Không phải hễ có chết là có an táng cả đâu. Rất nhiều trường hợp hết đời âm thầm, tàn lụi không AnTáng 241
Không phải hễ có chết là có an táng cả đâu. Rất nhiều trường hợp hết đời âm thầm, tàn lụi không an táng. Không ai an táng một tư tưởng ngay cả có thời nó được coi là vĩ đại. Không ai an táng một mối tình đứt quãng giữa đường. Chẳng ai an táng cái chết của một niềm tin, dù là niềm tin vào Đức Kitô. Ban sự sống lại cho Lazarô Đức Kitô ban nguồn sống mới cho các tông đồ và tăng thêm niềm tin cho những người từng quen biết Lazarô. Chính những người này thắc mắc vào quyền năng Thiên Chúa. Họ hỏi nhau ông Jêsu có thể mở mắt cho người mù mà không thể cứu sống được bạn mình sao. (c,38) Đức Kitô nhắc cho chị em Maria và Martha biết về quyền năng của Thiên Chúa khi Ngài phán bảo các cô Ngài là Thiên Chúa của sự sống. Mary và Martha tin vào quyền năng của Thiên Chúa vượt lên khỏi sự chết, đau khổ và bệnh tật và các cô, dù không hiểu hay hiểu rất mù mờ vẫn đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô. Tin vào Đức Kitô không đòi hỏi chúng ta hiểu một cách cặn kẽ. Có lẽ điều cốt yếu cần học hỏi để tin nhiều hơn là học biết tình yêu Chúa dành cho con người cao xa, vượt khỏi tầm hiểu biết của ta. Ban sự sống lại cho Lazarô Đức Kitô mặc khải sức mạnh tình yêu Chúa. Mặc khải sức mạnh tình yêu Chúa chính là làm sáng Danh Chúa. Đức Kitô cho biết sức mạnh tình yêu Chúa lớn hơn sự chết và Danh Chúa cả sáng biểu lộ qua tình thương bao la Ngài dành cho nhân loại. Đức Kitô đánh bại sự chết cho thấy ngay cả ‘thần chết’ cũng phải quy phục Ngài. Chết là chặng đường ta đi qua trước khi bước vào ngưỡng cửa Phục Sinh vinh quang. Mary và Martha tin vào quyền năng Chúa nhưng vẫn mù mờ thắc mắc tại sao Thiên Chúa chậm chạp trong việc đáp lại lời ta cầu xin. Cả hai cô, dù không bàn với nhau trước nói với Đức Kitô cùng một câu. Nếu Thầy đến sớm thì em con sẽ không chết (c.21, 32) Thiên Chúa có chương trình riêng của Ngài, không phải chương trình của ta. Khi nào Ngài đáp lời ta cầu xin là do Ngài chọn lựa thời gian, địa điểm. Việc chọn lựa này đặt căn bản trong việc thực hiện í Chúa Cha như Ngài từng phán Ta đến không phải để làm theo í Ta mà là làm theo í của Chúa Cha. Khi nào thỉ đến giờ Ngài thực hiện điều ta xin là quyền của riêng Ngài. Tiệc cưới Cana chứng tỏ điều đó khi Đức trinh nữ xin Ngài giúp gia chủ vì giữa tiệc hết rượu. Ngài đáp: Giờ Ta chưa đến. Hai chị em Mary and Martha tin tưởng Đức Kitô sẽ cho Lazarô sống lại và ngày đó sẽ xảy ra trong ngày sau hết. Ngày sau hết khi nào chỉ mình Thiên Chúa định đoạt. Chúng ta cũng không quên Thiên Chúa làm chủ sự sống và Ngài làm chủ cả thời gian. Đối với chúng ta có sớm, có muộn vì chúng ta ảnh hưởng bởi thời gian. Thiên Chúa không ảnh hưởng bởi thời gian nên không có sớm, cũng không có muộn, cũng không có tương lai. Đối với Ngài thời gian luôn là hiện tại. Liên kết với Đức Kitô để được luôn sống trong hiện tại và ơn Phục Sinh thuộc về Ngài. Hành trình đi từ cõi chết đến sự sống là hành trình mỗi người chúng ta đều trải qua. Chết về phần thân xác để sống vinh quang phần tâm linh. Hành trình này gây đau khổ, xót thương như hai chị em Maria và Martha đã trải qua trước khi đón nhận sự sống mới của Lazarô. với đức tin vào Đức Kitô chúng ta tin rằng chết thân xác chỉ là biến đổi từ xác phàm trước khi mặc lấy thân xác vinh hiển. Chết thân xác chỉ là tạm bợ vì tình yêu Chúa cao vời vĩ đại hơn tội lỗi con người.
Đức Kitô không phải chỉ là một vị Thiên Chúa uy quyền, mà còn là một người như chúng ta. Ngài AnTáng 242
Đức Kitô không phải chỉ là một vị Thiên Chúa uy quyền, mà còn là một người như chúng ta. Ngài cũng có một trái tim và trái tim ấy cũng biết rung động, cũng mang lấy những tình cảm dạt dào. Thực vậy, trước sự ngoan cố của bọn biệt phái, Ngài đã nổi giận. Trước sự giả hình của họ, Ngài đã đe loi. Trước sự buôn bán nơi đền thờ, Ngài đã nổi nóng và xua đuổi. Trước cảnh bơ vơ của dân chúng, Ngài đã động lòng thương xót. Trước đám đông đang đói khát vì đã theo Ngài những ba ngày rồi, Ngài đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi dưỡng họ. Ngài đã chúc lành cho các em nhỏ, đã chữa khỏi những bệnh hoạn tật nguyền để xoa dịu nỗi đớn đau của dân chúng. Nơi vườn cây dầu, Ngài đã buồn sầu đến nỗi mồ hôi máu chảy ra nhỏ xuống đất. Đặc biệt hơn cả, đó là Ngài đã khóc. Khóc vì Giêrusalem sẽ bị đổ vỡ hoang tàn. Khóc vì thương xót Lagiarô. Tuy nhiên, Ngài luôn giữ được thế quân bình trong đời sống tình cảm. Trước tình thế căng thẳng nơi vườn cây dầu, Ngài vẫn sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa Cha. Lúc phải đau khổ tới tột cùng, Ngài luôn nhớ tới mục đích mình theo đuổi. Ngài đã bình tĩnh trước phong ba bão táp, Ngài đã tha thứ cho kẻ thù trong cơn hấp hối. Tóm lại, đời sống tình cảm của Ngài hoàn toàn khác xa chúng ta. Ngài luôn làm chủ được tình cảm của mình trong mọi hoàn cảnh. Những tình cảm ấy luôn hướng thiện và không bao giờ quên lãng mục đích. Luôn hòa hợp vâng phục lý trí và thúc đẩy cho việc làm. Chẳng hạn khi Ngài khóc thương trước nấm mồ Lagiarô, thì người Do Thái đã coi đó là dấu chỉ Chúa yêu thương ông cách riêng. Chúa khóc vì thần chết đang khống chế loài người. Chúa khóc vì chính Lagiarô sẽ là dịp cho người Do Thái ghen tức và vấp phạm. Chúa khóc vì sự ngoan cố của bọn biệt phái, phủ nhận uy quyền của Thiên Chúa. Chúa khóc vì lòng tin của chị em Martha chưa được hoàn hảo. Còn chúng ta, chúng ta đã khóc như thế nào? Trước một đám tang, có người khóc chỉ vì a dua, khóc mướn, khóc theo kiểu chặng đàng thứ tám. Khi một kẻ thân yêu chết đi, nhiều người trong họ hàng cũng đã khóc. Cái khóc ấy chưa hẳn đã là vì thương người nằm xuống, mà có khi chỉ vì thương chính bản thân mình, là kẻ còn lại phải đơn côi, phải bơ vơ không ai nương tựa. Ay là chưa nói đến những hoàn cảnh mượn tiếng khóc để chửi xéo lẫn nhau, nhất là đối với các bà các cô. Thực vậy, người ta thường bảo nước mắt các bà các cô có thể là một đập nước, nhưng cũng có thể là một trận lụt. Và tệ hơn nữa, nhiều người đã đổ ra những giọt nước mắt cá sấu, tức là những giọt nước mắt giả dối và lừa đảo, có thể ăn sống nuốt tươi kẻ khác. Trong đời này, người ta thường khóc khi vui cũng như lúc buồn. Ay là chưa nói đến những kẻ khóc trong lúc say xỉn, khóc không có lý do. Tuy nhiên, lại có những kẻ chẳng khóc bao giờ, bởi vì lương tâm họ đã chai lỳ, đã băng giá, không còn nhạy cảm trước những nỗi đau thương. Họ không khóc đã đành mà tệ hơn nữa còn làm cho người khác phải khóc vì họ. Tóm lại, khóc là một nhu cầu, chúng ta khóc phần lớn là do kết quả của một nỗi khổ tâm hay một niềm đau đớn nào đó. Thế nhưng, điều quan trọng đó là hãy biết khóc cho cuộc đời tội lỗi của mình. Chính cuộc đời tội lỗi này đã làm cho Chúa phải khóc và làm cho Giáo Hội đau buồn. Đó là những giọt nước lệ làm mờ nhạt đôi mắt nhưng lại làm sáng tâm hồn. Và hơn thế nữa, trong Mùa Chay, hãy biết khóc lóc ăn năn tội lỗi để được thứ tha.
Ba tuần qua chúng ta nghe nhiều về sự sống trường sinh. Đầu tiên là chuyện Đức Kitô đối thoại AnTáng 243
Ba tuần qua chúng ta nghe nhiều về sự sống trường sinh. Đầu tiên là chuyện Đức Kitô đối thoại với người phụ nữ thành Samari tại bờ giếng. Nơi đó Đức Kitô xin chị nước uống. Với lòng thành chị nhận ra Ngài là Đấng ban nước hằng sống và chị đã nhận được nước trường sinh. Tuần qua lại nghe chuyện Đức Kitô mở mắt người mù từ lúc mới sinh. Mắt thể xác anh được sáng và mắt đức tin của anh còn sáng hơn. Nhờ mắt đức tin mà anh nhận biết Đức Kitô là Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ trần gian. Tuần này chúng ta nghe về việc Đức Kitô làm cho Lazarô sống lại từ cõi chết. Bằng nhiều dụ ngôn khác nhau Đức Kitô dẫn chúng ta đi từng bước, giải thích về tình yêu Thiên Chúa và sự sống đời sau - Ban nước trường sinh cho người phụ nữ thành Samari- mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh và ban sự sống cho Lazaro là chuẩn bị cho chúng ta hiểu về sự chết và Phục Sinh của chính Ngài. Các dụ ngôn trên cho thấy tình yêu Thiên Chúa mạnh hơn sự chết. Vì yêu mà Đức Kitô hiến thân ban sự sống cho nhân loại.
Hiến mạng Đức Kitô từ bỏ vùng đang rao giảng để thực hiện điều rao giảng. Đây là chuyến đi định mệnh. Đức Kitô chết để ta được sống. Nguyên nhân Đức Kitô chết vì Ngài yêu thương. Thí mạng sống vì đàn chiên. Con người muốn Ngài chết vì danh Ngài vang dội. Phúc Âm ghi lại án tử bằng câu. Từ ngày đó họ quyết định giết Đức Kitô (Ga 11,53) Thì ra người ta giết nhau, thanh trừng nhau vì ghen. Sợ danh người khác lấn át danh mình. Muốn hơn tiếng phải thanh trừng, khai trừ. Án tử cho Đức Kitô đã định sẵn. Không còn phải thắc mắc. Nếu có chỉ là thời gian, tìm dịp thuận tiện để thi hành. Đức Kitô chết vì thực hiện điều rao giảng: bác ái, yêu thương, thứ tha. Vì bác ái bị người thù. Vì yêu người bị người ghét. Vì tha thứ bị người khai trừ. Vì sao? Vì nhân đức nghịch với khuynh hướng, lối sống và cách xử thế thế gian nên thế gian ghét những gì không thuộc về chúng. Bác ái, yêu thương, tha thứ thành trò cười cho thiên hạ chế diễu. Thể hiện qua lời móc méo của kẻ trộm và viên trưởng lãnh binh. Trước khi xỏ lưỡi đòng thâu tim, họ đã xiên lưỡi đòng tâm lí. Hắn cứu được người khác mà không cứu được mình. (Lc 23,35) Thiên Chúa không đáp lại lời châm biếm nhưng biến lời chế diễu thành lời rao giảng, tuyên xưng. Lời xỏ xiên kia xác nhận Đức Kitô ban sự sống cho người khác. Tự thú Ngài không sống cho chính Ngài nhưng sống cho tha nhân và phó mình làm giá chuộc muôn dân. Từ khởi nguyên ý định xuống thế cứu chuộc không hề lay chuyển. Ngài xuống trần gian không phải để làm theo ý riêng nhưng làm theo ý Chúa Cha. Mà ý Chúa Cha là muốn mọi người nhận ơn cứu rỗi. Đức Kitô thể hiện ý Chúa Cha, hoàn tất một cách trọn vẹn. Lời cuối trên thập tự thể hiện điều này: Mọi sự đã hoàn tất – Nói xong, Ngài tắt thở.
Bạn của Thiên Chúa Mở đầu bằng hứa ban nước trường sinh cho người phụ nữ Samari tại bờ giếng. Một người dân ngoại. Đức Kitô còn kể dụ ngôn người dân ngoại thành Samarita nhân lành, cứu người bị nạn dọc đường, đưa vào quán trọ nhờ săn sóc (Lc 10,25-37). Câu hỏi đặt ra cho mỗi người chúng ta người dân ngoại nhân lành đó là ai? Là chính Đức Kitô và mỗi người trong chúng ta? Đối với lãnh binh đền thờ và thượng tế Đức Kitô là dân ngoại. Tệ hơn nữa còn bị quỉ ám. Chúng tôi bảo ông là người Samari và là người bị quỉ ám thì chẳng đúng lắm sao (Ga 8,48) Vì mở mắt sáng cho người mù từ lúc mới sinh mà họ kết án Ngài Chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi (Ga 9,24) Vì ban sự sống cho bạn thân là Lazarô nên họ chủ trương giết Ngài. Ai là bạn hữu của Ngài? Câu trả lời thật rõ Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dậy. Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu (Ga 15,14) Để trở thành bạn Đức Kitô người đó cần nhận tội, sống yêu thương, tha thứ và thực thi đức ái. Khiêm nhường thú nhận tội lỗi, sống bác ái, yêu thương biến chúng ta thành bạn hữu Đức Kitô.Tình bạn không dành cho riêng ai mà trải dài, vươn rộng cho tất cả những ai tin vào Ngài Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết (Ga 11,26) Tin vào Đức Kitô sẽ nghiệm thấy chết thể lý là biến đổi để bước vào sự sống trường sinh. Sự sống đó không cần phải đợi đến ngày kẻ chết sống lại mà khởi đầu ngay khi hồn lìa khỏi xác. Đây chính là ý nghĩa câu ‘sẽ không bao giờ phải chết’. Hồn lìa khỏi xác để đoàn tụ cùng Chúa, thể hiện điều Đức Kitô ước mong trong lời nguyện hiến tế Lạy Cha, Con muốn rằng Con ở đâu thì những người Cha đã ban cho Con cũng ở đó với Con (Ga 17,24) Chúng ta cầu xin sống tinh thần khiêm nhường, thú tội, nhận biết, tin theo Đức Kitô. Sống theo lời Chúa dậy, đầy nhân hậu, giầu bác ái, nhiều tình thương, chậm bất bình và hay tha thứ.
Sau khi Giáo hội ngưng nghỉ để (Laetare) chuẩn bị tốt hơn niềm vui Phục Sinh dù còn hai tuần AnTáng 244
Sau khi Giáo hội ngưng nghỉ để (Laetare) chuẩn bị tốt hơn niềm vui Phục Sinh dù còn hai tuần nữa, nhưng niềm vui ấy đã ló rạng trong các bài đọc Chúa nhật hôm nay, tuy không nói về sự sống lại của Chúa Giêsu vì đó là điều tất yếu, nhưng nói về sự phục sinh của chúng ta, chính Chúa Kitô ban cho chúng ta: trỗi dậy từ trong cõi chết. Phục sinh Lagiarô báo trước cái chết của Chúa Giêsu Sự kiện Lagiarô sống lại như một bi kịch giữa Sự Sống và Sự Chết, giữa Đấng được Chúa Cha sai đến là Đức Giêsu Kitô, Chúa của Sự Sống, và thủ lãnh sự chết tiềm ẩn nơi: bệnh tật, cái chết của Lagiarô, cũng như các âm mưu chống lại Chúa Giêsu. Ngay từ đầu, Chúa Giêsu cho thấy những thử thách về bệnh tật của bạn mình, cũng như cái được cái mất trong cuộc thương khó của Ngài: "Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa" (Ga 11,4). Chúa Giêsu biết rõ, Lagiarô chết và việc của Ngài nên nói với các môn đệ: "Lagiarô đã chết" ( Ga 11, 14). Nhưng Ngài sẽ cho sống lại, vì "sáng danh Thiên Chúa" (Ga 11,4). Đây là phép lạ thứ bẩy và cuối cùng thu hút sự chú ý nhất của dân chúng vào Chúa Giêsu trước khi Ngài bị bắt. Khi loan báo cho các môn đệ biết về ý muốn trở lại Giuđêa của Chúa Giêsu để gặp Lagiarô đã chết, các ông hết sức ngạc nhiên và lo lắng nên nói: "Thưa Thầy, mới đây người Do thái tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại trở về đó ư?" (Ga 11,8). Quả thật, các nhà lãnh đạo Do thái đã để mất Chúa Giêsu vào dịp này: "Bởi vậy từ ngày đó, họ quyết định giết Người" (Ga 11, 53 ). Nhưng phản ứng của Chúa Giêsu là: "Ladarô đã chết, chúng ta hãy đi với anh ta" (Ga 11, 15), Ngài sẽ đánh bại sự chết, cứu con người khỏi chết và ban cho sự sống.
Niềm hy vọng của chúng ta Trọng tâm của Tin Mừng hôm nay là câu: "Ta là sự sống và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ "(Ga 11, 25-26). Nếu chúng ta đặt niềm tin vào Chúa Giêsu, Chúa Cha "Đấng đặt Thánh Thần của Ngài trong chúng ta, và chúng ta đang sống" sự sống của Người (Ez 1, 13) thì chúng ta sẽ được Thiên Chúa cho sống lại ngày sau hết. Chúa cho Lagiarô sống lại như Ngài đã làm cho con gái ông Giairô, con trai của bà góa thành Naim trở lại sự sống tự nhiên lần thứ hai trong một thời gian ngắn. Trái lại, "Đức Kitô sống lại từ cõi chết, không còn chết nữa, sự chết không còn bá chủ được Ngài nữa" (Rm 6, 9) vì Ngài sống sự sống của Thánh Thần Thiên Chúa. Nhưng "nếu Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần Người ngự trong anh em" (Rm 8,11). Sao chúng ta không thể hy vọng được. Phần lớn chúng ta mong đợi trở lại cuộc sống tự nhiên. Chắc chắn chúng ta sẽ chết, bởi vì "thân xác chúng ta đã chết vì tội lỗi" (Rm 8, 10) nhưng "nếu Đức Kitô ở trong chúng ta" và chúng ta ở trong Ngài với đức tin sống động, thì linh hồn chúng ta sẽ sống bằng sự sống của Thiên Chúa và được tham dự vào sự bất tử của Ngài. Hơn nữa: chúng ta tin vào phép rửa "Vậy nhờ thanh tẩy, ta đã được mai táng làm một với Ngài trong sự chết, ngõ hầu như Đức Kitô, nhờ bởi vinh quang của Cha, mà được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới". (Rm 6, 4). Thật là đại tin mừng: "nơi Ngài là sự Sống, và sự Sống là sự Sáng cho nhân loại. Và sự sáng rạng trong tối tăm, và tối tăm đã không tiêu diệt được sự sáng" ( Ga 1, 4-5). Nếu như tác giả Tin Mừng đã hai lần thuật lại điều Martha và Maria than với Chúa về đau khổ của hai bà: "Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết", há không phải muốn nhấn mạnh rằng, từ nay, tiếng khóc không còn nữa đó sao? Chúa Giêsu thổn thức và xúc động. Người hỏi: "Đã an táng Lagiarô ở đâu?" Nước mắt Chúa như mưa, Lagiarô như hạt giống, và ngôi mộ như một thửa đất. Chúa Giêsu hô lớn tiếng, tiếng Ngài làm cho sự chết run sợ, Lagiarô đã bung lên như hạt giống, anh bước ra khỏi mồ và tôn thờ Đấng đã cho anh sống lại. Mãnh lực của sự chết đã thống trị Lagiarô bốn ngày. Chúa Giêsu đã đánh bại sự chết ngày thứ ba, đúng như lời Ngài đã hứa rằng, Ngài sẽ sống lại ngày thứ ba sau khi chết (x. Mt 16, 21) "Hãy đẩy tảng đá ra" (11, 39). Cái gì vậy, Đấng đã làm cho kẻ chết sống lại, nay không thể mở cửa mồ hay phán một lời để di chuyển tảng đá đóng cửa mồ hay sao? Chắc chắn, Ngài có thế khiến tảng đá lăn ra khỏi mồ bằng lời Ngài phán, khi Ngài bị treo trên thập giá, Ngài đã từng chẻ đôi tảng đá và mở tung các cửa mồ (Mt 27,51-52 ). "Hãy cởi ra cho anh ấy đi" (11, 44). Chúa bảo người chung quanh cởi cho anh để họ nhận ra chính anh là người họ đã bọc vào trong khăn an táng, thân xác đã phân hủy, nay sống lại nhờ quyền năng Chúa.
Hình ảnh báo trước và là lời hứa phục sinh cho các dự tòng Là người thật, Đức Kitô đã khóc Lagiarô, bạn hữu Người; là Thiên Chúa hằng sống, Người đã truyền cho Lagiarô sống lại ra khỏi mồ. (Kinh Tiền Tụng ). Hôm nay Chúa cũng tuyên bố: " Ta là sự sống lại và là sự sống" và hỏi "Con có tin điều đó không?" Cùng với Martha chị của Lagiarô các anh chị em dự tòng thưa: "Thưa Thầy, vâng, con đã tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian” (Ga 11,). Chúa phục sinh Lagiarô là hình ảnh báo trước sự phục sinh cho các dự tòng là những người mong đợi trong Đêm Vọng Phục Sinh. Khi dìm mình trong nước nước Rửa tội, người dự tòng được giải thoát khỏi sự chết và sống lại với Chúa Kitô. Sự sống lại này, như lời tiên tri Êgiêkiêl: "Ta sẽ mở cửa mồ cho các ngườ, Ta sẽ kéo các người ra khỏi mồ" (Ez 37, 12-14). "Ta đặt thần khí ta vào tâm hồn anh em" (Ez 37, 6): nhờ Phép Rửa tội, Thần Khí Đức Kitô ngự vào trong chúng ta (Rm 8, 8-11), Thần Khí kết hợp người chịu phép rửa trong tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con ; khi đón nhận, chúng ta được tham dự vào tình yêu này của Ba Ngôi Thiên Chúa. Amen.
Là người như bao nhiêu người, Chúa Giêsu cũng xót thương, cũng rung động trước nỗi mất mát AnTáng 245
Là người như bao nhiêu người, Chúa Giêsu cũng xót thương, cũng rung động trước nỗi mất mát của người thân, của bạn hữu. Và Chúa đã thật sự xót thương, thật sự rung động trước cái chết của chàng trai Lazarô, bạn của Chúa. Thế nhưng điều mà Tin Mừng muốn nói không dừng lại ở việc Chúa xúc động. Vượt trên cái chết rất đỗi bình thường của Lazarô, là sự khẳng định quá sức phi thường của Chúa Giêsu: "Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta, dù có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ". Nhưng lời khẳng định của Chúa có xác đáng không, khi mà thực tế, chết là đau xót, là chia cắt? Chứng kiến cái chết của người thân nhiều khi làm lòng ta se thắt lại. Ta muốn làm một cái gì đó để cứu giúp họ nhưng hoàn toàn bó tay. Thử hỏi lời Chúa Giêsu: "Ai tin Ta, dù có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ" có là lời chân thật? Nếu đó là lời xác đáng, thì sự sống mà Chúa Giêsu nói là sự sống nào mà lại "không chết bao giờ"? Trong một một bài viết mang tên Cõi đi về, mở đầu cho những lời ngậm ngùi tiếc xót một Chủng sinh đã an giấc, linh mục Giuse Nguyễn Hữu An không giấu nổi niềm đau của mình: "Mọi đám tang đều gieo vào lòng tôi một nỗi buồn tê tái". Nhất là nhìn cảnh Thầy - "một thanh niên đang tuổi xuân ra đi mà mẹ già mắt mờ, lưng còng, tóc bạc đưa tiễn", thì "chỉ có đau thương, chỉ có buồn sầu và tiếng khóc, chỉ có nghẹn ngào và nước mắt" là đúng lắm. Chết là một mất mát. Lứa tuổi cao niên, chết vẫn thấy đời người dang dở, lứa tuổi xuân thì còn dang dở biết bao nhiêu! Cái chết của Lazarô, người bạn của Chúa Giêsu, người được gọi là "người Thầy yêu", không chỉ làm cho hai chị của mình và những người quen biết khóc thương, mà còn làm cho Chúa Giêsu, dù biết rằng sẽ cho anh sống lại, cũng đã "thổn thức và xúc động". Điều đó càng làm nổi bật cái bi, cái khổ của nỗi chết. Nếu chỉ suy nghĩ như thế thôi, lời của Chúa Giêsu: "Ai tin Ta...", đúng là không xác đáng. Nhưng không đúng! Lời ấy phải được suy niệm bằng đức tin, vì là lời của ĐỨC TIN. Chúa không hề bảo rằng: "Ai suy nghĩ về Ta...", mà lại nói rằng: "Ai tin Ta...". Vì thế đọc Lời Chúa, bạn và tôi đừng dừng lại ở chỗ chỉ suy nghĩ mà hãy tiến xa hơn đến chỗ suy niệm. Vì điều quan trọng không nằm ở chỗ biết suy nghĩ, nhưng quan trọng là suy nghĩ trong đức tin. Chỉ trong đức tin, lời của Chúa Giêsu không những là lời xác đáng mà còn là lời ban niềm hy vọng. Một niềm hy vọng mãnh liệt vào sự sống phía sau cái chết, một sự sống "không chết bao giờ". Không ai sinh ra là để sống ở trần gian đời đời cả, nhưng sinh ra để rồi chết. Nếu không có đức tin, không mảy may biết một chút gì đến sự sống đời sau, thì rõ ràng, cuộc đời là bi đát. Vì sao lại bi đát? Là vì cuộc sống trần gian giống như một chuyến đi. Ở cuối hành trình của cuộc đời mỗi người không phải danh vọng, địa vị, hưởng thụ, giàu sang, tiền rừng, bạc bể..., mà là cái chết. Chấm dứt tất cả. Giết chết tất cả. Bị cướp mất tất cả. Trong cái chết, có lẽ con người ta cô đơn nhất. Dẫu có hai người sát cạnh nhau cùng chết, cũng khó có thể nói rằng: chết cùng, chết với. Mỗi người là một cái chết, rất tư riêng, không bao giờ hòa trộn, không bao giờ lẫn lộn. Trong cái chết, con người ta trở thành nghèo nhất: bỏ lại tất cả, chỉ có hai bàn tay trắng. Điều còn lại chỉ là một cái xác không hồn. Nhưng cái xác không hồn này rồi cũng phải bị vùi dập, hay thiêu đốt lập tức, vì nó sẽ thối rữa đến đến tan nát, đến mất mát, đến không còn gì. Rõ ràng bi đát, rất bi đát... Nhưng người Kitô hữu có đức tin. Họ xác tín mạnh mẽ vào Đấng là Thiên Chúa đã làm người chia sẻ đến cùng kiếp sống con người của họ. Người đã chết thật, nhưng đã đi bước trước để dạy họ bài học của sự sống đàng sau cái chết: đó là chính Chúa đã sống lại thật. Sự sống đàng sau cái chết mới là sống thật, sống vĩnh cửu. Một sự sống không có sự chết. Đấng Phục Sinh ấy, hôm nay, trong Tin Mừng, đã nói một cách tường tận, thẳng thắn với Martha, cũng là nói với bạn và tôi: "Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta, dù có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ". Tin vào Đấng tự mình phục sinh và hứa ban ơn phục sinh cho những ai tin, người Kitô hữu cảm nhận bình an trong cuộc sống. Đức tin giúp họ hiểu rằng, cái chết chỉ là một sự biến đổi để trở về cùng Thiên Chúa. Nhờ đức tin, chúng ta nhận ra ý nghĩa của cuộc đời. Những cố gắng xây dựng cuộc đời sẽ cho ta hạnh phúc tương lai. Nếu hiểu như thế, cuộc đời không bi đát, nhưng đáng yêu. Bạn và tôi có quyền hy vọng điều mà Chúa đã hứa: "Ai tin Ta sẽ không chết đời đời"!! Đức tin là chìa khóa mở cửa cho niềm hy vọng của chúng ta.
Có một câu chuyện huyền thoại kể lại rằng: hàng năm bộ lạc kia phải hiến tế một người con gái AnTáng 246
Có một câu chuyện huyền thoại kể lại rằng: hàng năm bộ lạc kia phải hiến tế một người con gái cho thủy thần. Vị tộc trưởng của bộ lạc là một người rất yêu quý gia đình, có một người con gái duy nhất lại bắt trúng thăm phải làm vật hiến tế. Ông vô cùng đau khổ, nhưng không thể vi phạm tục lệ của bộ lạc được. Phải làm sao bây giờ khi ngày phận số đã gần đến và chính ông tộc trưởng cũng không thể nào chủ tọa nổi nghi thức hiến tế này. Những người có uy tín trong bộ lạc nghĩ rằng ông sẽ không đủ can đảm hoàn thành trách nhiệm của mình. Sau cùng, ngày đó đã đến, người ta đoán rằng hoặc là họ sẽ phải cử hành nghi thức hiến tế mà không có mặt của ông tộc trưởng, hoặc là truyền thống sẽ bị hủy bỏ. Họ đặt người con gái xinh đẹp của ông tộc trưởng vào một con thuyền nhỏ, rồi đẩy ra dòng sông. Khi con thuyền bồng bềnh trôi nổi trên dòng sông, với sự kinh ngạc, họ trông thấy một con thuyền khác ẩn nấp trong những bụi cây cũng từ từ trôi ra dòng sông. Và trong ánh sáng mập mờ, họ đã nhận ra người ngồi trong thuyền kia chính là ông tộc trưởng của họ, cha của cô gái. Ngay lập tức, cả hai chiếc thuyền bị cuốn hút mạnh mẽ vào dòng nước đang chảy xiết ra giữa sông. Cả hai cha con đã cùng rơi xuống con thác chung với nhau! Thiên Chúa cũng không thể chịu được khi nhìn thấy con người chết trong tội lỗi. Bởi thế, Chúa Giêsu đã chấp nhận cùng chết với chúng ta, để chúng ta được sống như thánh Gioan đã nói: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Hôm nay trong bài Phúc âm, Gioan đã diễn tả tình cảm của Chúa Giêsu đối với người bạn Lagiarô đã chết và thương cảm cho những người thân yêu trong cơn đau khổ muộn phiền: “Thấy Maria khóc, và những người Do Thái đi với cô cũng khóc, Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến”. Với chủ đề “Thiên Chúa là Tình Yêu”, Gioan muốn cho người Hy Lạp thấy rằng Thiên Chúa của người Kitô hữu là một Thiên Chúa có trái tim biết rung động trước những phiền muộn, đau khổ và thất vọng của con người, nhất là đứng trước sự chết. Không có sự tuyệt vọng và đau khổ nào cho bằng cái chết của những người thân yêu của chúng ta. Maria và Mátta đang buồn phiền và đau khổ vì cái chết của em trai mình là Lagiarô. Họ nhắn tin cho Chúa Giêsu biết từ khi Lagiarô đang đau nặng với hy vọng sẽ được cứu khỏi bệnh, nhưng Ngài đã không về đúng lúc. Bà Mátta đến gặp Chúa Giêsu trên đường gần về tới Bêtania, đã thốt lên những lời trách móc có vẻ thất vọng: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết”. Phải, cuộc sống nhân sinh bắt chúng ta phải nếm mùi đau khổ của sự chết. Nhưng qua câu chuyện làm cho Lagiarô sống lại, Chúa Giêsu đã hứa hẹn cho chúng ta niềm hy vọng: “Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”. Có lẽ trong đau buồn vì mất mát, chúng ta chưa hiểu được chương trình và kế hoạch của Thiên Chúa, nhưng chúng ta phải hy vọng vào Người. Vào thời Chúa Giêsu, những người Sađuxê không tin vào sự sống lại. Ngài đã mạnh mẽ nói với họ rằng: “Các người không biết Thánh Kinh và cũng không biết quyền năng của Thiên Chúa. Các người sai lầm rồi”. Niềm hy vọng vào sự sống lại của những người đã chết được Thiên Chúa mạc khải dần dần, dựa trên niềm tin vào Thiên Chúa. Ngài “không phải Thiên Chúa của những người chết, nhưng của những người sống”.
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại một thanh niên tên Lagiarô sống tại thành Bêtania qua đời. Chúa AnTáng 247
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại một thanh niên tên Lagiarô sống tại thành Bêtania qua đời. Chúa Giêsu là bạn của Lagiarô nhận được tin ấy thì Ngài đến Bêtania và đã làm thay đổi tất cả câu truyện. Sau khi nói với Martha là chị của Lagiarô rằng: "Em con sẽ sống lại... Ta Là Sự Sống Lại Và Là Sự Sống", Ngài đã làm cho Lagiarô sống lại (Ga 11:23, 25). "Ta là sự phục sinh và là sự sống", những lời đó nên hiện thực vào ngày đầu Chúa Nhật Phục Sinh. Rồi từ đó những người theo Chúa Giêsu nhận ra rằng Chúa Toàn Năng hiện diện trong cái chết của Đức Kitô để tiêu hủy sự chết. Hãy nghĩ về điều ấy! Chết là kẻ thù lớn nhất của cả nhân loại đã bị quật ngã vĩnh viễn. Hãy suy niệm điều này là: Phép lạ Phục Sinh mà Chúa Giêsu đã làm cho Lagiarô xưa thì nay Ngài vẫn thực hiện trong mỗi người chúng ta! Tiến trình đi từ cõi chết đến phục sinh đang được thể hiện ngay trong lúc này và từng mỗi giây phút suốt đời chúng ta. Bởi vì cái thuộc về chúng ta là Đức Tin Phục Sinh, chúng ta biết rằng một thế giới mới đang đến: đến trong hân hoan, bình an, yêu thương và tình huynh đệ. Quyền Năng Phục Sinh của Chúa đang hoạt động để xây đắp một thế giới mới ở giữa và xung quanh chúng ta. Tôi xác nhận là tôi đang nói đến thế giới điên cuồng, xáo trộn, nghi ngờ, ô nhiễm, nhân mãn, và tàn phá này. Thế giới này đây! Thiên Chúa thương nó, thật sự Ngài thương nó! Điều ấy thật khó mà tin được trong một vài ngày. Chỉ cần bật TV lên xem tin thời sự lúc 10giờ tối mỗi ngày cũng đủ để một người phải tự hỏi: "Thế giới này còn có hy vọng không?" Bạn hãy thử nhìn những sự việc đang xảy ra xung quanh bạn và bạn nhớ đến câu nói bất hủ trong "Cánh Đồng Xanh" khi Gabriel nói: "Mọi thứ cắm xuống đất đang bị lỏng ra". Đó là tình trạng thế giới ngày nay, mọi thứ cắm xuống đất coi bộ đang lỏng dần! Nếu như bạn có thể tin vào những bản thẩm tra quốc gia thì chẳng cách chi bạn có thể dựa vào tôn giáo để xin giúp. Mỗi năm, các thẩm viên đi khắp Hoa Kỳ để hỏi mọi người cùng câu hỏi này: "Bạn có cảm thấy tôn giáo đã mất ảnh huởng trên đời sống người dân Hoa Kỳ không?" Và số phần trăm trả lời là "có" cứ tăng dần theo mỗi năm. Có tới bảy mươi lăm phần trăm trả rằng: "Đúng vậy, tôn giáo đang mất dần ảnh hưởng trên người dân Hoa Kỳ". Cứ bốn người thì hết ba người nói có! Đó là tình trạng thế giới mà chúng ta đang sống hiện nay. Bạn sẽ không nắm giữ Lời Chúa Giêsu cách thiết thực nếu như bạn không tin thật rằng Thiên Chúa đang hoạt động ngay trong thế giới này đễ làm mới lại mọi sự. Một thế giới mới đang đến. Thiên Chúa đang thực hiện điều này và chẳng sự gì có thể ngăn cản thánh ý Chúa. Đây chính là niềm Hy Vọng Phục Sinh của chúng ta. Niềm Tin Phục Sinh chắc chắn của chúng ta nơi Chúa Giêsu: "Ta là sự sống lại và là sự sống; ai tin vào Ta, thì có chết cũng sẽ được phục sinh" (Ga 11:26). Tuy nhiên như thế chưa hết đâu mà còn có nhiều sự hơn thế nữa. Một bác sĩ kể một câu chuyện cảm xúc về một người mẹ Kitô giáo chăm sóc đứa con năm tuổi của bà đang nằm chờ chết trong nhà thương với cơn đau dằn vặt vì căn bệnh ung thư như sau: Suốt buổi sáng đó, cô y-tá và những nhân viên nhà thương nghe em nhỏ lập đi lập lại nhiều lần: "Em nghe có tiếng chuông! Em nghe có nhiều tiếng chuông! Chúng đang rung lên kìa!" Khi mẹ em đến và hỏi thăm y-tá xem tình trạng em bé như thế nào. Cô y-tá trả lời: "Thật tội nghiệp, em bị mê sảng suốt ngày hôm nay. Có thể là do ảnh hưởng thuốc đó. Em chỉ nói sảng là em nghe thấy các tiếng chuông reo". Nghe nói thế, người mẹ trở nên tươi tỉnh như hiểu điều gì đó, bà nói: "Thưa cô, con tôi không phải bị mê sảng mà cũng chẳng phải tại thuốc hành đâu. Tuần trước tôi có nói với bé là khi nào bé thấy cơn đau ở ngực dữ dội hơn, khi ấy bé sẽ biết là bé sắp rời tôi rồi đấy, nghĩa là bé sẽ lên thiên đàng. Khi bé cảm thấy thật đau, bé hãy nhìn lên góc tường -- nhìn lên thiên đàng -- và lắng nghe tiếng chuông thiên đàng vì các thiên thần sẽ rung chuông cho bé nghe!" Nói xong, bà lặng lẽ vào phòng con của bà, bà ẵm em bé lên và đong đưa bé trong lòng bà cho đến khi những tiếng chuông chỉ còn là dư âm và em bé đã về thiên đàng. Vị bác sĩ nói: "Người đàn bà tuyệt vời đó đã cảm nghiệm một thực tại khác biệt với những đau khổ đang xảy ra!" Trong bài Tin Mừng hôm nay, qua việc làm cho Lagiarô sống lại, Chúa Giêsu đã cho chúng ta một định nghĩa chân thật tuyệt vời về đời sống -- một người rung chuông thành thật! "Sự sống mạnh hơn sự chết", Ngài đã nói với chúng ta điều ấy. Vào ngày giờ của Chúa, thế giới này sẽ biến đổi thành mới lạ khác biệt với những gì chúng ta đang thấy hiện nay.
Lm. Đaminh Đặng Văn Cầu (Suy niệm của Lm. Đaminh Đặng Văn Cầu)
Người ta thường nói "Đẹp như hoa". Nhưng tại sao hoa lại đẹp thế nhỉ? Có bao giờ bạn đặt câu AnTáng 248
Người ta thường nói "Đẹp như hoa". Nhưng tại sao hoa lại đẹp thế nhỉ? Có bao giờ bạn đặt câu hỏi như vậy chưa? Theo chủ quan của tôi thì khoa học hay triết học không trả lời được câu hỏi này nên tôi tìm đến Kinh Thánh. Chính Đức Giêsu đã trả lời cho câu hỏi của tôi: "Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn mai bị quăng vào lửa, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin"(Mt 6,30). Thế là đã rõ, chính Thiên Chúa đã tạo nên, ban tặng vẻ đẹp và sự kiều diễm cho hoa đến nỗi bậc đế vương sang trọng như Salômôn cũng không sánh bằng. Nhưng tôi lại thắc mắc: Hoa đẹp vậy mà tại sao lại chóng tàn thế? Tại sao chỉ một cơn gió mạnh cũng làm nó biến đi, chỗ nó mọc không còn vết tích? Tôi lại tìm được câu trả lời ngay trong đoạn Kinh Thánh vừa được trích: Chúa muốn qua loài hoa để dạy tôi về sự quan phòng của Ngài và muốn tôi hãy phó thác cho tình yêu thương của Cha trên trời. Ngài còn nhắc tôi nhớ lại câu ca dao đồng nội tương đương với Thánh Vịnh 90 nói về sự mỏng giòn chóng qua của kiếp nhân thế: "Đời người khác thể bông hoa Sáng ngày hé nở chiều ra đã tàn" Tương đương "Như cỏ đồng trổ mọc ban mai Nở hoa vươn mạnh sớm ngày Chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn... " (Tv. 90, 5-6) Đúng vậy, kiếp nhân sinh thật vắn vỏi: Ấy con người khác chi hơi thở, Vùn vụt tuổi đời tựa bóng câu. Nhưng chẳng lẽ Chúa gửi cho đời những bông hoa đẹp như vậy mà lại chỉ thông báo những điều tiêu cực và chỉ để: Ngồi lại bên đời thương dĩ vẵng Nghe trong lòng câu "hoa sớm nở tối tàn" Theo tôi Chúa muốn gửi đến cho mọi người thông điệp khác nữa: Hoa đến báo hiệu mùa Xuân tới, Mùa hy vọng, mùa sự sống vũ hoàn Sứ điệp loài hoa không chỉ nhắc cho con người về sự mỏng giòn chóng qua mau hết nhưng còn khơi lên niềm hy vọng: Chết không phải là hết mà là: Thu qua Đông tới Xuân về Cúc tàn Sen nở trên quê vĩnh hằng. Anh em Phật giáo quan niệm: Nếu sống tốt, sống lành, sống thiện thì khi Thu qua Cúc tàn sẽ được hưởng mùa Xuân Vĩnh Hằng trên tòa sen. Còn nếu sống ngược lại thì sẽ bị hóa thân làm kiếp khác thấp hơn, xấu hơn. Đó chính là niềm tin có sự sống đời sau được diễn tả qua thuyết luân hồi. Còn người Kytô chúng ta không chỉ nhận ra những dấu chỉ, những mạc khải của Chúa về sự sống sau cái chết qua thiên nhiên, qua khát vọng sống vĩnh cửu của con người, mà còn được chính Thiên Chúa cho biết về điều đó. Từ rất xa xưa, qua ngôn sứ Ezékiel Chúa đã thông báo cho Dân Ngài và cũng là cho toàn thể nhân loại một tin mừng: "Hỡi dân Ta, các ngươi sẽ biết Ta là Chúa, lúc Ta mở cửa mồ các ngươi, và kéo các ngươi ra khỏi mồ, Ta sẽ cho các ngươi thần trí của Ta, và các ngươi sẽ được sống." (Ed 37, 13) Lời hứa đó được thực hiện nơi Con của Ngài, và phép lạ "kéo Lazaro ra khỏi mồ" hôm nay là một dấu chỉ, một điều báo trước cho phép lạ vĩ đại nhất, kỳ công lớn lao nhất mà Thiên Chúa, qua Thánh Thần của Ngài, sắp thực hiện nơi Đức Giêsu Kytô, và chính đó là niềm hy vọng lớn lao nhất của chúng ta: "Và nếu thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kytô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Kytô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần của Người ngự trong anh em" (Rm 8, 11) Như vậy muốn ra khỏi mồ thì phải vào trong mồ đã, tức là phải chết đi cho xác thịt, cho tội lỗi và sống trong Thánh Thần. Mùa Chay chính là thời gian thuận tiện để chúng ta chết cho tội. Hãy vào trong "ngôi mộ tình thương" của Bí ích Hòa Giải để cảm nghiệm sự khốn cùng của kiếp người và tình thương bao la của Thiên Chúa (Tv 129), để được nghe và đáp lại lời Chúa mời gọi: "Hỡi Lazaro hãy ra khỏi mộ"! Hãy chết cho xác thịt để hoa trái của Thánh Thần nở rộ giũa cuộc đời: "Hãy chấp nhận làm cõi lòng tan nát, như hoa tàn dâng trái ngọt lựng hương" Chính những trái ngọt lựng hương mang được "làm chín" bởi Thánh Thần và bởi "tấm lòng tan nát dày vò" này sẽ là của lễ mà Thiên Chúa yêu thích nhất và nhất là đươc sống đời đời với Đấng đã tuyên bố: "Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống đời đời" (Ga 11, 25). Amen.
Còn bao lâu nữa ! Nhìn đi ngó lại chỉ mười năm thôi. Số đông biến mất đâu rồi; Số hên còn lại AnTáng 249
Còn bao lâu nữa ! Nhìn đi ngó lại chỉ mười năm thôi. Số đông biến mất đâu rồi; Số hên còn lại lẻ loi chắc buồn. Đếm kỹ còn mấy trăm tuần; Thời gian vun vút, bao lần gặp nhau? Thôi thì còn lại ngày nào; Hãy vui ngày ấy, miệng chào thật tươi. Khác biệt gì cũng thế thôi; Mai kia nằm xuống để rồi được chi. Sao bằng ta cứ vui đi; Hơn thua dẹp hết, ôm ghì bạn xưa. Tay với trời cao không thấu nổi. Tuổi già mất bạn cũng mồ côi. Con người được sống khỏe mạnh chính là hạnh phúc nhất rồi, những thứ khác đều là phù du cả. Đừng cho rằng bạn có tiền, nếu không có sức khỏe thì tiền nhiều cũng chẳng có chút gì đáng giá. Tuyệt đối đừng nói rằng bạn có tiền, đọc xong 8 câu...châm ngôn dưới đây, bạn sẽ hiểu rõ ràng tất cả: 1. Đừng có xem áp lực thành động lực, lao động quá sức, để rồi tổn hại bản thân. 2. Đừng quên sức khỏe mới là tiền vốn, không có sức khỏe, thì không cách nào tận hưởng được hết niềm vui của đời người. 3. Đừng xem nặng danh lợi quá, sau khi hào nhoáng qua đi, mới nhận ra mọi thứ đều chỉ là mây khói thoáng qua. 4. Đừng có nghĩ rằng bác sĩ là người có thể cứu lấy mạng sống của bạn,thật ra không phải như vậy, chính bạn mới là người quyết định, dưỡng sinh quan trọng hơn cứu mạng. 5. Đừng mong nghĩ rằng cho đi sẽ được báo đáp lại, chỉ có không kể báo đáp, mới có thể thực hành được việc hành thiện, lấy đức báo oán. 6. Chớ nghĩ rằng làm quan thì hơn dân, một khi bị mất chức,cuối cùng vẫn chỉ là một thường dân thôi. 7. Đừng bỏ mặc những người có duyên với bạn, bởi vì sau khi vinh hoa qua đi, bạn mới hiểu được rằng rất nhiều người sẽ rời xa bạn, khi ấy bạn mới thấy tri kỷ thật khó tìm. 8. Đừng nghĩ rằng hỏi han là quấy rầy, những người thường gửi tin nhắn cho bạn nhất định là người ở trong tâm có hình bóng của bạn. Một nhà doanh nghiệp rất nổi tiếng, cứ cách một đoạn thời gian, ông lại dẫn theo vợ con đến nơi hỏa táng để xem. Có người không hiểu, hỏi ông nguyên do. Ông nói rằng, chỉ cần đến nơi hỏa táng, cái tâm nóng nảy sẽ rất mau chóng an tĩnh lại, thấy danh lợi tiền tài thật nhẹ nhàng. Ở nơi hỏa táng này, không kể bạn là quan to quý tộc quyền cao chức trọng, uy danh hiển hách hay là một người dân bình thường, nghèo rớt mồng tơi, không ai biết đến, cuối cùng đều sẽ phải đến đây, chung một tư thế, lặng yên nằm xuống, sau đó bị đưa vào bên trong lò hỏa táng đang bốc cháy ngùn ngụt, khi trở ra lần nữa, thì chỉ là một chiếc hộp vuông nho nhỏ được bọc trong tấm vải đỏ. Khi đến chẳng mang theo thứ gì, khi đi chỉ như một làn khói. Đời người chính là đơn giản như vậy! Vinh hoa phú quý phút chốc thoáng qua, ân ái tình thù cũng chỉ như cát bụi. Hôm nay sống trong một thế giới vật chất tràn lan, bên cạnh, chúng ta là đầy những cám dỗ mê hoặc: quyền lực, địa vị, tiền bạc…, hễ không cẩn thận, thì trong tâm sẽ dậy sóng. Nội tâm chúng ta vốn dĩ trong sáng, bình lặng sẽ trở nên ngông cuồng, ngạo mạn và tư lợi. Khi bạn cảm thấy hiện thực và lý tưởng có sự chênh lệch, Khi bạn cảm thấy uất ức thương tâm, không có người hiểu bạn, Khi bạn vì ân oán tình thù mà canh cánh trong lòng, Khi bạn vì lợi ích được mất mà so đo tính toán, Khi bạn khom lưng chau mày đối với quyền thế, Khi bạn vì địa vị cao thấp mà mưu tính hại nhau…, sao bạn không đi đến nơi hỏa táng xem thử, đối diện với một nắm tro bụi, bạn còn có gì không buông xuống được đây?
Vì sao Phật nói: Mọi thứ trên thế gian này chỉ giống như bóng trăng trên mặt nước? Phật gia giảng AnTáng 250
Vì sao Phật nói: Mọi thứ trên thế gian này chỉ giống như bóng trăng trên mặt nước? Phật gia giảng rằng: nhân sinh như mộng, đời người là ảo vọng, hết thảy mọi thứ nơi thế gian cũng chỉ giống như bóng trăng trên mặt nước. Vì sao lại như vậy? Hãy cùng đến với hai câu chuyện ngắn dưới đây: Câu chuyện thứ nhất Alexander Đại đế là một vị vua vĩ đại. Trên đường khải hoàn sau khi chinh phạt nhiều nước, ông ngã bệnh. Vào thời khắc ấy, những vùng đất ông chiếm được, quân đội hùng mạnh, những thanh gươm bén, và sự giàu có không còn nghĩa lý gì với ông. Ông nhận ra rằng cái chết sắp sửa đến và ông sẽ không về kịp mảnh đất quê hương. Ông bảo các sỹ quan của mình: “Ta sắp sửa rời bỏ thế gian này. Ta có ba điều nguyện ước. Các ngươi cần phải thực hiện những gì ta bảo”. Các vị tướng tuân lệnh trong dòng nước mắt. “Điều ước đầu tiên của ta là hãy bảo thầy thuốc của ta mang cái hòm rỗng của ta về một mình”. Sau khi cố hít thở một hơi, Alexander nói tiếp: “Ước nguyện thứ hai của ta là hãy rải vàng, bạc và châu báu trong kho tàng của ta trên suốt dọc đường đến nấm mồ khi các ngươi mang quan tài của ta ra nghĩa địa”. Sau khi quấn mình trong chiếc áo khoác và nghỉ một lúc, ông nói tiếp: “Ước muốn cuối cùng của ta là hãy đặt 2 bàn tay của ta ra bên ngoài cỗ quan tài”. Inline images 2 Mọi người xung quanh ông tất cả đều rất tò mò, nhưng không ai dám hỏi nguyên nhân. Vị sủng tướng của Alexander hôn bàn tay ông và hỏi: “Thưa đức Vua, chúng thần sẽ làm theo mệnh lệnh của Ngài. Nhưng Ngài có thể cho chúng thần biết tại sao Ngài lại muốn chúng thần làm như vậy hay không?” Sau khi gắng thở một hơi dài, Alexander trả lời: “Ta muốn mọi người hiểu được ba bài học mà ta đã học được. Ta để cho người thầy thuốc đưa cỗ quan tài về một mình là để người ta nhận ra rằng một vị thầy thuốc không thể nào thực sự chữa bệnh cho người ta. Nhất là khi đối diện với cái chết, thầy thuốc hoàn toàn bất lực. Ta hy vọng mọi người sẽ học được rằng phải trân quý cuộc sống của họ. Mong ước thứ hai của ta là để nhắn nhủ mọi người rằng không nên giống như ta, theo đuổi giấc mộng giàu sang. Ta đã tiêu tốn cả đời để chạy theo sự giàu có, nhưng cuối cùng, ta nhận ra rằng mình đã lãng phí hầu hết thời gian của đời người. Mong ước thứ ba của ta là để người đời hiểu rằng ta đến thế gian này với hai bàn tay trắng và ta sẽ rời bỏ thế gian này cũng với hai bàn tay trắng”, nói xong ông nhắm mắt lại và trút hơi thở cuối cùng. Câu chuyện thứ hai: Ngày xưa, ở Ấn Độ cổ có một người đàn ông vì chán ghét cõi hồng trần nên đã tìm đến cửa Phật. Mặc dù vậy, nhưng ông vẫn còn nhiều ham muốn với thế gian. Ông thường tắm nước nóng và dùng dầu thơm để sát lên thân thể, khi đi xin ăn cũng lựa chọn những nhà giàu để xin, tâm hồn bị chôn vùi sâu trong vật chất, như bị dây mơ trói thân thể vậy, không lúc nào tự tại. Mặc dù trên hình thức ông đã xuất gia, thụ giới, nhưng về hành vi và cảnh giới thì vẫn là phàm phu tục tử, cách thánh đạo Niết Bàn còn xa lắm. Một hôm, khi đang chuẩn bị đi ra ngoài khất thực, vị sư này thấy các tỳ kheo bàn tán sôi nổi về một Tôn giả có tên là Upagupta, một nhà sư nổi tiếng đạo hạnh cao thâm, đang trú ngụ tại nước Ma La. Vị tỳ kheo mới xuất gia này rất tò mò về tôn giả Upagupta nên quyết định tới diện kiến. Vừa nhìn thấy vị tỳ kheo, Tôn giả Upagupta liền hỏi: “Ông không quản đường xá xa xôi tới đây làm chi?” “Tôi mộ danh ngài mà tới. Mong được nghe Tôn giả từ bi khải thị yếu chỉ Phật Pháp.” Tôn giả Upagupta quan sát vị tỳ kheo một lúc, biết người này căn cơ thâm hậu, chẳng qua vẫn còn bị ái dục trói buộc nên mới thành ra như vậy, bèn hỏi: “Ông có thể hoàn toàn nghe theo lời giảng của ta, chấp nhận giáo huấn của ta, chiểu theo ý chỉ của ta mà làm hay không?” “Tôi nhất định có thể, hết thảy đều chiểu theo lời dặn dò mà làm”, vị tỳ kheo dập đầu trả lời. “Nếu ông có thể sinh tín tâm, trước tiên ta sẽ dạy ông thần thông, sau đó thuyết Pháp cho ông”, Tôn giả Upagupta cười nói. “Học thần thông trước, tuyệt quá.” vị tỳ kheo sung sướng reo lên. Inline images 3 Sáng sớm hôm sau, tôn giả Upagupta dẫn vị tỳ kheo lên núi, trước tiên dạy ông học tập thiền định sau lại dặn ông phải tuyệt đối phục tùng mới có thể đắc chính quả. Sau khi thuyết giảng một hồi, Tôn giả Upagupta vận dụng lực thần thông, hóa ra một cây đại thụ, rồi bảo: “Ông cần phải trèo lên cái cây này.” Vị tỳ kheo “dạ” một tiếng rồi nhanh chóng trèo lên cây đại thụ. Lên được nửa chừng, cảm thấy thấm mệt, vị tỳ kheo liền dừng lại, lấy vạt áo lau mồ hôi, bất giác nhìn xuống thì không khỏi giật mình khi thấy một cái hố lớn xuất hiện ở dưới đó từ khi nào, sâu không thấy đáy. Tôn giả Upagupta ngồi đả tọa ngay cạnh miệng hố, cười bảo: “Giờ hãy thả hai chân của ông ra“. Vị tỳ kheo run cầm cập, không biết phải làm sao, đành cắn răng, buông thõng hai chân. “Buông nốt hai tay của ông ra nữa”, Tôn giả Upagupta cất tiếng. Vị tỳ kheo “dạ” một tiếng nhưng rồi cũng chỉ dám buông một tay. “Ông hãy buông nốt cả tay kia ra.” “Nếu lại bỏ tay ra, sẽ rơi xuống hố mà chết”, vị tỳ kheo sợ hãi. “Ông đã có lời ước hẹn với ta, hết thảy tuân theo dạy bảo của ta, giờ lại hối hận rồi sao?” Vị tỳ kheo không còn cách nào khác, đành buông tâm không nghĩ gì nữa, vừa buông tay kia ra liền rơi vào cái hố sâu, vừa sâu hoắm vừa đen ngòm. Lúc này ông hồn xiêu phách lạc, toàn thân lạnh ngắt, nhưng khi mở mắt ra nhìn thì thấy cái cây và chiếc hố đã biến đâu mất, chỉ thấy Tôn giả Upagupta đang ngồi trước mặt mình, nhìn ông một cách từ bi: “Giờ ta hỏi ông, khi ông rơi xuống cái hố đó, ông còn thấy thế gian có gì đáng để thích nữa không?” “Tôn giả, đã tới bước ngoặt sinh tử, hết thảy đều không còn gì ưa thích nữa”. “Là như thế. Hết thảy mọi thứ thế gian đều là hư ảo hết. Khi sắc thân ảo diệt, ái dục cũng theo đó mà ảo diệt. Nếu ông có thể nhìn thấu sắc thân vô thường, thoát khỏi ái chấp trói buộc, thì sẽ giải thoát khỏi nó. Ưa thích là căn nguyên của phiền não sinh tử, hãy cẩn thận với nó, tinh tấn tu hành, chớ mất bản tâm, sẽ thành chính Đạo.” Vị tỳ kheo lúc này đột nhiên tỉnh ngộ, từ đó tĩnh tâm suy ngẫm, chuyên cần tinh tấn, cuối cùng chứng đắc quả vị La Hán. Suy ngẫm: Thực ra, phú quý hay bần tiện trên thế gian cũng như một dòng nước chảy. Nó không ngừng thay đổi vào mỗi thời khắc. Đối diện với sinh-lão-bệnh-tử trong đời người, thì giàu hay nghèo của con người thế gian dường như vô lực. Thế nên đôi khi tôi cảm thấy rằng không có gì trong thế giới này có thể dựa vào, kể cả tiền bạc, quyền lực, tình cảm và thậm chí là cả sức khỏe. Tất cả mọi thứ giống như là bóng trăng trên mặt nước. Mặc dù chúng ta theo đuổi những điều này không biết mệt mỏi, chúng ta thấy rằng cuối cùng chúng chỉ là tạm thời. Không có gì trong những thứ này là điều quan trọng nhất trong đời người. Cuối cùng xin kết thúc bằng một bài thơ có tên là “Tỉnh mộng” của tác giả Minh Tịnh: Luân hồi chuyển thế mấy nghìn năm Đến đến đi đi tại cớ gì? Công danh lợi lộc nào giữ mãi Thế đạo hưng suy định bởi Trời. Sinh mệnh vốn là Tiên thiên thượng Thành bại trong đời mây khói bay. Thị phi vốn là ân oán trước, Đắc Pháp tỉnh mộng về cố hương. Phong Vân
HỘI DÒNG MẾN THÁNH GIÁ CÁI MƠN : Người Giồng Trôm.
Đời người, dù tu hay không tu thì đích đến vẫn là “cõi đi về”. “Cõi đi về” của đời người không ai AnTáng 251
Đời người, dù tu hay không tu thì đích đến vẫn là “cõi đi về”. “Cõi đi về” của đời người không ai biết trước được ngoài Chúa là Chúa, là Chủ của mỗi người. 0 g 45 sáng ngày thứ thứ Hai 4 tháng 9 năm 2017, Dì Tư Tài (Anna Lê Thị Tài) đã về với Chúa. Đúng 2 ngày sau “bạn xe lăn” của Tư Tài là Dì Anna Mạc Thành Hiển cũng đã về với Chúa. Hai Dì đã đi trọn đời tu của mình, hai Dì đã về đích với chiếc xe lăn thường ngồi trong những ngày đau bệnh và nay bệnh tật của thể xác không còn làm gì được các Dì nữa. Hai Dì đã hoàn thành chặng đường đã qua và đến đích và đến thật đẹp. Cái đẹp đó được thể hiện bằng sự hiện diện khi được tin hai Dì về nhà Cha nhiều người thân và nhất là gia đình đã hiện diện rất đông đảo. Đặc biệt trong Thánh Lễ tạ ơn lần cuối của hai Dì. Dù trời nắng nóng nhưng rất nhiều người đổ về với Cái Mơn chiều nay để cùng với Hội Dòng và gia đình tiễn biệt hai Dì Anna. 14 g 30, cộng đoàn quy tụ với nhau tại Nhà Tiễn Biệt của Hội Dòng để dâng lời nguyện. Cha phó Cái Mơn đã chủ sự nghi thức di quan 2 Dì vào Nguyện Đường của Hội Dòng. 15 g 00, Thánh Lễ tạ ơn và cầu nguyện cho 2 Dì Anna được bắt đầu. Hôm nay, vì bận Lễ thêm sức cũng như an táng cho ông cố của một Dì nên Đức Cha Phêrô và Đức Ông không thể chủ tế Thánh Lễ này được. Chủ tế Thánh Lễ chiều nay là Cha G.B. Lê Đình Bạch – Quản Hạt cũng là cha sở Cái Mơn. Cùng đồng tế với Cha Quản Hạt có Cha Quản Hạt Thạnh Phú, Cha Giám Đốc Tiểu Chủng Viện, Cha Giám Đốc Nhà Hưu và gần 40 Cha nữa. Trong bài chia sẻ, Cha Sở Cái Mơn mời gọi cộng đoàn suy nghĩ về cái chết của phận người : “Bao nhiêu năm làm kiếp con người, rồi một ngày tóc trắng như vôi …”. Cha xin trao 2 Dì vào Lòng thương xót Chúa và mời mỗi người nhìn vào cuộc đời mình trước sự ra đi của 2 Dì. Trước khi đưa 2 Dì ra nghĩa trang, Cha Khấn – Cha Sở họ Hựu Thành đã chủ sự nghi thức tiễn biệt 2 Dì. Với nghĩa tình sâu đậm, Cha Bằng – Cha Sở họ Rạch Dầu đã tiễn đưa 2 Dì đến nơi an nghỉ cuối cùng chờ ngày phục sinh với Chúa. Trong những ngày quàn, nhiều Cha biết mình bận rộn không thể hiện diện trong Thánh Lễ chiều nay nên đã đến viếng 2 Dì. Đặc biệt quý Cha gốc Cái Mơn như Cha Paul Duy, quý Cha ở vùng Sa Đéc … Giờ này đây, 2 Dì đã tạm nghỉ trong lòng đất Mẹ và đã trở về với Đất Mẹ nhưng hình ảnh của hai Dì vẫn còn đó. Một Tư Tài rất tài tình chia sẻ, phục vụ những họ đạo mà mình được gửi đến. Đặc biệt, có những năm tháng phục vụ ở Chủng Viện, Tư Tài đã khuyên bảo, hướng dẫn quý Thầy khi quý Thầy gặp khó khăn để quý Thầy vượt qua những khó khăn, để tiếp bước đường tu … Những hình ảnh đẹp của Tư Tài ở Vinh Kim, La Mã, Chủng Viện, Rạch Dầu … vẫn còn ở lại mãi trong tâm hồn của quý cha trẻ, của họ đạo, của giáo dân cho đến ngày dì hoàn thành sứ mạng đời tu và kết thúc ở chuyến xe lăn cuối đời. Một Mạc Thành HIển trầm lắng nhưng sâu đậm tình Chúa và tình người với những nơi dì sinh sống và phục vụ. Một “Ba Ruộng” đã gắn bó cả đời mình trong đời tu chân chất và mộc mạc đến độ khác thường. Sau những ngày khốn khó mất nước, “Ba Ruộng” đã phục vụ ở Cái Tắc một cách âm thầm và lặng lẽ với một Dương Văn Oai ở tù nhiều năm. Tạ ơn Chúa với 2 con người, với 2 cuộc đời, 2 chiếc xe lăn đồng hành với 2 Dì cho đến cuối cuộc đời. Tạ ơn Chúa vì hai Dì đã “quên đi chặng đường đã qua” và đạt đến cùng đích là Đức Kitô. Xin Hai Dì thương nhớ và cầu nguyện nhiều cho Hội Dòng cũng như những chiếc xe lăn đang chờ để về đích với hai Dì.
Kn 3,1-9: “Chúa đã nhận lời các ngài như của lễ toàn thiêu”. Rm 6, 3-9: “Chúng ta cũng phải sống đời sống mới” Ga. 11, 17-27: “Ta là sự sống lại và là sự sống”. Kính thưa Cộng đoàn Phụng Vụ,
Con xin phép được ghi nhận vài lời theo Phúc Âm thánh Gioan vào dịp Chúa Giêsu làm phép lạ AnTáng 252
Con xin phép được ghi nhận vài lời theo Phúc Âm thánh Gioan vào dịp Chúa Giêsu làm phép lạ cho Lazarô sống lại. 1) Trước hết, Câu 5, đoạn 11: Khi người ta báo tin cho Chúa Giêsu biết là Lazzârô người Chúa thương bị bệnh nặng, thánh Gioan ghi nhận lời Chúa bảo “Bệnh này không đến nỗi chết, song vì vinh quang Thiên Chúa, hầu nhờ đó Con Thiên Chúa được vinh hiển” Thật khác với những phép lạ khác, thường Chúa làm phép lạ trước, rồi mới giải thích sau về ý nghĩa của việc Ngài làm. Nhưng ở đây, Chúa dịnh rõ chủ đích của phép lạ Ngài sắp làm là để tôn vinh Thiên Chúa, và vì thế/ biểu lộ Con vinh hiển của Thiên Chúa, cho các môn đệ và nhiều người tin Ngài. 2) Rồi, Chúa Giêsu khẳng định với Martha: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dù có chết cũng sẽ được sống, và ai sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ” (Ga 11,25). Gia đình của Chị em Martha, Maria và Lazarô là nơi Chúa thường trú ngụ khi Ngài tới Vùng Giuđêa. --Bêthania cách Giêrusalem chừng 3 cs về phía Đông. 3) Tiếp đên, Lời Chúa Giêsu cầu nguyện trước khi cho Lazarô sống lại: “Lạy Cha, Con tạ ơn Cha, vì Cha đã nhận lời Con. Con biết rằng Cha hằng nhậm lời Con. Nhưng vì dân chúng đứng xung quanh mà nghe Con nói, ngõ hầu chúng tin rằng Cha đã sai Con” (Ga 11, 41-42) : Mục đích phép lạ là giúp đông đảo thính giả TIN. 4) Sau cùng, Công nghị Do thái vì ghen tức với Chúa Giêsu, do những giáo lý Ngài dạy và các phép lạ Ngài làm cho dân chúng, nên đã kết án tử cho Ngài. ... để Ngài chết thay cho toàn dân”, vì cớ sợ dân gây rối loạn và người Roma đến dẹp loạn ... Nhưng thánh Gioan giải thích thêm: “Mà còn để thâu họp con cái Thiên Chúa tản mát về lại làm một” (Ga 11,45-52). Như vậy, cái chết của Chúa Giêsu thay vì để dân khỏi phải chết...nhưng Chúa đã chấp nhận lễ hi sinh của Con Chúa và cứu chuộc và thu tập Dân Chúa vào Giáo Hội hiệp nhất yêu thương thực sự. Kính thưa Cộng Đoàn, Nữ Tu ANNA được Chúa gọi về dứt khoát vào chiều Chúa Nhật vừa qua, Tuần lễ cuối cùng của Mùa Chay Thánh vừa là mùa giúp mọi người Kitô hữu sồng và đào sâu con đường Đức Tin mà chúng ta đang bước đi theo Chúa, Theo Chúa như là một mầu gương sống động và cụ thể mỗi ngày, trong Hội Thánh duy nhất của Chúa Kitô. Kể từ ngày chịu phép Rửa tội, 88 năm qua, ANNA đã được định hướng sống đời thánh hiến của mình để bước theo Chúa Chúa Kitô như biết bao người khác. Chúa là lẽ sống của con! Và rồi từ năm 11 tuổi, tức 77 năm qua, ANNA đã quyết chọn một bước ngoặt mới, là “Theo sát Chúa Kitô chịu đóng đinh” trên con đường Hội Dòng Mến Thánh Giá, Bài đọc thứ II hôm nay ghi nhận lời thánh Tông Đồ Phao lô nói với các tín hữu Roma: “Không phải tất cả chúng ta đã chịu phép Rửa trong Đức Kitô, tức là đã chịu Phép Rửa trong sự chết của Người sao? Vậy nhờ phép Rửa trong sự chết của Người, chúng ta cùng được mai táng với Người, để như Đức Kitô, nhờ vinh hiển của Chúa Cha mà sống lại từ cõi chết thế nào, thì cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải sống đời sống mới như vậy.”(Rm 6, 3-4) Theo Chúa Kitô trong Hội Dòng Mến Thánh Giá với tâm niệm sống: “Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh là đối tượng duy nhất của lòng trí con!”Là đang đi vào một đời sống mới đó! Người Nữ tu từ nay không còn sống cho chính mình nữa, không coi ý riêng mình là là tối hậu; nhưng luôn biết chọn ý Chúa làm trọng tâm cho mọi suy tư cũng như hành động của minh. Thánh Phaolô đã mạnh dạn nói: “ Từ nay tôi sống, không còn phải là tôi sống, nhưng Chúa Kitô sống trong tôi” . Người nữ tu có thể nói với Chúa như môt cuộc trao thân đổi phận: Tôi lo cho công cuộc Nước Chúa và vinh quang Ngài; còn Chúa sẽ chăm sóc cho tôi! Và chính nhờ ơn Chúa, mà mỗi ngày chị sống trung thành với tâm niệm của mình. Đây không phải chỉ là một hứng khởi nhất thời, khi thích thì làm, mà khi không thích thì thôi!. Con người được Chúa thánh hiến cần luôn nhắc nhở mình biết vươn cao lên mãi, như tàn lửa không được để tàn lụi đi, lụn xuống là chết! Người được Chúa thánh hiến dám kiên trì/ dấn bước theo Chúa cho đến trọn đời. Một khi đã bắt tay cầy bừa, thì không được quái cổ lại đằng sau! Ơn Chúa không khi nào thiếu cho những ai tin cậy Chúa. Tình yêu Chúa không bao giờ cạn cho những người biết sống trong Thánh Thần Chúa. Và sức sống thiêng liêng luôn tràn đầy cho những con người biết gắn liền đời mình với Chúa Kitô (qua nguyện cầu) . Thập giá dù luôn bên cạnh mỗi người, nhưng sẽ nên nhẹ nhàng cho tất cả những ai biết đến phó thác đời mình cho Chúa Tình thương. “Gánh Chúa nhẹ nhàng và ách Chúa êm ái!” đó là chính lời từ miệng Chúa phán ra! ( Mt 11, 29-30 ) Với 88 tuổi đời, Chị ANNA đã trung thành phụng sự Chúa trong cả hai Giáo phận Qui Nhơn và Nha Trang hôm nay, từ năm 1949 cho đến 2017 này. Ngay cả trên giường bệnh với bao cơn đau không rõ căn nguyên trong người Chị, Chị vẫn âm thầm chịu đựng . Chị nói với con: Con mệt lắm! Bởi vì Chị không ăn và cũng không uống hay chích thuốc được. Chị quá kiệt sức đi! Nhưng khi Chị Phụ trách nhắc Chị đừng để chị em sợ! Chị Anna đã vui lòng vâng lời và giữ nét mặt trầm lắng cho đén hơi thở cuối cùng. Chị đã ra đi êm ái theo tiếng Chúa nhẹ nhàng kêu gọi, ngay những người bên cạnh Chị cũng không cảm thấy một tiếng than van, nức nở hay kêu la động đạc gì. Chị đã mau mắn Xin Vâng với tinh thần siêu thoát lạ thường! Sau cùng, chúng con xin Cộng Đoàn tiếp tục cầu nguyện cho Chị sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa vì Công nghiệp vô vùng Con Chúa cứu chuộc chúng ta! Amen.
Đứng trước cái chết của chúng ta và của người thân đức tin của chúng ta gặp thử thách bởi các AnTáng 253
Đứng trước cái chết của chúng ta và của người thân đức tin của chúng ta gặp thử thách bởi các nghi ngờ không biết có sự sống sau cái chết hay không. Nhưng sự phục sinh của Chúa Kitô là lý do khiến cho chúng ta hy vọng và cho chúng ta biết rằng cả sự phục sinh của chúng ta và của những người thân yêu của chúng ta đã qua đời không phải là một cái gì sẽ có thể xảy ra hay không, mà là một thực tại chắc chắn, trong nghĩa nó đã được đâm rễ trong biến cố phục sinh của Chúa Kitô. Như thế hy vọng có nghĩa là học sống trong chờ đợi tìm được sự sống. Vì chúng ta sẽ luôn mãi ở với Chúa. ĐTC Phanxicô đã nói như trên với 8.000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hôm qua trong đại thính đường Phaolô VI. Trong bài huấn dụ ĐTC đã trình bầy đề tài niềm hy vọng kitô vào sự sống lại mai sau. Ngài nói sau khi tìm hiểu niềm hy vọng trong vài văn bản Thánh Kinh Cựu Ước, giờ đây chúng ta tìm hiểu tầm quan trọng ngoại thường của nhân đức này trong Tân Ước dưới ánh sáng của Chúa Giêsu Kitô và biến cố phục sinh: đó là đức cậy kitô. Chúng ta kitô hữu, chúng ta là các người nam nữ của niềm hy vọng. Đây đã là điều rõ ràng ngay trong văn bản đầu tiên của Tân Ước đó là thư thứ I thánh Phaolô gửi tín hữu Thexalonica. Trong văn bản vừa nghe đọc chúng ta nhận ra tất cả sự tươi mát và vẻ đẹp của lời loan báo kitô đầu tiên. ĐTC nói về cộng đoàn Thêxalônica như sau: Cộng đoàn Thêxalônica đã là một cộng đoàn trẻ, mới được thành lập ít lâu. Nhưng cho dù có các khó khăn và biết bao thử thách, nó đã đâm rễ sâu trong đức tin của tín hữu, hăng say tươi vui cử hành sự phục sinh của Chúa Giêsu. Khi đó tông đồ Phaolô vui mừng với mọi người, vì những người tái sinh trong lễ Phục Sinh thực sự trở thành “các con cái của ánh sáng và con cái của ban ngày” (Tx 5,5) – thánh nhân gọi họ như vậy - nhờ sự hiệp thông trọn vẹn với Chúa Kitô. Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: khi thánh Phaolô viết thư cho họ cộng đoạn Thêxalônica mới được thành lập chỉ cách sự Phục Sinh của Chúa Kitô ít năm; chỉ ít năm sau thôi. Vì thế thánh tông đồ tìm làm cho họ hiểu tất cả các hiệu qủa mà biến cố duy nhất và định đoạt này - nghĩa là sự phục sinh của Chúa - bao gồm đối với lịch sử và cuộc sống của từng người. Cách riêng khó khăn của cộng đoàn đã không phải là thừa nhận sự sống lại của Chúa Giêsu, mọi người đều tin điều ấy, nhưng là tin vào sự phục sinh của những người đã chết. Phải, Chúa Giêsu đã sống lại, nhưng đối với những người chết thì họ hơi gặp khó khăn. Trong nghĩa đó, bức thư này thực rất thời sự. Mỗi khi chúng ta đứng trước cái chết của mình hay của một người thân, chúng ta cảm thấy đức tin của mình bị thử thách. Tất cả các nghi ngờ, tất cả sự giòn mòng của chúng ta nổi dậy, và chúng ta tự hỏi: “Mà có thật là có sự sống sau cái chết không? Tôi sẽ còn có thể trông thấy và ôm vào lòng những người tôi đã yêu mến không..? “ Câu hỏi này có một bà đã hỏi tôi cách đây ít ngày trong một buổi tiếp kiến. Bà hỏi: “Con có sẽ gặp các người thân của con không?” Một sự nghi ngờ Cả chúng ta nữa, trong bối cảnh hiện tại, chúng ta cần trở lại với gốc rễ và nền tảng đức tin của mình, để ý thức điều Thiên Chúa đã làm cho chúng ta nơi Chúa Kitô Giêsu, và cái chết của chúng ta có nghĩa là gì. Tất cả chúng ta đều có một chút sợ hãi vì cái không chắc chắn này, phải không? Ở đây lời thánh Phaolô đến. Tôi nhớ có một ông cụ già rất giỏi đã nói với tôi: “Con không sợ cái chết. Con hơi sợ trông thấy nó đến”. Ông sợ điều đó. Đứng trước các sợ hãi và các băn khăn của cộng đoàn, thánh Phaolo mời gọi họ đứng vững vàng như một áo giáp, nhất là trong các thử thách và những thời điểm khó khăn nhất của cuộc sống chúng ta, “niềm hy vọng của sự cứu thoát”. Nó là môt áo giáp. Đó, niềm hy vọng kitô có nghĩa là gì. Khi nói về niềm hy vọng, chúng ta có thể bị đưa tới chỗ hiểu nó theo nghĩa thông thường của từ này, có nghĩa là quy chiếu về cái gì đẹp đẽ mà chúng ta mong ước, nhưng nó có thể được thực hiện hay không được thực hiện. Chúng ta hy vọng nó xảy ra, nhưng chúng ta hy vọng như một ước mong, phải không? Chẳng hạn ta nói: “Tôi hy vọng ngày mai trời đẹp!; nhưng chúng ta biết rằng ngày hôm sau, trái lại, trời có thể xấu… Niềm hy vọng kitô không như thế. ĐTC định nghĩa nó như sau. Niềm hy vọng kitô là sự chờ đợi một cái gì đã được hoàn thành; ở đó có một cái cửa, và tôi hy vọng đi tới cửa đó! Tôi phải làm gì đây? Đi tới cái cửa đó! Tôi chắc chắn là tôi sẽ tới cửa. Niềm hy vọng kitô là như thế: chắc chắn rằng tôi đang tiến bước về cái gì là, chứ không phải là tôi muốn nó là. Đây là niềm hy vọng kitô. Niềm hy vọng kitô là sự chờ đợi một cái gì đã thành toàn và chắc chắn sẽ được thực hiện cho từng người trong chúng ta. Như vậy cả sự phục sinh của chúng ta và của những người thân yêu của chúng ta đã qua đời không phải là một cái gì sẽ có thể xảy ra hay không, mà là một thực tại chắc chắn, trong nghĩa nó đã được đâm rễ trong biến cố phục sinh của Chúa Kitô. Như thế hy vọng có nghĩa là học sống trong chờ đợi. Học sống trong chờ đợi và tìm được sự sống. Khi một phụ nữ nhận ra mình mang thai, thì mỗi ngày bà học sống trong sự chờ đợi trông thấy cái nhìn của đứa bé bà sẽ thấy… Cả chúng ta cũng phải sống và học hiểu từ các chờ mong của con người, và sống trong sự chờ đợi nhìn Chúa, tìm thấy Chúa. Điều này không dễ dàng, nhưng ta phải học: sống trong chờ đợi. Hy vọng có nghĩa và đòi hỏi một con tim khiêm tốn, một con tim nghèo nàn. Chỉ người nghèo mới biết chờ đợi. Ai đã tràn đầy chính mình và của cải của mình, thì không biết đặt để sự tin tưởng vào bất cứ ai khác, nếu không phải là nơi chính mình mà thôi. Thánh Phaolô còn viết thêm: “Chúa Giêsu đã chết vì chúng ta, dù thức hay ngủ chúng ta cùng sống với Ngài” (Tx 5,10). Các lời này luôn luôn là lý do của niềm an ủi lớn và của an bình. Như vậy, đối với cả các người thân yêu đã từ giã chúng ta, chúng ta được mời gọi cầu nguyện để họ sống trong Chúa Kitô và hiệp thông hoàn toàn với chúng ta. Có một điều đánh động con tim tôi là một kiểu nói của thánh Phaolô luôn luôn hướng tới tín hữu Thêxalônica. Nó khiến cho tôi tràn đầy sự chắc chắn của niềm hy vọng. Ngài nói: “Và như thế chúng ta sẽ luôn ở với Chúa” (1 Tx 4,17). Một điều thật đẹp: mọi sự qua đi, nhưng sau cái chết chúng ta sẽ luôn luôn ở với Chúa. Đó là sự chắc chắn hoàn toàn của niềm hy vọng, cùng một niềm hy vọng mà rất lâu trước đó đã khiến cho ông Gióp kêu lên: “Tôi biết rằng đấng cứu độ tôi sống… Tôi sẽ trông thấy Ngài, chính tôi, chính mắt tôi sẽ nghiêm ngưỡng Ngài” (G 19,25.27). Và như vậy chúng ta sẽ luôn mãi ở với Chúa. Anh chị em có tin điều này không? Tôi xin hỏi anh chị em: Anh chị em có tin điều này không? Để có một chút sức mạnh tôi mời anh chị em cùng tôi lập lại ba lần: “Và như thế chúng ta sẽ luôn mãi ở với Chúa”, Tất cả cùng nhau nào: “Và như thế chúng ta sẽ luôn mãi ở với Chúa”, “Và như thế chúng ta sẽ luôn mãi ở với Chúa”, “Và như thế chúng ta sẽ luôn mãi ở với Chúa”. Cám ơn anh chị em. ĐTC đã chào các tín hữu nói tiếng Pháp, trong có có các người trẻ đến từ Pháp. Ngài cũng chào các tín hữu đến từ Nam Hàn và Hoa Kỳ. ĐTC cám ơn ca đoàn thiếu nhi Nam Hàn vì các bài thánh ca chúc tụng Thiên Chúa của các em. Ngài cũng chào các đoàn hành hương Đức, đặc biệt các học sinh trường Quốc tế Đức tại Dubai, các tín hữu Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và nhắn nhủ mọi người xin Chúa củng cố niềm hy vọng nơi sự phục sinh và làm sao học sống trong chờ đợi chắc chắn cuộc gặp gỡ với Chúa và mọi người thân yêu. Với các nhóm Ba Lan ĐTC nhắc cho biết mùng 2 tháng hai là lễ dâng Chúa trong đền thánh cũng là ngày quốc tế đời thánh hiến. Tôi xin anh chị em nhớ cầu nguyện cho các linh mục và nam nữ tu sĩ các dòng tông đồ và chiêm niệm. Ước chi cuộc sống tận hiến cho Chúa và việc phục vụ đặc sủng của của các vị đem lại nhiều hoa trái phong phú cho thiện ích của tín hữu và cho sứ mệnh rao truyền Tin Mừng của Giáo Hội. Trong các nhóm nói tiếng Ý ĐTC chào các thành viên phong trào công giáo thế giới bảo vệ khí hậu. Ngài cám ơn họ về dấn thân săn sóc ngôi nhà chung trong thời đại khủng hoảng xã hội môi sinh này, và tiếp tục trải rộng mạng lưới của họ để các giáo hội địa phương đáp trả tiếng kêu của trái đất và của dân nghèo với lòng cương quyết. Ngài cũng chào các tham dự viên Hội nghị của Liên hiệp linh mục, do “Hiệp hội các công nhân thinh lặng của Thánh Giá” tổ chức, cũng như khách của tổ chức thánh nữ Lucia, và khích lệ mọi người kiên trì trong lời cầu nguyện, là phương thế hữu hiệu trong bệnh tật và khổ đau. Ngoài ra ngài cũng chào các sĩ quan sở tài chánh tỉnh Parma và các thành viên trung tâm tu đức lòng Thương xót do ĐC Rosario Gisana, GM Piazza Armerina, hướng dẫn hành hương Roma đem theo Ảnh Đức Bà Thương Xót, sẽ được trưng bầy trong đền thờ thánh Phêrô cho tín hữu kính viếng. Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC mời gọi họ cầu nguyện cho những người sống đời thánh hiến để họ có thể làm chứng cho tình yêu của Chúa Kitô và ơn thánh của Tin Mừng trong thế giới. Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi ngưòi.
Thánh lễ an táng của Thầy Giuse Phạm Thanh Nhựt được cử hành sáng hôm nay, 19/06/2017 tại AnTáng 254
Thánh lễ an táng của Thầy Giuse Phạm Thanh Nhựt được cử hành sáng hôm nay, 19/06/2017 tại Nhà thờ Tân Lộc, Hạt Cà Mau, Giáo phận Cần Thơ, do Cha Carôlô Hồ Bặc Xái, Giám Đốc Đại Chủng Viện Thánh Quý, Tổng Đại Diện Giáo phận Cần Thơ chủ sự cùng khoảng 50 Linh mục đồng tế. Nhà thờ Tân Lộc vốn bé nhỏ hôm nay lại nhỏ bé hơn bởi dòng người đến tham dự Thánh lễ lần cuối cùng với thầy Giuse Phạm Thanh Nhựt. Trong dòng người đó có gia đình thân thương của Thầy. Âm thầm bên cạnh quan tài là người cha đang quặn thắt nỗi đau vì mới cách đây vài năm, ông đã phải quằn vai đau đớn tiễn biệt người vợ, và hôm nay bờ vai bên kia cũng trĩu nặng. Mà hình như chùng xuống hơn vì khi mất đi người bạn đời, tất cả tình yêu và hy vọng của ông đã dành cho đứa con trai áp út chọn con đường dâng hiến, nhưng hôm nay mộng ước chưa thành mà cậu đã vội ra đi khi tuổi đời còn quá trẻ, chỉ mới 30 cái xuân xanh. Vì vậy đôi vai của ông đã bị lệch bên phía dành cho người con trai yêu dấu đó. Trong dòng người đó có anh chị em, những người cùng một mái nhà từ khi còn lam lũ, vất vả đến ngày hôm nay, cơ cực vẫn còn. Có lẽ họ nghẹn ngào trong suốt những ngày qua và trong Thánh lễ hôm nay với tâm tình của hai chị em Matta và Maria vì thương khóc đứa em trai của mình là Lazarô đã vội ra đi mà không một lời từ biệt. Trong dòng người đó có Cha Giám đốc, quý Cha giáo, quý Cha cựu học viên và anh em chủng sinh cùng chung mái trường Đại Chủng Viện Thánh Quý - Cần Thơ. Có ai ngờ đâu mới ngày 10/06, khi kết thúc năm học 2016-2017, họ còn thấy gương mặt thân quen này; còn bắt tay nở nụ cười hẹn ngày tựu trường trong tháng 09; còn nhận lời đi giúp nơi này cấm trại, nơi kia lễ mở tay; còn nhắc nhau ngày họp mặt của anh em trong nhóm này, nhóm nọ… Nhưng “mới nói cười mà xa nhau rồi, nói làm sao biết làm sao, cuộc đời là bể dâu”. Trong dòng người đó có anh chị em bà con giáo dân ở những nơi Thầy đã từng đi giúp năm thử hoặc những tháng hè. Khi hay tin Thầy ra đi, có những bạn trẻ đã không kìm nỗi cơn xúc động đã thốt lên một lời than trách như xé lòng người “Chúa ơi, sao bắt Thầy con đi sớm vậy?!” Vài người đã tựa vào vai nhau để thầm gọi “Thầy ơi!” trong tiếng nấc nghẹn ngào… Chia sẻ trong Thánh lễ hôm nay, Cha Giám Đốc Đại Chủng Viện Thánh Quý đã nói : “Chủng viện như dời về Họ đạo Tân Lộc này để quý Cha giáo, quý anh em chủng sinh cung với Thầy Nhựt cầu nguyện lần sau cùng”. Cha lấy câu lời Chúa (Is 38, 12) vẫn thường đọc trong các giờ kinh “Lạy Chúa, con như người thợ dệt, đang mãi dệt đời mình, bỗng nhiên bị tay Chúa, cắt đứt ngay hàng chỉ” để nói về việc Thầy Nhựt cũng đang mong muốn dệt tấm thảm cuộc đời mình thật đẹp bằng con đường tận hiến để trở thành Linh mục cho Chúa, nhưng mộng ước chưa thành thì Chúa đã đưa tay ra “cắt đứt ngay hàng chỉ”. Nhưng qua đó cho thấy Chúa không cần những tấm thảm rộng lớn, nhưng Chúa cần những tấm thảm dù nhỏ bé, ngắn gọn mà lại được dệt một cách chắc chắn, đẹp đẽ bằng những sợi chỉ cuộc đời. Cha Giám Đốc chia sẻ về những lần cha hạnh phúc để giới thiệu với Đức Giám Mục quý Thầy tiến lên chức thánh. Trong hạnh phúc đó, Cha phải xác nhận với Đức Giám Mục về tư cách của quý tiến chức. Thì hôm nay nếu được Chúa hỏi Cha cũng sẽ xác nhận: “Thầy Nhựt được coi là xứng đáng”. Không người nào có thể làm cho nỗi đau này nguôi ngoai, không ai có thể xóa tan hết những nỗi buồn phiền, không gì có thể bù đắp được sự mất mát quá lớn này cho gia đình, bạn bè, những người thân và Giáo phận Cần Thơ. Chỉ có lời Chúa là niềm an ủi, động viện, khích lệ cho những ai đang đau buồn vì sự ra đi của Thầy Nhựt: “Người công chính, dù có chết sớm, cũng được yên vui. Vì chưng tuổi già đáng kính trọng, không phải vì trường thọ, cũng không phải vì cao niên, nhưng vì người bạc đầu thì khôn ngoan, và tuổi già là một cuộc đời thanh sạch.” (Kn 4, 7). Và lời hứa của Đức Giêsu với Matta: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta sẽ không chết đời đời” (Ga 11, 25). Sau Thánh lễ, sau khi đưa Thầy về với lòng đất mẹ, mỗi người đều trở về với cuộc sống hiện tại của mình, nhưng chắc chắn Thánh lễ hôm nay sẽ đọng lại trong lòng mỗi người về hình ảnh chiếc thảm mà Thầy Nhựt đang dệt được Cha Giám Đốc chia sẻ trong Thánh lễ hôm nay. Để từ đó hướng đến chiếc thảm riêng của mỗi người. Dù ý thức hay không ý thức, thì mỗi ngày sống của ta cũng trở thành hàng chỉ mới, có khi rất đẹp, rất sắc sảo; có khi rất xấu, rất tệ… Nhưng qua biến cố sự ra đi của Thầy Nhựt giúp mỗi người chúng ta hãy biết ý thức từng sợi chỉ trong mỗi ngày sống để dệt thêm cho tấm thảm cuộc đời chính là cách thức hiện diện của chúng ta với Chúa, với đời, với người và với chính mình. Làm sao trong tất cả những mối tương quan đó, sợi chỉ không bị xoắn, không bị rút; thì dù ngắn, dù dài, tấm thảm của chúng ta cũng đều có ý nghĩa trước mặt Chúa. Nguyện xin lòng nhân từ Chúa thương tháo gỡ những gút mắc trong hàng chỉ mà vì vô tình hay cố ý được dệt trong tấm thảm cuộc đời của thầy Nhựt. Nguyện xin ánh sáng Chân Lý của Chúa soi sáng để chúng con thấy rõ hơn mà dệt đường chỉ cuộc đời mình cho ngay ngắn, đẹp đẽ, để lúc Chúa cần, chúng con sẵn sang dâng cho Chúa.
Cha Giuse Lại Văn Đoàn, San Diego, Linh Mục tốt lành trong hàng ngũ các Linh Mục Việt Nam AnTáng 255
Cha Giuse Lại Văn Đoàn, San Diego, Linh Mục tốt lành trong hàng ngũ các Linh Mục Việt Nam tại Hoa Kỳ, đã về Nhà Cha lúc 11:45 am, ngày 4 tháng 5, 2017. Cha Lại Văn Đoàn là một Linh mục khiêm nhường, rất tình nghĩa với anh em Linh mục khác. Đồng thời là một mục tử tận tình với nhiệm vụ thương yêu chăm sóc giáo dân. Không một anh em Linh Mục nào ghé qua cộng đoàn của cha mà cha không ân cần tiếp đón, mời dâng lễ, và rất chân tình mời giảng. Ngài thường nói:" Mình là quản nhiệm, mình giảng cả đời ở đây rồi. Anh em tới, phải mời giảng để giáo dân được nghe một bài giảng khác lạ. Tâm lý giáo dân, dầu họ có thích cha quản nhiệm của họ mấy đi nữa, họ vẫn thích nghe một Linh Mục khách giảng hơn, cho dù có dở hơn cha quản nhiệm của họ, vẫn có cái gì mới mẻ, thich thú hơn..." Một điểm đặc biệt nữa là bất cứ một anh em Linh Mục, một Sơ nào từ Viêt Nam qua, ngài cũng giới thiệu với cộng đoàn để xin giúp đỡ; ngay cả khi Đức Giám Mục đã ngăn cấm lạc quyên, thì ngài vẫn kín đáo kêu gọi giáo dân giúp đỡ khi ra khỏi nhà thờ. Thật là một tấm lòng tha thiết với Quê hương !! Nhân chuyến thăm bạn bè ở San Diego ( người ta nói San Diego không những là thành phố nghỉ hè tốt nhất nước Mỹ, mà còn là tốt nhất thế giới nữa), tôi có dịp ghé thăm ngài (cũng là lần cuối cùng anh em gặp nhau trên trần gian). Bấy giờ ngài đã phát giác chứng bệnh ung thư hiểm nghèo. Thân hình gầy đét như con mắm. Ôm hug ngài như ôm một cái xác ve! Ấy thế mà ngài vẫn mặc áo lễ, ngồi giải tội cho giáo dân trong khi Linh mục khách dâng lễ. Lễ xong, ngài đứng lại hỏi thăm mọi người, dù trông ngài rất mệt vì chemo nhiều lần. Ngài còn ra tận đài Đức Mẹ chụp hình với giáo dân, ân cần, cho đến khi mọi người về hết. Ngài đưọc mọi giáo hữu cũng như lương dân, rất thương yêu quý mến. Ai về đến San Diego cũng đều nghe ngưòi tín hữu địa phương ca tụng Cha Đoàn. Thánh vịnh nói: "Người hiền đức gặp nhiều bước gian truân, Nhưng Thiên Chúa sẽ cứu họ khỏi mọi nỗi lo âu." (Tv 33:19-20) Người Việt Nam chúng ta có câu "Trâu chết để da, người ta chết để tiếng", nghĩa là con trâu chết thì còn cái da để bọc trống; con người chết thì để lại tiếng tăm, tốt hay xấu là tùy khi còn sồng, mình đã sống thế nào. Cha Giuse Lại văn Đoàn, một cột trụ của Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia đình, ra đi, để lại cả một vùng trời thương mến! Giêsu-Maria-Giuse, xin thương lấy linh hồn Cha Giuse Lại Văn Đoàn, người tôi tá trung thành của Chúa, Xin vĩnh biệt người anh em, Lm. Vincent Nguyễn an Ninh.
3/2/2017 9:55:19 PM (Một Cảm Nghiệm Từ Sự Ra Đi Của Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống)
Giáo Hội bắt đầu mùa Chay bằng việc nhắc nhở các tín hữu suy gẫm về thân phận cát bụi chóng AnTáng 256
Giáo Hội bắt đầu mùa Chay bằng việc nhắc nhở các tín hữu suy gẫm về thân phận cát bụi chóng qua của con người: memento homo quia pulvis es et in pulverem reverteris, hỡi người hãy nhớ ngươi là tro bụi và ngươi sẽ trở về bụi tro (cf. Sáng Thế 3: 19). Chính việc suy gẫm về thân phận hữu hạn của con người đem lại ý nghĩa sống cho các Kitô hữu, rằng ta sống để chuẩn bị cho việc ta sẽ chết đi. Đó là một sự tháp nhập con người chúng ta vào trong chính Đức Giêsu hầu ta được trở nên một với Ngài, Đấng đã chiến thắng sự chết. Đức Giáo Hoàng Phanxico trong lời mở đầu của sứ điệp mùa chay năm nay đã nhắc nhở chúng ta: “Mùa Chay là một khởi đầu mới, một con đường dẫn đến mục tiêu chắc chắn là Phục Sinh, chiến thắng của Chúa Kitô đối với sự chết. Mùa này thúc giục chúng ta hoán cải. Người Kitô hữu được mời gọi “hết lòng” trở về với Thiên Chúa (Joel 2,12), không chấp nhận lối sống tầm thường nhưng lớn lên trong tình bạn với Chúa.” Hành trình mùa chay chỉ trở nên trọn vẹn trong từng người khi sự phục sinh cùng với Đức Kitô là cùng đích mà họ hướng tới và là lí do duy nhất để họ hoán cải đời song. Bắt đầu mùa Chay năm nay, Giáo Phận Phan Thiết đón nhận một sứ điệp “không lời” từ vị cha chung. Ngài đã gửi đến toàn thể dân Chúa trong giáo phận (và có lẽ trên bình diện rộng hơn cho cả các tín hữu trong toàn Giáo Hội Việt Nam) sự mời gọi hoán cải và một sự nhắc nhở về thân phận mỏng manh của con người. Ngài đã thực hiện điều đó cách triệt để nhất bằng chính cuộc đời của ngài. Ngài được mời gọi để bước vào chính tâm điểm của mầu nhiệm sự chết để nói về sự chết cho chính những người còn sống, như lời Thánh Vịnh xưa đã nhắc dạy, “Nào phàm nhân sống mãi được sao, mà chẳng phải đến ngày tận số?” (Tv. 49) Cái chết đến bất ngờ nhưng không phải để ta sợ hãi; nhưng ngược lại nó nhắc ta đón phải đón nhận nó cách nào. Sứ điệp nhẹ nhàng vui tươi của Đức Cha khi sinh thời đã phần nào nói lên thái độ sống mà ngài muốn gửi gắm đến con cái của ngài, “Dù giông tố, dù thách đố, hãy luôn cố sống hết mình, sẻ chia hết tình.” (bài hát Đôi Khi, Đức Cha Giuse) Thứ Tư lễ Tro, một vị ngôn sứ, một mục tử đã lìa bỏ thân xác cát bụi để cát bụi ấy trở về nguồn cội. Nhưng trong ánh quang Phục Sinh của Đức Kitô, người mục tử ấy vẫn tràn ngập hi vọng và mừng vui đợi chờ ngày nhập đoàn hàng ngũ các thánh, hàng ngũ của những “người bạn” hằng lớn lên trong tình yêu của Thiên Chúa. Requiescat in pace Văn Võ
Hỏi về cuộc đời nữ tu Maria Nguyễn Thị Đàng (quen gọi là dì Ba Đàng) chắc “chẳng có gì AnTáng 257
Hỏi về cuộc đời nữ tu Maria Nguyễn Thị Đàng (quen gọi là dì Ba Đàng) chắc “chẳng có gì để nói”. Thế nhưng, trong cái gọi là “chẳng có gì để nói” không phải dễ sống như Dì. Trong ký ức của một linh mục trẻ được Dì Ba dạy giáo lý xưng tội rước lễ lần đầu thì Dì Ba là một nữ tu sống trọn vẹn đời tận hiến cho Chúa trong âm thầm mà thiệt khó bắt chước. Với Dì Ba, khi đi tu rồi thì chẳng cần gì cả, chỉ cần Chúa là đủ cho Dì thôi. Thời cuối thập niên 80 chuyển qua 90, kinh tế còn khó khăn, Dì Ba và Dì Tư Tài (đã về nhà Cha năm ngoái) sống chung với nhau trong họ đạo nhỏ bé Lộ Mới (Mặc Bắc). Dù nghèo mà mình biết mến thương nhau và đặc biệt tấm gương của Dì Ba Đàng đã để lại rất lớn cho Dì Tư Tài. Như thế đó ! Cả cuộc đời âm thầm theo Chúa để rồi ngày cuối của cuộc đời vẫn âm thầm và lặng lẽ cho trọn nghĩa trọn tình với Đấng Tình Quân. Tiết trời chiều hôm nay như hòa mình với Hội Dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn trong bầu khí trầm lắng để tiễn đưa một người chị em thương mến của nhà dòng về với lòng đất Mẹ. Có lẽ, cũng chẳng ngoài Thánh Ý của Chúa bởi đơn giản ý của Chúa khác với ý của con người. Ở cái tuổi 91 như Dì Maria Đàng quả là tuổi mà nhiều người mơ ước. Nhưng, mơ ước hơn nữa có lẽ là hồng phúc 69 năm khấn dòng. Từ thuở thiếu thời, Dì đã tận hiến đời mình trong Dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn và chọn Thánh Giá Chúa Kitô làm lý tưởng đời mình để rồi mầu nhiệm Thánh Giá cũng ôm trọn đời mình cho đến giờ phút cuối cùng trên giường bệnh : cô đơn, lặng lẽ, trầm lắng ... Và, cho đủ nghĩa yêu thương cây Thập Giá, Thánh Lễ an táng của Dì cũng đã diễn ra trong bầu khí cô đơn lặng lẽ đó cho trọn nghĩa trọn tình với Thầy Chí Thánh Giêsu. Dì ra đi và Thánh Lễ an táng của Dì trùng hợp với Đại Lễ của Hội Dòng Xitô để rồi Đấng Bản Quyền là Đức Cha không thể hiện diện. Đức Ông cũng vì công việc cũng đã không thể có mặt trong chiều hôm nay dẫu rằng Đức Cha và Đức Ông ít khi vắng mặt trong các Thánh Lễ an táng của Dòng Địa Phận. Và rồi, Cha Cha Gioan Baotixita Tuyên Úy Hội Dòng Mến Thánh Gía Cái Mơn đã cử hành Thánh Lễ an táng cầu nguyện cho Dì Maria trong bầu khí đơn sơ và lặng lẽ. 15 g 00 chiều nay, Thứ Năm 24 tháng 5.2018, Hội Dòng đã cùng với Dì dâng Thánh Lễ tạ ơn với Dì. Chủ tế Thánh Lễ an táng cầu nguyện cho Dì Maria Đàng là Cha Cha Gioan Baotixita – cha sở Cái Mơn. Cùng đồng tế với Cha Gioan Baotixita có một số cha khác nữa. Một chút dừng lại để nhìn lại cuộc đời của Dì Maria Đàng : Dì Maria Nguyễn Thị Đàng sinh ngày 22. 9. 1927, tại họ đạo Bến Rạch Vồn - Huyên Tiểu Cần – Tỉnh Trà Vinh. Dì dâng mình cho Chúa nơi Hội Dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn năm 15 tuổi và Khấn Dòng được 69 năm. Cuộc đời tận hiến, Dì đã phục vụ các họ đạo Mỹ Chánh, Cái Sơn, Rạch Vồn, Rạch Lọp, Lộ Mới, Tiểu Cần, Thanh Sơn và Bãi Vàng... Khi tuổi cao sức yếu, Dì được về an dưỡng tại Nhà Hưu Dưỡng của Hội Dòng. Nơi đây, Dì thật bình an vì được nhiều thời gian đọc kinh cầu nguyện. Những năm dài nằm trên giường bệnh, Dì chấp nhận ý Chúa và luôn trong tư thế sẵn sàng chờ Chúa gọi về. Lúc 11g10 phút ngày 23.5.2018, Dì đã hoàn tất cuộc sống dương thế. Kết thúc đoạn đường trần gian 91 năm làm người và làm con Chúa và đặc biệt 69 năm làm nữ tu của Chúa trong Dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn. “Xin Chúa tha thứ những thiếu sót của Dì Maria, giờ đây chúng ta cùng xin Chúa tha thứ tội lỗi cho chúng ta cũng như cho Dì Maria ...” Đó là những lời rất ngắn gọn và đủ ý để dẫn vào Thánh Lễ của Cha Gioan Baotixita. Trong bài chia sẻ, Cha Gioan Baotixita dựa vào trang Tin Mừng nói về sự sẵn sàng và tỉnh thức chờ đợi chủ đến để nói về cuộc đời của Dì Maria. Với cung giọng trầm lắng khá giống với tính cách của Cha, Cha Gioan Baotixita đã nhẹ nhàng đưa tâm tình chia sẻ của mình vào lòng người nghe : “Đứng trước thi hài Dì Maria tôi lại nhớ cách nay hơn một tuần ở Họ Cái Mơn, cũng có một đám tang có một bị tai nạn xe ở xa rồi đem về tẩm liện và ngày hôm qua đem dến nhà thờ và người làm lễ an táng và chôn ở đất thánh. Sau đó gia đinh muốn xóa số điện thoại của người chết thì bổng nhiên người chết bắt diện thoại và trả lời. mọi gười đều ngỡ ngàng. Vậy thì người được an táng là ai và có người hỏi tôi vậy mình cầu nguyện, mình dâng cho người đó có ích lợi gì không, và bất cứ không ai biết người đó là ai và không ai biết cuộc sống của người đó trước khi từ giã cuộc sống trần gian ra làm sao. Nhưng có một người biết đó là Thiên Chúa đang tiếp nhận một con người, dù chúng ta không biết tên biệt họ của người đó, nhưng trước tòa Chúa người cũng phải ra trước mặt Chúa để trả lời những việc làm của mình. Một hôm thi sĩ Cao Bá Quát đã than vãn về cuộc sống đời người qua bài thơ Uống Rượu Tiêu Sầu: Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười Thôi công đâu chuốc lấy sự đời Tiêu khiển một vài chung lếu láo Rồi thi sĩ này nhìn thấy cuộc đời cho dù có trăm năm đi nữa cũng chóng qua đi và có làm gì đi nữa cũng chết và ông đã chọn của sống an nhàn và không làm gì hết, nhưng rồi để kết thúc cuộc đời mình và không ai biết gì hết và không làm gì hết và khi kết thúc cuộc đời mình thì anh ta sẽ trả lời nhưng thế nào Nhìn vào chiếc qua tài của Dì Marai và chúng ta nghe lời Chúa nói các con hãy sẵn sẵn nhưng người chủ đi an cưới dù canh hai hoặc canh ba thì chủ sẽ vui mừng và đi lại hầu hạ người đầy tớ đó. Dì Maria có quãng đời thật dài, cho dù chưa trăm năm. Dì Maria với quãng đời thật dài đó nó hết 2/3 hơn 2/3 cuộc đời đó đã hiến dâng cho chúa, 69 đời sống năm tận hiến cho Chúa chúng ta nghe, chúng ta nhìn một cuộc đời thật dài , và với 91 năm cuộc đời sống thọ những cũng phải từ giả cuộc đời trần gian này. Nhưng chúng ta nhìn vào cuộc sống của Dì, Dì có một chặng đường một chặng đường để chuẩn bị, chuẩn bị thật chu đáo cho cuộc đời của mình, một chặng đời của cuộc đời tận hiến, một chặng đường phục vụ, trong suốt cả cuộc đời phục vụ của mình có lúc vui lúc buồn, có những lúc Dì đã đem niền vui đến cho biết bao nhiều người và cũng có những lúc nhiều người than van, cho dù có vui có buồn, cho dù có làm biết bao nhiêu công việc đi nữa, bao nhiều người vui hay có bao nhiêu tiếng oán than đi nữa để cuối cùng Dì cũng nằm vào chiếc quan tài và xuống lòng đất lạnh. Nhưng khi con người từ giã cuộc sống trần gian này và không mang được mình được gì hết, nhưng hùm chết để da, người ta chết để tiếng, chắc chắc còn biết bao nhiều nói về cuộc đời Dì Maria bà biết bao nhiều người cám ơn Dì Maria vì những việc Dì đã làm cho chính bản thân của người trong cuộc sống trong trần gian này và những người ngồi trong nhà thờ này đây và có những người oán than không chấp nhận những việc làm của Dì Maria giờ này cũng không làm được gì hơn, Dì đã ra đi , Dì không còn hiện diện torng cuộc sống trần gian này nữa và những lời oán than lời trách móc kia không thể ảnh hưởng tới Dì nữa và Dì đã ra đi, cũng như lời của thi sĩ đã nói: Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười 69 năm cuộc đời tận hiến để phục vụ cho Chúa Dì đã để lại biết nhiều điều tốt đẹp cho cuộc đời cho dù đi được Ba vạn sáu ngàn ngày Dì vẫn thấy cuộc đời phù du, nhưng mà trong kiếp sống con người có những gì gọi là phù du, nhưng Dì đã để lại biết bao nhiều điều tốt đẹp cho con cho cháu và cho thế hệ đi sau Dì hãy nhìn vào tấm gương của Dì mà dõi bước theo. Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười Chúng ta nhìn chiếc quan tài sắp vào xuống lòng đất lạnh, chúng ta nực nực cười chán ván vì con người cũng ra đi mà hiện tại không ai biết tên tuổi không ai biết gì hết vẫn phải xuống nằm dưới lòng đất lạnh và không còn hiện diện trong cuộc sống trần gian này nữa. Chúng ta cũng nực cười, vì đời sống của mọi người chúng ta hiện tại ngay giờ phút này ngay bây giờ chúng ta nằm trong chiếc quan tài như Dì Maria chúng ta có than van trách phận “Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười “ Nhưng rồi chúng ta có nhìn thấy thêm hơn một chút nữa chúng ta đến trước tòa Chúa, đến trước mặt chúa trả lời mà trả lời “Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy” chúng ta đang sống ở trần gian này chúng ta sẽ trả lời ra sao đây. Dì Maria đã có những giây phút sẵn sàng và giờ ra đi của Dì chắc chắc không bắt ngờ với bao nhiêu người, và càng chắc chắc hơn nữa không bất ngờ đối với Dì. Dì đã chuẩn bị tất cả và chuẩn với bao thời gian lầu dài. Còn mỗi người chúng ta, chúng ta đang chuẩn bị điều gì, chúng ta còn rất trẻ, đúng, chúng ta còn bao nhiều công việc phải làm cũng đúng luôn, chúng ta còn bao nhiêu ước mơ mà mình chưa đạt được, cái đó cũng đúng, nhưng khi chúng ta nói mình chưa có thể từ giã cuộc sống trần gian này thì chưa đúng, nhưng chúng ta không biết chuẩn bị như lời Chúa Giêusu nhắc nhở mỗi người chúng ta “ Các con hãy sẵn sàng vì các con không biết ngày nào giờ nào Con Người sẽ đến: Nhìn vào chiếc quan tài của Dì Maria, nhìn vào đời sống của Dì, mỗi người trong chúng ta cùng cầu xin Chúa, xin Chúa ban ơn tha thứ những lỗi lầm tihếu xót của Dì nơi cuộc sống trần gian Dì đã trải qua để Dì sớm được về hưởng hạnh phúc trên thiêng đàng với Chúa. Chúng ta cũng cầu xin Chúa và xin Dì Maria phù hộ giúp sức để mỗi người trong chúng ta biết nhìn vào tấm gương của Dì, nhìn vào đời sống của Dì mà mỗi người chúng ta biết chuẩn bị, chuẩn bị nhưng Dì Maria đã chuẩn bị , cho chúng ta biết sẵn sàng giống như dì Maria đã sẵn sàng để làm biết tốt cuộc đời, làm tốt những gì đang còn sống cuộc sống trần gian với Ba vạn sáu nghìn ngày của con người. Xin Chúa ban thánh hóa và hướng dẫn đời sống của chúng ta”. Thánh Lễ của một nữ tu tạm gọi là “gạo cội” bởi lẽ ở cái tuổi 91 thật là hiếm và dưới con mắt người đời đã khép lại. Cuộc đời, Thánh Lễ an táng tiễn đưa Dì một chút gì đó cho ta nhìn lại cái thân phận của con người. Dù muốn dù không, không ai thoát khỏi cái chết và khi xuôi tay nằm xuống và khi nằm xuống chẳng mang theo được cái gì cả ngoài tấm lòng mà mỗi người đã sống khi còn sống trên trần gian. Và, sự ra đi lặng lẽ cô tịch của Dì Maria cho ta bài học về sự cô đơn của Chúa Giêsu trên thập giá. Có khi bị người đời chê bỏ hay bằng cách này cách khác không đồng hành, không hiện diện nhưng Thiên Chúa Cha mãi mãi là người Cha nhân hậu luôn ở cùng và đồng hành với Chúa Giêsu trên đỉnh đồi Canvê. Chính vì thế, thành công hay thất bại, cô đơn hay hoành tráng giữa cuộc đời này chẳng là cái mà ta phải bận tâm, nhất là khi tận hiến đời mình cho Chúa. Chuyện quan trọng nhất mà mỗi người hay nhất là người tu cần nhất đó chính là có một chỗ trong cung lòng Thiên Chúa hay không mà thôi. Sự ra đi trong lặng lẽ, cô tịch của Dì Đàng nhắc nhớ phận đời và phận người của mỗi người chúng ta. Giờ này, Dì Maria Đàng đã nằm yên trong lòng Đất Mẹ để chờ ngày phục sinh cùng với Chúa là Đấng mà cả đời Dì hằng thương mến và trao hiến cả cuộc đời. Trong phận người yếu đuối, ta lại xin Chúa là Cha giàu lòng thương xót tha thứ những lầm lỗi của Dì để Dì mau hưởng nhan Thánh Chúa. Và, trong mầu nhiệm hiệp thông, khi gần Chúa, Dì sẽ cầu nguyện cho Giáo Phận, cho Hội Dòng và cho mỗi chị em bước theo con đường Thánh Giá Chúa ngày mỗi ngày triệt để hơn.
Thánh lễ an táng Cố linh mục Đa-minh Mai Ngọc Lợi đã được cử hành sáng nay ngày 12/04/2016 AnTáng 258
Thánh lễ an táng Cố linh mục Đa-minh Mai Ngọc Lợi đã được cử hành sáng nay ngày 12/04/2016 tại khuôn viên nhà thờ Đức Hưng giáo hạt Chư Prông do Đức Cha Alôsiô Nguyễn Hùng Vị Giám mục Giáo phận Kontum Chủ tế. Đức nguyên Giám mục Micae Hoàng Đức Oanh giảng lễ. VỊ MỤC TỬ HIỀN HÒA QUẢN HẠT CHƯ PRÔNG GIÁO PHẬN KONTUM Thánh lễ an táng Cố linh mục Đa-minh Mai Ngọc Lợi đã được cử hành sáng nay ngày 12/04/2016 tại khuôn viên nhà thờ Đức Hưng giáo hạt Chư Prông do Đức Cha Alôsiô Nguyễn Hùng Vị Giám mục Giáo phận Kontum Chủ tế. Đức nguyên Giám mục Micae Hoàng Đức Oanh giảng lễ. Đức nguyên Giám mục Phê-rô Trần Thanh Chung hầu như hiện diện suốt tuần nay, đầy tràn tình thương mến thương Cha Cố Đa-minh, người bạn chăn chiên thân thiết gạo cội trên cánh đồng truyền giáo Kontum. Đoàn đồng tế giờ đây với hơn 130 Linh mục và trong suốt một tuần quàng xác Cha Cố (06/04-12/04/2016) đã có tổng cộng hơn 200 Linh mục với nhiều giềng mối giao hảo thân thương quy tựu về để thắp cho Ngài nén hương ca tụng Chúa và hy lễ tạ ơn. Đàn chiên hợp nhất trong Đức Ki-tô Bài ca nhập lễ sốt sắng: “Nào về đây gặp gỡ Đức Ki-tô. Người là Đấng trung gian Đất Trời. Người liên kết chúng ta nên một, một Chủ chiên và một đàn chiên.” Quả đúng là một Chủ chiên và một đàn chiên hợp nhất trong Đức Ki-tô khi hơn 5.000 giáo dân chật kín vòng trong vòng ngoài khuôn viên nhà thờ. Những gương mặt già nua tóc bạc còn nhớ như in thuở 1957, có một vị Linh mục trẻ 31 tuổi về làm Cha phó xứ Thanh Bình. Đến năm 1959, Ngài được đặt làm Cha chánh xứ Đức Hưng với chỉ một vài giáo dân, không nhà thờ. Nhưng cái tâm và cái tầm của người Mục Tử đã sớm bén duyên không chỉ là một Dinh điền Đức Hưng, nằm về phía Tây – Tây Nam Pleiku, trong địa bàn hành chánh quận Lệ Thanh (nay thuộc Đức Cơ), cách Pleiku khoảng 36km với khoảng 15.000 khẩu, mà còn là cả 29 Dinh điền với tổng diện tích gần 30.000 ha với tổng số 34.952 dân. Bởi vì: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một Mục Tử”(Ga 10,16). Đơn sơ, hiền hòa và vui vẻ là cây gậy linh diệu của vị Mục Tử Đa-minh Đức Cha Alôsiô ngỏ lời đầu Thánh lễ: “Sự sống chỉ thay đổi chứ không mất đi, với 90 năm cuộc đời, Cố linh mục Đa-minh đã sống đơn sơ, hiền hòa và vui vẻ với hết mọi người. Giờ đây chúng ta cùng dâng Thánh lễ cầu nguyện cho Cha Cố. Xin Thiên Chúa là Đấng công minh và giàu lòng thương xót sớm ban phần thưởng Nước Trời cho Cha Cố”. Các nhân đức đơn sơ, hiền hòa và vui vẻ là cây gậy chỉ huy linh diệu mà vị Mục Tử Đa-minh đã thao luyện và sử dụng thành thạo trong suốt 59 năm thu phục dẫn dắt đoàn chiên. Tôi đến để cho chiên được sống, và sống dồi dào Đức Cha Micae giúp ôn lại cuộc đời truyền giáo trầm hùng của vị Mục Tử dạn dày kinh nghiệm trên miền Tây nguyên: “Kính thưa cộng đoàn phụng vụ, qua Di chúc chúng ta vừa nghe, qua Kinh Thánh, qua anh chị em đã được gặp những chi tiết trong cuộc đời của Cố linh mục Đa-minh Mai Ngọc Lợi, cũng như qua tiểu sử đầu Thánh lễ và đặc biệt hơn nữa, tôi biết đêm hôm qua anh chị em đã dành những giây phút canh thức bên cạnh Cha Cố để cùng suy gẫm những kỳ công Chúa đã thực hiện trong suốt cuộc đời 90 năm, đặc biệt 59, gần 60 năm tại đất Chư Prông này. Thật đúng như bài Tin Mừng hôm nay, Cha Cố được ví như một hạt lúa miến gieo xuống lòng đất ba-zan này trong suốt 59 năm vừa qua, và hạt giống đó cứ từ từ biến dạng để rồi hôm nay mục nát hoàn toàn và trở thành hạt giống phục sinh. Và những kết quả của những thời gian qua cũng là những kết quả của hạt lúa miến Mai Ngọc Lợi đã gieo xuống và sẽ còn nhiều kết quả hơn nữa trong thời gian sắp tới. Như vậy, đời sống Cha Cố Đa-minh Mai Ngọc Lợi quả thật rập khuôn theo cuộc đời của Chúa Giê-su đã vào đời làm người nên giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi, để đem ơn cứu độ cho bản thân mình cũng như cho nhiều người khác. Cả cuộc đời Cha Cố đã được tóm gọn trong lời giới thiệu của Đức Giám mục Chủ tế hôm nay: Một Mục Tử hiền lành tận tình phục vụ và hăng say loan báo Tin Mừng cho đến hơi thở cuối cùng”. Vị Mục Tử sống tình hiệp nhất với Mục Tử đoàn Cha Phê-rô Nguyễn Vân Đông Tổng Đại Diện Giáo Phận Kontum đọc bài từ biệt: “Kính thưa Cha Cố Đa-minh, con xin thay mặt anh em Linh mục đoàn Giáo phận Kontum nói lên lời từ biệt Cha. Con chắc chắn rằng tất cả: Giám mục, anh em Linh mục chúng con trong Giáo phận Kontum này, ai cũng đem lòng yêu mến và kính phục Cha. Cha ơi, Cha có biết không? Cha luôn là gương tốt cho anh em Linh mục chúng con mọi mặt của đời sống Mục Tử. Trong suốt 59 năm làm Cha xứ của xứ Đức Hưng này, Cha đã hết lòng phục vụ cho con chiên của mình, và cho cả những người không thuộc đàn chiên của mình. Cha đã không bao giờ phân biệt lương giáo”. …và nhuốm mùi chiên “Thuở xa xưa, thời khó khăn, Cha từng là một thầy thuốc bất đắc dĩ và chúng con biết Cha đã cứu rất nhiều người. Cha cũng đã từng là thợ máy rành nghề, sẵn sàng giúp ngay khi có người cần đến. Nhớ lại, với chiếc xe Honda 67 cũ kỹ, Cha đã không ngại ngần đi chợ ở thị xã Pleiku để mua giúp mọi thứ hàng hóa cho những người trong xứ. Con có nghe kể rằng, vì đi chợ nhiều lần, nên có bà bán hàng đã tò mò hỏi thăm: “Bác ơi, chớ bác gái đâu mà bác phải đi chợ mãi thế?”, Cha đã vui vẻ trả lời: “Bà ấy hy sinh rồi!” Khi xưa một mình Cha âm thầm lo lắng phục vụ cho những xứ đạo mà bề trên giao cho Cha, nay cả hơn chục Linh mục mới lo được cũng ngần ấy xứ đạo đó. Riêng tại Đức Hưng, Cha là người thành lập giáo xứ, là Cha sở tiên khởi và duy nhất trong suốt 59 năm, điều này hiếm thấy trong Giáo Hội và là độc nhất trong Giáo phận Kontum”. Đàn chiên tan tác vì sói dữ chiến cuộc đã được Vị Mục Tử nhân lành phục hồi Trong phần đầu lễ, Cha Quản Hạt Chư Prông Đa-minh Nguyễn Xuân Hùng đã đọc tiểu sử Cha Cố Đa-minh: “Cuộc chiến lại tiếp diễn, ngày càng khốc liệt hơn, Dinh điền tan vỡ, giáo dân tan tác, anh em Linh mục rời địa sở, Cha sở Đa-minh vẫn gắn kết với đàn chiên, vẫn hiện diện với giáo dân như một chứng nhân lịch sử của Tết Mậu Thân 1968, Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 hay Mùa Xuân 1975… Cha Cố Đa-minh bắt đầu và lại bắt đầu xây dựng lại”. Để cho chiên được sống và sống dồi dào “Cha Cố Đa-minh là mẫu gương của một Mục Tử ‘không chịu bó tay’ trước thời cuộc. Bị cấm cách, bị ràng buộc, Cha vẫn tìm đường tiến vào những vùng đất mới để tìm con chiên và nuôi sống họ. Cấm đến nhà thờ thì Cha đến nhà dân. Cấm dâng lễ thì Cha làm lễ giỗ…, giỗ từ nhà này đến nhà khác. Cứ như thế, Cha đã đặt nền cho những cộng đoàn tín hữu mới: Thanh Bình, Hoàng Ân, Hoàng Tiến…, rồi Thăng Đức, Thanh Hà, Phú Mỹ”. Giờ Ân phúc: Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình… Giây phút linh thiêng lưu luyến trước huyệt mộ này, Cha Quản Hạt Chư Prông một lần nữa đọc bài cám ơn: “Trong bầu khí thánh thiện và trang nghiêm của Thánh lễ an táng, cho phép con được thay lời cho gia đình huyết tộc, linh tông, giáo xứ Đức Hưng, gia đình Giáo Hạt Chư Prông, và đặc biệt con xin thay lời cho Đức Cha Đa-minh Mai Thanh Lương cám ơn quý Đức Cha trong Giáo Phận Kontum đã yêu thương đón nhận, nâng đỡ, và đồng hành với Cha Cố Đa-minh để Ngài có được mảnh đất tốt ươm gieo Tin Mừng trong suốt hành trình 59 năm qua”. Hai điểm nhấn trong bản di chúc mà Cha Tổng Đại Diện đã đọc lúc nãy giờ lại vang lên: “Chúng con không biết diễn tả như thế nào tâm tình của mình, chỉ biết nói lại chính tâm nguyện trong Di chúc của Cha Cố Đa-minh:‘Hẹn gặp nhau trên nước Thiên Đàng’”. Và ngỏ lời với các cấp chính quyền xã Thăng Hưng, huyện Chư Prông, tỉnh Gia-lai: “Chúng tôi xin cám ơn Quý vị đã đến viếng thăm, và nhất là đã giúp cho Cha Cố Đa-minh của chúng tôi hoàn thành tâm nguyện cuối cùng là ‘Sống và chết tại mảnh đất này’”. Nghi thức và nghĩa cử cuối cùng, Đức Cha Alôsiô làm phép ngôi mộ và rải cho Cha Đa-minh nắm cát đầu tiên, chiếc hòm đơn sơ xinh xắn như hạt lúa mì nằm yên dưới lòng huyệt mộ tỏa sáng lung linh. Hơn 5.000 người lương giáo ngắm nhìn di ảnh và lần lượt rải lên mộ Ngài nắm cát tri ân. Đẹp rạng ngời trái tim của “Vị Mục Tử như lòng Chúa ước mong” giờ đây nép mình bên Tượng Đài Thánh Tâm Chúa Giê-su, lời nguyện khắc hai bên quan tài Ngài như dòng thơ điệu nhạc vút bay cao: “Hồn con nay vươn lên Chúa, Chúa ơi!”, “Con tin, con cậy vào Ngài, Chúa ơi!” Thánh lễ an táng Cha Cố diễn ra sao mà bình an linh thánh quá, Giáo phận Kontum chúng con xin cảm tạ ơn Chúa vì đời sống thánh thiện của Vị Mục Tử nhân lành. Và còn lời ước hẹn nào đẹp hơn lời ước hẹn của vị Mục Tử đã trọn vẹn sống chết vì đoàn chiên: Hẹn gặp nhau trên Thiên Đàng.
Một người đàn bà nghèo khổ bế đứa trẻ đi ăn xin, một lần bà ta đi ngang qua một cái hang. Bỗng AnTáng 259
Một người đàn bà nghèo khổ bế đứa trẻ đi ăn xin, một lần bà ta đi ngang qua một cái hang. Bỗng nghe văng vẳng bên tai: "Ngươi có thể vào trong và lấy bất cứ thứ gì mình muốn, nhưng đừng quên cái chính và hãy nhớ một điều: sau khi ngươi trở ra thì cửa hang sẽ đóng lại vĩnh viễn, tuy vậy hãy lợi dụng cơ hội hiếm có này và nhớ đừng quên cái chính". Nghe lời bà ta đi vào trong hang. Bà bị lóa mắt bởi vô số những thứ quý giá: vàng bạc, châu báu, kim cương. Bà ta đặt đứa con xuống và bắt đầu nhặt mọi thứ có thể và nhét hết vào mọi nơi trên người. Bên tai văng vẳng lời nhắc nhở: "Ngươi chỉ có 8 phút thôi và đừng quên cái chính!" Sau khi đã nhét đầy người vàng bạc châu báu cũng là lúc hết giờ. Bà ta vội vã rời khỏi hang, cũng là lúc cửa hang đóng sập lại. Chợt bà ta sực nhớ đến đứa trẻ còn ở trong hang. Bà ta vứt tất cả vàng bạc châu báu đã lấy được và lăn ra khóc lóc vật vã. Nhưng chẳng ích gì vì cửa hang đã vĩnh viễn đóng lại. Trong cuộc đời chúng ta cũng có khoảng 80 năm để sống ở đời và từ trong sâu thẳm đáy lòng luôn có một âm thanh nhắc nhở chúng ta: "ĐỪNG QUÊN CÁI CHÍNH" Nhiều khi con người vì ham kiếm thật nhiều tiền, nhiều khi ăn chơi vô độ, hoặc chạy theo danh vọng, sắc đẹp mà quên đi cái chính của cuộc đời: ĐÓ LÀ CHĂM CHÚT CHO GIA ĐÌNH CHO NHỮNG NGƯỜI THÂN YÊU LÀ CHA MẸ, CON CÁI, VỢ CHỒNG.... là giá trị của đạo đức làm người. Nhoáng cái đã hết 80 năm. Đến khi sắp nhắm mắt mới nhận ra mình đã quên đi cái chính thì ôi thôi đã muộn.... !!! (Sưu tầm)
Cùng lúc ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những người Galilê bị tổng AnTáng 260
Cùng lúc ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Đức Giêsu đáp lại rằng:”Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao ? Tôi nói cho các ông biết : không phải thế đâu, nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết như vậy. Cũng như mười tám người kia bị tháp Siloắc đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêruselem sao ? Tôi nói cho các ông biết : không phải thế đâu, nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy” (Lc 13,1-9). Người ta đến báo tin cho Đức Giêsu biết quan Philatô đã hạ lệnh giết những người Galilê đang khi họ dâng lễ khiến máu họ hòa lẫn với tế vật. Và một biến cố nữa là tháp Siloe đổ xuống đè chết mười tám người. Theo quan niệm nhân quả, người ta coi đó là hình phạt mà Thiên Chúa giáng xuống người tội lỗi, và những ai thoát nạn thì được coi là công chính. Đức Giêsu bác bỏ quan niệm nông cạn này (Ga 9,2-3) và chỉ cho họ thấy rằng các biến cố đó là một lời cảnh cáo : mọi người đều có tội, nên đều phải sám hối. Nhân dịp này Đức Giêsu cũng muốn nói đến cái chết mà mọi người đều phải trải qua. Sự kiện tháp Siloe đổ xuống đè chết mười tám người cũng là dịp Ngài nhắc nhở cho chúng ta : cái chết đã bất chợt xẩy đến cho những người bị tai nạn, bất chợt cũng như kẻ trộm đến ban đêm mà chủ nhà không biết ; cũng như chủ nhà về bất chợt mà đầy tớ không ngờ (Lc 12,35-49). Giờ chết cũng bất thần giáng xuống những kẻ không đề phòng, không hối cải như vậy. Cho nên họ phải hối cải, thì sẽ không sợ các biến cố (giờ chết) xẩy đến bất ngờ. Để thúc giục dân Do thái hoán cải, Đức Giêsu giảng thêm dụ ngôn về cây vả nữa. Cây vả dùng để lấy quả làm thức ăn như một thứ rau ở Palestina. Nếu cây vả mà không sinh trái thì phải chặt bỏ đi, để nó chiếm đất. Cũng vậy, dân Do thái được ví như cây vả lâu ngày không sinh trái. Thiên Chúa toan chặt đi nhưng người làm vườn của Thiên Chúa là Đức Giêsu xin khất cho hạn một năm nữa. Thời hạn đó là những ngày giờ giảng dạy của Chúa. Đó là thời hạn cuối cùng. Lời đe doạ này không lay chuyển được lòng dân Do thái. Vì thế, thành Giêrusalem bị tàn phá bình địa sau đó 40 năm và dân Do thái bị lưu đầy khắp nơi. Dụ ngôn này nhắc nhở cho chúng ta về sự hối cải để chuẩn bị cho giờ chết của mình. Chết là một sự kiện xẩy ra hằng ngày mà không ai có thể chối cãi được. Nhìn thấy người ta chết hằng ngày nhưng có một điều lạ là không mấy ai nghĩ đến giờ chết của mình, cứ coi như mình sống mãi sống hoài. Đặc tính của cái chết là sự bất ngờ. Người đời đã chấp nhận chân lý này :”Sinh hữu hạn, tử bất kỳ”.
II. PHẢI CHUẨN BỊ CHO NGÀY RA ĐI. Mỗi người sẽ phải chết một lần, mà một lần ra đi thì không có ngày trở về ; vì thế không ai có kinh nghiệm về cái chết. Đời là một cuộc hành trình mà cuộc hành trình nào cũng phải có điểm đến. Điểm đến của chúng ta không phải là nơi nào vững chắc trên trái đất này vì mọi sự sẽ phải phá hủy, chỉ còn một nơi chúng ta đang mơ ước mà Chúa Giêsu đã hứa với chúng ta :”Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở... Vì Thầy đi dọn chỗ cho các con...để Thầy ở đâu, các con cũng ở đó”(Ga 14,2-3). Nhưng muốn đến nơi Chúa Giêsu đã dành cho chúng ta , cần phải có sự chuẩn bị, phải làm việc. Công việc của chúng ta phải làm là : sám hối và sẵn sàng.
1. Hãy sám hối. “Hãy sám hối”, đó là câu mời gọi khẩn thiết được kêu gọi rất nhiều lần bởi Gioan Tẩy giả, bởi Chúa Giêsu, bởi các Tông đồ và bởi Giáo hội. Sám hối có nghĩa là trở về, trở về nơi mình đã phát xuất vì con người đang đi trệch đường. Sám hối là nhận ra mình đang trệch đường và mau mắn trở về đường chính. Qua dụ ngôn cây vả, chúng ta thấy Chúa Giêsu quả là Đấng nhân lành, thương xót và nhẫn nại : suốt ba năm trời vất vả giảng dạy dân Do thái, mà họ không trở lại ; tuy vậy, Ngài còn xin cho họ được một năm ân huệ nữa, để hoán cải. Chúa cũng yêu thương và nhân lành đối với mỗi người chúng ta, đồng thời Ngài cũng kiên nhẫn chờ đợi chúng ta thanh tẩy đời sống và thánh hoá bản thân mỗi ngày.
Truyện : Phải qui hàng. Sau khi đánh tan một cuộc nổi loạn nhà vua bắt những kẻ phản loạn về. Ông ra lệnh thắp lên một cây nến, rồi nói với họ :”Ai chịu đầu hàng và thề trung thành với ta thì sẽ được tha, bằng không sẽ bị giết. Các ngươi hãy suy nghĩ kỹ. Khi cây nến tắt thì cuộc hành quyết sẽ bắt đầu”. Thiên Chúa cũng đối xử với tội nhân như vậy : Ngài cho họ một thời gian gia hạn. Tuy nhiên, có một khác biệt quan trọng : không ai biết cây nên của đời mình còn dài hay ngắn. (GM Arthur Tonne).
2. Hãy sẵn sàng. Khi nói đến giờ chết, Chúa Giêsu đã đưa ra nhiều hình ảnh như trận lụt đại hồng thủy, kẻ trộm, người đầy tớ tỉnh thức, những cô trinh nữ khôn ngoan... để nói lên yếu tố bất ngờ của giờ chết. Dân gian thường nói :”Tử bất kỳ” : giờ chết đến bất cứ lúc nào không ai biết. Đây là kinh nghiệm ngàn đời mà chúng ta cần phải biết và đề phòng. Tuy biết thế, nhưng ít khi người ta đề phòng. Những nhà khảo cổ đào bới được thành phố Vésuve xưa kia bị núi lửa chôn vùi cách đột ngột. Người ta thấy nhiều cảnh tượng trái ngược nhau : có người chết đang khi nhậu nhẹt, có những người đang đánh nhau để tranh dành một số tiền. Nhưng đẹp nhất là một người lính gác đứng nghiêm, gươm giáo trong tay đang thi hành nhiệm vụ. Hãy ngước mắt nhìn lên để khỏi bị chìm đắm trong những thú vui thấp hèn. “Người này chết vì leo núi”, đó là lời ghi trên mộ bia của một vận động viên leo núi. Người ấy đam mê leo núi, muốn chinh phục các điểm cao, nên đã chết vì tham vọng của mình. Câu trên đây ghi nhận công lao anh dũng của ông. Chúng ta cũng cần có thái độ của vận động viên leo núi là nhắm đích cao để tiến tới, là nhắm lý tưởng để mong đạt được. Hãy trèo lên, hãy tiến tới. Trong đường nhân đức, chúng ta phải có thái độ trèo cao để luôn tiến bộ. Trong khi chờ đợi Chúa đến, chúng ta hãy tỉnh thức và làm việc như tên đầy tớ cầm đèn sáng trong tay đợi ông chủ đi ăn cưới về. Phúc cho những đầy tớ nào đang sẵn sàng chờ đón chủ, ông sẽ khen ngợi và thưởng công cho. Hày làm việc như hôm nay Chúa gọi chúng ta về.
Truyện : Cứ làm việc. Một ngày nọ vào năm 1780 bỗng dưng cả vùng tiểu bang Connecticut bị tối hẳn lại. Ai nấy đều cho rằng đã đến ngày tận thế. Khi đó Hội đồng Lập pháp tiểu bang đang họp. Nhiều người yêu cầu hoãn cuộc họp để họ có thể về nhà cùng với gia đình chờ Chúa đến. Nhưng ông chủ tịch nói :”Không biết hôm nay có phải là ngày tận thế hay không. Nếu không thì không cần hoãn họp. Còn nếu phải thì chúng ta càng cần chu toàn nhiệm vụ hơn nữa. Xin thắp nến lên” (Drinwater). “Hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút các con không ngờ, thì Con Người đến” (Lc,12-40). Lạy Chúa, xin cho con luôn biết sẵn sàng để có thể lên đường với Chúa, khi Ngài đi ngang qua đời con và cất tiếng mời gọi. Lúc ấy, con sẵn sàng thưa : Lạy Chúa, có con đây”. Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt
Bàng hoàng, xúc động, đau xót, tiếc thương, bối rối, xao xuyến là những cảm xúc lẫn lộn ùa về khi nghe tin thầy Giuse Nguyễn Văn Tuấn đột quỵ và qua đời. Cái chết vốn là thực tại bi thảm, lại càng trở nên bi thảm hơn khi nó xảy đến bất ngờ và thảm thương hơn nữa khi nó ập đến cho một người trẻ đầy tiềm năng, sức sống và hy vọng. Người Việt Nam đã từng than nỗi đau ấy: “Lá vàng đeo đẳng trên cây / Lá xanh rụng xuống, Trời hay chăng Trời?”. Thực sự là một niềm xót thương vô hạn đối với tất cả những ai quen biết Thầy. Đúng như tác giả bài thơ “Cây Cầu Oan Nghiệt” (tác giả Kim Giang) đã mô tả: “Tôi đau nỗi đau đến tận cùng - Cái chết Bao nhiêu khát khao ngang chừng... Chấm hết Cả đất trời sấm sét chuyển rung Không thể nghiến răng Không thể lạnh lùng Ôi tiếng kêu có thấu tới Cửu Trùng (…) Vâng. Thiết nghĩ chẳng có lời trần gian nào có thể minh giải, ủi an và thoa dịu nỗi niềm tiếc thương này. Lời ngôn sứ Isaia văng vẳng bên tai thật là thấm thía: “Lạy Chúa, con như người thợ dệt, đang mải dệt đời mình, bỗng nhiên bị tay Chúa, cắt đứt ngay hàng chỉ” (Is 38,12). Vì thế, giờ phút này đây, chúng ta cùng lắng đọng tâm hồn để cho Lời Chúa soi sáng và sưởi ấm cõi lòng chúng ta. Chỉ có Lời Hằng Sống của Ngài mới có đủ uy quyền và sức mạnh để ủi an và soi rọi vào đêm đen tang tóc mà chúng ta đang đối diện; chỉ có Lời Quyền Năng của Ngài mới có sức cứu độ và vực chúng ta trỗi dậy. 1. “Người công chính dù có chết sớm cũng được an vui… Sống không tỳ ố đã là sống thọ” (x. Kn 4,7-15) Lời thứ nhất trích từ Sách Khôn Ngoan, dạy cho chúng ta một chân lý sáng ngời: giá trị của cuộc sống không tùy thuộc vào chiều dài của thời gian mà là tùy thuộc vào chiều dày của sự công chính, chiều cao của sự thánh thiện, chiều sâu của đức yêu thương. Dù sống ngắn, nhưng nếu sống tốt sống đẹp, sống thánh thì cũng giá trị rất lớn trước mặt Chúa. Trong cái nhìn ấy, chết trẻ, chết sớm lại được nhìn như một ân huệ, một sự giải thoát Chúa dành cho người công chính. Đó là một sự về đích sớm, là “ân sủng và tình thương” Chúa dành cho những người Chúa chọn, vì “người tiến đến mức hoàn thiện trong thời gian ngắn khác nào đạt tới đỉnh cao của sự nghiệp” (Kn 4,13). 2. “Dù sống hay chết chúng ta cũng thuộc về Chúa” (Rm 14,8; x. Rm 14, 7-9.10c-12) Lời thứ hai đến từ thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma, giúp chúng ta khám phá cốt lõi của thực tại sinh tử phận người. Điều quan trọng là luôn “thuộc về Chúa”, nghĩa là luôn gắn bó, quy hướng và phó thác nơi Ngài. “Người công chính” là người “thuộc về Chúa”, sống và chết cho Chúa. Mọi biến cố xảy đến trong cuộc trần đều là cơ hội để phụng sự Ngài: sống hay chết, nụ cười hay nước mắt, hạnh phúc hay khổ đau, sum họp hay chia ly, thành công hay thất bại… Nếu cứ “thuộc về Chúa”, thì mọi sự sẽ trở thành vĩnh cửu. Lời này dạy ta thái độ sống phó thác trọn vẹn vào Đấng là Chủ của sự sống, “đừng ai sống cho riêng mình, nhưng sống là sống cho Chúa và chết cũng là chết cho Chúa”. 3. “Lạy Cha, Con phó thác hồn Con trong tay Cha” (Lc 23, 46) Lời thứ ba đến từ chính môi miệng Chúa Giêsu, trong một giây phút có thể nói là yếu đuối nhất, bất lực nhất, thất bại nhất của thân phận làm người. Trong giây phút ấy, Ngài đã làm gì? Thưa, Ngài đã phó thác mạng sống mình, trọn vẹn và dứt khoát, vào trong tay Cha. Chúa Giêsu chính là Lời Viên Mãn. Ngài sống rất ngắn, nhưng giá trị cuộc sống dương gian của Ngài là vô tận. Cuộc sống ngắn ngủi ấy, chỉ vỏn vẹn hơn ba mươi năm, chả nghĩa lý gì so với hàng ngàn hàng vạn năm của lịch sử nhân loại, nhưng lại có thể cứu độ cả thế giới qua mọi thời đại: hôm qua, hôm nay và mãi mãi… Ngài cho chúng ta thấy rằng, chất lượng sống quan trọng hơn số lượng sống… Cuộc sống có ngắn, nhưng nếu chúng ta thuộc về Chúa, sống cho Chúa và chết cho Chúa, thì cuộc sống ấy vẫn là vô giá… Sở dĩ cuộc sống dương gian ngắn ngủi của Chúa có giá trị vô tận, là vì mọi giây phút sống của Chúa Giêsu đều là sống cho Chúa Cha và “thuộc” về Chúa Cha, có nghĩa là làm theo thánh ý của Chúa Cha, để cho Chúa Cha toàn quyền sử dụng sự sống Ngài. Cho đến giây phút cuối cùng của hành trình dương thế, Ngài đã trao “thần khí”, nghĩa là trút linh hồn, trút trọn vẹn sự sống của Ngài vào tay Cha. Bước theo Chúa Giêsu, chúng ta thấy có vô vàn những vị thánh trẻ, tuy cuộc sống dương gian rất ngắn ngủi, nhưng đã đạt tới đỉnh cao của sự thánh thiện. Gần gũi với chúng ta có Têrêsa Hài Đồng Giêsu (24 tuổi), Maria Goretti (12 tuổi), Đaminh Savio (15 tuổi)… Ở Việt Nam có thánh Giuse Túc (19 tuổi), thầy chủng sinh thánh Tôma Thiện (18 tuổi)… Kính thưa cộng đoàn, Nhìn vào biến cố ra đi của Thầy Giuse Nguyễn Văn Tuấn, theo cái nhìn tự nhiên, chúng ta thấy bùi ngùi xúc động, đau buồn tiếc thương. Tuổi 26-27 là tuổi rất đẹp, rất khỏe, rất nhiều hy vọng và ước mơ… vậy mà. Gia đình tiếc thương một người con ngoan hiền, chăm chỉ, học hành đỗ đạt. Hai mươi mấy năm sinh thành dưỡng dục, hy sinh và kỳ vọng… vậy mà. Chủng viện tiếc thương một chủng sinh thông minh, siêng năng, mẫu mực… Hơn hai năm đào tạo với bao dự tính và vun trồng… vậy mà. Họ hàng thân quyến tiếc thương một người con, người cháu, người anh em… sống lễ phép hiền hòa, sống có tình có nghĩa… Bao nhiêu trông mong và đợi chờ… vậy mà. Nhưng dưới ánh sáng đức tin soi chiếu, chúng ta hiểu rằng, thầy Giuse đã kết thúc tốt đẹp hành trình dương thế của mình, đã hoàn thành sứ mệnh Chúa muốn. Thầy tuy sống ngắn ngủi nhưng đã gắng sức sống tốt nhất thời gian ngắn ngủi của mình qua việc thực thi ý Chúa, nuôi dưỡng khát vọng nên thánh và cố gắng nên trọn lành mỗi ngày. Thầy đã nỗ lực hết mình, cho đến hơi thở cuối cùng, để vun trồng ơn gọi của mình: chăm chỉ học hành tu luyện, tốt nghiệp ĐH Luật, đậu thủ khoa Đại Chủng Viện, và hơn hai năm trong Đại Chủng Viện, luôn là một chủng sinh học tập giỏi giang, đạo đức mẫu mực, kính trọng lễ phép với bề trên, vui tươi và hiền hòa với bạn bè và mọi người. Thiết nghĩ, thầy Giuse đã sống cho Chúa và chết cho Chúa. Chúng ta hãy phó thác linh hồn thầy trong tay Chúa và nguyện cầu cho thầy được yên nghỉ trong tay nhân lành yêu thương của Ngài. Sự ra đi chóng vánh của thầy Giuse cũng là lời mời gọi chúng ta biết sống phó thác hơn vào tình thương của Chúa. Thầy Giuse để lại cho chúng ta một sứ điệp rất quan trọng: sự sống rất quý giá và thánh thiêng, nên chúng ta hãy chắt chiu từng giây phút sống và hãy đong đầy mỗi giây phút ấy bằng những giá trị vĩnh cửu. Lạy Chúa, “Chúa ban ân sủng và tình thương cho những người Chúa chọn” (Kn 4,15). Xin cho linh hồn thầy Giuse được vào nơi tràn đầy ánh sáng và bình an. Amen. Lm. Đaminh Trần Ngọc Đăng
Bài giảng lễ tang cụ Bà Maria Trương Thị Ngọ Thứ Ba, ngày 2.8.2011 Kính thưa cha chánh Xứ Phanxicô Xaviê, Kính thưa cộng đoàn,
Trong Dòng Tên, có môt vị thánh tên là Francis Borgia. Thánh Borgia thuộc về một gia đình hoàng AnTáng 262
Trong Dòng Tên, có môt vị thánh tên là Francis Borgia. Thánh Borgia thuộc về một gia đình hoàng tộc quí phái của nước Tây Ban Nha vào thế kỷ XVI. Ngài từng là Công tước xứ Gandia (the Duke of Gandia), một tước vụ cao nhất trong hệ thống chức tước quí tộc (Công, Hầu, Bá, Tử, Nam), chỉ đứng sau hoàng đế. Nhưng Borgia đã từ bỏ tất cả địa vị danh giá của mình để trở thành một tu sĩ đơn sơ khổ hạnh của Dòng Tên. Điều gì đã làm cho thánh Borgia đổi đời như vậy? Lịch sử viết lại rằng, ngày mùng 1.5.1539, Hoàng hậu Isabella của nước Tây Ban Nha qua đời. Trước khi chôn cất vị hoàng hậu theo nghi lễ hoàng gia, Công tước Borgia có nhiệm vụ mở nắp quan tài để xác nhận di hài đó chính là Hoàng hậu. Thánh Borgia kinh hoàng khi nhận thấy thân xác của vị hoàng hậu xinh đẹp mới 36 tuổi đã bị biến dạng hoàn toàn sau một 2 tuần. Thánh Borgia nhận thấy sự phù phiếm của thế gian này: dù là sắc đẹp, tiền tài, bổng lộc, chức tước, quyền hành sẽ qua đi, sẽ chẳng là gì trước cái chết. Borgia quyết định thay đổi cuộc sống, từ bỏ địa vị Công tước danh giá để trở thành một tu sĩ Dòng Tên sống trong cầu nguyện và khổ hạnh. Hôm nay, cộng đoàn chúng ta cử hành Thánh lễ an táng cho cụ bà Maria, một người có lẽ ít nhiều xa lạ với giáo xứ Xây Dựng. Rất ít người trong giáo xứ biết cụ, vì cụ chỉ mới ở đây khoảng bảy tháng thôi. Thế nhưng, với những anh chị em của cụ, với con cháu của cụ trong cuộc hành trình 83 năm cuộc đời của cụ, hình ảnh cụ Maria từ lúc trẻ trung cho tới lúc già yếu bệnh tật trên giường bệnh vẫn luôn đọng lại trong tâm trí. Dù xa lạ hay thân thiết, sự ra đi của cụ Bà Maria là một sự nhắc nhở cho chúng ta về một thực tế: cái chết luôn là một điểm đến cho tất cả mọi người. Mọi người đều bình đẳng với nhau trước cái chết. Cái chết cho thấy cuộc sống trần gian này chỉ là một thời gian tạm thời. Mọi sự chúng ta có chỉ là tạm bợ, không ai mang được gì theo mình sau cái chết. Lời Chúa trong Thánh lễ an táng hôm nay nhắc nhở cho chúng ta biết điều gì là quan trọng trong cuộc sống để chúng ta có thể thay đổi, như thánh Borgia thay đổi trước cái chết của Hoàng hậu Isabella. Trong bài đọc thứ nhất (1 Ga 3,14-16), thánh Gioan tông đồ nói về tình yêu: tình yêu là điều giúp chúng ta sống còn trong cuộc sống dương thế, tình yêu cũng là điều đưa chúng ta từ cõi chết đến cõi sống. Vậy tình yêu là gì? Xin thưa, là sự hy sinh cho người mình yêu như Chúa Kitô đã chết vì chúng ta. Theo kinh nghiệm sống của chúng ta, tình yêu nhân bản luôn quan trọng cho chúng ta trong cuộc sống. Chúng ta sống nhờ vào tình yêu của cha mẹ, con cái, anh chị em trong gia đình và gia tộc. Chúng ta sống nhờ tình yêu của bạn bè, thân hữu. Tình yêu là điều làm nên ý nghĩa của cuộc sống. Nhưng để đi từ cõi chết vào cuộc sống, chúng ta phải cần đến tình yêu cứu độ của Đức Kitô. Hơn nữa, thánh Gioan còn khẳng định rằng, chính tình yêu luôn cần phải có sự hy sinh cho nhau. Như vậy, điều quan trọng không phải là sự sống hay cái chết, nhưng là tình yêu với sự hy sinh cho nhau. Khuôn mẫu tình yêu chính là Đức Kitô “Đấng đã thí mạng vì chúng ta, và cả chúng ta nữa, chúng ta phải thí mạng vì anh em”. Kính thưa cộng đoàn, Chúng ta tạ ơn Chúa vì sự hiện diện yêu thương của cụ Maria trong suốt 83 năm cuộc đời. Trong cuộc sống, cụ Maria đã yêu mến và được yêu mến trong những lúc thăng trầm của cuộc sống, nhất là vào thời gian cuối đời. Anh chị em và con cháu trong gia đình, gia tộc đã cảm nhận được sự thương yêu của cụ cũng như đã thương yêu cụ. Đặc biệt, những nâng đỡ và trợ giúp của cha Xứ và các hội đoàn trong giáo xứ và các thân hữu của cụ và của gia đình là sự diễn tả yêu thương cho cụ và với cụ. Sự hiện diện của anh chị em trong thánh lễ này cũng như sự hướng lòng về cụ từ con cháu và các em ở nơi xa xôi không chỉ là một sự yêu thương nhưng còn là một sự biểu lộ đức tin vào tình yêu của Thiên Chúa trong cuộc sống. Đó là một đức tin vào Thiên Chúa tình yêu và đức tin đó cần được diễn tả qua đời sống yêu thương. Một lần nữa sự ra đi của cụ Maria và Lời Chúa trong Thánh lễ an táng của cụ Maria nhắc nhở cho chúng ta điều quan trọng trong cuộc sống là tình yêu hy sinh cho nhau. Tất cả chúng ta phải sống theo khuôn mẫu của tình yêu là Đức Kitô. Đây chính là đức tin của người Công giáo, một đức tin không chỉ được nói trên môi miệng, nhưng cần phải thực hành, phải sống trong đời sống hằng ngày. Chúng ta phải sống yêu thương nhau để đem lại sự sống cho nhau. Chúng ta cần phải sống tình yêu Thiên Chúa để chúng ta cùng vượt qua cái chết để đi vào sự sống đời đời. Một cuộc sống biết yêu thương theo Lời Chúa luôn là một lời tuyên xưng đức tin hùng hồn và có ý nghĩa nhất, nhưng cũng là một thách đố lớn lao nhất. Xin Chúa luôn ban ơn cho tất cả chúng ta, để chúng ta có thể vượt qua thách đố này và trở nên chứng nhân tình yêu của Chúa trong đời sống. Xin cám ơn quí ông bà, anh chị em.
Thật sự ra mà nói, giảng Lễ là điều gì đó chẳng đặng đừng từ phía linh mục lẫn người nghe. Nhiệm AnTáng 263
Thật sự ra mà nói, giảng Lễ là điều gì đó chẳng đặng đừng từ phía linh mục lẫn người nghe. Nhiệm vụ linh mục là giảng giải lời Chúa và giáo dân là người được thụ hưởng lời giảng của linh mục. Là linh mục ai ai cũng mong soạn những bài đại giảng với chất giọng hùng hồn để làm đánh động người nghe nhưng rồi khả năng Chúa ban cho mỗi người một cách và không ai giống ai được. Chính vì thế cộng đoàn dân Chúa nên chăng phải thêm phần thông cảm. Sáng nay tại hạ tham dự Thánh Lễ an táng cho một vị linh mục vừa qua đời trong Tổng Giáo Phận. Trước Thánh Lễ, các cha chờ lâu quá chưa thấy linh mục giảng lễ đến nên có đùa với nhau : “Những Lễ to như thế này, chủ tế (thường là giám mục) quan trọng nhưng người giảng còn quan trọng hơn ! Người giảng chưa đến là chưa đi được”. Và những câu chuyện bông đùa đâu đó khi chờ khá lâu vì giờ lễ đã đến và đã đi xa quá ! Hóa ra người giảng hôm nay cũng chính là người ấn ký giờ Lễ hôm nay đó chính là Cha Inhaxio Hồ Văn Xuân – Tổng Đại Diện Giáo Phận Sài Gòn. Có lẽ Ngài quên hay sao đó nhưng đã quá giờ nhưng Ngài chưa đến. Có cha thánh thiện an ủi anh em linh mục : “Thôi thì làm việc đền tội vậy !”. Thế là mọi người vui vẻ chờ đợi và đợi chờ. Trong bài giảng hôm nay, như mọi bài giảng mà ai nào đó đã nghe từ nơi Cha Tổng thì đều biết rằng cái e giảng trầm mà lắng đậm chất của người miền Nam. Không khùa tay khùa chân, không múa may quay cuồng như vài người lập dị trên tòa giảng nhưng bài giảng đã đi vào lòng người. Khổ là khổ ở chỗ đó ! Có người muốn gây ấn tượng có khi dùng những lời lẽ bất xứng với tòa giảng để tưởng chừng mình là … thánh ! Vẫn cái giọng trầm buồn có khi làm cho người ta dễ ngủ nhưng thật khó ngủ vì lẽ bài giảng của Cha Tổng vẫn là những gì từ cảm xúc thật tự đáy lòng. Gần hết bài giảng, Cha Tổng mới bộc bạch rằng … Ngài không soạn bài giảng dù đã được chỉ định từ trước. Và, trước khi giảng, Cha Tổng cũng đã xin lỗi Đức Cha, quý Cha và cộng đoàn vì sự nhầm lẫn thời gian đáng tiếc. Thật ra mà nói, bài giảng cũng cần soạn bởi lẽ tôn trọng người nghe nhưng thực sự và thực tế ngày hôm nay giáo dân không còn hứng thú để nghe những bài giảng xem chừng ra khoa bảng như thật khó nuốt. Tâm lý giáo dân vẫn thích nghe các Cha giảng từ những tâm tư tận đáy lòng của các đấng, từ những trải nghiệm trong cuộc đời rất thực có khi là cay cay đắng đắng của cuộc đời. Đơn giản thuốc đắng dã tật và sự thật mất lòng. Hơn thế nữa, Lời Chúa là lời bén nhọn như gươm làm xé lòng người. Cha Tổng khẳng định rằng bài này không soạn, bài này nói tự lòng người và điều mà Cha Tổng muốn nói và phải nói ngày hôm nay đó là khi còn sống, Cha cố Giuse không cho Ngài nói chuyện thầm kín thâm sâu. Chuyện đơn giản là như thế này ! Mang trong mình dòng máu của người ham rao truyền Lời Chúa và nhất là máu truyền giáo có trong mình, Cha Cố Giuse đã lặng lẽ đưa 6 tỷ cho Đức Tổng, gửi Đức Tổng để mua đất làm nơi thờ tự, truyền giáo thuộc huyện Bình Chánh. Đức Tổng đã chuyển số tiền không nhỏ này đến tay Cha Tổng và Đức Cha Phụ tá Sài Gòn để lo liệu đất đai. Khi nghe đến đây, chắc có lẽ muốn ngủ cũng không tài nào ngủ được bởi lẽ tấm lòng của Cha Cố Giuse thật là lớn ! Với số tiền đó, Cha Cố có thể mua nhà riêng để … hưởng thụ mà chả ma nào biết ! Với số tiền đó, Cha Cố Giuse có thể sở hữu cho mình một con xe thật ngon như bao kẻ đang tiêu dùng. Với số tiền đó, Cha Cố Giuse có thể mở một công ty như ai nào đó đã mở để kinh doanh kiếm lời … Thế nhưng ý thức được “Lời lãi cả và thế gian nào được ích gì” để rồi Cha Cố Giuse đã không ngần ngại cho đi và cho đi ! Thế đó ! Tấm lòng mục tử của Cha Cố Giuse đã gói ghém bằng cả tấm lòng của mình. Xin lỗi, thực lòng mà nói với nhau đi, mấy ai đã sống và làm được điều này như Cha Cố Giuse đã làm. Có thể, qua Thánh Lễ an táng này và nhất là qua bài giảng không soạn đã để lại nhiều suy nghĩ cho những người cứ mãi vun vén chuyện trần gian. Có khi, có người đang tham dự Thánh Lễ an táng của Cha Cố Giuse đây nhưng lòng vẫn vấn vương điều gì đó cho tròn vẹn túi tham. Chớ gì bài giảng sống động nhất của Cha Cố Giuse chính là bài giảng cho đi tất cả cho Giáo Hội, cho cộng đoàn dân Chúa. Xin cảm ơn Cha Cố đã để lại tâm tình cho bài giảng không soạn của Cha Tổng Đại Diện để mỗi người còn ở lại thật chăng hay chớ cũng được đánh động để từ bỏ cuộc đời mà theo Chúa cho trọn vẹn. Khi Cha Cố ở gần Nhan Thánh Chúa, xin Cha Cố đừng quên cầu nguyện cho chúng con là những kẻ ở lại và kẻ mọn này Cha Cố nhé ! Hẹn gặp Cha Cố trong Nước Trời !
Đức cha Giuse, Giám mục giáo phận, đã chủ sự thánh lễ an táng cụ cố Anna Nguyễn Thị Chăm, thân mẫu của cha Gioan Baotixita Nguyễn Văn Sách - Chính xứ Nam Am, Quản hạt Nam Am, vào lúc 8h30 sáng nay (16/6/2016) tại Đền Thánh Tâm Chúa Giêsu, giáo xứ Liễu Dinh. -----------------------
Dù trời đổ mưa rào ào ạt sau những ngày nắng nóng, nhưng rất đông đảo các tu sĩ, các tín hữu AnTáng 264
Dù trời đổ mưa rào ào ạt sau những ngày nắng nóng, nhưng rất đông đảo các tu sĩ, các tín hữu và quý khách gần xa đến phúng viếng, chia buồn và tham dự thánh lễ an táng cụ cố Anna. Đặc biệt, có cha Tổng đại diện, quý cha Quản hạt và hơn 50 linh mục trong và ngoài giáo phận đã đồng tế trong thánh lễ này. Sự hiện diện đông đảo của quý cha và cộng đoàn, dù thời tiết chẳng mấy thuận lợi, đã thể hiện tình thân ái với cha Gioan Baotixita, cách riêng là lòng mến yêu dành cho cụ cố Anna. "Sau 85 năm tìm kiếm Chúa, hôm nay cụ cố Anna đã gặp được Chúa. Dù cảnh ly biệt không thể tránh khỏi tâm trạng buồn sầu thương tiếc, nhưng với niềm tin, chúng ta biết rằng, chết không phải là hết, mà là trở về cội, về với Thiên Chúa, Đấng tạo dựng. Bởi vậy, hơn ai hết, cụ cố Anna đang cảm nhận được niềm vui được trở về với Chúa như tâm tình dân Chúa xưa khi được hồi hương: khi Chúa thương gọi con về . . .". Đó là nhưng lời Đức cha chủ tế ngỏ lời với cộng đoàn khi bước vào thánh lễ, để mời gọi mọi người tin tương vào tình thương của Chúa và phó thác cụ cố cho Lòng thương xót của Ngài. Tin vào Chúa trong những lúc vui tươi, an bình là chuyện đơn giản, nhưng khi gặp đau khổ là điều không hề giản đơn. Tuy nhiên, chính trong những lúc khó khăn ấy, đức tin mới vững mạnh và đem lại hoa trái. Đó là đức tin của Gióp và Maria, chị của Ladarô, được nhắc đến trong các bài đọc thánh lễ an táng hôm nay. Từ những lời gọi ý ấy, Đức cha nói lên ý nghĩa của Đức tin: "Dù gặp biết bao cảnh đau khổ, nhưng ông Gióp vẫn một lòng tin tưởng và phó thác nơi Thiên Chúa. Nhờ lòng tin ấy mà ông đã được Chúa ban phần thưởng gấp bội phần so với trước đây. Còn chị Maria, trước nỗi đau tận cùng vì mất đi người em, nhưng cô đã đặt trọn niềm tin nơi Đức Giêsu, nhờ vậy mà Chúa đã cho em cô được sống lại, dù đã chết 4 ngày". Đức cha nhắn nhủ cộng đoàn: "Đức tin không chỉ đem lại cho con người phần phúc đời này, nhưng còn mang lại sự sống đời đời. Những ai trung thành với đức tin sẽ được Chúa ban thưởng hạnh phúc trường sinh với Chúa trên thiên đàng". Trong niềm tin ấy, Đức cha mời gọi cộng đoàn hiệp ý cầu nguyện cho cụ cố Anna: "Chặng đường 85 năm trần gian với biết bao gian nan vất vả, nhưng cụ cố vẫn luôn trung thành với Chúa. Dù cuộc sống nghèo khó về vật chất, nhưng cụ luôn giàu lòng mến Chúa và tình yêu Giáo hội. Người con trai mà cụ cố dâng hiến để làm linh mục cho Chúa đã thể hiện điều ấy". Cùng với lời mời gọi cầu nguyện cho cụ cố Anna, Đức cha cũng mời gọi mỗi người tín hữu hãy noi gương ông Gióp và chị Maria, để luôn trung thành với đức tin, nhờ vậy mà khi lìa cõi thế, sẽ được vui hưởng hạnh phúc mà tâm tình khúc khải hoàn ca diễn tả: "Khi Chúa thương gọi con về . . .". Sau lời nguyện hiệp lễ, cha Gioan Baotixita đại diện cho gia quyến, dâng lời tạ ơn Thiên Chúa về hồng ân 85 năm của cụ cố trên trần gian, cùng bày tỏ lòng tri ân với cộng đoàn, cách riêng là Đức cha Giuse, quý cha, không quản ngại trời mưa gió, đã đến hiệp dâng thánh lễ tiễn biệt cụ cố; cảm ơn quý cộng đoàn thuộc giáo xứ Liễu Dinh, Nam Am và An Quý, không chỉ đến phúng viếng chia buồn, mà còn cộng tác tích cực trong việc tổ chức lễ tang cho cụ cố Anna. Tiếp theo, cha xứ Toma Nguyễn Văn Vinh, chính xứ Liễu Dinh, đã chủ sự nghi thức tiễn biệt phó dâng cụ cố Anna Nguyễn Thị Chăm cho lòng thương xót của Chúa. Sau đó, thi hài cụ cố được đưa đi an táng tại vườn thánh của giáo xứ Liễu Dinh. Trời mưa gió khiến cho việc đưa tiễn cụ cố trở nên vất vả và cực nhọc, nhưng cũng qua đó mà những người thân quen thể hiện tình mến thân thương và thắm thiết dành cho cha Gioan Baotixita, nhất là bà cố Anna khi tạm biệt cõi đời này. BTT GP
17.12.2019 – Đại Hải Cộng đoàn Phụng vụ rất thân mến.
Tình cờ tôi đọc được bài thơ “Mai tôi đi…” của ai đó đăng trên internet: diễn tả tâm tình của một AnTáng 265
Tình cờ tôi đọc được bài thơ “Mai tôi đi…” của ai đó đăng trên internet: diễn tả tâm tình của một người khi đối diện với cái chết mà vẫn mỉm cười chứ không hề sợ hãi, không khiếp đảm… vì xem cái chết không chỉ là dấu chấm hết cho cuộc sống trên dương thế, mà còn là khởi đầu cho một hành trình tiến về vĩnh hằng. Tác giả nhận định: Mai tôi đi… chẳng có gì quan trọng, Lẽ thường tình, như lá rụng công viên, Như hoa rơi trước gió ở bên thềm, Chuyện bé nhỏ giữa giòng đời động loạn… Rồi chỉ có một ước mơ: Chỉ ước nguyện tâm hồn luôn thư thả, Với hành trang thanh nhẹ bước qua nhanh, Quên đàng sau những níu kéo giựt dành, Kết thúc cuộc lữ hành trên dương thế… Để cuối cùng kết luận: Ngoảnh nhìn lại, đời người như giấc mộng, Đến trần truồng và đi vẫn tay không. Bao trầm thăng, vui khổ đã chất chồng, Nay rũ sạch… lên bờ, thuyền đến bến… Những vần thơ trên đây dẫn tôi đến nhận định của tác giả Thánh vịnh 103: “Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi, tươi thắm như cỏ nội hoa đồng, một cơn gió thoảng là xong, chốn xưa mình ở cũng không biết mình” (Tv 103,15-16), và nhất là lời Chúa phán: “Anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến” (Mt 24,42). Kính thưa cộng đoàn, Sứ điệp Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe trong Thánh lễ an táng Bà Cố Anna hôm nay, đó chính là “hãy tỉnh thức”. Xin được chia sẻ với cộng đoàn 4 điểm: Tỉnh thức trong sám hối Thánh Alphongsô, tổ phụ Dòng Chúa Cứu Thế và sau khi làm Giám mục được 13 năm, đã xin Đức Giáo Hoàng Piô VI cho phép từ nhiệm vào năm 1775 để về sống trong Nhà Dòng. Ở đây, ngài cho xây một nấm mộ cho mình. Hằng ngày, đều ra ngồi trước nấm mộ này để ăn năn sám hối về những lỗi lầm trong quá khứ. Ngài thường nhắc lại lời Đức Giêsu để răn mình: “Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị hủy diệt” (Lc 13,3)”. Cuối cùng, ngài tìm được bình an và qua đời năm 1787, được tôn phong Hiển thánh năm 1839 và Tiến sĩ Hội thánh năm 1871. Tỉnh thức trong cảnh giác Tỉnh thức là phải cảnh giác, đề phòng, ngăn ngừa mình khỏi mọi sai phạm và lỗi lầm cả cố ý lẫn vô tình. Thánh Phêrô đã quá kinh nghiệm về sự mỏng dòn yếu đuối vì thiếu cảnh giác của mình, nên đã đưa ra một lời khuyên rất khôn ngoan và bổ ích: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều trải qua cùng một loại thống khổ như thế” (1Pr 5, 8-9). Tỉnh thức trong cầu nguyện Mỗi buổi sáng trước khi thức dậy, Thánh Vinhsơn Phaolô luôn thân thưa với Chúa: “Lạy Chúa! Xin gìn giữ tư tưởng, lời nói, việc làm của con trong suốt ngày hôm nay. Đừng để xảy ra bất cứ điều gì xúc phạm đến Chúa và anh em. Bởi vì biết đâu đây là ngày cuối cùng của đời con”. Mỗi buổi tối trước khi đi ngủ, ngài lại đấm ngực cầu nguyện: “Lạy Chúa! Xin tha thứ cho những lầm lỗi thiếu sót của con trong ngày hôm nay. Xin cho con được nghỉ ngơi bình an, vì biết đâu hôm nay con lên giường nằm nghỉ mà sáng mai không bao giờ chỗi dậy được nữa”. Việc tỉnh thức cầu nguyện đó đã giúp thánh Vinhsơn đối diện với cái chết một cách sẵn sàng và bình tĩnh. Ngài ra đi bình an năm 1660 và được phong thánh năm 1885. Tỉnh thức trong việc chu toàn bổn phận hằng ngày Chúa Giêsu thường đề cao phương pháp tỉnh thức này. Chẳng hạn, trong Tin Mừng Luca, Đức Giêsu đã huấn dụ các môn đệ: “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay. Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ” (Lc 12,35-37). Trong Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Thánh Mátthêu ghi lại vắn tắt: “Anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến” (Mt 24,42). Kính thưa cộng đoàn phụng vụ. Buổi tối sau khi mừng lễ Ngân khánh của cha Giuse Khiết, tôi nhận được điện thoại của cha xin xức dầu cho Bà Cố tại bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ. Khi tôi đến, Bà Cố dù rất mệt nhưng vẫn rất tỉnh táo, sốt sắng lãnh nhận Bí tích Xức dầu và Thánh thể. Trưa thứ Bảy vừa qua, Bà Cố đã được Chúa rước về sau 87 năm làm người và làm con Chúa, và sau 25 năm làm mẹ của một linh mục. Tôi còn nhớ vào ngày 4.10.2014, trong Thánh lễ An táng của Ông Cố, tôi có thưa với Bà Cố rằng: “Từ hôm nay, khi Lần Chuỗi Mân Côi mỗi ngày vào 4g00, 9g00 sáng và 3g00 chiều… Bà Cố sẽ phải đọc cả “Kính mừng…” lẫn “Thánh Ma…”. Như thế, sau 5 năm Lần Chuỗi thay phần của Ông Cố, giờ đây, chắc là Bà Cố sẽ không phải đọc kinh thay phần của Ông Cố nữa, mà chúng ta có thể tin tưởng và hy vọng rằng : Ông Bà Cố cùng nhau xướng ca Lòng thương xót Chúa và ngợi khen Mẹ Maria trên Thiên Đàng. Bởi lẽ, Bà Cố Anna đã luôn sống trọn cuộc đời trong tình trạng tỉnh thức: bằng cuộc sống sám hối, bằng việc cảnh giác, bằng tinh thần cầu nguyện, và nhất là bằng việc chu toàn bổn phận hằng ngày của mình, không chỉ đối với gia đình, mà còn đối với Giáo xứ, đối với tha nhân, đối với Giáo Hội nữa. Xin Chúa là Vị Thẩm phán chí công tha thứ, thanh tẩy những lầm lỗi, thiếu sót… chắc chắn không tránh khỏi trong thân phận làm người, để Bà Cố Anna được tinh tuyền trước Nhan Chúa. Và chúng ta vững tin rằng Thiên Chúa là Cha giầu lòng xót thương đang nói với Bà Cố Anna, lời mà ai trong chúng ta cũng mong được nghe trong ngày sau hết: “Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín! Hãy vào hưởng niềm vui của chủ ngươi!”. Amen. Lm. Pet. Vũ Văn Hài
Chúng con xin quý Đức cha, quý Cha chia vui với mẹ con và gia đình con, vì hôm nay mẹ chúng con được trở về với Thiên Chúa. Đó lời chân tình của Cha Vinh sơn Phạm Trung Thành, nguyên bề trên Giám tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế, trước biến cố mẹ của ngài an nghỉ. Trước linh cữu Bà cố Anna trong giây phút tẩn liệm, Đức Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Chí Linh đến chia buồn cùng cha Vinh sơn, nhưng đáp lại, cha Vinh sơn nói rằng, xin Đức Tổng Giuse chia vui với chúng con, bởi vì mẹ chúng con được trở về với Thiên Chúa. Đó là niềm khát khao lớn nhất của Bà cố. Người có thể nói được như thế trước sự mất mát lao trong đời mình thì đó phải là người có lòng tin mạnh mẽ, xác tín rõ ràng. Trong Thánh lễ an táng hôm nay (19/09/2017) tại giáo xứ Tân Hoà, Tổng Giáo phận Sài gòn, Đức Cha Micael chủ sự, đã kể lời những lời nói ấy trong bài giảng của ngài. -----------------
Đức Giêsu nói với người con duy nhất của bà goá thành Naim hãy chỗi dậy, và Ngài trao đứa AnTáng 266
Đức Giêsu nói với người con duy nhất của bà goá thành Naim hãy chỗi dậy, và Ngài trao đứa con ấy cho người mẹ đang đau khổ. Nếu Ngài ở đây lúc này thì Ngài sẽ nói gì, sẽ làm gì. Ngài sẽ đem lại niềm vui cho hết mọi người chúng ta. Niềm vui của Tin mừng là niềm vui phục sinh, niềm vui chan chứa là niềm vui được trở về sống cùng Đức Kitô. Trước hết, Đức Cha Micael nhắc lại hình ảnh bà cố Anna trong cuộc đời của một người phụ nữ tần tảo chăm sóc gia đình và hy sinh dâng hiến người con người cháu cho Chúa, cùng với tình cảm sâu sắc dành cho người chồng đã ra đi về với Chúa trước, mà bà hằng thương nhớ trong mọi biến cố vui buồn cuộc đời. Thương nhớ chồng bao nhiêu bà cố khát khao về với Chúa bấy nhiêu. Nhưng trong mọi sự, bà cố luôn đón nhận tất cả theo Thánh ý Chúa. Bà đã thanh thản ra đi nhưng để lại bao thương nhớ và những bài học quý giá. Đức Cha Micael còn chia sẻ, trước biến cố thánh lễ tạ ơn của bà cố hôm nay, người Kitô hữu chúng ta sống niềm tin của mình trong văn hoá đậm chất hiếu đễ Á Đông thế nào. Mang trong mình tâm tư của vị giám mục đã từng ngược xuôi vùng truyền giáo Tây nguyên, lời kêu gọi tha thiết của ngài vang lên, đã đến lúc rồi, đã đến lúc rồi, ngài gửi đến mọi thành phần Hội thành, phải sống đức tin thế nào, trình bày Tin mừng làm sao để sống trong cảm thức đạo hiếu Á Đông hầu có thể truyền giáo. Lịch sử truyền giáo đã để lại những hạn chế khi mà người Việt – Á Đông say mê Tin mừng, say mê đức tin Kitô giáo lại không thể bước vào Hội thánh được khi cánh cổng hiếu lễ khép lại. Cho đến ngày hôm nay, vẫn còn những di chứng của xã hội khi họ xem người Công giáo là những người bỏ cội nguồn gốc rễ gia tiên. Chúng ta đã nhầm lẫn và gây hậu quả, nhưng bây giờ chúng ta vẫn không sao tìm cách bày tỏ đức tin của mình để người đời nhận thấy. Ngược lẫn, có khi chúng ta nhầm lẫn, không phân biệt đâu là Chúa, đâu là Thánh, đâu là người phàm. Nếu Đức Giêsu hiện ở đây, Đức Cha Micael nói, Ngài sẽ làm gì, nói gì. Chắc chắn Ngài sẽ nói, Ta truyền cho con hãy chỗi dậy. Niềm vui của Tin mừng, đức tin của hy vọng, đứng trước biến cố tang thương, người Kitô hữu không quên báo hiếu. Nhưng tinh thần hiếu đễ của chúng ta tràn nhập giá trị Tin mừng. Nếu chúng ta biết sống, biết trình bày, biết cách diễn tả thì ngay trong biến cố mất mát này chúng ta sẽ thể hiện được đức tin của mình, giúp mọi người khám phá Tin mừng và đến được với Thiên Chúa. Thánh lễ an tàng Bà cố Anna của Cha Vinh sơn Phạm Trung Thành, DCCT, được cử hành vào lúc 7g00, thứ Ba ngày 19/09/2017, do Đức Cha Micael chủ tế, cùng đồng tế có Đức Cha Louis Nguyễn Anh Tuấn, Giám mục phụ tá Tổng giáo phận Sài gòn, cùng quý cha DCCT, quý linh mục trong và ngoài giáo phận, đông đảo quý tu sĩ và giáo dân cùng tham dự.
Nguyễn Long T4, 05/04/2017 - 09:50 WGPSG -- Lúc 08 giờ 30 thứ Bảy ngày 01.4.2017, tại nhà thờ giáo xứ Bình An, lễ an táng bà cố Anna - thân mẫu cha Giuse Phạm Đại Quang, dòng Don Bosco (SDB) - được cử hành. Cha Giuse Phạm Đại Quang đã chủ tế Thánh lễ. Đồng tế với cha Giuse có cha bề trên Giám tỉnh và quý cha thuộc Tỉnh dòng Salêdiêng Don Bosco Việt Nam, cha chính xứ, cha phó xứ Bình An và quý cha trong gia đình huyết tộc bà cố Anna. Hiệp ý trong Thánh lễ có quý tu sĩ, quý thân bằng quyến thuộc bà cố Anna, quý chức Hội đồng Mục vụ và cộng đoàn giáo xứ Bình An. Toàn văn bài chia sẻ trong giảng lễ qua bài Tin Mừng Chúa Kitô theo thánh Gioan của cha bề trên Giám tỉnh Tỉnh dòng Don Bosco VN: “Vì tình yêu đức Kitô thúc bách, và vì những tình cảm trân quí dành cho bà cố Anna Phạm Thị Hương cũng như gia đình cha Giuse Phạm Đại Quang, chúng ta qui tụ nơi đây để dâng lời tạ ơn Thiên Chúa cùng với bà cố, với hồng ân sự sống 68 năm dương thế, hoàn tất hành trình ơn gọi làm người và làm Kitô hữu, trong trách vụ thiêng liêng cao quí của một người vợ và người mẹ, trở nên mọi sự cho mọi người thân bằng quyến thuộc và anh chị em trong cộng đoàn giáo xứ. Giờ đây, Chúa đã gọi bà cố về với Ngài, một cuộc ra đi thật hồng phúc, dù rất đau đớn nhưng êm ả và bình an. Bà cố ra đi, để lại những mất mát và đau xót cho con cháu và gia tộc. Bà cố đã đáp lời mời gọi của Đức Kitô, Thầy chí thánh: “Hỡi những ai gồng gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của ta, vì ách của ta êm ái và gánh của ta nhẹ nhàng”. Bà cố đã hoàn toàn tin tưởng và đi trọn con đường thập giá với Đức Kitô, đặc biệt suốt gần một năm mang căn bệnh ung thư hiểm nghèo, bà cố đã hoàn tất đời mình bằng một tình yêu dành trọn cho Chúa, và giờ đây, bà cố cũng xứng đáng hưởng phần gia nghiệp Chúa đã dành sẵn cho người tôi tớ trung thành. Bà cố Anna Phạm Thị Hương sinh ngày 05 tháng 01 năm 1950, tại Kim Sơn, Tỉnh Ninh Bình, Giáo phận Phát Diệm. -------------------------
Nghe cha Quang kể về mẹ mình, tôi biết bà cố suốt một đời chỉ biết sống sao cho đẹp lòng Chúa AnTáng 267
Nghe cha Quang kể về mẹ mình, tôi biết bà cố suốt một đời chỉ biết sống sao cho đẹp lòng Chúa, chỉ lo lắng tần tảo cho chồng và cho con cái. Như bao nhiêu người thiếu nữ khác, bà cố xây dựng mái ấm gia đình, và Chúa thương ban cho ông bà cố hai người con, một gái và một trai là cha Giuse Phạm Đại Quang, thuộc Dòng Salêdiêng Don Bosco. Hình ảnh tốt lành và tần tảo của bà cố khiến tôi suy tưởng tới Mẹ thánh nữ Monica, một lòng thờ phượng Chúa, lúc nào cũng chỉ nghĩ cho chồng cho con. Niềm vui và hạnh phúc của bà cố là gia đình và công việc nội trợ, cho dù có vất vả và đòi hỏi nhiều hi sinh. Bà cố luôn nhẹ nhàng, tế nhị và không hề muốn làm phiền hà ai, trong công to việc nhỏ, vất vả tới đâu, bà cố vẫn thinh lặng chấp nhận, mong sao thể hiện được lòng bác ái và sự bình an. Hai tuần trước khi bà cố mất, anh em chúng tôi có xuống thăm bà cố, bà ngồi trên võng, gục mặt trên gối vì đau đớn do cơn bệnh giai đoạn cuối gây nên. Dù rất đau đớn, bà cố can đảm chịu đựng, bình thản và phó dâng cho Chúa. Được chị Trúc cho biết tình trạng khó qua khỏi của bà cố, tôi đã viết Email nói cha Quang đang tu nghiệp bên Philippines, thu xếp về ngay để lo cho mẹ, còn nước còn tát. Bà cố đã được đưa vào bệnh viện Chợ Rẫy để điều trị, nhưng cuối cùng vẫn là vô phương cứu chữa đối với con người. Bà cố rất bình thản, xin được về nhà mình, sống những ngày cuối đời với con cháu, như niềm vui và an ủi của bà cố suốt cả cuộc đời. Và Chúa đã gọi bà cố về với Ngài lúc 2g30 sáng thứ Tư, ngày 29 tháng 3 năm 2017, gần ba năm sau khi ông cố qua đời. Suy nghĩ về cuộc đời bà cố, sự can đảm chấp nhận thử thách trong cơn đau bệnh, đặc biệt là những giây phút cuối đời, tôi nghĩ rằng, cuộc sống của bà cố hẳn phải là một sự tổng hợp của ơn thánh Chúa, cùng với những nhân đức Kitô hữu và nét nhân bản con người; bà cố đã hoàn thành ơn gọi của mình ở trần gian này, và bà cố đã an bình ra đi về với Chúa. Quả vậy, thánh Phaolô tông đồ thường nói với chúng ta, đối với mỗi Kitô hữu, chúng ta sống là sống cho Chúa và chết cũng là chết cho Chúa. Dù bất cứ hoàn cảnh nào đưa đẩy, chúng ta chấp nhận tất cả những sự thiệt thòi thua lỗ ở đời này, để chỉ dành một mối lợi duy nhất là được biết Đức Giêsu Kitô, tin yêu và sống trung thành với Ngài, đặc biệt qua mầu nhiệm thập giá, tử nạn và phục sinh của Ngài. Như vậy, chúng ta sẽ chiếm được gia tài vĩnh viễn trên trời, nơi rỉ sét mối mọt không còn ảnh hưởng. Ý thức điều này, bà cố Anna đã bình thản trong cuộc sống muôn vẻ muôn mặt, và cuộc đời bà cố là những chuỗi ngày bình an, tín thác trong tình yêu quan phòng của Chúa. Bà cố đã cùng chết với Đức Kitô, bà cố cũng sẽ cùng được sống lại với Ngài. Đây là niềm tin và niềm hi vọng của mỗi người chúng ta Trong niềm tin tưởng lạc quan, đồng thời chia sẻ sự mất mát với Cha Giuse Phạm Đại Quang, với chị Têrêsa Phạm Thị Thanh Trúc cùng tang quyến, chúng ta dâng lên Chúa lời tạ ơn cùng với gia đình, vì cuộc đời phúc hậu của bà cố; đồng thời hiệp ý với gia đình, xin Chúa thương đón nhận bà cố Anna, tha thứ mọi lầm lỗi thiếu sót trong cuộc sống dương gian này, và sớm đưa bà cố về hưởng nhan thánh Chúa. Lời mẹ thánh nữ Monica nhắn nhủ hai con mình là anh em thánh Augustino trước khi mẹ thánh qua đời: “Xác đất vật hèn là chính thân phận con người. Mẹ chết đi, các con muốn chôn mẹ đâu cũng được. Mẹ chỉ xin các con hãy nhớ cầu nguyện cho mẹ mỗi ngày”. Đây hẳn cũng là lời bà cố Anna hôm nay muốn nói với con cháu, dòng tộc, và tất cả chúng ta, những người thân yêu của bà cố, đang hiện diện trong Thánh lễ an táng này. Lời cầu nguyện của Đức Giêsu dành cho các môn đệ trước khi Ngài ra đi chịu chết, hẳn cũng là lời Ngài dành cho bà cố Anna hôm nay: “Lạy Cha, những kẻ Cha đã ban cho Con, Con muốn rằng, Con ở đâu, thì họ cũng ở đấy với Con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con. Xin cho họ nên một trong Con, cũng như Con nên một trong Cha, và như vậy, họ nên một trong Chúng ta”. Lạy Chúa, giờ này mẹ của con đang an nghỉ trong vòng tay yêu thương và đầy lòng thương xót của Chúa. Mẹ là dòng sông dưỡng nuôi con khôn lớn, ôm ấp con khi con còn bé dại; nay mẹ về với Đấng tác thành nên mẹ, để lại chúng con bơ vơ thương nhớ. Xin Chúa đón đưa mẹ về trời, nơi đó một ngày mai chúng con cũng sẽ về với mẹ. Xin cho mẹ nên của lễ đẹp lòng Chúa hôm nay, cho mẹ được nghỉ an trong Chúa”. ---------------- Cuối lễ an táng, sau lời cảm tạ tri ân của cha Giuse (SDB), chủ tế Thánh lễ, cha chính xứ Bình An Giuse Trịnh Văn Viễn đã chủ sự nghi thức tiễn biệt, và linh cữu bà cố Anna được chuyển đến nơi hoả táng tại nghĩa trang Đa Phước Bình Chánh. Tại lễ đài hoả táng, cha Giuse Phạm Văn Bảo, dòng Chúa Cứu Thế Saigon, em ruột bà cố Anna đã chủ sự nghi thức hoả táng trước khi thân xác bà cố Anna trở về bụi tro. Hành trình dương thế 68 năm ròng kết thúc, gia quyến, cộng đoàn ngậm ngùi tiễn đưa bà cố Anna và luôn tin tưởng linh hồn bà luôn mãi nơi vĩnh hằng, trong Lòng Chúa Thương Xót.
Hôm nay, chúng ta tụ họp nhau lại đây, khá đông đảo để tiễn đưa một người anh em rất yêu quý AnTáng 268
Hôm nay, chúng ta tụ họp nhau lại đây, khá đông đảo để tiễn đưa một người anh em rất yêu quý của chúng ta, là Đức ông Phêrô Nguyễn Văn Tài, ra đi vĩnh viễn. Vượt qua thế gian này, về cùng Thiên Chúa Ba Ngôi, là Quê Hương Đích Thực của đời ta. Hôm nay còn đang mùa Phục Sinh, là cơ hội tốt để chúng ta cùng nhau tuyên xưng Chúa Kitô Phục Sinh, đã chiến thắng sự chết và là “Niềm Hy vọng cho tất cả chúng ta”. Bài đọc thư Rôma nhắc nhở chúng ta về ý nghĩa cuộc sống Kitô hữu: Không ai trong chúng ta được sống cho mình, và cũng không ai chết cho mình… Dù chúng ta sống hay chết, chúng ta đều thuộc về Chúa” (Rm 14,7-8). Đức ông Phêrô đã sống trọn vẹn cuộc đời Kitô hữu: sống cho Chúa và chết cho Chúa; sống cho Giáo hội và chết cho Giáo hội là Hôn Thê và là Thân Mình của Chúa. Chúng ta tin chắc giờ đây Chúa sẵn sàng đón Đức ông, để Đức ông hoàn toàn thuộc về Chúa. Đức ông đã được chuẩn bị rất kỹ để ra trước tòa của Thiên Chúa, Chúa Kitô và Thánh Thần của Người sẽ là các Đấng Bảo Trợ cho Đức ông. Trong bài Phúc Âm Gioan, Chúa Giêsu ví sự ra đi của mình như hạt lúa mì rơi xuống đất, nếu không thối đi, thì chỉ trơ trọi một mình, không sinh nhiều bông hạt (x. Ga 12,24). Chúng ta là những môn đệ của Chúa, cũng theo cùng quy luật. Đức ông Phêrô là môn đệ, theo sát gần Chúa, nên càng giống Chúa, đã chịu nhiều đau khổ, chết đi như hạt lúa giống mà Chúa đã gieo. Cuộc đời của Đức ông, nhất là trong giai đoạn cuối, là một cuộc đời vác Thánh giá theo Chúa. Nhưng Đức ông đã tỏ ra rất can đảm, không than phiền, mà vẫn lạc quan cho đến giây phút cuối cùng. Chúng ta nhận ra nơi Đức ông Phêrô một gương sáng rất lớn trong giai đoạn cuối đời. Không những vậy, Đức ông còn là một gương nhân đức sáng ngời trong giai đoạn hăng say hoạt động. Từ lúc là sinh viên Giáo hoàng viện Đà Lạt, đã hăng say loan báo Tin Mừng cho giới trẻ, hoạt động cho Thanh Sinh Công và sinh viên Đại học. Giai đoạn Du học, kéo dài 4 năm, học hành chăm chỉ và xuất sắc. Liền sau đó lại tiếp tục loan báo Tin Mừng cho khắp thế giới, đặc biệt là cho Châu Á, qua Đài “Chân Lý Á Châu”. Nhiều người Việt Nam chúng ta đã được hưởng nhờ những cố gắng loan báo Tin Mừng của Đức ông, và đã được đón nhận niềm vui của Tin Mừng. Chúng ta cảm tạ Chúa, cám ơn Đức ông và cầu nguyện cho Đức ông. Như lời sách Khôn Ngoan, linh hồn của Đức ông Phêrô ở trong tay Chúa, và nỗi thống khổ của sự chết không đụng tới ngài (x. Kn 3,1). Đối với mắt những người không hiểu, thì việc ngài ra đi được coi là bất hạnh, chết vì chứng bệnh ung thư dạ dày. Nhưng thực ra ngài đang hưởng bình an. Bình an mà thế gian không ban được, như lời của Chúa Giêsu hứa với các môn đệ, trước khi ra đi chịu chết (x. Ga 14,27). Chúa đã thử thách ngài như thử vàng trong lửa, và chấp nhận ngài như của lễ toàn thiêu (x. Kn 3,6). Đức ông Phêrô là một con người rất quảng đại. Lúc còn sống, ngài bỏ qua tất cả những điều người khác làm mất lòng ngài. Giờ đây, khi không còn ở thế gian nữa, chắc chắn ngài cũng bỏ qua các lỗi lầm của chúng ta, và cầu nguyện cho chúng ta, nếu chúng ta ước muốn. Ngài cầu nguyện cho chúng ta biết sống đạo tốt, mạnh dạn loan báo Tin Mừng như ngài đã làm, và mai ngày được chia sẻ “sự sống đời đời” với ngài . Tất cả cuộc đời của Đức ông là một hồng ân, cũng như tất cả cuộc đời chúng ta là hồng ân của Lòng Chúa Thương Xót. Cùng với Đức ông chúng ta hãy chúc tụng ngợi khen Lòng Chúa Thương Xót. Lạy Chúa, Lòng Xót Thương của Ngài, đời đời con ca tụng (x. Tv 89,2). Amen! Allêluia! Nhà thờ Chính tòa Vĩnh Long, thứ Sáu ngày 24-04-2015 Phaolô BÙI VĂN ĐỌC Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Sài Gòn Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam
Dẫu chẳng nói ra, nhưng sống trên đời ai cũng sợ cái cảnh chia ly, nhất là chia ly tử biệt, mãi mãi AnTáng 269
Dẫu chẳng nói ra, nhưng sống trên đời ai cũng sợ cái cảnh chia ly, nhất là chia ly tử biệt, mãi mãi nghìn trùng xa cách, không còn gặp nhau trên dương thế. Các tông đồ cũng cảm nhận được điều này, khi Chúa Giêsu loan báo, Ngài sắp trở về cùng Chúa Cha. Lòng các ông buồn sầu, Chúa trấn an các ông “lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy, trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở. Thầy đi để dọn chỗ cho các con.” “Đừng xao xuyến” cũng là lời Chúa nói với chúng ta, cách đặc biệt với gia đình tang quyến, đang đau buồn trước sự ra đi quá đột ngột và bất ngờ của anh Giuse Trần Hồng Vũ. Nhưng không xao xuyến và đau khổ sao được, khi anh mới chỉ 28 cái xuân xanh, có ai nào nghĩ, hôm nay lại là thánh lễ cuối cùng, kết thúc hành trình ngắn ngủi của phận người “bạc mệnh”. Người xưa bảo “cái chết nó ở trước mặt người già, sau lưng người trẻ”, vậy mà nó lại nghiệt ngã ở trước mặt anh. Không xao xuyến cõi lòng sao được, nghe tiếng khóc của mẹ anh, khi nghe tin dữ, bà đã chạy đến nhà thờ, quỳ xuống trước mặt cha, khóc lóc kêu xin “cha ơi, cứu lấy con của con, nó tên thánh là Giuse”. Rồi cứ vậy, bà quỳ trước Núi Đức mẹ, với lời khẩn xin tha thiết “Mẹ ơi cứu con của con”. Thực ra lúc này tim anh đã ngừng đập. Vậy mà như có phép màu, anh đã hồi tỉnh chút ít, và gặp được linh mục, lãnh nhận tình thương của Chúa, với ơn toàn xá tha thứ mọi lỗi lầm, yếu đuối có chút nông nổi vui chơi của tuổi trẻ, để rồi anh vĩnh viễn ra đi. Đừng xao xuyến, sự ra đi của anh quá đột ngột và bất ngờ, nhưng ngay cả cái bất ngờ, đột ngột ấy, anh vẫn gặp được Chúa, Đấng giàu lòng xót thương. Thực ra, đời người ai lại không phải chết, chết già hay chết trẻ cũng là chết, quan trọng là có gặp được Chúa hay không. Chắc chắn anh đã gặp được lòng nhân từ của Chúa vào giây phút cuối. Cái chết của anh thật đẹp, nó đẹp như con người bất toàn bụi tro của anh. Đừng xao xuyến, bởi ít nhiều Chúa cũng nói với anh “hoa thơm Chúa hái”, anh sẽ trở về nhà Cha sớm hơn mọi người, khi có lúc anh đã nói với mẹ “con chỉ sống đến 30 tuổi thôi”, chỉ còn nửa tháng nữa là sinh nhật lần thứ 28, bước qua tuổi 29. Lần này, anh đã ra đi, về với Chúa, hưởng mừng sinh nhật vĩnh hằng trên trời. Đừng xao xuyến, bởi chỗ ở của mỗi người không phải là vĩnh viễn nơi dương thế, mà là trên trời, nơi đó Chúa Giêsu đã đi trước để dọn chỗ cho chúng ta. Điều quan trọng vẫn là, mỗi người phải chuẩn bị sẵn sàng cho ngày giờ “bất ngờ” xảy đến, giống như giờ Chúa gọi anh. Xin lòng nhân từ Chúa, các nam nữ trên trời, chyển cầu, dọn chỗ đón tiếp anh vào dự tiệc vui muôn đời. Amen.
BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC CHA TÔMA TRONG THÁNH LỄ AN TÁNG ÔNG CỐ GIUSE (THÂN PHỤ CHA GIUSE NGUYỄN VĂN LƯỢNG) TẠI Gx. KIM HẢI, NGÀY 20.6.2015 Lc 12, 35-40
Trong trích đoạn Tin Mừng Luca 12, 35-40, mà chúng ta vừa nghe công bố, Chúa Giêsu dạy các AnTáng 270
Trong trích đoạn Tin Mừng Luca 12, 35-40, mà chúng ta vừa nghe công bố, Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải biết chờ đợi Chúa đến trong cuộc sống và nhất là trong giây phút cuối đời mình. Chúa không đến theo ngày giờ chúng ta mong muốn hay ấn định. Chúa đến muộn hay sớm là do tình yêu của Chúa. Phần chúng ta, phải tỉnh thức và sẳn sàng đón Chúa đến, không được ngủ mê trong bã danh lợi thú, không ngủ say bên tiền của hay danh vọng. Hãy thắt lưng cho gọn, hãy thắp đèn cho sáng như người tôi tớ chờ đợi chủ về, như người chuẩn bị đi xa, đi về cõi đời đời, đi về nhà Cha trên trời. Giây phút quan trọng nhất là giây phút Chúa đến. Chờ đợi, tỉnh thức và sẳn sàng, tất cả đều hướng về giây phút nầy, giây phút định đoạt cả một đời người, hoặc đi vào cõi phúc, hoặc sa vào trầm luân. Chúa Giêsu dạy: “Chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn và đến bên từng người mà phục vụ”. Đây là phần thưởng Chúa dành cho người biết tỉnh thức và đón chờ Chúa đến. Kitô hữu biết mình chờ ai, chờ một người sớm hay muộn gì chắc chắn sẽ đến. Hạnh phúc đến với tiếng gõ cửa đầu tiên trong đêm. Chúng ta mong nghe được tiếng gõ nhẹ ấy như một tiếng gọi hãy vào chốn yên nghỉ với chủ mình. Và chúng ta mở cửa ngay để được thấy tận mắt Thiên Chúa đến ban cõi phúc đời đời cho những ai thắt lưng, cầm đèn cháy sáng và mở cửa ngay cho Chúa đến cách vĩnh viễn cho đời mình. Hằng ngày chúng ta chứng kiến biết bao nhiêu cuộc ra đi bất ngờ của người thân, của bạn hữu, của đồng nghiệp hay của những người chúng ta không quen biết, chưa lần nào gặp gỡ. Ra đi không trở lại, ra đi vào cõi vĩnh hằng. Chúa đến gọi ta về. Cuộc hành trình trần thế của mỗi kitô hữu là một cuộc đi về: đi về Nhà Cha trên trời, đi về cõi phúc thiên đàng. Và cõi phúc thiên đàng nầy được đánh đổi bằng cả một đời người sống nơi trần gian. Tại đích đến là cái chết, có Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ đang đợi chờ và tiếp đón chúng ta. Tính cách bất ngờ là đặc điểm của ngày giờ Chúa đến. Cái chết bất chợt đến với mỗi người: có người đang trong độ tuổi thanh xuân với nhiều triển vọng; có người vô ý bước qua đường lộ gặp ngay tai nạn chết người như bước qua biên giới mong manh giữa chết và sống; có người đang hưởng thụ dồi dào sung túc bên đóng bạc vàng, bên quyền cao chức trọng; có người suốt đời khố rách áo ôm, không đủ ăn đủ mặc và chết đi trong cô quạnh lẻ loi. Nhưng ai cũng phải chết, cũng phải đến đích điểm đáng sợ ấy. Chúa Giêsu tự ví mình như chàng rể đến muộn, như kẻ trộm đào ngạch khoét vách khi chủ nhà mê ngủ, như người chủ đi ăn tiệc cưới về. Không ai biết trước giờ nào Chúa đến. Cũng không cần thiết là chúng ta biết trước giờ nào Chúa đến. Đó là giờ kinh khiếp hải hùng, giờ định đoạt số phận đời đời cho mỗi người chúng ta. Nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông sẽ canh thức, Không để nó khoét vách nhà mình. Các Kitô hữu, vì không biết ngày nào, giờ nào Chúa đến với từng người hay đến với mọi người, nên họ phải canh thức luôn luôn, phải sẵn sàng liên lỉ. Kẻ trộm xưa cũng như nay đều đến mà không báo trước, bất ngờ khoét vách nhà khi gia chủ còn ngủ say. Chúa Giêsu, qua một dụ ngôn, đã dám so sánh mình với kẻ trộm, chỉ vì Người giống anh ta ở nét bất ngờ. “Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ anh em không ngờ, Con Người sẽ đến.” Anh chị em thân mến, Ông cố Giuse đã ra đi trước chúng ta. Chúa đã đến và gọi Ông về nhà Cha trên trời. Hẳn là suốt cuộc hành trình trần gian, Ông Cố như người tôi tớ trung tín và khôn ngoan biết chu toàn trách vụ mà Chúa đã giao phó cho ông, trách vụ của một kitô hữu, trách vụ của một người cha và người chồng trong ơn gọi sống đời hôn nhân. Mỗi người chúng ta đều được trao phó các phận vụ riêng biệt. Có những phận vụ nặng nề, có những phận vụ nhẹ nhàng hơn, nhưng điều quan trọng là phải biết chu toàn trách vụ trong sự tỉnh thức, cầu nguyện và sẳn sàng trả lời khi Chúa đến và đòi chúng ta phải trả lời, phải báo cáo về việc thi hành trách vụ. Cũng như mọi kitô hữu khác đã ra đi trước chúng ta. Ông Cố, khi còn sống tại thế, đều cố gắng sống tốt đẹp và thánh thiện, để khi được Chúa gọi về, sẽ được hưởng sự sống hạnh phúc đời đời nơi nhà Cha trên trời. Chúng ta không hề thất vọng vì đã sống làm người và làm kitô hữu, vì đã chết như tín hữu của Chúa Kitô. Trên bia mộ của người đã khuất, thường ghi đậm niềm tin về sự sống đời sau: “Nơi đây yên giấc ngàn thu và mong đợi ngày sống lại”. “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”, đó là lời của thánh Phanxicô Assisi được ghi trên thiệp gia quyến báo tang Ông Cố Giuse như muốn diển tả niềm tin về sự vui sống đời sau, về sự sống sau cái chết thể xác, về cõi phúc trường sinh. Ông Cố đã tỉnh thức đợi chờ ngày Chúa đến trong suốt cuộc hành trình trần thế với 83 tuổi đời, với bổn phận và trách nhiệm của người chồng và người cha. Ông Cố đã suốt đời hy sinh, chịu thương chịu khó và nuôi dưỡng giáo dục cho con cái nên người. Hằng ngày, trong đời thường, với nhiều lam lũ và khổ cực, Ông Cố luôn cầu mong cho mình và con cháu mình biết sống thế nào để khi Chúa đến, Ông và các con cháu mình đuọc Chúa thương đón nhận vào cõi phúc, vào thiên đàng vĩnh phúc. Nhân vô thập toàn, không ai không vướng phải những tội lỗi, vấp ngã và yếu đuối. Chúng ta khẩn cầu Thiên Chúa giàu lòng thương xót và Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu Độ chúng ta, ban cho Ông Cố Giuse và các tín hữu đã qua đời được ơn tha thứ mọi tội khiên. Trong niềm tin vào Chúa Kitô Tử nạn và Phục sinh, mà tang lễ nầy chan chứa niềm tin và hy vọng ơn cứu độ đời đời, khi tang quyến và mọi người chúng ta đang hiện diện cùng tuyên xưng Chúa Giêsu là Sự Sống lại và là Sự Sống, để những ai tin vào Người cũng sẽ được sống lại trong ngày sau hết và được sống mãi mãi ở đời sau. Amen.
Phú Hiệp, 30/7/2017 (Thân mẫu Lm. An-tôn Nguyễn Văn Tuyến và Nt Maria Mađalêna Nguyễn thị Luyến) Thánh Lễ an táng Bà Cố Matta được cử hành vào ngày Chúa Nhật 17 Thường Niên, ngay sau lễ nhớ thánh Matta, bổn mạng của Bà Cố. --------------------------
Bài Tin Mừng lễ thánh Matta (x. Ga 11, 19-22) nhắc đến một gia đình có 3 chị em mà Chúa Giêsu AnTáng 271
Bài Tin Mừng lễ thánh Matta (x. Ga 11, 19-22) nhắc đến một gia đình có 3 chị em mà Chúa Giêsu và các tông đồ thường ghé nghỉ chân: Matta, Maria và Ladarô. Lần này Chúa Giêsu đến để an ủi hai chị em Matta và Maria có người em là Ladarô mới qua đời, đã an táng được 4 ngày. Khi có người báo tin:“Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng”. Chúa Giêsu nói: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh” (Ga 11, 4). Tuy nhiên, Chúa Giêsu không đến ngay vì Người có ý định cho Ladarô được sống lại từ cõi chết, mà theo quan niệm người Do Thái thì tắt thở được 3 ngày mới chắc chắn đã chết. Khi Chúa đến, Matta thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy”. Chúa Giêsu nói: “Em con sẽ sống lại”. Matta thưa: “Con biết ngày tận thế, khi kẻ chết sống lại, thì em con sẽ sống lại”. Ngay sau đó, Maria cũng chạy ra gặp Chúa Giêsu và nói như chị mình: “Thưa Thầy, nếu Thầy ở đây thì em con không chết”. Rồi Maria khóc. Chúa Giêsu cũng khóc. Chúa Giêsu đi tới mộ, bảo người ta đem phiến đá đậy mộ đi, rồi ngước mắt lên nói: “Lạy Cha, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con”. Nói xong, Người kêu lớn tiếng: “Anh Ladarô, hãy ra khỏi mồ!” (Ga 11. 38-43). Lập tức, Ladarô sống lại. Hôm nay, chúng ta có mặt trong lễ an táng Bà Cố Matta để hiệp thông với tang quyến, đặc biệt với Cha Antôn Nguyễn Văn Tuyến và Nữ tu Maria Madalêna Nguyễn Thị Luyến, khóc thương Bà Cố mới qua đời. Nhưng tất cả chúng ta có dịp cùng với chị thánh Matta tuyên xưng đức tin rằng: “Chúng con biết ngày tận thế, khi kẻ chết sống lại, thì Bà Cố sẽ sống lại”. Chính Chúa Giêsu là người an ủi chúng ta vì Người khẳng định: “Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”. Bà Cố và tất cả chúng ta là những người đã tin vào Chúa Giêsu “là sự sống lại và là sự sống”, “thì dù đã chết, cũng sẽ được sống”. Thiên Chúa yêu thương loài người nên luôn ban cho loài người những điều tốt lành. Điều tốt lành hơn cả là ban cho ta lúc sống được ơn làm con Thiên Chúa, khi chết được sống hạnh phúc trong Nước Trời. Bài Tin Mừng Chúa Nhật 17 Thường Niên hôm nay (x. Mt 13, 44-52) ví Nước Trời như “kho báu giấu trong ruộng” và như “viên ngọc quý”. Dụ ngôn muốn dạy rằng Nước Trời là thứ quý giá nhất, đáng cho người ta bán mọi thứ để đổi lấy. Tuy nhiên, Nước Trời còn được ví như “chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy: các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính, rồi quăng chúng vào lò lửa”. Chắc hẳn chúng ta muốn là “cá tốt” để khi ra trước tòa Chúa phán xét sẽ được “bỏ vào giỏ”, nghĩa là được vào“hàng ngũ người công chính” sống hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa. Nhưng Chúa sẽ phán xét chúng ta về điều gì? Tin Mừng theo thánh Matthêu (x. 25, 31-46) cho thấy Chúa sẽ phán xét chúng ta về đức yêu người. Khi ấy Vua Giêsu sẽ phán: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han." Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu? " Đức Vua sẽ đáp lại rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” Chúng ta tiếp tục dâng Thánh Lễ cầu nguyện cho nhau biết sống yêu thương để được “thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn” cho chúng ta. Chúng ta cầu nguyện cách riêng cho Bà Cố Matta, dù trong 95 năm qua đã cố gắng sống yêu thương, nhưng cũng không thể tránh khỏi lỗi lầm do bản tính yếu đuối của con người; nguyện xin Thiên Chúa giàu lòng thương xót tha thứ mọi hình phạt đáng chịu vì tội, để Bà Cố sớm được “thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn” cho Bà Cố. Amen.
Bài giảng của Đức cha Gioan Đỗ Văn Ngân trong thánh lễ an táng ông cố Laurensô - thân phụ Đức cha Giuse Nguyễn Chí Linh 09/07/2017 “Chính thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11, 25)
Bước vào Thánh đường sáng nay, cúi mình chào cụ cố, chúng ta cảm nhận một cảm xúc lạ thường AnTáng 272
Bước vào Thánh đường sáng nay, cúi mình chào cụ cố, chúng ta cảm nhận một cảm xúc lạ thường trước di ảnh của cụ cố… uy nghi một đấng lão trượng, mái tóc bạc phơ, chòm râu đẹp… cụ cố thọ 111 tuổi… gợi tới những cụ tổ được chúc phúc của Israel, một Apraham, một Môsê… Một cây đại thụ hơn 60 năm tại xứ Thanh Hải từ ngày đầu lập xứ này, vừa nằm xuống… Cha chánh xứ và Cộng đoàn Giáo xứ Thanh Hải nghiêng mình bái biệt cụ cố thân thương. Cộng đoàn phụng vụ, các Đấng Bậc và mọi người với những mối liên hệ riêng thành kính phân ưu với Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh, Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Huế và chia sẻ nỗi niềm với toàn thể gia đình của Đức cha… Khôn Ngoan 3: “Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa, Và nỗi thống khổ của sự chết không đụng tới các ngài. Đối với mắt những người không hiểu, thì các ngài đã chết Và việc các ngài ra đi bị coi là bất hạnh… là rơi vào cảnh diệt vong. Nhưng thật ra…” Thật ra là thế nào… giờ đây chúng ta được Lời Chúa soi dẫn, ta suy tư tìm hiểu ý nghĩ sự chết và sự sống đời người chúng ta… Một trong những nơi hấp dẫn du khách ở Rôma là hang mộ tại Via Veneto. Tới đó hành hương, người ta sẽ đọc được lời khuyên ghi trên xà nhà: “Điều bạn là bây giờ, chúng tôi từng là; Điều chúng tôi là bây giờ, bạn sẽ là”. Đã có nhiều những phương dược loài người đã từng tìm kiếm giải đáp vấn đề cái chết. Cái chết vẫn luôn luôn là vấn đề ‘số một’ của loài người. Điều quan trọng cho tín hữu, và cũng cho mọi người kể cả những người tự nhận vô thần, là nhận thức cuộc sống có ý nghĩa hay không, cái chết có là chấm hết mọi sự hay ngược lại, là khởi đầu cuộc sống đích thật ? Thánh Augustinô đã tiếp cận trước cả suy tư triết học hiện đại về cái chết: ‘Khi một em bé chào đời, có rất nhiều giả thuyết. Có lẽ em xinh xắn cũng có thể xấu. Có lẽ em sẽ giàu có, cũng có thể nghèo. Có lẽ em sẽ sống tới già, cũng có thể không… Nhưng không ai nói: ‘Có lẽ em sẽ chết, hay cũng có thể không’. Chết là cái chắc chắn tuyệt đối duy nhất trong đời. Khi chúng ta biết một người bị “ung thư”, chúng ta nói: ‘tội nghiệp người anh em, anh sắp qua đời, anh bị kết án chết, hết thuốc chữa’. Chúng ta có không nên nói như thế cho bất cứ em bé sơ sinh nào không ? ‘Tội nghiệp em, em phải chết, hết thuốc chữa, em bị kết án phải chết !’. Có gì khác giữa việc em sống thêm chút thời gian, dài hơn hay vắn vỏi hơn? Cái chết là căn bệnh chí tử ta ký kết khi chào đời’. Thánh nhân gợi ý có lẽ tốt hơn thay vì suy tư đời ta như ‘cuộc đời đi đến cái chết’, chúng ta nên suy tư cuộc đời đang chết như ‘cái chết đang sống’. Tư tưởng của Augustinô được một triết gia người Đức, Martin Heidegger lấy lại, cái chết với cái quyền của nó, là một đề tài triết lý. Định nghĩa mạng sống con nguời như ‘hữu thể đi đến cái chết’, ông nhận thức cái chết không phải là như biến cố chấm dứt sự sống nhưng như chính bản thể của sự sống, nghĩa là, cung cách sự sống trải ra. Sống là chết. Mỗi khoảnh khắc chúng ta sống là thực tại được hấp thụ, được giảm trừ đi và được thâu tóm cho tới chết. ‘Sống đi đến cái chết’ có nghĩa cái chết này không chỉ là chấm dứt nhưng còn là mục đích sống. Tuy nhiên, một người được sinh ra để chết và chẳng để làm gì khác. Chúng ta đến từ hư vô và trở về hư vô. Vậy hư vô là chọn lựa duy nhất của hữu thể người. Con người đã phản ứng ra sao trước cái tất yếu phải chết? Một giải đáp được truyền bá là đừng suy nghĩ tới nó và đừng làm khuấy động con người. Đối với Epicurus, chẳng hạn, cái chết là bế tắc: ‘Bao lâu chúng ta hiện hữu, ông nói, cái chết chẳng có và khi nó hiện hữu, chúng ta không còn’. Do đó, chúng ra chẳng đáng quan tâm tới chết chóc. Người bình dân lại bám vào những phương dược tích cực. Phổ biến nhất là có con cái và tiếp tục sống qua dòng tộc mình. Người khác muốn sống do danh thơm lưu truyền: ‘Tôi sẽ không chết hoàn toàn’, thi sĩ người La mã nói, vì ‘danh thơm của tôi sẽ xanh mướt và vươn lên. Bền vững hơn kim loại đồng… là lăng tẩm tôi đã thực hiện’. Theo Mác, người ta tồn tại qua xã hội trong tương lai, không như một cá nhân nhưng như một giống loài. Một phương dược khác xuất hiện ngày nay. Nó mang nhiều sắc thái nên không phải tất cả đều tiêu cực, nhưng trong cốt lõi là xác tín nhân loại, nhờ tiến bộ kỹ thuật, đang trên đường vượt qua triệt để chính mình, tới mức sống thọ hàng thế kỷ hay có lẽ sống mãi! Theo một trong số những đại biểu nổi tiếng nhất, Zoltan Istvan, mục tiêu tối hậu là ‘trở nên giống Thiên Chúa và chinh phục cái chết’. Một tín hữu Do thái hay Kitô không thể tin theo, nhưng tức khắc liên tưởng những lời đặc trưng ở khởi đầu lịch sử loài người: ‘Chẳng chết chóc chi đâu… ông bà sẽ nên như những vị thần’ (St 3, 5), kéo theo hậu quả chúng ta đã biết. Triết học đơn thuần làm triết lý, chỉ ra đâu là thân phận người, xét dưới tầm triết học. Triết học giúp ta hiểu cái khác nơi lòng tin Chúa Kitô mang lại. Đây ta gặp thực tại trái nghịch căn cội nhất đối với nhãn quan Kitô, nhãn quan nhận thức hữu thể người ‘hữu thể vươn tới vĩnh cửu’. Chính Thánh Kinh trong Cựu Ước chưa có giải đáp rõ về cái chết. Sách Khôn Ngoan nói về sự chết nhưng luôn trong lập trường của một nghi vấn hơn là một giải đáp. Sách Gióp, Thánh Vịnh, Giảng Viên, Huấn Ca, tất cả dành phần quan tâm đáng kể cho chủ đề cái chết. ‘Xin dạy chúng con đếm tháng mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan’ (Tv 90, 12). Tại sao chúng ta chào đời? Tại sao chết? Khi chết ta đi đâu? Đó là những vấn nạn chưa có giải đáp đối với các hiền nhân của Cựu Ước trừ điều này: Chúa muốn con người là thế, sẽ có phán định cho từng người. Thánh Kinh nhắc tới những ý tưởng gây xao xuyến của những người không có lòng tin thời ấy: ‘đời ta thật buồn sầu, vắn vỏi: không thuốc nào chữa cho con người khỏi chết, chẳng ai biết có kẻ nào thoát được cõi âm ty. Bởi ngẫu nhiên ta đã ra đời, rồi lại như chưa hề có mặt’ (Kn 2, 1. 2) Chỉ nơi sách Khôn Ngoan, được trước tác trong văn chương khôn ngoan, cái chết bắt đầu được soi sáng bằng ý tưởng về một phần thưởng nào đó sau khi chết. ‘Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa’ (Kn 3, 1), các hiền nhân suy nghĩ như vậy dù không biết rõ ý nghĩa. Quả thực trong một Thánh Vịnh chúng ta đọc: ‘đối với Chúa thật là đắt giá, cái chết của những ai trung hiều với Ngài’ (Tv 116, 15). Tuy nhiên ta không thể đặt nặng vào câu này vì thường được trích với ý nghĩa có phần khác: Thiên Chúa làm cho người ta phải trả giá hậu cho cái chết của những người tin vào Chúa, nghĩa là, Chúa là Đấng trả báo và bắt muôn dân phải tính sổ. Giải đáp duy nhất cho ta mãn nguyện về cái chết và sự sống gặp được nơi Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta hãy nghe tông đồ Phaolô loan báo sự biến đổi này cho thế giới: ‘Nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người…’ (Rm 5, 15-17) Cuộc khải hoàn của Chúa Kitô được diễn tả như một sử thi trong thư 1Cr: ‘tử thần đã bị chôn vùi. Đây giờ chiến thắng! Hỡi tử thần đâu là chiến thắng của ngươi? Hởi tử thần đâu là nọc độc của người? Tử thần có độc là vì tội lỗi, mà tội lỗi có mạnh cũng tại có lề luật. Nhưng tạ ơn Thiên Chúa, vì Ngài đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta’ (1Cr 15, 54-57). Yếu tố quyết định diễn ra vào lúc Đức Giêsu chết: ‘người chết cho mọi người’ (2Cr 5, 15) nhưng điều gì mang quyết định đến thế, vào thời điểm thay đổi chính bản tính cái chết? Chúng ta có thể hình dung Con Thiên Chúa xuống tận trong mồ, như một ngục tối, nhưng Người đã vượt qua phía bên kia. Người không trở lại nơi Người bước vào như Lazarô đã trở lại và sẽ phải chết. Chúa thì đã mở một lối bên kia, qua lối đường này những ai tin vào Chúa sẽ có thể theo Người. Một giáo phụ xưa viết: ‘Người đã mang trên chính mình nỗi đau khổ của nhân loại, khổ đau nơi thân xác mà Người có thể mang, nhưng qua Thánh Thần, Đấng không thể chết, Người tiêu diệt cái chết, cái chết đã giết con Người.’ Cái chết trở thành lối vượt qua, và nó là lối vượt qua dẫn tới cõi không bao giờ qua đi! Thánh Augustinô: Ba cái chết trong Tin Mừng… con Jairô, Naim, Lazarô… “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng được sống” (Ga 11, 25) Chúa Kitô đã mang đến cho thân phận con người cái lớn hơn là xóa bỏ cái chết khỏi thân phận con người. Người không thực hiện điều ấy chỉ đơn giản trả món nợ nhân loại không thể thanh toán (món nợ 10 ngàn nén trong dụ ngôn nhà vua tha thứ). Chúa chết treo thập tự để khổ đau và cái chết của con người có thể được trải qua trong yêu thương. “Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa Và nỗi thống khổ của sự chết không đụng tới các ngài” Hữu thể người bị kết án chết, cái chết mâu thuẫn nếu xé rời ra, nhưng cái chết đang tới, bây giờ được thấm nhuần tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu không thể pha lẫn với chết chóc dù tình yêu Thiên Chúa vẫn không loại trừ thực tại đau buồn của sự dữ và chết chóc Tình yêu của Chúa chấp nhận cho phép khổ đau và chết chóc ‘lên tiếng’. Nhưng từ khi tình yêu thấm nhập cái chết và đổ đầy sự hiện diện của Thiên Chúa vào cái chết, tình yêu là tiếng nói cuối cùng. Điều ấy cho thấy thái độ trái chiều của tín hữu trước cái chết, cái chết giống như muôn người nhưng lại rất khác. Tín hữu còn vương vấn thái độ buồn phiền, sợ hãi, ghê tởm… khi biết mình phải đi xuống vực thẳm tăm tối, nhưng lại mang niềm hy vọng vì biết mình có khả năng thoát khỏi. ‘Chúng con buồn sầu vì chắc chắn phải chết’, như kinh tiền tụng lễ an táng cầu nguyện, ‘nhưng được an ủi vì lời hứa được sống bất diệt sau này’. Thánh Phaolô không xin tín hữu Thêxalônica đừng buồn sầu trước những người chết, nhưng dạy họ ‘đừng buồn sầu như những người khác’, là những người không có niềm tin. Cái chết đối với tín hữu, không phải là chấm dứt sống, nhưng khởi đầu cuộc sống thật. Không phải cú nhảy vào cõi không nhưng nhảy vào vĩnh cửu. Con sâu chết nhưng con bướm chào đời. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất’ (Kh 21, 4). “Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa Và nỗi thống khổ của sự chết không đụng tới các Ngài” Chúng ta kết thúc bằng lời nguyện đơn sơ nhưng đầy uy lực của phụng vụ: ‘Adoramus te, Christe, et benedicimus tibi, quia per sanctam tuam crucem redemisti mundum’ (Lạy Chúa Kitô, chúng con thờ lạy Chúa, chúng con chúc tụng Chúa, vì nhờ Thánh Giá, Chúa cứu chuộc thế giới). Đức cha Gioan Đỗ Văn Ngân, Giám mục phụ tá giáo phận Xuân Lộc
thân phụ Cha Phêrô Nguyễn văn Điệp Lễ an táng Ông Cố Phêrô, thân phụ Cha Phêrô Nguyễn văn Điệp, được cử hành vào chính ngày lễ kính Thánh Bổn mạng của Ông Cố, lễ Thánh Phêrô và Phaolô Tông đồ. -----------------------
Thánh Phaolô Tông đồ, trong thư thứ hai gửi ông Timôthê, đã viết: “Con thân mến, phần cha, cha AnTáng 273
Thánh Phaolô Tông đồ, trong thư thứ hai gửi ông Timôthê, đã viết: “Con thân mến, phần cha, cha đã già yếu, giờ ra đi của cha đã gần rồi. Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin. Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha. Và trong ngày đó, Chúa là Ðấng phán xét chí công sẽ trao lại cho cha mũ triều thiên ấy, nhưng không phải cho cha mà thôi, mà còn cho những kẻ yêu mến trông đợi Người xuất hiện” (2 Tm 4, 7-9). Chúng ta có thể coi những lời tâm huyết của Thánh Phaolô gửi cho Timôthê như lời của của Ông Cố gửi cho những người thân trong gia đình và cho tất cả chúng ta, những kẻ yêu mến trông đợi Ðấng phán xét chí công xuất hiện. Thật vậy, Ông Cố đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin. Từ đây triều thiên công chính đã dành cho Ông Cố. Còn với Thánh Phêrô, Chúa Giêsu đã nói: “Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn” (Ga 21, 18). Ông Cố Phêrô tuy không phải chịu đóng đinh như thánh Phêrô, nhưng cũng đã phải trải qua một thời gian nằm trên giường ngoài ý muốn của Ông Cố, và đã an nghỉ trong Chúa lúc 09 giờ 00, Thứ Hai, ngày 26 tháng 6 năm 2017 vừa qua, hưởng thọ 94 tuổi, sau khi tham dự Thánh Lễ tại gia, loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại. Trong 94 năm sống ở trần thế, Ông Cố Phêrô đã tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu: “Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 19). Ông Cố Phêrô và tất cả chúng ta, những người tuyên xưng Đức Giêsu là Kitô, Đấng Cứu thế, cũng đều được nghe Đức Giêsu Kitô nói: “Con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời” (Mt 16, 17). Như thế, hạnh phúc lớn lao nhất mà mọi Kitô hữu đều lãnh nhận là được làm con Thiên Chúa là Cha, và đều được Chúa Giêsu Kitô “dọn chỗ” cho chúng ta trong Nhà Cha. Dù “triều thiên công chính đã dành cho” Ông Cố, và “Chúa là Ðấng phán xét chí công sẽ trao lại cho Ông Cố “mũ triều thiên ấy”, nhưng chúng ta cũng sốt sắng cầu xin Chúa là “Ðấng phán xét chí công” tha thứ những hình phạt đáng chịu vì tội trong cuộc sống trần thế để Ông Cố sớm “mũ triều thiên ấy”. Chúng ta cũng cầu nguyện cho nhau trước Tòa Chúa, nhờ lời bầu cử của Thánh Phêrô Tông đồ, Đấng đã được trao chìa khoá nước trời, sẽ mở cửa cho chúng ta được vào, để có ngày gặp lại Ông Cố và được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu dành cho những người cùng chết và sống lại với Đức Giêsu Kitô, tức là. Theo Thánh Phaolô, chết đi con người cũ tội lỗi để sống con người mới với Đấng Phục Sinh, và theo Thánh Gioan, khi chúng ta yêu thương nhau thì chúng ta đã đi từ cõi chết vào cõi sống.
Chủ nhật - 05/11/2017 Ông cố Phêrô Nguyễn Tri Phương, thân phụ cha Phêrô Nguyễn Văn Diện, đã từ giã cõi đời để về với Chúa sau hành trình 70 năm ở trần gian. Thánh lễ an táng ông cố Phêrô được cử hành long trọng tại nhà thờ họ Thủy, giáo xứ Đông Xuyên, lúc 9h00 ngày 4 tháng 11 năm 2017. ------------------
Dẫu biết rằng chết là trở về với Chúa, thế nhưng sự ra đi đột ngột của ông cố Phêrô Nguyễn Tri Phương AnTáng 274
Dẫu biết rằng chết là trở về với Chúa, thế nhưng sự ra đi đột ngột của ông cố Phêrô Nguyễn Tri Phương đã để lại biết bao luyến nhớ cho những người ở lại trên cõi dương gian. Khi nghe tin ông cố ra đi lên đường về với Chúa, quý Đức Cha, quý cha đã gửi điện chia sẻ và hiệp thông với gia đình trong sự thương nhớ. Đặc biệt Đức cha Giuse Vũ Văn Thiên, vị cha chung của giáo phận, vì hoàn cảnh cảnh mục vụ không thể chủ sự thánh lễ an táng, đã đến viếng xác cầu nguyện cho ông cố Phêrô vào chiều hôm trước. Trong sự thương mến, Cha Tổng Đại Diện Giuse Nguyễn Văn Thông, quý cha quản hạt, và đông đảo quý cha trong giáo phận đã cử hành thánh lễ an táng cho ông cố Phêrô. Trong bài giảng, cha Tổng đại diện mời cộng đoàn phụng vụ theo chân thánh sử Luca tiến về đồi Gôngôtha để chiêm ngắm Chúa Giêsu trên Thánh Giá. Với cái nhìn của người đời, Đức Giêsu là một tử tội bị đóng đinh vào cây thập tự, nhưng thánh sử Luca lại cho thấy Ngài chính là một vị Thẩm Phán giàu lòng thương xót. Chính người trộm lành đã được vị Thẩm Phán xót thương và cứu độ. Vì thế mà cha giảng lễ xin cộng đoàn phụng vụ đặc biệt cha Phêrô, và gia đình tang quyến luôn tin tưởng, phó dâng ông cố cho bàn tay từ ái của Đức Giêsu, Đấng Xét Xử nhân hậu và hay thương xót. Tròn bẩy mươi năm làm người và làm con Chúa, ông cố Phêrô luôn đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa Ba Ngôi. Dù cuộc sống trải qua biết bao thăng trầm, nhưng ông cố vẫn giữ vũng đức tin và hiến dâng cho cánh đồng truyền giáo của Giáo hội người con của mình. Đó là cha Phêrô Nguyễn Văn Diện, hiện nay đang làm mục vụ tại Pháp. Sau lời tri ân rất chân tình và cảm động của cha Phêrô, cha xứ Đaminh Cao Văn Đức cử hành nghi thức tiễn biệt, phó dâng ông cố cho lòng thương xót của Thiên Chúa. “Sự sống này chỉ thay đổi mà không mất đi”. Với niềm tin sống lại trong ngày sau hết, thân xác ông cố Phêrô được an táng trong khu đất thánh của họ Thủy, giáo xứ Đông Xuyên chờ ngày sau được biến đổi trở nên “thân xác sáng láng vinh hiển” với Đức Kitô phục sinh. An Ngọc
Thánh Lễ An Táng Bà Cố Maria Phạm Thị Son - Thân Mẫu Đức Ông Đa Minh Đỗ Văn Đĩnh 8g00 sáng thứ Hai ngày 19/11/2018, tai nhà thờ giáo họ Kim Thành, giáo xứ Kim Phát, giáo hạt Giang Sơn, giáo phận Ban Mê Thuột, Đức cha Giuse Võ Đức Minh, Giám mục Giáo phận Nha Trang, đã chủ tế thánh lễ an táng cho bà cố Maria Phạm Thị Son, là thân mẫu của Đức Ông Đa Minh Đỗ Văn Đĩnh. Quý linh mục hiện diện đồng tế gồm có: Cha Tổng đại diện GP Ban Mê Thuột Stêphanô Nguyễn Văn Đậu, Quý Cha huyết tộc thuộc GP Bùi Chu, Quý Cha trong gia đình linh tông tại Việt Nam và Hoa Kỳ, cùng gần ba mươi linh mục đến từ các giáo xứ trong và ngoài giáo phận. Hiện diện tham dự thánh lễ an táng bà cố Maria có rất đông bà con giáo dân thuộc các giáo xứ lân cận, quý thân bằng quyến thuộc xa gần. Mở đầu Thánh lễ, cha Tổng đại diện GP Ban Mê Thuột thay lời cho Đức cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản, trân trọng chào mừng Đức cha Giuse Võ Đức Minh, Giám mục Giáo phận Nha Trang, Quý Cha và cộng đoàn. Bước vào thánh lễ, Đức cha Giuse phân ưu với Đức Ông và tang quyến trong nỗi đau ly biệt này. Ngài nói: --------------------------- “Kính thưa Cha Tổng Đại Diện cùng Quý Cha đồng tế. Kính thưa Đức Ông Đa Minh rất thân mến của tôi.
Hiện diện trong thánh lễ an táng Bà cố Maria hôm nay, tôi xin gửi đến Đức Ông cùng đại tang AnTáng 275
Hiện diện trong thánh lễ an táng Bà cố Maria hôm nay, tôi xin gửi đến Đức Ông cùng đại tang quyến lời chia buồn sâu sắc nhất. Tôi nhận được sự ủy thác của Đức cha Vinh Sơn, về đây dâng thánh lễ an táng cho bà cố Maria, vì hôm nay, Ngài cũng phải dâng thánh lễ an táng cho một Bà cố của một Cha trong giáo phận. Đáng lẽ ra Đức Cha Vinh Sơn sẽ chủ tế trong thánh lễ an táng hôm nay, còn tôi sẽ giảng lễ theo lời mời của Đức ông Đa Minh, là người bạn rất thân thiết của tôi. Vâng. Người bạn rất thân thiết! Có thể nói như vậy; vì chúng tôi cùng học với nhau từ nhỏ tại tiểu chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn cách đây đã hơn sáu mươi năm. Một điều làm tôi thắc mắc mãi là “cậu bé” Đa Minh có nét mặt buồn buồn, một nét buồn sâu thẳm mà tôi không tài nào hiểu nổi. Tôi xin phép Đức ông Đa Minh cho tôi được gọi là “cậu bé” bởi vì hai chúng tôi đều là cậu bé học chung với nhau. Cậu bé Đa Minh rất ngoan hiền, học rất giỏi và sống kỷ luật nhưng trên nét mặt lại mang một nỗi buồn có điều gì đó chắc là sâu xa lắm! Hai chúng tôi cùng học với nhau đến Đại chủng viện và sau khi chịu chức linh mục thì chúng tôi ít có dịp gặp nhau, mặc dù rất thân thiết và quý mến nhau. Cho đến hôm nay tôi mới thực sự hiểu được nỗi buồn sâu xa nơi người bạn của tôi từ thuở nhỏ. Năm 1936, Bà Cố Maria thành gia thất với Ông Cố Giuse và sinh hạ được một người con trai duy nhất là Đức ông Đa Minh Đỗ Văn Đĩnh mà hôm nay đang hiện diện bên linh cữu thân mẫu. Đến năm 1946, một biến cố đau buồn xảy ra với Bà cố vì Ông cố đột ngột mất đi, để lại người vợ thân yêu và đứa con thơ dại! Bà cố một mình từ đây sống trong sự trống vắng của Ông cố, đã thủ tiết thờ chồng nuôi con. Biến cố năm 1954, cậu bé Đĩnh theo bác ruột vào nam sinh sống và ăn học. Những tưởng rằng mẹ con cũng sớm được đoàn tụ. Nhưng mãi đến khi đất nước hai miền thống nhất thì Bà cố mới có dịp được đoàn tụ bên người con thân yêu của mình. Nhìn vào hình ảnh cuộc sống Bà cố và Đức ông Đa Minh, tôi liên tưởng đến hình ảnh Đức Maria cũng đã hy sinh người con một của mình trên Thánh Giá để cứu chuộc cho tất cả chúng ta. Nguyện Xin Thiên Chúa giàu lòng thương xót đón nhận linh hồn Bà cố Maria vào hưởng sự sống vĩnh cửu trên Thiên Đàng”. ---------------- Cuối Thánh lễ, Đức Ông tri ân sâu sắc đến Đức cha Vinh Sơn, Đức Cha Giuse, Đức Cha Tôma Giám mục Bùi Chu, Đức Cha Đa Minh Giáo phận Xuân Lộc, Quý Cha đại diện Tổng Liên Đoàn Công Giáo Miền Tây Hoa Kỳ, Cha Tổng đại diện, Cha giám đốc Trung tâm mục vụ Ban Mê Thuột, Quý Cha trưởng ban, Quý Cha quản hạt trong giáo phận, Quý Cha trong gia đình Linh Tông và Huyết Tộc, Quý Cha đồng tế, và thầy Phó Tế. Quý tu sĩ, quý cấp chính quyền địa phương, quý chức, quý ban ngành đoàn thể trong giáo họ Kim Thành, giáo xứ Kim Phát. Trước khi di chuyển linh cữu đến đất thánh, cha Tổng đại diện đã chủ sự nghi thức sau cùng cho Bà cố Maria. Cộng đoàn cùng Đức Ông, Quý Cha trong gia đình Linh Tông Huyết Tộc đã tiễn đưa Linh cữu Bà Cố Maria tới nơi an nghỉ cuối cùng tại Đất Thánh Giáo xứ Kim Phát – Kim Thành. Toàn Năng
+GM. Phaolô Nguyễn Văn Hòa 26/Feb/2009 Bài giảng thánh lễ an táng Đức cố Hồng Y Phaolô Giuse
Chúng ta cùng dâng thánh lễ cầu nguyện cho Đức Hồng Y Phaolô Giuse. Trong phần đầu thánh AnTáng 276
Chúng ta cùng dâng thánh lễ cầu nguyện cho Đức Hồng Y Phaolô Giuse. Trong phần đầu thánh lễ, Chúa luôn luôn nuôi dưỡng chúng ta là những người đang sống bằng lời của Ngài. Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta biết cách sống ở trần gian thế nào để được hưởng hạnh phúc đời sau. Người ta thường gọi giờ phút kết thúc cuộc sống trần gian không phải chỉ bằng một từ chung là chết mà còn bằng nhiều cách nói khác có hàm chứa một niềm tin vào cuộc sống đời sau như: qua đời, từ trần, ra đi, sinh thì, về cõi vĩnh hằng, về với ông bà tổ tiên… Những kiểu nói này nêu lên một khía cạnh thật quan trọng của đức tin, đó là: sự sống thay đổi chứ không mất đi. Kinh nghiệm cho thấy những người từ giã cuộc đời trần gian để đi về đời sau có đủ hạng tuổi: người trẻ có và người cao tuổi cũng có. Trong bài đọc thứ nhất, sách Khôn ngoan, chương 4, dạy rằng: người qua đời ở bất cứ tuổi nào, nếu họ đã sống lương thiện, sống công chính, sống đẹp lòng Chúa, không làm điều ác, thì dù họ còn trẻ, họ cũng được Thiên Chúa ban thưởng. Nếu họ đã làm điều thiện, dù cuộc đời của họ có ngắn ngủi thì Chúa cũng kể như họ đã hoàn tất một sự nghiệp lâu dài. Tâm hồn họ đẹp lòng Chúa nên Chúa muốn mau đem họ ra khỏi nơi gian ác. Đó là cách Thiên Chúa ban ơn cho những kẻ Chúa tuyển chọn. Còn người cao tuổi, họ thật đáng kính trọng, không phải vì họ đã sống lâu, nhưng cũng vì họ đã sống công chính, không tì ố và đẹp lòng Chúa. Lời Chúa trong Sách Khải huyền lại dạy chúng ta về một khía cạnh khác liên quan tới sự chết: Những ai chết trong Chúa thì được chúc phúc vì các việc họ làm đều theo họ về đời sau. Muốn chết trong Chúa thì cũng phải sống trong Chúa: nghĩa là sống lương thiện, công bằng bác ái, tuân giữ các giới luật Chúa, thi hành các lệnh truyền của Chúa, làm các việc thiện. Chính các việc thiện này sẽ theo ta về đời sau. Mỗi lần làm việc thiện thì như gửi một món tiền thiêng liêng vào ngân hàng đời sau. Ngân hàng này không bị ảnh hưởng của khủng hoảng tài chánh, không bị vỡ nợ, mối mọt không gặm nhấm được, trộm cướp không lấy mất được. Gửi bao nhiêu, tiền vẫn còn nguyên đó, cộng với tiền lời. Chúa bảo đảm điều đó thật vững chắc. Nhưng một câu hỏi được đặt ra: phải làm việc thiện lúc nào? Có người đã tính toán khôn khéo rằng: khi nào gần chết, ta sẽ làm việc thiện, và như vậy là cũng được chết trong Chúa và sẽ được Chúa chúc phúc. Tính toán như vậy là rất phiêu lưu và nguy hiểm, vì có mấy ai biết được lúc nào mình chết. Hằng ngày, ta thấy nhiều người chết rất bất ưng, làm sao mà dọn mình cho kịp. Trong bài Tin Mừng theo Thánh Luca, chương 12, Chúa đưa ra hai dụ ngôn để khuyên ta lúc nào cũng phải sẵn sàng để gặp Chúa. người giữ cửa cầm đèn đợi chủ về, lúc nào cũng phải tỉnh thức, phòng khi chủ về lúc bất ngờ. Người canh trộm cũng vậy, vì chỉ cần sơ ý một chút là mất của. Qua hai dụ ngôn này, Chúa có ý dạy ta phải tỉnh thức, phải ở trong tư thế sẵn sàng gặp Chúa, nghĩa là không những phải làm điều thiện mà còn phải thường xuyên làm điều thiện. Như thế, vừa bảo đảm một cuộc gặp gỡ tốt đẹp, vừa thu tích nhiều của cải thiêng liêng, là những của cải sẽ theo chúng ta về đời sau. Đức Hồng Y Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng, hưởng thọ 90 tuổi, thật đáng kính trọng không phải vì ngài đã sống lâu cho bằng ngài đã sống công chính, đẹp lòng Chúa. Tôi xin kể một câu chuyện liên quan đến giai đoạn khởi đầu cuộc sống “đi tu” của ngài. Năm 1929, Tràng tập được thiết lập tại Hà nội, tọa lạc tại chính cơ sở của Đại chúng viện ngày nay. Đầu niên khóa 1931 – 1932, cũng như mọi năm, Tràng tập tổ chức thi tuyển để chọn học sinh vào lớp mới với con số tối đa khoảng trên 30 em. Lần đó, chú Phaolô Phạm Đình Tụng bị lọt sổ, chỉ suýt nữa trúng tuyển, có nghĩa là bị trượt, bị rớt. Nhưng chú vui vẻ về lại xứ Khoan Vĩ với cha nghĩa phụ Phêrô Phạm Bá Trực. Bỗng mấy ngày sau, một tin vui đưa tới, chú lại nhận được giấy gọi từ cha Décréaux, Bề trên Tràng tập gửi về Khoan Vĩ, gọi chú Tụng lên Tràng tập nhập lớp mới, vì có một chú, tuy đã trúng tuyển nhưng bị bệnh không thể tiếp tục học được phải rút lui, nên chú Tụng được gọi lên lấp vào chỗ trống. Chú Tụng mừng quá chừng, khi được đậu vớt và đã rất chăm chỉ học tập. Có ai ngờ đâu, “phiến đá mà thợ xây loại bỏ” lại có thể được Thiên Chúa sử dụng làm nên cột trụ cho Giáo hội tại Giáo phận Bắc ninh, Tổng Giáo phận Hà nội và Giáo hội Việt Nam qua các chức vụ Linh mục, Giám mục, Tổng Giám mục, Chủ tịch hội đồng Giám mục và Hồng Y. Hơn nữa, các chức vụ đều được thi hành trong những thời gian lâu dài. Việc Thiên Chúa làm thật lạ lùng kì diệu. Hết lòng tin tưởng vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa ngay từ khởi đầu cuộc dâng hiến của mình, Đức Hồng Y luôn vững lòng cậy trông và thường xuyên trung tín trong suốt các chặng đường tiếp theo của ngài. Đó chính là bí quyết lý giải các ơn Thiên Chúa đã ban cho Giáo hội qua bàn tay và nhiệt tâm của Hồng Y Phaolô Giuse. Chúng ta hãy noi gương Đức Hồng Y Phaolô Giuse luôn nhận biết và tin tưởng vào ơn Chúa, chuẩn bị hành trang cho cuộc sống đời sau và thường xuyên làm việc thiện. Thiên Chúa có cách làm việc riêng của Ngài, và đã làm những việc thật lạ lùng kỳ diệu. Đứng trước hồng ân của Thiên Chúa, chúng ta chỉ biết cúi đầu cảm tạ và suy tôn. Hà nội ngày 26 tháng 2 năm 2009 + Phaolô Nguyễn Văn Hòa