là những người thân quen hay ruột thịt của chúng ta. Tất cả những cái chết ấy, ít nhiều gì cũng đều làm cho chúng ta sợ hãi, bởi vì những cái chết đó như là một lời nhắc nhở cho chúng ta rằng, rồi đây cũng đến lần chúng ta phải chết. Bởi vì chết đối với con người là một sự thật đúng nhất, chắc chắn nhất. Nhưng nếu như thế thì cuộc đời của chúng ta là vô nghĩa lắm phải không ? Không, đối với người Kitô hữu chúng ta, chết không thể là điều được phép làm chúng ta sợ hãi. Bởi vì chết không phải là hết, chết cũng không phải là một sự tiêu diệt cuộc sống nhân sinh. Thiên Chúa dựng nên con người, không lẽ Ngài tạo dựng nên chúng ta, rồi sau đó để chúng ta rơi vào quên lãng như thế ? Thánh Kinh cho chúng ta biết, Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của những kẻ sống. Như thế thì chết không thể là đã chấm dứt tất cả được.. Đúng thế, với cái nhìn Đức Tin, chết chỉ là kết thúc cuộc sống lưu đầy, là sự giải thoát con người khỏi vòng cương toả của tội lỗi, để bước sang cuộc sống vĩnh cửu mà thôi. Hiểu như thế thì chết không phải là một sự hủy diệt, môt sự phế bỏ mà chết chỉ là một sự biến đổi. Nó cũng giống như bao cuộc biến đổi khác mà chúng ta đã chứng kiến, chẳng hạn như sự biến đổi của hạt lúa để trở thành cây lúa hay như sự biến đổi của hoa để trở thành trái, hoặc sự biến đổi của con sâu để trở thành con bướm. Chateaubriand , một nhà thơ nổi tiếng của Pháp, khi đề cập đến cái chết của người Kitô hữu đã nói:” Chính trong cái chết mà người Kitô hữu đã chiến thắng”. Còn Victor Hugo, văn hào Pháp, thì lại quả quyết: “ chết không phải là đêm tối mà là ánh sáng” Nhưng để cái chết là một chiến thắng chứ không phải là một thất bại, là ánh sáng chứ không phải là bóng tối thì cái chết của chúng ta phải là cái chết giống như cái chết mà sách Khải Huyền nói tới, đó là cái chết trong Chúa.(Kh.14,13)
Vậy thế nào là chết trong Chúa ? Chết trong Chúa có nghĩa là nhờ ơn Chúa Kitô,Ngài đã làm chết đi cái chết ở trong ta. Chết trong Chúa cũng còn có nghĩa là nghe theo tiếng Chúa Kitô mời gọi để đến thông phần vào niềm vui vô biên của Chúa. “ Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, hãy vào mà hưởng sự vui mừng của chủ ngươi” Chính vì thế mà chết không còn phải là một tai hoạ nữa, mà đó là một cuộc tuyên dương. Hôm nay có thể nói là ngay tuyên dương của ........., chúng ta họp nhau ở đây để cầu xin Chúa cho ..... và cùng với...... chúng ta cảm tạ Chúa về việc Ngài tuyên dương......và đã mời..... vào hưởng sự vui mừng của Ngài. Việc làm này của chúng ta không những làm hài lòng người đã ra đi, mà còn an ủi những người thân thương còn lại, để rồi đây, những người này cũng được ra đi “trong Chúa” Vì thế, điều mà chúng ta cần cầu nguyện cho nhau là xin cho chúng ta được ra đi trong Chúa như người đã ra đi hôm nay. /.
Con người chúng ta xét theo khía cạnh sinh vật học, có thể định nghĩa là một động vật. Nhưng loại động vật này khác hẳn với những loại động vật khác là có trí khôn. Nhờ có trí khôn mà con người có tư tưởng. Và để phát biểu những tư tưởng ấy, con người có ngôn ngữ. Có hai loại ngôn ngữ: Ngôn ngữ khoa học là ngôn ngữ dùng để cắt nghĩa để giải thích sự vật hay sự kiện. Thí dụ những nhóm từ như: Đồng hồ, Radio...vv. Đây là loại ngôn ngữ khoa học. Muốn hiểu những ngôn từ này, chúng ta chỉ cần tháo những thứ này ra là chúng ta sẽ hiểu thế nào là đồng hồ, thế nào là radio. Loại ngôn ngữ này không làm thay đổi con người chúng ta, nhưng nó giúp chúng ta giải thích chế ngự và làm chủ những gì chúng diễn tả. Ngôn ngữ tình yêu. Đây là ngôn ngữ của sự liên lạc. Loại ngôn ngữ này có khả năng tạo ra trong con người chúng ta một tâm tình mới. Thí dụ: một chàng thanh niên nói với một cô thiếu nữ rằng: “Anh yêu em”, thì những ngôn từ này có thể tạo ra cho cô thiếu nữ kia một tâm tình mới. Tâm tình đó có thể khiến cho cô kia chấp nhận, để rồi từ đó bắt đầu thiết lập một mối qua hệ. Nhưng tâm tình đó cũng có thể khiến cô kia từ chối. Loại ngôn ngữ tình yêu này có khả năng tạo ra một trạng thái mới, chẳng hạn như trường hợp của Thánh Phanxicô Xaviê. Như chúng ta biết, Phanxicô là một thanh niên thuộc dòng dõi “trâm anh thế phiệt” Cả một tương lai huy hoàng đang mở ra trước mặt chàng thanh niên này: Nào là danh vọng chức quyền, nào là giầu sang phú quí... Thế như khi Phanxicô nghe được những ngôn từ của tình yêu được nói lên trong Thánh Kinh rằng: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích gì ?” thì cậu thanh niên khôi ngô tuấn tú , với một tương lai sáng lạn kia, đã trở thành một nhà truyền giáo nhiệt thành, với một tương lai mà xét theo cái nhìn thường tình của con mắt trần, không có gì đáng lạc quan, nếu không muốn nói là đen tối. Như vậy loại ngôn ngữ tình yêu có thể nói là một lời mời gọi, mời gọi chúng ta ra khỏi chính mình, ra khỏi tình trạng hiện thời để đi vào một trạng thái mới. Loại ngôn ngữ này gặp rất nhiều trong cuộc sống của chúng ta, nhưng thường chỉ là những lời mời gọi từng phần riêng rẽ, gây nên những thay đổi từng phần và chúng ta có thể tự do đáp trả hay không đáp trả. Thế nhưng có một lời mời gọi thuộc loại ngôn ngữ này, ảnh hưởng đến toàn thể con người chúng ta và chúng ta không thể nào không đáp trả - Tôi muốn nói đến cái chết. Phải, cái chết quả là một ngôn ngữ của tình yêu, vì cái chết tạo ra cho chúng ta một sự liên lạc với thế giới bên kia, thế giới của vĩnh tồn. Cái chết cũng tạo ra cho chúng ta một tình trạng mới như thánh Phaolô đã quả quyết trong bức thư thứ nhất gởi cho giáo đoàn Corinthô.(1 Cor.9,35). Như thế cái chết quả là một lời mời gọi của tình yêu và cái chết của... cũng chính là lời mời gọi đó. Nói như thế hẳn có người cho rằng, đó là những lời an ủi có mục đích xoa dịu nỗi xót xa của những người thân thương của người chết. Nhưng thực ra không phải thế. Chúng ta không phủ nhận nỗi xót xa khi bị mất người thân thương. Nhưng trong rất nhiều trường hợp, những nỗi xót xa kia lại trở thành một điều kiện không thể thiếu được, để cho người thân yêu của chúng ta đạt tới một tình trạng mới. Cái chết của ... ... ...là một dẫn chứng Giờ này linh hồn của ... ... ... đã có được một mối quan hệ mới với Chúa cũng như đối với chúng ta. Linh hồn... ... ... cũng đã có được một trạng thái mới, không còn bị lệ thuộc vào thời gian và không gian nữa. Chắc chắn rằng trong trạng thái mới này, linh hồn... ... ... vẫn còn những mối quan hệ mật thiết đối với những người thân thương, tuy hình thức của mối quan hệ đó có khác. Và cũng chính vì mối quan hệ đó mà gia đình của ... ... ... và chúng ta đây, mới đến đây hợp nhau dâng lễ cầu nguyện cho... ... ... Chúng ta cầu nguyện cho ... ... đạt được mức toàn hảo trong tình trạng mới, bởi vì khi còn sống, hẳn là ... ... ... đã không khỏi có những lỗi lầm, những thiếu sót. Chính những thứ này, làm cho tình trạng mới của ... ... .chưa được toàn hảo. Nhưng những việc lành mà chúng ta làm, có khả năng giúp cho ... ... ... mau đạt tới tình trạng mới hoàn hảo. Chúng ta hãy rộng lòng đối với ... ..
Chúng con xin quý Đức cha, quý Cha chia vui với mẹ con và gia đình con, vì hôm nay mẹ chúng con được trở về với Thiên Chúa. Đó lời chân tình của Cha Vinh sơn Phạm Trung Thành, nguyên bề trên Giám tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế, trước biến cố mẹ của ngài an nghỉ. Chúng con xin quý Đức cha, quý Cha chia vui với mẹ con và gia đình con, vì hôm nay mẹ chúng con được trở về với Thiên Chúa. Đó lời chân tình của Cha Vinh sơn Phạm Trung Thành, nguyên bề trên Giám tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế, trước biến cố mẹ của ngài an nghỉ. Trước linh cữu Bà cố Anna trong giây phút tẩn liệm, Đức Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Chí Linh đến chia buồn cùng cha Vinh sơn, nhưng đáp lại, cha Vinh sơn nói rằng, xin Đức Tổng Giuse chia vui với chúng con, bởi vì mẹ chúng con được trở về với Thiên Chúa. Đó là niềm khát khao lớn nhất của Bà cố. Người có thể nói được như thế trước sự mất mát lao trong đời mình thì đó phải là người có lòng tin mạnh mẽ, xác tín rõ ràng. Trong Thánh lễ an táng hôm nay (19/09/2017) tại giáo xứ Tân Hoà, Tổng Giáo phận Sài gòn, Đức Cha Micael chủ sự, đã kể lời những lời nói ấy trong bài giảng của ngài. Đức Giêsu nói với người con duy nhất của bà goá thành Naim hãy chỗi dậy, và Ngài trao đứa con ấy cho người mẹ đang đau khổ. Nếu Ngài ở đây lúc này thì Ngài sẽ nói gì, sẽ làm gì. Ngài sẽ đem lại niềm vui cho hết mọi người chúng ta. Niềm vui của Tin mừng là niềm vui phục sinh, niềm vui chan chứa là niềm vui được trở về sống cùng Đức Kitô. Trước hết, Đức Cha Micael nhắc lại hình ảnh bà cố Anna trong cuộc đời của một người phụ nữ tần tảo chăm sóc gia đình và hy sinh dâng hiến người con người cháu cho Chúa, cùng với tình cảm sâu sắc dành cho người chồng đã ra đi về với Chúa trước, mà bà hằng thương nhớ trong mọi biến cố vui buồn cuộc đời. Thương nhớ chồng bao nhiêu bà cố khát khao về với Chúa bấy nhiêu. Nhưng trong mọi sự, bà cố luôn đón nhận tất cả theo Thánh ý Chúa. Bà đã thanh thản ra đi nhưng để lại bao thương nhớ và những bài học quý giá. Đức Cha Micael còn chia sẻ, trước biến cố thánh lễ tạ ơn của bà cố hôm nay, người Kitô hữu chúng ta sống niềm tin của mình trong văn hoá đậm chất hiếu đễ Á Đông thế nào. Mang trong mình tâm tư của vị giám mục đã từng ngược xuôi vùng truyền giáo Tây nguyên, lời kêu gọi tha thiết của ngài vang lên, đã đến lúc rồi, đã đến lúc rồi, ngài gửi đến mọi thành phần Hội thành, phải sống đức tin thế nào, trình bày Tin mừng làm sao để sống trong cảm thức đạo hiếu Á Đông hầu có thể truyền giáo. Lịch sử truyền giáo đã để lại những hạn chế khi mà người Việt – Á Đông say mê Tin mừng, say mê đức tin Kitô giáo lại không thể bước vào Hội thánh được khi cánh cổng hiếu lễ khép lại. Cho đến ngày hôm nay, vẫn còn những di chứng của xã hội khi họ xem người Công giáo là những người bỏ cội nguồn gốc rễ gia tiên. Chúng ta đã nhầm lẫn và gây hậu quả, nhưng bây giờ chúng ta vẫn không sao tìm cách bày tỏ đức tin của mình để người đời nhận thấy. Ngược lẫn, có khi chúng ta nhầm lẫn, không phân biệt đâu là Chúa, đâu là Thánh, đâu là người phàm. Nếu Đức Giêsu hiện ở đây, Đức Cha Micael nói, Ngài sẽ làm gì, nói gì. Chắc chắn Ngài sẽ nói, Ta truyền cho con hãy chỗi dậy. Niềm vui của Tin mừng, đức tin của hy vọng, đứng trước biến cố tang thương, người Kitô hữu không quên báo hiếu. Nhưng tinh thần hiếu đễ của chúng ta tràn nhập giá trị Tin mừng. Nếu chúng ta biết sống, biết trình bày, biết cách diễn tả thì ngay trong biến cố mất mát này chúng ta sẽ thể hiện được đức tin của mình, giúp mọi người khám phá Tin mừng và đến được với Thiên Chúa. Thánh lễ an tàng Bà cố Anna của Cha Vinh sơn Phạm Trung Thành, DCCT, được cử hành vào lúc 7g00, thứ Ba ngày 19/09/2017, do Đức Cha Micael chủ tế, cùng đồng tế có Đức Cha Louis Nguyễn Anh Tuấn, Giám mục phụ tá Tổng giáo phận Sài gòn, cùng quý cha DCCT, quý linh mục trong và ngoài giáo phận, đông đảo quý tu sĩ và giáo dân cùng tham dự.
Chúng ta vừa bước vào tháng 11, tháng dành riêng cầu nguyện cho các kẻ đã qua đời. Thực ra, chẳng ngày nào mà Giáo Hội, qua các Thánh Lễ, lại chẳng cầu nguyện cho họ. Nhưng tháng này, Giáo Hội muốn chúng ta sống ý thức hơn và thực hành mạnh mẽ hơn việc đạo đức này. Như vậy, hôm nay quả là dịp tốt để dâng lễ cầu nguyện cho mọi tín hữu đã khuất; trong đó có ông bà, cha mẹ, thân quyến, bạn hữu và các bậc thầy của chúng ta nơi Chủng Viện này. Nhờ Ơn cứu chuộc của Đức Kitô, xin cho mọi người đã “vắng bóng”được tha thứ mọi tội lỗi và hưởng phúc lộc Thiên đàng. Để xứng đáng dâng lễ và cầu ơn, chúng ta xin Chúa thanh luyện chúng ta trước. Giảng lễ: I. Tôi tin có đời sau. Tôi tin sự sống lại và sự sống vĩnh cửu. Chẳng phải là tín hữu ngày nay chúng ta mới hùng hồn tuyên tín như thế (Credo). Nhưng từ xa xưa, Gióp đã tuyên bố: “Sau khi da tôi đây bị tiêu hủy, thì với tấm thân này, tôi sẽ được ngắm nhìn Thiên Chúa. Chính tôi sẽ được ngắm nhìn Ngài, Đấng mắt tôi nhìn thấy không phải là người xa lạ” (G 19, 26-27a). Ông tin có đời sau. Ông tin rằng Đấng hằng bênh vực ông vẫn sống và sau cùng, Ngài sẽ đứng lên trên cõi đất để cứu ông. Niềm tin của ông bền vững, chắc chắn đến độ ông ước ao lời ấy của ông được tạc vào đá cho đến muôn đời. Là tín hữu, chúng ta xác tín mạnh mẽ vào lời của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu chuộc chúng ta, khi Người nói: “Ý của Đấng sai tôi là tất cả những kẻ Ngài đã ban cho tôi, tôi không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6, 39). “Ai tin vào Người Con, thì được sống muôn đời” (Ga 6, 40). Không để mất một ai nghĩa là thế nào? Thánh Phaolô, qua thư Rôma, giải thích rõ ràng rằng “ngay khi chúng ta còn là tội nhân, Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Người chết cho chúng ta được cứu, khi chúng ta không có sức làm được gì để cứu lấy mình”. Không để mất một ai là “bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng. Ngay khi chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Ngài vẫn để Con Ngài chết. Ngài muốn cứu chúng ta khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, bằng cách cho chúng ta được nên công chính nhờ máu Đức Kitô đổ ra. Làm như vậy là để chúng ta được hoà giải với Thiên Chúa. Giải pháp ấy là kế hoạch cứu chuộc được thực hiện nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 5, 6-11). Chúng ta nhắc lại Lời Chúa như vậy để củng cố thêm niềm tin của chúng ta vào đời sau, vào sự sống lại và cuộc sống trường sinh hạnh phúc với Chúa. Làm sao chúng ta có thể cầu nguyện cho những người đã chết được, nếu tiên vàn chúng ta còn hiểu nhạt nhoà mơ hồ về Tình yêu Cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện trong Đức Kitô như thế.
II. Phải cầu nguyện cho những vong nhân. Cầu nguyện cho những người đã khuất là một bổn phận không thể xao lãng của chúng ta. Biết Chúa cứu, tin rằng Chúa không để mất một ai là một chuyện. Nhưng Giáo Hội luôn dạy chúng ta phải, bằng tinh thần hiệp thông luôn cầu nguyện cho mọi tín hữu đã qua đời, chứ không được ỷ lại vào Chúa. Công đồng Vatican II nhắc lại mầu nhiệm Giáo Hội cùng thông công như sau: “Trong số những môn đệ Chúa, có những kẻ tiếp tục cuộc hành trình nơi dương thế, có những kẻ đã hoàn tất cuộc sống này nhưng đang được tinh luyện và có những người đang được chiêm ngưỡng rõ ràng Thiên Chúa Ba Ngôi vinh hiển. Cả ba thành phần đều hiệp thông với nhau trong đức mến và truyền thông cho nhau những của cải thiêng liêng. Nhận biết đúng đắn sự hiệp thông này trong toàn Nhiệm thể Chúa Kitô, ngay từ buổi đầu, Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, cầu nguyện cho những người đã chết”. Hơn nữa, người tín hữu đã chết trong Ơn nghĩa Chúa, nhưng chưa sạch hết mọi tội, và chưa đền tội bằng những hình phạt tạm thời đời này, thì không thể vào thẳng Thiên đàng được, vì chưa xứng đáng hưởng Thánh Nhan Chúa. Thánh Gioan cảnh báo rõ trong sách Khải huyền: “Tất cả những gì ô uế, cũng như bất cứ ai làm điều ghê tởm và gian tà, đều không được vào thành…” (Kh 21, 27). Tất nhiên, họ phải chờ tinh luyện xong mới vào được Thiên đàng. Thời gian đó là thời gian xa cách Chúa. Nên Công đồng Florence (1439) mới định tín có luyện ngục để tinh luyện các linh hồn. Purgatorium, chỉ luyện ngục, có nghĩa là tinh luyện. Bởi thế, hằng ngày Giáo Hội dâng lễ nài xin Ơn tha thứ cứu độ của Chúa Giêsu cho các linh hồn ; suốt tháng 11 này và đặc biệt hôm nay ngày 2.11 còn tăng lên gấp 3 (mỗi Linh mục được làm 3 lễ trong ngày). Giáo Hội kêu gọi chúng ta luôn nhớ về và sốt sắng cầu nguyện cho những người đã khuất. Cầu nguyện là góp phần mình vào mở kho Ân xá, nhường cho các linh hồn nơi luyện ngục, khi họ không thể làm được việc lành cứu mình. Giáo Hội còn khuyến khích đi viếng nghĩa địa, sửa sang mồ mả và cầu nguyện cho các linh hồn, vì: “ Mồ thật chôn các người chết là trái tim của người sống” (Tục ngữ). Thế nên, người sống có nhớ đến, có cầu… thì người chết mới mát mẻ thanh nhàn. Thật ra, không phải cầu cho người “chết”. Nếu chết là chấm tận, hết chuyện thì cầu làm gì và ích lợi gì? Nhưng là cầu cho nguời vượt qua cõi chết, đi vào cõi sống muôn đời.
Chết là gặp gỡ và kết hợp bất khả phân ly với Chúa Kitô. Nếu thế, bài Tin Mừng “10 cô phụ dâu đi đón chàng rể” trong khung cảnh lễ An táng hôm nay thật thích hợp, để chúng ta đến tiễn đưa người quá cố này về “nhà chồng”, về ngôi nhà mà ông sẽ sống muôn đời, hay đúng hơn là đời đời kiếp kiếp. Giảng lễ: I. Sống là hẹn hò. Đời người mãi mãi là cuộc hành trình tìm kiếm và gặp gỡ Thiên Chúa. Không ai xác định được thời hẹn, nhưng có thể xác quyết được điểm hẹn. 1. Không hẹn giờ: “Chàng rể đến”, đó là tiếng hô của người xướng lễ báo hiệu tiệc cưới bắt đầu. Tại sao các cô phụ dâu lại luýnh quýnh cả lên như vậy? Chẳng qua là vì chàng rể đến mà không hẹn giờ trước. Khác với phong tục Việt nam ngày xưa: Chàng rể đến nhiều khi còn phải đợi ngoài ngõ, chờ đúng giờ tốt mới được nhà gái cho phép vào. Dù sao, chờ đợi luôn là yếu tố tất nhiên phải có đi kèm với hẹn hò ước nguyện. Không riêng gì người quá cố, mà cả chúng ta đây luôn sống trong niềm hy vọng về một Đấng vẫn đang hiện diện và đồng hành, nhưng vẫn chưa phải là giáp mặt. Có lúc ta thoáng thấy Người, dường như nghe được cả tiếng Người mời gọi; nhưng rồi lại hụt hẫng (như hai môn đệ trên đường đi Emmaus), vì Người không còn ở đó, mà lại hẹn gặp ở nơi khác.
2. Nhưng hẹn gặp: Dụ ngôn cho biết cả mười cô phụ dâu mệt mỏi đợi chờ và đã ngủ thiếp đi, nhưng trong thâm tâm các cô vẫn đinh ninh chàng rể sẽ đến. Chẳng bao lâu nữa chàng sẽ đến! Chẳng bao lâu nữa giây phút cuối cùng của đời người sẽ đi vào vĩnh cửu, giống như giây phút lìa trần của người hấp hối. Giây phút chia ly để lại sự thương nhớ cho người tại thế, nhưng lại có thể là nỗi vui mừng khôn tả của người đã khuất, vì bây giờ không còn là đợi chờ hẹn gặp, mà là gặp gỡ diện đối diện. Lẽ nào ta không vui niềm vui của các cô phụ dâu khi tiệc cưới bắt đầu, khi tân lang đang ở giữa họ ? Lẽ nào ta không vui với ông M., khi ông đang ở với Chúa Giêsu, Đấng cả đời ông đã chờ đợi hẹn hò gặp mặt.
II. Chết là gặp gỡ. Chết không phải là hết: bởi sự chết không phải là đích điểm mà chỉ là bước khởi đầu của gặp gỡ, của hạnh phúc hưởng kiến Thiên Chúa. 1. Khai mở sự sống: Làm người ai chẳng hy vọng hay khao khát ? Thế mà cái chết lại cắt ngang mọi dự định tính toán, bỏ dở mọi thành đạt của con người. Thế nhưng niềm tin Kitô giáo không cho phép dừng lại ở cái chết. Đời sống của người đã khuất chỉ là thay hình đổi dạng, chứ không bị tiêu diệt. Đối với người yêu mến Chúa thì đó lại là ngày “sinh nhật Nước Trời”, như lời Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu trên giường hấp hối: “Tôi không chết, nhưng đang bước vào cõi sống”. Theo sau quan tài là kẻ than người khóc, còn bản thân người quá cố mới chỉ là bắt đầu, vì thời kỳ thai nghén lâu dài nay đã chấm dứt và sự sống vĩnh cửu dường như mới khởi sự. Thế gian hôm nay vẫn đẫy dẫy sự chết, nhưng chết chỉ là trong giây lát như để bước đi từ tạm thời sang vĩnh cửu. Tuổi thơ phải qua đi mới đến tuổi trưởng thành. Con sâu phải lột xác trong đau đớn mới thành con bướm và hạt lúa cũng phải chết đi trong lòng đất mới trổ sinh mầm sống mới. Sự sống mới ấy là gì nếu không phải là được chấp nhận vào sự sống vĩnh cửu, là gặp gỡ thân tình với Đấng là nguyên thuỷ và cùng đích của mọi loài ?
2. Khởi đầu gặp gỡ: Dụ ngôn mười cô phụ dâu làm nổi bật ý tưởng phải tỉnh thức và sẵn sàng trước những bất ngờ, nhất là những bất ngờ về sự chết (Mt 25,13). Dụ ngôn còn cho thấy niềm hoan hỷ được gặp mặt chàng rể trong tiệc cưới Nước Trời của các cô khôn ngoan. Sở dĩ được gọi là khôn, vì các cô biết lo liệu, không phung phí để có thể thắp sáng đời mình vào giây phút trọng đại khi chàng rể đến. Thực ra trong quãng đời tại thế, tìm Chúa và gặp Chúa là hai mặt của một quá trình. Tìm Chúa là đã gặp Chúa. Càng gặp gỡ càng thôi thúc kiếm tìm như cảm nghiệm của Thánh Augustinô: “Tâm hồn con vẫn khắc khoải chờ mong cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa”. Chúng ta cầu xin cho người quá cố này bắt đầu một cuộc gặp gỡ bất khả phân ly với Đấng là hạnh phúc đích thực. Xin ánh sáng Phục sinh của Chúa Kitô Phục sinh thắp sáng đời họ, để họ theo Người vào phòng cưới Nước Trời. Lạy Chúa Giêsu, Chúa từng cầu nguyện với Chúa Cha: “Con muốn rằng con ở đâu thì những người Cha ban cho con cũng sẽ ở đó với con” (Ga 17, 24). Vậy khi Chúa mong ước về cùng Chúa Cha, thì Chúa cũng muốn sự có mặt của con (của ông M.) nghĩa là bao lâu con chưa về trời thì trong lòng Chúa vẫn có bóng hình của con, vẫn hẹn hò và chờ đợi con. Hôm nay người thân yêu của con đã ra đi trước con về Bến Hẹn và đang chờ đón con, vì chúng con có chung một Điểm Hẹn là chính Chúa. Xin cho người thân yêu của con sớm được yên nghỉ bên Chúa, để một ngày kia đời con đến hẹn cũng sẽ gặp được cả Chúa lẫn người thân. (theo Phạm Công Phương, trong Đồng Hành).
Tháng Mười Một được Giáo hội dành riêng để kêu gọi chúng ta cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện tội, và cũng là dịp tốt để chúng ta thể hiện đức bác ái Ki-tô giáo với những người đã qua đời, trong tình liên kết với “Các Thánh Thông Công.” Và cũng trong Tháng Các Linh Hồn này, chúng ta cũng có cơ hội tưởng nhớ, và đặc biệt thể hiện lòng hiếu thảo với tổ tiên, ông bà, cha mẹ đã qua đời. Đây là giới răn Chúa dạy và cũng là bổn phận phải thảo hiếu với cha mẹ còn sống và đã qua đời. Tuy trong một bầu khí u sầu và thương nhớ, nhưng chúng ta hãy suy nghĩ, trong tháng này có biết bao nhiêu linh hồn được thanh luyện, và được hợp cùng các thánh hưởng hạnh phúc thật trên Thiên đàng, diện kiến tôn nhan và ca tụng Thiên Chúa. Sách giáo lý của Giáo hội nhấn mạnh đến sự thanh luyện của các linh hồn và tôi xin tóm lại và chia sẻ một số điểm như sau. Thứ nhất, các linh hồn cần được thanh luyện để trở nên hoàn toàn thánh thiện để được vào Thiên đàng. Thứ hai, chúng ta chú trọng vào sự thanh luyện, được hiểu là sự thay đổi trạng thái, hơn là vào “nơi chốn”, và càng không thể hạn định chắc chắn “thời gian” bao lâu. Nơi luyện tội không phải là một hoả ngục ngắn hạn, luyện tội hoàn toàn khác xa hoả ngục. Và thứ ba, sách giáo lý đề cập đến “lửa thanh luyện” có nghĩa là các linh hồn được thanh tẩy bằng lửa, nhưng là “lửa tình yêu” hay “lửa bác ái.” Ông bà anh chị em thân mến. Sự thanh luyện của các linh hồn nói lên lòng lân tuất và nhân từ của Thiên Chúa. Ngài muốn linh hồn của chúng ta nên hoàn thiện, hoàn toàn thanh sạch để xứng đáng chiêm ngắm thánh nhan Ngài. Sự thanh luyện cũng nói lên tình yêu cao quí của Thiên Chúa. Thật vậy, khi còn sống ở trần gian, Thiên Chúa ban cho chúng ta một chân lý, đó là giới răn Mến Chúa Yêu Người, và Chúa muốn chúng ta yêu mến Thiên Chúa hết sức, hết tâm hồn, hết trí khôn và thương yêu tha nhân như chính mình. Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su muốn chúng ta sống giới răn Yêu Thương “để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa.” Và “Con ở đâu chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con.” Chúng ta ý thức sống trọn vẹn, hoàn tòan giới răn yêu thương của Chúa rất khó, vì sự yếu đuối và giới hạn của con người. Chính thánh Phaolô cũng phải thú nhận rằng trở thành giống hình ảnh Thiên Chúa nơi trần gian thật khó khăn. Thật vậy, chúng ta nhận định rằng không mấy ai trong chúng ta có thể thực hiện được điều răn thương yêu này một cách trọn vẹn được trước khi chúng ta nhắm mắt xuôi tay. Và do đó, chốn luyện hình là nơi linh hồn của những người đã qua đời sẽ được thanh luyện nhờ sự giúp đỡ của những người còn sống, qua những việc tốt lành, bác ái, quảng đại và nhất là lời cầu nguyện, đặc biệt là Thánh lễ. Qua những việc tốt lành này, linh hồn của những người đã qua đời được thanh luyện trở nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Ông bà anh chị em thân mến. Tất cả chúng ta tin vào lời Chúa dạy về ơn cứu độ, về sự phán xét, về sự sống vĩnh cửu, và về hạnh phúc vĩnh cửu trên Thiên đàng. Nếu không tin vào lời Chúa và những điều Chúa dạy thì chẳng ai cầu nguyện cho các linh hồn làm gì, và cũng chẳng có lễ cầu hồn, như Thánh lễ ngày hôm nay. Nếu chúng ta không tin vào lời Chúa về sự phán xét và thưởng hay phạt sau khi chết, và những lời nhắn nhủ của thánh Phaolô với chúng ta trong bài đọc 2 hôm nay là cuộc sống này là tạm bợ, Quê Trời mới là chỗ vĩnh viễn, thì chúng ta không cần phải có đức tin, không cần phải sống yêu thương, hy sinh, bác ái, không cần phải cầu nguyện, không phải thờ phượng, kính mến Chúa, và những việc bác ái cùng những lời cầu nguyện chúng ta dâng cho cho người đã qua đời đều trở nên vô nghĩa. Là những Ki-tô hữu, tin vào Chúa và Lời của Người, chúng ta được kêu gọi sống Lời Chúa, sống thánh ý Chúa và đẹp lòng Chúa để được hưởng hạnh phúc phúc Quê trời. Chúng ta biết anh chị em bên giáo phái Tin lành không tin về sự thanh luyện và cũng không cầu nguyện cho các linh hồn của những người đã qua đời. Có những anh chị em Tin lành cũng không tin vào sự phán xét và sự thưởng hay phạt ngay sau khi chết như Lời Chúa đã dạy. Còn chúng ta, chúng ta tin vào Lời Chúa dạy và khi dâng các việc lành phúc đức và cầu nguyện cho những người đã qua đời là chúng ta gián tiếp tuyên xưng niềm tin vào sự sống, sự thưởng và phạt sau khi chết. Ông bà anh chị em thân mến. Tuyên xưng niềm tin vào mầu nhiệm của Giáo hội, là Giáo hội của “Các Thánh Thông Công” là chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, qua cái chết và phục sinh của Chúa, đã nối kết các thánh, các linh hồn và chúng ta bằng mầu nhiệm tình yêu của Ngài. Chính mầu nhiệm tình yêu thập giá và sự phục sinh của Chúa Kitô đã nối kết các thánh đang hưởng hạnh phúc Nước Trời với các linh hồn nơi luyện hình và những người Ki-tô hữu còn sống lại với nhau. Chính vì thế mà lời cầu bầu của các thánh cho chúng ta, cũng như lời cầu nguyện và việc việc hy sinh, bác ái của những người còn sống trở nên có giá trị vô cùng. Tóm lại, khi dâng các việc lành phúc đức và lời cầu nguyện cho những người thân thuộc đã qua đời là chúng ta sống Lời Chúa, là trực tiếp bày tỏ lòng biết ơn, lòng thảo hiếu, và lòng bác ái đối với các ngài, đồng thời cũng là cách thế chúng ta gián tiếp tuyên xưng niềm tin vào mầu nhiệm các thánh cùng thông công, vào lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa, và vào sự sống lại và sự sống vĩnh cửu. Trong ngày lễ Các Linh Hồn hôm nay, chúng ta xin tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa thanh tẩy những tội lỗi của các linh hồn những người thân thuộc, những người đã sống trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta, còn đang trong chốn luyện hình, và đưa các linh hồn vào hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên Thiên đàng, được “chiêm ngưỡng vinh quang của Chúa Cha.” Và chúng ta cũng cầu xin Chúa, qua lời cầu bầu của các thánh, nhất là cả Thánh Giuse bổn mạng giáo xứ, và các thánh tử đạo Việt Nam, giúp chúng ta cố gắng và thành tâm sống chân lý, giới răn “Mến Chúa Yêu Người”, và cũng luôn ý thức và sống hiếu thảo với những người đã qua đời là tổ tiên, ông bà, cha mẹ và những người thân thuộc đã qua đời. Xin cho ánh sáng tình yêu của Chúa chiếu soi vào các linh hồn. Amen.
Con người có tổ có tông, như cây có cội như nước có nguồn, đó là câu ca dao mà từ tấm bé ai cũng đã nghe, còn sống tâm tình uống nước nhớ nguồn hay làm con phải hiếu, thì cả thế giới luôn được mời gọi để cùng nhau sống đạo hiếu ấy. Không ai thờ cha kính mẹ bằng môi miệng, vì thế mà khi các ngài còn sống, con cháu thăm hỏi, lúc qua đời có bàn thờ tổ tiên, có di ảnh ông bà hoặc cha mẹ. Tới nghĩa trang mộ phần của các ngài sạch đẹp lại còn có hoa tươi nhất là những ngày đầu tháng 11 này…… Đó có phải là tình cha nghĩa mẹ đong đầy trong con không ? Dĩ nhiên lòng biết ơn đâu thể tính tháng tính ngày, hoặc bằng hình thức phô trương ra bên ngoài. Họp nhau tại nghĩa trang đây, cầu nguyện trong thánh lễ này có phải là sự hiệp thông của những người làm con đang sống tinh thần “nhớ đến cội nguồn” hay không ? Tổ tiên dòng tộc, người thân thì ai ai cũng có, truyền thống sống đạo hiếu tuy khác nhau, nhưng ca dao vẫn nhắc đến một tình yêu thương thật đẹp giống nhau hoàn toàn: cha là núi mẹ là sông, dù ở hoàn cảnh nào, cha mẹ vẫn là bóng mát che chở đời con. Nhiều người vẫn thắc mắc không biết tại sao Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe, Ngài cầu nguyện sốt sắng như thế ? Khi được dân chúng tung hô, khi vừa thực hiện phép lạ Chúa cầu nguyện sốt sáng thì đã đành…? Và nhiều người chúng ta không khỏi thắc mắc, tại sao có rất nhiều các bậc cha mẹ khi còn sống con cái chẳng cho ăn, khi mất mới làm ma cúng tế ! thật đau lòng ! Người xưa nói rằng: bạc tình bạc nghĩa, bạc luôn lối đi…., đó là dấu hiệu của bất hạnh, là hậu quả khổ đau mất mát, sẽ không gì bù lấp nổi, nếu điều ấy xảy ra ngay trong gia đình mình. Kinh nghiệm cho thấy ai chập chững tập đi mà lại không té lên té xuống, ai đạt đến thành công mà lại không từng nếm mùi thất bại ? ai có tình, có hiếu mà lại không nhớ về tổ tiên, đấng bậc sinh thành. Khi nhớ người yêu, lẽ nào người ta lại không sắp xếp công việc để đến gặp gỡ nói chuyện, và hôm nay kính nhớ cha mẹ ông bà lại không đến nghĩa trang linh thiêng này để thắp nhang dâng lễ cầu nguyện cho người thân của mình…. Biết ơn tổ tiên, là dịp để ta sống đức thảo hiếu, cũng là dịp để ta nhớ về mầu nhiệm các thánh cùng thông công, trước ơn gọi Chúa Giêsu là TRUNG TÂM của lịch sử ơn cứu độ. Vì nhờ lời cầu nguyện của Đức Giêsu, mà chúng ta mới biết cầu nguyện là đi sâu vào tâm tình hiệp thông với Thiên Chúa là Cội Nguồn, được Chúa Giêsu hé mở đôi chút cảm nghiệm về hạnh phúc thiên đàng. Đức Giêsu khởi đầu kinh nguyện ấy, với tư cách là Con trong Cha, vừa là Thày dạy, là anh Cả của chúng ta, và cũng là Chúa của kẻ sống và kẻ chết. Nhờ tình yêu chúng ta biết rằng Chúa không chỉ yêu thương trong phạm vi nhỏ hẹp khi xưa dành cho các tông đồ, cho người Do Thái, mà là tất cả chúng ta hôm nay. Chúa cầu nguyện cho những ai đang liên đới tình yêu mến, có thao thức làm môn đệ theo Chúa Giêsu, cho đến tận thế Chúa Giêsu vẫn làm công việc hiệp thông, kêu cầu Chúa Cha cho chúng ta được ở với Ngài. “Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con, thì Con muốn rằng: Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con”. Dù vui sướng hay đau khổ, dù ưu tư hay vô tư, mỗi chúng ta đều được mời gọi duy trì tinh thần uống nước nhớ về cội nguồn, vì chúng ta thuộc về Đức Kitô. Làm sao mà kể hết được công ơn sinh thành của tổ tiên…., tất cả những gì mà ông bà cha mẹ làm cho con cái đều miễn phí, không tính bằng tiền, các ngài chỉ mong sao con cháu tiếp tục duy trì được tình yêu thương. Có kính nhớ, có liên đới với bậc sinh thành thì người ta cũng liên đới và hiệp thông được với Chúa Giêsu là Thầy là Chúa trong Đại gia đình yêu thương. Đạo làm người luôn ý thức chúng ta: “tận cùng của thiện không bằng có hiếu, tận cùng của ác không bằng bất hiếu” ! có hiếu là có đạo, có hiếu người ta mới hiểu được câu ca dao: thờ cha kính mẹ con nào dám quên ! Người xưa cũng có câu: “không thể lấy bụng dạ tiểu nhân để đo tấm lòng người quân tử”, và sống phận làm con, người ta không thể biết ơn các ngài bằng môi miệng, lại không thể báo đáp công ơn sinh thành bằng sự hời hợt giả tạo. “Tháng 11 được gọi là tháng để người Tín hữu sống phận làm con, biết dành thời giờ, công sức, tình yêu thương để kính nhớ tới CÁC LINH HỒN”. Ai trong chúng ta mà chẳng có CỘI NGUỒN, hãy biết tận dụng tháng 11 như là tháng báo hiếu cho TỔ TIÊN, tháng làm việc bác ái cho người đã khuất. Sống chữ hiếu là biết đến chữ đạo của Chúa Giêsu, là nhớ tới lời cầu nguyện mà Chúa đã thưa với Chúa Cha khi xưa, “để Con ở đâu thì chúng cũng ở đó với Con, để tình Cha yêu Con ở trong chúng và Con cũng ở trong chúng nữa”. Vì của lễ, vì tấm lòng thành, hy vọng lời cầu nguyện lúc này, là món quà quý giá nhất mà chúng ta cùng tiến dâng lên Chúa, kính nhớ tới ông bà cha mẹ và người thân yêu của chúng ta. Amen.
Nếu giả như chúng ta phải ra đi vội vàng, tức tưởi, chúng ta sẽ trăn trối lại điều gì? Điều gì khiến chúng ta quan tâm nếu phải dứt bỏ cuộc đời một cách vội vàng? Trong tai nạn máy bay boeing 747 của hãng hàng không Nhật bản vào ngày 12-8-1985 đã khiến 520 người thiệt mạng. Điều đáng nói là phi hành đoàn cũng như hành khách trên chiếc Boeing 747 này biết họ gặp nạn, máy bay của họ không thể điều khiển được và họ còn một ít thời giờ trước khi chết, nên mấy người đã lấy viết ghi lại các lời trăn trối của họ. Trong số này có ông Kawaguchi đã viết được vài điều trăn trở trên cuốn lịch nhỏ như cuốn sổ bỏ túi. Ông viết cho vợ: Thôi, vĩnh biệt! Em hãy thay anh lo lắng săn sóc con cái. Ông khuyên 3 người con, hai gái một trai rằng: Các con phải hòa thuận với nhau, phải cố gắng làm việc và giúp đỡ mẹ. Riêng với cậu con trai út tên Tsuyoshi, ông viết: Cha đặt nhiều hy vọng nơi con. Người thứ hai là kiến trúc sư Kazuo Yoshimura chỉ viết được mấy chữ trên một tấm giấy: Tôi muốn cả gia đình được mạnh khỏe. Người thứ ba là một nhà kinh doanh tên là Masakazu Tamguchi đã viết cho tỉnh Osaka, cho thành phố Min và cho vợ tên là Machiko như sau: Xin nuôi nấng, săn sóc mấy đứa con tôi. Xem điều mà con người quan tâm trước khi chết chính là lo cho người còn sống. Có thể là cha mẹ, là vợ con, là đồng nghiệp, . . . những con người mà họ đang có bổn phận che chở giữ gìn mà nay cái chết đến, họ không còn khả năng bảo vệ người thân yêu. Họ mong rằng những người thân của họ vẫn tiếp tục sống, vẫn tiếp tục được yêu thương, được hạnh phúc. Người ta bảo rằng có người đã không thể nhắm mắt vì họ còn có quá nhiều bổn phận với gia đình và xã hội, và chắc chắn họ không thể nhắm mắt vì còn lo lắng nhiều cho người thân. Hôm nay chúng ta quây quần bên nghĩa trang, nơi những người thân đang an nghĩ. Họ là người đã từng có trách nhiệm với chúng ta. Họ là người đã từng yêu thương chúng ta. Nhưng họ cũng là người đã từng mang đến cho chúng ta vui buồn, hạnh phúc và khổ đau. Dầu khi sống họ đối xử với chúng ta như thế nào thì chắc chắn một điều, trước khi nhắm mắt xuôi tay điều họ quan tâm vẫn là lo lắng cho hạnh phúc của chúng ta. Họ vẫn mong chúng ta được bình yên. Họ vẫn không yên lòng ra đi vì chúng ta vẫn còn đang ở lại. Họ có thể là một người người cha, người mẹ đã từng vỗ về chúng ta, từng ao ước cho chúng ta được sống hạnh phúc. Họ đã từng chung nỗi niềm lo lắng cho con cái cái ăn, cái học, và cả niềm vui trong cuộc sống. Họ dám đánh đổi cả mạng sống mình cho con cái niềm vui. Họ có thể là một người bạn tri kỷ hay trăm năm đã từng cùng với chúng ta chia vui sẻ buồn. Họ cũng từng nuôi ước vọng đi với chúng ta đến tận chân trời để che chở, bảo vệ chúng ta. Họ đã hiến dâng cuộc đời mình cho hạnh phúc của chúng ta. Họ có thể là cha mẹ, anh em vì yếu đuối mà sa vào tội lỗi nên bê tha bổn phận, gây phiền toái cho chúng ta, nhưng có lẽ họ vẫn từng ăn năn sám hối vì đã phụ bạc với chúng ta. Dù là người đã làm chúng ta vui hay buồn thì hôm nay họ vẫn đang cần chúng ta “xin hãy nhớ đến họ”. Nhớ đến họ như xưa khi còn sống chúng ta nhớ đến nhau: có cái ăn, có niềm vui, có nỗi buồn cũng chia sẻ cho nhau, thì hôm nay họ càng cần chúng ta nhớ đến họ để giúp họ vượt qua biển lửa luyện tội để bước vào thiên đàng. Nhớ đến họ để van xin lòng thương xót của Chúa cứu họ khỏi nơi tối tăm luyện tội mà đưa vào ánh sáng tình thương. Tháng 11 thật quý giá. Quý giá vì nó giúp chúng ta nhớ đến nhau. Nhớ đến người quá cố mà lâu nay vì mải miết làm ăn mà ta đã bỏ quên họ. Nhớ đến họ để làm điều gì đó cho họ. Thiết tưởng điều họ cần chính là cầu nguyện cho họ khỏi sự công thẳng của Thiên Chúa và nhất là đền tạ những thiếu sót trong thân phận con người của họ qua những hy sinh, những việc lành phúc đức mà khi xưa họ đã không làm. Họ đang cần những việc lành của chúng ta để đền bù cho những thiếu sót trong bổn phận của họ. Xin cho chúng ta biết dùng tháng 11 như là dịp để làm việc phúc đức thay cho các linh hồn tiên nhân và bạn hữu của chúng ta. Xin nhờ những lời kinh, những việc lành của chúng ta mà Chúa nhân lành xót thương cứu vớt họ. Amen
Có ai đó đã viết rằng: “Mọi thứ rồi cũng qua Cái loa rồi cũng hỏng Nước sôi rồi hết nóng Đắm say rồi thờ ơ Thờ ơ rồi cũng qua Để bắt đầu say đắm Nước lại đun để tắm Loa này thay loa kia Nhớ ngày nào mình còn rất nhỏ bé, thế mà nay đã đi qua nửa đời người. Nhìn những người đi trước họ đã và đang lần lượt từ bỏ dương gian để về cõi trăm năm cuối trời. Nhìn vào biết bao người nổi danh, nổi tiếng thế mà nay cũng vào cõi vĩnh hằng, vì: “Trăm năm còn cò gi đâu Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì” Ôi cuộc đời thật phù du như hoa sớm nở rồi tàn! Có một câu chuyện kể rằng: có một ông vua muốn làm bẽ mặt một vị cận thần của mình vốn nổi tiếng thông thái và tài trí. Ông bảo vị quan nhân lễ hội này hãy mang về một vật mà người đang vui nhìn vào sẽ buồn và người đang buồn nhìn vào chắc chắn sẽ vui. Thời gian cận kề, vị quan buồn bã vì chưa tìm được một món vật như thế, ông liền quyết định đi đến nơi nghèo nhất kinh thành, khi đi ngang qua một lão già bán hàng rong, ông dừng lại và hỏi lão có biết một vật như thế không, ông lão bèn đưa cho vị quan ấy một cái vòng. Vị quan nhìn vào thấy một dòng chữ liền mỉm cười vui sướng. Lễ hội đến, nhà vua hào hứng chắc mẩm rằng tên quan kia sẽ bị một vố bẽ mặc ra trò. Thế nhưng vị quan thông thái ấy ung dung bước vào, cầm theo cái vòng đưa cho nhà vua trước sự ngơ ngác của hết thảy mọi người. Nhà vua hồ nghi, cầm cái vòng lên, nụ cười trên môi, sự hào hứng lập tức tan biến. Thật sự trên đời có tồn tại thứ ấy. Thứ mà người đang vui nhìn vào sẽ buồn và người đang buồn nhìn vào sẽ vui. Chiếc vòng với dòng chữ “Mọi việc rồi sẽ qua.” Mọi sự rồi sẽ qua đi. Nghe qua sao bẽ bàng! Thế mà nó lại là một sự thật, một chân lý về cuộc sống. Sum họp rồi tan. Như hơi nước kết thành mây rồi cũng rã tan thành cơn mưa giông hòa biến trong không gian. Như cánh hoa rực rỡ mấy rồi cũng khô héo tàn lụi. Cuộc đời con người rồi cũng sẽ qua đi. Không ai ở mãi dương gian. Có sinh, có tử. Có hiện hữu có tan đi. Cho dẫu con người đã cất công tìm kiếm cây thuốc trường sinh nhưng cho đến hôm nay vẫn hão huyền, vô vọng! Nếu cuộc đời này rồi sẽ qua đi, vậy ta sống ở đời này để làm gì? Chắc chắn Thiên Chúa không dựng chúng ta hiện hữu một cách vô tình như cây cỏ. Thiên Chúa càng không dựng chúng ta nên một vật sớm nở rồi tàn như vạn vật. Ngài dựng chúng ta giống hình ảnh Ngài. Ngài cho chúng ta tham dự vào sự sống vĩnh hằng như Ngài. Thế nên, cuộc sống của chúng ta phải là cuộc sống tìm kiếm Ngài và ở trong Ngài. Đừng đánh mất Ngài trong cuộc sống. Đừng quay lưng lại với Ngài chỉ vì những vinh hoa phú quý trần gian. Nhìn vào những người đang nằm dưới các nấm mồ cho chúng ta hiểu rằng: “mọi sự rồi sẽ qua đi”, nhưng sự qua đi này lại dẫn chúng ta về với Đấng tạo thành, về với Đấng trường sinh bất tử, về với cội nguồn sự sống của chúng ta. Thế nên, điều quan yếu là chúng ta phải tìm kiếm Ngài trong cuộc đời. Đừng tìm kiếm những danh lợi thú mau qua mà đánh mất Ngài. Hãy ở lại trong Ngài nơi cuộc sống dương gian để Ngài cho chúng ta ở với Ngài nơi thiên quốc sau cuộc sống tạm bợ nơi dương gian. Nhưng đáng tiếc có rất nhiều người đã cố tình đánh mất Ngài để bám vào đồng tiền, vào danh vọng, vào lạc thú. Họ đã vì tiền mà bỏ đạo. Vì danh vọng mà quay lưng lại với Đấng tạo thành. Vì lạc thú mà phản bội với tình yêu của Ngài. Họ quên rằng “mọi sự rồi cũng qua đi” nên vẫn cố bám vào những cái phù du mau qua. Danh lợi thú chỉ như áng mây bay qua cuộc đời, rồi tan biến chỉ còn lại mình phải đối diện với Đấng tạo thành. Hôm nay ngày lễ các đẳng linh hồn, là dịp để chúng ta nghĩ về thân phận mỏng dòn của mình để sống cho có ý nghĩa. Đồng thời cũng là dịp để chúng ta làm một nghĩa cử cao đẹp cho những người đã khuất. Nghĩa cử mà họ đang cần chúng ta không phải là mâm cao cỗ đầy mà là những lời kinh nguyện, những hy sinh, những việc bác ái mà khi còn sống họ đã thiếu sót với Thiên Chúa và với tha nhân. Hôm nay họ đã bị phiến đá ngàn năm đè bẹp khiến họ không thể làm điều mà họ muốn làm. Họ cần đến chúng ta hãy vì yêu thương mà làm thay cho họ. Hãy cứu độ họ bằng hiến tế mà chúng ta tham dự hằng ngày. Vì: Cuộc sống bon chen họ đã quên thờ phượng Chúa thì nay nhờ thánh lễ chuộc tội của Chúa Giê-su, chúng ta xin đền bù những thiếu sót của họ. Cuộc sống mưu sinh mà họ đã từng lỗi công bình bác ái với tha nhân, thì nay chúng ta hãy làm một việc bác ái nào đó để đền bù lỗi lầm cho họ. Những cuốn hút của danh lợi thú đã khiến họ lao vào vòng xoáy của tiền, tình, quyền mà thiếu sót bổn phận với gia đình, thì nay chúng ta dâng hy sinh việc lành phúc đức để đền bù cho họ. Mỗi người chúng ta đều có những người thân đã khuất. Mỗi người chúng ta đều cảm thấy những người thân của chúng ta đang cần chúng ta cứu vớt họ. Xin cho chúng ta biết dùng tháng các linh hồn này để cứu độ các linh hồn. Ước gì đây là dịp để chúng ta báo hiếu ông bà tổ tiên và quảng đại với anh em qua cầu nguyện, dâng lễ và thực thi bác ái cho các đẳng linh hồn. Amen
Trong bài hát “Nối vòng tay lớn”, Trịnh Công Sơn nói lên niềm vui của ngày gặp gỡ những người thân xa cách nhau lâu năm nay được gặp lại. Theo cái nhìn của tác giả, niềm vui gặp gỡ này không chỉ là cuộc gặp gỡ giữa những con người, mà còn là cuộc nối kết hồn thiêng sông núi, cuộc nối kết giữa người chết với người sống , ông viết rằng: “Người chết nối linh thiêng vào đời và mụ cười nở trên môi”. Quan điểm của tác giả họ Trịnh phát xuất từ một niềm tin nằm sâu trong mỗi con người, đặc biệt người Việt Nam tin rằng: Thác là thể phách còn là tinh anh. Phần chết chỉ là thể phách, là cái xác bên ngoài, phần tinh anh chính là phần còn tồn tại mãi mãi. Cái tinh anh ấy chính là phần hồn trong mỗi con người. Thưa quý OBACE, chỉ có những người vô thần, vô đạo mới là những người tuyên bố rằng chết là hết, họ là những kẻ không tin sự hiện diện của phần thiêng liêng trong con người mà chúng ta gọi là linh hồn. Nếu chết là dấu chấm hết theo như người vô thần, thì cuộc sống của con người chẳng khác chi con vật, chỉ biết ăn, tranh giành, rồi chết. Nếu con người chỉ có như thế thì việc tưởng nhớ cầu nguyện cho người đã qua đời sẽ chẳng có ý nghĩa gì. Họp nhau nơi đây trong ngày cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, chúng ta cùng với Giáo Hội tuyên xưng niềm tin của chúng ta về sự sống đời sau, về sự liên đới hiệp thông của các thành phần trong Giáo Hội, gồm các thánh, những người đã hoàn tất tốt đẹp cuộc đời, các linh hồn còn đang phải thanh luyện và những người còn đang chiến đấu trên hành trinh trần thế ; đồng thời nhắc mỗi chúng ta bổn phận thảo hiếu, biết ơn đối với các bậc tiền nhân, những người đã ra đi trước chúng ta. Niềm tin vào sự sống đời sau là niềm tin đã được Thiên Chúa đặt để trong con người. Từ những dân tộc thiểu số trên núi, trên rừng hoặc những người thổ dân vùng rừng sâu nước độc tại Châu Phi, Nam Mỹ cho đến những người văn minh, đều tin rằng con người có một phần linh thiêng bất tử mà người ta gọi là hồn. Khi hồn không còn kết hợp với xác, thì xác chỉ còn là xác chết. Đối với người Kitô hữu, chúng ta được dạy rằng: Con người là do Thiên Chúa tạo dựng, xác được tạo dựng từ vật chất, còn linh hồn thì do Thiên Chúa trực tiếp dựng nên và trao ban cho mỗi người. Xác là vật chất, nên phải theo quy luật của vật chất, tức là quy luật sinh tử, còn linh hồn là phần thiêng do Thiên Chúa trao ban, nên linh hồn là bất tử. Con người được Thiên Chúa đưa vào trần gian, và đến một ngày Thiên Chúa muốn, con người sẽ phải từ giã trần gian để trở về với cội nguồn của mình là Thiên Chúa qua ngưỡng cửa của sự chết. Vì thế, chết là một cuộc trở về với Thiên Chúa. Cuộc trở về này là một cuộc trở về trong hân hoan hay trong sợ hãi, điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào sự chọn lựa của con người khi còn sống. Nếu hôm nay chúng ta chọn lựa Thiên Chúa, thì ngày trở về, chúng ta sẽ được gặp Thiên Chúa ; trái lại, nếu hôm nay chúng ta từ chối Thiên Chúa, thì ngày trở về, chúng ta không thể gặp được Ngài. Hơn thế nữa, giáo lý Công Giáo cũng chỉ cho chúng ta thấy: Cái chết cũng chỉ là một giai đoạn tạm thời và nó không phải là điểm cuối cùng, mà sự sống mới là điểm cuối cùng. Chết là thời gian thanh luyện chuẩn bị cho ngày tất cả chúng ta sẽ được sống lại để trình diện Thiên Chúa. Người lành sẽ được hạnh phúc, còn kẻ dữ thì bị án phạt đời đời. Đó cũng là niềm tin mà ông Gióp tuyên xưng một cách chắc chắn: Tôi biết rằng Đấng Cứu độ tôi hằng sống, và ngày sau hết tôi sẽ từ bụi đất sống lại và trong xác thịt tôi, tôi sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa của tôi, và chính mắt tôi sẽ được nhìn ngắm Ngài. Sự chết có thể lấy đi tất cả mọi sự của con người, nhưng có một điều nó không thể lấy mất của con người, đó là tình yêu và sự hiệp thông. Chính tình yêu và sự hiệp thông làm cho người chết và người sống trở nên gần gũi, gắn bó với nhau. Trong Giáo Hội, sự gần gũi, gắn bó này được gọi là mầu nhiệm Các Thánh cùng thông công. Tức là những người đã được hưởng hạnh phúc bên Thiên Chúa, gọi là các thánh và những kẻ còn ở trần gian và các linh hồn có sự hiệp thông ân sủng với nhau. Mỗi thành phần vẫn có thể liên đời với nhau bằng lời cầu nguyện, bằng sự chia sẻ, sự hy sinh và ân sủng mà Thiên Chúa ban cho. Các Thánh chuyển cầu cùng Chúa cho những người còn sống, những người còn sống thì làm nhiều việc lành hy sinh cũng như cầu nguyện cho các linh hồn, và các linh hồn trong khi đang thanh luyện vẫn có thể cầu xin cùng Chúa cho chúng ta. Niềm tin này được đặt trong niềm tin vào Đức Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng Cứu độ và được bảo đảm chắc chắn bởi chính Đức Giêsu, Đấng đã mạc khải cho chúng ta, khi Ngài khẳng định rằng: Tất cả những kẻ Chúa Cha đã ban cho tôi, thì sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, thì sẽ không bị loại ra ngoài… và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Chính từ tình yêu và sự hiệp thông mà hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội dành trọn một tháng để nhắc nhở mỗi người hãy nhớ đến những người đã qua đời, hãy làm phong phú tình yêu và sự hiệp thông ngay hôm nay ; đồng thời cũng cảm nhận được tình yêu mà những người thân và những người chung quanh dành cho ta bằng lời cầu nguyện, sự thảo hiếu và lòng biết ơn. Nhớ đến những người đã qua đời là bày tỏ lòng biết ơn, dâng lời cầu nguyện cho họ. Những người đó có thể là ông bà cha mẹ, là vợ chồng con cái, là bạn bè hoặc những người thân quen mà chúng ta có dịp gặp gỡ. Đứng bên nấm mồ của người thân gợi lên cho chúng ta những tâm tình, những cảm xúc khác nhau. Có thể là sự tiếc nuối vì biết bao điều tốt đẹp đáng lẽ ta có thể làm cho người thân, nhưng ta chưa kịp làm ; đáng lẽ ta có thể yêu thương nhiều hơn, tha thứ thông cảm cho người thân nhiều hơn, nhưng ta đã không làm, mà nay không còn cơ hội nữa. Đứng bên phần mộ của người thân còn có cả sự hối hận và những giọt nước mắt muộn màng, vì khi người thân còn sống, ta đã đối xử quá tệ bạc hoặc thiếu trách nhiệm với người thân thương. Tất cả những tiếc nuối đó sẽ chẳng bao giờ chúng ta có cơ hội để làm lại, nhưng có một điều chúng ta có thể làm là cầu nguyện, làm nhiều việc tốt, việc hy sinh cho những người thân đã qua đời ; đồng thời hãy sống tốt, cử xử thật tốt, thật đầy tràn yêu thương với ông bà cha mẹ, vợ chồng khi họ còn đang sống bên chúng ta, để khi họ ra đi, chúng ta không phải hối hận vì chưa kịp làm gì cho nhau. Chúng ta thể hiện lòng biết ơn đối với người thân, ông bà cha mẹ qua việc chúng ta xây mồ yên mả đẹp cho các Ngài, dâng lễ cầu nguyện cho các Ngài. Thế nhưng, không thiếu những ngôi mộ rất đẹp, rất mắc tiền mà con cái hoặc những người còn sống làm cho người đã chết, nhưng rồi sau đó, người còn sống không bao giờ nhớ đến người thân và cũng không mấy khi ra thăm ngôi mộ đó nữa, người ta gọi đó là chôn lần thứ hai. Việc xây mồ mả cho ông bà tổ tiên là việc làm tốt, nhưng việc làm tốt hơn là hãy bày tỏ lòng biết ơn ngay khi ông bà cha mẹ còn sống. Hãy yêu thương, chăm sóc ông bà cha mẹ bằng cả trái tim và tình yêu, với lòng hiếu thảo biết ơn, dù các ngài có thay tính đổi nết, dù các ngài đau lâu ốm dài. Đừng bao giờ có những lời nói, cách cư xử gây đau lòng, tủi thân cho các ngài ; đừng bao giờ khinh thường, hắt hủi và vô lễ với các ngài. Vì sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đấy, hôm nay chúng ta cư xử với mẹ cha thế nào, thì sau này, con cái chúng ta cũng sẽ cư xử với chúng ta giống như thế. Vì vậy, ngay khi cha mẹ còn sống, hãy cố gắng yêu thương, thông cảm và làm cho tuổi già các ngài được hạnh phúc. Đứng trong nghĩa trang những ngày cuối năm này để mỗi người rút ra được những cảm nghiệm cho riêng mình, để thấy cuộc đời con người chóng qua như cỏ, như bông hoa nở trong cánh đồng, một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi, nơi nó mọc, cũng không còn mang vết tích.. Mới ngày nào còn sống bên nhau, mà giờ đây âm dương cách biệt, mới ngày nào ngang dọc một thời, bao nhiêu dự định, bao nhiêu tính toán, bao nhiêu đất đai tài sản, vui buồn giận hờn… thế mà giờ đây, tất cả đều im lặng dưới nấm mồ và đất thánh này mới thực sư là điểm hẹn của tất cả mỗi người. Nhìn thấy như thế, để ngay từ hôm nay, mỗi người hãy biết loại bỏ những giành giật tranh chấp, loại bỏ những thù oán vụn vặt, để biết sống yêu thương hơn. Hãy sử dụng tốt cuộc sống hiện tại để làm giàu tình yêu thương hơn là làm giàu của cải, vì cuộc đời như nước chảy hoa trôi, chỉ có tình thương để lại đời. Nhớ đến ông bà tổ tiên không chỉ trong tháng này, mà mỗi ngày, trong gia đình, hãy thể hiện lòng biết ơn bằng cách làm cho gia đình mình thêm ấm cúng hơn, duy trì và bồi đắp, làm cho gia sản tinh thần và đạo đức của tổ tiên để lại được phát triển tốt đẹp hơn nữa. Anh chị em trong gia đình hãy sống yêu thương, bác ái với nhau, đừng vì một vài tấc đất, một vài viên gạch mà làm mất đi tình anh em ruột thịt. Hãy dành những giờ kinh tối sớm mỗi ngày trong gia đình để nhắc nhở cho con cháu, giáo dục con cháu lòng thảo hiếu, biết ơn tổ tiên ông bà qua việc đọc kinh cầu nguyện. Mỗi người, mỗi gia đình thực hiện như thế, chúng ta sẽ giữ gìn được nề nếp gia phong của gia đình, đồng thời cũng thể hiện niềm tin của mình vào mầu nhiệm các thánh cùng thông công mà chúng tuyên xưng. Amen
Tháng Mười Một được Giáo hội dành riêng để chúng ta nỗ lực chân thành cầu cho các linh hồn nơi Luyện Hình, dịp tốt để thể hiện đức ái Kitô giáo, thể hiện lòng thương xót với người khác và thể hiện tính liên kết của tinh thần “các thánh cùng thông công”. Tháng Cầu Hồn tím rịm nỗi nhớ thương, khói nhang trầm buồn, nhưng những ánh nến vẫn lung linh niềm hy vọng, tất cả nỗi buồn thương chợt hóa thành niềm hạnh phúc vô thường. Hằng năm, những ngày này có biết bao linh hồn được giải thoát – trong đó có những người thân của mỗi chúng ta nữa. Rồi các ngài bay thẳng về Thiên Quốc hợp đoàn cùng các thánh, cùng được diện kiến Tôn Nhan Thiên Chúa và đời đời chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi. Khi cầu nguyện, người ta thường cầu cho các linh hồn mồ côi. Thiết nghĩ chẳng có linh hồn nào mồ côi. Có lẽ chữ mồ côi chúng ta hiểu theo phần đời, vì có những người mồ côi theo nghĩa nào đó, có thể họ bị hất hủi, bị bỏ rơi, cô thân, đơn độc. Nhưng về tâm linh, không linh hồn nào mồ côi – kể cả các linh hồn thai nhi. Tại sao? Hằng ngày, trong mọi giờ kinh, đặc biệt là các Thánh Lễ, Giáo hội luôn cầu cho tất cả các linh hồn – thậm chí cầu cho cả người còn sống. Tính liên đới của Giáo hội thật tuyệt vời! Còn nữa, mỗi khi lần Chuỗi Mân Côi, chúng ta luôn cầu xin nhiều lần: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con, xin đưa các linh hồn lên Thiên Đàng, nhất là những linh hồn cần đến Lòng Chúa Thương Xót hơn”. Cuối giờ kinh, chúng ta cũng thường đọc Kinh Vực Sâu để cầu cho các linh hồn, tức là không phân biệt linh hồn thân quen hay xa lạ, bất kỳ dân tộc nào. Tại các cộng đoàn tu trì, các giờ Kinh Nhật Tụng (Thần Tụng, Thần Vụ) đều cầu cho các linh hồn. Vâng, không hề có linh hồn mồ côi như chúng ta tưởng. Có sinh thì có tử. Vì phạm tội mà con người phải chết. Quy luật muôn thuở. Chết là nỗi buồn kinh khủng của con người, là thất bại lớn nhất của con người. Nhưng nỗi u sầu đó trở thành niềm hy vọng đối với những ai tin vào Đức Kitô. Thánh Phaolô đặt vấn đề và giải thích: “Khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6:3-4). Vâng, như vậy cái chết không phải là “dấu chấm hết”, mà chỉ là “dấu phẩy”, là bước chuyển tiếp sang cuộc sống mới vĩnh hằng. Thánh Phanxicô Assisi xác định: “Chết là sống muôn đời” (Kinh Hòa Bình). Sự thật kỳ diệu vậy ư? Đúng và chắc chắn như thế. Thánh Phaolô phân tích: “Vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, chúng ta cũng sẽ nên một với Người nhờ được sống lại như Người đã sống lại. Con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa. Quả thế, ai đã chết thì thoát khỏi quyền của tội lỗi” (Rm 6:5-7). Chết là giải thoát khỏi đau khổ, hoàn toàn có lợi cho chúng ta. Triết lý tâm linh này không hề dễ hiểu nếu không có niềm tin Kitô giáo. Thánh Phaolô định tín: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rằng: một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người” (Rm 6:8-9). Tử thần chính là ma quỷ. Đoàn âm binh của tướng Luxiphe đành thúc thủ, vì thế chúng cố vùng vẫy như con giun oằn khi bị đạp, như con rắn tìm cách cắn gót chân Đức Maria. Và rồi chúng tìm cách cám dỗ phàm nhân theo phe chúng. Nhưng cuối cùng, chắc chắn chúng sẽ hoàn toàn thất bại. Cầu cho các linh hồn là dịp để chúng ta nhìn lại thân phận mình mà chấn chỉnh Đức Tin. Có Chúa là có tất cả: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì” (Tv 23:1). Tất cả đều sẵn sàng như tác giả Thánh Vịnh đã xác nhận: “Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” (Tv 23:2-3). Thiên Chúa là Chúa Tể càn khôn, chí minh và chí thiện, nơi Ngài chỉ có những gì thánh thiện nhất. Do đó, Ngài cũng chỉ làm những gì tốt lành mà thôi. Sự xấu có xảy ra với chúng ta là TẠI CHÚNG TA! Có được Vị Chúa như vậy thì thật hạnh phúc, chẳng còn gì phải lo nữa.: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23:4-6). Cô Mác-ta là người đại diện cho cả nhân loại ghi nhận lời hứa của Đức Giêsu Kitô: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11:25-26). Chúng ta may mắn là những người đã tin Ngài, vấn đề còn lại là chúng ta phải cố gắng trung tín với Ngài cho tới hơi thở cuối cùng, dù hoàn cảnh có thế nào. Để có được sự sống đó, chúng ta phải có Bánh Hằng Sống. Đúng như Chúa Giêsu đã nói: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống” (Mt 6:51). Khi nghe nói vậy, người Do-thái liền tranh luận sôi nổi với nhau vì lời đó không bình thường, khiến họ chói tai. Họ không thể hiểu được Chúa Giêsu có thể cho chúng ta ăn thịt Ngài. Họ không tin vì họ hiểu theo cách thức của phàm nhân. Bình thường thì đúng là không ai ăn thịt hoặc uống máu người, nhưng họ đâu biết rằng với Thiên Chúa thì mọi thứ đều có thể. Và Chúa Giêsu tái xác định với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống” (Mt 6:52-55). Chúa Giêsu biết điều Ngài nói rất khó hiểu với phàm nhân, thậm chí là không thể hiểu, thế nên Ngài giải thích chi tiết hơn: “Ai ăn thịt và uống máu tôi thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào thì kẻ ăn tôi cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (Mt 6:56-58). Hôm đó, chắc chắn cả hội đường Ca-phác-na-um rất ồn ào vì người ta xôn xao bàn tán. Nhưng sự thật vẫn mãi mãi là sự thật. Nếu chúng ta hiện diện lúc đó, chúng ta cũng chẳng hơn gì người Do-thái, nhưng thật may vì chúng ta là hậu duệ, được truyền lại đức tin được kiểm chứng lâu đời. Các linh hồn nơi Luyện Hình là những người đã từng được ăn Bánh Trường Sinh, Bánh Giêsu, các linh hồn đó sẽ có ngày được sống đời đời sau khi được thanh luyện cho xứng đáng với Thiên Chúa chí thiện. Nhân vô thập toàn, mấy ai vô tội đâu! Có một loài hoa nhỏ có màu tím buồn: Forget-me-not, Việt ngữ gọi là Lưu Ly Thảo. Ý nghĩa của loài hoa này nói về sự chung thủy của tình yêu đôi lứa. Nhưng với người Công giáo, nó mang một ý nghĩa khác, đặc biệt trong Tháng Cầu Hồn này. Vâng, Lưu Ly Thảo đang nhắc nhở chúng ta về lời kêu cứu tha thiết của các linh hồn nơi Luyện Hình: “Forget-me-not – Xin đừng quên tôi!”. Khi cầu nguyện cho họ thì lại là chính cầu nguyện cho chúng ta. Đúng như Thánh Phanxicô Assisi nói: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”. Các linh hồn không tự “cải thiện” mức án, nhưng các ngài vẫn có thể cầu nguyện cho chúng ta. Hy vọng mai đây mỗi chúng ta cũng được phân loại là “chiên” và được nghe Chúa nói: “Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh nhận phần gia nghiệp Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ” (Ga 11:25-26). Tháng Mười Một, chúng ta cùng nhau nhớ lại tâm sự của Thánh Faustina: “Tôi bị thiêu đốt trong lòng bằng lửa yêu mến Chúa và muốn cứu các linh hồn mà tôi cảm thấy mình bị thiêu đốt. Tôi sẽ chiến đấu với ma quỷ bằng Vũ khí Lòng Chúa Thương Xót. Tôi khao khát cháy bỏng là cứu các linh hồn. Tôi đi xuyên qua sức mạnh và hơi thở của thế giới và mạo hiểm đến nỗi các biên giới và các vùng đất hoang vu nhất để cứu các linh hồn. Tôi làm điều này bằng cách cầu nguyện và hy sinh” (Nhật Ký, số 754). Tình yêu lớn lao quá! Có Chúa là có tất cả, Ngài là Alpha và Omega, là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và Tận Cùng (Kh 1:8; Kh 21:6; Kh 22:13). Ước gì chúng ta nói được như Thánh Thomas Aquino, Tiến sĩ Giáo hội: “Lạy Chúa, con chỉ muốn Ngài mà thôi”. Đó mới chính là phần thưởng cao quý nhất và tuyệt vời nhất của chúng ta. Lạy Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, vì cuộc khổ nạn đau thương và máu của Đức Kitô, xin thương tha thứ và cho các linh hồn sớm về hưởng phúc trường sinh muôn đời. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
Trong ca khúc “Diễm xưa”, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết một câu rất triết lý: “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau…”. Tại sao sỏi đá lại cần có nhau? Có lần ghé thăm Chùa Hang ở Long Hương, tôi tình cờ “khám phá” ra ý nghĩa những ca từ đó. Sỏi và đá không cân xứng nhau chút nào. Đá lớn, sỏi nhỏ. Những viên sỏi nhỏ phải cần tựa vào tảng đá lớn chứ. Nhưng thật lạ lùng, những tảng đá dù lớn cũng cần đến những viên đá nhỏ chèn bên dưới chân để nó vững vàng với thời gian. Đôi khi tảng đá lớn cần điểm tựa nơi viên sỏi nhỏ để đứng vững. Một dáng đá đẹp cũng cần những viên đá nhỏ đỡ nâng. Như thế, để tồn tại, sỏi đá cũng cần có nhau. “Sỏi đá cũng cần có nhau”, phương chi là con người. Người với người sống để yêu nhau. Người sống và người chết cũng luôn cần có nhau. Mầu Nhiệm Hội Thánh Thông Công là một trong những mầu nhiệm đẹp của tình yêu. Tháng 11 đã về. Người sống nhớ đến những người đã an nghĩ, hiệp thông cầu nguyện, dâng những hy sinh hãm mình, những việc bác ái như là nghĩa cử biểu lộ lòng yêu thương đối với người đã khuất với tình hiệp thông trong Nhiệm Thể Chúa Kitô. Mỗi khi dâng lễ, đọc “Kinh nguyện Thánh Thể III”, tôi cảm nhận đây là kinh nguyện hiệp thông sâu xa của Đại Gia Đình Hội Thánh vinh thắng, lữ hành và thanh luyện: “Lạy Chúa, chúng con nguyện xin Của Lễ hoà giải này đem lại bình an và cứu độ cho tất cả thế giới. Xin thương ban cho Hội Thánh Chúa trên đường lữ thứ trần gian được vững mạnh trong đức tin và đức mến, cùng với tôi tớ Chúa là Đức Giáo Hoàng …và Đức Giám Mục… chúng con, cùng toàn thể hàng Giám Mục và giáo sĩ khắp nơi, và tất cả dân riêng Chúa. Xin Chúa thương nhậm lời cầu của gia đình mà Chúa đã muốn tụ họp trước tôn nhan Chúa đây. Lạy Cha nhân từ, xin thương đoàn tụ mọi con cái Cha đang tản mác khắp nơi về với Cha. Xin Cha thương đến anh chị em chúng con đã ly trần và mọi người, đặc biệt các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ và thân bằng quyến thuộc chúng con đã sống đẹp lòng Cha mà nay đã lìa cõi thế. Xin thương nhận hết thảy vào nước Cha, nơi chúng con hy vọng sẽ tới để cùng nhau tận hưởng vinh quang Cha muôn đời, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con, nhờ Người, Cha rộng ban muôn ơn lành cho thế gian. “. Lời kinh tuyệt đẹp, trọn vẹn trong tình yêu hiệp thông. Giáo hội mở kho tàng ân xá là công nghiệp của Các Thánh để nhường cho các linh hồn nơi luyện tội. Giáo hội khuyến khích tín hữu dâng lễ, lần chuỗi, viếng thăm các nghĩa trang, tảo mộ, cầu nguyện cho các linh hồn. Đó là sự hiệp thông trong đức tin, trong bí tích, trong đức ái, trong cầu nguyện và là mối hiệp thông mật thiết trong đại gia đình Giáo hội. Trong tương quan “cũng cần có nhau”, đặc biệt là với những người đã qua đời, Kitô hữu được gọi là người “tận tình với sự chết, nhiệt tình với sự sống”. Mỗi khi thắp nén nhang trên phần mộ người chết, nhìn theo làn khói nhẹ toả bay, ta cũng nâng tâm hồn lên tới Chúa là nguồn sự sống. Mỗi khi đặt bó hoa tươi trên phần mộ người thân yêu, ta thấy được mùa xuân vĩnh cửu đang bừng lên từ khắp những nấm mồ chung quanh. Hương khói và những ngọn nến lung linh. Một bầu khí tĩnh mịch trầm lắng và thánh thiện nơi nghĩa trang. Cảnh vắng lặng của một thế giới đang tan thành bụi đất như đang nói về sự rũ bỏ những vướng víu để đạt tới thành toàn viên mãn. Vài người thắp nến trên phần mộ người thân thương, ánh sáng toả ra một vùng nhỏ,toả vào ký ức nhớ những người thân đã khuất bóng.Gia đình cùng đọc kinh rồi im lặng để hình ảnh người đã khuất hiện dần lên trong trí nhớ. Những kỷ niệm lung linh nhập nhoà, bởi hình hài thể phách vật chất không còn nữa. Nghĩa trang là thế giới của tan rã, chỉ có bụi đất và cỏ cây. Những người chết không còn nói năng,ăn uống,đi đứng, cảm xúc,nghĩ ngợi, nổi niềm, không ham muốn, không lo âu, không hoạch định, không gắng sức. Họ đã bước vào cõi đời đời sau khi đã đi qua thế giới hữu hạn. Họ trải qua mùa đông ảm đạm của sự chết để đi vào mùa xuân vĩnh cửu của sự sống thiên quốc. Như hạt lúa gieo xuống lòng đất tuy có bị thối đi, nhưng chính từ trong hạt giống mục nát, một cây lúa mới mọc lên (Ga 12, 24). Con người cũng vậy, chỉ có thể bước vào sự sống đời đời qua ngưỡng cửa sự chết. Chết là điều kiện để triển nở và thành toàn.Chết là một sự thay đổi cách thái hiện hữu ở một mức độ sung mãn hơn. Cuộc sống đời này và mọi sự trong đó chỉ là tạm bợ và tất cả sẽ qua đi, để hướng đến đích điểm của nó. Tiến trình qua đi và hướng đến này được thực hiện bằng sự chết đi – sống lại liên tục trong chính sự sống của vạn vật và con người, trên phương diện vật chất cũng như tinh thần. Trong đó, định hướng thành toàn thì luôn luôn bền vững, nhưng phương cách biến chuyển để thành toàn thì luôn thay đổi. Thường tình, phải có mùa đông giá lạnh, mới tới được mùa xuân ấm áp.Thường tình, lá cũ phải rụng xuống, mới nảy sinh ra mầm non. Cũng vậy, phải có những khổ đau, phải có sự chết mới có sự sống lại: “Ai yêu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.” (Ga 12, 25). Trong mạch thời gian, sự sống và cái chết đổi chỗ lẫn nhau. Sự sống thay đổi chứ không mất đi. Chúa Giêsu đã đưa ra một chiều kích hiện sinh mới, mở ra cho nhân loại con đường tiến tới chân lý sự sống bằng sự chết mà Người đã thực hiện. Cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa đã làm cho mọi cái chết trở thành Tin Mừng của sự sống. Sự sống mới trong Chúa Kitô sẽ không còn bóng dáng của Thần Chết. Con người thoát khỏi quy luật thông thường của lẽ tử sinh. Toàn bộ con người cả xác lẫn hồn được sống lại. Thân xác tuy đã tan thành tro bụi theo thời gian, nhưng sẽ được biến đổi cách kỳ diệu để chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với linh hồn. Bởi vì: “Ðức Chúa là Thiên Chúa của Tổ phụ Ápraham, Thiên Chúa của tổ phụ Ixaác và Thiên Chúa của tổ phụ Giacóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, đối với Người tất cả đều đang sống”. Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết bằng chính cái chết trên Thập Giá và Người đã Sống Lại để trao ban sự sống mới, sự sống của Ðấng Phục Sinh. Chúa Giêsu đã thắng được những xao xuyến, thắng được những tuyệt vọng. Người đã biến cái hố thẳm hay biển cả mênh mông ngàn trùng xa cách giữa con người và Thiên Chúa thành biển cả tình thương liên kết hiệp nhất Thiên Chúa và loài người. Thập Giá Ðức Kitô trở nên con đường giao hoà và như chiếc thang nối liền trời và đất, kết hợp Thiên Chúa và loài người. Từ nay, yếu tính sự chết đã được biến đổi. Sự chết không còn là tang tóc nữa mà đã trở thành Lễ Vượt Qua để tiến tới Vinh Quang Thiên Quốc. Thánh Phaolô viết: “Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa” (1 Cr 1, 12); “Chúng ta biết rằng: nếu ngôi nhà chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này bị phá hủy đi, thì chúng ta có nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, ngôi nhà vĩnh cữu ở trên trời, không do tay người thế làm ra” (2 Cr 5,1). Những ai có lòng tin sẽ coi đời sống là một cuộc thử thách, đau khổ sẽ qua đi và chính đau khổ sẽ là phương tiện tiến tới vinh quang. Cho đến lúc hồn ta trong hơi thở Vẫn yên vui về cõi chết xa xôi. Và u buồn là những đoá hoa tươi, Và đau khổ là chiến công rực rỡ. (Chế Lan Viên) Tin và sống trong ân tình của Chúa Kitô chính là chiến thắng sự chết, chính là đã mang trong mình mầm sống của sự sống đời đời: “Ai sống và tin vào Thầy thì sẽ không bao giờ chết” ( Ga 11, 26; 1 Ga 3, 14 ). Không bao giờ chết chính là không bao giờ mất sự hiện hữu trong tương quan với Thiên Chúa, không bao giờ mất sự sống trong tương quan ân tình với Người. Niềm tin vào sự sống mai sau đem lại cho nhân loại niềm vui và hy vọng. Niềm tin ấy mang lại ý nghĩa cho cuộc đời và cho mọi sinh hoạt của con người hôm nay. Niềm tin đó thôi thúc mỗi người sống theo Tin Mừng Chúa Giêsu. Niềm hy vọng ấy thôi thúc người đang sống hy sinh cầu nguyện nhiều hơn, siêng năng dâng lễ, làm việc lành phúc đức nhiều hơn trong tháng 11 này để cầu cho những người thân yêu và các tín hữu đã ra đi trước được về quê trời vui hưởng hạnh phúc ngàn thu. Thiên Chúa dựng nên con người để con người được hưởng hạnh phúc đời này và cả đời sau. Sống là một cuộc hành trình tiến về đời sau. Cần có nhau trong cuộc sống và trong niềm tin để giúp nhau đạt đến hạnh phúc viên mãn.
Nhạc sĩ Tôn thất Lập viết một câu rất hay : “Khi nghĩ về một đời người, tôi thường nhớ về một rừng cây”. Tại sao vậy ?. Thưa bởi vì rừng cây là một hình ảnh gần đúng về đời người. Trong một khu rừng có cây non, cây già. Lá cây thì khi xanh khi vàng rồi rụng xuống. Rõ ràng rừng cây là hình ảnh về cuộc đời con người. Đây là một nhận định thực tế. Cuộc đời con người cho dẫu sống đến trăm năm, rồi cũng có lúc phải dừng lại, rồi cũng kết thúc nơi phần mộ. “Trăm năm nào có gì đâu, chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì” (Nguyễn Du). Thánh Âu tinh khi suy nghĩ về sự chết đã gọi sự chết là “thầy”. Thế “thầy sự chết ´sẽ dạy chúng ta những bài học nào ?
1. Thầy dạy sự khôn ngoan như lời Tv 90 (89), 12 : “Xin dạy con biết đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan”. Tuổi đời chúng ta có khi đang được đếm ngược rồi đó ! Sự khôn ngoan dạy cho ta biết rằng đến một lúc nào đó rồi cũng phải dừng lại: “Tính tuổi thọ, trong ngoài bảy chục; mạnh giỏi chăng là được tám mươi” (Tv 90 (89), 10). Hồi xưa tôi thường nghe người ta hát như thế này : “Em ơi, có bao nhiêu, sáu mươi năm cuộc đời”. Nếu câu hát này không đúng với ai thì ít nhất cũng đúng với Oâng cố đây. Ông đã ra đi vào lúc tuổi đời sáu mươi. Còn bài TM Luca diễn tả thật hay : hai môn đệ đi về Emmau, càng đi thì càng đụng phải ánh hoàng hôn và phải dừng lại. Đó phải chăng là hình ảnh về cuộc đời mà Giáo Hội, cách kín đáo, muốn dùng Lời Chúa mà nhắc nhở ta ?.
2. Thầy dạy ta biết kiếp người mong manh Lời của bài hát trong lễ an táng ta thường nghe: “Một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi, nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích”. Vâng, chỉ có Chúa là vĩnh cửu, trường tồn bất diệt, còn con người chỉ như hoa cỏ ngoài đồng, sớm nở tối tàn. 3. Thầy dạy ta hãy tìm kiếm những gì là bất diệt : “Anh em hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát và kẻ trộm không đào ngạch, khoét vách lấy đi” (Mt 6, 20). 4. Thầy dạy ta hãy làm những việc lành phúc đức, như của cải gởi về đời sau. Xin kể một câu chuyện của người Nga, nhan đề “đồng bạc nhân nghĩa”, để kết thúc. Chuyện rằng : “Có nhà phú hộ kia gần chết mà lòng vẫn chỉ nghĩ đến tiền của, một động lực đã thúc đẩy ông lao lực suốt cả cuộc đời. Dùng chút sức tàn còn lại, ông cố gỡ chiếc bao nhỏ đeo giấu ở cổ, lấy chiếc chìa khoá trao cho người tớ gái trung tín nhất, ra dấu chỉ chiếc rương nằm trong góc nhà và bảo cô lấy những túi tiền vàng bỏ vào quan tài của ông. Khi chết xong, ông sống cuộc đời mới ở thế giới bên kia, nơi đó người ta cũng ăn uống và tiêu tiền như trên trần gian vậy. Đứng trước một chiếc bàn dài đầy những cao lương mỹ vị, ông hỏi người bán hàng : “Món hàng này bao nhiêu vậy cô ?”. Cô bán hàng trả lời : “Một xu, thưa ông”. “Thế còn hộp cá mòi kia ?”. “Cũng một xu, thưa ông. Tất cả những thứ được bày bán ở đây, cái nào cũng giá một xu”. Nhà phú hộ thầm nghĩ : “Thế này thì bao giờ mới tiêu cho hết số vàng ta mang theo ”. Ông chọn một đĩa thức ăn lớn với nhiều món ăn ngon nhất, rồi lấy một đồng tiền vàng ra trả, nhưng cô thu tiền không nhận. Cô ta vừa lắc đầu vừa nói : “Thưa ông, ông đã học được quá ít trong cuộc sống”. Nghe thế, nhà phú hộ ngạc nhiên hỏi : “Thế đồng tiền vàng của tôi không đủ trả cho đĩa thức ăn này hay sao ?”. Cô bán hàng trả lời : “Không phải, ở đây, chúng tôi chỉ nhận những đồng tiền mà trong cuộc sống trước đây ở trần gian người ta đã dùng để làm việc lành phúc đức, giúp đỡ những kẻ nghèo khó túng cực mà thôi”.
Khi Chúa Giêsu vừa lên đường, một kinh sư chạy đến thưa với Ngài :”Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin theo”. Đức Giêsu trả lời :”Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu “(Mt 8, 18-220). Chúa Giêsu cho vị kinh sư biết : Ngài không có chỗ ở nhất định, nay đây mai đó. Ngài còn tiết lộ cho biết khi kết thúc cuộc đời Ngài sẽ không có cái giường mà nằm, nếu có giường nằm thì Ngài sẽ có chỗ tựa đầu. Đàng này Ngài không có chỗ tựa đầu tức là không có giường để nằm, Ngài sẽ bị treo trên thập giá, không có chỗ tựa đầu. II. CHIẾC GIƯỜNG CHO GIẤC NGỦ NGẮN HẠN. Không ai trong chúng ta còn lạ với chiếc giường, dù tốt, dù xấu cũng là chiếc giường để nằm ngủ. Ai cũng muốn sắm cho mình một chiếc giường êm, tiện nghi để phục vụ cho giấc ngủ. Người ta thường phàn nàn về cái giường không được êm ái hoặc tiếc nuối giấc ngủ khi đã đến giờ phải trỗi dậy. Cũng nhiều người không tiếc thì giờ, tiền của để trang bị cho cái giường ngủ những tiện nghi cao nhất nơi nó và chung quanh nó. Giấc ngủ là lúc đắp đổi cho thân thể những giờ phút thoải mái sau những giờ mệt nhọc và căng thẳng, và khi ấy, cái giường là phương tiện tốt nhất cho thỏa mãn trên. Khi đã quá mỏi mệt, người ta thường thốt lên :”Tôi chỉ thèm cái giuờng”. Cái giường chỉ là cái chõng tre hay bằng gỗ tạp của người nghèo, hoặc cái giường bằng vàng, bạc hay bằng ngọc ngà của các bậc vua chúa, tựu trung cũng chỉ là phục vụ cho giấc ngủ, giấc ngủ ngắn hạn từ tối đến sáng. III. CHIẾC GIƯỜNG CHO GIẤC NGỦ DÀI HẠN. Hôm nay, tiễn đưa người thân của chúng ta đến nhà thờ lần cuối, rồi đưa vào một “cái giường” với một giấc ngủ của thân xác bình thường, rất lâu để chờ ngày phục sinh, chúng ta cùng suy nghĩ về chỗ ngả lưng dài giấc ngủ này. Và sẽ thấy thật là khiếp sợ và đáng phải chuẩn bị biết là chừng nào ! Một giấc ngủ bình thường, và sự thường, mong cho thư giãn để sáng mai thức dậy, tiếp tục công việc. Giấc ngủ này, chúng ta cũng chuẩn bị rất kỹ : đuổi muỗi, khóa cửa, mở quạt máy, giũ gối, chăn... Chúng ta khó chịu vì vài con muỗi lắm chuyện, cứ vo ve bên tai làm cản trở giấc ngủ. Còn giấc ngủ dài hơn, và cái giường, người khác sẽ chọn cho mình, thì chúng ta hay chểnh mảng, ít sửa soạn. Đó là cỗ quan tài người ta đặt chúng ta vào khi lìa đời. Một giấc ngủ, dầu muốn hay không muốn, làm bạn cùng bụi đất, lạnh lùng và cô đơn ! Không gian chỉ còn bằng đấy, vua chúa hay quan quyền, dầu cái giường đó bằng gỗ qúi hay gỗ thường, bằng vàng bạc hay ngọc thạch đi nữa, tựu trung cũng chỉ là cái giường cho giấc ngủ dài, không hơn không kém và bình đẳng. IV. CHUẨN BỊ CHO GIẤC NGỦ DÀI HẠN. Cuộc đời là một cuộc hành trình đi về quê trời. Ai cũng phải làm cuộc hành trình đó : sinh ra, lớn lên, bệnh tật rồi chết. Như người ta nghĩ , cuộc đời thường phải đi qua 4 giai đoạn đó là : sinh, lão, bệnh, tử. Kết thúc cuộc đời là chết. Nhưng chết rồi sẽ ra sao ? sẽ đi đâu ? Chúng ta hãy nghe thánh Phaolô trả lời cho chúng ta khi ngài nói với tín hữu Phi-lip-phê :”Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng chờ đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta” (Pl 3,20). Ngài còn nói với tín hữu Cô-rin-tô :”Chúng ta biết rằng : nếu ngôi nhà của chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này, bị phá hủy đi, thì chúng ta có một chỗ ở do Thiên Chúa dựng lên, một ngôi nhà vĩnh cửu ở trên trời, không do tay người thế làm ra” (2Cr 5,1) Trong một cuộc hành trình, bao giờ người ta cũng phải chuẩn bị : đi tới đâu, bằng phương tiện gì, mang theo những gì nghĩa là phải có hành trang. Vậy trong cuộc hành trình đi về quê trời ta đã có hành trang gì chưa hay là ra đi với hai bàn tay trắng như thi sĩ nGuyễn công Trứ nói :”Đi không chẳng lẽ lại về không”. Người ra đi với hai bàn tay trắng là một người dại dột. Họ không biết sống để làm gì rồi sao này sẽ ra sao. Truyện : chiếc quan tài ở Tô châu. Tại chùa Tô châu bên Tàu có một nhà sư tên gọi là Viên thủ Trung nổi tiếng là tu hành đắc đạo. Nhà sư thường bầy trên án thư, trước chỗ ngồi, một chiếc quan tài con bằng gỗ bạch đàn, dài độ 3 tấc, có một cái nắp đậy, mở được. Khách đến chơi trông thấy thường tò mò tra hỏi, nhà sư trả lời :”Người ta sống tất có chết, mà chết thì vào ngay cái này. Tôi thực lấy làm lạ, người đời ai cũng chỉ biết phú qúi, công danh, tài sắc thị hiếu, lo buồn, vất vả suốt đời, chẳng biết đến cái chết là gì... Mỗi khi có việc không được như ý, tôi cầm lấy cái quan tài mà ngắm, tức khắc tôi cảm thấy được yên ổn trong tâm hồn ngay. Con người sở dĩ chạy theo tiền tài danh vọng đến độ chà đạp trên người khác là bởi vì con người không nghĩ đến cái chết đang rình rập sau lưng. Khi tử thần xuất hiện, thì con người không kịp mang theo bất cứ một tài sản nào. Cái chết chỉ trở thành đáng sợ khi con người còn quá nhiều dính bén với trần thế này. Trái lại, được ôm ấp suy gẫm mỗi ngày, cái chết sẽ trở thành một người bạn đồng hành giúp con người vượt qua được mọi chán chường, bận tâm thái quá... Trong tất cả mọi sự, người khôn ngoan phải luôn nghĩ đến cùng đích. Hôm nay, trong thánh lễ tiễn đưa người thân của chúng ta, và trong xác phàm, thì không bao giờ gặp lại. Chúng ta cùng suy nghĩ và dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện, để mỗi người mỗi ngày biết lo liệu, trang bị cho mình những sự cần để khi đặt lưng xuống “cái giuờng” sau cùng và lâu dài, thì không gì thiếu sót, quên lẫn. Và lúc đó, chúng ta được ngả vào lòng êm ái của Thiên Chúa, chính Ngài mới là nơi an nghỉ thật, vì Ngài là mục đích thật mà mọi người sẽ phải tới. Lạy Chúa Giêsu, nếu người thân của chúng con đây còn những thiếu sót nào cho việc chuẩn bị giấc ngủ dài của ngày hôm nay, cúi xin Chúa thương tha thứ và ban cho người thân chúng con đây được hưởng lòng nhân từ của Chúa ngay từ bây giờ. Amen. Lm Giuse Đinh lập Liễm Giáo xứ Kim phát - Đà lạt
Giờ tôn vinh là giờ Chúa Giêsu được treo lên. Chúa Giêsu được tôn vinh là vì sự cần thiết tuyệt đối cho ơn cứu rỗi của con người. Sự tôn vinh Chúa Giêsu cũng chính là sự tôn vinh con người trong ơn cứu chuộc :“Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi (Ga 12, 32). Để được tôn vinh, con người cũng phải thông phần vào sự chết với Chúa Giêsu, nghĩa là dám hy sinh chính bản thân mình, qua các bí tích, qua việc chết đi cho chính bản thân. Tiến trình qua đi và hướng đến này được thực hiện bằng sự chết đi - sống lại liên tục (theo từng chu kỳ) trong chính sự sống của vạn vật và con người, trên phương diện vật chất cũng như tinh thần. Trong đó, định hướng thành toàn thì luôn luôn vĩnh cửu, nhưng phương cách biến chuyển để thành toàn thì luôn thay đổi. Vì thế, khi con người bám níu vào bất cứ điều gì thì cũng sẽ tan biến theo điều đó. Con người hữu sinh hữu diệt, hữu thân hữu khổ, bám níu vào đó để rối lao đầu vào cuộc sống hơn thua, bon chen, cào cấu, gom góp mọi thứ vào cho mình, kết cục chính mình cũng đi vào hư vong. Cũng theo qui luật trên, CG nói về sự sống con người : “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”. Nhưng trước khi nói tới sự sống đời đời, chúng ta hãy nói đến sự sống đời này. Sống và chết là qui luật tuần hoàn của muôn loài muôn vật. Chết là một cách để phát sinh sự sống mới, như CG đã nói :“nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều bông hạt khác”. Sự chết như thế là điều kiện nhất thiết để triển nở, là một sự thay đổi cách thái hiện hữu ở một mức độ phong phú và hoàn mỹ hơn. Vấn đề được đặt ra là tại sao tôi phải chấp nhận chết đi để chờ mong một sự sống khác, nói là để sinh nhiều bông hạt ? Điều đó có ích gì khi chính tôi bị tan vỡ ? Chính vì thế mà tôi không muốn chết đi như hạt lúa vô tri. Chẳng thà tôi chấp nhận trơ trọi một mình, tôi chấp nhận cô đơn, để tránh được những phiền lụy đau thương và bất ổn. Vì thế, bằng mọi cách tôi phải giữ lại những gì tôi đang hiện có, sống với những gì tôi đang hiện là. Đó là cách chắc chắn yên ổn nhất cho đời sống tôi, và rồi bao nhiêu con người cũng đang sống như vậy, không có gì phải đặt lại vấn đề. Hôm nay CG đưa ra một cách hiện sinh mới, mở ra cho ta thấy con đường tiến tới chân lý sự sống bằng sự chết mà Ngài sắp thực hiện. Tuy nhiên, hành vi chết dù trong thái độ tinh thần hay trong thân xác cũng đều là hành vi của đau thương, tổn hại, mất mát và làm tan biến chính mình, không dễ dàng chấp nhận chút nào dù biết rằng có một hiệu quả phi thường. Chính Đức Giêsu cũng phải bị nao núng và dao động trước cái chết .: "Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến và biết nói gì? (Ga.12,27). Chúa Giêsu không ngần ngại thố lộ với các môn đệ nỗi xao xuyến và sợ hãi của mình trước cái chết nhục hình. Ngài không làm ra vẻ anh hùng trước một sự hy sinh cao cả, nhưng Ngài thật sự lo âu và bám níu vào lòng Cha yêu thương để tìm thấy sức mạnh với lời tha thiết xan xin : “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này"(Ga.12,27), và rồi Ngài đã can đảm đi vào cuộc cuộc tử nạn, biến cái chết của mình thành lời tôn vinh Thiên Chúa và lời yêu thương con người : “Nhưng chính giờ này mà con đã đến”(Ga.12,27). Điểm quan trọng là ở những giây phút đau thương hay đối mặt với cái chết, Đức Giêsu luôn tha thiết cầu nguyện với Cha và Người dạy chúng ta hãy học kinh nghiệm nơi Người : "Các con hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ" (Lc.22,40). Cầu nguyện không phải là liều thuốc an thần hay giảm đau, cũng không hẳn ngăn chặn được nao núng sợ hãi, nhưng cầu nguyện là thái độ sống thực, sống tin yêu, phó thác. Khi cầu nguyện chúng ta không mong Chúa đổi ý, cứu ta thoát khỏi đau khổ hay sự chết, nhưng cầu nguyện chính là gặp gỡ Chúa với nỗi xao xuyến, giằng co của của con người mỏng giòn yếu đuối của mình, để từ đó ta an tâm bình thản đi vào hiến dâng và xác tìn rằng : “Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa (1Cr 1, 12). Chết không phải là nhảy vào khoảng không vô tận, nhưng ta gieo mình vào cánh tay Thiên Chúa Tình yêu. Nơi Chúa Giêsu tử nạn và phục sinh, đã thành hình một chân lý sự sống cho chúng ta : hy sinh và từ bỏ là điều kiện để nhận lãnh; đau thương và chia lìa là cách thức để tinh luyện; tan biến hay mất đi là nhân tố của sự đổi mới; chết là nguyên nhân xúc tác để làm thành sự sống mới. Dưới cái nhìn này, chúng ta vượt thoát khỏi sự vô minh để sống dưới ánh sáng Chúa chiếu soi, không còn phải quá nặng nề về cuộc sống mình với mọi sự xảy ra trong đó, nhưng luôn an nhiên thanh thản trong mọi tình huống của đời thường, để sống trọn vẹn từng phút giây sống cho Chúa và mọi người. Với tâm tình như thế, chúng ta sẽ nhẹ nhàng đón nhận cái chết như một cuộc biến đổi cuối cùng để đi vào sự phục sinh vinh hiển cùng với Chúa Giêsu, Đấng đã chiến thắng sự chết và tội lỗi, đang đứng đợi chúng ta ở cuối con đường của cuộc sống này.
Tần Thủy Hoàng là một hoàng đế thời danh, ông làm vua Trung quốc, sống trước công nguyên quãng 200 năm. Theo tạp chí National Geographic, Tần Thủy Hoàng rất sợ chết, ông muốn được trường sinh bất tử, nên tìm đủ mọi cách để được cải lão hoàn đồng. Một hôm, các chiêm tinh gia kể cho ông nghe về một hòn đảo thần tiên ở biển Đông, dân cư ở đây đã khám phá ra bí quyết trường sinh. Tần Thủy Hoàng liền phái một số tầu thuyền chất đấy châu báu lên đường, hy vọng đổi được bí quyết trường sinh. Nhưng dân chúng không đổi cho ông bí quyết trường sinh của họ. Thế rồi ông lo xây nhà mồ như cung điện nguy nga rộng lớn, lấy châu ngọc làm tinh tú, lấy thủy tinh làm sông ngân hà, lấy vàng bạc lát tường và chôn sống hàng trăm cung nữ trong đó, để kiếp sau được sống như thần tiên. Nhưng kẻ tàn bạo ham sống ấy chỉ làm vua được hơn chục năm và sống trên năm mươi tuổi thì chết đi.
II. MỘT CÔNG LỆ PHỔ QUÁT. Kinh nghiệm hằng ngày cho chúng ta thấy mọi người giầu nghèo sang hèn, giỏi dốt, ở bất cứ nơi đâu, làm bất cứ điều gì, thì rồi cũng có ngày phải rời bỏ cõi đời này để trở về với thế giới bên kia, vì đây là án lệnh của Thiên Chúa đã ra cho loài người sau khi nguyên tổ Adong Evà sa ngã phạm tội :”Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về bụi đất”(St 4,19). Thánh Phaolô cũng triển khai tư tưởng ấy trong thư gửi cho tín hữu Côrintô:”Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người đều liên đới với Adong mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống lại”(1Cr 15,21-22). Không ai có thể phủ nhận được cái chết vì chung quanh chúng ta có biết bao nhiêu người chết trong những hoàn cảnh khác nhau. Người ta cố níu lấy sự sống mà không được vì thần chết luôn rình rập chung quanh, như “thợ gặt không có ngủ trưa”(Cervantes). Mọi người đều phải chết, chỉ khác nhau ở chỗ là vui lòng đón nhận cái chết hay chấp nhận một cách miễn cưỡng : Tôi nhận cái này đã từ lâu
Bây giờ nói tới, dẫu hơi mau.
Đã không tránh khỏi thì tôi tiếp
Một cách đau thương nhưng ngẩng đầu.
(Xuân Diệu) Đối với Ki-tô giáo chúng ta, Thiên Chúa là Chúa của sự sống, ý định của Người là thông ban sự sống chứ không phải sự chết. Vậy sự chết bởi đâu mà có ? Kinh Thánh trả lời rằng: sự chết là hậu quả của tội lỗi ( Rm 5, 12; 6, 23 ). Nhưng Thiên Chúa, “vì quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài để những ai tin vào Người Con ấy sẽ không phải chết nhưng được sống muôn đời” ( Ga 3, 16 ) và lời tuyên bố của Chúa Giê-su trước khi làm cho La-da-rô sống lại là một trong những lời kỳ diệu nhất: Thầy là sự sống lại và là sự sống. Toàn bộ con người cả xác lẫn hồn được sống lại. Thân xác tuy đã tan thành tro bụi theo thời gian, nhưng sẽ được biến đổi cách kỳ diệu để chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với linh hồn. Bởi vì Đức Chúa là Thiên Chúa của Tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, đối với Người tất cả đều đang sống. Qua mầu nhiệm Thương Khó và Phục Sinh sắp tới, Đức Giê-su sẽ hoàn tất măc khải này. Đức Giê-su đã chiến thắng sự chết bằng chính cái chết trên Thập Giá và Người đã sống lại để trao ban sự sống mới, sự sống của Đấng Phục Sinh. Chính bởi sự yêu mến, vâng phục và dâng hiến nên cái chết của Chúa Ki-tô là một sự chiến thắng, bẻ gãy mũi nhọn của thần chết ( 1 Cr 15, 14 ). Thánh Phê-rô đã nói một cách sâu sắc: “Tội lỗi của chúng ta, chính Đức Ki-tô đã mang vào thân thể, mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết với tội lỗi, chúng ta được sống cuộc đời công chính” ( 1 Pr 2, 24 ). Sự chết không còn là tang tóc nữa mà đã trở thành Lễ Vượt Qua để tiến tới Vinh Quang Thiên Quốc. Từ nay Đức Giê-su không còn lệ thuộc vào thân xác vật chất nữa, những gì thuộc về thân xác vật chất đều đã chết trên Thập Giá. Chúa Ki-tô đã được Thần Khí hoá ( Rm 8, 11; 1 Pr 3, 18 ), và sự sống của Người thuộc về Thiên Chúa ( Rm 6, 10 ) Niềm tin vào Đức Giê-su, Đấng đã chết và sống lại là niềm tin cao cả nhất. Sự chết và sự sống lại của Chúa Ki-tô không những đã chuộc lại được cho con người những gì nó đã mất vì tội lỗi, nhưng còn là một cuộc sáng tạo, bởi vì nhờ sự chết và sống lại của Người không những là nhịp cầu liên kết giữa Thiên Chúa và con người được mà còn thiết lập một tương quan mới, đó là tương quan Cha – Con. Nhờ cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Ki-tô, con người được tha thứ, được gội rửa sạch tội lỗi, khỏi án chết đời đời và trở nên con cái Thiên Chúa. Từ nay con người được gọi Thiên Chúa là Áp-ba, Cha ơi ( Rm 8, 15 ). Tin và sống trong ân tình của Chúa Ki-tô chính là chiến thắng sự chết, chính là đã mang trong mình mầm sống của sự sống đời đời: “Ai sống và tin vào Thầy thì sẽ không bao giờ chết” ( Ga 11, 26; 1 Ga 3, 14 ). Không bao giờ chết chính là không bao giờ mất sự hiện hữu trong tương quan với Thiên Chúa, không bao giờ mất sự sống trong tương quan ân tình với Người. Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa, và chúng con còn khắc khoải mãi cho đến khi được an nghỉ trong Chúa. Amen
Ngài Alexander Đại Đế cho triệu tập các quan trong triều đình đến để truyền đạt ba ý nguyện cuối cùng của mình. Ngài phán rằng: 1 - Quan tài của ngài phải được khiêng đi bởi chính các vị ngự y (bác sĩ) giỏi nhất của thời đó. 2 - Tất cả các báu vật của ngài (vàng, bạc, châu báu, ...) phải được rải dọc theo con đường dẫn đến ngôi mộ của ngài, và ... 3 - Đôi bàn tay của ngài phải được để lắc lư, đong đưa trên không, thò ra khỏi quan tài để cho mọi người đều thấy. Một vị cận thần của ngài, rất đổi ngạc nhiên về những điều yêu cầu kỳ lạ này, và đã hỏi ngài Alexander lý do tại sao ngài lại muốn như thế. Ngài Alexander đã giải thích như sau: 1 - Ta muốn chính các vị ngự y (bác sĩ) giỏi nhất phải khiêng quan tài của ta, để cho mọi người thấy rằng một khi phải đối mặt với cái chết, thì chính họ (là những người tài giỏi nhất) cũng không có tài nào để cứu chữa. 2 - Ta muốn châu báu của ta được vung vãi trên mặt đất để cho mọi người thấy rằng của cải, tài sản mà ta gom góp được ở trên thế gian này, sẽ mãi mãi ở lại trên thế gian này (một khi ta nhắm mắt xuôi tay từ giả cỏi đời). 3 - Ta muốn bàn tay của ta đong đưa trên không, để cho mọi người thấy rằng chúng ta đến với thế giới này với hai bàn tay trắng, và khi rời khỏi thế giới này chúng ta cũng chỉ có hai bàn tay trắng! Đến cuối cuộc đời, chúng ta sẽ nghiệm ra rằng, kho tàng quý giá nhất trên cuộc đời này là TÌNH YÊU THƯƠNG.
Gm Phaolô Bùi Văn Đọc Bài giảng của Đức cha Phaolô Bùi Văn Đọc, Giám mục Mỹ Tho, trong Thánh lễ an táng Đức cha Tôma Nguyễn Văn Tân, Giám mục Vĩnh Long, tại Nhà thờ Chánh tòa Vĩnh Long, 9g30 ngày 22 tháng 8 năm 2013 (Các bài đọc: Is 25, 6a. 7-9 ; Ep 5,1-2 ; Ga 15, 9-17) Anh chị em rất thân mến,
1. Sự ra đi đột ngột của Đức cha Tôma là một bất ngờ quá lớn đối với các giám mục Việt Nam chúng tôi, và làm cho mỗi một người chúng tôi bàng hoàng xúc động, không biết nói làm sao! Chúng tôi mới gặp nhau đông đủ trong kỳ họp tháng 04 vừa qua tại Toà Giám mục Xuân Lộc, Đức cha Tôma ngồi sát cạnh tôi. Anh chị em cũng như chúng tôi, chúng ta rất yêu thương Đức cha Tôma. Chắc chắn đối với đa số anh chị em, biến cố này xảy ra quá bất ngờ, làm rúng động tâm hồn chúng ta. Nhưng Lời Chúa trong các bài đọc Kinh Thánh hôm nay an ủi chúng ta, nhất là những người thân yêu của Đức cha, đặc biệt trong bối cảnh của “Năm Đức Tin” này. 2. Chúng ta tin mọi sự đều bắt nguồn từ Thiên Chúa, Đấng tự bản chất là Tình Thương, tất cả đều “khởi sự từ tình thương và hoàn tất trong tình thương”. Trong đoạn Tin mừng Gioan mà chúng ta vừa lắng nghe, Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta:“Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Hãy ở lại trong Tình Thương của Thầy”(Ga 15, 9). Trong thư Ephêsô, thánh Phaolô dạy chúng ta: “Anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương, và hãy bước đi trong tình yêu thương, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt.” (Ep 5, 1-2). 3. Chúng ta tin như lời thánh Phaolô khẳng định, chúng ta là “con cái Thiên Chúa, được Thiên Chúa yêu thương”, nên chúng ta cố gắng bắt chước Thiên Chúa, sống trong tình bác ái, bước đi trong tình yêu thương (x. Ep 5, 1-2). Đức cha Tôma, khi còn sống, đã tin mãnh liệt vào tình thương của Thiên Chúa, xác tín mạnh mẽ vào tình yêu của Chúa Kitô, nên đã chọn khẩu hiệu “Hãy bước đi trong tình yêu thương” (“Ambulate in dilectione”, Ep 5, 2), để biểu lộ niềm tin và quyết tâm của ngài. Đức cha Tôma không những đã làm luận án Tiến sĩ thần học về Thánh lễ là Hy tế, mà ngài đã cố gắng noi gương Chúa Giêsu, từ lúc còn làm linh mục, biến cuộc đời của mình thành “hy lễ” dâng lên Thiên Chúa, tự hiến bản thân mình cho những người mình phục vụ. 4. Đức cha Tôma muốn trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu trong việc rao giảng Tin mừng không mệt mỏi cho những người nghèo khổ. Đức cha đã đi, đã lặn lội khắp nơi trong giáo phận, đi khắp các hang cùng ngõ hẻm, đến tất cả những vùng sâu vùng xa, để loan báo tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Đức cha đã hao mòn sức lực vì cố gắng tối đa trong việc giáo dục đức tin cho các thành phần Dân Chúa, một cách đặc biệt cho những người sống đời thánh hiến. Đức cha đã băn khoăn trăn trở rất nhiều trong việc đào tạo và thăng tiến hàng giáo sĩ sao cho phù hợp với lòng Chúa mong ước. Đức cha sẵn sàng trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn của Người. Đức cha đã chịu nhiều đau khổ trong cuộc đời mục tử của mình. Và cuối cùng hôm nay Đức cha đã ra đi vĩnh viễn theo tiếng Chúa gọi. 5. An ủi lớn nhất trong cuộc đời linh mục và giám mục của Đức cha Tôma là được “làm bạn với Chúa Giêsu” và ở lại trong tình thương của Người (x. Ga 15, 14-15). Không có gì quý báu và làm cho người môn đệ hạnh phúc bằng tình bằng hữu của Chúa. Chính tình thương của Chúa là nguồn vui bất diệt cho Đức cha và cho tất cả chúng ta. Hôm nay, nhân dịp lễ an táng Đức cha Tôma, Chúa Giêsu nhắc lại cho tất cả chúng ta và mời gọi chúng ta đón nhận tình bằng hữu của Người. Hãy để cho Người yêu thương chúng ta, hãy sống trong lòng mến của Người, hãy bước đi trong tình yêu thương, hãy thực hiện điều răn yêu thương của Người, để thông phần trọn vẹn niềm vui của Người là Con Yêu Dấu đẹp lòng Chúa Cha mọi đàng và “được Chúa Cha yêu thương” (x. Ga 15, 9-15). 6. Niềm vui trọn vẹn ấy đã được Thiên Chúa hứa ban cho toàn thể nhân loại, như lời của Người trong đoạn sách tiên tri Isaia:“Ngày ấy Chúa các đạo binh sẽ thiết đãi tất cả các dân trên núi này một bữa tiệc. Và trên núi này Người sẽ cất chiếc khăn tang bao trùm muôn dân, và tấm khăn liệm trải trên mọi nước. Người sẽ tiêu diệt sự chết đến muôn đời. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt trên mọi khuôn mặt” (Is 25, 6. 8). Mọi sự khởi đầu từ Thiên Chúa là Tình Thương, thì cũng hoàn tất trong Thiên Chúa là Tình Thương. Tình thương của Thiên Chúa là tiếng nói sau cùng, là sức mạnh lớn nhất, đã làm cho Chúa Giêsu trỗi dậy từ cõi chết! Đó là mầu nhiệm sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu mà chúng ta đang cùng nhau cử hành trong Thánh lễ này! Đó là niềm tin của chúng ta! Đó là niềm hy vọng của chúng ta! Chúng ta hãnh diện tuyên xưng đức tin ấy trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Amen! Nhà thờ Chánh tòa Vĩnh Long, ngày 22 tháng 8 năm 2013
Lm Phêrô Nguyễn Văn Phương Kính thưa cộng đoàn, cách riêng những người con yêu quý của bà cố Ma-ri-a: (Cô Nguyệt, cha Gia-cô-bê, cô Thao, chú thím Hợp và thân bằng quyến thuộc của bà cố)
“Người chết nối kết người sống”. Đúng vậy. Bà cố Ma-ri-a Hoàng Thị Hai nằm xuống đã nối kết chúng ta trong cộng đoàn đức tin gồm đủ mọi thành phần dân Chúa trong và ngoài giáo phận như chúng ta thấy đây. Chắc ai trong chúng ta cũng đã từng chứng kiến nhiều cái chết, đã tham dự nhiều thánh lễ an táng, đã được nghe chia sẻ nhiều về ý nghĩa của cái chết, đặc biệt là cái chết trong niềm tin Ki-tô giáo. Nhưng trong thánh lễ an táng của bà cố hôm nay, tôi muốn cùng với cộng đoàn ngắm nhìn và suy tư cái chết theo hướng nhìn của năm Năm Đức Tin. Vâng, chắc chắn mọi người vẫn còn nhớ: Ngày 11/10/2011, Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI với Tự sắc: Cánh Cửa Đức Tin đã khai mạc Năm Đức Tin cho Giáo hội hoàn vũ nhằm “đưa toàn thể giáo hội bước vào một giai đoạn suy tư đặc biệt và tái khám phá đức tin”. Trong Tự Sắc ấy Ngài đã viết: “Một điều có tính quan trọng quyết định trong năm đức tin là trở lại với lịch sử đức tin của chúng ta”. Trở lại với lịch sử đức tin là điều cần thiết để cùng nhau tái khám phá ra hành trình đức tin và đời sống đức tin mà Chúa muốn con cái Ngài bước theo. Chúng ta lần lượt tìm hiểu: Câu chuyện lịch sử đức tin của dân Chúa trong Cựu ước, câu chuyện lịch sử đức tin của dân Chúa trong Tân ước và cuối cùng là hành trình đức tin của bà cố trong dòng lịch sử ấy.
1. Câu chuyện lịch sử đức tin của dân Chúa trong Cựu ước: Nói đến lịch sử đức tin, chúng ta cần phải nói đến đức tin của dân Chúa trong Cựu ước. Dân ấy chính là dân Do Thái đã được Thiên Chúa tuyển chọn làm dân riêng để chuẩn bị cho Con Chúa xuống thế làm người cứu chuộc chúng ta. Hồi còn là dân du mục, họ sống nay đây mai đó cùng với đàn chiên đàn cừu của họ. Lúc đó, cuộc sống của họ gắn liền với đàn chiên. Họ sống bằng cách ăn thịt chiên, uống sữa chiên, mặc áo lông chiên. Chính vì vậy mà họ phải yêu thương và bảo vệ đàn chiên, đàn cừu bằng mọi cách và bằng mọi giá. Nhưng nghiệt một nỗi: Trên đường đi tìm đồng cỏ xanh tươi, tìm dòng suối mát cho đàn gia súc, họ thường gặp những kẻ thù: Kẻ thù của họ hoặc là thú dữ rình bắt chiên ăn thịt hoặc là các nhóm thổ dân, họ gặp trên đường đi, tấn công để cướp đàn vật là tài sản duy nhất và là chính cuộc sống của họ. Thời đó chưa có vũ khí như: Súng ống, đại bác hay vũ khí hoá học như người ta vừa mới sử dụng ở Sy-ri-a … nên họ phải tìm những núi đá mà ẩn thân, hay là tảng đá để đứng vững trên đó mà chiến đấu chống lại kẻ thù. Cho nên đối với người Do thái người tin giống như người đứng vững trên tảng đá. Chính vì vậy mà trong hoàn cảnh dân Chúa đang lo sợ trước liên minh sức mạnh của kẻ thù, ngôn sứ I-sai-a đã có lối chơi chữ rất hay để khích lệ dân Chúa hãy vững tin vào Chúa: Nếu các ngươi không vững tin, thì các ngươi sẽ không đứng vững” (Is 7, 9).
2. Câu chuyện lịch sử đức tin của dân Chúa trong Tân ước: Người đàn bà bị loạn huyết đã 12 năm trong bài Tin Mừng là một điển hình. Bà đã rơi vào hoàn cảnh nghiệt ngã tự bà không thể giải quyết, nhưng với đức tin cao độ bà đã vượt qua những rào cản của luật lệ (x. Lv 15, 19 – 37) để đụng chạm vào áo Chúa Giêsu và bà đã được chữa lành. Đúng là “Đức tin khai mở quyền năng Thiên Chúa”. Nhờ đức tin bà đã được chữa lành. Chính Chúa Giê-su đã khẳng định điều đó: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con”. Thực ra, đức tin của dân Chúa từ thời Cựu ước đã trở nên sống động theo dòng thời gian và được lưu truyền trong Hội thánh cho đến ngày nay. Nhờ đức tin ấy, Mẹ Ma-ri-a đã nhận lời truyền tin để trở thành Mẹ của Con Thiên Chúa; rồi vội vã lên đường đem Chúa đến cho gia đình ông Da-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét. Nhờ đức tin mà Mẹ đứng vững dưới chân Thánh Giá Chúa. Nhờ đức tin, các Tông đồ đã bỏ mọi sự mà theo Đức Ki-tô để trở nên chứng nhân Tin Mừng, đem ơn cứu độ đến với muôn dân. Nhờ đức tin, các vị tử đạo đã anh dũng hy sinh đổ máu mình ra làm chứng cho Chúa và sẵn sàng tha thứ cho những kẻ giết hại mình. Nhờ đức tin mà ở mọi thời luôn có đông đảo những người sống đời tận hiến vì nước trời. Nhờ đức tin, mà có nhiều Ki-tô hữu dám dấn thân cho công lý và hoà bình. Như vậy lịch sử đức tin của dân Chúa cả trong Cựu ước lẫn Tân ước là một cuộc hành hương trong đức tin mà bài đọc II, tác giả thư Do thái đã cho ta thấy rất rõ, lại còn cho ta một câu định nghĩa chính xác về đức tin: “Tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng những điều ta không thấy.” (Dt 11, 1). Điều đó có nghĩa là người tinđã chiếm lãnh được cách chắc chắn những sự ở trên trời, nghĩa là sự sống đời đời, là hạnh phúc trong Chúa.
3. Hành trình đức tin của bà cố trong hành trình lịch sử đức tin của Dân Chúa: Tôi được biết vào năm 1969, bà cố bị cơn bệnh có thể gọi là “thập tử nhất sinh”. Gia đình đã chuẩn bị hậu sự. Căn bệnh đó giống căn bệnh của người đàn bà trong bài Tin Mừng, nhưng nhờ lòng tin bà cố đã được cứu chữa. Bà cố bị căn bệnh đó suốt 3 năm có thể nói như những lời trong Tin Mừng: “Bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang…”. Đứng trước hoàn cảnh đó ông cố, bà cố và mọi người trong gia đình vẫn kiên vững trong đức tin, trong lời cầu nguyện. Chúa đã ra tay khiến ông cố gặp một người bạn ; người bạn đó đã chỉ cho bài thuốc lá cây và bà cố đã được chữa lành như một phép lạ. Như chúng ta đã biết: người tin đã chiếm lãnh cách chắc chắn những sự trên trời, nhưng người tin như chúng ta vẫn còn phải bước đi dưới đất. Mà còn bước đi dưới đất thì phải bước đi sao cho vững. Con cái Chúa chỉ có thể bước đi vững vàng nhờ vững tin vào Chúa mà thôi. Đối với người Do thái, do truyền thống văn hoá du mục, họ đã cho rằng Người tin giống như người đứng vững trên tảng đá vậy. Đối chiếu với những lời cầu nguyện trong Thánh vịnh chúng ta thấy rất nhiều chỗ nói rằng: “Chúa là núi đá, Chúa là thành trì” bảo vệ tôi… Sau này, Chúa Giê-su bảo thánh Phê-rô: “Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy” cũng theo nghĩa đó. Đá đó chính là Chúa. Đo đó, Hội Thánh xây dựng trên đá tảng là chính Thiên Chúa nên Hội thánh vững bền. Người có Đức tin là người xây dựng cuộc đời mình trên chính Thiên Chúa nên người tin luôn đứng vững trước mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Nhờ Đức Tin bà cố đã đứng vững trong mọi hoàn cảnh: Hoàn cảnh di cư phiêu bạt từ Sài Gòn về Bình Dương, rồi về Vinh Hoà này, hoàn cảnh chiến tranh loạn lạc, những hoàn cảnh éo le khác… Hôm nay chúng ta dâng lễ cầu nguyện cho bà cố, nhưng đúng hơn là cùng với bà tạ ơn Chúa vì hạt giống Đức tin Chúa đã gieo trong lòng bà. Hạt giống ấy đã nảy mầm, đã lớn lên và sinh hoa kết trái. Hoa trái đầu tiên là gắn bó với Chúa liên lỉ: Những ai đã từng thăm bà cố tại phòng sẽ thấy ngay. Bước vào phòng ta nhìn thấy tượng chịu nạn trên bàn. Khi bà cố nằm xuống sẽ nhìn thấy tượng chịu nạn trên tường trước mặt. Trước khi trút hơi thở cuối cùng bà cố luôn nhờ các con, các cháu kêu tên cực trọng và phó linh hồn cho bà. Tôi có thể nói suốt cuộc đời bà luôn lấy Đức Ki-tô làm điểm tựa vững chắc. Câu nói của bà cố tôi được nghe nhiều nhất mỗi khi thăm bà là “con ước ao được về với Chúa nhưng con muốn vâng theo thánh ý Chúa.” Đối với con cháu, bà cố có nhiều hình thức giáo dục đức tin. Nhưng ấn tượng nhất là hình ảnh người mẹ chắp tay các cậu quý tử hồi còn bé lại rồi dang ra với lời đọc “Chúa ở cùng anh chị em”. Qua đó, chúng ta thấy nỗi niềm khát mong cho con mình trở thành linh mục là như thế nào! Tôi đã hỏi cháu Ân: Bà dạy gì về đức tin cho con? Cháu đã trả lời bà luôn nhắc con cầu xin bảy ơn Chúa Thánh Thần. Có lẽ cha quản xứ chúng con đã thừa hưởng điều dạy này nên tuần nào cha xứ cũng dâng ít nhất là một lễ kính Chúa Thánh Thần. Đối với mọi người: Những người giúp việc được ăn uống như người nhà. Điều đáng ghi nhớ nhất là: Bà chẳng ưa gì chủ thuyết vô thần nhưng một hôm bộ đội miền bắc bị bắt giam bà cố đã liều mình trong một tình huống rất nguy hiểm đưa cơm cho họ ăn vì bà sợ họ đói. Bà cố không có bằng cấp về học thuật, bà cố chỉ là người bé mọn của Tin Mừng, nhưng bà cố luôn hành xử rất phù hợp với giáo huấn của hội Thánh và cũng hợp với tinh thần của vị thánh chúng ta mừng kính hôm nay: Giữa lòng Hội thánh con sẽ là Tình yêu. Tôi còn phải nói gì nữa nhỉ? Còn nhiều lắm, nhưng không thể không nói đến tinh thần lo cho việc chung của bà cố. Những việc đóng góp cho việc xây dựng nhà Chúa, khuyến học, bác ái xã hội bà cố luôn hết lòng, hết sức mình…. Kính thưa cộng đoàn, Trong khung cảnh lễ an táng của bà cố, chúng ta trở lại với lịch sử đức tin để làm gì? Để chúng ta vui mừng vì trong lịch sử ấy dân Chúa trong Cựu ước cũng như Tân ước cho chúng ta nhiều mẫu gương sống động về Đức Tin. Từ đức tin của tổ Phụ Áp-ra-ham, vua Đa-vít… Đức Ma-ri-a, các thánh tông đồ… Chúng ta có thể nói rằng có cả một đám mây nhân chứng đức tin để chúng ta dõi bước đi theo. Chúng ta cũng vui mừng tạ ơn Chúa vì hành trình đức tin của bà cố nằm trong hành trình lịch sử đức tin của Hội thánh. Bà cố đã 90 năm vun trồng và thể hiện đức tin vừa đơn giản vừa thực tế. Tất cả chúng ta đều có thể cùng với bà tiếp nối sống niềm tin ấy để nối kết người sống với người chết trong mầu nhiệm các thánh thông công. Hành trình đức tin của bà cố với cái nhìn của Ki-tô hữu vẫn sẽ sống mãi với con cháu bà, với làng xóm, với thân bằng quyến thuộc, với chúng ta. Nguyện xin Chúa Cha giàu lòng thương xót đón nhận của lễ chúng con dâng hôm nay cùng với bà cố làm một với của lễ duy nhất là Con Chúa mà cho bà cố được hạnh phúc bên Chúa mãi mãi. Xin bà cố cầu nguyện trước toà Chúa cho chúng con để ngày sau chúng con sẽ cùng với bà cố hợp đoàn cùng các thánh trong nhà Cha trên trời. Hẹn gặp lại bà cố trong nước trời.
AnTáng 150: Những ý nguyện cuối cùng của ngài Alexander Đại Đế
Ngài Alexander Đại Đế cho triệu tập các quan trong triều đình đến để truyền đạt ba ý nguyện cuối cùng của mình. Ngài phán rằng: 1 - Quan tài của ngài phải được khiêng đi bởi chính các vị ngự y (bác sĩ) giỏi nhất của thời đó. 2 - Tất cả các báu vật của ngài (vàng, bạc, châu báu, ...) phải được rải dọc theo con đường dẫn đến ngôi mộ của ngài, và ... 3 - Đôi bàn tay của ngài phải được để lắc lư, đong đưa trên không, thò ra khỏi quan tài để cho mọi người đều thấy. Một vị cận thần của ngài, rất đổi ngạc nhiên về những điều yêu cầu kỳ lạ này, và đã hỏi ngài Alexander lý do tại sao ngài lại muốn như thế. Ngài Alexander đã giải thích như sau: 1 - Ta muốn chính các vị ngự y (bác sĩ) giỏi nhất phải khiêng quan tài của ta, để cho mọi người thấy rằng một khi phải đối mặt với cái chết, thì chính họ (là những người tài giỏi nhất) cũng không có tài nào để cứu chữa. 2 - Ta muốn châu báu của ta được vung vãi trên mặt đất để cho mọi người thấy rằng của cải, tài sản mà ta gom góp được ở trên thế gian này, sẽ mãi mãi ở lại trên thế gian này (một khi ta nhắm mắt xuôi tay từ giả cỏi đời). 3 - Ta muốn bàn tay của ta đong đưa trên không, để cho mọi người thấy rằng chúng ta đến với thế giới này với hai bàn tay trắng, và khi rời khỏi thế giới này chúng ta cũng chỉ có hai bàn tay trắng! Đến cuối cuộc đời, chúng ta sẽ nghiệm ra rằng, kho tàng quý giá nhất còn lại cho chúng ta, đó là mọi việc làm vì lòng mến Chúa. ------------ Tin mừng mattheu 25, nói về ngày chung thẩm, những người mà chúa chọn vào thiên đàng đều là những người làm việc cho chúa…”Hỡi những kẻ được cha ta chúc phúc… Dụ ngôn năm cô trinh nữ khờ dại và khôn ngoan chúng ta vừa nghe, Chúa cũng đã dạy cho chúng ta thấy rõ điều đó… 1. Mười cô trinh nữ được cắt cử đi đón chàng rổ từ phương xa đến dự tiệc cưới, hẳn là những người được chọn lựa rất phù hợp với nghi thức đón rưức trang trọng này như: ăn mặc đẹp và cầm đèn sáng trong tay. Xét về hình thức bên ngoài thì mười cô như một: hấp dẫn như nhau, có đèn sáng trong tay như nhau, cùng chờ chàng rể như nhau...Và cuối cùng: khi chàng rể đến muộn, thì cùng thiếp ngủ đi như nhau! Duy có một cái khác, mà chỉ khi chàng rể đến mới phát hiện ra, đó là: năm cô khôn ngoan thì mang dầu thêm để châm vào đèn, còn năm cô không khôn ngoan thì không mang dầu dự trữ theo khiến đèn tắt ngủm! Đi mua dầu về thì quá trễ, họ bị gạt ra khỏi nơi hoan lạc. 2. Cuộc sông của người Kitô hữu cũng vậy. Tất cả chúng ta sông đời thường ngày giống nhau: tất cả cùng phải làm ăn bon chen để có cơm no áo ấm, có hạnh phúc cho gia đình: vợ chồng, con cái, có thăng tiến cộng đoàn, xã hội, đất nước.. Nhưng người Kitô hữu khôn thì còn biết lo cái khác nữa như năm cô trinh nữ khôn ngoan: trong khi bận tâm lo cho bản thân và gia đình được hạnh phúc đời này, thì đồng thời vẫn không quên tích góp những công phúc đời đời bằng lời cầu nguyện, thánh lễ hằng ngày, hy sinh, chia sẻ, phục vụ lẫn nhau và xây dựng Giáo hội. *** Bà quản của chúng ta,
đã được phúc sống theo lời chúa, không hề phải hối tiếc về cuộc sống đời này như Alexandre đại đế, nhất là như chúng ta thấy, cả một đời của bà quản đều là những ngày làm vì Chúa, vì nhà thờ, vì các em thiếu nhi. Bà làm quản ngay từ khi thành lập giáo xứ, cho đến nay, gần 60 năm trời, hiếm có giáo xứ nào có được một bà quản trông coi kiên trì như thế. Trước đây mấy ngày, bà quản còn đang lo kiếm cái gì cho các em thiếu nhi sắp vào mừng quan thầy rosa của mình. Hầu hết trong chúng ta đây, đều mang một tâm tình biết ơn bà quản, bà đã dạy giáo lý, chăm lo cho con cháu của mình… Đối với con, ngay từ khi con mới được 4 tuổi, nhiều tối, con đã được mẹ con dẫn xuống nhà bà Thức, ở khu mẹ vô nhiễm để bà quản dạy kinh bổn đồng ấu, rồi mấy năm trời bà quản dạy giáo lý xưng tội rước lễ lần đầu…rồi ở trong đoàn thiếu nhi, cho đến khi vào tu trong dòng… Chúng ta biết ơn bà quản, vì lòng nhiệt thành hăng say, cả một đời thao thức lo lắng cho giáo xứ, cho các em thiếu nhi … Hôm nay chúng ta dâng lễ cầu nguyện cho bà quản, cùng với bà tạ ơn Chúa đã ban cho bà hồng ân, kiên trì cộng tác với ơn Chúa, trở nên một gương mẫu sống đạo tuyệt vời, như những cô trinh nữ khôn ngoan cho mọi người chúng ta. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết nhìn vào cách sống của bà, như là lời mời gọi chuẩn bị cho ngày ra đi của mình, luôn tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi Chúa đến, với đức tin cháy sáng và đức mến nồng nàn, như dầu đèn luôn sẵn sàng, xứng đáng cùng bà hưởng niềm vui trong nước Chúa.. Hy vọng trong niềm tin vững vàng rằng : bà đang ở bên Chúa, bà vẫn tiếp tục cầu nguyện cho Giáo xứ, cho em thiếu nhi được giữ vững đức tin, bước theo Chúa cho đến cùng. Trong những tâm tình tin tưởng và biết ơn, chúng ta tiếp tục dâng Thánh lễ, tạ ơn Thiên Chúa cùng bà quản của chúng ta…Amen. *** Phúc Âm: Mt 25, 1-13 "Kia chàng rể đến, hãy ra đón người". Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: "Nước trời giống như mười trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể. Trong số đó có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Năm cô khờ dại mang đèn mà không đem dầu theo; còn những cô khôn ngoan đã mang đèn lại đem dầu đầy bình. Vì chàng rể đến chậm, nên các cô đều thiếp đi và ngủ cả. "Nửa đêm có tiếng hô to: Kìa chàng rể đến, hãy ra đón người. Bấy giờ các trinh nữ đều chỗi dậy, sửa soạn đèn của mình. Những cô khờ dại nói với các cô khôn ngoan rằng: "Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả". Các cô khôn ngoan đáp lại rằng: "E không đủ cho chúng em và các chị, các chị ra (nhà) hàng mà mua thì hơn". Song khi họ đang đi mua, thì chàng rể đến. Những trinh nữ đã sẵn sàng thì theo chàng rể cùng vào tiệc cưới, và cửa đóng lại. Sau cùng các trinh nữ kia cũng đến và nói: "Thưa Ngài, xin mở cửa cho chúng tôi". Nhưng Người đáp lại: "Ta bảo thật các ngươi, ta không biết các ngươi". "Vậy hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào, giờ nào". Đó là lời Chúa.
Trong văn chương Việt Nam có câu ca dao: “Công Cha như núi Thái Sơn Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra Một lòng thờ Mẹ kính Cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
Thật vậy, khi chúng ta được mang thân người và trưởng thành đều là nhờ công cha và ơn mẹ dưỡng nuôi và dạy dỗ . Nói đến Cha Mẹ là nói đến tình thương vô bờ bến , công Mẹ cưu mang chúng ta trong thai bào Chín tháng mười ngày , trong thời gian nầy Mẹ chăm lo từng giây phút cho đứa con trong bụng sắp chào đời , mẹ kiêng cữ đủ thứ để cho con được sống yên vui trong bào thai , vì thế thân Mẹ hao gầy, sức khỏe sút giảm . Mẹ làm tất cả đều đó với một t́nh yêu thương ngọt ngào hơn dòng suối . Khi con ra đời , với tình mẫu tử nhiệm mầu , tất cả đau đớn biến mất khi Mẹ ôm con và đặt lên má con một nụ hôn ngọt lịm tình mẫu tử . với tình mẫu tử thiêng liêng Mẹ làm tất cả chỉ mong cho con luôn được vui vẻ hạnh phúc trên cõi đời này . ________________________________________ Ai về Mỹ Thuận ghé qua Miễu Thờ Hiền mẫu xót xa cõi lòng Buông tay chết đuối giữa dòng Để con được sống bảo tồn Lâm gia. http://www.niemphat.com/DaiSuPhapVan/ MeLaGiongSuoiNgot/1.jpg Ai có về Cần Thơ đều đi phà để qua bến Bắc Mỹ Thuận , nếu ai để ý sẽ thấy dọc trên bờ sông này có rất nhiều miếu thờ vong linh người chết đuối . Trong những miếu đó có một miếu thờ trang nghiêm với hàng chữ : “Lưu Mỹ Linh Hiền mẫu linh vị” Lưu Mỹ Linh một cô gái quê ít học , năm mười tám tuổi cô đã xuất giá theo chồng là Lâm Vĩnh Phúc làm nghề giáo làng, chẵng bao lâu cô hạ sanh một bé trai đặt tên Lâm Vinh, hai người cưng chiều cậu bé như trân bảo . Khi cậu bé Lâm Vinh được mười bốn tuổi thì ông Lâm Vĩnh Phúc qua đời sau cơn bảo bệnh, để lại vợ và con sống trong cảnh bần hàn khổ sở . Vì ít học , Lưu Mỹ Linh không thể tìm được việc làm hai mẹ con dùng tất cả tiền dành dụm mua chiếc thuyền Ba Lá và hằng ngày câu cá , giăng câu kiếm sống . Vì thương con, mọi việc cực nhọc trong nhà Bà Lưu Mỹ Linh dành làm tất cả để con có thời giờ học bài. Lâm Vinh là cậu bé hiếu thảo, ngoan hiền biết phận côi cút bần hàn , nên cậu không bao giờ đi chơi dành hết thời giờ cho việc học . Năm nay cậu vừa tròn mười sáu và đã học xong chương trình đệ tứ cũng như mọi ngày, khi đi học về , cậu dẹp sách vở và xuống thuyền cùng mẹ giăng câu . Hôm nay mùa nước nỗi, cá rất nhiều hai mẹ con mải mê câu mà lần ra giữa dòng, Nơi đây cách bờ rất xa, và nước chảy xiết , thuyền hôm nay chở đầy cá muốn chìm, hai mẹ con vội dừng câu và chèo vào bờ . Bỗng trên dòng nước có một khúc cây rất to đang theo cơn sóng đâm bổ vào thuyền . Không thể tránh được thuyền chòng chành và nghiêng úp. Mẹ nhìn con hơi : "Con có thể lội nổi vào bờ không?" Lâm Vinh: "Thưa Mẹ con lội mỗi ngày ở khúc sông này, con dư sức vào bờ . Còn Mẹ, Mẹ đủ sức lội vào bờ không ?", Bà Lưu Mỹ Linh nhìn bờ xa xăm mà ái ngại : Mẹ chưa lội thử bao giờ nên không biết ? Lâm Vinh, cười tự tin: "Mẹ hãy lội trước , nếu Mẹ đuối sức , con sẽ dìu Mẹ vào bờ ". Hai Mẹ con bắt đầu bơi. Nước trên nguồn đổ xiết quá nên khi bơi gần bờ khoảng một trăm mét thì Bà Lưu Mỹ Linh đã đuối sức, đôi ba lần bà chìm xuống và bụng uống đầy nước. Lâm Vinh thấy mẹ như vậy , bơi nhanh lại một tay nâng mẹ và một tay lội vào bờ . Khi còn cách bờ khoảng ba mươi mét thì hai mẹ con thực bị đuối sức. Lâm Vinh đă hai ba lần bị sóng nhấn chìm uống nước, Lâm Vinh vẫn không buông mẹ nhất định cứu mẹ hoặc cả hai cùng chết . Bà Lưu Mỹ Linh nhìn con chợt thở dài trong tâm tự nghĩ: “Dòng Họ Lâm chỉ còn lại mình Lâm Vinh , ngày nay nếu Lâm Vinh vì mẹ mà chết thì Lâm gia tuyệt tự và chồng mình sẽ không nhắm mắt ở suối vàng. Một đời làm Mẹ , ta đã hy sinh trọn kiếp cho con, hôm nay lần cuối ta phải hy sinh cho vẹn tình mẫu tử để con ta được sống và nên người hữu dụng sau này . Nghĩ thế rồi Bà qua con thều thào: Lâm Vinh con phải sống, dòng họ Lâm chỉ còn mình con. Con phải sống làm người thiện lành hữu dụng cho xã hội sau này . Lâm Vinh ! Vĩnh biệt con . Nói xong Bà dùng sức lực sau cùng giật tay ra khỏi tay con và dùng hai tay đẩy con thật mạnh về hướng bờ sông . Bà lẳng lặng buông tay hoà thân xác vào trong dòng sông đang chảy xiết. Trong cõi đời này, nói đến chết ai cũng sợ , nhưng với tình mẫu tử thiêng liêng có những Bà mẹ đã tìm về cái chết để cho con được sống. Trong các cuộc hy sinh của tình mẫu tử là cao cả nhất không có một sự hy sinh nào có thể so sánh cân bằng.
Trong tất cả mọi sinh hoạt của cuộc sống, chúng ta hãy nghĩ đến cùng đích. Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ vạn vật đều có nhắm hướng dẫn tới cùng đích. Tất cả mọi chuyển dịch trong hoàn vũ đều qui về một tâm điểm. Thánh Gioan tông đồ đã viết: Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại (Ga 1,3). Quan sát mọi loài, mọi vật trên trời dưới đất, chúng ta nghiệm ra rằng mọi sự đều chuyển động để được phát triển. Cái mới thay cái cũ. Dòng dõi này nối tiếp dòng dõi kia. Sự hiện hữu này nối tiếp sự hiện hữu khác. Thế hệ này nối tiếp thế hệ kia làm thành một chuỗi dây sự sống liên tục. Mỗi vật có sinh có tử. Không có gì tồn tại mãi. Hiện hữu đó rồi lại trở về hư vô cát bụi. Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó sẽ trơ trọi một mình. Mùa Chay thường rơi vào những tháng ngày cuối của mùa Đông ảm đạm. Khí trời lạnh lẽo tuyết rơi. Thân cây trơ trụi. Cảnh vật tiêu điều. Hình ảnh thiên nhiên gợi nhớ sự trần trụi của thân phận con người. Am hợp với mùa sám hối, mầu tím của sự hy sinh hãm mình. Mầu tím là mầu của sự hối cải trở về. Phẩm phục trong các nghi lễ phụng vụ cũng mang mầu tím để gợi ý mời gọi các tín hữu về sự chay tịnh và sám hối. Bước vào trong phần tiền đình nhà thờ nơi tôi đang phục vụ, nhiều người sẽ nhận ra ngay khung cảnh của sự trống trải khô cằn. Có một cây thánh giá lớn trơ trọi với tấm vải tím vắt ngang. Các chậu cây cảnh đã khô héo và cành hoa rụng lá. Các bình chứa nước thánh chỉ có những hòn đá cuội. Những tâm tình chờ đợi, khao khát và mong chờ như đang thấm nhập vào tâm hồn từng người. Mùa Chay là mùa của niềm hy vọng. Hy vọng một sự biến đổi cả linh hồn lẫn thân xác. Hy vọng của sự tái sinh qua Bí Tích Rửa Tội. Dọc theo lịch sử ơn cứu độ, Thiên Chúa đã ghe mắt thương xem dân tộc mà Chúa đã chọn làm dân riêng. Chúa đã ký giao ước với nhà Irael và Giuđa. Mặc dầu Chúa thống trị và yêu thương, nhưng dân chúng đã luôn phản bội. Thiên Chúa đã dùng dân ngoại để cai trị và bắt dân làm nô lệ. Chúa phạt rồi Chúa lại tha thứ. Chúa đã dùng tiên tri Giêrêmia để loan báo một giao ước mới. Giao ước của tình yêu. Chúa sẽ đặt lề luật trong đáy lòng và khắc ghi trong tâm hồn. Ta sẽ là Chúa của chúng và chúng sẽ là dân của Ta. Chúa sẽ tha tội ác của chúng và sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của chúng. Giáo ước mới được thiết lập qua chính sự hiến dâng của Chúa Giêsu trên thập giá. Như trong phần truyền phép, linh mục chủ tế đọc: Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén, cũng tạ ơn, trao cho các môn đệ mà nói:Tất cả các con hãy nhận lấy mà uống:vì Này là chén Máu Thầy,Máu giao ước mới và vĩnh cửu,sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội.Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. Thơ gởi Do-thái viết: Chúa Kitô đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ. Chúa Giêsu là trung tâm điểm của mọi tạo vật. Chính Chúa đã đi vào tiến trình tự nhiên để được sinh ra, chịu đau khổ và chết đi như hạt lúa mì được gieo xuống đất chịu sự mục nát và sinh bông hạt. Qua sự chết, Ngài đã bước vào sự sống viên mãn. Ngài đã mang ơn cứu độ cho cả nhân loại. Bất cứ ai chạy đến với Ngài, Ngài sẽ không để hư mất. Tất cả những ai ngước mắt nhìn lên thập giá nguyện cầu, Chúa luôn giang tay đón mời và ban nguồn ơn cứu độ. Mầu nhiệm cứu độ được mạc khải qua những tiến trình vần xoay tự nhiên. Đi từ sự đổi thay của thiên nhiên tới sự thay đổi của con người. Nhìn cảnh vật xung quanh như hòa lẫn với những tâm tình của những ngày chay thánh. Mùa Đông đã tàn phai đang đón chờ mùa Xuân hy vọng. Khí trời trở nên ấm áp hơn. Ngoài ruộng vườn, hạt giống đang bắt đầu đâm mầm nẩy lộc. Cành lá hé nụ trổ hoa. Cây cối xanh lá tươi tốt. Ánh nắng chan hòa. Bầu khí vui tươi. Bốn mười ngày chay đang dần qua mau, chúng ta sắp sửa bước vào mùa đại lễ. Thiên nhiên biến đổi. Lòng con người có biến đổi được hay không, tùy thuộc sự ý thức và cố gắng nơi mỗi tâm hồn. Nếu chúng ta không cảm nhận được một chút thay đổi nội tâm trong mùa chay sám hối, chúng ta lại đã lỡ mất một mùa hồng ân. Chúa Giêsu phán rằng nếu hạt lúa mì rơi xuống đất và thối đi, thì nó sẽ sinh nhiều bông hạt. Chúng ta nhận biết rằng mọi sự trong vũ trụ đều thay đổi. Các thụ tạo từ khoáng sản, thảo mộc và các loài động vật đều nối tiếp thay đổi đi về cùng một hướng. Sinh xôi nẩy nở và phát triển đi đến hoàn hảo. Con người có ý chí và tự do, cũng được mời gọi biến đổi trở nên tốt hơn và hoàn hảo hơn. Nhìn vào xã hội, chúng ta thấy đời sống văn minh của nhân loại phát triển không ngừng. Con người càng khám phá ra điều mới, càng nhận ra mầu nhiệm cao siêu của sự sáng tạo. Con người ngụp lặn trong sự suy tưởng và phát minh không ngừng. Chúng ta tự hỏi đâu là cùng đích của tất cả mọi ước mơ. Sự giầu sang, danh vọng và quyền thế không thể nào đáp ứng được những khao khát thầm kín của con người. Biết bao suy tư triết học, siêu hình, thần bí, thần học và khoa học kiếm tìm chìa khóa mở cửa ý nghĩa của cuộc đời. Nhưng từ đời này sang đời khác, con người vẫn lặn lội trong đêm tối và chưa tìm được những câu trả lời được thỏa đáng. Chúng ta chỉ có thể dựa vào sự mạc khải của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu trung gian của vũ trụ sẽ giải đáp cho tất cả. Gặp gỡ Đức Kitô sẽ biến đổi đời mình. Chúng ta phải tìm gặp gỡ một con người chứ không phải một đạo lý hay giáo thuyết. Con người Đức Giêsu Kitô, Người là trung gian giữa Thiên Chúa và loài người, giữa trời và đất. Người đã dám hy sinh mạng sống để giao hòa giữa Thiên Chúa và nhân loại. Người là Ngôi Lời Nhập Thể mạc khải cho chúng ta về Thiên Chúa. Khi Chúa Giêsu cầu nguyện đã có tiếng từ trời phán: Ta đã làm vinh danh Ta và Ta còn làm vinh danh Ta nữa. Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã hoàn tất lễ hiến tế trên thập giá để trả lại cho chúng ta danh phận làm con cái Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã phán: Khi nào Ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi ngừoi lên cùng Ta. Lời này chính là cùng đích mà mọi người chúng ta hằng khao khát mong chờ. Làm sao chúng ta có thể gặp gỡ Đức Kitô? Chúng ta có thể gặp gỡ Chúa Kitô hiện diện qua Kinh Thánh, qua các Bí Tích, đặc biệt là Bí Tích Thánh Thể. Chúa còn hiện diện nơi tâm hồn mỗi người và nơi nào có hai hoặc ba người cùng hợp nhau cầu nguyện nhân danh Chúa. Chúa hiện diện nơi những anh chị em cùng khốn, thiếu ăn, thiếu mặc, bị bỏ rơi, bị tù đầy và bị thương tích cả hồn lẫn xác. Chúng ta lắng nghe lời phán xét:Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han."(Mt 25, 34-36). Chúa Giêsu đã mở chìa khóa Nước Trời cho tất cả những ai muốn bước theo Chúa. Chúa Giêsu phán tiếp:"Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy."(Mt 25, 40). Bất cứ việc gì chúng ta làm cho các kẻ bé mọn là chúng ta đang làm cho Chúa đấy! Chúa hiện diện ngay giữa chúng ta. Chúa có uy quyền trên hết mọi sự. Chúa thấu tỏ tâm hồn của mỗi người. Chúa muốn cứu độ từng cá nhân. Chúng ta hãy chạy đến với Chúa tìm nguồn sống thật. Tất cả ý nghĩa của cuộc đời là sống bác ái yêu thương. Yêu như Chúa yêu. Chỉ có Đức Ái là tồn tại mãi mãi. Amen. Lm. Giuse Trần Việt Hùng Bronx, New York.
Vào tháng 9 năm 1648, trước ngày chịu chức Phó Tế, Đức Cha Jacques Bénigne Bossuet (1627-1704) đã suy niệm về sự chết như sau: “Ðời người không đáng là bao, và tất cả những gì có cùng có hạn đều chẳng đáng là bao. Người ta có sống trên đời này lâu dài bao nhiêu, cho đi một nghìn năm, thì rồi cũng đến ngày hết hạn. Cuộc đời tôi sống được tám mươi tuổi là cùng; cho được một trăm tuổi đi nữa, đã có một lúc tôi chưa có! Và đến một lúc tôi sẽ không còn nữa! và thời gian tôi sống, tôi chiếm một chỗ quá ít ỏi trong vực thẳm vĩ đại của thời gian! tôi chẳng là gì cả; cái khoảng thời gian ngắn ngủi đó không thể làm cho tôi khác biệt nhiều với cái hư vô mà tôi phải đi đến. Ðường đời tôi đi chỉ được tám mươi năm là cùng, và để đi đến đó, tôi phải vượt qua biết bao nhiêu hiểm nguy, biết bao nhiêu bệnh tật, v...v? ... và tất cả những gì tôi thấy cũng chỉ là điều hão huyền: “Praeterit figura hujus mundi,” “Bộ mặt thế gian này đang qua đi.” (1 Cr 7, 9). Vâng, đời người không đáng là bao, vui ít buồn nhiều, những ngày tháng gian lao khổ cực nhiều hơn những ngày vui như lời Thánh Vịnh 90 đã viết: “Tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục Mạnh giỏi chăng là được tám mươi Mà phần lớn chỉ là những gian lao khốn khổ Cuộc đời thấm thoát chúng con đã khuất rồi” (Tv 90, 10). Có lẽ Nguyễn Gia Thiều cũng đã cảm thấu được sự hư vô của kiếp người khi ông viết những dòng bi ai trong Cung Oán Ngâm Khúc: “Thảo nào khi mới chôn nhau, Đã mang tiếng khóc chào đời mà ra!” (câu 55 - 56) ...“Nghĩ thân phù thế mà đau, Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê.” (câu 67 - 68) Tại sao? Tại sao con người ta báo hiệu sự hiện hữu của mình trên cõi đời này không phải là một tiếng cười mà là một tiếng khóc? Phải chăng đó chính là dấu hiệu tiên báo về một cuộc đời đau khổ - “đời là bể khổ” theo nhân sinh quan Phật Giáo? Quả thực nếu chỉ nhìn cuộc đời và cái chết như những viễn cảnh trên thì thực sự bế tắc và u uất. Sự chết đúng là một thực tế đáng sợ và là một sự thật không thể chối cãi. Nó cũng là sự công bằng đối với tất cả mọi người, từ “hạng thường dân đến người quyền quý, hạng phú gia với kẻ cơ bần” đều phải chết. Nói khác đi, cái chết là một bí ẩn và là sự bất lực của cả nhân loại. Đứng trước cái chết, “con người không những bị hành hạ bởi đau khổ và sự tiến dần đến tan rã của thân xác, mà hơn thế nữa, còn bị dày vò bởi nỗi lo sợ bị tiêu diệt đời đời... Mọi cố gắng của kỹ thuật, dù rất hữu ích, cũng không thể làm nguôi được nỗi lo âu của con người. (GS 18). Nhưng người kitô hữu chúng ta không sợ sự sống, không chán ngán cuộc đời và cũng không sợ sự chết, bởi vì “Chúa Kitô đã đem lại chiến thắng ấy khi Người sống lại và nhờ cái chết của Người, Người đã giải phóng con người khỏi sự chết. Vậy đức tin với những lý chứng vững chắc đem lại giải đáp cho bất cứ ai khắc khoải ưu tư về số phận tương lai của mình. Đồng thời đức tin còn cho con người khả năng hiệp thông với những anh em thân yêu đã chết trong Chúa Kitô, và làm cho họ hy vọng rằng những người ấy đã được sống thực sự nơi Thiên Chúa” (GS 18). Biết được như thế, sống được như thế và làm được như thế, chúng ta không coi coi sự chết như một sự thù địch, nhưng trái lại, chúng ta phải biết ơn sự chết, vì nó chính là cánh cổng đưa chúng ta đi vào sự sống trường sinh, một sự tái sinh bất diệt trong Đức Kitô, một sự giải thoát đưa chúng ta tới sự sống viên mãn trong vương quốc của Ngài. Trước cái chết của Đức Cố Giám Mục Alexis trong ngày Lễ Chúa Kitô, kết thúc năm phụng vụ, khiến chúng ta hồi tâm phản tỉnh để trở về với cõi lòng để nhìn lại những ngày tháng mà chúng ta đang sống, ngày mà chúng ta sẽ từ giã cuộc đời này. Chúng ta sẽ đi về đâu? Đâu là ý nghĩa đích thực của cuộc đời này? Đâu là những giá trị để chúng ta bám víu? Để từ đó chúng ta tìm ra câu trả lời cho những hành động của mình khi mùa phúc vẫn còn: Vì ai mà ta sống? Vì cái gì để ta hi sinh? Và vì lý tưởng nào để chúng ta phấn đấu? Nói cách khác, cái chết của Đức Cố Giám Mục trong dịp cuối năm phụng vụ hướng chúng ta nghĩ đến thời cánh chung, hướng về sự sống đích thực và vương quốc vĩnh cửu - Vương quốc của Đức Kitô - Vương quốc tình yêu và công lý. Đó là sự tỉnh thức và khôn ngoan như Chúa hằng mong muốn. Đức Cố Giám Mục Alexis là đầy tớ trung tín và khôn ngoan mà Chúa đã đặt lên coi sóc Giáo phận. Ngài đã biết lựa chọn những giá trị vĩnh cửu khi còn tại thế để rồi hoàn tất cuộc đời một cách êm ái như đi vào giấc ngủ sâu. Ngài đã hiến trọn thân mình để dấn thân phục vụ những giá trị Tin Mừng trong niềm hân hoan và tận tụy, như lời Ngôn sứ Isaia: “Đẹp thay bước chân người đi gieo Tin Mừng – Pheo kơ Dôm Yak Jơ\ng Bo#k Jai Bơ\r Xô Pheo” (Is 52,7). Đó là điều tâm niệm của người mục tử nhân hiền khi còn sống, và đã được một nghệ nhân khắc họa tinh tế trên linh cữu của ngài bằng hai thứ tiếng để theo ngài đi vào lòng đất. Con cái ngài vẫn tề tựu quanh ngài để nhìn ngắm một người cha hiền hậu đang an giấc trong Chúa Kitô Phục Sinh và cùng nhau suy gẫm về sự chết, suy gẫm về sự vô thường của trần gian. Nó đang qua đi cùng với tất cả các giá trị trong nó. Cuộc sống là một chuỗi những u sầu, bèo bọt, thê lương và tang tóc nếu vắng bóng Thiên Chúa Tình Yêu. Kiếp người quả đau khổ như tiếng khóc lúc chào đời, nhưng hãy sống sao để khi từ giã cõi đời, mọi người chung quanh khóc lóc vì lưu luyến nhớ thương, còn ta mỉm cười thanh thản ra đi vào cõi vĩnh hằng. Muốn được như thế, cần phải biết sống trọn vẹn cuộc sống của chính mình, biết trao tình yêu, sự tha thứ, biết phụng sự Chúa và tha nhân trong cuộc đời phù du mau qua chóng hết này. Hay nói như Thánh Phaolô: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi”. Vì thế, “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.” (Rm 8, 39). “Bởi yêu cuộc đời nên tôi cũng yêu cả sự chết. Ôi Thượng Đế, kính lạy Người lần cuối. Như đàn hạc hoài hương, ngày đêm hối hả bay về tổ ấm trên núi cao, xin cho đời tôi phiêu du tới quê hương vĩnh cửu ngàn thu” (Thơ: Tagore) Ban Truyền Thông – Văn Phòng TGM Kon Tum (ngày 20.11.2011)
Cả thế giới chưa hết bàng hoàng với nỗi đau buồn thương tiếc khi máy bay MH370 mất tích cướp đi 239 sinh mạng con người, nay chúng ta lại phải chứng kiến thêm cảnh mất mát tang thương vô cùng với 270 người còn đang chìm dưới lòng biển phía tây nam Hàn Quốc. Nhìn cảnh em bé 5 tuổi, có người mẹ là người Việt Nam, được cứu sống, tôi thật sự xúc động và tim mình nhói đau khi chứng kiến bi kịch này. Em đang bị bấn loạn và tổn thương về tâm lý khi em không còn nhìn thấy cha mẹ và anh trai. Chính người anh trai đã đưa chiếc áo phao cho em mặc và còn biết bao nhiêu cha mẹ đang khóc thương vì mất con. Khát vọng và ước mơ lớn nhất của họ là nhìn được mặt con, nhưng tia hy vọng đó dường như đang tắt dần theo thời gian. Khi nhìn những gương mặt đau khổ và tang thương của họ, khiến tôi không kìm nén được xúc động và nỗi đau khôn xiết này. Cuộc chia ly nào cũng đau đớn. Mất mác nào cũng đau buồn và nhớ thương khi người thân, người yêu của chúng ta ra đi vĩnh viễn. Hợp rồi lại tan. Vui rồi lại buồn. Cười rồi lại khóc. Đó là quy luật của kiếp nhân sinh. Kiếp người là một hành trình đi về. Về với cội nguồn, nơi ta xuất phát. Chẳng ai sống mãi trên thế gian này. Kẻ trước người sau, lần lượt sẽ ra đi. Nhưng nỗi đau nào ai thấu khi nhìn người ta yêu về nơi vĩnh hằng không một lời từ biệt. Lời an ủi trong lúc chia lìa nhắc ta rằng: " Hỡi người hãy nhớ là bụi tro, một mai rồi sẽ trở về bụi tro" . Thật vậy, đó là quy luật của tạo hóa. Sinh lão, bệnh,tử. Ngày ta sinh ra cất lên tiếng khóc chào đời, thì ngày ta ra đi người ta khóc thay cho chúng ta vì tiếc thương ta. Nỗi đau lớn nhất của cha mẹ là mất con, nhìn thấy con chết trong đau đớn. Khi chứng kiến hai biến cố tang thương đang xẩy ra trong những ngày này, chúng ta có thể liên tưởng và hướng về Cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su cũng đang diễn ra. Chúng ta được nghe về cái chết tủi nhục và đau thương của Chúa Giê-su, thì điều gì đã ghi sâu vào tâm hồn chúng ta hôm nay. Như lời gợi ý của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô trong bài giảng Thánh lễ Lá vừa qua với những câu hỏi đặt ra rằng: " Tôi là ai? Tôi là ai trước Thiên Chúa của tôi? Tôi là ai, trước Chúa Giêsu Đấng đang tiến vào Ngày Lễ Vượt Qua ở Giêrusalem? Tôi có diễn tả niềm vui của tôi, tôi có chúc tụng Người không? Hay tôi đứng đàng xa? Tôi là ai trước Đức Giêsu đang chịu đau khổ? Nhóm lãnh đạo, một số tư tế, Pharisêu, thầy thông luật là những người đã quyết định giết Đức Giêsu. Họ chờ cơ hội để triệt hạ Người. Tôi có là một trong số họ không? Tôi có là Giuđa bán Chúa với 30 đồng bạc không? Tôi có giống Giuđa, kẻ giả vờ yêu và hôn Thầy mình để giao nộp Thầy, để phản bội Thầy không? Tôi có là kẻ phản bội không? Tôi có giống như các nhà lãnh đạo vội vàng triệu tập tòa án và tìm chứng gian không? Và giả như tôi có làm những điều này thì khi ấy tôi có tin là với những điều này tôi có thể cứu độ muôn dân không? Tôi có giống Philatô không, khi thấy tình cảnh khó khăn, thì rửa tay và chối bỏ trách nhiệm và để mặc cho người khác kết án, hay chính tôi kết án? Tôi có giống đám đông không biết gì cả, nhưng lại đòi tha cho Barabba không? Họ vui thú khi hạ nhục và giết chết Chúa Giêsu..." ( ĐGH Phanxicô) Những câu hỏi của Đức Thánh Cha đặt ra có thể đưa chúng ta sát gần với cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su hơn. Khi chúng ta suy niệm mầu nhiệm thương khó, thì chúng ta có khóc thương như chúng ta đang chứng kiến và cảm thông với các nạn nhân bị chìm tàu đang khóc thương con của họ, hay chỉ là một biến cố xẩy ra cách đây hơn hai ngàn năm?. Cha mẹ thế gian còn biết thương con cái mình như thế, huống chi Chúa Cha, Đấng yêu thương nhân loại, thì Ngài cũng đau đớn tột cùng khi nhìn Người Con Yêu của Ngài đang bị hành hình, giết chết và treo trên cây thập giá đầy ô nhục và tủi hổ. Thế nhưng, tình yêu Thiên Chúa không dừng lại ở đau khổ và cái chết. Thiên Chúa đã biến nó thành vinh quang của niềm vui Phục sinh. Sự sống đã chiến thắng. Đau khổ biến thành chiến thắng trước sự độc ác và sự dữ của thế gian. Chết không phải là hết mà là bước vào thế giới thiên quốc của Thiên Chúa. Đó là đức tin của chúng ta, đó là lý tưởng cho chúng ta sống và đi theo Chúa Ki-tô. Cụ thể, trang Tin mừng chủ nhật Phục sinh hôm nay đã thuật lại cho chúng ta nghe, các tông đồ đã làm chứng khi Chúa sống lại. Ngôi mộ trống, tấm khăn liệm. Tảng đá lăn ra, và Chúa Giê-su hiện ra nói với các tông đồ. Một chút suy tư xin gởi đến quý anh chị em trong ngày lễ mừng Chúa Phục sinh hôm nay. Chúng ta không quên cầu nguyện cho những anh chị em chúng ta đang gặp điều đau buồn mất mác vì mất đí những người con, người thân, họ đang phải gánh chịu nỗi đau tột cùng khi phải chia ly và thương tiếc, thì Tin mừng Phục sinh hôm nay là tia hy vọng, an ủi nâng đỡ cho anh chị em và cho chính chúng ta một niềm vui của sự sống mới, nó không bao giờ mất đi, mà là bước vào sự sống mới nơi Thiên Chúa đã dành cho họ hưởng hạnh phúc trên thiên đàng cùng Đức Ki-tô Phục sinh. Ai tin vào Ta sẽ được sống đời đời. Amen. Rev.John Nguyen
St.John's Church
240 Bleecker St, Utica, NY 13501
Khi tôi được sinh ra là khởi điểm tôi bắt đầu đi về cõi chết. Làm gì có sự chết nếu không có sự sống. Làm gì có ngày người ta chôn tôi nếu không có ngày tôi chào đời. Như thế, cuộc sống của tôi là chuẩn bị cho ngày tôi chết. Ngay từ trong bào thai của mẹ, bắt đầu có sự sống là tôi đã cưu mang sự chết rồi. Kết hợp và biệt ly ở lẫn với nhau. Trong lớn lên đã có mầm tan rã. Khi vũ trụ chào đón tôi, thì cùng một lúc, tôi bắt đầu từ giã vũ trụ từng ngày, từng giờ. Mỗi ngày là một bước tôi đi dần về sự chết. Bình minh mọc lên, nhắc nhở cho tôi một bước cận kề. Hoàng hôn buông xuống, thầm nói cho tôi sự vĩnh biệt đang đến. Không muốn nghĩ về sự chết tôi cũng chẳng tránh đuợc sự chết. Tôi có thể không muốn nghĩ về sự chết nhưng tôi có ghét sự chết được không? Tôi ghét sự chết là tôi ghét chính tôi. Chết ở trong tôi. Tôi đang đi về cõi chết nên ngay bây giờ sự chết đã thuộc về tôi rồi. Sự sống của tôi hàm chứa sự chết, nên tôi yêu sự sống thì tôi cũng phải yêu sự chết. Vì vậy, cuộc đời có ý nghĩa vẫn chỉ là cuộc đời chuẩn bị cho ngày chết. Trong dòng đời, tôi không sống một mình. Cuộc sống của tôi là tấm thảm mà mỗi liên hệ yêu thương là một sợi tơ, mỗi gắn bó quen biết là một sợi chỉ, anh em, cha mẹ, người yêu. Sự chết xé rách tung tất cả để tôi ra đi một mình. Chẳng ai đi với tôi. Vì thế, chết mang mầu ly biệt. Sống là hướng về tương lai. Tương lai là cái tôi không nắm chắc trong tay, vì vậy, tôi hay nhìn về tương lai bằng nỗi sợ bấp bênh. Càng bấp bênh thì tôi càng tìm kiếm vững chãi, càng tích lũy. Nhưng tích lũy xong, xây đắp xong, vất vả ngược xuôi để rồi ra đi trắng đôi tay thì đời tôi thành đáng thương hại. Nếu tôi không đem theo được những gì tôi tích lũy, thì những gì tôi ôm ấp hôm nay chỉ làm tôi thêm đau đớn, nuối tiếc. Nếu không muốn vậy thì chúng phải là phương tiện để chuẩn bị cho giờ ra đi của tôi. Tích lũy cho tương lai có thể là dấu hiệu khôn ngoan đề phòng những bất trắc có thể xẩy ra. Mà cũng có thể là một thứ nô lệ. Nếu suốt đời tôi lo âu tìm kiếm danh vọng, quá tham lam tiền bạc, lúc nào cũng bị vây khốn, băn khoăn thì đâu là niềm vui, tận hưởng. Mà tận hưởng là gì? Ðâu là ý nghĩa của sự tìm kiếm? Tích lũy?
Kinh Thánh kể: Có người trong đám dân chúng nói với Ðức Kitô: “Thưa Thầy, Thầy bảo anh tôi chia gia tài với tôi”. Ngài đã nói cùng họ: “Hãy coi chừng! hãy lo giữ mình tránh mọi thứ gian tham, vì không phải ai được sung túc, là đời sống người ấy chắc chắn nhờ của cải”. Ngài nói cùng họ một ví dụ rằng: “Có người phú hộ, ruộng nương được mùa, nên suy tính với mình rằng: ta phải làm gì? Vì ta không còn chỗ nào mà tích trữ hoa mầu nữa. Ðoạn người ấy nói: Ta sẽ làm thế này: phá quách các lẫm đi, mà xây những lẫm lớn hơn, rồi chất cả lúa mạ, và của cải vào đó, rồi ta nhủ hồn ta: Hồn ơi! mày có dư thừa của cải, sẵn đó cho bao nhiêu năm; nghỉ đi! ăn uống đi! hưởng đi! Nhưng Thiên Chúa bảo nó: Ðồ ngốc! ngay đêm nay, người ta sẽ đòi ngươi trả lại hồn ngươi, mọi sự ngươi đã sắm sửa, tích góp kia sẽ về tay ai? (Lc 12,13-21). Không ai sống hộ tôi. Không ai chết thay tôi. Không ai đi cùng tôi. Tôi sẽ ra đi lẻ loi. Họ sẽ quên tôi cũng như tôi đã quên bao người. Có thể đôi khi họ nhớ tôi. Cũng như đôi khi tôi nhớ người này, kẻ kia. Nhưng nỗi nhớ chỉ là của riêng tôi, còn kẻ đã ra đi vẫn ra đi miền miệt. Thì cũng thế, chẳng ai làm gì được cho tôi lúc tôi ra đi không trở lại. Chết là mất tất cả. Nhưng thánh Phaolô lại tuyên tín rằng chết là chiến thắng (1Cor 15,54). Chết là đi về sự sống vĩnh cửu. Chết là gặp gỡ. Gặp Ðấng tạo nên mình. Như vậy, chết là cánh cửa im lìm được mở ra để tôi về với Ðấng thương tôi. Chết là điều kiện để sống.
Chúa ơi, chết là đi về với Chúa sao con vẫn lo âu? Phải chăng nỗi lo âu là dấu hiệu nói cho con rằng con sợ con có thể không gặp Chúa. Vì sợ không gặp nên chết mới là bản án nặng nề. Mà tại sao con lại sợ không gặp Chúa? Chúa luôn mong mỏi, đợi chờ con cơ mà. Như thế, muốn gặp Chúa hay không là do ý của lòng con. Con có quyền quyết định cho hạnh phúc của mình. Chúa ơi, vì biết mình sẽ chết nên con băn khoăn tự hỏi bao giờ thì chuyến tầu định mệnh đem con đi. Hôm nay hay ngày mai? Mùa thu này hay mùa xuân tới? Con âu lo. Nhưng vì sao phải lo âu? Phải chăng lo âu là dấu hiệu nói cho con rằng con chưa chuẩn bị đủ, là hồn con còn ngổn ngang. Có xa Chúa thì mới sợ mất Chúa. Sợ mất Chúa thì mới xao xuyến băn khoăn. Con biết thế, con biết rằng vì không sẵn sàng, vì không chuẩn bị nên mới hồi hộp, mất bình an. Con biết thế, con biết sau khi chết là hạnh phúc hay gian nan, là núi cao với mây ngàn cứu rỗi, hay vực sâu phiền muộn với đau thương. Nhưng chuẩn bị cho giờ ra đi không đơn giản Chúa ơi. Chúa biết đó, con đi tìm Chúa nhưng là đi trong lao đao. Bởi yêu một vật hữu hình thì dễ hơn lắng nghe tiếng gọi từ nơi xa thẳm. Giầu có và danh vọng cho con hạnh phúc mà con có thể sờ được. Còn hạnh phúc của đức tin thì sâu thắm quá. Chung quanh có biết bao mời mọc. Kinh nghiệm cho con thấy rằng đã nhiều lần con bỏ Chúa. Như vậy biết đâu con lại chẳng bỏ Chúa trong tương lai. Nếu lúc đó mà giờ chết đến thì sao? Chúa có nghĩ rằng khi con phải phấn đấu chối từ những rung cảm bất chính để sống theo niềm tin là thánh giá của con không. Chối từ tiếng gọi của tội lỗi đã là một thánh giá. Nhưng có khi lo âu vì không biết mình có từ chối được không còn là một thánh giá khác nữa. Chính đấng thánh của Chúa mà còn phải kêu lên: “Ôi! những điều tôi muốn làm thì tôi chẳng làm, những gì tôi muốn trốn tránh thì tôi lại làm” (Rom 7,15-16). Chúa thấy đó, vị tông đồ lớn của Chúa mà còn như thế, huống chi con, một kẻ mang nhiều đam mê, yếu đuối thì đường về với Chúa gian nan biết bao. Ðể khỏi chết khi con chết, thì con phải chết trước khi con chết. Cái chết đó là đóng đinh đời con vào thập giá. Con không biết con can đảm đến đâu. Con chỉ xin sao cho con tiếp tục đi mãi. Ði xiêu vẹo vì yếu đuối của con, nhưng vẫn tiếp tục đi.
Thập giá nào thì cũng có đau thương. Con không muốn thập giá. Vì thập giá làm con mang thương tích. Chúa cũng đã ngã. Nhưng nếu sự sống của con mang mầm sự chết, thì trong cái chết của thập tử nẩy sinh sự sống. Chúa đã chết. Chúa hiểu nỗi sợ hãi của sự chết. Con vẫn nhớ lời Chúa cầu nguyện: “Lạy Cha, con xin phó hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Hôm nay con cũng muốn nói như vậy đó, với Chúa. Cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa dạy con rằng chẳng có sự sống nào mà không phải qua sự chết. Chết thì sợ hãi, nhưng nếu con yêu sự sống thì con phải yêu sự chết. Con muốn chết để được sống. Con sẽ đóng đinh đời con vào thập tự. Chúa ơi, Chúa có cho những lo âu của con là dấu chỉ của một tâm hồn yếu đuối, đang thao thức đi tìm Chúa vì sợ mất Chúa không. Lạy Cha, trong tay Cha con xin phó thác đời con. Lm. Nguyễn Tầm Thường, S.J
Trần Mỹ Duyệt * Khái niệm về chết lành * Ngãng trở ơn chết lành * Ứng dụng vào đời sống “Hạnh phúc người để luôn giờ chết trước mắt và ngày ngày dọn mình sẵn luôn” (Imt 23:15).
Thường xuyên suy niệm về sự chết, người Kitô hữu sẽ có dịp nhắc nhở mình về cứu cánh của cuộc đời, và phải sống thế nào để đạt được cứu cánh đó. Ngoài ra, không có gì bóc lột con người cách trần trụi hơn sự chết, cũng như không đau khổ nào mà con người sợ hãi bằng khi đối diện với sự chết. Do đó, ý nghĩa của sự chết sẽ giúp ta sẵn sàng chấp nhận những hy sinh, thử thách trong cuộc sống bằng tinh thần thánh hóa và từ bỏ.
KHÁI NIỆM VỀ CHẾT LÀNH Chết tốt lành hay chết trong ơn thánh của Thiên Chúa, còn gọi là chết mà không mang trong tâm hồn những trọng tội xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân. Ðức Kitô đã đề cập tới cái chết này qua dụ ngôn Mười Trinh Nữ. Ý nghĩa dụ ngôn Mười Trinh Nữ đã cho ta ý niệm rõ ràng về sự chết, đó là mọi người đều được kêu gọi về với Thiên Chúa qua cái chết của mỗi cá nhân, hay việc Ðức Kitô thình lình đến với toàn thể nhân loại trong ngày thế mạt. Theo Thánh Phaolô, không có cách chết nào hơn cách nào, vì khi Ðức Kitô xuống thế lần thứ hai, mọi kẻ chết sẽ chỗi dậy. Ðiều quan trọng là khi thời giờ đến, lúc ta phải ra đón Ðức Kitô như mười cô trinh nữ ra đón chàng rể, ngọn đèn tình yêu của ta, tức là lòng kính mến Thiên Chúa có còn cháy sáng hay không? Nếu luồng gió tội lỗi làm tắt ngọn đèn yêu mến trước giờ chết, ta còn có cơ hội thắp sáng lại bằng tâm tình thống hối. Nhưng nếu khi ta bước qua ranh giới sự chết mà đèn tắt, thì thời giờ đã chấm dứt! “Nước trời giống như mười trinh nữ cầm đèn đón đôi tân hôn. Trong bọn có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Năm cô khờ dại lúc cầm đèn lại không đem dầu theo. Năm cô khôn ngoan khi cầm đèn lại đem theo bình dầu. Vì chàng rể đến trễ, nên các cô đều ngủ thiếp đi. Nửa đêm có tiếng gõ cửa: “Kìa, tân lang đến. Hãy ra đón chàng”. Các cô liền thức giấc, sửa soạn đèn. Các cô khờ dại mới nói với các cô khôn ngoan rằng: “Xin các chị cho chúng em ít dầu, vì đèn chúng em tắt rồi.” Mấy cô khôn ngoan trả lời: “E không đủ cho chúng em và các chị đâu. Các chị ra ngoài hàng mua thì hơn”. Họ vừa đi mua, thì chàng rể tới. Những cô sẵn sàng cùng vào tiệc cưới với chàng, và cửa đóng lại. Một lúc sau, năm cô kia mới tới và gõ cửa: “Xin mở cửa cho chúng tôi vào với.” Nhưng có tiếng trả lời rằng ta không biết các cô là ai”. Vậy các ngươi hãy tỉnh thức, vì không biết ngày và giờ nào Con Người sẽ tới” (Mt 25:1-13). Người Kitô hữu phải giữ cho ngọn đèn yêu mến của mình được luôn cháy sáng, vì theo Thánh Gioan Thánh Giá, trong lúc xế chiều của cuộc đời ta sẽ được xét xử theo tình yêu. Nhưng để ngọn đèn tình yêu đó cháy sáng được, ta cần phải có dầu. Vậy dầu của ngọn đèn yêu mến này là gì? Trong đời sống Kitô hữu, dầu của ngọn đèn tình yêu là đức tin, là dầu thánh được xức trên trán ta khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Thánh Nữ Catarina Siena, Tiến Sĩ Hội Thánh thì cho rằng đó là đức khiêm nhường. Nhờ sự hòa trộn giữa đức tin, dầu Thanh Tẩy, và đức khiêm nhường sẽ đem lại những hoa trái tốt. Tình mến trọn hảo đòi hỏi đức tin vững mạnh, đời sống khiêm nhường, cũng như sự bền đỗ trong ơn thánh sủng mà Thiên Chúa đã ban cho ta khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Nếu giờ chết đã được chuẩn bị một cách kỹ lưỡng, thì dù ta có sợ hãi đôi chút vì đức tin còn yếu kém, hoặc đời sống bị chao đảo do những cám dỗ và khuyết điểm, ta vẫn tin tưởng ra trước tôn nhan Thiên Chúa, vì biết rằng Ngài không từ chối ta khi ta đã cố gắng kiếm tìm và thực hiện ý Ngài trong cuộc sống.
NGÃNG TRỞ ƠN CHẾT LÀNH Ðối với nhiều người, sự sợ hãi ghê gớm nhất khi nghĩ đến giờ chết, là không biết mình sẽ chết như thế nào. Qua dụ ngôn Mười Trinh Nữ, Ðức Kitô đã cho biết rõ ràng về cái chết của mỗi người bằng cách căn cứ vào đời sống của người đó. Nhưng qua tình thương của Thiên Chúa, ta có thể tin tưởng rằng Ngài không muốn ai chết trong lúc ngọn đèn tình yêu của họ hết dầu. Ngoại trừ trường hợp giống như năm cô trinh nữ đã không giữ được đèn mình cháy sáng. Do đó, thái độ cẩn trọng của ta là phải giữ cho ngọn đèn tình yêu luôn cháy sáng, bằng việc chuẩn bị và lo lắng cho đèn luôn luôn có đủ dầu. Ðây là hành động khôn ngoan của người tìm kiếm Thiên Chúa, một ân huệ của Chúa Thánh Thần. Nhờ ánh sáng và sự soi dẫn của nó, ta biết tìm kiếm những giá trị thật của cuộc đời. Cuộc sống có giá trị được xây dựng trên sự kính mến Thiên Chúa, trên những hành động bác ái với anh chị em đồng loại, cũng như trên những việc làm tiết chế và tự chủ đối với tính tình hoặc xu hướng xấu. Nhờ sống và hành động dưới sự hướng dẫn của đức khôn ngoan, ta sẽ có một tâm hồn bình an. Ðức khôn ngoan giải thoát ta khỏi những băn khoăn lo lắng thái quá về cuộc sống. Nó cho biết mình phải làm gì, và hành động tới đâu, rồi để phần còn lại trong sự tin tưởng và phó thác cho tình thương của Thiên Chúa. Nhưng để có ơn khôn ngoan cần thiết trong cuộc sống, ta phải cầu nguyện. Nhờ kinh nguyện và kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, ta sẽ tìm được sự khôn ngoan chân thật, cũng là chính Thiên Chúa. Tóm lại, trở ngại lớn nhất đối với ơn chết lành là không sống đạo một cách chân thành, hăng say và bền bỉ. Không tuân giữ những luật lệ cần thiết cho đời sống đức tin của người Kitô hữu. Trở ngại thứ hai là phủ nhận tình thương, và sự tha thứ của Thiên Chúa.
ỨNG DỤNG VÀO ÐỜI SỐNG Cuộc hành trình của mỗi Kitô hữu trên dương thế dài hay ngắn, lâu hay mau, tất cả đều được kết thúc bằng cái chết. Khi bước vào biên giới vĩnh cửu, con người phải bỏ lại tất cả những gì mình có thuộc về thế giới vật chất. Sự tước đoạt trần trụi này chỉ cái chết mới có thể làm được. Ứng dụng ý nghĩa của sự chết vào cuộc sống và để chuẩn bị cho mình một giờ chết tốt lành, sẽ giúp ta hăng hái và kiên trì sống đạo giữa muôn thách đố của cuộc đời. - Trước hết, ta phải làm trọn bổn phận đã được Thiên Chúa trao phó. Ðức Kitô, trong Bữa Tiệc Ly, đã cho ta thấy Ngài sẵn sàng trước cái chết vì Ngài đã chu toàn Thánh Ý của Thiên Chúa Cha về Ngài: “Con đã tôn vinh Cha dưới đất. Con đã chu toàn công việc mà Cha đã trao phó cho con” (Jn 17:4). Là Kitô hữu, trong cuộc sống mỗi ngày trên dương thế, ta cũng phải lo hoàn tất Thánh Ý của Thiên Chúa. Hành động như vậy, như Ðức Kitô, ta tôn vinh Thiên Chúa trong cuộc đời của mình. - Ta phải chuẩn bị cho giờ chết của mình bằng đời sống cầu nguyện và kết hợp với Thiên Chúa. Nhờ kết hợp với Ngài qua tâm tình và đời sống cầu nguyện, ta sẽ được ngọn lửa tình yêu đốt nóng, như tác giả Thánh Vịnh đã thưa lên với Chúa: “Vì Ngài thân xác tôi hao mòn và linh hồn tôi khao khát”. - Ta chuẩn bị giờ chết bằng cách nhận thức như Thánh Ambrôsiô, cho rằng Thiên Chúa định liệu sự chết như một phương thuốc để chữa tội lỗi. Một thứ thuốc mà ta không nên sợ hãi, bởi vì Vị Lương Y Tốt Lành đã cho toa đúng liều lượng vì lợi ích của mỗi người. Ý nghĩa từ bỏ ở đây là ta phải sẵn sàng để bất cứ lúc nào Thiên Chúa muốn, Ngài có thể đến để đón ta ra khỏi thế gian. - Ta phải chuẩn bị giờ chết bằng cách suy ngắm về cái chết của Ðức Kitô trên thánh giá. Ngài đã chết và sống lại cho ta. Do đó, ta cũng sẽ chết và sống lại cho Ngài. Nếu trong khi suy niệm về sự chết của Ngài ta sống với Ngài trong giờ chết của Ngài, Ngài và Ðức Trinh Nữ Maria cũng sẽ ở bên ta trong giờ chết của ta. Từ đó, ta hiểu tại sao Giáo Hội dậy ta phải cầu xin với Ðức Trinh Nữ Maria để được Mẹ cầu bầu cho ta trong giờ chết: “Thánh Maria, Ðức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử”. Vì Mẹ đã đứng dưới chân thập giá Ðức Kitô, và đã chứng kiến cái chết đau đớn của Con Mẹ cho các linh hồn, nên hiểu rõ hơn ai hết giá trị cao quí của một linh hồn, cũng như tầm quan trọng của giây phút linh hồn đó giã từ trần gian để bước vào vĩnh cửu. - Sau cùng, ta phải chuẩn bị giờ chết bằng cách sốt sắng tham dự các bí tích, nhất là Bí Tích Hòa Giải. Mỗi khi phạm một tội trọng, tức là ngọn đèn tình yêu của ta bị vụt tắt, và dầu kính mến bị đổ khỏi bình. Tâm tình và việc làm hòa giải sẽ giúp ta có thêm dầu và thắp sáng lại ngọn đèn yêu mến. Do đó, ta không những phải thống hối khi biết mình phạm tội trọng qua Bí Tích Hòa Giải, mà còn phải để tâm tu tỉnh mỗi ngày bằng tình mến để thanh tẩy tâm hồn cho thêm phần đẹp đẽ, như đổ thêm dầu vào đèn mặc dù đèn của ta chưa hẳn đã hết dầu. Chúa Kitô đã đến qua Mầu Nhiệm Nhập Thể. Ngài đang đến qua các bí tích ta lãnh nhận thường ngày trong Giáo Hội. Người sẽ đến để kêu gọi ta về với Ngài bằng cái chết của mỗi cá nhân, cũng như ngày thế mạt chung cho toàn thể nhân loại. Hãy chuẩn bị dâng tặng Ngài niềm vui do hành động sẵn sàng của ta. Ðây là ý nghĩa từ bỏ trọn vẹn nhất của một Kitô hữu qua việc thực hành đức tin trong đời sống. (Trích trong SỐNG ÐẠO GIỮA ÐỜI, xuất bản 2004 của cùng tác giả)
Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II, 84 tuổi, đã qua đời tại nhà nghỉ của Ngài trong sự thanh thản và bình an, vào lúc 9 giờ 37 phút ( giờ Rôma) đêm Thứ Bảy ngày 2/04/2005, tức vào lúc 2 giờ 37 phút sáng Chúa Nhật 3/04/2005 (giờ Việt Nam), kết thúc 26 năm, 5 tháng và 17 ngày trong cương vị Đại Diện Chúa Kitô trên trần thế. Trước khi giã từ cuộc sống trần thế, trên giường bệnh Đức Giáo Hoàng đã thì thào với vị thư ký riêng: “Cha đang vui mừng, ước gì các con cũng vậy.” Ước mong, lời trăn trối này là “một di chúc” dành cho tất cả mọi tín hữu trên toàn thế giới. Bà cố Matta Hồ Thị Thanh Thọ được Chúa gọi về lúc 10giờ ngày 14.2, ngày lễ tình yêu. Bà về với Chúa an bình nhẹ nhàng. Bà ra đi lặng lẽ một mình thanh thản. Những tháng ngày vừa qua, căn bệnh ung thư bao tử hành hạ thân xác bà đau đớn. Tìm thầy chạy thuốc khắp mọi nơi, y học đành chịu thua trước bệnh tật và cái chết. Bà cố ra đi mang theo bao nổi ưu tư khắc khoải của một người mẹ còn nhiều đứa con chưa yên bề gia thất. Trước Tết hai tuần, bà kiệt sức, gia đình lo lắng sợ bà chết trong dịp Tết. Tôi đến xức dầu, mọi người cầu nguyện xin Chúa khoan cất bà về. Chúa nhậm lời để đến hôm thứ bảy 20 Tết, bà lặng lẽ xuôi hồn về với tổ tiên. Bà cố chết trong Chúa như lời sách Khải huyền đã nói: ngay từ bây giờ, phúc thay những người đã chết mà được chết trong Chúa. Thần khí phán: phải, họ sẽ được nghĩ ngơi, không còn vất vả nhọc nhằn nữa, vì các việc họ làm vẫn theo họ (Kh 14,13). Bà Matta chết trong Chúa, từ nay hết đau khổ nhọc nhắn, giả từ cuộc sống trần gian để về với Chúa. Cụ bà 80 tuổi, mẹ bà cố run rẩy khóc thương con “là xanh rụng xuống, lá vàng trên cây”. Quả thật, cuộc sống con người ở đời chỉ là tạm bợ. Trần gian chỉ là nơi ta sống đợ ở nhờ. Tất cả mọi người sinh ra nơi trần thế đều là lữ khách hành hương đi về cội nguồn của mình. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã nói lên tâm sự lữ khách ấy qua lời ca: Con chim ở trọ cành tre, con cá ở trọ trong khe nước nguồn, tôi nay ở trọ trần gian, mai sau về chốn xa xăm với người. Cuộc sống trần gian chỉ là quán trọ. Ai ai cũng phải trải qua một cuộc hành trình ngắn dài tương đối. Để đi về đâu? Không ai xác định được điều ấy, người ta chỉ nói tử quy, thác về. Đối với chúng ta, chết là về với Chúa. Thành ngữ: về với Chúa rất thích hợp với người Việt Nam Công giáo chúng ta, vì một mặt nó diễn tả đúng ý nghĩa Thánh kinh, đúng với niềm tin của Giáo hội nhưng mặt khác nó cũng rất gần gũi với niềm khát vọng của người Việt là được về với ông bà cha mẹ tổ tiên mà “Cha trên trời chính là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất “ (Ep 3,14). Khi nói về cái chết của mình Chúa Giêsu cũng dùng kiểu nói: Thầy bỏ thế gian mà về cùng Cha. Cái chết như vậy có nghĩa là một sự hội ngộ khiến chúng ta đựơc quy tụ về với Đấng đã sinh thành ra mình. Đây là một cuộc trở về nhà Cha thật sự. Con người có sinh có tử, đó là luật của Đấng Tạo Hoá đã an bài, không ai biết được mình sẽ ra đi vào ngày giờ tháng năm nào và ở đâu. Con người không chọn và không định được ngày giờ ra đi. Sự sống và sự chết đều là kỳ công của Tạo Hoá, con người không thể làm ra sự sống cũng không tài nào cản ngăn được sự chết. Những ngày này đang đi dần về cuối mùa xuân, bên linh cửu của bà cố đây, chúng ta nghe như lời tâm sự của Ns. Trịnh Công Sơn. Vừa tàn mùa xuân rồi vào mùa hạ, Rọi xuống trăm năm một või đi về. Mấy che trên đầu và nắng trên vai, Đôi chân ta đi sông còn ở lại. Còn tình yêu thương vô tình chợt gọi. Rọi xuống trăm năm một cõi đi về. Những người thân trong tang quyến, bà con làng xóm, cộng đoàn giáo xứ lại thấy đâu đây hình bóng của bà vẫn còn hiện hữu, hình bóng lung linh như ánh sáng những ngọn nến nhạt nhoà như khói sương toả vào ký ức những kỷ niệm nhớ thương dấu ái. Hình ảnh cảm động nhất đối với tôi và bà con trong giáo xứ chúng ta là suốt cả tuần lễ, Ông Hai cõng bà Hai đi lên nhà thờ đọc kinh cầu nguyện bên đài Đức Mẹ. Mỗi tối tôi ng8ám nhìn hình ảnh ông cõng bà nhạt dần phía cổng Nhà thờ, lại thấy xót xa. Mấy ngày gần đây không thấy ông cõng bà nữa, tôi mới hỏi thăm, ông bảo là bà yếu quá không bám tay vào cổ để ông cõng, ông đi một mình đến cầu nguyện với Đức Mẹ. Nhìn bóng ông một mình lủi thủi đi về, tôi nghĩ từ nay, đời ông đi một mình thiếu vắng người vợ yêu dấu. Ông ngắt mấy cọng lá đi nhanh về cho bà uống, ông nói uống lá thuốc đài Đức Mẹ giúp bà giảm cơn đau hành hạ. Mấy lần đến thăm nói chuyện với bà. Bà nói trong nước mắt là bà không muốn chết. Tám đứa con, mới có hai đứa lập gia thất, một đứa đi tu dâng cho Chúa, còn một đàn con nhỏ chưa có gia đình, không có mẹ thì ai chăm sóc cho chúng nó hả cha?. Nghe bà tâm sự thều thào trong hơi thở nhẹ như gió thoảng, tôi bùi ngùi xúc động. Tôi chỉ biết động viên an ủi bà, hãy dâng cho Chúa cho Đức Mẹ tất cả để các ngài lo liệu. Hành trình 54 tuổi đời của bà còn biết bao gánh nặng gia đình chưa lo toan trọn vẹn. Nhiều người đến thăm, ai cũng cảm động đến rơi lệ khi nghe bà bày tỏ những thổn thức về đàn con nhỏ. Nhạc sĩ Y Vân là người đã được cái cảm nhận xuất thần khi ông khai triển đề tài mẹ qua nhạc phẩm bất hủ “Lòng Mẹ”: “Lòng mẹ bao la như biển thái bình dạt dào. Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào. Lời ru êm ái như đồng lúa chiều rì rào”; và Thiền Sư Nhất Hạnh cũng rất thổn thức khi viết: “mẹ là dòng suối dịu hiền”. Thiếu dòng suối ấy, thiếu đại dương tình thương ấy, người con không thể nào sống hạnh phúc. Có một người con viết cho mẹ những vần thơ đầy xúc cảm. Đời Mẹ chưa bao giờ nở một Mùa Xuân từ thuở đôi mươi đến hôm nay mái đầu bạc trắng Chỉ biết hy sinh thầm lặng nhận về mình bao phần cay đắng gánh trên vai bao vất vả nhọc nhằn… Những tháng-năm-khoai-sắn Mẹ chạy ngược chạy xuôi Buôn thúng bán bưng, phơi lưng cuốc rẫy lượm lặt cho con từng hạt gạo hiếm hoi để ngoài bữa sắn khoai còn thấy màu cơm trắng… Căn chòi nhỏ mong manh những đêm mưa lạnh Tám Mẹ con co ro… chăn màn chắp vá chỗ khô ráo cho con, nơi dột ướt Mẹ nằm. Những đêm Giao thừa cả nhà đi ngủ sớm giờ phút thiêng liêng, nghe tiếng Mẹ thở dài Không áo mới cho con chẳng thịt thà bánh trái mặc thời gian cứ thế trôi đi… Vậy mà đàn con vẫn lớn khôn giờ mỗi người mỗi ngả Đứa lấy vợ, đứa theo chồng đứa đang theo đại học Mẹ vẫn chưa thôi tháng ngày khó nhọc Đôi mắt nhạt nhoà dòng nước mắt thương con Chưa được nhìn con đứng vững giữa đời vẫn một mình nơi quê nghèo còm cõi hố mắt rưng vui nghe con cháu tụ về rồi lại đứng thẫn thờ đầu ngõ lúc cháu con lần lượt chào Mẹ đi… Cả đời Mẹ cho con đôi cánh Con bay đi góp mặt với đời Chưa nuôi Mẹ được một ngày Lúc ốm đau đâu dễ về chăm sóc Vẫn có đứa làm buồn lòng, Mẹ khóc! Nổi lo oằn trên vai Mẹ chưa thôi… Để xấu hổ cho tôi mỗi khi nghe con trẻ hát “Em sẽ là Mùa Xuân của Mẹ…” Tôi lại cảm thấy mình có lỗi bởi quá nửa đời người tôi vẫn chưa là Mùa Xuân cho Mẹ Mẹ ơi! Người con ấy nhắn gởi rằng: Xin những ai còn mẹ Hãy về để thăm mẹ, Ôm mẹ và hôn mẹ Vì một ngày nào, Mẹ sẽ mãi ra đi Con muôn đời hối tiếc, Nhưng đã mất mẹ rồi Cho dù cả thế gian, cũng không bằng một mẹ. Ca dao VN có viết: cây có gốc mới nở nghành sanh ngọn, nước có nguồn mới bể rộng sông sâu, người ta có gốc từ đâu có cha có mẹ rồi sau có mình. Lòng thảo hiếu biết ơn của con cháu đối với ông bà cha mẹ rất quan trọng đối với người Việt nam chúng ta. Tình cảm này không những được thể hiện qua cách đền ơn đáp nghĩa của con cháu đối với ÔBCM khi còn sống mà cả khi các ngài đã qua đời. Bởi vì đối với người việt: con người có tổ có tông, như cây có cội như sông có nguồn. Công cha như núi thái sơn,nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Con người sinh ra ở đời chẳng có ai thân yêu gần gũi bằng cha mẹ của mình. Công ơn sinh thành, công lao dạy dỗ, tình yêu thương ấp ủ khiến con cháu lo sao cho tròn chữ hiếu. Đạo hiếu là lòng biết ơn, biết ơn trời đất, biết ơn cha mẹ. Nói đến công ơn cha mẹ người ta nói đến ơn chín chữ, đức cù lao, ơn võng cực biển trời: ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao, dục báo chi đức, hạo thiên võng cực. Con cái có bổn phận kính trọng yêu mến, hiếu thảo. Người Việt nam sống chết đều gắn bó với quê hương, vì lá rụng về cội. Khi sinh ra cái nhau của ta được chôn nơi sân trong vườn nhà mình, có khi là dưới viên đá lát lối đi. Khi ta chết,ta cũng muốn được chết tại quê hương, được chôn cất trong đất của tổ tiên, đất Thánh Giáo xứ. Quê hương là đất nước là nơi chôn nhau cắt rốn, vì vậy người Việt nam suốt đời gắn bó với quê hương, với tổ tiên, ÔBCM. Thi sĩ Chế Lan Viên đã viết về miền đất quê hương ấy qua hai câu thơ ý nghãi: khi ta ở chỉ là nơi đất ở, khi ta đi đất đã hoá tâm hồn. Bà cố Matta đã ra đi về nhà Cha, nhưng mảnh đất Tân Hà này đã hoá thành tâm hồn của bà vì ở đó còn có mẹ già 80 tuổi, có chồng, có đàn con cháu, có bà con lối con, có cộng đoàn giáo xứ, hàng ngày vẫn luôn nhớ cầu nguyện cho ông trong mầu nhiệm hiệp thông của Giáo hội. Bà ra đi trong lòng mến chúng ta ở lại trong lòng tin. Cái chết như một huyền nhiệm, như nhịp cầu đưa bà ra đi về nhà Cha, nơi yên nghĩ muôn đời, một cõi đi về đợi ngày tái ngộ trong cõi vĩnh hằng. Chúng ta tin rằng bà cố đã an giấc ngàn thu, nhưng vẫn có ngày chỗi dậy, đó là ngày Chúa quang lâm. Và chúng ta có thể hát lên với Ông Gióp: tôi tin rằng đấng cứu chuộc tôi hằng sống, và ngày tận thế,từ bụi đất, tôi sẽ đứng lên, một ngày kia chính trong trong thân xác này tôi sẽ được nhìn thấy Chúa, Đấng cứu độ tôi. Bà cố ra đi trong niềm hạnh phúc và hy vọng sống trong sự sống mới của Chúa Kitô Phục Sinh. Bà về với tổ tiên, về với cội nguồn của mình. Trong niềm khát vọng ấy, thi sĩ Tagore đã viết lời kinh tha thiết: Như đàn hạc hoài hương Bay thẳng về tổ ấm Trên đỉnh núi vút cao Qua vùng trời thăm thẳm Lên tận chốn huyền siêu. (Gitanjali 103,4). Lời nguyện cầu của cộng đoàn là lễ vật là hương thơm bay lên chốn huyền siêu trước tôn nhan Đấng Tối Cao. Xin Chúa đoái thương đón nhận và dẫn đưa bà cố về dự tiệc vui muôn đời. Amen.
Chia sẻ với quí ông bà anh chị em lúc này trong tư cách là người học trò, người con trở về mái nhà chung để chịu tang một người thầy, một người cha đã gần hết cuộc đời chăm sóc cho ơn gọi linh mục của Giaó phận. Thưa quí ÔBACE, Cuộc đời không ai học được chưa ngờ- Cái bất ngờ lớn nhất vẫn là cái chết, Chúa đã chọn 7g45 để gọi Đưc cha Gise về với Chúa. “Giờ của Chúa”, cái bất ngờ nó đi ngoài những toan tính của con người. chúng ta biết, khi Đức Cha Giuse Trịnh Chính Trực lâm bệnh nặng, các Cha trong Tòa Giám Mục đã nhiều lần họp để chuẩn bị cho ngày ra đi của ngài… nhưng cho đến hôm nay đã hơn hai năm nằm trong tình trạng hôn mê mà Chúa vẫn chưa muốn gọi… Người mà Chúa muốn gọi lại là Đức cha Giuse Nguyễn Tích Đức…Ngài đang ở bên cạnh chúng ta đây, trong thánh lễ cuối cùng của đời mình. Thật là bất ngờ…Thật là huyền nhiệm. Quả đúng như lời Chúa nói : “ Chính lúc các con không ngờ, thì Con Người đến…” Cả Gíao phận thật là bất ngờ và bàng hoàng khi nghe tin 7g45 ngày 23. 5. 2011 Đức cha Giuse đã ra đi ! Cuộc ra đi vội vã và bất ngờ để lời Thánh vịnh chúng ta vẫn đọc càng thêm niềm xác tín : “ Con đang mải dệt đời mình, bổng tay Chúa cắt ngang hàng chỉ …” Người cha của chúng ta về với Chúa, đó là niềm tin và hi vọng mà tác giả sách Ca Thương trong bài đọc I tuyên xưng ; “Đức Chúa là phần gia nghiệp của tôi vì thế nơiu Người tôi cậy trông.” Thánh Phaolô trong bài đọc II gửi cho Giaó đoàn Rôma càng cảm nghiệm sâu sắc ; “ Sự sống là bởi Chúa, chúng ta sống là sốnga cho Chúa và chết cũng là chết cho Chúa, dù sống dù chết, chúng ta đều thuộc về Chúa…” Thưa quí ÔBACE, Đức cha Giuse về với Chúa, chúng ta đều tin như thế. Mái nhà chung này, nơi mà Đức cha miệt mài phục vụ cho đoàn chiên được trao phó, thì cũng chính nơi đây, Đức cha gửi gấm thân xác mình chờ ngày phục sinh. Cuộc đời của mục tử mà Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu ví von như hạt lúa mì gieo vào lòng đất, có thối đi, có chết đi mới sinh bông kết trái. Định luật của kiếp người cũng như thế : có sống , có chết nhưng cũng có niềm hi vọng phục sinh. Hạt lúa của 44 năm đời linh mục, 14 năm Giám mục, Đức cha đã gieo vãi trong lao nhọc, trong vất vả và cả trong bệnh tật, để hôm nay hạt lúa đã trổ bông : Đa số các linh mục trẻ của Giáo phận đã chịu ơn của Đức cha và đại gia đình Lê Bảo Tịnh gồm toàn những gia đình được Đức cha hướng dẫn và chăm sóc. Hình ảnh của người gieo giống trong Kinh thánh cũng là hình ảnh của cha : “Người vừa đi vừa khóc, Tay mang thóc đi gieo Trở về vui hớn hở Vai mang những bó lúa…” Thưa quí ÔBACE, Khi nói về cái chết của mình, Chúa Giêsu cũng nói : “Thầy bỏ thế gian và về cùng Cha”. Chính Ngài là hạt giống của tình yêu Chúa Cha đã gieo vào trần gian, hạt lúa của ơn cứu độ …Hạt lúa cũng phải chết đi, thôpí đi mới sinh nhiều bông hạt…Hạt lúa Gêsu đã : “ Vâng lời cho đến chết và chết trên Thập giá”. Hạt lúa của một cuộc đời chỉ sống cho Thiên Chúa và tha nhân. Chúa đã nói đến định luật tất yếu này “Con Người phải chịu nhiều đau khổ, chiụ chết, ngày thứ ba mới phục sinh.” Chính Ngài cũng là hạt giống trung tín đến cùng … “ Lạy Cha con phó linh hồn con trong tay Cha.” Và giờ chết lại chính là giờ được tôn vinh. Cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu là niềm hi vọng cho cuộc đời chúng ta. Như thế, cho dẫu dời sống có đầy nghịch lý, có đau khổ, có tang chế thì vẫn có niềm hi vọng, vì Chúa đã phục sinh. Chính trong nỗi buồn tuyệt vọng của các môn đệ trong đêm cuối cùng. Thầy trò chia ly, Chúa vẫn nói với các ông về một cuộc hẹn hò thú vị : “ Lòng các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Chúa và tin vào Thầy…Thầy đi để dọn chỗ cho các con, và khi đã dọn chỗ rồi, Thầy sẽ trở lại để đón các con.” Như thế, muốn được Chúa đón, chúng ta đều phải đi vào con đường của Chúa – Con đường của trung tín đến cùng. Con đường mà các mục tử đã vạch cho chúng ta, vun đắp nền văn minh tình thương và sự sống. Con đường phục vụ và yêu thương… và ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy..” Xin tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con một người cha và hôm nay Chúa lại gọi về với Chúa. Xin Chúa tha thứ mọi lỗi lầm cho người tôi tớ Chúa đây, những lỗi lầm và yếu đuối của kiêó con người. Chúng con nài xin Chúa vì “ Chúa chậm bất bình và hết mực khoan dung”. Xin Chân phước Gioan Phaolô II, người đã tuyển chọn cha lên chức Giám mục. Xin Ngài cầu bầu cùng Chúa cho cha và đón cha. Thưa Đức cha Giuse, đoàn con của Giáo hạt Quảng Đức kính cẩn chào biệt cha. Xin cha được đạt tới con người mới, như châm ngôn cha đã chọn cho đời mục tử của mình. Ước mong cha hôm nay là “con người mới” trong Trời mới Đất mới. Amen – Alleluia
Đức Cha Cố Micae đã ra đi. Ngài để lại nhiều hình ảnh đẹp. Một trong những hình ảnh đẹp đáng là hình ảnh kỷ niệm sáng giá, đó là hình ảnh ngài dâng thánh lễ. Theo nhiều người, hình ảnh đó là một đặc điểm rất nổi của Ngài. Trong thánh lễ từ biệt Ngài, tôi xin phép Ngài được trao hình ảnh kỷ niệm đó cho tất cả anh chị em. Hình ảnh đó có nhiều nét Kinh Thánh. Được cộng tác với Đức Cha Cố Micae gần 5 chục năm, tôi thấy cái hồn của Ngài là sự dâng hiến. Dâng hiến cụ thể nhất và sâu sắc nhất, chính là dâng hiến trong thánh lễ.
I. Trong thánh lễ, Ngài đến bên Chúa với tâm tình rất mực khiêm tốn. Khiêm tốn ấy không phải chỉ là tự nhiên. Nhưng nhất là thấm nhuần lời Chúa đã phán: "Thầy không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi" (Mt 9, 13). Lời Chúa giúp Ngài khiêm tốn vác trên vai gánh nặng tội lỗi của riêng mình, tội lỗi của đoàn chiên, và tội lỗi của bao người khác. "Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng". Sự Ngài nhìn nhận tội lỗi luôn đi đôi với tâm tình sám hối, xin ơn thương xót. Cùng với lòng khiêm nhường sám hối và xin thương xót, Đức Cha Cố đã đến bên Chúa với lòng mến yêu nồng nàn. Ngài tin vào lời Chúa đã nói về người phụ nữ tội lỗi xưa: "Tội của chị rất nhiều. Nhưng đã được tha. Bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều" (Lc 7,47). Chúa cho Ngài thấy: Tội lỗi tuy nhiều, nhưng khi được tha thì tình mến được tăng lên. Tội lúc đó coi như một dịp để đốt nóng lên tình yêu mến trong Ngài. Ngoài ra, Đức Cha Cố đã đến bên Chúa với tâm tình cảm tạ. Vì Ngài tin vào lời thánh Phaolô: "Ở đâu tội lỗi lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội" (Rm 5,20). Thực vậy, Đức Cha Cố Micae luôn nhận thức mình mang thân phận tội lỗi. Từ vực sâu tội lỗi, Ngài khiêm tốn đón nhận, ca ngợi và cảm tạ lòng thương xót Chúa.
II. Thánh lễ của Đức Cha Cố Micae trên bàn thờ là như vậy. Thánh lễ đã được kéo dài trên suốt cuộc đời của Ngài. Suốt cuộc đời Ngài là một thánh lễ. Thánh lễ cuộc đời là một cuộc chiến đấu triền miên giữa tội lỗi và ân sủng. Trong cuộc chiến đấu này, Ngài đã chân thành với lòng khiêm tốn trước sức mạnh thực tế của tội lỗi, đồng thời Ngài đã luôn tin cậy sức mạnh siêu nhiên của ơn thánh. Ngài không coi thường các giá trị trần thế và nhân loại, nhưng Ngài không hề ảo tưởng những giá trị đó có sức cứu độ. Ơn cứu độ là sức mạnh của tình yêu từ thánh giá Chúa. Xác tín đó được nhận thấy rất rõ ở tu đức, mục vụ và truyền giáo nơi Đức Cha 100 tuổi của chúng ta. Ngài đặt ưu tiên tuyệt đối ở ơn Thánh. Xác tín đó là của thánh Phaolô: "Chính do dân sủng mà anh em được cứu độ" (Ep 2,5). Trên đây là mấy nét của hình ảnh kỷ niệm nhỏ, mà Đức Cha Cố Micae gởi lại. Chúng ta đón nhận, chiêm ngắm, nhất là để noi gương bắt chước. Giờ đây, Ngài được an táng, như "hạt lúa gieo vào lòng đất" (Ga 12,29). Chúng ta tin tưởng hạt lúa này sẽ góp phần sinh ra được một mùa màng thiêng liêng phong phú. Cúi xin Đức Cha rất thương mến cầu nguyện cho tất cả chúng con. Cùng với Đức Cha, chúng con xin dâng hiến cuộc đời chúng con lên Chúa giàu tình yêu thương xót. Long Xuyên, ngày 15 tháng 6 năm 2009.
Cùng với ông Tôma, chúng ta tất cả đã được chìm mình trong dòng nước tái sinh, đã nhận lấy cây đèn của đức tin và thề nguyền để bước đi theo Chúa Kitô, ánh sáng cứu độ. Ngọn đèn đức tin ấy được trao phó cho ta chăm nom, gìn giữ, duy trì để nó luôn sáng rực cho đến khi Con Thiên Chúa đến gặp chúng ta vào ngày Ngài vĩnh thăng. Tâm tình ấy được nhắc nhở với chúng ta qua hình ảnh của mười cô trinh nữ hôm nay. Nhận lấy nhiệm vụ đón chàng rể, các cô phải luôn biết rằng không ai biết được giờ chàng rể đến. Chính vì thế, họ phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng. Tỉnh thức để canh chừng kẻo vì mê mệt mà ngủ thiếp đi. Sẵn sàng để khi chàng rễ đến đã có đèn cháy sáng với dầu đầy bìng trong tay. Điều mà chúng ta thấy bài Phúc Am hôm nay là ít nhất đã có ½ tức một nữa các cô đã không sẵn sàng và tỉnh thức. Mọi chuyện sẽ trở thành muộn màng và vô nghĩa khi chàng rễ đến thăm và khi cửa phòng đã đóng chặt lại. Rõ ràng chỉ những ai luôn biết mang đến sớm và đầy bình, kẻ ấy mới được dự phần tiệc cưới hân hoan cùng chàng rễ. Với bà Maria, chúng ta có thể tin chắc chắn, khi chúng hoài nghi về sự chuẩn bị cho ngày ra đi của mình. Suốt một năm qua, bà đã xưng tội, rước lễ mỗi tuần. Đặc biệt trong lần cuối cùng vào ngày thứ 2 trước khi đi cấm phòng, bà như đã được ơn để biết rằng giờ ra đi về nhà Cha đã gần. Vì thế bà đã xưng tội và lãnh các phép sau cùng với một tâm hồn thánh thiện và sốt sắng. Cho đến lúc cuối đời, bà vẫn một niềm kiên trung và tuyên xưng đức tin vào Chúa. Niềm tin ấy bà đã tuyên xưng trong suốt cả cuộc đời mình. Đó là một niềm tin đã được thử thách, được trưởng thành qua mọi thăng trầm nghịch cảnh của cuộc sống. Thật vậy giữa những phong ba bão táp của cuộc sống trần gian, của cuộc đời làm vợ, làm mẹ và làm bà, giữa những vất vả gánh nặng của gia đình, những hy sinh trong cuộc đời âm thầm phục vụ và ngay cả những lúc cuộc đời dường như hất hủi, bỏ rơi, đó là khi bà sống những ngày tháng cuối đời ở mảnh đất Xuân Đường, khó khăn, phức tạp và thiếu thốn vật chất và đặc biệt tinh thần này, lòng bà vẫn không chút nghi ngờ, ngọn đèn đức tin của bà luôn được gần gũi, chăm nom để không một phút giây tắt lịm, đen tối. Vì vậy, trong một năm cuối đời, Chúa đã dành cho bà sự ưu ái qua sự hiện diện của vị chủ chăn trong Giáo xứ. Như năm cô trinh nữ khôn ngoan, đã không hề ngủ thiếp đi và nhất là không vì ơ hờ mà chểnh mảng việc châm dầu vào đèn, đón chờ chàng rễ đến. Cả cuộc đời, bà luôn thắp sáng niềm tin yêu, cậy mến. Vì thế giờ Chúa đến, bà đã sẵn sàng để ra tiếng gọi của Chúa, về nhà Cha để hưởng hạnh phúc sau cả một đời đã trung thành với đức tin của mình.
Kính thưa ông bà anh chị em. Cái chết của bà Matta lần nữa giúp chúng ta cảm nghiệm sâu xa lời Chúa dạy hôm nay. Như bà Matta, chúng ta phải luôn biết sống trong sự tỉnh thức và sẵn sàng với đèn cháy sáng trong tay. Đây là việc cần thiết mà có lẽ người thời nay, do cuộc sống vất vả khó khăn đã không mấy quan tâm và chuẩn bị. Chớ gì chúng ta biết rút ra cho mình một kinh nghiệm để kiểm điểm lại cách sống của chúng ta. Chúng ta đã biết châm dầu vào đèn bằng cách siêng năng cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích và thực hiện các việc bác ái yêu thương như Chúa mời gọi không? Giữa những chiều giông to gió lớn của những cám dỗ giàu sang địa vị, đam mê dục vọng, chúng ta có biết giữ những ngọn đèn đức tin luôn cháy sáng bằng việc triệt để vâng nghe theo Giáo huấn của Giáo Hội chưa! Xin cho chúng ta biết nhìn ra qua cách sống của bà Maria, lời mời gọi để chuẩn bị cho ngày ra đi của mình. Xin cho chúng ta luôn biết tỉnh thức và sẵn sàng để khi Chúa đến, chúng ta cũng như bà Matta đã có được ngọn đèn cháy sáng đón Chúa Kitô và vào hưởng hạnh phúc vinh quang Ngài muôn đời. Amen.